Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Tài liệu - Hồi ký Việt Nam => Tác giả chủ đề:: macbupda trong 01 Tháng Bảy, 2010, 08:42:24 am



Tiêu đề: Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng
Gửi bởi: macbupda trong 01 Tháng Bảy, 2010, 08:42:24 am
Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng
Tác giả: Thượng tướng Song Hào, thể hiện: Hồ Phương
Nhà xuất bản Văn học
Năm xuất bản 1970
Số hóa: macbupda

PHẦN MỘT

I

Năm 1940, tôi bị sa lưới bọn Pháp tại một căn nhà ở phố Giá Nứa tỉnh Nam Định (cơ quan của tỉnh ủy). Cho tới bây giờ tôi vẫn còn nhớ khá rõ ràng: Lúc đó rất buồn bực, một câu hỏi cứ day dứt mãi trong đầu tôi: Thế là hết hoạt động rồi ư?”.

Tôi bị bắt vào giữa lúc Đảng ta đang hoạt động rất mạnh mẽ cho công cuộc giải phóng nước nhà. Đây cũng là lúc mà đế quốc Pháp một mặt đã quỳ gối đón phát xít Nhật vào cùng chiếm đóng, thống trị Đông Dương, một mặt càng hung hăng đàn áp phong trào cách mạng dữ dội. Cơ sở của ta bị phá vỡ khắp nơi. Hàng nghìn đảng viên bị bắt bớ, tù tội. Có những thị ủy, thành ủy (như thành ủy Hải Phòng) một tháng bị phá vỡ tới hai lần… Tình hình xem ra đen tối lắm. Nhưng chính trong lúc khó khăn này, Đảng ta đã phân tích rất sâu sắc tình hình thế giới, đặc biệt là cục diện cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai do bọn phát xít gây nên và tình hình trong nước, đã nhìn ra được cái ngày mai sáng sủa sắp tới và nhận định: đã đến lúc đẩy mạnh cách mạng tiến lên, chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa.

… Tôi bước thong thả trước mũi súng của bọn mật thám mà trong đầu vẫn nhoi nhói câu hỏi buồn bực: “Thế là hết hoạt động rồi ư?”. Nhưng đến khi bị đẩy vào buồng giam và chiếc cổng đóng sập lại tối om, thì tôi tự nhủ mình một câu ngắn gọn, dứt khoát: “Phải vượt ngục!”. Và cũng từ giây phút đó hết buồn bực, băn khoăn, tôi trở lại bình tĩnh để tiếp tục suy nghĩ về ý định dứt khoát đó.

Sau năm lần bảy lượt khảo tra không kết quả, tên Đỉnh và tên Phong con (hai con chó săn cực kỳ hung ác đã khét tiếng về ngón đòn tra tấn) dẫn tôi đến phòng tên Pho-lơ-tô - chánh mật thám và tên Pắc-ca - phó mật thám. Vừa nom thấy tôi, tên Phơ-lơ-tô đã nheo mắt, hất hàm hỏi:

- Thế nào? Vẫn không chịu khai à? Tôi nói cho anh biết, cơ sở của các anh vỡ hết rồi. Đảng của các anh sắp bị quét sạch đến nơi rồi, còn hy vọng gì nữa?

Phán Tảo - một tên mật thám rất tàn nhẫn, quỷ quyệt, đã được bọn Pháp liệt vào loại “a-giăng”(1)  số 1, cũng có mặt ở đó, xen vào:

- Này cậu (bao giờ cũng vậy, tên này cứ ngọt nhạt cậu cậu tôi tôi với anh em tù chính trị, nhưng nó hết sức đểu cáng, nham hiểm). hôm nay cậu có còn “một là toàn thắng, hai là hi sinh” nữa không?

Nó đã lấy một câu trong bài ca cách mạng mà các đồng chí ta vẫn thường hát hồi đó để giễu cợt và thách thức tôi. Thấy tôi vẫn nhìn thẳng vào mặt chúng, tên chánh mật thám dần dần không giữ được cái giọng ve vãn ban đầu nữa. Nó nói:

- Nào, nói đi chứ! Ai sẽ toàn thắng? Chẳng lẽ lại là những thằng bị xích tay như chúng mày hay sao?

Đến lúc ấy tôi mới gật đầu, đáp:

- Đúng ! Nhất định chúng tôi sẽ thắng!

Phơ-lơ-tô đứng phặt dậy, quai hàm gần như trẹo đi, mặt tái lại, nó đẩy chiếc ghế sang một phía, gầm lên:

- Được! Để rồi xem ai sẽ thắng! Chúng bay đâu?


(1) Nhân viên.


Tiêu đề: Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng - Thượng tướng Song Hào
Gửi bởi: macbupda trong 01 Tháng Bảy, 2010, 08:44:52 am
*
*   *

Sau một thời gian tra tấn giam cầu, chúng kết án tôi rồi chuyển lên nhà lao Sơn La. Ở dây được tiếp xúc với các đồng chí cùng bị giam, tôi càng thấy rõ ý chí kiên cường, lòng yêu thương vô bờ bến của những người cách mạng.

“Phải vượt ngục! Phải tìm cách thoát khỏi tay giặc để hoạt động!”. Những ý định ấy càng thôi thúc chúng tôi mạnh mẽ mỗi khi được tin thêm về những biến chuyển lớn trên thế giới, trong nước, nhất là khi được tin về những chủ trương, chính sách mới của Đảng.

Đánh hơi biết được những hoạt động chuẩn bị vượt ngục của chúng tôi, tên chánh sư Sơn La đã tìm mọi cách để ngăn trở, phá hoại. Chúng đã chém đầu anh Đạm Văn Lý- một thanh niên Cao Bằng rất dũng cảm, đầy nhiệt tình cách mạng. Anh Lý đã trốn khỏi nhà tù, nhưng vì thiếu tổ chức và mưu trí nên đã bị quân địch bắt trở lại. Bọn chúa ngục được lệnh đem bêu đầu anh Lý ở ngay trước cửa nhà giam nhằm uy hiếp tinh thần chúng tôi. Nhưng không một ai sợ hãi cả.

Công cuộc chuẩn bị vượt ngục của chúng tôi càng được tiến hành tích cực hơn trước Ngoài các công việc chuẩn bị về vật chất (áo, quần, lương khô, thuốc men…) chúng tôi còn tranh thủ huấn luyện quân sự cho nhau và huấn luyện cả công tác tổ chức, vận động quần chúng trong hoàn cảnh hoạt động bí mật khác vẫn tiếp tục tranh thủ dạy bảo cho nhau thêm về những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin…

Nhưng tới giữa năm 1942, bọn Pháp đột nhiên tuyên bố phân tán nhà tù Sơn La. Chúng quyết định đưa một số đồng chí ta đi an trí ở Bá Vân, một số khác bị đày đi Côn Đảo, đi Ma-đa-gát-xca… và một số khác bị đưa về Chợ Chu (Thái Nguyên).

Một buổi, tên công sứ đến gặp chúng tôi, úp mở:

- Này! Các anh sắp đi nơi khác rồi!

- Vì sao thế? Chúng tôi hỏi lại - Các ông giam chúng tôi ở đây không chắc hay sao?

Hắn nhún vai:

- Ở đây người Pháp sẽ xây dựng một căn cứ chống Nhật, để các anh ở lại nguy hiểm!

Chúng tôi đáp:

- Chúng tôi cũng là người chống Nhật. Đảng Cộng sản của chúng tôi đã chẳng từng kêu gọi những người Pháp dân chủ chống Nhật đó sao?

- Nhưng Đảng các anh yếu lắm!

- Nếu Đảng chúng tôi yếu, hà tất các ông phải bắt giam chúng tôi như thế này.

Với nụ cười khả ố, tinh quái của một tên thực dân cáo già, hắn đáp:

- Ấy, việc bắt giam các anh lại là một chuyện khác chứ!

Nói đoạn, hắn chuồn thẳng.

Mấy hôm sau, tiếng xích kêu loảng xoảng ở nhiều xà lim… Tôi ở trong số hơn 100 anh em bị đưa về nhà lao Chợ Chu. Trước khi đoan lên đường, Đảng ủy trong tù dặn dò rất ân cần, sau đó quyết định cho thành lập chi bộ và chỉ định năm đồng chí làm chi ủy viên gồm đồng chí Tô Quang Đẩu, đồng chí Hiến Mai, đồng chí Trần Danh Tuyên, đồng chí Tạ Xuân Thu và tôi làm bí thư.

Đoàn chúng tôi bị giam ở Hòa Bình ít lâu, sau đó đi Thái Nguyên rồi lên thẳng Chợ Chu, trên đường đi đã dừng lại ở đề lao Hà Nội một dêm. Bắt đầu tới địa phận Thái Nguyên, chúng tôi đã nhìn thấy dãy Tam Đảo hùng vĩ và cả môt biển núi rừng trùng trùng điệp điệp trước mặt. Đấy là Việt Bắc! Hai tiếng Bắc Sơn lại vang lên bên tai chúng tôi là làm dội lên tất cả những tình cảm kính yêu tha thiết. Bắc Sơn đã tạm thời chưa thành công, nhưng chúng tôi biết những người du kích Bắc Sơn vẫn còn và vẫn đang tiếp tục hoạt động. Đội du kích Bắc Sơn không hề bị tiêu diệt, cũng như tinh thần cách mạng, ý chí bất khuất của nhân dân ta, Đảng ta không bao giờ bị mai một.

Đoàn chúng tôi đi vào đất Việt Bắc như một đoàn người hành hương đi vào đất thánh. Tình cảm cách mạng, ý chí chiến đấu luôn luôn dào dạt. Tay vẫn còn bị xiềng, mà đã nghĩ tới nững ngày đấu tranh, bay nhảy. “Vượt ngục!”, chính là ở đây rồi, không phải ở đâu khác. Nhất định chúng tôi sẽ tìm được về với Đảng. Chưa tới địa điểm cuối cùng, chi ủy, chi bộ chúng tôi đã tao đổi ý kiến về những kế hoạch hoạt động và quyết định phải hết sức khẩn trương, cố gắng bắt liên lạc ngay với cơ sở cách mạng ở bên ngoài, càng sớm, càng tốt.

Chợ Chu! Từ xa, chúng tôi dã nom thấy trong một thung lũng nhỏ dãy phố huyện lèo tèo với hai dãy nhà mái nứa, một ngôi nhà gạch hai tầng quét vôi trắng, có lẽ của một Hoa kiều nào đó. Cách phố huyện một quãng dồng là một quả đồi có những hàng cây lưa thưa. Trên đỉnh đồi có một số nhà gạch cửa sơn, mái ngói. Xế ở sườn đồi phía sau là một khu nhà lớn đen sì, chung quanh có tường cao bao bọc và lô cốt. Người lính khố xanh đi áp tải chúng tôi chỉ tay về phía ngôi nhà ảm đạm, tối tăm ấy, ngáp dài, uể oải:

- Nhà pha đấy!


Tiêu đề: Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng - Thượng tướng Song Hào
Gửi bởi: macbupda trong 01 Tháng Bảy, 2010, 08:45:37 am
*
*   *

Đúng như ý định của chi bộ, sau khi vừa ổn định xong các tổ chức như Ủy ban nhà tù (một tổ chức tự quản) và các tiểu ban trật tự, kinh tế, văn hóa…, chúng tôi đã tìm được một nhân mối ở ngay trong lòng địch. Một hôm, sau buổi đi làm về, đồng chí Tạ Xuân Thu gặp tôi báo cho biết đã áp dụng những kinh nghiệm binh vận ở Sơn La, bắt liên lạc được với một người lính khố xanh tên là Giá. Anh này ở dưới xuôi, mới bị đổi lên đây được ít lâu, cũng là người nghèo khổ, bị bắt buộc phải đăng lính. Do đã canh giữ tù chính trị, nên anh cũng đã hiểu biết về cách mạng, về những người cộng sản. Anh rất cảm phục các đồng chí của ta. Anh cho đồng chí Thu biết sơ qua về tình hình địch ở đây và nói: “Các anh cần tôi giúp những gì cứ bảo, tôi làm được đến đâu xin cố đến đó, không dám quản ngại. Vì việc nước, các anh còn không quản lao tù, lẽ nào chúng tôi lại không biết nghĩ…”.

Tôi nói với đồng chí Thu nên tiếp tục gặp anh Giá để tìm hiểu thêm nữa; nhưng cũng cần thận trọng, đề phòng địch lừa mình vào bẫy.

Đồng chí Thu tiến hành công tác rất tích cực, nhiều buổi trưa bỏ cả ngủ, đi tìm anh Giá để nói chuyện; nhiều buổi đi làm có tìm mọi cách xin bằng được vào toán tù có anh Giá trông coi để có dịp gần gũi.

Sau khi đã biết chắc chắn anh Giá là người tốt, chi ủy chúng tôi quyết định nhờ anh mua sách, báo, thu nhặt tin tức bên ngoài, mặt khác chúng tôi xúc tiến việc tìm bắt liên lạc với cơ sở cách mạng ở địa phương và gửi thư bằng mật mã liên lạc trở lại với các đồng chí vẫn còn ở nhà tù Sơn Là và Hòa Bình. Chúng tôi đã nhận được thư của đồng chí Lê Đức Thọ báo cho biết Sơn La đã báo tin về Xứ ủy và Xử ủy sẽ cho người lên Chợ Chu tìm gặp chúng tôi.

Quả nhiên môt hôm anh Giá báo cho chúng tôi biết: có hai chị nói là vợ lính dưới xuôi lên tìm chồng, hiện đang trọ ở dưới phố. Đó là chị Kim và chị Vân, là giao thông của Xứ ủy vừa mới lặn lội lên đây. Từ đó chúng tôi bắt đầu nối được hơi thở của mình vứi hơi thở lớn lao của Đảng. Thư từ liên lạc của chúng tôi khi đặt dưới một hòn đá đã đánh dấu sẵn, khi thì gài trong một cây bùa cắm đuổi chim ở dưới ruộng lúa… Đồng chí Lê Đức Thọ cho chúng tôi biết tiếp môt tin mừng: ở Chợ Chu cũng có một chi bộ Đảng nằm ngay trong đơn vị khó xanh. Chi bộ chúng tôi đã được giới thiệu để liên lạc với các đồng chí ở bên đó. Niềm hi vọng, niềm tin vào công cuộc vượt ngục của chúng tôi càng thêm rực sáng. Chúng tôi lại được giới thiệu để trực tiếp liên lạc với chiến khu Hoàng Hoa Thám do đồng chí Chu Văn Tấn phụ trách. Cũng từ đó chúng tôi dã có trạm liên lạc bí mật với Cứu quốc quân. Trạm đó là quán bánh đa của chị Tàng, người Tày, một quần chúng Cứu quốc do các đồng chí Cứu quốc quân vừa mới tổ chức. Quán nằm ngay trên con đường duy nhất từ nhà tù phố huyện đi vào rừng. Bởi vậy, ngày ngày lính khố xanh đưa anh em chúng tôi đi lấy củi thường vẫn dừng chân lại đây, làm dăm chén nước, tán dăm ba câu chuyện, hoặc bông phèng một lúc rồi đi đâu mới di. Chính trong nhưng lúc đó, tù nhân được thả lỏng phần nào và chúng tôi đã có đủ cơ hội, thời gian dể trao đổi thư từ với chủ quán.

Cuối năm, đồng chí Tân Hồng báo tin tiếp cho biết: Đã đén lúc cần phải có một đội ngũ cán bộ để kịp thời nắm lấy phong trào cách mạng đang dâng cao và thúc đẩy phong trào tiến mạnh hơn nữa. Đảng dã quyết định các nơi phải gấp rút tổ chức cho các cán bộ của Đảng vượt ngục. Tin ấy đối với chúng tôi như một hồi kèn ra trận.

Nhưng tiếc thay, chúng tôi đã bị lỡ mất mấy lần, chưa tổ chức cho một đồng chí nào trốn ra được, bởi có mấy việc đã xảy ra: trong khi chúng tôi ở Chợ Chu đang ráo riết chuẩn bị thì có một ố đồng chí ta ở các nhà tù Sơn La, Hòa Bình và ở “căng” Bá Vân đã vượt ngục trốn trước. Lập tức bọn địch siết chặt việc kiểm soát, canh giữ ở tất cả các nhà tù khác. Tên tri phủ Ma-ri-ki - một tên địa chủ người Tày vào làng Tây, lấy tên Tây, là tay sai đắc lực của giặc Pháp ở vùng này đã liên tiếp tổ chức những cuộc lùng sục, khám xét trong nhà tù Chợ Chu gắt gao chưa từng thấy.

Ngoài ra còn có việc hai đồng chí vốn là cơ sở trong cuộc nổi dậy ở Đình Cả, Tràng Xá đã tự ý bỏ trốn mà không có chủ trương của chi bộ. Một đồng chí khác cũng đã tự ý hành động, vờ ốm để xin về nhà thương Thái Nguyên rồi trốn. Những việc ấy dã làm trở gại cho công việc chung của chi bộ không nhỏ. Tên Ma-ri-ki lại ráo riết khám xét, tra hỏi. Mọi công việc chuẩn bị phải tạm thời đình chỉ. Chỉ ái ngại cho cá đồng chí Tạ Xuân Thu, Chì… ở trong ban kinh tế có trách nhiệm bí mật làm chè lam, kẹo bỏng… để dùng làm lương khô đi đường lại phải đem cá mặt hàng ấy ra bán và lại phải bấm bụng nhận lấy những lời kêu ca, giễu cợt của anh em: “Mấy ông kinh tế kể cũng tài thật, làm được bao nhiêu cứ tích trữ y như mấy anh nhà giàu giữ hũ mắm. Bây giờ để lâu chảy nước ra, mới đem tống cho anh em ăn!”.

Tháng 9 năm sau (năm 1944) thời cơ vượt ngục đã đến. Chúng tôi dã kiên trì giữ một thái độ rất ôn hòa, làm cho bọn địch đầu sở bắt đầu phải nghĩ “có lẽ những người tù chính trị này đã yên phận rồi!” hoặc ít ra cũng đã “biết sợ mất đầu”. Lính tráng bên dưới lại càng tin tưởng ở “các ông nhà pha” hơn, “các ông ấy rất nghiêm, đến giờ đi làm là đi, đến giờ về là về, đầy đủ, mau chóng lắm!”.

Chính trong lúc bọn địch đã phần nào bớt chú ý giám sát thì công cuộc chuẩn bị vượt ngục của chúng tôi đã được đẩy mạnh, gấp rút hơn bao giờ hết (tuy nhiên mọi công việc chuẩn bị vẫn hết sức bí mật, ngay cả trong chi bộ, chỉ có chi ủy và một số người được biết).

Chi ủy chúng tôi tăng cường liên lạc với bên ngoài, trao đổi thật cặn kẽ các phương án kế hoạch và thống nhất với nhau từ số người đưa ra cho tới từng ám hiệu, ký hiệu nhỏ trên dọc đường chạy trốn.

Về số người được đưa ra, lúc đầu cũng không phải dễ dàng quyết định. Đồng chí nào cũng muốn được Đảng cho ra ngay trong dịp này. Nhưng chết nỗi nếu ra đông dễ lộ, hơn nữa nếu tất cả các đảng viên đều ra hế thì còn hàng trăm quần chúng ở nhà tù, ai sẽ tổ chức lãnh đạo đấu tranh khi địch khủng bố, đàn áp? Bàn đi tính lại mãi, chi ủy chúng tôi đề ra tiêu chuẩn sau đây: những đồng chí nào cần thiết ngay cho phong trào thì được đưa ra, nhưng đồng thời phải là người khỏe mạnh, hạn tù lại còn dài. Còn những đồng chí nào đang ốm đau, hạn tù sắp hết thì ở lại.

Tron số người mà chi ủy yêu cầu ở lại có đồng chí Tô Quang Đẩu - chi ủy viên. Hạn tù của đồng chí Đẩu đã sắp hết, hơn nữa lại cần có một đồng chí trong cấp ủy ở lai để tiếp tục lãnh đạo anh em quần chúng trong tù. Đồng chí Phạm Ngọc Mậu đáng lẽ cũng được đưa ra nhưng vi đang mắc bệnh ho và lở nên cũng đành phải bố trí ở lại.

Bây giờ vào dịp tết Trung thu. Để tiếp tục đánh lạc hướng địch, chi ủy chủ trương tổ chức một buổi liên hoan mổ bò, diễn kịch, ca hát rất linh đình, vui vẻ. Bọn tri phú, cai ngục… được chúng tôi mời đến dự, chúng cười cười, nói nói, có vẻ hài lòng lắm. Nhưng trong lúc kịch đang diễn ở hội trường, chi ủy chúng tôi cũng đang trao đổi ý kiến, duyệt lại lần cuối cùng tất cả mọi công việc chuẩn bị và kế hoạch hành động. Ngày vượt ngục đã được ấn định dứt khoát: mồng 2 tháng 10 năm 1944. Không thể chậm hơn được nữa. Phát xít Đức đang bị Hồng quân Liên Xô phản công nguy ngập. Bọn Nhật cũng bắt đầu bị khốn đốn ở Thái Bình Dương. Trong nước, mâu thuẫn Nhật - Pháp sắp bắn nhau, thời cơ tổng khởi nghĩa sắp tới rồi. Xứ ủy cũng đã nhắc đồng chí Chu Văn Tấn giục thêm chúng tôi một lần nữa.


Tiêu đề: Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng - Thượng tướng Song Hào
Gửi bởi: macbupda trong 01 Tháng Bảy, 2010, 08:46:04 am
*
*   *

Đêm mùa thu ở dây đã chớm lạnh. Nhưng trong cái “đêm giao thừa vượt ngục” ấy, lòng chúng tôi vô cùng ấm áp. Hầu như không có một đồng chí nào ngủ được. Biết bao niềm sung sướng, mừng vui, hi vọng, xốn xang khó tả; cố nhiên cũng xen lẫn cả sự lo lắng bồi hồi. Mỗi người chúng tôi đều biết trách nhiệm mình nặng lắm. Không thận trọng, không tỉnh táo, không quyết tâm, kế hoạch bị vỡ thì tất cả mọi đồng chí sẽ bị mất đầu với địch.

Mọi đêm trước, đồng chí Tô Quang Đẩu ngủ tận đầu sang bên kia, nhưng đêm ấy đã lần đến nằm chen vào giữa đồng chí Tạ Xuân Thu và tôi để tâm sự. Nói sao cho hết mối tình đồng chí thiêng liêng đầm ấm trong đêm ấy. Hơn lúc nào hết, trước lúc chia tay để lên đường trở về với Đảng, với nhân dân, đêm nay chúng tôi cảm thấy thương yêu nhau vô bờ bến. Vì phải giữ bí mật nên không dám nói to, nói nhiều, đồng chí Tô Quang Đẩu chỉ còn biết thổ lộ nỗi niềm lưu luyến nhớ nhung của mình bằng cách cầm chặt lấy tay chúng tôi vẻ trìu mến. Chúng tôi rất hiểu tấm lòng đồng chí. Chúng tôi siết chặt tay đồng chí, muốn nóí: “Chúng tôi tuy im lặng, nhưng đang nói với nhau rất nhiều. Chúng tôi ra đi với một nhiệm vụ rất nặng nề nhưng đồng chí ở lại với nhiệm vụ rất khó khăn phức tạp, rồi cũng sẽ tới ngày đồng chí được Đảng đưa ra, chắp cánh tung bay trong bão táp của cách mạng. Ngày ấy xem ra cũng không còn xa lắm nữa…”.

Sáng hôm sau, như thường lệ, ban trật tự của nhà tù lại cắt đặt người đi làm trên đồn, người gánh nước, ngươi vào rừng lấy củi. Lẽ cố nhiên các đồng chí được Đảng quyết định cho ra đều được sắp xếp đi lấy củi. Đồng chí Hiến Mai, đồng chí Trung Đình, đồng chí Tạ Xuân Thu, đồng chí Chu Nhữ, đồng chí Chì, đồng chí Môn, đồng chí Kháng, đồng chí Phong đen, đồng chí Tùng, đồng chí Sơn, đồng chí Nhị Quý và tôi, tất cả mười hai người chia làm hai tổ, mỗi tổ một xe bò và mây cái rìu, một cái cưa. Hôm ấy cả mười hai anh em chúng tôi đều mặc áo sơ mi thường, đính mảnh vải in số tù trên nắp túi. Đây không phải là một hiện tượng đặc biệt. Do sự đấu tranh của chúng tôi, từ lâu bọn cai ngục đã chịu để cho chúng tôi thường được mặc như vây. Chúng tôi viện lý do để đấu tranh: nhà tù không phát đủ quần áo để thay đổi.

Mười hai anh em chúng tôi vui vẻ dẩy xe lên đương. Những đồng chí trong chi bộ lính được phân công đi áp tải chúng tôi cũng tươi cười giục giã: “Nào, các ông! Ta đi cho sớm sủa!”. Chi bộ trong anh em binh lính đã có một chủ trương rất tinh tế: bên cạnh những anh lính “đồng chí” còn bố trí kèm theo cả một vài anh lính thường, thậm chí có anh tính nết ba gai, hoặc vẫn còn mù quáng trung thành với đế quốc. Làm như vậy bọn chỉ huy ở trên không thể nghi ngờ gì nữa.

Như thường lệ, tới quán bánh đa của chị Tàng, cả đoàn tù và lính lại dừng một lúc để hút thuốc, uống nước. Và lại như thường lệ, các “thầy quyền” lại dặn: “Các ông nhớ nghe kẻng thì về nhá!”, rồi cởi ngay “bao xe”, đưa súng gửi chị Tàng, nhấm nháy nhau “vào làng”. Hai tiếng “vào làng” của các “thầy quyền” có đầy đủ ý nghĩa của những việc mò rượu, tán gái.. Tôi muốn dừng lại ở đây để nhắc lại một điều là từ lâu chúng tôi đã tạo cho các “thầy quyền” một thói quen rất dễ chịu: đi khỏi đồn tới đây, các “thầy” cứ việc “tự do”, còn chúng tôi thì vào rừng lấy củi, đến giờ chúng tôi trở về rất đầy đủ. Lần đầu các “thầy” cũng có phần lo ngại, nhưng sau tháy chúng tôi rất đúng hẹn, dần dần các “thầy” hoàn toàn cho phép mình được phóng túng.

