Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Tài liệu - Hồi ký Việt Nam => Tác giả chủ đề:: macbupda trong 16 Tháng Tư, 2011, 08:06:57 am



Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Tư, 2011, 08:06:57 am
Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Ban chỉ huy quân sự huyện Tuy Hòa
Năm 1999
Số hóa: macbupda

CHỈ ĐẠO BIÊN SOẠN[

ĐẢNG ỦY - BAN CHỈ HUY QUÂN SỰ
HUYỆN TUY HÒA

(http://img24.imageshack.us/img24/7273/img0203fp.jpg)

Biên soạn: NGUYỄN TUẤN DŨNG

Ban nội dung và tư liệu:
      NGUYỄN DUY LUÂN
      NGUYỄN NGỌC HỘI
      DƯƠNG DỤ
      MAI VĂN KHÁNH
      NGUYỄN QUYỀN
      TRẦN QUANG HIỆU
      PHẠM XUÂN LUÔN
      CAO VĂN KHÁNH
      TRẦN QUANG TUYẾN
      NGUYỄN NGỌC KHÁNH
      HUỲNH XUÂN THÁP
      HUỲNH ĐỨC VINH
      NGÔ VĂN TUẤN
      LÊ QUANG NGỌC
      NGUYỄN THẮNG THỌ
      TRẦN MINH TỪ


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Tư, 2011, 08:08:25 am
LỜI NÓI ĐẦU

Hơn 20 năm sau chiến tranh, sức lực và trí tuệ con người tưởng chừng đã hàn gắn được những vết thương của một thời đạn bom ác liệt. Nhưng cón hững điều không thể xóa nhòa trong tâm thức mọi thế hệ đã là niềm kiêu hãnh, tự hào của một dân tộc biết hi sinh chịu đựng, gan góc dũng cảm, mưu trí đến tuyệt vời. Truyền thống đó có từ ngàn xưa ngày càng được nhân lên và trở thành một bản sắc văn hóa độc đáo của dân tộc. Với quân và dân Tuy Hòa một bộ phận hữu cơ của đất nước Việt Nam càng tự hào hơn khi được Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

Chấp hành nghị quyết của Thường vụ Tỉnh ủy, Đảng ủy Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh về tổng kết chiến tranh va biên soạn lịch sử quân sự, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Ban Thường vụ Huyện ủy, cơ quan quân sự huyện Tuy Hòa triển khai tổ chức biên soạn quyển “Lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến” nhằm ghi lại những trang sử vẻ vang của quân và dân Tuy Hòa trong 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, qua đó nâng cao hơn nữa lòng tin tưởng tuyệt đối vào đường lối và sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, nâng cao lòng tự hào về truyền thống đấu tranh bất khuất chống xâm lược của quê hương, góp phần minh họa đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng ta. Do đó việc tái hiện lại lịch sử truyền thống 30 năm xây dựng chiến đấu của lực lượng vũ trang huyện nhà vừa là yêu cầ bức thiết của quân và dân trong huyện, và là nhiệm vụ quan trọng.

Tái hiện lại lịch sử một cách sinh động, cụ thể chi tiết là một việc không dễ dàng, do hạn chế và nguồn tư liệu, phần mất mát thất lạc, phần thì do một số đồng chí lão thành cách mạng đã mất, năng lực nghiên cứu, biên soạn còn hạn chế nên chúng tôi chỉ mới tập trung phản ánh những nội dung chủ yếu, những sự kiện lịch sử lớn của lực lượng vũ trang huyện nhà.

Trong quá trình biên soạn chúng tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của Phòng khoa học công nghệ môi trường Quân khu 5, Ban khoa học quân sự tỉnh Phú Yên, các đồng chí đã giữ những cương vị lãnh đạo của tỉnh, huyện qua 2 cuộc kháng chiến và cán bộ chỉ huy các đơn vị đã trực tiếp tham gia chiến đấu trên chiến trường Tuy Hòa và đông đảo cán bộ, đồng bào trong huyện.

Mặc dù đã hết sức cố gắng, nhưng trong việc thu thập tư liệu chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Mong đồng bào, đồng chí và các bạn góp ý, phê bình, bổ sung để lần sau tái bản được tốt hơn.

Nhân dịp cuốn lịch sử “Lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm chiến tranh giải phóng” được xuất bản chúng tôi xin chân thành cám ơn các cơ quan và tất cả các đồng chí đồng bào đã nhiệt tình giúp đỡ hoàn thành cuốn sách này.


BAN CHỈ HUY QUÂN SỰ
HUYỆN TUY HÒA     

(http://img683.imageshack.us/img683/5930/img0211kq.jpg)


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Tư, 2011, 08:14:23 am
CHƯƠNG I

VÀI NÉT KHÁI QUÁT VỀ
ĐIỆU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ ĐIỀU KIỆN XÃ HỘI
CỦA HUYỆN TUY HÒA

I - ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN

- Tuy Hòa là một huyện đồng bằng ở phía nam tỉnh Phú Yên nằm ở vị trí 13o đến 13o5’ vĩ độ bắc, 109o đến 109o26’ độ kinh đông(1). Phía đông giáp biển Đông, phía tây giáp huyện Sông Hinh, phía nam giáp huyện Vạn Ninh (Khánh Hòa), phía bắc giáp thị xã Tuy Hòa.

Diện tích tự nhiên toàn huyện 908km2(2), trong đó núi rừng chiếm hơn 2/3 diện tích, đồng bằng chưa tới 1/3.

Cũng như các vùng khác thuyện duyên hải miền Trung, Tuy Hòa nằm trong vùng khi hậu nhiệt đới gió mùa. Khí hậu ở đây hằng năm chia thành 2 mùa rõ rệt. Mùa khô từ tháng 1 đến tháng 8, mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 12 và chịu ảnh hưởng của gió mùa đông bắc (gtó bấc), gó này mang không khí lạnh và khô, ảnh hưởng của gió làm biển động mạnh, ghe thuyền của ngư dân vùng biển không ra khởi đánh bắt được. Kinh nghiệm đó còn truyền lại qua câu ca dao:

Ghe thuyền ra lộng ra khơi
Hai mươi tháng tám nhớ bơi vào bờ

Mùa mưa ở Tuy Hòa thường dai dẳng, mưa nhiều vào tháng 10, tháng 11 chiếm 60% lượng mưa cả năm. Mùa khô so với các nơi khác trong tỉnh do ảnh hưởng của địa hình vừa có núi, vừa có đồng bằng, vừa có biển nên khí hậu tương đối ôn hòa. Nhiệt độ trung bình hằng năm 26oC(3). Tuy vậy độ ẩm trong năm khá cao, giờ nắng trong năm chừng 2.400 giờ. Đặc biệt vào khoảng tháng 2, tháng 3 âm lịch có ngọn gió đông nam (dân địa phương còn gọi là gió Lục Làng) rất mát mẻ, ở địa phương còn truyền tụng câu ca dao:

Cơm ăn mười bữa mười heo
Không bằng ngọn gió trong đèo thổi ra

Ở Tuy Hòa thường hay có bão lụt nhưng ít bão lụt lớn. Trong những năm gần đây chỉ có trận bão lụt năm 1993 là tương đối lớn làm thiệt hại nhiều đến sinh mạng, tài sản của nhân dân và xã hội. Trận bão lụt này theo nhận xét của các cụ già còn lớn hơn cả trận bão năm 1924, nhưng mức độ thiệt hại về tính mạng và tài sản của nhân dân thì ít hơn do có điều kiện thuận lợi hơn như nhà cửa kiên cố, phương tiện cứu chữa kịp thời.

Núi non: Ở phía tây và phía nam của huyện Tuy Hòa một nhánh núi tách ra và từ dãy Trường Sơn chạy dài ra biển như một bờ tường thành bao bọc che chắn, tạo nên những dãy núi trùng điệp, có ảnh hưởng lớn đến điều kiện tự nhiên trong huyện. Trong huyện có các núi tiêu biểu sau:

Dãy núi Đại Lãnh: nằm ở phía đông nam huyện Tuy Hòa phân rạch giữa Phú Yên và Khánh Hòa. Đó là một dãy đồi núi chập trùng chạy từ núi Chúa về phía biển. Nó được coi là một trong những nét tiêu biểu của cảnh vật Phú Yên được khắc vào tuyên đỉnh, trong cửu đỉnh đặt trước sân thế miếu thuộc Đại Nội (Huế). Trong dãy núi này có những hòn núi nổi lên cao hơn so với địa hình của dãy: núi Nhự Phi, núi Đá Bia (cao 706m), núi Chúa (1010m), núi Cục Kịch (Gian Nan), núi Mật Cật (227m), Hòn Chảo (755m), Hòn Ông (1104m), Hòn Dù (1264m), Đá Chồng (604m), Hòn Bà (586m) v.v… Hầu hết các núi trong dãy núi Đại Lãnh đều là núi đất. Ở phía tây là rừng nguyên thủy cây cối xanh tốt, khi xuống phía đông do ảnh hưởng của điều kiện khí hậu, thời tiết nên cây cối lúp xúp. Đến sát biển do bị bào mòn bởi sóng gió và xói lở nên tạo thành những vách đá lởm chởm những ghềnh, gộp đá nguy hiểm.

Ngoài dãy núi Đại Lãnh ở Tuy Hòa còn có các núi lẻ đứng độc lập một mình. Những dãy núi hay có độ cao trung bình vài chục mét như Hòn Kén (Sơn Thành), Hòn Bà, Hòn Đất, Núi Sặc, Núi Hương (Hòa Phong), Núi Lá (Hòa Mỹ), Núi Một (Hòa Tân), Núi Hiềm (Hòa Xuân), Núi Hóc Chỗ (Hòa Tâm), Núi Một, Núi Dơm, Núi Quéo, Núi Bầu, Núi Lăng (Hòa Hiệp). Cùng có những ngọn núi cao hơn 100m như núi Mái Nhà, Hòn Quạt (Sơn Thành), Núi Chai (Hòa Tân), Núi Sông Ván (Hòa Xuân).

Núi rừng của Tuy Hòa chiếm diện tích không lớn, nhưng do được thiên nhiên ưu đãi nên rừng ở đây có nhiều loại gỗ quý, thảm thực vật phong phú, đa dạng, đặc biệt có nhiều vị thuốc nam rất quý để chữa bệnh. Rừng có nhiều loại động vật cung cấp một phần thực phẩm cho nhân dân.

Trên địa bàn của huyện Tuy Hòa có 2 con sông chính chảy ra Sông Ba: phát nguyên từ Kon Tum chảy theo hướng bắc nam(4)

Từ đập Đồng Cam xuống cửa Bà Diễn (dài 32km) được gọi là sông Đà Rằng. Nó là ranh giới giữa huyện Tuy Hòa ở phía nam và thị xã Tuy Hòa (phía bắc). Sông Ba là con sống quan trọng nhất của huyện Tuy Hòa. Ở gần cửa biển lòng sông rộng nhưng có nhiều cồn cát nên ghe thuyền lớn không vào được. Có nhiều soi cát chia sông thành nhiều lạch nhỏ. Sông mang nhiều phù sa từ Tây Nguyên xuống bồi đắp cho đồng bằng Tuy Hòa ngày càng màu mỡ.


(1) Bản đồ hành chính Phú Yên.
(2) Theo niên giám thống kê 1991-1995 của Cục Thống kê tỉnh Phú Yên xuất bản 8-1996.
(3) Theo niên giám thống kê 1991-1995 của Cục Thống kê tỉnh Phú Yên xuất bản 8-1996.
(4) Theo non nước Phú Yên Nguyễn Đình Tư NXB Tiền Giang 1964


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Tư, 2011, 08:15:59 am
Sông Bàn Thạch: nằm ở phía nam huyện Tuy Hòa, phát nguyên từ 2 nguồn chính. Một nguồn từ núi Hòn Gìu (giáp ranh giữa 2 tỉnh Phú Yên - Khánh Hòa) chảy ra phía bắc hợp với suối Đá Đen quanh núi Hòn Trông và Mật Cật đến phía tây núi Hòn Chảo, từ đó gọi là sông Bánh Lái rồi chảy sang phía đông. Nguồn thứ hai có nhiều nhánh chằng chịt, phức tạp. Nhánh quan trọng nhất bắt nguồn từ đèo Cục Kịch chảy lên phía bắc gọi là sông Trong, tới thôn Cảnh Tịnh Hòa Thịnh tách ra một nhánh nhỏ, gọi la Bầu Sét, lại nhập vào sông Trong ở cuối thôn Phú Hữu (Hòa Thịnh), rời sông Trong chảy vào suối Thoại. Một nhánh nhỏ khác bắt nguồn từ núi Đá Chồng và núi Hóc Nôm chảy ra Bàu Đá (Hòa Thịnh) giáp sông Trong, chảy vào Suối Thoại nhập vào sông Bánh Lái ở thôn Hội Khánh (Hòa Tân) rồi chảy vào sông Bàn Thạch, sông Bàn Thạch chảy ra biển qua cửa Đá Nòng.

Ngoài các con sông kể trên ở chân núi Đá Bia (Hòa Xuân) còn có Hải Hồ (Biển Hồ). Hồ có diện tích khá lớn, thông với sông Bàn Thạch. Nước hồ không sâu nhưng có lớp bùn rất dày, dân ở địa phương thử đo nhưng chưa bao giờ biết đáy. Ngày xưa hồ có nhiều cá sấu nhưng nay không còn nữa. Hồ có rất nhiều sen và cá nước ngọt một nguồn lợi đáng kể đối với nhân dân ở địa phương.

Bờ biển Tuy Hòa dài hơn 70km, từ cửa Đà Diễn đến cửa Đà Nông bờ biển bằng phẳng. Trên bờ có những bãi cát rộng mênh mông dân cư quần tụ thành từng cụm hình thành những làng xóm lâu đời. Từ Đà Nông đến Vũng Rô vì có núi Đá Bia sát biển nên bờ biển cao và dốc ghềnh đá ngổn ngang. Cảnh quan rất đẹp, có cảng biển tốt, nhiều di tích, có ý nghĩa lịch sử như: Bãi Xép, Bãi Tiên, Hang Vàng, núi Kê Gà, Vũng Rô.

Biển Tuy Hòa có dòng hải lưu nóng từ miền xích đạo chảy đến mang lại sự ấm áp của biển, thích hợp cho việc tập trung và sinh trưởng của nhiều loại hải sản quý như cá thu, cá ngừ, tôm hùm, cua bể v.v…. Đến vụ cá có nhiều thuyền của ngư dân các tỉnh lân cận đến đây đánh bắt. Biển cung cấp nguồn thực phẩm ngon và quan trọng cho nhân dân.

Dọc các cửa sông gần biển là vùng nước lợ thuận lợi cho việc nuôi trồng thủy sảnh. Tôm sú, cá nước lợ… số đông nhân dân Hoa Hiệp, Hòa Tâm, Hòa Xuân chủ yếu sinh sống bằng đánh bắt và nuôi trồng hải sản.

Trên vùng biển Tuy Hòa có 2 hòn đảo đáng kể là: Hòn Khô và Hòn Nưa.

Hòn Khô ở ngoài cửa Đà Nông, là một quần đảo nhỏ và mỏm đá lởm chởm, gây khó kăn cho thuyền bè đi lại.

Hòn Nưa nằm ở cửa ngõ phía nam Vũng Rô. Điểm cực nam của đảo này là ranh giới giữa 2 tỉnh Phú Yên - Khánh Hòa.

Bán đảo Vũng Rô là dãy núi tiếp nối từ núi Đá Bia gồm từ Mũi Kê Gà, Mũi Mao, Mũi Bà, tới Mũi La, che kín cảng Vũng Rô.

Trên Mũi Kê Gà (Núi Hòn Bà) cao 586m người Pháp gọi là Cap Verela (tên một sĩ quan hải quân Pháp người đầu tiên phát hiện ra mỏm này), nơi vươn mình ra Thái Bình Dương xa nhất của bờ biển Việt Nam có đặt một hải đăng khá mạnh làm tín hiệu cho tàu bè đi lại từ xa. Ngọn hải đăng này là dấu chỉ đường đúng nhất để tàu bè vào Vũng Rô.

Trên địa bàn huyện Tuy Hòa mạng lưới giao thông được hình thành rất sớm và phát triển. Đường bộ có quốc lộ 1A và đường sắt xuyên Việt. Hệ thống đường ngang có tỉnh lộ 1 (đường 5) từ thị trấn Phú Lâm qua các xã phía tây đi Sông Hinh nối với Mađrắc (Đắc Lắc). Đường liên xã, liên thôn nhiều có thể đi lại dễ dàng bằng xe cơ giới khắp các địa bàn trong huyện.

Ngoài giao thông đường bộ Tuy Hòa còn có sân bay Đông Tác (trước 1975 là sân bay quân sự), có cảng Vũng Rô cận kề đường cơ sở, mực nước sâu, kín gió, tàu 1 vạn tấn có thể ra vào dễ dàng. Hệ thống giao thông này hợp thành một mạng lưới hoàn chỉnh cả trên bộ, trên không, trên biển có ý nghĩa về quốc phòng và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội không chỉ ở huyện Tuy Hòa mà cho cả tỉnh và khu vực miền Trung và Tây Nguyên.

Những đặc điểm địa lý tự nhiên như đã nên trên làm cho Tuy Hòa có một vị trí chiến lược quan trọng. Trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ Tuy Hòa đã đáp ứng yêu cầu nhân tài, vật lực cho tỉnh và các chiến trường lân cận Đắc Lắc, Khánh Hòa. Tuy Hòa còn giữ vai trò vừa là hậu phương vừa là tiền tuyến của tỉnh. Hầu hết các xã miền núi từ Bến Đá Dốc Phường đến Rừng Xép Bãi Tiên đều là căn cứ của ta.

Do vị trí chiến lược quan trọng nên kẻ địch trong các thời kỳ đều coi Tuy Hòa là một trọng điểm đánh phá quyết liệt. Trong kháng chiến chống Mĩ địch đã cho xây dựng căn cứ Hòa Hiệp, sân bay Đông Tác, quân cảng Vũng Rô để phục vụ cho việc xâm lược. Chúng biết mất Tuy Hòa là mất thị xã và Phú Yên. Hòa Hiệp, Hòa Thịnh, Hòa Xuân luôn là những điểm nóng, sự giằng co giữa ta và địch vô cùng khốc liệt, nhưng trong mọi cuộc đọ sức với bất cứ kẻ thù nào nhân dân Tuy Hòa vẫn tỏ rõ khí phách hiên ngang xứng danh với tầm vóc của mình.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Tư, 2011, 08:21:18 am
II - ĐIỀU KIỆN XÃ HỘI

Huyện Tuy Hòa ngày nay có một thị trấn và 20 xã. Dân số của huyện là 239.730 người(1), phần đông là người Kinh. Cứ dân sinh sống chủ yếu bằng sản xuất nông nghiệp và ngư nghiệp.

Về lịch sử vùng đất này”… nguyên xưa là đất Việt Thường, đời nha Tần thuộc Tượng Quận, đời nhà Hán thuộc quận Nhật Nam. Sau bị Lâm Ấp thôn tính rồi bị Chiêm Thành chiếm lấy làm đất Bà Đài, Bà Lãng…”(2)

Đến năm 1470 (Tân Mão) Hồng Đức nguyên niên đời vua Lê Thánh Tông, vì người Chiêm Thành hay sang quấy nhiễu vùng Hóa Châu nên nhà vua đem 26 vạn quân vào đánh, hạ thành Chà Bàn, bắt vua Chiêm Thành là Trà Toàn. Thừa thắng vua cho quân vượt đèo Cù Mông đến Đèo Cả, ra lệnh cho khắc bia trên núi Đá Bia. Khi quân ta đã rút về, chính quyền ta chỉ thi hành cai quản hành chính đến quận Tuy Viễn (Bình Định) quân Chăm Pa lại kéo ra chiếm cứ. Tuy mốc biên giới đã được khắc ở núi Bia nhưng trong bản đồ thời bấy giờ chỉ đến đèo Cù Mông.

Năm 1578 chúa nguyên giao cho ông Lương Văn Chánh trấn thủ Trấn Biên chiêu mộ “Lưu dân” tổ chức công cuộc khai hoang lập ấp ở Phú Yên. Ông Lương Văn Chánh cùng tướng sĩ và 5.000 lưu dân Thanh, Nghệ, Quảng Ngãi vào đến Cù Mông thấy có thành lũy của Chiêm Thành liền tổ chức đánh hạ Thành Hồ, đuổi quân Chiêm Thành thu hồi phần đất đã bị chiếm. Vùng Trấn Biên lúc bấy giờ được ông chia thành 3 khu vực:

Khu vực 1: Từ đèo Cù Mông đến Đá Bài. Đây là vùng trung du bán sơn địa đổ ra biển, lấy La Hiên (La Hai) làm trung tâm.

Khu vực 2: Từ Bà Đài đến vùng châu thổ sông Cái.

Khu vực 3: Từ Bà Diễn đến Bà Nông đây là khu vực không có dân sinh sống, đất hoang hóa chỉ có lau sậy và muông thú.

Những chủ nhân đầu tiên của Đại Việt sinh sống trên mảnh đất Tuy Hòa là những lưu dân(3) và binh lính. Với bản chất cần cù, chất phát của người nông dân xứ Thanh Nghệ, cùng với sự bản lĩnh, can trường của những người lính nơi địa đầu của Tổ quốc, họ bắt tay vào công cuộc khẩn hoang phục hóa để sản xuất. Với công cụ lao động thô sơ, thường xuyên đối đầu với thú dữ, vừa phải cảnh giác sẵn sàng chống trả mọi sự quấy phá của người Chiêm Thành, qua quá trình lao động đã hun đúc cho họ một tinh thần cần cù, nhẫn nại, kiên trì gan góc. sau hơn 20 năm từ một vùng đất hoang hóa dữ dằn trở thành một vùng quần cư khá trù phú. Từ chỗ ra đi với 2 bàn tay trắng đến bây giờ người dân đã có nhà ở, có đất để sản xuất, có đủ lúa gạo để ăn. Để có được những thành quả đó họ đã đổ lấy không biết bao nhiêu mồ hôi, nước mắt và máu nữa. Họ hiểu được giá trị của những thành quả mà họ làm ra. Mảnh đất xa lạ này trở thành máu thịt của họ không một thế lực nào có thể đánh bật được họ, bởi họ đã trả qua mọi cam go, khốc liệt nhất của cuộc sống. Năm qua tháng lại thế hệ này nối tiếp thế hệ kia truyền thống, kinh nghiệm, bản chất… ăn sâu vào tâm thức của từng cá nhân trong cộng đồng. Với họ quê hương là máu thịt họ ra sức xây dựng để Tuy Hòa ngày càng giàu đẹp.

Đặc trưng của nền kinh tế nông nghiệp thời phong kiến mang đậm tính tự cung tự ấp. Trải qua một thời gian dài với bản tính cần cù lại được thiên nhiên ưu đãi nên nhân dân đã có đủ miếng ăn, và tích trữ. Miếng cơm manh áo không phải là chuyện lo toan hằng ngày như trước, nhu cầu của cá nhân cộng đồng ngày càng đồi hỏi phải nhiều hơn. Những ngành nghề phụ đã giữ vai trò quan trọng, dần dần xuất hiện những ngành nghề truyền thống như: dệt vải, làm đường, đan lát mây tre, dệt chiếu, sản xuất đồ gốm, v.v… Trình độ lao động ngày càng được chuyên môn hóa, đã có sự phân công lao động, từng vùng chuyên làm một hoặc vài loại hàng hóa để trao đổi.

Vinh Ba đan giỏ đan gàu
Phú Diễn chằm nón, xóm Bầu vớt rong
(4)

Thương nghiệp dần dần phát triển để đáp ứng nhu cầu trao đổi hàng hóa. Dân ở dọc miền núi thì gánh chở muối, sắt để đổi chác với dân thượng. Dân ở miền Biển thì đóng thuyền nan, đan lưới đánh cá để buôn bán và trao đổi. Có nhiều chợ và giao dịch trường để buôn bán và trao đổi hàng hóa. Chợ được hình thành ở những vùng bình nguyên dân cư đông đúc, giao dịch trường thì ở miền núi thuận đường giao thông để trao đổi hàng hóa giữa miền ngược và miền xuôi. Xưa kia huyện Tuy Hòa có giao dịch trường ở Thạch Thành để mua bán với vùng Thủy Xá và Hòa Xá(5).

Tính đến năm 1920 ở địa bàn Tuy Hòa có 4 chợ:

1. Chợ Vành (xã Hòa Bình ngày nay)

2. Chợ Bàn (Bàn Nham - Hòa Xuân)

3. Chợ Phú (Phú Lâm)

4. Chợ Vinh (Phú Thứ)

Trước năm 1945 công nghiệp ở Tuy Hòa hầu như không có gì. Chỉ có Nhà máy đường Đồng Bò do một nhà tư sản Hà Lan đầu tư xây dựng. Công nhân ở nhà máy phần lớn là nông dân. Họ không được học hỏi khoa học công nghệ, chỉ lao động thủ công đơn giản.

Về tín ngưỡng, tôn giáo: khởi đầu những người dân đến khẩn hoang lập nghiệp, xa nhà, xa quê họ cảm thấy cô đơn, lạc lõng. Họ muốn tìm đến một chỗ dựa tinh thần để thờ cúng cầu mong các đấng siêu nhiên cho họ hạnh phúc và nhiều may mắn. Vì đa số là dân đáng ngoài nên đạo phật có một ảnh hưởng rất lớn trong đời sống tâm linh của họ. Họ làm chùa thờ phật trong từng làng, từng cụm dân cư. Do đó ngày nay hầu hết các xã, các thôn ở Tuy Hòa đều có chùa chiền. Bên cạnh đó do tiếp xúc với một nền văn hóa lạ (văn hóa Chăm Pa) cư dân cũng tổ chức thờ cúng để cầu mong Ngài phù hộ cho quốc thái dân an. Điển hình như cư dân ở Hòa Phong khi phát hiện một tháp cổ đổ nát trong đó có tượng “Bà” một đầu bốn tay với khuôn mặt đôn hậu ở trên đỉnh Núi Bà. Họ nhặt gạch rơi vãi trên đỉnh núi xếp thành một tòa thánh hình vuông bao quanh tượng “Bà” và hằng năm xuân thu nhị kì làng xã tổ chức cúng lễ linh đình.

Việc thờ cúng ông bà tổ tiên cũng được hết sức coi trọng. Mỗi gia đình đều có lập bàn thờ tế để thờ tổ tiên. Đó cũng chính là nét đẹp văn hóa truyền thống mà xuất phát điểm là lòng trung hiếu với cha mẹ ông bà. Sử sách còn ghi lại những tấm gương hiếu nghĩa tiêu biểu của người Tuy Hòa như ông Tô Hi, Lê Văn Trạch khi cha mẹ chết đã thương nhớ và làm nhà bên bả cha mẹ, đợi mãn tang mới về nhà. Ông Lê Văn Trạch được vua Tự Đức ban thưởng danh hiệu người con hiếu nghĩa(6).

Trong kháng chiến chống Pháp, thực dân Pháp ra sức phát triển thiên chúa giáo. Đến thời Mĩ Diệm chúng càng dụ dỗ cưỡng bức nhân dân nhưng Thiên cháu giáo chỉ đóng khung trong mấy xóm đạo cũ ở Hòa Vinh, Hòa Phong.

Phong tục tập quán ở Tuy Hòa cũng giống như các vùng khác thuộc duyên hải miền Trung: chất phác thuần hậu. Việc ma chay, cúng tế rất tốn kém, nhất là khi tổ chức cầu thần hay lễ tạ thì thường bày ra cuộc hát xướng, diễn tuồng, ăn uống nhiều ngày. Đến ngày nay việc tổ chức cúng tế đã giảm đi nhiều, chỉ còn ở các vùng biển, ngư dân tổ chức cúng lăng, cúng lạch hằng năm. Việc cúng tế cũng khá tốn kém trong các lễ cúng này người ta mổ heo, hát lăng, hát lạch diễn tuồng tam quốc… Trong cưới hỏi thường có tục gởi rể, nên dân ngụ cư thường xen với dân chánh quán. Đặc điểm tâm lí chung của người Tuy Hòa là hiếu khách, tình làng nghĩa xóm được coi trọng, người đối xử với nhau thành thật, đoàn kết tương trợ.

Những phong tục tập quán xưa kia đến nay đã thay đổi khá nhiều. Bên cạnh sự tồn tại của những yếu tố tích cực vẫn còn nhiều yếu tố tiêu cực “Phép vua thua lệ làng”. Cuộc vận động xây dựng đời sống văn hóa mới ngày nay đang được triển khai sâu rộng xuống vùng nông thôn Tuy Hòa. Những hạn chế trong phong tục tập quán dần dần xóa bỏ, để phát huy những nét đẹp truyền thống vốn có của mình, đó là trọng tình nghĩa, ham học hỏi, cầu tiến, hiếu khách.

Sau hơn 400 năm lịch sử (1578-1997) Tuy Hòa đã xây dựng được cho mình một nền văn hóa khá đặc sắc, tiêu biểu phong phú và đa dạng về văn hóa vật chất cũng như văn hóa tinh thần. Đặc biệt về văn háo tinh thần nhân dân đã tích lũy được một kho tàng phong phú về ca dao, tục ngữ, thơ ca, hò vè, cổ tích dân gian v.v… Đó là những kinh nghiệm sản xuất, dự báo thời tiết, ca ngợi những nét đẹp của cảnh vật con người. Những thành tựu văn hóa đó đã góp phần hun đúc nên con người Tuy Hòa ngày nay: trung thực, thẳng thắn, dũng cảm bất khuất, cần cù nhẫn nại, giàu lòng nhân ái, gắn bó với làng quê.


(1) Theo niên giám thống kê 1991-1995 của Cục Thống kê tỉnh Phú Yên xuất bản 8-1996.
(2) Theo Đại nam nhất thống chí.
(3) Lưu dân: Những người dân nghèo không sản nghiệp đi khẩn hoang cho tới khi thành thục thì mới nạp thuế.
(4) Vinh Ba, Phú Diễn, xóm Bầu thuộc xã Hòa Đồng.
(5) Thủy Xá, Hòa Xá ở phía tây Phú Yên.
(6) Non nước Phú Yên Nguyễn Đình Tư.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Tư, 2011, 08:22:52 am
III - PHONG TRÀO ĐẤU TRANH TRƯỚC KHI CÓ ĐẢNG

Sự hình thành dân cư ở Tuy Hòa là quá trình liên tục đấu tranh giữa bao thay đổi, biến động của đất nước. Với điều kiện tự nhiên khá thuận lợi và cư dân có truyền thống cần cù chịu thương chịu khó một nắng hai sương, cuộc sống tưởng sẽ mãi đầm ấm hạnh phúc, no đủ, thanh bình. Ấy thế mà năm 1858 thực dân Pháp xâm lược nước ta, bắt nhân dân ta phải làm nô lệ. Năm 1884 thực dân Pháp cùng với chính quyền Nam Triều phong kiến xây dựng bộ máy chính quyền cai trị ở huyện Tuy Hòa ra sức bóc lột nhân dân ta. Thực dân, địa chủ, cường hào câu kết nhau tước đoạt ruộng đất bóc lột nông dân bằng nhiều thủ đoạn: nâng mức tô, đấu giá thay đổi tá điền, thục ruộng v.v… Phần lớn ruộng đất nằm trong tay bọn bóc lột. Những người nông dân bây giờ trở thành “vô sản”, phải đi làm thuê cho địa chủ trên chính mảnh đất của mình. Mảnh đất mà chính họ đã tạo dựng nên bằng xương máu nhiều thế hệ. Bên cạnh đó, thực dân Pháp còn đặt ra hàng trăm thứ thuế: thuế ruộng đất, thuế chợ, thuế đò, thuế thân v.v… Họ đã bị bóc lột và vắt đến tận cùng sức lực. Hằng năm nhân dân còn phải đi phu phen tạp dịch. Hằng ngàn nông dân phải bỏ ruộng vườn, nhà cửa đi làm “cu li” làm quốc lộ 1, đường sắt, đập Đồng Cam v.v… Bệnh tật, đói khát làm cho hàng trăm người phải bỏ xác ở các công trường hầm Đèo Cả, đường số 6, số 7, đập Đồng Cam. Thân phận của những người làm phu được phản ảnh qua các đoạn thơ, ca, hò, vè:

Đồng Cam khổ tựa như tù
Hai lon gạo mốc 15 xu một ngày.
Áo quần rách rưới thảm thay
Khác nào như kẻ ăn mày ăn xin
Ốm đau không có thuốc men
Chết không hòm chiếu nó đem chôn trần.


Không những đi phu, thực dân Pháp còn bắt nông dân đi làm bia đỡ đạn cho chúng ở các nước thuộc địa và cả chiến trường nước Pháp.

Bị bóc lột đến mức thậm tệ, “Sưu cao, thuế nặng đảo điên cơ hàn” nông dân vẫn còn bị chèn ép trăm bề, quan lại, lí trưởng hạch sách bắt làm mướn không công. Đã thế những sản phẩm họ làm ra như lúa gạo bị mua với giá rẻ như bèo, trong khi đó hàng công nghiệp của Pháp lại được bán với giá cắt cổ (một mét vải săng đầm của Pháp giá bằng 150 kg lúa).

Trước tình trạng “Nước mất, nhà tan, đời nô lệ” nhân dân Tuy Hòa vốn giàu lòng yêu nước đã sớm đứng lên chống thực dân Pháp xâm lược.

Hưởng ứng phong trào Cần Vương chống thực dân Pháp, nhân dân Tuy Hòa đã cùng với nhân dân cả tỉnh tham gia cuộc khởi nghĩa của ông Lê Thành Phương (1885-1887), cuộc khởi nghĩa của Võ Trữ, Trần Cao Vân (1898-1900). Các cuộc khởi nghĩa đều bị thất bại nheng nó chứng tỏ được tinh thần yêu nước căm thù giặc của người Phú yên trong đó có Tuy Hòa.

Năm 1908 hưởng ứng phát triển “Duy Tân” chống sưu cao thuế ngặng do các cụ Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng phát động, nhân dân Tuy Hòa đã hăng hái tham gia cuộc vận động cắt tóc xin sưu. Hàng ngàn người thuộc các tổng trong phủ Tuy Hòa do ông Nguyễn Hữu Dực tham trấn Hòa Đa cùng các ông Lê Hanh, Nguyễn Chi, Nguyễn Trọng Cầu lãnh đạo kéo đi biểu tình.

Ông Nguyễn Hữu Dực còn có tên là Nguyễn Hữu Khuê sinh năm 1857 tại làng Phú Hiệp tổng Hòa Đa (nay thuộc xã Hòa Hiệp Trung) là một quan lại của tỉiều đình giữ chức tham trấn coi việc quân thứ khắp tổng Hòa Đa. Do vậy nên dân chúng thường gọi ông là: tham trấn Hòa Đa. Năm 1885 hưởng ứng phong trào Cần Vương ông đã cùng nhân dân đứng lên khởi nghĩa. Sau khi phong trào Cần Vương thất bại, ông bị cầm tù. Mãn hạn ông trở về địa phương những vẫn thường xuyên liên lạc với các nhà ái quốc Duy Tân. Năm 1`908, chính ông là người bắt mối đưa phong trào Duy Tân “cắt tóc xin sưu” phát động ở Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định và Phú Yên.

Ông Lê Hanh sinh năm 1874 tại làng Tân Mỹ tổng Hòa Tường (xã Hòa Phong bây giờ). Ông có học hành đỗ đạt nhưng không ra làm quan. Năm 1908 hưởng ứng phong trào cắt tóc xin sưu ông đã tích cực vận động nhân dân tổng Hòa Tường cắt tóc ngắn và biểu tình chống thuế.

Ngày 14 tháng 4 năm âm lịch 1908 (Duy Tân thứ 2) nhân dân 6 tổng thuộc phủ Tuy Hòa lũ lượt kéo diễu hành từ Tuy Hòa ra Sông Cầu. nhưng khi tới trạm Gành (Phú Tân - Tuy An ngày nay) đoàn biểu tình đã bọn lính Pháp bắn xối xả làm nhiều người chết và bị thương, trong đó có ông Nguyễn Hữu Dực bị chết và ông Lê Hanh bị thương. Đoàn biểu tình không hề nao núng tiếp tục lên đường mang theo xác thủ lĩnh và đồng đội với khí thế sôi sục uất hận. Đến cầu Tam Giang thực dân Pháp lại đàn áp khốc liệt. Đoàn biểu tình tan rã, ông Lê Hanh bị bắt và bị tra tấn dã man. Hơn 10 ngày sau thì ông chết. Mộ chí của ông ở Tân mỹ có khắc dòng chữ “Cách mạng nghĩa sĩ Lê Hanh”.

Quá trình xâm lược và đặt ách cai trị của thực dân Pháp ở Tuy Hòa cũng là quá trình đấu tranh dai dẳng liên tục của nhân dân. Các hình thức đấu tranh nhỏ lẻ tuy chưa giành được thắng lợi căn bả, nhưng nó đã chứng tỏ nhân dân Tuy Hòa đang đòi hỏi một con đường mới và sẵn sàng vùng dậy chống áp bức bạo tàn để giành quyền sống.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Tư, 2011, 08:23:51 am
IV - PHONG TRÀO ĐẤU TRANH TỪ KHI CÓ ĐẢNG ĐẾN CÁCH MẠNG THÁNG TÁM THÀNH CÔNG - CÁC TỔ CHỨC VŨ TRANG RA ĐỜI (1930-1945).

Đã hơn 2/3 thế kỷ từ ngày thực dân Pháp xâm lược nước ta. Chúng đã thiết lập xong bộ máy cai trị vô cùng hà khắc để đàn áp và bóc lột nhân dân. Không cam chịu sống đời nô lệ, nhân dân khắp cả nước đã đứng lên khởi nghĩa. Phong trào Cần Vương, phong trào Duy Tân và nhiều phong trào khởi nghĩa tự phát của nông dân đã nổ ra tuy có gây một ảnh hưởng lớn nhưng cuối cùng đều thất bại. Những cuộc khởi nghĩa ấy do thiếu một tổ chức cách mạng chân chính và chưa có đường lối đúng đắn nên không giành được thắng lợi. Đứng trước tình hình cả nước đang khủng hoảng về đường lối, người thanh niên Việt Nam yêu nước Nguyễn Tất Thành rời Tổ quốc đi tìm đường cứu nước. Sau nhiều năm bôn ba ở hải ngoại, Người đã tìm được luận cương của Lê-nin và con đường giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Từ đó Người ra sức truyền bá chủ nghĩa Mác Lê-nin vào Việt Nam để thức tỉnh nhân dân. Tháng 6-1925 Người thành lập tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội để tuyên truyền vận động nhân dân. Từ đó tổ chức này lan rộng ra khắp cả nước.

Khoảng giữa năm 1928 theo chủ trương của tổng bộ Tân Việt cách mạng Đảng, Đảng bộ Tân Việt liên tỉnh được thành lập (Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên) do đồng chí Ngô Đức Đệ làm Bí thư.

Sự ra đời của 2 tổ chức cách mạng trên đã có tác động đến sự phát triển của phong trào ở các địa phương trong toàn tỉnh. Ở Tuy Hòa tổ chức Tân Việt cách mạng Đảng phát triển mạnh trong giới học sinh, viên chức và thanh niên ở nông thôn.

Trong lúc phong trào cách mạng phát triển đòi hỏi phải có một chính đảng của giai cấp công nhân đứng ra lãnh đạo cách mạng. Đại hội toàn quốc lần thứ nhất của Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội do không tán thành ý kiến nên các tổ chức cộng sản lần lượt ra đời. Đông Dương cộng sản Đảng, An Nam cộng sản Đảng, Đông Dương cộng sản Liên đoàn.

Ngày 3/2/1930 lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc thay mặt cho Quốc tế cộng sản triệu tập 3 tổ chức Đảng cộng sản ở Việt Nam thống nhất thành một chính đảng đó là Đảng cộng sản Việt Nam. Đảng ra đời đánh dấu một bước ngoặt lịch sử quan trọng thoát khỏi thời kì khủng hoảng. Từ đó nhân dân Tuy Hòa cùng với nhân dân cả nước giữ vững niềm tin tiếp tục thực hiện cuộc đấu tranh mới dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Ngày 5/10/1930 Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên của Phú Yên ra đời. Tiếp đó tháng 1 năm 1931 Tỉnh ủy lâm thời của Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Phú Yên được thành lập. Ở Tuy Hòa cho đến ngày 21 tháng 11 năm 1931 mới thành lập Chi bộ Đảng Cộng sản. Ra đời có phần muộn màng nhưng các đồng chí đảng viên trong chi bộ đã hoạt động tích cực để lãnh đạo nhân dân đấu tranh. Trong suốt thời kỳ 1931-1935 nhân dân Tuy Hòa đã liên tục đấu tranh với nhiều hình thức rải truyền đơn, đòi giảm sưu thuế, đòi giảm ruộng đất mà bọn lí, hương, cường hào tước đoạt, đòi thả tù chính trị v.v… Địch ra sức đàn áp nên phong trào cách mạng tạm lắng xuống.

Những năm 1936-1939 phong trào cách mạng được khôi phục, các tổ chức cơ sở Đảng được phát triển rộng rãi và mạnh mẽ trong toàn huyện. Phong trào đấu tranh của nhân dân liên tục nổ ra ở nhiều thôn, xã. Đặc biệt là công nhân Nhà máy đường Đồng Bò đã liên kết với lực lượng nông dân các thôn lân cận Tân Mỹ, Lương Phước (Hòa Phong) để đấu tranh. Do đó các cuộc đấu tranh này đều đạt kết quả, bọn chúng phải thực hiện các yêu sách của công nhân như tăng lương, giảm giờ làm bọn cai chủ phải trả thêm tiền thuê đất v.v… Bên cạnh đó lực lượng công nhân nhà máy đã biết tự vũ trang, phối hợp chặt chẽ với nông dân để thống nhất hành động. Mặc dù bọn quan lại của phủ Tuy Hòa đưa lính đến đàn áp nhiều lần nhưng phong trào vẫn tồn tại khá vững vàng, các cuộc đấu tranh vẫn liên tục tái diễn với quy mô, hình thức, tổ chức khác nhau.

Tháng 9 năm 1939 chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ. Ở nước ta bọn thực dân Pháp ra sức đàn áp khủng bố truy tróc bắt bớ đàv, đánh phá cơ sở Đảng. Chúng ra sức bắt lính bắt phu cướp bóc tài sản của nhân dân để xây dựng các công trình quân sự.

Đức trước tình hình đó tháng 11 năm 1939 Hội nghị Trung ương lần thứ 6 quyết định thành lập “Mặt trận thóng nhất dân tộc phản đế Đông dương”. Thực hiện chủ trương đường lối của Đảng các tổ chức quần chúng cách mạng trong toàn huyện như Hội phụ nữ giải phóng, Hội ái hữu nông dân, Đoàn thanh niên dân chủ v.v… được tổ chức và phát triển mạnh mẽ.

1. Đẩy mạnh phong trào cách mạng tổ chức lực lượng vũ trang chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa (1940-1945):

Năm 1940 nước Pháp đầu hàng phát xít Đức. Lợi dùng thời cơ nước Pháp bị Đức chiếm đóng, quân phiệt Nhật nhảy vào Đông Dương (tháng 9/1940). Như vậy trong thời gian này nước ta đã bị ách thống trị của thực dân Pháp và phát xít Nhật.

Để phục vụ chiến tranh cả thực dân Pháp lẫn phát xít Nhật ra sức thi hành chính sách “Kinh tế thời chiến” vơ vét nhân tài vật lực của nhân dân ta. Không chịu nổi cảnh “1 cổ 2 tròng” nhân dân Tuy Hòa đã cùng với nhân dân trong tỉnh đứng lên cùng nhân dân cả nước chống lại cả thực dân Pháp lẫn phát xít Nhật. Phong trào đấu tranh của nhân dân và công nhân Nhà máy đường Đòng Bò diễn ra liên tục và quyết liệt, lực lượng tham gia ngày càng nhiều. Địch ra sức đàn áp nhưng vẫn không dập tắt được “chiếc nôi” của phong trào cách mạng Tuy Hòa.

Cuối năm 1940 sau một thời gian hoạt động ở nước ngoài lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã về nước để lãnh đạo cách mạng. Tháng 5 năm 1941 Người chủ trì Hội nghị Trung ương lần thứ 8 tại Pắc Bó Cao Bằng, hội nghị đã khẳn định: giương cao hơn nữa ngọn cờ giải phóng dân tộc, đánh đổ thực dân Pháp phát xít Nhật cùng cùng bọn tay sai. Và hội nghị cũng quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh hội (gọi tắt là Việt Nam) thay cho mặt trận dân tộc thống nhất chống Pháp Nhật trước đó.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Tư, 2011, 08:25:34 am
Sau khi các hội cứu quốc ra đời phong trào đấu tranh của nhân dân Tuy Hòa bước đầu đã sử dụng bạo lực vũ trang để đấu tranh, biểu tình. Tiêu biểu là cuộc đấu tranh của công nhân Nhà máy đường Đồng Bò và nông dân các làng lân cận vào tháng 4 năm 1942. Cuộc đấu tranh diễn ra khi bọn chú đã cướp đoạt ruộng đất của nhân dân. Hơn 500 công nhân của Nhà máy đường Đồng Bò và nông dân các làng Mĩ Tân, Phước Thành, Mĩ Thạnh đã tự vũ trang bằng dao, rựa, xẻng. cuốc gậy gộc đánh lại bọn lính bang tá đến chiếm ruộng của dân để làm đường chở mía. Kết quả đã làm cho một số lính bị thương. Đây là cuộc đấu tranh vũ trang đầu tiên của công nhân Nhà máy đường Đồng Bò. Nó cũng là tiền đề cho tổ chức vũ trang cách mạng phát triển, chuẩn bị cho việc khởi nghĩa cướp chính quyền.

Trước sự lớn mạnh của phong trào cách mạng địch càng ra sức khủng bố đàn áp để tiêu diệt. Giai đoạn 1942-1944 phong trào cách mạng ở Tuy Hòa gặp khó khăn, một số đảng viên bị bắt, một số cơ sở bị dàn áp chưa khôi phục móc nối hoạt động được, nhưng những đồng chí đảng viên trung kiên vẫn tìm các tập hợp quần chúng cách mạng hoạt động bí mật đợi thời cơ. Thanh niên chống lệnh đi tuần canh hoặc chạy lên núi, ra biển để chống bắt lính.Cuối năm 1944 tình hình thế giới và trong nước diễn biến rất nhanh, có lợi cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.

Hồng quân Liên Xô đã quét sạch quân phát xít ra khỏi đất nước và tiến như vũ bão giải phóng các nước Đông Âu. Chớp lấy thời cơ đặc biệt Đảng đã quyết định khẩn trương tổ chức các lực lượng vũ trang trên khắp cả nước.

Đêm 9/3/1945 Hội nghị mở rộng Ban Thường vụ Trung ương Đảng sau khi phân tích đánh giá tình hình thế giới và trong nước, hội nghị quyết định phát động phong trào chống Nhật để làm tiền đề tiến lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Tiếp đó ngày 12/3/1945 Trung ương Đảng ra chỉ thị “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”.

Ngày 17/4/1945 tại Tuy Hòa binh lính Pháp và chính quyền tay sai đầu hàng Nhật. Nhật đã tăng quân đóng chiếm khu Nhà máy đường Đồng Bò và dọc quốc lộ 1 để sẵn sàng đối phó với lực lượng đồng minh. Trong lúc đó máy bay đồng minh tăng cương đánh phá dữ dội vào các tuyến đường số 1 và đường sắt, các cầu, nhà ga và đánh chìm nhiều tàu chiến của Nhật ở ngoài khơi vùng biển Tuy Hòa. Trước những thất bại dồn dập, phát xít Nhật và tay sai càng tăng cường đàn áp khủng bố quyết liệt, bắt bớ cán bộ đảng viên, cướp bóc trâu bò và tài sản của nhân dân. Một lần nữa phong trào đấu tranh của Tuy Hoa tạm lắng xuống. Nhân dân vô cùng điêu đứng và khổ cực sẵn sàng đứng lên sống mái với quân thù để giành tự do.

Lợi dụng thời cơ Nhật đảo chính Pháp các đồng chí lãnh đạo của Đảng và đảng viên ở các nhà lao được sự hỗ trợ của quần chúng đãp há nhà lao thoát khỏi sự giam cầm của địch trở về địa phương tổ chức lại cơ sở Đảng gây dựng phong trào cách mạng. Ở Tuy Hòa một số đồng chí đảng viên cốt cán từ nhà lao Buôn Ma Thuột (Đắc Lắc), Trà Kê (Phú Yên) đã được giải phóng và trở về. Đến tháng 5/1945 các đồng chí đã khôi phục lại được tổ chức cơ sơ Đảng.

Tháng 6 năm 1945 Tỉnh ủy lâm thời của Phú Yên cũng được thành lập lại (lần thứ 3). Tỉnh ủy lâm thời đã ra chỉ thị cụ thể những nhiệm vụ cấp bách:

+ Tuyên truyền giác ngộ quần chúng động viên quần chúng đứng lên đánh đổ phát xít Nhật và bọn tay sai bán nước giành chính quyền về thay nhân dân.

+ Tổ chức những cuộc biểu tình vũ trang thị uy nâng cao khí thế cách mạng của quần chúng.

+ Phát triển các đoàn thể quần chúng.

+ Thành lập Ủy ban Việt Minh và Ủy ban khởi nghĩa các cấp.

+ Tổ chức các đội tự vệ vũ trang, xúc tiến công tác binh vận xây dựng cơ sở cách mạng trong hàng ngũ binh lính địch.

Chấp hành chỉ thị của Tỉnh ủy, ở Tuy Hòa đã xúc tiến khẩn trương những công việc cần kíp. Khí thế cách mạng hào hùng và dâng cao cuồn cuộn. Nhân dân háo hức và phấn khởi. Tại Nhà máy đường Đồng Bò ta tổ chức một trung đội tự vệ 21 người do đồng chí Nguyễn Thái Vinh chỉ huy. Trung đội cử một tổ 5 người do đồng chí Nguyễn Trọng phụ trách cải trang thành lính Nhật lên đồn khố xanh Hà Roi tước 10 khẩu súng trường, 1 khẩu trung liên đem về trang bị cho trung đội. Ngoài ra anh em còn phục bắt được 1 sĩ quan Nhật say rượu thu được 1 súng ngắn.

Tháng 7 năm 1945 ở Hòa Vinh chính thức thành lập lực lượng tự vệ, nòng cốt là các đội thanh niên được thành lập vào tháng 5/1945. Lực lượng tự vệ ở đây được chia làm 2 đội. Đội ở Trường Thịnh do đồng chí Nguyễn Duy chỉ huy. Đội ở Đông Mĩ do đồng chí Đỗ Dung phụ trách. Các đội được trang bị bằng vũ khí như giáo, mác, dao găm, gậy, dây thừng… Hầu hết số vũ khí đều do lực lượng tự vệ vận động các lò rèn trong xã làm ra. Nhà máy đường Đồng Bò, Hòa Vinh có lực lượng tự vệ tương đối mạnh các xã trong huyện đều có 1 đến 2 tiểu đội. Lực lượng tự vệ phát triển mạnh ở các xã Hòa Hiệp, Hòa Thịnh, Hòa Phong các đội tự vệ trên là tiền thân của lực lượng vũ trang Tuy Hòa sau này.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Tư, 2011, 08:26:39 am
2. Nhân dân Tuy Hòa khởi nghĩa thắng lợi trong cuộc tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945.

Ngày 13 tháng 8 năm 1945 tại Tân Trào (Tuyên Quang, hội nghị toàn quốc của Đảng họp và quyết định: Phát động tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Ngay trong đêm đó ủy ban khởi nghĩa toàn quốc do tổng bộ Việt Minh thành lập đã ra quân lệnh số 1 cho cả nước vùng dậy giành chính quyền.

Ở Phú Yên mặc dù chưa nhận được lệnh tổng khởi nghĩa nhưng Tỉnh ủy và Ủy ban Việt Minh nhạy bén trước tình hình, nắm vững thời cơ, căn cứ vào chỉ thị của Ban Thường vụ và Trung ương: “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” nên khi được tin Nhật đầu hàng đồng minh đã kịp thời chủ trương huy động nhân dân từng xã, tổ chức nhiều cuộc biểu tình vũ trang nhằm hạ uy thế bọn phản động.

Ngày 18 tháng 8 năm 1945 hàng nghìn nhân dân các tổng Hòa Tượng, Hòa Bình, Hòa Mỹ, Hòa Đa liên tục biểu tình vũ trang thị uy. Trống mõ ngày đêm náo động khắp xóm làng. Bọn lí hương cường hào khiếp sợ tìm nơi lẩn trốn. Sáng ngày 19 tháng 8 đoàn biểu tình lúc này đã đông người tham gia hơn kéo đến Chóp Chài dự mít tinh và tuần hành biểu dương lực lượng.

Ngày 28 tháng 8 tại Nhà máy đường Đồng Bò đơn vị tự vệ cùng hàng ngàn công nhân và nông dân quanh vùng liên tiếp tổ chức biểu tình thị uy. Lực lượng khởi nghĩa tước vũ khí của lính bảo an, chiếm nhà bang tá. Tự vệ bao vây quân Nhật chiếm Nhà máy đường và thành lập Ủy ban nhân dân cách mạng Đồng Bò.

Ngày 23 tháng 8 năm 1945 hơn 5.000 đồng bào trong toàn huyện tiếp tục biểu tình thị uy. Đoàn biểu tình kéo xuống phủ lị (thị xã Tuy Hòa). Ngay tối hôm đó Ủy ban khởi nghĩa tỉnh được thành lập. Sáng 24 tháng 8 năm 1945 phát lệnh khởi nghĩa trong toàn tỉnh.

Được lệnh khởi nghĩa Tuy Hòa đã nhanh chóng tổ chức và thành lập lực lượng tự vệ do các đồng chí Tuyên, Cấp, Toại chỉ huy.

Rạng sáng ngày 25 tháng 8 năm 1945 lực lượng tự vệ và quần chúng dưới sự lãnh đạo của mặt trận Việt Minh đã đồng loạt khởi nghĩa, chiếm phủ lị chiếm đồn bảo an tước vũ khí, rồi tiếp tục chiếm phủ đường, nhà dây thép.

Ngày 27 tháng 8 năm 1945 các tổng chung quanh khu vực Nhà máy đường Đồng Bò dưới sự lãnh đạo của ban khởi nghĩa khu Đồng Bò đã tổ chức míttinh biểu tình tước vũ khí lính bảo an, chiếm nhà bang tá, bắt giam bọn phản động thân Nhật, sau đó tuyên bố thành lập Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời.

Cũng trong những ngày này lực lượng tự vệ và đồng bào ở Hòa Xuân đã tự vũ trang bằng giáo mác, gậy gộc chặn xe của Nhật trên quốc lộ 1. Sau đó lực lượng tiến vào ga Hảo Sơn tịch thu kho gạo của Nhật. Ủy ban khởi nghĩa của xã kêu gọi toàn dân vũ trang ai cũng phải có vũ khí để sẵn sàng đối phó với quận giặc.

Ở Hòa Hiệp lực lượng tự vệ dùng dao, kiếm chặn 1 xe Cam Nhông Ray của Nhật chở gạo từ Hảo Sơn ra Tuy Hòa, quân Nhật phải giao 5 tấn gạo cho lực lượng ta và xin xe chạy về Tuy Hòa. Ngày 30 tháng 8 năm 1945 Ủy ban cách mạng xã Hòa hiệp tổ chức 1 đại đội tự vệ quân số khoảng 100 người do ông Dương Kị và ông Lê Khâm phụ trách. Chiều ngày 31 tháng 8 Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời phủ Tuy Hòa được thành lập.

Như vậy chỉ trong vòng 10 ngày từ 20 đến ngày 31 tháng 8 năm 1945 dưới sự lãnh đạo của Đảng, làn sóng cách mạng mạnh mẽ của nhân dân Tuy Hòa quật đổ chính quyền tay sai trên địa bàn của huyện. Chính quyền nhân dân được thành lập khắp từ các xã đến huyện.

Nhân dân Tuy Hòa với những thắng lợi của khởi nghĩa giành chính quyền ở địa phương đã góp phần cùng cả tỉnh hoàn thành cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền.

Ngày 2 tháng 9 năm 1945 tại thủ đô Hà Nội Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh tụ vĩ đại của nhân dân Việt Nam trịnh trọng đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa chấm dứt hàng trăm năm nô lệ.

Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn huyện cùng với thắng lợi của việc hình thành lực lượng vũ trang tự vệ - mầm mống đầu tiên của lực lượng vũ trang cách mạng Tuy Hòa là thắng lợi hết sức quan trọng trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng lâu dài trên địa bàn huyện. Tuy tổ chức vừa mới phôi thai, vũ khí trang bị hầu như không có gì, trình độ quân sự còn non kém chưa trải qua chiến đấu và thử thách, nhưng nó là con đẻ của phong trào cách mạng của nhân dân.

Thắng lợi của cách mạng tháng 8 còn là thắng lợi của tinh thần cách mạng tiến công, phân tích đánh giá đúng tình hình của địa phương nhạy bén nắm thời cơ hạ quyết tâm kịp thời chính xác, tập trung lực lượng tiến công các cơ quan đầu não của kẻ thù làm tê liệt ý chí phản kháng của địch. Thắng lợi đó làm nổi bật vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam Người tổ chức và lãnh đạo thực hiện mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, vai trò quyết định của nhân dân đoàn kết chặt chẽ làm một khối vững chắc.

Nhân dân Tuy Hòa cùng với nhân dân Phú Yên hiểu hơn ai hết thành quả của cuộc Cách mạng Tháng Tám vô cùng vĩ địa chấm dứt cảnh lầm than nô lệ, đem lại cuộc sống ấm no tự do hạnh phúc. Họ nguyện đem xương máu để gìn giữ thành quả cách mạng của mình.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 16 Tháng Tư, 2011, 08:28:05 am
CHƯƠNG II

LỰC LƯỢNG VŨ TRANG HUYỆN TUY HÒA
TRONG CHÍN NĂM KHÁNG CHIẾN CHỐNG
THỰC DÂN PHÁP (1945-1954)

I - KHẨN TRƯƠNG XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG CHUẨN BỊ CHO KHÁNG CHIẾN

Sau khi Cách mạng tháng 8 thành công, chính quyền cách mạng các cấp của Tuy Hòa tiếp tục được thành lập và củng cố. Kiếp sống nô lệ, nhọc nhằn bị khinh rẻ, chà đạp bóc lột của nhân dân đã bị triệt tiêu. Nhưng kẻ thù không để cho chúng ta yên ổn, chúng lại mưu toan cướp nước ta một lần nữa. Ngày 23 tháng 9 năm 1945 sáu nghìn lính Pháp được sự hỗ trợ của quân đồng minh Anh đã đánh chiếm Sài Gòn. Cũng thời điểm này trên đất nước ta còn có 6 vạn quân Nhật đang chờ giải giáp. Thực hiện lệnh của đế quốc Anh một nửa số quân Nhật cầm súng đánh lại ta để giúp Pháp tái chiếm Đông dương. Ngày 6 tháng 10 năm 145 thực dân Pháp đánh chiếm thành phố Nha Trang tạo bàn đạp để đánh chiếm 2 tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa.

Tại Tuy Hòa quân Nhật lại có hành động khiêu khích: tước vũ khí của dân quân tự vệ, bắt bớ những cán bộ cốt cán của ta. Quân và dân Tuy Hòa phải tập trung lực lượng để đối phó. Ta đã thành công lực lượng tự vệ và nhân dân vũ trang, biểu tình bao vây trại lính Nhật phản đối đòi chúng chấm dứt ngay những hành động ngang ngược can thiệp một cách thô bạo vào cuộc đấu tranh của nhân dân ta chống thực dân Pháp. Những cuộc đấu tranh đã diễn ra khá quyết liệt dẫn đến việc phải nổ súng đánh nhau ở cơ quan quân sự của ta tại Lương Phước. Trong cuộc đọ súng này anh Đoàn Châu một chiến sĩ tự vệ của ta bị hi sinh. Quân Nhật cũng bị thương 2 tên. Căm thù giặc Nhật càng thôi thúc nhân dân đấu tranh quyết liệt hơn. Huyện chủ trương tập trung lực lượng phá đường 5 cắt đứt giao thông, tiến hành bao vây uy hiếp buộc bọn chúng phải rút khỏi khu Nhà máy Đồng Bò.

Trước những diễn biến dồn dập hức tạp của tình hình ở địa phương, việc phát triển lực lượng dân quân tự vệ, các đơn vị vũ trang của huyện càng vô cùng cấp bách. Các tổ chức dân quân tự vệ ở các xã Hòa Vinh, Hòa Hiệp, Hòa Xuân đã thành lập các trung đội, đại đội, các xã còn lại trong huyện cũng khẩn trương tổ chức lực lượng và thành lập các trung đội. Vừa mới được thành lập các trung đội dân quân tự vệ đã đảm nhiệm những nhiệm vụ tuần tra, canh gác, truy lùng bọn tay sai của Pháp, Nhật, diệt tề, trừ gian, bảo vệ chính quyền cách mạng ở thôn xã. Các trung đội tự vệ cũng tranh thủ mọi điều kiện để học quân sự: cách xây dựng các loại vũ khí bắn súng, ném lựu đạn, làm hầm chông, gài mìn, học kĩ thuật chiến đấu cá nhân, học võ… Các đội vũ trang cũng phát triển nhanh chóng đó là lực lượng òng chốt trong việc diệt ác, trừ gian, bảo vệ chính quyền. Ngoài việc học những kiến thức sơ đẳng về quân sự họ còn được học các bài về chiến thuật như tổ 3 người, tiểu đội phục kích chống càn, phòng ngự… Chỉ trong vòng chưa đầy 3 tháng từ giữa tháng 9 đến tháng 12 năm 1945 lực lượng dân quân tự vệ, các đội vũ trang trong đó có các đội tự vệ nữ đã trở thành một lực lượng đông đảo và tin cậy.

Tình hình phát triển lực lượng dân quân tự vệ, lực lượng vũ trang bên cạnh những thuận lợi cơ bản cũng gặp không ít khó khăn. Vũ khí trang bị hầu như không có gì, lương thực thực phẩm vô cùng thiến thốn, thời gian giành cho huấn luyện học tập rất eo hẹp. Để giải quyết những khó khăn đó Đảng ủy và Mặt trận Việt Minh huyện Tuy Hòa chủ trương phát động phong trào vũ trang nhân dân, ưu tiên tất cả nhân lực, vật lực cho việc phát triển lực lượng dân quân tự vệ, lực lượng vũ trang để bảo vệ chính quyền non trẻ của cách mạng. Các lò rèn, khắp các nơi trong huyện ngày đêm tập trung làm dao, kiếm phản bổ sung trang bị cho lực lượng vũ trang và tự vệ. Đồng bào trong huyện tự nguyện nhường cơm xẻ áo cho anh em có cái ăn, cái mặc. Công việc đồng áng, sản xuất mọi người tranh thủ làm ngày làm đêm để các chiến sĩ có điều kiện huấn luyện học tập. Các chiến sĩ dân quân tự vệ, vũ trang hầu hết là con em của nông dân, của thợ thuyền nghèo, từng bị áp bức bóc lột của thực dân phong kiến, họ sẵn sàng vượt qua mọi hi sinh gian khổ thiếu thốn, tự giác xung phong vào lực lượng vũ trang cách mạng để cùng nhân dân chiến đấu chống thù trong giặc ngoài bảo vệ quê hương, bảo vệ nền độc lập tự do của Tổ quốc. Hơn bao giờ hết họ hiểu được cái giá của độc lập tự do, những người từ vũng bùn tăm tối “rũ mình đứng dậy sáng lòa” dứt khoát không bao giờ cam chịu thân phận làm nô lệ. Những khó khăn thiếu thốn ban đầu không hề làm cho họ chùn bước, trái lại càng nung nấu cho quyết tâm đoàn kết lại chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài.

Tiếng súng gây hấn của thực dân Pháp đã nổ ra ở Sài Gòn và Nam Bộ. Nhân dân miền Nam anh dũng đứng lên. Cả nước hướng về Nam Bộ. Ngày 25 tháng 11 năm 1945 Trung ương Đảng ra Chỉ thị “kháng chiến kiến quốc”. Bắt đầu từ hôm đó, nhiều chuyến tàu hỏa ngày đêm liên tục chở các chiến sĩ “Nam tiến” từ Hà Nội, Thanh Nghệ Tĩnh, Bình Trị Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi vào. Một số đơn vị dừng lại ở Phú yên, Khánh Hòa để chặn đánh quân địch ở thành phố Nha Trang và lập phòng tuyến mặt trận Đèo Cả ngăn chặn không cho quân Pháp đánh chiếm Phú Yên. Các đơn vị bộ đội Nam Tiến như Tiểu đoàn Vi Dân, Chi đội 51, Tiểu đoàn Thu sơn, Tiểu đoàn Bắc Bắc phần lớn đứng chân ở huyện Tuy Hòa. Đồng bào đã giành những tình cảm sâu nặng nhất cho anh em chiến sĩ bằng sự ủng hộ lương thực thực phẩm, bằng tấm lòng đùm bọc yêu thương thắm tình cá nước, Nam Bắc một nhà. Những tình cảm đó đã thực sự cổ vũ động viên tạo nên sức mạnh đoàn kết thống nhất ý chí nhân dân một lòng. Các đơn vị bộ đội Nam Tiến cùng lực lượng vũ trang, dân quân tự vệ huyện nhà hăng hái bước vào trận tuyến phòng thủ và sẵn sàng chiến đấu với quyết tâm thực hiện thắng lợi chủ trương của Ủy ban quân chính Nam phần Trung Bộ (tháng 10/1945):

“… Tích cực đánh tiêu hao ngăn chặn địch từng bước, bảo tồn lực lượng ta, cố giữ cho được một vùng tự do để làm căn cứ kháng chiến lâu dài…”.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Tư, 2011, 08:55:08 pm
Trong những tháng cuối năm 1945 và đầu năm 1946, được sự giúp đỡ của các đơn vị bộ đội Nam Tiến - trực tiếp huấn luyện san sẻ trang bị - lực lượng dân quân tự vệ và các đội vũ trang trong huyện được củng cố và tổ chức lại quân số, trang bị được bổ sung, chất lượng cao hơn. Đây cũng là bước phát triển và trưởng thành tạo ra sức chiến đấu mới mạnh mẽ hơn, sẵn sàng đáp ứng mọi nhu cầu của nhiệm vụ. Nhận dịp tết nguyên đán năm 1946 - trong thư chúc tết của Bác Hồ giử các chiến sĩ ở mặt trận và đồng bào toàn quốc - Bác đã biểu lộ tấm lòng thiết tha đối với đồng bào miền Nam, trong thư có đoạn viết: “… Hỡi các chiến sĩ yêu quý! Trong khi đồng bào đốt hương trầm để thờ phụng tiền nhân, thì các bạn đốt thuốc súng để giữ gìn Tổ quốc…”.

Tháng 1 năm 1946, bọn Pháp tập trung 15.000 quân mở cuộc hành quân “GAUR” đánh chiếm Tây Nguyên và Nam Trung Bộ. Trên hướng trực tiếp với Phú Yên, địch đã đánh chiếm Ninh Hòa, thị trấn Vạn Giã. Bị ta chặn đánh quyết liệt địch không qua được tuyến phòng thủ Nha Trang. Chúng tức tốc điều quân từ Tây Nguyễn đánh xuống theo đường 21. Do lực lượng mạnh nên chúng đã chiếm được 2 huyện còn lại của Khánh Hòa là Ninh Hòa và Vạn Ninh. Cuối tháng 1 năm 1946 toàn tỉnh Khánh Hòa trở thành vùng bị chiếm.

Hơn 3 tháng chiến đấu ròng rã trên mặt trận Nha Trang, tuyến phòng thủ Bắc Khánh Hòa đại đội dân quân tự vệ Tuy Hòa, bộ đội tập trung Phú Yên đã tiến quân vào mặt trận, tham gia chiến đấu. Hàng nghìn dân công tiếp lương tải đạn ra hỏa tuyến. Đường đèo Dốc Mõ, Dốc Chanh trở thành đường tiến quân vào mặt trận, cùng vừa là đường chuyển thương binh về tuyến sau.

Với vai trò của một hậu phương quân dân Tuy Hòa đã ân cần đón tiếp trong tình thương yêu đùm bọc chia ngọt sẻ bùi, đã vận động giúp đỡ lương thực, chăn chiếu, san sẻ chiếc nón, tấm áo nhường chỗ ở, tạo việc làm. Nhiều gia đình đã tự nghuyện nhận con nuôi, anh chị nuôi, cha mẹ nuôi, những cử chỉ thân tình ấy thực sự là những nghĩa cử tốt đẹp thể hiện tuyền thống đạo lí của dân tộc, nên có câu ca dao:

“Trời mưa “Đồng Cọ” hóa gió “Tu Bông”
Cách đèo đâu phải ngăn sông
Anh đây em đó một lòng thương nhau
Cho dù hạt muối cọng rau
Thủy chung bởi có tình sâu nghĩa dày”


Một số cơ quan, trạm xá, xưởng quân giới của Khánh Hòa cũng chuyển ra Tuy Hòa, Phú Yên đã thực sự là hậu phương của Khánh Hòa và miền Nam Trung Bộ.

Sau khi địch tấn công đánh chiếm toàn bộ tỉnh Khánh Hòa, để tiếp tục thực hiện âm mưu đánh chiếm các tỉnh đồng bằng Trung Trung Bộ, bọn Pháp tăng cường lực lượng trên mặt trận Bắc Khánh, liên tục uy hiếp Đèo Cả.

Trước tình hình này mặt trận kháng chiến Nam Trung Bộ ra chỉ thị cho quân dân Phú Yên và các đơn vị bộ đội đang hoạt động ở Phú Yên, Khánh Hòa khẩn trương xây dựng phòng tuyến Đèo Cả để đánh ngăn chặn kiềm giữ không cho địch tiến công đánh chiếm Phú Yên. Thực hiện nhiệm vụ cấp bách với tinh thần toàn dân đánh giặc, huy động nhiều trung đội dân quân tự vệ của các xã, hàng ngàn dân công, cùng với Tiểu đoàn Cao Thắng từ Khánh Hòa ra cùng Tiểu đoàn Bắc Bắc tiến hành phá hoại, đào đường, đắp ụ, dựng chướng ngại vật trên quốc lộ 1, phá cầu, lật đường ray tà vẹt trên tuyến đường sắt, xây dựng hào hầm, công sự để chiến đấu.

Ngoài mặt trận Đèo Cả, bọn Pháp lại có mưu đồ dùng lực lượng ở Tây Nguyên, mở thêm hướng tiến công phía tây Hà Roi (Sơn Hòa) nhằm tạo thế hỗ trợ cho hướng tiến công chính diện Đèo Cả. Ban chỉ huy mặt trận phải điều động một số đơn vị hành quân cấp tốc để giữ mặt trận phía tây của tỉnh. Tình hình chiến trường diễn biến phức tạp, chiến tranh phát triển quá nhanh, đòi hỏi việc tổ chức xây dựng lực lượng vũ trang trở nên bức thiết, chỉ trong vòng 3 tháng tỉnh Phú Yên đã tổ chức thành lập nhiều đơn vị bộ đội tập trung hàng chục đại đội, trung đội dân quân tự vệ. Đặc biệt ở huyện “Tuy Hòa lực lượng vũ trang phát triển nhanh đã trực tiếp tham gia chiến đấu ở mặt trận Bắc Khánh, được thử thách trên chiến trường nên trưởng thành nhanh chóng.

 Những ngày tháng cuối năm 1945 đầu năm 1946 nước Việt Nam dân chủ cộng hòa non trẻ phải đối đầu với những thử thách vô cùng nghiệt ngã, nền độc lập của dân tộc bị đe dọa trầm trọng. Phía nam bọn quân viễn chinh Pháp nhảy vào gây hấn ở Nam Bộ, tấn công đánh chiếm các tỉnh cực Nam Trung Bộ, Tây Nguyên. Phia bắc quân Tưởng tràn vào cướp bóc phá phách gây áp lực với chính phủ ta, đẩy nước ta vào tình thế khó khăn một lúc phải chiến đấu với nhiều kẻ thù.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Tư, 2011, 08:58:12 pm
Đứng trước tình hình có nhiều diễn biến phức tạp Trung ương Đảng có chủ trương “Hòa để tiến”. Ngày 6 tháng 3 năm 1946 hiệp định sơ bộ được kí kết giữa ta và Pháp, Trung ương ra chủ trương: “Tranh thủ củng cố lực lượng, phát triển rộng rãi các tổ chức quần chúng, để lấy đó làm cơ sở cho du kích chiến tranh”.

Hiệp định sơ bộ là thời cơ và điều kiện thuận lợi cho ta, tổ chức phát triển lực lượng, chuẩn bị cơ sở vật chất khai thác mọi khả năng, lập thế trận cho kháng chiến lâu dài.

Được sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng, tích cực thực hiện chủ trương của Trung ương, huyện Tuy Hòa đã huy động sức người sức của với tinh thần: toàn dân đánh giặc, tất cả cho kháng chiến, kiên quyết giữ cho được vùng tự do với các nhiệm vụ cụ thể:

- Phát động phong trào tòng quân giết giặc cứu nước.

- Củng cố, phát triển, tích cực huấn luyện cho lực lượng dân quân tự vệ.

- Phát huy mọi sáng kiến, tự lực tự cường, tự tạo tự chế, rèn vũ khí thô sơ để trang bị cho lực lượng vũ trang.

- Tiếp tục huy động nhân dân xây dựng trận tuyến Đèo Cả.

- Ra sức củng cố chính quyền, xây dựng các đoàn thể.

- Hăng hái lao động sản xuất, tiết kiệm, tự lực cánh sanh quyên góp ủng hộ cho kháng chiến, nỗ lực thực hiện tinh thần chống giặc dốt, giặc đói và giặc ngoại xâm.

Tháng 4 năm 1946 Trung đoàn 79 được thành lập ở Phú Yên. Đến tháng 6 tiếp tục thành lập Trung đoàn 80. Cùng thời gian này thủy đội Bạch Đằng (bộ đội thủy thủ) cũng được thành lập ở Hòa Hiệp làm nhiệm vụ vận chuyển vũ khí lương thực chi viện cho chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ. Cũng trong thời gian này ngày 22 tháng 5 năm 1946 Chính phủ ra sắc lệnh số 7 quy định: Vệ quốc quân chính thức trở thành quân đội quốc gia của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Sự ra đời của các đơn vị bộ đội chủ lực, lực lượng tập trung có ý nghĩa hết sức quan trọng đánh dấu sự trưởng thành của lực lượng vũ trang nhân dân trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

Sau khi thành lập các đơn vị trực tiếp tăng cường cho các tuyến phòng thủ Đèo Cả, Củng Sơn, ngoài ra còn nhiều tiểu đoàn tiến ra phía trước để đánh địch ở Khánh Hòa - phòng thủ bờ biển Phú Yên để kịp thời đối phó với bọn thực dân Pháp đã phản bội Hiệp ước (6.3) liên tục khiêu khích ta. Ngày 21 tháng 6 chúng đã sử dụng 1 trung đoàn đánh Tu Bông, Đại Lãnh, Đèo Cả. Ngày 22 tháng 6 ở phía tây Phú Yên tiểu đoàn lính Âu Phi từ M’Dăk tiến đánh Củng Sơn. Trong thế trận ta đã chuẩn bị trước, lực lượng ta luôn bám sát địch từ xa. Nhờ ở thế chủ động nên cả trên 2 hướng tấn công của địch đều bị lực lượng ta chặn đánh quyết liệt gây cho chúng nhiều thiệt hại.

Huyện Tuy Hòa thực sự là chiến trường trực tiếp đối đầu với địch ở 2 mặt trận phía nam và phía tây trong tình thế uy hiếp ngày càng tăng. Trong lúc khó khăn này bọn phản cách mạng trong huyện như nhóm Đại Việt của tên Trương Bội Hoàng, nhóm đội lốt Thiên chúa giáo ở nhà thờ Đông Mĩ (Hòa Vinh), nhà thờ Hoa Châu (Hòa Phong), nhóm Tin lành ở Thạch Bàn, bọn cao đài phản động ở Hòa Đồng lợi dụng tình hình đó nổi lên quấy phá ta, bắt lén cán bộ, tung tin tuyên truyền chống chế độ, cấu kết tổ chức, móc nối phát triển gián điệp, phá hoại cách mạng nhàm đón lấy thời cơ “đục nước béo cò”.

Tình hình trong huyện lúc này đã phức tạp lại càng phức tạp hơn. Song với tinh thần và quyết tâm của quân dân trong huyện là tất cả cho tiền tuyến, tất cả cho kháng chiến, lực lượng vũ trang phải làm 2 nhiệm vụ: đánh giặc ngoài, diệt thù trong,bảo vệ chính quyền cách mạng.

Tháng 4 năm 1946 Huyện đội Tuy Hòa được thành lập (cả thị xã Tuy Hòa) do đồng chí Vĩnh làm huyện đội trưởng, đồng chí Huỳnh Văn Húc chính trị viên, đồng chí Nguyễn Văn Tấn huyện đội phó, đồng chí Nguyễn Thương Tiết huyện đội phó, đồng chí Ba Tân trưởng ban quân sự, đồng chí Phạm Hinh phó ban quân sư. Đây là sự kiện có ý nghĩa quan trong, khẳng định vai trò vị trí của lực lượng vũ trang địa phương trong cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện trường kì. Từ đây lực lượng vũ trang, bán vũ trang của huyện đã có sự lãnh đạo thống nhất, chặt chẽ và kịp thời góp phần thắng lợi cho mỗi trận đánh, mỗi giai đoạn của kháng chiến.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Tư, 2011, 08:59:01 pm
Tháng 5 năm 1946 Ban công an huyện được thành lập, lúc đầu có 10 đồng chí. Trong tình hình huyện nhà gặp muôn vàn khó khăn phức tạp. Nhờ sự quan tâm lãnh đạo của Đảng, sự đùm bọc che chở nuôi dưỡng của nhân dân, lực lượng công an nhanh chóng phát triển đến cơ sở (cấp xã), đã tích cực hoạt động, góp phần quan trọng giữ vững anh ninh chính trị, bảo vệ chính quyền, bảo vệ nhân dân.

Từ tháng 4 đến tháng 9 năm 1946, bọn thực dân Pháp đã tiếp tục duy trì và thực hiện âm mưu đánh chiếm Phú Yên làm bàn đạp tiến công các tỉnh còn lại của vùng duyên hải Trung Trung Bộ. Để ngăn chặn và làm hạn chế thủ đoạn đánh phá, tiến công lấn đất từng bước của địch, lực lượng vũ trang ta chủ động bám sát địch đánh phá, quấy rối bằng nhiều hình thức: phục kích đánh đồn bốt, chống lấn chiếm, gài bom mìn, dùng lực lượng nghi binh ở Đại Lãnh, Dốc Mô diệt hàng chục tên địch. Ngày 30 tháng 9 năm 1946 ở mặt trận phía tây Trung đoàn 79 tiến công 2 đồn Cà Lúi - Ma Mốc diệt 20 tên, thu 5 thùng thuốc nổ. Cùng này lực lượng dân quân tự vện Sơn Hòa chống càn ở Buôn Ma Đung diệt một số tên, thu 2 lựu đạn, phá hỏng 1 trung liên. Ngoài việc dùng lực lượng ám sát địch để quấy rối đánh phá ngăn chặn hạn chế sức tiến công của chúng ở tuyến sau huy động mọi lực lượng tiếp tục phá đường giao thông, lập phòng tuyến, chuẩn bị lương thực vật chất sẵn sàng đánh địch trước mắt và lâu dài.

Tình thế chiến tranh ngày càng diễn biến phức tạp. Không khí sôi động, cấp bách chuẩn bị cho kháng chiến của quân dân Tuy Hòa lại càng khẩn trương hơn, vì nó đã trở thành sự sống còn của quê hương nói riêng, của Tổ quốc nói chung. Không ai bảo ai nhưng tất cả đều quyết giữ trọn lời thề “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Lớp lớp nam nữ thanh niên lên đường tường quân giết giặc cứu nước, gia nhập các đội dân quân tự vệ. Nông dân xung phong đi dân công hảo tuyến. Các ông bà cụ già vận động lương thực nuôi quân. Trai gái trẻ già ai cũng tự tìm vũ khí để trang bị cho mình. Quân dân Tuy Hòa với tinh thần và khí thế rầm rập ra quân xông vào cuộc chiến đấu mới với khẩu hiệu “Giặc tới nhà trẻ già cũng đánh”.

Ngày 14 tháng 9 năm 1946 giữa ta và Chính phủ Pháp lại kí 1 tạm ước, đến ngày 30 tháng 9 năm 1946 mới có hiệu lực - đây cũng là vấn đề có tính sách lược của Đảng ta tranh thủ hòa hoãn để chuẩn bị cho kháng chiến. Trang thủ thời cơ nhanh chóng phát triển lực lượng vũ trang trên khắp mọi miền đất nước, ra sức huấn luyện, tích cực tự túc trang bị nâng cao chất lượng xây dựng bản chất lực lượng vũ trang của dân, do dân vì dân, sẵn sàng đánh địch trước mắt và chiến đấu lâu dài.

Hạ tuần tháng 9 năm 1946 đồng chí Võ Nguyên Giáp Chủ tịch Quân ủy hội ra nhật lệnh giử cho đồng bào chiến sĩ miền Nam đã ghi:

1 - Cần phải khép chặt hàng ngũ lại trong bộ đội cung như giữa bội đội và dân chúng.

2 - Bao giờ cũng tôn trọng tình nghĩa, đồng thời bao giờ cũng phải kiên quyết bảo tồn danh dự quân sự cho bộ đội và bảo vệ quyền lợi cho dân chúng.

3 - Phục tùng thừa lệnh, tuân theo kỉ luật, phải làm đúng những điều đó, để giữ vững hàng ngũ vệ quốc quân miền Nam, để bảo vệ sự thống nhất lãnh đạo và bảo vệ chính quyền (theo báo cứu quốc 24/9/1946).

Đến ngày 29 tháng 9 năm 1946 Bộ quốc phòng gửi quân lệnh phản công cho mặt trận miền Nam Trung Bộ. Nhận định tình hình quân lệnh nêu rõ: Tạm ước 04/9/1946 nhưng đến 30/10/1946 mới được thi hành, thời gian kéo dài địch có thể bội ước như hiệp định sơ bộ 6.3. Do đó trước mắt bộ đội Nam Trung Bộ cần tiến hành những nhiệm vụ sau:

- Phản công để lấn đất, để ngăn chặn địch tiến công và lấn đất đó là bước đột phá quan trọng trong thời kì cầm cự.

- Phải hành động khắp mọi mặt trận để kìm giữ một phần lực lượng chủ lực quân của địch để phối hợp tác chiến với Nam Bộ và Stungteng (Campuchia).

- Phản công để bắt buộc địch phải thi hành sơ ước.

- Phản công để giữ vững khu vực trọng yếu Nam Ngãi Bình Phú.

Về tính chất và thời gian:

- Hoạt động toàn diện khắp các mặt trận An Khê, Củng Sơn, Đèo Cả, Trại Thơm, Phan Rang, Phan Thiết, chuẩn bị sẵn sàng mặt trận Quảng Nam và Thái Phiên (Đà Nẵng bây giờ).

- Hoạt động ráo riết trong vòng nửa tháng để sau khi sơ ước đã công bố, nếu chúng không thi hành triệt để, cũng tiếp tục phản công đến khi chúng phải thực hiện.

- Phải bảo tồn thực lực (nhất là chủ lực) tập trung diệt địch điểm nào phải chắc chắn thắng lợi, phải tránh sức địch mạnh hơn,

- Thời gian bắt đầu hoạt động từ 30 tháng 9 năm 1946. Thực hiện tinh thần quân lệnh này, chiến trường Phú Yên tiến hành chuẩn bị tấn công địch ở mặt trận phía tây. Ta tổ chức tập kích 2 đồn Cà Lúi và Ma Rốc giành thắng lợi.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Tư, 2011, 09:00:49 pm
Ở mặt trận Đèo Cả, các lực lượng dồn ép địch tiếp tục nghi binh, liên tục đánh du kích quấn rối gây áp lực nhằm không cho địch tạo thế để phát triển tiến công.

Sau hơn 1 năm với tình hình cấp bách chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược mạnh gấp nhiều lần. Quân dân Tuy Hòa sau khi cướp chính quyền với 2 bàn tay trắng, nạn đói kém, bọn phản động lén lút gây rối phá hoại, lại bị giặc Pháp đe dọa cả 3 phía. Với chính quyền non trẻ, lực lượng vũ trang mới được thành lập, song nhờ ở lòng yêu nước chí căm thù giặc, đã biết phát huy được sự đoàn kết thống nhất tạo nên sức mạnh phi thường. Vững vàng tiến lên đạp bằng muôn vàn khó khăn thử thách, với tinh thần kiên quyết chiến đấu bảo vệ quê hương.

Ngày 19 tháng 10 năm 1946 hội nghị quân sự toàn quốc của Đảng được khai mạc, dưới sự chỉ đạo của đồng chí Trường Chinh Tổng Bí thư của Đảng. Hội nghị vạch rõ những âm mưu thủ đoạn của kẻ thù, đánh giá về khả năng thực lực của quân và dân ta, những khó khăn cũng như thuận lợi. Trên cơ sở đó hội nghị đã đề ra những nhiệm vụ cấp bách trước mắt của lực lượng vũ trang cách mạng. Đây là hội nghị quân sự lớn nhất của Đảng sau Cách mạng tháng 8 năm 1945. Hội nghị nhận định: “Không sớm thì muộn Pháp sẽ đánh mình và mình cũng nhất định phải đánh Pháp”(1). Do đó quân và dân ta phải chuẩn bị mọi mặt cho kháng chiến và cần “Phải tự tin rằng uy kém về kĩ thuật, vũ khí nhưng với tinh thần dẻo dai bền bỉ mình nhất định thắng”(2). Trên cơ sở xem xét thấu đáo cân nhắc mọi vấn đề hội nghị quyết định: “Đẩy mạnh hơn nữa việc xây dựng lực lượng vũ trang, chú trọng nhất là chất lượng để sẵn sàng chiến đấu với quân thù, đặc biệt nhấn mạnh về việc xây dựng lực lượng vũ trang và chính trị”(3).

Để thực hiện tinh thân của hội nghị và tạm ước 14-9-1946, ngày 29/10/1946 đồng chí Võ Nguyên Giáp Chủ tịch Quân ủy hội ra lệnh khẩn cấp cho nhân dân miền Nam.

