Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thảo luận Lịch sử bảo vệ Tổ quốc => Từ thuở mang gươm đi mở cõi... => Tác giả chủ đề:: lonesome trong 23 Tháng Mười, 2010, 01:58:48 am



Tiêu đề: Từ Luy Lâu - Long Biên đến Thăng Long - Hà Nội
Gửi bởi: lonesome trong 23 Tháng Mười, 2010, 01:58:48 am
Từ Luy Lâu - Long Biên đến Thăng Long - Hà Nội (I)

(Chinhphu.vn) - Luy Lâu ở đâu và vì sao lại trở thành trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa của nước ta trong suốt thời Bắc thuộc để rồi sau nhường vai trò này cho Thăng Long - Hà Nội thời độc lập - tự chủ?


(http://baodientu.chinhphu.vn/Uploaded_VGP/hatheluc/20100706/chuadau-tvhs-04.jpg)
Chùa Dâu nằm trong trung tâm Phật giáo Luy Lâu xưa.

Các nguồn thư tịch cổ Trung Quốc và Việt Nam cho biết Luy Lâu (hay Liên Lâu) là trị sở của Thái thú Sỹ Nhiếp ở Giao Châu, đóng tại làng Lũng Khê, Phủ Thuận Thành, nay thuộc các xã Thanh Khương, Trí Quả, Gia Đông thuộc huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Ở đấy vẫn còn di tích thành, đền thờ và Lăng mộ Sỹ Nhiếp.

Theo sự chỉ dẫn trên, từ nhiều thập kỷ nay, nhiều nhà khoa học đã để tâm tìm hiểu Luy Lâu. Đặc biệt từ đầu những năm 1970 trở lại đây, giới sử học và khảo cổ học Việt Nam đã tiến hành nhiều đợt nghiên cứu, khảo sát, khai quật khảo cổ học tại Luy Lâu. Các kết quả nghiên cứu đã cho thấy, Luy Lâu là khu di tích khảo cổ học thời Bắc thuộc có quy mô rộng lớn nhất (hàng mấy chục vạn mét vuông) với số lượng di tích phong phú nhất ở nước ta hiện nay.

Tổng thể các nguồn tài liệu và di tích ở Luy Lâu đã cho phép tìm hiểu lịch sử hình thành và phát triển của đô thị Luy Lâu - trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa cổ xưa có quy mô lớn nhất của nước ta thời Bắc thuộc.

Trước hết, Luy Lâu có nhiều lợi thế về vị trí cảnh quan. Đây là vùng đất cao , thoáng, bao quát được cả khu vực rộng lớn của đồng bằng châu thổ, đồng thời nằm ở vị trí chiến lược về nhiều mặt.

Cảnh quan Luy Lâu xưa gắn liền với sông nước, thông thương với Biển Đông nhưng vẫn cao thoáng, phong quang hơn các vùng xung quanh, nhất là so với miền Hà Nội ở những thế kỷ Tr-S.C.N. Đặc biệt, từ rất sớm, Luy Lâu là nơi gặp gỡ, giao hội của các luồng giao thông thủy, bộ quan trọng.

Với lợi thế địa - cảnh quan đó, Luy Lâu đã sớm trở thành trung tâm kinh tế, văn hóa của người Việt ở những thế kỷ Tr.C.N. Các di tích khảo cổ học ở Luy Lâu và các vùng xung quanh là những chứng tích vật chất khẳng định điều đó.

Đặc biệt mới đây đã tìm thấy di tích khuôn đúc trống đồng bằng đất ở trong Thành Luy Lâu. Đây là di tích khuôn đúc trống đồng Đông Sơn lần đầu tiên tìm thấy ở nước ta, khẳng định Luy Lâu không chỉ là địa bàn cư trú mà còn là trung tâm kinh tế, văn hóa của người Việt ở đồng bằng châu thổ từ những thế kỷ Tr.C.N. Trong khu vực Luy Lâu, cùng các chứng tích khảo cổ học là hàng loạt các di tích như lăng mộ Kinh Dương Vương, đền thờ Lạc Long Quân và Âu Cơ, đền thờ các tướng thời Hùng Vương, Hai Bà Trưng. Rồi các tài liệu, địa danh, truyền thuyết, tín ngưỡng thờ các tướng thờ “Thạch Quang”, “Tứ Pháp”, lễ hội Dâu với các trò diễn tắm Phật, cướp nước… đã thể hiện cuộc sống và sinh hoạt văn hóa tâm linh rất điển hình của cư dân nông nghiệp vùng Dâu ở những thế kỷ Tr.C.N.