Khi các đồng chí “lính” của ta đã rủ những người lính háo rượu, háo gái kia đi khỏi, chúng tôi cũng không chậm trễ, đẩy xe vào rừng. Cho tới lúc này không một ai cười đùa nữa. Giờ chiến đấu đã tới! Nỗi lo lắng, hồi hộp càng tăng lên gấp bội. Đồng chí nào cũng trở nên khỏe khoắn, nhanh nhẹn khác thường. Vào sâu trong rừng được một quãng, theo một hiệu lệnh, cả hai tổ vứt hết xe bò, cưa, rìu sang bên đường, rồi bắt đầu chạy. Chúng tôi cắm đầu cắm cổ chạy như gió, như bão, không còn biết trời đất là gì nữa. Rừng xanh ngút ngàn như xé ra phăng phăng trước mặt chúng tôi. Cây cối, lau sậy vùn vụt bay biến, đổ rạp xuống hai bên đường. Chúng tôi vượt qua địa phận làng Phục Sinh, tới Khuôn Linh. Tính đường đất đã cách Chợ Chu chừng tám, chín cây số. Mặt mũi đồng chí nào cũng đã tái xanh. Nhiều đồng chí thở không ra hơi nữa. Có đồng chí đề nghị xin cho dừng lại nghỉ một chút, nhưng chi ủy quyết định phải cố gắng chạy nữa, ở dây còn nằm trong phạm vị kiểm soát chặt chẽ. Thế là chúng tôi lại nghiến răng, đem hết sức ra để vượt lên phía trước.

Tiếp tục chạy được dăm cây số, chúng tôi tới một con suối chảy ngang qua đường, trên có một chiếc cầu nhỏ. Chỗ hẹn đây rồi! Mệt cũng có, mừng cũng có, hồi hộp cũng có, trống ngực tôi đổ hồi. Tôi ra hiệu cho anh em dừng lại. Cũng vừa vặn có tiếng gì như tiếng chim kêu “tuýt tuýt” vọng lên. Ám hiệu của ta! Tôi huýt lại hai tiếng sáo giả làm tiếng chim kêu đáp lại, đoạn phân công hai đồng chí gác hai bên đường, cho toàn đoàn rẽ ngay xuống suối, đi vào rừng.


Tiêu đề: Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng - Thượng tướng Song Hào
Gửi bởi: macbupda trong 01 Tháng Bảy, 2010, 08:46:38 am
Một ông già người Tày đang đứng lấp ló ở sau một bụi cây.

Nom thấy chúng tôi, ông già chạy xồ ra, ôm chầm lấy từng người, rồi tự giới thiệu tên mình là đồng chí Tư; sau đó đưa chúng tôi đi vào sâu hơn nữa. Một người trạc hăm bảy, hăm tám tuổi, miệng tươi cười, mặc quần áo chàm, ngang lưng thắt dây da to bản, vai đeo súng kíp, đang đứng đợi ở dưới một gốc cây to.

- Đồng chí Dục Tôn đấy! Đồng chí Tư già giới thiệu.

Cứu quốc quân đây rồi! Thì ra người vẫn luôn luôn thay mặt đồng chí Chu Văn Tấn liên lạc khi chúng tôi còn ở trong tù chính là đồng chí này đây! Biết tên đã lâu, nay mới được gặp mặt, chúng tôi cảmđộng, mãi không nói được nên lời. Tuy nhiên ở đây chưa phải là chỗ để chúng tôi có thể trút hết nỗi niềm vui sướng. Đây vẫn còn là đất địch. Đồng chí Dục Tôn phát cho chúng tội mỗi người một quả lựu đạn, sau đó phổ biến kế hoạch hành quân, tổ chức sắp xếp người đi trước, người đi sau, quy định cự ly, ám hiệu, tín hiệu.

Trong tay đã có một quả lựu đạn, chúng tôi phấn chấn vô cùng. Có một cái gì trang trọng kỳ lạ trong lúc này. Thế là từ đây chúng tôi đã nhận một nhiệm vụ mới. Thế là từ giờ phút này chúng tôi đã trở thành đội ngũ có quy củ và đã có vũ khí hẳn hoi. Hiển nhiên chúng tôi đã thoát khỏi nanh vuốt, gông xiềng của đế quốc.

- Các đồng chí ơi! Hãy xé tất cả số tù đi! Chúng ta đã trở về với Đảng, với nhân dân, đã trở lại làm người chiến sĩ rồi!

Có thể nói đây là những giây phút xúc động và thiêng liêng ít có. Bằng một cử chỉ mãnh liệt, tất cả mười hai đồng chí chúng tôi giật phăng mảnh vài in in số tù, xé nát, chôn sâu xuống các gốc cây, khe suối. Dấu vềt của sự nhục nhã, đau khổ ê chề thế là đã được xóa sạch. Mười hai anh em chúng tôi đứng lại thẳng hàng. Và cuộc hành quân bắt đầu, cuộc hành quân vạn dặm để đi tới chiến thắng, đi tới hạnh phúc mai sau.

Để tránh bị địch rượt đuổi, đồng chí Dục Tôn và đồng chí Tư già đã bỏ tất cả các đường mòn, đưa chúng tôi vào các khu rừng rậm, hướng về phía địa giới hai tỉnh Thái Nguyên, Tuyên Quang đi tới. Không có địa bàn, không có bản đồ, nhưng đồng chí Tư già vẫn dẫn đàu đoàn quân đi thoăn thoắt như một con sóc, làm cho chúng tôi không khỏi khâm phục.

Vượt hết suối này, tới núi khác, gần nửa đêm, đoàn chúng tôi tới bờ sông Đáy. Trời tối mù mịt. Rừng nứa ken dày. Chợt thấy dưới sông có ánh đuốc bập bùng, đồng chí Dục Tôn ra hiệu cho chúng tôi dừng lại, rồi đồng chí Tư già tiến lên trinh sát. Đồng chí Tư già cầm ngang khẩu súng kíp, trước khi đi, cười giao hẹn:

- Nếu là dõng, cho tôi giết nhé!

Chúng tôi khôngđồng ý, vì cần phải giữ bí mật đến cùng. Hiện nay chưa phải lúc nổ súng giết địch.

Đồng chí Tư già đi một lúc, hớn hở quay lại:

- Tưởng ai, “Vua” Mán đấy!

Thì ra người cầm đuốc là đồng chí Hồng Hải, một cán bộ người Mán có uy tín rất lớn đối với người cùng dân tộc ở vùng này. Đồng chí Chu Văn Tấn phái đồng chí Hồng Hải đến đón chúng tôi ở đây. Chờ lâu quá, sốt ruột, Hồng Hải tranh thủ đi bắt cá để cải thiện.

Từ quãng này đồng chí Hồng Hải thay đồng chí Tư già dẫn đường. Chúng toi bắt đầu đi sâu vào vùng đồng bào Mán.

Một buổi đang đi, chúng tôi chợt nom thấy hai chị phụ nữ đeo vòng bạc sáng loáng áo thêu rất dẹp, đi trong rừng trám, dáng điệu có gì hơi khác lạ. Xem ra hai chị có vẻ đang theo dõi đoàn chúng tôi rất chăm chú. Cảnh giác, chúng tôi phân tán ngay, chỉ để một mình đồng chí Hồng Hải ở lại xem xét. Té ra đấy là hai đồng chí ở cơ sở Cứu quốc được bố trí đi theo để bảo vệ đoàn. Các chị rất muốn được gặp chúng tôi để trò chuyện, nhưng phải tôn trọc nguyên tắc bí mật nên không dám.

Xế chiều, chúng tôi đi tới một bản. Bản chỉ có bốn, năm nóc nhà bên cạnh một khe suối nhỏ, nhà cửa lụp xụp, rách nát. Tuy nhiên, vừa mới tới nơi, chúng tôi đều ngạc nhiên thấy đồng bào từ chú bé lên ba, lên bốn tới các cụ già râu tóc bạc phơ đã dứng xếp thành hai hàng hai bên đường và giơ nắm tay lên ngang mang tai, ríu rít chào hỏi “các đồng chí”. Chào như thế hình như vẫn chưa bày tỏ được hết lòng yêu mến của mình đối với “cần cách mạng”(1), các cụ, các anh, các chị, các em còn bắt tay từng người trong đoàn chúng tôi, siết rất chặt. Chúng tôi không khỏi xúc động vì không ngờ ánh sáng của Đảng đã chiếu sáng được tới cả nơi đây, đem lại cho đồng bào một cách sống, một tình cảm thật mới mẻ và cách mạng.


(1) Người cách mạng.


Tiêu đề: Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng - Thượng tướng Song Hào
Gửi bởi: macbupda trong 01 Tháng Bảy, 2010, 08:48:14 am
Tuy nhiên, chặng đường vui này không kéo dài được bao lâu. Đêm thứ ba, chúng tôi đi tới bản Pài một nơi ở gần địa giới hai tỉnh Thái Nguyên, Tuyên Quang.Chính ở nơi đây chúng tôi bắt đầu bị vây lùng rất nguy khốn, mười chết một sống. Từ khi phát hiện chúng tôi chạy trốn, bọn địch ở Chợ Chu đã phi báo lên Thái Nguyên. Thái Nguyên cấp báo về Hà Nội. Hà Nội lệnh cho mấy tỉnh Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang cùng hợp lực truy lùng.

Trước khi đoàn chúng tôi tới bản Pài, lính khố xanh đã kéo tới dây, cùng với hàng trăm lính dõng ở địa phương được huy động tập trung về. Cơ sở báo cho chúng tôi biết: tất cả các đường mòn đều đã bị canh gác và chăng dây để phát hiện dấu vết của những người đi trốn. Các ngả sang huyện Yên Sơn, Son Dương và sang Bắc Cạn cũng đã bị bịt chặt. Hiện nay lính của Chợ Chu cũng đang dồn dập đuổi gần tới nơi. Dân bản Pai đan bị khảo tra rất gắt.

Cả đoàn chúng tôi dừng lại để bàn cách đối phó. Vừa lúc đó lại thấy một tiểu đội Nam tiến cũng vừa ở trên kéo xuống, nhưng bị tắc đường. Chúng tôi cùng các đồng chí Dục Tôn, Hông Hải nhất trí với nhau: phải tạm lánh vào nương thật xa và kiên trì đợi cho bọn địch sục sạo chán, rút đi, bấy giờ mới có thể tiếp tục cuộc hành trình.

Thế là chúng tôi lên tận một đỉnh núi xa tít, rậm rạp. Từ trên cao, chúng tôi có thể nhìn thấy một vài bản ở phía dưới, kể cả bản Pài, đôi khi nhìn thấy cả những đoàn lừa ngựa và binh lính địch vận chuyển lố nhố trên các đường giao thông. Nửa đêm, một người ở cơ sở lên báo cho chúng tôi biết: địch vẫn ra sức bắt bớ, tra khảo nhân dân, nhưng tất cả mọi người đều triệt để thực hiện khẩu hiệu “ba không” (1) của Đảng. Bọn Pháp đã bắn chết mấy thanh niên và đốt mây nóc nhà, đồng thời giở thủ đoạn nham hiểm quen thuộc là vơ vét hết thóc lúa, ngô sắn, không để lại một hạt nhỏ. Đồng chí Hồng Hải là người đầu tiên ứa nước mắt vì đã hiểu nỗi khốn khổ của nhân dân bản Pài như thế nào. Đồng chí cho biết, dân bản Pài nghèo đói nhất vùng này, phần vị phải cống nạp cho địch, phần vì ruộng đất quá ít. Quanh năm đồng bào phải ăn cháo ngô, ngày tết hoặc ngày giỗ cha, gỗ ông mới có một bữa cơm độn. Nay đang “tháng ba, ngày tám”, địch lại vơ vét dữ dội thế này, không hiểu nỗi đồng bào sẽ sống ra sao đây?

Sang ngày thứ hai không thấy có người lên núi nữa. Xế chiều, các đồng chí trong đoàn gác ở phía ngoài về báo: Hình như lúc mờ sáng có người lên, nhưng bị địch bắn chết ngay ngoài suối. Thế là tin tức bị gián đoạn và nguồn lương thực cũng bị triệt nốt. Lương khô của chúng toi còn một ít, dốc ra chỉ đủ tạm lót lòng một bữa.

Sang ngày thứ ba, bụng đói thắt lại, cổ càng khô khát. Tiếng súng vãn đì đoàng phía dưới các bản. Chi ủy chúng tôi hội ý và nhận định: địch vẫn còn vây chặt, đoàn cần phải kiên trì ẩn náu thêm, kế hoạch đối phó không được mạo hiểm và tin tưởng ở tinh thần cách mạng của quần chúng, quyết không có người chỉ đường cho địch lên đây lùng sục. Để giải quyết vấn đề lương thực, chúng tôi đồng ý cho anh em lấy mấy trái dưa ở mấy mảnh nương gần đó mà nhân dân đã cho từ mấy hôm trước dem về vừa để ăn, vừa để uống. Dưa Mán rất lắm nước. Nước nhiều đến nỗi chúng tôi có thể lấy để rửa mặt. Cầm trái dưa xanh mát cắt ra, tay vã những giọt nước trong trẻo mà lòng những bồi hồi ơn dân, oán giặc.

Hai ngày nữa qua đi. Chúng tôi vẫn ăn dưa, uống nước dưa và rửa mặt cũng bằng nước dưa, kiên trì ẩn náu. Một buỏi tối đã khuya, chúng tôi sắp sửa ngả lưng đi ngủ thì các đồng chí gác ở phía ngoài đạp lá khô lạt sạt trở về, dẫn theo một một người nhỏ nhắn đeo sau lưng một vật gì. Tới gần, mới nhìn rõ một chị người Mán. Chúng tôi mừng rỡ đổ xô lại. Chị mệt mỏi, lảo đảo ngồi xuống.

- Các đồng chí ơi, dân làng lo cho các đồng chí quá!…

Hai tay run run, chị lấy ở trong cái túi lưới sau lưng ra những nắm cơm đã nguội ngắt, khô cừng.

- Các đồng chí ơi, quan châu, quan đồn nó lấy hết gạo rồi, nhưng người làng bảo nhau giấu di một ít để cho các đồng chí ăn. Nó canh gác nhiều lắm! Mãi đêm nay em mới trốn lên dây được. Chắc các đồng chí đói lắm.

Cầm nắm cơm, mà nước mắt chúng tôi muốn chảy ra. Nói làm sao cho hết niềm xúc động! nhân dân ta quả là một nhân dân cách mạng và anh hùng. Tôi sực nhớ tới “bát cơm Siếu Mẫu” trong truyện cổ Trung Quốc. Nắm cơm bản Pài này cũng là một thứ “bát cơm Siếu Mẫu” Việt Nam chứ sao?

Cho đến ngày thứ bảy, vẫn không tìm thấy một dấu vết nào của chúng tôi và không khai thác được một tin tức nào trong dân chúng, bọn địch đành phải hậm hực nhổ trại, kéo nhau trở về Dại Từ, Chợ Chu, Sơn Dương.

Nhân dân ban Pài và đoàn chúng tôi đã toàn thắng. Không chậm trễ, ngay đêm ấy, chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình. Vừa xuống tơi chân núi chúng tôi đã thấy đồng chí chủ nhiệm Việt Minh kiêm phụ trách tự vệ cùng đồng bào đứng đón ở hai bên đường. Các bà cụ cầm tay chúng tôi mà khóc: “Cán bộ đói khổ, gầy yếu đi nhiều quá!”. Một chị mang một rổ sắn đã nướng sẵn, tươi cười đi phân phát cho chúng tôi mỗi người một củ. Đồng chí chủ nhiệm Việt Minh cho biết: đây là những củ sắn cuối cùng trong bản mà đồng bào tình nguyện góp lại cho chúng tôi đủ sức đi về căn cứ. Đồng chí vui vẻ nói tiếp: “Bận sau, nếu đi công tác bị lạc hay bị địch đuổi, lại về đây với chúng tôi. Không có sợ!”. Chúng tôi ngắm nhìn đồng bào và càng cảm thấy sâu xa: những người dân nghèo đói, lam lũ, bình thường này thật cao đẹp, vĩ đại. Chính tinh thần và tình cảm cách mạng đã làm cho họ trở nên đẹp đẽ và lớn lao đến như thế.


(1) Không nghe thấy, không trông thấy, không biết.


Tiêu đề: Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng - Thượng tướng Song Hào
Gửi bởi: macbupda trong 01 Tháng Bảy, 2010, 08:49:27 am
Đêm ấy chúng tôi vượt qua sông Thành Cóc. Sang tới địa phận  bên kia, gần sáng thì bắt dược liên lạc với một số cơ sở Cứu quốc và nghỉ lại trong một khe núi. Sau khi được tiếp tế cơm nước, chúng  tôi lại tiếp tục đi theo một cô gái người Tày dẫn đường. Anh em trong đoàn mỉm cười, nói vui với nhau: Quả là vai trò người phụ nữ Việt Nam rất đặc biệt. Không những sản xuất mà cả trong đấu tranh cách mạng chị em cũng góp phần quan trọng!”. Cô giao thông còn trẻ lắm, tên là Thơm, chân quấn xà cạp, thắt lưng con cúi, cài “xung” trên lưng, mau mắn, nhanh nhẹn như con chim sáo. Cô dẫn chúng tôi đi toàn đường bí mật. Hết chặng đường hôm ấy, cô bàn giao đoàn chúng tôi cho cơ sở mới tới. Và cứ thế, bắt đầu từ hôm ấy, chúng tôi được đi theo từng chặng một; người của chặng nọ bàn giao chúng to cho người của chặng kia, rất chu đáo. Chúng tôi biết, chúng tôi đã di vào sâu dần trong vùng cơ sở vững chắc của Đảng.

Chặng cuối cùng, chúng tôi được đưa tới xã Văn Minh gần Văn Lãng. Đèo Khế. Đồng chí Dục Tôn vui vẻ, thở trút ra:

- Tới nơi ròi, các đồng chí ạ!

Chúng tôi bước lên một căn nhà sàn nhỏ. Bên bếp lửa rợp hồng, một đồng chí đang ngồi, có vẻ chờ đợi. Đồng chí đó đã đứng tuổi, người hơi đẫy, cử chỉ khoan thai, vẻ mặt tươi vui, hiền hậu, Không cần phải hỏi, chúng tôi cũng doán biết người đó là ai rồi! Đồng chí Chu Văn Tấn, đồng chí Tân Hồng, người đã làm cho kẻ địch phải gọi là “con hùm xám Bắc Sơn”. Dọc đường đi, chúng tôi đã được nghe nhân dân luôn nhắc tới tên đồng chí với tấm lòng mến yêu, kính trọng đặc biệt.

Đồng chí Tấn tiến lại phía chúng tôi. Chúng tôi cùngg muốn thốt lên: Đây rồi, bay giờ chúng tôi đã thực sự về được giữa lòng nhân dân, giữa lòng Đảng. Đồng chí Tấn cũng không giấu được vẻ vui mừng:

- Các đồng chí đã ra. Đảng rất hoan nghênh các đồng chí. Phong trào đang cần các đồng chí lắm!

Đêm ấy tất cả chúng tôi ngồi quây quần bên bếp lửa, ăn cháo gà, chuyện trò tâm sự tới khuya. Đã lâu lắm chúng tôi mới lại được ngồi tự do dưới một mái nhà ấm. Không có rượu mà chúng tôi đều cảm thấy ngây ngất. Hạnh phúc! Đã có biết bao người tìm hiểu ý nghĩa của hai tiếng ấy! Riêng tôi lúc ấy, tôi cảm thấy giản dị, đó là được sống trong tình Đảng, sống trong lòng dân và được tự do, tự do đem hết sức mình cống hiến cho lý tưởng cao đẹp: chủ nghĩa cộng sản.

Ngày hôm sau, đồng chí Tấn thay mặt Xứ ủy phân công chúng tôi, một số sang hoạt động ở phân khu Quang Trung (bên hữu ngạn sông Cầu, bao gồm Thái Nguyên, Bắc Giang và một phần Lạng Sơn), một số sang hoạt động ở phân khu Nguyễn Huệ (tả ngạn sông Cầu, gồm một phần Thái Nguyên, một phần Bắc Cạn và toàn bộ hai tỉnh Tuyên Quang, Hà Giang). Cả hai phân khu đều nằm trong chiến khu Hoàng Hoa Thám. Các đồng chí Tạ Xuân Thu, Trân Thế Môn, Hiến Mai, Chì, Trung Đình, Tùng, Phong và tôi được vè phân khu Nguyễn Huệ. Tôi chịu trách nhiệm làm bí thư phụ trách chung tất cả các mặt của phân khu.

Buổi chia tay lần này chúng tôi rất vui, mặc dầu đối với nhau rất lưu luyến. Chúng tôi biết và tin rằng chẳng bao lâu nữa, chúng tôi sẽ lại được gặp nhau.

Đi với chúng tôi sang phân khu Nguyễn Huệ còn có đồng chí Dục Tôn (vì đồng chí Dục Tôn đang gây cơ sở hoạt động ở phía đó với đồng chí Khánh Phương, phụ trách đội Cứu quốc quân số 2).

Đồng chí Tấn đứng ngắm nhìn chúng tôi, vui vẻ chúc mãi:

- Thắng lợi nhé! Thắng lợi nhiều nhé!

Rồi đồng chí mỉm cười nói tiếp:

- Thật là những con chim bằng đã sổ lồng, cất cánh!


Tiêu đề: Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng - Thượng tướng Song Hào
Gửi bởi: macbupda trong 01 Tháng Bảy, 2010, 08:50:23 am
II

Nói cho đúng ra, lúc bấy giờ phong trào đấu tranh tuy đã lên mạnh, nhưng chưa phải đã đều khắp. Có nơi cơ sở còn nhỏ yếu, địch vẫn còn o ép gắt gao, tình hình hầu như vẫn còn rất khó khăn. Phân khu Nguyễn Huệ của chúng tôi thuộc vào loại này. Các đồng chí Dục Tôn, Khánh Phương, Phương Cương, v.v… đã hoạt động trước đó cho biết địch vẫn còn càn rừng, sục núi, dồn làng, bao vây dân dữ lám các cơ sở, cán bộ ta bị truy lùng, khủng bố ác liệt. Có khi, bắt được cán bộ ta là bọn địch bắn ngay tại chỗ, bắt được quần chúng cơ sở của ta cũng vậy. Nhưng hiểm ác hơn cả là chúng tổ chức bao vây kinh tế, dồn dân đến chỗ đói gạo, đói muối một cách khổ cực. nhiều nơi đồng bào đã phải đốt cỏ tranh để ăn thay muối. Đã có người chịu không nổi, đã bắc bệnh vì thiếu chất mặn. Chính trong những lúc khốn quẫn ấy, bọn địch treo những giải thưởng quái ác: một đầu cán bộ lĩnh năm mươi cân muối, một tai cán bộ lĩnh mười cân muối… Hệ thống chỉ điểm của chúng được bố trí rộng khắp. Hễ thấy chỗ nào có đông người là lính dõng ập đến. Trên các nẻo đường mòn quan trọng đều có các trạm kiểm soát và cạm bẫy dăng đầy để phát hiện các dấu vết của cán bộ, cơ sở ta đi lại... Một không khí căng thẳng bao trùm khắp nơi. Người dân phải dè dặt từng lời nói, thậm chí tới cả từng bước chân.

“Trách nhiệm của chúng ta nặng lắm!”. Đó là câu đầu tiên của chúng tôi đã nói với nhau khi trở về phân khu Nguyễn Huệ. Đã cuối năm 1944 rồi, tình hình thế giới, trong nước đang có thêm nhiều chuyển biến lớn. Hồng quân Liên Xô đang phản công mãnh liệt. Nhật đã bị thất bại liên tiếp ở phương Đông và đang gầm ghè cắn nhau với Pháp. Ở Đông Dương, thời cơ lớn sắp tới.

Theo kế hoạch đã được trao đổi nhất trí, các đồng chí Thu, Môn, Chì, Phóng, Tùng, Hiến Mai phân tán vượt sang châu Sơn Dương (Tuyên Quang) trước, dựa vào một phần những cơ sở do các đồng chí Cứu quốc quân đã xây dựng đế tiếp tục tuyên truyền giác ngộ quần chúng, mở rộng thêm cơ sở. Trong lúc đó tôi vẫn còn tạm ở vùng Văn Lãng để tổ chức các mối giao thông liên lạc và theo dõi tình hình chung. Nơi mà tôi tạm trú là gia đình cụ Sàng, người Nùng. Hai ông bà già có một cậu con trai lớn là cán bộ địa phương và có mấy cô con gái, đều chưa biết chữ. Cả mấy cha con đều rất nhiệt tình với cách mạng và thương yêu tôi như người ruột thịt trong nhà. Hàng ngày, ông cụ thường cầm dao ra ngoài sàn ngồi vót nan, chẻ lạt để canh gác cho tôi làm việc, hoặc ăn, ngủ. Còn mấy cô con gái chuyên làm nhiệm vụ giao thông. Vì chưa biết chữ cho nên các công văn, thư từ đều phải buộc chỉ đánh dấu. Chỉ xanh là gửi sang Sơn Dương cho các đồng chí Hiến Mai, Trung Đình… Chỉ đỏ là gửi về cơ quan giao thông của Khu, của Xứ… các cô hồn nhiên như những con chim rừng. Cứ theo những dấu chỉ ấy, các cô  đã luôn luôn làm tròn nhiệm vụ một cách mau lẹ, gọn gàng. Dạo ấy tôi lại đang bị ốm. Mỗi lần sốt lại kèm theo ho. Tuy nói là ở nhà cụ Sàng, nhưng thực ra ban ngày cũng như nhiều đêm tôi phải xuống ngủ ở nóc chuồng trâu, dưới gầm sàn, chỗ gia đình để rơm, để cỏ và đủ thứ tạp vặt. Nằm lọt giữa những mớ rơm, mớ cỏ, lồng gà, cày cuôc… tôi phải cố nén từng tiếng ho. Không thể để tôi kéo dài tình trạng ấy, ông cụ, bà cụ nhất định bắt tôi phải lên nhà để nằm cho sạch sẽ, ấm áp hơn. Nhưng chẳng may một hôm có bọn dõng đi tuần nghe thấy tiếng ho, chúng kéo vào hỏi. ông cụ, bà cụ đã nhanh trí  đẩy tôi vào buồng, lấy chăn trùm kín rồi bảo đứa con bị mệt. Lũ dõng vốn đã biết ông bà này xưa nay rất hiền lành và thật thà như đếm, chưa hề biết nói dối ai nửa lời, dù chỉ là những câu chuyện vặt vãnh, nên hút thuốc xong chúng lại thong thả xuống sàn.