1 - Lâp tức đình chiến từ ngày 30-10-1946, bắt đầu từ 0 giờ.

2 - Giữ bí mật vị trí của ta và cẩn mật đề phòng.

3 - Kiên quyết tự vệ đến cùng để bảo vệ dân chúng, bảo vệ cơ quan hành chính bị tấn công, nhưng tuyệt đối tránh sự khiên khích. Theo đúng lệnh, 12 giờ đêm ngày 29/10/1946 tiếng súng của ta khắp trên mặt trận miền Nam ngừng nổ.

Chấp hành lệnh của Quân ủy hội - Tỉnh ủy và Ủy ban Quân sự tỉnh chỉ đạo trực tiếp cho 2 mặt trận quan trọng ở phía tây và phía nam, tập trung và nỗ lực lớn nhát tiến hành một số nhiệm vụ: Đẩy mạnh phá hoại các tuyến đường củng cố các công sự trên phòng tuyến Đèo Cả. Tiếp tục huy động lực lượng dân công phục vụ cho mặt trận làm 3 công việc chủ yếu là: vận chuyển lương thực, vũ khí, phá hoại triệt để 2 trục đường số 1 và đường sắt, xây dựng công sự, củng cố các tuyến chiến đấu. Tổ chức lực lượng cơ động và kịp thời đánh địch đổ bộ dọc bờ biển từ cửa Đà Rằng đến Mũi Kê Gà. Tận dụng thời cơ, tranh thủ thời gian, quân dân huyện Tuy Hòa tiếp tục phát huy tinh thần tất cả cho mặt trận, vận động và đóng góp toàn bộ sức người sức của cho kháng chiến. Các đại đội, trung đội dân quân tự vệ của các xã Hòa Xuân, Hòa Hiệp, Hòa Vinh, Hòa Tân thay phiên cùng bộ đội ở mặt trận phòng thủ, tham gia tác chiến ở phía trước: Đèo Cả, Đại Lãnh, Tu Bông. Lực lượng phía sau học tập quân sự, chỉ huy dân công, hướng dẫn phá hoại và xây dựng công sự. Lực lượng dân quân tự vệ của Hòa Thịnh, Hòa Mĩ, Hòa Đông tổ chức khai thông hành lang đường Dốc Mõ lập các trạm, bảo vệ dân công vận chuyển từ Khánh Hòa. Lực lượng dân quân tự vệ Hòa Bình, Hòa Phong phục vụ cho mặt trận phía tây.

Ngày 5 tháng 11 năm 1946 Hồ Chủ tịch viết văn kiện về kháng chiến. Người chỉ rõ: “Công việc khẩn cấp bây giờ: một mặt phá hoại, một mặt kiến thiết, phá hoại để ngăn địch, kiến thiết để đánh địch. Người viết: ta phải hiểu và làm cho dân hiểu rằng cuộc kháng chiến sẽ rất gay go cực khổ, ta kiên quyết chống chọi cho qua gia đoạn chớp nhoáng đó thì đị sẽ xẹp, ta sẽ thắng cố ráng sức qua khỏi mùa đông lạnh lẽ thì ta sẽ gặp mùa xuân dù phải rút khỏi các thành phố thì ta cũng không cần, ta sẽ giữ tất cả thôn quê…”.


(1), (2), (3) Nghị quyết hội nghị quân sự của Đảng toàn quốc 19/10/1946.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Tư, 2011, 09:01:44 pm
Sơ ước 14/9/1946 vẫn không có hiệu lực, bọn thực dân Pháp tiếp tục bội ước gây hấn đánh chiếm nhiều tỉnh ở Nam Bộ, một số vùng cực Nam Trung Bộ. Chúng đã trắng trợn mở rộng chiến tranh cố tâm xâm lược nước ta một lần nữa.

Ngày 23 tháng 11 năm 1946 Hồ Chủ tịch kêu gọi “… toàn thể đồng bào phải trấn tĩnh. Bộ đội và tự vệ phải sẵn sàng bảo vệ chủ quyền của Tổ quốc. Chính phủ phải luôn luôn đứng sát đồng bào để giữ gìn đất nước…”. Hưởng ứng lời kêu gọi của Bác Hồ, quân dân Tuy Hòa cùng nhân dân cả nước ráo riết xúc tiến mọi nhiệm vụ cho chiến đất trước mắt, đồng thời chuẩn bị tinh thần cho công cuộc kháng chiến toàn dân toàn diện và trường kì… Để phù hợp với thế chiến trường, sự chỉ huy chỉ đạo, theo chỉ thị của Trung ương, Tỉnh ủy Phú Yên chia thành nhiều chiến khu (Tuy Hòa là chiến khu 1), thành lập các xã. Về quân sự điều chỉnh một số đơn vị đứng chân trên từng địa bàn thích hợp với phương án đánh địch. Mặt rận Đèo Cả do Trung đoàn 80 phụ trách, 1 tiểu đoàn đứng ở Liên hiệp Mĩ, Dốc Mõ, Tu Bông, Vạn Giã, 1 tiểu đoàn đứng Đại Lãnh, đường Gia Long và Hảo Sơn, 1 tiểu đoàn đứng ở Hòa Vinh. Trong tháng 11 và 12 năm 1946 bọn Pháp liên tục dùng lực lượng nhỏ cỡ trung đội, đại đội bằng mọi thủ đoạn đánh lấn ta ở mặt trận Đèo Cả. Với tinh thần sẵn sàng chiến đấu - bộ đội của dân quân tự vệ đã đánh lui trong những trận tiến công của địch, diệt hàng chục tên giữ vững được trận địa trên tuyến phòng thủ.

Ở tuyến sau tỉnh đã chỉ thị cho huyện khẩn trương tiến hành một số nhiệm vụ khẩn cấp tổ chức tháo gỡ Nhà máy đường Đồng Bò đưa lên chiến khu. Xây dựng xưởng sản xuất vũ khí. Thành lập ban dân công tiếp vận, ban cứu tế, các trạm cứu thương. Thế trận trên địa bàn huyện đã bố trí chặt chẽ. Lực lượng vũ trang đã cầm chắc tay súng, tay kiếm, siết chặt hàng ngũ. Nhân dân đã tích cực chuẩn bị sức người sức của cung ứng phục vụ cho chiến đấu, tất cả đều sẵn sàng trong tư thế tiến công với ý chí quyết đánh và quyết thắng.

Trong 2 ngày 17 và 18 tháng 12 năm 1946, hội nghị bất thường Ban chấp hành Trung ương Đảng dưới sự chủ tọa của Hồ Chủ tịch quyết định: “Phát động cả nước kháng chiến”. Hội nghị đã đề ra những vấn đề cơ bản về đường lối kháng chiến: Phát động cuộc chiến tranh nhân dân.

Đêm 19 tháng 12 năm 1946 quân dân ta đồng loạt chủ động nổ súng đánh quân xâm lược Pháp ở thủ đô Hà Nội và các thành phố lớn, kháng chiến đã bùng nổ trên toàn quốc.

Sáng ngày 20 tháng 12 năm 146 Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến.

Hỡi đồng bào toàn quốc!

Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta đã nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa!

Không! chúng ta thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.

Hỡi đồng bào! chúng ta phải đứng lên!

Bất kì đàn ông, đàn bà, bất kì người già người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc, hễ là người Việt Nam phải đứng lên đánh thực dân Pháp, cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc thuổng gậy gộc, ai cũng phải ra sức đánh thực dân Pháp cứu nước.

Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ dân quân!

Giờ cứ nước đã đến, ta phải hi sinh đến giọt máu cuối cùng để gìn giữ đất nước.

Dù phải gian lao kháng chiến nhưng với một lòng kiên quyết hi sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta”.

Lời kêu gọi của Bác Hồ đã vọng vang đất nước, lệnh Tổ quốc đã truyền khắp núi sông. Cả nước vùng lên chiến đấu - quân dân Tuy Hòa với tinh thần khí thế sẵn sàng tiến quân vào trận nung nấu quyết tâm cùng cả nước đánh thắng quân thù.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Tư, 2011, 09:02:56 pm
II - ĐÁNH ĐỊCH TẤN CÔNG LẤN CHIẾM BẢO VỆ VÙNG TỰ DO

Ngày 12 tháng 1 năm 1947, hội nghị quân sự toàn quốc lần thứ nhất trong kháng chiến. Hội nghị chỉ rõ: “Với viện binh đã kéo đến, thực dân Pháp sẽ mở cuộc phản công và tiến công” hòng “nuốt trôi nước ta” “đây là cuộc tàn phá khủng bố rất dữ dội”.

Hội nghị ra thông báo kêu gọi toàn dân chuẩn bị mọi phương tiện để đối phó với cuộc tiến công đại quy mô mà thực dân Pháp đang gấp rút chuẩn bị. Cùng lúc này Hồ Chủ tịch gửi thư cho đồng bào cả nước kêu gọi: “Phá hoại để kháng chiến” và kiên quyết tản cư.

Theo lời kêu gọi của Bác Hồ, quân dân huyện Tuy Hòa tiếp tục huy động toàn lực phá hoại triệt để đường sắt và đường số 1 từ Đèo Cả đến cầu Đà Rằng. Các nhà ngói, nhà xây ven đường, nhà ga xe lửa cũng được đập phá. Vừa phá hoại vừa xây dựng công sự, lập tuyến ngăn chặn, đồng bào đã dùng hàng vạn cọc cây, tre dài hơn 2 mét vót nhọn cắm ở bái trống gò hoang dọc tuyến sông Bàn Thạch và xã Hòa Xuân, Hòa Vinh, Hòa Tâm, Hòa Hiệp để chống quân nhảy dù.

Được sự lãnh đạo trực tiếp của Tỉnh ủy và tuyên truyền vận động của Ủy ban kháng chiến huyện, quân dân Tuy Hòa đã nhận rõ các chủ trương: phá hoại để kháng chiến, tản cư để để kháng chiến, bố phòng, thực hiện vườn không nhà trống để đánh giặc. Đây là sự hi sinh lớn lao, cũng là những thử thách đầu tiên mà quân dân trong huyện phải nỗ lực cao độ đạp bằng và vượt qua không quản gian lao cực nhọc. Nhận rõ được trách nhiệm và ý nghĩa cực kì quan trọng đó, quân dân Tuy Hòa trẻ già trai gái dốc sức dốc lòng đồng tâm hiệp lực trong không khí sôi động cách mạng, không kể ngày đêm lao động quên mình với tinh thần hăng hái cao độ, hoàn thành tất cả mọi công việc nhanh nhất, sớm nhất để kịp thời chiến đấu đánh bại cuộc tấn công của quân Pháp đánh chiếm huyện mình. Đây là một thành công to lớn, minh chứng sức mạnh của quần chúng, xuất phát từ truyền thống yêu nước và lòng căm thù giặc sâu sắc, là tiền đề cho sức mạnh của cuộc chiến tranh nhân dân do Đảng và Bác Hồ phát động nhất định sẽ giành thắng lợi vẻ vang.

Tháng 1 năm 1947 bọn thực dân Pháp đưa thêm quân viễn chinh sang Đông Dương tăng quân số lên tới 10 vạn tên. Chúng tiếp tục mở nhiều cuộc phản công và tấn công ở nhiều nơi trên cả nước.

Nhằm thực hiện âm mưu tiếp tục tiến công đánh chiếm Phú Yên, làm bàn đạp chiếm các tỉnh đồng bằng Khu 5, thực dân Pháp tập trung 2 trung đoàn ở Bắc Khánh Hòa, cho 2 tàu thủy hoạt động vùng biển từ cửa Đà Rằng vào Vũng Rô. Tăng cường một số lực lượng áp sát Đèo Cả.

Trước tình hình quân Pháp tăng cường gây sức ép ở 2 mặt trận Hà Roi (phía tây), Đèo Cả (phía nam), trong những tháng cuối năm 1946, Bộ chỉ huy khu 6 đưa Trung đoàn 80 cùng lực lượng dân quân tự vệ huyện Tuy Hòa phòng giữ ngăn chặn địch ở mặt trận Đèo Cả, Trung đoàn 79 cùng lực lượng dân quân tự vệ Sơn Hào bảo vệ mặt trận Hà Roi, Tiểu đoàn Ba Dương đứng ở Tuy Hòa củng cố và sẵn sàng cơ động đánh địch trên cả 2 mặt trận. Với phương châm tác chiến, chủ động đánh địch ngăn chặn từ xa, Bộ chỉ huy mặt trận điều 2 tiểu đoàn của Trung đoàn 80 luồn vào Vạn Giã, Tu Bông chủ động tiến công vào phía sau lưng của chúng, liên tục gây cho địch nhiều thiệt hại, buộc địch phải đối phó.

Mờ sáng ngày 13/1/1947 (nhằm ngày 22/12 năm Bính Tuất), trong khi nhân dân Tuy Hòa đang chuẩn bị đón xuân Đinh Hợi, địch sử dụng 2 trung đoàn bộ binh được pháo binh (mặt đất và ngoài biển) chi viện trực tiếp. Chúng tiến công tên 2 hướng: hướng chính diện (Đèo Cả), hướng thọc sườn (đường Gia Long cũ). Chúng bắt đồng bào lùa trâu bò đi trước nhằm phá bố phòng, đồng thời che chở cho chúng thoát khỏi sự đánh chặn của lực lượng ta.

Phát hiện được thủ đoạn thâm độc của địch, Ban chỉ huy trung đoàn lệnh cho các đơn vị để dân và trâu bò đi qua rồi mới nổ súng đánh địch phía sau. Một đại đội của ta phục sẵn ở Múi Đá Đen. Khi quân địch đến gần, lợi dụng địa hình hiểm trở, dốc đứng, đá dựng với tuyến bố phòng trước, các chiến sĩ ta dùng lựu đạn đánh bất ngờ phủ đầu quân địch, nhiều tên chết, số còn lại tháo chạy rơi xuống hố sâu chết thêm một số tên khác. Mũi đột kích tấn công của giặc bị quân ta đánh quỵ. Để tiếp tục tiến công địch dùng pháo và nhiều tốp máy bay bắn phá và ném bom vào trận địa ta.

Được phi pháo chi viện dọn đường, địch tiếp tục tiến công đợt 2 lên Đêò Cả. Nhưng chúng lại bị sự ngăn chặn đánh trả quyết liệt của Tiểu đoàn 6 Trung đoàn 80 (do đồng chí An Duy Vĩ làm Tiểu đoàn trưởng chỉ huy) cùng lực lượng dân quân tự vệ Tuy Hòa đã chiến đấu ngoan cường đẩy lùi nhiều đợt tiến công của địch giữ vững trận địa. Trận chiến đấu diễn ra vô cùng ác liệt, giữa ta với địch giành giật từng mỏm đá, gốc cây, từng đoạn đường, từng công sự kéo dài suốt cả ngày. Nhiều tổ, tiểu đội đũng cảm đánh giáp lá cà, dùng báng súng lưỡi lê diệt từng tên địch. Bóng đêm ập xuống, tiếng súng thưa dần và im bặt. Bộ đội ta cùng lực lượng dân quân tự vệ tranh thủ sửa lại công sự, lập lại thế trận, bố trí lại lực lượng với tinh thần quyết tâm giữ vững mặt trận Đèo Cả. Trong đêm hàng trăm nam nữ thanh niên dân công hỏa tuyến, dân quân tự vệ đã lên tại mặt trận chuyển thương binh, liệt sĩ về phía sau, tiếp tế cơm nước, quà bánh trực tiếp động viên các lực lượng đang chiến đấu ở mặt trận.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Tư, 2011, 09:04:37 pm
Tiểu đoàn 6 Trung đoàn 80 cũng tranh thủ bổ sung vũ khí, đạn được, tổ chức bố trí và điều chỉnh lực lượng cho các khu vực phòng ngự then chốt sẵn sàng chiến đấu cho đến sáng ngày sau. Không khí ở mặt trận diễn ra nhộn nhịp, khẩn trương trong tâm trạng vừa đau thương vừa căm thù phẫn uất, nhưng tất cả đều cùng một ý chí và hành động chung sức chung lòng đánh giặc bảo vệ quê hương.

Rạng sáng ngày 14 tháng 1 năm 1947 những loạt pháo từ Đèo Cổ Mã, từ tàu ngoài biển bắn dồn dập trên tuyến đường Đèo Cả, dọc các đồi, sườn núi, tiếp đến nhiều tốp máy bay khu trục đến ném bom bắn phá, nhiều hầm hào công sự, trên các tuyến chiến đấu của bộ đội ta bị hư hỏng, lấp sập. Được sự chi viện đắc lực của pháo binh, không quân, bộ binh địch lại liên tục mở nhiều đợt tấn công vào trận địa ta. Do công sự bị phi pháo bắn phá, vũ khí đạn dược của bộ đội ta quá ít ỏi thiếu thốn, có tổ phải dùng đá, cây ném, đánh địch, do vậy phải lùi dần về phía sau. Địch chiếm được một số vị trí trên tuyến đường quốc lộ phía sau Đèo Cả. Mặc dù lực lượng ta trong điều kiện khó khăn về vũ khí và thực lực nhưng tinh thần và quyết tâm không hề thay đổi đã tận dụng được địa hình với lối đánh mưu trí sáng tạo, đến cuối ngày 14 tháng 1 ta còn chốt giữ được một số điểm cao quan trọng, then chốt có giá trị về chiến thuật, giữ được thế để tạo điều kiện phản kích quân địch.

Diễn biến tình hình trên mặt trận Đèo Cả qua 2 ngày chiến đấu đánh chặn quân địch tiến công diễn ra rất ác liệt. Tuy lực lượng ta vẫn còn chiếm giữ được tuyến phòng thủ, nhưng lại gặp nhiều khó khăn, số lượng thương vong khá nhiều, đạn dược lại cạn kiệt, khả năng chiến đấu tiếp để ngăn chặn và bẻ gẫy các cuộc tiến công của địch khó có thể thực hiện được. Bộ Chỉ huy khu 6 quyết định tăng cường cho mặt trận 2 đại đội, dưới sự chỉ huy trực tiếp của Trung đoàn 80 do đồng chí Nguyễn hải làm Trung đoàn trưởng.

Mờ sáng ngày 15 tháng 1 trung đoàn đã sử dụng một số lực lượng tổ chức phản kích đánh bật địch chiếm lại được một số vị trí ở phía nam Đèo Cả.

Qua 3 ngày chiến đấu trên mặt trận trong điều kiện không cân sức về lực lượng, vũ khí, dưới tầm chi viện tối đa của địch, cuộc chiến đấu trên mặt trận vô cùng ác liệt. song với tinh thần anh dũng ngoan cường, với sức mạnh đoàn kết của các lực lượng ta, bộ đội chủ lực, địa phương, dân quân tự vệ, dân công hỏa tuyến và đồng bào Tuy Hòa với nỗ lực và quyết tâm cao độ, đồng tâm hiệp lực tiêu diệt quân thủ bảo vệ quê hương, giặc Pháp phải nếm một đòn đau, hơn 420 tên chết là cái giá mà chúng phải trả trên mặt trận Đèo Cả, lũy thép ngoan cường của quân dân Tuy Hòa - Phú Yên, nó trang trọng ghi nhận chiến công oanh liệt trong trang sử hào hùng của mảnh đất anh hùng.

Với âm mưu đánh chiếm Tuy Hòa, Phú Yên làm bàn đạp chiếm các tỉnh đồng bằng Trung Trung Bộ nên trận tuyến Đèo Cả là mục tiêu hàng đầu mà mà chúng phải tiến công phá vỡ cho bằng được, dù có phải trả giá nào chúng cũng thực hiện.

Sáng ngày 16 tháng 1 chúng dùng tàu thủy đổ bộ 1 Trung đoàn trên 2 hướng Bãi Xép, Vũng Rô. Sau những đợt pháo và máy bay ném bom bắn phá trên các khu vực Cầu Lớn, Đá Chẻ, Hảo Sơn, dọc đường 1 từ Pa Tí đến Đồng Nẩy, núi Cầu, Sông Ván. Địch dốc toàn bộ lực lượng cả 3 trung đoàn tổ chức thành nhiều hướng tiến công. Chính diện từ Đại Lãnh, Vũng Rô đánh dọc theo đường 1, hướng đánh bên sườn theo trục đường Gia Long cũ, hướng vu hồi từ Bãi Xép tiến lên Phương Giang, Gò Chày, Đá Trắng, Mĩ Khê, Phú Kê, giáp đường quốc lộ 1.

Để bảo tồn lực lượng chiến đấu và kháng chiến lâu dài, trước sức tiến công mạnh của địch trên nhiều hướng, các lực lượng của ta vừa đánh nhỏ kìm chân địch vừa bảo vệ cho đơn vị rút về phía sau.

Chọc thủng được mặt trận Đèo Cả, giặc Pháp ồ ạt tiến quân theo quốc lộ 1 và ven quốc lộ. Trên đường tiến công chúng đã bị các lực lượng vũ trang chặn đánh ở Bàn Thạch, Bầu Ốc, Đông Mĩ. Ta diệt và làm bị thương gần 20 tên, đường lại bị phá hoại, đồng bào ở dọc quốc lộ tản cư thực hiện “Phá hoại để kháng chiến, tản cư cũng để kháng chiến”. Do vậy mà suốt 2 ngày địch chỉ tiến được 20km. Trưa ngày 18 tháng 1 địch mới đến nam cầu Đà Rằng nhưng ta đã phá sập cầu, chúng phải quay lại thị trấn Phú Lâm.

Thời cơ tiêu diệt địch đã đến, Bộ Tư lệnh khu 6 quyết định sử dụng 1 tiểu đoàn chủ lực của khu, Tiểu đoàn Ba Dương (Nam Bộ) cùng lực lượng của Trung đoàn 80 tổ chức vận động tập kích tiểu đoàn địch đang cụm lại ở thị trấn Phú Lâm. Với địa hình bộ đội ta đã quen thuộc nên tổ chức hiệp đồng chiến đấu được xác định nhanh chóng. Lợi dùng thời cơ và sự am hiểu tình hình chuẩn xác, lúc 14 giờ ngày 19 tháng 1 nhiều mũi trên 2 hướng tây và nam bất ngờ đồng loạt nổ súng tiến công luồn lách đánh chiếm từng khu nhà. Bọn địch hòa toàn lâm vào thế bị động đối phó nổ súng chống trả yếu ớt. Hơn 1 giờ chiến đấu, trước sức tiến công mãnh liệt áp đảo của bộ đội ta, địch đã tháo chạy bỏ lại hàng trăm xác chết, trong đó có tên quan tư đền tội. Thừa thắng lực lượng ta truy kích địch trên đoạn từ Phú Lâm đến Hòa Xuân. Đồng bào và lực lượng dân quân tự vệ các xã Hòa Thành, Hòa Vinh, Hòa Tân, Hòa Xuân, Hòa Hiệp v.v… đã dùng gậy gộc giáo mác truy đuổi, đánh địch, diệt hàng chục tên.

Hai đêm liền 22 và 23/1/1947 quân ta đánh công đồn Bàn Nham. Tuy có gây thiệt hại cho địch nhưng không vào được bên trong do ta chưa nắm được cách bố phòng của địch. Qua 2 đêm đánh nhau ta phát hiện được rõ sự bố trí hỏa lực bên trong của địch nên điều chỉnh lại kế hoạch.

Sau 3 ngày cho bộ đội nghỉ lấy lại sức và chuẩn bị thêm, đêm 26 rạng ngày 27/1/1947 quân ta lại tấn công đồn Bàn Nham một cách quyết liệt, đặc biệt súng cối 81 và 60 của ta đã phát huy được kết quả tốt. Tuy vậy quân ta vẫn không làm chủ được bên trong đồn nên gần sáng phải rút ra bao vây chung quanh. Địch bị thương vong nhiều, trong đó có tên quan tư bị tử vong.

Sáng sớm ngày 27/1/1947 giặc Pháp ở Nha Trang cho quân ra tiếp viện với nhiều xe cơ giới, thiết giáp. Chúng dùng hỏa lực mạnh đánh dạt quân ta ra xa chở xác chết bị thương về Nha Trang rồi vội vàng rút hết quân vào Phú Khê cách Bàn Nham hơn 5 km về phía nam gần chân Đèo Cả và đóng đồn tại Núi Hiềm.

Chung cuộc trận đánh Bàn Nham quân ta thắng lớn: chặn đứng được mũi tiến công của địch ra phía bắc nhằm chiếm thị xã Tuy Hòa, đẩy lùi được tiền đồn của địch vào gần chân Đèo Cả, giết và làm bị thương trên 100 tên địch, hầu hết là quân lê dương. Trong thời gian ngắn từ 19 tháng 1 đến 27 tháng 1 ta liên tiếp đánh địch 3 trận làm thiệt hại nặng 1 tiểu đoàn quân viễn chinh Pháp, giết và làm bị thương 400 tên.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 18 Tháng Tư, 2011, 03:49:18 pm
Chiến thắng Phú Lâm - Bàn Nham chẳng những tiêu hao sinh lực địch, còn có ý nghĩa đặc biệt là chặn đứng và đánh bại kế hoạch đánh chiếm vùng tự do Phú Yên tạo bàn đạp tiến công các tỉnh đồng bằng Khu 5. Chiến thắng còn đem lại những kinh nghiệm có giá trị vận dụng trong phương thức tác chiến, du kích vận động chiến, chứng minh sự đúng đắn của đường lối chiến tranh nhân dân bảo vệ vững chắc vùng nông thôn đồng bằng rộng lớn của Tuy Hòa, là hậu phương của chiến trường khu 6 lúc ấy giờ. Chiến thắng Phú Lâm - Bàn Nham làm cho nhân dân Phú Yên vô cùng phấn khởi, càng hăng hái tham gia phục vụ kháng chiến. Đặc biệt là đã thực sự cổ vũ mạnh mẽ cho quân và dân huyện tuy Hòa nhanh chóng phát triển về mọi mặt. Lực lượng vũ trang dân quân tự vệ lớn mạnh về tổ chức, trang bị, chất lượng tinh thần chiến đấu. Khắp huyện, khắp tỉnh dấy lên phong trào “Tòng quân cứu nước” chỉ trong vòng 1 tháng đã có hàng ngàn nam nữ thanh niên xung phong vào bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ”.

Âm mưu đánh chiếm vùng đồng bằng Tuy Hòa của địch đã bị quân dân ta đánh trả quyết liệt buộc buộc chúng phải co lại chốt giữ Núi Hiềm, Phú Khê, Bầu Lăng và dọc theo đường quốc lộ 1, Đèo Cả vào Khánh Hòa. Nhiệm vụ cấp bách của nhân dân Tuy Hòa lúc bấy giờ phải ra sức thực hiện những nhiệm vụ theo tinh thần chủ trương của tỉnh và mặt trận khu 6 là:

- Tản cư triệt để các vùng tiếp giáp với địch tạo thành tuyến trắng để cô lập chúng

- Ra sức phá hoại, chủ yếu là quốc lộ 1 đoạn từ bắc đồn Núi Hiềm đến Phú Lâm, đoạn Đèo Cả và đường sắt từ Hảo Sơn đến Đông Tác kết hợp bố phòng trọng điểm là các xã: Hòa Xuân, Hòa Vinh, Hòa Hiệp.

- Nhanh chóng phát triển và xây dựng lực lượng vũ trang địa phương, chủ yếu dân quân tự vệ thôn, xã tăng cường huấn luyện quân sự, trang bị - nhằm nâng dần khả năng chiến đấu.

- Tập trung lực lượng, vây ép quân địch, tích cực chủ động đánh địch diệt tề trừ gian nhằm ngăn chặn không cho chúng càn quét, lấn chiếm. Đặc biệt không cho chúng tổ chức các mâm tề khống chế, kẹp dân ở các thôn ấp gần đồn địch, bảo vệ tính mạng của nhân dân.

Để thực hiện những nhiệm vụ trên, các trung đội dân quân du kích các xã trong huyện luân phiên bám sát địch ở Núi Hiềm, Phú Khê theo dõi mọi hành động của địch. Phát hiện tề gian kịp thời tiêu diệt không cho chúng ngóc đầu dậy nhằm triệt phá thủ đoạn của địch tổ chức bộ máy ngụy quyền từng bước tiến tới thực hiện chiến lược chiến tranh “dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh” mà bọn thực dân Pháp đang ráo riết tiến hành ở chiến trường Đông Dương.

Sau khi bọn Pháp co cụm ở đồn Núi Hiềm, bót Phú Khê, Bầu Lăng và dọc tuyến đường Đèo Cả, chúng tăng cường xây dựng rào công sự để phòng thủ. Mặt khác dùng lực lượng liên tục lùng sục đánh phá vùng dân cư lân cận, cướp tài sản, phá hoa màu, dồn dân lập bộ máy tề ngụy làm tay sai cho chúng. Trước những diễn biến của tình hình đó, nhiệm vụ bao vây đánh địch, triệt phá tề ngụy, bảo vệ tài sản, hao màu, bảo vệ nhân dân, bảo vệ vùng tự do của lực lượng vũ trang và nhân dân huyện Tuy Hòa là nhiệm vụ hàng đầu. Những vấn đề đặt ra để đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ cấp bách đó là: Phát triển và xây dựng lực lượng vũ trang địa phương, khắc phục mọi khó khăn thiếu thốn tăng cường trang bị, nâng cao tinh thần và khả năng chiến đấu, phát huy thế mạnh của phong trào nhân dân du kích chiến tranh.

Chấp hành chỉ thị của Tỉnh ủy Phú Yên về việc xây dựng lực lượng vũ trang địa phương - Tỉnh đội quyết định: gấp rút thành lập đơn vị vũ trang địa phương trực tiếp chiến đấu trên địa bàn huyện Tuy Hòa, giao cho huyện đội triển khai và tổ chức thực hiện. Xây dựng một đơn vị vũ trang đối với huyện lúc này gặp nhiều khó khăn trở ngại, trước hết là quân số, lương thực và trang bị vũ khí. Song nhờ sự lãnh đạo trực tiếp của chiến khu ủy, những nỗ lực lớn của huyện đội và nhân dân trong huyện đã có biện pháp tích cực khắc phục và thực hiện. Tháng 4 năm 1947 đơn vị bộ đội địa phương huyện Tuy Hòa được thành lập quân số hơn 30 đồng chí gồm những đội viên dân quân du kích và thanh niên các xã Hòa Xuân, Hòa Hiệp, Hòa Vinh, Hòa Tân. Trang bị 10 khẩu súng còn lại là dao kiếm, lựu đạn, việc ăn mặc do nhân dân lo liệu. Phương thức tác chiến của đơn vị lúc bấy giờ là đánh nhỏ lẻ nhằm vào các toán địch lùng sục, tuần tiễn, tiếp tế, có lúc dùng lực lượng du kích Hòa Xuân luồn vào phía Nam Đèo Cả để đánh địch, thực hiện cho được yêu cầu là: tiêu hao địch, phát triển lực lượng ta. Do có chủ trương đúng đắn, đáp ứng lòng mong mỏi của nhân dân và quyết tâm của lãnh đạo, nên mặc dù trong hoàn cảnh nhiều khó khăn đơn vị bộ đội tập trung huyện đã ra đời và từng bước trưởng thành làm nòng chốt cho phong trào du kích chiến tranh.

Cùng thời gian này đội công an biệt động cũng được thành lập, có khoảng 30 đồng chí do đồng chí Đỗ Như Dạy phụ trách (sau đổi tên là công an xung phong) chủ yếu là hoạt động trên địa bàn trọng yếu Hòa Xuân, Hòa Vinh. Vừa mới ra đời đội đã luôn bám sát địch, diệt được một số tên tề gian có nợ máu với nhân dân, như tên xã Thượng, chánh tổng Đạt vào đầu năm 1948. Đội đã mưu kế dũng cảm đánh địch giữa ban ngày tại Phú Khê trong khi bọn tề đang hội họp, giết chết tên phó tổng và nhiều tên khác bị thương, làm cho địch khiếp sợ hoang mang, có tên đã ra đầu thú xin tha tội chết và hứa không làm việc cho giặc nữa.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 18 Tháng Tư, 2011, 03:50:11 pm
Để phát triển phong trào du kích chiến tranh, chiến khu ủy chiến khu 1 chủ trương:

- Tích cực xây dựng làng chiến đấu, giết chó và triệt để phá hoại.

- Tập trung sức đánh địch, dồn ép và cô lập chúng không cho chúng lùng sục mở rộng vùng kiểm soát, lập các mâm tề. Ta tổ chức đưa cán bộ về lại địa bàn cùng lực lượng dân quân du kích hoạt động quấy rối, phục kích đánh nhỏ lẻ, diệt tề trừ gian, tạo thế chủ động biến hậu phương của địch thành trận tuyến của ta. Nhờ vận dụng tốt các thủ đoạn hoạt động thích họp, phong trào du kích chiến tranh được phát triển khá nhanh cả về số lượng, chất lượng và thủ đoạn tác chiến.

Tháng 5 năm 1947, lực lượng du kích Hòa Xuân, Hòa Hiệp phối hợp và dẫn đường cho đại đội cảm tử của Trung đoàn 80 tấn công đồn Bầu Lăng (nam thôn Phú Khê). Trận đánh kéo dài vì một cánh quân của đại đội gặp ruộng sình lầy vào chậm, bị hỏa lực súng máy địch trong lô cốt bắn chặn. Trước tình huống khó khăn đó, chính trị viên Nguyễn Ngọc Thọ đã nhanh chóng tiến sát vào lô cốt địch dùng lựu đạn ném vào ụ súng máy dập tắt hỏa điểm, tạo điều kiện cho đơn vị tiến lên đánh địch. Đồng chí Thọ đã anh dũng hi sinh. Tuy trận chiến đấu này ta không làm chủ được trận địa nhưng đã gây cho địch nhiều thiệt hại, sua đó địch bỏ đồn Bầu Lăng rút về đồn Núi Hiềm.

Liệt sĩ Nguyễn Ngọc Thọ đã được tuyên dương công trạng và đội cảm tử của Trung đoàn 80 được mang tên đại đội Nguyễn Ngọc Thọ. Sau trận đánh Bầu Lăng tháng 5 năm 1947, 1 đại đội địch càn xuống Phước Giang (Hòa Xuân) cướp hàng chục tấn lúa, cướp cả ghe hở lúa lên cầu Bần Thạch và lúa của dân, hơn 100 trâu bò. Một bộ phận lực lượng của Trung đoàn 83 cùng với du kích Hòa Xuân chặn đánh địch tại Thạch Tuân, diệt gần 1 trung đội, lấy lại lúa và trâu bò cho dân. Cũng trong tháng 5 năm 1946, trước sự hoạt động của lực lượng vũ trang ta liên tục quấn rối, bao vây buộc địch phải bỏ tiền đồn Phú Khê.

Tình thế cách mạng ngày càng phát triển, lực lượng vũ trang ngày càng lớn mạnh, đòi hỏi sự chỉ đạo trực tiếp, kịp thời về nhiệm vụ tác chiến cũng như xây dựng lực lượng. Tháng 6 năm 1947 Ban chỉ huy Tỉnh đội Phú Yên được thành lập. Đây là một chủ trương hết sức đúng đắn, nó tạo ra những điều kiện thuận lợi thúc dẩy sự phát triển của lực lượng vũ trang tỉnh nhà lên một bước cao hơn.

Ngày 15 tháng 6 năm 1947 địch tập trung một tiểu đoàn càn quét các xã Hòa Hiệp, Hòa Thành, Hòa Vinh, Hòa Tân, Hòa Đồng, Hòa Mĩ. Càn đến đâu giặc Pháp cướp của, đốt nhà, hãm hiếp phụ nữ đến đó. Hành động dã man, tàn bào của giặc càng làm cho nhân dân phẫn uất, sôi sục căm thù. Lực lượng dân quân du kích ở các xã cùng bộ đội đã chặn đánh địch liên tục ở Phú Hiệp (Hòa Hiệp) diệt hàg chục tên. Sáng ngày 19 tháng 6 tại Gò Mầm (xã Hòa Bình) quân ta đã chặn đánh thiệt hại nặng 1 đại đội địch, bẻ gãy một cánh quân càn quét của chúng. Lực lượng dân quân du kích và đồng bào các xã Hòa Mĩ, Hòa Đồng, Hòa Tân đã kịp nắm lấy thơi cơ nổi trống mõ uy hiếp áp đảo tinh thần địch, tạo điều kiện cho bộ đội truy kích diệt thêm một số tên. Cuộc càn quét của địch bị thất bại hoàn toàn, chúng phải rút về đồn mang theo nhiều xác chết và những tên lính bị thương. Sau cuộc càn này địch đã co lại ở các bót, đồn, thỉnh thoảng mới tổ chức một lực lượng nhỏ lùng sục các thôn xã lân cận.

Để quản lí, kìm kẹp nhân dân chặt chẽ hơn, tháng 6 năm 1947 bọn Pháp ở đồn Núi Hiềm chủ trương phát cạc cho dân (một loại thẻ ghi tên, tuổi, nơi ở của từng người) để dễ bề kiểm soát và phát hiện kịp thời lực lượng ta đang hoạt động ở trong dân. Đồng chí Lê Tấn du kích xã Hòa Xuân đã cải trang thành dân lao động, nhập vào đoàn người đi nhận cạc bất ngờ đánh lựu đạn vào nơi phát cạc diệt tên thông ngôn, ngăn chặn được âm mưu của địch.

Kể từ khi Pháp chiếm đóng núi Hiềm (Hòa Xuân), chúng đã tung quân ra đánh phá các xã Nam Tuy Hòa gây cho ta không ít khó khăn, nhất là về sản xuất. Lực lượng du kích xã Hòa Xuân liên tục quấy rối, bắn tỉa, tiêu diệt tiêu hao nhiều sinhh lực địch.

Tháng 8 năm 1947 lực lượng du kích Hòa Xuân được thành công lại chặt chẽ hơn: thành lập ban chỉ huy xã đội do đồng chí Phan Tiên Nam làm xã đội trưởng, đồng chí Võ Tấn Long làm xã đội phó.

Thực hiện nhiệm vụ trọng yếu của huyện Tuy Hòa là: “ngăn chặn bao vây cô lập địch, giữ vững vùng tự do”. Lực lượng dân quân du kích cùng nhân dân các xã Hòa Xuân, Hòa Vinh, Hòa Tân, Hòa Hiệp tiến hành đợt bố phòng, cám hàng vạn cây chông dọc bờ bắc sông Bàn Thạch và đóng hàng ngàn cây cọc trên các gò hoang bãi trống chống quân nhảy dù. Huy động hàng ngàn người luồn lách sau lưng địch phá hoại quốc lộ I và đường sắt phái nam Đèo Cả.

Để đẩy mạnh phong trào du kích chiến tranh, cổ vũ và thúc đẩy thanh niên hăng hái tòng quân giết giặc cứu nước, thực hiện cuộc kháng chiến “toàn ân toàn diện” với khẩu hiệu “giặc đến nhà, trẻ già cũng đánh”. Huyện ủy chủ trương tổ chức lực lượng “Bạch đầu quân” được các giới hoan nghênh và đồng tình ủng hộ. Các cụ già tuy tuổi đã cao nhưng cũng hăng hái xung phong nhập vào tổ chức và sẵn sàng cùng với con cháu chiến đấu bảo vệ quê hương. Sự ra đời của nó đã tạo nên động lực mạnh mẽ thúc đẩy mọi lực lượng, mọi tầng lớp tham gia kháng chiến. Tổ chức Bạch đầu quân phát triển nhanh, chỉ trong thời gian ngắn mỗi xã có từ 1 đến 2 đại đội, được tự túc trang bị vũ trang bằng dao kiếm, rựa quéo, mác phản, đã tổ chức tuần hành biểu dương lực lượng cổ vũ phong trào “toàn dân đánh giặc”.

Cuối năm 1947, sua khi ủy ban kháng chiến hành chánh huyện được thành lập và chủ trương phát triển xây dựng một số đơn vị vũ trang, bộ đội địa phương, tiếp tục kêu gọi thanh niên nhập ngũ bổ sung quân cho các trung đoàn chủ lực 80-83.

Tháng 12 năm 1947 hội mẹ binh sĩ được thành lập ở huyện và các xã, đó là một tổ chức làm chỗ dựa cho các chiến sĩ, là nguồn cổ vũ động viên lớn cho lực lượng vũ trang. Sự nuôi dưỡng chăm sóc ân cần của các chị, các mẹ càng minh chứng sức mạnh của đường lối chiến tranh nhân dân, gắn bó giữa tiền tuyến với hậu phương, già trẻ gái trai chung sức chung lòng giết giặc giữ làng giữ nước.

Sau một năm từ 19 tháng 12 năm 1946 đến 19 tháng 12 năm 1947 hưởng ứng lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Bác Hồ, quân dân Tuy Hòa và Phú Yên cùng cả nước đã anh dũng đứng lên giành được những thắng lợi rất quan trọng. Trên chiến trường Tuy Hòa nhân dân và bộ đội chủ lực đã ngoan cường chiến đấu đập tan cuộc tiến công với quy mô lớn của giặc Pháp, giữ vững được vùng tự do. Qua một năm chiến đấu gay go quyết liệt, quân dân huyện nhà đã lập nên những chiến công oanh liệt giành thắng lợi vẻ vang. Điều đặc biệt quan trọng là: phát huy được sức mạnh đoàn kết, toàn dân toàn diện, thực hiện đúng phương châm phương thức tác chiến, lấy nhỏ đánh lớn, lấy yếu đánh mạnh, vừa tác chiến vừa xây dựng, luôn nắm vững đường lối chiến tranh nhân dân. Quân dân Tuy Hòa đã rút ra những kinh nghiệm, nhiều bài học quý giá có thêm bề dày chiều sâu làm tiền đề cho nhiệm vụ xây dựng tác chiến trong cuộc kháng chiến đánh thực dân Pháp bảo vệ quê hương giành độc lập cho dân tộc.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 18 Tháng Tư, 2011, 03:50:38 pm
(http://img809.imageshack.us/img809/2108/16292234.jpg)


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 18 Tháng Tư, 2011, 03:52:34 pm
III - CHIẾN ĐẤU NGĂN CHẶN VÀ TIÊU HAO QUÂN ĐỊCH, BẢO VỆ VÙNG TỰ DO, TỔ CHỨC XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG CHUẨN BỊ CHO NHIỆM VỤ PHẢN CÔNG (1948-1950)

Tháng 1 năm 1948 hội nghị quân dân chính đảng và hội nghị quân sự miền Nam Trung Bộ được tổ chức, dưới sự chủ trì của đồng chí Phạm Văn Đồng. Hội nghị đã xác định ba nhiệm vụ lớn cần phải tập trung thực hiện:

- Đẩy mạnh chiến tranh du kích trong vòng địch đánh bại kế hoạch “Chiêu an bình định” của địch, biến hậu phương địch thành tiền phương của ta.

- Xây dựng và bảo vệ vùng tự do Nam, Ngãi, Bình, Phú thành căn cứ địa vững chắc, thành hậu phương trực tiếp không chỉ cho Nam Trung Bộ mà cho cả chiến trường Hạ Lào và đông bắc Campuchia.

- Phối hợp với cách mạng Lào - Campuchia xây dựng thế trận đánh địch ở ngã ba Đông Dương.[86]

Hội nghị còn quyết định một số chủ trương, biện pháp lớn và quan trọng trong thời gian tiếp theo của công cuộc kháng chiến ở chiến trường Nam Trung Bộ.

Ngày 25 tháng 01 năm 1948 đại hội đại biểu lần 2 Đảng bộ Phú Yên đã họp. Đại hội soát xét đánh giá tình hình và đề ra những nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong những năm tới và bầu ra Ban chấp hành mới.

Căn cứ vài tình hình nhiệm vụ của hội nghị quân sự miền Nam Trung Bộ đề ra và nghị quyết của đại hội Đảng bộ Phú Yên, Tỉnh ủy và Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh chủ trương mở cuộc vận động đẩy mạnh phong trào toàn dân đánh giặc, đẩy mạnh sản xuất.

Trải qua rèn luyện va thử thách trong thực tế chiến đấu được sự lãnh đạo của Huyện ủy, sự che chở đùm bọc nuôi dưỡng của nhân dân, cùng với sự giúp đỡ của các đơn vị bạn, bộ đội địa phương huyện nhanh chóng trưởng thành. Để đáp ứng với nhiệm vụ tác chiến và cục diện phát triển của chiến tranh, mà hội nghị quân sự toàn quốc đầu năm 1948 đã vạch ra. Tỉnh đội quyết định phát triển bộ đội địa phương huyện Tuy Hòa thành đại đội, nhằm đáp ứng yêu cầu chiến đấu trước mắt, làm nền tảng cho nhiệm[87] vụ tác chiến và phát triển của những năm tiếp theo. Ngày 07 tháng 4 năm 1948 tại bãi cỏ sở điện tín Phú Lâm, đại đội địa phương của huyện Tuy Hòa được thành lập mang phiên hiệu 377, do đồng chí Nguyễn Thái Vĩnh làm Đại đội trưởng, đồng chí Huỳnh Húc làm Chính trị viên. Đây là đại đội bộ đội địa phương đầu tiên trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp.

(http://img806.imageshack.us/img806/9675/a03b.jpg)

Cùng với sự ra đời của Đại đội 377, lực lượng công an tỉnh cũng phát triển khá nhanh, được tổ chức huấn luyện cấp tốc, sử dụng một số vũ khí cần thiết, lực lượng công an đã tăng cường cho huyện Tuy Hòa một số tổ, đội hoạt động trên địa bàn chủ yếu Hòa Xuân (lấy Hòa Vinh, Hòa Hiệp làm bàn đạp). Thực hiện nhiệm vụ trọng tâm của lực lượng vũ trang trên địa bàn huyện: tổ chức bám giữ địa bàn để sẵn sàng đánh địch đổ bộ ven biển, càn quét lấn chiếm của bọn địch ở đồn Núi Hiềm. Các đơn vị bộ đội chủ lực Trung đoàn 80-83 làm công tác tổ chức thế trận, giúp đỡ công tác huấn luyện, san sẻ vũ khí cho dân quân du kích và bộ đội huyện. Phương châm tác chiến trong giai đoạn này là; “du kích chiến làm chính - vận động chiến làm phụ”.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 18 Tháng Tư, 2011, 03:53:31 pm
Bên cạnh đó ta tiếp tục đẩy mạnh phong trào vũ trang toàn dân, giáo dục và nâng cao tinh thần sẵn sàng chiến đấu, kịp thời vây bắt bọn gián điệp biệt kích. Tổ chức và phát triển rộng rãi mạng lưới phòng giam giữ bí mật trong nhân dân. Nhờ việc xúc tiến toàn diện và tinh thần tự giác hưởng ứng của đồng bào các tầng lớp nhân dân nên đã phát hiện kịp thời vây bắt nhiều ổ gián điệp, nhiều tên Việt gian chỉ điểm nguy hiểm, chặt được tay chân của giặc, ngăn chặn những hành động phá hoại của chúng. Tình hình an ninh chính trị và vùng tự do được giữ vững.

- Ngày 03 tháng 1 năm 1948 du kích Hòa Xuân cùng Đại đội 224 của Liên khu 5 phục đánh địch tại chợ Xéo (Bàn Thạch) làm một số tên địch chết và bị thương.

- Tháng 3 năm 1948 du kích Hòa xuân đánh địch ở gò mả Vôi, làm chết 1 tên, bị thương 2 tên khác. Sau trận đánh này trung đội du kích thoát li xã Hòa Xuân được thành lập được tỉnh trang bị vũ khí lựu đạn thường xuyên. Từ đó các xã Hòa Bình, Hòa Hiệp cũng tổ chức thành lập các trung đội du kích thoát li.

Tháng 4 năm 1948 một đại đội địch từ Núi Hiềm càn xuống Phú Lạc bị lực lượng du kích Hòa Hiệp, Hòa Xuân chặn đánh địch tháo chạy mang theo 5 tên chết và bị thương.

- Vào cuối tháng 4 năm 1948 một đại đội địch vượt cầu Lưới Gõ càn vào xóm Gò (Phú Hòa) cướp lúa và trâu bò. Một tiểu đoàn của Trung đoàn 80-83 do đồng chí Lư Giang chỉ huy cùng du kích 3 xã Hòa Xuân, Hòa Hiệp, Hòa Vinh sử dụng chiến thuật vận động tấn công ào đội hình của địch lúc chúng đang tập trung mang vác tài sản cướp được như chiếu cói và lùa bò. Bị tiến công bất ngờ trên nhiều hướng, địch tháo chạy thục mang, có tên rơi xuống sông chết chìm. Trận này ta đã diệt 30 tên địch, bị thương một số tên khác, thu 3 súng, một số đạn và lựu đạn, lấy lại được của cải và bò cho dân. Trận đánh cầu Lưới Gõ làm cho nhân dân rất phấn khởi, giặc vô cùng khiếp sợ, Bàn Thạch con sông quê hương lại thêm một lần nhận chìm xác quân thù.

- Tháng 6 năm 1948 giặc Pháp càn xuống vùng Lạc Long, Phước Giang cướp lúa gạo, tài sản của dân, cướp xuồng sỏng về đồn, bị dân quân ta chặn đánh chúng bỏ xuồng sỏng tháo chạy.

- Tháng 7 năm 1948 một tiểu đoàn địch từ Khánh Hòa ra cùng lực lượng ở đồn Núi Hiềm mở một cuộc càn xuống các khu vực Phước Giang, Bãi Xép, Hóc Chỗ, Gò Chày. Lực lượng ta tổ chức phục kích các điểm Lỗ Đó, Gò Đình, Gò Kè, Gò Chày, Trại Hội, bất ngờ nổ súng vào đội hình địch, chúng tháo chạy tán loạn, bỏ lại toàn bộ trâu bò, lúa gạo, của cải vừa cướp được, chỉ kịp mang theo mấy xác đồng bọn bị chết và bị thương. Chiến thắng này không lớn nhưng có một ý nghĩa hết sức quan trọng là: đánh bại được âm mưu càn quét của địch, bảo vệ tài sản của nhân dân. Phát huy được khả năng chiến đấu của lực lượng vũ trang địa phương càng đánh càng trưởng thành.

Hơn 18 tháng sau khi quân Pháp chiếm đóng trên đất Hòa Xuân, chúng đã liên tục mở nhiều cuộc càn quét để mở rộng vùng kiểm soát, đánh phá vùng tự do, dựng tề lập ấp, nhằm mưu đồ xây dựng bàn đạp, lợi dụng thời cơ đánh chiếm vùng đồng bằng phía nam sông Đà Rằng. Với tinh thần yêu nước nồng nàn quật cường, bất khuất, quân và dân Tuy Hòa dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng đã đoàn kết nhất trí, phát huy được sức mạnh tổng hợp của đường lối chiến tranh nhân dân: toàn dân, toàn diện, trường kì kháng chiến dựa vào sức mình là chính. Trước sự chống trả kiên cường của quân và dân Tuy Hòa địch bị bế tắc, lúng túng. Từ tình hình thực tế của chiến trường chúng đã điều chỉnh, thay đổi phương thức và thủ đoạn để đánh phá ta. Dùng lực lượng hải quân đổ bộ đánh phá các vùng ben biển, dùng đại bác ở tàu thủy bắn vào các vùng căn cứ hậu phương của ta, tăng cường hoạt động không quân bắn vào ngư dân và thuyền bè trên biển, bắn giết trâu bò, phá mương đập, rải chất độc, thả sâu bọ, nhằm phá ta về nhiều mặt, chủ yếu là triệt phá kinh tế. Cuộc kháng chiến diễn ra ngày càng ác liệt, mức độ càn quét đánh phá của địch ngày một gia tăng, gây cho ta nhiều khó khăn trong sản xuất và đời sống của nhân dân.

Để khắc phục và kịp thời giải quyết những khó khăn của nhân dân, Huyện ủy - Ủy ban kháng chiến hành chính huyện đã kịp thời đề ra 2 nhiệm vụ trung tâm và cấp bách cho quân dân trong huyện là:

1 - Tăng cường cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, đánh địch càn quét, đổ bộ ven biển, phá hoại, bố phòng, vây ém địch diệt tề, trừ gian, triệt phá và truy bắt các ổ gián điệp, tiếp tục củng cố và phát triển lực lượng vũ trang, dân quân du kích.

2 - Tích cực và hăng hái thi đua tăng gia sản xuất, tự túc và tiết kiệm với tinh thần “Địch bắn phá ban ngày, ta cuốc cày ban đêm”.

Để thực hiện nhiệm vụ của huyện, quân dân Tuy Hòa đã tích cực hưởng ứng bằng nhiều biện pháp và hành động cụ thể: tăng gia sản xuất, tự túc va tiết kiệm. Với khẩu hiện hành động “toàn dân là chiến sĩ, toàn quân là nông dân”, người người hăng hái tiến quân vào 2 mặt trận chiến đấu và sản xuất. Ngọn cờ tiêu biểu trong phong trào là xã Hòa Hiệp, đã có nhiều thành tích trong bố phòng chống địch và bảo đảm tăng gia sản xuất tốt, được Liên khu 5 thưởng cờ luân lưu “bám địch giữ làng, sản xuất tự túc giỏi”.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 18 Tháng Tư, 2011, 03:59:44 pm
Đầu tháng 8 năm 1948 trung đội du kích tập trung Hòa Xuân phối hợp với Tiểu đoàn 365 do đồng chí Hà Vi Tùng chỉ huy, tập kích tiền đồn nhà dù (Phú Khê) hơn 15 phút nổ súng chiến đấu, ta đã diệt 1 trung đội lính Pháp và một số tên ngụy tề gian ác thu một số vũ khí và đồ dùng quân sự.

Tháng 11 năm 1948 - đại đội 337 cùng một bộ phận lực lượng chủ lực và du kích Hòa Xuân phục kích đánh một đại đội địch tại cầu Lớn (Đèo Cả), hơn 30 phút nổ súng chiến đấu ta diệt 19 tên làm bị thương một số tên khác, thu 21 súng và một số đạn dược và đồ dùng quân sự. Đây là trận chiến đấu có hiệu suất cao, tiêu hao địch, bồi dưỡng ta, đã được cấp trên biểu dương khen thưởng.

Trong năm 1948 ta vẫn giữ vững được thế chiến trường tuy địch ra sức càn quét đánh phá bằng nhiều thủ đoạn quỷ quyệt cục diện chiến tranh, ác liệt hơn. Lực lượng ta càng đánh càng trưởng thành, các đại đội dân quân du kích, trung đội tập trung ở các xã đều được tổ chức, được huấn luyện, phần lớn được trải qua thử thách trong chiến đấu.

Cùng với sự lớn mạnh của lực lượng vũ trang, các đoàn thể giới hội, thanh niên, phụ nữ, nông dân, phụ lão, bà mẹ bính sĩ… được phát triển rộng khắp và tham gia hoạt động tích cực có hiệu quả đã góp phần đưa phong trào cách mạng của huyện nhà tiến lên mạnh mẽ. Đặc biệt các tổ chức cơ sở Đảng ở hầu khắp các xã đều có cấp ủy chi bộ. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện thuận lợi cho quân và dân của huyện thực hiện tốt chủ trương đường lối của Đảng tiến tới giành nhiều thắng lợi lớn hơn.

- Tháng 1 năm 1949, Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị lần thứ 6. Hội nghị đánh giá và nhận định tình hình: sau 3 năm kháng chiến, ta càng đánh càng mạnh, bọn giặc Pháp càng đánh càng bị suy nhược và lâm vào tình cảnh lúng túng, tương quan lực lượng giữa ta và địch đã thay đổi có lợi cho ta. Trên cơ sở đánh giá phân tích đúng đắn tình hình, hội nghị đã chủ trương; động viên mọi lực lượng tinh thần và vật chất của toàn dân cho công uộc kháng chiến kiến quốc, giành cho được độc lập dân chủ, với khẩu hiệu “Tất cả để chiến thắng”. Hội nghị vạch rõ về nhiệm vụ quân sự “Du kích chiến là căn bản, vận động chiến là phụ trợ. Nhưng cần mạnh bạo đẩy vận động chiến lên địa vị quan trọng”(1). Hội nghị nhấn mạnh: cần đặc biệt chú trọng việc xây dựng lực lượng nhất là bộ đội chủ lực, thực hiện vận động chiến để tiêu diệt quân cơ động, đánh bại các cuộc hành quân càn quét lấn chiếm của địch, hỗ trợ phong trào chiến tranh du kích địa phương.

- Cuối tháng 2 năm 1949, đại hội đại biểu tỉnh Đảng bộ lần thứ 3 được tiến hành. Đại hội nhận định đánh giá tình hình, rút ra những kinh nghiệm, những bài học thắng lợi trong thời gian qua và đề ra chủ trương biện pháp tổ chức thực hiện cho năm 1949. Về công tác quân sự tỉnh ủy chỉ rõ: “Tích cực xây dựng và phát triển lực lượng, đặc biệt là các đơn vị dân quân du kích tập trung ở xã, bộ đội địa phương huyện, tranh thủ thời gian huấn luyện quân sự, nâng cao trình đội kĩ chiến thuật và khả năng chiến đấu. Tăng cường cảnh giác, kịp thời chặn đánh địch dùng tàu đổ bộ đánh phá ta ven biển. Tăng cường lực lượng ngăn chặn, quấy rối lấn ép và bao vây địch ở đồn Núi Hiềm, tích cực phá hoại Đèo Cả, triệt phá đường vận chuyển tiếp tế của địch từ Khánh Hòa ra, bố trí lực lượng dân quân du kích bảo vệ cầu Đồng Bò, đập Đồng Cam, sẵn sàng đánh địch từ phía tây xuống giữ vững vùng tự do”.

Với tinh thần quyết tâm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quân sự của lực lượng vũ trang huyên Tuy Hòa trong năm 1940 mà nghị quyết của Tỉnh ủy đã chỉ rõ. Tháng 1 năm 1949, Tiểu đoàn 195 do đồng chí Ngô Văn Chang làm tiểu đoàn trưởng cùng lực lượng du kích Hòa Xuân vận dụng chiến thuật cường tập nổ súng tấn công, sau 20 phút chiến đấu ta đã tiêu diệt đồn Phú Khê (Hòa Xuân) giết và bắt sống 30 tên địch, thu 27 súng các loại, diệt một số tên nội tề gian ác có nhiều nợ máu với nhân dân trong mâm hội tề của xã Hòa Xuân (42 tên), số còn lại sợ hãi chạy ra đầu thú với chính quyền cách mạng, còn 2 tên chạy tốn vào đồn Núi Hiềm. Ban hội tề Hòa Xuân đã bị tan rã, nhân dân Hòa Xuân vô cùng phấn khởi đẩy mạnh các phong trào tham gia kháng chiến như: bố phòng, phá hoại, tăng gia sản xuất, quyên góp, nuôi quân, động viên con em tòng quân nhập ngũ. Lực lượng dân quân du kích Hòa Xuân phối hợp với 1 đại đội chủ lực chặn đánh địch càn quét cướp phá thôn Phước Giang, giết chết 7 tên (có 1 tên quan hai đền tội, số còn lại rút chạy về đồn Núi Hiềm.

Tháng 4 năm 1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra sắc lệnh thành lập bộ đội địa phương. Tháng 8 năm 1949 Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị: Xây dựng bộ đội địa phương và phát triển dân quân”., Chỉ thị nêu rõ: Bộ đội địa phương và dân quân du kích trong quá trình tiến triển của chiến tranh là lực lượng hậu bị trực tiếp của quân chủ lực. Nhờ sự phát triển của lực lượng ấy tài sản nhân dân, chính quyền nhân dân, các đoàn thể nhân dân và cơ sở Đảng được bảo vệ, chính quyền bù nhìn của giặc, kinh tế của chúng, ngụy binh và âm mưu chiếm đóng của quân địch bị phá hoại”(2).

Chỉ thị còn nêu bật tầm quan trọng của việc xây dựng bộ đội địa phương và phát triển dân quân “là một công tác then chốt để đẩy mạnh chiến tranh tiến tới”(3) phải “động viên nhân dân nuôi dưỡng bộ đội địa phương, gia nhập bộ đội ấy”, “Đưa cán bộ có năng lực vào phụ trách bộ đội địa phương”(4).


(1) Nghị quyết hội nghị Trung ương lần thứ 6 - tháng 1.1949.
(2) Nghị quyết của Đảng 1945-1950 Nhà xuất bản QĐND Hà Nội năm 1976.
(3), (4) NQ hội nghị quân sự 45-50 Nhà xuất bản QĐND, Hà Nội 1976.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 18 Tháng Tư, 2011, 04:00:46 pm
Thực hiện sắc lệnh của Bác Hồ, nghị quyết và chỉ thị của Đảng, Huyện ủy Tuy Hòa đã đặc biệt quan tâm về việc xây dựng, nuôi dưỡng lực lượng vũ trang địa phương. Nhờ vậy mà phong trào dân quân du kích thoát li tăng nhanh về số lượng, các xã Hòa Xuân, Hòa Hiệp, Hòa Tân, Hòa Vinh tổ chức đại đội dân quân du kích, các xã còn lại trong huyện đều có 1 đến 2 trung đội tập trung. Huyện cũng đề ra những biện pháp giải quyết khó khăn. Về lương thực ngoài việc ủng hộ nuôi dưỡng các đồng bào, huyện đã giao ruộng đất cho dân quân du kích sản xuất tự túc một phần lương thực, hoa màu. Về vũ khí, động viên các lò rèn, rèn dao kiếm, liên hệ xưởng Cao Thắng xin mìn, lựu đạn, liên hệ các đơn vị chủ lực xin giúp đỡ san sẻ vũ khí, mặt khác tích cực đánh địch thu vũ khí của chúng để trang bị. Tổ chức luân phiên ra tuyến trước để tham gia trực tiếp chiến đấu nhằm thử thách rèn luyện trong thực tế, tăng khả năng và trình độ chiến đấu lên một bước. Ngoài ra việc xây dựng phát triển các đơn vị ở cơ sở xã, thôn, lực lượng tập trung huyện được quan tâm kĩ hơn. Huyện đã tiến hành chỉ đạo thành lập các Ban chỉ huy và xã đội có từ 2 đến 5 đồng chí. Kiện toàn cơ quan quân sự huyện, lập hệ thống lãnh đạo chỉ huy quân sự, thông suốt, thống nhất và chặt chẽ nhằm đáp ứng yêu cầu và hoàn thành nhiệm vụ của lực lượng vũ trang: ngăn chặn và tiến công địch, bảo vệ chính quyền, bảo vệ Đảng và bảo vệ nhân dân, giữ vững vùng tự do.

Ngày 25 tháng 8 năm 1949, giặc Pháp sử dụng một lực lượng hơn 500 quân do tên quan năm chỉ huy, mở cuộc càn quét lớn xuống vùng sông Ba Trường Lạc, âm mưu của chúng là phá đập nước Đồng Cam, một đập nước lớn tưới cho cả đồng lúa Tuy Hòa có diện tích gần 40.000 héc ta, hòng triệt phá nguồn lương thực chủ yếu của Liên khu 5. Lực lượng tham gia trận đánh này gồm có: Tiểu đoàn 365 do đồng chí Nam Hồ là tiểu đoàn trưởng, tiểu đoàn Hoàng Hoa Thám của Trung đoàn 84 do đồng chí Nguyễn Lập trung đoàn phó trực tiếp chỉ huy, Đại đội địa phương 377 của huyện Tuy Hòa cùng 3 trung đội dân quân du kích các xã thuộc huyện Tuy Hòa phối hợp tác chiến - đồng chí Lư Giang liên trung đoàn trưởng trực tiếp chỉ huy các đơn vị đã vận động từ những điểm khá xa có nơi gần 40 cây số, đã đến kịp trận địa trước giờ quy định.

Đúng 9 giờ 10 phút sáng 26 tháng 8 năm 1949 bọn địch đến Trường Lạc, ta chủ động nổ súng tiến công địch. Để bao vây quân địch, các đơn vị của quân ta vừa nổ súng tiến công vừa vận động đánh dồn ép địch ra bờ Sông Ba. Cuộc chiến đấu diễn ra rất ác liệt, kéo dài gần hai giờ. Trước sức tấn công áp đảo của ta địch bị lâm vào thế bao vây nên chúng phải tìm đường tháo chạy, bỏ lại hơn 6 thùng thuốc nổ TNT và kíp nổ (của bọn lính công binh mang theo để phá đập Đồng Cam), giải thoát hơn 100 đồng bào bị giặc bắt và hơn 500 con bò, ngựa bị giặc cướp.

Tiểu đoàn Hoàng Hòa Thám đã liên tục truy kích đán bọn tàn quân trên đường tháo chạy về buôn Hai Đức trong suốt cả 3 ngày liền, diệt gần 100 tên nữa, thu thêm gần chục súng.

Sông Ba - Trường Lạc là trận vận động tiến công đầu tiên giành thắng lợi lớn trên chiến trường Phú Yên. Những yếu tố dẫn đến thắng lợi của trận đánh là tinh thần cảnh giác cao độ của quân dân ta kịp thời phát hiện địch, các đơn vị bộ đội chủ lực, địa phương và dân quân du kích luôn sẵn sàng chiến đấu, phối hợp nhịp nhàng, chiến đấu dũng cảm, tổ chức chỉ huy hiệp đồng chặt chẽ, vận dụng cách đánh thích hợp và được sự tận tình giúp đỡ của nhân dân. Chiến thắng Sông Ba Trường Lạc còn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng:

- Phát huy được sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân, giữ vững thế trận bảo vệ vững chắc vùng tự do.

- Bảo vệ nguồn kinh tế lớn, kho thóc của đồng bằng khu 5, nguồn lương thực cung cấp cho kháng chiến.

- Đánh bại âm mưu nham hiểm của địch gây cho chúng hoang mang sợ hãi.

Nhân dân Tuy Hòa hết sức vui mừng trước thắng lợi, nó thúc đẩy tinh thần tất cả cho kháng chiến, tất cả cho chiến thắng sôi động hơn bao giờ hết.

Vào một đêm đầu tháng 10 năm 1949, bọn Pháp dùng tàu thủy bí mật đổ bộ một đại đội địch lên vùng biển Phú Lạc đốt phá ghe thuyền mành lưới của nhân dân. Với tinh thần cảnh giác và sẵn sàng chiến đấu, trung đội du kích thôn đã kịp thời phát hiện địch, lợi dùng địa hình xóm làng và các ngọn đồi núi Chợ, núi Lăng, núi Bầu phân chia nhiều tổ quần bám địch nhiều nơi. Đồng chí Lê Chiêu trung đội trưởng du kích đã xáp lá cà dùng rựa chém đầu giặc. Suốt cả ngày địch đến đâu cũng bị đánh liên tục, buộc chúng phải lui quân xuống tàu mang theo hàng chục tên chết và bị thương.

Hành động dũng cảm của anh Lê Chiêu được đại hội thi đua liên khu 5 (1950-1951) bầu là chiến sĩ giết giặc dũng cảm, là tấm gương cho lực lượng vũ trang huyện nhà học tập và noi theo.

Ngày 04 tháng 11 năm 1949 Đại đội 202 cao xạ của liên Trung đoàn 80-83 do đồng chí Thành chỉ huy làm nhiệm vụ bảo vệ cầu Máng Đồng Bò, đã dũng cảm chiến đấu với một tốp máy bay địch đến ném bom phá máng, phá cầu. Ta bắn rơi tại chỗ một máy bay, thu 2 súng trọng liên, 2 súng đại liên, 1 máy vô tuyến, tên giặc lái bị đền tội.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 18 Tháng Tư, 2011, 04:01:44 pm
Tháng 11 năm 1949, lực lượng du kích Hòa Xuân phối hợp cùng lực lượng của Tiểu đoàn 365 tập kích tiêu diệt 1 trung đội công binh Pháp tại xóm quán (Phú Khê) làm cho 20 tên địch chết và bị thương, thu 7 súng. Ngoài nhiệm vụ chiến đấu, lực lượng vũ trang huyện nhà cùng nhân dân liên tục tổ chức các đợt phá hoại giao thông trên những đoạn đường xung yếu ở Đèo Cả làm tắc nghẽn giao thông tiếp tế của địch, buộc chúng phải dùng máy bay thả lương thực, đạn dược cho bọn địch ở đồn Núi Hiềm, góp phần quan trọng cùng lực lượng dân quân du kích, bộ đội tiếp tục vây ép đẩy địch ngày càng lâm vào thế cô lập. Bên cạnh đó lực lượng vũ trang huyện càng tham gia tổ chức và dẫn đường đưa hàng vạn dân công vận chuyển tiếp tế hàng ngàn tấn muối, lương thực, đạn dược cho đồng bào các đơn vị bộ đội chiến đấu ở chiến trường Bắc Khánh Hòa, Nam Tây Nguyên, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ tiên tuyến và làm tròn trách nhiệm hậu phương, bải đảm kháng chiến lâu dài.

Nhờ có đường lối đúng đắn của Đảng, sự chỉ đạo của Tỉnh ủy và chỉ huy của Tỉnh đội mà trực tiếp là Huyện ủy và Huyện đội, trải qua 3 năm chiến đấu và xây dựng được thử thách rèn luyện trong điều kiện nhiều khó khăn gian khổ, tinh thần cách mạng, sức chiến đấu của quân và dân huyện nhà được nhân lên gấp bội, liên tục chiến đấu và chiến thắng, hoàn thành tốt các công tác lớn phục vụ cho kháng chiến, gió phần xứng đáng cùng quân dân tỉnh Phú Yên từng bước đánh bại âm mưu địch và ngày càng trưởng thành.

Đại đội 377 - bộ đội địa phương của huyện phát triển và lớn mạnh toàn diện về quân số trang bị, trình độ kĩ - chiến thuật, tổ chức chỉ huy, bản lĩnh và khả năng chiến đấu xứng đáng là lực lượng nòng cốt trong phong trào toàn dân đánh giặc của chiến tranh nhân dân trên địa bàn huyện.

Cùng với bộ đội tập trung của huyện, lực lượng dân quân đu kích được tổ chức rộng khắp, từng bước được củng cố nhiền mặt như: tổ chức chỉ huy thống nhất từ huyện đội xuống xã đội, thôn đội, xác định chức năng nhiệm vụ, đảm nhiệm tác chiến tại chỗ, làm nòng cốt trong phong trào chiến tranh du kích, liên tục hoạt động giữ thế chiến trường, sẵn sàng phối hợp và phục vụ cho bộ đội chủ lực tác chiến

Những thắng lợi trong chiến đấu đã dẫn đến sự phát triển và trưởng thành của lực lượng cách mạng, từ không đến có, từ ít đến nhiều, từ yếu đến mạnh, tạo được thế và lực trên chiến trường vững chắc nghiêng dần về ta. Song những thành công đó cũng chỉ là bước đầu, con đường kháng chiến đi đến giành thắng lợi còn lâu dài gian khổ, đòi hỏi nhiều thử thách và sự hi sinh to lớn hơn nữa. Quân dân huyện Tuy Hòa với truyền thống yên nước, ý chí kiên cường bất khuất, trung thành và tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ quyết tâm đạp bằng những khó khăn thử thách cùng quân dân tỉnh nhà giành nhiều thắng lợi to lón hơn, góp phần xứng đáng đưa cuộc kháng chiến mau đến ngày toàn thắng.

Bước vào năm 1950, cục diện chiến tranh có nhiều biến động lớn, lực lượng ta đã mở nhiều chiến dịch liên tục tấn công địch trên nhiều chiến trường trong cả nước, giành nhiều thắng lợi to lớn, đem lại những ý nghĩa hết sức quan trọng. Trước hết nó khẳng định được trình đội tổ chức chỉ huy hiệp đồng tác chiến của lực lượng vũ trang cả nước được nâng cao rõ rệt và trưởng thành nhanh chóng.

- Đưa cuộc kháng chiến phát triển lên một bước mới, ta giành được thế chủ động trên chiến trường.

- Đẩy địch ngày càng lún sâu vào thế bị động lúng túng.

Trước những diễn biến, tình hình trên chiến trường Việt Nam không có lợi cho thực dân Pháp xâm lược, nguy cơ thất bại đã bộc lộ ở một số chiến trường đồng bằng sông Cửu Long và Bắc Bộ. bọn cầm đầu thực dân Pháp phải tăng quân, thay tướng đề ra những âm mưu thủ đoạn và chiến lược mới nhằm ngăn chặn, đối phó với ta, hoàng làm xoay chuyển tình hình ở chiến trường. Những âm mưu thủ đoạn cơ bản của chúng là: Xây dựng lục lượng chủ lực cơ động mạnh, cấp tốc ráo riết bắt lính, tổ chức phát triển các đơn vị ngụy binh với quy mô lớn bổ súng cho quân viễn chinh xây dựng quân đội của chính phủ bù nhìn. Tăng cường hệ thống phòng ngự vững chắc ở các vùng chúng chiếm đóng để tiến hành “Chiến tranh tổng lực”, ráo riết “bình định” các vùng tạm chiếm vơ vét sức người sức của nhân dân ta. Tiếp tục thực hiện chính sách “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt” chuẩn bị phản công giành lại thế chủ động trên chiến trường. Địch cho rằng Phú Yên là địa bàn quan trọng, là tuyến đầu ở mặt trận phía nam của Liên khu 5, là kho nhân tài vật lực phong phú, vừa là hậu phương trực tiếp chi viện cho chiến trường cực nam và mặt trận Nam Tây Nguyên. Do vậy nên địch càng tập trung đánh phá quyết liệt bằng không quân, hải quân, sử dụng lực lượng biệt kích lùng sục bắn phá dữ dội. Ưu tiên hàng đầu là đánh phá kinh tế, chúng liên tục bắn vào ngư dân và ghe thuyền đánh cá trên biển, bắn trâu bò. Mục tiêu chủ yếu là ném bom phá các cầu máng mương đập nước thuộc hệ thống thủy nông Đồng Cam, có ngày địch ném xuống cầu Đồng Bò, đập Đồng Cam từ 5-7 tấn bom. Ngoài ra địch liên tục bắn phá các chợ, bến xe, trường học, kho tàng.

Riêng ở huyện Tuy Hòa trong năm 1950, máy bay địch đã giết hại 158 người, làm bị thương 173 người, ném bom cháy và phá sập 13.024 nóc nhà, 30 trường học.

Ở Hòa Xuân chúng tăng quân từ Khánh Hòa ra, tăng cường càn quét đánh phá, khủng bố ráo riết ở các thôn Nam Bình Thạch Chẩm, Bàn Nham, Bàn Thạch, chúng đã giết hại nhiều thường dân, đánh phá cơ sở, gây nhiều khó khăn cho chính quyền ta trong công tác bám dân bám làng để hoạt động. Trên tuyến bờ biển địch dùng tàu chiến chạy gần bờ để bắn phá các vùng dân cư, dùng đại bác từ biển bắn vào làng mạc, dùng lực lượng biệt kích đổ vào bờ đánh phá chớp nhoáng rồi rút ngay.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 18 Tháng Tư, 2011, 04:02:51 pm
Từ tháng 8 đến tháng 10 năm 1950, địch đã 5 lần đổ bộ lên vùng bờ biển huyện Tuy Hòa các vùng lộ 1, 2, 3, Đa Ngư, Phúc Lạc (Hòa Hiệp). Ngày 17 tháng 8 năm 1950 đổ bộ lên Đông Tác (Hòa Thành).

Trước tình hình và diễn biến khá quyết liệt mà thực dân Pháp đang tiến hành để mở rộng chiến tranh, quân dân huyện Tuy Hòa gặp không ít những khó khăn thử thác mới, chịu đựng nhiều hi sinh tổn thất.

Nghị quyết của đại hội đại biểu tỉnh Đảng bộ lần thứ 4 họp ngày 24 tháng 4 năm 1950 đề ra phương hướng nhiệm vụ cho quân dân tỉnh nhà, với tinh thần không ngừng tiến lên đánh bại các âm mưu thủ đoạn của địch giành thắng lợi lớn hơn, đưa cuộc kháng chiến của quân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng bước sang một giai đoạn mới. Các nội dung then chốt là:

- Tăng cường lực lượng vũ trang địa phương.

- Tổng động viên nhân tài, vật lực để đẩy mạnh cuộc kháng chiến.

- Nỗ lực tăng gia sản xuất, triệt để tiết kiệm để vượt qua nạn đói đang đe dọa và phục vụ tiền tuyến.

- Tập trung sức lực khẩn trương sửa chữa và bảo vệ các công tình thủy nông.

- Tăng cường công tác giáo dục cho nhân dân nhận rõ âm mưu, thủ đoạn thâm độc của địch.

Nhằm thực hiện nghị quyết của Tỉnh ủy Phú Yên, Huyện ủy, Ủy ban kháng chiến hành chánh và Ban chỉ huy Huyện đội đã tổ chức triển khai nhiều biện pháp cụ thể cho lực lượng vũ trang và các đoàn thể quân chúng, phát động phong trào “thi đua ái quốc”, “giết giặc lập công”.

Do yêu cầu tác chiến của các chiến trường cực nam, Tây Nguyên nên cấp trên đã điều động các đơn vị bộ đội chủ lực đứng chân hoạt động ở Phú Yên, Tuy Hòa chuẩn bị cho các chiến dịch. Nhiệm vụ quân sự của huyện trong thời gian này là tập trung lực lượng bộ độ địa phương dân quân du kích bám sát địch, dùng các thủ đoạn tác chiến, phục kích tập kích, đánh giao thông, bắn tỉa, quấy rối, bẻ gãy các cuộc càn quét của địch, đẩy mạnh công tác tuyên truyền binh địch vận, lấn ép bao vây cô lập đẩy địch vào thế bị động.

Tháng 5 năm 1950 du kích Hòa Xuân phục kích đánh địch đi lấy nước ở Hóc Lựu diệt chết 3 tên. Mấy ngày sau lực lượng dân quân du kích Hòa Xuân phối hợp cùng đại đội 377 và đại đội bộ đội địa phương tỉnh, chặn đánh 2 đại đội địch càn lên vùng Thạch Chấm, Nam Bình. Hơn 1 giờ nổ súng chiến đấu 29 tên địch đã bị diệt, số còn lại tháo chạy về đồn Núi Hiềm.

- Ngày 02 tháng 7 năm 1950, một bộ phận lực lượng của đại đội 377 dùng mìn tự tạo phục kích tại Đá Đen (Đèo Cả) giết 15 tên và làm bị thương một số tên khác. Vào khoảng cuối tháng 9 năm 1950 một đại đội Pháp từ đồn Núi Hiềm càn xuống Thạch Tuân, xóm Lưới Gõ. Đại đội 377 và du kích Hòa Xuân phục kích đánh thiệt hại nặng đại đội này diệt 22 tên và nhiều tên bị thương, thu 3 súng, 11 quả lựu đạn.

- Phát huy những thắng lợi liên tiếp của bộ độ địa phương và dân quân du kích. Giữa tháng 10 năm 1950, đại đội 377 đã phục kích tại cầu Lớn (Đèo Cả) giết 25 tên địch, làm bị thương một số tên khác, phá tan trận càn làm thiệt hại nặng đại đội này. Sau những thất bại liên tiếp ở các trận Nam Bình, cầu Lưới Gõ, Đá Đen, cầu Lớn, lực lượng địch đã bị tiêu hao khá nặng nề, tinh thần binh lính hoang mang lo sợ, chúng buộc phải co lại phòng thủ. Trước tình hình và thời cơ thuận lợi đó Tỉnh đội chủ trương tập trung lực lượng tỉnh, bộ đội huyện và dân quân du kích các xã Hòa Xuân, Hòa Hiệp, Hòa Vinh, Hòa Tân mở đợt hoạt động liên tục mạnh mẽ trên địa bàn Hòa Xuân, tạo sức mạnh áp đảo bao ây địch đưa phong trào toàn dân kháng chiến của huyện Tuy Hòa tiến lên mạnh mẽ. Chỉ trong vòng 25 ngày đêm, đại đội 377, đại đội 374, đại đội 245 và dân quân du kích các xã nổi lên bằng nhiều hình thức và thủ đoan chiến đấu linh hoạt, sáng tạo, đã đánh 12 trận giết 58 tên (có một tên quan hai), làm bị thương 34 tên, thu 8 súng, 13 lựu đạn, 300 viên đạn các loại, phá hủy 1 xe GMC. Thắng lợi của đợt hoạt động này làm cho quân địch hoang mang sợ hãi hơn. Đầu tháng 11, một lính Đức ở đồn Núi Hiềm đã mang 3 súng trường, 1 súng Mooctar, 4 lựu đạn, 300 viên đạn chạy sang hàng ngũ ta.

Gần 4 năm giặc chiếm đóng Hòa Xuân với mưu đồ lấy Hòa Xuân làm bàn đạp tấn công đánh chiếm Phú Yên, làm cơ sở cho việc tấn công đánh chiếm các tỉnh đồng bằng Liên khu 5. Quân dân Tuy Hòa nói riêng, Phú Yên nói chung đoàn kết một lòng phát huy truyền thống yêu nước đánh giặc ngoại xâm, bằng sức mạnh tổng hợp của đường lối chiến tranh nhân dân, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng đã liên tục tấn công địch gây cho chúng nhiều khó khăn khốn đốn trong việc thực hiền mưu đồ xâm lược. Đặc biệt nhất là trận đánh then chốt đánh tan một tiểu đoàn quân viễn chinh Pháp ở Phú Lâm ngày 19 tháng 1 năm 1947, buộc địch phải co về chiếm giữ bờ nam sông Bàn Thạch. Bốn năm dai dẳng Hòa Xuân là chiến trường giằng co quyết liệt giữa ta và địch. Địch đã gây biết bao tội ác: giết người, đốt phá hàng ngàn nóc nhà, cướp tài sản, bắn giết trâu bò… Nhiều cán bộ, chiến sĩ và đồng bào đã ngã xuống trên mảnh đấtn ày để giữ gìn quê hương. Đặc biệt từ tháng 7/1950 đến tháng 12/1950 lực lượng du kích Hòa Xuân và các xã trong huyện phối hợp với bộ đội địa phương, bộ đội chủ lực liên tục tổ chức tập kích tiêu diệt nhiều sinh lực địch. Trên đoạn đường Đèo Cả ta phục kích những đoàn xe tiếp tế của giặc, phá hoại đường giao thông làm cho việc vận tải bằng đường bộ của chúng bị tê liệt. Đồn Núi Hiềm bị cô lập hoàn toàn chúng chỉ lo cố thủ ở trong đồn không dám càn quét đánh phá như trước. Những tên lính hung hãn liều mạng ra khỏi đồn bị ta phục kích đánh tỉa càng làm cho chúng hoang mang lo sợ. Bên cạnh đó, để cô lập chúng hơn nữa ta tổ chức diệt tề ở các thôn xã Hòa Xuân, diệt và phá tan tổ chức gián điệp ở Nam Bình.Lúc này địch ở Núi Hiềm rơi vào trạng thái khủng hoảng và tuyệt vọng lương thực vũ khí ngày càng cạn kiệt. Thỉnh thoảng mới được vài chiếc máy bay đến thả dù tiếp tế để tránh nguy cơ bị tiêu diệt trước sức tấn công liên tục của quân và dân ta, đêm 5 tháng 12 năm 1950 toàn bộ quân địch ở Núi Hiềm và các chốt trên đất Hòa Xuân đã rút chạy vào Khánh Hòa, bỏ lại nhiều quân trang, quân dụng, lương thực và đồn bót mà chúng đã ra sức xây dựng trong những năm chiếm đóng. Hòa Xuân sạch bóng quân thù. Đó là một thất bại vô cùng đắng cay và nhục nhã của bọn xâm lược Pháp. Thành quả của quân và dân Tuy Hòa đã được ghi nhận một cách xứng đáng, Ủy ban kháng chiến Trung Bộ tuyên dương công trạng chiến công giải phóng Núi Hiềm vào cuối năm 1950. Giải phóng Hòa Xuân là thắng lợi lớn của quân dân Tuy Hòa, Phú Yên, là điều kiện thuận lợi để phát triển và xây dựng về mọi mặt đưa hậu phương kháng chiến ngày càng vững mạnh.

Trong niềm hân hoan, phấn khởi của đồng bào, chiến sĩ Tuy Hòa trước thành quả đạt được: giải phóng Hòa Xuân. Nỗi vui mừng hạnh phúc chưa dứt thì ngày 27 tháng 11 năm 1950 đại độ 377 bộ đội địa phương huyện Tuy Hòa được vinh dự đón nhận danh hiệu “Đơn vị xuất sắc trong các lực lượng vũ trang tỉnh Phú Yên”.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Tư, 2011, 04:56:01 pm
IV - LỰC LƯỢNG VŨ TRANG HUYỆN TUY HÒA TRONG CHIẾN LƯỢC PHẢN CÔNG VÀ TỔNG PHẢN CÔNG (1951-1954)

Tháng 2 năm 1951 đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 2 của Đảng được tiến hành. Nhiệm vụ chính trị của đại hội là: đẩy cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn và xây dựng Đảng lao động Việt Nam(1).

Về đường lối kháng chiến, đại hội khẳng định: “Cuộc kháng chiến của ta là cuộc chiến tranh trường kì và gian khổ nhưng cuối cùng cũng nhất định thắng lợi"(2).

Phương châm tác chiến lúc này là “Lấy du kích làm chính, vận động chiến làm phụ, nhưng phải đẩy mạnh vận động chiến tiến lên”(3).

Thực hiện tinh thần nghị quyết của đại hội Đảng lần thứ 2, căn cứ vào tình hình thực tế ở địa phương, Tỉnh ủy Phú Yên đề ra những chủ trương và nhiệm vụ cụ thể, tiến hành chỉ đạo các địa phương nỗ lực tổ chức thực hiện.

Về quân sự: tiếp tục phát triển, xây dựng lực lượng vũ trang tỉnh, huyện và cơ sở. Tăng cường công tác giáo dục chính trị, nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí của lực lượng vũ trang nhân dân và chiến tranh nhân dân. Củng cố hệ thống chỉ huy, tích cực huấn luyện nhằm tăng cường sức mạnh chiến đấu. Nâng cao cảnh giác sẵn sàng đánh địch đổ bộ, càn quét lấn chiếm giữ vững vùng tự do, hăng hái lao động tăng gia sản xuất tự túc và tiết kiệm cùng nhân dân địa phương khắc phục và giải quyết những khó khăn thiếu thốn trong đời sống. Đẩy mạnh bố phòng xây dựng làng chiến đấu, cùng toàn Đảng toàn dân trong tỉnh xây dựng hậu phương vững mạnh về mọi mặt.

Chấp hành chủ trương của Tỉnh ủy và tăng cường công tác chỉ huy của lực lượng vũ trang trên địa bàn huyện, ban chỉ huy Huyện đội được kiện toàn. Đồng chí Nguyễn Thái Duân làm huyện đội trưởng, đồng chí Huỳnh Văn Húc chính trị viên trưởng, đồng chí Võ Xuân Vinh làm chính trị viên phó, các Ban chỉ huy Xã đội cũng được củng cố tổ chức lại.

