Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Tài liệu - Hồi ký Việt Nam => Tác giả chủ đề:: macbupda trong 07 Tháng Giêng, 2011, 06:31:34 am



Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 07 Tháng Giêng, 2011, 06:31:34 am
Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Nhà xuất bản: Chính trị quốc gia
Năm xuất bản: 2007
Số hóa: macbupda

CHỈ ĐẠO NỘI DUNG
THIẾU TƯỚNG, PGS, TS. TRỊNH VƯƠNG HỒNG

CHỦ BIÊN
ĐẠI TÁ, PGS, TS. HỒ KHANG

TÁC GIẢ
ĐẠI TÁ, PGS, TS. HỒ KHANG
ĐẠI TÁ NGUYỄN NHƯ MINH
ĐẠI TÁ, ThS. TRẦN TIẾN HOẠT
ĐẠI TÁ, TS. NGUYỄN HUY THỤC
ĐẠI TÁ, TS. NGUYỄN XUÂN NĂNG
THƯỢNG ÚY LÊ QUANG LANG
ĐẠI ÚY NGUYỄN VĂN QUYỀN


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 07 Tháng Giêng, 2011, 06:33:33 am
LỜI NHÀ XUẤT BẢN

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 21 năm gian khổ của dân tộc ta, năm 1972 có vị trí đặc biệt quan trọng tạo ra bước ngoặt lớn của chiến tranh với những thắng lợi có tính quyết định, trên cả hai miền Nam - Bắc, có đấu tranh quân sự, chính trị và ngoại giao. Trên chiến trường Đông dương, một mặt, đế quốc Mỹ tiếp tục thực hiện Học thuyết quân sự Níchxơn, đẩy mạnh Việt Nam hóa, Lào hóa, Khơme hóa chiến tranh, rút dần quân chiến đấu Mỹ và quân các nước phụ thuộc Mỹ về nước, đồng thời ồ ạt tăng cường cho ngụy quân, ngụy quyền cả vũ khí, trang bị, huấn luyện và viện trợ mọi mặt để chế độ Thiệu đứng vững.

Đầu tháng 3-1972, Thường vụ Quân ủy Trung ương căn cứ vào chủ trương chiến lược của bọ Chính trị và thực tế chiến trường đã quyết định điều chỉnh phương án, tiến hành cuộc tiến công chiến lược trong năm 1972 trên toàn miền Nam: chiến trường Trị - Thiên từ hướng phối hợp trở thành hướng tiến công chủ yếu, Đông Nam Bộ, Tây Nguyên, Khu 5 đẩy mạnh tác chiến phối hợp với chiến trường chính Trị - Thiên.

Ngày 23-3-1972, Bộ Chính trị phê chuẩn phương án tác chiến chiến lược của Thường vụ Quân ủy Trung ương.

Thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, ngày 30-3-1972 cuộc tiến công chiến lược năm 1972 của Quân giải phóng miền Nam bắt đầu bằng ba chiến dịch tiến công ở đường 9 - Trị - Thiên, bắc Tây Nguyên, Đông Nam Bộ kết hợp với các chiến dịch tiến công tổng hợp ở đồng bằng sông Cửu Long và Khu 5, giáng một đòn sấm sét vào quân đội và chế độ Sài Gòn, làm rung chuyển cả Nhà Trắng và Lầu Năm Góc Mỹ. Không cam chịu nhìn chế độ và quân đội Sài Gòn sụp đổ từng mảng lớn, đế quốc Mỹ lập thức huy động tối đa không quân và hải quân đánh trả dữ dội khắp các chiến trường và thúc ép quân đội Sài Gòn phản kích quyết liệt hòng tái chiếm những vùng đã mất.

Thâm độc hơn, đế quốc Mỹ dùng chính sách ngoại giao con thoai xảo quyệt với các nước lớn, thỏa hiệp với Trung Quốc và Liên Xô bằng chuyến thăm Bắc Kinh tháng 2-1972 và Mátxcơva tháng 5-1972 của Tổng thống Níchxơn hòng cô lập cách mạng Việt Nam. Đồng thời, từ ngày 6-4-1972, đế quốc Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai bằng không quân và hải quân đánh phá khốc liệt, thả mìn bao vây phong tỏa hoàn toàn miền Bắc nước ta hòng bóp nghẹt sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam, của bạn bè quốc tế chi viện cho cuộc chiến đấu của nhân dân ta.

Một lần nữa cả nước lại có chiến tranh ác liệt. Quân và dân ta dưới sự lãnh đạo của Bộ Chỉ huy tối cao của cuộc kháng chiến đã bền lòng và kiên định đẩy mạnh cuộc tiến công chiến lược ở miền Nam, kiên quyết giáng trả đích đáng và có hiệu quả cuộc chiến tranh bóp nghẹt trên miền Bắc nước ta của không quân và hải quân Mỹ, đồng thời tăng cường sự giúp đỡ cách mạng Lào và cách mạng Campuchia.

Cuộc chiến đấu 81 ngày đêm bảo vệ Thành cổ Quảng Trị mùa hè đỏ lửa 1972, cuộc chiến đấu kiên cường 12 ngày đêm đập tan cuộc tập kích chiến lược vào Hà Nội - Hải Phòng bằng máy bay B.52 của không quân Mỹ là biểu tượng và bài ca bất tử về sức mạnh con người và ý chí Việt Nam, buộc đế quốc Mỹ dù nhiều lần tráo trở đã phải ký Hiệp định Pari, tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc ta, rút hết quân chiến đấu Mỹ và quân các nước phụ thuộc Mỹ ra khỏi lãng thổ Việt Nam. Nhiệm vụ “đánh cho Mỹ cút” đã hoàn thành. Sự sụp đổ của quân đội và chính quyền Sài Gòn - tức “ngụy nhào” chỉ còn là vấn đề thời gian.

Tập VII Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975) do PGS, TS. Hồ Khang chủ biên mang tiêu đề Thắng lợi quyết định năm 1972 đã trình bày khá chi tiết và tương đối đầy đủ ở tầm khái quát cuộc chiến đấu hào hùng của quân và dân ta trên cả hai miền Nam - Bắc và chiến trường Đông Dương, cả trên mặt trận quân sự, chính trị và ngoại giao.

Nhân kỷ niệm 35 năm cuộc chiến đấu anh hùng bảo vệ Thành cổ Quảng Trị và 35 năm đập tan cuộc tập kích chiến lược vào Hà Nội - Hải Phòng của máy bay B.52 Mỹ, chúng tôi phối hợp với Viện Lịch sử quân sự Việt Nam xuất bản cuốn sách này.

Trận trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc.

Tháng 6 năm 2007           
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 07 Tháng Giêng, 2011, 06:35:36 am
CHƯƠNG XXVII

NẮM BẮT THỜI CƠ LỚN, HẠ QUYẾT TÂM
CHIẾN LƯỢC GIÀNH THẮNG LỢI QUYÉT ĐỊNH

I - NHỮNG CHUYỂN BIẾN MỚI VỀ SO SÁNH
LỰC LƯỢNG VÀ THẾ CHIẾN LƯỢC GIỮA TA VÀ ĐỊCH
TRÊN CHIẾN TRƯỜNG NĂM 1972

Năm 1971 khép lại với thắng lợi to lớn, toàn diện, mà nổi bật là chiến thắng lịch sử đường 9 - Nam Lào. Với chiến thắng này, quân và dân ta ở miền Nam đã giành được thắng lợi rất quan trọng, đánh thắng một bước cơ bản chiến lược Việt Nam hóa và Đông Dương hóa chiến tranh của đế quốc Mỹ, góp phần làm thay đổi cục diện chiến tranh ở cả ba nước trên bán đảo Đông Dương có lợi cho sự nghiệp kháng chiến của Việt Nam, Lào, Campuchia. Đối với đế quốc Mỹ, sau cả một quá trình cố gắng cao độ trong nỗ lực xây dựng và tăng cường về quân số, về trang bị, vũ khí… có quân đội Sài Gòn mạnh lên, đủ sức thay thế quân Mỹ, đủ sức đảm nhận vai trò nòng cốt cho Việt Nam hóa, Khơme hóa và Lào hóa chiến tranh của chính quyền Níchxơn, thì thất bại này, toan tính và âm mưu trên đây bị giáng một đòn quyết liệt. Thất bại nặng nề ở đường 9 - Nam Lào chứng tỏ quân đội chính quy của Việt Nam cộng hòa cho dù có tới 13 sư đoàn, 8 trung đoàn, và 37 tiểu đoàn độc lập, hưng không đủ khả năng mở những cuộc hành quân tiến công quy mô vừa và lớn. Hơn nữa, sau thất bại này, đội quân đó buộc phải chuyên dần vào thế phòng ngự theo từng khu vựctheo tuyến như tuyến biên giới Việt Nam - Campuchia, tuyến đường 9, tuyến Trị - Thiên, khu vực Đà Nẵng, khu vực Tây Nguyên, khu vực xung quanh Sài Gòn - Gia Định từ tây bắc đến đông nam… Việc đội quân chủ lực Sài Gòn chuyển vào phòng ngự trên quy mô chiến lược và chiến dịch làm nảy sinh những mâu thuẫn mới. Đó là mâu thuẫn giữa tập trung và phân tán, giữa nhiệm vụ phòng giữ căn cứ, cơ quan đầu não ở các thành phố, thị xã với nhiệm vụ bình định nông thôn… Trong điều kiện binh lực và sự yểm trợ của quân Mỹ trên chiến trường ngày càng bị cắt gảm và quá trình đó là không thể đảo ngược thì, theo thời gian, những mâu thuẫn trên đây chẳng những không thể nào khắc phục được, mà hơn thế, ngày càng bị khoét sâu thêm mặc dù quân đội Sài Gòn tăng lên, đông tới hơn 1 triệu tên, được Mỹ trang bị những hệ vũ khí và phương tiện chiến tranh hiện đại. Sau khi buộc phải rút chạy khỏi khu vực đường 9 - Nam Lào và bị đánh đại bại ở Tây Nguyên, ở Campuchia trong cuộc Hành quân Quang Trung 4 và Toàn thắng 1-1971, tinh thần, ý chí sĩ quan, binh lính quân đội Sài Gòn sa sút nghiêm trọng, không còn vững tin vào thành công của Việt Nam hóa chiến tranh. Tuy vậy, về tổ chức, Nguyễn Văn Thiệu và Bộ Tổng Tham mưu Quân lực Việt Nam cộng hòa còn nắm được quân đội, còn điều khiến được công cụ này nhờ vào viện trợ của Mỹ. Nhân lúc quân đội Sài Gòn - lực lượng nòng cốt cho Đông Dương hóa chiến tranh bị suy yếu, quân tình nguyện Việt Nam phối hợp với lực lượng Pathét Lào mở đợt tiến công giải phóng Cánh Đồng Chum - Mường Sủi, Sảm Thông - Long Chẹng, đẩy địch chạy về Nậm Ngừm; tiếp đó, Pathét Lào đánh chiếm Xảm Thông - Phu Mộc, giải phóng Salaphukhin, Kiều Ca Cham và Bắc Ca Si. Ở Campuchia, ta đánh bại cuộc hành quân Chenla II của quân Lon Non. Vùng giải phóng 10 tỉnh Đông Bắc Campuchia được củng cố vững chắc.

Kể từ sau khi giải phóng Atôpơ, Xaravan, Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng và vùng Đông Bắc Caumpuchia năm 1970 cho đến lúc này, việc ta và bạn giải phóng cao nguyên Bôlôven, Cánh Đồng Chum - Mường Sủi, Sảm Thông - Long Chẹng…, đã mở rộng và tăng cường vùng giải phóng trên một địa bàn chiến lược rộng lớn nối liền hậu phương miền Bắc Việt Nam với Thượng Lào, Trung - Hạ Lào, miền tây Trị - Thiên và Tây Nguyên, miền Đông Nam Bộ với vùng Đông Bắc Campuchia, tao thành căn cứ cách mạng ở miền Trung Đông Dương. Từ nay, cách mạng ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia có chung một căn cứ rộng lớn, liên hoàn và vững chắc, thực sự là địa bàn đứng chân, xây dựng và phát triển lực lượng kháng chiến, tăng cường quan hệ đoàn kết chiến đấu chống kẻ thù chung là đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai giữa quân đội và nhân dân ba nước.

Trong khi quân chủ lực ngụy Sài Gòn, Campuchia, Lào bị đánh mạnh, tinh thần của chúng sa sút nghiêm trọng, thì Mỹ vẫn buộc phải tiếp tục rút quân chiến đấu ra khỏi miên Nam Việt Nam. Các sư đoàn thiện chiến Mỹ lần lượt kết thúc sự có mặt trên chiến trường Việt Nam, đầu tiên là sư đoàn bộ binh số 9 và tiếp đó, các đơn vị như Sư đoàn Anh cả đó, sư đoàn kỵ binh không vận số 1, Sư đoàn bộ binh số 4, Sư đoàn thủy quân lục chiến số 3, sư đoàn bộ binh 23 và 25, Sư đoàn dù 101, Lữ đoàn dù 173, Sư đoàn thủy quân lục chiến số 1, Sư đoàn bộ binh cơ giới số 5, Sư đoàn không quân 83… Đến trước ngày 1-5-1972, quân Mỹ trên chiến trường Việt Nam chỉ cỏn lại 69.000 tên. Quân các nước đồng minh của Mỹ cũng đang trong quá tình tương tự: từ 69.000 tên năm 1968, đến năm 1972 còn 38.000 tên. Quân Mỹ, quân các nước đồng minh của Mỹ rút đi, bỏ trống những vùng đất đai rộng lớn ở miền Nam, quân đội Sài Gòn phải điều quân chắp vá và thay thế những nơi quân Mỹ rút, buộc chúng phải dàn mỏng lực lượng tỏng thế bố trí chiến lược mỏng yếu, lộn xộn. Ở Trị - Thiên, sư đoàn 3 và Sư đoàn thủy quân lục chiến (dự bị chiến lược của Việt Nam cộng hòa) phải căng ra đảm nhiệm việc phòng thủ cả khu vực đường 9 - bắc Quảng Trị với chiều dài từ Cửa Việt lên đến Lao Bảo. ở khu 5, các Sư đoàn 1 và 2 phải rải ra phòng giữ ba tỉnh Quảng Đà, Quảng Tín, Quảng Ngãi. Ở Quân khu II, các sư đoàn 22 và 23 dàn mỏng lực lượng bảo vệ 12 tỉnh đồng bằng Nam Trung Bộ và Tây Nguyên. Quân khu III - vị trí chiến lược hiểm yếu của địch, nơi có Sài Gòn - Gia Định cùng các tỉnh Tây Ninh, Hậu Nghĩa, Bình Long, Phước Long, Thủ Dầu Một, Long Khánh - Biên Hòa, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, Long An, bốn sư đoàn bộ binh và dù phải giăng ra phòng giữ từ phía tây bắc, bắc đến đông nam Sài Gòn - Gia Định. Còn các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long (Quân khu 4) địch bố trí ba sư đoàn 7, 19 và 21. Trên một vùng rộng sông nước, sình lầy từ Cần Thơ, Bến Tre đến Cà Mau, Phú Quốc, có đường biên giới giáp với Campuchia, việc chỉ có ba sư đoàn phòng giữ không thể bảo đảm an ninh và bình định, nên lực lượng địch ở đây bị căng kéo, phân tná mỏng để đối phó với phong trào chiến tranh du kích của ta. Trong khi lực lượng quân sự của chính quyền Sài Gòn buộc phải bố trí phân tán không đều trên các địa bàn chiến lược, thì hỏa lực chi viện của Mỹ giảm mạnh, nhất là hỏa lực không quân, pháo binh. Tình hình đó khiến cho quân đội Sài Gòn tuy đông về số lượng, nhưng vẫn luôn cảm thấy “trống lưng, hở sườn”, không được che chắn, bị cô lập. Cả điêu này cũng đã là tác nhân khiến tinh thần chiến đấu của quân đội Sài Gòn vốn đã sa sút càng sa sút nghiêm trọng, không thể đảm đương nối vai trò “nòng cốt” thực hiện chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh như Mỹ mong đợi.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 07 Tháng Giêng, 2011, 06:37:03 am
Về phía ta, năm 1971, ở chiến trường miền Nam, lực lượng vũ trang Quân giải phóng có 7 sư đoàn, 19 trung đoàn chủ lực cơ động; 95 tiểu đoàn, 350 đại đội, 185 trung đội bộ đội địa phương tỉnh, huyện và hàng chục vạn du kích, tự vệ chiến đấu ở kháp cá thôn, xã, thị trấn, thành phố. Toàn bộ lực lượng này đứng chân trên những địa bàn chiến lược trọng yếu, hình thành thế bố trí xen kẽ với địch. Trong điều kiện cần chớp thời cơ, mở những chiến dịch lớn hoặc mở cuộc tiến công chiến lược, nhiều sư đoàn, trung đoàn bộ binh và binh chủng mảnh tự hậu phương miền Bắc được tăng cường cho chiến trường miền Nam. Chỉ trong năm 1970-1971, miền Bắc đưa nhiều đơn vị binh chủng kỹ thuật như xe tăng, pháo binh, cao xạ, công binh - đặc biệt là xe tăng T54, pháo 130mm, Đ74, hỏa tiễn, súng phòng không A72, súng chống tăng B72 điều khiến bằng vô tuyến điện… vào chiến trường.

So sánh lực lượng quân sự ở miền Nam và Đông Dương, quân ta mạnh hơn hẳn quân địch về mọi mặt, lại nắm quyền chủ động chiến trường và trong thế bố trí chiến lược có lợi, luôn luôn vây hãm quân địch và thế bị động chống đỡ.

Ở thế có lợi, quân dân ta trên khắp chiến trường Trung Trung Bộ và vùng đồng bằng sông Cửu Long trong năm 1971, đã tích cực thực hiện chỉ thị của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng, tận dụng thời cơ nhân lúc quân chủ lực địch bị ta đánh bại ở tuyến ngoài, đẩy manh tiến công và nổi dậy đánh phá kế hoạch “bình định đặc biệt” và “chương trình cộng đồng tự vệ, phát triển nông thôn” của địch. Ở khu 5, trong hai đợt hoạt động Xuân - Hè và Thu - Đông 1971, ta đã diệt 23 đồn, bốt địch và đánh thiệt hại các căn cứ quân sự Xã Đốc (Quảng Đà), Dục Mỹ (Khánh Hòa), Đèo Son (Quy Nhơn), sân bay Đà Nẵng (Quảng Đà), sông Mao (Bình Thuận), Nghĩa Hành (Quảng Ngãi), Hoài Nhơn, Phù Mỹ (Bình Đinh), Phú Nhơn, Phú Thiện (Gia Lai), v.v. Đón tiến công quân sự trên đây trực tiếp hỗ trợ cho nhân dân các nơi nổi dậy, phá tan từng mảng ấp Tân Sinh, giành quyền làm chủ, khôi phục nhiều căn cứ lõm bí mật, vùng kiểm soát của địch bị thu hẹp. Ở Nam Bộ, quân và dân ta kết hợp chặt chẽ tiến công và nổi dậy, kết hợp đấu tranh quân sự với chiến tranh và binh vận đã giành lại các vùng trọng điểm bình định của địch ở nam, bắc đường số 4 (Mỹ Tho), Mỏ Cày, Giồng Trôm (Bến Tre), tuyến sông Mang Thít (Trà Vinh), Chương Thiện (Cần Thơ), Đức Hòa, Đức Huệ (Long An), Dầu Tiếng, Bến Cát (Thủ Dầu Một), Củ Chi (Gia Định). Nhìn chung, các hoạt động tiến công quân sự kết hợp với nổi dậy của nhân dân các địa phương thuộc Khu 5, Nam Bộ phát triển tốt, cuộc chống phá bình định đạt kết quả, đã làm cho tình hình nông thôn miền Nam biến chuyển có lợi cho cách mạng, tạo đà cho nhân dân vượt qua thời kỳ khó khăn nghiêm trọng năm 1969-1970, đánh lùi địch nhiều nơi, giữ vững vùng giải phóng và căn cứ địa.

Cùng với phong trào chống phá bình định ở nông thôn, phong trào đấu tranh chính trị của nhân dân vùng đô thị - nhất là Sài Gòn - Gia Định - cũng diễn ra sôi nổi, liên tục khiến hậu phương, hậu cứ của chính quyền và quân đội Sài Gòn thường xuyên không ổn định. Phong trào đấu tranh chính trị trong thời kỳ này có những điểm mới về hình thức và nó. Ngoài những cuộc xuống đường mít tinh, bãi công, chống các hãng thầu Mỹ bóc lột công nhân, đòi tăng lương như những năm trước, giờ đây, còn xuất hiện phong trào Hát cho đồng bào tôi nghe của thanh niên, sinh viên, học sinh đô thị. Những cuộc đấu tranh chính trị của đồng bào thành thị không dừng lại ở mục tiêu đồi các quyền dân sinh, dân chủ, mà hơn thế, chứa đựng và biểu lộ tinh thần dân tộc, mang nội dung “Đòi Mỹ chấm dứt chiến tranh xâm lược”, đòi “Thiệu - Kỳ từ chức”, “miền Nam của người Việt Nam”, “bãi bỏ chế độ quân sự hóa học đường”, v.v. Các cuộc đấu tranh chính trị từ Sài Gòn đã lan ra các thành phố, thị xã như Huế, Đà Nẵng, Đà Lạt, Cần Thơ… Các tổ chức quần chúng như Phong trào phụ nữ đòi quyền sống; Ủy ban nhân dân tranh thủ hòa bình; Ủy ban nhân dân đòi quyền sống; Nghiệp đoàn 36 chợ Đô thành… đã tổ chức mít tinh lên án Mỹ và chính quyền Sài Gòn, đòi chấm dứt chiến tranh, đòi Mỹ rút quân ra khỏi miền Nam, v.v.

Những thắng lợi về quân sự, chính trị có ý nghĩa chiến lược của quân và dân ta trong thời kỳ đế quốc Mỹ thực hiện Việt Nam hóa chiến tranh và Học thuyết Níchxơn trong các năm 1970, 1971 đã tạo ra thế và lực mới, đảm bảo cho sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước tiếp tục phát triển: chúng ta “có điều kiện kết hợp chặt chẽ đấu tranh quân sự, chính trị, ngoại giao, tiếp tục phát triển quyền chủ động tiến công giành thắng lợi mới có ý nghĩa chiến lược lớn hơn trong năm 1972”(1).


(1) Ban Chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị: Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước - Thắng lợi và bài học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.83.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 07 Tháng Giêng, 2011, 06:42:11 am
Miền Bắc - hậu phương chiến lược của cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược - vẫn vững vàng vượt qua mọi khó khăn, thử thách do đế quốc Mỹ gây ra, khẩn trương hàn gắn vết thương chiến tranh, phục hồi sản xuất, ổn định đời sống nhân dân. Là hậu phương trực tiếp của cách mạng Việt Nam ở miền Nam, hậu phương của cách mạng hai nước Lào, Campuchia, miền Bắc xã hội chủ nghĩa luôn luôn cùng một lúc phải làm hai nhiệm vụ chiến lược: bảo vệ và tăng cường tiềm lực và sức mạnh miền Bắc, đồng thời ra sức động viên nhân tài, vật lực chi viện cho miền Nam, Lào, Campuchia ngày càng tăng. Đứng trước đòi hỏi của tình hình và nhiệm vụ mới, năm 1971, miền Bắc dấy lên cuộc vận động chính trị rộng lớn, phát động phong trào thi đua lao động sản xuất giỏi sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu cao “vì tiền tuyến miền Nam và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.

Mặc dù buộc phải ngừng ném bom và các hành động quân sự khác chống nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nhưng trên thực tế, Mỹ không tôn trọng những cam kết, vẫn tiếp tục các chuyến bay do thám và đánh phá miền Bắc. ngày 21-11-1970, các tỉnh Nghệ An, Quảng Bình, Vĩnh Linh bắn rơi 13 máy bay Mỹ khi chúng đến ném bom, bắn phá tuyến vận tải chiến lược trên địa bàn Khu 4. Cũng trong ngày này, Mỹ dùng máy bay lên thẳng (được máy bay phản lực F.105 nghi binh, yểm trợ), chở lực lượng đặc biệt gồm 56 tên, do Đại tá Simôn chỉ huy, lợi dụng đêm tối, bất ngờ đổ bộ xuống thị xã Sơn Tây - địa điểm cách Hà Nội 32km về phía tây, nhằm cướp tù binh Mỹ. Níchxơn hy vọng cuộc giải thoát tù binh Mỹ nếu thành công sẽ xoa dịu được tinh thần đấu tranh đòi rút quân Mỹ khỏi Việt Nam của nhân dân Mỹ và sẽ mặc cả với ta tại cuộc đàm phán Pari. Song, cuộc tập kích Sơn Tây giải thoát tù binh Mỹ bị thất bại, ta cảnh giác với ý đồ của Mỹ và đã di chuyển tù binh đi nơi khác.

Trên tuyến vận tải chiến lược Trường Sơn, từ giữa năm 1970, thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng về việc tăng cường, mở rộng tuyến vận tải chiến lược này, bảo đảm vận chuyển thông suốt cả đêm lẫn ngày suốt bốn mùa mưa, nắng, Đoàn 559 - lực lượng chủ yếu vận chuyển vật chất, kỹ thuật và đưa đón bộ đội từ hậu phương miền Bắc tăng cường cho chiến trường miền Nam, Campuchia - lúc này có tổng quân số 90.000 người, bao gồm 40 trung đoàn, tiểu đoàn vận tải đường sông và lực lượng bộ binh, cao xạ, bộ binh. Bộ Quốc phòng bổ sung cho Đoàn 559: 3.500 xe ôtô, 1.00 xe máy làm đường và rà phá bom mìn, 200 khẩu pháo cao xạ, 700 máy vô tuyến điện. Trước tình hình mới, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng giao cho Bộ Tư lệnh Đoàn 559 tổ chức các sư đoàn khu vực: 470, 471, 472, 473, 51 và quy định toàn tuyến vận tải chiến lược Trường Sơn thành 5 khu vực(1). Đoàn 559 còn được tăng cường hàng vạn thanh niên xung phong và dân công hỏa tuyến. Lực lượng nay được động viên từ các tỉnh miền Bắc, làm nhiệm vụ mở đường, san lấp hố bom, gùi thồ đạn, gạo, bốc dỡ hàng, bảo vệ kho tàng… Trong nhiều trường hợp, những nữ thanh niên xung phong bất chấp hiểm nguy, đã làm “lộ tiêu sống” dẫn đường cho các đoàn xe vận tải vượt ngầm dưới sự săn lùng, đánh phá của máy bay địch. Toàn bộ lực lượng trên đây trong năm 1971, đã dồn sức mở rộng mạng đường, bao gồm hệ thống trục dọng, trục ngang, đường vòng tránh các trọng điểm và mạng đường này có tổng chiều dài lên tới 20.330 km (tính đến mùa Xân 1975) trong đó mở mới 16.790 km và 6 trục dọc, 13 trục ngang và 700 km đường vượt khẩu, 4.700 km đường vòng tránh, 1.200 km đường ống dẫn dầu từ miền Bắc đến Bù Gia Mập được khẩn trương lắp đặt, đi vào hoạt động, bao gồm 112 trạm bơm, 257.050 m3 kho chứa vào cuối năm 1971. Đây là công trình có tầm quan trọng chiến lược, được Đảng, Nhà nước tập trung chỉ đạo. Một lực lượng lớn cán bộ, công nhân các ngành cơ khí, vật tư, kiến trúc, bộ đội xăng dầu và cùng hàng vạn lao động các tỉnh Quảng Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa, Ninh Bình, Nam Định, Hòa Bình, Hà Nam, Hà Đông, Sơn Tây, Hải Hưng được động viên vào nhiệm vụ này.

Với những nỗ lực trên đây, năm 1971, qua đường vận tải biển và dường 559 thông suốt, miền Bắc đã chuyển vào chiến trường miền Nam 135.663 tấn lương thực, 22.392 tấn thực phẩm, 29.389 tấn xăng dầu, 985 tấn thuốc quân y, 16.000 tấn vũ khí, ngoài việc tăng cường lực lượng, vật chất, kỹ thuật cho miền Nam, Đảng và Nhà nước ta dành một phần lớn vật chất, kỹ thuật giúp đỡ cách mạng Campuchia và Lào. Trên miền Bắc, các mặt chuẩn bị theo phương án sẵn sàng đánh bại âm mưu và hành động của kẻ thù nếu chúng liều lĩnh mở rộng chiến tranh trên bộ ra Vĩnh Linh, Quảng Bình, Hà Tĩnh, sẵn sàng đương đầu và đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân Mỹ lần thứ hai… cũng được gấp rút triển khai.


(1) Theo phân công, mỗi bộ tư lệnh khu vực phụ trách một số tuyến vận tải và một cụm binh trạm, cụ thể:
- Bộ Tư lệnh 471 phụ trách trục đường phía tây, tiếp chuyển hàng của Bộ Tư lệnh 472 gồm 6 binh trạm (35, 36, 38, 44, 46 và 47).
- Bộ Tư lệnh 472 phụ trách khu vực trung tâm phía tây Trường Sơn gồm 6 binh trạm (32, 33, 34, 39, 45 và 12).
- Bộ Tư lệnh 473 phụ trách các trục đường 16, 9, 14, 29, 128 và B45 phía đông Trường Sơn gồm 4 binh trạm (27, 28, 41 và 42).
- Bộ Tư lệnh 470 (thành lập tháng 4-1970) gồm 5 binh trạm (37, 50, 51, 52 và 53).
- Bộ Tư lệnh 571 (Bộ Tư lệnh hậu phương) gồm Trường Quân chính, Viện Quân y 59, Đoàn giao nhận xe (tương đương trung đoàn) và các đơn vị trực thuộc khác.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 07 Tháng Giêng, 2011, 06:44:23 am
Trong hai năm 1970-1971, đế quốc Mỹ dốc sức thực hiện Học thuyết Níchxơn bằng cách xây dựng quân đội Sài Gòn mạnh đủ sức làm nòng cốt cho việc thực hiện chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh, tiến hành bình định miền Nam và Lào, hòng tiêu diệt khối chủ lực Quân giải phóng, phá “đất thánh Việt cộng”, cắt đứt tuyến vận tải chiến lược Trường sơn, bao vây, cô lập và bóp nghẹt phong trào cách mạng miền Nam. Song, chủ lực quân đội Sài Gòn bị tiêu diệt lớn ở đường 9 - Nam Lào, Đông Bắc Campuchia. Những mục tiêu đề ra cho các cuộc hành quân trong năm 1971 của quân đội Sài Gòn đã bị thất bại. Quân đội Sài Gòn thua trận, tinh thần chiến đấu sa sút đã ảnh hưởng rất lớn đến nỗ lực thực hiện kế hoạch “bình định đặc biệt” do chính quyền Sài Gòn và tòa Đại sứ Mỹ, Cục Tình báo Trung ương Mỹ (CIA)… vạch ra. Chiến lược Việt Nam háo chiến tranh của Mỹ bị đẩy lùi một bước căn bản.

Trên thực tế, dựa vào số quân đông và được Mỹ tăng cường huấn luyện, trang bị nên quân đội Sài Gòn trong năm 1971 cũng đã bung ra đóng thêm nhiều đồn bốt, giữ được một số lớn ấp chiến lược, khu dinh điền. Cuộc đấu tranh trên mặt trận chống phá bình định diễn ra ác liệt suốt năm 1971. Tuy nhiên, do quân Mỹ tiếp tục rút đi và ta hoạt động mạnh, chiến tranh du kích phát triển đều khắp trên cả ba vùng chiến lược; đồng bào thành thị ngày càng hướng về cách mạng với niềm tin chiến thắng, ủng hộ cách mạng và tham gia đấu tranh chính trị mạnh mẽ…, nên hoạt động bình định của địch bắt đầu chững lại và chúng bộc phải rút bớt chỉ tiêu. Trong khi đó các sư đoàn chủ lực Quân giải phóng từ các vùng biên giới đã trở lại đứng chân, hoạt động ở những địa bàn xung yếu, áp sát các vành đai phòng thủ của địch và các đô thị lớn. Mặc dù địch và ta còn ở thế giằng co quyết liệt, nhưng tình hình nông thôn miền Nam giờ đây đã vượt qua thời kỳ khó khăn, nghiêm trọng và tạo ra những điều kiện thuận lợi mới hết sức cơ bản để tiến lên thực hiện nhiệm vụ chiến lược tiếp theo.

Những thắng lợi trên đây ở tiền tuyến, ở hậu phương năm 1971, “đã làm phá ản một bước quan trọng chính sách Việt Nam hóa chiến tranh và Học thuyết Níchxơn của đế quốc Mỹ ở Đông Dương. Năm 1971 là năm địch có những cố gắng lớn, nhưng cũng là năm chúng bị thua nặng, ta thắng to”(1); so sánh thế và lực giữa ta và địch trên chiến trường diễn biến căn bản thuận lợi cho cách mạng miền Nam, cách mạng ba nước Đông Dương. “Ta đang thế thắng, thế chủ động, thế thuận lợi, thế đi lên, mặc dầu còn có những khó khăn và nhược điểm cần phải khắc phục; địch đang ở thế thua, thế bị động, thế khó khăn, thế đi xuống, mặc dầu chúng đang còn nhiều lực lượng và có những chỗ mạnh tạm thời”(2).

Những thắng lợi to lớn trên mặt trận quân sự và chính trị ở chiến trường Việt Nam, Campuchia, Lào làm chuyển biến căn bản cục diện cách mạng ở đông Dương, đã tác động tích cực đến phong trào đấu tranh của nhân dân thế giới, nhân dân tiến bộ Mỹ, đòi chấm dứt chiến tranh xâm lược Việt Nam, đòi rút quân Mỹ về nước.

Tại Mỹ, các tầng lớp xã hội Mỹ tiếp tục đẩy mạnh hoạt động đấu tranh chống cuộc chiến tranh của chính quyền Níchxơn, đòi rút quân Mỹ ra khỏi chiến tranh Việt Nam. Khi Níchxơn nhậm chức Tổng thống Mỹ, 7.000 nhà hoạt động do Ủy ban động viên toàn quốc đòi chấm dứt chiến tranh Việt Nam lãnh đạo, đã tổ chức nhiều cuộc biểu tình, míttinh hô vang các khẩu hiệu phản đối cuộc chiến tranh Việt Nam của chính quyền… Những người tham gia phong trào nhận thức rất rõ rằng trở ngại hòa bình không phải là Hà Nội mà là cố gắng không thích hợp, không đầy đủ của Chính phủ Mỹ. Ngày 15-10-1971, phong trào ngừng hoạt động vì Việt Nam đã huy động hơn một triệu người xuống dường ở Oasinhtơn, hô vang khẩu hiệu “Hòa bình ngay bây giờ!”. Đặc biệt, năm 1969, trong quân đội Mỹ cúng bắt đầu dấy lên phong trào “chống chiến tranh Việt Nam của chính quyền”. Họ tổ chức 17 cuộc biểu tình tại các doanh trại, căn cứ của binh chủng lục quân, không quân, hải quân ở Mỹ phản đối cuộc chiến tranh do chính quyền phát động, đòi Níchxơn phải chấm dứt chiến tranh ngay lâp tức, phải rút hết quân Mỹ khỏi Việt Nam! Ngày 18-4-1971, 2.000 cựu chiến binh từng chiến đấu ở chiến trường Việt Nam về, kéo đến thủ đô Oasinhtơn gặp Quốc hội, rồi đến nghĩa trang Arlinhgtơn tổ chức rước đuốc phản dối cuộc chiến tranh của Mỹ. Những cựu chiến binh vứt bỏ huân chương khen thưởng họ trong chiến tranh Việt Nam lên thềm nhà Quốc hội để phản đối cơ quan lập pháp cho phép Tổng thống tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam. Phong trào chống chiến tranh Việt Nam ở Mỹ lên cao đã tác động đến nhiều nghị sĩ ở Thượng viện và Hạ viện Hoa Kỳ. Đó là một nhân tố tác động góp phần dẫn đến việc tháng 4-1971, Hạ viện Mỹ biểu quyết đòi rút hết quân Mỹ khỏi Việt Nam với số phiếu 122/260. ngày 17-6 cùng năm, số phiếu biểu quyết của Hạ viện về việc rút quân Mỹ, chấm dứt chiến tranh Việt Nam tăng lên 158/224 vàn gày 28-6 số phiếu đó là 175/219… Với số phiếu này, Hạ viện Mỹ quyết nghị yêu cầu Chính phủ chấm dứt chiến tranh Việt Nam. Đây là lần đầu tiên Hạ viện Mỹ bỏ phiếu hủy bỏ “chính sách Việt Nam của chính quyền” bằng luật. Ủy ban chính sách của Đảng Dân chủ tại Thượng viện đòi Níchxơn rút hết quân Mỹ, kể cả không quân yểm trợ, khỏi Đông Dương vào ngày 30-11-1972… Đây là những quyết định mạnh mẽ của cơ quan lập pháp Mỹ nhằm vào chính quyền hiếu chiến Níchxơn. Nội bộ chính quyền Mỹ bị chia rẽ nghiêm trọng vì cuộc chiến tranh Việt Nam.


(1), (2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, t. 33 (1972, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.141.142.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 07 Tháng Giêng, 2011, 06:46:56 am
Do bị thất bại trong chính sách Việt Nam hóa chiến tranh và bị sức ép nặng nề trong nước đòi rút quân Mý, tại Hội nghị Pari, phái đoàn Mỹ tỏ ra mềm mỏng hơn, Mỹ không đòi hai bên cùng rút quân như trước nữa mà tuyên bố sẵn sàng đề ra thời hạ cuối ùng cho việc rút quân Mỹ. Ngày 31-5-1971 trong cuộc gặp riêng giữa Bộ trưởng Xuân Thủy với Kítxinggiơ, ông ta đưa đề nghị 7 điểm. Trong 7 điêm này, Kítxinhgiơ nói: “sẵn sàng ấn định thời hạ rút quân Mỹ”, nhưng không nói ngày nào cụ thể. Ông ta còn lập lờ “Người Việt Nam và người các nước Đông Dương khác sẽ thảo luận rút các lực lượng ngoại nhập khác”. Ngày 1-7-1971, tại phiên họp lần thứ 119 của Hội nghị bốn bên đại diện Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam trình bày sáng kiến mới gồm 6 điểm, nhăm giải quyết hòa bình vấn đề miền Nam Việt Nam(1). Nhiều nghị sĩ Mỹ kể cả Níchxơn đều chung nhận xét về đề nghị mới này của chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam khai thông con đường để Quốc hội Mỹ thông qua chính sách chấm dứt chiến tranh. Quốc hội Mỹ đòi chính quyền Níchxơn không được bỏ lỡ cô hội này. Tuy nhiên, trên thực tế, cho đến giữa năm 1971, cuôc đàm phán Việt Nam - Hoa Kỳ chưa thật sự có chuyển biến lớn, hai bên còn nhiều điểm bất đồng phải tiếp tục giải quyết. Lúc này hai đảng Dân chủ và Cộng hòa ở Mỹ đang ráo riết vận động tranh cử tổng thống vào cuối năm 1972, mà vấn đề chấm dứt chiến tranh Việt Nam, rút quân Mỹ về nước rở thành nội dung rất quan trọng. Để xoa dịu làn sóng phản đối chiến tranh tỏn nước và cũng để tranh thủ lá phiếu ủng hộ, Níchxơn hứa hẹn trước nhân dân Mỹ là sẽ chấm dứt chiến tranh, rút quân về nước, nhưng ông ta không nói rõ chấm dứt chiến tranh bằng cách nào và bao giờ thì rút quân Mỹ. Sự “lập lờ” giữa lời hứa và hành động thực tế của Níchxơn bị nhân dân Mỹ và dư luận thế giới phản đối mạnh mẽ. Những cuộc xuống đường đấu tranh chống Mỹ trên thế giới và ở ngay trên đất Mỹ lại diễn ra sôi động. Nhân dân và chính phủ nhiều nước tích cực hưởng ứng lời kêu gọi của Hội đồng hòa bình thế giới ủng hộ Việt Nam chống Mỹ xâm lược, đã sôi nổi tổ chức những “Tuần đoàn kết với Việt Nam”. Không thắng trên chiến trường và ở Hội nghị Pari, đế quốc Mỹ xoay sang chính sách ngoại giao con thoi xảo quyệt nhằm lôi kéo Liên Xô, Trung Quốc, hạn chế sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa đối với cuộc kháng chiến của Việt Nam, cô lập Việt Nam; dùng Liên Xô, Trung Quốc ép ta tại cuộc đàm phán Pari. Đó là âm mưu rất độc ác. Dù vậy, các nước trong phe xã hội chủ nghĩa nhất là Liên Xô, Trung Quốc cho đến năm 1971, đều thống nhất ở một điểm là ủng hộ sự nghiệm kháng chiến chống Mỹ, cứn nước của nhân dân Việt Nam cả về tinh thần và vật chất. Hàng chục ngàn tấn vũ khí, khí tài quân sự hiện đại và hàng trăm vạn tấn lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh từ Liên Xô, Trung Quốc được chuyển đến Việt Nam, góp phần quan trọng cho nhân dân Việt Nam giữ vững và tăng cường tiềm lực quân sự và sức mạnh kháng chiến. Do đường lối đối ngoại đúng đắn, độc lập tự chủ của Đảng ta, ta đã tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ của thế giới và sự ủng hộ to lớn về vật chất, tinh thần của phe xã hội chủ nghĩa, đặc biệt sự giúp đỡ có hiệu quả của Liên Xô, Trung Quốc. Trên thực tế, đến năm 1971, đã hình thành một mặt trận sâu rộng nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam. Sự giúp đỡ to lớn của nhân dân thế giới trong đó có nhân dân tiến bộ Mỹ, nhân dân các nước xã nội chủ nghĩa là nguồn động viên quý báu đối với sự nghiệp kháng chiến của nhân dân Việt Nam.

Nhìn chung, những thắng lợi toàn diện của quân và dân ta trên mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao và chống phá hoại bình định đã buộc đế quốc Mỹ trong năm 1971, phải lùi một bước, tiếp tục rút dần quân Mỹ về nước. Nhưng chúng vẫn ngoan cố tìm mọi cách duy trình chính quyền Nguyễn Văn Thiệu để tiếp tục thực hiện Việt Nam hóa chiến tranh, đảm bảo cho Mỹ “rút ra trên thế thắng”, “rút ra trng danh dự”. Ta thắng lớn, toàn diện; thế và lực tăng lên. Dù chưa đánh bại hoàn toàn đội quân chủ lực Sài Gòn, song ta đã tạo được thời cơ chiến lược cho phép ta đẩy mạnh nỗ lực chủ quan, giáng một đòn quyết định vào ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ.



(1) Sáng kiến 7 điểm của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam:
1 - Nếu Mỹ định thời gian rút hết quân trong năm 1971 thì các bên sẽ thỏa thuận cùng một lúc về thể thức của hai việc sau đây: a) Rút an toàn quân đội Mỹ và quân các nước thuộc phe Mỹ; b) Thả hết quân nhân của các bên và dân thường bị bắt trong chiến tranh kể cả các phi công Mỹ bị bắt ở miền Bắc; hai việc này bắt đầu cùng ngày và kết thúc cùng ngày.
2 - Mỹ châm dứt ủng hộ nhóm cầm quyền hiếu chiến do Thiệu cầm đầu để các lực lượng chính trị, xã hội, tôn giáo ở miền Nam lập ra ở Sài Gòn một chính quyền mới tán thành hòa bình, độc lập, trung lập và dân chủ. Chính phủ Cách mạng lâm thời sẽ nói chuyện ngay với chính quyền đó để bàn việc thành lập chính phủ hòa hợp dân tộc rộng rãi ba thành phần làm nhiệm vụ trong thời gian từ khi lập lại hòa bình đến tổng tuyển cử.
3 - Vấn đề các lực lượng vũ trang ở miền Nam sẽ do các bên Việt Nam cùng giải quyết trên tinh thần hòa hợp dân tộc, bình đẳng, tôn trọng nhau không có sự can thiệp của nước ngoài.
4 - Việc thống nhất Việt Nam sẽ tiến hành từng bước trên cơ sở bàn bạc và thỏa thuận, không có can thiệp của nước ngoài, không cho phép nước ngoài có căn cứ quân sự hay quân đội trên đất mình.
5 - Miền Nam Việt Nam thực hiện chính sách đối ngoại, hòa bình, trung lập, đặt quan hệ đối ngoại hòa bình, trung lập, đặt quan hệ với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị, xã hội, theo 5 nguyên tắc chung sống hòa bình. Cũng theo những nguyên tắc đó, miền Nam Việt Nam và Mỹ sẽ thiết lập quan hệ chính trị, kinh tế - xã hội với nhau.
6 - Chính phủ Mỹ phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về những thiệt hại và tàn phá do Mỹ gây ra cho nhân dân Việt Nam ở cả hai miền Việt Nam.
7 - Các bên thỏa thuận về những hình thức tôn trọng và bảo đảm quốc tế các hiệp định sẽ được ký kết.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 07 Tháng Giêng, 2011, 06:49:48 am
II - NẮM BẮT THỜI CƠ, CHUẨN BỊ MỌI MẶT
CHO CUỘC TIẾN CÔNG CHIẾN LƯỢC NĂM 1972

Mùa Xuân 1971, ta thắng lớn trên mặt trận quân sự, chính trị và chống phá bình định ở cả ba chiến trường miền Nam, Campuchia, Lào, làm phá sản một bước quan trọng chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh và Học thuyết Níchxơn ở Đông Dương. Địch buộc phải lùi một bước, từ chủ động mở các cuộc hành quân tiến công trên chiến trường ba nước Việt Nam, Campuchia, Lào đã phải lui về giữ thế phòng ngự chiến dịch và chiến lược, bị động chống đỡ các cuộc tiến công của ta. Cục diện chiến trường biến chuyển mau lẹ có lợi cho cách mạng. Quân chủ lực Sài Gòn không còn khả năng làm nòng cốt cho Việt Nam hóa, Khơme hóa và Lào hóa chiến tranh, đang đứng trước nguy cơ suy sụp và tan rã từng mảng nếu ta tiếp tục mở những cuộc tiến công vừa và lớn. Một thời cơ mới để đưa cách mạng tiến lên giành thắng lợi quyết định đã xuất hiện. Lường định khả năng diễn biến của tình hình, ngay từ tháng 5-1971, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã đề ra nhiệm vụ cần kíp cho quân và dân ta là: ”Kịp thời nắm lấy thời cơ lớn, trên cơ sở phương châm chiến lược dánh lâu dài, đẩy mạnh tiến công quân sự, chính trị ngoại giao, phát triển thế chiến lược tiến công mới trên toàn chiến trường miền Nam và trên cả chiến trường Đông Dương, đánh bại chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh của Mỹ, đánh bại một bước quan trọng kế hoạch xâm lược của chúng ở Campuchia và Lào, giành thắng lợi quyết định trong năm 1972, buộc đế quốc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh bằng thương lượng trên thế thua, đồng thời chuẩn bị sẵn sàng, kiên trì và đẩy mạnh kháng chiến trong trường hợp chiến tranh còn kéo dài”(1). Ngay trong tháng 6-1971 Quân ủy Trung ương bàn nghiên cứu về tình hình miền Nam, Campuchia, Lào và bàn kế hoạch tổ chức thực hiện Nghị quyết Bộ Chính trị. Quân ủy Trung ương nhận thấy đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai mặc dù bị thất bại nặng nề, toàn diện, nhưng chúng chưa chịu từ bỏ âm mưu xâm lược Việt Nam, Campuchia, Lào bằng chủ nghĩa thực dân kiểu mới. Chúng quyết tâm giữ miềnNam Việt Nam, thực hiện cho được Việt Nam hóa chiến tranh. Bằng hành động quân sự quyết liệt và ngoại giao xảo quyệt, Mỹ vừa rút dần quân chiến đấu Mỹ, vừa tìm cách làm cho ta suy yếu phải chịu thua, buộc phải chấm dứt chiến tranh theo âm mưu và kế hoạch của Mỹ sắp đặt. Quân ủy Trung ương nhấn mạnh: “Tình hình đang chuyển biến mau lẹ, đòi hỏi ta phải có sự cố gắng cao nhất, tranh thủ thời gian, khắc phục khó khăn, nhược điểm để xây dựng thế và lực của ta trên chiến trường lên nhanh hơn nữa, kịp thời nắm lấy thời cơ, hành động bất ngờ, giành lấy thắng lợi cao nhất, buộc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh, rút hết quân Mỹ, đánh cho ngụy quân, ngụy quyền tan rã, sụp đổ một bước quan trọng”(2). Quân ủy Trung ương xác định quyết tâm chiến lược năm 1972: “Tập trung mọi cố gắng đẩy mạnh tiến công quân sự và chính trị trên cả ba vùng, trên khắp các chiến trường Đông Dương, miền Nam Việt Nam là chiến trường chính, giành thắng lợi cao nhất”(1). Tại hội nghị này, sau khi tổng hợp, phân tích lượng thông tin về tình hình địch, ta ở chiến trường Nam Bộ, Khu 5, Tây Nguyên và Trị - Thiên, Quân ủy Trung ương dự kiến, trong năm 1972: “Hướng chủ yếu số 1 là chiến trường biên giới Campuchia và miền Đông Nam Bộ, hướng chủ yếu số 2 là chiến trường Tây Nguyên; hướng phối hợp quan trọng là miền núi tây Trị - Thiên. Trị - Thiên tuy là hướng phối hợp quan trọng, nhưng lại gần miền Bắc, có điều kiện bảo đảm hậu cần, vì vậy phải gấp rút chuẩn bị để có thể đánh lớn khi cần thiết hoặc có lợi”. Để phối hợp với đòn tiến công của bộ đội chủ lực, Quân ủy Trung ương còn đề ra nhiệm vụ đẩy mạnh “phong trào tiến công và nổi dậy ở đồng bằng, phong trào đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang mạnh ở đô thị, tiến công vào ba chỗ dựa của chính sách Việt Nam hóa chiến tranh, tạo nên cục diện mới có lợi cho ta trong trường hợp ngừng bắn, tạo điều kiện để đưa phong trào cách mạng tiến lên một cách vững chắc trong tình hình mới”.

Đối với miền Bắc, về quân sự, ra sức củng cố và nâng cao trình độ sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu giỏi cho lực lượng vũ trang nhân dân, nhằm đối phó thắng lợi với những cuộc tập kích đường không, đường biển của không quân, hải quân Mỹ, tiêu diệt các toàn biệt kích địch và mọi hành động xâm lược phiêu lưu của chúng. Cần xây dựng lực lượng cơ động chiến lược mạnh sẵn sàng đối phó kịp thời khi cần thiết, có lực lượng dự trữ bổ sung đầy đủ, kịp thời cho miền Nam.

Hội nghị Bộ Chính trị tháng 5-1971 và Hội nghị Quân ủy Trung ương tháng 6-1971 đánh giá sát diễn biến của tình hình thực tế trên chiến trường và âm mưu của địch, nhận thấy thời cơ chiến lược đang xuất hiện, đề ra chủ trương nhằm vận dụng và thúc đẩy thời cơ, chuẩn bị mọi mặt cho cuộc tiến công chiến lược 1972.


(1) Nghị quyết Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, tháng 5-1971, lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.
(2), (3) Nghị quyết Quân ủy Trung ương tháng 6-1971, số 236, lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 07 Tháng Giêng, 2011, 06:50:36 am
Thực hiện Nghị quyết Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, ở miền Nam, Trung ương Cục, Quân ủy và Bộ Chỉ huy Miền, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 5, Mặt trận Tây Nguyên, Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu Trị - Thiên cùng các tỉnh bắt đầu xây dựng kế hoạch quân sự và đấu tranh chính trị năm 1972, chỉ đạo các đơn vị Quân giải phóng, các cơ quan đảng, mặt trận, các đoàn thể quần chúng huy động mọi lực lượng chuẩn bị chiến trường; trong đó, công tác mở đường chiến dịch và chiến đấu, công tác vận chuyển vật chất dự trữ cho các hướng tác chiến theo dự kiến của Quân ủy Trung ương là vô cùng quan trọng và khẩn trương, vì yêu cầu mọi công tác chuẩn bị phải hoàn tất trước tháng 3-1972.

Tháng 10-1971, Trung ương Cục họp Hội nghị lần thứ 9, xác định quyết tâm kiên quyết thực hiện thắng lợi Nghị quyết Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương. Trung ương Cục nêu rõ phương hướng và nhiệm vụ trước mắt của chiến trường B2 là: Tranh thủ thời gian, phấn đấu hoàn thành công tác chuẩn bị, xây dựng thế tiến công chiến lược mới bằng ba quả đấm mạnh trên cả ba vùng chiến lược; tiếp đó, mở cuộc tiến công và nổi dậy rộng lớn nhằm đánh suy sụp nặng ngụy quân, ngụy quyền, dánh bại cơ bản kế hoạch bình định của địch. Để đạt được yêu cầu trên, Thường vụ Trung ương Cục chỉ rõ yêu cầu, nhiệm vụ trên từng vùng chiến lược:

1 - Đánh bại về cơ bản kế hoạch bình định của địch ở nông thôn.

2 - Đẩy mạnh đòn đánh tiêu diệt địch của bộ đội chủ lực, phát triển thế tiến công liên tục khắp các chiến trường, làm cho quân địch suy sụp và tan rã nặng.

3 - Đẩy mạnh phong trào đấu tranh ở đô thị lên một bước mới, nhất là Sài Gòn - Gia Định; khoét sâu mâu thuẫn Mỹ - Thiệu, đấu tranh đòi quyền lợi dân sinh, dân chủ, đòi hòa bình, chấm dứt chiến tranh, tiến tới cao trào đấu tranh chính trị rộng lớn, phối hợp chặt chẽ với đòn tiến công quân sự của bộ đội chủ lực ở hướng chính, buộc địch phải htay đổi tay sai, lập một chính phủ vãn hồi hòa bình.

Thực hiện quyết tâm của Trung ương Cục, Bộ Chỉ huy Miền quyết định mở chiến dịch tiến công mang mật danh Chiến dịch Nguyễn Huệ trên chiến trường miền Đông. Hướng chủ yếu của chiến dịch được xác định là khu vực đường 13, khu vực quyết chiến là địa bàn Lộc Ninh, Hớn Quản, Chơn Thành, sau đó phát triển về hướng Lai Khê hoặc Dầu Tiếng. Hướng phối hợp: Tây Ninh và các phân khu 2, 5, 23 (Long An); tỉnh Bình Phước. Hướng phối hợp quan trọng: Long Khánh, Biên Hòa. Hướng nghi binh: đường 22, khu vực quyết chiến Xa Mát, Trảng Sụp; sau đó phát triển về hướng đồng bằng Khu 8 hoặc vùng tây thành phố Sài Gòn. Lực lượng sử dụng là toàn bộ các sư đoàn chủ lực Miền cùng lực lượng vũ trang địa phương. Từ những tháng cuối cùng của năm 1971 cho đến trước ngày chiến dịch mở màn, quân và dân miền Đông Nam Bộ đã khẩn trương mở và sửa chữa 943 km đường chiến dịch, chiến đấu; làm 10 bến phà qua sông Sài Gòn; vận chuyển đến các kho dự trữ trên các hướng chiến dịch 45.000 tấn vật chất, kỹ thuật, riêng gạo đạt 14.500 tấn. Lương thực, thực phẩm chuẩn bị bảo đảm đủ cho bộ đội hoạt động cả năm 1972.

Đồng bằng sông Cửu Long, bao gồm Khu 8 và Khu 9, tuy không phải là hướng chính đánh tiêu diệt chủ lực quân đội Sài Gòn, nhưng là hướng trọng tâm đánh phá bình định, mở mảng, mở vùng, phối hợp với các chiến trường khác. Bộ Tư lệnh Quân khu 9 hạ quyết tâm: Tập trung lực lượng chủ yếu tiến công tiểu khu Chương Thiện ở hai quận Long Mỹ và Kiến Thiện - Ngang Dừa, giải phóng vùng tây nam và bắc huyện Long Mỹ, đồng thời sử dụng một lực lượng hợp lý tiến công và Sư đoàn 22 và Sư đoàn 9 quân đội Sài Gòn ở U Minh, ghìm chặt lực lượng này, tạo điều kiện cho các địa phương chống phá bình định, mở rộng vùng giải phóng. Quân khu 8 và Quân khu 9 khẩn trương bố trí lực lượng quân sự, chính trị trên các hướng trọng điểm đã xác định. Song song với việc bố trí lực lượng, quân khu huy động lực lượng nhân dân các địa phương và lực lượng công binh mở 6 tuyến đường vận chuyển qua các cánh rừng sình lầy từ miền Đông Nam Bộ xuống vùng Đồng Tháp Mười và vận chuyển gạo, đạn ém ở các hướng. Mọi công việc chuẩn bị đều hoàn tất cuối tháng 2-1972. Các lực lượng vũ trang, chính trị, binh vận trong tư thế sẵn sàng vào trận theo lệnh của Quân khu.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 07 Tháng Giêng, 2011, 06:52:18 am
Ở Khu 5, quán triệt ý định chiến lược của Trung ương và căn cứ vào tình hình địch, ta trên chiến trường, Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu quyết định tập trung lực lượng chuẩn bị cho cuộc tiến công và nổi dậy, phối hợp với các chiến trường, với nhiệm vụ:

- Tiến công và nổi dậy, diệt và làm tan rã lớn chủ lực quân đội Sài Gòn, phá vỡ từng mảng hệ thống phòng ngự của địch và hệ thống kìm kẹp của chúng ở đồng bằng, giành quyền làm chủ phần lớn nông thôn.

- Đẩy mạnh phong trào đấu tỉnh chính trị của quần chúng thành cao trào tiến công cách mạng trong các đô thị - nhất là thành phố Đà Nẵng.

Tháng 10-1971, Khu ủy Khu 5 lại ra chỉ thị Phát động phong trào thi đua quyết thắng giặc Mỹ với ba cao trào:

- Cao trào diệt và làm tan rã lớn quân ngụy.

- Cao trào tiến công và nổi dậy giành quyền làm chủ nông thôn.

- Cao trào các mạng trong các đô thị.

Ở các tỉnh đồng bằng, Khu ủy và Bộ Tư lện Quân khu 5 xác định hai trọng điểm tiến công và nổi dậy ở bắc Bình Định và Quảng Nam. Mục tiêu của đợt tiến công nhằm tiêu diệt hoặc đánh thiệt hại nặng Trung đoàn 4, Sư đoàn 22 và một bộ phận cơ động của Sư đoàn 2 quân đội Sài Gòn; đánh bại kế hoạch “bình định đặc biệt” và chương trình “cộng đồng tự vệ và phát triển nông thôn” của địch, mở rộng vùng giải phóng từ phía nam tỉnh Quảng Ngãi đến phía bắc đường 19 Đông nối với căn cứ cách mạng hai tỉnh Gia Lai và Kon Tum; giải phóng khu vực Quế Sơn, Tiên Phước và tây huyện Thăng Bình, Nông Sơn, Trung Phước (Quảng Nam), phối hợp chặt chẽ với cuộc tiến công của Mặt trận Tây Nguyên.

Để hoàn thành nhiệm vụ đó, lực lượng vũ trang quna khu được tăng cường về số lượng, củng cố về chất lượng. Khối chủ lực cơ động của quân khu ngoài Sư đoàn bộ bình 3 (gồm Trung đoàn 21, Trungđoàn 12 và 2) và Sư đoàn 2 đã có, tháng 1-1972, quân khu thành lập thêm Sư đoàn bộ binh 711 (gồm Trung đoàn 31, 38, đến cuối tháng 4-1972 có thêm Trung đoàn 9 của Sư đoàn 101); 5 tiểu đoàn pháo, cối, 5 tiểu đoàn và 6 đại đội đặc công. Lực lượng vũ trang tỉnh, huyện có 22 tiểu đoàn, 60 đại đội, 62 trung đội bộ binh. Toàn quân khu tổ chức được 203 đội, tổ du kích đặc công hóa và 91 tổ du kích công binh. Quân khu cấp tốc mở các lớp bồi dưỡng về nghệ thuật chiến dịch cho 2.000 cán bộ cao cấp, trung cấp nhằm nâng cao trình độ chỉ huy tác chiến lên một bước mới. Giữa năm 1971, toàn khu tập trung lực lượng làm đường vận chuyển và huấn luyện chiến, kỹ thuật cho cán bộ, chiến sĩ. Nhân dân các tỉnh Quảng Đà, Quảng Tín, Quảng Ngãi, Bình Định… đã góp 15 vạn ngày công bạt núi, san đèo, bắc cầu, mở mới 565 km đường chiến dịch, chiến đấu và sửa chữa 600 km đường từ phía tây Trường Sơn đến các tỉnh đồng bằng duyên hải. Cuối tháng 11-1971, Đoàn 559 bắt đầu giao hàng cho Khu 5, nhưng trước đó suốt trong 3 tháng ròng rã, hàng ngàn cán bộ, chiến sĩ trong khu đêm đêm bí mật vượt qua các vùng kiểm soát của địch, xuống các vùng sâu ở phía đông quốc lộ 1 lấy gạo dân đóng góp, chuyển lên vùng căn cứ. Công việc vận chuyển gạo, đạn trên chiến trường Khu 5 không chỉ đổ mồ hôi, mà cả máu; nhiều chiến sĩ đã ngã xuống trên đường vận chuyển vì bị địch phục kích. Gian khổ, ác liệt khôn lường, nhưng vì nhiệm vụ, không một ai nao núng. Nhờ tinh thần ấy, cuối năm 1971, Khu 5 đã dự trữ được 2.300 tấn lương thực, thực phẩm, tạm đủ cho lực lượng vũ trang hoạt động.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 07 Tháng Giêng, 2011, 06:54:15 am
Tây Nguyên, chiến trường do Bộ Tổng Tư lệnh trực tiếp chỉ đạo về quân sự và tiếp tế hậu cần, được xác định là hướng tiến công chiến lược quan trọng tỏng cuộc tiến công chiến lược 1972. Mặt trận Tây Nguyên được giao nhiệm vụ: “Tiêu diệt địch, giải phóng Đắc Tô - Tân Cảnh, có điều kiện thì giải phóng Kon Tum. Hướng phát triển có thể là hướng Plâyku, có điều kiện thì mở rộng vùng giải phóng tây Plâyku, giải phóng thị xã Buôn Ma thuột, hình thành căn cứ địa hoàn chỉnh nối liền với căn cứ địa miền Đông Nam Bộ”(1). Trên cơ sở nhiệm vụ được giao, từ cuối năm 1971, lực lượng vũ trang Tây Nguyên đã bắt tay vào chuẩn bị chiến dịch. Toàn bộ lực lượng công binh mặt trận và một bộ phận các đơn vị bộ binh được huy động làm hệ thống đường vận tải từ sông Sêsu vào Kon Tum và hệ thống đường chiến dịch, chiến đấu 60, 70, 50 nối từ đường 128 xuống phía đông bắc Kon Tum. Tháng giêng, tháng hai là mùa khô, nhưng riêng phía bắc Kon Tum thỉnh thoảng có những trận mưa lớn kéo dài nhiều ngày. Mưa làm cho đường trơn, lầy lội. con đường 50k từ ngã ba biên giới vòng qua phía bắc Tân Cảnh - đường cơ động của xe tăng, phần “đất mượn” bị lún, lở, xe tăng không đi được, buộc phải sửa chữa làm lại, nên chậm trễ so với kế hoạch. Toàn bộ hệ thống đường Tây Nguyên được lát những tấm phên đan bằng tre, nữa để chống trơn. Bộ đội phải luồn rừng đi xa 3-4km chặt tre luồng, nữa vác về đan phên lát đường, chống lầy. Tre, luồng phải rút hết ngọn để tránh máy bay trinh sát phát hiện. Những đoạn đường trống bộ đội phải dùng sức vít những ngọn tre, cành gỗ vắt qua trên mặt đường. Công việc trên mất biết bao công sức, mồ hôi của cán bộ, chiến sĩ công binh. Tính ra, mặt trận đã huy động 12 vạn ngày công mở 508 km đường mới, sửa trữa 480 km đường cũ. Riêng Đoàn 671 đã san núi, phá ngầm làm 300 km đường bộ, đường sông đưa hàng vào cánh Bắc, cánh Trung, cánh Nam Mặt trận Tây Nguyên.

Tháng 10-1971, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên quyết định động viên mọi lực lượng đẩy nhanh tốc độ chuẩn bị chiến trường và vận chuyển đạn, gạo lót sẵn. Một phong trào thi đua “Trường Sơn chuyển mình, Pô Cô dậy sóng, quét sạch quân thù, giải phóng Tây Nguyên” được phát động. Cả Tây Nguyên dấy lên phong trào thi đua sôi nổi với một khí thế cách mạng mới. Trong các buôn nlàng, tiếng chày giã gạo nuôi quân rộn vang thâu đêm. “Kho gạo cách mạng” được lập thêm. Các kho hàng phía trước như kho D27, D28, D51, D74, H35… được xây dựng và bắt đầu ra mặt đường đôn đốc việc mở đường thông xe và vận chuyển. Ngoài các đơn vị vận tải chuyên nghiệp, các đơn vị bộ binh, pháo binh, Trường Quân chính, Trường Quân y, Viện 211, các cơ quan Mặt trận Tây Nguyên được huy động đi vận chuyển cho chiến dịch. Các bác sĩ, y tá, hộ lý, dược sĩ đều ra mặt đường gùi gạo, thồ đạn đến các cụm kho trên các hướng chiến dịch. Ngày đổ súng đến gần, nhưng đường sá chưa xong, con đường 50k cho xe tăng tiến công bị lún, sẽ phải làm lại, địch lại đánh phá liên tục ngày đêm nên số lượng gạo, xăng dầu, đạn dự trữ cho chiến dịch chưa đủ. Đến ngày 15-3, gạo dự trữ chiến dịch do Đoàn 559 chuyển vào mới đạt 15% kế hoạch. Khó khăn chồng chất, tưởng chừng không vượt qua. Mặt trận Tây Nguyên phải tung người đi mở thêm các cửa khẩu thu mua, tập trung lực lượng phương tiện vận chuyển gạo nhanh từ các nơi về khu vực chiến dịch, đồng thời phối hợp với các cơ quan kinh tài các tỉnh huy động gạo dân đóng góp chuyển tới mặt trận. Nhờ nỗ lực của quân và dân Tây Nguyên và Đoàn 559, đến tháng 3-1972, vận chuyển cho chiến dịch mới đủ cho bộ đội hoạt động giai đoạn đầu, nhưng mọi việc chuẩn bị khá tốt.

Cùng với việc làm đường chiến dịch, chiến đấu vận chuyển đạn gạo, các đơn vị bộ binh và binh chủng được Bộ Tổng tư lệnh và Khu 5 bổ sung, tăng cường cho Tây Nguyên cũng lần lượt đến chiến trường. Vùng ba biên giới phía tây bắc Kon Tum lại nhộn nhịp như bừng lên một sức sống mới, nhiều khu rừng trú quân mới được chuẩn bị đón Sư đoàn 320A, Trung đoàn 24B, Tiểu đoàn đặc công 320B của Bộ bổ sung cho Tây Nguyên và Sư đoàn bộ binh 2 (thiếu 1e) của Quân khu 5 tăng cường, cùng nhiều đơn vị chuyên môn, kỹ thuật khác. Đêm đêm, từ hành lang chiến lược 559, những đơn vị xe tăng, thiết giáp, pháo xe kéo, vận tải cơ giới nối đuổi nhau tiến vào các khu rừng tạm dừng, chuẩn bị cho chiến dịch. Lần đầu tiên sau nhiều năm chiến tranh, khối chủ lực cơ động Tây Nguyên phát triển nhảy vọt cả về số lượng và chất lượng. Quân đông, trang bị tốt, có cả xe tăng, pháo tự hành 57 mm và súng B72 điều khiến trực tiếp bằng vô tuyến điện… Tất cả đang trong tư thế sẵn sàng nổ súng phối hợp cùng các chiến trường.


(1) Điện số 236/Đ, ngày 10-9-1971 của Bộ Quốc phòng gửi Mặt trận Tây Nguyên, quân khu 5 và Miền, lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 07 Tháng Giêng, 2011, 06:55:14 am
Ở Trị - Thiên, Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu cùng các tỉnh vận động được 3.200 đồng bào các dân tộc đi dân công phục Tư lệnh tiền tuyến, cùng các đơn vị công binh của Đoàn 559 và quân khu làm mạng đường Sa Trầm, Ba Lòng, Ly Tôn, Đa Đa, La Dụt, Tam Quang và hệ thống đường vòng tránh các trọng điểm đánh phá của địch ở đường 12, đường A Run, B Đa, A Lưới. Mở mạng đường phục vụ cho việc vận chuyển vật chất, cơ động lực lượng, đảm bảo cho tác chiến lớn của quân chủ lực trong chiến dịch tiến công Quảng Trị là một kỳ công. Bộ đội, dân công, thanh niên xung phong phải chịu đựng những trận bom, pháo ác liệt của địch dội xuống; bí mật bạt núi, xẻ đồi, đắp ngầm, làm cầu suốt ngày đêm dưới những tán lá xanh của rừng đại ngàn và sự rình rập, đánh phá ngày đêm của địch. Các tỉnh Quảng Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An, Quảng Trị, Thừa Thiên huy động 5.000 dân công hỏa tuyến phối hợp với lực lượng cả Đoàn 559, bằng các phương tiện xe đạp thồ, ôtô, gùi bộ, đã chuyển đến mặt trận hàng chục vạn tấn vật chất, bảo đảm yêu cầu bước đầu của bộ đội tác chiến.

Trong công tác mở đường, Bộ Tổng tư lệnh và Đoàn 559 đều xác định mạng đường chiến lược Bắc - Nam và hệ thống đường chiến dịch nối từ đường mòn Hồ Chí Minh xuống các hướng tác chiến của bộ đội là quan trọng nhất, vì từ đó chẳng những đảm bảo vận tải, mà còn là đường cơ động của các binh đoàn chủ lực hợp thành bao gồm cả pháo binh, xe tăng đánh lớn. Do tầm quan trọng đó, Đoàn 559 đã huy động 40.000 cán bộ, chiến sĩ công binh, bộ binh, vận tải cùng hàng vạn thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến từ giữa năm 1971 gấp rút mở các con “đường kín” 24A, 24B, 24C xen kẽ với những con đường chạy qua bãi trống, hình thành tuyến đường dài 2.899 km, trong đó có 1.200 km “đường kín” chạy dưới các cánh rừng miền núi Quảng Bình, vượt Trường Sơn qua Hạ Lào đến Binh trạm 370 ở Tây Nguyên. Đến tháng 1-1972, hệ thống đường vận tải chiến lược bao gồm cả hệ thống “đường kín” cơ bản hoàn thành. Những đoạn đường trống được ngụy trang cẩn thận. Các trận địa cao xạ, tên lửa được bố trí dọc đường, đánh địch có hiệu quả. Giờ đây, vận chuyển ban đêm chuyển thành vận chuyển ngày là chủ yếu, những tháng cao điểm vận chuyển cả ngày lẫn đêm. Tổng cục Hậu cần bổ sung 2.000 xe vận tải cho Đoàn 559 đưa tổng số đầu xe hoạt động phục vụ cuộc tiến công chiến lược lên 8.000 chiếc. Nhờ có “đường kín”, các trung đoàn vận tải ôtô dồn dập ra vào thuận lợi, tăng gấp hai lần khối lượng vận chuyển so với các đoàn trước đó, đáp ứng kịp nhu cầu chuẩn bị chiến dịch và chiến đấu. Hoàn thành “đường kín”, tăng dần xe vận tải chạy ban ngay đã hạn chế một phần thủ đoạn đánh phá của không quân địch - nhất là loại máy bay AC130, giảm được những thiệt hại do địch gây ra đến mức thấp nhất. Các đơn vị công binh Đoàn 559 còn mở mới 150 km đường cơ động ở vùng Đông Bắc Campuchia và mạng đường phía đông bắc đường 13 về đến Lộc Ninh, bảo đảm cho xe tăng và thiết giáp, xe kéo pháo 130mm vào đến Đông Nam Bộ kịp chiến dịch. Song song với mạng đường chiến lược, đường ống dẫn dầu từ Vinh cũng được lắp đặt tới phía bức sông Sê Sư và bắt đầu vận hành cung cấp xăng dầu cho các đơn vị.

Hậu phương thi đua với tiền phương. Trong lúc chiến trường miền Nam gấp rút chuẩn bị mọi mặt cho cuộc tiến công chiến lược, thì Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng huy động lực lượng vận tải quân sự và lực lượng của Công ty 2, Công ty 6 của bộ Giao thông vận tải, Công ty 8 của tỉnh Quảng Bình và hàng chục đoàn tàu hòa, canô, thuyền nan mở đợt vận chuyển vật chất, kỹ thuật quy mô lớn tạo chân hàng cho Đoàn 559 và một bộ phận lực lượng chuyển thẳng vào chiến trường. Cuối năm 1971, lực lượng vận tải đường sông và biển sử dụng tùa “tăngkét”, xà lan tự hành, canô chở xe tăng, pháo binh và hàng quân sự khác vào Bến Thủy (Vinh), sau đó chuyển tiếp vào Xuân Bộ theo đường sông Gianh, Nhật Lệ (Quảng Bình) rồi đưa vào Nam. Miền Bắc đã huy động mọi phương tiện, mọi lực lượng có thể huy động được để dưa binh khí, kỹ thuật và vật chất vào các chân hàng cho Đoàn 559, đồng thời tiếp nhận hàng hóa, kỹ thuật quân sự các nước Liên Xô, Trung Quốc viện trợ, phân lô, phân loại rồi chuyển tiếp vào chiến trường. Đó là những nhiệm vụ rất phức tạp và nặng nề đòi hỏi đồng bào và chiến sĩ ở miền Bắc phải lao động cật lực suốt ngày đêm mới đáp ứng được yêu cầu.

Với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng giặc Mỹ”, miền Bắc hậu phương lớn đã động viên 15 vạn thanh niên vào bộ đội, trong đó có 15.000 thuộc thành phần công nhân, viên chức ở các nhà máy, công trường, nông trường, cơ quan dân, chính, đảng từ Trung ương đến các tỉnh, thành. Bên cạnh lực lượng, miền Bắc còn tăng sức chi viện cho chiến trường. Hàng trăm ngàn tấn vật chất bao gồm lương thực, thực phẩm, thuốc điều trị và binh khí kỹ thuật quân sự vẫn ùn ùn đổ vào tuyến vận tải chiến lược Trường Sơn, để từ đó vận chuyển tiếp cho Trị - Thiên, Khu 5, Tây Nguyên, Nam Bộ. cùng với một khối lượng vật chất khổng lồ được chuyển vào miền Nam, 55.000 cán bộ, chiến sĩ biên chế thành từng sư đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn bộ binh và binh chủng, súng trên vai, ba lô nặng trĩu hăng hái vượt “dốc 1.100 bậc”, “cổng trời” trên dãy Trường Sơn hùng vĩ, đến kịp các mặt trận trước ngày nổ súng. Nam Bộ - chiến trường xa hậu phương miền Bắc, cuối tháng 2-1972 cũng nhận được 2 trung đoàn bộ binh 24 và 271; hai tiểu đoàn pháo 85mm; một tiểu đoàn pháo 122mm, hai tiểu đoàn cao xạ 37mm; Tiểu đoàn xe tăng 20 (36 chiếc); một đại đội tên lửa chống tăng B72. Hàng hóa, khí tài quân sự đưa đến các chiến trường bảo đạt tỷ lệ 97%, hao hụt dọc đường giảm thiểu. Đó là chiến công lớn trong việc vận chuyển, bảo quản, giữ gìn trang thiết bị quân sự và hàng háo suốt dọc đường những tháng hành quân của chiến sĩ, cán bộ Đoàn 559, của thanh niên xung phong và các đơn vị bộ đội tăng cường, bổ sung cho miền Nam. Vượt qua cuộc “chiến tranh khí tượng” gây mưa nhân tạo, mưa axít trên đường mòn Hồ Chí Minh của đế quốc Mỹ ngăn chặn ta tiếp tế, bộ đội, thanh niên xung phong đã đưa đến các chiến trường kịp thời số lượng lớn vật chất, trang thiết bị quân sự đúng chủng loại, góp phần quan trọng cho miền Nam củng cố và tăng cường lực lượng, giữ vững thế chủ động chiến trường. Có thêm lực lượng từ miền Bắc bổ sung, Quân khu Trị - Thiện, Khu 5, Khu 6, Tây Nguyên, Khu 7, Khu 8 và Khu 9 khẩn trương tổ chức, huấn luyện chiến, kỹ thật cho bộ đội theo phương hướng tác chiến hiệp đồng binh chủng quy mô vừa và lớn.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 09 Tháng Giêng, 2011, 09:14:54 am
Lúc này, tình hình quân sự, chính trị trên bán đảo Đông Dương, đặc biệt là ở miền Nam Việt Nam chuyển biến mau lẹ - nhất là sự sa sút của quân đội ngụy Sài Gòn và khí thế chiến thắng của quân, dân ta, làm cho cách mạng vừa có thuận lợi lớn, lại vừa có khó khăn phải khắc phục, vượt qua. Đầu năm 1972 Quân ủy Trung ương họp bàn Nhiệm vụ quân sự năm 1972 và cuộc tiến công chiến lược 1972. Trong cuộc họp này, Quân ủy Trung ương xác định: “Nhiệm vụ quan trọng bậc nhất là tập trung chỉ đạo chiến tranh và tăng cường lực lượng mọi mặt cho chiến trường, chủ yếu là chiến trường miền Nam”(1). Mỹ đang thua to về quân sự ở chiến trường Việt Nam, Campuchia, Lào, bị lên án ở Hội nghị Pari là kẻ “miệng nói hòa bình, nhưng hành động chiến tranh”, cả nước Mỹ lại đang ở vào thời điểm chính trị nóng bỏng của cuộc vận động bầu cử tổng thống. Đây là thời cơ mới thuận lợi cho cách mạng. Quân ủy Trung ương chủ trương kiên quyết đánh bại địch bằng ba đòn chiến lược.

Một là, đẩy mạnh đòn tiến công chiến lược của bộ đội chủ lực trên những hướng và chiến trường có lợi, tiêu diệt một bộ phận quân chủ lực ngụy miền Nam, phá vỡ từng bộ phận thế bố trí phòng ngự của địch mở rộng vùng giải phóng.

Hai là, đẩy mạnh đòn tiến công và nổi dậy ở các vùng nông thôn đồng bằng quan trọng. Kết hợp tiến công quân sự, chính trị và binh vận, đẩy mạnh phong trào du kích chiến tranh và phong trào nổi dậy của quần chúng nhân dân.

Ba là, đẩy mạnh phong trào đấu tranh chính trị của nhân dân các thành thị, kết hợp đấu tranh cách mạng của quần chúng với khoét sâu và lợi dụng mâu thuẫn nội bộ địch…, chuẩn bị khi có thời cơ cụ thể, đẩy mạnh cuộc đấu tranh thành cao trào cách mạng(2).

Quân ủy Trung ương yêu cầu các chiến trường chú ý kết hợp chặt chẽ giữa ba đòn chiến lược, kết hợp tác chiến tập trung của bộ đội chủ lực với tác chiến du kích của bộ đội địa phương và dân quân, du kích; xây dựng hậu phương trực tiếp của từng hướng tiến công chiến lược; ra sức làm tốt công tác chuẩn bị chiến trường, chuẩn bị tốt lực lượng cơ động chiến lược, bảo đảm cho lực lượng này phát huy được vai trò là quả đấm mạnh trên từng hướng tiến công.

Đối với miền Bắc, Quân ủy Trung ương chỉ rõ, phải ra sức tăng cường chi viện kịp thời cho miền Nam về người và vật chất, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu giỏi nếu địch gây lại chiến tranh phá hoại lần thứ hai. Sư đoàn 308 được Quân ủy bố trí ở miền Bắc sẵn sàng chiến đấu bảo vệ hậu phương và làm dự bị chiến lược của Bộ.

Đối với chiến trường Lào và Campuchia, Quân ủy Trung ương cho rằng, phải tăng cường đoàn kết giúp đỡ và phối hợp chiến đấu với bạn thật tố trong nhiệm vụ tác chiến và xây dựng, củng cố vùng giải phóng, tạo thời cơ mới giành thắng lợi lớn hơn.

Kể từ khi các chiến trường, các mặt trận triển khai thực hiện Nghị quyết Quân ủy Trung ương tháng 6-1971, đến những tháng đầu của năm 1972, công tác chuẩn bị đã diễn ra hơn nửa năm. Trong khoảng thời gian đó, công tác chuẩn bị tuy đã đạt được những kết quả quan trọng, nhưng chưa đáp ứng đủ yêu cầu đánh lớn ở miền Đông Nam Bộ, việc tiếp tế rất khó khăn, vì xa miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, chiến trường miền Đông Nam Bộ, vùng biên giới Campuchia là chiến trường rất nhạy cảm đối với địch cũng như đối với ta, vì ở đó có đô thành Sài Gòn, địch dễ tăng cường lực lượng phản kích trong khi nguồn tiếp tế của ta không kịp thời, không đủ mạnh sẽ khó giành thắng lợi quyết định. Nhận thức tình hình chuẩn bị của ta còn khó khăn, tình hình địch ở chiến trường cũng thay đổi, ngày 11-3-1972, Thường vụ Quân ủy Trung ương họp quyết định chính thức phương án tiến hành cuộc tiến công chiến lược 1972 như sau: Trị - Thiên hướng phối hợp quan trọng, nay chuyển thành hướng tiến công chiến lược chủ yếu. Chiến trường Đông Nam Bộ và Tây Nguyên hướng chủ yếu số 1 và số 2, nay cùng với Khu 5 đẩy mạnh tác chiến quy mô vừa và lớn để thành một cuộc tiến công chiến lược trên toàn miền Nam và sẵn sàng đưa một sư đoàn chủ lực xuống đồng bằng khi có thời cơ.

Chọn chiến trường Trị - Thiên làm hướng tiến công chiến lược chủ yếu trong tình hình tương quan lực lượng địch, ta thời điểm năm 1972 là phù hợp. Tuy thời gian này, không quân, pháo binh, hải quân Mỹ vẫn tiếp tục yểm trợ cho quân đội Sài Gòn, nhưng Trị - Thiên là địa bàn gần hậu phương lớn, chẳng những tiếp tế kịp yêu cầu mà còn chủ động sử dụng lực lượng binh chủng hợp thành mạnh ở miền Bắc tham gia trực tiếp vào cuộc tiến công chiến lược thuận lợi. Thường vụ Quân ủy Trung ương nêu rõ: Chiến dịch Trị - Thiên là một chiến dịch quy mô lớn, là một trong những hướng chiến lược quan trọng, một chiến dịch hợp đồng binh chủng, một chiến dịch tổng hợp cả về quân sự và chính trị.


(1) Nghị quyết Quân ủy và Thường vụ Quân ủy Trung ương, tháng 3-1972, lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.
(2) Nghị quyết Quân ủy và Thường vụ Quân ủy Trung ương, tháng 3-1972, lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 09 Tháng Giêng, 2011, 09:16:26 am
Thường vụ Quân ủy Trung ương đề ra nhiệm vụ cụ thể của chiến dịch là:

1 - Tiêu diệt thật nhiều lực lượng quân sự, thật nhiều sinh lực và phương tiện chiến tranh của địch, nhất là quân chủ lực của chúng, đập vỡ tuyến phòng thủ của chúng, phát triển tiến công thắng lợi.

2 - Phối hợp với phong trào tiến công và nổi dậy của lực lượng vũ trang, bán vũ trang các địa phương và quần chúng nhân dân ở đồng bằng và đô thị, các vùng địch còn kiểm soát, hỗ trợ cho quần chúng tiến công và nổi dậy phá kìm kẹp, giành quyền làm chủ, đánh bại kế hoạch bình định của địch, củng cố thế ba vùng vững mạnh của ta.

3 - Giải phóng những khu vực có điều kiện và khi có thời cơ thuận lợi ra sức mở rộng vùng giải phóng của ta.

4 - Thu hút, giam chân một bộ phận quan trọng lực lượng địch, phối hợp chặt chẽ với các chiến trường khác.

5 - Rèn luyện và phát triển lực lượng quân sự và chính trị của ta về mọi mặt(1).

Trong năm nhiệm vụ trên, nhiệm vụ tiêu diệt lực lượng quân sự địch, nhất là quân chủ lực và phương tiện chiến tranh được xác định là nhiệm vụ quan trọng nhất có tính chất quyết định, làm cho chúng bị tổn thất nặng về lực lượng, phương tiện, tinh thần chiến đấu suy sụp, làm thay đổi so sánh lực lượng có lợi cho ta, tạo điều kiện tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.

Ngày 23-3-1972, Bộ Chính trị họp nghe Thường vụ Quân ủy Trung ương báo cáo về tình hình địch - ta, công tác chuẩn bị và quyết định chính thức chọn hướng tiến công chủ yếu của cuộc tiến công chiến lược năm 1972, Bộ Chính trị nhất trí với phương án mà Thường vụ Quân ủy Trung ương đã chọn.

Nghị quyết của Thường vụ Quân ủy Trung ương lần này thể hiện sự nhạy bén, nắm chắc thực tiễn, quyết định kịp thời, sáng suốt của lãnh đạo cấp chiến lược. Đây là văn kiện quan trọng chỉ đạo cuộc tiến công chiến lược năm 1972.

Sau khi có quyết định chính thức chọn Trị - Thiên làm hướng tiến công chiến lược chủ yếu, Bộ Tư lệnh Đoàn 559 cấp tốc điều chỉnh thế trận vận tải, bảo đảm cho hướng chủ yếu. Trước tiên, Đoàn 559 tập trung lực lượng giải tỏa hai trọng điểm sông Gianh và Long Đại, khẩn trương đưa hàng vào mặt trận Quảng Trị. Hai trung đoàn công binh được điều tới làm nhiệm vụ mở đường vòng tránh trên hai trục quốc lộ 1 và đường 15 đảm bảo cho bộ đội, các đơn vị vận tải vượt sông Gianh và Long Đại. Binh trạm 12 lật cánh xuống phía đông nam thay cho Binh trạm 19, phục vụ chiến dịch tiến công giải phóng Quảng Trị. Ba tiểu đoàn cao xạ có nhiều kinh nghiệm chiến đấu đánh máy bay địch được điều ra bảo vệ hậu phương chiến dịch. Sư đoàn 571 (Đoàn 559) làm nhiệm vụ ở hậu cứ được chuyển sang nhiệm vụ chiến đấu và vận tải chiến dịch, tạo nguồn hàng cho vận tải chiến lược. Đoàn 559 cũng huy động mọi lực lượng, mọi phương tiện vân tải đường sông của nhân dân, tổ chức thành những tuyến tiếp chuyển dọc sông Kiến Giang, sông Gianh và Long Đại; tổ chức lực lượng tiếp nhận hàng từ phía bắc sông Gianh chuyển sang, đồng thời cử cán bộ huy động nhân dân đóng góp lúa gạo để chuyển ra tiền phương cho kịp ngày nổ súng. Từ tháng 12-1971, Bộ Tư lệnh Đoàn 559 phát động đợt thi đua vận chuyển mang tên Chiến dịch Đồng Xoài nhằm động viên cao độ sức mạnh của lực lượng chiến đấu, công tác trên tuyến vận tải, hoàn thành kế hoạch tạo chân hàng cho các binh trạm ở nam sông Bến Hải và tạo nguồn dự trữ cho chiến dịch Trị - Thiên. Cùng với việc vận chuyển cho mặt trận Trị - Thiên, các sư đoàn khu vực 471, 470 thuộc Đoàn 59 mở đợt vận chuyển đột kích tiếp tế cho Tây Nguyên và miền Đông Nam Bộ. Tháng 3-1972, Đoàn 559 mở đợt vân tải Tổng công kích trên cả 6 tuyến đường vượt khẩu (đường 20, 12, 18, 16, 14, 10), trong đó, trọng điểm là đường 20 và ba trục 9, 70, 71 chay vào mặt trận Quảng Trị và Thừa Thiên. Nêu cao quyết tâm “vì thắng lợi của chiến dịch”, các chiến sĩ lái xe vận tải khắc phục muôn vàn gian khổ, hy sinh, dũng cảm, mưu trí vượt qua các tọa độ lửa đường 19 và các trọng điểm đánh phá của không quân, pháo binh địch, đưa hàng đến các cụm kho dự trữ ở khu vực Tà Cơn, Khe Sanh, Đầu Mầu… huyện Hướng Hóa. Lúc này, toàn bộ lực lượng pháo binh miền Bắc (trừ hai loại phòng thủ bở biển) gồm 7 trung đoàn và một số đơn vị cấp tiểu đoàn độc lập tương đương 8 trung đoàn với 200 khẩu từ 85mm đến 130mm dồn dập hành quân vào mặt trận đường 9 - Quảng Trị. Theo yêu cầu của Bộ Chỉ huy chiến dịch, Bộ Tư lệnh 559 chỉ thị cho Binh trạm 17 tổ chức một đoàn xe 70 chiếc chuyển xăng, dầu gấp cho các đơn vị xe tăng, pháo binh tham gia chiến dịch. Các chiến sĩ lái xe Binh trạm 17 chấp hành nghiêm chỉnh mệnh lệnh đã anh dũng vượt qua những trọng điểm đánh phá của địch ở Bá Đỏ, cây số 34, Nguồn Rào trên đường 9, đưa xăng dầu tới đích an toàn, đùng quy định. Tiểu đoàn 3 và Đại đội 102 Đoàn Hồng Hà vận chuyển đạn pháo từ sông Gianh vào Đông Hà tiếp tế cho các đơn vị pháo binh kịp thời, đúng chủng loại, lô liều an toàn.


(1) Nghị quyết Quân ủy và Thường vụ Quân ủy Trung ương, tháng 3-1972, lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 09 Tháng Giêng, 2011, 09:18:55 am
Trong lúc ta khẩn trương dồn sức chuẩn bị cho cuộc tiến công chiến lược trên toàn miền Nam, địch vẫn chủ quan cho rằng: “Từ năm 1969 đến nay hầu hết các đơn vị chủ lực cộng sản đã rút ra ngoài biên giới không yểm trợ được cho hạ tầng cơ sở. Từ đó đến nay hạ tầng cơ sở của cộng sản vẫn chưa phục hồi. Cộng sản còn ở thế bị động về chiến lược chiến thuật và đang thiếu thốn trầm trọng, nhất là đạn dược, tinh thần cán binh giảm sút, tuyển mộ khó khăn, số hồi chánh tăng, mức độ hoạt động của cộng sản trong năm 1972 sẽ tương tự như 6 tháng cuối năm 1971. Có thể việc chống phá bình định được trăng cường hơn và đẩy mạnh hoạt động trong dịp bầu cử Tổng thống Mỹ tháng 11-1972”(1).

Những ngày cuối cùng của tháng 3 và ngày đầu tháng 4, quân ta trên các hướng Trị - Thiên, Tây Nguyên, Khu 5 và Đông Nam Bộ đồng loạt nổ súng khai triển chiến dịch tiến công chiến lược năm 1972. Theo dõi sát những động thái trên chiến trường và tại Hội nghị Pari cũng như ở nước Mỹ, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ta nhận thấy, Mỹ rút một phần bộ binh, lính thủy đánh bộ, dù về để lại một bộ phận lục quân và một bộ phận không quân, hải quân để cùng với lực lượng tay sai Nam Việt Nam, Campuchia, Lào tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lược kiểu thực dân mới. Âm mưu của Mỹ là tăng cường viện trợ cho bọn tay sai, ráo riết tuyên truyền chiến tranh tâm lý, chiến tranh gián điệp. Mặt khác, chúng đẩy mạnh hoạt động chính trị và ngoại giao nhằm cô lập cách mạng Việt Nam, lừa bịp dư luận thế giới. Mục tiêu của Mỹ sắp tới là cố gắng giữ vững cục diện chiến trường như hiện nay - nhất là cục diện ở miền Nam Việt Nam, duy trì được chính quyền và quân đội Sài Gòn, tạo được thế mạnh về quân sự, chính trị để ép ta phải chấp nhận giải pháp chính trị tại Hội nghị Pari có lợi cho chúng, hoặc tiếp tục chiến tranh, nhưng Níchxơn vẫn trúng cử Tổng thống Mỹ, bám giữ được Nam Việt Nam, thực hiện được học thuyết mang tên y ở Đông Dương. Năm 1972 là năm rất quan trọng trong cuộc đấu tranh giữa ta và địch trên cả ba mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao. Trên cơ sở đánh giá tình hình và âm mưu địch, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 20 (4-4-1972) nêu quyết thâm đẩy mạnh tiến công quân sự, đấu tranh chính trị và ngoại giao, tập trung “đánh cho Mỹ cút” để tiến tới “đánh cho ngụy nhào”. Trên tinh thần đó, Đảng ta chủ trương nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta trong giai đoạn này là: “Với tinh thần kiên trì kháng chiến cho đến thắng lợi hoàn toàn, phải động viên toàn lực, cố gắng vượt bậc, kịp nắm vững thời cơ thuận lợi và tạo nên thời cơ mới:

- Đẩy mạnh tiến công quân sự, chính trị và binh vận, phát triển thế tiến công chiến lược mới trên toàn chiến trường miền Nam là chiến trường chính; đồng thời đẩy mạnh tiến công ngoại giao.

- Đoàn kết, phối hợp chiến đấu chặt chẽ với quân và dân Lào, quân và dân Campuchia anh em, đẩy mạnh tiến công địch trên các chiến trường Đông Dương.

- Đánh bại chính sách Việt Nam hóa chiến tranh của Mỹ, đánh bại Học thuyết Níchxơn, tạo ra một chuyển biến căn bản làm thay đổi cục diện chiến tranh ở miền Nam Việt Nam và trên cả bán đảo Đông Dương, giành thắng lợi to lớn, buộc đế quốc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh trên thế thua bằng một giải pháp chính trị có lợi cho ta mà chúng phải và có thể chấp nhận được.

- Đồng thời sẵn sàng kiên trì và đẩy mạnh cuộc kháng chiến trong trường hợp chiến tranh còn kéo dài”
(2).

Để hoàn thành nhiệm vụ trên đây, đối với miền Nam, phải nắm vững đường lối, phương châm chiến lược và quy luật của cuộc chiến tranh cách mạng, phát triển mạnh mẽ thế tiến công địch trên cả ba vùng trong tình hình hiện nay, chúng ta phải kiên quyết đánh địch bằng ba đòn chiến lược. Phải phối hợp chặt chẽ ba đòn chiến lược và lợi dụng tác động ảnh hưởng qua lại của ba đòn đó để tạo nên sức mạnh tổng hợp lớn đánh cho quân địch suy sụp về tinh thần, tan rã về tổ chức, ta thực hiện được mục tiêu: Quân Mỹ phải rút hết khỏi miền Nam Việt Nam. Miền Nam Việt Nam phải độc lập, tự do thật sự. Đối với miền Bắc, trong khi ra sức xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ miền Bắc phải thấu suốt nhiệm vụ chống Mỹ, cứu nước là nhiệm vụ hàng đầu, phải động viên sức người sức của hết lòng chi viện cho miền Nam và giúp đỡ cuộc chiến đấu chính nghĩa của Campuchia, Lào.

Nhiệm vụ rất to lớn và nặng nề trên đây của quân và dân ta ở cả hai miền đất nước, muốn hoàn thành thắng lợi phải không ngừng tăng cường sự lãnh đạo của Đảng.


(1) Kế hoạch quân sự hỗn hợp AB-147 của Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam cộng hòa, lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.33 (1972), tr.144.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 09 Tháng Giêng, 2011, 09:20:17 am
Tháng 5-1972, khi cuộc tiến công chiến lược của ta trên các chiến trường miền Nam đang diễn ra quyết liệt và tại Hội nghị Pari cuộc đấu tranh đang trong giai đoạn gây go, bế tắc. Bộ Chính trị họp quyết định Về chuyển hướng và đẩy mạnh mọi mặt công tác ở miền Bắc để tiếp tục đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Bộ Chính trị nhận định tình hình chiến tranh được diễn ra trực tiếp trên cả hai miền Nam - Bắc nước ta. Ở miền Bắc, đế quốc Mỹ đánh phá hệ thống giao thông vận tải, các cơ sở công nghiệp, kho tàng, đê đập đi đôi với thả mìn, thủy lôi phong tỏa các cảng biển, cửa sông và luồng lạch hòng ngăn chặn các nước chở hàng tiếp tế cho ta và ngăn chặn miền Bắc chi viện cho miền Nam, gây thương vong lớn cho dân thường để hòng gây sức ép về chính trị, buộc ta phải nhượng bộ tại cuộc đàm phán Pari. Rôi đây đế quốc Mỹ có thể liều lĩnh đánh phá Thủ đô Hà Nội, thành phố Hải Phòng, Nam Định, v.v. Bộ Chính trị chủ trương:

- Kiên quyét chiến đấu đánh bại mọi cuộc chiến tranh phá hoại mới của đế quốc Mỹ, đập tan mọi hành động phiêu lưu quân sự mới của chúng, bảo vệ vững chắc miền Bắc xã hội chủ nghĩa.

- Bảo đảm trong mọi tình huống chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến miền Nam tiếp tục đánh thắng giặc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai.

- Mở rộng thêm lực lượng phòng không và các lực lượng vũ trang nhân dân khác, đánh bại chiến tranh phá hoại của địch; xúc tiến công việc gỡ mìn, thủy lôi, chống địch phong tỏa.

- Giữ vững và phát triển sản xuất trong thời chiến đồng thời phải làm tốt phòng không sơ tán, tăng cường công tác phòng không nhân dân.

- Tập trung mọi cố gắng vận động nhân dân thế giới, trong đó có nhân dân tiến bộ Mỹ lên án đế quốc Mỹ leo thang chiến tranh xâm lược Việt Nam, đòi Mỹ phải chấm dứt ném bom, phong tỏa miền Bắc, phải họp Hội nghị Pari thương lượng nghiêm chỉnh và đáp ứng tích cực giải pháp 7 điểm của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.

- Phối hợp chặt chẽ đấu tranh ngoại giao với đấu tranh quân sự, đấu tranh chính trị, phục vụ cho sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn(1).

Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 20 và Nghị quyết Bộ Chính trị ra đời giữa lúc chiến trường miền Nam đang thắng lớn, Mỹ đang sử dụng một lực lượng không quân, hải quân đánh phá dữ dội hai miền Nam, Bắc Việt Nam và tại Pari, đàm phán đang bế tắc, một lần nữa khẳng định quyết tâm của Đảng là tiếp tục cuộc tiến công cho đến khi ta giành được thắng lợi quyết định. Thông qua các nghị quyết này, Đảng ta chỉ đạo quân, dân miền Nam không dừng lại ở những thắng lợi đã giành được mà phải tiếp tục phát triển cuộc tiến công mạnh mẽ hơn nữa, kết hợp chặt chẽ với đấu tranh ở Hội nghị Pari. Đối với miền Bắc phải tăng cường sức mạnh mọi mặt, đẩy mạnh sản xuất, sẵn sàng chiến đấu cao, không chủ quan lơ là mất cảnh giác luôn luôn củng cố quyết tâm đánh Mỹ, bất kể trong tình huống, hoàn cảnh nào cũng phải bảo đảm chi viện sức người, sức của cho miền Nam tiếp tục cuộc tiến công và nổi dậy.

*
*   *

Sau chiến thắng đường 9 - Nam Lào, Đông Bắc Campuchia và “Trung - Hạ Lào năm 1971 của quân dân ta, tình hình diễn biến ngày càng có lợi cho ta, bất lợi cho địch. Theo dõi sát mọi chuyển động trên chiến trường trong nước, trong khu vực và trên thế giới có liên quan tới cuộc chiến Việt Nam; lường định đúng xu thế phát triển của tình hình âm mưu và thủ đoạn mới của địch; trên cơ sở phân tích đánh giá đúng lực lượng so sánh đôi bên, Đảng ta đã nhạy bén phát triển được thời cơ và nắm lấy thời cơ phát động cuộc tiến công chiến lược trên toàn miền Nam nhằm vào ba hướng chính Trị - Thiên, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ. Đây là ba hướng phòng ngự hiểm yếu của địch, trong đó Trị - Thiên là hướng tiến công chủ yếu. Đó là quyết định kịp thời và sáng suốt của Đảng ta, đảm bảo cho toàn dân, toàn quâ ta trên cả hai miền giữ vững quyết tâm, tăng cường đoàn kết, tiếp tục đẩy mạnh tiến công quân địch trên các mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao, đưa sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mau đến thắng lợi cuối cùng.


(1) Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.33, tr.308-318.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 09 Tháng Giêng, 2011, 09:22:24 am
CHƯƠNG XXVIII

TIẾN CÔNG PHÁ VỠ
CÁC TUYẾN PHÒNG NGỰ MẠNH CỦA ĐỊCH
TRÊN CÁC CHIẾN TRƯỜNG TRỌNG YẾU

I - TIẾN CÔNG ĐỊCH TRÊN HƯỚNG CHIẾN LƯỢC CHỦ YẾU TRỊ - THIÊN

Chiến trường Trị - Thiên có vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống phòng ngự chiến lược ở miền Trung và Tây Nguyên của Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Từ đầu năm 1970 đến giữa năm 1971, mặc dù liên tục bị đánh đau, binh lực hao hụt nặng, nhất là ở vùng đường 9 - bắc Quảng Trị, địch vẫn không rút bỏ bất cứ một cứ điểm nào trong hệ thống phòng thủ chiến lược trọng yếu Trị - Thiên. Cuối năm 1971, mặc dù phán đoán hướng tiến công chiến lược chính năm 1972 của Quân giải phóng không phải là Trị - Thiên, nhưng do tầm quan trọng của địa bàn chiến lược này nên Bộ Chỉ huy Vùng chiến thuật I vẫn ráo riết tăng cường lực lượng đẩy mạnh các cuộc “hành quân tảo thanh Việt cộng” trong địa phận đảm nhiệm, tung biệt kích, thám báo nhằm thăm dò, phát hiện lực lượng và sự chuẩn bị của ta.

Cho đến giữa tháng 3-1972, lực lượng địch ở Trị - Thiên gồm có 2 sư đoàn bộ binh (1, 3), 2 lữ đoàn lính thủy đánh bộ (147, 258), 3 thiết đoàn xe tăng, xe bọc thép (11,20, 17), 17 tiểu đoàn pháo binh từ 105 mm đến 175 mm (258 khẩu), 4 tiểu đoàn, 94 đại đội bảo an, 302 trung đội dân vệ, 5.000 cảmh sát. Với lực lượng trên đây, địch tập trung bố phòng trên hai hướng Quảng Trị và Thừa Thiên. Đặc biệt ở Quảng Trị, địch liên tục duy trì Sư đoàn bộ binh 3, hai lữ đoàn 147 và 258, hai thiết đoàn 11 và 20 (chưa kể lực lượng bảo an dân vệ địa phương).

Lực lượng địch ở Quảng Trị được phân chia thành ba tuyến:

Tuyến ngoài cùng, tuyến giáp ranh giữa ta và địch, chúng bố trí tương đối liên hoàn, chặt chẽ, có không gian rất rộng, kéo dài từ biển Đông đến gần biên giới Việt - Lào, có nhiệm vụ phát hiện, ngăn chặn, phá hoại sự chuẩn bị của ta từ xa. Lực lượng bảo vệ tuyến này chủ yếu là không quân, pháo binh, biệt kích; trong trường hợp khẩn cấp, một bộ phận quân chủ lực sẽ được điều động làm nhiệm vụ nống lấn càn quét.

Tuyến giữa, tuyến phòng thủ quan trọng nhất gồm hệ thống các điểm cao, các căn cứ mà từ lâu Mỹ - Thiệu đã từng tuyên bố và vững tin là “bất khả xâm phạm”. Hệ thống đó gồm: động Ông Do, điểm cao 3654, 548, 597, 241, 544… kéo đến Cồn Tiên, Dốc Miếu, Quáng Ngang, đồi 31. Nhiệm vụ của tuyến này là ngăn chặn các cuộc tiến công của ta, bảo vệ các thị xã, thị trấn, các căn cứ, đường giao thông quan trọng và các vùng đã được bình định. Để thực hiện nhiệm vụ đó, chúng thường xuyên tổ chức thành từng khu vực phòng thủ cấp trung đoàn, tiểu đoàn hoặc tương đương vừa có thể liên kết phòng giữ vừa có thể độc lập tác chiến.

Tuyến trong cùng, còn gọi là tuyến phòng ngự dự phòng - kéo dài từ đường số 1 ra biển Đông, gồm các thị trấn, thị xã đông dân Đông Hà, Cửa Việt, Ái Tử, Quảng Trị. Các đơn vị chủ lực địch ở tuyến này có nhiệm vụ vừa sẵn sàng đánh trả các cuộc tiến công lớn của ta, vừa phối hợp chặt chẽ với bảo an, dân vệ, kịp kẹp, đánh phá các phong trào đấu tranh, hoặc nổi dậy của quần chúng.

Trên cơ sở phân chia tuyến, vùng hoạt động, Sư đoàn 3 và các lữ đoàn, thiết đoàn phối thuộc tổ chức phòng thủ ở Quảng Trị thành năm khu vực cấp trung đoàn: Trung đoàn 57 bố trí ở Quán Ngang, Dốc miếu xuống đồi 31; Trung đoàn 2 từ Bái Sơn đến Cồn Tiên; Trung đoàn 56 từ điểm cao 241 đến Tân Lâm; Lữ đoàn 147 từ Mai Lộc đến Động Toàn; Lữ đoàn 258 từ Tân Điền đến điểm cao 367; Thiết đoàn 17 có ba chi đoàn đóng ở Gia Lệ Thượng, Đông Lâm, Nhị Thượng. Sở chỉ huy Sư đoàn 3 do viên chuẩn tướng Võ Văn Giai chỉ huy, đóng tại Ái Tử…

Nhìn chung, chỗ mạnh của địch ở khu vực đường 9 - bắc Quảng Trị là hệ thống phòng ngự kiên cố, vững chắc, được xây dựng và hoàn chỉnh từng bước trong hai năm 1970-1971. Đây là những cứ điểm lợi hại, có hệ thống hỏa lực mạnh, được tính toán phần tử bắn theo tọa độ lưới rất kỹ cho pháo binh, pháo hạm và không quân (kể cả máy bay chiến lược B.52). Do đó, hệ thống hỏa lực địch tại đây có thể khống chế được một vùng rộng lớn hai bên nam - bắc sông Bến Hải. Nhưng chỗ yếu cơ bản của hệ thống phòng ngự địch là bên ngoài mạnh, bên trong sơ hở, nhất là khu vực rừng núi phía tây từ Ba Lòng đến núi Cái Mương (Huế). Hơn nữa, từ khi bộ binh Mỹ rút, tinh thần binh sĩ Sài Gòn hoang mang, quân dự bị (kể cả dự bị chiến lược) thiếu, mỏng, dàn trải ở khắp nơi.

Trên cơ sở nắm bắt sát diễn biến thực tế, lường định xu thế phát triển của tình hình và quyết định thay đổi hướng tiến công chiến lược chủ yếu năm 1972 (từ chiến trường Đông Nam Bộ sang chiến trường Trị - Thiên) của Thường vụ Quân ủy Trung ương, ngày 23-3-1972, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương họp thảo luận, nhất trí phê duyệt kế hoạch tiến công cho 1972.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 09 Tháng Giêng, 2011, 09:25:04 am
Để trực tiếp lãnh đạo, chỉ huy hướng tiến công chiến lược chủ yếu Trị - Thiên, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định thành lập Bộ Tư lệnh và Đảng ủy chiến dịch. Thiếu tướng Lê Trọng Tấn, Phó Tổng tham mưu trưởng làm Tư lệnh; Thiếu tướng Lê Quang Đạo, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị làm Chính ủy kiêm Bí thư Đảng ủy chiến dịch. Các đồng chí Cao Văn Khánh, Giáp Văn Cường, Doãn Tuế, Phạm Hồng Sơn, Hoàng Minh Thi, Lương Nhân, Nguyễn Anh Đệ làm Phó Tư lệnh. Đồng chí Hồ Sỹ Thản, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Trị được chỉ định tham gia Đảng ủy - Bộ Tư lệnh chiến dịch. Thượng tướng Văn Tiến Dũng, Ủy viên Bộ Chính trị, Tổng Tham mưu trưởng được cử làm đại diện của Quân ủy Trung ương trực tiếp chỉ đạo hướng chiến lược quan trọng này.

Cũng trong hội nghị, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đã xác định chiến dịch tiến công Trị - Thiên có những nhiệm vụ chủ yếu sau:

- Tiêu diệt phần lớn lực lượng quân sự địch ở Trị - Thiên (chủ yếu là Quảng Trị), trong đó tiêu diệt cho được hai sư đoàn và đánh thiệt hại nặng một sư đoàn khác.

- Phối hợp chặt chẽ giữa tiến công quân sự và nổi dậy của quần chúng ở nông thôn đồng bằng, đẩy mạnh phong trào đô thị và công tác binh vận; tiêu diệt và làm tan rã đại bộ phận lực lượng bảo an, dân vệ, phòng vệ dân sự, đánh bại kế hoạch bình định của địch.

- Giải phóng nhân dân địa bàn Trị - Thiên, trước hết là giải phóng tỉnh Quảng Trị. Tiêu diệt, phân tán, giam chân thu hút lực lượng địch, phối hợp với các chiến trường giành thắng lợi chung cho cuộc tiến công chiến lược 1972.

Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương chỉ rõ, hai nhiệm vụ tiêu diệt sinh lực địch và hỗ trợ cho quần chúng trên ba vùng chiến lược nổi dậy chẳng những rất quan trọng, mà còn có quan hệ mật thiết với nhau. Bộ đội chủ lực và lực lượng vũ trang địa phương muốn tiêu diệt nhanh gọn sinh lực địch, mở rộng địa bàn hoạt động dứt khoát phải có sự đấu tranh hỗ trợ của nhân dân. Ngược lại, phong trào quần chúng muốn nổi dậy mạnh mẽ, rộng khắp, các lực lượng vũ trang phải có những đòn tiến công tiêu diệt sinh lực địch, phá được thế kìm kẹp của chúng.

Căn cứ nhiệm vụ của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương giao, ngày 16-3-1972, tại Bãi Hà (phía tây huyện Vĩnh Linh), Đảng ủy và Bộ Tư lệnh chiến dịch Trị - Thiên họp bàn triển khai kế hoạch tác chiến. Sau khi nghiên cứu phân tích thêm về nhiệm vụ chiến lược năm 1972 của Bộ chính trị và Quân ủy Trung ương trên chiến trường miền Nam, đặc biệt là tình hình địch, ta trên chiến trường Quảng Trị, Đảng ủy và Bộ Tư lệnh chiến dịch quyết định phân chia chiến trường Quảng Trị thành bốn cánh tác chiến và sử dụng lực lượng chiến đấu trên từng cánh như sau:

- Cánh Bắc, cánh chủ yếu của chiến dịch, sử dụng Sư đoàn bộ binh (308 (thiếu một trung đoàn), hai trung đoàn bộ binh (48, 27), hai trung đoàn pháo mặt đất (164, 84), trung đoàn pháo cao xạ, hai tiểu đoàn xe tăng, xe bọc thép, hai tiểu đoàn công binh, Tiểu đoàn đặc công 33, ba trung đội hóa học, trinh sát, súng phun lửa… do đồng chí Phạm Hồng Sơn, Phó Tư lệnh chiến dịch và đồng chí Hoàng Minh Thi, Phó Chính ủy chiến dịch trực tiếp chỉ huy, được các lực lượng vũ trang địa phương phối hợp, có nhiệm vụ tiêu diệt Trung đoàn 57 và Trung đoàn 2 bộ binh (thuộc Sư đoàn bộ binh 3 ngụy) ở điểm cao 544, Đồi Tròn, Động Mã, Cồn Tiên; thừa thắng bao vây tiêu diệt miếu Bái Sơn, Quán Ngang; sẵn sàng diệt địch ở Hồ Khê, Đá Bạc, Thiện Xuân, Lăng Cô, Gia Bình… Sau khi đã tiêu diệt được toàn bộ các mục tiêu nói trên, các đơn vị nhanh chóng chuyển sang bao vây tài chính cụm cứ điểm Đông Hà, kiên quyết không cho địch co cụm đối phó.

- Cánh Tây, sử dụng Sư đoàn bộ binh 304, bốn trung đoàn pháo cao xạ (230, 232, 241, 280), Trung đoàn 38 pháo binh, hai tiểu đoàn tên lửa, một tiểu đoàn xe tăng, một tiểu đoàn công binh do Đại tá Hoàng Đan - Sư đoàn trưởng sư đoàn 304 chỉ huy, đảm nhận tiến công tuyến phòng ngự phía tây của địch ở Động Toàn, Ba Tum, Ba Hồ, nếu địch phản ứng có thể tổ chức tiêu diệt trước thời hạn quy định, nhằm thu hút địch tạo điều kiện cho các cánh khác chuẩn bị. Sau đó, toàn cánh phối hợp với cánh Bắc đánh chiếm Núi Kiếm, bao vây tiêu diệt các căn cứ 241, Mai Lộc, Đầu Mầu, sẵn sàng tiến công tiêu diệt Ái Tử.

- Cánh Nam, do Sư đoàn bộ binh 324 cùng các đơn vị thuộc Mặt trận đường 9 - bắc Quảng Trị phối thuộc (tiểu đoàn thông tin, tiểu đoàn công binh) được sự hỗ trợ của hai tiểu đoàn địa phương tỉnh Quảng Trị, do đồng chí Giáp Văn Cương, Phó Tư lệnh và đồng chí Lê Tự Đồng, Phó Chính ủy Bộ Tư lệnh chiến dịch chỉ huy, có nhiệm vụ tiêu diệt địch ở phía đông dãy Thượng Nguyên, chủ yếu từ khu vực động Ông Do xuống đoạn đường số 1 (nam thị xã Quảng Trị đến bắc sông Mỹ Chánh, thực hiện chia cắt chiến dịch, hỗ trợ cho nhân dân Triệu Plhong, Hải Lăng nổi dậy diệt ác phá kìm giải quyền làm chủ.

- Cánh Đông, cánh thứ yếu của chiến dịch, kéo dài từ Hoàng Hà, Mai Xá, Cửa Việt lên ngã ba Gia Độ (bắc sông Hiếu). Ở vùng đồng bằng sông nước này, tuy có cơ sở cách mạng vững, bộ đội địa phương và du kích dày dạn kinh nghiệm chiến đấu, nhưng nơi đây địa hình trống trải, đường cơ động của bộ đội chủ lực gặp khó khăn, nhất là việc triển khai binh khí kỹ thuật cơ giới. Mặt khác, quân địch ở đây từ lâu đã xây dựng, củng cố hệ thống phòng thủ vững chắc, có pháo hạm và giang thuyền nhiều. Tất thảy những điều đó gây cho ta không ít trở ngại trong quá trình thực hiện tiến công. Trong những điều kiện đó, Bộ Tư lệnh chiến dịch quyết định sử dụng Đoàn 126 đặc công hải quân, hai tiểu đoàn đặc công trên bộ (31, 25), Tiểu đoàn 47 Vĩnh Linh, một tiểu đoàn pháo mang vách, hai đại đội địa phương Quảng Trị, do đồng chí Bùi Thúc Dưỡng, Tham mưu phó chiến dịch chỉ huy, làm nhiệm vụ bao vây Dốc Miếu, Quán Ngang từ phía đông, tiến công quân cảng Cửa Việt, sau đó phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương tiêu diệt và làm tan rã lực lượng kìm kẹp của địch, hỗ trợ nhân dân các xã ven biển Gio Linh, Triệu Phong nổi dậy giành quyền làm chủ.