Với các nguồn tài liệu phong phú kể trên, đã cho phép các nhà nghiên cứu xác định: “Luy Lâu là tên phiên âm cổ của Dâu, một trong những bộ lạc lớn và quan trọng, hợp thành nước Văn Lang - Âu Lạc. Bộ lạc Dâu với trung tâm là Đền Bà Dâu, sau là trị sở Quận Giao Chỉ, là bộ lạc vùng đất bãi Sông Dâu, Sông Đuống, vốn làm nông nghiệp, trồng dâu, chăn tằm, dệt vải. Và Dâu trước thời Hán xâm lược có thể đã là trung tâm kinh tế, trung tâm buôn bán như một thị trấn”. Luy Lâu được coi là “Cái ổ từ đó người Việt tràn ra chiếm lĩnh miền trung châu”…

Trung tâm kinh tế - văn hóa Luy Lâu những thế kỷ Tr.C.N phản ánh xu thế tiến xuống đồng bằng châu thổ và chiếm lĩnh vùng ven biển phía Đông của người Việt cổ. Trong xu thế đó, phong kiến Trung Quốc đã nhận thấy Luy Lâu giữ vị trí ưu thế và thuận lợi về nhiều mặt để đặt trị sở thống trị, đồng thời chiếm giữ, khống chế con đường hàng hải quốc tế để tiến xuống chinh phục các nước phương Nam. Từ một trung tâm kinh tế - văn hóa của người Việt, Dâu (tức Luy Lâu) đã nhanh chóng trở thành trị sở thống trị của phong kiến nhà Hán ở Giao Chỉ.

Năm 149 Tr.C.N, Triệu Đà xâm chiếm Âu Lạc và sáp nhập vào Nam Việt. Năm 111 Tr.C.N, nhà Hán chinh phục Nam Việt, thiết lập chế độ quận, huyện. Đất nước ta thời Hán thuộc Quận Giao Chỉ, sau đó là Giao Châu.

Trong các công trình về lịch sử và văn hóa Việt Nam, hầu hết các nhà nghiên cứu đều xác định Luy Lâu (hay Liên Lâu) và Long Biên là hai huyện lớn thuộc Quận Giao Chỉ (sau đổi là Giao Châu) và trị sở của quận đã thay nhau đóng ở hai huyện này, mãi tới nửa đầu Thế kỷ IX, mới chuyển về Tống Bình, Đại La (tức Thăng Long - Hà Nội sau này).

Trị sở Long Biên ở đâu? Nhiều dự đoán, giả thuyết của không ít các nhà khoa học đưa ra ở các vị trí khác nhau thuộc các huyện Yên Phong, Quế Võ, Tiên Du, Từ Sơn, Thị xã Bắc Ninh thuộc tỉnh Bắc Ninh ngày nay. Các dự đoán giả thuyết đều chưa đủ sức thuyết phục vì thiếu hẳn chứng tích vật chất để khẳng định. Đó là nguồn tài liệu khảo cổ học.

Trong khi đó, trị sở Luy Lâu thì không những được các nguồn thư tịch cổ ghi chép, chỉ dẫn mà còn được khẳng định bằng khu di tích khảo cổ học Luy Lâu với trung tâm là tòa thành cổ ở làng Lũng Khê, xã Thạch Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh ngày nay.

