Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Tài liệu - Hồi ký Việt Nam => Tác giả chủ đề:: macbupda trong 27 Tháng Tám, 2010, 09:24:23 am



Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Tám, 2010, 09:24:23 am
(https://www.quansuvn.net/index.php?action=dlattach;topic=31677.0;attach=23330;image)

Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên
Tác giả: Thượng tướng Phùng Thế Tài, Thế Kỉ ghi
Nhà xuất bản: Quân đội nhân dân
Năm xuất bản: 1996
Số hóa: macbupda

LỜI NHÀ XUẤT BẢN

Đồng chí Phùng thế Tài, một trong những người đầu tiên có vinh dự được giao nhiệm vụ bảo vệ Bác Hồ khi Bác từ Mát-xcơ-va trở về Côn Minh (Trung Quốc) để bắt liên lạc với cách mạng trong nước tháng 2 năm 1940.

Biết bao nhiêu khó khăn, nguy hiểm trong những ngày đầu bỡ ngỡ giữa một môi trường phức tạp như thành phố Côn Minh hồi đó, nơi có cơ sở hoạt động của bọn Quốc dân đảng Vũ Hồng Khanh, Nghiêm Kế Tổ… luôn luôn tìm cách chống phá cách mạng Việt Nam. Với lòng kính yêu vô hạn của Bác hồ, thấy rõ trách nhiệm nặng nề việc bảo vệ một lãnh tụ của Đảng, của cách mạng Việt Nam, đồng chí Phùng Thế Tài đã đem hết nặng lực trí tuệ bảo vệ an toàn cho những ngày Bác Hồ hoạt động ở đây.

Từ năm 1942 đến năm 1945, đồng chí vẫn tiếp tục được giao nhiệm vụ bảo vệ Bác Hồ, đặc biệt trong những chuyến đi dài ngày ở nước ngoài, phải vượt qua nhiều khó khăn nguy hiểm, và cuối cùng đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, bảo vệ Bác trở về nước kịp thời lãnh đạo cách mạng Việt Nam bước vào giai đoạn mới.

Những ngày làm chỉ huy trưởng Mặt trận Hà Nội trong kháng chiến chống thực dân Phàp và làm tư lệnh bộ đội phòng không - không quân trong kháng chiến chống Mỹ, đồng chí Phùng Thế Tài luôn được sự dạy bảo, chỉ đạo của bác.

Nhân kỉ niệm lần thứ 106 ngày sinh của Bác Hồ và Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ VIII, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân xin giới thiệu với bạn đọc hồi kí “Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên” của Thượng tướng Phùng Thế Tài.


NHÀ XUẤT BẢN
QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Tám, 2010, 09:26:12 am
PHẦN MỘT

NGƯỜI ĐẦU TIÊN
BẢO VỆ BÁC

I.

ĐẾN VỚI CÁCH MẠNG

Cuối năm 1939, đồng chí Bùi Đức Minh, được Trung ương Đảng cử sang Vân Nam gặp đồng chí Vũ Anh, tức Trịnh Đông Hải, chuyển bức thư của Trung ương Đảng ta cho Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc giúp tìm cách liên lạc với đồng chí Nguyễn Ái Quốc được tin là từ Mạc Tư Khoa tới Diên An cuối năm 1938.

Đồng chí Vũ Anh là một trong hai người đồng chí đồng chí Lê Hồng Phong và Hà Huy Tập sau Đại hồi Đảng lần thứ nhất năm 1935 giao nhiệm vụ xây dựng cơ sở Đảng ở Vân Nam, nơi có nhiều Việt kiều đang làm ăn sinh sống. Tại đây một chi bộ Đảng Cộng sản Đông Dương đã được thành lập, lấy tên là chi bộ Vân Quý (Vân Nam - Quý Châu), do đồng chí Vũ Anh trực tiếp làm bí thư.

Đây chính là sự tình cờ may mắn mà tôi được gặp Bác, được giao nhiệm vụ bảo vệ Bác, lúc bấy giờ có tên là đồng chí Trần.

Cuộc đời có nhưng sự tình cờ mà không ai có thể lường trước được.

Tôi vốn là con của một gia đình nông dân nghèo quê ở làng Văn Minh, xã Văn Nhân, huyện Thường Tín nay là huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Tây. Bố mẹ đều làm ruộng, nhưng quanh năm cực nhọc cả nhà vẫn không đủ ăn.

Để đỡ gánh ngặng cho gia đình, mới 11 tuổi, tôi đã phải đi làm để kiếm sống. Năm 1933, mới mười hai tuổi, tôi đi theo một người làng làm công nhân hỏa xa sang Vân Nam kiếm việc. Những ngày đầu xa nước, đến ở làm công cho một gia đình Hoa kiều ở Chì Thôn, nhưng chỉ một thời gian ngắn tôi đã không chịu được cảnh hống hách, quát nạt của mấy đứa con chủ nhà. Hồi ở quê, bọn trẻ trong làng đứa nào cũng sợ tôi, tôi bảo gì chúng cũng phải nghe, vì nhà tôi tuy nghèo nhưng không hơn chung nó một cái đầu, lại có sức khỏe, nhanh nhẹn, tháo vát. Chơi trò gì cũng đứng ở cương vị chỉ huy. Sang đây, với thân phận làm thuê, tôi đã cố gắng nhẫn nhục, nhưng có một hôm vì quá ức, tôi đã đánh lại con chủ nhà rồi bỏ lên Côn Minh, thủ phủ của Vân Nam.

Phải mất hơn một tuần lễ lang thang trên phố, ai nhờ việc gì cũng làm, miễn là co tiền để sống qua ngày. Tối đên tôi thường ngủ trên ghế đá công viên Hạ Lầu, ngoài thành Côn Minh. Một hôm tôi đang nằm mơ màng thì có người gọi dậy. Lúc đầu tôi làu bàu tưc giận vì đã bị phá giấc ngủ, định bỏ đi thì người đó nắm vai tôi bảo ngồi xuống và ân cần hỏi thăm tôi bằng tiếng mẹ đẻ:

- Em ở đây đến mà đêm lại đến nằm ngủ ở đây?

Tôi định thần lại, đưa mắt nhìn người lạ mặt từ đầu đến chân. Dưới ánh điện tỏa mờ trong công viên, trước mặt tôi là một người đàn ông trẻ khoảng trên dưới 30 tuổi, khuôn mặt phúc hậu, cặp mắt hiền từ, khiến tôi hoàn toàn tin tưởng ngay từ phút đầu tiên.

Tôi vắn tăt trình bày hoàn cảnh của mình và nói nguyện vọng là muốn có một việc làm để kiếm sống chứ lang thang mãi trong cảnh “đất khách quê người” thế này mãi cũng chán.

Tôi có ngờ đâu, chính cái đêm gặp gỡ tình cờ hôm đó đã tạo nên một bước noắt lớn trong cuộc đời tôi. Người thanh niên đó tên là Vũ Anh. Một đảng viên cộng sản, đang làm lái xe cho hãng dầu cù là Vĩnh An Đường, dùng đồng lương của mình nuôi các đồng chí hoạt động, đồng thời ngầm dùng cửa hiệu của hãng đó làm trạm liên lạc cho cách mạng.

Nghe tôi kể hoàn cảnh của mình, đồng chí đưa tôi về nhà, cho tôi ăn uống đầy đủ, sắm sửa quần áo cho tôi mặc, sau đó còn tìm việc cho tôi làm. Đầu tiên, tôi học việc không cồng cho một xưởng ô tô tư nhân. Tôi sáng dạ, lại chăm học, nên chỉ sáu tháng sau chủ đã phát lương cho tôi. Được bao nhiêu tôi đưa cả cho đồng chí Vũ Anh.

Từ đó, ban ngày đi làm thợ, ban đêm các đồng chí tổ chức cho bọn trẻ con Việt kiều chúng tôi đi học văn hóa. Hồi ở nhà tôi chỉ mới biết đọc, biết viết. Không ngờ sang đây, vừa có việc làm, có lương, lại được đi học, tôi cảm thấy cuộc đời có ý nghĩa và thật hạnh phúc.

Sau này tôi mới biết rằng, tất cả những việc đó đều do tổ chức của Đảng sắp xếp cả.

Ở Côn Minh, từ trước đã có Việt Nam quốc dân đảng hoạt động. Đảng này do Vũ Hồng Khanh, Nghiêm Kế Tổ làm đầu sỏ, đồng thời làm tay sai cho Tưởng Giới Thạch. Lúc này chính quyền còn nằm trong tay bọn Tưởng. Việt Nam quốc dân đảng mất tín nhiệm với quần chúng, vì đảng này tuyên truyền thô bạo, lại bòn rút của cải của đồng bào, làm nhiều điều lếu láo, không tin được. Quần chúng hăng hái thiết tha với cách mạng, với giải phóng dân tộc, nhưng không ai dẫn đường. Vì vậy, Đảng Cộng sản Đông Dương phái người về dìu dắt quần chúng.

Tưởng Giới Thạch bắt cộng sản tợn lắm. Vì vậy lập một cái hồi gì để thu hút quần chúng không thể mang danh nghĩa cộng sản được. Nó biết là tổ chức cộng sản thì nó bắn chết. Nếu lấy danh nghĩa Việt Nam quốc dân đảng thì được chính quyền Vân Nam cho phép hoạt động và ủng hộ, nhưng lại mất tín nhiệm với quần chúng. Vậy thì làm thế nào? Các đồng chí được Đảng Cộng sản Đông Dương phái về đã lập một cái hội để thu hút quần chúng lấy tên là Việt Nam lao công thân ái hội. Bên trong, bí mật, ta có một chi bộ gọi là chi bộ Vân Quý. Đối với chính quyền Vân Nam, ta xưng là Việt Nam quốc dân đảng, lợi dụng danh nghĩa này để dễ bề hoạt động. Ngoài Việt Nam lao công thân ái hội, ta còn tổ chức đội bóng đá, hội thể dục thể thao…


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Tám, 2010, 01:24:55 pm
. Đội thiếu niên dục tài do chi bộ đảng phụ trách. Đồng chí phụ trách trực tiếp là Nguyễn Sĩ Nghiêm.

Đội viên đội thiếu niên dục tài là con công nhân, công chức hoặc các nhà buôn bán người Việt. Các nhà buôn bán ở đây có hai loại: loại khá giả thì thái độ lừng khừng, loại thường thì nhiệt tình hơn. Thông thường, bố gia nhập Việt Nam lao công thân ái hội thì mới cho con vào Đội thiếu niên dục tài. Cậu nào có bố mẹ làm thợ thì hoạt động tích cực.

Đội viên chúng tôi khoảng ba chục đứa, tuổi mười bốn, mười lăm. Đội viên đều ăn mặc thống nhất: mũ ca lô có viền đỏ băng vải trắng, trên mũ có ngôi sao nắm cánh bằng đồng; áo sơ mi trắng, quần cụt xanh, trên ngực áo đeo quả tim đỏ, thêu bốn chữ vàng TNDT (thiếu niên dục tài).

Công việc của Đội thiếu niên dục tài đại loại có ba thứ: về trí dục thì đội viên được học chính trị, nội dung yêu nước, chống Pháp; về thể dục thì huấn luyện một số môn điền kinh, đi cắm trại, đá bống, chơi bóng bàn; về công tác thì tổ chức đội đồng ca, đi hát trong những cuộc họp của các anh lớn, trong những ngày kỉ niệm lịch sử.

Đội bóng đá của chúng tôi thường tham gia thi đấu với các đội học sinh Vân Nam, và thường là chúng tôi thắng. Những lân thi chạy xa, chạy dài, chúng tôi thường không hay bỏ cuộc như các đội học sinh. Có khi chạy mệt gần đứt cả hơi, người xem ở ngoài hò nhau la hét “bỏ cuộc đi thôi!”, chúng tôi vẫn cố giữ lấy hơi thở, quyết không chịu thua.

Có một lần kỉ niệm ngày thành lập Đoàn thanh niên quốc tế(1), tôi nhớ là vào khoảng đầu tháng 9 năm 1935, chi bộ Đảng định lấy ngày đó làm kỉ niệm Đội thiếu niên dục tài. Các đồng chí bảo mỗi đội viên chúng tôi làm một bài diễn văn. Các đồng chí ra nhiều đầu đề khác nhau và dành cho chúng tôi nhiều phần thường. Làm cả một ngày như vậy. Cuối cùng, một đồng chí lên kết luận cuộc thi và nói về Đoàn thanh niên quốc tế.

Các đồng chí thường dùng Đội thiếu niên dục tài để bảo vệ hội nghị chi bộ Đảng. Các đồng chí không nói cho chúng tôi biết mà chỉ bày cho chúng tôi chơi, bày ra những trò vui trước cửa nhà họp. Còn các đồng chí ở trong nhà họp hành, tránh được những con mắt tò mò của bọn mật thám Pháp.

Một lần khác, Việt Nam lao công thân ái hội tổ chức ăn rằm tháng tám ở một tiệm nước để kỉ niệm Xô-viết Nghệ Tĩnh (năm ấy, ngày âm lịch và dương lịch xê xích nhau có ba, bốn ngày).

Đội thiếu niên dục tài trở thành đội xung phong công tác của chi bộ Đảng. Lẽ dĩ nhiên là điều này các đồng chí không hề cho chúng tôi biết (Sau này, lớn lên và trưởng thành, tôi mới hiểu được hết những điều mà các anh giấu chúng tôi).

Trước con mắt thông thường của Việt kiều hồi đó, Đội thiếu niên dục tài chỉ là một tổ chức tập hợp một số con em Việt kiều. Lúc đầu có ít người cho con vào; sau do sinh hoạt, ăn mặc gọn ghẽ, tôn chỉ của đội đúng đắn, không cứ bố mẹ là hội viên Việt Nam lao công thân ái hội mới cho con cái vào đội mà cả những người không phải là hội viên cũng cho con em vào hội. Tôi nhớ mang máng là dạo ấy có anh Vương Minh Phương(2) làm thợ may và anh Thành làm thợ máy là những đồng chí phụ trách trực tiếp. Hình thức tổ chức của đội thì thấp thôi, vì sợ mật thám Pháp theo dõi, nhưng mang tổ chức chính trị rất rõ nét.

Trụ sở Đội thiếu niên dục tài mới thành lập ở trên một căn gác hẹp, do các đồng chí Đảng thuê, dưới làm hiệu giặt. Về sau, không có tiều trả tiền thuê nhà mới mượn căn gác của ông Trưởng Quay làm thơ máy ở ngay phố Hộ Quốc Lộ (Vân Nam). Đó là nơi chúng tôi định kì họp và học văn hóa, sinh hoạt vào tối thứ bảy và chủ nhật hàng tuần.

Các bạn tôi lúc đó được cha mẹ cho đi học hằng ngày, về nhà thì bố mẹ, tối thứ bảy và chủ nhật thì sinh hoạt đội. Tôi thì lại khác. Đồng chí Trịnh Đông Hải, thợ nguội và là bố nuôi của tôi cũng nghèo. Thấy ở đây có công việc một ngày hơn được vài xu là bố nuôi tôi nhảy đi liền. Chỉ vài xu ấy, một ngày, một tuần, một tháng góp lại là có thể nuôi thêm được các đồng chí Đảng hoạt động. Chả thế mà đang làm thợ nguội ở một xưởng cơ khí của người Quảng Đông, thấy làm thợ nề lương thêm năm xu, bố nuôi tôi cũng bỏ thợ nguội đi làm thợ nề. Tiếng là đồng chí Trịnh Đông Hải nuôi tôi, nhưng cách nuôi cũng khác người. Đồng chí cho tôi đến ở nhờ một nhà thợ giặt, giúp việc lăt vặt, quét nhà, đun nước. Tôi phải lao động. và tôi cũng thích làm như thế. Tôi thiếu cái gì thì đồng chí ấy cho. Tôi biết, ngoài tôi ra, đồng chí Trịnh Đông Hải còn nuôi hai em nữa, đó là Mẫn và Hội, đều mồ côi cả. Mẫn có dì ghẻ đi lấy chồng. Hội cũng còn bà con, chú bác ở Vân Nam này. Chỉ riêng tôi là không có bà con họ hàng gì ở đây. Cả ba đứa chúng tôi đều được đồng chí Trịnh Đông Hải nuôi và đưa đi làm ở ba chỗ khác nhau. Nguyên tắc của người bố nuôi trẻ tuổi ấy đối với cả ba đứa chúng tôi là: chúng tôi phải tự lao động lấy, có tiền thì may cho chúng tôi cái quần, cái áo.


(1) Tức là Đoàn thanh niên cộng sản.
(2) Đồng chí Vương Minh Phương đi dự Hội nghị Á Phi lần thứ nhất (năm 1956), chết vì bị tai nạn máy bay.


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Tám, 2010, 01:25:25 pm
Tôi được chỉ định là đội trưởng Đội thiếu niên dục tài. Độ trưởng có nhiệm vụ triệu tập đội viên đến họp và sinh hoạt. Người nói chuyện cho chúng tôi nghe thường là đồng chí Đông A (đồng chí này chuyên về hoạt động), đồng chí Trịnh Đông Hải, đồng chí Tài (đồng chí này cũng chuyên về hoạt động, các anh khác đi làm về nuôi đồng chí). Chúng tôi thường được các anh kể chuyện cho nghe về tình hình đế quốc Pháp xâm chiếm nước ta, nhiệm vụ đảnh đổ Pháp, giành độc lập dân tộc. Học về tình hình thế giới và trong nước, tôi thường được bồi dưỡng trước, rồi nói lại cho các bạn nghe. Chúng nó, có đứa lớn hơn tôi, như Lộc, có đứa bằng tuổi, có đứa bé hơn. Nói chung, thằng Hàm, thằng Cửu, thằng Vân, thằng Năm, thằng Mạnh đều tốt, có bố mẹ nghèo. Những hoạt động tích cực của con cái cũng có ảnh hướng đế bố mẹ, làm cho bó mẹ gần với cách mạng hơn, nhiều tình ủng hộc cách mạng hơn. Ở đây có lãnh sự Pháp và một hệ thống mất thám có tổ chức theo dõi các công chức, thợ thuyền và Việt kiều ở ngoài phố Những người làm việc với Pháp thì ở trong khu vực dưới sự kiểm soát của họ. Những người ra ở phố cùng với nhân dân địa phương, tuy không trực tiếp dưới sự kiểm soát của Pháp cũng vẫn bị mất thám để ý.

Bố mẹ của các đội viên thiếu niên dục tài phần nhiều là thợ thuyền. Họ không bị lệ thuộc kinh tế với Pháp, nhưng bị lệ thuộc về chính trị, nhất là những người còn phải trở về nước. Chỉ có những người hoạt động cách mạng là không bị phụ thuộc vào ai. Hồi này Pháp còn đang mạnh. Quân phiệt Tưởng Giới Thạch và đế quốc Pháp câu kết với nhau cản trở rất nhiều các hoạt động cách mạng. Nhưng các đồng chí ta đã khéo léo kết hợp các hình thức công khai với hình thức bí mật để hoạt động.

Tháng 7 năm 1937, Nhật đánh Tưởng.

Bọn Việt Nam quốc dân đảng phản động do Vũ Hồng Khanh và Nghiêm Kế Tổ làm đầu sỏ tuyên truyền xuyên tạc về tổ chức Đội thiếu niên dục tài. Chúng xuyên tạc mục đích của đội, vu khống những người cho con em gia nhập đội là “đi theo tụi cộng sản”. Nhiều người sợ liên lụy về chính trị, sợ bị viên đạn của Tưởng, sợ lưới mật thám của lãnh sự Pháp ở Vân Nam. Vì vậy họ không cho con em vào đội nữa.

Tình hình ở Vân Nam lúc này cũng phức tạp. Một số cán bộ Đảng ở trong nước bị lộ, như đồng chí Long chạy sang Vân nam. Kinh tế khó khăn. Ở xưởng không nhận hết ngươi. Bọn chủ thải thợ. Anh Nguyễn ở bên Quảng Tây, đi dạy trẻ học. Anh Long làm thợ may. Anh Trịnh Đông Hải đi làm thợ nề. Anh Trịnh Đông hải hay mang tôi đi theo. Hai bố con cùng đi gánh vôi, gánh vữa ở ngoài phố. Cốt sao kiếm được tiền nuôi được mình để tiếp tục hoạt động cho Đảng và nuôi những đồng chí không thể công khai đi làm được. Tôi bé, nhưng hay bướng và tự trọng. Đồng chí Trịnh Đông Hải lại cho tôi là tự ái, sĩ diện, nhưng vâng lời, tốt. Tự ái! Sĩ diện! Có gì đâu, chuyện như thế này: Buổi sáng ở Vân Nam thường hay có bánh bao nướng vừa ngon vừa rẻ. Bố con tôi đi làm buổi sáng sớm thường đi với cái bụng lép kẹp. Bố nuôi bảo tôi đi mua bánh bao. Tôi mang bánh bao về. Rất tự nhiên, bố đỗ gánh vôi vữa xuống giữa đường đi, đưa lại cho tôi một cái:

- Nghĩ! Ăn bánh đi rồi còn đi làm!

Tôi nghĩ bụng: “Ngồi giữa đường giữa phố nhai bánh nhồm nhoàm, trông khó coi lắm! Sao không ngồi đàng hoàng ở hiệu mà ăn?”. Tôi lắc đầu:

- Em chưa đói!

Bố nuôi nhìn tôi như có ý bảo: “Không ăn thế này đi làm sao kịp. Bụng đói bỏ mẹ!”. Tôi vẫn lắc, kiên quyết hơn:

- Em không ăn!

- Máy không ăn, tao ăn!

Rồi bố nuôi ăn luôn giữa phố đông người qua lại.

Chúng tôi làm khoán, cành tranh thủ làm được nhiều càng lĩnh được nhiều tiên. Bố tranh thủ cả trong lúc ăn, con lại không thích! Tuy vậy, cả buổi hôm đó tôi vẫn gánh vôi vữa theo sát người bố nuôi, bố nuôi không có điều gì phải chê trách. Từ đó, bố đi làm đâu, bố cũng đưa đi…


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Tám, 2010, 01:26:00 pm
Bấy nhiêu người đi làm mà chỉ đủ tiền mua gạo. Tất cả mấy anh em thuê được một cái buồng rất chật gần ngoại ô. Quần áo anh nào cũng rách. Bảy tám người mà chỉ có hai, ba bộ quần áo lành lặn. Người nào phải đi đâu thì “diện” áo lành. Người ở nhà toàn mặc quân áo rách hoặc ở trần. Các anh phải làm việc, phải hoạt động, lại phải để dành tiền cùng với số tiền quyên góp được của Việt kiều mua súng gửi về Tổ quốc.

Quần áo đã thiếu, đã rách mà cơm lại không thức ăn. Thấy các anh em làm việc đầu tắt mặt tối, cơm nhạt, thương quá. Tôi ít tuổi nhưg có tài bắn súng cao su, một hòn cuội bắn ra là một con chim bị trúng đầu. Có dạo. mỗi ngày tôi bắn được từ tám chục đến một trăm con chim sẻ về làm thức ăn, cải thiện cho các anh.

Chúng tôi thường nhận được báo chí từ trong nước gửi ra. Các buổi tối, đồng chí Đông A huấn luyện cho thiếu niên dục tài chúng tôi tập diễn thuyết. Anh nói về tình hình cách mạng cho chúng tôi nghe. Chúng tôi được nghe giảng về cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, về cuộc cách mạng Tân Hợi (Trung Quốc), về sai lầm của Việt Nam quốc dân đảng chủ trương khởi nghĩa ở Yên Bái. Chúng tôi được nghe nhiều về Đảng Cộng sản Đông Dương, về đồng chí Nguyễn Ái Quốc.

Đội thiếu niên dục tài hoạt động được hai năm. Các đội viên lớn dần lên. Một số đi làm, thuyển chuyển đi nơi khác. Đội lại bị bọn Việt Nam quốc dân đảng phản động gièm pha và bọn Tưởng phá hoại, phải giải tán. Ta lập Việt Nam câu lạc bộ để thu hút các con em của Việt kiều, tổ chức vui chơi và quyên tiền giúp Trung Quốc đánh Nhật. Sau rồi Việt Nam câu lạc bộ cũng thất bại, vì lại bị bọn Vũ Hồng Khanh, Nghiêm Kế Tổ phá. Bố mẹ các em sợ, không dám cho các con đến vui chơi ở Việt Nam câu lạc bộ nữa.

Năm 1938, ta lập ra “Việt Nam hưởng hứng Trung Quốc kháng Nhật hậu viện hội”. Bọn Việt Nam quốc dân đảng phản động cũng tìm cách phá tổ chức này của chi bộ Vân Quý nhưng không phá nổi. Đồng chí Trịnh Đông Hải làm lái xe ô tô cho hãng dầu “con hổ” Vĩnh An Đường. Việc làm đã tương đối ổn định nên nuôi được nhiều cán bộ hơn. Tôi cũng đã mười bảy tuổi, trông người đã kha khá. Tôi xin làm thợ ở xưởng sửa chữa ô tô. Chủ hãng là người Trung Hoa công ti với Pháp và Anh. Tôi học thợ sáu tháng, không lương. Sau đó tô đã được lương, cũng đủ ăn, đỡ cho các anh. Các đội viên thiếu niên dục tài cũ cũng gia nhập “Việt Nam hưởng ứng Trung Quốc kháng Nhật hậu viện hội”. Cả các đội bóng đá, đội điền kinh, thể dục thể thao, bóng bàn cũng sáp nhập cả vào. Hội này có danh nghĩa hẳn hoi, giúp Trung Quốc đánh Nhật nên càng trở nên vững mạnh, bọn Vũ Hồng Khanh, Nghiêm Kế Tổ lồng lộn phá mà không làm gì được.

Cuối năm 1938 có cuộc đấu tranh đòi tăng lương. Bọn chủ bắt thợ làm thêm không cho ăn lương. Dưới sự lãnh đạo của đồng chí Trịnh Đông Hải, chúng tôi đấu tranh với chủ, đòi phải trả lương những công làm đêm. Bọn chủ ngoan cố, không chịu. Chúng tôi đình công, nhất định không chịu đi làm, kiên trì đấu tranh. Có tay muối mặt đi làm để tâng công với chủ. Tôi nói không được, giơ tay cản lại. Tôi sừng sộ: “Đi làm mà tố cáo, đánh cho mà coi”. Cuộc đấu tranh có kết quả. Từ đó thợ làm thêm chủ phải trả thêm lương, đâu khoảng mấy phần trăm.

Sau cuộc đấu tranh thắng lợi, tôi bị chủ thù, đuổi ra khỏi hãng. Tôi đi làm tư cho một công ti vận tải ở Vân Nam. Tôi thường được chỉ định bảo vệ các đồng chí cán bộ trong những cuộc diễn thuyết trước đông đảo quần chúng. Bọn Vũ Hồng Khanh tức tối, thường dùng vài tên lưu manh tới phá rối. Bọn lưu manh thấy tôi ngang tàng, cứ nhìn lấm lét. Tôi đang tuổi thanh niên, hăng hái, lại được các anh chỉ dẫn cho đường đi, nên dốc lòng phục vụ cách mạng.

Sau một thời gian giáo dục, thử thách và đồng bào là hoạt động có hiệu quả trong đội thiếu niên tiền phong, tháng 6 năm 1939 tôi được kết nạp vào Đảng. Hai người giới thiệu là đồng chí Vũ Anh và đồng chí Thanh Bình, thuộc chi bộ Vân Quý. Đồng chí Vũ Anh, sau này là Trung ương ủy viên và đồng chí Thanh Bình có thời gian làm Thứ trưởng Bộ Nội vụ.

Sau khi được kết nạp vào Đảng, tôi vẫn được tiếp tục giao nhiệm vụ phụ trách đội tiếu niên tiền phong. Lúc này Nhật đã gây chiến với Trung Quốc, thiếu niên có thêm nhiệm vụ tuyên truyền cho việc ủng hộ Trung Quốc đánh giặc.

Hoạt động của đội có tiếng vang trong các giới ở côn Minh lúc bấy giờ làm cho uy tín của “Việt Nam hướng ứng Trung Quốc kháng Nhật hậu viện hội” càng tăng lên. Đây là một tổ chức quần chúng do Đảng ta lãnh đạo, nhưng do hoạt động khéo léo nên được chính quyền công nhận và bà Tổng Khánh Linh gửi thư chúc mừng.


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Tám, 2010, 01:29:05 pm
II

ĐI TÌM ĐỒNG CHÍ TRẦN(1)

Do nóng lòng xuống phía Nam bắt liên lạc với cách mạng Việt Nam nên Bác chỉ ở Diên An hai tuần rồi đi Tây An ngay. Sau đó Bác đi Quảng Tây vì Quảng Tây lúc này đã bị giặc Nhật chiếm đóng.

Ở Quế Lâm, thủ phủ Quảng Tây, có Biện sự xứ và một đơn vị nhỏ của Bát lộ quân. Bác vào tham gia công việc của Bát lộ quân vừa tìm cách liên lạc với trong nước. Bác được bầu làm chủ nhiệm câu lạc bộ của đơn vị.

Được ít lâu, Bác đi Hàng Dương cùng với phái đoàn quân sự của đồng chí Diệp Kiếm Anh. Bác được bầu làm bí thư chi bộ. Tình bạn, tình đồng chí giữa Bác và đồng chí Diệp Kiếm Anh được bắt đầu xây đắp và gắn bó từ những ngày đó, thắm thiết thủy chung cho đến sau này, khi Bác trở thành Chủ tịch nước và đồng chí Diệp Kiếm Anh trở thành Nguyên soái Bộ trưởng Bộ Quốc phòng nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.

Cuối tháng 8 năm 1939, Nhật chuẩn bị tràn sang Đông Dương. Bọn quan quân Tưởng bắt đầu bàn nhau về chuyện “Hoa quân nhập Việt”. Tình hình đang diễn ra rất khẩn trương. Bác đã gửi thư về trong nước nhắn cho người sang tìm Bác ở Long Châu, nhưng do hoạt động bí mật khó khăn nên vẫn chưa bắt được liên lạc. Lúc này, bí danh của Bác là Hồ Quang (tên gọi của Bác trong đoàn đồng chí Diệp Kiếm Anh).

Sau khi đồng chí Minh, cán bộ của Đảng trong nước ra, đến Côn Minh gặp đồng chí Vũ Anh, thì việc bắt liên lạc với Bác có nhiều hi vọng hớn, vì chi bộ của Đảng ta và chi bộ của Đảng Cộng sản Trung Quốc ở Côn Minh đã có liên lạc với nhau. Đồng chí Vũ Anh trao đổi với bạn, nhờ dựa vào hệ thống tổ chức của bạn để có thể liên lạc với đồng chí cách mạng Việt Nam tên là Trần, vừa từ Mát-xcơ-va về Diên An, hiện nay đang ở Diên An đi xuống phía Nam.

Các đồng chí Trung Quốc hứa giúp đỡ.

Khoảng cuối tháng 9 năm 1939, đồng chí Phùng Chí Kiên nói với tôi là anh sẽ đi công tác một thời gian, dặn tôi ở nhà cố gắng hoạt động cho tốt (Sau này, tôi mới biết anh Kiên đi gặp anh Đặng Văn Cáp để cùng đi đón Bác).

- Hiện nay Ông Cụ đã về tới Long Châu (Quảng Tây), chúng ta phải đi đón ngay.

Đó là lời đồng chí Phùng Chí Kiên nói với đồng chí Đặng Văn Cáp khi hai người gặp nhau.

Hai người mua vé xe lên đường vào một ngày đầu tháng 10 năm 1939, qua Hưng Ninh đến Thiều Quan, tìm đến Biện sự xứ của Bát lộ quân. Gặp đồng chí chủ nhiệm Cô Đại Tôn, đồng chí nói:

- Ba lần Ông Cụ đến tìm người đón để về nước mà không gặp. Ông Cụ từ biên khu phía nam Hàng Dương, Hồ Nam đã đi Trùng Khánh rồi.

Hai anh Kiên và Cáp tức tốc đi Hàng Dương hỏi thăm, người ta cho biết ông đã đi Quế Lâm. Hai người lại đi Quế lâm tìm đến Biện sự xứ. Gặp đồng chí hạ, đồng chí trả lời là Ông Cụ đã đi Quý Châu.

Bấy giờ đang cuối tháng mười, ngày Quốc Khánh Liên Xô là ngày 7 tháng 11, chắc đến kịp sẽ gặp được Ông Cụ ở đó. Các anh bảo nhau về tức tốc mua vé xe ngay. Rủi thay khi đi đường anh lái xe ô tô khách này xếp đồ đạc hành lí thế nào để thất lạc một chiếc va li của một tên quan Quốc dân đảng. Khi hỏi va li không thấy, nó đỏ mặt tía tai dọa dẫm:

- Không tìm được chiếc va li thì không cứ chúng mày mà cả đoàn xe này cũng không yên được, tao sẽ nhốt tuốt vào doanh trại ở Trùng Khánh.

Xe bị giữ ở huyện Độc Sơn một tuần lễ. Tìm được va li, tên quan Quốc dân đảng mới cho đi. Vì thế mãi tới ngày 10 tháng 11 hai anh mới tới Quý Châu. Lại tìm vào Biện sự xứ của Bát lộ quân, gặp đồng chí Viên Siêu Tuân. Đồng chí nói:

- Đồng chí Hồ Quang đã rời khỏi đây đi ba ngày rồi. có thể đồng chí ấy đi thẳng Côn Minh, mà cũng có thể quay lại Quý Dương, mấy ngày nay bọn quan quân Tưởng đang chuẩn bị họp tại thị trấn này. Chúng rất để ý đến chúng ta, ở lại đây không tiện, các đồng chí nên đi thẳng Côn Minh. Nếu đồng chí Hồ Quang có về đây tôi sẽ báo cho đồng chí biết để đi ngay gặp đồng chí.

Hồ Quang là bí danh của “Ông Cụ”.

Mua xong hai vé đi Côn Minh, nhưng vì xe đến 5 giờ sáng hôm sau mới khởi hành, hai anh đi dạo chơi các phố Quý Châu. Đang đi thẩn thơ, bỗng thấy một người đang đứng xem báo, chợt thấy hai anh vội quay lại. Hai anh nhận ra là Hồ Học Lãm, một nhân vật kì cựu của lớp “Đông du” hiện vẫn hoạt động trong Việt Nam độc lập đồng minh hội.

Tay bắt mặt mừng, sau bốn năm xa cách, ông cười bảo anh Cáp:

- Chúng ta gặp nhau như trong giấc mông vậy.

Nói xông ông kéo hai anh về nhà chơi, cáh đó không xa. Ông nói:

- Có cơ hội, chúng tôi cũng muốn về nước, đóng góp một việc gì đó lớn hay nhỏ. Con rể tôi là Lê Thiết Hùng(2) hiện đang phụ trách giao thông của binh đoàn lúc này đang ở Quần Thảo Điếm (Hồ Nam) cũng sẽ về đây, gặp nhau rồi các ông đi cũng chưa muộn. Hoặc là một người đi trước, một người ở lại chờ xem sao.

Hai người bàn nhau: “nếu bán đi được một vé xe sẽ có thêm được một trăm bạc. Người đi Côn Minh còn dư ra ít tiền để tiêu mà người ở lại Quý Dương may ra chờ gặp được đồng chí Hồ Quang cũng là điều hay. Quý Châu là đường giao thông đi nhiêu ngả, biết dâu…”.

Đúng như hai anh bàn tính, sau khi đồng chí Phùng Chí Kiên đi Côn Minh bảy ngày, Bác về qua Quý Châu thật, nhưng vì không biết anh Cáp ở đây đón, Bác đi thẳng xuống Quý Châu.

Thế rồi ít lâu sau, một hôm vào cuối tháng 2 năm 1940, có một người đứng tuổi, mặc âu phục, cổ cồn, tìm vào hiệu Vĩnh An Đường, hỏi bằng tiếng Trung Quốc xem có ai là Trịnh Đông hải ở đây không? Lúc này đồng chí Vũ Anh đang chữa xe trong nhà. Tổi nói: tầng i xe (hãy chờ một lát) rồi vào mời đồng chí Vũ Anh ra gặp thì người khách nói nnhỏ bằng tiếng Việt Nam: “Tôi là Trần đây, muốn gặp anh có chút việc. Ta ra công viên nói chuyện”.

Sau đó đồng chí Vũ Anh tổ chức cho ông Trần gặp đồng chí Phùng chí Kiên ở một cơ sở bí mật.

Thế là nhờ Đảng bạn, cách mạng Việt Nam đã bắt liên lạc với lãnh tụ của mình. Nói ra thì đơn giản như thế nhưng thực ra là vô cùng phúc tạp. Điều may mắn là khi về Diên An, Bác gặp lại những người bạn cũ như Chu Ân Lai, Đặng Tiểu Bình, Chu Đức, Hạ Long… từng quen nhau ở Pháp trong những năm hai mươi của thế kỉ, nên các đồng chí hết lòng giúp đỡ.

Bây giờ nhìn lại, tối thấy sự kiện Bác bắt liên lạc được với Đảng ta hồi đầu năm 1940 là cực kì quan trọng và đồng chí Vũ Anh, người đầu tiên đại diện cho Đảng ta gặp Bác ở Côn Minh thực sự có công lao to lớn trongg sự kiện có tính chất bước ngoặt này.

Sau này, vào tháng 6 năm 1940, khi anh Phạm Văn Đồng và anh Võ Nguyên Giáp sang Trung Quốc, cũng chính đồng chí Vũ Anh bố trí cho Bác gặp hai anh trên một chiếc thuyền ở Thúy Hồ. cũng có thể nói đây là một sự gặp mặt lịch sử có tác động thúc đẩy tiến trình cách mạng của nước ta nhanh chóng phát triển lên một bước mới. Anh Phạm Văn Đồng đã từng là học trò của Bác từ năm 1925-1926, trong tổ chức Thanh niên cách mạng đồng chí hội. Còn anh Giáp thì đây là lần đầu tiên được gặp vị lãnh tụ vĩ đại của Đảng, của dân tộc và sau ngày trở thành Người cha thân yêu của các lực lượng vũ trang nhân dân ta.


(1) Phần này tác giả tham khảo hồi kí của đồng chí Đặng Văn Cáp trong “Bác Hồ về nước”, hội văn học nghệ thuật Cao Bằng xuất bản, 1986.
(2) Đồng chí Lê Thiết Hùng lấy đồng chí Hồ Diệc lan, con gái cụ Hồ Học Lãm, lúc này đang học ở Diên An.


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Tám, 2010, 01:30:44 pm
III.

BẢO VỆ ĐỒNG CHÍ VƯƠNG

Từ ngày về đến Côn Minh, một mặt Bác vẫn thường xuyên nhắc nhở việc chuẩn bị con đường trở về nước, một mặt khác Bác tranh thủ nắm tình hình, đẩy mạnh các mặt hoạt động lên một bước mới.

Hoạt động ở Vân Nam lúc ấy, ngoài các đồng chí Phùng Chí Kiên, Vũ Anh, Cao Hồng Lĩnh còn có một vài đồng chí khác nữa, hình thành bộ phận hải ngoại của Đảng. Đến tháng 6 năm 1940, có thêm anh Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp. Nhưng anh Giáp và anh Đồng ở một nơi khác, cách xa khoảng vài cây số. Đồng chí Phùng chí Kiên ở cơ quan bí mật phụ trách một tờ báo.

Bác rất quan tâm đến tờ báo này và trực tiếp viết nhiều bài cho báo. Bác còn góp cả tên của tờ báo. Bác bảo nên tên là Đ.T, hiểu là “Đảng ta”, “Đấu tranh” hay “Đánh Tây” cũng được.

Bác đặc biệt chú ý công tác bí mật.

Một hôm đồng chí Vũ Anh giao nhiệm vụ cho tôi phải bảo vệ một nhân vật quan trọng tên là Vương(1). Tôi hỏi đồng chí Vương là ai? Cách bảo vệ như thế nào? Đồng chí Vũ Anh bảo đồng chí Vương là một nhà cách mạng nổi tiếng, hiện nay đồng chí Vương đang ở nhà một đồng chí đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc tên là Trần, nhà ở cùng phố với nhà tên Long Vân, tỉnh trưởng Vân Nam.

Tôi muốn hỏi thêm một vài điều nhưng đồng chí Vũ Anh bảo không được tò mò.

Bước đầu, nhiệm vụ cụ thể đồng chí Vũ Anh gao như sau: Cứ khoảng 7 giờ tối, tìm cách lảng vảng trước cổng nhà đồng chí Vương ở nhờ. Khi thấy đồng chí Vương ra cổng đi đâu đó, thì cứ theo sau, khoảng cách từ 6 đến 10 mét và sẵn sàng bảo vệ khi cần. Vũ khí dùng để bảo vệ, đồng chí Vũ Anh giao cho một cái búa, sau thêm con dao, không có súng ống gì cả.

Ngay đêm đâu tiên làm nhiệm vụ, tôi đã nhận ra ông Vương cũng chính là ông Trần mà rước đó, tôi đã gặp lần đầu tiên ở Vĩnh An Đường, Thì ra đây là nhân vật mà xuốt mấy tháng trời từ cuối năm 1939 đến đầu năm 1940, đồng chí Vũ Anh cùng các đồng chí ở chi bộ Vân Quý ra công tìm kiếm để bắt liên lạc. Từ đó, tôi càng cảm thấy trách nhiệm của mình thật to lớn.

Một hôm, đồng chí Vũ Anh bố trí cho tội gặp đồng chí Vương tại một quán nước vắng, để chính thức giới thiệu tôi với Bác. Đồng chí Vũ Anh nói với Bác bằng tiếng Trung Quốc:

- Đây là chú Nghĩa, một đảng viên, mọi điều tôi đã dặn kĩ, xin tiên sinh yên tâm.

Bác nhìn tôi một lúc lâu, tỏ vẻ hài lòng. Có lẽ vì thấy tôi khỏe mạnh, mặt mũi sáng sủa, chưa đầy 20 tuổi mà đã là đảng viên…

Suốt một tuần đầu, Bác chỉ nói với tôi bằng tiếng Trung Quốc, sau đó mới dùng tiếng Việt. Cũng chỉ đôi ba lần Bác hỏi tôi tình hình gia đình, quê quán… Nhiều lần tôi thấy Bác nhìn tôi với tất cả tình thương yêu như muốn gửi vào trong đó tất cả nỗi nhớ quê hương, đất nước. Nhưng do nguyên tác hoạt động bí mật, cả Bác và tôi đều phải làm như không hề quen biết nhau… Mọi việc đều do đồng chí Vũ Anh sắp xếp. Thời gian, địa điểm tôi chỉ được báo trước một ngày. Tôi phải có nhiệm vụ đến quan sát trước, tìm địa thế có lợi, dự kiến mọi tình huống. Nhất là từ khi được đồng chí Vũ Anh cho biết đồng chí Vương chính là Nguyễn Ái Quốc, đã bị đế quốc Páp kết án tử hình, đã bị cảnh sát Hồng Công bắt năm 1931 và suýt bị nguy hiểm đến tính mạng nếu không được vợ chồng luật sư Lô-zơ-bai tìm cách giải thoát, tôi càng thấy trn hết sức nặng nề. Trong thâm tâm, với bản tính hiếu động của tuổi trẻ, tôi cũng thấy thích thích nhiệm vụ được giao, vì nó mang màu sắc trinh thám. Do đó, mỗi lần nhận nhiệm vụ tôi đều đem hết tâm sức nghiên cứu phương án tốt nhất và lòng tự nhủ lòng, lần này cũng phải bỏa đảm an toàn như lần trước.

Dạo đó, tuy hiểu biết về Đảng, về chủ nghĩa Mác - Lê-nin còn hạn chế, nhưng từ khi được sự tiếp súc với Bác, tôi bắt đầu ý thức được rằng, nhiệm vụ mà tôi đang được giao, tuy nhiều đêm chỉ đi theo Bác như một cái bóng, Bác vào đâu, tôi chỉ lảng vảng ở ngoài cổng như một người khác qua đường… một trọng trách đặc biệt có liên quan đến vận mệnh của dân tộc.


(1) Bí dành của Bác.


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Tám, 2010, 01:31:30 pm
*
*   *

Tháng 4 năm 1940, Bác quyết định đi kiểm tra tình hình cơ sở dọc đường sắt, chủ yếu là trên các ga chính: Nghi Lương, Chi Thôn, Khai Viễn, Hổ Khẩu…

Bác đóng vai một công nhân đốt lửa, dừng lại khá lâu ở ga Chỉ Thôn. Ga này có hàng mấy trăm công nhân Việt kiều, trong đó có anh Hoàng Quang Bình, một cơ sở của ta, mở hiệu cắt tóc ở gần ga để làm nơi liên lạc. Anh Phùng Chí Kiên cùng đi với Bác và dẫn Bác đến nhà anh Hoàng Quang Bình. Ban ngày Bác đi khảo sát tình hình, ban đêm Bác tranh thủ mở lớp huấn luyện. mỗi lớp chỉ 5-7 người, thậm chí chỉ có 3-4 người. Thời gian học cũng chỉ vào buổi tối. Cứ như thế, những hạt giống cách mạng được Bác gieo trồng ngày càng phát triển.

Tuy nhiên qua khảo sát tình hình, Bác đã thay đổi ý định ban đầu là tìm đường về nước bằng con đường qua Lào Cai. Có nhiều lí do để Bác thay đổi quyết định, trong đó có lí do sau vụ Yên Bái, bọn mật thám Pháp tăng cường chú ý đến hướng này.

Chừng hơn một tháng sau Bác trở lại Côn Minh tiếp tục hoạt động, chuẩn bị mọi điều kiện cần thiết cho việc trở về nước bằng con đường khác.

Tin Pa-ri thất thủ đã làm cho cả Côn Minh náo động, báo chí đăng tít lớn đưa tin nước Pháp đã bị Đức chiếm.

Trước tình hình đó, Bác triệu tập bộ phận hải ngoại của đảng ở Vân Nam họp đề ra phương hướng hoạt động mới.

Đó là một đêm tháng sáu. Không khí ở Côn Minh oi bức không khác gì ở ta. Bác cùng đồng chí Phùng Chí Kiên, đồng chí Vũ Anh ngồi họp trong ngôi nhà nhỏ, nơi anh Kiên vẫn dùng để khai hội và là tòa soạn của báo Đ.T. Tôi được giao nhiệm vụ bảo vệ thật cẩm mật ở bên ngoài cuộc họp này

Cuộc họp diễn ra gần như suốt đêm. Sau này đồng chí Vũ Anh cho biết nội dung cuộc họp rất quan trọng. Do Pháp đã mất nước vào tay Đức ngày 20 tháng 6 năm 1940, nên Bác quyết định phải mau chóng trở về nước hoạt động, chuẩn bị mọi mặt, chờ thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền. Bác nói: Lúc này mà chậm trễ là có tội với dân tộc.

Hội nghị nhất trí với đề nghị của Bác, nhưng ai cũng phân vân là không biết lấy vũ khí ở đâu mà cướp chính quyền. Bác đã giải thích:

- Khởi nghĩa thì phải có vũ khí. Đó là một điều rất quan trọng của cách mạng. Nhưng nếu bây giờ có vũ khí thì lấy ai mà vác vũ khí. Cho nên cứ tìm cách về nước đã, về nước tuyên truyền giác ngộ quần chúng, khi quan hệ đã giác ngộ thì ta sẽ có vũ khí.

Nghe đồng chí Vũ Anh nói tôi cảm thấy trong lòng rất sung sướng. Thế là mình sắp được về nước rồi. Và tự mình nghĩ làm sao để có vũ khí đây? Từ đó vấn đề vũ khí cứ ám ảnh mãi trong tôi. Có lần tôi lân la hỏi chuyện một vài lính Tưởng và bỗng nghĩ ra chuyện có thể mua vũ khí của bọn này, rồi chuyển dần về trong nước.

Trong những ngày này, việc bảo Vệ Bác ngày càng vất vả. Hầu như đêm nào Bác cũng đi. Có thời gian đi cả ban ngày và thường xuyên cải trang, lúc mặc com-lê, khi mặc áo dài, lúc đi giày vải, khi đi dép, lúc đội mũ cứng, khi đội mũ mềm, loại mũ có cái lưỡi trai thò ra phía trước có đính khuy. Phương thức bảo vệ vẫn là phương thức “hình với bóng”. Nghĩa là Bác đi trước tôi đi sau. Bác đi đâu tôi bám theo đó. Nếu vào chỗ nào lâu khoảng 2-3 giờ, Bác ra ám hiệu cho tôi biết trước bằng cách lấy mùi xoa lau mồ hôi trán. Những lúc như vậy tôi thường chọn một chỗ ngồi thật kín đáo để quan sát, chứ không đi lại lảng vảng ngoài cửa.

Đó là những ngày Bác phải khẩn trương chuẩn bị nhiều viêc để chuẩn bị về nước. Một mặt Bác điện cho anh Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp không đi Diên An học tập nữa mà quay lại Quế Lâm ngay. Một mặt Bác liên hệ với các cơ sở của Đảng Cộng sản Trung Quốc chuẩn bị cho Bác đi Trùng Khánh gặp đồng chí Chu Ân Lai, đại diện của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc bên cạnh chính phủ Tưởng Giới Thạch.


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Tám, 2010, 01:32:32 pm
IV.

CHUYỂN HƯỚNG VỀ CAO BẰNG

Sau ngày 20 tháng 6 năm 1940, tức là ngày Pa-ri thất thủ, vấn đề “Hoa quân nhập Việt” bắt đầu được đặt ra đối với Tưởng Giới Thạch. Với tầm nhìn xa của một lãnh tụ thiên tài, Bác đã hình dung ra từng đường đi nước bước của cách mạng Việt Nam trong những ngày sắp tới.

Bác đi Trùng Khánh được hơn một tuần thì ở nhà đồng chí Vũ Anh và đồng chí Phùng Chí Kiên nhận được thư của cụ Hồ Học Lãm, một nhân vât thời kì Đông du trướng đây, có một thời gian phục vụ trong quân đội Tưởng nhưng chỉ là để chờ thời. Còn tấm lòng cụ thì luôn luôn hướng về Tổ quốc. Lúc này cụ đã nghỉ hưu ở Quý Châu, thủ phủ Quý Dương. Trong thư cụ cho biết hiện nay Trương Phát Khuê và Tiêu Văn đang có âm mưu dựng Trương Bội Công, từng làm quan cho Tưởng đến cấp tướng, đã nghỉ hưu, thành một ngọn cờ nhằm tập hợp số thanh niên Việt Nam ở Trung Quốc chuẩn bị cho “Hoa quân nhập Việt”.

Theo cụ Lãm cho biết thì từ trước tới nay Trương Bội Công chưa bao giờ hoạt động cách mạng, do đó cũng chưa tham gia một tổ chức cách mạng nào. Ông ta dựa vào thế lực của bọn Tưởng chỉ nhằm mưu đồ cá nhân. Vì không có uy tín nên Trương Bội Công muốn mời cụ Lãm tham gia, nhằm lợi dụng uy tín của cụ Lãm để lôi kéo lớp thanh niên của ta. Cụ Lãm nêu ý kiến với các đồng chí Vũ Anh và Phùng Chí Kiên nên nhanh chóng thu xếp gặp Trương Bội Công để nếu có thể thì “giả vờ” gia nhập tổ chức này để kiếm đường về nước cho thuận tiện. Cụ cũng báo cho các anh biết là cụ sẽ nhận lời, tham gia với Trương Bội Công nhằm phá ý đồ đen tối của bọn này, không để chúng tự ý làm bậy mang tiếng xấu cho cách mạng Việt Nam.

Bộ phận hải ngoại lại nhóm họp tại nơi ở của đồng chí Phùng Chí Kiên để thống nhất ý kiến. Sau khi bàn bạc mọi người nhất trí là nên lợi dụng tổ chức của Trương Bội Công để tìm đường về nước.

Rất may là mọi việc vừa làm xong thì Bác từ Trùng Khánh về. Bác nhất trí và quyết định chuyển hướng sang Quảng Tây để mở đường về nước, càng sớm càng tốt.

Mâyn gày sau, tại một khu rừng thông thuộc ngoại thành Liễu Châu, bộ phận hải ngoại của Đảng nhóm họp, thành phần gồm các đồng chí Vũ Anh, Phùng Chí Kiên, Cao Hồng Lĩnh, có thêm đồng chí Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp.

Đây là cuộc họp quyết định nhiều vấn đề quan trọng, trong đó có việc đối sách thật khôn khéo với Lí Tế Thâm, Trương Phát Khuê và một số nhân vật người Việt Nam khác chính kiến, với tư tưởng chỉ đạo là thêm bạn bớt thù, tập hợp mọi lực lượng tập trung cho nhiệm vụ cấp bách trước mắt là giải phóng dân tộc. Vấn đề quan trọng thứ hai là bắt đầu chuẩn bị cho Hội nghị Trung ương lần thứ tám sẽ triệu tập vào đầu năm sau khi tất cả đã về đứng chân trong nước.

Do đó, việc nhanh chóng di chuyển xuống phía Nam để chuẩn bị về nước cũng được bàn bạc kĩ lưỡng trong hội nghị. Nhờ tài ngoại giao khéo léo của bác, đường từ Quế Lâm đến Tĩnh Tây khá thuận lợi, được Li Tế Thâm cấp tiền lộ phí, cấp giấy giới thiệu đi đường với danh nghĩa “Hoa Nam công tác đoàn”, đóng dấu son Trung Chính đỏ chói (Trung Chính là tên hiệu của Tưởng Giới Thạch, khắc vào con dấu hành chính quốc gia, đóng vào các giấy tờ quan trọng”.

Bác đến Tĩnh Tây thì có đoàn của đồng chí Hoàng Văn Thụ từ trong nước sang gặp. Đồng chí Hoàng Văn Thụ từng hoạt động nhiều năm ở Cao Bằng. trình độ giác ngộ của nhân dân vùng biên giới tương đối cao, cán bộ lãnh đạo có nhiều đồng chí từng trải, trước có đồng chí Hoàng Đình Giong, nay có đồng chí Bác Vọng (tức đồng chí Lã). Cao Bằng lại đã có khu du kích Sóc Giang ở vùng Lục Khu ngay dọc biên giới Việt - Trung. Do đó việc Bác về Cao Bằng đã được quyết định dứt khoát.

Tất cả những điều này về sau tôi được nghe đồng chí Vũ Anh kể lại, chứ thực ra khi Bác và các anh rời Côn Minh, tôi được giao nhiệm vụ ở lại cùng với một số đồng chí khác do đồng chí Phạm Việt Tử phụ trách. Nhiệm vụ của bộ phận ở lại là tiếp tục gây dựng cơ sở, chuẩn bị mọi mặt để phát triển phong trào cách mạng trong nước, việc cấn kíp trước mắt là quyên tiền mua vũ khí gửi về.

Đêm trước ngày lên đường đi Quảng Tây, Bác gặp riêng tôi căn dặn nhiều điều. Bác cứ nhắc đi nhắc lại là phải cố gắng học tập mọi mặt để nâng cao trình độ hiểu biết.

- Nghĩa bây giờ là một đảng viên cộng sản rồi. Nghĩa phải chín chắn hơn, phải luôn luôn điềm tĩnh, không được manh động. Đã là người đảng viên thì phải lấy việc hoạt động cách mạng, phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân làm lẽ sống của đời mình.

Tôi hứa với đồng chí Vũ Anh sẽ cố gắng thực hiện đúng những lời anh dặn, hứa xứng đáng với sự giúp đỡ thương yêu của anh trong mấy năm qua. Từ lâu, trông thâm tâm tôi coi anh như bố nuôi của mình. Quả thực nếu không có sự cưu mang của anh trong nững ngày tôi bơ vơ kiếm việc làm rồi sau đó từng bước giác ngộ dẫn dắt tôi đi theo con đường cách mạng thì không biết cuộc đời tôi sẽ ra sao…


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Tám, 2010, 01:33:03 pm
Rất may cho tôi, phải xa đồng chí Vũ Anh, tôi lại có đồng chí Phạm Việt Tử, một đồng chí vừa có trình độ học vấn cao lại vừa là người có cách sống chan hòa, cởi mở, giàu lòng thương yêu đồng chí, đồng bào. Nguyên trước đây đồng chí là người cách mạng trong nước, bị lộ, phải chạy sang Trung Quốc. Đầu tiên, đồng chí sang Liễu Châu rồi phiêu bạt sang Vân Nam. Thời kì đầu đến Côn Minh, cuộc sống rất khó khăn, đồng chí Phạm Việt Tử phải lần hồi làm thuê để kiếm sống và tiếp tục hoạt động.

Theo chỉ thị của bác, chúng tôi tiếp tục vận động Việt Kiều tham gia tổ chức “Việt Nam hưởng ứng Trung Quốc kháng nhật hậu viện hội”. Sau đó chúng tôi đổi tên là “Việt Nam giải phóng hội” do đồng chí Phạm Việt Tử làm hội trưởng.

Tôi thường được các anh giao nhiệm vụ giữ trật tự, canh gác cho các anh diễn thuyết hoặc hội họp. Ở đây ngoài số Việt kiều yêu nước ủng hộ cách mạng, còn có một số lừng chừng, không kể một số ra mặt phản bội như bọn Vũ Hồng Khanh, chuyên dựa vào quân Tưởng để tìm cách làm khó dễ cho các hoạt động của ta. Do nhiệm vụ phải quên tiền để mua vũ khí tôi phải đi nhiêu nơi, nhưng nếu không tìm được giấy thông hành do chính quyền Vân Nam cấp thì không thể ra khỏi Côn Minh được, bởi bọn Vũ Hồng Khanh không lạ gì tôi. Chỉ cần chúng rỉ tai bọn quân phiệt Tưởng Giới Thạch là tôi bị bắt ngay. Chính vị vậy mà trước khi đi, Bác đã dặn chúng tôi hết sức khôn khéo và đặc biệt là phải giữ bí mật. Sở dĩ lúc này quân Tưởng chưa đụng đến tôi vì trên danh nghĩa tôi vẫn là hội viên của “Việt Nam hưởng ứng Trung Quốc kháng Nhạt hậu viện hội”, một tổ chức mà chính bọn Tưởng đã cấp giấy phép hoạt động.

Lúc này một ý nghĩa bỗng thoáng qua đầu tôi. Muốn đi lại được tự do, đặc biệt là muốn về nước được dễ dàng, tôi phải tìm cách có được giấy tờ hợp pháp, do đó phải tìm cách tạm làm việc cho nó. Mà trong các cách tạm làm thì chấp nhận làm tình báo cho chúng là tốt nhất. Gặp dịp chúng đang tìm cách tuyển một số Việt kiều vào làm việc cho cơ quan tình báo để chuẩn bị cho việc “Hoa quân nhập Việt” sắp tới, tôi báo cáo với tổ chức ý định của mình và được chấp nhận. Các anh chấp nhận cho tôi đi học lớp quân chính tình báo. Sau lớp học, tôi được chính quyền Tưởng tin cậy, phong cấp thiếu hiệu, ngang với thiếu tá và có đầy đủ giấy tờ đi lại đặc biệt kèm theo.

Việc quyên tiên mua súng tiên hành có kết quả. Cụ Lê Lương và tôi lân la đến binh công xưởng ở Côn Minh hỏi mua súng, bày cách cho bọn chúng lấy trộm súng đi bán, tất nhiên là phải hứa với bọn chúng sẽ hết sức bí mật. chỉ trong một thời gian ngắn, chúng tôi đã mua được mười khẩu. Số lượng tuy ít nhưng đối với phong trào cách mạng nhà lúc này là rất quý. Do đó, các anh cử tôi mau chóng chuyển về nưóc. Cùng đi với tôi lần này có đồng chí Trương, một thanh niên xông xáo, khỏe mạnh, người cùng quê với Bác. Mặc dầu chúng tôi đi sau nhưng khi về đến gần biên giới, đang đổ dốc thì gặp đoàn của Bác cũng vừa về tới nơi. Bác khen tôi hoạt động tốt, có hiệu quả.

Lúc này đang là những ngày Tết Tân Tị (1941). Hoa nở trắng biên giới. Trong lòng tôi bỗng trào lên nỗi nhớ nhà vô hạn. Tính đến nay tôi đã xa quê hương, xa Tổ quốc gần mười năm. Gần mười năm không một dòng tin, không hiểu bố mẹ tôi, các em tôi bây giờ ra sao? Số tiên 20 đồng thằng chủ thuê tôi, gán trước cho gia đình tôi, không biết có đủ trang trải nợ nần và làm vốn để nuôi sống cả nhà trong cái thời buổi khó khăn này không? Tôi là con cả trong gia đình, nhưng chưa có cách gì đỡ đần cho cha mẹ được. Nhà có mấy sào vườn, mấy sào ruộng thì đã bán hết trả nợ lúc tôi còn ở nhà. Bố tôi phải lên tận rừng xanh, núi đó, cùng với mấy người bạn chặt gỗ, chặt nứa làm bè xuôi về để bán lấy tiền mua gạo. Nhưng một chuyến đi cũng lắm gian truân. Đó là nói chuyện trước đây. Còn bây giờ tuổi già, sức yếu, bố tôi liệu còn đi bè, đi thuyền gì được nữa không?

Đứng ở bên này biên giới, đăm đăm nhìn về Tổ quốc, nghĩ đến cha mẹ và các em, nước mắt tôi tự nhiên ứa ra lúc nào không biết. Tôi muốn giấu đi nhưng đồng chí Vũ Anh đã kịp nhìn thấy. Đồng chí thấu hiểu tìm cảm của tôi. Nhân đó tôi đề đạt nghuyện vọng cho tôi được về trong nước hoạt động.

Nhưng nguyện vọng của tôi đã không được chấp nhận. Đồng chí Vũ Anh động viên tôi: “Đã làm cách mạng thì phải luôn luôn biết đặt lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân lên trên hết. Hiện nay cách mạng đang cần nhiều súng, đồng chí phải cố gắng trở lại Côn Minh, tiếp tục vận động đồng bào quyên góp thêm vũ khí và chuyển về càng sớm càng tốt”.

Thế là tôi lại phải ra đi.