Ở nhà Cụ Sàng được ít lâu, tôi đã tổ chức thêm được một số cơ sở ở chung quanh, do đó mạng lưới giao thông dần dần được hình thành và dần dần vững chắc lên mãi. Ngoài mấy cô con gái tươi vui, nhanh nhẹn của cụ Sàng còn có thêm nhiều thanh niên khỏe mạnh và dũng cảm khác, không quản ngày đêm, mưa nắng, không sợ địch lùng, không quản ngày đêm, mưa nắng, không sợ địch lùng, không sợ tù tội, lúc nào có việc là đi, có nhiệm vụ là làm. Cũng trong thời gian đó, bên Sơn Dương phong trào đã phát triển mạnh hơn. Chúng tôi thường qua bên đó gặp nhau để bàn định kế hoạch thúc đẩy phong trào tiến lên theo kịp với tình hình, sẵn sàng đón thời cơ thuận lợi.

Các đồng chí ta phần lớn đều xây dựng cơ sở ở vùng đồng bào Mán. Có một vài nơi cơ sở đặt ở vùng đồng bào Tày. Trở lại vùng Mán, tôi không khỏi nhớ tới bản Pài, nhớ tới các làng Mán trên dọc đường vượt ngục, nơi có những cụ già và em bé Mán dã giơ ngang nắm tay lên vai để “chào đồng chí”, rồi cùng nhau quyên góp, bòn từng hạt gạo, cũ sắn để tiếp tế cho cán bộ, trong lúc địch đang kề gương trên cổ từng người tra khảo: “Việt Minh ở đâu?”.


Tiêu đề: Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng - Thượng tướng Song Hào
Gửi bởi: macbupda trong 01 Tháng Bảy, 2010, 08:51:33 am
Tôi đi đi về về họp bàn với các đồng chí mấy bận, cho tới tháng 1 năm 1945 thì cơ quan phân khu chuyển hẳn sang Kim Quang Thượng (một làng Mán nhỏ bé ở thượng nguồn sông Đáy, trên con đường mòn từ châu Sơn Dương đi Đàm Hồng, bản Thi).

Sang tới đây chúng tôi bắt đầu chính thức tổ chức cơ quan của quân khu. Cơ quan là một chiếc lán nhỏ ở sâu trong rừng, bên một dòng suối nhỏ, cách làng chừng một hai cây số. Nơi đây rừng núi xanh rì, dân cư thưa thớt. Phân khu quyết định triệu tập các đồng chí Hiến Mai và Trần Thế Môn cùmg về công tác ở cơ quan. Tình hình phong trào đang phát triển tốt. đảng bộ ở đây cần có một tờ báo để kịp giới thiệu kinh nghiệm và chỉ đạo đấu tranh các mặt. Nghĩ mãi, không có ai hơn đồng chí Hiến Mai trong lúc này để phụ trách tờ báo đó. Ở Sơn La, đồng chí Hiến Mai đã từng giam gia làm tờ báo Suối reo do đồng chí Xuân Thủy phụ trách, về nhà tù Chợ Chu, đồng chí Hiến Mai lại phụ trách tờ Thông ngôn. Ngoài ra đồng chí lại là người có chữ viết rất đẹp. Trước yêu cầu mới, đồng chí Hiến Mai vui vẻ bắt tay ngay vào viêc. Cơ quan đã ra báo, đồng chí cũng cần có cơ quan ấn loát và xưởng sửa chữa vũ khí. Việc này tôi không phải tìm ai xa. Đồng chí Môn vốn là công nhân nhày trước, bây giờ phụ trách việc này là rất hợp. Tuy nhiên, phải nói rằng có rất nhiều khó khăn trở ngại cho đồng chí ấy. Muốn in phải có đất dẻo, có thạch…; muốn làm xưởng sửa chữa vũ khí phải có bễ lò, đe, búa… Nhưng húng tôi chỉ có hai bàn tay trắng. Đồng chí Môn không giấu được nỗi lo lắng, nhưng rồi cũng hăng hái quyết tâm nhận nhiệm vụ. chúng tôi đã có kinh nghiệm và đã hiểu: “Nếu có dân, sẽ có tất cả”.

Trong khi cơ quan của phân khu được thành lập thì các đồng chí Tạ Xuân Thu, Trung Đình, Dục Tôn, Chì, Phóng, Tùng… ở rải rác quanh đó đã mở rộng thêm được nhiều vùng cơ sở. Cố nhiêm, các đồng chí đã phải trải qua biết bao nỗi gian truân, cực khổ. Những ngày dầu tiên, chưa có “chỗ đứng”, nhiều đồng chí đã phải dùng măng nứa, củ mài, nước suối cầm hơi. Đêm đêm lần xuống bản làng, ngày ngày đợi từng người lên nương rẫy để tìm cách gặp gỡ, làm quen, rồi dần dần tiến tới tuyên truyền giác ngộ cho họ. Đã có nơi địch đánh hơi thấy có cán bộ ta về hoạt động, chúng lùng sục ráo riết. Các đồng chí ta không ở một nơi nào lâu quá được hai ngày. Phải xóa từng vết chân, phải giấu từng ngọn khói… Chỉ ở những nơi đã có ít nhiều cơ sở ucả các đồng chí Dục Tôn, Khánh Phương và các đồng chí Cứu quốc quân khác đã gây dựng, các cán bộ ta mới đỡ phần vất vả; tuy nhiên trong những ngày đầu phong trào còn mỏng, vẫn cứ phải nằm rừng, ngủ suối, ban ngày náu kín, ban đêm mới trở về bản hoạt động.

Ở cơ quan, chúng tôi cũng gặp không ít khó khăn gian khổ. Chúng tôi cũng phải luôn luôn dề phòng địch càn rừng, sục núi. Công tác bí mật ở cơ quan lại càng phải mười phần nghiêm ngặt. Các đồng bào cơ sở của chúng tôi rất nghèo khổ. Tình trạng thiếu muối cũng gay go không kém các nơi khác. Do đó ở cơ quan chúng tôi thường xuyên phải ăn chuối xanh luộc để trừ bữa. Chuối luộc, không có muối, ăn nhiều quá phát sợ. Đã có đồng chí mới ngửi thấy mùi chuối luộc đã buồn nôn, muốn ọe, mửa.

Tết đến. Rừng núi như khoác những tấm áo xanh mới. Thiên nhiên trở lại sáng tươi, non trẻ. Trong các làng, bản, một số gia đình còn đôi ba miếng ăn đã rậm rịch chuẩn bị cỗ bàn. Ở cơ quan, chúng tôi cũng vui vẻ chuẩn bị đón xuân, nhưng đón xuân bằng việc ra báo Tết với những bài hiệu triệu Đánh Nhật đuổi Pháp; Gấp rút chuẩn bị lực lượng để tiến tới Tổng khởi nghĩa.

Đêm ba mươi Tết năm ấy là một đêm không sao quên. Nó khác hẳn những đêm trừ tịch dưới mái ấm của gia đình khi xưa, cũng không giống những đêm ba ba mươi Tết vừa vui nhộn, vừa phảng phất nỗi đau buồn trong nhà ngục năm trước. Đây là đêm ba mươi Tết trong một cơ quan chỉ đạo bí mật còn tạm thời phải ẩn náu trong rừng xanh.

Ngồi bên đống lửa lom nhom, nhưng ấp áp, chúng tôi cùng trò chuyện và phân tích thêm tình hình của địa phương mình, cũng như trong cả nước. Tất cả chúng toi đều cùng một ý nghĩ: “Đêm nay cũng là đêm ba mươi của cách mạng”. Gần giao thừa, một chị người Mán gác ở phía ngoài chợt vào báo cho biết “Có cán bộ Trung Đình về”. Cả cơ quan chúng tôi vui vẻ hẳn lên. Trung Đình về, hẳn là có tin thêm ở các xã vùng ngoài. Nhưng chúng tôi đều ngạc nhiên khi thấy đồng chí Trung Đình không chỉ đem tin tức mà còn khệ nệ vác về cả một con hươu.

- Cho mình ăn Tết với nào!

Đồng chí Trung Đình vừa nói, vừa tươi cười quẳng con hươu xuống bếp lửa. Thế là chỉ trong chốc lát chúng tôi đã có món thịt hươu nấu với chuối xanh. Tiếc thay, vẫn không có lấy một hạt muối, thành ra nhai thịt hươu cũng chẳng khác gì miếng chuối luộc. Tôi nói vui:

- Chúng mình cũng cần phải qua cái cầu chuối xanh này thì mới tới con đường thắng lợi được!


Tiêu đề: Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng - Thượng tướng Song Hào
Gửi bởi: macbupda trong 02 Tháng Bảy, 2010, 09:46:18 am
*
*   *

Với phương hướng hoạt động chung, với sự nỗ lực vượt bậc của các đồng chí cán bộ ta, phong trào đã lên nhanh trông thấy. Song cũng cần phải kể tới ảnh hướng mạnh mẽ của phong trào các nơi. Tiếng vang của các cuộc nổi dậy ở Bắc Sơn, Tràng Xá, Đình Cả, Võ Nhai và tiếng súng tiêu diệt địch ở Phai Khắt, Nà Ngần của Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân (vừa thành lập ở Cao - Bắc - Lạng tháng 12 năm 1944) đã thức tỉnh, hoặc it ra cũng đã làm rung chuyển phần nào các tầng lớp nhân dân ở nơi đây. Cũng cần phải kể tới cả những cơ sở đầu tiên do các đồng chí Cứu quốc quân 2 đã xây dựng, đấy là những hạt giống đỏ đầu tiên trên mảnh đất này…

Khắp các nơi như Ao Búc, Thanh La, Hồng Thái, Kim Long, Khuổi Kịch, Khổi Phát,… một vùng rộng lớn hầu hết châu Sơn Dương và lan sang cả một số nơi thuộc các huyện, tỉnh lân cận đều đã có những tổ chức quần chúng thanh niên, phụ nữ, phụ lão, nhi đồng và các đội dân quân tự vệ. Quán triệt đường lối của Đảng, khu ủy, phân khu ủy đã nám chắc công tác trung tâm, mấu chốt là mở rộng cơ sở, củng cố cơ sở, nắm chắc đường lối vũ trang khởi nghĩa của Đảng nên đã đặc biệt quan tâm tói việc xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang ở các nơi đã có cơ sơ vững.

Đêm đêm, dân quân tự vệ các xã nhộn nhịp tập luyện dưới sự hướng dẫn của các đồng chí ta. Các môn học chính là bò, lăn, lê, toài, lựu đạn, lưỡi lê, đứng bắn, quỳ bắn… Các anh chị em thanh niên nam nữ mê say đã đành, nhiều nơi các cụ phụ lão cũng xung phong đi tập để giết giặc cứu nước.

Do cơ sở quần chúng ngày nào cũng được mở rộng, củng cố và các đội dân quân tự vệ ngày càng được phát triển, nên ưu thế của cách mạng ngày càng lớn. Có nhiều nơi bọn tổng lí, hương dõng phát hiện thấy những hoạt động của ta mà cũng phải bưng tai, bịt mắt làm ngơ, hoang mang lo sợ, không dám đi báo quân Pháp. Đã có một vài nơi bọn này có ý định cản phá phong trào ta, các đồng chí cán bộ đã đưa dân quân tự vệ đến bao vây chặt, lên tận nhà cảnh cáo, bắt làm giấy cam đoan không được chống lại cách mạng. Phong trào lên mạnh không những đã thu hút được đông đảo quần chúng lao khổ, mà còn lôi cuốn được những tâng lớp trung gian, thậm chí có một số con cái tổng lí, kì hào.

Phong trào lên, nguyện vọng khởi nghĩa của nhân dân càng mạnh mẽ. trong hầu hết các cuộc họp giữa cán bộ và cơ sở quần chúng ở tất cả các nơi trong phân khu đều có những câu hỏi được đặt ra: “Yêu cầu cán bộ cho biết bao giờ thì khởi nghĩa?”. Có người thốt lên những lời tha thiết: “Đói khổ lắm rồi! Không thể sống mãi thế này được nữa! Ta đã có lực lượng, thượng cấp cho khởi nghĩa đi thôi!”. Đói! Quả là một khó khăn to lớn trong lúc này. Nạn đói khủng khiếp (mà ta vẫn quen gọi là nạn đói năm 1945 hoặc nạn đói năm Ất Dậu) đã bắt đầu lan rộng ở đồng bằng Bắc Bộ. Bọn Nhật dã ra sức vơ vét thóc gạo của nhân dân ta để theo đuổi cuộc chiến tranh xâm lược. Bọn Pháp cũng ra sức cướp bóc để có thêm lực lượng đàn áp cách mạng và chống lại đế quốc Nhật. Hai tầng áp bức bóc lột đè trĩu lên cổ người dân Việt Nam đã trần trụi, trên mình chỉ còn trơ lại chiếc khó rách. Những tin tức từ dưới xuôi đưa lên: người chết đỏi rải rác ở khắp các tỉnh. Đã có những nơi cả xóm bỏ nhà kéo nhau di ăn xin… Ở trên miền núi này đã thấy từng gia đình bồng bế, dắt díu nhau từ Nam Định, Thái Bình kéo lên, đi lả tả, rơi rụng trên khắp các nẻo đường, mặt mày vàng võ, da bọc xương, móc từng mẩu sắn, nhặt từng dải khoai rơi để ăn.

“Phải khởi nghĩa! Không thể sống được thế này nữa đâu!”. Tiếng thét căm hờn của quần chúng đã vang lên. Chúng tôi biết không phải chỉ ở phân khu của chúng tôi mà ở khắp nơi nhân dân ta đều đang sục sôi đòi cấm súng, cầm gươm, phất cờ vùng dậy.

Quyết tâm của quần chúng đã nung nấu, tuy vậy chúng tôi biết Đảng ta vẫn phải bằng khói óc hết sức minh mẫn và bình thĩnh để tạo và nắm lấy thời cơ để hành động. Các cán bộ trong phân khu lại tiếp tục lăn lộn trong phong trào để củng cố thêm quyết tâm cho quần chúng, rèn luyện thêm cho các đội dân quân tự vệ, sẵn sàng đón đợi chỉ thị của Trung ương và Xứ ủy.

Tháng 2 năm 1945, đồng chí Hoàng Quốc Việt thay mặt Xứ ủy lên Ao Búc bàn với đồng chí Chu Văn Tấn và chúng tôi thành lập đội Cứu quốc quân số 3 (gọi tắt là Cứu quốc quân 3). Xứ ủy nhận định tình hình phong trào, thấy cần phải thành lập thêm lực lượng vũ trang và đã có điều kiện thành lập thêm lực lượng vũ trang để kịp thích ứng với thời cơ sắp đến.Đảng ta đã có kinh nghiệm, bên cạnh các lực lượng bán vũ trang rộng lớn, cần phải có những lực lượng vũ trang có tổ chức, chỉ huy chặt chẽ làm trụ cột.

Đội Cứu quốc quân 3 được thành lập là niềm sung sướng cho tất cả chúng tôi. Đây là một bước trưởng thành mới của cách mạng nói chung và của quân đội ta nói rieng. Trên một bãi cỏ rộng ở Khuổi Kịch, một làng Mán hẻo lánh nằm lọt giữa vùng rừng núi trùng điệp hiểm trở, gần Ao Búc và Thanh La, đội Cứu quốc quân 3 ra đời dưới bóng cờ đỏ sao vàng rực rỡ. Các đồng chí Khánh Phương, Phương Cương được trao trách nhiệm phụ trách, người làm đội trưởng, người là chính trị viên. Toàn đội chia làm ba tiểu đội. Đồng chí Tạ Xuân Thu chỉ huy tiểu đội thứ nhất, có trách nhiệm củng cố vùng Thanh La và Kim Long (sau đổi tên là Tân Trào) rồi tiến về hướng Tuyên Quang. Đồng chí Chì chỉ huy tiểu đội thứ hai tiến về hướng Chiêm Hóa, Hà Giang. Còn tiểu đội thứ ba do đồng chí Dục Tôn trực tiếp phụ trách, thành một mũi tiến về phía Phú Thọ, Vĩnh Yên qua Bình Ca, Thiện Kế để liên lạc về xuôi.

Như có thêm môt cái lõi thép, phong trào toàn phân khu cứng cáp hẳn lên. Các bộ phận Cứu quốc quân 3 đã hoạt động dưới sự chỉ đạo, chỉ huy chặt chẽ, thống nhất hơn trước, cho nên cơ sở các nơi đều phát triển và đã trở thành thế liên hoàn. Suốt một vùng rộng lớn, từ bờ sông Đáy ngoài châu Sơn Dương vào đến Tân Trào (Kinh Long), Thanh La, lên tới Ao Búc, Khuổi Phát (Kim Quan Thượng), qua Đèo Khế (Vân Lãng) và lan sang cả địa phận của huyện Định Hóa (Chợ Chu)… đã trở thành một vùng căn cứ vững chắc, phong trào sục sôi mãnh liệt.

Mới có năm tháng! Tính từ khi chúng tôi thoát khỏi nhà tù Chợ Chu, được Đảng cử về nơi đây với biết bao công việc, biết bao nhiêu khó khăn đã được khắc phục. Quả là nhờ có đường lối sáng suốt tuyệt vời của Đảng và nhờ có các đồng chí cán bộ đến trước chúng tôi như Dục Tôn, Khánh Phương, Phương Cương, Hồng Hải, Đông… đã lăn lộn hoạt động, tình hình mới biến chuyển được mau lẹ đến như thế này. Mới có năm tháng, lúc về đây, chúng tôi phần đông còn chưa biết nên đứng ở đâu, nghe từng tiếng tù và, tiếng chó sủa đã phải nghĩ ngay đến cách đối phó. Thế mà tới nơi mới chỉ có năm, sáu tháng, từ chỗ chỉ có đêm, không có ngày, bây giờ chúng tôi đã có cả đêm lẫn ngày, từ chỗ không có đường đi lại, nay đã có cả một vùng căn cứ rộng lớn.


Tiêu đề: Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng - Thượng tướng Song Hào
Gửi bởi: macbupda trong 02 Tháng Bảy, 2010, 09:47:20 am
III

Sang đầu tháng 3 năm 1945 có rất nhiều dấu hiệu biến động chính trị. Cán bộ cơ sở ở các nơi, nhất là các vùng gần thị xã, huyện lị, đường giao thông lớn liên tiếp báo về: các tổng lí, kì hào, quan lại, binh lính địch rất xôn xao. Lính dõng ở các xã luôn luôn bị gọi đi, nay tập trung ở tổng, mai kéo lên huyện, hoang mang đến cực độ.

Khi được tin này, tôi vôi gọi đồng chí Đào, một thanh niên người Mán rất trung thành, dũng cảm làm liên lạc giao thông, triêut tập ngay các đồng chí Đảng về họp. Tôi rất mong ngóng chỉ thị của Xứ, của Khu. Tôi đoán tình hình có lẽ đã chuyển biến lớn, thời cơ khởi nghĩa có thể đến rồi. Nhưng đợi mãi vẫn chưa thấy. Về sau được biết chính trong lúc ấy đồng chí Chu Văn Tấn đã có thư gửi hỏa tốc từ bên Thái Nguyên sang báo cho tôi biết tin Nhật - Pháp đã bắn nhau và phổ iến chỉ thị của Xứ ủy: phải đẩy mạnh hoạt động võ trang, tranh thủ thời cơ tiêu diệt địch, giành lấy những thắng lợi mới. Thư này không kịp tới tay tôi vì giao thông chậm trễ.

Trong lúc chờ đợi chỉ thị của Xứ ủy, chờ đợi các cán bộ của phân khu về họp, tôi đã nghe thấy có tiếng súng lớn từ xa vọng về, đồng thời lai thấy cơ sở ngoài Thanh La cấp báo: lính dõng đang bị gọi đi gấp, không biết đi đâu, có việc gì?

Ngày 10 tháng 3 năm 1945, các đồng chí Khánh Phương, Tạ Xuân Thu, Trung Đình, Chì, Phóng… trở về khá đông đủ, chỉ tiếc hai đồng chí Phương Cương, Dục Tôn ở mãi phía giáp Vĩnh Yên không về kịp. Chúng tôi họp trong một cái lán dựng sơ sài bbằng dăm cây tre, lợp mái xanh, ở khu rừng thuộc Khuôn Kiện, không xa cơ quan là bao. Cuộc họp rất khẩn trương và vô cùng phấn khởi, tin tưởng. Chúng tôi cũng nhất trí nhận định: Nhật - Pháp đã bắn nhau, thời cơ lớn đã đã đến. Tuy chưa có chỉ thị cụ thể của trên nhưng chúng tôi nhận thấy cần phải nhanh chóng, mạnh dạn hành động. Chúng tôi chủ trương: trước hết cần “bắt mạch” thử xem phả ứng của địch ra sao, sau đó tiếp tục mở rộng hoạt động, cướp lấy chính quyền. Phân khu ủy chọn Thanh La làm trọng điểm để chỉ đạo, bởi Thanh La ở gần nhất, hơn nữa Thanh La là nơi có cơ sở tương đối vững vàng hơn cả.

Đồng chí Tạ Xuân Thu, ngươi trực tiếp phụ trách vùng Thanh La, Hồng Thái, ngay đêm ấy (ngày 10 tháng 3 năm 1945), chấp hành chỉ thị của phân khu, tập trung lực lượng kéo vào một xóm tước súng của hương dõng.

Đêm ấy, đêm chiến đấu đầu tiên của chúng tôi, cả cơ quan không ai ngủ. Chúng tôi biết rằng trận chiến đấu đầu tiên nào cũng cần phải toàn thắng, và chúng tôi cũng hạ quyết tâm; phải thực hiện được như vậy. Tờ mờ sáng hom sau đồng chí Thu cho người về báo cáo đã hoàn toàn tước xong vũ khí của bọn lính dõng. Tình hình đúng như phân khu ủy nhận định: Nhật đã hất cẳng Pháp. Tư tưởng bọn tổng lí, kì hào, hương dõng đã hoàn toàn tan rã. Quân ta đột nhập vào từng nhà của bọn chúng mà tuyệt nhiên không gặp một sự kháng cự nào. Bọn chúng hết sức run sợ, đem tất cả gấy tờ, triện đồng, súng đạn ra nộp. Chỉ xin một điều: Cách mạng tha chết!

Thắng lợi tuy còn nhỏ nhưng thật giòn giã, vượt quá dự định! Tôi trao dổi ý kiến với các đồng chí Hiến Mai, Trần Thế Môn, rồi viết ngay thư cho đồng chí Thu: “tiếp tục khuếch trương chiến quả, tịch thu hết vũ khí của địch trong toàn xã Thanh La, rồi nhanh chóng tiến xuống các xã dưới cướp lấy chính quyền”.

Chúng tôi dã có thể hoàn toàn khẳng định: chính quyền địch đã suy yếu, tan rã từ trung ương đến cơ sở. Chúng tôi quyết tâm tiến hành khởi nghĩa ở địa phương. Cách mạng đã chín muồi, thời cơ đã tới, không thể trùng trình, do dự được nữa.

Sáng sớm ngày 11 tháng 3 năm 1945, trên bãi cỏ rộng trước ngôi đình cổ kích của xã Thanh La, một lá cờ đỏ sao vàng lớn đã bay phấp phới. Các đội Cứu quốc quân, dân quân tự vệ của các thôn, xã vừa hô “một hai” vừa hùng dũng tới tấp kéo tới. Khẩu hiệu, biểu ngữ được cấp tốc làm trong đêm, giờ đây được giương cao rực rỡ: Việt Nam độc lập muôn năm! Đả đảo phát xít Nhật! Ủng hộ Việt Minh! Việt Minh muôn năm! Lực lượng mỗi lúc một đông. Khí thế bừng bừng như lửa cháy. Mã tấu xen với súng kíp, gậy tày sánh với đinh ba… Quần chúng vừa hô khẩu hiệu vang trời, vừa rầm rộ hát những bài ca cách mạng.

Mệnh lệnh được phát ra. Cả đoàn người chuyển mình lên đường. Tiếng hô khẩu hiệu càng bốc lên vang dậy. Đoàn người vừa qua thôn Cầu Toa đã trở nên đông nghịt vì quần chúng tự nguyện nhập vào hàng ngũ mõi lúc một nhiều. Đoàn quân cách mạng tiến tới đâu, hương dõng kéo ra nộp súng, còn tổng lí, kì hào thì mũ áo chỉnh tề ra nộp triện đồng, bằng sức tới đó. Quân cách mạng bèn cho tổ chức đốt ngay các bằng sắc ấy và tuyên bố thành lập Ủy ban nhân dân lâm thời. Niềm vui mừng, khí thế chiến đấu càng thêm dào dạt.