Phác họa thành Luy Lâu xưa

Luy Lâu là ngôi thành đất, cấu trúc dạng chữ nhật, nằm gọn trong làng Lũng Khê, nay còn dấu tích với quy mô khá lớn, kích thước của các lũy thành đo được như sau: lũy thành phía Tây: 328m; lũy thành phía Đông: 320m; lũy thành phía Bắc: 680m; lũy thành phía Nam: 520m.

Các lũy thành bị san bạt đi nhiều, nhưng những chỗ còn lại vẫn cao khoảng 4 - 5m so với mặt ruộng hiện tại, mặt lũy rộng từ 5 đến 10m, chân rộng từ 25 đến 40m. Thành mở cửa chính ở giữa lũy phía Tây, nhìn ra Sông Dâu, hai bên cửa có dựng lầu gác gọi là “Vọng giang lâu”. Cửa sau mở ra phía Đông, nay còn địa danh xóm Cổng hậu. Trên mặt bốn góc thành là đồn canh, nay còn di tích “đồn quan trấn” (hay còn gọi là “tứ trấn thành quan”. Bao ngoài các thành lũy là hệ thống hào. Con Sông Dâu trở thành hào thiên nhiên ở mặt Tây, còn ba mặt Bắc - Đông - Nam là hào được tạo bởi đào đất đắp lũy thành mà nay còn lại dấu tích là những dãy ao rộng tới 40-50m chạy thành dải. Phía ngoài thành hào là những lũy tre dày đặc; các hào thông với nhau và nhận nước từ Sông Dâu, vừa là chướng ngại hiểm trở, vừa là hệ thống giao thông thuận tiện giữa trong và ngoài thành.

Trải trên diện rộng, trong và ngoài thành là dấu tích cư trú kiến trúc với vô vàn các di vật gạch ngói các loại, các đồ sinh hoạt, công cụ sản xuất… cho thấy trong và ngoài thành có những công trình kiến trúc quy mô to lớn. Giữa thành là Đền thờ Sỹ Nhiếp với tên gọi “Đền Nam Giao” cùng nhiều đồ vật, văn tự. Rồi hệ thống chùa tháp, đình, đền thờ các tướng của Hai Bà Trưng, khu mộ địa và Lăng Sỹ Nhiếp ở phía Đông thành (nay thuộc Làng Tam Á)…

Cho đến nay, ngoài Luy Lâu không có nơi nào trên đất nước ta còn lại một khu di tích phản ánh tập trung thế kỷ lịch sử Bắc thuộc, đặc biệt là về Sỹ Nhiếp trong thời gian làm Thái thú ở Giao Châu và đóng trị sở tại Luy Lâu.

Các nguồn thư tịch cổ Trung Quốc và Việt Nam (Hậu Hán thư, Giao Châu ngoại vực ký, An Nam chí lược, Đại Thanh thống nhất chí…) đã ghi Thành Luy Lâu có từ thời Tây Hán và là trị sở của Quận Giao Chỉ thời thuộc Hán - Ngô. Đặc biệt, sách Đại Việt sử ký toàn thư còn cho biết Luy Lâu (hay Liên Lâu) - Long Uyên - Long Biên chỉ là một.

Sỹ Nhiếp làm Thái thú Giao Châu dưới hai triều Đông Hán và Ngô trong thời gian 40 năm và hai lần được phong tước: Long Bộ Đình Hầu (triều Đông Hán) và Long Biên Hầu (triều Ngô). Suốt thời kỳ làm Thái thú Giao Châu, Sỹ Nhiếp chỉ đóng trị sở tại Luy Lâu mà không có sự chuyển dời nào. Di tích Thành Luy Lâu (còn có tên là Thành Sỹ Vương, Thành Nam Giao), rồi đền thờ ông ở trong thành, lăng mộ ở Tam Á, cùng các nguồn tài liệu bia ký, truyền thuyết, địa danh… ở Luy Lâu đều thống nhất chỉ định trị sở của Sỹ Nhiếp tại Luy Lâu.