Về phương châm chỉ đạo tác chiến, Đảng ủy và Bộ Tư lệnh chiến dịch chủ trương: tranh thủ đánh địch ngoài công sự để tiêu diệt sinh lực và phương tiện chiến tranh, tạo thời cơ đánh những trận quyết định tiêu diệt từng trung đoàn, lữ đoàn địch, phá vỡ tuyến phòng thủ, nhanh chóng đột phá tung thâm, không cho chúng đối phó, phát huy cao độ uy lực của mọi loại binh khí kỹ thuật hiện có, đánh tập trung hiệp đồng binh chủng quy mô lớn, coi trọng đánh vừa và nhỏ, đánh sâu và hiểm bằng những lực lượng tinh nhuệ, hỗ trợ cho nhân dân Quảng Trị, Thừa Thiên nổi dậy giành quyền làm chủ.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 09 Tháng Giêng, 2011, 09:27:35 am
Tiếp sau Hội nghị Đảng ủy vầ Bộ Tư lệnh chiến dịch Trị - Thiên bốn ngày, Thường vụ Tỉnh ủy và Ban chỉ huy Tỉnh độ Quảng Trị đã hộp bàn và ra nghị quyết thực hiện nhiệm vụ. Nghị quyết nêu rõ: Quân và dân trong tỉnh tích cực chuẩn bị phối hợp với bộ đội chủ lực, tận dụng thời cơ thuận lợi, động viên mọi khả năng, nhanh chóng khắc phục khó khăn, vượt qua hy sinh, ác liệt, đánh bại kế hoạch bình định của địch, giành quyền làm chủ hầu hết nông thôn, đồng bằng, giải phóng 75% đến 95% dân số.

Theo kế hoạch và quyết tâm tác chiến đã xây dựng, Thường vụ Tỉnh ủy và Ban Chỉ huy quân sự tỉnh Quảng Trị lâm thời(1), thống nhất tổ chức lực lượng vũ trang địa phương thành hai bộ phận phụ trách hai khu vực:

- Khu vực phía Bắc, gồm hai huyện Gio Linh, Cam Lộ và thị trấn Đông Hà, do đồng chí Nguyễn Thư, Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy, Chỉ huy trưởng quân sự tỉnh, phụ trách.

- Khu vực phía Nam, gồm hai huyện Triệu Phong, Hải Lăng và thị xã Quảng Trị, do đồng chí Nguyễn Đức Dũng, Phó Bí thư Tỉnh ủy và đồng chí Nguyễn Văn Lương, Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy, đảm nhiệm.

Thời điểm mở màn chiến dịch càng đến gần, việc hoàn tất mọi  công tác chuẩn bị càng trở nên khẩn trương. Trung tuần tháng 3-192, bên cạnh việc tăng cường trinh sát kỹ thuật trên các mũi, các hướng, kể cả việc tung các tổ đội kỹ thuật luồn sâu bám nám địch báo cáo kịp thời cho chỉ huy các cấp xử lý tình huống, mở gấp và hoàn thành các mạng đường cơ động lực lượng, Bộ Tư lệnh chiến dịch bắt đầu ra lệnh cho các cánh quân hành quân vào vị trí đứng chân, nhanh chóng bổ sung đầy đủ vật chất, trang bị chiến đấu.

Để đảm bảo tốt kế hoạch nghi binh, Bộ Tư lệnh chiến dịch, một mặt, chỉ đạo Tỉnh đội Quảng Trị thực hiện một số trận đánh cài thế ở cánh nam và cánh Đông, mặt khác, cho các tổ đài nghi binh của mặt trận thường xuyên phát lên không trung những chỉ thị, mệnh lệnh giả.

Về công tác đảm bảo hậu cần chiến dịch, ngoài ba cụm kho hàng của mặt trận ở Nguồn Rào, Hướng Hóa, Sa Trầm, Bộ Chỉ huy chiến dịch còn trực tiếp hiệp đồng với Bộ Tư lệnh Đoàn 559 chuẩn bị tiếp lượng hàng dự trữ cho chiến dịch. Tính đến ngày 26-3-1972, Đoàn vận 559 và Đoàn vận tải Quân khu 4 cùng với 5.000 dân công hỏa tuyến phục vụ trên mặt trận phục vụ trên mặt trận đường 9 của các tỉnh đã tập kết được hơn 16.000 tấn hàng bằng các phương tiện ôtô, xe thồ và gùi vác.

Khi các binh đoàn chủ lực của ta đã ở tư thế sẵn sàng tiến công thì phía đối phương vẫn không hề đoán định được hướng chính của cuộc tiến công chiến lược năm 1972 của ta. Ngày 18-3-1972, viên trung tướng Hoàng Xuân Lãm - Tư lệnh Vùng I chiến thuật cùng viên chuẩn tướng Võ Văn Giai - Tư lệnh Sư đoàn 3 và viên đại tá Phan Bá Hòa - Tỉnh trưởng Quảng Trị, sau khi dùng máy bay trực thăng kiểm tra khu vực đường 9 - bắc Quảng Trị, đã thống nhất nhận định: Sau tổn thất trong cuộc hành quân Lam Sơn 719, Quân giải phóng chưa thể mở chiến dịch lớn ở Quảng Trị. Vì vậy, theo kế hoạch quân sự hình thành từ trước, ngày 25-3, Bộ Chỉ huy Sư đoàn 3 quân đội Sài Gòn vẫn cho các đơn vị dóng chốt ở phía trước thay quân. Tiểu đoàn 2 (Trung đoàn 2) Từ Đong Hà ra Cồn Tiên; Tiểu đoàn 3 (Trung đoàn 56) từ Cồn Tiên vào Tân Lâm; Tiểu đoàn 3 (Trung đoàn 2) thay tiểu đoàn 1 ở điểm cao 541; Tiểu đoàn 3 (Trung đoàn 57) ở Mai Xá Thị, Tân Hà thay Tiểu đoàn 2 ở Dốc Sỏi, Xuân Hải; Tiểu đoàn 1 (Lữ đoàn 147) thay Tiểu đoàn 4 ở Động Toàn..

Chính vào thời điểm ấy, lực lượng trinh sát Sư đoàn 3 Sài Gòn đột ngột phát hiện ra “mấy sư đoàn tinh nhuệ Bắc Việt” đã áp sát Phòng tuyến Mác Namara ở phía nam vĩ tuyến 17. Ngay lập tức, Bộ Chỉ huy tiền phương Vùng I chiến thuật của quân đội Sài Gòn đã có những biện pháp nhằm đối phó. Nhưng tất cả những nỗ lực của địch lúc này đều đã muộn.

Sáng ngày 30-3-1972, nhận được tin do lực lượng quân báo mặt trận báo cáo về việc Trung đoàn 56 quân Sài Gòn trên hướng chủ yếu của chiến dịch đang cho các tiểu đoàn vào thay quân ở điểm cao 541 và Đồi Tròn, Bộ Tư lệnh chiến dịch Trị - Thiên thống nhất đề nghị Bộ Tổng Tư lệnh cho bộ đội nổ súng vào 11 giờ 30 phút (thay vì 16 giờ của kế hoạch cũ). Đề nghị được chấp nhận.

Giữa lúc tiếng súng đánh địch của quân và dân miền Nam đang nổ giòn giã trên tất cả các hướng chiến lược, thì ngày 31-3-1972, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra lời kêu gọi: “Trước nhiệm vụ lịch sử trọng đại đối với sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc, Trung ương Đảng kêu gọi các cấp ủy đảng, các cấp chỉ huy, toàn thể đảng viên, đoan viên, cán bộ, chiến sĩ hãy ra sức thực hiện Di chúc thiêng liêng của Hồ Chủ tịch kính yêu, có quyết tâm cao nhất, đem hết sức mình, kiên quyết chiến đấu, cống hiến lớn nhất cho Tổ quốc.

Các đồng chí hãy:

Nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tinh thần quyết chiến, quyết thắng, tích cực, chủ động, kiên quyết, linh hoạt tiến công địch.

Giương cao ngọn cờ trăm trận trăm thắng của Đảng anh hùng, của quân đội anh hùng!

Toàn thể cán bộ. chiến sĩ trên khắp mặt trận hãy anh dũng tiến lên!”(2).


(1) Ban Chỉ huy tỉnh đội mở rộng (có cán bộ chủ chốt của tỉnh tham gia) để thực hiện nhiệm vụ phối hợp với bộ đội chủ lực tiến hành kế hoạch tiến công Trị - Thiên năm 1972.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.33, tr.231.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 09 Tháng Giêng, 2011, 09:32:42 am
Mở màn chiến dịch, năm cụm pháo binh gồm hàng trăm khẩu bố trí trận địa từ Trung Hải, Lăng Cô (đông bắc) tới Sa Pa, Ba Hi (hướng nam), với phần tử xạ kích đã được tính toán kỹ, tới tấp nã đạn vào các mục tiêu Dốc Miếu, Dốc Sỏi, Cồn Tiên, miếu Bái Sơn, Đồi Tròn, Đầu Mầu, Tân Lâm, Động Toàn, Đông Hà, Cam Lộ, Ái Tử… Hỏa lực chế áp của pháo binh tạo điều kiện cho bộ binh và xe tăng ta nhanh chóng xông lên, ấp sát mục tiêu.

Cánh Bắc do trung đoàn 27 và trung đoàn 48 bộ binh (Sư đoàn 320B) đảm nhiệm, khi giờ G mới điểm, pháo binh chiến dịch đồng loạt dội đạn xuống căn cứ địch, đồng thời hai trung đoàn dâng cao đội hình, áp sát mục tiêu. Ở hướng tiến công của Trung đoàn 27, pháo vừa chuyển làn, tiểu đoàn 2 đã ào lên đánh chiếm điểm cao 544. Sau 20 phút chiến đấu dũng cảm, Tiểu đoàn 2 đã cắm được cờ Mặt trận Giải phóng lên căn cứ địch. Tiếp đó, Tiểu đoàn 2 tràn xuống bao vây công kích địch ở Đồi Tròn. Trong lúc hỏa lực súng cối, ĐKZ, 12,7 mm bắn phá mãnh liệt tiêu diệt các hỏa điểm lộ của địch, một bộ phận lực lượng các trung đoàn được lệnh sử dụng hai bộ vũ khí FR  đánh phá nhiều lớp rào kẽm gai mở cửa vào căn cứ địch. Khi khu vực đầu cầu bị ta đánh chiếm, địch núng thế, có biểu hiện tháo chạy. Chớp thời cơ, bộ đội ta đánh tràn lên. Đến 10 giờ 30 phút ngày 31-3, Trung đoàn 27 đã giải phóng Đồi Tròn. Tối hôm đó, một hãng tin phương Tây tại Huế đã phát đi tin tức việc tướng Giai đã để lọt vào tay Quân giải phóng hai căn cứ tiền tiêu cực kỳ quan trọng ở bắc đường số 9 một cách nhanh chóng.

Trên hướng Trung đoàn 48, sau khi tiêu diệt địch ở khu vực Quất Xá, cầu Đuồi, bộ đội ta nhanh chóng chuyển sang bao vây chi khu Cam Lộ, ngăn chặn địch rút chạy và tăng viện cho đường 9. Trưa ngày 31-3, để cứu nguy cho đồng bọn đang bị bao vây, địch cho hai tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 56 có xe thiết giáp yểm trợ lên giải tỏa và tăng cường giữ sở chỉ huy trung đoàn ở điểm cao 241. Tiểu đoàn 15 và các đơn vị có hỏa lực tăng cường của ta đã chặn đánh quyết liệt quân địch ở cầu Thiện Xuân, buộc chúng phải chống đỡ chờ quân tăng viện phía sau.

Cùng thời gian này, ở khu vực Cồn Tiên, Đoàn bộ binh 31 của ta nhanh chóng bao vây, chia cắt, tiêu diệt địch cơ động ở vòng ngoài; sau đó, cùng lực lượng vũ trang địa phương vây hãm căn cứ. Lo sợ những đòn tiến công sấm sét của ta, ngay chiều ngày 31-3, địch ở Cồn Tiên bỏ căn cứ tháo chạy về miếu Bái Sơn, mở đầu cuộc rút chạy trên tuyến phòng thủ vòng ngoài của địch.

Ở Cánh Tây - cánh trọng yếu của chiến dịch do Sư đoàn bộ binh 304 đảm nhiệm, sáng 30-3, một bộ phận trinh sát của Trung đoàn 66 phục kích diệt gọn một trung đội địch khi chúng nống ra lùng sục nhằm phát hiện bàn đạp tiến công của ta. 11 giờ 45 phút, pháo binh ta tới tấp và mãnh liệt dội đạn xuống hàng loạt các căn cứ địch rải dọc hai bên đường 9, dọc hàng rào điện tử Mắc Namara. Tại khu vực điểm cao 252, chớp thời cơ địch hoảng loạn do bị hỏa lực pháo binh ta chế áp, Bộ Tư lệnh Sư đoàn 304 lệnh cho Trung đoàn 66 sử dụng Tiểu đoàn 2 dâng cao đội hình công kích điểm cao này. Sau một ngày chiến đấu quyết liệt không quản hy sinh, Tiểu đoàn 2 và bộ phận tăng cường đã làm chủ điểm cao 252, diệt và bắt 150 tên địch.

Được chiến thắng cổ vũ, trưa ngày 31-3, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 66 Lê San lệnh cho Tiểu đoàn 2 và lực lượng phối thuộc tiếp tục tiến công cứ điểm Đầu Mầu, một vị trí quan trọng án ngữ trục đường 9 và khu vực tây bắc căn cứ Tân Lâm trong hệ thống phòng thủ của địch. Với sự chi viện bằng hỏa lực của pháo binh chiến thuật, sau hai giờ chiến đấu, quân ta đã làm chủ căn cứ, diệt gọn Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 56 quân đội Sài Gòn. Đầu Mầu bị đánh chiếm tạo điều kiện thuận lợi để ta đưa lực lượng Trung đoàn 24 và Trung đoàn 9 vào bao vây tiêu diệt địch ở khu vực Núi Kiếm và căn cứ Tân Lâm - sở chỉ huy Trung đoàn 56 quân Sài Gòn.

Khác với các hướng trên đây, ở hướng tác chiến Động Toàn do Trung đoàn 66 đảm nhận, tình hình diễn biến rất phức tạp. Dựa vào hệ thống trận địa, hầm hào kiên cố và lợi dụng địa hình nhiều vách đá và dốc đứng ở khu vực Động Toàn, Tiểu đoàn 4 Lữ đoàn lính thủy đánh bộ 147 chống trả ta quyết liệt. Nhiều nơi đã xảy ra những trận cận chiến đẫm máu. Hai bên giành giật nhau từng mỏm đất, từng căn hầm, từng đoạn hào. Trận đánh kéo dài đên ngày thứ ba. Với sự yểm trợ đắc lực của hỏa lực pháo binh, cuối cùng các chiến sĩ thuộc Trung đoàn 66 cũng đánh chiếm được căn cứ Động Toàn. Ở Ba Hồ, Tiểu đoàn 19 đặc công, bằng lối đánh bao vây chặt, tiến công rất dũng mãnh, táo bạo, đã đánh thiệt hại nặng Tiểu đoàn 1 Lữ đoàn 147 quân đội Sài Gòn, số sống sót tháo chạy thục mạng. Rạng sáng ngày 2-4, những lá cờ chiến thắng mang tên Chiến thắng Đầu Mầu, Chiến thắng Động Toàn, Chiến thắng Ba Hồ… của Sư đoàn 304 đã phấp phới tung bay trên các cao điểm phía tây bắc Quảng Trị.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 09 Tháng Giêng, 2011, 09:33:28 am
Ở Cánh Đông, Hiệp đồng tiến công với hai hướng chủ yếu, Đoàn đặc công hải quân 126 táo bạo tiến công Duyên đoàn 11 quân Sài Gòn ở Cảng Cửa Việt, sau đó triển khai đội hình kháo chặt quân cảng này, ngăn chặn địch ở biển vào cũng như từ Đông Hà xuống. Căn cứ Dốc Miếu nằm bên trục đường 1 bị pháo ta bắn phá thiệt hại nặng nề và bị vây hãm từ ba phía. Trước nguy cơ bị tiêu diệt, sáng ngày 1-4, địch ở Dốc Miếu, Dốc Sỏi bỏ chạy về Quán Ngang. Chớp thời cơ thuận lợi, Tiểu đoàn 47 Vĩnh Linh phối hợp chặt chẽ với bộ đội đặc công và dân quân, du kích địa phương tiến công tiêu diệt các lực lượng bảo an, dân vệ ở các thôn ấp, tiểu khu của địch, giải phóng quận lỵ Gio Linh, khu tập trung Bến Ngự, Mai Xá Thị, Hà Thượng, Xuân Khánh… tạo điều kiện cho nhân dân các xã Gio Hà, Gio Lễ, Gio Mỹ, khu tập trung Quán Ngang nổi dậy diệt ác, phá kìm giành quyền làm chủ.

Cánh Nam do Sư đoàn 324 đảm nhiệm. Ngay từ đêm 29 rạng ngày 30-4, Bộ Tư lệnh Sư đoàn tổ chức cho Trung đoàn 1 cùng các đơn vị phối thuộc hành quân chiếm lĩnh trận địa. Mặc dù bị phi pháo địch đánh phá ngăn chặn, nhưng Trung đoàn 1 vẫn vượt qua khó khăn ác liệt ban đầu, nhanh chóng hình thành thế trận bao vây điểm cao 365 do Tiểu đoàn 8 Lữ đoàn 147 quân Sài Gòn chốt giữ. Gần 11 giờ trưa ngày 30-3-1972, địch sử dụng 2 máy bay trực thăng tiếp tế cho lực lượng đang chốt giữ điểm cao 365. Khi máy ay trực thăng vừa đáp xuống hai bãi đỗ, binh lính địch chưa kịp triển khai đội hình chiến đấu thì lệnh tiến công trên toàn tuyến của ta phát ra. Ngay từ loạt đạn đầu, hai chiếc trực thăng và một số mục tiêu lộ của địch đã bị trúng đạn, bốc cháy. Được pháo binh chi viện đắc lực và có hiệu quả, cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 1 phấn khích lao vào trận đánh. Đến 1 giờ, hầu hết hỏa điểm lộ trong căn cứ 365 bị phá hủy. Địch hoang mang cực độ đinh bỏ chạy, nhưng mọi con đường bộ về hướng đông đã bị khóa chặt. Trung đoàn 1 lần lượt xung phong tiêu diệt những ổ kháng cự. 19 giờ, ta làm chủ trận địa. Mất điểm cao 365, địch ở điểm cao 367 hoang mang rút chạy về căn cứ Phượng Hoàng.

Bước sang ngày 2-4, trên cánh Bắc, sau khi nhận được thông báo của Bộ Tư lệnh chiến dịch về tình hình địch trên toàn tuyến đang bị dao động mạnh trước nhữn đòn tiến công như vũ bão của ta, Ban Chỉ huy Trung đoàn 48 Sư đoàn 320 lập tức triển khai chiến đấu ngay. Trung đoàn cho Tiểu đoàn 1 bôn tập tiến công cụm địch hỗn hợp của Thiết đoàn 20 đang tiến lên tăng cường chốt giữ Cam Lộ. Tiểu đoàn 2 phối hợp với đơn vị bạn bao vây tiêu diệt cụm địch ở đông bắc chi khu quân sự Cam Lộ. Bị bộ đội ta tiến công từ nhiều phía, bộ phận cứu viện đi đầu của Thiết đoàn 20 bị thiệt hại nặng, số còn lại không bám trụ nổi phải vượt đồi Cao Hạ tháo chạy về Đông Hà.

Cùng thời gian, Trung đoàn 24 Sư đoàn 304 ở cánh Tây Bắc cũng nhanh chóng xiết chặt vòng vây, công kích mãnh liệt quân địch ở Tân Lâm và căn cứ Trung đoàn 56 ngụy ở điểm cao 241. Trước nguy cơ bị tiêu diệt, toàn bộ quân địch trong căn cứ gồm chỉ huy, cơ quan tham mưu trung đoàn cùng một tiểu đoàn bộ binh và các trận địa hỏa lực trực thuộc do viên trung tá Trung đoàn trưởng Phạm Văn Đính, thiếu tá Trung đoàn phó Nguyễn Vĩnh Phong chỉ huy chấp nhận đầu hàng. 12 giờ 45 phút ngày 2-4, toàn bộ khu vực phòng thủ cánh Tây Bắc của địch bị phá vỡ.

Phối hợp với đòn tiến công của bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương tỉnh Quảng Trị và các tổ vũ trang công tác mặt trận đã bí mật luồn sâu vào hậu phương địch, tổ chức các trận địa tập kích một số mục tiêu ở Đông Hà, Ái Tử, thị xã Quảng Trị khiến cho địch thêm bối rối, hoang mang. Bộ đội địa phương và du kích hai huyện Gio Linh, Cam Lộ chia thành nhiều cụm, đội bám sát các mục tiêu chuẩn bị đánh địch. Rạng ngày 31-3, các lực lượng vũ trang luồn sâu đồng loạt nổ súng vào nhiều đồn bốt, phát động quần chúng nổi dậy phá các khu tập trung đưa dân về làng cũ. Tại các xã có lực lượng vũ trang tại chỗ mạnh như Gio Hải, Cùa, Ba Lòng, nhân lúc bộ đội chủ lực tấn công áp đảo địch, nhân dân kịp thời nổi dậy. Đặc biệt hai xã Gio Linh, Gio Quang tuy bộ đội chưa vào kịp, nhưng dân quân du kích ở đây vẫn chốp thời cơ phát động nhân dân nổi dậy diệt địch, giành quyền làm chủ.

Ở các xã Cam Chính, Cam Nghĩa (Cam Lộ), trước giờ nổ súng, các huyện ủy viên phụ trách các tổ công tác đã phát động trên 2.000 quần chúng tự trang bị vũ khí nổi dậy, giành quyền làm chủ. Khu tập trung đồng bào dân tộc ở nam Cùa, tổ chức hân cốt cách mạng vận động ba trung đội dân vệ làm binh biến. Lực lượng binh biến tổ chức cướp xe ôtô địch, cắm cờ Mặt trận và cơ động khắp nơi, kêu gọi đồng bào phá khu tập trung trở về bản cũ. Tại Ba Lòng, các đội vũ trang công tác vận động được 14 lính bảo an ra đầu thú, tuyển chọn hàng chục thanh niên tăng cường cho lực lượng vũ trang xã.

Đến ngày 4-4-1972, bộ đội ta trên bốn cánh đã phá vỡ tuyến phòng thủ vững chắc vòng ngoài của địch, giải phóng hai huyện Gio Linh, Cam Lộ, tiêu diệt và bức hàng Trung đoàn 56, đánh thiệt hại nặng Trung đoàn 2 và Lữ đoàn 147 lính thủy đánh bộ, đánh bại Chiến đoàn 20, buộc địch phải bỏ toàn bộ tuyến phòng thủ đường 9 - bắc Quảng Trị và bốn căn cứ trung đoàn, bảy căn cứ tiểu đoàn.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 09 Tháng Giêng, 2011, 09:34:09 am
Hàng rào điện tử Mắc Namara - phòng tuyến được mệnh danh là bất khả xâm phạm bị mất, Bộ Chỉ huy quân Mỹ và Bộ Chỉ huy quân đội Sài Gòn bị động đối phó. Ngày 3-4-1972, Nguyễn Văn Thiệu ra Huế trực tiếp thị sát tình hình, mở cuộc họp với các tư lệnh vùng, sư đoàn, lữ đoàn để bàn cách ngăn chặn các cuộc tiến công của ta. Sau khi nghe báo cáo tình hình, Nguyễn Văn Thiệu lệnh cho Vùng chiến thuật 1 và Sư đoàn 3 nhanh chóng tổ chức cụm phòng ngự Đông Hà, Ái Tử - La Vang quyết tâm tử thủ, bảo vệ những khu vực còn lại ở vùng này bằng mọi giá. Đồng thời, Nguyễn Văn Thiệu chỉ thị cho Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam cộng hòa khẩn cấp tăng viện cho mặt trận Quảng Trị. Ngày 4-4, Lữ đoàn 369 lính thủy đánh bộ quân Sài Gòn được không vận từ Vùng chiến thuật 3 ra khu vực Mỹ Chánh. Hai ngày 5 và 6-4, địch không vận tiếp ba liên đoàn biệt động quân (4, 5, 6) từ Vùng chiến thuật 2, Vùng chiến thuật 4 ra tăng cường cho Đông Hà, Quảng Trị. Chỉ trong ba ngày, với phương tiện vận chuyển hiện đại, địch đã đưa được 9 tiểu đoàn và nhiều phương tiện chiến đấu tới chiến trường nóng bỏng này. Cùng với việc tăng cường lực lượng cho các điểm cao còn lại phía tây Đông Hà, Ái Tử, tổ chức thành tuyến liên hoàn bằng lực lượng bộ binh, xe tăng, sử dụng lối đánh phân tán nhỏ, di động nhanh để đánh trả và tránh bị tiêu diệt lớn, địch còn tập trung một bộ phận lớn lực lượng không quân (kể cả máy bay chiến lược B.52) và pháo hạm đánh phá hết sức dữ dội nhằm ngăn chặn đà tiến công của ta.

Ngày 6-4-1972, mặc dù biết rõ diễn biến phức tạp của tình hình, Bộ Tư lệnh chiến dịch vẫn quyết tâm tổ chức lực lượng tiến công vào khu trung tâm phòng ngự mới của địch, nhằm không cho chúng kịp củng cố bàn đạp tạo thế trận phản kích ta. Bộ Tư lệnh quyết định sử dụng Sư đoàn 308 (thiếu Trung đoàn 88) được tăng cường Trung đoàn 28 và hai đại đội xe tăng, tiến công cụm địch ở Đông Hà, Lai Phước. Sư đoàn 304 tiến công cụm cứ điểm ở Ái Tử, khống chế cầu Quảng Trị, chặn đường rút lui của tập đoàn quân địch. Sư đoàn 324 đánh địch ở La Vang, Tích Tường, cắt giao thông quốc lộ số 1 từ cầu Nhùng đi Mỹ Chánh. Trung đoàn 27 và Tiểu đoàn 47 được hai đại đội xe giao thông K63 chi viện, thọc sâu vu hồi ở cánh Đông, hỗ trợ nhân dân trong các khu tập trung nổi dậy giành quyền làm chủ ở hai huyện Triệu Phong, Hải Lăng.

Sau ba ngày chuẩn bị gấp cơ sở vật chất và tăng thêm lực lượng vào khu vực tác chiến, sáng ngày 9-4-1972, Bộ Tư lệnh chiến dịch cho các đơn vị tiến công vào đánh chiếm các cụm căn cứ Đông Hà, Ái Tử, La Vang.

Trên hướng Đông Hà do Sư đoàn 308 đảm nhiệm, Trung đoàn 36 và Trung đoàn 102 được xe tăng, thiết giáp yểm trợ đột phá quyết liệt quân địch chốt giữ trên địa bàn hình cánh cung dài 8 km từ chùa Tám Mái (tây bắc Đông Hà) qua dãy Động Quai Vạc đến điểm cao 36 (tây nam Đông Hà). Sau hai giờ đột phá, bộ binh và xe tăng ta đã chiếm được bốn quả đồi phía bắc và phía tây, tiêu diệt được một số tổ chốt hỗn hợp xe tăng và bộ binh địch. Một số mũi tiến công chủ yếu của ta sau khi đánh chiếm được mục tiêu, bị địch tổ chức phản kích quyết liệt. Trung đoàn 36 phải điều phân đội xe tăng dự bị lên hỗ trợ đột phá, giúp cho những mũi này giữ vững trận địa.

Ở phía tây bắc Ái Tử, Trung đoàn 24 sư đoàn 304 dùng sức mạnh hiệp đồng binh chủng ồ ạt đánh chiếm căn cứ Phượng Hoàng. Biết rõ vị trí chiến thuật sống còn của căn cứ Phượng Hoàng đối với Ái Tử, nên chiều cùng ngày, địch tập trung binh lực phản kích chiếm lại. Ngày 10-4, được sự chi viện đắc lực của pháo binh, sau hai lần đột phá mãnh liệt, Trung đoàn 24 mới làm chủ được trận địa.

Trên cánh đông, hai tiểu đoàn đặc công (19, 25) và Tiểu đoàn 47 Vĩnh Linh bí mật vượt sông Cửa Việt luồn sâu vào một số xã phía bắc huyện Triệu Phong. Lực lượng bảo an, dân vệ và binh lính Sài Gòn phòng giữa khu vực này đã chặn phá quyết liệt, quân ta bị tổn thất và để mất yếu tố bất ngờ, phải rút sang phía bắc sông để củng cố lực lượng, chấn chỉnh đội hình.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 09 Tháng Giêng, 2011, 09:35:46 am
Nhìn chung, qua hai ngày tiến công địch trên tuyến phòng thủ cơ bản Đông Hà, Ái Tử, La Vang, do không nắm chắc được sự thay đổi về nội dung và hình thức chiến thuật phòng ngự di động (còn gọi là chiến thuật di tản) của địch, nên các đơn vị tham gia tiến công của ta trên hướng chủ yếu không những không hoàn thành nhiệm vụ mà còn bị tổn thất về binh lực. Nội dung chiến thuật phòng ngự di động của địch là tận dụng khả năng chống đỡ và sức cơ động lớn của xe tăng, thiết giáp trên địa hình đồi thấp, trống trải, kết hợp với bộ binh tạo thành cụm hỗn hợp (tương đương tiểu đoàn) để phản kích ta. Các cụm được cấu trúc liên hoàn có thể yểm trợ cho nhau tạo thành tuyến phòng ngự. Các đơn vị chốt giữ vòng ngoài luôn thay đổi vị trí; ngày ở chỗ này, đêm đi chỗ khác. Xe tăng, thiết giáp được ngụy trang kín đáo, nằm trong công sự nhỏ, tháp pháo nhô lên tạo thành hỏa điểm mạnh. Chưa phát hiện được ta, chúng nằm im. Khi phát hiện được, chúng lập tức thông báo cho nhau hiệp đồng chống cự hay phản công. Các đơn vị ở vòng trong dựa vào hệ thống công sự ximăng cốt thép và chiến lũy vững chắc được thiết lập tại các thị trấn, thị xã để tạo chiều sâu nhiều tấng cho các tuyến phòng ngự. Ngoài ra, hỏa lực không quân chiến lược, chiến thuật, hệ thống pháo hạm và pháo mặt đất được địch sử dụng tối đa nhằm vừa ngăn chặn từ xa, vừa yểm trợ trực tiếp cho các trận đánh.

Ngày 11-4, sau khi chỉ đạo cho các đơn vị tổ chức rút kinh nghiệm đợt chiến đấu không thành công ấy, Đảng ủy và Bộ Tư lệnh chiến dịch đã họp bàn tìm biện pháp khắc phục. Bằng trí tuệ tập thể và kinh nghiệm chỉ huy tác chiến dày dạn, Đảng ủy và Bộ tư lệnh chiến dịch đã tìm được giải pháp để chỉ đạo các đơn vị tác chiến. theo đó, đối với các cụm phòng ngự Đông Hà, Ái Tử, La Vang (đặc biệt là Đông Hà, Ái Tử) của địch, rõ ràng ta không thể dùng lối đánh ồ ạt, chớp nhoáng để đập tan các cứ điểm phòng ngự ấy bằng một đòn mà phải thực hiện bằng nhiều đòn liên tục nhằm đập vỡ từng đoạn, tiến tới đập tan nó bằng một đòn quyết định.

Vận dụng cách đánh mới, từ ngày 12 đến ngày 25-4-1972, trên hướng Đông Hà, Sư đoàn 308 chỉ thị cho Trung đoàn 36 chốt giữ khu vực Tây Trì tổ chức các trận đánh tập kích tiêu hao lực lượng bộ binh và xe tăng địch, sau đó tiến công tiêu diệt Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 57 quân Sài Gòn ở điểm cao 30, 28. Trung đoàn 102 khẩn trương xây dựng lực lượng mạnh để đột phá các mục tiêu chủ yếu, trước mắt tổ chức đánh nhỏ lẻ bóc vỏ các điểm cao 25, 30, 36; đánh bại chiến thắng co cụm của địch, tạo lập bàn đạp chuẩn bị đột phá phía nam Đông Hà và bắc cầu Lai Phước. Trung đoàn 48 (đơn vị tăng cường) tích cực hoạt động ở tây và nam Tân Vĩnh. Trung đoàn 58 pháo binh đưa Tiểu đoàn 10 lựu pháo 122 vào động Quai Vạc để vươn tầm bắn tới thị xã Quảng Trị.

Trên hướng Ái Tử, Trung đoàn 9 Sư đoàn 3043 đánh một số trận vào An Đông, Nhan Biều, áp sát cầu Quảng Trị, vừa kéo địch ra ngoài để tiêu diệt, vừa thực hiện ý đồ chia cắt chiến dịch. Ngày 10-4-1972, tại cầu Quảng Trị đã diễn ra trận chiến đấu vô cùng anh dũng của Trung đoàn 2 (thuộc Đại đội 11 tiểu đoàn 3 Trung đoàn 9 Sư đoàn 304), do Trung đội trưởng - thượng sĩ Mai Quốc Ca chỉ huy. Sau khi cùng đại đội đánh sập cầu Quảng Trị, Trung đội 2 đã ngoan cường bám trụ tại đây, đương đầu với 3 tiểu đoàn địch (có xe tăng, máy bay, pháo binh yểm trợ). Với 20 tay súng, trong suốt một ngày quần lộn với lực lượng địch đông gấp bội, cán bộ, chiến sĩ Trung đội 2 kiên quyết bám trụ trận địa, chiến đấu kiên cường, dũng cảm, mưu trí, đẩy lùi nhiều đợt tiến công của địch. Hai mươi dũng sỹ đã chiến đấu đến viên đạn cuối cùng và anh dũng hy sinh sau khi đã diệt hơn 100 tên địch và 1 xe quân sự. Trận chiến đấu ngoan cường trên cầu Quảng Trị của Trung đội 2 đã góp phần xứng đáng vào thắng lợi của chiến dịch tiến công Trị - Thiên và hành động chiến đấu dũng cảm, hy sinh anh dũng của cán bộ, chiến sĩ Trung đội 2 được đồng chí đồng đội mãi mãi gọi tên - Trung đội: “1 thắng 100” - Trung đội Mai Quốc Ca(1).

Đặc biệt, trong đợt hoạt động này, lần đầu tiên quân ta đưa vào sử dụng vũ khí chống tăng B72. Trong trận đánh ngày 23-4, các khẩu đội B72 Lục Vĩnh Tưởng và Lê Văn Trung được sự hỗ trợ đắc lực của các phân đội bộ binh đã bắn cháy 14 xe tăng, xe thiết giáp M.113. Hiệu lực của loại vũ khí mới này đã gây cho địch nỗi kinh hoàng về huyền thoại “đạn có mắt” của quân ta. Như vậy, trong đợt tác chiến tạo thế cho đợt hoạt động tiếp theo, ta diệt hơn 2.000 tên địch, bắt 38 tên. Điều đặc biệt quan trọng trong đợt chiến đấu này là ta đã phát hiện những điểm yếu trong chiến thuật co cụm cứng, khết hợp di động linh hoạt trên các khăng tuyến chính và phụ bằng bộ binh, xe tăng và đã tìm ra giải pháp hiệu quả đánh bại hình thức chiến thuật ấy của địch.


(1) Ngày 23-9-1973, Chủ tịch Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam Huỳnh Tấn Phát, ký quyết định (số 107/QĐ-CPCMLTCHMNVN) truy tặng danh hiện Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho Trung đội 2. Hiện nay, mộ của 19 cán bộ, chiến sĩ Trung đội 2 được chính quyền và nhân dân địa phương quy tập vào nghĩa trang xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Một chiến sĩ của trung đội bị địch bắt và được trao trả sau Hiệp định Pari.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 11 Tháng Giêng, 2011, 09:03:12 am
Trong lúc quân ta ở mặt trận Quảng Trị đang dồn sức hoàn thiện phương án tác chiến tiêu diệt tập đoàn phòng ngự địch ở Đông Hà - Ái Tử - La Vang, quyết tâm giải phóng tỉnh Quảng Trị, thì trên hướng phối hợp Thừa Thiên, ta liên tục tiến công địch ở Cù Mông, điểm cao 620, đường 12; đánh thiệt hại nặng 2 tiểu đoàn, 1 chi đoàn thiết giáp quân Sài Gòn, buộc chúng phải bỏ căn cứ Tà Lương về củng cố Động Tranh. Với kết quả này, lực lượng tiến công đã thực hiện được nhiệm vụ kiềm chế, thu hút lực lượng địch ở phía tây Huế tạo thuận lợi cho hướng Quảng Trị phát triển. Trên toàn Miền, quân dân ta cũng thu nhiều thắng lợi lớn. Ở hai hướng tiến công phối hợp quan trọng, ngày 7-4-1972, quân và dân miền Đông Nam Bộ tiến công giải phóng quận lỵ Lộc Ninh. Ngày 20-4, sau khi đập tan tuyến phòng thủ tây sông Pô Cô do hai lữ đoàn dù quân đội Sài Gòn chốt giữ, quân dân Tây Nguyên tiếp tục đánh chiếm quận lỵ Đắc Tô - Tân Cảnh. Ở đồng bằng Trung Bộ, ta đánh chiếm quận lỵ Bồng Sơn, Tam Quan, Tuy An… Thắng lợi dồn dập của quân dân ta trên các chiến trường càng cổ vũ quân dân Quảng Trị khẩn trương hoàn thành mọi công tác chuẩn bị cho đợt chiến đấu mới.

Phối hợp với đòn tiến công của quân và dân ta trên các huớng chiến lược, quân và dân Khu 5 do Thiếu tướng Chu Huy Mân làm Tư lệnh, đồng chí Võ Chí Công làm Chính ủy mở chiến dịch tiến công phối hợp ở bắc Bình định. Lực lượng tham gia chiến dịch gồm Sư đoàn 3 bộ binh, hai tiểu đoàn đặc công, lực lượng vũ trang và lực lượng chính trị của quần chúng tỉnh Bình Định. Chiến dịch mở ra ngày 9-4-1972. Tiểu đoàn 40 đặc công đánh chiếm cứ điểm Gò Lôi (huyện Hoài Ân), diệt một tiểu đoàn bảo an, uy hiếp quận lỵ. Địch buộc phải điều động một trung đoàn lên phòng thủ. Trung tuần tháng 4-1972, Sư đoàn 3 bộ binh sử dụng hai trung đoàn (2, 21) vận động bao vây tiến công liên tục, tiêu diệt Trung đoàn 40 quân đội Sài Gòn, giải phóng huyện lỵ Hoài Ân. Trong những ngay cuối tháng 4-1972, Sư đoàn 3 tổ chức vân lấy diệt hai căn cứ Đệ Đức (huyện Hoài Nhơn), Bình Dương (huyện Phù Mỹ), đồng thời cho một bộ phận đánh chặn, tiêu diệt Trung đoàn 41 quân đội Sài Gòn lên cứu viện. Được lực lượng vũ trang hỗ trợ, hơn 3 vạn dân Bắc Bình Định đã nổi dậy giành quyền làm chủ. Ở Quảng Nam, hai trung đoàn (38, 31) Sư đoàn 711 bộ binh được lực lượng vũ trang địa phương hỗ trợ, mở cuộc tiến công giải phóng quận lỵ Hiệp Đức, đánh thiệt hại nặng 3 tiểu đoàn địch trên đường 15 (huyện Quế Sơn). Quân và dân Quảng Ngãi kết hợp tiến công với nổi dậy đánh thiệt hại nặng một tiểu đoàn, hai đại đội bảo an, giành quyền làm chủ ở 20 xã phía đông các huyện Bình Sơn, Sơn Tịnh.

Tại đồng bằng sông Cửu Long, trung tuần tháng 4-1972, lực lượng vũ trang Quân khu 9 nổ súng tiến công chi khu quận lỵ Ngang Dựa, đánh thiệt hại nặng một bộ phận của Trung đoàn 9 quân đội Sài Gòn. Trung đoàn 10 diệt căn cứ Ba Thần, Nông Cạn (xã Khánh Lâm) và sở chỉ huy Trung đoàn 33 (U Minh). Trung đoàn 3 diệt gọn yếu khu Thầy Phó (Vĩnh Long), 1 tiểu đoàn bảo an, 1 đại đội thám báo…

Cuộc tiến công chiến lược của ta phát triển mạnh, rộng khắp, làm cho quân đội Sài Gòn - xương sống của chiến lược Việt Nam hóa chủ trương có nguy cơ đổ vỡ. Níchxơn liền cấp tốc huy động một lực lượng mạnh gồm 40% máy bay chiến thuật (1.077/2.400) chiếc), 48% máy bay chiến lược B.52 (193/400 chiếc), 7 tàu sân bay, 65 tàu chiến chi viện hỏa lực cho quân đội Sài Gòn phản kích trên chiến trường miền Nam, trọng điểm là mặt trận Quảng Trị. Đồng thời, đầu tháng 4-1927, Níchxơn ra lệnh ném bom trở lại miền Bắc Việt Nam.

Quảng Trị, đã và đang là mặt trận nóng bỏng, nơi thử thách ý chí và sức mạnh của cả hai bên.

Đến ngày 26-4, lực lượng địch bố trí trên chiến trường Quảng Trị có những biến động nhưng không lớn. Trung đoàn 57 (Sư đoàn 3) rút chạy về Cồn Tiên, miếu Bái Sơn về cùng với hai liên đoàn biệt động quân (4, 5) và hai thiết đoàn (17, 20) có nhiệm vụ ngăn chặn tiến tới đẩy lùi quân ta ra khỏi mục tiêu trọng yếu Đông Hà, tiến tới thu hồi những phần đất đã mất.

- Trung đoàn 2 (Sư đoàn 3), Lữ đoàn 147 lính thủy đánh bộ và Thiết đoàn 11 phòng giữ cụm căn cứ quân sự Ái Tử, phối hợp chặt chẽ với hướng chủ yếu Đông Hà chốt giữ bằng được các tiền đồn ở phía đông căn cứ Phượng Hoàng, nam Tân Vĩnh, kiên quyết không cho ta phát triển từ hướng tây xuống và từ hướng đông sông Thạch Hãn lên.

- Cụm La Vang - thị xã Quảng Trị do Lữ đoàn 369 lính thủy đánh bộ, Liên đoàn 1 biệt động quân và các đơn vị hỏa lực đảm nhiệm ngăn chặn các đợt tiến công luồn sâu, vu hồi của ta vào các điểm cao ở phía tây thị xã và bảo vệ quốc lộ 1.

- Toàn bộ các lực lượng ở mặt trận Quảng Trị được Tổng thống Việt Nam cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu và trung tướng Hoàng Xuân Lãm - Tư lệnh Vùng chiến thuật 1 tiếp tục giao cho viên chuẩn tướng Võ Văn Giai - Tư lệnh sư đoàn 3 chỉ huy.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 11 Tháng Giêng, 2011, 09:04:06 am
Về phía ta, sau đợt hoạt động tạo thế thành công, Bộ Tư lệnh chiến dịch chủ trương; Tập trung lực lượng tiến công tiêu diệt các cụm địch ở Đông Hà, Ái Tử, La Vang hỗ trợ cho quần chúng hai huyện Triệu Phong, Hải Lăng nổi dậy diệt ác phá kìm giành quyền làm chủ, giải phóng thị xã Quảng Trị. Hướng tiến công chủ yếu từ cầu Lai Phước đến thị xã Đông Hà, hướng phối hợp quan trọng là Ái Tử. Đoạn đường số 1 từ cầu Nhùng đi Mỹ Chánh là hướng chia cắt chiến dịch; đồng bằng Triệu Phong, Hải Lăng là hướng thọc sâu vu hồi.

Sư đoàn 308 dùng sức mạnh hiệp đồng binh chủng tiến công thị trấn Đông Hà và Lai Phước. Sư đoàn 304 tiến công cụm cứ điểm Ái Tử, Nhan Biều, chốt chặn địch ở cầu Quảng Trị. Sư đoàn 324 đánh cắt quốc lộ 1, ngặn chặn địch từ Huế ra, Quảng Trị vào. Trung đoàn 27, tiểu đoàn 47 được tăng cường hai tiểu đoàn thiết giáp và đặc công phát triển vào đồng bằng ven biển Triệu Phong, Hải Lăng, thực hiện nhiệm vụ bao vây vu hồi chia cắt chiến dịch và hỗ trợ quần chúng nỏi dậy phá khu dồn, giải phóng dân.

Phương thức tác chiến chiến dịch là hiệp đồng binh chủng, phát huy sức mạnh của binh khí kỹ thuật hiện đại, vừa bắn phá những mục tiêu chủ yếu trên toàn tuyến vừa tập trung diệt từng điểm, cụm; kiên quyết bao vây chia cắt chiến dịch, đánh vỡ từng mảng tiến tới tiêu diệt hoàn toàn 25 tiểu đoàn bộ binh, ba thiết đoàn cùng toàn bộ lực lượng bảo an và phòng về dân sự.

Chiều ngày 26-4-1972, sau khi kiểm tra công tác chuẩn bị chiến đấu của các đơn vị, Bộ Tư lệnh chiến dịch lệnh cho các cánh quân vào tuyến xuất phát tiến công.

Hướng Đông Hà - Lai Phước, Sư đoàn 308 cho Trung đoàn 102 bí mật phát triển dọc theo bờ sông Vĩnh Phước, hình thành thế bao vây điểm cao 26, điểm cao 23; dự kiến tiếp phương án đánh chiếm đồi Vuông, điểm cao 20. Trung đoàn 88 chia thành hai mũi luồn sâu bao vây điểm cao 24, 37. Trung đoàn 36 từ hướng Tây Trì tiếp cận điểm cao 19 và 28. Trung đoàn 48 tiến vào Tân Vĩnh. Xe tăng, xe thiết giáp phối thuộc các trung đoàn được lệnh dừng lại phía sau cách đội hình bộ binh từ 1 đến 2 km.

Khu vực Ái Tử Sư đoàn 304 cho Trung đoàn 9, Trung đoàn 24 áp sát các điểm cao 22, 23, 42. Cánh Đông, Trung đoàn 27, Tiểu đoàn 47 và các đơn vị phối thuộc được nhân dân Triệu Phong giúp đỡ vượt sông Cửa Việt tiến xuống áp sát quốc lộ 1 thực hiện chia cắt chiến dịch.

5 giờ 30 phút ngày 27-4, khi được các mũi, hướng báo về đã hoàn tất công tác chiếm lĩnh trận địa, Bộ Tư lệnh chiến dịch hạ lệnh tiến công.

Mở màn cho trận quyết chiếm chiến dịch, hỏa lực pháo 130, Đ74, lựu pháo 122, 105, súng cối 160, 120 mm, đạn hỏa tiễn A12, H12, ĐKB dội bão lửa lên tất cả các căn cứ địch từ Đông Hà tới thị xã Quảng Trị. Sau nửa giờ bắn phá, pháo binh ta chuyển làn; các cánh quân trên các chiến tuyến được lệnh xung phong.

Hướng Sư đoàn 308, Trung đoàn 88, sau khi cùng xe tăng, thiết giáp vượt qua điểm cao 327 đã chia làm hai mũi đánh vào quân địch và triển khai lực lượng chốt giữ vùng ngoại vi thị trấn Đông Hà. Mũi đột phái tiến xuống khu vực đồi Mâm Xôi - nơi tiếp giáp với điểm cao 24, 28. Trước sức tiến công mãnh liệt của ta, bộ binh và thiết giáp địch vừa chống cự vừa lùi dần về điểm cao 24 (sân bay Đông hà). Mũi hai luồn sau chiếm bàn đạp làng Mới, công kích Tiểu đoàn 30 biệt động quân, đẩy chúng vào tình thế bị uy hiếp từ nhiều phía. Thấy tình thế nguy ngập, chỉ huy địch ở Đông Hà cho một chi đoàn thiết giáp lên tăng cường chốt giữ các vị trí còn lại vào cho không quân, pháo binh bắn phá dữ dội hòng đánh bật Trung đoàn 88 ra khỏi bàn đạp vừa chiếm được.

Trung đoàn 88 với lối đánh gần, táo bạo chờ cho xe tăng, bộ binh địch (lực lượng mới tăng cường) vào sát trận địa mới nổ súng. Sau một lạot đạn hỏa lực gồm tên lửa chống tăng B72, ĐKZ, B40, B41, 8 xe tăng, xe thiết giáp địch đã bị bắn cháy. Lính biệt động mất chỗ dựa, bất chấp lệnh chỉ huy hò hét tử thủ, bỏ trận địa tháo chạy. Đến 9 giờ, Trung đoàn 88 đã làm chủ các điểm cao 35, 24, 37, đưa lực lượng bộ binh cơ giới thọc sâu bao vây sở chỉ huy Trung đoàn 57 quân đội Sài Gòn ở Đại Áng, Trung Chỉ.

Ở mũi tiến công chủ yếu do Trung đoàn 102 đảm nhiệm, cuộc chiến đấu diễn ra hết sức ác liệt. Sau đợt pháo bắn yểm trợ, trung đoàn cho một lực lượng áp sát tiêu diệt đồi Vuông, rồi nhanh chóng chuyển sang bao vây địch ở điểm cao 26 và điểm cao 23. Địch dựa vào địa hình có thế cao, hào sâu và xe tăng yểm trợ, chống trả quyết liệt. Bằng sự dũng cảm, thông minh, dám chấp nhận hy sinh, bộ đội Trung đoàn 102 lần lượt làm chủ các điểm cao 26, 23, 32, áp sát bao vây điểm cao 28 để thực hiện ý định chốt cắt cầu Lai Phước.

Đem 17-4, sau khi xem xét lại diễn trình tác chiến trong ngày, Bộ Tư lệnh chiến dịch nhân thấy bộ đội ta trên các hướng phát triển nhịp nhàng, bước đầu hoàn thành được các mục tiêu đã giao. Nhưng muốn đảm bảo đánh chắc thắng, thắng nhanh, thắng giòn giã, các hướng phải trinh sát thật kỹ, luôn bám sát địch phòng ngừa chúng thay đổi vị trí và biện phá đối phó. Do đó, Sư đoàn 308 cần nhanh chóng tổ chức lại các mũi bộ binh thiết giáp đột phá ra đường 1 phá sập cầu Lai Phước. Sư đoàn 304 chiếm các điểm cao 23, 42, 48 ở phía tây để thông đường số 1, thực hiện tốt nhiệm vụ chia cắt chiến dịch.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 11 Tháng Giêng, 2011, 09:04:38 am
Sáng ngày 28-4-1972, cuộc tiến công quy mô lớn của quân và dân Quảng Trị tiếp tục diễn ra. Mở màn, pháo binh chiến dịch trút đạn xuống trận địa địch. Bốn cụm mục tiêu Đông Hà, Ái Tử, La Vang, thị xã Quảng Trị chìm trong khói lửa. nửa giờ sau, các sư đoàn bộ binh, các trung đoàn độc lập có xe tăng yểm trợ đồng loạt tiến công.

Hướng Sư đoàn 304, khi Trung đoàn 24 đang triển khai đội hình phát triển vào Ái Tử thì cụm địch hỗn hợp bộ binh và xe tăng chốt vòng ngoài phát hiện được ta đã nổ súng. Tình huống đó không làm Trung đoàn 24 lúng túng. Chỉ huy Trung đoàn cho một phân đội dựa vào bình đội khuất, vòng trái nổ súng thu hút địch. Bị đánh bất ngờ, địch lập tức bộc lộ lực lượng, cho 10 xe tăng, xe thiết giáp và nhiều bộ binh dàn hàng ngang hùng hổ xông thẳng vào phân đội nghi binh. Theo kế hoạch hiệp đồng, hai tiểu đội tên lửa chống tăng B72 được lệnh phát hỏa. Sáu chiếc xe tăng M48 địch bốc cháy. Những chiếc xe còn lại khiếp sợ “đạn có mắt” vội vã quay đầu tháo chạy. Cùng lúc, Trung đoàn 48 (sau khi tiêu diệt căn cứ Tân Vĩnh ngày 27-4) đã nhanh chóng xốc lại đội hình, phối hợp cùng Sư đoàn 304 tiến công vào Ái Từ. Trung đoàn chia làm hai mũi, một mũi phát triển xuống phía nam Tân Vĩnh hỗ trợ lực lượng vũ trang địa phương diệt ác phá kìm giải phóng xã Triệu Giang, Triệu Ái (Triệu Phong); một mũi tiến xuống nam cầu Lai Phước đè bẹp các ổ kháng cự trên đưởng rồi thọc thẳng ra sân bay.

Gần trưa, hai trung đoàn 48 và 24 được sự yểm trợ đắc lực của xe tăng, thiết giáp mở nhiều đợt tiến công quân địch cố thủ sân bay Ái Tử. Địch chống trả điên cuồng. Nhiều trận đánh đẫm máu để giành giật từng đoạn hào, từng lô cốt đã diễn ra. đến 17 giờ cùng ngày, ta mới chiếm được hơn nửa sân bay. Nhưng quân số hao hut, đạn dược cạn dần, ta phải dừng lại củng cố, bổ sung lực lượng và đạn dược.

Ở mũi thọc sâu của Trung đoàn 66, chiến sự cũng diễn ra ác liệt. Ngay từ phút đầu, bộ đội ta chiếm lĩnh khu vực nam cầu Quảng Trị, chuẩn bị triển khai trận địa khống chế quốc lộ 1. Phát hiện bộ đội ta cơ động, địch sử dụng pháo đánh chặn rồi phản kích quyết đánh bật quân ta ra khỏi khu vực cầu. Ban Chỉ huy Trung đoàn vừa cho các đơn vị lợi dụng địa hình địa vật bám trụ phản kích địch, vừa gọi pháo binh chiến dịch bắn mạnh vào hai khu vực đầu cầu phía bắc và phía nam yểm trợ cho quân ta ổn định tình hình, phát triển tiến công. Đến 8 giờ, Trung đoàn phó Đinh Xuân Nguyên tập trung bộ đội đột phá quân địch chống giữ ga Quảng Trị. Bị đánh mạnh, địch núng thế chống cự yếu ớt rồi rút ra quốc lộ 1. Trung đoàn 66 đánh chiếm được phía tây thị xã Quảng Trị, tạo thế chốt chặn đường rút chạy của địch từ Đông hà, Ái Tử, trực tiếp uy hiếp Sở chỉ huy Sư đoàn 3 quân đội Sài Gòn và khu cố vấn Mỹ ở thị xã Quảng Trị.

Trên hướng chủ yếu, 5 giờ 30 phút ngày 28-4, pháo chiến dịch mới chuyển làn, cả Sư đoàn 308 và các đơn vị tăng, thiết giáp phối thuộc đã đồng loạt tiến công. Trung đoàn 102 ở hướng nam chia làm hai mũi phát triển ra đường 1 đánh chiếm cầu Lai Phước. Bộ binh và xe tăng địch phản kích ác liệt quyết giữ cầu bằng mọi giá. Tiểu đoàn 7 và Tiểu đoàn 9 tập trung súng chống tăng bắn diệt 3 xe tăng, 2 ổ đại liên. Phần lớn xe thiết giáp địch lợi dụng độ cao của đường sắt làm vật che khuất dùng hỏa lực khống chế xe tăng và bộ binh ta. Trung đoàn 102 buộc phải dừng lại điều chỉnh đội hình tác chiến.

Hướng Trung đoàn 88, được sự chi viện đắc lực của xe tăng, các tiểu đoàn tổ chức thành nhiều mũi xung phong đánh chiếm Trung Chỉ. Địch không chống cự nổi buộc phải tháo chạy về Đại Áng. Trug đoàn 36 ở hướng bắc thọc thẳng theo đương 1 tràn vào các đường phố Đông Hà. Địch bỏ chạy tán loạn.

Với sự phát triển thuận lợi trên toàn mặt trận, Bộ Tư lệnh chiến dịch nhận định: Quân địch ở Quảng Trị thất bại đã rõ ràng; vấn đề chỉ còn là thời gian! Nhưng để tiêu diệt gọn, bắt tù binh, thu vũ khí, các cánh quân cần đẩy mạnh tiến công địch hơn nữa, quyết không cho địch ứng ứu lẫn nhau. Sư đoàn 308 phải nhanh chóng phá sập cầu Lai Phước. Các đơn vị cần chú ý sự tan vỡ đột biến của tập đoàn quân địch.

10 giờ, pháo binh chiến dịch và pháo binh Sư đoàn 308 bắn phá mãnh liệt khu vực cầu Lai Phước. Pháo vừa dứt, bộ binh và thiết giáp của Trung đoàn 102 bất chấp sự chống cự của địch, ồ ạt phát triển qua đường sắt, chiếm khu vực ven sông, khống chế hai đầu cầu, bắn cháy một lúc ba xe tăng địch. Thấy nguy cơ mất cầu Lai Phước - một mục tiêu có ý nghĩa sinh tử đối với địch ở Đông Hà, quân lính bảo vệ cầu dồn sức phản kích quyết liệt. Nhưng với quyết tâm phải diệt bằng được cầu Lai Phước, được sự hỗ trợ của xe tăng, pháo binh và bộ binh, tổ bộc phá công binh cảm tử bao gồm ba đồng chí Bùi Minh Quyết, Hoàng Xuân Lạng, Phạm Công Dũng thay nhau lao lên mặt cầu liên kết và cho nổ khối bộc phá 120 kg, phá sập cầu Lai Phước.

Cầu Lai Phước bị cắt đứt như một tiếng chuông báo hiệu giờ cáo chung của căn cứ Đông Hà, khiến quân địch kinh hoàng khiếp sợ. Sư đoàn 308 lập tức lao vào trận đột phá tiêu diệt lực lượng then chốt của địch.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 11 Tháng Giêng, 2011, 09:05:44 am
Trung đoàn 102 ở phía nam đánh ngược ra Đông Hà. Trung đoàn 36 ở phía bắc theo đường 1 đánh tràn xuống phía nam. Trung đoàn 88 và lực lượng phối thuộc ở phía tây lấn ép xuống. Toàn bộ địch ở Đông Hà hoảng loạn cực độ bỏ xe cộ, vứt khí giới hòng chạy thoát thân. Chúng xông vào các xóm làng ven đường, ven sông tranh cướp quần áo cải trang làm thường dân rồi lao bừa ra sông Thạch Hãn tranh cướp thuyền ghe để chạy vào thị xã Quảng Trị. Đến 15 giờ ngày 28-4, toàn bộ Đông Hà - Lai Phước được giải phóng.

Chiến thắng Đông Hà - Lai Phước vừa cổ vũ vừa thôi thúc cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 304 chạy đua với thời gian chuẩn bị chó trận đột phá cụm cứ điểm Ái Tử. Sáng 30-4 hai trung đoàn 24 và 48 được xe tăng, thiết giáp yểm trợ đánh tràn qua sân bay, xông thửng vào vào căn cứ Ái Tử đánh chiếm Sở Chỉ huy sư đoàn 3 và khu hậu cần quân đội Sài Gòn. Địch chống cự yêu ớt rồi phá chạy về bến phà Tả Kiên, tranh nhau bè chuối vượt sông sang thị xã Quảng Trị. 14 giờ ngày 30-4, ta làm chủ cụm căn cứ Ái Tử và khu vực Nhan Biều.

Ở hướng Đông, hòa nhịp với các đơn vị tác chiến trên hướng chính, Trung đoàn 28, Tiểu đoàn 47, Tiểu đoàn 3 Lữ đoàn 202 xe tăng thiết giáp, Tiểu đoàn 75 pháo mang vác và hàng trăm cán bộ quân - dân - chính địa phương tịch cực tiến công địch. Ngày 28-4, được nhân dân địa phương dùng thuyền mảng đưa sang sông, cán bộ, chiến sĩ các đơn vị nhanh chóng đánh chiếm Long Quang, Thanh Hội, Vĩnh Hồ… Thừa thắng, bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương được dân quân, du kích hỗ trợ đánh chiếm các mục tiêu nằm rải rác dọc đồng bằng ven biển Triệu Phong, Hải Lăng. Quân ta đi đến đâu cũng được nhân dân phấn khởi chào đón và phối hợp đấu tranh chính trị, binh vận. Khi nghe tin Đông Hà, Ái Tử được giải phóng, Trung đoàn 27 và các lực lượng vũ trang địa phương náo nức đẩy mạnh tiến công hệ thống đồn bốt kìm kẹp hơn một dân ở khu vực Gia Đẳng. Hàng nghìn bà con cô bác ở các xã Hải An, Hải Xuân, Hải Ba, Hải Thiện… đốt đuốc, gõ mõ, đánh trống, reo hò ủng hộ bộ đội Giải phóng. Khí thế đấu tranh rào dâng như nước vỡ bờ. Chiều 29-4-1972, Chi khu quân sự Triệu Phong đầu hàng. Ngày 1-5-1972, binh lính và nhân viên chính quyền địch ở Linh Chiểu, Mỹ Thủy, Phương Lang bỏ chạy. Sáng 2-5, ta đánh chiếm chi khu quân sự Hải Lăng.

Đông Hà, Ái Tử, Hải Lăng thất thủ, quốc lộ 1 bị cắt đứt nhiều đoạn từ cầu Nhùng đi Mỹ Chánh. Thấy không còn khả năng chốt giữ những khu vực còn lại, chỉ huy địch ở thị xã Quảng Trị quyết định rút chạy để bảo toàn lực lượng. Nắm được ý đồ của địch, Bộ Tư lệnh chiến dịch lệnh cho Sư đoàn 324 khẩn trương tổ chức lại đội hình, thực hiện chia cắt chiến dịch, kiên quyết tiến công tiêu diệt địch.

Sáng ngày 30-4, Trung đoàn 2 cho hai tiểu đoàn 5 và 6 tiến công Tiểu đoàn 8 (Lữ đoàn 369) lính thủy đánh bộ quân đội Sài Gòn ở khu vực Tân Điền, mở cửa cho Tiểu đoàn 4 tiiến xuống quốc lộ 1 đánh địch ở khu vực cầu Bến Đá. Ngày 1-5, các cụm cứ điểm của địch ở bắc sông Thạch Hãn bị thất thủ, địch ở thị xã Quảng Trị hoang mang cực độ, bắt đầu “rút lui theo kế hoạch”. Nhưng chúng bị các đơn vị thuộc Sư đoàn 324 chặn đánh quyết liệt ở cầu Nhùng, cầu Bến Đà, cầu Đài. Pháo binh ta bắn phá mãnh liệt khống chế đường số 1. Suốt ngày địch mở hàng chục đợt đột kích để thông đường chạy về phía nam, nhưng chúng đi đến đâu cũng bị đánh, chạy ngả nào cũng bị chặn. Không thực hiện được ý định “rút lui có tổ chức”, địch phải bỏ lại toàn bộ xe pháo, tháo chạy tán loạn. Cả đọn đường gần 30 km từ thị xã Quảng Trị đến cầu Mỹ Chánh trở thành “đại lộ kinh hoàng” đối với địch. Lữ đoàn lính thủy đánh bộ 369 chạy về nam sông Mỹ Chánh. Các cố vấn Mỹ chạy về Sài Gòn. Viên chuẩn tướng Vũ Văn Giai, Tư lệnh Mặt trận Quảng Trị cũng dùng trực thăng chạy về Đà Nẵng. Trên quốc lộ 1, quân ta truy đuổi địch đến nam cầu Mỹ Chánh. Trung đoàn 9 (Sư đoàn 304) tiến vào tiếp quản thị xã Quảng Trị. Đến ngày 2-5-1972, tỉnh Quảng Trị được hoàn toàn giải phóng.

Phối hợp với hướng chính Quảng Trị, các lực lượng vũ trang Thừa Thiên đẩy mạnh tiến công địch trên ba vùng chiến lược. Ngày 28-4, ở hướng đường 12 phía tây thành phố Huế, một tiểu đoàn địch chốt giữ Động Tranh và điểm cao 377 vừa bị bộ đội ta vây lấn đã hoang mang bỏ chạy. ngày 30-4 bộ đội ta đánh thiệt hại nặng 2 tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 54 quân Sài Gòn lên ứng cứu cho đồng bọn trên hướng này. Ở hướng đồng bằng Thừa Thiên, lực lượng vũ trang địa phương được nhân dân hỗ trợ vây diệt chi khu Hương Trà, bức hàng yếu khu Nam Hòa. Các tổ vũ trang công tác tỉnh và du kích xã hỗ trợ cho nhân dân chi khu Hương Trà nổi dậy diệt ác, trừ gian, gianh quyền làm chủ.

Trước thất bại nặng nề ở Trị - Thiên (đặc biệt là Quảng Trị) Nguyễn Văn Thiệu cách chức Hoàng Xuân Lãm - Tư lệnh Quân khu 1, đưa viên tướng Ngô Quang Trưởng - Tư lệnh Quân khu 4 ra thay, đồng thời điều thêm 5 lữ đoàn, trung đoàn từ Sài Gòn và Đà Nẵng ra Huế lập tuyến phòng thủ mới kéo dài từ nam sông Mỹ Chánh đến tây đương 12, hòng ngăn chặn cuộc tiến công vào Huế của ta, tạo lập bàn đạp phản kích, lấn chiếm vùng vừa rơi vào tay Quân giải phóng.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 11 Tháng Giêng, 2011, 09:08:04 am
Đối với ta, sau khi giải phóng tỉnh Quảng Trị, mặc dù biết bộ đội qua hơn một tháng tiến công sức khỏe đã giảm sút, quân số và vũ khí các đơn vị chưa kịp bổ sung, trong khi đó địch đã tăng cường lực lượng phòng thủ chuẩn bị phản kích ra Quảng Trị, nhưng Bộ Tư lệnh chiến dịch vẫn nhận định: “Khí thế của bộ đội lên rất cao, có tiến bộ trong tác chiến hiệp đồng binh chủng quy mô lớn; có kinh nghiệm đánh địch co cụm ở địa hình trống trải”, và “quân địch có ý định phản công lớn nhưng khả năng chỉ có thể vào mùa mưa vì còn phải bổ sung lực lượng khoảng 1 đến 2 sư đoàn”. Trên cơ sở nhận định này, Bộ Tư lệnh hạ quyết tâm thực hiện kế hoạch chiến dịch đã vạch ra: tổ chức tiến công đợt 3 vào trung tuần tháng 6-1972 nhằm: “Tiêu diệt tập đoàn chủ yếu của địch, phá vỡ thế phòng ngự của chúng, làm chủ đến giáp sông Hương không cho địch co cụm ở tuyến sông Bồ, tạo thế phát triển chiến dịch”, thực hiện mục tiêu: “Tiêu diệt đại bộ phận lực lượng quân sự địch, giải phóng Thừa Thiên kể cả Huế và Phú Bài, đưa cuộc tiến công chiến lược Trị - Thiên đến toàn thắng”(1).

Về tổ chức lực lượng, Bộ Tư lệnh chiến dịch quyết định sử dụng hai sư đoàn bộ binh 304 và 308 cùng một số đơn vị binh chủng kỹ thuật đảm nhiệm hướng tiến công chủ yếu nhằm vào cụm căn cứ Đồng Lâm, Phò Trạch, sau đó thọc sâu chia cắt chi khu An Lỗ, không cho địch phản kích từ Huế ra, từ phòng tuyến Mỹ Chánh vào. Sư đoàn 324, Trung đoàn 6 độc lập và một số đơn vị bộ đội địa phương tiến công vào tuyến đường 12, Động Tranh, Bình Điền, phá vỡ tuyến phòng thủ phía tây thành phố Huế. Trung đoàn 18 (Sư đoàn 325), Trung đoàn 64 (Sư đoàn 320B) mới được Bộ Quốc phòng tăng cường và Trung đoàn 27 độc lập tiến công từ hướng đông bắc đường 1 vào khu vực Lương Mai, Phong Lai, phá Tam Giang, quận lỵ Hương Điền, Quảng Điền, phối hợp với hướng chủ yếu hỗ trợ nhân dân nổi dậy làm chủ vùng đồng bằng ven biển.

Tối ngày 20-6, sau khi kiểm tra công tác chuẩn bị chiến đấu của các đơn vị, Bộ Tư lệnh chiến dịch hạ lệnh tiến công địch. Trên hướng chủ yếu, được sự chi viện của pháo binh chiến dịch, hai sư đoàn (304, 308) đánh chiếm các điểm cao 102, 156, Đá Bạc, núi Cánh Dơi và một số mỏm đồi khu vực núi Cái Mương. Do tốc độ tiến công của các đơn vị chậm, công tác hiệp đồng, thời gian tính chất không chặt nên trong ba ngày (22, 23, 24-6) địch ở Phò Trạch, Đồng Lâm phản kích chiếm lại hầu hết các mục tiêu ở tây nam sông Mỹ Chánh.

Trên hướng đông, trước khi ta nổ súng tiến công, hai lữ đoàn lính thủy đánh bộ 147 và 369 quân Sài Gòn được lực lượng của không quân và pháo binh yểm trợ đã bất ngờ hành quân ra Xuân Viên, Đông Dương, Thẩm Khê, Vân Lý, Hội Kỳ Phương. Hành động này của địch buộc hai trung đoàn 18 và 27 của ta phải nổ  súng phản kích. Qua ba ngày chiến đấu (20, 21, 22-6), hai trung đoàn 18 và 27 tuy diệt được một số địch, nhưng phía ta cũng bị thiệt hại phải dừng lại củng cố. Trung đoàn 64 vào thay thế Trung đoàn 18 chiến đấu dũng cảm nhưng cũng chỉ đủ sức làm chậm bước hành quân của địch. Trong khi đó ở hướng nam, công tác chuẩn bị cho đợt tác chiến triển khai chậm, lại bộc lộ một số sơ hở, địch chủ động đánh chặn từ xa. Đến ngày 25-6, ta mới nổ súng tiến công Khe Thai, điểm cao 372, đèo Su Na. Trận đánh không thành. Ta không đánh chiếm dứt điểm được các mục tiêu đề ra.

Nhìn chung, trong đợt 3 chiến dịch, sau một tuần tiến công, các hướng, các mũi đều không thực hiện được kế hoạch tác chiến đã đề ra. Hầu hết các đơn vị tham gia chiến dịch bị thương vong, sức chiến đấu giảm sút rõ rệt; trong lúc lực lượng tổng dự bị chiến lược của Quân đội Việt Nam cộng hòa được tung ra Thừa Thiên, chuẩn bị phản công quy mô lấn chiếm lại những vùng đã mất. Hằng ngày, máy bay (kể cả máy bay chiến lược B.52) và pháo hạm địch đánh phá hết sức ác liệt hậu phương chiến dịch của ta. Trước tình hình diễn biến phức tạp, đêm 27-6, Bộ Tư lệnh chiến dịch chủ trương kết thúc chiến dịch tiến công, chuyển phương thức tác chiến mới nhằm đánh bại nỗ lực tái chiếm Quảng Trị của quân đội Sài Gòn với sự yểm trợ hỏa lực ồ ạt của không quân, hải quân Mỹ.

Tuy đợt 3 chiến dịch tiến công Trị - Thiên vấp phải sự chống trả quyết liệt của đối phương, lực lượng và phương tiện chiến đấu bị thiệt hại, nhưng toàn chiến dịch, trong hơn một tháng tiến công, ta diệt và làm bị thương 27.458 tên, bắt 3.388 tên, trong đó có một số đơn vị quân đội Sài Gòn như Sư đoàn bộ binh 3, Lữ đoàn 147 lính thủy đánh bộ, 2 liên đoàn biệt động quân, 4 thiết đoàn và nhiều đơn vị khác bị thiệt hại nặng. Ta phá hủy và thu 636 xe tăng, xe thiết giáp, 1.870 xe quân sự, 419 khẩu pháo các loại, bắn rơi và phá hủy 340 máy bay. “Chiến dịch tiến công Trị - Thiên (Hè 1972) đạt hiệu quả lớn. Trên chiến trường miền Nam lần đầu tiên ta đã tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực và phương tiện chiến tranh, tiêu diệt nhiều trung đoàn, đánh quỵ một sư đoàn quân ngụy, lần đầu tiên ta giải phóng hoàn toàn một tỉnh Quảng Trị”(2). Chiến dịch tiến công hướng Trị - Thiên mở ra và giành thắng lợi tạo điều kiện thuận lợi cho hai hướng phối hợp quan trọng của quân và dân ta ở bắc Tây Nguyên và miền Đông Nam Bộ.


(1) Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Tóm tắt các chiến dịch trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2001, tr.288.
(2) Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Nghệ thuật chiến dịch Việt Nam (1945-1975), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1995, tr.415.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 11 Tháng Giêng, 2011, 09:08:44 am
(http://img820.imageshack.us/img820/2152/p013a.jpg)


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 11 Tháng Giêng, 2011, 09:10:54 am
II - TIẾN CÔNG ĐỊCH TRÊN HƯỚNG PHỐI HỢP
QUAN TRỌNG TÂY NGUYÊN, MIỀN ĐÔNG NAM BỘ

Đối với hai hướng phối hợp quan trọng trong cuộc tiến công chiến lược năm 1972, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương chỉ đạo quân và dân Tây Nguyên, miền Đông Nam Bộ mở các chiến dịch bắc Tây Nguyên và chiến dịch Nguyễn Huệ.

Đối với chiến dịch tiến công bắc Tây Nguyên - hướng tiến công phối hợp rất quan trọng trong cuộc tiến công chiến lược năm 1972, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương giao nhiệm vụ “Sử dụng lực lượng bản thân cùng lực lượng và binh khí kỹ thuật tăng cường, tiêu diệt một bộ phận quan trọng chủ lực Quân đoàn 2 và lực lượng tổng dự bị địch, giải phóng vùng Đắc Tô - Tân Cảnh, thị xã Kon Tum; khi có điều kiện phát triển xuống Plâyku, mở rộng vùng căn cứ Gia Lai, Đắc Lắc, hình thành một vùng căn cứ hoàn chỉnh, nói liền với căn cứ địa miền Đông Nam Bộ”(1). Để đảm bảo sự lãnh đạo, chỉ huy trên hướng tiến công chiến lược phối hợp quan trọng này, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định thành lập Bộ Tư lệnh chiến dịch. Đồng chí Hoàng Minh Thảo được chỉ định làm Tư lệnh; đồng chí Trương Chí Cương, Phó Bí thư Khu ủy Khu 5 làm Bí thư Đảng ủy, kiêm Chính ủy.

Cho đến những tháng đầu của năm 1972, hình thái hoạt động của địch trên địa bàn Tây Nguyên là vẫn tiếp tục tăng cường lực lượng giữ thị xã Kon Tum: điều thêm lữ đoàn dù 2 thuộc lực lượng tổng dự bị chiến lược từ Sài Gòn ra lập tueýn phòng thủ mới ở khu vực điểm cao 1.049, 1.015 (tây sông Pô Cô). Trong khi đó, các lực lượng chủ lực Quân khu 2 ở bắc Tây Nguyên đã hình thành ba cụm phòng ngự ở Đắc Tô - Tân Cảnh, thị xã Kon Tum, thị xã Plâyku(2). Căn cứ vào nhiệm vụ được Bộ chính trị, Quân ủy Trung ương giao và sau khi nắm vững tình hình, bố trí lực lượng địch trên chiến trường, Bộ Tư lệnh chiến dịch quyết định chọn địa bàn hai tỉnh Kon Tum, Gia Lai có địa thế núi cao, rừng rậm, thung lũng sâu, sông suối ngăn cách, trải dài hơn 100 km để mở cuộc tiến công tiêu diệt tập đoàn phòng ngự địch ở Tây Nguyên.

Để tiến công địch trên hướng Tây Nguyên, Bộ tăng cường hai sư đoàn chủ lực (320, 2), Trung đoàn 675 pháo binh, Trung đoàn 7 công binh, ba tiểu đoàn pháo cao xạ (37, 57), một tiểu đoàn xe tăng, một đại đội tên lửa B72. Ngoài các đơn vị được tăng cường, Bộ Tư lệnh chiến dịch bắc Tây Nguyên còn huy động bốn trung đoàn (666, 95, 28, 24), Trung đoàn 400 đặc công, Tiểu đoàn 631 bộ binh (lực lượng của mặt trận) vào chiến dịch tiến công này.

Bộ Tư lệnh chiến dịch quyết định trong giai đoạn 1, dùng Sư đoàn 320, Trung đoàn 28 hoạt động nghi binh lôi kéo địch ra dãy điểm cao phía tây sông Pô Cô và Võ Định; dùng hình thức tác chiến vận động tiến công tiêu diệt địch, tạo điều kiện cho Sư đoàn 2 (thiếu), Trung đoàn 66 và lực lượng tăng cường tiến công cụm cứ điểm Đắc Tô - Tân Cảnh.

Giai đoạn 2, phát huy thắng lợi đã giành được, Sư đoàn 2, Trung đoàn 28, Trung đoàn 64 tiến công hướng chủ yếu từ phía bắc; Sư đoàn 320 (thiếu) tiến công hướng thứ yếu từ phía nam vào thị xã Kon Tum. Các lực lượng vũ trang địa phương tỉnh, huyện trong quá tình tham gia chiến dịch phải tích cực vận dụng các hình thức đấu tranh hai chân, ba mũi, nổi dậy phá ấp giành dân ở huyện, quận, thị xã.

Đầu tháng 3-1972, thời điểm tiến công chiến lược trên chiến trường miền Nam nói chung, chiến trường Tây Nguyên nói riêng đang tới gần. Quân và dân Tây Nguyên dồn sức hoàn tất các mặt chuẩn bị chiến dịch. Lúc này, đề phòng cuộc tiến công của ta, Bộ Chỉ huy Quân khu 2 địch vừa tung thám báo, biệt kích thăm dò, vừa cho máy bay các loại đánh phá ác liệt hệ thống đường vận chuyển chiến lược, chiến dịch của ta. Đến giữa tháng 3-1972, mặc dù đã tập trung lực lượng tới mức cao nhất, nhưng lực lượng vận tải chiến lược trên tuyến 559, mới vận chuyển được 35% lượng hàng hóa phục vụ cho chiến dịch. Trước tình hình đó, Bộ Tư lệnh chiến dịch kiên quyết chỉ đạo việc đảm bảo hậu cần phục vụ chiến dịch. Các tổ công tác có kinh nghiệm về khai thác hậu cần được lệnh mở thêm cửa khẩu thu mua hàng hóa (chủ yếu là lương thực). Mọi phương tiện được huy động tối đa nhằm đẩy nhanh công tác vận chuyển vũ khí, đạn dược và các loại vật chất đảm bảo tới các chân hàng phía trước phục vụ các đơn vị chiến đấu. Cuối tháng 3-1972, lượng hàng hóa quân sự phục vụ cuộc tiến công bắc Tây Nguyên đã hoàn thành, nhưng cũng chỉ đủ dùng trong giai đoạn đầu của chiến dịch.


(1) Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Nghệ thuật chiến dịch Việt Nam (1945-1975), Sđd, tr.293.
(2) Đầu tháng 3-1972, địch ở bắc Tây Nguyên đã hình thành ba cụm phòng ngự gồm 3 sư đoàn, 2 liên đoàn, 10 chi đoàn thiết giáp, 112 trung đội dân vệ, 3 đại đội thám báo.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 11 Tháng Giêng, 2011, 09:12:20 am
Cùng với việc chỉ đạo các hướng, mũi khẩn trương hoàn tất mọi mặt cho cuộc tiến công địch, từ ngày 22-3-1972, Bộ Tư lệnh chiến dịch bắt đầu sử dụng hai trung đoàn (28, 95) một số phân đội binh chủng kỹ thuật phối hợp với bộ đội địa phương và dân quân, du kích đánh phá giao thông địch trên đường 14 ở bắc và nam thị xã Kon Tum; thực hiện tạo thể bao vây chia cắt chiến dịch. Bộ đội đặc công và lực lượng pháo cối bí mật luồn sâu vào phòng tuyến đối phương, thực hiện các trận tập kích vào trận địa hỏa lực, cơ sở hậu cần địch. Sư đoàn  2 cho một tiểu đoàn hoạt động nghi binh thu hút địch ở Đắc Tô, tạo điều kiện cho Trung đoàn 1 và Trung đoàn 24 chuẩn bị địa hình, hiệp đồng tác chiến tiến công căn cứ Sở Chỉ huy Sư đoàn 22 ở Sở Chỉ huy Trung đoàn 42 quân đội Sài Gòn ở cụm cứ điểm Đắc Tô - Tân Cảnh - căn cứ quân sự mạnh nhất của địch ở cực bắc Tây Nguyên. Đồng thời, các đơn vị công binh cũng được lệnh nối thông những đoạn đường dã chiến vào cách vị trí địch 5-6km bảo đảm cho xe tăng, thiết giáp và pháo cơ giới cơ động được trên hướng vu hồi chiến dịch.

Cuối tháng 3-1972, cùng thời điểm quân và dân Trị - Thiên mở màn chiến dịch tiến công giải phóng Quảng Trị, quan và dân Tây Nguyên từ bắc Kon Tum tới nam Gia Lai, từ quốc lộ 14 đến quốc lộ 19, với khí thế “Trường Sơn chuyển mình, Pô Cô dậy sóng, quét sạch quân thù, giải phóng nhân dân” đã đồng loạt tiến công địch. Trên tuyến phòng thủ tây sông Pô Cô, ngày 30-3, Sư đoàn trưởng Sư đoàn 320 Kim Tuấn lệnh cho Trung đoàn 52 (Trung đoàn Tây Tiến) bắt đầu vây ép Tiểu đoàn dù 2 (Lữ đoàn dù 2) và một số chốt lẻ phụ cận của tiểu đoàn 3 (Trung đoàn 47) quân đội Sài Gòn ở điểm cao 1.049. Bị tấn ép mạnh từ ba phía, địch co dần lại. Đến ngày 3-4, Trung đoàn 52 chuyển sang tiến công, đánh thiệt hại nặng Tiểu đoàn 2 dù. Do điểm cao 1.049 có vị trí chiến thuật rất quan trọng, mất khu vực này đối phương có thể chọc thẳng sang đường 14, cắt đôi thế trận phòng ngự ở bắc Kon Tum, cô lập cụm phòng ngự Đắc Tô - Tân Cảnh, uy hiếp trực tiếp thị xã, nên địch cấp tốc tăng viện ngăn chặn cuộc tiến công của ta, giữ vững điểm cao quan trọng này. Ngày 4-4, Bộ Chỉ huy chiến dịch ở thị xã Kon Tum điều tiếp Lữ đoàn dù 3 ra phía tây sông Pô Cô thay thế Tiểu đoàn 2 (Lữ đoàn 2) và Tiểu đoàn 3 (Trung đoàn 47).

Để nhanh chóng đập vỡ tuyến ngăn chặn vòng ngoài, khẩn trương đưa bộ đội vào tuyến đường 14 thực hiện chia cắt chiến dịch, tạo điều kiện cho Sư đoàn 2 và các đơn vị phối thuộc đánh chiếm mục tiêu then chốt Đắc Tô - Tân Cảnh, ngày 8-4, Bộ Tư lệnh chiến dịch lệnh cho Sư đoàn 320 dùng Trung đoàn 64 tiến công tiêu diệt Tiểu đoàn 11 (Lữ đoàn dù 3) vừa đổ bộ xuống chốt giữ điểm cao 1.015 (cách điểm cao 1.049 về phái bắc 3,5km). Sau khi cùng cán bộ chỉ huy ba trung đoàn (48, 52, 64) họp rút kinh nghiệm trận chiến đấu ở điểm cao 1.049, nhận thấy trận chiến đấu không đạt hiệu quả là bởi tổ chức chỉ huy và sử dụng cách đánh chưa phù hợp, xử lý các tình huống chiến đấu chưa tốt, tối ngày 9-4, Đảng ủy và Chỉ huy Sư đoàn 320 đã hạ quyết tâm: động viên cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 64 và các đơn vị phối thuộc phát huy truyền thống của đơn vị kiên quyết hoàn thành nhiệm vụ được giao. Tư tưởng chỉ đạo tác chiến được xác định rõ: “vây chặt, tiến công liên tục, đột phá có trọng điểm kết hợp với thọc sâu chia cắt”. Đây là lần thứ hai (sau chiến dịch đường 9 - Nam Lào), Trung đoàn 64 đối mặt trực tiếp với quân đội Sài Gòn. Thay mặt cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn, Trung đoàn trưởng Khuất Duy Tiến hứa với chỉ huy cấp trên quyết tâm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trên giao.

Sau hai ngày vây ép tiêu diệt các mục tiêu vòng ngoài, sáng ngày 14-4-1972, bộ đội Trung đoàn 64 được lệnh tiến công tiêu diệt địch trêm điểm cao 1.015. Mở màn trận đánh, pháo các cỡ từ 85 mm đến 122 mm của Trung đoàn pháo binh 675 và các loại pháo cối chiến thuật của Trung đoàn 64 bắn phá dồn dập mục tiêu địch. Sở Chỉ huy tiểu đoàn dù bị án trúng ngay từ những loạt đạn đầu, tên tiểu đoàn phó bị thương nặng. Sau 15 phút bị pháo ta bắn phá, hai kho đạn gần khu tủng tâm bị bốc cháy, hơn một nửa hầm hào, công sự dã chiến bị phá hủy. Địch không chịu nổi hỏa lực pháo, cối của ta, hàng chục tên phá chạy ra xung quanh, một số tên cố thủ, gọi phi pháo chi viện.

17 giờ, bộ đội trên hai hướng được lệnh xung phong. Hướng tây bắc do Tiểu đoàn 9 đảm nhận, mặc dù bị phi pháo địch đánh phá dữ dội chặn đường, nhưng cán bộ, chiến sĩ trên hai mũi lợi dụng địa hình, địa vật đột phá tầng công sự vòng ngoài, rồi đồng loạt phát triển vào bên trong đánh chiếm sở chỉ huy địch, bắn chết tên tiểu đoàn trưởng. Hướng đông nam do Tiểu đoàn 8 phụ trách, trận đánh diễn biến khá phức tạp. Lính dù chốt giữ mỏm đồi cao phát hiện bộ đội ta vượt qua bãi trống đã gọi máy bay đánh chặn quyết liệt, làm một số cán bộ, chiến sĩ ta bị thương vong. Quyết không để bộ đội Tiểu đoàn 8 phải trần lưng hứng bom đạn, Đại đội 12,7mm (Tiểu đoàn cao xạ 16) do Đại đội trưởng Khuất Đình Nuôi chỉ huy (bố trí ở phía sau Tiểu đoàn 8) đã đánh trả quyết liệt, bắn cháy 3 máy bay các loại, tạo điều kiện cho bộ đội Tiểu đoàn 8 xung phong đánh chiếm các mục tiêu.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 11 Tháng Giêng, 2011, 09:14:28 am
Sau hơn một giờ chiến đấu, Trung đoàn 64 đã chia cắt tiểu đoàn địch thành hai bộ phận để tiêu diệt. Đại đội và tiểu đoàn bộ dù quân Sài Gòn chốt giữ mỏm phía bắc, sau gần một giờ bị Tiểu đoàn 9 tiến công, phần lớn bị thương vong, số còn lại không chịu nổi phải ra đầu hàng. Hai đại đội địch chốt giữ mỏm phía nam bị đánh tơi tả, lo sợ bị tiêu diệt đã lợi dụng đêm tối tháo chạy về phía sông Pô Cô. Hơn một trăm tên địch dò dẫm suốt đêm về tới Ngọc Đi Ốc thì bị sa hết vào trận địa đón lóng của Tiểu đoàn 2 (Trung đoàn 48).

Qua hai ngày bao vây tiến công liên tục, Trung đoàn 64 (Sư đoàn 320) và các đơn vị phối thuộc đã tiêu diệt gọn Tiểu đoàn 11 (Lữ đoàn dù 3) bắt sống 166 tên, có gần đủ mặt sĩ quan chỉ huy từ cấp đại đội đến cấp tiểu đoàn. Với thành tích xuất sắc này, Trung đoàn 64 được Đảng, Nhà nước tặng thưởng Huân chương Quân công giải phóng hạng Ba.

Chiến thắng tiêu diệt gọn tiểu đoàn dù đầu tiên trên chiến trường Tây Nguyên - một chiến trường mà hệ thống phòng thủ được xem là kiên cố, khi tác chiến có thể chi viện cho nhau, rất khó bị chia cắt, cô lập, làm sa sút uy thế của lực lượng dự bị chiến lược con cưng của quân đội Sài Gòn, báo hiệu trước sự thất bại về chiến lược của địch là không thể tránh khỏi.

Mất điểm cao 1.015, tuyến phòng thủ tây sông Pô Cô bị chọc thủng. Sư đoàn dù buộc phải rút bỏ một số vị trí còn lại, co về đường 14 cùng lực lượng Quân đoàn 2 chốt giữ tuyến phòng ngự cơ bản từ Võ Định - Lam Sơn đến thị xã Kon Tum.

Phối hợp với Sư đoàn 320 đánh quân dù ở phía tây, bộ đội trên các hướng cũng đẩy mạnh cường độ hoạt động. Ở phía bắc, Trung đoàn 1 (Sư đoàn 2), Tiểu đoàn 4 (Trung đoàn 24), một số phân đội pháo mang vác (Trung đoàn 40 pháo binh), cùng bộ đội địa phương tỉnh Kon Tum vây hãm căn cứ Đắc tô 2 và sân bay Phượng Hoàng. Bằng các hình thức tác chiến tập kích, phục kích, dùng pháo binh bắn phá hoại và các tổ bắn tỉa…, bộ đội ta diệt hàng trăm tên, phá hủy 36 máy bay, 39 súng cối, bắn cháy gần 40 xe quân sự các loại. Trong vòng 10 ngày đầu tháng 4, một bộ phận đáng kể sinh lực và phương tiện chiến tranh của địch bố trí xung quanh cụm phòng ngự then chốt Đắc Tô - Tân Cảnh đã bị tiêu diệt, tiêu hao.

Trên khu vực Võ Định - đường 14, ngay từ tuần đầu tháng 4, Trung đoàn bộ binh 28 tích cực đánh cắt giao thông diệt 2 chi đội xe bọc thép, sau đó phục kích đánh thiệt hại nặng Tiểu đoàn 23 biệt động quân hành quân lên giải tỏa. Đại đội cối 14 trực thuộc trung đoàn liên triếp bắn phá Sở Chỉ huy Lữ đoàn dù 2 và 3 ở Lam Sơn gây cho chúng nhiều tổn thất. Phát huy thắng lợi, đêm 6-4, Đại đội 19 đặc công của Trung đoàn tập kích diệt dọn trận địa pháo của Lữ đoàn dù 2 Công Trang Lăng Loi, phá hủy 4 khẩu 155 mm, 6 pháo 105 mm và một chi đội xe bọc thép của Trung đoàn thiết giáp 14. Tại Chư Thoi (nam thị xã Kon Tum) Trung đoàn 95, Tiểu đoàn 6 (Trung đoàn 24), tiểu đoàn 631 tổ chức sáu cụm chốt hỗn hợp (bộ binh và hỏa lực) kéo dài gần 10 km trên đường 14 để chặn địch từ Plâyku đi Kon Tum. Để phục vụ bộ đội chủ lực đánh lớn, hàng trăm dân quân và đồng bào hai huyện (3, 4) tỉnh Gia Lai sát cánh cùng bộ đội đắp ụ chôn mìn, xây dựng nhiều trận địa khá kiên cố ngay sát mép đường ở khu vực cầu Ia Tô.

Trung đoàn 95, Tiểu đoàn 631 và Tiểu đoàn 6 bám trụ dưới tầmp hi pháo ác liệt của địch, liên tục giáng cho chúng những đòn nặng nề. Chỉ trong 10 ngày giữa tháng 4, hàng chục đoàn xe tiếp tế của địch bị phá hủy (có đoàn 50 chiếc, có đoàn 120 chiếc), hàng trăm lính áp tải bị loại khỏi vòng chiến đấu. Chỉ huy Quân khu 2 địch đã phải lần lượt huy động Trung đoàn 45 và 53 (Sư đoàn 23) được mệnh danh là “Nam bình, Bắc phạt, cao nguyên trấn” có xe tăng, pháo binh và máy bay yểm trợ phản kích quyết liệt hòng đẩy bộ đội ta ra khỏi khu vực Chư Thoi. Nhưng mọi cố gắng của địch đều vô hiệu Đường 14 bị cắt đứt ở cả hai phía bắc và nam thị xã Kon Tum. Hai trung đoàn (28, 95) đã góp phần tạo nên thế vây hãm chia cắt chiến dịch đối với ba cụm phòng ngự thị xã Kon Tum, Đắc Tô - Tân Cảnh và thị xã Plâyku.

Qua hơn nửa tháng thực hiện bước một chiến dịch, tình hình chiến trường bắc Tây Nguyên chuyển biến có lợi cho ta. Hầu hết tuyến phòng thủ phía tây sông Pô Cô của địch đã bị Sư đoàn 320 đập tan, cánh cửa đột phá vào những mục tiêu chủ yếu của chiến dịch đã được mở. Ở phía đông, Sư đoàn 2 và các đơn vị phối thuộc đã tạo lập được thế trận chiến dịch tiến công vững chắc. Trong khi đó, trên các chiến trường Trị - Thiên và miền Đông Nam Bộ, quân và dân ta mở chiến dịch tiến công tiêu diệt nhiều sinh lực địch, loại khỏi vòng chiến đấu hàng vạn tên. Trước thời cơ chiến dịch xuất hiện, điều kiện đột phá mục tiêu then chốt đã chín muồi, Bộ Tư lệnh chiến dịch bắc Tây Nguyên lệnh cho các đơn vị đang ém quân trên hướng đông tổ chức đánh chiếm cụm căn cứ Đắc Tô - Tân Cảnh.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 12 Tháng Giêng, 2011, 09:09:47 am
Nằm ở phía bắc thị xã Kon Tum 60 km, cụm căn cứ Đắc Tô - Tân Cảnh không chỉ là trung tâm chỉ huy tập đoàn phòng ngự ở phía bắc tỉnh của địch, mà còn là nơi xuất phát các cuộc hành quân của chúng đánh phá các cơ sở kháng chiến và đường vận chuyển chiến lược của ta ở vùng ba biên giới. Đây là nơi đặt Sở Chỉ huy Sư đoàn 22, Trung đoàn 42, khu cố vấn Mỹ; nơi đặt Bộ Sở Chỉ huy Quân khu 2 quân đội Sài Gòn thường xuyên duy trì từ 12 tiểu đoàn đến 14 tiểu đoàn bộ binh, 1 trung đoàn thiết giáp, 3 tiểu đoàn pháo binh. Thị trấn Tân Cảnh - thị trấn có tới 5.000 dân, nằm giữa bã ba đường 14, 18 do hai đại đội cảnh sát và bảo an chiếm giữ.

Đến giữa tháng 4-1972, nơi đậy, địch vẫn tập trung sức mạnh ơẻ hai hướng tây và bắc; hướng đông đặt Sở Chỉ huy Sư đoàn 22. Nhận thây địch vẫn lơi là phòng ngự, Bộ Tư lệnh chiến dịch quyết định tập trung lực lượng đánh vào chỗ hiểm yếu nhất của địch. Trung đoàn 66 (Trong đội hình Sư đoàn 2) được tăng cường Tiểu đoàn 37 đặc công và một đại đội xe tăng T54, đảm nhiệm mũi tiến công chủ yếu tiêu diệt căn cứ 42 (còn gọi là căn cứ Tân Cảnh). Để giữ bí mật đến phút chót, Bộ Tư lệnh chiến dịch chỉ thị cho Sư đoàn 2 tăng cường vây hãm quân đồn trú ở phía tây và bắc cụm căn cứ Đắc Tô - Tân Cảnh nhằm thu hút sự chú ý của địch.

Chiều ngày 21-4-1972, lực lượng bộ binh ta mở một số trận tiến công, đánh chiếm các chốt điểm quan trọng bảo vệ căn cứ Đắc Tô - Tân Cảnh. Tiếp đó, các cụm pháo binh chiến dịch được lệnh tập trung bắn phá vào trung tâm căn cứ Đắc Tô - Tân Cảnh. Đại đội 29 (tên lửa chiến thuật B72), lần đầu xuất trận trên chiến trường Tây Nguyên đã đánh giỏi bắn trúng, thiêu cháy hầu hết xe tăng địch nống ra phản kích, phá hủy cả hai khẩu ĐKZ 106,7mm đặt trên tháp nước trong căn cứ khiến quân địch kinh hoàng. Sau hai ngày pháo binh các loại của ta bắn phá, hầu hết các mục tiêu lộ từ lô cốt, boongke đến tháp canh, nhà nổi ở vòng ngoài cụm căn cứ và trên hướng cửa mở phía đông, đông nam đều bị phá hủy.

Thời điểm tiến công tiêu diệt cụm cứ điểm Đắc Tô - Tân Cảnh bắt đầu. Đêm 23-4, từ ngầm Pô Cô Hạ, đại đội xe tăng T54 gồm 9 chiếc, có bộ binh yểm trợ được lệnh xuất kích. Theo đường công binh Trung đoàn 7 mới mở, xe tăng ta nối nhau tiến về hướng Tân Cảnh, mặc máy bay và pháo binh địch đánh phá chặn đường. Hơn 30 cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 66 do phó Tham mưu trưởng Hoàng Anh Tuấn chỉ huy đã làm thành những lộ tiêu sống hướng dẫn cho xe tăng. Trên đườn phát triển nhiều đồng chí bị trúng bom, pháo đã anh hùng hy sinh;. Nhiều đồng chí bị thương không đi được vẫn cố leo lên thành xe để tiếp tục chỉ đường. Hai giờ ngày 24-4, đại đội xe tăng ta bất ngờ xuất hiện ở thị trấn Tân Cảnh, cắt đường qua thị trấn này, tiến về cửa mở hướng đông. Sự xuất hiện của xe tăng ta khiến toàn bộ bọn địch trong khu vực sửng sốt. Không để địch trong thị trấn kịp định thần đối phó, Tiểu đoàn 9 (Trung đoàn 66) được sự hỗ trợ của Đội công tác vũ trang tỉnh đội Kon Tum, vừa nổ súng tiến công hai đồn bảo an, cảnh sát vừa kêu gọi nhân dân nổi dậy diệt ác, phá kìm, giành quyền làm chủ. Đến 4 giờ 30 phút sáng 24-4, địch trong thị trấn Tân Cảnh đã bị tiêu diệt. Đoạn đường 14 từ Đắc Tô tới thị trấn Tân Cảnh do ta chiếm giữ, tạo điều kiện thuận lợi để ta đẩy nhanh tốc độ đưa lực lượng và binh khí, kỹ thuật vào hướng tấn công chính.

Mờ sáng ngày 24-4, các cụm pháo chiến dịch của ta bắn phá mãnh liệt nhiều mục tiêu trong căn cứ Tân Cảnh. Sáu 30 phút nã đạn cấp tập, pháo binh ta chuyển làn, Trung đoàn 66 và đại đội xe tăng được lệnh xung phong. Bộ binh và xe tăng ta đánh tràn qua lớp chiến hào bên ngoài rồi lần lượt đánh chiếm các mục tiêu bên trong.

Càng đột phá sâu, cuộc chiến đấu càng diễn ra quyết liệt. Máy bay oanh tạc đuội xuống khu vực quân ta vừa chiếm được. Hỏa lực xe tăng ta đánh mạnh vào hai bên sườn đội hình cố thủ của địch, tạo điều kiện cho bộ binh phát triển. Hỏa lực xe tăng, đạn B40 và thủ pháo của bộ binh đánh sập hệ thống lô cốt địch. Trong tuyệt vọng, địch sử dụng cả chất độc hóa học, hơi ngạt, hơi cay hòng ngăn chặn và đẩy lùi cuộc tiến công của ta. Trước hành động liều lĩnh của địch, bộ đội ta sử dụng phương tiện phòng độc, tiếp tục duy trì sức tiến công. Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 7 Phạm Văn Vượng mặc dù bị thương vẫn dẫn đầu đội hình, bình tĩnh chỉ huy bộ binh và xe tăng thọc sâu đánh chiếm sở chỉ huy địch. Không chịu nổi đòn tiến công của ta, địch hoảng sợ, từng tốp ra hàng. Đến 11 giờ trưa ngày 24-4, ta làm chủ hoàn toàn căn cứ. Viên Đại tá Lê Đức Đạt, Sư đoàn trưởng Sư đoàn 22 và một đại tá cố vấn Mỹ bị tiêu diệt trong trận đánh ác liệt này. Vi Văn Bình, đại tá, Sư đoàn phó cùng hơn 10 sĩ quan tham mưu trốn bị bắt. Trung đoàn 66 và các đơn vị phối thuộc bắt 429 tù binh, bắn rơi 8 máy bay, thu 9 xe tăng, 20 pháo 105 mm và 155 mm, gần 100 xe quân sự.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 12 Tháng Giêng, 2011, 09:11:01 am
Ở hướng bắc, 8 giờ sáng 24-4, khi những loạt đạn pháo nã xuống các mục tiêu trong căn cứ Đắc Tô (còn gọi là Đắc Tô 2) vừa ngừng, Trung đoàn 1 (Sư đoàn 2) do Sư đoàn trưởng Nguyễn Chơn chỉ huy(1), mở cuộc tiến công nhằm thẳng vào Sở Chỉ huy trung đoàn 47 địch. Hỗ trợ cho lực lượng bộ binh còn có 4 xe tăng T54 và một pháo cao xạ tự hành 57. Cuộc đọ sức quyết liệt giữa xe tăng ta và xe tăng địch diễn ra ngay sát cổng căn cứ. Xe mang số hiệu 377 của ta do Trung đội trưởng Nguyễn Nhàn Triển chỉ huy, được đồng đội yểm trợ, diệt 5 xe tăng địch. Trước sức tiến công mạnh mẽ của Quân giải phóng, Trung đoàn 47 quân Sài Gòn nhanh chóng bị đè bẹp. 12 giờ trưa, bộ đội ta hoàn toàn làm chủ căn cứ Đắc Tô. Đêm hôm đó, phát huy thắng lợi, Trung đoàn 2 (Sư đoàn 2) và Tiểu đoàn 3 (Trung đoàn 400) tiến công căn cứ Diên Bình, diệt gọn 2 liên đội bảo an, thu 6 khẩu pháo 105 mm, 7 xe ôtô, phá hủy 2 máy bay lên thẳng.

Đắc Tô - Tân Cảnh và Diên Bình bị tiêu diệt, đường 14 về Võ Định bị ta cắt đứt, cụm phòng ngự phía bắc tỉnh Kon Tum của địch bị sụp đổ rất nhanh. Hai căn cứ hỏa lực của địch trên dãy Ngọc Bờ Biêng, Ngọc Rinh Rua cho dù chưa bị vây đánh nhưng quân địch ở hai căn cứ này vẫn phải rút về cứ điểm Plây Cần. Địch ở Tri Lễ và một vài điểm cao sát sông Pô Cô mới bị uy hiếp đã rút chạy về hướng Kon Tum. Sở Chỉ huy Lữ đoàn 3 ở Nam Võ Định cũng vội lùi vào trong thị xã. Trung đoàn 28 chốt cắt đường 14 ở khu vực Võ Định, Lam Sơn và Trung đoàn 48 (Sư đoàn 320) đang vượt sông Pô Cô sang Công Trăng Lăng Loi, tổ chức đón lõng bắt tàn binh địch từ phía bắc chạy về.

Qua một ngày tiến công bằng hiệp đồng binh chủng quy mô lớn, quân và dân bắc Tây Nguyên đã tiêu diệt và làm tan rã một bộ phận lực lượng tương đương một sư đoàn tăng cường của địch, phá vỡ một mảng quan trọng trong hệ thống phòng ngự bắc Tây Nguyên, giải phóng một vùng rộng lớn từ Võ Định lên Tân Cảnh, từ Đắc Tô về Đắc Mót, với hơn 25 nghìn đồng bào các dân tộc. Để nhanh chóng giúp đỡ đồng bào khắc phục khó khăn, ổn định cuộc sống, hàng chục tổ công tác với hàng trăm cán bộ, chiến sĩ Quân giải phóng Tây Nguyên tỏa xuống các bản làng cùng nhân dân dựng lại nhà cửa, đào hầm hào phòng tránh bom đạn địch. Các độ công tác của Trung đoàn 24, Trung đoàn 40 sát cánh cùng cấp ủy thị trấn Tân Cảnh và thị tứ Diên Binh giữ gìn trật tự, trị an, giúp địa phương xây dựng chính quyền và các tổ chức đoàn thể cách mạng.

Sau khi cụm phòng ngự Đắc Tô - Tân Cảnh bị tiêu diệt, lực lượng địch bố phòng xung quanh tỉnh lỵ Kon Tum rất mỏng yếu. Trong thị xã, hầu hết cố vấn Mỹ và đại diện chính quyền Sài Gòn đã dùng máy bay lên thẳng chạy về Plâyku, chỉ có hai tiểu đoàn chủ lực và một số đơn vị bảo an buộc phải rải ra làm làm nhiệm vụ tuần tra, bảo vệ thị xã. Đại bộ phận Sư đoàn 23 và Liên đoàn 6 biệt động quân (mới ở Nam Bộ ra thay thế để Lữ đoàn dù 2 về Bình Long) lúc này phải dồn lực lượng vào việc bảo vệ trục đường 14 từ phía nam Võ Định đến đèo Chư Thoi) hòng chặn bước tiến của Quân giải phóng, làm giảm sức ép đối với thị xã Kon Tum. Về ta, sau chiến thắng lớn của đợt hai chiến dịch, khí thế bộ đội lên cao, sẵn sàng tiến công vào thị xã Kon Tum. Tuy nhiên, lúc này, việc bảo đảm hậu cần cho chiến dịch gặp nhiều khó khăn do hai tuyến đường 50k và 70k chưa nối thông sang đường 14, Nhận thấy địch ở thị xã Kon Tum tuy có sơ hở, dao động, nhưng ta chưa đủ điều kiện để tiến công giành thắng lợi, Thường vụ Đảng ủy và Bộ Tư lệnh chiến dịch quyết định cho các đơn vị vừa đánh địch tạo lập bàn đạp, vừa tập trung lực lượng mở thông đường, vận chuyển gấp rút đạn, gạo vào cho chiến dịch.

Theo tinh thần đó, ngày 1-5, Bộ Tư lệnh chiến dịch chỉ thị cho Trung đoàn 48 (Sư đoàn 320) và Trung đoàn 28 tiến công Liên đoàn 6 biệt động quân đang lập tuyến phòng ngự hai bên đường 14 ở khu vực Võ Định. Sau hai ngày chiến đấu ác liệt dưới những đợt bom B.52 rải thảm, bộ đội ta đã đánh thiệt hại nặng 2 tiểu đoàn biệt động, làm chủ trận địa, phá vỡ tuyến phòng ngự Võ Định - Công Trăng KLả.

Ngày 1-5, Trung đoàn 52 (Sư đoàn 320) và một số phân đội binh chủng của mặt trận tăng cường nhận lệnh chuẩn bị tiến công căn cứ biên phòng Kleng - căn cứ án ngữ trên đường 51 cách thị xã Kon Tum 18km về phía tây nam. Qua năm ngày làm công tác trinh sát mục tiêu, lót ổ gạo, đạn, vây quét quân địch nống ra xung quanh tạo lập bàn đạp tiếp cận thuận lợi, ngày 9-5, Trung đoàn 52 được lệnh nổ súng tiến công Kleng. Sau những loạt đạn pháo dội xuống cá mục tiêu và sau khi tám lớp rào, bãi mìn bị hai bộ FR của ta cuốn phăng, tạo thành cửa mở, bộ binh và xe tăng ta ào ạt xung phong. Trước đòn tiến công dũng mãnh của ta, địch trong các bongke, hầm ngầm không chịu nổi, lần lượt ra hàng. Sau 2 giờ chiến đấu bằng sức mạnh hiệp đồng binh chủng, Trung đoàn 52 và các đơn vị phối thuộc đã tiêu diệt gọn tiểu đoàn 62 biệt động, bắt 250 tên, bắn rơi 8 máy bay, mở rộng và nối thông vùng giải phóng tới sát thị xã Kon Tum.


(1) Sư đoàn trưởng Nguyễn Chơn được Thường vụ Đảng ủy và chỉ huy Sư đoàn 2 phân công đi chỉ huy trực tiếp Trung đoàn 1 trong trận phối hợp với đơn vị bạn đánh Đắc Tô - Tân Cảnh.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 12 Tháng Giêng, 2011, 09:12:33 am
Cùng thời gian, trên đường 14 (đoạn Chư Thoi đi Plâyku), Trung đoàn 95  được giao nhiệm vụ chốt chặn, tiêu hao Lữ đoàn dù 3 rút về Plâyku, làm chậm bước đi của chúng, đánh thiệt hại sở chỉ huy hành quân của Lữ đoàn dù 3 và ba đại đội lính bảo vệ, phá hủy 10 khẩu pháo các loại.

Qua 12 ngày đêm chiến đấu tạo thế ở xung quanh thị xã Kon Tum, đến giữa tháng 5-1972, Sư đoàn 320 (thiếu) và Trung đoàn 28 đã phá vỡ được khu vực phòng ngự của địch ở phía tây bắc thị xã, từ quận lỵ Kon Tum đếm ngã ba Trung Tín; Trung đoàn 48 (Sư đoàn 320) đã vượt sông Đắc La sang đường 14 bao vây Tân Phú, Lôi Hổ (đông tham thị xã Kon Tum). Trước nguy cơ thị xã Kon Tum bị ta tiến công, Nguyễn Văn Toàn, Tư lệnh Quân đoàn 2, lệnh cho Sư đoàn 23 rút hết các trung đoàn đang “be bờ” ở vòng ngoài về lập tuyến phòng ngự mới khép kín, liên hoàn, chặt chẽ, quyết bảo vệ thị xã; sử dụng hai liên đoàn biệt động quân, một tiểu đoàn bảo an biên phòng, Trung đoàn 3 thiết giáp do viên Chuẩn tướng Phó tư lệnh Quân đoàn 2 trực tiếp chỉ huy, mở cuộc hành quân mang mật danh Bắc Bình Vương 712 ở tây Chư Thoi…

Trước tình hình trên, Bộ Chỉ huy chiến dịch chủ trương tiếp tục vận động bộ đội khắc phục mọi khó khăn, thiếu thốn, ác liệt, hy sinh, tập trung mở đợt tiến công mới vào thị xã Kon Tum.

5 giờ sáng ngày 25-5, ở phía bắc Sư đoàn 2 và các lực lượng tăng cường được hai đại đội xe tăng yểm trợ, tổ chức thành hai mũi đột phá quyết liệt vào trong thị xã. Hai tiểu đoàn địch có xe tăng hỗ trợ bố trí thành hai tuyến phòng ngự có chiều sâu hơn 300 m, vẫn không cản trở nổi cuộc tiến công của ta, vộ chạy dạt sang hai bên. Bộ đội ta phát triển vào bên trong, đánh chiếm sân bay, khu hành chính, tỉnh lỵ, kho 40-41, và một phần biệt khu 24. Ở phía tây, hai trung đoàn 64 và 28 được 6 xe tăng chi viện, tiến công tuyến phòng ngự địch ở khu vực suối Đắc Lây; sau đó đánh giáp lá cà với địch ở khu vực Xưởng Cưa, Đồi Tròn. Trong khi đó, phía nam thị xã, ba trung đoàn (95, 24, 48) vận dụng các hình thức chiến thuật tập kích, phục kích, chốt chặn, vận động tiến công, đánh thiệt hại nặng từng tiểu đoàn địch ở tây Chư Thoi, nam Tân Phú, tiêu diệt hơn 1.000 tên, phá hủy 60 xe, đánh bại cuộc hành quân Bắc Bình Vương 712 của địch.

Mặc dù tiến công tỉnh lỵ Kon Tum từ nhiều phía, nhưng ta vẫn chưa diệt gọn được những đơn vị lớn của địch. Với chiến thuật “di tản nhanh”, “liên kết nhanh”(1) và dựa vào hệ thống hầm hào, công sự kiên cố, địch tổ chức chống trả ta quyết liệt. Ở các khu vực trong thị xã, những nơi bộ đội ta đã đánh chiếm, địch sử dụng máy bay ném các loại bom phá, bom cháy, bom chất độc và dùng bộ binh tập kích vào đội hình tiến công của ta. Ngoài thị xã, máy bay B.52 rải thảm hàng chục đợt trong một ngày gây cho ta nhiều trở ngại, tổn thất. Trong cuộc chiến đấu ác liệt, xuất hiện nhiều gương tập thể, cá nhân điển hình. Đặc biệt, ở khu vực Ngọc Bay, phía tây nam thị xã Kon Tum, trung đội súng máy cao xạ 12,7mm do Trần Phúc Yên chỉ huy đã chiến đấu dũng cảm đánh hàng chục trận, có trận diệt gọn cả tốp 6 chiếc máy bay trực thăng, góp phần cùng đại đội khống chế hiệu quả máy bay địch, hỗ trợ đắc lực cho bộ binh xung phong.

Từ ngày 28-5, những đợt tiến công của ta bắt đầu kém hiệu quả do hiệp đồng không chặt chẽ, các hướng tiến công không đều, địch có điều kiện củng cố đội hình, tập trung lực lượng ngăn chặn và phản kích liên tục. Trước tình hình nhịp độ tiến công chậm, các đơn vị bị thương vong nhiều, mùa mưa đã đến Bộ Tư lệnh chiến dịch quyết định kết thúc chiến dịch tiến công vào đêm ngày 5 rạng ngày 6-6-1972. Bộ đội được lệnh rút về sau củng cố, chuyển sang đánh phá bình định.

Qua hai tháng thực hành chiến dịch tiến công bắc Tây Nguyên, quân và dân ta trên hướng tiến công chiến lược này đã vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, ác liệt, hy sinh, hoàn thành tốt nhiệm vụ chiến đấu trên giao, loại khỏi vòng chiến đấu 7.404 tên (trong đó có 3.800 tên bị diệt), bắn rơi 207 máy bay các loại, bắn cháy 849 xe quân sự (có 188 xe tăng, xe bọc thép), thu 4.434 khẩu súng các loại (có 29 khẩu pháo 105mm đến 155mm) và nhiều đồ dùng quân sự, giải phóng một vùng rộng lớn với hàng chục nghìn dân.

Chiến thắng của chiến dịch bắc Tây Nguyên Xuân - Hè 1972 tuy còn một số hạn chế như chưa tận dụng được thời cơ, chưa diệt gọn được nhiều đơn vị cơ động của quân đội Sài Gòn, chưa giải phóng được mục tiêu trọng yếu theo yêu cầu chiến lược đề ra…, nhưng đã thực hiện được phần cơ bản của ý định chiến lược, làm thay đổi cục diện chiến trường Tây Nguyên, tạo một hành lang nối thông giữa Mặt trận Trị - Thiên, Tây Nguyên, với miền Đông Nam Bộ, góp phần phát triển thế và lực của chiến tranh cách mạng miền Nam trong cuộc tiến công chiến lược 1972.