Vừa qua xóm Lé dược một quãng ngắn, các đồng chí cán bộ chỉ huy được tin có mấy tên lính khó đỏ và bốn lính Pháp trốn Nhật, từ Bình Ca chạy vào, chúng đã qua xóm Đồng Câu, hiện đang chạy tới xóm Lũng Cò. Đồng chí Tạ Xuân Thu điều ngay một số chiến sĩ Cứu quốc quân mai phục hai bên con đường mòn từ Lũng Cò ra xóm Lé. Quả nhiên chỉ một lúc sau đã thấy có một bọn lính Âu và khố đỏ đi tới. Chưa có kinh nghiệm phục kích, vừa mới trông thấy bọn chúng từ xa, quân ta hăng lên đã nổ súng ngay. Bọn địch hốt hoảng ù té chạy. Thế là cả đám đông la hét rầm trời, tràn ra đuổi theo. Một tên lính Âu không chạy nữa, đứng dừng lại, giơ hai tay lên trời. Còn mấy tên kia trốn biệt vào rừng.

Có tù binh, có chiến lợi phẩm rồi, khí thế quần chúng càng lên ngùn ngụt. Trời đã xế chiều. Cac đồng chí Tạ Xuân Thu, Phương Cương, Phóng… hội ý với nhau, cho bộ đội dừng lại thổi cơm ăn, đê rồi tiếp tục tiến ra Phượng Liễn cướp chính quyền. Cả đoàn người hạ trại ở ngay bên lề đường, cờ xí đỏ rợp, bếp núc tỏa khói mù mịt, tiếng cười tiếng nói vang ầm. Ông già, phụ nữ, thanh niên, kẻ dao, người súng đi lại chen chúc, hăng say, bồng bột…


Tiêu đề: Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng - Thượng tướng Song Hào
Gửi bởi: macbupda trong 02 Tháng Bảy, 2010, 09:47:46 am
Cơm nước xong, đoàn người lại rầm rộ tiến. Vừa lúc đó có một đồng chí giao thông của đồng chí Phúc Quyền và đồng chí Sơn - cán bộ của ta nằm ở Phượng Liễn lên báo: hiện có bảy lính Pháp ở Tuyên chạy quân Nhật cũng vừa về tới đây, đang vào làng xin ăn. Chúng có cả súng máy.

Lập tức cả đoàn người ào ào tiến lên, vây tròn lấy Phượng Liễn. Thấy động, bảy tên lính Pháp vội vã tổ chức chống cự. Một tên vác khẩu súng máy ra chẹn lấy lối đi vào bản. Còn những tên khác lấy chăn, đệm của đồng bào chẹn các cửa sổ, làm chướng ngại vật và bệ tì để bắn. Tình hình trở nên căng thẳng. Nếu ta tấn công, địch nhất định sẽ chống cự lại. Như vậy nhân dân Phượng Liễn sẽ không thể tránh được thiệt hại. Đồng chí Tạ Xuân Thu bèn cử người về cơ quan phân khu xin chỉ thị. Chúng tôi viết thư trả lời: Nên nới rộng vòng vây. Ngày mai thế nào bọn địch cũng phải út chạy, không dám ở Phượng Liễn lâu. Thừa cơ đó, ta sẽ bắt sống hoặc tiêu diệt bọn chúng ở ngoài làng, tốt hơn.

Quả nhiên sáng hôm sau, khi thấy vòng vây đã mở, bọn địch hấp tấp kéo nhau sđi. Nhưng quân cách mạng đã đợi sẵn chúng ở cửa rừng, xông ra bắt giơ tay hàng nột súng. Vẫn còn ngoan cố, bảy tên địch không những không hàng, còn quay súng bắn trả. Bắt buộc quân cách mạng phải hành động. Chỉ trong chớp mắt, cả bảy tên lính địch ương ngạnh, hung hãn ấy đã bị diệt gọn. Phượng Liễn được giải phóng. Lại mít tinh, lại kéo cờ, lại đốt bằng sắc của tổng lí, kì hào và tuyên bố thành lập Ủy ban nhân dân lâm thời. Phượng Liễn chỉ còn cách châu lị Sơn Dương và đồn Đăng Châu (ở ngay cạnh châu lị) có một, hai cây số. Các đồng chí Phương Cương, Tạ Xuân Thu lại cho giao thông về xin chỉ thị và đề nghị cho thừa thế thắng đánh Đăng Châu ngay.

Phân khu ủy chúng tôi phân tích tình hình và nhận thấy ta đang đà thuận lợi, địch đang hoang mang, tan rã tới cực điểm, có thể lấy ít đánh nhiều, lấy yếu đánh mạnh được, bèn trả lời đồng ý, và nêu ra một số phương hướng cụ thể trong việc chiến đấu cướp chính quyền ở châu lị.

Thế là ngay đêm hôm ấy (12 tháng 3 năm 1945) các đơn vị võ trang của ta cùng quần chúng tiến ra bao vây chặt đồn địch. Tờ mờ sáng hôm sau (13 tháng 3 năm 1945) khi sương mù vẫn còn bồng bềnh giăng khắp núi rừng, quân ta đã nổ súng. Vừa bắn, các đồng chí ta vừa kêu gọi binh lính trong đồn đầu hàng. Từ trên các lô cốt chỉ có một vài loạt đạn bắn ra. Và sau đấy, những chiếc sào có buộc vải trắng giơ lên vẫy rối rít.

- Mở cổng ra! Quân ta thét vang, rồi ào ạt tiến vào. Một tên tổng dõng và hơn hai chục lính khố xanh đứng chắp tay ở sân đồn, mặt cắt không còn một hột máu. Hỏi ra mới biết tên tri phủ Hoàng Thế Tâm thấy động đã chạy lên tỉnh từ chiều hôm trước. Có lẽ nó đi rước quân Nhật về.

Các đồng chí chỉ huy của ta bèn ra lệnh cho tên tổng dõng và nhóm lính khố xanh còn lại trông đồn mở kho, lấy vũ khí ra nộp. Thật khổng ngờ đòn nhỏ mà lại lắm súng, đạn đến như vậy! Đếm tới gần một trăm khẩu súng Mút-scơ-tông và hàng chục két lựu đạn còn mới tinh. Trong đồn cón có mấy kho thóc lớn, các đồng chí cán bộ ta cũng lập tức cho mở khóa, tổ chức phân phát cho dân nghèo trong vùng để kịp thời cứu đói.

Suốt cả ngày hôm ấy, nhân dân các nơi nô nức đổ về chậu lỵ để dự mít tinh thành lập chính quyền châu, và lĩnh thóc. Quang cảnh tưng bừng náo nhiệt như một ngày hội lớn. Cách mạng quả là đã đem lại thắng lợi và lợi ích rõ ràng cho quần chúng lao khổ. Ngước nhìn lá cờ đỏ sang vàng tung bay rực rỡ trên đồn cao, trong châu lỵ, nhiều người không nén được vui sướng thốt lên: “Sống rồi! Từ nay không còn phải làm cái thân con trâu, con chó nữa!”. Châu Sơn Dương đã được đổi tên là châu Tự Do.

Khi đã cướp được chính quyền toàn xã Thanh La, cơ quan của chúng tôi cũng lập tức rời lán bí mật về Khuổi Phát (Kim Quan Thương) xuống Ao Búc. Tuy đồ đạc không có gì, nhưng lúc “dọn nhà” cũng khá lủng củng. Nào bễ, nào lò, nào đe, nào búa, bàn in, sách báo… gánh mấy gánh nặng.

Gồng gánh các thứ vừa ra tới Ao Búc, chúng tôi gặp mấy anh dân quân giải tên tù binh người Âu về. Đồng chí Hiến Mai biết tiếng Pháp, gọi lại hỏi cung. Hắn khai tên là Quyn, quốc tịch Đức. Quyn vào Lê Dương đã trên 10 năm, do bị thất nghiệp, gia đình quá nghèo đói… Chúng tôi hỏi Quyn có biết Việt Minh là thế nào không, tại sao Pháp và Nhật lại xâm lược Việt Nam? Quyn lắc đầu. chúng tôi giải thích cho hắn nghe. Quyn ngồi ôm mặt chốc chốc lại thở dài. (Về sau Quyn tình nguyện đi theo quân cách mạng. Thấy anh ta biết nghề, đồng chí Môn thu dụng ngay trong công binh xưởng để sửa chữa súng ống, máy chữ. Quyn mừng lắm. Và quả nhiên anh ta làm việc rất hăng hái, tỏ ra là một tay thợ cơ khi khá lành nghề…).


Tiêu đề: Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng - Thượng tướng Song Hào
Gửi bởi: macbupda trong 02 Tháng Bảy, 2010, 09:48:10 am
Trở lại chuyện Đăng Châu. Sau khi chiếm đồn, cướp chính quyền ở châu lị, thành lập Ủy ban nhân dân lâm thời, đoàn quân cách mạng quay trở lại Thanh La để nhận nhiệm vụ mới. Trên dọc đường chợt nghe tin trước có một đoàn quân lạ đang đi tới. Đồng chí Tạ Xuân Thu bèn bảo mọi người dừng lại, rồi lấy một giao thông viên cùng tiến lên. Vừa mới thoạt nhìn thấy đồng chí chỉ huy của đoàn quân bạn, đồng chí Tạ Xuân Tu đã mừng rỡ reo ầm:

- Anh Tân Hồng!

Đó chính là đồng chí Chu Văn Tấn. Đồng chí Nhị Quý cũng có mặt ở đó. Thì ra đồng chí Chu Văn Tấn đã lãnh đạo tổ chức cướp chính quyền ở Đại Từ (Thái Nguyên) và đánh Nhật ở Đèo Khế. Hôm nay đồng chí sang bên phân khu chúng tôi để triệu tập hội nghị toàn khu nhận định tình hình mới bàn về việc đẩy mạnh đấu tranh võ trang tiến lên tổng khởi nghĩa và bàn về kế hoạch đối phó với âm mưu của quân Nhật.

Tại Ao Búc, cuộc họp được tiến hành rất khẩn trương. Chúng tôi cùng nhận đinh: thế nào bọn Nhật cũng trở lại chiếm Đăng Châu, vì đấy là một vị trí trọng yếu trên con đường Tuyên Qaung, Thái Nguyên. Chúng tôi cũng nhất trí: Phái nhanh chóng củng cố lực lượng, chuẩn bị sẵn sàng để đánh Đăng Châu lần thứ hai. Sau khi bàn bạc, đồng chí Chu Văn Tấn quay trở lại Thái Nguyên. Còn chúng tôi cấp tốc huấn luyện, giáo dục thêm về chính trị, quân sự cho cán bộ, chiến sĩ. Các tiểu đội Cứu quốc quân lúc này không còn là mấy đơn vị nhỏ bé nữa. Quần chúng xin tham gia rát đông. Mấy đồng chí cán bộ của Đảng trước dây chỉ là một đội viên Cứu quốc quân nay đã phải gánh vác nhiệm vụ chỉ huy từng phân đội. Thiếu cán bộ, đồng chí Môn phải rời công binh xưởng ra trực tiếp chỉ huy đơn vị.

Trước bãi cỏ đình Thanh La, quang cảnh hoạt động của bộ đội thật tưng bừng, náo nhiệt. Trong lúc các đồng chí cán bộ chỉ huy bận rộn, tất bật nắm quân, điều chỉnh vũ khí… thì những bộ phận tiếp tế cũng nhộn nhịp mổ bò, giết lợn. Bếp núc bốc khói nghi ngút. Tiếng cười, tiếng nói, tiếng gọi điểm danh ồn ào; tiếng súng, tiếng gươm va chạm lách cách.

Tinh thần đảng viên, quần chúng hăng say ngùn ngụt. Ai nấy đều tin rằng chỉ có những vũ khí thô sơ trong lúc này cũng đủ để làm nên những chuyện long trời lở đất. Pháp cũng diệt, Nhật cũng trừ, đánh đổ được hết, quét sạch được hết!

Đứng trước quang cảnh lớn lao rực lửa anh hùng ấy, chúng tôi càng cảm thấy sâu xa: ngọn cờ của Đảng đã cắm tới đâu là cách mạng nổi lên tới đấy, tư tưởng của Đảng thấm sâu vào quần chúng ở đâu, ở đó sẽ biết thành lực lượng vật chất mạnh mẽ, vô địch.

Quả như dự đoán, hai ngày sau bọn Nhật đã cho tiên tri phủ Hoàng Thế Tâm cùng tên Đỗ Văn Chung (một tên quan lại đã đi theo Nhật, đeo lon quan hai) đem một số Bảo an binh quay trở lại chiếm đóng Đăng Châu. Cả hai tên đều là đảng viên Đại Việt, một đảng chính trị phản động làm tay sai cho Nhật.

Chiếm lại được Đăng Châu, nhưng chúng cũng đã hoang mang nên không dám huênh hoang đe dọa, trái lại còn giở giọng bùi ngọt quảng cáo cho cái thuyết “Đại Đông Á” đại bịp bợm của “quan” Nhật, cha đẻ ra bọn chúng. Nào là “hãy cùng đồng tâm hiệp lực để xây dựng gia đình Đại Đông Á phồn vinh”, nào là…, thôi đủ các luận điệu lố bịch.

Lần ra quân này, khí thế quần chúng, chiến sĩ có phần còn mạnh mẽ hơn lần trước, bởi đội ngũ đông hơn, tổ chức đã quy củ hơn. Thêm nữa, vũ khí cũng đã có khá nhiều hơn trận Đăng Châu lần trước. Đáng kể là có cả hai khẩu trung liên và một khẩu tiểu liên đon thu nhặt được từng chi tiết trên dọc đường mà bọn Pháp chạy quân Nhật ở Tuyên Quang đã vứt lại, đem nộp cho quân cách mạng (Quyn, anh tù binh người Đức được giác ngộ đã góp một phần đáng kể trong việc lắp ráp, sửa chữa mấy khẩu súng đó).


Tiêu đề: Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng - Thượng tướng Song Hào
Gửi bởi: macbupda trong 02 Tháng Bảy, 2010, 09:48:32 am
Lại như lần trước, suốt đêm cả cơ quan không một ai chợp mắt. Tất cả đều thức trắng để theo dõi cuộc chiến đấu và giải quyết mọi việc Cả đêm không nghe thấy tiếng súng. Tờ mờ sáng hôm sau mới thấy rộ lên nhiều đợt súng trường và súng máy. Sau đó lại im bặt. Khoảng mười giờ, một đồng chí giao thông liên lạc cưỡi ngựa phóng về như tên bắn. Chúng tôi được báo cáo: Đêm hôm qua, quân ta bí mật bao vây đến sáng mới bắt đầu nổ súng. Theo kế hoạch đã vạch sẵn, anh em vừa bắn vừa hô khẩu hiệu, vận động binh lính địch. Trên đồn, bọn Tâm - Chung thúc lính kháng cự lại, đồng thời nheo nhéo tuyên truyền cho thuyết “Đại Đông Á”. Trước thái độ không những ngoan cố mà còn láo xược, bịp bợm ấy, quân cách mạng bèn tăng cường tấn công và tổ chức xung phong. Bị uy hiếp mạnh, bọn Tâm - Chung một mặt ra sức chống đỡ, một mặt cho bắc loa lên lô cốt đề nghị xin điều đình…

Cuộc chiến đấu ở ngoài đồn vẫn tiếp tục. Ta tuyên bố dứt khoát đồng ý điều đình, nhưng ra điều kiện phải mở cổng đồn để cho một bộ phận quân cách mạng tiến vào nhằm bảo vệ cho các cán bộ chỉ huy lúc đàm phán.

Bọn Tâm - Chung lưỡng lự. Bên ta nói tiếp: để tránh sự xung đột có thể nổ ra, quân hai bên sẽ bố trí xen kẽ với nhau. Một lúc sau bọn Tâm - Chung cho mở cổng đồn. Thế là đồng chí Tạ Xuân Thu, đồng chí Phúc Quyền và một chiến sĩ đeo tiểu liên bảo vệ đàng hoàng tiến lên trước, một trung đội tiến theo sau. Theo đúng kế hoạch đã định sẵn, các chiến sĩ ta vừa bước vào đồn đã niềm nở trò chuyện với binh lính địch để tuyên truyền, giải thích các chính sách của Mặt trận. Vốn đã dao động sẵn, lại vừa bị uy hiếp dữ dội sau đợt tấn công vừa qua, tất cả binh lính địch đều không còn tinh thần chiến đấu nữa. Họ lễ phép vâng dạ và chăm chú lắng nghe.

Trong lúc các chiến sĩ ta tiếp tục vận động binh lính địch thì đồng chí Tạ Xuân Thu, Phúc Quyền đã bước tới bãi cỏ rộng ở trước ngôi nhà gạch lớn. Hai tên Tâm - Chung mời các đồng chí chỉ huy của ta cùng ngồi xuống bãi cỏ trao đổi ý kiến. Có ý từ sẵn, đồng chí Tạ Xuân Thu tháo túi tài liệu trên vai, đặt xuống chân đồng chí Vân Bút (người chiến sĩ đeo khẩu tiểu liên đi bảo vệ đứng ở phía sau) rồi mới tiến lên mấy bước ngồi xuống đối diện với bọn Tâm - Chung. Quả như chúng tôi đã dự đoán, bọn Tâm - Chung xin điêu đình mục đích chính là để tìm cách dụ dỗ mua chuộc ta, chứ không phải thực tâm đầu hàng cách mạng. Bắt vào chuyện, hai tên Đại Việt chó săn ấy lại leo lẻo nói ngay đến chuyện: “Da vàng… Đại Đông Á…”. Chúng hết lời quảng cáo cho cái đường lối ôm chân dế quốc, phát xít của chúng. Cuối cùng, bỉ ổi và trơ trẽn hơn nữa, tên Chung nhấm nháy hai con mắt, trịnh trọng tuyên bố: “Nếu ông (chỉ đồng chí Thu) đồng ý vui lòng hợp tác với chúng tôi thì xin bảo đảm cái chức tỉnh trưởng Tuyên Quang quyết sẽ về tay ông!”.

Nghe lộn tiết, nhưng đồng chí Thu vẫn cố cười nhạt, và đến lượt mình, đồng chí ôn tồn giải thích, tuyên truyền tất cả những nét lớn về đường lối của Đảng và Mặt trận Việt Minh. Miệng nói, mắt đồng chí không quên quan sát thái độ của hai tên Đại Việt. Đồng chí thất vọng: không những hai bộ mặt nhắn thín ấy vẫn trơ ra, mà lại có vẻ như giễu cợt và sau đó lại có vẻ khác ý. Tên Chung lén mở bao súng sáu bên sườn. Không để cho bọn chúng có thể thể hành động trước, mượn cớ lấy một tài liệu quan trọng, đồng chí Tạ Xuân Thu đứng ngay dậy, quay về phía đồng chí Vân Bút, cúi xuống đất nhặt cái túi da lên, rồi lừ mắt ra hiệu đề phòng, ứng phó. Vân Bút hiểu ý khẽ nâng nóng khẩu tiểu liên thì cũng vừa lúc đó tên Chung giơ khẩu súng sáu chĩa vào đầu đồng chí Thu. Nhưng chậm rồi! Một băng tiểu liên đã quét ngang. Tên Chung ngã vật ngửa, tay ôm chầm lấy ngực, chỉ còn kịp rên lên mấy tiếng “hự hự”. Thế là đi đời một tên Việt gian phản bội, tráo trở. Tên Tâm mặt trắng bệch, vội giơ cả hai tay lên trời, run bắn như gà bị chắt tiết.

Tất cả mọi việc chỉ xảy ra trong chớp mắt. Cũng trong lúc ấy, vừa nghe tiếng khẩu tiểu liên của đồng chí Vân Bút nổ thì tất cả các chiến sĩ ta đứng kèm bên các binh lính địch cùng dõng dạc hô lớn: “Bọn chỉ huy của các anh lật lọng đã bị tiêu diệt và bắt sống! Hãy đầu hàng mau chóng! Cách mạng sẽ khoan hồng. Ai muốn về với vợ con, cho về. Ai muốn đi theo cách mạng giải phóng nước nhà, cho theo!”.

Được lời như cởi tấm lòng, tất cả binh lính địch đều chạy ra giữa sân nộp khí giới. Những người giữ kho thì hớn hở chạy đi mở khóa. Chiến lợi phẩm được khiêng ra. Có tói hàng mấy chục máy vô tuyến điện, điện thoại còn mới tinh do bọn Tâm - Chung vừa mang về chưa kịp dùng, và hàng tấn đạn còn đóng hòm, bỏ hộp, cùng tên bảy mươi khẩu súng các loại.

Mười hai người trong đám binh lính xin tình nguyện đi theo quân cách mạng, hứa sẽ đem xương máu của mình ra để chuộc lại tội lỗi cũ.

Ngay xẩm tối hôm ấy phố Tự Do lại nhộn nhịp, đèn đuốc tưng bừng, người đi kẻ lại tấp nập. Ngày hôm sau một cuộc mít tinh lớn được tổ chức ngay tại đầu châu lị. Lá cờ đỏ sao vàng bách thắng của nhân dân ta oai hùng phấp phới trên đỉnh cột cao, lại bay lộng trong gió sớm, tỏa ánh hồng rực rỡ xuống khắp núi rừng, đồng ruộng của châu Tự Do. Cũng từ lúc đó, châu Tự Do không còn bị một tên đế quốc, phát xít nào chiếm đóng, giày xéo như trước nữa.


Tiêu đề: Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng - Thượng tướng Song Hào
Gửi bởi: macbupda trong 02 Tháng Bảy, 2010, 09:48:54 am
*
*   *

Mấy hôm sau, để khuếch trương chiến quả và mở rộng thêm khu giải phóng, phân khu ủy chúng tôi quyết định phái một số đơn vị đi cướp hành quân ở Chợ chu, nơi cách đây sáu tháng dế quốc còn dùng để giam giữ chúng tôi. Lần này các đồng chí ta cũng rất hăng hai tuy nhiên chúng tôi còn nhận thấy có thêm cả cái gì trĩu nặng như một ý chí phục thù, rửa hận.

Đúng 04 giờ sáng ngày 23 tháng 3 năm 1945, quân ta đã tới Chợ Chu và cũng như mọi trận trước, tổ chức bao vây ngay, mặc dầu chưa kịp liên hệ với các cơ sơ ở địa phương để nắm tình hình địch. Bao vây xong, là nổ súng, không chờ đợi gì nữa. Hướng tấn công chính của quân ta là khu đồn khố xanh. Thấy phía lô cốt bên nhà tù có những tiếng súng đì đẹt bắn trả, các đồng chí chỉ huy bèn điều một tiểu đội đến kiềm chế. Đại bộ phận vẫn tiếp tục đánh đồn khố xanh. Bắn được một chập, thấy hỏa lực địch đói phó yếu ớt, rời rạc, các đồng chí chỉ huy của quân ta bèn ra lệnh xung phong. Như những đợt sóng biển dữ dội, quân ta tràn tới sát chân tường. Tường khá cao và kiên cố. Không một giây phút do dự, các đồng chí ta bèn hò reo, người nọ kiệu ngqười kia, nhảy lên, rồi lao vào bên trong. Nhưng lạ thay, tiếng súng của địch trong đồn đều đã im bặt. Thì ra địch bỏ Chợ Chu rút về Thái Nguyên từ chiều gần hết, chỉ còn lại hơn một tiểu đội. Bọn này lúc đầu còn cố nhắm bắt bắn được vài phát, sau thấy bên ngoài hô “xung phong”, chúng vội chạy trốn vào nhà, chui xuống gầm giường, gầm bàn nằm im như chết

Dưới huyện lị, cũng có tình trạng tương tự. Nghe tin cách mạng đã nổi lên rầm rộ phía Sơn Dương, Đăng Châu đã bị mất, Ma-ri-ki - tên tri huyện nổi tiếng gian ác cũng mất hết tinh thần, bỏ huyện lị chạy về Thái Nguyên từ chiều cùng một số đông binh lính trên đồn. chỉ còn lại một nhúm lính cơ gác công đường, lô cốt. Khi quân ta vừa nổ súng, xông vào, toàn bộ bọn này cũng nộp sũng, giơ tay xinh tha chết.

Trận đánh kết thúc khá mau lẹ. Các đồng chí ta lập tức tiến sang nhà tù, nơi đã giam cầm biết bao nhiều đảng viên, cán bộ ta khi trước. Các đồng chí ta nghẹn ngào xúc động khi tiến tới trước hai cánh cửa đen sì, quá đỗi quên thuộc xưa kia.

Mệnh lệnh mở cửa ngục được ban bố trang nghiêm và đầy ý nghĩa. Anh em tù nhân ùa ra, mắt chói lòa ánh sáng ban mai, màu cờ đỏ sao vàng rực rỡ. Nhiều người òa khóc nức nở. Hầu hết anh em là tù thường phạm. Các đồng chí cán bộ cách mạng, đảng viên của ta cùng các đồng chí cơ sở Cứu quốc quân một phần đã trốn ra sau đợt chúng tôi trốn, một phần đã bị chúng đưa đi nơi khác. Các đồng chí ta được anh em tù cho biết: do sự lãnh đạo kiên cường, khéo léo của các đồng chí đảng viên mặc dầu có mười hai người chúng tôi đã vượt ngục, nhưng bọn địch vẫn không khủng bố được những người còn lại, về sau chúng chỉ tìm cách đưa đi dần dần, không dám để ở Chợ Chu nữa. Đồng chí Tô Quang Đẩu cũng không còn ở đây. Anh Giá và một số anh em khác trong đồn là những người lính giác ngộ đã giúp đỡ chúng tôi khi trước cũng đã đi xa và trở thành cán bộ của Đảng rồi.