Với tinh thần cảnh giác và sẵn sàng chiến đấu, vào đêm 30 tháng 9 rạng sáng 01 tháng 10 năm 1951 bọn Pháp dùng tàu đổ bộ lên Phú Lạc (Hòa Hiệp) để đốt phá cướp bóc, lực lượng du kích và kịp thời chặn đánh liên tục vào các toán địch lùng sục trên các hướng, diệt 12 tên, buộc chúng phải rút quân trong ngày. Trận chống càn, thắng lợi tuy nhỏ song có ý nghĩa quan trọng đã chứng tỏ tinh thần cảnh giác cao, ý hức sẵn sàng chiến đấu tốt trong phong trào thi đua “luyện quân lập công”. Huyện đội đã kịp thời phổ biến cho lực lượng dân quân du kích các xã học tập.

Tháng 3 năm 1952 đại hội đại biểu Đảng bộ lần thứ 5 tỉnh Phú Yên được tiến hành. Trước những yêu cầu mới của tình hình, đại hội đã đề ra phương hướng nhiệm vụ cho tỉnh tập trung chủ yếu là “… cần đặt mạnh vấn đề rèn luyện tư tưởng và lập trường cho cán bộ đảng viên. Phương châm công tác là nắm vững quan điểm quần chúng và đường lối kháng chiến, trước hết là cải cách dân chủ để bồi dưỡng kháng chiến. Đẩy tới công cuộc hoàn thành công tác chuẩn bị chuyển mạnh sang tổng phản công tích cực hơn nữa”.

Trên chiến trường chung cả nước, bọn thực dân Pháp đã bị nhiều thất bại nặng nề, nhưng chúng chưa chịu từ bỏ âm mưu xâm lược, với những âm mưu thủ đoạn tiếp tục đánh phá ta quyết liệt, mở rộng chiến tranh, tập trung lực lượng càn quét đánh phá quy mô, dài ngày cố chiếm một số địa bàn quan trọng hòng lật ngược thế từ bị động đối phó sang chủ động tấn công. Trên địa bàn huyện Tuy Hòa, địch tiến hành bằng những thủ đoạn cụ thể:

Tăng cường đánh phá vùng ven biển đẩy mạnh hoạt động biệt kích gián điệp, dùng máy bay bán phá, ném bom triệt phá các khu vực xung yếu của ta, đặc biệt là tập trung đánh phá kinh tế, mục tiêu chủ yếu là phá hệ thống thủy nông Đồng Cam.

Để ngăn chặn và phá tan âm mưu thủ đoạn của địch, huyện ủy Tuy Hòa đã chỉ thị nhiệm vụ cụ thể cho lực lượng vũ trang trong huyện phải tích cực huấn luyện quân sự, tăng cường cảnh giác, kịp thời đánh và ngăn chặn địch trong mọi tình huống. Củng cố hệ thống phòng không trên các điểm xung yếu, sẵn sàng bắn máy bay địch, tổ chức hướng dẫn và cùng nhân dân triệt để phá hoại khu vực Đèo Cả, đường số 1 và đường sắt.

Tháng 5 năm 1952 địch dùng máy bay ném bom liên tục các mục tiêu Đập Đồng Cam, Cầu Máng Đồng Bò, Cầu Máng, Suối Cái, lực lượng phòng không của ta đánh trả quyết liệt, nhưng do vũ khí thiếu, đạn quá ít, trình độ kĩ thuật non yếu nên không có hiệu quả.

Đến ngày 26 tháng 5 năm 1952, sau nhiều đợt ném bom của máy bay địch, Cầu Máng Đồng Bò bị phá sập. Đó là một tổn thất to lớn, gây hậu quả nghiêm trọng toàn bộ đồng ruộng Tuy Hòa khô cháy. Quân dân Tuy Hòa lại gặp nhiều khó khăn và đứng trước những thử thách khắc nghiệt. Toàn Đảng, toàn quân, toàn dân huyện nhà đã tập trung sức lực không quản ngày đêm khắc phục hậu quả, sửa lại Cầu Máng để phục vụ sản xuất. Vừa mới khôi phục xong thì địch lại đánh phá. Những khó khăn tưởng chừng không thể vượt qua: mất mùa, đói kém ập đến với nhân dân Tuy Hòa. Trong khó khăn hoạn nạn những truyền thống đạo lí tốt đẹp của người dân Tuy Hòa, Phú Yên được nhân dân gấp bội. Tất cả mọi người đêu tự nguyện nhường cơm xẻ áo để cứu người bị đói. Với đức tính cần cù chịu thương chịu khó một nắng hai sương nhân dân bắt tay vào khôi phục mương máng đẩy mạnh sản xuất tích lũy lương thực cho quân đội; để xứng đáng là hậu phương lớn của Phú Yên và chiến trường Nam Trung Bộ.


(1), (2), (3) Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 2 của Đảng - tháng 2 năm 1951.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Tư, 2011, 04:57:05 pm
Lợi dụng nạn đói của đồng bào ta, địch tăng cường rải truyền đơn kêu gọi dụ dỗ đồng bào theo chúng vào vùng bị chiếm với chính sách “quy thuận, chiêu an” khá thâm độc một số đồng bào đã trốn làng bỏ quê hương đi vào vùng địch.

Huyện ủy đã kịp thời có biện pháp ngăn chặn và dập tắt được những diễn biến này và cử cán bộ vào vùng bị chiếm vận động dân trở về với xóm làng quê hương.

“Đói lòng ăn củ khoai lang
Còn hơn theo giặc bỏ làng ai ơi”

Trong một thời gian ngắn hầu hết số đồng bào đã lần lượt trốn địch về lại quê cũ, tăng gia sản xuất tham gia kháng chiến.

Ngoài những thủ đoạn trên địch còn tăng cường hoạt động quân sự trên tuyến biến nhằm gây áp lực để tiếnh ành thực hiện chính sách của chúng. Nhiều tàu chiến, ca nô luôn có mặt từ cửa Đà Rằng vào Vũng Rô để đón ghe thuyền của dân theo chúng, mặt khác lợi dụng sơ hở đổ bộ bắn phá cướp bóc.

4 giờ sáng ngày 17 tháng 6 năm 1952, 1 đại đội địch đã dùng ca nô đổ quân lên lò 3 càn vào Thọ Lâm, Đa Ngư (Hòa Hiệp) đã bị du kích xã cùng đại đội 392 dưới sự chỉ huy của đồng chí Nguyễn Ngọc Anh chặn đánh quyết liệt bẻ gãy một cánh quân ở Núi Quéo (Đa Ngư), địch phải cho máy bay đến ném bom giải tỏa. Kết quả ta đã giết và làm bị thương 13 tên địch, chúng phải rút ngay xuống tàu.

Ngày 12 tháng 9 năm 1952, một tiểu đoàn quân Pháp dùng tàu đổ bộ lên lò 3, xóm Mới, Tân Hải, chia làm nhiều cánh càn vào Phú Lạc, Thọ Lâm, Đa Ngư, bị dân quân du kích Hòa Hiệp phối hợp cùng bộ đội tỉnh chặn đánh tại rừng dương (Đa Ngư). Hơn 2 giờ chiến đấu địch không tiến lên được phải rút ra Tân Hải. Cánh quân Phú Lạc, Thọ lâm cũng bị lực lượng du kích bám đánh làm bị thươg một số tên, một số tên khác sụp hầm chông bị thương. Trước sự chặn đánh quyết liệt của ta địch buộc phải rút quân xuống tàu mang theo 11 tên chết và gần 10 tên bị thương, có tên dính chông phải khiêng luôn cả bàn chông xuống tàu. Chiến thắng Đa Ngư làm cho nhân dân vô cùng phấn khởi, góp phần thúc đẩy sự lớn mạnh nhanh chóng của lực lượng vũ trang trong huyện.

Trong chiến dịch Đông Xuân 1952-1953 các lực lượng chủ lực tiến công trên các chiến trường chính Bắc Bộ giành thắng lợi lớn ở Tây Bắc. Sau hơn 2 tháng tấn công quyết liệt, quân ta đã tiêu diệt một bộ phận lớn sinh lực địch, quét sạch một mảng lớn đồn bót giải phóng một vùng đất rộng lớn củng cố và mở rộng căn cứ địa Việt Bắc. Ở khu 5 bộ đội chủ lực và các lực lượng vũ trang địa phương Bình Định, Tây Nguyên mở một đợt tấn công mạnh mẽ từ 12 tháng 1 đến 28 tháng 1 năm 1953, đã san bằng, bức hàng, bức rút hàng loạt cứ điểm, đồn bót trên trục đường phía tây tỉnh Bình Định bao gồm: Cửu An, Tú Thủy, Thượng An. Đầu đèo eo gió. Tiêu diệt 1.200 tên địch. Ở tỉnh Phú Yên ta cũng mở đợt hoạt động ở mặt trận phía tây. Bộ đội chủ lực của Liên khu 5, bộ đội địa phương và lực lượng dân quân du kích 2 tỉnh Phú yên và Đắc Lắc đã liên tục tấn công một số đồn bót, buôn Hai Đức, Bà Lá, Đất Bằng, Suối Trai, Chấn Đơn, Cà Lúi, chặn đánh địch ứng viện, giải tỏa phía nam M’Drắk tiêu diệt và đánh tan 3 đại đội địch. Lo sợ bị tiêu diệt bọn địch ở một số đồn bót hoang mang rút chạy. Những thắng lợi liên tiếp trên các chiến trường chứng tỏ các lực lượng vũ trang ta càng đánh càng mạnh và trưởng thành nhanh chóng. Đẩy bọn thực dân xâm lược Pháp càng lún sâu hơn nữa vào thế phòng ngự bị động. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của quân và dân phát triển nhanh, mạnh và vững chắc.

Tin thắng trận ở các chiến trường tron cả nước với quân dân Tuy Hòa làm nức lòng phấn khởi mọi người, càng thúc đẩy tinh thần hăng hái thi đua, tăng gia sản xuất khắc phục nạn đói. Thanh niên nô nức nhập ngũ, xây dựng lực lượng vũ trang lớn mạnh. Phong trào thi đua luyện quân lập công, sẵn sàng cùng quân dân trong tỉnh đập tan những âm mưu mới của địch, được mọi người rầm rộ hưởng ứng. Huyện ủy và Ban chỉ huy Huyện đội kịp thời đề ra một số nhiệm vụ cụ thể cho lực lượng vũ trang chấn chỉnh bổ sung tổ chức, thống nhất lực lượng dân quân du kích các xã, mỗi xã đều có một trung đội du kích tập trung, kiện toàn ban chỉ huy xã đọi, phát triển du kích thôn, mỗi thôn có 1 tổ đến 1 tiểu đội. Tăng cường trang bị vũ khí mìn muỗi, lựu đạn. Tiến hành huấn luyện quân sự tập trung các nội dung chủ yếu, chiến thuật phục kích trung đội, tiểu đội, đánh nhỏ từng tổ 3 người (lối đánh chim sẻ), kĩ thuật gài mìn, đào hầm chông, phương pháp bố phòng, rào ràng chiến đấu, đánh giao thông tập kích nhỏ v.v… mỗi xã đều tổ chức tổ làm công tác binh địch vận. Rút một số du kích xã bổ sung cho bộ đội huyện và tỉnh.

Tiếp tục thực hiện chủ trương của Bộ tư lệnh Liên khu 5, huyện tiến hành mở đợt chỉnh huấn cho lực lượng vũ trang nhằm bồi dưỡng nhận thức, phẩm chất chính trị cho cán bộ chiến sĩ luôn kiên định lập trường tư tưởng, trung thành với nhân dân, với Tổ quốc, nâng cao tinh thần và ý chí chiến đấu sẵn sàng đánh và thắng địch trong bất cứ tình huống nào. Qua đợt học tập “rèn cán chỉnh quân”cùng với những thắng lợi lớn trên chiến trường, sự phát triển nhanh mạnh của phong trào nhân dân hợp thành sức mạnh tổng hợp, thực sự thúc đẩy quân dân trong huyện tiến quân vào chiến dịch Đông Xuân 1953-1954 với quyết tâm chiến thắng.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Tư, 2011, 04:58:20 pm
V - LỰC LƯỢNG VŨ TRANG HUYỆN TUY HÒA THAM GIA ĐÁNH BẠI CHIẾN DỊCH ÁT LĂNG - GÓP PHẦN CÙNG CẢ NƯỚC GIÀNH THẮNG LỢI HOÀN TOÀN KẾT THÚC CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP XÂM LƯỢC

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân ta ngày càng giành nhiều thắng lợi của nhân dân ta ngày càng giành nhiều thắng lợi to lớn, ta đã tạo được thế chủ động trên chiến trường, thực dân Pháp liên tiếp bị thất bại nặng nề ngày càng lâm vào thế bị động co cụm phòng ngự. Trước những nguy cơ thất bại, bọn thực dân Pháp vẫn chưa chịu từ bỏ dã tâm xâm lược và cướp nước. Chúng tiếp tục ngoan cố đẩy mạnh chiến tranh hòng cứu vãn và xoay chuyển tình thế. Bọn cầm quyền Pháp chủ trương thay đổi chiến lược trên chiến trường Đông Dương bằng những âm mưu và phương sách, thay tướng, tăng quân, tiến hành mở nhiều cuộc hành quân tổng lực với quy mô lớn trên cả 3 chiến trường: đồng bằng Nam Bộ, các tỉnh Duyên hải khu 5, củng cố và giữ thế phòng ngự chiến lược ở Bắc Bộ. Hăngri Na Va được cử làm tổng chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương. Vừa nhậm chức y đã đệ trình lên hội đồng quốc phòng Pháp một kế hoạch quân sự lớn hòng xoay chuyển tình thế giành thắng lợi có tính chất quyết định kết thúc chiến tranh trong vòng 18 tháng.

Trọng tâm của kế hoạch Na Va là tổ chức phân phối chủ lực cơ động mạnh. Trên cơ sở đó Pháp sẽ thực hành tiến công chiến lược với 2 bước:

1 - Giữ thế phòng ngự chiến lược ở Bắc Bộ, thực hiện tiến công chiến lược ở miền Nam, chiếm đóng tất cả các vùng tự do còn lại, đặc biệt là Hậu Giang ở Nam Bộ, và Nam, Ngãi, Bình, Phú.

2 - Sau khi bình định xong tập trung khối chủ lực cơ động quyết chiến với chủ lực ta trên chiến trường miền Bắc giành thắng lợi quyết định.

- Cuối tháng 12 năm 1953 để chuẩn bị cho cuộc tiến công đánh chiếm các tỉnh đồng bằng khu 5, Nam, Ngãi, Bình, Phú địch điều động và tập trung 40 tiểu đoàn đứng trên các hướng Khánh Hòa (nam) lực lượng chủ yếu, Playku, Kon Tum (tây), Đà Nẵng (bắc) và quân cơ động đổ bộ trên tàu biển phía đông hình thành thế trận để tiến hành mở cuộc hành quân Át Lăng, kế hoạch chia làm 2 bước:

Bước 1: Tập trung 22 tiểu đoàn từ 3 hướng, từ Khánh Hòa đánh ra, từ biển đổ bộ vào, từ Tây Nguyên đánh xuống chiếm thị xã Tuy Hòa phát triển đánh chiếm toàn tỉnh Phú Yên.

Bước 2: Sau khi hoàn thành chiếm đóng tỉnh Phú Yên, sẽ tăng cường thêm lực lượng, phát triển đánh chiếm Quy Nhơn và toàn bộ tỉnh Bình Định.

Bước 3; Bước quyết định, tập trung lực lượng từ 4 hướng Quảng Nam đánh vào, Bình Định đánh ra, Kon Tum đánh xuống và từ biển đánh lên, cả 4 cánh quân sẽ hợp điểm tại thị xã Quảng Ngãi, hoàn thành mục tiêu đánh chiếm vùng tự do Liên khu 5.

Để chuẩn bị tiến hành cuộc tiến công với quy mô lớn trong những tháng cuối năm 1952, trên địa bàn huyện Tuy Hòa địch dùng gián điệp biệt kích hoạt động chỉ điểm cho máy bay bắn phá các vùng trọng điểm: Hòa Xuân, Hòa Vinh, Hòa Hiệp, Hòa Thịnh, dùng tàu thủy hoạt động ven biển Tuy Hòa - Vũng Rô, lén lút đổ biệt kích thăm dò lực lượng ta. Lực lượng công an và du kích đã phát hiện kịp thời bắt được một số tên ở Hòa Xuân, Hòa Vinh khai thác biết thêm nhiều tin tức và âm mưu của địch, cung cấp cho trên những tài liệu có giá trị để nhận định, hiểu thêm về địch.

Trung ương đã nắm được những ý đồ chiến lược tấn công quân sự của địch trong 1954-1955. Để tiếp tục đánh tan chiến lược của chúng, Trung ương đã chỉ thị và giao nhiệm vụ cụ thể cho khu ủy và Bộ Tư lệnh Liên khu 5 là: tập trung lực lượng chủ lực tấn công lên chiến trường Tây Nguyên. Phải nắm chắc địch, quyết đánh thắng trận đầu, liên tục đánh chiếm nhiều mục tiêu khác tiêu diệt nhiều sinh lực địch, phá thế trận chiến lược quan trọng trên địa bàn Tây Nguyên làm suy yếu thế và lực của địch trong lúc chúng tiếnh ành kế hoạch Át Lăng đánh chiếm các tỉnh đồng bằng. Tổ chức và có kế hoạch chu đáo cho lực lượng bộ đội địa phương và dân quân du kích các tỉnh đảm nhiệm tác chiến tên từng địa phương. Vận dụng linh hoạt những hình thức chiến thuật và cách đánh thích hợp với phương châm là chủ động tích cực, sáng tạo, linh hoạt, năn chặn tiêu hao kiềm giữ địch, hạn chế sức tiến công lấn chiếm của chúng, bảo vệ vững chắc vùng tự do. Huy động sức người sức của phục vụ vận chuyển tiếp tế cho chiến trường Tây Nguyên.

Thực hiện kế hoạch quân sự của liên khu, Tỉnh ủy va Ban chỉ huy Tỉnh đội khẩn trương triển khai tổ chức bố trí lực lượng trên địa bàn tỉnh. Phổ biến kế hoạch tác chiến xuống cơ sở, xác định trọng điểm là huyện Tuy Hòa (chiến khu 1 và 2), giao nhiệm vụ cho 2 Đại đội 377 và 392 đảm nhiệm. Tăng cường trang bị vũ khí đủ mạnh để chiến đấu (đại đội lúc bấy giờ có 7-9 khẩu trung liên), du kích xã cũng được trang bị mạnh có đủ súng cho các trung đội tập trung, dân quân du kích thôn cũng được trang bị súng, mìn lựu đạn đầy đủ. Các xã trọng điểm của huyện, Hòa Xuân, Hòa Vinh, Hòa Hiệp, vận động và tập trung nhân lực xây dựng làng chiến đấu, bố phòng dựng các chướng ngại vật trên các trục giao thông. Sau khi nghe cấp trên phổ biến thời gian địch tấn công ra Phú Yên. Không còn bao lâu nữa thời gian để cho ta chuẩn bị mọi mặt hết sức gấp rút. Với tinh thần hết sức khẩn trương quân dân Tuy Hòa đã không quản ngày đêm lao động quên mình để hoàn thành các nhiệm vụ của tỉnh và huyện giao, đáp ứng yêu cầu tổ chức thế trận chiến tranh nhân dân trên địa bàn huyện, sẵn sàng đánh địch bảo vệ tài sản, tính mạng của nhân dân, bảo vệ vùng tự do, thực hiện cho bằng được ngăn chặn, kiềm giữ, căng kéo địch tạo điều kiện thuận lợi cho hướng tiến công chủ yếu ở Tây Nguyên.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Tư, 2011, 04:59:08 pm
Đầu tháng 12 năm 1953 chiến dịch tấn công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 của quân dân cả nước bắt đầu. Trên khắp các chiến trường Việt Bắc, đồng bằng Bắc Bộ, Trung Lào, đường 9, Bình Trị Thiên, Đà Nẵng, Tây Nguyên, Nam Bộ địch bị những thất bại nặng nề làm đảo lộn thế trận, càng ra sức vùng vẫy chúng càng bị lún sâu trong bước đường cùng. Đặc biệt các trận đánh ở Khánh Hòa ta giết hàng trăm tên giặc, phá nhiều kho xăng dầu đạn dược địch chuẩn bị cho cuộc tiến công đánh chiếm Phú Yên.

Ngày 11 tháng 1 năm 1954, Tỉnh ủy và Ủy ban Mặt trận tỉnh họp để nghe thông báo về tình hình và âm mưu của địch trong thời gian tới. Hội nghị tiếp tục chỉ thị bổ sung nhiệm vụ cho quân dân tỉnh nhà chuẩn bị tốt mọi mặt để đánh địch tấn công lấn chiếm. Tỉnh ủy chỉ thị nhiệm vụ cụ thể cho lực lượng vũ trang địa phương và du kích phải triệt để vận dụng chiến thuật du kích với phương châm “tích cực, chủ động cơ động, linh hoạt”.

Huyện đội Tuy Hòa khẩn trương mở các lớp huấn luyện cho xã đội và cán bộ các trung đội du kích tập trung. Nội dung huấn luyện chủ yếu là: kĩ thuật đào hầm chông, gài mìn, xây dựng làng chiến đấu, các hình thức rào, đào hào chiến đấu, ổ chiến đấu liên kết với địa đào bảo đảm cho lực lượng bám trụ để chiến đấu. Chuẩn bị khu vực sơ tán, tản cơ cho đồng bào, chuyển kho tàng đến các vùng căn cứ. Trong không khí sôi động tất bật với lòng căm thù giặc, các học viên ra sức học tập nâng cao trình độ kĩ chiến thuật quyết tâm đánh giặc bảo vệ quê hương.

Mờ sáng ngày 20 tháng 1 năm 1954, quân Pháp bắt đầu mở cuộc tấn công ra Phú Yên với một quy mô lớn chưa từng có. Lực lượng tham gia trực tiếp tiến công gồm có 22 tiểu đoàn của các binh đoàn cơ động 10, 41, 42, 100 và 2 tiểu đoàn dù. Ngoài ra còn có đại bác ở tàu biển, không quân, xe tăng, xe bọc thép trực tiếp chi viện.

Đúng 5 giờ sáng, đại bác của địch từ biển bắn cấp tập vào thị xã Tuy Hòa. Hơn 1 giờ sau chúng cho máy bay ném om và bắn phá dọc tuyến quốc lộ 1, từ cầu Ông Chử đến Chóp Chài. Sau khi pháo binh và không quân bắn phá mở đồng dạn bãi, địch đổ quân lên phường bảy, 2 tiểu đoàn nhảy dù xuống sân bay Chóp Chài. Chúng tiến hành tiến công đánh chiếm các mục tiêu, khu vực trong thị xã, với thái độ chủ quan kiêu ngạo, quân và dân ta đặc biệt là Đại đội 377 và du kích thị xã đã chặn đánh quyết liệt diệt hàng trăm tên, buộc chúng phải tiến quân chậm chạp. Ngay tối hôm đó (20 tháng 1 năm 1954) lực lượng 377 đã bí mật luồn qua nhiều cụm quân địch, tập kích sân bay Chóp Chái và đánh vào sở chỉ huy của địch trong thị xã gây cho chúng nhiều thiệt hại.

Cùng thời gian ở hướng nam địch dùng pháo biển cùng pháo mặt đất bắn phá quyết liệt đoạn đường từ Đại Lãnh ra Hảo Sơn, dùng xe bọc thép phá các chướng ngại vật và hệ thống bố phòng của ta, từng bước tiến quân. Đến 15 giờ địch dùng nhiều tốp máy bay bắn phá dọc tuyến đường sắt Hảo Sơn, Thạch Tuân, Phú Hiệp chi viện cho bộ binh và cơ giới tiến quân. Do đường quốc lộ 1 bị ta phá hoại nên bọn Pháp phải mở đường sắt làm trục giao thông chính để cơ động và vận chuyển.

Quân và dân ta đã bày sẵn thế trận đánh trả quyết liệt. Mặc dù địch sử dụng cả một binh đoàn và hàng trăm xe cơ giới có pháo binh, không quân mở đường và chi viện trực tiếp nhưng chúng không thể ồ ạt tấn công được. Về ta chỉ có Đại đội 392 do đồng chí Võ Văn Kha chỉ huy, cùng lực lượng dân quân du kích Hòa Xuân, Hòa Hiệp, Hòa Tân, Hòa Thành, Hòa Bình, Hòa Vinh và một trung đội của Đại đội 377 do đồng chí Nguyễn Phúc Ánh chỉ huy đã liên tục chặn đánh địch hàng trăm trận trên tuyến từ Đèo Cả đến Phú Lâm. Với nhiều thủ đoạn chiến đấu linh hoạt phục kích tập kích, đánh bom mìn, bắn tỉa, quấy rối, đánh xe kết hợp cạm bẫy, hầm chông, quân dân Tuy Hòa đã phát huy được sức mạnh tổng hợp trong thế trận chiến tranh nhân dân, kết hợp với tinh thần chiến đấu dũng cảm ngoan cường, chưa đầy 10 ngày đã diệt hơn 300 tên địch, gặp phải sự kháng cự quyết liệt của quân và dân ta địch phải lúng túng đối phó nên tốc độ hành quân rất chậm. Với khoảng cách chưa đầy 30 cây số phải mất 10 ngày địch mới hợp quân ở thị xã Tuy Hòa được. Còn ở phía tây địch dùng 2 binh đoàn 41, 42 tiến xuống Củng Sơn, Tuy Bình.

Ngày 31 tháng 01 Thường vụ Tỉnh ủy họp kiểm điểm đánh giá tình hình và quyết định một số chủ trương. Hội nghị biểu dương tinh thần chiến đấu dũng cảm của quân và dân Phú Yên, đặc biệt là quân và dân Tuy Hòa đã giành được những thắng lợi quan trọng, tiêu diệt được nhiều sinh lực địch thực hiện được nhiệm vụ kiềm chân không cho chúng mở rộng vùng kiểm soát cất giấu, phân tán lương thực tài sản phục vụ lâu dài cho kháng chiến. Hội nghị cũng tập trung đánh giá tình hình địch trong thời gian tới, trên cơ sở đó hội nghị đề ra một số nhiệm vụ và biện pháp cụ thể: khẩn trương tổ chức và phát triển lực lượng, tăng cường trang bị, tranh thủ huấn luyện, củng cố các làng chiến đấu, chôn dấu lương thực, vận chuyển kho tàng, tích cực và đẩy manh công tác binh địch vận, liên tiếp tiến công địch, ngăn chặn tiêu hao không cho địch phát triển vùng kiểm soát.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Tư, 2011, 05:01:53 pm
Sau 20 ngày giặc Pháp ồ ạt tiến công ra Phú Yên, mặc dù đã bị quân và dân ta đánh trả quyết liệt gây cho chúng nhiều thiệt hại. Nhưng với lực lượng, binh khí trang bị kĩ thuật đông và mạnh, chúng tiếp tục dùng lực lượng cả 3 binh đoàn tấn công các huyện phía bắc tỉnh nhằm thực hiện bước một của kế hoạch là đánh chiếm toàn bộ tỉnh Phú Yên. Trên địa bàn huyện Tuy Hòa, địch đã tiến hành đóng chiếm đồn Pa Tí, Hảo Sơn, Thạch Tuân, cầu Lưới Gõ, Bàn Nham, Bàn Thạch (Hòa Xuân), Phú Hiệp - Thạch Lâm (Hòa Hiệp), ga Đông Tác, Nam cầu Đà Rằng - Phú Lâm (Hòa Thành), cầu Máng Phú Nông (Hòa Bình).

Nhận thấy quân địch tập trung cả 4 binh đoàn tiến hành tấn công đánh chiếm Phú Yên và phát triển tấn công ra Bình Định, Quảng Ngãi, tận dụng thời cơ Bộ tư lệnh Liên khu 5 đã kịp thời ra lệnh cho các lực lượng chủ lực của khu đồng loạt nổ súng tấn công đánh chiếm nhiều cứ điểm, đồn bót quan trọng của địch ở Kon Tum trên tục đường 19. Ta đã phá vỡ hệ thống phòng ngự chiến lược quan trọng của địch buộc chúng phải rút quân tháo chạy khỏi Kon Tum. Ngày 7 tháng 2 thị xã Kon Tum và tỉnh Kon Tum được giải phóng hoàn toàn.

Những thắng lợi to lớn trên chiến trường Tây Nguyên làm cho địch càng lún sâu trong thế bị động, lực lượng trong kế hoạch Át Lăng cũng bị phân tán. Quân dân ta càng phấn khởi tin tưởng hăng hái và nỗ lực thực hiện tốt nhiệm vụ, liên tiếp ngăn chặn và tấn công quân địch không cho chúng mở rộng vùng chiếm đóng, kìm và giữ chân quân cơ động của địch trên địa bàn huyện, góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho chiến trường chính giành thắng lợi to lớn hơn.

Đêm 20 tháng 4 năm 1954 tiểu đoàn 365 cùng một đại đội thuộc tiểu đoàn 375 (bộ đội tỉnh được thành lập tháng 2 năm 1954) cùng du kích xã Hòa Xuân tiến công tiểu đoàn khinh quân ngụy đóng ở Bàn Nham (Hòa Xuân). Trận chiến đấu diễn ra gay go quyết liệt, gần mờ sáng ta mới làm chủ được trận địa. Ta tiêu diệt và làm bị thương hon 300 tên địch, bắt sống 98 tên (có 74 lính, còn là tề ngụy), thu 20 tấn vũ khí và đồ dùng quân sự. Để phối hợp với lực lượng tấn công đồn Bàn Nham, cùng thời gian đó du kích xã Hòa Hiệp đã dùng mìn, bằng cách đánh như đặc công nước làm nổ tung 4 thuyền nan phá sập cầu Lưới Gõ làm tắc nghẽn giao thông 2 ngày liền.

Đêm 14 tháng 3 năm 1954 một tổ du kích xã Hòa Hiệp bí mật dùng lựu đạn tập kích bọn Pháp đóng ở dốc Vòi (Phú Hiệp), với cách đánh đặc công bí mật mò vào sát công sự địch, dùng lựu đạn ném vào công sự và rút lui an toàn, kết quả ta diệt 3 tên và 4 tên bị thương. Tháng 4 năm 1954 trung đội du kích Hòa Hiệp phục kích đánh đoàn xe 24 chiếc tại thôn Mĩ Hòa, làm địch chết bị thương, thu một xe chở đầy đạn khoảng trên 2 tấn.

- Nét nổi bật trong giai đoạn này ở Tuy Hòa là chiến tranh du kích phát triển vô cùng mạnh mẽ tạo thành một cao trào khắp các nơi trong huyện. Được sự giúp đỡ của quân chủ lực du kích ở các thôn xã đã có một trình độ kĩ chiến thuật tiến bộ, vũ khí trang bị cũng đã có phần hiện đại hơn. Với những lối đánh khác nhau bằng tất cả mọi thứ vũ khí có được lực lượng du kích đã gây cho địch không ít thiệt hại khó khăn. Chiến tranh du kích làm phong phú sinh động thêm đường lối chiến tranh toàn dân, toàn diện của Đảng. Có những trận đánh của du kích mà kết quả của nó làm cho mọi người hết sức bất ngờ và khó tin. Anh Nguyễn Mão du kích xã Hòa Xuân với tinh thần dũng cảm và mưu trí, lợi dụng nhà ông Nguyễn Tăng có đám giỗ, anh bí mật lót sẵn trong nhà, lúc bọn địch vào mâm ăn, anh từ dưới hầm vọt lên hô xung phong bọn giặc hoảng hốt bỏ chạy anh thu 7 súng và rút lui an toàn.

Ngày 04 tháng 5 bọn Pháp càn vào xã Hòa Đông bị lực lượng dân quân du kích xã quần đánh liên tục trong 2 ngày diệt và làm bị thương hàng chục tên.

Ngày 6 tháng 5 địch phải rút ra Phú Thứ, ga Gò Mầm (Hòa Bình) liền bị đại đội 1 tiểu đoàn 375 do đồng chí Nguyễn Tài Nhuệ đại đội trưởng, đồng chí Hồ Đắc Liên chính trị viên cùng trung đội 17 của đại đội 377 và lực lượng du kích Hòa Bình, Hòa Tân chặn đánh quyết liệt. Sau 2 giờ chiến đấu ta diệt và bắt sống 100 tên địch (có 1 tên trung úy bị bắt), thu hơn 50 súng và nhiều đạn dược.

Đầu tháng 5 tiểu đoàn 365 lại tiếp tục tấn công đánh thiệt hại nặng 1 tiểu đoàn quân ngụy do tên đại úy Trần Văn Sáu chỉ huy đóng ở cầu Bàn Thạch. Sau đó vài ngày đại đội 392 do đồng chí Bảo đại đội trưởng, đồng chí Hiền chính trị viên chỉ huy cùng lực lượng du kích Hòa Hiệp tiến công tiêu diệt gọn 1 trung đội địch đóng tại Thạnh Lâm (Hòa Hiệp), thu toàn bộ vũ khí.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Tư, 2011, 05:02:40 pm
Trong 3 tháng 3, 4, 5 năm 1964 ngoài những trận chiến đấu giành thắng lợi trên địa bàn huyện Tuy Hòa, các trận thắng ở Suối Cối, Chí Thạnh, La Hai, Đèo Quán Cau, Tường Quang, Minh Đức (Hòa Kiến) đã tiêu diệt nhiều lực lượng địch, đã diệt gọn một tiểu đoàn ngự lâm quân ở Sưới Cối. Ta đã giành thế chủ động trên chiến trường, quân địch đã sa vào thế bị động buộc chúng phải bỏ và rút quân một số khu vực ở Sông Cầu, Đồng Xuân, Tuy An về co cụm giữ thị xã và phía bắc Tuy Hòa. Báo chí của Pháp cũng thừa nhận rằng: “Sau mấy tháng tấn công ra Phú Yên quân của chính phủ (Pháp) đã phải trả một giá quá đắt hơn 4000 sinh mạng của binh sĩ đã tử trận, cuộc hành quân Át Lăng đã bị phá sản hoàn toàn”.

Sau mấy tháng trực tiếp chiến đấu với quân thù, lực lượng vũ trang cùng đồng bào trong huyện đã luôn phát huy được sức mạnh đoàn kết, vượt qua mọi khó khăn thử thách với tinh thần tự lực tự cường tích cực bố phòng toàn dân đánh giặc, luôn phát huy được thế mạnh của chiến tranh nhân dân, lực lượng du kích ở xã thôn càng chiến đấu càng trưởng thành. Trung đội du kích Hòa Xuân đã đánh địch nhiều trận, độc lập tác chiến, phối hợp cùng bộ đội chủ lực chiến đấu thắng lợi. Trung đội du kích Hòa Hiệp ban đầu chỉ có 10 khẩu súng, qua quá trình chiến đấu đã cướp súng giặc để trang bị đủ cho mình, trong đó có 2 khẩu trung liên, từ chỗ mới biết đánh du kích nhỏ lẻ, tiến tới biết vận dụng nhiều cách đánh, phục kích, tập kích, đánh giao thông, đánh vận động và cả đánh đặc công nữa. Chỉ trong thời gian từ tháng 1 đến tháng 54 năm 1954 trung đội đã dánh 27 trận, diệt hàng trăm tên địch, thu hàng chục súng và hơn 3 tấn đạn, phá hủy 3 xe. Song song với tác chiến du kích Hòa Hiệp còn làm tốt công tác binh địch vận, đã vận động gần 100 binh sĩ bỏ hàng ngũ địch về với ta mang theo 61 súng (có 3 trung liên). Tự túc vũ khí sáng kiến chế tạo vũ khí thô sơ, rào làng chiến đấu, đào hầm vót chông bố phòng đã thực sự trở thành phong trào trong toàn huyện. Quân dân Tuy Hòa được sự lãnh đạo trực tiếp của huyện ủy, sự hỗ trợ của lực lượng chủ lực tỉnh, Liên khu 5 nên đã giữ vững được ý chí và quyết tâm sẵn sàng đứng vững trên tuyến đầu chiến đấu. Ra sức huy động sức người sức của vận chuyển tiếp tế cho chiến trường Tây Nguyên với khẩu hiệu “Tiền tuyến đánh thắng hậu phương làm tròn”.

Ngày 7 tháng 5 năm 1954 quân ta tiến công tiêu diệt hoàn toàn tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ đẩy bọn xâm lược Pháp đến nguy cơ thất bại hoàn toàn, cuộc tổng phản công của quân dân ta bước sang thời kì gấp rút.

Trên đà thắng lợi đó, vào lúc 20 giờ ngày 1 tháng 6, trung đoàn 803 dưới sự chỉ huy của đồng chí Phan Hoàn cùng lực lượng địa phương huyện Sơn Hòa đã bất ngờ tiến công cụm cứ điểm Tuy Bình. Chỉ hơn 1 giờ nổ súng chiến đấu ta đã tiêu diệt hoàn toàn cụm cứ điểm này, tiêu diệt toàn bộ quân địch, thu hàng trăm súng, hàng chục xe quân sự. các chiến sĩ ta ráo riết truy lùng bắt hơn 500 tên tù binh. Cũng ngày trong đêm, 1 đại đội địch đóng ở Củng Sơn ra hàng, đồn Ea Riêng có 2 đại đội địch chốt giữ cũng bỏ đồn tháo chạy về Tây Nguyên bị lực lượng ta chặn đánh tan tác bắt sống hàng trăm tên, mặt trận phía tây Phú Yên được giải phóng.

Đêm 21 tháng 6 lực lượng đặc công của liên khu do đồng chí Đoàn chỉ huy cùng lực lượng đặc công tỉnh phối hợp cùng tiểu đoàn 365, 375 và bộ đội địa phương bí mật tấn công vào thị xã Tuy Hòa đánh các mục tiêu, kho xăng, bãi xe, sơ chỉ huy chiến dịch, Nhạn Tháp, cầu Ông Chừ. Hơn 1 giờ nổ súng ta đánh chiếm các mục tiêu, diệt hơn 200 tên địch, bắt sống 1 tù binh, thu 1 súng cối 81 li, phá hủy 165 xe quân sự, đốt cháy 1 kho xăng hàng triệu lít lửa cháy suốt 2 ngày đêm.

Ngày 25 tháng 6 tiểu đoàn 365 và du kích Hòa Xuân chặn đánh 1 đoàn xe chở vũ khí có 2 đại đội hộ tống trên Đèo Cả. Hơn 40 phút nổ súng ta đã bắn phá, đốt cháy 79 xe quân sự phá hàng trăm tấn đạn, tiêu diệt và bắt sống 217 tên địch, thu hơn 100 súng các loại. Phát huy những thắng lợi liên tiếp trên chiến trường Phú Yên, Tuy Hòa - các lực lượng du kích ở các xã liên tục đêm ngày bao vây bắn tỉa, quấy rối, bắc loa gọi binh lính địch đầu hàng. Trước những thất bại và áp lực mạnh của quân dân ta, một số đồn bót ở Hảo Sơn, cầu Lưới Gõ, Thạch Lâm rút bỏ chạy về thị xã Tuy Hòa.

Trong những ngày cuối tháng 6 năm 1954 với khí thế thừa thắng xông lên, lực lượng đặc công, chủ lực, địa phương và dân quân du kích liên tục tấn công các mục tiêu trong thị xã Tuy Hòa gây nhiều thiệt hại về lực lượng và phương tiện chiến tranh của địch. Các lực lượng ta áp sát thị xã khép kín vòng vây chuẩn bị sẵn sàng tiến công tiêu diệt quân địch giải phóng thị xã Tuy Hòa.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Tư, 2011, 05:03:31 pm
Đêm 19 tháng 7 có lệnh toàn bộ lực lượng ta phải rút quân ra khỏi địa bàn thị xã Tuy Hòa để chờ nhận lệnh và nhiệm vụ mới.

7 giờ sáng 20 tháng 7 năm 1954 lệnh đình chiến banh hành các lực lượng vũ trang ta lần lượt hành quân về các địa điểm quy định. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược hơn 9 năm ròng rã đã chấm dứt.

Huyện ủy Tuy Hòa nhanh chóng phổ biến hiệu lệnh ngừng bắn và mọi quy định cụ thể cho cán bộ và lực lượng vũ trang, tổ chức lại các lực lượng. Các cuộc họp mặt để chia tay người đi tập kết, người ở lại quê hương diễn ra trong không khí phấn khởi tin tưởng nặng nghĩa nặng tình vừa nhắc nhở vừa hẹn hò trong nỗi niềm lưu luyến trong tình quân dân cá nước, trong hẹn thề ý Đảng lòng dân.

Trận chiến đấu cuối cùng trong kháng chiến chống Pháp của quân dân huyện Tuy Hòa kéo dài 6 tháng (20.1.1954-20.7.1954), đánh bại chiến dịch Át Lăng, kế hoạch quân sự lớn nhất của thực dân Pháp ở Nam Trung Bộ, là thắng lợi lớn nhất của bộ đội chủ lực, của quân và dân Phú Yên trong 9 năm kháng chiến chống Pháp.

Lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa liên tục chiến đấu lập nhiều chiến công góp phần cùng cả nước kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến suốt 9 năm ròng rã.

Được sự lãnh đạo trực tiếp của Huyện ủy, với truyền thống yêu nước đoàn kết của nhân dân ta, với ý chí tự lực tự cường, không sợ khó khăn, không sờn lòng trước những thử thách cực kì gian khổ lực lượng vũ trang biết phát huy truyền thống đánh giặc của tổ tiên ta, bẫy đá, tên nỏ, hầm chông, kết hợp với súng đạn kĩ chiến thuật hiện đại. Truyền thống gắn chặt với hiện đại đã phát huy được sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân. Với lối đánh sáng tạo, phong phú có hiệu quả ta đã kiềm giữ chần địch để hỗ trợ cho chiến trường trọng điểm tiến công thuận lợi, góp phần đánh bại mọi âm mưu thủ đoạn của kẻ thù.

Suốt 9 năm ròng rã cùng với nhân dân, lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa đã liên tục chiến đấu, không ngừng trưởng thành và giành thắng lợi vẻ vang. Trải qua những năm dài kháng chiến chống lại một kẻ thùu mạnh hơn mình gấp bội. Quê hương Tuy Hòa luôn đứng trước đầu sóng ngọn gió. Từ chiến đấu giữ mặt trận Đèo Cả trong những ngày đầu kháng chiến (1947-1950) cho đến chiến dịch Át Lăng 1954 chiến dịch quyết định chiến tranh đương đầu với mọi gian khổ hi sinh, chịu đựng nhiều khó khăn ác liệt, những thử thách lớn lao tưởng chừng như không thể vượt qua được, nhưng quân dân Tuy Hòa vẫn trước sau như một, một lòng tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, của Bác Hồ kính yêu, khắc cốt ghi xương lời dạy của Người: “Thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, hiên ngang đứng vững trên tuyến đầu làm tròn sứ mệnh của người chiến sĩ trong xung kích bảo vệ tiền đồn phía nam vùng tự do Liên khu 5 và giữ vững hậu phương trực tiếp cho khu 5.

Từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, lực lượng vũ trang huyện nhà đã lớn lên trong tình thương yêu nuôi dưỡng của nhân dân, sự lãnh đạo tận tình của Đảng. Không phụ lòng tin tưởng của dân, của Đảng lực lượng vũ trang huyện nhà kiên cường bám đất, một tấc không đi một li không rời, cùng toàn dân làm nên những chiến thắng oanh liệt. Đèo Cả, Bàn Nham, Phước Giang, Lưới Gõ, Phú Lâm, Phú Thứ v.v… góp phân xứng đáng cùng quân dân cả nước, đánh bại một tên đế quốc to, chấm dứt vĩnh viễn ách thống trị của chủ nghĩa thực dân cũ trên đất nước ta. Chính họ đã viết nên những trang sử hào hùng của dân tộc, tô thắm lá cờ quyết chiến quyết thắng của quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng.

Gần 3000 ngày chiến đấu lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa không ngừng phong trào đi dần từ không đến có, từ nhỏ đến lớn, từ yếu tới mạnh, đã cùng quân dân tỉnh nhà làm nên những chiến thắng vẻ vang. Chiến thắng đó trước hết là do sự nỗ lực vượt bậc khắc phục mọi gian khổ hi sinh của quân và dân Tuy Hòa, sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, của Bác Hồ. Nó đánh dấu sự phát triển vượt bậc của lực lượng vũ trang địa phương.

Chiến tranh đã chấm dứt hòa bình được lập lại, theo tinh thần của hội nghị Giơ-ne-vơ lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới tạm thời để 2 bên tập kết, sau 2 năm sẽ thực hiện tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Cán bộ chiến sĩ ta theo sự phân công của tổ chức xuống tàu ra Bắc tập kết, một số ở lại để nắm phong trào cách mạng. Trong giờ phút chia tay lưu luyến giữa kẻ ở người đi, mọi người nhắc nhở hẹn hò sẽ gặp lại nhau sau 2 năm nữa. Tinh thần ây được thể hiện qua bài hát “Gửi người tập kết”, “Người đi sẽ trở về cây đa xưa bến cũ, ngày tháng vẫn còn đây”.

Lịch sử lại sang trang, con đường thống nhất đất nước vẫn còn phía trước. Bất luận trong tình thế nào lực lượng vũ trang Tuy Hòa vẫn sát cánh cùng quân và dân trong tỉnh hoàn thành mọi nhiệm vụ cách mạng trong thời kì đấu tranh mới.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Tư, 2011, 05:04:00 pm
(http://img855.imageshack.us/img855/4259/73029274.jpg)


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 20 Tháng Tư, 2011, 10:48:24 am
CHƯƠNG III

TỪ ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ
ĐÒI THI HÀNH HIỆP ĐỊNH GIƠ-NE-VƠ,
GIỮ GÌN LỰC LƯỢNG TIẾN ĐẾN
ĐỒNG KHỞI HÒA THỊNH (1954-1960)

I - KẺ THÙ MỚI - CUỘC ĐẤU TRANH MỚI

Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ đế quốc Mĩ lợi dụng sự suy yếu cảu thực dân Pháp nhảy vào miền Nam hất cẳng Pháp. Âm mưu cơ ản của đế quốc Mỹ là “tiêu diệt bằng được phong trào yêu nước của nhân dân ta, thôn tính miền Nam, chia cắt lâu dài đất nước ta, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mĩ, lập phòng tuyến ngăn chặn chủ nghĩa xã hội lan tràn xuống Đông Nam Á, đồng thời lấy miền nam làm căn cứ để tấn công miền Bắc - tiền đồn của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới ở Đông Nam Á, hòng đè bẹp và đẩy lùi chủ nghĩa xã hội ở vùng này, bao vây và uy hiếp các nước xã hội chủ nghĩa khác”.

Để thực hiện âm mưu trên đế quốc Mĩ thực hiện một loạt biện pháp chiến lược: gạt thực dân Pháp và mọi thế lực thân Pháp, lập ngụy quyền tay sai thân Mĩ, lập các đảng phái phản động, tập hợp các thế lực chính trị làm hậu thuẫn cho ngụy quyền. Thực hiện chính sách “Tố cộng diệt cộng”, tiến hành “cải cách điền địa”, lập các “dinh điền”, “khu trù mật”.

Biện pháp chủ yếu của chúng là “tố cộng, diệt cộng” nhằm tiêu diệt lực lượng lãnh đạo cách mạng, xóa bỏ mọi ảnh hưởng của Đảng trong quần chúng, coi đó là điểm mấu chốt để giành thắng lợi. Phú Yên là một tỉnh có phong trào kháng chiến mạnh của vùng tự do Liên khu 5 nên ngay từ những ngày đầu tiếp quản, Mĩ Diệm đã gấp rút tạo ra một đội ngũ tay sai đắc lực để chống phá cách mạng. Lợi dụng lúc giao thời bọn địa chủ phục thù giai cấp, bọn Đại Việt, địa chủ cường hào, lưu manh côn đồ ngóc đầu dậy. Để tỏ rõ sự trung thành với chủ mới chúng tỏ ra tàn bạo hung hãn không giới hạn.

Ngày 07/9/1954 đúng 7 ngày đến tiếp quản tỉnh Phú Yên cũng đã gây ra vụ thảm sát Ngân Sơn - Chí Thạnh (huyện Tuy An), giết chết 64 người và làm bị thương 76 người. Tội ác của chúng gây ra ở Ngân Sơn - Chí Thạnh làm cho cả nước vang lên tiếng thét phẫn nộ. Ngoài cuộc đàn áp đẫm máu ở Ngân Sơn - Chí Thạnh còn rất nhiều vụ địch tàn sát trả thù man rợ, giết hại thủ tiêu lén lút hàng ngàn cán bộ đảng viên của ta. Tại xã Hòa Thành chúng chôn sống một lúc 8 đồng bào ta ở Phú Lế. Tại Hòa Bình chúng cũng chôn sống 4 người cùng một lúc. Tại Hòa Mĩ chúng giết 4 đồng bào ta rồi mổ bọng bỏ đá vào ném xác xuống Bầu Hương. Bọn hành chính lưu động thường dùng thủ đoạn ban đêm kéo đến vây nhà bắt cán bộ đảng viên đem thủ tiêu xóa hết dấu vết để người nhà không tìm thấy xác người thân bị giết.

Hành động tàn sát đẫm máu của địch có làm cho phong trào đấu tranh của quần chúng lắng xuống. Nhân dân Tuy Hòa không thể nào quên được sự man rợ vô nhân tính của Mĩ Diệm trên mảnh đất này.

Ngày 23/10/1955 Mĩ Diệm tổ chức cuộc “trưng cầu dân ý” nhằm phế truất Bảo Đại, đưa Ngô Đình Diệm lên làm tổng thống ngụy quyền Sài Gòn. Nhân dân Tuy Hòa đã cùng nhân dân miền Nam tranh đấu vạch rõ trò dân chủ giả hiệu bịp bợm của địch. Từ tháng 10/1955 Huyện ủy ra tờ bán “Đoàn Kết” đăng nhiêu bài, tin nhằm hướng dẫn quần chúng đấu tranh với địch. Hàng ngàn tờ truyền đơn được cơ sở in Tipô của huyện in ra vạch trần trò hề bịp bợm của địch. Nhân dân thôn Phú Lạc (Hòa Hiệp) bất chấp mọi đe dọa đàn áp của địch, khôn đi bỏ phiếu. Nhiều nơi khác nhân dân viện cớ ốm đau, bệnh tật, đi buôn bán làm ăn, không bỏ phiếu. Nhân dân Tuy Hòa vô cùng hả hê trước trò bịp bợm “trưng cầu dân ý” của địch bị vạch mặt.

Sau chiến dịch “Tố cộng” đợt 2, nhất là sau ngày 20/7/1956 địch tổ chức ăn mừng vì phá được hiệp thương tổng tuyển cử để kích động tinh thần bọn ngụy quân ngụy quyền, ra sức đánh phá phong trào cách mạng của nhân dân. Chúng tiếp tục truy tróc đánh phá các tổ chức cơ sở Đảng trong quần chúng một cách dai dẳng và thầm độc. Rêu rao và hô hào các khẩu hiệu “đồng tâm diệt cộng”, “Bắc tiến”, “lấp sông Bến Hải”. Trước thủ đoạn đàn áp dã man của địch, hầu hết cán bộ đảng viên cơ sở Đảng đã vượt qua mọi khó khăn, thử thách để bám quần chúng lãnh đạo phong trào. Chưa bao giờ cán bộ lại hi sinh nhiều như lúc bấy giờ. Hầu hết cán bộ bất hợp pháp đều bi bắt, chỉ trong tháng 4 năm 19576 địch đày 37 cán bộ đảng viên huyện Tuy Hòa ra nhà tù Côn Đảo, có các đồng chí trong Huyện ủy như Nguyễn Đình Thành, Trần Quang Hiệu.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 20 Tháng Tư, 2011, 10:49:55 am
Thâm độc hơn Mĩ Diệm cố tách quần chúng ra khỏi Đảng, cắt đứt mọi liên hệ giữa Đảng và nhân dân. Chúng tiến hành phân loại đảng viên cán bộ và nhân dân tham gia kháng chiến ra từng loại A, B, C.

Loại A: gồm cán bộ đảng viên của ta là Việt Cộng nằm vùng (gắn bảng đen trước nhà), chúng không cấp thẻ kiểm tra nên không đi lại được.

Loại B: những người có dính líu với kháng chiến như cha, mẹ, vợ, con, anh, em thân thích với cán bộ cách mạng, chúng liệt vào “công dân nửa hợp pháp” thì chúng bắt vào thiên chúa giáo, bắt đi tố cộng, quản thúc tại chỗ.

Loại C: những người không liên quan với cách mạng chúng mua chuộc, dụ dỗ để đứng về phía chúng.

“Tố Cộng” và “Chống cộng” cuộc đấu tranh giữa ta và địch diễn ra hằng ngày, hằng gời ở từng thôn xóm. Trong một buổi tố cộng do bọn ngụy quyền xã Hòa Hiệp huyện Tuy Hòa tổ chức, khi địch bắt cụ Bách hô “Ngô Tổng thống muôn năm” cụ hô “Ngô tổng thống 2 năm”. Địch hỏi “sao hô 2 năm”, cụ hô: “Tôi hơn 60 tuổi mà nay bị đánh, mai bị đánh như thế này sống được 2 năm nữa là cùng thì chúc tổng thống 2 năm chứ khi chết rồi còn đâu mà chúc”(1). Hành động của Cụ Bách - một hành động khá tiêu biểu cho cuộc đấu tranh của nhân dân Tuy Hòa lúc bấy giờ. Bất chấp cường quyền tàn bạo, sự đàn áp dã man, nhân dân Tuy Hòa vẫn vững tin vào Đảng, vào cách mạng. Họ có thể nhẫn nhục chịu đựng “Có tai như điếc, có mắt như mù”, mọi tư tưởng, tình cảm, sinh hoạt đều bị đảo lộn nhưng trong lòng mọi người ngọn lửa cách mạng vẫn còn âm ỉ cháy, chỉ đợi dịp sẽ bùng lên dữ dội.

Cuối năm 1957 bước sang năm 1958, Đảng đã kịp thời rút được những kinh nghiệm trong thực hiện đấu tranh, đề ra phương thức hoạt động mới. Phong trào cách mạng của huyện nhà từng bước được khôi phục lại, cơ sở đã phát triển, một số chi bộ Đảng trong vùng địch được tổ chức. Thành phần cơ sở cốt cán lúc bấy giờ là số cán bộ trong lực lượng vũ trang không đi tập kết, những đảng viên trung kiên đã qua thử thách, một số anh chị em là học sinh trung học, thầy giáo cũ… được nhân dân yêu thương, đùm bọc, che chở, huyện đã xây dựng được căn cứ để đi lại hội họp hoạt động. Cán bộ đảng viên bám được dân kịp thời vạch rõ cho quần chúng thấy luận điệu tuyên truyền xuyên tạc trong dân của Mĩ Diệm.

Cũng vào cuối năm 1957 Liên khu ủy 5 đề ra mấy yêu cầu trong thực hiện phương châm đấu tranh ở các vùng:

a - Trung Châu: nói chung bước đầu phải khôi phục và xây dựng cơ sở, súc tích lực lượng để chống Mĩ Diệm, phải biết kết hợp giữa đấu tranh hợp pháp, nửa hợp pháp và bất hợp pháp một cách linh hoạt để xây dựng những khu an toàn, tạo thế mở rộng ở trung châu, làm bình phong và ngoại vi cho căn cứ miền Tây.

b - Tây Nguyên và miền Tây các tỉnh phải xây dựng các vùng núi hiểm trở thành căn cứ cách mạng làm chỗ dựa để mở rộng phong trào các khu căn cứ ở trung châu và trung tâm Tây Nguyên.

c - Phương hướng hoạt động vũ trang “Nắm vững đường lối đấu tranh chính trị là chính, nhưng đồng thời phải biết kết hợp đấu tranh vũ trang tự vệ hay đấu tranh vũ trang bộ phận trong những hoàn cảnh nhất định nhằm mục đích hạn chế phát xít, mở rộng cơ sở chính trị, hoạt động bất hợp pháp nhằm diệt bọn cố vấn Mĩ, bọn phản động gian ác địa phương và phá hoại các kế hoạch xây dựng của địch, bố phòng căn cứ của ta, xây dựng lực lượng nửa vũ trang và vũ trang.

Cần nhận thức: hiện nay (cuối năm 1957) tiến hành đấu tranh vũ trang kết hợp với đấu tranh chính trị là nhằm mục đích phục vụ cho việc đấu tranh chính trị, tranh thủ khả năng hòa bình thống nhất đất nước mà chưa dẫn đến ngay một cuộc chiến tranh.

d - Nguyên tắc hoạt động vũ trang phải có danh nghĩa kết hợp để giữ địa vị hợp pháp cho quần chúng, để chuyển phong trào lên được thuận lợi “Hoạt động vũ trang phải có chuẩn bị đầy đủ, phối hợp nhip nhàng giữ khu 5 và Nam Bộ, giữa các địa phương trong điều kiện khu, giữa căn cứ và ngoại vị, giữa đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị và đấu tranh pháp lí”.


(1) Theo “Phú Yên 30 năm chiến tranh giải phóng” trang 172.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 20 Tháng Tư, 2011, 10:51:26 am
II - ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ KẾT HỢP VỚI ĐẤU TRANH VŨ TRANG

Tháng 6 năm 1958 Tỉnh ủy Phú Yên họp đề ra nghị quyết: Xây dựng căn cứ địa miền núi, xây dựng lực lượng tự vệ, trung đội du kích thoát li, tiến hành diệt ác ôn, bảo vệ phong trào, xây dựng chính quyền cách mạng trong các vùng ta làm chủ. Lúc này huyện có 3 căn cứ cách mạng Miền Đông: Khu bãi Xép, miền Trung Hóc Nhum, Hóc Đá; Miền Tây: đồng Cỏ Ống, đồng Tàu, Suốt Phần.

Thực hiện tinh thần nghị quyết Tỉnh ủy Phú Yên đã xây dựng được căn cứ ở Thồ Lồ, Ma Dú. Tổ chức vũ trang và tiến hành diệt tên Thống Cường ác ôn khét tiếng ở Đồng Xuân vào đêm 15 tháng 11 năm 1958 mở đầu cho thời kì chuyển phương thức hoạt động của cách mạng “chính trị kết hợp vũ trang”.

Tháng 01 năm 1959, hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 15 dưới sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hội nghị đã xác định nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là: “Giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam”(1) và “khẳng định “con đường phát triển cơ bản của cách mạng miền Nam là con đường khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân”(2).

Nghị quyết 15 là ngọn đuốc soi đường, mở ra một thời kì mới cho cách mạng miền Nam, đáp ứng nguyện vọng bức thiết của cán bộ đảng viên và nhân dân. Nghị quyết 15 như một luồng gió mới thổi bùng lên ngọn lửa đã từ lâu cháy âm ỉ trong lòng dân.

Dưới ánh sáng nghị quyết 154 của Trung ương Đảng, nghị quyết của Tỉnh ủy đã đề ra những nhiệm vụ và biện pháp:

- Đẩy mạnh đấu tranh cả 2 vùng đồng bằng và miền núi chống âm mưu tố cộng, dồn dân bắt lính, diệt một số tên ác ôn đầu sỏ nhưng phải giữ thế hợp pháp cho quần chúng cơ sở.

Dùng 3 phương thức đấu tranh: hợp pháp, nửa hợp pháp và bất hợp pháp. Đầu năm 1960 miền núi bất hợp pháp là chủ yếu, đồng bằng hợp pháp là chủ yếu. Trong quá trình đó tùy tình hình thực tế vận dụng từng lúc từng nơi pho phù hợp.

- Xây dựng căn cứ địa chuẩn bị thực lực đặt kế hoạch các hành lang, giao thông liên lạc để đưa người dưới đồng bằng lên và đón một số cán bộ ở miền Bắc về tăng cường cho tỉnh, động viên một phần tài lực của đồng bào miền núi và đồng bằng.

- Thành lập lực lượng vũ trang của tỉnh và huyện, lực lượng bán vũ trang xã, chuẩn bị điều kiện đồng khởi.

Nghị quyết 15 của Ban chấp hành Trung ương Đảng được cụ thể hóa thành những chủ trương công tác, chuyển từ thế đấu tranh chính trị giữ gìn và bảo tồn lực lượng sang thế cách mạng tiến công, trong đó nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang có ý nghĩa cực kì quan trọng trong thời kì mới.

Thực hiện tinh thần nghị quyết của Tỉnh ủy, Huyện ủy Tuy Hòa 1 rút một số cơ sở cốt cán vào vùng căn cứ để tổ chức lực lượng vũ trang. Các huyện Tuy Hòa 2, Đồng Xuân, Sơn Hòa cũng rút được nhiều cơ sở vào căn cứ thành lập các tổ, đội vũ trang, chuẩn bị bước sang giai đoạn cách mạng mới, tiến công và nổi dậy.

Tháng 10 năm 1959 đoàn cán bộ từ miền Bắc tăng cường cho Phú Yên có 32 đ/c, trong đó phần lớn là cán bộ quân sự làm nòng cốt cho việc thành lập lực lượng vũ trang tỉnh đã về đến buôn Ma Đao vùng căn cứ cách mạng, được Tỉnh ủy và đồng bào vùng căn cứ đón tiếp ân cần trong niềm vui và thỏa lòng mong đợi “ngày trở về”. Trong không khí vui vẻ phấn khởi ấy, tất cả đều hứa quyết tâm sẵn sàng bước vào cuộc chiến đấu mới, tiêu diệt quân thù, giải phóng quê hương.

Đầu tháng 12 năm 1959, Tỉnh ủy tổ chức hội nghị đề ra một số nhiệm vụ cụ thể với các nội dung chủ yếu.

- Đẩy mạnh đấu tranh cả 2 vùng đồng bằng và miền núi, chống âm mưu tố cộng, chống khủng bố, chống bắt lính, tiến hành đồng khởi, diệt ác ôn đầu sỏ nhưng phải giữ hế hợp pháp cho quần chúng và cơ sở.

- Dùng 3 phương thức đấu tranh: hợp pháp, nửa hợp pháp và bất hợp pháp.

- Xây dựng căn cứ, chuẩn bị thực lực, tổ chức hệ thống hành lang, giao thông liên lạc, đưa người ở đồng bằng lên, đón cán bộ miền Bắc về tăng cường cho tỉnh, động viên tài lực của đồng bào miền núi và đồng bằng.

- Thành lập lực lượng vũ trang của tỉnh, huyện, lực lượng bán vũ trang của xã, chuẩn bị điều kiện đồng khởi.

Tập trung thực hiện chủ trương; chuyển từ thế đấu tranh chính trị giữ gìn và bảo tồn lực lượng sang thế cách mạng tiến công. Nhiệm vụ có ý nghĩa cực kì quan trọng là xây dựng lực lượng vũ trang.


(1), (2) Nghị quyết hội nghị trung ướng lần thứ 15.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 20 Tháng Tư, 2011, 10:52:08 am
Quán triệt tinh thần của hội nghị Tỉnh ủy, Huyện ủy Tuy Hòa đã khẩn trương và tích cực đẩy mạnh công tác mở rộng tổ chức cơ sở, tuyên truyền và phổ cập tinh thần nghị quyết 15 của Trung ương Đảng cho hầu hết cơ sở cách mạng ở các xã trong huyện nắm chắc nội dung “… bạo lực cách mạng, vũ trang khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân…”, cốt lõi của nghị quyết 15 là hoàn toàn phù hợp với tình hình cách mạng, với nguyện vọng của nhân dân, niềm tin tưởng phấ khởi của cơ sở, của quần chúng cách mạng đã nhanh chóng tạo thành khí thế háo hức, sôi động, phong trào cách mạng ở của huyện nhà đã bước sang một giai đoạn mới, các tổ chức cơ sở cách mạng ở nhiều xã đã phát triển nhanh, mạnh. Tháng 11.1959 đã có một số cơ sở thoát li ra căn cứ chuẩn bị cho việc thành lập lực lượng vũ trang “đội vũ trang tuyên truyền của huyện và của khu vực”. Bước sang năm 1960 phong trào cách mạng của huyện đã có bước phát triển, mặc dù bọn địch dốc sức bằng nhiều thủ đoạn và âm mưu cực kì tàn bạo, thâm độc vây ráp, lùng sục bắt bớ, đánh đập ám sát, bắt tập trung, cầm tù cơ sở quần chúng cách mạng nhưng chúng không sao ngăn được khí thế cách mạng của đồng bào ta.

Phong trào thanh niên và các tầng lớp quần chúng thoát li gia nhập lực lượng cách mạng ngày càng nhiêu, tạo ra một áp lực mới khiến nhiều tên ngụy quyền ngụy quân dao động, sợ sệt và chùn bước. Những xã có số người thoát li gia nhập lực lượng cách mạng nhiều thì chính xã có bọn ngụy quyền ngụy quân càng sợ hãi, như ở các xã Hòa Hiệp, Hòa Xuân, Hòa Tân, Hòa Thịnh, Hòa Mĩ, Hòa Vinh, Hòa Đông, Hòa bình.

Thế cách mạng trên địa bàn huyện vươn lên mạnh mẽ và liên kết chặt chẽ giữa 3 vùng; núi, giáp ranh và vùng sâu. Lực lượng phát triển khá nhanh, chỉ trong thời gian từ cuối năm 1959 đến tháng 6 năm 1960. Từ miền Tây của huyện (Sơn Thành) cho đến miền Đông của huyện )Hòa Hiệp, Hòa Xuân) đề lập được căn cứ giữ bàn đạp bám làng, bám dân, thúc đẩy phong trào cách mạng tiến lên mạnh mẽ và rộng khắp.

Tháng 10.1960 hội nghị đại biểu Đảng bộ huyện Tuy Hòa lần thứ nhất được tiến hành triệu tập họp ở căn cứ Hòa Thịnh với những nội dung chính:

- Quán triệt nghị quyết 15 của Trung ương, nghị quyết của Tỉnh ủy.

- Bầu Ban chấp hành mới.

- Xây dựng và ra nghị quyết cụ thể cho huyện.

Đại hội đã đề ra nhiệm vụ trọng yếu trước mắt là “Ra sức xây dựng lực lượng vũ trang để hỗ trợ cho phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng, phát triển đội công tác và cơ cở cách mạng, xây dựng căn cứ miền núi, làm chỗ dựa để giải phóng đồng bằng, chuẩn bị mọi mặt tiến tới đồng khởi toàn huyện.

Thực hiện nhiệm vụ trung tâm then chốt của nghị quyết 15, trong hội nghị Đảng bộ huyện lần thứ nhất (10/1960) căn cứ tình hình và thực lực cách mạng trong huyện. Đầu tháng 11-1960 Huyện ủy quyết định thành lập 3 đội vũ trang công tác ở 3 miền (miền Đông, miền Trung, miền Tây). Phân công đồng chí Bùi Tân (Bảy ốm) phụ trách quân sự, đội miền Đông có 4 đ/c: Thọ, Cách, Mì, Tám Ép, do đồng chí Thọ làm đội trưởng.

Đội miền Trung có 7 đ/c: Ngởi, Đáng, Quang, Ngọ, Thọ, Đạm, Bá do đ/c Ngởi làm đội trưởng.

Đội miền Tây có 6 đ/c: Dương Dụ, Chẩn, Đường, Náo, Sĩ, Phao do đ/c Dương Dụ làm đội trưởng.

Nhiệm vụ của các đội vũ trang là diệt ác ôn, trấn áp bọn phản động, tuyên truyền đường lối cách mạng, vận động quần chúng theo và ủng hộ cách mạng, vận động thanh niên và mọi tầng lớp nhân dân thoát li gia nhập cách mạng, xây dựng móc nối cơ sở, móc nối hành lang liên lạc thông suốt từ miền Tây xuống miền Đông, hỗ trợ cho đấu tranh chính trị, bảo vệ căn cứ của ta.

Sự ra đời của 3 đội vũ trang công tác huyện (tháng 11/1960) cũng là ngày chính thức thành lập lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Tuy lực lượng nhỏ, quân số ít ỏi, song uy lực của nó có tầm vóc to lớn mở ra một tiền đề trong tổ chức xây dựng và phát triển nhanh, mạnh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chiến đấu, thực sự tạo ra thế lực mới là công cụ sắc bén, là chỗ dựa cho phong trào đấu tranh của quần chúng, là lực lượng xung kích trong nhiệm vụ diệt ác phá kèm, làm nòng cốt cho phong trào đồng khởi của huyện nhà.

Sự ra đời của lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa trong thời điểm của nghị quyết Trung ương 15 mở ra một thời kì mới, bạo lực cách mạng, vũ trang khởi nghĩa cướp chính quyền về tay nhân dân.

Từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ra sức phát huy truyền thống cách mạng của quê hương, khởi dậy những chiến công Đèo Cả, Bàn Nham, Phú Lâm, Phú Thứ của lớp cha anh trong kháng chiến chống Pháp. Tiếp bước tiến lên tiến vào cuộc chiến đấu mới với khí thế và tinh thần quyết chiến quyết thắng, lập nên những chiến công oanh liệt viết tiếp trang sử hào hùng cho quê hương thân yêu.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 20 Tháng Tư, 2011, 10:52:50 am
III - LỰC LƯỢNG VŨ TRANG LÀM NÒNG CỐT TỎNG NHIỆM VỤ DIỆT ÁC, PHÁ KÈM, ĐỒNG KHỞI VÀ NỔI DẬY CỦA HUYỆN (1960-1961)

Tiếp tục thực hiện tinh thần nghi quyết của Huyện ủy (10-1960) trong khi phong trào cách mạng của huyện đang trên đà phát triển. Tổ chức cơ sở Đảng, quần chúng được tăng nhanh về số lượng, chất lượng, thanh niên thoát li tham gia lực lượng cách mạng ngày càng nhiều, có xã trở thành phong trào như Hòa Hiệp, Hòa Thịnh, Hòa Xuân.

Trước tình hình đó, địch lại có âm mưu mới, ra sức truy lùng, vây ráp bắt bớ, tập trung các khu vực giáp ranh ven núi và các xã, thôn có phong trào cách mạng lên manh, hòng ngăn chặn và dập tắt xu thế phát triển của cách mạng.

Để tiếp tục phát triển phong trào của quần chúng đang trên đà khởi sắc, nhiệm vụ cấp bách và khẩn trương của Huyện ủy đề ra là: phải phá âm mưu của địch, giữ thế và tiếp tục tạo lực mới. Cụ thể là: diệt ác ôn đầu sỏ, làm lỏng thế kèm kẹp của địch, đẩy mạnh tuyên truyền, gây uy lực vũ trang cách mạng, đẩy khí thế quần chúng tiếp tục phát triển mạnh mẽ rộng khắp trên toàn huyện.

Huyện ủy soát xét tình hình cụ thể và chọn một số tên ác ôn đầu sỏ khét tiếng gian ác để diệt. Đó là các tên Nguyễn Y Chi, cảnh sát quận, nguyên là cảnh sát Hòa Mĩ. Tên Nguyễn Ân, ấp trưởng, thôn Phước Giang xã Hòa Xuân. Đồng thời Huyện ủy thành lập ban chỉ đạo diệt ác của huyện gồm các đồng chí: Lê Xuân Mai, Chí Cao, Dương Dụ, Nguyễn Tài Soạn, Lê Thanh, do đồng chí Lê Xuân Mai - Bí thư Huyện ủy làm trưởng ban.

Do tính chất quan trọng của nhiệm vụ, vừa là dùng bạo lực vũ trang, cũng là lần đầu tiên tổ chức diệt ác nên yêu cầu phải nắm chắc tình hình, quy luật ăn ở, đi lại của nó, bảo đảm trận đầu ra quân phải giành thắng lợi.

Sau hơn một tháng chuẩn bị, được sự giúp đỡ của nhân dân địa phương với sự cộng tác tích cực của cơ sở. tối ngày 11-11-1960 ta tổ chức một lực lượng do 6 đ/c do đồng chí Soạn chỉ huy, đồng chí Dương Dụ dẫn đường đột nhập vào nhà tên Chi ắn chết hắn tại nhà, thu vũ khí. Sau đó lực lượng ta tỏa ra nhiều tổ, gọi loa tuyên truyền, rải truyền đơn, dán cáo trạng nói rõ tội ác của tên Chi. Sau khi tên Chi bị ta diệt, nhân dân xã Hòa Mĩ và các xã lân cận phấn khởi tăng thêm tin tưởng vào cách mạng, bọn ngụy quân sợ hãi, nhiều tên dao động chùn bước, có tên bỏ đi đến tỉnh khác làm ăn.

Để tạo đà đưa khí thế quần chúng lên cao hơn nữa, Huyện ủy giao nhiệm vụ cho đội vũ trang miền Đông tạo mọi điều kiện diệt cho được tên Ân. Do tính chất quỷ quyệt của hắn nên ta đã nhiều lần giết hụt. Lần này đồng chí Năm Đẹt phụ trách tổ vũ trang phải tiến hành tổ chức một tổ vũ trang hợp pháp để phối hợp thực hiện nhiệm vụ. Đêm 15 tháng 12 năm 1960 vào lúc 23 giờ, lực lượng ta đã phục và diệt tên Ân. Tên Ân chết phong trào vùng này được mở ra, ban đêm ta làm chủ, nhân dân phấn khởi hả lòng hả dạ, hàng chục nam nữ thanh niên thoát li tham gia lực lượng cách mạng.

Diệt tên Chi (Hòa Mĩ), tên Ân (Hòa Xuân) là chiến công đầu của lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa, có ý nghĩa khá đặc biệt; thực hiện tốt chủ trương của Huyện ủy, hạ uy thế của bọn ngụy quyền ác ôn, phá lỏng thế kèm kẹp, gây uy tín của cách mạng, củng cố của nhân dân, thúc đẩy phong trào cách mạng tiến lên, tạo đà cho nhiệm vụ quan trọng và to lớn của huyện trong giai đoạn sắp tới đồng khởi và nổi dậy.

Hơn một năm thực hiện tinh thần nghị quyết 15 của Trung ương Đảng, nhìn chung phong trào cách mạng tỉnh nhà có nhiều chuyển biến vượt bậc giành nhiều thắng lợi có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Chưa bao giờ phong trào cách mạng lại gặp nhiều thuận lợi như lúc này, số cán bộ chiến sĩ được miền Bắc tăng cường ngày càng nhiều hơn, họ mang theo một số lượng vũ khí đáng kể so với lúc bấy giờ. Lực lượng vũ trang của tỉnh được thành lập, sau đó ban quân sự tỉnh cũng chính thức ra đời. Những chiến thắng ban đầu ở Trà Kê, Phú Mỡ… kích thích quần chúng nổi dậy diệt ác phá kèm, đã trở thành phong trào. Ta đã có vùng giải phóng ở miền Tây tỉnh nhà nối liền các tỉnh Gia Lai, Đắc Lắc, Bình Định, Khánh Hòa và các huyện đồng bằng trong tỉnh. Huyện Tuy Hòa nơi có phong trào cách mạng phát triển nhanh, mạnh và sâu rộng với những điểm, nổi bật là: xây dựng lực lượng vũ trang sớm, diệt ác phá kèm, phong trào thoát li tham gia cách mạng mạnh mẽ nhất trong tỉnh.

Sau khi soát xét tình hình chung trong tỉnh và phong trào từng huyện, tỉnh ủy quyết định chọn một xã của huyện Tuy Hòa 1 làm thí điểm, phát động nhân dân đồng khởi, dùng lực lượng vũ trang đánh đổ ngụy quyền địch, thành lập chính quyền cách mạng của nhân dân, để tỉnh rút kinh nghiệm, mở đường cho các xã khác đồng khởi.

Căn cứ vào nhiệm vụ của tỉnh giao, đồng chí bí thư Huyện ủy triệu tập một số cán bộ lãnh đạo trong huyện họp bàn về đồng khởi, qua thảo luận Huyện ủy nhất tí chọn xã Hòa Thịnh bởi so với các xã khác nó có nhiều điều kiện thuận lợi và chín muồi hơn.

- Trước hết xã có nhiều tổ chức Chi bộ Đảng, Đoàn thanh niên.

- Quần chúng có tinh thần cách mạng cao, có khả năng che giấu bảo toàn lực lượng, sẵn sàng nổi dậy.

- Có cơ sở nội tuyến trong hàng ngũ địch.

- Địa hình thuận lợi, gần núi và căn cứ của ta.

Những yếu tố trên có cơ sở để hạ quyết tâm, Huyện ủy phân công cụ hể cho một số đồng chí tiến hành chuẩn bị tập trung đạt cho được các khâu then chốt là;

- Duy trì liên lạc với cơ sở nội tuyến, nắm chắc quy luật hoạt động của địch, ăn ngủ, tuần tra canh gác (chủ yếu là ban đêm).

- Động viên các tổ chức và cơ sở hợp pháp.

- Chuẩn bị các phương tiện, vũ khí thô sơ, băng cờ khẩu hiệu cho đồng khởi.

- Chuẩn bị lực lượng thoát li.

- Chuẩn bị chọn hướng hành quân tiếp cnậ bảo đảm bí mật, an toàn.

- Đảm bảo giữ thế hợp pháp và duy trì tổ chức cách mạng sau khi đồng khởi.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 20 Tháng Tư, 2011, 10:54:04 am
Trong thời gian ngắn với tinh thần khẩn trương mọi yêu cầu công tác chuẩn bị được tiến hành khá thuận lợi, đạt kết quả khá tương đối tốt. Ngày 17-12-1960, cuộc họp Huyện ủy bất thường tiến hành dưới sự chủ trì của đồng chí Lê Xuân Mai - Bí thư Huyện ủy, với sự tham dự gồm các đồng chí: Chí Cao (Nguyễn Duy Luân), Bảy Tính (Bùi Tân), Bốn Già, Sáu Soạn, Nam Long (cán bộ quân sự tỉnh), Năm Đẹt, Lê Thạnh, Tám Quát (Nguyễn Bá Diệp), đồng chí Bảy Già (Huỳnh Lưu) thay mặt cho Tỉnh ủy đến dự. Nội dung hội nghị: Soát xét tình hình, đánh giá kết quả công tác chuẩn bị, đề ra những yèu câu phải đạt được trong đồng khởi:

- Tiêu diệt và đánh tan lực lượng địch kèm kẹp dân trên địa bàn xã, phá rã tổ chức ngụy quyền.

- Phải huy động được đông đảo quần chúng nổi dậy tham gia mít ting biểu tình thị uy.

- Vận động được nhiều thanh niên thoát li tham gia cách mạng.

- Vận động nhân dân đóng góp, ủng hộ tiền của lương thực cho cách mạng.

Đồng chí Bảy Tính - Huyện ủy viên phụ trách lực lượng vũ trang tình bày phương án đánh địch của lực lượng vũ trang để châm ngòi và hỗ trợ cho nhân dân nổi dậy giành chính qquyền làm chủ.

Kết thúc cuộc họp mang tính lịch sử này, lệnh đồng khởi được truyền đến tận cơ sở.

Để bảo đảm hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ trọng đại và hết sức vẻ vang này, cấp ủy và chi bộ Đảng Hòa Thịnh cùng cán bộ huyện bàn bạc kĩ các nhiệm vụ cụ thể, dự kiến những tình huống có thể, đề ra biện pháp xử lí. Quyết định thành lập đội vũ trang của xã làm lực lượng chủ công trong đồng khởi có tổ vũ trang huyện làm nòng cốt.

Trong không khí sôi động với tinh thần hồ hởi phấn khởi chuẩn bị cho đồng khởi của cán bộ, chiến sĩ trong những ngày cuối tháng 12. Một tin vô cùng trọng đại lại đến với quân dân miền Nam nói chung, huyện Tuy Hòa nói riêng là ngày 20-12-1960 Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời, sự kiện chính trị đặc biệt, nguồn cổ vũ lớn lao càng thúc giục mọi người tăng nghị lực mới hăng hái lao vào nhiệm vụ.

Ngày 21-12 mọi nhiệm vụ được tổ chức phân công cụ thể: lực lượng nổi dậy của thanh niên liên lạc với anh Đào Công Văn trung đội trưởng dân vệ là cơ sở của ta và giao nhiệm vụ: tập trung dân vệ tại nhà anh Đào Tấn Sĩ để đánh bạc, dồn súng lại một chỗ, phải điều cho được tên Ngọc trung đội phó vì tên này ác ôn có nhiều nợ máu để ta giết hắn. Băng cờ khẩu hiệu các thôn đã chuẩn bị sẵn tập trung lại các điểm quy định.

Tổ chức lãnh đạo và trực tiếp chỉ huy cuộc đồng khởi là do Ban Thường vụ huyện ủy gồm: đồng chí Lê Xuân Mai, đồng chí Chín Cao (Nguyễn Duy Luân Phó Bí thư, đồng chí Bảy Tính (Bùi Tân), Huyện ủy viên, Bốn Già (Nguyễn Anh), Huyện ủy viên.

Tổ chức lực lượng và phân công nhiệm vụ trên các hướng, các mũi:

- Về lực lượng: đội vũ trang công tác của huyện có 15 đồng chí được trang bị 4 tiểu liên, 7 súng trường, cùng lực lượng vũ trang xã có 6 đồng chí, trang bị lựu đạn và dao găm. Ngoài ra toàn bộ cán bộ cơ quan Huyện ủy cũng đềm tham gia.

- Tổ chức chiến đấu: chia thành 3 mũi:

Mũi chủ yếu: đánh vào Mi Xuân (nhà Đào Tấn Sĩ), có nhiệm vụ: tiêu diệt và bắt gọn trung đội dân vệ.

Mũi thứ yếu 1: đánh vào nhà tên Khải đại diện xã ở Mĩ Trung

Mũi thứ yếu 2: đánh vào nhà tên Tín phó đại diện xã ở Phú Hữu.

Diễn biến cụ thể: đúng vào lúc 23 giờ đêm 22-12-1960 theo phương án và tổ chức hiệp đồng. Mũi chủ yếu đánh thẳng vào nhà Đào Tấn Sĩ (Mĩ Xuân), tên Ngọc trung đội phó chống cự bị ta diệt tại chỗ, số còn lại bị ta bao vây bắt sống, thu toàn bộ vũ khí.

Ở Mĩ Trung: ta đánh vào nhà tên Khải đại diện bắt sống hắn.

Ở Phú Hữu: ta đột nhập vào nhà bắt tên Nguyễn Tín phó đại diện xã.

Gần 1 giờ đồng hồ tiếng súng nổ, tiếng trống mõ, thanh la của nhân dân trong toàn xã nổi lên rầm rộ liên hồi. Toàn bộ lực lượng của bọn ngụy quân ngụy quyền đã bị lực lượng cách mạng diệt và bắt, số còn lại trốn chạy. Xã Hòa Thịnh được đặt dưới sự kiểm soát của cách mạng - chính quyền thuộc về nhân dân. Tiếng trống mõ, đèn duốc thắp sáng từ các thôn, tiếng reo hò, từng đoàn người trẻ già trai gái kéo về trụ sở của bọn ngụy quyền ở xã Mĩ Xuân - điểm mít ting đã chuẩn bị sẵn, lá cờ đỏ sao vàng với khổ lớn đã kéo lên cột cờ, băng rôn khẩu hiệu được căng chung quanh mang dòng chữ “Đả đảo Mĩ Diệm và bè lũ tay sai” cách mạng nhất định thắng!... Hơn 2000 đồng bào đến dự đứng quanh cột cờ dưới ánh sáng của đèn măng sông trong không khí trang nghiêm hùng tráng đầy xúc động với tâm trạng mong chờ và hội tụ.

Đồng chí Lê Xuân Mai bí thư huyện ủy dõng dạc đứng lên giữa vòng đồng bào khép kín như ôm ấp, che chở im lặng đón chờ ý Đảng đến với lòng dân. Đồng chí nói rõ âm mưu của bọn đế quốc Mi và bè lũ tay sai âm mưu chia cắt lâu dài Tổ quốc ta, buộc đồng bào ta suốt đời làm nô lệ cho chúng… đồng chí vạch trần những tội ác của bè lũ tay sai Nhu - Diệm… tuyên bố xóa bỏ ngụy quyền tay sai, chính quyền thuộc về tay nhân dân… Cuối cùng đồng chí kêu gọi mọi tầng lớp đồng bào vùng lên làm cách mạng giải phóng quê hương, giành độc lập tự do cho Tổ quốc.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 20 Tháng Tư, 2011, 10:55:27 am
Tiếp theo đồng chí Chín Cao, Bảy Tính nói cho đồng bào hiểu rõ thế lực địch với ta, sự lớn lên của cách mạng. Kêu gọi thanh niên thoát li tham gia cách mạng. Kêu gọi đồng bào ủng hộ tiền của, lương thực nuôi quân, vừa dứt lời có 45 thanh niên xung phong gia nhập lực lượng vũ trang giải phóng. Tên Tín phó đại diện xã ra thú tội trước nhân dân, giao nộp toàn bộ tài liệu và 16.000 đ cho cách mạng. Cuộc mít ting kéo dài đến 2 giờ sáng, sau đó nhân dân tỏa ra đường tuần hành về tận các thôn, hô vang các khẩu hiệu “Ủng hộ chính quyền cách mạng, “Đả đảo chính quyền Mĩ Diệm tay sai bán nước”.

Sáng hôm sau 1 đại đội bảo an tiếp ứng nhưng đến Hòa Mĩ dừng lại chiều mới vào Hòa Thịnh rồi rút ra trước khi trời tối: Hòa Thịnh trở thành một xã do cách mạng làm chủ.

Phát huy thắng lợi đêm đồng khởi, nhân dân Hòa Thịnh khẩn trương tổ chức lực lượng du kích, tiểu đội du kích xã có 8 đ/c, trang bị 3 súng trường do đồng chí Lê Chuẩn xã đội trưởng trực tiếp chỉ huy. Xây dựng các tổ chức quần chúng phụ nữ, thanh niên, phụ lão, chi đoàn thanh niên lao động được thành lập có 13 đoàn viên do đồng chí Phao làm Bí thư, tổ chức chi bộ thôn Mĩ Điền có 35 đảng viên (trong đó có 15 đảng viên dự bị) do đồng chí Năm Tức làm Bí thư.

Cuộc đồng khởi Hòa Thịnh là cuộc đồng khởi đầu tiên của nhân dân ở một xã đồng bằng Phú Yên, giành thắng lợi nhanh, gọn. Do có sự chuẩn bị chu đáo về thực lực chính trị, lực lượng vũ trang, coi trọng công tác binh vận, được lãnh đạo tổ chức chỉ huy hiệp đồng chặt chẽ, biểu dương được khí thế cách mạng của quần chúng, áp đảo được thế lực phản cách mạng.