(1) Mỗi khi hỏa lực ta bắn mạnh là chúng phân tán đội hình bảo toàn lực lượng, khi bộ đội vào sâu, chúng liên kết phản kích.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 12 Tháng Giêng, 2011, 09:12:54 am
(http://img651.imageshack.us/img651/4007/p001a.jpg)


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 12 Tháng Giêng, 2011, 09:14:35 am
*
*   *

Ở miền Đông Nam Bộ, Trung ương Cục, Quân ủy và Bộ Chỉ huy miền mở chiến dịch tiến công mang mật danh Nguyễn Huệ nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch trên hướng bắc Sài Gòn, giải phóng khu vực Bình Long, Phước Long và một số vùng đệm ở Tây Ninh và Bình Dương, tạo thế đứng chân đưa chủ lực Miền từ ngoài biên giới về Nam Bộ, phối hợp với các hướng tiến công chiến lược khác, thu hút và ghìm chân quân chủ lực Sài Gòn, tạo du kích cho nhân dân đồng bằng sông Cửu Long nổi dậy đánh phá bình định.

Lực lượng tham gia chiến dịch gồm ba sư đoàn bộ binh (5, 7, 9), ba trung đoàn độc lập (24, 71, 205), ba trung đoàn bộ đội địa phương (14, 16, 33), Trung đoàn đặc công 4329, Trung đoàn 42 (Đoàn pháo binh 75), hai tiểu đoàn xe tăng thiết giáp, bốn tiểu đoàn cao xạ, ngoài ra còn có 20 tiểu đoàn và 63 đại đội bộ đội địa phương các tỉnh, huyện trong địa bàn chiến dịch. Về phía địch, lực lượng ở hướng bắc Sài Gòn gồm có ba sư đoàn bộ binh (5, 18, 25), hai liên đoàn biệt động quân, bảy thiết đoàn xe tăng, xe thiết giáp, nằm trung đoàn pháo binh, bốn liên đoàn địa phương quân, một số tiểu đoàn, đại đội bảo an và hàng trăm trung đội dân vệ (chưa kể lực lượng cảnh sát ngụy quyền). Ngoài ra, khi cần, địch có thể huy động lực lượng dự bị chiến lược (dù, lính thủy đánh bộ) và lực lượng của Vùng 4 chiến thuật vào tham chiến.

Quán triệt nhiệm vụ chiến lược của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, Trung ương Cục, Quân ủy - Bộ Chỉ huy Miền đề ra kế hoạch tác chiến cơ bản như sau: Tập trung toàn bộ khối chủ lực Miền, kết hợp với lực lượng vũ trang địa phương, mở chiến dịch tiến công trên khu vực Bình Long, Phước Long, Tây Ninh và Bình Dương, nhằm tiêu diệt một bộ phận chủ lực quân đội Sài Gòn và làm tan rã lớn lực lượng địa phương quân và bộ máy kìm kẹp của địch, phá vỡ tuyến phòng thủ của chúng ở bắc Sài Gòn, thu hút, kìm chân tiêu diệt địch, tạo điều kiện thuận lợi cho phong trào đấu tranh chính trị ở Sài Gòn và các tỉnh miền Đông Nam Bộ. Để công tác tổ chức chỉ huy được thuận lợi, Bộ Tư lệnh Miền tách một bộ phận cơ quan chỉ huy Miền, thành lập Bộ Chỉ huy Đoàn 301 (tương đương quân đoàn tăng cường), trực tiếp chỉ huy chiến dịch Nguyễn Huệ trên hướng chủ yếu Lộc Ninh - Bình Long - đường 13. Bộ Chỉ huy chiến dịch gồm có: Trung tướng Trần Văn Trà làm Tư lệnh kiêm Bí thư Đảng ủy; Đại tá Đồng Văn Cống làm Phó Tư lệnh; Đại tá Trần Văn Phác làm Phó Chính ủy; Đại tá Lê Ngọc Hiền làm Tham mưu trưởng; Đại tá Bùi Phùng làm Chủ nhiệm Hậu cần. Lúc này, thường trực tại Sở Chỉ huy cơ bản của Bộ Tư lệnh Miền có: Trung tướng Hoàng Văn Thái - Tư lệnh; đồng chí Phạm Hùng - Chính ủy, Thiếu tướng Trần Độ - Phó Chính ủy; Đại tá Hoàng Cầm - Tham mưu trưởng(1).

Cuối tháng 2-1972, sau khi xem xét những diễn biến thực tế tình hình địch, ta ở miền Đông Nam Bộ; Bộ Tư lệnh chiến dịch vẫn giữ vững ý định được hình thành từ tháng 11-1971, chọn hướng tiến công chủ yếu là khu vực đường 13, hướng thứ yếu là trục lộ 22 Tây Ninh, hướng phối hợp là Bà Rịa, Long Khánh. Đồng thời, Bộ Tư lệnh chiến dịch quyết định giao cho Sư đoàn 5 (được tăng cường Trung đoàn 3 - Sư đoàn 9) và một số phân đội pháo binh, xe tăng, nhiệm vụ tiến công mục tiêu chủ yếu là thị trấn Lộc Ninh; Sư đoàn 7 thực hiện luồn sâu, hình thành thế bao vây chốt chặn chiến dịch trên đường 13 (đoạn bắc và nam thị xã An Lộc), tiêu diệt quân địch tháo chạy hoặc tăng viện; Sư đoàn 9 (thiếu Trung đoàn 3) trong giai đoạn đầu làm lực lượng dự bị chiến dịch và sau khi đơn vị bạn giải phóng Lộc Ninh, sẽ là lực lượng tài chính thị xã An Lộc, giải phóng tỉnh Bình Long.

Song song với việc chỉ đạo các đơn vị bộ binh và binh chủng huấn luyện, bổ sung, hoàn hiện phương thức tác chiến chiến dịch, Bộ Tư lệnh cũng chỉ dạo lực lượng hậu cần chiến dịch vừa thu mua gom lương thực, thực phẩm, vừa tổ chức việc tiếp nhận và vận chuyển vật chất ra phía trước. Đến cuối tháng 3-1972, Cục Hậu cần Miền đã dự trữ được 34.000 tấn gạo, hậu cần chiến dịch được 15.000 tấn, đủ cho bộ đội hoạt động trong 6 tháng. Đồng thời, đạn dược, xăng dầu từ tuyến vận tải 559 đưa vào đã được tập kết ở đến cá khu vực đầu mối chiến dịch.

Ngày 25-5-1972, dưới sự chỉ đạo của Bộ Tư lệnh chiến dịch, mọi công tác chuẩn bị của các đơn vị tham gia chiến dịch đã căn bản hoàn thành.


(1)   Bộ Quốc phòng - Quân khu 7: Lịch sử Bộ Chỉ huy Miền (1961-1976), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.447-448.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 12 Tháng Giêng, 2011, 09:16:03 am
Chiến dịch Nguyễn Huệ được mở đầu bằng đợt hoạt động nhỏ và vừa trên hướng thứ yếu Tây Ninh. 4 giờ sáng ngày 1-4-1972, Đoàn C30 (một tổ chức thành lập lâm thời gồm 2 trung đoàn bộ binh (24, 271), 2 tiểu đoàn đặc công, 1 đại đội xe thiết giáp) bắt đầu nổ súng và khu vực phòng thủ của Chiến đoàn 48 quân đội Sài Gòn tại Xa Mát, Bàu Dung, Thiện Ngôn. Đây là hoạt động nhằm nghi binh, tạo thế cho chiến dịch. Ở vùng đệm Bình Dương, Tiểu đoàn Phú Lợi tiến công đồn An Lợi, diệt gọn đại đội bảo an, bắt số 22 tên; Đội biệt động thị xã Thủ Dầu Một phối hợp với bộ đội đặc công tập kích đồn Chánh Lộc, diệt 64 tên. Trung tuần đầu tháng 4-1972, nhiều nơi ở Bến Cát, Châu Thành, Phú Giáo, Tân Uyên, nhờ khống chế được tề ấp, tề xã, ta đã giành được quyền làm chủ với mức độ khác nhau. Sau khi đánh chiếm Xa Mát, Bàu Dung, Đoàn C30 mở các trận tiến công nhằm vào các đơn vị thuộc Chiến đoàn 48 ở bắc Thiện Ngôn, đập vỡ tuyến phòng thủ của địch ở khu vực đường 22 và khu vực Bình Dương, gây tâm lý hoang mang cho quân đội Sài Gòn, tạo niềm tin tưởng, phấn khởi cho bộ đội ta ở miền Đông Nam Bộ.

Trong lúc lực lượng vũ trang trên hướng thứ yếu giành được những thắng lợi bước đầu, thực hiện được nhiệm vụ nghi binh, thu hút địch thì trên hướng chủ yếu của chiến dịch ở đường 13 - Bình Long, bộ đội ta nhanh chóng hành quân vào tuyến xuất phát tiến công. Tại khu vực thị trấn Lộc Ninh - giao điểm của hai con đường chiến lược 13 và 14 đi Xnuôn (Campuchia) và Bù Đốp, cách thị xã An Lộc 25 km về phía bắc và là nơi do Chiến đoàn 9 (Sư đoàn 5), Trung đoàn thiết giáp 1, Tiểu đoàn biệt kích 81 quân đội Sài Gòn đóng giữ. Trung đoàn 1 - Sư đoàn 5 chủ lực Miền vượt sông Sài Gòn, đứng chân ở phía bắc suối Cạn Tiết; Trung đoàn 2 từ Cầu Đôn hành quân về Làng 10, Trung đoàn 13 vượt qua đường bắc Lộc Tân về đứng chân ở Làng 2, Trung đoàn 3 (Sư đoàn 9 tăng cường) và Trung đoàn pháo binh 42 cũng đã vào vị trí tập kết chác thị trấn về phía bắc và tây từ 4 đến 7 km.

Trên hướng Sư đoàn 7 chủ lực Miền, Trung đoàn 209 bí mật đưa lực lượng tới đứng chân tại tây bắc ngã ba Đồng Tâm - một địa điểm cách thị xã An Lộc 10 km về phí bắc, sẵn sàng đánh địch từ Lộc Ninh chạy về, hoặc từ An Lộc lên tăng viện. Hai trung đoàn 141, 165 hành quân luồn sâu vào tây bắc Tân Khai, Cần Đâm, sẵn sàng chặn địch trên đường 13 đoạn Chơn Thành đi An Lộc, thực hiện chia cắt chiến dịch. Sư đoàn 9 và các đơn vị phối thuộc cũng triển khai xong vị trí đứng chân ở phía bắc thị xã An Lộc, chuẩn bị cho đợt 2 tiến công vào mục tiêu then chốt của chiến dịch.

Cuộc hành quân tập kết các mục tiêu chiến dịch của ta đến ngày 4-4 đã hoàn thành, giữ được bí mật. Trưa hôm ấy, viên Đại tá Lê Nguyên Vĩnh, Chiến đoàn trưởng chiến đoàn 9 quân đội Sài Gòn vẫn chủ quan cho rằng: Mặc dù Việt cộng đã lớn mạnh hơn trước, cũng chỉ có thể tiến công các đồn bốt nhỏ lẻ bên ngoài, chưa thể mở được cuộc tiến công lớn vào Lộc Ninh. Nhưng xẩm tối ngày 4-4, khi phát hiện được lực lượng ta đã tập kết xung quanh chi khu quân sự Lộc Ninh thì viên đại tá này đã cuống cuồng đối phó bằng cách tập trung pháo các loại, nã xuống các hướng Làng 3, Làng 10, tây bắc ngã ba Lộc Tấn… để ngăn chặn quân ta.

Năm giờ 30 phút ngày 5-4-1972, Bộ Tư lệnh chiến dịch quyết định nổ súng tiến công cụm cứ điểm Lộc Ninh. Mở đầu trận đánh, năm trận địa pháo binh chiến dịch gồm cối 160, 120, Đ74, pháo 1054 và các loại hỏa tiễn, ĐKB, H12 đồng loạt bắn phá Sở Chỉ huy Chiến đoàn 9, chi khu quân sự Lộc Ninh, sân bay và các trận địa pháo của địch. Cùng lục, Bộ Tư lệnh Sư đoàn 5 do Sư đoàn trưởng Bùi Thanh Vân và Chính ủy Nguyễn Văn Cúc chỉ huy ra lệnh cho Trung đoàn 174 và Trung đoàn 3 trên hướng chủ yếu dùng hỏa lực ĐKZ 75, cối 82 bắn phá quyết liệt các lô cốt, tháp canh có bố trí hỏa lực trên hai hướng tây bắc và tây nam Chiến đoàn 9, yểm trợ cho bộ binh thực hành mở cửa. Bảy giờ sáng, sau khi lực lượng xung kích Trung đoàn 174 phá xong 5 lớp rào kẽm gai, mở được hai cửa vào Sở Chỉ huy Chiến đoàn 9, Bộ đội Sư đoàn 5 bắt đầu đồng loạt xung phong đánh vào căn cứ địch. Trên hướng chủ yếu Trung đoàn 174, hai tiểu đoàn 5 và 6 được hỏa lực chiến thuật chi viện, ồ ạt vượt qua các cửa mở đánh bóc từng mục tiêu vòng ngoài, hàng chục tên địch phá chạy. Bộ đội ta vừa truy kích chặn diện những tên ngoan cố, vừa dùng loa kêu gọi binh lính địch đầu hàng. Hướng Trung đoàn 3, hai tiểu đoàn 7 và 8 bất chấp pháo địch bắn chặn, nhanh chóng phát triển đội hình tiến công áp sát phía đông sân bay. Lúc này, hỏa lực pháo binh chiến dịch được lệnh đã bắn chế áp hỏa lực địch, hỗ trợ cho bộ binh phát triển vào bên trong. Tiểu đoàn 28 đặc công cũng đã nổ súng đánh Sở Chỉ huy Trung đoàn 1 thiết giáp, chi khu cảnh sát, làm cho toàn bộ quân địch ở Lộc Ninh bắt đầu lúng túng, không thể hỗ trợ cho nhau.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 12 Tháng Giêng, 2011, 09:16:53 am
Trước tình hình nguy ngập, chỉ huy Chiến đoàn 9 phải điều gấp 1 chi đoàn thiết giáp của Trung đoàn 1 và 2 đại đội của Tiểu đoàn biên phòng 74 từ Hoa Lư về Lộc Ninh để cứu nguy. Chín giờ 30 phút, sau khi nhận được điện báo của các đài quan sát phát hiện đoàn xe thiết giáp địch khoảng 20 chiếc có bộ binh yểm trợ theo đường 13 đang tiến về ngã ba Lộc Tấn, Sư đoàn 5 chủ lực Miền ngay lập tức điện cho Trung đoàn 3 chuyển đội hình tư khu vực sân bay ra ngã ba Lộc Tấn phản kích đoàn xe thiết giáp địch, kiên quyết không để địch lọt qua trận địa của ta, chạy về Lộc Ninh.

Gần 10 giờ, tổ hỏa lực B40 Đại đội 2 Tiểu đoàn 7 nổ súng bắn cháy 4 xe M41, chặn đứng đội hình cứu viện của địch. Tiểu đoàn 8 và hai đại đội của Tiểu đoàn 7 lợi dụng lúc địch lúng túng đã nhanh chóng vận động tiến công từ hướng tây và tây bắc tới cắt đôi đội hình cơ giới địch ra để tiêu diệt. Bị chặn đánh quyết liệt, lính biên phòng và thiết giáp địch địch buộc phâỉ dạt sang hai bên đường, vừa chấn chỉnh đội hình, vừa tìm cách chống đỡ. Đến 17 giờ chiều, sau nhiều lần tài chính phản kích để vượt qua ngã ba Lộc Tấn không thành, chi đoàn xe thiết giáp buộc phải lùi về làng 9, bỏ lại xác 14 xe M41, M113 và hàng chục xác lính.

19 giờ 30 phút, xem xét kết quả tác chiến trong ngày, Bộ Tư lệnh chiến dịch tạm thời bằng lòng với kết quả bước đầu các đơn vị đã giành được, nhất là ý thức hiệp đồng “lập công tập thể” của các đơn vị. Tuy nhiên, diễn biến và kết quả trận đánh so với kế hoạch chiến dịch đề ra vẫn còn chậm, thế trận bao vây cô lập Lộc Ninh vẫn còn sơ hở, một số mục tiêu chủ yếu, bộ đội ta vẫn chưa lập được bàn đạp để bộ binh cơ giới tiếp cận đánh chiếm trung tâm. Vì vậy, để phát huy thắng lợi đã giành được, Bộ Tư lệnh chiến dịch lệnh cho Sư đoàn 5 khẩn trương bổ sung vũ khí, trang bị, mở đợt tiến công mới ngay trong đêm. Đồng thời, Bộ Tư lệnh chiến dịch cũng lệnh cho Trung đoàn 209 (Sư đoàn 7) tiến công Chiến đoàn 52 ở ngã ba Đồng Tâm, Cần Lê, kiên quyết không cho địch kịp củng cố hoặc tăng viện.

21 giờ ngày 5-4, đợt tiến công thứ hai vào thị trấn Lộc Ninh bắt đầu. Sau 15 phút pháo binh chiến dịch bắn phá thị trấn, các lực lượng xung kích của Tiểu đoàn 4, Tiểu đoàn 5 (Trung đoàn 174) lần lượt xông lên mở cửa và dùng hỏa lực ĐKZ, B40, B41 bắn phá cấc hỏa điểm bảo vệ Sở Chỉ huy Chiến đoàn 9. Trận chiến đấu kéo dài suốt đêm và diễn ra vô cùng quyết liệt. Trước sức tiến công của Quân giải phóng, chỉ huy Chiến đoàn 9 đã huy động mọi lực lượng có trong tay để phản kích hòng chiếm lại các khu vực vừa mất. Sáng ngày 9-4, khi mặt trời vừa soi tỏ thị trấn Lộc Ninh, hàng chục lượt chiếc máy bay A37, T28 của quân Sài Gòn đã oanh tạc dữ dội vào đội hình tiến công của ta làm một chục cán bộ, chiến sĩ bị thương vong. Trong mịt mù lửa đạn, cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 4 vẫn bám trụ trận địa, đánh bại mọi đợt phản kích của địch. Ở khu vực sân bay Tiểu đoàn 7 (Trung đoàn 3) tiến công từ phía đông, đánh chiếm kho xăng dầu, kho lương thực, sau đó phối hợp với Tiểu đoàn 8 tiến công vào đông bắc chi khu quân sự Lộc Ninh.

Để cứu nguy cho thị trấn Lộc Ninh, 10 ngờ ngày 6-4, chỉ huy Chiến đoàn 9 lệnh cho Trung đoàn 1 thiết giáp và Tiểu đoàn biên phòng 74 bỏ tiền đồn Hoa Lư, cơ động về Lộc Ninh, cùng với lực lượng tại đây chống đỡ các đợt bao vây tiến công của quân ta, kéo dài thời gian chờ quân ở An Lộc, Lai Khê lên chi viện.

Nắm được ý định của địch và trên cơ sở phán đoán Trung đoàn 1 thiết giáp địch sẽ chia thành hai mũi, một mũi từ Làng 9 băng qua rừng caosu về Làng 3; mũi còn lại theo đường 13 tiến về Lộc Tấn, Ban chỉ huy Sư đoàn 5 chủ lực Miền lệnh cho Trung đoàn 3 và tiểu đoàn 9 ở khu vực ngã ba Lộc Tấn khẩn trương tổ chức lại trận địa chiến đấu, tập trung hỏa lực ĐKZ, B40, B41 lên tuyến đầu, quán triệt đánh gần, diệt gọn, kiên quyết tiêu diệt trung đoàn bộ binh thiết giáp địch, không cho chúng chạy vào thị trấn Lộc Ninh. Mệnh lệnh chiến đấu của Ban Chỉ huy Sư đoàn 5 mới phát xuống các đơn vị 1 giờ thì hai mũi bộ binh thiết giáp địch từ hướng Làng 9 và đường 13 đã ầm ầm lao vào trận địa chốt chặn của ta ở ngã ba Lộc Tấn.

Trận chiến đấu với thiết giáp và bộ binh địch ngay từ đầu đã diễn ra hết sức ác liệt. Bộ đội Trung đoàn 3 và Tiểu đoàn 9 lợi dụng những đoạn hào thoát nước, gốc caosu, gò mối… sử dụng hỏa lực B40, B41, ĐKZ đánh vào những chiếc xe đi đầu, diệt 8 chiéc cùng hàng chục tên. Hàng chục tên đi sau lập tức triển khai đội hình chiến đấu, sử dụng hỏa lực chống trả quyết liệt. Bộ đội các đơn vị phải dựa vào hầm hào, vật che khuất, chi viện cho nhau tiêu diệt từng tốp bộ binh, từng xe cơ giới địch. Sau gần 3 giờ chiến đấu dũng cảm, thông minh, bất chấp hy sinh, Trung đoàn 3, Tiểu đoàn 9 và các lực lượng tăng cường đã tiêu diệt hoàn toàn hai chi đoàn thiết giáp thuộc Trung đoàn 1 và Tiểu đoàn biên phòng 74 địch, bắn cháy và thu 86 xe cơ giới (trong đó 2/3 là xe tăng, thiết giáp), 230 súng, loại khỏi vòng chiến đấu 350 tên địch.

Phối hợp với bộ đội Sư đoàn 5 hoạt động ở hướng chính, Trung đoàn 209 (Sư đoàn 7) đã bao vây tiến công căn cứ Đồng Tâm do Chiến đoàn 52 (Sư đoàn 18) quân đội Sài Gòn chốt giữ, loại khỏi vòng chiến gần 200 tên, khiến chiến đoàn này mất khả năng úng cứu cho đồng bọn ở thị trấn Lộc Ninh.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 12 Tháng Giêng, 2011, 09:17:59 am
Trung đoàn thiết giáp 1 bị tiêu diệt. Chiến đoàn 52 bị ghìm chân ở Đồng Tâm. Chiến đoàn 9 và chi khu quân sự Lộc Ninh vì thế lâm vào tình thế nguy khốn. Xác định thời cơ tiến công tiêu diệt toàn bộ quân địch ở thị trấn Lộc Ninh đã đến, tối ngày 6-4, Bộ Tư lệnh chiến dịch lệnh cho Sư đoàn 5 và các đơn vị binh chủng tăng cường mở đợt tiến công quyết định tiêu diệt mục tiêu then chốt đợt 1 chiến dịch.

Ba giờ sáng ngày 7-4, gần 30 khẩu pháo từ 85 mm đến 160 mm của chiến dịch và của Sư đoàn 5 đồng loạt bắn phá căn cứ Chiến đoàn 9, chi khu quân sự Lộc Ninh, trại biệt kích và các trận địa pháo của địch. Lợi dụng hỏa lực pháo binh bắn chế áp các mục tiêu trong thị trấn Lộc Ninh, Đại đội 10 xe tăng ta khẩn trương cơ động vào vị trí xung phong tiến công.

Năm giờ 30 phút, khi pháo binh chiến dịch mới chuyển làn, nâng tầm bắn vào sâu bên trong, bộ binh và xe tăng ta trên toàn tuyến được lệnh xung phong. Trên hướng chính của Trung đoàn 174, Tiểu đoàn 5 được 5 xe tăng yểm trợ chia làm hai mũi đánh thẳng vào hai hướng tây bắc và tây nam Sở Chỉ huy Chiến đoàn 9. Sự xuất hiện bất ngờ, dũng mãnh của xe tăng ta làm cho quân địch vô cùng hoảng sợ, phải lùi sâu phía trong, dựa vào công sự và hầm ngầm kiên cố để chống cự. Quyết không để cho địch củng cố đội hình, Tiểu đoàn 4 và tiểu đoàn 5 từ hai hướng đột phá mãnh liệt khu vực Sở Chỉ huy Chiến đoàn 9, diệt và bắt hơn 100 tên địch. Chỉ huy Chiến đoàn 9 và các đơn vị bảo vệ lùi sâu vào hầm ngầm, dựa vào các lỗ châu mai cố thủ, gọi quân cứu viện.

Trên hướng Trung đoàn 3, ngay khi pháo binh chiến dịch mới ngừng bắn, Tiểu đoàn 7 đã hình thành hai mũi phát triển ra sân bay phối hợp với đơn vị bạn đánh thẳng vào hướng đông nam cụm chỉ huy Chiến đoàn 9. Tuy nhiên, tại khu vực sát hàng rào sân bay, tiểu đoàn vấp phải sự phản kích dữ dội của 2 đại đội địch có hỏa lực cối 81 và ĐKZ 106,7 mm yểm trợ. Để xử lý tình huống phức tạp này, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 7 Bùi Văn Nê lập tức cho một trung đội đột phá vào chính diện, thu hút sự chú ý của địch; đồng thời cho Đại đội 22 chia làm hai mũi bí mật vòng xuống phía đông nam rồi bất ngờ đánh mạnh vào sườn đội hình địch. Núng thế, hai đại đội địch vừa cống trả vừa tìm cách rút lui. Nhưng tất cả đã muộn, đúng 7 giờ, Tiểu đoàn 7 và lực lượng phối thuộc đã tiêu diệt hoàn toàn quân địch ở khu vực này, sau đó phối hợp với tiểu đoàn 5 (Trung đoàn 174) đánh chiếm khu vực tiếp liệu, trạm rađa. Tiểu đoàn 6 (Trung đoàn 174) đánh chiếm hai trận địa pháo địch, thu 10 khẩu pháo 105 mm, bắt 40 tù binh.

Thấy không còn cách gì cứu vãn nổi chi khu Lộc Ninh, viên Đại tá Chiến đoàn trưởng Chiến đoàn 9 Nguyễn Công Vĩnh và hàng chục sĩ quan tùy tùng bí mật ra lệnh cho hơn 200 binh sĩ còn lại, lợi dụng đêm tối, chui khỏi hầm ngầm tìm đường tẩu thoát. Nhưng cơ may cuối cùng đã không dành cho chúng. Sáng ngày 7-4, sĩ quan và binh lính địch khi tháo chạy đến gần suối cạn Rong Can đã bị bộ đội Trung đoàn 1 chặn đánh quyết liệt. Gần 200 tên, trong số đó có Đại tá Nguyễn Công Vĩnh, bị dồn xuống lòng suối cạn và bị bắt sống. Chiều ngày 7-4, bộ đội ta cơ bản làm chủ các mục tiêu chủ yếu ở chi khu Lộc Ninh và Sở Chỉ huy Chiến đoàn 9. Một số tốp địch đang lẩn quất, ngoan cố không chịu ra hàng. Sáng 8-4, Trung đoàn 174 và Trung đoàn 1 cho một số tiểu đoàn tổ chức truy quét tàn binh địch ở các xã Lộc Thiện, Lộc Thanh, Lộc Hưng - Bù Đốp, bắt hơn 100 tên, 20 giờ ngay 8-4, huyện Lộc Ninh được hoàn toàn giải phóng.

Phối hợp với đòn tiến công Lộc Ninh của bộ đội chủ lực, các đại đội l70, 75, Đội Biệt động và du kích huyện Hớn Quản nổ súng tiến công các bốt Phú Miêng, Phú Lạc, Quản Lợi, bảo vệ, dẫn đường cho cán bộ Trung đoàn 1 (Sư đoàn 9) trinh sát chuẩn bị phương án tác chiến ở sân bay Téc Ních, thị xã An Lộc. Quân và dân xã Hưng long, Minh Thạnh và các tổ công tác dùi sâu vào vùng địch kìm kẹp, phát động quần chúng nổi dậy diệt ác, phá kìm, giành quyền làm chủ.

Sau bốn ngày (từ ngày 5 đến ngày 8-4) liên tục vây ép tiến công địch, Sư đoàn 5 cùng các lực lượng chiến dịch tăng cường đã chiến đấu mưu trí, dũng cảm đập tan cụm cứ điểm quan trọng của địch trong hệ thống phòng ngự phía bắc Sài Gòn, tiêu diệt và làm tan rã Chiến đoàn 9, Trung đoàn thiết giáp 1, Tiểu đoàn biệt kích, Tiểu đoàn 74 biên phòng, 2 pháo đội, 15 đại đội bảo an dân vệ cùng toàn bộ hệ thống chính quyền tề điệp của quận lỵ Lộc Ninh); loại khỏi vòng chiến đấu hàng ngàn tên địch, bắt sống 1.876 tù binh (trong đó có 1 đại tá, 2 trung tá, 3 thiếu tá, 56 cấp úy); thu và phá hủy 106 xe cơ giới (một nửa là xe tăng, thiết giáp), 13 khẩu pháo các loại và 2.500 tấn trang bị, phương tiện chiến tranh; giải phóng gần 10 nghìn dân.

Chiến thắng Lộc Ninh không chỉ làm nức lòng quân và dân miền Đông Nam Bộ, mà còn là nguồn cổ vũ to lớn tạo nên khí thế thi đua lập công mới trong các đơn vị lúc này đang chuẩn bị bước vào đợt hai của chiến dịch.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 12 Tháng Giêng, 2011, 09:18:54 am
Đối với địch, sau khi mất Lộc Ninh và cứ điểm Đồng Tâm, thị xã An Lộc đứng trước nguy cơ bị tiêu diệt. Để cứu vãn tình thế bi đát này, Bộ Tổng tham mưu và Quân đoàn 3 Sài Gòn một mặt lệnh cho Chiến đoàn 7 (Sư đoàn 5), cùng với một số binh lính còn lại của Chiến đoàn 52 (Sư đoàn 18), Liên đoàn biệt động quân số 3 mở ngay cuộc hành quân Chiến thắng 72 nhằm giải tỏa áp lực khu vực xung quanh thị xã An Lộc; mặt khác, điều động gấp Lữ đoàn dù 1 mới từ Sài Gòn lên Chơn Thành hành quân càn quét hai bên đường 13 lên Tân Khai, Bình Long; dùng máy bay lên thẳng không vận Chiến đoàn 8 từ Lai Khê lên An Lộc; cho không quân (kể cả máy bay chiến lược B.52) và pháo binh đánh phá ác liệt mọi ngả đường dẫn vào thị xã. Ngày 12-4, địch tiếp tục điều động Sư đoàn 21 và một trung đoàn thiết giáp ở miền Tây Nam Bộ lên mặt trận đường 13 chốt giữ khu vực Lai Khê, Bàu Bàng, bảo đảm phía sau cho lực lượng trấn giữ Bình Long.

Trước sự thay đổi cả thế và lực của địch ở thị xã An Lộc, ngày 11-4-1972, Bộ Chỉ huy chiến dịch họp nhận định: Địch tăng cường lực lượng lớn để phòng thủ An Lộc, tình hình đã trở nên phức tạp và khác trước. Do đó, hướng tác chiến hiện nay là đánh chắc nhưng phải khẩn trương. Bộ Tư lệnh chiến dịch giao cho Sư đoàn 9 và các đơn vị tăng cường gồm Trung đoàn 1 (Sư đoàn 5), Trung đoàn pháo mang vác, 1 tiểu đoàn xe tăng được pháo binh chiến dịch chi viện, đánh chiếm ngoại vi khu bắc thị xã, khống chế các điểm cao và sân bay, kết hợp dùng pháo binh và đặc công đánh chiếm phá hoại các mục tiêu chính trong thị xã. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, bộ phận lực lượng này sẽ tham gia đánh chiếm thị xã. Bộ Tư lệnh chiến dịch lệnh cho các lực lượng làm nhiệm vụ chốt chặn chiến dịch và đánh địch đổ bộ đường không

Để tạo thế cho trận đánh, từ ngày 10 đến 12-4, Ban Chỉ huy Sư đoàn 9 do Sư đoàn trưởng Nguyễn Thới Bưng và Chỉ huy Phan Xuân Tùng chỉ huy, đã sử dụng Trung đoàn 1 đánh tan nhiều mũi hành quân sục sạo của Chiến đoàn 7 địch. Trong lúc đó, Trung đoàn 2 quét sạch một số tổ chốt vòng ngoài sân bay; Trung đoàn 1 (Sư đoàn 5) luồn vào Xa Trạch, hình thành mũi tiến công phía nam thị xã. Các đơn vị pháo mặt đất, pháo cao xạ bí mật chiếm lĩnh trận địa ở tây bắc và đông bắc thị xã.

Bốn giờ 30 phút ngày 13-4-1972, sau khi công tác tiếp cận bàn đạp xuất phát tiến công của các đơn vị cho trận đánh lớn đã cơ bản hoàn thành, Bộ Tư lệnh chiến dịch lệnh cho Sư đoàn 9 và các đơn vị phối thuộc nổ súng mở màn cuộc tiến công thị xã An Lộc. Đúng 5 giờ, pháo binh các loại của ta đồng loạt bắn phá các mục tiêu quan trọng trong thị xã. Năm giờ 15 phút, Tiểu đoàn 5 (Trung đoàn 2) được tăng cường Đại đội 6 xe (9 chiếc T54) hai khẩu pháo cao xạ 37mm, hai đại đội súng máy cao xạ 12,7mm (8 khẩu) nổ súng tiến công sân bay Téc Ních. Tiểu đoàn 9 (Trung đoàn 3) được hai khẩu ĐKZ 75mm, 4 khẩu 12,mm yểm trợ, đánh chiếm điểm cao 128. Sau hai giờ tiến công liên tục, các tiểu đoàn của Trung đoàn 2 và trung đoàn 3 trên hướng chủ yếu đã đánh chiếm được mục tiêu. Cùng thời gian, ở hướng thứ yếu, cá mũi tiến công của Sư đoàn 9 cũng đánh chiếm được ấp Phú Lạc, ấp Sóc Bể, đồn bảo an (tây bắc thị xã), cầu Phú Hòa, ấp Sóc Gòn, Núi Gió (ở đông nam thị xã), hai mũi thọc sâu đã vào đến đường Hùng Vương. Phối hợp với bộ đội chủ lực, hai đại đội 70, 75 bộ đội huyện Hớn Quản do Huyện đội phó Lê Tĩnh chỉ huy, được đại đội đặc công tỉnh hỗ trợ đã đánh chiếm hàng chục mục tiêu nhỏ lẻ của địch ở ngoại vi thị xã, bảo vệ hành lang cho bộ đội chủ lực tiến công vào nột thị. Ở Phú Miêng, Phú Lạc, bộ đội huyện và du kích xã đánh chiếm trụ sở tề điệp, gọi bảo an ra hàng, hỗ trợ cho nhân dân 8 xã nổi dậy diệt ác, phá kìm, giành quyền làm chủ.

Trước tình hình thị xã An Lộc bị uy hiếp dữ dội, Bộ Chỉ huy Quân đoàn 3 địch cho không quân và pháo binh đánh phá dữ dội vào đội hình tiến công của ta.

Về ta, tuy chiếm được sân bay và một số mục tiêu khác, nhưng Tiểu đoàn 5 (Trung đoàn 2) và Tiểu đoàn 3 (Trung đoàn 3) cũng bị tổn thất, 6 xe tăng T54 bị đánh hỏng. Ta không đủ lực lượng phát triển tiến công, buộc phải dừng lại củng cố.

Đêm 13 và ngày 14-4, tranh thủ lúc ta tạm ngừng tiến công, Tiểu đoàn 6 (Lữ đoàn dù 1) và Tiểu đoàn biệt động quân 52 mở cuộc phản kích chiếm lại Núi Gió, điểm cao 169 ở đông nam thị xã và đặt thêm các trận địa hỏa lực tại đây để khống chế các mũi, các hướng phát triển của ta.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 12 Tháng Giêng, 2011, 09:20:56 am
Sau khi rút kinh nghiệm sơ bộ ngày tiến công đầu tiên bằng hiệp đồng binh chủng và được bộ Tư lệnh chiến dịch tăng cường thêm lực lượng, đêm 14-4, Ban Chỉ huy Sư đoàn 9 hạ quyết tâm mở đợt tiến công mới, đánh chiếm khu công sở, cô lập khu quân sự chủ yếu ở phía đông, sẵn sàng tiến công giải phóng thị xã.

Năm giờ ngày 15-4, Sư đoàn 9 cho các đơn vị nổ súng tiến công địch. Mũi chủ yếu Tiểu đoàn 5 (Trung đoàn 2) do Trung đoàn trưởng Trần Ngọc Anh chỉ huy được 5 xe tăng yểm trợ đánh chiếm các tuyến chốt của địch, và tiến tới phía bắc đường Trần Hưng Đạo. Tiểu đoàn 9 (Trung đoàn 3) được 5 xe tăng chi viện, theo hướng tây bắc phát triển đến vườn hoa Tao Phùng. Một số phân đội của trung đoàn vào giáp nhà lao thị xã. Đòn tiến công mạnh, dồn dập của bộ binh và xe tăng ta làm cho quân địch ở một số nơi trong thị xã bắt đầu hoảng loạn. hàng nghìn dân ở các phố phía bắc thị xã di chuyển về phía nam. Nhiều binh lính địch lo sợ trà trộn vào dân hòng chạy trốn. Cùng thời gian này, trên đường 13 (đoạn Tàu Ô - Xóm Ruộng), phía bắc Chơn Thành, Sư đoàn 7 (thiếu) do Sư đoàn trưởng Đàm Văn Ngụy và Chính ủy Lê Thanh chỉ huy, được sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang địa phương, chặn đánh quyết liệt Sư đoàn 21 Sài Gòn. Được bộ đội Sư đoàn 7 tác chiến trên đường 13 hỗ trợ, các đội vũ trang công tác khu vực Chơn Thành cùng với du kích các xã Minh Hòa, Minh Thanh, Sóc 5… tích cực vây diệt bọn ác ôn, tề điệp, giải phóng nhiều thôn, ấp.

Từ chiều ngày 15-4, địch sử dụng không quân và pháo binh đánh phá ồ ạt, dữ dội, kéo dài vào đội hình tiến công của ta và nhân dân trong thị xã, hỗ trợ cho bộ binh, thiết giáp phản kích quyết liệt. Bom đạn địch dội cả xuống khu vực bệnh viện Bình Long, giết hại gần 3.000 người (chủ yếu là dân thường)(1). Ngày 16-4, địch đổ Lữ đoàn dù 3 xuống dốc Tân Khai bảo vệ hành lang phía nam thị xã. Ngày 17-4, địch đổ thêm Lữ đoàn dù 1 và Liên đoàn biệt động 81 xuống khu vực Núi Gió (đông bắc thị xã) đánh vào sau đội hình của quân ta, giải tỏa áp lực xung quanh thị xã.

Trước tình hình đó, Bộ Tư lệnh chiến dịch trên cơ sở giữ vững quyết tâm tiến công giải phóng thị xã An Lộc, đã quyết định sử dụng Sư đoàn 9, Trung đoàn 2 (Sư đoàn 5), được tăng cường tiểu đoàn xe tăng gồm 25 chiếc và 36 khẩu pháo, cối, mở đợt tiến công lần thứ hai, mục tiêu chủ yếu là đánh tòa hành chính tỉnh, Bộ Chỉ huy Sư đoàn 5.

Ba giờ sáng ngày 11-5-1972, Bộ Tư lệnh chiến dịch cho Sư đoàn 9 và các lực lượng tăng cường mở đợt tiến công mới vào thị xã An Lộc. Sau 15 phút sử dụng hỏa lực pháo binh đánh phá các mục tiêu tiên duyên, Tiểu đoàn 4 (Trung đoàn 2) trên hướng đông nam - hướng chủ yếu, được xe tăng T54 yểm trợ, đã nhanh chóng tiêu diệt các ổ đề kháng của địch, sau đó theo đường Phan Bội Châu đánh chiếm Ty Công Chánh. Tiểu đoàn 9 và tiểu đoàn 7 (trung đoàn 3) đột phá vào phòng tuyến bố trí nhiều tầng của địch. Dựa vào hệ thống công sự kiên cố, địch chống trả quyết liệt. Khi vượt qua được cửa mở, 5 xe tăng của ta bị địch bắn cháy. Hai tiểu đoàn bộ binh phát triển chiến đấu trong điều kiện không có xe tăng trực tiếp yểm trợ, nên hầu như không phát triển được. Trên hướng thứ yếu, Trung đoàn 1 tiến công đến tuyến phòng thủ chính thì bị hỏa lực dày đặc của địch ngăn chặn, buộc phải dừng lại tổ chức đánh chiếm từng mục tiêu.

Đến 10 giờ ngày 11-5, sau nhiều lần tổ chức đột phá mãnh liệt, bộ đội ta đã chiếm được Ty Công chánh, Ty tuyển mộ, nhà lao, khu chợ cũ, Ty Cảnh sát. Trong thị xã, lúc này tập trung một lực lượng lớn quân địch. Chúng dồn sức ngăn chặn quyết liệt cuộc tiến công của ta. 18 xe tăng trong tổng số 25 xe của ta bị phá hủy, một số phân đội bộ binh bị mất sức chiến đấu, sức đột kích của các đơn vị bị giảm sút nhanh chóng. Trong khi đó, do không nắm vững địa hình trong thị xã, các mũi tiến công chủ yếu phát triển lệch hướng, không đánh trúng trung tâm chỉ huy nên địch vẫn đôn đốc quân lính phản kích quyết liệt ngăn chặn ta. Từ ngày 12 đến ngày 14-5, Sư đoàn 9 và các đơn vị tăng cường dừng tiến công, chuyển toàn bộ đội hình sang vây lấn quân địch ở thị xã An Lộc. “Trận tiến công tiêu diệt quân địch trong khu vực mục tiêu chủ yếu ở Bình Long không dứt điểm, đã làm hạn chế thắng lợi và ảnh hướng đến bước phát triển của chiến dịch”(2).

Như vậy, sau hơn hai tháng mở cuộc tiến công chiến lược trên chiến trường miền Nam, quân và dân ta từ mặt trận Trị - Thiên, Tây Nguyên, đến miền Đông Nam Bộ đã vượt qua mọi khó khăn gian khổ, ác liệt, hy sinh, chiến đấu anh dũng, lập nên những chiến công to lớn, đánh thiệt hại nặng nhiều lữ đoàn, chiến đoàn, sư đoàn chủ lực địch; loại khỏi vòng chiến đấu hàng chục nghìn tên; thu và phá hủy hàng vạn tấn phương tiện chiến tranh, làm chủ nhiều địa bàn chiến lược quan trọng với hàng chục vạn dân đã được giải phóng. Thắng lợi to lớn của các chiến dịch tiến công trong Xuân - Hè 1972 ở khu vực Quảng Trị, Kon Tum, và Bình Long - đường 13 có ý nghĩa chiến lược quan trọng. Đây là lần đầu tiên, các sư đoàn chủ lực Quân giải phóng đứng chân trên các địa bàn trọng yếu ở miền Nam chủ động tiến công bằng sức mạnh hiệp đồng binh chủng quy mô lớn, làm cho địch dù đã chuẩn bị phòng thủ kỹ càng, mà vẫn không sao chống đỡ nổi. Thắng lợi đó đánh dấu bước phát triển mới về thế và lực của cách mạng miền Nam, tác động mạnh mẽ tới cục diện chiến tranh trên chiến trường ba nước Đông Dương. Ở miền Nam, chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh bị thất bại một bước nghiêm trọng. Quân đội Sài Gòn - xương sống của Việt Nam hóa chiến tranh chẳng những không giữ nổi những địa bàn hiện có, mà còn để mất đi những tuyến phòng thủ chiến lược cực kỳ quan trọng. Cùng với đòn tiến công của bộ đội chủ lực, đấu tranh quân sự, chính trị, binh vận của bộ đội địa phương, dân quân, du kích và nhân dân các địa phương cũng có bước phát triển. Mặc dù hiệu quả cuộc tiến công chiến lược năm 1972 còn có những hạn chế, nhưng thắng lợi to lớn mà quân và dân ta lập nên trong Xuân - Hè 1972 là những nhân tố hết sức thuận lợi để quân và dân ta tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động tiến công trong Thu - Đông 1972 nhằm đánh bại một bước cơ bản chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh.


(1) Ngày nay, nơi đây được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là di tích lịch sử cách mạng - ghi lại tội ác của giặc Mỹ đối với nhân dân ta.
(2) Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Tóm tắt các chiến dịch trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1945-1975), Sđd, tr.313.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 12 Tháng Giêng, 2011, 09:21:32 am
(http://img829.imageshack.us/img829/5991/p002av.jpg)


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 15 Tháng Giêng, 2011, 10:14:31 am
CHƯƠNG XXIX

ĐÁNH ĐỊCH PHẢN KÍCH
BẢO VỆ VÙNG GIẢI PHÓNG

I - CUỘC CHIẾN ĐẤU BẢO VỆ THÀNH CỔ
VÀ VÙNG GIẢI PHÓNG QUẢNG TRỊ

Hơn hai tháng tiến công địch mạnh mẽ ở hầu khắp các chiến trường trọng điểm từ Trị - Thiên, Khu 5, Tây Nguyên đến miền Đông Nam Bộ, ta đã tao được biến chuyển căn bản về thế chiến lược trên chiến trường miền Nam. Cuộc tiến công chiến lược đã phá vỡ một phần quan trọng các tuyến phòng thủ vòng ngoài và phòng thủ khu vực của địch, giải phóng được toàn bộ tỉnh Quảng Trị, bắc Kon Tum, bắc Bình Định, Lộc Ninh, Bình Long, Phước Long của miền Đông Nam Bộ. Khối chủ lực ta trở về đứng chân và hoạt động tác chiến ở địa bàn rừng núi, vùng giáp ranh và một số vùng quan trọng ở đồng bằng. Thắng lợi đó bước đầu đã tạo ra một cục diện mới trên chiến trường miền Nam, làm thay đổi một bước so sánh lực lượng có lợi cho ta, tạo ra thế tiến công mới và điều kiện mới để đẩy mạnh nỗ lực đánh phá bình định(1).

Về địch, trước những tổn thất to lớn về lực lượng và phương tiện chiến tranh, đặc biệt là việc để mất tỉnh Quảng Trị, chúng tỏ ra hoang mang, dao động mạnh. Tổng Tham mưu trưởng quân đội Sài Gòn, tướng Cao Văn Viên thú nhận: “Cuộc tiến công 1972 của địch đã làm nổi bật lên một cách bi thảm nhất sự yếu kém cơ bản của quá trình Việt Nam hóa”(2).

Để cứu nguy cho chính quyền và quân đội Sài Gòn, ngày 2-4-1972, Tổng thống Níchxơn quyết định sử dụng một lực lượng lớn không quân và hành quân Mỹ trở lại đánh phá miền Bắc, chi viện hỏa lực ồ ạt cho quân đội Sài Gòn thực hành phản kích chiếm lại những vùng đã mất.

Trên miền Bắc, từ ngay 4-4-1972, máy bay Mỹ oanh tạc dữ dội các mục tiêu quân sự, mạng đường giao thông, cầu cống, nhà máy, xí nghiệp, bệnh viện, trường học, phố phường và làng xóm. Ngày 9-4, Mỹ sử dụng máy bay B.52 ném bom xuống hệ thống đường sắt và kho tàng ở thành phố Vinh (Nghệ An), ba ngày sau, chúng đánh xuống đập Bái Thượng (huyện Thọ Xuân (Thanh Hóa); và từ các ngày 15, 16-4, bom đạn trút xuống kho tàng, trận địa phòng không, sân bay, nhà máy điện ở Hà Nội, Hải Phòng. Đồng thời, ngày 9-5-1972, Tổng thống Níchxơn ra lệnh cho hành quân Mỹ rải mìn, thả thủy lôi, bom từ trường, bom nổ chậm phong tỏa các cảng biển, các cửa sông từ Cẩm Phả, Hòn Gai (Quảng Ninh) đến Vĩnh Linh (Quảng Trị), đặc biệt là cảng Hải Phòng(3), nhằm phá hoại tiềm lực của hậu phương miền Bắc, cắt đường vận chuyển, chặn luồng tiếp tế từ ngoài vào miền Bắc.

Trên chiến trường miền Nam, không quân và hải quân Mỹ cũng được huy động tối đa đánh vào đội hình chiến lược nhằm tiêu hao sinh lực và ngăn chặn các cuộc tiến công của ta, chi viện cho quân đội Sài Gòn phản kích chiếm lại các vị trí đã mất.

Ngay sau khi để mất toàn bộ tỉnh Quảng Trị (2-5-1972), Không cam chịu thất bại, địch bắt đầu thực hiện các bước điều chỉnh lực lượng và lập kế hoạch tái chiếm tỉnh này. Ngày 3-5-1972, Tổng thống Việt Nam cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu tức tốc điều Trung tướng Ngô Quang Tưởng, viên tướng được “kỳ vọng nhiều nhất” trong hàng ngũ tướng lĩnh của Quân đội Việt Nam cộng hòa, đang là Tư lệnh Quân khu 4 - Vùng 4 chiến thuật ra thay thế Trung tướng Hoàng Xuân Lãm làm Tư lệnh Quân khu 1 - Vùng 1 chiến thuật. Việc thay đổi nhân sự phản ánh quyết tâm của Thiệu tìm kiếm những thắng lợi quân sự nhằm ngăn chặn sự suy sụp tinh thần binh sỹ, đồng thời giữ chặt vùng đất từ nam sông Mỹ Chánh trở vào. Hai hôm sau, Nguyễn Văn Thiệu và Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Việt Nam cộng hòa, Đại tướng Cao Văn Viên ra tận đồn Mang Cá (Huế) thị sát tình hình, một mặt, động viên, khích lệ tinh thần binh sĩ, mặt khác, bàn định với các tướng lĩnh Quân khu 1, Quân đoàn 1 và các tỉnh trưởng Vùng 1 chiến thuật kế hoạch phản công lớn, lấy lại đất, giành lại dân. Hơn một tháng sau, ngày 19-6-1972, nhân ngày Quân lực (ngày kỷ niệm thành lập Quân đội Việt Nam cộng hòa), Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh cho quân đội mở một chiến dịch lớn tiến công trong 3 tháng, mệnh danh “Thừa thắng xông lên, tái chiếm lãnh thổ”(2). Theo đó, địch sẽ chiếm lại thị xã Quảng Trị trong tháng 7 và toàn tỉnh Thừa Thiên trong tháng 8 và 9. Động thái này của người đứng đầu chính quyền Sài Gòn được đánh giá là “giai đoạn giành lại quyền làm chủ những đất đai bị Cộng sản tạm chiếm trong lãnh thổ. Không những thế, cuộc tiến công này chắc chắn có một ý nghĩa chính trị, trực tiếp ảnh hưởng tới mọi quyết định đang được thành hình về vấn đề Việt Nam và Đông Dương”(5).


(1) Theo đánh giá của Quân ủy Trung ương, thì thiệt hại của địch là rất lớn: ta đánh diệt và loại khỏi vòng chiến đấu hơn 15 vạn quân chủ lực Sài Gòn; đánh thiệt hại nặng 60% số tiểu đoàn bộ binh, 50% trung đoàn xe tăng, thiết giáp, 25% tiểu đoàn pháo; tiêu diệt và làm tan rã 20% các đại đội, tiểu đoàn bảo an, dân vệ (5 vạn tên), 10 đến 15% đồn bốt, giành thêm 1,8 triệu dân (1/2 trong vùng giải phóng) - (Đánh giá tình hình và cục diện sắp tới, điện số 188TK, ngày 27-6-1972 của đồng chí Văn (Võ Nguyên Giáp), gửi Quân ủy R (miền, đồng diện TWC, lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam).
(2) Dẫn theo Gabrien Côncô: Giải phẫu một cuộc chiến tranh, biên dịch Nguyễn Tấn Cưu, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004, tr.598.
(3) Jame S. Olson: Dictionary of the Vientam war. Green Wood press. Inc, 1988, page. 338. Từ điển chiến tranh Việt Nam, Nxb Grinútprét, 1988, tr.338.
(4) Mặt trận vùng giới tuyến 72, Phòng 5 - khối Quân sử Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam cộng hòa, Sài Gòn, 1974, tr.140.
(5) Mặt trận vùng giới tuyến 72, Phòng 5 - khối Quân sử Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam cộng hòa, Sài Gòn, 1974, tr.140.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 15 Tháng Giêng, 2011, 10:16:49 am
Song song với quá trinh nghiên cứu, soạn thảo kế hoạch phản công, địch đẩy manh tác chiến ngăn chặn và trì hoãn các cuộc tiến công của ta, nhằm tạo một cục diện chiến trường không xấu hơn đối với chúng. Sau “nhiều lần chỉnh sửa”, kế hoạch phản công của địch được hoàn tất vào ngày 16-6-1972, mang tên Kế hoạch hành quân Lam Sơn 72. Kế hoạch này chia thành 3 giai đoạn:

Giai đoạn 1: Sử dụng hỏa lực tối đa của không quân, hải quân và pháo mặt đất để tiêu hao và làm tê liệt lực lượng ta trong khu vực hành quân Lam Sơn 72;

Giai đoạn 2: Sử dụng Sư đoàn dù từ phía tây đường số 1, vượt sang bờ bắc sông Mỹ Chánh, đánh chiếm các mục tiêu núi Trường Phước, thôn Trường Phước, Nhự Lệ, thị xã Quảng Trị. Đồng thời sử dụng Sư đoàn lính thủy đánh bộ tiến chiếm Mỹ Thủy, Cổ Lũy - Đa Nghi, thôn Thuận Đầu, Phú Hải dọc theo phía đông trục đường số 1.

Giai đoạn 3: Sau khi chiếm được các mục tiêu trên làm bàn đạp, Sư đoàn dù tiến chiếm Cam Lộ, Đông Hà; Sư đoàn lính thủy đánh bộ chiếm Bích Khê, Cửa Việt. Nếu hoàn tất, địch sẽ dừng lại lập tuyến phòng ngự ở khu vực này.

Trong cuộc hành quân Lam Sơn 72 này, ở cánh Tây (phía tây quốc lộ 10 địch sử dụng Sư đoàn dù (gồm 3 lữ đoàn: 1, 2 và 3), Liên đoàn 81 biệt kích dù, Thiết đoàn 7 kỵ binh, thiết đoàn 20 (thiếu) xe tăng. Đại đội Hắc báo (thuộc Sư đoàn 1 Quân đoàn 1), Tiểu đoàn 30 pháo binh, Tiểu đoàn công binh chiến đấu 102, Liên đoàn 10 và Liên đoàn 1 quân địa phương Quảng Trị (2 tiểu đoàn địa phương), 3 đại đội nghĩa quân); ở cánh Đông (phía đông quốc lộ 1) có Sư đoàn lính thủy đánh bộ (gồm 3 lữ đoàn: 147, 258 và 369), Thiết đoàn 18 kỵ binh, Chi đoàn thiết quân vận của Thiết đoàn 17, Tiểu đoàn 44 pháo binh, Tiểu đoàn công binh chiến đấu 103, Liên đoàn 10 và Liên đoàn 2 quân địa phương Quảng Trị (2 tiểu đoàn địa phương, 3 đại đội nghĩa quân). Ngoài hai cánh trên đây, lực lượng còn lại của Quân đoàn 1, Chiến đoàn 4, Chiến đoàn 51 đảm nhiệm việc củng cố, giữ vững tuyến phòng thủ tây nam Huế, nam sông Mỹ Chánh và làm lực lượng dự bị cho hai sư đoàn chủ công ở hai cánh (Sư đoàn dù và Sư đoàn lính thủy đánh bộ).

Dọn đường cho cuộc hành quân Lam Sơn 72, từ ngày 25-6-1972, không quân, hải quân đánh phá dữ dội trận địa và đội hình hành quân ta. Trong khi đó, một kế hoạch hành quân tiến chiếm lại Quảng Trị mang tên Lâm Tuyền và Ngọc Tuyền được địch tung tin. Đây là một kế hoạch hành quân giả, hòng làm lạc hướng sự chú ý của ta, tạo ra sự bất ngờ về hướng tiến công và địa điểm đổ quân của lính dù xuống Đông Hà và lính thủy đánh bộ đổ bộ vào Cửa Việt và Cửa Tùng cuộc cuộc hành quân Lam Sơn 72.

Sau những đợt đánh phá dữ đội xuống khu vực trận địa của ta và sau hành động nghi binh, 7 giờ 30 phút ngày 28-6-1972, địch mở màn cuộc hành quân Lam Sơn 72. Sư đoàn lính thủy đánh bộ từ phía đông Hải Lăng, bám theo trục đường 68, đánh chiếm các làng phía bắc sông Mỹ Chánh. Hôm sau, ngày 29-6, địch dùng trực thăng vận đổ Lữ đoàn 258 xuống thôn Cổ Lũy, Mỹ Thủy và một tiểu đoàn đổ bộ đường biển vào Thuận Đầu, chiếm các vị trí Đa Nghi, thôn Thượng An làm bàn đạp, phối hợp với 2 lữ đoàn 369 và 147 tiến ra thị xã Quảng Trị.

Cùng thời gian, Sư đoàn dù tiến công theo trục quốc lộ 1, đánh chiếm điểm cao 28 (phía tây quốc lộ 1) bấy giờ đang do Trung đoàn 66 (Sư đoàn 304) chốt giữ. Hai ngày sau, Lữ đoàn 2 sử dụng 2 tiểu đoàn đổ bộ xuống khu vực phía nam sông Nhùng; Lữ đoàn 3 đánh chiếm đầu cầu Bến Đã, cầu Nhùng, cầu Dài.

Trong lúc địch khai triển cuộc tiến công hướng tới thị xã Quảng Trị thì lực lượng ta trên hướng này chỉ có 3 tiểu đoàn phòng giữ: Tiểu đoàn 8 Quảng Trị, Tiểu đoàn 2 độc lập và Tiểu đoàn 3 thuộc Trung đoàn 48 (Sư đoàn 320B). Phần lớn các sư đoàn, trung đoàn lúc này dang đứng chân ở nam sông Mỹ Chánh, chuẩn bị triển khai đội hình tiến công (đợt 3 chiến dịch tiến công).

Trước diễn biến thực tế tình hình chiến trường, Bộ Tư lệnh chiến dịch Trị Thiên quyết định chuyển chiến dịch tiến công thành chiến dịch phản công, đồng thời, lệnh cho các sư đoàn 308, 304 lập tức vượt sang phía bờ bắc sông Mỹ Chánh, đánh địch theo phương án mới. Theo phương án mới này, Sư đoàn 308 được tăng cường Trung đoàn 66 và tiểu đoàn 2 độc lập sẽ chặn địch trên đường số 1 ở bắc sông Mỹ Chánh; Sư đoàn 320B (gồm trung đoàn 27 và 64), cùng với Tiểu đoàn 14, Tiểu đoàn 47 bộ đội địa phương Vĩnh Linh chặn địch ở hướng đông đường số 1; Trung đoàn 48, Tiểu đoàn 8 bộ đội địa phương Quảng Trị, có sự phối hợp của 3 tiểu đoàn cao xạ, 1 đại đội xe tăng giữ thị xã Quảng Trị, La Vang, Ái Tử; Sư đoàn 304 (gồm trung đoàn 24 và 9), được tăng cường Trung đoàn 88 (Sư đoàn 308), Tiểu đoàn đặc công 35, tiếp tục tiến công địch trên tuyến sông Mỹ Chánh, rồi phát triển vào Phò Trạch; Trung đoàn 18 (Sư đoàn 325) làm lực lượng dự bị, đứng chân ở Quảng Lương, Vân Trường, Vĩnh Lợi, sẵn sàng đánh địch ở Cửa Việt.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 15 Tháng Giêng, 2011, 10:22:23 am
Thực hiện kế hoạch điêu chuyển lực lượng quân ta khẩn trương cơ động đếm vị trí quy định. Tuy nhiên, do thời gian gấp, đường hành quân bị địch bắn phá ngăn chặn gắt gao, nên chỉ có Trung đoàn 66 thực hiện đúng theo kế hoạch và có mặt tại khu vực được phân công đúng thời gian.

Trong lúc việc triển khai lực lượng của ta gặp trở ngại thì ngày 3-7-1972, địch đã tiến sát đến ngã ba Long Hưng - La Vang - cửa ngõ phía nam thị xã Quảng Trị(1) do Đại đội 11 (Tiểu đoàn 3 - Trung đoàn 48) của ta chốt giữ. Tại đây, cán bộ, chiến sĩ Đại đội 11 đã chiến đấu dũng cảm, đánh bật nhiều đợt tiến công của Lữ đoàn dù 2 Việt Nam cộng hòa. Ghi nhận hành động chiến đấu ngoan cường, quả cảm của cán bộ, chiến sĩ, Nhà nước ta đã tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng nhất cho Đại đội 11 ngay tại mặt trận.

Noi gương Đại đội 11, các đơn vị ta trên các hướng đã kiên cường tụ bám, chặn đánh quyết liệt các mũi tiến quân của địch, tiêu diệt một số binh lực và làm chậm bước tiến của chúng. Song, trước sức tiến công ồ ạt và dưới tầm hỏa lực chi viện dày đặc trên một chính diện rộng của địch, lực lượng ta bị thương vong lớn, xe pháo bị mất, bị phá hủy, phá hỏng đến 50%. Tình hình đó buộc ta phải lui về giữ phía đông sông Vĩnh Định; phía tây, ta co về giữ các điểm cao trên dãy Phước Tường.

Trong vòng một tuần lễ (từ ngày 28-6 đến 3-7-1972), địch đã chiếm lại các trọng điểm quan trọng ở phía đông, nam và bắc thị xã Quảng Trị, bao gồm hầu hết huyện Hải lăng, nam sông Nhùng, ngã ba Long hưng - La Vang, tiến sát cửa ngõ thị xã Quảng Trị. Tốc độ và hiệu quả tiến công của các đơn vị quân đội Sài Gòn có được, một phần quan trọng là dựa vào sự yểm trợ đắc lực của không quân Mỹ. Trong đợt tiến công đầu tiên của quân Sài Gòn (ngày 25-6 đến 4-7-1972), không quân Mỹ đã sử dụng 2.014 chiếc máy bay chiến thuật với 8.656 lần chiếc, 299 chiếc máy bay B.52, thực hiện 897 lần chiếc, ném 269.000 tấn bom xuống khu vực trận địa và đường cơ động của lực lượng ta.

Trước sức tiến công ồ ạt của đối phương, lực lượng ta đang từ thế triển khai đội hình tiến công phải chuyển sang phản công dưới tầm hỏa lực dày đặc của kẻ thù.

Lúc này, yêu cầu bảo vệ thị xã Quảng Trị được đặt ra gay gắt. Do vậy, để động viên kịp thời bộ đội ở mặt trận Trị - Thiên, ngày 30-6-1972, Quân ủy Trung ương ra lời kêu gọi cán bộ, chiến sĩ, đảng viên và đoàn viên đang chiến đấu trên mặt trận nóng bỏng này:

“Vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc.
Hãy có quyết tâm thật lớn.
Nắm lấy cơ hội.
Chiến đấu anh dũng.
Khắc phục khó khăn.
Vận dụng mọi cách đánh kiên quyết và mưu trí.
Kết hợp đánh lớn với đánh nhỏ, đánh vừa.
Chiến sĩ hăng hái xông lên phía trước.
Chỉ huy đi sát đơn vị.
Tiêu diệt thật nhiều sính lực, giữ vững vùng giải phóng.
Giành thắng lợi to lớn cho chiến dịch Trị - Thiên lịch sử của chúng ta”(2).

Tiếp đó, Quân ủy Trung ương chỉ thị cho Bộ Tư lệnh chiến dịch(3) “phải kiên quyết giữ thị xã và phòng thủ hậu phương chiến dịch”(4).

Chấp hành chỉ lệnh của Quân ủy Trung ương, Bộ Tư lệnh chiến dịch chủ trương tăng lực lượng cho thị xã, đồng thời tổ chức những trận phản kích nằm vào hai bên sườn đội hình tiến quân của địch, chủ yếu là từ hướng tây, kiên quyết chặn bước tiến của chúng.

Lúc này, trên bàn đàm phán ở Pari nước Cộng hòa Pháp, cuộc đấu tranh ngoại giao giữa Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam với Hoa Kỳ và Việt Nam cộng hòa cũng bước vào giai đoạn mới. Thắng lợi về quân sự trên chiến trường sẽ là lợi thế của các bên trên bàn hội nghị. Vì thế, chiến trường Quảng Trị giờ đây trở thành nơi giành giật quyết liệt giữa ta và địch. Do vậy, mối quan hệ giữa đấu tranh quân sự và đấu tranh ngoại giao - giữa chiến trường và bàn đàm phán càng khiến cho trận chiến Quảng Trị trở nên khốc liệt, đẫm máu(5).


(1) Thị xã Quảng Trị nằm bên bờ sông Thạch Hãn, tiếp giáp với hai huyện Triệu Phong và Hải Lăng, diện tích gần 4km2. Phía bắc giáp làng Cổ Thành; phía nam giáp các thôn Đệ Ngũ Đông, Đệ Ngũ Tây, đường số 1A, ga đường sắt; phía tây giáp sông Thạch Hãn, qua sông có các làng Xuân An, Nhan Biều; phía đông là làng Tri Bưu nối với cánh đồng làng Đại Nải, chạy dài 2km đến sông Nhùng, trong thị xã, nhà của phần lớn cao 2 đến 3 tầng. Các cơ quan công sở hầu hết đặt ở phía tây và nam thị xã; cơ quan quân sự đóng trong thành cổ (đông bắc thị xã). Khu cố vấn Mỹ ở đông thành cổ có công sự chiến đấu và hệ thống vật cản vững chắc bảo vệ. Dân số thị xã trướng giải phóng, có khoảng 25.000 người, đa số làm nghề buôn bán, một số dân ở các làng ven thị làm nghề trồng rau màu, còn lại là các gia đình công chức của chính quyền và quân đội Sài Gòn. Sau ngày ta giải phóng (2-5-1972), nhân dân lao động gắn bớ với quê hương, đã được chính quyền cách mạng tổ chức sơ tán lên Cam Lộ, ra Vĩnh Linh, trước khi dịch mở cuộc tiến công chiếm lại Quảng Trị.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.33, tr.443-444.
(3) Cho đến nửa cuối tháng 8-1972, Bộ Tư lệnh chiến dịch tiến công có các đồng chí Lê Trọng Tấn, Tư lệnh; Lê Quang Đạo, Chính ủy; các đồng chí Phó Tư lệnh: Cao Văn Khánh, Giáp Văn Cương, Doãn Tuế, Hồng Sơn, Lương Nhân, Anh Đệ, Phó Chính ủy: Hoàng Minh Thi, Lê Tự Đồng, tiếp tục chỉ huy hoạt động phòng ngự. Từ cuối tháng 8-1972, đồng chí Trần Quý Hai thay đồng chí Lê Trọng Tấn làm Tư lệnh; đồng chí Song Hào thay đồng chí Lê Quang Đạo làm Chính ủy. Đến cuối tháng 9-1972, đồng chí Tấn và đồng chí Đạo lại tiếp tục làm Tư lệnh và Chính ủy chiến dịch.
(4) Điện số 118/TK, ngày 10-7-1972, lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.
(5) Theo đồng chí Lê Đức Thọ, sau chiến dịch Quảng Trị năm 1972, tại Pari, Kítxinhgiơ có nói (đại ý): đứng về mặt quân sự mà nói thì cả hai bên đánh nhau để giữ một cái thành cổ như vậy thì không ai lại đánh như thế cả. Trả lời Kítxinhgiơ, đồng chí Lê Đức Thọ cho rằng: “Đó là vấn đề chính trị, đánh để giành thế mạnh chính trị trong đàm phán thôi chứ, còn đứng về quân sự thì không một ai về một mảnh đất nhỏ đổ nát mà đánh như thế”. Dẫn theo Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Sửa lại cho đúng bàn thêm cho rõ (tuyển chọn từ Tạp chí Lịch sử quân sự). Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2006, tr.739.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 15 Tháng Giêng, 2011, 10:24:48 am
Sang đầu tháng 7, sau khi củng cố và tăng cường thêm lực lượng, quân đội Sài Gòn tiếp tục nỗ lực quân sự và quyết tâm rất cao. Sư đoàn dù quân đội Sài Gòn hạ quyết tâm đánh chiếm thị xã Quảng Trị trước ngày 10-7 để tạo áp lức với ta trong phiên họp thứ 150 dự định vào ngày 13-7-1972 ở Pari. Chỉ huy Sư đoàn dù cho Lữ đoàn dù 2 đánh thẳng vào thị xã Quảng Trị; Lữ đoàn 3 đánh lên khu vực nhà ga, cầu Sắt (tây quốc lộ 1).

Để đánh bại kế hoạch tác chiến mới của chiến dịch, ta tiếp tục tăng thêm lực lượng vào thị xã Quảng Trị - gồm Tiểu đoàn 3 bộ đội địa phương Quảng Trị, Đại đội công binh thuộc Trung đoàn 299… Đêm 9-7, Ban Chỉ huy Trung đoàn 48, chỉ huy các đơn vị chiến đấu trong thị xã Quảng Trị nhanh chóng điều chỉnh đội hình, củng cố thế trận đánh địch. Dự tính các mũi, hướng phát triển tiến công của địch, Ban chỉ huy Trung đoàn 48 quyết định sử dụng Tiểu đoàn 1 chốt giữ Tri Bưu, Quy Thiện, đánh địch ở hướng đường 68 vào đông bắc thị xã; sử dụng Tiểu đoàn 2 (thiếu Đại đội 7) chốt giữ khu vực làng Cổ Thành và phía bắc Thành cổ(1), Đại đội bộ binh tiếp tục chốt giữ ngã ba Long Hưng; Tiểu đoàn 3 được tăng cường Đại đội bộ binh 7 của Tiểu đoàn 2, chốt khu vực La Vang; Tiểu đoàn 8 bộ đội địa phương Quảng Trị tăng cường quan sát, nắm địch và làm nhiệm vụ chống giữ khu vực Thạch Hãn và nam thị xã; Tiểu đoàn 3 bộ đội địa phương Quảng Trị làm lực lượng dự bị.

Sáng ngày 10-7, Lữ đoàn dù 2 được hàng chục xe tăng, thiết giáp yểm trợ triển khai đội hình ở các khu vực An Thái, Đại Nải, đường số 1, chuẩn bị tiến công vào thị xã. Theo yêu cầu của lực lượng bảo vệ thị xã, pháo binh chiến dịch và hỏa lực của các đơn vị phòng ngự bắn dồn dập vào đội hình địch. Đợt pháo kích của ta gây thương vong lớn cho địch, khiến chúng phải hủy bỏ cuộc tiến công. Lợi dụng lúc địch rối loạn, Đại đội 5 (Tiểu đoàn 2) đang chốt giữ ngã ba Long Hưng xuất kích, diệt hơn 30 tên địch, chiếm lạ ngã ba đường 1, tạo thế chốt giữ vững chắc vị trí chiến thuật quan trọng này.

Trên hướng Lữ đoàn dù 3 quân đội Sài Gòn đánh nống lên phía tây quốc lộ 1, ta sử dụng Trung đoàn 66 và Trung đoàn 102 (Sư đoàn 308) chặn địch ở Phú Long và Trường Phước. Trong lúc địch đang dồn sức tiến công hòng tiêu diệt các chốt phòng ngự của ta, thì tiểu đoàn 3 (Trung đoàn 48) có xe tăng yểm trợ, cơ động tiến công đại đội địch đang chốt giữ La Vang, loại khỏi vòng chiến hơn 50 tên lính dù và 2 xe tăng địch.

Chiến thắng ngày 10-7 của các đơn vị thuộc Trung đoàn 48 được Bộ Tư lệnh chiến dịch khen ngợi: “Ngày 10-7 là một ngày cao điểm, địch tập trung mọi cố gắng chiếm Quảng Trị nhưng chúng đã bị đánh cho thất bại. Bộ Chỉ huy mặt trận nhiệt liệt khen ngợi các đồng chí. Địch thú nhận chúng gặp phải sự đánh trả quyết liệt, cuộc hành quân là sai lầm, Quảng Trị là cái bẫy.. Tuy nhiên, do yêu cầu thúc bách về chính trị, địch cố gắng chiếm lại Quảng Trị trong dịp chuẩn bị Hội nghị Pari. Kiên quyết giữ vững Quảng Trị là nhiệm vụ có ý nghĩa quyết định lúc này. Bộ Chỉ huy mặt trận tin tưởng các đồng chí sẽ làm tròn nhiệm vụ vẻ vang”(2).

Trong khi Sư đoàn dù tiến đánh thị xã ở hướng đông quốc lộ 1, Sư đoàn lính thủy đánh bộ, một mặt ra sức củng cố các vị trí bàn đạp vừa chiếm được, mặt khác, đẩy mạnh tiến công hỗ trợ cho Sư đoàn dù. Tuy nhiên các trung đoàn 27, 64 (Sư đoàn 32), Trung đoàn 18 (Sư đoàn 325) và lực lượng tăng cường thuộc tiểu đoàn 47 bộ đội địa phương Vĩnh Linh, Tiểu đoàn 10 bộ đội địa phương Quảng Trị chiến đấu quyết liệt, ghìm chân lực lượng lính thủy đánh bộ ở khu vực Ngô Xá, Cù Hoan, Trà Trì, Trà Lộc, phá kế hoạch phối hợp tác chiến giữa quân dù và lính thủy đánh bộ Việt Nam cộng hòa

Lúc này, do yêu cầu của đấu tranh ngoại giao và chuẩn bị cho việc tranh cử nhiệm kỳ mới trong cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ vào cuối năm 1972, Níchxơn quyết định tăng thêm viện trợ quân sự cho chính quyền Thiệu và yêu cầu các đơn vị quân đội Sài Gòn phải “bằng mọi giá cắm cờ trên Thành cổ Quảng Trị”. Nhằm khích lệ tinh thần chiến đấu của sĩ quan, binh lính đang tiến công thị xã Quảng Trị, Nguyễn Văn Thiệu hứa sẽ thưởng 400.000 đồng (Ngân hàng Việt Nam cộng hòa) cho đơn vị nào thực hiện thành công yêu cầu đó của Mỹ. Trước đòi hỏi gắt gao của việc đánh chiếm Thành cổ, địch đã tiến hành các bước chuẩn bị lực lượng và mục tiêu tác chiến kỹ càng hơn. Không quân Mỹ tăng cường đánh phá lên mức độ cao và chỉ tính riêng máy bay B.52, trong 8 đợt oanh tạc, đã ném xuống khu vực trận địa ta 720 tấn bom.


(1) Thành cổ Quảng Trị được xây dựng hồi đầu thế kỷ XIX, trải qua hai đời vua Gia Long và Minh Mạng mới hoàn thành (năm Gia Long thứ 18 - 19838). Chu vi thành gần 2km; tường thành cao 4m, dày 12m (3 lớp); hào chạy quanh thành rộng 18,4m, sâu 3,2m. Thành được kiến trúc theo lối Vauban,có 4 cửa: Tiền, Hậu, Tả, Hữu; diện tích hơn 2km2. Sau ngày 20-7-1954, Thành cổ là nơi trú đóng của Bộ Chỉ huy chiến thuật thuộc lực lượng bảo vệ quân đoàn Quân đội Việt Nam cộng hòa, và từ đây, quân đội Việt Nam cộng hòa đổi tên thành là thành Đinh Công Tráng.
(2) Điện khen số 833 của Bộ Tư lệnh chiến dịch Trị - Thiên, lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 15 Tháng Giêng, 2011, 10:28:36 am
12 giờ 10 phút ngày 11-7-1972, Sư đoàn dù được tăng cường Chi đoàn 13 (Thiết đoàn 17), chia thành ba mũi tiến công vào thị xã Quảng Trị. Cùng lúc, Tiểu đoàn 1 lính thủy đánh bộ cũng được đổ xuống Bích La (cách đông bắc thị xã 1km), mở hướng tiến công phối hợp với lực lượng dù.

Đáp trả hành động của địch, súng, pháo các cỡ của quân ta dồn dập đánh vào đội hình tiến công của chúng. 12 giờ 30 phút, hỏa lực phòng không ta bắn cháy một chiếc trực thăng chở quân loại CH 53, diệt 78 tên địch. Trong lúc đó, trên hướng tây quốc lộ 1, Trung đoàn 36 (Sư đoàn 308) chặn đánh Tiểu đoàn dù 9 địch ở Tân Téo; Trung đoàn 66 đánh thiệt hại nặng 2 đại đội thuộc Tiểu đoàn dù 7, chiếm lại Phú Long. Các đơn vị bảo vệ thị xã kiên cường chống trả các đợt tiến công của địch. Tại chốt ngã ba Long Hưng, chiến sự diễn ra quyết liệt giữa đại đội 5 (Tiểu đoàn 2 - Trung đoàn 48) với Tiểu đoàn 8 (Lữ đoàn dù 2) Việt Nam cộng hòa. Lính dù được hỏa lực phi pháo chi viện tối đa, mở nhiều đợt tiến công vào ngã ba Long Hưng, hòng chiếm lấy vị trí lợi hại này. Đại đội 5 dưới sự chỉ huy của Chính trị viên Vũ Trung Thường - người vừa thay thế Đại đội trưởng Tạ Đình Dọng bị thương, đã dũng cảm chiến đấu, bẻ gãy nhiều đợt tiến công của địch, loại khỏi vòng chiến đấu hơn một trăm tên, bắn cháy 5 xe tăng. Sau trận đánh, Đại đội 5 (Tiểu đoàn 2) được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng ba.

Cũng trong ngày 11-7, một bộ phận lực lượng thuộc Trung đoàn 48 phối hợp với Trung đoàn 88 đánh chiếm làng Long Hưng bắc, làng Đệ Ngũ. Tiểu đoàn 8 và Tiểu đoàn 3 bộ đội địa phương Quảng Trị phối hợp với Tiểu đoàn 1 (Trung đoàn 48) đồng loạt xuất kích, chiếm lại nhà thờ Thạch Hãn. Những ngày cuối cùng của đợt tiến công thứ hai vào thị xã, địch không chiếm thêm được vị trí nào của ta. Thế trận giằng co giữa ta và địch diễn ra ở các khu vực phía bắc, đông và nam của Thành cổ Quảng Trị. Mức độ ác liệt của chiến sự khiến thương vong của ta và địch tăng cao. Địch liên tục thay quân để tiến công, ta liêu tục điều chỉnh, bổ sung lực lượng để phòng ngự, bảo vệ thị xã. Trước yêu cầu mới của tình hình chiến đấu, ngày 13-7, Đại tá Nguyễn Hữu An sau khi được chỉ định về làm Tư lệnh Sư đoàn 308(1), Tư lệnh chiến dịch, khẩn trương điều chỉnh bố trí lực lượng. Sư đoàn 308 giao lại bàn đạp Trường Phước cho Sư đoàn 304, nhanh chóng chuyển đội hình lên tây nam thị xã Quảng Trị, phối hợp với các lực lượng bả vệ thị xã và thành cổ.

Ngày 12-7, địch huy động một lực lượng máy bay và pháo binh (kể cả pháo hạm) ném bom, bắn phá dữ dội hàng giờ liền vào thị xã và các trận địa của ta; sau đó, bộ binh và thiết giáp của địch tiến công và khu vực La Vang, ngã ba Long Hưng và Tri Bưu. Hầu hết các đợt tiến công của địch đều bị ta chặn lại hoặc đẩy lui. Riêng ở hướng đông, được sự yểm trợ mạnh của xe tăng, thiết giáp, bộ binh địch thay nhau đột phá và chiếm được một nửa làng Tri Bưu. Sang đến buổi chiều, Tiểu đoàn 5 dù quân đội Sài Gòn đã trực tiếp uy hiếp hướng đông bắc Thành cổ. Nhận thấy thời cơ đánh chiếm Thành cổ xuất hiện, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 1 Việt Nam cộng hòa lệnh cho quân dù, bằng mọi giá phải cắm cờ lên Thành cổ Quảng Trị.

Lúc này việc giữ vững thị xã và Thành cổ của ta ngày càng trở nên khó khăn. Tối 12-7, Bộ Tư lệnh chiến dịch Trị - Thiên lệnh cho lực lượng bảo vệ Thành cổ: Phải giữ vững trận địa, không để một tên địch nào lọt vào thành và phải kiên quyết phản kích chiếm lại làng Tri Bưu. Ngay lập tức, Ban Chỉ huy Trung đoàn 48 lệnh cho cán bộ, chiến sĩ ở tất cả các hướng phải trong tư thế sẵn sàng đánh địch, bí mật đột nhập trận địa; đồng thời tăng cường việc quan sát, trinh sát nắm địch và giữ vững thông tin liên lạc thông suốt để hiệp đồng chiến đấu thật chặt chẽ. Bộ đội Trung đoàn thức trắng trong đêm.

Sáng ngay 13-7, phát hiện địch đang triển khai lực lượng chuẩn bị đánh chiếm Tri Bưu, Ban Chỉ huy bảo vệ Thành cổ yêu cầu pháo binh chiến dịch và ra lệnh cho các đơn vị hỏa lực chiến thuật ở thị xã bắn cấp tập vào khu vực Tri Bưu - nơi địch vừa chiếm được chiều ngày hôm trước. Hỏa lực của ta gây thương vong nặng nề cho địch. Dù vậy, trước sự thúc ép của Bộ Chỉ huy Vùng 1 chiến thuật, Sư đoàn dù vẫn phải tiếp tục tiến công hòng thực hiện cho được ý định cắm cờ lên Thành cổ. Lúc này, địch sử dụng hỏa lực bắn phá dữ dội, kể cả dùng loại bom có sức khoan sâu và công phá lớn để phá hủy các bức tường thành, phá hủy các hầm ngầm, công sự của ta. Hướng nam và đông nam thị xã, địch tiến công vào các khu vực La Vang và ngã tư Thạch hãn. Hướng đông bắc, địch tập trung tiến công vào khu vực làng Hành Hoa và bắc Thành cổ. Trên tấc cả các hướng, bộ đội ta dựa vào hệ thống hầm hào, công sự, cơ động đánh địch, tiếp ứng hoặc chi viện cho nhau, kiên quyết chặn địch. Hai đại đội 5 và 6 (tiểu đoàn 2) ở bắc làng Tri Bưu, làng Hành Hoa và Tiểu đoàn 1 (Trung đoàn 48) ở bắc Thành cổ kết hợp với hỏa lực của trên chi viện, xuất kích chặn Tiểu đoàn 5 dù, buộc chúng phải dừng lại củng cố. Ở phía nam, Tiểu đoàn 8 bộ đội địa phương Quảng Trị, Tiểu đoàn 3(Trung đoàn 48) đánh bại mọi đợt tiến công của hai tiểu đoàn địch, giữ vững trận địa.

Trong lúc các đơn vị bộ binh đang quân lộn với địch, ngày 15-7-1972, Đại đội 16 súng máy cao xạ 12,7mm thuộc Trung đoàn 48, bắn hạ được chiếc trực thăng HU-1D chở viên Đại tá Nguyễn Trọng Bảo - Phó Tư lệnh Sư đoàn dù và Trung tá Huỳnh Phi Hổ - chỉ huy pháo binh và 7 sĩ quan tùy tùng khi đang thị sát mặt trận(2). Chiếc máy bay này rơi tại thôn Trầm Lý, cách thị xã Quảng Trị 4 km về phía đông. Toàn bộ 9 viên sĩ quan và phi hành đoàn bỏ mạng. Tin tức về hỏa lực phòng không của ta bắn rơi máy bay và diệt được sính lực cao cấp của địch lan nhanh đến các đơn vị trên các mặt trận đã tiếp thêm sức mạnh chiến đấu cho cán bộ, chiến sĩ ta. Chiều ngày 16-7, Đại đội 3 (Tiểu đoàn 4 - Trung đoàn 95) mở đợt phản kích quyết liệt, gây thương vong nặng cho một đại đội dù địch, đẩy lùi chúng ra khỏi khu nhà Mỹ ở phía đông Thành cổ. Đây là trận  đánh xuất sắc, thể hiện nổi bật tinh thần tích cực tiến công và tư tưởng đánh tiêu diệt gọn trong chiến đấu phòng ngự của bộ đội ta. Chiến công của Đại đội 3 trong trận đánh này được Nhà nước ta tặng Huân chương Chiến công hạng nhất và được Bộ Tư lệnh chiến dịch nêu gương, phát động toàn đơn vị học tập(3). Liên tiếp trong các ngày từ 18 đến 20-7, quan ta phản kích mạnh ở khu vực phía tây sông Mỹ Chánh, đánh vào sườn đội hình địch, pháo kích vào các vị trí triển khai quân của chúng, buộc Sư đoàn dù Việt Nam cộng hòa phải ngưng tiến công để củng cố, tổ chức lại lực lượng. Tuy nhiên, vào lúc đó, quân dù đã chiếm được làng Tri Bưu, làng Cổ Thành, uy hiếp mạnh lực lượng ta trong Thành cổ.


(1) Lịch sử Sư đoàn 308 Quân tiên phong, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1999, tr.268.
(2) Mặt trận vùng giới tuyến 72, Tlđd, tr.166.
(3) Sư đoàn 325 (1954-1975), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1968, t.2, tr.143-144.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 15 Tháng Giêng, 2011, 10:33:13 am
Nhằm phối hợp và tạo điều kiện cho Sư đoàn dù đánh chiếm khu vực tây nam Thành cổ, sáng 22-7-1972, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 1 Việt Nam cộng hòa lệnh cho Sư đoàn lính thủy đánh bộ sử dụng trực thăng, đổ quân xuống phía bắc Thành cổ, thu hút lực lượng ta đến đối phó ở hướng này. Tiểu đoàn 9 thủy quân lục chiến đổ bộ xuống Lệ Xuyên, phối hợp với Tiểu đoàn 6 thủy quân lục chiến từ phía nam Bích La Hậu đánh sang, chiếm bàn đạp tiến công Cửa Việt. Trong lúc đó, Tiểu đoàn 1 thủy quân lục chiến được đổ xuống An Tiêm, Nại Cửu, đánh chiếm quận lỵ Triệu Phong và đường số 4.

Được hỏa lực phi pháo yểm trợ, 10 giờ 20 phút ngày 25-7 hai đại đội dù Việt Nam cộng hòa từ sân vận động Quảng Trị đột kích vào phía nam Thành cổ. Trước sự điều chỉnh hướng tiến công mới của địch, quân ta nhanh chóng bố trí lại lực lượng, kiên quyết ngăn chặn các mũi tiến công của chúng. Ta sử dụng Trung đoàn 27, Tiểu đoàn 7 (Trung đoàn 64) có thiết giáp yểm trợ tiến công mạnh mẽ, phá tan kế hoạch đổ bộ của địch, giữ được khu vực Lệ Xuyên, nam sông Vĩnh Định và tuyến đường từ Ngô Xá đến Triệu Phong. Hướng tiến công của địch vào phía nam Thành cổ cũng bị quân ta phản kích mãnh liệt. Ngày 26-7, lực lượng bảo vệ Thành cổ đã đánh bật hai đại đội dù quân Sài Gòn ra khỏi thành cổ(1). Đến đây, ý định của địch chiếm lại thị xã Quảng Trị trước ngày 27-7-1972 lại một lần nữa thất bại. Dù vậy, lúc này địch đã chiếm được một phần làng Tri Bưu, khu vực chợ Sải, hình thành thế bao vây, uy hiếp thị xã và Thành cổ Quảng Trị từ hướng đông.

Sau hai đợt chiến đấu quần lộn với địch, lực lượng ta bị tiêu hao lớn, khả năng bổ sung chậm. Giữa tháng 7, Sư đoàn 308 được tăng cường Trung đoàn 165 (Sư đoàn 312), nhưng tình hình vẫn chưa được cải thiện. Tranh thủ lúc địch đang chuẩn bị cho đợt tiến công tiếp theo, ta khẩn trương điều chỉnh, bổ sung về lực lượng và phương án đánh địch. Về lực lượng, ngoài các sư đoàn 304, 308, 320B, các trung đoàn bộ binh độc lập 6, 27 tham gia đánh địch phản kích từ cuối tháng 6-1972, lúc này cuối tháng 7-1972, ta đã đưa các trung đoàn 95, 18, 101 của Sư đoàn 325 do Sư đoàn trưởng Lê Kích, Chính ủy Nguyễn Công Trang chỉ huy; Trung đoàn 165 và Sư đoàn bộ 312 do Sư đoàn trưởng Lã Thái Hòa, Chính ủy Phạm Sinh chỉ huy; 3 trung đoàn pháo mặt đất 164, 45, 84; 4 trung đoàn pháo cao xạ 241, 243, 250, 280; Trung đoàn 236 tên lửa, Trung đoàn 203 thiết giáp; 2 trung đoàn công binh 229, 249; 5 tiểu đoàn đặc công.

Như vậy, chiến trường Quảng Trị giờ đây là nơi cả hai bên tập trung khối chủ lực rất lớn; tương quan lực lượng giữa ta và địch ở Quảng Trị đủ cho thấy tính chất, mức độ ác liệt của chiến trường này. Ngoài tập trung binh lực lớn, các đơn vị quân đội Sài Gòn tại chiến trường Quảng Trị còn được không quân, hải quân Mỹ chi viện tối đa về hỏa lực. Mật độ bom, đạn mà không quân, hải quân, pháo binh địch vãi xuống trên một khu vực diện tích đạt mức kỷ lục cho đến thời điểm đó của cuộc chiến tranh. Mật độ bom, đạn và cường độ đánh phá của chúng gây cho ta thiệt hại rất lớn về người, phương tiện chiến đấu (80% tổng thiệt hại) và cản trở việc cơ động lực lượng, binh khí kỹ thuật, đảm bảo hậu cần của ta.

Trong những điều kiện đó, về tổ chức, bố trí lực lượng phòng ngự, Bộ Tư lệnh chiến dịch quyết định thành lập Ban Chỉ huy các lực lượng bảo vệ thị xã Quảng Trị, nhàm tạo ra sự thống nhất, thông suốt, trực tiếp hơn trong công tác lãnh đạo, điều hành các lực lượng tham gia chiến đấu. Trung đoàn trưởng Trung đoàn 48 Lê Quang Thúy được cử làm Trưởng Ban chỉ huy. Phó Chính ủy Trung đoàn 95 Võ Quang Thọ làm Chính ủy; Đại úy Vũ Thả, Phó Trung đoàn trưởng Trung đoàn 95 và Đại úy Trần Minh Vân, Phó Trung đoàn trưởng Trung đoàn 48 làm Phó Chỉ huy trưởng. Đầu tháng 8-1972, Quân ủy Trung ương chỉ đạo: “Giao cho Sư đoàn 325 lãnh đạo và chỉ huy các lực lượng bảo vệ thị xã Quảng Trị. Nhưng về tác chiến, Bộ Tư lệnh chiến dịch vẫn chỉ huy vượt cấp đến ban chỉ huy khu vực thị xã”(2). Sau bước điều chỉnh lực lượng và phương án tác chiến mới, về cơ bản, lực lượng bảo vệ thị xã có Trung đoàn 95 (3 tiểu đoàn), Trung đoàn 48 (2 tiểu đoàn), Tiểu đoàn 8 (Trung đoàn 64), Tiểu đoàn 3 và Tiểu đoàn 8 bộ đội địa phương Quảng Trị; Sư đoàn 308 được tăng cường một trung đoàn, bảo vệ phía nam thị xã.

Trong lúc ta tăng cường lực lượng, xốc lại đội hình và tính toán phương án bảo vệ thị xã Quảng Trị, thì đối phương cũng có những bước điều chỉnh tiến công. Ngày 27-7-1972, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 1 Quân lực Việt Nam cộng hòa giao cho Sư đoàn lính thủy đánh bộ thay thế Sư đoàn dù nhiệm vụ đánh chiếm thị xã và Thành cổ Quảng Trị; Sư đoàn dù đảm trách tác chiến ở phía tây Quảng Trị. Việc bố trí lại lực lượng và đội hình như thế của địch nhằm tạo ra nhân tố mới, phục vụ cho mục tiêu đánh chiếm thị xã và Thành cổ, cắm được cờ trên Thành cổ vào ngày 3-8-1972.

Ngay sau khi nhận trách nhiệm tiến công đánh chiếm thị xã Quảng Trị, Sư đoàn lính thủy đánh bộ sử dụng lữ đoàn 258 làm lực lượng chủ công đánh chiếm các chốt của ta ở đông nam thị xã Quảng Trị. Từ ngày 29-7 đến ngày 5-8-1972, chúng sử dụng thủ đoạn “lấn dũi” từng bước trong tiến công, và khi vấp phải sự phản kích mạnh, chúng lập tức tản ra và gọi phi pháo oanh tạc. Phối hợp với Sư đoàn lính thủy đánh bộ, Lữ đoàn dù 1 đánh vào La Vang, Tích Tường, Như Lệ, điểm cao 105B do Sư đoàn 308 của ta chốt giữ, nhằm cắt đường giao thông, cô lập thị xã Quảng Trị từ phía tây.


(1) Mặt trận vùng giới tuyến 72, Tlđd, tr.168.
(2) Dấn theo Sư đoàn 325 (1954-1975), Sđd, t.2. tr.150.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 15 Tháng Giêng, 2011, 10:35:04 am
Trước tình hình đó, Bộ Tư lệnh chiến dịch chủ trương mở đợt phản kích lần thứ 3, nhằm đánh quỵ Sư đoàn lính thủy đánh bộ, chiếm lại những khu vực vừa rơi vào tay quân đội Sài Gòn. Trong đợt này, Bộ Tư lệnh chiến dịch sử dụng các trung đoàn 36, 102, 165 (Sư đoàn 308) chặn đánh Lữ đoàn dù 1; Trung đoàn 88 xuất kích đánh địch ở khu vực bệnh viện, ngã ba Thạch Hãn (nam thị xã Quảng Trị). Mặc dù ta đã sử dụng một lực lượng lớn để ngăn chặn địch, nhưng do phi pháo của địch đánh phá ác liệt, gây cho ta nhiều thương vong, nên sức chiến đấu của quân ta bị suy giảm nhanh chóng, không bám nổi trận địa. Ta buộc phải thay đổi cách đánh. Đêm ngày 4 rạng ngày 5-8-1972, lực lượng phòng thủ Quảng Trị sử dụng Tiểu đoàn 5 (Trung đoàn 95), Tiểu đoàn 2 (Trung đoàn 48) và 1 đại đội thuộc Tiểu đoàn 6 (Trung đoàn 95) tập kích vào Tri Bưu, đánh thiệt hại nặng 1 tiểu đoàn thủy quân lục chiến tại nhà thờ Tri Bưu, loại khỏi vòng chiến hơn 100 tên địch. Sau đó trụ lại đánh địch phản kích. Nhưng trước sức tiến công mạnh mẽ của địch, ta không giữ được vị trí này.

Làng An Tiêm và chợ Sải, sát ngã ba sông Vĩnh Định - Thạch Hãn trở thành nơi tranh chấp quyết liệt. Đây là cửa ngõ đông bắc thị xã Quảng Trị. Đách chiếm được khu vực này, địch sẽ cắt đứt đường tiếp tế của ta, khống chế giao thông trên đường số 4 từ Cửa Việt qua An Tiêm đến Triệu Phong. Đêm 30-7, Trung đoàn 27, Trung đoàn 101, Tiểu đoàn 19 đặc công (Sư đoàn 325) được du kích dẫn đường, vượt sông nại Cửu, đánh chiếm lại chở Sải. Thế nhưng, khi trời sáng, địch tung lực lượng phản kích đẩy ta ra sát bờ sông Thạch Hãn. Trong lúc đó, Trung đoàn 24 không cắt được giao thông, bị thương vong lớn, buộc phải rút khỏi cầu Nhị. Trong thế bị động, phân tán đối phó với địch, nên hiệu quả chiến đấu và chốt giữ trận địa của các đơn vị phòng giữ thị xã không đạt yêu cầu đặt ra. Thị xã và Thành cổ Quảng Trị ngày càng bị địch huy hiếp nặng nề hơn.

Để tránh bị vây hãm, giữ được thị xã và Thành cổ, vấn đề cấp bách đặt ra cho lực lượng tham gia chiến đấu bảo vệ thị xã và Thành cổ là phải giảm được sức ép hằng ngay, hằng giờ tăng lên xung quanh vùng ven thị xã. Đợt phản kích lần thứ 4 của ta mở ra trong bối cảnh đó.

Ngày 9-8-1972 một tiểu đoàn lính thủy đánh bộ quân Sài Gòn có xe tăng yểm trợ tiến công vào chốt của ta tại ngã tư đường số 1. Đại đội 3 (Tiểu đoàn 4 - Trung đoàn 95) dưới sự chỉ huy của Đại đội trưởng Nguyễn Văn Dụ và Chính trị viên Ngô Bá Liễu, với 20 tay súng, đã kiên cường chặn địch và hy sinh đến người cuối cùng.

Mười ngày sau, Trung đoàn 102 và Trung đoàn 88 của ta đánh chiếm lại ngã tư Thạch Hãn, ngã ba Long Hưng, nhưng chỉ giữ được một ngày. Cùng thời gian, Trung đoàn 24 tập kích vào quân dù, loại khỏi vòng chiến đấu 3 đại đội địch ở Trường Phước. Các trung đoàn 36, 66 ở Tích Tường, Như Lệ đánh thiệt hại nặng một tiểu đoàn và hai đại đội thám báo thuộc lực lượng dù của địch.

Các đơn vị trong thị xã tăng cường phản kích, đẩy lùi địch ra khỏi chùa Bà Năm, khu Học Xá, trường Bồ Đề, nhưng vẫn không nới rộng được vòng vây của địch. Ngược lại, địch vẫn dội bom và pháo kích vào khu vực thị xã, Thành cổ, đồng thời, từ ngay 20-8 đến 30-8-1972, chúng tăng thêm lực lượng lính thủy đánh bộ đánh chiếm thị xã. Trong lúc đó, Sư đoàn dù đẩy mạnh nống lấy ra hướng tây.

Trước tình thế đó, Bộ Tư lệnh chiến dịch quyết định đưa 2 trung đoàn 141 và 209 thuộc Sư đoàn 312 vào chiến đấu tại mặt trận Quảng Trị, đồng thời Tiểu đoàn 7 (Trung đoàn 18) vào thay thế Tiểu đoàn 5 (Tiêu diệt 48); Tiểu đoàn 5 (Trung đoàn 165 - Sư đoàn 312) được tăng cường thêm cho thị xã. Để củng cố trận địa vững chắc hơn, Sư đoàn 325 điều Tiểu đoàn 17 công binh vào Thành cổ cùng lực lượng bảo vệ thị xã - Thành cổ làm hầm hào công sự, chuẩn bị cho đợt chiến đấu mới. Lúc này, lực lượng chiến đấu bảo vệ thị xã - Thành Cổ có 3 tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 95, 1 tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 48, 1 tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 18, 1 tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 64, Tiểu đoàn 5 (Trung đoàn 165), Tiểu đoàn 3 và tiểu đoàn 8 bộ đội địa phương Quảng Trị.

Cho đến thời điểm này, những khu vực quanh thị xã như chợ Sải, Nại Cửu, An Tiêm, Tri Bưu, Thạch Hãn, Long Hưng đều đã bị địch chiếm. Trên một địa bàn nhỏ, hẹp, ta và địch ở vào thế xen kẽ, trực tiếp đối mặt, giành giật với nhau từng tấc đất, từng góc nhà. Đã diễn ra các trận kịch chiến bằng lưỡi lê, bằng lựu đạn. Nhiệm vụ bảo vệ thị xã - Thành cổ Quảng Trị ngay càng trở nên khó khăn.

Ba giờ sáng ngày 22-8-1972, Tiểu đoàn 5 (Trung đoàn 95) tập kích địch ở tây nam làng Tri Bưu, loại khỏi vòng chiến đấu 1 đại đội địch thuộc Tiểu đoàn 8 thủy quân lục chiến. Đây là trận mở màn cho đợt phản kích thứ 5 của ta. Trận đánh diễn ra gay go, ác liệt. Ta vừa chiếm được làng Tri Bưu, thì ngay lập tức, địch tung quân chiếm lại. Tri Bưu trở thành nơi tranh chấp quyết liệt của cả hai bên. Sáng ngày 22-8, địch đưa 1 đo đánh chiếm lại khu Nhà Xanh thuộc làng Tri Bưu. Rạng sáng ngày 23-8, được pháo binh bắn chi viện, Tiểu đoàn 5 của ta nổ súng tấn công giành lại. Trong các ngày sau, Lữ đoàn 258 thủy quân lục chiến tổ chức nhiều đợt phản kích hòng chiếm lại khu Nhà Xanh, nhưng đều vấp phải sự kháng cự mãnh liệt, buộc phải lùi ra. Trong trận  đánh này, với một lực lượng nhỏ, Tiểu đoàn 5 đã thực hiện xuất sắc nhiệm vụ đánh chiếm và chốt giữ trận địa, đánh thiệt hại nặng Tiểu đoàn 8 thủy quân lục chiến, loại khỏi vòng chiến hơn 200 tên địch. Hành động chiến đấu kiên quyết, mưu trí, dũng cảm của cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn được Bộ Tư lệnh chiến dịch tặng danh hiệu: “Tiểu đoàn đánh giỏi” và được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba(1).


(1) Sư đoàn 325 (1954-1975), Sđd, t.2. tr.156-157.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 15 Tháng Giêng, 2011, 10:36:35 am
Trong lúc Tiểu đoàn 5 (Trung đoàn 95) tập kích địch ở làng Tri Bưu, thì Tiểu đoàn 7 (Trung đoàn 18) đánh chiếm và trụ chốt được ở cầu Sắt; Tiểu đoàn 5 (Trung đoàn 165) cùng với lực lượng của Trung đoàn 88 đánh chiếm một phần làng Đại Ngũ, trụ lại đánh địch phản kích.

Mặc dù có thêm 2 trung đoàn tăng cường và trên thực tế, bộ đội ta chiến đấu kiên cường, thu được một số kết quả, nhưng đợt phản kích thứ 5 của ta không đạt được mục tiêu đề ra, thế phòng ngự của ta ở thị xã Quảng Trị cho đến cuối tháng 8-1972 vẫn chưa được cải thiện.

Dù vẫn còn giữ được thị xã - Thành cổ Quảng Trị, nhưng lực lượng ta bị tổn thất và mất sức chiến đấu nhanh; mỗi trung đoàn chỉ còn 800 đến 900 quân, đại đội chỉ còn 20 đến 30 người, thậm chí con 4-5 tay súng. Trong lúc đó, cán bộ cấp trung đội, đại đội, tiểu đoàn phần lớn do đề bạt nhanh, nên không đáp ứng được yêu cầu chỉ huy đơn vị. Bên cạnh đó, vũ khí trang bị của ta cũng bị hao tổn lớn trong quá trình chiến đấu; một số đơn vị, súng bộ binh còn 30 đến 35%; pháo phòng không, xe tăng bị tổn thất nghiêm trọng, tên lửa đất đối không đánh B.52 hỏng hóc không có khí tài sửa chữa, thay thế; đạn dược không có cơ số dự trữ. Khó khăn, thiếu thốn của ta tạo ra so sánh lực lượng ngày càng có lợi cho địch.

Tới giữa tháng 8-1972, thay mặt Quân ủy Trung ương, đồng chí Võ Nguyên Giáp giao nhiệm vụ cho các phái viên vào chiến trường Trị - Thiên, truyền đạt ý định của Quân ủy Trung ương và phương hướng chuyển vào phòng ngự chiến dịch, phòng ngự hậu phương, củng cố thế trận từ hướng tây và đông. Thực hiện chủ trương của Quân ủy Trung ương, Bộ Tư lệnh chiến dịch chỉ thị cho các hướng, các đơn vị vừa khẩn trương hình thành, bổ sung, hoàn chỉnh kế hoạch tác chiến, vừa xây dựng trận địa phòng ngự. Mặc dù gặp mưa bão lớn, nhưng đến đầu tháng 9-1972, về cơ bản, bộ đội ta đã xây dựng được hệ thống phòng ngự liên hoàn, nhất là ở các khu vực trọng điểm, hình thành hệ thống điểm tựa, cụm điểm tựa, khu vực phòng ngự cấp trung đoàn, sư đoàn. Lúc này, Sư đoàn 325 phụ trách hướng phòng ngự chủ yếu. Hướng này bao gồm khu vực từ Cam Lộ, Đông Hà, Ái Tử, Nhan Biều đến thị xã Quảng Trị. Trên hướng phối hợp, ở phía tây quốc lộ 1, Sư đoàn 308 phòng ngự từ nam thị xã đến tích Tích Tường, Như Lệ, Tân Téo, điểm cao 105B; Sư đoàn 304 đảm nhiệm khu vực phòng ngự từ Trường Phước, động Ông Do, động Chiêm Dòng đến điểm cao 367. Phía đông quốc lộ 1, Sư đoàn 320B phòng ngự từ Triệu Phong đến Cửa Việt. Bên cạnh đó, ta cũng hình thành phương án chuẩn bị trận  địa, bố trí xung lực, hỏa lực, pháo mặt đất và phòng không, xe tăng bên bờ bắc sông Thạch Hãn đề phòng tình huống địch đánh sang. Như vậy, đội hình và trận địa phòng ngự chiến dịch đã được xác định và đây cũng là lúc cuộc chiến đấu bảo vệ thị xã - Thành cổ Quảng Trị diễn ra quyết liệt, gay go hơn hết.

Tại Pari, trên bàn đàm phán, phái đoàn ta và Mỹ sau hàng tháng trời họp bàn những chi tiết quan trọng của bản Dự thảo Hiệp định do mỗi bên đưa ra, đã thống nhất sẽ họp phiên chính thức vào trung tuần tháng 9-1972. Chính vì thế, cả ta và địch đều dồn sức đẩy mạnh hoạt động quân sự để đáp ứng đòi hỏi của đấu tranh ngoại giao; và chiến trường Trị - Thiên vẫn là “điểm nóng nhất” trên toàn bộ chiến trường miền Nam Việt Nam.

Sang đầu tháng 9-1972, địch đã hình thành được thế bao vây từ đông bắc đến tây nam thị xã Quảng Trị. Chúng đẩy mạnh các cuộc tiến công “lấn dũi” để củng cố bàn đạp tiến công ở Triệu Phong, nam và đông nam thị xã Quảng Trị, khu vực nam La Vang và tây Mỹ Chánh, chuẩn bị cho cuộc tiến công lớn, nhằm chiếm thị xã và Thành cổ trước ngày 14-9-1972. Song song với các cuộc tiến công đánh chiếm bàn đạp, địch đẩy mạnh các hoạt động tăng cường lực lượng và phương tiện chiến tranh. Sư đoàn thủy quân lục chiến được tăng cường 1 chi đội xe tăng M48 (từ Sư đoàn 1 bộ binh Quân đoàn 1 Việt Nam cộng hòa), Liên đoàn 1 biệt động quân, Thiết đoàn 17 kỵ binh, Chi đoàn 1 chiến xa; Sư đoàn dù cũng được tăng cường Liên đoàn 7 biệt động quân, 1 liên đội pháo hỗn hợp. Ngày 7-9, Quân đoàn 1 Việt Nam cộng hòa tăng cường thêm cho mỗi sư đoàn 2 xe phun lửa M125 và 4 xe trộn nhiên liệu. Để chuẩn bị thật kỹ lưỡng cho cuộc tiến công này, Bộ Tư lệnh Hải quân thuộc Vùng 1 duyên hải Quân lực Việt Nam cộng hòa đã điều các tàu chiến và tàu chở quân từ Đà Nẵng ra cửa biển Thuận An, thực hiện ý đồ nghi binh, thu hút sự chú ý của ta về hướng đổ quân từ biển, như đã làm trước khi mở cuộc hành quân Lam Sơn 72.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 15 Tháng Giêng, 2011, 10:38:08 am
Những ngày đầu tháng 9-1972, mưa trắng trời Quảng Trị - Thừa Thiên. Mực nuớc ở các sông Thạch Hãn, Nhùng dâng rất cao, ảnh hưởng đến việc cơ động lược lượng của bộ đội ta. Dù vậy, cán bộ, chiến sĩ ta không quản thời tiết khắc nghiệt và sự ngăn chặn gắt gao của hỏa lực không quân, hải quân và pháo binh địch, vẫn nêu cao quyết tâm bảo vệ thị xã và Thành cổ Qảng Trị. Bộ Chỉ huy chiến dịch chủ trương tập trung lực lượng thuộc 3 sư đoàn 304, 308 và 312 tăng cường cho lực lượng bảo vệ thành cổ, mở đợt phản kích mới hất địch ra khỏi thị xã. Để tăng sức chỉ huy, bảo đảm sự hợp đồng chiến đấu chặt chẽ giữa 2 sư đoàn 304 và 308, Bộ Tư lệnh chiến dịch quyết định cử đồng chí Phạm Hồng Sơn, Phó Tư lệnh, đồng chí Hoàng Minh Thi, Phó Chính ủy xuống trực tiếp chỉ huy 2 sư đoàn này.

Nhằm dòn đường cho đợt tiến công mới, ngày 7-9-1972, không quân, hải quân và pháo binh của Mỹ - ngụy mở đợt tập kích hỏa lực mang tên Phong lôi. Suốt 48 giờ, địch liên tục giội bom, bắn phá các trận địa ta ở khu vực thị xã và Thành cổ. Trong khi đó, máy bay B.52 rải nhiều thảm bom dọc theo bờ bắc sông Thạch Hãn, tập trung nhiều nhất vào khu vực Ái Tử, Đông Hà, Nhan Biều và các trận địa pháo của ta. Không quân Mỹ sử dụng các loại bom điều khiến bằng lade ném xuống các cổng thành cổ nhằm khai thông cửa ngõ tiến vào thành cổ.

Sau trận bão bom, 6 giờ sáng ngày 9-9-1972, trên hướng tiến công vào thị xã, Sư đoàn dù quân Sài Gòn chia làm hai cánh quân, một cánh đánh chiếm trại Gia Long (còn gọi là trại Hồ Đắc Hanh), cách nam Quảng Trị 2,5 km, nằm trên con đường nối La Vang tới thị xã Quảng Trị; cánh khác thọc vào Tích Tường, Như Lệ bám chặt bờ nam sông Thạch Hãn, ngăn chặn ta từ hướng tây thị xã. Tại phía bắc thị xã, Liên đoàn 1 biệt động quân sử dụng 2 tiểu đoàn 37 và 39 tiến chiếm Bích Khê, Nại Cửu, khóa chặt con đường từ thị xã đi Bích Khê, ngăn chặn ta từ phía bắc sông Vĩnh Định tiến qua và ở tả ngạn sông Thạch Hãn tiến sang chi viện cho lực lượng bảo vệ thị xã - Thành cổ.

Cùng lúc, Sư đoàn thủy quân lục chiến từ thôn Thạch Hãn chia làm các mũi, đồng loạt tiến công vào thị xã. Trên hai hướng nam và đông nam, Lữ đoàn 258 (gồm các tiểu đoàn 1, 2 và 6) vựo qua thôn Độ Tam, chiếm được sân vận động Quảng Trị, thôn đệ Ngũ, chiếc cầu dẫn vào bệnh viện thị xã, cách Thành cổ 400 m. Hướng bắc và đông bắc, Lữ đoàn 147 sử dụng Tiểu đoàn 3 làm mũi tiến công chủ yếu, từ làng Tri Bưu đánh vào góc phía đông bắc Thành cổ; mũi tiến công khác của Tiểu đoàn 7 dọc theo bờ sông Vĩnh Định, đánh vào tây bắc Thành cổ.

Ngay từ đầu, các mũi tiến quân của địch đều bị bộ binh và pháo binh ta ngăn chặn. Trong khi đó, Sư đoàn 308 mở các trận tiến công nhằm vào lực lượng Sư đoàn dù, đánh thiệt hại nặng các tiểu đoàn 7, 8, 6. Các trung đoàn thuộc Sư đoàn 308 n\hanh chóng hình thành đội hình đánh tạt sườn quân dù. Trung đoàn 209 đánh chiếm ngã ba Phước Môn, thôn Phú Long; Trung đoàn 24 diệt gọn 1 đại đội địch ở cầu Nhùng. Trung đoàn 102 tập kích địch ở ngã ba Long Hưng. Trong các cuộc giao tranh, cả hai bên đều bị tổn thất nặng. Về phía ta, Trung đoàn 102 (Sư đoàn 308) phải lui về phía tây Long Hưng để củng cố. Trung đoàn 24 không giữ được cầu Nhùng, phải lui về Trường Phước và bị kẹt lại ở đây vì nước lũ. Về phái địch, trong ngày tiến công đâu tiên, các mũi hướng tiến công đều bị ta ngăn chặn, bị tổn thất nặng nềm, buộc phải dừng lại củng cố. Nhân lúc địch ngừng tiến công, đêm 9-9, Tiểu đoàn 2 (Trung đoàn 48) và Tiểu đoàn 5 (Trung đoàn 95) tập kích vào đội hình địch ở làng Hành Hoa, phía đông bắc Thành cổ, loại khỏi vòng chiến đấu 200 tên. Ngày 10-9, cuộc chiến đấu giữa ta và địch ở khu vực Thành cổ diễn ra quyết liệt hơn. Đã có lúc, 1 trung đội lính thủy đánh bộ lọt được vào khu vực Thành cổ. Tiểu đoàn 3 bộ đội địa phương Quảng Trị phản kích mạnh mẽ, tiêu diệt 11 tên, buộc số còn lại phải rút ra ngoài thành. Tuy vận, sức ép của địch ngày một tăng.

Được lực lượng biệt động và quân dù hỗ trợ, lực lượng lính thủy đánh bộ sau khi chiếm được trại Gia Long và La Vang, đã đồng loạt tiến công vào Thành cổ từ nhiều hướng. Ngày 13-8 Tiểu đoàn 6 (Lữ đoàn 258) lính thủy đánh bộ chiếm được góc đông nam Thành cổ. Ta phản kích quyết liệt, nhưng không ngăn chặn được lực lượng này. Ngày 15-9, Tiểu đoàn 3 (Lữ đoàn 147) lính thủy đánh bộ chiếm góc phía đông bắc Thành cổ và kiểm soát hoàn toàn cửa bắc. Lúc này, lực lượng giữ thành được tăng cường Tiểu đoàn 8 bộ đội địa phương Quảng Trị. Thế nhưng, trước sức tiến công ồ ạt của địch, bộ đội ta không cản được bước tiến của chúng. Ngày 15-9, Quân ủy Trung ương chỉ thị cho các lực lượng bảo vệ thị xã - Thành cổ, bằng mọi giá phải giữ vững trận địa. Chấp hành mệnh lệnh của Quân ủy Trung ương, ngày 16-9, Bộ Tư lệnh chiến dịch quyết định đưa Trung đoàn 18 vượt sông sang tăng cường cho lực lượng ở thị xã và Thành cổ. Lúc này, sông Thạch Hãn qua nhiều ngày mưa to, nước dâng rất cao; không quân, pháo binh địch đánh phá dữ dội, khống chế các bến vượtg dọc triền sông, phá hủy phần lớn các phương tiện vượt sông của ta. Do vậy, chỉ có bộ phận đi đầu của Trung đoàn 18 sang được bờ nam. Nhưng cùng lúc đó, các lực lượng trong Thành cổ và thị xã đã rút lui lúc 18 giờ ngày 16-9-1972.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 15 Tháng Giêng, 2011, 10:43:01 am
Sau khi rút khỏi khu vực thị xã và Thành cổ, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương yêu cầu bộ Chỉ huy chiến dịch nhanh chóng hình thành cách đánh mới, nhằm bảo đảm giữ vững thế trận; đồng thời, phái có phương án bố trí hệ thống trận địa phòng giữ hậu phương trực tiếp chiến dịch, đặc biệt là khu vực Ái Tử - Đông Hà - Cửa Việt; bên cạnh đó, cần có phương án luân phiên tác chiến để đưa các đơn vị ra phía sau để củng cố(1). Tiếp đó, tháng 10-1972, Bộ Chính trị và Thường vụ Quân ủy Trung ương chỉ thị cho Bộ Tư lệnh chiến dịch “phải dứt khoát dùng hình thức phòng ngự trận địa mới giành được thắng lợi”(2). Đây là sự nhạy bén lớn về mặt nhận thức trong chỉ đạo chiến lược, bởi trước đó, “hình thức phòng ngự trận địa” vẫn được xem là nhận thức sai lầm, đi ngược lại “tư tưởng cách mạng tiến công”. Quan điểm chỉ đạo của Bộ Chính trị, Thường vụ Quân ủy Tư đã nhanh chóng được quán triệt và là cơ sở để Bộ Chỉ huy chiến dịch xác định chủ trương tác chiến cho giai đoạn chiến đấu mới, đó là kiên quyết tiêu hao, tiêu diệt địch là chủ yếu để bảo vệ và phát triển vùng giải phóng, đồng thời tranh thủ củng cố lực lượng, chuẩn bị điều kiện để mở những trận phản công (tức phản đột kích) đẩy lùi địch, tiến tới đánh bại cuộc hành quân của chúng(3).