Việc Sỹ Nhiếp được phong tước Long Biên hầu thời thuộc Ngô cho thấy, vào thời điểm này (nửa đầu thế kỷ III trở đi), Luy Lâu (hay Liên Lâu) đã mang tên Long Biên. Lý do việc chuyển đổi này có nhiều cách giải thích khác nhau. Theo Thủy kinh chú: “Năm Kiến An thứ 23 đời Hán, lúc bắt đầu lập thành (Long Biên), có giao long lượn đi, lượn lại ở hai bến Nam - Bắc, nhân đó đổi Long Uyên ra Long Biên”. Năm Kiến An thứ 23 đời Hán, tức năm 218 là thời điểm Giao Châu dưới quyền cai quản của Thái thú Sỹ Nhiếp.

Sỹ Nhiếp đã cho xây dựng Luy Lâu thành trị sở cai trị và trung tâm kinh tế, văn hóa ở Giao Châu. Thành Luy Lâu được tu bổ mở rộng với quy mô to lớn, trở thành công trình phòng vệ kiên cố và căn cứ quân sự lợi hại. Chính văn bia ở đền thờ Sỹ Nhiếp trong Thành Luy Lâu đã xác nhận: “Sỹ Nhiếp người nước Lỗ (Trung Quốc), là vị chân Nho, làm Thứ sử Giao Châu, hành đức giữ gìn Phật tượng ở ấp Lũng Chiền, Siêu Loại, Luy Lâu Thành. Lấy Luy Lâu Thành làm nơi ở, phụng sự đền thờ và bốn bên Thành Luy Lâu. Đó chính là nơi trị sở…”.

Tóm lại, các nguồn tài liệu, đặc biệt là tài liệu ở khu di tích Luy Lâu đã thống nhất và bổ sung cho nhau, xác định Luy Lâu chính là Long Biên thủ phủ Giao Chỉ - Giao Châu thời Bắc thuộc. Trị sở này được xây dựng, mở rộng với quy mô lớn, bề thế như kinh đô của một nước dưới thời cai quản của Thái thú Sỹ Nhiếp. Mãi tới nửa đầu thế kỷ IX, trung tâm chính trị Giao Châu mới chuyển dời từ Luy Lâu về Tống Bình (Đại La), chấm dứt vai trò của Luy Lâu gần suốt thời kỳ Bắc thuộc, thời kỳ lịch sử bi hùng của dân tộc ta trong cuộc đấu tranh chống lại sự xâm lược và đồng hóa để cuối cùng giành lại quyền độc lập dân tộc, xây dựng quốc gia tự chủ vào đầu Thế kỷ X.


Tiêu đề: Re: Từ Luy Lâu - Long Biên đến Thăng Long - Hà Nội
Gửi bởi: lonesome trong 23 Tháng Mười, 2010, 02:01:35 am
Phần II: Luy Lâu - trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa cổ xưa nhất

(Chinhphu.vn) - Luy Lâu thời Bắc thuộc không chỉ là trung tâm chính trị, mà còn là trung tâm kinh tế - thương mại, trung tâm văn hóa - tôn giáo lớn và cổ xưa nhất của nước ta.

(http://thanglong.chinhphu.vn/Uploaded_VGP/thukybientaphn/20100709/Chua-Dau-3.jpg)
Tượng cừu đá tại chùa Dâu mà một số tài liệu nói được tạc từ 2000 năm trước

Sự phân bố rộng lớn của khu di tích Luy Lâu (hàng mấy chục vạn mét vuông), với các loại hình phong phú và đậm nét dấu tích vật chất, trong đó phổ biến là đồ dùng sinh hoạt, vật liệu kiến trúc… cho thấy, Luy Lâu là khu dân cư đông đúc và các hoạt động kinh tế - thương mại nhộn nhịp, sầm uất. Luy Lâu thực sự là đô thị lớn thời Bắc thuộc. Căn cứ vào dấu tích còn lại có thể hình dung diện mạo đô thị Luy Lâu thời Bắc thuộc như sau.