Trở lại Côn Minh, theo chỉ dẫn của Bác, chúng tôi duy trì mọi hoạt động hợp pháp trong thành công “Việt Nam hưởng ứng Trung Quốc kháng Nhật hậu viện hội”, tuyên truyền giác ngộ quần chúng và quyên góp tiền mua thêm vũ khí. Lần này, chúng tôi đến xưởng làm vũ khí của tổ chức Quốc dân đảng ở Côn Minh và mua được thêm sáu khẩu nữa cùng với vài khẩu súng lục và hơn chục lựu đạn.

Đầu năm 1942, tôi phụ trách đưa số vũ khí này về nước, sau đó được Bác và đồng chí Vũ Anh cho ở lại Pác Bó làm nhiệm vụ bảo vệ Bác.


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Tám, 2010, 07:16:31 am
V.

TỪ PÁC BÓ ĐẾN LAM SƠN(1)

Hang Pác Bó là một nơi rất kín đáo, đường tiến lui đều thuận tiện. Hang nằm ở gần biên giới Việt - Trung, bên này động có thể tạm lánh sang bên kia biên giới. Bác cho bố trí những chặng gác bảo vệ. Nhân dân ở đây rất tốt. Một hôm có tin Pháp vào lùng sục, từ vọng gác ngoài báo vào. Nghe tin ấy, vợ chồng đồng chí Đại Lâm lúc này đang làm rẫy ở một quả đồi trước hang, vội vàng đi qua chỗ lối thường đi của chúng tôi lên hang, tự động cuốc hết lên. Vết chân đã mất.

Bác và chúng tôi thường tắm ở suối và mò ốc để cái thiện bữa ăn.

Một hôm chúng tôi đi tắm về thấy có xâu thịt. Hỏi ra mới biết là cụ Dương Văn Đình, bố của năm anh em họ Dương, vừa gửi đến biếu Bác.

Hang Pác Bó âm u, ẩm thấp nhưng địa hình chung quanh thật hùng vĩ, lại có những nét rất nên thơ. Nhìn những ngọn núi chót vót xanh rì với những dây leo trên cành cây cổ thụ rủ xuống dòng suối nước trong xanh rì rào chảy, Bác tức cảnh làm một  bài thơ. Bài thơ đó ngày nay chúng ta đều  biết:

         Non xa xa nước xa xa
         Nào phải thênh thang mới gọi là
         Đây suối Lê-nin kia múi Mác
         Hai tay gây dựng một sơn hà


Từ Pác Bó Bác trực tiếp chỉ đạo việc chuẩn bị Hội nghị Việt Nam giải phóng đồng minh hội sắp triệu tập. Tổ chức này để che mắt bọn Quốc dân đảng Trung Quốc, cần có thành phần anh em “hải ngoại” và anh em “ở trong nước” cửa ra.

Bác phái đồng chí Hoàng Sâm đi Long Châu vận động bọn Phục quốc và anh em trong quân đội Pháp bỏ ngũ tham gia Việt Nam giải phóng đồng minh hội.

Bác vẫn theo dõi Hội nghị Việt Nam giải phóng đồng minh hội bằng con đường liên lạc qua đồng chí Lộc.

Gần đến ngày khai mạc hội nghị, cuối tháng 3 năm 1941, đồng chí Cáp được cử đến ở hẳn Tĩnh Tây tham gia việc chuẩn bị với các đồng chí Lâm Bá Kiệt, Dương Hoài Nam. Bọn quan quân Tưởng phái hai tên tướng đến hội nghị để giám sát. Bác cho rút những đồng chí bị lộ như đồng chí Phùng Chí Kiên…

Bác làm việc bao giờ cũng thận trọng, cảnh giác cao. Chúng ta đã khéo léo lãnh đạo hội nghị bầu ra một ban lãnh đạo phần lớn là người của ta.

Tổ chức Việt Nam giải phóng đồng minh hội lập ra tuy tác dụng với cách mạng rất hạn chế, nhưng ta vẫn quý trọng, khai thác mặt nào có thể khai thác được để phục vụ phong trào. Muốn vậy, cần phải triệt những điều gì làm cản trở bước đường của cách mạng. Ai cũng biết bộ mặt thật của Trương Bội Công, một tên thù địch với chủ nghĩa cộng sản. Bên cạnh hắn là Nguyễn Hải Thần, một kẻ háo danh, bị Trương Bội Công lợi dụng mua chuộc.

Các anh thỉnh thịu Bác về kế hoạch gạt Trương Bội Công ra khỏi hội và được Bác tán thành. Chúng tôi tìm một số anh em trong số thanh niên biết tội của lão, làm đơn tố cáo với Trưởng quan Đệ tứ chiến khu. Đơn đó hình thức là phản ánh tâm trạng anh em, nhưng rhực ra là vạch tội Trương Bội Công ăn chơi, trụy lạc, ăn hối lộ, ăp cắp của công, ăn chặn của anh em.

Hai tên tướng do Trương Phát Khuê phái đến theo dõi hội nghị thấy Trương Bội Công chẳng có uy tín gì, làm có đơn tố cáo. Vốn là bọn đa nghi, sau khi bế mặc hội nghị, chúng đã cho bắt Trương Bội Công và tay chân của hắn.

Nhờ tổ chức Việt Nam giải phóng đồng minh hội, chúng ta đã đưa được 80 anh em thanh niên đi học quân sự và đưa được 10 người đi học vô tuyến điện thông.

Sau thấy hội này hết tác dụng, Bác chỉ thị cho bộ phận cán bộ ở Tĩnh Tây tìm lí do để rút hết. Cách mạng trong nước đang khẩn trương, cần nhiều cán bộ. Đồng chí Lê Thiết Hùng đang làm phó hiệu trưởng trường quân sự trong quân đội của Tưởng, Bác cũng gọi về nước.

Đồng chí Đặng Văn cáp ở Tĩnh Tây về thì Bác đã dọn cơ quan sang Khuổi Nậm ở trong một khu rừng, cánh địa điểm cũ chừng hơn một cây số. Muốn đi vào phải lội dọc một con suối nhỏ, bình thường nước cạn, nhưng khi có mưa là lũ mạnh, khó đi. Địa điểm Bác chọn nằm trong một hõm nhỏ giữa hai sường núi đá xa chỗ dân ở, vắng người qua lại.

Thời kì này là thời kì Bác đang khẩn trương chuẩn bị cho Hội nghị Trung ương lần thứ tám. Hội nghị này như chúng ta đã biết, họp từ trung tuần đến ngoài 20 tháng 5 năm 1941, có ý nghĩa lịch sử rất quan trọng.

Các đại biểu từ miền xuôi, miền trung lục đục kéo đến. Ngoài Bác ra có các đồng chí Phùng Chí Kiên, Hoàng Văn Thụ, Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Vũ Anh…


(1) Dựa theo hồi kí của đồng chí Đặng Văn Cáp trong “Bác Hồ về nước”, Hội văn học nghệ thuật Cao Bằng xuât bản, 1986.


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Tám, 2010, 07:17:53 am
Sau Hội nghị Trung ương lần thứ tám, từ tháng 5 đến tháng 10 năm 1941 Bác cho mở liên tiếp nhiều lớp huấn luyện quân sự. Phong trào quần chúng đang dâng lên cuồn cuộn. Các hội cứu quốc đều tổ chức ra những đội tự vệ võ trang trong nam nữ thanh niên. Đồng chí nào có một chút hiểu biết về quân sự đều được Bác giao nhiệm vụ đi huấn luyện.

Cuối tháng 5 năm 1941, Bác giao trách nhiệm cho đồng chí Phùng Chí Kiên đi Bắc Sơn mở lóp. Mở được 20 ngày thì vùng này bị quân Pháp ập vào lùng sục. Đồng chí Kiên đi vào đường Cao Bằng đến Ngây Sơn bị phục kích và bị quân Pháp bắn chết. Nghe tin đồng chí Kiên hi sinh, Bác lặng đi vì đau xót.

Đến tháng 10 năm 1941, đồng chí Cáp lại được Bác giao cho cùng đồng chí Hoàng Văn Thụ phụ trách lớp huấn luyện mới. Lớp này mở ngay ở vùng Pác Bó sau một quả núi. Trong số học viên lớp này có đồng chí Dương Đại Lâm, Đàm Minh Viễn và một số đồng chí khác.

Tháng 3 năm 1941, Bác về Lam Sơn, cách tỉnh lị Cao Bằng gần 15 km.

Lam Sơn cũng như nhiều vùng khác ở Cao Bằng là một thung lũng, lại ở giữa các vùng núi cao. Huyện Hòa An là một vùng đồng bằng, một vựa thóc của tỉnh, nhưng nơi đây thung lũng lại hẹp. Con sông Bằng Giang cách đó chừng dăm cây số án ngữ lối đi quan trọng ra vùng Nước Hai thị trấn của huyện lị Hòa An và cũng là đồn binh trong yếu của Pháp hồi đó. Thật là một địa thế tốt và hiểm trở.

Lúc này, tôi vừa về nước, vẫn được giao nhiệm vụ bảo vệ Bác đi huấn luyện quân sự cho các lớp…

Vùng lam Sơn sau Hội nghị Trung ương lần thứ tám, trở thành trụ sở chính, là nơi Bác qua lại chỉ đạo phong trào toàn quốc. Tờ báo Việt Nam độc lập, xuất bản bí mật đều kì, sau những số đầu tiên được in ở Pác Bó, Khuổi Nậm, tiếp tục ra ở đây, tờ báo gọi tắt là Việt Lập

Nhà Bác ở là nhà một đồng chí Nùng, cụ Mã Văn Hản. Cụ có con đầu lòng tên là Lén, một nông dân nghèo. Sau nhà là dãy núi đá, hễ có động, chỉ mấy bước chân là Bác có thể vào hay hay thoát lên núi.

Người nghèo là người bị áp bức - Bác thường nói - Những người đó rất gắn bó với cách mạng, chỉ cần biết cách tuyên truyền giáo dục họ.

Đúng vậy. sau này có gia đình cụ Lén giác ngộ, một lòng một dạ bảo vệ cách mạng, bảo vệ Bác, kể cả những lúc nguy hiểm đến tính mạng. Cụ Lén trước kia là một người khó tính, ít ai gần. Có lần cụ mang rau cải ra chợ bán, người mua lấy thêm một tàu, cụ đuổi theo giằng cho kì được, tàu lá bị rách bươm ra cụ không bỏ. Một hôm cụ mang thịt đi bán, người mua chỉ bốc thêm một mẩu xương, cụ cũng giằng lại. Sau này, cụ giúp cho anh em cán bộ từng đủi thịt lớn, có anh em hỏi, cụ thủng thắng đáp:

- Trước kia tôi không đòi lại, người ta sẽ cho mình là dại, bây giờ ủng hộ cách mạng là giúp nước sao gọi là dại được?

Được Bác gần gũi giáo dục, cụ Lén được kết nạp vào Đảng và rất kiên cường, mưu trí. Một hôm cụ đi liên lạc về, thư còn trong túi thì địch ấp đến. Biết nguy, nhưng cụ vẫn bình tĩnh. Thấy một con trâu, cụ liền lùa nó xuống ruộng rồi đuổi theo trâu xuống bùn. Nhân đó cụ giúi lá thư xuống bùn. Đi hoạt động được một thời gian, cụ bị bọn quan lại bắt. bị tra tấn, kìm kẹp cụ không hề khai báo một lời. Địch không moi được gì, phải thả cụ ra. Về nhà cụ ốm liệt rồi chết. Bà cụ lẽ cũng gan góc không kém gì chồng. Tây bắt bà cụ Lén tra tấn, bắt khai chỗ ở của con trai là anh Lén đi hoạt động cách mạng. Cụ cũng không hề nói.

Mặc dù sống trong một vùng cơ sở cách mạng rất tốt, Bác vẫn không quên căn dặn chúng tôi phải biết giữ bí mật từ mỗi việc làm đến đường đi nước bước. Tôi còn nhớ nhiều lần Bác nhắc nhở chúng tôi mỗi bận vào ra, để đề phòng địch lùng sục, không được để lại dấu vết trên đường, chứng tỏ có sinh hoạt của con người ở nơi hang sâu cùng cốc này. Ở đây, đường đi lối lại rát hiểm trở, toàn đá tai mèo, lá ban mọc đầy trên các lối. Bác bảo chúng tôi nên đi một lối, về một lối và phải giữ nguyên cảnh rừng hoang dã ấy, nhất là không được ngắt bỏ lá han, chỗ nào lá han nhiều quá thì dùng cây, dùng gậy gạt ngọn mà đi, bước đến đâu lá han khép kín đắng sau đến đấy, che lấp dấu vết con đường.

Ở trong hang không khí ẩm thấp lắm, nhất là ngày mưa, nước thường nhỏ giọt theo nhũ đá xuống nền hang lách tách không bao giờ ngớt. Có đồng chí đề nghị cho làm lán để tránh mưa. Bác không dồng ý vì cho rằng như vậy khi động phải rời hang giặc đến sẽ biết dấu vết để truy bắt.

Mưa lớn, nước nhỏ lênh láng vào chỗ Bác nằm. Bác cũng không chịu cho làm mái che hoặc lấy một cây que dài ghếch làm máng lựa đón giọt nước chảy ra chỗ khác.

Trong hang có những nhũ đá như hình người. Bác chọn một cái nhũ đá ở vị trí cao nhất tạo nên bức tượng Các Mác, mặt hướng ra phái cửa hang, ai chợt đi vào cũng nhận ra ngay.


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Tám, 2010, 07:19:57 am
VI.

ĐÂY SUỐI LÊ-NIN KIA NÚI MÁC(1)

Tôi còn nhớ, hồi ấy Bác còn làm việc ở một hòn đá kê gần suối ngay dưới cửa hang. Nhưng khi trời chiều, ánh mặt trời bị bóng núi và những tán cây rậm rạp che khuất, do đó Bác bảo chuyển chỗ làm việc sang bên kia bờ suối cách cửa hang mấy chục mét. Bàn làm việc là một phiến đá phẳng kê trên mấy hòn đá nữa cho vừa tầm ngồi, ghế cũng là một phiến đá nhỏ và nhẵn. “Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng”, bởi chính nơi đây Bác đã dịch cuốn Lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô. Bàn đá kê ngay cạnh suối nên mỗi khi nghỉ ngơi sau những giờ làm việc căng thẳng, Bác thường ra suối để câu cá. Bác đặt tên cho con suối ấy là suối Lê-nin vàn gọn núi cao đối diện có vóc dáng sừng sững là núi Các Mác.

Bác sống rât giản dị và kham khổ. Nước lá ổi thay chè, và cải soong là thức ăn chủ yếu. Ngày ấy đồng bào quanh vùng ăn độn gắp, ngươi trong cơ quan cùng ăn độn bắp. Riêng “Đồng chí già” (2) tuổi cao, sức yếu, đồng chí Lộc mua gạo để nấu cho Bác ăn, nhưng Bác không đồng ý. Có lần bắp non xay để lâu mới ăn đến, bị chua, chúng tôi lại đề nghị Bác ăn cơm gạo không, Bác vẫn không nghe.

Ở đây Bác cũng luôn luôn bằng mọi cách cải thiện đời sống. Thời kì ở Pác Bó không dài, nhưng một vườn rau quả nho nhỏ đã  bén rễ, có cả cà chua và ớt. Bác còn cùng anh em trong cơ quan câu cá, mò ốc suối. Năm thỉnh mười thoảng, anh em mới ra chợ mua rua, nấu bát canh rau ngót rừng, rau cải hoặc mua một hai cân thịt lợn, chỗ béo đi lọc riêng rán mỡ ăn dần, còn chỗ nạc thì xào mặn, cô lại như mắm khô để dự trữ gọi là món ăn “chiến lược”.

Ngay những ngày đầu ở Khuổi Nậm, Bác đã bát tay vào sửa sang chỗ ở. Gần lán, chỗ kế hoạch nước chảy có những đóng cát nhỏ. Bác đào đất thành cái hồ nhỏ, lấy nhũ đá ở các hang đá về xếp thành núi non bộ, cũng có hang, khe, đỉnh, có yên ngựa, có vách đá cheo leo, một cái cầu bắc bằng cây lau từ bờ hồ ra chô chân núi, chung quanh hồ trồng cây, cỏ trông như bức tranh “sơn thủy hữu tình”. Đồng chí Bảo An lấy đá gan gà đẽo thành một con cò lửa con rất khéo, con cò vươn cổ nhìn xuống hồ như đang rình bắt tép. Bác lại gọt chiếc thuyền gỗ nhỏ thả xuống nước, trôi bập bềnh rất đẹp.

Cuộc sống kham khổ và đầy thi vị. Lúc đó tôi đâu biết rằng Bác còn là một nhà thơ lớn của dân tộc. Cuộc sống khác khổ cần lao vẫn không làm mờ được cái chất nghệ thuật, chất thơ trong Bác.

Bác cũng lại rất thiết thực, trồng rau ở khoảnh vườn Pác Khuổi gần đấy và ai đến cũng rủ ra làm, nếu gặp giờ tăng gia. Có đồng chí vốn là học trò không quen, khi đến, có ý lản tránh việc. Bác bắt thóp được chỗ yếu, bảo lấy cái cuốc, dắt ra làm và bảo muốn vận động quần chúng làm cách mạng thì phải bắt đầu từ cái này, làm rồi sẽ quen.

Một lần tôi lên lán, bỗng ngạc nhiên thấy ở một gác bãi được dọn dẹp cắm ít cành cây quây lại, một cái biển đề chữ nho cắm cạnh đó.

Bác chỉ vào cái biển nói với tôi:

- Đây là “Tiểu tiện xứ”. Chỗ ấy đổ tro, ai đến thì đi tiểu vào đấy, đóng góp chung. Ở đây trồng rau, không có phân thì lấy cái đó bón rau.

Dân ở đây trước chưa biết cách này, từ đó bắt chước làm theo.

Thời kì này công việc bận nhiều, nhưng Bác vẫn sống điều độ. Sáng nào cũng vậy, cứ khoảng bốn rưỡi năm giờ, khi sương mù chưa tan, còn bồng bềnh trên các ngọn cây, khe núi, Bác đã dậy dọn dẹp chăn màn, đồ đạc rồi chạy xuống suối tắm rửa. Bác cũng thích bơi lội, thạo bơi ếch, tay trườn đi mềm mại mà như có sức chém nước. Làm việc thường ngày, khi rảnh rỗi là Bác ra cuốc vườn, làm rau, xuống suối xách nước tưới cây, hoặc giúp anh em trong việc bếp nước, nấu ăn, mò ốc, câu cá, kiếm rau rừng. Thỉnh thoảng Bác rủ chúng tôi đi chơi núi. Nhiều khi Bác đi chân không, mỗi bận rướn bàn chân bấu vào đá, gân xanh nổi lên, trông rất thương. Chúng tôi đề nghị Bác đi giày cho khỏi đau chân, Bác bảo phải đi đất cho quen. Bác còn nói leo núi là một trò du lịch nhưng cũng là một cách tập luyện vì con đường cách mạng chông gai lắm. Người leo núi rất khẻo, không bao giờ chịu dừng bước trước những đỉnh cao có thể đi tới. Bác chú ý đến những cái hang đá và quan sát địa hình, địa vật kĩ càng. Trí nhớ của Bác thật ít ai so kịp. Có lần, trong lúc vui chuyện với mấy bà con ở dưới bản lên chơi, Bác bỗng nhắc đến mấy cái hang trên triền núi cao. Bà con và cả chúng tôi đều ngớ ra không biết. Nhưng Bác thì nhớ rất rõ. Bác bảo cái hang này ở cửa có cây gì, cái hang kia trong có một bộ xương không biết là xương gấu hay xương người. Bác bảo phải thông hiểu đường đi lối lại và những nơi hang tối đó để phòng khi địch lùng bắt có thể xử trí kịp thời.


(1) Phần này tác giả tham khảo hồi kí của đồng chí Dương Đại Lâm trong “Bác Hồ về nước”, Hội văn học nghệ thuật Cao Bằng xuất bản, 1986.
(2) Tên gọi quen thuộc của Bác hồi ở Pác Bó.


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Tám, 2010, 07:20:28 am
Thời gian ở Khuổi Nậm (Pác Bó), nhiều việc làm của Bác đã để lại trong dân bản những kỉ niệm rất sâu sắc. Tôi nhớ lại buổi đầu, khi đồng chí lê Quảng Ba bảo một số bà con lên làm lán giúp cơ quan, nhiều nhà không cử được ai đi cũng tự động mang cơm gạo lên làm giúp. Lại có ba cụ, bố anh Dương Đại Lâm, bố vợ đồng chí Lê Quảng Ba và cụ Mạc Văn Khoan rủ nhau cùng lên, tay xách rượu và đồ nhắm. Lên gặp Bác, các cụ mời Bác xuống làng ở, khi nào cúng lùng sục bắt, hãy lánh vào rừng. Bác nói: “Bây giờ phong trào cách mạng đã phát triển tốt, đồng bào ai cũng yêu thương cán bộ, sẵn sàng giúp đỡ và bảo vệ cán bộ. Thương yêu nhau, giúp đỡ nhau làm cách mạng như thế là tốt, không cứ phải ở với nhau. Vả lại mỗi người một việc, nhân dân làm ruộng, chúng tôi làm công việc khác, e xuống bản không tiện, hơn nữa ở thế này giữ được bí mật hơn”.

Bác lại nói tình hình thế giới và trong nước, rồi nhắc lại những điều mà trước đây Bác đã có dịp nói riêng với bố của anh Dương Đại Lâm:

- Tôi già làm cách mạng được, các cụ cũng làm cách mạng được, làm những việc hợp với mình, các cụ đồng ý không? Bây giờ các tầng lớp nhân dân đều có đoàn thể cứu quốc rồi. Đây đủ ba cụ, ta cũng có thể thành công thành một tổ phụ lão chữ?

- Bằng lòng thôi.

Các cụ đều tật đầu thán thành.

- Thế thì bây giờ ba cụ bầu ra một cụ tổ trưởng đi.

- Dà, cái đó lại không biết rồi. Thôi cứ để cánh trẻ nó làm tổ trưởng cho chúng được.

Bác cười:

- Không thể được, cánh trẻ có việc của cánh trẻ. Đoàn thể nào do người của đoàn thể ấy phụ trách chứ. Chả lẽ hội phụ nữ lại để cho đàn hông làm hộ, các cụ cũng vậy, không thể để thanh niên nọ thay được.

Ai cũng nghe phải, nhưng lúng túng mãi không biết bầu bán ra sao, người nọ đùn người kia, mặt đỏ bừng lúng túng y hết lúc trai trẻ hay thẹn thùng, xấu hổ, làm lũ thanh niên chúng tôi khoái chí cười ầm ĩ.

Liền lúc đó, Bác gợi ý:

- Thôi bây giờ để cụ Đình làm tổ trưởng nhé!

Hai cụ kia tán thành luôn. Còn ông bố của anh Đại Lâm cứ thắc mắc là rồi đây không biết làm việc ra sao, nên từ chối hoài.

- Cụ Đình không lo - Bác nói - Cụ cứ làm rồi bảo thanh niên và Đại Lâm giúp. Nhưng chỉ một tổ phụ lão thì chưa đủ đâu. Các cụ về vận động các cụ ông, cụ bà khác trong bản có lòng ủng hộ cách mạng cùng vào tổ chức, không có người trong người ngoại lại sinh thắc mắc không lợi cho việc đoàn kết.

Thế là từ đấy tổ chức phụ lão cứu quốc ở Pác Bó được thành lập và dần dần phát triển sang mấy vùng lân cận.

Cũng hồi này, tôi còn nhớ một chuyện nhỏ nhưng ấn tượng để lại còn mãi mãi mới mẻ. Một sáng như thường lệ, Bác dậy sớm ra suối tắm. Lúc ấy gặt hái đã vãn, trên các bờ ruộng thỉnh thoảng còn úp những cái “loỏng” (tức là cái thuyền để đập lúa). Tắm rửa xong Bác quay về lán, đương đi men theo bờ ruộng phải trèo qua một cái loỏng” đã cọ rử sạch sẽ, úp ở đấy. Không ngời cái “loỏng” để chông chênh, Bác vừa bước qua thì nó đã ụp xuống ruộng, bùn nước bắn lên bẩn bê bết. Cái “loỏng” thì nặng mà gần đấy không có ai để nhờ, song Bác không  bỏ đi. Bác quay lại rửa sạch rồi rướn hết sức mình úp lại như cũ. Tầm này, lác đác có người ra suối nhìn thấy, về kể chuyện lại. Ông bố Đại Lâm nói:

- Chà! Ông già này sao cẩn thận thế. Người cách mạng có khác. Chúng mày phải bảo vệ ông già cho thật chu đáo, ông già sẽ làm vua cả nước đấy. Chúng mày chẳng những phải nghe ông cụ, mà còn phải nghe theo ông cụ đi làm cách mạng đến cùng!


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Tám, 2010, 07:20:50 am
Bác khuyên mọi người không nên ngủ trưa, chiều làm việc dễ bị uể oải. Bác tiếp tục dùng những buổi trưa ấy để dạy bảo chúng tôi như những ngày còn ở hang Cốc Bó. Đối với thanh niên chúng tôi, thắng được giấc ngủ trưa đâu phải dễ dàng. Có đồng chí ngồi nghe Bác nói chuyện bên suối, gió núi mát rượi, hàng mi khép dần rồi ngủ gật. Bác bảo xuống suối vục nước rửa mặt cho tỉnh tảo để tiếp tục nói chuyện.

Có lần, một đồng chí đi công tác dưới làng mới về, trưa hôm sau bỏ học trốn đi đâu mất. Bác bảo chúng tôi chia đi các ngả rừng tìm, bản thân Bác cũng đích thân đi một hướng. Tìm khá lâu không thấy, mãi sau Bác đi đến  gần một cây rất to, trên đó có một cái chòi bất ngang cành cây, Bác nghi nghi đứng lại dưới gốc cây, thấp thoáng trong tiếng gió thổi, nghe tiếng ngáy khò khò từ vòm xanh hắ xuống. Bác gọi chúng tôi đến bảo trèo lên xem và phát hiện ra đồng chí kia đang cuộn tròn đánh một giấc say trên đó, quyển sách úp lên mặt. Chuyên này đế bây giờ chúng tôi nghĩ lại vẫn còn thấy vui vui.

Anh học trò trốn học đứng trước mặt thầy chỉ còn biết cười xin chịu lỗi. Tiến đến bên đồng chí đó, Bác cười:

- Tại sao hôm nay trốn học?

Rồi dắt tay anh ta ra bờ suối, Bác bảo:

- Không có việc gì làm, nên buồn ngủ chứ gì. Bây giờ giao cho việc nhặt hết lá khô ở đoạn suối này, khi nào tỉnh ngủ thì tiếp tục vào học.

Chúng tôi nhớ mãi kỉ niệm lí thú này, vui vui thân mật như trong một gia đình, đến người bị “phạt” cũng thấy rất thú vị.

Thời gian đó Bác mở nhiều lớp huấn luyện để nghiên cứu chương trình điều lệ Việt Minh rồi tổ chức thí điểm ở Pác Bó để rút kinh nghiệm, sau đó triển khai sang các nơi khác. Phong trào vì thế lan rộng rất nhanh.

Bác rất chú ý đến đời sống của các hội viên cơ sở. Một hôm trong làng có một nữ hội viên cứu quốc chết, gia đình tổ chức làm ma rất chu đáo. Được tin Bác gọi Đại Lâm lên hỏi:

- Nữ hội viên này chết, đoàn thể có tổ chức đi thăm viếng không?

- Dạ có ạ!

- Thể lệ xưa nay đi thăm viếng có phải mang gì đến giúp không?

- Cái này thì tùy theo hoàn cảnh của mỗi người, ai có gì mang nấy, người có thì tiềng gạo, người không có thì vác củi, bó đuóc cũng được, miễn là có lòng thương người chết.

- Thế đoàn thể đến viếng thì làm được những gì?

- Đến thì tập hợp hội viên và bà con họ hàng cùng gia đình người chết để làm lễ truy điệu, chia buồn với gia đình và nhắc nhở nhiệm vụ của mọi người.

- Có đọc văn tế không?

- Dạ có thì tốt quá. Nhưng hiện nay trong làng có vài ông tào hay chữ, ông thì đi vắng, ông ở nhà lại khó tính lắm, cháu không dám nhờ, ngại phiền.

- Thôi thế thì Đại Lâm cứ về, chiều lên lấy.

Y hẹn, chiều hôm ấy Bác trao cho Đại Lâm một bài văn tế mà bố cục, lời lẽ quy cách giống như mọi ông tào cao tay nhưng nội dung thì rất mới, bao hàm một ý nghĩa chính trị sâu sắc, những câu văn thống thiết làm xúc động lòng người.

Tôi còn nhớ một đoạn trong đó, đại ý: Con người ta ai cũng vậy, cha mẹ có sinh ra mới thành con người, rồi lớn lên, già nua và chết đi, đấy là luật chung của tạo hóa, ai cũng bình đẳng như nhau. Thế thì tại sao ở trên đời, cuộc sống của mọi người lại không bình đẳng, có kẻ giàu người nghèo, có kẻ áp bức bóc lột người khác?


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Tám, 2010, 07:25:23 am
Đọc đến đoạn đó, ai cũng trầm trồ khen. Nhất là mấy ông già đã sống quá nửa dời người tủi cực, càng thấy lời văn như vận vào mình, một người bỗng nói:

- Đúng quá, đúng quá! Văn tế của thày tào nào làm hay thế?

- Chả phải của thầy tào nào cả, “Đồng chí già” viết đấy.

- Ồi chào, “Đồng chí già” cũng làm tào được à?

Mọi người tranh nhau hỏi.

Sau buổi làm lễ truy điệu đồng chí nữ hội viên đó, điều mọi người nhớ chính là cái đạn văn đã đặt ra cho mọi người một câu hỏi chí lí. Đoạn văn ấy đã làm cho bà con dân bản đoàn kết, sát cánh hơn nữa trong các tổ chức cứu quốc để cùng nhau thanh toán sự bất bình đẳng ở trên đời.

Qua chuyện này, Bác đã dạy cho chúng tôi một bài học thực tế, người cách mạng phải biết tận dụng mọi hoàn cảnh để tuyên truyền giác ngộ và vận động quần chúng.

Cuộc sống của Bác gao giờ cũng giản dị và vui tươi. Bác làm từ việc lớn như lãnh đạo cách mạng đến việc bình thường nhất như xay bột, giã gạo, vác gỗ…

Có lần Bác đang cặm cụi trồng cây khoai môn trước cửa nhà, thấy chúng tôi vào, Bác liền cười nói:

- Trồng môn trước cửa, thử đối lại xem nào?

- Câu đối cũng khá hắc búa vì “môn” tức là cửa, làm thế nào chọn được vế kia cho chọi. Đồng chí Đặng Văn Cáp nghĩ ngay đến chữ “ốc” là nhà bèn đối:

- Bắt ốc sau nhà!

- Tạm cho là được!

Bác lại cười một cách vui vẻ.

Bác rất chú trọng đào tạo cán bộ cho phong trào cách mạng. Khi ở nước ngoài cũng như khi về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng, Bác đã đào tạo biết bao nhiêu cán bộ ưu tú. Trong số 43 anh em đã được dự lớp huấn luyện ở Nậm Quang cũng như các anh em Bác mới biết, Bác chú ý đến ba đồng chí Bình Dương. Bác Vọng (tên thực là Hoàng Đức Thạc và sau đổi là Lã Minh Giang) và Xích Thắng. Bác đã tìm được một địa điểm hẻo lánh, đặt là hang Lê-nin để huấn luyện thêm công tác đảng cho ba đồng chí ấy. Trong đợt huấn luyện này có thêm một số đồng chí nữa được tham gia như đồng chí Cường Tiến, đồng chí Quang Hưng…

Được Bác đặc biệt dìu dắt, các đồng chí trên đều trở nên các cán bộ cốt cán, sau này giữ những trọng trách của Đảng.

Xong những lớp huấn luyện này, Bác cho dọn cơ quan đi Lũng nậm, vùng đồng bào Dao. Đến tháng 6 năm 1942 Bác lại cho dọn lên núi, vùng Lũng Dẻm thuộc khu núi đá Lam Sơn. Bác làm thơ:

         Lục nguyệt nhị thập tứ
         Thượng đáo thử sơn lai
         Cử đầu hồng nhật cận
         Đối ngạn nhất chi mai


Dịch là:

         Hai mươi tư tháng sáu
         Lên ngọn núi này chơi
         Ngẩng đầu mặt trời đỏ
         Bên suối một cành mai

                  (Tố Hữu dịch)

Bác có một tâm hồn thơ dào dạt. Việc nước, công tác cách mạng, việc tham gia lao động hằng ngày, bao thứ bận rồi, nhưng gặp một cảnh đẹp, một ý thơ là Bác có ngay xúc cảm. Tiếc rằng nhiều khi Bác đọc lên không ghi chép, về sau không ai sưu tầm được.

Ở một địa thế có núi cao, ở giữa từng mây, đá trong hang lại lớm chởm, một hôm ngắm xung quanh Bác nói:

- Người H’Mông ở cao, ta lại ở cao hơn người H’Mông.

Một hôm khác, cơm đã dọn ra, tự nhiên một hòn đá từ trên cao rơi xuống đánh ầm một tiếng trước mặt chúng tôi, may không ai việc gì.

- Đây là một điềm tốt (Bác cười và nó).

Tuy nhiên, vì ở cao, mùa nắng khó có nước, chỗ này không thuận tiên, bác lại cho dọn cơ quan đến Lũng Diên.


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Tám, 2010, 07:26:49 am
VII.

GIỮA ĐƯỜNG GẶP NẠN(1)

Ít lâu nay Bác thường gặp Bác có ý định trở lại Trung Quốc một chuyến nữa. Bác đi Trung Quốc là để liên lạc với đại diện của phe Đồng Minh. Bác hỏi anh Cáp về tình hình đường sá. Thấy anh Cáp có thể đi theo được. Bác đã chọn anh Cáp làm người dấn đường. Chờ cho đồng chí Võ Nguyên Giáp và Lê Thiết Hùng đi Nam tiến huấn luyện quân sự ở Kim Mã về là xuất phát. Hai anh bị bọn phản động phát hiện, phải chạy lên núi, đồng bào địa phương hết sức giúp đỡ mới thoát. Các anh phải nằm rừng lại thiếu ăn nên bị ốm ặng. Bác bảo anh Cáp đi xem tình hình sức khỏe các anh và đưa thuốc men. Đường đi khó khăn, tìm nhau không dễ, lại phải lo chạy thuốc cho hai anh khỏe, nên một tháng sau anh Cáp mới về được. Bác đành chọn người khấc đi thay. Hôm ấy Bác bí mật ra đi.

Vài ngày sau đồng chí giao thông trở lại mới rõ: sáng hôm ấy Bác đi về Pác Bó. Trên đường rtắt qua xóm này làng khác, Bác phải cải trang bao nhiêu lần.

Qua Nà Pẳng, một người đàn ông mặc quần áo lành lặn, tay cầm ba toong đang đứng ngắm đồng, trông thấy Bác, đúng vẻ một người Nùng Giang đi tới, hắn hất hàm hỏi bác bằng tiếng Tày:

- Này, ông già kia! Đi đâu đấy?

Bác nói tiếng Nùng Giang với hắn:

- Tôi ở Lục Kha xuống, tìm nơi đi ở chăn trâu thuê, nhưng họ chê tôi già, không ai mượn, nay trở về nhà thôi.

- Tốt lắm. Mày ở đây với tao. Nhà tao kia kìa.

Vừa nói hắn vừa giơ ba toong chỉ lên ngôi nhà cao giữa làng..

- Dạ. Tôi đi lâu rồi. Nay để người già về thưm nom con cháu vài hôm sẽ đây nhờ miếng cơm nhà ông.

Mặt hắn vênh lên, tiếp tục ngắm đồng:

- Ừ đi rồi về ở với tao.

Bác lại đi. Qua đường tắt Đào Ngạn, ra đường cái Đôn Chương, Bác lại đóng vai thầy cúng, đồng chí giao thông đóng vai một người Nùng Giang Lục Khu đi đón thầy cúng về bản mình làm mo. Bác cùng đồng chí giao thông đàng hoàn đi qua trước đồn lính Tây Đôn Chương về Pác Bó

Cơ quan biết Bác đã đi đến nơi an toàn, ai cũng yên lòng. Nhưng vắng Bác, cả cơ quan đều thấy trống trải.

Đến phố Túc Vinh thị trấn Đô Quân, quân Tưởng xét giấy, bắt người la và bắt luôn cả Bác.

Bác bị chúng dẫn đi khắp các trại giam trong vùng Tĩnh Tây rồi đưa lên cả vùng Quế Lâm, Liễu Châu. Bác biết rõ nếu không có sự can thiệp của quốc tế, của dư luận chung, bọn cầm quyền Tưởng không đời nào chịu tha mình. Bác liền bí mật tìm cách biên thư về nước dặn dò cách vận động, cách can thiệp để cho lời khai của Bác và lời vận động trong nước gửi ra cùng ăn khớp với nhau.

Căn cứ vào những lời Bác dặn, các anh ở nhà viết thư vận động đòi thả ông Hồ Chí Minh (tên của Bác lúc này), là một trong ba đại biểu sang gặp Đồng Minh để liên lạc. Một đại biểu vì đường sá nguy hiểm chẳng may bị ngã què không đi được nữa, còn đại biểu thứ hai không hiểu sao đã mất tích, chỉ còn lại một mình ông Hồ.

Thư vận động đến tay chúng, nhưng chúng vẫn làm lơ.

Tháng 5 năm 1943, Bác vẫn bị giam giữ, nhưng chúng chẳng có một chứng cứ gì để có thể buộc tội được, chúng định tìm cách giữ Bác ở lại Trung Quốc để sử dụng hoặc nếu thả cũng phải có giấy bảo đảm. Lá thư thứ hai Bác viết cho chúng tôi từ tháng 5 năm 1943, nhưng mãi đến tháng 8 năm 1943, chúng tôi mới được nhận.


(1) Phần này, tác giả tham khảo hồi kí của đồng chí Đặng Văn Cáp trong “Bác Hồ về nước”, Hội Văn học nghệ thuật Cao Bằng xuất bản, 1986.


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Tám, 2010, 07:28:11 am
Đang đi huấn luyện quân sự, được thư của đồng chí Vũ Anh gọi, anh Cáp tức tốc về và chuẩn bị mang giấy tờ vận động và giấy tờ bảo đảm cho Bác. Anh Cáp sang Tĩnh Tây thì nghe tên chủ nhiệm chỉ huy sở quân Tưởng báo tin có hai người Việt Nam bị bắt thì một người đã bị bệnh đau tim mất rồi. Anh Cáp phân vân nghĩ bụng không biết có phải Bác không? Chúng bày đặt ra hay cũng có thể chúng nhầm với hai người khác. Xin chúng cho đi đến nơi để xác nhận thì chúng từ chối, anh Cáp đành quay về báo cáo, không đi tiếp Liễu Châu nữa. Trước khi quay về, anh Cáp vẫn kí giấy bảo đảm và yêu cầu hắn chuyển bức thư gửi cho Bác, kí tên là Vũ Đức Phương.

Bỗng một hôm anh Phạm Văn Đồng nhận được một bức thư và tờ Quảng Tây nhật báo, trong đó co một bài thơ, chữ viết tay ở bên mép trắng của tờ báo. Bài đó như sau:

         Vân ủng trùng sơn, sơn ủng vân
         Giang tâm như kính, tĩnh vô trần
         Bồi hồi độc bộ Tây Phong Lĩnh
         Dao vọng Nam thiên, ức cố nhân.


Dịch là:

         Núi ấp ôm mây, mây ấp núi
         Lòng sông gương sáng, bụi không mờ
         Bồi hồi dạo bước Tây Phong Lĩnh
         Trông lại trời Nam, nhớ bạn xưa.

                       (Viện văn học dịch)

Thì ra Bác còn sống! Đọc xong mọi người reo mừng, thởm ạnh một cái, như trút được hết mọi nỗi đau thương vẫn đọng lại lòng mình. Đọc lá thư của Bác viết, ai cũng mừng. Trong lá thư bác nói nhà cầm quyền Tưởng tha nhưng hiện vẫn giữ làm cố vấn, vì vậy cần phải có những văn kiện vận động thật mạnh, chúng mới chịu tha thực sự. Cuối cùng Bác còn dặn dò về một số công tác cụ thể phải làm trước mắt. Trong hoàn cảnh đầy gian lao khổ ải, lại bị ốm yếu do cảnh lao tù gây ra, Bác vẫn bình tĩnh nghĩ tới cách mạng trong nước.

Đọc những đoạn Bác dặn dò, thật ra là những chỉ thị, chúng tôi không một ai không suy nghĩ và nguyện đem hết sức mình thực hiện lời dạy của Bác. Chúng tôi phân công nhau chuẩn bị làm công việc vận động. Đồng chí Vũ Anh lo chạy tiền nong đi đường, đồng chí Phạm Văn Đồng thảo thư bằng tiếng Pháp, anh Cáp thảo bằng tiếng Trung Quốc, còn đồng chí Vân Trình làm thư kí tòa soạn tờ Việt Lập có nhiệm vụ sắp xếp các bài rồi lo in. Như Bác đã gợi ý, để cho tiếng nói của mình có một sức mạnh, tài liệu này sẽ gửi đến các cơ quan thông tấn như Quốc tế tân văn xã, Thông tân xã Liên Xô TASS, các báo Trung Quốc như Đại Công, Quảng Tây nhật báo, Trung ương báo, các nhân vật chủ chốt của chính phủ Trung Quốc.

Tài liệu in xong trung tuần tháng 11 năm 1943 anh Cáp lại một lần nữa được cử đi Tĩnh Tây để phân phát các tài liệu. Cùng đi lần này có đồng chí Nam Long.

Lúc này Bác đã có tiếng trên quốc tế. Có một người Việt Nam hồi đó hoạt động ở Ấn Độ tên là Dương Bảo sơn, sau này anh nói lại là ở đây có nhận được của Quốc tế văn xã tài liệu kể trên và ông Hồ Chí Minh đã được nhắc đến rất nhiều. Chính do uy tín của Bác như thế mà bọn Tưởng muốn giữ Bác lại để dùng. Chúng đã mời Bác làm cố vấn cho chúng. Tuy rằng đó không phải là ý đồ tốt nhưng Bác đã có danh nghĩa cố vấn, chúng khôngthể không ưu đãi Bác và phải coi Bác vào bậc thượng khách. Chúng đã tiếp Bác trong trụ sở Trưởng quan tư lệnh bộ Liễu Châu.

Những hoạt động và tài năng của Bác khiến bọn Tưởng không thể không nể nang, trọng vọng. Tháng 5 năm 1944 chúng buộc phải để Bác dẫn số học sinh mãn khóa quân sự ở Điền Đông về nước.

Vì đi đường Liễu Châu - Long châu không gặp ai ra đón, Bác đành phải quay lại con đường cũ là đường Tĩnh Tây về Pác Bó. Như vậy là hai lần không gặp liên lạc của chúng ta ở trương nước đi đón, hai lần bác đã qua con đường Tĩnh Tây về nước.

Nghe tin Bác về nước, chúng tôi càng phấn khởi vô cùng.

Giờ đây con tàu cách mạng lại có bàn tay vững chắc lái. Các anh bố trí Lũng Hoãn ở Lam Sơn (Hòa An) là địa điểm để đón Bác. Vùng Hòa An vẫn là vùng lí tưởng. Bác nói:

- Mĩ đồng ý tham gia mặt trận thứ hai từ cuối tháng 6 năm 1942, thế mà đến 1944 họ mới chịu mở mặt trận. hãy xem binh tình ra sao đã. Cần ở vùng biên giới để kịp ứng phó cho thuận tiện.


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 01 Tháng Chín, 2010, 06:20:53 am
VIII.

LẠI SUÝT BỊ BẮT

Tháng 11 năm 1944, phong trào cách mạng của ta đã lên mạnh.

Tình hình thế giới dần dần đã sáng sủa có lợi cho cách mạng nói chung.

Phát-xít Hít-le sau khi đại bại ở Sta-lin-grát lùi dần về phía tây và đang có nguy cơ bị tấn công ở ngay gần cửa ngõ Béc-linh.

Phát-xít Nhật lấy chỗ dựa chủ yếu là đồng minh Đức thì lúc này hết trông chờ được Đức rồi. Bị tấn công và bị thua hết mặt trận này đến mặt trận khác, Nhật càng ngày càng suy yếu.

Trước tình hình ấy, Bác lại chuẩn bị một chuyến đi sang Trung Quốc, mục đích chuyến đi này là gặp Bộ tư lệnh quân đồng minh đang đóng ở Côn Minh để bàn việc hợp tác mặt trận Việt Minh đánh Nhật trong thời gian tới.

Lần đi này Bác có mang theo một phi công Mĩ với mục đích “làm quà” cho viên tướng Sê-nô, tư lệnh không quân Đồng Minh đang đóng bản doanh ở Vân nam. Đây là một nước cờ rất hay của bác và cũng chỉ có Bác mới đủ trình độ mọi mặt để thực hiện nước cờ này.

Số là vào khoảng tháng 10 năm 1944, có một trung úy phi công Mĩ tên là Sô (Shaw) lái chiếc B.25 bị Nhật bắn rơi xuống khu du kích của ta thuộc xã Đề Thám, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng. Lúc này bác còn ở Pác Bó. Bác chỉ thị phải chăm sóc chu đáo người Mĩ này và dẫn lên gặp Bác. Đoạn đường từ chỗ máy bay rơi đến nơi Bác ở chỉ có hơn 60 cấy số đường chim bay, nhưng đối với viên phi công Mĩ là cả một cuộc “trường chinh” gian khổ. Quân Nhật bủa lưới vây kín các ngả đường, cho lính và tay sai càn quét suốt một vùng rộng lớn, với quyết tâm bắt sống cho bằng được viên phi công của quân Đồng Minh.

Ta phải đưa viên phi công giấu kín vào sâu trong núi một thời gian, sau đó bỏ đường núi luồn rừng mà đi. Chặng đầu triên từ chân núi Bản Khâu, Bản Ngần đến Hào Lịch, chỉ có hơn 10 cây số đường chim bay mà phải đi hết một đêm ròng rã. Anh Bằng Giang, người được giao nhiệm vụ dẫn phi công đến gặp Bác, có anh Tuấn Sơn, phụ trách đội vũ trang châu Hòa An đi cùng. Vị khách quá vất vả, tay chống gậy, chân đi cà nhắc, mặt mũi nhăn nhó đến thảm hại, có lúc khóc rống lên như một đứa trẻ. Có lẽ anh ta đang phải sống trong tâm trạng lo lắng, bàng hoàng, không hiểu mình đang rơi vào tay lực lượng nào, tính mệnh có được bảo đảm không, có còn được trở về quê hương gia đình nữa không?

Điều oái oăm là chính những người theo chỉ thị của Bác Hồ đang đem hết sức mình ra để cứu anh ta khỏi bị bắt, bị giết, không làm sao nói để anh ta yên tâm được, vì ngôn ngữ bất đồng, hết la hét lại khua tay, múa chân, chỉ tổ làm cho vị khách thêm sợ. Cho đến khi anh Bằng Giang mua cho anh phi công một đôi giày miền núi, đế bằng vải, để anh ta đi khỏi đau chân, anh ta mới tạm yên chí là đã gặp được những người tốt. Đến khi được đồng bào cho ăn cơm thịt gà với xôi nếp đồ, thì viên phi công Mỹ này mới thực sự tin chắc là mình đã được cứu sống. Chuyện thịt gà cũng rất thú vị. Lúc đầu đồng bào nấu thức ăn theo kiểu Cao Bằng, cho rất nhiều gừng nên vị khách không quen. Anh Bằng Giang liền cho mổ con khác, chiên lên kiểu rô-ti, chấm muối, vị khác ăn rất ngon lành.

Cứ thế ròng rã 22 ngày đêm, “vị khách” Mĩ được dẫn đi qua các ngả đường rừng của khu du kích, nhiều nơi tổ chức mít tinh chào đón, làm cho “vị khách” Mĩ có cảm tưởng là lực lượng du kích chống Nhật do Việt Minh lãnh đạo là một phong trào rất lớn mạnh. Khi gần đến Pác bó, vị khách còn được dẫn đi một đoạn ngoắn ngoèo khá lâu nữa mới tới nơi Bác ở.

Sau gần một tháng trời có miệng như cầm, có tai như điếc, được gặp Bác, được nghe tiếng nói của quê hương xứ sở, viên phi công Mĩ bàng hoàng sung sướng đến phát khóc. Anh ta hoàn toàn bất ngờ không hiểu tại sao giữa núi rừng của nước Việt Nam xa xôi này lại có cụ già trông rất quê mùa lại nói tiếng Anh giỏi đến thế. Ngạc nhiên hơn, anh ta còn được biết cụ già này đã từng đặt chân đến nước Mĩ ngay từ khi anh ta chưa sinh ra trên đời. Cuối cùng viên phi công mạnh dạn đề nghị được Bác đưa sang Côn Minh (Trung Quốc), nơi tập đoàn không quân Mĩ thứ 14 đóng. Bác đã nhận lời, vì thực ra Bác cũng đang có dự định sang Côn Minh thực hiện một số việc cần thiết của cách mạng.


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 01 Tháng Chín, 2010, 06:21:24 am
Chuyến đi Vân Nam này của Bác là một chuyến đi quan trọng và dài ngày nên đồng chí Vũ Anh gọi tôi lên giao nhiệm vụ rất cẩn thận. Hơn nửa thế kỉ đã qua rồi mà bây giờ nghĩ lại tôi vẫn cảm thấy bàng hoàn về chuyến đi đó… hơn một nghìn cây số, từ Pác bó đến Côn Minh, Bác lại vừa đi bộ vừa đi tàu, thú thật không thể tưởng tượng nổi. Trước khi đi Bác bảo tôi mua nửa cân thịt lợn, nửa cân muối, nửa cân ớt rang khô lên rồi cho vào một ống bương. Để chuẩn bị cho chuyến đi dài ngày, đồng chí Vũ Anh đưa cho tôi một số tiền để chi tiêu dọc đường.

Thấy tôi đeo khẩu P.38 bên sườn, Bác nhìn tôi một lượt rồi hỏi:

- Súng chú có bao nhiêu đạn? Chú có biết bắn không?

Tôi thưa:

- Súng cháu có vài chục viên. Cháu bắn khá lắm.

Thấy Bác đi suốt cả đêm qua không được ngủ, đến chặng nghỉ, tôi định đê Bác nghỉ lâu một chút cho lại sức, nhưng Bác lại nói:

- Bác cháu ta đi thôi!

Đây là đất Trung hoa đang nằm dưới chính quyền Tưởng Giới Thạch. Chúng tôi đi ban ngày, không phải đi đêm như trên đất mình nữa. Mới đi được khoảng 20 cây số, vị khách quý của Bác là anh chàng Sô, viên phi công trẻ măng đã đi cà nhắc, nhăn nhó trông rất khổ sở. anh ta kêu đi giày đau chân, cởi giày ra đi chân đất, nhưng chỉ được một đoạn lại ngồi ôm chân, lại nhăn nhó. Tôi đâm lo là tình hình này không biết đến khi nào mới đến được Côn Minh. Bác trông bề ngoài thì có vẻ bình thường, nhưng thực ra tôi biết là Bác phải cố gắng lắm. Cụ Nguyễn Ái Quốc, lãnh tụ quốc tế cộng sản, bao nhiêu năm sống ở nước ngoài, quen đi ô tô, máy bay, bây giờ mà phải cuốc bộ như thế này thì làm sao mà chịu được. Phải có biện pháp, tôi nghĩ bụng thế, rồi nhân lúc Bác và Sô nghỉ tôi vào địa phương trưng dụng được hai con ngựa, một con cho Sô đi, một con cho Bác đi. Nhưng khổ quá, Bác lại không chịu đi. Bác bảo: “Sao chú cứ hay làm phiền dân thế? Chú mượn được thì chú đi”. Thế là phải trả ngựa cho dân…

Buổi trưa hai bác cháu vào một tiệm ăn. Tôi muốn bồi dưỡng sức khỏe cho Bác, lại căn cứ vào sức ăn của mình nên gọi hai đĩa thức ăn, một bát canh và một đĩa cơm. Bữa com ngon quá. Món xào thơm phức. Đi đường đói ngấu, ăn càng khỏe.

Trong khi ăn Bác bảo tôi:

- Các đồng chí trong nước bữa no, bữa đói… Ta ăn thế này hoang quá!

Câu nói của Bác làm tôi lúng túng, không biết trả lời ra sao.

Chiều tối hai Bác cháu đến một cái làng nằm giữa Cát Mà và Tĩnh Tây thì ngủ lại. Cát Mà là chợ biên giới, phía Trung Quốc.

Nghỉ lại, phải dùng cơm tôi. Nghĩ lại bữa trước Bác phê bình là hoang, lần này tôi chỉ gọi một đĩa thức ăn, một bát canh và một đĩa cơm.

Ăn xong, tôi vào liên hệ một nhà dân gần đường để Bác nghỉ.

Tôi ăn xong lau lại súng đạn. Dọc đường đi, súng tôi lúc nào cũng lên đạn, đề phòng bất trắc, nhưng không xảy ra chuyện gì cả. Trước khi đi nằm Bác mở chiếc đồng hồ quả quýt dặn tôi:

- Sáng mai, bốn giờ ta đi. Chú nhớ dậy sớm đánh thức Bác. Đi sớm cho được đường.

- Vâng ạ!

Tôi đút khẩu P.36 xuống dưới gối, ngả lưng xuống giường, duỗi thẳng cẳng. Các khớp xương được dịp kêu răng rắc. tôi ngáp một cái dài, đến gần sái cả quai hàm, hai mắt díu lại… Tôi ngủ biến lúc nào không biết. Tôi mê lung tung, hình ảnh này vừa hiện lên đã bị xóa đi vì những hình ảnh khác. Tôi mơ đến cảnh bữa cơm trưa ở tiệm ăn. Bác bảo tôi: “Ta ăn thế này hoang quá!...”, tôi đang định nói lại câu gì thì bỗng cảm thấy như bị hẫng. Tôi mở choàng mắt. bác đã đứng bên giường tôi:

- Dậy thôi! Bốn giờ rồi! Ta đi thôi.


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 01 Tháng Chín, 2010, 06:21:53 am
Buổi trưa nghỉ lại một thôn ven đường, tôi mua gạo, mượn nồi thổi cơm ăn. Mót thịt rang muối ớt phát huy tác dụng. Chỉ cần một bó rau muống, nấu theo kiểu vừa luộc, vừa canh, cho một thìa thịt rang vào là có một món ăn tốt. Đi đường mệt, đói bụng nên hai Bác cháu ăn rất ngon miệng. Riêng Sô được Bác ưu tiên cho ăn bánh mì với thịt mua ở quán ăn dọc đường. Tôi nhìn Bác, vị lãnh tụ của Đảng ăn bát canh rau muống, còn viên phi công Mĩ thì được ăn bánh mì cặp thịt ngon lành, trong lòng không yên tâm chút nào. Tại só có sự vô lí như vậy? Bác hiểu tâm trạng của tôi, mìm cười an ủi.

Khoảng 3 giờ chiều hôm đó, chúng tôi đến Tĩnh Tây. Bác bảo tôi có liên hệ với bản doanh của trương tướng Trần Bảo Xương, quân đoàn trưởng một quân đoàn của Tưởng Giới Thạch, nhờ gọi điện cho tướng Mĩ Sê-nô ở Côn Minh là có đại biểu của Việt Nam độc lập đồng minh sẽ đến gặp để trao cho phía Mĩ một phi công Mĩ và bàn việc hợp tác đánh Nhật. Nhưng không ngờ việc lại diễn ra không được suôn sẻ. Trần Bảo Xương tiếp Bác rất trọng thể, chiêu đãi cơm rượu hết sức thân tình. Y còn thay mặt đồng minh cảm ơn tiên sinh đã bảo vệ và nuôi dưỡng phi công Mĩ được mạnh khỏe an toàn. Nhiệm vụ tiên sinh đến đây đã hoàn thành trọn vẹn. Xin tiên sinh cứ yên tâm nghỉ ở đây rồi sáng mai trở lại Việt Nam. Chúng tôi sẽ chịu trách nhiệm đưa viên phi công trao trả tận tay người Mĩ”. Bác đưa mắt nhìn tôi. Tôi nghĩ bụng: tình hình này thì gay rồi, công của mình hóa ra công cốc. Không có viên phi công đi cùng, chuyến đi Côn Minh của Bác sẽ kém giá trị. Thoáng nhanh trong đầu, tôi nghĩ ra một giải pháp. Tôi nói với Trần Bảo Xương là hoàng tiên sinh và Sô đã cớ hơn một tháng sống bên nhau ở chiến khu Việt Nam, do đó để Sô trò chuyện với tiên sinh mấy phút trước lúc chia tay. Trần Bảo Xương đồng ý. Bác căn dặn Sô, khi gặp tư lệnh không quân nhớ nói trong thời gian gặp nạn ở Việt Nam được quân du kích Việt Minh chăm sóc chu đáo như thế nào và chuyển tới tướng quân tư lệnh “lời chào thân ái của những người du kích Việt Minh”. Số tỏ ra rất xúc động khi phải chia tay với Bác. Tôi thoáng thấy trên khuôn mặt non trẻ của anh những giọt nước mắt.

Trên đường về phòng nghỉ, Bác bất chợt phát hiện bỏ quên mũ trong phòng khách, bảo tôi quay lại lấy, và chính trong tình huống này đã xảy ra một sự kiện đáng ghi nhớ. Khi tôi vừa bước vào tiển sảnh thì nghe ở phái trong chúng đang bàn nhau bắt giữ hai bác cháu chúng tôi lại. tôi vốn là một người không sợ gì cả, nhưng nghe chúng bàn nhau như vậy tim tôi như có ai bóp chặt. Tôi nghĩ đến cảnh tù đày qua hàng chục nhà giam mà Bác phải chịu đựng hồi năm 1942-1943. Tôi nghĩ đến vai trò của bác trong những ngày sắp tới của cách mạng Việt Nam. Bình tĩnh lại, không thể cho chúng biết, tôi nhẹ nhàng quay lại báo cáo với Bác. Nhưng khác với tôi, Bác lại rất bình tĩnh, chỉ thoáng một chút đăm chiêu. Suy nghĩ một lúc, Bác quyết định ta quay về ngay đêm nay.

- Nhưng làm sao mà ra khỏi cổng gác được?

- Ta giả vờ ra ngoài mua bao thuốc lá.

Hai bác cháu quên cả mệt, đi như chạy ra khỏi Tĩnh Tây và cuốc bộ một mạch không nghỉ. Sáng hôm sau thấy Bác quá mệt, tôi thưa với Bác:

- Cháu trông Bác mệt rồi mà đường còn xa, cháu vào thôn kia lấy ngựa bác đi ạ! Tôi chỉ về phía thôn trước mặt.

Bác lắc đầu:

- Không! Bác cháu ta đi bộ thôi - Bác hỏi tôi - Chú đã mệt rồi à?

- Thưa Bác, không ạ! - Tôi đáp - Cháu thương Bác nỏi!

Bác xua tay:

- Chú không thương dân ư? Chú cứ nghĩ xem: người dân người ta chỉ có con ngựa để kiếm ăn. Chú lấy đi, được việc chú. Nhưng người ta lấy gì nuôi vợ, nuôi con? Nhân dân Tàu cũng khổ như nhân dân mình thôi.

Ngày hôm đó Bác đi bộ được 80 lí, tức là vào khoảng bốn chục cây số. Lần này không có “vị khách quý” nên hai bác cháu đi khá nhanh.

Tôi đi theo Bác, có lúc đi ngang, có lúc lị chạy lên trước để dò đường. Tôi vui sướng như một đứa cháu bên một người ông kính mến. Tai nghe từng tiếng động nhở chung quanh, mắt tôi quắc lên. Tôi tin chắc rằng nếu có kẻ nào bất thình lình xuất hiện, tôi sẽ trông thấy ngay và sẵn sàng tiêu diệt nó trước khi nó kịp xông vào; hai bác cháu. Ngày hôm sau hai bác cháu về tới Pác Bó.


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 01 Tháng Chín, 2010, 06:22:46 am
IX.

LỚP HỌC TRÊN ĐƯỜNG

Khoảng hơn một tuần sau, Bác lại gọi đồng chí Vũ Anh và tôi đến bảo: Các chú chuẩn bị để Bác đi Côn Minh. Công việc chuẩn bị cũng như lần trước. Đồng chí Vũ Anh bảo vợ đồng chí Lê Quảng Ba mua một cân thịt, một cân muối, một cân ớt rồi rang lên vào cho vào ống bương. Đồng chí Vũ Anh lại đưa cho tôi một số tiền để chi tiêu dọc đường.

Lần này tôi thấy nhiệm vụ nặng nề, nếu vẫn chì có một mình, trấn được mặt trước thì lộ mặt sau. Bảo vệ được phía sau thì lộ phía trước và “hở sườn”, tôi nói ý ấy với đồng chí Vũ Anh cho thêm một người nữa cùng đi.

Đồng chí Vũ Anh khen phải, và cử đồng chí Minh cùng đi với tôi. Đồng chí Minh có bí danh là Đại Toàn.

Đồng chí Minh là người dân tộc Tày, hơn tôi đến chục tuổi, hiền lành, thật thà, tốt. Nhưng phải cái hơi chậm. Tôi lúc ấy mới 23 tuổi, nặng 67 ki-lô, cao hơn đồng chí Minh mười phân mét, người thì to gấp rưỡi. Tôi phải cái tính ngang bướng, nóng nảy. Cái tính ngang bướng này là hậu quả của nửa năm trời theo học trường quân chính tình báo ở Khai Hóa của bọn Tưởng, hằng ngày phải đương đầu với bọn Quốc dân đảng, nay có đồng chí Minh, tính tình điềm đạm, đi cùng bảo vệ “đồng chí Hoàng” thì tốt quá. Cái nọ bổ sung cái kia.