Thắng lợi đồng khởi Hòa Thịnh là một điển hình thành công của Đảng bộ Phú Yên, vận dụng đúng đắn đường lối phương châm của Đảng, kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang tạo nên sức mạnh quật khởi của quần chúng, tiêu diệt ngụy quân đánh đổ ngụy quyền, thành lập và bảo vệ chính quyền cách mạng ở cơ sở.

Thắng lợi đồng khởi Hòa Thịnh đã chứng minh đường lối phương châm, phương pháp cách mạng của Đảng ta thể hiện trong nghị quyết 15 của Trung ương Đảng là hoàn toàn đúng đắn và sáng tạo. Thắng lợi đồng khởi Hòa Thịnh có tác động mạnh mẽ mở đường cho các xã trong huyện và toàn tỉnh. Nhân dân tin tưởng vào cách mạng, bọn ác ôn ngụy quyền hoang mang dao động.

Thắng lợi đồng khởi Hòa Thịnh đã khẳng định được vai trò then chốt của lực lượng vũ trang, là trận đánh đầu tiên, là chiến công đầu tiên nhưng có ý nghĩa cực kì quan trọng, làm nền tảng cho xây dựng tổ chức và phát triển lực lượng vũ trang xã, huyện, là động lực thúc đẩy cho lực lượng vũ trang phát huy được vai trò công cụ sắc bén của bạo lực cách mạng, là nòng cốt cho vũ trang khởi nghĩa cướp chính quyền về tay nhân dân.

Phát huy thắng lợi đồng khởi Hòa Thịnh, các xã hòa Đồng, Hòa Tân, Hòa Mĩ, Hòa Xuân, Hòa Hiệp đều tổ chức thành lập ngay các tổ vũ trang làm nòng cốt cho việc nổi dậy diệt ác phá kèm.

Tối ngày 24-12-1960 tại xã Hòa Đồng được sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang, quần chúng nổi dậy bắt tên đại diện xã tổ chức mít ting, tên đại diện xã quỳ trước nhân dân nhận tôi và xin tha tội chết.

Tối ngày 25-12-1960 một tổ vũ trang huyện đột nhập xã Hòa Tân phối hợp với cơ sở diệt tên Diện cộng tác viên phòng nhì, bắt tên Chương đại diện xã và 2 tên ác ôn khác. Tối ngày 26-12-1960 ta đột nhập vào phá khu dồn Hòn Kén làm chủ cả ngày hôm sau và đánh bại tiểu đoàn biệt động của địch từ Khánh Hòa ra.

Tối ngày 27-12-1960 đội vũ trang huyện cùng tổ vũ trang xã đột nhập vào các ấp Phú Nhiêu, Vạn Lộc, Phú Nhuận tuyên truyền phát động quần chúng. Sáng 28-12-1960 ta tổ chức mít ting tại chợ Phú Nhiêu có hàng ngàn người dự. Cùng thời gian những ngày cuối tháng 12-1960 các xã Hòa Xuân, Hòa Hiệp cũng tổ chức lực lượng vũ trang hỗ trợ quần chúng nổi dậy diệt ác, mít ting vận động nhân dân ủng hộ cách mạng. Chỉ trong một thời gian chưa đầy 3 tháng huyện Tuy Hòa đã có 1.300 thanh niên thoát li gia nhập lực lượng cách mạng, đặc biệt là ở các thôn Phú Hòa, Thọ Lâm, Đa Ngư, Phú Lạc xã Hòa Hiệp có gần 500 thanh niên thoát li theo cách mạng.

Đồng khởi Hòa Thịnh thắng lợi mở đầu cho những cuộc nổi dậy tiếp diễn ở Hòa Đông, Hòa Mĩ, Hòa Tân, Hòa Xuân, Hòa Hiệp. Hầu như trên toàn huyện Tuy Hòa nơi nào cũng nổi dậy đẩy địch vào thế lúng túng, phần đông các tổ chức ngụy quyền hoang mang dao động. Phong trào cách mạng trên toàn huyện phát triển nhanh chóng, tạo được thế mới, lực mới chuyển sang giai đoạn “cách mạng tiến công”.

Đồng khởi Hòa Thịnh và cuộc nổi dậy của nhân dân huyện Tuy Hòa là một thực tế sinh động, chứng minh con đường bạo lực các mạng của Đảng đề ra là đúng đắn: “… Lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lương chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ quyền thống trị của đế quốc và phong kiến, dựng lên chính quyền của nhân dân…”(1)


(1) Trích nghị quyết 15 của Trung ương Đảng năm 1959.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 21 Tháng Tư, 2011, 08:22:25 am
CHƯƠNG IV

TIẾN HÀNH CHIẾN TRANH NHÂN DÂN
BẰNG “2 CHÂN 3 MŨI” GÓP PHẦN ĐÁNH BẠI
CHIẾN TRANH ĐẶC BIỆT (1961-1965)

I - ĐÁNH ĐỊCH BẢO VỆ THÀNH QUẢ CÁCH MẠNG

Hòa Thịnh là một xã ở đồng bằng huyện Tuy Hòa, cách thị xã Tuy Hòa không xa nhưng nối liên với núi, do vậy địch chưa chịu bỏ vùng này thuộc về cách mạng, nếu cách mạng làm chủ sẽ xây dựng bàn đạp lợi hại để phát triển tấn công chúng, hơn nữa sẽ xây dựng căn cứ được vững chắc hơn.

- Hai mươi ngày sau, ngày 21-01-1961, một trung đội bảo an hành quân vào Hòa Thịnh để lùng sục càn quét mở đường đưa lực lượng dân vệ lên tái chiếm lại Hòa Thịnh. Nắm được tình hình và quy luật của địch, sáng lên chiều về bảo an đi trước dân vệ đi sau, đội vũ trang của huyện và du kích xã do đồng chí Bảy Tính chỉ huy đã bí mật phục kích trên đoạn Bầu Sét (đoạn Bến Củi vào Mĩ Xuân). Cả trung đội dân vệ lọt vào khu vực phục kích của, ta nổ súng khóa chặt, địch không đường chạy buộc chúng phải bỏ súng đầu hàng. Ta bắt gọn cả trung đội, thu 25 súng, có 3 tiểu liện. Thực hiện chính sách khoan hồng, ta giáo dục và thả tại chỗ cho họ về nhà làm ăn.

(http://img535.imageshack.us/img535/8873/35609838.jpg)

* Về thời điểm trận Bầu Sét - Hòa Thịnh: theo sách "Phú Yên 30 năm chiến tranh giải phóng (1945-1975)" trận đánh xảy ra vào ngày 12-1-1961. Cả hai cuốn sách đều xác định trận đánh xảy ra 20 ngày sau đồng khởi Hòa Thịnh (22-12-1960), nên ngày 12-1-1961 là thời điểm chính xác. Ở đây tôi giữ nguyên ngày 21-1 trong phần đánh máy hay ngày 1-1 như trong bản đồ, dù biết là có sự nhầm lẫn, là vì tôn trọng nội dung gốc của sách.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 21 Tháng Tư, 2011, 08:31:40 am
Chiến thắng Bầu Sét là trận đánh phục kích đầu tiên của lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa, là trận đánh nhanh diệt gọn. Điểm nổi bật là: nắm chắc địch, chọn địa hình hiểm yếu có lợi cho ta, bảo đảm bí mật, phương án và tổ chức chiến đấu thích hợp, có quyết tâm cao.

Chiến thắng Bầu Sét có ý nghĩa đặc biệt, gây tiếng vang lớn mở đầu cho lực lượng vũ trang huyện nhà phát huy thắng lợi liên tục chiến đấu lập nhiều chiến công to lớn và xuất sắc hơn.

Đầu năm 1961, phong trào cách mạng của huyện phát triển nhanh chóng và rộng khắp, để giữ vững thế phát triển của phong trào đòi hỏi nhiệm vụ tổ chức xây dựng lực lượng vũ trang vồ cùng cấp bách. Các xã Hòa Hiệp, Hòa Xuân, Hòa Tân, Hòa Đồng, Hòa Mĩ, Hòa Thịnh đều tổ chức đội vũ trang. Những xã vùng sâu có tổ chức vũ trang như Hòa Thành, Hòa Bình, Hòa Vinh, Hòa Phong.

Chấp hành chỉ thị của cấp trên, huyện ủy quyết định tổ chức lực lượng vũ trang tập trung của huyện, rút các đội vũ trang công tác của 3 miền: miền Đông, miền Trung, miền Tây, bổ sung một số thanh niên vừa thoát li trong đợt đồng khởi để thành lập trung đội vũ trang tuyên truyền của huyện. Đội có 27 đ/c được trang bị 1 tiểu liên, t carbine, còn là súng trường và lựu đạn. Do đồng chí Lũy chỉ huy trưởng, đồng chí Quang chỉ huy phó, đồng chí Xuân làm chính trị viên. Đây là tiền thân của Đại đội 337 cùng với nhiệm vụ tổ chức xây dựng lực lượng vũ trang cơ sở ở xã, huyện, các tổ chức đoàn thể và đảm bảo cho nhu cầu chung của huyện cũng đã nhanh chóng hình thành như thanh niên, phụ nữ, nông dân, tràm xá, giao liên, kinh tài, ban binh vận. Đặc biệt là tổ chức Mặt trận dân tộc giải phóng huyện được thành lập do đồng chí Nguyễn Cần (Bốn Lọ) làm chủ tịch. Sự ra đời của các tổ chức chung quanh Mặt trận dân tộc giải phóng được sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng đã khẳng định một bước sức mạnh tổng hợp thế lực mới đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

Để đối phó với tình hình phát triển nhanh hóng của cách mạng, địch ra sức củng cố bộ máy kèm kẹp ở thôn, xóm, ấp. Chúng tổ chức mỗi xã 1 trung đội dân vệ, 1 trung đội thanh niên cộng hòa. Đưa lực lượng địa phương quân (bảo an, dân vệ) lùng sục càn quét đánh phá các vùng mới giải phóng của ta với các thủ đoạn hết sức dã man, bắt bớ, giết hại cơ sở cách mạng và đồng bào yêu nước bằng các hình thức man rợ: mổ bụng, cắt đầu, thả sông… đốt phá bắt giết trâu bò, cướp của, dồn dân.

Trước những âm mưu thủ đoạn đánh phá quyết liệt của địch, phong trào vẫn được giữ vững và tiếp tục phát triển, hầu hết các xã có chi bộ Đảng, lập được hậu cứ.

Ngày 28-02-1961 đại đội bảo an do tên trung úy Châu khét tiếng gian ác chỉ huy kéo vào Hòa Thịnh, bị đội vũ trang huyện và du kích xã chặn đánh quyết liệt, diệt 11 tên buộc địch tháo chạy ra Hòa Mĩ. Sau trận đánh này huyện đã kịp thời phổ biến kinh nghiệm đánh, chống địch càn quét cho lực lượng vũ trang du kích các xã học tập và xây dựng quyết tâm chiến đấu bảo vệ đồng bào, bảo vệ lực lượng và căn cứ ta.

Để chuẩn bị mở rộng phong trào giải phóng đồng bằng, tháng 4-1961 Tỉnh ủy tổ chức hội nghị đề ra một số chủ trương “củng cố các đoàn thể quần chúng, ban ngành chuyên môn như: tỉnh đội, an ninh, kinh tài, dân y, giao bưu… kiện toàn ban chỉ huy quân sự các cấp…”. Hội nghị nhấn mạnh điều quan trọng là đưa lực lượng xuống bám dân, bám giáp ranh và đồng bằng để phát động quần chúng mở phong trào.

Thực hiện tinh thần của hội nghị Tỉnh ủy, huyện tổ chức lực lượng lây vũ trang làm nòng cốt. Đêm 29, 30, 31-5-1961 liên tục đột nhập các thôn Mĩ Thành, Ngọc Lâm, Lạc Chỉ, Xuân Mĩ (Hòa Mĩ), Mĩ Phong (Hòa Đồng) truy tróc ngụy quyền, phát động quần chúng, động viên lương thực, thu được kết quả tốt.

Tháng 3-1961 lực lượng vũ trang Hòa Xuân được huyện tăng cường một tiểu đội thực hiện nhiệm vụ diệt ác trong toàn xã. Kết quả trong một đêm đã diệt được 7 tên ác ôn, hỗ trợ đồng bào nổi dậy ủng hộ cách mạng và gây áp lực cho bọn ngụy quyền sợ hãi.

Tháng 4-1961 đội vũ trang công tác xã Hòa Tân bí mật phục kích giữa ban ngày ở thôn Đồng Thanh diệt tên trung đội trưởng dân vệ thu 1 súng. Đây là trận đánh đầu tiên của lực lượng vũ trang xã.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 21 Tháng Tư, 2011, 08:33:44 am
II - LỰC LƯỢNG VŨ TRANG HUYỆN TUY HÒA CÙNG NHÂN DÂN ĐÁNH BẠI KẾ HOẠCH STALÂY - TAYLO CỦA MĨ

Tháng 7-1961 để cứu vãn tình thế bị suy sụp nghiêm trọng của chế độ bù nhìn tay sai Ngô Đình Diệm, đế quốc Mĩ đưa ra kế hoạch Stalây - Taylo, chính thức phát động chiến tranh đặc biệt để đàn áp phong trào cách mạng ở miền Nam, dốc sức đánh phá tiến tới bình định miền Nam trong vòng 18 tháng (tháng 7-1961 đến tháng 12-1962).

Để thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy (tháng 4-1961) “Kiện toàn ban chỉ huy quân sự các cấp”, Ban chỉ huy huyện đội được bổ sung đầy đủ do đồng chí Tô Nào (Tấn) làm huyện đội trưởng, đồng chí Nguyễn Khánh Thành, Huyện đội phó, đồng chí Trần Văn Sang chính trị viên, nhằm tăng cường lực lượng đủ sức chống phá và đập tan âm ưmu chiến lược của đế quốc Mĩ và bè lũ tay sai.

Tháng 7-1961 Tỉnh đội Phú Yên và huyện ủy Tuy Hòa quyết định thành lập đại đội bộ đội tập trung huyện, buổi lễ thành lập được tổ chức nghiêm túc ở Suối Cùng thôn Mĩ Điền xã Hòa Thịnh. Để phát huy truyên thống chiến đấu trong thời kì đánh thực dân Pháp, đại đội được mang lại phiên hiệu cũ là 377, quân số tổ chức thành 2 trung đội, trang bị 3 trung liên, tiểu liên súng trường đầy đủ. Đại đội 377 do đồng chí Tô Nào, Huyện đội trưởng trực tiếp làm đại đội trưởng, đồng chí Quế làm chính trị viên. Đây là đại đội bộ đội địa phương đầu tiên được thành lập ở huyện Tuy Hòa trong thời kì chống Mĩ. Cán bộ và chiến sĩ trong đơn vị đều trải qua rèn luyện thử thách và trưởng thành trong phong trào đấu tranh cách mạng. Ngay sau khi vừa thành lập đơn vị 377 kết hợp vừa xây dựng vừa công tác, phát động nhân dân đẩy mạnh công tác bố phòng bảo vệ thôn xóm, sẵn sàng đánh địch. Tuy quân số còn ít, vũ khí còn thiếu nhưng đơn vị sẽ kế thừa truyền thóng của đội quân đàn anh ngay trước. Nó sẽ là lực lượng tiên phong của huyện đi đầu trong phong trào vũ trang khởi nghĩa và làm nòng cốt cho việc xây dựng lực lượng vũ trang và phong trào toàn dân đánh giặc.

Là con đẻ của nhân dân, của phong trào cách mạng trong huyện, việc thành lập đơn vị vũ trang tập trung là phù hợp với nguyện vọng của nhân dân và đã kích thích phong trào quần chúng phát triển mạnh mẽ.

Cùng thời gian này phần lớn các xã trong huyện tiến hành củng cố và thành lập ban chỉ huy xã đội, đội vũ trang và lực lượng du kích được củng cố và phát triển khá mạnh có một số xã như Hòa Hiệp, Hòa Xuân, Hòa Tân, Hòa Thịnh, Hòa Mĩ, có quân số từ 10-15 đồng chí (chưa kể lực lượng du kích hợp pháp), trang bị vũ khí được tăng cường, khả năng tác chiến độc lập. Huyện ủy Tuy Hòa luôn luôn tuyên truyền giáo dục và phổ cập cho cán bộ chiến sĩ, quân dân chính đảng trong huyện học tập và tiếp thu nhuần nhuyễn đường lỗi chiến tranh nhân dân, nhân dân du kích chiến tranh, vũ trang toàn dân, quan điểm tự lực tự cường, luôn phát huy truyền thống của lực lượng vũ trang cách mạng, từ không đến có, từ ít tới nhiều, từ yếu lên mạnh. Đặc biệt đối với lực lượng vũ trang. Bán vũ trang càng nỗ lực thực hiện bản chất của một đội quân vừa chiến đấu, công tác và sản xuất.

Tổ chức xây dựng và phát triển lực lượng là yêu cầu bức thiết của quá trình cách mạng có tính quy luật, đã thực hiện đồng thời 2 nhiệm vụ đó đòi hỏi phải có một nguồn lực dồi dào về quân số, vũ khí, trang bị, lương thực, thực phẩm, thuốc men… Trong lúc đó ta chưa có vùng giải phóng rộng lớn, chưa có hậu cứ vững chắc, địch lại đánh phá khốc liệt. Để khắc phục những khó khăn thực tế, huyện ủy phát động phong trào toàn dân tăng gia sản xuất, tự túc và thực hành tiết kiệm để nuôi quân. Hưởng ứng phong trào, tất cả các đại đội vũ trang, các xã, các đội công tác, các ban ngành cơ quan trong huyện, từ Dốc Phường, Suối Phần (miền Tây, đến Hang Vàng, Bầu Sấu (miền Đông) nơi nào có cách mạng ở nơi đó có lúa, bắp, sắn khoai, rau xanh dọc theo các bờ suối, hóc đá. Những đám ruộng nhỏ, những rẻo đất gần trong bìa núi đều có hoa màu nên đã mang lại một phần lương thực, thực phẩm, giải quyết những khó khăn nhất định. Các đội vũ trang và du kích xã độc lập chiến đấu, tổ chức thọc sâu diệt ác, làm công tác binh địch vận, tước, thu vũ khí địch để trang bị cho mình. Quan điểm tự lực tự cường, tăng gia sản xuất, tực túc tiết kiệm đã trở thành bản chất và truyền thống của lực lượng vũ trang nhân dân trong suốt 9 năm kháng chiến chống Pháp và cả trong thời kì chống Mĩ.

Thực hiện kế hoạch chiến lược Stalây - Taylo biện pháp chủ yếu của địch là dùng sức mạnh quân sự kết hợp chính trị và kinh tế, mở các cuộc kết quả càn quét liên tiếp đánh phá dai dẳng dài ngày. Áp dụng các chiến thuật “trực thăng vận”, “thiết xa vận” nhằm đàn áp gom dân lập ấp chiến lược và tiêu diệt lực lượng cách mạng. Trước sức tấn công càn quét đánh phá của địch, huyện chủ trương: tận dụng mọi sơ hở của địch, dùng lực lượng vũ trang luồn sâu bất ngờ đánh diệt các mâm hội đồng và lực lượng kèm kẹp của chúng nhằm làm rối loạn hậu phương buộc địch phải quay về đối phó. Tăng cường bố phòng vùng giáp ranh, căn cứ, phân tán lực lượng tích cực đánh càn quét nống lấn: cắt một phần lực lượng của Đại đội 377 tăng cường cho miền Đông cùng lực lượng vũ trang và du kích hoạt động ở 2 xã Nam Hòa Xuân và Hòa Hiệp. Lực lượng còn lại cơ động đánh địch ở miền Trung và miền Tây. Đầu tháng 8-1961 đội vũ trang Hòa Hiệp cùng lực lượng 377 luồn sâu phục kích ở ngã tư Phú Hiệp. Địch chủ quan không ngờ ta dám phục kích ở đây nên trận đánh diễn ra vô cùng nhanh gọn. Kết quả ta diệt tại chỗ 3 tên, bắt sống 10 tên, có 1 đại diện xã, 1 cảnh sát và 8 tên dân vệ, thu 12 súng, ta hoàn toàn vô sự. Đây là trận đánh sâu trong hang ổ địch gây cho chúng hoang mang, tăng thêm sự tin tưởng hiệp đồng chiến đấu giữa 2 lực lượng huyện, xã. Trước thất bại này bọn ngụy quyền xã, quận dùng thủ đoạn trả đũa bắt bớ bừa bãi đồng bào (cả gia đình của ngụy quân) đánh đập giam cầm, đồng bào hết sức phẫn nộ. Lợi dụng thời cơ ta tổ chức lực lượng đấu tranh trực diện với chính quyền xã, quận, đòi thả những người bị bắt. Sự dã man tàn bạo của kẻ thù không những làm cho nhân dân ta vô cùng phẫn nộ mà còn làm thức tỉnh những người lính trong quân đội tay sai. Tình yêu đồng loại cùng với nhận thức về cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân đã giác ngộ họ. Họ quay súng trở về với cách mạng, hoặc trở về làm ăn lương thiện. Tiêu biểu có anh Huỳnh Chí Nguyện(1) (cơ sở của ta) làm Trung đội phó dân vệ đã vận động anh em binh sĩ binh biến phản chiến mang toàn bộ súng theo cách mạng ra vùng giải phóng anh tiếp tục là trung đội trưởng Trung đội 375. Các cuộc đột nhập gọi loa tuyên truyền, bắt bọn tề ngụy ở các xã sâu Hòa Thành, Hòa Bình, Hòa Vinh đã làm hạn chế tính hung hăng của bọn ngụy quyền và giữ được tinh thần và lòng tin của cơ sở ta.

Tháng 8 năm 1961 Ban chỉ huy quân sự tỉnh triệu tập hội nghị quân sự tỉnh lần thứ 2. Hội nghị nêu rõ vấn đề bức thiết là: “… đi đội với nhiệm vụ phát triển lực lượng tập trung phải đặc biệt chú trọng phát triển phong trào nhân dân du kích chiến tranh, mỗi thôn phải có ít nhất một tổ du kích, mỗi xã phải có ít nhất một tiểu đội du kích vừa tổ chức du kích công khai ở vùng giải phóng, vừa tổ chức du kích mật ở vùng tranh chấp và vùng địc kèm kẹp. Trang bị cho lực lượng du kích hiện nay chủ yếu là vũ khí tự tạo, chông, mìn, lựu đạn, vũ khí thu được của địch.. Các đơn vị vũ trang tỉnh, huyện phải kèm cặp giúp đỡ huấn luyện du kích đánh địch và từng bước cải tiến trang bị cho du kích, để du kích có thể nhanh chóng độc lập tác chiến, bảo vệ thôn xã, bảo vệ nhân dân.


(1) Anh Nguyện sau là huyện đội trưởng Diên Khánh, là liệt sĩ hi sinh năm 1967.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 21 Tháng Tư, 2011, 08:35:36 am
Lãnh hội tinh thần của hội nghị quân sự tỉnh, huyện ủy và huyện đội Tuy Hòa đã chỉ đạo cụ thể nhiệm vụ cho các xã “… khẩn trương phát triển lực lượng du kích, đặc biệt là tổ chức du kích mật, phát huy sáng kiến làm vũ khí tự tạo, câu móc cơ sở lấy cắp vũ khí địch để trang bị cho du kích”. Đến cuối năm 1961 các xã Hòa Hiệp, Hòa Xuân, Hòa Bình, Hòa Thành xã nào cũng tổ chức từ 1 đến 3 tổ du kích mật. Đây là một tổ chức ra đời sớm nhất trong lực lượng bán vũ trang của tỉnh nhà.

Tháng 9 năm 1961 đội vũ trang công tác xã Hòa Đồng diệt tên ác ôn Đặng Phú Tân và một số tên khác. Đặc biệt thôn Phú Phong rào làng chống giặc, địch đến giải tỏa lực lượng ta dựa vào làng chiến đấu được nhân dân che chở đã quần bám đánh địch diệt 8 tên, bắt sống 3 tên, thu 6 súng. Trận chiến đấu tiêu biểu biết dựa vào làng, vào dân để đánh địch giành thắng lợi, hỗ trợ cho nhân dân giữ vững phong trào.

Gần cuối năm 1962 huyện đội đã mở một lớp huấn luyện quân sự cấp tốc ngắn ngày cho 600 thanh niên trong toàn huyện, lớp huấn luyện được mở tại Hào Thịnh. Họ được dạy những kĩ thuật cơ bản về bắn súng, ném lựu đạn, phương pháp chiến thuật đơn giản. Sau lớp học họ được bổ sung cho các đơn vị vũ trang của xã, huyện, tỉnh và 2 tỉnh bạn Khánh Hòa, Đắk Lắk. Trong 2 năm 1960-1961 phong trào thanh niên tòng quân nhập ngũ của huyện Tuy Hòa được quân khu đánh giá là ngọn cờ đầu trong quân khu.

Tuy đời sống vật chất khó khăn thiếu thốn nhưng tinh thần tư tưởng của cán bộ chiến sĩ luôn phấn khởi hăng hái không một ai kêu ca phàn nàn, luôn nhắc nhau thông cảm cho hoành cảnh bước đầu của cách mạng, động viên nhau đoàn kết, tin tưởng, nỗ lực hoàn thành mọi nhiệm vụ của người chiến sĩ cách mạng.

Đầu năm 1962, sau những cố gắng bằng nhiều thủ đoạn xảo quyệt trong năm 1961, địch đã củng cố và ổn định được vùng chính kiểm soát. Chúng lại đề ra âm mưu thủ đoạn mới, tập trung lực lượng càn quét đánh phá ác liệt dài ngày cố đạt cho được mục tiêu “củng cố chắc vùng xanh, giành lại vùng vàng, đánh phá vùng đỏ và tổ chức chốt giữ”(1).

Ngày 08 tháng 5 năm 1962 địch tập trung quân mở chiến dịch “Hải Yến” càn quét đánh phá vùng giải phóng của ta trên diện rộng toàn tỉnh. Đây là cuộc càn quét quy mô, dài ngày, chia làm nhiều đợt, nhiều khu vực có trọng điểm. Mục tiêu cuối cùng của chúng là thực hiện âm mưu: bắt lính, dồn dân lập ấp chiến lược, xây dựng và củng cố lực lượng ngụy quân, bộ máy ngụy quyền thôn xã, tổ chức lực lượng phục quân, áp dụng lối đánh du kích chống lại chiến tranh du kích của ta. Để thực hiện được âm mưu trên chúng dùng phương thức; tập trung quân đánh phá các thôn, xã giải phóng, đóng chốt, dồn dân, lập ấp chiến lược, lấy 2 xã Hòa Bình, Hòa Đồng làm trọng điểm.

Về chính trị: khôi phục lại bộ máy ngụy quyền có 2 hệ công khai và bí mật, tiến hành tàn sát, khủng bố trắng, bắt bớ chém giết, tập trung các cơ sở, gia đình thoát li, đẩy mạnh chiến tranh tâm lí, chiêu hồi chiêu hàng, tổ chức cài cấy gián điệp vào hàng ngũ ta.

Về kinh tế: bao vây, ráo riết, triệt đường tiếp tế giữa nhân dân với cách mạng, cướp thóc lúa, trâu bò ở vùng giải phóng và tranh chấp, phá các khu sản xuất của lực lượng ta.

Trước sự càn quét đánh phá ác liệt của địch, huyện ủy và Ban chỉ huy huyện đội Tuy Hòa có chủ trương “bổ sung lực lượng tập trung, lực lượng du kích, phân tán cơ động, tích cực chủ động đánh địch càn quét, luồn sâu, thọc sâu lợi dụng sơ hở của địch đánh vào hậu phương của chúng tuyên truyền, diệt ác, giữ cơ sở, giữ phong trào, giữ thế đấu tranh hợp pháp cho đồng bào, hỗ trợ quần chúng chống dồn, phá ấp…”.

Tại các xã Hòa Hiệp, Hòa Mĩ lực lượng du kích đã liên tục quần bám chặn đánh địch, diệt và làm bị thương hàng chục tên, làm hạn chế càn quét lùng sục, có bộ phận địch tháo chạy không dám tiến quân. Ở Hòa Xuân được sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang, đồng bào nổi dậy phá banh hàng vạn thước rào ấp chiến lược, phá hoại hơn 1 cây số đường xe lửa, phá sập cầu sông Mới, sông Ván, sông Tra. Tháng 8 năm 1962, một đại đội địch càn vào Hòa Xuân, nắm bắt được tinh thần hoang mang dao động của địch nên anh em du kích đã bắc loa tuyên truyền “anh em binh lính không càn quét bắn giết đồng bào, không gây ảnh nồi da xáo thịt, đau đớn tang hương, hãy bỏ súng về nhà với cha mẹ, vợ, con…” địch nghe và lui quân không càn quét. Trận chiến đấu không nổ súng mà giành thắng lợi có ý nghĩa quan trọng, chiến công mà quân dân Hòa Xuân nhớ mãi và ghi vào lịch sử truyền thống của quê hương.

Sau đó vài hôm, do cầu bị phá hoại, một xe Jeep của địch phải dừng, nữ du kích mật Phạm Thị Giỏi khôn khéo lừa 1 tên Mĩ vào làng báo cho du kích xã bắt sống. Đây là tên Mĩ bị bắt sống đầu tiên trên chiến trường khu 5.

Trên đoạn đường sát, đường quốc lộ Hòa Xuân, Đèo Cả, lực lượng du kích xã liên tục chặn đánh tàu xe của địch, 1 tiểu đội du kích do đồng chí Nguyễn Tấn Hùng chỉ huy dùng súng giả chặn đứng 1 đoàn tàu, xông lên thu vũ khí và rút quân an toàn. Sau đó một thời gian, vào đầu tháng 11 năm 1962, cũng đội du kích này dùng dây rừng cột vào đường ray sau khi đã mở hết bu loong phục kích. Khi 1 đoàn tàu quân sự tới ta tập trung kéo ray và nổ súng, đoàn tàu lật nhào xuống đồng lầy, anh em xung phong diệt một số sĩ quan binh lính, đầu máy và 4 toa tàu lật nhào, địch chết bị thương hơn 20 tên. Mấy hôm sau tổ du kích (có nữ) chặn 1 xe quân sự, bắt sống một tên cố vấn (Philippines) thu vũ khí. Đầu tháng 12 năm 1960 cũng trên đoạn đường này cũng đội du kích này trang bị chỉ có 1 súng trường, còn lại là súng giả, dao, lựu đạn dùng mưu mẹo nghe binh đánh lừa địch chăn đứng một đoàn tàu quân sự. Khi 1 chiến sĩ du kích lên tàu, 1 tên địch giữ đại liên định nổ súng chống cự bị du kích diệt tại chỗ. Bọn địch trên tàu run sợ, răm rắp tuân theo lệnh của lực lượng du kích. Anh em tuyên truyền chính sách của Mặt trận giải phóng miền Nam là đại đoàn kết dân tộc chống Mĩ cứu nước. Sau hơn 10 giờ ta cho phép tàu chạy.

Nhiều trận đánh với nhiều hình thức khác nhau, lúc thì nghi binh bắt tàu, khi thì nổ súng chặn tàu, khi thì phá hoại lật tàu diệt địch thu vũ khí. Đoạn đường “Hóc Mít - Hảo Sơn” gắn liền với chiến công của du kích Hòa Xuân. Nhân dân trong huyện trìu mến gọi tên “Đội du kích đường sắt” ca ngợi lòng dũng cảm mưu trí của đội. Chiến công đánh tàu của du kích Hòa Xuân đã được báo cáo điển hình trong đại hội liên hoan chiến sĩ thi đua của lực lượng vũ trang tỉnh năm 1963 và báo cáo trong đại hội thi đua của Quân khu 5 được cấp trên tuyên dương khen thưởng.

Chấp hành chỉ thị của tỉnh đội Phú Yên mở một đợt hoạt động vũ trang lớn ở Tuy Hòa nhằm ngăn chặn âm mưu càn quét đánh chiếm của địch, giữ được thế phát triển của ta. Tháng 8 năm 1962 huyện quyết định thành lập trung đội tập trung Miền Đông - đội công binh huyện (chuyên đánh giao thông trên 2 trục đường sắt và quốc lộ, đoạn Hòa Xuân - Đèo Cả). Tỉnh cũng quyết định tăng cường đại đội 220 bộ đội tập trung tỉnh và một tiểu đội trinh sát của tỉnh đội cho huyện. Ngoài ra thường vụ tỉnh ủy cũng đã cử đồng chí Trung Dũng (Nguyễn Lầu) thường vụ tỉnh ủy, tỉnh đội trưởng xuống Tuy Hòa chỉ đạo trực tiếp. Quyết tâm của huyện là giành thắng lợi ngay từ trận đầu tiên.

Rạng sáng ngày 7-9-1962, ta sử dụng đại đội 220 và đại đội 377 bí mật phục kích ở 2 thôn Mĩ Trung, Mĩ Điền (Hòa Thịnh). 5 giờ sáng 1 đại đội bảo an kéo vào càn quét Mĩ Điền. Ta chủ động nổ súng đánh thiệt hại nặng đại đội này làm chết 30 tên, bị thương 7 tên khác,. Thu 2 súng trung liên, 15 súng trường, 1 máy PRC 10 và nhiều đạn dược, ta bị thương 6 đ/c. Sau đó 2 ngày 1 bộ phận của đại đội 377 chặn đánh địch sở Suối Dứa (Mĩ Lâm) diệt 10 tên, thu 1 súng carbine, bọn địch còn lại phải tháo chạy. Sau những trận đánh ỏ Hòa Thịnh ta tổ chức nghi binh, bí mật chuyển lực lượng xuống phía Đông để hoạt động.


(1) Vùng xanh: vùng chúng kiểm soát
Vùng vàng: vùng tranh chấp
Vùng đỏ; vùng giải phóng của ta.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 21 Tháng Tư, 2011, 08:36:19 am
Ngày 28 tháng 9 năm 1962 đại đội 220 và đại đội 377 do đồng chí Trung Dũng trực tiếp chỉ huy phục kích đánh giao thông đoạn của Piđông - Cầu Lớn (Đèo Cả), ta diệt gọn 1 đoàn xe quân sự 5 chiếc, 1 đại đội đi trên xe, thu 1 đại liên 50, một số súng cá nhân và quân trang quân đụng khác. Đây là trận đánh giao thông đầu tiên của lực lượng vũ trang Phú Yên ngay trên đường quốc lộ 1 giữa ban ngày. Trận đánh hay, tiêu diệt gọn, hiệu suất chiến đấu cao. Sau chiến thắng Đèo Cả, toàn bộ lực lượng cơ động thọc sâu vào các thôn Lò 3, Phú Hiệp (Hòa Hiệp) đánh thiệt hại nặng 2 tổng đoàn dân vệ. Quần chúng phấn khởi tin tưởng ủng hộ cho bộ đội nhiều áo quần, lương thực thực phẩm, nhiều thanh niên gia nhập bộ đội, ngay hôm sau lại hành quân lên miền Trung. Đêm 14 tháng 10 nam 1962 đại đội 377 và 220 lại tập kích Núi Một (Hòa Tân), Núi Lá (Hòa Mĩ).

(http://img830.imageshack.us/img830/6945/41197553.jpg)


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 21 Tháng Tư, 2011, 08:37:25 am
Sáng 15 tháng 10 năm 1962 bọn địch lại mở tiếp cuộc càn quét vào vùng giáp ranh Hòa Tân (Đồng Trong) bị lực lượng 220 và vũ trang xã chặn đánh diệt 1 trung đội dân vệ, đánh tan 2 trung đội bảo an, giết chết 20 tên, bắt sống 1 tên thu 1 trung liên, 7 súng carbine, 11 súng trường, 1 máy PRC 10.

Cũng trong thời gian này, trung đội miền Đông cùng một lực lượng của 377 và du kích Hòa Xuân chặn đánh bọn địch càn vào miền đông ở Gò Cháy (Mý Khê) làm thiệt hại nặng 1 trung đội, loại khỏi vòng chiến đấu 18 tên, thu 3 súng. Lực lượng du kích Hòa Mĩ đánh địch ở cầu Bạu diệt gần 10 tên. Trận phục kích ở chợ Phú Đăng (Hòa Đồng) của lực lượng 377 và đội vũ trang xã diệt 10 tên, thu 5 súng.

Gần 4 tháng được sự tăng cường lực lượng của tỉnh (đại đội 220) trên chiến trường huyện Tuy Hòa ta đã chủ động đánh địch trên nhiều hướng với nhiều hình thức chiến thuật. Phối hợp chặt chẽ và phát huy sức mạnh tổng hợp của bộ đội tập trung và dân quân du kích giành nhiều thắng lợi, góp phần quan trọng đánh bại chiến dịch “Hải Yến’ của địch trên chiến trường trọng điểm, giữ được thế, hỗ trợ phong trào cách mạng tiếp tục phát triển. Từ thắng lợi trên rút ra những bài học quý giá về tư tưởng chỉ đạo và nghệ thuật chỉ huy trong tác chiến trên địa bàn rộng, trong thời gian ngắn, lực lượng nhỏ, liên tục chiến đấu, hiệu suất chiến đấu cao, các bài học là:

- Nắm được địch, biết lợi dụng những nhược điểm và sơ hở của chúng, biết được khả năng và tinh thần chiến đấu của lực lượng ta.

- Tổ chức nghi binh tốt, đánh lừa địch buộc chúng phải bị động đối phó.

- Cơ động lực lượng nhanh.

- Phát huy sức mạnh tổng hợp của các thứ quân, tổ chức hợp đồng chặt chẽ, sử dụng lực lượng thích hợp.

- Nắm vững phương châm 2 chân, 3 mũi, triệt để tận dụng sức mạnh của quần chúng.

Trong năm 1962 địch tiến hành chiến dịch “Hải Yến” bằng nhiều chiến thuật “trực thăng vận”, “thiết xa vận”, “Phượng hoàng vồ mồi”. Tập trung 2-3 tiểu đoàn quân chủ lực (Cộng hòa), hàng chục đại đội bảo an, toàn bộ lực lượng dân vệ, sử dụng vũ khí và phương tiện khá hiện đại, mở nhiều cuộc tấn công càn quét đánh phá vùng giải phóng căn cứ của ta, liên tục, dai dẳng với quy mô rộng, nằm tiêu diệt lực lượng ta, gom dân lập “ấp chiến lược”. Đến cuối năm 1962 địch đã chiếm và chốt giữ một số nơi Núi Lá (Hòa Mĩ), Núi Đất (Hòa Phong), đồi Cây Thị (Hòa Hiệp) làm điểm khống chết, kẹp dân và lập ấp.

Quân dân huyện Tuy Hoa bằng sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân sử dụng mọi lực lượng các thứ quân và được tỉnh băng cường đại đội 220 bộ binh. Vận dụng nhiều cách đánh linh hoạt sáng tạo với tinh thần dũng cảm mưu trí đã đánh hàng chục trận, loại khỏi vòng chiến đấu gần 200 tên địch, phá hủy 5 xe quân sự, lật nhào một đoàn tàu quân sự, thu hàng trăm súng và nhiều trang bị quân sự khác, diệt 93 tên ác ôn, bắt giáo dục cải tảo 223 tên khác, đánh phá 38 ấp chiến lược, đốt 5.500 mét rào, rải 13.200 truyền đơn, treo 167 từo mặt trận. Ta vẫn giữ được một số xã giải phóng ở phía tây và nam huyện, phát triển thêm các thôn Lạc Đạo, Tịnh Thọ (Sơn Thành) nối liền với Mĩ Thành (Hòa Mĩ) có khoảng 1000 dân xây dựng được căn cứ ở miền núi. Ngoài ra còn mở rộng và củng cố căn cứ ở đồng bằng, giải phóng 1 số thôn phía đông quốc lộ 1 (Hòa Xuân, Hòa Hiệp). Lực lượng du kích còn phát triển nhanh, có số lượng đông (cả hợp pháp, bất hợp pháp và du kích mật). Riêng 3 xã Hòa Hiệp, Hòa Xuân, Hòa Thịnh có gần 200 du kích, lực lượng du kích toàn huyện phát triển thêm 270 người, 11 xã trong huyện đã có Ban chỉ huy xã đội, có 10 đội vũ trang công tác gồm 144 đồng chí. Do ta đánh thắng nhiều trận, thu được nhiều vũ khí nên việc trang bị cho lực lượng vũ trang và du kích được cải thiện một bước. Các đội công tác đủ súng, du kích được trang bị 1/2 súng. Huyện ủy và Ban chỉ huy huyện đội thường xuyên chỉ thị cho cán bộ chiến sĩ lực lượng vũ trang toàn huyện là: phát huy truyền thống đánh giặc giữ làng giữ nước của tổ tiên ta, luôn nắm vững tư tưởng quân sự của Đảng la nhân dân du kích chiến tranh, nhờ vậy mà quan điểm tự cung tự cấp, tự lực tự cường càng thấm sâu trong tư tưởng từng người. Việc sáng kiến cải tiến vũ khí địch, làm vũ khí tự tạo, vũ khí thô sơ chông mìn, cạm bẫy để tăng cường trang bị, bố phòng đánh địch của lực lượng vũ trang thôn xã đã trở thành phong trào phát triển mạnh mẽ.

Đánh bại chiến dịch “Hải Yến: là một thắng lợi to lớn của ta, trong điều kiện địch hơn hẳn ta nhiều lần về quân số, trang bị vũ khí và phương tiện chiến tranh. Song lực lượng vũ trang huyện nhà luôn cơ động biến hóa, bám được dân, bám được làng, liên tục cơ động chiến đấu trên địa bàn rộng, phối hợp chặt chẽ với nhân dân, thực hiện phương châm tiến công địch bằng 2 chân 3 mũi giáp công trên cả 3 vùng, đánh bại các cuộc càn quét nống lấn của địch.

Đánh bại chiến dịch “Hải Yến” quân dân huyện Tuy Hòa càng phấn khởi tin tưởng sự lãnh đạo của Đảng, nghệ thuật tổ chức chỉ huy và chiến đấu của cơ quan quân sự các cấp, của lực lượng vũ trang nhân dân. Vượt qua nhiều khó khăn thử thách, xây dựng được tinh thần và quyết tâm chiến đấu đánh bại các cuộc càn quét lớn nhỏ, phá tan âm mưu chiến lược của kế hoạch Stalây - Taylo.

Phát huy thắng lợi, lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa với tinh thần, khí thế mới, sẵn sàng hoàn thành sản xuất nhiệm vụ trong thời gian tới là phá tan “Quốc sách ấp chiến lược”.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 23 Tháng Tư, 2011, 08:34:19 am
III - TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY PHÁ TAN QUỐC SÁCH “ẤP CHIẾN LƯỢC” CỦA MĨ NGỤY, GIẢI PHÓNG NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG

Tháng 11 năm 1962 hội nghị tỉnh ủy đặt vấn đề: phá ấp chiến lược là nhiệm vụ trung tâm, hàng đầu.

Tháng 12 năm 1962 huyện ủy Tuy Hòa triệu tập cuộc hội nghị mở rộng trong suốt 3 ngày nhằm quán triệt tinh thần nghị quyết của tỉnh ủy (tháng 11.1962) và bàn biện pháp thực hiện. Sau khi soát xét toàn bộ tình hình trong huyện có 77 ấp chiến lược, 8 khu dồn, hầu hết các ấp đều có lực lượng ngụy quân, ngụy quyền kèm kẹp, có khoảng 1/3 ấp kẹp lỏng. Ấp nào cũng có cơ sở ta cả lực lượng du kích mật. Xác định phương thức phá ấp khu ủy khu 5 đã khái quát bằng 2 câu ca dao:

“Dân làm dân phá mới hay
Dân làm quân phá biết ngày nào xong”

Qua phân tích đánh giá tình hình về mọi mặt huyện ủy nhận thấy: nếu để nhân dân tự phá ấp chiến lược thì không giữ được thế hợp pháp. Nếu dùng lực lượng bên ngoài thì không bảo đảm chắc thắng. Do đó huyện ủy đã chủ trương; Lực lượng bên ngoài phải tạo thế cho dân bên trong tự phá ấp. Nếu địch đến xét hỏi thì dân có cớ trả lời “do quốc gia không giữ nên cách mạng về bắt dân phá. Đây là lỗi của quốc gia chứ không phải của dân”. Còn nếu địch nằm trong ấp giữ ấp thì ta cơ cơ sở đánh vào địch không có đường thoát khỏi ấp chiến lược.

Từ thực tiễn đó, huyện ủy đã chỉ thị cụ thể giao nhiệm vụ cho các xã là: Phải đưa cán bộ du kích bí mật luồn vào ấp, nắm cơ sở, tổ chức lực lượng quần chúng nổi dậy phá ấp chiến lược khi có thời cơ. Lực lượng vũ trang liên tục đánh địch diệt ác, phá kèm gây áp lực mạnh hỗ trợ quần chúng nổi dậy phá ấp chống dồn trở về làng cũ. Để thực hiện tốt nhiệm vụ trung tâm và hoàn thành chức năng của lực lượng vũ trang, cơ quan huyện đội được củng cố một bước khá hoàn thiện có bộ phận tác chiến, hậu cần, quân y, quân khí. Tiểu đội trinh sát của huyện được tăng cường đầy đủ, đại đội 377 được bổ sung quân và trang bị mạnh, đội công binh, trung đội tập trung Miền Đông cũng được củng cố. Huyện đội đã giao nhiệm vụ cụ thể cho các xã đội, xây dựng quyết tâm cho từng đơn vị, kiên quyết hoàn thành nhiệm vụ là lực lượng nòng cốt, là dòn bẫy cùng nhân dân toàn huyện phá tan “quốc sách ấp chiến lược” giải phóng đồng bào.

Bước vào những tháng đầu năm 1963, các đội công tác, du kích, các cấp ủy xã đồng loạt ra quân bám dân, bám ấp, bám cơ sở, liên tục diệt ác phá kèm, phá ấp. Nhiều ấp bọn ngụy quyền giãn ra, bọn dân vệ ngày có đêm không, phần lớn ấp chiến lược đã phá hỏng. Tinh thần bọn ngụy quyền, quân địa phương tiếp tục hoang mang, chúng cho rằng toàn bộ hệ thống ấp chiến lược của huyện Tuy Hòa không có nơi nào là an toàn. Phần lớn số ấp chiến lược ban ngày địch quản lí, đêm thuộc về ta nên tạo điều kiện thuận lợi cho ta tổ chức quần chúng đồng loạt nổi dậy tổng phá ấp chiến lược trên phạm vi rộng nhiều xã cùng một lúc.

Về địch: chiến dịch “Hải Yến” vẫn còn tiếp diễn, mặc dù đã thực hiện được một số âm mưu dồn dân lập ấp, lán chiếm được một số vùng tranh chấp, vùng giải phóng, đóng một số đồn sâu trong vùng ta để khống chế kèm kẹp dân. Chặn và đánh phá hành lang. Nhưng nhìn chung cục diện trên địa bàn toàn huyện địch vẫn trong thế suy yếu. Quốc sách “ấp chiến lược” có nguy cơ bị phá sản, tinh thần bọn ngụy quân ngụy quyền dần dần bị phân hóa sa sút.

Lực lượng vũ trang huyện nhà quán triệt đầy đủ nhiệm vụ và chức năng của mình là liên tục chiến đấu tấn công địch, tích cực hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy phá ấp, phá dồn cùng toàn Đảng, toàn dân đưa phong trào cách mạng của huyện tiến lên một bước mới, mở màn bằng đột đánh phá giao thông Đèo Cả. Trong tháng 2 và 3 năm 1963 “đội du kích đường sắt Hòa Xuân” cùng công binh của huyện đánh lật 3 đòn tàu quân sự của địch, diệt và làm bị thương gần 500 tên. Đặc biệt là trận lật tàu ở cầu Đá Đen, 1 đoàn tàu chở đầy lính bị đánh lật hoàn toàn do địa hình núi đá cao, vực thăm nên toàn bộ địch trên tàu chết sạch. Chiến thắng Đèo Cả gây tiếng vang lớn, tiêu diệt nhiều lực lượng địch, làm rạng rỡ truyền thống của “đội du kích đường sắt” của quê hương “lũy thép dưới chân Đèo Cả”. Trung tuần tháng 3, 4 tiểu đoàn “Cọp Đen”, 23 biệt động quân từ Khánh Hòa hành quân ra Hòa Thịnh hòng bất ngờ đánh vào phía sau căn cứ của ta, kết hợp với 1 đại đội bảo an từ ngoài làng đánh vào. Lực lượng ta bao gồm đại đội 377 và du kích Hòa Thịnh chặn đánh quyết liệt tại đồng Cỏ Ống, Suối Lanh, Mĩ Điền (Hòa Thịnh) diệt gọn trung đội đi đầu, bẻ gãy cuộc càn, địch chết tại chỗ 32 tên, bị thương hàng chục tên khác. Chúng phải bỏ xác đồng bọn để tháo chạy. Sau mấy ngày được sự hỗ trợ của đại đội 377, lực lượng an ninh huyện, du kích xã, đồng bào trong các ấp: Mĩ Phú, Mĩ Trung, Mĩ Cảnh (Hòa Thịnh) nổi dậy phá banh ấp chiến lược ra căn cứ cách mạng. Tiếp đến đêm 1 tháng 4 đồng bào trong các ấp Mĩ Tường, Quảng Tường (Hòa Mĩ) được sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang huyện, du kích xã đã khua trống mõ, nổi lửa đốt toàn bộ rào ấp. Tháng 4 năm 1963 đo 377 cùng du kích Hòa Thịnh tấn công bọn địch chiếm đóng ở Hòa Thịnh, địch thảo chạy, ta giải phóng xã Hòa Thịnh 1 lần nữa.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 23 Tháng Tư, 2011, 08:35:18 am
Đến tháng 5 năm 1963, trung đội tập trung Miền Đông cùng lực lượng du kích xã Hòa Hiệp đánh tan 1 trung đội dân vệ ở Đa Ngư, giết chết 4 tên, làm bị thương 3 tên, thu 4 súng (có 1 trung liên). Thừa thắng xông lên và được sự hỗ trợ mạnh mẽ của lực lượng vũ trang, đồng bào các thôn Phú Lạc, Đa Ngư, Thọ Lâm, Lò 3 nổi dậy làm chủ và giải phóng. Vùng giải phóng được mở rộng và tạo thành thế liên hoàn ở phía nam xã, làm bàn đạp cho việc đẩy mạnh hoạt động đến Uất Lâm, Mĩ Hòa, Phú Nhuận hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy phá ấp, mít ting. Sau đó đồng bào tổ chức đấu tranh đòi thả chồng con, không cầm tù, không bắt đi lính và không rào ấp chiến lược nữa. Phong trào đấu tranh chính trị trực diện của chị em phụ nữ lại liên tục diễn ra, có cuộc lên đến hàng ngàn người, mặc dù địch đàn áp khủng bố dã man nhưng phong trào đấu tranh không lùi bước, nhiều chị đã bị giặc bắn bị thương vẫn dẫn dầu đoàn biểu tình đấu tranh không khoan nhượng.

Trước tình thế cách mạng phát triển mạnh ở miền Đông, địch dùng nhiều thủ đoạn lén lút tập kích sử dụng lực lượng hải thuyền bất ngờ đổ quân đánh sâu vào hậu phương căn cứ của ta. Với tinh thần cảnh giác và sẵn sàng chiến đấu, ta đã nhanh chóng phát hiện được mưu đồ của địch. Khi chúng mới vừa đổ quân lên Bãi Tiền, Bãi Bàn, Bãi Con, Bãi Xép, lực lượng ta chủ động bất ngờ nổ súng vào đội hình của chúng. Do quân đông có trang bị mạnh nên bọn địch đánh trả quyết liệt. Trận chiến đấu kéo dài gần 3 tiếng đồng hồ, kết quả ta diệt tại chỗ 4 tên, bắt sống 3 tên, hàng chục tên bị thương. Ta thu 1 đại liên, 2 tiểu liên, nhiều đạn dược và đồ dùng quân sự, bắn chìm 1 hải thuyền và bị thương 1 chiếc khác, bẻ gãy cuộc càn quét của địch. Ngày 4 tháng 4 năm 1963 địch tiếp tục càn vào 2 thôn Đa Ngư, Phú Lạc hòng tái chiếm lại vùng này. Đội vũ trang và lực lượng du kích xã đã bám trụ, quần đánh địch suốt 2 ngày đêm, diệt và làm bị thương hàng chục tên. Trong thế bị địch bao vây, 2 đồng chí du kích Ban và Thế cùng anh Trần Bá xã đội phó đã kiên cường đánh địch đến viên đạn cuối cùng, các đồng chí đã bị địch vây bắt. Anh Trần Bá đã nhổ nước bọt vào mặt tên quận Châu và hô đảo đảo quân bán nước, Hồ Chí Minh muôn năm. Giặc đã bắn các anh, sự hi sinh anh dũng của các anh đã tiếp thêm động lực cách mạng, lòng căm thù giặc cho quân dân xã nhà. Các anh ngã xuống nhưng tấm gương kiên cường bất khuất vẫn sáng mãi với quê hương Hòa Hiệp anh hùng mà lịch sử truyền thống đã trân trọng ghi nhận.

Tháng 4 năm 1963, hội nghị đại biểu Đảng bộ huyện Tuy Hòa lần thứ 2 được tổ chức. Hội nghị đánh giá những thắng lợi đã đạt được trong phong trào Đồng khởi, trong chống phá chiến dịch “Hải Yến” âm mưu dồn dân vào ấp. Đề ra những nhiệm vụ mới “… củng cố vững chắc vùng giải phóng và căn cứ, tiếp tục công tác phá ấp giành dân, mở rộng vùng giải phóng, ra sức củng cố và phát triển thực lực cách mạng về mọi mặt”. Hội nghị ra chỉ thị nhiệm vụ cho lực lượng vũ trang, bán vũ trang trong toàn huyện “… Tích cực và chủ động tiến công địch trên tinh thần phương châm 2 chân 3 mũi giáp công, đẩy mạnh hoạt động vũ trang trước mùa mưa với các hình thức; phá ấp, diệt ác phá kèm, đánh phá giao thông, hoạt động vũ trang hỗ trợ cho đấu tranh chính trị của quần chúng…”

Để tăng cường lực lượng chủ lực nhằm đối phó phong trào cách mạng lên mạnh ở huyện Tuy Hòa. Tháng 8 năm 1963 địch điều trung đoàn 41 quân cộng hòa từ Dục Mĩ (Khánh Hòa) ra, có pháo binh không quân, hải quân chi viện mở cuộc càn quét quy mô vào miền Đông của huyện (Hòa Xuân, Hòa Hiệp), trọng điểm là tập trung đánh phá vùng giải phóng. Lực lượng vũ trang xã và du kích chặn đánh bọn bảo an và dân vệ tại Đồi Cháy (Thọ Lâm) loại khỏi vòng chiến đấu 14 tên, thu 4 súng. Đầu tháng 11 năm 1963 nắm được quy luật của địch, đội vũ trang xã Hòa Hiệp đã cải trang “lính bảo an” chặn tàu lửa trên đoạn Đông Tác - Phú Hiệp, diệt 4 tên, bắt sống 3 tên thuộc lực lượng bình định nông thôn. Trên tuyến đường Đèo Cả trong 3 tháng 8, 9, 10/1963 đội công binh cùng du kích Hòa Xuân liên tục phá hoại kết hợp bố phòng, đánh mìn đánh lật nhào 2 đoàn tàu quân sự diệt hàng trăm tên địch.

Đêm 25-6-1963 trung đội tập trung Miền Đông cùng đội vũ trang xã Hòa Hiệp đột nhập diệt ác ở Phú Hiệp, đánh tan bọn dân vệ thu 6 súng

Cuối tháng 10 năm 1963 trong khi Tỉnh ủy Phú Yên đang họp phiên mở rộng, ngày 01.11.1963 cuộc đảo chính chế độ độc tài Ngô Đình Diệm nổ ra. Trước sự kiện đó hội nghị đã kịp thời nhận định “… vì liên tiếp bị thất bại, buộc bọn chủ Mĩ phải thay ngựa giữa đường, thế lực của bọn tay sai thân Pháp, thân Mĩ cấu xé lẫn nhau, đây là thời cơ vô cùng thuận lợi cho ta…”. Tỉnh ủy chỉ thị cho các huyện: tranh thủ thời cơ đẩy mạnh phong trào quần chúng vùng lên phá ấp chiến lược, khu dồn trở về làng cũ.

Về quân sự thì phát động phong trào “thi đua ấp Bắc giết giặc lập công” tập trung khẩu hiệu hành động “Toàn quân, toàn dân thi đua phá ấp chiến lược”.

Ngay trong đêm được tin Diệm bị đảo chính, với tinh thần chủ động, Huyện ủy Tuy Hòa triệu tập hội nghị mở rộng đề ra nhiệm vụ cấp bách là: cướp lấy thời cơ, động viên toàn lực tiến công và nổi dậy phá tan hệ thống ấp chiến lược trong toàn huyện, mở rộng vùng giải phóng. Trong lúc tình hình đột biến xảy ra, bọn ngụy quyền ngụy quân dao động, lúng túng không hiểu sẽ đứng vào phe nào, đó là một cơ hội tốt cho ta mở đợt hoạt động quân sự mới.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 23 Tháng Tư, 2011, 08:36:10 am
Liên tiếp trong 5 đêm đầu tháng 11, ta dùng lực lượng vũ trang làm nòng cốt tiến công nhiều ấp. quần chúng nổi dậy đốt phá, lực lượng vũ trang truy diệt tề ngụy, 26 ấp chiến lược đã phá banh, 13 ấp khác phá lỏng. Ta giải phóng nhiều thôn xã nối mảng liền nhau từ Hòa Phong đến Hòa Hiệp. Phát huy thắng lợi, Huyện ủy chủ trương: dốc toàn lực tiến công và nổi dậy phá tan hệ thống ấp chiến lược trên toàn huyện. Đại đội 377, trinh sát huyện, các đội vũ trang và lực lượng du kích làm lực lượng tiến công chủ yếu hỗ trợ đắc lực cho nhân dân nổi dậy, lấy trục đường 5 làm điểm, các xã còn lại hiệp đồng cùng lúc độc lập nổi dậy.

Đúng giờ quy định lực lượng vũ trang nổ súng tiến công một số ấp trọng điểm từ Hòa Phong đến Hòa Thịnh có chiều dài hàng chục cây số. Tiếng súng tiến công cũng là hiệu lệnh nổ dậy, toàn thể đồng bào trong các ấp đồng loạt nổi trống mõ, nổi lửa đốt rào sáng rực trời. Dọc theo đường 5 và đường nam sông Ba. Các xã Hòa Tân, Hòa Vinh, Hòa Xuân, Hòa Hiệp cùng tiến công nổi dậy diệt kèm phá ấp. Cùng với lực lượng ta tấn công tiêu diệt các chốt địch đóng giữ để khống chế và kẹp dân ở Phú Hữu (Hòa Thịnh), Lạc Mĩ (Hòa Phong).

Trong 1 đêm toàn huyện đã làm nên một chiến công kì diệu, đốt phá hàng mảng ấp chiến lược nối vùng giải phóng liên hoàn, tạo nên sức mạnh mới áp đảo dồn địch vào thế bị động lúng túng. Phong trào cách mạng của huyện nhảy vọt một bước hết sức quan trọng trong thời kì chiến tranh đặc biệt. Thắng lợi còn mang ý nghĩa chiến lược là góp phần cùng quân và dân trong tỉnh đánh bại “quốc sách ấp chiến lược” của đế quốc Mĩ. Chỉ riêng trong tháng 11 năm 1963 sau những lần nổi dậy quân và dân toàn huyện đã phá 44 ấp chiến lược, 22 khu dồn dân. Trên tuyến giao thông quan trọng ở Đèo Cả, đội công binh, trung đội tập trung Miền Đông, du kích 2 xã Hòa Xuân, Hòa Hiệp liên tục đánh địch, phá hoại cầu đường làm tê liệt giao thông trên cả 2 trục được quốc lộ 1 và đường sắt, mỗi lần vận chuyển địch phải dùng hàng tiểu đoàn hành quân mở đường.

Thắng lợi trong những tháng cuối năm 1963, vùng giải phóng được mở rộng, 18 thôn, 7 xóm của 6 xã với 18.000 dân vùng căn cứ được củng cố và mở rộng, ở miền Đông từ Bãi Xép đến Mũi Điện nối liền đến Vũng Rô. Miền Tây, Hòa Thịnh nối liền Hòa Mĩ, Hòa Phong, Sơn Thành, mở 2 cửa khẩu quan trọng là: Bến Đá, Suối Phẩn, móc được lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng từ vùng sâu lên (cả thị xã Tuy Hòa) giải quyết một phần lớn vật chất cần thiết cho huyện và cả 2 tỉnh bạn Đắc Lắc, Khánh Hòa.

Cuối năm 1963, liên tỉnh 3 (Phú Yên, Đắc Lắc, Khánh Hòa) được thành lập, mặt trận phân khu Nam cũng ra đời, 2 cơ quan đều đứng chân trên đất Tuy Hòa. Huyện lại được sự chỉ đạo trực tiếp của liên tỉnh, sự chi viện đắc lực về quân sự của phân khu Nam là điều kiện thuận lợi cho mọi hoạt động của lực lượng vũ trang.

Cũng trong giai đoạn này phong trào nhân dân du kích chiến tranh của huyện Tuiy Hòa phát triển mạnh nhất trong toàn tỉnh. Để đáp ứng kịp thời yêu cầu nắm bắt tình hình địch phục vụ cho đấu tranh vũ trang, chính trị binh vận, tổ chức quân báo nhân dân của huyện được thành lập có 3 đ/c trực thuộc cơ quan huyện đội. Đồng chí Nguyễn Thắng Thọ làm tổ trưởng, đồng chí Lê Văn Hiếu, Hồ Văn Tùng là tổ viên. Tổ quân báo nhân dân đã phát huy được trách nhiệm trong nghiệp vụ một cách năng động và sáng tạo đã tổ chức mạng lưới quân báo nhân dân rộng rãi, xã nào cũng có 1 đồng chí nằm trong Ban chỉ huy xã đội, có trách nhiệm tổ chức cơ sở nắm vững tình hình địch. Ngoài ra còn có mạng lưới cộng tác viên ở các địa phương hoạt động rất hiệu quả. Ta đã móc nối tổ chức được nhiều cơ sở nội tuyến trong hàng ngũ địch, ở tiểu khu, quận lị trong trung đoàn 47 ngụy, trong lực lượng bảo an dân vệ và các cấp ngụy quyền. Họ đã cộng tác tích cực, cung cấp cho ta nhiều tin tức có giá trị phục vụ cho chiến đấu diệt ác phá tề và chặn đứng được một số âm mưu thủ đoạn của địch phát hiện kịp thời một số tên trá hàng nhằm chui vào hàng ngũ cách mạng để hoạt động đánh phá ta bằng nhiều thủ đoạn nham hiểm quỷ quyệt. Tổ chức quân báo nhân dân huyện nhà đã góp phần quan trọng cung cấp được thường xuyên nhiều tin tức về tình hình có chất lượng cho lãnh đạo chỉ huy của huyện, tỉnh và Bộ tư lệnh phân khu Nam trong suốt quá trình chiến tranh cho đến ngày giải phóng quê hương.

Những tháng cuối năm 1963 và đầu năm 1964 tình hình chung trên toàn miền Nam có nhiều diễn biến bất lợi cho địch, bọn ngụy quyền Sài Gòn liên tục đảo chính. Minh hất Diệm chưa đầy 3 tháng, Khánh lại lật Minh. Kế hoạch Stalay - Taylo bị thất bại, quốc sách “ấp chiến lược” có nguy cơ phá sản, ngụy quân ngụy quyền đang trên đà suy sụp, vùng giải phóng ngày càng mở rộng. Trước những thất bại và khó khăn đó bọn đế quốc Mĩ chuyển sang kế hoạch “Mắc Na-ma-ra” tiếp tục bình định miền Nam trong vòng 2 năm.. Riêng các tỉnh đồng bằng khu 5 chúng đặt kế hoạch và thời gian trong 12 tháng phải “bình định” xong.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 23 Tháng Tư, 2011, 08:36:53 am
Đầu năm 1964, tại chiến trường huyện Tuy Hòa, địch tập trung lực lượng, cả bộ binh, pháo binh, không quân, cơ giới phản kích lại ta. Trước hết là đánh phá lấn chiếm các vùng giải phóng ở các xã Hòa Hiệp, Hòa Xuân, Hòa Tân, Hòa Đồng, Hòa Mĩ, Hòa Thịnh. Tình hình diễn ra khá ác liệt, lực lượng vũ trang ta đã có phương thức hoạt động linh hoạt, vừa phân tán chống địch càn quét, khi cần thiết tập trung đánh trả, địch lấn chiếm chỗ này ta lại ở ra chỗ khác. Chiều 20 tháng 1 năm 1964 nắm lấy thời cơ thuận lợi huyện đã sử dụng đại đội 377 cùng lực lượng vũ trang, du kích xã tiến đánh địch ở thôn Phú Nhiêu làm chết bị thương 7 tên, địch tháo chạy ra Phú Thứ, ta giải phóng toàn bộ xã Hòa Mĩ.

Chấp hành nghị quyết của khu ủy 5, Huyện ủy tiến hành mở đột sinh hoạt chính trị cho toàn bộ cán bộ chiến sĩ trong huyện, tập trung vào những nội dung quan trọng;

+ Phát huy thắng lợi, cùng cố lòng tin của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân.

+ Hiểu rõ âm mưu mới và bản chất của kẻ thù.

+ Xây dựng củng cố và phát triển lực lượng vũ trang.

+ Tổ chức đội ngũ và lực lượng chính trị.

+ Đề ra biện pháp đấu tranh chống xe M113 của địch bằng lực lượng quần chúng.

+ Đẩy mạnh công tác binh địch vận.

+ Quán triệt Nghị quyết của Tỉnh ủy “rời núi” bám dân, bám làng với khẩu hiệu: “Đảng bám dân, dân ám đất, bộ đội và du kích bám địch”, học tập tinh thần Ấp Bắc huyện Tuy Hòa 1 làm trọng điểm của tỉnh. Sau đợt học tập cán bộ chiến sĩ đều tin tưởng phấn khởi thống nhất quan điểm: dân là nguồn lực của cách mạng, bám được dân là có sức mạnh, bám được dân mới huy động được sức người sức của, dân là chiếc nôi che chở đùm bọc nuôi dưỡng lực lượng vũ trang cách mạng, phải thực hiện tốt tinh thần toàn quân và dân 1 ý chí như cá với nước thì khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng.

Để hỗ trợ cho địa bàn trọng điểm của tỉnh, phân khu Nam tăng cường cho huyện đại đội 83. Lực lượng vũ trang huyện đã có đại đội 377, trung đội tập trung Miền Đông, đội công binh Đèo Cả. Ngoài ra mỗi xã đều có một trung đội du kích từ 15 đến 20 cây súng, hầu hết cán bộ chiến sĩ đã qua thử thách chiến đấu. Trang bị vũ khí được tăng cường, địa bàn đứng chân bám trụ của các đơn vị được phân công cụ thể như sau: Đại đội 83: Cảnh Tịnh - Mĩ Hòa (Hòa Thịnh), Phú Thọ, Lạc Chỉ (Hòa Mĩ); Đại đội 377 đứng ở Hội Cư - Cảnh Phước (Hòa Tân), Phú Phong (Hòa Đồng); Trung đội Miền Đông đứng ở Đa Ngư (Hòa Hiệp); đội công binh bám chặt tuyến Đèo Cả. Lực lượng vũ trang tổ chức luân phiên bám làng bám dân (cơ sở che chở, đào hầm bí mật để ở), các cơ quan huyện đều tổ chức 1/2 ra phía trước (xuống làng) đứng sát lực lượng, sát dân để chỉ đạo chỉ huy và kịp thời giải quyết mọi tình huống.

Lực lượng ta vừa triển khai xong, địch dùng lực lượng phản ứng ngay. Lần này địch áp dụng chiến thuật mới dùng xe M113 mở đường cho bộ binh tiến quân, còn sẵn sàng đột kích và vu hồi khi bị ta chặn đánh.

Ngày 10.7.1964 địch vào Hòa Tân bị lực lượng 377 cùng du kích chặn đánh quyết liệt, diệt và làm bị thương một số, ta vẫn giữ được địa bàn đứng chân. Ngày 12.7.1964 đại đội địch càn vào thôn Cảnh Tịnh (Hòa Thinh), thôn Phú Thọ (Hòa Mĩ), lực lượng 83 chặn đánh không cho sục vào làng. Ngày hôm sau 13.7.1964 địch dùng xe thiết giáp M113 tiếp ứng, chúng chạy vòng qua nam Hòa Thịnh nhằm đánh vu hồi sau lưng lực lượng ta nhưng chúng đã bị ngăn chặn bởi “đội quân tóc dài” gần 400 mẹ, chị kéo ra chặn đầu xe không cho chúng chạy. Với lời lẽ mềm mỏng nhưng cũng vô cùng kiên quyết, các ông chạy phá hư hết lúa của bà con, chúng tôi lấy gì ăn. Địch hung hăng đe dọa và tiến tới, các mẹ, các chị vẫn kiên quyết chặn đầu xe tăng giặc buộc chúng phải quay đầu chạy lại đường cũ. Sau thắng lợi này, huyện ủy và huyện đội Tuy Hòa tổ chức một hội nghị rút kinh nghiệm để tìm ra những biện pháp, lí lẽ ứng xử một cách hợp tình hợp lí để tiếp tục đấu tranh với địch, có đại biểu của tỉnh, tỉnh bạn Khánh Hòa và các xã trong huyện về dự. Hội nghị đạt kết quả tốt, các xã trong huyện đều biểu thị quyết tâm học tập tinh thần của phụ nữ Hòa Thịnh. Kết thúc hội nghị, huyện ủy tổ chức phát động phong trào thi đua “chặn xe tăng địch”.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 23 Tháng Tư, 2011, 08:37:40 am
Trong những tháng 4, 5, 6 năm 1964, lực lượng địa phương liên tục chiến đấu, có nhiều trận tiêu biểu, hiệu suất chiến đấu cao. Đêm 30.4.1964 Đại đội 377 do đồng chí Tô Nào Huyện đội trưởng và đồng chí Châu, Đại đội trưởng trực tiếp chỉ huy tổ chức tập kích vào cầu Tổng Phú Thứ do 5 tổng đoàn dân vệ chốt giữ. Gần 30 phút nổ súng tiến công ta làm chủ hoàn toàn diệt 13 tên, bắt sống 26 tên, thu 40 súng, 1 máy PRC 10, xóa sổ tổng đoàn xã Sơn Thành, thiệt hại nặng 2 tổng đoàn xã Hòa Thịnh và Hòa Đồng. Ta hi sinh 1 đồng chí, bị thương 2 đồng chí. Chiến thắng cầu Tổng đã phá được chốt khống, chế, năng chặn hành lang và kèm kẹp nhân dân trên trục tam giác quan trọng, mở rộng bàn đạp tạo điều kiện thuận lợi cho ta có điều kiện tiến tới thực hiện chủ trương của huyện là nắm chắc tình hình, đẩy mạnh hoạt động vũ trang dồn ép địch, giải phóng xã Hòa Bình trước mùa mưa.

(http://img822.imageshack.us/img822/3408/unled4v.jpg)

Sau đó vài ngày Đại đội 377 dùng hỏa lực cối, đại liên tập kích vào quận lị Phú Lâm gây cho địch nhiều thiệt hại, làm mất ổn định vùng giải phóng của chúng. Trong tháng 4, tháng 5 năm 1964 Đại đội 377 phối hợp với lực lượng vũ trang xã Hòa Vinh đánh 2 trận. Trận thứ nhất ta bí mật đưa quân vào lót sẵn ở Thôn Nhất, mở sáng bọn ngụy quyền và dân vệ (tối trốn ra Phú Lâm ngủ) kéo vào, ta bất ngờ nổ súng xung phong, địch tháo chạy thục mạng, ta diệt tại chỗ 10 tên, thu 10 súng. Tiếp đó là trận phục kích ở Phú Lương - Đông Mĩ, địch lọt vào trận địa, ta nổ súng vây chặt quân địch không cho chúng tháo chạy, kết quả diệt 15 tên, bắt sống 4 tên, thu 7 súng, ta an toàn.

Trước những thất bại của địch, bọn địa phương quân bị lực lượng ta đánh liên tục, nhiều trung đội, tổng đoàn dân vệ bị tiêu diệt, tan rã, bọn bảo an cũng bị tổn thất nặng nề, bọn ngụy quân thì tinh thần sa sút dao động, bọn ngụy quyèn sợ hãi, nhiều tên bỏ quê trốn đi noi khác, tình hình trốn, lánh, đào rã ngũ ngày càng tăng. Công tác binh địch vận là một mũi tiến công quan trọng đẩy tinh thần của binh lính ngụy suy sup càng sụp sụp nặng nề hơn, đặc biệt là trung đội dân vệ ở xã Hòa Bình nổi dậy làm binh biến, diệt ác ôn đầu sỏ, mang toàn bộ vũ khí theo cách mạng. Khắp các xã trong huyện nơi nào cũng có bọn lính ngụy mang súng về với cách mạng, với nhân dân, có đến hàng trăm người.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 23 Tháng Tư, 2011, 08:38:45 am
Để cứu vãn tình thế suy yếu, ngày 08.6.1964 địch dùng 1 trung đoàn được pháo binh, không quân chi viện trực tiếp, mở cuộc càn đánh phá căn cứ Miền Đông. Trọng điểm là các thôn Đa Ngư, Phú Lạc (Hòa Hiệp). Lực lượng trung đội vũ trang Miền Đông, du kích xã cùng Đại đội 83 (Phân khu) chặn đánh quyết liệt bẻ gãy hàng chục đợt tấn công của địch, giết chết 81 tên (có 2 cố vấn Mĩ), hàng chục tên khác bị thương, buộc địch phải rút quân. Ta hi sinh 1 đồng chí, bị thương 7 đồng chí. Cùng thời gian này lực lượng vũ trang và du kích 2 xã Hòa Hiệp, Hòa Xuân, công binh huyện liên tục phá hoại và đánh địch trên trục đường sắt Đèo Cả, buộc địch phải bỏ ga Hảo Sơn và Thạch Tuân.

Ngày 26.7.1964 địch đổ quân càn quét phía tây xã Hòa Mĩ, lực lượng của phân khu Nam chặn đánh quyết liệt, không tiến quân được nên phải dùng 6 xe M113 chi viện. Xe chạy đến Phú Nhiêu các mẹ, các chị gần 500 người kéo ra vây chặt xe tăng. Chị Bùi Thị Liễu 37 tuổi lăn xả nằm trước đầu xe, mặc dù địch lôi kéo, chị kiên quyết không ngồi dậy, các mẹ, chị ùa vào ngồi, nằm quay chị Liễu buộc địch phải quay đầu xe chạy về Phú Lâm. Xe tăng không chi viện được, tạo điều kiện thuận lợi cho quân dân ta bảo vệ được lực lượng, xóm làng và nhân dân không bị đốt phá bắt bớ.

Tiếp theo ngày 19.8.1964 mẹ Lê Thị Kính 75 tuổi cùng các mẹ, chị xã Hòa Đồng lại tiếp tục chặn xe tăng giặc thắng lợi, đánh bại ý đồ của địch càn quét đánh phá phía tây Hòa Đồng và xã Hòa Mĩ. Từ sự mở đầu cuộc đấu tranh của “Đội quân tóc dài” chặn xe tăng địch ở Hòa Thịnh thắng lợi, tiếp đến Hòa Mĩ, Hòa Đồng và các xã trong huyện đêu phát huy được sức mạnh tinh thần dũng cảm bắt nguồn từ trí thông minh, mưu trí, lòng yêu nước nồng nàn và căm thù giặc sâu sắc.

(http://img838.imageshack.us/img838/8865/a04w.jpg)

Lê Thị Kính sinh năm 1911

Những chiến công kì diệu của những người mẹ, người chị ngăn chặn được hành động tội ác của quân thù, bảo vệ được con em của mình, giữ được xóm làng và đồng bào của quê hương. Lịch sử truyền thống vẻ vang của huyện Tuy Hòa đã trân trọng ghi nhận những chiến công oanh liệt, in đậm dòng chữ “Phụ nữ Tuy Hòa chặn xe tăng địch”, những thắng lợi ấy còn có ý nghĩa quan trọng trực tiếp là:

- Giải quyết được tư tưởng sợ xe tăng bao vây.

- Ngại trụ bám ngoài làng, củng cố và xây dựng quyết tâm “Bám làng, bám dân” mà chiến đấu.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 23 Tháng Tư, 2011, 08:40:34 am
Tháng 9 năm 1964 nắm chắc quy luật địch, lực lượng 377 cùng du kích bí mật luồn sâu vào thôn Phước Nông phục kích. Đến 16 giờ bọn dân vệ từ Mĩ Lệ, Phước Mĩ kéo xuống, địch lọt vào khu vực phục kích (cầu Bá Nhún), ta bất ngờ nổ súng phủ đầu và chọc thẳng vào đội hình của chúng, khiến cho chúng không kịp chống trả phải tháo chạy tán loạn. Ta bắn chết tại chỗ 20 tên, thu 12 súng, thừa cơ ta kêu gọi quần chúng nổi dậy với sự hỗ trợ đắc lực của lực lượng vũ trang truy tróc tề ngụy và giải phóng hoàn toàn xã Hòa Bình.

Tháng 7 năm 1964 do yêu cầu phát triển lực lượng tập trung của tỉnh, tỉnh điều động 2 trung đội của Đại đội 377 bổ sung cho Tiểu đoàn 85. Huyện ủy khẩn trương rút lực lượng vũ trang, du kích của các xã bổ sung quân cho Đại đội 377, tiến hành huấn luyện khẩn trương để bảo đảm nhiệm vụ chiến đấu. Sau khi huấn luyện xong, huyện tổ chức Đại đội 377 cùng lực lượng vũ trang xã Hòa Phong bao vây, lấn ép bọn địch đóng ở Hòn Kén, liên tục đánh phá các ấp chiến lược trong xã. Sau 5 ngày bị vây ép và cô lập, bọn địch ở Hòn Kén đã bí mật tháo chạy về Hòa Đinh (Tuy Hòa 2). Được sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang, đồng bào toàn xã đã nổi dậy phá tan hệ thống ấp chiến lược, giải tán bộ máy ngụy quyền, giải phóng hoàn toàn xã Hòa Phong.

Vào trung tuân tháng 10.1964 Ban chỉ huy tỉnh đội một lần nữa quyết định “Rút toàn bộ Đại đội 377 bổ sung cho tỉnh Khánh Hòa, chỉ để lại 2/3 cán bộ khung”. Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chiến đấu, huyện ủy chỉ thị cho Ban chỉ huy huyện đội và các xã đội cấp tốc điều động, bổ sung đủ quân số cho Đại đội 377. Với tinh thần khẩn trương, chỉ trong 5 ngày đã bổ sung đủ, tiến hành huấn luyện, chỉ trong một thời gian ngắn đơn vị đã sẵn sàng chiến đấu được.

Cuối năm 1964 trước tình hình chung có nhiều biến động có lợi cho ta, địch tiếp tục suy yếu, thế và lực cỏa ta đã có phần mạnh hơn địch. Phong trào phát triển toàn diện về mọi mặt. Phân khu Nam và Tỉnh ủy, Tỉnh đội thống nhất nhận định và đề ra chủ trương mới cho huyện Tuy Hòa: “Tăng cường hoạt động liên tục mạnh mẽ trên toàn huyện bằng phương châm 3 mũi giáp công, giải phóng toàn bộ các xã, dồn ép địch xuống quận lị Phú Lâm, cô lập các chốt địch chiếm đóng trên tuyến đương quốc lộ 1, xây dựng và phát triển thực lực cách mạng, huy động và chi viện sức người sức của cho 2 tỉnh Đắc Lắc và Khánh Hòa.

Mở màn cho đợt hoạt động, ngày 16.12.1964 Đại đội 377 phục kích địch ở đường quốc lộ 1 (ngoài thôn nhất Hòa Vinh) diệt 5 tên, bắt sống 3 tên, thu 5 súng, số địch sống sót chạy về quận. Chớp lấy thời cơ lực lượng 377 cùng vũ trang và du kích xã Hòa Vinh tiếp tục vây ép địch ở đầu cầu bắc Bàn Thạch, chúng bỏ chốt chạy sang đầu cầu phía nam. Đoạn đường số 1 chạy ngang qua Hòa Vinh ta hoàn toàn làm chủ, nối liền với xã Hòa Hiệp. Cuối năm 1964, toàn bộ chiến trường Tuy Hòa 1, chỉ có một điểm chốt nam cầu Bàn Thạch do một đại đội bảo an trấn giữ, hầu hết lực lượng địa phương quân và bọn ngụy quuyền đều bu bám quanh quận lị Phú Lâm. Ta giải phóng hoàn toàn 7 xã: Sơn Thành, Hòa Phong, Hòa Thịnh, Hòa Mĩ, Hòa Đồng, Hòa Tân, Hòa Bình, 4/5 xã Hòa Xuân, 3/4 xã Hòa Hiệp, 3/4 xã Hòa Vinh, 1/4 xã Hòa Thành, số dân vùng giải phóng 75.000/100.000 người.

Song song với thành tích tác chiến của lực lượng vũ trang, mặt trận tiến công chính trị của đồng bào toàn huyện liên tiếp nổ ra, tiêu biểu là cuộc đấu tranh của hàng ngàn chị em phụ nữ xã Hòa Hiệp nhập quận, nhập thị buộc bọn ngụy quyền quận, tỉnh phải nhượng bộ và chấp nhận những yêu sách của quần chúng. Cuộc biểu tình tháng 10.1964 của lực lượng đồng bào trong 7 xã có gần 10.000 người thắng lợi. Lực lượng nhân dân tham gia vận chuyển ra chiến trường và cho các tỉnh bạn (Đắc Lắc, Khánh Hòa) có đến hàng chục ngàn lượt người, cung ứng cho cách mạng hàng ngàn tấn lương thực, hàng ngàn nam nữ thanh niên nhập quân giải phóng bổ sung cho các tỉnh bạn, phân khu và lực lượng chủ lực. Phong trào nhân dân du kích chiến tranh được phát triển rộng rãi, các lực lượng, nhiều thứ quân được trưởng thành nhanh chóng, để xây dựng được 31 làng chiến đấu, căn cứ cách mạng được mở rộng và củng cố, các khu vực sản xuất từ miền Tây xuống miền Đông luôn phát triển, thu hoạch được hàng trăm tấn lương thực, hoa màu.

Năm 1964 quân dân huyện Tuy Hòa đã gặt hái những thành tích to lớn, giải phóng nhiều xã, nhiều dân nhất, có lực lượng vũ trang mạnh nhất, đóng góp nhân lực, tài lực cho cách mạng nhiều nhất, đấu tranh chính trị giành thắng lợi cao nhất, công tác binh địch vận đạt kết quả cao, phát động cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện, đẩy phong trào nhân dân du kích chiến tranh phát triển mạnh mẽ. Những thành đích đó là nhờ sự lãnh đạo chỉ huy thống nhất, luôn nắm vững quan điểm và đường lối của Đảng, vận dụng sáng tạo phương châm cách mạng tiến công bằng 2 chân 3 mũi giáp công của huyện ủy và huyện đội. Vùng. giải phóng huyện Tuy Hòa được mở rộng. Lò 3 đến Vũng Rô có chiều dài trên 15 cây số. Tỉnh nhận vũ khí, hàng chi viện từ miền Bắc vào bằng đường biển, đồng chí Trần Suyền (Bí thư Tỉnh ủy) được Đảng ủy Phân khu Nam cử phụ trách tổ chức con tàu từ miền Bắc đưa vũ khí vào Vũng Rô, eo biển phía nam Đèo Cả, có địa hình núi bao quanh 3 mặt, có độ sâu, tàu trọng tải lớn cặp bến thuận lợi. Mặt khác Hòa Hiệp là xã đã giải phóng 2/3, có phong trào nhân dân du kích chiến tranh mạnh mẽ, khí thế cách mạng của nhân dân lên cao. Phía đông nam xã Hòa Xuân có thôn Phước Giang, Mĩ Khê cũng là vùng giải phóng, Hòa Hiệp, Hòa Xuân nối liền căn cứ Rừng Xép chạy dài đến Vũng Rô.

(http://img40.imageshack.us/img40/6340/a05fh.jpg)

Căn cứ cách mạng miền Đông Tuy Hòa (rừng Xép)


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 23 Tháng Tư, 2011, 08:42:47 am
Xét những điều kiện cụ thể đó, tỉnh ủy và phân khu ủy quyết định sử dụng đơn vị K60, trung đội vũ trang Miền Đông, lực lượng du kích 2 xã Hòa Hiệp, Hòa Xuân do đồng chí Lĩnh chỉ huy làm nhiệm vụ bảo vệ cảng cho tàu cặp bến, bảo vệ hành lang vận chuyển. Đại đội 377 của huyện sẵn sàng cơ động chi viện khi cần thiết. Lấy lực lượng du kích và cơ sở cách mạng xã Hòa Hiệp và một bộ phận Hòa Xuân làm các nhiệm vụ dọn đường, chuẩn bị kho, trạm, bến bãi, cầu tàu, vận chuyển v.v… hơn 1.000 du kích và thanh niên được chọn lựa đi làm cầu tàu. Cầu tàu dài 20 mét, làm bằng cây gỗ dùng dây kết lại, thành mê có chiều rộng 4 mét, yêu cầu phải làm trong đêm và xong trước 24 giờ (kịp thời gian tàu cập bến), bốc hàng xong phải. thu, dỡ cất giấu, ngụy trang trước lúc trời sáng để tránh sự phát triển của địch. Huy động hàng 10 ghe thuyền của vùng biển xã Hòa Hiệp để vận chuyển hàng (quần chúng cốt cán, cơ sở cách mạng) để đảm bảo được bí mật. Mọi công việc chuẩn bị hết sức khẩn trương, tấp nập trong sự im lặng mà hồ hởi phấn khởi của tất cả mọi người có mặt tham gia làm nhiệm vụ đặc biệt này.