Đô thị Luy Lâu nằm giữa khu vực giao nhau giữa Sông Dâu và Sông Đuống, giữa trung tâm đồng bằng châu thổ Bắc Bộ, trong đó Sông Dâu giữ vai trò trục không gian kiến trúc chính. Các công trình của đô thị chủ yếu dựng đặt, xây cất bên bờ Sông Dâu (thành lũy bên một bờ sông). Trung tâm đô thị là tòa Thành Luy Lâu kiên cố và bề thế - trụ sở chính và căn cứ quân sự của bộ máy cai trị. Trong thành là công đường, dinh thất, nhà cửa, đồn trại, kho bãi… Mặt lũy thành là tháp canh, đồn trại, bao lấy lũy thành là hào sâu, lũy tre dày đặc nhằm bảo vệ bộ máy cai trị của phong kiến ngoại tộc.

Ngoài thành, ở hai phía Nam - Bắc là nhà ở, dinh thự, lầu gác của quan lại, quý tộc là chủ yếu, mà nay còn lại dấu tích khảo cổ và địa danh Văn Quan, Phương Quan, Mã Quan, Cánh Sở…

Liền kề với khu cư trú của tầng lớp quý tộc, quan lại là khu vực buôn bán, phố chợ, bến bãi, mà nay vẫn còn Chợ Dâu ở phía Nam. Chợ Dàn ở phía Bắc Thành Luy Lâu với các địa danh bến bãi: Bến Giang Tân, Bến Ơn Trà, Bến Đồng Dâu, Cầu Dàn, Cầu Gạo, Cầu Phật Ngự… Tại những khu vực này nhan nhản vật liệu kiến trúc, đồ dùng sinh hoạt, tiền đồng… cho thấy nơi đây xưa kia san sát nhà cửa, kho bãi, phố chợ trên bến dưới thuyền.

Bao quanh Luy Lâu, trên những cánh bãi cao mầu mỡ là ruộng đồng, làng xóm của cư dân vùng Dâu chuyên cấy lúa, trồng dâu, chăn tằm, dệt vải, đánh bắt cá… Đáng chú ý là bao quanh đô thị Luy Lâu, có nhiều làng nghề phục vụ cho nhu cầu của bộ máy thống trị và các hoạt động của cư dân đô thị, như các làng thợ: Làng Tư Thế làm bút mực, Làng Mèn (tức Mặn Xá, quê của Phật mẫu Man Nương) làm quạt, Làng Văn Quan nấu chì, Làng Thanh Hoài nấu dầu, Làng Dàn uốn lưỡi câu… Đặc biệt ngay trong đô thị Luy Lâu đã có những làng buôn như Làng Đại Tự (Dâu Tự) buôn muối, Làng Lũng Chiền (tức Làng Lũng Khê) buôn nâu, và có cả một Làng Thanh Tương (Kẻ Tương) chuyên nghề hát ca trù. Các làng nghề, làng buôn ở trong và bao quanh đô thị Luy Lâu xưa đã đi vào bài hát trống quân trong vùng, cho thấy hoạt động của đô thị Luy Lâu xưa thật sự sầm uất:

“Tư thế bút mực làm giàu

Trà Lâm mổ lợn, uốn câu Làng Dàn

Nấu chì đã có Văn Quan

Kẻ Tương đi hát kiếm quan tiền tđi

Nấu dầu đã có Thanh Hoài



Dâu Tự buôn muối, Lũng Chiền buôn nâu…”

Các công trình kiến trúc, tôn giáo (đền đài, chùa tháp…) được xây cất trong thành, ngoài phố xá, làng mạc dọc bờ Đông Sông Dâu là chủ yếu, trong đó Chùa Dâu (Đền Bà Dâu) giữ vai trò trung tâm tôn giáo của đô thị Luy Lâu, được xây dựng quy mô bề thế.

Phía Đông Thành Luy Lâu, trên cánh đồng cao rộng lớn là khu mộ địa, gồm hàng mấy trăm ngôi, được xây dựng quy mô, tốn kém, trong đó to lớn hơn cả là lăng mộ Sỹ Nhiếp ở làng Tam Á.