Sau khi giải thoát, phóng thích một số tù nhân, các đồng chí ta xuống phố. Nhân dân đều vui mừng, sửng sốt khi nhận ra những người cán bộ chỉ huy, chiến sĩ cách mạng vừa mới chiến thắng quân địch, giải phóng cho Chợ Chu lại chính là những người trước đây không quá nửa năm trời vẫn còn là những người tù chính trị ngày ngày vẫn phải gập lưng đẩy xe bò trước những mũi lê, mũi súng của đế quốc, đi ngang qua Đây! Có người chạy bổ tới cầm chặt lấy cánh tay của các đồng chí ta thốt lên: “Thật quả không ngờ các anh lại có ngày trở về đây, mà lại trở về không cùm xích trên tay như trước nữa. Trái lại, các anh đã trở về để cởi cùm xích cho nhân dân…”.

Cũng giống như ở Đăng Châu, ở đây có một số kho thóc, các đồng chí cán bộ của ta lại cho mở ra và tổ chức phân phát ngay cho các gia đình nghèo để cứu đói, sau đó lại mít tinh lớn, lại làm lễ thành lập Ủy ban lâm thời của châu Định Hóa. Đồng chí Trung Đình được phân công từ trước, ở lại trực tiếp giúp đỡ việc xây dựng và củng cố chính quyền địa phương.

Sau đó đồng chí Tạ Xuân thu được trao nhiệm vụ cùng đồng chí Chì đưa quan đi cướp chính quyền ở châu Chiêm Hóa (thuộc tỉnh Tuyên Quang). Vài ngày sau, chúng tôi lại được báo cáo: bọn ngụy quân, ngụy quyền ở châu Nà Hang cũng đã hoang mang đến tột độ, bỏ châu rút chạy về thị xã Tuyên Quang. Đồng chí Lê Thùy lập tức được phái sang đó để lãnh đạo việc tiến hành thành lập Ủy ban nhân dân lâm thời.

Như vậy cả một vùng phía bắc sông Gâm đã được hoàn toàn giải phóng.


Tiêu đề: Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng - Thượng tướng Song Hào
Gửi bởi: macbupda trong 02 Tháng Bảy, 2010, 09:49:38 am
*
*   *

Trong những ngày tháng 4 năm 1945 sôi nổi ấy, ở dưới xuôi, hội nghị quân sự Bắc Kỳ của Đảng đã họp bàn nhiều vấn đề trọng đại: phát động và đẩy mạnh chiến tranh du kích, chuẩn bị tổng khởi nghĩa, thống nhất Cứu quốc quân, Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân thành Giải phóng quân Việt Nam, thành lập Bộ tư lệnh toàn miền Bắc, bầu ra Ủy ban quân sự cách mạng của Đảng, và cuối cùng quyết định triệu tập Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc để thành lập Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam. Trong hội nghị này, việc phân chia toàn quốc làm 7 khu cũng đã được quyết định.

Đồng chí Chu Văn Tấn về dự hội nghị này. Sau đó tôi được triệu tập về Chợ Chu để nghe các đồng chí Võ Nguyên Giáp, Chu Văn Tấn phổ tiến lại những nghị quyết lịch sử nói trên.

Niềm phấn khởi, tin tưởng của chúng tôi càng tăng lên gấp bội. Các hoạt động trong phân khu chúng tôi cũng từ đó càng dồn dập, mãnh liệt hơn. Ngày 15 tháng 5 năm 1945, Giải phóng quân đã cùng nhân dân cướp chính quyền ở Chợ Ngọc, bắt sống tên bang tá khét tiếng gian ác ở đó, tước toàn bộ khí giới của lính bảo an. Ngày 18 tháng 5 năm 1945, Giải phóng quân cùng với nhân dân lại khởi nghĩa rầm rộ ở phía Yên Bình. Ngày 22 tháng 5 năm 1945, Ủy ban nhân dân lâm thời phủ Toàn Thắng được thành lập (bao gồm một số xã thuộc huyện Yên Sơn cũ và huyện Đoan Hùng, Phú Thọ). Về phia nam Tuyên Quang, một đơn vị Giải phóng quân cũng đã vào đồn điền “Roay đề Ba” (của thực dân Pháp) thu được khá nhiều thóc, phân phát cho dân nghèo, sau đó tiến xuống chiếm huyện Phù Ninh. Tên tri huyện ở đây khiếp sợ quá không dám kháng cự, xin hàng ngay. Ủy ban nhân dân lâm thời châu Kháng Địch (bao gồm một số xã thuộc huyện Yên Sơn cũ và huyện Lập Thạch, Vĩnh Phúc) cũng được thành lập.

Cho tới đầu tháng 6 năm 1945 chính quyền mới của ta đã có ở khắp tỉnh Tuyên Quang (trừ thị xã) và nhiều châu, phủ, huyện thuộc mấy tỉnh lân cạn: Bắc Cạn, Thái Nguyên, Vĩnh Phúc, Phú Thọ… Một vùng từ Chiêm Hóa xuống tới Bình Ca, Phan Lương, Lập Thạch, từ bờ sông Lô chạy sang tới Đại Từ, Định Hòa (Chợ Chu)… đã được hoàn toàn giải phóng, trở thành một vùng căn cứ cách mạng rộng lớn, vững chắc! Cờ đỏ sao vàng bay khắp núi rừng, đồng ruộng, bản làng, thị trấn. Nhân dân ta hân hoan sống trong không khí tự do dưới một chế độ mới, tràn đầy hạnh phúc với công lí. Tuy chưa tổng khởi nghĩa cướp chính quyền trên cả nước, nhưngg ở đây đã có hình ảnh của một quốc gia độc lập, dân chủ thu hẹp. Dòng sông Lô trong xanh, tươi đẹp dã trở thành một ranh giới phân chia vùng giải phóng (hoặc nói cách khác là: “Chiến khu”…) với vùng còn bị nằm dưới ách thống trị của quân Nhật và bè lũ chó săn, bù nhìn mới. Trên cái ranh giới thiên nhiên tạm thời ấy, cả hai bên, Cách mạng và bù nhìn, phát xít đều kiểm soát. Bọn bù nhìn, phát xít kiểm soát bờ hữu ngạn, quân Cách mạng kiểm soát bờ tả ngạn. Gần như đối diện với nhau. Nếu bờ bên hữu có những chòi canh, trạm thu thuế, soát giấy tờ của địch, thì bờ bên này cũng có những vọng gác, kiểm soát của các đồng chí Giải phóng quân, mà nhân dân ta hồi đó vẫn quen gọi bằng những tên thân thuộc “bộ đội ông Chì”, “bộ đội ông Phóng”, “bộ đội ông Môn”.

Những vọng gác và kiểm soát ấy hầu như bố trí công khai. Nhiều nơi, anh em kéo cả cờ đỏ sao vàng lên. Bọn địch căm tức đến điên cuồng, chỉ muốn vượt sông tiến sang. Nhưng quân cách mạng không còn là những đội du kích nhỏ yếu như trước nữa, giờ đây đã hiển nhiên lớn lên thành một đội quân mạnh mẽ: Giải phóng quân Việt Nam. Đã có nhiều lần bọn Nhật tiến sang “đất thánh” của cách mạng, nhưng đều bị thiệt hại nặng nề khi ở Bình Ca, khi ở Thiện Kế… nên chúng đành phải rút chạy.

Tất cả thuyền bè xuôi ngược dòng sông “giới tuyến” đều có cả hai thứ giấy thông hành. Khi bờ bên hữu gọi vào kiểm soát, họ đưa giấy của Nhật và ngụy quền ra. Khi bờ bên tả gọi vào xem giấy, họ đưa những tờ giấy thông hành của Cách mạng, dấu son đỏ chói. Bao giờ cũng vậy, mỗi khi ghé vào bờ bên tả ngạn, các thuyền bè đều tỏ ra rất vui vẻ. Đã có nhiều người, khi cầm giáy thông hành bước lên bờ để đưa cho “các đồng chí Giải phóng”, lại còn mang theo cả những tin tức về bọn Nhật, bù nhìn và sẵn sàng nhận những sách báo, truyền đơn của Đảng ta để đem về xuôi phân phát cho bà con quen thuộc…

Bến Bình Ca do đó đã trở thành một cửa ngõ của chiến khu, và các đầu giao thông liên lạc từ dưới xuôi lên cũng dần dần chuyển qua con đường Tuyên Quang, qua cửa ngõ này để vào căn cứ địa.


Tiêu đề: Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng - Thượng tướng Song Hào
Gửi bởi: macbupda trong 02 Tháng Bảy, 2010, 09:50:46 am
*
*   *

Sang tháng 6 năm 1945, lại thêm một sự kiện trọng đại nữa xảy ra: cuộc hội nghị cán bộ Trung ương do Bác triệu đập đã quyết định thống nhất các phân khu thuộc sáu tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Hà Giang, Tuyên Quang thành Khu giải phóng, đặt trực tiếp dưới sự lãnh đạo của Trung ương và sự chỉ huy của một Ủy ban chỉ huy lâm thời. Cũng trong hội nghị này quân đội thống nhất (Cứu quốc quân và Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân) được chính thức mang tên Việt Nam giải phóng quân.

Đồng chí Võ Nguyên Giáp từ Cao - Bắc - Lạng sang Kim Quan Thượng bàn vói chúng tôi về việc chọn khu trung tâm của khu giải phóng. Sau khi trao đổi, chúng tôi cùng nhất trí nhận định vùng Ao Búc, Thanh La, cũng như Tân Trào đều là nơi cơ sở vững. Tuy nhiên, nhìn vào địa hình thì thấy xã Tân Trào (tên cũ là Kim Long) lại có phần thuận lợi cho việc giao thông, liên lạc chỉ đạo phong trào hơn. Đây là nơi dễ cơ động, tiến lên, lui xuống, sang trái, sang phải đều có thể đi cả bốn hướng. Đường liên lạc về xuôi cũng rất thuận lợi.

Do đó Tân Trào được quyết định chọn làm khu trung tâm của căn cứ địa. Quyết định ấy đã làm cho không những cán bộ, đảng viên mà cả những cơ sở cứu quốc trong vùng đều vô cùng hân hoan, phấn khởi. Và đây cũng là một vinh dự lớn lao cho phân khu Nguyễn Huệ nhỏ bé và gian khổ trước đây.

Tân Trào là nơi địa thế đẹp, không những theo con mắt quân sự mà còn đẹp cả về thiên nhiên. Từ phía ngoài đường cái đá, từ châu lị Tự Do đi vào, chỉ có một con đường mòn duy nhất vượt qua những khu rừng rậm rạp, vòng quanh xã Thanh La, qua Hồng Thái rồi mới vào được tới cánh đồng Tân Trào. Từ Tân Trào muốn sang Chợ Chu (Định Hóa, Thái Nguyên) cũng chỉ có một con đường mòn duy nhất vượt qua Đèo Chắn để đi ra. Chung quanh xã Tân Trào, rừng tre, rừng nứa rất xanh tươi, khác hẳn với những khu rừng cằn cỗi ở nhữn vùng ngoài. Đứng từ Tân Tào gần hai gốc đa lớn ở giữa làng, nhìn về phía bức thấy dãy núi Khao Hắp xanh rì, nhìn về phía nam chân núi Nà Lừa thấy tre nứa ken dày, phảng phất như những khu rừng trúc trong các bức tranh thủy mạc, (chính ở dưới chân ngọn núi này, Bác đã về ở để chỉ đạo công cuộc Tổng khởi nghĩa trên toàn quốc). Núi Nà Lừa chỉ cách dầu làng không quá hai cây số. Nhìn ra xa nữa là đỉnh núi Hồng màu lam già in đậm trên nền trời cao lồng lộng. Từ chân dãy nũi Hồng có một con suối trong vắt chảy về xóm Thia (giữa đường từ Hồng Thái vào Tân Trào) thì đổ vào sông Đáy và từ chân núi Khao Nhì không xa đấy lắm cũng có một dòng suối nhỏ mang tên Khuôn Pén chảy về tới cánh đồng và ra tới trước đình làng thì lượn thành một đường cánh cung mềm mại chạy ra sông Đáy. Chính tại dòng suối nhỏ mang tên Khôn Pén chảy về cánh đồng và ra tới trước đình làng thì lượn thành một đường cánh cung mềm mại chạy ra sông Đáy. Chính tại dòng Khôn Pén này, Bác vẫn thường ra tắm và câu cá. Cho tới mãi về sau, khi cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, Bác trở về thăm Tân Trào, lại cởi áo đi ra Khuôn Pén để tắm giữa dòng suối thân thuộc khi xưa.

Nhận thức được quê hương mình rất đẹp, nhân dân Tân Trào dã có câu ca dao:

Kịm Long cảnh đẹp như tiên,
Ai mà đến đấy thì quên đường về.


Nhưng tới nay cách mạng đã bùng nổi, với khí thế chiến đấu mới, với ý thức quân sự mới, nhân dân Tân Trào lại đặt thêm những câu ca dao khác:

Kim Long đất hiểm tứ bề,
Kẻ địch muốn chết thì về Kim Long…


Cũng trong tháng 6 năm 1945, chúng tôi nhận được thư của đồng chí Chu Văn Tấn báo cho biết phải chuẩn bị để đón một đồng chí thượng cấp về Tân Trào. Đồng chí Tấn đã đưa một đơn vị đi chợ Chu để đón đồng chí thượng cấp ở dọc đường. Thư viết vắn tắt nhưng toát ra một tinh thần rất quan trọng. Đồng chí thượng cấp! Tôi thầm hỏi và cũng mơ hồ đoán được ra người đồng chí mang cái mật hiệu kia là ai?

Đã từ lâu lắm tôi đã nghe nhiều về đồng chí Nguyễn Ái Quốc, người lãnh đạo vĩ đại củ cách mạng Việt Nam, đồng thời cũng là một chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản, công nhân quốc tế. Đã có không biết bao nhiêu chuyện lớn lao, xúc động về cuộc đời hoạt động của Người, mà các đồng chí của Đảng ta cũng như của các Đảng anh em đã kể lại cho nhau nghe gần như những truyền thuyết dân gian kì diệu.

Tôi vui mừng báo ngay cho đồng chí Tùng (lúc bấy giờ đã làm chủ tịch Ủy ban nhân dân lâm thời châu Hồng Thái) chuẩn bị gấp mọi mặt, tu sửa dọn lại ngôi đình Hồng Thái để làm trạm tiếp đón trước khi đồng chí sang Tân Trào.

Đình Hồng Thái cũng có những cây đa cổ thụ, cành lá xanh tốt. Đình lợp lá cọ gỗ phong rêu, đứng giữ một khu đất rộng, cỏ mọc xanh rì, cây cao bóng cả, phong cảnh thật là trầm mạc. Phía sau đình không xa bản làng, có một cái giếng con, nước trong vắt quanh năm, nhân dân vẫn gọi là “giếng ngọc”. Xế về phía bên trái, trước cửa đình là dồng sông Đáy đẹp như một dải lụa lớn, êm đềm chảy giữa hai bờ lau sậy. Có lẽ cũng giống như ở Kim Long, nhân dân ở đây từ lâu đã tự hào về phong cảnh đẹp của quê hương mình, đồng thời cũng đã từ lâu mơ ước một cuộc đời tươi sáng hạnh phúc hơn, cho nên đã có hai vế câu đối khắc ở cột đình:

Để giang tả báo linh nguyên hội;
Ngọc tỉnh hữu triệu thụy khí chung.


Tạm lược dịch:

Dòng sông Đáy bao bọc bên trái chẳng khác gì một nguồn linh thiêng tụ hội lại, còn bên phải có giếng ngọc chầu, tựa như có khí thế đẹp chung đúc về.

Có đồng chí cán bộ biết chữ Hán dịch lại hai câu đối ấy cho tôi nghe và mỉm cười nói vui:

- Có lẽ nhân dân ở đây đã tiên đoán được từ lâu là sẽ có ngày ngôi đình này được chọn làm nơi để tiếp đón người chiến sĩ vĩ đại, vị cứu tinh của dân tộc mình về xây dựng thủ đô cách mạng nên mới có hai vế câu đối đẹp đẽ, hàm súc đến như thế.

Riêng tôi, đứng trước đình Hồng Thái, nhìn về những chỏm núi trùng điệp, xanh mỡ phía xa, tôi còn nhớ tới bản Pài. Bản Pài cũng thuộc địa phận Hồng Thái, theo đường chim bay không xa ngôi đình này quá mười cây số. Lịch sử như đã vô tình làm một công việc đối chiếu và so sánh có ý nghĩa. Cũng trên khu vực này cách đây có hơn nửa năm trời, đoàn mười hai người chúng tôi còn bị vây hãm nguy khốn ở những mỏm núi kia. Bây giờ chúng tôi đã xuống được tới làng bản, ra tới đây công khai long trọng tổ chức đón tiếp lãnh tụ của dân tộc, của giai cấp trở về chỉ đạo cách mạng cả nước.


Tiêu đề: Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng - Thượng tướng Song Hào
Gửi bởi: macbupda trong 02 Tháng Bảy, 2010, 09:51:14 am
Công việc chuẩn bị của chúng tôi vừa xong thì đồng chí Chu Văn Tấn lật đật trở về. Đồng chí cho biết: đồng chí đón hụt, Bác đã không đi theo con đường do chúng tôi đề nghị, mà đi theo con đường khác: con đường Nam tiến do Bác đã vạch ra trước đây cho Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân từ hồi đầu mới xây dựng.

Chúng tôi không phải mong đợi lâu. Ngay hôm sau đã có tin báo: thượng cấp về tới ngoài đầu dốc. Tất cả chúng tôi mừng rỡ, vội vã chạy ra. Trước mắt chúng tôi là một đoàn trên mười người ăn vận khác nhau, trong đó có cả đồng chí Võ Nguyên Giáp. Đi đầu đoàn người là một đồng chí đã có tuổi, mặc áo chàm, dáng người mảnh dẻ, khuôn mặt xương xương, nước da rám năng, chòm râu đen nhánh, lưa thưa. Đồng chí bước đi thoăn thoắt, chiếc mũ dạ đội trên đầu, mảnh khăn mặt trắng vắt vai, tay cầm một chiếc gậy nhỏ. Mới thoạt nom, chúng tôi cũng biết ngay đó là người mà chúng tôi đã từ lâu mong đợi. Bác tới gần, cặp mắt sáng đẹp tuyệt vời nhìn thẳng vào chúng tôi và cũng ngay từ giây phút ấy đã chiếm hết tâm hồn chúng tôi, làm cho chúng tôi muốn cầm chặt lấy bàn tay của Người mà thốt lên tất cả những lời kính yêu thiết tha, tin tưởng không bờ không bến..

Bác bước vào đình Hồng Thái nhìn bao quát chung quanh, vẻ rất hài lòng. Tất cả chúng tôi đều xúm lại. Bác bắt đầu câu chuyện bằng những lời thăm hỏi ân cần về sức khỏe chung của chúng tôi rồi hỏi ủy ban châu về tình hình phong trào của địa phương. Đã chuẩn bị rất kĩ, nhưng trước câu hỏi rất cụ thể, tỉ mỉ của Bác, đồng chí Tùng vẫn không khỏi bối rối.

Bác sang xóm Tân Lập (Tân Trào) vào tạm trú ở một gia đình cơ sở ít hôm, trước khi ra ở lán phía chân núi Nà Lừa. Chúng tôi cố hết sức giữ bí mật, đón Bác về bình thường như đón một đồng chí cán bộ khác. Nhưng Bác chỉ ở trong xóm được vài hôm, toàn thể nhân dân đã chăm chú, xì xào: “Có một đồng chí già mới về, yêu dân, yêu bộ đội đặc biệt. Lại chăm chỉ khác thường, đêm làm việc tới khuya, sáng mờ đất đã quét nhà, tưới rau, lấy củi, đánh thức bội đội dậy đi tập, hoặc tăng gia giúp dân. Ông cụ nhiều tuổi cũng đi làm. Ông cụ rất chăm lo nước tưới. Hôm nào đi làm đồng về thấy ruộng cạn là vận động bà con đi tát ngay, cả ông cụ cũng đi. Có buổi thấy ông cụ lúi húi ở ngoài đồng, tưởng làm gì, té ra đắp một cái bờ bị nẻ để giữ nước cho dân.

Từ cụ già tới trẻ nhỏ trong xóm, người nào cũng đều muốn được gặp “ông cụ” haặc “đồng chí già” để được nghe chuyện thế giới, trong nước và nghe những lời khuyên bảo về đấu tranh chống đế quốc, phát xít và tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm.

Có một chuyện mà nhiều đồng chí cho tới bây giờ vẫn còn nhớ và không khỏi buồn cười. Ngay sau hôm mới tới Tân Lập, Bác đi thăm chỗ ăn, chỗ ở của đơn vị Giải phóng quân đang ở đó. Chúng tôi vẫn giữ bí mật, ngay cả với đồng chí chỉ huy đơn vị. Bác thấy chỗ ăn, nơi ở của bộ đội không được trật tự cho lắm, bèn gặp đồng chí chỉ huy góp ý kiến. Đồng chí chỉ huy vốn là người nóng nảy, thấy vậy tỏ ý không bằng lòng: “Phê bình chúng tôi, chuyện ấy đã có cấp trên của chúng tôi”. Bác vẫn hồn hậu, tươi cười đáp: “Tôi là người dân, tôi cũng có quyền phê bình, góp ý giúp bộ đội chứ!... Bộ đội cách mạng là bộ đội của dân cơ mà!”. Đồng chí chỉ huy đơn vị nghe ra ngay, không dám nói nữa. Hôm sau gặp tôi, đồng chí lắc đầu: “Có một ông cụ già không biết ở xã nào đến, nói năng cừ lắm, phê bình mà tôi cũng phải chịu”. Tôi cười, nói nhỏ: “Lãnh tụ của phong trào cách mạng ta hiện nay đấy!”. Đồng chí chỉ huy đơn vị trợn tròn mắt: “Có thật không?”… Từ đó, mỗi khi nhắc lại câu chuyện ấy, đồng chí vẫn không khỏi đỏ mặt.

Từ khi Bác và Trung ương về, Tân Trào dần dần trở lên thực dự là thủ đô lâm thời của Tổ quốc, trái tim của cách mạng Việt Nam. Từ nơi đây tỏa đi khắp các chân trời của đất nước mọi chỉ thị về đường lối, phương châm, sách lược của Đảng nhằm đẩy mạnh công cuộc chuẩn bị tổng khởi nghĩa. Cũng từ nơi đây đã thu hút về biết bao thanh niên anh tuấn bốn phương. Nghe theo tiếng gọi của cách mạng, anh em đã rời bỏ làng mạc, xưởng máy, trường học, công sở, đô thị… đi tìm Việt Minh, đi tìm Giải phóng quân, đi tìm Đảng. Con đường cửa ngõ Bình Ca càng ngày càng trở nên tấp nập kẻ ra người vào, như con đường chùa Hương trong những ngày mở hội.

Nhân dân trong khu giải phóng nói chung và Tân Trò nói riêng cũng ngày càng được hưởng đầy đủ những quyền lợi tốt đẹp mà cách mạng đã mang tới như: phổ thông đầu phiếu bầu cử hội đồng nhân dân, mở rộng bình dân học vụ xóa nạn mù chữ, thực hiện nam nữ bình đẳng và “đời sống mới”. Bãi bỏ các thứ thuế má vô lí, nặng nề, nhục nhã mà đế quốc, phát xít đã bắt nhân dân ta phải còng lưng cống nạp… Một mặt được hưởng những quyền lợi do cách mạng mang tói, một mặt nhân dân khu giải phóng và Tân Trào cũng nô nức, hăng hái làm tròn những phần trách nhiệm của mình để đẩy mạnh cách mạng tiến tới như vào dân quân tự vệ, canh gác, tuần tra, tiếp tế lương thực, thi đua sản xuất…


Tiêu đề: Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng - Thượng tướng Song Hào
Gửi bởi: macbupda trong 02 Tháng Bảy, 2010, 09:55:29 am
Đời sống tươi vui, lành mạnh, hoạt động cách mạng và chiến đấu của nhân dân khu giải phóng đã được một đồng chí cơ sở người địa phương phản ánh một phần vào trong bài vè do đồng chí sáng tác và đã được truyền miệng khá rộng rãi trong nhân dân Tân Trào, Hồng Thái khi đó. Tôi còn nhớ được một vài đoạn:

Hạ thiên nông vụ đã qua
Ngồi rồi cầm bút chép ra một bài
Kể theo lịch sử chẳng sai
Đến năm Ất Dậu(1) ai ai một lòng
Tháng hai(2) cách mạng khởi công
Noi gương giòng giống Lạc Hồng nổ ra.
Trong xuân, mồng tám thực là
Cán bộ về đến đất nhà Kim Long.
Từ giờ việc Pháp bỏ không
Bây giờ việc nước theo cùng Việt Minh
Giặc Tây đến lúc phải kinh
Việt Minh đã nổi, dân tình đều theo.
Việc văn(3) đặt kể cũng nhiều
Còn như việc võ mọi điều kể qua:
Chánh phó tự vệ cắt ra
Canh gác túc trực lối ba bốn người,
Để mà phòng thủ mọi nơi
Xem ai phản động vậy thời điều tra.
Bao giờ giành nước cộng hòa
Cán bộ đi khỏi dân đà ngẩn ngơ(4).
Vì chung cơ hội đang chờ
Tháng tư vừa thấy Cụ Hồ về đây.
Thật là gặp hội rồng mây
Cùng nhau theo Cụ đánh Tây diệt thù
Lập trường “quân chính” chiến khu
Cùng nhau lấy máu trả thù mới cam.
Cụ Hồ người thật đảm đang
“Truyền thanh tuyến điện” Cụ mang trong mình.
Tháng tư cụ mới khởi hành
“Truyền thanh” nghe nói rành rành chẳng sai.
Ngoại giao Cụ thật anh tài
Nội trị thật cũng chẳng ai sánh cùng
------------------------------------------

Trong bài vè có câu “Lập trường quân chính chiến khu”. Trường quân chính ấy là trường Quân chính kháng Nhật theo chỉ thị của Bác đã được thành lập ở Khuổi Kịch. Tại Tân Trào, bBác chăm lo đủ mọi mặt công tác cách mạng, nhưng đặc biệt là việc đào tạo cán bộ. Trước đây, khi còn bôn ba hải ngoại, Bác đã đào tạo nên biết bao cán bộ cho cách mạng nước nhà. Hầu như phần đông các đồng chí Trung ương của Đảng ta đều là những người do chính tay Bấc dìu dắt. Tới nay cách mạng đang ở giai đoạn phát triển cao nhất, cán bộ có bao nhiêu cũng còn là thiếu. Bác luôn luôn nhắc lại câu nói của Xta-lin: “Cán bộ quyết định hết thảy”.