Trước khi đi có cuộc họp do Bác chủ trì. Đây là buổi sinh hoạt đầu tiên của ba bác cháu. Chúng tôi kiểm điểm tình hình chuẩn bị: về quần áo thì Bác có một ái áo bông khoác ngoài màu tro, đã sờn cả vai và một cái quần màu tro; đồng chí Minh cũng mặc một bộ quần áo của Quốc dân đảng, đội mũ Quốc dân dảng, Bác đi dép rơm, tôi đi giày cao su, còn đồng chí Minh đi giày vải. Mỗi người như vậy có “nhất bộ”, một bộ lót và một cái chăn dạ. Tôi báo cáo với Bác về việc chuẩn bị lương khô. Bác nói:

- Đi đường xa, vẫn phải chuẩn bị lương khô chu đáo. Bác đã có kinh nghiệm. Làm thế này vừa tiết kiệm vừa để được lâu, vừa ngon; nửa cân thịt với nửa cân muối và ớt thành một cân. Ta mau rau nấu canh ăn thêm. Như vậy là có đủ chất đạm, chất mỡ, cả vi-ta-min A là ớt.

Bác quy định cho mỗi bữa ăn chỉ được lấy ra một thìa thịt rang mặn. Bác nói tiếp:

- Ngày đi, tối sinh hoạt, kiểm điểm và đề ra kế hoạch ngày hôm sau. Các chú cứ như thế mà làm!

Đường đi từ Quảng Tây sang Vân Nam đi bộ mất người một ngày. Muốn vậy, mỗi ngày trung bình phải đi từ 35 đến 40 cây số.

Ba bác cháu bắt đầu đi…

Mới chớm vào mùa đông, nhưng biên giới đã lạnh nhiều. Thấy Bác mặc áo bông, tôi cũng yên tâm đôi chút, Bác đi như một chàng thanh niên. Lúc vượt đèo, lúc lội suối, nhanh nhẹn hơn cả đồng chí Minh.

Tôi bảo đồng chí Minh:

- Hai chúng mình đi với Bác, chúng mình phải bảo vệ Bác, đi về phải an toàn.

Đồng chí Minh gật đầu. Tôi và Minh phân công hằng ngày như sau: Sáng sớm dậy đồng chí Minh thổi cơm; cơm chín, nắm lấy ba nắm bằng nắm tay để dành đến trưa. Tôi nấu thức ăn. Dọc đường, gặp rau mua một bó, rồi xúc một thìa thịt trong ống và đổ vào nồi rau, nấu lên. Sáng thì được ăn cơm nóng với canh thịt. Đến trưa, gặp quán thì dừng lại nghỉ, giở cơm nắm ra ăn với thịt mặn. Tối mới lại thổi cơm, ăn cho nóng.

Bác bảo chúng tôi:

- Đi như vậy, vừa tiết kiệm, vừa no bụng, lại được đường.

Tôi cũng thấy là chí lí.

Đường đi xa, lại mấp mô, Bác đi dép rơm, phồng cả chân. Tôi tính mua giày Bác đi. Bác không cho mua. Bác bảo:

- Không đi! Chú có mua, Bác cũng không đi!

Chúng tôi thấy Bác nói thế cũng không dám mua nữa. Bác bảo hai đứa chúng tôi:

- Dép này có hỏng thì lại mua dép rơm khác vẫn tốt hơn.

Bác quấn giẻ vào quai dép để đi cho đỡ phồng chân.


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 01 Tháng Chín, 2010, 06:24:42 am
Đi bộ mới đầu còn vui chân, đi miết. Nhưng càng đi càng mỏi, càng về sau lại càng mỏi tợn: các gót chân, mắt cá chân, cổ chân cứ như là từng bộ phận cắt rời nhau ra… Đến chỗ nghỉ, đồng chí Minh chẳng thiết gì ăn uống nữa, cứ ngồi bóp chân bóp cẳng hoài. Tôi ckhông đến nỗi như đồng chí Minh nhưng cũng cứ phải lấy hai tay ấn ấn hai đầu gối. hai đầu gối và hai cái xương bánh chè tưởng như không còn là của tôi nữa! Bác đi mượn cái chậu giặt, đái vào ngâm chân. Bác bảo hai đứa chúng tôi:

- Các chú làm thử xem! Ngâm chân tốt nhất. Mai đi lại thoải mái như thường.

Tôi nghe theo, cũng làm thử. Nước đái mình có khai thật - càng khai càng tốt - nhưng ngâm cái chân vào, cái mỏi rã đi lúc nào không biết. Đồng chí Minh cũng ngồi dậy làm theo.

Sáng hôm sau dậy sớm, tôi và đồng chí Minh người nào việc náy đã có phân công từ trước, cứ thế mà làm. Đồng chí Minh bảo tôi:

- Đồng chí Tài à! Đồng chí Hoàng nói đúng lắm lố. Tôi không mỏi cái chân nữa lố!

Tôi cũng quên bẵng mất cái chân mỏi từ lúc nào.

Ăn cơm sáng xong, ba bác cháu lại lên đường. Hôm nay bác quy định cho chúng tôi đi đường cũng phải học: học hai buổi, buổi sáng và buổi chiều. Bác thực hiện luôn.

Vừa đi đường, Bác vừa giảng cho chúng tôi nghe về cách mạng Việt Nam và cách mạng Trung Quốc. Bác nói tôi nhớ đại ý: chủ nghĩa tam dân(1) của ông Tôn Trung Sơn là tiến bộ nhiều so với đời Mãn Thanh… Nhưng có những vấn đề ông Tôn Trung Sơn bắt mạch chưa trúng và chữa bệnh chưa đúng. Cách mạng của ta theo kiểu Cách mạng tháng Mười Nga. Mục đích cách mạng của ta là đánh Tây, đuổi Nhật, giành độc lập. Chủ nghĩa tam dân là cách mạng tư sản, có những vấn đề không triệt để… Cách mạng của ta do giai cấp công nhân lãnh đạo, triệt để… Bác nói cả về vấn đề cải cách nông thôn, về tương lai công nghiệp, về điện khí, nông trường… Bác vừa đi vừa nói, phân tích tỉ mỉ. Bác nói rất dễ hiểu nên nghe đến đâu nhớ đến đấy, thấm thía lắm. Học một mình thường chóng mỏi, nhưng học với Bác thì lại vui, vì giờ nghỉ có xen kẽ văn nghệ. Bài học trên đường với những kiến thức mới mà Bác vừa truyền thụ cho chúng tôi làm tôi càng kính mến Bác. Ba bác cháu chuyện trò vui vẻ.

Hết bài “Cách mạng Việt Nam” và “Cách mạng Trung Quốc”, Bác lại giảng sang bài “Cách mạng Tháng Mười”. Hết bài “Cách mạng tháng Mười”, Bác lại chuyển sang giảng về những thuận lợi, khó khăn và nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam. Lớp học trên đường có tác dụng tốt. Không những chúng tôi nhớ những điều Bác dạy mà cũng quên cả mệt nhọc, đi được xa, được nhiều.

Đường chúng tôi đi có nhiều dốc, nhiều đèo, có cái dốc cao gần ba ngàn mét gọi là dốc Tùng Cảng. Buổi sáng sớm ở chân dốc bên này, buổi trưa mới lên tới đỉnh dốc. Xuống đến chân dốcbên kia là vừa tối. Những lúc mệt hoặc lúc lên dốc, xuống dốc (xuống dốc cũng vất vả không kém gì lên dốc) là Bác lại dạy chúng tôi ngâm thơ. Bác chỉ dạy có một tác phẩm là Chinh phụ ngâm, Bác bảo:

- Bác cháu ta ngâm một bài!

Rồi bác cất giọng âm ấm của miền Trung:

… Chí làm trai dặm nghìn da ngựa
Gieo thái sơn nhẹ tựa hồng mao…


Giọng ngâm của Bác thấm vào lòng tôi, phơi phới niềm lạc quan cách mạng.

Bác bảo chúng tôi:

- Đây là văn có, có ý nghĩa, văn chương hay. Các chú nên học thuộc lòng.

Tôi phục Bác quá. Bác chẳng giở quyển sách, quyển sổ nào ra cả cà cái gì Bác cũng biết, hỏi Bác cái gì Bác cũng nói được. Một tác phẩm văn cổ như Chinh phụ ngâm hàng mấy trăm câu thơ mà Bác nhớ không sai một chữ.

Bác cho chúng tôi học từng đoạn một. Bác thường khen tôi: “Chú nhớ khá!”. Bác khen cả đồng chí Minh.

Hôm sau lên đường, Bác hỏi:

- Hôm qua học được những cái gì?

Chúng tôi nhắc lại. Đó là những phương pháp dạy có kiểm tra, có biểu dương của Bác. Càng mền phục Bác, tôi càng thương Bác đã có tuổi rồi mà cũng phải “cuốc bộ” như chúng tôi. Lần trước sang Tĩnh Tây, đường gần hơn nhiều, Bác không đi ngựa đã đành. Lần này đi xa hơn, mệt nhọc hơn, đường lại lắm thổ phỉ, Bác đi ngựa sẽ dễ cho tôi và Minh chiến đấu chống phỉ, bảo vệ lãnh tụ. Tôi có một cái giấy của Quốc dân đảng cấp, vào trưởng thôn có thể lấy được ngựa và cáng. Ngựa thì có một người theo. Còn cáng thì có hai người khiêng. Lúc ấy tôi chỉ có một ý nghĩ là làm sao giảm bớt sự mệt nhọc của Bác trong khi đi đường. Tôi đền ghị với Bác cho tôi được vào trưởng thôn lấy ngựa, vì tôi nghĩ bụng chắc Bác chả chịu đi cáng.


(1) Dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc.


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 01 Tháng Chín, 2010, 06:25:06 am
Cũng như lần đi Tĩnh Tây, Bác bảo Bác không đi ngựa. Tôi thắc mắc:

- Tại sao thế ạ! Cháu lấy ngựa ở trưởng thôn, người có ngựa được trả tiền, có bị thiệt thòi gì đâu ạ?

Bác giải thích:

- Cả nhà người ta có con ngựa. Mình lấy đi là gây thêm khó khăn cho người ta, người ta phải theo ngựa, không lao động được. Người ta đã khổ vì bọn thống trị, lại khổ thêm vì ý kiến của chú.

Rồi Bác hỏi tôi:

- Chú có thích đi ngựa không?

Tôi cụt hứng, chẳng còn biết trả lời Bác ra sso.

Bác không chịu đi ngựa, chân Bác càng đau, hai bàn chân phồng rộp lên. Tôi phải xé chiếc áo lót quấn vào chỗ bị phồng để Bác đi khỏi đau và mua cho Bác một chiếc gậy để Bác chống. Còn đôi giày rách lòi cả gót, cả ngón chân, mấy lần đề nghị cho mua đôi mới Bác không đồng ý, đến lúc ấy Bác mới đồng ý cho mua một đôi giày rơm.

Vì chân đau, phải nghỉ nhiều, nên Bác hút thuốc lá nhiều hơn quy định. Nhưng tôi kiên quyết không cho mà thực hiện đúng như cuộc họp do đồng chí Vũ Anh chủ trì trước ngày Bác lên đường là Bác chỉ được hút ba điếu thuóc trong một ngày sau ba bữa ăn sáng, trưa, tối. Việc ngày tôi thực hiện được vì tôi là thủ quỹ nắm tiền chi tiêu hằng ngày. Trước sự kiên quyết có nguyên tắc của tôi Bác đành chấp hành.

Đến chỗ nghỉ buổi chiều, tôi muốn vào trưởng thôn mua con gà. Lòng tôi xuát phát từ chỗ thương Bác, không muốn Bác lúc nào cũng ăn cái thứ thịt lợn rang muốn mặn chát ấy. Tôi định bụng tìm con gà giò, nấu bát nước xúp Bác húp cho mát ruột. Tôi không nói cho Bác biết, sợ Bác gàn, lại không cho mua. Đồng chí Minh thổi cơm chiều. Tôi vào nhà trưởng thôn.

Trưởng thôn ở Trung Quốc cũng vào loại giàu có trong làng. Đàn gà của hắn rất đông, đang gọi nhau dáo dác lên chuồng. Tôi hỏi trưởng thôn mua một con gà, hắn không bán. Tôi ức quá. “Mình mua bằng tiền chứ mình có ăn cướp của nó như tụi Quốc dân đảng đâu!”. Chẳng cần vận động vận điếc gì, tôi bảo hắn: “Không bán thì tôi đập chết!”. Trưởng thôn nhìn tôi lấm lét. Chứng thấy tôi “sát khí đằng đằng” với đường gân nổi lên ở quai hàm và bàn tay nắm lại, hắn lặng đi một lát. Rồi bằng lóng bán cho một con gà.

Hôm ấy Bác ăn được cơm. Tôi nhìn bác mà nở nang tức khúc ruột. Nhân bữa cơm vui vẻ, vui miệng, tôi kể chuyện vào trưởng thôn mua gà và tài tháo vát của mình cho Bác và đồng chí Minh nghe. Nghe xong câu chuyện, Bác tỏ ý không vui. Tôi lo quá. Bác có ý kiến ngay:

- Chú làm như bọn lính quân phiệt Tưởng Giới Thạch!

Tôi ngượng chín cả người. Đồng chí Minh nhìn tôi, im lặng. Đồng chí ấy vốn có tính ít nói. Tôi cũng biết đồng chí ấy không đồng tình với tôi.

Chuyến đi công tác với Bác lần này, chúng tôi học tập ở Bác rất nhiều điều. Chúng tôi chăm lo cho Bác, nhưng quyết không để Bác phiền lòng nữa. Chúng tôi mua rau, thay đổi các loại rau để Bác lạ miệng ăn được nhiều cơm. Thấy bác ăn ngon là chúng tôi sung sướng. Rau mỗi ngày đường có thể khác nhau, nhưng vẫn là thịt rang muói làm “nòng cốt”. Tôi là một “dầu bếp” được Bác ưa thích.

Chúng tôi đi nhiều nên có kinh nghiệm thêm: dậy sớm, ăn sớm, đi sớm thì lợi đường. Đến tối, nghỉ sớm một chút, vào khoảng bốn giờ chiều, cơm nước xong, sinh hoạt, ngâm chân rồi đi ngủ.

Sinh hoạt hằng ngày trở thành nền nếp. Học tập cũng trở thành nền nếp.

Chỗ nào tôi biết thường có thổ phỉ, tôi chạy lên chạy xuống điều tra tình hình rồi đi trươc mở đường. Bác đi giữa, đồng chí Minh đi sau.

Có cái chăn, Bác cũng đeo lấy. Tôi đề nghị Bác đưa tôi đeo vì tôi là thanh niên. Bác noi:

- Bác đủ sức khỏe để đeo chăn này. Các chú không nên quan tâm về Bác nhiều quá.

Tôi trao đổi với Minh về ý kiến của Bác:

- Ta là thanh niên khỏe mạnh lại để cho ông lão đeo chăn! Không đúng!

Đồng chí Minh bảo tôi:

- Nhưng mà bác không đồng ý vớ!

Tôi đập bàn tay vào vai Ninh, thì thầm:

- Phải họp tổ đảng mà quyết nghị chứ! Chúng mình là đa số. Vì hôm trước lên đường Bác có triệu tập cuộc họp, bàn kế hoạch đi đường. Chính Bác nêu lên việc thành lập tổ đảng, do Bác làm tổ trưởng để sinh hoạt dọc đường, rút kinh nghiệm qua từng chặng đường góp ý kiến phê bình lẫn nhau. Do đó lần này phải thẳng thắn góp ý với bác mới được. Bác là người rất tôn trọng tập thể. Dùng tập thể tổ đảng biểu quyết mới hi vọng Bác nghe theo.


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 01 Tháng Chín, 2010, 06:25:28 am
Đồng chí Minh gật gù khen tôi có sáng kiến. Tối hôm ấy, vào giờ sinh hoạt thường lệ, tôi đưa ra vấn đề đeo chăn của Bác. Tôi lí lẽ rất là “đanh thép”. Bác bác bỏ ý kiến ấy vì cho rằng đeo cái chăn chẳng nặng nhọc gì. Đến lúc biểu quyết bằng giơ tay, ý kiến để Bác đeo lấy chăn chỉ có một người đồng ý: đó là Bác. Tôi và Minh chiếm đa số, thế là Bác phải lột chăn để chúng tôi đeo. Cái chăn dạ lính vừa dài vừa rộng, nắng thì hấp hơi nóng hầm hập, mưa thì ngấm nước, nặng vít vai xuống. hồi ấy đâu có ni-lông, áo mưa như bây giờ.

Đồng chí Minh và tôi chia nhau mỗi người đeo chăn của bác một vài tiếng đồng hồ, để Bác di không. Trời nắng cũng như trời mưa, ngày nào ba bác cháu cũng ở trên đường. Mưa xuống thì lạnh, ướt cả ngày. Chiều tối đến chỗ nghĩ lại cởi quần áo ra hong trên bếp lửa. Hơi nước của quần áo bốc lên mù cả bếp.

Có ngày chúng tôi gặp bọn lính Quốc dân đảng. thấy chúng tôi đi có ba người, chúng chặn lại khám xét. Bác để bộ râu, lại mặc như quân lính Quốc dân đảng, bọn lính gác bảo Bác phải cạo râu đi. Bác đáp: “Để rồi cạo!”. Sau đó Bác lấy cái khăn phu-la quàng trùm kín bộ râu. Từ đấy, qua các trạm gác, lính Tưởng không biết, cho đi.

Mình đi bí mật nên phải ăn mặc như kiểu quân đội của nó để đi. Một hôm chúng tôi gặp một sĩ quan Quốc dân đảng. hắn nheo mắt nhìn Bác như dò xét, rồi hỏi như quát:

- Đi đâu?

Bác trả lời nhẹ nhàng:

- Tôi đi Vân Nam có việc.

Viên sĩ quan lại hỏi:

- Đến Vân Nam làm gì?

Bác nói tiếng Trung Hoa rất nghiêm trang:

- Bàn về vấn đề thống nhất các đoàn thể ở Vân Nam với Cách mạng đồng minh hội. Tôi đi gặp các đồng hương của tôi ở Vân Nam.

Thấy viên sĩ quan Quốc dân đảng có ý định làm khó dễ, tôi tiến lên hai bước, chìa chứng minh thư của Quốc dân đảng ra trước mặt hắn, hất hàm về phía Bác, nói gằn từng tiếng:

- Bố tôi đấy!

Viên sĩ quan chỉ liếc nhìn vào chứng minh thư đặc biệt đó cũng đã biết tôi là ai. Y dập gót chào, nghe “cách” một cái, nhường lối cho ba bác cháu tôi đi.

Nhưng hôm đến Vân Sơn thì sự việc xảy ra phức tạp hơn. Vân Sơn là huyện địa đầu của tỉnh Vân Nam nên có một đồn lính mà phần lớn là quân đội tình báo của Tưởng. Chúng bắt tất cả ba chúng tôi vào doanh trại để thẩm vấn. Tôi bình tĩnh báo cáo với Bác là để tôi xử trí, tôi đã có cách và dặn một lần nữa cho thống nhát: Bác là bố tôi, Đại Toàn là bạn, nhân tôi có công tác sang Côn Minh nên đưa đi theo, có thể có món hàng gì buôn bán được thì làm mọt chuyến để cải thiện đời sống vì hiện nay ở Việt Nam rất khó khăn, do quân Nhật tàn bạo, vơ vét hết của cải, thóc gạo. Trung Quốc đang đánh Nhật, nghe tôi tố cáo tội ác của Nhật, nó rất thích và ngay phút đầu đã có cảm tình. Tuy nhiên, dưới con mắt nhà nghề, mặc dầu tôi mặc quân phục quân Tưởng, đeo hàm thiếu hiệu, chúng cũng khéo léo đòi xem bằng được giấy tờ của tôi. Nhưng đây chính là điều mà tôi cũng mong muốn. Tôi đưa chưng minh thư ra. Chứng minh thư ghi: Trương Văn Nghĩa, cấp bậc thiếu hiệu… Đây là chứng minh thư đặc biệt do cục tình báo Hoa Nam củ quân Tưởng cấp… Tôi nói với bọn này là vừa rồi tôi về Việt Nam với nhiệm vụ nắm tình hình quân Nhật. Bọn này liền chộp ngay việc này, bảo tôi báo cáo những số liệu nắm được. tôi báo cáo vắn tắt, đội hình bố trí và lực lượng quân Nhật, ở Lạng Sơn có một tiểu đoàn, Thái Nguyên một tiểu đoàn, Hà Nội một sư đoàn. Chúng nó giở bản đồ ra tôi chỉ vào từng thị xã - nghe đến đâu chúng nó đánh bút chì xanh đổ vào đó, miệng liên tục khen “hảo, hảo”…

Đêm ấy ba bác cháu được bọn Tưởng cho ăn một bữa no nê, ngon lành rồi ngủ lại một tối, sáng hôm sau tiếp tục lên đường.


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Chín, 2010, 07:04:21 am
X.

TRỞ LẠI CÔN MINH

Sau 11 ngày đi bộ, ngày đi đêm nghỉ, chúng tôi đến ba Bi-xi-chai chuẩn bị lên tàu đi Côn Minh.

Tối hôm đó, tôi đưa Bác vào nhà một Việt kiều tên là bếp Nhân, cơ sở của ta, trước làm công nhân nấu bếp cho một chủ Tây ở công ti xe lửa Vân nam. Gia đình đồng chí công nhân này rất nghèo, buôn bán lặt vặt kiếm sống.

Tôi giới thiệu:

- Đậy là cụ Hoàng(1), một đại biểu lão thành của ta.

Đồng chí Nhân rất vui sướng. Đồng chí hỏi:

- Từ đây đến đây anh?

- Ở bên Quảng Tây đến - Tôi đáp.

- Ăn cơm chưa?

Tôi thành thật trả lời:

- Chưa!

Đồng chí Nhân giới thiệu Bác với cả gia đình. Mọi người đều rất súc động và ái ngại cho Bác đã già rồi mà cón đi vất vả như thế. Cả gia đình có cảm tình ngay với Bác.

Tối hôm đó, đồng chí Nhân làm một bữa cơm rất ngon thiết bác và hai chúng tôi.

Đến giờ sinh hoạt hằng tối, tô báo cáo về tình hình lương khô của đoàn: ống thịt còn đúng một nửa! Bác gật đầu bảo:

- Đi như thế là hoàn thành kế hoạch, tiết kiệm tốt. Chú phải rất cẩn thận để đến lượt ề mấy Bác cháu ta dùng.

Từ Bi-xi-chai, ba bác cháu tiếp tục lên đường đi Côn Minh. Bác bị sốt cao ở trên tàu. Đến ga Nghi Lương, tôi quyết định để Bác xuống vào nhà anh Hoàng Quang Bình, một đảng viên của ta hoạt động ở đây. Năm 1940 Bác đã ở nhà anh Bình một thời gian trong lần đi khảo sát tình hình trên con đường sắt Côn Minh - Hổ Khẩu. Lúc bấy giờ anh Bình mở một hiệu cắt tóc để làm điểm liên lạc cho các đồng chí của ta đi về hoạt động. Lần này, khi ba bác cháu xuống tàu tìm đến thì thấy anh Bình đang cắt tóc. Bác đan8g sốt, tôi đưa Bác vào nghỉ ở chỗ ghế đợi. Anh bình đang cắt tóc liếc thấy Bác, định chạy lại, nhưng tôi ra hiệu cứ cắt tóc bình thường và để Bác ngồi như đang đợi đến lượt mình cắt tóc. Sau này anh Hoàng Quang Bình có viết trong hồi kí của mình: “Tôi cắt tóc nhưng vẫn luôn luôn quay nhìn Bác. Bác ngồi trên ghế không nói năng gì. Vẻ mặt Bác mệt mỏi, da xanh xao. Bác đội một cái mũ lính Tưởng sụp xuống che cả vạng trán rộng và một bộ quần áo cũng của lính Tưởng, rách vá nhiều chỗ. Đôi hải xảo ở chân Bác cũng sờn rách và bết đất. Bác tháo chiếc tay nải màu chàm đặt bên cạnh mình. Đi với Bác còn có anh Nghĩa, nay là anh Phùng Thế Tài, tôi đã quen trước và một người Tày tên là Minh. Đó là hai đồng chí bảo vệ Bác, vai cũng khoác tay nải và còn đeo thêm một ống nứa to…”.

Khách cắt tóc xong, anh Bình mời Bác lên gác. Bác quay lại hỏi ngay về tình hình Đảng, tình hình kiều bào, tình hình Hội Giải phóng của ta và tình hình Quốc dân đảng ở Vân Nam.

Anh Bình báo cáo với Bác là cơ sở Đảng tốt, kiều bào vẫn hướng về Hội Giải phóng. Hội đã mạnh. Vì thế nên chính phủ Vân Nam làm khó dễ, đóng cửa hội, đóng cửa tờ báo của hội, theo dõi cán bộ.

Về tình hình Quốc dân đảng, lập mặt trận Việt Nam cách mạng đồng minh Vân Nam phân hội để tranh giành quần chúng với ta, nhưng các anh không vào hội ấy, để dứt khoát phản đối chúng.

Bác nhận định ngay: Không vào là sai rồi. Tại sao không vào? Chúng ở cửa cho ta vào nắm quần chúng, sao ta lại quay đi? Chúng mở được hội thì chúng có khả năng triệu tập quần chúng. Ta phải lợi dụng khả năng ấy. Phải vào mà biến tổ chức địch thành tổ chức ta.

(Sau này, vâng theo lời Bác, các anh ở Vân Nam thấy có tác dụng. Ta vận động quần chúng tốt cùng ta vào Việt Nam cách mạng đồng minh hội. Lí lẽ của ta đúng, lập trường của ta rõ, bọn Vũ Hồng Khanh phải bỏ Việt Nam cách mạng đồng minh hội, lại dựng lại cái xác Quốc dân đảng. Đó là một thất bại lớn của chúng…).


(1) Tên công khai của Bác trên giấy tờ khi Bác đi giao thiệp.


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Chín, 2010, 07:05:01 am
Bác nghe báo cáo xong, thấy Bác mệt, tôi đề nghị Bác đi nghỉ.

Anh Bình hỏi thăm sức khỏe của Bác. Bác bảo: “Ừ, hồi này có mệt. Không những mệt mà còn ốm nữa. Nhưng tình hình đang chuyển biến gấp, nên ốm mà vẫn phải lặn lội đi”.

Ở Vân Nam cũng có nạn đói, giặc cướp càng nổi lên như ong. Kẻ cướp phần lớn là lính Tưởng. Bác đi đường rất vất vả.

Nhân tiện tôi nói với anh Bình, có ý trách khéo Bác: “Bác yếu mà không chịu ăn gì, suốt dọc đường chỉ có ống thịt rang muối này. Lúc nghỉ thì đi hái rau rừng nấu làm canh ăn”.

Khi anh Bình hỏi Bác anh Kiên đâu? Bác lặng đi một lúc không nói được. Lâu lâu Bác mới nghẹn ngào: Chú Kiên mất rồi!

Anh Bình cũng không ngăn được nước mắt.

Bác ở lại Nghi Lương độ một tuần. Tuy Bác còn rất mệt, Bác cũng bảo triệu tập anh em công nhân đến để Bác nói chuyện.

Bác nhận định: Tình hình mới của cách mạng bay giờ cần chuyển hoạt động về trong nước. Lực lượng chủ yếu để giải phóng dân tộc cũng là lực lượng trong nước. Đồng chí nào về nước được thì nên về. Đồng chí nào không về được thì ở bên này, tiếp tục ủng hộ Trung Quốc kháng Nhật, vận động kiều bào đoàn kết, củng cố các tổ chức quần chúng cứu quốc. ở ngoài này, bây giờ đang gặp hoàn cảnh khó khăn, các đồng chí phải tùy cơ mà hoạt động cho khéo, nghĩ cho chín chắn. Hội giải phóng có phức tạp, phải củng cố đoàn kết cho tốt.

Bác lại nói chuyện Pháp thế nào, Nhật thế nào, cách mạng ta đang tiến triển thế nào. Bác nói đường sắt bị bóc rồi, anh em đang thất nghiệp, đang gặp khó khăn, nhưng tương lai Tổ Quốc rất sáng sủa.

Hồi kí của anh Hoàng Quang Bình ghi tiếp:

“Lúc ở Nghi Lương ra đi, Bác vẫn còn mêt, tôi tiễn Bác ra ga. Nửa dường Bác bảo tôi nên về, không cần đi tiễn. Tôi về nhà thấy bác còn quên quyển sổ tay nhỏ bằng khổ một gói thuốc lá. Hiện tượng Bác đã quên sổ chứng tỏ Bác yếu mệt hết sức. Trước Bác không quên cái gì bao giờ. Tôi nghĩ có thể là một cuốn sổ tay quan trọng, nên chạy hộc tốc ra ga để trao trả Bác. Bác lên tàu chúng tôi còn đứng ở sân ga nhìn theo.

Sau cách mạng tháng Tám, tôi còn đưa một số anh em lính khố đỏ thuộc quyền anh Ba Viên đã quay súng trở về hàng ngũ cách mạng ở chiến khu Yên Minh về Bộ Quốc phòng, tôi lại được gặp Bác ở Bắc Bộ Phủ.

Gặp tôi bác hỏi “Chú về đã có chỗ ở chưa, đã ăn chưa, quần áo đã có đủ mặc chưa”.

Tôi cảm động không trả lời Bác được. Bác vẫn giản dị thân mật như cũ. Tôi thấy Bác không phải là lãnh tụ, không phải là Chủ tịch nước, mà như người cha, người chú trong gia đình.

Bác móc túi lấy ra một gói thuốc lá thơm, bóc lấy một điếu thuốc, còn thì tự tay Bác bỏ vào túi áo ngực cho tôi. Bác lại cài khuy túi lại cho. Thì ra Bác vẫn nhớ tôi là anh thợ cạo hay đi mua lẻ ba điếu thuốc thơm ngày trước.

Gặp Bác giữa khung cảnh nguy nga của Bắc Bộ Phủ, đầy những tranh ảnh mĩ thuật, gương đứng và độc bình sứ cổ quý giá, tôi vẫn thấy Bác chỉ mặc cái áo sơ-mi, cái quần ka-ki và đi một đôi dép “con hổ” bằng cao su trắng, đã tuột mất hai quai sau.

Tôi lại nhớ ngày ở Xi Xuyên. Một hôm đưa bác đi chơi xem giếng Rồng. Bác trầm lặng suy nghĩ rồi bảo tôi: “Hướng giếng Rồng này là về phía Việt Nam mình đấy”.

Hôm ở nhà anh Hoàng Quang Bình, cơn sốt của Bác vẫn không dứt, tôi bèn liều tiêm kí ninh trực tiếp vào ven của Bác. Việc này có hơi mạo hiểm, nhưng thấy Bác sốt mãi, rét run cầm cập, tôi không chịu được. Không ngờ lại có hiệu quả. Cơn sốt lui dần. Tôi bàn với Đại Toàn và anh Hoàng Quang Bình là dù chưa khỏi hẳn sốt vẫn đưa Bác đi Côn Minh, trên ấy dù sao cũng có điều kiện chạy chữa hơn. Hỏi ý kiến bác, Bác cũng nhất trí như vậy…

Đến côn Minh tôi đưa đến nhà anh chị Tống Minh Phương, một cơ sở của Đảng mà tôi đã biết hồi còn hoạt động ở đây. Sau khi nghe tôi giới thiệu vài nét về Bác, anh chị Tống Minh Phương bố trí cho Bác ở trên một căn gác, tuy chật hẹp nhưng cũng đủ kê một cái giường cho Bác nằm và một cái bàn để Bác làm việc.

Buổi sáng Bác thường xuống đường tập thể dục. Tôi và đồng chí Minh cũng theo xuống. Ba bác cháu cùng rèn luyện thân thể.


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Chín, 2010, 07:05:27 am
Đồng chí Minh ở nhà, tôi đi gặp đồng chí Phạm Việt Tử. Việt Tử thông báo tình hình hoạt động ở Côn Minh cho tôi nghe. Tình hình hiện nay có khác hồi tôi rời Vân Nam về nước. Bọn Việt Nam quốc dân đảng phản động do Vũ Hồng Khanh cầm đầu hoạt động mạnh. Việt Tử bảo tôi phải coi chừng.

Bác làm việc rất nhiều. Bác gặp các đoàn thể, các tầng lớp ở Côn Minh. Đêm nào Bác cũng làm việc rất khuya. Đêm đêm cả nhà đi ngủ rồi, cả thị xã Côn Minh cũng ngủ rồi, tôi thì cũng đã ngủ được một giấc rồi, bất giác tỉnh dậy vì một tiếng động nhỏ, nhìn lên cái gác nhỏ xíu đó vẫn thấy ánh đèn nhàn nhat của ngọn đèn điện mà bác lấy giấy đen che bớt ánh sáng đi. Bác vẫn cặm cụi với công việc…

Đồng chí Phạm Việt Tử nói không sai. Trong các cuộc họp với quần chúng, với các đoàn thể ở Vân Nam, bọn Việt Nam quốc dân đảng phản động thường trà trộn vào để quấy phá. Chúng ngồi tụm năm tụm ba nói chuyện bô bô, gây mất trật tự trong các cuộc họp. Chúng tìm một vài phần tử xấu trong số Việt Kiều, gây dự luận xấu về Bác, bọn thằng Ti, thằng Ngọ là bọn bảo vệ chân tay trung thành của Vũ Hồng Khanh, ngông nghênh đi vào giữa hội nghị, không còn coi ai ra gì. Tôi đến vỗ vai thằng Ti, hất hàm:

- Coi chừng không thì mất mạng! Lo mơ tao xin cái đùi! Muốn sống thì câm cái mồm!

Thằng ti, thằng Ngọ biết tôi từ hồi còn ở Đội thiếu niên dục tài (hồi ấy tôi nang bướng, không biết sợ là gì). Hai thằng này cũng thừa biết tôi đến tận trụ sở đảng của chúng đánh cả tên đầu chỏm là Vũ Hồng Khanh…. Bọn chúng đánh bài lảng. Từ đó không thấy mặt chúng ở các cuộc họp giữa cán bộ Đảng ta và quần chúng cũng như trong các đoàn thể ở Vân Nam nữa.

Việt kiều thấy Bác là một vị cách mạng lão thành, nên rất mến Bác. Các cuộc họp tiến hành rất trật tự và có kết quả tốt.

Bỗng nhiên, một buổi sáng, tôi không thấy Bác dậy tập thể dục. Cứ theo thường lệ, sau khi tập thể dục với Bác xong, tôi lên căn gác của Bác, gấp chăn, chiếu và quét tước, lau chùi giường, kỉ (Bác thường bảo tôi, để Bác dọn lấy, nhưng tôi không chịu). Mọi bữa, dù hôm trước thức rất khuya, hôm sau Bác cũng dậy sớm tập thể dục.

Tôi chạy lên…

Bác đắp chăm, nằm nghiêng. Bàn tay tôi sờ vào trán Bác, trán Bác nóng hầm hập. Bác ốm rồi! Bác đã có tuổi, lại không được khỏe, đi đường xa mệt nhọc, ăn uống kham khổ, đến đây phải làm việc liên miên. Tôi lo lắng gọi Bác.

- Bác… Bác ơi!

Bác mở mắt ra, thều thào:

- Không việc gì đâu! Để Bác nằm nghỉ tí!

Bác mệt lắm rồi, đồng chí Minh và cả gia đình đồng chí Tống Minh Phương lo lắng. Chị Việt Hoa tất tưởi đi tìm thuốc. Bác chỉ cho chị mua mấy ống thuốc tiêm (chị Việt Hoa định đưa Bác đi bệnh viện, nhưng Bác bảo để Bác nằm ở nhà, đi bệnh viện xảy ra bất trắc khó xoay xở). Đồng chí Minh đến đây lạ nước lạ cái, lại không biết tiếng Hoa nên cũng đồng ý với tôi là để Bác ở nhà, không đi đâu cả.

Tôi bảo anh Phương ra phố mua mấy ống Ki-ni-phoóc và tôi lại tự tay tiêm cho Bác. Rất may lần này bác cũng dứt cơn sốt như lần trước. Thế là tôi trở thành “bác sĩ” có uy tín của Bác.

Chị Việt Hoa rất khéo tay, lại làm bếp giởi. Từ bữa Bác ốm, chị không cho tôi làm bếp chính nữa. Chị trở thành bếp chính (lẽ dĩ nhiên là tôi xuống chân bếp phụ). Sán sáng, chị lên cái gác nhỏ ấy làu chùi chỗ ở, giặt giũ, ngày ngày cơm nước, thuốc thang rất chu đáo.

Tôi và chị Việt Hoa cùng nấu chơm cho Bác. Tôi đi với Bác lâu, biết được khẩu vị của Bác. Chị Việt Hoa bảo tôi:

- Bác ăn thế làm sao mà khỏe được?

Thế là chị đi chợ, mua sắm. Chị cũng biết tính Bác nên chỉ làm bữa cơm hơi sang một chút thôi, để Bác chóng khỏi bệnh. Nhưng Bác vẫn phê bình chúng tôi là lãng phí, là hoang. Chị Việt Hoa và tôi nhìn nhau như có ý bảo: “Đừng cãi! Nhưng lại cứ thế mà làm!”. Chị Việt Hoa thưa:

- Chúng cháu thấy Bác khỏe là chúng cháu vui sướng nhất!

Anh chị Tống Minh Phương giúp đỡ thuốc thang trong một tháng. Bác dần dần khỏe lại và tiếp tục hoạt động.


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Chín, 2010, 07:06:32 am
XI.

HỒI ĐÀM VỚI MĨ

Hoạt động quan trọng của Bác trong thời gian này làm làm việc với người Mĩ trong tập đoàn không quân thứ 14 ở Côn Minh. Mọi việc giao dịch qua lại Bác giao cho đồng chí Phạm Việt Tử, rất giỏi tiếng Anh phụ trách… Sê-nô, tư lệnh không quân Mĩ ở Hoa Nam đã tiếp Bác tại tổng hành dinh của mình. Đầu tiên Bác hỏi thăm sức khỏe của Sô và kể cho Sê-nô nghe những mẩu chuyện trong những ngày Sô ở vùng giải phóng của Việt Minh. Sê-nô tỏ lòng cảm ơn sựu giúp đỡ quý báu của Việt Minh và “của riêng ngài” đối vói phi công Mĩ. Bác nói đó là trách nhiệm của chúng tôi: “Tuy chưa được các ngài công nhận nhưng chúng tôi từ lâu đã tự xác định đứng về phe Đồng Minh để đánh Nhật”. Cho đến khi Bác biết đã hoàn toàn chinh phục được Sê-nô về mặt tình cảm, Bác mới bắt đầu thực hiện mục đích quan trọng nhất của chuyến đi hết sức gian khổ của mình. Bác nói: Hiện nay phong trào du kích của chúng tôi tuy đang lên rất cao nhưng vũ khí, thuốc men rất thiếu thốn. Chúng tôi đền ghị các ngài tạo mọi điều kiện giúp đỡ để hai nước chúng ta có đủ điều kiện mau chóng đánh bại phát-xít Nhật…”. Sê-nô hoàn toàn ủng hộ ý kiến của Bác và hứa sẽ sẵn sàng giúp đỡ. Vấn đề bây giờ là phải bàn bạc cần giúp đỡ những gì và giúp đỡ bằng cách nào? Bác với Sê-nô thống nhất hai bên sẽ gặp nhau để bàn những vấn đề cụ thể.

Kể từ sau bữa đó, phái đoàn cấp “chuyên viên” của hai đoàn “hội đàm” với nhau cũng tại doanh trại của phía Mĩ. Hằng ngày xe của phía Mĩ đến nhà đồng chí Tống Minh Phương chở “phái đoàn” của ta gồm hai người: Phạm Việt Tử và Nguyễn Hữu Tài đi hội đàm. Nội dung được Bác dặn kĩ hôm trước. Mỗi lần đi về Bác nghe báo cáo tỉ mỉ diễn biến cuộc hội đàm, sau đó lại đặt yêu cầu cho hôm sau. Nội dung chỉ xoay quanh: Mĩ sẽ ủng hộ ta vũ khí, khí tài, loại súng gì? Mỗi loại bao nhiêu khẩu, kèm theo bao nhiêu đạn? kết quả cụ thể về số lượng là bao nhiêu đến nay tôi không còn nhớ rõ, nhưng ước tính có thể trang bị cho một tiểu đoàn Mĩ sẽ thả dù xuống khu du kích Việt Minh, đồng thời sẽ cử một số chuyên gia đến khu du kích để huấn luyện cho khu du kích Việt Minh sử dụng các loại vũ khí này. Số chuyên gia này cũng sẽ đến bàng cách nhảy dù. Phía Việt Minh phải có kế hoạch tỉ mỉ để thực hiện nhiệm vụ này thật tốt đẹp, tránh những sơ xuất đáng tiếc xảy ra vì lúc này quân Nhật trên thực tế vẫn đang quản lí vùng trời của Bắc Việt Nam.

Trong thời gian đó, Bác một mặt chỉ đạo cuộc hội đàm giữa và Mĩ, một mặt vẫn tiếp tục tuyên truyền giải thích cho quần chúng Hội Giải phóng nhiệm vụ đoàn kết, tích cực giúp đỡ cán bộ, quyền tiền mua súng gửi về chiến đấu.

Thời gian Bác lưu lại Côn Minh khoảng gần bốn tháng. Suốt bốn tháng ấy, sinh hoạt hằng ngày của Bác rất nền nếp, đều đặn. Chúng tôi bảo nhau có thể cứ xem lúc này Bác làm gì là biết mấy giờ, không cần phải xem đồng hồ.

Ngoại ô Côn Minh có những con mương dẫn thủy nhập điền, hai bên bờ mương có những rằng thông dài, cao vút. Hằng ngày, Bác dậy từ năm giờ sáng, ra đấy tập thể dục. Bác chạy dọc theo rặng thông, lượt trở về, Bác vừa đi vừa thở…

Thấy Bác gầy quá, chúng tôi muốn chăm lo thức ăn hằng ngày cho Bác. Mỗi sáng, nồi sữa tươi đun lại. chị Hoa hớt váng múc một cốc để phần Bác. Bác dần dần khỏe ra.

Trong thời gian này, nhiều lần Bác và chúng tôi dậy từ bốn giờ sáng. Bac nói chuyện về tình hình. Bác dạy dỗ chúng tôi về đạo đức cách mạng. Bác tiếp súc với kiều bào, với chính khách; Bác chơi đùa với các cháu thiếu nhi. Có những cháu Bác chỉ gặp một lượt, những ba năm sau, gặp vợ chồng anh Tống Minh Phương, Bác còn nhớ tên, hỏi xem cháu đã lớn chừng nào.

Những ngày rảnh việc, anh chị Phương mời Bác đi xem phong cảnh Côn Minh. Đi xa hơn mười cây số, Bác vẫn đi bộ, từ chối cả ô-tô hàng, xe ngựa. có lần anh chị mời Bác đi thăm chùa Hoa, cách Côn Minh bốn cây số. Ở đấy có ngôi chùa cổ, có cả khu vườn rộng mấy mẫu đất, trồng hàng trăm thứ hoa, mùa hoa nở rộ, rực rỡ như cảnh tiên. Lại có lần chúng tôi mới Bác đi thăm chùa Đồng, thăm Hắc Long Đàm, cách Công Minh hơn mười cây số. Đó là một cái đầm rộng, người ta đồn đại rằng ngày xưa có con rồng đen xuống tắm. Ở đây cũng có ngôi chùa, lại có gốc thông cổ thụ lớn hàng bốn tay ôm. Bác nghỉ trưa tại đây, dưới gốc thông, ăn cơm nắm với chúng tôi rồi tìm một gốc cây có cánh xòe xuống mặt đầm, ken nhau như mắc võng. Bác ngả lưng nghỉ trưa. Chúng tôi nhìn Bác nằm, bình dị lạ thường, nhưng trong sự bình dị ấy lại thấy cả tấm gương sáng của sự rèn luyện, của một ý chí lớn toát ra từ trong từng việc rất nhỏ.

Mùa xuân Ất Dậu 1945 đến giữa lúc ba bác cháu tôi vẫn ở Côn Minh. Anh chị Tống Minh Phương đã tổ chức cho chúng tôi ăn một cái tết quê hương đầy đủ cả về vật chất lẫn tinh thần. Anh Đại Toàn lần đầu tiên ăn Tết ở nước ngoài, rất nhớ nhà, tôi phải thường xuyên an ủi. Bác cũng chú ý dành cho Đại Toàn tình thương yêu như người cha đối với người con.


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Chín, 2010, 07:07:36 am
Sau Tết, những cuộc đàm phán với Mĩ đi vào giai đoạn kết thúc. Nghe Bác nói, lúc này tổng thống Ru-dơ-ven đứng về các dân tộc thuộc địa nên ủng hộ Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc thương lượng. Có thể nói mọi yêu cầu của Bác nêu ra đều được tướng Sê-nô chấp nhận.

Giữa tháng 2, tôi nhớ là sau đảo chính Nhật hất cẳng Pháp, tướng Sê-nô mở tiếc chiêu đãi Bác và phái đoàn ta tại khách sạn. Bác bảo anh chị Tống Minh Phương sắm sửa cho chúng tôi mỗi người một bộ quần áo thật đẹp. Dạo này sau một thời gian bồi dưỡng, sức khỏe của Bác đã dần dần trở lại, nhờ tạng người cao và cân đối nên khi mặc vét-tông vào trông Bác trẻ hẳn ra. Còn tôi thì sau hơn ba tháng được ăn uống đầy đủ, sinh hoạt bình thường nên người phổng phảo hẳn lên. Lúc này tôi đã 24 tuổi, cao 1 mét 67, nặng 68 ki-lô-gan nên mặc sơ-vin vào trông rất có tướng mạo, chẳng kém gì mấy người Mĩ. Ai không biết có thể nhầm tôi là trưởng đoàn. Anh Phạm Tử bình người cao gầy, Đồng chí Đại Toàn thì lại lùn béo, vai u thịt bắp, tuy nhiên sắm bộ vào đều ra dáng cả. Phái đoàn của Mĩ đông đến hơn chục người, quân hàm quân hiệu oai phong.

Những điều thỏa thuận được với ta, họ cho đó là một thắng lợi nên tôi thấy nét mặt của tướng Sê-nô và các sĩ quay tùy tùng tỏ ra phấn chấn lắm.

Quan khách cũng khá đông và những nhân vật có tầm cỡ. Có cả tướng Lư Hán tư lệnh quân Tưởng ở Vân Nam, tướng Trương Phát Khuê tư lệnh đệ tứ chiến khu, chỉ huy toàn bộ vùng Lưỡng Quảng. Ngoài ra còn có tướng Long Vân, tỉnh trưởng Vân Nam và một số quan khách khác. Buổi chiêu đãi thật long trọng. Tôi nghiễm nhiên là một thành viên của “đoàn ngoại giao”. Cứ nghĩ sự đời có những điều kì diệu khó tưởng tưởng. Vừa mới ngày nào, cũng tại đất Côn Minh này, tôi còn là một đứa trẻ cầu bơ, cầu bất. May nhờ gặp Đảng, gặp bác mà hôm nay ngồi đàng hoàng trong tổng hành dinh của bộ tư lệnh tập đoàn không quân 14 Mĩ…

Đặc biệt với Bác tôi thấy mọi người đều trọng vọng và cách ứng xử của Bác thật tuyệt vời, hết sức tự nhiên mà lại đàng hoàng, chững chạc. Với Sê-nô và các tướng Mĩ khác, Bác nói bằng tiếng Anh. Bác kể chuyện những ngày ở Luân Đôn, ở Nữu Ước; với Lư Hán, Long Vân, Bác nói bằng tiếng Trung Quốc. Bác nói vui với hai người này là Bác đã từng trú ngụ trong địa phận cai quản của “các ngài” từ năm 1940, bây giờ mới được hân hạnh gặp mặt, thật là một thiếu sót. Cả bàn tiệc cười vang vui vẻ. Có lẽ mọi người đều hiểu, nếu hồi đó mà họ biết Bác là ai thì họ đã cho hai tay bác vào còng số tám rồi.

Riêng đối với Trương Phát Khuê, Bác ở trong một tình trạng hơi khó xử. Chính Trương Phát Khuê đã từng bắt Bác, rồi sau đó thả Bác, tự tay cấp giấy thông hành đặc biệt cho Bác trở về (tất nhiên là nhờ áp lực của dư luận cả trong nước và ngoài nước). Thế mà khi đi gặp Sê-nô ở côn Minh, ta không hề báo cho Trương Phát Khêu biết. dù sao thì Quảng Châu, Quý Dương, Tĩnh Tây, Nam Ninh… nơi có cơ sở hoạt động của ta đều nằm trong vùng đất dưới quyền của Khuê. Đặc biệt hiên nay căn cứ địa cao Bằng dựa lưng vào đất Quảng Tây, cần được sự giúp đỡ nhiều của Trương Phát Khuê. Tuy nhiên, Bác đã xử trí rất nhanh, rất khéo. Khi nâng cốc chúc sức khỏe Trương Phát Khuê, Bác nói: Tôi rất tiếc là không gặp được tướng quân trước khi đến Côn Minh. Trên đường đi qua Tĩnh Tây, tôi có ghé vào doanh trại của Trần Bảo xương nhờ điện báo cho tướng quân biết và xin vài lời chỉ giao nhưng không hiểu sao Trần Bảo Xương lại không báo cáo với tướng quân.

Tôi nghĩ bụng thế là thằng Trần Bảo Xương gian ngoan chết ngáp. Nó định bắt giam hai bác cháu tôi lại, nẫng tay trên viên phi công Mĩ để tâng công với Sê-nô…

Sau bữa chiêu đãi của phía Mĩ mấy hôm, Bác mời anh chị Tống Minh Phương và chúng tôi lài bàn công việc. Bác nói: Ta đàng hoàng là phái đoàn của Việt Nam độc lập đồng minh sang đàm phái với Mĩ về việc hợp tác đánh Nhật. Sau khi hội đàm thắng lợi, họ đã chiêu đãi ta, ta cũng phải chiêu đãi họ. Ta không có nhiều tiền, không có điều kiện, ta tỏ cái tâm của ta la chủ yếu. Rồi Bác quay sang nói với anh chị Tống Minh Phương: Tôi biết cô chú cũng không giàu có gì, nhưng đây là một việc cần làm, có thể nói là việc “quốc gia đại sự”. Cô chú cố gắng giúp đỡ, mai sau cách mạng thành công, nước nhà sẽ không quên công lao của cô chú.

Bữa chiêu dãi của đoàn ta tổ chức ngay tại gác hai nhà anh chị Tống Minh Phương. Tuy không sang trọng, tốn kém mà chỉ là những món đặc sản phương Đông do chính bàn tay nội trợ khéo léo của chị Hoa làm, nhưng được các vị khách luôn miệng tấm tắc khen ngọn. Tất cả chỉ có mười hai người, khách sáu, chủ sáu. Phía Mĩ có tướng Sê-nô, tướng San-lơ Phin, người chịu trách nhiệm chính trong các cuộc đàm phán với ta. Phái ta có Bác, đồng chí Phạm Việt Tử, cụ Lê Lương, anh Tống Minh Phương, Đại Toàn và tôi. Chị Hoa bận chạy bàn, nhưng mỗi lần chúc tụng, Bác đều mời chị Hoa đến nâng cốc. Không khí hết sức thân tình. Bác trở nên nhanh nhẹn, hoạt bát lạ thường, trở thanh linh hồn của bữa tiệc. Cứ sau mỗi câu nói của bác, tôi không hiểu gì, nhưng đều thấy các vị khách Mĩ cười sảng khoái.


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Chín, 2010, 07:08:57 am
XII.

TRỞ VỀ NƯỚC


Sáng hôm sau ba bác cháu lên đường về nước.Tình cảm thật lưu luyến. Anh chị Tống Minh Phương bùi ngùi tiễn Bác, nước mắt lăn trên gò má. Bác động viên anh chị ở lại cố gắng hoạt động, bao giờ nước nhà độc lập Bác sẽ cho gọi về cùng nhau xây dựng Tổ quốc.

Khi chuẩn bị viết tập hồi kí này, tôi có đến thăm chị Hoa ở phố Nguyễn Chế Nghĩa. Tuy đã trên 80 tuổi,tóc đã bạc trắng cả mái đầu, nhưng trông chị vẫn tỉnh táo, vui vẻ. Chị sống ở đây một mình, trong căn phòng nhỏ chừng 15 mét vuông, đồ đạc chẳng có gì. Tôi được biết, khi cách mạng thành công, hai vợ chồng chị đã bán toàn bộ cơ ngơi của mình ở Côn Minh để về nước. Toàn bộ số vàng thu được chị đựng trong một chiếc va li nhỏ. Về đến Hà Nội chị giao toàn bộ cho anh Nguyễn Lương Bằng. Một gia đình đáng quý biết bao. Một sự hi sinh thầm lặng. Cách mạng thành công có sự đóng góp của mỗi gia đình giàu lòng yêu nước như vậy.

Tướng Sê-nô cho xe đến tận nhà đưa Bác ra sân bay. Lúc này hãy còn sớm lắm. Đường phố im phăng phắc. Sáu giờ đến sân bay. Lầnnày ba bác cháu vào căng-tin ăn sáng đàng hoàng chứ không phải ăn cơm với thịt rang muối như lần đi. Khẩu phần sáng gồm có: một cái bánh mì, hai quả trứng ốp-lết, một cốc cà-phê sữa, một quả táo. Tôi vừa ăn vừa hỏi Bác: không biết có phải trả tiền không? Bác cười bảo: Chú cứ yên chí ăn. Quả nhiên không những không phải trả tiền còn có khẩu phần mang theo dọc đường. Thật là sướng. Chẳng bù cho lượt đi, khổ ơi là khổ. Theo kế hoạch, có hai người Mĩ cùng về với Bác trong chuyến này và sẽ trở thành người Mĩ đầu tiên có mặt ở khu du kích Việt Minh, có nhiệm vụ khảo sát tình hình, đặt cơ sở chuẩn bị đón những người Mĩ khác sẽ lần lượt đến. Lúc bấy giờ quả thật không ngờ Bác lại có những quyết định táo bạo và sáng suốt như thế…

Máy bay chở Bác là một chiếc L.5, loại Đa-cô-ta. Ba bác cháu đồ đạc hẳng có gì, riêng hai anh bạn người Mĩ thì đồ đạc lỉnh kỉnh lắm: hai máy thông tin, hai khẩu súng tiểu liên, nhưng nhiều nhất vẫn là thực phẩm. Mỗi suất ăn một hộp đậu, một hộp thịt bò, một hộp bánh quy, ngoài ra còn có bánh mì mà họ dự trữ đủ ăn trong 15 ngày.

Bây giờ máy bay cất cánh. Chín giờ hạ cánh xuống sân bay Bách Xắc. Sân bay nằm lọt trong một lòng chảo. Khi máy bay chúc đầu xuống, Bác bị buốt tai. Tôi phải để Bác ngồi một lúc lâu mới dìu Bác xuống. Trường Phát Khuê cho xe ra đón Bác về phòng khách. Trong bữa tiệc chiêu đãi, Trương Phát Khuê nói:

- Chúng tôi rất vui sướng đón tiếp Hồ tiên sinh tại bản doanh của mình.

Nhìn cảnh đón tiếp long trọng, tôi lại suy nghĩ về những chuyện lạ ở trên đời. Mới cách đây hai năm, viên tướng này còn bắt giam Bác vào xà lim, nay lại đón Bác như một thượng khách. Tất cả đều do y đã ngạc nhiên chứng kiến buổi chiêu đãi trọng thể của viên tướng tư lệnh quyền uy của Hoa Kì đối với ông Hồ, còn y chỉ là khách mời… Nhìn vẻ khâm phục quý mến của Sê-nô đối với Hồ tiên sinh, Trương Phát Khuê thừa hiểu tầm vóc ông Hồ là như thế nào. Thế là chỉ với một chuyến đi, Bác đã gây được thiện cảm đối với người Mĩ, tranh thủ được sự giúp đỡ của Mĩ, đồng thời lại tạo được thế đứng vững chắc cho phong trào cách mạng Việt Nam bên cạnh người láng giềng khổng lồ… Thế mới biết, vai trò của Bác đối với cách mạng Việt Nam trong những ngày này quan trọng biết nhường nào.

Ở Bách Xắc được hai hôm thì một buổi trưa, tôi đang ngủ, có lính gác cổng vào báo cho tôi biết là có người đang tìm gặp ở phòng khách. Đó là một người thấp, trán cao, nét mặt phúc hậu. Tôi hỏi:

- Đồng chí gặp chúng tôi có việc gì?

Người đó đáp:

- Tôi la Hạ Bá Cung(1), Trung ương cử ra ngoài họp hội nghị ở Liễu Châu để thành lập mặt trận chung chống Nhật. Nghe Cụ đang nghỉ ở đây, muốn xin gặp Cụ ít phút.


(1) Đồng chí Hoàng Quốc Việt.


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Chín, 2010, 07:09:39 am
Thì ra đây là đồng chí Hạ Bá Cung, nghe tiếng từ lâu bây giờ mới được gặp. Tôi nghe tên đồng chí Hạ Bá Cung hồi đồng chí họp Hội nghị Trung ương lần thứ tám. Tôi vội nói:

- Đồng chí cứ ngồi chờ ở đây, tôi vào báo cáo với Bác.

Nghe nói có đồng chí Hoàng Quốc Việt, Bác liền cho mời vào ngay. Sau khi nghe báo cáo tình hình, Bác chỉ thị luôn: Các chú về ngay trong nước, tình hình hiện nay đang thuận lợi.

Đoàn của đồng chí Hoàng Quốc Việt còn có đồng chí Đặng Việt Châu và một số đồng chí khác. Tiếp đó là đoàn học sinh trường quân sự Hoàng Điền, Trương Khê… đến xin gặp Bác và xin cho về nước luôn thể.

Bác cũng khẩn trương chuẩn bị về nước. Trương Phát Khuê muốn mời bác ở lại một tuần nghỉ ngơi cho khỏe nhưng Bác từ chối: “Cách mạng Việt Nam đang khẩn trương từng phút từng giờ, xin cảm ơn lòng tốt của tướng quân, và xin hẹn một dịp khác”.

Trương Phát Khuê nói:

- Hồ tiên sinh có cần giúp gì không?

Nhân tiện, Bác nêu nguyện vọng của một số học sinh quân sự:

- Có một số học sinh Việt Nam mới tốt nghiệp ở trường quân sự của tướng quân, mong được tướng quân cho phép về nước vì hiện nay đang cần.

Trương Phát Khuê nói:

- Điều này dễ thôi, tôi hoàn toàn ủng hộ.

Bác nói thêm đường từ đây về biên giới còn khá xa, xin tướng quân cho một tiểu đội khiêng giúp hai cái máy phát điện và đồ dùng của hai người Mĩ.

Yêu cầu này cũng được Trương Phát Khuê thỏa mãn ngay.

Thế là hôm ra đi chỉ có ba bác cháu, hôm nay về có đến gần hai chục người. Từ Bách Xắc đi Điền Đông, Tĩnh Tây, Bình Mãng, Cột Mà đến biên giới, tất cả mất bốn ngày.

Các đồng chí Vũ Anh, Lê Quảng Ba ra tận đầu dốc đón Bác. Lại thêm một đồng chí nữa là Hoàng Hữu Nam mới từ Ma-đa-gát-xca về do quân Anh thả dù xuống căn cứ địa của ta, cùng với các đồng chí Lê Giản, Hoàng Đình Giong…

Ai nấy đều phấn khởi khi thấy Bác trở về an toàn, đúng lúc cách mạng đang chuyển biến mau lẹ, cần một bàn tay chèo lái tài giỏi và vững chắc.

Qua khỏi biên giới, các đồng chí đi theo Bác về ở lại đây do đồng chí Vũ Anh phụ trách, phân công công tác.

Riêng tôi có nhiệm vụ dẫn Bác đi sang Khuổi Nậm 3, cùng với hai người Mĩ. Có một việc đặt ra là phải có người khiêng giúp đồ đạc cho hai người Mĩ này. Đồng chí Lê Quảng Ba vào bản huy động một số thanh niên giúp đỡ.

Nghe tin Bác về, các anh Phạm Văn Đồng, hoàng Đức Thạc (Đồng chí Lã) ở liên tỉnh ủy tài chính cho người đi đón Bác về Lạng Sơn.

Khi tôi đưa Bác về đến Xóm Hoàng Phài, xã lê Lợi thì thấy ở đây các đồng chí đã chuẩn bị đón Bác chu đáo. Một con lợn đã được nhốt sẵn để liên hoan chào mừng. Nghe nói trong đoàn có hai đại biểu quân đồng minh nên việc đón tiếp càng được quan tâm.

Bữa cơm hôm đó có một chuyện đáng nhớ. Khi các đồng chí phụ trách định làm một mâm cơm riêng để mời hai người Mĩ Đồng minh, Bác liền cầm bát đũa của mình xuống ngời với các đồng chí phục vụ, vừa ăn vừa nói vui vẻ, khiến hai người Mĩ vừa ngạc nhiên vừa thích thú.


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Chín, 2010, 07:10:06 am
Ăn cơm xong, mọi người đang vui vẻ trò chuyện thì một cán bộ địa phương đến gần Bác rụt rè:

- Thưa Cụ, cháu xin phép hỏi Cụ một vài việc ạ!

Bác nhìn người cán bộ khuyến khích:

- Có việc gì chú cứ nói đi.

- Thưa Cụ, ở địa phương đây, phong trào cách mạng đang lên cao, nhân dân đang tổ chức dân quân tự vệ và ra sức luyên rtập quân sự. Không khí khởi nghĩa đang sôi sục. Quần chúng đang đòi hỏi phải xử trí một vài người trước đây làm tay sai cho Pháp - Nhật, làm hại đồng bào. Cháu chưa biết giải quyết thế nào cho tốt cả.