Cấu trúc quy hoạch đô thị Luy Lâu như thế rất to lớn, bề thế, tề chỉnh như kinh đô của một nước, đồng thời là một trung tâm kinh tế, trung tâm thương mại sầm uất.

Tất nhiên, không phải ngay từ đầu, đô thị Luy Lâu đã được xây dựng quy mô bề thế. Các di tích ở Luy Lâu phản ánh, trong thời gian đóng trị sở tại đây, Sỹ Nhiếp là người có vai trò lớn trong việc xuống và mở rộng đô thị Luy Lâu với quy mô bề thế và tề chỉnh như kinh đô của một nước. Các hoạt động kinh tế - thương mại ở Luy Lâu rất phát triển. Cư trú và làm ăn tại Luy Lâu, ngoài người Việt, còn đông đảo người Hán, Ấn Độ, Trung Á… gồm nhiều thành phần: Thái thú, Thứ sử, quan lại, binh lính, sỹ đại phu, quý tộc, địa chủ, thợ thủ công, thương nhân, giáo sỹ. Số người này liên tục tràn tới Giao Châu không khi nào dứt và tập trung ngày càng đông ở đô thị Luy Lâu, nhất là dưới thời Sỹ Nhiếp.

Theo các nguồn sử liệu, các nước phương Tây và phương Nam muốn buôn bán, giao thiệp với Trung Quốc đều phải theo con đường Giao Chỉ. Từ Tr.C.N và nhất là từ thế kỷ II-III S.C.N trở đi, ngày càng có nhiều thương nhân nước ngoài đến buôn bán ở Giao Châu và thuyền buôn của họ thường xuyên có mặt ở Luy Lâu. Những chứng tích vật chất và các nguồn tài liệu ở Luy Lâu đã khẳng định Luy Lâu thực sự là trung tâm thương mại lớn - một đô thị cảng mang tính quốc tế của nước ta thời Bắc thuộc.

Sức sống mạnh mẽ của văn hóa bản địa
(http://baodientu.chinhphu.vn/Uploaded_VGP/hatheluc/20100708/3844591464_59b1dcefa5.jpg)
Khu lăng mộ Sĩ Nhiếp tại làng Tam Á


Với vị trí và vai trò đó, Luy Lâu trở thành trung tâm văn hóa, trung tâm Phật giáo của nước ta thời Bắc thuộc. Luy Lâu là trung tâm xâm nhập và truyền bá văn hóa Hán Đường vào nước ta. Tham gia vào công việc này, phần lớn là người Hán mà giữ vai trò quan trọng là tầng lớn quan lại, sỹ đại phu, quý tộc, thương nhân, thợ thủ công… Người làm công việc truyền bá có hiệu quả nhất phải kể tới Sỹ Nhiếp.

Các nguồn tài liệu về Luy Lâu xác nhận, Sỹ Nhiếp là người cho dựng chùa và tạc tượng “tứ pháp”, là người mở mang Hội Dâu và cũng chính là người ra khai hội hàng năm vào ngày 8 tháng Tư. Có thể thấy Sỹ Nhiếp là người đã được Việt hóa sâu sắc, chính vì vậy trong việc truyền bá văn hóa văn minh vào nước ta, Sỹ Nhiếp đã có sự thông hiểu và kết hợp nhuần nhuyễn với truyền thống văn hóa bản địa, do đó đem lại những hiệu quả to lớn và tích cực. Điều đó giải thích vì sao Sỹ Nhiếp là vị Thái thú duy nhất được nhân dân Luy Lâu ngưỡng vọng nhớ ơn và suy tôn là Sỹ Vương Tiên, Thánh Nam Giao, Nam Giao học tổ.