Từ cuối tháng 9 cho đến giữa tháng 10-1972, ta đã hình thành ba khu vực phòng ngự cơ bản: khu vực phía đông do Sư đoàn 320 phụ trách gồm Triệu Phong, Gio Linh; khu vực phía tây, do Sư đoàn 308 và 304 đảm nhiệm bao gồm phía tây đường số 1 từ bắc Mỹ Chánh đến phía nam Thạch Hãn(4); Khu Giữa - khu phòng ngự chủ yếu, gồm phía tả ngạn sông Thạch Hãn, từ Nhan Biều, Ái Tử, Phượng Hoàng đến Đông Hà, Cam Lộ do Sư đoàn 325 đảm nhiệm. Các khu vực, các hướng hợp thành hệ thống phòng ngự hoàn chỉnh, vững chắc và ngày càng được củng cố, phát triển.

Vào thời điểm này, lực lượng quân đội Sài Gòn ở Quảng Trị tuy bị hao tổn lớn, nhưng chúng nhanh chóng bổ sung lực lượng và phương tiện chiến đấu, gấp rút hoàn chỉnh phương án đánh chiếm toàn bộ tỉnh Quảng Trị bằng cuộc hành quân mang tên Lam Sơn 72A. Với lực lượng chủ yếu của 2 sư đoàn lính thủy đánh bộ và Sư đoàn dù, từ nửa cuối tháng 9-1972, địch đẩy mạnh nỗ lực quân sự trên hai hướng là đông và tây, hòng mở rộng bàn đạp để tiến lên chiếm khu vực Ái Tử, Đông Hà. Ở hướng đông, Sư đoàn thủy quân lục chiến tiến công các mục tiêu như An Lộng, An Hòa, Bích La, Cửa Việt; trên hướng tây, Sư đoàn dù tiến chiếm điểm cao 367, động Ông Do và tuyến nam sông Thạch Hãn, khu vực Tích Tường, Như Lệ, Đá Đứng.

Do có phương án chuẩn bị tốt, nên khi địch tiến công, bộ đội ta đã chiến đấu có hiệu quả, bảo vệ vững chắc trận địa phòng ngự. Trên tất cả các hướng phòng ngự, bộ đội tổ chức nhiều trận phản kích, đánh vào các cụm quân địch ở Chợ Sát, Nại Cửu, An Tiêm, gây cho địch nhiều thương vong. Các đơn vị bộ đội địa phương Quảng Trị phối hợp chặt chẽ với bộ đội chủ lực tập kích địch ở Gia Đẳng, Phường Sơn. Trong lúc đó, pháo binh ta bắn phá nhiều kho kho tàng, trận địa pháo và Sở Chỉ huy Lữ đoàn 258 thủy quân lục chiến. Các trung đoàn 66, 209 và 41 phối hợp với Trung đoàn 36 ở Tích Tường chặn đánh quyết liệt các mũi tiến công của hai tiểu đoàn dù (tiểu đoàn 1 và 2) và Tiểu đoàn 8 biệt động quân, khiến cho các đơn vị này của quân Sài Gòn chẳng những không chiếm được khu vực Phước Môn, Tân Téo, điểm cao 24, 36, 105B, mà còn bị đánh thiệt hại nặng, phải rút về phía sau củng cố (Tiểu đoàn 8). Những ngày tiếp theo, địch thay đổi thủ đoạn tiến công, ban đêm cho lực lượng bí mật luồn qua khoảng giữa các chốt của ta, tiếp cận động Ông Do. Tuy nhiên, thủ đoạn mới của địch đã bị các chốt của ta, nhất là chốt ở điểm cao 105B đánh thiệt hại nặng Tiểu đoàn 6 dù, buộc đơn vị này phải lùi về phía sau củng cố.

Từ ngày 23-10, được không quân và pháo binh yểm trợ, địch đánh phá quyết liệt khu vực điểm cao 230, 367 và sau khi đánh chiếm được điểm cao 108, 118, 101, 124, chúng nhanh chóng tập trung lực lượng, dồn sức đánh lên điểm cao 367 - vị trí phòng ngự quan trọng của ta rên hướng tây. Tại khu vực này, Tiểu đoàn 1 (Trung đoàn 9) và Tiểu đoàn 2 độc lập có sự phối hợp của Trung đoàn 24, Tiểu đoàn 19, Tiểu đoàn 35, liên tục mở các trận phản kích, tập kích, loại khỏi vòng chiến gần 300 tên địch, phá hủy 8 khẩu pháo và một số phương tiện chiến đấu khác của chúng. Tuy nhiên, hoạt động của ta ở khu vực này chỉ làm chậm bước tiến quân của địch, chứ không ngăn chặn được chúng. Sau khi địch tiến chiếm điểm cao 367 vào ngày 3-11-1972, nơi đây, ta chỉ còn giữ được thế xen kẽ với địch ở phía đông và phía tây.

Cũng trong thời gian này, ở khu giữa, sau nhiều lần thám báo, biệt kích vượt sông Thạch Hãn, đột nhập vào khu vực do ta kiểm soát, đêm 1-11-1972, địch sử dụng Tiểu đoàn 6 (Lữ đoàn 367) thủy quân lục chiến, mở cuộc hành quân Sóng thần 9, đánh chiếm khu vực Nhan Biều. Tiểu đoàn 8 (Trung đoàn 18 - Sư đoàn 325) có xe tăng yểm trợ đón đánh địch. Cùng lúc, pháo binh ta bắn phá mãnh liệt vào đội hình xe tăng, thiết giáp và xe vận tải của địch. Cuộc hành quân của địch bị đẩy lùi; Tiểu đoàn 6 thủy quân lục chiến bị đánh thiệt hại nặng nề, viên tiểu đoàn trưởng chết tại trận. Thành tích chiến đấu của Trung đoàn 18 được Đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi thư khen và đề nghị thưởng Huân chương Quân công hạng nhất(5).

Như thế, qua gần hai tháng thực hiện kế hoạch tiến công quân sự Lam Sơn 72A hòng chiếm lại phần lớn vùng giải phóng Quảng Trị, đặc biệt là khu vực Ái Tử, Đông Hà, Cửa Việt, nỗ lực này của địch đã bị chặn lại; tuy nhiên, chúng cũng chiếm được điểm cao 367, hình thành thế tiến công động Ông Do.


(1) Điện số 276/Đ, ngày 22-9 và Điện số 288/Đ, ngày 28-9-1972, đồng chí Văn ký, lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.
(2) Điện số 235/Đ tháng 10/1972 của Bộ Chính trị và Thường vụ Quân ủy Trung ương gửi Bộ Tư lệnh chiến dịch Trị - Thiên, lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.
(3) Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Tóm tắt các chiến dịch… Sđd, tr.364.
(4) Khu vực này, từ cuối tháng 10; Sư đoàn 312 vào thay thế để 2 sư đoàn 308 và 304 lui về phía sau củng cố.
(5) Sư đoàn 325 (1954-1975), Sđd, t.2. tr.174.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 15 Tháng Giêng, 2011, 10:46:36 am
Từ đầu tháng 11-1972, nhiều trận mưa bão liên tếp dồn đổ xuống miền Trung, đặc biệt là khu vực Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế. Tình hình thời tiết ảnh hướng đến hoạt động quân sự của các bên. Nhiều nơi, trận địa phòng ngự của ta bị ngập nước, sức khỏe bộ đội giảm sút. Mặc dù gặp rất nhiều khó khăn, nhưng cán bộ, chiến sĩ vẫn trụ bám trận địa, sẵn sàng đánh địch.

Về phía địch, để phục vụ cho yêu cầu đấu tranh chính trị và đấu tranh ngoại giao, từ đầu tháng 11-1972 cho đến cuối tháng 1-1973, quân đội Sài Gòn tiếp tục nỗ lực tiến công quân sự. Lúc này, địch dồn sức tiến công sang hướng thứ yếu. Trong cuộc hành quân mang tên Sóng thần 36, địch tập trung phi pháo với mật độ cao (50 lần chiếc cường kích, 6 tốp B.52, 300-400 đạn pháo một ngày), đánh phá khu vực Long Quang, Thanh Hội. Chúng sử dụng các tiểu đoàn 6, 2 và 8 thuộc Lữ đoàn 367 lính thủy đánh bộ có thiết giáp và xe tăng M48 yểm trợ, liên tiếp mở các đợt tiến công vào các vị trí phòng ngự của quân ta ở khu vực Long Quang - Thanh Hội. Trước tình hình đó, Bộ Chỉ huy chiến dịch lệnh cho Trung đoàn 48 vượt sông sang bờ nam sông Thạch Hãn, cùng với lực lượng ở đây chặn đứng cuộc hành quân của địch. Chiến sự ở khu vực bờ nam sông Thạch Hãn diễn ra ác liệt. Mặc dù bị thiệt hại nặng, nhưng địch vẫn tỏ rõ quyết tâm tìm kiếm một thắng lợi quân sự. Từ ngay 15-12, chúng mở tiếp cuộc hành quân Sóng thần 45 đánh ra khu vực Cửa Việt. Lần này, địch huy động một lực lượng quân sự và xe pháo lớn tham chiến, bao gồm: Tiểu đoàn 4 và 579 thủy quân lục chiến, 3 chi đoàn xe tăng - thiết giáp, 15 đại đội bảo an theo hướng Linh An, Thạch Hội tiến ra Cửa Việt. Đương đầu với lực lượng tiến công này của địch, Sư đoàn 320, trong vòng 11 ngày (từ 15 đến 25-12), đã chiến đấu quyết liệt chặn đánh tiêu hao, tiêu diệt hơn 1 nghìn tên địch, phá hỏng, phá hủy 23 xe quân sự, bắn rơi 11 máy bay các loại, thu 39 súng. Địch buộc phải chấm dứt cuộc hành quân và đưa lực lượng còn lại về phía sau củng cố. Cho đến trước ngày ký Hiệp định Pari, địch còn mở cuộc hành quân Sóng thần 18 (từ ngày 17-1 đến ngày 20-1-1973) đánh ra Cửa Việt. Nhưng, cũng như các cuộc hành quân mang tên Sóng thần trước đó, một lần nữa địch phải chịu thất bại nặng nề.

Thời gian dịch chuyển dần sang nửa cuối tháng 1-1973, hoạt động quân sự của cả ta và địch trên chiến trường miền Nam nói chung, chiến trường Quảng Trị nói riêng, càng gắn chặt với diễn biến trên bàn Hội nghị Pari. Quân địch một mặt giữ chặt các khu vực đã chiếm được, một mặt tăng cường thêm lực lượng, nhất là xe tăng và thiết giáp chuẩn bị cho cuộc tranh chấp quyết liệt mới. Về phía ta, để giữ vững vùng giải phóng và các khu vực phòng thủ, Bộ Chỉ huy chiến dịch chỉ thị cho Sư đoàn 320 đưa dần Trung đoàn 101 sang khu vực nam Cửa Việt (Long Quang - Thanh Hội), đồng thời rút một phần Trung đoàn 64 ra ngoài củng cố. Cùng thời gian, ở hướng đông, ta cũng tăng cường Trung đoàn 52, 1 tiểu đoàn pháo 100mm, 1 đại đội pháo 85mm. Tiếp đó, Bộ Chỉ huy chiến dịch yêu cầu các sư đoàn khẩn trương tổ chức trận địa phòng ngự thật vững chắc, trọng điểm là khu vực Ái Tử, Đông Hà, Cửa Việt, Tà Cơn, Lao Bảo. Trên hướng tây, nhằm cải thiện thế trận, từ ngày 23-1-1973, ta mở một đợt phản kích, dùng hai trung đoàn 209 và 93 chiếm lại Tích Tường 1, các điểm cao 52, 29, 15 và đẩy mạnh hoạt động của các lực lượng ở phía sau lưng địch. Tại khu vực điểm cao 367, Trung đoàn 2 (Sư đoàn 324), Trung đoàn 15 và Tiểu đoàn 8 bộ đội địa phương chủ động tiến công, tiêu hao nhiều sinh lực địch, phá hủy nhiều phương tiện chiến đấu của chúng, khiến cho Liên đoàn biệt động quân Sài Gòn luôn trong trạng thái bị động đối phó. Ở đây, ta vẫn giữ được thế trận xen kẽ với địch, bảo vệ được các kho tàng và tuyến đường 15N(1)… cho đến ngày ngừng bắn theo quy định của Hiệp định Pari (ngày 28-1-1973).

Nhìn lại trên toàn bộ mặt trận Trị - Thiên, từ sau khi bộ đội ta rút khỏi thị xã - Thành cổ Quảng Trị (16-9-1972) đến cuối tháng 1-1973, mặc dù địch liên tiếp mở các cuộc hành quân Lam Sơn 72A, Sóng thần 9, Sóng thần 36, Sóng thần 45, Sóng thần 18, đánh ra các vùng mới giải phóng của ta, nhưng chúng đã bị lực lượng vũ trang ta ngăn chặn quyết liệt. Âm mưu chiếm lại và tái lập vùng chiếm đóng đã bị rơi vào tay Quân giải phóng như trước tháng 5-1972 của địch bị thất bại. Trong giai đoạn này, với thế trận phòng ngự tương đối vững chắc trên tất cả các hướng, bộ đội ta chẳng những đã bảo vệ được trận địa, giữ vững được các khu vực phòng thủ, mà còn tiêu diệt gọn 12 đại đội, đánh thiệt hại nặng 15 tiểu đoàn và 2 chi đoàn xe tăng - thiết giáp, bắn rơi hơn 100 máy bay, phá hỏng, phá hủy gần 350 xe quân sự các loại, hơn 350 khẩu pháo các loại, 38 kho xăng, đạn, đánh sập 8 cầu, bắn cháy 8 tàu, 13 xuồng, thu 650 súng các loại và 24 máy thông tin…

Thất bại của địch trên chiến trường Trị - Thiên góp phần làm suy yếu toàn diện quân đội Sài Gòn - xương sống của Việt Nam hóa chiến tranh của Mỹ. Đồng thời, thất bị đó chứng tỏ lực lượng vũ trang ta đã giành lại thế chủ động chiến lược trên từng khu vực và trên toàn chiến trường.

Về phía ta, trên mặt trận Trị - Thiên, trong gần một năm chiến đấu quyết liệt, lực lượng cũng bị thương vong nặng: hơn 14.000 cán bộ, chiến sĩ hy sinh và mất tích; gần 55.000 thương bệnh binh, chưa kể hơn 100 người bị rơi vào tay địch và 6.583 người đào, bỏ ngũ.

Cuộc chiến đấu của quân dân ta trên mặt trận Quảng Trị, đặc biệt 81 ngày đêm trụ bám kiên cường ở khu vực Thành cổ, là bản anh hùng ca bất tử về chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con người Việt Nam, của tuổi trẻ Việt Nam trong đấu tranh vì nền tự do, độc lập và thống nhất non sống. Cuộc chiến đấu của quân và dân ta ở mặt trận Trị - Thiên trong suốt năm 1972 đã góp phần quyết định làm chuyển biến mạnh mẽ thế bố trí chiến lược giữa ta và địch, tạo tương quan lực lượng có lợi cho ta, bất lợi cho địch. Thắng lợi đó của quân và dân Trị - Thiên cùng với những chiến thắng ở các hướng khác trên khắp chiến trường miền Nam là nhân tố quan trọng đưa đến thắng lợi trên mặt trận đấu tranh ngoại giao tại Hội nghị Pari.


(1) Quân đội nhân dân Việt Nam - Bộ Tổng Tham mưu: Tổng kết chiến dịch Quảng Trị - Thừa Thiên 1972. Tài liệu dùng tập huấn cán bộ cao cấp và trung cấp. Cục Quân huấn, 1973, tr.51-57.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Giêng, 2011, 10:14:17 am
II - TIẾP TỤC BAO VÂY ĐỊCH
Ở KON TUM VÀ BÌNH LONG

Vào lúc ở chiến trường Trị - Thiên quân và dân ta đang chuẩn bị cho đợt tiến công thứ ba, thì cũng là lúc các chiến trường Tây Nguyên và Đông Nam Bộ có những bước chuyển mới.

Ở Tây Nguyên, khi mùa mưa đến, việc bảo đảm hậu cần - kỹ thuật và cơ động lực lượng cả ta gặp nhiều trở ngại, khó khăn. Trước tình hình đó, Bộ Tư lệnh mặt trận Tây Nguyên đã điều chỉnh kế hoạch tác chiến nhằm mục tiêu kiên quyết giữ vững, mở rộng và hoàn chỉnh vùng giải phóng, tạo cục diện mới trong năm 1972.

Đầu tháng 6-1972, sau khi Sư đoàn 2, Trung đoàn 52 và Trung đoàn công binh 83 được điều xống đồng bằng Khu 5, Bộ Tư lệnh mặt trận sắp xếp lại lực lượng và điều chỉnh thế bố trí chiến dịch theo phương án hoạt động mới:

- Trên hướng bao vây thị xã Kon Tum, các trung đoàn 28, 66 có pháo binh phối hợp luân phiên vừa củng cố, huấn luyện, vừa đánh diệt lực lượng địch nống lấn và giải tỏa thị xã Kon Tom.

- Trung đoàn 24 và Trung đoàn 95 luân phiên củng cố, huấn luyện, tiếp tục đánh giao thông, thực hiện làm chủ đường 14 trong từng thời gian nhằm cô lập thị xã Kon Tum, uy hiếp thị xã Plâyku và bảo vệ vùng giải phóng ở Huyện 3 và Huyện 4 (Gia Lai).

- Sư đoàn 320 đẩy mạnh các hoạt động ở tây nam thị xã Plâyku cùng một số đơn vị độc lập tiêu diệt địch trên đường 19 tây, mở mặt trận mới hỗ trợ tích cực cho việc giải phóng vùng nông thôn ở Huyện 4 và Huyện 5 (Gia Lai).

- Lực lượng vũ trang các tỉnh phối hợp với lực lượng bộ đội chủ lực hoạt động mạnh trên các khu vực trọng điểm(1).

Thực hiện phương án tác chiến mới, từ đầu tháng 7-1972, Trung đoàn 66 triển khai lực lượng, lần lượt đánh bại hai đợt tiến công của Trung đoàn 53 (Sư đoàn 23) Việt Nam cộng hòa, đập tan âm mưu lấn chiếm các vị trí Hà Môn, Đắc Vát, điểm cao 751 (Ngọc Quân), điểm cao 601 (Lam Sơn), tạo được hệ thống phòng ngự vững chắc hơn cho Kon Tum.

Cùng thời gian, 2 trung đoàn 24 và 95 thay phiên nhau đẩy mạnh các hoạt động đánh cắt giao thông trên đường 14, cô lập địch trong thị xã Kon Tum, uy hiếp mạnh thị xã Plâyku, bảo vệ vững chắc vùng giải phóng thuộc các huyện 3, 4 Gia Lai.

Phía tây nam thị xã Plâyku, từ cuối tháng 7-1972, Sư đoàn 320A chuyển hướng hoạt động, phối hợp chặt chẽ với lực lượng bộ đội địa phương, đánh tiêu diệt địch trên đường 19 tây Plâyku. Sự xuất hiện của Sư đoàn 320A ở khu vực tây nam Plâyku là bất ngờ lớn đối với địch. Chỉ trong một thời gian, lực lượng sung sức nhất của ta đã tiêu diệt được đồn Tầm, bức rút đồn Chư Phổ, giải phóng làng Dịt - Thanh Giáo ven đường 19 tây, phát triển nhanh sang phía đông quận lỵ Thanh An, giải phóng 6 ấp làng K’Lan, diệt đồn Chư Bồ, giải phóng hoàn toàn khu dồn Chư Bồ - Đức Cơ. Thừa thắng, ngày 10-9-1972, Sư đoàn 320A cùng lực lượng tăng cường bao vây căn cứ biên phòng Đức Cơ, sử dụng Tiểu đoàn 631 vây lấn, rồi tiêu diệt căn cứ biên phòng Chư Nghé. Đợt hoạt động đánh phá tổng hợp của quân ta đã buộc địch phải phân tán lực lượng chống đỡ, giảm sút cường đột các cuộc hành quân lấn chiếm ở bắc Kon Tum. Chúng phải điều lực lượng lớn của Sư đoàn 23 và các liên đoàn biệt động dối phó với ta trên hướng thị xã Plâyku.

Việc sử dụng Sư đoàn 320A mở các đợt đánh phá trong hợp trên hướng Plâyku là hoạt động nổi bật hơn cả trên chiến trường Tây Nguyên trong khoảng thời gian nửa cuối năm 1972(2). Các đội vũ trang tuyên truyền của Sư đoàn 320A được sự phối hợp chặt chẽ với các địa phương, luồn sâu vào các ấp chiến lược, tuyên truyền, giáo dục, giác ngộ cho đồng bào; đồng thời, phối hợp với đòn tiến công quân sự, đưa hàng vạn dân thoát khỏi sự kìm kẹp của địch trở về vùng căn cứ.

Tuy nhiên, đưa được dân thoát khỏi sự quản lý của địch đã khó, lo cuộc sống mới cho dân còn khó hơn.Ý thức được khó khăn đó, cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 320A nêu cao quyết tâm “dù bộ đội phía trước có đói cũng phải bớt gạo để giúp dân”. Quyết tâm này đã trở thành khẩu hiệu hành động của bộ đội trên toàn chiến trường. Nhiều đơn vị tự nguyện rút bớt từ một phần ba đến một nửa khẩu phần ăn hằng ngày, dành ra được hàng tấn gạo, hàng chục cân muối hỗ trợ nhân dân. Những việc làm cụ thể của bộ đội và chính quyền địa phương góp phần giúp đồng bào vượt qua những ngày gian khó, làm cho những con người lâu nay bị địch tuyên truyền những thông tin xuyên tác về cách mạng, có được những hiểu biết mới, nhận thức mới, để từ đó, nhanh chóng ổn định cuộc sống và gắn bó với cách mạng.

Trong thời gian này, mặc dù gặp nhiều khó khăn về hậu cần, nhưng lực lượng vũ trang và nhân dân Tây Nguyên vẫn giữ vững được nhịp độ tiến công địch. Càng về cuối năm, thế bố trí chiến lược, tương quan lực lượng và tính chủ động chiến lược trên chiến trường nghêng dần về ta. Trước tình hình thuận lợi đó, ngày 23-9-1972, Đảng ủy Mặt trận Tây Nguyên mở hội nghị nhằm đề ra chủ trương hoạt động trong những tháng cuối năm. Hội nghị đã thảo luận, thống nhất và đề ra phương hướng hoạt động của lực lượng vũ trang Tây Nguyên theo đúng tinh thần chỉ đạo của Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh, đó: Tranh thủ thời cơ có lợi, tập trung mọi lực lượng, mở một chiến dịch tổng hợp quy mô lớn, đẩy mạnh tiến công quân sự và chính trị, tiêu diệt và làm tan rã lớn quân ngụy, chủ yếu là địa phương quân, giải phóng nhiều vùng nông thôn rộng lớn, giành cho được những địa bàn quan trọng(3).


(1) Lực lượng vũ trang nhân dân Tây Nguyên trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1980, tr.253.
(2) Mặt trận Tây Nguyên 1972, Tài liệu tổng kết, tr.74-80, lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.
(3) Lực lượng vũ trang nhân dân Tây Nguyên trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước..., Sđd, tr.257.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Giêng, 2011, 10:16:13 am
Bước vào đầu tháng 10-1972, Trung đoàn 24B cơ động vào Đắc Lắc, tiến hành các hoạt động tiến công quân sự, mở rộng vùng giải phóng ở khu vực Cheo Reo - đường số 7. Ở hướng Buôn Ma Thuột, Trung đoàn 25 mới thành lập trên cơ sở hai tiểu đoàn 20B và 5 (Đoàn 671) cũng bước vào đợt hoạt động mới. Để đáp ứng yêu cầu tác chiến lớn và được Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng phê chuẩn, ngày 20-9-1972, Đảng ủy và Bộ tư lệnh mặt trận quyết định thành lập Sư đoàn 10, gồm các trung đoàn 28, 66 95 bộ binh và 8 tiểu đoàn binh chủng(1). Sự ra đời của Sư đoàn 10 đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc của các lực lượng vũ trang Tây Nguyên, đồng thời chứng tỏ quyết tâm của ta trong giai đoạn tác chiến mới.

Thực hiện quyết tâm đó, ngày 12-10-1972, Bộ Tư lệnh mặt trận khẩn trương mở đợt tiến công vào căn cứ Plây Cần, nhằm mở rộng vùng giải phóng bắc Kon Tum và khai thông đường 14. Trong quá trình tập kết lực lượng vào khu chiến, Trung đoàn pháo binh 40 đã tháo rời các bộ phận của pháo 85mm và 105mm, tổ chức khiêng, vác vào khu chiến, cách vị trí địch 1-2km. Đây là lần đầu tiên bộ đội ta sử dụng cách ngắm bắn trực tiếp, phá hoại công sự địch, chi viện cho bộ binh đánh chiếm trận địa.

Được pháo binh chi viện đắc lực, có xe tăng làm lực lượng đột kích và được tăng cường Tiểu đoàn 37, Trung đoàn 66, sua 5 giờ chiến đấu, đã tiêu diệt gọn cứ điểm của Tiểu đoàn 95 biệt động biên phòng quân đội Sài Gòn, làm chủ căn cứ Plây Cần.

Căn cứ Plây Cần bị tiêu diệt, căn cứ Đắc Siêng bị đặt vào thế cô lập. Đây là thời cơ tốt để ta phát triển tiến công, dứt điểm căn cứ Đắc Siêng. Bởi thế, các đơn vị ta sau khi đánh chiếm được Plây Cần, đã một mặt chấn chỉnh lực lượng, gấp rút hành quân về phía nam thị xã Kon Tum cùng với Trung đoàn 95 mở mặt trận mới; mặt khác, để lại một bộ phận nhỏ đi chuẩn bị trận địa ở khu vực xung quanh căn cứ Đắc Siêng.

Ngày 22-10-1972, Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam chỉ thị cho mặt trận phải tổ chức đánh Đắc Siêng ngay. Trung đoàn 66 nhận lệnh của mặt trận trong khi đơn vị đứng cách Đắc Siêng 7 ngày đường. Tình thế gấp rút, bộ đội hành quân cả ngày lẫn đêm, rút ngắn thời gian đi đường còn 5 ngày. Ngày 29-10, cuộc tiến công của Trung đoàn 66 bắt đầu. Sau những loạt pháo ngắm bắn trực tiếp nhằm vào công sự, trận địa địch, bộ binh ta dũng mãnh xông lên và chỉ sau 30 phút, đã làm chủ được căn cứ Đắc Siêng, tiêu diệt và bắt sống gọn quân địch trong căn cứ.

Đây là trận đánh thứ hai trong vòng 20 ngày bộ đội ta sử dụng phương pháp đánh công sự vững chắc theo phương pháp sử dụng pháo ngắm bắn trực tiếp. Cũng với cách đánh phá công sự này, 3 ngày sau chiến thắng Đắc Siêng, Tiểu đoàn 3 (Trung đoàn 400) và Tiểu đoàn 361 tiến công và đánh chiếm căn cứ đức Cơ trên đường 19 tây - nơi đã bị một lực lượng nhỏ của ta vây hãm suốt từ ngày 10-9-1972. Căn cứ Đức Cơ rơi vào tay quân ta, con đường nối tuyến hành lang vận chuyển chiến lược của ta với vùng giải phóng Kon Tum đã thông suốt.

Vào thời gian này, ở khu tam giác Phú Nhơn - Phú Mỹ - Mỹ Trạch, lực lượng của Sư đoàn 320A phối hợp với bộ đội địa phương tiến công tiêu diệt được căn cứ 43, phá tan hai ban chỉ huy hành quân quận Phú Nhơn và tiểu khu Plâyku, giải phóng 9 làng trên tục đường 194 từ Phú Mỹ đến bắc Phú Nhơn, với hơn 1.000 dân. Đến tháng 11, hầu hết địa bàn huyện 5 Gia Lai đã hoàn toàn giải phóng. Với vùng giải phóng rộng lớn, ta đã tạo được một bàn đạp vững chắc để phát triển tiến công về hướng thị xã Plâyku.

Cuối tháng 11-1972, địch điều 3 tiểu đoàn bộ binh, 32 tiểu đoàn thiết giáp và một số đơn vị pháo trong đó có pháo 175mm tăng chường cho Tây Nguyên. Có thêm lực lượng, chúng liên tiếp mở các cuộc hành quân nống ra hướng trọng điểm với quy mô lớn. Ở hướng Đức Cơ, có lúc lực lượng địch lên tới 11 tiểu đoàn, 3 chi đoàn thiết giáp và 2 tiểu đoàn pháo.

Cuộc chiến đấu chống địch lấn chiếm đã diễn ra quyết liệt trên khu vực bắc thị xã Kon Tum, trên đường 14 và đường 19 tây cho đến ngày ký kết Hiệp định Pari.

Sau 350 ngày đêm chiến đấu, lực lượng vũ trang Tây Nguyên đã giành được những thắng lợi lớn, đánh thiệt hại nặng 1 sư đoàn thiếu quân lực Sài Gòn và loại khỏi vòng chiến đấu nhiều tiểu đoàn địch tham chiến phá vỡ hệ thống phòng ngự then chốt của chúng ở bắc Kon Tum và tây nam thị xã Plâyku.

Là một hướng quan trọng trong cuộc tiến công chiến lược năm 1972, cuộc chiến đấu của quân và dân Tây Nguyên đã thu hút và ghìm chân một bộ phận quan trọng lực lượng Quân đoàn 2 trong thời gian khá dài, tạo điều kiện thuận lợi cho Khu 5 đẩy mạnh tiến công chống pháo bình định. Đòn tiến công quân sự đã tạo ra bước tiến nhảy vọt về giải phóng đất đai và giành dân. Lúc này, vùng giải phóng của ta bao gồm hầu hết tỉnh Kon Tum, tây nam thị xã Plâyku và phía tây đường 14, với hơn 4 vạn dân. Trải qua chiến đấu, lực lượng vũ trang Tây Nguyên đã trưởng thành vượt bậc trên nhiều mặt; khối chủ lực mở được chiến dịch tiến công hiệp đồng binh chủng quy mô tương đối lớn; phát triển phong phú chiến thuật đánh công sự vững chắc; không ngừng nâng cao trình độ và tốc độ đánh tiêu diệt; thực hiện đánh giao thông và cắt đường dài ngày, đánh bại các cuộc hành quân giải tỏa đường, đánh tỉa giao thông thường xuyên và đánh tập trung quy mô vừa.

Những thắng lợi mà quân và dân Tây Nguyên giành được trong năm 1972 là tiền đề vững chắc để thực hiện nhiệm vụ chiến đấu và xây dựng trong giai đoạn mới.


(1) Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1999, t.2, tr.419.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Giêng, 2011, 10:18:58 am
*
*   *

Trên chiến trường miền Đông Nam Bộ, từ nửa cuối tháng 5-1972, Bộ Chỉ huy chiến dịch quyết định kết thúc đợt 1 chiến dịch tiến công Nguyễn Huệ. Lúc này, địch vẫn chiếm giữ thị xã Bình Long. Quân ta tiếp tục bao vây thị xã này, khống chế đường 13, giữ vững vùng sâu Phước Tuy, các chi khu Đất Đỏ, Xuyên Mộc, Đức Thạnh… Đồng thời, ta ghìm địch tại Chơn Thành, Lai Khê. Về phía địch, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 chủ trương dùng khối chủ lực hiện có để nới rộng vòng vây ở Bình Long và giải tỏa đường 13, sử dụng các sư đoàn bộ binh 21, 25 và 7 để thực hiện kế hoạch phòng thủ Diên Hồng(1), nhằm ngăn chặn quân ta phát triển tiến công uy hiếp Sài Gòn.

Kiên quyết trong chỉ đạo nhằm tiếp tục đẩy mạnh tiến công quân sự trên các chiến trường, ngày 8-5-1972, đồng chí Lê Duẩn - Bí thư thứ nhất Ban chấp hành Trung ương Đảng chỉ thị cho Trung ương Cục về kế hoạch tác chiến ở An Lộc, trong đó chỉ rõ: “Phương hướng tác chiến tốt nhất là bao vây An Lộc, tập trung lực lượng tiêu diệt viện binh của địch, tiêu diệt được số đơn vị của địch trên đường 13, nhất là hai lữ đoàn…, đồng thời tạo thêm điều kiện để giải phóng An Lộc và uy hiếp Sài Gòn”(2).

Lúc này, Trung ương Cục quyết định điều chỉnh lại thành phần Bộ Chỉ huy chiến dịch Nguyễn Huệ. Đồng chí Hoàng Văn Thái được điều xuống đồng bằng sông Cửu Long chỉ huy chiến dịch tổng hợp. Đồng chí Trần Văn Trà (Tư Chi) và đồng chí Trần Độ (Chín Vinh) về tăng cường cho Sở Chỉ huy Bộ Tư lệnh Miền. Đồng chí Hoàng Cầm (Năm Thạch) và đồng chí Trần Văn Phác (Tám Trần) giữ cương vị Tư lệnh và Chính ủy chiến dịch. Lúc này, chủ trương của Bộ Tư lệnh Miền quyết định chuyển hướng tiến công csang vây lỏng thị xã Bình Long, kiên quyết chốt chặn trên đường 13, thu hút, tiêu hao địch ở ngoài công sự, tạo điều kiện cho việc đánh phá bình định ở Đông Nam Bộ và mở chiến dịch tiến công tổng hợp ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long.

Bước vào đợt chiến đấu mới, từ ngày 16-5-1972, Sư đoàn 7 tiếp tục chốt chặn trên đường 13, nhằm đẩy lùi và đánh bại mọi hành động phản kích của địch, đồng thời bảo vệ vững chắc vùng giải phóng Lộc Ninh. Khu vực tác chiến trên quốc lộ 13 được lựa cọn ở đoạn Tân Khai - Tàu Ô - Xóm Ruộng - Ngọc Lầu, dài 12 km. Đây là khu vực địa hình trống trải, hai bên đường đồng rộng bỏ hoang, tiện cho việc quan sát và thích hợp cho đánh giáp lá cà. Trận địa của Sư đoàn 7 được xây dựng ở hai vị trí bắc suối Tàu Ô(3) do Trung đoàn 14 chốt giữ và nam suối Tàu Ô (ngã ba Ngọc Lầu) do Trung đoàn 12 chốt giữ. Trung đoàn 209 làm lực lượng dự bị, cơ động. Trên từng khu vực chốt chặn, mỗi trung đoàn hình thành hai bộ phận: một bộ phận làm nhiệm vụ chốt chặn, bộ phận còn lại bố trí hai bên sườn sẵn sàng cơ động tiến công địch. Các tiểu đoàn và đại đội cũng hình thành hai bộ phận lực lượng tương tự.

Đồng thời với việc bố trí lực lượng, cán bộ, chiến sĩ của Sư đoàn 7 cùng bộ đội địa phương, dân quân du kích khẩn trương xây dựng và củng cố trận địa (gồm hệ thống hầm. giao thông hào); tổ chức các đơn vị bảo đảm chiến đấu; mỗi đơn vị có từ 30 đến 35 chiến sĩ làm nhiệm vụ tiếp tế, tải thương, chuẩn bị khăn ướt, vải nhựa, than củi để phòng độc). Đồng thời, phương án bố trí lực lượng chốt chặn, lực lượng đánh vận động, các tầng hỏa lực chi viện(4)… cũng được gấp rút hoàn thành.


(1) Kế hoạch Phòng thủ Diên Hồng được đề ra từ tháng 6-1972. Theo đó: dùng lực lượng phía sau của Sư đoàn bộ binh 21 vào nhiệm vụ phòng thủ khu vực đông bắc Sài Gòn, khu vực mang mật danh “khu vực sông Hồng”; Sư đoàn bộ binh 25 vào nhiệm vụ phòng thủ khu vực tây Sài Gòn, “khu vực Đà Giang”; Sư đoàn bộ binh 7 - phòng thủ khu vực nam Sài Gòn, “khu vực Nhật Lệ” và khu vực đông nam Sài Gòn, “khu vực Trà Khúc”, gồm đặc khu rừng Sác, tiểu khu Biên Hòa.
(2) Lê Duẩn: Thư vào Nam, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1985, tr.311.
(3) Con suối Tàu Ô chảy từ tây sang đông tục lộ 13, rộng 20 đến 30 m; về mùa khô, mực nước rất thấp, lòng suối nhiều nơi đất cứng, xe tăng có thể đi qua. Phía nam suối Tàu Ô có cống Ông Tề, rộng 8 m. Địa thế khu vực này tương đối cao, thấp dần về phía nam, do đó đứng ở Tàu Ô có thể nhìn bao quát được khu vực bắc Chơn Thành - nơi đặt Sở chỉ huy của Sư đoàn bộ binh 21 quân đội Sài Gòn.
(4) Ta bố trí hai bên sườn bộ phận chốt các loại hỏa lực như B72, súng 12,7mm, cối 82mm; cấp trung đoàn có cối 120mm; cấp sư đoàn có các đơn vị H12, ĐKB, pháo 85mm, B41 và bãi mìn chống tăng.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Giêng, 2011, 10:20:43 am
Về phía địch, ngày 11-5, chúng điều Trung đoàn 15 (Sư đoàn bộ binh 9) từ đồng bằng sông Cửu Long lên khu vực đường 13, tăng cường cho Sư đoàn bộ binh 21. Ngày 15-5, địch dùng trực thăng đổ bộ Trung đoàn 15 (Sư đoàn 9) và Trung đoàn 33 (Sư đoàn 21) xuống khu vực Tân Khai. Cùng thời gian, Thiết đoàn 9 (thiếu) theo đường bộ, cũng cơ động tới bố trí trận địa tại khu vực này.

Chọn Tân Khai làm căn cứ xuất phát, ngày 19-5-1972, địch hình thành hai hướng, mở cuộc tiến công trận địa chốt trên đường 13 của ta. Trung đoàn 15 và Thiết đoàn 9 là lực lượng chủ công, tiến theo hướng tây đường 13; Trung đoàn 33 làm nhiệm vụ hỗ trợ, tiến theo hướng đông. Chủ động và kiên quyết tiến công địch, bộ đội ta liên tục tổ chức đánh vào đội hình hành quân của chúng tại Đức Vinh (22 và 23-5), Thiết đoàn 9 - lực lượng đột kích của địch bị tụt lại phía sau do gặp phải bãi lầy. Đây là điều kiện thuận lợi để các đơn vị thuộc Trung đoàn 12 (Sư đoàn 7 ) và Trung đoàn 1 (Sư đoàn 9) của ta bao vây, tiến công vào đội hình Trung đoàn 15 Quân lực Việt Nam cộng hòa. Địch sử dụng lực lượng không quân, pháo binh bắn phá chi viện ở mức rất cao cho Trung đoàn 15 trên địa bàn nhỏ hẹp xã Thanh Bình. Các đơn vị Quân giải phóng nhanh chóng áp sát đội hình địch, đánh gần, nhằm hạn chế hỏa lực chi viện của chúng chúng. Vòng vây của quân ta hãm địch vào tình thế nguy khốn(1). Trong 3 ngày (từ 21 đến 23-5) ta đã loại khỏi vòng chiến hơn 300 tên địch.

Trong lúc đó, Trung đoàn 14 (Sư đoàn 7) chủ lực Miền bao vây tiến công cụm quân địch ở Tân Khai, đánh thiệt hại nặng trận địa pháo 105mm và bắn rơi 8 máy bay địch; Trung đoàn 12 (Sư đoàn 7) của ta tiến công tiêu diệt một bộ phận lực lượng Trung đoàn 33. Tuy nhiên ta đã bỏ lỡ cơ hội tiêu diệt gọn Trung đoàn này vì chưa chuẩn bị phương án truy kích khu chúng rút chạy về căn cứ xuất phát vào sáng 29-5.

Trên hướng tiến công chủ yếu, địch dùng Thiết đoàn 9 để tiếp tế và tải thương cho lực lượng bị bao vây của Trung đoàn 15. Thế nhưng, lực lượng ứng cứu này đã bị Trung đoàn 12 (Sư đoàn 7) tổ chức vận động phục kích, đánh thiệt hại nặng.

Mặc dù chịu nhiều thiệt hại về lực lượng và phương tiện chiến đấu, nhưng địch đã nhanh chóng khôi phục lại lực lượng, tiếp tục mở đường vào thị xã Bình Long. Những ngày đầu tháng 6-1972, Trung đoàn 15 được tăng cường Tiểu đoàn 2 dù (330 quân) vượt qua trận địa chốt chặn của ta ở đông xã Thanh Bình (8-6) và hợp điểm với lực lượng của chúng từ trong thị xã tiến ra tại khu vực cống Ka Cam. Đồng thời, Trung đoàn 48 (Sư đoàn bộ binh 18) đổ bộ đường khong xuống thị xã thay cho Lữ đoàn 1 dù. Lúc này, ta vẫn giữ được các vị trí ở ngoại vi thị xã như khu vực sân bay Téc Ních, Tân Lợi, Núi Gió, điểm cao 169.

Ở hướng tiến công phía nam, ngày 21-5, lợi dụng lúc ta thay quân, địch đánh chiếm khu vực chốt tại nam cống Ông Tề. Trung đoàn 32 (sư đoàn bộ binh 21) quân đội Sài Gòn và hai tiểu đoàn biệt động (65 và 73) nhanh chóng phát triển tiến công sang khu chốt ở bắc cống Ông Tề. Kiên quyết bảo vệ trận địa, Trung đoàn 209 (Sư đoàn 7) chủ lực Miền lập tức triển khai lực lượng, mở cuộc tiến công nhằm chiếm lại các vị trí vừa mất. Tại những khu vực này, ta và địch giành giật với nhau từng đoạn chiến hào, từng vị trí chiến đấu. Pháo binh địch tại Chơn Thành nã vào khu vực trận địa ta với mật độ cao (có ngày địch bắn tới 10.000 viên vào khu vực chính diện 2 km). Đồng thời, máy bay B.52 cùng với các loại máy bay chiến thuật AD6, A37 oanh tạc dữ đội. Dưới bom, đạn đánh phá ác liệt của địch, lại thêm những trận mưa đầu mùa, lực lượng ta bị tiêu hao lớn, công sự trận địa nhiều nơi bị vỡ do bom đạn và nước ngập. Lúc này mỗi tiểu đoàn của ta chỉ còn từ 100 đến 150 cán bộ, chiến sĩ. Lương thực cạn kiệt, bộ đội có lúc phải nhịn đói vì không tiếp tế được. Trước tình hình đó, Bộ Chỉ huy chiến dịch quyết định rút Trung đoàn 14 lúc này đang cùng Trung đoàn 12 chốt giữ khu vực Tân Khai - Đức Vinh xuống khu vực cống Ông Tề tăng cường cho Trung đoàn 209. Có thêm lực lượng, bộ đội ta hình thành đội hình phản kích địch. Trên hướng chính diện, ta sử dụng một bộ phận lực lượng vận động áp sát và tạo ra đội hình xen kẽ với địch nhằm hạn chế phi pháo của chúng; một bộ phận khác bí mật luồn ra phía sau, đánh các trận địa pháo và bãi xe tăng của địch. Bằng cách đánh gần, ta giành giật với địch từng khu vực, từng chốt, từng hầm, từng công sự. Qua hơn hai tuần quần lộn với địch, từ ngày 21-5 đến ngày 6-6, ta đã giành lại trận địa, đồng thời đánh thiệt hại nặng hai tiểu đoàn địch, buộc Trung đoàn 32 (Sư đoàn bộ binh 21) quân đội Sài Gòn phải lùi về Chơn Thành để củng cố.


(1) Chiến sử Bình Long của địch ghi lại: “Tại đây, đau xót nhất là với dòng suối Xa Cát trải dài trước mặt, binh sĩ Trung đoàn 15 (thiếu) cần nước uống mà không thể lấy được, bởi vì vừa ròi khỏi các hố phòng thủ thì địch từ bên kia bờ suối nhắm bắn ngay, hết sức dữ dội”, dẫn theo Chiến sử Bình Long, Sài Gòn, Bộ Tham mưu Quân lực Việt Nam cộng hòa, 1973, tr.162-163.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Giêng, 2011, 10:22:56 am
Từ ngày 21-6-1972, địch điều Trung đoàn 48 (Sư đoàn bộ binh 25) và Thiết đoàn 3 từ đường 22 sang đường 13, phối hợp cùng với Trung đoàn 33 (Sư đoàn bộ binh 21) và Lữ đoàn dù 1 mở cuộc tiến công quy mô sư đoàn tăng cường vào khu chốt Tàu Ô. Với số quân đông, tiến công trên hướng chính diện 2km, địch tỏ rõ quyết tâm nhổ bật “chiếc đinh cái”(1) án ngữ trục đường 13. Bắt đầu từ ngày 22-6, được phi pháo yểm trợ, các mũi tiến công của địch liên tục đột phá vào các chốt của ta. Với thế trận được bố trí sẵn, vận dụng chiến thuật chốt kết hợp với vận động tiến công, các đơn vị Quân giải phóng đã chạn đánh chó hiệu quả các mũi tiến quân của địch, làm cho đội hình của chúng rối loạn và mất dần khả năng tiến công. Qua 9 ngày đêm (từ 22-6 đến 30-6) chống trả quyết liệt với địch, bộ đội ta đã đánh thiệt hại nặng Trung đoàn 46, diệt 6 xe tăng M41 và bắt số 1 chiếc khác. Trung đoàn 46 quân đội Sài Gòn phải lui về Xóm Ruộng, chất dứt cuộc hành quân đầy tham vọng.

Tuy nhiên, sau nhiều tháng quần lộn với địch, trong điều kiện thời tiết không thuận lợi, bộ đội ta sức chiến đấu đã giảm sút, khả năng bảo đảm hậu cần gặp rất nhiều khó khăn. Mặc dù vân giữ được trận địa chốt Tàu Ô, nhưng các con đường tiếp tế cho lực lượng ta ở đây đều bị địch khống chế. Nhận thấy áp lức của ta trên đường 13 giảm xuống, từ ngày 14-7 sau khi điều chỉnh lại lực lượng(2), bổ sung quân số và vũ khí, địch tập trung toàn bộ Sư đoàn bộ binh 25 và Trung đoàn 31 (Sư đoàn bộ binh 21) chia thành ba cánh, tiến công ào ạt vào trận địa chốt của ta. Chúng nhanh chóng hình thành các chốt nhỏ dọc đường tiến quân nối từ ngã ba Xóm Ruộng đến Tàu Ô. Dựa vào các chốt này, địch tiến công sang các chốt của ta, chia cắt trận địa và chặn đường tiếp tế của ta. Đã có lúc lực lượng tiếp tế của ta phải cải trang, giả tranh thành binh lính Sài Gòn, trà trộn vào đội hình của chúng, bất chấp mọi hiểm nguy, đưa nhu yếu phẩm đến cho bộ đội ở các chốt.

Chiến đấu trong điều kiện khó khăn, gian khổ, thiếu thốn như vậy, nên trong suốt cả tháng 7, cán bộ chiến sĩ ta ở khu vực chốt Tàu Ô chỉ đủ sức chiến đấu cầm cự với địch, nhằm giữ vững các chốt cơ bản.

Sang nửa đầu tháng 8-1972, sau nhiều trận phản kích nhằm làm giảm sức ép của địch xung quanh các chốt không có kết quả, Bộ Chỉ huy chiến dịch Nguyễn Huệ quyết định sử dụng một bộ phận lực lượng đánh vào cụm căn cứ phía sau của địch ở khu trung tuyến như Lai Khê, Chơn Thành - nơi đặt Sở Chỉ huy của Bộ Tư lệnh tiền phương Quân đoàn 3 và Sở Chỉ huy Sư đoàn bộ binh 25 quân đội Sài Gòn, nhằm thu hút địch từ trước về phía sau, giảm sức ép của chúng trên khu vực chốt Tàu Ô, đồng thời hạn chế khả năng địch đưa lực lượng đánh ra vùng giải phóng của ta.

Thực hiện chủ trương mới này, ngày 11-8-1972, bộ đội đặc công cùng với Tiểu đoàn pháo cối 22mm của ta bất ngờ tập kích căn cứ Lai Khê. Trong lúc đó, một bộ phận lực lượng của Sư đoàn bộ binh 7 và Trung đoàn 205 vận động phục kích đoạn đường từ Chơn Thành đi Lai Khê, chốt chặn đoạn từ Bàu Bàng - Lai Khê, sẵn sàng đón đánh quân địch từ phía bắc đến giải tỏa cho Lai Khê. Nhận được tin căn cứ Lai Khê bị tiến công, địch vội vã điều Liên đoàn biệt động quân số 6 từ Biên Hòa lên ứng cứu. Chúng dùng trặc thăng không vận hai tiểu đoàn, tiểu đoàn còn lại đi theo đường bộ. Liên đoàn biệt động quân số 3 bấy giờ đứng chân trên đường 22 cũng được lệnh lập tức di chuyển sang đường 13, đóng quân tại Bến Cát làm dự bị phía sau cho Liên đoàn biệt động quân số 6. Như vậy, phản ứng đầu tiên của địch là điều lực lượng từ phía sau lên, chứ chưa điều Sư đoàn bộ binh 25 quay về ứng cứu. Điều đó không nằm ngoài phán đoán của ta. Vì vậy, ngay khi các tiểu đoàn của Liên đoàn biệt động quân số 6 đang di chuyển, chứa kịp triển khai đội hình chiến đấu, các đơn vị của ta lập tức chặn đánh, tập kích vào đội hình của chúng, gây thiệt hại nặng cho Tiểu đoàn 35 ở bắc Lai Khê. Tiểu đoàn 51 ở tây nam Bầu Bàng (21, 22-8). Để tránh bị tiêu diệt, tiểu đoàn còn lại của địch phải cắt đường chạy về phía nam vào ngày 27-8.


(1) Địch coi trận địa chốt của ta trên đường 13 như “chiếc đinh cái”.
(2) Nhận thấy áp lực của ta trên mặt trận đường 13 đã giảm bớt, trong lúc tình hình ở Quảng Trị rất căng thẳng và đồng bằng sông Cửu Long đang bị ta tiến công, địch lần lượt thay quân trên toàn mặt trận đường 13, đồng thời rút bớt lực lượng ở đây để tăng cường cho các chiến trường khác. Chúng điều Sư đoàn bộ binh 18 và Liên đoàn biệt động quân số 5 lên phòng thủ thị xã Bình Long thay cho Sư đoàn bộ binh 5 + Lữ đoàn dù 1 + Liên đoàn 81 + Liên đoàn biệt động quân số 3; đưa Lữ đoàn dù 1 và Liên đoàn 81 ra Quảng Trị. Ngày 24-7, hai đơn vị này đã có mặt trong đội hình của cuộc hành quân Lam Sơn 72. Trên đường 13, Sư đoàn bộ binh 25 và 2 tiểu đoàn 73 và 74 biệt động quân đến thay thế cho Sư đoàn bộ binh 21 và Trung đoàn 15 về đồng bằng sông Cửu Long để ứng phó với chiến dịch đánh phá tổng hợp của ta.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Giêng, 2011, 10:26:30 am
Ngày 28-8, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 lệnh cho Sư đoàn 25 bỏ Tàu Ô lui về Chơn Thành và Lai Khê để cứu vãn tình thế ở vùng trung tuyến. Không bỏ lỡ thời cơ, ngày 1-9-1972, ta tổ chức truy kích Sư đoàn 25 đang trên đường vận động, loại khỏi vòng chiến gần 600 tên, bắt sống 84 tên, thu 180 súng các loại. Đây là trậ đánh cuối cùng sau 135 ngày đêm bộ đội ta chốt chặn trên đường 13. Sau trận đánh, địch phải từ bỏ cố gắng giải tỏa đường 13.

Trong thời gian này, phối hợp với hướng chủ yếu trên đường 13, quân và dân địa phương đẩy mạnh hoạt động đánh phá bình định, củng cố vùng giải phóng, tập kích vào một số mục tiêu ở Phước Long như sân bay Phước Bình, Sở Chỉ huy Trung đoàn 9 (Sư đoàn bộ binh 5) quân đội Sài Gòn, đài tiếp vận núi Bà Rá, chi khu Bồ Đức; gây tổ thất đáng kể cho địch. Trên hướng đường 22 và đường 1, ta tập kích đài truyền tin núi Bà Đen (5-5), diệt nhiều đồn bốt, làm chủ khu vực Tòa thánh Tây Ninh. Tiếp đó, ta tập kích Trung đoàn 31 (Sư đoàn bộ binh 21) của địch khi chúng vừa được điều động đến phụ trách khu vực Trảng Bàng - Bảo Nghĩa. Với những thắng lợi trên đây, ta chẳng những giữ vững được vùng mới giải phóng, mà còn nối thông vùng này và vùng căn cứ địa ở Tây Ninh.

Ở vùng giáp ranh Sài Gòn, các lực lượng vũ trang ta duy trì các hoạt động tập kích, phục kích, quấy rối và tiêu hao sinh lực và phương tiện chiến tranh của địch. Đặc biệt, sân bay Biên Hòa bị ta phản kích (31-8) và dùng lực lượng tinh nhuệ bí mật đột nhập (10-9) phá hủy hàng trăm máy bay các loại, bắn cháy 4 xe tăng và loại khỏi vòng chiến gần 160 tên địch(1).

Tại khu vực Bình Long, cho đến cuối tháng 8, ta không còn giữ được thế bao vây uy hiếp thị xã. Sau các đợt phản kích quyết liệt, địch đã chiếm lại các khu vực xung quanh như điểm cao (28-7), Núi Gió (9-8), Tân Lợi (20-8) và một phần sân bay Téc Ních (6-9). Ở Phước Tuy, ta cũng để mất chi khu Đất Đỏ - Xuyên Mộc vào ngày 12-8, sau gần 3 tháng chiếm giữ.

Tháng 9-1972 đi qua cũng là lúc hoạt động tác chiến trong khuôn khổ chiến dịch Nguyễn Huệ của quân và dân ta tròn 6 tháng. Suốt 6 tháng ròng rã, trên địa bàn trọng yếu của chiến trường Đông Nam Bộ - Bình Long, lần đầu tiên, lực lượng vũ trang ta tổ chức và thực hành chiến dịch quy mô cấp quân đoàn tăng cường, có hiệp đồng binh chủng; lần đầu tiên ta tổ chức trận địa chốt chặn trong khoảng thời gian 4 tháng trên một tuyến đường huyết mạch đường 13, và đã thu được những thắng lợi quan trọng. Ta đã giải phóng và tạo lập được vùng làm chủ, vùng giải phóng dọc theo biên giới Việt Nam - Campuchia, nối thông với căn cứ địa Tây Ninh: khống chế hoàn toàn đường 13 từ bắc Chơn Thành lên đến Bình Long, giành được thắng lợi bước đầu ở tuyến trung gian.

Tuy nhiên, do phải chiến đấu dài ngày, trong điều kiện vô cùng ác liệt, lực lượng bị tiêu hao lớn, sức chiến đấu của bộ đội giảm sút, Bộ Tư lệnh chiến dịch quyết định: Đồng thời với việc kiềm chế chủ lực địch trên đường 13 và thị xã Bình long, chuyển trọng tâm chiến dịch vào cuộc đánh phá bình định ở vùng sâu bắc Bình Dương thuộc Phân khu 5 và vùng Củ Chi đường 1 thuộc Phân khu 1, kết hợp tranh thủ bổ sung, chấn chỉnh, củng cố lực lượng(2)

Thực hiện chủ trương huyển trọng tâm hoạt động trên đây, Bộ Tư lệnh chiến dịch sử dụng Sư đoàn bộ binh 7 được tăng cường thêm Trung đoàn bộ binh 205 và 2 tiểu đoàn đặc công thuộc Trung đoàn 249 cùng bộ đội địa phương, dân quân, du kích, mở đợt đánh phá bình định trên hai hướng bắc Bình Dương (hướng chính) và Củ Chi (hướng phụ); Sư đoàn bộ binh 9 tiếp tục trụ bám và kiềm chế địch trên đường 13. Trên hướng chính bắc Bình Dương, ta thành lập Bộ Chỉ huy chung gồm các đồng chí Bộ Tư lệnh Sư đoàn 7, Trung đoàn đặc công 249 và Huyện đội trưởng huyện Bến Cát. Lực lượng tập trung của huyện Bến Cát lúc này gồm có Đại đội 61 và Đại đội 5 (nữ), dân quân du kích biên chế từ tiểu đội đến một trung đội mỗi xã, đặt dưới sự chỉ huy trực tiếp của Ban Chỉ huy huyện đội gồm đồng chí Út Phương và Tám Hòa.


(1) Địch thú nhận bị cháy 108 máy bay các loại, 1 xưởng vô tuyến điện, 57 căn nhà và chết 31 lính (Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử chiến dịch Nguyễn Huệ (1972), tr.49).
(2) Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử chiến dịch Nguyễn Huệ (1972), tr.52-53.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Giêng, 2011, 10:28:33 am
Bước vào đợt tiến công, ngày 3-10-1972, pháo binh ta bắn phá mạnh căn cứ Lai Khê, tạo điều kiện cho lực lượng chủ yếu tiến sâu xuống Bình Dương. Phán đoán ý định tiến công của ta, địch lập tức điều 2 trung đoàn 50 và 45 thuộc Sư đoàn bộ binh 25 từ bắc Thủ Dầu Một lên án ngữ khu vực Chánh Lưu và Bình Hòa ở khu vực đông nam Lai Khê để bịt các mũi tiến công từ phía bắc xống. Dù vậy, đêm 5, rạng ngày 6-1972, Trung đoàn bộ binh 205 có lực lượng đặc công phối thuộc đã tiến công dọc theo đường 13, tỉnh lộ 15 và liên tỉnh lộ 14 xuống bắc Bình Dương. Ngày 10-10, lực lượng tiến công đã đánh chiếm và làm chủ khu vực Thới Hòa, Chánh Lưu, An Lợi, Hòa Lợi, Phú Chánh, diệt một bộ phận sinh lực và chiếm một số đồn bốt của địch. Sau khi dùng hai trung đoàn phản kích ở nam Chánh Lưu không thành, địch sử dụng máy bay oanh tạc khu dân cư An Lợi (cách Bến Cát 9 km về phía đông nam). Từ ngày 10 đến ngày 20-12-192, Sư đoàn 7 (thiếu) cùng vối lực lượng vũ trang địa phương tiếp tục mở các thế trận tiến công đánh phá binh định ở khu vực đông bắc Phú Lợi, Lái Thiêu, Bình Nhâm, Bình Chunả, Bình Mỹ và Bình Cơ dọc theo trục lộ 14.

Trước hoạt động mạnh mẽ của ta, địch tung một lực lượng đáng kể vào các đợt phản kích hòng chiếm lại khu vực Tân Định, Thái Hòa (đông tây đường 13). Đồng thời, máy bay B.52 ném bom rải thảm khu vực Phú Hòa - An Thạnh(1) gây thương vong và trở ngại cho ta. Vượt qua thử thách, bộ đội ta chiến đấu dũng cảm, chặn đứng các mũi phản kích của địch. Từ ngày 21-10đến 3-11, hai trung đoàn 205 và 14 thuộc Sư đoàn 7 cùng lực lượng tại chỗ trên hướng chính chặn đánh quyết liệt lực lượng phản kích, diệt nhiều sinh lực và phương tiện chiến tranh của chúng, giữ vững vùng giải phóng và mở rộng khu vực làm chủ ở Thới Hòa - Bình Nhâm - An Sơn.

Trên hướng phối hợp khu vực đường số 1, Trung đoàn 209 (Sư đoàn 7) và lực lượng địa phương đẩy mạnh các hoạt động tiến công, hỗ trợ cho đấu tranh chống phá bình định ở khu vực nam bắc Trảng Bàng, từ Gia Huỳnh đến Phước An. Vào thời điểm này, ta gia tang hoạt động trên hướng đường 13, chặn cắt đoạn từ Lai Khê đi Bến Cát, vây ép lực lượng địch ở Ninh Hòa. Trước sức ép ngày một lớn của ta, ngày 20-10-1972, địch ở Ninh Hòa buộc phải rút chạy, sau hơn 10 ngày cố thủ. Phong trào tiến công, bộ đội ta nhanh chóng hình thành thế bao vây chi khu Dầu Tiếng - Rạch Bắp, đồng thời chặn đánh quyết liệt, đẩy lùi các cuộc phản kích của địch ra khu vực sân bay Téc Ních.

Sau hơn một tháng chuyển hướng hoạt động chiến dịch (từ ngày 3-10 đến ngày 3-11-1972) ta đã tiêu hao, tiêu diệt được một bộ phận lực lượng bảo an, dân vệ của địch, gồm hơn 6.000 tên, bức rút 30 đồn bốt, làm chủ 28 xã với 60.000 dân thuộc khu vực phía bắc Sài Gòn; đưa được một số dân ra vùng giải phóng, mở rộng quyền kiểm soát ở Ninh Hòa và khu vực Dâu Tiếng, giành lại sân bay Téc Ních.

Những tháng cuối của năm 1972 cho đến ngày Hiệp định Pari được ký kết, trên chiến trường miền Đông Nam Bộ, ta và địch ở vào trạng thaií giằng co quyết liệt. Mặc dù địch không đủ sức tái chiếm lại những khu vực đã mất, nhưng ta cũng chưa đủ sức để đẩy mạnh tiến công hơn nữa. Nắm bắt tình hình thực tế chiến trường và được sự chỉ đạo chặt chẽ của Quân ủy Trung ương và Bộ Chính trị, Trung ương Cục và Bộ Tư lệnh Miền yêu cầu Bộ Tư lệnh chiến dịch Nguyễn Huệ khẩn trương hình thành phương án mới nhằm bảo vệ vững chắc vùng giải phóng và sẵn sàng đánh địch lấn chiếm. Thực hiện yêu cầu này, Bộ Tư lệnh chiến dịch điều chỉnh thế bố trí các sư đoàn chủ lực và các đơn vị binh chủng. Theo đó, Sư đoàn 9 (thiếu) triển khai ở khu vực bắc Chơn Thành đến thị xã Bình Long có nhiệm vụ đánh địch phản kích hòng giải tỏa đường 13, giữ vững vùng giải phóng Lộc Ninh; Sư đoàn 7 tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động quân sự, hỗ trợ cho việc đánh phá bình định ở khu vực Bình Dương; Trung đoàn 205 đứng chân ở tây bắc Bầu Bàng làm lực lượng dự bị cho chiến dịch.

Lúc này địch cũng ra sức sắp xếp lại lực lượng, củng cố khả năng phòng thủ ở tuyến trung gian. Ba liên đoàn biệt động 3, 5, 6 từ Bình Dương được điều lên thị xã Bình Long thay cho Sư đoàn bộ binh 18 để sư đoàn này về lại khu vực trách nhiệm trước đây ở phía đông Sài Gòn (Biên Hòa - Long Khánh - Bà Rịa); Trung đoàn 8 (Sư đoàn bộ binh 5) từ Chơn Thành được điều về Bến Cát, hoàn chỉnh đội hình của Sư đoàn 5 với khu vực trách nhiệm ở bắc Sài Gòn từ đường 13 đến đường 16.


(1) Tại đây, hai đồng chí Trung đoàn trưởng và Trung đoàn phó Trung đoàn 205 của ta đã bị trúng bom, hy sinh.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Giêng, 2011, 10:29:43 am
Bước sang tháng 12-1972, trước khi di chuyển lực lượng, bố trí lại đội hình theo phương án mới, các đơn vị Quân giải phóng chủ động mở đợt hoạt động 10 ngày từ 5 đến ngày 15-12-1972, tiến công địch trên khu vực đông tỉnh lộ 1 (Vĩnh Trường - Khánh Sơn - Phú Chánh) và khu vực nam bắc tỉnh lộ 8 Phú Hòa Đông, đẩy địch tiếp tục lui về thế phòng thủ. Tại vùng sau lưng địch, ngày 6-12, pháo binh ta bắn phá sân bay Tân Sơn Nhất, phá hủy 85 máy bay các loại, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 200 nhân viên kỹ thuật, phá hủy 2 dãy kho chưa nhiên liệu. Ngày 13-12, đặc công ta đột nhập vào khu kho Thành Tuy Hạ, phá hủy 18.000 tấn bom, 50.000 tấn đạn pháo(1). Đợt hoạt động này của ta tạo thêm những điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện kế hoạch rút phần lớn lực lượng lớn về phía sau củng cổ.

Ngày 30-12-1972, địch sử dụng Sư đoàn bộ binh 5 mở cuộc hành quân đánh ra đường 14, đoạn Rạch Bắp đi Dầu Tiếng và lấn chiếm vùng giải phóng Long Nguyên - Minh Hòa. Trung đoàn 8 (Sư đoàn 5) là cánh quân chủ công, tiến dọc theo đường 14 lên Dầu Tiếng. Sớm phát hiện được âm mưu và thủ đoạn của địch, ngay từ ngày 29-12-1972, Bộ Tư lệnh chiến dịch Nguyễn Huệ quyết định giao nhiệm vụ cho Sư đoàn bộ binh 7, bằng mọi giá phải chặn đứng cuộc hành quân của địch. Ngay lập tức Sư đoàn 7 triển khai đội hình chặn địch cả trên hướng tiến công chính và hướng tiến công phối hợp của chúng. Đến sáng sớm ngày 19-1-1973, Trung đoàn 14 và Trung đoàn 209 (Sư đoàn 7) chia làm nhiều mũi, tiến công cụm quân địch thuộc Tiểu đoàn 1 và 2 (Trung đoàn 8 - Sư đoàn 5) quân Sài Gòn, đánh thiệt hại nặng hai tiểu đoàn này của địch, số còn lại, vào lúc 12 giờ cùng ngày bỏ trận địa, bỏ lại những đồng bọn bị thương, tìm đường rút chạy. Thế nhưng toàn bộ số này, ngay sau đó rơi vào trận địa đón lõng của ta, một số bị diệt, số còn lại bị bắt sống. Hai tiểu đoàn của địch gần như bị xóa sổ. Sau chiến thắng này, đợt 3 chiến dịch Nguyễn Huệ chấm dứt và đó cũng là trận đánh khép lại 10 tháng chiến đấu ròng rã của quân và dân ta trên khắp chiến trường miền Đông Nam Bộ trong khuôn khổ chiến dịch Nguyễn Huệ.

Cho đến thời điểm đầu năm 1973, đây là chiến dịch tiến công hợp đồng binh chủng có quy mô lớn nhất ở chiến trường Nam Bộ. Lần đâu tiên trên chiến trường miền Đông Nam Bộ, ta đưa vào sử dụng xe tăng (2 tiểu đoàn) pháo xe kéo (2 trung đoàn). Ròng rã 10 tháng chiến đấu bằng hình thức phòng ngự trận địa phối hợp với những cuộc phục kích liên tục vào sườn và phía sâu lưng địch, các đơn vị Quân giải phóng thâm gia chiến dịch đã đánh bại các cố gắng quân sự của địch, giữ vững khu chốt chặn ở Tàu Ô trên đường 13, cắt đứt thị xã Bình Long với các lực lượng chủ yếu của địch ở Chơn Thành, Lai Khê… Ta đã đánh thiệt hại nặng 5 chiến đoàn - trung đoàn (tương đương 6 tiểu đoàn chủ lực); 3 trung đoàn thiết giáp, 30 đại đội pháo và nhiều đơn vị quân địa phương của địch; bắt hơn 5.000 tù binh, phá hủy, phá hỏng 897 máy bay các loại, 1.000 xe quân sự, 250 khẩu pháo, 200 tàu xuồng chiến đấu trên sông cùng một khối lượng lớn các loại vũ khí, đạn dược, nhiên liệu. Đặc biệt, ta đã thu được 282 xe quân sự, 6.837 súng các loại (có 50 pháo)… Bao vây Bình Long, chốt chặn trên đường 13, chiến dịch Nguyễn Huệ đã thu hút, ghìm chân một lực lượng lớn quân đội Sài Gòn thuộc Quân đoàn 3, tạo điều kiện cho chiến dịch đánh phá tổng hợp ở đồng bằng sông Cửu Long, phối hợp nhịp nhàng với các hướng tiến công Trị - Thiên, Tây Nguyên, góp phần làm thay đổi tương quan lực lượng và thế bố trí chiến lược giữa ta và địch trong năm 1972.

*
*   *

Thắng lợi vang dội của cuộc tiến công chiến lược năm 1972 của quân và dân ta trên chiến trường miền Nam, từ giữa năm 1972, địch tập trung lực lượng - cả trên bộ, trên không, trên sông, trên biển, mở cuộc phản kích quyết liệt trên các hướng Trị - Thiên, Tây Nguyên, miền Đông Nam Bộ, hòng chiếm lại những địa bàn vừa bị mất. Cuộc chiến đấu giữa ta và địch diễn ra rất quyết liệt. Trong cuộc chiến đấu đó, cả hai bên đều dồn sức nhằm khẳng định ý chí, quyết tâm và sức mạnh quân sự, chính trị trên chiến trường, phục vụ cho cuộc đấu tranh trên mặt trận ngoại giao ở Hội nghị Pari. Phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng, quân và dân ta trên khắp chiến trường miền Nam đã anh dũng chiến đấu và đánh trả có hiệu quả các nỗ lực quân sự điên cuồng của địch ở Quảng Trị, ở Tây Nguyên, ở miền Đông Nam Bộ; giữ vững kết quả đã giành được, giữ vững thế trận chiến tranh nhân dân cả ba vùng chiến lược, tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc đấu tranh chống phá bình định ở vùng đồng bằng Khu 5 và đồng bằng sông Cửu Long.


(1) Viện Lịch sử quân sự Việt Nam - Phân viện phía nam: Lịch sử chiến dịch Nguyễn Huệ (1972), tr.55.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 21 Tháng Giêng, 2011, 10:42:31 am
CHƯƠNG XXX

CHỐNG PHÁ BÌNH ĐỊNH Ở MIỀN NAM,
CÙNG QUÂN VÀ DÂN LÀO, CAMPUCHIA TIẾN CÔNG,
MỞ RỘNG VÙNG GIẢI PHÓNG

I - CHIẾN DỊCH TIẾN CÔNG TỔNG HỢP Ở KHU 5
VÀ ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

Tiếp tục phát huy những thắng lợi và kinh nghiệm của phong trào đấu tranh chống phá bình định năm 1971, trong năm 1972, bên cạnh chủ trương sử dụng quả đấm chủ lực tiêu diệt và làm tan rã một bộ phận quan trọng chủ lực quân đội Sài Gòn, đặc biệt là lực lượng cơ động chiến lược - nhân tố có tính chất quyết định tạo nên sự thay đổi căn bản so sánh thế và lực của ta và địch, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng đồng thời quyết định tiến hành mở các chiến dịch tổng hợp, nhằm tiêu hao, tiêu diệt và làm tan rã một bộ phận quan trọng lực lượng vũ trang, nhất là lực lượng tại chỗ như bảo an, dân vệ, phá tan bộ máy kìm kẹp ở cơ sở, phá đồn bốt, giải phóng phần lớn đất đai vùng nông thôn và nhân dân, đánh bại cơ bản âm mưu bình định của địch. Hướng tiến công đánh phá bình định, mở vùng, mở mảng trọng điểm trong năm 1972 được xác định là đồng bằng sông Cửu Long (chủ yếu là Khu 8) và đồng bằng Khu 5. Với các vùng đô thị, Bộ Chính trị đã chỉ thị phải tiếp tục đẩy mạnh phong trào đấu tranh chính trị và hoạt động vũ trang (của đặc công, biệt động thành…) tạo sự phối hợp chặt chẽ với quả đấm chủ lực và quả đấm đánh phá bình định, hình thành nên thế tiến công ngày càng mạnh mẽ, rộng khắp trên cả ba vùng chiến lược.

Thực hiện quyết tâm và kế hoạch chiến lược của Bộ Chính trị, Trung ương Cục và Quân ủy Miền quyết định mở chiến dịch tiến công tổng hợp ở khu vực nam bắc đường số 4. Địa bàn mở chiến dịch bao gồm một vùng rộng lớn thuộc các tỉnh: Mỹ Tho, Kiến Tường, Kiến Phong, Gò Công và Bến Tre; trải qua trên khắp 31 huyện, 5 thị xã, 144 xã, 1.939 xóm ấp, với tổng diện tích trên 1 vạn km¬2, dân số 2 triệu 11 vạn người. đây là địa bàn có vị trí chiến lược quân sự trọng yếu của đồng bằng sông Cửu Long, địa bàn có hệ thống giao thông đường thủy ngang dọc thuận lợi như các sông Tiền, Cổ Chiên, Cửu Long, các kênh Dương Văn Dương, Nguyễn Văn Tiếp, Chợ Gạo… cùng mạng đường bộ dọc ngang nối với trục quốc lộ số 4, tạo nên sự gắn kết giữa Sài Gòn và các tỉnh miền Tây Nam Bộ (Khu 9). Thêm nữa, nơi đây còn có căn cứ Đồng Tháp Mười tiếp giáp với biên giới Campuchia, tạo điều kiện thuận lợi cho việc vận chuyển và tiếp nhận hàng hóa, vật chất và lực lượng chi viện cho hoạt động của lực lượng vũ trang ta ở Nam Bộ.

Ngay từ những năm đầu chiến tranh, Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã đặc biệt chú trọng tới việc bình định địa bàn này. Theo báo cáo của Trung tâm hành quân Bộ Tư lệnh Vùng 4 chiến thuật Quân lực Việt Nam cộng hòa, cuối quý I năm 1972, tại địa bàn các tỉnh Mỹ Tho, Kiến Tường, Kiến Phong, Gò Công và Bến Tre, quân chủ lực địch có Sư đoàn 7, Liên đoàn 41 biệt động biên phòng (11 tiểu đoàn), lực lượng bảo an có 4 tiểu đoàn, 21 liên đội và 65 đại đội độc lập. Ngoài ra, trên địa bàn này, địch còn có 3 liên đội và 428 trung đội dân vệ, 4 đại đội và trên 3.000 cảnh sát dã chiến ở các phân, chi khu chiến thuật; 74 khẩu pháo 105 mm và 155 mm; thiết giáp có 1 chiến đoàn (Trung đoàn 6) và 2 chi đoàn; hải quân có 1 liên đoàn đặc nhiệm và 5 đại đội tuần giang. Với lực lượng trên, địch tổ chức thành ba tuyến phòng thủ.

Tuyến biên giới, gồm Liên đoàn 41 biệt động biên phòng kết hợp với lực lượng bảo an, dân vệ, biệt kích. Dựa vào hệ thống đồn bốt, tiểu khu, chi khu, yếu khu, địch tổ chức phòng thủ, ngăn chặn hành lang biên giới đoạn từ Tân Thành - Cả Cái - Tuyênh Bình - Long Khốt - Vàm Cỏ Tây đến căn cứ Tuyên Nhơn. Khi cần thiết, địch sẽ đưa Sư đoàn 7 hoặc từ 1 đến 2 liên đoàn biệt động quân cơ động lên tăng cường.

Tuyến kênh Dương Văn Dương và Nguyễn Văn Tiếp (gồm các mục tiêu chủ yếu như: Gầy, Kinh Quận, Kiên Bình (dọc kinh Dương Văn Dương), Mỹ An, Thiên Hộ, Mỹ Phước Tây (thuộc kênh Nguyễn Văn Tiếp). Đây là tuyến trung gian - tuyến giữ vai trò trọng yếu để ngăn chặn lực lượng ta từ hướng biên giới cơ động xuống, đồng thời phát hiện và đối phó với sự tiến công và nổi dậy tại chỗ của quân và dân ta. Lực lượng địch bố trí trên tuyến này là các trung đoàn 11 và 12 thuộc Sư đoàn 7, các tiểu đoàn và liên đội bảo an.

Tuyến đường 4, được xác định là tuyến xương sống - giữ vai trò và vị trí có ý nghĩa sống còn đối với quyền kiểm soát của chúng ở đồng bằng sông Cửu Long. Do vậy, trên tuyến này, địch bố trí một lực lượng mạnh, gồm Sư đoàn 7, các đơn vị bảo an tiểu khu, chi khu, lực lượng thiết giáp kết hợp với hệ thống đồn bốt bảo an tại chỗ đảm trách. Khi bị ta tiến công lớn, địch có thể tăng cường từ 2 đến 3 trung đoàn bộ binh, 1 trung đoàn thiết giáp để giải tỏa. Trong trường hợp nếu lực lượng ứng cứu đến không kịp, quân địch sẽ co cụm lại, quyết tâm giữ các vị trí then chốt án ngữ dọc theo đường 4 như: Thẻ 23, Cai Lậy, Long Định, ngã ba Trung Lương, thị xã Mỹ Tho, Tân Hiệp. Do tầm quan trọng đối với ta và địch, đường 4 là tuyến giành giật quyết liệt giữa hai bên tại khu vực miền Trung Nam Bộ, đặc biệt trong năm 1972.



Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 21 Tháng Giêng, 2011, 10:43:47 am
Cùng với tập trung lực lượng, đây còn là địa bàn trọng điểm bình định của địch. Phần lớn dân cư bị địch dồn ép buộc phải rời bỏ nhà cửa, ruộng vườn, làng xóm vào sống tại các ấp chiến lược, khu tập trung ở ven các trục giao thông (quốc lộ 4, các tỉnh lộ 12, 20, 28, 30), dọc hai bên các tuyến kênh Dương Văn Dương, Nguyễn Văn Tiếp, Chợ Gạo. Đặc biệt, bước sang năm 1972, năm có tầm quan trọng trong nỗ lực Việt Nam hóa chiến tranh của đế quốc Mỹ, tốc độ cũng như các biện pháp bình định cũng được địch đẩy lên những nấc mới. Trong những điều kiện đó, để thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị, lãnh đạo, chỉ huy chiến trường và các địa phương Khu 8 quyết định mở chiến dịch tiến công tổng hợp quyết đánh bại âm mưu và kế hoạch bình định năm 1972 của quân đội Sài Gòn.

Trước thế và lực tương đối mạnh cùng những âm mưu nham hiểm của địch trên địa bàn này, Bộ Chỉ huy Miền và Quân khu 8 tăng chường cho chiến dịch một số đơn vị Lực lượng tham gia chiến dịch gốm ba thứ quân. Lực lượng vũ trang địa phương có các tiểu đoàn bộ đội địa phương tỉnh: 514, 209 của Mỹ Tho; 504A, 504B của Kiến Tường; 502A, 502B của Kiến Phong; Bến tre có Trung đoàn Đồng khởi và 1 tiểu đoàn; Gò Công có 1 đại đội. Ở cấp huyện, mỗi huyện có từ 1 đến 2 đại đội. mỗi xã đều có từ 1 tiểu đội đến 2 trung đội du kích. Đây là lực lượng chiến đấu tại chỗ, am hiểu địa bàn, âm mưu và hoạt động của địch. Nhiều đơn vị bộ đội tỉnh có khản năng và kinh nghiệm đánh phá bình định tốt.

Sát cánh chiến đấu với bộ đội địa phương, dân quân du kích và nhân dân các địa phương và giữ vai trò quyết định trong chiến dịch tổng hợp đánh phá bình định chính là bộ đội chủ lực. Bên cạnh các trung đoàn 1, 88 và 30 bộ binh, 3 tiểu đoàn đặc công; 2 tiểu đoàn pháo, 1 tiểu đoàn công binh của Khu 8 - những đơn vị đã từng tham gia chiến đấu và lập được những thành tích trong nửa đầu của năm 197, Bộ Chỉ huy Miền còn tăng cường cho chiến dịch Sư đoàn 5 bộ binh, C30B(1) (gồm các trung đoàn 24, 207 và 271), Trung đoàn 28 pháo binh, 1 tiểu đoàn đặc công; 1 tiểu đoàn công binh. Các đơn vị chủ lực Miền đều vừa tham gia các chiến dịch trên nhiều địa bàn khác nhau hội tụ về Sư đoàn 5, Trung đoàn 24 thuộc C30B tham gia chiến dịch Nguyễn Huệ ở miền Đông Nam Bộ, Trung đoàn 207 tham gia đánh quân Lon Non, tuy quân số và vũ khí trang bị bị tiêu hao nhiều, công tác bổ sung chưa đủ so với yêu cầu biên chế, song ý chí, quyết tâm cũng như khả năng chiến đấu của cán bộ, chiến sỹ vẫn đảm bảo tốt.

Ở địa bàn chiến dịch, mặc dù bị địch cưỡng bức, dồn ép ra sinh sống tại những khu tập trung, ấp chiến lược ở ven các đường giao thông, xung quanh các thị xã, thị trấn, ngày đêm bị kiểm soát gắt gao nhưng, phần lớn nhân dân vẫn giữ được truyền thống đấu tranh cách mạng kiên cường, có cơ sở chính trị, vũ trang tương đối mạnh và tích lũy được nhiều kinh nghiệm đấu tranh chín trị, quân sự, binh vận. Lực lượng làm công tác đấu tranh binh vận tại đây không chỉ phát triển nhanh về số lượng, mà điều đặc biệt quan trọng là đã tạo dựng được cơ sở ngay trong nội bộ Sư đoàn 7 chủ lực Sài Gòn, trong nhiều đồn bốt cũng như căn cứ của chúng. Mặt khác, những tháng đầu năm 197, ta đã giải phóng được khoảng 10 vạn dân, làm chủ một số địa phương ở Mỹ Tho, Bến Tre, Kiến Phong… Toàn bộ tình hình trên đây là cơ sở để Bộ Chính trị, Quân ủy và Bộ Chỉ huy Miền quyết định mở chiến dịch tiến công tổng hợp đánh phá bình định của địch ở Khu 8, nhằm phá vỡ một mảng quan trọng trong hệ thống kìm kẹp của địch, thúc đẩy phong trào tiến công và nổi dậy của nhân dân đồng bằng Khu 8, căng kéo, phân tán lực lượng địch ở Nam Bộ, tạo điều kiện để hướng tiến công chủ yếu của ta ở miền Đông Nam Bộ đẩy mạnh hoạt động giành thêm những thắng lợi mới.

Theo quyết định của Trung ương Cục, Ban Chỉ đạo chiến dịch tiến công tổng hợp Quân khu 8 được thành lập, gồm các đồng chí: Hoàng Văn Thái (Mười Khang) - Phó Bí thư Trung ương Cục, Tư lệnh Quan giải phóng miền Nam làm Trưởng ban; Nguyễn Văn Mùi (Sáu Đường) - Bí thư Khu ủy Khu 8 làm Phó ban; các đồng chí Đồng Văn Cống (Chí Hồng) - Ủy viên Quân ủy Miền, Phó Chính ủy Quân giải phóng miền Nam, Lê Văn Tưởng (Hai Lê) - Ủy viên Quân ủy Miền, Phó Chính ủy Quân giải phóng miền Nam, Tư Việt Thắng - Ủy viên Thường vụ Khu ủy Khu 8, Lê Quốc Sản (Tám Phương) - Thường vụ Khu ủy kiêm Tư lệnh Khu 8, Bảy Hiệp - Chuyên biên Ban nghiên cứu Thường vụ Trung ương Cục làm ủy viên. Đồng thời, thường trực Ban Chỉ đạo cũng khẩn trương hình thành, gồm 4 đồng chí: Hoàng Văn Thái, Nguyễn Văn Mùi, Lê Văn Tưởng và Dương Cự Tẩm (Năm Thanh) - Chính ủy Quân khu 8.


(1) C30B là một tổ chức biên chế có tính chất lâm thời, tương đương cấp sư đoàn của Bộ Chỉ huy Quân giải phóng miền Nam, nhằm đảm bảo cơ động chiến đấu trong một chiến dịch, một đợt hoạt động quân sự.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 21 Tháng Giêng, 2011, 10:45:22 am
Bên cạnh Ban Chỉ đạo do Trung ương Cục chỉ định, Bộ Tư lệnh miền ra quyết định thành lập Bộ Chỉ huy chiến dịch, thành phần gồm các đồng chí: Hoàng Văn Thái - Tư lệnh kiêm Chính ủy; Đồng Văn Cống - Phó Tư lệnh; Lê Văn Tưởng - Phó Chính ủy. Cơ quan tham mưu giúp việc trực tiếp cho Bộ Chỉ huy chiến dịch được hình thành trên cơ sở một bộ phận cán bộ thuộc cơ quan tham mưu Miền và một bộ phận cơ quan tham mưu Quân khu 8. Bộ Chỉ huy C30B được chọn làm nòng cốt để xây dựng nên Bộ Chỉ huy tiền phương chiến dịch. Để đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ “chỉ đạo kết hợp chặt chẽ và thống nhất giữa chủ lực Miền và lực lượng vũ trang quân khu, kết hợp chặt chẽ giữa tiến công quân sự, chính trị và binh vận, giữa tiến công và nổi dậy trên khu vực trọng điểm cũng như các khu vực diện có liên quan, bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ quân sự và chính trị của chiến dịch tổng hợp đánh phá bình định”(1), tham gia cơ quan tiền phương Bộ Tư lệnh chiến dịch còn có đồng chí Phó tư lệnh Quân khu 8 và tại từng khu vực tác chiến, mỗi trung đoàn chủ lực đều có các đồng cấp ủy và cơ quan quân sự địa phương tham gia vào cơ cấu sở chỉ huy để chỉ huy hiệp đồng tác chiến giữa các đơn vị và các địa phương.

Cùng với việc hoàn thiện cơ quan chỉ đạo và chỉ huy chiến dịch, ngay từ đầu tháng 4-1972, với lực lượng ba ghứ quân và toàn bộ lực lượng chính trị và binh vận, Quân khu 8 đã chủ động mở đợt hoạt động tạo thế trên địa bàn 3 tỉnh Mỹ Tho, Kiến Tường, Kiến Phong; khu vực trọng điểm là 38 xã thuộc 5 huyện Cai Lậy Bác, Cái Bè, Kiến Văn, Mỹ An và Vùng 4 Kiến Tường; khu vực thứ yếu là 68 xã thuộc các huyện Châu Thành Bắc, Châu Thành Nam, Cai Lậy Nam Cái Bè Nam, Vùng 8 Kiến Tường, Bắc Cao Lãnh và hai xã của huyện Hồng Ngự.

Trên hướng chủ yếu, đêm 6 rạng sáng ngày 7-4, Trung đoàn 88 bất ngờ tiến công địch trên tuyến kênh Dương Văn Dương, diệt và bức rút 4 đồn địch (trong đó có đồn Kinh Quận), diệt hai trận địa pháo Mỹ An và Kinh Quận. Ngay sau đó, địch tập trung lực lượng bảo an tại chỗ đến ứng cứu nhưng không thành công. Đến ngày 11-4, địch đưa Liên đoàn 41 biệt động quân đến hòng giải tỏa. Thế nhưng, lực lượng này vấp phải sự đánh trả mãnh liệt của ta, 4 đại đội bị loại khỏi vòng chiến đấu. Tuy nhiên, do quá chú trọng diệt sinh lực địch, nên ta để mất thời cơ đứt điểm mục tiêu then chốn Kinh Quận.

Tại tuyến kênh Nguyễn Văn Tiếp, ngay đầu tháng 4, địch sử dụng Trung đoàn 11 thuộc Sư đoàn 7 kết hợp với quân bảo an tại chỗ bung ra càn quét quyết liệt kết hợp với đánh phá địa hình, ngăn chặn kế hoạch mở mảng, mở vùng của ta. Trước tình hình đó, Bộ Tư lệnh Quân khu 8 sử dụng Trung đoàn 1 mở các đợt hoạt động tiến công nhằm ngăn chặn và đẩy lùi các đợt càn quét của địch. Trung đoàn đã liên tục vận động tiến công địch và giành được những kết quả quan trọng: ngày 7-4, diệt Liên đội 5 bảo an; ngày 8, diệt 1 đại đội, ngày 9, loại khỏi chiến đấu Tiểu đoàn 2 (Trung đoàn 11); ngày 17, đánh thiệt hại nặng Tiểu đoàn 402 bảo an, ngày 21, tiêu hao nặng Tiểu đoàn 1 (Trung đoàn 11) quân đội Sài Gòn. Để ngăn chặn sức tiến công của ta, địch tập trung một lực lượng gồm 3 tiểu đoàn biệt động quân và 3 tiểu đoàn của Trung đoàn 11 hình thành nên Chiến đoàn 7, mở cuộc hành quân giải tỏa. Tuy nhiên, cố gắng này của địch không mang lại kết quả, mà ngược lại, hai tiểu đoàn biệt động đã bị ta loại khỏi vòng chiến đấu.

Trên hướng thứ yếu, trong tháng 4-1972, Tiểu đoàn 514 bộ đội địa phương tỉnh Mỹ Tho tiến công đánh thiệt hại nặng chi khu Tân Hiệp; đặc công quân khu diệt 4 đồn bảo an trên khu vực triền sông Ba Rài, tạo điều kiện cho bộ đội địa phương các huyện và du kích các ấp, xã phát động nhân dân nổi dậy, kết hợp ba mũi giáp công, cản phá thành công các cuộc hành quân bình định, đồng thời tiêu diệt 10 đồn, bức rút 34 đồn bốt, giải phóng 26 ấp, với 17.000 dân, giành quyền làm chủ ở 30 ấp khác với số dân 20.000 người. Cùng thời gian trên, Trung đoàn 320 quân khu và bộ đội địa phương tỉnh Kiến Tường tiến công khu vực trọng điểm vùng 8 Kiến Tưởng, mở thông được hành lang; bộ đội Kiến Phong tổ chức đánh trọng điểm bắc Cao Lãnh, sông Cần Lố.


(1) Quân đội nhân dân Việt Nam - Quân khu 9: Báo cáo tổng kết chiến dịch tấn công tổng hợp đánh phá bình định trên địa bàn Quân khu 8 (từ ngày 10-6-1972 đến ngày 10-9-1972), tháng 8-1985, tr.23, tài liệu lưu tại Phòng Khoa học Công nghệ - môi trường Quân khu 9.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 21 Tháng Giêng, 2011, 10:48:16 am
Nhằm mở rộng lõm giải phóng, tạo thế, tạo đà trực tiếp cho chiến dịch, theo kế hoạch thống nhất, đêm 28-4, ba trung đoàn chủ lực đồng loạt tiến công đánh phá bình định, mở mảng tại địa bàn trọng điểm: Trung đoàn 1 vây ép yếu khu Thiên Hộ, mở mảng ở khu vực kênh Nguyễn Văn Tiếp (thuộc phía đông Thiên Hộ); Trung đoàn 88 mở mảng khu vực tây Thiên Hộ - Đốc Binh Kiều; Trung đoàn 320 mở mảng vùng kênh Tư Bích, kênh 2, kênh 3 Mỹ Hòa. Do thế và lực áp đảo, nên ta đã nhanh chóng diệt được một số đồn bốt, căn cứ địch; hỗ trợ cho nhân dân nổi dậy diệt ác, phá kìm, giành quyền làm chủ nhiều địa bàn quan trọng. Nhưng ngay sau đó, địch dồn sức phản kích dữ dội, quyết líp lại những khu vực vừa bị mất. Ngày 29-4, Trung đoàn 12 (Sư đoàn 7) quân Sài Gòn tổ chức phục kích vào khu vực Phụng Thớt - Trại Lòn. Ngày 5-5, 10 tiểu đoàn thuộc Sư đoàn 7 mở cuộc hành quân bình định hòng chiếm lại các lõm giải phóng tại Vùng 4 Kiến Tường, Mỹ An.

Trước sự đối phó quyết liệt của địch, ngày 5-5, Bô Tư lệnh Quân khu 8 quyết định chuyển Trung đoàn 1 và Trung đoàn 88 xuống hoạt động ở vùng nam kênh Nguyễn Văn Tiếp, hỗ trợ nhân dân mở một số lõm nhỏ, tiếp tục tạo thế cho kế hoạch mở chiến dịch vào những tháng kế tiếp sau đó.

Qua gần 2 tháng hoạt động tạo thế, mặc dù một số mục tiêu đặt ra chưa thực hiện được, nhưng lực lượng vũ trang ba thứ quân và nhân dân “vùng ruột” đồng bằng sông Cửu Long đã thu được những kết quả rất quan trọng, tiêu diệt và làm tan rã một bộ phận sinh lực địch (phần lớn là lực lượng tại chỗ); tiêu diệt, bức hàng, bức rút hơn 80 đồn, bốt các loại; giải phóng Vùng 4 Kiến Tường và một số lõm, tạo được bàn đạp thuận lợi để triển khai các mạt tổ chức bảo đảm chuẩn bị cho chiến dịch tiến công tổng hợp đánh phá bình định quy mô rộng lớn trên chiến trường Khu 8.

Sau đợt hoạt động tạo thế và cơ động lực lượng, vũ khí, lương thực… tới những địa bàn xuất phát tiến công, cuối tháng 5, đầu tháng 6, theo kế hoạch thống nhất của Bộ Chỉ huy Miền, lực lượng vũ trang ta vẫn tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động căng kéo địch, thu hút những đơn vị địch tăng cường cho miền Đông trước đó quay trở về đối phó với ta trên chiến trường đồng bằng sông Cửu Long (Quân khu 4 - Quân đoàn 4 quân đội Sài Gòn), tạo điều kiện cho hướng chủ yếu của cuộc tiến công chiến lược 1972 ở miền Đông Nam Bộ phát triển và giành thắng lợi.

Theo chỉ lệnh giao nhiệm vụ của Bộ Tư lệnh chiến dịch, Sư đoàn 5 được tăng cường Trung đoàn 271 của C30B đảm nhiệm tiến công trên hướng chủ yếu Kiến Tường; Trung đoàn 24 và 207 phụ trách hướng thứ yếu Thông Bình - Cá Vàng. Qua nguồn tin tình báo thu được, tuy địch biết ta chuẩn bị mở chiến dịch, song chúng không nắm được ý định, địa bàn, quy mô của chiến dịch. Trong lúc địch còn đang ráo riết trinh sát, thăm dò, thu thập tin tức thì đêm 10-6, trên hướng tiến công chủ yếu, Trung đoàn 2 (Sư đoàn 5) bất ngờ nổ súng tiến công chi khu Long Khốt, chính thức mở màn cho chiến dịch tiến công tổng hợp đánh phá bình định của địch trên chiến trường Khu 8. Nhưng do công tác chuẩn bị chưa thật chu đáo, tổ chức chỉ huy và hiệp đồng chưa tốt, nên Trung đoàn 2 đã không tiêu diệt được mục tiêu then chốt Long Khốt và phải rút quân sau 5 ngày bao vây. Trong khi đó, những đơn vị còn lại của Sư đoàn 5 đã phối hợp hiệu quả với lực lượng vũ trang địa phương tổ chức vây ép Gò Măng Đa; lực lượng đặc công cùng bộ đội và du kích tại chỗ bao vây uy hiếp căn cứ Thạnh Trị, diệt 60 tên. Hiệp đồng với bộ binh, pháo binh Miền tập kích thị xã Mộc Hóa, diệt một số sinh lực địch, phá hỏng 2 trạm truyền tin, 7 xe quân sự. Trên sông Vàm Cỏ Tây, đội đặc công nước của Miền đánh chìm 5 tàu chiến địch. Được thắng lợi quân sự của bộ đội chủ lực tạo thế và với sự hậu thuẫn của du kích, tự vệ, các đoàn thể quần chúng đột nhập vào các ấp chiến lược, khu tập trung của địch, vận động nhân dân nổi dậy phá ấp, phá kìm, giành quyền làm chủ.

Trước sức tiến công và nổi dậy của quân và dân ta, ngày 11-6, địch huy động 2 trung đoàn thuộc Sư đoàn 7 bộ binh, 2 tiểu đoàn biệt động quân, 2 chi đoàn thiết giáp M113 mở cuộc hành quân Cửu Long 7/4 nhằm giải tỏa chi khu Long Khốt. Đêm 14-5 Trung đoàn 1 (Sư đoàn 54) chủ lực Miền bất ngờ tập kích đánh thiệt hại nặng Tiểu đoàn 3 (Trung đoàn 12 địch), loại khỏi vòng chiến đấu 120 tên, thu 10 súng. Ngày 17-6, phát hiện Tiểu đoàn 3 (Trung đoàn 10) địch do trực thăng không vận đổ xuống Kom Pông Rồ, Trung đoàn 2 (Sư đoàn 5 và Tiểu đoàn 1 (Trung đoàn 271) đã nhanh chóng cơ động đến bao vây, tiến công, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 100 tên.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 21 Tháng Giêng, 2011, 10:49:10 am
Trên hướng thứ yếu Thông Bình - Cá Vàng, sau khi đánh bại cuộc hành quân Cửu Long 44/5 của Liên đàn biệt động quân 41 tiến hành từ ngày 23-5 đến ngày 3-6, C30B tiếp tục chặn đánh cuộc hành quân mang mật đanh Cửu Long 44/6 do tàn quân của Liên đoàn biệt dộng 41, Liên đoàn biệt động số 7, hai chi đoàn thiết giáp M113 tiến hành, chỉ một thời gian ngắn chiến đấu, quân địch đã bị ta loại khỏi chiến đấu hàng trăm tên và mất hàng chục xe thiết giáp. Ngày 14-6, chúng buộc phải kết ttục cuộc hành quân. Đến đây, C30B quyết định chỉ để Trung đoàn 207 ở lại chốt giữ khu vực áp sát biên giới Thông Bình - Cá Vàng, lực lượng còn lại rút xuống vùng ruột hoạt động.

Ngày 20-6, Trung đoàn 24 thuộc C30B, Trung đoàn 3 (Sư đoàn 5) bắt đầu hành quân tới địa bàn trọng điểm chiến dịch. Phát hiện được ý định của ta, địch nhanh chóng huy động lực lượng bảo an tiểu khu Kiến Phong cùng với Trung đoàn 11 (Sư đoàn 7) tổ chức chốt chặn tại tuyến kênh Dương Văn Dương. Tại đây, quân địch vấp phải sự giáng trả mãnh liệt của Trung đoàn 320 Quân khu 8. Tiểu đoàn 1 (Trung đoàn 11) chủ lực địch bị loại khỏi chiến đấu. Tiểu đoàn 417 bảo an bị đánh thiệt hại nặng, bộ phận còn lại phải rút lui. Tuyến hành lang của ta vẫn được bảo đảm thông suốt. Lực lượng cơ động cũng như vũ khí và hàng hóa bảo đảm cho chiến trường Khu 8 giữ được an toàn, đến đúng nơi quy định.

Hiệp đồng chặt chẽ với tác chiến của bộ đội chủ lực Miền, lực lượng vũ trang ba thứ quân và nhân dân Khu 8 khẩn trương đẩy mạnh tiến công và nổi dậy đánh phá bình định, mở mảng, mở vùng ở các khu vực trọng điểm thuộc nam và bắc quốc lộ 4, nổi bật nhất là mảng Ba Dừa, mảng 3 Cai Lậy Bắc.

Mảng Ba Dừa được hình thành bởi 4 xã Long Trung, Long Tiên, Long Khánh, Xuân Sơn thuộc huyện Cai Lậy Nam; phía đông giáp sông Ba Rài, phía nam giáp quố lộ 4. Tại đây, ngoài việc tập trung xây dựng yếu khu Ba Dừa, địch đã xây dựng nên một hệ thống gồm 25 đồn bốt liên hoàn để kìm kẹp nhân dân. Là khu vực giữ vai trò bàn đạp xuất phát tiến công của lực lượng vũ trang Khu 8 đánh ra đường 4 và các chi khu Cái Bè, Cai Lậy, Vĩnh Kim nên Bộ Tư lệnh Quân khu 8 quyết định chọn Ba Dừa làm điểm then chốt đánh phá bình định, mở mảng, mở rộng vùng giải phóng liên hoàn, tạo sự thôi động lớn cho phong trào tiến công và nổi dậy đánh phá bình định của địch trên toàn Khu 8 trong nửa cuối năm 1972.

Thực hiện kế hoạch trên, các trung đoàn 1 và 88 đang tác chiến ở Mỹ Thiện và Hậu Mỹ đã được lệnh bí mật cơ động tới phối hợp với các lực lượng địa phương xung quanh khu vực mở mảng. Đúng 3 giờ 15 phút ngày 10-6, Tiểu đoàn đặc công 209 của Tiểu đoàn 261B (Trung đoàn 1) bất ngờ tiến công yếu khu Ba Dừa, mở đầu cho hướng tiến công mở mảng Ba Dừa. Đây là trận tiến công vào căn cứ có công sự kiên cố của địch, nên ta không dứt điểm được mục tiêu. Sau khi đã loại khỏi chiến đấu hơn 100 tên, bắt 19 tù binh, thu 35 súng, bộ đội ta chuyển từ tiến công sang ay ép, truy lùng tiêu diệt và làm tan rã bộ máy kìm kẹp cơ sở của địch. Đến cuối buổi sáng ngày 10-6, địch sử dụng 6 đại đội bảo an và 2 chi đoàn xe bọc thép M113 mở cuộc hành quân giải tỏa yếu khu Ba Dừa. Tuy Trung đoàn 88 có tổ chức lực lượng chốt chặn ngã ba ba Long Tiên, nhưng do chủ quan sơ hở nên ta đã để quân địch lọt qua và vào được yếu khu. Sau đó, quân bảo an rút về Cai Lậy, nhưng chúng để lại 1 chi đoàn M113 tăng cường cho lực lượng phòng thủ yếu khu. Đến đây, mục tiêu chủ yếu không những không dứt điểm được, mà trận đánh lâm vào bế tắc. Để nhanh chóng tháo gỡ khó khăn, Ban Chỉ huy hướng mở mảng Ba Dừa quyết định chuyển một bộ phận chủ lực sang phối hợp với bộ đội và du kích địa phương tiến công địch, hỗ trợ nhân dân nổi dậy bao vây, bức hàng 17 đồn bốt, diệt ác, phá kìm, giành quyền làm chủ một số ấp, xã.

Sáng ngày 11-6, Trung đoàn 1 tổ chức trận địa phục kích tại Hội Sơn, đánh bại cuộc hành quân giải tỏa của Tiểu đoàn 3 (Trung đoàn 10 - Sư đoàn 7), Tiểu đoàn 402, Liên đội 73 và 4 đại đội bảo an có xe bọc thép đi cùng của địch. Cùng ngày, một trung đội của Tiểu đoàn 510 vây ép, bức hàng đồn Ba Dầu. Ngày 12, Trung đoàn 88 chặn đánh cuộc hành quân bình định của địch gồm Tiểu đoàn 402, Liên đội 18, Liên đội 73 và 3 đại đội bảo an cùng Chi đoàn 3 thuộc Trung đoàn 6 thiết giáp M113 tại Tam Bình - nam Ba Dừa.

Ngày 17-6, một trung đội của Tiểu đoàn 510 (Trung đoàn 88) tiến công diệt đồn Thầy Cai. Ngày 18, Trung đoàn 11 chặn đánh cuộc hành quân của Tiểu đoàn 2 (Trung đoàn 11 - Sư đoàn 7) và Chi đoàn 2 (Trung đoàn 6 thiết giáp M113) địch trên khu vực lộ Ba Dừa, diệt 160 tên, bắn rơi 2 trực thăng. Ngày 19, Tiểu đoàn đặc công 269 kỳ tập diệt đồng Bàng Long. Đêm 19, các đại đội bộ đội huyện Châu Thành Nam và Cai Lậy Nam đứng chân tại khu vực nam Ba Dừa đã hậu thuẫn và tổ chức cho 10 gia đình binh sỹ địch (cơ sở địch vận của ta) nửa đêm đốt đèn, thắp đuốc kéo lên đồn gọi chồng con trở về. Trước sự uy hiếp của quân dân địa phương ở ngoài đồn và sức ép từ bên trong, toàn bộ quân địch đồn Cầu Ván đã mang vũ khí ra hàng. Sau đó, ta chuyển sang uy hiếp buộc địch rút khỏi các đồn Cầu Sắt, So Đũa và các đồn ấp 6, 7, 11 xã Long Tiên, mở rộng vùng làm chủ.

Chỉ tính trong khoảng thời gian hơn chục ngày khởi đầu đợt 1 chiến dịch (10-6 đến 21-6-1972), quân và dân ta trên địa bàn mảng Ba Dừa đã loại khỏi vòng chiến đấu 938 tên địch, diệt gọn 6 đại đội, đánh thiệt hại nặng 3 tiểu đoàn bộ binh và 1 chi đoàn thiết giáp M.113, đánh thiệt hại nặng yếu khu Ba Dừa, san bằng 15 đồn, giải phóng hoàn toàn 2 xã Long Tiên và Cẩm Sơn, hoàn thành yêu cầu mở mảng đặt tra trong kế hoạch.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 21 Tháng Giêng, 2011, 10:50:06 am
Phối hợp chặt chẽ với hoạt động của chủ lực, trong 10 ngày đầu của chiến dịch trên hướng mở mảng Ba Dừa, quần chúng ở các địa phương đã nổi dậy cùng lực lượng an ninh, du kích diệt 14 tên ác ôn, bức hàng, bức rút gần chục đồn bốt địch; các mũi đấu tranh chính trị và binh vận đã vận động, tổ chức được 16.000 lượt quần chúng tham gia đấu tranh, đưa 6.000 người bung về ruộng vườn cũ, dựng lại nhà cửa trên địa bàn các xã Long Tiên, Long Khánh, Mỹ Long,. Đặc biệt, dù gian khổ hy sinh luôn kề cận, trên địa bàn chiến dịch đã có 1.500 người tự nguyện tham gia phục vụ cơm nước, tiếp tế cho bộ đội, sửa chữa và chuyển thương binh, chôn cất liệt sỹ. Bên cạnh đó, công tác xây dựng và phát triển lực lượng cũng có những thành tích tương xứng, bộ đội huyện Cai Lậy Nam phát triển thêm được 1 đại đội (với 50 người); du kích xã Long Tiên từ 1 tiểu đội phát triển thành trung đội với 27 cán bộ, chiến sỹ và bổ sung cho huyện hai tiểu đội; xã Long Trung, lực lượng du kích từ 8 người đã phát triển lên 32 người; các xã Cẩm Sơn, Hội Sơn, Mỹ Long, Thạnh Hóa từ chỗ lúc đầu chỉ có từ 5 đến 10 du kích đã phát triển thành những trung đội du kích với quân số từ 18 đến 20 người. Cùng thời gian trên, các địa phương thuộc mảng Ba Dừa đã phát triển thêm được 24 đảng viên, 18 đoàn viên, 328 hội viên phụ nữ và nông hội, trong đó, xã Long Tiên đã bầu được xã ủy và củng cố 12 chi bộ ấp. Đây là những yếu tố vô cùng thuận lợi để quân và dân mảng Ba Dừa tiếp tục đẩy mạnh hoạt động giành thắng lợi to lớn hơn nữa trong những đợt tiếp theo.

Khác với Ba Dừa, mảng 3 Cai Lậy Bắc là địa bàn địch tổ chức bình định, kìm kẹp nhân dân rất hà khắc, với hệ thống đồn bốt như Cầu Vồng, Gò Muồng, Cống Đường Huy cùng những ác ôn khét tiếng…, được yểm trợ trực tiếp bởi các trận địa pháo Cai Lậy, Long Định, Mỹ Phước Tây và Liên đội 75 bảo an cơ động ứng chiến nhanh tuần tra kiểm soát ngày đêm. Thực hiện kế hoạch mở mảng Cai Lậy Bắc. Ban Chỉ huy Tỉnh đội Mỹ Tho quyết định sử dụng 2 tiểu đoàn bộ đội địa phương của tỉnh và 2 đại đội bộ đội huyện, 1 đại đội đặc công phối hợp với du kích đánh địch mở mảng Kinh Củ, sau đó phát triển mở mảng kênh Nguyễn Tấn Thành.

Ở Mỹ Tho, trước khi tiếng súng khai ngòi chiến dịch, tổng hợp tiến công đánh phá bình định ở Khu 8 bắt đầu, ngay từ đêm 7-6, các đơn vị vũ trang tỉnh đã tiến vào khu vực ấp chiến lược Kinh Củ, bao vây đồn ấp, hỗ trợ cho du kích và cơ sở nội ứng diệt ác, phá đồn, giải tán phòng vệ dân sự, đưa nhân dân về quê cũ. Nhưng khi phát triển tiến công diệt các đồn Gò Mồng, Cầu Vồng, Cống Đường Huy, do hỏa lực không đủ mạnh nên ta không đánh chiếm được các khu vực đầu cầu. Giải quyết tình huống khẩn cấp này, tỉnh đội đưa lực lượng cơ quan và công binh xưởng vào trận, dùng hệ phóng lựu bắn những đầu đạn 105mm, 155mm đã được cải tiến vào các đồn địch. Với hỏa lực bất ngờ, có sức công phá lớn này, ta đã phá hủy 50% công sự, trận địa, loại khỏi chiến đấu một nửa quân số đóng trong các đồn. trước nguy cơ bị tiêu diệt hoàn toàn, ngày 12-6, địch rút chạy khỏi đồn Gò Muồng và Cống Đường Huy. Thừa thắng, ngày 13, ta vây chặt đồn Cầu Vòng và bắn đầu đạn 155mm vào đồn, gây sát thương lớn cho Đại đội 962 bảo an. Số còn lại trong đồn buộc phải tháo chạy ra ngoài, bị ta mai phục sẵn diệt thêm 20 tên, bắt 3 tù binh. Đến đây, 3 đồn bảo an - lực lượng chủ chốt thực hiện bình định và kìm kẹp nhân dân mảng 3 Cai Lậy Bắc đã bị tiêu diệt. Thế và lực mới đã được mở ra, tạo điều kiện thuận lợi để các ban chỉ đạo đánh phá bình định tỉnh và các huyện trong tỉnh khẩn trương vận động nhân dân nổi dậy; đồng thời vận động các gia đình công chức và binh sỹ địch kéo đến các xã Mỹ Hạnh Trnmg, Mỹ Hạnh Đông, Mỹ Phước Tây, Tân Hội tuyên truyền chính sách 10 điểm của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, kêu gọi binh sỹ địch không tham gia hành quân bình định, mang súng trở về với gia đình và nhân dân. Kết quả là, binh sỹ đồn Cầu Thị Quạ xã Tân Phú đã nổi dậy làm binh biến, mang vũ khí về nộp cho du kích. Địch đóng ở đồn Năm Trinh xã Nhị Mỹ buộc phải rút chạy khỏi đồn.

Nhằm ngăn chặn khí thế đấu tranh của ta đang lên mạnh, ngày 14-6, địch dùng 3 đại đội bảo an đến giải tỏa, chiếm lại những đồn đã mất. Toàn bộ số quân này của địch bị các đơn vị bộ đội tỉnh Mỹ Tho chặn đánh, diệt gọn 1 đại đội, đánh thiệt hại nặng 2 đại đội còn lại. Tiếp đến, ngày 18-6, ta lại đánh tiêu hao nặng Liên đội 98 bảo an địch đến ứng cứu, giữ vững thành quả đạt được.

Tính đến ngày 21-6, tại mảng 3 Cai Lậy Bắc, ta đã giữ được 19 đồn, giải phóng cơ bản 3 xã và 6 ấp với dân số khoảng 1 vạn người.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 21 Tháng Giêng, 2011, 10:53:06 am
Hòa chung khí thế đấu tranh với hướng chủ yêu, trên địa bàn phối hợp, quân dân Bến Tre triển khai kế hoạch mở lại vùng trọng điểm Giồng Trôm. Song do thế và lực hạn chế nên sau thời gian hoạt động của đợt 1, ta chỉ giải phóng được xã Lương Phú và một số ấp nhỏ, lẻ. Tại Kiến Phong, ta cũng chỉ tổ chức được một số trận phục kích đánh quân địch đến chi viện, ứng cứu trên khu vực kênh Nguyễn Văn Tiếp.

Kết thúc đợt 1 chiến dịch tiến công tổng hợp đánh phá bình định ở Khu 8, “ta đánh trúng đối tượng nòng cốt; hút, kìm phần lớn chủ lực địch trên tuyến biên giới, phía sau sơ hở thuận lợi cho phong trào nổi dậy và tấn công phá binh định”(1); loại khỏi chiến đấu 5.00 tên địch, diệt gọn 1 tiểu đoàn, đánh thiệt hại nặng 8 tiểu đoàn và liên đội, diệt, bức hàng, bức rút 50 đồn bốt, giải phóng 3 xã, 30 ấp với 3 vạn dân, mở ra nhiều lõm mới, bảo đảm hành lang thông suốt và an toàn cho ta vận chuyển hàng hóa và cơ động lực lượng xuống vùng ruột Đồng Tháp Mười, tạo thế và lực mới cho các đợt tiếp theo chiến dịch. Tuy nhiên, trong đợt này, “do chủ lực Miền mới xuống đồng bằng, thời gian gấp, chuẩn bị chiến trường thiếu chu đáo, chính xác, nhưng chủ yếu do tư tưởng chủ quan, đơn giản, chỉ huy chiến đấu thiếu chặt chẽ, tư tưởng chiến thuật thiếu dứt khoát giữa vây lấn và cường tập”(2), nên trận then chốt mở đầu của ta đạt kết quả không cao, chưa dứt điểm được các mục tiêu chủ yếu, hạn chế đến đà phát triển chiến dịch và phong trào nổi dậy đánh phá bình định.

Sau khi đợt 1 kết thúc, Bộ Chỉ huy chiến dịch tiến công tổng hợp Khu 8 quyết định mở đợt 2 đánh phá bình định (từ ngày 3 đến 31-7-1972), nhằm “thu hút địch lên tuyến biên giới, nhanh chóng phát huy chủ lực Miền xuống chiến trường cùng địa phương tiến công tổng hợp, mở mảng, mở vùng nam bắc lộ 4, tạo thế đứng chân vững chắc để phát triển thế tiến công”. Trong lúc ta đang triển khai công tác chuẩn bị đợt 2 chiến dịch, Sư đoàn 7 (thiếu) và Liên đoàn 41 iệt động biên phòng, dựa vào cứ điểm kết hợp với cơ động lực lượng, đã đẩy mạnh các hoạt động thăm dò, nhằm phát hiện các khu vực tập kết lực lượng của ta; chúng sử dụng phi pháo và gọi cả máy bay B.52 đánh phá những địa điểm tình nghi ta ém dấu quân. Đồng thời, Sư đoàn 25 địch từ Đức Huệ giữ thế uy hiếp bên sườn và phía sau đội hình tiến công của ta. Trung đoàn 11 (Sư đoàn 7) và lực lượng bảo an triển khai lực lượng đối phó và giải tỏa khu vực nam và bắc quốc lộ 4. Mặc dù vậy, đúng ngày 3-7, đợt 2 chiến dịch chính thức mở màn.