Trong gian nhà lá đơn sơ bên rừng Nà Lừa, Bác đã trải qua những ngày thật thiếu thốn, gian khổ, nhưng tinh thần làm việc và nghị lực thì thật phi tường. Trong những giờ phút hết sức mệt nhọc, nguy kịch ấy Bác vẫn giữ vững được trí tuệ rất sáng suốt, minh mẫn. Bác ân cần dặn dò từng việc lớn và truyền lại cho các đồng chí của Đảng ta tấm lòng kiên quyết lớn lao của mình đối vơi sự nghiệp giải phóng Tổ quốc, trong việc nắm lây thời cơ để hành động. trong những ngày ấy gần như cả thủ đô cách mạng lo lắng, âu sầu. Không những cán bộ, đảng viên mà cả những quần chúng cứu quốc khi biết tin “đồng chí già” đau yếu, ai nấy đều cảm thấy lòng mình trĩu nặng. Thuốc men thiếu thốn, các cụ già và quần chúng cứu quốc trong làng bảo nhau, đi tìm kiếm thuốc bằng lá, rễ cây về để đưa cho “đồng chí già” sắc uống. Có một người ra tận ngoài sông Đáy bắt được một con ba ba, đem ra lán cắt tiết hòa rượu để làm thuốc mời Bác.

Sau đó ít lâu, cơn bệnh của Bác tụt dần. Bầu trời Tân Trào cũng như dần dần quang sạch mây đen. Tất cả chúng tôi thở ra nhẹ nhõm, mừng vui khôn tả.


(1) Tức 1945.
(2) Tức tháng ba 1945.
(3) Ý nói việc chính trị.
(4) Ý nói khi Tổng khởi nghĩa xong, cán bộ rút đi nơi khác.


Tiêu đề: Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng - Thượng tướng Song Hào
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Bảy, 2010, 10:21:55 am
*
*   *

Bọn Nhật đã mấy lần kéo quân vượt sông Lô đánh sang khu giải phóng nhưng đều bị thất bại. “Chiến khu” đã trở thành một hình ảnh khủng khiếp đối với bọn chúng. Trên mỗi tấc đất của chiến khu hình như đều có một cạm bẫy. Sau mỗi gốc cây, mô đá của chiến khu hình như đều có một người du kích đã nấp sẵn, chĩa súng kíp hoặc cung nỏ vào chúng. Cuối tháng sáu, tập trung được một lực lượng lớn gấp bội những lần trước, bọn phát xít Phù Tang mới lại dám tấn công vào đất thánh của cách mạng. Hướng tấn công chính của chúng nhằm thẳng Tân Trào, Hồng Thái.

Năm trăm binh lính, sĩ quan địch cùng hàng chục lừa ngựa, xe cộ rầm rầm,rộ rộ vượt qua Bình Ca, tiến theo đường lớn vào tới châu Tự Do rồi tiến sâu vào Thanh La… Chúng tôi ở trong cơ quan đã được báo tin khá kịp thời về cuộc hành binh này của địch, không những thế còn nắm chắc được từng bước đi của chúng. Tuy nhiên lúc đó lực lượng chiến đấu ở cơ quan chỉ còn có hai mươi đồng chí, do đồng chí Môn trực tiếp phụ trách.Tất cả các đơn vị khác đều đã được tung đi bốn phía để tiến hành cướp chính quyền và củng cố chính quyền cách mạng.

Hai mươi chiến sĩ cách mạng đương dầu với năm trăm quân địch! Sự chênh lệch quả là quá to lớn. Chúng tôi biết lúc này cho giao thông đi gọi các đơn vị trở về cũng không tài nào kịp. Không có gì lo cho bằng việc bảo vệ an toàn cơ quan chỉ đạo và bảo vệ Bác. Nghe tiếng súng giặc ùng oàng nổ mỗi lúc một gần, ruột chúng tôi nóng như lửa đốt. Tôi viết vội mấy dòng đưa cho đồng chí giao thông riêng chạy hỏa tốc tới nơi Bác ở, đề nghị Bác chuyên vào rừng núi sâu hơn nữa. Đang lúc chờ đợi, thì Bác nhắn ra: Địch không thể vào được tới đây nếu ta quyết tâm chiến đấu và biết tổ chức đánh chặn chúng lại, mặc dầu lực lượng ta rất nhỏ. Bác không chuyển vị trí.

Chấp hành chỉ thị của Bác, chúng tôi cùng thảo luận và quyết tâm chia anh em làm hai cánh rồi nhanh chóng tiến ra phục kích, đón trước trên con dường mòn gần Đèo Chắn mà chúng tôi phán đoán nhất định bọn Nhật thế nào cũng phải đi qua để tiến vào Thanh La, Tân Trào. Quả nhiên, chỉ một lúc sau chúng tôi đã thấy quân thù hùng hổ kéo tới. Chúng tôi chủ trương không cho các trạm gác phía ngoài nổ súng. Bọn Nhật kéo qua mấy bản đều hoàn toàn bình yên vô sự. Nhân dân đã tản cả vào rừng. Du kích quân cũng đã rút đi đâu mất hết. Bọn Nhật lúc đầu còn dè dặt, sau chủ quan dần. Cho đến khi kéo vào đến gần trận địa phục kích, càng yên trí quân cách mạng đã bỏ chạy, chúng đi không còn ra đội hình chiến đấu gì nữa. Sĩ quan, binh lính địch ùn lại từng quãng, giương giương tự đắc, thỉnh thoảng lại bắn sang bụi rậm bên tả một phát, bắn sang khe suối bên hữu một băng súng máy.

Kiên trì và bình tĩnh, đợi cho đại bộ phận quân địch lọt vào trận đại mai phục,bấy giờ quân ta mới bắt đầu nổ súng. Quyn, anh tù binh người Đức đã đã giác ngộ cũng có mặt trong trận này. Bị đánh bất ngờ, bọn Nhật kêu la hoảng hốt, đạp lên nhau mà chạy bọn sĩ quan gầm thét đến vỡ họng. Ngay sau những loạt súng đầu tiên của quân ta, ngót một chục tên Nhật, đứa đâm đầu xuống khe suối, đứa nằm vắt ngang mặt đường, gục tại chỗ. Mấy con ngựa cao lớn tải đạn và súng cối cũng bị bắn chết.

Tuy nhiên bọn Nhật cũng củng cố lại được đội ngũ sau đó chừng hơn mười lăm phút. Súng cối, súng máy các cỡ của chúng bắt đầu bắn lại quân ta dữ dội. Cành cây bị chém rụng rào rào. Đất sỏi bay tung tóe khăp trận đại. Có lúc hỏa lực của chúng quá mạnh đã áp đảo hầu như hoàn toàn hỏa lực của quân ta. Nhưng đột nhiên có tiếng súng nổ vang phía bên sườn của bọn Nhật. Đội ngũ của chúng trở nên rối loạn. Thì ra tiểu đội của đồng chí Long Giang đang hoạt động ở gần đó nghe tiếng súng biết là giặc đã vào đánh căn cứ địa bèn cáp tốc quay trở về góp phần cứu viện.

Từ lúc đó, trận đánh trở nên quyết liệt hơn. Nhưng do nhận thấy lực lượng ta quá mỏng, đánh kéo dài mãi không có lợi, quân ta bèn vừa đánh, vừa yểm hộ cho nhau rút. Một cánh lui về Lũng Cốm (Thanh La) một cánh quay về Trung Yên (Ao Búc).

Khi quân ta rút khỏi trận địa, bọn Nhật mới dám cho quân ra thu nhặt vội vàng những tên bị thương; còn những xác chết thì chúng quẳng vào mấy ngôi nhà ở một xóm lẻ gần đó rồi châm lửa đốt. Trong khi những đám cháy vẫn còn bốc cao ngùn ngụt thì cả đoàn quân bại trận ấy cũng hấp tâp chia làm hai cánh, một cánh có lừa ngựa, xe cộ rút theo con đường 13 sang Thái Nguyên, một cánh toàn khinh binh rút qua làng Nha (huyện Yên Sơn) theo đường núi, quay trở lại thị xã Tuyên Quang.

Cũng từ sau trận đó, bọn Nhật không còn tổ chức được thêm một cuộc tấn công nào nữa vào khu giải phóng. Thanh thế cách mạng cũng từ đó càng lên cao. Phong trào đã lan rộng ra tới tận thị xã Tuyên Quang và tất cả những vùng lân cận.


Tiêu đề: Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng - Thượng tướng Song Hào
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Bảy, 2010, 10:22:50 am
IV

Tháng 8 năm 1945, Liên Xô chính thức mở mặt trận phía đông. Trong một chiến dịch quyết định, Hồng quan đã tiêu diệt hoàn toàn đạo quân Quan Đông nổi tiếng hung ác của phát xit Nhật. Về phía tây, phát xít Đức đã phải chính thức đầu hàng từ tháng 5. Cục diện thế giới biến chuyển quá mau lẹ. Trước tình hình ấy, Bác và Trung ương cấp tốc triệu tập một cuộc hội nghị đại biểu toàn Đảng ở Tân Trào. Không khí khẩn trương chưa từng thấy. Đúng ngày 13 tháng 8 năm 1945, cuộc họp bắt đầu khai mạc trong một chiếc lán làm vội, rất đơn sơ, tại khu rừng Nà Lừa xnh tươi, gần nơi Bác ở. Tất cả đại biểu đều rải lá xuống đất ngồi quây quần xung quanh Bác và Trung ương để nghe báo cáo, rồi sau đó chia từng tổ ra ngoài lán, ngồi dưới các gốc cây để thảo luận. Đại biểu của các Đảng bộ Trung, Nam, Bắc có mặt gần đầy đủ. Từ miền Nam ruột thịt xa xôi có đồng chí Hà Huy Giáp, từ miền Trung yêu dấu có đồng chí Nguyễn Chí Thanh… Các đồng chí Trung ương và đại biểu ngoài Bắc có: đồng chí Trường Chinh, đồng chí Lê Đức Thọ, đồng chí Phạm Văn Đồng, đồng chí Hoàng Văn Hoan, đồng chí Võ Nguyên Giáp, đồng chí Nguyễn Lương Bằng…

Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bác, hội nghị nhận định: Phát xít Nhật cũng sắp đầu hàng tới nơi rồi. Thời cơ “ngàn năm có một” của dân tộc ta đã tới. Một nghị quyết trọng đại, lịch sử đã ra đời trong cuộc hội nghị này; đó là nghị quyết Tổng khởi nghĩa.

Hội nghị cũng đã thông qua danh sách Ủy ban nhân dân lâm thời toàn quốc, thông qua nội dung Đại hội đại biểu quốc dân Tân Trào (được quyết định gấp rút tiến hành ngay sau đó).

Sau khi mọi chủ trương đường lối vừa được ấn định thì quả nhiên đã có tin phát xít Nhật chính thức đầu hàng. Bác nói: “Không thể chậm trễ được nữa, phải kết thúc hội nghị cho nhanh để cho các cán bộ kịp thời về địa phương hành động”.

Ngay sáng hôm sau (16 tháng 8 năm 1945) đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy các đội Việt Nam giải phóng quân làm lễ xuất phát dưới hai gốc đa cổ thụ ở bãi cỏ giữa làng Tân Trào, rồi hướng thẳng về phía Thái Nguyên với nhiệm vụ cướp chính quyền ở thị xã rồi nhanh chóng tiến về Hà Nội. Đấy là hướng chính của cách mạng.

Riêng tôi, ngay từ nửa đêm trước (15 tháng 8 năm 1945) đã được trao nhiệm vụ quay trở về ngay Tuyên Quang phụ trách công cuộc khởi nghĩa ở mấy tỉnh phía tây, một dải chạy dọc theo hai triền sông Lô, sông Thao: Tuyên Quang, Phú Thọ,, Yên Bái, Hà Giang… (cũng như Tuyên Quang, Phú Thọ, ở Yên Bái… lúc bấy giờ đã có những chiến khu, căn cứ vững mạnh do các đồng chí Đảng ta đã vượt ngục Nghĩa Lộ ra tổ chức, lãnh đạo).

Từ hội nghị bước ra, đầu óc tôi bừng bừng sung sướng. Tổng khởi nghĩa! Giờ phút trọng đại thiêng liên mà tất cả dân tộc ta, toàn Đảng ta mong chờ, mơ ước từ bao năm nay, giờ đây sắp trở thành hiện thực. Tôi lấy đơn vị của đồng chí Hồng Thái (đang đóng ở Tân Trào) và gọi đồng chí Đào - người thanh niên Mán trung thành, dũng cảm vẫn luôn theo sát tôi từ ngày còn ở Khuổi Phát, Ao Búc đi theo đường tắt ra bờ sông Lô ngay đang lúc trờ còn tối mù. Từ hai ngày hôm trước, hội nghị còn đang họp, chưa thông qua chính thức mệnh lệnh Tổng khởi nghĩa, như do quán triệt được tinh thần của hội nghị và biết thời cơ lớn đã đến, tôi tranh thủ viết thử gửi ra cho đồng chí Tạ Xuân Thu (lúc đó đã vào hẳn trong thị xã Tuyên Quang để lãnh đạo phong trào) yêu cầu phải cấp tốc tập trung lực lượng để sẵn sàng hành động.

Đường núi gập ghềnh, đèo dốc cheo leo, lại thêm đêm tối nên chúng tôi đi rất vất vả. Tuy nhiên trong mỗi người chúng tôi như có một sức mạnh nào đó đã làm cho đôi chân bước dẻo dai và mau lẹ khác thường y như được mọc cánh. Sáng hôm sau (16 tháng 8 năm 1945) chúng tôi ra tới chân núi Rùm. Sông Lô đang giữa mùa nước lũ hiện ra trước mặt chúng tôi với dòng nước đỏ khé hung hăng, tràn ngập mênh mông, không còn thấy đâu dòng nước trong xanh tươi đẹp khi trước. Nước đang ngập lụt cả trong thị xã Tuyên Quang. Ở những phố thấp và những xóm nhà tranh lụp xụp quanh tỉnh, đồng bào đã vội vã chạy đổ dồn và trong những phố chính.

Gặp tôi, đồng chí Thu cho biết còn mấy đơn vị nữa ở xa chưa về kịp vì nước lũ to quá. Tôi yêu cầu đồng chí Thu một mặt cho giao thông hỏa tốc đi giục, phải tìm mọi cách để về bằng được, một mặt điều ngay những đơn vị đã nắm được tiến về phía Ỷ La (một địa điểm cách thị xã năm cây số trên đường Hà - Tuyên để tập kết lực lượng).


Tiêu đề: Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng - Thượng tướng Song Hào
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Bảy, 2010, 10:23:16 am
Trong một gian nhà lá lụp xụp thuộc đất Ỷ La, tôi cùng các đồng chí tỉnh ủy Tuyên Qaung họp về thành lập Ủy ban khởi nghĩa. Ủy ban gồm các đồng chí Tạ Xuân Thu, Trần Thế Môn, đồng chí Chì và tôi. Kế hoạch khởi nghĩa được thảo luận tỉ mỉ căn cứ vào mọi mặt tình hình địch, ta và theo một phương châm đã được ấnh định: đánh địch bằng cả quân sự, chính trị và binh vận, tùy tình hình, có lúc sẽ đẩy mạnh hoạt động về quân sự, có lúc địch vận, có lúc cả hai mặt cùng đi song song. Bàn định xong, chúng tôi cùng phân nhau đi đón các đơn vị. Tất cả các lực lượng Giải phóng quân, dân quân tự vệ, thanh niên, công nhân đều được huy động. Chúng tôi hết sức mừng rỡ khi tới bờ sông đã thấy đơn vị của các đồng chí Phóng, Chì, Khôi… đang dùng mảng tấp nập, kéo về. Cờ đỏ bay rợp dòng sông. Các đồng chí ta súng khoác sau lưng rạp người xuống, người chèo, người đẩy, ca hát vang trời. Cũng trong lúc ấy các đơn vị tự vệ của anh em công nhân mỏ than ở gần đó tới tấp kéo đến, gậy tày, giáo mác, cuốc chim, choòng, búa trên vai, khí thế mãnh liệt không khác gì những đoàn quân tinh nhuệ đang xuất trận. Cơ sở của Đảng ta đã có trong mở than từ lâu lắm, nhưng đế quốc Pháp và phát xít Nhật đã phá đi phá lại nhiều lần. Đã có không ít cuộc biểu tình của anh em công nhân tại nơi đó bị nhận chìm trong bể máu. Giờ đây phong trào lại được Đảng ta vực dậy. Anh chị em công nhân lại tổ chức thành đội ngũ chặt chẽ và cũng đã trở thành những cơ sở nòng cốt của cách mạng trong khắp vùng chung quanh thị xã. Chúng tôi ngắm nhìn những bác công nhân già, mặt hằn ngang, hằn dọc những nếp nhăn, dấu vết của tuổi tác và của cuộc đời cực nhọc lầm than khi trước, nay trên những khuôn mặt dãi dầu ấy, cặp mắt ấy đang chói sáng những ngọn lửa đấu tranh. Các bác siết chặt những ngọn cờ đỏ sao vàng, giương cao lên, bước đi hùng dũng. Chúng tôi cũng vui vẻ ngắm nhìn những anh công nhân trẻ, mắt còn đầy mồ hôi, lấm tấm bụi than, ngực áo mở phanh, gân guốc, cầm choòng, cầm búa hăm hở tiến lên. Cả đoàn quân oai hùng ấy như bốc ra lửa và sát thép.

Bên cạnh những đội tự vệ công nhân và những đội tự vệ của mấy xã phụ cận, với áo chàm, súng kíp, dao găm, cung nỏ… Đoàn quân nông dân ấy cũng không kém phần hăng hái. Thanh niên trong thị xã cũng có những đội tự vệ bí mật, lúc này được lệnh dốc toàn lực ra để tham gia và cuộc tấn công. Hồng Quân - một thanh niên khỏe mạnh, nhiệt tình được giao chỉ huy lực lượng ấy.

Tới bảy, tám giờ tối, các đơn vị đã đến đông đủ, tập trung thành đội ngũ chỉnh tề trên một bãi cỏ rộng. Nói sao cho hết sự vui sướng, kiêu hãnh của chúng tôi khi đứng trước một lực lượng to lớn, hăng say, quyết tâm nhường ấy. Tôi không khỏi liên tưởng tới biết bao đồng chí của chúng ta, giờ đây không được chứng kiến giờ phút lịch sử của đất nước. Bình minh sắp đến rồi! Chỉ còn tám, chín giờ đồng hồ nữa thôi là cuộc đời sẽ thay đổi. Bỗng có ai nhắc tới Quyn - người lính Lê Dương đã được cách mạng giác ngộ trở lại làm người. Tôi đã nói đến Quyn trong trận đánh Nhật ở Đèo Chắn. Về sau Quyn càng ngày càng tích cực hơn nữa, anh cũng chịu đựng đủ mọi gian nan thiếu thốn như đồng chí ta. Quyn có một mơ ước: môt ngày mai ssẽ được trở về Đức để hoạt động cách mạng. Tiếc thay trước ngày Tổng khởi nghĩa của chúng ta có vài tuần, Quyn mắc bệnh nặng; chúng tôi đã hết lòng chữa chạy mà không được. Quyn đã nhắm mắt trong rừng Việt Bắc cổ kính, trước khi chết, anh nói: “Tôi mãn nguyện lắm. Tôi dù có chết nhưng không còn là một tên lính Lê Dương của đế quốc. Tôi đã được làm người Việt Nam mới. Cám ơn các đồng chí Việt Nam!…”.

Đúng 02 giờ ngày 17 tháng 8 năm 1945, dưới ánh lửa sáng hồng của những ngọn đuốc, bản quân lệnh số 1 của Ủy ban giải phóng dân tộc được tuyên đọc, rồi tới những điều căn dặn anh em phải dũng cảm, quyết tâm, linh hoạt, khẩn trương để tiêu diệt địch, giành lại chính quyền, giành lại đất nước. Những vấn đề kỉ luật chiến trường, kỉ luật tiếp thu thành phố khi đã thắng lợi cũng được ban bố rõ ràng.

Sau đó các đơn vị lần lượt xuất phát tới đầu thị xã thì chia làm hai mũi, một mũi vùng xuống phía nam thành Tuyên Quang, một mũi tiến thẳng vào khu vực trại Bảo an Binh và các công sở của bọn bù nhìn. Tại hầu hết các công sở đều đã có cơ sở Cứu quốc của ta. Kế hoạch khởi nghĩa đã được mật báo từ chiều cho anh em, kể cả một số nhân mối trong trại Bảo an binh. Các đồng chí ấy đều hết sức phấn khởi và nhắc ra: sẽ kiên quyết hoàn thành mọi nhiệm vụ. Anh Kim (đóng đội), một trong những nhân mối binh lính, cũng báo cáo: “Chúng tôi đã làm “anh-văng-te”(1) súng đạn xong xuôi cả rồi. Các anh cứ vào là chúng tôi sẽ xin nộp đầy đủ, không thiếu một khẩu nào!”.

Thị xã Tuyên Quang vẫn còn ngủ say. Đường sá không một bóng người. Nhà cửa tối om, không một ánh lửa. Các đơn vị của ta rầm rập tiến vào.

Đơn vị có nhiệm vụ lấy trại Bảo an binh nhanh chóng triển khai đội hình chiến đấu. Mặc dầu dã có “mật giao”, chúng tôi vẫn phải đề phòng những biến cố bất thường. “Bên chòi canh lờ mờ hiện ra bóng của một người lính gác đang đi đi lại lại. Lập tức, một đồng chí của ta lên tiếng gọi: “Hỡi anh em Bảo an binh, quân cách mạng đã về, hãy mau mau hạ khí giới”.

Tiếng gọi vừa dứt thì bên trong cũng có tiếng đáp lại: “Xin đừng bắn! Chúng tôi mở cửa đây!”. Sau đó là tiếng khóa, tiếng xích loảng xoảng. Hai cánh cửa rung lên rồi mở toang. Một ngọn đèn bật sáng. Một người mặc binh phục chỉnh tề nhanh nhẹn chạy ra. Đó là anh Kim. Chỉ trong khoảnh khắc, một bộ phận Giải phóng quân đã ập vào. Theo sự chỉ dẫn của các binh sĩ yêu nước, các chiến sĩ Giải phóng quân chiếm ngay tất cả các vị trí trọng yếu và đột nhập vào thẳng nhà ngủ của đội Táng - viên chỉ huy trại Bảo an binh này. Tất cả đều xin đầu hàng vô điều kiện. Đồng chí Môn, người trực tiếp chỉ huy cuộc tấn công ở đây ra lệnh cho đội Táng mở ngay cửa nhà kho, đem vũ khí ra nộp, còn tất cả Bảo an binh tập trung lại giữa sân, ai muốn về với vợ con sẽ cho về. Riêng mấy tên cai, lính gian ác thì bị bắt giam ngay lập tức. Cuộc chiến đấu đã kết thúc mau lẹ và hết sức gọn gàng. Anh Kim được trao nhiệm vụ ở lại trại phối hợp với Giải phóng quân để đánh Nhật khi cần thiết.


(1) Bản thống kê.


Tiêu đề: Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng - Thượng tướng Song Hào
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Bảy, 2010, 10:23:44 am
Cùng lúc đó các đơn vị khác của Giải phóng quân và dân quân tự vệ, công nhân, thanh niên đã nhanh chóng tỏa đi chiếm kho bạc, nhà dây thép… không mất một phát súng. Quân khởi nghĩa kéo vào tới đâu, công chức, nhân viên bước ra chào đón đến đó. Có nơi, cờ đỏ sao vàng đã tung bay trên nóc nhà ngay từ lúc mới thấy quân khởi nghĩa rậm rịch ở đầu tỉnh.

Về phía dinh tỉnh trưởng, khi quân khởi nghĩa tiến vào trời vẫn chưa sáng. Dương Thiệu Trinh - quyền tỉnh trưởng bù nhìn đã dậy sớm, khăn áo chỉnh tề chờ đợi. Vừa nom thấy quân khởi nghĩa kéo đến, y đã vội vàng chạy ra vái chào, mặt trắng bệch, miệng nói không ra hơi. Đồng chí Tạ Xuân thu đàng hoàng bước lên thềm, đi thẳng ào phòng chính để nhận sự đầu hàng của y, sau đó bảo y dùng máy nói gọi sang trại Nhật báo cho chúng biết phải nộp toàn bộ vũ khí và đầu hàng vô điều kiện, nếu không sẽ bị tiêu diệt.

Dương Thiệu Trinh vâng dạ rối rít, trong khi đó đồng chí chỉ huy du kích của chúng ta, người nông dân cách mạng ấy vẫn ngồi vững chắc trước chiếc bàn giấy lớn.