Bác trả lời ngay cho đồng chí cán bộ, nói to, ý muốn mọi người cùng nghe:

- Đoàn thể lãnh đạo nhân dân làm cách mạng là nhằm giải phóng dân tộc, giành độc lập cho Tổ quốc, mang tự do hạnh phúc lại cho mọi người. Trong quá trình đấu tranh tránh sao khỏi một số người lầm đường lạc lối, hoặc cố ý, hoặc vô tình mà làm tay sai cho giặc. Địa phương này đã được giải phóng, các chú có nhiều việc phải làm như: xây dựng chính quyền cách mạng, củng cố căn cứ địa, chuẩn bị tham gia tổng khởi nghĩa… Không nên chỉ chú trọng việc trừng trị quá. Chúng ta phải tận dụng mọi lực lượng để phục vụ cách mạng. ngay trong hàng ngũ những người làm tay sai cho giặc, người nào còn có thể dùng được, thì ta cứ dụng. Thậm chí tệ nhất thì cũng để cho họ dạy bình dân học vụ.

Đến đây, lời Bác trở nên ân cần, tha thiết:

- Cổ nhân có câu “gỗ cong dùng vào việc cong, gỗ thẳng dùng vào việc thẳng”, không có gỗ nào bỏ đi, trừ gỗ mục, thì cũng không có người nào mà không dùng được trong các việc ích nước lợi dân, trừ khi kẻ đó kiên quyết chống phá cách mạng đến cùng. Chú nên cùng tập thể nghiên cứu cho sâu, cho kĩ mà kiệu giải quyết cho tốt việc này.

Những lời của bác thể hiện tấm lòng nhân ái bao la của một con người chỉ biết suốt đời phục vụ nhân dân.

Tôi đang chuẩn bị thu xếp cho Bác lên đường kịp về Lam Sơn trước khi trời tối thì đồng chí kia lại hỏi:

- Thưa Cụ, cháu vừa nhận được chỉ thị của thượng cấp là phải thành lập Ủy ban dân tộc giải phóng. Cháu đang lúng túng không biết chọn người như thế nào.

Bác trả lời ngay:

- Chú cứ lựa chọn những người được yêu mến, được đoàn thể tín nhiệm mà đưa vào Ủy ban dân tộc giải phóng.

Hình như đồng chí cán bộ cứ thích được nghe Bác nói mãi nên còn định hỏi nữa, tôi liền đứng dậy kiên quyết:

- Thưa Bác, đã đến giờ phải lên đường rồi ạ! Cá anh Phạm Văn Đồng, Hoàng Đức Thạch đang chuẩn bị đón Bác ở Lam Sơn.

Bác vui vẻ đứng dậy nói vui:

- Thì ta đi!

Bác bắt tay tất cả mọi người, bước nhanh ra cửa. Phía ngoài đường đã có hai con ngựa buộc sẵn. Đồng chí phụ trách có vẻ áy náy thưa với Bác.

- Thưa Cụ, chúng cháu tìm mãi mới kiếm được hai con ngựa…

Ý chừng là phải có ba con, hai con cho hai người Mĩ, một con cho Bác.

Nhưng Bác đã vui vẻ:

- Hai con là rất tốt, dành cho hai vị khách quý.

Còn chúng tôi thì di bộ.

Khuya hôm đó, Bác về đến căn cứ Lam Sơn. Các đồng chí trong liên tỉnh ủy đã có mặt đông đủ. Mọi người vui mừng thấy Bác khỏe mạnh.

Chừng hơn một tuần sau, Bác lên đường về Tân Trào.


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Chín, 2010, 07:11:42 am
PHẦN HAI

TỪ CAO BẰNG
VỀ HÀ NỘI

I.

RA ĐƠN VỊ CHIẾN ĐẤU

Sau khi hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ Bác từ Côn Minh trở về nước an toàn, tôi đề đạt nguyện vọng được chuyển ra đơn vị chiến đấu. Tôi tâm sự với đồng chí Vũ Anh:

- Em biết được phục vụ bác là một vinh dự lớn, nhưng nh biết em rồi, em chỉ thích trực diện đánh nhau với địch, còn bảo vệ Bác, anh giao cho người khác. Sau này dù công tác gì, em hứa sẽ luôn luôn xứng đáng với sự dìu dắt, giúp đỡ của anh.

Như phần trên tôi đã nói, công ơn đồng chí Vũ Anh đối với tôi vô cùng to lớn. Nếu nư cha mẹ tôi sinh ra tôi lần thứ nhất, thì đồng chí Vũ Anh đã sinh ra tôi lần thứ hai. Đồng chí Vũ Anh là người kết nạp tôi vào Đảng và là người đầu tiên giao nhiệm vụ bảo vệ Bác Hồ cho tôi và tôi trở thành người đầu tiên được vinh dự làm nhiệm vụ quan trọng đó.

Lúc đầu Bác chưa hoàn toàn nhất trí cho tôi chuyển công tác. May nhờ có anh Hoàng Hữu Nam nói thêm vào, cuối cùng Bác mới đồng ý. Đồng chí Hoàng Hữu Nam nói: “Xem tướng cậu ấy, cứ cho ra trận là thích hợp nhất”.

Đêm trước hôm tôi lên đường, Bác cho gọi lên dạy bảo:

- Chú đòi được ra chiến đấu, Bác cũng không ngăn. Nhưng Bác chỉ phân vân hai điều: một là, tính chú nóng quá. Bây giờ chú là lính. Cách mạng phát triển, quân đội phát triển, mai sau chú cố gắng, sẽ là quan, là tướng. Tướng mà nóng tính thì hỏng việc; hai là tính chú liều quá. Có Bác bên cạnh mà chú còn dám bắt gà, bắt ngựa của dân, sau này ra “hùng cứ một phương”, chú sẽ còn làm nhiều điều sai trái ai ngăn được chú? Hoặc như việc chú tiêm kí ninh vào ven cho Bác cũng là một việc liều. Bác chưa thấy ai tiêm kí ninh vào ven như chú cả.

Nói đến đây, Bác cười độ lượng:

- Nhưng thôi! Bác còn sống là may rồi! phải nói chuyến đi vừa qua, chú có nhiều ưu điểm, chú thông minh, tháo vát, vừa bảo vệ vừa nấu ăn, vừa là thầy thuốc, lại kiêm cả “nhà ngoại giao” nữa. Vậy lần này ra chiến đấu, chú nhớ là phải phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm, cố gắng học tập, rèn luyện mọi mặt để luôn tiến bộ.

Trước khi ra về Bác bảo tôi:

- Chú có hứa với Bác là sẽ khắc phục khuyết điểm để mau chóng tiến bộ không nào?.

- Thưa Bác cháu xin hứa.

Bác bắt tay tôi:

- Bây giờ chú sang chỗ đồng chí Vũ Anh để nhận nhiệm vụ.

Lúc này phong trào ở các tỉnh biên giới phía Bắc đang phát triển mạnh, cần có lực lượng vũ trang để hỗ trợ phong trào. Đồng chí Vũ Anh giao cho tôi phụ trách một tiểu đội đi về hướng Đông Khê, Thất Khê (Lạng Sơn), có nhiệm vụ vừa xây dựng cơ sở, vừa phát triển lực lượng.

Một hôm tiểu đội của tôi đang hoạt động ở vùng Mỏ Sắt thì thấy một đoàn quân khá đông từ triền núi bên kia đi về phía mình. Thoạt đầu tôi hơi chột dạ vì lực lượng mình quá ít, chỉ có sáu người, so với năm, sáu chục người của họ quần áo đồng phục, súng ống đàng hoàng. Rõ ràng là cả một trung đội lính khố đỏ đang đi hành quân. Lại còn có cả năm, sáu thằng Tây và một con đầm.

Thế là rõ! Bọn Pháp bị Nhậ đảo chính tìm đường chạy sang Trung quốc đây. Tôi nghiến chặt răng lại nghĩ bụng: cho chúng mày chết! Mấy chục năm trời áp bức nhân dân Việt Nam, bóc lột tận xương, tập tủy đồng bào tao. Gia đình tao vì quá nghèo khổ mà phải tha hương cầu thực, không biết bố mẹ tao bây giờ phiêu bạt nơi đâu? Đối với nhân dân Việt Nam thì bọn mày tàn ác như thú dữ. Còn đối với bọn phát xít Nhật, thì chúng mày chỉ mới nghe tiếng súng đã kéo nhau chạy trốn.

Tôi cho quân ẩn nấp, đợi khi thằng đội đi đầu đến gần (sau này biết tên nó là đội Oánh), tôi nhảy ra chĩa súng vào người nó quát:

- Các anh đi đâu? Việt Minh cướp chính quyền khắp nơi rồi, cứ đi cả đàn cả lũ thế này mà chết cả nút hả?

Cả đoàn quân dừng lại bất ngờ, ngơ ngác… Tên đội Oánh khúm nú thưa:

- Có vợ chồng tên chánh mật thám Bắc Cạn và năm thằng Pháp muốn chạy sang Trung Quốc, nhờ các ông giúp đỡ…

Tôi kéo đội Oánh lại trấn áp:

- Mày làm tay sai cho bọn cướp nước bao nhiêu năm rồi còn chưa đủ hả? Còn định bám chúng cho đến bao giờ? Đây là dịp lập công chuộc tội, trở về với cách mạng.

Đội Oánh tỏ ra sợ hãi. Tôi bàn với đội Oánh kế hoạch diệt bọn Pháp.


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Chín, 2010, 07:12:09 am
Giải quyết xong bọn mật thám Pháp, tôi tập trung anh em lính khổ đỏ lại tuyên bố: Ai muốn đi theo cách mạng đứng ra một bên, ai muốn về nhà đứng ra một bên.

Những người xin về quê, tôi viết cho mỗi người mây chữ vào một tờ giấy, kí tên loằng ngoằng, rồi phát cho một chục đồng bạc Đông Dương làm tiền ăn đường.

Khoảng hơn một chục người xin ở lại. Tôi tuyển thêm một số du kích địa phương trhành lập hẳn một trung đội du kích hoàn toàn mới. Sáu anh em trong tiểu đội cũ được tôi phong làm cán bộ tiểu đội hết, và tôi nghiễm nhiên trở thành trung đội trưởng.

Thấy súng còn nhiều, tôi bàn với du kích địa phương lập thêm một trung đội nữa. Và tôi trở thành đại đội trưởng.

Về chiến lợi phẩm còn có thêm 6 khẩu súng ngắn, 6 cái đồng hồ và mấy vạn đồng Đông Dương tìm thấy trong túi của hai thằng chánh, phó mật thám.

Tôi thấy đây là một số tiền khá lớn, và lại cũng bắt đầu thấy ngợp vì đội quân mình chỉ huy đông quá nên tôi quyết định kéo vê báo cáo với đồng chí Vũ Anh.

Tôi cứ ngỡ mình sẽ được khen, nào ngờ sau khi nghe tôi báo cáo xong, sắc mặt đồng chí Vũ Anh tái đi và cuối cùng đồng chí thốt lên lo lắng:

- Việc này tôi báo cáo với Bác ra sao? Lẽ nào chúng không biết một tí gì về chính sách đoàn kết của mặt trận Việt Minh trong giai đoạn hiện nay sao?

Nghe đồng chí Vũ Anh nói vậy tôi vô cùng ân hận về việc làm của mình. Đúng tôi là một thằng đại ngu… Bác đang kêu gọi đoàn kết, cả người Pháp ở chính quốc lẫn người Pháp ở Đông Dương cùng đứng chung trong mặt trận chống phát xít. Thế mà tôi thấy địch chỉ biết đánh chứ không biết vận dụng chính sách đoàn kết khoan hồng. Không biết tội này nếu bác biết được rồi sẽ ra sao? Rõ ràng Bác đã lường trước được tính tôi nên khi đồng ý cho tôi chuyển công tác, Bác đã dặn tôi là không được liều.

Tôi vô cùng ân hận trước khuyết điểm của mình, năn nỉ đồng chí Vũ Anh cố làm sao để Bác thông cảm và tha thứ cho tôi rồi lấy cớ là phong trào khắp nơi đang phát triển mạnh tôi đề nghị đồng chí Vũ Anh cho tôi lên đường ngay.

Lần này đi, đồng chí Vũ Anh chỉ cho tôi mang theo một tổ ba người chứ không phải sáu người như lần trước, và dặn nhiệm vụ chính là võ trang tuyên truyền xây dựng cơ sở không được nổ súng tràn lan, nếu cần thì phải trao đổi xin ý kiến với cấp ủy địa phương.

Tôi đi về hướng Phục Hòa, Đông Khê, Thất Khê. Ở các địa phương này, tin Nhật đầu hàng đang làm dấy lên một cao trào cách mạng đặc biệt sôi nổi mà sau này ta gọi là không khí tiền khởi nghĩa. Tôi nghĩ phải nhân lúc kẻ địch đang hoang mang lãnh đạo nhân dân cướp chính quyền là thuận lợi nhất.

Tôi tìm vào những cơ sở cách mạng cũ mà tôi đã góp phần xây dựng từ năm 1943-1944, cùng với họ phát triển lực lượng vũ trang. Thiếu vũ khí, tôi đề xuất muốn có nhiều vũ khí thì nên đánh đồn địch, chúng nó đang hoang mang ta sẽ thu được nhiều súng…

Trước hết tôi chủ trương làm thử ở Thất Khê.

Thấy anh em còn do dự, tôi bảo cứ tập hợp quần chúng lại, tôi đã có cách. Tôi chọn ra khoảng 100 du kích, trang bị chủ yếu là gậy và mã tấu. Cũng có một vài khẩu súng kíp. Tôi huấn luyện cho mấy ngày, đi đứng, nghiêm nghỉ. Hồi còn bé ở Côn Minh tôi đã có dịp đứng hàng giờ xem sư đoàn bảo vệ Long Vân luyện tập nên có biết đôi chút về quân sự. Tôi lại người to, tiếng to, có tác phong oai vệ nên chỉ mấy hôm cả trăm người như một, giấ như có quân trang đồng phục mặc vào chắc chắn ai cũng phải nhầm đây là một đội quân chính quy. Hằng ngày vào lúc chập choạng buổi chiều, tranh tối tranh sáng, tôi cho đoàn quân đi rầm rập qua phố Thất Khê để uy hiếp tinh thần bọn lính trong đồn.

Chiều 15 tháng 8 năm 1945, tôi mặc quần áo Nùng, đầu đội mũ âỉ, nhưng thắt chẽn, đeo súng đàng hoàng, cùng với hai du kích vào gặp tuần phủ Thât Khê. Tôi dọa phủ Thư:

- Tôi là người của Việt Minh. Nhật đã đầu hàng. Các nơi đã khởi nghĩa cướp chính quyền. Các anh hãy nộp vũ khí và cả dấu của phủ cho chúng tôi thì sẽ được yên thân.

Thấy tôi nói dứt khoát, oai phong, lại nghĩ đến mấy lần trước có những đạo quân đi rầm rập ngoài phố, bọn lính về cấp báo quân Việt Minh đông và mạnh lắm, nên hôm nay, tuần phủ ngoan ngoãn chấp hành lệnh.

Đã có kế hoạch chuẩn bị trước, quân ta vào khẩn trương khuân vũ khí và các đồ quân trang quân dụng ở đồn khố đỏ và đồn khố xanh vào rừng bên kia sông.

Giữa lúc đó thì một tình huống không dự kiến xảy ra. Có quân cấp báo đội tiên phong của Trương Phát Khuê đã vượt biên giới tràn vào.

Suốt đêm tôi đốc thúc chuyển hết kho tàng, vũ khí vào rừng. Một mặt đôn đốc việc thành lập chính quyền ở các địa phương. Xong đâu đấy mới thấy quân của các anh Hoàng Minh Thảo, Lê Thiết Hùng từ hướng Pò Mã kéo về. Các anh khen tôi làm gọn cái Thất Khê thế là tốt.


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 06 Tháng Chín, 2010, 08:04:12 am
Tôi bảo:

- Bây giờ các anh ở đây lo đối phó với bọn Tưởng, tôi đi làm nốt cái Na Sầm.

Anh Lê Thiết Hùng vội ngăn:

- Ấy! Cậu phải có kế hoạch.

- Anh cứ yên tâm. Tôi sẽ làm gọn trong một buổi.

Na Sầm chỉ cách Thất Khê có 30 cây số. Đã có tin cơ sở báo cho tôi biết, sau khi ta hốt gọn cái Thất Khê, thằng Na Sầm đang hoang mang cực độ.

Tôi chỉ mang theo một trung đội nhưng rất nhiều súng. Sau khi cho quân vây xung quanh, tôi đĩnh đạc bước vào giơ súng dọa bọn chỉ huy:

- Các anh phải đầu hàng. Tất cả Lạng Sơn về tay Việt Minh hết rồi. Ai chống cự sẽ phải đền tội.

Bọn chúng van lạy rối rít:

- Chúng em xin theo các anh.

Ta lại thu được một số lượng lớn súng ống ở đây. Sau khi lo việc cất giấu vũ khí, thiết lập chính quyền mới, tôi trở về Thất Khê. Anh Lê Thiết Hùng bảo tôi: Bây giờ quân đông, súng nhiều, ta phải tổ chức một khóa huấn luyện cấp tốc, đào tạo cán bộ cho địa phương. Rồi anh Lê Thiết Hùng nói vui: “Cậu sẽ làm “giám đốc” trường quân chính này”.

Lớp đầu tiên tôi triệu tập kkhoảng 150 học viên, được địa phương và được các anh đồng ý, tôi chọn anh Đàm Văn Ngụy làm phó cho tôi. Là một thanh niên dân tộc thiểu số địa phương, Đàm Văn Ngụy được giác ngộ và trưởng thành nhanh chóng trong phong trào cách mạng. Năng nổ và nhiệt tình, lại thêm tháo vát, quen thuộc địa bàn, chính Đàm Văn Ngụy đã góp phần rất lớn cho sự tồn tại của “trường quân chính” tạm thời này… Hầu như suốt ngay đêm anh phải đi lo chạy gạo cho hàng trăm học viên có đủ cái ăn mà học tập.

Thời gian này xảy ra một câu chuyện đáng ghi nhớ. Số là một trung đoàn Quốc dân đảng đóng ở Thất Khê, thường xuyên gây nhiều phiền toái cho địa phương quanh vùng. Điển hình là việc cho quân thay nhau đi cướp bóc, nhũng nhiễu dân chúng. Đồng bào căm lắm. Tôi nghĩ bụng phải trị cho bọn này một trận mới được và bàn kế hoạch với đồng chí y cán bộ huyện Thất Khê. Dịp đó đã đến. Nhân một trung đội của chúng đến cướp bóc ở gần cầu Bản Trại, tôi cho phục kích diệt gọn 30 tên. Bọn lính thì hết sức kinh hoàng, nhưng bọn chỉ huy, được mấy tên Việt Nam Quốc dân đảng gièm pha định làm to chuyện. Nó chính thức gửi công văn đòi bắt Phùng Thế Tài đổi mạng. Tôi bỗng chột dạ. Chuyến này mà bọn chúng làm to đến tai Bác thì gay, không biết tôi phải ăn nói với Bác ra sao? Công bằng mà nói việc tôi làm là đáp ứng được nguyện vọng của quần chúng, đồng bào và các dân tộc nghe tin quân ta đánh bọn Tưởng một trận nhớ đời đều hả lòng, hả dạ. Còn bọn Tưởng thì sau vụ này chúng bớt hung hăng, không dám làm càn như trước.

Tôi phải đến nhà Cụ Liên, một nhân sĩ có tiếng trong vùng, giỏi chữ Hán, biết tiếng Trung Quốc, có uy tín với bọn Tưởng nhờ can thiệp giúp…

Cụ Liên vào gặp tên chỉ huy, từ tốn nói: “Chúng tôi được lệnh từ trên Trung ương là Việt Nam phải có nhiệm vụ ủng hộ Hoa quân nhập Việt. Mấy lần mọi viêc đều tốt đẹp, không may vừa rồi lại xảy ra chuyện đáng tiếc, chúng tôi thành thật có lời xin lỗi… Còn về Phùng Thế Tài, chúng tôi đã bắt ông ấy làm kiểm điểm, ông ấy có trình bày là hôm ấy có một số quân của quý quốc đã quá thẳng tay sát phạt dân lành nên quân của ông ta hơi quá tay, ông ta ngăn không kịp…”.

Nghe Cụ Liên nói, bọn chúng đành phải ngậm bồ hòn làm ngọt. Và khi nghe Cụ Liên nói tiếp: “Nhân dịp đến thăm bản doanh, chúng tôi xin hủng hộ quân đội quý quốc 10 tấn gạo” thì bọn chúng lập tức cho qua sự việc vừa rồi. Nhưng còn vớt vát:

- Nếu sắp tới xảy ra một trường hợp tương tự, nhất định chúng tôi sẽ không cho qua.

Cuộc thương thuyết của Cụ Liên thế là thắng lợi. Tôi thật sự cảm ơn cụ đã giải tỏa cho tôi một tình huống hết sức phức tạp.

Sau này tôi mới biết, chính trong thời gian đó, ở Hà Nội Bác cũng đã phải đứng trước hàng trăm chuyện lôi thôi như chuyện của tôi gây ra.

Không biết trong sổ tay của Bác có ghi chuyện Phùng Thế Tài tổ chức diệt 30 tên lính Tưởng ở cầu Bản Trại, Thất Khê hay không?


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 06 Tháng Chín, 2010, 08:04:44 am
Tất cả những sự việc trên đây nói ra thì có vẻ dài dòng như ậy nhưng thực ra chỉ diễn ra trong vòng 10 ngày sôi động của Cách mạng tháng Tám ở vùng đất Đông Bắc Tổ quốc. Bây giờ nghĩ lại tôi vẫn cảm thấy tự hào là mình có những đóng góp ít ỏi nhưng xứng đáng vào thắng lợi quan trọng của nhân dân miền biên giới. Lúc này tôi đã bước sang tuổi 25. Nghĩ lại, mới ngày nào còn là một đứa trẻ cầu bất, cầu bơ nay có thể độc lập công tác ở một mũi, một địa phương, tuy vẫn còn để phạm những thiếu sót nhưng cơ bản đã hoàn thành được nhiệm vụ đúng thời điểm lịch sử đòi hỏi.

Có được điều này, tôi không thể nào quên sự quan tâm dìu dắt của Bác, của đồng chí Vũ Anh, trong đó “lớp học trên đường” từ Pác Bó đến Côn Minh chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng. Tôi còn nhớ như in khi giảng về Cách mạng tháng Mười Nga, Bác thuật lại cho chúng tôi nghe chỉ thị của Lê-nin đêm 6 tháng 11 năm 1917: Cách mạng phải nổ ra đêm nay, chứ nhất định không để đến ngày mai, để đến ngày mai là có tội với Tổ quốc, với nhân dân”.

Khi quyết định giải phóng Thất Khê và sau đó là Na Sầm, tôi cũng nghĩ là phải nhanh lên, làm ngay bây giờ thì chắc chắn là thắng, chứ để đến mai thì chưa biết sẽ ra sao; rằng nếu để đến mai, bọn Tưởng tràn vào thì khó có thể thành công…

Cũng phải nói thêm rằng, trong những năm tiền khởi nghĩa tôi vừa có nhiệm vụ bảo vệ Bác, vừa lăn lộn với phong trào ở vùng căn cứ địa, nên tôi nắm bắt rất vững con người ở đây, thuộc lòng đường đi lối lại, các cơ sở coi tôi như người nhà. Có thể nói đó là sự tích lũy suốt bốn, năm năm trời hoạt động tại một địa bàn, lớn dần lên trong phong trào quần chúng, để khi có thời cơ vụt trưởng thành nhanh chóng.

Sau Thất Khê, Na Sầm, đêm 23 tháng 8, anh Lê Thiết Hùng, ké Lộc và tôi băng về Lạng Sơn, cùng tham gia giành chính quyền ở thị xã vào ngày hôm sau. Và ở đây một sự kiện mới nữa đã đến với tôi - tôi trở thành phó chủ tịch tỉnh Lạng Sơn. Sau đó, anh Lê Thiết Hùng được đồng chí Vũ Anh gọi về Hà Nội.

Tình hình ở Lạng Sơn lúc này khá phức tạp. bọn Phục quốc quân chiếm toàn bộ khu phố Kì Lừa, do Nông Quốc Long làm thủ lĩnh. Phía bên kia cầu Quốc dân đảng và Việt Minh chia nhau chiếm giữ, không lực lượng nào chịu lực lượng nào.

Thực chất đây là một chính quyền liên hiệp được thỏa thuận giữa các bên do Nông Quốc Long làm chủ tịch, Phùng Thế Tài là phó chủ tịch. Trụ sở ủy ban cùng treo hai lá cờ song song, một lá cờ ba sọc và một lá cờ đỏ sao vàng. Cờ ba sọc gồm ba sọc trắng, ba sọc xanh, trên có ngôi sao. Những ngày sau đó trong thành Lạng Sơn có thêm một sư đoàn quân của Trương Phát Khuê đóng, làm chỗ dựa cho bọn tay sai.

Tình hình phức tạp đến mức tôi không biết xoay xở ra sao? Phải thú thật là tôi còn thiếu cái vốn hiểu biết toàn diện để tự mình phân tích được một cách khoa học mọi tình huống đang diễn ra trước mắt. Tôi thuộc loại người có sức mạnh, có bản lĩnh, có quyết tâm cao thực hiện mọi việc nhưng phải có Đảng vạch đường, chỉ lối, còn ở cái tỉnh Lạng Sơn ở miền biên giới xa xôi này thì Nông Quốc Long, chủ tịch Phục quốc lại đang làm chủ tịch, còn tôi thì làm phó… Lúc này Bác Hồ thì ở tận Hà Nội, còn đồng chí Vũ Anh cũng ở tận đâu đâu dưới ấy, hình như làm ủy viên quân sự toàn quốc. Do đó mỗi khi xuất hiện một vấn đề gay cấn tôi chẳng biết hỏi ai. Cho đến khi bước vào chuẩn bị bầu cử quốc hồi thì rất lúng túng. Tôi thấy trong danh sách hầu hết là bọn phản động.

Thế là tôi về Hà Nội, tìm gặp đồng chí Vũ Anh. Nghe tôi báo cáo tình hình, đồng chí Vũ Anh cũng thấy phức tạp, tại sao lại để cho Nông Quốc Long là chủ tịch tỉnh, bộ mặt phản động của chúng ai mà chẳng biết. Có lẽ phải tìm cách loại bỏ Long đi mới ổn. Nhưng đồng chí Vũ Anh bảo tôi hãy khoan bàn vấn đề này. Trước mắt anh dẫn tôi đi gặp Bác. Đồng chí Vũ Anh dẫn tôi đến Bắc Bộ Phủ. Kể từ ngày chia tay Bác ở Pác Bó đến nay, đã gần một năm tôi mới gặp lại Bác. Bác cho tôi ăn cơm và ngủ lại một đêm để nói chuyện. hầu như Bác dành cả một buổi tối để nghe tôi kể chuyện tình hình những ngày đầu cách mạng ở các tỉnh Cao Bằng, Bác Cạn, Lạng Sơn… Nhân dân khắp nơi vùng lên lập chính quyền mới như những ngày hội. Nhưng từ khi quân Tưởng sang thì tình hình trở nên phức tạp, khó khăn. Tôi nói với Bác bọn Tưởng là giặc, chứ không phải quân đồng minh gì đâu. Nếu chính phủ không sớm có chủ trương đối phó thì thì nó sẽ phá hết thành quả cách mạng của ta. Rồi quên khuấy mất lời dặn của đồng chí Vũ Anh, tôi báo cáo luôn với Bác tình hình phức tạp của Lạng Sơn, và khẳng định nếu để Nông Quốc Long là chủ tịch thì thế nào ta cũng mất Lạng Sơn.

Nghe đến đây, Bác mỉm cười vỗ vai tôi:

- Có Phùng Thế Tài làm phó chủ tịch mà lại để mất Lạng Sơn à?

Mấy hôm sau, tôi được tin Nông Quốc Long không còn làm chủ tịch Lạng Sơn nữa. Hình như long bị một phe phái nào đó loại bỏ. Còn tôi cũng không trở về Lạng Sơn nữa mà nhận một nhiệm vụ khác. Mọi công việc tôi bàn giao cho đồng chí Huyền ở trong ủy ban.


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 06 Tháng Chín, 2010, 08:05:34 am
II.

LÚC NÀY CÁCH MẠNG
RẤT CẦN SÚNG

Đồng chí Vũ Anh bảo tôi sang công tác ở cơ quan đồng chí, đó là cục Quân lương, lo việc cung cấp mọi mặt cho quân đội. Tôi được phân công vào bộ phận đi mua vũ khí, chủ yếu là mua của bọn Tưởng. Đồng chí Phạm Việt Tử, một người quen cũ ở Côn Minh cũng ở bộ phận này.

Giữ một số lượng lớn tiền và vàng trong tay, tôi nghĩ nhiệm vụ cách mạng thật muôn màu, muôn vẻ. Hồi ở Côn Minh tôi cũng đã hai lần được giao nhiệm vụ đi mua vũ khí của bọn Tưởng. Cả hai lần tôi đù làm tốt việc được giao. Mua xong lại còn vận chuyển an toàn từ Côn Minh về Pác Bó… Lần này, đang làm phó chủ tịch Lạng Sơn, tôi lại được điều về làm nhiệm vụ thu mua vũ khí.

Đồng chí Vũ Anh bảo tôi:

- Chú có nhiều kinh nghiệm giao thiệp với bọn lính Tưởng, lại biết tiếng Trung Quốc, lần này cứ lân la đến các đơn vị của chúng, gạ mua súng. Bọn này là quân ô hợp, từ quan đến lính sang đây chỉ mong vơ vét thật nhiều. Cách mạng mới thành công, miền Nam đang kháng chiến, đang rất cần súng. Nhiệm vụ của chú lần này vô cùng quan trọng.

Nghe đồng chí Vũ Anh nói thế, thú thật tôi có phân vân khi nhận nhiệm vụ. Gì thì gì mình cũng là đảng viên thời kì bí mật, vào sinh ra tử, biết mấy công lao. Gì thì gì mình cũng đã là phó chủ thịch tỉnh, thế mà bây giờ lại phải đi làm anh lái súng!

Biết tôi còn lấn cấn, Bác cho gọi tôi đến, gặp tôi Bác hỏi ngay:

- Chú có biết lúc này cách mạng cần nhất là cái gì không?

Một phản xạ rất tự nhiên, làm tôi không kịp suy nghĩ, trả lời luôn:

- Cần nhất là súng ạ!

Bởi vì thực tế những vùng tôi hoạt động vừa qua đã chứng tỏ nếu không có súng thì không thể làm được điêu gì, đôi khi những khẩu súng giả thôi cũng góp phần lấy được đồn địch như ở Thất Khê. Hoặc như tình hình ở Lạng Sơn hiện nay, Nông Quốc Long sở dĩ hung hăng được là nhớ có nhiều súng, không những bọn tay chân chúng có nhiều súng mà nó có cả một sư đoàn quân Tưởng đóng ngay trong thị xã, nên dù tôi có muốn làm một cái gì cũng đành chịu bó tay. Có thể nói từ ngày tham gia cách mạng đến nay, đố với tôi súng cũng là một vấn đề hàng đầu. Chính vì vậy mà khi Bác hỏi câu “Cách mạng cnần hất là gì”, tôi không cần suy nghĩ mà trả lời ngay: súng!

Không ngờ, Bác tôi vừa dứt lời Bác đã nói luôn:

- Đấy! Thế mà cách mạng giao nhiệm vụ cho chú đi kiếm súng thì chú lại thắc mắc?

Lúc này tôi mới ngớ ra là mình đã bị Bác “phạt góc”. Lẽ ra tôi nên trả lời cách mạng cần nhất là lòng trung thành, cần nhất là những đảng viên từng trải qua thử thách trong thời kì bí mật, cần nhất là những người chỉ huy để từ đó trình bày với Bác “sự lấn cấn có lí” của mình. Lẽ nào để một người đã từng đi bảo vệ Bác Hồ, đã từng tham dự “Hội nghị Côn Minh”, đã tự mình tổ chức huấn luyện được hàng nghìn quân, chỉ huy cướp chính quyền mấy huyện liền… cuối cùng trong lúc cách mạng đang sục sôi phát triển “một ngày băng 20 năm” thì tôi lài trở về nhiệm vụ làm anh lái súng, một nhiệm vụ tôi đã từng làm từ năm 1940-1941.

Tất nhiên khi Bác đã giao nhiệm vụ thì tôi làm hết mình. Trong vòng ba tháng tôi đã đi hầu khắp các tỉnh miền bác, hễ nơi nào có bọn Tưởng đóng quân là tôi tìm đến. Nhưng nhiều nhất là ba tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang, Lạng Sơn… Khi thì công khai, mua bán sòng phẳng, có chuyến hàng mấy nghìn khẩu súng, trả bằng tiền hoặc bừng vàng. Ta vừa tổ chức thành công Tuần lễ vàng nên đem dùng vào việc này rất thuận tiện. Cùng một số lượng hàng, nếu mua bằng vàng thì giá rẻ bằng một nửa hoặc một phần ba. Bọn quan tướng Quốc dân đảng muốn có vàng đút vào túi cho gọn, cho sạch tay.

Có lẽ trong suốt đời tôi, từ trước tới lúc đó và từ đó đến tận nay, chưa bao giờ tôi nắm trong tay số lượng tiền và vàng lớn như vậy. Tuy rằng bộ phận có mấy người, có người giữ tiền, có người giữ vàng, nhưng mỗi việc cụ thể đều do tôi hoàn toàn quyết định.

Sau đó tôi báo cáo với đồng chí Vũ Anh. Đôi khi đồng chí Vũ Anh bảo tôi sang trực tiếp báo cáo với đồng chí Nguyễn Lương Bằng, người phụ trách tài chính của Đảng lúc bấy tiờ.

Công việc mau sắm vũ khí vô cùng phức tạp. Chỉ thị trên là có gì mua nấy, từ viên đạn súng trường đến khẩu đại liên, trung liên, từ quả lựu đạn đến khẩu súng cối… Một quân đội mới thành lập, lực lượng dân quân tự vệ được tổ chức khắp nơi. Lức đó mỗi xã, mỗi huyện có vài khẩu súng trường, vài cây đại đao, vài quả lựu đạn đã là quý… Thường phải lấy đường ray xe lửa để đúc vũ khí… Nhiều nơi phải lập ra xưởng chế súng, chế lựu đạn bằng phương pháp thủ công. Súng kíp thường “giở chứng”, lựu đạn thường không nổ, hoặc nhiều khi “thử kêu đốt tít”. Phải mất bao nhiêu công phu mới chế được một khẩu súng, một viên đạn. Nay bỗng dưng có một đội quân hàng mấy chục vạn đủ vũ khí, đạn được đưa sang tận nơi cho ta, không chớp thời cơ mà đón lấy thì sẽ để mất một dịp hiếm có. Đặc biệt, sau khi có Hiệp định sơ bộ ngày 6 tháng 3 năm 1946, tốc độ mua bán vũ khí càng mạnh. Bọn quan quân Tưởng biết rõ số phận của chúng không còn được ở lại trên đất này bao lâu nữa, nên thi nhau bán bớt đi, vơ vét được đồng nào hay đồng ấy. Tổng số súng chúng tôi mua được trong giai đoạn này lên tới vài vạn khẩu. Mua đến đâu phải chuyên chở cất giấu ngay đến đó. Mọi việc phả tuyệt đối bí mật. Có lúc phải đi đường sông. Nhất là từ khi có hệ thống kiêm soát của Liên kiểm Việt - Pháp lại càng phức tạp. Mặc dầu vậy, mọi viêc đều trót lọt, kết quả thu được vượt ngoài dự kiến, góp phần quan trọng để trang bị cho bộ đội Nam tiến.


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 06 Tháng Chín, 2010, 08:06:27 am
III.

NHIỆM VỤ ĐẶC BIỆT

Sau Hiệp định sơ bợ, cơ quan Bộ Tổng tham mưu được kiện toàn thêm một bước. Đồng chí Hoàng Văn Thái xin đồng chí Vũ Anh cho tôi về làm trưởng ban 2. Tôi thấy lần này trong cơ quan của Bộ Tổng Tham mưu có cả người Ba Lan, người Đức, người Nhật. Chắc đây là các sĩ quan tham mưu quân đội nước ngoài mà ta cần tận dụng kinh nghiệm buổi đầu. Nhưng tôi chỉ về cơ quan Bộ Tổng Tham mưu được hơn một tháng thì được lệnh đi làm nhiệm vụ đặc biệt. Với quân hàm thiếu ta, tôi đóng vai sĩ quan bảo vệ phái đoàn đàm phán của Chính phủ ta tại Đà Lạt. Nguyễn Tường Tam, lúc bấy giờ là Bộ trưởng Bộ Ngoại giao làm trưởng đoàn, đồng chí Võ Nguyên Giáp làm phó đoàn. Nhưng thực chất mọi công việc đều do đồng chí Võ Nguyên Giáp đảm nhiệm. Trưởng đoàn Pháp là Mác Ăng-đrê (Max André), cựu thống đốc ngân hàng Pháp - Hoa.

Một buổi tối đầu tháng 4 năm 1946, tôi được Bác Hồ gọi lên giao nhiệm vụ. Bác kéo tôi vào phòng riêng, cho tôi hút thuốc, ăn kẹo, hỏi han tình hình sức khỏe gia đình. Bác khen tôi đã làm tốt việc mua vũ khí vừa rồi. Bác nói:

- Như vậy là chú có tiến bộ. Hiện nay, cách mạng đang gặp nhiều khó khăn. Ta đã kí Hiệp định sơ bộ nhưng bọn Pháp đang tìm mọi cách để phá hoại. Trước sau, chúng vẫn âm mưu cướp nước ta một lần nữa…

- Thế tại saio ta còn hòa hoãn với chúng làm gì ạ! Cháu thấy ta đánh nó luôn ngay từ đầu lại còn dễ, bây giờ để nó vào tận Hà Nội rồi thì khó đấy!

Không để Bác nói hết, được dịp tôi tuôn ra một tràng những thắc mắc đã chứa chất trong lòng tôi bấy lâu nay. Đồng chí Vũ Anh dã mấy lần giải thích nhưng tôi vẫn không thông…

Bác ôn tồn giải thích:

- Như vậy là chú mới biết một mà chưa biết mười. Chỉ mới biết đánh mà chưa biết hòa. “Vấn dề không phải là muốn hay không muốn đánh. Vấn dề là biết mình biết người, nhận định một cách khách quan những điều kiện trong nước, ngoài nước mà chủ trương cho đúng…”.

Bằng những lời lẽ giản dị, dễ hiểu, Bác phân tích cho tôi hiểu rõ hoàn cảnh lịch sử của việc kí Hiệp định sơ bộ, Thường vụ Trung ương Đảng và bản thân Bác đã phải suy nghĩ phân tích để đi đến quyết định kí kết. Qua những lời lẽ của Bác tôi mới hiểu ra rằng Hiệp định sơ bộ chính là một thắng lợi của ta, ta đã lợi dụng được mâu thuẫn trong hàng ngũ địch, đuổi được nhanh quân Tưởng về nước, quét sạch bọn phản động tay sai. Nhân dân ta có điều kiện tập trung vào kẻ thù chủ yếu là thực dân Pháp. Điều quan trọng nữa là Hiệp định sơ bộ cho ta thêm thời gian quý báu để khôi phục và phát triển cơ sở kháng chiến ở miền Nam, xây dựng lực lượng mọi mặt ở miền bắc, chuẩn bị kháng chiến lâu dài…

Nghe đến đâu tôi sáng mắt ra đến đấy. Tôi nhớ lại những ngày Bác còn ở Côn Minh đàm phán với phái đoàn Mĩ. Lúc bấy giờ trong tay Bác đã có gì đâu. Một cụ già mảnh khảnh, vừa phải đi bộ hàng nghìn cây số đến, vừa trải qua những trận sốt rét rung giường, thế mà làm cho tổng hành dinh của cả một đạo quân Mĩ phải thán phục kính nể.

Còn bây giờ, giữa lúc vận nước nghìn cân treo sợi tóc, bốn phía kẻ thù bao vây, kẻ nào cũng binh hùng tướng mạnh, hằm hè như muốn nuốt chửng nước Việt Nam ta vừa mới giành được độc lập chưa đầy một năm. Bây giờ nhìn lại bức ảnh chụp các phái đoàn sau lúc kí Hiệp định sơ bộ ngày 6 tháng 3 năm 1945 tại 38 Lí Thái Tổ, chúng ta càng thương Bác biết bao nhiêu. Vẫn một cụ già mảnh khảnh, lọt thỏm vào giữa các đại biểu các nước Mĩ, Anh, Pháp, Tàu… Nhưng chính trong giây phút lịch sử đó, chính phủ Pháp phải long trọng đặt bút kí văn bản hiệp định công nhận Việt Nam là một quốc gia tự do, có chính phủ riêng, nghị viên riệng, quân đội riêng, tài chính riêng… Đó chính là kết quả của gần một thế kỉ đấu tranh liên tục không biết mệt mỏi và hết sức kiên cường của dân tộc Việt Nam.

Buổi tối hôm đó, sau khi giải thích cho tôi về ý nghĩa thắng lợi của hiệp định, Bác kéo tôi lại gần và nói nhỏ:

- Chính vì thế mà sắp tới ta cử phái đoàn đến Đà Lạt tiếp tục đàm phán buộc Pháp phải nghiêm chỉnh thực hiện các điều khoản đã kí kết. Lần này Bác cử chú đi theo đoàn với hai nhiệm vụ quan trọng. Nhiệm vụ thứ nhất là bảo vệ phái đoàn, đặc biệt là bảo vệ anh Văn. Kẻ địch nham hiểm lắm, không được chủ quan coi thường. Nhiệm vụ thứ hai là chú tìm mọi cách để Bác và anh Văn thường xuyên liên lạc kịp thời. Mọi diễn biến của hội nghị Bác phải nắm được ngay trong ngày và chuyển gấp những ý kiến của Bác đến tận anh Văn và chỉ riêng anh Văn thôi.

Nhận nhiệm vụ ở chỗ Bác ra về tôi hết sức lo lắng. Chỉ còn hơn một tuần nữa đoàn đã lên đường mà biết bao nhiều công việc phải chuẩn bị. Tôi phải mang theo hai nhân viên, một điện đài, một mật mã. Những việc này hôi theo học lớp tình báo của quân Tưởng ở Côn Minh tôi cũng đã học qua, nhưng để biết chứ chưa làm bao giờ. Ở ban 2 Bộ Tổng Tham mưu tôi cũng đã có triển khai bộ phận này nhưng vẫn còn bỡ ngỡ lắm. Mà công việc lại phải hết sức bí mật, tuyệt đối không được trao đổi với ai trừ ngành nghiệp vụ. Ngay ngành nghiệp vụ thì phần việc của người nào cũng chỉ người đó biết.

Tuy vậy cuối cùng mọi việc cũng chuẩn bị xong.


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 06 Tháng Chín, 2010, 08:07:00 am
Ngày 15 tháng 4 năm 1948, phái đoàn lên đường bằng hai chiếc máy bay khởi hành từ san bay Gia Lâm. Với bộ quân phục ka-ki màu sáng thẳng nếp, mang lon thiếu tá, tôi chững chạc bước lên thang máy bay cùng với các thành viên của đoàn. Nhớ lại cuộc đàm phán ở Côn Minh, tôi là người vừa trẻ đẹp, vừa oai vệ nhất đoàn thì lần này cũng vậy, vẻ đẹp còn được tăng lên gấp bội do quân phục thiếu tá vừa mới may đo rất khéo. Có lẽ tôi được vinh dự là một trong những người đầu tiên thực hiện sắc lệnh 33/SL của Chính phủ kí ngày 22 tháng 3 năm 1946 quy định về cấp bâc, quân phục, quân hiệu của quân đội ta.

Nhớ hôm sang báo cáo với Bác toàn bộ công tác chuẩn bị và nghe Bác dặn dò thêm trước lúc lên đường. Bác bảo mặc quân phục vào cho Bác xem. Bác đừng lùi ra, ngắm tôi, cặp măt thân thiết như cha đối với con, khen tôi có dáng đẹp vào nói:

- Chuyến này đi về chú sẽ chuẩn bị đi Pa-ri với bác. Bác sẽ phong chú làm trung tá cận vệ. Còn bí thư của Bác sẽ là đại tá.

Nhưng tôi đã thưa ngay với Bác:

- Thôi bác cứ để cháu ở nhà, cháu còn chuẩn bị đánh nhau với chúng nó. Cháu không biết tiếng Pháp, sang Pa-ri lớ ngớ lắm…

Khi chiếc đa-côt-ta nghiêng cánh liệng một vòng trên bầu trời Hà Nội, tôi nhin thấy dòng sông Hồng màu đỏ uốn khúc giữa màu xanh bao la của cánh đồng lúa đang thì con gái. Tôi còn kịp trông thấy một đàn bò đang gặm cỏ.

Máy bay nhằm hướng Nam lướt nhanh. Tôi vẫn cố nhìn xuống để may ra có thể trông thấy làng quê mình. Trong tiếng máy êm êm, đều đều, tôi bỗng hồi tưởng lại thời thơ ấu đói nghèo, nhớ lại ngày rời làng ra đi. Thế mà đã hơn mười năm rồi.

Từ ngày về Hà Nội, bận quá, tôi chưa về thăm quê được. Không hiểu những thăng bạn đánh đáo, đánh khăng, chăn bò thuở nhỏ đứa nào lên làm chủ tịch xã, chủ tịch huyện… Chắc chúng biết được rằng, thăng Thụ bạn chúng ngày xưa, bỏ làng ra đi nay đang ngồi máy bay đi qua làng. Còn việc tôi từng là người được giao nhiệm vụ bảo vệ Bác Hồ, thì chắc chúng không thể nào tin được…

Chặng đầu tiên máybay hạ cánh xuống Plây Cu.

Chặng thứ hai là Pắc-xế.

Ngày thứ ba nghỉ.

Ngày thứ tư máy bay hạ cánh xuống sân bay Cẩm Li, Đà lạt…

Chưa bao giờ tôi thấy một thành phố đẹp như thé. Những biệt thự xinh xinh trên các ngọn đồi. Đã sang tháng tư, Hà Nội bắt đầu nóng. Còn ở đây thì mát lạnh. Những vườn rau xanh mướt, hoa nở bốn mùa.

Đoàn ta ở khách sạn Pa-lát sang trọng đầy đủ tiện nghi. Ngay đêm đầu tiên mới đến, anh Văn bảo tôi khẩn trương triển khai máy móc điện về Hà Nội báo cáo tình hình với bác.

Do sự ngoan cố của phía Pháp, hội nghị Đà Lạt kéo dài gần một tháng mà không đi đến kết quả. Cuộc đấu tranh diễn ra phức tạp. Và hằng ngày qua bộ phận thông tin, mật mã do tôi phụ trách, Bác cho ý kiến trên những vấn đề lớn, còn những vấn đề cụ thể thì do đồng chí Võ Nguyên Giáp tòn quyền quyết định.

Trong thời gian này có một việc đáng ghi nhớ. Sau những phiên họp đầu tiên, tôi thấy dịch mật mã của ta quá phức tạp, mát rất nhiều thời gian để mã địch, có những việc khẩn cấp không đáp ứng được yêu cầu, tôi liền nghĩ ra một bảng mã mới, đơn giản, bằng hình thức tay chữ: a thay bằng b. Chữ b thay bằng chữ c… kết quả ta nhận được nhanh hơn, nhưng chỉ vài hôm là điện bị lộ và lập tức được lệnh ngừng lại. Đây lại thêm một “cú liều” nữa của tôi, nhưng lần này không thành công, hay nói cách khác là chỉ thành công một nữa…

Trong thời gian ở Đà Lạt, anh Văn có đi vài nơi, vừa thăm hỏi đồng bào, vừa nắm thêm một số tình hình. Tất nhiên mỗi lần như thế tôi phải tổ chức bảo vệ chu đáo. Ở đây bọn địch hoạt động khá trắng trợn, dám bắt cóc đồng chí Phạm Ngọc Thạch là một thành viên của phái đoàn.

Chính nhờ những buổi đi thăm này ma đồng bào phản ánh với phái đoàn Chính phủ có chừng 100 ngôi mộ của chiến sĩ ta đã hi sinh hồi chiến đấu bảo vệ Đà Lạt cuối năm 1945 đầu năm 1946 khi bọn Pháp nấp sau lưng quân Anh đánh lên đây.

Đêm ấy tôi thấy anh Văn thức khuya, suy nghĩ rất nhiều. Sáng hôm sau, anh sang phòng tôi rất sớm, kéo tôi ra ngoài sân, nói nhỏ, vừa đủ nghe:

- Sáng nay trong lúc phái đoàn họp, cậu ra nắm tình hình mộ chí của các liệt sĩ. Nếu thuận lợi thì vận động đồng bào quyên góp rồi tổ chức xây mộ chí cho anh em… Đây là thời cơ thuận lợi nhất để làm việc này. Hiệp định sơ bộ vừ mới kí. Phái đoàn Chính phủ ta đang có mặt ở đây, chúng nó sẽ không dám ngăn cản.

Kết quả đạt được rất tốt. Một khu nghĩa trang đã được xây dựng, hàng trăm ngôi mộ rải rác trong rừng Đà Lạt đã dược quy tập về, phần lớn là các chiến sĩ dân quân tự vệ… Đây là một việc làm có ý nghĩa sâu sắc, được Bác biểu dương và khen ngợi. Một việc làm nhỏ thôi nhưng cảm hóa được trái tim của hàng triệu con người… Những chiến sĩ được nằm yên nghỉ trong nghĩa trang đó dưới những hàng thông vi vu của Đà Lạt, những thân nhân của các liệt sĩ quê từ nhiều miền của đất nước sẽ mãi mãi nhớ đén tấm lòng nhân ái đẹp đẽ của vị tướng Tổng tư lệnh…

Sau này có dịp nghe Bác Hồ noi đến đạo làm tướng trong đó nhấn mạnh “nhân tướng” là quan trọng nhất, tôi càng thấy rõ ý nghĩa sâu sắc của việc làm ở Đà Lạt năm ấy mà tôi đã vinh dự được tham gia.


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 06 Tháng Chín, 2010, 08:07:50 am
IV.

TRUNG ĐOÀN TRƯỞNG
BÊN CẠNH CHA LÊ HỮU TỪ

Sau gần một tháng ở Đà lạt, phía Pháp vẫn ngoan cố giữ lập trường chia cắt nước ta, lập Liên bang Đông dương, không chịu tổ chức trưng cầu dân ý ở Nam Bộ, vẫn âm mưu tách Nam Bộ ra khỏi Việt Nam. Hội nghị không đi đến kết quả. Ngày 10 tháng 5, phái đoàn ta rời Đà Lạt.

Tôi từ Đà Lạt về mấy hôm thì được bổ nhiệm chức trung đoàn trưởng trung đoàn 34. Đồng chí Tổng tham trưởng Hoàng Văn Thái trực tiếp giao nhiệm vụ cho tôi và bảo tôi ngày hôm sau đến gặp Bác ở Phủ Chủ tịch. Anh Thái còn nói là Bác dặn “chú Tài ăn mặc quân hàm, quân hiệu chỉnh tề đúng như hôm đi Đà Lạt”.

Tôi hơi ngạc nhiên nhưng rất thích thú. Nhớ hôm đi Đà Lạt, Bác khen tôi đẹp, chững chạc, thì hôm nay càng đẹp hơn, vì sau một tháng ở Đà lạt, tôi béo trắng ra (tính ra lên được bảy cân). Mặt mũi hồng hào, về hình thức thì chẳng thua kém gì một sĩ quan Pháp. Tôi cho cần vụ đem ra hiệu giặt là bộ quân phục thật thẳng nếp để chuẩn bị đi gặp Bác.

Đúng giờ tôi đến Phủ Chủ tịch, đã thấy đồng chí Vũ Kí đứng đón ở cửa;

- Hôm nay cậu sẽ tiếp khách với Bác.

Đồng chí Vũ Kì vừa nói nhỏ bên tai tôi như thế vừa dẫn vào chỗ Bác. Lúc này Bác đang ngồi nói chuyện với một vị linh mục. Tôi gần như đi nghiêm, tiến lại gần Bác, giơ tay chào theo kiểu nhà binh.

- Báo cáo Hồ Chủ tịch, trung đoàn trưởng Phùng Thế Tài có mặt.

Bác vui vẻ đứng dậy bắt tay tôi và giới thiệu:

- Đây là cha Lê Hữu Từ, giám mục nhà thờ Phát Diệm, hiện là cố vấn của Chính phủ.

Rồi Bác quay sang tôi, giao nhiệm vụ nhưng cũng ngầm giới thiệu tôi với Lê Hữu Từ:

- Tình hình ở dưới đó khá phắc tạp. Chính phủ giao cho chú đưa trung đoàn về triển khai xung quanh địa bàn đó, thường xuyên có mặt bên cạnh cha, bảo đảm tuyệt đối an toàn cho cha… Trung đoàn phải có quan hệ thật tốt với đồng bào xứ đạo…

Dịp đó, trên đường về nhận nhiệm vụ ở Nam Định tôi có ghé về thăm quê, cái làng quê nghèo khổ của tôi ngày xưa.

Thế là từ ngày bỏ làng ra đi, từ lúc còn là chú bé 13 tuổi, hôm nay tôi mới có dịp trở về. Cả một sự đổi thay ghê gớm. Thôn xóm ngày xưa âm thầm, buồn tẻ dưới ách của bọn cường hào, ngày nay đang đứng lên trong khí thế mới. Thanh niên tập quân sự, học sinh hát quốc ca trên sân trường. Đêm đêm, các mẹ, các chị học bình dân học vụ… Chủ tịch ủy ban, phụ trách tự vệ, phụ trách Việt Minh đều là bạn cũ của tôi ngày xưa…

Nhưng sự thay đổi lớn nhất, kì diệu nhất có lẽ là cuộc đời tôi, mà có về quê lần này tôi mới cảm nhận hết được.

Hầu như cả làng kéo ra xem “thằng Thụ ương bướng” ngay xưa đã trở về. Hai chiến sĩ cảnh vệ đi theo tôi phải cố gắng lắm mới dẹp được lối cho tôi đi.

Tại trụ sở ủy ban đồng bào bắt tôi đứng lên một chiếc bàn cao để mọi người nhìn thấy thằng Thụ gầy nhom ngày xưa, bây giờ đã trở thành một trung đoàn trưởng, to cao, oai vệ như thế nào và đề nghị tôi nói chuyện với nhân dân.

Tôi nói: “Thưa đồng bào! Ngày xưa nhân dân ta nghèo khổ la do bọn thực dân cướp nước và bọn cường hào, phong kiến bán nước thi nhau bóc lột và áp bức. nay nhờ có Đảng và Hồ Chủ tịch chúng ta đã giành được độc lập, tự do, hạnh phúc. Thế mà bọn thực dân phản động Pháp lại đang lăm le xâm chiếm nước ta một lần nữa. Tôi vừa cùng với phái đoàn chính phủ đi đàm phán ở Đà Lạt về, nhưng bọn chúng vẫn rất ngoan cố. Nhân dân ta phải chuẩn bị sẵn sàng mọi mặt để chiến đấu bảo vệ nền độc lập vừa giành được.

Tôi về Phát Diệm được cha Lê Hữu Từ đón tiếp trọng thể. Để tiểu đội cảnh vệ ở phía ngoài, tôi cùng với hai vệ sĩ bước vào tiền sảnh giữa hai hàng quan chức của xứ đạo đứng đón. Những cặp mắt vừa tò mò, vừa có vẻ thán phục nhìn tôi. Tôi vẫn mặc bộ quân phục được Bác khen đẹp, bên phải đeo khẩu súng pạc-hoọc, bên trái đeo thanh kiếm dài, chân đi ghệt. hai vệ sĩ cũng mặc những bộ quần áo đẹp nhất, đi lùi lại phía sau một bước, đến trước phòng khách thì dừng lại tản ra hai bên cửa.


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 06 Tháng Chín, 2010, 08:08:15 am
Trong phòng khách, cha Lê Hữu Từ đang ngồi đợi tôi, xung quanh còn có một số linh mục. Không đợi mời, tôi bước thẳng đến chiếc ghế bỏ trống bên cạnh chà Lê Hữu Từ, quay người lại, hai tay nắm lấy nhau giơ lên đầu rồi hơi cúi đầu xuống đáp lễ.

Cha Lê Hữu Từ giới thiệu tôi với mọi người:

- Đây là trung đoàn trưởng Phùng Thế Tài được Hồ Chủ tịch phái về cùng với trung đoàn bảo đảm an ninh trật tự ở ba tỉnh Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình.

Sau này tôi cứ nghĩ mãi về cuộc đón tiếp ở nhà thờ Phát Diệm hôm đó. Thực quá sức tưởng tượng của tôi. Mặc dầu trước khi di về đây anh Hoàng Văn Thái có dặn riêng là cần tạo mọi cơ hội để tăng thêm uy thế của chính quyền cách mạng, nhằm răn đe các lực lượng phản động, từ việc đeo súng, mang kiếm, đi ghệt, có vệ sĩ đi kèm… đều được các anh gợi ý và rất phù hợp với ý thích của tôi.

Nhưng tất cả những điều đó chắc chắn sẽ không thể làm cho cha Lê Hữu Từ tổ chức đón tiếp long trọng như thế nếu không có sự giới thiệu trực tiếp của Bác. Bác giới thiệu tôi là một trung đoàn trưởng đã từng xuất ngoại được học tập quân sự ở Trung Quốc, đã hoạt động, đã lãnh đạo giành chính quyền ở một số địa phương trên biên giới, vừa rồi lại tham gia phái đoàn Chính phủ đi đàm phán ở Đà Lạt về…

Ngoài ra, là một cha đạo sinh ra và lớn lên trong chế độ thực dân, ưa chuộng hình thức, thấy tôi cao to, oai vệ, lại là người chỉ huy cả một trung đoàn, ngang với chức quan tư qua năm của Pháp, nên cha có vẻ rất nể… Dạo đầu năm 1946, tổ chức quân đội ta to nhất mới ở cỡ trung đoàn, do đó tôi trở thành một trong những trung đoàn trưởng đầu tiên của quân đội ta. Nhà thờ Phát Diệm lại có một trung đoàn phái đến thì còn gì vinh dự bằng. Hai năm sau trong bức thư đề ngày 6 tháng 4 năm 1948 gửi Bác Hồ, giám mục Lê Hữu Từ vẫn đầy lòng tôn kính: “Tôi hết lòng hi vọng vào sự công minh, sáng suốt của Cụ và xin kính chúc Cụ an khang”. Tháng 6 năm 1948 khi tôi lên Việt Bắc dự Hội nghị quân sự toàn quốc, Bác còn gọi tôi đến vui vẻ báo tin là cha Lê Hữu Từ gửi lời thăm hỏi sức khỏe trung đoàn trưởng Phùng Thế Tài…

Tôi chỉ ở Nam Định hơn ba tháng. Tháng 9 năm 1946, do yêu cầu nhiệm vụ, tôi được điều lên làm trung đoàn trưởng trung đoàn Sơn La đang làm nhiệm vụ Tây tiến thay đồng chí Lê Trọng Tấn bị sốt rét ác tính phải về xuôi điều trị.

Tình hình mặt trận Sơn La lúc này rát phức tạp. Địch đã chiếm toàn bộ Lai Châu và đang tìm cách tiến xuống Sơn La. Do khó khăn nhiều mặt, quân ta đã phải rút lui trên nhiều hướng. Tôi được lệnh phải nhanh chóng củng cố trung đoàn và tìm mọi cách chặn đứng địch lại.

Trung đoàn Sơn La lúc này có 3 tiểu đoàn, đứng phân tán cách nhau hàng trăm cây số. Tiểu đoàn 86 ở Mộc Châu, tiểu đoàn 90 hoạt động dọc tuyến đường 41, còn tiểu đoàn 71 thì hoạt động ở vùng Phiềng Bang trên hữu ngạn sông Đà.

Lên đến nơi, việc đầu tiên của tôi là cùng với đồng chí tham mưu trưởng đi nắm tình hình cả ba tiểu đoàn. Chúng tôi đi bằng ngựa và ròng rã hàng tháng trời mới đến được hết các đơn vị. Phải nói rằng bộ đội Sơn La ngày ấy phải chiến đấu trong một hoàn cảnh cực kì gian khổ, khó khăn. Thiếu súng đạn, thiếu lương thực, thiếu quần áo, thiếu thuốc men. Quân số ốm chiếm tỉ lệ rất cao, chủ yếu là sốt rét. Đến đơn vị nào cũng gặp hàng chục, hàng trăm anh em đang phải chống chọi với những trận sốt rung giường. Có đồng chí tóc rụng gần hết, mặt mũi hốc hác, vàng vọt.

Trước tình hình đó, một mặt tôi giải thích động viên anh em là tình hình đất nước đang ở trong giai đoạn hiểm nghèo. Ở phía Nam thực dân Pháp bất chấp Hiệp định sơ bộ đang tiếp tục chiến tranh xâm lược. Ở Hà Nội bọn Pháp đang cấu kết với bọn phản động âm mưu lật đổ Chính phủ Bác Hồ đang ở Pa-ri. Hội nghị Phông-ten-nơ-blô đang giẫm chân tại chỗ. Bọn thực dân Pháp đã lộ rõ âm mưu quyêt ướp nước ta một lần nữa. Ở khắp nơi, quân và dân cả nước đang nêu cao cảnh giác, kiên quyết đánh trả địch, bảo vệ từng tấc đất của Tổ quốc. Ở hướng Tây Bắc nay anh em chúng ta quyết vượt qua mọi gian khổ chặn đứng bước tiến của kẻ thù. Sau lưng chúng ta là Hà Nội. Sau lưng chúng ta la Bác Hồ. Trách nhiệm của chúng ta không những phải nggăn địch không cho chúng tiến thêm một bước nào mà còn phải tiến lên giải phóng hoàn toàn Tây Bắc. Vì thế mà trung đoàn chúng ta còn có tên là trung đoàn Tây tiến, nghĩa là tiến lên miền Tây, chỉ có tiến không lùi.