Thực hiện nhiệm vụ kiềm chế địch trên tuyến biên giới, từ ngày 3 đến 5-7, một bộ phận lực lượng của Sư đoàn 5 chủ lực Miền được tăng cường Trung đoàn 271 của C30B, tiến công cứ điểm địch ở Com Pong Rồ, diệt được 72 tên, làm bị thương 379 tên, bắt 3 tù binh địch. Tuy nhiên, trong trận này, ta bị tổn thất khá lớn: thương vong 140 cán bộ, chiến sỹ, mất 80 súng. Cùng thời gian trên, Trung đoàn 207 thuộc C30B tiến công cứ điểm Gò Bói nhưng không thành công. Sau đó, theo mệnh lệnh của Bộ Tư lệnh Miền, một bộ phận lực lượng của Trung đoàn 207 được điều sang tăng cường cho C30B chặn đánh cuộc hành quân tái chiếm tuyến hàng lang biên giới của địch ở khu vực lộ 1 giáp biên giới Campuchia.

Đối với nhiệm vụ mở mảng ở khu vực nam, bắc quốc lộ 4, Bộ Tư lệnh chiến dịch quyết định chọn 8 xã: Hội Cư, Mỹ Thành, Thạnh Phú huyện Cai Lậy, Hậu Mỹ Bắc, Hậu Mỹ Nam và Thiện Mỹ huyện Cái Bè, Mỹ An, Đốc Binh Kiều huyện Mỹ An thuộc khu vực bắc quốc lộ 4 làm trọng điểm số 1. Tại đây, địch có 14 đại đội bảo an thuộc các liên đội 72, 75 và 78 vừa cơ động tác chiến, vừa thay nhau chiếm giữ 45 đồn bốt.

Ngay từ cuối tháng 6, ta sử dụng một bộ phận lực lượng của Trung đoàn 3 (Sư đoàn 5), Trung đoàn 24 của C30B, Trung đoàn 320 chủ lực Khu 8 nhằm tiêu diệt yếu khu Thiên Hộ, đánh bại quân cứu viện, gây thối động toàn mảng; đồng thời tập trung đại bộ phận bộ đội chủ lực cùng bộ đội địa phương đẩy mạnh hoạt động mở mảng trong phạm vi 8 xã, giải phóng 3 vạn dân. Phát hiện ta chuẩn bị tiến công Thiên Hộ, Bộ Tư lệnh Vùng 4 chiến thuật địch vội điều Trung đoàn 15 (Sư đoàn 9) từ miền Tây về Cái Bè, hình thành tuyến ngăn chặn kết hợp với đánh phá hành lang cơ động của ta, chủ yếu là khu vực kênh Dương Văn Dương và kênh Ngang.


(1) Biên bản cuộc họp Đảng ủy tiên phương Bộ Tư lệnh chiến dịch tiến công tổng hợp đánh phá bình định trên chiến trường Khu 8, ngày 25 và 26-6-19752, tr.5, tài liệu lưu tại Trung tâm lưu trữ Bộ Quốc phòng (K4).
(2) Quân đội nhân dân Việt Nam - Quân khu 9: Báo cáo tổng kết chiến dịch tiến công tổng hợp đánh phá bình định trên địa bàn Quân khu 8…, Tlđd, tr.34.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 21 Tháng Giêng, 2011, 10:53:52 am
Theo đúng kế hoạch, đêm ngay 2 rạng sáng ngày 3-7, Trung đoàn 3 sử dụng hỏa lực tập kích công sự, trận địa hỏa lực địch ở yếu khu Thiên Hộ; sử dụng bộ binh tiến công tiêu diệt đồn Một Thước, bức rút các đồn Kênh Một và Vàm Quang Cư. Chiều cùng ngày, Trung đoàn 24 vận động tiến công địch tại ấp Mỹ Trinh, xã Mỹ Thành, loại khỏi chiến đấu 150 tên địch, bắt 15 tù binh, thu 50 súng, 11 máy PRC25. Kịp thời lợi dụng thời cơ này, lực lượng vũ trang tại chỗ hỗ trợ nhân dân nhanh chóng nổi dậy bao vây các đồn bốt địch trên tuyến lộ 20, diệt ác, phá kìm, phá các trại tập trung và ấp chiến lược ở xã Hậu Mỹ Bắc và Hậu Mỹ Nam, trở vể quê cũ làm ăn. Ngày 4, Trung đoàn 320 bất ngờ tập kích diệt đồn tề xã Hậu Mỹ Bắc, đồn Bà Cô và đồn kênh 28, gây sức ép buộc địch ở các đồn bốt trên tuyến lộ 20 (từ đập Ông Tải đến Hậu Mỹ Bắc) rút chạy. Tiếp đà thắng lợi, ngày 7, Trung đoàn 3 vây lấn các đồn Chà Là, Gầy (Thạnh Phú), Vàm Bang Dầy và Ngã Năm; Trung đoàn 320 và lực lượng vũ trang địa phương tổ chức vây lấn các đồn Đốc Binh Kiều, Cây Công, ngã tư Bằng Lăng và kênh Kháng Chiến (phía nam kênh Nguyễn Văn Tiếp). Ở khu vực đồn Chà Là, thoạt đầu, do chủ quan nên lực lượng vây lấn không thực hiện được kế hoạch đề ra và phải tạm rút ra ngoài để củng cố. Tiếp đó, ta tập trung lực lượng bao vây, tiến công đồn Chà Là và đến ngày 13 mới dứt điểm được mục tiêu. Đánh chiếm được đồn Chà Là, ta đã gây sức ép mạnh, buộc địch ở các đồn Gầy (Thạnh Phú) và Vàm Bang Dầy phải nhnh chóng tháo chạy. Đến đây, ta đã mở thông tuyến lộ 20 từ kênh Nguyễn Văn Tiếp, giải phóng 2.500 dân.

Đồng thời với đòn tiến công quân sự, mũi tiến công binh vận trên địa bàn mở mảng 8 xã thuộc bắc quốc lộ 4 của ta cũng được đẩy mạnh. Nhiều gia đình binh sỹ và công chức chính quyền địch được cách mạng giác ngộ đã tích cực tham gia phong trào vận động con em bỏ hàng ngũ địch. Ở ấp Phú Mỹ và Phương Mỹ xã My Thiện, lực lượng binh vận đã vận động được 60 binh sỹ mang theo 40 súng trở về với nhân dân. Tại 2 xã Mỹ An và Đốc Binh Kiều, lực lượng binh vận đã gọi hàng 20 binh sỹ địch, thu 18 súng. Tại các vùng giải phóng, lực lượng thanh niên nam, nữ không những đã tự giác, tích cực tham gia công tác cách mạng tại xã ấp, mà một bộ phận quan trọng trong số họ lần lượt được bổ sung vào Quân giải phóng hoặc du kích ấp, xã. Đồng thời, những phong trào mang tên Thanh niên Đồng khởi, Phụ nữ Nguyễn Thị Hồng Gấm thu hút ngày càng đông đảo thanh niên tham gia.

Sau nửa tháng tiến công và nổi dậy đánh phá bình định ở khu vực 8 xã, ta đã loại khỏi chiến đấu 1 tiểu đoàn, 2 đại đội thuộc Trung đoàn 15 và 3 đại đội bảo an; diệt và bức hàng 20 đồn bốt, trong đó kết hợp với du kích tổ chức 3 mũi giáp công bức rút 15 đồn, giải phóng hoàn toàn xã Thạnh Phú, phá hầu hết các ấp chiến lược, khu tập trung của địch thuộc các xã Hậu Mỹ Bắc, Hậu Mỹ Nam, Mỹ Thành, Đốc Binh Kiều, giải phóng thêm 15.000 dân.

Nhằm ngăn chặn sức tiến công và rổi dậy đánh phá bình định ngày càng mạnh mẽ và rộng khắp của ta, Bộ Tư lệnh vùng 4 chiến thuật quân đội Sài Gòn điều chỉnh về tập trung lực lượng, phương tiện đối phó. Ngày 15-7, chúng dùng 14 tiểu đoàn chủ lực và bảo an thuộc Liên đoàn 41 biệt động, Trung đoàn 10 (Sư đoàn 7), Trung đoàn 15 (Sư đoàn 9), Trung đoàn 6 thiết giáp và một số đơn vị hỏa lực mở cuộc hành quân nhằm giải tỏa, tái chiếm tuyến lộ 20 và kênh Nguyễn Văn Tiếp. Để chủ động đối phó có hiệu quả với địch, ta tạm hoãn việc thực hiện kế hoạch đánh dứt điểm yếu khu Thiên Hộ, dồn sức mở mảng trên khu vực kênh Bàng Dầy, kênh 28, kênh 3 nhằm căng kéo quân địch ra để tiêu diệt.

Liên tiếp trong các ngày từ 18 đến 20-7, Trung đoàn 24 sử dụng một bộ phận lực lượng chặn đánh Trung đoàn 15 địch càn vào Hậu Mỹ Bắc. Do không nắm chắc địch nên ta không thực hiện được mục tiêu diệt địch, mà chỉ yểm trợ cho du kích và nhân dân nổi dậy bức rút 5 đồn, giải phóng hoàn toàn xã Hậu Mỹ Bắc. Đêm 28, Trung đoàn 24 chuyển sang tập kích diệt các đồn Vàm Nước Chùa, Vàm Đất Sét rồi rút về khu vực Bến Tranh huyện Chợ Gạo.

Cùng thời gian trên, sau khi tổ chức chặn đánh cuộc hành quân giải tỏa của Trung đoàn 15 địch tại khu vực Ngã năm Hậu Mỹ không thành công, Trung đoàn 3 (Sư đoàn 5 chủ lực Miền) chuyển sang diệt đồn Cầu Ván, hỗ trợ cho du kích và nhân dân bức rút đồn Thất Cao Đài, đồn kênh Bang Dầy. Đầu tháng 8, trung đoàn được lệnh rút về Hậu Mỹ Nam để củng cố; riêng Trung đoàn 320 tiếp tục phát triển tiến công về phía Ngã Sáu, tập kích diệt các đồn kênh Chà Là và kênh Kháng Chiến, đồng thời phối hợp với lực lượng công binh quân khu và Miền, cùng lực lượng vũ trang địa phương đánh cắt các đường 4, 20 và 12.

Phối hợp với đòn tiến công quân sự, các lực lượng chính trị và binh vận liên tiếp tổ chức những cuộc đấu tranh trực diện với địch tác các chi khu, đồn bốt, phản đối các hành động bắn pháo, thả bom bừa bãi vào các khu dân cư, ruộng vườn của nhân dân. Ở Hội Cư, Hậu Mỹ Nam Phú Nhuận, các cuộc đấu tranh có lúc thu hút tới 200 người tham gia. Ở Mỹ An, nhân dân đã tổ chức phong trào đấu tranh chống đối địch sử dụng xe lội nước càn quét, tàn phá hoa màu, vườn tược. Xã Hậu Mỹ Bắc có phong trào “làm sạch” xóm làng bằng việc vận động cá gia đình không cho người than tham gia hàng ngũ địch; giảm số gia đình có người thân đi lính từ 170 xuống còn 30 vào cuối tháng 7-1972.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 21 Tháng Giêng, 2011, 10:54:46 am
Tại trọng điểm số 2, từ ngày 3 đến ngày 7-6, Trung đoàn 1 và Trung đoàn 88 chủ lực Khu 8 nổ súng tiến công địch trên hướng Phú Quý, Nhị Mỹ, Mỹ Long. Trung đoàn 1 tiến công tiêu diệt 2 đồn Phú Quý và Cống Bộng, sau đó trụ lại đánh bài cuộc hành quân giải tỏa của Tiểu đoàn 402 và Liên đội 73 bảo an, diệt gọn 1 đại đội, Trung đoàn 88 bao vây bức rút đồn Cây Me xã Mỹ Long. Phát hiện được ý định mở mảng Phú Quý, Nhị Quý, cắt quốc lộ 4 của ta, địch lập tức điều động thêm lực lượng bảo an đến ứng phó. Cũng chính vào thời điểm này, ở khu vực bắc quốc lọ 4, khí thế tiến công và nổi dậy mở mảng tại 8 xã cũng như mở lại mảng 3 Cai Lậy Bắc đang phát triển thuận lợi, buộc địch phải sử dụng một bộ phận quan trọng lực lượng đối phó, để hở hướng Vĩnh Kim. Nhân thời cơ này, ta sử dụng một bộ phận nhỏ lực lượng tiếp tục kìm chế, nghi binh địch ở Phú Quý, Mỹ Long, còn đại bộ phận của Trung đoàn 1 và Trung đoàn 88 nhanh chóng cơ động vến vị trí tập kết chuẩn bị tiến công Vĩnh Kim.

Vào 2 giờ sáng ngày 8-7, Tiểu đoàn 510 (Trung đoàn 88), Tiểu đoàn đặc công 269, đại đội Châu Thành Nam và đội biệt động đã tiến công chi khu Vĩnh Kim - mở đầu đợt 2 đánh phá bình định, mở mảng Vĩnh Kim. Sau 6 giờ chiến đấu ác liệt, ta đã đánh chiếm một số mục tiêu như khu hành chính, công sơ tề xã, phòng vệ dân sự, hậu cứ Liên đội 73 bảo an, doanh trại Đại đội 287 bảo an. Lực lượng địch còn lại co cụm chống trả quyết liệt, ta chuyển sang vây lấn. Đến 10 giờ cùng ngày, địch cho nổ kho chứa đạn chi khu. Hành động này của địch gây cho ta một số thương vong, một số nơi ta buộc phải nới dãn vòng vây. Lợi dụng tình hình này, lực lượng địch còn lại rút sâu vào trong chi khu cố thủ. Cùng lúc, địch huy động 4 tiểu đoàn, liên đội bảo an, 1 giang đoàn của tiểu khu Định Tường đến ứng cứu.

Kiên quyết cô lập chi khu Vĩnh Kim, chặn đứng quân tiếp viện của địch, Trung đoàn 1 cơ động lên Hữu Đạo, chặn đánh Tiểu đoàn 402 bảo an địch, diệt 120 tên, phá hủy 22 giang thuyền trên kênh Nguyễn Tấn Thành. Trung đoàn 88 chặn đánh Tiểu đoàn 424 bảo an ở khu vực nam Vĩnh Kim. Đêm 8 rạng ngày 9, ta hai lần tổ chức tiến công uy hiếp chi khu Vĩnh Kim. Ngày 9, Trung đoàn 1 vận động tiến công diệt gọn Liên đội 99 và đánh thiệt hại nặng Liên đội 46 bảo an, loại khỏi vòng chiến đấu 200 địch, thu 60 súng. Cũng ngày 9, ta liên tục tập kích hỏa lực cối 60mm, ĐKZ 75 và H12 vào chi khu Vĩnh Kim; đến 21 giờ, Trung đoàn 1 và đặc công diệt gọn Đại đội 204 bảo an chốt sâu trong chi khu. Ngày 10, được Tiểu đoàn 209 (Trung đoàn 88) tăng cường, Trung đoàn 1 cơ động chặn đánh cuộc hành quân giải tỏa của địch trên đường Đông Hòa, loại khỏi chiến đấu 300 tên, thu 60 súng, số sống sót tháo chạy về Long Định.

Ngày 11, địch sử dụng Trung đoàn 10 (Sư đoàn 7 chủ lực) đến giải tỏa Vĩnh Kim. Lợi dụng thời cơ này, Trung đoàn 88 chỉ để lại 1 tiểu đoàn tổ chức vây lỏng chì khu Vĩnh Kim, toàn bộ lực lượng còn lại nhanh chóng tiến công mở mảng ở Bàng Long, Tam Bình, diệt và bức hàng 3 đồn Cầu Chùa, Ba Tét, Tây Hòa; Trung đoàn 1 mở mảng Phú Quý, Bình Trưng, gỡ đồn Cống Bộng (lần thứ 2) và 3 đồn Phú Quý, Dừa Đôi và Tư Nhân thuộc vùng 20/7.

Nhân lúc địch tập trung đối phó với đòn tiến công quân sự của lực lượng vũ trang ta, nhân dân nhiều địa phương kịp thời nổi dậy đấu tranh giành quyền làm chủ. 8.000 người dân đã phá rã cá ấp chiến lược, khu tập trung của địch ở hai bên quốc lộ 4, trở về quê cũ. Cũng thời gian này, 112 thanh niên đã tình nguyên gia nhập lực lượng vũ trang cách mạng. Về binh vận, ta đã giác ngộ, giáo dục 2.962 lượt gia đình vào đấu tranh trực tiếp trong đồn bốt, vận động được 246 binh lính địch bỏ ngũ. Tiêu biểu trong đó là 4 gia đình binh sỹ bốt Cầu Sập đã vận động được 9 lính phản chiến, nộp cho du kích 2 súng; vợ một trưởng ấp ở Vĩnh Kim đã vận động chống dẫn một toán phòng vệ dân sự ra hàng cách mạng, giao nộp 10 súng. Đặc biệt, trong thời gian vây ép chi khu Vĩnh Kim, hằng ngày, đã có từ 500 đến 1.000 người từ các địa bàn Chợ Gạo, Gò Công, Mỹ Tho kéo đến căn cứ địch tại ngã ba Chim Chim trên quốc lộ 4 đòi chồng con, bồi thường thiệt hại người và tài sản.

Với ba mũi giáp công đánh phá bình định, trong đợt tháng 7, tại mảng Vĩnh Kim, ta loại khỏi chiến đấu 827 tên, diệt 2 tiểu đoàn, 8 đại đội, 1 trung đội, đánh thiệt hại nặng 2 liên đội bảo an, san bằng 14 đồn, giải phóng hầu hết các xã Phú Quý, Nhị Quý, Bàng Long, Bình Trưng và Hữu Đạo.

Song song với quá trình đấu tranh, trong đợt 2 đánh phá bình định, tại địa bàn các xã thuộc mảng Vĩnh Kim, ta đã phát triển được 6 cán bộ ấp, 258 hội viên các đoàn thể cách mạng và 14 đảng viên.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 23 Tháng Giêng, 2011, 09:10:13 am
Khác với trọng điểm số 1 và số 2, trọng điểm số 3 gồm mảng Cai Lậy Bắc - Châu Thành Bắc là địa bản mở đợt 1 chiến dịch tiến công tổng hợp đánh phá bình định ta đã giành được kết quả quan trọng. Vào thời điểm này, địch đang bị kìm chân ở Vĩnh Kim, Hậu Mỹ, nên đây là địa bàn chúng chưa kìm chặt như những nơi khác, do vậy, ta có điều kiện thuận lợi để phát triển lực lượng chính trị, binh vận, đồng thời phát huy tốt những kinh nghiệm đánh phá bình định được đúc rút từ đợt trước. Đây thực sự là những nhân tố rất cơ bản cho đợt 2 đánh phá bình định phát triển và giành thêm những thắng lợi mới.

Ngày 1-7, hai tiểu đoàn bộ đội địa phương tỉnh Mỹ Tho vây ép và tiêu hao một bộ phận lực lượng địch thuộc Liên đội 75 bảo an địch. Ngày 6, bộ đội tỉnh chuyển sang vây lấn các đồn Cầu Vồng, Xóm Chòi, Cống Huế; bộ đội huyện Cai Lậy Bắc vây đồn La Cua, Láng Biền; Đại đội 2 (Tiểu đoàn đặc công 279) tiến công đồn Kênh Ba… Ngày 13, hai tiểu đoàn bộ đội địa phương tỉnh Mỹ Tho vận động tiến công đánh thiệt hại nặng các tiểu đoàn 67 và 76 thuộc Liên đoàn 41 biệt động biên phòng địch từ Vĩnh Kim lên giải tỏa, loại khỏi chiến đấu 250 tên, bắt 20 tù binh, thu 120 súng và 8 máy PRC25. Ngày 14, ta đánh đồn Cầu Vồng, diệt 25 tên, số còn lại tháo chạy ra ngoài bị ta phục kích loại khỏi chiến đấu thêm 1 trung đội nữa. Trước những thắng lợi liên tiếp của ta, quân địch đóng tại các đồn bốt chùa Phật Đà, cống Huế, Kênh Ba, Xóm Chòi,… vội vã tháo chạy.

Phát huy những lợi thế có được, ta chỉ để lại một tiểu đoàn phối hợp với lực lượng địa phương và nhân dân Cai Lậy Bắc tiếp tục mở mảng 3, toàn bộ lực lượng còn lại của tỉnh Mỹ Tho và huyện Châu Thành Bắc nhanh chóng phát triển tiến công mở mảng Nhị Bình - Điềm Hy. Sau 4 ngày tiến công (từ 26 đến 29-7), bên cạnh việc đánh bại các cuộc hành quân giải tỏa đồn cầu Sầu Sao và Cây Trâm của Tiểu đoàn 402 bảo an địch, ta đã tiêu diệt và bức rút thêm được 7 đồn, mở rộng vùng giải phóng ra sát quốc lộ 4. Như vậy, đến hết tháng 7, tại mảng 3 Cại Lậy Bắc, ta đã giải phóng hoàn toàn 5 xã Thạnh Phú, Mỹ Hạnh Đông, Mỹ Hạnh Trung, Tân Hội, Mỹ Phước; giải phóng cơ bản 2 xã Nhị Bình và Điềm Hy.

Cùng với cuộc tiến công ở các địa bàn trọng điểm, tại những địa bàn phối hợp, các cuộc chiến đấu cũng diễn ra sối động và đạt kết quả tốt.

Tại tỉnh Bến Tre, hoạt động mở mảng trong đợ được chuyển sang huyện Mỏ Cày Nam. Trên hướng chủ yếu (gồm 3 xã Bình Khánh, Phước Hiệp và An Định), đầu tháng 7, địch rút Trung đoàn 10 (Sư đoàn 7) khỏi Bến Tre, thay vào đó chúng thành lập Chiến đoàn A với biên chế 3 tiểu đoàn 413, 415, 418 bảo an; trong khi đó, tỉnh thành lập Trung đoàn Đồng Khởi với 3 tiểu đoàn bộ binh 263, 516, 590 và Tiểu đoàn 560 độc lập, ra mắt tại xã Bình Khánh. Lợi thế về lực lượng vũ trang là một đảm bảo chắc chắn cho hoạt động chống phá bình định đợt 2 của quân và dân Bến Tre thành công.

Sau trận phối hợp chiến đấu của đặc công tỉnh kết hợp với đội binh vận diệt gọn 1 đồn, bộ đội tỉnh tổ chức phục kích đánh bại 4 đại đội bảo an đến ứng cứu; du kích hỗ trợ quần chúng phá 3 đồn, mở đầu phong trào tiến công và nổi dậy mạnh mẽ trên khắp địa bàn toàn tỉnh. Đêm 9, theo kế hoạch, đặc công tỉnh tập kích chi khu Mỏ Cày, nhưng do nắm quy luật thủy triều không chắc nên trận đánh không thực hiện được. Ta buộc phải chuyển sang thực hiện phương án diệt từng tiểu đoàn bảo an đến cứu viện, kiên trì bám trụ mở mảng trên diện rộng. Vì thế, một bộ phận bộ đội tỉnh nhanh chóng phân tán lực lượng xuống hậu thuẫn cho các ấp xã tổ chức bao vây bức rút các đồn Phước Hiệp, Phước Hảo, Bình Khánh. Chiều 14, hỏa lực ĐKZ đại đội trợ chiến tỉnh đánh sập lô cốt đồn Phước Điền. Địch đưa Tiểu đoàn 418 đến giải tỏa bị Trung đoàn Đồng Khởi loại khỏi chiến đấu 290 tên, thu 20 súng. Ngày 16, Trung đoàn Đồng Khởi và Tiểu đoàn 560 lại đánh bại Tiểu đoàn 415 bảo an đến giải tỏa đồn Phước Hiệp, diệt 2 đại đội, đánh thiệt hại nặng đại đội còn lại. Phát huy thắng lợi, ta đẩy mạnh tiến công bằng ba mũi ở Bình Khán, An Định, bức hàng, bức rút một số đồn, phá thế kìm kẹp, giành quyền làm chủ ở một số xóm ấp.

Tiếp tục phát triển tiến công, đêm 23-7, đặc công cùng du kích đánh chi khu chợ An Định, buộc địch phải tập trung quân đến ứng cứu. Ngày 26 và 27-7, lực lượng cơ động đến ứng cứu chi khu chợ An Định đã bị Trung đoàn Đồng Khởi và đại đội trợ chiến tỉnh phục kích, loại khỏi vòng chiến đấu Tiểu đoàn 405 và đánh thiệt hại nặng các tiểu đoàn 401, 413, 433 bảo an địch. Cùng thời gian trên, hằng ngày có từ 100 đến 200 người nhà binh sỹ đến các khu đóng quân của những đơn vị bảo an tuyên truyền và kêu gọi chồng, con trở về với cách mạng. Do vậy, trong tháng 7, đã có 200 binh sỹ bảo an địch bỏ ngũ, rã ngũ. Sau 10 ngày chiến đấu, lực lượng vũ trang Bến Tre đã đánh quỵ Chiến đoàn A bảo an, bao vây, bức rút hầu hết đồn bốt, giải phóng xã Phước Hiệp và 12 ấp thuộc xã Bình Khánh, An Định.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 23 Tháng Giêng, 2011, 09:12:07 am
Thi đua với hướng chủ yếu, trên hướng thứ yếu, TTiểu đoàn 263 cùng lực lượng vũ trang tại chỗ diệt hai đại đội bảo an, bức hàng, bức rút 6 đồn, giải phóng xã Thành Thới, diệt đồn Giồng Võ và bao vây nhiều đồn thuộc xã An Thới. Tại Giồng Trôm, lực lượng vũ trang và nhân dân bao vây 50 đồn, diệt 1 đồn, bức rút 14 đồn, giải phóng 3 xã Lương Phú, Thuận Điền, Long Mỹ và 8 ấp khác. Ở Châu Thành, ta giải phóng 6 ấp. Tại Thạnh Phú và Binh Đại, ta bao vây 60 đồn, mở nhiều lõm căn cứ.

Tại Gò Công, lực lượng bộ đội tỉnh bám trụ vững chắc địa bàn Hòa Đồng, tổ chức tiến công và truy kích loại khỏi vòng chiến đấu nhiều sinh lực và phương tiện chiến tranh của địch, giải phóng 6 ấp thuộc xã Đồng Sơn, tạo thế đứng chân vững chắc cho lực lượng vũ trang tác chiến hỗ trợ nhân dân đánh phá bình định, mở rộng các lõm giải phóng.

Như vậy, qua đợt 2 chiến dịch tiến công tổng hợp đánh phá bình định ở chiến trường Khu 8 diễn ra trong tháng 7-1972, ta đã loại khỏi vòng chiến đấu Chiến đoàn A bảo an Bến Tre và Liên đoàn 41 biệt động quân (lần 2); tiêu diệt 7 tiểu đoàn, liên đội, 15 đại đội chủ lực và bảo an; đánh thiệt hại 13 tiểu đoàn và liên đội khác; phá hủy, phá hỏng nhiều phương tiện chiến tranh. Phối hợp với tiến công diệt địch, lực lượng vũ trang tại chỗ và nhân dân đã diệt, bức rút 63 đồn, giải phóng 5 xã và nhiều ấp, tạo ra những mảng giải phóng tương đối liên hoàn.

Đánh giá kết quả hoạt động đợt 2, Hội nghị Ban Chỉ đạo chiến dịch và Thường vụ Khu ủy Khu 8 hợp ngày 23-7 nhận định” Đây là một thắng lợi lớn, có tiến bộ mới, mở ra khả năng mới có ý nghĩa quan trọng. Ta đã hình thành thế chiến dịch trên hai khu vực biên giới và nam bắc đường 4 đúng theo ý định đề ra ban đầu căng, kìm, hút, mở trên nhiều hướng, đưa trọng điểm chiến dịch xuống nam bắc đường 4, làm địch bất ngờ bị động đối phó, bảo an địch bất lực, chủ lực địch cũng bị đánh đau, thế và lực địch suy yếu một buốc mới. Ta có điều kiện để kết hợp ba thứ quân, ba mũi, tiếp tục phát triển thế chiến dịch tiến công tổng hợp đánh phá bình định của địch, mở mảng, mở vùng. Đây chính là những thuận lợi rất cơ bản để quân và dân Khu 8 vững bước tiến vào đợt 3 chiến dịch giành thêm những thắng lợi mới. Chỉ lệnh nhiệm vụ chiến dịch xác định rõ trong đợt 3 phải: “động viên nỗ lực ba thứ quân, kết hợp nổi dậy và tiến công đánh bại một bước (nữa) bình định của địch, giành thắng lợi ở chiến trường góp phần giành thắng lợi ngoại giao ở Pari, phát triển tiến công mở mảng nam bắc quốc lộ 4, phát triển mở mảng ở Bến Tre, mở lõm ở Gò Công, Chợ Gạo, Kiến Phong”(1).

Những tháng cuối năm 1972, cuộc giao chiến giữa ta và địch diễn ra vô cùng quyết liệt trên khắp chiến trường miền Nam. Tại Khu 8, ta tiếp tục tăng cường thêm bộ đội chủ lực và xác định hướng tiến công chủ yếu vẫn là địa bàn nam và bắc quốc lộ 4. Trong khi đó, địch cũng nhanh chóng cơ động Sư đoàn 9 bộ binh và 1 trung đoàn thiết giáp xuống khu vực ta mở chiến dịch; đồng thời đưa lực lượng bảo an của tỉnh đến tăng cường cho các địa bàn trọng điểm; 12 tiểu đoàn, liên đội cho Mỹ Tho, 5 tiểu đoàn, liên đội cho Bến Tre. Ngoài ra, lúc này B. 52 tăng cường đánh phá vào các mục tiêu nghi có lực lượng vũ trang ta ém quân. Trung tuần tháng 8-1972, Quân đoàn 4 địch mở cuộc hành quân càn quét, đánh phá vùng mới giải phóng, nhằm ngăn chặn hành lang vận chuyển của ta, lấn chiếm lại kênh Nguyễn Văn Tiếp và một số lõm giải phóng của ta, bảo vệ quốc lộ 4. Cùng với cuộc hành quân này, địch còn mở những cuộc hành quân cảnh sát tại những vùng chúng đang kiểm soát để ngăn chặn quần chúng nổi dậy giành quyền làm chủ.

Để khôi phục lại quân lỵ Kôngpông Tràbéc, khôi phục lại tuyến biên giới mà địch vừa chiếm lại cuối tháng 7, thu hút địch lên đối phó để ta đánh phá bình định ở đồng bằng, C50(2) và lực lượng tăng cường gồm: Trung đoàn 207 thuộc C30B, Trung đoàn 2 (Sư đoàn 5), 1 tiểu đoàn cơ giới và 3 tiểu đoàn thuộc Quân khu 203 Campuchia phối hợp mở cuộc phản công quân địch, giải tỏa biên giới. Ngày 6-8, ta đánh tan 2 tiểu đoàn Lon Non, giải phóng Kăng Soay, lực lượng còn lại của Lon Non co cụm về cố thủ tại Săngkê Chông và Kôngpông Tràbéc. Ta tổ chức vây chặt và đột phá tiến công trong suốt 3 ngày, nhưng không thành công. Ngày 22, địch tập trung lực lượng giải tỏa được Kôngpông Tràbéc. Sang tháng 9, được Trung đoàn 271 thuộc C30B từ biên giới Kiến Tường lên tăng cường, từ ngày 6 đến ngày 11-9, ta đã tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 10 tiểu đoàn quân Lon Non, giải phóng Kôngpông Tràbéc, đẩy toàn bộ lực lượng còn lại của địch ra khỏi khu vực núi Sơ Cách, Tà Cúc đến đông Sa Thia. Các liên đoàn 1 và 7 biệt động Sài Gòn buộc phải kéo lên đối phó. Điều đó tạo điều kiện thuận lợi cho hướng chủ yếu chiến dịch đánh phá bình định ở đồng bằng phát triển và giành thắng lợi.


(1) Quân đội nhân dân Việt Nam - Quân khu 9: Báo cáo tổng kết chiến dịch tiến công tổng hợp đánh phá bình định trên địa bàn Quân khu 8, Tlđd.
(2) Đơn vị tương đương sư đoàn, làm nhiệm vụ bảo vệ hành lang căn cứ nam bắc đường 1 ở khu vực biên giới Việt Nam - Campuchia.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 23 Tháng Giêng, 2011, 09:13:02 am
Phối hợp chặt chẽ với hoạt động phản công ở biên giới và tiếp đà chiến thắng của tháng 7 (đợt hai), đợt ba chiến dịch đánh phá bình định, mở mảng, mở vùng cũng diễn ra rất khẩn trương và sôi nổi. Trước nhất, tại vùng 20/7, đầu tháng 8, Trung đoàn 88 tập kích diệt đồn Mỹ Long, đánh thiệt hại nặng Tiểu đoàn 2 (Trung đoàn 15) quân đội Sài Gòn. Giữa tháng 8, Trung đoàn 88 cùng lực lượng địa phương tổ chức vây ép Tam Bình, bức rút 7 lô cốt, sau đó trụ lại đánh bại lực lượng Sư đoàn 9 đến giải tỏa, đánh thiệt hại nặng 2 tiểu đoàn, diệt gọn 3 đại đội địch. Ở bắc Cái Bè, một bộ phận Sư đoàn 5, Trung đoàn 320 (thiếu) cùng lực lượng địa phương và nhân dân liên tục tiến công và nổi dậy diệt địch, mở mảng ở khu vực nam và bắc kênh Nguyễn Văn Tiếp, đoạn từ Thiên Hộ đến Cái Bè), Trung đoàn 3 (Sư đoàn 5) có Tiểu đoàn 1 (Trung đoàn 1) tăng cường, tiến công địch trên hướng Mỹ Lương, vây đồn Đất Sét. Tiểu đoàn 2 (Trung đoàn 1) và một số đơn vị binh chủng Sư đoàn 5 đánh địch trên đường 20. Bộ đội và du kích Cái Bè tổ chức vây ép đồn bốt, diệt 1 trung đội bảo an địch nống ra giải tỏa.

Song song với trọng điểm 20/7 và bắc Cái Bè, trên địa bàn phối hợp, hoạt động đánh phá bình định, mở rộng vùng giải phóng của quân và dân địa phương nơi đây cũng diễn ra mạnh mẽ và đạt kết quả tốt. Tại Bến Tre, đầu tháng 8, Trung đoàn 1 (thiếu) chủ lực Khu 8 cùng các đại đội địa phương tại chỗ bất ngờ tiến công Phú Túc, Tường Đa, Tân Lợi huyện Châu Thành. Ngày 11-8, Trung đoàn 1 phục kích đánh quân tăng viện của địch trên đường Bến Tre, Sóc Sải, diệt 4 xe quân sự và 1 đại đội thuộc Tiểu đoàn 401, đánh thiệt hại Tiểu đoàn 420 và Liên đội 117 bảo an, loại khỏi chiến đấu 200 tên địch. Nhân thời cơ thuận lợi này, Trung đoàn Đồng khởi cùng với 2 đại đội đặc công, bộ đội địa phương huyện mở đợt tiến công vào trọng điểm Mỏ Cày Bắc; Tiểu đoàn 560 và 1 đại đội đặc công tiến công mở mảng ở Mỏ Cày Nam. Ngày 12, Trung đoàn Đòng khởi tiêu diệt 1 đại đội của Tiểu đoàn 418, tiêu hao nặng 1 đại đội của Tiểu đoàn 401 bảo an.

Để cứu vãn tình thế, địch tập trung cả chủ lực và bảo an kết hợp với hỏa lực phi pháo và B. 52 mở nhiều cuộc hành quân càn quét vào các lõm giải phóng của ta. Liên đoàn 21 đặc nhiệm hải quân phong tỏa tuyến sông Hàm Luông; Trung đoàn 14 (Sư đoàn 9) và bảo an hành quân giải tỏa khu vực Châu Thành - Mỏ Cày. Trước khí thế mạnh, Tỉnh đội Bến Tre quyết định đưa cán bộ xuống các ấp, xã để bàn phương án hành động và chỉ đạo phong trào. Do vậy, trong 4 ngày (từ 14 đến 17-8, toàn tỉnh đã sử dụng 13 cơ sở nộ hứng phát động nhân dân tại chỗ nổi dậy phá dứt điểm 7 đồn ở Nhuận Phú Tân, Mỹ Phước Trung, Hưng Khánh Trung và Thành An; bức rút 15 đồn, vận động binh lính 5 đồn khác làm binh biến, tạo điều kiện cho nhân dân 25 ấp nổi dậy giành quyền làm chủ. Cùng thời gian, tại địa bàn Mỏ Cày Nam, ba mũi giáp công của ta đã bao vây, bức rút 9 đoòn dọc theo tuyến định Thủy, An Ngải.

Trên hướng Bến Tranh, Chợ Gạo, Gò Công, đầu tháng 8, sau khi diệt đồn Vàm Nước Chùa ở khu vực kênh 28, Trung đoàn 24 thuộc C30B nhanh chóng cơ động xuống mở mảng tại vùng yếu Bến Tranh - Chợ Gạo. Phát hiện được ý định của ta, ngày 15-8, địch sử dụng Trung đoàn 15 (Sư đoàn 9), mở cuộc hành quân phá chuẩn bị của ta, giải tỏa vùng Củ Chi - Phú Mỹ. Do vậy, ngày 18, Trung đoàn 24 tiến công vào Phú Mỹ trong tình thế mất yếu tố bất ngờ, bị địch dùng B. 52 và pháo binh chặn đánh dữ dội, nên chỉ bức rút được 1 đồn. Đầu tháng 9, Trung đoàn 24 và Tiểu đoàn 514 (Mỹ Tho) cơ động xuống Chợ Gạo, Gò Công hỗ trợ cho lực lượng vũ trang tại chỗ và nhân dân mở mảng, mở vùng và dần chuyển thế được vùng Phú Mỹ - Củ Chi và một số lõm giải phóng ở vùng Chợ Gạo, Gò Công, đưa cán bộ, đảng viên về bám trụ, móc nối xây dựng cơ sở, chuẩn bị thực lực cho phong trào đánh phá bình định, giành quyền làm chủ.

Cùng với những hoạt động sôi nổi và mạnh mẽ ở khắp các địa phương, trong đợt 3 chiến dịch, hoạt động đánh phá giao thông tập kích vào các căn cứ, kho tàng dự trữ vật chất chiến tranh của địch cũng thu được những kết quả quan trọng. Trong tháng 8 và 9, Tiểu đoàn công binh 27 của Miền, các đội công binh quân khu liên tiếp đánh địch trên quốc lộ 4, cắt giao thông các đoàn Bưng Môn - Cai Lậy, Cai Lậy - An Hữu trong nhiều giờ mỗi lần. Lực lượng đặc công nước và công binh phá hủy, phá hỏng nhiều tàu, thuyền quân sự của địch cơ động trên các sông Tiền, Hàm Luông, Chợ Gạo. Hai tiểu đoàn đặc công và 3 tiểu đoàn pháo binh quân khu tổ chức nhiều đợt tập kích, bắn phá vào căn cứ Đồng Tâm. Thẻ 23, chi khu Cai Lậy, Long Định, trung tâm huấn luyện Hùng Vương, Trần Quốc Toản, Tiểu đoàn 318 đặc công tập kíc tổng kho chiến lược Bình Đức, phá hủy 2 vạn tấn hàng hóa của địch. Đây là những hoạt động góp phần quan trọng vào thắng lợi của đợt 3 chiến dịch đánh phá bình định, giành đất, giành dân, mở thế mới và lực mới ở Khu 8.

So với đợt 1 và 2 chiến dịch tổng hợp đánh phá bình định ở Khu 8, trong đợt 3, ta phải dối mặt với những khó khăn lớn: nhiều đơn vị phải chuyển địa bàn, một số đơn vị khác khong xuống được địa bàn như ý định, hầu hết các đơn vị đều tham gia chiến đấu liên tục nghiều ngày, quân số, vũ khí chưa kịp bổ sung, cơ quan chỉ đạo, chỉ huy liên tục bị địch đánh phá…. Song, do nỗ lực cao của cả bộ đội chủ lực, địa phương và nhân dân, nên ta đã giành được những thắng lợi rất quan trọng: Loại khỏi chiến đấu 13. 000 tên địch các loại, tiêu diệt 6 tiểu đoàn, 13 đại đội, đánh thiệt hại nặng 18 tiểu đoàn, căn cứ chỉ huy Thẻ 23, bắn rơi 20 máy bay, bắn chìm, bắn hỏng 32 tàu thuyền quân sự, phá hủy, phá hỏng 120 xe hàng, bức rút hàng trăm đồn bốt, giải phóng thêm 4 xã và nhiều ấp, mở thêm nhiều lõm mới, chuyển thế làm chủ ở một số vùng yếu, phát triển được nhiều cơ sở, du kích tổ đội binh vận ở các địa phương.

Trải qua 93 ngày đêm hoạt động với ba đợt tiến công và nổi dậy đánh phá bình định, quân và dân Khu 8 đã loại khỏi chiến đấu 34.636 tên địch, tiêu diệt 16 tiểu đoàn và liên đội, 49 đại đội, 22 trung đội, đánh quỵ Trung đoàn 15 (Sư đoàn 9), Liên đoàn 41 biệt động quân biên phòng và Chiến đoàn A bảo an Bến Tre; bắn rơi 60 máy bay, phá hủy 126 xe M113, 179 xe quân sự, 13 tàu, 37 khẩu pháo, 21 kho; thu 3.222 súng các loại, 261 máy thông tin… Đồng thời,ta diệt, bức hàng, bức rút 356 đồn bốt, đánh thiệt hại nặng các chi khu Long Khốt, Vĩnh Kim, yếu khu Ba Dừa, căn cứ chỉ huy Thẻ 23; giải phóng 27 xã, 240 ấp với 240. 000 dân… Cùng với quá trình tiến công và nổi dậy tổng hợp đánh phá bình định, lực lượng vũ trang tại chỗ của ta có bước phát triển mạnh: hầu hết các xã trong trung đội du kích, một số xã có 2 trung đội hoặc đại đội du kích; cấp huyện đa số có đại đội bộ đội tập trung, một số huyện có 2 hoặc 3 đại đội. Toàn khu phát triển thêm được 547 đảng viên, 1.050 đoàn viên thanh niên, 2.400 hội viên phụ nữ, 2.650 hội viên nông hội(1). Những thắng lợi này đã làm thay đổi cục diện chiến trường, góp phần quan trọng vào việc tạo thế và lực cho toàn miền Nam, trước hết là trực tiếp bảo đảm vững chắc cho lực lượng vũ trang và nhân dân Khu 8 tiến lên giành thêm những thắng lợi lớn hơn trong những năm tiếp sau.


(1) Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Chiến dịch tiến công tổng hợp Quân khu 8 (đồng bằng sông Cửu Long) năm 1972, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1986, tr. 80-81.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 23 Tháng Giêng, 2011, 09:13:55 am
(http://img268.imageshack.us/img268/5898/p014a.jpg)


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 23 Tháng Giêng, 2011, 09:15:09 am
Cùng nằm trên vùng đồng bằng sông Cửu Long, nhưng đến cuối năm 1971, kế hoạch bình định của địch ở Khu 9 bị chững lại. hầu hết các đơn vị đảm đương nhiệm vụ hành quân càn quét phục vụ bình định của địch (tiêu biểu nhất là Sư đoàn 21) đã bị lực lượng vũ trang ta đánh thiệt hại nặng. Để giữ vững những vùng đất đai và dân cư vừa giành được, đồng thời tiếp tục đẩy mạnh phong trào đấu tranh đánh phá bình định lên những bước mới, hiệu quả cao hơn, theo chỉ lệnh tác chiến năm 1972 của Trung ương Cục và Bộ Tư lệnh Miền, Bộ Tư lệnh Quân khu 9 khẩn trương triển khai thực hiện đợt tiến công và nổi dậy đánh phá bình định, với tên gọi Chiến dịch Nguyễn Huệ II. Đây là đợt được tổ chức thành nhiều cao điểm kéo dài từ tháng 4 đến tháng 6-1972. Địa bàn U Minh và Chương Thiện được xác định là trọng điểm 1, Vĩnh Trà là trọng điểm 2 của chiến dịch. Ngoài ra ở các tỉnh ta cũng xác định một số khu vực trọng điểm mà những khu vực này có liên quan trực tiếp đến trọng điểm chiến dịch như: Giồng Riềng (Rạch Giá), Mỹ Xuyên (Sóc Trăng), Long Mỹ (Cần Thơ). Mục tiêu chiến dịch được xác định là giải phóng cơ bản U Minh, Cà Mau, mở một số mảng ở Chương Thiện để làm bàn đập tiến công phá thế bình định, kìm kẹp của địch; mở một số mảng ở vùng lúa Bạc Liêu, Cần Thơ, tạo ra những cơ sở vững chắc để phát triển tiến công và nổi dậy mở rộng vùng giải phóng ở miền Tây Nam Bộ.

Với ý định tác chiến như trên, tại khu vực trọng điểm 1, quân khu quyết định bố trí các trung đoàn 1 và 2 cùng lực lượng pháo binh và đặc công quân khu ở Chương Thiện, Trung đoàn 10 ở Cà Mau, Trung đoàn 20 ở An Biên, lực lượng các cơ quan quân khu đảm trách khu vực các tuyến sông Trẹm, Xẻo Rô, Cái Tàu, Tiểu đoàn Tây Đô ở bắc Long Mỹ, Tiểu đoàn Phú Lợi ở Mỹ Xuyên, tiểu đoàn 207 ở Rạch Gái. Tại Trọng điểm 2, Trung đoàn 3 (2 tiểu đoàn) và bộ đội tỉnh Vĩnh Long tác chiến ở Tam Bình, Vũng Liêm.

Thực hiện lời kêu gọi của Trung ương Cục “Phải tiến công như Tết Mậu Thân, tiến quân như Nguyễn Huệ, diệt to như Điện Biên Phủ”, đêm 6 rạng ngày 7-4, ta đồng loạt nổ súng tiến công mở đầu cao điểm 1 chiến dịch tiến công và nổi dậy tổng hợp đánh phá bình định ở Khu 9 năm 1972. Tại trọng điểm 1, Trung đoàn 2 (thiếu) tiến công tiêu diệt cơ bản chi khu quận lỵ Ngang Dừa, đánh thiệt hại nặng cuộc hành quân giải tỏa của một bộ phận Trung đoàn 31 (Sư đoàn 21) và 1 tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 16 (Sư đoàn 9) địch. Tiếp đố, lực lượng chủ yếu của trung đoàn phân tán xuống các địa phương kết hợp với du kích và nhân dân tiến công và nổi dậy diệt đồn, phá ấp chiến lược và khu tập trung, giành quyền làm chủ. Đến ngày 12, ta đã giải phóng tuyến sông Ngang Dừa, giải phóng hoàn toàn xã Ninh Quới và một phần địa bàn các xã Ninh Hòa, Lộc Ninh và Lương Tâm. Cùng thời gian này, sau khi tiến công diệt cứ điểm Thanh Long (xã Vĩnh Viễn, tập kích tiêu hao Tiểu đoàn 3 (Trung đoàn 15) địch ở khu vực gần đồn Út Lờ, Trung đoàn 1 phân tán lực lượng xuống kết hợp với lực lượng vũ trang và nhân dân địa phương phá 9 đồn, giải phóng hoàn toàn xã Vĩnh Viễn.

Phối hợp tác chiến với chủ lực quân khu, bộ đội huyện long Mỹ tập kích diệt đồn Hồi Đồng Sửu xã Thuận Hưng, hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy bức hàng đồn Ba Phát. Ở Bắc Long Mỹ, Tiểu đoàn Tây Đô (Cần Thơ) sau khi diệt gọn căn cứ Quang Phong đã phối hợp với du kích và nhân dân các xã Phước Bình, Hòa An, Long Bình, Long Trị tiến công và nổi dậy diệt ác, phá kìm, giành quyền làm chủ. Tại Giồng Riềng, Tiểu đoàn 2012 đặc công tập kích diệt yếu khu Thát Lát xã Vĩnh Hòa Hưng; bộ đội tỉnh Sóc Trăng diệt yếu khu Rạch Gò, đánh thiệt hại phân khu Chợ Kinh, bức hàng, bức rút 6 đồn bảo an huyện Mỹ Xuyên.

Trên địa bàn U Minh, đêm 6-4, Trung đoàn 10 tiến công đánh chiếm căn cứ Bày Thày và Nỗng Cạn xã Khánh Lâm; sử dụng hỏa lực tập kích gây thiệt hại nặng căn cứ cầu chữ Y xã Khánh Bình Tây; sử dụng phân đội trinh sát đột nhập thị xã Cà Mau, đánh vào cơ quan tham mưu Sư đoàn 21 địch. Cùng lúc, Trung đoàn 20 tiến công các căn cứ của Sư đoàn 9 địch trên dọc tuyến An Biên, diệt căn cứ Tiểu đoàn 2[ Trung đoàn 16 địch đóng tại Xẻo Bần. Hầu hết các cơ quan Quân khu bộ Khu 9 cùng khẩn trương vào cuộc. Cán bộ, chiến sỹ Phòng Chính trị vây gức đồn Đồng Chà, Rọ Ghe; Phòng Tham mưu đánh các đồn Cán Gác, kênh 13, kênh 20, kênh 24 thuộc địa phận sông Trẹm; Phòng Hậu cần tiến công các đồn Bỏ Mũ, Nhị Biện trên triền sông Cái Tàu.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 23 Tháng Giêng, 2011, 09:17:18 am
trọng điểm 2, theo kế hoạch đã định, đêm 6-4, Trung đoàn 3 nổ súng tiến công tiêu diệt gọn yếu khi Thầy Phó xã Hựu Thành (Trà Ôn), sau đó trụ lại đánh lực lượng phản kích, giải tỏa của 4 tiểu đoàn bảo an và 1 tiểu đoàn chủ lực địch. Ngày 7, tiểu đoàn bộ đội địa phương tỉnh Vĩnh Long diệt chi khu Bình Minh (Cái Vồn); Tiểu đoàn 501 Trà Vinh sau khi diệt yếu khi Tập Ngãi (Tiểu Cần) đã phân tán xuống địa phương hỗ trợ cho du kích và nhân dân nổi dậy mở mảng giải phóng địa bàn Te Te - Hùng Hòa - Tập Ngãi và xây dựng nơi đây thành căn cứ của tỉnh.

Trong khi các địa phương tại các trọng điểm đẩy mạnh tiến công và nổi dậy thì những địa phương khác, xuất hiện trình trạng “nghe ngóng, chờ thời”. Ở các địa phương này, mãi tới ngày 10-4, lực lượng nơi đây mới bắt đầu bung ra tiến công và nổi dậy đánh phá bình định, nên kết quả hạn chế.

Ngày 13-4, ta chủ động kết thúc hoạt động cao điểm 1. Theo đánh giá của Bộ Tư lệnh Quân khu 9, do nắm địch chưa chắc, nên chất lượng một số trận chưa đạt yêu cầu diệt gọn và làm chủ trận địa, địch bị đánh nhiều nhưng chưa đau, thắng chưa giòn giã, ba mũi ở cơ sở bước đầu có phát triển nhưng chưa nhiều, chưa mạnh. Mặc dù vậy, trong đợt 1, ta đã giành thắng lợi lớn trng thế chiến lược chung của toàn miền Nam, bước đầu phá vỡ một số kết quả chương trình bình định của địch đã gây dựng trong mấy năm qua, chọc thủng và mở ra một số mảng trong hệ thống phòng thủ của địch. Từ những lợi thế do đợt hoạt động cao điểm 1 tạo ra, thêm vào đó là Sư đoàn 21 địch phải rút khỏi địa bàn Khu 9, nên ngay chiều ngày 13-4, Bộ Tư lệnh Quân khu quyết định mở ngay cao điểm 2 và xác định Chương Thiện là hướng chủ yếu, nhằm “hình thành cho được mảng giải phóng tây nam Long Mỹ, mở thông cửa ngõ U Minh”. Thời gian khởi đầu cao điểm 2 là ngày 20-4.

Đúng theo kế hoạch, chiều 20-4, một bộ phận Trung đoàn 1 cường tập diệt đồn Tô Ma xã Lương Tâm; tiếp đó phát triển tiến công các đồn Cây Me, Giao Du, Cái Sắn thuộc xã Xà Phiên. Trung đoàn 2 đánh hệ thống đồn bốt xã Vĩnh Tuy và dọc đường cái Miên, đồng thời chặn đánh thiệt hại nặng 2 tiểu đoàn của Trung đoàn 15 (Sư đoàn 9) đến giải tỏa của địch. Cùng này, Trung đoàn 20 sau khi diệt căn cứ Bình Minh (Sân Gạch) đã nhanh chóng chuyển sang bám đánh, tiêu hao cuộc hành quân của Trung đoàn 16 địch vào khu vực Vĩnh Hòa, đồng thời đưa một bộ phận lực lượng xuống phối hợp với địa phương bức rút 7 đồn, giải phóng cơ bản xã Vĩnh Bình Bắc và một phần xã Vĩnh Bình Nam. Trước đòn tiến công mạnh mẽ của ta, địch vội vàng rút bỏ hai căn cứ Chà Là, Rọ Ghe và đồn Kênh Mới xã Vân Khánh. Ở nam Cà Mau, ta bao vây đánh lấn, diệt và bức rút hầu hết những đồn bốt địch mới lập trong năm 1970-1972, giải phóng hoàn toàn 2 xã Tân Tiến, Tân Ân.

Như vậy, với việc liên tiếp mở hai đợt cao điểm đánh phá bình định trong tháng 4-1972 trên địa bàn Khu 9, ta đã gỡ được 270 đồn bốt, giải phóng 7 xã thuộc trong điểm của quân khu, giành lại quyền làm chủ một phần căn cứ U Minh - Cà Mau, phá vỡ tuyến phòng thủ Chương Thiện của địch. Đến đây, về cơ bản, ta đã thực hiện được yêu cầu của chiến dịch Nguyễn Huệ II, mở ra thế và lực mới cho quân toàn quân khu bước vào cao điểm 3.

Với những thắng lợi giành được trong tháng 4, Khu 9 đã góp phần rất quan trọng vào thắng lợi chung của toàn miền Nam trong cuộc tiến công chiến lược năm 1972. Song, để tạo bước ngoặt làm thay đổi cục diện chiến trường, Bộ Tổng Tư lệnh chỉ đạo quân khu đẩy mạnh hơn nữa nhịp độ và hiệu lệnh chỉ đạo quân khu đẩy mạnh hơn nữa nhịp độ và hiệu quả tiến công tổng hợp đánh phá bình định của địch. Yêu cầu đặt ra là phải tiến công và nổi dậy, phải mở mảng lớn, tiêu diệt hàng loạt đồn bốt, chi khu; thực hiện phương thức cuốn chiếu.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 23 Tháng Giêng, 2011, 09:18:09 am
Mở đầu cao điểm 3, đêm 8 rạng sáng nay 9-5, các đơn vị vũ trang ba thứ quân toàn quân khu đồng loạt nổ súng tiến công địch. Trên hướng chủ yếu, Trung đoàn 10 tiến công chi khu Vĩnh Thuận. Do toàn bộ quân địch ở chi khu đã bí mật ra ngoài hàng rào mai phục, nên các mũi xung phong của ta đều vấp phải sự chống trả quyết liệt, phải tạm thời rút lui để bảo toàn lực lượng. Lúc này, Trung đoàn 2 cũng chỉ diệt được 1 đồn trên vàm kênh xáng Chắc Băng. Như vậy, trên hướng chủ yếu, ta không hoàn thành nhiệm vụ. Ở trên hướng thứ yếu nam Long Mỹ, Trung đoàn 1 tiến công tiêu diệt đồn Cái Nhào Nhỏ xã Thuận Hưng, phát triển tiến công diệt 3 đồn, hỗ trợ nhân dân nổi dậy giải phóng phần lớn xã Vĩnh Thuận Đông, giành lại quyền kiểm soát tuyến kênh xáng Vịnh Chèo. Tại địa bàn bắc Long Mỹ, Trung đoàn 20 và đặc công quân khu sau khi tập kích tiêu diệt cụm đồn tề xã tại khu vực ngã tư Ông Dèo, đã phát triển tiến công phá rã các đồn Bứng Đế, Bảy Kê, Ba Hồ, Kênh Mới…, giải phóng mọt vùng chạy dọc theo trục kênh xáng Ba Hồ. Tiểu đoàn Tây Đô kết hợp với lực lượng vũ trang và nhân dân tại chỗ diệt, bức rút các đồn Sáu Thọ, Cái Sư, Đập Đá, mở rộng vùng làm chủ Lái Hiếu.

Trước thực tế diễn biến trong những ngày đầu cao điểm 3, Bộ Tư lệnh quân khu quyết định tăng cường lực lượng cho hướng thứ yếu, sử dụng Trung đoàn 2 tiến công địch ở Lái Niên và phối hợp với lực lượng tại chỗ mở thông hành lang U Minh - Giồng Riềng; đưa Trung đoàn 10 làm nhiệm vụ tiến công địch ở khu vực U Minh Thượng.

Ngày 12-5, đại đội đặc công Trung đoàn 2 bất ngờ tập kích diệt đồn dân vệ Lái Niên. Các đơn vị còn lại của Trung đoàn tiến công tiêu diệt cơ bảm cụm đồn tề xã của địch. Những ngày tiếp sau đó, trung đoàn trụ lại đánh thiệt hại nặng tiểu đoàn bảo an đến ứng cứu; bao vây căn cứ Công Đá, Bần Ổi; diệt đòn xáng Cụt, khai thông hành lang U Minh - Giồng Riềng. Cùng thời gian trên, Trung đoàn 10 liên tục tiến công tiêu diệt, bức hàng, bức rút các đồn kênh 2, kênh 3, kênh 14, kênh 11 và Vĩnh Thuận; mở rộng thêm vùng giải phóng U Minh. Thắng lợi quan trọng nhất của cao điểm 3 là ở chỗ ta đã mở được một số mảng (chủ yếu là những vùng địch mới thiệt lập ách kìm kẹp) ở Chương Thiện, góp phần mở rộng khu giải phóng Long Mỹ, Ngang Dừa.

Tiếp tục phát triển thế tiến công, Bộ Tư lệnh Quân khu quyết định mở cao điểm 4, sử dụng 4 trung đoàn chủ lực đánh thẳng vào 4 quận thuộc 4 tiểu khu có vị trí chiến lược quan trọng của địch, nhằm giải phóng một phần vùng lúa Bạc Liêu. Theo kế hoạch phân công, Trung đoàn 1 đánh quận Ngã Năm thuộc tiểu khu Ba Xuyên (Sóc Trăng); Trung đoàn 2 đánh quận Phước Long - tiểu khu Bạc Liêu; Trung đoàn 10 đánh quận Thới Bình - tiểu khu An Xuyên (Cà Mau); Trung đoàn 20 phát triển tiến công đánh tiểu khu Chương Thiện.

Ngày 6-6, địch mở cuộc hành quân, sử dụng lực lượng 4 tiểu đoàn đánh vào địa bàn tác chiến của Trung đoàn 1. Đồng thời, liên tục trong 3 ngày, máy bay B.52 ném bom rải thảm xuống khu vực phía tây chi khu Ngã Nam, nơi Tiểu đoàn 303 (Trung đoàn 1) bố trí đội hình tiến công. Mặc dù yếu tố bất ngờ không còn và lực lượng bị tổn thất, song cán bộ, chiến sỹ Trung đoàn 1 vẫn kiên quyết nổ súng tiến công, tuy có chậm một ngày so với kế hoạch đề ra ban đầu. Đêm 10-6, ta tiến công khu hành chính. Sáng hôm sâu, lực lượng ta rút ngoài bị bom pháo địch chặn đánh dữ đội, tiếp đó lại phải đối đầu với lực lượng địch từ tiểu khu An Xuyên, Bạc Liêu đến cứu viện nên quân số và vũ khí bị tổn thất lớn. Do vậy, đến chiều 11, ta phải kết thúc trận đánh, toàn trung đoàn rút về căn cứ để củng cố lực lượng.

Ở các mục tiêu khác, theo đúng thời gian quy định, đêm 9 rạng ngày 10-6, các trung đoàn đồng loạt nổ súng tiến công. Trung đoàn 10 đánh chi khu Thới Bình và Khu Chợ, tiêu hao nhiều địch và làm chủ phần lớn mục tiêu, trừ những lô cốt ngầm địch cố thủ chống trả. Trung đoàn 20 tiến công chi khu Chương Thiện không thành công, sau đó rút ra ngoài đánh thiệt hại nặng Tiểu đoàn 412 bảo an; chặn đánh Tiểu đoàn 1 (Trung đoàn 15), phá hủy phá hỏng 12 giang thuyền chiến đấu của địch. Đến ngày 13, Trung đoàn 20 tổ chức tiến công tiểu khu Chương Thiện lần thứ hai nhưng vẫn không thành công. Trung đoàn buộc phải chuyển sang đánh địch phản kích. Với mục tiêu đánh chiếm quận Phước Long, Trung đoàn 2 được Tiểu đoàn bộ đội địa phương tỉnh Sóc Trăng và Đại đội bộ đội tập trung huyện Phước Long phối hợp tiến công tiêu diệt và bức rút được hầu hết hệ thống đồn bốt địch ở Vĩnh Phước Tây. Được đòn tiến công của bộ đội chủ lực hỗ trợ, du kích và nhân dân các xã Phước Long, Lộc Ninh đẩy mạnh địa bàn 2 xã. Tuy nhiên, sau khi bộ đội rút khỏi địa bàn, địch đã líp lại hầu hết những vùng ta vưa mở, tái lập đồn mới. Như vậy, không như các cao điểm trước, cao điểm 4 không thực hiện được yêu cầu đặt ra. Trong đợt này, do việc ta sử dụng 4 trung đoàn đánh vào 4 quận thuộc 4 tiểu khu khác nhau nên khả năng phối hợp, hỗ trợ cho nhau giữa các lực lượng bị hạn chế. Trong khi đó, địch sử dụng lực lượng địa phương tại chỗ kết hợp với chủ lực đối phó với từng trung đoàn của ta. Vì thế, hiệu quả tác chiến của cao điểm 4 đạt thấp, thương vong nhiều, chưa hỗ trợ hiệu quả chao nhân dân nổi dậy phá ách kìm kẹp, phá đồn, mở vùng, mở mảng.

Từ kinh nghiệm không thành công trong cao điểm 4, Bộ Tư lệnh quân khu xác định phương thức và mục tiêu đánh phá bình định trong đợt cao điểm 5 là tiến hành cuốn chiếu quận Vĩnh Thuận. Đây là địa bàn mà tháng 3-1972, ta đã tiến công nhưng không thành công. Tại đây, địch bố trí hệ thống căn cứ, đồn bốt dọc theo hai tuyến kênh xáng Chắc Băng và Cạnh Đền thuộc địa phận 3 xã Vĩnh Long, Vĩnh Thạnh, Vĩnh Bình Nam. Lực lượng địch chiếm đóng ở đây chủ yếu là dân vệ và bảo an; riêng chi khu Vĩnh Thuận có 1 tiểu đoàn bảo an, 1 đại đội cảnh sát dã chiến, 1 đại đội thám báo và 1 trung đội pháo gồm 2 khẩu 105mm. Đó là một lực lượng khá mạnh. Lúc này đang mùa nước nổi, điều kiện không thuận lợi cho việc thực hiện kế hoạch tiến công của ta. Hơn nữa, tước ngày ta dự định nổ súng, địch tổ chức chuộc hành quân càn quét giải tỏa dọc sông Bà Lớn, đánh chìm 9 xuống chở chất nổ của Tiểu đoàn đặc công 2012 quân khu. Trong những điều kiện đó, vượt lên tất cả những trở ngại, khó khăn, lực lượng vũ trang và nhân dân các địa phương trên địa bàn Khu 9 vẫn kiên quyết nổ súng tiến công theo kế hoạch.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 23 Tháng Giêng, 2011, 09:20:12 am
Đêm 8 rạng ngày 9-7, các đơn vị đã đồng loạt đánh vào các mục tiêu đã được phân công. Trung đoàn 10 đánh vào chi khu Vĩnh Thuận, nhưng không thành công phải rút ra ngoài. Trung đoàn 1 tiến công đánh thiệt hại nặng Tiểu đoàn 2 (Trung đoàn 16) địch tại khu vực kênh 14 Vĩnh Thuận. Sáng 9, pháo địch dội trúng đội hình Trung đoàn 1, gây thương vong lớn cho Tiểu đoàn 309. Trận tiến công chi khu Vĩnh Thuận của Trung đoàn 10 và Trung đoàn 1 không thành công. Chiều 9-7, các trung đoàn 1, 2, 10 được lệnh rút khỏi Vĩnh Thuận. Trung đoàn 2 chuyển lên hướng Vĩnh Tuy cùng Tiểu đoàn đặc công 2012 diệt đồn Bần Ổi, phát triển sang Phước Long diệt đồn Củ Thum. Trung đoàn 1 tiến công diệt đồn Cái Nứa, Cầu Xé, hỗ trợ cho lực lượng tại chỗ và nhân dân nổi dậy diệt ác, phá kìm, giải phóng toàn bộ địa bàn tuyến ông Ba đình. Trung đoàn 10 chuyển sang hoạt động thường xuyên trên tuyến Vĩnh Thuận, Thới Bình. Tiếp đó, ở địa bàn tác chiến của Trung đoàn 2, địch sử dụng Trung đoàn 14 (Sư đoàn 9) chiếm lại khu vực Cống Đá, yểm trợ cho lực lượng bảo an chiếm lại đồn Xáng Cụt, khống chế thuyến giao thông đường thủy U Minh - Giồng Riềng. Cũng trong tháng 7, tại nam bắc Long Mỹ, sau khi Trung đoàn 1 chủ lực quân khu cơ động đi nơi khác, một bộ phận Sư đoàn 9 chủ lực địch yểm trợ cho bảo an líp lại hầu hết các vùng mới giải phóng của ta ở Lái Hiếu, Xà Phiên, Vĩnh Viễn, Lương Tâm. Như vậy, giống như cao điểm 4, cao điểm 5 cũng không đạt được kết quả chư kế hoạch đã đề ra của Bộ tư lệnh quân khu. Các đơn vị chủ lực quân khu tác chiến không hiệu quả; không tạo được điều kiện cho lực lượng vũ trang và nhân dân các địa phương diệt ác, phá đồn, phá ấp chiến lược, giành quyền làm chủ. Trong khi đó, lực lượng vũ trang địa phương lại chưa đủ mạnh để có thể tự ảo vệ thành quả giành được. Do vậy, sau cao điểm 5, vùng giải phóng, vùng làm chủ của ta không những không được mở rộng, mà ngược lại, còn bị địch tái chiếm phần lớn; hành lang giao thông chiến lược ở một số vùng bị địch thu hẹp. Để nhanh chóng giữ vững những vùng giải phóng còn lại, đồng thời giành lại những vùng đã mất, Bộ Tư lệnh Quân khu 9 quyết định mở ngay cao điểm 6.

Từ bài học không thành công trong tiến công trên khu vực đồng bằng sông nước - lại là mùa nước nổi, nên bên cạnh việc điều động Trung đoàn 1 về địa bàn Long Mỹ để hỗ trợ nhân dân giành lại những vùng đã mất, quân khu còn quyết định tập trung lực lượng chủ lực xuống phối hợp với quân và dân các địa phương tiến công giải phóng quận Hiếu Lễ, mở rộng căn cứ, khai thông hành lang U Minh Thượng - U Minh Hạ; đồng thời sử dụng một bộ phận lực lượng hoạt động ở 2 xã Thới An và Hóa Quản thuộc huyện Châu Thành B (Rạch Giá), nhằm kìm chân địch, giữ vững hành lang U Minh - Giồng Riềng. Trong lúc ta đang chuẩn bị bước vào thực hiện cao điểm 6, thì địch rút Sư đoàn 9 về Khu 8, đưa Sư đoàn 21 trở lại hoạt động trên chiến trường Khu 9. Thiết giáp địch chuyển quân là cơ hội thuận lợi để ta đẩy mạnh tiến công và nổi dậy đánh phá bình định, giành thêm những thắng lợi mới trong cao điểm 6.

Đúng kế hoạch, đêm 11 rạng ngày 12-8, quân và dân Khu 9 đồng loạt nổ súng mở đầu cao điểm 6. Trung đoàn 10 dùng Tiểu đoàn 7 tiến công căn cứ Rạng Đông, Tiểu đoàn 8 đánh chi khu Hiếu Lễ, nhưng không dứt điểm được phải rút ra ngoài. Ngày 13, trung đoàn tổ chức tiến công lần thứ hai, song do phân đội trinh sát tiếp cận mục tiêu sớm làm lộ ý định, bị địch phát hiện chống trả nên trận đánh không thành công. Cùng thời gian, trên tuyến sông Trẹm, Trung đoàn 2 sử dụng tiểu đoàn đặc công bất ngờ tập kích đánh chiếm căn cứ Toàn Thắng (thuộc khu vực kênh 9 Biển Bạch). Ta đã chiếm phần lớn căn cứ này. Tuy nhiên, khi trung đoàn đưa đội dự bị vào tăng cường thì lực lượng tăng cường này bị địch ngăn chặn dữ dội không vào được. Trong điều kiện đó, đặc công phải rút ra. Tiếp đó, trung đoàn chuyển sang đánh các đồn kênh 15, kênh 12 và kênh 9… nhưng cũng không dứt điểm được. Ngày 14, Trung đoàn 16 (Sư đoàn 9) địch rút khỏi địa bàn. Nhân cơ hội này, Trung đoàn 2 phối hợp với du kích, tổ chức vây ép các đồn bốt, cắt đường tiếp tế, buộc địch phải bỏ đồn thảo chạy. Hơn 2. 000 dân bị địch dồn vào các khu tập trung, ấp chiến lược dọc trên sông Trẹm đã nổi dậy diệt ác, phá ấp, phá kìm trở về quê cũ.

Trên địa bàn bắc sông Cái Lớn (thuộc tiểu khu Kiến Giang), lực lượng của địch tập trung mạnh, nếu tiến công khó có thể giành thắng lợi. Vì thế, Trung đoàn 20 đề nghị Bộ Tư lệnh quân khu cho chuyển mục tiêu tiến công sang Thủy Liễu (tiểu khu Chương Thiện). Được quân khu chấp thuận, đêm 11, một tiểu đoàn của Trung đoàn 20 tiêu diệt hoàn toàn cụm đồn tề xã Thủy Liễu, sau đó trụ lại diệt thêm 1 đại đội bảo an của chi khu Gò Quao đến cứu viện. Thừa thắng, trung đoàn phát triển tiến công sang khu vực Thới An và Hòa Quản, nhưng hiệu quả tác chiến không cao bởi địch tập trung lực lượng phản kích quyết liệt.

Trong điều kiện liên tục chiến đấu trong 4 tháng ròng (từ tháng 5 đến tháng 8), sức chiến đấu của cán bộ, chiến sỹ ta đã có sự giảm sút đáng kể, hiệu quả chiến đấu không cao. Nhận rõ tình hình này, sau hai tuần hoạt động trong tháng 8 (từ đêm 11 đến ngày 25), Bộ Tư lệnh Quân khu 9 quyết định chấm dứt đợt hoạt động đánh cao điểm 6, kết thúc chiến dịch tiến công tổng hợp đánh phá bình định trên địa bàn quân khu. Cuối tháng 9, theo chỉ đạo của Miền, lực lượng vũ trang quân khu gấp rút triển khai đội hình áp sát các đô thị, các trục lộ th quan trọng sẵn sàng thực hiện kế hoạch thời cơ, khi các bên tại Hội nghị Pari đạt được một giải pháp chính trị cho vấn đề miền Nam Việt Nam.

Mặc dù còn nhiều hạn chế, một số mục tiêu đề ra không thực hiện được, nhưng nhìn toàn thể, chiến dịch tiến công tổng hợp đánh phá bình định ở Khu 9 trong năm 1972 đã giành được những thắng lợi quan trọng. Ta đã tiêu diệt, tiêu hao, làm ta rã gần 1 vạn quân địch; tiêu diệt 6 tiểu đoàn, 1 liên đội, 1 chi đoàn, 97 đại đội, 329 trung đội; giải tán và làm tan rã 2 vạn phòng vệ dân sự; đánh chìm, đánh hỏng 213 tàu tuyền chiến đấu, phá hủy, phá hỏng 234 xe quân sự, 192 khẩu pháo, thu 8. 896 súng các loại và 474 máy thông tin, diệt, bức hàng, bức rút 916 đồn bốt (trong đó du kích kết hợp với lực lượng chính trị và binh vận tại ấp, xã gỡ 600 đồn(1)); giải phóng 400 ấp với số dân 800. 000 người. trong quá trình này, lực lượng vũ trang địa phương có bước phát triển vượt bậc: du kích tăng 50%, bộ đội tập trung các tỉnh, huyện tăng từ 20-50%. Nhiều xã, ấp trên địa bàn đã phục hồi hoặc gây dựng được cơ sở đảng và các tổ chức quần chúng. Phong trào du kích chiến tranh được khôi phục. Những kết quả của quân và dân Khu 9 góp phần cùng quân và dân toàn miền Nam đánh bại một bước quan trọng chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh của Mỹ.


(1) Nhưng sau đó địch tái chiếm và lập lại 650 đồn.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 23 Tháng Giêng, 2011, 09:23:27 am
*
*   *

Trên chiến trường Khu 5, bắc Bình Đinh - một trong những trọng điểm bình định của địch, được Bộ Tư lệnh Quân khu chọn làm địa bàn mở chiến dịch tiến công tổng hợp. mục tiêu của chiến dịch được xác định là: tiêu diệt một bộ phận quân chủ lực tại chỗ; tiêu diệt và làm tan rã quân địa phương, phá với hệ thống kìm kẹp bằng chốt điểm, đánh bại căn bản kế hoạch bình định của địch, giành quyền làm chủ đại bộ phận nông thôn, tạo thế liên hoàn xã huyện, trong đó có một số khu vực làm chủ vững chắc. Tại đây, lực lượng chiếm đóng của quân đội Sài Gòn có 2 trung đoàn 40 và 41 thuộc Sư đoàn 22, 93 đại đội bảo an, 427 trung đội dân vệ, 158 trung đội thanh niên chiến đấu, 224 trung đội phòng vệ dân sự, 49 đoàn bình định, 4 đại đội và 15 trung đội cảnh sát, 2 đại đội và 10 trung đoàn biệt kích thám báo, 5 tiểu đoàn pháo binh, 3 chi đoàn thiết giáp, 10 tàu chiến, 90 máy bay chiến đấu; xây dựng 14 ấp chiến lược, 18 khu đồn dân. Ngoài ra, trên địa bàn chiến dịch còn có 1 tiểu đoàn quân Mỹ, 2 trung đoàn thuộc sư đoàn Mãnh Hổ Nam Triều Tiên(1).

Mở chiến dịch tiến công tổng hợp, Quân khu 5 quyết định sử dụng Sư đoàn bộ binh 3, các tiểu đoàn đặc công 403 và 406 của quân khu; các tiểu đoàn bộ binh 8, 50 và 52, Tiểu đoàn đặc công 405 và đại đội đặc công của tỉnh Bình Định; 17 đại đội bộ binh và đặc công thuộc các huyện. Lực lượng du kích và nhân dân của 11 huyên thị cũng được động viên tham gia chiến dịch tiến công tổng hợp đánh phá bình định, mở rộng vùng giải phóng bắc Bình Định. Tại địa bàn mở chiến dịch, dân số vùng giải phóng và làm chủ của ta là 206.000 người; vùng tranh chấp 77.000, vùng địch kìm kẹp là 476.000 người(2).  Như vậy, xét về thương quan lực lượng, ta và địch gần như ngang nhau; nhưng về vũ khí, phương tiện chiến tranh, địch vượt trội nhiều lần.

Là một chiến dịch tiến công tổng hợp, với phương châm hành động là kết hợp chặt chẽ giữa tiêu diệt địch và giành dân, giữa tiến công và nổi dậy với binh vận, kết hợp tác chiến của ba thứ quân, nên Thường vụ Khu ủy và Quân khu ủy đã quyết định thành lập một Bộ Tư lệnh chiến dịch gồm: đồng chí Huỳnh Hữu Anh - Sư đoàn trưởng Sư đoàn 3 làm Tư lệnh, đồng chí Mai Tân - Bí thư Tỉnh ủy Bình Định là Chính ủy, đồng chí Tỉnh đội trưởng Tỉnh đội Bình Định làm Phó Tư lệnh. Bên cạnh đó, Thường vụ Khu ủy còn cừ đồng chí Hữu Bẩy - Ủy viên Thường vụ đi cùng Bộ Tư lệnh chiến dịch để trực tiếp chỉ đạo.

Bộ Tư lệnh chiến dịch dự kiến hướng tiến công chủ yếu nhằm tiêu diệt quân chủ lực cơ động địch sẽ diễn ra ở khu vực 3 huyện Phú Mỹ, Hoài Ân, Hoài Nhơn (bắc Bình định). Lực lượng tác chiến trên hướng này gồm Trung đoàn 2 và Trung đoàn 21 (Sư đoàn 3) đảm nhiệm, hướng tiến công thứ yếu là huyện An Nhơn và đông bắc huyện Bình Khê (nam Bình Đinh). Đây là trọng điểm diệt địch, giành dân, mở mảng; do bộ đội địa phương tỉnh đảm trách. Hướng phối hợp do Trung đoàn 12 đảm nhiệm đánh cắt giao thông trên đường 19, đôàn đèo nang (Hòn Nhọn - Hòn Kiểng), nhằm thu hút 2 trung đoàn của Sư đoàn Mãnh Hổ Nam Triều Tiên ngăn không cho chúng tổ chức hành quân ứng cứu khi ta mở cuộc tiến công.

Sau một quá trình chuẩn bị mọi mặt, theo đúng kế hoạch, đúng 3 giờ sáng ngày 9-4, chiến dịch chính thức mở màn. Trên hướng chủ yếu, Tiểu đoàn đặc công 40 của Sư đoàn 3 được lệnh đánh chiếm cứ điểm Gò Loi. Đây là cứ điểm có công sự vững chắc, gồm hệ thống 50 lô cốt và hầm ngầm, cấu trúc thành 3 tầng, xung quanh có 12 hàng rào thép gai xen kẽ những bãi mìn và vật cản. Lực lượng địch chốt giữ căn cứ gồm 2 đại đội bảo an, 1 trung đội thám báo, 1 trung đội súng cối 106,7mm và Ban Chỉ huy Liên đội 48 bảo an. Với phương pháp bí mật cơ động áp sát mục tiêu từ 3 hướng, bộ đội ta bất ngờ và đồng loạt tập kích mãnh liệt vào nhiều mục tiêu, làm cho quân địch không kịp trở tay. Sau 20 phút chiến đấu ta đã hoàn toàn làm chủ căn cứ.

Cùng thời gian trên, một bộ phận lực lượng Trung đoàn 2 và Trung đoàn 21 lân lượt đánh chiếm các mục tiêu ngã ba Tân Thạnh, Đồi Đá, Phú Khương, Bầu Sen, Gò Thị, Đồng Bịch, Gò Dê, cầu Bến Vách, Hà Tây, khu gia binh…


(1) Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Tóm tắt các chiến dịch trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), Sđd, 322.
(2) Bộ Tư lệnh Quân khu 5: Tổng kết chiến dịch tiến công tổng hợp bắc Bình Định (9-4 - 3-5-1972), lưu tại Phòng Khoa học công nghệ - Môi trường Quân khu 5, tr. 4.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 23 Tháng Giêng, 2011, 09:24:29 am
Bị đánh đồn phủ đầu gây thiệt hại nặng, Sư đoàn 22 địch không đưa lực lượng ra phản kích ngay. Chúng sử dụng không quân tập kích dữ đội vào những vị trí đã mất, đồng thời tung một bộ phận quân bảo an đi sục sạo, thăm dò lực lượng ta. Trong điều kiện đó, để kích địch sớm lao vào cuộc chiến, Bộ Tư lệnh chiến dịch sử dụng Trung đoàn 2 và Tiểu đoàn 4 (Trung đoàn 12) tiến công mạnh vào sườn phía bắc và đông bắc quận lỵ Hoài Ân. Ngay lập tức, địch tung Chiến đoàn đặc nhiệm 40 (gồm tiểu đoàn 2 và 3 thuộc Trung đoàn 40, Tiểu đoàn 2 (Trung đoàn 41) và chi đoàn thiết giáp), mở cuộc hành quân giải tỏa Gò Loi. Nhằm nhử địch vào sâu, ta chủ động nới thế trận cho đội hình địch lọt vào các khu vực chuẩn bị sẵn để tiêu diệt. Trưa ngay 13-4, toàn bộ Chiến đoàn 40 địch đã vào khu vực Hòn Bồ, Gò Dê và ngã ba Tân Thạnh.

Sáng 15-4, sau những loạt súng cối và ĐKZ bắn trùm lên khu vực Hòn Bồ, bộ binh ta nhanh chóng đánh chiếm các mục tiêu. Trước sức tiến công áp đảo của ta, quân địch ở mỏm 3 trên dãy Hòn Bồ đã rút chạy sáng mỏm 2. Trên đường rút chạy, một bộ phận bị ta tiêu diệt. Những tên sống sót tháo chạy sang mỏm 1, cố sức chống trả. Cùng lúc, tại chân điểm cao Hồn Bồ, 1 tiểu đoàn địch cũng bị ta bao vây, chia cắt và tiêu diệt từng bộ phận. Mặc dù lực lượng bộ binh bị các đơn vị chủ lực Quân giải phóng tiến công mạnh mẽ, song chi đoàn thiết giáp địch bấy giờ đang đứng chân ở Khoa Trường vẫn nằm im.

Thua trận liên tục, lực lượng và vũ khí bị tiêu hao ngày mỗi tăng, tinh thần binh sỹ hoảng loạn, quân cứu viện không còn, buộc Sư đoàn 22 địch phải ra lệnh cho lực lượng còn lại bỏ các mục tiêu tháo chạy. Nhân thời cơ này, ta chuyển sang truy đuổi, chặn đầu, khóa đuôi đội hình rút chạy của địch. Nhiều trận đánh giáp lá cà ác liệt đã diễn ra. Chiến đoàn 40 địch nhanh chóng bị loại khỏi chiến đấu.

Phối hợp tác chiến, đêm 15-4, các tiểu đoàn đặc công 403, 406 quân khu bất ngờ tập kích đánh thiệt hại nặng chi khu Tam Quan và căn cứ Đệ Đức - nơi đặt Sở Chỉ huy Trung đoàn 40 chủ lực địch. Trên địa bàn phía nam Bình Định, các tiểu đoàn 50, 52 bộ đội chủ lực tỉnh phối hợp với bộ đội, du kích các huyện Bình Khê, An Nhơn, tuy Phước tiến công diệt nhiều đồn bốt bảo an, dân vệ; đánh cắt giao thông trên đường 1, phá sập cầu Tân An…, hỗ trợ trực tiếp cho nhân dân nổi dậy giải phóng hoàn toàn 5 xã ở Bình Khê, Tuy Phước, mở đầu cho phong trào phá bình định, giành dân, giành đất diễn ra mạnh mẽ, rộng khắp trên toàn tỉnh.

Trước sức tiến công và nổi dậy của quân và dân ta, địch tại quận lỵ Hoài Ân dao động manh; cố vấn Mỹ dùng máy bay lên thẳng rút về Quy Nhơn. Đây là cơ hội để ta tiến công giải phóng quận lỵ Hoài Ân.

Sáng sớm ngày 16-4-1972, ta tập trung lực lượng tiến công nhiều mục tiêu then chốt và ấp chiến lược bao quanh vòng ngoài quận lỵ của địch. Địch tập trung hỏa lực chống trả quyết liệt, đồng thời phản kích đánh ra phía đồi 75, núi Một. Những cuộc đọ sức quyết liệt, đẫm máu giành đi, giật lại từng tấc đất, từng vị tri giữa quân ta và địch đã diễn ra nhiều giờ tại núi Một, đồi 75, Trương Sỏi. Mãi đến 19 giờ cùng ngày, ta mới đánh chiếm được các mục tiêu. Toàn bộ hệ thống đồn bốt, ấp chiến lược bảo vệ vòng ngoài quận lỵ Hoài Ân đã bị quét sạch.

Ngày 17, trận tiến công quyết định giải phóng quận lỵ Hoài Ân bắt đầu. Từ ba hướng, bộ đội ta đồng loạt tiến công vào các mục tiêu trong quận lỵ, áp đảo quân địch. Trong cơn tuyệt vọng, Quận trưởng Hoài Ân đã ra lệnh phá hủy kho tàng, đốt tài liệu và tập trung quân phá vây tháo chạy. Sớm phát hiện được ý đồ của địch, Bộ Tư lệnh chiến dịch lệnh phá sập cầu Giao Ba để chặn đường rút chạy của địch; đồng thời sử dụng Trung đoàn 21 và Tiểu đoàn 4 (Trung đoàn 12) nhanh chóng xuất kích truy đuổi. Toàn bộ lực lượng địch khoảng 1.000 quân và 11 xe bọc thép bị ùn tắc trên con đường độc đạo và nhanh chóng tan rã; sỹ quan, binh lính đều bỏ xe, vứt vũ khí, tìm đường chạy trốn. Đến 11 giờ ngày 19-4, quận lỵ Hoài Ân với hơn 30.000 dân đã hoàn toàn giải phóng.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 24 Tháng Giêng, 2011, 06:44:03 pm
Mất quận lỵ Hoài Ân, 2 trung đoàn 40 và 41 (Sư đoàn 22) bị tiêu hao nặng, một mảng lớn quân địa phương và chính quyền cơ sở bị tiêu diệt, song do đang phải dồn sức chống cự với hướng tiến công Tây Nguyên của ta, nên Quân khu 2 - Quân đoàn 2 địch không về ứng cứu được. Tận dụng thời cơ này, ta đẩy nhanh tốc độ tiến công, giành thêm những thắng lợi mới. Phương án tiến công này được Bộ Tư lệnh chiến dịch xác định là: vây ép Bồng Sơn, tiến công Bình Dương, giải phóng bắc Phù Mỹ, tiếp đến tiêu diệt Bồng Sơn, Tam Quan, Đệ Đức, hoàn thành việc giải phóng nửa phía bắc tỉnh Bình Định.

Nhằm tạo bất ngờ, Trung đoàn 2 và những đơn vị đánh Bình Dương bí mật cơ động vượt đường 1 theo hướng đông, rồi dùng thuyền của dân vượt Đầm Trấu đến khu vực tập kết. Mặt khác, để nghi binh thu hút, chuẩn bị cho tiến công Bồng Sơn, Bộ Tư lệnh chiến dịch sử dụng một bộ phận lực lượng tiến công các mục tiêu Lại Khánh, Văn Cang, Trung Lương, Thiết Đinh…

Trong lúc quân địch đang tìm cách đối phó với ta ở phía tây căn cứ Bồng Sơn, thì sáng 25-4, ta triển khai lực lượng vây ép căn cứ Bình Dương, đồng thời đồng loạt tiến công hơn 20 đồn bốt khác của chúng trả dài từ bắc Đèo Nhông đến nam cầu Bồng Sơn. Bị bất ngờ hoàn toàn trước sự thay đổi hướng tiến công của ta, địch vội đưa quân từ Bình Định đến ứng cứu cho Bình Dương, song đã quá muộn. Bình Dương lúc này đã bị ta vây chặt. Một bộ phận lực lượng chủ lực và địa phương của ta đã cơ động phục kích, sẵn sàng chặn đánh quân tiếp viện của địch. Trước tình thế nguy khốn này, ngày 27-4, lực lượng địch gồm 1 tiểu đoàn chiếm giữ Bình dương bỏ căn cứ tháo chạy và bị ta tiêu diệt. Mất Bình Dương, địch ở bắc Phù Mỹ lâm vào tình trạng hỗn loạn. Nhiều binh lính địch trút bỏ quân phục, lánh về địa phương. Cơ sở cách mạng đã kịp thời phát động quần chúng nổi dậy phá đồn bốt, diệt ác ôn, phá ấp chiến lược, giành quyền làm chủ khu vực phía bắc huyện Phù Mỹ. Thế trận của địch ở tỉnh Bình Định bị cắt làm đôi. Quận lỵ Hoài Nhơn bị ta cô lập hoàn toàn.

Trên đà thắng lợi, ngày 28, Bộ Tư lệnh chiến dịch quyết định đánh chiếm thị trấn Bồng Sơn. Tại đây, được bộ binh và xe bọc thép từ Đệ Đức kéo về tăng viện, địch dùng lựu đạn, súng liên thanh chống trả quyết liệt. Cuộc chiến đấu giành giật từng mục tiêu, từng khu vực giữa ta và địch diễn ra trong nhiều giờ. Đến 11 giờ, ta mơi diệt được các hỏa điểm của địch. Mũi thọc sâu số 1 của Tiểu đoàn 4 (Trung đoàn 12) đánh chiếm đồn quân cảnh; mũi thọc sâu số 2 của Tiểu đoàn 4 từ An Đông đánh sang bắt liên lạc với Tiểu đoàn 1 (Trung đoàn 2) ở  tây nam thị trấn. Cùng lúc, Tiểu đoàn 4 (Trung đoàn 21) phát triển tiến công đánh vào trung tâm thị trấn, tiêu diệt một số mục tiêu. Quận trưởng Bồng Sơn bỏ nhiệm sở chạy trốn bị bộ đội ta tiêu diệt. Toàn bộ quân địch còn lại rơi vào tình trạng hỗn loạn. Các mũi tiến công của ta lần lượt đánh chiếm các mục tiêu còn lại, giải phóng hoàn toàn thị trấn Bồng Sơn. Một loạt các đồn bốt của địch ở Hoài Châu, Hoài Hải, Hoài Thanh, Hoài Hương… bị quân và dân địa phương đánh chiếm. Trước khí thế tiến công và nổi dậy của ta ngày càng mạnh mẽ, rộng khắp, quân địch chốt giữ tại thị trấn Tam Quan vội vàng tháo chạy. Như vậy, đến cuối tháng 4, ở bắc Bình định, địch chỉ còn chiếm giữ cứ điểm Đệ Đức - một căn cứ của Lữ đoàn dù 173 Mỹ trước đây.

Với diện tích trải rộng 5km2, có sân bay, hệ thống công sự, trận địa, hầm ngầm kiên cố, xung quanh được bảo vệ bới 14 lớp rào kẽm bai xen những bãi mìn, vật cản, đến cuối tháng 4 đầu tháng 5, lực lượng địch dồn về cứ điểm này lên tới 1.200 tên, 12 khẩu pháo cỡ 105-155mm, 10 khẩu cối 106mm và 2 chi đoàn xe bọc thép. Đây là đội quân từ nhiều nơi tập trung về, tinh thần rệu rã; hơn nữa, lúc này, căn cứ hoàn toàn bị ta cô lập, mọi nguồn tiếp tế, chi viện đều bị cắt đứt, trừ đường không. Vì thế, số phận của cứ điểm Đệ Đức hầu như đã được định đoạt.

Đúng 5 giờ sáng ngày 2-5, trận tiến công tiêu diệt cư điểm cuối cùng của địch ở bắc Binh Định bắt đầu. Hỏa lực chuẩn bị của pháo binh bắn cấp tập vào căn cứ, phá hủy kho xăng, kho đạn, đánh thiệt hại nặng các khu rađa, truyền tin, sở chỉ huy, sân bay và trận địa pháo binh địch. Ngay sau khi pháo chuyển làn, bi ta lập tức tiến công đánh chiếm các mục tiêu theo phân công. Qua hơn 1 giờ chiến đấu, ta đã làm chủ các khu nhân viên kỹ thuật, khu trinh sát, khu truyền tin, một số lô cốt, hầm ngầm của địch. Do phạm vi căn cứ quá rộng, bố phòng của địch phức tạp, bộ đội ta vừa chiến đấu, vừa phải khắc phục vật cản nên tốc độ phát triển tiến công chậm. Lợi dụng tình hình này, địch sử dụng máy bay ném bom dữ dội vào đội hình tiến công của ta, gây cho ta những tổn thất lớn. Lúc 15 giờ cùng ngày, 10 xe bọc thép địch dẫu đầu 1 toán bộ binh vội vã tháo chạy khỏi căn cứ. Đến khu vực núi Kho, chúng bị lực lượng ta phục kích tiêu diệt. Cùng lúc, số địch còn lại trong căn cứ cũng nhanh chóng bị loại khỏi chiến đấu. Căn cứ Đệ Đức rơi vào tay Quân giải phóng. Đến đây, toàn bộ khu vực lãnh thổ phía bắc tỉnh Bình Định, gồm các huyện Hoài Ân, Hoài Nhơn và địa bàn phía bắc huyện Phù Mỹ, với diện tích khoảng 1.500km2 và hàng chục vạn dân, được hoàn toàn giải phóng. Đây cũng là thời điểm quân và dân Khu kết thúc thắng lợi chiến dịch tổng hợp đánh phá bình định năm 1972.

Qua 25 ngày đêm thực hành chiến dịch tổng hợp bắc Bình Định, quân và dân ta đã loại khỏi chiến đấu 14.500 tên địch, xóa sổ Trung đoàn 40, diệt 15 tiểu đoàn và liên đội, 50 đại đội bảo an, 164 trung đội dân vệ và thanh niên chiến đấu, 1 đại đội và 15 trung đội cảnh sát, 18 đoan cán bộ bình định. Trong thời gian diễn ra chiến dịch, ta đã huy động được 7.000 lượt người nổi dậy phá rã 20 đồn, 40 ấp chiến lược, giải phóng 2 huyện, 28 xã, 48 thôn. Thắng lợi của quân và dân bắc Bình Định tạo đà trực tiếp cho phong trào đấu tranh đánh phá bình định, giải phóng dân, giải phóng đất ở các tỉnh còn lại của Khu 5.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 24 Tháng Giêng, 2011, 06:45:22 pm
Phối hợp với chiến dịch tiến công tổng hợp Bắc Bình Định, ở Quảng Nam, ngay đêm 8-4 Tiểu đoàn 409 đặc công tập kích cứ điểm Liệt Kiểm và Chia Gan(1). Chỉ sau 40 phút chiến đấu, đặc công ta đã làm chủ mục tiêu. Ngay sau đó, ta sử dụng ngay 4 khẩu pháo 4105mm vừa thu của địch tập kích vào quận lỵ Hiệp Đức, đồng thời, Trung đoàn 38 được lệnh triển khai vây ép quận lỵ, Trung đoàn 31 thọc sâu đánh chiếm Việt An, ngã ba Vinh Huy, cầu Ông Triệu… phá vỡ hệ thống kìm kẹp của địch ở khu vực giáp anh hai huyện Thăng Bình và Quế Sơn Phối hợp cùng chủ lực, lực lượng vũ trang tỉnh Quảng nam tiến công tiêu diệt cứ điểm Chà Vu, uy hiếp quân địch rút khỏi các đồn Dương Con, Rừng Nhung.

Qua 20 ngày đêm chiến đấu liên tục, lần lượt tiêu diệt tất cả các cứ điểm ngoại vi vòng ngoài quận lỵ Hiệp đức.

Đêm 28-4, Trung đoàn 38 mở trận tiến công đánh chiếm quận lỵ. Trước sức tiến công áp đảo của ta, toàn bộ địch chốt giữ ở đây đã bị tiêu diệt và bị bắt làm tù binh, quận lỵ Hiệp Đức được hoàn toàn giải phóng.

Hòa nhịp với khí thế tiến công giải phóng quận lỵ Hiệp Đức, tại Quảng Đà, hỏa lực pháo binh ta tập kích sân bay Đà Nẵng, sân bay Nước Mặn, cảng Đà Nẵng, phá hủy, phá hỏng hơn 30 máy bay các loại và 3 tàu thủy của địch. Bộ đội Quảng Đà tiến công diệt Sở Chỉ huy Thiết đoàn 7 địch ở Hầm Xẻ, diệt 1 liên đội bảo an ở Gò Nổi, đánh sập các cầu Thủy Tú, Cầu Lâu, chặn cắt giao thông ở đèo Hải Vân, chặn nguồn tiếp tế và đường cơ động lực lượng của địch. Được thắng lợi quân sự tạo đà, du kích và nhân dân nhiều nơi đã tiến công và nổi dậy phá vỡ nhiều mảng ấp chiến lược, mở ra nhiều vùng giải phóng liên hoàn rải rộng từ 3 đến 5 xã thuộc các vùng phía tây huyện Duy Xuyên, vùng B Đại Lộc, khu vực Gò Nổi của huyện Điện Bàn.

Trên địa bàn Quảng Ngãi, ngày 12-4, Tiểu đoàn 48 cùng Đại đội đặc công 21 và lực lượng tại chỗ huyện Sơn Tịnh và Bình Sơn đánh chiếm chốt điểm An Sen, phát triển tiến công diệt tiếp 3 chốt điểm của địch ở đồi ông Hận, Đá Nú, Phú Quý, hỗ trợ cho nhân dân nổi dậy phá banh các khu dồn dân Châu Thuận, Phú Quý, an Hải, Định Tân, Đông Hòa, Minh Quang, phá vỡ hoàn toàn khu “bình định kiểu mẫu” Ba làng An của địch. Tiếp đó, bộ đội và du kích diệt các chốt điểm núi Cao, núi Vè, Nho Lâm, Tập Mỹ, Mỹ Lai, bẻ gãy các mũi phản kích của quân bảo an, hỗ trợ cho nhân dân nổi dậy giành quyền làm chủ trên mảng rộng gồm 13 xã ven biển từ cửa biển Sơn Trà đến khu vực phía bắc sông Trà Khúc. Cũng thời gian trên, ở khu vực plhía nam Quảng Đà, Tiểu đoàn 83 cùng bộ đội, du kích huyện Mộ Đức diệt hàng loạt đồn bốt địch ở Long Phụng, Phú Khương, bức rút cứ điểm Thi Phổ, uy hiếp quận lỵ Mộ Đức, tiêu diệt các chốt điểm Cầu Sắt, Bồ Đề, khu dồn xóm mới, mở ra vùng làm chủ gồm 9 cã Đức Nhuận, Đức Lợi, Đức Thắng, Đức Chánh, Đức Hiệp, Đức Hòa, Đức Phong, Đức Minh, Đức Thạnh. Đặc biệt, các tổ binh vận thuộc 4 xã Bình Phú, Bình Châu, Tịnh Khê, Tịnh Hòa đã vận động gia đình, người thân của binh sỹ địch gọi được 260 lính bảo an, dân vệ mang 80 súng quay trở về với nhân dân.

Ở Phú Yên, trong tháng 4, bộ đội địa phương tỉnh tiến công tiêu diệt 2 liên đội bảo an tại núi Sầm và Xuân Phước, tiếp đó, phát triển tiến công tiêu diệt và bức rút trên 20 cứ điểm, đồn bốt địch ở các huyện Tuy Hòa, Tuy An, Đồng Xuân, phá hỏng cầu Ngân Sơn, cắt giao thông trong nhiều giờ trên đướng số 6 (đoạn từ La Hai đến Chí Thạnh), đường số 1 (đoạn từ Ngân Sơn đi Sông Cầu), hỗ trợ nhân dân nổi dậy giành quyền làm chủ khu vực Đồng Tre.

Tại Khánh Hòa, ngày 8-4 - một ngày trước khi chiến dịch bắc Bình Định mở màn, tiểu đoàn 407 bất ngờ tập kích khu kho hậu cần của địch ở Cam Ranh, phá hủy trên 35 ngàn tấn bom đạn và pháo binh chiến tranh của địch. Đêm 12-4, hai tiểu đoàn 460 và 480 đánh thiệt hại nặng tiểu đoàn biệt động Cọp Đen ở khu vực ngã ba Đồng Xuân - Dục Mỹ. Phối hợp chiến đấu với bộ đội chủ lực, du kích và nhân dân các xã Ninh Ích, Ninh Thọ, Ninh Hòa, Ninh Diêm, Ninh Quang, Ninh Hưng… đã đồng loạt nổi dậy chống địch càn quét, phá hỏng thế kìm kẹp của địch.

Chiến dịch tổng hợp ở chiến trường Khu 5 diễn ra trên phạm vi địa bàn hẹp trong khoảng thời gian ngắn và đạt hiệu quả cao. Trong quá tình diễn biến của chiến dịch, sự kết hợp giữa tiến công quân sự và nổi dậy của quần chúng được tiến hành chặt chẽ; đòn đánh của chủ lực luôn đi trước một bước, đạt hiệu quả tiểu đoàn địch cao, tạo điều kiện thuận lợi cho lực lượng vũ trang tại chỗ và nhân dân các địa phương tiến công và nổi dậy tiêu diệt, bức hàng, bức rút nhiều đồn bốt địch, mở rộng vùng làm chủ, vùng giải phóng. Chiến dịch tổng họp đánh phá binh định giành thắng lợi, tạo ra thế và lực mới, đảm bảo cho quân và dân Khu 5 tiếp tục giữ vững thế tiến công.


(1) Liệt Kiểm là căn cứ tiểu đoàn của Lữ đoàn 196 Mỹ trước đây, có công sự và hầm ngầm vững chắc, nằm trên một ngọn đồi cao, khống chế cả một khu vực rộng án ngữ đường 16 phía tây Quế Sơn. Tại đây, vào lúc đặc công ta tiến công, địch có 1 đại đội bộ binh và 1 đại đội pháo 105mm, Sở Chỉ huy Tiểu đoàn 1 (Trung đoàn 5) chủ lực quân đội Sài Gòn. Chia Gan là điểm cao khống chế ngoại vị quận lỵ Hiệp Đức, cách Liệt Kiểm độ 6km về hướng tây, do 2 đại đội của Tiểu đoàn 1 (Trung đoàn 5) chiếm giữ.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 24 Tháng Giêng, 2011, 06:46:12 pm
Khu 6 là chiến trường năm giữa hai hướng tiến công chiến lược chủ yếu của ta ở Tây Nguyên và Đông Nam Bộ trong năm 1972. Khi chuộc tiến công chiến lược 1972 nổ ra, địch buộc phải rút phần lớn chủ lực ở Khu 6 lên ứng cứu cho Tây Nguyên. Nhân điều kiện này, Khu 6 quyết định mở chiến dịch tổng hợp đánh phá bình định của địch, lấy Bình Thuận làm địa bàn trọng điểm, nhằm tiêu diệt, tiêu hao, làm tan rã một bộ phận sinh lực chủ yếu của địch, đặc biệt là lực lượng bảo an cơ động, dân vệ cảnh sát, bọn tề ác; làm rã bộ máy kìm kẹp của chúng, đưa dân và khôi phục lại vùng giải phóng cũ và mở thêm những mảng giải phóng mới, tạo thế liên hoàn giữa các vùng; đồng thời, nâng thế làm chủ ở nhiều mức độ khác nhau trong đại bộ phận nông thôn còn lại, phát triển và đưa phong trào thị trấn, thị xã lên một bước mới, trên cơ sở đó, tiếp tục xây dựng cơ sở chính trị, phát triển lực lượng vũ trang tiến tới đánh cắt giao thông, kìm chủ lực địch để phối hợp chiến trường toàn Miền.

Theo quyết định của Bộ Tư lệnh, Ban Chỉ huy chiến dịch tổng hợp đánh phá bình định của địch ở Bình Thuận được thành lập, gồm các đồng chí Lê Văn Hiển - Phó chính ủy Khu 6 làm Chỉ huy trưởng, Trần Thọ - Tỉnh đội trưởng Tình đội Bình Thuận làm Chỉ huy phó. Địa bàn Tà Nung - Lương Sơn được chọn làm khu vực tác chiến chủ yếu của chiến dịch. Tất cả những đơn vị chủ lực của khu đang hoạt động ở Bình Thuận đều được lệnh nhanh chóng cơ động về khu vực này, mở các cuộc tiến công tiêu diệt địch, phá hệ thống ấp chiến lược dọc theo quốc lộ 1, đưa dân về vùng căn cứ, khu giải phóng Lê Hồng Phong cũ. Khu vực Tam Giác và khu vực ven đường số 8 được chọn làm địa bàn phát động nhân dân nổi dậy giành quyền làm chủ và bung dân về làng cũ làm ăn. Đây chính là mục tiêu chủ yếu trong đánh phá bình định của chiến dịch tiến công tổng hợp Khu 6.

Phối hợp vơi kế hoạch tiến công thống nhất trên toàn miên, đêm 6-4, Đại đội 5 đặc công thuộc Tiểu đoàn 840 bất ngờ tập kích cứ điểm Lương Sơn, nhưng không thành công, phải rút lực lượng ra ngoài hình thành thế vây ép địch. Cùng lúc, Tiểu đoàn 482 và lực lượng vũ trang tại chỗ các huyện Hàm Thuận, Thuận Phong, Hòa Đa, Tuy Phong chia thành nhiều mũi đồng loạt đánh vào các ấp Tân Hưng, Bình Lâm, An Phú, Tân Thành, Mương Mán, Bình An, Thắng Thuận, Tân Diễn, Kim Bình, Tân Thành, Phú Mỹ, Gộp, Xa Ra, Hiệp Hòa, Xuân Quang, Xuân Hội, Long Lễ, Liêm Bình, Thoại Mỹ, Lạc Trị… Được đòn quân sự hỗ trợ, nhân dân các địa phương nổi dậy trừng trị bọn ác ôn, phá thế kìm kẹp, bung về làng cũ làm ăn.

Ngày 18-4, Tiểu đoàn 840 chuyển sang tiến công địch ở Lương Sơn, đánh bại 1 đại đội bảo an và 2 trung đội dân vệ địch. Cùng ngày, Tiểu đoàn 186 tiến công phá ấp Tà Nung, đánh thiệt hại nặng 1 đại đội bảo an địch. Ngày 10-5, tại ấp Gộp, 2 trung đội dân vệ bị ta tiêu diệt, nhân dân trong ấp nổi dậy giành quyền làm chủ.

Phối hợp với Bình Thuận, lực lượng vũ trang Bình Tuy đẩy mạnh hoạt động tiến công, hỗ trợ nhân dân nổi dậy phá bình định, giành quyền làm chủ. Trong điểm đánh phá bình định của tỉnh được xác định là địa bàn Hoài Đức, Tánh Linh.

Đầu tháng 7, Bộ Tư lệnh Khu 6 quyết định chuyển trọng điểm hoạt động của chiến dịch về hướng tây nam, nhằm nới rộng thêm vùng giải phóng và hành lang chiến lược nối từ căn cứ Miền về căn cứ Khu 6 (từ sông Đồng Nai Thượng lên nam đèo Blao xuống Bình Tuy và Bình Thuận). Tiểu đoàn 840 được điều từ Hòa Đa vào các tác chiến trên các khu vực đường 8, Tiểu đoàn 186 cơ động từ Bình Thuận sang Tánh Linh, Hoài Đức (Bình Tuy) chiến đấu. Tiểu đoàn đặc công 200C cơ động lên hoạt động tại Lâm Đồng.

Sau một thời gian cơ động lực lượng về địa bàn tác chiến được phân công, từ tháng 8, các đơn vị liên tục bám sát xã, ấp và vùng ven thị xã, thị trấn, tổ chức nhiều trận đánh nhỏ, lẻ, diệt ác ổn, hỗ trợ cho nhân dân ở khu vực ven đường số 8, quốc lộ 1 (đoạn Phan Rí - Tà Nung), ven trục đường số 3, vùng ngoại ô thị xã La Gi, Thị trấn Hàm Tân… nổi dậy phá khu tập trung, ấp chiến lược, khuân đồ đạc về làng cũ làm ăn. Tính đến hết tháng 9, ở Bình Thuận, ta đã làm chủ hoàn toàn 12 ấp, giải phóng 8.752 dân, làm chủ một phần ở 15 ấp và 14 phân khu với 32.513 dân, đưa vùng tranh chấp lên 22 ấp và 12 phân khu với 3.262 dân, phá lỏng ách kìm kẹp của địch ở 59 ấp ới 62.464 dân, làm rã ngũ 568 lính bảo an, 357 dân vệ.

Trong tháng 10, trên địa bàn khu vực Tam Giác và đường số 8, chủ lực Khu 6 và bộ đội địa phương mở nhiều trận tiến công ở Bình Lâm, Tân Diễn, Tân Phú… đẩy quân địch lùi sâu vào trong các tiểu khu, chi khu, tạo điều kiện thuận lợi cho lực lượng vũ trang tại chỗ và nhân dân nổi dậy phá ấp chiến lược, trở về vùng giải phóng Tam Giác. Cùng thời gian trên, tại khu vực Tánh Linh - Hoài Đức, Tiểu đoàn 186 cùng lực lượng vũ trang địa phương phối hợp với Tiểu đoàn 15 đang hoạt động ở khu vực đường 20 liên tục tiến công loại khỏi chiến đấu nhiều sinh lực địch, phá lỏng, phá rã một số ấp chiến lược dọc theo đường số 3. Tại Hàm Tân, bộ đội tập trung huyện và du kích ấp, xã tổ chức đánh địch càn quét, hỗ trợ cho nhân dân chống địch thu gom lúa ở Hiệp Nhơn, Hiệp Phước, chống cướp ruộng ở Phước Thành, chống lập phòng vệ dân sự ở Hiệp Nhơn, Hiệp Phước, Dinh Diền, Láng Gòn.

Đặc biệt, những tháng cuối năm 1972, đầu năm 1973, cùng với biến chuyển thắng lợi của ta trên bàn đàm phán Pari, chiến dịch tiến công tổng hợp của quân dân ta Khu 6 có những bước phát triển nhảy vọt. Tại Bình Thuận, lực lượng vũ trang ba thứ quân của ta đồng loạt tiến công các mục tiêu trọng yếu của địch như: tiểu khu Bình Thuận, Căng Êsêpic, đồn Phú Thọ, núi Đất, Mương Mán, Bàu Gia, chi khu Thiện Giáo, các ấp chiến lược dọc hai bên đường só 8, số 1, vành đai thị xã Phan Thiết, các thị trấn Hòa Đa, Phan Rí, Liên Hương… Ở Bình Tuy, Tiểu đoàn 186 tiến công thị trấn Tánh Linh, tập kích hỏa lực vào chi khu và cứ điểm Lồ Ô. Các đơn vị bộ đội địa phương tỉnh và huyện, du kích ấp, xã đánh vào căn cứ dịch ở Gia An, Huy Khiêm, Tế Lễ, Xá Dú, Bắc Ruộng và Võ Xu. Được sự hỗ trợ của bộ đội và du kích, nhân dân các ấp Nghị Đức, Chính Đức, Sùng Nhơn và các ấp ven đường số 3 đã đồng loạt nổi dậy diệt ác, phá kìm, giành quyền làm chủ. Riêng ở Hàm Tân, bộ đội và du kích đã cùng lúc tiến công và các ấp Hiệp Nhon, Hiệp Phước, Hiệp Nghĩa, Văn Mỹ, Tam Tân, Hiệp An, Tân Lý, Phước Lộc, Phước Thành, Phước Thọ, Láng Gòn… trực tiếp hỗ trợ cho nhân dân nổi dậy giành quyền làm chủ. Nhiều vùng giải phóng của ta mới được hình thành, xen kẽ với vùng địch, tạo ra thế trận cài răng lược. Đây là điều kiện thuận lợi để ta phát triển tiến công giành thắng lợi trong thời gian tiếp theo.

Như vậy, bằng những chiến dịch tiến công tổng hợp đánh phá bình định của địch, lực lượng vũ trang và nhân dân Khu 8, Khu 9, Khu 5, Khu 6 đã góp phần rất quan trọng cùng với các hướn tiến công chủ yếu ở Đông Nam Bộ, Trị - Thiên và Tây Nguyên làm nên thắng lợi chiến lược năm 1972. Các chiến dịch tiến công tổng hợp đã mở rộng vùng giải phóng ở các tỉnh Quảng Trị, Kon Tum, bắc Bình Định; hoàn chỉnh vùng giải phóng Đông Nam Bộ bao gồm các tỉnh Tây Ninh, Bình Long, Phước Long; mở ra những vùng giải phóng mới ở khu vực đồng bằng Khu 5, đồng bằng sông Cửu Long, với hơn 1 tiệu dân giành được quyền làm chủ. Với việc tạo ra được những vùng giải phóng rộng lớn nằm xen kẽ với vùng địch kiểm soát, ta đã tạo hêm những bàn đạp rất quan trọng để tiếp tục giữ vững và đẩy mạnh thế tiến công chiến lược trong những năm tiếp theo.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 24 Tháng Giêng, 2011, 06:47:57 pm
II - CÙNG QUÂN DÂN LÀO, CAMPUCHIA ĐẨY MẠNH
TIẾN CÔNG MỞ RỘNG VÙNG GIẢI PHÓNG

Khi quân và dân ta trên chiến trường miền Nam mở cuộc tiến công chiến lược năm 1972, thì đồng thời gtrên chiến trường Lào và Campuchia, quân tình nguyện Việt Nam đã cùng quân và dân Lào, Campuchia đẩy mạnh các hoạt động tiến công mở rộng vùng giải phóng.

Trên thực tế, gắn bó chặt chẽ với từng thời điểm của cuộc tiến công do quân và dân ta ở miền Nam diễn ra trên nhiều hướng chiến trường trọng điểm như Đông Nam Bộ, Trị - Thiên và Tây Nguyên, trên chiến trường nước bạn Lào, quân tình nguyện Việt Nam và bộ đội Pathét Lào đã mở chiến dịch Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng. Trong lúc đó, ở chiến trường Campuchia, bộ đội chủ lực Quân giải phóng miền Nam đã phối hợp với lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia mở chiến dịch phản công đánh bại cuộc hành quân mang mật danh Ăng Kor Chey của quân đội Khme phản động. Những hoạt động quân sự diễn ra trên các chiến trường nước bạn nằm trong tính toán chiến lược của ta và nhịp độ cũng như thời gian diễn ra các hoạt động này gắn với diễn biến của Hội nghị Pari.

Trên chiến trường Lào, tiếp tục thực hiện âm mưu đánh rộng ra vòng ngoài phá hành lang vận chuyển và uy hiếp hậu phương chiến lược của ta, chia cắt vùng giải phóng Lào, Mỹ đã sử dụng các đơn vị quân đội Thái Lan, quân đội Chính phủ Hoàng gia và quân Vàng Pao tiến công lấn chiếm khu vực Cánh Đồng Chum - Mường Sủi. Lợi dụng mùa mưa năm 1971, địch nhanh chóng đánh chiếm được Mường Sủi, Phu Keng, Phu Tâng, toàn bộ khu vực Cánh Đồng Chum. Nhưng khi phát triển tiến công đánh Khang Khay, Xiêng Khoảng, Noọng Pẹt, tiếp đó là khu vực biên giới Việt Lào, chúng đã bị bộ đội tình nguyện Việt Nam và quân đội Pathét Lào chặn đánh quyết liệt, buộc phải quay về tổ chức phòng ngự Cánh Đồng Chum.

Cánh Đồng Chum là một vùng cao nguyên với những đồi thấp xen kẽ với nhau, xung quanh có những điểm cao khống chế như Phu Tâng, Phu Tôn, 1.505, Phu Keng… thuận lợi đối với việc tổ chức thế trận phòng ngự. Phía nam Sảm Thông - Long Chẹng là khu vực rừng núi với nhiều tầng, nhiều dãy nối nhau liên tiếp, trong đó có những dãy điểm cao trên 1.800 m, nên việc cơ động lực lượng cũng như binh khí kỹ thuật, bảo đảm hậu cần rất khó khăn. Mặc dù vậy, chỉ sau thời gian ngắn, địch đã xây dựng Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng thành một khu vực phòng ngự liên hoàn, có hệ thống công sự, trận địa vững chắc với những chốt được bố trí trên các điểm cao có khả năng kiểm soát, khống chế toàn bộ địa bàn. Tại đây, lực lượng địch có 20 tiểu đoàn bộ binh (gồm 8 tiểu đoàn quân Thái Lan, 18 tiểu đoàn quan Vàng Pao, 4 tiểu đoàn thuộc Quân khu 1 quân đội Chính phủ Hoàng gia Lào), 3 tiểu đoàn pháo binh, 1 trung đội xe AM, 2 tiểu đoàn công binh và được không quân Mỹ và không quân quân đội Chính phủ Hoàng gia Lào chi viện hỏa lực trong quá trình tác chiến.