Nhưng Dương Thiệu Trinh chưa kịp quay máy nói thì chuông đã đổ hồi. Bọn Nhật báo tin: Có hàng vạn Việt Minh và quần chúng đang bao vây thành, khí thế dữ dội lắm. Chúng yêu cầu Dương Thiệu Trinh phải sử dụng quyền lực của mình để bảo đảm an toàn cho quân đội Nhật. Dương Thiệu Trinh được lệnh trả lời: Quân khởi nghĩa cũng đã tới đây; y đã đầu hàng. Từ giờ phút này chính quyền thuộc về cách mạng. Y không còn quyền hành gì nữa. quân Nhật muốn gì cứ liên lạc thẳng với Việt Minh.

Dương Thiệu Trinh đang nói tới đó thì bỗng nhiên thấy máy tắt, rồi một phát súng nổ, sau đó mấy loạt nữa vang lên, cứ thế mỗi lúc một rộ thêm, vang ầm cả khu vực.

Chúng tôi cho cán bộ đi kiểm tra tình hình và sau đó được biết: đội tự vệ thanh niên thị xã do đồng chí Hồng Quân phụ trách đang bao vây sở liên lạc của quân Nhật, chợt nghe thấy có tiếng chuông điện thoại, rồi lại thấy bọn Nhật nói léo nhéo. Họ cho rằng bị bao vây, bọn Nhật gọi dây nói về trại để xin cứu viện, tức quá Hồng Quân bèn cho bắn luôn một phát trúng chiếc cột diện thoại. Bọn Nhật trong thành thấy thế tưởng quân ta bắt đầu tổng tấn công cũng lập tức xả súng bắn ra.

Thế là cuộc chiến đấu đã bùng nổ. Súng địch, súng ta nổ rền cho đến sáng không lúc nào ngớt. Lực lượng Nhật ở Tuyên Quang khá mạnh. Chúng có một tiểu đoàn đóng trong thành, có tường cao, hào sâu kiên cố. ngoài súng máy, súng cối, bọn chúng còn có cả sơn pháo; ấy là chưa kể những vũ khí nặng, nhẹ, mà chúng đã tước được của quân Pháp khi đảo chính tháng ba.

Thấy cuộc chiến đấu đã nổ ra rồi, chúng tôi không kìm lại nữa, mà thúc đẩy cho mạnh mẽ hơn lên. Trong khoảnh khắc, một đơn vị nhỏ của Giải phóng quân đã được điều đến tăng viện cho lực lượng bao vây sở liên lạc của Nhật (sau đó ta đã bắt được tên trưởng ty người Nhật cùng bảy tên mật thám; cơ quan này đóng ở ngoài thành, do bọn Nhật đặt ra để làm tủng gian liên lạc giữa bọn chúng và chính quyền nhân dân tỉnh).

Trời sáng dần. Cờ đỏ sao vàng đã mọc lên khắp thị xã (trừ trại Nhật). Quần chúng nhân dân đổ ra đường phố đông nghìn nghịt, hớn hở reo mừng chao đón Việt Minh, chào đón Giải phóng quân, đồng thời nô nức bảo nhau nấu nước, đem quà bánh ra tận các tuyến bao vây dể tiếp tế cho chiến sĩ. Không những chỉ có thanh niên hăng hái, nhiều cụ gì cũng xắn tay áo xung phong xin đi, ai cản lại, các cụ quắc mắt, lớn tiếng mắng: “Sao lại không cho già này được tham gia giết giặc, cứu nươc?”.

Tiếng súng vẫn tiếp tục nổ chung quanh trại Nhật.

Chỉ huy sở của Ủy ban khởi nghĩa lúc đã đó chuyển vào nhà anh Giáo Dự, một cơ sở ở tại một phố nhỏ trong tỉnh. Chúng tôi trao đổi ý kiến và quyết định: một mặt tuyên bố thành lập ngay Ủy ban nhân dân lâm thời của thị xã và toàn tỉnh Tuyên Quang, một mặt chuyển toàn bộ lực lượng vào đánh Nhật.

Mỗi lúc, chiến trường càng hiện rõ dưới ánh mặt trời chói chang. Trên các khu đất phẳng ở chung quanh thành quân Nhật đóng, các đội Giải phóng quân, dân quân tự vệ của chúng ta nằm san sát, bám lấy các bờ hào mà bắn. Tất cả đều hăng say, dũng cảm lạ kì, nhất là anh em tự vệ công nhân mỏ than. Người có súng dùng súng, người không có súng thì nhặt gạch, đá ném. Nằm thấp bắn thấy chưa tốt, anh em trèo lên các nóc nhả ở gần đó để quan sát mục tiêu và bắn vào thành. Chỗ này ồ ạt xung phong chưa xong, chỗ khác đã ầm ầm vượt qua hào, lao tới chân thành công kênh nhau lên định nhảy vào trong. Có những anh công nhân trong tay chỉ có hai con dao cũng cứ lăn xả vào xung phong. Trước khí thế xung phong dũng cảm của quân ta, bọn Nhật khiếp đảm nhiều lúc phải chạy dạt trở vào.


Tiêu đề: Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng - Thượng tướng Song Hào
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Bảy, 2010, 10:25:11 am
Có một điều khác đặc biệt: tuy quần chúng và chiến sĩ ta chưa có kĩ thuật đánh thành, lại xung phong ồ ạt nhiều lần thế mà số thong vong lại rất ít. Có lẽ bọn Nhật vì hoang mang, hoảng hốt nên bắn không chính xác.

Những đồng chí thương binh của chúng ta được chuyển rất mau chóng vào bệnh viện thị xã, do bác sĩ Ngạnh làm giám đốc (anh đã được giác ngộ và trở thành cơ sở bí mật của ta từ trước). Bởi vậy chỉ trong giây lát bệnh viện Tuyên Quang đã trở thành một bệnh viện hoàn toàn của quân khởi nghĩa. Bác sĩ Ngạnh tiến hành việc giải phẫu rất chu đáo. Nhưng hầu như chiến sĩ nào bị khiêng về đây cũng không chịu, cứ giãy giụa phản đối, không cho băng bó hoặc mổ xẻ để gắp đạn và nói: “Tôi còn giết được giặc Nhật, hãy trả tôi ra mặt trận”.

Cuộc chiến đấu vẫn tiếp diễn. Bỗng nhiên ở cổng thành xuất hiện một vật gì trăng trắng, sau hiện rõ dần: một lá cờ trắng do một chú bé người Việt cầm. Chú bé bị đẩy từ trong cổng ra, mặt mũi xanh xám, hai chân cơ hồ co dúm lại không bước được. Các đồng chí chỉ huy của ta thoạt đầu hơi ngạc nhiên, sau hiểu ngay bọn Nhật hoặc muốn xin hàng hoặc muốn xin điều đình. Các đồng chí ta vẫy chú bé tội nghiệp kia lại và nhận được một lá thư viết bằng tiếng Pháp, đại ý như sau:

“Kính gửi bộ chỉ huy Việt Minh. Quân đội Nhật đã đầu hàng Đồng minh, không muốn đánh nhau nữa, vậy đề nghị quân đội Việt Minh đừng tấn công, hãy mở đường cho rút về Hà Nội. Quân đội Nhật xin tuân theo mọi kỉ luật, pháp luật của Việt Minh ở đây. Nếu đồng ý, xin cho gặp đại biểu để đàm phán chi tiết. Địa điểm: trước cổng thành”. Dưới có chữ ký của tên quan năm Nhật.

Ủy ban khởi nghĩa trao đổi ý kiến và quyết định viết thư trả lời. Chúng tôi tuyên bố đồng ý sẽ ngừng tấn công, mở đường cho Nhật rút về Hà Nội, nhưng với điều kiện: quân Nhật phải tuyên bố dứt khoát đầu hàng Việt Minh, cam đoan tôn trọng mọi luật pháp của cách mạng và nộp toàn bộ vũ khí.

Sáng hôm sau, bọn Nhật bày bàn ghế ra trước cổng thành, giáp với bờ sông Lô dể đón đại biểu ta vào đàm phán.. Thế là tạm dứt “hiệp thứ nhất”. Đồng chí Tạ Xuân Thu được phân công làm đại diện cho ta đi đàm phán. Đồng chí gọi cả Dương Thiệu Trinh cùng đi. Đồng chí Quỷnh - một sinh viên đã theo cách mạng từ trưóc, biết tiếng Anh, tiếng Pháp được trao trách nhiệm làm phiên dịch.

Một hồi lâu, đồng chí Thu trở về. Dương Thiệu Trinh bước theo sau, y cứ lắc đầu lắc cổ, lè lưỡi: “Ối giời ơi! Thật quả từ cha sinh mẹ đẻ đến giờ, chưa hôm nào tôi hãi như hộm nay! Các ông làm găng quá, nhưng kể cũng giỏi, chúng nó hung thế, mà sau cũng phải lún hết! Ra Nhật cũng sợ cách mạng rồi!”.

Đồng chí Thu báo cáo lại kết quả cuộc đàm phán. Trước những điều kiện của ta đặt ra, bọn Nhật lúc đầu chỉ nhận có một điểm: đầu hàng cách mạng và hoàn toàn tuân theo mọi luật pháp của chính quyền mới, còn điều kiện thứ hai (nộp toàn bộ vũ khí) thì từ chối với lí do là đã làm thống kê báo cáo về Hà Nội để nộp cho Đồng minh. Ý kiến đôi bên qua lại rất găng. Bọn Nhật có lúc sừng sộ vỗ kiếm định giở mặt uy hiếp phái doàn ta. Nhưng trước thái độ rất cứng rắn của ta, đồng thời trước áp lực của các lực lượng vũ trang và nhân dân vẫn đang bao vây chặt phía ngoài, bọn chúng dần dần phải nhượng bộ và chịu nhận sẽ nộp tất cả các vũ khí của quân Pháp mà chúng đã cướp được hồi tháng 3 năm 1945. Riêng vũ khí của bản thân quân đội Nhật, chúng hứa sẽ điện về bộ chỉ huy của chúng ở Hà Nội để xin ý kiến. Trong khi chờ đợi, chúng đề nghị ta ngừng bắn, cho phép binh lính của chúng được ra chợ mua bán thực phẩm, không mang theo vũ khí.

Thế là bọn nhật đã phải lùi một bước. Tuy nhiên, Ủy ban khởi nghĩa vẫn giữ quyết tâm: phải tịch thu toàn bộ vũ khí của chúng, chỉ cho về tay không. Trong lúc đang trao đổi ý kiến như vậy chúng tôi được tin báo khẩn cấp: bọn Nhật trên Hà Giang rút về sắp tới khu vực Ỷ La, không còn xa Tuyên Quang là bao. Ủy ban khởi nghĩa nhận đinh: Đây là một việc không tốt. bọn Nhật đang bị vây hãm trong thành Tuyên rất có thể sẽ trở mặt, với hi vọng sẽ liên lạc được với bọn ở Hà Giang về, phá vỡ trận địa ta, rút quân về Hà Nội. Chúng tôi liền báo cho các lực lượng khởi nghĩa ở Ỷ La phâỉ chặn bọn Nhật ở Hà Giang lại bằng được, mặt khác chỉ đạo cho các đơn vị bao vây thành phải tiếp tục sẵn sàng chiến đấu không được một phút lơi lỏng ý chí chiến đấu.

Quả nhiên đến hai giờ chiều tiếng súng lại đột nhiên nổ ran. Bọn Nhật đã lật lọng. chúng tưởng rằng quân từ Hà Giang đã về tới nơi. Hàng loạt đạn moóc-chi-ê lại nổ, dựng lên những cột khỏi và đất dá ở chung quanh thành. Những khẩu trọng liên trên các lô cốt lại xa xả bắn ra từng băng dài. Trên quả đội giữa trại (núi Hồ) mấy khẩu pháo 75mm bắn thẳng ra mấy dãy phố gần đấy làm một vài ngôi nhà lá bốc cháy và một vài mái ngói đổ sụp.

Nhưng bọn Nhật đã tính nhầm. Quân của chúng ở Hà Giang về tới Ỷ La đã bị một đơn vị nhỏ của quân khởi nghĩa chặn đứng.


Tiêu đề: Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng - Thượng tướng Song Hào
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Bảy, 2010, 10:26:15 am
“Hiệp đấu thứ hai” đã bắt đầu và có phần còn quyết liệt hơn “hiệp” trước. Các chiến sĩ Giải phóng quân, tự vệ (nhất là tự vệ công nhân mỏ) lại tổ chức nhiều đợt xung phong rất dữ dội. Bọn Nhật có lúc gần như đã bị tê liệt sức chống trả. Nhưng đáng tiếc, do trình độ quân sự của quân knng còn quá non nớt, chưa có kinh nghiệm đánh thành nên đã bỏ mất nhiều cơ hội đột phá, thường chỉ xung phong, công kênh, bắc thang nhảy được tới mặt thành lại bị bọn Nhật kịp thời củng cố lực lượng hất ngược trở lại.

Để trợ lực cho quan tấn công, Ủy ban khởi nghĩa bèn quyết định tổ chức một cuộc biểu tình lớn nhằm uy hiếp thêm tinh thần địch. Chỉ trong phút chốc, hàng mấy vạn nhân dân đã được tập trung, cờ đỏ sao vàng rợp trời, giáo mấc như rừng, cuồn cuộn kéo nhau qua các đường phố gần trại Nhật, vừa đi vừa hô khẩu hiệu vang trời: “Đả đảo phát xít Nhật lật lọng”, “phải nộp toàn bộ vũ khí mới được về Hà Nội”. “Việt Nam độc lập muôn năm!”…

Tiếng súng trận hòa lẫn những tiến hô của đoàn biểu tình làm cho cả thành Tuyên rung chuyển. Đến tối Ủy ban khởi nghĩa nhận được tin từ dưới Hà Nội lên: Đảng ta lãnh đạo nhân dân đã hoàn toàn cướp được chính quyền ở Thủ đô. Cờ đỏ sao vàng đã bay trên nóc Nhà hát lớn thành phố.

Nghe xong, có một số ý kiến nêu lên: “Hà Nội xong rồi, ở đây cũng nên thu xếp cho xong đi, không nên găng quá nữa”. Nhưng ý kiến ấy không phù hợp vói quyết tâm của Ủy ban khởi nghĩa.

Sáng hôm sau (20 tháng 8 năm 1945), Ủy ban khởi nghĩa tỏ rõ quyết tâm, kêu gọi nhân dân trong phố triệt để tản cư để quân ta mở những đợt tấn công mạnh mẽ hơn nữa. Suốt ngày hôm ấy không khí chiến trận càng tăng khắp thị xã. Một mặt, ông già, bà cả, trẻ con ríu rít đưa nhau đi sơ tán ra ngoại ô, một mặt thanh niên nam nữ tiếp tục gánh cơm, nước, đạn dược tiếp tế cho hỏa tuyến cho quân khởi nghĩa. Nhiều chiến sĩ tiếp tục trèo lên cây cối, nóc nhà để bắn vào trong thành. Kế triệt nước đã được thi hành. Tất cả các giếng nước bên ngoài trại và suốt dọc bờ sông Lô đã bị phong tỏa chặt chẽ. Chúng tôi được biết số giếng trong thành rất ít.

Không thể chịu đựng được nữa, tinh thần đã hoàn toàn tan rã, bọn Nhật lại xin điều đình. Lại một lá thư nữa được đưa ra. Bây giờ trời đã xế chiều, thêm một tin rất quan trọng khác vừa được báo về rất gấp: Quan Tưởng Giới Thạch với danh nghĩa Đồng minh đã bắt đầu kéo vào Hà Giang, đông tới hàng mấy vạn, đặc biệt chúng còn dắt theo về cả một bầy Việt Nam Quốc dân đảng phản động. Theo dự đoán, chỉ trong vòng hai ba ngày ngày nữa là chùng, bọn chúng sẽ tràn xuống tới Tuyên Quang.

Chúng tôi đã được Bác và Trung ương cho biết từ trước những dự kiến của Đảng ta về mối hiểm họa từ quân Tưởng Giới Thạch, một khi bọn chúng kéo vào đất nước ta.

Phải có một chủ trương tỉnh táo và kịp thời lúc này! Trước mắt vẫn còn quân Nhật, sau lưng là quân Tưởng Giới Thạch đã thúc đến. Chúng tôi cân nhắc cặn kẽ tình hình và thấy rằng cần phải thay đổi chủ trương cho phù hợp. Chúng tôi đồng ý cho bọn Nhật được giữ lại một số súng đạn tượng trưng để mang về Hà Nội và cho phép được liên lạc với quân Nhật ở Hà Giang về để cùng rút. Tuy nhiên, bọn Nhật ở Hà giang cũng phải tuuân theo đủ mọi điều kiện như bọn Nhật ở thành Tuyên đã cam kết. Sự thay đổi chủ trương này là một sự tế nhị về chính trị. Chúng tôi muốn kịp thời giải quyết cho gọn ghẽ bọn Nhật để còn có đủ thì giờ chuẩn bị mọi mặt đối phó với mối hiểm họa mới đang kéo tới: quân Tưởng Giới Thạch.

Sáng 21 tháng 8 năm 1945, đồng chí Tạ Xuân Thu lại dùng chiếc xe sơn màu sữa cùng với đồng chí Quỷnh đi tới trại quân Nhật. Khác hẳn với lần trước, sáng nay bọn Nậht bày bàn, ghế rất cẩn thận ở cổng trại. Bàn nào cũng trải khăn trắng, trên có thuốc lá, rượu bia tinh tươm. Chúng còn căng mấy chiếc dù bên trên cho thêm phần lịch sự.

Cuộc đàm phán lần này không găng như lần trước. Tất cả những điều kiện của bên ta nêu ra, bọn Nhật chấp nhận hết. Sự thật đã chứng minh: chủ trương mới của Ủy ban khởi nghĩa không những đã phù hợp với ta mà cũng dúng với sự mong đợi của địch. Trong khi đồng chí Quỷnh cùng với một tên sĩ quan Nhật ngồi viết biên bản để kí kết, viên quan năm Nhật mở bia ra mời, sau đó cởi súng sáu ở bên sườn ra trân trọng đưa tới trước mặt đồng chí Thu, nói là xin tặng lại, một là để biểu thị quân đội Nhật hoàn toàn chấp nhận sự đầu hàng, hai là để kỉ niệm cuộc đàm phán rất vui vẻ này (!).

Sau khi kí kết, đoàn đại biểu của ta ra lênh cho quân Nhật phải thống kê lại toàn bộ vũ khí, niêm phong lại cẩn thận, quân khởi nghĩa sẽ vào tiếp thu trong ngày mai. Trước khi ra về, đoàn đại biểu ta lại buộc bọn Nhẩt phải đưa phái đoàn ta vào trong thành để được tận mắt kiểm tra lại tất cả những vũ khí hiện có.

Bước vào trong thành, mới biết lực lượng địch quả là còn mạnh; kho nào kho ấy súng, đạn còn đầy ăm ắp. Số thương vong của chúng chưa đáng kể. Nhưg khi trèo lên quả đồi giữa trại, nhìn ra ngòi thấy cờ đỏ sao vàng đã bay rợp từng đông sang tây, từ bắc xuống nam, các đồng chí ta bấy giờ mới càng hiểu thấm thía hơn lúc nào hết: quả là không có một lực lượng nào, một đế quốc hung hãn nào có thể chống lại được bão tấp của cách mạng.

Tuyên Quang đã được giải phóng!

Chính quyền đã về tay ta!

Cuộc đời nô lệ dài dằng dặc 80 năm đã chấm dứt!

Sáng hôm sau (22 tháng 8 năm 1945) hầu như toàn thể nhân dân thị xã Tuyên Quang và các xã phụ cận đều đã xuống đường, đổ về địa điểm mít tinh để chào mừng thắng lợi, chào mừng Ủy ban nhân dân lâm thời ra mắt, chào mằng chính quyền mới được thành lập.

Cũng trong ngày hôm ấy, một bộ phận Giải phóng quân và tự vệ công nhân mở than, tự vệ thanh niên thị xã đẩy những chiếc xe bò hăm hở tiến vào trại Nhật để tiếp thu vũ khí.Bọn sĩ quan, binh lính địch đứng dẹp ở hai bên cổng trại ủ rũ, lặng lẽ ngắm nhìn những người chiến thắng.

Chiến lợi phẩm rất nhiều, chuyến này ra, chuyển khác tới. Hàng chục khẩu đại bác các cỡ từ 20 mm tới 75 mm, hàng chục súng moóc-chi-ê, hàng trăm súng trường, cùng gần một chục tấn mìn, đạn các cỡ được chuyển về doanh trại của quân ta.

Cả thị xã hân hoan quên ăn, quên ngủ. Không khí chiến thắng tưng bừng, tràn ngập khắp nơi.

Cũng ngay trong đêm đó, tại một căn nhà dơn sơ, chúng tôi và tỉnh ủy Tuyên Quang lại tiếp tục họp bàn công việc. Biết bao nhiều vấn đề to lớn được đặt ra: Củng cố chính quyền mới ra sao đây? Làm thế nào để giải quyết nạn đói đang còn trầm trọng trước mắt? Làm thế nào để đối phó với bọn Tưởng sắp kéo tới? Bác và Trung ương đã khẳng định từ trước: bọn Tưởng là tay sai của đế quốc. chúng vào nước ta chỉ có một mục đích duy nhất là tiêu diệt chính quyền cách mạng. Nhất định bọn Tưởng và bọn đế quốc không thể chịu đựng nổi việc có một chính quyền cách mạng do Đảng Cộng sản lãnh đạo lại được thành lập ở ngay trước mũi chúng, ở ngay giữa trung tâm khu vực chiến lược Đông Nam Á này. Do đó Bác và Trung ương đã chỉ ra: chúng ta sẽ phải chịu đựng những sự hiểm nghèo cực kì to lớn: lãnh đạo giỏi, cơn phong ba sẽ tan đi; tay lái không vững, con thyền cách mạng rất có thể sẽ đi tới chỗ chìm đắm, tan vỡ.

Tỉnh ủy Tuyên Quang và chúng tôi hầu như không kịp vui trước thắng lợi mới. Suốt cả buổi hôm ấy, chúng tôi làm việc trong lúc tiếng hò reo, tiếng ca hát của quần chúng nhân dân vân còn đang vang rộn xa gần.


Tiêu đề: Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng - Thượng tướng Song Hào
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Bảy, 2010, 10:26:39 am
V

Đúng như dự đoán của Trung ương và Bác, hơn hai vạn quân Tưởng Giới Thạch ào ạt kéo xuống Tuyên Quang. Vừa mới đặt chân vào thị xã, chúng đã gây dủ chuyện rắc rối: cướp của, bắt người, tung tiền Quan kim ra phá thị trường, hạch sách gạo, thịt, thậm chí đòi cả thuốc phiện, vàng bạc… Đồng thời, dã tâm tiêu diệt chính quyền cách mạng của chúng đã lộ ra rõ ràng. Ở Hà giang, bọn chúng đã dùng lưỡi lê bợ đỡ cho bọn Việt Nam Quốc dân đảng phản động cướp lấy chính quyền ta, công khai hò hét chống Chính phủ Trung ương, bắt bớ, bán giết hàng loạt cán bộ, quần chúng Cứu quốc…

Nhân dân Tuyên Quang gần như ứa máu mắt. Đời sống sinh mệnh lại bị đe dọa cực kì nghiêm trọng, danh dự và chủ quyền cùng lúc bị xúc phạm rất nặng nề. Tuy vận, nhờ có chủ trương, đường lối của Đảng, có dự kiến lãnh đạo của tỉnh ủy, nhân dân Tuyên Quang đã bình tĩnh, tỉnh táo, lúc mềm dẻo, lúc cứng rắn, tránh được những sự khiêu khích, xung đột bất lợi. Sau đó dần dần từng bước đã hạn chế dược những hành động phá rối và làm thất bại âm mưu đen tối của quân Tưởng.

Không được ở lại Tuyên lâu, ngay sau khi công cuọc khởi nghĩa cướp chính quyền thắng lợi, chúng tôi có nhiệm vụ sang Phú Thọ để thực hiện việc thống nhất quân đội. Phú Thọ cũng đã khởi nghĩa xong, nhưng các lực lượng vũ trang của mặt trận Việt Minh tỉnh lại có hai khối độc lập với nhau. Một bên chiếm giữ khu vực hành chính, một bên đứng dưới phố. Quân Nhật tuy đã chịu trao trả chính quyền cho ta, nhưng thái độ vẫn còn hung hăng lắm. Trước tình hình ấy, Trung ương chủ trương phải nhan chóng thống nhất tất cả các lực lượng của ta lại và đặt dưới sự chỉ đạo chung của Đảng để sẵn sàng ứng phó với mọi bất trắc có thể xảy ra.

Đồng chí Lê Giản được trên phái về cùng với tôi đi chuyến này. Chúng tôi điều động đơn vị của đồng chí Môn xuống Phú Thọ trước để làm lực lượng nòng cốt. Đồng chí Đào là người liên lạc và bảo vệ cùng đi với chúng tôi.

Buổi trưa hôm ấy, chúng tôi tới Phú Thọ, lên thẳng khu dinh tỉnh trưởng cũ để gặp đồng chí chỉ huy các lực lượng vũ trang đóng tại đây.

Đồng chí P. một người cao lớn, đi ghệt da, đeo súng ngắn, kiếm Nhật, phong độ rất “quân sự”, chạy ra tiếp chúng tôi, rồi mời lên phòng làm việc ở trên gác.

Tuy chưa có thời gian để đi thăm khắp thị xã và tìm hiểu sâu tình hình, nhưng vừa lúc mới bước vào trong dinh tỉnh trưởng chúng tôi cũng đã cảm thấy môt không khí gì rất căng thảng. Quần chúng nhân dân tuy rất hăng hái, nhưng hình như vẫn có điều gì vương mắc, gỡ chưa ra cho nên sự vui vẻ, hồ hởi bồng bột chưa thật mạnh mẽ như ở Tuyên Quang.