Mặt khác, tôi điện thẳng về anh Hoàng Văn Thái và liên hệ với tỉnh ủy Sơn La đề nghị tăng cường giúp đỡ trung đoàn vê mọi mặt để trung đoàn có thể hoàn thành nhiệm vụ.

Cuộc đi kiểm tra tìm hiểu tình hình tại chỗ khắp các đơn vị đã có tác dụng thiết thực, động viên tinh thần cán bộ chiến sĩ toàn trung đoàn.


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 06 Tháng Chín, 2010, 08:10:18 am
V.

Ở MẶT TRẬN HÀ NỘI

Nằm chưa ấm chỗ ở Sơn La thì cuối tháng 11 năm 1946, tôi được lệnh về làm trung đoàn trưởng trung đoàn 37 kiêm chỉ huy trưởng mặt trận Liên khu 2 ở Hà Nội.

Tình hình lúc này hết sức căng thẳng. Ngày 20 tháng 11 Pháp đánh chiếm Hải Phòng. Trung đoàn 42 cùng với tự vệ, công an xung phong và nhân dân Hải Phòng sát cánh cùng nhau dũng cảm chiến đấu, giành giật với địch từng góc phố, căn nhà. Cuộc chiến đấu diễn ra quyết liệt xung quanh khu vực nhà hát thành phố. Quân Pháp huy động xe tăng và bộ binh tiến công bao vây nhà hát, suốt một ngày nhưng chỉ chiếm được tầng dưới. Các chiến sĩ ta dùng lựu đạn, lưới lê đánh bật nhiều đợt xung phong của địchrồi rút lên tầng trên. Do lực lượng quá chênh lệnh, các chiến sĩ ta đã phải chiến đấu đến phút cuối cùng. Ngày 28 tháng 11, các chiến sĩ Hải Phòng rút khỏi thành phố, lập phòng tuyến Cầu Niệm, Cầu Rào, An Dương bao vây địch.

Cùng lúc đánh chiếm Hải Phòng, Pháp tiến công ta ở Lạng Sơn. Lấy cớ đi tìm hài cốt lính Pháp bị Nhật giết hồi tháng 3 năm 1945, chúng kéo quân lên các điêm cao xung quanh thị xã. Sau đó chúng dùng đại bác, xe tăng thiết giáp, máy báy bay khu trục chi viện cho bộ binh đánh chiếm nhà ga, nhà bưu điện.

Trong hơn một tuần lễ, trung đoàn 125 cùng tự vệ và nhân dân Lạng Sơn chiến đấu dũng cảm gây cho địch nhiều tổn thất. Ngày 27 tháng 11 quân ta rút khỏi thị xã, lập phòng tuyến trên đường số 1 và số 4. Địch phải dùng máy bay thả dù tiếp tế cho binh lính đóng trong thị xã.

Với việc đánh chiếm Hải Phòng, Lạng Sơn, hai cửa ngõ đường biển và đường bộ quan trọng của nước ta, thực dân Pháp đã thực sự bắt đầu chuộc chiến tranh quy mô lớn đối với miền Bắc.

Cuộc chiến đấu ngoan cường củ quân và dân Hải Phòng, Lạng Sơn cùng với những thành công và thiếu sót của nó đã đóng góp những kinh nghiệm quý báu về tác chiến ở thành phố cho các địa phương, đặc biệt là đối với Hà Nội, khi cuộc chiến tranh bùng nổ ra cả nước.

Cuộc chiến đấu bảo vệ Hn đã được Bác và Thường vụ Trung ương Đảng quan tâm từ lâu, nhất là từ lúc bác từ Pa-ri về.

Ngày 29 tháng 11 năm 1946, Đảng ra lời kêu gọi:

“Hởi toàn quốc đồng bào!

Những hành động của Pháp xâm phạm chủ quyền Việt Nam rất có thể lan rộng. Tình thế vô cùng nghiêm trọng. Hãy sẵn sàng chiến đấu để tự vệ bất cứ nơi nào và chỗ nào! Mỗi người Việt Nam lúc này phải gánh vác nghĩa vụ thiêng liêng bỏ vệ chủ quyền của Tổ quốc…”.

Về mặt quân sự, lúc này Hà Nội trở thành một chiến khu trong số 12 chiến khu của cả nước, gọi là Chiến khu 11, do các anh Vương Thừa Vũ làm chỉ huy trưởng, Trần Độ làm chính trị ủy viên. Kế hoạch chiến đấu bao vây Hà Nội, giam chân địch trong một thời gian nhất định, tạo điều kiện cho hậu phương hoàn thành việc chuyển mọi lực lượng vào trạng thái thời chiến đã được vạch ra khá cụ thể.

Các lực lượng vũ trang Hà Nội phải sẵn sàng chiến đấu cao độ để khi cần thiết lập tức nắm quyền chủ động tập kích những vị trí lẻ tẻ của quân Pháp, tiêu hao tiêu diệt một bộ phận quân địch, đồng thời chuẩn bị mọi mặt để tổ chức tác chiến dài ngày trong thành phố, đặt vật chướng ngại ngăn chặn địch, kết hợp trong ngoài cùng đánh.

Căn cứ vào ý định tác chiến trên, Hà Nội được chia làm ba liên khu. Liên khu 1 là khu vực đường phố ở giữ Hà Nội, gôm 7 khu hành chính: Hoàn Kiếm, Đông Kinh Nghĩa Thục, Đông Thành, Đồng Xuân, Trúc Bạch, Long Biên, Hồng Hà. Liên khu 2 là khu vực nam Hà Nội, phía bắc giáp Liên khu 1, phía đông theo hữu ngạn sông Hồng đến Vĩnh Tuy, phía tây dọc theo phố Hàng Lọng (nay là đường Lê Duẩn), Kim Liên, phía nam là các Hoàng Mai, Thanh Xuân. Liên khu 3 ở tây nam thành phố, phía bắc giáp Liên khu 1, phía đông giáp Liên khu 2.


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 06 Tháng Chín, 2010, 08:10:44 am
Trước tình hình giặc Pháp hằng ngày, hằng giờ khiêu khích, ráo riết chuẩn bị đánh úp ta, ngày 8 tháng 12, Thành ủy Hà Nội kêu gọi nhân dân Thủ đô sẵn sàng chiến đấu đập tan mọi âm mưu của kẻ thù. Hàng vạn nhân dân mọi tầng lớp cùng với bộ đội tham gia đào hầm hố, công sự, xây dựng các vật cản trên đường phố. Công nhân khẩn trương tháo gỡ máy móc đưa về các khu căn cứ.

Ngày 16 tháng 12, cao ủy Pháp Đắc-giăng-li-ơ tuyên bố láo xược: “Hà Nội - Hải Phòng - Đà Nẵng là lãnh thổ của nước Pháp”(!)

Cả Hà Nội sục sôi khí thế chiến đấu.

Trong bối cảnh đó, tôi được điều về tham gia chiến đấu ở mặt trận Hà Nội. Tôi đặt sở chỉ huy ở Ô Chơ Dừa sau chuyển đến ngã tư Trung Hiền. Nhiệm vụ lúc đầu được giao là vào lúc 20 giờ ngày 19 tháng 12, khi điện toàn thành phố vụt tắt thì hạ lệnh cho các lực lượng thuộc Liên khu 2 nổ súng đồng loạt đánh vào các cứ điểm địch ta đã chọn sẵn. Sau đó làm nhiệm vụ thường xuyên gây rối hỗ trợ cho các lực lượng ta ở Liên khu 1 đánh địch.

Những ngày đầu tiên quân ta hoàn toàn làm chủ tình hình, đánh địch khắp nơi, nổi lên là các trận đánh ở Bắc Bộ Phủ, Hàng Đậu, Cửa Nam, Hàm Long, khu Đấu Xảo (nay là Cung văn hóa Hữu nghị), trụ sở Bộ Giao thông công hính, trại Vệ quốc đoàn Trung ương (40 hàng Bài), trên đường Ngọc Hà, trên dọc đê Thanh Nhàn. Chúng ta đã thực hiện được yêu cầu kìm chân quân địch trong thành phố. Đến đêm 23 tháng 12 ta hoàn thành việc điều chỉnh và thu gọn lực lượng, hình thành thế trận đã dự kiến từ trước mà hồi đó gọi là “trùng độc chiến”, nghĩa là trong đánh ra, ngoài đánh vào. Các lực lượng Liên khu I cụm lại trong trung tâm thành phố, nằm gọn trong lòng địch nhằm thu hút và tiêu hao lực lượng của chúng. Các lực lượng cả Liên khu 2, Liên khu 3 triển khai trên các cửa ô, tiến công và ngăn chặn địch không cho chúng đánh ra. Phía Hàng Bột, Khâm Thiên, đê Đại La là tiểu đoàn 523, phía Cầu Dền, Thanh Nhàn là tiểu đoàn 77; phía Đồng Mác, Vĩnh Tuy là tiểu đoàn 56; phía Kim Mã, Quần Ngựa, Yên Phụ là tiểu đoàn 145 Các tiểu đoàn 56, 145 được lệnh phái một bộ phận bí mật vào nội thành hoạt động thu hút lực lượng địch, hỗ trợ cho tiểu đoàn 101 được giao nhiệm vụ chốt giữ trong Liên khu 1.

Ngày 23 tháng 12 năm 1946, khi mặt trận Hà Nội bước vào giai đoạn 2, tức là quân ta chuyển vào chiến đấu trong Liên khu 1, đồng chí Trường Chinh thay mặt Thường vụ Trung ương Đảng công bố quyết định mới về tổ chức chỉ huy: Sáp nhập Khu 11 vào Khu 2 do các anh Hoàng Sâm làm khu trưởng; Vương Thừa Vũ được chỉ định làm khu phó Khu 2 kiêm chỉ huy trưởng mặt trận tiền phương gồm Hà Nội - Hà Đông - Sơn Tây; Trần Độ được chỉ định là chính trị ủy viên phó Khu 2.

Ngày 30 tháng 12 năm 1946, quân Pháp bắt đầu tổ chức lực lượng đánh ra ngã tư Khâm Thiên, Hàng Bột, tiểu đoàn 523 cùng lực lượng tự vệ đánh trả quyết liệt., buộc địch phải cho một mũi xe tăng mở đường xuống Thịnh Hào (tây Hàng Bột), đánh vào Ô Chợ Dừa; một hướng khác từ Sinh Từ qua Văn Chương, Khâm Thiên ra Hàng Bột. Bộ đội ta và lực lượng xe lửa đánh giáp lá cà, buộc địch phải lùi dần về Nam Đồng.

Ngày 31 tháng 12, địch tiến công Kim Liên, ta diệt 40 tên.

Ngày 3 tháng 1 năm 1947, sau khi chiếm được Ô Chợ Dừa và Kim Liên, địch chuyển sang đánh Vĩnh Tuy, Thanh Nhàn, bị quân ta đánh trả diệt hàng chục tên…

Với kế hoạch tác chiến hiệp đồng chặt chẽ giữa ba liên khu, các lực lượng vũ trang Hà Nội đã giam chân địch suốt hai tháng trời, đánh gần 200 trận, tiêu diệt gần 2.000 tên địch, phá hủy trên 100 xe quân sự, trong đó có 22 xe tăng, xe bọc thép, bắn rơi và phá hủy 5 máy bay, bắn chìm 2 ca nô, đánh bại hoàn toàn tham vọng đánh nhanh thắng nhanh của bọn thực dân Pháp, tạo điều kiện cho cơ quan chiến lược có đủ thời gian tổ chức lực lượng kháng chiến lâu dài.


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 06 Tháng Chín, 2010, 08:11:33 am
VI.

BẢO VỆ BÁC Ở VÒNG NGOÀI

Cuối tháng 2 năm 1947, địch nhận được quân tăng viện từ Pháp sang. Một mặt chúng ra sức củng cố khu vực nội thành và vùng ngoại thành mới đánh chiếm được, mặt khác chúng tập trung lực lượng mở các cuộc tấn công ồ ạt thọc sâu vào hậu phương ta nhằm truy kích bộ đội chủ lực, chụp bắt cơ quan lãnh đạo của ta mà chúng biết là đang ở cách không xa Hà Nội.

Hướng tiến công chủ yếu của địch nhằm vào Hà Đông - Sơn Tây, đặc biệt khu vực Quốc Oai, Ứng Hòa, Chương Mĩ, chúng tập trung đến 5000 quân. Chúng cho rằng các cơ quan đầu não của ta còn đang ở đó.

Phải nói rằng kẻ địch khá tinh. Trong lúc đồng bào và chiến sĩ ta, kể cả cán bộ chiến sĩ Hà Nội, mặc dầu nhận được thư chúc tết của Bác Hồ, nhưng không ai nghĩ rằng: Bác Hồ đang ở gần mặt trận đến như thế.

Tối 19 tháng 12 năm 1946, mãi đến 18 giờ 30 phút Bác mới rời Vạn Phúc ra đi, 20 giờ thì Hà Nội nổ súng. Một viên đạn đại bác của địch đã nổ đúng bức tường gian nhà Bác ở. Trong suốt thời gian chiến sự diễn ra ác liệt ở Hà Nội, Bác ở làng Xuyên Dương, huyện Thanh Oai, chỉ cách Hà Nội 20 ki-lô-mét đường chim bay. Hằng ngày Bác nghe rõ tiếng súng Từ Hà Nội vọng về. máy bay địch đã nhiền lần đến bắn phá quanh vùng. Có ngày Bác phải mấy lần rời khỏi căn nhà kho, nơi Bác ở và làm việc, chạy ra hầm trú ẩn.

Ngày 14 tháng 12 năm 1947, đúng ngày ông Táo lên chầu trời 23 tháng chạp, Bác rời Xuyên Dương về thôn Phú Đa, xã Cầu Kiệm thuôc huyện Thạch Thất (Sơn Tây). Từ đây đúng đêm giao thừa Bác đã đến chùa Trầm thuộc xã Phụng Châu, huyện Chương Mĩ - Hà Đông đọc lời chúc tết năm Đinh Hợi. Bài thơ chúc mưng năm mới hay nhất của Bác Hồ mà hồi đó hầu như chúng tôi ai cũng thuộc, bởi bài thơ giống như một bài học xung trận:

“Cờ đỏ sao vàng bay trước gió,
Tiếng kèn kháng chiến vang dậy non sông.
Toàn đân kháng chiến, toàn diện kháng chiến,
Chí ta đã quyết, lòng ta đã đồng.
Tiến lên chiến sĩ! Tiến lên đồng bào!
Sức ta đã mạnh, người ta đã đông.
Trường kì kháng chiến, nhất định thắng lợi!
Thống nhất độc lập, nhất định thành công!”

.
Ngày 27 tháng 1 năm 1947, Bác giử thư cho các chiến sĩ cảm tử quân Thủ đô:

“Các em ăn Tết thế nào?... Tôi và nhân viên Chính phủ vì nhớ đến các em cho nên cũng không ai nỡ ăn Tết. Còn 90 phần trăm đồng bào ở hậu phương cũng giảm bớt 90 phần trăm mâm cỗ tiệc tùng, ai cũng tiết kiệm để dự bị công cuộc trường kì kháng chiến…”

Và Bác kết thúc bức thư bằng những lời lẽ cảm động:

“Các em hăng hái tiến lên, lòng già Hồ, lòng Chính phủ và lòng toàn thể đồng bào luôn luôn ở bên cạnh các em…”

Chúng ta hiểu vì sao mùng 1 Tết Đinh Hợi năm đó, Bác cùng đồng chí thư kí của mình chỉ ăn cơm độn sắn…

Ngày 2 tháng 2 Bác chuyển đến chùa Một Mái, thuộc xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, Hà Đông… Ngày 16 tháng 2, tại Chương Mĩ, Bác ung dung chủ tọa một phiên họp thường kì của Hội đồng Chính phủ. Ngày 19 tháng 2, khi địch đã chiếm toàn bộ Liên khu 1, chuẩn bị lực lượng đánh ra ngoại thành và vùng xung quanh, từ Sài Sơn, Bác đã lên đường đi công tác Thanh Hóa. Sau đó lại tiếp tục trở về chùa Một Mái. Ở đây từ trên lưng chừng núi, hằng ngày Bác có thể nhìn thấy những vệt khói do địch tiến công đốt phá làng mạc của đồng bào bốc lên từ các vùng xung quanh.

Đúng vào thời gian này, trung đoàn 48 được thành lập, gồm các tiểu đoàn 53, 77, 80 do đồng chí An giao làm trung đoàn phó và tôi, trung đoàn trưởng trung đoàn 27 được đồng chí Hoàng Văn Thái trực tiếp giao nhiệm vụ chỉ huy trung đoàn 48 kiên quyết chiến đấu bảo vệ các khu vực cơ quan trung ương đang đứng chân ở các vùng Chương Mĩ, Quốc Oai, Thạch Thất và có nhiệm vụ đánh chặn địch để cơ quan của Bác di chuyển an toàn.


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 06 Tháng Chín, 2010, 08:12:16 am
Ngày 2 tháng 3 năm 1947, trung đoàn được lệnh triển khai sẵn sàng chiến đấu thành ba cụm:

- Cụm đê Thanh Quang - ngã tư Sấu Giá.

- Cụm Động Chữ - Ba La, Bông Đỏ.

- Cụm Mai Lĩnh - Trúc Sơn.

Từ sở chỉ huy đóng ở làng Đông Chữ, tôi lệnh cho ba tiểu đoàn trưởng phụ trách ba cụm phải thường xuyên túc trực bên máy điện thoại để nhận lệnh.

Đêm mùng 2 tháng 3 Bác rời chùa Một Mái lên đường đi Sơn Tây qua Xuân Mai.

Đối với tôi dây là một ngày chiến đấu cực kì khẩn trương và hồi hộp. Chưa bao giờ tôi thấy trách nhiệm của mình nặng nề và thiêng liêng đến như thế. Quân dichạ đã chiếm thị xã hà Đông và đang tiến đến Ba La, Bông Đỏ. Sau đó chúng dùng xe, cơ giới mở cuộc hành quân chớp nhoáng đánh thọc qua Mai Lĩnh, vòng lên Quốc Oai, đúng vào con đường bác đang di chuyển. Cùng lúc đó, một cánh quân khác từ Phùng đánh lên, hầu như theo sát chiếc xe Pho (Ford) của Bác đang ậm ạch chạy về hướng Xuân Mai. Giữa lũa đó xảy ra một tình huống hết sức nghiêm trọng, gần đến bên cạnh đường, trong lúc hàng nghìn đồng bào tnả cư gồng gánh lũ lượt đi qua… Tiếng súng của địch phía sau đang đến gần. Cánh quân địch từ phía Mai Lĩnh đang quật lên. Thực là một tình huống nghìn cân treo sợi tóc.

Tôi trực tiếp lệnh cho đồng chí Anh Đê, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 80 phụ trách cụm Đông Chữ - Ba La, bông Đỏ dàn quân ra đường số 6, quyết không để một tên địch nào theo đường số 6 lọt qua để về hướng Xuân mai. Tôi cũng lệnh cho đồng chí Nhị, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 77, phụ trách cụm đê Thanh Quang - Sấu Gia đánh mạnh vào cánh quân của địch từ Phùng lên.

Tuy nhiên do lực lượng địch, đặc biệt là lực lượng cơ giới quá mạnh, nên chỉ làm chậm bước tiến của địch chứ không ngăn được sức tiến công của chúng… Trước tình hình đó, anh Trần Đăng Ninh buộc phải quyết định cho đồng chí Ngọc, lái xe của Bác cho xe nổ máy chạy bằng tang trống để đưa Bác kịp vượt qua ngã tư Xuân Mai. 4 giờ sáng ngày 3 tháng 3, bác đã đến được thị xã Sơn Tây. Có lẽ trong dời tôi hiếm có niềm vui nào sánh được với niềm vui khi nhận được tin Bác đã đến thị xã Sơn Tây an toàn trong đêm 3 tháng 3 năm 1947 đó. Gần bến phà Trung Hà rồi. Chỉ cần Bác qua được bên kia sông, sang đất Phú Thọ là an toàn tuyệt đối.

Ngay đêm đó tôi điện về biểu dương toàn thể cán bộ chiến sĩ trung đoàn. Vì phải giữ bí mật tôi không thể báo cho anh em biết là trung đoàn đã góp phần cùng các đơn vị bạn hoàn thành được một nhiệm vụ xuất sắc là bảo vệ Bác hồ và cơ quan Trung ương di chuyển an toàn giữa hai gọng kìm của quân địch.

Bây giờ nghĩ lại chúng ta có thể tự hào là những trận đánh trong hai ngày 2 và 3 tháng 3 năm 1947 của các lực lượng vũ trang Khu 2 trne địa bàn tây nam Hà Nội dưới sự điều hành trực tiếp của bộ Tổng Tham mưu à của Bộ Tổng chỉ huy là những trận đánh thần kì, chiếm một vị trí quan trọng trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Nhiều người cứ tưởng cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng, vị lãnh tụ tối cao của dân tộc đã di chuyển từ lâu và đã đi xa rồi. Ngay cả đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam cũng còn ở Chùa Trầm mà tôi cũng được giao trách nhiệm bảo vệ. Ít ai ngờ, trong cái đêm 3 tháng 3 mịt mù khói lửa ây, Bác Hồ vẫn ở bên cạnh đồng bào, đi cùng đường với đoàn tản cư của nhân dân.

Tối ngày 2 tháng 3 đồng chí Võ Nguyên Giáp đến chỗ làm việc của bác ở Sài Sơn, báo cáo với Bác tình hình chiến sự đang diễn ra khẩn trương và mời Bác di chuyển theo kế hoạch, cùng lúc đồng chí Tổng chỉ huy điện cho bộ đội Khu 2 kiên quyết chặn đánh không cho địch đi vào hướng Chùa Trầm, Mai Lĩnh, Xuân Mai. Nhiều lần xe tăng và bộ binh địch chỉ cách Bác vài cây số. Bác vẫn bình tĩnh, hung dung, tin tưởng vào kế hoạch chu đáo của Bộ Tổng chỉ huy, sự điều hành khôn khéo của đội công tác đặc biệt do đồng chí Nguyễn Lương Bằng và Trần Đăng Ninh phụ trách, tin tưởng vào tinh thần chiến đấu dũng cảm của bộ đội.

Bản thân tôi cũng đã từng được giao nhiệm vụ bảo vệ Bác ở nước ngoài tại Côn Minh khi trong tay chỉ có quả đấm bằng sắt, nay được vinh dự bảo vệ Bác bằng lực lượng của cả một trung đoàn. Có thể nói tôi đã hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 06 Tháng Chín, 2010, 08:13:53 am
VII.

CHỈ HUY TRƯỞNG
MẶT TRẬN HÀ NỘI

Sau khi hoàn thành nhiệm vụ đánh chặn địch bảo vệ an toàn cho Bác và cơ quan Trung ương di chuyển an toàn hướng Việt Bắc, theo lệnh của Bộ Tổng Tham mưu, trung đoàn 35 và trung đoàn 37 hợp nhất thành trung đoàn 66. Tôi được chỉ định giữ chức trung đoàn trưởng, đồng chí Trương Công Cẩn giữ chức chính trị ủy viên.

Cuối năm 1947 bọn phỉ Đinh Cao Tuân nổi lên ở Hòa Bình, tôi được lệnh đưa trung đoàn lên đánh dẹp. Chỉ một thời gian ngắn bọn phỉ bị dẹp tan. Sau đấy trung đoàn 66 lại được lệnh bàn giao cho Liên khu 4. Riêng tôi, đồng chí Hoàng Sâm đề nghị lên trên giữ lại làm trung đoàn trưởng trung đoàn 48, dùng một số đại đội hỗ trợ cho mặt trận Hà Nội phát triển chiến tranh du kích thực hiện chủ trương “đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung” của Bộ Tổng Tư lệnh.

Sau chiến thắng Việt Bắc, tháng 1 năm 1948 Trung ương họp hội nghị mở rộng do Bác chủ trì, đánh giá những chuyển biến mới trong so sánh lực lượng giữa ta và địch, đề ra phương hướng đẩy mạnh cuộc kháng chiến tiến lên một bước mới, đặc biệt là đảy mạnh chiến tranh du kích trong lòng địch.

Đầu tháng 4 năm 1948, tôi được triệu tập đi dự hội nghị dân quân toàn quốc tại Đài Từ, Thái Nguyên. Hội nghị do các đồng chí Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng trực tiếp chỉ đạo. Bác đã dành thời gian đến thăm hội nghị và huấn thị nhiều điều quý báu. Trước hết Bác thân ái hỏi thăm sức khỏe các đại biểu ba miền Bắc Trung Nam, biểu dương thành tích ủa phong trào dân quân du kích các địa phương, đồng thời nêu lênh những khuyết điểm cần khắc phục.

Trong quan điểm tư tưởng quân sự của Bác, dân quân du kích là một lực lượng chiến lược quan trọng.

Ngay từ năm 1941, Bác đã viết cuốn Cách đánh du kích, gồm 13 chương. Đây là một trong những tác phẩm đầu tiên về quân sự của Bác được phổ biến rộng rãi trong vùng căn cứ Cao Bắc Lạng từ năm 1941 đến năm 1945. Cuốn sách đã được dùng làm tài liệu huấn luyện tại các trường quân chính ở Việt Bắc trong những ngày chuẩn bị Cách mạng tháng Tám.

Trong cuộc hội nghị lần này, Bác đã nói đến tầm quan trọng của chiến tranh du kích trên toàn bộ chiến trường của đất nước. Bác nhấn mạnh: “Lấy dân quân du kích làm nền tảng, nhưng phải thường xuyên phối hợp chặt chẽ với bộ đội chủ lực, phải luôn luôn giữ quyền chủ động, tìm địch mà đánh, cộng những thắng lợi nhỏ thành thắng lợi to…”

Tôi vừa nghe Bác huấn thị vừa cảm thấy tự hào vì trung đoàn 48 của tôi đã thực hiện được một phần nào đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng và của Bác ở khu vực do trung đoàn phụ trách.

Thực tiễn ở chiến trường diễn ra đúng như bài thơ của bác kêu gọi nhân dân đánh du kích được cả hội nghị hết sức tán thưởng:

            “Bất kì trẻ hay già
            Đàn ông hay đàn bà
            Đều ra sức tham gia
            Đánh du kích
            Không có súng
            Ta dùng dao
            Ta dùng cuốc
            Ta dùng cào
            Ta lấy đòn gánh
            Ta nhổ cọc rào
            Đánh cho chúng nhào”…


Điều đáng ghi nhớ với tôi trong hội nghị lần này là vừa huấn thị xong, Bác chỉ vào tôi bảo tôi đứng dậy, rồi quay ra phía hội nghị vừa cười vừa nói với mọi người:

- Xin giới thiệu với hội nghị đây là chú Tài. Bây giờ ta mới bàn sâu về cách đánh du kích, nhưng cách đây ba năm, khi còn hoạt động bí mật, chú ấy đã nổi tiếng là “tướng du kích đi bắt gà của dân”…

Cả hội nghị được dịp cười ầm lên. Tôi vốn là người gan lì cũng thẹn đỏ cả mặt. Đây là hội nghị toàn quốc có mặt đầy đủ “bá quan văn võ” chứ có phải thường đâu mà Bác lại “bêu dương” tôi như thế.

Nhưng rất may liền sau đó, Bác lại khích lệ tôi bằng cách kể lại chuyến đi Côn Minh đầu năm 1945. Bác đã nói một câu làm tôi thực hởi lòng hởi dạ:

- Chuyến đi ấy vô cùng gian khổ, chú Tài “du kích bắt gà” cũng là để bổ dưỡng cho Bác thôi. Phải nói chuyến đi ấy không có chú Tài thì Bác không thể “đi đến nơi, về đến chốn” được.

Tôi nghĩ trong cuộc đời hoạt động của mọi người, chỉ một lần được Bác biểu dương như vậy cũng là hạnh phúc lắm rồi.


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Chín, 2010, 06:38:25 am
Sau hội nghị dân quân du kích toàn quốc, trung đoàn 48 phối hợp chặt chẽ với quân và dân Hà Nội lập thêm nhiều thành tích mới về phá hoại kinh tế và quấy rối hậu phương của địch. Ngày 14 tháng 10 năm 1948, dân quân huyện Trấn Nam đột nhập phố Lò Đúc, phá xưởng dệt của tổng đốc Bắc Phần, phá trại nuôi bò sữa của tên Mi-xô. Ngày 25 tháng 10 năm 1948, du kích Trấn Tây dùng mìn phá bốt diện ở Ô Chợ Dừa, phá máy bơm ở nhà máy nước Yên Phụ, phục kích xe vận tải địch ở phố Hàng Bột. ngày 1 tháng 11 năm 1948 du kích Nhật Tân đánh mìn phá một xe địch trên sông Hồng. Đêm 4 tháng 1 năm 1948 du kích quấy rối địch ở nhiều nơi, đốt 5 đầu tàu điện ở Sở xe điện.

Được báo cáo thành tích của Hà Nội, Bác Hồ đã gửi thư khen. Trong thư có đoạn:

“Hà Nội là quả tim quân sự,chính trị và kinh tế của địch. Du kích Thủ dô và Vệ quốc quân cần phải thường xuyên quấy rối quả tim của địch cho đến ngày tổng phản công.

Du kích Thủ đô đã oanh liệt lập công lần đầu. Tôi chắc rằng từ đây du kích Thủ đô sẽ lâp công nhiều hơn nữa, to hơn hữa.

Đồng thời du kích Sài Gòn, Chợ Lớn, Huế, Hải Phòng… chác sẽ cố gắng thi đua không chịu kém du kích Thủ đô. Vậy tôi khuyên các đội du kích đều gắng sức. Chính phủ đang chuẩn bị một giải thưởng đặc biệt cho đội du kích nào lập dược chiến công to nhất.

Anh em hăng hái tiến lên!

Chào thân ái và quyết thắng.

HỒ CHÍ MINH”          

Đầu năm 1949, hội nghị quân chính toàn quân được triệu tập tại Việt Bắc. Các anh Hoàng Sâm, Trần Vĩ… cùng tôi đi chung trong một đoàn.

Chúng tôi được phổ biến Nghị quyết Hội nghị cán bộ Trung ương lần thứ sáu, đi sâu vào nhiệm vụ quân sự theo chri thị cảu Ban Thường vụ Trung ương về “xây dựng bộ đội địa phương và phát triển dân quân”.

Lần này tôi lại được gặp Bác. Thấy Bác khỏe hơn trước tôi rất mừng. Tôi ngồi ở hàng ghế dầu, vừa thấy tôi Bác đã nói vui:

- Tài ơi! Sao đầu chú hói thế. Chắc là vất vả lắm phải không?...

Cả hội nghị nhìn tôi cười rộ lên. Tôi bất giác sờ lên đàu. Quả thật đầu tôi hói rất nhanh trong hai năm qua. Cuộc chiến đấu ở Hà Nội cuối năm với cương vị chỉ huy trưởng Liên khu 2, rồi tiếp đó là cuộc chiến đấu hết sức căng thẳng do đồng chí Tổng tư lệnh trực tiếp giao cho chặn địch bảo vệ Bác và cơ quan Trung ương di chuyển an toàn lên Việt Bắc đã làm cho tôi gầy rộc đi.

Việc tôi tự nhiên “nổi tiếng toàn quân” là do những cuộc hội nghị nhe thế, chứ cái chuyện “Phùng Thế Ục”, “Ông Năm đòn gánh” chỉ là những chuyện nói cho vui… Ở hội nghị nào tôi được tham dự mà có Bác đến, tôi đều được Bác ân cần thăm hỏi, đặc biệt là về sự tiến bộ trong công tác, trong tu dưỡng đạo đức…

Lần này giữa hia lần họp, Bác cho gọi tôi lên gặp riêng và báo cho tôi biết là Trung ương đánh giá cao tầm quan trọng của cuộc chiến đấu ở Mặt trận Hà Nội và sẽ bổ nhiệm tôi làm chỉ huy trưởng mặt trận. Nói xong Bác hỏi tôi:

- Đây là nhiệm vụ nặng nề, phức tạp, chú có thể đảm đương được không?

- Cháu sẽ cố gắng…

Cũng như những lần giao nhiệm vụ trước đây, Bác ân cần dạy bảo tôi từ việc nhỏ đến việc lớn, từ việc giữ mối quan hệ thật tốt với cấp ủy Đảng, với chính quyền địa phương đến việc xây dựng các đội du kích, các tổ tuyên truyền xung phong nội thành…

Cuối cùng Bác nói:

- Lần này về chú phải cùng anh em gắng sức đẩy mạnh phong trào du kích chiến tranh ở Hà Nội lên một bước mới, để làm gương mẫu cho các thành thị còn bị địch chiếm trong toàn quốc, đặc biệt là đối với Sài Gòn, Huế, Hải Phòng. Bác sẽ có thư gửi đồng bào và chiến sĩ Hà Nội.

Nghe Bác nói tôi càng thêm phấn khởi. Như vậy là chỉ trong nửa năm, Bác đã hai lần gửi thư căn dặn và biểu dương Hà Nội.

Tôi tự nhủ mình càng phải cố gắng để xứng đáng với sự quan tâm chăm sóc của Bác.

Sau đó ít lâu, thư Bác về đến Hà Nội, tạo nên một niềm phấn khởi mới, Mỗi lời mỗi chữ trong thư của Bác có sức động viên lớn đối với đồng bào và chiến sĩ Thủ đô.

“Đồng bào trong và ngoài Hà Nội đương đầu với giặc Pháp trước hết, lâu hơn hết.

Vì vậy mà hi sinh, đau đớn, cực khổ nhiều hơn hết. Mà cũng trung thành, gan góc, kiên quyết hơn hết”.

Tiếp đó Bác khuyên đồng bào Hà Nội:

“trước đã cố gắng, nay cố gắng thêm; trước đã đoàn hết, nay đoàn kết hơn; tìm đủ mọi cách để phá hoại giặc, để giúp chiến sĩ ta”.

Cuối cùng Bác khẳng định:

“Chúng ta chắc thắng, vì chúng ta quyết thắng”.


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Chín, 2010, 06:39:15 am
*
*   *

Ngày 30 tháng 3 năm 1949, mệnh lệnh “Chuẩn bị chiến trường Hà Nội của Bộ Tổng Tư lệnh đến với các lực lượng vũ trang Hà Nội. Bản mệnh lệnh nhấn mạnh: “Hà Nội không những là địa bàn quan trọng vào bậc nhất của địch và cũng là chiến trường quan trọng của ta trong giai đoạn mới”.

Bộ Tổng Tư lệnh giao cho Hà Nội ba nhiệm vụ chính:

1) Điều tra, nghiên cứu các công sự phòng ngự, kho tàng, trại lính, nhà ga, nhà dây thép, sở vô tuyến điện, kho bạc, nhà băng, sở mật thám, nhà tù, các nhà máy, các ổ Việt gian, các tổ chức phản dộng và lãnh tụ các đảng phái.

Gây cơ sở chính trị thật rộng rãi, đặc biệt trong công nhân, thanh niên, phụ nữ, tiêu thương để chuẩn bị điều kiện lãnh đạo toàn dân nổi dậy phối hợp với quân chủ lực giải phóng thành phố khi thời cơ đến.

Xây dựng lực lượng vũ trang thật mạnh mẽ, tổ chức “Đội quân ngầm Thủ đô”, để phối hợp với đòn tiến công của chủ lực.

Xây dựng những căn cứ du kích ở Hà Đông và ngoại thành Hà Nội. Nếu địch càn quét dữ, phải tổ chức “An toàn khu” như hồi bí mật.

2) Xây dựng những đơn vị bộ đội chủ lực tinh nhuệ để khi có thơi cơ sẽ đi tiên phong đánh vào Thủ đô.

3) Phối hợp với Liên khu 3 hoạt động về nghi binh để kiềm chế địch trên các mặt trận khác.

Mệnh lệnh nói rõ: Tất cả mọi mặt hoạt động lúc này là để tích cực chuẩn bị đón thời cơ, tránh hành động bừa bãi lộ bí mật có hại cho việc chuẩn bị chiến trường. Theo tinh thần mệnh lệnh, pải phối hợp tốt trong công tác; hoạt động chính trị phải gây dược cơ sở vũ trang, hoạt động vũ trang phải gây được cơ sở chính trị, phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa công khai với bí mật, quân sự với chính trị, nội thành với ngoại thành…

Chấp hành mệnh lệnh, Thành ủy và Thành đội Hà Nội chủ trương củng cố phong trào chung và gấp rút tổ chức thêm lực lượng vũ trang thành phố.

Sau hội nghị quân chính toàn dân, ngày 7 tháng 4 năm 1949, Bác kí sắc lệnh: Thành lập bộ đội địa phương tỉnh và huyện.

Riêng ở Hà Nội do là một địa bàn có tầm quan trọng chiến lược nên Trung ương quyết định thành lập Ban chỉ huy Mặt trận Hà Nội. Tôi được chính thức bổ nhiệm là chỉ huy trưởng, đồng chí Trần Quốc Hoàn - Bí thư Thành ủy Hà Nội, làm chính ủy. Tôi được bổ sung vào Thường vụ Thành ủy. Đồng chí Vũ Kì, thư kí của Bác, được điều về làm Chủ nhiệm Chính trị. Cơ quan và các đơn vị trực thuộc gồm ban tham mưu, ban chính trị, ban cung cấp và các tiểu ban, các ngành chuyên môn, các xưởng, trường. Mặt trận có tờ báo Quân Thủ đô với một bộ phận phóng viên, họa sĩ tương đối hoàn chỉnh.

Ngày 18 tháng 8 năm 1949, Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị “Xây dựng bộ đội địa phương và phát triển dân quân trong giai đoạn căn cứ và chuẩn bị tổng phản công”.

Ở hội nghị quân chính, toàn quân, đồng chí Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp cũng đã nhấn mạnh tầm quan trọng của iệc xây dựng và phát triển lực lượng bộ đội địa phương và dân quân du kích để làm cơ sở cho việc xây dựng bộ đội chủ lực mạnh. Hai nhiệm vụ này gắn bó chặt chẽ với nhau. Có lẽ vì thế mà cấp trên bổ nhiệm một trung đoàn trưởng trung đoàn chủ lực làm chỉ huy trưởng mặt trận Hà Nội.

Tháng 5 năm 1949, tôi bàn giao nhiệm vụ trung đoàn trưởng trung đoàn 48 cho đồng chí Tuấn Sơn để về nhận trọng trách mới. Hơn một tháng sau tôi được tin đồng chí Tuấn Sơn hi sinh.


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Chín, 2010, 06:40:24 am
VIII.

PHẦN THƯỞNG CỦA BÁC

Cùng thời gian này, Chính phủ Pháp quyết định cử tướng Rơ-ve, Tổng tham mưu trưởng quân đội Pháp, cầm đầu một phái đoàn sang Đông Dương nghiên cứu tình hình tại chỗ nhằm tìm ra một giải pháp để giải quyết chiến tranh.

Báo cáo của Rơ-ve lên Chính phủ Pháp có mấy điểm đáng chú ý:

- Bắc Bộ là chiến trường chính. Phải tăng quân cho Bắc Bộ, mở rộng phạm vi chiếm đóng ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ.

- Tăng cường phòng thủ Hà Nội - Hải Phòng.

- Tranh thủ tối đa viện trợ của Mĩ, dần dần chuyển giao cuộc chiến tranh mà Pháp không thể kham nổi cho Mĩ.

Sau ba năm sống ở Hồng Công, ngày 28 tháng 4 năm 1949, Bảo Đại về nước và hai tháng sau trở thành quốc trưởng của chính quyền bù nhìn, thực hành chính sách “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt” của thực dân Pháp.

Trong tình hình đó, ta cần có những chiến tranh tiêu biểu để gây thanh thế cho Chính phủ kháng chiến. Theo chủ trương trên, Thành ủy và Ban chỉ huy Mặt trận Hà Nội quyết định mở đợt hoạt động quân sự, nhằm tiêu hao tiêu diệt một phần sinh lực địch, phối hợp với chiến trường toàn quốc phá vỡ kế hoạch Rơ-ve. Những hoạt động trong đợt này nhằm làm thất bại chuyến đi của Bảo Đại từ Hà Nội với mục đích mở rộng ảnh hưởng chính trị của chính quyền bù nhìn vừa mới đuộc Pháp dựng lên.

Tôi giao cho đồng chí Ngô Huy Biên trưởng ban tác chiến mặt trận soạn thảo kế hoạch của đợt hoạt động, triệu tập đồng chí Trần Vĩ, đồng chí Vũ Kì cùng tham gia ý kiến, đặc biệt về công tác vận động trong các tầng lớp nhân dân, sự phối hợp giữa lực lượng dân quân du kích và các đơn vị chủ lực. Sau đó, trong cuộc họp Thường vụ do đồng chí Trần Quốc Hoàn chủ trì, tôi đã báo cáo toàn bộ bản phương án tác chiến của đợt hoạt động.

Mở dầu đợt hoạt động, ngày 12 tháng 7 năm 1949, đội vũ trang 52 phối hợp với chi đội phía nam thành phố bắn AT vào sân bay Bạch Mai phá hủy 2 chiếc đacô-ta, đúng lúc binh lính Pháp và bọn ngụy quân ngụy quyền đang được huy động làm nhiệm vụ bảo vệ cuọc đón tiếp quốc trưởng bù nhìn Bảo Đại.

Đây là một đòn rất đau đối với bọn quan thầy và bè lũ tay sai. Mặc dù chúng dùng nhiều thủ đoạn lừa bịp và cưỡng bức quần chúng nhưng khi Bảo Đại đặt chân đến Hà Nội, chỉ có một số dân thường cùng cảnh sát, mật vụ mặc thường phục và trẻ con được thuê tiền ra đón.

Trong khi đó trên những chuyến xe điện khởi hành từ Bờ Hồ Hoàn Kiếm, những đôi viên tuyên truyền của ta đứng lên vạch tội bán nước của Bảo Đại và kêu gọi mọi người ủng hộ Chính phủ kháng chiến do chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo. Diễn giả là những anh thợ điện, chị bán rau ở chợ Đồng Xuân và các cô học sinh còn rất trẻ. Mỗi cuộc diến thuyết như vậy chỉ diễn tra trong vài phút. Trên các đường phố chính Bờ Hồ, Hàng Ngang, Hàng Bột… các chiến sĩ tuyên truyền vũ trang phóng mô-tô rải truyền đơn, rồi luồn lách vào trong các ngõ sâu. Từ trên các nóc nhà cao tầng nhân dân thả chim bồ câu trắng mang cờ đỏ sao vàng bay đi khắp nơi. Nhân dân trong phố còn vẽ mặt nạ Bảo Đại đeo lên đầu chó, xua chúng chạy ra ngoài đường.

Được nhân dân giúp đỡ, các chiến sĩ vũ trang phá sập phòng thông tin Bờ Hồ, đốt cháy cổng chào vườn hoa Chí Linh. Một bộ phận khác bơi ra giữa hồ Hoàn Kiếm cắm cờ đỏ sao vàng lên đỉnh Tháp Rùa. Cảnh binh, mật vụ, lính tuần tra bắn súng, huýt còi lùng sục suốt ngày đêm. Đặc biệt lực lượng vũ trang thành phố đã dùng bom lớn(1) phóng vào dinh toàn quyền, ném lựu đạn, bắn súng trường, súng máy vào quân địch ở Lò Đúc, Việt Nam học xá, Cột Cờ… Khi đó, Bảo Đại đang lưu lại Hà Nội, gặp các đảng phái phản động, bàn chống phá phong trào kháng chiến của quân dân ta.


(1) Sáng chế của công binh xưởng “Trần Đại Nghĩa" thường gọi là bom Vê-đơ.


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Chín, 2010, 06:41:15 am
Phối hợp với bên trong, du kích ngoại thành gài mìn đánh xe địch từ Nhật Tân đi Yên Phụ, Đại La đi Đại Hà và trên đường số 1, phá hỏng một số xe ô-tô vận tải của chúng. Ngày 17 tháng 7, Bảo Đại từ Sài Gòn ra Huế đã bị du kích bắn súng cối phá rối, tới Hà Nội, Bảo Đại lại bị ba-dô-ca, phóng lựu của du kích uy hiếp, y đành phải bở dở kế hoạch ở Hà Nội, đáp máy bay về thẳng Đà Lạt.

Trong dịp kỉ niệm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh mùng 2 tháng 9, du kích ngoại thành chôn mìn ở khu vực giáp sân bay Bạch Mai, diệt hơn hai chục lính Pháp. Lực lượng vũ trang còn phóng bom và khu thành phá hủy một số kho hậu cần. Khu vực Đồn Thủy, khu két nước ở phố Hàng Đậu… cũng bị trúng đạn của quân ta. Bọn chỉ huy địch ở Hà Nội phải luôn luôn điều lực lượng đối phó một cách bị động.

Những hoạt động thống nhất của lực lượng vũ trang Hà Nội đã gây tiếng vang lớn trong toàn quốc.

Bị choáng váng bởi một loạt hoạt động táo bạo của ta, sau khi trấn tĩnh địch điên cuồng phản kích, đàn áp phong trào. Nhưng mỗi lần phong trào gặp sóng gió, tinh thần chiến đấu của những chiến sĩ trung kiên càng được khẳng định. Cụ Chắt, Chi ủy viên xã thường nuôi giấu cán bộ, bị địch bắt và tra tấn rất dã man ngay trên nền nhà cụ, nhưng Cụ Chắt vẫn một mực trả lời: “Tôi không biết”. Đồng chí Nguyễn Văn Phát, bị tên tổng xếp bốt Đông Phù bắt đứng lên nói xấu Bác Hồ, nói xấu Chính phủ kháng chiến trước nhân dân trong xã. Nhưng anh đã vạch mặt bọn cướp nước và bán nước trước bà con. Địch bắn anh tại chỗ. Đồng chí Trịnh Xuân Hoành bị địch tra tấn khoét đi một mắt, rồi tiêm thuốc độc vào mắt còn lại, vẫn giữ vững khí tiết người chiến sĩ cách mạng. Các đồng chí Lê Kim Toàn, Trần Minh Quốc và nhiều người khác bị địch bắt đã tìm mọi cách thoát khỏi ngục tù, trở về chắp nối phong trào, Trong số hàng trăm cán bộ, đảng viên bị địch bắt và tra tấn, tù đày thời kì ấy, có người còn trở về hoạt động, có người mang thương tích suốt đời. Phần lớn anh chị em đã bị thực dân Pháp thủ tiêu.

Những tấm gương hi sinh anh dũng của những anh hùng, liệt sĩ ấy đã tô thắm thêm truyền thống bất khuất của thủ đô Hà Nội anh hùng.

Để đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, Thành ủy và Ban chỉ huy Mặt trận Hà Nội dã có những quyết định quan trọng về mặt tổ chức và xây dựng lực lượng. Trước đây địa bàn Hà Nội chia làm 5 quận, đến ngày 8 tháng 11 năm 1949 sáp nhập lại còn 2 quận: quận nội thành và quận ngoại thành. Quận ngoại thành, do đồng chí Quang Nghĩa làm bí thư quận ủy, đồng chí Vũ Định là quận đội trưởng. Quận nội thành do đồng chí Trần Sâm làm bí thư quận ủy, đồng chí Nguyễn Thanh Sơn, quận đội phó phụ trách quân sự. Quận nội thành còn gọi là tiểu đoàn 104, gồm có hai chi đội và một bộ phận chỉ huy, phục vụ, tổng số 357 người. Dưới quận đội bộ có 17 “khu phố đội bộ”. Mỗi khu phố đội bộ có một cán bộ đại đội phụ trách quân sự. Để tăng cường nắm địch trong nội thành, Mặt trận thành lập thêm “ban quân báo” với quấn ố tương đương một đại đội, 4 trung đội du kích ngoai thành cũng được bổ sung đủ 450 người, biên chế thành 3 đại đội độc lập 290, 300 và 310.

Thời kì này Hà Nội tuyển thêm 157 tân binh, cùng với 2 đại đội 210 và 215 đã có từ trước, thành lập tiểu đoàn 108. Quân số tiểu đoàn gồm 480 cán bộ, chiến sĩ, do đồng chí Trần Hải làm tiểu đoàn trưởng. Trong lúc ở một số địa bàn, hình thức tác chiến đã có sự chuyển biến mới thì ở Hà Nội, chúng tôi vẫn áp dụng phương châm “đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung”.

Nhiệm vụ các đơn vị được phân công như sau: Tiểu đoàn 108 chuẩn bị luyện tập đánh một số trận tập trung. Tiểu đoàn 104 (quận nội thành), hoạt động phá hoại không cho địch rảnh tay củng cố trong thành phố, 3 đại đội địa phương ngoại thành hoạt động độc lập ở từng hướng, kềm chặt và cùng với du kích xã, thôn chống địch càn quét, khi cần, chi viện cho các hướng. Thành ủy và ban chỉ huy mặt trận cũng đề ra kế hoạch xây dựng “Đội quân Ngầm” bao gồm những cán bộ, đội viên hăng hái, trung thành trong lực lượng vũ trang và các tổ chức quần chúng. Đội quân mang tên “lực lượng vũ trang chủ lực nội thành”, bí mật luyện tập, sẵn sàng trong đánh ra, ngoài đánh vào khi thời cơ đến.


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Chín, 2010, 06:41:54 am
Tình hình nôi thành lúc này còn nhiều khó khăn, phức tạp, nhất là khâu tổ chức về hậu cần, do đó kế hoạch xây dựng “Đội quân ngầm” chỉ làm được gia đoạn đầu ở một vài khu phố, xí nghiệp.

Tuy vậy, việc xáp nhập các quận, phát triển bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương trong thời gian ngắn đã đáp ứng nhanh chóng một phần yêu cầu quân sự trên địa bàn Hà Nội. Từ hoạt động nhỏ, lẻ là chủ yếu ta đã tạo được thế chuyển dần sang tiến công địch ở một số nơi, với một quy mô nhất định trong thành phố.

Cũng vào những ngày cuối năm 1949, trường quân chính mặt trận liên tiếp mở 17 khóa huấn luyện, đào tào 387 cán bộ chỉ huy từ cấp đại đội trở xuống. Trường còn tập huấn cho hàng trăm cán bộ tiểu đoàn, đại đội, xã đội và cán bộ gây cơ sở… Tổng số du kích ngoại thành sang đầu năm 1950 lên tới 2.000 người. Anh em được trang bị một số ít súng trường, lựu đạn và min. Phần đông họ sắm lấy vũ khí đao, kiếm, lựu đạn… tổng số các hội viên cứu quốc như nông dân, thanh niên, phụ nữ, thiếu nhi cứu quốc… lên hàng vạn người. Trong tnội thành, tổng số dân quân bí mật gồm 900 người, vũ khí, trang bị cũng đặc biệt hiếm.

Tuy vũ khí còn thô sơ, nhưng lực lượng vũ trang và nửa vũ trang Hà Nội đã tích cực hoạt động, cổ vũ mạnh mẽ khí thế kháng chiến của nhân dân Thủ đô. Nhiều khu vực từ khi thực dân Pháp chiếm đóng chưa có phong trào du kích hoặc có rồi nhưng bị khủng bố tan vỡ, đã củng cố trở lại như: Nam Thái, Tam Mai, Thanh Liệt, Yên Thịnh… Trong 34 xã Ngoại thành chỉ còn 2 xã ta chưa củng cố được chính quyền. Khí thế cách mạng của quần chúng sôi sục từ nông thôn ra thành phố. Cũng trong những ngày cuối năm, thực hiện chỉ thị “Tổng phá tề” của Thành ủy Hà Nội, quân, dân ngoại thành đã phá vỡ hàng loạt hội tề xã. Ở quận 5 và quận 6 (cũ) ta giải tán được hai phần ba tổng số hội tề. Tên chánh tổng Lục, Tứ Dân, Trần Ngọc Thụ làm tay ssai cho giặc Pháp bị chính quyền và du kích xử lí thích đáng. Một số khác bị ta cảnh cáo hoặc bắt đi cải tạo.

Cũng trong chiến dịch “Tổng phá tề” toàn thành, lực lượng công an đã trừng trị tên Nhượng Tống, ủy viên Trung ương Quốc dân đảng phản động; Đặng Trần Học, phó giám đốc Nha công an Bắc Việt và một số tên Việt gian, phản động khác… chấn động bọn ngụy quyền tay sai.

Phối hợp với hoạt động quân sự từ ngày 25 đến ngày 28 tháng 11, học sinh trường Chu Văn An, Trưng Vương, Trí Trí, Dũng Lạc, An-be Xa-rô… tổ chức bãi khóa, phản đối hực dân Pháp và tay sai khủng bố học sinh và bắt học sinh đi lính, đòi học sinh Việt Nam phải được học tập bằng tiếng Việt Nam”.

Để đáp ứng yêu cầu lãnh đạo, thành ủy Hà Nội dặc biệt chú trọng phát triển đội ngũ đảng viên. Đến tháng 1 năm 1950, tổng số đảng viên toàn thành lên 3.198 người, gấp hai lần số đảng viên trước đó 6 tháng. Trong tổng số 30 chi bộ, các tổ chức thanh niên, phụ nữ, trí thức, tiểu thương, học sinh… đều phát triển. Tổng số hội viên các cấp tổ chức quần chúng lúc này lên tới 24.000 người. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất của thành ủy, các tổ chức hoạt động rất tích cực, làm cho cuộc kháng chiến trên địa bàn Hà Nội thêm phong phú, đa dạng và toàn diện hơn.

Cũng vào những ngày cuối năm, từ ngày 8 đến 12 tháng 11 năm 1949, Ban chấp hành Đảng bộ Hà Nội họp đánh giá bước đầu thực hiện giai đoạn “chuẩn bị chiến trường Hà Nội” và thông qua kế hoạch đón thời cơ của thành ủy và Ban chỉ huy mặt trận. Hội nghị nhấn mạnh: hoạt động vũ trang phải đạt được hai mục đích, gây ảnh hưởng chính trị và làm cho địch thiệt hại về quân số và phương tiện chiến tranh. Khẩu hiệu lúc này là: “Hành động để xây dựng, hành động mạnh để xây dựng nhanh”. Trong lãnh đạo Ban chấp hành Đảng bộ mở cuộc vận động “chống tư tưởng chủ quan khinh địch”. Riêng đội ngũ cán bộ quân sự, Mặt trận tổ chức hội nghị “Rèn cán chính quân”, quán triệt sâu sắc hơn nữa đường lối chiến tranh nhân dân, chống quan điểm “quân sự đơn thuần”, trau dồi khí tiết cách mạng cho cán bộ, chiến sĩ. Tờ báo Quân Thủ đô thường xuyên đăng bài, tin chiến thắng của toàn quốc và nêu những tấm gương hi sinh cao cả của cán bộ, chiến sĩ và đồng bào trong giai đoạn “Hà Nội gấp rút chuẩn bị chiến trường”.

Bác Hồ theo dõi sát những tiến bộ của Hà Nội và quyết định trao giải thương cho đơn vị chiến đấu giỏi của Thủ đô. Phần thưởng là khẩu súng Thopson của đoàn đại biểu Nam Bộ tặng Người, khi đoàn ra báo cáo tình hình với Trung ương tháng 9 năm 1948.


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Chín, 2010, 06:42:44 am
IX.

TRẬN ĐÁNH TÁO BẠO

Năm 1950, cùng với toàn quốc, cuộc kháng chiến của quân dân Hà Nội bước sang năm thứ tư, năm cả nước gấp rút hoàn thành cuộc chuẩn bị chuyển mạnh sang tổng phản công, năm “tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng - coi kháng chiến trên hết, quân sự trên hết”.

Trong huấn lệnh của Đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi Mặt trận Hà Nội tháng 1 năm 1950 nêu rõ: Phải tiếp tục gây cơ sở chính trị rộng rãi, và tiếp tục xây dựng lực lượng vũ trang trong lòng địch. Nắm thật chắc và phá hoại địch mạnh hơn nữa.

Lúc này tiểu đoàn 108 và một phần bộ đội địa phương do Ban chỉ huy mặt trận rút ra củng cố, huấn luyện đã sẵn sàng đưa vào chiến đấu. Ngoài lực lượng bản thân, còn có thêm một số cán bộ và đơn vị của Trung ương, Bộ Quốc phòng phái xuống; đặc biệt có một bộ phận trung đoàn 48 Liên khu 3, trung đoàn cũ của tôi, phái sang cùng hoạt động trên địa bàn Hà Nội.

Phát động trong toàn thành một đợt hoạt động gồm các tổ chức, các lực lượng, lấy hoạt động quân sự làm trung tâm. Giữa lúc đó, đồng chí Chu Duy Kính, một cán bộ của ta hoạt động ở nội thành đến gặp Ban chỉ huy Mặt trận đề nghị mở cuộc tập kích vào sân bay Bạch Mai.

Phút đầu gặp đồng chí Chu Duy Kính, tôi chưa thật tin lắm! Nhìn bề ngoài, Chu Duy Kính làn người gầy nhỏ có vẻ “nhà quê”, thế msg lại dám đề xuất một ý kiến táo bạo như thế, một việc từ đầu kháng chiến chưa ai dám làm. Bốn năm sâu, đầu năm 1954, khi đồng chí Đỗ Mười về phụ trách Liên khu 3, để phối hợp với chiến trường Điện Biên Phủ, đồng chí đề xuất dùng kinh nghiệm Bạch Mai tập kích vào sân bay Cát Bi. Lúc này tôi đang là đại đội phó đại đoàn 320, được gọi lên phổ biến kinh nghiệm. Và trận đánh cũng đã thành công, gây tiếng vang lớn lúc bấy giờ. Sau này, trong chiến tranh chống Mĩ ở miền Nam, kiểu tập kích như tập kích các sân bay Bạch Mai, Cát Bi trở thành phổ biến và ta gọi là cách đánh đặc công. Bộ đội Hà Nội có vinh dự là một trong những nơi mở đầu cho cách đánh thần kì đó.

Trở lại cuộc tập kích sân bay Bạch Mai. Sau khi gặp đồng chí Chu Duy Kính, tôi báo cáo lại với anh Trần Quốc Hoàn, anh Hoàn chỉ thị cho nội tuyến thấm tra lại, kết luận là hoàn toàn có thể tin tưởng và quyết định cho đánh. Tôi bố trí một ngày nghe đồng chí Chu Duy Kính báo cáo tình hình cụ thể. Trong lần bị địch bắt đồng chí Chu Duy Kính giữ vững khí tiết của người chiến sĩ cách mạng quyết không khai báo. Khong có chứng cứ rõ ràng, địch đưa đồng chí vào làm phu trong sân bay Bạch Mai. Tuy là “thân tù” nhưng với ý chí cách mạng của người cộng sản, đồng chí vẫn luôn luôn tìm cách tiến công địch. Hằng ngày nhìn thấy những chiếc máy bay từ Bạch Mai đi đánh phá các nơi, Chu Duy Kính nghĩ phải tìm cách đánh vào hang ổ của bọn này. Thế là trong lúc cắt cỏ dọn dẹp, đồng chí quan sát kĩ bố phòng của địch và trốn thoát ra ngoài bằng một đường cống ngầm. Qua báo cáo của đồng chí Kính và nhhững nguồn tin tình báo trong nội thành cung cấp thành ủy quyết định giao cho ban chỉ huy Mặt trận tổ chức lực lượng tập kích sân bay này.

Sân bay Bạch Mai cách Hà Nội chừng 3 ki-lô-mét về phía nam. Nó được bao bọc bằng hàng rào thép gai, ao hồ và hệ thống hào sâu. Lực lượng bảo vệ gồm một đại đội Âu - Phi và một trung đội lính dù, do một đại úy và một trung úy Pháp chỉ huy. Chung quanh sân bay có nhiều đèn pha và lô-cốt. Ngày cũng như đêm xe bọc thép, xe ô-tô và lính bộ binh thay phiên nhau tuần tiễu canh gác nghiêm mật.

Ta quyết định đánh sân bay Bạch Mai, vì đây là một trong những mục tiêu hiểu yếu của địch trên địa bàn Hà Nội, một trong những nơi địch xuất phát chi viện cho quân đội Pháp trên chiến trường Bắc Bộ. Đánh sân bay Bạch Mai vừa đạt mục đích phá hủy phương tiện chiến tranh trong hậu phương chiến lược của địch, vừa gây ảnh hướng lớn về chính trị trong quần chúng nhân dân. Sân bay nằm tiếp giáp giữa nội thành với ngoại thành, rất thuận tiện cho bộ đội tào tiếp cận.

Đây cũng là bước tập dượt cho chỉ đạo, chỉ huy và cá lực lượng tại cỗ ở Hà Nội, chuẩn bị mọi mặt, sẵn sàng trong đánh ra, ngoài đánh vào khi có lệnh.

Nhiệm vụ đánh sân bay Bạch Mai được Bay chỉ huy Mặt trận giao cho tiểu đoàn 108 thực hiện với phương châm “Bí mật, bất ngờ, ít đánh nhiều, hiệu quả cao”. Ban chỉ huy tiểu đoàn lựa chọn rút ra từ trong tiểu đoàn một số cán bộ, chiến sĩ biên chế thành một đội, gồm những đảng viên, đoàn viên trẻ, khỏe, hăng hái do đồng chí Hà Giáp làm đội trưởng, đồng chí Trần Thành làm chính trị viên. Nhiệm vụ chính của đội là đột nhập và phá hủy máy bay. Tiểu đoàn chọn một bãi cỏ rộng (nay là sân bóng chuyền Mĩ Đức) làm nơi tập. Để giữ bí mật, ta không cấu trúc thành thao trường, mà chọn những địa hình tương tự để tập triển khai đội hình. Lúc này, những cán bộ chỉ huy trong tiểu đoàn đều phụ trách thấp hơn một cấp. Tiểu đoàn xuống chỉ huy đại đội. Đại đội xuống chỉ huy trung đội… và cán bộ tiểu đội xuống làm chiến sĩ. Trong quá trình luyện tập, số người được giảm bớt. Từ 6 người tập công kênh nhau đánh một máy bay xuống 3 người. Cuối cùng tiểu đoàn chỉ sử dụng hơn 30 người vào trận đánh.