Ngay từ khi tiến hành các cuộc hành quân lớn ở Thượng Lào, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương ta và bạn đã chủ trương mở những chiến dịch tiến công quy mô tương đối lớn, có ý nghĩa chiến lược trong mùa khô 1971, 1972 trên chiến trường Lào, nhằm thu hút sự chú ý của địch, tạo điều kiện thuận lợi cho ta chuẩn bị mở cuộc tiến công chiến lược năm 1972 ở miền Nam Việt Nam. Sau khi nghiên cứu, đánh giá cụ thể lực lượng, thế bố trí chiến lược của địch, thế và lực của ta, Cánh Đồng Chum - Loong Chẹng(1) là địa bàn ta và bạn chọn mở chiến dịch.

Để đảm bảo thắng lợi, về phía Quân đội nhân dân Việt Nam, lực lượng được huy động cho chiến dịch gồm: các sư đoàn bộ binh 312 và 36, các trung đoàn độc lập số 866 và 335, Tiểu đoàn đặc công 41 (Của Bộ Tư lệnh 559) và Tiểu đoàn đặc công 27 (của Bộ Quốc phòng Quân đội nhân dân Việt Nam), 2 tiểu đoàn pháo binh 242 (Của Bộ Tư lệnh 559) và 21 (của Bộ), số 24 (của 559), 1 tiểu đoàn thiết giáp (thiếu) và 3 tiểu đoàn công binh thuộc các đơn vị quân tỉnh nguyện Việt Nam; về phía Quân đội cách mạng Lào, có 9 tiểu đoàn bộ binh, 3 đại đội địa phương và 1 đại đội pháo binh. Tất cả lực lượng trên đặt dưới sự chỉ huy thống nhất của một Bộ Tư lệnh chiến dịch, do đồng chí Vũ Lập làm tư lệnh, đồng chí Huỳnh Đắc Hương làm Chính ủy. Đặc biệt, trong quá trình diễn ra chiến dịch, đồng chí Lê Trọng Tấn - Phó Tổng tham mưu trưởng đại diện cho Bộ Quốc phòng và Quân ủy Trung ương được phái xuống trực tiếp chỉ đạo chiến dịch.


(1) Địa bàn chiến dịch rộng khoảng 80km2, cách Viên Chăn 150 km về hướng đông nam, cách Mường Xén - Nghẹ An 80 km theo đường 7.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 24 Tháng Giêng, 2011, 06:49:36 pm
Phương châm tác chiến được Bộ Tư lệnh chiến dịch xác định là: Đánh mạnh, đánh nhanh, đánh chắc thắng, nắm thời cơ, tiến công liên tục, lấy phương thức tác chiến hợp đồng quân, binh chủng là chính để tiêu diệt địch trong công sự, đồng thời cũng coi trọng đánh địch bên ngoài công sự khi chúng tăng viện hoặc rút chạy, kết hợp chặt chẽ giữa tiến công giành đất với phòng giữ các địa bàn trọng điểm, vừa tác chiến vừa tranh thủ củng cố lực lượng để bảo đảm chiến đấu liên tục, dài ngày.

Sau một thời gian cơ động lực lượng và triển khai các bước chuẩn bị, ngày 18-12-1972, đợt 1 chiến dịch tiến công Cánh Đồng Chum - Loong Chẹng chính thức mở màn. Trên hướng chủ yếu chiến dịch (hướng đông), vào lúc 5 giờ sáng, Tiểu đoàn 7 (Trung đoàn 209) nổ súng tiến công địch ở Bản Quang. Đây là hành động nghi binh, thu hút sự chú ý của địch, tạo điều kiện cho các đơn vị hỏa lực triển khai trận địa. Đúng 9 giờ 30 phút, pháo binh chiến dịch thực hiện đợt tập kích hỏa lực chuẩn bị đánh vào trận địa pháo, các cụm quân địch chốt giữ trên các điểm cao 1241, 1210, phu Seo, Phu Hủa Sang, Phu Tâng, đông bắc Phu Tôn, Phe Keng, tạo thơi cơ thuận lợi cho các trung đoàn 141, 165 cơ động lực lượng chiếm lĩnh địa bàn, triển khai thế trận bao vây các chốt điểm địch ở Phu Tôn, Phu Tâng, Phu Keng.

Hôm sau, ngày 19-12, sau những loạt pháo dội xuống trận địa địch, Trung đoàn 165 nổ súng tiến công điểm cao Phu Tâng, loại khỏi chiến đấu một bộ phận lực lượng của các tiểu đoàn BC 69, BC 605, BC 607. Trước sức tiến công của ta, đến 18 giờ 45 phút cùng ngày, toàn bộ số địch còn lại bắt đầu dao động rồi chuyển dần sang hoảng loạn khi tàn quân thất trận từ Phu Tâng kéo về mỗi lúc một đông. Hiện tượng bỏ vị trí chiến đấu, tìm đưởng rút khỏi điểm cao Phu Tôn đã bắt đầu xuất hiện trong một số đơn vị địch. Nắm thời cơ thuận lợi này, Bộ Tư lệnh chiến dịch ra lệnh cho Trung đoàn 141 đánh chiếm Phu Tôn. 22 giờ 45 phút ngày 19, các mũi xung phong của Trung đoàn 141 đã tiến đến đỉnh Phu Tôn. Lúc này, phần lớn quân địch đã tháo chạy về phía sau. Ta nhanh chóng tiêu diệt bộ phận còn lại và làm chủ mục tiêu. Riêng mũi thọc sâu chiến dịch, từ ngày 18 đến ngày 21-12, các tiểu đoàn đặc công 41, 18, 27 bất ngờ tập kích vào một loạt mục tiêu trọng yếu của địch ở Phu Pha Xay, Phu Seo, Sơ Chỉ huy Vàng Pao, sân bay…, phá hủy 4 máy bay và diệt một số địch.

Phối hợp chặt chẽ với hướng chủ yếu, trên hướng quan trọng (hướng bắc), lúc 4 giờ 45 phút ngày 18-12, sau đợt hỏa lực chuẩn bị, Trung đoàn 174 (Sư đoàn 316) xung phong đánh chiếm Sở Chỉ huy Binh đoàn 21 (GM 21) địch đóng tại Na Hin, Sở Chỉ huy Binh đoàn 23 (GM23) đóng tại Bản Sút. Trước thế áp đảo của ta, địch chỉ đủ sức kháng cự trong mấy tiếng đồng hồ. đến 11 giờ cùng ngày, chúng buộc phải tìm đường tháo lui để tránh bị tiêu diệt. Thừa thắng đó, bộ đội ta chuyển sang truy kích tàn quân địch rút chạy đến tận Mường Phồn, đồng thời tổ chức bao vây tiến công căn cứ địch tại đồi Koong Le. Sáng ngày 20-12, Trung đoàn 335 lần lượt đánh từng cụm quân địch đóng tại Phu Keng, loại khỏi chiến đấu các tiểu đoàn BC606, BC608.

Hiệp đồng chặt chẽ với hướng chủ yếu và hướng quan trọng, các đơn vị vũ trang Pathét lào trên hướng phối hợp liên tục tiến công đánh chiếm Mường Sủi, Mường Phìn, Sa La Phu Khin, Mường Ca Sỉ.

Như vậy, do khai thác và tận dụng triệt để yếu tố bất ngờ, nên chỉ sau thời gian ngắn tiến công, liên quân Việt - Lào đã đánh chiếm được những mục tiêu quan trọng, loại khỏi chiến đấu hàng ngàn tên địch. Ngày 22-12, Bộ Tư lệnh chiến dịch quyết định kết thúc đợt 1.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 24 Tháng Giêng, 2011, 06:50:26 pm
Sau khi tiến hành điều chỉnh lực lượng, hoàn tất mọi mặt chuẩn bị, ngày 31-12-1971, đợt 2 chiến dịch tiến công Cánh Đồng Chum - Loong Chẹng bắt đầu. Toàn bộ lực lượng pháo binh chiến dịch và pháo binh các đơn vị tập kích vào Loong Chẹng, Sở Chỉ huy Quân khu 2 quân Chính phủ Hoàng gia, sân bay Thẩm Lửng. Được hỏa lực pháo binh yểm trợ trực tiếp, Trung đoàn 148 trên hướng chủ yếu nổ súng đánh chiếm Phu Mộc, phát triển vào Loong Chẹng. Trong lúc đó, ở hướng quan trọng của chiến dịch, Trung đoàn 165 tiến công các điểm cao 1.516, 1.978, 1.737 (thuộc khu vực Na Vang), chia cắt đội hình địch ở tuyến trung gian và Loong Chẹng; Trung đoàn 174 ở bản Na cơ động vào cùng Trung đoàn 141 đánh chiếm Sảm Thông. Đến ngày 9-1-1972, Trung đoàn 174 đánh chiếm được Sảm Thông. Ngày 10, Trung đoàn 165 làm chủ điểm cao 1.737, hoàn thành nhiệm vụ chia cắt chiến dịch. Ngày 11, Trung đoàn 148, sau khi đánh chiếm được Phu Mộc, đã nhanh chóng phát triển tiến công sang Loong Chẹng, nhưng do công tác chỉ huy hiệp đồng thiếu chặt chẽ, sử dụng lực lượng khá phân tán, nên các mũi xung phong của trung đoàn đều bị địch tập trung lực lượng ngăn chặn, thời cơ tiến công không còn nữa. Ngày 13, Bộ Tư lệnh chiến dịch lệnh cho các đơn vị tạm dừng tiến công để điều chỉnh thế trận và lực lượng tiến công. Từ ngày 14-1 đến ngày 10-3, Bộ Tư lệnh chiến dịch quyết định đưa Trung đoàn 335 vào thay Trung đoàn 148 làm nhiệm vụ giữ bàn đạp Phu Mộc, Phu Pha Xay; Trung đoàn 141 vao thay 2 trung đoàn 165 và 174 ở Sảm Thông và điểm cao 1.737. Sau khi bàn giao địa bàn cho Trung đoàn 141 và Trung đoàn 335, Trung đoàn 174 nhanh chóng cơ động về làm nhiệm vụ bảo vệ Cánh Đồng Chum; trung đoàn 148 và 165 bắt ngay ngay vào việc củng cố lực lượng, xúc tiến các mặt chuẩn bị, gấp rút tổ chức rút kinh nghiệm, đồng thời triển khai công tác chiến dịch.

Sau khi ngăn chặn được các hướng tiến công của ta, địch vội vã tăng thêm quân cho Loong Chẹng, đưa lực lượng ở đây lên tới 53 tiểu đoàn (gồm 14 tiểu đoàn quân Thái Lan, 17 tiểu đoàn quân Chính phủ Hoàng gia Lào, 22 tiểu đoàn Vàng Pao). Được máy bay, kể cả máy bay B.52 Mỹ chi viện hỏa lực, đầu tháng 2, địch liên tiếp phản kích hòng chiếm lại Sảm Thông. Tiếp đó, một bộ phận quân địch bí mật luồn rừng, bất ngờ đánh chiếm các dãy điểm cao Phu Khế, Phu Keng Luông, Phu Hủa Say, tạo thế uy hiếp trực tiếp đối với Cánh Đồng Chum từ phía nam. Trước tình hình đó, Bộ Tư lệnh chiến dịch quyết định: bên cạnh việc sử dụng một lực lượng thích hợp để chặn đứng các mũi phản kích của địch, giữ vững vùng giải phóng, toàn bộ lực lượng còn lại triển khai tiến công giải phóng Loong Chẹng - tiếp tục bước 2 chiến dịch.

Đúng 5 giờ ngày 11-3, sau đợt hỏa lực chuẩn bị và chế áp trận địa pháo binh địch, các mũi tiến công của 2 trung đoàn 141 và 165 nổ súng đánh chiếm các điểm cao 1.466, 1.468, 1.300. Đến 15 giờ cùng ngày, bộ đội ta đã làm chủ điểm cao 1.476, 1.300, loại khỏi chiến đấu 4 tiểu đoàn địch. Ngày 14, hỏa lực của Trung đoàn 335 tập kích địch ở Phu Mộc, buộc chúng phải tháo chạy. Hai ngày sau, địch tập trung lực lượng đánh chiếm Phu Mộc. Ngày 18, Trung đoàn 141 được tăng cường 4 xe tăng tiến công đồi Vành Khăn, diệt và bắt làm tù binh 140 tên địch. Cùng ngày, trung đoàn 165 tiến công đánh chiếm cứ điểm Ta Can, loại khỏi vòng chiến đấu 30 tên.

Trước sức tiến công của ta vào Sảm Thông, Nậm Ché, Phu Mộc, Loong Chẹng…, một mặt địch dựa vào công sự, trận địa có sẵn ra sức chống trả, giữ vững bàn đạp; mặt khác, sử dụng 6 binh đoàn mở đợt phản kích ra khu vực Bản Lào 2, ngã ba Noọng Pẹt, Phu Học, Phu Nhu, Phu Hè, khu vực đường 7A (đông bắc Cánh Đồng Chum) hòng uy hiếp hậu phương, phá kho tàng, cắt đường tiếp tế của bộ đội ta. Trước thủ đoạn mới của địch, Bộ Tư lệnh chiến dịch lệnh cho Trung đoàn 174, có lực lượng bảo vệ hậu phương, lực lượng tại chỗ phối hợp, chặn đánh các mũi phản kích của chúng. Đồng thời, Bô Tư lệnh tập trung lực lượng đánh trận quyết định vào Nậm Ché, Phu Mộc, nhằm tiêu diệt lớn quân địch.

Nậm Ché là một khu vực phòng ngự mạnh của địch, với hệ thống công sự, trận địa vững chắc, liên hoào do một số tiểu đoàn quân Vàng Pao chốt giữ. Đánh Nậm Ché theo lệnh của Bộ Tư lệnh chiến dịch, Trung đoàn 165 có 1 trung đội xe tăng (3 chiếc T34) tăng cường, tiến công địch theo hướng chủ yếu; Tiểu đoàn 1 (Trung đoàn 335) tiến công trên hướng thứ yếu. Trận đánh diễn ra quyết liệt suốt ngày 29-3. Ta chiếm giữ được 5 trên tổng số 7 mỏm đồi của khu vực Nạm Ché. Địch co cụm về điểm cao 1.438 cố thủ. Tiếp đó, ngày 2-4, lực lượng tăng viện của địch cùng số quân co cụm ở điểm cao 1.438 phản kích chiếm lại khu vực Nậm Ché.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 24 Tháng Giêng, 2011, 06:51:29 pm
Cũng trong ngày 29-3, Trung đoàn 148 tiến công Phu Mộc. Địch tập trung hỏa lực đánh chặn dữ dội vào đội hình mở cửa mở của ta, làm cho nhiều chiến sỹ thương vong. Đơn vị buộc phải tạm dừng trận đánh, lui về tuyến sau củng cố.

Như vậy, với hai trận đánh không thành công, ý định tiêu diệt lớn sinh lực địch mà Bộ Tư lệnh chiến dịch đăt ra đã không thực hiện được. Thời cơ phát triển tiến công của bộ đội ta, do vậy, đã không còn. Ngày 6-4, Bộ Tư lệnh chiến dịch quyết định kết thúc chiến dịch tiến công Cánh Đồng Chum - Loong Chẹng. Sau chiến dịch, các trung đoàn 174 và 148 thuộc Sư đoàn 316, hai trung đoàn độc lập 866 và 355, 2 tiểu đoàn đặc công 41, 27, Tiểu đoàn pháo binh 242, 2 tiểu đoàn pháo khắc phục 37 mm, 2 tiểu đoàn súng máy phòng không 14,5 mm và 12,7 mm, 1 tiểu đoàn xe tăng và 2 tiểu đoàn công binh 15 và 25 chuyển sang tổ chức chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng - Mường Sủi. Tham gia chiến dịch phòng ngự, về phía lực lượng vũ trang cách mạng Lào có 7 tiểu đoàn chủ lực, 1 đại đội xe tăng, 1 đại đội pháo xe kéo, 1 đại đội pháo mang vác, 2 đại đội súng máy phòng không, 1 đại đội công binh, 4 đại đội bộ đội địa phương và du kích. Đây là chiến dịch phòng ngự sử dụng lực lượng khá lớn, nhằm đánh bại cuộc tiến công lấn chiếm của địch trong mùa mưa 1972, bảo vệ vững chắc vùng giải phóng, giữ vững thế chiến lược ở Bắc Lào, bảo vệ sườn phía bên phải cho hai chiến dịch tiến công Trị - Thiên và bắc Tây Nguyên trong cuộc tiến công chiến lược năm 1972 ở miền Nam Việt Nam phát triển à giành thắng lợi. Đến tháng 4-1972, Quân ủy Trung ương ra quyết định thành lập Bộ Tư lệnh chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xieng Khoảng. Đồng chí Vũ Lập được chỉ định làm Tư lệnh, đồng chí Lê Linh làm Chính ủy.

Về phía địch, ngay từ giữa tháng 4, chúng vội vã tăng cường quân số, vũ khí, đạn dược cho Quân khu 2, nâng lực lượng ở đây lên tới 76 tiểu đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn pháo binh. Toàn bộ lực lượng này được triển khai thành thế trận bao quay Cánh Đồng Chum với 4 khu vực: Sảm Thông - Loong Chẹng, Buôn Long, Tôm Tiêng - Pha Đông và Sa La Phu Khun.

Xuất phát từ thực tế tình hình địch, địa hình khu vực tổ chức phòng ngự và lực lượng của ta, Bộ Tư lệnh chiến dịch xác đinh: Phạm vi không gian chiến dịch phòng ngự là tứ giác Mường Sủi - Noọng Pẹt - thị xã Xiêng Khoảng - Thẩm Lửng, mà trung tâm là Cánh Đồng Chum. Thế trận phòng ngự của ta được tổ chức thành 5 khu vực trung tâm Cánh Đồng Chum là khu vực phòng ngự chủ yếu với hướng chủ yếu là nam và tây nam, hướng thứ yếu là bắc và tây bắc; khu trung gian Hin Tặng là khu vực phòng ngự cơ bản; Noọng Pẹt là khu vực phòng ngự thứ yếu; Mường Sủi và thị xã Xiêng Khoảng là những khu vực tác chiến phối hợp đánh địch từ xa, nhằm bảo vệ sườn phía tây bắc và đông Cánh Đồng Chum. Toàn bộ lực lượng tham gia chiến dịch được tổ chức thành 2 bộ phận: lực lượng phòng ngự tại chỗ và lực lượng cơ động. Đến cuối tháng 5, khi công tác tổ chức, bố trí đội hình, xây dựng công sự, trận địa phòng ngự và công tác đảm bảo hậu cần kỹ thuật cho chiến dịch của bộ đội ta cơ bản hoàn thành thì cũng là lúc mùa mưa tới. Đây là thời điểm địch mở cuộc hành quân lấn chiếm Cánh Đồng Chum.

Từ ngày 21-5, địch bắt đầu sử dụng hỏa lực không quân và pháo binh tập kích các điểm cao khống chế khu vực trung gian, các tuyến đường dẫn vào khu trung tâm Cánh Đồng Chum. Ngày 25, bộ binh địch hình thành nhiều mũi tiến công vào khu vực phòng ngự của ta. Trên hướng tây nam, 5 tiểu đoàn quân Thái Lan, 1 tiểu đoàn quân đội Hoàng iga Lào tiến đánh chác điểm cao 1.978, 1.800, Thẩm Lửng, Hin Đàm. Ở hướng nam, hai binh đoàn cơ động GM30, GM10B, 4 tiểu đoàn đặc biệt quân đội Hoàng gia Lao, 1 tiểu đoàn quân Thái Lan tiến công Phu Pha Xay. Trên hướng tây, địch dùng 6 tiểu đoàn đánh vào Mường Sủi.

Dựa vào công sự, trận địa, bộ đội ta kiên cường bám trụ, chủ động và linh hoạt chiến đấu, hiệp đồng và chi viện cho nhau, đẩy lùi nhiều đợt xung phong của địch. Tuy nhiên, trong điều kiện tương quan lực lượng quá chênh lệnh, địch chiếm ưu thế, việc chi viện và tiếp tế cho bộ đội ta gặp nhiều khó khăn nên đến ngày 27-5, địch đã đánh chiếm được một số chốt điểm tựa của ta ở phía tây các điểm cao Thẩm Lửng, 2.063, 1.800. Trước tình huống này, ngày 6-6, theo lệnh của Bộ Tư lệnh chiến dịch, Trung đoàn 174, có Tiểu đoàn 6 thuộc Trung đoàn 148 tăng cường, mở trận phản kích đánh thiệt hại nặng binh đoàn GM30 và 2 tiểu đoàn đặc biệt quân Hoàng gia Lào, làm chủ khu vực phía nam Phu Pha Xay. Trên đà thắng lợi, Tiểu đoàn 6 chuyển sang hướng tây nam phối hợp với Tiểu đoàn 3 (Trung đoàn 173) tổ chức phản kích khôi phục lại cơ bản những chốt điểm phòng ngự ở điểm cao 1.800.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 24 Tháng Giêng, 2011, 06:52:59 pm
Trong tháng 6 và 7, ở khu vực Mường Sủi, liên quân Việt - Lào, đánh bại hầu hết các đợt xung phong của địch, bảo vệ vững chắc địa bàn. Cùng thời gian trên, các đơn vị đặc công, pháo binh chiến dịch liên tiếp tập kích vào các sân bay, kho tàng, sở chỉ huy quân Vàng Pao ở Loong Chẹng, gây cho địch nhiều tổn thất về sinh mạng và phương tiện chiến tranh.

Sau hơn 2 tháng chiến đấu ác liệt (từ ngày 21-5 đến ngày 10-8), liên quân chiến đấu Việt - Lào đánh thiệt hại nặng nhiều đơn vị cấp tiểu đoàn, loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên, bước đầu làm thất bại kế hoạch hành quân lấn chiếm mùa mưa năm 1972 của địch, giữ vững tuyến phòng ngự trung gian. Ngày 10-8, đợt 1 chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng kết thúc.

Không thực hiện được ý định đánh chiếm tuyến trung gian phòng ngự của ta, từ ngày 11-8, địch chuyển mục tiêu tiến công. Chúng tập trung 4 binh đoàn chủ lực cơ động, chia thành 3 mũi tiến công theo 3 hướng đông nam, tây và đông bắc, đánh thẳng vào trung tâm khu vực phòng ngự của ta. Đây chính là thời điểm đợt 2 chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng bắt đầu. Quyết tâm của đợt 2 chiến dịch là kiên quết giữ vững khu vực phòng ngự trung tâm, ngăn chặn các mũi tiến công của địch, bảo vệ vững chắc các điểm tựa phòng ngự chủ yếu ở phía tây và nam Cánh Đồng Chum, đồng thời chuẩn bị lực lượng cơ động mạnh sẵn sàng phản kích trên hướng chiến dịch tiến công chủ yếu.

Phía nam khu vực Cánh Đồng Chum, sua hơn một tuần chiến đấu phòng ngự quyết liệt, đẩy lùi nhiều đợt xung phong của địch, ngày 21-8, Trung đoàn 148 tiến công phản kích vào cụm quân địch ở Phu Luông; tiếp đó, cơ động lực lượng tiến công sang Phu Hủa Sang, loại khỏi chiến đấu một bộ phận sinh lực địch. Ở phía đông bắc, từ giữa tháng 8, Tiểu đoàn 5 (Trung đoàn 866) và Tiểu đoàn 1 (Trung đoàn 335) phối hợp cùng một số đơn vị Pathét Lào chặn đứng nhiều đợt xung phong của địch ở khu vực Bản Lao, Phu Học, loại khỏi chiến đấu 600 tên, đẩy lùi số còn lại lùi về Mường Nọi. Phía tây, Tiểu đoàn 7 liên tiếp đánh bại các mũi tiến công của địch, giữ vững cứ điểm Phu Thông. Tiếp đó, ngày 23-8, Trung đoàn 866 đưa tiểu đoàn 8 - lực lượng dự bị của trung đoàn, vào phản kích đánh bật quân địch khỏi đồi 5 mỏm và điểm cao 1.294.

Giữa lúc các mũi phản kích của bộ đội ta trên các hướng đang phát triển thuận lợi và liên tiếp gianh thắng lợi, trong 2 ngày 21 và 22-8, địch sử dụng máy bay trực thăng đổ 2 binh đoàn cơ động GM21, GM26 xuống khu vực đông bắc Phu Keng, định đánh đồn bất ngờ vào khu vực trung tâm phòng ngự Cánh Đồng Chum của ta.

Trước tình huống nguy hiểm này, Bộ Tư lệnh chiến dịch, một mặt, lệnh cho các đơn vị trên các hướng tiếp tục đẩy mạnh chiến đấu, chặn đứng các đợt tiến công của địch, giữ vững trận địa; mặt khác, nhanh chóng tập trung một bộ phận lực lượng quan trọng mở trận phản đột kích nhằm tiêu diệt lực lượng địch vừa đổ xuống Phe Keng. Tiểu đoàn 1 (Trung đoàn 335) được giao nhiệm vụ đánh chiếm bàn đạp và tạo thế cho trận phản kích tại khu vực Phu Sản.

Ngày 29-8, các đơn vị tham gia trận phản đột kích Phu Keng bí mật cơ động lực lượng nhanh chóng chiếm lĩnh các vị trí xuất phát tiến công. Trung đoàn 335 (thiếu Tiểu đoàn 1) làm nhiệm vụ mũi tiến công chủ yếu, từ hướng đông nam đánh Khang Mường, điểm cao 1.202. Hai tiểu đoàn quân đội cách mạng Lào có 4 xe tăng phối thuộc dảm nhiệm mũi tiến công thứ yếu, từ hướng đông bắc đánh xuống Phu Keng. Ngoài ra, 1 đại đội thuộc Trung đoàn 866 cùng 2 đại đội chủ lực của ban tổ chức phục kích tại khu vực bờ sông Nậm Ngừng, sẵn sàng đón đánh địch rút chạy.

Sáu giờ sáng ngày 30-8, hỏa lực pháo binh ta tập kích mãnh liệt vào Phu Keng, mở màn cho trận phản đột kích. Khi pháo vừa ngứng bắn, từ các hướng, bộ đội ta xung phong đánh vào các khu vực mục tiêu theo phân công. Trước sức tiến công dồn dập, bất ngờ và mãnh liệt của ta, địch lâm vào tình trạng hỗn loạn. Sau ít phút giao chiến, một bộ phận binh lính địch bắt đầu tìm đường tháo thân, bộ phận còn lại rút vào công sự cố thủ, chờ biên binh đến ứng cứu. Số binh lính rút chạy về phía bờ sông Nậm Ngừng bị lực lượng phục kích đón lõng của ta chặn đánh, buộc phải co cụm tại Bản Xang. Không để quân địch có thời gian củng cố, 18 giờ cùng ngày Tiểu đoàn 1 (Trung đoàn 335) và 1 tiểu đoàn quân đội cách mạng Lào có xe tăng yểm trợ, mở trận tiến công vào Bản Xang, loại khỏi vòng chiến đấu một số tên; số thoát chết ở Bản Xang tháo chạy về khu vực đồi 5 mỏm bị các tiểu đoàn 7 và 8 (Trung đoàn 866) bao vây tiêu diệt. Những ngày sáu đó, ta và bạn liên tiếp truy kích tàn quân địch.

Trận phản đột kích giành thắng lợi, ta tiêu diệt 679 tên địch, bắt 43 tù binh, thu nhiều vũ khí. Trên các hướng phòng ngự chiến dịch, ta chặn đứng, đẩy lùi hầu hết các đợt xung phong của địch, bảo vệ và củng cố các khu vực phòng ngự của ta ngày thêm vững chắc.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 24 Tháng Giêng, 2011, 06:54:03 pm
Về phía địch, sau hơn 4 tháng thực hiện kế hoạch lấn chiếm mùa mưa năm 1972 của chúng đã hoàn toàn bị phá vỡ. Tuy nhiên, chúng chưa chịu từ bỏ nỗ lực đánh chiếm Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng. Giữa tháng 9, địch gấp rút tăng cường lực lượng, điều chỉnh thế trận, chuẩn bị mở cuộc tiến công đánh chiếm khu vực đồi 5 mỏm - Phu Keng và khu vực thung lũng Căng Xẻng. Để thực hiện việc đánh chiếm, lần này, địch sử dụng GM30 chiếm lĩnh các điểm cao 1.411, 1.204 và Bản Khổng; GM22 triển khai quân ở điểm cao 1.244, 1.276 và Bản Thang; Tiểu đoàn 619 quân Thái Lan chiếm Bản Thông; GM21, GM26 (vừa củng cố lại sau thất bại Phu Keng) đứng chân ở Nậm Pít. Đây là những đơn vị đảm nhiệm tác chiến trên hướng tây - hướng tiến công chủ yếu của địch. Các GM 24, GM27 đảm nhiệm hướng bắc - hướng tiến công thứ yếu, đánh chiếm khu vực Phù Lạt Tây, Phu Leng… Đồng thời, chúng sử dụng trực thăng đổ biệt kích xuống khu vực Ta Li Noi đánh phá hậu phương chiến lược của ta.

Chủ độnh đối phó với âm mưu này của địch. Bộ Tư lệnh chiến dịch quyết định mở đầu đợt 3 chiến dịch bằng trận phản đột kích thứ 2, sử dụng lực lượng đánh thẳng vào Bản Thang và Bản Khổng, tiêu diệt GM22, GM30 trên hướng tiến công chủ yếu của địch. Tiểu đoàn 4 (Trung đoàn 148) và Tiểu đoàn 8 (Trung đoàn 866) đảm nhiệm mũi chủ yếu, đánh vào Bản Thang, diệt GM22; Tiểu đoàn 6 (Trung đoàn 148) đảm nhiệm mũi thứ yếu, đành vào Bản Khổng, diệt GM30.

Ngày 17-9, trận phản đột kích thứ 2 bắt đầu. Sau 1 ngày giao tranh ác liệt, trên hướng chủ yếu, ta mới chỉ làm chủ được một phần các điểm cao 1.276, 1.241 và hình thành thế bao vây điểm cao 1.294, Bản Thang. Ngày 18, địch tập trung lực lượng phản kích chiếm lại điểm cao 1.244 và đẩy lùi các mũi phát triển tiến công của ta trên các điểm cao còn lại. Cùng lúc đó, ở hướng thứ yếu, bộ đội ta cũng không thực hiện được ý định đặt ra. Khắc phục tình trạng này, ngày 20-9, Bộ Tư lệnh chiến dịch ra lệnh tạm dừng tiến công, đưa Tiểu đoàn 2 (Trung đoàn 335) cùng 1 trung đội xe tăng vào thay cho Tiểu đoàn 4 (Trung đoàn 148) trên hướng chủ yếu.

Ngày 26-9, từ hướng tây bắc, các đơn vị thuộc mũi tiến công chủ yếu nhanh chóng đánh chiếm điểm cao 1.276, 1.244, Phu Thông và Bản Thang. Ở mũi thứ yếu, bộ đội ta từ hướng nam tiến công làm chủ Bản Khổng. Tiếp đó, bộ phận chủ yếu của hai mũi trên hợp lại tiến công Nậm Pít, đánh thiệt hại nặng GM21, GM26. Đến đây, trận phản đột kích thứ 2 kết thúc thắng lợi.

Trong suốt thời gian diễn ra đợt 3, ở các hướng phòng ngự chiến dịch khác, bộ đội ta trụ bám công sự, trận địa, chiến đấu quyết liệt, chặn đứng và đẩy lùi hầu hết các đợt tiến công của địch, giữ vững địa bàn.

Bước sang tháng 10, thời tiết chuyển dần sang mùa khô. Địch quyết định dốc toàn bộ lực lượng hiện có - khoảng 60 tiểu đoàn, điều chỉnh hướng và mục tiêu tiến công chiếm cho được một phần quan trọng địa bàn phía nam Cánh Đồng Chum.

Đầu tháng 10, địch triển khai quân chiếm lĩnh các địa bán xuất phát tiến công. GM23 là đơn vị tiến công từ hướng nam, đánh chiếm Phu Huột. GM 30 ở bên trái đội hình, đánh chiếm Bản Xưa và điểm cao 1.172. GM 31 ở bên phải đội hình, lần lượt tiến công Cha Ho, Phu Tâng, Keo Khoang. GM26 cùng 2 tiểu đoàn quân Thái Lan tiến đánh Nậm Cọ, Khang Kho, tạo thế uy hiếp Phu Hủa Sang.

Theo dõi sát mọi động thái của địch, Bộ Tư lệnh chiến dịch cho rằng, địch tập trung lực lượng lớn đánh vào phía nam Cánh Đồng Chum là điều kiện thuận lợi để ta thực hiện trận đánh quyết định, tiêu diệt lớn quân địch, kết thúc thắng lợi chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng năm 1972. Do vậy, Bộ Tư lệnh chiến dịch yêu cầu các đơn vị nhanh chóng củng cố lực lượng, củng cố công sự, trận địa, sẵn sàng chiến đấu. Trong khi gấp rút hoàn chỉnh kế hoạch tác chiến, Bộ Tư lệnh chiến dịch quyết định sử dụng một bộ phận lực lượng mở các trận chiến đấu tạo thế. Ngày 10-3, Tiểu đoàn 3 (Trung đoàn 335) tập kích địch ở Bản Xưa, điểm cao 1.127; ngăn chặn địch tiến công Phu Huột, Phu Xeng Luông. Ngày 9, Tiểu đoàn 2 (Trung đoàn 866) được tăng cường 7 xe tăng, có pháo binh chiến dịch chi viện, đánh chiếm Bản Ngua; phát triển, đánh chiếm điểm cao 1.228, 1.239.

Được tăng cường Trung đoàn 88, Bộ Tư lệnh chiến dịch quyết định tập trung lực lượng tiến công cụm quân địch tại khu vực từ nam Bản Quang đến bắc Khang Kho. Ba giờ sáng ngày 26-10, sau những loạt đạn cấp tập của pháo binh chiến dịch dội xuống trận địa địch, bộ đội ta xông lên tiến công vào các mục tiêu đã được phân công. Trên mũi chủ yếu, từ Phu Seo, Trung đoàn 148 chia làm nhiều mũi đánh các điểm cao 1.236, 1.172, Bản Xưa, Na Van, cắt đường rút lui của địch về Phu Huột. Ở mũi thứ yếu, Trung đoàn 335 và Tiểu đoàn 6 (Trung đoàn 88) từ Phu Hủa Sang tiến đánh Cha Ho, Bản Phồn, điểm cao 1.388, chặn đường rút lui của tàn binh địch về Nậm Cọ, Khang Kho. Bị bất ngờ trước sức tiến công ấp đảo của quân ta, đội hình địch nhanh chóng bị phá vỡ. Một số tên vứt bỏ vũ khí tìm đường thoát thân, một số cụm lại ngoan cố chống đỡ, nhưng nhanh chóng bị đánh tan. Đến đây, trận phản đột kích thứ 3, trận then chốt quyết định của chiến dịch kết thúc thắng lợi. Ta đã loại khỏi chiến đấu hơn một nghìn tên địch.

Tiếp đà thắng lợi, từ ngày 2 đến ngày 5-11, Tiểu đoàn 5 (Trung đoàn 148), Trung đoàn 335 (thiếu Tiểu đoàn 3), Tiểu đoàn 6 (Trung đoàn 88) cùng một số đơn vị đặc công bao vây tiến công địch, loại khỏi chiến đấu một số binh lính địch ở Phu Tu Ngua, Phu Vai, Nậm Cọ và Khang Kho thuộc 1 tiểu đoàn quân Thái Lan và GM 26 quân đội Chính phủ hoàng gia Lào.

Sau 5 tháng ròng chiến đấu, đánh 244 trận, liên quân Việt - Lào đã loại khỏi chiến đấu 5.759 tên địch, đánh thiệt hại nặng các binh đoàn cơ động chiến lược GM21, GM23, GM26 quân đội Chính phủ hoàng gia Lào, 3 tiểu đoàn quân đội Thái Lan, tiêu hao nặng các đơn vị còn lại của chúng. Ngày 15-11-19072, chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng kết thúc thắng lợi. Với chiến dịch này, ta chẳng những tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch mà hơn thế, giữ vững địa bàn chiến lược quan trọng Cánh Đồng Chum, giữ được thế liên hoàn vững chắc giữa các vùng căn cứ địa của bạn Lào, đồng thời bảo vệ sườn phải cho hai chiến dịch tiến công Trị - Thiên và bắc Tây Nguyên trong cuộc tiến công chiến lược năm 1972.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 24 Tháng Giêng, 2011, 06:55:17 pm
*
*   *

Ở Campuchia, sau thất bại lớn trong cuộc hành quân Chenla II (từ ngày 27-10 đến ngày 4-12-1971), quân đội và chính quyền Lon Non lâm vào tình thế khốn quẫn, chính sách Khme hóa chiến tranh của Níchxơn đứng trước nguy cơ phá sản hoàn toàn. Để cứu nguy, Mỹ tăng viện cho chính quyền và quân đội Lon Non; ồ ạt tuồn vũ khí, trang bị để khôi phục và xây dựng thêm cho quân Lon Non 10 tiểu đoàn pháo, 4 chi đoàn thiết giáp, 150 máy bay các loại. Khi cuộc tiến công chiến lược năm 1972 nổ ra trên chiến trường miền Nam Việt Nam, để có thể rút quân đội Sài Gòn về đối phó, Mỹ dồn ép mở rộng địa bàn chiếm đóng. Điển hình nhất là cuộc hành quân mang mật danh Ăng Kor Chey. Địch tập trung vào cuộc hành quân này một lực lượng lớn gồm 15 tiểu đoàn quân Khme (gồm 4 chiến doàn mang mật danh A, B, C, D), 22 tiểu đoàn quân địa phương và Binh đoàn thuộc Quân khu 4. Từ tháng 2-1972, địch bắt đầu triển khai đội hình tiến công đánh ra khu vực Ba Rài - Ăng Kor Vát.

Để bảo vệ vững chắc vùng giải phóng của cách mạng Campuchia, theo đề nghị của Chính phủ cách mạng Campuchia, tháng 7-1972, Quân ủy Trung ương ủy niệm cho Bộ Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam thống nhất với bạn mở chiến dịch phản công đánh bại cuộc hành quân Ăng Kor Chey của địch.

Lực lượng tham gia chiến dịch về phía quân tình nguyện Việt Nam có 5 tiểu đoàn bộ binh thuộc Đoàn 203, Tiểu đoàn đặc công 28, Đoàn 1 pháo binh Miền; về phía quân đội cách mạng Campuchia có 5 tiểu đoàn bộ binh thuộc Đoàn 304, 1 đại đội trợ chiến, 6 đại đội độc lập và 1.000 dân công. Tuy quy mô không lớn, nhưng đây là chiến dịch có ý nghĩa quan trọng đối với cách mạng Campuchia, đồng thời là biểu hiện của sự phối hợp tác chiến chặt chẽ giữa lực lượng vũ trang cách mạng của hai nước trong sự nghiệp chống kẻ thù chung. Với tầm quan trọng đó, chiến dịch được đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Tư lệnh Miền.

Do tương quan lực lượng nghiêng về phía địch, nên phương châm hoạt động tác chiến chiến dịch của Bộ Tư lện Miền xác định là: chuẩn bị chu đáo, khẩn trương; hiệp đồng chặt chẽ giữa ta và bạn, tập trung lực lượng thích hợp ngăn chặn, bẻ gãy ngay từ đầu cánh quân tiến công chủ yếu, làm rối loạn đội hình địch; kết hợp bao vây thọc sâu, chia cắt với kìm giữ, căng kéo thu hút địch, thực hiện những trận then chốt quyết định để giành thắng lợi chiến dịch.

Sau khi cơ bản hoàn tất công tác chuẩn bị, đêm 8 rạng ngày 9-8, chiến dịch phản công đánh bại cuộc hành quân Ăng Kor Chey chính thức mở màn. Tiểu đoàn 34 (Đoàn 203) chặn đánh mũi tiến công vào tây Ăng Kor Vát của Chiến đoàn D, tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị triển khai lực lượng chiếm lĩnh vị trí xuất phát tiến công đánh trận then chốt chiến dịch.

Ngày 10-8, Tiểu đoàn 31 được tăng cường 1 đại đội của Tiểu đoàn 32 thuộc Đoàn 203, 2 đại đội đặc công cùng Tiểu đoàn 307 thuộc Đoàn 304 quân đội cách mạng Campuchia nổi súng tiến công địch ở khu vực điểm cao Ba Khèng, diệt Tiểu đoàn 178 thuộc Chiến đoàn A địch. Đây là trận then chốt chiến dịch. Thắng lợi của trận này tạo ra bàn đạp cho những trận đánh tiếp theo của chiến dịch, buộc quân địch phải co cụm về lập tuyến ngăn chặn mới từ Kohlachang đến Phum Viêng.

Trên đà thắng lợi, từ ngày 12 đến ngày 15-08, ta mở cuộc tiến công nhằm vòa tuyến ngăn chặn mới của địch. Tiểu đoàn 302 (Đoàn 203) và Tiểu đoàn 305 thuộc đoàn 304 tiến công địch ở khu vực Kohlachang và khu vực nam hồ Ba Rài; Tiểu đoàn 33 và Tiểu đoàn 71 đánh dịch ở Phum Viên; Tiểu đoàn đặc công 28 bất ngờ tập kích sở chỉ huy và một cụm quân địch chốt giữ sân bay, gây cho địch thiệt hại nặng nề về sinh lực cùng phương tiện chiến tranh. Kết thúc đợt 1 chiến dịch phản công, trên hướng chủ yếu cuộc hành quân của địch, ta đã đánh thiệt hại nặng 2 chiến đoàn A và D, tạo đà cho đợt 2 chiến dịch tiếp tục phát triển và giành thêm những thắng lợi mới.

Không để cho địch có thời gian củng cố đội hình, bổ sung quân số và vũ khí, ngày 16-8, ta đã mở đợt 2 chiến dịch, đồng loạt tiến công vào khu vực sân bay, đánh phá giao thông trên đường số 6, chặn đánh các các quân địch từ thị xã cơ dộng lên tăng viện. Tuy nhiên, do phải chiến đấu liên tục nhiều ngày, nguồn lương thực, vũ khí bổ sung bị hạn chế, quấn số bị tiêu hao nhiều, nên ta không thể mở được những trận đánh then chốt tiêu diệt lớn quân địch. Trước thực tế này, Bộ Tư lệnh Miền quyết định kết thúc chiến dịch. Kết quả, ta loại khỏi chiến đấu 487 tên địch, bắt 17 tù binh, phá hủy 20 xe quân sự các loại và 5 khẩu pháo. Mặc dù hiệu quả không cao nhưng chiến dịch phản công của liên quân chiến đấu Việt Nam - Campuchia góp phần ngăn chặn chiến dịch lấn chiếm vùng giải phóng của cách mạng Campuchia, góp phần hỗ trợ trực tiếp cho chiến dịch tiến công tổng hợp ở đồng bằng sông Cửu Long trên chiến trường miền nam Việt Nam.

*
*   *

Phối hợp chặt chẽ với hoạt động của quân và dân ta trên các hướng toc chiến lược Trị - Thiên, Tây Nguyên, miền Đông Nam Bộ, từ giữa năm 1972, các chiến trường Khu 8, Khu 9, Khu 5 và Khu 6 mở những chiến dịch tiến công tổng hợp đánh phá bình định. Diễn ra trên phạm vi tương đối rộng lớn, thời gian khá dài, sử dụng lực lượng tổng hợp, kết họp nhịp nhàng và chặt chẽ giữa tiến công quân sự và nổi dậy của nhân dân, đánh địch bằng sức mạnh tổn hợp của quân sự, chính trị và binh vận, các chiến dịch tiến công tổng hợp của quân và dân Khu 8, Khu 9, Khu 5 và Khu 6 đã giáng đòn mạnh, đánh bại phần lớn chương trình bình định của địch. Bằng các chiến dịch đó, quân và dân ta đã tiêu hao, tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực và phương tiện chiến tranh của Mỹ và chính quyền, quân đội Sài Gòn; mở mảng mở vùng, giành dân, giành quyền làm chủ vùng nông thôn đồng bằng đông dân trong vùng địch kiểm soát; góp phần quan trọng phát triển thế trận chiến tranh nhân dân ở miền Nam. Đồng thời với hoạt động tiến công và nổi dậy mạnh mẽ, rộng khắp trên chiến trường miền Nam, lực lượng quân tình nguyện Việt Nam thực hiện xuất sắc nhiệm vụ phối hợp chiến đấu với lực lượng vũ trang cách mạng Lào và Campuchia, đánh bại các nỗ lực chiến tranh của đế quốc Mỹ và chính quyền, quân đội tay sai, góp phần quan trọng cùng bạn giữ vững và mở rộng vùng giải phóng, tiếp tục phát triển lực lượng kháng chiến, phát triển vững chắc tiến công của cách mạng hai nước.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Giêng, 2011, 07:47:36 pm
CHƯƠNG XXXI

MIỀN BẮC ĐÁNH THẮNG CHIẾN TRANH
PHÁ HOẠI LẦN THỨ HAI CỦA ĐẾ QUỐC MỸ
HIỆP ĐỊNH PARI ĐƯỢC KÝ KẾT

I - ĐÁNH THẮNG CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI
LẦN THỨ HAI

Sau 3 năm thực hiện chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh, Tổng thống Níchxơn vẫn không thực hiện được lời hứa với cử tri Mỹ về việc “chấm dứt chiến tranh Việt Nam trong danh dự”, ngoài việc buộc phải rút một bộ phận quân Mỹ về nước. Chương trình ném bom bí mật ở Lào, Campuchia và trên đường Trường Sơn bị dư luận phanh phui, lên án. Cuộc hành quân sang “vùng đất thánh của cộng sản” ở Đông Bắc Campuchia, cuộc hành quân Lam Sơn 719 ra khu vực đường số 9 - Nam Lào bị thất bại. Những tháng đầu năm 1972, chiến dịch vận động tranh cử tổng thống Mỹ ngày càng nóng bỏng. Trong điều kiện đó, tập đoàn cầm quyền Níchơn xúc tiến các hoạt động ngoại giao nước lớn hòng cô lập cách mạng Việt Nam, ép ta phải nhượng bộ Mỹ trên bàn đàm phán.

Đúng vào thời điểm đó, ngày 30-3-1972, sau hơn 3 năm tạo thế, tạo lực và tiến hành các mặt công tác chuẩn bị, quân và dân ta mở cuộc tiến công chiến lược trên toàn miền Nam. Cuộc tiến công mạnh và bất ngờ đẩy chính quyền và quân đội Sài Gòn vào tình thế rất nguy khốn. Chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh có nguy cơ bị phá sản hoàn toàn. “Không chấp nhận bất cứ điều gì khác để thay thay cho thắng lợi”(1), R. Níchxơn quyết định huy động một bộ phận lớn lực lượng không quân và hải quân Mỹ chi viện hỏa lực ồ ạt, mạnh mẽ cho quân đội Sài Gòn đối phó khẩn cấp, ngăn chặn cuộc tiến công của ta ở miền Nam và đánh phá trở lại miền Bắc.

Nhằm tạo được hiệu quả lớn nhất, gây tác động mạnh nhất, chúng tập trung nhiều loại máy bay hiện đại, nhiều loại vũ khí, bom đạn được đải tiến, có sức tàn phá mạnh đánh ồ ạt các mục tiêu quân sự và các trung tâm dân cư, hệ thống đê điều, bệnh viện, trường học… Ngày 6-4-1972, chiến dịch tiến công bằng không quân và hải quân của Mỹ mang mật danh Lainơ Bếchcơ I bắt đầu. Địch huy động 106 lần chiếc máy bay cường kích chiến thuật và pháo hạm đánh phá Quảng Bình. Bốn ngày sau (10-4), chúng cho máy bay chiến lược B.52 đánh phá thành phố Vinh. Ngày 13-4, chúng tiếp tục đánh Thanh Hóa. Ngày 16-4, B.52 và pháo hạm đánh phá thành phố Hải Phòng. Ngày 9-5, lực lượng không quân của hải quân Mỹ thả 1.000 quả thủy lôi phong tỏa cảng Hải Phòng. Những ngày sau đó, chúng tiếp tục thả thủy lôi phong tỏa tất cả các cảng, vùng ven biển và cửa sông thuộc 10 tỉnh, 43 khu vực trên miền Bắc. Ở Lào, Mỹ sử dụng quân ngụy Lào và quân Thái Lan mở cuộc hành quân lấn chiếm Cánh Đồng Chum.

Cùng với các hành động quân sự, Mỹ đơn phương tuyên bố ngừng các phiên họp ở Hội nghị Pari, xúc tiến các hoạt động ngoại giao xảo quyệt nhằm hạn chế sự chi viện của các nước xã hội chủ nghĩa, cô lập sự nghiệp kháng chiến của nhân dân ta, gây sức ép mạnh hòng làm cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta nao núng quyết tâm, giảm sức tiến công trên chiến trường miền Nam, chấp nhận các giải pháp của Mỹ đưa ra ở Hội nghị Pari.

Cuộc chiến tranh chống Mỹ trong mùa hè năm 1972 diễn ra gay go, ác liệt trên hai miền Nam, Bắc và cả ở chiến trường Lào. Lường trước những âm mưu và thủ đoạn của đế quốc Mỹ, ngay từ đầu năm 1970, khi tổng kết kinh nghiệm chiến tranh nhân dân đánh thắng chiến tranh phá hoại lần thứ nhất, các cơ quan chỉ đạo chiến lược Việt Nam đã lường định tới khả năng địch sẽ dùng không quân, hải quân đánh lại miền Bắc với quy mô lớn và ác liệt ngay từ đầu. “Trong những tình huống nhất định, có thể không nhất thiết quân địch sẽ leo thang dần từng bước trước khi đánh phá các thành phố lớn và khu công nghiệp lớn của ta. Do đó, cần hết sức cảnh giác và thật sự đề phòng trước những âm mưu thâm độc và tàn bạo mới của đế quốc Mỹ”(2).

Ngay sau khi đế quốc Mỹ mở cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ hai, Quân ủy Trung ương ra chỉ thị về Tăng cường sẵn sàng chiến đấu, kiên quyết chiến đấu bảo vệ miền Bắc và làm tốt nhiệm vụ chi viện tiền tuyến trong tình hình mới. Chỉ thị chỉ rõ: “Trước tình hình mới, các lực lượng vũ trang ta trên miền Bắc bao gồm bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân, tự vệ phải nêu cao tinh thần cảnh giác sẵn sàng chiến đấu, kiên quyết thực hiện tốt những nhiệm vụ cấp bách sau: làm tốt nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu và kiên quyết chiến đấu, tiêu diệt địch, bảo vệ miền Bắc. Trong bất cứ tình huống nào cũng kiên quyết làm thật tốt nhiệm vụ chi viện sức người, sức của cho chiến trường”(3).


(1) Tuyên bố của Níchxơn (Xem Giôdép A.Amtơ: Lời phán quyết về Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1985).
(2) Võ Nguyên Giáp: Chiến tranh giải phóng và chiến tranh giữ nước, Nxb, Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1975, t.2, tr.455.
(3) Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh: Tổng kết chiến tranh nhân dân địa phương (chuyên đề chỉ đạo xây dựng và hoạt động chiến đấu của lực lượng phòng không địa phương chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ trên miền Bắc, 1954-1975), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2001, tr.120.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Giêng, 2011, 07:49:47 pm
Tiếp đó, ngày 9-4, Bộ Tổng Tham mưu ra chỉ thị về Tăng cường sẵn sàng chiến đấu bảo vệ miền Bắc và ra lệnh cho các lực lượng vũ trang trên miền Bắc chuyển vào trạng thái thời chiến. Chỉ thị nêu rõ nhiệm vụ, quy định về công tác phòng không nhân dân, đảm ảo giao thông vận tải trên toàn miền Bắc. Chỉ thị nhấn mạnh: thực hiện báo động cấp 1 ở tất cả các đơn vị phòng không, hải quân, các đơn vị phòng thủ bờ biển, kiểm tra đôn đốc toàn bộ các phương án tác chiến, khẩn trương triển khai huấn luyện cá đơn vị pháo phòng không, công binh dự nhiệm theo kế hoạch và triển khai một số súng máy phòng không của dân quân, tự vệ ở các trọng điểm trên toàn miền Bắc; triển khai toàn bộ hệ thống pháo bờ biển của bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân, tự vệ.

Ngày 11-4-1972, Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa ra tuyên bố cực lực lên án bước leo thang mới của chính quyền Níchxơn và khẳng định mạnh mẽ quyết tâm kháng chiến của toàn dân Việt Nam: “Không có sức mạnh tàn bạo nào, không một sự đe dọa láo xược nào lay chuyển được quyết tâm của nhân dân Việt Nam chiến đấu vì độc lập, tự do của Tổ quốc”(1).

Ngày 1-5-1972, Ban Chấp hành Tư Đảng ra lời kêu gọi quân và dân cả nước nêu cao quyết tâm chiến đấu và chiến thắng địch trong mọi tình huống. Trung ương Đảng chỉ rõ, dù địch liều lĩnh đến mức nào chúng cũng không thể xoay chuyển được tình thế ở chiến trường. Trung ương Đảng quyết định tiếp tục tiến công chiến lược ở miền Nam, đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, bảo vệ vững chắc miền Bắc, thực hiện cho được những mục tiêu chiến lược đã đề ra. Miền Bắc phải thực sự khẩn trương chuyển hướng mọi hoạt động cho phù hợp với thời chiến, mở rộng lực lượng vũ trang, chống địch phong tỏa, tập trung sức thực hiện nhiệm vụ đột xuất số một là giao thông vận tải chi viện chiến trường.

Thực hiện lời kêu gọi của Ban chấp hành Trung ương Đảng, quân và dân miền Bắc bước vào cuộc thử thách mới đầy khó khăn ác liệt với niềm tin vững chắc vào thắng lợi. Vận dụng kinh nghiệm chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất, các cấp bộ đảng, chính quyền và nhân dân các địa phương đã kịp thời chuyển hướng sản xuất, đẩy mạnh công tác phòng không nhân dân. Các kho tàng, xí nghiệp của Nhà nước, các cơ sở hậu cần kỹ thuật của quân đội một lần nữa được sơ tán, phân tán về vùng nông thôn, tiếp tục sản xuất, phục vụ đời sống và chiến đấu. Việc sơ tán một bộ phận nhân dân ra khỏi các thành phố, thị xã, khu vực trọng điểm giao thông đồng thời bảo đảm ổn định đời sống là một nhiệm vụ có nhiều khó khăn được các cấp chính quyền ở địa phương tập trung chỉ đạo thực hiện tốt. Trên các tuyến giao thông chiến lược, lực lượng bảo vệ đảm bảo giao thông được bổ sung để duy trì nhịp độ vận chuyển chi viện cho tiền tuyến trong bất cứ tình huống nào.

Các lực lượng vũ trang được tăng cường về số lượng và chất lượng theo yêu cầu, nhiệm vụ và quy mô mới của cuộc chiến đấu. Bộ Quốc phòng thành lập thêm một sư đoàn, 3 trung đoàn và 20 tiểu đoàn cao xạ. Bộ đội phòng không chủ lực được bổ sung, trang bị pháo cao xạ, tên lửa và rađa cùng nhiều khí tài mới. Hai sư đoàn 325 và 320 bộ binh cơ động trực thuộc Bộ và 6 trung đoàn chủ lực cơ động thuộc Quân khu 4, Quân khu Việt Bắc, Quân khu Tả ngạn và Quân khu Hữu Ngạn biên chế đủ số quân và trang bị. Học viên sĩ quan các trường lục quân và binh chủng tổ chức thành một sư đoàn dự bị thuộc Bộ Tổng tư lệnh (mang phiên hiệu Sư đoàn 312B), sẵn sàng cơ động chiến đấu bảo vệ phía bắc Quân khu 4. hàng chục trung đoàn, tiểu đoàn pháo binh, thiết giáp, đặc công, công binh, thông tin được thành lập. Một số bộ phận lực lượng phòng không đang chiến đấu ở Quảng Trị được điều gấp ra miền Bắc. Các trung đoàn không quân được giao nhiệm vụ đẩm trách tác chiến không đối không trên từng khu vực, hỗ trợ và sẵn sàng chuyển đến bảo vệ những mục tiêu cần thiết. Mỗi trung đoàn không quân đều khẩn trương chuẩn bị cơ sở vật chất, kỹ thuật và phương tiện chỉ huy, để có thể có động chiến đấu trên 2 hoặc 3 sân bay. Cùng với việc tiếp tục mở mặt trận đánh địch trên không, việc chuẩn bị đánh các mục tiêu trên mặt đất, mặt nước của Binh chủng Không quân cũng được triển khai tích cực. Binh chủng Pháo binh và các quân khu được Bộ Tổng tham mưu giao nhiệm vụ tổ chức các trận địa pháo bờ biển đánh hạm tàu địch. Chỉ trong một thời gian ngắn, lực lượng vũ trang tập trung trên miền Bắc đã phát triển lên 530.000 người (tăng 10 vạn so với năm 1968), trong đó, bộ đội chủ lực thuộc các quân khu tăng gấp 2 lần, riêng Quân khu 4 tăng gấp 5 lần.


(1) Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh: Tổng kết chiến tranh nhân dân địa phương (chuyên đề chỉ đạo xây dựng và hoạt động chiến đấu của lực lượng phòng không địa phương chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ trên miền Bắc, 1954-1975), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2001, tr.121.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Giêng, 2011, 07:50:54 pm
Lực lượng dân quân, tự vệ ở các cơ quan và địa phương tăng nhanh, được trang bị khá mạnh.. Ngoài các tổ đội trực chiến, dân quân, tự vệ miền Bắc đã tổ chức hàng chục đại đội trang bị pháo cao xạ 37, 57 và 100mm; 170 đại đội, trung đội trang bị súng máy cao xạ; 20 đại đội, trung đội trang bị pháo 85mm đánh tàu chiến My. Tổng số lực lượng dân quân,tự vệ bắn máy bay trên toàn miền Bắc đến năm 1972 có 414 đội với 1.441 khẩu pháo, súng các loại. Vận dụng và phát triển kinh nghiệm qua cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất, lực lượng phòng không - không quân bố trí thành thế trận chiến tranh nhân dân, vừa có thể đánh địch rộng khắp, vừa tập trung được lực lượng mạnh trên các địa bàn trọng yếu, bảo vệ mục tiêu quan trọng.

Trên mặt trận chống địch đánh phá, chặn cắt giao thông, bao vây, phong tỏa, Ban Bí thư, Hội đồng Chính phủ và Quân ủy Trung ương tập trung chỉ đạo các cơ quan trung ương và địa phương, các lực lượng vũ trang thực hiện nhiều giải pháp đảm bảo giao thông vận tải, tổ chức lực lượng nghiên cứu và rà phá thủy lôi, bom mìn nổ chậm, tăng khối lượng hàng nhập bằng đường sắt, xây dựng thêm các cảng dã chiến, các trạm chuyển tải ngoài khu vực vịnh Hạ Long. Tại các đầu mối giao thông và các địa bàn trọng điểm bị địch đánh phá, ta thành lập các ban chỉ huy thống nhất đảm bảo giao thông vận chuyển. 60% lực lượng công binh được huy động làm nhiệm vụ bảo đảm giao thông. Dọc theo bờ biển từ Vĩnh Linh đến Móng Cái, hàng trăm trạm quan sát thủy lôi, bom từ trường được thiết lập làm nhiệm vụ đánh dấu, ghi lại trên bản đồ, kịp thời thông báo cho các đội tới rà phá, tháo gỡ.

Ngay sau khi địch bắt đầu chiến dịch phong tỏa miền Bắc lần thứ hai, ngày 10-05-1972, Thường vụ Hội đồng Chính phủ họp đề ra các chủ trương, biện pháp đối phó, kiên quyết đánh bại âm mưu, thủ đoạn của địch. Ngày 16-5-1972, Bộ Tổng tham mưu giao nhiệm vụ cho các lực lượng chủ lực, theo đó: “Quân chủng Hải quân làm lực lượng nòng cốt rà phá, tháo gỡ thủy lôi, bom mìn ở các cảng, cửa sông, ven biển, các tỉnh rà phá, tháo gỡ bom mìn thả trong các sông và trên bộ. Viện Kỹ thuật quân sự cùng với Bộ Tư lệnh Hải quân và Bộ Tư lệnh Công binh nghiên cứu cấu tạo thủy lôi, bom từ trường, cải tiến, chế tạo thiết bị khí tài và hướng dẫn các địa phương sử dụng các phương tiện rà phá thủy lôi, bom mìn của địch”(1).

Thực hiện chỉ thị của Bộ, của quân chùng, căn cứ tình hình nhiệm vụ, ngay từ ngày 1-5-1972, Bộ Tư lệnh Hải quân đã hoàn thành dự thảo kế hoạch chống địch phong tỏa. cùng với việc tổ chức huấn luyện kỹ thuật, cung cấp thiết bị, phương tiện quan sát, phát hiện, rà phá thủy lôi, Quân chủng Hải quân tiến hành lập các trạm, đài quan sát cố định ở các cửa sông, ven biển, trên các đảo và các trạm quan sát cơ động trên các tàu hải quân. Đồng thời, quân chủng còn giúp đỡ các quân khu, công an vũ trang, Cục Vận tải đường biển xây dựng các trmạ quan sát trên các sông và các khu vực trọng điểm, tổ chức trang bị cá phương tiện và huấn luyện kỹ thuật quân sự, phát hiện, nhận dạng các loại thủy lôi của địch cho tất cả các trạm quan sát trên toàn miền Bắc.

Với tinh thần cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu cao, các lực lượng phòng không, phòng thủ biển ba thứ quân trên miền Bắc, ngay từ những ngày đầu địch đánh phá, đã liên tiếp bắn rơi nhiều máy bay, bắn cháy nhiều tàu chiến Mỹ. Ngày 6-4-1972, quân và dân Quảng Bình - Vĩnh Linh bắn rơi 10 máy bay. Ngày 9-4, các đơn vị pháo bờ biển Quảng Bình bắn cháy tàu chiến Mỹ. Ngày 16-4, Hà Nội, Hải Phòng bắn rơi 15 máy bay trong đó có 1 chiếc B.52. Ngày 19-4, máy bay chiến đấu MiG-17 của ta đánh trúng một tàu khu trục địch ở ngoài khơi Quảng Bình. Trong tháng đầu địch leo thang đánh phá trởi lại, miền Bắc đã bắn rơi 90 máy bay, bắn cháy 20 tàu chiến Mỹ, trong đó quân dân Hải Phòng đã bắn cháy 1 máy bay B.52 trên bầu trời thành phố. Tuy vậy, do địch leo thang đánh phá ồ ạt với nhiều loại vũ khí, phương tiện kỹ thuật mới (chúng sử dụng bom có đầu dẫn bằng tia lade, tên lửa có điều khiến, các máy gây nhiễu…), nhiều đơn vị, địa phương đã bị tổn thất nạng. Hầu hết các cầu quan trọng trên cá tuyến đường sắt, đường bộ đều bị đánh hỏng. Vận chuyển bằng đường bộ khó khăn, tuyến vận tải biển và trên sông bị tắc. Khí tài gây nhiễu của địch làm cho việc phát hiện mục[183] tiêu, nhất là việc phát hiện máy bay B.52 trở nên khó khăn, hiệu suất chiến đấu chưa cao.

Sau một tháng đánh phá ác liệt, gây cho ta những thiệt hại nặng nề, nhưng cuộc chiến tranh phá hoại lần hứ hai của máy bay, tàu chiến Mỹ không lay chuyển được quyết tâm của nhân dân ta, không làm giảm được sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam. Chuyển nhanh từ thời bình vào thời chiến, miền Bắc vẫn tiếp tục sản xuất, tiếp tục sơ tán một bộ phận dân cư ra khỏi những vùng trọng điểm, đồng thời dồn sức khắc phục nhanh hậu quả của các đợt đánh phá. Riêng ở Hà Nội, từ này 25 đến ngày 30-4, có 26 vạn dân được sơ tán khỏi nội thành. Lãnh đạo thành phố quyết định thông qua kế hoạch tiếp tục sơ tán người và tài sản. Theo đó, trong tình huống địch đánh phá ác liệt hơn, thành phố chỉ để lại từ 10 đến 15 vạn người gồm các lực lượng chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Ở Hải Phòng, dự kiến địch có thể đánh phá quy mô lớn, ngay từ đầu vào trung tâm thành phố, Thành ủy quyết định khôi phục lại Ban Quân sự Thành ủy. Ngay trong phiên họp đầu tiên, Ban Quân sự Thành ủy đã kiểm tra lại toàn bộ phương án tác chiến, kế hoạch phòng tránh và đề nghị Thành ủy, Ủy ban hành chính thành phố ra chỉ thị cho các cơ quan, xí nghiệp, công trường chuyển sang trạng thái thời chiến, sơ tán ngay tài sản, máy móc, hàng hóa ra khỏi nội thành; các lực lượng vũ trang chuyển vào báo động cấp 1. ngày 13-4, khi máy bay Mỹ đánh vào Thanh Hóa, Thành ủy Hải Phòng kiên quyết yêu cầu kho xăng Thượng Lý phân tán gấp số xăng mới nhập về. Trong đêm 15-4, sau khi máy bay B.52 ném bom vào khu phố Hồng Bàng, Thượng Lý… làm 836 người bị thương, chính quyền thành phố đã tổ chức sơ tán 16 vạn người ra khỏi nội thành.


(1) Chỉ thị số 31/CT-TM của Bộ Tổng tham mưu.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Giêng, 2011, 07:51:31 pm
Đến cuối tháng 5-1972, trước tình hình đánh phá ngày càng ác liệt của không quân Mỹ, các tỉnh, thành phố tăng cường công tác sơ tán nhằm hạn chế thiệt hại về người và tài sản. Số dân cư ở các tỉnh thành đã được sơ tán khá triệt để: Hà Nội sơ tán 307.000 người (46% dân số), Hải Phòng 180.000 người (66% dân số), thành phố Nam Định: 24.000 người (chiếm 455 dân số). Các thị xã Hòn Gai, Uông Bí, Phủ Lý, Ninh Bình, Bắc Giang, Phú Thọ, Lạng Sơn… đã tiến hành sơ tán nhân dân, công sở, nhà máy, xí nghiệp khỏi những khu vực trọng điểm đánh phá địch. Đồng thời, khắp nơi trên miền Bắc, hệ thống quan sát, thông báo, báo động phòng không, hầm hào phòng tránh cũng gấp rút được củng cố, tang cường. Các cấp ủy đảng, chính quyền, cơ quan chủ nhiệm phòng không cơ quan quân sự địa phương tập trung kiện toàn tổ chức, biên chế, tăng cường công tác nghiên cứu địch, bổ sung phương án tác chiến, cách đánh và kế hoạch hiệp đồng chiến đấu nhằm nâng cao hiệu quả bắn máy bay địch trong các lực lượng phòng không địa phương. Các cấp tỉnh, thành, quân khu, huyện đã đẩy mạnh công tác đảng, công tác chính trị để động viên sức mạnh tổng hợp, xây dựng các đơn vị phòng không vững mạnh về tư tưởng, tổ chức, nêu cao tinh thần quyết tâm đánh Mỹ. Công tác bồi dưỡng cán bộ, kết nập đảng viên, phát triển đoàn viên trong các đơn vị dân quân, tự vệ cũng được chú trọng đúng mức. Chế độ, chính sách đối với dân quân, tự vệ từng bước được bổ sung phù hợp với nhiệm vụ. Các lực lượng phòng không ba thứ quân luôn có sự hợp đồng chặt chẽ để luyện tập chiến đấu, do đó, trình độ chỉ huy, công tác tham mưu và kỹ thuật chiến đấu được nâng cao.

Song song với việc lãnh đạo, động viên người sơ tán khỏi trọng điểm, các địa phương chú trọng việc tổ chức lực lượng và xác định phương án khắc phục hậu quả sau các trận đánh phá của địch. Ở Hải Phòng, khi máy bay B.52 tạm ngừng ném bom, các lực lượng công binh, dân quân, tự vệ, thanh niên xung phong tập trung khắc phục hậu quả. Tại khu phố Hồng Bàng, công binh đã rà phá được 18 quả bom chưa nổ, kịp thời cứu chữa và chôn cất số người thương vong. Chính quyền và các tổ chức đoàn thể cử người thu gom tài sản, giúp đỡ, hỗ trợ, nuôi dưỡng các cháu nhỏ mất người thân. Các cơ quan của thành phố, của huyện Kiến Thụy tổ chức quyên góp, giúp đỡ gạo, thực phẩm, chăn màn, quần áo, vật liệu xây dựng giúp các gia đình bị nạn ổn định dần cuộc sống. Hai tỉnh Thái Bình và Hải Dương cử người sang tiếp nhận, cứu chữa hàng ngàn người bị thương.

Ở Hà Nội, địch oanh tạc vào kho xăng dầu Đức Giang gây tổn thất lớn: 12 trong tổng số 14 bể xăng cùng 7.000 phuy xăng dầu bị phá hủy. Ngay sau các đợt ném bom của địch, lãnh đạo thành phố và huyện Gia Lâm đã chỉ đạo các lực lượng khắc phục hậu quả nhưng do đám cháy quá lớn lại thiếu phương tiện nên không dập tắt được.

Trước những thất bại trên chiến trường miền Nam, ngày 9-5, Níchxơn quyết định tiếp tục tăng cường, mở rộng quy mô đánh phá và tiến hành phong tỏa cảng Hải Phòng cùng các cửa sông, luồng lạch trên vùng biển miền Bắc. Không quân Mỹ thả ồ ạt các loại thủy lôi, bom từ trường, hình thành 43 bãi thủy lôi với tổng diện tích 655 km2. Theo số lượng thống kê của cá trạm quan sát, trong 20 ngày đầu tại các khu vực trọng điểm, địch đã rải ở khu vực Hải Phòng 1.733 quả, cảng sông Giang 610 quả, Hòn La 1.162 quả, cửa Hội 1.352 quả. Tiếp đó, địch thả tăng cường hàng trăm quả thủy lôi làm cho tuyến vận tải Hải Phòng - Quảng Ninh ba lần bị tắc nghẽn.

Cuộc chiến diễn ra ngày càng quyết liệt. Không quân Mỹ oanh tạc dữ dội tất cả các tuyến giao thông chiến lược, hệ thống kho tàng, bến bãi, tàn phá các cơ sở công nghiệp, các nhà máy diện, các vùng dân cư, hệ thống đê điều, kè cống miền Bắc. Tàu chiến địch đêm ngày pháo kích vào các làng xã ven biển. Từ tháng 6-1972, hoạt động ném bom của máy bay B.52 trở nên thành thường xuyên với quy mô và cường độ ngày càng lớn, tập trung vào các khu vực Quảng Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An. Cường độ xuất kích của máy bay địch tăng cao, hằng ngày cúng sử dụng từ 300 đến 500, ngày cao nhất tới 700 lần chiếc; mỗi ngày chúng sử dụng từ 9 đến 18 lần chiếc B.52 ném hàng nghìn tấn bom xuống tất cả các mục tiêu và vào các khu dân cư. Hải quân Mỹ mở rộng phạm vi và cường độ đánh phá lên phía bắc vĩ tuyến 20, uy hiếp vùng bờ biển các tỉnh Nam Định, Ninh Bình, Hải Phòng.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Giêng, 2011, 07:52:16 pm
Trước sự đánh phá ồ ạt bằng nhiều thủ đoạn, sử dụng các loại vũ khí, khí tài hiện đại của không quân, hải quân quân Mỹ, việc thành công đánh trả bảo vệ mục tiêu, chống bao vây, phong tỏa của quân dân miền Bắc gặp nhiều khó khăn, tổn thất về người, vận chuyển liên tục tăng lên; giao thông vận tải ở nhiều địa phương bị chặn cắt. Tháng 5-1972, cảng Hải Phòng buộc phải từng ngừng hoạt động, tuyến vận tải ven biển vào phía nam bị tắc hoàn toàn, nhiều tuyến đường sông bị ngừng trệ, vận tải đường sắt đoạn Thanh Hóa - Vinh ngưng trệ.

Sự đánh phá điên cuồng của địch cùng những thủ đoạn ngoại giao xảo quyệt, độc ác hòng cô lập cách mạng Việt Nam, không làm quân và dân ta nao núng quyết tâm. Trung ương Đảng khẳng định: Dù đế quốc Mỹ có những âm mưu và hành động không thể xoay chuyển được tình thế ở chiến trường…, cả nước đều phải có quyết tâm lớn, cảnh giác cao, kiên quyết chiến đấu và chiến thắng địch trong mọi tình huống.

Cuối tháng 5-1972, Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp bàn về nhiệm vụ của quân và dân miền Bắc trước tình hình mới. Về âm mưu của địch, hội nghị nhận định: Trong thế thua, đế quốc My vẫn tiếp tục đẩy mạnh chủ trương phá hoại đối với miền Bắc; chúng sẽ ra sức ngăn chặn viện trợ vật chất của các nước xã hội chủ nghĩa anh em cho ta, ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam, phá hoại tiềm lực quân sự và kinh tế miền Bắc, gây thương vong lớn cho nhân dân, đồng thời đẩy mạnh chiến tranh tâm lý hòng làm lung lay quyết tâm kháng chiến của quân và dân ta. Đồng thời, Bộ Chính trị cũng lượng định: phải đặc biệt cảnh giác đề phòng địch có thể liều lĩnh đổ bộ đánh phá một số nơi ở miền Bắc và đề ra bốn nhiệm vụ cho quân và dân miền Bắc.

1. Phát động cuộc chiến tranh nhân dân đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của địch ở mức độ cao hơn, đập tan mọi hành động phiêu lưu quân sự mới của địch,bảo vệ vững chắc miền Bắc xã hội chủ nghĩa.

2. Thực hiện chuyển hướng mọi hoạt động của miền Bắc cho phù hợp với thời chiến.

3. Tiếp tục làm nhiệm vụ tăng viện cho chiến trường trong mọi tình huống.

4. Chuẩn bị mọi mặt để khi có điều kiện thì đẩy mạnh khôi phục và phát triển kinh tế, phát triển văn hóa…

Trong những chủ trương công tác lớn trước mắt, Bộ Chính trị nhấn mạnh việc mở rộng thêm một bước lực lượng vũ trang miền Bắc; nâng cao hiệu quả đánh địch và phòng tránh; xúc tiến việc chống địch phong tỏa; tập trung sức bảo đảm nhiệm vụ đột xuất số một là giao thông vận tải và tăng cường chi viện cho tiền tuyến lớn.

Chấp hành Nghị quyết của Bộ Chính trị, Bộ Quốc phòng ra quyết định thành lập một số đơn vị thuộc lực lượng phòng không địa phương và khẩn trương điều chỉnh bố trí lại lực lượng, thế trận phòng không trên miền Bắc. Quân khu Tả Ngạn thành lập Trung đoàn pháo phòng không 272 làm nhiệm vụ bảo vệ Hòn Gai, Cẩm Phả. Quân khu Hữu Ngạn bổ sung quấn số, trang bị, kiện toàn tổ chức và triển khai 5 tiểu đoàn phòng không gồm 13 đại đội pháo 37mm, 2 đại đội súng máy phòng không 14,5mm và 1.926 trận địa trực chiến cố định, 381 tổ chiến đấu cơ động để bảo vệ các mục tiêu trọng yếu ở địa phương. Quân khu Việt Bắc thành lập 2 trung đoàn pháo phòng không: Trung đoàn 254 có nhiệm vụ bảo vệ Yên Bái, Trung đoàn 256 có nhiệm vụ bảo vệ khu gang thép Thái Nguyên. Quân khu Tây Bắc khôi phục Tiểu đoàn 24 làm nhiệm vụ tác chiến bảo vệ thị xã Sơn La, khôi phục Tiểu đoàn pháo phòng không 64A bảo vệ Vĩnh Phú, thành lập Tiểu đoàn pháo khắc phục 48 của tỉnh Tuyên Quang làm nhiệm vụ cơ động của quân khu, tổ chức thêm Trung đoàn pháo phòng không hỗn hợp 286 làm nhiệm vụ bảo vệ nhà máy thủy điện Thác Bà. Ngoài ra, mỗi tỉnh trong quân khu còn tổ chức một đo pháo phòng không dự nhiệm. Tại Quân khu 4, 10 tiểu đoàn pháo phòng không, 6 tiểu đoàn công binh được thành lập mới đồng thời với việc khôi phục và phát triển một số đơn vị bộ đội chủ lực và địa phương với quân số lên tới 11.807 cán bộ, chiến sĩ. Lúc này, trên địa bàn quân khu, lực lượng bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương lên tới 46.100 quân và gần 300 nghìn cán bộ, đội viên dân quân tự vệ. Quân khu Thủ đô thành lập Đoàn Quang Trung bảo vệ Thủ đô. Mỗi khu phố ở Hà Nội tổ chức một đo pháo phòng không 100mm gồm 5 khẩu đội để tăng cường hỏa lực đánh máy bay tầm trung và tầm cao. Các cơ quan, xí nghiệp trên địa bàn Thủ đô nếu có trên 70 chiến sĩ tự về đều tổ chức đơn vị cơ động thoát ly sản xuất, được trang bị súng máy phòng không, sẵn sàng đánh máy bay ở tầm thấp, nhưng cơ sở có dưới 70 tự vệ được trang bị súng bộ binh làm nhiệm vụ chiến đấu tại chỗ và là lực lượng xung kích khắc phục hậu quả chiến đấu. Đến giữa năm 1972, bộ đội chủ lực trên miền Bắc tăng hơn 100.000 người so với năm 1968 là năm bộ đội chủ lực trên miền Bắc đạt con số cao nhất kể từ năm 1971 về trước. Toàn bộ lực lượng này được biên chế thành các sư đoàn cùng hàng chục trung đoàn, tiểu đoàn bộ binh và binh chủng mới xây dựng hoặc kiện toàn đủ quân số theo biên chế thời chiến. Lực lượng dân quân, tự vệ bắn máy bay và tàu chiến Mỹ được phát triển cả về số quân và trang bị bao gồm 200 đại đội, trung đội pháo cao xạ và súng máy phòng không tập trung cùng với hàng chục đội pháo binh bờ biển và hàng trăm nghìn dân quân, tự vệ làm nòng cốt trong các nhiệm vụ chiến đấu, bắt giặc lái, phòng không nhân dân, khắc phục hậu quả, bảo đảm giao thông, vận tải. Trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đây là lúc lực lượng phòng không ba thứ quân phát triển đến đỉnh cao. Trước đòi hỏi của tình hình trong giai đoạn mới, ngành hậu cần quân đội tăng cường bổ sung mọi nhu cầu trang bị vật chất, kỹ thuật phục vụ cho nhiệm vụ phát triển lực lượng vũ trang. Trên thực tế, lúc này, ta chủ trương phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại ở các địa phương. Vì thế, các tỉnh, thành phố trên miền Bắc được bổ sung vu khí, đạn dược với khối lượng lớn trong nhiều đợt. Ngoài vũ khí đánh máy bay tầm thấp, bộ đội địa phương và các đơn vị dân quân, tự vệ tập trung đã được trang bị nhiều loại pháo cao xạ, kể cả một số loại cỡ lớn, pháo mặt đất đánh tàu chiến và nhiều loại vũ khí chiến đấu của cá lực lượng bộ binh cơ động các cấp tỉnh, huyện và cơ sở. Cùng với việc đảm bảo vũ khí, đạn dược, xăng dầu cho các lực lượng chiến đấu, ngành hậu cần quân đội đồng thời nỗ lực trong công tác đảm bảo lương thực, thực phẩm, cung cấp quân nhu. Công tác quân y và ngành y tế trong thời gian này đã phối hợp chặt chẽ. Các đơn vị tác chiến với lực lượng y tế địa phương đã chủ động phối hợp trong công tác cứu chữa thương, bệnh binh, công tác thu dung, điều trị, thanh toán…; thống nhất kế hoạch cấp cứu, chuyển thương, cứu chữa cho cả bộ đội và dân quân bị thương trên từng khu vực tác chiến.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Giêng, 2011, 07:53:02 pm
Đánh phá miền Bắc lần này, không quân, hải quân Mỹ ngoài việc đưa vào sử dụng nhiều loại vũ khí, khí tài tối tân, chúng còn thường xuyên thay đổi thủ đoạn đánh phá. Để tăng cường khả năng đánh trả, nâng cao hiệu quả chiến đấu, các đơn vị lực lượng phòng không và phòng thủ biển ba thứ quân chú trọng làm tốt công tác rút kinh nghiệm, tìm hiểu quy luật hoạt động, đánh phá của địch để xây dựng cách đánh mới. Bộ Tổng Tham mưu và Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân đã nghiên cứu tìm cách đánh thích hợp, nâng cao khả năng chiến đấu hợp đồng của các đơn vị binh chủng, kịp thời thay đổi thế bố trí lực lượng theo hướng bảo đảm vừa địch rộng khắp, vừa tiến hành các đợt tác chiến tập trung bảo vệ những khu vực mục tiêu trọng yếu và các đợt vận chuyển cao điểm. Lực lượng phòng không, không quân, rađa và pháo binh nỗ lực cải tiến kỹ thuật chống nhiễu điện tử, vận dụng các cách đánh linh hoạt, nâng cao khả năng phát hiện mục tiêu và hiệu suất tiêu diệt máy bay, tàu chiến địch.

Với quyết tâm cao, bằng trí thông minh và lòng quả cảm, lực lượng phòng không, phòng thủ biển trên miền Bắc đã chiến đấu quyết liệt, đánh trả có hiệu quả không quân, hải quân Mỹ. Trong 6 tháng chiến đấu liên tục, từ ngày 9-5 đến 22-10-1972, quân dân miền Bắc đã bắn rơi 561 máy bay, bắn chìm, bắn cháy 60 tàu chiến địch, bắt nhiều giặc lái Mỹ. Chỉ riêng ngày 10-5, 18 máy bay Mỹ đã bị bắn rơi. Đây là con số kỷ lục máy bay Mỹ bị hạ trong một ngày kể từ khi Níchxơn ra lệnh đánh phá miền Bắc lần thứ hai. Ngày 27-6, không quân ta xuất kích đánh địch trên vùng trời Sơn La, hạ 4 máy bay F4. Đêm 23-7, dân quân Thái Thụy (Thái Bình) đã bắn rơi 2 chiếc A7. Ngày 17-10, dân quân Tiên Lãng (Hải Phòng) bắn hạ 1 chiếc F111…

Ở vùng bờ biển, hệ thống trạm quan sát thủy lôi bom bừ trường đã kịp thời phát hiện, đánh dấu, thống kê tương đối chính xác, đầy đủ và kịp thời các bãi thủy lôi, các khu vực bom mìn nổ chậm, làm cơ sở cho việc tìm kiếm, trục vớt, phá gỡ. Trong cuộc chiến đấu chống địch phong tỏa lần thứ hai, miền Bắc xây dựng được 273 trạm quan sát (trong đó, Quân chủng Hải quân 31 trạm, Cục Vận tải đường biển 29 trạm), với hàng ngàn phương tiện rà phá thủy lôi. Cùng với việc hoàn thành nhiệm vụ rà phá thủy lôi, bom mìn chống phong tỏa, lực lượng hải quân Việt Nam cùng với lực lượng ba thứ quân bắn cháy, bắn hỏng 60 tàu chiến Mỹ, hạn chế hoạt động pháo kích của địch vào vùng ven bờ. Đại đội pháo binh dân quân gái Ngư Thủy (Quảng Bình) bắn cháy 2 tàu. Tiểu đoàn 5 pháo binh Hải Phòng bắn cháy 4 tàu ở vùng biển Đồ Sơn. Luồng vận chuyển ven biển từ Quảng Ninh về Hải Phòng, hai lần bị địch phong tỏa, hai lần ta khơi thông. Khối lượng hàng vận chuyển trên tuyến này từ 2.600 tấn trong 6 tháng tăng lên hơn 10.000 tấn trong tháng 9-1972.

Chiến tranh ác liệt, lực lượng nam, nữ thanh niên tiếp tục được động viên vào lực lượng vũ trang và thanh niên xung phong, trên ruộng đồng, trong nhà máy, công xưởng, trường học, phần lớn là lao động nữ… Dù vậy, chiến tranh không làm người hậu phương nao núng quyết tâm. Trên mặt trận sản xuất, giai cấp nông dân, công nhân vẫn bám ruộng đồng, nhà máy, duy trì và giữ vững sản xuất. Năm 1972, mức thu mua lương thực tăng gấp 1,5 lần so với năm 1971. Sản xuất nông nghiệp mặc dù gặp nhiều khó khăn về điều kiện thời tiết và các mặt phục vụ sản xuất, bao gồm điện năng, phân hóa học, hệ thống thủy lợi tưới tiêu nhưng nông dân miền Bắc đã khắc phục thiếu thốn, gian lao, cố gắng duy trì diện tích gieo trồng, tăng năng suất lúa và màu. Một số địa phương trên miền Bắc tiếp tục là lá cờ đầu trong phong trào sản xuất nông thiệp. Thái Bình là tỉnh dẫn đầu với năng suất 6 tấn thóc/1 ha, diện tích gieo trồng cũng tăng 15%. Hải Hưng là tỉnh có 800 km đê bị bom Mỹ đánh phá hơn 240 lần nhằm vào đường giao thông, hệ thống đê điều và vùng đông dân. Dù vậy, vụ mùa năm 1972, Hải Hưng vẫn đạt năng suất cao nhất từ trước đến nay. Năng suất của cả tỉnh đạt trên 5 tấn thóc một héc ta, trong đó huyện Gia Lộc dẫn đầu tỉnh với với năng suất lúa đạt bình quân cả năm hơn 6 tấn rưỡi một hécta gieo trồng. Cùng với quân dân cả nước, tỉnh Hà Tây đã cố gắng vươn lên bằng một cuộc cách mạng về giống mới, cùng với các biện pháp thâm canh nên năm 1972 đạt 5,3 tấn thóc/1ha, trong đó hơn 2/3 số huyện và thị xã đạt từ 5 tấn trở lên, hàng chục hợp tác xã vượt năng suất đạt 8-10 tấn/1ha.

Là một trong số những tỉnh bị đánh phá ác liệt, nhưng vụ mùa năm 1972, tỉnh Nam Hà vẫn cấy vượt mức kế hoạch diện tích 1,5%. Cả năm 1972, Nam Hà đạt mục tiêu đề ra 5 tấn thóc/1ha, một số huyện vươn lên như Nghĩa Hưng, Xuân Thủy, Nam Ninh, Hải Hậu đạt từ 5,5 đến 6 tấn. những cố gắng của cán bộ, nhân dân tỉnh Nam Hà đã đưa Nam Hà vượt lên, đạt ba mục tiêu chủ yếu trong nông nghiệp mà Đại hội Đảng bộ tỉnh đề ra về năng suất, sản lượng thóc và số đầu lợn.

Vượt qua những khó khăn do địch đánh phá, thiên tai khắc nghiệt, khó khăn về nhân lực…, nông dân ngoại thành Hà Nội đã nỗ lực cố gắng đáp ứng nhu cầu về lương thực của nông dân và một phần lớn thực phẩm cho nhân dân nội thành và đóng góp một phần nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và nông sản xuất khẩu.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Giêng, 2011, 07:53:56 pm
Nghệ An, tỉnh lớn có 1,6 triệu dân đã đạt 5 tấn thóc/1ha trên diện tích hai vụ lúa ổn định. Là tỉnh có số lần địch đánh phá lớn; hơn nữa, do động viên một bộ phận nhân lực phục vụ hỏa tuyến, lực lượng lao động, thủy lợi và vật tư hạn chế, nhưng Nghệ An đã kiên cường vượt qua những khó khăn đó. Người nông dân Nghệ An “chắc tay cày”, “vững tay súng”, vừa sản xuất, vừa chiến đấu, đưa năng suất lúa tăng cao. So với năm 1971, năng suất lúa năm 1972 tăng mỗi ha 4,7 tạ. Toàn tỉnh có 6 huyện tỏn 10 huyện sản xuất lúa và 250 hợp tác xã trong số 300 hợp tác xã trồng lúa đạt 5 tấn thóc/1ha. Hai huyện Quynh Lưu và Yên Thành bị đánh phá dữ dội vẫn đạt trên 6 tấn, xã Quỳnh Hồng (Quỳnh Lưu) đạt gần 9 tấn, xã Liên Thành (Yên Thành) đạt 8,2 tấn/1ha… Cùng với các tỉnh vựa lúa Thái Bình, Hải Hưng, Nam Hà…, Nghệ An bước vào hàng ngũ các tỉnh đạt năng suất 5 tấn trên một hécta gieo trồng làm nức lòng nhân dân cả nước.

Thanh Hóa là tỉnh có diện tích gieo trồng vụ mùa lớn. Tính chung cả năm, năng suất lúa của tỉnh tăng gần 2 tạ một hécta so với năm 1971, vượt kế hoạch 5%. Toàn tỉnh có 6 huyện đạt từ 5-6 tấn thóc/1ha cả năm. Huyện Thọ Xuân, lá cờ đầu về phong trào thâm canh lúa đạt hơn 6 tấn, các huyện khác như Thiệu Sơn, Thiệu Hóa, Đông Sơn, Hoằng Hóa cũng đạt hơn 5 tấn, huyện Ngọc Lạc là huyện vùng núi cũng đã đưa năng suất lên 5 tấn, dẫn đầu trong số huyện miền núi của tỉnh. Số hợp tác xã đạt năng suất cao trong năm 1972 của tỉnh Thanh Hóa được mở rộng, đặc biệt các xã Xuân Thành và Hạnh Phúc (huyện Thọ Xuân) đạt hơn 9 tấn thóc một hécta.

Mặc dù nằm trên địa bàn trọng điểm đánh phá của không quân, hải quân Mỹ, nhưng các địa phương như Hà Tĩnh, Quảng Bình, khu vực Vĩnh Linh đã có một vụ mùa bội thu. So với năm 1971, năng suất lúa mùa năm 1972 của Hà Tĩnh tăng hơn 40%, Quảng Bình tăng 80%, khu vực Vĩnh Linh tăng 16%. Huyện Đức Thọ Hà Tĩnh là một trong những huyện bị địch đánh phá ác liệt vẫn thu hoạch vụ mùa năng suất cao, 30% số hợp tác xã trong huyện đã đạt bình quân 5 tấn thóc/1ha cả năm. Trong đợt huy động lương thực cấp bách tháng 5-1972, chỉ một thời gian ngắn, Quảng Bình đã huy động được 500 tấn gạo giao cho Bộ Tư lệnh Trường Sơn chuyển vào chiến trường.

Bên cạnh sản xuất nông nghiệp, các ngành chăn nuôi, trồng cây công nghiệp cũng được duy trì và có những tiến bộ mới. So với năm 1971, đàn lợn trên toàn miền Bắc tăng 14,5%, riêng đàn lợn tập thể tăng 20%, số lợn lai kinh tế tăng gấp đôi. Sản lượng cây công nghiệp tăng hơn năm trước, mía tăng 13%, đay 38%, cói 24%, thuốc lá 10%. Công tác xây dựng vùng kinh tế mới, trồng rừng, hoàn chỉnh hệ thống thủy nông cũng được chú trọng đẩy mạnh. Vượt mọi khó khăn, vừa sản xuất vừa chiến đấu, người nông dân miền Bắc trong chiến tranh chống phá hoại lần thứ hai của Mỹ đã “vững tay cày, chắc tay súng”, giành thắng lợi trên cả ba mặt: sản xuất lương thực, thực phẩm; củng cố đê điều, xây dựng vật chất trong nông nghiệp; phục vụ chiến đấu, phục vụ tiền tuyến.

Sản xuất công nghiệp trong thời gian này gặp nhiêu khó khăn bởi “sẽ không có mục tiêu công nghiệp nào được loại trừ không bị đánh phá” như Mỹ từng đe dọa và trên thực tế đã thực hiện. Lường tính được âm mưu và thủ đoạn đánh phá của địch, ngay từ đầu, để duy trì và giữ vững sản xuất, các máy móc, thiết bị, vật tư của nhiều cơ sở công nghiệp nặng được di chuyển đến vùng an toàn. Tuy vậy, một số ngành công nghiệp nặng do khó khăn về năng lượng, vật tư, thiết bị nên không đảm bảo được tiến độ sản xuất. Sản lượng điện sut 80 triệu kw/h, than sụt hơn 2 triệu tấn, ximăng, gang thép giảm từ 2/3 đến 1/4 sản lượng. Tuy nhiên, nhiều ngành sản xuất công nghiệp nhẹ và một bộ phận công nghiệp nạng không những duy trì được tiến độ sản xuất mà còn tăng thêm sản lượng như các ngành cơ khí, diệt, may mặc, chế biến thực phẩm.

Công nghiệp địa phương tiếp tục có sự phát triển đáng kể. Từ 42,9/% tỷ lệ giá trị tổng sản lượng công nghiệp của cả nước năm 1965 đã tăng lên 58% trong năm 1972. Sự phát triển của các ngành công nghiệp địa phương đã góp phần thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, bảo đảm nhu cầu đời sống nhân dân các địa phương đồng thời góp phần thiết thực phục vụ cho các lực lượng vũ trang trong chiến đấu và xây dựng.

Cùng với hai ngành sản xuất chính là công nghiệp và nông nghiệp, các ngành nghề khác cũng được chú trọng giữ vững hoạt động, phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế. Ngành thương nghiệp với chức năng lưu thông, phân phối phục vụ sự ngiệp phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, đã làm tốt vai trò là cầu nối giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa sản xuất và tiêu dùng, giữa nội và ngoại thương, giữa kinh tế quốc doanh với kinh tế hợp tác xã… Ngành xây dựng cũng đã cố gắng từng bước trưởng thành phục vụ cho các ngành kinh tế khác.

Chiến tranh ác liệt với nhiều xáo trộn, mất mát, hy sinh nhưng sự nghiệp văn hóa, giáo dục miền Bắc năm 1972 vẫn giành được những kết quả quan trọng. Tỷ lệ người biết chữ trong nhân dân tăng lên. Số lượng học sinh cắp sách đến trường ở các cấp học tăng hơn năm 1971. Tiếp tục nỗ lực của những năm trước, trong năm học 1971-1972, hệ thống trường lớp được mở rộng đến từng xã, phường; cơ sở vật chất được cải thiện; nhiều hình thức dạy học mới ra đời phù hợp với tình hình chiến tranh. Các trường lớp dạy nghệ phát triển dưới nhiều hình thức. Hệ thống giáo dục đại học, trung học chuyên nghiệp mở rộng hơn trước cả về quy mô, ngành nghệ và loại hình đào tạo. Công tác thông tin đại chúng va các hoạt động văn hóa, văn nghệ phát triển phong phú về thể loại, hình thức và nội dung, đáp ứng tốt hơn nhu cầu thông tin của nhân dân, góp phần tích cực cho công tác tuyên truyền, giáo dục truyền thống cách mạng, đấu tranh chống tiêu cực. Diện phủ sóng truyền thanh được mở rộng.

Mạng lưới y tế các tuyến tiếp tục được mở rộng cả về đội ngũ, cả về cơ sở vật chất, bảo đảm cứu chữa thương binh, bệnh binh và nhân dân địa phương trong chiến tranh, phát huy khả năng phòng thủ và chữa bệnh tại các tuyến cơ sở.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Giêng, 2011, 07:55:12 pm
Qua gần một năm leo thang đánh phá miền Bắc với quy mô và cường độ khốc liệt, dữ dội, nhưng đế quốc Mỹ không thể làm nao núng ý chí, quyết tâm của quân và dân ta. Thất bại trong chiến tranh phá hoại, phong tỏa miền Bắc và thất bại trên chiến trường miền Nam tiếp tục tác động mạnh tới tình hình chính trị nước Mỹ. Tuy vậy, bắng nhiều thủ đoạn và biện pháp, Níchxơn vẫn vượt qua kỳ bầu cử tổng thống Mỹ. Ngay sau khi tái đắc cử, Níchxơn và tập đoàn cầm quyền Mỹ tương đối “rảnh tay” để thực hiện những bước phiêu lưu quân sự mới ở Việt Nam. Tại Hội nghị Pari, Kítxingiơ đề nghị sửa đổi 126 điều trong dự thảo Hiệp định tháng 10. Ngày 21-11, phái đoàn ta trở lại hội nghị nhưng kiên quyết không nhân nhượng những đòi hỏi của phía Mỹ. Tình hình diễn biến rất căng thẳng. Mỹ lập cầu hàng không ồ ạt đưa vào miền Nam một khối lượng lớn vũ khí đạn dược, phương tiện chiến tranh, thiết bị chiến trường, hối hả trao trước thời hạn cho ngụy quân các căn cứ quân sự Mỹ dưới danh nghĩa cố vấn dân sự và kỹ thuật viên để huấn luyện, chỉ huy quân đội Sài Gòi. Không quân, hải quân và pháo binh Mỹ tập trung hỏa lực chi viện tối đa cho quân Sài Gòn phản kích giành lại những nơi vừa bị mất. Ở miền Bắc, máy bay và pháo hạm Mỹ ngày đêm oanh tạc, bắn phá dữ dội Quảng Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An. Mặc dù thời tiết xấu, hằng ngày chúng vẫn cho xuất kích 170-180 lần chiếc máy bay chiến thuật, có ngày thời tiết khá, chúng tăng lên 300 lần cùng với 27 lần chiếc B.52 để đánh phá. Chúng tiếp tục thả thêm 1.000 quả thủy lôi và bom từ trường ở các cửa sông, phà Bến Thủy, Linh Cảm, Hiền Lương. Ban đêm, hải quân Mỹ bắn khoảng 15.000 quả đạn pháo vào ven biển từ Thanh Hóa đến Vĩnh Linh. Các hoạt động trinh sát đường không phía bắc vĩ tuyến 20, đặc biệt vùng trời Hà Nội, Hải Phòng do máy bay trinh sát chiến lược SR-71 của không quân Mỹ trở nên thường xuyên và ráo riết.

Theo dõi diễn biến tình hình, Đảng ta cho rằng không tránh khỏi một cuộc đọ sức quyết liệt giữa ta và địch. Đầu tháng 11-1972, các đơn vị phòng không miền Bắc được lệnh gấp rút tăng cường lực lượng, chuẩn bị mọi mặt, sẵn sàng đối phó với bước phiêu lưu quân sự mới của Mỹ. Quân chủng Phòng không - Không quân tổ chức rút kinh nghiệm và tiến hành tổng kết cách đánh máy bay B.52. Ngày 25-11, Quân ủy Trung ương ra chỉ thị Tăng cường sẵn sàng chiến đấu. Chỉ thị nêu rõ: Sắp tới chúng ta cần đề phòng địch có thể có những hành động phiêu lưu mới. Chúng có thể ném bom bắn phá trở lại từ vĩ tuyến 20 trở ra với mức độ ác liệt hơn trước. Chúng có thể liều lĩnh dùng máy bay B.52 đánh phá các trọng điểm Hà Nội, Hải Phòng, các chân hàng, các đầu mối giao thông, các vùng đông dân; dùng hải quân đánh phá tăng cường bờ biển… Các đơn vị phải hết sức đề cao cảnh giác, kiểm tra và hoàn chỉnh thêm công tác sẵn sàng chiến đấu, kế hoạch tác chiến và phòng tránh sơ tán. Quân ủy Trung ương chỉ thị cho bộ đội không quân, tên lửa tiếp tục nghiên cứu, cải tiến cách đánh, tích cực huấn luyện bộ đội cách đánh máy bay B.52 và các biện pháp chống nhiễu, chống bom lade, bom vô tuyến truyền hình. Ngày 27-11, Bộ Tổng Tham mưu chỉ thị cho lực lượng phòng không: “Tập trung mọi khả năng, nhằm đúng đối tượng B.52 mà tiêu diệt”.

Sau khi thông qua kế hoạch tác chiến, Bộ Tổng Tham mưu khẩn trương điều chỉnh lực lượng, xây dựng thế trận của lực lượng phòng không ba thứ quân, chuẩn bị kế hoạch phòng không nhân dân nhằm phát huy cao nhất sức mạnh của chiến tranh nhân dân, sẵn sàng đối phó với âm mưu và thủ đoạn mới của địch.

Sư đoàn phòng không hỗn hợp 365 được giao nhiệm vụ phối hợp với các lực lượng phòng không địa phương tác chiến bảo vệ các tuyến vận tải Thanh Hóa - Nghệ An - Hà Tĩnh. Sư đoàn 375 gồm một trung đoàn tên lửa (268) và 5 trung đoàn cao xạ bảo vệ đường số 1 từ Hà Nội đến Lạng Sơn. Lực lượng phòng không Quân khu Tả Ngạn có 2 tiểu đoàn pháo cao xạ đứng chân ở Hà Bắc. Khu vực Bắc Thái và Yên Bái có lực lượng phòng không của Quân khu Việt Bắc gồm Trung đoàn pháo cao xạ 256 bố trí ở Thái Nguyên, Trung đoàn pháo cao xạ 254 bố trí ở Yên Bái. Trên khu vực Hà Nội, ta bố trí lực lượng phòng không mạnh gồm Sư đoàn 361 có 3 trung đoàn tên lửa 257, 261 và 274(1); 5 trung đoàn cao xạ là 220, 221, 212, 244, 260; các trung đoàn không quân 921, 923, 925, 927 và Trung đoàn tên lửa 274 vừa từ chiến trường ra làm lực lượng dự bị cho hướng chủ yếu là Hà Nội. Lực lượng phòng không dân quân tự vệ gồm 226 đội, trang bị 741 khẩu pháo, súng máy phòng không đủ loại, trong đó có 4 đại đội dân quân, tự vệ trang bị 20 khẩu pháo 100mm, có thể tham gia bắn máy bay B.52. Ở khu vực Hải Phòng, có Sư đoàn 363 gồm 2 trung đoàn tên lửa 236 và 285; Trung đoàn pháo cao xạ 252 và lực lượng phòng không của Quân khu Tả Ngạn gồm Trung đoàn pháo cao xạ 272 và 4 tiểu đoàn độc lập.


(1) Trong đó trung đoàn 274 mới có hai tiểu đoàn triển khai (88 và 86), hai tiểu đoàn 87 và 89 đang nhận khí tài, tiểu đoàn kỹ thuật của trung đoàn vẫn còn một bộ phận trên hướng Trị - Thiên chưa ra kịp.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Giêng, 2011, 07:56:16 pm
Các tiểu đoàn, đại đội phòng không của các quân khu, tỉnh, thành phố và lực lượng bắn máy bay của dân quân, tự vệ gồm 350 tổ, đội trực chiến, trang bị hơn 100 khẩu cao xạ (100, 88, 37, 20mm), 550 khẩu súng máy cao xạ (12.7 và 14,5mm), 700 khẩu đại liên, trung liên bố trí trên khắp địa bàn, tập trung ở những khu vực trọng điểm. Các trạm rađa bố trí thành mạng lưới liên hoàn. Mỗi khu vực chiến thuật sử dụng từ 6 đến 9 máy bay, có thể hỗ trợ cho nhau phát hiện các loại máy bay ở các tầng, các hướng. Hệ thống trận địa rađa cảnh giới vùng tời Hà Nội bố trí xong trước tháng 1-1972. Cán bộ, chiến sĩ một số đại đội rađa mang khí tài vượt đường xa, khắc phục địa hình phức tạp, đặt máy ở một số vùng núi cao, hải đảo để tăng khả năng cảnh giới từ xa.

Tăng cường sức mạnh chiến đấu của bộ đội, cùng với việc tổ chức sinh hoạt chính trị, nâng cao nhận thức tình hình, nhiệm vụ cho cán bộ, chiến sĩ, Quân chủng Phòng không - Không quân còn tổ chức các hội nghị về trắc thủ rađa, hội nghị về cách đánh máy bay B.52 va tổ chức đánh khảo nghiệm. Binh chủng Không quân triển khai công tác huấn luyện chiến sĩ lái máy bay chiến đấu ban ngày và ban đêm trong điều kiện phức tạp, tập đánh máy bay B.52, đánh chặn máy bay cường kích, tập cất cánh và hạ cánh ở các sân bay dã chiến có đường băng ngắn. Bộ đội cao xạ luyện tập cách đánh máy bay chiến thuật trong đội hình bảo vệ B.52 và bắn máy bay địch bay thấp ban đêm, bảo vệ các trận địa tên lửa. Một số sân bay dã chiến được bí mật xây dựng ở vòng ngoài; các trận địa dã chiến cho bộ đội tên lửa cơ động, lập trận địa nghi binh thu hút máy bay địch. Hệ thống trận địa chốt, trận địa nghi binh thu hút máy bay địch. Hệ thống trận địa chốt, trận địa cơ động của bộ đội pháo cao xạ được củng cố thêm. Lực lượng rađa bố trí đội hình có tuyến trước, tuyến sau và hai bên sườn, bảo đảm phát hiện kịp thời và chính xác mục tiêu trên các hướng. mạng thông tin dự bị và hệ thống thông tin vô tuyến diện tiếp tục được triển khai và tăng cường, bảo đảm chỉ huy thông suốt từ trên xuống dưới. Việc bảo đảm đạn cho các trận địa tên lửa do các phân đội kỹ thuật của Binh chủng Phòng không phụ trách. Các mặt công tác bảo đảm, nhất là bảo đảm kỹ thuật cho các binh chủng được chấn chính hợp lý và có hiệu quả hơn.

Phát huy sức mạnh hiệp đồng của lực lượng phòng không ba thứ quân, Bộ Tổng tham mưu xác định tên lửa phòng không là lực lượng chính tiêu diệt máy bay B.52, không quân tiêm kích là lực lượng tiến công phá vỡ và gây rối loạn đội hình không quân địch, đồng thời công kích B.52 ở ngoài tầm hỏa lực của tên lửa phòng không; các đơn vị pháo cao xạ là lực lượng chính đánh diệt máy bay cường kích. Trong điều kiện phải bảo vệ mục tiêu trên khu vực không gian rộng, khả năng cơ động đội hình chiến đấu có hạn, Bộ Tổng tư lệnh kiên quyết tập trung 50% lực lượng cao xạ, tên lửa phòng không vào các khu vực tác chiến chủ yếu.

Cùng với kế hoạch chuẩn bị và tăng cường lực lượng phòng không quốc gia bảo vệ vùng trời Hà Nội, Hải Phòng, công tác phòng không nhân dân ở hai thành phố lớn này và tại một số địa bàn quan trọng khác đã được đặc biệt quan tâm. Lực lượng dân quân, tự vệ phòng không Thủ đô có 8 đại đội pháo cao xạ 100mm của dân quân 4 huyện ngoại thành gồm 20 khẩu pháo cao xạ 100mm, 28 khẩu pháo 37mm.Tự vệ của 4 khu phố nội thành gồm 226 tổ, đội với 741 khẩu súng máy phòng không được triển khai thành 92 trận địa súng máy phòng không 14,5mm; hơn 100 trận địa súng máy phòng không 12,7mm, đại liên, trung liên. Ngoài ra, lực lượng “tay búa, tay súng” của công nhân được trang bị hơn 4 vạn súng trường, tư lệnh, sẵn sàng tham gia bắn máy bay thấp, bắt giặc lái và khắc phục hậu quả đánh phá của địch. Các tổ cứu thương, cứu sập của dân quân, tự vệ được trang bị thêm các phương tiện cấp cứu, kể cả cần cẩu, xe ủi, máy gạt… Hệ thống công sự chiến đấu và hầm hào ẩn nấp được sửa chữa, tu bổ và xây dựng thêm.

Ở Hải Phòng, lực lượng phòng không quân khu có một trung đoàn và 4 tiểu đoàn độc lập, lực lượng phòng không địa phương có 85 tổ, đội với 510 khẩu pháo và súng máy phòng không, trong đó có 12 khẩu pháo 100mm, 16 khẩu pháo 85mm, 32 khẩu pháo 37mm.

Đến ngày 18-12, các đơn vị tên lửa bảo vệ Hà Nội, Hải Phòng đã chuẩn bị được 1,8 đến 2,16 cơ số đạn. Nhiên liệu đảm bảo hoạt động của máy bay tiêm kích được dự trữ đầy đủ tại các kho ở bắc sông Hồng cho máy bay ở các sân bay Nội Bài, Kép, Yên Bái; dự trữ của các kho nam sông Hồng đảm bảo cho máy bay của các sân bay Hòa Lạc, Thọ Xuân. Tại mỗi sân bay, xăng dầu dự trữ đủ cho 30-40 ngày chiến đấu.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 31 Tháng Giêng, 2011, 09:32:14 pm
Đầu tháng 12-1972, Hội đồng phòng không nhân dân tăng cường kiểm tra, đôn đốc việc tổ chức sơ tán phòng tránh, củng cố hệ thống hầm hào, hệ thống báo động phòng không nhân dân. Hệ thống hầm háo trú ẩn, hệ thống công sự chiến đấu được sửa chữa, củng cố và xây dựng thêm. Hàng trăm ngàn người được sơ tán khỏi Hà Nội, Hải Phòng và một số nơi có khu công nghiệp lớn. Lực lượng bảo đảm trật tự, an ninh, cứu thương, cứu sập, phòng chữa cháy… tiếp tục tăng cường cả về số lượng và phương tiện đảm bảo. Lực lượng vận tải khẩn trương vận chuyển, phân tán số hàng còn tồn đọng ở các kho, các chân hàng tới những nơi an toàn. Trong gian lao thử thách, người dân các tỉnh, thành phố, đặc biệt là Hà Nội, Hải Phòng càng gắn bó, đoàn kết, vững tin vào sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ. Đã quen nếp sống chiến tranh, giờ đây, những người sơ tán nhanh chóng ổn định nơi ăn chốn ở tại địa điểm mới đến; những người ở lại đảm bảo sản xuất, làm việc,. học tập, tham gia giữ gìn trật tự xã hội ở địa bàn. Đến giữa tháng 12, các tỉnh phía Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra đã khẩn trương khắc phục hậu quả chiến tranh, ra sức làm vụ đông xuân. Tất cả các sân bay phía bắc như Nội Bài, Kép, Yên Bái, Thọ Xuân…, các tuyến đường sắt, đường bộ, đường sông nhiều lần bị địch oanh tác khiến việc vận chuyển hàng háo bị ùn, nay được khôi phục, khơi thông. Tuyến đường sắt Lạng Sơn - Hà Nội được củng cố trở thành một trục đường rất quan trọng với các “cảng nổi” là ga Lạng Sơn, Đồng Mỏ. Thành phố Thái Nguyên vẫn duy trí sản xuất ngày đêm.

Khoảng trung tuần tháng 12-1972, tình hình diễn biến rất khẩn trương. Ngày 13-12, trước thái độ ngoan cố, lật lọng của chính quyền Mỹ, Hội nghị Pari bế tắc. Hôm sau, ngày 14-12, Níchxơn chính thức phê chuẩn kế hoạch tập kích chiến lược bằng B.52 vào Hà Nội, Hải Phòng với mật danh Lainơ Bếchcơ II - một kế hoạch đã được chuẩn bị rất kỹ từ trước. Theo kế hoạch, một lực lượng lớn không quân Mỹ sẽ tiến hành đánh phá dữ dội và các mục tiêu ở miền Bắc Việt Nam liên tục 24/24 giờ; các máy bay ném bom chiến lược B.52 sẽ hoạt động về ban đêm; máy bay chiến thuật vừa làm nhiệm vụ yểm trợ cho máy bay B.52, vừa sử dụng vũ khí, khí tài điều khiến bằng tia lade để công kích, chế áp mạnh các mục tiêu, đặc biệt là sân bay, trận địa tên lửa, trận địa pháo phòng không, tạo điều kiện cho B.52 hoạt động. Đồng thời, các loại máy bay F-4, EB-66 tiến hành gây nhiễu, chống khí tài điện tử tầm xa. Máy bay F.105 được trang bị tên lửa chặn chùm tín hiệu hướng dẫn tên lửa SAM-2 của ta và bám theo chúm tín hiệu này để đánh phá các trận địa rađa mặt đất. Toàn bộ lực lượng không quân chiến lược, không quân chiến thuật của Mỹ ở khu vực Đông Nam Á, Thái Bình Dương đều được huy động vào chiến dịch tập kích chiến lược này. Đồng thời, Mỹ điều thêm hai tàu sân bay Intơphraiđơ và Sannratôga đến Vịnh Bắc Bộ, đưa số tàu sân bay ở vùng biển từ Hà Tĩnh đến Thanh Hóa lên 5 chiếc, đưa từ Mỹ sang Philíppin 50 máy bay KC-130 tiếp dầu trên không cho B.52; 48 máy bay F.111 được điều sang thay thế cho 4 phi đoàn máy bay F-4 ở Đông Nam Á; thành lập Bộ Chỉ huy sư đoàn không quân chiến lược lâm thời số 57 chỉ huy 3 biên đội máy bay B.52 (gồm 103 chiếc) và 250 tổ lái (mỗi tổ 6 người) ở hai sân bay Enđônxơn (Guam) và Utapao (Thái Lan). Tham gia chiến dịch tập kích đường không lần này còn có hơn 1.000 máy bay chiến thuật Myũ ở khu vực Đông Nam Á.

Cùng với việc mở chiến dịch tập kích chiến lược bằng đường không nhằm vào Hà Nội, Hải Phòng, Tổng thống Mỹ lệnh cho không quân và hải quân tiếp tục nỗ lực bao vây, phong tỏa vùng biển miền Bắc, tập trung vào cảng Hải Phong.

Níchxơn đích thân theo dõi, kiếm soát toàn bộ quá trình chuẩn bị và thực hành chiến dịch này.

Với số lượng lớn máy bay cùng với các loại vũ khí, khí tài hiện đại được đem sử dụng, đế quốc Mỹ tin rằng, thông qua đòn đánh có tính chất hủy diệt tiềm lực kinh tế quốc phòng miền Bắc, uy lực và sức mạnh quân sự của Mỹ sẽ nhanh chóng buộc Chính phủ Việt Nam phải trở lại Hà Nội Pari, chấp nhận các đòi hỏi của Mỹ.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 31 Tháng Giêng, 2011, 09:32:51 pm
Các ngày 15, 16-12, cường độ hoạt động trinh sát đường không của mãy bay Mỹ trên vùng trời Hà Nội, Hải Phòng tăng lên đột ngột. Ngày 17-12-1972, chúng bắn phá khiêu khích và thả thủy lôi xuống vùng ven biển Hải Phòng từ cửa Nam Triệu đến đảo Cát Bà. Bộ Tổng tham mưu lệnh cho Quân chủng Phòng không - Không quân chuyển toàn bộ lực lượng vào trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao nhất, đề phòng B.52 đánh đêm từ vĩ tduyến 20 trở ra. Ngày 18-12, trên toàn chiến trường Đông Dương, hoạt động của máy bay B.52 đột ngột ngừng hẳn. Theo lệnh của Bộ Tổng tư lệnh, tất cả các lực lượng cao xạ, tên lửa, không quân, pháo binh, rađa lâp tức chuyển sang trạng tháng sẵn sàng chiến đấu cao. Các cơ quan trung ương được lệnh sơ tán lập tức khỏi Hà Nội. 19 giờ 10 phút, rađa cảnh giới của ta phát hiện các tốp B.52 đang bay vào vùng tời miền Bắc. 19 giờ 15 phút, lệnh báo động khẩn cấp được phát ra. Ít phút sau, máy bay F.111 ập tới ném bom sân bay Nội Bài, Kép… 19 giờ 40 phút, hàng chục tốp máy bay B.52 được hàng trăm máy bay cường kích và máy bay tiêm kích hộ tống đã tới vùng trời Hà Nội, ồ ạt ném bom xuống khu vực sân bay Nội Bài, Kép, Gia Lâm, Hòa Yên Viên, kho xăng Đức Giang, Gia Lâm, Nhà máy xe lửa Gai Lâm, Đài phát thanh tiếng nói Việt Nam ở Mễ Trì… Cùng lúc, toàn bộ hệ thống sân bay miền Bắc cũng bị không quân chiến thuật Mỹ oanh tạc. Một số sân bay và đài phát sóng Mễ Trì bị bom B.52 đánh trúng. Một số trận địa tên lửa, trận địa pháo cao xạ bảo vệ Nội Bài, Cầu Đuống, Gia Lâm bị trúng bom. Cùng thời gian đó, 26 lần chiếc máy bay cường kích của hải quân Mỹ đánh phá thành phố Hải Phòng. Trên địa bàn Thái Nguyên, đêm 18 và ngày 19-12, máy bay Mỹ F.111 và F.4 bắn tên lửa xuống các xã Đoàn kết (Đại từ), Hợp Thành.