Cùng với Nho học, Phật giáo cũng được truyền bá vào nước ta qua trung tâm Luy Lâu. Các nguồn thư tịch, tài liệu ở Luy Lâu, nhất là Cổ Châu Pháp Vân Phật bản hạnh lưu tại Chùa Dâu, cho biết vào thế kỷ II-III S.C.N, Luy Lâu là trung tâm Phật giáo lớn và cổ xưa nhất của nước ta. Hoạt động Phật giáo ở đây rất nhộn nhịp và tập trung, tăng viện, chùa tháp được xây cất rất quy mô, tàng chứa hàng trăm bộ kinh. Hàng trăm tăng sỹ ấn Độ, Trung Quốc, Trung Á… đã tới Luy Lâu truyền đạo, nghiên cứu, biên dịch kinh Phật, đào tạo tăng đồ. Người đầu tiên đến Luy Lâu và dựng trung tâm Phật giáo ở đây là giáo sỹ ấn Độ Khâu Đà La. Các bộ kinh Bát thiên tung bát nhã, Pháp Hoa tam muội… là những bộ kinh xưa nhất trong hệ bát nhã đã được các tăng sĩ nghiên cứu và biên dịch tại Luy Lâu. Chính quốc sư Thông Biện triều Lý, trong lúc đàm đạo Phật pháp với Nguyên Phi ỷ Lan đã dẫn lời pháp sư Đàm Thiên cho biết: “Xứ Giao Châu có đường thông với Thiên Trúc. Khi Phật pháp mới đến Giang Đông chưa khắp thì ở Luy Lâu đã có hai mươi bảo tháp, độ được năm trăm vị tăng và dịch được mười lăm quyển kinh rồi”.

Nhiều kết quả nghiên cứu đã cho rằng, Phật giáo từ Luy Lâu truyền sang Bành Thành truyền tới Lạc Dương (Trung Quốc).

Từ thế kỷ VI đến thế kỷ IX, Luy Lâu là trung tâm của Thiền phái thứ nhất của Việt Nam. Thiền pháp Tì-ni-đa-lưu-chi. Ông là người ấn Độ đến Chùa Pháp Vân (tức Chùa Dâu) vào năm 580 và ở lại đây cho đến năm 594 thì tịch. Ông là học trò của Tăng Xán - vị tổ thứ ba của Thiền phái Thiền Tông (Trung Hoa) và được Tăng Xán truyền tâm ấn. Sách Thiền uyển tập anh không chỉ xác nhận trung tâm của Thiền pháp Tì-ni-đa-lưu-chi tại Chùa Dâu, mà còn cho biết 19 thế hệ của Thiền phái này với 31 vị cao tăng, trong đó hầu hết đã trụ trì tại Chùa Dâu.

Vào thế kỷ VI-VII, Luy Lâu được coi là nơi “linh địa” nên được vua nhà Tùy ban cho di vật của đức Phật và sư Pháp Hiền đã cho dựng tháp ở Chùa Dâu và nhiều nơi khác.

Cùng với Nho giáo, Phật giáo, các luồng tư tưởng tín ngưỡng dân gian Trung Quốc và các vùng lân cận cũng được truyền vào nước ta qua trung tâm Luy Lâu, như thuyết phong thủy, ma thuật, luyện đan, địa lý… Lời tựa sách Mâu Tử  viết: “Sau khi Hán Linh Đế băng hà, thiên hạ nhiễu loạn, chỉ có Giao Châu là khá yên ổn, các bậc dị nhân phương Bắc xuống đây phần lớn tin theo thuật thần tiên, luyện phép tích cốc trường sinh”. Nhiều nguồn sử liệu và truyền tích nói Sỹ Nhiếp chết đi rồi sống lại, chuyện ông này chết sau 160 năm mà mặt vẫn còn tươi, mắt vẫn còn mở, được coi là “Sỹ Vương Tiên”… Rồi những truyền tích về gò đống ở Luy lâu mà thực chất là những ngôi mộ gạch thời Bắc thuộc, cho thấy những luồng tư tưởng, tín ngưỡng ngoại nhập vào Luy Lâu khá sâu rộng.

Song, các yếu tố văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng ngoại nhập, khi vào Luy Lâu đều đã hòa nhập với văn hóa và tín ngưỡng bản địa, và tất cả đã được chuyển hóa, tái tạo để mang những nội dung, yếu tố văn hóa Việt: tôn thờ, ơn nhớ tổ tiên, sùng bái những bậc thánh thần, tiên Phật, những danh nhân có công phù giúp nhân dân làm ăn, đánh giặc, bảo vệ và phát triển văn hóa dân tộc.