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Chín, 2010, 06:43:15 am
Thời gian huấn luyện, kỉ luật giữ bí mật của đơn vị được đểa đặc biệt nghiêm ngặt: “Nội bất xuất, ngoại bất nhập”. Bất kì cán bộ hay chiến sĩ không được tự tiện đi đâu một mình và quan hệ với bất cứ ai ngoài đơn vị. Tập luyện đã gian khổ, ăn mặc của anh em càng thiếu thốn. Cơm không đủ no, trời rét tháng chạp ưu tiên hai người mới được cấp một bộ quần áo. Người có áo lại thiếu quần. Giày dép thì có gì đi nấy. Vật chất thiếu thốn, nhưng tinh thần cán bộ và chiến sĩ rất nhiệt tình hăng hái. Nhân dân vùng Quang Nguyên, Viên Nội, Viên Ngoại ủng hộ cho đơn vị cả những ruộng rau muống và những vò tương, góp vào bữa ăn hằng ngày của chiến sĩ.

Trong khi đó, tại vùng hậu cứ (tỉnh Hòa Bình) công binh xưởng mặt trận do đồng chí Nguyễn Chính và Phạm Thế Ninh cùng anh chị em công binh xưởng đã nghiên cứu chế tạo thành công mìn chai hẹn giờ trang bị cho đơn vị đánh máy bay.

Qua một thời gian khổ luyện, ngày 16 tháng 1 năm 1950, tôi xuống động viên và kiểm tra đơn vị lần cuối cùng.

Chiều ngày 17, từ đình Sà Kiều, tiểu đoàn xuất quân. Mỗi chiến sĩ trong đội đặc biệt được trang bị một quả mìn chai, hai quả lựu đạn và bánh mì. Tất cả bỏ gọn trong một bị cói. Trên đường từ nơi xuất quân đến sân bay dài hơn hai hục ki-lô-mét, anh em cải trang giống như người đi buôn bán, làm thuê, cứ tốp năm, tốp ba với áo, quần, nón, mãu đủ loại đi thành nhiều đường để tránh bọn Việt gian và máy bay theo dõi. Dọc hai bên đường các chiến sĩ quân báo, bộ đội địa phương và du kích ngoại thành giả làm người bắt cua, mò ốc, cắt cỏ, bí mật bảo vệ cuộc hành quân. Đến cầu Đen bắc qua sông Nhuệ, các chiến sĩ dừng lại, nhận tỏi bôi người tránh cho chó béc-giê đánh hơi, gừng nấu lẫn với mật chống ho và những tấm lưới đánh cả hoặc cỏ làm tấm ngụy trang.

Bộ phận đánh trong sân bay chia làm ba mũi. Một mũi có 18 người và 1 du kích xã do xã đội trưởng Hà Giáp chỉ huy. Mũi hai có 8 người và 2 du kích, do đồng chí Trần Thành, chính trị viên đội chỉ huy. Mũi ba có 6 người và 1 xã đội phó ngoại thành, do trung đội trưởng Tráng chỉ huy. Lực lượng bảo vệ đường lui quân và yểm hộ bên ngoài gồm cả tiểu đoàn 108 còn lại cùng với một trung đội của đại đội 310 (ngoại thành). Trận đánh do do tiểu đoàn trưởng Trần Hải chỉ huy. Đồng chí Văn Tân, chính trị viên của trận đánh phụ trách tuyển quân y, hậu cần. Qua hai tiếng đồng hồ luồn lách và chui cống ngầm, đội hình chiến đấu đã vào gọn trong sân bay.

Một bộ phận của trung đoàn 48 (Liên khu 3) cũng được phái sang bố trí ở tuyến ngoài cùng, sẵn sàng chi viện, chặn địch cho tiểu đoàn 108 đánh sân bay.

Đêm ấy sương mù dày đặc, cách 4-5 mét không nhìn rõ mặt nhau, rất thuện tiện cho chiến sĩ ta chiếm lĩnh.

Theo hiệp đồng, đúng 24 giờ ngày 17, các chiến sĩ lần lượt leo lên dặt mìn trên máy bay và bấm kíp nổ chậm. Sau khi ngoặc xong quả mìn chai cuối cùng lên động cơ máy bay, một chiến sĩ nhảy xuống không may trượt chân phát ra tiếng động. Tên lính gác nổ súng. Lập tức địch trong sân bay báo động. Lúc ấy đã sang ngày 18 tháng 1. Mũi đánh kho xăng do trung đội trưởng Tráng chỉ huy, đến lúc này vẫn chưa đặt được mìn vào vị trí. Thấy mũi trưởng tỏ ra chần chừ, tiểu đội trưởng Đỗ từ phía sau lưng băng lên chỉ huy anh em kiên quyết hoàn thành nhiệm vụ. Hơn ba chục chiến sĩ tẩ khỏi hàng rào cuối cùng chừng 100 mét thì trong sân bay nổ dữ dội. Kho xăng bốc cháy sáng rực cả bầu trời phía nam. Hà Nội nổi còi báo động. Ít phút sau, đại bác địch ở Xuân Tảo, Văn Điển bắn tới tấp xuống xung quanh sân bay. Xe tăng, xe bọc thép, xe ô tô cảnh sát chia đi bịt chặt các ngả đường. không khí huyên náo tràn ngập cả thành phố.

Các chiến sĩ tiểu đoàn 108 lúc bấy giờ đã lui quân toàn ra một làng ngoại thành.

Đêm ấy, ta phá hủy và đốt cháy 25 máy bay, 60 vạn lít xăng dầu, 32 tấn vũ khí và một số trang bị của địch. Trận đánh được chính phủ tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba. Phía ta một chiến sĩ hi sinh.

Trận tập kích sân bay Bạch Mai của tiểu đoàn 108 là một điển hình về phá hủy phương tiện chiến tranh của địch trên chiến trường Bắc Bộ thời kì đó. Với vũ khí, trang bị thô sơ, kĩ thuật, chiến thuật còn chưa hoàn chỉnh, nhưng các chiến sĩ tiểu đoàn 108 dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bay chỉ huy Mặt trận Hà Nội đã tìm được lối đánh phù hợp, đạt hiệu suất chiến đấu cao. Trận đánh đã chứng minh: Dùng lực lượng nhỏ nhưng tinh ta có đánh phá mục tiêu lớn của địch ở bất kì nơi nào trong thành phố. Trận đánh sân bay Bạch Mai là một trận thắng hoàn chỉnh cả về chiến thuật, kĩ thuật, từ khâu lựa chọn mục tiêu, lựa chọn cách đánh, sử dụng lực lượng dến quá tình luyện tập và nổ súng là những kinh nghiệm thiết thực góp phần vào việc hình thành và vận dụng lối đánh đặc công của quân đội ta sau này.


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Chín, 2010, 06:43:39 am
Sau chiến thắng Bạch Mai, không khí lạc quan tin tưởng của quần chúng được biến thành sức mạnh cụ thể trong các cuộc đấu tranh toàn diện với thực dân Pháp trên địa bàn Hà Nội.

Ở quận nội thành cũng đã lập phương án phá hoại một số mục tiêu, địch phải phân tán lực lượng đối phó. Lúc đầu quận dự kiến phá hủy nhà máy điện Yên Phụ, nhưng ban chỉ huy Mặt trận thấy cần hạn chế nhằm đảo lộn một phần hoạt động của địch trong các cơ quan đầu não của chúng ở Hà Nội. Cuối cùng Thành ủy và Ban chỉ huy Mặt trận nhất trí phương án: Phá hủy toàn bộ các trạm biến thế (bốt điện) trong nội thành. Đồng chí Trần Sâm, bí thư quận ủy nội thành, thay mặt thành ủy trực tiếp giao nhiệm vụ cho ban chỉ huy quận đội. Ta chủ trương bằng hành động bí mật đặt mìn nổ chậm vào hẳn trong các nhà trạm biến thế. Các trạm biến thế trong nội thành được khoanh theo từng khu vực: khu Đồng Xuân, khu Bờ Hồ, khu Trúc Bạch… Mỗi khu vực ta cử một cán bộ trung đội chỉ huy. Lúc đó toàn bộ trạm biến thể chỉ có duy nhất một chiếc chìa khóa mở cửa. Người sử dụng nó là anh Đạt, một viên chức nghèo, là cơ sở của ta trong công đoàn thành phố. Mỗi lần anh Đạt đi mở cửa trạm biến thế, lại có lính Pháp mang súng đi kèm. Hết giờ làm việc, anh phải “trả” lại chìa khóa cho người Pháp giữ. Anh Đạt đã bí mật giao cho ta mẫu chìa khóa và tại phố Sinh Từ (nay là phố Nguyễn Khuyến) nhóm thợ sắt do đồng chí quận đội phó trực tiếp chỉ đạo đã đánh thành công một loạt chìa khóa của trạm biến thế.

Cùng với việc làm chìa khóa, nhiệm vụ chuyển thuốc nổ từ hậu cứ mặt trận vào nội thành cũng vô cùng phức tạp. Chị Nguyễn Thị Thuần, Nguyễn Thị Nhẫn và một số chiến sĩ giao thông có kinh nghiệm nhất, với sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí chính trị viên quận đội, đã mang trót lọt hàng trăm ki-lô-gam thuốc nổ từ hậu cứ mặt trận (tỉnh Hòa Bình) vào trung tâm Hà Nội. Các chiến sĩ trong đội vũ trang 20 nội thành phụ trách đánh trạm biến thế, đều được phát chìa khóa, mìn nổ chậm. họ cải trang thành những công nhân thợ điện để thực hiện nhiệm vụ.

Ngày 24 tháng 1 năm 1950, ngày quân Pháp ở Hà Nội chuẩn bị long trọng đón tiếp đại sứ Mĩ, vào khoảng 13 giờ, khi Giét-sớp tới Hà Nội còn đang chân ướt chân ráo, thì mìn ta đặt ở 22 trạm biến thế trong nội thành nổ, 8 trạm bị phá hủy hòn toàn, 7 trạm hư hỏng nặng. Một số khu vực trong thành phố mất điện.

Nửa năm về trước, khi “quốc trưởng” Bảo Đại ra Hà Nội đã bị quân ta bắn ba-dô-ca, súng phóng lựu xua đuổi. Lần này đại sứ Mĩ đến Hà Nội cũng bị mìn của lực lượng vũ trang thành phố đánh phủ đầu.

Ngày 12 tháng 2 năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Phó chủ tịch Hội đồng Quốc phòng tối cao Phạm Văn Đồng, thay mặt nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và Ban Thường vụ Quốc hội ra sắc lệnh quyết định tổng động viên nhân tài, vật lực để tiến tới tổng phản công. Cùng với trận tập kích sân bay Bạch Mai, phá các trạm biến thế điện và qua sắc lệnh “tổng động viên” của Nhà nước ta, bộ chỉ huy Pháp lo sợ những trận đánh lớn hơn có thể diễn ra ở Hà Nội. Chúng vội vã rút bớt một tiểu đoàn quân cơ động ở Hưng Yên về tăng cường bảo vệ thành phố. Những cơ quan chỉ huy, các trại lính, kho tàng, các trạm biến thế điện… đều được tăng thêm lính Pháp canh gác. Quân ngụy bị đẩy ra xa bảo vệ vòng ngoài.

Tuy vậy, thực dân Pháp và tay sai vẫn không ngăn chặn được những tổn thất mà quân và dân Hà Nội thường xuyên gây cho chúng. Nửa đêm ngày 1 tháng 3, một tiểu đội dân quân do tiểu đội phó Nguyễn Văn Hồng phụ trách, phối hợp với 3 người là cơ sở ngụy binh làm nội ứng đã phá hỏng 28 đầu máy xe điện tại sở xe điện Thụy Khê, 3 ngụy binh mang súng ra với kháng chiến an toàn.

Sau trận đánh biến thế và sở xe điện, lính ngụy càng thiếu tin vào sức mạnh của quân viên chinh Pháp. Quân Pháp thì nghi nghờ khả năng bảo vệ của quân ngụy.

Tuy lực lượng vũ trang Hà Nội tổ chức được một số trận đánh, gây cho địch tổn thất hoang mang, nhưng ta cũng gặp sự phản ứng ngày càng điên cuồng của địch. Thành ủy và Ban chỉ huy Mặt trận Hà Nội kịp thời chỉ đạo các tổ chức, các lực lượng phối hợp chống địch khủng bố và tạo mòi thời cơ tiếp tục tiến công địch.

Trong điều kiện hoạt động và tác chiến giữa hậu phương địch, cán bộ phải thường xuyên thay đổi tên họ và phân tán các cơ sở, lăn lộn với phong trào, định ki hay đột xuất quận ủy hoặc bay chỉ huy quận đội mới gặp nhau ở một địa điểm bí mật, họp bàn.

Ở ngoại thành, tình hình nhiều lúc càng gay gắt hơn. Ngày nằm bí mật, đêm đến cán bộ lại quần dài quấn cổ, cơm nắm mo cau, lội hết đồng này sang xã khác, tực tiếp chỉ đạo các địa phương. Nhiều đồng chí nằm hầm, ăn đói chịu khát cả tháng, da xanh, ốm yếu bệnh tật. Không ít người bị địch phục kích bắt sống. Nhiều đồng chí không để địch bắt đã rút chốt lựu đạn tự sát.


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Chín, 2010, 06:44:03 am
Có trận đánh yêu cầu tiêu hao và tiêu diệt nhiêu sinh lực địch, nhưng cũng có trận đòi hỏi nghệ thuật tổ chức, chỉ huy phải khéo léo, không gây tiếng nổ, lại có hiệu uất cao. Đó là vụ giải thoát cho thương binh (vụ A1) ở nhà thương Phủ Doãn ngày 11 tháng 5 năm 1950.

Đồng chí Đoàn Giáp (tức Lê Nghĩa) quận trưởng công an nội thành, bị địch bắn trọng thương và bị bắt tại phố Hàng Cót. Địch đưa đồng chí vào nhà thương Phủ Doãn (nay là bệnh iện hữu nghị Việt - Đức) cấp cứ và điều trị để nhanh chóng khai thác bí mật của ta. Đồng chí Giáp nằm ở phòng 1A, có hai tên cảnh binh gác cửa và một tên mật vụ bên cạnh theo dõi.

Chấp hành chỉ thị của Thành ủy và Ban chỉ huy Mặt trận Hà Nội, quận ủy nội thành quyết định giao cho quận đội và quận công an, phối hợp thực hiện. Tại phố Hàng Đường, đồng chí Nguyễn Tiến Đức, phó bí thư quận ủy nội thành trực tiếp giao cho đồng chí Trần Bi (quận đội) và đồng chí Vũ Tá Ngọc (công an) nhiệm vụ đó.

Với kinh nghiệm các trận đánh trước, ta tiến hành làm hai bước. Bước một, tổ chức lực lượng và tập dượt. Bước hai là hành động. Quận nội thành tổ chức một đội vũ trang hoạt động gồm 7 chiến sĩ do đồng chí Phạm Hữu Thu làm đội trưởng. Chỉ huy chung là một cán bộ đại đội. Trong nhà thương Phủ Doãn, mạng lưới cơ sở ta do chị Chút, nhân viên giữ kho, và chị Nguyệt, y tá phụ trách. Bác sĩ Hiếu Tâm cùng một số bác sĩ, y sĩ và nhân viên phục vụ là cơ sở hoặc có cảm tình với kháng chiến cũng được huy động giúp đội hoàn thành nhiệm vụ. Ngoài lực lượng chính, quận nội thành còn tập dụng sự giúp đỡ của một số giáo sư, bác sĩ, chủ nhà in là người Pháp và người Việt Nam đang sống ở Hà Nội.

Qua một thời gian thực tập ở Núi Nùng (vườn Bách Thảo), vào lúc 12 giờ 3 phút ngày 11 tháng 5 năm 1950, ta quyết định hành động. Bằng giấy tờ giả, 7 chiến sĩ đã lọt qua cổng gác, vào thẳng phòng A1. Hai tên lính cảnh binh gác cửa và tên Thọ (mật vụ) lập tức bị tước súng trói tay. Thương binh được cõng vượt qua tường xuống đường Quán Sứ, sau đó các đồng chí công an đưa tiếp về vị trí an toàn trong thành phố.

Nhận được tin “tù bị cướp”, Nguyễn Hữu Trí, thủ hiến Bắc Việt nói với Nguyễn Đình Tại, giám đốc sở công an Bắc Việt: “Đây là một sự sỉ nhục đối với quốc gia chứ không phải một vụ cướp tù thông thường”. Ngược lại, đó là sự kiện thu hút rất mạnh sự chú ý và cảm tình của nhân dân Hà Nội, nhất là với giới trí thức trong thành phố. Thắng lợi này còn do sự tổ chức hiệp đồng tốt giữa các lực lượng bộ đội, công an, cơ sở và các tổ chức quần chúng hoạt động bí mật trong lòng địch.

Nhân sự kiện đó, ở các công sở, các chợ, các nhà máy, trường học, trại lính… ta tung tin hù dọa thêm bọn phản động ác ôn, khiến chúng rất lo sơ. Có tên đã tìm cách gặp cơ sở ta xin “lập công chuộc tội”.

Dưới sự chỉ đạo thống nhất của Thành ủy và Ban chỉ huy Mặt trận Hà Nội, quân dân các địa phương ngoại thành tích cực tìm cách tiến công địch để phối hợp với nội thành. Du kích xã Vạn Xuân đã phục kích diệt 6 tên lính Pháp (có một đại úy) và vận động thêm 18 anh em ngụy quân ra với kháng chiến, 5 tên Việt gian “nằm vùng” bị nhân dân phát hiện và trừng trị. Chi bộ xã còn lãnh đạo bà con đấu tranh không đi phu, không nộp tre, không xây bốt. Một chiếc thuyền của địch chở gạo đi tiêp tế cũng bị nhân dân và du kích lập mưu đánh chìm. Du kích xã Quảng Tân chôn mìn trên đường Chèm đi Yên Phụ và nổ súng uy hiếp bốt Phú Thọ, làm cho lính ở một số bốt ngoại thành thêm hoang mang.

Từ cuối năm 1940 đến hết mùa xuân 1950, quân và dân Hà Nội đã nổ súng hơn 200 trận và tổ chức hàng chục cuộc đấu tranh chính trị. Ta dùng các hình thức tập kích, phục kích, pháo kích, gài mìn và đánh địch bằng nhiều loại vũ khí từ súng đạn đến bom, mìn, dao, gậy… Ta đã diệt hàng trăm tên làm bị thương hàng trăm tên khác, bắt sống 34 tên và vận động một số anh em lính ngụy ra với kháng chiến. Ta còn phá hủy 25 máy bay, 122 xe quân sự, đốt cháy 60 vạn lít xăng.

Đợt hoạt động mùa xuân năm 1950 của quân và dân Hà Nội đã thực hiện được mục đích bám chắc địch và tiêu hao, tiêu diệt sinh lực và phương tiện chiến tranh của chúng ngay trong sào huyệt, đồng thời phối hợp có kết quả với các chiến trường khác bằng cách kìm chân và phân tán lực lượng chúng.

Số địch bị tiêu diệt ở Hà Nội không nhiều, nhưng ta đã làm thất bại một phần âm mưu biến Hà Nội thành hậu phương an toàn của chúng. Thắng lợi lớn hơn cả là ta đã củng cố được lòng tin của quần chúng, xây dựng và phát triển thêm nhiều cơ sở.

Đó là thắng lợi căn bản nhất, có ý nghĩa rất quan trọng mà quân và dân Hà Nội đã giành được trong mùa xuân năm 1950, thiết thực lập thành tích chào mừng sinh nhật lần thứ 60 của Bác Hồ (19-5-1890 - 19-5-1950).


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Chín, 2010, 09:02:17 pm
PHẦN BA

LÀM NÓC NHÀ
CHỞ CHE CHO BÁC

I.

TƯ LỆNH BỘ ĐỘI PHÒNG KHÔNG

Tháng 5 năm 1951, tôi bàn giao nhiệm vụ chỉ huy trưởng Mặt trận Hà Nội cho đồng chí Trần Vĩ về làm trung đoàn trưởng trung đoàn 52 và năm sau được bổ nhiệm Tham mưu trưởng Đại đoàn 320 do đồng chí Văn Tiến Dũng làm đại đoàn trưởng kiêm chính ủy.

Mùa hè năm 1952, dự lớp tập huấn đánh công kiên do Bộ tổ chức, do đạt thành tích khá, tôi được Bác biểu dương, tặng huy hiểu. Một lần Bác gặp riêng tôi, cho tôi một điếu thuốc, và nói: “Vừa rồi chú đã hoàn thành thốt nhiệm vụ ở Hà Nội. Nhưng đó là chiến tranh du kích. Bây giờ tình hình đã phát triển mới. Quân đội ta phải tiến lên đánh chính quy, vận động chiến. Chú cần cố gắng nhiều hơn nữa”.

Tháng 8 năm 1953, tôi được lệnh lên Việt Bắc xây dựng Bộ tư lệnh Pháo binh, với cương vị quyền tư lệnh; chính ủy là anh Phạm Ngọc Mậu, chủ nhiệu chính trị là anh Nguyễn Đình Ước.

Tháng 10 năm 1953, địch nhảy dù Điện Biên Phủ. Cuộc kháng chiến bước sang một bước ngoặt mới. Anh Văn Tiến Dũng được điều lên giữ chức Tổng tham mưu trưởng, tôi được điều trở lại phụ trách đại đoàn trưởng đại đoàn 320, chính ủy là đồng chí Phạm Ngọc Hồ, tham mưu trưởng là đồng chí Lê Ngọc Hiền.

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, đại đoàn 320 lần lượt giải phóng các tỉnh đồng bằng. Hòa bình lập lại, tôi được trên cho đi học văn hóa rồi đi học pháo binh dài hạn ở nước ngoài. Trước đó, ngày 21 tháng 9 năm 1954, đại đoàn cao xạ đầu tiên mang tên 367 đã được thành lập ở Thái Nguyên. Bác gửi thư động viên cán bộ, chiến sĩ mau chóng nắm vững vũ khí khi tài về làm nhiệm vụ bảo vệ Hà Nội. Bác nói: “Hà Nội chưa có pháo cao xạ như nhà chưa có nóc”.

Năm 1960 trở về nước được bổ nhiệm là hiệu trưởng Trường Pháo binh Việt Nam, sau đó được điều về giữ chức tham mưu trưởng pháo binh. Cuối năm 1961, do tình hình trên không ngày càng diễn biến phức tạp, Mĩ - ngụy tăng cường cho máy bay vào thả dù biệt kích sâu vào nội địa, bộ đội phòng không tăng cường thành bộ tư lệnh Phòng không, tôi được điều về giữ chức Tư lệnh.

Trước khi nhận nhiệm vụ mới, tôi được Bác gọi lên. Tôi nhớ nhất một lời dạy của Bác hôm đó:

- Chức chú bây giờ to hơn thì chú càng phải thương yêu chiến sĩ nhiều hơn.

Việc tôi hay quát nạt cấp dưới và chiến sĩ, nhiều năm trước đây Bác đã biết và đã thường xuyên nhắc nhở. Lần này, Bác nhắc lại làm cho tôi vừa ân hận, vừa cảm động. Tôi từ trách là “tiến bộ chậm” để Bác phải nhắc nhiều về cái tính nóng nảy của mình.

Chức chú càng to hơn thì chú càng phải thương yêu chiến sĩ nhiều hơn…

Lời nói mộc mạc mà thực htấm thía. Tôi biết Bác độ lượng và thương tôi nhiều.

Tôi nhận bàn giao xong của anh Hoàng Kiện thì vừa đến Tết Nhâm Dần (1962). Đang bận túi bụi với công việc tổ chức biên chế thì sáng mùng 1 tết, có điện từ tiểu đoàn 220 báo cáo lên: Bác Hồ đến thăm đại đội 109 tại trận địa Vĩnh Tuy.

Sáng hôm ấy trời nắng đẹp, một chiếc xe du lịch đỗ ngay trước cổng doanh tại. Bác từ trong xe bước ra giữa tiếng reo vui của các chiến sĩ: “Bác đến! Bác đến!”. Mọi người chạy ùa cả lại vây quanh Bác, Bác hiền từ đứng giữa đàn con cháu. Bác thân mật thăm hỏi cán bộ chiến sĩ về tình hình sức khẻo, tình hình học tập, nhất là học văn hóa. Bác cũng hỏi cả việc ăn tết năm nay có được đầy đủ không? Đồng chí chính trị viên đại đội báo cáo với Bác. Nghe xong, Bác vui vẻ khen và nói:

- Năm qua, các chú học tập, công tác tốt, năm nay các chú phải cố gắng hơn nữa để đạt thành tích cao hơn.

Bác còn căn dặn đơn vị phải tiếp tục học tập rèn luyện để nâng cao hơn nữa trình độ quân sự, chính trị, văn hóa, phải thường xuyên có ý thức phòng gian, bảo mật.

Trước khi Bác ra về, đồng chí chính trị viên đã thay mặt cán bộ, chiến sĩ chúc tết Bác và hứa sẽ quyết tâm làm theo những lời Bác dạy. Mùa xuân năm 1963, Bác Hồ kính yêu lại dành cho bộ đội phòng không - không quân vinh dự lớn được đón Bác đến thăm. Đại đội 129 trung đoàn 260 đóng quân tại trận địa Tiên Hội, Đông Anh được thay mặt Quân chủng đón Bác.

Hôm ấy là ngày 3 tháng nam 1963, ngày kỉ niệm thành lập Đảng. Cán bộ chiến sĩ đang lao động xã hội chủ nghĩa xây dựng vườn hoa thì Bác đến. Bác hồng hào nở nụ cười rạng rỡ.


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Chín, 2010, 09:02:45 pm
Bác âu yếm hỏi:

- Mỗi chú được bao nhiêu bánh chưng ăn tết?

Hầu như tất cả mọi người cùng một lúc trả lời:

- Thưa Bác được hai chiếc ạ!

Đưa tay chỉ vào những cây phi lao mới trồng quanh vườn hoa, Bác hỏi:

- Cây này có quả ăn không?

- Thưa Bác không ạ.

Bác lại hỏi:

- Thế trồng nhãn có quả năn không?

- Thưa Bác, có ạ!

Bác tươi cười nói:

- Vậy trồng nhãn tốt hơn. Cây phi lao nên trồng ngoài hàng rào.

Sau đó, Bác đi xem nơi ăn ở của đơn vị. Bác khen nhà bếp sạch, nhưng phê bình nhà ngủ chưa gọn. Bác nói:

- Hôm nay chắc là chủ nhật nên nội vụ của các chú chưa được tốt.

Trước khi lên xe ra về, Bác chỉ vào hai hàng cây xà cừ mới trồng hai bên đường, Bác bảo:

- Cứ tính từ cổng đơn vị, mỗi chiều ngược xuôi 500 mét, đơn vị các chú phải chăm sóc cho thật tốt.

Sau lần được Bác đến thăm đó, đại đội 129 càng chú trọng xây dựng kỉ luật, trật tụ nội vụ, nền nếp tác phong, không những trong những ngày thường mà cả trong những ngày nghỉ. Cũng ngay trong màu xuân đó, cán bộ chiến sĩ đại đội đã kịp thời trồng nhãn thay cho những cây phi lao trong vườn hoa. Anh em còn lấy gạch xếp thành chữ “vườn hoa Bác đến thăm”, để kỉ niệm một ngày đáng nhớ.

Chúng tôi luôn nhớ lời phên bình của Bác: “Hôm nay chắc là chủ nhật nên nội vụ các chú chưa thật tốt”. Bác đã giáo dục chúng tôi duy trì tốt trật tự, kỉ luật cả ngày thường cũng như ngày nghỉ, bộ đội phòng không phải thường xuyên sẵn sàng chiến đấu cao, nên yêu cầu xây dựng trật tự, kỉ luật, tác phong càng phải hết sức chặt chẽ. Hôm đó, Bác còn chỉ bảo chúng tôi cả việc trồng và chăm bón cây. Từ đó, một phong trào trồng cây ăn quả từ đại đội 129 lan nhanh khắp Quân chủng. Và trong đợt thi đua “Làm theo lời Bác” do Quân chủng phát động, mà trọng tâm là “Tăng cường kỉ luật, tác phong, duy trì tốt nền nếp trật tự, nội vụ”, đã tạo nên một chuyển biến thật sự từ cơ quan đến đơn vị.

Không phải ngẫu nhiên mà ba năm liền từ năm 1961 dến năm 1963, năm nào Bác cũng dành cho bộ đội phòng không - không quân chúng tôi được vinh dự đón Bác về thăm. Bên kia vĩ tuyến 17, bọn Diệm được Mĩ hà hơi tiếp sức, đang ngày đêm hò hét “Bắc tiến”. Những chuyến bay biệt kích sâu vào nội địa miền Bắc càng ngày càng trắng trợn và có tính chất thường xuyên. Bác đã nhìn thấy trước âm mưu của kẻ thù, vì thế Bác luôn nhắc chúng tôi phải tích cực học tập để không ngừng nâng cao trình độ kĩ thuật, chiến thuật, phải thường xuyên rèn luyện kỉ luật, tác phong để có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo vệ bầu trời Tổ quốc.

Những hành động khiêu khích đầu tiên của đế quốc Mĩ đối với miền Bắc nước ta đã xảy ra vào ngày 11 tháng 8 năm 1963. Chúng cho hai chiếc máy bay phản lực xâm phạm vùng trời Hà Nội. Làm theo lời Bác dạy “phải thường xuyên đề cao cảnh giác”, bộ đội phòng không bảo vệ Thủ đô đã nổ súng kịp thời. Đại đội 129 đã bắn những phát dúng đầu tiên. Hôm ấy là ngày chủ nhật, hai chiếc RF.101 bay rất cao, nhân dân Hà Nội không nghe tiếng động cơ máy bay mà chỉ nghe tiếng nổ rền vang của pháo phòng không 100 mi-li-mét, loại pháo cỡ lớn nhất vừa mới được trang bị chưa được bao lâu.

Lại một năm trôi qua.

Một mùa xuân lại đến, mùa xuân năm 1964. Đúng sáng mùng 1 Tết Giáp Thìn, Bác Hồ lại đến thăm và chúc tết bộ đội phòng không ngay tại trận địa của đại đội 130 trung đoàn 260, bên cạnh dòng sông Đuống. Cũng như những lần trước, Bác đến thăm bất ngờ không báo trước cho Quân chủng biết. Được tin tôi vội vàng lên xe phóng sang, may vừa kịp đón Bác.


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Chín, 2010, 09:03:17 pm
Vẫn với bước đi nhanh nhẹn, Bác vào nhà ngủ trung đội 3, khen nội vụ gọn gàng, sạch sẽ. Bác xuống nhà câu lạc bộ, xem những tờ báo tường đón xuân do anh em viết, rồi dừng lại trước lá cờ thưởng luân lưu “Đơn vị khá nhất”, tỏ ý hài lòng. Khi đi ngang qua một gian buồng xép, thấy nhiều quang sọt, Bác dừng lại hỏi đơn vị đang làm gì mà nhiều quang thế. Đồng chí chính trị viên phó đại đội thưa với Bác là anh em đang làm đường cơ động, củng cố trận địa, đào thêm ao, lấy chỗ tắm giặtt và thả cá để cải thiện. Nghe báo cáo, Bác gật đầu khen như thế là tốt. Bác tiếp tục đi xuống bếp, xem các món ăn, khen bộ đội ăn khá và nhà bếp sạch. Bác ân ần hỏi chuyện các đồng chí nuôi quân.

- Các chú cón luôn giữ được sạch sẽ, gọn gàng như thế này không?

Đồng chí tiểu đội trưởng xúc động trả lời:

- Thưa Bác, đại đội chúng cháu được trung đoàn khen là đơn vị nuôi quân, phòng bệnh tốt ạ!

Sau khi đi một vòng khắp doanh trại, Bác trở về trước sân, nói chuyện và chúc tết bộ đội:

- Hôm nay Bác và các đồng chí Trung ương đến thăm các chú. Bác thấy chú nào cũng mạnh khỏe, vui vẻ. Bác mừng. Đơn vị các chú được thưởng cờ, doanh trại thì sạch sẽ, gọn gàng, như vậy là tốt. Năm mới, Bác chúc các chú mạnh khỏe, thắng lợi và nhờ các chú chuyển lời chúc tết của Bác và các đồng chí Trung ương tới gia đình các chú.

Nói đến đây Bác dừng lại một lát, đưa cặp mắt hiền từ nhìn một lượt khắp hàng quân rồi nói:

- Các chú thấy đồng bào và chiến sĩ miền Nam chiến đấu có giỏi không, có dũng cảm không?

Tất cả đơn vị đồng thanh đáp:

- Có ạ!

- Vậy ta phải học tập quân và dân miền Nam anh hùng. Đế quốc Mĩ còn nhiêu âm mưu thâm độc. Các chú phải luôn luôn cảnh giác và lúc nào cũng sẵn sàng chiến đấu, phải kiên quyết bắn rơi máy bay địch, nếu chúng dám liều lĩnh xâm phạm vùng trời miền Bắc nước ta. Muốn làm được nhứ vậy, năm nay các chú rèn luyện kĩ thuật cho giỏi. Cán bộ, chiến sĩ phải đoàn kết chặt chẽ, thương yêu nhau như anh em một nhà.

Toàn đơn vị đứng im phăng phắc. Đây là lần đầu tiên sau 10 năm hào bình, Bác trực tiếp ra mệnh lệnh cụ thể cho bộ đọi phòng không - không quân chúng tôi “phải kiên quyết bắn rơi máy bay địch nếu chúng dám liều lĩnh xâm phạm vùng trời miền Bắc”. Cũng trong dịp này, Bác lại nhắc nhở chúng tôi vấn đề mà Bác đã nhắc nhở suốt mấy năm nay là “Phải rèn luyện kĩ thuật cho giỏi”. Sau này, khi bước vào cuộc chiến đấu quyết liệt với kẻ thù có tiềm lực lớn về nhiều mặt, chúng tôi càng thấu hiểu những lời dạy của Bác thật sâu sắc và trở thànhvấn đề xuyên suốt trong quá trình xây dựng và chiến đấu của bộ đội phòng không - không quân: “Phải luôn luôn cảnh giác và lúc nào cũng chiến đấu”, “Phải kiên quyết bắn rơi máy bay địch”, “Phải thường xuyên học tập nâng cao trình độ mọi mặt”, “Phải rèn luyện kĩ thuật cho giỏi”, để tạo nên sức mạnh chiến thắng.

Trước khi ra về, Bác còn dặn:

- Các chú lập công, tết sang năm Bác lại xuống thăm.

Những ngày đầu xuân 1964, nghiêm chỉnh chấp hành mệnh lệnh của Bác, khắp các trận địa phòng không bừng bừng khí thế quyết tâm đánh thắng trận đầu. Những đợt huấn luyện đột kích, những cuộc diễn tập theo phương án tác chiến được liên tiếp tổ chức. Công sự được tu sửa thêm. Chế độ trực ban sẵn sàng chiến đấu được duy trì nghiêm ngặt. Nghị quyết Đảng ủy các cấp, phương án tác chiến của các đơn vị đều quán triệt sâu sắc những lời dạy của Bác. Đợt sinh hoạt chính trị “làm theo lời Bác, đánh thắng trận đầu”, do nghị quyết Đảng ủy Quân chủng quý I năm 1964 đề ra, được Cục Chính trị tập trung chỉ đạo sát sao và được Tổng cụ Chính trị theo dõi chặt chẽ, đã thực sự làm chuyển biến bộ mặt của Quân chủng, thổi bùng lên một khi thế mới, một sức mạnh mới.

Bộ đội phòng không - không quân mãi mãi coi tết Giáp Thìn năm 1964 như một cột mốc quan trọng trên con đường chiến đấu và chiến thắng vẻ vang của mình.

Ngày 19 tháng 5 năm 1964, tôi lên nhà sàn chúc mừng sinh nhật Bác, đồng thời báo cáo với Bác việc triển khai thực hiện lời Bác dạy hồi đầu năm. Hôm đó, Bác hỏi tôi nhiều về ra đa, về khả năng phát hiện địch. Bác bảo người lính bảo vệ bầu trời phải thường xuyên cảnh giác, phải tranh chấp với kẻ thù từng phút, từng giây.

Bác ân cần căn dặn: Chú phải cùng các đồng chí trong Bộ tư lệnh suy nghĩ ngày đêm, giáo dục bộ đội thường xuyên nêu cao tinh thần cảnh giác, quyết không để cho Tổ quốc bị bất ngờ. Trước đây, chú chỉ bảo vệ Bác, ngày nay chú phải bảo vệ cả bầu trời Tổ quốc. Trách nhiệm của chú, của Quần chúng Phòng không - Không quân rất nặng nề.


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Chín, 2010, 09:05:15 pm
II.

TRẬN ĐỌ SỨC ĐẦU TIÊN

Chưa đầy ba tháng sau lời căn đặn đó của bác, bộ đội phòng không phối hợp chặt chẽ với bộ đội hải quân và các lực lượng vũ trang nhân dân khác đã đánh thắng trận đầu oanh liệt, ngày 5 tháng 8 năm 1964, bắn rơi 8 máy bay Mĩ, bắn bị thương nhiều chiếc khác, bắt sống tên giặc lái Mĩ đầu tiên An-va-rê.

Ngày 7 tháng 8 năm 1964, tại thủ đô Hà Nội, Bộ Quốc phòng - Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam tổ chức lễ tuyên dương công trạng các lực lượng vũ trang nhân dân đã lập thành tích vẻ vang trong các cuộc chiến đấu chống những hành động khiêu khích và gây chiến của đế quốc Mĩ đối với miền Bắc nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh vị Tổng tư lệnh tối cao của dân tộc, đến chủ tọa buổi lễ long trọng này.

Bác đến sớm, nét mặt vui tươi, ân cần thăm hỏi các đại biểu về dự lễ:

- Các chú khỏe cả chứ?

Tiếp đó, Bác nói thêm một câu đầy ý nghĩa:

- Nóng cả, có phải không?

Sau đó Bác hỏi ngay đến tôi:

- Chú Hữu Tài đấy à? Lên đây! Lên đây!

Bác vừa gọi vừa vẫy tay. Tôi bồi hồi xúc động được Bác gọi mình bằng tên cũ hồi ở Côn Minh.

Thấy tôi còn chần chừ, Bác lại gọi:

- Chú Hữu Tài! Lên đây! Cả chú Phát nữa!

Tôi cùng đồng chí Nguyễn Bá Phát, Tư lệnh Hải quân, sung sướng bước đến bên Bác giữa tiếng vỗ tay ran ran của cả hội trường.

Lễ tuyên dương tổ chức long tọng nhưng ấm cúng phấn khởi. Đoàn chủ tịch buổi lễ còn có các đồng chí Trường Chinh, Ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng, Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; Nguyễn Chí Thanh, Ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng; Trần Quốc Hoàn, Ủy viên dự khuyết Bộ Ctỉ Trung ương Đảng; Thượng tướng Văn Tiến Dũng, Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị Trung ương Đảng, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Trung tướng Song Hào, Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, Thiếu tướng Trần Sâm, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng.

Tới dự buổi lễ còn có các cán bộ ca cấp trong quân đội, đại biểu các quân chủng, binh chủng, lực lượng công an nhân dân vũ trang, đại biểu chính quyền một số địa phương vừa chiến thắng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc huấn thị. Tất cả các đại biểu dự buổi lễ kính cẩn lắng nghe từng lời của Người:

“Bác rất vui mừng thay mặt Đảng và Chính phủ đến khen ngợi các chú đã lập được thành tích trong các cuộc chiến đấu chống đế quốc Mĩ vừa qua.

“Các chú đã chiến đấu rất dũng cảm, đã bắn rơi 8 chiếc máy bay Mĩ và bắn hỏng 3 chiếc, vừa rồi lại nghe tin 4 chiếc máy bay Mĩ từ Biên Hòa bị hỏng. Các chú đã bắt sống phi công Mĩ, đánh đuổi tàu chiến Mĩ ra khỏi vùng biển nước ta. Như vậy là rất tốt.

“Nhân dịp này, Bác gửi lời thân ái hỏi thăm các đơn vị phòng không, hành quân, các đơn vị bộ đội, công an nhân dân vũ trang, dân quân tự vệ đồng bào ta ở vùng bị giặc khiêu khích đã nêu cao truyền thống quyết chiến thắng và đã trừng trị đich đáng kẻ địch…

“Chúng ta phải biết rằng đế quốc Mĩ và tay sai chết thì chết, nết không chừa”. Chúng còn nhiều âm mưu hiểm ác.

“Trong trận này, chúng ta đã cho đế quốc Mĩ mọt bài học đích đáng. Đồng thời chúng ta cũng đã thấy rõ hơn những ưu điểm và nhược điểu của ta. Cá đơn vị bộ đội, công an nhân dân vũ trang, dân quân tự vệ và các địa phương cần rút kinh nghiệm để sửa chữa khuyết điểm, phát huy ưu điểm. Các chú phải tiếp tục đẩy mạnh mọi mặt công tác và luôn luôn nâng cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc”(1).

“Nhân dân ta rất yêu chuộng hòa bình. Nhưng nếu đế quốc Mĩ và tay sai xâm phạm đến miền Bắc nước ta, thì toàn dân ta nhất định sẽ đánh bại chúng”(2).


(1) “Kẻ cướp Mĩ bị trừng trị đích đáng”, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1964, tr.29, 30.
(2) Kẻ cướp Mĩ bị trừng trị đích đáng”, Nxd Quân đội nhân dân, 1954, tr.31.


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Chín, 2010, 09:07:20 pm
Tiếp lời chủ tịch Hồ Chí Minh, Đại tướng bộ trưởng Bộ Quốc phòng Võ Nguyên Giáp nói:

“… Chiến công vẻ vang của các chiến sĩ bộ đội phòng không, hải quân và các lực lượng vũ trang nhân dân ta có ý nghĩa lớn. Đó là ý chí sắt đá của toàn quân và toàn dân ta kiên quyết bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ và an ninh của Tổ quốc, bảo vệ công cuộc lao động hòa bình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc nước ta. Đó là một sự trừng phạt đích đáng, dạy cho bọn kẻ cướp xâm lược Mĩ biết rằng: liều lĩnh xâm phạm đến an ninh của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nhất định chúng sẽ chuốc lấy thất bại nhục nhã…

“… Các đồng chí đã nêu cao truyền thống quyết chiến quyết thắng của nhân dân và quân đội ta.

Cá đồng chí đã làm tốt nhiệm vụ vinh quang bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chủ nghĩa xã hội.

Các đồng chí đã xứng đáng với đồng bào và Quân giải phóng miền Nam anh dũng hiện đang chiến đấu và chiến thắng trên tuyến đầu của Tổ quốc”(1)

Nhắc đến hành động xâm lược của đế quốc Mĩ, Đại tướng nghiêm khắc cảnh cáo:

“Đế quốc Mĩ hãy coi chừng! Mọi hành động khiêu khích xâm lược đối với Việt Nam dân chủ cộng hòa nhất định sẽ bị sức mạnh của toàn thể nhân dân Việt Nam đánh bại”(2)

Sau đó Thiếu tướng Thứ trưởng Bộ Quốc phòng đọc lệnh khen thưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Đồng chí Trường Chinh, Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội trao tặng đơn vị phòng không và đơn vị hành quân huân chương Quân công hạng nhị và ôm hôn thắm thiết đại biểu hai đơn vị. Với cử chỉ rất thân mật, đồng chí Trường Chinh dặn dò: “Thắng lợi có ý nghĩa chính trị rất lớn, nhưng mới chỉ là bước đầu, phỉ chú ý rút kinh nghiệm để trận sau thắng lợi lớn hơn.

Thay mặt toàn thể cán bộ, chiến sĩ bộ đội phòng không - không quân, tôi tỏ lòng vô cùng phấn khởi được vinh dự nhận huân chương cao quý của Quốc hội và Chính phủ đối với Quân chủng Phòng không - Không quân.

Tiếp đó, tôi đọc bài phát biểu do Cục Chính trị chuẩn bị và đã được anh Tính thông qua:

“Chúng tôi hiểu rằng những thắng lợi mà chúng tôi vừa giành được mới chỉ là bước đầu. Đạt được những chiến thắng vẻ vang đó trước hết là do sự lãnh đạo sáng suốt của Trung ương Đảng, của Hồ Chủ tịch, của Quân ủy Trung ương và nhờ sự phối hợp hiệp đồng chặt chẽ của các binh chủng, quân chủng bạn và sự giúp đỡ tận tình của nhân dân.

“Nhận rõ vinh dự được phần thưởng cao quý hôm nay, Quần chúng Phòng không - Không quân càng xác định rõ trách nhiệm nặng nề của mình trước Đảng và nhân dân, nguyện luôn luôn xứng đáng là lực lượng vũ trang cách mạng, tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân, luôn luôn cảnh giác cách mạng cao độ, kiên quyết chiến đấu vì sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc”.

Trước khi buổi lễ kết thúc, chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn thêm:

- Vừa rồi các cô các chú làm nhiệm vụ như vậy là rất tốt, nhưng không được chủ quan khinh địch, phải đoàn kết cảnh giác, giặc đến là đánh, đánh là phải thắng.

Bác vui vẻ giơ từng ngón tay lên nói tiếp:

- Thi đua mỗi người làm việc bằng hai, vừa qua ta bắn rơi tám chiếc phản lực, lần sau hai tám mười sáu, rồi ba tám hai mươi bốn…

Trong không khí tràn đầy phấn khởi, tin tưởng, cả hội trường dậy lên tiếng hoan hô như sấm tỏ lòng kiên quyết thực hiện lời bác dậy.


(1), (2) Kẻ cướp Mĩ bị trừng trị đích đáng”, Nxd Quân đội nhân dân, 1954, tr.31.


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Chín, 2010, 09:08:10 pm
III.

MẶT TRẬN TRÊN KHÔNG

Sau trận đánh ngày 5 tháng 8, Bác và Bộ Chính trị quyết định đưa trung đoàn không quân tiêm kích đầu tiên đang huấn luyện ở nước ngoài về nước.

Ngày 6 tháng 8 năm 1964, trung đoàn không quân tiêm kích Sao dỏ dưới sự chỉ huy của trung đoàn trưởng Đào Đình Luyện hạ cánh xuống sân bay Nôi Bài. Các đây nửa năm, ngày 3 tháng 2 năm 1964 được sự ủy nhiệm của Bộ Quốc phòng, tôi cùng đồng chí Nguyễn Xuân Mậu, Phó bí thư Đảng ủy Quốc phòng sang sân bay Mông Tự tuyên bố thành lập trung đoàn 921, do đồng chí Đào Đình Luyện là trung đoàn trưởng và trao cờ “Quyết chiến quyết thắng” cho trung đoàn

Một ngày đầu tháng 11 năm 1964, Bác bảo tôi chuẩn bị cho Bác đến thăm anh em. Tôi đi suốt đêm lên Nội Bài, gặp anh Đào Đình Luyện, căn dặn mọi việc. Biết Bác thế nào cũng kiểm tra nơi ăn, chốn ở, nhà vệ sinh nên tôi kéo theo đồng chí Chủ nhiệm hậu cần cùng đi một lượt khắp doanh trại, chỗ nào còn mất vệ sinh, tôi ra lệnh khắc phục ngay.

Chuẩn bị xong mọi việc, tôi về báo cáo anh Văn Tiến Dũng, gọi điện sang Phủ chủ tịch, báo cho đồng chí Vũ Kì biết, sắp xếp chương trình để Bác đến thăm.

Chuẩn bị rất công phu, mọi người hồi hộp chờ đợi, nhưng khi Bác lên thật giản dị. Tôi báo cáo với Bác nhưng lúng túng thế nào câu trước là Chủ tịch, câu sau lại là Bác. Bác mỉm cười nói:

- Thôi chú lui ra để Bác gặp anh em.

Thế là Bác đến bắt tay từng người, hỏi thăm sức khỏe, hỏi thăm tình hình gia đình. Bác khen các chiến sĩ trẻ đẹp, khỏe mạnh. Bác chủ động, thân mật, làm cho giữa lãnh tụ và quần chúng không còn khoảng cách. Bác uốn nắn cho chúng tôi từng câu, từng chữ như người cha dạy bảo các con. Thấy chúng tôi nói phi cơ, phi công, Bác hỏi lại phi cơ là gì?

- Thưa Bác là máy bay ạ!

- Thế sao không gọi là máy bay lại gọi là phi cơ?

- Các chú là người lái máy bay phải không?

- Thưa Bác vâng ạ!

- Thế thì gọi là người lái chứ sao lại phải gọi là phi công. Hay là các chú thấy gọi phi công thì oai hơn.

Bác nhìn thấy bộ quần áo kháng áp của phi công, nhìn khoang lái nhỏ hẹp, rồi hỏi anh em ngồi trong đó có nóng không? Bác đi thăm nơi ăn, chốn ngủ, nhà bếp, khu vệ sinh của bộ đội. Bác đến với chúng tôi như cha về với con. Tình thương của Người rất bao la nhưng cũng rất cụ thể. Tôi nhớ mãi một câu nói hôm đó của Bác: “Tổ tiên ta từ xưa đã có những chiến công oanh liệt trên sông, trên biển như Bạch Đằng, Hàm Tử; trên bộ có Chi Lăng, Vạn Kiếp, Đống Đa… Ngày nay, chúng ta phải mở một mặt trận trên không thắng lợi, trách nhiệm ấy trước hết là của các chú…”

Để đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại chủ yếu bằng không quân của đế quốc Mĩ đối với miền Bắc, Đảng ta phát động một cuộc chiến tranh nhân dân rộng lớn với Quân chủng Phòng không - Không quân làm nòng cốt, phát huy mọi lực lượng cả dưới đất và trên không. Trong cuộc gặp chúng tôi lần này, Bác đã chỉ ra “Phải mở mặt trận trên không thắng lợi” và “trách nhiệm ấy trước hết là của các chú”. Chúng tôi hiểu mình có vinh dự lãnh một trách nhiệm lịch sử to lớn và nặng nề. Lần đầu tiên những người con của chế độ mới, chế độ xã hội chủ nghĩa, mở mặt trận trên không, chúng tôi phải xứng đáng với ông cha, những người đã làm nên những chiến công rạng rỡ trên sông, trên biển và trên bộ.

Bác không dừng lại ở những lời động viên. Người nói: “Phải học tập Quân giải phóng miền Nam, phát huy lối đánh gần, bám thắt lưng địch mà đánh… Đánh tiêu diệt, bắn trúng, bắn rơi máy bay địch ngay từ loạt đạn đầu…”

Đó chính là con đường duy nhất để đi tới chiến thắng. Đó cũng là tư tưởng và phương châm chỉ đạo tác chiến của kết quả ta trong một thời gian dài. Chúng tôi đã bàn bạc với nhau nhiều về cách đánh gần. Nhưng đây là lần đầu tiên chúng tôi được nghe câu “bám thắt lưng đich mà đánh!” trong tác chiến của không quân. Cách nói hình ảnh và giản dị của Bác đã thấm sâu vào tâm khảm mỗi người chúng tôi.


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Chín, 2010, 09:08:41 pm
Làm theo lời dạy của Bác, ngay trận ra quân đầu tiên, Không quân nhân dân Việt Nam đã lập chiến công vang dội.

Hôm đó là ngày 3 tháng 4 năm 1965, tôi trực ở sở chỉ huy và trực tiếp ra lệnh cho trung đoàn trưởng Đào Đình Luyện cho biên đội Phạm Ngọc Lan cất cánh đánh địch trên bầu trời Hàm Rồng. Biên đội gồm các đồng chí Phan Văn Túc, Hồ Văn Quỳ, Trần Minh Phương, sau này thường gọi là biên đội Lan - Túc - Quỳ - Phương. Đây là biên đội đầu tiên của Quân đội ta chính thức mở mặt trận trên không, mặt đối mặt với không quân nhà nghề của đế quốc Mĩ.

Theo phương án, biên đội Phạm Ngọc Lan là biên đội tiến công. Ta còn sử dụng một biên đội nữa do Trần Hanh làm biên đội trưởng bay số 1, Phạm Giấy bay số 2, làm nhiệm vụ nghi binh. Trong trận này, Phạm Ngọc Lan và Phan Văn Túc đã mưu trí, dũng cảm bắn rơi 2 chiếc F.8-U của Mĩ, trở thành hai phi công Việt Nam đầu tiên bắn rơi máy bay phản lực hiện đại của không quân đế quốc Mĩ. Và ngày 3 tháng 4 năm 1965, trở thành ngày truyền thống vẻ vang của Không quân nhân dân Việt Nam.

Tin chiến thắng của không quân ta làm cho cả nước nức lòng, tự hào sung sướng. Theo đường dây riêng, tôi gọi điện báo cáo với Bác. Bác khen và căn dặn “Không được chủ quan say sưa với chiến thắng, mà phải tổ chức cho anh em rút kinh nghiệm. Cần nhớ đây chỉ là thắng lợi bước đầu. kẻ địch sẽ dùng mọi thủ đoạn để đánh trả thù. Chú chuyển lời Bác hỏi thăm các chú lái máy bay vừa chiến thắng”.

Phải nói rằng lúc ấy tôi chưa hiểu hết lời căn dặn của Bác. Say sưa với chiến thắng, và cho rằng thế ra không quân thằng Mĩ cũng xoàng, mới có một trận đã bị MIG 17 ta diệt gọn hai chếc. Hôm sau, mùng 4 tháng 4 năm 1965, tôi cho 2 biên đội 8 chiếc xuất kích, với ý định đánh một trận thắng oanh liệt hơn để báo cáo với Bác rằng, Bác giao nhiệm vụ gì tôi cũng hoàn thành xuất sắc, ở lĩnh vực nào cũng làm nên chuyện.

Hôm sua, khi đưa tin về chiến công của không quân ta, đài báo đã giới thiệu tôi là Tư lệnh không quân, mặc dầu ta chỉ có Tư lệnh phòng không - không quân, chứ chưa có Tư lệnh không quân riêng. Dạo đó, đầu năm 1965, đồng bào và chiến sĩ cả nước nghe nói la đã có không quân, rồi lại có cả tư lệnh không quân, ai nấy đều cảm thấy hả hê tự hào.

Sáng mùng 4 tháng 4 năm 1965, tôi tực tiếp cầm máy lệnh cho trung đoàn trưởng Đào Đình Luyện cho biên đội Lê Trọng Lương, Phan Văn Túc, Hồ Văn Quỳ,Trần Minh Phương cất cánh trước; độ cao 8.000 mét trên khu chờ Vụ Bản, Phủ Lí (Nam Hà) làm nhiệm vụ nghi binh thu hút tiêm kích địch, sẵn sàng yểm hộ biên đội công kích. Biên đội tiến công cất cánh sau 2 phút gồm Trần Hành, Phạm Giấy, Lê Minh Huân, Trần Huyên năm.

10 giờ 30 phút, các phi công trong biên đội tiến công báo cáo đã phát hiện máy bay địch.

Trung đoàn trưởng Đào Đình Luyện báo cáo lên Quân chủng và chờ ý kiến của Tư lệnh.

Tôi ra lệnh: Có thời cơ tốt cho nổ súng diệt địch.

Sau đó trận không chiến thứ hai trên bầu trời Hàm Rồng đã diễn ra quyết liệt. Trần Hanh bẳn rơi chiếc F.105-D thứ nhất. Tiếp đó Lê Minh Huân bắn rơi chiếc F.105-D thứ hai. Lúc bấy giờ F.105-D là loại hiện đại nhất của Mĩ ở chiến trường Việt Nam. Thế mà bị không quân ta bắn rơi hai chiếc trong một trận. Ngay ngày hôm sau, 5 tháng 4 năm 1965, hãng tin Pháp AFP đưa tin: “Máy bay phóng pháo F.105 là loại máy bay hiện đại nhất của không quân Mĩ. Thế mà hôm qua rõ ràng đã bị thua máy bay MIG lạc hậu hơn”.

Gần trưa hôm đó, tôi vừa định cầm máy báo cáo với Bác tin mừng chiến thắng mới của không quân ta thì trung đoàn trưởng Đào Đình Luyện báo cáo một tin dữ: “Cả tốp máy bay 4 chiếc của Trần Hanh đều không trở về căn cứ”. Chiếc tổ hợp trong tay tôi như có sức nặng rơi xuống máy. Tôi đứng lặng một hồi lâu, lòng đau như cắt.

Trận trước, 4 máy bay ta quần nhau với 12 máy bay địch, ta bắn rơi 2 chiếc, cả biên đội trở về an toàn. Riêng biên đội trưởng Phạm Ngọc Lan vì hết dầu phải hạ cánh bắt buộc trên bãi cát cạnh sông Đuống nhưng an toàn cả máy bay và người lái. Trận này, 4 máy bay của ta quần nhau với 24 máy bay địch. Ta bắn rơi hai chiếc, nhưng phía ta ba ba chiếc bị bắn rơi. Ba người lái hi sinh. Đó là Lê Minh Huân, Phạm Giấy và Trần Nguyên Năm. Riêng Trần Hanh thì lạc vào tận nghệ An, hết dầu phải hạ cánh bắt buộc xuống một vùng núi phía tây.


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Chín, 2010, 09:09:03 pm
Ngay tối hôm đó, Bác gọi tôi lên báo cáo cụ thể. Nếu như chỉ có báo tin chiến thắng thì tôi đi một mình cũng được. Thú thực là tôi rât thích lên báo cáo tin chiến thắng với Bác, để được nhìn nét mặt vui và nụ cười rất hiền của Bác. Nhưng lần này phải báo cáo một lúc ba chiến sĩ lái hi sinh thì tôi ngại quá, nên tìm cách rủ bằng được anh Đặng Tính cùng đi.

Dọc đường chúng tôi rất lo lắng: Tình cmả của Bác đối với Quân chủng nói chung và đối với không quân nói riêng là một tình cảm thương yêu chăm sóc đặc biệt. Bây giờ nghe tin bị tổn thất nặng nề thế này Bác sẽ ra sao? Bác sẽ hết sức đau xót? Bác sẽ khiển trách chúng tôi nặng nề?… Trong tâm trạng lo lắng như vậy, chúng tôi theo đồng chí Vũ Kì bước lên sàn nhà. Vừa đi đồng chí nói khẽ nói khẽ với chúng tôi: “Bác hết hết rồi. Cứ báo cáo tin chiến thắng thôi, đứng nhắc đến chuyện đó nữa”.

Đêm tháng 4 trời bắt đầu nóng. Khu vườn Phủ Chủ tịch yên lặng. Bác ngồi trên chiếc ghế mây đặt ngoài hiên đợi chúng tôi. Mái tóc bạc ánh lên dưới ánh đèn. Chắc là Bác cũng biết chúng tôi lo lắng nhiều nên đã chủ động làm cho không khí bớt căng thẳng.

- Này! Các chú cho kiểm tra lại con số 47 máy bay Mĩ bị bắn rơi hai hôm vừa qua có chính xác không? Thằng Mĩ là nó rất khoa học, rất chính xác. Trong hai ngày 3 và 4 tháng 4, nó chỉ công nhận bị mất 5 chiếc ở Hàm Rồng thôi. Mà mình có nói bốc lên nó cười cho.

Anh tín nhanh trí trả lời:

- Thưa Bác! Đây là con số tổng hợp ở cácc đơn vị, các địa phương dưới báo cáo lên ạ.

Bác vẫn nhẹ nhàng bảo:

- Phải kiểm tra chứ! Và phải có căn cứ. Chú Tài phải chịu trách nhiệm việc này… Nói phải có sách, mách phải có chứng!

Thế rồi Bác chuyển câu chuyện một cách tự nhiên:

- Ba chú hi sinh tên là gì, quê quán ở đây, đã có vợ con chưa?

Rất may là trong chuyến kiểm tra trung đoàn 921 trước khi đơn vị ra quân đánh trận đầu, tôi đã dịp trò chuyện với đồng chí này nên trả lời với Bác rất suôn sẻ, được Bác khen làm Tư lệnh mà nắm được từng chiến sĩ thế là tốt.

Bác trầm ngâm một lúc, rồi thong thả nói, giọng đượm buồn:

- Chác chú biết đất, đào tao được một chiến sĩ lái biết bao nhiêu công phu, đây là vốn quý đầu tiên của Quân đội, của Đảng, của dân tộc. Bộ đội ta rất dũng cảm, sẵn sàng hi sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, nhưng người làm tướng phải biết cân nhắc từng giọt máu của chiến sĩ.

Nói đến đây, Bác im lặng, đưa mắt nhìn vào bóng đêm, nói tiếp:

- Chiến công vừa rồi của không quân ta là rất to lớn, rất đáng tự hào. Lần đầu tiên dân tộc Việt Nam từ bùn đen bay lên trời cao diệt địch. Bác sẽ có thư khen, nhưng trong thư không thể nói hết được. Các chú đừng chỉ nghe thư, nghe điện chúc mừng các nơi mà say sưa với chiến thắng, phải tự mình nghiêm khắc rút kinh nghiệm. Ngày mai chú Giáp, chú Dũng sẽ trực tiếp xuống dự rút kinh nghiệm với bộ đội. Chú Tài phải chuẩn bị một báo cáo thật cụ thể, thật nghiêm túc, nêu ra được những ưu điểm, khuyết điểm của trận đánh. Ưu điểm thì rõ rồi, nói nhiều rồi, bây giờ phải đi sâu vào khuyết điểm, đặc biệt là khuyết điểm của cấp chỉ huy….

Khi xe ra khỏi cổng đỏ, tôi và đồng chí Tính mới phát hiện ra một điều là trong cuộc gặp hôm nay Bác không mời thuốc chúng tôi. Bản thân Bác cũng không hút thuốc… Khi chúng tôi đến thì thấy Bác đang ngồi trên chiếc ghế mây, và chỉ vào hai chiếc ghế để sẵn hai bên bảo chúng tôi ngồi xuống. Như vậy đủ biết Bác đau buồn đến mức khi được tin ba chiến sĩ không quân hi sinh cùng trong trận đánh. Đó là tấm lòng nhân ái bao la của vị Tổng tư lệnh tối cao. Nhớ năm 1947, khi nghe người con trai của bác sĩ Vũ Đình Tụng hi sinh trong chiến đấu, Bác đã viết thư cho bác sĩ Vũ Đình Tụng với những lời chia buồn thống thiết:

“Tôi được báo cáo rằng con trai ngài đã oanh liệt hi sinh cho Tổ quốc.