Với mục đích ngăn chặn máy MIG của không quân ta - một đối thủ nguy hiểm cho B.52, Mỹ đã sử dụng máy bay F.111 và các máy bay cường kích chiến thuật khác tiến công chế áp 6 sân bay chủ yếu trên miền Bắc là Nội Bài, Kép, Kiến an, Hòa Lạc, Yên Bái, Gia Lâm. Đồng thời, chúng sử dụng nhiễu dày đặc cả trong và ngoài đội hình khiến cho việc phát hiện mục tiêu của hệ thống hỏa lực phòng không mặt đất gặp nhiều khó khăn.

Dù vậy, được chuẩn bị từ sớm và phán đoán đúng âm mưu, hành động của địch nên từ đầu, quân dân Hà Nội, Hải Phòng và các địa phương miền Bắc đã giành thế chủ động, đánh trả mãnh liệt. Không quân được lệnh xuất kích, chặn đánh máy bay chiến thuật ở vòng ngoài. Hỏa lực phòng không mặt đất tầm thấp và tầm trung tạo thành lưới lửa buộc máy bay cường kích của địch phải tăng độ cao. Khắc phục nhiễu dày đặc và tên lửa địch bám đánh, các đơn vị rađa vẫn phát sóng, bám sát mục tiêu B.52. 20 giờ 13 phút, từ trận địa biên thành Cổ Loa, kíp chiến đấu của Tiểu đoàn 59 (thuộc Trung đoàn 261) đã bám sát dải nhiễu, phóng đạn từ cự ly thích hợp, bắn rơi chiếc B.52 đầu tiên. Đây là chiếc B.52 bị bắn rơi tại chỗ trong chiến dịch. Về sáng, cuộc đọ sức giữa mặt đất và bầu trời càng quyết liệt. Đài phát thanh tiếng nói Việt Nam ở Mễ Trì sau 9 phút ngừng tiếng do máy bay Mỹ đánh trúng đã lại vang lên tiếng báo tin chiến thắng và tố cáo tội ác của đế quốc Mỹ. 4 giờ 30 phút, kíp chiến đấu của Tiểu đoàn 77 (thuộc Trung đoàn 257) bắn rơi chiếc máy bay B.52 thứ hai. Trên đường bay về căn cứ, 1 chiếc B.52 khác cũng bị tên lửa cả Trung đoàn 267 bố trí ở Nghệ An bắn cháy.

Suốt 9 giờ chiến đấu liên tục, lực lượng phòng không Hà Nội, Hải Phòng và các địa phương trên miền Bắc đã bắn rơi 7 máy bay, trong đó có 3 chiếc B.52 và 1 chiếc F.111 của Mỹ. Hà Nội, niềm tin của cả nước, vẫn vững vàng trong bom đạn ác liệt của quân thù! Chiến công đầu của Hà Nội đã cổ vũ mạnh mẽ khí thế của quân dân hai miền Nam - Bắc. Đài tiếng nói của Mặt trận dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam truyền đọc thư từ miền Nam gửi Hà Nội: “Lửa miền Bắc khêu lửa miền Nam, lửa Hà Nội giục lửa Sài Gòn. Từ ngoài vô trong, từ hậu phương lớn đến tiền tuyến lớn anh hùng đang vang lên tiếng trả lời đanh thép: Đánh!”.

Sáng ngày 19-12, Bộ Chính trị họp, nghe Bộ Tổng tham mưu báo cáo toàn bộ diễn biến trận đánh B.52 đêm đầu tiên. Bộ Chính trị biểu dương tinh thần đánh Mỹ của các đơn vị và địa phương, đồng thời chỉ thị kiên quyết đập tan các hành động quân sự điên cuồng của đế quốc Mỹ.

Ngay sau trận đánh, các đơn vị phòng không được lệnh khẩn trương di chuyển trận địa, bổ sung và thay thế vũ khí, đạn dược, khí tài. Trên một số hướng, lực lượng phòng không được điều chỉnh. Tại những cơ sở lắp ráp, các kíp bảo đảm đạn tên lửa làm việc liên tục suốt ngày đêm. Đồng thời, thêm hai dây chuyển lắp rạp đạn tên lửa được tăng cường cho khu vực Hà Nội. Ở Hải Phòng, các dàn rađa được nâng cao hơn, kết hợp với các đài quan sát trên các đảo nhằm tăng khả năng phát hiện mục tiêu từ xa. Hỏa lực phòng không tầm thấp của dân quân, tự vệ cũng được điều chỉnh thế bố trí. Bộ đội công binh với sự tham gia tích cực của nhân dân địa phương và dân quân, tự vệ khẩn trương sửa chữa các sân bay vừa bị địch đánh phá, củng cố trận địa tên lửa, pháo cao xa. Nhân dân Hà Nội, Hải Phòng và các khu công nghiệp tiếp tục và gấp rút sơ tán ra khỏi khu vực nội thành. Hàng trăm xe khách, xe vận tải được huy động vào công việc này. Các tổ cứu thương, cứu sập nhanh chóng khắc phục hậu quả ở các khu vực bị địch đánh phá. Nhân viên thương nghiệp mang hàng đến các trận địa, nhà máy phục vụ bộ đội, cán bộ, công nhân đang trụ bám trận địa, nhà máy, công sở. Ở các khu vực nội thành, điện, nước phục vụ chiến đấu, sản xuất, sinh hoạt vẫn bình thường.

Chiều 19-12, tại Câu lạc bộ Quốc tế, trước đông đảo phóng viên trong nước và nước ngoài, đại diện Bộ Quốc phòng đã công bố những hành động tội ác của không quân Mỹ đêm 18 và kết quả đánh trả của ta. Trước đông đảo các nhà báo, 6 phi công Mỹ vừa bị bắt cúi đầu thú nhận nỗi kinh hoàng trước lưới lửa phòng không dày đặc trên vùng trời Hà Nội.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 31 Tháng Giêng, 2011, 09:33:33 pm
Các ngày 19, 20-12, máy bay chiến thuật Mỹ tiếp tục đánh phá các mục tiêu ở Hà Nội, Yên Bái, Quảng Ninh, Thái Nguyên, sục tìm các sân bay dã chiến và các trận địa tên lửa ta. Các đêm 19, 20-12, mỗi đêm gần 100 lần chiếc máy bay B.52 liên tục dội bom xuống Hà Nội, trong lúc hàng trăm lần chiếc máy bay chiến thuật đánh phá Hải Phòng, Thái Nguyên, Bắc Giang, Tân Lac (Hòa Bình). Đêm 19, bộ đội tên lửa bắn rơi 2 máy bay B.52 trên vùng trời Hà Nội. Đêm 20, khắc phục thời tiết xấu, không quân ta xuất kích, đánh vào độ hình máy bay yểm trợ của địch, buộc chúng phải dãn ra đối phó. Nhằm đúng thời cơ, tên lửa phòng không tập trung đánh vào các tốp B.52, đồng thời cao xạ đánh mạnh vào báy bay chiến thuật của địch. Lúc 20 giờ, khi máy bay B.52 của địch bay vào đánh phá Hà Nội, các tiểu đoàn tên lửa 77, 78, 79, 88, 93, 94 phát huy hỏa lực, tâp trung đánh vào từng tốp, liên tiếp bắn rơi 5 chiếc B52 (có 3 chiếc rơi tại chỗ). Như thế, qua hai ngày đêm (19 và 20-12), hỏa lực phòng không mặt đất đã bắn hạ 6 chiếc B.52 và 14 chiếc máy bay chiến thuật của địch. Trung đội dân quân Vĩnh Bảo (Hải Phòng) bằng súng máy phòng không, bắn cháy 1 chiếc máy bay F.111 của Mỹ. Bị tổn thất nặng nề về máy bay và người lái, từ đêm 21 đến đêm 24-12, mỗi đêm, địch chỉ sử dụng trên dưới 30 lần chiếc B.52 đánh phá các mục tiêu vòng ngoài. Trong lúc đó, chúng điều thêm lực lượng B.52 và người lái đến căn cứ không quân Utapao và Guam. Lúc này, thay đổi chiến thuật, các máy bay Mỹ chuyển sang hoạt động nhỏ, mỗi đêm đánh một đợt vào Hà Nội với số lượng từ 22 đến 33 lần chiếc B.52, còn lại, chúng dãn ra và đánh vào một số mục tiêu ở Hải Phòng, Thái Nguyên, Đồng Mỏ (Lạng Sơn) nhằm phân tán lực lượng ta. Tại Hà Nội, chúng tăng cường dùng không quân chiến thuật đánh cả ngày và đêm vào nhiều mục tiêu ở nội thành như nhà ga, Nhà máy điện Yên Phụ, Bệnh viện Bạch Mai… và các trận địa tên lửa của ta.

Mặc dù giảm mạnh số phi vụ xuất kích của B.52 và dãn xa khu vực Hà Nội nhằm tránh tên lửa SAM, nhưng các pháo đài bay B.52 tiếp tục bị trừng trị. Đêm 21-12, bằng cách sử dụng tên lửa tập trung, ta bắn rơi 7 máy bay B.52, có 5 chiếc rơi tại chỗ. Đây là một trong những đêm lực lượng phòng không của ta bắn rơi tại chỗ nhiều nhất trong 12 ngày đêm chiến đấu. Trên vùng trời Hải Phòng, đêm 20-12, lực lượng phòng không bảo vệ thành phố đã chuyển từ cách đánh phân tán, dàn đều sang tập trung hỏa lực đánh địch trên từng hướng đã bắn rơi ba máy bay chiến thuật và bắt giặc lái.

Rút kinh nghiệm 3 ngày đêm chiến đấu đầu tiên và nhận định tình hình những ngày tới, Bộ Tổng tư lệnh chỉ rõ mục tiêu đánh phá chủ yếu của địch vẫn là Thủ đô Hà Nội; chúng sẽ đánh sâu vào nội thành, đánh các trận địa tên lửa. Tất cả các đơn vì pháo phòng không được lệnh chú trọng nhiệm vụ bảo vệ trận địa tên lửa.

Để tăng cường lực lượng bảo vệ Thủ đô Hà Nội, bộ điều động hai tiểu đoàn 71 và 72 tên lửa (thuộc Trung đoàn 285) từ Hải Phòng nhanh chóng cơ động lên Hà Nội, bố trí trên các hướng đông, đông bắc; hai trung đoàn cao xạ 223, 262 từ Thanh Hóa hành quân ra Thủ đô, tăng thêm lực lượng bảo vệ các trận địa tên lửa. Tính đến ngày 21-12, lực lượng pháo cao xạ bảo vệ Hà Nội lên tới 7 trung đoàn.

Lực lượng được tăng cường, thế trận có sự điều chỉnh, trong các ngày đêm tiếp theo, lưới lửa phòng không ta tiếp tục đánh trả và bắn hạ nhiều máy bay Mỹ. Đêm 21 rạng ngày 22, trong vòng 4 phút, với 17 quả đạn, bộ đội tên lửa Hà Nội đã bắn rơi tại chỗ 3 chiếc B.52, bắt sống 8 giặc lái. Đêm 22 rạng ngày 23, Sư đoàn 363 bảo vệ thành phố Hải Phòng đã bắn cháy 2 chiếc B.52. Đêm 24, Trung đoàn 256 pháo cao xạ 100mm bảo vệ thành phố Thái Nguyên đã bắn rơi 1 chiếc B.5. Trong các ngày 23 và 24-12, các biên đội máy bay MIG-21 của ta xuất kích, bắn rơi 1 chiếc F-4. Tuy vậy, cho đến thời điểm này, máy bay của ta vẫn chưa tiếp cận được B.52 của địch. Phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng với bộ đội cao xạ, tên lửa và không quân, lực lượng dân quân tự vệ, với sự bố trí rộng khắp, vừa tổ chức trận địa phục kích đánh địch tại chỗ, vừa cơ động đánh địch đã tạo thành lưới lửa phòng không tầm thấp đón đánh kịp thời máy bay cường kích, bảo vệ trận địa tên lửa. Đêm 22-12, cụm súng máy 14,5mm của liên đội tự vệ khu Hoàn Kiếm và khu Hai Bà Trưng (Hà Nội) bắn rơi tại chỗ 1 chiếc F.111A của Mỹ bằng 21 viên đạn. Dân quân, tự vệ Lạc Sơn (Hòa Bình) kịp thời tổ chức lực lượng vây bắt hai tên giặc lái chiếc máy bay này và bắn rơi 1 máy bay lên thẳng đến cứu giặc lái.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 31 Tháng Giêng, 2011, 09:34:04 pm
Bị giáng trả quyết liệt, bị tổn thất nhiều máy bay và người lái, đặc biệt là máy bay B.52, ngày 25-12, nhân ngày lễ Nôen, địch tạm thời ngừng cuộc tập kích đường không để củng cố lực lượng, ổn định tinh thần, chuẩn bị cho những ngày tiếp theo.

Nhận định sau ngày 25-12, địch sẽ dùng lực lượng lớn đánh ồ ạt vào Hà Nội, Hải Phòng bằng các thủ đoạn tàn bạo và thâm độc hơn, Bộ Tổng tham mưu chỉ thị cho bộ tư lệnh các quân khu, Quân chủng Phòng không - Không quân tranh thủ lúc địch ngừng đánh phá, khẩn trương củng cố lực lượng, chuẩn bị mọi mặt, quyết giành toàn thắng cho chiến dịch. Ngày 25-12, Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân triệu tập các đồng chí chỉ huy binh chủng, sư đoàn và các cán bộ cơ quan rút kinh nghiệm chiến đấu trong đợt một, thống nhất một số biện pháp chính để các đơn vị chuẩn bị đợt chiến đấu thứ hai. Các tiểu đoàn tên lửa rút kinh nghiệm trong trận đánh cụ thể. Các trung đoàn không quân chú ý nghiên cứu đội hình bay của B.52, tìm cách phát hiện, tiếp cận để tiêu diệt chúng.

Lực lượng phòng không bảo vệ Hà Nội tiếp tục được tăng cường. Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân đưa thêm hai tiểu đoàn tên lửa dự bị (thuộc Trung đoàn 274) vào chiến đấu, tăng số đơn vị tên lửa bảo vệ Hà Nội từ 9 tiểu đoàn lúc đầu chiến dịch lên 13 tiểu đoàn. Các trận địa tên lửa đều có đại đội pháo cao xạ bảo vệ. Ở những trận địa xung yếu, lực lượng pháo cao xạ bảo vệ tăng lên 1 tiểu đoàn. Một số đại đội pháo cao xạ 37 mm di chuyển sâu và khu vực nội thành, chốt giữ các mục tiêu quan trọng. Các phân đội lắp ráp đạn tên lửa tổ chức thêm dây chuyển và làm việc liên tục cả ngày đêm để có thêm đạn cho bộ đội chiến đấu. Tên lửa dự trữ ở Quân khu 4 lúc này được gấp rút chuyển ra Hà Nội. Nhân dân các địa phương khẩn trương cùng bộ đội củng cố trận địa cũ, xây dựng thêm trận địa mới. Các đội khắc phục hậu quả nhanh chóng thu dọn, sơ tán kho tàng, sửa chữa đường vận tải… Cán bộ, nhân viên bưu điện, y tế, thương nghiệp đến tận các trận địa phục vụ bộ đội và nhân dân.

Hà Nội, Hải Phòng và các địa phương trên miền Bắc đã chuẩn bị thêm lực lượng và củng cố, điều chỉnh thế trận, sẵn sàng bước vào trận chiến đấu với niềm tin chiến thắng.

Sau 36 giờ ngừng hoạt động đánh phá nhân dịp lễ Nôen để củng cố lực lượng và thay đổi cách đánh, ngày 26-12, chiến dịch tập kích Hà Nội, Hải Phòng của không quân Mỹ tiếp tục. Ban ngày, máy bay cường kích đánh phá khu vực Đông Anh (Hà Nội), Hải Phòng, Thái Nguyên, sục tìm trận địa tên lửa và sân bay dã chiến của ta. Đêm 26-12, địch huy động 129 lần chiếc máy bay B.52 và hàng trăm lần chiếc máy bay chiến thuật ồ ạt tiến công Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên. Trong khi các tốp B.52 trút bom đạn xuống mục tiêu, máy bay F.111 lao vào đánh phá sân bay, F.4 và F.105 chế áp mạnh các trận địa tên lửa phòng không của ta.

Dồn lực lượng đánh đòn quyết định, đế quốc Mỹ trút xuống Hà Nội một khối lượng lớn bom đạn, gây cho ta những thiệt hại nạng nề về người và của. Hơn 100 điểm của thành phố bị bom Mỹ đánh trúng. Hàng trăm người chết, hàng ngàn người bị thương. Các khu đông dân cư như phố Khâm Thiên, khu lao động Tương Mai, Mai Hương, Bệnh viện Bạch Mai… bị đánh phá có tính chất hủy diệt. Riêng phố Khâm Thiên, bom B.52 đã sát hại 300 người, phá sập 2.000 căn nhà. Tại Hải Phòng, 11 tiểu khu ở Hồng Bàng, Lê Chân và một số xã ngoại thành bị hàng ngàn quả bom B.52 rải thảm.

Bom đạn khốc liệt của kẻ thù không làm quân dân ta nao núng quyết tâm. Trên vùng trời Hà Nội, Hải Phòng, lưới lửa phòng không dày đặc đã giáng trả mạnh mẽ, quyết liệt và hiệu quả không lực Hoa Kỳ. Các chiến sĩ rađa đã phát sóng, lọc qua những lớp nhiễu dày dặc của địch, tìm bám mục tiêu B.52. Cá biên đội máy bay MIG xuất kích cản phá, gây rối đội hình máy bay hiểm trợ các tốp B.52. Từ các trận địa tên lửa, pháo cao xạ và súng máy cao xạ, hỏa lực tầm cao, tầm trung và tầm thấp của ta liên tục nhả đạn. Phía tây bắc Hà Nội, lúc 22 giờ 30 phút, các tiểu đoàn tên lửa 76, 57 và 88 sử dụng hỏa lực tập trung, đánh mạnh vào tốp B.52 đầu tiên lao vào, hạ 1 chiếc B.52 tại chỗ. Trên các hướng tây bắc, đông bắc và tây - tây bắc, tên lửa của các tiểu đoàn 78, 79, 88, 87, 57 và 94 bắn hạ 2 chiếc B.52. Ở Hải Phòng. Lực lượng tên lửa bắn rơi 2 chiếc B.52.

Suốt hơn một giờ kiên cường đánh trả mãnh liệt, quân và dân Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên đã hạ 18 máy bay, trong đó có 8 chiếc B.52, bắt sống một số giặc lái.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 31 Tháng Giêng, 2011, 09:35:09 pm
Những đêm tiếp theo, số phi vụ hoạt động của B.52 sụt hẳn, mỗi đêm chúng chỉ cho từ 50 đến 60 lần chiếc cất cánh. Đêm 27-12, địch huy động 54 lần chiếc. Đêm 28, ngoài một số phi vụ đánh xuống Hà Nội, B.52 tản ra đánh các mục tiêu ở Vĩnh Phủ, Đồng Mỏ, Quảng Bình. Đêm 29, chúng huy động 60 lần chiếc đánh vào Thái Nguyên, Đồng Mỏ (Lạng Sơn), Vĩnh Phú.

Kiên quyết tấn công địch, đêm 27-12, không quân ta xuất kích, đánh địch trên vùng tời Sơn La, bắn hạ 1 B.52. Cũng trong đêm 27, bộ đội tên lửa bảo vệ Hà Nội bắn hạ 4 máy bay B.52, trong đó Tiểu đoàn 72 tên lửa vừa cơ động từ Hải Phòng lên bắn rơi 1 chiếc.

Ngay 28-12, địch huy động máy bay chiến thuật đánh ngày và 60 lần chiếc B.52 đánh đêm. Các sân bay Nội Bài, Kép, Yên Bái, Gia Lâm bị địch công kích. Sở Chỉ huy Binh chủng Không quân bí mật cơ động máy bay MIG-21 vào Cẩm Thủy, sân bay dã chiến mới xây dựng nhưng đã bị địch đánh phá vào đêm 22-12 gây hỏng nặng. 21 giờ 41 phút ngày 28-12, đồng chí Vũ Xuân Thiều cất cánh từ sân bay Cẩm Thủy, bay men theo các triền núi hiểm trở, được sở chỉ huy đặt ở Thọ Xuân dẫn vòng ra phía sau đội hình B.52. Đến vùng trời Sơn La, Vũ Xuân Thiều phát hiện mục tiêu ở cự ly gần, bất ngờ tăng tốc, áp át mục tiêu, bắn rơi 1 chiếc b.52. Đồng chí đã hy sinh ngay sau khi hoàn thành nhiệm vụ.

Đêm 29-12, quân và dân miền Bắc bắn rơi thêm 1 chiếc B.52 và 1 chiếc F.4.

7 giờ sáng ngày 30-12-1972, Chính phủ Mỹ buộc phải đơn phương tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra và đề nghị ta nối lại đàm phán ở Pari.

Cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B.52 của đế quốc Mỹ diễn ra trong 12 ngày đêm từ 18 đến 29-12-1972. Trong 12 ngày đêm đó, Mỹ sử dụng 729 lần chiếc máy bay ném bom chiến lược B.52, gần 4.000 lần chiếc máy bay chiến thuật; rải xuống Hà Nội, Hải Phòng và một số mục tiêu phía bắc vĩ tuyến 20 một khối lượng bom đạn xấp xỉ 35.000 tấn chất nổ. Riêng Hà Nội, địch tập trung 444 lần chiếc B.52 (chiếm 60% tổng số lần/ chiếc) và hơn 1.000 lần chiếc máy bay chiến thuật đánh phá vào 830 điểm; hơn 1.000 lần đánh vào các điểm dân cư, kinh tế, giáo dục, văn hóa, xã hội ở khắp 4 khu phố và 4 huyện, trong đó có 39 khối phố nội thành, 3 thị trấn và 78 trong số 102 xã ngoại thành.

Dù vậy, cuộc tập kích chiến lược của đế quốc Mỹ bị quân và dân ta đập tan, những mục tiêu chủ yếu của cuộc tập kích chiến lược hoàn toàn thất bại, 81 máy bay hiện đại Mỹ trong đó có 34 máy bay B.52, 5 máy bay F.111 bị bắn rơi. Quân và dân Hà Nội lập công đầu, hạ 25 máy bay B.52, đa số là bắn rơi tại chỗ. Bộ đội tên lửa, lực lượng chủ yếu của chiến dịch bắn rơi 30 máy bay B.52 góp phần quyết định đánh thắng cuộc tập kích chiến lược đường không của địch. Lực lượng phòng không dân quân, tự vệ đã góp phần xứng đáng vào chiến công bắn rơi 11 máy bay chiến thuật hiện đại của Mỹ.

Đập tan cuộc tập kích chiến lược của không quân Mỹ trên vùng trời Hà Nội, Hải Phòng trong 12 ngày đêm cuối năm 1972, quân và dân miền Bắc đã chứng tỏ bản lính và trí tuệ Việt Nam. Đây là chiến dịch phòng không đạt tới mức tiêu diệt cao nhất trong cuộc chiến đấu bảo vệ miền Bắc cũng như trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta. Đây cũng là một chiến dịch đầu tiên trên thế giới tiêu diệt số lượng lớn máy bay chiến lược B.52 của đế quốc Mỹ, giáng cho không quân chiến lược Mỹ đòn nặng nề nhất trong lịch sử xâm lược của đế quốc Mỹ. Thất bại đó đã đập tan cố gắng cuối cùng của tập đoàn cầm quyền Mỹ hòng sử dụng sức mạnh hủy diệt để đàm phán trên thế mạnh.

Ngày 15-1-1973, Chính phủ Mỹ phải đơn phương tuyên bố chấm dứt hoàn toàn việc ném bom và mọi hành động chiến tranh khác chống nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai của át chủ bài trong lực lượng quân sự khổng lồ của Mỹ là không quân và hải quân mà đỉnh cao là cuộc tập kích chiến lược B.52 vào Hà Nội, Hải Phòng đã bị quân và dân ta đánh bại hoàn toàn. Trong thời gian ngắn (từ ngày 6-4-1972 đến ngày 15-1-1973), đế quốc Mỹ đã dội xuống miền Bắc một khối lượng bom đạn bằng khối lượng bom đạn ném xuống trong cả năm cao điểm trong chiến tranh phá hoại lần thứ nhất với chất lượng các loại vũ khí có sức phá hoại và sát thương lớn, thủ đoạn đánh phá hết sức tàn bạo và xảo quyệt. Khắc phục giân khổ, hy sinh, bằng trí tuệ và bản lĩnh của mình, quân và dân ta trên miền Bắc đã chiến thắng oanh liệt không quân và hải quân Mỹ. Trong cuộc chiến tranh phá hoại lần này, không quân và hải quân Mỹ bị tổn thất nặng nề: 735 máy bay hiện đại Mỹ trong đó có 61 máy bay B.52 và 10 máy bay F.111 bị bắn rơi; 135 tàu chiến bị bắn trúng và bắn cháy(1). Các mục tiêu chiến lược của địch trong cuộc chiến tranh này đều không thực hiện được, bao gồm trong đó mục tiêu ngăn chặn luồng tiếp tế từ ngoài vào miền Bắc và từ miền Bắc tới các mặt trận trên chiến trường miền Nam.


(1) Dẫn theo Ban Chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị: Chiến tranh cách mạng Việt Nam (1945-1975)…, Sđd, tr.565-567


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 31 Tháng Giêng, 2011, 09:37:08 pm
II - ĐẢM BẢO GIAO THÔNG, TĂNG SỨC CHI VIỆN
CHO CHIẾN TRƯỜNG

Đảm bảo giao thông vận tải trong cuộc chiến tranh phá hoại lần hai thực sự là cuộc đọ sức, đọ lực, đọ ý chí và trí tuệ giữa quân và dân miền Bắc với vũ khí tối tân và bộ máy lãnh đạo điều hành chiến tranh khổng lồ của Mỹ. Tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai, Mỹ đã sử dụng 51% số phi vụ của không quân oanh tạc dữ dội và các tuyến giao thông chiến lược, hệ thống kho tàng, bến bãi. Đồng thời, hải quân Mỹ thả hàng vạn quả thủy lôi, bom chờ nổ, bom từ trường xuống các cửa biển, lạc sông, hải cảng miền Bắc.
   
Trước sự đánh phá ồ ạt, dữ đội với những thủ đoạn và biện pháp luôn thay đổi, bằng các loại máy bay, vũ khí, khí tài thế hệ mới rất hiện đại của không quân, hải quân Mỹ, giao thông vận tải lại một lần nữa trở thành mặt trận nóng bỏng, nơi đấu trí, đấu lức quyết liệt giữa ta và địch. Những tháng đầu khi chiến tranh phá hoại lần thứ hai bắt đầu, việc thành công đánh trả, bảo vệ mục tiêu, chống bao vây phong tỏa, đảm bảo giao thông vận tải của quân và dân ta gặp muộn vàn thử thách khó khăn. Trên các tuyến đường bộ, đường sắt, đường sông ở nhiều địa phương miền Bác, đặc biệt ở vùng tuyến lửa Khu 4, bom đạn Mỹ ngày đêm dội xuống, gây nên sự ùn tắc ở nhiều khu vực. Trên tuyến vận tải đường biển, ở cảng Hải Phòng, tháng 5-1972, Mỹ đã rải hàng ngàn quả thủy lôi, bom từ trường; liên tục đánh phá bằng không quân và pháo kích khiến nhiều lúc cảng biển quan trọng này phải ngừng hoạt động, các tàu vận tải không vào được cảng. Trên các vùng ven biển thuộc Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Vĩnh Linh, hải quân Mỹ đánh phá gắt gao, các cảng biển, cửa sông thuộc tỉnh Nam Hà, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình và Cửa Việt mới giải phóng bị địch phong tỏa, hoàn toàn tắc nghẽn. Tình hình trên đây khiến cho tuyến vận tải ven biển vào phía nam bị cắt đứt hoàn toàn. Nhiều tuyến đường sông bị ngừng trệ. Hệ thống đường sắt và đường bộ bị đánh phá dữ dội, tuyến đường sắt Thanh Hóa - Vinh bị tê liệt. Các tuyến khác trên miền Bắc chỉ dùng được từng đoạn và cũng chỉ trong từng thời gian. Hầu hết các cầu lớn bị đánh sập như: cầu Long Biên, Việt Trì, Lai Vu, Phú Lương, Tam Bạc, Đò Lè, Hàm Rồng… Trong vòng mấy tháng, không quân Mỹ đã đánh 2.556 trận vào hệ thống đường bộ, đánh sập 189 cầu dài trên 40m, phá hàng chục cầu trên các tuyến đường sắt và 57 đầu máy, 1.902 toa xe các loại; 662 km đường dây thông tin dọc theo các tuyến đường sắt bị cắt đứt. Khối lượng vận chuyển đường sắt Hà Nội - Vinh giảm 5-6 lần. Vận chuyển gạo đến Quảng Bình trước đây bảo đảm 600 tấn/ngày nay chỉ còn mấy chục tấn/ngày. Tuyến vận tải phía bắc, nơi trực tiếp nhận hàng viện trợ từ ngoài vào bị bom đàn Mỹ tàn phá nặng nề. Nhiều nhà ga, cầu, bến cảng, các chân hàng, bị oanh tạc dữ dội… Trong khi đó, khâu bố trí dự phòng của ta theo kế hoạch đầu năm 1972 chưa đáp ứng được tình hình. Trên thực tế, những tháng đầu đánh phá của không quân, hải quân Mỹ, lực lượng, phương tiện dự phòng bố trí ở các tỉnh từ Nghệ An trở vào chỉ bằng 10% do với năm 1967; các tuyến phía bắc chưa chuẩn bị sẵn sàng về các mặt vật tư, lao động, phương tiện … để đảm bảo giao thông vận tải, nên khi bị địch đánh phá, việc cứu chữa cầu đường gặp khó khăn (các cầu đường sắt bị đánh phá phải mất từ 5 đến 15 ngày mới thông xe vì chưa lắp kịp các cầu tạm, cầu dự phòng, đường tánh). Lực lượng và phương tiện vận tải đường thủy để hỗ trợ đường sắt, để giải tỏa cảng Hải Phòng, để chuyển tải hàng nhập còn rất nhiều; xe cơ giới dự trữ mỏng, không đủ đáp ứng đòi hỏi của tình hình.

Trên tuyến vận tải chiến lược 559, cuộc chiến đấu diễn ra quyết liệt. Thực hiện mục tiêu ngăn chặn triệt để nguồn chi viện của hậu phương lớn, bóp nghẹt cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam, quân đội Sài Gòn mở nhiều cuộc càn quét bằng bộ binh dọc tuyến vận tải của ta đi qua. Máy bay chiến lược B.52 và máy bay chiến thuật ngay đêm dội bom, thả mìn, ngăn chặ các tuyến đường, phá hủy kho tàng, săn lùng các ôtô vận tải của ta. Lúc này, dọc các tuyến đường, máy bay AC.130E có khí tài phát hiện và tiêu diệt các mục tiêu bằng rốc két 40mm hoạt động suốt ngày đêm, dai dẳng bám theo và bắn hỏng nhiều đoàn xe ôtô của ta,

Đảm bảo giao thông vận tải trở thành nhiệm vụ số một của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta trên miền Bắc. Trên mặt trận quan trọng này, Trung ương Đảng đã đề ra nhiều biện pháp cấp bách nhằm phát triển lực lượng, củng cố tuyến vận tải chiến lược, kết hợp các phương thức vận tải đường bộ, đường sông, đường biển. Ngay từ đầu năm 1972, khi nhận định Mỹ có thể leo thang đánh phá miền Bắc lần thứ hai, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 20 đã đề ra nhiệm vụ cho công tác đảm bảo giao thông, chi viện chiến trường: “Tập trung chỉ đạo và tăng cường lực lượng, bảo đảm thực hiện kỳ được công tác chi viện vật chất cho mặt trận. Mở rộng và nâng cao các tuyến đường vận chuyển ra chiến trường, kể cả những tuyến đường ở hậu phương. Tiếp tục củng cố, xây dựng và bảo vệ hành lang chiến lược của ta, làm tốt công tác hậu cần chiến lược cũng như hậu cần chiến dịch”(1).


(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.33, tr.50.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 31 Tháng Giêng, 2011, 09:40:56 pm
Ngày 1-5-1972, Ban Bí thư ra chỉ thị Về tăng cường lãnh đạo những công tác trọng yếu trong tình hình mới, chỉ rõ: “Các ngành, các cấp phải tập trung sức phục vụ công tác trong tâm đột xuất là giao thông vận tải. Trong bất cứ tình huống nào, giao thông vận tải cũng phải bảo đảm chi vện cho tiền tuyến đồng thời cố gắng bảo đảm cho sản xuất và xây dựng. Ngành giao thông vận tải được cấp thêm nhân lực, vật tư, ngân sách; các ngành khác cần điều động cho Bộ Giao thông vận tải những cán bộ và công nhân kỹ thuật cần thiết nhưng Bộ Giao thông vận tải phải quản lý chặt chẽ, sử dụng lao động, vật tư một cách hợp lý và tiết kiệm, có hiệu quả tốt nhất”. Nhiệm vụ tiếp theo là “Phải đảm bảo tuyển quân tốt, bảo đảm tuyển thanh niên xung phong làm nòng cốt của giao thông vận tải”(1).

Báo cáo của Ban Bí thư và Thường vụ Hội đồng Chính phủ trình Bộ chính trị ngày 18-5-1972 nhận định: địch đã đánh phá ác liệt vào các đầu mỗi giao thông ở các tỉnh Liên khu 4 cũ và các tỉnh miền Bắc, các cầu lớn trên các tuyến giao thông quan trọng như Long Biên, Lai Vu, Phú Lương, sông Hóa, Cầu Bùng… đều bị hỏng, vận chuyển trên cắc tuyến đường sắt, đường goòng đều bị tắc. Chúng lại phong tỏa cảng Hải Phòng và các cảng trên miền Bắc gây thêm khó khăn cho việc chi viện tiền tuyến và cho nhiều mặt hoạt động kinh tế của miền Bắc. Tình hình vận chuyển trong những ngày đầu tháng 5 giảm sút nghiêm trọng; năng lực rút hàng đi bằng bằng đường sắt trên tuyến Hà Nội - Hải Phòng giảm sút, năng lực bốc xếp hàng nhập ngày càng giản, vận chuyển gạo đến Quảng Bình giảm sút, khu vực Hải Phòng ứ đọng trên 6 vạn tấn hàng nhập. Trước tình hình đó, Ban Bí thư và Thường vụ Hội đồng Chính phủ chủ trương: “Phải đặt công tác bảo đảm giao thông vận tải thành một công tác trung tâm đột xuất số một, là mạch máu của mọi hoạt động xã hội để phục vụ tiền tuyến và hậu phương”(2). Trong việc thực hiện công tác trung tâm đột xuất này, phương hướng chung là phải tập trung sức bảo vệ và đảm bảo giao thông trên các tuyến đường sắt, đường bộ mà trọng điểm là tuyến Hà Nội - Lạng Sơn, Hà Nội - Khu 4, Hà Nội - Hải Phòng, khu vực đầu mối giao thông Hà Nội, tăng cường vận tải đường sông và tích cực chống phá kế hoạch của địch phong tỏa đường biển.

Về đường sắt, trọng điểm là bảo vệ, bảo đảm giao thông các cầu lớn và các ga đầu mối, qua mỗi sông lớn cần có hai, ba biện pháp vượt sông, ngoài các công trình đã bố trí, cần đặc biệt chú trọng tăng cường các phương tiện vượt sông Hồng, sông Đuống, mỗi nơi cần có hai bến phà xe lửa và hai, ba bến phà cầu phao ôtô. Tăng cường hơn nữa tuyến Hà Nội - Hữu Nghị Quan, làm thêm cầu tạm ở Bắc Giang, Thị Cầu, sông Hóa, Kỳ Lừa, tăng cường tuyến phía nam, nhất là sửa chữa cầu chính và tăng cường phà xe lửa Hàm Rồng.

Về đường ôtô, phải giữ vững các trục chính, nhất là đường 1A, đường 5, đồng thời củng cố các tuyến vòng tránh, tuyến 1B, tuyến Gián Khẩu - Nho Quan - Thiệu Hóa - Bò Lăn - Tam Lệ để vận tải hàng nhập, hào vào phía nam và hỗ trợ chuyển tải cho đường sắt. Cần làm thêm cầu phao tôn và nhiều cầu phao luồng để kịp thời bảo đảm giao thông.

Về đường thủy, cần tổ chức tốt việc quan sát và rà phá bom mìn ở các luồng sông và luồng ven biển, nhất là luồng vào cảng Hải Phòng, sông Gianh, Bến thủy. Cố gắng giữ vững vận tải đường sông và tranh thủ vận tải ven biển, tăng cường lực lượng xếp giỡ cho các cảng sông, chuẩn bị sử dụng các bến dã chiến ở Tiên Kiêu, Đống Cao và các bến sông địa phương để phân tán bốc xếp, chuẩn bị phao tiêu trên các luồng sông tránh.

Về đường ống, để chủ động bảo đảm vận tải xăng dầu trong mọi tình huống, cần khẩn trương hoàn thành tuyến từ A.315 về Nhân Vực, củng cố tuyến T.70, đồng thời phải khẩn trương hoàn thành từng bước tuyến đường ống từ Lạng Sơn về đồng bằng.

Để chủ động đối phó với tình huống địch đánh phá đê điều gây ra ngập lụt, cần tranh thủ tạo chân hàng ở phía nam sông Hồng, sông Đáy để đưa vào Khu 4 và nghiên cứu ngay biện pháp bảo đảm giao thông mùa lũ.


(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.33, tr.258.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.33, tr.282.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 31 Tháng Giêng, 2011, 09:42:06 pm
Nói chung, yêu cầu bức thiết là phải tập trung vật tư, tập trung lao động cho công tác bảo đảm giao thông vận tải. Ủy ban Kế hoạch Nhà nước cùng với Bộ Giao thông vận tải tính toán lên phương án và báo cáo Thường vụ Hội đồng Chính phủ để quyết định việc ra lệnh huy động vật tư, nhân lực của các ngành nhằm bổ sung cấp tốc lực lượng cần thiết cho ngành giao thông vận tải như xe ôtô vận tải, lực lượng lao động, lái xe, vật tư làm cầu phao, canô, phà, phương tiện bốc dỡ, máy móc… Lực lượng bảo đảm giao thông vận tải phải đủ để đáp ứng cho các nhu cầu của các tuyến của miền Bắc và cho tất cả các tuyến thuộc vùng mới giải phóng Trị Thiên.

Cần huy động khả năng cơ khí của các ngành, các địa phương để tập trung súc sản xuất nhanh các loại phương tiện cho ngành giao thông vận tải.

Về vận tải, trước hết, cần bố trí lại các luồng vận tải hàng nhập, vận tải vào Khu 4, ưu tiên bảo đảm vận chuyển hàng quân sự, xăng dầu, lương thực và những loại hàng cấp thiết cho chiến đấu, các loại hàng chi viện cho vùng mới giải phóng, phục vụ cho bảo đảm giao thông, cho sản xuất và các loại hàng cần thiết cho đời sống nhân dân.

Căn cứ vào nhu cầu thực tế của cuộc kháng chiến và khả năng đáp ứng, ban bí thư Trung ương Đảng và Thường vụ Hội đồng Chính phủ cho rằng, tám tháng cuối năm 1972, nước ta sẽ nhập vào khoảng 1,6 đến 1,9 triệu tấn hàng gồm 28 vạn tấn hàng quân sự và 1,62 triệu tấn hàng dân sự.

Hàng dân sự gồm:

- Lương thực khoảng 50 vạn tấn.

- Xăng dầu: 30 đến 35 vạn tấn, gồm 16 đến 21 vạn tấn xăng, 10 vạn tấn dầu điêden.

- Ximăng 3 vạn tấn, kim khí 8 vạn tấn (Liên Xô 4 vạn tấn), máy móc thiết bị 6 vạn tấn (Liên Xô 2 vạn tấn), than mở 5 vạn tấn, phâm đạm urê 7 vạn tấn, Pyrít sắt 1,5 vạn tấn, các loại hàng hóa khác 9,5 vạn tấn

Trong điều kiện địch đánh phá, phong tỏa quyết liệt toàn bộ các thệ thống đường biển, đường bộ, đường sắt, đường sông vấn đề quan trọng là phảiỉ tìm nhiều biện pháp để đưa được số lượng hàng hóa trên đây từ ngoài vào nội địa; trong trường hợp xúa nhất, cũng phải bảo đảm đưa hàng về qua đường sắt Bằng Tường với mức 5.000 đến 5.500 tấn/ngày.

Tăng cường lực lượng cho nhiệm vụ đảm bảo giao thông được đặt ra cấp bách. Ban Bí thư và Thường vụ Hội đồng Chính phủ nêu rõ: Phải tăng cường lực lượng đảm bảo giao thông vận tải, đặc biệt chú trọng bổ sung lao động cho các tuyến phía bắc, nhất là tuyến Hà Nội - Hữu Nghị Quan, Hà Nội - Hải Phòng và tuyến Khu 4. Cho đến thời điểm này, ngành giao thông có 6 vạn người. Ban Bí thư và Thường vụ hội đồng Chính phủ chủ trương điều thêm khoảng 2 vạn để có đủ 8 vạn người, bằng 80% lực lượng bảo đảm giao thông trước đây; số 2 vạn điều thêm này sẽ lấy ở ngành xây dựng cơ bản của Bộ Kiến trúc (1,2 vạn), Bộ Cơ khí và Luyện kim (4.000), Bộ Điện và Than (2.000), các bộ khác (2.000 người), theo hình thức biệt phái từng đơn vị…

Đối với lực lượng vận tải, ngoài số lái xe, thợ sửa chữa đã điều đông theo yêu cầu trong tháng 4-1972, nay bổ sung thêm 4.000 người.

Cùng với nhiệm vụ về điều động nhân lực, báo cáo của Ban Bí thư và Thường vụ Hội đồng Chính phủ nhấn mạnh về sự tăng cường sự chỉ đạo của Nhà nước, đặc biệt ở các tuyến đường quan trọng, đầu mối giao thông quan trọng, các cơ sở kinh tế quan trọng, cần tăng cường thêm cán bộ.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 31 Tháng Giêng, 2011, 09:42:44 pm
Ngay từ cuối tháng 5-1972, các địa phương trên miền Bắc đã khẩn trương tăng cường lực lượng thanh niên xung phong, thành lập các đội thanh niên xung phong, các lực lượng về chuyên trách giao thông bổ sung cho ngành giao thông vận tải. Các lực lượng bảo đảm giao thông vận tải không chuyên, bao gồm các tổ, đội ứng trực và khắc phục hậu quả đánh phá địch, được triển khai rộng rãi trên khắp các địa phương miền Bắc. Trong vòng 1 tháng tuyển quân gấp rút, Trung ương Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam đã tuyển hơn 2 vạn thanh niên xung phong ở 8 tỉnh, thành phố: Vĩnh Phú, Hà Nội, Hải Phòng, Hải Hưng, Thái Bình, Hà Bắc, Nam Hà, Thanh Hóa để tăng cường cho lực lượng bảo đảm giao thông vận tải trên các tuyến, các trọng điểm giao thông miền Bắc và tuyến vận tải 559. Riêng Bộ Giao thông vận tải, theo quyết định 114/QĐTC, đã thành lập 5 đại đội thanh niên xung phong gồm 500 đội viên tham gia chiến dịch giải tỏa hàng hóa ở các “cảng cạn”, các bến sông ở những vùng trọng điểm. Tại nhiều địa phương đã hình thành lực lượng đảm bảo giao thông ba thứ quân: dân quân, công binh nhân dân và lực lượng chuyên trách về giao thông vận tải. Phong trào toàn dân tham gia công tác bảo đảm giao thông vận tải được phát động rộng rãi hầu hết các địa phương trên miền Bắc. Cùng với các lực lượng vận tải chuyên nghiệp, lực lượng vận tải của các quân chủng, binh chủng là lực lượng có trình độ kỹ thuật chuyên môn, có phương tiện chuyên dụng và có nguồn vật tư cần thiết để khắc phục. Đây là lực lượng nòng cốt, tập trung chủ yếu ở các tuyến đường, các khu vực, các địa bàn trọng yếu. Bên cạnh đó, các lực lượng bảo đảm giao thông vận tải không chuyên của dân quân, tự vệ được tăng cường khắp các địa phương, bao gồm các tổ, đội ứng trực và khắc phục hậu quả ở các tuyến giao thông, các bến vượt, các cầu nhỏ. Lực lượng này đảm nhận nhiệm vụ xử lý kịp thời những tình huống thông thường bằng các phương tiện và vật tư thô sơ huy động tại chỗ. Việc rà phá bom mìn của các tổ công binh, dân quân, tự vệ góp phần khơi thông nhanh chóng luồng lạch trên sông và các trục đường bộ. Tổ chức và kết hợp chặt chẽ hoạt động của lực lượng không chuyên rộng rãi và lực lượng chuyên nghiệp trên mặt trận giao thông vận tải là sự vận dụng sáng tạo và phát huy cao độ nghệ thuật chỉ đạo bảo đảm giao thông vận tải của chiến tranh nhân dân được tiến hành trong cuộc chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất (1965-1968). Trong chiến dịch leo thang đánh phá lần thứ hai của không quân và hải quân Mỹ, các mục tiêu giao thông vận tải trọng điểm ở miền Bắc đã bị đánh phá ác liệt, liên tục nhưng lực lượng bảo đảm giao thông đã kiên cường bám trụ, kịp thời khắc phục hậu quả, bảo đảm được sự thông suốt trên các tuyến giao thông chính phục vụ tiền tuyến, phục vụ sản xuất và ổn định đời sống nhân dân.

Trung ương Đảng giao cho quân đội phối hợp với Bộ Giao thông vận tải bảo đảm các tuyến giao thông chủ yếu gồm các tuyến vận chuyển từ Lạng Sơn và tuyến hành lang cửa khẩu, đường 1A, 1B, các địa bàn đầu mối giao thông, tham gia chống chiến dịch phong tỏa các cảng và đường biển, tuyến vận chuyển từ Thanh Hóa trở ra; tiếp tục bảo đảm tuyến vận tải 559. Trên các tuyến vận tải này, quân đội tổ chức lực lượng đánh địch, bảo vệ giao thông, rà phá bom mìn, chỉ huy bến phà, sửa chữa các cầu cống và các đoạn đường bị địch đánh phá. Lực lượng của Bộ Giao thông vận tải chịu trách nhiệm bảo dưỡng, sửa chữa thường xuyên, làm đường vòng tránh, mở thêm ngầm vượt, bến phà, cầu tránh, cầu tạm. Tại các cung đoạn, các tuyến đường, lực lượng công binh giao thông hỗn hợp được tổ chức thành những đơn vị tại chỗ để chỉ huy giao thông và ứng phó kịp thời ki địch đánh phá. Ngoài các lực lượng chuyên trách về bảo đảm giao thông, ở những địa phương có các trục đường bộ, đường sắt, đường sông đi ngang, nhân dân đã chủ động tích cực tham gia có hiệu quả vào công tác sửa chữa cầu đường, san lấp hố bom, làm đường vòng tránh và bến vượt, phân tán và vận chuyển hàng hóa qua những trọng điểm đánh phá bằng tất cả phương tiện sẵn có, kể cả những phương tiện thô sơ như xe đạp, xe cút kít, thuyền nan, gánh gồng… Ở các địa bàn đầu mối giao thông, bên cạnh lực lượng bảo đảm giao thông còn có các lực lượng tự vệ của ngành giao thông được trang bị vũ khí bộ binh và phòng không trực tiếp chiến đấu bảo vệ. Ngành đường sắt, ngoài các lực lượng tham gia vận tải, các lực lượng đầu máy, toa xe, bốc dỡ, bảo vệ, sửa chữa cầu, đường sắt… còn có các đội thông tin, lực lượng tự vệ đường sắt, công an đường sắt. Trong chiến tranh phá hoại lần thứ hai, nhiều đơn vị tự vệ bắn máy bay được thành lập ở các xí nghiệp, các nhà ga; súng máy phòng không 12,7mm được đặt trên nhiều đoàn tàu để tực tiếp đánh trả máy bay Mỹ trong khi vận chuyển. Trong chiến đấu, các đội tự vệ đường sắt đã tham gia bắn rơi hàng chục máy bay các loại, rà phá hàng ngàn quả bom nổ chậm, bom từ trường ở các trọng điểm.

Đối phó với chiến dịch phong tỏa của Mỹ, Trung ương Đảng, Chính phủ đã đề ra một loạt biện pháp khẩn cấp như điều chỉnh khối lượng hàng nhập khẩu bằng đưởng biển và đường sắt; mở thêm các cảng và các cửa khẩu nhập hàng; kết hợp các phương tiện vận tải đường bộ, đường ống, vận tải ven biển và đường sông. Lực lượng rà phá bom mìn được tổ chức rộng khắp mà nòng cốt là các đơn vị chuyên môn của Bộ Tư lệnh Hải quân, các đơn vị công binh của bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương, tự vệ cảng, tự vệ ngành vận tải sông biển, dân quân các xã ven sông, biển. Viện khoa học Việt Nam, Trường đại học Kỹ thuật quân sự, Trường đại học Bách khoa tham gia nghiên cứu nguyên lý nổ của các loại bom mìn, tìm cách rà phá, tháo gỡ có hiệu quả bằng các phương tiện, kể cả phương tiện thô sơ. Toàn miền Bắc được tổ chức thành 9 khu vực chống phong tỏa gồm: Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Hà, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Vĩnh Linh, trong đó, khu vực trọng điểm là Hải Phòng - Quảng Ninh.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 01 Tháng Hai, 2011, 06:53:29 pm
Cùng với việc hình thành và bổ sung các lực lượng bảo đảm giao thông, hệ thống chỉ huy, chỉ đạo của ngành được củng cố, bổ sung từ tỉnh xuống huyện, xã; các ty giao thông vận tải được tăng cường về cán bộ và lực lượng chuyên trách. Trên các tuyến giao thông, đặc biệt những tuyến giao thông huyết mạch, cơ cấu lực lượng, hệ thống tổ chức chỉ huy… cũng được sắp xếp, hiện toàn; các cung đoạn, các khu vực trọng điểm được xác định rõ và tăng cường thêm lực lượng, phương tiện đảm bảo. Để đảm bảo giao thông được thông suốt trong tình hình địch tăng cường đánh phá với cường độ ngày càng quyết liệt, ngành đường sắt phân chia khu vực phía bắc thành 4 đoạn quản lý (gọi tắt là H1, H2, H3, H4). Những đơn vị phụ trách các đoạn này chịu trách nhiệm đảm bảo giao thông thông suốt, trọng điểm là Lạng Sơn, Đồng Mỏ, Sông Hóa, Bắc Giang, Thị Cầu… Đoạn và Ban điều hòa giao thông vận tải Trung ương đều có trụ sở đặt tại Lạng Sơn. Lúc này, Lạng Sơn trở thành cảng cạn, là trung tâm tiếp nhận hàng hàng viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Khu vực phía nam gồm có 5 đoạn quản lý (từ V1 đến V5), chịu trách nhiệm chính ở các khu vực Vinh - Quán Hành, Cầu Giát, Hoàng Mai, Văn Trai, Khoa Trường, Khe Nước Lạnh, Thanh Hóa, Hàm Rồng, Đò Lèn, Nghĩa Trang, Cầu Ghềnh, Ninh Bình. Khu đầu mối phụ trách chung các mặt và trực tiếp chỉ đạo các nhóm còn lại. Từ Hà Nội đến Kép, Tổng cục Đường sắt tổ chức 3 đoạn. Các tuyến phía đông, phía tây vẫn giữ nguyên như cũ.

Từ tháng 5-1972, khi Mỹ phong tỏa cửa sông, vùng ven biển và cảng Hải Phòng, Đảng, Chính phủ đã quyết định “lật cánh vận tải”, biến các ga đường sắt trên tuyến đường Hà Nội - Hữu Nghị Quan thành cảng nổi. Những cảng này có nhiệm vụ tiếp nhận toàn bộ hàng viện trợ và hàng nhập. Đây là tuyến đường chiến lược tập trung vận chuyển hàng từ phía bắc tới chiến trường. Do vậy, để bảo đảm vận chuyển tối đa, chi trong một thời gian ngắn, ngành đường sắt đã xây dựng xong 5 ga hóa vận với đầy đủ kho chứa, ke, đường ga và lực lượng bốc xếp; đó là những ga: Đồng Đăng, Lạng Sơn, Đồng Mỏ, Kép, Bắc Giang.

Đường bộ là tuyến quan trọng đảm bảo giao thông vận tải chi viện chiến trường. Trong điều kiện địch đánh phá gay gắt, vận tải đường bộ thực sự đóng vai trò to lớn, hỗ trợ đắc lực và thay thế cho các phương thức vận tải khác. Lúc này, mạng lưới giao thông đường bộ miền Bắc mở thêm nhiều cửa khẩu, thông xe từ Trung Quốc sang. Đó thực sự là những cảng cạn đảm bảo tiếp nhận nguồn hàng nhập, hàng viện trợ. Cục Vận tải đường bộ đã bố trí 3 xí nghiệp 6, 10 và 18 gồm 1.000 xe rút hàng ở các cảng cạn. Xí nghiệp 10 chạy đường 1B từ Điềm He, Tu Đồn (Lạng Sơn) về Thái Nguyên. Xí nghiệp 6 và 18 chạy đường 1A từ Đồng Mỏ (Lạng Sơn) về Bắc Giang, Hà Nội. Trước đòi hỏi của tình hình và nhiệm vụ mới, từ tháng 4 đến tháng 10-1972, Cục Vận tải đường bộ đã thành lập thêm 4 xí nghiệp 20, 22, 24 và 26; mỗi xí nghiệp có 200 đến 300 xe. Bảy xí nghiệp vận tải cũ được bổ sung thêm quân số và phương tiện. Các xí nghiệp vận tải ôtô địa phương cũng được tăng cường cả về lực lượng và phương tiện. Các tuyến đường bộ thuộc Khu 4 như đường 15A, 21, 22; đường hữu nghị biên giới Lộc Bình, An Châu; đường 1B được củng cố, sửa chữa và rải nhựa để bảo đảm xe hoạt động với lưu lượng lớn. Đường 72 đoạn Như Xuân - Bãi Chành được khai thông, nối với đường 15. Các cụm vượt sông Cầu, sông Mã, sông Lam, sông Gianh, sông Long Đại, từ tháng 6-1972, được tăng cường; kết hợp cơ giới với thô sơ chuyển tải qua sông nên khối lượng hàng hóa và xe ôtô vuột sông tăng lên khá nhanh. Đến tháng 10-1972, công tác chỉ huy giao thông vận tải từng tuyến, từng khu vực được giao cho các binh trạm của quân đội. Từ bờ bắc sông Gianh trở ra thuộc Tổng cục Hậu cần, từ nam sông Gianh trở vào thuộc Đoàn 559 bộ đội Trường Sơn.

Trên các tuyến miền núi các tỉnh Tây Bắc và các tuyến hậu phương, Cục Vận tải đường bộ có hai xí nghiệp 4 và 26, phối hợp với xí nghiệp địa phương cùng với các đoàn xe của các ngành, phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân; khi cần thiết được điều động đưa tiếp chân hàng vào Thành Hóa. Để tăng cường thêm lực lượng đảm bảo việc vận chuyển khối lượng hàng nhập từ ngoài vào, các binh trạm vận tải quân sự được thành lập trên dọc tuyến vận tải phía bắc vươn đến biên giới.

Khi đế quốc Mỹ ném bom trở lại và phong tỏa các cửa sông, cảng biển miền Bắc, Lạng Sơn trở thành cảng cạn thay thế cảng Hải Phòng. Từ bến cảng này, một phần hàng nhập được chuyển bằng đướng sắt xuống Bắc Giang, sau đó được chuyển vận theo đường sông; một khối lượng hàng nhập khác từ Bắc Giang được chuyển vận tới các bến Lục Nam, Tràng, Chũ rồi chuyển tiếp bằng đường sông Lục Nam. Như vậy, hai con sông Thương và Lục Nam thuộc tỉnh Bắc Giang trở nên quan trọng đặc biệt của ngành vận tải đường sông. Cũng vì vậy, Lục Đầu Giảng trở thành một trọng điểm đánh phá của địch. Đây là nơi hội tụ của sông Lục Nam, sông Thương, sông Cầu, rồi tỏa về sông Đuống qua Hà Nội, qua sông Thái Bình, sông Luộc, xuôi xuống các tỉnh Thái Bình, Nam Hà, Ninh Bình, nối với sông Lai Vu, sông Kinh Môn về Hải Hưng, Hỉa Phòng. Khắc phục sự đánh phá của máy bay Mỹ, tại các bến Lục Nam, Á Lữ, Tân Tiến (Bắc Giang), lực lượng vận tải Trung ương và các địa phương đẩy mạnh hoạt động, duy trì nhịp độ vận chuyển chi viện chiến trường và cung cấp cho các nhu cầu chiến đấu, sản xuất và đời sống ở miền Bắc. Tháng 5-1972, Chính phủ giao nhiệm vụ cho Bộ Giao thông vận tải tiếp nhận hàng chở bằng đường sắt từ Côn Minh (Trung Quốc) về Việt Nam. Từ Lào Cai, hàng được vận chuyển bằng đường sắt và đường sông; một số được vận chuyển theo đường bộ tới Hà Giang rồi đến Tuyên Quang. Hàng hóa được đưa qua cảng Tuyên Quang, theo đường sông về Hà Nội. trên sông Thao, Cục Đường sông sử dụng tàu tự hành 100 tấn có sức máy 150CV chuyển hàng từ Bảo Hà về Yên Bái. Tại vùng đồng bằng, các phương thức vận tải được liên vận, kết hợp giữa đường sắt, đường sông và đường bộ ở các bến cảng. Phương thức này góp phần quan trọng đảm bảo mạch máu giao thông không bị ngừng trệ trước sự đánh phá, ngăn chặn của máy bay Mỹ; đảm bảo sự chuyển vận từ phía bắc vào các tỉnh vùng tuyến lửa Khu 4…


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 01 Tháng Hai, 2011, 06:58:04 pm
Thủ đô Hà Nội là trung tâm đầu mối các tuyến đường giao thông thủy, bộ và đường sắt miền Bắc; là nơi tập trung một lượng lớn kho tàng, lại nằm trên địa bàn phức tạp phải vượt qua hai con sông lớn. Cùng với việc đảm bảo sản xuất, chiến đấu và sinh hoạt của gần 300 nhà máy cùng hàng chục vạn nhân dân Thủ đô, hàng vạn người cùng hàng vạn phương tiện qua lại mỗi ngày, việc bảo đảm giao thông trong tình hình đánh phá ác liệt của không quân Mỹ, do vậy, càng hết sức phức tạp và khó khăn. Để bảo đảm giao thông thông suốt, Trung ương Đảng chỉ thị cho Hà Nội và các ngành trung ương: “Dù trong tình hình nào, Hà Nội cũng phải bảo đảm giao thông vận tải. Hà Nội phải cố gắng giải quyết cho kỳ được những yêu cầu và giao thông vận tải của địa phương; bằng mọi cách, kể cả tổ chức đưa người vào Nghệ Tĩnh khai thác gỗ đóng thyền, đưa người khai thác luồng làm thuyền nan ở những nơi có luồng rồi vận chuyển về dùng. Các ngành ở Trung ương cần cố gắng giúp Hà Nội về vật tư, kỹ thuật, nhưng Hà Nội cần tự lực giải quyết là chính”.

Thực hiện chỉ thị của Trung ương Đảng, quyết tâm bảo đảm giao thông an toàn, thông suốt, liên tục, Thành ủy và Ủy ban hành chính thành phố đã đề ra nhiều chủ trương, biện pháp chủ động đối phó với địch, bảo vệ giao thông, giải quyết kịp thời hậu quả địch đánh phá. Lúc này, lực lượng công tác trong ngành giao thông vận tải được tăng cường, số công nhân, viên chức của ngành lên tới 1 vạn người và được biên chế thành các đại đội. Chỉ trong một thời gian ngắn, ngành giao thông vận tải Hà Nội cùng nhân dân thành phố đã xây dựng xong hệ thống đường vòng, đường tránh, các bến phà, cầu phao phụ, bảo đảm ượt sông thay thế cầu bị oanh tạc. Do chuẩn bị tốt nên khi địch đánh hỏng cầu Đuống, cầu Long Biên, ngành giao thông vận tải thành phố và nhân dân các vùng Đông Anh, Yên Viên, Gia Lâm, bằng tất cả các phương tiện, kể cả những phương tiện thô sơ, vẫn bảo đảm giao thông thông suốt. Các bến phà, cầu phao được huy động bảo đảm 3 đến 4 ngàn lượt xe và 4 đến 6 vạn lượt người qua sông mỗi ngày. Dưới bom đạn đánh phá gắt gao của kẻ thù, các lực lượng bảo đảm giao thông vẫn trụ bám đường, bám cầu, phà, bến và đã đào đắp hàng triệu mét khối đất đá, vận chuyển hàng vạn tấn nguyên liệu, nhanh chóng khắc phục hậu quả. Cá lực lượng công binh, dân quân, tự vệ rà phá hàng ngàn quả bom nổ chậm, bom từ trường, bảo đảm kịp thời vận chuyển cả trên bộ, trên sông. Hà Nội là nơi có nhiều chân hàng, kho hàng như Tổng kho Đức Giang, khu vực ga Yên Viên, Đông Anh, Văn Điển, cảng sông Hồng, Vĩnh Tuy… Ngoài việc tập trung giải tỏa nhanh hàng hóa, giảm bớt trữ lượng của các kho và ứng cứu khi bị địch đánh phá, ngành vận tải thành phố còn chở hàng chục ngàn tấn lương thực, hàng quốc phòng tới Khu 4 phục vụ tiền thuyến; sơ tán nhân dân ra khỏi khu vực nội thành, tham gia đảm bảo giao thông và chuyển tải qua Thủ đô. Từ cuối tháng 5-1972, ngành giao thông vận tải Hà Nội đảm nhận vận chuyển bằng ôtô một khối lượng lớn lương thực từ Đồng Đăng về Hà Nội. Tuyến đường sông qua cảng Hà Nội luôn duy trì lực lượng bốc xếp thủ công đủ sức bốc xếp hơn 2.000 tấn/ngày. Ngoài ra, ngành giao thông vận tải Thủ đô còn nhận chuyên chở thư, báo, công văn, bưu chính từ Hà Nội đi các tỉnh.

Hải Phòng là thành phố cảng lớn, có tầm quan trọng chiến lược. Đây là địa bàn có hệ thống giao thông thủy - bộ, có cảng biển lớn là đầu mối tiếp nhận viện trợ quốc tế, là một trong những căn cứ xuất phát của tuyến vận tải cả đường bộ và đường biển để chi viện cho chiến trường. Bởi vậy, Hải Phòng là mục tiêu chính trong âm mưu đánh phá bằng không quân và phong tỏa miền Bắc của đế quốc Mỹ. Mỹ thực hiện phong tỏa thành phố ngay từ đầu với số lượng bom mìn lớn, bằng các biện pháp triệt để. Nhận rõ vị trí và trách nhiệm của thành phố trong cuộc chiến đấu của cả nước, trong nhiệm vụ bảo đảm giao thông vận tải, Thành ủy Hải Phòng xác định: Giao thông vận tải là công tác trọng tâm số một của toàn đảng bộ, của quân và dân thành phố; dù khó khăn ác liệt đến đâu cũng cương quyết giữ vững mạch máu giao thông vận tải, bảo đảm kịp thời và đầy đủ những nhu cầu vật chất ngày càng lớn của chiến trường, của công cuộc chiến đấu, sản xuất, ở hậu phương.

Thực hiện nhiệm vụ của Trung ương Đảng, của Quân khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu Tả ngạn, Thành ủy và Ủy ban hành chính thành phố Hải Phòng đã kiên quyết tập trung lực lượng, phương tiện, thực hiện những biện pháp tích cực và sáng tạo nhằm rà phá bom, mìn, khơi thông luồng lạch; tổ chức chuyển tải ngoài biển, tìm luồng vận tải mới ở ven biển và trên các sông nội địa; triệt để khai thác các tuyến vận tải đường bộ; đướng sắt, nhưng vận tải đường thủy được xác định là phương thức chủ yếu để giữ vũng mạch máu giao thông. Quyết tâm của quân và dân Hải Phòng là trong bất kỳ tình huống nào, dù phải hy sinh tổn thất đến đâu cũng không để đường bộ bị tắc quá 24 giờ, đường thủy tắc quá 36 giờ. Ngay trong những ngày đầu tháng 5-1972, Tổng cục Đường biển và cảng Hải Phòng đã phối hợp khảo sát tuyến vận tải ven biển Hải Phòng - Quang Ninh - Bắc Hải (Trung Quốc) nhằm chuẩn bị luồng thay thế phòng khi luồn vào cửa nam Triệu bị phong tỏa. Từ sau ngày 9-5, cán bộ, công nhân cảng Hải Phòng khẩn trương xây dựng kho, trạm trung chuyển trên một số đảo ở Vịnh Hạ Long và quần đảo Cô Tô. Các đội bốc xếp hàng hóa và bảo đảm giao thông của cảng bố trí lực lượng từ phao số 0 vào đến cảng Vật Cách nay mở rộng đến phần cảng Lạng Sơn và 21 bến bãi mới. Trên thực tế, đã có hơn 1.000 công nhân được điều động đến hai phân cảng mới thành lập là Lạng Sơn và Quảng Ninh. Đội công binh cảng được tăng quân số lên đến 180 người, cùng với đội công binh của hải quân và các đội công binh nhân dân của một số xã, hình thành lực lượng làm nhiệm vụ rà phá bom mìn. Lực lượng vũ trang các địa phương cùng với lực lượng của ngành giao thông vận tải, Ty Bảo đảm hàng hải, dân quân, tự vệ ven biển tổ chức lại các tổ quan sát, các điểm quan sát, đảm bảo việc theo dõi, đánh dấu vị trí các bãi thủy lôi, bom mìn nổ chậm ở các cửa sông, vùng ven biển để kịp thời rà phá.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 01 Tháng Hai, 2011, 07:03:26 pm
Ngay từ những tháng đầu đánh phá, máy bay Mỹ tập trung vào toàn bộ hệ thống giao thông vận tải trên miền Bắc. Nhiều địa điểm chuyển hàng hóa, kho tàng, bến bãi; các bến Á Lữ, Tân Tiến (Bắc Giang), các cảng Nam Định, Hà Nội, Việt Trì, bị bom Mỹ oanh tạc dữ dội. Lục Đầu Giang, sông Đuống, sông Hồng cũng bị địch phong tỏa băng cá loại bom từ trường mới (MK42, MOD1, MOD2) có độ nổ nhạy và sức công phá lớn. Trên tuyến vận tải vào Nam, địch tập trung đánh phá vào các trọng điểm giao thông đường sắt và đường bộ. Từ tháng 6-1972, máy bay B.52 thường xuyên ném bom với quy mô và cường độ lớn, tập trung nhất vào khu vực Quảng Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An. Hải quân Mỹ tăng cường đánh phá vào các vùng ven biển và pháo kích lên lên bắc vĩ tuyến 20. Các đợt đánh phá của không quân, hải quân Mỹ kéo dài từ 5 đến 7 ngày; giữa đợt, chúng cho những tốp nhỏ từ 2 đến 4 lần chiếc đánh phá thường xuyên, liên tục. Việc khắc phục hậu quả đánh phá của quân và dân ta gặp nhiều khó khăn, công tác đảm bảo giao thông, công tác phòng tránh, công tác duy trì và giữ vững đời sống, sản xuất đứng trước những thách thức to lớn. Với quyết tâm bảo đảm giao thông thông suốt, đưa hàng kịp thời tới tiền tuyến lớn, lực lượng giao thông vận tải trên toàn miền Bắc khắc phục muôn vàn hi sinh, gian khổ, bằng nhiều biện pháp, hình thức và phương thức sáng tạo và hiệu quả, đã làm thất bại các hoạt động đánh phá, phong tỏa, bao vây, ngăn chặn của không quân, hải quân Mỹ, giữ vững mạch máu giao thông, đáp ứng kịp thời nhu cầu cho tiền tuyến và cho sản xuất chiến đấu ở miền Bắc. Các đội rà phá bom mìn của các địa phương làm việc suốt ngày đêm, khơi luồng, thông tuyến, mở lối an toàn cho thuyền và xe qua lại. Hàng chục vạn lao động mà nòng cốt là lực lượng ứng cứu giao thông của dân quân, tự vệ, các lực lượng xe máy chuyên môn của các ty giao thông, vượt qua sự đánh phá gắt gao, luôn có mặt và trụ bám trên mọi nẻo đường, nhất là ở các trọng điểm, để đảm bảo giao thông thông suốt, bảo đảm cho những đoàn xe vận tải đi về. Các bến phà được ghép thêm phà phụ, các cầu đường sắt xây dựng những cầu chìm trụ và đầm dẫn đặt chìm dưới nước. Nhiều tuyến đường xế, đường tránh được mở thêm; các tuyến đường liên hương được duy trì, củng cố, đảm bảo cho phương tiện thô sơ đêm ngày vận chuyển một khối lượng hàng vượt qua các trọng điểm.

Tại cảng biển Hải Phòng, các đơn vị công binh của Hải quân và Bộ Giao thông vận tải, Cục Đường biển, Cục Cơ khí Bộ Giao thông vận tải gấp rút nghiên cứu cấu tạo, tính năng các loại thủy lôi mới của địch để chế tạo vũ khí và máy phá bim mìn, thủy lợi. Giữa tháng 7-1972, thiết bị rà phá thủy lôi mới mang tên ĐB72 được sản xuất. Đồng thời, các phương tiện rà phá mới như máy phóng từ U80, xuồng phóng từ 311, tăngkít phóng từ… cũng kịp thời được thiết kế, sản xuất để đưa vào sử dụng. Phối hợp với các lực lượng hải quân, công binh, công an vũ trang, vận tải đường sông và nhân dân các địa phương ven sông, biển, ngành đường biển thiết lập 129 trạm quan sát thủy lôi cùng 213 trạm quan sát của lực lượng dân quân, tự vệ, hiệp đồng phát hiện, đánh dấu vào bản đồ để tiến hành phá hủy.

Trên tuyến Hải Phòng - Đông Bắc dài 400km, nhân viên các trạm quan sát thủy lôi kiên trì bám trụ, quan sát, đánh dấu, thông báo và hướng dẫn cho các tàu thuyền vận tải đi lại trên tuyến tránh. Từ tháng 7-1972, cuộc chiến chống phong tỏa được triển khai rộng khắp trên khắp các vùng biển miền Bắc. Lực lượng rà phá của ngành đường biển, phối hợp chặt chẽ với các lực lượng hải quân, lực lượng của các quân khu, các tỉnh, thành phố ven biển, thực hiện nhiệm vụ rà quét thủy lôi bằng những phương tiện và khí tài mới được trang bị. Trên luồng Đông Bắc, khi Chính phủ Cộng hòa nhân dân Trung Hoa viện trợ thêm cho ta 50 tàu VS, 8 xà lan, 4 tàu kéo biển, cán bộ và thủy thủ của ta đã tiếp nhận và nhanh chóng đưa vào sử dụng. Nhờ vậy, khối lượng hàng nhập từ Trung Quốc về Hải Phòng ngày một tăng.

Ngày 11-6-1972, Bộ Giao thông vận tải chỉ thị cho Cục Đường biển và cảng Hải Phòng tổ chức lực lượng bốc xếp hàng hóa ở cả hai phân cảng: phân cảng Lạng Sơn và phân cảng ven biển từ Hải Phòng đến Móng Cái. Thực hiện chỉ thị đó, cảng Hải Phòng chỉ để lại 400 công nhân, đưa 220 công nhân đi làm nhiệm vụ bốc xếp ở các bến sơ tán nằm rải rác ở khu vực Quảng Ninh. Gần 800 người gấp rút lên Lạng Sơn bốc xếp hàng quá cảnh. Đợt bốc dỡ đầu tiên tại cảng Lạng Sơn đạt mức 600.000 tấn; tại các cảng tuyến Đông Bắc bốc được 504.000 tấn. Cảng Hải Phòng huy động mọi lực lượng và phương tiện rút nhanh hàng tồn đọng trong kho bãi và trên 26 tàu nước ngoài với khối lượng tổng cộng 90.000 tấn. Đồng thời, để tiếp cận với các tàu nước ngoài bốc xếp hàng hóa ở ngoài khơi, lực lượng bốc dỡ, vận chuyển đã gấp rút củng cố các bến bốc xếp dã chiến A1, A3 ở các đảo và các bến H1, H2, H3. Các hang đá trên các đảo Bãi Chiêu, Vĩnh Thực được sửa chữa, cải tạo thành nơi trú ẩn và tập kết hàng. Ở các luồng ra vào cảng Bến Thủy, do không có cảng nước sâu, địch lại đánh phá hết sức ác liệt, tàu vận tải các ngành đường biển vận chuyển hàng từ Quảng Ninh - Hải Phòng không vào được. Trước khó khăn đó, các thủy thủ, thuyền viên Trung Quốc đã nhiệt tình giúp đỡ, chuyển hàng vào khu vực Hòn Ngư. Từ Hòn Ngư, lực lượng bốc xếp chuyển tiếp hàng vào bờ. Vùng biển quanh đảo Hòn Ngư và khu vực cửa Hội cũng như khu vực bờ biển phía bắc cửa Hội trở thành mục tiêu đánh phá ác liệt của không quân, hải quân Mỹ. Việc vận chuyển hàng từ đảo vào bờ vì thế trở nên rất khó khăn. Lúc đầu, hàng được chuyển bằng canô, xà lan, thuyền máy. Thế nhưng, trước sự đánh phá dữ dội của địch, phương tiện và phương tiện này trở nên không hiệu quả và bị thiệt hại nặng nề. Trước thực tế đó, ta chuyển sang dùng bè mảng nhỏ với người bơi làm sức đẩy, kết hợp dùng dây kéo hàng từ đảo vào bờ. Dù vậy, máy bay Mỹ vẫn bám theo đánh ráo riết. Không chịu bó tay, các đồng chí lãnh đạo và công nhân cảng Bến Thủy, được các thủy thủ Trung Quốc ủng hộ, hạ quyết tâm thực hiện phương án bốc xếp bằng cách bọc hàng vào túi nilông dán kín, lợi dụng con nước thủy triều hằng ngày thả trôi các túi gạo từ tàu Hồng Kỳ vào bờ. Tại bờ, ta tổ chức lực lượng đón nhặt, thu gom hàng và tổ chức chuyển vào nơi tập kết. Đảng bộ và nhân dân các xã vùng biển quanh cửa Hội, cùng các cán bộ chiến sĩ đảo Hòn Ngư, đặc biệt là các xã Nghi Hương, Nghi Hải, Nghi Hoa, Nghi Thủy, Nghi Hội, Nghi Tân, Nghi Thiết (huyện Nghi Lộc) và các xã Xuân Trường, Xuân Hải, Xuân Dân (huyện Nghi Xuân) không nề nguy hiểm do máy bay, tàu chiến với đủ loại bom đạn của Mỹ ngày đêm đánh phá, dũng cảm chuyển hàng từ ngoài vào bở, chắt chiu từng túi gạo, từng kiện hàng… Nhờ vậy, trong điều kiện đầy khó khăn, gian khổ, hiểm nguy, cảng Bến Thủy đã thực hiện thắng lợi nhiệm vụ tiếp nhận vận chuyển hàng hóa, giải phóng 12 tầu với nhiều tấn hàng.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 01 Tháng Hai, 2011, 07:09:12 pm
Áp dụng phương thức thả trôi hàng của các cảng biển Nghệ An, Hà Tĩnh, tại cảng Gianh, tuy địa thế không thuận lợi, nhưng 3 tàu Hồng Kỳ với 5.790 tấn hàng hóa đã được đưa vào cảng.

Thời gian này, Cục Xăng dầu khẩn trương xây dựng các tuyến đường ống T72 từ Đồng Đăng đến Hà Nội và tuyến đường ống 72b từ Móng Cái đến Bãi Cháy. Cả hai tuyến này nối thông với tuyến ống quốc gia B12, tăng thêm lượng xăng dầu cung cấp cho nhu cầu của cuộc chiến đấu ở chiến trường miền Nam và sản xuất, chiến đấu trên miền Bắc.

Tuyến vận tải 559 tiếp tục được tăng cường về người, trang bị, vũ khí Mùa khô năm 1971-1972, bộ đội Đoàn 559 cùng lực lượng thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến dồn sức mở thêm các tuyến đường vươn sâu xuống các mặt trận. Phục vụ cho cuộc tiến công chiến lược 1972, Bộ Tư lệnh Đoàn 559 tập trung trên 40 tiểu đoàn xe chuyển hàng ra mặt trận suốt ngày đêm. Đầu tháng 5-1972, bảy tiểu đoàn xe đưa hàng từ cửa khẩu thẳng vào chiến trường Nam Bộ và Tây Nguyên với một lượng bằng 6 tháng vận chuyển trước đó. 11 tiểu đoàn pháo kịp thời cơ động vào thực hiện nhiệm vụ bảo vệ các trục đường kín, bảo vệ đội hình xe vượt sông và bảo vệ vận chuyển ở các đoạn đường trống. Thời gian này, bộ đội gấp rút xây dựng thêm trục đường kín dài 800 km từ Na Tông (tỉnh Khăm Muộn) đế Tà Xẻng (tỉnh Atôpơ). Trục đường này luồn dưới tán cây rừng, đảm bảo cho đoàn xe vận tải cỡ trung đoàn chạy ban ngày, tránh sự lùng sục của máy bay AC 130 của Mỹ. Đây là tuyến đường vận chuyển với đội hình lớn, đi thắng xóa cung trạm, rút ngắn thời gian giao hàng, giao quân cho các chiến trường. Lực lượng công binh được huy động hầu hết vào công việc rải đá trên tuyến đường kín để tranh thủ chạy lấn mùa. Bộ Tổng tham mưu và Tổng cục Hậu cần kịp thời bổ sung cho tuyến 559 hơn 2.000 xe vận tải mới, đưa số đầu xe hoạt động trên tuyến chiến lược mùa khô 1971-1972 lên 8.000 xe. Đầu tháng 5-1972, Quân ủy Trung ương giao nhiệm vụ cho Bộ Tư lệnh Trường Sơn đảm nhiệm việc chi viện trực tiếp cho mặt trận đường số 9 - bắc Quảng Trị. Chấp hành chỉ thị đó, được các lực lượng vận tải của Tổng cục Hậu cần đảm bảo chân hàng, Binh trạm 12 và Bộ Tư lệnh khu vực 473 đã vận chuyển, bảo đảm cho mặt trận đường số 9 - bắc Quảng Trị hơn 8.200 tấn, chiến trường Trị - Thiên 3.700 tấn vận chuyển, tạo cơ sở cho bộ đội tiếp tục tiến công giữ vững vùng giải phóng Quảng Trị. Thực hiện nhiệm vụ do Tổng Tham trưởng giao, để đưa các đơn vị pháo 130 mm, xe và pháo cao xạ vào Khu 5 chiến đấu chia lửa với mặt trận Quảng Trị, Bộ Tư lệnh bộ đội Trường Sơn điều Trung đoàn 10 công binh mở gấp tuyến đường từ Khâm Đức đến Phước Sơn. Cuối tháng 6, trước việc địch mở cuộc phản kích tái chiếm thị xã Quảng Trị, nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ vùng giải phóng đặt ra cho quân và dân ta những yêu cầu rất lớn. Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, Hội đồng Chính phủ tập trung trí lực chỉ đạo, tháo gỡ khó khăn, bảo đảm nhịp độ chi viện khẩn cấp cho chiến trường. Hội đồng Chính phủ quyết định quân sự hóa toàn bộ hệ thống giao thông vận tải từ nam Hà Tĩnh vào Vĩnh Linh, giao cho Bộ Tư lệnh Trường Sơn thống nhất chỉ huy giao thông vận tải từ bắc sông Gianh vào đến tận hậu phương chiến dịch đường số 9 - bắc Quảng Trị; quyết định thành lập Ban Chỉ huy giao thông vận tải thống nhất gồm các đồng chí đại diện lãnh đạo Đảng bộ, chính quyền tỉnh Quảng Bình và đại diện Đảng ủy Bộ Tư lệnh khu vực 571. Ban Chỉ huy thống nhất có nhiệm vụ huy động sức người, sức của, quyết thắng địch trên mặt trận giao thông, bằng mọi giá đảm bảo vận chuyển vũ khí và hàng hóa vào tuyến chiến lược. Bộ Tư lệnh bộ đội Trường Sơn cấp tốc điều chỉnh thế trận, giao cho Bộ Tư lệnh khu vực hậu cứ 571 nhiệm vụ chỉ huy hiệp đồng chiến đấu, vận tải chiến dịch, tạo nguồn hàng cho tuyến chiến lược. Nhiệm vụ trước mắt lúc này là tuyên truyền giải tỏa hai trọng điểm phà sông Gianh và phà Long Đại. Bộ Tư lệnh khu vực đã huy động hai trung đoàn công binh mở đường vòng, đường tránh ở các điểm nằm trên khu vực đường 15 và đường số 1. Các đơn vị cao xạ của Quân chủng Phòng không - Không quân và Quân khu 4 phối thuộc đã dũng cảm, kiên cường đánh địch, bảo vệ hậu phương chiến dịch. Đoàn cũng quyết định giải thể Binh trạm 17, tăng cường Binh trạm 16; thành lập Trung đoàn ôtô 17 làm nhiệm vụ vận chuyển từ nam sông Gianh trở vào. Binh trạm 15 lúc này từ trong tuyến được điều ra đứng chân tại Thanh Lạng, chuẩn bị mở đường vận chuyển theo đường 12 xuống đường 9. Các hợp tác xã vận tải, hợp tác xã đánh cá của huyện Lệ Thủy, huyện Quảng Ninh, huyện Bố Trạch, huyện Quảng Trạch (Quảng Bình) được tổ chức thành các tiểu đoàn vận tải đường sông, hoạt động trên các dòng Kiến Giang, Long Đại, Son; lập chân hàng cho hai binh trạm cửa khẩu đường 16 và đường 20. Bộ Giao thông vận tải phối thuộc cho tuyến 559 Đoàn Vận tải số 8 gồm hơn 200 ôtô và đội xe của Công ty vận tải Quảng Bình. Cục Vận tải Tổng cục Hậu cần điều các đội canô của Đoàn Hồng Hà, trong đó có Đại đội 7 canô phóng từ tới làm nhiệm vụ mở luồng vận chuyển đến Mai Xá (bắc Cửa Việt)… Với những nỗ lực trên đây, trong chiến dịch vận chuyển mùa khô, tổng khối lượng hàng hóa giao cho các chiến trường và bảo đảm hành quân đạt 64.785 tấn, trong đó giao cho miền Đông Nam Bộ 5.150 tấn, Tây Nguyên 11.707 tấn, Trung - Hạ Lào 5.282 tấn và cho hành quân 11.120 tấn. Ngoài ra, trên các hướng, ta tạo được chân hàng dự trữ 9.000 tấn và vận chuyển đảm bảo cho nội bộ khoảng 80.000 tấn, bao gồm thiết bị vật tư ôtô, xe máy, xăng dầu, đường ống, vũ khí, đạn, thuốc quân y và hàng hóa phục vụ đời sống, sinh hoạt của bộ đội, thanh niên xung phong.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 01 Tháng Hai, 2011, 07:13:22 pm
Song song với việc thực hiện nhiệm vụ vận chuyển chiến lược, Đoàn 559 đã khai thác hàng tại chỗ ở khu vực đông bắc Campuchia được 15.483 tấn; xây dựng đường ống kéo dài tới Bạc, nhập được 25.692 tấn xăng; mở được 2.258 km đường kín - trong đó có 140 km ở cửa khẩu được rải đá; mở thêm 676km đường hở và khôi phục 7.500 km đường cũ với khoảng 5.560.172m3 đất đá, tạo được thế trận vận chuyển mới và do vậy, tăng cường năng lực đảm bảo giao thông trên tuyến. Bên cạnh lực lượng vận tải, các lực lượng phòng không, lực lượng bộ binh của Đoàn 559 đã chiến đấu quyết liệt, dũng cảm và mưu trí bảo vệ vững chắc các tuyến đường, các tuyến hành lang.

Đến cuối tháng 10-1972, với thắng lợi to lớn của quân dân trên chiến trường miền Nam và cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại làn thứ hai của đế quốc Mỹ trên vùng trời, vùng biển miền Bắc, cục diện chiến tranh đã có những thay đổi quan trọng. Ở miền Nam, vùng giải phóng mở rộng nối liền với hậu phương lớn miền Bắc. Bộ đội chủ lực đứng vững trên các địa bàn chiến lược, so sánh lực lượng trên chiến trường ngày càng có lợi cho ta. Tại Mỹ, cuộc bầu cử tổng thống nhiệm kỳ mới đã đến gần; những vấn đề về chiến tranh Việt Nam ngày càng tác động sâu sắc đến tình hình kinh tế, chính trị, xã hội nước Mỹ. Nhưng đế quốc Mỹ vẫn rất ngoan cố. Trước tình hình đó, ngày 12-10-1972, Ban Bí thư Trung ương Đảng gửi điện yêu cầu các địa phương và các ngành tăng cường công tác kiểm tra thêm và tăng cường hơn nữa việc bảo vệ giao thông vận tải, kho tàng, vật tư của Nhà nước và sinh mạng, tài sản của cán bộ, nhân dân: “Bằng mọi cách, chúng ta phải bảo đảm bằng được việc chi viện đầy đủ cho tiền tuyến, phải ráo riết hơn nữa đối với các việc che chắn, hầm hào, phòng không, sơ tán, không một chút nào thiếu trách nhiệm hoặc chểnh mảng thiếu cảnh giác để xẩy ra những tổn thất không đáng có”(1).

Giữa tháng 10-1972, trên cơ sở những thắng lợi quân sự to lớn ở chiến trường, Chính phủ ta đưa ra bản dự thảo Hiệp định về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam. Trong thế thất bại và khó khăn nội bộ to lớn, chính quyền Mỹ buộc phải thỏa thuận các điều khoản cơ bản do ta đưa ra trong bản dự thảo hiệp định. Ngày 22-10, Níchxơn ra lệnh ngừng ném bom từ vĩ tuyến 20 trở ra nhằm xoa dịu dư luận để hy vọng tải cử tổng thống nhiệm kỳ hai tháng 11-1972. Tranh thủ lúc đế quốc Mỹ ngừng ném bom, lực lượng bảo đảm giao thông vận tải trên toàn miền Bắc khẩn trương tổ chức lực lượng, nhanh chóng khôi phục cầu cống, đường sá; đồng thời làm thêm hoặc tu bổ các đoạn đường vòng, đường tránh, hệ thống kho hàng, lập các chân hàng mới. Hàng ngàn công nhân, thanh niên xung phong vẫn tiếp tục hoạt động trên các cảng, đảm bảo tiếp nhận, vận chuyển hàng. Lực lượng rà phá thủy lôi, bom mìn nổ chậm đẩy nhanh hoạt động rà phá, thông luồng. Tại bến cảng Hải Phòng, ngành đường biển tiếp tục thi công bến 11, kho 10, mở rộng cảng Chùa Vẽ, lập phương án đào kênh Cái Tráp thay thế luồng Nam Triệu…

Trong khi Mỹ tuyên bố ngừng ném bom từ vĩ tuyến 20 trở ra, chúng vẫn duy trì đánh phá quyết liệt tuyến giao thông vận tải từ Nghệ An trở vào, đặc biệt tập trung ngăn chặn dữ dội các trọng điểm giao thông như phà Bến Thủy, sông Giang, Long Đại, Quán Hầu, Linh Cảm. Trước tình hình đó, một bộ phận lực lượng phòng không của Quân chủng Phòng không - Không quân được điều vào tăng cường cho địa bàn các tỉnh vùng tuyến lửa Khu 4. Đồng thời, tháng 10-1972, Hội nghị giao thông vận tải các tỉnh Khu 4 được triệu tập. Lúc này, tuyến đường bộ 15A được Bộ Giao thông phụ trách được chuyển sang Bộ Quốc phòng và từ đây, tuyến đường này trở thành đường quân sự nằm trong hệ thống hành lang chiến lược bắt đầu từ km số 0 tại ngã ba Lạt (Tân Kỳ, Nghệ An). Tuyến đường sắt Hà Nội - Vinh được giao cho hai tỉnh Nghệ An và Thanh Hóa phối hợp với Tổng cục Đường sắt nhanh chóng khôi phục, trước mắt là đoạn Thanh Hóa - Vinh. Kể từ tháng 10-1972, tuyến đường ống bắt đầu thi công qua đoạn Nghệ An, Hà Tĩnh. Hội đồng Chính phủ giao các tỉnh này cung ứng nhân lực, phương tiện lắp đặt và bảo vệ công trình.


(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.33, tr.396.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 01 Tháng Hai, 2011, 07:19:51 pm
Những ngày cuối tháng 11-1972, trước thái độ lật lọng của phía Mỹ ở Hội nghị Pari, Quân ủy Trung ương ra chỉ thị tăng cường sẵn sàng chiến đấu, kiên quyết đánh bại các hành động phiêu lưu quân sự của Mỹ. Lực lượng phòng không ba thứ quân bảo vệ miền Bắc, lực lượng đảm bảo giao thông vận tải ở các đầu mối, các trục đường giao thông tiếp tục có sự điều chỉnh và tăng cường thêm quân số, phương tiện. Cơ quan Bộ Tổng tham mưu thường xuyên thông báo hoạt động của địch cho Bộ Giao thông và các cơ quan nhà nước có liên quan, đề xuất những kiến nghị bảo vệ, sơ tán các chân hàng, các kho tàng, nhất là ở các khu vực trọng điểm. Ngày 1-12-1972, Bộ Tổng tham mưu lệnh điều 100 quả đạn tên lửa vào Khu 4 để bảo đảm đánh địch liên tục giữ vững giao thông vận chuyển chiến lược. Đến giữa tháng 12, tình hình ngày càng khẩn trương. Ở Hà Nội, ngoài Sở Giao thông vận tải thành phố, Nhà nước thành lập Ban bảo đảm giao thông vận tải khu vực do đồng chí Đỗ Mười, Phó Thủ tướng Chính phủ làm Trưởng ban. Các bến phà qua sông Hồng ở khu vực Chương Dương, Khuyến Lương, Chèm và một số cầu phao, phà qua sông Đuống được gấp rút củng cố. Ngành đường sắt đã vận dụng thành tựu khoa học - kỹ thuật lắp ráp thành công phà và cầu phao vượt sông cho các đoàn tàu. Trên tuyến vận tải đường biển, ngày 16-12, lực lượng vận chuyển gắp rút giải phóng gọn 4.200 tấn gạo trong 22 giờ trên tàu Hồng Kỳ 155, dùng sà lan đưa về Hải Phòng. Từ ngày 17-12-1972, Mỹ tiếp tục thả thủy lôi hòng phong tỏa luồng ra vào cảng Hải Phòng, luồng lạch vào cảng Hòng Gai, luồng Hang Trống và cảng Cửa Ông… Những ngày cuối tháng 12-1972, cùng với việc mở cuộc tập kích đường không chiến lược vào Hà Nội, Hải Phòng, Mỹ tiếp tục thả thủy lôi và mìn từ trường trên các luồng sông, lạch, biển. Trong những ngày địch mở cuộc tập kích bằng máy bay B.52 vào Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố khác trên miền Bắc, mạch máu giao thông vẫn không ngừng trệ. Trên địa bàn Hà Nội, do tổ chức tốt việc vượt sông (sông Đuống có hai cầu phao và một cầu treo, sông Hồng có ba cầu phao và hai bến phà) nên mỗi ngày đêm, lưu lượng xe qua lại đạt tới 2.500 chuyến. Ở Hải Phòng, tất cả các cầu đều được giữ vững, bến phà Bính được tăng cường nhiều hơn so với trước. Việc chỉ huy, điêu hành, phân luồng phân tuyến trên các trọng điểm được tổ chức chặt chẽ, khắc phục có hiệu quả sự ùn tắc giao thông. Lúc này, lực lượng giao thông vận tải đường bộ của Hà Nội, Hải Phòng và một số tỉnh lân cận đã huy động tất cả các phương tiện sẵn có trong tay như xe ca, xe tải, xe con của Trung ương và địa phương vào việc phục vụ sơ tán đồng bào nội thành và chở vật tư trong kho Nhà nước ra khỏi thành phố. Bộ đội, thanh niên xung phong, dân quân, tự vệ và lực lượng giao thông vận tải tỉnh Thái Nguyên, ngay trong ngày 18-12, đã tập trung giải tỏa hàng hóa và lương thực tại hai chân hàng ga Lưu Xá và Quán Triều. Các ngày sau, khi may bay Mỹ rải thảm xuống khu vực phía bắc Thái Nguyên, việc giải tỏa lương thực, hàng hóa ở hai chân hàng này trở nên cấp bách. Sáng 23-12, Trưởng ban bảo đảm giao thông vận tải Trung ương chỉ thị Tỉnh ủy, Ủy ban hành chính tỉnh phải tổ chức ca, kíp, tập trung lực lượng, phương tiện để giải tỏa hàng hóa ở các kho, chân hàng nằm trong khu vực trọng điểm đánh phá của địch. Chấp hành chỉ thị đó, Ủy ban hành chính tỉnh Thái Nguyên quyết định tập trung lực lượng thanh niên xung phong và dân quân tự vệ khu vực thành phố Thái Nguyên và toàn bộ phương tiện vận tải của Ty Giao thông vào việc giải tỏa 19.923 tấn lương thực, hàng hóa đang tồn đọng ở hai chân hàng ga Lưu Xá và ga Quán Triều. Do vậy, khi địch đánh phá ác liệt vào các chân hàng này, các lực lượng giải tỏa vẫn kiên trì bám trụ, kịp thời giải tỏa, vận chuyển hết số lương thực, hàng hóa tồn đọng đến nơi an toàn. Trên tuyến giao thông Khu 4, trong 12 ngày đêm lực lượng không quân Mỹ tập trung đánh phá Hà Nội, Hải Phòng, ta đẩy nhanh tốc độ vận chuyển, huy động toàn bộ lực lượng, sử dụng nhiều loại phương tiện - cả hiện đại và thô sơ, mở các đợt vận tải ĐB1, ĐB2, đưa nhanh vào chiến trường một khối lượng lớn vật chất, kỹ thuật, góp phần đưa tổng khối lượng hàng vận chuyển vào chiến trường trong cả năm 1972 tăng hơn 27,5 vạn tấn so với năm 1968, năm có khối lượng hàng vận chuyển lớn nhất trong cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất.

Vừa đánh thắng không quân và hai Mỹ, giữ vững mạch máu giao thông vận tải, quân dân miền Bắc đồng thời vươn lên đáp ứng yêu cầu của tiền tuyến lớn miền Nam. Bị phong tỏa gắt gao, khối lượng hàng nhập vào miền Bắc bằng đường biển năm 1972 có giảm so với năm 1971, nhưng khối lượng bằng đường sắt và đường bộ tăng lên, do đó, cùng với khối lượng vận chuyển vận chuyển cho các đơn vị chiến đấu bảo vệ miền Bắc tăng 1,4 lần, khôi lượng vận chuyển vận chuyển cho các chiến trường miền Nam tăng 1,7 lần. Trong mưa bom, bão đạn, nhân dân miền Bắc đánh trả kiên cường không quân, hải quân Mỹ, duy trì và giữ vững sản xuất, ổn định được đời sống, đáp ứng đầy đủ, liên tục nhu cầu về người và vật chất ngày càng tăng của chiến trường miền Nam. Trong năm 1972, mức thu mua lương thực tăng 1,5 lần so với năm 1971, sản lượng thóc sản xuất được đưa vào lưu thông, tiêu thụ giữa các vùng năm 1972 là 6.348.000 tấn, tăng 11% so với năm 1970. Không tính số quân bảo vệ miền Bắc, làm nhiệm vụ dự bị chiến lược và chiến đấu, công tác trên tuyến vận tải 559, số quân từ miền Bắc vào chiến trường miền Nam năm 1972 là 152.974 người.

Trải qua gần 1 năm chống chiến tranh phá hoại, quân và dân ta trên miền Bắc đã kiên cường trong lửa đạn, đánh trả có hiệu quả máy bay, tàu chiến Mỹ; duy trì, giữ vững sản xuất và đời sống, làm thất bại âm mưu và hành động bao vây, phong tỏa của không quân, hải quân Mỹ, giữ vững mạch máu giao thông, tăng sức chi viện cho chiến trường. Đánh thắng chiến tranh phá hoại lần thứ hai, hành quân lớn miền Bắc góp phần to lớn cùng quân dân ta trên chiến trường miền Nam đập tan những cố gắng quân sự cao nhất của Oasinhtơn, tạo ra và củng cố lợi thế để trên bàn đàm phán ở Pari, ta tiếp tục duy trì đẩy mạnh thế tiến công, làm thất bại các thủ đoạn ngoại giao thâm độc và xảo quyệt của Mỹ.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 01 Tháng Hai, 2011, 07:25:12 pm
III - TIẾP TỤC ĐẨY MẠNH ĐẤU TRANH NGOẠI GIAO,
HIỆP ĐỊNH PARI ĐƯỢC KÝ KẾT

Bước sang năm 1972, cuộc đấu tranh rên mặt trận ngoại giao giữa ta và địch tiếp tục diễn ra căng thẳng, quyết liệt do âm mưu và thủ đoạn quân sự, chính trị ngoại giao xảo quyệt, độc ác mà chính quyền Níchxơn thực hiện hòng tạo sức ép tối đa buộc Việt Nam chấp nhận kết thúc chiến tranh theo yêu cầu của Mỹ đặt ra trong năm vận động tranh cử tổng thống nhiệm kỳ mới ở Mỹ.

Trên cơ sở lường định rằng quan hệ với Trung Quốc bước đầu được khai thông, quan hệ với Liên Xô phát triển thuận lợi(1), ngày 5-1-1972, Níchxơn quyết định ra tranh cử tổng thống nhiệm kỳ thứ hai. Cùng với quyết định này, Níchxơn còn tính đến các biện pháp hành động có lợi cho cuộc vận động tranh cử của ông ta. Ngày 25-1-1972, R. Níchxơn công bố nội dung các cuộc gặp riêng giữa Việt Nam dân chủ cộng hòa và Hoa Kỳ từ năm 1969 đến năm 1972, đặc biệt là đưa ra công khai các đề nghị của phía Mỹ trong hai ngày 31-5 và ngày 11-10-1971(2), cả những đề nghị mới.

Đồng thời, tại Pari, phía Mỹ giử công hàm tới đoàn Việt Nam, cho rằng, việc làm trên đây của Hoa Kỳ là “rất miễn cưỡng” và đề nghị nối lại các cuộc thương lượng bí mật giữa hai bên. Đợt tiến công ngoại giao này của chính quyền Mỹ nhằm mục đích:

Thứ nhất, chứng minh cho nhân dân Mỹ và dư luận thế giới biết rằng Mỹ có thiện chí rất cao, đã làm mọi cách để tìm kiếm giải pháp thương lương, đã rút gần nửa triệu quân Mỹ về nước, muốn chấm dứt dính líu quân sự và chiến tranh, đổ trách nhiệm cho Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Thứ hai, ngăn chặn Việt Nam đẩy mạnh các hoạt động ở miền Nam, tạo thuận lợi cho chuyến đi Trung Quốc và Liên Xô của Níchxơn.

Thứ ba, trực tiếp phục vụ cho chiến dịch bầu cử ở Mỹ.

Trước hành động đó, để cho nhân dân Mỹ và thế giới hiểu rõ hơn, ngày 31-1-1972, Đoàn Việt Nam dân chủ cộng hòa công bố giải pháp 9 điểm đã trao cho Kítxinhgiơ ngày 26-6-1971, đồng thời vạch rõ hành động lật lọng của phía Mỹ, trong việc vi phạm các thỏa thuận giữa hai bên về không công bố nội dung trong các cuộc họp riêng theo đề nghị của chính Kítxinhgiơ. Việt Nam cũng công bố cho các nhà báo, những công hàm đã trao đổi giữa hai bên về cuộc gặp ngày 20-11-1971. Tiếp đó, ngày 2-2-1972, tại Hội nghị bốn bên, để tăng sức ép với phía Mỹ, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đưa ra tại diễn đàn Hội nghị Pari “Hai điểm nói rõ thêm” nhằm làm rõ hai vến đề then chốt trong lập trường 7 điểm ngày 1-1-1971. Cụ thể: Về quân sự, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đòi Mỹ định ra một thời hạn dứt khoát cho việc rút hết quân Mỹ và đồng minh của Mỹ ra khỏi miền Nam, đồng thời đòi Mỹ chấm dứt chiến tranh bằng không quân ở cả hai miền Việt Nam. Thời hạn rút quân sẽ là thơi hạn trao trả hết tù binh của các phía (kể cả phi công Mỹ bị bắt ở Bắc Việt Nam). Về chính trị, Thiệu phải từ chức ngay và chính quyền Sài Gòn phải chấm dứt chiến tranh hiếu chiến, thủ tiêu bộ máy kìm kẹp, khủng bố nhân dân, chấm dứt chính sách bình định, giải tán các trại tập trung, trả lại tự do cho những người bị bắt vì lý do chính trị, bảo đảm các quyền tự do dân chủ cho nhân dân như Hiệp định Giơnevơ 1954 đã quy định.


(1) Tháng 7-1971, Trung Quốc và Mỹ chính thức thỏa thuận chuyến viếng thăm Bắc Kinh của Tổng thống Mỹ Níchxơn dự định vào tháng 2-1972. tiếp đó, tháng 10-1972, Liên Xô và Mỹ cũng đạt được thỏa thuận: Níchxơn sẽ thăm Mátxcơva vào tháng 5-1972. Theo Gabrien Côncô, rõ ràng điều mà cả Trung Quốc lẫn Liên Xô làm, đã bảo đảm cho việc Níchxơn được bầu lại và gạt bỏ nhiều thúc ép chính trị nội bộ về chính sách Việt Nam của ông ta. Nhưng dù ngoại giao tam giác có mức độ khiêm tốn như thế nào, nó cũng đầy được sức nặng ngoại giao trở về phía Việt Nam dân chủ cộng hòa (Xem G.Côncô: Giải phẫu một cuộc chiến tranh,… Sđd, tr.97)
(2) Ngày 31-5-1972, Kítxinhgiơ đưa ra Chương trình 7 điều, tách vấn đề quân sự ra khỏi chính trị, nhằm mục đích tìm cách rút quân, lấy được tủ binh và ngừng bắn những vẫn duy trì và củng củng cố được chính quyền và quân đội Sài Gòn. Tiếp đó, ngày 11-10-1971, phía Mỹ đưa ra Đề nghị 8 điểm và cho đây là giải pháp toàn diện và là cố gắng cuối cùng để thương lượng nhằm tìm ra môt giải pháp công bằng cuối trước năm 1971. Tại đề nghị này, điểm mới là ở chỗ, ấn định về thời gian rút hết quân Mỹ được rút ngắn, dự kiến vào ngày 1-7-1972; đồng ý Thiệu sẽ từ chức trước khi diễn ra cuộc bầu cử tổng thống theo điều khoản của hiệp định sẽ được ký kết… Sở dĩ phía Mỹ có những nhượng bộ mới là bởi áp lực trong nước và trên thế giới ngày càng tăng, đòi chính quyền Níchxơn phải nhanh chóng ký kết hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Tuy nhiên, với những điểm mới đưa ra ngày 11-10-1971, phía Việt Nam cho rằng, chính quyền Níchxơn vẫn tỏ ra ngoan cố, âm mưu rút quân từng bước để thực hiện Việt Nam hóa chiến tranh, đồng thời duy trì một số quân vô thời hạn để làm con bài mặc cả.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 01 Tháng Hai, 2011, 07:30:09 pm
Những lý lẽ sắc sảo, hợp tình, hợp lý, đầy thiện chí cùng những chứng cứ cụ thể do đoàn ta đưa ra đã gây được tiếng vang lớn trong dự luận thế giới và dư luận Mỹ, làm thất bại một bước mưu đồ của phía Mỹ. Phong trào đấu tranh chống Mỹ lại tiếp tục dâng cao ở cả trong nước và trên thế giới.

Để thúc đẩy hơn tiến trình đàm phán, tạo thế mạnh trên bàn hội nghị, theo kế hoạch đã định, ngày 30-3-1972, quân và dân ta mở cuộc tổng tiến công xuân hè đánh địch trên các hướng Quảng Trị - Thừa Thiên, bắc Tây Nguyên, đồng bằng Khu 5 đến đồng bằng sông Cửu Long. Sau ba tháng liên tiếp tiến công địch, quân và dân Việt Nam đã giành được những thắng lợi to lớn, đập vỡ các tuyến phòng thủ vòng ngoài kiên cố nhất của Mỹ - ngụy ở đường 9 - Quảng Trị, ở bắc Tây Nguyên, ở tây bắc Sài Gòn. Ngày 24-4-1972 ta giải phóng vùng bắc Kon Tum và một số vùng thuộc Khu 5 và đồng bằng sông Cửu Long. Ngày 2-5-1972, địch buộc phải rút bỏ Quảng Trị trước sức tiến công mãnh liệt của ta. Tương quan so sánh lực lượng địch - ta trên chiến trường miền Nam có sự thay đổi hoàn toàn có lợi cho phía cách mạng. Chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh của Mỹ đứng trước nguy cơ thất bại hoàn toàn.

Đối phó với tình hình đó, ngày 6-4-1972, Níchxơn ra lệnh ném bom trở lại miền Bắc Việt Nam, kể cả Hà Nội, Hải Phòng; phong tỏa các cảng sông, cửa biển trên toàn miền Bắc. Những hành động đó của đế quốc Mỹ đã khiến cho đàm phán đi vào bế tắc, phong trào chống chiến tranh trên thế giới tiếp tục dân cao, đặc biệt là ở ngay trong lòng nước Mỹ.

Sáng suốt trong nhận định đánh giá tình hình và kịp thời đề ra chủ trương đấu tranh ngoại giao, ngày 17-4-1972, thay mặt Bộ Chính trị, hai đồng chí Lê Đức Thọ và Nguyễn Duy Trinh ở Hà Nội đã điện cho đồng chí Xuân Thủy khi đó đang ở Pari. Bức điện nêu rõ: “Việc Mỹ ném bom lại Hà Nội - Hải Phòng, đó là một bước leo thang rất nghiêm trong để cứu vãn tình thế đang suy sụp ở miền Nam và gây áp lực đối với ta. Hành động này không chứng tỏ chúng mạnh mà còn làm rõ thêm chỗ yếu nhưng liều lĩnh của Níchxơn. Bộ Chính trị đã thảo luận và quyết định tiến hành cuộc chiến đấu ở miền Nam như kế hoạch đã định và có kế hoạch mọi mặt đối phó với cuộc chiến tranh không quân, hải quân đối với miền Bắc để đánh bại Mỹ. Chúng càng thua ở miền Nam thì việc đánh phá miền Bắc sẽ ác liệt hơn.

Hiện nay, mặc dù Mỹ tăng cường đánh phá miền Bắc, ta vẫn chủ trương duy trì Hội nghị Pari. Nếu ta bỏ Hội nghị Pari thì không lợi vì Mỹ sẽ đổ trách nhiệm cho ta và sẽ vin vào cớ đó để đòi triệu tập hội nghị quốc tế về Việt Nam và Đông Dương. Trong hoàn cảnh Liên Xô và Trung Quốc đều hòa hoãn với Mỹ, họp hội nghị quốc tế để giải quyết sẽ bất lợi cho ta. Ta cần duy trì Hội nghị Pari để làm diễn đàn tuyên truyền có lợi cho ta và sau này trực tiếp giải quyết với Mỹ. Việc duy trì diễn đàn Pari không phải ta yếu mà chính là dùng diễn đàn này phối hợp với chiến trường để đấu tranh với Mỹ.

Cho nên hiện nay tại Pari ta vẫn đấu tranh vừa nên án Mỹ và đòi Mỹ chấm dứt ném bom bắn phá miền Bắc vừa đòi Mỹ họp lại Hội nghị Pari như thường lệ. Ta vạch rõ nếu Mỹ tiếp tục ném bom và đánh phá miền Bắc và tiếp tục ngừng không thời hạn Hội nghị Pari thì Mỹ phải hoàn toàn chịu trách nhiệm”
(1).

Chấp hành chủ trương đó, đoàn ta tại Pari đã chủ động liên tiếp đấu tranh khá gay gắt với đoàn Mỹ, lúc đầu xoay quanh việc ấn định ngày họp riêng giữa đồng chí Lê Đức Thọ và Xuân Thủy với Kítxinhgiơ do phía Mỹ đề nghị vào tháng 2-1972, sau đó là xung quanh việc ấn định ngày họp bí mật và họp lại công khai(2).

Ngày 15-43-1972, đoàn Việt Nam đã gửi công hàm cho phía Mỹ, nêu rõ quan điểm của ta:

- Hoa Kỳ đã gây ra cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, vi phạm Hiệp định Giơnevơ năm 1954 về Việt Nam.

- Hoa Kỳ đã cam kết chấm dứt hoàn toàn và không điều kiện việc ném bom bắn phá miền Bắc. Hành động của Hoa Kỳ đã vi phạm cam kết đó. Không có thỏa thuận ngầm nào khác cả.

- Hai bên đã thỏa thuận rằng các cuộc gặp riêng phải song song với phiên họp Hội nghị bốn bên và Việt Nam đề nghị họp công khai vào ngày 27-4- và họp bí mật vào ngày 6-5-1972.

Cuối cùng, phía Mỹ phải đồng ý nối lại cuộc đàm phán thỏa thuận với đoàn ta vào ngày 27-4 và gặp riêng vào ngày 2-5 năm đó.


(1) Dẫn theo Lưu Văn Lợi, Nguyễn Anh Vũ: Các cuộc thương lượng bí mật Lê Đức Thọ - Kítxinhgiơ tại Pari, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 1996, tr.202-203.
(2) Ngày 24-3-1972, Níchxơn tuyên bố hoãn vô thời hại các phiên họp công khai Hội nghị Pari Vì thế, đoàn Việt Nam đòi Mỹ phải mở lại phiên họp công khai thứ 146 tại phố Kléber để đổi lây việc Việt Nam chấp nhận nối lại các cuộc họp bí mật.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 01 Tháng Hai, 2011, 07:33:32 pm
Song song với việc trực tiếp gây sức ép với Việt Nam trên cả bàn đàm phán lẫn đẩy mạnh các hoạt động không quân chống phá miền Bắc, đế quốc Mỹ còn tăng cường quan hệ ngoại giao hòa hoãn với Trung Quốc và Liên Xô, hòng thông qua hai nước này cắt giảm viện trợ gây khó khăn cho cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam và thúc ép Việt Nam chấp nhận châm dứt chiến tranh theo điều kiện của Mỹ. Tổng thống Mỹ Níchxơn liên tiếp đi thăm Trung Quốc (tháng 2-1972) và Liên Xô (tháng 5-1972). Mỹ muốn tiếp tục lợi dụng hòa hoãn với Liên Xô và Trung Quốc để tác động đến vấn đề Việt Nam, lợi dụng chuyến đi thăm của Níchxơn để thúc đẩy vai trò trung gian của Liên Xô trong giải quyết vấn đề Việt Nam. Trước đó, đại sứ Liên Xô ở Hà Nội Sécbacốp đã liên tiếp gặp Thủ tướng Pham Văn Đồng (14-4), Nguyễn Duy Trinh (15-4), Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Lê Duẩn (17-4) để thông báo:

- Trong hội đàm với đại sứ Liên Xô Đôbrinin ở Oasinhtơn, Kítxinhgiơ đưa ra tín hiệu, theo đó nếu tại cuộc riêng ngay 24-4 sắp tới, phía Việt Nam muốn thảo luận nghiêm túc các con đường đi tới giải pháp thì Hoa Kỳ sẽ có thái độ tương tự; hi vọng cuộc họp đó có thể giúp cho quan điểm hai bên gần lại nhau mà không để cho cuộc thảo luận công khai làm băng giá những quan điểm đó, có thể là bước ngoặt trong tìm kiếm hòa bình. Nếu không như vậy thì bế tắc, cuộc xung đột quân sự vẫn tiếp diễn.

Việc Việt Nam dân chủ cộng hòa khước từ cuộc ngặp ngày 24-4, theo sự đánh giá của Mỹ là một bằng chứng Việt Nam dân chủ cộng hòa không muốn thương lượng nghiêm chỉnh và muốn đánh đổ thêm một tổng thống nữa của Mỹ. Do đó Níchxơn đã ra lệnh đánh phá khu vực Hà Nội, Hải Phòng. Song, Mỹ sẽ không đánh phá Hà Nội, Hải Phòng và các mục tiêu quân sự chiến lược quan trọng khác của Việt Nam dân chủ cộng hòa chừng nào còn đàm phán thông qua Liên Xô về việc tổ chức gặp bí mật.

Tiếp đó, ngày 25-4-1972, sau khi Kítxinhgiơ rời Mátxcơva, Catusép, Trưởng ban Đối ngoại Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô sang Hà Nội, thông báo những nét lớn về một giải pháp mà phía Mỹ đề xuất.

Theo đó, về quân sự: các bên xung đột sẽ giảm bạo lực để đi đến một giải pháp chính trị; Hoa Kỳ sẵn sàng rút hết quân Mỹ (cả căn cứ và nhân viên quân sự) trong một thời gian sau khi hai bên thỏa thuận về những nguyên tác của giải pháp. Song song với việc này, Việt Nam phải thả hết tù binh Mỹ. Hoa Kỳ sẵn sàng chấm dứt cung cấp vũ khí cho Sài Gòn nếu Việt Nam dân chủ cộng hòa cam kết không tranh thủ thêm vũ khí của đồng minh. Như vậy, Việt Nam dân chủ cộng hòa tiếp tục đấu tranh chống chính quyền Sài Gòn mà không có bất cứ sự can thiệp nào của bên ngoài. Hoa Kỳ sẵn sàng chấp nhận bất cứ kết cục nào của cuộc đấu tranh này.