Chính vì vậy, tại Luy Lâu, Sỹ Nhiếp được tôn thờ, ngưỡng vọng không phải với vai trò Thái thú mà là do công lao truyền bá văn hóa Hán trên cơ sở tôn trọng, kết hợp và hòa nhập với văn hóa bản địa của người Việt. Và thật dễ hiểu, ngay tại trung tâm Luy Lâu, vẫn đậm đặc những đền thờ Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân - Âu Cơ, những tướng lĩnh của Hùng Vương, của Hai Bà Trưng. Từ lâu, hàng năm vào ngày 5 tháng Giêng nhân dân Luy Lâu vẫn mở hội kỷ niệm ngày Hai Bà Trưng tổ chức mừng chiến thắng Tô Định và khao thưởng quân sỹ.

Sôi động và cuốn hút nhất vẫn là lễ hội Dâu hàng năm vào ngày 8 tháng Tư Âm lịch. Các nghi lễ tắm Phật, rước tượng “Thạch quang”, “Tứ pháp”, diễn trò cướp nước… đã thể hiện sức sống mạnh mẽ của văn hóa bản địa người Việt và sự hòa nhập của văn hóa tín ngưỡng ấn Độ, Trung Quốc tại trung tâm Luy Lâu thời Bắc  thuộc.

Trích Tổng tập Nghìn năm văn hiến Thăng Long


Tiêu đề: Re: Từ Luy Lâu - Long Biên đến Thăng Long - Hà Nội
Gửi bởi: thapbut trong 30 Tháng Mười, 2010, 03:44:42 pm
Xét các tước được phong của Sỹ Nhiếp có một số vấn đề:

- Vua Hán phong cho là Long Độ đình hầu

- Tôn Quyền phong cho là Long Biên hầu,

Năm 705, sau khi Võ Tắc Thiên bị buộc phải thoái vị, có hai quan chức học giả bị tạm thời đày xuống An Nam Đô Hộ Phủ. Đỗ Thẩm Ngôn bị đày xuống châu Phong và Thẩm Toàn Kỳ xuống châu Hoan. Hai ông này đều để lại những bài thơ cảm thán trong thời gian bị đi đày ở miền Nam. Dưới đây là một trong những bài thơ của Toàn Kỳ:

Ta được nghe nói nhiều về Giao Chỉ
Rằng những tục lệ miền Nam đi sâu vào lòng người
Mùa đông thì ngắn
Còn ba mùa còn lại thì mặt trời luôn toả sáng
Ở đó quan Úy Tô từng có cả một vương quốc
Và Sĩ Nhiếp vẫn lảng vảng từ thế giới bên kia
Nhà cửa trong làng truyền từ đời này sang đời nọ
Cá và muối đã có từ thuở xa xưa
Từ thời thượng cổ, người Việt triều cống chim bạch trĩ
Tướng quân Hán trầm tư vì con chim bồ cắt
Chòm sao Đại Hùng treo lơ lửng trên non Chung
Ngọn gió Nam thổi trên biển Trang
Từ khi ta rời quê nhà, năm tháng qua lại qua
Mái tóc bạc báo tin nay ta đã già
Các huynh đệ ta ai cũng chào thua định mệnh
Vợ con ta cũng đã ra người thiên cổ
Kìa con đường hiu quạnh, kìa bức tường đổ nát
và những giọt lệ rơi
Trái tim ta chẳng còn âm vang ý muốn của Trời nữa


Long Độ=Long Đỗ thì lại là đất Núi Nùng Sông Tô, hương Long Đỗ cổ, chính là đất Thăng Long

Do vậy thành Long Biên có mối liên hệ gần với đất Thăng Long, nếu đồng nhất vào Liên Lâu, Luy Lâu có vẻ chưa thuyết phục?