Ngài biết rằng tôi không có gia đình, cũng không có con cái. Nước Việt Nam là gia đình của tôi. Tất cả thanh niên Việt Nam là con cháu của tôi. Mất một thanh niên thì hình như tôi đứt một đoạn ruột”.

Lần này Bác không những mất một thanh niên mà là ba thanh niên ưu tú, làm sao Bác lại không buồn. Hồi ở Cao Bằng khi tôi báo tin cho Bác biết anh Phùng Chí Kiên hi sinh trong một trận địch phục kích, Bác đã khóc và sau này khi trở thành Chủ tịch chính phủ, Bác đã kí lệnh truy phong cấp tướng cho anh. Đêm ấy ngồi trên xe trở về, anh Tính và tôi đều im lặng, không ai nói gì. Mỗi chúng tôi đều cảm thấy ân hận là đã không có được một chiến thắng thật trọn vẹn để Bác vui.


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Chín, 2010, 10:40:36 am
IV.

TÊN LỬA RA QUÂN

Mặc dầu bị thua đau, đế quốc Mĩ vẫn điên cuồng cho không quân tăng cường đánh phá miền Bắc với tham vọng ngăn chặn sự chi viện sức người sức của từ hậu phương lớn miền Bắc vào tiền tuyến lớn miền Nam.

Lịch sử đặt ra cho quân và dân ta, trong đó có bộ đội phòng không - không quân trách nhiệm nặng nề là phải cố gắng vượt qua mọi hi sinh gian khổ, thực hiện bằng được hai nhiệm vụ chiến lược bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, hoàn thành sự nghiệp thiêng liêng giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Trong nhiệm vụ bảo vệ miền Bắc, Quân chủng Phòng không - Không quân được giao trọng trách là lực lượng nòng cốt bảo vệ bầu trời Tổ quốc.

Trong bối cảnh đó, ngày 19 tháng 7 năm 1965, Bác Hồ đã đến thăm và dạy bảo chúng tôi. Cùng đi với Bác hôm đó có đồng chí Thượng tướng Văn Tiến Dũng, Tổng tham mưu trưởng và đồng chí Trung tướng Song Hào, chủ nhiệm Tổng cục Chính trị.

Dạo đó chúng tôi đang chuẩn bị cho bộ đội tên lửa ra quân đánh thắng trận đầu.

Đồng chí thiếu tá Nguyễn Đăng Tùng, trung đoàn trưởng trung đoàn 241 được vinh dự thay mặt đơn vị báo cáo tình hình với Bác. Nghe giọng nói của đồng chí Tùng, Bác thân mật hỏi:

- Chú quê ở Quảng Nam hay Quảng Ngãi?

Đồng chí Tùng vừa sung sướng vừa ngạc nhiên trả lời:

- Dạ thưa Bác, cháu quê ở Quảng Nam ạ!

Bác nhanh nhẹn bước vào công sự của đại đội 7 đoàn Tam Đảo, âu yếm nhìn các pháo thủ đang ngồi bên mâm pháo, tự tay đếm từng người. Được tận mắt nhìn thấy Bác hồng hào khỏe mạnh, giản dị trong bộ quần áo nâu quen thuộc, các chiến sĩ vô cũng xúc động. Bác chăm chú nghe đồng chí khẩu đội trưởng Lương Phúc Thoại báo cáo với Bác tình hình khẩu đội. Bác hỏi trong khẩu đội có bao nhiêu cựu binh, bao nhiêu tân binh. Nghe báo cáo xong, Bác cầm chiếc mũ sắt của đồng chí Thoại xem rồi đội lên đầu, vui bẻ nói: “Chiếc mũ này đội để chiến đấu rất tốt”.

Sau khi trao lại chiếc mũ sắt cho đồng chí Thoại, Bác thân mật hỏi các chiến sĩ:

- Ở đây chú nào bắn rơi máy bay Mĩ?

Các chiến sĩ trả lời:

- Thưa Bác! Chúng cháu mỗi người một nhiệm vụ, chùng tham gia bắn ạ!

Bác gật đầu tỏ vẻ hài lòng.

Rời khẩu đội, Bác nhanh nhẹn bước đến chỗ bộ đội đang tập trung chờ nghe Bác nói chuyện. Đầu tiên, Bác hỏi:

- Giặc Mĩ đang leo thang chiến ranh ra miền Bắc, còn miền Nam chúng ta tăng thêm quân, thêm súng. Các chú có sợ không?

Bộ đội đồng thanh  trả lời: “Không sợ ạ!”

- Đúng! Nó đưa thêm chừng nào, ta diệt thêm chừng đó. Các chú đã cùng với quân và dân ta bắn rơi 400 máy bay địch, lập công như vậy là tốt. Các chú có vất vả, gian khổ nhưng so với quân và dân miền Nam thì chưa thấm vào đâu. Phải noi gương quân và dân miền Nam đánh giỏi, thắng lớn hơn nữa.

Các chú đã nghe phổ biến nghị quyết của Trung ương, của Quân ủy Trung ương về tình hình và nhiệm vụ mới của quân và dân ta trong giai đoạn hiện nay. Bác tóm tắt mấy điểm để các chú dễ nhớ.

Một là, phải nêu cao quyết tâm đánh thắng giặc Mĩ xâm lược. Có quyết tâm thì làm gì cũng được.

Nói đến đây Bác dừng lại hỏi bộ đội: Các chú có quyết tâm không? Bộ đội lại đồng thanh đáp: Có ạ!

Bác dạy tiếp: Phải có quyết tâm đánh mà đánh phải có quyết tâm thắng. Phải chuẩn bị tinh thần đánh liên tục, đánh cho đến khi thắng lợi hoàn toàn.

Hai là, phải làm sao đánh tiêu diệt chúng. Vừa qua súng của ta không phải là ít nhưng ta chưa đánh tiêu diệt được. Vấn đề là ở chỗ tinh thần con người phải truyền qua nòng súng, tức là làm sao có kĩ thuật giỏi. Muốn bắn trúng, bắn rơi tại chỗ máy bay địch ngay từ loạt đạn đầu, phải luyện tập thật công phu. Bắn trúng từ loạt đạn đầu tiên, bắn rơi tại chỗ, sẽ tiết kiệm được đạn. Đạn đắt tiền lắm. Các chú bắn còn tốn đạn, tất nhiên là không chú nào muốn như thế, nhưng chính vì kĩ thuật chưa cao. Ta thường nói một viên đạn một quân thù. Ở đây với cỡ pháo này, Bác cho các chú “hai mươi viên đạn một quân thù”.

Ba là, phải thường xuyên rút kinh nghiệm. Giặc Mĩ rất xảo quyệt, chúng luôn luôn thay đổi thủ đoạn. Đánh xong một trận chúng cũng rút kinh nghiệm. Vì vậy các chú cũng phải thường xuyên rút kinh nghiệm để kịp thời làm thất bại những thủ đoạn của chúng. Đừng nặng về liên hoan, nhẹ về rút kinh nghiêm.

Bốn là, bộ đội phòng không có nhiều binh chủng hợp thành, lúc đánh phải hiệp dồng cho tốt, ai đánh tầng thấp, ai đánh tầng giữa, ai đánh trên cao phải phân công cho cụ thể, phối hợp rất chặt chẽ.


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Chín, 2010, 10:41:09 am
Nói đến đây, Bác dừng lại hỏi; Bác không phải là nhà quân sự, nói như vậy có đúng không? Bộ đội đồng thanh đáp: Thưa Bác đúng ạ!

Bác lại tiếp tục: Các chú phải có tinh thần tập thể. Ai cũng muốn lập công, khi máy bay địch đến ai cũng bắn. Khi máy bay rơi, ai cũng bảo mình bắn, lúc bắn không rơi lại đổ lỗi cho nhau, như vậy là không tốt. Công là công chung. Tranh công đổi lỗi là biểu hiện của chủ nghĩa các nhân.

Thứ năm, các chú phải hết sức chú ý vấn đề dân chủ kỉ luật, kỉ luật trong dân chủ, dân chủ phải có kỉ luật. Bác thấy có nơi còn có hiện tượng cán bộ cáu kỉnh với chiến sĩ, như vậy không tốt. Có gì cứ bình tĩnh bảo nhau, bàn bạc với nhau. Càng cáu càng khó nghe. Muốn dân chủ tốt, kỉ luật cao, cán bộ phải gương mẫu tự phê bình và phê bình. Ví dụ: Bác và các chú khai hội với nhau. Bác tự phê bình trước thì các chú mới dám phê bình. Các chú có khuyết điểm. Bác phê bình lại. Mục đích phê bình và tự phê bình là để học cái hay, tránh cái dở, chứ không phải để nói xấu nhau.

Cuối cùng Bác dặn các chú: Phải tin tưởng vững chắc là ta nhất định thắng, Mĩ nhất định thua. Lúc này mà còn phân vân, tàu địch to, tàu ta nhỏ, máy bay địch nhiều, súng ta ít, liệu có đánh được không? Đó là biểu hiện quyết tâm chưa cao. Tuy không dám tự nhận la sợ địch, nhưng chính là sợ địch. Phải khẳng định rằng: Dù đế quốc Mĩ có lắm súng nhiều tiền. Dù chúng có B57, B52 hay “bê” gì đi chăng nữa, ta cũng đánh. Từng ấy máy bay, từng ấy quân Mĩ, chứ nhiều hơn nữa ta cũng đánh, mà đã đánh là nhất định thắng… Ta phải có lòng tin sắt dá ở Đảng. Đảng đã nói: “Nhất định đánh thắng giặc Mĩ xâm lược” là nhất định thắng… Đánh nhau có hi sinh, có gian khổ, nhưng bền gan, vững chí thì cuối cùng ta nhất định thắng, giặc nhất định thua.

Các chú đã thông tình hình nhiệm vụ, còn phải tuyên truyền cho mọi người rõ, làm cho cả nước một lòng chống Mĩ, cứu nước và tin là nhất định thắng lợi.

Bác vừa dứt lời cả khối người như bật dậy hô vang:

- Kiên quyết làm theo lời dạy của Bác!

- Quyết tâm đánh thắng giặc Mĩ xâm lược!

- Hồ Chủ tịch muôn năm!

Đối với Quân chủng Phòng không - Không quân chúng tôi, những lời dạy của Bác trong lần đến thăm ngày 19 tháng 7 năm 1965 này là một sự kiện lịch sử quý báu đã củng cố lòng tin và tiếp thêm sức mạnh cho cán bộ chiến sĩ trong toàn quân chủng nỗ lực vươn lên hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ, đánh thắng những bước leo thang chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mĩ đối với miền Bắc nước ta. Hơn thế nữa, lời dạy của Bác hôm đó thực sự đã đặt nền mòng cho tư tưởng chỉ đạo tác chiến phòng không, nghệ thuật tác chiến phòng không của chúng ta.

Ngay sau khi Bác đến thăm, theo chỉ thị của Đảng ủy Quân chủng, Cục Chính trị Quân chủng đã hướng dẫn các đơn vị phát động toàn thể cán bộ, chiến sĩ học tập và làm theo lời dạy của bác, thi đua lập công, quyết tâm đánh thắng giặc Mĩ xâm lược.

Bản chỉ thị nêu rõ những yêu cầu của đợt phát động:

1) Nêu cao quyết tâm chiến đấu, kiên định vững vàng, phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, dũng cảm chiến đấu, đánh thắng đế quốc Mĩ xâm lược.

2) Quán triệt tư tưởng chỉ đạo tác chiến “Đánh thắng trận đầu, đánh tiêu diệt, đánh chắc thắng”, phát huy quân sự dân chủ, tăng cường rèn luyện năng lực chỉ huy, trình độ kĩ thuật để bắn trúng nay từ loạt đạn đầu, bắn rơi tại chỗ nhiều máy bay địch, tiết kiệm đạn, trước mắt nhanh chóng đưa số máy bay Mĩ bị bắn rơi trên miền Bắc lên 400 chiếc.

3) Phát huy dân chủ, đề cao kỉ luật, tăng cường đoàn kết, hiệp đồng chiến đấu, lập công tập thể.

Nhiều đơn vị đã thảo luận quán triệt lời Bác dạy, đề ra chỉ thiêu phấn dấu, sôi nỏi phát động thi đua học và làm theo lời dạy của bác. Đặc biệt đối với bộ đội tên lửa, lúc này đang khẩn trương chuẩn bị ra quân đánh thắng trận đầu, tin Bác đến thăm và những lời dạy của Bác đã trở thành niềm cổ vũ hết sức lớn lao. Nghị quyết của đảng ủy trung đoàn 236 nhấn mạnh quyết tâm đánh thắng trận đầu, bằng quả đạn đầu, bắn rơi tại chỗ.


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Chín, 2010, 10:41:33 am
Lúc này trên những quả đồi ở Trung Hà thuộc huyện Ba Vì, mặt đất đang rung chuyển bởi hàng trăm xe pháo, bệ phóng. Một đội quân lớn đang được tập trung ở đây với đầy đủ các loại hỏa lực tầng cao, tầng trung, tầng thấp: Hai tiểu đoàn tên lửa 63, 64, ba trung đoàn pháo phòng không, gần mười đại đội súng máy cao xạ 14,5 mi-li-mét, hàng nghìn tay súng của dân quân tự vệ… Có thể nói đây là lần đầu tiên, Quân chủng Phòng không - Không quân chúng tôi tổ chức một trận đánh hiệp đồng binh chủng quy mô lớn như vậy, gồm cả ba binh chủng tên lửa, pháo phòng không, ra đa, có lực lượng phòng không địa phương tham gia. Lời dạy của Bác như còn văng vẳng bên tai, chúng tôi cảm thấy như Bác căn dặn riêng chúng tôi trước khi bước vào trận đánh này. Chúng tôi đặc biệt quan tâm chỉ đạo sâu vào hai vấn đề: Đánh thắng trận đầu và lập công tập thể. Đối với một đơn vị mới ra quân, trận đầu bao giờ cũng hết sức quan trọng. hơn nữa đây là trận đầu của Binh chủng Tên lửa mới được thành lập.

Trong trận đầu ra quân đầu tiên đó, thực hiện nghiêm chỉnh lời dạy của Bác, phối hợp chặt chẽ cá lực lượng, với nhân dân địa phương Hà Tây, bộ đội tên lửa đã lập được chiến công vang dội, bắn rơi tại chỗ chiếc máy bay thứ 400 trên miền Bắc. Cả hai tiểu đoàn 63, 64 thuộc đoàn Sông Đà, được Bác kí lệnh tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba và đồng chí Lê Đình Chi, sĩ quan điều khiến đầu tiên của tiểu đoàn 63 được Bác tặng thưởng một huy hiệu của Người.

Trận đánh vừa kết thúc thì trời đổ mưa như trút. Cả trận địa bỗng chốc trở thành một bãi lầy. Theo phương án tác chiến, đánh xong là phải rút ngay, những bệ phóng, những xe đặc chủng nặng nề, cồng kềnh đều bị lún ngập trong búng, hàng tiếng đồng hồ không nhích lên được. Cán bộ, chiến sĩ đã thấm mệt sau mấy ngày căng thẳng chờ địch. Một lần nữa bài học quyết tâm của Bác được nêu lên. Đồng chí Đặng Tính và tôi cũng xắn quần quá gối lặn lội với anh em trong mưa gió và bùn lầy. Một xe xích không kéo nổi một bệ, thì đấu hai xe xích, vẫn không kéo nổi thì đấu ba xe. Một cuộc vật lộn giữa con người và thiên nhiên diễn ra quyết liệt và cuối cùng, cán bộ, chiến sĩ đoàn tên lửa Sông Đà đẵ thắng một trận thứ hai. Trước khi trời sáng, toàn bộ khí tài đã được rút ra khỏi trận địa, chuẩn bị cho những trận đánh mới.

Ngay sau trận tháng đầu tiên ngày 24 tháng 7 năm 1965, Bác cho gọi tôi trực tiếp lên báo cáo. Nghe xong Bác tỏ ý hài lòng. Về nhiệm vụ chiến đấu tới, Bác chỉ thị một số điểm và nhấn mạnh hai điểm là phải đảm bảo bí mật, bất ngờ và đoàn kết lập công tập thể. Trong thư khen trong dịp quân và dân miền Bắc bắn rơi 400 máy bay giặc Mĩ, Bác động viên mọi người tiếp tục nêu cao “Quyết tâm đánh thắng giặc Mĩ xâm lược, lập nhiều thành tích to lớn hơn nữa”.

Thực hiện phương án tác chiến được Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh thông qua từ trước, những bộ khí tài tên lửa giả làm bằng cót được triển khai ở trận địa cũ để nhử địch đến. Một lực lượng phòng không lớn gồm hơn 120 khẩu pháo các cỡ, có lực lượng của dân quân tự vệ ba huyện Bất Bạt, Quảng Oai, Tùng Thiện phối hợp, bố trí suốt từ Trung Hà qua Phú Mĩ đến Ba Trại, chờ đón đánh địch. Khẩu hiệu “Thi đua làm theo lời Bác”, ‘Bắn rơi tại chỗ ngay từ loạt đạn đầu, bắt sống giặc lái”, “Đã có quyết tâm, phải đánh giỏi, đánh tiêu diệt” xuất hiện ở khắp nơi, trên vành mũ, trên hầm pháo.

Và trận đánh lớn tiếp theo đã diễn ra đúng như phương án. Ngày 27 tháng 7 năm 1965, hon 40 lần chiếc phản lực Mĩ bay rất thấp, điên cuồng lao tới đánh phá trận địa “Ra Cót”, tức những trận địa giả, để trả thù cho chiếc F.4-C bị bắn rơi ngày 24 tháng 7 năm 1965. Chúng bị đánh trả một đòn như trời giáng. Năm chiếc bị rơi.

Bị một đòn choáng váng, kẻ địch càng thêm lúng túng. Lầu năm góc đã vạch ra một vòng tròn bán kính 60 km, lấy Hà Nội làm tâm, cấm các máy bay Mĩ không được bén mảng tới.

Phát huy thắng lợi, các đoàn tên lửa được lệnh lên được tìm địch mà đánh, tiếp tục gây cho chúng những bất ngờ mới, đẩy địch vào thế bị động, liên tiếp giành thắng lợi vẻ vang.

Đêm 11 tháng 8 năm 1965, bằng ba quả đạn, tiểu đoàn 61 ưới sự chỉ huy của tiểu đoàn trưởng Hồ Sĩ Hưu diệt gọn một tốp A.4-E trên vùng trời Ninh Bình, có một chiếc rơi tại chỗ. Ngày 24 tháng 8 năm 1965, từ những trận địa ở nông trường Đồng Giao, chỉ trong vòng 30 phút, tiểu đoàn 63 dưới sự chỉ huy của tiểu đoàn trưởng nguyễn Văn Thân tiêu diệt ba máy bay địch. Ngày 26 tháng 8 năm 1965, tiểu đoàn 64 dưới sự chỉ huy của tiểu đoàn trưởng Nguyễn Ninh lại lập công xuất sắc, tiêu diệt hai F.105 của địch trên vùng trời Yên Bái.


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Chín, 2010, 10:42:27 am
V.

CHÚC CÁC CHÚ
BẮN RƠI NHIỀU MÁY BAY

Sau những chiến thắng liên tiếp trên bầu tời Hà Tây, Ninh Bình, Yên Bái, bộ đội tên lửa phòng không lần đầu tiên được Bác đến thăm. Tiểu đoàn E1, vinh dự được thay mặt bộ đội tên lửa đón Bác. Trong lúc máy bay Mĩ đang leo thang đánh phá, đưa bom đạn đến sát thủ đô Hà Nội, mà Bác vẫn xuống tận trận địa khiến các chiến sĩ vô cùng xúc động. Tôi dẫn Bác đi thăm trận địa và báo cáo với Bác quá trình xây dựng chiến đấu của bộ đội tên lửa. Bác đi thăm một lượt các khu vực trận địa. Thấy những chiếc lán bạt của bộ đội dưới các rặng cây vừa kín đáo, vừa mát mẻ, đẹp mắt, Bác tỏ ý hài lòng. Sau đó, Bác đến nơi bộ đội đã tập hợp chờ nghe Bác hói chuyện. Tiểu đoàn trưởng Hồ Sĩ Hưu, người vừa chỉ huy trận đánh sản xuất ở Ninh Bình, lúng túng vì quá xúc động chưa kịp báo cáo thì Bác đã hô: Chào! Rồi Bác thân mật:

- Các chú không biết chào đấy nhé. Giờ Bác hô tiếp để các chú làm theo: Ngồi xuống!

Cả tiểu đoàn phấn khởi tuân theo lệnh Bác. Thế là buổi nói chuyện của Bác được bắt đầu trong không khí chan hòa, không còn ự ngăn cách giữa lãnh tụ và quần chúng.

Mở đầu buổi nói chuyện, Bác khen ngợi thành tích mà bộ đội tên lửa vừa qua đã đạt được: “Hôm nay, Bác đến thăm các chú, thấy chú nào cũng vui vẻ, khỏe mạnh. Bác rất mừng. Bác vừa nghe chú Tài báo cáo các chú đã hạ được 12 máy  bay Mĩ. Như thế là rất tốt. Nếu ta phấn đấu làm sao bắn ít đạn hơn mà lại rơi nhiều máy bay hơn nữa thì càng ưu điểm”.

Tiếp đó, Bác nói: Hiện nay, chúng ta kháng chiến lần thứ hai. Chúng ta đang đánh giặc Mĩ, tên trùm đế quốc hung hãn xảo quyệt nhưng chúng ta nhất định sẽ thắng. Chúng ta phải tin tưởng sâu sắc ở Đảng, không được ngại gian khổ, sốt ruột. Chúng ta được sự giúp đỡ nhiệt tình của các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Chúng ta lại được sự đồng tình ủng hộ của nhân dân tất cả các nước. Đế quốc Mĩ đánh ta, nhưng nhân dân Mĩ lại ủng hộ ta. Về phía ta, chúng ta quyết tâm, chúng ta có Đảng sáng suốt lãnh đạo và lực lượng to lớn của nhân dân ta. Hồi cách mạng tháng Tám, chúng ta chỉ có 5.000 đảng viên thôi, nhưng Đảng nói: “Cách mạng nhất định thắng lợi. Có đúng không các chú?”. Bộ đội đồng thanh đáp: Đúng ạ! Trong kháng chiến trước đây, lực lượng thực dân Pháp rất mạnh. Nhưng lúc đó Đảng bảo: “Kháng chiến nhất định thắng lợi. Có đúng là thắng không?”. Bộ đội lại đồng thanh đáp: Đúng ạ! Đúng ạ! Lần này Đảng cũng bảo: “Ta quyết tâm đánh thắng giặc Mĩ xâm lược” thì nhất định ta cũng đánh thắng.

Chúng ta phải tin tưởng sâu sắc ở Đảng, đồng thời mỗi chúng ta cũng không đợc sợ khổ, sợ khó. Các chú cần đề cao ý thức lập công tập thể, thắng lợi không được tranh công, khó khăn không được đổ lỗi. Thắng lợi là thắng lợi của các lực lượng vũ trang và của toàn dân. Khi có khuyết điểm tốt nhất là mình nên nhận trước để sửa chữa. Một mặt khác, Bác dặn các chú phải hết sức quý trọng sức người, sức của của nhân dân. Nếu bất đắc dĩ phải chặt cây, chặt tre của đồng bào thì phải bàn bạc cùng chi bộ địa phương, trả tiền cho sòng phẳng. Một điều nữa là phải giữ gìn bí mật quân sự. Các chú phải dặn dò nhân dân giữ gìn bí mật cho mình.

Bác nhắc lại: chúng ta phải có quyết tâm cao, khắc phục mọi khó khăn, gian khổ. Trong chiến tranh, nhất định có khó khăn, gian khổ, nhưng so với khó khăn, ian khổ của đồng bào miền Nam đã và đang trải qua thì chưa thấm vào đâu. Lúc chiến đấu phải dũng cảm, thắng không kiêu, bại không nản. chúng ta phải có quyết tâm đánh thắng giặc Mĩ xâm ưlược, như vậy mới xứng đáng với lòng tin tưởng của Đảng, của nhân dân và của các nước anh em. Tóm lại phải đoàn kết, quyết tâm. Có đoàn kết mới có thể khắc phục khó khăn giành lấy thắng lợi được. Cuối cùng, Bác chúc các chú mạnh mẽ, hăng hái cố gắng học tập và thu được nhiều thắng lợi.

Hôm ấy, không phải chỉ riêng có cán bộ, chiến sĩ tiểu đoàn 61 dược đón Bác, mà các tiểu đoàn bạn đều được cử đại diện thay mặt anh em đến để đón Bác và nghe Bác dạy bảo. Những cán bộ, chiến sĩ đầu tiên của binh chủng kĩ thuật hiện đại, dưới sự hướng dẫn của đồng chí Phạm Hồng Liên, chủ nhiệm chính trị trung đoàn, ngồi sát bên nhau, sung sướng, tự hào, chăm chú lắng nghe như nuốt lấy từng lời dạy bảo quý báu của Bác.

Một năm sau ngày Bác đến thăm, tiểu đoàn 61 đoàn tên lửa Sông Đà, đã trở thành đơn vị Anh hùng, với những trận đánh xuất sắc như trận ngày 7 tháng 3 năm 1966, bằng một quả đạn diệt hai máy bay địch trên vùng trời quê hướng Bác; trận ngày 19 tháng 7 năm 1966, đáp lời kêu gọi thiêng liêng “không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Bác ngày 17 tháng 7 năm 1966, bắn rơi tại chỗ chiếc phản lực F.8 ngay trên bầu trời Hà Nội. Cũng chỉ hơn một năm sau ngày Bác Hồ đến thăm, đồng chí Nguyễn Tuyên, người đầu tiên của bộ đội tên lửa được tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Tiếp đó là các đồng chí Nguyễn Xâun Đài, sĩ quan điều khiến tiểu đoàn 61, Nguyễn Văn Thực, sĩ quan điều khiến tiểu đoàn 63, Phạm Trương Ủy, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 64, đều thuộc đoàn tên lửa Sôg Đà, lần lượt được tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Tín đến nay, toàn binh chủng có đến 5 trung đoàn, 8 tiểu đoàn, 12 cán bộ, chiến sĩ được tặng danh hiệu cao quý đó: (Và Binh chủng Tên lửa, ngay sau trận “Điện Biên Phủ trên không” lịch sử năm 1974 cũng đã được Đảng và Nhà nước tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân).

Tết năm 1966 (Tết Bính Ngọ), chúng tôi lại được vinh dự đón Bác tại trận địa trực ban chiến đấu. Buổi sáng mùng 1 Tết năm ấy mưa phùn nặng hạt nhưng khí trời ấm áp. Trung đội súng máy tự hành bảo vệ tiểu đoàn tên lửa 62 đóng quân trên  bờ đê Mai lĩnh đang làm nhiệm vụ trực ban chiến đấu thì được Bác đến thăm.

Bác hỏi bộ đội tiểu đoàn trực ban chiến đấu, mỗi ngày trực mấy tiếng? Ăn có no không? Ăn mặc có đủ ấm không? Có đủ vải ạt che mưa không?

Cứ đứng giữa trời như thế, Bác nói chuyện với đơn vị. Bác hỏi tuổi quân của vài chiến sĩ, hỏi trình độ văn hóa học đến lớp mấy. Bác khuyên dù bận trực ban chiến đấu cũng phải cố gắng mà học để tiến bộ mãi. Bác bảo: “Muốn đánh thắng không quân giặc Mĩ thì các chú phải học cho thật giỏi về mọi mặt”.

Bác rút trong túi ra tập thiếp chúc tết tặng mỗi chiến sĩ một tờ, rồi Bác lại lấy kẹo chia cho từng người. Các chiến sĩ sung sướng, cảm động.

Bác tiếp tục nói chuyện với các chiến sĩ thân mật như người ông căn dặn đàn cháu yêu quý của mình.

Cuối cùng, Bác giới thiệu đồng chí Tố Hữu cùng đi với Bác đọc thơ chúc tết bộ đội:

            Giặc Mĩ cứ đem mày đến đây
            Chúng ta pháo đã sẵn trong tay
            Lúa ta vẫn tốt, cây ra lộc,
            Xuân vẫn về cho ong bướm bay.


Đồng chí Tố Hữu đọc xong, Bác liền tặng thêm các chiến sĩ một câu:

“Chúc các chú bắn rơi nhiều máy bay”.

Các chiến sĩ cười vang, reo vui và vỗ tay hưởng ứng lời chúc tết của Bác.


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Chín, 2010, 10:43:43 am
VI.

VIỆC NHỎ, BÀI HỌC LỚN

Những lời căn dặn của Bác nhắc nhở chúng tôi một năm chiến đấu mới quyết liệt diễn ra trên toàn chiến trường và ngay cả trên miền Bác trước những bước leo thang cực kì nghiêm trọng của đế quốc Mĩ. Chúng đã ném bom vao kho xăng dầu thượng Lí ở Hải Phòng, kho xăng dầu Đức Giang ở Hà Nội, bắn tên lửa vào vài địa điểm nội thành.

Trong dịp này, ngày 13 tháng 7 năm 1966 bộ đội phòng không - không quân có hai đơn vị đại đội 6 và đại đội 12 thuộc đoàn thông tin Sóng Điện đóng quân ở chùa Trầm được Bác đến thăm.

Bác đến thăm hôm ấy thật bất ngờ.

Không ai báo trước một lời để chúng tôi chuẩn bị đón Bác. Ban chỉ huy trung đoàn cũng không biết. Đến cả Bộ tư lệnh Quân chủng cũng không hay. Đó là tác phong của bác. Đi thăm đâu không nên “tiền hô hậu ủng”. Bác thường nói với  các đồng chí cán bộ giúp việc là có như thế mới vừa giữ được bí mật, vừa nắm được thực chất tình hình. Nghe nói có lần một cơ quan nọ biết Bác sẽ đến thăm và biết Bác thích nơi nào cũng có vườn hoa cây cảnh, liền bắt anh em làm suốt đêm để biến một cái sân gạch thành một “vườn hoa”. Hôm sau bác đến phát hiện ra “vườn hoa” có dấu hiệu úa héo liền cầm thư một cây nhổ lên. Thế là bị bắt quả tang… Bác nói với đồng chí lãnh đạo cơ quan ấy, giọng Bác không vui: “Các chú làm như thế này để làm gì? Bác thích hoa, thích cây, nhưng là hoa thật, cây thật, chứ không phải là hoa giả, cây giả như thế này. Các chú cần nhớ trong công tác cũng như trong cuộc sống hằng ngày, cái thật bao giờ cũng đẹp, cũng quý hơn cả”.

Lần này đến thăm chùa Trầm, khi thấy chiếc ô tô con dừng lại ở chân dốc và một cụ già từ trong xe bước xuống, một chiến sĩ trông thấy liền reo lên:

- Bác Hồ! Các đồng chí ơi! Bác Hồ!

Bác giơ tay ngang mặt ra hiệu và nói nhỏ với đồng chí chiến sĩ ấy, giọng thân mật:

- Chú nói khẽ thôi kẻo lộ bí mật!

Năm đó, tuy đã 76, trông Bác vẫn hồng hào khỏe mạnh. Bác bước rất nhanh trên sườn đồi, đôi dép cao su êm nhẹ dưới chân, chiếc áo lụa màu nâu bay bay trong gió, cùng với mái tóc và chòm râu bạc phơ, lại giữa khung cảnh núi đồi tĩnh mịch của chùa chiền, nên trông Bác như một ông tiên.

Nơi đầu tiên Bác vào là nhà bếp của đơn vị. Các đồng chí nuôi quân vừa thấy Bác liền lập tức ngừng công việc ùa ra đón như đàn cháu thấy người ông đi xa lâu ngày trở về. Bác cười hiền từ vẫy tay đáp lại. Bác xem nơi nấu cơm, rồi ra chuồng lợn. Bác khen chuồng sạch, lợn béo. Tiếp đó, Bác hỏi việc tăng gia. Đại đội phó Đinh báo cáo ở đây toàn núi đá, đất ít, nước hiếm nên khó trồng rau. Bác nói hồi ở chiến khu Việt Bắc cũng có nơi cơ quan của Bác đóng rất hiếm đất, anh em trong cơ quan đã chuyển đá đi nơi khác vồi mang đất bùn ở dưới suối lên thay vào để trồng rau, bí kết quả rất tốt, màu nào cũng đủ rau ăn, có lúc dư thừa, đem biếu cơ quan bạn. Bác nói: “Chỉ cần có quyết tâm thì làm gì cũng được. Có trồng có ăn. Các chú chịu khó tăng gia tự cung tự cấp để đỡ một phần đón góp của nhân dân”. Bác còn nói vui: “ Khi nào trồng được rau các chú gửi lên biếu Bác một bó”. Chúng tôi nghe Bác nói mà cảm thấy vô cùng thấm thía. Rõ ràng là chúng tôi chưa thật cố gắng, còn cho mình là bộ đội chiến đấu thì Chính phủ phải cung cấp đầu đủ.

Trở lại nhà ăn, Bác mở lồng bàn xem kĩ một mâm cơm, hỏi anh em ăn như thế này có đủ no, đủ chất không? Bác động viên các đồng chí nuôi quân cố gắng nấu nướng cho tốt để bộ đội ăn ngon, ăn hết, mới đảm bảo sức khỏe, công tác và chiến đấu. Nhìn bảng kinh tế công khai của đơn vị, Bác thấy ngày hôm ấy chi ăn quá 1 đồng. Bác hỏi và khi đồng chí quản lí thưa với Bác là hôm nay anh em đi lao động ngoài trời nặng nhọc nên ban chỉ huy đại đội đồng ý chi thêm để tăng chất lượng nồi canh lên một tí. Nghe xong Bác khen bảo đảm cho đơn vị ăn hết tiêu chuẩn như thế là tốt. Nhưng muốn cải thiện thì phải tăng gia sản xuất thêm. Bác còn gợi ý nên tiết kiệm mỗi ngày một ít để hàng tuần, tháng tháng tổ chức cho anh em ăn tươi một lần.

Sau đó Bác vào phòng câu lạc bộ của đơn vị. Bác dừng lại khá lâu trước bức tranh Nguyễn Văn Trỗi, Lí Tự Trọng và tờ báo tường của đơn vị. Bác khen ở đơn vị mà tổ chức được câu lạc bộ, lại có cả báo tường như thế là tốt. Lúc này chính trị viên phó mới biết Bác đến, vội chạy ra đứng nghiêm báo cáo. Bác cười bảo Bác đã xem hết rồi còn báo cáo gì nữa. Bác dặn là cần cặp đủ báo để anh em thay nhau đọc. Dù thiếu thốn, gian khổ đến mấy cũng cần phải bảo đảm thật tốt đời sống văn hóa cho chiến sĩ.

Tin Bác đến như một làn sóng điện truyền nhanh đến các bộ phận,. Chẳng bao lâu cả hai đại đội tập hợp trước sân chùa, cả bộ phận công tác xa nhất cũng đã về đủ để nghe Bác nói chuyện. Bác nói về tình hình và âm mưu địch, về nhiệm vụ và quyết tâm của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta. Về nhiệm vụ của đơn vị, Bác nói: “Công tác thông tin liên lạc là một công tác rất quan trọng, nó như thần kinh mạch máu của con người. Do đó, nhiệm vụ của các chú rất quan trọng. Các chú phải cố gắng làm thật tốt nhiệm vụ của mình”. Bác hỏi trình độ văn háo của anh em rồi căn dặn: “Muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ các chú phải vừa chiến đấu vừa không ngừng học tập, nâng cao trình độ kĩ thuật. Muốn học tập kĩ thuật tốt, phải học văn hóa”. Về kĩ luật của bộ đội thông tin, Bác dạy: “Đây là sở chỉ huy quân chủng nên các chú phải hết sức giữ bí mật. Bác nhắc lại là phải giữ bí mật thật tốt, cứ như thế mới đánh thắng được địch.

Sau khi hỏi bộ đội có biết là hiện nay miền Bắc đã bắn rơi được bao nhiêu máy bay giặc Mĩ, và đồng chí hồi đã trả lời đúng, được Bác khen, Bác  tiếp tục nói vói bộ đội: “Là bộ đội thông tin các chú phải nắm vững tin tức, tình hình, chủ trương chính sách của Đảng và Chính phủ. Biết để thực hiện cho tốt, rồi còn để tuyên truyền rộng rãi trong nhân dân địa phương, để nhân dân hiểu và thông suốt cùng mình thực hiện”.


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Chín, 2010, 10:44:20 am
Hôm ấy Bác ở lại và làm việc suốt một ngày ở trong chàu Trầm. Bác bảo các chú cứ làm việc của các chú, Bác làm việc của Bác. Cùng làm việc hôm ấy với Bác có đồng chí Vũ Kì, thư kí riêng của Bác, đồng chí Trần Quốc Hoàn, Bộ trưởng Công an, đồng chí Hoàng Hữu Kháng, bảo vệ và đồng chí Lê Hoàng.

Sau này chúng tôi mới biết là hôm đó Bác muốn chọn một nơi thật yên tĩnh để hoàn thành văn kiện lịch sử “Lời kêu gọi chống Mỹ, cứu nước”, kịp công bố ngày 17 tháng 7 năm 1966. Và chính điều đó đã làm cho niềm vinh dự của chúng tôi được nhân lên gấp bội… chúng tôi có ngờ đâu cái ngày 13 tháng 7 năm 1966 ấy, cán bộ chiến sĩ đại đội 6, đại đội 12 đoàn thông tin Sóng Điện, được ở gần Bác, được chứng kiên nơi sản sinh ra lời hịch thiêng liêng của Bác Hồ  với những câu bất hủ: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm, hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do”.

Giữa chừng làm iệc buổi chiều, Bác nghỉ tay xuống bếp hỏi thăm các đồng chí anh nuôi. Bác lấy bao thuốc chia cho mỗi người một điếu, rồi nhìn quanh tìm đóm để châm lửa. Thấy vậy một đồng chí anh nuôi vội chạy lại đưa cho Bác bao diêm. Nhưng Bác lắc đầu và nói: “Cả bếp lửa đang hồng thế kia tha hồ mà dùng sao lại lãng phí một que diêm. Chú dành diêm để mà châm bếp. Chú có biết phải qua tay bao nhiều người mới làm ra được một que diêm không? Đất nước ta còn nghèo, lại đang có chiến tranh nên càng phải tiết kiệm”.

Câu chuyện về que diêm sau này trở thành một bài học sâu sắc trong toàn đơn vị mà Bác Hồ đã để lai cho chúng tôi. Một việc nhỏ thôi, một que diêm thôi mà bài học thì thật lớn. Mói hay rằng sự vĩ đại thường bắt nguồn từ sự bình thường nhất, giản dị nhất.

Trông thấy một ít cơm rơi vãi quanh bếp và rãnh nước, Bác liền phê bình: “Cácchú để cơm vãi như thế là không nên. Bà con nông dân phải một nắng hai sương mới làm ra được hạt gạo nên các chú phải hết sức tiệt kiệm, tránh lãng phí”.

Lúc đi dạo quanh chùa, Bác phát hiện ra một con đường mòn bị rào lại. Bác hỏi nguyên nhân tại sao. Khi được biết đó là con đường nhân dân vẫn thường dùng để đi làm, nay đơn vị về triển khai sở chỉ huy nên rào lại để giữ bí mật. Nghe vậy Bác hỏi ngay: “Thế nhân dân đi đường nào?”. Trước câu hỏi của bác toàn thể đơn vị đều bất ngờ không trả lời được. Bởi vì có ai quan tâm đến chuyện đó. Và một bài học thứ hai nữa vô củng thấm thía đã đến vói chúng tôi, khi được Bác nghiêm khắc dạy bảo: “Các chú làm như thế là không được. Cấm đường để giữ bí mật quân sự là đúng, nhưng các chú phải đắp con đường khác để nhân dân đi chứ. Đó là chưa nói việc các chú rào đường mà không có ý kiến của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân địa phương là khuyết điểm lớn. Giả sử ở nhà các chú có một lối đi, có người tự dưng rào lại, liệu các chú có chịu được không? Nhân dân có con đường để làm ăn sinh sống. Quân đội mang tiếng là quân đội của nhân dân lại đi ngăn lại như vậy, làm ảnh hưởng đến việc làm ăn của nhân dân là không đúng, không nên”.

Sau khi nghiêm khắc phê bình đơn vị, Bác liền tự vạch ra hướng khắc phục sửa chữa: “Bây giờ các chú phải vào trực tiếp xin lỗi dân và làm ngay một con đường mới để nhân dân đi làm, nhân tiện trồng cây xanh hai bên cho mát mẻ, sau này nếu mình chuyển đi nơi khác sẽ là công trình của bộ đội để lại kỉ niệm đẹp trong lòng dân”.

Bác hẹn cho đơn vị một tuân, làm xong báo cáo cho Bác biết. Tôi chỉ thị đơn vị cùng với đoàn tên lửa Sông Đà đóng quân gần đấy, thực hiện đúng lời Bác, chỉ một tuần sau làm xong con đường được nhân dân hết sức hoan ngênh. Nhiều cụ già trong làng vuốt râu tấm tắc khen “Như vậy mới đúng là bộ đội Cụ Hồ chứ”. Tôi trực tiếp kí giấy giới thiện cho đồng chí Mi trợ lí tuyên truyền thi đua của trung đoàn hằng ngày lên báo cáo với Văn phòng Phủ Chủ tịch việc khắc phục khuyết điểm do Bác chỉ ra. Khi được tin con đường đã hoàn thành, Bác gửi lời khen ngợi.

Hôm 13 tháng 7 năm 1966 đó, Bác làmviệc trong chàu đến gần tối mới lên xe ra về. Trước lúc chai tay, Bác còn ân ần căn dặn chúng tôi: “Các chú phải thường xuyên rèn luyện để thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng. Phải giữ gìn đoàn kết nội bộ, đoàn kết quân dân, làm cho nhân dân tin yêu bộ đội, giúp đỡ và bảo vệ bộ đội. Có dựa vào dân, đoàn kết với dân mới bảo vệ được mình, che mắt địch và đánh thắng địch”.

Bá còn dặn thêm là “Các chú phải tôn trọng tín ngưỡng của nhân dân, nơi đóng quân của các chú hiên nay là một di tích lịch sử, văn hóa, là một thắng cảnh, bây giờ chiến tranh ta phải dùng để phục vụ nhiệm vụ quân sự. Các chú phải biết giữ gìn, bảo quản để mai sau đất nước hòa bình làm nơi tham quan rất tốt…”.

Ghi sâu những lời Bác dạy, đoàn thông tin Sóng Điện đã thường xuyên vươn lên trong mọi mặt, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ. Trung đoàn đã được tặng thưởng hai huân chương Quân công, 12 tập thể  và cá nhân được tặng thưởng huân chương Chiến công. Này 30 tháng 10 năm 1978, trung đoàn đã được Đảng và Nhà nước tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Chín, 2010, 10:45:19 am
VII.

PHẦN THƯỞNG CỦA BÁC

Bác thường dành cho những người lái máy bay những tình cảm đặc biệt. Ngoài việc viết thư thăm hỏi động viên, tặng huy hiệu của Người cho người lái khi bẳn ơi được một máy bay, thỉnh thoáng Bác lại bảo tôi cho các chiến sĩ lái lên gặp Bác ở Phủ chủ tịch. Đó là những giây phút đầm ấm, đầy xúc động. Cùng đi thường có đồng chí Đặng Tính, Chính ủy và đồng chí Nguyễn Xuân Mậu, phó chính ủy Quân chủng.

Tháng 4 năm 1966, đồng chí Nguyễn Văn Bảy, Nguyễn Đức Mai cùng một số đồng chí khác được vinh dự lên gặp Bác. Anh em ngồi quây quần quanh Bác như đàn cháu xúm xít quanh người ông hiền từ.

Đồng chí Nguyễn Văn Bảy, quê ở miền Nam, định khi gặp Bác sẽ báo cáo trước ngày anh lên đường ra Bắc tập kết, anh đã cùng những cán bộ, chiến sĩ khác đến thăm và đắp phần mộ cụ thân sinh ra Bác, nhưng lúc này anh cũng quên mất.

Bác nói:

- Bác nghèo chẳng có gì cho các chú, Bác tặng mỗi chú một huy hiệu của Bác và mời các chú ăn kẹo.

Cũng từ lần đó, một ưu đãi đã dành cho những chiến sĩ không quân non trẻ, người lái mỗi lần bẳn rơi một máy bay Mĩ sẽ được tặng một huy hiệu của Người. Thấy chiếc huy hiện hơi nhỏ Bác đã chỉ thị phỉa làm những cái mới to hơn, đẹp hơn, và Bác trực tiếp duyệt hình mẫu.

“Bác nghèo, Bác chả có gì…”. Nhưng đây lại chinh là phần thưởng cao quý nhất, hành phúc lớn lao nhất trong cuộc đời người lái, được may mắn chiến đấu dưới sự lãnh đạo của Đảng, của Bác, và sự thương yêu chăm sóc trực tiếp của Người. Những trận đánh với máy bay Mĩ từ ngày đó có thêm ý nghĩa mới, không chỉ là để tiêu diệt địch góp phần bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, mà còn để giành được ngày càng nhiều phần thưởng cao quý của Bác.

Tháng 12 năm 1966. Lại có tin vui từ Văn phòng của Bác truyền tới. những chiến sĩ lái có thành tích chiến đấu lên gặp Bác.

Tôi hô nghiêm để báo cáo, nhưng chưa nói được Bác đã bảo:

- Chú Tài hô nghiêm mà không đi nghiêm à?

Bác giơ tay lên ngang mày, duỗi thẳng chân, bước vào phòng họp. những người lái giống như đàn con cháu, đón Bác bằng một tràng pháo cười.

Mở đầu câu chuyện Bác hỏi:

- Chú nào bắn rơi máy bay Mĩ?

Tất cả những nười lái có mặt đều giơ tay.

- Chú nào bắn rơi máy bay Mĩ trở lên.

Ba người giơ tay. Bác hỏi tiếp những người bắn rơi ba, hai và một máy bay địch. Bác trìu mến nhìn mọi người rồi nói:

- Các chú đánh khá, nhưng đừng thấy Bác khen mà mũi to ra!

Bác đưa hai ngón tay kéo mũi phình làm anh em cười ồ.

- Bắn rơi bốn chiếc còn ít. Các chú phải đánh giỏi hơn nữa. Chớ có chủ quan, tự mãn. Tự mãn như người ăn no rồi khó mà nhét thức ăn vào được nữa.

Tiếng cười rộn lên trong phòng hợp từ khi Bác vào.

Bác mời anh em uống trà, ăn kẹo và hỏi thăm sức khỏe, quê quán những người ngồi quanh. Bỗng Bác hỏi:

- Chú Ngô Đức Mai đâu?

Mai là một chiến sĩ trẻ mới tham gia chiến đấu không lâu. Anh mới bắn rơi một máy bay Mĩ nên lần này gặp Bác, anh ngồi lui ở phía sau. Mai không ngờ Bác lại biết tên mình.

Anh rụt rè hỏi Bác:

- Thưa Bác… Bác có khỏe không ạ?

Bác nhìn Mai, nhìn mọi người, tươi cười đáp:

- Bác vẫn khỏe. Các chú cứ bắn rơi nhiều máy bay Mĩ là Bác vui, Bác khẻo.

Trước khi những người lái ra về, Bác nhắc lấy phần kẹo và thuốc lá cho “các chú” ở nhà, những người hôm nay còn chưa có dịp được lên  gặp Bác.


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Chín, 2010, 10:46:40 am
Không lâu sau buổi gặp đó chính Ngô Đức Mai đã hạ đo ván tên đại tá phi công Mĩ No-man Ga-đi-xơ, tên giặc lái có trên 6.000 giờ bay, thuộc lái siêu đẳng của Mĩ. Khi có người hỏi vì sao hạ được No-man Ga-đi-xơ, Mai trả lời “Bám lấy thắt lưng địch mà đánh”. Đó là lời Bác dạy. Nhưng có sức mạnh tinh thần nào đã thúc đẩy, giúp anh làm đúng như vậy? Chắc chắn đó là: “Các chú cứ bắn rơi nhiều máy bay Mĩ là Bác vui, Bác khỏe”.

Sau khi gặp Bác về, Nguyễn Băn Bảy, quê ở Gò Vấp được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Liên đó, Bác gửi tặng anh một chiếc đồng hồ đeo tay. Ở nắp sau chiếc đồng hồ có khắc tên Hồ Chí Minh. Đây chính là chiếc đồng hồ của Đảng Cộng sản Liên Xô gửi tặng Bác. Anh vô cùng xúc động khi nhớ lại câu chuyện “Bác nghèo, Bác chẳng có gì…”. Bác chỉ dùng có một chiếc đồng hồ quả quýt, đã lâu ngày. Bác làm việc ở phủ Chủ tịch. Bác đến thăm bộ đội. Bác đi nươc ngoài, từ bao năm nay vẫn chỉ có bộ quần áo ấy. Chiếc đồng hồ Bác tặng như đã mang lại sức mạnh kì lạ cho đôi tay sử dụng cần lái của anh. Nó đã giúp chiếc máy bay cất cánh én của anh tung hoành ngang dọc giữa bầy F.105, F.4 thường đông hơn gấp ba, bốn lần, tránh được hàng chục phát tên lửa và tiếp tục bắn hạ thêm nhiều máy bay địch.

Tháng 12 năm sau, đến lượt Nguyễn Hồng Nhị quê ở Hoài Nhơn, Bình Định, được Bác gửi tặng một chiếc đồng hò đeo tay nữ. Theo lời Bác dặn, Nhị có thể đưa chiếc đồng hồ cho vợ anh dùng. Thực ra cả hai vợ chồng anh không ai dám đeo chiếc đồng hồ này. Đó là kỉ vật thiêng liêng của cả gia đình anh. Họ đã cất kĩ vào một chỗ, chỉ lây ra để nâng niu, chiêm ngưỡng khi có một sự kiện đặc biệt trong đời chiến đấu của anh. Đó là lúc anh nhận nhiệm vụ vào chiến đấu trên bầu trời quê Bác năm 1968, lần anh được trao nhiệm vụ làm trung đoàn trưởng một trung đoàn MIG.21, chuẩn bị cuộc chiến đấu quyết liệt với không quân Mĩ năm 1972 và khi anh được lên đường vào Nam tham gia chiến dịch lịch sử mùa xuân 1975.

Bác rất quan tâm đến người lái đang trực tiếp chiến đấu với kẻ địch trên bầu trời. Nhưng Bác không quên nhiều người khác làm những công việc khiêm tốn trên mặt đất để bảo đảm cho cuộc chiến đấu trên không thắng lợi. Bac đã khen thưởng đồng chí Đào Văn Lim. Một chiến sĩ lái xe dắt máy bay. Bác đã tặng huy hiệu cho đồng chí Nguyễn Tiên Phát, một công nhân có tuổi chuyên trách hệ thống nước và hệ thống nhà vệ sinh ở sân bay.

Trong hai năm 1966-1967, cuộc chiến tranh phá hoại diễn ra quyết liệt, Bác vẫn dành thời gian đến thăm bộ đội phòng không tại trận địa trực ban chiến đấu.

Đại đội 6, đoàn Tam Đảo được vinh dự đón Bác ngay tại mâm pháo, được Bác tự ay chia thuốc lá cho từng người. Đó là buổi sáng ngày 25 tháng 9 năm 1966.

Tại hầm pháo khẩu đội 5, Bác hỏi han tỉ mỉ các chiến sĩ “Ăn có đủ no không? Hằng ngày bữa cóm có thịt không? Tiếp đó Bác hỏi tình hình sinh hoạt, trực ban chiến đấu: “Mỗi ngày các chú trực ban mấy giờ? Ngủ mấy giờ?””.

Chúng tôi thấy trên nét mặt của Bác thoáng vẻ băn khoăn khi nghe các chiến sĩ báo cáo phải trực ban chiến đấu mỗi ngày bốn phiên, mỗi phiên hai tiếng giữa những ngày mùa hè nóng nực.

Bác động viên bộ đội:

- Các chú phải thường xuyên rèn luyện nhiều hơn nữa để đánh thắng trong mọi điều kiện. Khi nào các chú bẳn rơi máy bay Mĩ báo cáo ngay với Bác.

Bác thường xuyên nhắc nhở cán bộ các cấp trong quân chủng phải thực sự quan tâm đến đời sống vật chất và tinh thần của chiến sĩ. Bác còn lấy tiền nhuận bút của mình mua đường sữa gửi cho bộ độ phòng không - không quân, những chiến sĩ đang ngày đêm canh giữ bầu trời Tổ quốc. Tấm lòng thương yêu bao la của Bác đã thực sự tăng thêm sức mạnh cho bộ đội phòng không- không quân cùng các lực lượng vũ trang và nhân dân đánh thắng những bước leo thang chiến tranh của địch.

Năm 1967, kể từ tháng tư, giặc Mĩ liên tiếp mở nhiều đợt đánh phá bằng không quân với quy mô lớn vào trung tâm Hà Nội.

Đối với bộ đội phòng không - không quân, đặc biệt là đối với cán bộ, chiến sĩ sư đoàn 361, Hà Nội không những là trung tâm chính trị, văn hóa, kinh tế, đầu mối giao thông… mà trong từng trái tim của mỗi người còn là một cái gì thiêng liêng hơn, to lớn hơn. Đó chính là vì ở đây có Trung ương Đảng, có Bác Hồ kính yêu đang ngày đêm sống và làm việc.

Không thể nào quên những trận đánh hào hùng trên bầu trời Hà Nội đúng vào những ngày tháng 5 năm 1967, lập thành tích chào mừng sinh nhật Bác. Các đơn vị bảo vệ Hà Nội phối hợp chặt chẽ với các lực lượng vũ trang nhân dân khác đã liên tiếp chiến thắng được Bác gửi thư khen:

“Thân ái gửi đồng bào, bộ đội và cán bộ Thủ đô Hà Nội.

Từ ngày 25 tháng 4 đến nay, quân và dân Hà Nội liên tiếp đánh thắng vẻ vang, trừng trị đích đáng bước leo thang mới của giặc Mĩ.

Ngày 5 tháng 5 Hà Nội đã đánh giỏi, thắng lớn bắn rơi 8 máy bay Mĩ, diệt và bắt sống nhiều giặc Mĩ lái máy bay…

… Bác rất vui lòng thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ khen ngợi đồng bào, bộ đội và cán bộ Thủ đô ta.

Giặc Mĩ đã thua to nhưng chúng còn nhiều âm mưu xảo quyệt. Quân và dân Hà Nội chớ vì thắng lợi mà chủ quan thỏa mãn. Hãy luôn luôn nâng cao cảnh giác, chiến đấu giỏi, lầm tốt công tác phòng không nhân dân, lập nhiêu thành tích to lớn hơn nữa để xứng đáng là Thủ đô anh hùng.

Chào thân ái và quyết thắng
BÁC HỒ            

Chúng tôi bàn nhau trong Thường vụ tổ chức cho bộ đội đón thư Bác thật long trọng và quán triệt thật sâu sắc những lời Bác dạy trong thư. Anh Nguyễn Xuân Mậu được phân công trực tiếp chỉ đạo việc này. Đơn vị nào cũng đề ra khẩu hiệu “Cảm tử để bảo vệ Thủ đô”. “Quyết bắt giặc Mĩ phải đền tội ác trên bầu trời Hà Nội”, “Thi đua lập thành tích xuất sắc mừng sinh nhật Bác”.

Ngày 19 tháng 5 năm 1967, đáp lời kêu gọi của Bác, các đồng chí trong quân hủng đã hiệp đồng chặt chẽ với quân và dân các địa phương bắn rơi 13 máy bay Mĩ, lập thành tích xuất sắc mừng thọ Bác Hồ 77 tuổi. Đặc biệt có chiếc rơi ngay trên đường phố Lê Trực, chỉ cách nơi Bác chưa đầy một cây số. Đó là chiến công của đơn vị mà Bác đã đến thăm ngày 19 tháng 7 năm 1965.


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 25 Tháng Chín, 2010, 08:41:22 am
VIII.

BÁC HỒ, NGUỒN SỨC MẠNH

Sự quan tâm chăm sóc, giáo dục của bác với bộ đội phòng không - không quân thật vô bờ bến. Đó là “nguồn sức mạnh” như lời đồng chí Đặng Tính, Chính ủy Quân chủng đã khẳng định, để bộ đội phòng không - không quân dũng cảm vươn lên lập nên mọi chiến công.

Vinh dự càn lớn thì trách nhiệm càng cao. Chúng tôi luôn luôn tâm niệm một điều: Phải luôn xứng đáng với sự quan tâm, chăm sóc của Bác. Như đã thành thường lệ, mỗi lần chúng tôi đánh thắng, Bác lại gửi thư khen. Thư nào Bác cũng căn dặn chúng tôi không được chủ quan khinh địch mà phải luôn luôn nêu cao tinh thần cảnh giác. Bác luôn luôn nhắc nhở quân chủng phải báo cáo những gương chiến đấu dũng cảm và công tác tốt để Bác gửi tặng huy hiệu của người, còn đối với tập thể có công thì Bác gửi tặng lẵng hoa. Có lần quân chủng chưa kịp báo cáo, nhưng xem tờ tin phòng không - không quân thấy gương chiến đấu dũng cảm của chính trị viên Mai Văn Hợi, Bác đã lấy bút đánh dấu và ghi vào bên cạnh “Tặng một huy hiệu”. Tính đến cuối năm 1969 chỉ riêng các chiến sĩ tên lửa, cao xạ, ra đa đã có 12 đồng chí được tặng huy hiệu Bác Hồ. Có những đồng chí thuộc đơn vị chiến đấu như Lã Đinh Chi, Mai Văn Hợi, có đồng chí thuộc thành phần phục vụ như Cao Tiến Tân, chiến sĩ nuôi quân đại đội 5, đoàn Tam Đảo, đồng chí Trần Hiền Thúy, chiến sĩ gài báo vụ kiêm đánh dấu đường bay, đoàn Ba Bể… Còn không quân thì cứ mỗi lần bắn rơi một máy bay Mĩ được thưởng một huy hiệu Bác Hồ. Không thể nào quên không khí tưng bừng, náo nức của những buổi lễ đón nhận lẵng hoa và huy hiệu của Bác trong những ntăm chiến đấu ác liệt đó. Đối với Quân chủng Phòng không - Không quân, đó là những ngày hội thực sự, như được tiếp thêm nguồn sức mạnh đánh thắng kẻ thù.

Bác thường đến thăm chúng tôi phần nhiều vào những dịp đầu xuân. Trong mười lăm lần Bác đến thăm bộ đội phòng không - không quân có đến sáu lần vào dịp tết. Vào mùa xuân cuối cùng của cuộc đời mình, Tết Kỉ Dậu năm 1969, Bác đã dành cho bộ đội phòng không một cuộc đến thăm lịch sử. Vào khoảng 29 tết năm đó, tôi được điện của đồng chí Vũ Kì tổ chức cho bác đến thăm Quân chủng Phòng không - Không quân. Lúc này tôi đã nhận chức Phó Tổng tham mưu trưởng được hai năm, tôi có điều kiện gần Bác nhiều hơn và do đó cũng biết được tình hình sức khỏe của Bác đang có nhiều triệu chứng đáng lo ngại. Hội đồng bác sĩ đó có lời can ngăn Bác không nên đi lại nhiều. Nhưng Bác kiên quyết đề nghị để Bác đi thăm dân, thăm bộ đội nhân dịp Tết. Đi thăm dân, thăm bộ đội nhân dịp tết từ lâu đã trở thành niềm vui của Bác. Tôi nói với đồng chí Vũ Kì là cứ yên trí, tôi sẽ tổ chức một cuộc gặp mật đầu xuân của Bác thật chu đáo, vui vẻ.

Tôi điện cho đồng chí Đặng Tính triệu tập đầy đủ các thành phần gồm nhiều đại biểu tất cả các đơn vị, chiến sĩ anh hùng, chiến sĩ thi đua, chiến sĩ quyết thắng. Hội trường quân chủng sáng mùng tết năm ấy thật đầm ấm rộn ràng. Cùng đến chúc tết với Bác có đồng chí Nguyễn Lương Bằng và đồng chí Văn Tiến Dũng. Bên cạnh niềm vui ngày xuân đón Bác hôm đó còn có sự lo lắng của tất cả mọi người. Nhìn thấy Bác gầy hơn, yếu hơn mọi năm, bước chân không còn được nhanh nhẹn như trước, chúng tôi ai nấy lòng đều se lại. Nhưng chính Bác thì ẫn rất vui, ân cần thăm hỏi và chúc tết mọi người.

Bác khen các đồng chí anh hùng, chiến sĩ thi đua lập công hạ được nhiều máy bay giặc nhưng Bác không quên các chiến sĩ nuôi quân, các bác sĩ, y tá, các chiến sĩ thông tin. Đồng chí Vũ Thị Huệ, chiến sĩ thông tin; các đồng chí Tạ Thị Phương, Dương Công Lược, chiến sĩ nuôi quân; một bác sĩ và một y tá nữa được Bác gọi lên bắt tay.

Tiếp đó, Bác tươi cười hỏi:

- Cuộc họp hôm nay có mây đồng chí là anh hùng? Đồng chí nái nào bắn rơi nhiều máy bay Mĩ nhất?

Có tiếng đáp từ phía dưới vọng lên:

- Thưa Bác, đồng chí Nguyễn Văn Cốc ạ.

Bác nhìn khắp hội trường rồi hỏi:

- Chú Cốc đâu? Lên đây với Bác.

Một thanh niên vẻ mặt hiền hậu, vóc người to đậm, ngực lấp lánh những tấm huân chương và huy hiệu Bác Hồ, từ những hàng ghế phía sau, mặt đỏ bừng vì xúc động, tiến lên gặp Bác, nói nhỏ nhẹ:

- Thưa Bác, cháu đây ạ.