Ngoài ra, cũng trong lĩnh vực quân sự, Hoa Kỳ sẵn sàng rút lui các lực lượng không quân, hải quân được tăng cường sau ngày 29-3-1972, nếu Việt Nam rút 6 sư đoàn mới đưa vào miền Nam sau ngày 39-3; Hoa kỳ sẵn sàng chấm dứt mọi hành động đánh phá miền Bắc nếu Việt Nam tôn trọng khu phi quân sự.

Về chính trị: Hai bên Hoa Kỳ và Việt Nam dân chủ cộng hòa tiếp tục giải quyết vấn đề quân sự trên cơ sở so sánh lực lượng thực tế ở miền Nam. Giữa điểm hai mà phía Việt Nam đưa ra về việc thành lập chính phủ gồm ba thành phần ở miền Nam Việt Nam cũng có sự tương ứng với điểm hai trong tám điểm của Hoa Kỳ. Việc thành lập bộ máy tuyển cử gồm ba thành phần và một tháng trước khi bầu cử chính phủ ba thành phần, Tổng thống và Phó Tổng thống chính quyền Sài Gòn sẽ từ chức. Phía Mỹ cho rằng, sự tương ứng đó là cơ sơ để có thể đi đến thỏa hiệp. Trong gặp riêng, phía Mỹ muốn Việt Nam cho biết tên người muốn đưa vào Chính phủ Sài Gòn. Phía Mỹ cũng nhấn mạnh rằng, Hoa Kỳ không sẵn sàng lật Thiệu một cách đơn giản; việc giải quyết các vấn đề chính trị ở miền Nam do người Việt Nam thực hiện và Mỹ sẵn sàng chấp nhận kết quả giải quyết này; Việt Nam dân chủ cộng hòa và Hoa Kỳ chỉ giải quyết các vấn đề về quân sự.

Về đàm phán, Hoa Kỳ muốn đàm phán nghiêm chỉnh đi đến kết quả cụ thể dù chỉ là tạm thời. Và trong cuộc gặp riêng ngày 2-5, Mỹ đề nghị hai bên sẽ ra tuyên bố sẽ có những cố gắng nghiêm chỉnh trong đàm phán để đi đến giải quyết vấn đề Việt Nam trong năm 1972. Trước và trong đàm phán sắp tới, hai bên giảm mức độ bạo lực, không đánh lớn. Để tạo không khí, Việt Nam tôn trọng khi phi quân sự, Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc, hai bên thả tù binh đã bị giam lâu - trên bốn năm.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 05 Tháng Hai, 2011, 06:01:45 pm
Ngoài việc chuyển cho ta toàn bộ đề nghị của phía Mỹ, Catusép còn thông báo quan điểm của phía Mỹ trong việc đưa ra đề xuất trên đây. Theo đó, Mỹ muốn phía Việt Nam biết rằng, Mỹ không cho phép kéo dài cuộc đàm phán trong năm bầu cử tổng thống; nếu phía Việt Nam không thỏa hiệp, Mỹ sẵn sàng mở rộng chiến tranh đối với miền Bắc Việt Nam, sẽ có biện pháp kiên quyết làm cho miền Bắc không còn tiềm lực quân sự, kinh tế để đánh lớn.

Mỹ kiên quyết rút ra khỏi chiến tranh với bất cứ giá nào, bất cứ biện pháp nào, bất chấp mọi áp lực quân sự đối với Mỹ.

Khẳng định lập trường của Việt Nam, trong buổi tiếp phái viên Liên Xô ngày 27-4, Thủ tướng Phạm Văn Đồng phê phán mạnh mẽ thái độ của Mỹ và nên rõ Việt Nam phải có những hành động quân sự đủ mạnh ở miền Nam để buộc Mỹ phải hiểu rằng Việt Nam hóa chiến tranh nhất định thất bại, chính quyền và quân đội Sài Gòn nhất định sẽ sụp đổ, không gì cứu được. Chỉ như thế, Mỹ mới chịu thương lượng với thái độ thực sự nghiêm chỉnh.

Mười giờ sáng ngày 2-5, tại Pari, cuộc gặp riêng lần thứ 13 giữa Lê Đức Thọ và Kítxinhgiơ bắt đầu. Cuộc gặp diễn ra căng thẳng và tiếp tục đi vào bế tắc. Nhận định về thực tế này, chúng ta cho rằng:

1 - Hiện nay, ta đang thắng lớn, nhưng chưa đến mức buộc Mỹ phải buông con bài Việt Nam và Đông Dương. Mỹ còn ra sức tăng cường lực lượng ở miền Nam và tăng cường đánh phá miền Bắc, ngăn chặn ta đánh Huế và Kon Tum… làm cho cuộc tiến công của ta chậm lại, tạo điều kiện cho Mỹ củng cố lại thế phòng ngự để làm chủ bài mặc cả với ta lúc họ buộc phải đi vào giải quyết.

Về ngoại giao, Mỹ mưu toan dùng Liên Xô, Trung Quốc để hạn chế thắng lợi của ta trên chiến trường và ép ta đi giải quyết sớm. Nhân việc Níchxơn đi Liên Xô, Mỹ dùng Liên Xô để hạn chế ta tiếp tục tiến công và để buộc ta phải giải quyết về quân sự cho Mỹ rút, còn vấn đề chính trị để cho các bên miền Nam tự giải quyết với nhau.

Giữa Mỹ và Liên Xô có sự mua bán và đổi chác về vấn đề Việt Nam. Không lại trừ từ nay đến khi Níchxơn đi Liên Xô, Kítxinhgiơ lại sang Mátxcơva một lần nữa (bí mật hoặc công khai) để ép Liên Xô về vấn đề Việt Nam hòng gỡ bớt khó khăn hiện nay của Mỹ. Ta cần cảnh giác với âm mưu phá hoại Hội nghị Pari và tạo ra các giải quyết vấn đề khác để giải quyết vấn đề Việt Nam, kể cả hội nghị quốc tế.

2 - Ta tiếp tục thực hiện ý đồ quân sự và chính trị trên chiến trường, có như vậy mới có cơ sở để đạt một giải pháp vững chắc, đề phòng và đánh trả tốt việc đánh phá miền Bắc.

Về gặp riêng, chúng ta chủ trương từ nay đến khi Níchxơn kết thúc chuyến đi Liên Xô, không gặp thêm một lần nào nữa mà chỉ gặp nhau khi Níchxơn đi Liên Xô. Nếu gặp riêng lúc này thì ta phải có gì mới và do đó lại tạo điều kiện cho Liên Xô làm trung gian và dùng vấn đề Việt Nam mua bán với Mỹ. Nếu Mỹ chủ động hẹn gặp, Lê Đức Thọ và Xuân Thủy tìm cách lùi đến sau khi Níchxơn đi Liên Xô xong mới gặp riêng”
(1).

Ngày 8-5, chưa đầy một tuần sau phiên gặp riêng giữa Lê Đức Thọ, Xuân Thủy với Kítxinhgiơ, Níchxơn tuyên bố tiến hành một bước leo thang mới, mở rộng quy mô đánh phá miền Bắc, kể cả bằng lực lượng không quân chiến lược, thả mìn cảng Hải Phòng cùng với các cửa sông, lạch trên vùng biển miền Bắc nước ta. Ngày 20-5-1972, Tổng thống Níchxơn lên đường sang Mátxcơ và và cho đó “là một trong những đòn ngoại giao lớn của mọi thời đại”(2), hy vọng dùng Liên Xô tác động đến Việt Nam.


(1) Dẫn theo Lưu Văn Lợi, Nguyễn Anh Vũ: Các cuộc thương lượng bí mật Lê Đức Thọ - Kítxinhgiơ tại Pari, Sđd, tr.440.
(2) Theo hồi ký của Níchxơn: Cũng cần phải nói thêm rằng, nhu cầu “cô lập Hà Nội”, tách Hà Nội khỏi đồng minh chiến lược là Liên Xô, Trung Quốc ngày càng chiếm cứ suy nghĩ của Níchxơn và Kítxinhgiơ. Trong một tuyên bố về sau liên quan tới việc đi thăm Mátxcơva của Níchxơn, Kítxinhgiơ cho rằng; “Bằng việc để cho cuộc họp cấp cao được tiếp tục, Mátxcơva đã giúp giảm bớt sự chống đối trong nước, làm cho chúng tôi được tự do hành động để bẻ gãy xương sống cuộc tiến công của Bắc Việt Nam” (Dẫn theo G. Côncô: Giải phẫu một cuộc chiến tranh, Tập 2, Sđd, tr.111). Ngay cả việc Mỹ dội bom xuống miền Bắc Việt Nam, kể cả việc gây thiệt hại cho tàu Liên Xô tại cảng Hải Phòng, nhưng Liên Xô vẫn quyết định đón Níchxơn tại Mátxcơva đã là một biểu hiện củng chố cho nhận định trên của Níchxơn và Kítxinhgiơ.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 05 Tháng Hai, 2011, 06:05:25 pm
Trước sự chuyển biến mau lẹ của tình hình do cục diện chung sau thắng lợi xuân hè 1972 của quân và dân ta trên khắp chiến trường miền Nam tạo ra và trong bối cảnh quốc tế mà ở đó, tư tưởng hòa hoãn giữa cá nước lớn đang được thúc đẩy, Đảng ta thấy rằng, khả năng kết thúc chiến tranh theo một giải pháp bảo đảm các yêu cầu của ta đang mở ra, cho phép ta “chuyển từ chiến lược chiến tranh sang chiến lược hòa bình”(1). Cuối tháng 6 đầu tháng 7-1972, Bộ Chính trị tổ chức cuộc họp để đánh giá toàn bộ diễn biến và xu hướng chuyển động của tình hình và đã đi đến quyết định: Phát huy thắng lợi trên chiến trường, khai thác khó khăn từ trong nội bộ Mỹ, buộc chính quyền Mỹ phải chấp nhận một giải pháp kết thúc chiến tranh, quân và dân ta giành một bước thắng lợi quan trọng, đạt mục tiêu “đánh cho Mỹ cút” để cách mạng tiếp tục chuyển sang giai đoạn đấu tranh mới - giai đoạn tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Về phương hướng lớn của giải pháp kết thúc chiến tranh, Bộ Chính trị đặc biệt lưu ý phải đạt được 4 mục tiêu: Hoa Kỳ tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam; Hoa Kỳ chấm dứt chiến tranh xâm lược, rút hết quân, chấm dứt dính líu quân sự, không can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam; Hoa Kỳ thừa nhận thực tế ở miền Nam Việt Nam có hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng kiểm soát và tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam; Hoa Kỳ phải bồi thường chiến tranh dưới hình thành đóng góp hàn gắn vết thương chiến tranh và xây dựng lại miền Bắc trên cơ sở giữ vững nguyên tắc đế quốc Mỹ phải rút hết quân, còn cách mạng Việt Nam thì giữ nguyên lực lượng chính trị và vũ trang ở miền Nam.

Quyết định trên đây của Bộ chính trị biểu thị sự kiên định trong chỉ đạo kháng chiến và nghệ thuật điều hành chiến tranh của Đảng ta.

Thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị, tại Pari, trong cuộc gặp riêng với Kítxinghơ ngày 19-7-1972, phía Việt Nam tỏ rõ quyết tâm và thiện chí của Việt Nam nhằm đi vào thỏa luận những vấn đề thực chất để tìm ra giải pháp chấm dứt chiến tranh. Tai cuộc gặp, phía Việt Nam một lần nữa khẳng định: việc tìm ra giải pháp hòa bình cho cuộc chiến phải là trực tiếp giữa Mỹ và Việt Nam; việc Mỹ toan tính những con đường khác và dùng thủ đoạn để ép Việt Nam chỉ là vô ích.

Trong cuộc gặp này, Kítxinhgiơ đưa ra Đề nghị 5 điểm mà ông ta gọi là một “cố gắng cuối cùng”(2). Về cơ bản, 5 điểm mà phái Mỹ đưa ra cũng chỉ tương tự như tuyên bố ngày 8-5-1972 của Níchxơn; có khác hơn là ở chỗ: Mỹ đồng ý một cuộc ngừng bắn tại chỗ, không “đòi quân miền Bắc” rút khỏi miền Nam, thả tù binh, song song với quá tình triệt thoái quân Mỹ(3).

Sau cuộc họp, đoàn Việt Nam nhận xét, chính sách của Mỹ mà Kítxinhgiưo đưa ra “có thể có ý nghĩa”; những đề xuất về giải pháp cụ thể “bớt ngoan cố hơn”; nhưng Mỹ vẫn bám giữ lập trường tách riêng vấn đề quân sự và chính trị. Về thực chất, âm mưu của Mỹ khi đưa ra các đề xuất này là vẫn buộc ta phải “nói chuyện” với chính quyền Thiệu; Mỹ chỉ cùng với ta giải quyết vấn đề quân sự để Mỹ rút được sự dính líu về quân sự của Mỹ và lấy được tù binh về nước, phục vụ cho cuộc vận động tranh cử ở Mỹ… Từ những đánh giá như thế, đoàn Việt Nam cho rằng, cuộc tiếp xúc ngày 19-7-1972 giúp ta tìm hiểu thêm được một phần ý đồ chiến lược của Mỹ tuy chưa hoàn toàn đầy đủ; đồng thời ta cũng làm cho phía Mỹ hiểu rõ chính sách chung và thái độ thiện chí của ta.

Vào lúc đó, so sánh tương quan lực lượng trên chiến trường vẫn tiếp tục chuyển biến có lợi cho ta; mâu thuẫn trong nội bộ nước Mỹ về vấn đề chiến tranh Việt Nam tiếp tục gia tăng, nhất là khi Đảng Cộng hòa đang tiến dần đến đại hội của Đảng này đã được ấn định vào ngày 24-4-1972… Trước tình hình đó, ta chủ trương trong tháng 8-1972, hướng chính của ta trong cuộc gặp riêng là đưa ra bàn những nguyên tắc lớn trên cơ sở những yêu cầu tối đa nhằm thăm dò ý đồ của Mỹ cũng buộc Mỹ phải di vào giải quyết các vấn đề đặt ra cho một hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam.


(1) Dẫn theo Lưu Văn Lợi, Nguyễn Anh Vũ: Các cuộc thương lượng bí mật Lê Đức Thọ - Kítxinhgiơ tại Pari, Sđd, tr.447.
(2) Năm điểm trong đề nghị mới của Mỹ:
1 - Ngừng bắn trên toàn cõi Đông Dương. Hoa Kỳ hợp tác gỡ min ở cảng và cửa sông miền Bắc.
2- Rút quân Mỹ và đồng minh trong 4 tháng với sự giám sát quốc tế.
3 - Trao trả tù binh và thường dân vô tội trong quá trình rút quân Mỹ.
4 - Giám sát quốc tế.
5 - Các nguyên tắc về thương lai chính trị nội bộ miền Nam.
(3) Trong đề nghị tháng 5-1972, Mỹ đòi thả tù binh trước khi rút quân Mỹ.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 05 Tháng Hai, 2011, 06:08:24 pm
Cuộc gặp riêng lần thứ 15 giữa ta và Mỹ diễn ra vào ngày 1-8-1972. Tại cuộc gặp, Kítxinhgiơ đưa ra kế hoạch mới gồm 12 điểm và khẳng định Mỹ đã đáp ứng mọi khía cạnh của đề nghị chính trị mà phái đoàn Việt Nam đề xuất trong lần gặp trước kia. Đồng thời, Kítxinhgiơ cũng ghi nhận việc Mỹ đồng ý giải quyết song song hai vấn đề quân sự và chính trị ở miền Nam Việt Nam.

Sau khi sơ bộ nhận xét rằng, đề nghị mới của Mỹ lần này tuy có vài điểm mới nhưng về cơ bản, lập trường của Mỹ về một giải pháp cho vấn đề Việt Nam vẫn chưa có sự thay đổi, đồng chí Lê Đức Thọ đưa ra kế hoạch mới 10 điểm của Việt Nam dân chủ cộng hòa. Theo đó, chúng ta đòi Mỹ phải rút quân trong vòng một tháng, lập chính phủ hòa hợp dân tộc ba thành phần - một chính phủ có đầy đủ quyền lực đối nội, đối ngoại, xóa bỏ hẳn hai chính quyền hiện có tại miền Nam. Chính phủ Mỹ phải có trách nhiệm đóng góp vào việc tái thiết hai miền Nam, Bắc Việt Nam. Tuy nhiên, trong đề nghị lần này, ta mềm dẻo hơn bằng cách không còn đòi hỏi Thiệu phải từ chức trước khi hiệp định được ký kết; thay vào đó, Thiệu phải từ chức sau khi ký kết hiệp định, mở đường cho việc thành lập chính phủ ba thành phần. Ngoài kế hoạch trên đây, ta cũng chủ động đưa ra cách thức đàm phán, dự định sẽ gồm 4 diễn đàn: diễn đàn giữa Việt Nam dân chủ cộng hòa và Hoa Kỳ, diễn đàn giữa Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam với chính quyền Việt Nam Cộng hòa; diễn đàn giữa Việt Nam dân chủ cộng hòa - Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền nam Việt Nam - Việt Nam Cộng hòa; diễn đàn bốn bên giữa Hoa Kỳ - Việt Nam Cộng hòa với Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Tại cuộc họp ngày 14-8-1972, sau khi nghe phía Mỹ trình bày kế hoạch mới mà họ đưa ra, đoàn Việt Nam đã chỉ rõ cho phía Mỹ thấy rằng, cho đến thời điểm hiện tại “so sánh lập trường của hai bên còn nhiều điểm khác xa nhau; vấn đề then chốt là vấn đề chính trị thì hai bên khác xa nhau lắm”(1). Đoàn Việt Nam cũng đã mạnh mẽ phê phán lập trường của phái đoàn Mỹ khi họ vẫn bám giữ nguyên câu duy tri trì chính quyền Sài Gòn, yêu cầu đưa việc thảo luận vấn đề quân đội miền Bắc vào diễn đàn ba bên giữa Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chính phủ Cách mạng lâm thời và chính quyền Sài Gòn - hàm ý đòi rút quân miền Bắc ra khỏi miền Nam; điều mà trong suốt 10 năm qua, lực lượng quân sự khổng lồ của Mỹ đã không sao làm được.

Nhìn chung, ba cuộc gặp riêng trên đây, Việt Nam đã từng bước vững vàng chủ động tiến công, giữ vững nguyên tắc nhưng mềm dẻo về sách lược. Phía Mỹ còn ngoan cố, lắm thủ đoạn ranh ma. Trong các cuộc tiếp xúc, cả hai bên vừa thăm dò vừa giữ vững nhưng quan điểm đưa ra. Những quan điểm khác biệt nhau, giờ đây, chủ yếu đều dần tập trung vào vấn đề chính trị - một trong hai vấn đề chủ chốt cho một giải pháp về cuộc chiến tranh giữa Mỹ và Việt Nam. Ba cuộc gặp riêng này diễn ra trong bối cảnh cuộc tiến công xuân hè của quân dân ta ở miền Nam giành được những thắng lợi to lớn có ý nghĩa chiến lược, giáng một đòn quyết liệt vào chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh. Thắng lợi đó kết hợp hiệu quả với đòn tiến công ngoại giao buộc Mỹ phải từng bước xuống thang chiến tranh, đi vào giải quyết thực chất vấn đề với ta. Tuy nhiên, Mỹ vẫn còn rất ngoan cố, hy vọng dùng các thủ đoạn ngoại giao hòa hoãn với Liên Xô và Trung Quốc kết hợp với đẩy mạnh các hoạt động quân sự bằng không quân với quy mô lớn, phong tỏa bờ biển miền Bắc Việt Nam sẽ làm cho Việt Nam không thể đánh lớn và kéo dài ở miền Nam quá 3 tháng, đồng thời tái chiếm được những vùng bị mất. Trong những điều kiện đó, ta chủ trương tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh trên mặt trận quân sự, chính trị ngoại giao và kết hợp chặt chẽ, nhịp nhàng ba mặt đấu tranh đó, nhằm tranh thủ khả năng buộc Mỹ phải ký kết hiệp định trước khi diễn ra bầu cử tổng thống nhiệm kỳ mới ở Mỹ, đồng thời sẵn sàng đối phó với tình thế cuộc chiến đấu tiếp tục kéo dài. Chính vì thế, để làm tăng khả năng giải quyết với Níchxơn trước tuyển cử ở Mỹ, chúng ta một mặt chuẩn bị phương án mềm dẻo hơn trong cuộc gặp sắp tới, mặt khác đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền đối ngoại nhằm làm cho dự luân ở Mỹ và trên thế giới thấy rõ thái độ ngoan cố trong đàm phán và các hành động mở rộng đánh phá bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc của chính quyền Mỹ là để thực hiện âm mưu kéo dài chiến tranh, không muốn giải quyết vấn đề kết thúc chiến tranh bằng thương lượng.


(1) Dẫn theo Lưu Văn Lợi, Nguyễn Anh Vũ: Các cuộc thương lượng bí mật Lê Đức Thọ - Kítxinhgiơ tại Pari, Sđd, tr.470.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 05 Tháng Hai, 2011, 06:10:25 pm
Ngày 11-9-1972, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ra tuyên bố tố cáo đế quốc Mỹ tiếp tục đẩy mạnh chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh ở miền Nam và đánh phá dã man các vùng trên miền Bắc, tố cáo chính quyền Sài Gòn hiếu chiến, đồng thời khẳng định tại miền Nam Việt Nam tồn tại hai chính quyền, hai quân đội, ba lực lượng chính trị, đòi thành lập một chính phủ hòa hợp dân tộc ba thành phần.

Tại Pari, đoàn Việt Nam đẩy mạnh các hoạt động tố cáo thái độ hiếu chiến của Mỹ và thiện chí của Việt Nam trong việc giải quyết các bất đồng tồn tại giữa hai bên.

Ở Hà Nội, ta tiếp đặc phái viên của ứng cử viên tổng thống Mỹ, Mắc Gavơn, đồng thời tuyên bố thả ba tù binh Mỹ nhân ngày quốc khánh 2-9.

Đối phó với ta, chính quyền Níchxơn tìm mọi thủ đoạn nhằm đánh lạc hướng xoa dịu dư luận thế giới và trong nước. Ngày 29-8-1972, Nhà Trắng tuyên bố rút thêm 12.000 quân nữa khỏi miền Nam. Ngày 31-8, sau chuyến đi Sài Gòn về, Níchxơn và Đại sứ Hoa Kỷ ở Sài Gòn Bâncơ gặp ở Pari. Tại cuộc gặp này, một số phương án của chính quyền Níchxơn được đem ra bàn bạc và quyết định, kể cả phương án Mỹ sẽ cắt đứt thương lượng.. Nhận xét về kết quả cuộc bàn luận này, Kítxinhgiơ trong hồi ký Những năm ở Nhà trắng viết: Cuối cùng “không đưa ra được một chiến lược nào khã dĩ làm đảo lộn một cách căn bản tương quan lực lượng ở Đông Dương nếu thương lượng thất bại”(1). Bên cạnh đó, để gia tăng sức ép với phía Việt Nam, Mỹ vẫn tìm cách tranh thủ sự ủng hộ của cả Liên Xô và Trung Quốc. Ngoài các cuộc gặp với đại diện hai nước ở Oasinhtơn, ngày 8-9, Kítxinhgiơ lại sang Mátxcơva trước khi gặp Lê Đức Thọ ở Pari.

Ngày 15-9-1972, hai bên Việt Nam và Mỹ bước vào cuộc gặp riêng lần thứ 17 trong bối cảnh Mỹ đang tích cực chuẩn bị cho bầu cử và quân đội Sài Gòn đã lấy lại được Thành cổ Quảng Trị. Tiếp tục thái độ ngoan cố, phía Mỹ đưa ra đề nghị mới gồm 10 điểm. Tại đề nghị mới này, chẳng những Mỹ không tôn trọng quyền thống nhất của Việt Nam mà còn nhấn mạnh Nam Việt Nam là một quốc gia riêng biệt, giữ Hiến pháp miền Nam, kéo dài thời gian lập quan hệ giữa hai miền và hạn chế quan hệ đó trong nhiều mặt chứ không phải một mặt như đề nghị quan hệ cũ. Về chính trị nội bộ miền Nam, Mỹ phủ nhận Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, kể cả với tư cách là một chính quyền địa phương; coi Mặt trận Dân tộc giải phóng chỉ là một lực lượng chính trị nhưng lại nằm trong khuôn khổ Hiến pháp Sài Gòn. Mặt khác, đề nghị mới của Mỹ còn nhấn mạnh tới tính hợp pháp, hợp hiến của chính quyền Sài Gòn, đòi phải giữ chế độ đến sau bầu cử. Không những vậy, Kítxinhgiơ còn phủ nhận cả nguyên tắc bình đẳng trong việc giải quyết các lực lượng vũ trang ở miền Nam, công bố việc ngừng bắn tại chỗ thay bằng ngừng bắn chung đi đôi với việc đòi quân miền Bắc rút khỏi miền Nam Việt Nam. Mỹ còn gắn vấn đề viện trợ của Mỹ cho chính quyền Sài Gòn với việc viện trợ của các  nước xã hội chủ nghĩa cho Việt Nam: đòi miền Bắc không được tiếp tục chi viện cho miền Nam; không chịu rút hết nhân viên quân sự (khoảng 10.000 người) trong các ngành không phải quân sự như trong các chương trình bình định và cố vấn kỹ thuật; đòi gắn giải quyết vấn đề Việt Nam với giải quyết vấn đề quân sự ở Đông Dương, đòi rút hết quân miền Bắc ra khỏi hai nước Lào và Campuchia mà không hề đề cập đến việc rút quân Mỹ và Thái Lan khỏi hai nước này. Như thế, về thực chất, phía Mỹ chưa muốn chấm dứt dính líu quân sự ở miền Nam Việt Nam.

Trước những đề nghị thiếu thiện chí đó, Đồng chí Lê Đức Thọ đã phê phán những văn kiện Mỹ đưa ra là không phù hợp thực tế khách quan và hoàn cảnh lịch sử, không thể là nguyên tắc chung cho cả hai bên được. Đồng thời, đoàn Việt Nam cũng nêu rõ lập trường của Việt Nam và thiện chí mong muốn hai bên nhanh chóng đi đến giải quyết vấn đề Việt Nam. Theo đó, thay vì thành lập chính phủ hòa hợp lâm thời ba thành phần, xóa bỏ Chính phủ Cách mạng lâm thời và chính quyền Sài Gòn như đòi hỏi trước đây, bây giờ Việt Nam đề nghị thành lập chính phủ hòa hợp dân tộc ở bên trên, còn bên dưới Chính phủ cách mạng lâm thời và chính quyền Sài Gòn vẫn tồn tại. Cùng với sửa đổi mới này, Việt Nam cũng cho rằng, quyền hạn về chính quyền lâm thời mới thành lập này về đối nội có sự hạn chế nhất định; chính quyền cách mạng lâm thời và chính quyền Sài Gòn, vì vậy, sẽ đồng thời đảm đương việc quản lý các vùng đang kiểm soát và phải tuân thủ các quyết định của chính phủ hòa hợp dân tộc lâm thời. Ngoài ra, phái Việt Nam cũng ra thời phải rút quân Mỹ trong vòng 45 ngày, kể từ khi hiệp định ký kết; việc giải quyết vấn đề lực lượng vũ trang ở miền Nam sẽ do Chính phủ lâm thời và chính quyền Sài Gòn tự bàn bạc và giải quyết với nhau. Về vấn đề bồi thường chiến tranh phía Việt Nam đồng ý không dùng từ “bồi thường chiến tranh” nhưng khẳng định, về vật chất, chính quyền Mỹ phải có trách nhiệm đống góp 9 tỉ đôla cho cả hai miền Việt Nam giúp hàn gắn vết thương chiến tranh. Về thành phần Ủy ban quốc tế, ngoài ba nước hiện có là Ba La, Ấn Độ, Canađa, Việt Nam đề xuất thêm Cuba vào Ủy ban kiểm soát và giám sát quốc tế. Nhưng phía Mỹ bác bỏ Cuba và Ấn Độ. Về cách đàm phán, Việt Nam cũng yêu cầu phía Mỹ phải giải quyết toàn bộ thì mới tiếp tục mở các diễn đàn khác. Cuối cùng, phía Việt Nam khẳng định rõ lập trường của ta là sẵn sàng giải quyết sớm vấn đề Việt Nam với Mỹ nhưng nếu phía Mỹ cố tình kéo dài đàm phán và tiếp tục đẩy mạnh hơn, Việt Nam sẽ có cách đối phó và khi đó trách nhiệm sẽ hoàn toàn thuộc về phía Mỹ. Phía Mỹ hoan toàn đồng ý giải quyết sớm vấn đề Việt Nam trước 15-10-1972 và hẹn tiếp tục gặp lại nhau vào hai ngày 26 và 27-9 tới.


(1) Dẫn theo Lưu Văn Lợi, Nguyễn Anh Vũ: Các cuộc thương lượng bí mật Lê Đức Thọ - Kítxinhgiơ tại Pari, Sđd, tr.479.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 05 Tháng Hai, 2011, 06:14:12 pm
Kết quả cuộc gặp riêng này đã được đoàn ta đã kịp thời báo cáo về nước. trên cơ sở xem xét báo cáo gửi về từ Pari và những đề xuất của cơ quan tham mưu (CP.50), Bộ Chính trị chỉ đạo đoàn ta trong quá tình đàm phán phải đảm bảo được:

Thứ nhất, giữ vững nguyên tắc phía Mỹ phải tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam; chấm dứt can thiệp, dính líu và rút toàn bộ quân đội Mỹ khỏi miền Nam Việt Nam; chấm dứt viện trợ cho chính quyền Sài Gòn, không được gắn vấn đề viện trợ của Mỹ cho chính quyền Sài Gòn với việc viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa cho Việt Nam. Nhưng ta cần linh hoạt trong giải quyết các vấn đề thời hạn rút quân Mỹ đi đôi với trao trả tù binh, hai bên miền Nam không nhận thêm vũ khí, quân đội, cả hai bên có thể được thay đổi vũ khí, viện nhân viên viện trợ quân sự sau này sẽ thuộc thẩm quyền quyết định của chính phủ chính thức.

Thứ hai, Mỹ phải tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam, chấp nhận hai chính quyền, hai quân đội, ba lực lượng chính trị và một hình thức chính quyền hoặc hình thức tổ chức hòa hợp dân tộc ở bên trên với chức năng tối thiểu là bảo đảm hòa bình, thi hành và đôn đốc thi hành các hiệp định đã được ký kết, thực hiện hòa hợp dân tộc, tự do dân chủ, tổ chức tổng tuyển cử… Tuy nhiên, cần linh hoạt về sự tồn tại của hai chính quyền, về sự từ chức của Thiệu, về thời gian tổng tuyển cử.

Thứ ba, về lực lượng vũ trang, ta phải giữ nguyên tắc đấu tranh không rút quân miền Bắc ra khỏi miền Nam nhưng cần linh hoạt không giảm quân số, phục viên. Cả trong tên gọi cũng có thể thỏa thuận với đối phương ghi bằng các tên chung chung, không xúc phạm tới đối pương như Mỹ gọi chính quyền Sài Gòn là Việt Nam Cộng hòa, gọi Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam là Mặt trận Dân tộc giải phóng hoặc nhà đương cục Mặt trận Dân tộc giải phóng. Ta có thể gị là đương cục Sài Gòn, Mỹ có thể gọi Việt Nam dân chủ cộng hòa hay đương cục Hà Nội

Thứ tư, về cách đàm phán, vì thời gian không còn nhiều và đề phòng việc phía Mỹ và chính quyền Sài Gòn kéo dài thời gian đàm phán, cho nên ta và Mỹ phải thỏa thuận về một cách đàm phán thích hợp. Theo đó, với sự thỏa thuận của đồng minh mỗi bên, phía Việt Nam dân chủ cộng hòa và phía Mỹ thỏa thuận xong tất cả các văn kiện cần ký kết và bốn bên sẽ ký kết văn hiện. Chỉ sau khi các văn kiện đã được ký kết, các diễn đàn mới mở ra.

Với chủ trương đã xác định trên đây, tại cuộc gặp với phía Mỹ trong hai ngày 26 và 27-9-1972, hai phía Việt Nam đã đưa ra một kế hoạch mới với những điểm mới như sau:

- Lập chính phủ hòa hợp dân tộc ba thành phần ngang nhau gồm 12 ủy viên làm việc theo nguyên tắc nhất trí, với quyền lực đối nội hạn chế;

- Ủy ban kiểm soát và giám sát quốc tế gồm bốn nước;

- Việc giải quyết vấn đề Việt Nam sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết vấn đề Lào và Campuchia.

Bất chấp những thiện chí của ta, Kítxinhgiơ đưa ra “đề nghị mới” nhưng với lập trường cũ: không công nhận Chính phủ Cách mạng lâm thời, duy trì chế độ Sài Gòn… Lập trường đó của phía Mỹ bị phía Việt Nam lên án. Tuy nhiên, qua cuộc gặp trong hai ngày 26 và 27-9, chúng ta càng nhận rõ: cho đến lúc này, Mỹ vẫn chưa muốn ký kết hiệp định chấm dứt chiến tranh trước ngày bầu cử tổng thống, đàm phán chỉ được Níchxơn lợi dụng nhằm mục đích phục vụ cho việc tranh cử của ông ta.

Trước tình hình trên, Bộ Chính trị Đảng ta họp liên tục nhiều ngày liền để xem xét kỹ tình hình thế giới, tương quan so sánh lực lượng trên chiến trường, dự kiến những khả năng diễn biến của tình hình trong thời gian tới. Bộ Chính trị nhận thấy rằng: “Yêu cầu lớn nhất của ta hiện nay là chấm dứt dính líu quân sự của Mỹ và ngừng bắn ở miền Nam đưa đến việc công nhận trên thực tế hai chính quyền, hai quân đội, hai địa bàn ở miền Nam. Đạt được yêu cầu này là thắng lợi có ý nghĩa quan trọng”(1). Vì thế, Bộ Chính trị chỉ thị cho đoàn đàm phán ở Pari: “Tranh thủ chấm dứt chiến tranh trước bầu cử ở Mỹ, ép Hoa Kỳ ký hiệp định chính thức có ngừng bắn, rút quân, thả tù binh. Muốn vậy, ta cần chủ động về yêu cầu, giải pháp, nội dung, thời điểm, cách ký, cách đàm phán”(2). Bộ Chính trị cho rằng: cần cố gắng ký kết được hiệp định với phía Mỹ vào khoảng 15-10-1972, cùng lắm có thể kéo dài đến 20-10; nếu để chậm nữa, Níchxơn sẽ vượt tuyển cử mà ta sẽ không còn thời gian để chuyển hướng đấu tranh. Về cách ký kết, ta cần chủ động buộc Kítxinhgiơ tiến hành gặp riêng theo ý đồ của ta, mềm dẻo trong cách ký, có cái ký trước, có cái có thể ký sau tùy thuộc tình hình, tranh thủ thời gian.


(1) Dẫn theo Lưu Văn Lợi, Nguyễn Anh Vũ: Các cuộc thương lượng bí mật Lê Đức Thọ - Kítxinhgiơ tại Pari, Sđd, tr.495.
(2) Dẫn theo Lưu Văn Lợi, Nguyễn Anh Vũ: Các cuộc thương lượng bí mật Lê Đức Thọ - Kítxinhgiơ tại Pari, Sđd, tr.495.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 05 Tháng Hai, 2011, 06:17:32 pm
Thực hiện chỉ thị của Bộ Chính trị, trong thời gian này, Tiểu ban Việt Nam - tiểu ban trực thuộc Bộ Chính trị đã gấp rút soạn thảo bản dự thảo Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Ngay sau khi hoàn thành, bản dự thảo đã được chuyển tới Pai hco đoàn ta. Đây là bản dự tháo phái đoàn ta sẽ đưa ra trong cuộc gặp dự định vào ngày 8-10-1972. Bản dự thảo này phản ánh đề nghị 10 điểm của ta ngày 26-9 và đề nghị 10 điểm của phía Mỹ ngày 27-9. Dự thảo hiệp định gồm 10 chương, 23 điều khoản và Lời nói đầu(1). Ngoài bản dự thảo hiệp định, ta còn chuẩn bị bản Thảo thuận về những nguyên tắc thực hiện quyền tự quyết của nhân dân miền Nam nhằm cụ thể hóa một số chức năng phương thức hành động của cơ quan hòa hợp dân tộc và hệ thống các cấp.

Để tranh thủ sự đồng tình của hai nước Liên Xô và Trung Quốc để gây sức ép với Mỹ trên bàn đàm phán, ngày 9-10, Bộ chính trị cử đồng chí Nguyễn Duy Trinh đi Mátxcơva và đồng chí Lê Thanh Nghị đi Bắc Kinh thông báo: chủ trương của ta về hai văn kiện mà Việt Nam dự định sẽ trao cho Mỹ (gần cùng một lúc với việc trao cho phía Mỹ). Cả hai đồng chí Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô Brêgiơnép và Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai đều tỏ rõ sự đồng tình với chủ trương của ta và đánh giá cao dự thảo hiệp định Việt Nam đưa ra, hứa sẽ quyết tâm ủng hộ nỗ lực của Việt Nam trong ký kết Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam.

Nhìn chung, cho đến tháng 9-1972, sau gần 4 năm đấu tranh trong hoàn cảnh so sánh lực lượng trên chiến trường miền Nam chưa hoàn toàn thuận lợi, chúng ta đã kết hợp chặt chẽ các mạt đấu tranh quân sự, chính trị, ngoại giao, tạo sức ép buộc Mỹ từng bước đi vào đàm phá những vấn đề thực chất. Trên bàn đàm phán, chúng ta kiên trì đấu tranh đòi Mỹ phải giải quyết song song cả hai vấn đề quân sự và chính trị. Giữ vững nguyên tắc nhưng mềm dẻo về sách lược, trong quá trình đàm phán, Việt Nam chủ trương giải quyết vấn đề theo hai bước, trước tiên là giải quyết vấn đề quân sự và một số vấn đề chính trị ở miền Nam có tính chất nguyên tắc, sau đó là các vấn đề nội bộ miền Nam sẽ do hai miền tự giải quyết. Chủ trương trên của Việt Nam là hoàn toàn phù hợp với tình hình khách quan ở miền Nam và đáp ứng nguyện vọng của đa số nhân dân và chính giới Mỹ cũng như dư luận trên thế giới lúc bấy giờ.

Thực hiện chủ trương của bộ Chính trị, tại cuộc họp liên tiếp trong ba ngày 8, 9, 10-10-1972, Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ đã trao cho Kítxinhgiơ dự thảo Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam và dự thảo Thỏa thuận về những nguyên tắc thực hiện quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam. Hành động này của phía Việt Nam khiến phái đoàn Mỹ bị bất ngờ. tại bản dự thảo hiệp định, Việt Nam đã tạm gác nhiều vấn đề chính trị nội bộ miền Nam như tạm gác yêu cầu xóa bỏ chính quyền Sài Gòn và gạt Thiệu, tạm gác việc bàn về bầu cử và hiến pháp… Hơn nữa, theo dự thảo, vấn đề miền Nam sẽ được giải quyết theo hai bước: bước 1, giải quyết dứt điểm một số nguyên tắc về các vấn đề quân sự, chính trị; bước 2, hai bên miền Nam sẽ giải quyết các vấn đề cụ thể về quân sự, chính trị nội bộ của miền Nam. Thực chất, dự thảo hiệp định mà ta đưa ra la tập trung giải quyết việc ngừng bắn, việc Mỹ rút quân, việc trao trả tù binh; còn về chính trị vẫn giữ nguyên hiện trạng. Đây là đòn tiến công ngoại giao chủ động, linh hoạt, sáng tạo của ta nhằm hiện thực hóa phương hướng chiến lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”.

Việc chúng ta chủ động đưa ra dự thảo Hiệp địnnh với nhưng nội dung chính thức trên đây, buộc phía Mỹ, tại cuộc họp, phải công khai thừa nhận thái độ thiện chí của Việt Nam, cho đây là một sự kiện mở ra một trang mới trong thương lượng có khả năng hai bên sớm đi đến giải quyết vấn đề chiến tranh Việt Nam.


(1) Chương một của dự thảo hiệp định đề cập tới việc Mỹ tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam, Chương hai và ba đề cập tới việc chấm dứt chiến sự ở hai miên Nam, Bắc, ngừng bắn, rút quân Mỹ, trao trả những người bị bắt; Chương bốn đề cập tới các quyền tự quyết của nhân dân Việt Nam; các chương tiếp theo đề cập tới vấn đề thống nhất Việt Nam, việc hàn gắn vết thương chiến tranh và khôi phục kinh tế hai miền. Ban liên hợp, Ủy ban quốc tế, Hội nghị quốc tế, giải quyết vấn đề Lào, Campuchia, quan hệ Mỹ và Việt Nam dân chủ cộng hòa…


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 05 Tháng Hai, 2011, 06:19:13 pm
Ngày 9-10-1972, bước vào cuộc họp, Kítxinhgiơ trao cho đoàn ta một lịch trình làm việc cụ thể:

- Ngày 11-10-1972, hoàn thành hiệp định; sau đó, Kítxinhgiơ sẽ về Mỹ và 48 giờ sau, phía Việt Nam sẽ nhận được phản ứng của Níchxơn;

- Ngày 15 đến 18-10-1972, Kítxinhgiơ sẽ đi Sài Gòn gặp Thiệu.

- Chiều ngày 18-10, Hoa Kỳ chấm dứt ném bom miền Bắc.

- Ngày 19-10-1972, Kítxinhgiơ sẽ thăm Hà Nội (nếu phía Việt Nam đồng ý).

- Ngày 21-10-1972, Kítxinhgiơ trở về Oasinhtơn.

- Ngày 22-10 (hoặc 23-10), công bố hiệp định ở thủ đô hai nước;

- Ngày 25 (hoặc 26) tháng 10-1972, ký hiệp định.

Bên cạnh lịch trình trên đây, phía Mỹ cũng đưa ra một dự thảo hiệp định do phái Mỹ soạn thảo. Bản dự thảo này cón hiều điểm giống bán dự thảo của phía Việt Nam, tuy nhiên, Mỹ vẫn đòi các đơn vị quân đội miền Bắc tham gia cuộc tiến công chiến lược xuân hè 1972 phải rút khỏi miền Nam; tù chính trị được tách ra để các bên ở miền Nam Việt Nam tự giải quyết; thu hẹp chức năng hệ thống tổ chức của Hội đồng hòa giải dân tộc; gắn vấn đề Mỹ viện trợ cho chính quyền Sài Gòn với vấn đề các nước xã hội chủ nghĩa viện trợ cho Việt Nam dân chủ cộng hòa; thành phần Ủy ban quốc tế sẽ gồm 5 nước…

Căn cứ vào các điểm còn bất đồng, hai bên tiếp tục đàm phán và không khí có lúc rất gay gắt. Điều quan trọng là thay vì đàm phán theo khung giải pháp như trước dây, giờ đây, với việc chủ động đưa ra dự thảo hiệp định, ta đã buộc phía Mỹ phải đi vào đàm phán các điểu khoản cụ thể của hiệp định.

Qua ba ngày đàm phán, lập trường hai bên gần nhau hơn trên các nội dung căn bản, tuy vẫn tồn tại một số bất đồng về vấn đề thay thế vũ khí, về tù chính trị, về Lào, về việc bồi thường chiến tranh của Mỹ… Cuối cùng, ngày 13-10-1972, hai bên đi tới thỏa thuận về lập trường, coi như hiệp định cơ bản đã hoàn thành.

Với những thỏa thuận đã đạt được, cuộc họp trong các ngày 8 đến 13-10-1972 đã tạo ra bước ngoặt của diễn đàn đàm phán bí mật giữa Việt Nam dân chủ cộng hòa và Hoa Kỳ.

Ngay sau khi kế thúc cuộc họp, đoàn ta đã kịp thời báo cáo về nước. Báo cáo nêu rõ: chúng ta đã đạt được bốn yêu cầu là Mỹ cam kết chấm dứt dính líu quân sự, rút quân Mỹ về nước; ngừng bắn hoàn toàn ở cả hai miền Nam, Bắc; công nhận ở miền Nam có hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng kiểm soát; công nhận quyền tự quyết của nhân dân miền Nam; công nhận các quyền tự do dân chủ ở miền Nam. Ngoài ra, phía Mỹ còn nhận đóng góp để xây dựng lại xau chiến tranh; tuy nhiên, có nhiều dấu hiệu chứng tỏ Mỹ muốn vượt tuyển cử mà không ký kết. Do đó, chúng ta cần hết sức cảnh giác với các thủ đoạn của Mỹ. Đoàn đề nghị cần hết sức chủ động về thời điểm và cách đàm phán, không cho phía Mỹ kéo dài các vấn đề tồn tại. Mặt khác, cần chuẩn bị sẵn sàng để nếu Mỹ không chịu ký kết thì ta kịp chuyển thướng đấu tranh sáng tiến công công khai.

Ngày 13-10, phía Mỹ gửi cho Việt Nam một công hàm nói rằng Tổng thống Mỹ Níchxơn chấp nhận dự thảo làm cơ sở hiệp định, trừ một số vấn đề kỹ thuật và đòi có sự thay đổi thực chất thì phía Mỹ mới có thể chấp nhận được.

Ngày 14-10, phía Việt Nam cũng gửi cho phía Mỹ một công hàm, trong đó, chúng ta vạch rõ việc phái Mỹ đòi thay đổi thực chất làm nhằm thay đổi hai điều khoản đã thỏa thuận: điều ấy là hoàn toàn trái nguyên tắc là không bên nào được sửa đổi nội dung đã thỏa thuận và trực tiếp gây khó khăn cho quá trình đàm phán giữa hai bên. Về vấn đề những người dân sự bị bắt, phía Việt Nam cho rằng: “Theo luật pháp quốc tế, trong chiến tranh, khi chiến sự chấm dứt thì tất cả những người của các bên bị bắt phải được trao trả. Hơn thế nữa, với tính chất của cuộc chiến tranh ở miền Nam Việt Nam thì, sau khi ngừng bắn, việc trao trả những người dân sự cũng như việc trao trả những người quân sự của hai bên bị bắt giữ là một nghĩa vụ mà không bên nào được thoái thác và trì hoãn.

Phía Việt Nam dân chủ cộng hòa cho rằng, trong vấn đề này, phía Hoa Kỳ bênh vực cho một lập trường rất sai trái để một bên có thể tiếp tục giam giữ những người dân sự của bên kia. Đó là trái đạo lý, không công bằng và vô nhân đạo”
(1). Phía Mỹ phải thừa nhận vấn đề này có ý nghĩa rất lớn và liên quan tới tình cảm thiêng liêng nhất, hứa sẽ tìm một giải pháp.


(1) Dẫn theo Lưu Văn Lợi, Nguyễn Anh Vũ: Các cuộc thương lượng bí mật Lê Đức Thọ - Kítxinhgiơ tại Pari, Sđd, tr.521.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 05 Tháng Hai, 2011, 06:23:10 pm
Ngày 17-10, hai đoàn tiếp tục họp. Do lập trường của mỗi bên còn chưa thống nhất, về một số vấn đề, đặc biệt là vấn đề tù chính trị và việc thay thế vũ khí của các bên ở miền Nam nên đàm phán về cơ bản không có điểm gì mới, chỉ giải quyết được một số bất đồng nhỏ về câu chữ.
Hôm sau, ngày 18-10, nhân danh Tổng thống Hoa Kỳ, phía Mỹ gửi Công hàm cho phía Việt Nam. Công hàm nêu rõ:

1 - Tổng thống cho rằng Việt Nam dân chủ cộng hòa và Hoa Kỳ đã đến rất gần một sự thỏa thuận. Trong khi giải quyết một bước chiến tranh có thời gian và cường độ như vậy không tránh khỏi các thời gian biểu phải được thỉnh thoảng điều chỉnh lại.

2 - Tổng thống không thể không đồng ý về một cuộc đi thăm Hà Nội của tiến sỹ Kítxinhgiơ, hoặc về một cuộc ngừng bắn đơn phương một số hoạt động quân sự của Hoa Kỷ trừ phi trong khuôn khổ của một thỏa thuận đã hoàn thành.

3 - Về những bất đồng về các điều khoản 7 và 8 và vì tính chất không được thỏa đáng của một vài tuyên bố đơn phương của Việt Nam dân chủ cộng hòa nên thời gian cho cuộc đi thăm như thế chưa chín muồi.

4 - Tổng thống cho rằng, một cuộc gặp khác giữa tiến sỹ Kítxinhgiơ và cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ hoặc với bất cứ thành viên nào khác của Ban lãnh đạo Hà Nội sẽ đưa tới sự thảo thuận trong vòng hai hoặc ba ngày
(1).

Đáp lại công hàm của phía Mỹ, 20 giờ ngày 19-10, nhân danh Thủ tướng nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, phía Việt Nam gửi công hàm trả lời phía Mỹ. Công hàm nêu bật thiện chí của chúng ta: “Để tỏ thái độ nghiêm chỉnh và thiện chí của mình, phía Việt Nam dân chủ cộng hòa làm hết sức mình để gạt bỏ những trở ngại cuối cùng nhằm hoàn thành bản hiệp định, bảo đảm ngài tiến sỹ Henry Kítxinhgiơ vào Hà Nội và ngày ký chính thức hiệp định như đã thỏa thuận.

Do đó, phía Việt Nam dân chủ cộng hòa đồng ý công thức do phía Hoa Kỳ đưa ra về vấn đề thay thế vũ khí nói trong điều 7 và những đề nghị của tiến sỹ Henry Kítxinhgiơ về điều 8 trong cuộc gặp ngày 17-10-1972”(2).

Như vậy, phía Việt Nam khẳng định những trở ngại cuối cùng giữa hai bên đã được giải quyết bởi thiện chí của Việt Nam và yêu cầu phía Mỹ nghiêm chỉnh thực hiện thời gian biểu mà hai phía đã thỏa thuận ngày 11-10-1972: Mỹ chấm dứt ném bom và thả mìn miền Bắc ngày 21-10, Kítxinhgiơ vào Hà Nội ngày 22 và 23-10, ký hiệp định chính thức tại Pari ngày 30-10-1972.

Nhân danh Tổng thống Mỹ, hồi 10 giờ sáng ngày 20-10, phía Mỹ gửi công hàm cho Thủ tướng nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, trong đó hoan nghênh thiện chí và thái độ nghiêm chỉnh của Việt Nam dân chủ cộng hòa thể hiện trong thông điệp ngày 19-10-1972. với hai điều khoản trong điều 7 và 8 mà phía Việt Nam dân chủ cộng hòa đã thỏa thuận trong thông điệp của mình, phía Mỹ cho rằng, văn bản của hiệp định bây giờ có thể xem là đã hoàn thành. Cômg hàm còn nêu thêm một số vấn đề mà phía Mỹ quan tâm như vấn đề tù binh ở Lào và Campuchia, vấn đề ngứng bắn ở Lào và vấn đề chấm dứt các hoạt động quân sự ở Lào, Campuchia (điều 15c), đồng thời Mỹ đưa ra cam kết dưới hình thức Understanding (hiểu biết) - chấm dứt các hoạt động trinh sát ở miền Bắc, đưa các tàu sân bay của Mỹ ra xa bờ biển Việt Nam. Cũng tại công hàm nay, Mỹ đưa ra một thời gian biểu ký hiệp định. Ngày 24-10, Kítxinhgiơ tới Hà Nội và rời Hà Nội vào ngày 26-10; 21 giờ (giờ Oasinhtơn) ngày 27-10, đưa tin về Hiệp định; ngày 31-10-1972, ký hiệp định tại Pari… Cuối cùng, công hàm khẳng định: “Ngay sau khi nhận được những lời xác nhận thì Việt Nam dân chủ cộng hòa có thể tin là phía Hoa Kỳ sẽ tiến hành theo thời gian biểu đề nghị trên”(3).

Ngày 21-10, Thủ tướng nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, tại công hàm trả lời công hàm của Tổng thống Mỹ, khẳng định: "Phía Việt Nam dân chủ cộng hòa sẽ làm đúng những điều đã tuyên bố với phía Hoa Kỳ và không có gì thay đổi. Song cần phải nói rõ rằng vấn đề Lào và vấn đề Campuchia là thuộc chủ quyền của người Lào và người Campuchia. Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa và Chính phủ Hoa Kỳ đều có nghĩa vụ chủ quyền của Lào và Campuchia như hai bên đã cam kết trong điều 15 của hiệp định về Việt Nam như đã thỏa thuận… Phía Việt Nam dân chủ cộng hòa đã được Mặt trận Lào yêu nước thông báo rằng họ sẵn sàng thỏa thuận với phía bên kia về một cuộc ngừng bắn ở Lào trong vòng một tháng kể từ ngày 31-10-1072 hoặc sớm hơn và những người Hoa Kỳ bị bắt ở Lào sẽ được thả ngay trước ngày 30-10-1972… Sau khi chiến tranh ở Việt Nam chấm dứt, phía Việt Nam dân chủ cộng hòa sẽ tíchcực góp phần vào việc lập lại hòa bình ở Campuchia. Phía Việt Nam dân chủ cộng hòa biết rõ rằng không có người Hoa Kỳ nào b bắt ở Campuchia”(4). Đồng thời, Việt Nam tuyên bố chấp nhận thời gian biểu do phía Hoa Kỳ để nghị.



(1) Công hàm của Mỹ gửi Việt Nam dân chủ cộng hòa, ngày 18-10-1972.
(2) Công hàm của Việt Nam dân chủ cộng hòa gửi Chính phủ Mỹ, ngày 19-10-1972.
(3) Công hàm của Mỹ gửi Việt Nam dân chủ cộng hòa, ngày 20-10-1972.
(4) Công hàm của Việt Nam dân chủ cộng hòa gửi Mỹ, ngày 21-10-1972.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 05 Tháng Hai, 2011, 06:27:38 pm
Hai mươi ba giờ ngày 22-10, Tổng thống Mỹ gửi thông điệp hoan nghênh công hàm của Thủ tướng nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, và ghi nhận: Công hàm đó đã thỏa mãn tất cả những điều Tổng thống Mỹ nêu ra về vấn đề Lào, vấn đề Campuchia cũng như vấn đề tù binh Hoa Kỳ. Tuy nhiên, tại công hàm này, Níchxơn cũng nói tới việc phía Việt Nam để lộ bí mật về những thỏa thuận giữa hai bên cho các nhà báo và yêu cầu không có hành động công khai. Điều đó có thể được hiểu là Mỹ sẽ không ký kết hiệp định theo lịch trình chính phía Mỹ đưa ra với những lý do hết sức giả tạo.

Vào lúc 15 giờ ngày 23-10-1972, Tổng thống Mỹ gửi công hàm cho Thủ tướng Việt Nam dân chủ cộng hòa, thông báo về những khó khăn mới xuất hiện mà theo Níchxơn, bởi “Việt Nam dân chủ cộng hòa đã tìm cách làm việc với tốc độ quá mức”“cuộc phỏng vấn giữa Thủ tướng Phạm Văn Đồng với phóng viên báo Newsweek đã có ảnh hưởng rất tai hại vào một lúc quyết định ở Sài Gòn. Những cuộc hiệp thương thế giớiế nhị có thể bị phá hoại do việc có thể coi là việc loan báo một hiệp định vẫn còn đương được thảo luận và rừng những cuộc công kích vào cơ cấu và những người mà hiệp định đó vẫn duy trì”(1)… Ngoài ra, công hàm của Níchxơn cũng đặt vấn đề về việc lực lượng Việt Nam dân chủ cộng hòa ở miền Nam Việt Nam cũng như các vấn đề kỹ thuật xuất hiện, xem đó là lý do để trì hoãn việc ký kết hiệp định. Công hàm yêu cầu một cuộc gặp gỡ nữa giữa hai bên tại Pari và hoãn chuyến đi của Kítxinhgiơ đến Hà Nội.

Như vậy, đến đây, thái độ lật lọng của Mỹ đã bộc lộ rõ. Mỹ không muốn gạt bỏ chính quyền Sài Gòn mà tiếp tục duy trì, ủng hộ chính quyền này sau khi Mỹ rút đi. Vì thế, có thể thấy, với những tuyên bố trên đây, chính quyền Níchxơn chưa chịu từ bỏ chính sách thực dân mới của họ ở miền Nam Việt Nam.

Tại Sài Gòn, với bản chất cực kỳ hiếu chiến, Nguyễn Văn Thiệu ra sức phản đối Mỹ nói chuyện với Việt Nam dân chủ cộng hòa: phản đối chấm dứt ném bom miền Bắc; phản đối giải pháp chính trị cho vấn đề Việt Nam. Chính quyền Thiệu hy vọng, với lực lượng quân sự mạnh vượt trội so với lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam, họ có thể đánh chiếm được các địa bàn chiến lược trọng yếu, làm chủ được các thành phố, các trục đường giao thông huyết mạch, kìm kẹp được phần lớn nhân dân ở miền Nam. Nguyễn Văn Thiệu tin rằng nếu Mỹ ở lại thêm một thời gian thì ông ta có thể tiêu diệt được cách mạng miền Nam và khiến “Hà Nội có thể phải đầu hàng vô điều kiện”(2). Nuôi hi vọng đó, một mặt, chính quyền Sài Gòn tiếp tục tăng cường các hoạt động quân sự, mặt khác, phản đối quyết liệt việc Mỹ đàm phán với Việt Nam dân chủ cộng hòa, đòi sửa đổi về cơ bản các điều khoản trong hiệp định. Trong cuộc gặp Kítxinhgiơ tại Sài Gòn, Trần Văn Lắm, Tổng trưởng Ngoại giao của chính quyền Thiệu đưa ra 23 điểm mà phía Sài Gòn yêu cầu sửa đổi, bao gồm cả những nội dung rất quan trọng như đòi Hội đồng quốc gia hòa hợp và hòa giải dân tộc chỉ là cơ quan bầu cử, xóa bỏ tên Chính phủ Cách mạng lâm thời, rút quân đội miền Bắc ra khỏi miền Nam. Mặc dù, có lúc Níchxơn đã tỏ thái độ khá quyết liệt với Sài Gòn, dùng con bài viện trợ để ép Thiệu, nhưng ông ta lo ngại quan hệ căn thẳng với chính quyền Sài Gòn - thậm chí là “đổ vỡ” mối quan hệ đó trước ngày bầu cử ở Mỹ là một bất lợi lớn cho ông ta. Vì thế, Níchxơn yêu cầu Kítxinhgiơ ghi nhận những đòi hỏi của chính quyền Nugyễn Văn Thiệu về việc sửa đổi các điều khoản hiệp định. Bên cạnh đó, phái Mỹ liên tục gửi công hàm cho phái đoàn ta đề nghị tiến hành các cuộc gặp riêng, đồng thời tăng cường vận động Liên Xô, Trung Quốc gây sức ép với Việt Nam dân chủ cộng hòa. Trước tình hình đó, ta kiên quyết phản đối sự lật lọng của phía Mỹ. Tại công hàm ngày 23-10 gửi cho đoàn Mỹ, ta bác bỏ cuộc gặp riêng và chỉ rõ: “Về phía Hoa Kỳ cứ viện cớ này cớ khác để kéo dài đàm phán, trì hoãn việc ký kết thì nhất định chiến tranh Việt Nam sẽ tiếp tục và phía Hoa Kỳ phải hoàn toàn chịu trách nhiệm”(3). Tiếp đó, ngày 25-10-1972, Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa ra tuyên bố về tình hình cuộc đàm phán về vấn đề Việt Nam. Sau khi tóm tắt quá tình đàm phán trong hơn 4 năm, những thỏa thuận hai bên đã đạt được, việc hoàn thành hiệp định vào ngày 22-10, thời gian biểu hai bên đã thỏa thuận, các công hàm phía Mỹ gửi cho Việt Nam liên quan tới việc này… tuyên bố của Chính phủ ta bác bỏ mạnh mẽ những lý do trì hoãn việc ký kết hiệp định đã được thỏa thuận mà phía Mỹ nêu ra và chỉ rõ trách nhiệm đó hoàn toàn thuộc về phía Mỹ. Về phía Việt Nam, bản tuyên bố khẳng định: lập trường của Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa là giữ vững những cam kết đã đạt được, yêu cầu Chính phủ Hoa kỳ ký kết hiệp định vào ngày 31-10-1972 như hai bên đã thỏa thuận. Tại các nước, các đại sứ quán Việt Nam ở nước ngoài và các cơ quan báo chí, truyền hình, đài phát thanh cũng được huy động vào tuyên truyền về việc này.


(1) H. Kítxinhgiơ: Ở Nhà Trắng, Fayard, Pari, 1979, tr.1379-1380.
(2) H. Kítxinhgiơ: Ở Nhà Trắng, Sđd, tr.1379.
(3) Công hàm của đoàn Việt Nam dân chủ cộng hòa gửi đoàn Hoa Kỳ, ngày 23-10-1972.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 05 Tháng Hai, 2011, 06:31:12 pm
Tuyên bố của Việt Nam lập tức được nhân dân các nước, các tổ chức òao bình và hữu nghị trên thế giới đồng tình ủng hộ. Dư luận rộng rãi mạnh mẽ chỉ trích Mỹ kéo dài chiến tranh, lên án gay gắt chính quyền Thiệu, đòi Mỹ phải thực hiện các thỏa thuận. Hai nước Liên Xô và Trung Quốc cũng đồng tình với các giải quyết của ta.

Trước những tuyên bố của Việt Nam, Mỹ tìm cách làm dịu dư luận bằng cách đưa ra nhiều hứa hẹn mị dân, lừa bịp, mập mờ, hòng kéo dài quá tình đàm phán theo điều kiện của Mỹ, dung dưỡng Thiệu. Chủ trương của Mỹ là muốn chấm dứt chiến tranh nhưng phải theo những thỏa thuận của họ. Tại Sài Gòn, Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố công khai rằng hiệp định mà hai phía Mỹ và Việt Nam dân chủ cộng hòa đã thỏa thuận hồi tháng 10 là một sự đầu hàng. Thiệu đòi sửa đổi 60 điểm trong đó - mà chính bản thân Míchxơn cũng cho là đòi hỏi không thực tế.

Ngày 27-10-1972, phía Mỹ tiếp tục gửi công hàm cho phía Việt Nam nhấn mạnh rằng “Hoa Kỳ hiểu sự không hài lòng do sự không thực hiện được thời gian biểu gây ra” và đề nghị đợt gặp riêng khác bắt đầu từ ngày 1-11-1972 kéo dài cho tới khi hoàn thành hiệp định. Họ cũng khẳng định một khi đã thỏa thuận được một văn bản tại Pari và trong những cuộc tiếp xúc sau đó, phía Mỹ sẽ hoàn toàn chấm dứt ném bom miền Bắc, không yêu cầu thêm sự thay đổi nào nữa sau khi đã đạt được những thỏa thuận trong đợt gặp tới.

Về phía Việt Nam, chúng ta không vội trả lời để tỏ rõ chúng ta không vội vàng và cũng không trông chờ vào kết quả bầu cử ở Mỹ. Chúng ta bước vào đàm phán với tư thế hoàn toàn vững vàng và thuận lợi kể từ sau tuyên bố ngày 26-10-1972. Dự luận thế giới đồng tình và ủng hộ Việt Nam, đòi Mỹ sớm chấm dứt chiến tranh, ký kết hiệp định. Tuy nhiên, việc chính quyền Thiệu mạnh mẽ phản đối dự thảo hiệp định làm cho tình hình trở nên phức tạp hơn.

Về phía Mỹ, ngày 26-10-1972, tại một cuộc họp báo, Kítxinhgiơ tìm cách biện minh cho sự trì hoãn ký kết hiệp định và tuyên bố “hòa bình trong tầm tay” ”. Cũng lúc này, chính quyền Níchxơn lập cầu hàng không, tiếp tế ồ ạt vũ khí, thiết bị chiến tranh cho chính quyền và quân đội Sài Gòn trong một kế hoạch mang tên Enhenxơ Plớt (Enhance Plot)(1). Với sự viện trợ quân sự của Mỹ, quân đội Sài Gòn, vào cuối năm 1972, “có lực lượng không quân lớn thứ tư của thế giới và một số lượng khổng lồ xe tăng, trọng pháo và máy bay lên thẳng. Bấy giờ, Việt Nam cộng hòa có một ưu thế hỏa lực át hẳn đối phương Việt Nam dân chủ cộng hòa”(2).

Chủ trương đấu tranh ngoại giao của ta trong giai đoạn này là giữ vững những vấn đề thuộc về nguyên tắc và nội dung đã đạt được với Mỹ, đòi Mỹ không sửa đổi các nguyên tắc và nội dung đó và sớm đi đến ký kết hiệp định. Từ trước, ta nhận thấy, phía Mỹ luôn sử dụng con bài thể thức và trao đổi với chính quyền Sài Gòn để kéo dài thời gian ký kết. Mục tiêu trước mắt của ta là đấu tranh buộc Mỹ phải ký kết hiệp định vào khoảng 20-1-1973. Tuy nhiên, chúng ta cũng tính đến khả năng là quân Mỹ và quân đội Sài Gòn giành được ưu thế trên chiến trường miền Nam, Mỹ lợi dụng hòa hoãn với hai nước lớn Liên Xô và Trung Quốc để gây khó khăn cho Việt Nam, cố bám lấy những yêu sách vô lý không chịu nhân nhượng, sử dụng Sài Gòn để kéo dài đàm phán.

Đúng như ta đã lường định trước, trong các cuộc gặp được bắt đầu từ ngày 20-11-1972, phía Mỹ vẫn ngoan cố đòi sửa đổi hầu hết các chương trong hiệp định, nhất là các chương về ngừng bắn, rút quân, chính trị nội bộ miền Nam… Tựu trung, đòi hỏi sửa đổi hiệp định của phía Mỹ đưa ra là: đòi rút quân miền Bắc, không công nhận Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nma Việt Nam, ha thấp vai trò của Ủy ban hòa giải hòa hợp dân tộc, giảm nhẹ trách nhiệm của Mỹ, miền Nam Việt Nam là một quốc gia riêng, hai miền tôn trọng “lãnh thổ” của nhau (!)…Tất cả những sửa đổi đó nhằm nâng cao vị thế chính trị và tính pháp lý của chính quyền Sài Gòn, hạ thấp vị thế của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền nam Việt Nam, không thừa nhân trên thực thế có sự tồn tại hai chính quyền, hai vùng kiểm soát, hai quân đội ở miền Nam, không muốn chấm dứt sự can thiệp dinh líu quân sự của Mỹ ở đây, chuẩn bị cho những hành động phá hoại của chính quyền và quân đội Sài Gòn sau này. Cuộc đàm phán một lần nữa đi vào bế tắc bởi những đòi hỏi sửa đổi thiếu thiện chí của phía Mỹ - những đòi hỏi mà ngay cả Kítxinhgơ là người đưa ra sau này đã phải thú nhận: “Đó là một sai lầm nặng nề về chiến thuật. Danh sách đó quá vô lý, nó vượt quá những điều mà chúng tôi đã dự tính công khai cũng như trong nội bộ và chắc chắn nó làm tăng thêm ý đồ vốn mạnh mẽ của Hà Nội giữ nguyên lập trường cũ của họ và đợi cho chúng ta bị nghẹt thở về thời gian mà Quốc hội định ra cho chúng ta. Nếu tôi đưa ra những yêu sách đó là cốt để cho người ta khỏi trách tôi là không chú ý tới quyền lợi của Sài Gòn và để cho Thiệu dễ chấp nhận”(3).


(1) Thực ra, từ mùa hè năm 1972, Lầu Năm Góc đã bắt đầu thay những nhan viên kỹ thuật quân sự chủ chốt bằng những người khoác áo dân sự - trong số đó, có những người từng là nhân viên quân sự cũ. Kế hoạch Enhenxơ và tiếp đó, Enhenxơ Plớt đưa vào miền Nam Việt Nam 260.000 tấn hàng hóa chiến tranh, với tổng trị giá gần 2 tỉ đôla, được thực hiện trong khoảng thời gian 2 tháng (dẫn theo G.Côncô: Giải phẫu một cuộc chiến tranh, tập 2…, Sđd, tr.125).
(2) Ngày 7-11-1972, Níchxơn trúng cử tổng thống nhiệm kỳ thứ hai. Tuy nhiên, cho dù vượt qua kỳ bầu cử tổng thống, Níchxơn vẫn phải đối mặt với áp lực ngày càng tăng, đồi phải nhanh chóng chấm dứt cam kết và sự dính líu của Mỹ ở Đông Dương.
(3) H. Kítxinhgiơ: Ở Nhà Trắng, Sđd, tr.1476.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Hai, 2011, 10:40:17 am
Các cuộc gặp hai bên được bắt đầu từ ngay 20-11 đến ngày 25-11 vẫn ở thế bế tắc. Ngày 28-11, đoàn ta, trong báo cáo gửi về Hà Nội, đã nhận định: “Mỹ đã thay đổi nội dung hiệp định, lật ngược lại toàn bộ vấn đề quan trọng, coi như đàm phán lại. Chương nào cũng sửa đổi về thực chất, hoặc sửa đổi bằng nghị định thư. Những yêu sách vô lý của Mỹ đòi rút quân miền Bắc, về giảm quân số, phục viên về sinh quán, việc hủy bỏ quyđịnh vùng kiểm soát của mỗi bên ở miền Nam sau ngừng bắn; về chính quyền ở miền Nam xóa bỏ ba thành phần của Hội đồng quốc gia hòa giải hòa hợp dân tộc và bỏ hệ thống cấp dưới của hội đồng; về khu phi quân sự, về kiếm soát và giám sát quốc tế, về vấn đề Lào, Campuchia… Rõ ràng nhằm thay đổi điều cơ bản đã thỏa thuận là ở miền Nam có hai chính quyền, hai quân đội, hai địa bàn và ba lực lượng chính trị, chưa chịu chấm dứt sự dính líu về quân sự của Mỹ ở miền Nam Việt Nam… Do ta đấu tranh, Mỹ đã lùi trên một số vấn đề đã sửa đổi nhưng ngoan cố giữ một số điểm rất quan trọng thuộc nội dung và thực chất của giải pháp, nhất là đòi ta rút một số lớn quân miền Bắc… Đi đôi với thủ đoạn đưa ra thời gian biểu để che đậy việc Mỹ ngoan cố, Mỹ lại dùng thủ đoạn rất láo xược…

Rõ ràng ý đồ của Mỹ là tuy ở thế phải giải quyết vấn đề Việt Nam, nhưng do những khó khăn của Mỹ ở trong nước và trên thế giới và do những yêu cầu của Mỹ về chiến lược toàn cầu, Mỹ muốn giành thêm lợi thế cho ngụy và đạt một giải pháp càng lợi cho Mỹ càng tốt”
(1).

Trước tình hình đó, chủ trương của ta vẫn là: “Tiếp tục thực hiện phh Bộ chính trị đã đề ra… tranh thủ khả năng giải quyết sớm trên cơ sở bảo đảm yêu cầu của ta, đồng thời tích cực chuẩn bị đề phòng khả năng chiến tranh kéo dài. Vấn đề quan trọng nhất là giữ vững văn bản đã thảo thuận… ta kiên trì đấu tranh đòi Mỹ từ bỏ việc sửa đổi hiệp định đồng thời ta cũng sẵn sàng rút một số điểm ta mới thêm để buộc Mỹ phải tôn trọng văn bản hiệp định đã thỏa thuận. trên cơ sở đó ta có thể có một số điểm mềm dẻo để mở đường kéo Mỹ đi vào giải quyết càng sớm càng tốt. Chúng ta không vội gò bó về thời điểm và phải kiên trì đấu tranh đánh bại ý đồ đàm phán trên thế mạnh của Mỹ”.

Thực hiện chủ trương của bộ Chính trị, ở trong nước, một mặt chúng ta tích cực chuẩn bị lực lượng, phương án sẵn sàng đối phó với một âm mưu của địch, mặt khác trên mặt trận ngoại giao, ta chấp nhận công hàm ngày 27-11 của Mỹ gửi cho Việt Nam đồng ý họp với Mỹ vào đầu tháng 12-1972.

Ngày 4-12-1972, hai phía Việt Nam và Mỹ gặp nhau theo thỏa thuận để tiếp tục bàn về các vấn đề trong hiệp định - giải quyết vấn đề. Tuy nhiên, cuộc gặp đã hoàn toàn bế tắc do Mỹ vẫn đưa ra những lý do vô lý, đòi thay đổi nhiều điểm thuộc về nguyên tắc và thực chất của hiệp định nhằm tiếp tục bám giữ miền Nam, duy trì chính quyền Thiệu.

Trong các ngày từ 6 đến 13-12-1972, hai bên tiếp tục có các lần gặp nhau. Trước thái độ và lập trường kiên quyết của phía Việt Nam, Mỹ đã có những nhân nhượng và tính đến việc giảm bớt yêu cầu của Sài Gòn. Các vấn đề từng buốc được hai bên đưa ra thảo luận, tháo gỡ đi đến thống nhất. Tuy nhiên, tính đến chiều ngày 13-12, vẫn còn sự bất đồng giữa hai bên trên các vấn đề khu phi quân sự và cách ký kết hiệp định. Về khu phi quân sự, Mỹ đòi đưa vào hiệp định câu: “Trong khi chờ đợi thống nhất Việt Nam, khu phi quân sự phải được hai bên tôn trọng”. Trước yêu cầu này của Mỹ, Việt Nam kiên quyết phản đối, vì như vậy sẽ nẩy sinh nhiều vấn đề phức tạp. Đây là âm mưu rất lớn của Mỹ nhằm chia cắt lâu dài Việt Nam, biến miền Nam thành một quốc gia riêng, tạo điều kiện cho ngụy trở lại vấn đề “rút quân miền Bắc” về phía bắc khu phi quân sự theo các điểu khoản của Hiệp định Giơnevơ 1954. Đàm phán lại một lần nữa rơi vào bế tắc.

Nhìn tổng quát đợt đàm phán lại (từ ngày 20-11, trải qua bốn phiên họp chính thức, hai phiên họp hẹp, hai bên đã bước đầu đạt được một số thỏa thuận có ý nghĩa. Tuy vận, đến ngày 23-11-1972, vẫn còn nhiều vấn đề lớn chưa được giải quyết như các vấn đề rút nhân viên dân sự Mỹ, vấn đề giảm quân số, phục viên về sinh quán, bỏ ba thành phần, Hội đồng hòa giải, hai miền Việt Nam tôn trọng lãnh thổ của nhau, quân đội các nước Đông Dương ở trong biên giới của nước mình… Cuộc đàm phán đi vào bế tắc. Nửa đâu tháng 12, một số vấn đề từng bước được tháo gỡ, thỏa thuận. Đến ngày 12-12, hai vấn đề về cách thức ký các văn kiện và khu phi quân sự vẫn tồn tại sự khác biệt trong quan điểm giữa hai bên. Trong khi cuộc họp tạm hoãn, hai bên thỏa thuận sáng ngày 13, các chuyên viên sẽ rà soát lại hiệp định và tiếp tục bàn các hiểu biếtnghị định thư. Nhiều vấn đề Lê Đức Thọ và Kítxinhgiơ tưởng là đã giải quyết xong lại trở thành vấn đề gây tranh cãi trong nhóm chuyên viên rà soát văn bản. Hai bên nhất trí tạm ngừng đàm phán để xin ý kiến Chính phủ mỗi nước.


(1) Dẫn theo Lưu Văn Lợi, Nguyễn Anh Vũ: Các cuộc thương lượng bí mật Lê Đức Thọ - Kítxinhgiơ tại Pari, Sđd, tr.561-562.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Hai, 2011, 10:41:23 am
Nhưng chỉ ít ngày sau đó, mưu đồ dùng sức mạnh quân sự có thể chấm dứt chiến tranh trên thế mạnh theo điều kiện của Mỹ đã bộc lộ rõ bằng việc bắt đầu từ ngày 18-12-1972, khi Lê Đức Thọ vừa từ sân bay về tới nhà thì các pháo đài bay B.52 của Mỹ bắt đầu giội bom xuống Hà Nội và nhiều thành phố khác của miền Bắc Việt Nam. Đây là một kế hoạch tập kích chiến lược đã được chuẩn bị từ trước với tên gọi Linebaker II. Nội dung của nó là thả mìn phong tỏa Hải Phòng, ném bom Hà Nội và Hải Phòng. Các nhà lãnh đạo của Mỹ và các tướng lĩnh Hoa Kỳ hy vọng bằng chiến dịch này, có thể phô trương một lần nữa sức mạnh quân sự của Mỹ, trấn an chính quyền Sài Gòn, nắm được phía Việt Nam và buộc Việt Nam phải có những nhượng bộ Mỹ trên bàn đàm phán. Để biện minh cho hành động tàn bạo, điên cuồng này, ngay từ ngày 16-12, Kítxinhgiơ đã tổ chức họp báo đổ lỗi cho phía Việt Nam trì hoãn các cuộc thương lượng, kéo dài đàm phán. Ngày 18-12, Việt Nam lại tiếp tục nhận được công hàm mà tại đó, một mặt, Mỹ đổ cho ta gây ra sự trì hoãn trong đàm phán và mặt khác, đề nghị nối lại đàm phán vào bất cứ lúc nào sau ngày 26-12-1972, - mốc thời gian mà phía Mỹ hi vọng rằng, Việt Nam sẽ có sự nhượng bộ Mỹ.

Ngược lại với sự trông đợi của phía Mỹ, cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B.52 vấp phải sự giáng trả mãnh liệt và hiệu quả của quân và dân ta.

Ngày 22-12-1972, phía Mỹ gửi công hàm đề nghị tổ chức cuộc gặp giữa Lê Đức Thọ và Kítxinhgiơ, dự định vào ngày 3-1-1973. Công hàm của phía Mỹ nêu rõ: Nếu đề nghị trên đây được chấp nhận, Mỹ sẽ ngừng ném bom miền Bắc Việt Nam từ vĩ tuyến 20 trở ra vào ngày 30-12-1972.

Trên cơ sở nhận định rằng, đây là “Bước đường cùng trong thế yếu” của Mỹ, Bộ Chính trị quyết định chấp nhận đề nghị trên của phía Mỹ, nhằm đi tới việc ký kết hiệp định, hoàn thành nhiệm vụ “Đánh cho Mỹ cút” như phương hướng chiến lược mà Chủ tịch Hồ Chí Minh từng chỉ ra.

Trong công hàm trả lời phía Mỹ ngày 26-12, Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa cho rằng, sau khi tình hình trở lại như trước ngày 18-11-1972, cuộc gặp giữa cố vấn Lê Đức Thọ, Bộ trưởng Xuân Thủy và Kítxinhgiơ sẽ được tiến hành, dự tính vào ngày 8-1-1973.

Trước những thất bại nặng nề cả về quân sự, chính trị trên chiến trường Việt Nam, đặc biệt trên bầu trời Hà Nội, Hải Phòng trong chiến dịch Linebaker II, ngày 30-12-1972, Tổng thống Mỹ Níchxơn buộc phải tuyên bố ngừng ném bom nước Việt Nam dân chủ cộng hòa từ vĩ tuyến 20 trở ra và đề nghị ta họp lại Hội nghị Pari.

Trong các ngày 8-1, ngày 13-1-1973, cuộc gặp gỡ riêng giữa cố vấn Lê Đức Thọ, Bộ trưởng Xuân Thủy và đại diện phía Mỹ Kítxinhgiơ đã giải quyết những bất đồng còn lại giữa hai bên. Cách thức và lịch trình ký kết hiệp định đã được thống nhất.

Ngày 23-1-1973, cố vấn Lê Đức Thọ và Kítxinhgiơ ký tắt và văn bản Hiệp định Pari về Việt Nam.

Ngày 27-1-1973, tại Pari, Thủ đô nước Cộng hòa Pháp, Bộ trưởng Ngoại giao Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa, Bộ trưởng Ngoại giao Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, Bộ trưởng Ngoại giao Chính phủ Hoa Kỳ, Bộ trưởng Ngoại giao Chính phủ Việt Nam Cộng hòa đã ký chính thức hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam.

Hiệp định nêu rõ, Hoa Kỳ và các nước khác cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam; Hoa Kỳ chấm dứt chiến tranh xâm lược, chấm dứt sự dính líu về quân sự và can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam; tôn trọng quyền tự quyết và bảo đảm các quyền tự do, dân chủ của nhân dân miền Nam Việt Nam tự quyết định tương lai chính trị của mình thông qua tổng tuyển cử thật tự do và dân chủ; việc thống nhất nước Việt Nam sẽ được thực hiện từng bước bằng phương pháp hòa bình…


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Hai, 2011, 10:44:46 am
Ngày 28-1-1973, hiệp định bắt đầu có hiệu lực. Việc Hoa Kỳ đóng góp hàn gắn vết thương chiến tranh ở Việt Nam dân chủ cộng hòa, được cụ thể hóa bằng công hàm chính thức của Tổng thống Mỹ gửi Thủ tướng Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Ngoài hiệp định (gồm 9 chương, 23 điều), hai bên còn ký 4 nghị định thư về ngừng bắn và các Ban liên hiệp quân sự, về Ủy ban giám sát và kiểm soát quốc tế, về trao trả nhân viên các bên bị bắt, về tháo gỡ, vô hiệu hóa mìn ở miền Bắc; hai bên cùng đạt được 8 “hiểu biết” (Understanding)(*) - thực chất như các điều khoản chính thức như do lý do tế nhị về ngoại giao nên không đưa vào Hiệp định hay Nghị định thư.

Trong Lời kêu gọi về Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa khẳng định: “Với việc hiệp định được ký kết, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã giành được thắng lợi vẻ vang…;

Toàn dân ta ở cả hai miền Nam, Bắc đều vô cùng tự hào và phấn khởi trước thắng lợi vĩ đại này của Tổ quốc.

Đây cũng là thắng lợi của nhân dân các nước Đông Dương cùng nhau đoàn kết chiến đấu chống kẻ thù chung”
(1).

Ngày 23-1973, Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ ở Sài Gòn làm lễ cuốn cờ, chấm dứt sự có mặt của quân đội Mỹ ở miền Nam Việt Nam.

*
*   *

Đương đầu và đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai của không quân, hải quân Mỹ, đặc biệt là chiến công đập tan chiến dịch công kích bằng máy bay B.52 trên bầu tời Hà Nội, Hải Phòng cuối năm 1972, một lần nữa, trong khói lửa chiến tranh, miền Bắc đã chứng tỏ sức mạnh và tính kiên cường của hậu phương chiến lược được tổ chức chặt chẽ, được bảo vệ vững chắc. Hậu phương đó cùng một lúc thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ tọng yếu, vừa sản xuất, vừa chiến đấu, tăng sức chi viện to lớn, toàn diện, mạnh mẽ cho chiến trường, làm nên “Điện Biên Phủ trên không”, góp phần quyết định buộc Mỹ phải ký kết Hiệp định Pari về Việt Nam, phải đơn phương rút quân ra khỏi cuộc chiến tranh, công nhận các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam. Với việc Hiệp định Pari được ký kết, quân và dân ta trên cả hai miền Nam, Bắc đã hoàn thành xuất sắc phương hướng chiến lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Đánh cho Mỹ cút”, đưa sự nghiệp kháng chiến cứu nước của dân tộc ta bước vào giai đoạn “Đánh cho ngụy nhào”.


(*) 1. Tầu sân bay Mỹ đậu xa bờ biển Việt Nam
2. Mỹ chấm dứt hành động trinh sát đối với lãnh thổ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
3. Nhân viên dân sự Mỹ làm việc trong các lực lượng vũ trang Sài Gòn sẽ rút trong 12 tháng.
4. Trách nhiệm của Hoa Kỳ đối với việc trao trả nhân viên dân sự Việt Nam bị giam giữ.
5. Hiểu biết về Lào, Campuchia: ghi lại những vấn đề liên quan đã nêu trong thông điệp của Thủ tướng Việt Nam dân chủ cộng hòa gửi Tổng thống Mỹ ngày 21-10-1972.
6. Về mối quan hệ giữa Ủy ban quốc tế tại Hội nghị quốc tế.
7. Định nghĩa của từ “của các bên” trong điều 8a, 8b của hiệp định.
8. Định nghĩa từ “nhất trí” trong các điều 12a, 12b, 18f của hiệp định.
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t.34 tr.11.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Hai, 2011, 10:51:57 am
KẾT LUẬN

Thắng lợi to lớn, toàn diện của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ trong hai năm 1970, 1971 đã tạo điều kiện thuận lợi cho quân và dân ta mở cuộc tiến công chiến lược năm 1972 - năm nước Mỹ bước vào cuộc vận động tranh cử tổng thống nhiệm kỳ mới; năm chính quyền Níchxơn, đồng thời với những nỗ lực quân sự, chính trị trên chiến trường miền Nam, đã xúc tiến những hoạt động “ngoại giao nước lớn” với Trung Quốc, Liên Xô hòng cô lặp cách mạng Việt Nam, ép Việt Nam phải nhượng bộ Mỹ trên bàn đàm phán tại Hội nghị Pari.

Cuộc tiến công chiến lược năm 1972 bắt đầu từ ngày 30-3-1972 bằng ba chiến dịch tiến công của chủ lực trên ba hướng: đường 9 - Trị Thiên, bắc Tây Nguyên, miền Đông Nam Bộ; kết hợp với các chiến dịch tiến công tổng hợp ở đồng bằng Nam Bộ và đồng bằng Khu 5. Thời gian mở màn, hướng đánh, quy mô sử dụng lực lượng và cường độ cuộc tiến công chiến lược khiến Mỹ và chính quyền, quân đội Sài Gòn bất ngờ, choáng váng, bị thiệt hại nặng nề. Cuộc tiến công chiến lược đã giáng những đòn tiêu diệt rất quan trọng vào lực lượng chính quy của quân đội Sài Gòn, đập với nhiều tuyến phòng ngự cơ bản vòng ngoài rất mạnh và rất kiên cố của địch tư bắc Quảng Trị đến Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. Ta chiếm giữ thêm những địa bàn xung yếu có sức uy hiếp mạnh các căn cứ, chi khu, đô thị, giải phóng nhiều vùng rộng lớn gồm hầu hết các tỉnh Quảng Trị, Kon Tum, bắc Bình Định, hoàn chỉnh vùng giải phóng Đông Nam Bộ (Tây Ninh, Bình Long, Phước Long), mở ra vùng giải phóng mới ở đồng bằng Khu 5, đồng bằng sông Cửu Long.

Cuộc tiến công chiến lược 1972 của ta giáng một đòn sấm sét vào chủ trương củng cố thế trận phòng ngự hòng giữ nguyên hiện trạng chiến trường của Mỹ và chính quyền Sài Gòn - một chủ trương nhằm tránh mọi sự đảo lộn về chiến lược, tạo điều kiện thuận lợi cho Níchxơn bước vào năm vận động tranh cử tổng thống nhiệm kỳ mới. Bị bất nờ rất lớn không quân và hải quân ồ ạt tham chiến ở miền Nam để cứu nguy cho quân đội Sài Gòn, đồng thời mở lại cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc với quy mô, cường độ rất khốc liệt; kể cả sử dụng máy bay B.52 đánh sâu vào nội địa và phong tỏa cảng biển, cửa sông cùng hệ thống giao thông đường thủy trên miền Bắc. Bom đạn Mỹ đã gây ra cho nhân dân ta trên cả hai miền những tổn thất nặng nề về sinh mạng và của cải. Ở miền Bắc, một loạt các mục tiêu dân sự, quân sự bị đánh phá và bị uy hiếp dữ dội; các hoạt động kinh tế, bảo đảm đời sống, bảo đảm giao thông, chi viện chiến trường bị tác động mạnh. Trên chiến trường miền Nam, dưới sự chi viện hỏa lực ồ ạt của không quân, hải quân Mỹ, quân đội Sài Gòn mở các cuộc phản kích hòng tái chiếm những địa bàn trọng yếu vừa bị mất, đặc biệt là Thành cổ Quảng Trị. Thâm độc hơn, đi đôi với các biện pháp quân sự trên đây. Chính quyền Mỹ tiếp tục ráo riết thực hiện các thủ đoạn ngoại giao xảo quyệt và độc ác nhằm chia rẽ và kiềm chế các nước xã hội chủ nghĩa; đặc biệt là giữa Trung Quốc và Liên Xô, bao vây, cô lập cuộc kháng chiến của nhân dân ta, ngăn chặn bước phát triển của cuộc tiến công chiến lược của ta ở miền Nam và cuộc kháng chiến của nhân dân ba nước Đông Dương.

Giữ vững đường lối độc lập, tự chủ và điều kiện quốc tế, Đảng, Nhà nước ta đã lãnh đạo, chỉ đạo toàn dân toàn quân ta trên cả hai miền Nam, Bắc bền lòng kháng chiến, đẩy mạnh tiến công, đưa sự nghiệp kháng chiến tiếp tục phát triển.

Trên chiến trường miền Nam, quân và dân ta chiến đấu quyết liệt, làm thất bại nhiều cuộc phản công quy mô lớn của quân đội Sài Gòn với sự yểm trợ của không quân, hải quân Mỹ, phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng với các hướng chính, tại nhiều địa phương, quân và dân ta đẩy mạnh các hoạt động quân sự và chính trị, cắt đứt hoặc uy hiếp mạnh các tuyến giao thông chiến lược quan trọng và mở thêm vùng giải phóng. Cùng với quá trình đó, ta triển khai được lực lượng chủ lực lớn trên các địa bàn chiến lược trọng yếu ở cả khu vực rừng núi đến đồng bằng, củng cố và tăng cường thế chiến lược vững chắc của cách mạng miền Nam. Ở miền Bắc, khắc phục muôn vàn khó khăn gian khổ, hy sinh, quân và dân ta vừa đánh trả có hiệu quả máy bay, tàu chiến Mỹ, duy trì và giữ vững sản xuất, đời sống; vừa bảo đảm mạch máu giao thông, tăng sức chi viện chiến trường. Ở Lào và Campuchia, ta và ban phối hợp với nhau, đẩy mạnh tiến công địch, mở rộng vùng giải phóng.

Nắm vững phương châm “Vừa đánh vừa đàm” nhằm kéo Mỹ “xuống thang”, giành thắng lợi từng bước và lợi dụng sức ép của dư luận đối với Níchxơn đang tăng lên trên từng ngàytrước cuộc bầu cử tổng thống Mỹ, tại Hội nghị Pari, trên cơ sở giữ vững nguyên tắc, ta mềm dẻo trong sách lược, kịp thời và chủ động đưa ra những đề xuất mới, những sáng kiến quan trọng buộc phía Mỹ phải đi đến công nhận Dự thảo Hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam do ta khởi thảo, thỏa thuận ký kết vào ngày 31-10-1972. Thế nhưng trái với thỏa thuận mà phía Mỹ đã cam kết, Níchxơn lật lọng, trì hoãn việc ký kết hiệp định để vượt qua tuyển cử và đề nghị sửa đổi những điều khoản cơ bản của dự thảo hiệp định. Hơn thế nữa, để buộc ta phải khuất phục và chấp nhận những điều kiện do phía Mỹ đưa ra trên bàn đàm phán, tập đoàn cầm quyền Mỹ ra lệnh mở cuộc tập kích chiến lược, sử dụng một lực lượng lớn không quân chiến lược và chiến thuật ồ ạt đánh phá dữ dội Hải Phòng, Hà Nội và nhiều nơi khác trên miền Bắc vào những ngày cuối năm 1972.

Hoạt động quân sự tàn bạo này của Mỹ bị cả loài người lên án mạnh mẽ. Bằng trí thông minh và lòng quả cảm, quân và dân ta ở miền Bắc đã giáng trả đích đáng, bắn rơi nhiều pháo đài bay B.52 và nhiều máy bay chiến thuật Mỹ, làm nên một “Điện Biên Phủ trên không” đập tan cố gắng quân sự cuối cùng và đánh bại âm mưu đàm phán trên thế mạnh của Mỹ.

Bị thất bại nặng nề cả về quân sự, chính trị trên hai miền Nam, Bắc Việt Nam, cuối cùng, đế quốc Mỹ buộc phải trở lại đàm phán, ký kết Hiệp định Pari, chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam; cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam là độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; cam kế tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam, chấm dứt sự dính líu quân sự và can thiệp vào công việc nội bộ miền Nam; thừa[nhận thực tế ở miền Nam Việt Nam có hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng kiểm soát và ba lực lượng chính trị.

Với việc Hiệp định Pari được ký kết, sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta “đã giành được thắng lợi rất to lớn, có ý nghĩa quyết định xu thế phát triển tất thắng của cách mạng miền Nam Việt Nam, đánh dấu một giai đoạn cách mạng rất vẻ vang của dân tộc, mở ra cho cách mạng miền Nam một giai đoạn mới: hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà”(1).


(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.34, tr.226.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Hai, 2011, 10:56:11 am
PHỤ LỤC

PHỤ LỤC I

HIỆP ĐỊNH VỀ CHẤM DỨT CHIẾN TRANH, LẬP LẠI
HÒA BÌNH Ở VIỆT NAM

http://vi.wikisource.org/wiki/Hi%E1%BB%87p_%C4%91%E1%BB%8Bnh_Paris_1973

PHỤ LỤC II

HIỆP ĐỊNH VỀ CHẤM DỨT CHIẾN TRANH
LẬP LẠI HÒA BÌNH Ở VIỆT NAM

http://vi.wikisource.org/wiki/Hi%E1%BB%87p_%C4%91%E1%BB%8Bnh_Paris_1973_(b%E1%BA%A3n_hai_b%C3%AAn)

PHỤ LỤC III

CÔNG HÀM CỦA TỔNG THÓNG HOA KỲ
GỬI THỦ TƯỚNG VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA

Ngày 1-2-1973.

Tổng thống thông báo cho Việt Nam dân chủ cộng hòa những nguyên tắc sẽ chỉ đạo sự tham gia của Hoa Kỳ về việc xây dựng lại sau chiến tranh ở Bắc Việt Nam. Như đã nêu trong Điều 21 của Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết tại Pari ngày 27 tháng Giêng năm 1973, Hoa Kỳ thực hiện sự tham gia này theo chính sách truyền thống của mình.

Những nguyên tắc đó là:

1. Chính phủ Hoa Kỳ sẽ đóng góp vào công việc xây dựng lại sau chiến tranh ở Bắc Việt Nam mà không có bất cứ điều kiện chính trị nào.

2. Việc nghiên cứu sơ bộ của Hoa Kỳ cho thấy rằng những chương trình thích hợp cho sự đóng góp của Hoa Kỳ vào công cuộc xây dựng lại sau chiến tranh sẽ là khoảng 3,25 tỷ đôla viện trợ không hoàn lại trong một thời gian 5 năm. Những hình thức viện trợ khác sẽ được Chính phủ Hoa Kỳ và Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa xét duyệt lại và thỏa thuận chi tiết.

3. Hoa Kỳ sẽ đề nghị với Việt Nam dân chủ cộng hòa là sẽ thành lập một Ủy ban hỗn hợp kinh tế Mỹ - Bắc Việt Nam trong vòng 30 ngày kể từ ngày gửi công hàm này.

4. Chức năng của Ủy ban này sẽ là đề ra các chương tình cho việc đóng góp của Hoa Kỳ vào công cuộc xây dựng lại ở Bắc Việt Nam. Sự đóng góp của Hoa Kỳ sẽ tiến hành trên cơ sở những yếu tố sau đây.

a) Các nhu cầu của Bắc Việt Nam do những tàn phá của chiến tranh gây nên.

b) Các yêu cầu của công cuộc xây dựng lại sau chiến tranh trong các lĩnh vực nông nghiệp và công nghiệp của nền kinh tế Bắc Việt Nam.

5. Ủy ban hỗn hợp kinh tế sẽ gồm những đại diện ngang nhau của mỗi bên. Ủy ban sẽ thỏa thuận về một bộ máy để quản lý chương trình đóng góp của Hoa Kỳ vào công cuộc xây dựng lại Bắc Việt Nam. Ủy ban sẽ cố gắng hoàn thành sự thỏa thuận này trong vòng 60 ngày sau khi được thành lập.

6. Hai thành viên của Ủy ban sẽ hoạt động trên nguyên tắc tôn trọng chủ quyền của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi. Những trụ sở của Ủy ban sẽ đạt tại một nơi sẽ được thỏa thuận giữa Hoa Kỳ và Việt Nam dân chủ cộng hòa.

7. Hoa Kỳ cho rằng việc thực hiện những nguyên tắc nói trên đã thúc đẩy những quan hệ kinh tế thương mại và các quan hệ khác giữa Hoa Kỳ và Việt Nam dân chủ cộng hòa và sẽ góp phần vào việc đảm bảo một nền hòa bình vững hậu cầnắc và lâu dài ở Đông Dương. Những nguyên tắc này sẽ phù hợp với tinh thần của Chương VIII của Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam tại Pari ngày 27 tháng Giêng năm 1973.

Điều ghi nhớ về những hình thức viện trợ khác:

Về những hình thức viện trợ khác, việc nghiên cứu của Hoa Kỳ cho thấy rằng những chương trình thích chợp, có thể là vào khoảng 1 đến 1,5 tỷ đôla tùy theo nhu cầu của Việt Nam dân chủ cộng hòa về lương thực và hàng hóa khác.

Hiểu biết về chương trình xây dựng lại kinh tế.

Có sự hiểu là những đề nghị của Ủy ban hỗn hợp kinh tế nói trong công hàm của Tổng thống gửi Thủ tướng sẽ do mỗi thành viên thực hiện theo những quy định Hiến pháp của mình.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Hai, 2011, 10:57:37 am
(http://img146.imageshack.us/img146/1268/p003a.jpg)

Đồng chí Lê Duẩn cùng Thượng tướng Văn Tiến Dũng thăm và kiểm tra
tình hình sẵn sàng chiến đấu tại Quân chủng Phòng không - Không quân, tháng 5-1972

(http://img3.imageshack.us/img3/81/p003b.jpg)

Ngày 17-2-1972, Đại tướng Võ Nguyên Giáp chủ trì cuộc họp
của Quân ủy Trung ương và ra chỉ thị Kiên quyết đánh bại
cuộc chiến tranh phá hoại mới của đế quốc Mỹ

(http://img25.imageshack.us/img25/7172/p004b.jpg)

Xác máy bay B.52 bị tên lửa phòng không bắn rơi tại hồ Hữu Tiệp, làng Ngọc Hà, Ba Đình, Hà Nội

(http://img843.imageshack.us/img843/3780/p005a.jpg)

Bộ đội cao xạ chiến đấu bảo vệ Hà Nội, tháng 12-1972


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Hai, 2011, 10:58:23 am
(http://img151.imageshack.us/img151/47/p005b.jpg)

Bộ đội cao xạ chiến đấu bảo vệ Hải Phòng, tháng 12-1972

(http://img844.imageshack.us/img844/4726/p006i.jpg)

Phi công Phạm Tuân trao đổi kinh nghiệm đánh B.52 cùng đồng đội năm 1972

(http://img196.imageshack.us/img196/1306/p007a.jpg)

Thượng tướng Văn Tiến Dũng cùng Bộ Chỉ huy chiến dịch Trị - Thiên, năm 1972

(http://img822.imageshack.us/img822/4854/p007b.jpg)

Sở Chỉ huy chiến dịch Nguyễn Huệ họp thông qua kế hoạch tác chiến


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Hai, 2011, 10:59:16 am
(http://img534.imageshack.us/img534/5109/p008au.jpg)

Bộ đội Quảng Trị giữa hai trận chiến đấu, năm 1972

(http://img209.imageshack.us/img209/4355/p008bn.jpg)

Đánh chiếm cứ điểm Đầu Mầu - Quảng Trị, năm 1972

(http://img844.imageshack.us/img844/7479/p009a.jpg)

Quân giải phóng đánh chiếm sân bay An Lộc, Đông Nam Bộ, năm 1972

(http://img135.imageshack.us/img135/623/p009b.jpg)

Quân giải phóng đánh chiếm sân bay Tây Ninh, năm 1972

(http://img135.imageshack.us/img135/350/p010a.jpg)

Bộ đội Trường Sơn vận chuyển hàng ra chiến trường, năm 1972


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Hai, 2011, 11:01:03 am
(http://img89.imageshack.us/img89/5726/p010bq.jpg)

Kho hàng trung chuyển trên đường Trường Sơn, năm 1972

(http://img824.imageshack.us/img824/2299/p011a.jpg)

Hội đàm bí mật Lê Đức Thọ - Kítxinhgiơ tại Pari

(http://img201.imageshack.us/img201/5392/p011b.jpg)

Toàn cảnh phiên họp cuối cùng tại Hội nghị Pari, ngày 27-1-1973

(http://img209.imageshack.us/img209/7118/p012a.jpg)

Nhân dân Tây Ninh nổi dậy giành quyền làm chủ

(http://img11.imageshack.us/img11/5048/p012b.jpg)

16 giờ ngày 29-3-1973, tại sân bay Tân Sơn Nhất, Bộ Tư lệnh quân viễn chinh Mỹ
làm lễ cuốn cờ rút khỏi miền Nam Việt Nam


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Hai, 2011, 11:02:42 am
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giôgiép A.Amtơ: Lời phán quyết về Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1985.

2. Ban Chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị: Chiến tranh cách mạng Việt Nam 1945-1975 - Thắng lợi và bài học, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000.

3. Ban Chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộc Chính trị: Chiến tranh cách mạng Việt Nam 1945-1975 - Thắng lợi và bài học, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995.

4. Ban Chỉ đạo biên soạn Lịch sử Khu 6 kháng chiến chống Mỹ, cứu nước: Khu 6 kháng chiến chống Mỹ (1954-1975), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002.

5. Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh: Tổng kết chiến tranh nhân dân địa phương (Chuên đề chỉ đạo xây dựng và hoạt động chiến đấu của lực lượng phòng không địa phương chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ trên miền Bắc 1954-1975), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2001.

6. Ban Tổng kết - lịch sử Bộ Tổng tham mưu: Thống kê số liệu chiến tranh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), tài liệu lưu tại Ban Tổng kết - lịch sử Bộ Tổng tham mưu.

7. Ban Tổng kết - lịch sử Bộ Tổng tham mưu: Tổng kết Bộ Tổng tham mưu trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1997.

8. Báo cáo hướng tiến công chiến lược Trị - Thiên năm 1972 - giải phóng Quảng Trị, kiên cường bảo vệ Thành cổ và vùng giải phóng, 1987, tài liệu lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.

9. Báo cáo tổng kết kinh nghiệm cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ (B2), Ban Tổng kết chiến tranh B2, 1979, tài liệu lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.

10. Phòng Tổng kết chiến tranh Khu 6 thuộc Ban Tổng kết chiến tranh B2: Báo cáo tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường Khu 6 (cực Nam Trung Bộ - nam Tây Nguyên), t.3, tài liệu lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.

11. Biên bản cuộc họp Đảng ủy tiền phương Bộ Tư lệnh chiến dịch tiến công tổng hợp đánh phá bình định trên chiến trường Khu 8, ngày 25 và 26-6-1972, tài liệu lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.

12. Bộ Quốc phòng - Quân khu 7: Lịch sử Bộ Chỉ huy Miền, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004.

13. Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), t.2, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991.

14. Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Nghệ thuật chiến dịch Việt Nam 1954-1975, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1995.

15. Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Tóm tắt các chiến dịch trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2001.

16. Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, t.2, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1999.

17. Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Quân đội nhân dân Việt Nam - Biên niên sự kiện, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2002.

18. Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Chiến dịch tiến công tổng hợp Quân khu 8 (đồng bằng sông Cửu Long) năm 1972, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1987.

19. Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Sửa lại cho đúng, bàn thêm cho rõ (tuyển chọn từ Tạp chí Lịch sử quân sự), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội 2006.

20. Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Đồng Tháp: Ba mươi năm kháng chiến của quân dân tỉnh Đồng Tháp, 1990.

21. Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Bến Tre: Bến Tre - 30 năm kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, 1990.

22. Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Bình Định: Bình Định - Lịch sử chiến tranh 30 năm, 1992.

23. Bộ Tư lệnh Quân khu 5: Tổng kết chiến dịch tiến công tổng hợp bắc Bình Định, từ ngày 9-4 đến 3-5-1972, tài liệu lưu trữ tại Phòng Khoa học Công nghệ - Môi trường Quân khu 5.

24. Chỉ thị số 31/CT-TM của Bộ Tổng Tham mưu.

25. Chiến sử Bình Long, Sài Gòn, Bộ Tổng Tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa, 1973.

26. Chiến trường Trị Thiên - Huế trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Nxb. Thuận Hóa, 1985.

27. Gabrien Côncô: Giải phẫu một cuộc chiến tranh, in lần thứ hai, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004.

28. Cục Tác chiến - Bộ Tổng Tham mưu: Thống kê lực lượng địch ở miền Nam Việt Nam (1954-1975), tài liệu lưu tại Cục Tác chiến - Bộ Tổng Tham mưu.

29. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Những sự kiện quân sự, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Hà Nội, 1988.

30. Cuộc kháng chiến 30 năm của quân dân Tiền Giang, Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Tiền Giang, 1988.

31. Cuộc chiến tranh chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Tây Ninh, Ban Tổng kết chiến tranh Tỉnh ủy Tây Ninh, 1984.

32. Cửu Long - 21 năm kiên cường đánh Mỹ, Nxb. Cửu Long, 1986.

32. Lê Duẩn: Thư vào Nam, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1985.

34. Lê Duẩn: Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập, vì tự do, vì chủ nghĩa xã hội, tiến lên giành những thắng lợi mới, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1985.

35. Lê Duẩn: Nắm vững đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa, tiến lên xây dựng kinh tế địa phương vững mạnh, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1970.

36. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, t.33 (1972), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004.

37. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, t.34 (1973), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004.

38. Điện số 236/TK ngày 10-9-1971 của Bộ Quốc phòng gửi Mặt trận Tây Nguyên, Quân khu 5 và Miền, lưutại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.

39. Điện số 400/TK, ngày 1-6-1972 của Quân ủy Trung ương gửi miền Đông, Quân khu ủy và Khu ủy Khu 5, Đảng ủy B3, Thường vụ Khu ủy và Khu ủy Trị - Thiên, lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.

40. Điện số 118/TK, ngày 10-7-1972, lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.

41. Phạm Văn Đồng: 25 năm chiến đấu và thắng lợi, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1970.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Hai, 2011, 11:03:35 am
42. Đồng Nai - 30 năm chiến tranh giải phóng, Nxb. Đồng Nai, 1986.

43. Đường Hồ Chí Minh - một sáng tạo chiến lược của Đảng (Kỷ yếu hội thảo khoa học), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1999.

44. Ilya V.Gaiduk: Liên bang Xô Viết và cuộc chiến tranh Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 1998.

45. Võ Nguyên Giáp: Chiến tranh giải phóng và chiến tranh giữ nước, t.2, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1975.

46. Trần Văn Giàu: Miền Nam giữ vững thành đồng, t.5, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1978.

47. L.B. Giônxơn: Cuộc đời làm tổng thống của tôi, Nxb. Buysét Xaxten, Pari, 1972.

48. L.B. Giônxơn: Về cuọc chiến tranh xâm lược miền Nam và cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc Việt Nam, Việt Nam Thông tấn xã phát hành, Hà Nội, 1972.

49. Hậu phương miền Bắc cung cấp người, vật chất cho chiến trường miền Nam từ 1959 đến 1975, lưu trữ Bộ Quốc phòng, số 791.

50. Hậu Giang - 21 năm kháng chiến chống Mỹ, Nxb Tổng hợp Hậu Giang, 1987.

51. Giócgơ C. Hiarinh: Cuộc chiến tranh dài ngày nhát của nước Mỹ, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998.

52. Hồ sơ những văn kiện của Đảng về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), lưu tại Bộ môn Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.

53. Khu 5 - 30 năm chiến tranh giải phóng, t.III: Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (thời kỳ 1969-1975), Bộ Tư lệnh Quân khu 5, 1989.

54. Kiên Giang - 30 năm chiến tranh giải phóng (1945-1975), Bộ Chỉ huy quân sự Kiên Giang, 1987.

55. Henry Kítxinhgiơ: Ở Nhà Trắng (hồi ký), Nxb. Fayard Pari, 1979, Thư viện Trung ương Quân đội sao lục, 1982.

56. Lịch sử Bà Rịa - Vũng Tàu kháng chiến (1954-1975), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1987.

58. Lịch sử Hải quân nhân dân Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1985.

59. Lịch sử hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam, t2. (1954-1975), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1999.

60. Lịch sử Quân chủng Phòng không, t.2, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1993.

61. Lịch sử Quân đội nhân dân Lào, bản dịch tiếng Việt, lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.

62. Lịch sử Pháo binh Quân đội nhân dân Việt Nam (1954-1975), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1991.

63. Lịch sử Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định kháng chiến (1945-1975), Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1994.

64. Lịch sử Sư đoàn 308 Quân tiên phong (tái bản), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1999.

65. Lịch sử Viện kỹ thuật quân sự (1960-2000), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2000.

66. Long An - Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994.

67. Lưu Văn Lợi: Năm mươi năm ngoại giao Việt Nam 1945-1995, t.1, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 1996.

68. Lưu Văn Lợi, Nguyễn Anh Vũ: Các cuộc thương lượng bí mật Lê Đức Thọ - Kítxinhgiơ, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 1986.

69. Lưu Văn Lợi, Nguyễn Anh Vũ: Các cuộc thương lượng bí mật Lê Đức Thọ - Kítxinhgiơ, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2002.

70. Lực lượng vũ trang nhân dân Tây Nguyên trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1980.

71. Lực lượng vũ trang ta trong kháng chiến chống Mỹ, cứ nước từ 19955 đến 1975, bản số 1, tập thống kê số liệu trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Bộ Tổng tham mưu và Bộ Quốc phòng Quân đội nhân dân Việt Nam, tài liệu lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.

72. Lực lượng vũ trang nhân dân Trà Vinh 30 năm kháng chiến (1945-1975), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1988.

73. Mặt trận Tây Nguyên 1972, tài liệu lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.

74. Mặt trận vùng giới tuyến 72, Phòng 5 - Khối Quân sử Bộ Tổng Tham mưu quân lực Việt Nam Cộng hòa, Sài Gòn, 1974.

75. Mấy vấn đề chỉ đạo chiến lược trong 30 năm chiến tranh giải phóng (1945-1975), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1999.

76. Miền Đông Nam Bộ kháng chiến (1945-1975), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1993.

77. Minh Hải - 30 năm chiến tranh giải phóng, Nxb. Mũi Cà Mau, 1986.

78. Một số văn kiện của Đảng về chống Mỹ, cứu nước, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1985.

79. Rôbớt S. Mc Namara: Nhìn lại quá khứ - tấn thảm kịch và những bài học về Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995.

80. Nghị quyết Quân ủy Trung ương tháng 6-1971, lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.

81. Nghị quyết Quân ủy và Thường vụ Quân ủy Trung ương tháng 3-1972, lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.

82. Nghị quyết Hội nghị Trung ương Cục lần thứ 9, tháng 7-1969, tài liệu lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập 7
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Hai, 2011, 11:04:22 am
83. Nghị quyết Hội nghị Trung ương Cục lần thứ 14, tháng 10-1974, tài liệu lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.

84. Những kinh nghiệm chủ yếu của đòn chủ lực trong cuộc tiến công chiến lược năm 1972, Ban Nghiên cứu lịch sử quân đội, 1986, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam sao y bản chính và lưu trữ.

85. A.V. Nikin: Nước Mỹ, t.2, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1979.

86. Oétmolen: Một quân nhân tường trình, Nxb. Đápbơđây Cămpơny Inh Gađừn Xity, Niu Oóc, 1976, Thư viện quân đội dịch, 1978, bản đánh máy.

87. Phú Yên, 30 năm chiến tranh giải phóng, Bộ Chỉ huy quân sự Phú Yên, 1993.

88. J.Pimlốt: Việt Nam - Những trận đánh quyết định, Trung tâm thông tin Khoa học - Công nghệ - Môi trường Bộ Quốc phòng ấn hành, Hà Nội, 1997.

89. Pierre Asselin: Nền hòa bình mong manh - Oasinhtơn - Hà Nội và tiến trình của Hiệp định Pari, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.

90. Pitơ A.Pulơ: Nước Mỹ và Đông Dương từ Rudơven đến Níchxơn, nxb. Thông tin lý luận, Hà Nội, 1985.

91. Quân đội nhân dân Việt Nam - Bộ Tổng tham mưu: Tổn kết chiến dịch Quảng Trị - Thừa Thiên 1972, Cục Quân huấn, 1973, tài liệu lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.

92. Quân đội nhân dân Việt Nam - Quân khu 9: Báo cóa tổng kế chiến dịch tiến công tổng hợp đánh phá bình định trên địa bàn Quân khu 8 (từ ngày 10-6 đến10-9-1972), tháng 8-1985, tài liệu lưu tại Phòng Khoa học Công nghệ - Môi trường Quân khu 9.

93. Quân khu 4 - Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994.

94. Quân khu 3 - Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1996.

96. Quảng Ngãi - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975), Nxb. Tổng hợp Nghĩa Bình, 1989.

97. Quảng Nam - Đà Nẵng - 30 năm chiến đấu và chiến thắng, 6.2, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1988.

98. Quảng Trị - Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Quảng Trường hợp, 1998.

99. Lê Quốc Sản: Cuộc đọ sức thần kỳ, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1991.

100. Nâylơ Shihan: Sự lừa dối hào nhoáng - Giôn Pônvan và nước Mỹ ở Việt Nam, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1990.

101. Sông Bé - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm, Nxb. Tổng hợp Sông Bé, 1990.

102. Sư đoàn 325 (1954-1975), t.II, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1986.

103. Sự thật về những lần xuất quân của Trung Quốc và quan hệ Việt - Trung, Nxb. Đà Nẵng, 1996.

104. Sức mạnh Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1976.

105. Sức mạnh chiến thắng của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1985.

106. Tây Bắc - Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994.

107. Tây Bắc - 30 năm chiến tranh cách mạng, t.2, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1992.

108. Thủ đô Hà Nội - Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1991.

109. Thái Bình chống Mỹ cứu nước (1954-1975), Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Thái Bình, 1995.

110. Tiếp xúc bí mật Việt Nam - Hoa Kỳ trước Hội nghị Pari, Viện Quan hệ quốc tế ấn hành, Hà Nội, 1990.

111. Tóm tắt Tổng kết chiến tranh Việt Nam của Bộ Quốc phòng Mỹ, t. 1, bản đánh máy, tài liệu lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.

112. Tổng cục Thống kê: Niên giám thống kê tóm tắt năm 1973, Hà Nội, 1973.

113. Tổng cục Thống kê: 30 năm phát triển kinh tế và văn hóa của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1978.

114. Tổng cục Hậu cần: Công tác vận tải quân sự trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, cứu nước trên đường Hồ Chí Minh (1959-1975), Hà Nội, 1984.

115. Nguyễn Duy Trinh: Mặt trận ngoại giao ghời kỳ chống Mỹ, cứu nước, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1979.

116. Trong cuộc đối đầu thế kỷ, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1996.

117. Tuy Hòa - Những chặng đường đấu tranh cách mạng (1929-1975), Ban Lịch sử Đảng Tuy Hòa, 1988.

118. Từ điển chiến tranh Việt Nam, Nxb. Grin Uốt Prét Oétpót (The dictionary of the Vietnam war, Green wood Press Westport), 1988.

119. Viện Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, 6.2 (1954-1975), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995.

120. Viện Khoa học xã hội Việt Nam - Viện kinh tế học: 45 năm kinh tế Việt Nam (1945-1990), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1990.

121. Viện Lịch sử quân sự Việt Nam - Phân viện phía Nam: Lịch sử chiến dịch Nguyễn Huệ 1972, tài liệu lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.

122. Việt Nam - Con số và sự kiện, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1990.

123. Việt Nam - Những sự kiện, t.2 (1954-1975), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1976.