 “Con tàu số 41”(1) do đồng chí Hồ Đắc Thạch làm thuyền trường, đồng chí Lê Kim Tự (quê Hòa Hiệp), đồng chí Trần Mĩ Thành (quê Sông Cầu), 2 đồng chí được tỉnh điều ra Bắc trong năm 1963 để làm nhiệm vụ thủy thủ dẫn đường cũng có mặt trên con tàu 41 này… “Dưới ánh sáng đèn diện rực rỡ nhiều màu sắc trong không khí ồn ào náo nhiệt của bến cảng Hải Phòng vào một đêm tháng 12.1964, con tàu lặng lẽ rời bến theo “con đường mòn Hồ Chí Minh trên biển” hướng thẳng vào Nam. Một chặng đường dài gần 2000 hải lí, trên mạt biển sóng nước mênh mông nhưng cũng đầy nguy hiểm mang theo gần 100 tấn hàng quân sự từ hậu phương tiếp sức cho tiền tuyến, liệu tầu có cập được bến trên quê hương hay sẽ xảy ra trận thủy chiến địch sẽ nhận chìm. Trong sự băn khoăn lo lắng ấy nhưng lại thấy vinh quang và tự hào cho ngày trở lại…”(2)

Vào lúc 1 giờ sáng ngày 05.12.1964 chuyến tàu không số đầu tiên đã cập bến Vũng Rô an toàn. Hàng ngàn du kích, nam nữ thanh niên, cán bộ chiến sĩ của lực lượng vũ trang chờ sẵn trên bờ, khi thấy tàu vào nỗi mừng vui khôn xiết, mạn tàu vừa ép sát chiếc cầu tàu dã chiến, cán bộ chiến sĩ, anh chị em thanh niên, du kích cùng các thủy thủ ôm chặt nhau trong tình thương yêu thắm thiết. Công việc bốc hàng lên bờ, vận chuyển diễn ra khẩn trương chỉ trong vòng hơn một giờ đồng hồ. Tàu lại rời bến Vũng Rô trở lại miền Bắc trong sự lưu luyến bùi ngùi và tràn đầy niềm tin tưởng thắng lợi. Toàn bộ vũ khí, thuốc men được lực lượng dân công chuyển về các kho và đưa qua khỏi quốc lộ 1 lên miền Trung.

(http://img692.imageshack.us/img692/3148/a06so.jpg)

Di tích lịch sử Vũng Rô

Đêm 25.12.1964 chuyến tàu thứ 2 lại vào cặp bến. Đêm 10.01.1965 chuyến thứ 3 tiếp tục vào Vũng Rô, công việc giải phóng tàu, vận chuyển hàng theo trình tự trong tinh thần khẩn trương. 3 chuyến tàu đã đưa vào chiến trường Phú Yên hơn 200 tấn súng đạn, mìn, thuốc nổ, thuốc chữa bệnh và trở lại miền Bắc an toàn. Phân khu đã kịp thời phân phối hàng vạn khẩu súng, hàng chục tấn đạn, thuốc nổ cho các tỉnh Phú Yên, Đắc Lắc, Khánh Hòa.


(1) Kí hiệu riêng, mật danh liên lạc.
(2) Theo những lời kể của đồng chí Lê Kim Tự.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 23 Tháng Tư, 2011, 06:19:25 pm
Đêm 25.01.1965 chuyến tàu thứ tư lại cập bến Vũng Rô do trên đường vào gặp nhiều trở ngại thời gian chậm 2 giờ đồng hồ. Mặc dù các lực lượng khẩn trương giải phóng tàu nhưng không kịp, tàu phải nằm lại. Do ta ngụy trang tàu không tốt, chiều 26.01.1965 máy bay quan sát của địch quần phát hiện bắn hỏng tàu. Ngay tối hôm đó ta dùng thuốc nổ phá hủy tàu. Sáng 27.01.1965 địch dùng Trung đoàn 46 quân cộng hòa mở cuộc càn quét lớn khu vực Vũng Rô và căn cứ Miền Đông. Lực lượng K60, trung đội vũ trang Miền Đông và lực lượng du kích chặn đánh quyết liệt, diệt hàng trăm tên địch. Vì chúng quá đông nên ta dùng thuốc nổ phá hủy số vũ khí và hàng chưa kịp chuyển về căn cứ. Tại Hòa Hiệp ở 2 thôn Đa Ngư, Phú Lạc, lực lượng du kích cùng bộ đội địa phương đánh địch suốt 2 ngày ròng rã, địch dùng máy bay ném bom triệt phá xóm làng, nhưng lực lượng ta vẫn tiếp tục chiến đấu kiên cường, diệt hơn trăm tên địch, bắn rơi 1 máy bay. Ở hướng Bãi Bàn, Bãi Xép địch dùng tàu thủy đổ bộ cũng bị ta chặn đánh diệt hơn 50 tên. Sau hơn 1 tuần cuộc càn quét kết thúc, địch dùng nhiều đợt máy bay liên tục ném bom, bắn phá vùng căn cứ Miền Đông.

Cuộc càn ồ ạt của Trung đoàn 46 ngụy có gây cho ta những tổn thất về người, chúng phá và cướp được một số vũ khí ta chưa kịp chuyển, nhưng chúng phải trả giá nặng nền gần 300 tên chết và bị thương, 1 máy bay bị bắn cháy. “Sự kiện Vũng Rô” địch la ó om sòm trên đài phát thanh, báo chí “Cộng sản Bắc Việt xâm nhập trái phép”. Càng la lối ầm ĩ chúng càng chuốc lấy thua thiệt, vô tình chúng đã tuyên truyền cho thắng lợi của cách mạng.

Các chuyến tàu không số cập bến Vũng Rô là một sự kiện đặc biệt, là mốc lịch sử quan trọng của quân dân Phú yên. Không những nó mang đến cho quân và dân Phú Yên và các tỉnh lân cận một nguồn vũ khí, thuốc men quan trọng, mà nó còn đem đến cho đồng bào miền Nam niềm tin tưởng lớn lao vào sự nghiệp cách mạng. Đó là một thắng lợi lớn, một niềm cổ vũ lớn cho quân và dân Tuy Hòa nói riêng, miền Nam nói chung.

Sau khi tiếp nhận vũ khí chi viện của miền Bắc, huyện Tuy Hòa tổ chức lễ phát súng cho lực lượng du kích toàn huyện. Tại thôn Mĩ Xuân xã Hòa Thịnh buổi lễ được tiến hành nghiêm trang với sự có mặt của 1.500 du kích và hàng ngàn cán bộ chiến sĩ đồng bào. Các đồng chí lãnh đạo của huyện ủy cũng đã phát biểu nói về mục đích ý nghĩa của buổi lễ và nêu bật mối quan hệ khăng khít giữa tiền tuyến và hậu phương, biết ơn sâu sắc sự quan tâm của Đảng, Bác Hồ cùng toàn thể đồng bào miền Bắc. Sau khi làm lễ xong 1.500 khẩu súng được giao tận tay cho từng du kích. Anh em đã bày tỏ lòng quyết tâm của mình “Bám dân, bám đắt, bám làng, chiến đấu bảo vệ quê hương”.

Giữa lúc tỉnh nhà giành được nhiều thắng lợi to lớn về quân sự, chính trị, thế lực của ta mạnh hơn trước, vùng giải phóng được mở rộng, liên hoàn đế sát thị xã, thị trấn với số dân ta làm chủ hơn 2/3. Đại hội của tỉnh đảng bộ Phú Yên lần thứ 2 tiến hành họp tại Sơn Xuân (Sơn Hòa) với sự có mặt của 150 đại biểu thay mặt cho gần 2.000 đảng viên trong tỉnh. Đây là cuộc đại hội lịch sử của đảng bộ Phú Yên sau hơn 10 năm trong cuộc chống Mĩ cứu nước đầy gian khổ và anh dũng giành được nhiều thắng lợi vô cùng vẻ vang.

Nghị quyết đại hội đề ra nhiệm vụ quân sự năm 1965 là: “Hoạt động của lực lượng vũ trang chủ yếu là phía trước và đồng bằng. Các lực lượng vũ trang phải coi trọng nhiệm vụ bám dân, phát động quần chúng phá ấp, phá kèm kẹp, phát động phong trào nhân dân du kích chiến tranh, xây dựng thôn, xã, chiến đấu vững chắc, rộng khắp là nhiệm vụ hàng đầu. Tích cực phản công địch càn quét, lấn chiếm. Tích cực hỗ trợ phong trào đấu tranh chính trị, binh vận. Trong chiến đấu, kết hợp tập kích đồn bốt, phục kích đánh giao thông, đánh viện. Trong chiến đấu, kết hợp tập kích đồn bót, phục kích, đánh giao thông, đánh viện, đánh xe M113, hạ được máy bay, bao vây bắt rút cứ điểm, phá hoại hậu cứ của địch. Tích cực sử dụng lực lượng huyện và tích lũy đủ số lượng, tốt về chất lượng. mở rộng tiêu hao, nâng cao tiêu diệt từng đại đội địch, tích cực lấy của địch bồi dưỡng ta…”

Để quán triệt tinh thần nghị quyết của tỉnh ủy, đại hội đại biểu Đản bộ huyện Tuy Hòa lần thứ 3 được triệu tập, có 140 đại biểu chính thức thay mặt cho hơn 800 đảng viên về dự, đại hội họp 3 ngày từ 19 đến 21.3.1965. Đại hội nhất trí đánh giá trong 2 năm qua dưới sự lãnh đạo của huyện, Đảng bộ, quân và dân Tuy Hòa đã giành được thắng lợi: mở rộng vùng giải phóng, xây dựng chính quyền cách mạng ở cơ sở, đồng viên sức người, sức của cho kháng chiến, thực lực cách mạng được xây dựng mạnh hơn bao giờ hết, cơ sở xây dựng được phát triển.

Về phương hướng nhiệm vụ đến, đại hội nhấn mạnh và coi trọng việc phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp của phương châm “2 chân 3 mũi giáp công”, ra sức củng cố chính quyền cơ sở, củng cố các lực lượng cách mạng mạnh về mọi mặt, phát triển đấu tranh chính trị, chống càn quét bảo vệ vùng giải phóng.

Để ngăn chặn phong trào nhân dân nổi dậy làm chủ, xây dựng chính quyền cách mạng liên tiếp nổ ra trong toàn huyện, ngày 18.4.1965 Mĩ ngụy dùng một trung đoàn bộ binh có đại bác, máy bay, xe tăng trực tiếp chi viện mở cuộc hành quân càn quét vào miền Đông, trọng điểm là các thôn giải phóng phía nam xã Hòa Hiệp. Lực lượng vũ trang và du kích xã dựa vào làng chiến đấu ở Xóm Tre (Thôn Đa Ngư) kiên quyết đánh trả nhiều đợt tấn công của địch. Song do quá chênh lệch về lực lượng và vũ khí trang bị nên địch đã tỏ ra áp đảo và tiến hành vây chặt quân ta. Cuộc chiến đấu diễn ra ròng rã suốt cả ngày. Đến chiều lực lượng ta đã chiến đấu đến những viên đạn cuối cùng, các đồng chí ta vẫn bình tĩnh, quyết tâm, còn sức còn chiến đấu, quyết không đầu hàng địch. Họ phá hết súng ống và anh dũng hi sinh. Trận chiến đấu kết thúc, 81 tên giặc phải đền tội tại chỗ, trong đó có 2 cố vấn Mĩ. Ta hi sinh 15 đồng chí. Các anh đã ngã xuống nhưng tấm gương bất khuất, anh hùng của họ mãi mãi còn tồn tại với thế hệ mai sau.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 23 Tháng Tư, 2011, 06:20:14 pm
Công tác binh địch vận được chú trọng và đẩy mạnh kết hợp với sức mạnh quân sự đấu tranh chính trị nên đã thu được những thắng lợi rực rỡ. Tháng 5/1965 một trung đội dân vệ ở thôn Phú Nông xã Hòa Bình đã nổi dậy làm binh biến, được sự hỗ trợ của Đại đội 377, anh em đã giết tên chỉ huy ngoan cố, quay sóng trở về với cách mạng.

Trong 6 tháng đầu năm 1965 các lực lượng vũ trang, bán vũ trang huyện đã liên tục đột nhập đánh phá ấp chiến lược, hỗ trợ cho phong trào nhân dân nổi dậy phá ấp, giải phóng nhiều xã. Vùng giải phóng ngày càng được mở rộng, phong trào nhân dân du kích chiến tranh phát triển mạnh mẽ, rộng khắp, dồn ép địch buộc chúng co lại phòng giữ.

Trước nguy cơ thất bại hoàn toàn của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, đế quốc Mĩ buộc phải đề ra chiến lược mới. “Chiến tranh cục bộ” hòng nhanh chóng giành thắng lợi quyết định bằng sức manh của đội quân viễn chinh Mĩ.

Giữa tháng 3.1965 đơn vị quân viễn chinh Mĩ đầu tiên đổ bộ vào Đà Nẵng. Thường vụ khu ủy và quân khu ủy 5 đã chủ trương phát động quần chúng và dana trong quân khu “Quyết đánh và quyết thắng quân viễn chinh Mĩ”.

Ngày 2.5.1965 Bộ tư lệnh Quân khu ra chỉ thị “Chuẩn bị tư tưởng cho bộ đội trực tiếp chiến đấu với các đơn vị quân Mĩ”. Chỉ thị vạch rõ “Việc tiêu diệt từng đơn vị quân Mĩ có ý nghĩa quan trọng, không chỉ đối với chiến trường miền Nam mà còn có ý nghĩa quốc tế, không chỉ có ý nghĩa chiến thuật mà còn có ý nghĩa chiến lược”.

Ngày 19.5.1965 nhân kỉ niệm lần thứ 75 ngày sinh của Hồ Chủ tịch, Bộ Tư lệnh Quân khu 5 phát động phong trào thi đua “quyết đánh thắng giặc Mĩ xâm lược”, đạt danh hiệu “Dũng sĩ diệt Mĩ” tặng cho cán bộ chiến sĩ có nhiều thành tích diệt Mĩ. Khẩu hiệu “Tìm Mĩ mà đánh, lùng ngụy mà diệt” được phổ biến rộng rãi trong các lực lượng vũ trang của quân khu.

Ở huyện Tuy Hòa, sau khi tiếp nhận tinh thần chỉ thị “Sẵn sàng đánh quân viễn chinh Mĩ” của khu ủy và quân khu ủy 5, lời tuyên bố và kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Quyết tâm đánh tháng giặc Mĩ xâm lược”, huyện ủy và huyện đội Tuy Hòa tiến hành triển khai nhiệm vụ cụ thể, chuẩn bị tinh thần, tư tưởng và quyết tâm cho quân dân toàn huyện tập trung những nội dung chủ yếu là:

- Tiếp tục hoạt động vũ trang, diệt phá nhiều mâm tề, nhiều trung đội địa phương quân, làm mất chỗ dựa khi quân Mĩ vào.

- Mở rộng và củng cố vung giải phóng, tích cực xây dựng thôn, làng chiến đấu.

- Củng cố tổ chức cách mạng trong thôn xã, phát triển du kích hợp pháp, du kích mật, cơ sở mật, mạng lưới quân báo nhân dân.

- Đẩy mạnh công tác binh địch vận, chú ý xây dựng “Cơ sở nội tuyến” trong hàng ngũ địch.

- Tăng cường bổ sung quân số và trang bị cho lực lượng bộ đội huyện, các trung đội tập trung, lực lượng vũ trang xã tích cực và tranh thủ huấn luyện về kĩ thuật, chiến thuật.

- Xây dựng căn cứ, hậu cứ của từng xã, huyện, các đơn vị, cơ quan.

- Ra sức và tranh. thủ mọi lúc mọi nơi tăng gia sản xuất, luôn quá triệt quan điểm “tự lực tự tự cường”, đặc biệt quan tâm làm vũ khí tự tạo, cải tiến vũ khí địch để đánh địch, phát triển vũ khí thô sợ, chông, mìn, cạm, bẫy, làm tốt công tác “Hậu cần tại chỗ”.

Huyện ủy cũng chủ trương tổ chức một đợt sinh hoạt chính trị ngắn ngày với tinh thần tranh thủ, khẩn trương nhằm mục đích: chống tư tưởng sợ quân Mĩ, dựa dẫm, ỷ lại, trông chờ trên chi viện. Xác định chiến tranh cục bộ sẽ ác liệt hơn, xây dựng quyết tâm dù: “Khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.

Tháng 6.1965 tỉnh điuề động đồng chí Tô Nào Huyện đội trưởng, đồng chí Nguyễn Khánh Thành Huyện đội phó về tỉnh. Ban chỉ huy huyện đội được bổ sung khá đầy đủ gồm có 4 đồng chí: đ/c Ba Lệnh làm Huyện đội tưởng, đồng chí Năm Thọ, Chính trị viên, đồng chí Tứ, Huyện đội phó, đồng chí Ngọc, Chính trị viên phó.

Trước tình hình quân Mĩ và chư hầu chuẩn bị nhảy vào Phú Yên, Bộ tư lệnh phân khu Nam quyết định mở chiến dịch Thu - Đông để phối hợp với các chiến trường trong Quân khu. Lấy tỉnh Phú Yên làm trọng điểm, mục tiêu của chiến dịch: tiêu diệt một bộ phận quan trọng lực địch, phát triển phong trào nhân dân du kích chiến tranh, bồi dưỡng và xây dựng lực lượng ta.

Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của chiến dịch trên hướng chính của trọng điểm, trên quyết định thành lập Ban chỉ huy chung gồm 5 đồng chí: đồng chí Lư Giang tư lệnh phân khu Nam làm Chỉ huy trưởng, đồng chí Lương Công Huyền, Phó Bí thư Tình ủy làm Chính trị viên, đồng chí Nguyễn Cự Trung đoàn trưởng Trung đoàn 10 làm Chỉ huy phó, đồng chí Sáu Sang huyện ủy làm Chính trị viên phó, đồng chí Mười Hòa (Nguyễn Quyền) huyện ủy viên làm Chính trị viên phó.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 23 Tháng Tư, 2011, 06:21:06 pm
Đầu tháng 10 năm 1965, trên hướng chính của Tuy Hòa 1 lực lượng ta có trung đoàn 10 (Ngô Quyền), tiểu đoàn 30 và lực lượng vũ trang huyện đóng quân. Lúc này trung đoàn Ngô Quyền đang tiến hành làm công tác chuẩn bị để cơ động về phía đông tiêu diệt mục tiêu then chốt (quận lị Phú Lâm). Công việc chuẩn bị chưa xong thì ngày 22.10.1965 địch dùng 3 tiểu đoàn ( 1 + 3 thuộc trung đoàn 47) và tiểu đoàn 23 biệt động quân mở trận càn lớn vào các xã Hòa Bình, Hòa Đồng, Hòa Tân, Hòa Phong, Hòa Mĩ nhằm đánh phá vùng giải phóng và cướp lúa.

Trước tình hình diễn biến mới, Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định thực hiện phương án 2 “Tập trung lực lượng phản công đánh bại cuộc càn quét của địch”.

Sáng ngày 23.10.1965 tiểu đoàn 12, 11 của trung đoàn 10 phản công địch ở Phú Diễn (Hòa Đồng) diệt 2 đại đội địch và phát triển tiến công đánh địch trên tục đường 5: Phú Thứ, Mĩ Lệ (Hòa Bình). Suốt 1 ngày chiến đấu quyết liệt, địch dùng không quân pháo binh chi viện đánh vào trận địa và phía sau lưng ta. Chúng phá sập, bắn cháy, hư nhiều nhà cửa, tài sản của nhân dân. Nhưng trước sức tấn công mạnh mẽ của quân ta đến 16 giờ địch phải tháo chạy theo đường 5 về Phú Lâm bỏ lại nhiều xác chết của đồng bọn. Kết quả ta diệt làm bị thương gần 150 tên địch, thu 17 súng, ta hi sinh 11 đồng chí, bị thương 8 đồng chí.

Đêm 25.10.1965 tiểu đoàn 30 tập kích địch ở Đông Mĩ (Hòa Vinh) và điểm chốt Nam cầu Bàn Thạch (Hòa Xuân). Trận đánh cầu Bàn Thạch kéo dài đến trưa ngày 26.10 ta không làm chủ được trận địa. Địch tập trung lực lượng pháo binh và lực lượng máy bay ném bom bắn phá vào đội hình của ta. Lực lượng ta bị tổn thất một số, vũ khí đạn dược lại hết nên ta tổ chức lui quân. Kết quả ta đánh thiệt hại 2 đại đội bảo an, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 100 tên, ta hi sinh, bị thương 32 đồng chí. Đây là trận chiến đấu quyết. liệt và kéo dài, ta thương vong nặng.

Tuy ta tiêu diệt được nhiều sinh lực địch nhưng cũng có thể nói ta chưa thắng trong trận đánh này. Những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc ta không làm chủ được trận địa, thương vong niều cần phải mổ xẻ để rút kinh nghiệm:

- Trước hết là do chuẩn bị chiến trường không tốt, sử dụng lực lượng không hợp lí.

- Không phát huy được uy lực của hỏa lực chi viện trực tiếp (ĐKZ bắn không trúng mục tiêu).

- Tư tưởng chủ quan, cho rằng lực lượng ta mạnh “Đánh là thắng ngay”.

- Coi thường địch, cho là quân bảo an yếu, không có sức chiến đấu bao nhiêu.

Để tiếp tục giải phóng vùng lõm áp sát hậu cứ của địch, ngày 23.11.1965 hành quân cấp tốc xuống miền Đông vượt sông Bàn Thạch cùng đội vũ trang và lực lượng du kích xã Hòa Hiệp tổ chức vận động tiếp cận mục tiêu (3 thôn Bắc Hòa Hiệp). Một bộ phận lực lượng huyện cùng du kích xã Hòa Vinh phục chặn và sẵn sàng đánh địch trên tuyến đương 1 (Đông Mĩ - Thôn 4) và đường từ ngã 3 bảng xuống Phú Hiệp để hỗ trợ cho hướng chính của đại đội 377 ở Hòa Hiệp.

Trên đường hành quân tiếp cận mục tiêu, vào lúc 2 giờ sáng ngày 24.11.1965 gặp địch ở Lò 2 ta nổ súng, địch bỏ chạy. Đến 4 giờ sáng phát hiện được địch ta tiến hành bao vây nổ súng diệt tại chỗ 10 tên, 4 tên bị bắt sống, thu 7 súng, địch lại bỏ chạy. Ta bị thương 3 đồng chí. Theo hướng mục tiêu quy định, ta truy kích và phát triển tiến công lên đến 2 thôn đầu xã (Thạch Lâm - Phú Nhuận). Ngày hôm sau 25.11.1965 ta làm chủ và trụ lại ở thôn Phú Hiệp, dùng lực lượng mai phục sẵn sàng đánh địch phản kích. Đúng như dự kiến, lúc 10 giờ địch phản kích ta nổ súng diệt một số tên, chúng tháo chạy, ta truy kích đến đầu xã chốt lực lượng lại hỗ trợ cho đồng bào nổi dậy giải phóng toàn bộ các thôn của phía bắc xã Hòa Hiệp (sát quận lị Phú Lâm).

2 ngày sau địch dùng 1 tiểu đoàn cộng hòa có không quân, pháo binh chi viện, xe tăng đi cùng phản kích chiếm lại các thôn ta mới giải phóng. Đến Phú Hiệp bị lực lượng ta chặn đánh suốt cả ngày buộc địch phải lui quân mang theo 12 tên chết và bị thương, ta bị thương 2 đồng chí. Đại độ 377 cùng lực lượng vũ trang và du kích xã bám làng quần đánh địch hỗ trợ cho đồng bào đào hào, hầm, rào làng chiếm đấu.

Trung đoàn 47 ngụy cùng bọn bảo an dân vệ ở Phú Yên liên tiếp bị ta diệt gọn từng đại đội, trung đội, tinh thần binh lính hoang mang sa sút nghiêm trọng. Trước tình hình đó Bộ tư lệnh sư đoàn 22 ngụy cấp tốc điều trung đoàn 4 cùng tiểu đoàn 2, tiểu đoàn 5 thuộc chiến đoàn 2 dù quân tổng dự bị đến tiếp cứu cho quân ngụy ở Phú Yên.

Quân Mĩ dùng máy bay trực thăng chuyển một tiểu đoàn pháo vội vã đến sân bay Đông Tác để chi viện cho quân ngụy, ngày 07-11-1965 Sở chỉ huy tiền phương sư đoàn 22 ngụy đến thị xã Tuy Hòa, ngày hôm sau 8-11 chúng mở trận càn “Quyết thắng 172” vào xã Hòa Hiệp để hòng vớt vát những thất bại cay đắng trên chiến trường Tuy Hòa. Nhưng chúng lại bị đại đội 377 lực lượng vũ trang, du kích xã Hòa Hiệp dựa vào làng chiến đấu, giao thông hào địa đạo chặn đánh và bẻ gay nhiều cánh quân của địch. Mặc dù chúng dùng cả máy bay ném bom, xe tăng hòng đánh bật lực lượng ta nhưng đều bị đẩy lui, diệt 60 tên, bắn cháy 2 xe M113. Trận càn “quyết thắng 172” của sư đoàn 22 ngụy lại bị thất bại hoàn toàn.

Đêm 06-12-1965 tiểu đoàn 13 thuộc trung đoàn 10 tập kích tiêu diệt 1 đại đội bảo an ở Phước Bình (Hòa Thành). Đêm 20-12-1965 đồng chí Đặng Mừng du kích xã Hòa Tân dùng súng trường bắn rơi 1 máy bay C130, 6 tên giặc lái Mĩ bị chết thiêu, ta thu 4 súng ngắn.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 23 Tháng Tư, 2011, 06:22:03 pm
Thực hiện chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” (1960-1965) đế quốc Mĩ và bè lũ tay sai đã đề ra nhiều âm mưu và kếh hoạch như “Kế hoạch Stalây - Taylo”, “Chiến dịch Hải Yến”, quốc sách “Ấp chiến lược”… chúng đã gây biết bao chết chóc đau thương, những tội ác dã man mà quân và dân Tuy Hòa mãi mãi khắc cốt ghi xương mối thù này. Chỉ tính trong 2 năm 1964 và 1965 địch đã giết hại 1.283 người dân thường (có 137 phụ nữ, cắt đầu mổ bụng: 132 người, thủ tiêu diết lén 158 người, bắt giam tù, đầy hàng chục ngàn người, đốt phá: 1194 chiếc ghe, thuyền và 1141 tấm lưới của bà con ngư dân, cướp và bắn chết 4.506 trâu bò, hàng ngàn ngôi nhà bị phá sập đốt cháy. Điển hình của sự dã man tàn bạo là vụ địch dùng máy bay ném bom, bom xăng xuống thôn Phú Lạc (Hòa Hiệp) vào ngày 27 và 28 tết Ất Tị làm 83 người chết (có 30 trẻ em), làm bị thương gần 100 người, phá sập 142 ngôi nhà. Ngày 06-5-1965 địch dùng máy bay ném bom trường cấp 2 của huyện ở xã Hòa Thịnh trong lúc các cháu học sinh đang học và vui chơi, làm chết 9 cháu và bị thương 12 cháu khác, phá sập toàn bộ trường học. Những tội ác tày tời mà đế quốc Mĩ và bè lũ tay sai gây ra cho nhân dân ta hòng bắt nhân dân ta phải khuất phục sự tàn bạo. Hầu như không có gia đình nào không bị mất mát người thân thích ruột thị, hàng ngàn người bị tàn phế suốt đời. Trái ngược với điều chúng mong muốn, quân và dân Tuy Hòa biết chấp nhận hi sinh, biến đau thương tang tóc thành hành động cách mạng. Chính lòng căm thù giặc đã tạo nên một phần sức mạnh liên kết mọi người thành một khối vững chắc đứng lên dìm đầu quân cướp nước và bè lũ bán nước để trả thù cho những người thân. Kẻ thù dù có nhiều mưu ma chước quỷ, dù có tàn bạo dã man đến mức nào cũng không thể nào hiểu được dân tộc này, mảnh đất này. Cái tạo nên sức mạnh không phải là lực lượng chí quy với vũ khí giết người hiện đại, sức mạnh của dân tộc là sức mạnh của sự đoàn kết toàn dân, thực hiện một cuộc chiến tranh nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, Bác Hồ vĩ đại. Sức mạnh đó còn được nhân lên gấp bội bởi đức tính thông minh, cần cù nhẫn nại nhưng cũng gan góc và anh dũng tuyệt vời của cả một cộng đồng dân tộc. Yêu nước thương nòi biết nhận hi sinh mất mát về mình đã trở thành một đạo lí tốt đẹp của dân tộc.

Trong cuộc chiến đấu không cân sức này mảnh đất Tuy Hòa đã sản sinh ra những người con anh hùng bất khuất, chính những con người binh thường giản di đó đã làm rạng rỡ truyên thống đấu tranh anh dũng của quân và dân huyện nhà. Mẹ Lê Thị Kính 5 tuổi ở xã Hòa Đồng, chị Bùi Thị Liễu xã Hòa Mĩ, em. Nguyễn Văn Lí 12 tuổi xã Hòa Thịnh dũng cảm lăn vào cản xe tăng giặc. Các chị Mai Thị Ràng, Nguyễn Thị Hòa, Đỗ Thị Phục, Đặng Thị Bế, Nguyễn Thị Tăng xã Hòa Hiệp dẫn đầu các đoàn biểu tình, địch đàn áp vẫn xông lên. Mẹ Sáu (Hòa Hiệp), chị Tỏ (Hòa Thịnh) đã nhắc nòng súng địch đang bắn để bảo vệ cán bộ cách mạng thoát chết. Phụ nữ Hòa Xuân tay không bắt sống giặc lái Mĩ, anh Thi Hòa Hiệp dùng cuốc bắt sống giặc khi chúng có súng trên tay. Em Nguyễn Thành Liên ở Hòa Thành trên đường công tác gặp địch phục kích, các em bị thương nặng vẫn nén đau nằm im chờ địch lại gần em dùng súng tiểu liên và 2 quả lựu đạn đánh trả giết 11 tên địch (có 1 đại úy ngụy) và đã anh dũng hi sinh. Đồng chí Cường chiến sĩ Đại đội 377 trong trận chống càn ở Hòa Hiệp đã bình tĩnh dùng súng chống tăng diệt 1 xe tăng của địch, 15 chiến sĩ của đội vũ trang Hòa Hiệp đã ngoan cường chiến đấu với 1 trung đoàn địch có xe tăng, pháo binh, không quân suốt 1 ngày, lúc hết đạn đập phá súng thề quyết tử không để giặc bắt, các đồng chí đã anh dũng hi sinh. Anh Trần Bá xã đội phó (Hòa Hiệp) khi bị giặc bắt anh vẫn chống cự đến cùng. Khai thác dụ dỗ không được chúng đã bắn anh, trước khi chết anh vẫn ngẩng cao đầu hô lớn “Hồ Chí Minh muôn năm”. Những cái chết của các anh đã trở thành bất tử. Ngoài ra còn có hàng ngàn tấm gương khác cũng chiến đấu anh dũng kiên cường liên tiếp lập nên những chiến công góp phần xứng đáng cùng quân dân tỉnh nhà đánh bại “Chiến tranh đặc biệt”.

Trong 5 năm qua quân dân Tuy Hòa đã chiến đấu lớn nhỏ 470 trận (kể cả đơn vị bạn, của phân khu, quân khu và lực lượng của tỉnh tăng cường), loại khỏi vòng chiến đấu: 4.437 tên địch, gồm 2.116 tên chết (có 10 tên Mĩ). 1.428 tên bị thương (có 8 tên Mĩ), bắt sống 268 tên (có 1 tên Mĩ, 1 Phi Luật Tân); hàng và đào rã ngũ 11.267 tên, thu 280 súng các loại, bắn rơi 7 máy bay, bắn cháy và phá hỏng 11 xe M113, 25 xe quân sự, lật nhào 13 đoàn tàu quân sự, bắn chìm và bị thương 3 chiếc hải thuyền.

Trên. mặt trận tiến công chính trị có hàng trăm cuộc đấu tranh, biểu tình nhập quận, nhập thị, chống càn quét, chống dồn dân bắt lính, cướp của đốt nhà… liên tiếp diễn ra và giành nhiều thắng lợi góp phần lớn trong phong trào cách mạng của huyện nhà. Một mũi tiến công quan trọng khác là công tác. binh địch vận mũi nhọn thọc thẳng vào hàng ngũ địch, những cuộc binh biến phản chiến nổ ra ở Hòa Hiệp, Hòa Bình, Hòa Xuân gây cho địch đã hoang mang lại càng suy yếu hơn.

Về tổ chức và phát triển lực lượng, từ đường lối của Đảng trong lãnh đạo các cấp luôn quán triệt sâu ssắc “Bạo lực cách mạng” quan điểm “Tự lực tự cường” đường lối chiến tranh nhân dân trên cơ sở phát triển nhân dân du kích chiến tranh. Thực lực cách mạng của huyện từng bước đi lên từ 6 đồng chí đội vũ trang (năm 1960), năm 1965 có đại đội tập trung huyện 377, trung đội vũ trang Miền Đông, trung đội vũ trang Miền Tây, đội công binh Đèo Cả. Toàn huyện có 3.000 dân quân du kích, được trang bị hơn 2000 khẩu súng, ngoài ra còn tổ chức hơn 50 du kích mật, đã huy động hơn 3000 năm nữ thanh niên bổ sung cho các đơn vị chủ lực của phân khu Nam, quân khu 5, tỉnh Khánh Hòa và Đắc Lắc.

Dưới sự lãnh đạo sáng suốt và đúng đắn của Đảng, quân và dân Tuy Hòa đã đoàn kết đứng lên anh dũng chiến đấu, bắt đầu từ đồng khởi Hòa Thịnh phong trào cách mạng không ngừng lớn mạnh cho đến nay ta giải phóng 4/5 đất đai, làm chủ 85% dân số, giữ vững và phát huy mạnh mẽ quyền chủ động trên chiến trường. Đẩy địch vào thế bị động đối phó, góp phần cùng quân dân miền Nam làm phá sản hoàn toàn chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mĩ, buộc chúng phải ồ ạt đưa quân Mĩ và chưa hầu vào miền Nam, tiến hành chiến lược “Chiến tranh cục bộ” nhằm cứu vãn nguy cơ bị thất bại hoàn toàn, tiếp tục mở rộng chiến tranh xâm lược lâu dài trên đất nước ta.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 23 Tháng Tư, 2011, 06:26:01 pm
CHƯƠNG V

PHÁT HUY SỨC MẠNH TỔNG HỢP
BẰNG CÁC PHƯƠNG THỨC CHIẾN ĐẤU LỰC LƯỢNG VŨ TRANG
HUYỆN TUY HÒA GÓP PHẦN CÙNG TOÀN ĐẢNG, TOÀN DÂN HUYỆN NHÀ
ĐÁNH BẠI “CHIẾN TRANH CỤC BỘ” CỦA ĐẾ QUỐC MĨ

I - ĐÁNH BẠI ÂM MƯU PHẢN CÔNG CHIẾN LƯỢC HAI MÙA KHÔ, BẼ GÃY CUỘC HÀNH QUÂN VAN-BUA-REN CỦA QUÂN MĨ TRÊN ĐẤT TUY HÒA (NĂM 1966)

Trước những thất bại liên tiếp trong năm 1964 và những tháng đầu năm 1965, chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” có nguy cơ bị phá sản hoàn toàn, “Chiến tranh cục bộ” dùng sức mạnh quân sự của đội quân viễn chinh Mĩ và chư hầu ồ ạt vào chiến trường miền Nam, hòng lật lại thế trận, giành thắng lợi quyết định trong thời gian ngắn.

Ngày 11-7-1965, Tổng thống Mĩ Giôn-xơn đã chuẩn y kế hoạch của tướng Oét-mô-lê và Bộ Quốc phòng Mĩ “đưa vào miền Nam Việt Nam từ 40-50 tiểu đoàn quân viễn chinh Mĩ và chư hầu, mở nhiều cuộc hành quân quy mô đánh vào các vùng xung yếu (những vùng phong trào cách mạng phát triển mạnh). Thực hiện âm mưu “tìm diệt” quân chủ lực Bắc Việt, “bẻ gãy xương sống Việt Cộng” là biện pháp chiến lược chủ yếu để. giành thắng lợi…”.

Trước những thay đổi chiến lược chiến tranh của Mĩ, tháng 12-1965 Ban chấp hành Trung ương Đảng đã họp hội nghị lần thứ 12 định ra nhiệm vụ, chủ trương và phương châm chiến lược để lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân, quàn quân đánh thắng giặc Mĩ xâm lược. Qua đó đánh giá tình hình hội nghị đã kết luận “… Mặc dầu đế quốc Mĩ đưa vào miền Nam hàng chục vạn quân viễn chinh, lực lượng so sánh giữa ta và địch không thay đổi lớn. Do đó cách mạng miền Nam Việt Nam vẫn giữ vững và phát triển thế chiến lược tiến công…”(1).

Hội nghị nêu rõ mục tiêu chủ yếu của lực lượng vũ trang là: “Tiêu diệt và tiêu hao một bộ phận quan trọng quân Mĩ, làm cho nó tổn thất nặng, không làm được nòng cốt và chỗ dựa cho quân ngụy, không thể ngăn chặn được sự tan rã của ngụy quân ngụy quyền. Tiêu diệt và làm tan rã đại bộ phận ngụy quyên tới mức mà không còn là lực lượng mà đế quốc Mĩ có thể dựa vào để tiếp tục chiến tranh xâm lược thực dân mới”(2).

Dưới ánh sảng nghị quyết lần thứ 12 của BCH Trung ương Đảng, Khu ủy và quân khu ủy 5 đề ra phương hướng nhiệm vụ cho các lực lượng vũ trang trong toàn Quân khu là “Ra sức tiến công và phản công địch, kiên quyết tiêu diệt quân Mĩ và quân ngụy, đánh bại kế hoạch phản công chiến lược của chúng, giữ vững mở rộng và xây dựng căn cứ địa miền núi và vùng giải phóng đồng bằng, phát triển lực lượng cách mạng, nắn vững tư tưởng chỉ đạo tác chiến là chủ động tiến công, tích cực phản công”.

Ngày 01-11-1965 Mĩ đưa tiểu đoàn pháo binh vào sân bay Đông Tác chi viện cho các Trung đoàn 41 và 47 quân ngụy mở cuộc hành quân càn quyét ở miền Đông của huyện. Hơn 10 ngày sau lữ đoàn Rồng Xanh lính đánh thuê Nam Triều Tiên, lữ đoàn 1 sư đoàn dù 101 Mĩ ồ ạt đổ bộ lên sân bay Đông Tác và rừng Hòa Hiệp.

Trước sự có mặt của quân Mĩ và chư hầu ở Đông Tác, Hòa Hiệp, Huyện ủy Tuy Hòa phải chuyển chủ trương “Giải phóng huyện vào cuối năm 1965 đầu năm 1966” sang tinh thần mới là: “Quyết tâm giữ vững vùng giải phóng, kiên quyết đánh trả quân địch càn quét, chủ động tấn công vào căn cứ hậu phương của chúng, chống tư tưởng gờm, sợ Mĩ”. Chuẩn bị tinh thần cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong huyện sẵn sàng chịu đựng và vượt qua những thử thách ác liệt để chiến thắng giặc Mĩ xâm lược. Quán triệt nghị quyết 12 của BCH Trung ương Đảng, Huyện ủy chỉ đạo các địa phương và lực lượng vũ trang tích cực chuẩn bị sẵn sàng, chủ động đánh phủ đầu quân Mĩ và chư hầu Nam Triều Tiên, đánh bại các cuộc hành quân càn quét của chúng, giữ vững vùng giải phóng.

Để thăm dò, giải tỏa và chuẩn bị bàn đạp cho cuộc hành quân Van-bua-ren, địch lấy khu vực Đông Nam huyện Tuy Hòa để càn quét đánh phá. Mờ sáng ngày 01-01-1966, địch dùng hàng trăm máy bay trực thăng đổ 2 tiểu đoàn Nam Triều Tiên thuộc lữ “Rồng Xanh” xuống xóm mới, Lạc Long (Hòa Xuân), chia làm 2 cánh đánh sâu vào ven núi, thung lũng Hảo Sơn và hóc Ông Thơm, tại chân Đá Lộp. Đại đội 377 khi phát hiện địch tiến vào đã lợi dụng ưu thế địa hình, gọp đá, ở trên cao, chờ địch đến thật gần bất ngờ dùng tiểu liên, lựu đạn bắn và ném phủ đầu vào đội hình của chúng. Địch lâm vào thế bất lợi, bị đánh bất ngờ, số lính chết, bị thươg nhiều nên chống trả yếu ớt, bọn địch phá sau vì sương mù nên không chi viện được, những tên sống sót tháo chạy thục mạng. Các chiến sĩ ta lợi dụng thời cơ xung phong chiếm lĩnh trận địa, thu được 1 khẩu đại liên, 19 súng AR15, 2 súng chống tăng M72, 2 M79, 2 súng ngắn, hàng trăm xác chết và bị thương của giặc nằm la liệt khắp trận địa.


(1), (2) Nghị quyết hội nghị BCH Trung ương Đảng lần thứ 12 (12-1965).


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 23 Tháng Tư, 2011, 06:27:14 pm
Cùng lúc đó, 1 cánh quân dù ngụy tiến hành vào phía đông bắc Ông Thơm bị 8 chiến sĩ cảnh vệ của Trung đoàn 10 chặn đánh quyết liệt, diệt hơn 10 tên, có tên thiếu tá chỉ huy, bọn địch hoảng sợ và tháo chạy.

Lần ra quân đầu tiên của lữ đoàn “Rồng Xanh” Nam Triều Tiên ở Việt Nam, một đại đội đã bị tiêu diệt trên đất Tuy Hòa, một thảm bại đắng cay, làm cho bọn giặc đánh thuê càng cay cú lồng lộn. Để trả đũa chúng dùng hàng ngàn quả pháo, hàng trăm lượt máy bay ném bom (có cả bom, pháo hóa học) hòng tiêu diệt và đánh lật lực lượng ta, nhưng các chiến sĩ 377 - những đứa con của quê hương Tuy Hòa anh dũng kiên cường vẫn bám giữ và liên tục chiến đấu đánh lui nhiều đợt tiến công của địch, diệt thêm hàng chục tên, thu 20 mặt nạ phòng độc. Anh em đã dùng vũ khí thu được của địch đánh địch trong mấy ngày liên tục địch vẫn không vào lấy được xác.

Chiến thắng ỏ thung lũng Hảo Sơn là chiến thắng đầu tiên đánh phủ đầu, diệt gọn 1 đại đội Nam Triều Tiên của Đại đội 377 bộ đội địa phương huyện Tuy Hòa, mở ra những khả năng và niềm tin đánh thắng giặc Mĩ và quân chư hầu. Chiến công này mãi mãi tô đậm trong lịch sử truyền thống của Đại đội 377 anh hùng.

Cùng ngày một cánh quân khác của địch gồm 2 tiểu đoàn của Trung đoàn 41 ngụy dùng trực thăng đổ xuống Hóc Chỗ, Đồng Dơi, Bãi Xép, Mũi Điện, tổ chức nhiều cánh quân lùng sục đánh vào căn cứ ta và đánh phá vùng giải phóng nam Hòa Xuân và nam Hòa Hiệp. Cuộc càn quét kéo dài hơn 15 ngày, chúng bị lực lượng vũ trang và du kích xã Hòa Hiệp quần bám đánh liên tục ở nhiều nơi như: Bầu Le, Đồng Sãi, Hang Vàng, Gò Đình. Diệt 16 tên, bắn rơi 1 máy bay trực thăng.

Ta dùng lực lượng phản công địch càn quét vừa chủ động tiến công quân địch ở tuyến sau. Đêm 02-01-1966 một bộ phận của Trung đoàn 10 (Ngô Quyền) tập kích Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 47 (mới xây dựng lại) ở Hòa Vinh, diệt và làm bị thương 87 tên.

Với lực lượng hỗn hợp. gồm hàng chục. tiểu đoàn của lữ “Rồng Xanh” Nam Triều Tiên, tiểu đoàn dù, Trung đoàn 41, Trung đoàn 47 ngụy được sự chi viện trực tiếp của pháo binh và không quân Mĩ, địch đã mở cuộc hành quân khá quy mô với thời gian gần 20 ngày. Chúng phải trả giá bằng 200 tên chết và bị thương, mất gần 50 súng, 1 trực thăng bị cháy. Đặc biệt đòn đau nhớ đời là một đại đội lính đánh thuê Nam Triều Tiên bị xóa sổ khi vừa mới đặt chân lên đất Tuy Hòa. Với bản chất dã man tàn bạo giặc Mĩ và quân chư hầu Nam Triều Tiên đã hèn hạ tàn sát đồng bào ta để trả thù. Vụ thảm sát đầu tiên xả ra ở thôn Đa Ngư (Hòa Hiệp), giặc đã bắn cụ Đào Khánh và 37 phụ nữ trẻ em. Ở xóm mới Phước Giang (Hòa Xuân) hàng chục em bé dưới 4 tuổi có em còn ôm vú mẹ đã bị giặc xé xác, đâm luôn cả mẹ. Chúng hãm hiếp những em dưới 15 tuổi, những bà cụ già trên 70 tuổi cho đến chết. Những tội ác vô cùng man rợ của giặc Mĩ và quân chư hầu được loan nhanh khắp huyện. Đồng bào chiến sĩ ta vô cùng phẫn nộ trước hành động cực kì dã man của địch. Lòng căm thù giặc khắc sâu tận xương tủy càng thôi thúc tinh thần quyết chiến giết thật nhiều quân giặc trả thù cho đồng bào đồng chí của mình.

Thực hiện chiến lược phản công 2 mùa khô và tiếp tục chuẩn bị cho cuộc hành quân Ven-vua-ren trong tháng 12-1965, bọn Mĩ cấp tốc đổ quân vào sân bay Đông Tác 1 tiểu đoàn dù, 1 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn công binh, 1 tiểu đoàn cơ gới (400 xe), 1 tiểu đoàn quân y hậu cần, tiến hành triển khai xây dựng căn cứ Đông Tác - Hòa Hiệp với chiều dài 17km gồm nhiều sân bay, kho trạm, bệnh viện, trận địa pháo v.v…

Cuối tháng 12-1965 trên toàn chiến trường miền Nam số quân Mĩ và chư hầu lên đến 18 vạn tên, 52 vạn quân ngụy, 2.188 máy bay, 200 tàu vận tải. Riêng chiến trường khu 5 quân Mĩ và chư hầu có 13 vạn tên, gần 40 tiểu đoàn cơ động. Ở huyện Tuy Hòa có hơn 10 tiểu đoàn Mĩ và chư hầu chưa tính lực lượng hậu cần.

Với sức mạnh áp đảo về binh khí, kĩ thuật cùng với đội quân thiện chiến của lực lượng viễn chinh Mĩ và chư hầu đang ồ ạt đổ vào miền Nam. Chính quyền Sài Gòn càng ra sức đẩy mạnh hoạt động tâm lí chiến nhằm làm lung lạc tinh thần và ý chí của quân dân ta, chúng hi vọng và tin tưởng sẽ tiêu diệt đẩy lùi lực lượng ta, thay đổi cục diện chiến tranh giành thắng lợi theo ý đồ của chúng.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 23 Tháng Tư, 2011, 06:28:56 pm
(http://img860.imageshack.us/img860/465/73421781.jpg)


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 25 Tháng Tư, 2011, 06:15:35 am
Bước vào đầu năm 1966 Mĩ bắt đầu mở cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ nhất trên toàn miền Nam với 5 hướng phản công chính, còn gọi là “chiến lược 5 mũi tên”. Phú Yên là 1 mũi trong 5 hướng phản công của địch. Tuy Hòa được chọn làm trọng điểm bởi vì: Nơi đây có phong trào nhân dân du kích chiến tranh phát triển mạnh, có vùng giải phóng rộng lớn, dân cư đông đúc, là vựa lúa của đồng bằng khu 5. Tuy Hòa không những là một chiến trường ác liệt mà còn là một hậu phương lớn đóng góp nhiều sức người sức của cho kháng chiến, là nguồn cung ứng chi viện, tài lực, vật lực cho 2 tỉnh bạn Khánh Hòa, Đắc Lắc.

Về phía ta, sau khi cuộc hành quân càn quét của quân chư hầu Nam Triều Tiên và Trung đoàn 41, 47 ngụy ở khu đông vừa kết thúc, huyện ủy, huyện đội Tuy Hòa được khẩn trương họp soát xét, nhận định và đánh giá tình hình, đề ra những nhiệm vụ và các biện pháp cấp bách:

- Chỉ thị cho các xã đội khẩn trương củng cố công sự hầm hào, bám chắc thôn làng chiến đấu, sẵn sàng và kiên quyết đánh địch tấn công, tiêu hao, căng kéo địch làm hạn chế sức mạnh ban đầu của chúng.

- Các xã Hòa Thành, Hòa Vinh, Hòa Hiệp tổ chức luồn sâu đánh phá hậu phương địch, tích cực đẩy mạnh hoạt động của lực lượng du kích mật.

- Tổ chức và lãnh đạo đồng bào sẵn sàng tản cư ngược chôn giấu tài sản, lương thực.

- Đại đội 377 bám đứng ở các xã Hòa Tân, Hòa Bình, Hòa Đồng, sẵn sàng đánh địch, tập trung, phấn tán linh hoạt, làm nòng cốt cho du kích hiệp đồng chiến đấu, cấp ủy các xã phải tổ chức bám làng, bám dân.

- Phát động căm thù với khẩu hiệu hành động là “Giết thật nhiều giặc Mĩ và Nam Triều Tiên, trả thù cho đồng bào bị chúng sát hại”.

Mờ sáng ngày 19-01-1966 (nhằm ngày 28 tháng chạp năm Ất Hợi) cuộc phản công chiến lược mùa khô của đế quốc Mĩ trên chiến trường trọng điểm huyện Tuy Hòa 1 bắt đầu với hàng trăm máy bay trực thăng đổ quân xuống Núi Lá - Núi Hương (Hòa Mĩ). Hướng tiến công từ đường quốc lộ 1 lên Hòa Tân, Hòa Bình do 1 tiểu đoàn lính chư hầu Nam Triều Tiên đảm nhiệm. Mở màn là hàng ngàn quả pháo ở 2 trận địa Đông Tác và Nhạn Tháp bắn cấp tập vào xã Hòa Tân. Khi chúng thực hành tấn công đã bị lực lượng 377 và du kích xã Hòa Tân dựa vào làng chiến đấu đánh trả quyết liệt bẻ gãy nhiều đợt tấn công. Cùng lúc trận phục kích ở Đồng Thạnh của lực lượng 377 do đồng chí Trần Đình Quy chỉ huy bất ngờ bấm mìn và nổ súng, địch tháo chạy tán loạn. Kết quả ta diệt gần hết 1 trung đội quân đánh thuê Nam Triều Tiên làm chết 16 tên, ta thu 1 trung liên, 1 súng carbine, 15 ba lô và nhiều đạn dược.

Sau nhiều đợt tiến công của 1 tiểu đoàn thuộc lữ “Rồng Xanh” đã bị lực lượng ta chặn đứng. Sáng hôm sau địch phải thay 1 tiểu đoàn của lữ đoàn 1 Mĩ dùng không quân, pháo binh, đạn hóa học bắn phá mãnh liệt nhiều đợt vào trận địa ta. Do ta chưa có kinh nghiệm phòng chống vũ khí hóa học nên phải rời trận địa. Kết quả hơn 1 ngày chiến đấu ta đã diệt hơn 50 tên Nam Triều Tiên, thu 4 súng và nhiều đồ quân dụng. Ta hi sinh 1 đồng chí, bị thương 3 đồng chí. Tiểu đoàn Mĩ tiến quân đến xã Hòa Đồng.

Âm mưu của địch trong cuộc hành quân Van-bua-ren hình thành thế trận bằng 2 gọng kìm đổ quân từ phía sau (hậu phương ta), dọc ven núi, tạo thành tuyến vừa ngăn chặn vừa án ngữ. Dùng lực lượng từ đường quốc lộ 1 tấn công trên 2 tục đường Hòa Tân (Đông Mĩ - Phú Thứ) và đoạn đường 5 (Hòa Bình - Hòa Phong) đã bộc lộ rõ ràng.

Lực lượng tham gia cuộc hành quân Van-bua-ren gồm có lữ đoàn “Rồng Xanh” Nam Triều Tiên, lữ đoàn 1 sư đoàn 101 Mĩ, Trung đoàn 47 ngụy, 2 tiểu đoàn pháo, 2 chi đoàn xe bọc thép, hơn 100 máy bay trực thăng, nhiều phi đội phản lực chiến đấu chi viện trực tiếp. Ngoài ra còn có pháo tầm xa của hải quân bắn phá hậu cứ ta.

Để hình thành thế bao vây lấn chiếm, Mĩ tiếp tục đổ quân xuống Hòa Thịnh, Núi Chai, Nam Bình, tiến hành đóng các chốt Núi Lá (Hòa Mĩ), Phú Phong - Cầu Cháy (Hòa Đồng), Núi Sương, Hòn Sặc (Hòa Phong), Phước Mĩ, cầu Tổng (Hòa Bình), Gò Dài, Núi Chai, Mỏm Ké, Phủ Lương (Hòa Tân), Nam Bình, cầu Ông Tra, cầu Sông Ván, Hảo Sơn (Hòa Xuân), Mĩ Xuân (Hòa Thịnh).Xua quân lùng sục, đốt phá, bắn biết, thực hiện chính sách “đốt sạch, phá sạch, giết sạch” liên tiếp gây ra những vụ thảm sát ở Hòa Mĩ, Hòa Phong, Hòa Thịnh, Hòa Đồng, Hòa Tân, Hòa Hiệp, Hòa Xuân với những hành vi hết sức man rợ, hiếp dâm rồi dùng lưỡi lê đâm chết, tập trung lùa dân xuống hầm rồi dùng lựu đạn ném xuống giết sạch, bắt người trói bỏ xuống giếng, dùng lựu đạn thả xuống đập giếng san bằng v.v… Chỉ trong vòng 60 ngày bọn giặc Mĩ và lính đánh thuê Nam Triều Tiên đã giết hại 1.583 đồng bào ta, phần lớn là ông bà già, phụ nữ, và trẻ em, đốt phá hàng nghìn ngôi nhà, 2/3 trâu bò bị chúng bắn chết, cướp đi hàng vạn tấn lúa gạo, hàng vạn héc ta lúa và hoa màu bị hủy diệt.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 25 Tháng Tư, 2011, 06:16:24 am
Những tội ác chồng chất “Trời không dung đất không tha” của quân Mĩ và chư hầu đã gây ra cho đồng bào ở Tuy Hòa càng thôi thúc quân dân ta anh dũng bám ngụy mà đánh, nắm thắt lưng Mĩ mà diệt, bắt bọn lính đánh thuê Nam Triều Tiên phải đền nợ máu. Bằng những trận chiến đấu dũng cảm táo bạo của Tiểu đoàn 30 đêm 4 tháng 2 năm 1966 diệt gọn 1 đại đội Nam Triều Tiên đóng ở Núi Hương, đánh thiệt hại nặng 1 đại đội Nam Triều Tiên khác, diệt gần 150 tên, bắt sống 1 tên thu hàng chục súng.

Ngày 06-02, một bộ phận của Trung đoàn 10 dựa vào làng chiến đấu ở thôn Mĩ Cảnh, xã Hòa Thịnh đánh lui nhiều đợt tấn công của 1 tiểu đoàn Mĩ, diệt hàng trăm tên. Trung đội trưởng Đậu Trọng Lâm một mình đã sử dụng 3 loại súng tiểu liên, trung liên, B40 để đánh địch, diệt 42 Mĩ. Đồng chí đã vinh dự nhận huy hiệu dũng sĩ diệt Mĩ cấp ưu tú đần tiên trên quê hương Tuy Hòa.. Trên hướng Hòa Tân lực lượng 377, du kích xã liên tục bám đánh địch, ngày 25-01 lực lượng du kích Hòa Tân do đồng chí Đào Niệt xã đội trưởng chỉ huy chặn đứng 3 mũi tấn công của bọn Nam Triều Tiên ở Đồng Thạch, Cảnh Phước diệt hàng chục tên. Ngày 06-02 du kích Hòa Tân chặn đánh cánh quân Nam Triều Tiên gần đình Cảnh Phước bắn chết 5 tên, bị thương 7 tên. Tiếp đó ngày 09-02 một bộ phận của Trung đoàn 10 dựa vào làng chiến đấu Phú Thọ xã Hòa Mĩ đánh lui 9 đợt tiến công của 2 tiểu đoàn Nam Triều Tiên, diệt 120 tên. Cùng ngày Tiểu đoàn 11 chặn đánh 1 cánh quân Mĩ tại Suối Phẩn (Hòa Mĩ) diệt và làm bị thương hơn 30 tên.

Hơn 90 ngày ròng rã trên chiến trường Tuy Hòa 1 không lúc nào im tiếng súng, tiếng pháo, tiếng gầm rú của máy bay, xe quân sự, những đám cháy nhà cửa, ruộng đồng liên tiếp bùng lên. Gần 15 tiểu đoàn Mĩ, ngụy, Nam Triều Tiên lùng càn vây ráp đã vấp phải sự đánh trả quyết liệt của các lực lượng vũ trang trên khắp mọi nơi mọi lúc. Chúng phải tnếm nhiều đòn thất bại đắng cay như trận Hảo Sơn, Núi Hương, Phú Thọ. Quân dân Tuy Hòa kiên cường chiến đấu, đánh hàng trăm trận gây cho địch nhiều thiệt hại. Hơn 1.753 tên Mĩ, 1.105 tên Nam Triều Tiên, 544 tên ngụy chết và bị thương, 12 máy bay bị bắn rơi, 13 xe quân sự bị phá hỏng, 1 đại đội Mĩ, 2 đại đội Nam triều Tiên bị tiêu diệt. Ta thu 350 súng, nhiều đạn dược và trang bị quân sự khác. Một cuộc chiến đấu phản công dài ngày trong điều kiện địa hình đồng bằng, quân địch đông hơn 10 lần, có binh khí kĩ thuật, phương tiện hiện đại. Trước sự tàn phá khốc liệt, gây tổn thất lớn lao về người và của cải. Song ta vẫn giành được những thắng lợi có ý nghĩa quan trọng đặc biệt trong bước đầu của “chiến tranh cục bộ”.

Cuộc càn quét của địch vẫn chưa kết thúc, chúng đã bắn giết đốt phá hết sức dã man khiến hàng vạn đồng bào phải chạy vào căn cứ để tránh địch. Vì một thời gian dài ta hết lương thực dự trữ, nguồn tiếp tế bị cắt đứt nên rất phức tạp. Trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn đó, huyện ủy có biện pháp lãnh đạo quần chúng “tản cư ngược” vào vùng địch đấu tranh đòi cấp lương thực, thuốc men giải quyết nơi ăn chốn ở. Một số nông dân không chịu về sống trong vùng địch, tự nguyện ở lại xây dựng khu sản xuất, bám căn cứ tham gia công tác cách mạng, còn lại đa số quay trở về vùng tạm chiếm đấu tranh với địch. Điều khó khăn hơn cả là tư tưởng lo ngại rằng “Ta không thể đánh thắng Mĩ”, một số ít cán bộ dân quân du kích dao động rời bỏ xóm làng, bỏ vị trí chiến đấu vào trong vùng địch. Tình thế càng khắc nghiệt hơn khi toàn bộ vùng giải phóng trong huyện đã trở thành vùng trắng, không dân. Thường ngày địch chỉ cho dân về làng cũ đào củ khoai, củ sắn, bắt gà, vịt còn sống sót, lượm củi đem về khu dồn để giải quyết khó khăn trong cuộc sống lúc gieo neo. Nhưng khi về làng dân phải đi từng tốp 15 người trở lên qua sự khám xét gắt gao của địch ở nhiều trạm gác. Lực lượng ta bị cô lập và cách li với quần chúng là sức mạnh có tính chất quyết định cho thắng lợi. Phải quyết tâm phá cho bằng được “vùng trắng”, “Tuyến trắng”. Huyện chủ trương cấp ủy, cán bộ, du kích xã phải về bám đất, bám dân khôi phục lại hành lang từ vùng địch đến vùng giải phóng và căn cứ. Tiếp tục tuyên truyền giáo dục cho nhân dân thấy được âm mưu của kẻ thù, xây dựng lại các tổ chức quần chúng hợp pháp, phát triển cơ sở cốt cán, du kích mật trong vùng địch, củng cố niềm tin, tạo thế mới kéo dân dần dần trở về làng cũ. Riêng các xã cán bộ, du kích còn bám được làng, bám được dân tiếp tục hoạt động, thọc sâu diệt ác, phục kích, tập kích diệt từng tổ, toán nhỏ của địch, nhằm giữ vững thế chiến trường như xã Hòa Xuân, Hòa Hiệp.

Chấp hành chủ trương của huyện ủy, các xã Hòa Tân, Hòa Đồng, Hòa Mĩ, Hòa Thịnh đã tiến hành chọn một số cán bộ cốt cán, du kích trung kiên xuống làng xây dựng hầm bí mật và bám dân, đánh địch, từng bước kéo được một số gia đình về lại làng cũ.

Chỉ sau một thời gian ngắn ta đã khôi phục được một số thôn, thu hẹp và xóa dần vùng trắng. Trong thời gian này, Đại đội 377 đơn vị tập trung của huyện được củng cố, xây dựng, tinh thần, ý chí chiến đấu cao, sẵn sàng đánh địch, trả thù cho đồng bào bị chúng sát hại, bảo vệ và giành giữ dân tiếp tục mở rộng vùng giải phóng. Huyện đội tổ chức phân tán từng tiểu đội, trung đội bám các xã trọng điểm, đánh địch hỗ trợ tích cực cho phong trào.

Tháng 4-1966 cuộc càn Van-bua-ren kết thúc, địch đã thực hiện được một số âm mưu chiếm đóng chốt giữ vòng ngoài (giữa căn cứ và vùng giải phóng của ta) gom dân vào các khu dồn, tạo vùng trắng bước đầu tiến hành “bình định” xây dựng căn cứ, hậu cứ, sân bay, bến cảng, làm hậu phương đẻ chi viện cho lực lượng càn quét đánh phá ở chiến trường Phú Yên và các tỉnh nam Tây Nguyên. Lúc này chúng điều lữ đoàn “Rồng Xanh” Nam Triều Tiên ra Quảng Ngãi, đưa Trung đoàn 26 thuộc sư đoàn “Mãnh Hổ” Nam Triều Tiên vào thay và thế chân toàn bộ ở các chốt chúng đã chiếm đóng trong cuộc càn. Quân Mĩ cấp tốc xây dựng căn cứ Đông Tác, Hòa Hiệp với quy mô lớn: chiều dài 17 cây số gồm có 4 sây bay, 3 trận địa pháo, 4 kho xăng, 1 kho bom đạn, khu sửa chữa, bệnh viện và trung đoàn bộ quân Nam Triều Tiên ở Đa Ngư. Mở quân cảng Vũng Rô có hệ thống đường ống dẫn xăng dầu về Đông Tác, Hòa Hiệp, lực lượng thường trực xấp xỉ 4.000-5.000 tên, có 50-60 máy bay trực thăng, 3-7 máy bay quan sát, chỉ huy và vận tải nhẹ, từ 2 đến 3 phi đội máy bay phản lực chiến đấu, có 2 chi đoàn xe bọc thép bảo vệ căn cứ, từ 500-700 xe quân sự và 1 tiểu đoàn công binh. Mặt khác địch tiếp tục dùng lực lượng nhỏ, đại đội, tiểu đoàn, lùng sục đánh phá các tuyến giánh ranh kích, lót ngăn chặn hành lang, phá cơ sở sản xuất của ta.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 25 Tháng Tư, 2011, 06:17:17 am
Lực lượng ta tích cực chặn đánh nhiều nơi, tiêu hao, tiêu diệt nhiều trung đội, tiểu đội của địch. Tháng 7 năm 1966 lực lượng vũ trang xã Hòa Tân cùng một phân đội của Tiểu đoàn 14 tập kích diệt gọn 1 trung đội Nam Triều Tiên ở Phú Lương thu 7 súng.

Tháng 8-1966 một bộ phận Đại đội 377 cùng lực lượng vũ trang xã Hòa Hiệp chặn đánh địch ở thôn Phú Hòa làm chết và bị thương 19 tên, thu 3 súng. Cũng trong thời gian này, đồng chí Trần Văn Ngọc du kích xã dùng súng trường bắn cháy một máy bay L.19 khi chúng quần thấp bám theo anh, 2 tên giặc lái Mĩ cũng bị chết thui.

Tháng 9-1966 đội vũ trang xã Hòa Vinh phối hợp với lực lượng Đại đội 377 phục đánh 1 đại đội bảo an ở Lò 3, thôn nhất xã Hòa Vinh, diệt 30 tên thu 30 súng. Từ tháng 6 đến tháng 12 năm 1966 đội công binh Đèo Cả cùng lực lượng du kích Hòa Xuân liên tục đánh phá đường ống dẫn xăng dầu làm hỏng hàng chục ngàn mét, cháy hàng triệu lít xăng.

Trước sự tấn công liên tục, bền bỉ của ta kết hợp giữa đánh lớn và đánh nhỏ, đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị và binh vận. Quân địch không một lúc nào được yên ổn, bước đầu dao động hoang mang. Chiến tranh du kích đã làm cho đội quân hùng mạnh của Mĩ và các nước chư hầu phải lo ngại. Bất cứ nơi nào tính mạng của chúng cũng bị đe dọa, bất cứ ai cũng có thể là “Việt cộng”. Thói ngông nghênh cuồng chiến hung bạo của kẻ thù phần nào đã giảm. Nhìn chung trên toàn bộ chiến trường Tuy Hòa giao tranh đã lắng dần do địch không càn quét sục sạo tấn công liên tục như trước. Ta từng bước khắc phục và tháo gỡ được khó khăn, bước đầu giành lại thế chủ động. Nhiệm vụ trước mắt và lâu dài của quân và dân huyện nhà là cần tiếp tục phát huy sức mạnh tổng hợp của nhân dân, đẩy mạnh mọi hoạt động đưa phong trào cách mạng của huyện nhà tiến lên đáp ứng kịp thời với tình hình nhiệm vụ mới.

Tháng 10 năm 1966 đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Tuy Hòa lần thứ tư tiến hành họp ở vùng căn cứ thuộc xã Hòa Thịnh. Đại hội diễn ra trong tình hình hết sức đặc biệt. Cuộc hành quân để thực hiện “Chiến lược mùa khô” của bọn đế quốc Mĩ, quân chư hầu và bè lũ tay sai vừa mới chấm dứt. Chúng đã gây ra biết bao thảm cảnh đau thương trên mảnh đất này.

Đại hội đánh giá toàn bộ tình hình của huyện qua gần 1 năm trực tiếp đánh Mĩ, quân và dân ta đã anh dũng kiên cường đánh trả cuộc càn quét quy mô lớn để thực hiện âm mưu “Phản công chiến lược” trên hướng trọng điểm của địch ở huyện nhà. Quân và dân ta luôn nắm vững phương châm đánh địch bằng hai chân, 3 mũi giáp công, tác chiến kết hợp với đấu tranh chính trị, binh địch vận. Lực lượng vũ trang và nhân dân đã giành được nhiều thắng lợi có ý nghĩa cực kì quan trọng. Đặc biệt là ta đã đánh Mĩ và thắng Mĩ. Thắng lợi đó là sự tổng hợp của nhiều yếu tố hợp thành, là sự lãnh đạo của Đảng, sự nỗ lực xung phong đi đầu trong khó khăn, gian khổ ác liệt, hi sinh của toàn thể đảng viên trong đảng bộ, tinh thần chiến đấu dũng cảm mưu trí táo bạo của toàn quân và dân huyện nhà. Đại hội cũng đề ra phương hướng nhiệm vụ cho thời gian tới, với những nội dung cơ bản là:

“… Cần phát huy hơn nữa sức mạnh tổng hợp của phương châm 2 chân 3 mũi giáp công, chống chiến tranh tâm lí, chiêu hồi chiêu hàng của địch, đưa dân về làng cũ, xây dựng thế hợp pháp, đẩy mạnh công tác diệt ác phá kèm, phát triển cơ sở tiến tới xây dựng lực lượng trong lòng địch. Mặt khác xây dựng căn cứ, phát triển sản xuất, củng cố lực lượng vũ trang và đội công tác, chống càn quét phá phục lót của địch, bảo vệ hành lang, hậu phương hậu cứ…”.

- Quán triệt tinh thần đại hội, Ban chỉ huy huyện đội còn tiến hành trường hợp nhiệm vụ cụ thể cho lực lượng vũ trang, bán vũ trang cần nỗ lực khắc phục những khó khăn thời gian qua. Xây dựng tinh thần mới quyết tâm mới, tổ chức thực hiện tốt một số nhiệm vụ cấp bách là:

- Phát huy bản chất và truyền thống của lực lượng vũ trang nhân dân với tinh thần tự lực tự cường, vừa chiến đấu, vừa công tác, vừa sản xuất.

- Nhanh chóng tổ chức rút kinh nghiệm về tổ chức chỉ huy và chiến đấu trong thời gian qua.

- Tranh thủ huấn luyện, tổ chức lực lượng củng cố mở rộng nhiều điểm sản xuất, trồng hoa màu, trồng rau chủ động giải quyết trong tình hình thiếu lương thực.

- Từng xã tiến hành xây dựng tổ quân giới, làm vũ khí tự tạo, cải tiến bom mìn, làm nhiều chông, cạm bẫy để đánh địch và bố phòng bảo vệ cơ quan, căn cứ.

- Phát triển lực lượng (đặc biệt là tổ chức du kích mật).

- Phân tán tập trung linh hoạt, luồn sâu, thọc sâu liên tục chiến đấu, diệt ác phá kèm, tiêu hao tiêu diệt địch hỗ trợ cho phong trào đấu tranh chính trị của nhân dân.

- Đại đội 377 cử một lực lượng cùng Tiểu đoàn 14 (đặc công của phân khu Nam) thành lập đội đánh phản phục kích của bọn Nam Triều Tiên, mở hành lang, giữ bàn đạp.

Nhiệm vụ của huyện đội được khẩn trương phổ biến xuống các xã quán triệt và tổ chức thực hiện. Hòa Mĩ, Hòa Thịnh, Hòa Tân, Hòa Hiệp thành lập tổ quân giới, các xã đều phân tán lực lượng du kích thành 2 bộ phận. Bộ phận phía trước bám làng, bám dân, xây dựng cơ sở, diệt ác, phát động quần chúng, củng cố và phát triển thực lực cách mạng. Bộ phận phá sau tăng gia sản xuất, bố phòng đánh địch lùng sục càn quét và phục kích trên các tuyến hành lang.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 25 Tháng Tư, 2011, 06:18:48 am
Quán triệt phương châm chỉ đạo tác chiến và tư tưởng quân sự của Đảng của đường lối chiến tranh nhân dân “… tận dụng thời cơ, tạo thời cơ ở bất kì mọi nơi mọi lúc bằng nhiều hình thức chiến thuật, vận dụng mọi thủ đoạn chiến đấu, sử dụng lực lượng phân tán, tập trung linh hoạt, phát huy yếu tố tinh thần và kĩ thuật, dùng ít đánh nhiều, lấy nhỏ thắng lớn, đánh địch hành quân càn quét đánh phá địch trong cứ điểm đồn bót, đánh địch ở căn cứ hậu cứ sân bay bến cảng, kho tàng, kể cả sào huyệt của chúng”.

Ban chỉ huy tỉnh đội Phú Yên quyết định thành lập đại đội đặc công lấy phiên hiệu là 201, đứng chân ở Tuy Hòa 1, có nhiệm vụ tập kích cứ điểm, đồn bót của địch, chủ yếu đánh phá căn cứ hậu cứ (Đông Tác - Hòa Hiệp - Vũng Rô).

Đại đội 202 đặc công tỉnh cắt 1 trung đội, huyện đội Tuy Hòa tuyển chọn rút bổ sung một số đồng chí. Ngày 19-8-1966 tại sông Chống Gậy (xã Sơn Thành) đại đội được chính thức thành lập, do đồng chí Văn làm Đại đội trưởng, đồng chí Cần làm Đại đội phó, đồng chí Nguyễn Hồng Sơn làm Trung đội trưởng(1), đồng chí Lưu chính trị viên.

Sau đó 10 ngày, ngày 28-10-1966, Bộ Tư lệnh phân khu Nam ra quyết định chuyển tiểu đoàn 14 bộ binh thành tiểu đoàn đặc công dã chiến, đứng chân hoạt động trên chiến trường Tuy Hòa 1, có nhiệm vụ đánh phá căn cứ, hậu cứ địch, cùng lực lượng vũ trang địa phương đánh địch càn quét lấn chiếm, đánh cứ điểm đồn bót, tạo thế và lực để phát triển phong trào cách mạng ở địa phương. Cũng trong thời gian này, chấp hành chỉ thị của tỉnh đội, huyện thành lập đội bắn tỉa (vây ém, cô lập đồn bót của địch) và trung đội nữ súng cối 82 li, một số đơn vị được thành lập và tăng cường sẽ nâng cao sức chiến đấu mới, tạo nhiều thuận lợi trên địa bàn huyện.

Sau một thời gian huấn luyện khẩn trương Đại đội 201 đặc công xây dựng quyết tâm đánh thắng trận đầu.

Đêm 15.10.1966 một bộ phận lực lượng nhỏ tổ chức thành 2 mũi bất ngờ tập kích chốt Núi Lá (Hòa Mĩ) do một trung đội Nam Triều Tiên chốt giữ. Chỉ sau 5 phút nổ súng tiến công, ta hoàn toàn làm chủ trận địa, diệt gọn trung đội này, thu toàn bộ vũ khí, ta không thương vong. Trận đầu ra quân thắng lợi làm nức lòng cán bộ chiến sĩ, tạo đà thuận lợi cho nhiệm vụ chiến đấu tiếp theo của đơn vị. Thừa thắng mấy hôm sau huyện ủy Tuy Hòa giao nhiệm vụ cho 201 nhổ một chốt điểm lợi hại trên trục tam giác quan trọng là cầu Tổng Phú Thứ do một trung đội Nam Triều Tiên đóng giữ. Sau 2 đêm chuẩn bị chiến trường, đơn vị hạ quyết tâm chiến đấu. Đồng chí Nguyễn Văn Cần đại đội phó chỉ huy 1 mũi 7 đồng chí chia làm 2 tổ bí mật ém sát mục tiêu đồng loạt dùng thủ pháo lựu đạn đánh phủ đầu quân địch. Chỉ sau vài phút chiến đấu ta diệt gọn trung đội này phá hủy toàn bộ vũ khí, ta an toàn.

Tháng 12-1966 một bộ phận lực lượng của Tiểu đoàn 14 cùng vũ trang xã Hòa Tân tập kích điểm Núi Một diệt 25 tên, bắn cháy 1 xe M113, bắn bị thương 1 chiếc khác (tháng 2-1967) địch rút bỏ chốt Núi Một.

Năm 1966 - năm đầu của chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mĩ, một năm mà quân dân huyện Tuy Hòa trực tiếp chiến đấu với quân viễn chinh Mĩ và bọn chư hầu Nam Triều Tiên trong điều kiện không cân sức, với cuộc hành quân càn quét quy mô, dài ngày trên diện rộng, sử dụng gần 15 tiểu đoàn nhiều quân binh chủng tham gia. Song quân và dân Tuy Hòa vẫn giành được những thắng lợi có ý nghĩa đặc biệt, cuộc đọ sức với quân Mĩ vô cùng quyết liệt nhưng cũng hết sức tự hào.

Điều đặc biệt là lực lượng vũ trang ta đã biết sức chiến đấu của quân viễn chinh Mĩ như thế nào, trang bị kĩ thuật ra sao. Lực lượng địch tuy lớn, ồ ạt nhưng không mạnh, trang bị hiện đại nhưng không phát huy được uy lực bao nhiêu là do cách đánh của ta. Bằng mọi lực lượng, nhiều thứ quân, không phân vùng phân tuyến, không thành trận địa, một người cũng đánh, một tổ cũng đánh, đánh địch lấn ra phái trước, luồn sâu, thọc sâu đánh thẳng vào căn cứ, hậu phương và ngay trong sào huyệt chỉ huy đầu não của chúng.

Cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ nhất (năm 1966) của quân Mĩ và Nam Triều Tiên trên địa bàn huyện Tuy Hòa đã chấm dứt. Chúng chưa thực hiện được âm mưu chiến lược 2 gọng kìm “Tiêu diệt và bình định”. Nhưng chúng cũng đã dốc sức thay đổi hình thái trên địa bàn huyện bằng một loạt chốt ngăn chặn và khống chế từ xa, lập vòng ngoài để thực hiện âm mưu bình định vòng trong. Xây dựng căn cứ sân bay, bến cảng, kho tàng làm hậu phương phục vụ cho chiến thuật hòng mở rộng và kéo dài chiến tranh. Đến cuối nặm 1966 địch điều Trung đoàn 26 sư “Mãnh Hổ” Nam Triều Tiên ra phía bắc Phú Yên, đưa Trung đoàn 28 sư “Bạch Mã” vào thế chân, điều lữ đoàn 1 thuộc sử dụng 4 và lữ dù 173 Mĩ đến căn cứ Đông Tác - Hòa Hiệp. Điều động một số đại đội bảo an chốt giữ những điểm giao thông quan trọng cùng bọn dân vệ và ngụy quyền lập ấp, dồn kẹp dân, thanh lọc đàn áp quần chúng ở các khu dồn, khu tập trung.


(1) Đ/c Nguyễn Hồng Sơn được tuyên dương anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân ngày 30-10-1978.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 25 Tháng Tư, 2011, 06:20:05 am
II - PHÁT HUY THẮNG LỢI, ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG VŨ TRANG, HỖ TRỢ ĐẮC LỰC CHO ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ, KHÔI PHỤC HÀNH LANG, TIẾP TỤC ĐÁNH BẠI HÀNH QUÂN CÀN QUÉT MÙA KHÔ THỨ 2 CỦA MĨ - NGỤY TRONG NĂM 1967

Mùa khô lần thứ nhất (1966) trên chiến trường Tuy Hòa mặc dù địch đã tập trung lực lượng liên hợp Mĩ ngụy và chư hầu mở cuộc hành quân quy mô, dài ngày đánh phá ác liệt nhưng cơ bản chúng đã bị thất bại. Với bản chất xâm lược, đế quốc Mĩ chưa chịu từ bỏ mưu đồ đen tối đầy tham vọng cố dốc sức thực hiện âm mưu chiến lược “Tìm diệt và bình định” hòng xoay chuyển thế trận và cục diện chiến tranh.

Sau khi địch hình thành vòng đai ngăn chặn từ xa bằng một loạt chốt điểm từ Hòa Phong nối đến nam Hòa Hiệp. Căn cứ hậu cứ Đông Tác - Hòa Hiệp - Vũng Rô được xây dựng cơ bản, các khu dồn dân Đông Tác, Phú Lâm được hoàn thiệt. Chúng tiến hành một số thủ đoạn dùng lực lượng Nam Triều Tiên liên tục địch lót các tuyến đường từ núi ra làng, nhằm chặn hành lang, cô lập không cho lực lượng cách mạng tiếp xúc với dân. Ở vòng trong bọn ngụy quân ngụy quyền khống chế sự đi lại của dân từ vùng chúng kiểm soát và khu dồn về làng cũ. Những thủ đoạn đó đã gây cho ta nhiều khó khăn, lương thực, thuốc men thiếu thốn, phải ăn rau rừng củ bá, lại bị thương vong tổn thất đáng kể trong lúc đi làm nhiệm vụ. Huyện Tuy Hòa được mệnh danh là “chiến trường mìn mo, củ bá”. Để phá tan thủ đoạn của địch, nhanh chóng giải quyết những khó khăn, đặc biệt là ổn định tinh thần tư tưởng cho cán bộ chiến sĩ “co thủ, sợ mìn mo”, Bộ tư lệnh Phân khu Nam, Ban chỉ huy Tỉnh đội đã quyết định: Thành lập một lực lượng đánh phản phục kích. Huyện đã chọn, rút một số cán bộ chiến sĩ của Tiểu đoàn 14 và một bộ phận của Đại đội 377 gồm 70 tay súng do đồng chí Cao Văn Khánh đại đội phó Đại đội 377 và đồng chí Nguyễn Khánh – Đại đội trưởng Đại đội 3 Tiểu đoàn 14 chỉ huy. Tiến hành huấn luyện khẩn trương với nội dung chủ yếu kĩ thuật sử dụng mìn, chiến thuật đánh phản phục kích. Chỉ sau một thời gian ngắn đơn vị triển khai đánh địch trên dọc các hành lang từ Hòa mĩ đến Hòa Xuân. Trong vòng gần 100 ngày ta đã đánh được 14 trận, diệt 241 tên Nam Triều Tiên, thu 44 súng và hàng trăm quả mìn cờ lâymo, có trận diệt gọn trung đội. Thắng lợi này đã phá vỡ thủ đoạn của địch, mở được hành lang nối liền giữa ta với dân, giữa núi với xóm làng, lấy được lương thực, từng bước tháo gỡ và đẩy lùi những khó khăn, lập lại thế thuận lợi, đưa phong trào cách mạng tiếp tục phát triển.

Bước vào năm 1967 thực hiện nhiệm vụ mà Huyện ủy, Huyện đội Tuy Hòa đã giao, lực lượng vũ trang du kích các xã liên tiếp đánh địch. Ở Hòa Vinh tháng 1 năm 1967 lực lượng vũ trang xã bí mật lót quân ở nhà ông Nguyễn Đạt ở Thôn Nhì đánh quân của Trung đoàn 47 ngụy càn quét, diệt 6 tên, thu 2 súng, ta hi sinh 1 đồng chí.

Tháng 3/1967 đội vũ trang xã Hòa Hiệp cải trang lính Nam Triều Tiên, giữa ban ngày bất ngờ đánh thẳng vào một trung đội dân vệ tại thôn Phú Hòa, diệt 126 tên, thu 25 súng (có 2 trung liên) và 1 máy PRC10. Sau vài ngày một mũi đặc công của Đại đội 201 tập kích bọn Nam Triều Tiên ở Tân Hải (Đa Ngư) đánh sập 10 lôt cốt, phá hủy 2 đại liên, diệt 12 tên.

Tháng 3 năm 1967 du kích xã Hòa Xuân bắn cháy một bay bay trực thăng, phối hợp lực lượng 377 diệt ác ban ngày ở Bàn Thạch, tấn công tiêu diệt một tiểu đội lính Mĩ đóng ở nam cầu Bàn Thạch, thu 2 đại liên, 3 súng cá nhân. Tiếp theo cũng Tiểu đoàn 14 đánh địch phản kích ở Nam Bình bắn cháy 1 xe tăng, diệt hàng chục tên lính Nam Triều Tiên.

Lực lượng vũ trang xã Hòa Tân cùng đơn vị 377 đánh phản phục kích ở Mõm Ké, Hà Gừa diệt gọn 1 tiểu đội Nam Triều Tiên, thu toàn bộ vũ khí trong tháng 3/1967. Ngày 16/5/1967 Đại đội 377 phối hợp cùng lực lượng Tiểu đoàn 14 đánh quân địch càn ở tổ 11 Cảnh Phước diệt 20 tên địch.

Ngày 25/6/1967 lực lượng vũ trang Hòa Tân phục kích tại cầu 16 (Phú Lương) đánh diệt một tiểu đội địch, thu 5 súng. Tháng 6/1967 phối hợp với một bộ phận lực lượng tiểu đoàn 14 tập kích điểm chốt ở Phú Lương do một trung đội Nam Triều Tiên chiếm giữ, chỉ sau 5 phút chiến đấu ta diệt gọn quân địch, thu vũ khí.

Từ ngày 15/3 đến ngày 08/4/1967 địch dùng hàng chục tiểu đoàn Mĩ và Nam Triều Tiên mở liên tiếp 2 cuộc càn lớn “A đam 1 và A đam 2” trên toàn huyện Tuy Hòa. Chúng dùng lữ dù 173 Mĩ đổ sâu vào căn cứ ta (khu vực Sơn Thành, Bến Đá, Suối Phẩn) tiếp tục đánh phá thực hiện chiến lược “tìm diệt bình định” trong mùa khô lần hứ 2. Mặt khác âm mưu của chúng còn nhằm thu hút lực lượng ta để hỗ trợ cho cuộc càn “Đống Đa” trên địa bàn trọng điểm Tuy An - Đồng Xuân - Sông Cầu. Trong lúc địch tiến hành càn quét đánh phá căn cứ hậu phương ta thì lực lượng vũ trang của huyện, các xã và Đại đội 201 đặc công tỉnh, Tiểu đoàn 14 đặc công của Phân khu lại liên tục thọc sâu đánh phá căn cứ hậu cứ của chúng. Tiểu đoàn 14 và Đại đội 201 liên tục tập kích, pháo kích sân bay Thọ Lâm trung đoàn bộ 28 Bạch Mã, quận lị Phú Lâm, sân bay Đông Tác, cảng Vũng Rô, diệt hàng trăm tên Mĩ và Nam Triều Tiên, phá hủy nhiều nhà lính, nhà kho, đốt cháy hàng chục xe quân sự, buộc địch phải bị động chấm dứt cuộc càn sớm hơn so với kế hoạch quay về đối phó.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 25 Tháng Tư, 2011, 06:21:19 am
Vào giữa tháng 6/1967 Tiểu đoàn 14 tổ chức tập kích vào điểm chốt ở làng Tân Mĩ xã Hòa Phong do 1 tiểu đoàn Nam Triều Tiên (thiếu 1 đại đội) chốt giữ. Do công tác chuẩn bị chiến trường chu đáo, nắm địch chắc nên khi thực hành nổ súng tiến công mặc dù địch có chống trả nhưng chỉ hơn 50 phút chiến đấu ta đã diệt và làm bị thương gần 200 tên, thu 2 ĐKZ57, 2 đại liên và hàng chục súng cá nhân, ta hi sinh 6 đồng chí, bị thương 8 đồng chí. Chiến thắng Tân Mĩ có ý nghĩa chính trị “Bắt quân Nam Triều Tiên trả nợ máu cho đồng bào quê hương”. Cũng qua trận đánh Tân Mĩ ta hiểu rõ hơn cách phòng ngự và thủ đoạn đối phó của bọn Nam Triều Tiên, rút được bài học tốt bổ sung cách đánh cho lực lượng đặc công trong tập kích quân địch trong công sự vững chắc. Chiến công Tân Mĩ được trên tặng thưởng huân chương chiến công hạng 3.

Hơn 6 tháng đầu năm 1967 trên chiến trường Tuy Hòa 1 liên tục diễn ra hàng chục cuộc càn quét lớn nhỏ của địch. Chúng luôn bị lực lượng ta đánh trả, diệt và làm bị thương hơn 500 tên. Đặc biệt là thủ đoạn phục, ràng, kích lót, ngăn hặn đã bị lực lượng ta băm nát. Càng thất bại, bọn đế quốc càng giở những thủ đoạn quỷ quyệt tàn bạo và hèn mạt hơn. Chúng dùng hàng trăm lượt máy bay liên tục rải chất độc hóa học từ Vũng Rô đến Hà Roi, giết sạch cây cối, phá hủy sản xuất, làm nhiễm độc các dòng nước, hủy diệt môi sinh hòng làm cho ta hết lương thực, tiêu hao thể lực, mất chỗ dựa. Những thủ đoạn dã man đê hèn của địch đã gây cho ta không ít khó khăn, song với tinh thần hi sinh chịu đựng nhịn đói, nhịn khát, quân dân Tuy Hòa vẫn kiên cường trụ bám, anh dũng chiến đấu, phong trào cách mạng tiếp tục phát triển.