Bác cầm tay Cốc hỏi:

- Chú bắn rơi được mấy máy bay giặc Mĩ?

- Thưa Bác, chín chiếc ạ.

- Chú được thưởng mấy huy hiệu của Bác?

- Thưa… chín ạ.

Bác nhìn những huy hiệu năm cánh sao sáng bạc trên ngực Cốc như để kiểm tra rồi nói:

- Chú còn phải cố gắng có nhiều huy hiện hơn nữa…

Quay xuống phía dưới, Bác vui vẻ nói với mọi người:

- Năm nay là năm Kỉ Dậu, năm con gà. Theo tiếng Pháp, Cốc là con gà… Năm mới, Bác mong không quân ta có nhiều Cốc hơn nữa…

Khi trung đoàn tên lửa 238 biếu Bác con lợn tăng gia được trong hoàn cảnh chiến đấu khẩn trương, Bác rất cảm động. Bác khen đơn vị tăng gia giỏi và nói vui: “Các chú biếu Bác, Bác rât cmả ơn, nhưng nếu Bác nhận thì người ta sẽ bảo Bác tham. Bây giờ Bác có ý kiến thế này. Đơn vị đem bán con lợn cho đơn vị ngoài này, rồi dùng tiền đó để làm vốn tiếp tục nuôi con khác”. Mọi người vui vẻ hưởng ứng gợi ý của Bác… Chúng tôi đặc biệt ghi sâu lời dạy của Bác: “Các chú phải luôn luôn cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu. Không tin được Mĩ đâu, chúng nó xảo quyệt lắm, chúng là bọn đế quốc xâm lược. Phải luôn luôn sẵn sàng chiến đấu để khi nó giở quẻ thì mình đập lại được ngay”.

Lời dạy quý báu đó của Bác đã giúp chúng tôi đánh trả kẻ địch có hiệu quả khi đế quốc Mĩ phản bội lời cam kết, mở lại cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai đối với miền Bắc ngày 6 tháng 4 năm 1972. Hồi đó, sư đoàn không quân 363B do đồng chí Trần Nhẫn làm tư lệnh, đồng chí Đinh Phúc Hải làm chính ủy đã nổ những phát súng đầu tiên vào bọn không quân Mĩ, đánh thắng một trận xuất sắc trên vùng trời Quảng Bình, bắn rơi năm máy bay của chúng, có ba chiếc rơi tại chỗ. Và khi bè lũ Ních-xơn, Kít-xinh-giơ tung màn khói “hòa bình trong tầm tay”, rồi lật lọng giở quẻ bất ngờ dùng B.52 mở cuộc tập kích chiến lược vào Hà Nội, Hải Phòng, bộ đội phòng không - không quân đã chủ động đánh trả kịp thời. Ngay đêm đầu tiên, đêm 18 tháng 12 năm 1972, chúng đã bị ta giáng một đòn phủ đầu đích đáng, ba chiếc bị bẳn ơi, hai chiếc rơi tại chỗ.

Chung tôi không ngờ lời dạy của Bác mùa xuân Kỉ Dậu năm 1969 đó là lời dạy cuối cùng của Bác Hồ đối với bộ đội phòng không - không quân. Chỉ hơn 6 tháng sau, Bác đã vĩnh viễn đi xa.


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 25 Tháng Chín, 2010, 08:42:11 am
IX.

CHÚ ĐÃ BIẾT GÌ VỀ B.52 CHƯA?

Nước Mĩ cho bay thử chiếc B.5 đầu tiên vào ngày 16 tháng 4 năm 1952, trước trận “Điện Biên Phủ trên không” 20 năm. Lúc ấy chúng ta đang đánh Pháp chủ yếu bằng súng trường. Mãi đến ngày 1 tháng 4 năm 1952, trung đoàn pháo cao xạ 37 mi-li-mét đầu tiên mới được thành lập. Hồi ấy, thậm chí cái tên B.52 chúng tôi cũng chưa được nghe nói đến. Mặc đù sau khi bay thử xong, bọn trùm hiếu chiến ở Lầu Năm góc đã làm rùm beng về loại “siêu pháo đài bay”

Năm 1962, mười năm sau khi chiếc B.52 đầu tiên ra đời, tôi được bổ nhiệm là tư lệnh bộ đội phòng không. Trước khi nhận nhiệm vụ mới, tôi được Bác gọi lên. Tôi nhớ nhất một lời dạy của Bác hôm đó:

- Bây giờ chú là tư lệnh phòng không, vậy chú đã biết gì về B.52 chưa?

Nghe Bác nói mà tôi cứ ngớ ra, không ngời Bác lại hỏi về loại máy bay này.

Thấy tôi lúng túng, Bác cười độ lượng:

- Nói thế thôi chú có biết cũng chưa làm gì được nó. Nó bay cao trên 10 cây số mà trong tay chú hiện nay mới chỉ có cao xạ thôi. Nhưng ngay từ nay, là tư lệnh bộ đội phòng không, chú phải theo dõi chặt chẽ và thường xuyên quan tâm đến thằng B.52 này.

Sau chiến tranh thế giới thứ hai, ngành hàng không trên thế giới có bước phát triển mới rất mau lẹ. Các nước sản xuất ra các loại máy bay phản lực hơn hẳn máy bay cánh quạt cả về tốc độ, trọng tải và bay đường dài… Trong chiến tranh Triều Tiên 1950-1953, Liên Xô đã có MIG.15, Mĩ có F.84… Có thể nói, thế hệ máy bay cánh quạt đã nhường chỗ có máy bay phản lực. Về lí thuyết, tôi đã được học về tính năng, tác dụng của các loại máy bay phản lực này, thế nhưng để có thể trị được các loại “ép” của Mĩ bay với tốc độ bằng hoặc hơn tốc động tiếng động, với trình độ trang bị vũ khí và kĩ thuật của quân đội ta lúc này quả là một việc không dễ dàng. Đánh thế nào đây là điều mà tôi cứ trăn trở, suy nghĩ mãi.

Tháng 10 năm 1963, bộ đội phòng không và bộ đội không quân ta có quyết định hợp nhất lại thành Quân chủng Phòng không - Không quân. Tôi được bổ nhiệm làm tư lệnh đầu tiên của quân chủng này. Chính ủy là đồng chí Đặng Tính, kiêm Bí thư Đảng ủy.

Khi được quyết định hợp nhất, tôi đã mừng thầm, nghĩ phòng không chưa có vũ khí đánh được B.52 thì chắc là không quân có khả năng đánh được. Nhưng thực tế không như tôi tưởng. Lúc này, không quân ta cũng mới chỉ có mấy đơn vị máy bay vận tải, còn một trung đoàn MIG.17 thì đang luyện tập ở nước bạn chưa về. Mà có về thì với tính năng hạn chế, cũng không thể hạ nổi B.52.

Tuy vậy nhớ lời dạy của Bác, chúng tôi bắt đầu để tâm suy nghĩ về B.52. Tôi chỉ thị cho cơ quan tác chiến, quân báo, bằng mọi cách thu thập cho tôi toàn bộ tính năng tác dụng của loại pháo đài bay này. Tôi vốn là người không biết sợ là gì, thế mà lần ấy nghe sĩ quan báo cáo sơ bộ về B.52 tôi cũng hơi hốt. Việc nó bay cao 10-15 ki-lô-mét, bay trong mọi thời tiết… thì mặc kệ thây nó. Nó bay cao hơn tầm bắn cao xạ rồi ta có vũ khí bắn cao hơn, việc này Bác biết rồi. Đảng và Bác sẽ lo. Còn nó bay trong mọi thời tiết thì ta cũng sẽ trực ban chiến đấu trong mọi thời tiết. Về mặt này thì dù loại vũ khí gì cũng phải chịu thua con người Việt Nam. Nhưng khi nghe báo cáo về tính năng, tác dụng cảu B.52 thì thấy quả thật nền công nghiệp chiến tranh của Mĩ thật là đồ sộ và B.52 là một sản phẩm đồ sộ của nó.

Tôi hình dung một vật thể nặng hơn 200 tấn lướt trên đường băng, rồi cất cánh lên trời mà không thể tưởng tượng nổi trong khi một chiếc xe tăng chạy trên mặt đất chỉ nặng 54 tấn hoặc 76 tấn là cùng. Hèn chi mà nó gọi B.52 của nó là “siêu pháo đài bay”, là “pháo đài bay thượng đẳng”, “bất khả xâm phạm” và một thời trở thành “con chủ bài, con ngáo ộp” trong chiến lược răn đe của chúng! Tôi nhớ có một đồng chí cán bộ chiến tranh miền Nam ra Bắc họp có mang theo một tờ truyền đơn của bọn Mĩ thả xuống. Một tờ truyền đơn hoàn toàn mang tính chất hăm dọa, vẽ hình chiếc B.52 với tám chiếc động cơ phản lực, chỉ trong vòng từ 1 đến 3 phút, 30 tấn bom sẽ ập xuống khu vực định oanh tạc và sẽ hủy diệt hoàn toàn mọi sinh vật trong khu vực rộng lớn chiều dài 3 ki-lô-mét, chiều rộng 0,800 ki-lô-mét.

Ngay từ hồi ấy, một câu hỏi luôn luôn bám chắc vào đầu chúng tôi, cả trong bữa ăn, trong giấc ngủ: “Liệu B.52 nó vào Hà Nội thì sẽ ra sao?”. Tôi nhẩm tính chỉ cần 10 chiếc B.52 lọt được vào Hà Nội thôi, cũng đủ gây cho ta tổn thất nặng nề, không lường hết được.

Có lẽ chính vì vậy mà ngay từ rấ sớm, Bác Hồ đã quan tâm đến loại máy bay này.


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 25 Tháng Chín, 2010, 08:42:48 am
*
*   *

Cuộc chiến tranh ở miền Nam Việt Nam ngày càng phát triển, càng quyết liệt, cùng với sự gia tăng lính viễn chinh Mĩ. Quân và dân miền Nam càn đánh càng mạnh. Ngụy quân ngụy quyền thua liểng xiểng. Bom đạn Mĩ có nguy cơ không cứu nổi bọn tay sai. Vì vậy, ngay từ năm 1965, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mĩ Mắc Na-ma-ra đã yêu cầu Bộ tư lệnh không quân chiến lược nghiên cứu khả nặng dùng B.52 ném bom trên chiến trường miền Nam. Nguyên là B.52 được sinh ra để làm nhiệm vụ chiến lược, mang bom hạt nhân. Bây giờ, cực chẳng đã, phải dùng vào nhiệm vụ chiến thuật nên phải cải tiến cơ cấu mang bom, nghiên cứu cách ném bom thông thường.

Đầu tháng 2 năm 1965, Tham mưu trưởng liên quân Mĩ quyêt định triển khai các máy bay B.52 cải tiến từ căn cứ An-đéc-xơn ở Gu-am. Chúng được lệnh sẵn sàng cất cánh oanh tạc những mục tiêu ở miền Bắc Việt Nam để trả đũa những hành động “khủng bố” của “Việt cộng” đối với các nhân viên Mĩ ở miền Nam.

Từ lâu, viên tư lệnh quân viễn chinh Mĩ ở miền Nam Việt Nam Oét-mo-len muốn sử dụng máy bay B.52 yểm hộ cho bộ binh trong các cuộc hành quân trên bộ, nhưng chưa được Lầu Năm Góc chấp nhận. tháng 4 năm 19655, sau khi bọn không quân chiến thuật tỏ ra hoàn toàn bất lực trong các trận oanh tạc đối phương ở mặt trận núi Bà Đen, Oét-mo-len càng khẩn khoản đề nghị dùng B.52 để thay thế. Chúng cho rằng, với khối lượng lớn mang theo, B.52 có khả năng thực hiện kiểu oanh tạc có kế hoạch trên khu vực rộng lớn, để hủy diệt các căn cứ được bố trí phân tán của “Việt cộng”. Ngày 19 tháng 4 năm 1965, sau khi gặp Oét-mo-len ở Hô-nô-lu-lu, trực tiếp nghe viên tư lệnh chiến trường thiết tha đề nghị Mắc Na-ma-ra đã quyết định sử dụng các máy bay ném bom chiến lược vào hoạt động chiến thuật ở miền Nam Việt Nam. Tiếp đó, Hội đồng tham mưu trưởng liên quân Mĩ đã chỉ thị cho Bộ tư lệnh không quân chiến lược và sư đoàn 3 không quân ở Gu-am chuẩn bị máy bay B.52 tham gia chiến dịch mang tên “”Cung sáng”.

Oét-mo-len hi vọng các cuộc oanh tạc của B.52 sẽ hủy diệt các vùng căn cứ của “Việt cộng”, những nơi mà máy bay thông thường và các cỡ đại bác đã bất lực trước tinh thần ngoan cường và nghệ thuật biến hóa tài giỏi của đối phương.

Ngày 18 tháng 6 năm 1965, sư đoàn 3 không quân của Bộ tư lệnh không quân chiến lược đã thực hiện cuộc oanh tạc đầu tiên vào khu Bến Cát, tây bắc Sài Gòn, 30 chiếc B.52 đã vượt chặng đường dài 8.850 ki-lô-mét trong 12 giờ liền, từ Gu-am đến Nam Việt Nam, thực hiện trận ném bom rải thảm đầu tiên trên thế giới. Kể từ đó, cường độ hoạt động của B.52 ngày càng tăng theo nhịp độ phát triển của chiến trường. Các phương tiện ném bom, dẫn đường… cho B.52 cũng ngày càng được cải tiến.

Tin tức về các máy bay chiến lược B.52 tăng cường ném bom ở miền Nam, hằng ngày được các cơ quan Bộ tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân tổng hợp nghiên cứu. Lúc này, chúng ta vừa thành lập xong một trung đoàn tên lửa phòng không SAM.2, đang khẩn trương huấn luyện để ra quân. Bác Hồ, các đồng chí Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng và các đồng chí lãnh đạo khác của Đảng và Nhà nước tỏ rõ sự quan tâm đặc biệt đối vợi sự kiện này. Bởi SAM.2 chính là đối thủ của B.52, là vũ khí duy nhất mà chúng ta có trong tay để có thể trừng trị được B.52.

Ngày 12 tháng 4 năm 1966, lần đầu tiên, đế quốc Mĩ cho B.52 đánh ra đèo Mụ Giạ, rồi đánh thẳng vào Vĩnh Linh, đẩy cuộc leo thang lên một mốc cao mới. Bon đạn ở Vĩnh Linh vô cùng ác liệt. Điều tên lửa vào đó khác gì đưa mồi vào miệng thú. Nhưng rồi hằng ngay được báo B.52 đang mặc sức tung hoành, cào nát mảnh đất Vĩnh Linh, nhân dân phải xuống địa đạo, trẻ em phải sơ tán ra Bắc, chúng tôi không chịu được nữa. Ý nghĩ đưa tên lửa vào Vĩnh Linh càng nóng bóng trong đầu tôi.

Một lần tôi lên báo cáo với Bác suy nghĩ của mình. Bác trầm ngâm suy nghĩ một lúc rồi thong thả nói:

- Đúng! Muốn bắt cọp thì phải vào tận hang. Chú cứ về sưy nghĩ thêm đi, và tranh thủ trao đổi thêm với các đồng chí xung quanh.


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 25 Tháng Chín, 2010, 08:43:59 am
Tôi mừng quá. Thế là Bác đã hiểu nỗi lòng của tôi. Về đến sân bay Bạch Mai, thấy anh Đặng Tính đang đứng ở cổng, tôi xuống xe vào kéo anh vào nhà. Tôi trình bày toàn bộ suy nghĩ của mình, về việc đưa tên lửa vào Vĩnh Linh đánh B.52.

Thật sung sướng làm sao khi nghe đồng chí Đặng Tính nói rằng chính đồng chí cũng đang suy nghĩ như thế.

Chúng tôi nhanh chóng thống nhất và đưa kế hoạch ra bàn trong Thường vụ Đảng ủy và Bộ tư lệnh. Mọi người đều nhất trí. Sau đó kế hoạch được báo cáo lên Bộ Tổng tham mưu và được các đồng chí thủ trưởng chuẩn y. Các đồng chí căn dặn là phải dự kiến thật hết mọi khó khăn, kế hoạch phải thật chủ đáo, tỉ mỉ.

Trung đoàn 238, trung đoàn tên lửa thứ hai của quân đội tra được giao trọng trách mở đầu nhiệm vụ nặng nề này và những dự kiến về khó khăn, ác liệt đã được thực tế xương máu trả lời. Ra đi từ tháng 4 mà mãi đến cuối năm 1966, đầu năm 1967 các tiểu đoàn hỏa lực mới tới được Vĩnh Linh, nhưng cả 4 tiểu đoàn đều bị địch đánh tổn thất nặng. Các tiểu đoàn 84, 83 bị mất sức chiến đấu. “Hận Phủ Định”, “hận Cổ Kiềng”(1) sẽ mãi là mối hận trong lòng mỗi cán bộ, chiến sĩ trung đoàn 238.

Nhưng không gì ngăn được quyết tâm của cán bộ, chiến sĩ bộ đội tên lửa trung đoàn 238. Khí tài bị đánh hỏng họ lại kéo quân ra Bắc nhân khí tài mới, rồi lại kéo vào tuyến lửa. Lại đào hầm hào, xây dựng trận địa, lại “tàng hình rình mồi”, quyết phục hận cho bằng được B.52.

Những cuộc hành quân của các tiểu đoàn tên lửa vào giới tuyến Vĩnh Linh với những bệ phóng cồng kềnh, những xe đặc chủng vừa to, vừa cao, vượt qua những đoạn đường bị máy bay giặc tọa độ, khống chế ngày đêm… là những bài ca tuyệt vời về chủ nghĩa anh hùng cách mạng, về tinh thần khắc phục khó khăn. Cả một hệ thống lăn xuống bìa rừng ở Khe Tang, cả một đài điều khiến đâm nhào xuống nước mặn ở đèo Lí Hòa… đã trở thành những chuyện bình thường trong cuộc “trường chinh” gian khổ đó. Nhưng đưa được tên lửa vào Vĩnh Linh mới chỉ làm một chặng đường đầu tiên trên con đường dài đi đến chiến thắng B.52. Điều quan trọng hơn là các hệ thống trụ lại được trên mảnh đất có mật độ bom đạn vào loại nhất nhì trong các cuộc chiến tranh trên thế giới. Ở đây hầu như hằng ngày, bộ đội tên lửa phải náu mình dưới sức ép từ ba phía của kẻ thù: bom đạn từ trên trời của các loại máy bay trút xuống, đại bác từ các căn cứ pháo binh địch từ bờ nam sông Bến Hải bắn sang và pháo bầy từ các tuần dương hạm Mĩ từ ngoài biển thay nhau bắn vào. Có cả loại pháo cực nhanh cỡ 400 mi-li-mét. Kẻ địch bộ lộ rõ ý định muốn “làm cỏ” những bệ phóng SAM.2 của Bắc Việt ngay từ khi nó mới đặt chân đến. Vào khoảng tháng 6, tháng 7 năm 1966, tin “một trung đoàn tên lửa SAM.2 của Bắc Việt đang trên đường vào Vĩnh Linh” đã làm cho Lầu Năm Góc hoảng sợ, và chúng quyết tiêu diệt những bệ phóng này bằng mọi giá. Nhưng nhân dân Vĩnh Linh anh hùng cũng nêu cao quyết tâm bảo vệ những bệ phóng thân yêu của mình bằng mọi giá, kể cả bằng xương máu và tính mạng. Họ hiểu rằng chính những bệ phóng này sẽ trừng trị lũ B.52 hung ác đã từng gây nên biết bao thảm họa đối với đồng bào. Nhân dân Vĩnh Linh, đặc biệt là anh chị em công nhân nông trường Quyết Thắng, nông trường Việt - Trung đã thực sự coi các chiến sĩ tên lửa như người thân của mình. Dưới con mắt của đồng bào, hình ảnh các chiến sĩ tên lửa là những chàng trai dũng cảm tuyệt vời, những Thạch Sanh của thời đại mới, dám xông vào nơi nguy hiểm để diệt trừ yêu quái, đem lại yên vui cho mọi người. Chắc chắn rằng không có sự thương yêu đùm bọc của nhân dân Vĩnh Linh thì những bệ phóng không thể tồn tại được ở đó. Nhờ sức mạnh của lòng dân, cả một trận địa tên lửa gồm các bệ phóng, khu trung tâm điều khiến, các máy phát điện… được đưa xuống lòng đất chỉ với hai bàn tay lao động, với cuốc xẻng thô sơ. Có thể nói đó là những kì tích của quân và dân ta. Thử hỏi còn có nơi nào trên hành tinh này mà một dân tộc phải sống và chiến đấu trong những điều kiện khắc nghiệt như thế?

Ở Hà Nội, chúng tôi theo dõi chặt chẽ cuộc chiến đấu của bộ đội tên lửa trên mặt trận Vĩnh Linh và thường xuyên báo cáo với Bác. Bác hỏi thăm từ việc đánh phá của địch đến việc sinh hoạt ăn ở của anh em ở trận địa. Điều khổ tâm lớn nhất của tôi trong những ngày này là chưa có tin chiến thắng bắn rơi B.52 để báo cáo với Bác.

Nhân dịp Quốc khánh 2 tháng 9 năm 1967, tôi được gọi lên báo cáo với Bác về tình hình chiến đấu của bộ đội phòng không - không quân. Bác rất vui, khen ngợi chiến thắng của quân và dân Hà Nội, rồi đột ngột đưa tay về phía tôi: “Thế còn B.52 đâu?


(1) Hai địa danh có trận địa bị địch đánh nặng nhất.


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 25 Tháng Chín, 2010, 08:44:50 am
X.

CHIẾC B.52 ĐẦU TIÊN

Câu hỏi của Bác làm tôi rất khổ tâm. Suốt đêm đó, tôi hầu như không chợp mắt. Tôi cảm thấy mình chưa làm tròn nhiệm vụ. Bộ đội tên lửa vào Vĩnh Linh thế là đã được gần một năm, biết mấy hi sinh, biết bao xương máu. Có đồng chí khi ngã xuống biết mình không sống được đã trối trăng lại đồng đội: “Nếu tôi chết hãy đặt đầu tôi hướng về miền Nam”. Hồi đó trong bộ đội tên lửa trung đoàn 238 có phong trào thi đua “Thực hiện lời dạy của bác quyết đánh thắng B.52, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc”. Khi hi sinh được quay đầu về hướng Nam là biểu lộ quyết tâm không lay chuyển nổi của cán bộ chiến sĩ trung đoàn 238, bằng mọi cách phải bắn rơi bằng được B.52 của địch.

Bộ đội thì dũng cảm, hi sinh như vậy, nhân dân Vĩnh Linh anh hùng, không tiếc một thứ gì để phục vụ bộ đội đánh thắng, vậy tại sao B.52 chưa bị trừng trị? Trách nhiệm đó phải là của chúng tôi, những người lãnh đạo chỉ huy. Chúng tôi tự hỏi đã làm hết sức mình, đã làm hết khả năng, đã “suy nghĩ đến bạc đầu” để thực hiện khẩu hiệu “Tất cả đề đơn vị đánh thắng” chưa? Chúng tôi ngồi lại với nhau, nghiêm khắc kiểm điểm mình. Đành rằng trong thời gian qua, kể từ ngày 29 tháng 6 năm 1966, đặc biệt là từ tháng 4 năm 1967, giặc Mĩ điên cuồng leo thang đánh phá Hà Nội, nhiệm vụ trung tâm của Quân chủng Phòng không - Không quân là phải bằng bất kì giá nào đánh thắng địch, bảo vệ vững chắc Thủ độ của đất nước, nơi có Bác Hồ đang sống và làm việc. Nhưng nhiệm vụ đánh B.52 là điều không được một phút lơi lỏng, nhất là khi đã đưa cả một trung đoàn tên lửa vào mảnh đất nóng bỏng Vĩnh Linh, thì trách nhiệm lại càng hết sức nặng nề. Thế nhưng từ ngày bộ đội vào, ngày đêm đội bom đạn tìm cách đánh B.52, trong Bộ tư lệnh chúng tôi, chưa có ai vào với anh em cả, kể cả các đồng chí trong Bộ tư lệnh Binh chủng Tên lửa. Thiếu sót đó là đặc biệt nghiêm trọng. Bởi rõ ràng chỉ huy chiến đấu không thể chung chung, phó mặc cho cấp dưới làm được đến đâu hay đến đó. Không kể về số tổn thất trrên đường đi, mà khi vào đến nơi, địch còn đánh vào một số trận địa, làm hỏng một số khí tài, một số đồng chí tiếp tục hi sinh. Việc đúc rút kinh nghiệm, nghiên cứu B.52 cũng chưa được chỉ đạo chặt chẽ mà chỉ nhằm vào việc phóng đạn đánh B.52 mà đôi lúc quên mất một nhiệm vụ quan trọng khác là tìm hiểu B.52, phát hiện ra những điểm mạnh, điểm yếu của nó, rút ra được những quy luật hoạt động của nó. Như có lần Bác đã dạy chúng tôi: “Các chú đã vào đến được hang cọp rồi, tuy chưa bắt được “cọp” nhưng cũng đã chính mắt nhìn thấy nó đi về. Các chú phải cố nhìn cho thật kĩ để sau này nó ra ngoài này là nhận được mặt nó ngay”.

Sau khi kiểm điểm theo yêu cầu của anh Tính, chúng tôi nhất trí để anh Tính vào kiểm tra mọi mặt tình hình của trung đoàn 238. Thật là một chuyến đi vất vả. Phà Long Đại bị địch khốn chết chặt chẽ, không có phà qua sông, anh Tính phải để xe bên bờ bắc, tìm cách lội bộ sang bờ nam và sẽ có xe 238 ra đón. Nhưng chiếc xe 238 này bị địch đánh trúng, đồng chí lái xe hi sinh. Anh Tính đã không ngăn được nước mắt, vừa xúc động vừa căm thù, nghiến răng chặt lại, cuốc bộ tiếp tục chuyến công tác của mình. Anh đến tận các trận địa, vào trong xe điều khiến với trắc thủ, ngủ cùng hầm, ăn cơm mắm kem với chiến sĩ. Anh hòa với bộ đội như tác phong thường thấy của anh.

Chuyến đi của anh Tính kéo dài gần một tháng. Khi trở về Hà Nội, người anh gầy sắt lại, đen nhẻm, hai mắt trũng sâu. Trong buổi họp Thường vụ đầu tiên khi vừa từ tuyến lửa trở về, anh Đặng Tính xúc động nói:

- Một năm qua chúng ta ngồi ở Hà Nội, chúng ta không nắm hết được tình hình. Chúng ta để anh em thiếu thốn nhiều quá, khí tài bị địch đánh hỏng phải chắp vá dồn lắp, linh kiện thiếu thốn, nhiều lần phải đi bộ hàng chục cây số dưới bom đạn để hàn một bộ phận khí tài… Điều đó chúng ta có thể chấp nhận được, mặc dầu nếu chúng ta sâu sát hơn, thì trung đoàn có thể khắc phục. Nhưng còn cái việc để anh em thiếu từng cuốn sổ đăng kí phần tử là điều chúng ta không thể tha thứ, ngay cả với thường vụ chúng ta…

Ngừng một lúc, anh Tính nói tiếp:

- Tôi có thể phát biểu mà không sợ quá lời rằng cán bộ chiến sĩ 238 đáng được phong ba làn anh hùng. Đưa được cả một trung đoàn tên lửa, vượt qua bom đạn, đường xa, đèo cao, núi hiểm đến được nơi chiến trường đúng thời gian quy định, là một lần anh hùng. Rồi cả một trung đoàn tên lửa trụ vững suốt hơn 300 ngày đêm tại một vùng đất mà bốc một nắm lên ở bất kì đâu cũng thấy sắt thép, nơi kẻ thù đã nhiều lần đưa tin xóa sổ những dàn tên lửa SAM.2 của Bắc Việt là anh hùng lần thứ hai. Và lần thứ ba anh hùng là đã vượt qua muôn vàn khó khăn về kĩ thuật, chiến thuật, mưu trí sáng tạo, phát hiện được sóng tìm địch, ghi được những dấu hiệu đầu tiên vô cùng quý báu về một kẻ thù mới còn xa lạ đối với chúng ta.

Theo đề nghị của anh tính, được sự đồng ý của Bộ Tổng Tham mưu, chúng tôi quyết định cử một đoàn cán bộ của Bộ tư lệnh Tên lửa vào Vĩnh Linh trực tiếp chỉ đạo trung đoàn 238 đánh rơi bằng được B.52. Đoàn do đồng chí Hoàng Văn Khánh, Phó tư lệnh Binh chủng Tên lửa dẫn đầu, cùng với đại diện cá cơ quan tác chiến, huấn luyện, quân báo, kĩ thuật… Cơ quan vật tư được lệnh cấp phát với tinh thần ưu tiên nhất những linh kiện quý hiếm cho các đơn vị tuyến trước. Đoàn cán bộ được giao hai nhiệm vụ rõ ràng. Một, chỉ đạo đơn vị bắn rơi B.52. Hai, lập “hồ sơ” về B.52 cùng cụ thể càng tốt trên cơ sở thực tiễn đã diễn ra trên chiến trường.


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 25 Tháng Chín, 2010, 08:46:14 am
Đoàn lên đường ngày 11 tháng 8 năm 1967 thì khuya ngày 17 tháng 9 năm 1967 chúng tôi nhận được bức điện của đồng chí Hoàng Văn Khánh:”Hồi 17 giờ 3 phút ngày 17 tháng 9 năm 1967, tiểu đoàn 94 phóng 2 quả đạn vào một tốp B.52, tiêu diệt 1 chiếc. Tiếp đó 17 giờ 34 phút, phóng tiếp 2 đạn vào tốp B.52 khác, tiêu diệt thêm một chiếc”.

Khỏi phải nói, chúng tôi sung sướng biết chừng nào. Khi cầm trong tay bức điện báo tin chiến thắng đó, tôi nghĩ ngay tới Bác. Phải báo tin với Bác quân ta đã đánh rơi B.52 ngay bây giờ. Nhưng tôi ngoại có nên đánh thức Bác dậy giữa đêm khuya này không? Mặc dù Bác đã cho phép Quân chủng Phòng không - Không quân gọi điện trức tiếp đến Bác bất cứ lúc nào. Nhưng tôi vẫn tin là Bác chưa ngủ vì lúc này chỉ hơn 11 giờ đêm. Anh Tính bảo tôi hãy để sáng mai sẽ thưa với Bác. Nhưng tôi cảm thấy không yên tâm. Bác là người theo dõi B.52 đầu tiên, trước cả chúng tôi, cũng như năm ngoái, tháng 1 năm 1966, Bác là người nhắc chúng tôi phải chú ý đến loại máy bay trinh sát mới SR.72 của Mĩ. Hôm đó, Bác theo báo Nhân đạo, thấy có đưa tin về loại máy bay đó. Lập tức Bác bảo đồng chí Vũ Kì gửi gấp xuống cho tôi với dòng chữ ghi bên lề báo: “Gửi chú Tài”. Đồng chí Vũ Kí đã cho chụp lại bút tích đó và gửi biếu tôi một tờ. Nó trở thành một kỉ vật quý giá của đời tôi. Bác không những quan tâm đến B.52 mà chính Bác từng bước dạy bảo cho chúng tôi con đường dẫn đến chiến thắng hôm nay. Vậy thì không thể không báo cáo ngay để Bác biết tin này, để Bác mừng, chia vui với chúng tôi, mà còn để Bác khen thưởng nữa. Nhất định lần này Bác sẽ có phần thưởng xứng đáng cho cán bộ, chiến sĩ trung đoàn 238. Phân vân một lúc, tôi nghĩ ra cách “dựng” anh Vũ Kì dậy, rồi nhờ anh tìm cách báo cáo với Bác. May quá, chẳng phải chờ lâu, đã nghe thấy tiếng đồng chí Vũ Kì bên kia đầu dây. Thế là đồng chí Vũ Kì chưa ngủ. Đồng chí Vũ Kì chưa ngủ tức là Bác chưa ngủ. Tôi đoán quả không sai. Sau khi tôi trình bày xong, đồng chí Vũ Kì trả lời:

- Hiện nay phòng Bác vẫn còn ánh đèn, Bác chưa ngủ đâu… cậu cứ xin 01(1) là có ngay.

Rồi anh vui vẻ động viên tội:

- MờI Tư lệnh cứ gọi. Tôi xin bảo đảm là Bác sẽ rất vui. Bấy lâu nay Bác vẫn mong tin này.

Trong đời tôi, chắc chắn không có giây phút nào xúc động hơn giây phút đó, giây phút giữ đêm khuya ngày 17 tháng 9 năm 1967, được nói chuyện trực tiếp với Bác Hồ, báo tin chiến thắng B.52 với Bác. Niềm sung sướng, sự xúc động ở đây không phải chỉ là được nói chuyện với Bác. Bởi việc này đối với tôi, do hoàn cảnh công tác của mình, không phải là hiếm hoi. Nhất là những ngày tháng 4, tháng 5 năm 1967, cuộc chiến đấu bảo vệ Hà Nội diễn ra quyết liệt, căng thẳng, có nhiều lần Bác trực tiếp gọi cho tôi đến bên may điện thoại hoặc lên tận nơi để Bác hỏi han, căn dặn. Niềm sung sướng xúc động đến mức từng tế bào trong tôi như tan biến ra, lâng lâng trong một cảm giác thật khó tả. Đó chính là phút giây khi tôi biết Bác đã ở bên kia đầu dây nói và sắp báo tin chiến thắng B.52 cho Bác thì Bác đã hỏi:

- Chú Tài đấy à, có chuyện gì thế? Bắn rơi B.52 rồi phải không?

Ôi! Quả thật là một điều kì diệu không thể nào tưởng tượng nổi. Sau này tôi có dịp hỏi lại đồng chí Vũ Kì là hôm ấy, đồng chí thưa trước với Bác về chuyện bắn rơi B.52 không? Đồng chí Vũ Kì đã khẳng định là hoàn toàn không. Đêm hôm đó, đồng chí Vũ Kì chỉ làm một việc duy nhất là báo cho tôi biết phòng Bác còn sáng đèn.

Sáng hôm sau, tôi kể lại cho anh Đặng Tính nghe chuyện này. Chúng tôi ngồi phân tích với nhau thì thấy điều xảy ra có vẻ kì diệu đó, thực ra rất lô-gíc, là đơn giản và dễ hiểu. Bởi từ ngày trung đoàn 238 vào Vĩnh Linh, Bác thường xuyên quan tâm, thăm hỏi. Biết đơn vị gặp khó khăn, Bác thường hỏi chúng tôi đã có biện pháp gi để khắc phục. Khi được tin Quân chủng tổ chức một đoàn cán bộ do một đồng chí Phó tư lệnh Binh chủng Tên lửa dẫn đầu vào trực tiếp chỉ dạo trung đoàn để đánh B.52, Bác khen chúng tôi như thế là đã có biện pháp kịp thời và tích cực. Vậy thì sau hơn một tháng đoàn cán bộ chỉ đạo vào Vĩnh Linh, hằng ngày lại được báo cáo B.52 đang tăng cường đánh phá khu vực giới tuyến (thời gian này ta đang mở chiến dịch đường 9) thì việc Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân gọi điện đến giữa khuya, chắc chắn sẽ báo tin chiến thắng B.52 chứ không thể là vấn đề gì khác. Bác cũng biết tính tôi là không để gì lâu trong bụng. Và điểm cuối cùng, theo sự phân tích của anh Tính, lại càng có lí. Việc Bác đoán biết trước là bắn rơi B.52 chính là xuất phát từ niềm tin tuyệt đối của Bác vào lòng dũng cảm, trí tuệ và khả năng sáng tạo của quần chúng. Một bộ đội đã có gan trụ vững dưới mưa bom bão đạn, hơn một năm trời, nay lại có sự chỉ đạo xát sao của trên thì bộ đội ấy nhất định sẽ đánh thắng.

Bản tổng kết đánh B.52 ở Vĩnh Linh mà anh Hoàng Văn Khánh mang về, đối với chúng tôi thật là quý báu. Sau này, chúng tôi thường gọi là bản “hồ sơ” thứ nhất về B.52. Đó là một bản viết tay, tất cả chỉ có 23 trang, có cả hình vẽ, các dạng nhiễu, đội hình đi của B.52… Cơ quan tham mưu được chỉ thị căn cứ vào bản tổng kết này, cùng với sự theo dõi, tìm hiểu hơn một năm qua, viết lại thành một tài liệu chính thức cho các đơn vị tên lửa trong Quân chủng nghiên cứu học tập. Sau này, Quân chủng Phòng không - Không quân còn có thêm hai tài liệu nữa về cách đánh B.52, in rô-nê-ô: một bản ra đời tháng 7 năm 1969, một bản ra đời tháng 10 năm 1972, càng ngày càng hoàn chỉnh hơn, có nhiều sáng tạo hơn, những bản tổng kết đánh B.52 ra đời sau trận thắng B.52 đầu tiên ở Vĩnh Linh, mãi mãi sẽ là tài liệu lịch sử quý báu trong chiến công đánh thắng B.52 của quân và dân ta. Nó là kết quả của biết bao hi sinh, xương máu của đồng bào và chiến sĩ Vĩnh Linh đặc biệt là của cán bộ chiến sĩ trung đoàn tên lửa 238 anh hùng. Chính vì vậy mà sau khi nhận được tin chiến thắng, từ ngôi nhà sàn đơn sơ của mình, Bác Hồ đã tự tay viết thư khen quânvà dân Vĩnh Linh anh hùng: “Bác rất vui lòng được tin ngày 17-9-1967, Vĩnh Linh đã lập công xuất sắc lần đầu bắn rơi hai máy bay B.52 của giặc Mĩ.

Thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ đặc biệt gửi lời khen ngợi đồng bào, chiến sĩ và cán bộ Vĩnh Linh đã đánh giỏi, bắn trúng, chiến thắng vẻ vang”.

Riêng đơn vị trực tiếp lập công, tiểu đoàn 84 trung đoàn tên lửa 238, được Bác Hồ tặng thưởng huân chương Quân công hạng nhì.


(1) 01 là mật danh điện thoại của Bác.


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 25 Tháng Chín, 2010, 08:47:58 am
XI.

TẦM NHÌN XA CỦA BÁC

Tháng 10 năm 1967, tôi chính thức nhận nhiệm vụ Phó Tổng tham mưu trưởng đặc trách cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mĩ.

Bước leo thang của giặc Mĩ đang lên đến đỉnh cao. Thực sự là chúng đã tổ chức những chiến dịch không quân liên tục đánh phá quyết liệt thủ độ Hà Nội. Sang tháng 11, cường độ hoạt động của địch chưa có triệu chứng giảm xuống. Chỉ vào cuối tháng 11, khi lực lượng phòng không của ta liên tiếp giáng cho địch những đòn thất bại nặng nề, có trận như ngày 19 tháng 11, riêng Hà Nội bắn rơi 12 máy Bay địch, bộ đội tên lửa chiến đấu xuất sắc; có nhiều trận, bẻ gãy hẳn một mũi tiến công của địch, thì chúng mới nao núng và bắt đầu xuống thang… lúc này cục diện trên chiến trường miền Nam đang chuyển biến thuận lợi cho ta. Kẻ địch đang phải lúng túng đối phó trên cả vùng chiến lược.

Chúng âm mưu leo thang đánh phá miền Bắc đặc biệt là đánh vào trung tâm Hà Nội để hòng gỡ thế bí, nhưng chúng đã không thực hiện được ý đồ của mình. Thế chủ động chiến lược vẫn nằm trong tay chúng ta. Căn cứ vào tình hình thực tế so sánh lực lượng trên toàn chiến trường, Bộ Chính trị quyết định chuẩn bị một đòn tiến công nhằm tạo nên một bước ngoặt mới của cuộc chiến tranh. Sau này chúng tôi mới biết đó là cuôc Tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968. Nhưng hồi đó, bản thân tôi là Phó tổng tham mưu trưởng cũng chỉ được phổ biến là chuẩn bị đón tình hình mới. Vào giữa tháng 12 năm 1967, tôi được giao đi kiểm tra mọi mặt về phòng không, phòng vệ bờ biển, hệ thống bảo đảm giao thông chiến lược ở tất cả các địa phương miền Bắc, các quân khu, quân chủng, đặc biệt là Quân chủng Phòng không - Không quân, các tỉnh Khu 4 và hai thành phố quan trọng Hà Nội và Hải Phòng. Cùng đi với tôi có một số đồng chí ở cơ quan Bộ Tổng Tham mưu, chủ yếu là những đồng chí có liên quan đến cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại. Chúng tôi có nhiệm vụ từ thực tiễn tình hình sau khi kiểm tra các nơi, xây dựng thành một phương án tổng quát nhằm đánh trả có hiệu quả bước leo thang mới của không quân và hải quân địch, với dự kiến chúng sẽ có một bước leo thang liều lĩnh do tình hình phát triển không có lợi cho chúng trên chiến trường.

Đặc biệt lần này tôi còn được giao nhiệm vụ chuẩn bị một phương án chiến đấu bảo vệ Hà Nội, Hải Phòng trong tình huống địch sử dụng B.52. Lúc đầu tôi có phân vân là đặt vấn đề như vậy có sớm quá không? Bởi vì trong tác chiến phòng không, chọn một khu vực dự kiến sẽ xảy ra trận đánh lớn có liên quan đến việc bố trí lực lượng chung của toàn cục.

Trong những năm qua, lực lượng phòng không chúng ta tuy đã phát triển hết sức nhanh chóng, nhưng lại phải trải ra trên một không gian rộng, cùng một lúc làm ba nhiệm vụ chiến lược khác nhau: bảo vê yếu địa, bảo vệ giao thông vận tải và chiến đấu trong quân, binh chủng hợp thành, nên thường xuyên chúng tôi có cảm giác thiếu, đụng vào khu vực nào cũng thấy cần phải có thêm lực lượng. Bây giờ nếu dự kiến B.52 sẽ đánh vào Hà Nội, Hải Phòng thì bố trí lực lượng sẽ khác đi, nhất định phải ưu tiên vào khu vực trọng điểm.

Tuy nhiên, dự kiến B.52 đánh Hà Nội, Hải Phòng lúc này chỉ mới là một khả năng mặc dầu khả năng chưa nhiều, nhưng đặt ra để suy nghĩ, để mà chuẩn bị thì chỉ có lợi mà thôi.

Bộ Tổng tham mưu giao nhiệm vụ cho Quân chủng Phòng không - Không quân chuẩn bị phương án đánh trả không quân địch, bảo vệ Hà Nội, Hải Phòng trong tình huống địch dùng B.52. Nhận lệnh, đồng chí Đặng Tính, lúc này là Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân chủng gọi dây nói cho tôi:

- Ông giao cho chúng tôi nhiệm vụ mới quá. Các cơ quan đang nằm bò ra đây. Người nhà với nhau, ông xuống cho xin một vài gợi ý, nếu không thì bí lắm.

Từ ngày tôi lên làm phó tổng tham mưu trưởng, chiếc máy điện thoại riêng ở nhà tôi được đặt tên là chiếc “máy điện thoại của anh Tính”. Mỗi lần chuông reo, vợ tôi lại vui vẻ: “Anh Tính gọi”. Có điều lạ là anh ít khi gọi lên phòng làm việc của tôi ở cơ quan mà cứ hay gọi thẳng về nhà. Cả gia đình tôi, từ nhà tôi đến các cháu, từ lâu đã xem anh Tính như người trong gia đình. Mỗi lần anh đến, gia đình tôi, nhất là các cháu như có thêm một niềm vui. Không thể nào quên cái dáng người thấp nhỏ của anh vừa xuất hiện ở cửa đã nghe tiếng cười, một nụ cười rất hiền, rất tươi trên cái miệng rộng được mở ra hết cỡ. Còn câu chuyện trên điện thoại thường là công việc. Anh tranh thủ hỏi ý kiến của tôi về một bản phương án tác chiến trước khi đưa lên Bộ thông qua, về một ý định điều động lực lượng. Có khi trao đổi với một đồng chí cán bộ nào đó. Đặc biệt mỗi lần anh được gọi lên gặp Bác để báo cáo tình hình tác chiến của phòng không - không quân, bao giờ anh cũng quay điện thoại nói chuyện với tôi ít nhất là hằng nửa giở. Anh nêu những nội dung báo cáo với Bác và hỏi tôi có cần thêm gì không? Sau đó anh hỏi tôi, là sau khi nghe xong thì bác sẽ hỏi những gì và nếu Bác có hỏi thì ta nên trả lời ra sao… Một đồng chí chính ủy già dặn kinh nghiệm, đã từng kinh qua nhiều cương vị công tác khác nhau, bây giờ lại được cử giữ thêm chức tư lệnh, thế mà mỗi làn được gặp Bác, và đã không phải là ít, anh vẫn cảm thấy hồi hộp, thiêng liêng. Có được cái tình cảm đó thực đáng quý, đáng trân trọng biết bao.


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 25 Tháng Chín, 2010, 08:48:28 am
Lần này gọi điện cho tôi, anh cứ xoáy vào B.52. Anh bảo thế nào cũng phải xuống phát sơ sơ cho “vài đường chiến lược”.

Tôi cười bảo anh:

- Cứ nghiên cứu chuẩn bị phác thảo dần đi, rồi còn phải trao đổi nhiều. Cái này chưa đòi hỏi thông qua ngay đâu. Vấn đề cấp bách hiện nay mà các anh ở trên quan tâm là sẵn sàng chiến đấu thật tốt theo đội hình đã bố trí.

- Nhưng dù sao ông cũng cứ xuống đấy. Chủ nhật cũng được. Anh Tính khẩn khoản và cười nói thêm: Sẽ có “RTC” (rượu thịt chó). Thế là cả anh và tôi cùng cười vang lên trong máy.

Tình hình mọi mặt để báo cáo với cấp trên sau chuyến đi, tôi đã chuẩn bị xong. Các phương án đánh địch tổng thể, đánh địch từng khu vực cũng đã chuẩn bị. Những con số về khả năng hoạt động của địch, hai đồng chí trợ lí tác chiến có nhiều kinh nghiệm Nguyễn Ninh và Nguyễn Văn Định đã chuẩn bị viết cho tôi một bản, tôi để sẵn ở túi áo ngực. Và lần đầu tiên, với cương vị Phó tổng tham mưu trưởng, tôi được gọi lên báo cáo tình hình trước một cuộc họp quan trọng của Bộ Chính trị. Thú thật là tôi có hồi hộp, có cảm giác như sắp bước vào cuộc thi. Năm đó, năm 1987, tôi đã 46 tuổi, chẳng còn trẻ nữa. Chinh chiến cũng không phải là ít, đã từng đối mặt với nhiều kẻ thù, đã từng hoàn thành tốt những nhiệm vụ phức tạp khó khăn… và đã được gặp Bác nhiều lần, được Bác thương như một đứa con thực sự. Nhưng đây là lần đầu tiên tôi được gặp tất cả các đồng chí trong Bộ Chính trị và được trực tiếp báo cáo tình hình. Trước khi bước lên xe, tôi tự bảo mình “Phải bình tĩnh trình bày thật khúc chiết, rõ ràng, để tỏ rõ mình là một cán bộ không tồi”. Mặc dầu nội dung báo cáo tôi đã lần lượt thông qua các anh Võ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng nhưng khi đến cuộc họp, tôi vẫn đến ngay chỗ hai anh đang đứng để xem các anh có căn dặn gì thêm. Nhưng các anh chỉ bảo cứ trình bày như đã chuẩn bị. riêng B.52 nếu có đồng chí nào hỏi thì báo cáo thêm, còn nếu không thì chưa trình bày vội.

Cuộc họp bộ Chính trị lần này được tiến hành ngay cạnh ngôi nhà sàn của Bác, nơi có hầm trú ẩn, đảm bảo an toàn khi có báo động máy bay địch. Về thời gian tôi không còn nhớ rõ là cuối tháng 12 năm 1967 hay bước sang năm 1968 rồi. Chỉ nhớ là lác đác đó đây đã có không khí tết… Sau khi Bác khai mạc, đồng chí Lê Duẩn phát biểu, tôi được trình bày đầu tiên nội dung báo cáo của mình. Tôi thấy các đồng chí lắng nghe rất chăm chú và hầu như đồng chí nào cũng ghi chép tỉ mỉ. Có lẽ đây là lần đầu tiên các đồng chí trong Bộ Chính trị được nghe tình bày một cách có hệ thống toàn bộ lực lượng phòng không - không quân, lực lượng hải quân của ta, hệ thống phòng thủ bờ biển chống trả những hoạt động của hải quân địch mà chủ yếu là lực lượng dân quân tự vệ. Khi chuyển sang tình hình địch, các đồng chí cũng chăm chú lắng nghe không kém, và cũng đều ghi chép tỉ mỉ. Được sự cổ vũ của các đồng chí, tôi càng tự tin hơn, trình bày mạch lạc, suôn sẻ. Có một vài đồng chí hỏi thêm về tình hình mặt này, mặt khác tôi đều trả lời rõ ràng.

Cuộc họp giải lao cùng với tiết mục “phở”. Phải nói là phở ngon tuyệt. Tôi vừa đi một đợt công tác dài ngày về, đang ăn trả bữa nên cảm thấy rất ngon miệng, loáng cái đã cạn sạch bát, đang định đứng dậy thì thấy có ai đưa bát phở thứ hai đến trước mặt. tôi nhìn lên thì gặp nụ cười hiều hậu của Bác:

- Chú vừa đi công tác về, Bác bồi dưỡng thêm cho chú.

Cử chỉ yêu thương của Bác làm cho tôi vô cùng xúc động. Bát phở thứ hai này, tôi cũng làm loáng cái là hết, cả nước lẫn cái, vì sức tôi dạo đó, hai bát phở thì mùi mẽ gì. Lần này, tôi cũng đang định đứng dậy thì đồng chí Lê Duẩn lại cầm bát phở trước mặt tôi:

- Thấy Phó tổng tham mưu trưởng xem chừng còn có thể “đánh thêm một trận nữa”.

Đúng là tôi chưa thật no. Lại thêm dây là sự quan tâm của các đồng chí lãnh đạo nên tôi chẳng phải khách sáo. Tôi lại tiếp tục ăn ngon lành. Nhưng lầ này tôi giữ ý, để thừa lại một tí nước, còn cái thì cũng hết sạch như hai bát trước.

Làm xong nhiệm vụ báo cáo tình hình, tôi lên xe trở về cơ quan Bộ Tổng Tham mưu, lòng lâng lâng, thanh thản.

Tối hôm sau, tôi được Bác gọi lên hỏi thêm tình hình. Ngay phút đầu tiên, Bác đã hỏi về B.52. Nét mặt Bác trở nên dăm chiêu:

- Sớm muộn đế quốc Mĩ cũng sẽ đưa B.52 ra đánh Hà Nội, rồi có thua nói mới chịu thua.

Bác dạy:

- Phải dự kiến hết mọi tình huống, càng sớm càng tốt, để có thời gian mà suy nghĩ, mà chuẩn bị.

Cuối cùng với vẻ mặt trầm ngâm, Bác nói thêm:

- Chú nhớ là trước khi thua ở Triều Tiên, đế quốc Mĩ đã hủy diệt Bình Nhưỡng. Ở Việt Nam, Mĩ sẽ nhất định thua - Bác nhìn ra cửa sổ, chỉ tay lên bầu trời Hà Nội, nói tiếp: - Nhưng nó chỉ chịu thua sau khi thua ở đây. Vì vậy, nhiệm vụ của các chú rất nặng nề.


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 25 Tháng Chín, 2010, 08:48:52 am
Mặc dầu mới đi về, đang đói ngủ, nhưng sau khi gặp Bác nghe những lời dạy của Bác, suốt đêm đó, tôi cứ thao thức không sao nhắm mắt được. Tôi đi đi lại lại trong phòng, trong đầu cứ vang lên lời nói của Bác:

“Sớm muộn đế quốc Mĩ cũng sẽ đưa B.52 ra đánh Hà Nội, rôi có thua nói mới chịu thua”, “Ở Việt Nam, Mĩ nhất định thua, nhưng nó chỉ chịu thua sau khi thua ở đây (Hà Nội)”.

Tôi trải rộng tấm bản đồ Hà Nội trước mặt, chong mắt nhìn vào đường bay của B.52 mà Quân chủng Phòng không - Không quân sơ bộ dự kiến sẽ đột nhập vào Hà Nội. Bỗng nhiên, tôi đưa bàn tay lên tấm bản đồ như muốn bóp chết nhưng chiếc B.52 tưởng tượng kia. Bọn Mĩ thật là một lũ hung ác cực độ. Cả một thủ đô dân cư đông đúc, nhà cửa san sát như thế này mà chúng dám nhẫn tâm định đưa B.52 vào hủy diệt. Chỉ mới có ý định thôi thì cũng đã là một tội lỗi không thể tha thứ. Nhưg Bác đã nói rồi: Thằng Mĩ chỉ chịu thua sau khi thua trên bầu trời Hà Nội. Thế thì nhất định nó sẽ dùng B.52 đánh Hà Nội rồi… Không chịu được với ý nghĩ đó, mặc dầu đã quá nửa đêm, tôi vẫn quay điện thoại cho đồng chí Đặng Tính. Vừa mới nghe tôi kể sơ qua vè buổi gặp Bác hồi tối, giọng anh tính đã tỉnh như sáo:

- Bác nói thế nào? Cậu nhắc lại cho tớ nghe xem nào?

Tôi nhắc lại trong máy. Nhắc đến đâu, anh Tính nhắc lại đến đấy, và hình như anh còn mở sổ ra ghi chép. Tôi nghĩ thầm: “Đúng là cung cách làm ăn của một ông chính ủy”.

Anh Tính căn dặn tôi:

- Từ nay mỗi lần gặp Bác, Bác nói câu gì cậu phải ghi chép lại ngay đấy nhé. Cứ giữ mãi cái tác phong không sổ tay, không ghi chép như cậu là không được đâu”.

Tôi không nói gì. Suốt mấy chục năm nay, tôi có sổ tay, có ghi chép gì đâu. Nếu ai nói, tôi tự bảo: “Mỗi người có một cách làm việc riêng”.

Lần này không để anh Tính mời xuống, phải hứa hẹn “RTC”, tôi nói với anh Tính là ngày mai tôi sẽ xuống Quân chủng làm việc, tập trung vào phương án đánh B.52 bảo vệ Hà Nội. Tôi nói với anh Tính là động viên cơ quan hoàn thành sớm cái này, vì đây là vấn đề mà Bác đang quan tâm.

Đầu năm 1968, bản phương án đầu tiên về đánh trả cuộc tập kích bằng B.52 của đế quốc Mĩ vào Hà Nội, Hải Phòng được ra đời trong bối cảnh như thế.

Tôi còn nhớ bản phương án mở đầu bằng câu: “Trước thất bại nặng nề của địch trên cả hai miền, với bản chất ngoan cố, chúng sẽ không từ một thủ đoạn dã man tàn bạo nào để uy hiếp đánh phá ta, hòng cứu vãn thế thua của chúng. Địch sẽ có bước leo thang mới, tiếp tục đánh mạnh vào Hà Nội, Hải Phòng. Trong thế bị động này địch sẽ dùng B.52 để tạo thế bất ngờ về chiến lược”.

Tiếp đó, bản phương án viết: “Ta đã bắn rơi B.52 của địch. Với lực lượng sẵn có của ta, với khả năng của các binh chủng, ta hoàn toàn có đầy đủ điều kiện thực tế để tiêu diệt B.52 của địch, bắn rơi chúng tại chỗ, đánh bại bước leo thang liều lĩnh bằng B.52 của chúng”.

Về dự kiến, đường đột nhập của B.52 đánh vào Hà Nội, bản phương án đã vạch ra 5 đường, trong đó có đường bay cơ bản, gọi là đường bay A, được dự kiến là đường bay từ Tây Bắc xuống. Thực tế, trong cuộc tập kích chiến lược cuối năm 1972, 70% số B.52 của địch đã từ hướng nay đột nhập vào. Còn 30% số B.52 còn lại cũng đều đi vào hướng những đường bay dự kiến trong bản phương án đầu tiên cách đó 4 năm.

Còn đối với Hải Phòng thì độ chính xác như một trăm phần trăm. Bản phương án đầu tiên dự kiến 2 đường bay cơ bản. Từ đông bắc xuống theo cửa Nam Triệu và từ đông nam lên theo cửa Văn Úc thì năm sau, B.52 vào đúng như thế.

Sở dĩ tôi muốn nhấn mạnh điều này là để bạn đọc thấy một điều hết sức rõ ràng là chúng ta đã chuẩn bị cho trận “Điện Biên Phủ trên không” từ rất lâu như thế đó.

Tính từ năm 1966, khi những đơn vị đầu tiên của trung đoàn tên lửa 238 đặt chân đến chiến trường Vĩnh Linh, tìm cách “vào hang để bắt cọp” cho đến những ngày đầu 1968, bản phương án đánh B.52 tập kích vào Hà Nội, Hải Phòng ra đời… là cả một quá trình vượt qua muôn vàn gian khổ, hi sinh, là một sự tập trung trí tuệ sáng tạo của cán bộ chiến sĩ từ đơn vị đến cơ quan, từ người lính ở chiến trường đến vị tư lệnh.

Có thể nói, đó là những viên gạch đầu tiên, cùng với những viên gạch khác, góp phần quan trọng xây nên đài chiến thắng vinh quang cho trận “Điện Biên Phủ trên không” lừng lẫy của dân tộc ta sau này.

Và bao trùm lên tất cả là sự quan tâm, là những lời dạy quý báu thể hiện tầm nhìn chiến lược của lãnh tụ thiên tài Hồ Chí Minh, vị tổng tư lệnh tối cao của các lực lượng vũ trang nhân dân ta.


Tiêu đề: Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên - Thượng tướng Phùng Thế Tài
Gửi bởi: macbupda trong 25 Tháng Chín, 2010, 08:49:24 am
THAY LỜI KẾT

Thế là sau suốt 5 năm trời suy nghĩ và nhớ lại, tôi đã hoàn thành cuốn hồi ức “Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên”.

Đúng là không thể nào quên, vì một lẽ rất đơn giản là kể từ những ngày dầu tiên được gặp Bác, tháng 2 năm 1940 cho đến khi Bác đi xa, cả cuộc đời tôi luôn luôn gắn liền với sự thương yêu chăm sóc của Bác.

Bác đã từng bước dẫn dắt tôi, từ một đứa trẻ lang thang, thất học, tính tình ngổ ngáo, trở thành một sĩ quan cấp tướng của cách mạng, có đóng góp ít nhiều vào sự nghiệp giải phóng dân tộc. Đây thực sự là một điều kì diệu mà đôi khi tôi cứ nghĩ có nằm mơ cũng không thể tưởng tượng nổi.

Những điều kì diệu này sẽ rất dễ hiểu nếu chúng ta đặt nó trong sự kì diệu Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh là người đem chủ nghĩa Mác - Lê-nin về làm đổi thay cả một dân tộc, đổi thay cuộc đời trong đó có cuộc đời tôi.

Chỉ trong vòng 5 năm trời, từ thằng Thụ nhóc con, đêm đêm với cái bụng lép kẹp nằm còng queo trên chiếc ghế đá công viên Hạ Lầu, ở Côn Minh, trở thành một trong những trung đoàn trưởng đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam vào cuối năm 1946, lúc đó tôi vừa tròn 25 tuổi.

Có lẽ hơn ai hết, Bác Hồ là người hiểu tôi sâu sắc nhất, hiểu cả những thiếu sót, khuyết điểm (thói hư tật xấu) và hiểu cả những ưu điểm của tôi. Chính vì vậy mà Bác cũng rất tin tôi.

Trong cuộc hành trình gian nan, vất vả chứa đầy hiểm nguy trên con đường thiên lí từ Pác Bó đi Côn Minh đầu năm 1945, Bác đã chọn tôi làm người cận vệ. Bây giờ nghĩ lại đôi khi vẫn cảm thấy rùng mình. Vận mệnh của cả một dân tộc, của cách mạng trong thời điểm quan trọng của lịch sử được phó thác cho vị lãnh tụ kiệt xuất: Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh… và chính tôi là người được giao trọng trách bảo vệ vị lãnh tụ đó, người mà mấy tháng sau trở thành Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị Cha già của dân tộc.

Dọc đường đi Bác bị sốt cao, có lúc mê man, tôi đã đánh liều tiêm kí ninh vào ven cho Bác. Khi đưa mũi kim vào ven Bác tôi chỉ nghĩ một điều: Bác phải sống để kịp trở vè nước lãnh đạo cách mạng… và lòng tin của tôi đã thắng.

Khi giao cho tôi chức vụ trung đoàn trưởng, Bác chỉ phân vân: “Tính chú nóng và liều quá. Người làm tướng mà nóng và liều thường hỏng việc”. Nhưng Bác vẫn tin và giao nhiệm vụ cho tôi. Và tôi đã không phụ lòng tin của Bác.

Cứ như thế, Bác từng bước dạy bảo, dìu dắt tôi trưởng thành đi lên trên con đường cách mạng.

Cuốn hồi ức này được hoàn thành trước nhằm bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của tôi đối với Đảng, đối với Bác. Có thể khẳng định rằng nếu không có Đảng, không có Bác, sẽ không có cuộc đời tôi hôm nay: Thượng tướng Phùng Thế Tài.

Cuốn sách ra đời đúng vào dịp sinh nhật thứ 106 của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nhằm ý nghĩa đó. Riêng tôi, năm nay bước vào tuổi 75, tôi xin kính dâng toàn bộ cuộc đời tôi lên Đảng và Bác kính yêu.

Điều cuối cùng tôi muối gửi gắm đến bạn đọc xa gần là trong lúc các lực lượng thù địch đang tìm cách xóa bỏ những thành của cách mạng ở Việt Nam với những luận điệu tuyên truyền xuyên tạc, thậm chí phủ nhận cả Hồ Chí Minh, chúng ta hãy kiên định, vững vàng giữ vững lòng tin theo con đường mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn. Đó là con đường sẽ đưa dân tộc ta đế hạnh phúc ấm no và giàu mạnh, xã hội công bằng và văn minh.