Để dồn địch vào thế bị động chiến thuật, suy yếu về chiến lược, Đảng ủy và Bộ tư lệnh Phân khu - Tỉnh đội Phú Yên chỉ thị cho huyện Tuy Hòa bằng mọi lực lượng, mọi thứ quân, vận dụng nhiều cách đánh thích hợp, có hiệu quả, phối hợp và hiệp đồng chặt chẽ giữa tấn công vũ trang với phong trào đấu tranh của quần chúng. Tập trung tấn công mở màn trên trục đường 5 (Hòa Thịnh, Hòa Thành) diệt địch, phá kèm, dồn ép địch, đưa phong trào cách mạng của quần chúng tiến lên một bước tạo thế mới và lực mới.

Đêm 16.9.1967 lực lượng vũ trang các xã Hòa Đồng, Hòa Thịnh, Hòa Mĩ, Hòa Tân, Hòa Bình phối hợp cùng Đại đội 377 và tiểu đoàn 14 đồng loạt tiến công đánh chiếm một số mục tiêu Phước Mĩ, cầu máng Phú Nông, Phước Bình, Phước Lộc, đánh tan 1 đại đội bảo an, 3 tổng đoàn dân vệ, đánh sập trụ sở xã Hòa Thành (Phước Bình), diệt và bắt một số ác ôn tề ngụy, thu hàng chục súng. Đến 3 giờ sáng ngày 17.9 ta rút về Hòa Tân trụ lại ở Cảnh Phước, Xân Thanh, Hội Cư để chuẩn bị cho hoạt động tiếp theo. Sau khi các đơn vị khẩn trương thấy thiếu đạn dược nên hoãn lại chờ chi viện từ căn cứ ra. Cán bộ chiến sĩ các đơn vị tích cực đào công sự hầm hào trên các hướng sẵn sàng đánh địch có thể phản ứng càn lên Hòa Tân.

Nắm được tin lực lượng ta đang trụ ở Hòa Tân địch tổ chức chuẩn bị mở cuộc càn quét với lực lượng 2 tiểu đoàn Nam Triều Tiên, một số đại đội bảo an và nhiều trung đội dân vệ, với sự chi viện của 2 chi đội xe bọc thép M113, 30 máy bay trực thăng 2119, 2 phi đội phản lực chiến đấu F105 của Mĩ, 6 xe ủi đất với sự chi viện trực tiếp của các trận địa pháo Phước Mĩ, Cầu Cháy, đông tác. Kế hoạch của cuộc càn là bao vây chặt, dùng phi pháo triệt hạ xóm làng, dùng xe bọc thép và bộ binh đột phá trên nhiều hướng, nhiều mũi, dùng xe ủi đất san bằng nhà cửa, cây cối để làm tróc và sập hầm bí mật tiêu diệt lực lượng ta.

Sáng sớm ngày 19.9.1967 một cánh quân khoảng 1 tiểu đoàn Nam Triều Tiên có xe M113 dẫn đầu chiếm ga Gò Mầm, tổ chức thành 2 cánh tiến xuống Xuân Thạnh. Cùng với lực lượng đổ bộ 1 tiểu đoàn Nam Triều Tiên xuống cánh đồng phía nam xã và một đại đội chiếm Núi Một. Ở hướng đông quân bảo an và dân vệ tiến chiếm Đông Thạnh. Trong ngày chúng không áp sát mà tổ chức triển khai chiếm những địa hình có lợi đưa lực lượng chốt giữ, sử dụng các loại mìn bố trí thành tuyến để ngăn chặn, hình thành thế bao vây bằng bộ binh, xe tăng, mìn. Mặt khác chúng gọi pháo, máy bay liên tục bắn phá mãnh liệt vào 3 thôn có lực lượng ta ở. Chúng lấy điểm Núi Một để khống chế quan sát, cho từng toán quân nhỏ thọc vào làng để phát hiện thăm dò lực lượng ta. Đêm đến địch dùng đèn pha quét ở Núi Một, kết hợp đèn pháo sáng để quan sát phát hiện không cho lực lượng ta rút khỏi vòng vây.

(http://img42.imageshack.us/img42/4396/a07op.jpg)

Núi Một (Hòa Tân)


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 25 Tháng Tư, 2011, 06:23:01 am
Sáng 20.9.1967 địch dùng trực thăng đổ quân Nam Triều Tiên xuống ngay trong các thôn lực lượng ta đang bám trụ, dùng lực lượng khác có M113 yểm trợ tấn công từ hướng bắc và đông bắc đánh thẳng vào làng. Lực lượng ta chặn đánh, bắn rơi 1 trực thăng và diệt một số địch, chúng phải lùi lại. Đến 11 giờ trưa chúng tập trung toàn bộ lực lượng dưới sự chi viện của pháo binh, máy bay ném bom tổ chức đột phá trên nhiều hướng. Cuộc chiến đấu diễn ra vô cùng ác liệt, lực lượng ta cùng bọn địch giành giật từng khu vườn, ngôi nhà, từng đoạn hào, diệt và làm bị thương hàng trăm tên địch. Riêng Đại đội 13 Tiểu đoàn 14 chiếm giữ và đánh địch trên hướng đông bắc suốt cả ngày, bắn cháy 2 xe M113, diệt nhiều địch.

Suốt một ngày chiến đấu lực lượng ta bị thương vong khá nhiều, đến tối ta thống nhất: tổ chức từng bộ phận rút ra khỏi vòng vây của địch (cán bộ dân chính đảng và anh em thương binh) nhưng chỉ ra được một vài mũi nhỏ ở phía bắc, còn các hương đều bị chúng chặn đánh và bị mìn không vượt qua được. Trong tình thế hết sức hiểm nghèo lực lượng chiến đấu, đạn dược không còn nhiều, sức chiến đấu giảm sút, một số bộ phận chỉ bám chặt nhau quyết tâm chiến đấu đến cùng, thề nguyện với nhau còn một người cũng đánh.

Mờ sáng ngày 22.9.1967 địch dùng toàn bộ lực lượng khép chặt vòng vây hình thành “vây ba trong” hai thôn Xuân Thanh, Hội Cư bằng bộ binh, xe tăng và mìn. Tổ chức lực lượng dùng xe M113 liên tục đột phá nhiều mũi trên nhiều hướng. Những trận chiến đấu lại tiếp tục diễn ra ác liệt. Đến tối cán bộ huyện và ấp ủy Hòa Tân cùng các đồng chí chỉ huy lực lượng Tiểu đoàn 14, Đại đội 377 bàn phương sách cuối cùng là: tập trung lực lượng đánh thẳng vào bọn chỉ huy và đội hình xe M113 của địch để phá vây đưa lực lượng còn lại thoát ra ngoài. Nhưng khi thực hành tiến công ta chỉ diệt được một trung đội địch, không phá được vòng vây. Trong đêm 22.9.1967 toàn bộ anh em ta đều tìm mọi cách để thoát ra ngoài nhưng một số anh em cán bộ địa phương, chiến sĩ Tiểu đoàn 14, Đại đội 377 và thương binh không ra được.

Ngày 23.9.1967 địch đã làm chủ và kiểm soát toàn bộ trận địa, có người bị giặc bắt đã đầu hàng, khai báo dẫn địch khui hầm bí mật. Nhiều đồng chí ta khi địch gọi hàng đã dùng lựu đạn ném lên, quyết tử không hàng giặc. Địch dùng mìn, lựu đạn, thuốc nổ, xe ủi đánh phá sạch các hầm hào, hàng rào, cây cối, nhà cửa. Nhiều đồng chí của ta đã hi sinh dưới hầm. Cảnh tượng tàn phá khủng khiếp vô cùng tàn bạo của giặc diễn ra liên tục trong 3 ngày từ 23 đến 26 tháng 9.

Ngày 27.9.1967 toàn bộ bọn bộ binh, xe tăng của quân đánh thuê Nam Triều Tiên và bọn quân ngụy ở 3 thôn Cảnh Phước, Hội Cư, Xuân Thanh đã rút. Chúng để lại một lực lượng chốt ở Núi Một và Gò Dài sau 7 ngày mới rút hết.

Sau 10 ngày đêm chiến đấu ròng rã trên mảnh đất Hòa Tân vô cùng ác liệt nhưng hết sức anh dũng kiên cường, 94 đồng bào, cán bộ chiến sĩ đã hi sinh, trong đó có những người con ưu tú của quê hương đã vĩnh viễn ra đi. Những mất mát đau thương càng làm sục sôi lòng căm thù quân cướp nước. Bọn chúng cũng phải trả nợ máu cho đồng bào chiến sĩ ta, 215 tên chết (có 2 cố vấn Mĩ) còn phần lớn là quân Nam Triều Tiên, 1 trrực thăng bị bắn cháy, 2 xe M113 tan xác.

Trận chiến đấu “Ba tròng” một bài học không bao giờ quên trong kí ức của quân và dân huyện Tuy Hòa. Một tổn thất khá nặng nề, một kinh nghiệm xương máu mãi mãi khắc sâu trong tâm khảm mọi người. Cái chết gieo mầm cho sự sống, một người ngã xuống, có lớp lớp người đứng lên. Quân và dân Hòa Tân tiếp tục chiến đấu và chiến thắng, tô thắm truyến thống của quê hương được vinh dự đón nhận phần thưởng cao quý của Nhà nước tuyên dương (lực lượng vũ trang và nhân dân anh hùng).

Bài học kinh nghiệm cho lực lượng vũ trang sau trận chiến đấu “Ba tròng” ở Hòa Tân đó là:

- Phải biết địch, âm mưu, thủ đoạn, khả năng và lực lượng.

- Biết ta; thực lực, điều kiện địa hình, dự kiến các tình huống có thể.

Thực hiện tinh thần chỉ thị của Bộ tư lệnh Phân khu Nam và Huyện ủy Tuy Hòa, lực lượng vũ trang phải tích cực đánh địch (chú ý là vùng sâu, căn cứ, hậu cứ).

Tháng 8.1967 lực lượng vũ trang xã Hòa Hiệp phối hợp với bộ phận lực lượng đặc công của Tiểu đoàn 14 tập kích kho xăng của Mĩ ở thôn Phú Hòa, đốt cháy hàng triệu lít. Sáng hôm sau lực lượng vũ trang xã chặn đánh quân Nam Triều Tiên đến giải tỏa ở Phú hiệp, bắn cháy 1 xe tăng diệt hơn chục tên địch. Sau một thời gian ngắn, lực lượng vũ trang và du kích xã Hòa Tân được củng cố. Ngày 25.10 đã chặn đánh bọn Mĩ không cho chúng vào làng. Ngày 06.11.1967 vũ trang xã Hòa Tân nắm được quy luật của địch, tổ chức một trận đánh tuyệt vời bằng hình thức cải trang tại tổ 7 thôn Cảnh Phước, diệt gọn 1 trung đội dân vệ và có 25 tên, thu toàn bộ vũ khí (có 1 trung liên, 1 M79, 1 máy PRC10).


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 25 Tháng Tư, 2011, 06:23:50 am
Liên tục trong 2 tháng 11, 12, 1967 lực lượng vũ trang xã Hòa Hiêp, Hòa Xuân phối hợp với lực lượng đặc công đại đội 201 và tiểu đoàn 14 bằng nhiều cách đánh tập kích, phục kích, pháo kích vào sân bay, kho xăng trong căn cứ Mĩ và Nam triều Tiên ở Thọ Lâm, Đa Ngư, Vũng Rô, gây cho chúng nhiều thiệt hại, phá hủy trên 30 máy bay trực thăng, 12 xe quân sự, phá sập hàng chục nhà kho, diệt và làm bị thương hơn 200 tên Mĩ và Nam Triều Tiên (trong đó có 25 tên giặc lái và nhân viên kĩ thuật, không quân Mĩ). Ở miền Trung, chi khu Phước Lộc (xã Hòa Thành) đã bị lực lượng của tiểu đoàn 14 tập kích vào đêm 12 rạng 13.11.1967. Đây là một chi khu nằm sâu trong hậu phương địch trên trục đường 5, gần quốc lộ 1, có lô cốt, hầm hào công sự kiên cố, được bảo vệ trong 5 lớp rào kẽm gai và mìn các loại, do một đại đội bảo an, một trung đội biệt kích, 1 trung đội cảnh sát dã chiến, một trung đội dân vệ đóng giữ. Gần 40 phút nổ súng các mũi đánh chiếm các mục tiêu, làm chủ trận địa, số địch chết, bị thương và bắt sống gần 200 tên. Ta thu toàn bộ vũ khí (có 2 đại liên, 1 cối 60).

Trung tuần tháng 12.1967 một tổ du kích mật của đồng chí Hà Thị Lí đánh địch sát quận lị Phú lâm, diệt 4 tên ngụy. Hai đêm sau lại đánh mìn tại nhà tên Đến ác ôn, làm cho địch hoang mang sợ hãi. Những trận đánh này tuy nhỏ nhưng ý nghĩa hết sức lớn lao. Thực hiện tuyến trước giết Mĩ, tuyến sau diệt tề.

Trong 2 năm 1966-1967 để thực hiện chiến lược 2 gọng kìm “tìm diệt và bình định” của đế quốc Mĩ, chúng đã tiến hành mở nhiều cuộc càn quét quy mô, dìa ngày với tên gọi cuộc “phản công chiến lược 2 mùa khô”.

Quân dân Tuy Hòa đứng trước những thử thách lớn lao, chịu những tổn thất nặng nề, những thương đau mất mát, hàng vạn nóc nhà bị giặc phá hủy, hàng ngàn đồng bào ta bị chúng sát hại. Chúng cướp đi không biết bao nhiều tài sản, trâu bò. Mĩ ngụy và chư hầu đã biến nhiều thôn xã của huyện nhà thành bãi trống, thành đống tro tàn. Nhưng chúng không thể nào làm nhụt được ý chí chiến đấu, truyền thống đấu tranh với lòng yêu nước của quân và dân Tuy Hòa, chúng chỉ đổ thêm dầu cho ngọn lửa bùng cháy cao hơn, gieo căm thù cho lòng căm thù càng sâu sắc hơn.

Trong 2 màu khô quân dân Tuy Hòa đã trực tiếp chiến đấu với quân viễn chinh Mĩ và bọn chư hầu Nam Triều Tiên. Với tinh thần anh dũng ngoan cường, với sự nỗ lực phi thường quyết tâm cao độ, bằng nhiều cách đánh phát huy được sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân đã loại khỏi vòng chiến đấu hơn 6.000 tên địch, phần lớn là quân Mi và Nam Triều Tiên. Bắn rơi và phá hủy hơn 40 máy bay, 54 xe quân sự. Đốt cháy hàng triệu lít xăng, phá hủy hàng chục nhà kho, góp phần bẻ gãy hoàn toàn 1 mũi tên trong chiến lược 5 mũi tên mà bọn Mĩ tiến hành thực hiện trên chiến trường toàn miền Nam, góp phần xứng đáng cùng toàn Đảng, toàn quân, toàn dân tỉnh Phú Yên, quân khu 5 và miền Nam, viết nên kì tích hào hùng “Hai mùa khô đại thắng”.

Sau thắng lợi hai mùa khô (1966-1967) tình thế cách mạng trên địa bàn huyện đã có những bước chuyển biến mới:

- Về quân sự: phong trào du kích chiến tranh có tụt xuống, nhưng cuối năm 1967 đã được củng cố. Số lượng du kích có giảm, nhưng chất lượng và sức chiến đấu tăng lên. Tiêu biểu là du kích Hòa Tân, Hòa Đồng, Hòa Hiệp độc lập chiến đấu bẽ gãy nhiều cuộc càn quét hàng tiểu đoàn quân Mĩ - Nam Triều Tiên. Du kích mật được phát triển và đánh được địch ngay trong sào huyệt của chúng, gây cho chúng hoang mang rối loạn.

- Phong trào bắn máy bay địch, đánh xe cơ giới được phát triển rộng trong toàn bộ lực lượng vũ trang và dân quân du kích.

Nắm vững quan điểm tự lực tự cường quân dân Tuy Hòa khắc phục mọi điều kiện khắn nghiệt, củng cố và phát triển cơ sở sản xuất, dọc từ miền Tây đến tận miền Đông nơi nào cũng có khu vực sản xuất của lực lượng vũ trang huyện. Nhiều xã đã có sáng kiến cải tạo vũ khí, bom, mìn, đạn, lựu đạn của địch để bố phòng đánh địch, đặc biệt cụ Năm An ở Hòa Tân cải tiến và làm nhiều vũ khí tự tạo góp phần quan trọng tăng cường trang bị cho lực lượng vũ trang bố phòng và chiến đấu tiêu diệt địch.

Bộ đội ta đã hiểu rõ cái mạnh, cái yếu của quân Mĩ và chư hầu nên đã phát huy yếu tốt thị trấn “Nắm thắt lưng địch mà đánh”, thực hiện đánh nhanh, cơ động di chuyển nhanh đã hạn chế được sức mạnh của phi pháo địch, ta ít thương vong.

Kiên định và quán triệt sâu sắc hơn chiến lược cách mạng, phương châm 2 chân 3 mũi giáp công, dù chiến tranh đặc biệt hoặc chiến tranh cục bộ, đánh ngụy hoặc đánh Mĩ đều phát huy được sức mạnh hỗ trợ đắc lực, chi viện tích cực trở thành mối quan hệ tất yếu để giành thắng lợi to lớn toàn diện trong cuộc chiến tranh nhân dân.

Hai mùa khô chiến lược - Mĩ ngụy đã dốc sức càn quét đánh phá quyết liệt hòng tiêu diệt lực lượng ta giành thắng lợi trong thời gian ngắn nhất. Nhưng chúng bị phá sản, bị thua đau trên các chiến trường. Cuối năm 1976 lữ đoàn dù 175 Mĩ và bọn “Mãnh Hổ”, “Bạch Mã” Nam Triều Tiên co về ngăn chặn và phòng giữ trên chiến trường Phú Yên, trong đó có huyện Tuy Hòa, buộc Mĩ phải lùi về phòng ngự, thực hiện chiến lược “quét và giữ”.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 25 Tháng Tư, 2011, 05:35:08 pm
III - THỰC HIỆN NHIỆM VỤ CHIẾN LƯỢC “TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY” NĂM 1968

Tháng 12 năm 1967 Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp và ra nghị quyết “Chuyển cuộc chiến tranh cách mạng miền Nam của ta sang một thời kì mới - thời kì giành thắng lợi quyết định… Động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên một bước phát triển cao nhất bằng phương pháp tổng công kích, tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định”.

Nghị quyết chỉ rõ mục tiêu chiến lược là các vùng đô thị trên toàn miền Nam. Mục đích của tấn công và nổi dậy nhằm:

- Tiêu diệt và làm tan rã đại bộ phận quân ngụy đánh đổ ngụy quyền các cấp, giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân.

- Tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực và phương tiện chiến tranh của Mĩ, làm cho quân Mĩ không thực hiện được tham vọng của chúng ở miền Nam Việt Nam.

Quán triệt nghị quyết của Bộ Chính trị, của Khu ủy, Quân khu ủy 5, Tỉnh ủy Phú Yên đã đề ra nhiệm vụ cụ thể với quyết tâm là: “Tập trung lực lượng vào hướng trọng điểm thị xã, tiêu diệt bằng được một số mục tiêu quan trọng, kết hợp với quần chúng trong và ngoài thị xã thực hiện phương châm công kích và khởi nghĩa giải phóng thị xã. Đối với các huyện cũng tiến hành phối hợp đánh sâu vào quận lị, chi khu, căn cứ hậu cần địch, đánh tan các bộ máy chính quyền nông thôn, thực hiện công kích và khởi nghĩa giành chính quyền…”.

Để chuẩn bị tiến vào cuộc chiến đấu có ý nghĩa lịch sử trọng đại này, Tỉnh ủy Phú Yên chỉ thị cho các huyện, các đơn vị khẩn trương thực hiện một số công tác trọng tâm là:

- Chuẩn bị chiến trường.

- Chuẩn bị lực lượng (quân số, vũ khí trang bị, huấn luyện, tinh thần ý chí).

- Sinh hoạt chính trị, nâng cao chất lượng và xây dựng quyết tâm.

Huyện Tuy Hòa ngoài việc khẩn trương tổ chức thực hiện những nhiệm vụ cấp bách của tỉnh, huyện còn rà soát mọi công tác chuẩn bị, đặc biệt là lực lượng vũ trang trước khi tiến hành tổng tiến công và nổi dậy. Lực lượng vũ trang và du kích các xã đều được củng cố, bổ sung, tăng cường trang bị. Các xã Hòa Hiệp, Hòa Xuân, Hòa Tân có từ 20-30 tay súng, các xã còn lại đều có từ 10-15 tay súng (chỉ tính đội vũ trang và du kích tập trung). Lực lượng huyện có Đại đội 377, đội công binh, trung đội nữ pháo binh. Lực lượng cấp trên tăng cường: Đại đội 201 dặc công tỉnh, Tiểu đoàn 14 đặc công của Quân khu 5. Ngoài ra còn có một lực lượng đặc biệt quan trọng nằm trong hậu phương căn cứ địch, đó là lực lượng du kích mật, du kích đặc công gồm hơn 50 người, được trang bị vũ khí đảm bảo tính chất chiến đấu (thuốc nổ, lựu đạn, mìn hẹn giờ, súng ngắn) được giao nhiệm vụ hiệp đồng trong tiến công và nổi dậy.

Các lực lượng khác cũng được tiến hành tổ chức và chuẩn bị khẩn trương như: các tổ chức quần chúng cho nổi dậy, hành lang, trạm phẩu, lực lượng dân công tiếp tế từ tuyến sau ra phía trước công tác hậu cần…

Do tính chất đặc biệt của nhiệm vụ có ý nghĩa lịch sử với tinh thần quyết chiến quyết thắng hầu hết trong các lực lượng vũ trang đều thành lập đội cảm tử. Cán bộ chiến sĩ được mang chiếc khăn quàng đỏ thêu 2 chữ vàng “Quyết tử” làm lễ tuyên thệ trước lúc xuất quân “Cảm tử cho Tổ quốc quyết sinh”.

Chiến trường Tuy Hòa 1 là hướng diện quan trọng vì ở đây có căn cứ, hậu cứ, bến cảng, sân bay, kho tàng căn cứ lữ đoàn 173 Mĩ, trung đoàn bộ 28 “Bạch Mã” Nam Triều Tiên - là nơi chi viện cho các cuộc hành quân càn quét của Mĩ, ngụy, chư hầu ở chiến trường Phú Yên và các tỉnh Nam Tây Nguyên (thuộc vùng 3 chiến thuật).

Tấn công vào các mục tiêu nay có ý nghĩa ngăn chặn sự chi viện tiếp ứng của các hướng, làm rối loạn hậu phương, trực tiếp uy hiếp sân bay, trận địa pháo, hạn chế hoạt động đánh phá của không quân Mĩ và chi viện của pháo binh, căng kéo kìm giữ địch tạo thuận lợi cho hướng tấn công chủ yếu và thị xã Tuy Hòa.

Chấp hành mệnh lệnh của Tỉnh ủy và Tỉnh đội, căn cứ vào tình hình địch, thực lực ta, huyện đã xây dựng phương án và quyết tâm cụ thể:

Sử dụng lực lượng Tiểu đoàn 14, Đại đội 201, Đại đội 377 tiến công và tập kích một số mục tiêu bao gồm quận lị Phú Lâm, sân bay Đông Tác, sân bay Thọ Lâm, trung đoàn bộ 28 Bạch Mã ở Đa Ngư, đánh kho xăng Phú Hòa. Dùng cối 82 của tiểu đoàn 14, trung đội nữ của huyện đội, pháo kích vào Hảo Sơn, cảng Vũng Rô. Đội công binh đánh giao thông, phá ống dẫn dầu ở Bắc Đèo Cả (Hòa Xuân) Lực lượng vũ trang và du kích các xã phối hợp vói các đơn vị chiến đấu trên địa bàn xã. Các xã còn lại vũ trang diệt ác hỗ trợ cho đồng bào nổi dậy. Lực lượng du kích mật, đặc công du kích đánh diệt một số tên ác ôn đầu sỏ ở Phú Lâm, Đông Tác.

Sau khi nổ súng đón giao thừa bọn địch ở thị xã Tuy Hòa đang say sưa đón năm mới, đúng 0 giờ 30 phút đêm 31 tháng 1 năm 1968 tiếng súng tấn công vào thị xã Tuy Hòa bắt đầu nổ.

Trên chiến trường Tuy Hòa toàn huyện đã đồng loạt nổ súng tiến đánh các mục tiêu. Ở phía đông trên toàn bộ căn cứ Đông Tác, Hòa Hiệp, các mục tiêu trung đoàn bộ 28 “Bạch Mã”, sân bay Thọ Lâm, kho xăng Phú Hòa, sân bay Đông Tác đều bị quân ta tiến công, lửa kho xăng ở Phú Hòa bốc cháy cao hàng trăm mét sáng rực cả một vùng trời phía đông huyện. Tiếp theo là tiếng súng tấn công quận lị Phú Lâm, tiếng cối 82 bắn vào trận địa pháo Nam Triều Tiên ở Hảo Sơn, cảng Vũng Rô, công binh phá ống dẫn dầu Đèo Cả xăng dầu bốc cháy lửa khói bao trùm mù mịt của dãy núi Đá Bia Đèo Cả. Các xã Hòa Xuân, Hòa Binh, Hòa Thành cũng đồng loạt nổ súng tấn công bọn dân vệ, diệt ác. Đồng bào khắp nơi trong huyện nổi dậy đánh trống mõ mừng xuân, mừng chiến thắng. Cuộc tổng tiến công và nổi dậy kéo dài gần 10 này. Tại khu vực thị trấn Phú Lâm, Hòa Thành, lực lượng ta bám trụ và quần đánh nhiều trận, tập kích tại ngã 3 Phú Lâm diệt 36 tên, bị thương 6 tên khác, thu 10 súng. Chốt chặn và phục kích đánh bọn bảo an, dân vệ nống ra giải tỏa ở cầu sắt, cầu ông Tuấn (tây quận lị Phú Lâm) diệt 80 tên, thu 32 súng, nhiều đạn dược và quân trang quân dụng. Tổ chức tấn công 4 trung đội dân vệ tại trường Phước Lộc, diệt 3 trung đội, chết bị thương 55 tên, thu 17 súng.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 25 Tháng Tư, 2011, 05:35:51 pm
Kết thúc đợt 1 (T.25 còn có tên gọi X.1) trên toàn huyện đã đánh 21 trận lớn nhỏ với nhiều hình thức chiến đấu khác nhau. Kết quả loại khỏi vòng chiến đấu 570 tên địch (trong đó có 128 tên Mĩ, 216 quân Nam Triều Tiên), thu 72 súng, phá hủy 33 máy bay các loại, 8 pháo 105 và 155 li, 18 xe quân sự, đánh sập 1 khu thông tin của trung đoàn bộ Nam Triều Tiên, đánh sập trên 20 lô cốt, 14 nhà lính, 3 nhà kho, đốt cháy khoảng 2 triệu lít xăng, phá 500 mét đường ống dẫn dầu. kết hợp với tấn công vũ trang đồng bào nhiều xã trong huyện cùng lực lượng ta nổi dậy lùng bắt bọn tền ngụy và tổ chức xuống đường đấu tranh gây áp lực lớn làm cho địch càng hoang mang hơn. Thắng lợi đợt 1 trong cuộc tổng tấn công và nổi dậy của quân và dân huyện Tuy Hòa là một thắng lợi lịch sử mở ra một bước ngoặt mới trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, rút được nhiều kinh nghiệm trong công tác chuẩn bị, tổ chức chỉ huy, hiệp đồng giữa các lực lượng, mọi thứ quân, giữa tiến công quân sự và đấu tranh chính trị.

Sau khi kết thúc đợt 1 (T.25) địch đã xua quân Nam Triều Tiên, điều một số đại đội của trung đoàn 47 ngụy, tổ chức càn quét nống lấn chiếm lại một số thôn xã như: Hòa Bình, Hòa Tân, hà hơi tiếp sức ổn định và trấn an tinh thần binh lính và bọn ngụy quyền đang dao động và có nguy cơ tan rã. Sáng 15.02.1968 địch dùng 2 đại đội Nam Triều Tiên và 5 xe M113 càn vào Hòa Tân, với ý đồ chốt lại Núi Một để ngăn chặn từ xa. Lúc 24 giờ đêm, một bộ phận của tiểu đoàn 14 cùng du kích xã bất ngờ tập kích vào đội hình của chúng ở Núi Một, bắn cháy 2 xe M113 diệt 20 tên, mấy ngày sau địch rút bỏ chốt này.

Tiếp tục thực hiện tinh thần nghị quyết 14 của Trung ương Đảng “Tổng tiến công và nổi dậy là một giai đoạn, một quá trình tiến công chiến lược, rất ác liệt và phức tạp bằng cả tiến công quân sự và tiến công chính trị… là một giai đoạn bao gồm nhiều chiến dịch lớn của quân đội, ở các vùng chiến lược quan trọng, phối hợp với sự nổi dậy của quần chúng…”.

Ngày 12.02.1968 Đảng ủy mặt trận và Thường vụ Tỉnh ủy họp xác định mục tiêu tấn công đợt 2 (X.2) vẫn là thị xã, quận lị chi khu.

Sau khi nhận mệnh lệnh của cấp trên, ban chỉ huy mặt trận huyện Tuy Hòa tổ chức phân công và giao nhiệm vụ cho các đơn vị khẩn truơng chuẩn bị các mục tiêu đã được phân công. Chỉnh đổn lực lượng, bổ sung trang bị sẵn sàng chờ lệnh. Rút kinh nghiệm đợt 1, lực lượng tiến công chính trị được tổ chức chuẩn bị đội ngũ, bố trí cán bộ nòng cốt lãnh đạo.

Đêm mùng 3 rạng 4 tháng 3 năm 1968, tiếng bộc phá thủ pháo của Đại đội 202 đặc công tỉnh tấn công vào thị xã Tuy Hòa làm lệnh cho cuộc tổng tấn công đợt 2. Một bộ phận đặc công của Tiểu đoàn 14 và đội công tác thị trấn tập kích quận lị Phú Lâm diệt 1 trung đội dân vệ, 1 trung đội bảo an. Lực lượng Tiểu đoàn 14, Đại đội 201 đặc công cùng du kích Hòa Hiệp tiến công và pháo kích vào các mục tiêu Phú Hiệp, sân bay Thọ Lâm, Trung đoàn bộ 27 Bạch Mã Nam Triều Tiên. Đại đội 377, trung đội nữ pháo binh huyện tập kích, pháo kích địch ở Phú Lương, Cầu Cháy. Ngày 03.03.1968 ta chặn đánh 1 đại đội Nam Triều Tiên ở Phước Mĩ (Hòa Bình) diệt, làm bị thương hàng chục tên. Đêm 04.3 đội trinh sát đặc công huyện cùng đội công tác của thị trấn Phú Lâm và một bộ phận Đại đội 377 đánh vào khu chiêu hồi Đông Tác diệt 11 tên ác ôn. Đêm 05.3 lực lượng Tiểu đoàn 14 cùng du kích xã Hòa Thành tập kích vào Phước Bình nơi đống quân của Đại đội 3 Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 47 diệt 40 tên. Đêm 06.3 ta tiếp tục tập kích vào vị trí trú quân của tiểu đoàn 2 trung đoàn 47 ở Phú Lâm diệt 20 tên. Cũng trong thời gian này lực lượng du kích các xã trong huyện đã đánh 20 trận, diệt 77 tên địch, đánh tan xác 4 xe quân sự (có xe M113), phá sập 7 trụ sở xã. Riêng lực lượng du kích mật đã đánh 18 trận diệt 25 tên (có 1 thiếu tá Mĩ, 1 đại úy ngụy) và một số tên ác ôn đầu sỏ. Lực lượng thanh niên khởi nghĩa được tổ chức trước khi bước vào cuộc tổng tiến công và nổi dậy cũng phát huy được hiệu lực. Đội thanh niên khởi nghĩa xã Hòa Xuân cùng lực lượng vũ trang xã tập kích diệt 15 tên bình định ở thôn Bàn Thạch. Công binh 2 lần phá ống dẫn dầu, đốt cháy hơn nửa triệu lít xăng dầu. Cùng với tấn công vũ trang, phong trào đấu tranh chính trị và binh vận trong huyện cũng tiến công mạnh mẽ. Gần 5000 lượt đồng bào các xã Hòa Hiệp, Hòa Xuân, Hòa Vinh đã xuống đường biểu tình đòi ngụy quyền giải quyết các quyền lợi dân sinh, tu bổ nông giang vét cửa Đà Nông, đòi bồi thường sinh mạng cho dân do chúng gây ra. Đồng bào Hòa Bình, Hòa Đồng, Hòa Thành, Hòa Tân kéo vào quận lị Phú Lâm đấu tranh đòi chính quyền ngụy phải chấp nhận yêu sách. Mặt khác nhân dân đã kết hợp cùng lực lượng vũ trang nổi dậy truy tróc và diệt ác ôn, phá kèm kẹp giành quyền làm chủ nhiều thôn ấp trong huyện.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 25 Tháng Tư, 2011, 05:36:38 pm
Trong đợt hoạt động (X2) lực lượng vũ trang và bán vũ trang huyện Tuy Hòa đã chiến đấu hơn 70 trận lớn nhỏ, loại khỏi vòng chiến đấu 338 tên địch, trong đó có 141 tên Mĩ, 160 tên Nam Triều Tiên, thu 13 súng, phá hủy 7 khẩu pháo 105 li, 4 xe quân sự (có 1 xe M113), 1 súng máy cao xạ 12,7, đánh sập 10 nhà lính, 3 nhà kho và hàng chục lô cốt, phá hàng trăm mét ống dẫn dầu, đốt cháy hơn 500.000 lít xăng dầu, đánh sập 7 trụ sở ngụy quyền cấp xã, hoàn thành tốt nhiệm vụ trên hướng tấn công quan trọng của chiến dịch, góp phần xứng đáng vào thắng lợi của tỉnh nhà trong cuộc tổng tấn công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968.

Thắng lợi của quân và dân huyện Tuy Hòa vô cùng to lớn có ý nghĩa cực kì quan trọng là: tiêu hao tiêu diệt nhiều sinh lực địch, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh, làm lung lay ý chí xâm lược của đế quốc Mĩ, phá sản hoàn toàn chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, thay đổi cục diện chiến trường, tạo thế mới có lợi cho ta, góp phần cho tỉnh nhà và toàn miền Nam, đẩy địch vào thế bị động buộc chúng phải tuyên bố xuống thang chiến tranh, chịu ngồi đàm phán với ta ở hội nghị Paris.

Thắng lới lịch sử Tết Mậu Thân đã đưa cuộc kháng chiến chống Mĩ xâm lược của quân dân huyện nhà phát triển sang một thời kì mới.

Từ thắng lợi to lớn đó, lực lượng vũ trang đã rút ra được những bài học kinh nghiệm quý giá làm cơ sở cho công tác giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng xây dựng ý chí quyết tâm, tổ chức chỉ huy chuẩn bị chiến trường, vận dụng chiến thuật và thủ đoạn chiến đấu.

1 - Chấp hành mệnh lệnh nghiêm túc, quyết tâm cao, tinh thần chiến đấu của cán bộ chiến sĩ sẵn sàng xả thân vì sự ngiệp cách mạng vì Đảng vì dân.

2 - Phát huy sức mạnh tổng hợp của 3 thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích, vận dụng nhiều cách đánh, nhiều thủ đoạn chiến đấu linh hoạt sáng tạo.

3 - Tạo dựng yếu tố bất ngờ, lợi dụng thời cơ và tạo thời cơ để giành thắng lợi.

Một bài học xương máu phạm sai lầm gây nhiều đáng tiếc trong chỉ hy lãnh đạo cần phải nhớ thật thấm thía, đầy đủ và kĩ càng khi ra mệnh lệnh, hạ quyết tâm cho chiến dịch hoặc một trận chiến đấu: “Chỉ thấy thuận lợi, thấy thắng địch, không lường hết khó khăn, không dự kiến khả năng đánh trả, phản kích của địch, lúc vấp phải thì lúng túng không xử trí được…”.

Sau chiến dịch xuân Mậu Thân 68 tuy ta giành được thắng lợi to lớn nhưng những khó khăn không nhỏ lại xuất hiện trên khắp địa bàn của huyện. Lương thực thiếu thốn, phần lớn cơ sở sản xuất bị địch phá hoại (bằng bom pháo và chất độc hóa học). Mặt khác địch ra sức phản kích, càn quét, nống lấn, phục chặn hành lang, đánh phá giáp ranh nên việc lấy lương thực trong dân gặp nhiều khó khăn, bộ đội phải ăn củ bá, rau rừng thay cơm. Vũ khí, đạn dược, thuốc men thiếu hụt chưa bố sung kịp, sức khỏe của cán bộ chiến sĩ đau ốm, giảm sút nhiều. Quân số thiếu hụt chưa có nguồn bổ sung. Những khó khăn, cộng thêm sự đánh phá quyết liệt của địch đã làm ảnh hưởng đến tinh thần tư tưởng của cán bộ chiến sĩ. Một số người ngại gian khổ, ác liệt, sợ chiến tranh kéo dài hoặc ta không có khả năng giành thắng lợi.

Đứng trước những khó khăn và thử thách đó, Huyện ủy và Ban chỉ huy Huyện đội Tuy Hòa đã thống nhất đề ra một số biện pháp để khắc phục và giải quyết những khó khăn, ổn định tình hình, tiếp tục đưa phong trào cách mạng phát triển.

- Mở một đợt sinh hoạt chính trị cho các lực lượng nhằm giải quyết tinh thần tư tưởng, ý chí chiến đấu, tập trung với chủ đề là “Đánh giá thắng lợi là cơ bản, những khó khăn là tất yếu của từng thời kì cách mạng nhưng chỉ là tạm thời”.

- Tích cực đánh địch càn quét nống lấn, phục chặn hành lang, đánh phá căn cứ hậu cứ, giữ thế và hỗ trợ cho phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng “Đòi trở về làng cũ làm ăn”.

- Phát huy tinh thần tự lực tự cường, tích cực tăng gia sản xuất, mở rộng quân giới nhân dân, cải tiến và làm vũ khí tự tạo, trang bị cho lực lượng dân quân du kích bố phòng đánh địch.

Với tinh thần nỗ lực và hết sức khẩn trương các đơn vị bộ đội, các cấp ủy và ban chỉ huy xã đội tổ chức sinh hoạt cấp tốc trong thời gian ngắn bước đầu ổn định được tình hình và triển khai thực hiện nhiệm vu.

Xã Hòa Thành tổ chức một đội quyết thắng 7 đồng chí do đồng chí bí thư xã làm đội trưởng, nằm bám trong dân liên tục hoạt động làm cho hậu phương địch mất ổn định, có tác dụng tốt, giữ được phong trào, tạo áp lực hỗ trợ cho đấu tranh chính trị của quần chúng. Các xã đều tổ chức thành lập tổ quân giới cải tiến hàng ngàn đầu đạn pháo cối lép, lấy thuốc nổ trong pháo cối, bọ làm lựu đạn thủ pháo để trang bị cho lực lượng và dân quân du kích. Ngoài tổ quân giới của huyện đôi, quân giới của cãc xã Hòa Mĩ, Hòa Thịnh, Hòa Tân, Hòa Hiệp cũng sản xuất được hàng ngàn quả đạn thủ pháo, hàng chục vạn cây chông, bàn chông sắt để bố phòng đánh địch. Phong trào quân giới nhân dân của huyện phát triển mạnh mẽ rộng khắp đã thực sự góp phần quan trọng giải quyết những khó khăn trang bị vũ khí cho lực lượng vũ trang huyện nhà. Thành tích đó càng làm sáng tỏ quan điểm tự lực tự cường và đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng ta.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 25 Tháng Tư, 2011, 05:37:32 pm
Tiếp tục đánh phá căn cứ hậu cứ địch là yêu cầu đặc biệt quan trọng, trong lúc địch đang dốc lực lượng đánh phá căn cứ hành lang và vùng giải phóng của ta. Bộ tư lệnh quân khu 5 giao cho tiểu đoàn 430 (14) đặc công. Ban chỉ huy Tỉnh đội giao cho đại đội 201 đặc công đang đứng chân hoạt động trên địa bàn huyện Tuy Hòa thực hiện nhiệm vụ đó.

Chấp hành mệnh lệnh cấp trên, qua nhiều ngày đêm bám nắm địch chuẩn bị nhiều mục tiêu, trong căn cứ Đông Tác - Hòa Hiệp - Vũng Rô, đêm ngày 5 rạng 6 tháng 6 năm 1968 tiểu đoàn 430 đặc công do đồng chí Trần Kim Đính làm tiểu đoàn trưởng trực tiếp chỉ huy đã sử dụng 2 đại đội 1 và 7 tổ chức thành nhiều mũi bí mật luồn sâu áp sát các mục tiêu, khu chỉ huy, khu thông tin, khu hậu cần và một số nhà lính. Vào lúc 0 giờ 30 phút toàn bộ các mũi đồng loạt dùng thủ pháo, lựu đạn tiến công. Bị đánh bất ngờ địch chống trả yếu ớt, số sống sót tháo chạy về đồi phía đông nam. Sau gần 50 phút nổ súng tiến công, ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 250 tên Mĩ, đốt cháy 106 xe xe quân sự, phá hủy 1 khu thông tin, đánh sập nhà chỉ huy, 4 nhà kho, hàng chục nhà lính, đánh bị thương 1 tàu trọng tải 5000 tấn, thu gần 100 súng các loại.

Chiến thắng Vũng Rô làm cho quân dân Tuy Hòa vô cùng phấn khởi, địch lo sợ buộc phải kéo một số lực lượng đang càn quét ở tuyến trước quay về tiếp ứng giải tỏa. Với chiến thắng trên tiểu đoàn đã được đón nhận phần thưởng cao quý của trên trao tặng - huân chương quân công hạng nhì và Bộ tư lệnh quân khu 5 đã tuyên dương tiểu đoàn quyết thắng.

Nhằm tạo thế đấu tranh hợp pháp cho đồng bào ta ở vùng giải phóng bị địch bắt về khu dồn và “Trung tâm chiêu hồi” Đông Tác, Ban chỉ huy huyện đội hạ quyết tâm đánh vào khu chiêu hồi này nhằm mục đích: diệt ác, phá dồn, đưa dân trở về làng cũ. Trung tuần tháng 5 năm 1968 lực lượng ta bao gồm 1 trung đội của Đại đội 377, đội công tác của huyện do đồng chí Trương Thanh Hiền đại đội phó và đồng chí Lê Xích trung đội trưởng chỉ huy đánh vào khu chiêu hồi. Đội đặc công do đồng chí Lê Xích chỉ huy có nhiệm vụ thọc sâu đánh vào mục tiêu chủ yếu. Ngoài ra còn có lực lượng phục chặn đường Phú Lâm xuống sân bay Đông tác do đồng chí Cao Văn Khánh huyện đội phó kiêm đại đội trưởng Đại đội 377 chỉ huy. Đúng 24 giờ đêm ta bất ngờ nổ súng đánh thẳng vào nhà bọn ác ôn diệt tại chỗ 8 tên. Lực lượng bảo an, dân vệ và ác ôn còn lại tháo chạy lên Phú Lâm bị lọt vào trận địa ta đã phục sẵn. Ta đồng loạt nổ súng diệt 30 tên, số sống sót tháo chạy. Ta thu 11 súng (có 4 súng ngắn), 1 máy PRC10, ta không thương vong.

Chiến thắng này đã đạt được yêu cầu, phá lỏng thế kẹp, tạo được điều kiện cho đồng bào ta về làng có hàng trăm gia đình. Trận đánh táo bạo, có quyết tâm cao, diệt được nhiều tên ác ôn đầu sỏ. Tổ chức chỉ huy hiệp đồng chặt chẽ, hiệu suất chiến đấu cao, đã được tỉnh biểu dương khen thưởng.

Tiếp tục thực hiện lời kêu gọi “Thề quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, đêm 28.8.1968 đại đội 201 đặc công do đồng chí Nguyễn Hồng Sơn làm đại đội trưởng chỉ huy 1 mũi 9 đồng chí tập kích vào sân bay phản lực Đông Tác. Hơn 20 phút nổ súng tiến công vào khu máy bay và giặc lái, ta đã diệt 46 tên Mĩ (phần lớn là giặc lái và nhân viên kĩ thuật) phá hủy 6 máy bay phản lực F100 và F105, 1 máy bay vận tải C130, làm bị thương một số máy bay khác. Trên đường lui quân bị địch dùng xe tăng bao vây kín, ta không còn đường ra, đồng chí Nguyễn Hồng Sơn động viên toàn mũi phải quyết tâm chiến đấu đến cùng trong vòng vây của địch. Các đồng chí đã đánh trả quyết liệt cho đến viên đạn và quả lựu đạn cuối cùng. Đến 4 giờ sáng cả 9 đồng chí đã anh dũng hi sinh ngay trên đường băng của sân bay. Với hành động chiến đấu dũng cảm ngoan cường tạo nên chiến thắng oanh liệt ấy, đại đội 201 được Trung ương mặt trận dân tộc giải phóng mièn Nam Việt Nam tặng thưởng huân chương quân công hạng 3. Chín đồng chí tham gia trận đánh được truy tặng huân chương chiến công hạng nhất. Hành động anh hùng và lòng trung thành vô hạn với Đảng, với nhân dân của người đại đội Nguyễn Hồng Sơn được Nhà nước truy phong danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân ngày 30 tháng 10 năm 1978.

Sau gần một năm liên tục chiến đấu mở màn từ cuộc tổng tấn công và nổi dậy mùa xuân, quân dân Tuy Hòa đã giành được nhiều thắng lợi lớn. Đặc biệt là chỉ trong 1 đêm lực lượng vũ trang đã tấn công 21 mục tiêu và liên tục chiến đấu, đánh địch trên cả 3 tuyến, diệt nhiều địch, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh, thực hiện được nhiệm vụ quan trọng của trên giao: kìm chân lực lượng địch tại chỗ, kéo địch quay về đối phó trong thế bị động lúng túng. Đã góp phần cùng quân dân trong tỉnh và trên toàn miền Nam giành thắng lợi có tính chất quyết định, đưa công cuộc cách mạng miền Nam chuyển biến mạnh mẽ, bước sang một thời kì mới


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 25 Tháng Tư, 2011, 05:39:45 pm
(http://img52.imageshack.us/img52/1897/19247289.jpg)

TRẬN TẬP KÍCH CẢNG VŨNG RÔ

của Tiểu đoàn 14 Đặc công Phú Yên (ngày 06 tháng 6 năm 1968)


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Tư, 2011, 08:03:07 am
CHƯƠNG VI

ĐÁNH PHÁ “BÌNH ĐỊNH”
GIỮ VỮNG THẾ TRẬN CHIẾN TRANH NHÂN DÂN
GÓP PHẦN CÙNG CẢ NƯỚC MỞ CUỘC TIẾN CÔNG CHIẾN LƯỢC
ĐÁNH BẠI CHIẾN LƯỢC “VIỆT NAM HÓA CHIẾN TRANH”
CỦA ĐẾ QUỐC MĨ (1969-1972)

I - ĐÁNH BẠI CHIẾN LƯỢC “QUÉT VÀ GIỮ”

Kể từ năm 1963 khi đế quốc Mĩ đưa quân ồ ạt vào miền Nam, giới cầm quyền ở Oa-sinh-tơn hi vọng chúng sẽ nhanh chóng giành thắng lợi. Thế nhưng sau 4 năm đổ quân, đổ vũ khí, đổ tiền vào chúng vẫn không xoay chuyển được tình hình mà còn lún sâu vào thất bại. Chiến trường Việt Nam đã trở thành nơi chôn vùi tên tuổi của biến bao tướng lĩnh Mĩ. Chính Mác Na-ma-ra đã thú nhận sau 1975 “trong cuộc chiến tranh Việt Nam, chúng ta không có những anh hùng mà chỉ là một lũ ngu xuẩn, chính tôi cũng nằm trong số đó”.

Sau thất bại tết Mậu Thân, Giôn-xơn phải đề ra chủ trương “phi Mĩ hóa” cuộc chiến tranh. Từ “tìm diệt” và “bình định”, quân Mĩ chuyển sang “quét và giữ” nhằm 3 mục đích:

- Giữ cho được các thành thị, các căn cứ quân sự, các đường giao thông chiến lược quan trọng, các vùng đông dân nhiều của.

- Giữ cho quân Mĩ khỏi bị thiệt hại nặng.

- Giữ cho ngụy quân, ngụy quyền khỏi tan rã sụp đổ.

Chủ trương phi Mĩ hóa của chiến quyền Giôn-xơn tiến hành chưa được bao lâu thì Ních-xơn được các thế lực hiếu chiến phản động và ngoan cố nhất trong giới tư bản lũng đoạn Mĩ đưa lên làm Tổng thống. Trước sự phá sản của chiến lược toàn cầu “phản ứng linh hoạt” Ních-xơn đề ra “học thuyết Ních-xơn” và chiến lược quân sự “ngăn đe thực tế” với 3 nguyên tắc cơ bản:

- Sức mạnh Mĩ.

- Chia sẻ trách nhiệm.

- Thượng lượng trên thế mạnh.

Đối với miền Nam nước ta Ních-xơn điều chỉnh chủ trương “phi Mĩ hóa” chiến tranh của Giôn-xơn thành chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”. Thực chất đây là thủ đoạn dùng người Việt đánh người Việt với bom đạn và chỉ huy của Mĩ.

Mĩ đã đề ra kế hoạch chiến lược giành thắng lợi qua 3 giai đoạn trong vòng 3 năm rưỡi và đã được Nhà Trắng thông qua:

1 - Chuyển giao nhiệm vụ chiến đấu toàn bộ cho quan ngụy, rút quân chiến đấu trên bộ của Mĩ. Tiếp tục làm suy yếu lực lượng cách mạng bằng “bình định nông thôn”. Đây là giai đoạn quan trọng có ý nghĩa quyết định.

2 - Chuyển giao nhiệm vụ chiến đấu trên không cho quân ngụy làm cho quân ngụy mạnh lên đủ sức đương đầu với ta.

3 - Củng cố thành quả đã đạt được tiếp tục đánh phá làm cho lực lượng ta suy yếu nghiêm trọng, chiến tranh vì thế lụi tàn dần.

Trên địa bàn huyện Tuy Hòa bọn địch lại tiến hành một loạt âm mưu và thủ đoạn: tập trung quân liên tục càn quét đánh phá căn cứ, hành lang cửa khẩu, đẩy bọn lính đánh thuê Nam Triều Tiên chiếm đóng một số chốt án ngữ từ xa, giữ vòng ngoài, quân ngụy ở vòng trong tập trung thực hiện những thủ đoạn cụ thể: dùng âm mưu “Bưng dân” đưa một số dân về làng cũ (những nơi chúng kiểm soát được) bằng hình thức lập khu tập trung mới như ở Phú Nhiêu (Hòa Mĩ), Phú Hữu (Hòa Thịnh), từng bước tiến hành thủ đoạn “tam giác chiến” đánh phá hậ tầng cơ sở của ta, đẩy lực lượng cách mạng không còn nắm được dân, tăng cường bắt lính đôn quân, đẩy mạnh chiến tranh tâm lí, chiêu hồi chiêu hàng, vô hiệu hóa cơ sở cách mạng v.v…

Trước những âm mưu thủ đoạn nham hiểm quỷ quyệt của địch, đang dốc sức thực hiện trên địa bàn huyện, lực lượng ta gặp rất nhiều khó khăn, lương thực, thực phẩm, thuốc men vô cùng thiếu thốn, cán bộ chiến sĩ phải ăn củ bá rau rừng, sức khỏe giảm sút nghiêm trọng. Cơ sở sản xuất liên tục bị địch đánh phá bằng các hình thức, máy bay ném bom, rải chất độc hóa học, pháo bắn đạn có chất độc để hủy diệt v.v…

Song với tinh thần và ý chí quyết tâm khắc phục mọi khó khăn của lực lượng vũ trang huyện nhà luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, huyện đã từng bước tháo gỡ khó khăn. Số lương thục, thuốc men ít ỏi còn lại được giành cho thương bệnh binh nặng. Tích cực tìm kiếm các nguồn lương thực xin của dân, thu chiến lợi phẩm, kiếm rau rừng củ bá ăn tạm. Ngoài ra huyện cũng đã tổ chức các đội đánh càn phá kích ngăn chặn các đợt tấn công càn quét của quân ngụy và Nam Triều Tiên giữ vững lực lượng. Những khó khăn trước mắt tạm thời được giải quyết.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Tư, 2011, 08:03:49 am
Chấp hành chỉ thị của cấp trên, huyện ủy, huyện đội tiến hành tổchức một đợt sinh hoạt chính trị với những nội dung chủ yếu tổng kết đánh giá thắng lợi to lớn và ý nghĩa cực kì quan trọng trong tổng tiến công và nổi dậy vừa qua, đánh giá đúng về địch (Mĩ đã lâm vào thế bị động thế thua, quân chư hầu ngán ngẩm mong đợi ngày về nước, quân ngụy hoang mang, tinh thần sa sút nghiêm trọng). Tiếp tục thực hiện nhiệm vụ tiến công chiến lược của các lực lượng vũ trang nhân dân trong tình hình mới. Ban cán sự ban chỉ huy tỉnh đội chỉ thị nhiệm vụ cho lực lượng vũ trang trong năm 1969 là:

… Tiêu diệt, tiêu hao một bộ phận sinh lực ngụy, chư hầu, đánh phá giao thông và phương tiện chiến tranh cơ sở vật chất và kĩ thuật của địch, chủ yếu là lực lượng kèm kẹp quần chúng, ra sức đánh bại các âm mưu thủ đoạn mới của địch, chủ yếu là đánh bại kế hoạch “Bình dịnh cấp tốc”.

Nhiệm vụ xuyên suốt của quá trình tiến công là: tiêu diệt sinh lực địch, diệt kẹp phá kèm, giành giữ dân, củng cố căn cứ mở rộng vùng giải phóng.

Phát triển xây dựng thực lực của các thứ quân mạnh mẽ, đặc công háo bộ binh, tinh nhuệ lực lượng chuyên trách tại chỗ để rút lực lượng cơ động, bảo đảm chiến đấu liên tục, giành thắng lợi to lớn hơn tiến lên giành thắng lợi quyết định.

Tháng 2 năm 1969 do yêu cầu chiến dịch điều đại đội 201 đặc công về tỉnh, ra quyết định huyện Tuy Hòa 1 nhanh chóng rút người thành lập 1 đại đội đặc công đảm bảo nhiệm vụ tác chiến thế chân cho đại đội 201.

Huyện đội đã khẩn trương rút một số cán bộ và chiến sĩ của Đại đội 377, các xã, lấy đội đặc công của huyện làm nòng cốt. Thành lập 1 đại đội gồm 25 đồng chí do đồng chí Tân làm Đại đội trưởng, đồng chí Ngọc làm chính trị viên, đồng chí Trung làm đại đội phó. Đại đội lấy phiên hiệu là Đại đội 203 và khẩn trương huấn luyện trong thời gian gần 3 tháng.

Đêm 20.08.1969 Đại đội 203 tiến hành chuẩn bị trận đánh đầu tiên để rút kinh nghiệm. Sau 3 đêm chuẩn bị chiến trường ở Cầu Tổng Phú Thứ do một trung đội Nam Triều Tiên chốt giữ, vào lúc 24 giờ đêm 20 rạng 21.8.1969 ta tổ chức 2 mũi bí mật cắt rào và ám sát mục tiêu bất ngờ nổ súng tiến đánh. Chỉ hơn 5 phút chiến đấu ta đã diệt gọn quân địch đóng ở đây, giết chết tại chỗ 11 tên, thu 3 súng, đánh sập 2 lô cốt và 3 trại lính, ta an toàn. Trận đánh nhỏ, tiêu diệt gọn ta không thương vong đã tạo đà phấn khởi và tin tưởng vào khả năng chiến đấu cho đơn vị trong thời gian tới.

Vừa chống địch càn quét các lực lượng vũ trang và nhân dân Tuy Hòa vừa chuẩn bị cho cuộc tiến công phối hợp quy mô lớn với các chiến trường khác trên toàn miền Nam theo kế hoạch của trên.

Đêm 15.2.1969 một bộ phận của tiểu đoàn 14 cùng du kích Hòa Tân tập kích cứ điểm Núi Một do 2 trung đội Nam Triều Tiên chốt giữ. Sau gần một giờ chiến đấu địch chết và bị thương hơn 30 tên, hai trung đội bị thiệt hại nặng địch phải rút bỏ Núi Một.

Tiếp đó đêm 21.2.1969 một bộ phận nhỏ của Tiểu đoàn 14 phối hợp cùng du kích xã Hòa Hiệp đánh kho xăng ở thôn Phú Hòa (căn cứ Phú Hiệp) làm cháy 3 bể chứa xăng gần 2 triệu lít, lửa cháy ròng rã suốt 3 ngày đêm.

Ngày 25 tháng 2 năm 1969 lực lượng du kích xã Hòa Xuân chặn đánh bọn Nam Triều Tiên chở lương thực cho đồn Nam Bình, phá hủy 1 xe GMC, 1 xe Jeep, bắn chết 2 tên Mĩ và 6 tên Nam Triều Tiên.

Trong tháng 4 năm 1969 Đại đội 377 cùng lực lượng vũ trang xã Hòa Xuân đột nhập vào thôn Bàn Thạch và Phước Lương để phát động quần chúng, bất ngờ gặp 2 trung đội dân vệ ta nổ súng diệt 14 tên thu 3 súng, số còn lại tháo chạy.

Ngày 24 tháng 6 năm 1969 để tiếp tục càn quét đánh phá cnă cứ hậu phương của ta, địch dùng pháo bắn phá các khu vực Hóc Răm, Hóc Đỏ, Hóc Nhum (vùng núi Hòa Tân) trong hơn 2 giờ, sau đó 1 tiểu đoàn Nam Triều Tiên chia thành nhiều cánh càn quét vào khu vực trên. Lực lượng du kích các xã Hòa Tân, Hòa Đồng, Hòa Bình, Hòa Thành cùng Đại đội 377, 1 bộ phận của đại đội 203, lợi dụng địa hình có lợi, các gộp đá, ở thế cao, chặn đánh địch suốt cả ngày, bẻ gãy nhiều mũi tiến quân không cho chúng vào căn cứ ta. Chúng bị thiệt hại nặng nề, hàng trăm tên chết và bị thương buộc chúng phải lui quân.

Trận chống chàn của lực lượng du kích 4 xã và 2 đơn vị tập trung huyện đã phối hợp chặt chẽ đánh địch giành thắng lợi lơn, có ý nghĩa, đánh bại ý đồ tấn công đánh phá hậu cứ căn cứ ta của địch, bẻ gãy cuộc càn quét khá quy mô của bọn chư hầu Nam Triều Tiên.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Tư, 2011, 08:04:43 am
Ngày 12 tháng 8 năm 1969 để thực hiện biện pháp đánh phá thủ đoạn phục lót, rào chặn hành lang của địch ngăn chặn không cho ta tiếp xúc với đồng bào giữa căn cứ với làng xóm. Qua theo dõi nắm quy luật hoạt động của địch, huyện sử dụng lực lượng 377 và đại đội 203 (do đồng chí Khánh huyện đội trưởng, đồng chí Hiền đại đội trưởng 377, đồng chí Ngọc chính trị viên đại đội 203 trực tiếp chỉ huy) bí mật phục sẵn tại địa điểm mà bọn Nam Triều Tiên thường phục lót ở tại Bến Sách (Hòa Tân). Hơn 30 đồng chí của ta đã tiếp cận giấu quân mai phục sẵn. Khảng 1 giờ sau, theo như quy luật, 10 tên Nam Triều Tiên cõng trên lưng 10 tên khác phủ tăng đi mưa che kín, vừa lọt vào trận địa ta bất ngờ đồng loạt dùng B40, lựu đạn, tiểu liên AK nổ súng phủ đầu diệt tại chỗ 12 tên, 8 tên sống sót tháo chạy. Ta thu 10 súng, lực lượng ta không thương vong. Trận đánh phản phục kích đã phá thủ đoạn ngăn chặn của địch, nối lại hành lang giữa căn cứ và đồng bằng, giữa cách mạng với nhân dân, phát triển thế thuận lợi chung cho toàn huyện.

Gần 2 tháng sau trận càn quét Hóc Nhum (Hòa Tân) bị lực lượng ta bẻ gãy, ngày 16 tháng 8 năm 1969 với sự chi viện của pháo binh, không quân bắn phá, chuẩn bị sân bãi địch dùng nhiều lượt máy bay trực thăng đổ 1 tiểu đoàn quân Nam Triều Tiên sâu trong núi phía tây nam Hòa Xuân, nhằm tổ chức xuyên sơn lên Hòa Thịnh đánh từ phía sau lưng ta. Phán đoán được ý đồ của địch, lực lượng 203 + 377 và du kích xã Hòa Thịnh đã có phương án chủ động đánh địch khi chúng thọc ra đồng cỏ ống Suối Lạnh (tây nam xã Hòa Thịnh). Đúng như dự kiến, sáng ngày 17 tháng 8 năm 1969 địch từ sau lưng ta xuống đồng cỏ ống, lực lượng ta đã bố trí sẵn chủ động nổ súng đánh địch quyết liệt từ 10 giờ sáng đến 16 giờ 30 chiều, bọn địch lâm vào địa hình bất ngờ nên phải vội vã rút chạy lọt vào bãi chông mìn bố phòng của ta làm chết và bị thương một số tên nữa. Kết quả địch chết 40 tên, bị thương hàng chục tên, ta hi sinh 1 đồng chí, bị thương 4 đồng chí, không thu được vũ khí vì phi pháo địch bắn chi viện quá ác liệt. Lại một chiến thắng trong đánh càn của lực lượng huyện làm cho địch phải co lại, không dám càn sâu vào căn cứ của ta.

Tháng 8 năm 1969 đại hội Đảng bộ huyện Tuy Hoa lần thứ 5 được tiến hành tại 1 vùng căn cứ xã Hòa Thịnh. Đại hội đã chỉ rõ nhiệm vụ cho lực lượng vũ trang trong những năm tiếp theo là: “Đẩy mạnh hoạt động vũ trang hỗ trợ cho phong trào quần chúng nổi dậy phá ấp, từng bước đánh bại âm mưu bình định nông thôn của địch giành dân mở rộng vùng giải phóng đẩy mạnh sản xuất ở vùng căn cứ và vùng giải phóng. Đại hội quyết định lấy xã Hòa Bình làm điểm mở rộng phong trào, xây dựng căn cứ lõm…”.

Giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước của quân dân Tuy Hòa đang ở trong thời kì đầy khó khăn thử thách thì ngày 03 tháng 9 năm 1969 đài tiếng nói Việt Nam đưa tin Bác Hồ kính yêu đã từ trần. Tin Bác mất làm cho cán bộ chiến sĩ và đồng bào toàn huyện vô cùng xúc động và thương tiếc. Huyện ủy chủ trương toàn Đảng, toàn quân, toàn dân tổ chức làm lễ truy điệu, lập bàn thờ và để tang cho Bác để tưởng nhớ công ơn trời biển của Người - Người thầy vĩ đại, người cha già kính yêu của dân tộc, của lực lượng vũ trang nhân dân. Quyết biến đau thương thành hành động cách mạng, quân và dân Tuy Hòa ra sức đẩy mạnh phong trào thi đua giết giặc lập công, quyết tâm nổi dậy phá khu dồn, phá ấp trở về làng cũ. Tích cực và hăng hái lao động sản xuất, phát huy mạnh mẽ quan điểm tự lực tự cường, làm ra nhiều vũ khí thô sơ để đánh địch, bố phòng bảo vệ vùng căn cứ cách mạng. Điển hình như cụ Năm An ở Hòa Tân đã cải tiến pháo lép của địch bố phòng đánh máy bay trực thăng khi chúng đổ quân, làm hỏng 1 trực thăng, diệt 5 tên địch, cụ đã được bầu là chiến sĩ thi đua trong năm 1969-1970 của tỉnh với thành tích tiêu biểu trong phong trào quân giới nhân dân.

Ngày 9 tháng 9 năm 1969 huyện ủy và huyện đội chính thức phát động thi đua “lập công dâng Bác” với 3 nội dung chủ yếu là:

- Liên tục tấn công địch trên cả 3 vùng, vận dụng nhiều cách đánh, nhiều hình thức chiến thuật đa dạng, sáng tạo, nhằm phá kẹp giành dân, làm chủ một số thôn ấp, phá hậu phương căn cứ, uy hiếp giao thông, hỗ trợ đắc lực cho quần chúng nổi dậy.

- Tích cực sản xuất, trồng nhiều khoai, rau xanh, ra sức vận động nguồn lương thực trong dân.

Hưởng ứng đợt thi đua nước rút trong thời gian còn lại của năm 1969, huyện tổ chức ngay lực lượng thực hiện mở mảng ở Hòa Bình. Lấy Đại đội 377 làm lực lượng chủ yếu cùng đội du kích, vũ trang xã Hòa Bình, một số cán bộ của huyện ủy, huyện đội trực tiếp tổ chức lãnh đạo và chỉ huy. Hơn 1 tháng hoạt động đã đánh tan 2 đoàn “bình định nông thôn” ở thôn Phước Thịnh, diệt và làm bị thương một số bên, phá rã lực lượng phòng vệ dân sự, đưa phong trào quần chúng các thôn Phước Thịnh, Phú Thứ, Mĩ Lễ, Phước Mĩ (Hòa Bình Tây) phát triển mạnh, tạo thế đưa các thôn Lạc Nghiệp, Phước Nông, Phú Nông (Hòa Bình Đông) đứng lên làm chủ, gây áp lực xuống xã Hòa Thành. Kết quả của đợt hoạt động mở mảng xây dựng “căn cứ lõm” có tác động lớn trong huấn luyện, là thắng lợi bước đầu nhưng huyện đã rút ra nhiều kinh nghiệm như nắm và hiểu địch, đánh giá đúng khả năng của cơ sở và phong trào quần chúng, có quyết tâm cao, sử dụng lực lượng vũ trang thích hợp, chọn mục tiêu tiến công đánh tan 2 đoàn “bình định” ở Phước Thịnh là trận đánh then chốt, gây cho địch hoang mang, kích thích được quần chúng.

Cùng thời gian này, sau khi theo dõi nắm được quy luật của địch, Đại đội 377 do đồng chí Trương Thanh Hiền làm Đại đội trưởng cùng lực lượng vũ trang xã Hòa Phong tổ chức phục kích khu vực nam cầu Đồng Bò. Đúng 8 giờ 30 sáng 21 tháng 9 năm 1969, 3 trung đội dân vệ cùng một đoàn bình định kéo đến. Ta chủ động nổ súng và xung phong, địch bị động tháo chạy tán loạn. Kết quả địch chết 46 tên (có 10 tên bình định), làm bị thương 5 tên khác. Ta thu 4 súng (có 1 M79) và 500 viên đạn, 12 quả lựu đạn. Ta không thương vong. Chiến thắng này đã hỗ trợ đắc lực cho Hòa Phong bám được dân, xây dựng và phát triển thực lực cách mạng có nhiều thuận lợi.

Với tinh thần của đợt thi đua “.lập công dâng Bác” Tiểu đoàn 14, tiểu đoàn đặc công của quân khu được giao nhiệm vụ phụ trách căn cứ Đông Tác - Hòa Hiệp - Vũng Rô, qua nhiềm năm đứng chân trên chiến trường Tuy Hòa 1, được sự chăm sóc của huyện ủy, sự đùm bọc nuôi dưỡng của nhân dân, tiểu đoàn đã đánh nhiều trận lập nhiều chiến công xuất sắc.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Tư, 2011, 08:05:40 am
Bước sang năm 1969 tiểu đoàn gặp nhiều khó khăn về quân số, vú khí đạn dược nhưng nghiệt ngã nhất là thiếu lương thực. Có đơn vị hàng tháng không có cơn ăm, củ bá, rau gà mổ, môn dóc, mì khô là thức ăn chính (trừ một số lực lượng đứng ở khu đông), đã có chiến sĩ bị chết đói. Thực tế khó khăn cũng không thể làm nhụt tinh thần ý chí của quân đội cách mạng. Đáp ứng cho nhiệm vụ chiến đấu đống chí Trần Kim Đính tiểu đoàn trưởng, đồng chí Lê Hùng - Chính trị viên tiểu đoàn phải đến các đơn vị từ bổ sung sản xuất ở Hà Roi, Suối Phẩn đến các đo đứng chân ở Hòa Xuân, ở Núi Bà Miền Đông đã tổ chức sinh hoạt, động viên cán bộ chiến sĩ xây dựng quyết tâm cho đợt hoạt động cuối năm. Từ ngày 09 tháng 9 đến 22 tháng 12 năm 1969, tiểu đoàn (có K65 công binh trực thuộc) với nhiều cách đánh, tập kích, pháo kích, đánh giao thông, đánh càn quét vào các căn cứ điểm chốt, trung đoàn bộ 28 Bạch Mã, sân bay Thọ Lâm, cảng Vũng Rô, điểm chốt rađa Dốc Cụ… hơn 20 trận lớn nhỏ, diệt, làm bị thương hàng trăm tên địch, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh, hoàn thành nhiệm vụ kìm giữ chân địch gây rối loạn hậu phương căn cứ. Trong một năm mặc dù tiểu đoàn gặp nhiều khó khăn nhưng nhờ sự nỗ lực khắc phục và liên tục chiến đấu, đánh lớn nhỏ 49 trận, loại ngoài vòng chiến đấu 862 tên địch (trong đó có 390 tên Mĩ, 401 tên Nam Triều Tiên). Thu 14 súng, phá hủy 23 máy bay, 47 xe quân sự, 60 nhà kho chứa phương tiện chiến tranh, đánh sập 1 cầu, phá 300 mét ống dẫn dầu, đốt cháy hàng trăm ngàn lít xăng dầu. Cùng với các đơn vị tập trung, Tiểu đoàn 14, Đại đội 377, Đại đội 203, Đại đội K65 công binh, lực lượng vũ trang dân quân du kích các xã luôn phát huy sức mạnh của phong trào nhân dân du kích chiến tranh, tích cực đánh địch, diệt ác trên nhiều nơi trong huyện như: du kích Hòa Thịnh đã đánh một trận ở trên cây Mít, diệt 6 tên; đánh vào khu dồn Phú Hữu lúc bọn địch đang tập trung đánh bạc, diệt 5 tên, phục kích ở cầu Bầu Sét diệt 1 tên bảo an, thu 1 súng và 2.000 viên đạn. Du kích Hòa Phong, Hòa Bình, Hòa Xuân, Hòa Hiệp đã phối hợp cùng các đơn vị đánh địch trên địa bàn của xã, dẫn đường xác định mục tiêu, tham gia chiến đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ.

Mặc dù bị lực lượng ta liên tiếp tấn công đánh phá nhiều mục tiêu, diệt một số đoàn bình định, trung đội dân vệ, phá được một số ấp “đời mới”, “tân sinh”, nhiều khu dồn bị phá hỏng. Song địch vẫn không từ bỏ âm mưu “bình định” hòng tạo thế và lấn dần từng bước, trài dân, mở rộng vùng kiểm soát, dốc sức thực hiện âm mưu “bình định cấp tốc”.

Tháng 10 năm 1969 địch chủ trương đưa một trung đội bình định cùng 2 trung đội dân vệ lên xây dựng ấp “tân sinh” Phú Diễn, Mĩ Thuận, Vinh Ba thuộc xã Hòa Đồng, làm khu vực chốt chặn, tạo sự liên hoàn giữa Hòa Mĩ và Hòa Bình để từng bước nống lấn dần, thực hiện mưu đồ chiếm lại toàn bộ vùng nông thôn đồng bằng của huyện. Quyết không để địch thực hiện âm mưu quỷ quyệt đó, huyện ủy chủ trương phải tổ chức đánh phá ngay kế hoạch này. Đồng chí Cao Văn Khánh huyện đội trưởng tổ chức họp bàn phương án đánh địch, có mời đồng chí bí thư xã đội trưởng Hòa Đông tham dự. Hội nghị thống nhất phải kiên quyết tấn công bằng các hình thức phục kích, tập kích hoặc cải trang… Chỉ có đánh tiêu diệt bọn địch này mới phá được mưu đồ của chúng. Sau một thời gian đi chuẩn bị theo dõi nắm quy luật hoạt động của trung đội bình định và 2 trung đội dân vệ ở ấp Tân Sinh là ngày nằm trong 3 thôn trên để khống chế dân, đêm bí mật di chuyển ra cầu Tổng Phú Thứ ngủ.

Đêm 08 tháng 9 năm 1969 lực lượng ta gồm có Đại đội 377, Đại đội 203 và du kích xã Hòa Đồng tiến hành phục kích trên đoạn đường Phú Diễn - Phú Thứ. Vào lúc 23 giờ bọn địch từ Vinh Ba hành quân ra cầu Tổng. Khi chúng lọt vào trận địa phục kích, lực lượng 203 khóa đuôi nổ súng. Ta đồng loạt xung phong, địch tháo chạy tán loạn. Hơn 10 phút nổ súng chiến đấu ta đã làm chủ trận địa. Kết quả địch chết 41 tên, bị thương 8 tên, ta thu 9 súng (có 1 trung liên, 1 M79), 20 lựu đạn, hơn 3.000 viên đạn, ta không thương vọng.

Chiến thắng Phú Diễn đã đánh tan âm mưu trài dân, lấn chiếm của địch, nhân dân Hòa Đồng hết sức phấn khởi, hỗ trợ cho đồng bào nổi dậy phá ấp.

Trong năm 1969 quân dân huyện Tuy Hòa đã vượt qua những khó khăn gian khổ, thiếu thốn, đoàn kết một lòng chung lưng đấu cật, với sự phấn đấu và nỗ lực phi thường liên tục tấn công địch bằng 2 chân 3 mũi, bằng thế trận nhân dân du kích chiến tranh, bằng ý chí quyết tâm và lòng dũng cảm, bằng lòng kính yêu và tiếc thương vô hạn lúc Bác Hồ đã đi xa… Các lực lượng vũ trang trong huyện đã đánh lớn nhỏ 172 trận, loại khỏi vòng chiến đấu 1.373 tên địch (có 506 tên Mĩ, 580 tên Nam Triều Tiên). Thu hàng trăm súng, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh, nhiều máy bay và xe quân sự. Mũi tấn công chính trị có 77 cuộc đấu tranh của đồng bào 9 xã trên toàn huyên, có 4.320 lượt người tham tham. Ta đã tuyên truyền kêu gọi 104 anh em binh sĩ trong hàng ngũ ngụy quân trở về với gia đình và hàng ngũ cách mạng. Ngoài những thành tích trên mặt trận chiến đấu, thành tích đạt được ở hậu phương căn cứ cũng rất nổi bật. Địch ra sức đánh phá bao nhiêu, ta nỗ lực tăng gia sản xuất tăng lên gấp nhiều lần. Năm 1969 là năm các căn cứ sản xuất phát triển mạnh mẽ, từ Hà Roi, Bến Đá, Suối Phẩn, Đồng Tàu, Đồng Cỏ Óng, Hóc Răm Hóc Ngổ, Hóc Đỏ, Hóc Nhum, Hóc Nam Bình, Hóc Gạo, Hóc Cổng, Đồng Nẩy Đồng Khôn, Hang Vàng, Bãi Xép, tất cả những khu vực sản xuất kéo dài từ miền Tây đến tận miền Đông giáp biển, đã trồng hàng 50 vạn gốc mì, hàng chục ngàn mét lang, nhiều rau xanh, rau muống, cải xoong, nuôi hàng trăm con heo, hàng ngàn con gà, đã góp phần giải quyết những khó khăn về lương thực thực phẩm. Phong trào quân giới nhân dân tiếp tục được giữ vững và phát triển, tính chung trong toàn huyện đã thu nhặt cải tiến gần 500 quả lựu đạn cối pháo lép của địch thành vũ khí đánh địch, cưa bom lấy hơn 600 kí thuốc nổ làm gần 800 quả thủ pháo, lựu đạn tự trang bị cho lực lượng huyện và dân quân du kích.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Tư, 2011, 08:06:21 am
Năm 1969 địch dùng âm mưu “bình định cấp tốc” tập trung quân càn quét đánh phá, mặt khác ra sức bắt lính đôn quân, dồn dân lập ấp, ráo riết hoạt động chiến tranh tâm lí chiêu hồi chiêu hàng. Tổ chức và mở rộng các đảng phái phản động “Địa Việt”, “Thiên Nga, “Phượng Hoàng”… thực hiện chiến lược “quét và giữ” “giữ” vòng trong và “quét” vòng ngoài, vô hiệu hóa các cơ sở cách mạng làm nền tảng cho chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”. Nhưng trên thực tế của chiến trường huyện Tuy Hòa mặc dù chúng ra sức đánh phá quyết liệt, ta đã gặp nhiều khó khăn song các lực lượng vũ trang vẫn liên tục đánh địch, thọc sâu vào căn cứ hậu cứ, gây cho chúng nhiều thiệt hại nặng nề. Những chiến thắng Phước Thịnh, Đồng Bò của Đại đội 377, Đại đội 203, những trận đánh có tính then chốt đã bẻ gãy càn quét, kích lót, lập ấp dồn dân của địch. Thực hiện thắng lợi nhiệm vụ mở mảng xây dựng “căn cứ lõm” ở xã Hòa Bình. Quân dân huyện Tuy Hòa nỗ lực đạp bằng gian khó kiên cường bám trụ, anh dũng tiến công lập nhiều thành tích trên các mặt, góp phần xứng đáng cùng quân dân tỉnh Phú Yên bước đầu đánh bại âm mưu “bình định cấp tốc” của Mĩ ngụy, chiến lược “quét và giữ” của tướng A-bram đã bộc lộ nguy cơ bị thất bại.

Bước sang năm 1970 ở Phú Yên địch vẫn tiếp tục duy trì âm mưu “bìsnh định cấp tốc”. Chúng điều một tiểu đoàn của Sư đoàn 4 bộ binh Mĩ về hỗ trợ. Ngoài lực lượng Trung đoàn 47 cộng hòa, 6 liên đội bảo an, tiểu khu Phú Yên còn thành lập thêm Tiểu đoàn 20 bảo an nhằm tăng cường quân cơ động để đánh phá càn quét vào vùng giải phóng hậu phương căn cứ của ta. Trên địa bàn huyện bọn Nam Triều Tiên vẫn duy trì một lực lượng chốt vòng ngoài nhưng có thu hẹp so với những năm trước, chỉ còn 7 điểm gồm: Cầu Cháy (Hòa Đồng) do một đại đội bộ binh + một trung đội pháo 105 li (2 khẩu), đồn Nam Bình một đại đội thiếu, nam cầu Bàn Thạch 1 trung đội cùng một đại đội bảo an, cầu sông Ván có một trung đội, trại Năm Giang một đại đội, Núi Chỗ một trung đội lực lượng cơ động nàm ở căn cứ Đa Ngư, trung đoàn bộ, một tiểu đoàn + một đại đội.

Để tiếp tục đánh bại âm mưu “bình định cấp tốc” tỉnh chủ trương mở chiến dịch tiến công tổng hợp bằng 2 chân 3 mũi giáp công. Mục tiêu chiến dịch là: diệt lực lượng kìm kẹp hỗ trợ cho đồng bào nổi dậy giành chính quyền làm chủ thôn ấp, vận động binh lính địch đào bỏ ngũ, li khai, giải tán lực lượng phòng vệ dân sự. Phát động đợt thi đua “làm theo lời Bác quyết đánh thắng Mĩ ngụy”.

Để hoàn thành nhiệm vụ của đơn vị, đảm nhận công tác trên một hướng của chiến dịch, đồng thời hưởng ứng đợt thi đua của tỉnh, Tiểu đoàn 14 và BCH huyện đội tiến hảnh tổ chức một đợt sinh hoạt ngắn với những nội dung: quán triệt nhiệm vụ, xác định một số mục tiêu để tiến công, động viên tinh thần tư tưởng, điều chỉnh biên chế, tăng cường trang bị, phát động thi đua cho các đơn vị tập trung, đồng thời triển khai xuống các xã.

Mở màn cho chiến dịch, vào đêm 31 tháng 01 năm 1970, Tiểu đoàn 14 tổ chức tập kích vào khu cảng Vũng Rô Trung đoàn bộ 28 Bạch Mã Nam Triều Tiên. Dùng đại đội K65 công binh liên tục đánh giao thông tuyến Đèo Cả. Kết quả diệt 70 tên Mĩ, 100 tên Nam Triều Tiên, phá hỏng 4 khẩu 105 li, 5 xe GMC, 2 xe M113, 9 lô cốt, 15 nhà lính.

Ngày 14 tháng 02 năm 1960 Đại đội 377 cùng lực lượng du kích xã Hòa Bình lót đánh một trung đội dân vệ ở Lạc Nghiệp diệt 8 tên. Cùng thời gian này du kích mật dùng mìn đánh diệt 10 tên Mĩ ở Phú Lâm. Trong 3 đêm liên tiếp lực lượng 377, du kích Hòa Bình, Hòa Thành quần bám diệt ác phát động quần chúng làm tan rã 3 trung đội phòng vệ dân sự ở Phú Lễ (Hòa Thành), Phú Thứ - Phước Thịnh (Hòa Bình) nộp súng cho ta.

Đêm 19 tháng 02 năm 1970 một tổ của Đại đội đặc công 203 cùng du kích xã Hòa Thịnh tập kích bọn bảo an ở khu dồn Phú Hữu diệt một tiểu đội 7 tên.

Để đối phó với những hoạt động của ta, ngày 21 tháng 02 năm 1970 địch dùng một đại đội bảo an, 6 trung đội dân vệ càn lên xã Hòa Phong. Biết trước ý đồ của địch, lực lượng 377 và 203 khẩn trương hành quân lên Hòa Phong cùng lực lượng vũ trang xã tổ chức phục kích đánh địch. Vào lúc 9 giờ sáng ngày 21 tháng 02 năm 1970 địch lọt vào trận địa phục kích, ta chủ động nổ súng đánh thẳng vào đội hình của chúng. Bị tấn công bất ngờ địch bị động không kịp chống trả, tháo chạy tán loạn. Kết quả ta diệt 34 tên, thu 10 súng (có 1 trung liên, 2 M79), 40 lựu đạn, 1.000 viên đạn các loại. Ta rút quân an toàn, cuộc càn quét giải tỏa của địch bị thất bại hoàn toàn.

Thắng lợi này có tính khẳng định khả năng hiệp đồng tác chiến giữa 2 lực lượng 377 và 203 đánh với quân địch có số lượng đông hơn gấp 3, 4 lần trên địa hình đồng bằng giữa ban ngày, tạo được niềm tin cho những trận đánh tiếp theo.

Phát huy sức mạnh tổng hợp của mọi thứ quân, trong 3 tháng đầu năm 1970 lực lượng dân quân nữ Hòa Bình, Hòa Thành (hợp pháp), du kích mật, đặc công du kích ở vùng sâu đã hợp đồng tác chiến đánh 31 trận, diệt và làm bị thương 136 tên địch. Những tấm gương chiến đấu mưu trí dũng cảm như nữ du kích Bích Ngọc (xã Hòa Bình) đánh 5 trận diệt 25 tên (có sĩ quan Mĩ và Nam Triều Tiên), làm cháy 4 xe Jeép. Em Thành ở Hòa Xuân đánh 1 trận diệt 12 tên Nam Triều Tiên. Một nữ đặc công biệt động ở Hòa Thành đánh 4 trận diệt 18 tên địch. Chiến công của những chiến sĩ trên mặt trận thầm lặng này đã góp phần quan trọng làm cho địch đêm ngày nơm nớp lo sợ, không biết nơi nào ẩn náu an toàn. Mặt khác nó cũng chứng minh cho sức mạnh của đường lối chiến tranh nhân dân, mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi thôn xóm là một pháo đài.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Tư, 2011, 08:07:02 am
Đêm 28 tháng 3 năm 1970 Đại đội 1 Tiểu đoàn 14 tập kích đánh thiệt hại nặng quận lị Phú Lâm, diệt 78 tên địch, phá hủy một kho súng 100 khẩu, đốt cháy 1 kho xăng chứa hàng 100.000 lít và đốt một kho quân trang. Đồng chí Hoàng Văn Nhật người đại đội phó khi đánh vào lô cốt trung tâm bị thương nặng đồng chí vẫn tiếp tục chiến đấu và chỉ huy đơn vị tiến công những mục tiêu còn lại. Đồng chí đã anh dũng hi sinh song tên tuổi và chiến công anh còn mãi với đất Tuy Hòa, với binh chủng đặc công, với những chiến sĩ trong lực lượng vũ trang nhân dân, được Nhà nước truy tặng huân chương chiến công hạng 3, Đại đội 1 nhận phần thưởng xứng đáng huân chương chiến công hạng nhì.

Phát huy thắng lợi, liên tục tiến công địch, buộc chúng phải rút quân tuyến trước quay về phòng giữ căn cứ hậu phương.

Đêm 01 tháng 5 năm 1970 Đại đội 7 sử dụng một mũi 7 đồng chí do đồng chí Nguyễn Viết Mão - Trung đội trưởng chỉ huy tập kích vào Trung đoàn bộ 28 Bạch Mã Nam Triều Tiên ở Đa Ngư (Hòa Hiệp). Căn cứ này nằm trên bãi cát bằng phẳng, phía đông và nam giáp sông, biển. Chung quanh có tới 50 lớp rào kẽm gai bùng nhùng chằng chịt, được bố trí hệ thống mìn gài dày đặc. Bên trong có đường hào, đường xe bảo vệ, tuyến lô cốt và nhiều ụ chiến đấu bao quanh. Các đồng chí đã bí mật cắt rào ám sát các mục tiêu: trận địa pháo, khu thông tin, nhà chỉ huy. Đúng vào lúc 0 giờ 10 phút ngày 02 tháng 5 năm 1970 các tổ đồng loạt dùng thủ pháo, bộc phá, lựu đạn, B40 đánh vào các mục tiêu. Ngay phút đầu đã đánh tan trận địa pháo, đánh sập nhà chỉ huy, phát triển đánh phá khu thông tin. Hơn 40 phút chiến đấu ta tổ chức rút quân nhưng bị xe tăng địch bịt kín cửa mở và vây chung quanh không ra được. Anh em quay vào đánh tiếp (chỉ có một đồng chí Thoát ra được vướng mìn bị thương). Trận đánh kéo dài và quyết liệt, với tinh thần cướp vũ khí địch, còn một người, một quả lựu đạn cũng tiến công. Đến 6 giờ sáng các đồng chí đều hi sinh trong sở chỉ huy của địch. Kết quả ta diệt 106 tên Nam Triều Tiên (có 24 sĩ quan cấp úy và cấp tá), phá hủy 12 khẩu pháo 105 li, phá sập 6 nhà ( có 1 nhà chỉ huy, 1 nhà thông tin, 2 nhà lính, 2 nhà kho, bắn cháy 1 xe tăng, lửa ở khu kho cháy đến 12 giờ trưa mới tắt. Với tinh thần ngoan cường dũng cảm chiến đấu, với sự hi sinh anh dũng lập công xuất sắc đã được câp trên tặng thưởng huân chương chiến công hạng nhất. Truy tặng huân chương chiến công hạng 3 cho đồng chí Nguyễn Viết Mão, tặng danh hiệu dũng sĩ diệt Mĩ cấp ưu tú cho các đồng chí trong trận chiến đấu này.

Đêm 02 rạng 03 tháng 5 năm 1970 một lực lượng của Đại đội 377 bí mật luồn sâu tập kích vào sân bay Thọ Lâm. Hơn 10 phút chiến đấu ta đã phá hủy 13 máy bay (có 7 trực thăng vận tải CH34), 1 xe tăng, bắn sập 2 lô cốt, 2 nhà ở của bọn giặc lái và nhân viên kĩ thuật làm chết 48 tên Mĩ, trong đó có bọn giặc lái và thợ máy, ta hi sinh 1 đồng chí, bị thương 2 đồng chí.

Đêm 07 tháng 5 năm 1970 Tiểu đoàn 14 dùng hỏa lực tập kích vào 2 mục tiêu Trung đoàn bộ 28 Bạch Mã và khu càng Vũng Rô diệt và làm bị thương nhiều tên Mĩ và Nam Triều Tiên, làm sập 3 dãy nhà kho, cháy 1 bể chứa xăng, 2 xe quân sự, hỏng 2 máy bay trực thăng.

Tiểu đoàn chủ trương liên tục tiến công địch làm cho địch bị động đối phó, lập thành tích kỉ niệm ngày sinh của Bác Hồ. Từ ngày 08 đến 19 tháng 5 năm 1970 do chiến đấu liên tục nên thủ pháo, lựu đạn, đạn B40 - B41 ở miền Trung không chuyển xuống kịp, tiểu đoàn dùng hỏa lực cối 82 tập kích 2 trận vào bến cảng Vũng Rô, diệt 29 tên Mĩ, phá 1 dãy nhà kho và 7 xe quân sự.

Ngày 08 tháng 5 năm 1970 đội công binh K65 dùng mìn ĐH10 phục kích ở cua Piđông (Đèo Cả) diệt 3 xe bọc thép và 9 tên Mĩ đi trên xe.

Từ ngày 7 đến 19 t5háng 5 Đại đội 201 đặc công tỉnh tăng cường cho huyện đã liên tục đánh địch ở Hội Cư, Xuân Thạnh (Hòa Tân) và Hòa Vinh, diệt 25 tên địch thu 5 súng.

Đợt thi đua “làm theo lời Bác, quyết đánh thắng Mĩ ngụy”, các đơn vị trong huyện: Tiểu đoàn 14, Đặc công 377, Đại đội 203 đặc công, Đại đội K65 công binh, Đại đội 201 đặc công tỉnh, các lực lượng dân quân du kích, du kích mật, đặc công du kích đã liên tục tấn công địch bằng nhiều hình thức đa dạng, sáng tạo, phong phú đầy quyết tâm. Nhiều trận đánh tiêu biểu với khí phách anh hùng cách mạng, tiêu diệt nhiều sinh lực địch phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh cao cấp (máy bay, xe tăng, pháo), tiếp tục dồn địch vào thế bị động đối phó và phòng giữ. Quân dân toàn huyện thu nhiều thắng lợi hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trên 1 hướng chiến dịch của tỉnh giao, thiết thực kỉ niệm lần thứ 8 ngày sinh của Bác.

Trong năm 1970 địch liên tiếp bị thất bại, lực lượng bị hao hụt, thế chiến trường bị đảo lộn, luôn bị kìm giữ, căng kéo, bị động đối phó. Bọn ngụy quân ngụy quyên tinh thần dao động, bọn đánh thuê Nam Triều Tiên mong chờ ngày hồi hương. Song đế quốc Mĩ và bè lũ tay sai vẫn dốc sức để thực hiện bằng được chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” hòng đánh bại phong trào cách mạng. Từ “bình định cấp tốc” chuyển sang bình định đặc biệt” với nhiều âm mưu thủ đoạn mới xảo quyệt hơn, dùng quân ngụy được sự chi viện không quân Mĩ, pháo binh Nam Triều Tiên liên tục mở càn quét, chủ yếu đánh phá vùng giáp ranh, phá các khu vực sản xuất, kết hợp rải chất độc hóa học, diệt hoa màu, gây ô nhiễu mỗi trường. Mặt khác tăng cường đánh phá cơ sở, quần chúng cách mạng ở các thôn ấp, gây hoài nghi, làm giảm lòng tin, li gián giữa nhân dân với các tổ chức lực lượng cách mạng, chủ trương đánh phá toàn diện, vùng căn cứ, giáp ranh giải phóng và vùng chúng kiểm soát, thực hiện cái gọi là “đồng tiến 3 vùng”.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 28 Tháng Tư, 2011, 07:57:29 am
Trước những âm mưu thủ đoạn của địch, phát huy thắng lợi trong chiến dịch xuân hè, huyện ủy chủ trương mở đợt hoạt động thu đông với mục tiêu là: giữ thế chiến trường, đánh phá âm mưu của địch không cho chúng nống lấn, xây dựng vùng lõm, hỗ trợ cho quần chúng phá dồn về lại làng cũ. Tiêu diệt và đánh tan một số lực lượng ngụy, chủ yếu là bọn dân vệ, phát triển lực lượng, đặc công biệt động và du kích hợp pháp. Tăng cường cải tiến và làm vũ khí tự tạo mìn già, lựu đạn thủ pháo, lực lượng ở căn cứ và các tổ, đội sản xuất vót nhiều chông, bố phòng chốt từng khu vực, sẵn sàng đánh quân càn quét của địch. Chấp hành chủ trương của huyện ủy, huyện đội quyết tâm tổ chức đưa Đại đội 377 và Đại đội 203 và một bộ phận của cơ quan huyện đội xuống đứng dưới làng để cơ động đánh địch, mở rộng vùng giải phóng, xây dựng và phát triển thực lực cách mạng.

Mở màn cho đợt hoạt động thu đông là trận đánh sân bay Hoàn Bà (Miền Đông) của đồng chí Nguyễn Bảy (trung đội trưởng trinh sát của Tiểu đoàn 14) và các tổ viên. Tổ gồm 4 đồng chí dùng 4 quả mìn ĐH10 bố trí sẵn chung quanh sân bay. Như thường lệ sau khi cho máy bay trinh sát quan sát xong địch sẽ đổ quân để càn quét đánh phá. Đúng 9 giờ một tốp trực thăng 3 chiếc chở trung đội lính Mĩ vừa đáp xuống, đồng chí Bảy ra lệnh nổ mìn đồng loạt làm tan xác 2 chiếc tại chỗ diệt 18 tên Mĩ, có 4 giặc lái, phá hủy toàn bộ vũ khí. Bọn Mĩ phải bỏ lỡ cuộc càn. Chiến công này được tặng thượng huân chương chiến công hạng 3 cho đồng chí Nguyễn Văn Bảy. Từ ngày 28 tháng 5 năm 1970 đến ngày 20 tháng 6 năm 1970 Đại đội K65 công binh đã phục đánh 3 trận giao thông ở Đèo Cả, phá hủy 13 xe quân sự, diệt 42 tên Mĩ, phá 150 mét ống dẫn dầu, đốt cháy hàng trăm ngàn lít.

Đêm 29 tháng 6 Tiểu đoàn 14 dùng hỏa lực tập kích sân bay Thọ Lâm diệt 6 tên Mĩ, 1 tên Nam Triều Tiên.

Đêm 28 tháng 7 dùng hỏa lực tập kích tiếp vào sân bay, phá hủy 6 trực thăng, cháy một se quân sự, sập 4 nhà lính, làm chết 45 tên Mĩ.

Đêm 28 tháng 8 một bộ phận của Đại đội 1 Tiểu đoàn 14 cùng vũ trang xã Hòa Vinh tập kích vào trụ sở ngụy quyền xã Hòa Vinh diệt 27 tên địch, thu 4 súng. Cùng đêm Tiểu đoàn 14 pháo kích vào sân bay Thọ Lâm làm chết và bị thương 51 tên Mĩ thuộc lữ dù 173.

Ngày 27 tháng 9 năm 1970 sau 2 ngày địch dùng máy bay ném bom, pháo bắn phá từ Hòn Đình xuống Núi Chai. Từ sáng địch dùng trực thăng vũ trang bắn phá khu vực căn cứ Hòa Đồng. ta nhận định địch sẽ càn quét khu vực này, huyện lệnh cho Đại đội 377 và Đại đội 203 nhanh chóng đến chiếm địa hình chó lợi phục kích đánh quân càn quét. Đúng như nhận định, sau khi pháo và trực thăng bắn xong, 2 đại đội Triều Tiên tiếp cận, dùng M79 bắn vào các bìa núi, sau đó tiến vào các đơn vị của ta chiếm địa hình có ưu thế, để địch đến gần dùng tiểu liên, lựu đạn bắn mãnh liệt vào đội hình địch.

Bị đánh bất thần chúng chạy tán loạn, gọi pháo bắn chi viện, trực thăng bắn dọn bãi đổ quân sau lưng ta, lực lượng ta bí mật rút qua Hóc Nhum, Hóc Vách (Hòa Tân) an toàn. Địch chết 24 tên, bị thương 8 tên khác, mặc dù địch đổ quân phía sau căn cứ ta nhưng không dám lùng sục vì chông mìn ta bố phòng dày đặc, buộc chúng phải lui quân ra bìa đồng cụm sặc, ta dùng cối 82 bắn cấp tập vào đội hình của chúng làm chết, bị thương thêm nhiều tên khác. Địch phải cho 2 trực thăng vào chở xác. Trận chống càn thắng lợi, bẻ gãy cuộc càn phá được âm mưu đánh phá hậu phương căn cứ ta của địch, làm cho tinh thần bọn lính Nam Triều Tiên càng sợ sệt ngao ngán hơn.

Trung tuần tháng 11 năm 1970 một bộ phận của Đại đội 203 và du kích xã Hòa Hiệp tập kích bọn dân vệ ở Mĩ Hòa đánh sập một lô cốt diệt 7 tên địch.

Tháng 12 năm 1970 lực lượng vũ trang xã Hòa Tân phục kích tại cầu Cảnh Phước đánh diệt một toán thám báo 5 tên, thu 5 súng.

Sau 2 năm bám trụ chiến đấu giữ phong trào, giữ địa bàn, quân dân Tuy Hòa đã lập nhiều thành tích xuất sắc toàn diện cả đấu tranh chính trị, tấn công vũ trang và binh địch vận. Đặc biệt là vận động chi viện nhiều lương thực cho cách mạng góp phần lớn giải quyết khó khăn lương thực cho lực lượng vũ trang huyện nhà. Với những thành tích xuất sắc đó Hòa Tân được vinh dự đón nhận phần thưởng của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam trao tặng: huân chương chiến công giải phóng hạng nhì.

Năm 1970 mặc dù địch đã mở hơn 50 cuộc càn quét lớn nhỏ, trút xuống mảnh đất Tuy Hòa hàng vạn tấn bom đạn, chất độc hóa học, thi hành nhiều âm mưu thủ đoạn từ “bình định cấp tốc” chuyển sang “bình định đặc biệt” rồi tiếp theo “bình định nước rút”, chúng bắt bớ giam cầm tra tấn dã man, giết hại nhiều đồng bào đồng chí của ta, nhưng không sao cứu vãn được tình thế ngày càng đè nặng lên đầu bọn chính quyền tay sai bán nước Nguyễn Văn Thiệu.

Quân dân Tuy Hòa đã đoàn kết một lòng anh dũng tiến lên, đạp bằng mọi gian khổ, khó khăn, bám dân bám làng liệt tục tiến công. Đã đánh 175 trận, loại khỏi vòng chiến đấu 1.831 tên địch cả Mĩ ngụy và bọn chư hầu. Phá hủy gần 40 máy bay, hơn 30 xe quân sự, hàng chục khẩu pháo, hàng triệu lít xăng, hàng trăm tấn hàng quân sự khác. Trên mặt trận tiến công chính trị đã có 50 cuộc đấu tranh của nhân dân với 5.297 lượt người tham gia, tay không đội nón, tóc dài của những bà mẹ, người người chị đã lập nên những chiến tích hào hùng, mảnh đắt Đá Bia, Sông Bàu sẽ còn lưu truyền mãi mãi.

Về công tác binh địch vận đây là năm thu được những thành công rực rỡ nhất chưa có năm nào được như vậy: 1.774 binh lính sĩ quan đào rã ngũ và mang súng trở về với cách mạng, với nhân dân.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 28 Tháng Tư, 2011, 07:58:31 am
II - QUYẾT TÂM ĐÁNH BẠI ÂM MƯU “BÌNH ĐỊNH NƯỚC RÚT” BUỘC MĨ NHANH CHÓNG RÚT QUÂN, TIẾP TỤC LÀM THẤT BẠI TỪNG BƯỚC CHIẾN LƯỢC “VIỆT NAM HÓA CHIẾN TRANH”

Bước sang năm 1971 địch tiến hành kế hoạch “bình định nước rút” dùng thủ đoạn “tam giác chiến” đánh phá ta dai dẳng trên cả 3 vùng, đẩy mạnh chiến tranh gián điệp, thành lập phân chi cảnh sát, cuộc cảnh sát, từng bước cảnh sát hóa ngụy quyền cấp xã. Ra sức khôi phục các đảng phái phản động Đại Việt, Quốc dân đảng, đưa bọn Đại Việt nắm giữ những chức danh quan trọng trong tổ chức ngụy quyền từ tỉnh xuống xã, củng cố quân chủ lực, phát triển quân địa phương.

Quân Mĩ Thu hẹp căn cứ và rút dần, cảng Vũng Rô, sân bay Đông Tác, hậu cứ của lữ dù 173 không còn ở Hòa Hiệp nữa. Đến tháng 7 năm 1971 ở Đông Tác, Vũng Rô chỉ còn khoảng 300 quân Mĩ, phần lớn là bọn hậu cần, nhân viên kĩ thuật, quân chư hầu Nam Triều Tiên vẫn giữ nguyên.

Trung đoàn 28 Bạch Mã phân quân giữ một số chốt ở cầu Cháy, Nam Bình, cầu Sông Ván, Dốc Cụ, trại Năm Giang, núi Hóc Chỗ, đồn Bà Khét (Phú Phong), cầu Đồng Bò, Phước Mĩ. Còn lại một tiểu đoàn tăng cường làm quân cơ động, chuyên ứng cứu, chi viện càn quét và bảo vệ căn cứ trung đoàn. Ngoài ra còn có một tiểu đoàn pháo 105 li 14 khẩu (12 khẩu ở Đa Ngư, 2 khẩu ở cầu Cháy), một chi đoàn xe bọc thép M113 có 12 chiếc. Tuy lực lượng còn đông, vũ khí mạnh nhưng tinh thần chiến đấu sa sút nghiêm trọng. Chúng không còn hung hăng như những năm trước. Tư tưởng sợ chết, hoang mang, đợi ngày về nước nên chúng chỉ co về phòng thủ không đi càn quét.

Quân ngụy tuy có được bổ sung thêm nhưng chất lượng lại giảm sút nhiều. Chúng không còn tin vào quân Mĩ và chư hầu - chỗ dựa cơ bản trước đây. Tuy được tăng cường trang bị vũ khí và phương tiện chiến tranh hiện đại hơn, song tinh thần tư tưởng dao động cao độ, bọn sĩ quan cho rằng “quân đội quốc gia dù có được trang bị hiện đại bao nhiêu đi nữa, không chóng thì chầy cũng sẽ bị quân cộng sản đánh tan tành”.

Phát huy thắng lợi đã giành được trong năm 1970, lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa bước vào năm mới với không khí phấn khởi, tinh thần quyết tâm tiến công liên tục, kiên quyết đập tan kế hoạch “bình định nước rút” của Mĩ ngụy với những trận ra quân giành thắng lợi giòn giã. Ngày 01 tháng 1 năm 1971 đại đội công binh K65 phục đanh giao thông ở cua Pi đông (Đèo Cả) phá hủy 3 xe quân sự, diệt 13 tên địch đi trên xe. Đêm 09 tháng 01 đại đội 203 đặc công tập kích đánh tan một trung đội dân vệ ở ấp Đông Mĩ (Hòa Vinh), sau đó phục lại đánh bọn tiếp viện diệt thêm 6 tên.

Ngày 15 tháng 01 năm 197 đại hội đại biểu huyện đảng bộ lần thứ 6 tiến hành khai mạc, đại hội đã khẳng định những thắng lợi của 2 năm qua có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Quân dân huyện nhà đã góp phần cùng toàn tỉnh đánh bại kế hoạch “bình định cấp tốc” và “bình định đặc biệt”. Đại hội đề ra nhiệm vụ phương hướng mới với tinh thần và quyết tâm đánh bại “bình định nước rút” tiến tới làm thất bại hoàn toàn chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”. Đại hội vạch rõ nhiệm vụ cho lực lượng vũ trang, bán vũ trang trong thời gian đến: “… tích cực đánh phá hậu phương địch, tăng cường đánh giao thông, chủ động bẻ gãy các cuộc càn quét, phối hợp chặt chẽ phát huy sức mạnh tổng hợp của lực lượng tập trung, dân quân du kích liên tục tiến công diệt ác phá kèm hỗ trợ quần chúng nổi dậy làm chủ, mở rộng vùng giải phóng nối liền thành mảng lớn, tạo thế liên hoàn nhiều xã…”.

Sau đại hội đảng bộ lần thứ 6, Ủy ban nhân dân cách mạng được thành lập từ huyện xuống xã, đã tổ chức vận động các đoàn thể và mọi tầng lớp nhân dân xây dựng chính quyền vững mạnh góp phần thúc đẩy công cuộc giải phóng quê hương mau đến ngày thắng lợi.

Phối hợp chiến dịch xuân 71 (H.41) của tỉnh, lực lượng ở miền Đông của tiểu đoàn 14 tổ chức đánh địch một số trận liên tiếp, trên tuyến Đèo Cả, cảng Vũng Rô, sân bay Đông Tác, trung đoàn bộ 28 Bạch Mã.

Ngày 02 tháng 02 năm 1971 đại đội 7 đánh quân Mĩ càn vào căn cứ Miền Đông, diệt 6 tên Mĩ, bắn rơi 1 máy bay trực thăng.

Mờ sáng ngày 11 tháng 2 dùng 40 quả đạn cối 82 bắn vào đồn Năm Giang diệt 24 tên Nam Triều Tiên lúc chúng đang tập thể dục.

Đêm 21 tháng 02 một bộ phận lực lượng của đại đội 7 gồm 14 đồng chí do đồng chí Võ hữu Xuyên đại đội phó, Nguyễn Đức Tần trung đội trưởng bí mật tập kích đồi Dốc Cụ (Đèo Cả), trạm rađa và đài viễn thông của địch, diệt 65 tên Mĩ. Cùng đêm tiểu đoàn phân công 2 đồng chí Bùi Bá Hùng và Lê Văn Hồng mang 80 kí thuốc nổ (hợp chất C4 + TNT) vận dụng kĩ thuật “đặc công nước” theo dòng chảy của sông bí mật tiếp cận vào chân cầu đặt thuốc nổ (có ngòi nổ hẹn giờ). Mặc dù 2 đầu cầu có bọn bảo an, dân vệ đống giữ, có lực lượng tuần tra liên tục trên cầu nhưng 2 chiến sĩ vẫn tiếp cận mục tiêu an toàn bí mật. 45 phút sau, mìn nổ phá sập 2 nhịp cầu Bàn Thạch, làm tắc nghẽn giao thông trong 3 ngày. Chiến công này được trên tặng thưởng huân chương chiến công hạng 3 - đồng chí Hùng Hồng cũng được tặng huân chương chiến công hạng 3.

Đêm 22 tháng 02 lực lượng ta pháo kích và trung đoàn bộ 28 Bạch Mã làm cháy một kho xăng, nổ một kho đạn, sập 2 nhà lính.

Kết thúc chiến dịch xuân 71 lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa đã liên tục đánh địch ở các hậu cứ gây sức ép trên tục giao thông quốc lộ 1, làm cho địch phải bị động đối phó phòng giữ hậu cứ.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 28 Tháng Tư, 2011, 07:59:13 am
Tháng 3 năm 1971 Tỉnh đội Phú Yên chủ trương mở chiến dịch hè (B.81) quyết định lấy Tuy Hòa 1 làm trọng điểm. Tỉnh đã điều động và tăng cường cho Tuy Hòa 1 đại đội 25 đặc công, đại đội 201 đặc công, tiểu đoàn 13 bộ binh và thành lập chỉ huy tiền phương của tỉnh đi cùng do đồng chí Đới Ngọc Châu tỉnh đội phó chỉ huy.

Mở đầu chiến dịch là 2 trận tập kích của lực lượng đặc công trong đêm 24 rạng 25 tháng 4 năm 1971.

Đại đội 25 tập kích diệt gọn đại đội bảo an 113 ở Phú Hữu (Hòa Thịnh) diệt 60 tên, bắt sống 3 tên, thu và phá hủy toàn bộ vũ khí, trong đó có một đại liên, một cối 60, hỗ trợ đồng bào nổi dậy diệt ngụy tề giành quyền làm chủ. Đại đội 201 tập kích Núi Một (Hòa Tân) diệt 2 trung đội dân vệ, làm chết 40 tên, bị thương 5 tên, thu 19 súng. Hai trận thắng dòn dã, nhổ được 2 điểm chốt kèm kẹp, khống chế của địch, nhân dân vô cùng phấn khởi, thúc đẩy chiến dịch phát triển tiến công thuận lợi. Để nghi binh đánh lạc hướng địch, tiền phương điều đại đội 201 đặc công lên đánh đồn Cà Lúi phía tây của tỉnh.

Trong tháng 4 năm 1971 lực lượng vũ trang xã Hòa Tân đánh 2 trận ở cầu Ông Tạ Ngọc Bích diệt 5 tên, thu 1 M79, phục kích ở Phú Lương diệt 7 tên, tập kích ở Gò Điền Phú Lương diệt 2 tên thu 1 súng. Phối hợp tiếp theo cùng lực lượng 377 tập kích vào bọn Nam Triều Tiên càn vào căn cứ ta, diệt 6 tên, thu 3 súng.

Đêm 28 tháng 4 đại đội 7 tiểu đoàn 14 sử dụng lực lượng nhỏ 15 đồng chí do đồng chí Vũ Hữu Xuyên đại đội phó chỉ huy, tập kích đại đội bảo an đóng ở nam đầu cầu Lưỡi Gõ. Chỉ sau 5 phút chiến đấu ta diệt gọn đại đội này, diệt 40 tên, bị thương 7 tên, thu 4 súng, 2 máy PRC25, phá hủy 1 cối 60, 1 đại liên. Ta không thương vong, đồng chí Xuyên đã xứng đáng nhận phần thưởng huân chương chiến công hạng 3 của trên tặng.

Những ngày cuối tháng 4 đầu tháng 5 tiểu đoàn 14 liên tục dùng hỏa lực tập kích vào các khu vực đóng quân của bọn Nam Triều Tiên: trung đoàn bộ 28 ở Đa Ngư, đồn Nam Bình, Đông tác, giết làm bị thương 55 tên, phá hủy hàng chục nhà lính.

Ở phía tây của huyện đêm 22 tháng 4 năm 1971 một bộ phận của tiểu đoàn 13 tập kích bọn Nam Triều Tiên đóng ở nam cầu Đồng Bò diệt 1 tiểu đội, thu 6 súng, một máy PRC25. Sau đó tiểu đoàn tổ chức trụ lại liên tục quần bám đánh địch ở 2 xã Hòa Phong, Hòa Mĩ, hỗ trợ nhân dân nổi dậy diệt ác phá kèm giành quyền làm chủ. Để phối hợp nhịp nhàng trên toàn chiến trường của huyện từ miền Tây đến miền Đông. Ở miền Trung vào đêm 25 rạng 26 tháng 5 năm 1971 đại đội 1 tiểu đoàn 14 tập kích diệt 2 trung đội bảo an đóng giữ 2 đầu cầu Bàn Thạch diệt 46 tên, thu 2 súng, phá hủy 2 đại liên, 1 cối 60, 1 máy điện, 1 máy PRC25 đánh sập 5 nhà lính, 9 lô cốt.

Ngày 25 tháng 5 năm 1971 đại đội công binh K65 phục kích giao thông trên đoạn Hảo Sơn - Đá Chẻ đánh tan một xe, hỏng 2 xem diệt 33 tên địch, thu một súng.

Qua theo dõi nắm vững quy luật của địch, đêm 27 tháng 6 năm 1971 Đại đội 377 cùng với lực lượng vũ trang xã Hòa Bình bí mật đưa quân lót trong nhà dân. 5 giờ chiều ngày 28 tháng 5 bọn địch tập trung quân ở chợ Mĩ Lê, ta xuất kích bất ngờ nổ súng đánh thẳng vào đội hình, địch tháo chạy tán loạn. Ta diệt và làm bị thương 22 tên, thu 2 súng, 1 máy PRC25. Sau khi thực hiện bước một của chiến dịch hè, tỉnh điều tiểu đoàn 13 bộ binh về tỉnh làm nhiệm vụ mới.

Địch bị thiệt hại liên tiếp trong những tháng 4, 5, 6. Để gỡ lại thế phản kích ta, cuối tháng 6 bọn Nam Triều Tiên mở cuộc càn vào căn cứ Hòa Tân, Hòa Bình, Hòa Đông. Nhưng chúng đã bị đánh gãy ngay từ đầu. Khi tốp máy bay trực thăng vừa mới đậu xuống ở đồi Ông Xược đã bị nổ mìn bốc cháy, thiêu luôn cả 7 tên lính và 2 giặc lái. Đó là chiến công của anh Đào Tấn Ngọc du kích xã Hòa Tân, từ một du kích được bác Năm An hướng dẫn và quân giới tỉnh chỉ dạy về kĩ thuật anh đã trở thành một chiến sĩ quân giới giỏi. Trong 2 năm anh tự tìm kiếm thuốc nổ từ các nguồn bom pháo lép, đạn cối, vỏ lon của địch cải tiến hàng trăm quả mìn gài, thủ pháo để đánh địch. Vũ khí tự tạo của anh cùng với lối bố phòng độc đáo sáng tạo đã gây cho địch nhiều thiệt hại và bất ngờ. Những chiến công của anh cùng với nhiều đồng chí khác nữa trên mọi mặt trận khẳng định sức mạnh của đường lối chiến tranh nhân dân do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo.

Vào lúc 2 giờ sáng ngày 27 tháng 6 một tiếng nổ lớn làm rung chuyển cả thị xã Tuy Hòa và quận lị Phú Lâm, chiếc cầu Đà Rằng bị gãy 2 nhịp, 1 xe bọc thép và 5 tên lính bị tan xác trong khi chúng đi tuần trên cầu. Trận ra quân của đại đội 24 đặc công nước giành thắng lợi quan trọng làm tê liệt giao thông địch hàng tuần xứng đáng với phần thưởng của Nhà nước trao tặng huân chương chiến công hạng nhất.

Kết thúc chiến dịch hè 71 quân dân huyện nhà đã giành được nhiều thắng lợi. Ta mở thêm được nhiều thôn, nối liền các vùng làm chủ ở một số xã phía tây huyện, tạo thế cô lập những đồn bót của bọn ngụy và Nam Triều Tiên, xây dựng được căn cứ lõm. Về tiến công vũ trang ta đã đánh nhiều trận liên tiếp tuy không lớn nhưng diệt gọn được nhiều đơn vị đại đội bảo an, trung đội dân vệ, đẩy địch vào thế bị động hơn.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 28 Tháng Tư, 2011, 08:00:29 am
Đến tháng 6 năm 1971 tình hình địch trên chiến trường khu 5 có biến động lớn. Nhiều lữ đoàn, sư đoàn quân viễn chinh Mĩ đã rút về nước, chỉ còn lại sư đoàn Amêricơn và lữ đoàn dù 173. Quân Nam Triều Tiên vẫn còn 2 sư đoàn Mãnh Hồ và Bạch Mã chủ yếu đóng chốt, giữ từng khu vực, bảo vệ hậu cứ của trung, sư đoàn nằm chờ về nước, không muốn hành quân càn quét. Cũng có lúc chúng không tham gia chi viện ứng cứu cho quân ngụy khi bị tan tấn công. Quân ngụy dù cố sức bắt lính đôn quân song cũng không bù kịp số quân đã bị tiêu diệt và tan rã.

Trước những tổn thất về lực lượng, địch đã điều động trung đoàn 40 cộng hòa về Phú Yên để hà hơi tiếp sức cho ngụy quân đang trên đà rệu rã.

Tranh thủ thời cơ, Tỉnh ủy chủ trương mở đợt hoạt động diệt ác phá kèm trên toàn tỉnh để hỗ trợ đắc lực cho phong trào đấu tranh công khai của quần chúng trong dịp bọn ngụy quyền Sài Gòn tiến hành bầu cử Hạ nghị viên và tổng thống. Chấp hành chủ trương của tỉnh, huyện đưa lực lượng Đại đội 377, Đại đội 203 đặc công, khẩu đội 82 nữ của huyện cùng lực lượng dân quân du kích 2 xã Hòa Tân, Hòa Bình quần bám và liên tục đánh địch ở 2 xã. Hơn 25 ngày ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 137 tên địch, hầu hết là bọn bình định, dân vệ, bảo an. Ta thương vong 15 đồng chí. Phối hợp với lực lượng trụ bám ở 2 xã, du kích Hòa Xuân, Hòa Hiệp đột nhập vào ấp diệt 3 ác ôn, bắt cải tạo giáo dục hàng chục tên khác. Đại đội công binh K65 đánh lật nhào 1 xe quân sự ở cầu Lớn diệt 7 tên. Du kích mật đánh 2 trận ở Đông tác và Phước Lộc diệt 3 tên.

Tháng 8 năm 1971 đại đội đại biểu tỉnh Đảng bộ lần thứ 4 được tiến hành. Nghị quyết Tỉnh ủy chỉ rõ nhiệm vụ cho lực lượng vũ trang trong 3 tháng cuối năm 1971:

- Khẩn trương xây dựng thực lực cho 3 thứ quân về số lượng và chất lượng.

- Tích cực và khẩn trương chuẩn bị chiến trường.

- Nâng cao tinh thần chiến đấu để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ tới, chuẩn bị lực lượng, vũ khí.

- Nắm địch chắc, chuẩn bị chu đáo, đánh một số trận then chốt, giành thắng lợi.

Đêm 25 tháng 8 Đại đội 25 đặc công đã tổ chức bí mật tập kích vào Núi Sặc do Đại đội 202 bảo an khét tiếng gian ác và 2 trung đội dân vệ chốt giữ. Sau 10 phút nổ súng tiến công ta diệt gọn toàn bộ quân địch, giết chết 57 tên, làm bị thương 18 tên, thu 6 súng, phá hủy toàn bộ lô cốt, nhà lính và vũ khí còn lại.

Chiến thắng Hòn Sặc chẳng những tiêu diệt lực lượng kèm kẹp của địch mà còn có tác dụng cổ vũ cho phong trào của xã Hòa Phong củng cố vững chắc các thôn đã làm chủ. Sau chiến thắng Hòn Sặc bọn ngụy quyền sợ sệt không dám về các thôn để đàn áp bắt bớ quần chúng cách mạng.

Tháng 12 năm 1971 Tiểu đoàn 14 cử một bộ phận đi chuẩn bị mục tiêu cho trận đánh sắp tới lại quận lị Phú Lâm. Do đường tiếp cận đến mục tiêu xa nên lực lượng ta phải nằm lại hầm bí mật. Đêm 29 tháng 12 sau khi chuẩn bị về đồng chí Trần Kiệt, tiểu đoàn phó và đồng chí Hồng trung đội trưởng trinh sát quyết định nằm lại để đêm sau chuẩn bị tiếp. Sáng 30 tháng 12 địch tổ chức lùng sục khu vực xóm phường và đồng lúa phía nam Bầu Bèo nơi 2 đồng chí ta đang ẩn náu. Phát hiện lực lượng ta địch bao vây nổ súng, 2 đồng chí đánh trả và rút lui. Do bị thương nên đồng chí Trần Kiệt với trang bị một khẩu AK., 3 băng đạn, 1 súng ngắn và 4 quả lựu đạn ở lại chiến đấu với 2 trung đội địch. Cuộc chiến đấu không cân sức diễn ra từ 8 giờ đến 10 giờ thì đồng chí Kiệt bị hết đạn. Vết thương quá nặng đồng chí dùng quả lựu đạn cuối cùng chờ lũ giặc đến bắt anh tung lựu đạn giết thêm một số tên nữa. Anh đã dũng cảm hi sinh sau khi diệt được 31 quân thù. Cái chết của anh đã làm cho kẻ thù khâm phục và khiếp sợ, đồng đội mất đi một người chỉ huy gương mẫu và quả cảm. Quê hương Tuy Hòa tự hào và mãi mãi ghi nhớ công ơn của anh - người con trung kiêm bất khuất. Cũng từ chiến công này Nhà nước truy tặng danh hiệu cao quý nhất cho anh vào ngày 15 tháng 1 năm 1976: anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

Thực hiện nhiệm vụ mà nghị quyết Tỉnh ủy đã chỉ thị cho lực lượng vũ trang 3 tháng cuối năm 1971. Lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ngoài nhiệm vụ diệt kẹp giành dân, giữ thế và tiếp tục phát triển phong trào còn vận động được 220 thanh niên thoát li tình nguyện gia nhập vào quân giải phóng để chiến đấu. Quân dân trong huyện đã kêu gọi vận động được 56 lính ngụy đào rã ngũ. Các tổ chức chung quanh chính quyền cách mạng được phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng.

Để chuẩn bị cho cán bộ chiến sĩ các lực lượng vũ trang toàn tỉnh bước vào nhiệm vụ mới của cách mạng miền Nam có ý nghĩa chiến lược đặc biệt quan trọng, Ban chỉ huy, Ban cán sự Tỉnh đội đã tổ chức một đợt sinh hoạt chính trị nhằm giáo dục nâng cao chất lượng với cốt lõi: “Trung thành vô hạn, anh dũng tuyệt vời, chiến thắng vẻ vang”. Đợt sinh hoạt được tiến hành sâu rộng từ trong ra ngoài, từ trên xuống dưới, không bỏ sót một đơn vị nào, một đồng chí nào. Kết quả của đợt sinh hoạt chính trị đã rút ra những mặt mạnh, mặt yếu, những bài học kinh nghiệm quý giá, những tồn tại phải tập trung tháo gỡ.

Nhìn toàn cục năm 1971 hoạt động quân sự của địch ở chiến trường Tuy Hòa nói riêng, Phú Yên nói chung có giảm so với những năm trước. Chúng không mở các cuộc hành quân càn quét lớn lên các vùng căn cứ của ta mà chỉ dừng lại ở các cuộc hành quân lùng sục quy mô nhỏ yểm trợ cho kế hoạch “bình định”. Thế chiến trường cũng bộc lộ rõ quân ngụy Sài Gòn không thể thay thế vai trò của quân Mĩ mà quân Mĩ ngày rút đi càng nhiều. Trong khi đó quân và dân ta đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm đối phó với địch. Ta không chỉ giữ vững thành quản xuân hè mà còn tranh thủ hồi phục mở rộng thêm một số thôn xã, là tiền đề thuận lợi cho quân và dân toàn huyện bước vào giai đoạn chiến đấu mới.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 28 Tháng Tư, 2011, 08:01:34 am
III - LỰC LƯỢNG VŨ TRANG HUYỆN TUY HÒA TRONG TIẾN CÔNG CHIẾN LƯỢC 1972

Quán triệt nhiệm vụ của Bộ Chính trị Trung ương Đảng, quyết tâm chiến lược của quân ủy Trung ương, tháng 1 năm 1972 Tỉnh ủy Phú Yên triệu tập hội nghị Tỉnh ủy mở rộng, đề ra 5 mục tiêu quan trọng của năm 1972 là:

1 - Đẩy mạnh hoạt động quân sự, tiêu diệt và làm tan rã phần lớn quân ngụy, hỗ trợ trực tiếp quần chúng nổi dậy giành quyền làm chủ, đánh bại bình định, giải phóng từng vùng đất đai và hỗ trợ cho phong trào thành phố vừa ra sức đánh bại địa phương quân và phụ quân của địch.

2 - Phát động phong trào 3 mũi giáp công, tiến công và nổi dậy liên tục ở vùng nông thôn, kết hợp nổi dậy và tiến công giành toàn bộ nông thôn, đánh bại “bình định của địch.

3 - Đẩy mạnh cao trào đấu tranh rộng lớn của đồng bào quần chúng ở thành thị. Kết hợp với 2 quả đấm diệt và làm tan rã lớn ngụy quân, làm suy yếu từng bộ phận ngụy quyền địa phương ở thành thị, nhất là làm tan rã ngụy quyền ở cơ sở, giải phóng những quận lị, có điều kiện tiến lên cùng toàn miền Nam đánh đổ tập đoàn Nguyễn Văn Thiệu.

4 - Ra sức xây dựng thực lực về mọi mặt, vừa tiến công vừa xây dựng thực lực để tiếp tục tiến công giành thắng lợi to lớn hơn, bảo đảm nhiệm vụ trước mắt và lâu dài, tạo sức mạnh cho giai đoạn mới. Phải ra sức xây dựng Đảng, phát triển đội ngũ đảng viên đồng bào, có chất lượng cao, ra sức đào tạo đội ngũ cán bộ đủ sức đảm đương mọi nhiệm vụ trong các ngành để hoạt động.

5 - Chuẩn bị tốt mọi điều kiện cho nhiệm vụ tiếp theo, trong quá tình thực hiện nhiệm vụ sắp đến phải nỗ lực không ngừng giành thắng lợi lớn nhất để tạo thế và lực mới.

Căn cứ vào nghị quyết của Tỉnh ủy, Ban chỉ huy Tỉnh đội đề ra nhiệm vụ tác chiến cho lực lượng vũ trang trong năm 1972 là:

Tiêu diệt và làm tan rã một bộ phận sinh lực địch cùng phương tiện chiến tranh quan trọng. Đánh quỵ một số tiểu đoàn bảo an cơ động của tiểu khu, làm tan rã phần lớn các đại đội bảo an, lực lượng dân vệ, diệt gọn một số đại đội bảo an, dứt điểm một vài chi khu quận lị, cô lập bọn Nam Triều Tiên, phá sạch lực lượng phòng vệ dân sự, làm mất tác dụng lực lượng kèm kẹp tại chỗ của địch.

Trên cơ sở diệt địch kết hợp 3 mũi giáp công hỗ trợ quần chúng vũ trang khởi nghĩa, giành và giữ chính quyền thôn xã, xây dựng thực lực cách mạng, lực lượng vũ trang cơ sở, làng xã chiến đấu, củng cố vững chắc vùng giải phóng.

Để đảm bảo tiến công và nổi dậy trong năm 1972 giành được thắng lợi to lớn, tỉnh chủ trương: từ tháng 1 đến tháng 3 các đơn vị tích cực hoạt động giữ thế chiến trường, đánh địch càn quét, tranh thủ học tập quân sự chính trị, củng cố tổ chức, chuẩn bị chiến trường.

Quán triệt chỉ thị và nhiệm vụ của Ban chỉ huy Tỉnh đội, Huyện đội Tuy Hòa nhanh chóng triển khai cho các đơn vị 377, 203 khẩn trương huấn luyện, sắp xếp tổ chức và tăng cường trang bị. Các xã đội tích cực bố phòng ở căn cứ, khu vực sản xuất, các sân bay dã chiến của địch thường đổ bộ bằng trực thăng, bố phòng chốt một số cao điểm dọc bìa núi và một số đường đi, mở rộng và củng cố các làng chiến đấu, nâng cấp lên thành hệ thống hầm hào, ụ chiến đấu, rào, chướng ngại bằng các bãi chông mìn kết hợp.

Tiểu đoàn 14 và Đại đội K65 công binh được tỉnh, huyện bổ sung quấn số và bước và huấn luyện. Nội dung huấn luyện chú trọng vào các hình thức chiến thuật, phục kích, vận động, tiến công để nhanh chóng chuyển hóa từ tiểu đoàn đặc công sang đánh các hình thức chiến thuật của bộ binh, đáp ứng yêu cầu chiến đấu trong thời gian tới. Tiểu đoàn cùng tổ chức lực lượng đi nhận vũ khí của Quân khu, của tỉnh chi viện để kịp thời bổ sung và đảm bảo dự trữ chiến đấu cho tiểu đoàn. Huyện đội cử cán bộ xuống các xã hướng dẫn kĩ thuật và bàn các biện pháp cho lực lượng quân giới nỗ lực làm vũ khí tự tạo, cải tiến pháo, bom để giải quyết một phần trang bị cho lực lượng du kích đánh địch, xây dựng làng chiến đấu và bố phòng.

Năm 1972 trên chiến trường Tuy Hòa địch đã có một số thay đổi về lực lượng, bọn Nam Triều Tiên rút một số chốt ở Mĩ Trung (Hòa Thịnh), Mỏm Ké, Đồi Ông Xược (Hòa Tân), còn lại 9 điểm chốt và căn cứ trung đoàn bộ ở Đa Ngư (Hòa Hiệp) của Trung đoàn 28 “Bạch Mã”. Thủ đoạn của chúng chủ yếu là chốt giữ, ngăn chặn vòng ngoài, hạn chế sự tấn công của ta, mở càn quét quy mô nhỏ để bàn giao chiến trường cho quân ngụy, chuẩn bị rút quân. Lực lượng viễn chinh Mĩ cơ bản rút hết quân cơ động, bỏ hậu cứ Hòa Hiệp, cảng Vũng Rô, chỉ còn một số ít ở sân bay Đông Tác. Quân ngụy có 3 tiểu đoàn bảo an, 3 đại đội biệt lập, 38 trung đội dân vệ và một số lực lượng phòng vệ dân sự ở các ấp vùng dân (Phú Lâm, Thạch Lâm, Đông Tác). Tiếp tục thực hiện các âm mưu thủ đoạn, đánh phá cơ sở cách mạng, kẹp dân khống chế phong trào. Chúng ra sức bắt lính đôn quân, đẩy mạnh chiến tranh tâm lí, chiêu hồi chiêu hàng, phát triển chiến tranh gián điệp, tăng thế lực các đảng phái phản động, bí mật xúc tiến kế hoạch hậu chiến của bọn chủ Mĩ.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 28 Tháng Tư, 2011, 08:02:32 am
Phối hợp với lực lượng trọng điểm ở huyện Tuy An, các đơn vị tiểu đoàn 14, Đại đội 377, Đại đội 203 cùng lực lượng du kích các xã đã liên tục tấn công đánh địch nhiều nơi. Đêm 25 tháng 1 tập kích Núi La (Hòa Mĩ), cùng đêm tập kích địch Xuân Thanh (Hòa Xuân). Ngày 4 tháng 3 đánh địch ở Mĩ Lệ (Hòa Bình). Đêm 6 tháng 3 đánh địch ở Hòa Mĩ. Đêm ngày 8 tháng 3 đánh địch ở Hòa Phong gây cho địch một số thiệt hại, buộc địch phải bỏ nhiều thôn ấp ở các xã trên co cụm lại 2 điểm Phú Diễn (Hòa Đồng) và Phú Thứ (Hòa Bình).

Trong những tháng đầu năm 1972 Đại đội K65 công binh đã liên tục đánh giao thông ở Đèo Cả, tháng 1 đánh 2 trận diệt 8 xe (có 2 xe M113), 22 tên địch bị bắn chết (có 5 tên Mĩ), thu 1 súng M79. Từ ngày 4 đến ngày 9 tháng 2 đánh 3 trận, lật 1 đoàn tàu quân sự ở Hóc Mít, phá hỏng 1 đầu máy, 5 toa xe, 1 lô cốt, phá hủy 6 xe quân sự, diệt 21 tên địch (có 8 Mĩ), bắt sống một số tên, thu 1 súng, bắn rơi một máy bay trực thăng HU1A.

Ngày 6 tháng 4 năm 1972 lực lượng vũ trang và du kích xã Hòa Tân tập kích đại đội bảo an ở thôn Hội Cư, gây cho địch nhiều thiệt hại, lợi dụng thời cơ đồng bào nổi dậy buộc địch phải rút chạy, Tây Hòa Tân được giải phóng.

17 giờ ngày 26 tháng 4 Đại đội 1 Tiểu đoàn 14 tiến công tiêu diệt đại đội bảo an và 1 trung đội dân vệ chốt giữ cầu Sông Tra (Hòa Xuân diệt 50 tên, làm bị thương 11 tên, bắt sống 8 tên. Thu 13 súng, phá hủy 1 đại liên, một cối 60, ba máy PRC25, ta không thương vong.

Tháng 4 năm 1972 lực lượng vũ trang xã Hòa Hiệp dựa vào làng chiến đấu chặn đánh bọn địch càn quét vào thôn Phú Hòa từ 13 giờ đến 18 giờ chiều, địch phải rút quân mang theo 34 tên chết và bị thương.

Đầu tháng 5 năm 1972 một tiểu đoàn quân thuộc Trung đoàn 28 “Bạch Mã” Nam Triều Tiên mở một cuộc càn quét vào vùng núi phía Tây xã Hòa Xuân để bàn giao chiến trường cho quân ngụy. Đại đội 1 Tiểu đoàn 14 chặn đánh liên tục hơn 10 ngày địch không vào được căn cứ thời gian, mặc dù chúng đã dùng máy bay, pháo và cả chất độc hóa học để chi viện. Kết quả ta đã diệt 61 tên, thu 4 súng bắn rơi một máy bay trực thưang vũ trang. Năm ngày sau cũng Đại đội 1 chặn đánh 1 xe tăng M118 tại thôn Nam Bình (Hòa Xuân) bắn cháy và diệt 8 tên Nam Triều Tiên (có một đại úy), ta hi sinh một đồng chí.

Ngày 21 tháng 5 năm 1972 Tiểu đoàn 14 thành công lót quân ở thôn Phú Lương (Hòa Tân) đánh quân địch can quét nống lấn. Trận chiến đấu diễn ra quyết liệt suốt từ sáng đến chiều tối. Kết quả ta đã làm chết và bị thương 107 tên dịch (cả bảo an và cộng hòa). Thu 2 súng, ta thương vong 11 đồng chí. Đây là trận đánh đầu tiên của tiểu đoàn chuyển hóa chiến thuật từ đánh đặc công sang đánh bộ binh. Tuy có thương vong cao nhưng đã rút được nhiều kinh nghiệm cho tiểu đoàn, làm cơ sở cho nhiệm vụ tác chiến theo yêu cầu trong giai đoạn tới.

Cũng trong tháng 5 năm 1972, Ban chỉ huy Tỉnh đội ra mệnh lệnh cho Huyện đội Tuy Hòa 1 dùng lực lượng thích hợp, có sức chiến đấu mạnh tập kích vào khu trung tâm chiêu hồi Đông Tác nhằm phá thế kém của địch, phá hậu phương, làm đà cho quần chúng nổi dậy trở về vùng giải phóng.

Chấp hành mệnh lệnh của Ban chỉ huy Tỉnh đội, huyện giao nhiệm vụ cho Đại đội 2023 đặc công và cán bộ Đại đội 377 tổ chức chuẩn bị mục tiêu trên. Sau 3 đêm đi nghiên cứu thực địa và tiếp cận mục tiêu thuận lợi, lực lượng ta gồm 31 tay súng của Đại đội 203 và một trung đội của Đại đội 377 có 18 tay súng tiến hành tập kích. Đúng 0 giờ 15 phút ngày 21 tháng 5 năm 1972 các mũi, các tổ đồng loạt dùng B40, thủ pháo, lựu đạn bất ngờ tiến công đánh chiếm các mục tiêu. Hơn 20 phút chiến đấu ta đã làm chết và bị thương 116 tên địch, thu 3 súng, ta bị thương vong 3 đồng chí. Trận chiến đấu diễn ra thuận lợi, đạt yêu cầu cao, hơn 200 đồng bào lần lượt trở về làng cũ. Trận đánh thắng lợi được cấp trên khen thưởng, đặc biệt là đồng chí Tân Đại đội trưởng 203 chỉ huy trận đánh được tỉnh biểu dương thành tích “Quyết tâm cao, chỉ huy giỏi”.

Ngày 22 tháng 6 năm 1972 một tổ du kích xã Hòa Hiệp gồm 3 đồng chí Nguyễn Gan, Phan Nhu, Trần Văn U chặn đánh bọn địch lùng sục ở xóm Gò (Phú Hòa). Với tinh thần chiến đấu ngoan cường các chiến sĩ đã bám vào một ngôi nhà đánh trả nhiều đợt tấn công của hàng trăm tên địch từ sáng đến chiều, diệt và làm bị thương 23 tên dịch, các đồng chí đã chiến đấu đến viên đạn cuối cùng và hi sinh oanh liệt. Tên tuổi của các anh mãi mãi lưu truyền trong sử sách của quê hương Hòa Hiệp anh hùng cho những thế hệ mai sau.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Tư, 2011, 01:59:05 pm
Để giữ thế chiến trường, tiếp tục củng cố và mở rộng vùng giải phóng, xây dựng làng chiến đấu, đánh địch càn quét nống lấn, tháng 02 năm 1972 huyện chủ trương đưa toàn bộ lực lượng đứng bám các thôn xã giải phóng các vùng lõm ở một số xã Hòa Mĩ, Hòa Đồng, Hòa Tân, Hòa Bình, Hòa Phong tạo thế mở mảng liên hoàn.

Tháng 6 năm 1972 đối phó với sức lấn ép vào tấn công của ta, địch tổ chức 3 đại đội bảo an càn quét phong tỏa các thôn Phú Thứ, Mĩ Lệ, Phước Mĩ (Hòa Bình), 2 đại đội từ Tuy Hòa 2 vượt sông Ba đánh vào, 1 đại đội tiến quân theo trục đường 5 hình thành thế bao vây. Đại đội 377, đại đội 203 cùng lực lượng vũ trang xã Hòa Bình đã bám trụ, quần đánh địch từ sáng sớm đến tối. Mặc dù địch có quân đông, hỏa lực mạnh nhưng không thực hiện được ý đồ bao vây để tiêu diệt lực lượng ta. Suốt một ngày diễn ra nhiều trận đánh ở nhiều khu vực, với tinh thần chiến đấu dũng cảm ta đã diệt và làm bị thương 84 tên địch, ta hi sinh, bị thương 12 đồng chí. Đến 20 giờ lực lượng ta bí mật rút quân ra khỏi khu vực bao vây của địch.

Ngày 07 tháng 7 năm 1972 du kích Hòa Tân phục kích đánh bọn bảo an ở Phú Lương diệt 7 tên, bắt sống 1 tên.

Đêm 13 tháng 7 năm 1972 Tiểu đoàn 14 cùng du kích xã Hòa Tân tập kích đại đội bảo an ở Gò Thịnh (Xuân Thạnh) diệt 24 tên, thu 15 súng, 1 máy PRC25

Ngày 31 tháng 7 đến 03 tháng 8 năm 1972 lực lượng vũ trang xã Hòa xuân đánh càn diệt 17 tên địch, phục kích diệt 4 tên ác ôn và 2 tên dân vệ thu 2 súng.

Ngày 27 tháng 8 Đại đội K65 dùng mìn đánh sập cầu lớn, bọn địch đến giải tỏa lực lượng ta phục kích nổ súng diệt và làm bị thương 33 tên Nam Triều Tiên, làm gián đoạn giao thông trên trục đường số 1 hai ngày liền.

Cuộc tiến công chiến lược xuân hè năm 1972 quân dân ta trên toàn miền Nam đã giành được những thắng lợi to lớn. Chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” có nguy cơ bị thất bại hoàn toàn. Đế quốc Mĩ buộc phải vội vã “Mĩ hóa” trở lại cuộc chiến tranh, chủ trương dùng không quân, hải quân đánh phá miền Bắc. Ở miền Nam Mĩ chi viện tối đa không quân và hải quân, viện trợ ồ ạt vũ khí và phương tiện chiến tranh, ra sức bắt lính đôn quân đề khôi phục lại các đơn vị đã bị tiêu diệt.

Trước tình hình mới, tháng 6 năm 1972 Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã nhận định âm mưu của đế quốc Mĩ là: ra sức ngăn chặn cuộc tiến công và nổi dậy của quân dân ta, cứu vãn chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”. Do bản chất cực kì hiếu chiến và ngoan cố của chúng, quân dân ta phải luôn vững vàng, tiếp tục chiến đấu và giành thắng lợi bất kì trong tình huống nào.

Chấp hành mệnh lệnh của Bộ Tư lệnh Quân khu 5, Tỉnh đội tiếp tục mở chiến dịch Thu năm 1972 để phối hợp với chiến trường trong quân khu và toàn miền Nam.

Để giữ chân, kéo địch tạo thuận lợi cho hướng điểm của tỉnh ở Tuy Hòa 2, thực hiện nhiệm vụ mở màn chiến dịch, huyện chủ trương sử dụng đại đội 203, Đại đội 377, Tiểu đoàn 14, lực lượng vũ trang Hòa Thành và Hòa Bình thọc sâu đánh địch ở Phước Lộc, Hòa Bình gây áp lực lớn với quận lị Phú Lâm, buộc chúng phải phòng thủ. Ta trụ lại ở trên đường 5 sẵn sàng đánh địch phản kích.

Đêm 31 tháng 8 năm 1972 Tiểu đoàn 14 dùng cối 82, cối 60, B41 tập kích vào quận lị Phú Lâm. Đại đội 203, 377 và vũ trang Hòa Thành đột nhập đánh bọn dân vệ biệt kích ở Phước Lộc. Tiểu đoàn 14 vận động tập kích Đại đội 219 bảo an ở Phước Bình. Kết quả trong đêm ta đánh sập 3 nhà ở quận lị, đánh tan 3 trung đội dân vệ ở Phước Lộc, đánh thiệt hại nặng đại đội bảo an ở Phước Bình, diệt 18 tên, thu 3 súng và toàn bộ quân tư trang. Bọn còn lại tháo chạy xuống quận. Lực lượng ta đứng lại từ Phước Bình lên Phước Nông. Đến ngày 01 tháng 9 một tiểu đoàn bảo an, 1 tiểu đoàn quân Nam Triều Tiên chia thành nhiều mũi phản kích ta. Với sự chi viện hỏa lực của bom và pháo (hơn 30 đợt ném bom của không quân Mĩ, hàng ngàn quả đạn pháo bắn vào trận địa ta), địch liên tục dùng nhiều mũi tiến công. Ta đánh trả quyết liệt giữ vững trận địa. Đến 17 giờ chiều Tiểu đoàn 14 sử dụng lực lượng trinh sát của tiểu đoàn đánh giữ chân địch, Đại đội 1 lợi dụng địa hình địa vật che khuất vận động tiếp cận bất ngờ nổ súng tấn công vào 1 đại đội Nam Triều Tiên đang cụm lại ở chợ Phú Nông, diệt tại chỗ hơn 30 tên, địch tháo chạy ra đường 5. Thừa thế có lợi toàn bộ tiểu đoàn nổ súng đánh bật địch chạy khỏi làng, ta tiến chiếm đường 5, đẩy địch chạy vào đồng ruộng phía Nam đường 5. Đến 19 giờ ta tổ chức rút quân về Hòa Tân. Kết quả ta giết và làm bị thương 117 tên địch (có 47 tên Nam Triều Tiên), thu 5 súng, đánh thiệt hại nặng 1 đại đội Nam Triều Tiên, 1 đại đội bảo an. Ta hi sinh 5 đồng chí, bị thương 8 đồng chí (hầu hết là bị phi pháo). Các đơn vị 377, Tiểu đoàn 14, Đại đội 203 tiếp tục bám lại cùng lực lượng du kích các xã Hòa Mĩ, Hòa Đồng, Hòa Bình, Hòa Tân cơ động đánh địch càn quét lấn chiếm.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Tư, 2011, 01:59:47 pm
Đêm 3 tháng 9 năm 1972 sau khi nghiên cứu địa hình và nắm quy luật của địch, Tiểu đoàn 14 cùng Đại đội 377 bí mật đưa quân phục lót ở khu vực Phú Lương, Động Mĩ. Vào lúc 5 giờ sáng ngày 04 tháng 9 như thường lệ, Đại đội 219 bảo an từ đường 1 kéo lên cầu Ông Lợi, địch lọt vào trận địa phục kích của ta, các mũi đồng loạt nổ súng xung phong, địch không chống trả kịp tháo chạy. Ta truy kích và dùng cối 82 bắn chặn diệt thêm một số. Gần 10 phút nổ xung phong làm chủ trận địa, kết quả địch chết 41 tên, bị thương 8 tên, bị bắt sống 7 tên. Thu 11 súng, ta bị thương 1 đồng chí. Chiến thắng Phú Lương làm cho nhân dân 2 xã Hòa Tân, Hòa Vinh vô cùng phấn khởi, phá được lực lượng kèm kẹp khống chế đồng bào, mở rộng được phạm vi làm chủ.

Ngày 05 tháng 8 Đại đội 377 phục kích ở Phước Thịnh đánh một trung đội dân vệ, diệt 5 tên.

Ngày 07 tháng 8 du kích xã Hòa Vinh đánh bọn dân vệ diệt 3 tên, thu 1 súng.

Sau những thất bại liên tiếp địch âm mưu đưa các đại đội bảo an, một số lực lượng dân vệ đánh chiếm lại một số địa bàn đã bị mất, kẹp dân, thu hẹp vùng giải phóng của ta, đẩy lực lượng ta ra xa, giải tỏa sự uy hiếp quận lị Phú Lâm và đường số 1.

Để đánh phá nhhững âm mưu thủ đoạn của địch giữ dân tiếp tục phát triển vùng giải phóng. Đêm 28 tháng 9 Tiểu đoàn 14 cùng đội công tác xã Hòa Bình đưa lực lượng ra lót trong nhà dân ở thôn Mĩ Lệ. Lúc 17 giờ chiều ngày 29 tháng 9 khi các mũi lùng sục của đại đội bảo an vừa cụm lại để nấu ăn, các mũi xuất kích đồng loạt nổ súng đánh thẳng vào các cụm của địch. Hơn 30 phút chiến đấu, địch tháo chạy ra đường 5. Kết quả ta diệt 1 đại đội bảo an, đánh tan 2 trung đội dân vệ, giết chết 50 tên, bị thương 14 tên, thu 7 súng (có 1 M79, 1 súng ngắn), 1 máy PRC25. Ta hi sinh 4 đồng chí (do bất cẩn lựu đạn thu của địch), bị thương 2 đồng chí. Sau trận đánh này ta làm chủ lại 3 thôn Phú Thứ, Mĩ Lệ, Phước Mĩ.

Trong năm 1972 lực lượng vũ trang và du kích xã Hòa Vinh đã tổ chức 8 lần thọc sâu diệt ác, bắt sống 4 tên ác ôn và dân vệ, 3 lần tập kích vào đầu cầu Bàn Thạch diệt hàng chục tên thu 2 súng. Phục kích bắt sống tên Nguyễn Cầu trung sĩ ngụy, tên Đỗ Sanh ấp trưởng, 3 lần tập kích bọn ngụy quyền và dân vệ ở thôn 3, bắt sống 5 tên thu 3 súng. Đánh vào trụ sở ngụy quyền ở thôn 1 thu 3 máy đánh chữ và một số tài liệu quan trọng. Đặc biệt trận đánh diệt 1 xe Mĩ diệt 4 tên ở ngã 3 cây Bảng.

Chiến dịch thu 1972 đã kết thúc, trên chiến trường của huyện quân và dân ta đã thu được những thắng lợi cơ bản, phá được âm mưu thủ đoạn của kẻ thù góp phần cùng cả nước đánh bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”. Không còn cách gì khác địch buộc phải ngồi vào bàn thương lượng đàm phán với ta. Cuộc thương lượng hòa bình về Việt Nam kéo dài đã 4 năm mà vẫn không tiến triển được. Trong suốt quá trình thương lượng, với bản chắt ngoan cố, hiếu chiến, hợm hĩnh, kẻ thù luôn lật lọng, trở mặt chưa kí đã phá, vừa kí vừa phá. Lần này chúng lại điên cuồng mở các cuộc hành quân “Tràn ngập lãnh thổ”. Bằng nhiều thủ đoạn chúng dốc sức càn quét lấn chiếm vùng giải phóng, chiếm đất giành dân nhằm thực hiện giải pháp cho hội nghị Paris trên thế mạnh có lợi cho chúng.

Để tiến hành đánh phá âm mưu thủ đoạn của địch, tỉnh chủ trương mở đợt hoạt động trong những tháng cuối năm 1972 và bước sang đầu năm 1973. Yêu cầu của đợt hoạt động là:

Kiên quyết đánh bại âm mưu “Tràn ngập lãnh thổ” giữ đất, giữ dân, giữ vững và mở rộng vùng giải phóng. Được tỉnh tăng cường tiểu đoàn 13 bộ binh, huyện đã triển khai cho tiểu đoàn đảm nhiệm khu vực Hòa Mĩ, Hòa Phong, Hòa Bình. Điều Đại đội 203 tăng cường cho miền Đông phối hợp cùng lực lượng vũ trang Hòa Hiệp diệt ác và đánh địch ở 3 lò, Phú Hiệp A. Đại đội 377 cùng lực lượng vũ trang Hòa Thành, Hòa Bình quần đánh địch ở Phước Bình, Phú Nông, Phước Nông, Lạc Nghiệp. Tiểu đoàn 14 cùng lực lượng dân quân du kích đảm nhiệm khu vực Hòa Đồng, Hòa Tân, Hòa Vinh, Hòa Xuân. Đại đội công binh K65 tích cực đánh phá giao thông trên tuyến quốc lộ 1, Hòa Xuân, Đèo Cả. Sau một thời gian hoạt động, các lực lượng đã hoàn thành tốt nhiệm vụ trong cuộc tiến công chiến lược 1972. Quân dân toàn huyện đã phối hợp chặt chẽ với chiến trường trong tỉnh liên tục tiến công và nổi dậy giành được những thắng lợi có ý nghĩa hết sức quan trọng. Ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 605 tên địch (có hàng trăm tên Nam Triều Tiên), diệt gọn 3 đại đội bảo an (ở Mĩ Lệ, Phú Lương, cầu Sông Tra), 5 trung đội dân vệ, làm thiệt hại nặng 2 đại đội ảo an, 1 đại đội Nam Triều Tiên và hàng chục trung đội dân vệ. Mở mảng nối liền vùng giải phóng 6 xã: Hòa Thịnh, Hòa Mĩ, Hòa Đồng, Hòa Phong, Hòa Bình, Hòa Tân. Vận động hơn 200 thanh niên thoát li bổ sung cho các đơn vị tập trung của huyện, Tiểu đoàn 14 và cho lực lượng vũ trang các xã. Cá đơn vị vừa chiến đấu giữ địa bàn vừa khẩn trương chuẩn bị vật chất vũ khí bổ sung trang bị đảm bảo yêu cầu tác chiến thực hiện tinh thần của “Hiệp định Paris”.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Tư, 2011, 02:01:12 pm
CHƯƠNG VII

TẠO THẾ, TẠO LỰC ĐẨY MẠNH TẤN CÔNG
ĐÁNH BẠI ÂM MƯU LẤN CHIẾM,
GÓP PHẦN CÙNG CẢ NƯỚC THỰC HIỆN
CUỘC TỔNG TẤN CÔNG XUÂN 1975
GIẢI PHÓNG HOÀN TOÀN ĐẤT NƯỚC

I - CHỐNG ĐỊCH BÌNH ĐỊNH LẤN CHIẾM PHÁ HOẠI HIỆP ĐỊNH PARIS

Ngày 27 tháng 01 năm 1973 hiệp định Paris được kí kết là thắng lợi vô cùng to lớn của quân dân ta, là thất bại hết sức nặng nề của đế quốc Mĩ và bè lũ tay sai. Cục diện chiến tranh thay đổi hoàn toàn. Đó là điều kiện hết sức thuận lợi cho công cuộc giải phóng, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, nhanh chóng đi đến thắng lợi. Tuy nhiên với bản chất ngoan cố hiếu chiến của kẻ thù xâm lược và bè lũ tay sai chúng không chịu thi hành nghiêm túc hiệp định Paris. Ngày 28 tháng 01 năm 1973 ngày hiệp định Paris có hiệu lực, Nguyễn Văn Thiệu được sự hậu thuẫn của Mĩ trắng trợn tuyên bố không tôn trọng lệnh ngừng bắn và ra lệnh cho quân ngụy thực hiện kế hoạch “tràn ngập lãnh thổ” ồ ạt lấn chiếm vùng giải phóng của ta.

Đầu tháng 01 năm 1973 hội nghị Thường trực Quân ủy Trung ương đã họp và vạch rõ “chúng ta phải luôn luôn cảnh giác và sẵn sàng đối phó với khả năng xấu nhất địch gây chiến tranh trở lại”.

Quán triệt quan điểm của hội nghị, tỉnh ra mệnh lệnh cho các lực lượng vũ trang trong toàn tỉnh là: khi có lệnh tất cả ác đơn vị phải đưa lực lượng đánh địch chốt giữ các vùng tranh chấp trên địa bàn từng huyện, từng xã, tổ chức tuyến chiến đấu xây dựng nhiều điểm chốt vững chắc, xây dựng công sự tạo thế liên hoàn, kiêm quyết đánh bại và bẻ gãy các cuộc phản kích của địch, với khẩu hiệu đầy ý chí quyết tâm là:

“Công sự là nhà, trận địa là quê hương
Một tấc không đi, một li không rời”.


Chấp hành mệnh lệnh của tỉnh, huyện Tuy Hòa tổ chức giao nhiệm vụ và xây dựng lực lượng đảm nhiệm trên từng khu vực cụ thể như sau:

Tiểu đoàn 13 cùng Đại đội 377, Đại đội 203, du kích xã Hòa Bình, Hòa Phong đánh bật địch và chốt giữ theo trục đường 5 từ Lạc Nghiệp (Hòa Bình) lên đồn Hòa Phong.

Tiểu đoàn 14 cùng du kích Hòa Tân, Hòa Thành chốt giữ từ Phú Lương đến Xuân Thành, Hội Cư (Hòa Tân), Xóm Phường (Hòa Thành), dùng 1 cối 82, 1 khẩu 12,8 chốt Núi Một, là hỏa lực để chi viện và khống chế trên cả 2 hướng Hòa Tân và Hòa Bình.

Đại đội K65 công binh cùng du kích Hòa Xuân khống chế và uy hiếp trục giao thông Đèo Cả, chốt và chiếm giữ các vùng đã giải phóng.

Lực lượng vũ trang và du kích xã Hòa Hiệp chốt giữ từ đường sắt (Phú Hòa) trở xuống.

Tối ngày 23 rạng 24 tháng 01 năm 1973, nhận được lệnh xuất quân chiếm lĩnh trận địa, trên hướng đường 5 các lực lượng ta tiến công đánh bật toàn bộ bọn địch ở Phú Thứ, Mĩ Lệ, Phước Mĩ, diệt hơn 30 tên, tiến hành chiếm lĩnh như phương án.

Trên hướng Hòa Tân lực lượng Tiểu đoàn 14 vừa đến Vĩnh Xuân đã gặp một đại đội bảo an, ta nổ súng, diệt tại chỗ 17 tên, thu 2 súng. Địch tháo chạy xuống Hòa Vinh, lực lượng ta tiến vào chốt giữ ở Phú Lương. Một đại đội ra chốt xóm Phường (Hòa Thành), các lực lượng Hòa Xuân, Hòa Hiệp điều thực hiện đúng kế hoạch.

Ngày 26 tháng 01 trên các khu vực chốt địch dùng lực lượng bảo an, dân vệ tiến hành phản kích. Mặc dù được sự chi viện tối đa của không quân Mĩ, các trận địa pháo bắn ác liệt vào trận địa ta nhưng lực lượng ta trên các hướng đánh trả quyết liệt giữ vững trận địa. Địch bị diệt nhiều tên và dãn ra không dám tấn công. Sau 7 ngày địch điều Liên đoàn 6 biệt động từ Quảng Trị ra chi viện cho Phú Yên. Lợi dụng đêm giao thừa chúng dùng đại đội thám kích của liên đoàn ban đêm bí mật mò vào khu vực chốt của Đại đội 3 và chốt đại liên của Tiểu đoàn 14 ở tổ 16 Phú Lương, dùng lựu đạn M72 tập kích chiếm 1 đoạn chiến hào. Tiểu đoàn 14 sử dụng một mũi của Đại đội 1, một lực lượng của Đại đội 3, điều Đại đội 7 từ xóm Phường vận động vào, tổ chức đánh phản kích. Sau nhiều đợt giao tranh giành giật từng khu nhà, ta đã tiến công áp đảo, diệt gần hết đại đội này, thu nhiều lựu đạn, M72 và 2 súng ngắn, khôi phục lại trận địa. Ta hi sinh 3 đồng chí, bị thương 4 đồng chí. Sáng hôm sau 1 trung đội cũng thuộc Liên đoàn 6 biệt động quân hành quân dọc theo sông Bàn Thạch mò vào trận địa ta. Đại đội 1 dùng mìn phục sẵn diệt gọn trung đội này, giết chết 23 tên. Sau 2 lần tấn công bị bị thất bại bọn Liên đoàn 6 biệt động quân chuyển sang phản kích hướng đường 5, cũng bị lực lượng 203, 377 và Tiểu đoàn 13 đánh trả quyết liệt, loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Tư, 2011, 02:04:56 pm
Suốt 20 ngày các đơn vị chiếm lĩnh trận địa đã liên tục chiến đấu chặn đánh quyết liệt nhiều đợt tấn công. Đặc biệt trận chiến đấu của một tổ vũ trang 3 đồng chí ở thôn Phú Hòa xã Hòa Hiệp, mặc dù hơn 2 đại đội địch cả bảo an, dân vệ liên tụ tấn công các đồng chí vẫn không rời chốt đánh trả quyết liệt từ sáng đến 12 giờ trưa, bắn chết và làm bị thương hơn 30 tên địch. Các đồng chí thề chết quyết không rời trận địa, đánh địch đến viên đạn, quả lựu đan cuối cùng. Địch bao vây công sự gọi hàng các đồng chí kiên quyết không lên. Cuối cùng chúng dùng lựu đạn ném xuống hầm cả tổ đã anh dũng hi sinh. Gương chiến đấu kiên cường và hi sinh anh dũng của các anh đã để lại cho quê hương Hòa Hiệp - nơi chôn nhau cắt rốn của các anh niềm tiếc thương vô hạn và khôn xiết tự hào, chính các anh đã góp phần làm rạng rỡ uy danh và truyền thống của mảnh đất này. Trân trọng ghi nhận chiến công của mảnh đất và con người Hòa Hiệp Nhà nước đã trao tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho du kích Hòa Hiệp.

Hơn 20 ngày bám làng bám dân, liên tục chiến đấu, ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 623 tên địch. Nhưng ta cũng bị thương vong hơn 60 đồng chí hầu hết là do phi pháo địch.

Ngày 14 tháng 02 tình hình chiến trường diễn biến khá phức tạp, địch tăng cường lực lượng tấn công, ta bị thương vong, vũ khí cạn dần, không kịp bổ sung, tỉnh quyết định rút lực lượng về tuyến sau.

Đầu tháng 3 năm 1973 toàn bộ lực lượng Mĩ và Nam Triều Tiên còn lại ở sân bay Đông Tác và căn cứ Trung đoàn 28 Bạch Mã ở Đa Ngư đã rút hết. Địch đưa một tiểu đoàn biệt động quân về thế chân ở căn cứ trung đoàn Nam Triều Tiên. Các lực lượng biệt đọng quân bảo an, dân vệ tiếp tục nống ra lấn chiếm lại một số vùng ở các xã Hòa Xuân, Hòa Tân, Hòa Bình, Hòa Đồng, Hòa Phong, Hòa Mĩ.

Nhằm hạn chế âm mưu nống lấn của địch, lực lượng vũ trang huyện du kích các xã phân tán bám trong dân, liên tục bám đánh địch. Tháng 3 năm 1973 một tổ du kích Hòa Đồng được dân che chở và báo tin, bất ngờ xuất kích đánh vào một bộ phận địch diệt 6 tên, thu 6 súng ở tại thôn Phú Phong.

Giữa tháng 4 năm 1973 phối hợp cùng du kích hoạt động trên khắp chiến trường huyện, Đại đội 24 (đặc công nước) lại đánh sập cầu Bàn Thạch, thêm một lần nữa giao thông của địch tắc nghẽn trong nhiều ngày.

Ngày 21 tháng 4 năm 1973 địch tổ chức lực lượng hỗn hợp biệt động quân, bảo an, dân vệ càn vào các thôn Phú Nhuận, Phú Nhiêu, (Hòa Mĩ) đốt phá nhà cửa, cướp lúa gạo, bắn giết trâu bò hết sức tàn bạo. Được nhân dân báo tin, ngay tối hôm đó 2 Đại đội 377 và 203 nhanh chóng hành quân vào Hòa Mĩ và bí mật phục kích trên đoạn Phú Nhuận, Phú Nhiêu. Mở sáng ngày 22 tháng 4 khoảng 1 đại đội địch hành quân lùng sục lọt vào trận địa phục kích của ta. Ta đồng loạt nổ súng xung phong. Bị đánh bất ngờ địch tháo chạy tán loạn để lại trận địa 37 tên chết và bị thương. Ta thu 12 súng (có 2 súng ngắn, 2 M79), 2 máy PRC25, 1 máy PRC10 và tổ chức rút quân an toàn. Chiến thắng này làm cho đồng bào phấn khởi, bọn địch không dám hung hăng lùng sục phá phách. Mười ngày sau cùng lực lượng 377 và 203 phục kích ở cầu Đồng Bò đánh diệt 1 trung đội dân vệ thu 5 súng.

Tháng 5 năm 1973 đại hội đại biểu huyện Đảng bộ Tuy Hòa lần thứ 7 tiến hành. Nghị quyết của đại hội đề ra một số nhiệm vụ trung tâm cấp bách:

- Đánh bại âm mưu lấn chiếm của địch, thu hồi và bảo vệ vùng giải phóng.

- Phát triển lực lượng, tiếp tục tiến công địch bằng 3 mũi giáp công, buộc địch nghiêm chỉnh thi hành hiệp định Paris.

Theo tinh thần của nghị quyết, huyện sử dụng 1/3 lực lượng hoạt động nhỏ, giữ thế chiến trường, còn đại bộ phận tiếp tục củng cố, bổ sung trang bị, rút khởi nghĩa và tiến hành huấn luyện bổ sung.

Tháng 7 năm 1973 nghị quyết của khu ủy 5 chỉ rõ nhiệm vụ trung tâm then chốt trong giai đoạn này “ra sức đánh bại bình định lấn chiếm của địch, giành dân, giữ dân, mở rộng quyền làm chủ, phát triển thực lực ta”.

Trong lúc đó trên địa bàn huyện những tháng cuối năm 1973 địch dốc sức tiến hành một đợt bình định mới với những thủ đoạn và âm mưu cụ thể:

- Về quân sự: tập trung lực lượng càn quét lấn chiếm khôi phục các trục giao thông đã bị mất hoặc bị ta uy hiếp. Tổ chức đánh phá vùng giáp ranh ngăn chặn các cuộc tấn công của ta, tạo điều kiện cho lực lượng vòng trong ráo riết bắt lính đôn quân. Tăng cường kiểm tra kiểm soát phân hóa cô lập các gia đình có quan hệ với cách mạng nhằm đè bẹp và đánh lật cơ sở ta trong mọi tầng lớp nhân dân.

- Về chính trị: xúc tiến mạnh mẽ tổ chức “Đảng dân chủ” và một số đảng phái phản động khác như “Đại Việt”, “Quốc dân đảng”. Cài cắm một số sĩ quan, cảnh sát vào các tổ chức xã hội như giáo dục, y tế, phật giáo, thiên chúa giáo, chính quyền cấp xã… tạo thành mạng chân rết để phục vụ cho kế hoạch “hậu chiến” do Mĩ sắp đặt trước khi chúng rút quân khỏi miền Nam Việt Nam.

- Về kinh tế: tăng cường kiểm tra, lục soát khống chế mọi giao lưu buôn bán của dân giữa các vùng. Dùng lực lượng đánh phá hành lang, cửa khẩu, phá các khu vực sản xuất ở vùng giáp ranh và căn cứ ta, cướp lương thực, đốt phá hoa màu.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Tư, 2011, 02:05:37 pm
Thực hiện tinh thần nghị quyết của Khu ủy 5 và nghị quyết của Huyện ủy Tuy Hòa, lực lượng vũ trang của huyện đã tổ chức quán triệt và tiến hành thực hiện một số nhiệm vụ cấp bách trong thời gian trước mắt là: bố trí một lực lượng thích hợp bám địa bàn, quần đánh địch một số trận, giữ thế chiến trường, ngăn chặn các thủ đoạn của địch, giữ bàn đạp và hành lang. Đẩy mạnh hoạt động của đặc công biệt động, du kích mật ở hậu phương địch, buộc chúng phải luôn luôn đối phó với các hoạt động vũ trang của ta. Hưởng ứng phong trào thi đua của tỉnh, tích cực gia tăng sản xuất, chăn nuôi, tự túc một phần lương thực, cải thiện bữa ăn cho bộ đội. Đẩy mạnh hơn nữa việc sản xuất thủ pháo, lựu đạn, cải tiến bom mìn của các tổ quân giới ở các xã. Tổ chức lực lượng tiếp nhận vận chuyển vũ khí của tỉnh cấp. Tiến hành sinh hoạt làm cho cán bộ chiến sĩ trong lực lượng vũ trang thấy rõ thắng lợi của cách mạng, sự suy yếu, thất bại của địch, đặc biệt nhấn mạnh thủ đoạn âm mưu của chúng. Tăng cường sức chiến đấu của từng đơn vị, từng xã, xây dựng quyết tâm giành thắng lợi lớn hơn trong giai đoạn cách mạng mới có tính chất quyết định.

Sau khi quán triệt nhiệm vụ, các lực lượng vũ trang trong toàn huyện phối hợp đẩy mạnh hoạt động vũ trang trên toàn địa bàn.

Đêm 14 tháng 8 Đại đội 377 tập kích bọn địch chốt giữ đoạn đường ở Mĩ Thạnh Trung (Hòa Phong) diệt gọn 1 đại đội địch. Tiếp đến ngày 21 tháng 9 cũng lực lượng 377 phục kích diệt một trung đội địch chết, bị thương 21 tên ở thôn Mĩ Hòa (Hòa Thịnh) trong khi chúng đi càn quét.

Đêm 16 tháng 8 năm 1973 một tiểu đội du kích xã Hòa Hiệp tập kích vào nơi trú quân của địch, diệt 3 tên, thu 2 súng. Sau đó 20 ngày du kích Hòa Hiệp lại phục kích diệt 2 tên ác ôn tại thôn Thọ Lâm.

Đêm 24 rạng 25 tháng 9 Tiểu đoàn 14 tổ chức tập kích điểm Núi Một (Hòa Tân) do một đại đội bảo an và một trung đội dân vệ chốt giữ. Hơn 7 phút nổ súng tấn công ta làm chủ hoàn toàn trận địa, tiêu diệt đại đội bảo an, đánh tan trung đội dân vệ, giết chết và bị thương 75 tên (có tên Thuần Trung úy đại đội trưởng), thu 15 súng (có 2 đại liên), 1 máy PRC25. Ta hi sinh 2 đồng chí, bị thương 1 đồng chí. Địch bỏ luôn chốt Núi Một không dám tái chiếm.

Đêm 30 tháng 9 Đại đội 203 đặc công tập kích bọn địch chốt giữ giao thông ở ga Gò Mầm (Phú Thứ) diệt gọn 1 trung đội bảo an, giết chết 21 tên.

Trong 2 tháng 8, 9 năm 1973 lực lượng vũ trang trên địa bàn huyện đã liên tục đánh một số trận, tuy nhỏ, nhưng hiệu suất chiến đấu cao, diệ gọn trung đội, đại đội địch thu vũ khí, ta ít thương vong, buộc địch bỏ một số chốt. Ta mở được hành lang, giữ và phát triển được thế trên chiến trường, củng cố lòng tin cho nhân dân.

Những thắng lợi đó còn có ý nghĩa quan trọng tạo khí thế mới, động viên tinh thần tiến công địch, lập thành tích to lớn góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân trong huyện tiến lên giành thắng lợi quyết định trong năm tới.

Trong đại hội mừng công lần thứ 8 của tỉnh, Đại đội 377 của huyện nhà được biểu dương là ngọn cờ đầu “bám dân, quần địch, liên tục tiến công, bổ trợ phong trào nổi dậy của quần chúng, đạt thành tích chiến đấu và xây dựng khá” là niềm vinh dự và nguồn cổ vũ cho đơn vị vươn lên lập công xuất sắc.

Tháng 11 năm 1973 Ban chỉ huy Tỉnh đội ra mệnh lệnh số 02 chỉ rõ một số nhiệm vụ cụ thể và cấp bách cho lực lượng vũ trang toàn tỉnh trong năm 1974:

- Tích cực xây dựng thực lực cơ sở.

- Tổ chức du kích mật, an ninh vũ trang, diệt ác thường xuyên. Dùng du kích đặc công, đặc công huyện, đặc công tỉnh, du kích xã thọc sâu, đánh những mục tiêu cụm ác ôn, trụ sở, kho tàng cơ quan đầu não của địch.

- Tấn công tổng hợp bằng sức mạnh 3 mũi giáp công, lấy vũ trang làm động lực thúc đẩy.

- Phát động phong trào toàn dân tham gia đánh giặc.

- Củng cố vững chắc các thôn, xã chiến đấu, khu du kích.

- Xây dựng căn cứ phía sau.

- Khẩn trương đẩy mạnh công tác huấn luyện.

Để thực hiện mệnh lệnh hoạt động của Tỉnh đội, Huyện ủy chủ trương mở đợt hoạt động, đánh diệt từng phân đội của địch cài trong dân để kèm kẹp. Tích cực diệt ác trong toàn huyện nhằm vào những tên đầu sỏ để phá kẹp mở phong trào.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Tư, 2011, 02:06:34 pm
Ngày 19 tháng 01 năm 1974 lực lượng du kích Hòa Xuân phối hợp cùng lực lượng công binh chặn đánh giao thông ở Đèo Cả, phá hủy 3 xe quân sự, xã Hòa Hiệp diệt tên Minh ấp trưởng và tên Phá ác ôn, làm cho bọn ngụy quyền sợ hãi, tối đến phải trốn ấp bỏ ra quận hoặc sang thị xã Tuy Hòa ngủ. Ngày 01 tháng 02 năm 1974 đại đội K65 công binh cũng chốt đường ở Sở Đá Đèo Cả làm chết và bị thương 8 tên. Ngày 07 tháng 02 Đại đội 24 đặc công nước đánh sập cầu Bàn Thạch làm tắc nghẽn giao thông 3 ngày liền. Tiếp đến đầu tháng 02 năm 1974 Đại đội 203 đặc công huyện đã diệt gọn 1 trung đội địch chốt giữ cầu Đồng Bò diệt 17 tên. Vào lúc giờ 30 phút ngày 20 tháng 2 năm 1974 Đại đội 203 đặc công tập kích diệt 11 tên địch chốt giữ ở ngã 3 Phú Lâm. Đây là trận đánh nhỏ nhưng có tác động lớn vì chốt này nằm sâu trong hậu phương của địch. Chốt ngã 3 Phú Lâm bị diệt bọn địch vô cùng lo sợ, chúng cho rằng không còn nơi nào an toàn cả.

Trong một thời gian ngắn lực lượng vũ trang huyện nhà bằng nhiều cách đánh của nhiều thứ quân giành thắng lợi dòn dã trên cả 3 tuyến mà địch tổ chức ngăn chặn phòng ngự. Ta đã diệt một số tên ác ôn đầu sỏ, diệt gọn từng tiểu đội, trung đội địch, hỗ trợ cho phong trào đấu tranh của quần chúng giành nhiều thắng lợi hết sức quan trọng. Nhiều khu dồn, khu tập trung đồng bào đã trở về làng cũ, vận chuyển lương thực về lại vùng giải phóng. Ta mở rộng và tổ chức xây dựng nhiều cơ sở mới, tạo nhiều thuận lợi để phát triển thực lực cách mạng ở vùng sâu và ngay trong vùng địch.

Bước vào mùa hè năm 1974 nhiệm vụ trung tâm then chốt và hàng đầu của lực lượng vũ trang vẫn là: chống “bình định” lấn chiếm của địch. tiến công vũ trang được xác định là đòn bẩy cho tấn công chính trị của quần chúng. Tiếp tục phát huy sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân bằng phương châm “2 chân 3 mũi giáp công”.

Đêm 12 háng 4 năm 1974 Đại đội 203 đặc công huyện tập kích bọn địch càn quét lấn chiếm đóng ở Núi Chai (Hòa Tân). Chỉ hơn 5 phút chiến đấu ta đã diệt gọn trung đội bảo an, diệt 24 tên, thu 3 súng.

Ngày 14 tháng 4 Đại đội K65 công binh phục ở Đèo Cả đánh tan một xe GMC diệt 7 tên địch.

Phối hợp với bộ đội tập trung huyện, lực lượng vũ trang nhân dân du kích các xã tích cực đánh địch càn quét nống lấn, bảo vệ vùng giải phóng và vùng căn cứ.

Ngày 21 tháng 4 du kích xã Hòa Hiệp phục kích diệt gọn một trung đội biệt kích của Tiểu đoàn 219 bảo an, diệt 19 tên, thu 3 súng, 1 máy PRC25.

Đầu tháng 5 năm 1974 để đối phó với các trận tiến công của lực lượng t và trấn an tinh thần cho bọn ngụy quân ngụy quyền đang có phần rệu rã, địch đã sử dụng lực lượng bảo an, cộng hòa, đân vệ mở đợt càn quét đánh vào căn cứ Kiều Đông (Đá Bia Rừng Xép, Hòn Bà). Lực lượng du kích Hòa Hiệp với 15 tay súng kết hợp với hệ thống bố phòng bằng chông mìn và vũ khí tự tạo đã liên tục quần bám đánh địch hơn 7 ngày liền, diệt hơn 30 tên địch bẻ gãy cuộc càn của địch với âm mưu đánh phá sạch căn cứ miền Đông. Chẳng những địch không phá được mà ngược lại căn cứ được mở rộng đưa ra gần làng sát dân, phong trào du kích chiến tranh lại được phát triển thuận lợi.

Tháng 6 năm 1974 du kích Hòa Hiệp tập kích vào ga Phú Hiệp diệt 1 tiểu đội địch.

Sáu tháng đầu năm 1974 ta và địch giằng co nhau quyết liệt, các đơn vị của ta vừa đánh địch lấn chiếm vừa tích cực luồn sâu diệt ác ở vùng sau lưng địch. Ngược lại địch cũng dốc sức đánh phá giáp ranh để ngăn chặn ta, ở bên trong chúng tiếp tục dùng nhiều thủ đoạn quỷ quyệt để đánh phá, truy tróc cơ sở và lực lượng cách mạng trong nhân dân. Mặc dù chúng có lấn chiếm một số vùng ta mới mở ra nhưng lực lượng địch đã bị tiêu hao mệt mỏi.

Nhân dân trong huyện kể cả vùng địch kiểm soát, vùng tranh chấp, vùng giải phóng càng phấn khởi tin tưởng vào thắng lợi. Đồng bào trong vùng địch đã bí mật vận động ủng hộ cách mạng lương thực, thực phẩm, liên hệ chặt chẽ với đồng bào vùng giải phóng. Thường xuyên cung cấp tin tức về những diễn biến của địch ở quận, tỉnh và trong các lực lượng ngụy quân. Đồng bào ở vùng giải phóng, vùng căn cứ cách mạng mặc dù liên tục bị địch càn quét chà đi xát lại, gian khổ, ác liệt chết chóc, bị địch bao vây kinh tế, phá hoại mùa màng nhưng vẫn đoàn kết một lòng nỗ lực khắc phục mọi khó khăn, tích cực sản xuất với tinh thần tự lực tự cường. Nhờ vậy mà đời sống của nhân dân và cán bộ, bộ đội đã được cải thiện một bước. Phấn khởi trước những thắng lợi của phong trào cách mạng của huyện, nhân dân cũng hăng hái tham gia, chuyển đạn tải thương, đóng góp sức người sức của cho kháng chiến.

Các lực lượng vũ trang của huyện luôn vận dụng linh hoạt, sáng tạo bằng nhiều cách đánh đa dạng phong phú, biết kết hợp và phối hợp chặt chẽ giữa 3 thứ quân, trong từng đợt hoạt động, từng chiến dịch, luôn quán triệt tinh thần và phương châm chỉ đạo tác chiến, phát huy thế mạnh của chiến tranh nhân dân.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Tư, 2011, 07:21:48 pm
Càng chiến đấu càng trưởng thành, từ đội vũ trang tuyên truyền (năm 1960) đến nay lực lượng vũ trang huyện đã có nhiều thành phần: đại đội bộ binh 377, đại đội đặc công 203, đại đội công binh K65, trung đội nữ pháo binh của huyện. Các xã đều có Ban chỉ huy xã đội có lực lượng vũ trang, du kích từ 15 đến 35 tay súng. Ngoài ra còn có hàng trăm du kích mật, đặc công biệt động, cơ sở nội tuyến, đã liên tục đánh địch ngay trong lòng địch. Đội ngũ cán bộ chỉ huy kinh nghiệm qua chiến đấu, dày dạn kinh nghiệm. Trang bị được tăng cường, có uy lực mạnh. Yếu tố đặc biệt quan trọng tạo ra sự thuận lợi lớn, đó là thế trận chiến tranh nhân dân đã hình thành từ trong kháng chiến chống Pháp, phát triển trong những ngày đầu chống Mĩ đến bây giờ bước vào giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, thế trận đã trở thành hoàn chỉnh và vững chắc.

Phát huy thắng lợi đợt hoạt động hè, Bộ tư lệnh quân khu chủ trương: sử dụng toàn bộ chủ lực cùng với lực lượng vũ trang địa phương các tỉnh đồng bằng và một bộ phận binh khí kĩ thuật, thực hành tiến công tiêu diệt một số cụm cứ điểm, chi khu, quận lị, đánh vỡ từng mảng hệ thống phòng ngự cơ bản của địch, vùng giáp ranh đồng bằng, hoàn chỉnh vùng căn cứ rừng núi phía Bắc quân khu. Hỗ trợ cho lực lượng vũ trang địa phương và quần chúng tiến công và nổi dậy phá vỡ một bộ phận hệ thống kèm kẹp của địch ở nông thôn đồng bằng.

Trong chiến dịch này tỉnh quyết định lấy các huyện phía Bắc (Tuy An, Đồng Xuân, Sông Cầu) làm trọng điểm.

Hiệp đồng với chiến dịch thu 74 của tỉnh, đêm 18 rạng 19 tháng 7 trung đội nữ pháo binh huyện tập kích hỏa lực vào quận lị Phú Lâm. Đại đội 203 tập kích địch ở ngã 3 Phước Lộc. Cùng thời gian, du kích các xã Hòa Hiệp, Hòa Mĩ, Hòa Phong, Hòa Đồng đột nhập diệt ác ôn, phá động quần chúng nổi dậy làm chủ một số thôn ấp. Trong chiến dịch này lực lượng vũ trang, bán vũ trang huyện Tuy Hòa 1 do đồng chí Trần Quang Tuyến huyện đội trưởng, đồng chí Tiến chính trị viên chỉ huy đã đánh 21 trận, loại khỏi vòng chiến đấu 165 tên địch, buộc địch rút bỏ chốt ở Núi Chai (Hòa Tân), cầu Lưỡi Gõ (Hòa xuân), hơn 7.000 dân ở 12 thôn nổi dậy phá kèm kẹp giành quyền làm chủ.

Trong năm 1974 lực lượng vũ trang, bán vũ trang huyện Tuy Hòa đã đánh 77 trận (có 4 trận của du kích đặc công), loại khỏi vòng chiến đấu 411 tên (chết 267 tên, bị thương 138 tên, bắt sống 6 tên) trong số này có 11 sĩ quan, 13 tên ác ôn. Thu 43 súng, 5 máy PRC25. Phá hủy 20 xe quân sự.

Về sản xuất tự túc: trồng và thu hoạch 259 ngàn gốc mì, gần 10 ha lúa, hàng ngàn mét lang, hơn 5 ha bắp. Tổng lương thực thu được trong năm hơn 60 tấn. Thực phẩm tự túc cải thiện hơn 4 tấn thịt nuôi, thịt rừng, cá, hàng chục tấn rau xanh. Nguồn thu mua lương thực, thực phẩm và sự đống góp ủng hộ của nhân dân khá dồi dào, bảo đảm vật chất cho bộ đội. Phong trào quân giới nhân dân phát triển mạnh mẽ, hầu hết các xã đều làm được thủ pháo, lựu đạn, cải tiến bom mìn, pháo, cối để bố phòng và đánh địch, tạo nguồn cung cấp tại chỗ cho lực lượng du kích, góp phần quan trọng phục vụ chiến đấu cho lực lượng vũ trang của huyện.

Những thắng lợi quân dân Tuy Hòa giành được trong năm 1974 có sức cổ vũ mạnh mẽ, tạo nhiều thuận lợi đặc biệt quan trọng cho phong trào cách mạng huyện nhà phát triển toan diện mạnh mẽ. Địch tuy quân số đông, nhiều đơn vị những đã và đang lầm vào thế phòng ngự bị động, sức kèm kẹp lỏng, yếu, tinh thần binh lính dao động, mang tâm lí thất bại, mong muốn được sống trong hòa bình, hòa hợp dân tộc.

Trong không khí sôi động, hồ hởi của toàn đảng, toàn quân, toàn dân trong huyện đang chuẩn bị gấp rút cho nhiệm vụ mới thì tháng 12 năm 1975 đại hội đại biểu đảng bộ lần thứ 8 tiến hành. Đại hội đã đánh giá những thành tích mà huyện nhà đã giành được trong 2 năm qua. Tập trung trí tuệ thảo luận và quyết nghị nhiệm vụ tới, với nội dung và mục tiêu là: “… Phát huy sức mạnh tổng hợp của 3 mũi giáp công, đảm bảo liên tục tiến công và nổi dậy, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, mở rộng vùng giải phóng giành dân, giành quyền làm chủ. Mục tiêu trước mắt là giải phóng những thôn còn lại của các xã Hòa Thịnh, Hòa Mĩ, Hòa Phong, Sơn Thành, tạo thành mảng liên hoàn phía tây huyện. Sau đó giải phóng một số thôn của xã Hòa Vinh, Hòa Xuân, tạo thế mở vùng phái đông, uy hiếp quốc lộ 1 giải phóng xã Hòa Hiệp Nam (Phú Hiệp B, Phú Lạc) mở ra và làm chủ vùng ấp Nhơn (Hòa Thành) tiến tới đưa lực lượng lót vào bên trong thị trấn Phú Lâm. Phá khu dồn Đông Tác…”. Đại hội đã bầu đồng chí Nguyễn Quyền (Mười Hòa) làm bí thư, đồng chí Nguyễn Văn Nhân làm phó bí thư.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Tư, 2011, 07:24:44 pm
II - TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY MÙA XUÂN 1975, LỰC LƯỢNG VŨ TRANG HUYỆN TUY HÒA ĐÃ GÓP PHẦN CÙNG TOÀN ĐẢNG TOÀN DÂN ĐÁNH TAN NGỤY QUÂN, ĐÁNH ĐỔ NGỤY QUYÊN, GIẢI PHÓNG HOÀN TOÀN QUÊ HƯƠNG

Ngày 18 tháng 12 năm 1974 đến ngày 08 tháng 01 năm 1975 Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp để phân tích thời cơ chiến lược và hạ quyết tâm lịch sử hoàn thành giải phóng miền Nam. Bộ Chính trị đã đánh giá sâu sắc toàn diện tình hình trong nước, trên thế giới và khẳng định “So sánh lực lượng địch - ta trên phạm vi cả nước cũng như trên chiến trường miền Nam đã có những chuyển biến cơ bản rõ rệt, có lợi cho cách mạng, ta sẽ mạnh hơn địch”(1)

Bộ Chính trị kết luận: “Chúng ta đang đứng trước thời cơ chiến lược lớn”(1). Trên cơ sở đó Bộ Chính trị hạ quyết tâm: “Động viên nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả 2 miền trong thời gian năm 1975-1976. Đẩy mạnh đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị, kết hợp với đấu tranh ngoại giao, làm thay đổi nhanh chóng và toàn diện so sánh lực lượng trên chiến trường miền Nam theo hướng có lợi cho ta. Tiến hành rất khẩn trương và hoàn thành công tác chuẩn bị mọi mặt tạo điều kiện chín muồi. Tiến hành tổng công kích tổng khởi nghĩa, tiêu diệt và làm tan rã quân ngụy đánh đổ ngụy quyên từ Trung ương đến địa phương giành chính quyền về tay nhân dân, giải phóng miền Nam Việt Nam”(3).

Ngoài kế hoạch chiến lược cơ bản hai năm, Bộ Chính trị còn chuẩn bị một phương án khác, một phương án hành động cực kì quan trọng là: “Nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975”.

Thực hiện quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị, Bộ Tư lệnh quân khu 5 đã hình thành kế hoạch tác chiến trên toàn địa bàn của Quân khu (trừ Tây Nguyên là chiến trường trọng điểm của toàn miền Nam do tiền phương Bộ tổng tư lệnh trực tiếp chỉ đạo).

Theo sự chỉ đạo của khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu 5, Thường trực Tỉnh ủy Phú Yên quyết định: sử dụng toàn bộ lực lượng tập trung của tỉnh vào hướng trọng điểm: Tuy Hòa 1, Tuy Hòa 2, mở ra từng mảng liên hoàn từ 3 đến 5 xã, đề ra mục đích yêu cầu của chiến dịch là:

- Tiêu diệt gọn từng đơn vị địch ở hướng trọng điểm, diệt một số cứ điểm then chốt, phá một số phương tiện chiến tranh, diệt và làm tan rã đại bộ phận dân vệ, phòng vệ dân sự, diệt gọn từng đơn vị địch đến giải tỏa, luồn sâu diệt ác, mở rộng phong trào chiến tranh từ 3 đến 5 xã, đưa phong trào du kích chiến tranh lên rộng và đều khắp.

- Đánh liên tục, dài ngày căng kéo địch, mở rộng diện tiêu hao của lực lượng vũ trang cơ sở, tạo điều kiện cho lực lượng tập trung diệt gọn từng đơn vị địch, đánh phá kho tàng làm rối loạn hậu phương địch, đánh sập các cầu cống cắt đứt giao thông, tích cực bắn máy bay đều khắp.

- Đánh đúng chiến thuật, thắng trận đầu, đợt đầu, đạt hiệu suất chiến đấu cao, hiệu quả chiến dịch lớn.

- Vừa tác chiến vừa củng cố rút kinh nghiệm để bổ sung cho đợt tác chiến tiếp theo. Đồng thời lấy kinh nghiệm thực tế tác chiến để tổ chức huấn luyện, tranh thủ thời gian để ôn luyện kĩ thuật.

- Vừa tác chiến, đồng thời phải tranh thủ chuẩn bị lực lượng, khi có thời cơ tranh thủ giành thắng lợi to lớn. Nhanh chóng tiếp thu nhân tài, vật lực của Quân khu chi viện và các vùng mới mở ra. Đẩy mạnh xây dựng củng cố hậu phương để có ăn và dự trữ cho yêu cầu nhiệm vụ mới.

Thực hiện ý đồ của chiến dịch, Huyện ủy Tuy Hòa 1 đã động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân trong huyện dốc toàn tâm, toàn ý, toàn lực, vượt khó vươn lên hoàn thành mọi nhiệm vụ của tỉnh, của chiến dịch và của huyện giao cho, góp phần xứng đáng trong cuộc tổng tiến công nổi dậy mùa xuân 1975 giành thắng lợi quyết định.

Trước những nhiệm vụ nặng nề, trọng đại với tinh thần hết sức khẩn trương, huyện ủy triệu tập cuộc họp cấp bách nhằm quán triệt sâu sắc tính chất của chiến dịch cho cán bộ chủ chốt. Tổ chức lực lượng và phản công cụ thể cho từng bộ phận đảm nhiệm từng hướng, từng khu vực. Lực lượng vũ trang tập trung huyện, du kích các xã chuẩn bị các mặt: mục tiêu, hợp đồng tác chiến, độc lập tác chiến, lực lượng tác chiến trong đội hình chiến dịch.

Huy động và tổ chức lực lượng phục vụ chiến dịch cả phái trước và phái sau. Tổ chức vận chuyển chi viện cho Khánh Hòa 10 tấn gạo và thực phẩm, hàng chục tấn vũ khí của Trung ương chi viện cho Khánh Hòa và cả cho chiến dịch.

Không khí gấp rút chuẩn bị cho cuộc tổng tiến công đã cổ vũ và thúc đẩy từ lãnh đạo đến cán bộ chiến sĩ và đồng bào hồ hởi phấn khởi bắt tay thực hiện mọi nhiệm vụ. ngày đêm hàng ngàn dân công, xe, ngựa thồ hàng từ trên xuống, đi vào Khánh Hòa, đưa ra cho mặt trận. Lực lượng vũ trang bám mục tiêu, chuẩn bị chiến trường. Tuyến sau cấp tốc lo trạm phẫu, trạm xá, trại tù, hàng binh, kịp phục vụ chiến dịch, tạo nên một không khí sôi động đầy quyết tâm và chiến thắng.


(1), (2), (3) Quân khu 5 thắng lợi và những bài học trong kháng chiến chống Mĩ - NXB QĐND, Hà nội 1981.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Tư, 2011, 07:27:33 pm
Chiến trường trọng điểm của Bộ ở Tây Nguyên bắt đầu nổ súng tấn công. Ngày 10 tháng 3 ta giải phóng thị xã Buôn Ma Thuột. Chiến thắng lịch sử này làm rung chuyển toàn bộ hệthống phòng ngự của Sư đoàn 23 ngụy và cả vùng 2 chiến thuật.

Ngày 11 tháng 3 năm 1975 Bộ chính trị họp nhận định “thắng lợi ở Buôn Ma Thuột, Đức Lập, trên đường 19 và các hướng khác chứng tỏ ta có khả năng giành thắng lợi to lớn với nhịp độ nhanh hơn dự kiến(1).

Để phối hợp với chiến trường trọng điểm của Quân khu, đồng thời đánh lạc hướng địch, giữ thế bất ngờ ở hướng trọng điểm của tỉnh. Đêm 10 rạng 11 tháng 3 tỉnh ra lệnh cho các lực lượng tập trung huyện, dân quân du kích của 3 huyện Đồng Xuân, Tuy An, Sông Cầu đồng loạt nổ súng tiến công hàng chục mục tiêu (có cả chi khu Phú Tân), lùng sục diệt ác phá một số khu dồn dân. Lực lượng công binh tỉnh, huyện đánh phá đường sắt, uy hiếp quốc lộ 1. Trong khi địch bị động đối phó với lực lượng các huyện phía bắc tỉnh, hướng trọng điểm của chiến dịch nổ súng tấn công. Ở Tuy Hòa 2, Tiểu đoàn bảo an 220 bị xóa sổ. Tuyến phòng thủ của địch ở phía Tây thị xã Tuy Hòa bị phá vỡ, thị xã Tuy Hòa bị uy hiếp, địch tung lực lượng ra phản kích. Tại Phú Sen, Cẩm Thạch lực lượng ta chặn đánh diệt 2 đại đội bảo an, 1 trung đội dân vệ, nhân dân các xã Hòa Định Đông, Hòa Định Tây, Hòa Quang nổi dậy giành quyền làm chủ.

Chiều ngày 17 tháng 3 sở chỉ huy tiền phương của tỉnh nhận được điện thông báo và mệnh lệnh của Quân khu “toàn bộ quân địch ở Tây Nguyên đang rút xuống Phú Yên theo đường số 7. Tỉnh Phú Yên phải kiên quyết chặn đánh tiêu diệt địch, thu xe, thu pháo và cho Tiểu đoàn 96 lên phía tây Củng Sơn chặn đánh địch không cho chúng co cụm lại ở Củng Sơn.

Sau khi nhận được điện thông báo và mệnh lệnh của Quân khu, sở chỉ huy chiến dịch của tỉnh nhận định: Địch ở Tây Nguyên rút xuống quân số đông, nhều xe, pháo, nhưng tinh thần rất hoang mang, dao động. Chúng sẽ theo đường 5 xuống Phú Lâm chứ không trực tiếp đi theo đường số 7. Do bị thất bại lớn ở Tây Nguyên nên các lực lượng địch ô hợp, hỗn loạn về tổ chức chỉ huy, đây là thời cơ để ta tiêu diệt và thu nhiều phương tiện chiến tranh.

Từ đánh giá đúng về địch, ta, Sở chỉ huy chiến dịch hạ quyết tâm: tập trung toàn bộ lực lượng, giải phóng hoàn toàn 5 xã phía tây Tuy Hòa 1, như phương án từ đầu chiến dịch đã chuẩn bị. Quét sạch các cứ điểm, các chốt địch giữ đường 5 và giải phóng phần lớn huyện Tuy Hòa 1, chủ yếu đoạn từ cầu Tổng Phú Thứ lên đến cầu Đồng Bò ta mới có thể triển khai được thế trận vững chắc để tiêu diệt địch từ Tây Nguyên xuống.

Tình hình rút quân của địch trên cả 2 hướng diễn ra khá nhanh ở phía tây. Trinh sát ta đã phát hiện một bộ phận địch chiều ngày 17 tháng 3 đã đến Củng Sơn. ở phía đông, tên Chuẩn tướng Trần Văn Cẩm quân đoàn phó quân đoàn 2 từ Nha Trang đã ra thị xã Tuy Hòa để chỉ huy cuộc rút lui chiến lược này. Địch điều Tiểu đoàn 26 bảo an và 2 đại đội công binh cùng 12 xe cơ giới mở đường từ Hòa Phong lên Sơn Thành. Máy bay OV10, L19 quần lượn quan sát theo đường 5, đường 7 và dọc sông Ba. Trực thăng liên tục vận chuyển vật chất khí tài cho công binh làm cầu dã chiến vượt sông Ba, nối đương 7 - đường 5 ở đoạn Thạch Hội - Sông Nhau. Ngoài ra địch còn kéo 2 pháo 105mm lên chốt Hòn Kén để chi viện trực tiếp cho lực lượng mở đường.

Ngày 13 tháng 3 tiền phương chiến dịch (ở núi Hương, xã Hòa Mĩ) tiến hành họp và khẩn trương kiểm tra mọi công tác chuẩn bị, quyết định phương án chiến đấu, đề ra một số biện pháp tổ chức thực hiện, dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Duy Luân - Bí thư Tỉnh ủy, đồng chí Ông Văn Bưu - Thường vụ Tỉnh ủy Tỉnh đội trưởng, đồng chí Bùi Tân - Thường trực Tỉnh ủy, đồng chí Kinh Anh phái viên của Quân khu cũng có mặt trong cuộc họp. Hội nghị kết thúc nhanh gọn với tinh thần quyết tâm đặc biệt cao. Thực hiện đúng phương án của chiến dịch, chặn đánh và tiêu diệt đại bộ phận quân địch rút chạy xuống đường 5, cướp lấy thời cơ lớn hơn nhiều so với yêu cầu chiến dịch.

Đúng 4 giờ 15 phút ngày 19 tháng 3 trận đánh cứ điểm Cầu Cháy - trận đánh then chốt của chiến dịch bắt đầu. Chầu Cháy nằm trên trục giao thông liên xã từ đương 5 (Cầu Tổng) đi Bến Củi có công sự kiên cố do bọn Nam Triều Tiên xây dựng để lại, điểm khống chế và kẹp dân trên 3 xã Hòa Đồng, Hòa Mĩ, Hòa Bình. Lực lượng địch chốt giữ có đại đội 4 thuộc Tiểu đoàn 236 bảo an, 1 trung đội hỏa lực, 1 trung đội thông tin, 1 trung đội thám kích và ban chỉ huy tiểu đoàn.

Tiểu đoàn 13 bộ binh của tỉnh được tăng cường 2 cối 82, 2 súng ĐKZ75, 2 khẩu trung liên 12,7 li do đồng chí Nguyễn Châu Diên làm tiểu đoàn trưởng, đồng chí Hồ Sức làm chính trị viên trực tiếp chỉ huy trận đánh. Bằng chiến thuật tập kích kết hợp với hỏa lực áp chế và chi viện trực tiếp, trận chiến đấu diễn ra gay go quyết liệt, kéo dài đến 7 giờ ngày 19 tháng 3 ta mới làm chủ hoàn toàn trận địa. Với tinh thần dũng cảm, ý chí quyết tâm cao, đoàn kết hiệp đồng, xử trí tình huống linh hoạt, cán bộ chiến sĩ tiểu đoàn đã chiến thắng tiêu diệt gọn toàn bộ quân địch, giết 103 tên, bắt sống 3 tên, thu 35 súng (trong đó có 1 súng cối 81 li, 1 súng cối 60 li, 1 súng ĐKZ57 li, 3 súng đại liên), 5 máy PRC25, 5 máy điện thoại, 1 xe Jeép và hàng tấn đạn các loại. Chiến thắng Cầu Cháy tạo thời cơ cho đồng bào xã Hòa Đồng nổi dậy giải phóng hoàn toàn xã nhà. Tiêu diệt cứ điểm Cầu Cháy - mục tiêu then chốt trên hướng chủ yếu của chiến dịch đã tạo điều kiện thuận lợi phát triển chiến dịch nhanh chóng. Cùng sáng 19 tháng 3 Đại đội 25 đặc công tập kích điểm chốt Hòn Sặc, Tiểu đoàn 9 tiến công địch ở Mĩ Thạnh Trung (xã Hòa Phong), Đại đội 377 và Đại đội 2 Tiểu đoàn 9 đánh địch ở Phú Thứ, cầu Tổng, Đại đội 203 đặc công huyện tập tập kích địch ở trụ sở Phước Bình (xã Hòa Thành).


(1) Quân khu 5 thắng lợi và những bài học trong kháng chiến chống Mĩ - NXB QĐND, Hà nội 1981.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Tư, 2011, 08:09:28 pm
Riêng chốt Hòn Sặc do quyết tâm không cao, thủ đoạn chiến đấu thiếu sắc bén, chậm nên không làm chủ được. Lệnh của tiền phương: tiểu đoàn 9 tiến hành bao vây Hòn Sặc không cho bọn địch tháo chạy.

Đại đội 201 tập kích Hòn Kén nhưng không thực hiện được vì địch tăng quân, làm ảnh hưởng lược đồ chiến dịch. Hai đêm sau, theo lệnh của đồng chí tham mưu trưởng tỉnh đội đơn vị tổ chức tập kích quân địch tạm dừng dưới chân Hòn Kén, diệt 9 xe quân sự có 1 xe tăng. Trong lúc lực lượng tập trung của tỉnh, huyện đang tiến công các mục tiêu và địa bàn theo phương án của chiến dịch, lực lượng dân quân du kích và đồng bào các xã tận dụng thời cơ quân ta tấn công đánh liên tục giành thắng lợi trên phạm vi rộng, đã tiến hành bao vây, bắn tỉa, gọi loa uy hiếp các đơn vị địch ở các khu tập trung làm cho chúng bị cô lập và hoang mang sợ hãi. Trước sự phối hợp tấn công chặt chẽ giữa lực lượng vũ trang và đồng bào thực hiện 3 mũi giáp công, nổi dậy, địch phải rút chạy khỏi khu tập trung Phú Hữu, chốt Núi Lá. Hai xã Hòa Thịnh, Hòa Mĩ hoàn toàn giải phóng. Địch ở Hòa Bình bỏ các thôn Phước Thịnh, Phú Thứ, Mĩ Lệ, Phước Mĩ chạy xuống Phước Nông, Phú Nông, địch ở Hòa Tân chạy sang Hòa Bình.

10 giờ ngày 19 tháng 3 địch dùng súng cối 82 li, trung liên 12,8 đặt tại Núi Hương bắn mạnh và chốt Hòn Đất buộc địch phải rút chạy. đến 16 giờ Tiểu đoàn 9 rút chạy vòng vây nổ súng tiến công Hòn Sặc. Hơn 40 phút chiến đấu ta diệt gọn Đại đội 2 Tiểu đoàn 236 bảo an, làm chủ hoàn toàn trận địa.

Chiều ngày 19 tháng 3 đài quan sát ở sở chỉ huy tiền phương phát hiện có 5 xe bọc thép và nhiều xe GMC từ Hòn Kén theo đường số 5 chạy xuống. Chấp hành lệnh của sở chỉ huy tiền phương, Tiểu đoàn 9 tổ chức phục kích, diệt 4 xe bọc thép. Chiếc đi đầu chạy thoát đến cầu Tổng Phú Thứ bị Đại đội 377 chặn đánh tiêu diệt. Số xe còn lại phía sau quay đầu chạy trở lại.

Cùng ngày 19 tháng 3 đại đội công binh K65, đại đội công binh 19 chặn đánh phá hủy 4 xe quân sự chở đầy lính trên đoạn đường bắc Đèo Cả (Hòa Xuân).

Trong đêm 18 và ngày 19 tháng 3 toàn chiến trường Tuy Hòa 1 - hướng trọng điểm của chiến dịch, quân và dân ta đã tiêu diệt một loạt chốt và cứ điểm quét sạch địch ở 5 xã, đồng bào nổi dậy truy tróc ngụy tề và làm chủ. Lực lượng vũ trang liên tục chiến đấu đánh lui nhiều đợt phản kích của địch từ thị xã Tuy Hòa sang và từ Phú Lâm kéo lên. Ta giải phóng 5 xã Hòa Thịnh, Hòa Mĩ, Hòa Đồng, Hòa Phong và một phần xã Hòa Bình, tạo thành mảng lớn nối liền vùng căn cứ tạo thế liên hoàn vững chắc. Hơn nữa ta còn làm chủ một đoạn đường số 5 từ cầu Tổng đến Đồng Bò. Ở phía đông của huyện lực lượng du kích và đồng bào các xã Hòa Vinh, Hòa Xuân, Hòa Hiệp thừa thắng liên tục đánh địch, nổi dậy làm chủ một số thôn ấp. Hàng vạn đồng bào được giải phóng vô cùng phấn khởi tin tưởng cách mạng, quân giải phóng nhất định sẽ chiến thắng, đã hăng hái tham gia mọi công việc tiếp đạn, tải thương, vận chuyển lương thực, chăm sóc thương binh. Các mẹ, các chị nấu cơm nước tử tế cho bộ đội, thanh niên hăng hái xung phong gia nhập vào quân giải phóng, vào du kích chiến đấu bảo vệ thôn, xã. Khí thế cách mạng của quần chúng trong huyện nhà dâng lên mạnh mẽ, sôi nổi, nhộn nhịp hơn bao giờ hết.

Như thông báo và mệnh lệnh của Quân khu, chiều 19 tháng 3 có hơn 2 vạn quân và 2.000 xe quân sự, có 150 xe tăng và xe bọc thép đã tiến công Củng Sơn chuẩn bị vượt sông Ba sang đường 5 tháo chạy xuống Phú Lâm. Đúng như nhận định của sở chỉ huy tiền phương chiến dịch - chiến trường Tuy Hòa 1 - đường số 5 là nơi sẽ diễn ra trận quyết chiến chiến lược. Với lực mới, thế trận đã được bày sẵn, với quyết tâm cao, với tinh thần ý chí quyết chiến quyết thắng của cán bộ chiến sĩ trong các đơn vị ở mặt trận, với thế trận của chiến tranh nhân dân tin tưởng sẽ giành thắng lợi to lớn, hoàn thành sản xuất nhiệm vụ, vượt xa khả năng trong trận quyết chiến lịch sử này.

Phán đoán được ý đồ của địch bỏ đường 7 sang đường 5 để tháo chạy, yếu tố bất ngờ không còn nữa, buộc địch phải mở đường máu để thực hiện ý đồ cuối cùng “di tản chiến lược”.

Đã hơn 4 ngày, hơn 20.000 quân, 2.000 xe quân sự bị lực lượng ta chặn đánh. Cả lính lẫn xe ùn lại dày đặc từ Củng Sơn xuống Hòn Kén, chưa thoát chạy được 1 xe nào, 1 tên lính nào. Tên Chuẩn tướng Trần Văn Cẩm chỉ huy cuộc tháo chạy này vô cùng hoảng sợ, y đã giục tên Vũ Quốc Gia Tỉnh trưởng Phú Yên vét quân cơ động phản kích trên nhiều hướng, mở cho được đường 5 để quân Tây Nguyên xuống được thị xã Tuy Hòa.

6 giờ sáng ngày 20 tháng 3 Tiểu đoàn 13 tập kích bọn địch đang co cụm ở Phú Diễn (Hòa Đồng) diệt và bắt sống 40 tên (có 1 tên đại úy), thu toàn bộ vũ khí. Cùng ngày địch ở Hòn Kén cho 2 đại đội của tiểu đoàn 268 đi mở đường 5, phối hợp với 2 Tiểu đoàn 219 và 206 từ Phú Lâm đánh lên. Nhưng cả 2 cánh quân đêu bị ta chặn đánh thiệt hại nặng phải bỏ xác chết của đồng bọn tháo chạy.

Thực hiện chia cắt, không cho địch cụm lại, buộc địch phải rút chạy nhanh hơn, đêm 21 tháng 3 Đại đội 201 đặc công dùng súng cối 82 li tập kích bãi xe bắc Hòn Kén và sông Nhau, phá hủy 50 xe diệt gần 100 tên địch.

Ngày 21 tháng 3 địch dùng hơn 350 xe honda cải trang thường dân để tháo chạy. Tiểu đoàn 9 và Tiểu đoàn 13 kịp thời triển khai chặn đánh địch ở khu vực xã Mĩ Thạnh Tây, Mĩ Thạnh Trung (xã Hòa Phong). Hơn 20 phút chiến đấu ta diệt 120 tên địch, bắt sống gần 300 tên, thu và phá hủy trên 300 xe honda, 7 xe GMC, 3 xe Jeép và 120 súng các loại.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Tư, 2011, 08:10:26 pm
Cùng ngày Đại đội 377, Đại đội 203, Đại đội 7 chặn đánh quyết liệt các cánh quân địch từ Hòa Thành lên giải tỏa đường 5 diệt nhiều tên, buộc chúng phải tháo lui. Đại đội 19 và Đại đội K65 công binh chặn đánh 1 đoàn xe quân sự từ Khánh Hòa ra diệt 1 xe chở đầy lính.

Quyết tâm chặn đánh và tiêu diệt, bắt sống bọn địch tháo chạy từ Tây Nguyên xuống, chặn đứng không cho bọn địch phản kích, giải tỏa từ Tuy Hòa, Phú Lâm lên, sở chỉ huy tiền phương điều chỉnh bố trí lại đội hình chiến đấu cho các lực lượng. Tiểu đoàn 19 khu vực cầu Đồng Bò, Tiểu đoàn 13 đảm nhiệm từ Mĩ Thạnh Trung lên đến Lương Phước, Đại đội 377 - Đại đội 203, Đại đội 7 đánh các mục tiêu Cầu Tổng, Phú Thứ, ga Gò Mầm. Đến 14 giờ ngày 22 tháng 3 các đơn vị triển khai xong.

Trong các ngày 20, 21, 22 tháng 3 các trận địa pháo của địch ở Phước Bình, Hòn Kén, Gò Muối cùng một số máy bay chiến đấu A37, trực thăng vũ trang liên tục bắn phá dọc theo trục đường 5 và các xóm làng có lực lượng ta chiếm giữ. Ngoài ra chúng còn dùng máy bay OV.10, L19 quần quan sát chỉ điểm, hiệu chỉnh pháo bắn. Các trận địa phòng không của ta ở Núi Hương, của Tiểu đoàn 9, Tiểu đoàn 13 và hỏa lực phòng không 12 li 7 của Tiểu đoàn 189 cùng mạng lưới phòng không nhân dân, các đơn vị bộ đội và dân quân du kích đã dùng tiểu liên, súng trường đánh trả quyết liệt làm bị thương một số máy bay.

Qua mấy ngày đêm liên tục chiến đấu dưới làn mưa bom bão đạn vô cùng ác liệt mà địch đã trút xuống trận địa, một số cán bộ chiến sĩ ta bị thương vong, có đại đội chỉ còn hơn 10 tay súng. Tuy vậy chiến sĩ ta vẫn không hề nao núng, quyết tâm chiến đấu diệt và bắt thật nhiều quân địch không cho chúng tháo chạy. Tại các xã Hòa Phong, Hòa Mĩ, Hòa Bình hầu hết nhà cửa, tài sản bị bom pháo địch bắn phá khốc liệt, nhưng nhân dân vẫn hăng hái tham gia mọi công tác phục vụ cho chiến đấu như chuyển thương binh về trạm xá, ban đêm ra đường 5 thu chiến lợi phẩm. Các đoàn thể phụ nữ, thanh niên vận động nhân dân ủng hộ giúp đỡ bộ đội, tham gia đào hầm, xây dựng cư, nấu cơm, đun nước cho anh em chiến sĩ ở trận địa. Tình thương yêu đùm bọc của nhân dân là nguồn cổ vũ to lớn tăng thêm nghị lực cho các đơn vị vượt qua thử thách ác liệt, quyết tâm tiêu diệt quân thù, giải phóng quê hương.

Suốt 4 ngày đêm ròng rã từ 19 đến 22 tháng 3 cuộc “rút lui chiến lược của địch từ Tây Nguyên xuống theo đường 5 được sự ủng hộ của lực lượng cơ động tiểu khu Phú Yên, sự chi viện của không quân và pháo binh vẫn chưa đạt được một kết quả khản qun nào. Chưa có một tên địch nào từ Tây Nguyên xuống lọt được về thị xã Tuy Hòa. Lực lượng ta liên tục tấn công làm hàng ngàn tên bị chết, hàng trăm tên bị bắt và phá hủy hàng trăm xe quân sự. Đến lúc này quân địch rơi vào trạng thái hoảng loạn, hỗn quan hỗn quân. Lương thực, thực phẩm lại bị cạn kiệt nên hoàn toàn mất khả năng chiến đấu.

Sở chỉ huy chiến dịch của ta hạ quyết tâm “chặn đứng địch phía trước, truy kích và đánh thọc vào đội hình quân địch từ phía sau để tiêu diệt”.

Chấp hành mệnh lệnh của sở chỉ huy, trưa ngày 22 tháng 3 Tiểu đoàn 96 đã bắt liên lạc được với Trung đoàn 64 của Sư đoàn 320 ở tây quận lị Củng Sơn. Các đơn vị đã tổ chức hiệp đồng chiến đấu, tấn công tiêu diệt bọn địch phái sau đang cụm lại tại Củng Sơn.

14 giờ 30 phút ngày 24 tháng 3 được sự chi viện trực tiếp của pháo binh và xe tăng của sư đoàn, Trung đoàn 64 và Tiểu đoàn 96 từ nhiều hướng, bằng nhiều mũi đồng loạt tấn công diệt cụm xe tăng địch, bắn cháy 7 chiếc, thhu 7 súng ĐKZ 75 li, 7 súng 12 li 7, mười khẩu đại liên, 6 máy thông tin, diệt hơn 70 tên địch. Lực lượng ta tiếp tục phát triển đánh chiếm trận địa pháo bao vây tiêu diệt các mục tiêu còn lại. Đên 17 giờ ta hoàn toàn làm chủ quận lị, chi khu Củng Sơn. Thừa thắng Tiểu đoàn 96 do đồng chí Nguyễn Ngọc Khánh làm tiểu đoàn trưởng cùng bộ phận của trung đoàn 64 phát triển sang Tuy Bình vây chặt yếu khu Phú Đức. Đến 8 giờ sáng ngày 25 tháng 3 toàn bộ quân địch ở Phú Đức kéo cờ trắng đầu hàng nộp vũ khí cho ta (trong đó có tên Đại tá Đồng trung đoàn trưởng xe tăng). Nhân dân nổi dậy trung lùng bắt tù binh thu vũ khí. Tổ chức chính quyền cách mạng hăng hái tham gia công tác kháng chiến. Quân địch ở Củng Sơn, Phú Đức bị tiêu diệt, bọn địch dừng lại ở Thạnh Hội hốt hoảng xe, pháo, bộ binh giành nhau qua cầu, cầu hỏng nhiều xe bị lật chìm xuống sông làm chết hàng trăm tên.

Tiểu đoàn 69 sau khi hoàn thành nhiệm vụ tiêu diệt quân địch ở Tuy Bình, Củng Sơn, được lệnh sở chỉ huy tiền phương hành quân thần tốc xuống khu vực Hòn Kén cùng với Tiểu đoàn 189, Đại đội 201, Đại đội 25 đánh vào phía sau đội hình của địch.

Ở mặt trận phía trước, trong suốt 3 ngày đêm địch đã dốc toàn bộ sức lực để tấn công phản kích, giải tỏa hòng nối cho được cánh quân từ Tây Nguyên xuống mở thông đường 5 để tháo chạy. Nhưng chúng không sao chọc thủng được trước sức chặn đánh quyết liệt của quân giải phóng, một số lực lượng cụm lại ở cầu Tổng Phú Thứ chờ tấn công tiếp lên cầu Đồng Bò.

Đêm 23 tháng 3 Đại đội 377, Đại đội 203 tiến công diệt một số tên, địch còn lại tháo chạy về phía đông, ta làm chủ trên trục đường 5 lên tới cầu Đồng Bò.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Tư, 2011, 08:11:45 pm
Tối ngày 24 tháng 3 năm 1975 sở chỉ huy tiền phương họp, sau khi phân tích tình hình diễn biến trên chiến trường, thống nhất nhận định: “Ngày mai địch sẽ dốc toàn lực để mở đường máu tháo chạy xuống thị xã Tuy Hòa và Phú Lâm. Quân số của chúng khoảng 15 ngàn tên nhưng tinh thần bạc nhược, tổ chức chỉ huy không còn hiệu lực bao nhiêu, quân đông nhưng không mạnh. Về ta: qua nhiều ngày chiến đấu liên tục quân số có giảm vì thương vong, thắng lợi liên tiếp đã cổ vũ tinh thần chiến đấu của bộ đội, quyết tâm của từng đơn vị được tăng lên. Ta lại có thế trận vững chắc, các lực lượng ám sát, bao vây áp đảo quân địch. Nhân dân phấn khởi, dồn sức lực tình cảm ủng hộ tham gia cùng bộ đội chiến đấu, quân số không đông nhưng thế lực mạnh, đủ sức đánh bại quân địch”.

Tiền phương bổ sung phương án tác chiến và mệnh lệnh cho các đơn vị tăng cường trang bị và điều chỉnh lực lượng để thực hiện ngay trong đêm.

Mờ sáng ngày 25 tháng 3 các trận địa pháo địch ở Gò Muối, Phước Bình đồng loạt bắn hàng trăm quả theo trục đường số 5, Hòn Sặc, Lương Phước, Mĩ Thạnh Tây, Mĩ Thạnh Đông, Phước Thịnh, Phú Thứ. Nhiều tốp máy bay A37 trực thăng vũ trang tút các loại bom bi bom khoan, phóng rốc két, làm cháy, sập nhiều nhà cửa của nhân dân. Hố bom, pháo địch chồng lên chiến hào công sự chiến đấu của ta trên các trận địa. Trên một tuyến dài gần 10 cây số, từ Phú Yên lên cầu Đồng Bò khói lửa mù mịt khủ khắp trận địa. Với sự chi viện tối đa của pháo binh và không quân, địch dùng 3 tiểu đoàn bảo an 219, 236 và 210 có xe tăng bọc thép đi cùng mở nhiều hướng, tổ chức nhiều mũi tiến công từ phía đông lên, đã bị ta chặn đánh quyết liệt. Ta bẻ gãy nhiều đợt tấn công của chúng diệt hàng trăm tên, bắn cháy 7 xe tăng, số xe tăng còn lại dạt ra bờ sông Đà Rằng chạy xuống thị xã Tuy Hòa.

Tổ chức phản kích từ phía đông bị thất bại. Đến 10 giờ địch tổ chức tấn công ta cả 2 hướng và 2 lực lượng, từ phía đông lên, từ phía tây xuống. Không còn con đường nào khác nên địch liều mạng tấn công ào ạt trong thế bí, hi vọng thoát khỏi “Vùng đất chết”. Các loại pháo, súng của xe tăng, bộ binh của cả hai bên gầm lên như mưa bão, khói lửa mù mịt cả trận địa. Cán bộ chiến sĩ Tiểu đoàn 9, Tiểu đoàn 13 cùng các đơn vị của huyện vẫn ngoan cường chiến đấu dùng B40, B41, ĐKZ bắn cháy 7 xe tăng, đánh lùi các đợt tiến công của địch. Đến 13 giờ địch tập trung hàng chục xe tăng dẫn đầu, theo sau là hàng ngàn xe và đủ loại quân mở đường máu thoát chạy như ong vỡ tổ. Xe tăng và các loại xe quân sự cùng bộ binh chen lấn thoát thân một cách hỗn độn. Xe sau đâm se trước, nhiều xe lật nhào xuống mương, đâm ào lên bọn lính chạy bộ làm chết hàng trăm tên. Trong lúc đó các đơn vị hỏa lực của ta phần hết đạn, phần bị thương vong nên không đủ sức ngăn chặn. Mặc dù súng bộ binh của ta bắn xối xả vào đội hình chảu chúng nhưng chúng vẫn tràn ào qua chạy thoát hơn 500 xe xuống Phú Lâm. Cả toán chạy vào Đèo Cả bị Đại đội 19 và K65 công binh chặn đánh chúng phải quay trở lại Phú Lâm.

Đến 14 giờ Tiểu đoàn 13 xuất kích dùng B40, B41 bắn cháy 3 xe tăng và một số xe quân sự, làm tắc nghẽn đường số 5. Hàng trăm xe cơ giới, hàng ngàn tên địch ùn lại từ Mĩ Thạnh Trung lên cầu Đồng Bò. Tiểu đoàn 9 chia thành 3 mũi cắt địch ra từng mảng lần lượt tiêu diệt. Ta tập trung hỏa lực gồm 4 súng cối 82 li, 7 khẩu cối 60 li, 5 khẩu đại liên và ĐKZ 75 bắn dồn dập vào đội hình dày đặc của địch. Các đơn vị vệ binh, trinh sát, vận tải cả lực lượng thanh niên xung phong cũng tham gia chiến đấu vây bắt địch.

Đến 14 giờ 30 phút Đại đội 25, Đại đội 201 nổ súng đánh từ phía sau đội hình quân địch diệt hàng trăm tên, phá hủy gần chục xe quân sự, bắt sống 500 tên địch. Ta đánh mạnh từ phía sau làm cho địch càng hốt hoảng. Xe tăng, xe quân sự vượt lên chạy bừa vào đám bộ binh đan chạy hỗn loạn đè chết hàng trăm tên. Phía trước bị ta chặn lại, địch bỏ cả xe, súng, cởi quần áo lính, bứt ga lông vứt bỏ chạy thoát thân. Những tốp địch chạy lùi lại bị lực lượng của Tiểu đoàn 96, Đại đội 201, Đại đội 25 tiêu diệt và bắt sống. Một số địch lội sông Đà Rằng sang Tuy Hòa 2 nhiều tên chết đuối, số còn lại bị Đại đội 202 và lực lượng vũ trang, du kích Tuy Hòa 2 chặn đánh tiêu diệt và bắt sống. Trong cảnh vỡ đàn tan chợ, nhiều tốp địch chạy vào Hòa Mĩ, Hòa Thịnh, Hòa Đồng cũng bị du kích và đồng bào vây bắt sống, nhiều tên liều thân trốn thoát chạy vào núi mấy hôm sau cũng bị chết đói, chết khát.

Chỉ tính các trận đánh trong ngày 25 tháng 3 ta đã diệt hơn 400 tên địch, bắt sống 1.500 tên. Đặc biệt là nhân dân nhiều xã phía tây Tuy Hòa 1 cũng vây bắt nhiều tên, đồng chí Kháng trợ lí chính sách tỉnh đội một mình cũng bắt được 26 tên địch (có 15 sĩ quan).

Đến 17 giờ ngày 25 tháng 3 năm 1975 quân và dân Tuy Hòa đã hoàn toàn làm chủ đường số 5 từ Cầu Tổng lên giáp Sơn Hòa.

Với thế trận đã được bày sẵn của quân và dân huyện Tuy Hòa cùng với sức mạnh tiến công của các đơn vị vũ trang của tỉnh, Tiểu đoàn 13, Tiểu đoàn 9, Tiểu đoàn 96 bộ binh, Tiểu đoàn 189 pháo binh, Đại đội 201, Đại đội 25 đặc công, Đại đội 19, Đại đội K65 công binh, sự tổ chức chỉ huy linh hoạt, hợp đồng đoàn kết, với tinh thần chiến đấu dũng cảm ngoan cường, chỉ trong vòng 7 ngày (từ 19 đến 25 tháng 3 năm 1975) quân dân huyện Tuy Hòa, lực lượng vũ trang Phú Yên đã giành thắng lợi hết sức to lớn trong trận “quyết chiến chiến lược”. Đánh tan tành một lực lượng lớn của địch hơn 20 ngàn tên, có 2.000 xe quân sự, hơn 100 xe tăng, xe bọc thép, với gần 40 khẩu pháo các loại. Ta đã diệt và bắt sống gần 10 ngàn tên địch, thu và phá hủy hàng ngàn xe quân sự (Có hơn 60 xe tăng, xe bọc thép). Thu gần 10 ngàn khẩu súng, đập tan ý đồ cuộc rút lui chiến thuật của địch từ Tây Nguyên xuống nhằm thực hiện kế hoạch co cụm giữ đồng bằng và các tỉnh duyên hải miền Trung. Giải phóng 5 xã phía tây của huyện, làm chủ đường số 5 từ Phú Thứ trở lên.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Tư, 2011, 08:12:42 pm
Chiến thắng đường số 5 chẳng những là trận tiêu diệt lớn quân địch mà còn có ý nghĩa cực kì to lớn là: giải phóng một mảng rộng lớn, nối liền 4 huyện Tuy Hòa 1, Tuy Hòa 2, Sơn Hòa và miền tây nam của tỉnh. Chiến thắng đường 5 một chiến công vô cùng oanh liệt càng minh chứng sức mạnh kì diệt mà đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng ta đã vạch ra và lãnh đạo trong suốt 30 năm chiến đấu chống xâm lược giải phóng đất nước, giành độc lập tự do cho dân tộc. Chiến thắng đường 5 một chiến tích hào hùng đã làm rạng rỡ truyên thống của quê hương anh hùng, khắc đậm vào lịch sử, sống mãi với quê hương và cho các thế hệ mai sau.

(http://img833.imageshack.us/img833/8919/img0456q.jpg)

Thừa thắng xốc tới, nhanh chóng cướp lấy thời cơ, ngày 26 tháng 3 Ban chỉ huy tiền phương và Bộ Tư lệnh Sư đoàn 320 hạ quyết tâm: nỗ lực chuẩn bị để sáng ngày 01 tháng 4 năm 1975 tiến công giải phóng Tuy Hòa và toàn tỉnh Phú Yên.

Để hoàn thành nhiệm vụ trong cuộc tiến công lịch sử này, các địa phương, ác đơn vị thực hiện khẩu hiệu: “Hành quân thần tốc như Quang Trung, chiến thắng giòn giã như Điện Biên Phủ, khí thế quần chúng nổi dậy như Cách mạng Tháng 8”.

Thực hiện quyết tâm giải phóng tỉnh Phú Yên, quân dân huyện Tuy Hòa với tinh thần của cuộc tiến công lịch sử đã nỗ lực hết mình tích cực khẩn trương chuẩn bị. Do phía tây có lực lượng của tỉnh nên huyện lệnh cho các đại đội của huyện hành quân cấp tốc về miền Đông để thực hiện bao vây không cho địch tháo chạy. Số lực lượng còn lại cùng Tiểu đoàn 9, Tiểu đoàn 13 phát triển lên các hướng tiến công vào vận động nhân dân chuẩn bị băng cờ, khẩu hiệu, nấu cơm để tiếp tế và đón mừng lực lượng vũ trang cách mạng trong niềm vui chiến thắng.

Phương án tấn công giải phóng quận lị Phú Yên và toàn huyện được tổ chức thành 3 mũi, trên 3 hướng, Tiểu đoàn 9 cùng Tiểu đoàn 7 của Trung đoàn 14 Sư 320 đánh chiếm ga Gò Mầm, Núi Một (Hòa Tân) phát triển xuống Phú Lương, Đông Mĩ giáp đường 1, chiếm xã Hòa Vinh chia cắt địch giữa Phú Lâm - Bàn Thạch, lực lượng ta đã tiêu diệt và bắt gọn tiểu đoàn biệt động quân ở Hòa Tân, làm tắc nghẽn giao thông. Đại đội 19 cùng Đại đội K65 công binh và một phần lực lượng của Sư 320 đảm nhận tấn công từ nam cầu Bàn Thạch đến Đèo Cả. Ta diệt hàng trăm tên, thu và phá hủy 120 xe quân sự, bắt sống hơn 200 tên.

Tiểu đoàn 13 tiến theo trục đường 5 đánh chiếm thị trấn Phú Lâm, diệt và bắt hàng trăm tên địch. Đến 8 giờ sáng ngày 01 tháng 4 ta đã giải phóng hầu hết các xã trong huyện kể cả thị trấn Phú Lâm. Số quân còn lại chạy dồn về Hòa Hiệp hòng tháo chạy theo đường biển nhưng đã bị mũi vu hồi chặn lại, Tiểu đoàn 9 phát triển tiến đánh tại khu 3 lò diệt hàng trăm tên, một số đơn vị lẩn trốn, Tiểu đoàn 9 vây bắt gọn 1 đại đội quân biệt động ở thôn Phú Hiệp thu toàn bộ vũ khí và 6 xe quân sự.

Cùng vào lúc 8 giờ sáng một bộ phận của Tiểu đoàn 9 phối hợp với một đại đội của Tiểu đoàn 7 Sư 320 đánh chiếm sân bay Đông Tác, dùng hỏa lực bắn chìm một tàu chở đầy bọn tàn quân chạy trốn theo đường biển.

Trưa ngày 1 tháng 4 năm 1975 huyện Tuy Hòa hoàn toàn được giải phóng, nhân dân đổ ra đường đón mừng chiến thắng, chào mừng các chiến sĩ quân giải phóng miền Nam, đón mừng anh bộ đội Cụ Hồ sau bao năm xa cách, xóm thôn đường làng rợp cờ giải phóng.

Trước sự tấn công dồn dập mãnh liệt của quân ta, bọn chỉ huy bỏ mặc quân lính tháo chạy thoát thân. Tên chuẩn tướng Trần Văn Cẩm tư lệnh phó quân đoàn 2 cùng tên đại tá Vi Văn Bình cải trang thường dân lẩn trốn. Sáng ngày 02 tháng 4 hai tên Cẩm và Bình đã bị du kích xã Hòa hiệp bắt giao cho sư đoàn 320.

Nhân dân Tuy Hòa phấn khởi đón mừng ngày giải phóng quê hương. Cùng lực lượng vũ trang dân quân du kích huyện nhà truy quét bọn tàn quân, bọn ác ôn còn lẩn trốn, đồng thời góp sức, góp của huy động toàn lực cho cuộc chiến đấu giải phóng hoàn toàn đất nước.

11 giờ 30 phút ngày 30 tháng 4 năm 1975 cờ chiến thắng của dân tộc ta đã phất cao trên nóc “Dinh Độc Lập”. Cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc đằng đẵng 30 năm trời đã đến đích cuối cùng. Đất nước Việt Nam thân yêu đã vĩnh viễn độc lập tự do.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 01 Tháng Năm, 2011, 07:36:10 am
(http://img863.imageshack.us/img863/4967/81684401.jpg)


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 01 Tháng Năm, 2011, 07:40:06 am
PHẦN KẾT LUẬN

Cuộc kháng chiến trường kì của quân và dân Tuy Hòa đã kết thúc vô cùng oanh liệt. Ngày 01/4/1975 quê hương đã hoàn toàn giải phóng. Cờ cách mạng bay rợp trời trong tiếng reo ca của hàng vạn người khao khát tự do và đã tranh đấu cho lí tưởng đó suốt mấy chục năm ròng rã. Ba mươi năm cùng với cả nước quân và dân Tuy Hòa đã làm một cuộc trường chinh vĩ đại dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, của lãnh tụ thiên tài Hồ Chí Minh đánh đổ 2 đế quốc to là thực dân Pháp và đế quốc Mĩ.

Từ những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, lực lượng vũ trang của ta hầu như chưa có gì ngoài một vài đội vũ trang của huyện và các xã. Trang bị vũ khí hết sức thô sơ dao, phản, rựa, mác, gậy gộc… Trong khi đó kẻ thù có lực lượng chính quy. hùng mạnh, vũ khí hiện đại. Tương quan so sánh lực lượng giữa ta và địch vô cùng chênh lệch. Trong điều kiện ngặt nghèo đó chẳng những ta không bị kẻ thù tiêu diệt mà còn từng bước ngăn chặn và làm thất bại mọi âm mưu đánh chiếm bình định toàn huyện, làm bàn đạp đánh phá toàn tỉnh Phú Yên và các tỉnh Tây Nguyên.

Càng đánh càng mạnh, càng đánh càng trưởng thành quân và dân Tuy Hòa đã phối hợp chặt chẽ với các đơn vị chính quy giữ vững thuyến “Mặt trận Đèo Cả”, đánh bại các cuộc càn quét lấn chiếm của địch mà đỉnh cao là cùng quân dân Phú Yên góp phần đánh bại chiến dịch Át Lăng. Những chiến thắng đó đã cùng với những thắng lợi trên khắp chiến trường cả nước, đặc biệt là chiến thắng Điện Biên Phủ đã buộc thực dân Pháp thất bại nhục nhã và rút khỏi nước ta.

Trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước Tuy Hòa là một địa bàn chiến lược quan trọng, là một trong những nơi địch chọn làm thí điểm các biện pháp quân sự, những thủ đoạn chính trị thâm độc, xảo quyệt. Ngay từ khi mới tiếp quản Mĩ - Diệm đã thực hiện chinh sách “tát nước bắt cá”, “diệt cộng”, “tố cộng”, nhốt nhân dân vào các nhà tù trá hình “ấp chiến lược”. Chúng ban hành luật 10/59 lê máy chém khắp nơi để chặt đầu những người cộng sản, những người yêu nước. Trước sự đàn áp khốc liệt của kẻ thù quân dân Tuy Hòa vẫn một mực kiên trung, bất khuất, trung thành với lí tưởng đã chọn độc lập tự do cho Tổ quốc thống nhất nước nhà. Vượt qua bao khó khăn thử thách, giành thắng lợi từng bước, từng vùng, góp gió thành bão, tạo nên sức mạnh để đánh thắng kẻ thù.

Trên chặng đường chiến đấu 30 năm của lực lượng vũ trang huyện Đảng bộ và quân dân Tuy Hòa phải trải qua nhiều bước quanh co khúc khuỷu. Trong chiến đấu không chỉ có thắng lợi, thành công mà còn có sai lầm, thiếu sót, thậm chí thất bại, có lúc gặp khó khăn tưởng chừng không thể vượt qua.

Quy luật chiến tranh là vô cùng nghiệt ngã, mạnh được, yếu thua. Vậy thì lí giải tại sao quân dân Tuy Hòa lại có thể đương đầu và đánh thắng mọi âm mưu thủ đoạn của kẻ thù, sức mạnh nào đã giúp Đảng bộ và quân dân Tuy Hòa đứng vững và từng bước biến không thành có, biến ít thành nhiều, biến nhỏ thành lớn để đối chọi với kẻ thù có một lực lượng quân sự hùng mạnh chính quy, vũ khí trang bị hiện đại.

Thắng lợi của 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc của cả nước nói chung, Tuy Hòa nói riêng trước hết bắt nguồn từ đường lối chính trị, đường lối quân sự đúng đắn của Đảng, nghệ thuật lãnh đạo và chỉ đạo chiến tranh tài giỏi của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị và quân ủy Trung ương.

Nắm vững đường lối quan điểm của Đảng, Đảng bộ Tuy Hòa đã phát động và thực hiện thắng lợi cuộc chiến tranh nhân dân toàn dân toàn diện lâu dài dựa vào sức mình là chính. Đường lối cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân của Đảng ta đã phù hợp với nguyện vọng và đem lại quyền lợi cho đông đảo quần chúng nên đã thu hút, tập hợp được một lực lượng hùng hậu, mạnh mẽ trong mọi tầng lớp nhân dân.

Trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến với muôn vàn khó khăn thiếu thốn tưởng chừng không vượt qua nổi. Chính đường lối kháng chiến đúng đắn của Đảng đã góp phần tạo nên một sức mạnh tổng hợp, huy động đến tối đa nguồn lực trong nhân dân. Tất cả mọi người dân đều đứng lên đánh giặc. Toàn huyện là một mặt trận, mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi xóm thôn là một pháo đài. Toàn dân đánh giặc là sức mạnh vô địch của nhân dân ta. Trước mọi cực hình tra tấn của quân thù, quân dân Tuy Hòa vẫn hiên ngang bất khuất, kiên trì bền bỉ xây dựng lực lượng và niềm tin tưởng tuyệt đối sẽ có ngày chiến thắng.

Đảng có đường lối đúng đắn, nhân dân tin tưởng vào Đảng, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân đoàn kết gắn bó, quân và dân cùng một ý chí đó là một yếu tố quan trọng nhất quyết định thắng lợi trong mọi cuộc kháng chiến.

Thực tế lịch sử cho thấy, trong suốt 30 năm kháng chiến huyện Tuy Hòa luôn là ngọn cờ đầu của tỉnh, trong mọi phong trào như: Đồng khởi, phong trào thanh niên tòng quân nhập ngũ, du kích chiến tranh. Đặc biệt phong trào đấu tranh chính trị được công nhận là lá cờ đầu của quân khu. Nơi đây công tác binh địch vận được làm sớm nhất có hiệu quả nhất, nhiều cá nhân đơn vị của địch đã tổ chức binh biến, phản chiến quay súng trở về với cách mạng. Cũng tại chiến trường này những tên tù binh Mĩ, Nam Triều Tiên đầu tiên ở Phú Yên bị tóm cổ. Đây cũng là nơi phong trào quân giới nhân dân phát triển sớm và mạnh nhất trong toàn tỉnh. Phong trào phá ấp chiến lược cũng được thực hiện nhanh chóng và triệt để nhất. Những chiến công chói lọi của quân và dân Tuy Hòa cảng minh chứng cho sự mưu trí sáng tạo của các lực lượng vũ trang, của quần chúng nhân dân. Nó cũng thể hiện được sự đúng đắn sự lãnh đạo kịp thời sâu sát của Đảng.

Không ngừng chăm lo xây dựng củng cố và phát triển các lực lượng vũ trang, xây dựng thế trận vững mạnh của 2 lực lượng, ba thứ quân, thực hiện 3 mũi giáp công, lấy lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt đánh thắng địch về mặt quân sự.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 01 Tháng Năm, 2011, 08:24:40 am
Bạo lực là bà đỡ cho mọi cuộc cách mạng, trong đó lực lượng vũ trang làn òng cốt làm hậu thuẫn cho đấu tranh chính trị và binh vận của quần chúng nhân dân.

Với tính chất và đặc điểm riêng; Tuy Hòa vừa là chiến trường vừa là hậu phương, là nơi địch đánh giá có tầm chiến lược quan trọng, luôn tập trung cao độ lực lượng và phương tiện chiến tranh, quyết định lấn chiếm một trong những “kho người vựa lúa” của Phú Yên. Suốt 30 năm kháng chiến chống Pháp, Mĩ xâm lược Tuy Hòa luôn chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang về mọi mặt đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đánh địch trong từng thời kì qua từng giai đoạn chiến tranh.

Đặc biệt ở Tuy Hòa lực lượng chính trị được xây dựng hùng hậu và rộng khắp toàn huyện là nguồn gốc sâu xa của mọi chiến thắng là nền tảng để thực hiện thắng lợi cuộc chiến đấu toàn dân toàn diện. Toàn dân đánh giặc là sức mạnh tổng hợp của kháng chiến. Nhưng thành bại của một cuộc chiến chủ yếu là cuộc đọ sức của lực lượng vũ trang 2 bên tham chiến. Nếu có lực lượng chính trị dù đông đảo hùng hậu đến bao nhiêu cũng không thể tiêu diệt được lực lượng quân sự của địch. Muốn phát huy được sức mạnh toàn dân đánh giặc phải xây dựng một lực lượng vũ trang mạnh giữa lực lượng vũ trang và lực lượng chính trị có mối quan hệ khăng khít và biện chứng lực lượng này giúp cho lực lượng kia phát triển và có tác động trở lại làm nòng cốt cho lực lượng kia.

Trên cơ sở có lực lượng chính trị hùng hậu Tuy Hòa đã tổ chức và xây dựng lực lượng vũ trang gồm 3 thứ quân đi dần từ nhỏ đến lớn, từ thấp đến cao, từ tác chiến du kích phân tán lên tác chiến tập trung, từ đánh nhỏ đến đánh vừa đánh lớn. từ những đội viên du kích lẻ tẻ trong những ngày đầu kháng chiến chống Pháp đến kháng chiến chống Mĩ huyện đã có đại đội 377, đại đội đặc công, đội công binh, pháo binh và nhiều trung đội du kích của các xã. Bộ đội địa phương và dân quân du kích phát triển khắp huyện từ vùng tạm chiếm, vùng tranh chấp và vùng tự do, đủ sức tiêu hao, tiêu diệt kiềm chế lực lượng địch giữ vững quyền làm chủ của nhân dân bảo vệ cơ sở mọi mặt của kháng chiến. Quá trình giành thắng lợi của lực lượng vũ trang trong huyện là quá trình kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng và chiến đấu giữa tác chiến du kích nhỏ lẻ với tác chiến của bộ đội tập trung tỉnh và chủ lực cấp trên. Hoạt động tác chiến của lực lượng vũ trang luôn kết hợp chặt chẽ với đấu tranh, chính trị và công tác binh vận tạo nên sức mạnh tổng hợp đánh thắng kẻ thù. Đã thành quy luật, hậu phương luôn là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của chiến tranh bởi vì hậu phương là nơi xây dựng và dự trữ tiềm lực của chiến tranh cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, quân sự, là nơi chi viện chủ yếu sức người sức của cho tiền tuyến, là chỗ dựa tinh thần cho tiền tuyến.

Trong suốt 2 cuộc kháng chiến Đảng bộ Tuy Hòa đã tập trung xây dựng cơ sở hậu cần tại chỗ và thực hiện hậu cần nhân dân, đảm bảo yêu cầu kháng chiến trong mọi tình huống. Tuy Hòa nói riêng, Phú Yên nói chung xa hậu phương miền Bắc, vấn đề đảm bảo quân số, lương thực, thuốc men, đạn dược là một vấn đề hết sức cấp bách đòi hỏi một sự nỗ lực phi thường của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong huyện.

Ngoài chủ trương lấy chiến lợi phẩm, lấy súng địch đánh địch, việc chú trọng tự lực cánh sinh tăng gia sản xuất, thu mua lương thực, thực phẩm, thuốc men, quân trang, quân dụng đặc biệt thực hiện hậu cần nhân dân huy động sức dân toàn diện, mọi mặt đảm bảo cung cấp hậu cần tại chỗ và chi viện cho các chiến trường trong tỉnh và tỉnh bạn Đắk Lắk, Khánh Hòa.

Trong kháng chiến chống Pháp, Tuy Hòa là vùng tự do một vùng lí tưởng để xây dựng lực lượng vũ trang tập trung, vừa là nơi cung cấp sức người sức của, vừa là địa bàn đứng chân để huấn luyện, củng cố sau mỗi đợt hoạt động, mỗi chiến dịch của bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương của mình.

Chiến tranh ngày càng mở rộng và phát triển, nhu cầu hậu cần đòi hỏi ngày càng cao, không chỉ về số lượng mà cả về chất lượng và chủng loại. Việc bảo đảm hậu cần đều dựa hẳn vào nhân dân. Mỗi người dân là một chiến sĩ vừa chiến đấu vừa sản xuất. Căn cứ địa hậu phương của huyện không những chỉ xây dựng ở rừng núi mà cả đồng bằng ven biển. Qua thắng lợi của đấu tranh, những căn cứ lõm của ta xuất hiện ngày càng nhiều trong vòng vây địch như Bãi Xép vẫn là nơi đứng chân tương đối an toàn của các cơ quan chỉ đạo phong trào, các đơn vị chuyên trách đánh sâu vào các căn cứ quân sự lớn.

Trong điều kiện chiến đấu ác liệt căn cứ địa của huyện có lúc bị thu hẹp. Nhân dân nhiều người đã anh dũng hi sinh hoặc bị địch bắt giam cầm tra tấn. Nhưng kẻ địch vẫn không sao phá vỡ được hệ thống căn cứ địa hậu phương tại chỗ của ta. Tuy có lúc kẻ địch gây khó khăn, thậm chí ngăn chặn tạm thời nhưng sức người sức của huy động phục vụ cho kháng chiến của huyện vẫn mỗi năm một tăng thêm. Nhân dân Tuy Hòa đã hết lòng yêu thương đùm bọc nuôi dưỡng che giấu cán bộ, bộ đội.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 01 Tháng Năm, 2011, 07:39:15 pm
Hậu cần nhân dân của huyện chẳng những lo tiếp tế nuôi quân mà còn lo cả phục vụ vận tải vũ khí, chuyển, chăm sóc điều trị thương - bệnh binh. Hơn thế nữa nhiều mẹ nhiều chị đã đem hẳn thương binh về nhà nuôi nấng điều trị ngay dưới tầm mưa bom bão đạn và càn quét đánh phá của kẻ thù. Ngoài những vai trò quan trọng trên Tuy Hòa còn là nơi tiếp nhận, bảo quản phân phối vũ khí phương tiện chiến tranh và các vật phẩm khác từ hậu phương miền Bắc chuyển vào.

Sở dĩ hậu phương tại chỗ đã phát huy ngày càng đầy đủ vai trò, tác dụng đối với cuộc chiến tranh cách mạng của huyện, tỉnh là bởi hậu phương đó được xây dựng, bảo vệ và không ngừng mở rộng theo một đường lối đúng đắn, bằng những biện pháp hiệu quả. Đường lối và biện pháp đõ đã tạo sự bền vững, tạo ra tính đa dạng và rộng khắp của hậu phương tại chỗ ở rừng núi, đồng bằng… Tùy điều kiện từng nơi, từng lúc mà đề ra các biện pháp xây dựng bảo vệ củng cố và mở rộng hậu phương tại chỗ phù hợp với tình hình cụ thể nhưng tựu trung lại phải biết tin vào nhân dân, dựa vào nhân dân, cùng đồng cam cộng khổ với nhân dân, xuất phát từ quyền lợi, nguyện vọng và ý chí của nhân dân mà tìm ra các hình thức và biện pháp xây dựng phát triển cơ sở cách mạng trong nhân dân, phát động nhân dân đẩy mạnh đấu tranh, đẩy mạnh sản xuất xây dựng và bảo vệ hậu phương tại chỗ ngày càng vững mạnh.

Thắng lợi của quân, dân Tuy Hòa trong 30 năm chiến tranh giải phóng không thể không nói đến vai trò lãnh đạo của Đảng bộ Tuy Hòa cùng các Đảng bộ cơ sở. Đó là nhân tố quyết định việc thắng lợi trong chiến tranh cũng như trong hòa bình.

Với lực lượng vũ trang, sự lãnh đạo của Đảng là tuyệt đối, trực tiếp và toàn diện. Ở Tuy Hòa trong suốt 30 năm chiến tranh xuất phát từ điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của địa phương huyện Đảng bộ đến Đảng các cấp đều luôn đặc biệt quan tâm, chú ý lãnh đạo lực lượng vũ trang từ dân quân du kích, bộ đội địa phương đến quân chủ lực.

Sức mạnh lãnh đạo của Đảng bộ là ở chỗ Đảng bộ tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng, nghiêm chỉnh chấp hành đường lối chủ trương của Đảng, biết tập trung nỗ lực để giành thắng lợi từng bước chuyển biến cục diện chiến trường, đồng thời nhìn xa thấy trước để chuẩn bị thế và lực cho những trận chiến đấu tiếp theo. Hành động nhất quán giữa nói và làm, đoàn kết nhất trí cao là sức mạnh của Đảng, qua đó nó giữ vững củng cố lòng tin và nâng cao thêm sức mạnh đấu tranh của quần chúng.

Đảng bộ luôn gắn bó chặt chẽ với quần chúng hiểu rõ tâm tư nguyện vọng của quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng. Trong đấu tranh hằng ngày với địch quần chúng nhân dân là tai mắt của cách mạng. Nhờ bám sát và tồn tại ngay trong quần chúng nên cán bộ đảng viên lãnh đạo các cấp đã đánh giá đúng chỗ mạnh chỗ yếu của địch phát huy được trí thông minh và tài năng đánh giặc của quần chúng. Từ đó nâng lên thành phong trào đánh địch rộng rãi.

Sức mạnh lãnh đạo của Đảng bộ là ở chỗ tuyệt đại bộ phận cán bộ đảng viên luôn giữ vững và nêu cao vai trò tiên phong gương mẫu, luôn nêu cao phẩm chất cách mạng kiên định và sáng ngời trong mọi tình thế nguy hiểm, trong lúc phải đương đầu với những thủ đoạn đánh phá tàn ác của địch. Rõ nhất là sau 1954 với chính sách tố cộng diệt cộng địch ra sức trả thù và chặt đầu những cán bộ đảng viên của ta. Nhiều vùng đã trở thành vùng trắng dân không đảng, Đảng không thành lập được chi bộ. Bất chấp mọi hi sinh gian khổ, cán bộ đảng viên luôn bám trụ bền bỉ khôi phục xây dựng lại phong trào. Chính trong những giờ phút đó quyết định thành bại của phong trào phụ thuộc vào cán bộ đảng viên gương mẫu tiến lên hay do dự lùi lại.

Vừa chiến đấu học tập vừa rút kinh nghiệm, Đảng bộ đã từng bước nâng cao được năng lực lãnh đạo vượt qua những thiếu sót khó khăn lúng túng trong quá trình lãnh đạo. Sự lãnh đạo kiên định vững vàng của Đảng bộ, đội ngũ cán bộ đảng viên luôn nêu cao vai trò tiên phong gương mẫu, nêu cao phẩm chất cách mạng sáng ngời, gắn bó chặt chẽ với nhân dân là sức mạnh tổng hợp của Đảng bộ. Đó là bài học thành công nhất, quyết định nhất, là nhân tố quyết định đầu tiên của thắng lợi.

Cùng với cả nước quân dân Tuy Hòa đang ra sức xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp. Thời gian qua nhanh cuộc chiến đấu 30 năm kiên cường bất khuất với bao gian khổ hi sinh mất mát, bao thắng lợi huy hoàng gắn liền với với những địa danh, những đơn vị tên người… đã dần dần đi xa vào lịch sử, nhưng những chiến công vẫn luôn tỏa sáng, nhưng sự hi sinh vẫn được khắc sâu ghi đậm, nhắc nhở mọi người mọi thế hệ. Những bài học, những kinh nghiệm quý bấu của cuộc trường kì kháng chiến đó là tài sản vô giá vẫn còn nguyên giá trị cho hôm nay và cho cả mai sau. Mỗi chúng ta cần tôn trọng, giữ gìn, học tập và phát huy truyền thống đã đạt được để góp phần xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 01 Tháng Năm, 2011, 07:41:15 pm
PHẦN PHỤ LỤC

PHỤ LỤC 1:

SỐ LIỆU “BÀ MẸ VIỆT NAM ANH HÙNG”

STT
ĐƠN VỊ
TỔNG SỐ
CÒN SỐNG
1
Hòa Bình I
09
1
2
Hòa Bình II
10
1
3
Hòa Xuân Nam
01
0
4
Hòa Xuân Tây
17
3
5
Hòa Xuân Đông
10
3
6
Hòa Vinh
12
1
7
Hòa Hiệp Bắc
02
0
8
Hòa Hiệp Nam
25
6
9
Hòa Hiệp Trung
17
7
10
Hòa Thành
05
0
11
Hòa Tân Tây
26
8
12
Hòa Tân Đông
13
1
13
Hòa Thịnh
29
3
14
Thị trấn Phú Lâm
3
1
15
Hòa Mĩ Tây
14
3
16
Hòa Mĩ Đông
16
2
17
Hòa Phong
04
3
18
Sơn Thành
03
0
19
Hòa Đồng
17
0
20
Hòa Tâm
06
0
21
Hòa Phú
06
3
 
Cộng
245
46


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 01 Tháng Năm, 2011, 07:43:18 pm
PHỤ LỤC 2:

DANH SÁCH CÁN BỘ HUYỆN ĐỘI, ĐẠI ĐỘI
TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP

     STT     
HỌ TÊN
CHỨC VỤ
     1Sư SơnChiến khu trưởng
     2Nguyễn Thế VĩnhHuyện đội trưởng
     3Võ Xuân VinhHuyện đội trưởng
     4Nguyễn Thái DuânHuyện đội trưởng
     5Huỳnh Văn HúcChính trị viên Huyện đội
     6Trần Công MinhChính trị viên Huyện đội
     7Nguyễn Văn TấnHuyện đội phó
     8Ba TâmHuyện đội phó
     9Phạm HinhHuyện đội phó
     10Lê TấnHuyện đội phó
     11Nguyễn MãoHuyện đội phó
     12Huỳnh Đức VinhChính trị viên phó Huyện đội
     13Trần Châu VinhChính trị viên phó Huyện đội
     14Võ Văn KhảĐại đội trưởng 377
     15Phạm Trọng TuyênĐại đội trưởng 377
     16Đỗ Hữu ChâuĐại đội trưởng 377
     17Lê Đức LangChính trị viên trưởng 377
     18Nguyễn LầuChính trị viên trưởng 377
     19Hoàng SơnĐại đội phó 377
     20Nguyễn Phúc ÁnhĐại đội phó 377
     21Huỳnh Văn ThứcChính trị viên phó 377
     22Nguyễn Thượng TốcChính trị viên trưởng Huyện đội


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 01 Tháng Năm, 2011, 07:46:46 pm
PHỤ LỤC 3:

CÁN BỘ HUYỆN ĐỘI
KHÁNG CHIẾN CHỐNG MĨ

STT
HỌ TÊN
CHỨC VỤ
1  Tô Nào (Tấn)  Huyện đội trưởng
2  Ba Linh (Giai)  Huyện đội trưởng
3  Hồ Văn Cẩn  Huyện đội trưởng
4  Cao Văn Khánh  Huyện đội trưởng
5  Trần Quang Tuyến  Huyện đội trưởng
6  Trần Văn Sang  Chính trị viên trưởng
7  Mười Đồng  Chính trị viên trưởng
8  Nguyễn Quyền (Hòa)  Chính trị viên trưởng
9  Nguyễn Đình Chi (Thọ)  Chính trị viên trưởng
10  Đỗ Thơm (Thu)  Chính trị viên trưởng
11  Lê Văn Minh (Sang)  Chính trị viên trưởng
12  Trình Quế  Chính trị viên trưởng
13  Nguyễn Tiếu  Chính trị viên trưởng
14  Nguyễn Ta  Chính trị viên trưởng
15  Lê Minh (Cúc)  Chính trị viên trưởng
16  Nguyễn Khánh Thành  Huyện đội phó
17  Trương Thanh Hiền  Huyện đội phó
18  Lê Thị Hòa  Huyện đội phó
19  Nguyễn Thị Lăng  Huyện đội phó
20  Nguyễn Hữu Ngọc  Huyện đội phó
21  Nguyễn Lựu  Huyện đội phó
22  Nguyễn Thắng Thọ  Huyện đội phó
23  Nguyễn Tiện  Huyện đội phó
24  Bình  Huyện đội phó
25  Hà Phi Hùng  Huyện đội phó
26  Ngô Thuyết Minh  Huyện đội phó
27  Nguyễn Đũ Huyện đội phó
28  Nguyễn Văn Thái  Chính trị viên phó Huyện đội
29  Cao Văn Dư  Chính trị viên phó Huyện đội
30  Trần Cẩm  Chính trị viên phó Huyện đội
31  Ngô Trung Dũng  Chính trị viên phó Huyện đội
32  Lê Quang Ngọc  Chính trị viên phó Huyện đội
33  Nguyễn Hóa  Chính trị viên phó Huyện đội

PHỤ LỤC 4:

CÁN BỘ ĐẠI ĐỘI
KHÁNG CHIẾN CHỐNG MĨ

STT
HỌ TÊN
CHỨC VỤ
1  Tô Nào (Tấn)  Đại đội trưởng 377
2  Phạm Đình Quy  Đại đội trưởng 377
3  Huỳnh Xuân Tháp  Đại đội trưởng 377
4  Cao Văn Khánh  Đại đội trưởng 377
5  Phan Thanh Hiếu  Đại đội trưởng 377
6  Nguyễn Lựu  Đại đội trưởng 377
7  Trần Ngọc Cẩm  Chính trị viên 377
8  Nguyễn Thời  Chính trị viên 377
9  Trình Quế  Chính trị viên 377
10  Nguyễn Thanh  Chính trị viên 377
11  Cao Văn Thanh  Chính trị viên 377
12  Nguyễn Quyền  Chính trị viên 377
13  Nguyễn Ngọc Sang  Chính trị viên 377
14  Ngô Văn Tuấn  Chính trị viên 377
15  Nguyễn Ngọc Khánh  Đại đội phó 377
16  Nguyễn Văn Tấn  Đại đội phó 377
17  Trần Ngọc Quang  Đại đội phó 377
18  Bùi Long Nhơn  Đại đội phó 377
19  Lê Văn Xích  Đại đội phó 377
20  Nguyễn Xuân Lũy  Đại đội phó 377
21  Nguyễn Đắc  Đại đội phó 377
22  Nguyễn Thiên  Đại đội phó 377
23  Nguyễn Quế  Đại đội phó 377
24  Nguyễn Văn Phó  Đại đội phó 377
25  Lê Quang Ngọc  Chính trị viên phó 377
26  Ngô Trung Dũng  Chính trị viên phó 377
27  Huỳnh Văn Thúc  Chính trị viên phó 377
28  Trần Thanh Tùng  Đại đội phó 377
29  Nguyễn Tâm  Đại đội trưởng 203 đặc công
30  Nguyễn Trưng  Đại đội trưởng 203 đặc công
31  Hồ Quang Trung  Đại đội trưởng 203 đặc công
32  Nguyễn Hữu Ngọc  Chính trị viên trưởng 203
33  Ngô Văn Hạn  Chính trị viên phó 203


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 01 Tháng Năm, 2011, 07:50:46 pm
PHỤ LỤC 5

DANH SÁCH ANH HÙNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG
HUYỆN TUY HÒA

Anh hùng Liệt sĩ LÊ TRUNG KIÊN

(http://img718.imageshack.us/img718/6173/ltkk.jpg)

Sinh ngày 10-2-1941     Dân tộc Kinh
Quê quán: Xã Hòa Hiệp Nam - huyện Tuy Hòa
Nhập ngũ: 20-10-1960
Chức vụ: Đại đội trưởng Đại đội 202 đặc công, bộ đội địa phương tỉnh Phú Yên
Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam.
Hi sinh ngay 3-3-1968
Được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân ngày 15-2-1970.

Anh hùng Liệt sĩ LƯƠNG TẤN THỊNH

(http://img215.imageshack.us/img215/3475/ltti.jpg)

Sinh năm 1946     Dân tộc Kinh
Quê quán: Xã Hòa Hiệp Trung - huyện Tuy Hòa
Nhập ngũ: năm 1963
Chức vụ: Đại đội trưởng Đại đội 202 đặc công, bộ đội địa phương tỉnh Phú Yên
Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hi sinh: ngày 24-4-1972
Được tuyên dương danh huyện Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân ngày 20-9-1971.

Anh hùng NGUYỄN ĐỨC QUÂN

(http://img39.imageshack.us/img39/6300/92870011.jpg)

Sinh năm 1945     Dân tộc Kinh
Quê quán: Xã Hòa Hiệp Trung - huyện Tuy Hòa
Chức vụ: Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 7 Trung đoàn 10 - Bộ Chỉ huy Miền
Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam
Được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân ngày 20-12-1973.


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 01 Tháng Năm, 2011, 07:54:11 pm
Anh hùng Liệt sĩ TRẦN KIỆT (tức Trần Thùng)

(http://img97.imageshack.us/img97/2153/32003764.jpg)

Sinh năm 1937     Dân tộc Kinh
Quê quán: Xã Hòa Hiệp Nam - huyện Tuy Hòa
Nhập ngũ: 2-3-1960
Chức vụ: Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 14 đặc công Phú Yên
Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam
Hi sinh: 30-12-1971
Được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân ngày 15-1-1976.

Anh hùng Liệt sĩ NGUYỄN ANH HÀO (tức Năm An)

(http://img18.imageshack.us/img18/5267/nahkf.jpg)

Sinh năm 1926     Dân tộc Kinh
Quê quán: Xã Hòa Bình 1 - huyện Tuy Hòa
Ngày tham gia cách mạng: 19-8-1945
Ngày tham gia công an: 25-8-1945
Chức vụ: Ủy viên Ban An ninh tỉnh Phú Yên kiêm Trưởng ban điệp báo và an ninh đô thị
Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.
Được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân ngày 21-1-1997.

Anh hùng Liệt sĩ PHẠM ĐÌNH QUY

Sinh năm 1936     Dân tộc Kinh
Quê quán: thôn Hòa Lạc (nay là thôn Phú Khánh) - xã Hòa Tân
Nhập ngũ: ngày 06-5-1961
Cấp bậc: Chuẩn úy - Đại đội trưởng Đại đội 377
Vào Đảng: 05-1964
Hi sinh: 18-8-1967
Được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân ngày  tháng  năm 1999.

Bà cụ: LÊ THỊ KÍNH, sinh năm 1911.
Quê quán: xã Hoa Đồng - huyện Tuy Hòa.
Ngày 28-7-1964, nằm cản xe M.113 đẩy lùi đoàn xe 7 chiếc của địch, không cho chúng càn quét phá hoại hoa màu, mở đầu cho phong trào phụ nữ huyện Tuy Hòa chặn xe tăng giặc liên tiếp thắng lợi.
Bà là: Bà mẹ Việt Nam Anh hùng (có 3 con là liệt sĩ).


Tiêu đề: Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Tuy Hòa ba mươi năm kháng chiến (1945-1975)
Gửi bởi: macbupda trong 01 Tháng Năm, 2011, 07:56:45 pm
PHỤ LỤC 6:

CÁC ĐƠN VỊ ĐƯỢC TUYÊN DƯƠNG ANH HÙNG
THUỘC HUYỆN TUY HÒA

1 - Đại đội 311 bộ binh, bộ đội địa phương huyện
Ngày 20-10-1976, được Đảng và Nhà nước tuyên dương là: Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

2 - Du kích xã Hòa Hiệp - huyện Tuy Hòa
Ngày 20-10-1976, được Đảng và Nhà nước tuyên dương là: Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

3 - Lực lượng vũ trang nhân dân huyện Tuy Hòa
Ngày 30-10-1978, được Đảng và Nhà nước tuyên dương là: Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

4 - Công an huyện Tuy Hòa
Ngày 29-8-1985, được Đảng và Nhà nước tuyên dương là: Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

5 - Nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân xã Hòa Thịnh
Ngày 20-12-1994, được Đảng và Nhà nước tuyên dương là: Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

6 - Ban An ninh xã Hòa Mĩ - huyện Tuy Hòa
Ngày 3-8-1995, được Đảng và Nhà nước tuyên dương là: Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

7 - Nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân xã Hòa Tâm
Ngày 30-8-1994, được Đảng và Nhà nước tuyên dương là: Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

8 - Nhân dân và Ban An ninh xã Hòa Hiệp
Ngày 29-1-1996, được Đảng và Nhà nước tuyên dương là: Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

9 - Nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân xã Hòa Xuân
Ngày 28-8-1998, được Đảng và Nhà nước tuyên dương là: Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

10 - Nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân xã Hòa Bình
Ngày 28-8-1998, được Đảng và Nhà nước tuyên dương là: Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

11 - Nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân xã Hòa Mĩ
Ngày 28-8-1998, được Đảng và Nhà nước tuyên dương là: Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.