Chúng tôi nói rõ chủ trương của Đảng về việc phải thống nhất lực lượng, thống nhất hành động, thống nhất lãnh đạo. Đồng chí P. chăm chú ngồi nghe, không phản đối lại điều gì.

Đang lúc đó, có tiếng huyên náo ở dưới chân đồi. Đồng chí P. vội vã chạy xuống. Nhìn qua cửa sổ, chung tôi rất ngạc nhiên thấy quân Nhật đang rầm rập kéo đến, thái độ rất dữ tợn. bọn sĩ quan thì hò hét binh lính triển khai đội hình chiến đấu. Một đơn vị nhỏ của chúng, lưỡi lê tuốt trần, xồng xộc chạy vào đứng chặn tất cả các cửa ra vào của chính quyền nhà chúng tôi đang làm việc.

- Chuyện gì thế này? Đồng chí Lê Giản và tôi cùng hỏi nhau.

Đồng chí Đào thấy vậy cầm khẩu tiểu liên lên đạn, chạy vụt ra đứng trấn ở đầu cầu thang, mặt đỏ bừng, vẻ rất quả quyết:

- Các anh yên chí! Cả trung đội chúng nó cũng không lên đây được với tôi đâu!

Chúng tôi cảm thấy cảm động trước tinh thần cảnh giác của đồng chí bảo vệ trung thành, dũng cảm ấy.

Xuống nhà dưới, chúng tôi thấy đồng chí P. đang bối rối nói chuyện với mấy đồng chí cán bộ khác. Hỏi ra mới biết đầu đuôi câu chuyện: Có mấy tên Nhật đến xin giấy thông hành, nhưng đồng chí P. không cho, lại còn cho bắn dọa. Bọn Nhật cho thế làm làm nhục chúng. Chúng kéo đến để trả thù, với quyết tâm tiêu diệt toàn bộ lực lượng vũ trang của ta, nếu không cũng bắt phải nộp toàn bộ vũ khí.

Chúng tôi hỏi đồng chí P:

- Bây giờ đồng chí xử trí ra sao?

Đồng chí P. càng bối rối. Tôi và đồng chí Lê Giản trao đổi ý kiến với nhau, cùng nhận định: lúc này phải xử trí cho khéo, “tả” cũng hỏng mà “hữu” cũng hỏng. Sau khi chúng tôi thống nhất chủ trương, tên sĩ quan chỉ huy Nhật được yêu cầu vào thảo luận. Do dự giây phút, rồi tên này cũng đồng ý.


Tiêu đề: Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng - Thượng tướng Song Hào
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Bảy, 2010, 08:20:00 am
Các đồng chí chỉ huy nói cho nó hiểu: Quân ta là quân cách mạng yêu nước, nên sẵn sàng quyết tử, chiến đấu đến cùng bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ cách mạng, quyết không sợ bất cử một lực lượng đế quốc, phát xít nào. Quân đội Nhật nay đã đầu hàng đồng minh không những ở đây mà trên toàn thế giới, bây giờ lại gây chuyện đánh nhau, chết chỉ thiệt vào thân. Vậy mọi viêc giờ đây chỉ nên giải quyết với nhau một cách êm ả là tốt hơn

Tên sĩ quan Nhật im lặng không nói gì, nhưng sắc mặt cũng không con tím bầm như trước nữa. Các đồng chí ta tiếp tục thuyết phục, sau đó nêu ra một biện pháp giải quyết cụ thể. Về phía ta: ta sẽ cấp cho bọn Nhật một số giấy thông hành đủ cho những nhân viên, binh lính cần thiết đi ra ngoài mua bán thực phẩm cho tới hôm rút về Hà Nội. Về phía Nhật, chúng phải rút ngay tất cả binh lính về trại và tuyệt đối không được có thái độ khiêu khích.

“Cuộc thương thuyết” cuối cùng đi tới kết quả. Đồng chí P. thở phào, lau mồ hôi trán.

Sau đó chúng tôi dể đồng chí Môn ở lại thực hiện việc thống nhất các lực lượng, đồng thời chịu trách nhiệm trực tiếp lãnh đạo, chỉ huy những đơn vị đã được thu lại thành một mối.

Theo chỉ thị của trên, đồng chí Lê Giản và tôi lại cấp tốc ngược lên Yên Bái để thu xếp những việc rắc rối đang xảy ra giữa lực lượng vũ trang của ta và bọn Tưởng Giới Thạch, rất bất lợi cho cách mạng. Cũng lấy danh nghĩa đồng minh, bọn Tưởng đã kéo hàng vạn quân vào Yên Bái. Chính quyền cách mạng của chúng ta tại nơi đó đang bị uy hiếp cực kỳ nghiêm trọng.

Trong khi điều một tiểu đoàn tiến về phía Yên Bình để làm lực lượng dự bị đề phòng mọi bất trắc, chúng tôi dùng một chiếc xe goòng nhỏ đi theo đướng sắt để có thể tranh thủ thời gian tới Yên Bái được sớm hơn.

Đã lâu lắm, không được đi trên đướng sắt, nhưng chúng tôi không còn đủ thì giờ để chú ý tới những cảm giác của mình khi đó, chỉ thấy hết sức suốt ruột,. Chiếc xe chạy đã nhanh, mà vẫn cảm thấy như còn chậm. Đồng ruộng, đồi sơn, rừng cọ, núi rừng chạy ngược trở lại phía sau vùn vụt, rồi xoáy tròn như chong chóng. Quãng đường, những lá cờ đỏ sao vàng lại hiện đỏ thẳm trên các ngọn cây, đỉnh cột ở các làng xóm rải rác bên sông, ven rừng, trong những thung lũng nhỏ.

Vượt hết ga này ới ga khác, chiếc xe goòng của chúng sáp tới Phố Lu, chợt nghe thấy có tiếng còi xe lửa rúc ở phía xa. Chúng tôi chỉ kịp nói vói người lái xe: “Chú ý! Dừng lại!” thì đã thấy một đám khói tắng phụt lên khỏi những đám cây xanh rì trước mặt, rồi kéo dài ra, bay tản mạn. Sau đó, từ một quãng đường vòng, một đầu máy xe lửa đen sì, nhễ nhại dầu mỡ, hồng hộc lao tới.

Chiếc xe goòng của chúng tôi vội hãm lại, loạng choạng tưởng đổ lật. Cả mấy người đều vội vảng nhảy vọt xuống đường, vừa may doàn xe lửa cũng kịp hãm, toa nọ xô giạt vào toai kia loảng xoảng.

Một người mặc sơ mi, quần màu đen, bên sườn đeo chiếc ống nhòm, đầu trần, từ trên đầu máy nhảy xuống. Mấy chúng tôi cùng chạy lại và mừng rỡ nhân ra nhau. Đó là đồng chí S. một trong những người đang chỉ huy bộ đội đánh nhau với quân Tưởng ở khu vực này.

Vừa nom thấy chúng tôi, đồng chí S. để kêu to lên, giận dữ và thất vọng:

- Thua mẹ nó rồi! Rút cả vào Nghĩa Lộ lập phòng tuyến mới đi thôi!

Để cho đồng chí S. trấn tĩnh lại, chúng tôi mới hỏi tỉ mỉ về tình hình. Đồng chí S. nói: hiện nay quân Tưởng Giới Thạch đã dùng lực lượng khổng lồ đánh phá quân ta. Tuy nhiên, qua trao đổi ý kiến, chúng tôi cũng thấy đúng như Trung ương đã nhận đinh: các đồng chí ta ở đây mặc dầu rất dũng cảm, quyết tâm, nhưng còn thiếu mềm dẻo trong sách lược, không nắm vững phương châm lúc này là lấy đấu tranh chính trị làm chủ yếu.

Biết chưa phải lúc tranh luận với nhau để thống nhất ý kiến ở chỗ này, chúng tôi thống nhất cùng lên xe.

… Sau đó chúng tôi được gặp đầy đủ các đồng chí lãnh đạo Yên Bái. Cuộc thảo luận để thống nhát hành động diễn ra khá gay go. Trước những hành động phá hoại, thái độ ngang ngược và âm mưu xảo quyệt của bọn Tưởng, các đồng chí Yên Bái như vẫn còn cháy ruột, do đó cho rằng những biện pháp đối phó cứng cỏi, mạnh mẽ là cần thiết. Nhưng liền đó đồng chí Chu Văn Tấn đã mang chủ trương, chỉ thị của Trung ương từ Hà Nội lên. Bấy giờ mọi việc mới được giải quyết dứt khoát.


Tiêu đề: Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng - Thượng tướng Song Hào
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Bảy, 2010, 08:20:52 am
*
*   *

Trong lúc đó, tình hình Hà Giang vẫn còn rất rối loạn. Bọn thổi phỉ thừa lúc chính quyền cách mạng của ta chưa được vững chắc, chưa ăn sâu xuống tận cơ sở xã, đã nổi lên ở nhiều nơi, riêng thị xã vẫn hoàn toàn bị bọn Việt Nam Quốc dân đảng chiếm đóng. Chế độ quân phiệt, phát xít rất hà khắc, tàn bạo đang đè trĩu lên đầu nhân dân ta tại nơi đó. Bọn Việt Nam Quốc dân đảng lúc đầu theo gót bọn Tưởng kéo về, sau đó lợi dụng nắm được ba ngìn quân khố đỏ do một sĩ quan người Việt tên là Viên (quen gọi là Ba Viên) chỉ huy. Lực lượng khố đỏ này đã chạy Nhật hồi tháng 3 năm 1945 sang trú chân trên đất Trung Hoa, nay được tin Nhật đầu hàng, kéo nhau trở về. Tuyệt dại đa số anh em binh lính đều là nông dân nghèo khổ, do bị ép buộc mà phải đi lính, trong đó có một số anh em cai đội có tinh thần yêu nước. Chúng tôi được một số cán bộ của ta hoạt động trước đây ở vùng biên giới cho biết: Anh em lính khố đỏ đều căm ghét Nhật, nhưng cũng căm ghét cả quân Pháp. Trong những tháng còn lưu vong, tất cả đều rất nhớ nhà, chỉ mong có dịp trở về. Bọn Quốc dân đảng đã lợi dụng lòng nhớ nhà, nhớ nước để tuyên truyền là bịp, thu phục được Ba Viên cùng ba nghìn binh lính của anh ta phục vụ cho mục đích phản dộng của chúng. Quân của Ba Viên dã trở thành lực lượng chủ yếu của bọn Việt Nam Quốc dân đảng tại Hà Giang. Bọn thủ lĩnh Việt Nam Quốc dân đảng đã tìm hết cách để mua chuộc người sĩ quan không có xu hướng chính trị rõ rệt này. Mỗi ngày chúng cấp cho Ba Viên hàng trăm bạc để tiêu xài riêng. Một thiếu nữ khá xinh đẹp được phái tới để “hậu cận”. Ba Viên đã bị bọn chúng giam chặt trong vòng vây tiền, gái, rượu… Binh lính của anh cũng được ưu đãi rất hậu. Bọn Việt Nam Quốc dân đảng đã thành công phần nào trong bước đầu tha hóa đội quân này, làm cho họ suốt ngày chỉ mải vui choi, bài bạc, để mặc cho chúng tha hồ tác oai tác quái trên đầu người dân vô tội. Tất cả quần chúng cứu quốc cơ sở Việt Minh đều bị bắt bớ, giam cầm. Cán bộ ta, ngừoi nào chẳng may sa vào tay chúng nếu không bị chặt đầu thì cũng bị moi gan, mổ bung…

Một không khí khủng khiếp đang lan tràn khắp thị xã.

Trước tình hình ấy, Đảng ta quyết tâm phải nhanh chóng giải phóng cho nhân dân, giành lại chính quyền khỏi những bàn tay đẫm máu của bọn phản động. Tôi và một số khá đông các đồng chí khác cùng ngược Hà Giang ngay trong tháng ấy (gồm các đồng chí Mai Trung Lâm, Thanh :Phong, Tạ Xuân Thu, Hồng Thái, Tân Tầu, Khải Ca và cả đồng chí Quỷnh…). Một số đơn vị bộ đội cũng được diều động lên đường.

Tới một địa điểm gần sát Hà Giang, chúng tôi dừng lại để tổ chức bao vây, đồng thời tiến hành điều tra nắm thêm mọi mặt tình hình bọn Việt Nam Quốc dân đảng và đội quân Ba Viên

Sau khi đã khẳng định về cơ bản binh lính trong đội quân do Ba Viên chỉ huy hầu hết là quần chúng công nông tốt, bị lừa bịp về chính trị, bản thân Ba Viên cũng là một người không có xu hướng chính trị phản dộng, chúng tôi cùng đi tới nhất trí chủ trương phải giành lại lực lượng Ba Viên về với cách mạng bằng đường lối vận động giác ngộ chính trị. Làm được như vậy, việc thanh toán bọn Việt Nam Quốc dân đảng không còn là một viêc đáng kể nữa.

Điều tra biết Ba Viên có vợ và mấy con hiện đang ở quê, một xã thuộc tỉnh Sơn Tây, chúng tôi bèn cử một đồng chí cán bộ về tìm bằng được chị Viên, nói cho chị nghe tất cả mọi chuyện và yêu cầu chị viết một lá thư gửi cho chồng, kêu gọi hãy trở về gới gia đình, Tổ quốc…

Chủ trương này không phải ngay từ lúc đầu đã được toàn thể anh em tán thành. Đã có những ý kiến hoài nghi: “Bọn địch mua chuộc như thế; rươu, gái kè kè bên mình rồi, bảo quay về với cách mạng kể cũng khó lắm!”.

Đồng chí Khải Ca được giao trách nhiệm tìm về gia đình Ba Viên, ít ngày sau anh quay trở lại. Anh đã thành công. Chị Ba Viên đã hiểu ra ngay mọi viêc và đã tự mình đọc cho con gái viết một lá thư khá dài, lời lẽ mộc mạc nhưng chứa đừng biết bao niềm yêu thương, mong nhớ. Cũng quả là kì lạ! Người đàn bà bình thường ấy chỉ bằng tấm lòng tin yêu Dảng và tấm lòng yêu thương chồng của mình đã tự nhiên thốt ra được những lời lẽ hết sưc thông minh, thuyết phục về giảng giải cho chồng nghe đâu là Tổ quốc, đâu là cách mạng… mà không cần ai gợi ý cho chị.


Tiêu đề: Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng - Thượng tướng Song Hào
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Bảy, 2010, 08:22:09 am
Bức thư ấy đã được khéo léo gửi cho Ba Viên. Trong khi đó một lực lượng khá lớn của ta được tung ra bí mật thâm nhập vào thị xã, cải trang thành những người dân thường đi buôn bán, làm thợ. Lực lượng ấy đã tìm cách quan hệ vói mấy nghìn anh em lính khố đỏ.Tới đây tất cả những kinh nghiệm vận động, giác ngộ binh lính địch của các đồng chí cách mạng tiền bối, của các chiến sĩ Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, Cứu quốc quân lại được đem ra áp dụng triệt để.

Chúng tôi đã theo dõi cuộc “chiến đấu chính trị thầm lặng” ấy một cách kiên trì, nhẫn nại. và dần dần, những báo cáo đã liên tiếp gửi ra mỗi ngày một thêm sáng sủa. Nay có tin: đại đội này đã tỉnh ngộ, xin cho nổi dậy đánh chiếm các công sở để đón quân ta ở ngoài đánh vào,. Mai có báo cáo: đại đội kia đã hoàn toàn thống nhất ý kiến xin bố trí đường ra để anh em rút…

Chúng tôi vẫn chưa vội mừng và yêu cầu các đồng chí ta cứ kiên trì hoạt động, vẫn chờ thái độ của Ba Viên và vẫn tin chắc Ba Viên sẽ phải chuyển: nếu không chuyển vì bức thư của gia đình thì cũng phải chuyển vì thấy mình đã mất hết binh lính. Chúng tôi quan trọng nắm được toàn bộ quận của anh, đặt anh vào thế hoàn toàn cô lập, nếu không đi theo cách mạng thì cũng không còn sức mạnh và sẽ trở thành vô dụng.

Quả nhiên chúng tôi sẽ thắng lợi. Sau khi thấy hầu hết binh lính đã phân tâm, Ba Viên không còn do dự như trước nữa, anh gửi thư ra: “Chúng tôi nay đã hiểu ra rồi. Xin sẽ hành động…”.

Một kế hoạch tỉ mỉ, chặt chẽ đã được vạch ra cho anh Viên. Sau đó, vào một buổi sáng, giữa lúc bọn thủ lĩnh Việt Nam Quốc dân đảng đang say sưa chè chén thì ba nghìn quân của anh Viên làm binh biến. cờ sao trắng bị hạ xuống. trong khoảnh khắc, các công sở, các vị trí trọng yếu của thị xã đã bị quân anh Viên cùng với quân cách mạng ở ngoài tiến vào chiếm gọn. Toàn bộ bọn thủ lĩnh Việt Nam Quốc dân đảng khát máu bị bắt giam. Sau khi tước hết vũ khí, quân ma chuyển bọn chúng sang tòa án nhân dân để xét xử…

Trong khi ác lực lượng của ta tiếp tục ở lại Hà Giang để củng cố chính quyền mới và tiễu phỉ, chúng tôi đưa anh Viên cùng ba nghìn anh em lính khố đỏ cũ xuôi Phú Thọ. Được trỏ về con đường cứu quốc chân chính, anh em binh lính rất vui vẻ. Đại đa số anh em xin tình nguyện vào bộ đội. Được chỉ thị của trên, chúng tôi tiếp thu và tổ chức anh em vào cá đơn vị của ta ở Tuyên Quang, Phú Thọ

Riêng anh Ba Viên được Bộ Quốc phòng mời Hà Nội nghỉ ngơi rồi nhận công tác mới. Tôi lại cùng anh đáp xe về Hà Nội. Trên đường về, chúng tôi cùng ghé thăm quê anh.

Từ lúc rẽ vào con đường làng, Ba Viên trở nên tư lự, ít nói hẳn đi. Tôi biết anh rất xúc động. Anh nói với tôi: đã ngót mười năm nay anh chưa được trở lại quê nhà.

Vừa nom thấy chồng, nước mắt chị Viên đã rơi lã chã: “Thật là chết đi sống lại nhá!”. Hai mắt anh cũng đỏ hoe, mãi anh mới nới được nên lời.

Gia đình anh thuộc tầng lớp trung nông, chỉ đủ ăn, đủ mặc. Mấy gian nhà gỗ, một mảnh vườn con, một đàn gà, đội lợn cấn…(1). Ngồi nhìn ra lũy tre xanh đu đưa la đà trước ngõ, mảnh ao bèo với chiếc cầu mảnh khảnh, đôi vịt bầu trắng phau bơi thong thả, trên bờ mấy chú bé con nô đùa ríu rít… bỗng nhiên tôi cũng chạnh nhớ tới chút tình quê. Tôi cũng xa gia đình ngót mười năm rồi, hôm nay mới trở lại miền xuôi… Tôi đã nhìn thấy cuộc sống mới đang bắt đầu ở khắp mọi nơi. Nguyện vọng ước mơ ngàn đời của nhân dân ta đã đến. Tuy nhiên tôi biết con đường cách mạng vẫn còn dài lắm, vẫn còn nhiều khúc khuỷu gấp ghềnh. Ngọn lửa chiến tranh thế giới do bọn phát xít Đức, Nhật, Ý gây nên vừa mới bị dập tắt trên thế giới thì ngọn lửa chiến tranh xâm lược của đế quốc Pháp đã lại nhóm dậy ở miền Nam Tổ quốc ta. Mặt đất Việt Nam chưa kịp nguội nay đã nóng bỏng lên rồi.


(1) Sau khi trở về Hà Nội công tác một thời gian, anh Ba Viên bị bọn Việt Nam Quốc dân đảng ám sát một cách rất đê hèn.


Tiêu đề: Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng - Thượng tướng Song Hào
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Bảy, 2010, 08:24:05 am
Về tới Hà Nội, được gặp Bác và Trung ương, tôi càng hiểu thêm những khó khăn cực kì to lớn mà Đảng ta, nhân dân ta đang gặp phải. Trong nước, một mớ những đảng phái phản động, lưu manh bám gót quân Tưởng trở về đang đua nhau gây nhiễu loạn. Bọn Việt Nam Quốc dân đảng phản động với những tên mất gốc, bán nước, bọn Đại Việt với một lũ quân vốn là thổ phỉ đang nghênh ngang đóng ở Bắc Giang, Bắc Ninh, Chũ, bọn Việt Nam cách mạng đồng minh với những tên nghiện thuốc phện, quê cả tiếng mẹ đẻ, chúng cũng có một số quân chiếm đống một vài địa điểm ở Móng Cái, Hòn Gai. Ở Lạng Sơn có bọn Phúc quốc Nông Quốc Long hung hãn, dựa vào quân Tưởng ngang nhiên đòi tước khí giới của bộ đội ta. Bên cạnh một mớ những thứ đảng phái phản động lại còn bọn Tơ-rốt-skít đê hèn, mượn khuynh hướng “tả”, đang ra sức hoạt động hòng phá hoại chính quyền và Đảng ta. Tất cả các đảng phái này là những tên phản quốc đang gào thét chống đối chính quyền cách mạng ở ngoài Bắc. Hành động của chúng ở một chừng mực nào đó dã phù họa, ăn nhịp với tiếng súng xâm lăng của bọn Pháp do quân Anh giúp sức đang nổ ở miền Nam. Chính quyền cách mạng của ta mới ra đời đã lọt ngay vào vòng vây của đế quốc. trên phía bắc, quân Tưởng ép xuống, phía nam, bên phía đông, bên phía tây, quân Pháp đang dồn dập đổ vào. Quân Tưởng có Mỹ giúp và xúi giục. Quân Pháp có quân Anh đỡ đầu, ủng hộ. Không nói sao cho hết mối nguy cơ “ngàn cân treo sợi tóc” của chính quyền nước ta trước cảnh thù trong giặc ngoài dữ dội ấy.

Nền kinh tế, tài chính quốc gia mà chính quyền ta tiếp quản lúc đó cũng hết sức tiêu điều, thảm hại, nạn đói vẫn còn kéo dài. Nhiều tỉnh ở Bắc Bộ vẫn còn đang bị ngập lut mênh mông, mùa màng ở chín tỉnh mất trắng. Tại các thành phố, công nhân thất nghiệp đầy rẫy, các xí nghiệp trong tay bọn Pháp bị đình đốn từ ngày Nhật đảo chính tháng 3 năm 1945 vẫn chưa được phục hồi sản xuất. Các cửa biển đều bị phong tỏa. Thương mại ngừng trệ. Nhà ngân hàng Đông Dương ta không chiếm được, cho nên tiền tệ rất gay go. Bọn Tưởng lại tung tiền Quan kim ra làm cho giá cả thị trường ta không ổn định. Ngân quỹ quốc gia hoàn toàn trống rỗng, chỉ có mấy trăm bạc giấy nát.

Phải tìm đủ mọi cách, với ý chí, tài năng để giữ vững thành quả cách mạng, hoặc là sụp đổ, không còn gì hết. Lịch sử đặt ra cho chúng ta một sự lựa chọn hết sức khắc nghiệt. Tuy nhên, Đảng ta, nhân dân ta đã quyết định chọn con đường thứ nhất: bằng mọi cách, phải gữ vững chính quyền cách mạng! Chỉ thị của Trung ương ta ngày 25 tháng 1 năm 1945 đã nói rõ điều ấy: “Cuộc cách mạng đang tiếp diễn, chưa hoàn thành vì chưa được độc lập hoàn toàn. Nhiệm vụ cứu nước của giai cấp vô sản chưa xong. Giai cấp vô sản và Đảng ta vẫn phải hăng hái kiên quyết hoàn thành nhiệm vụ thiêng liêng ấy. Khẩu hiệu vẫn là: Dân tộc trên hết! Tổ quốc trên hết”.

Bác và Trung ương đã tải qua những ngày làm việc cực kì căng thẳng, vạch ra mọi đường lối, sách lược để điều khiến con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua bão táp (cho đến sau này, tôi được nghe nói: Bác chưa bao giờ phải đau đầu như trong những ngày gay go, đen tối ấy).

Trên đường trở về Tuyên Quang, với trách nhiệm của Xứ ủy giao cho phụ trách cả mấy tỉnh phía tây Bắc Bộ, dọc theo sông Lô, sông Thao, đầu óc tôi tràn ngập những lo lắng, suy nghĩ về công việc mai sau, không riêng của địa phương chúng tôi, mà có cả số phận chung của đất nước. Tôi bỗng nhớ lại câu nói của Lênin: “Bắt đầu cuộc cách mạng thì quả có dễ hơn nhiều, nhưng ở nước ta việc tiếp tục cách mạng lại còn khó khăn hơn… Từ thời kì tiến quân thắng lợi, chúng ta phải chuyển sang một thời kì mà tình hình rất mực khó khăn, gian khổ…”.

Tôi lại được trở về đất Tuyên Quang và những tỉnh quen thuộc cũ. Thuận lợi kể cũng nhiều, nhưng tôi cũng biết rằng bắt đầu từ nay cách mạng đã chuyển sang một giai đoạn mới cao hơn, do đó nhất định chúng tôi còn phải vượt nhiều khó khăn, nhiều trở lực to lớn hơn trước.

Các tỉnh mà tôi về công tác giặc Pháp chưa trở lại, nhưng quân Tưởng, bọn Việt Nam Quốc dân đảng phản loạn cùng lũ thổ phỉ ô hợp dang quấy nhiễu suốt dọc con đường sắt Lào Cai - Hà Nội và ở nhiều vùng núi mà cơ sở của ta chưa vững hoặc chưa có. Tôi dược tin bọn phản động chiếm mất Hoàng Su Phì, bọn Quản Lộc phản bội đã đánh chiếm mất vùng Phố Ràng trên triền sông Chảy… Những đơn vị của ta đang phải chiến đấu liên miên trong những điều kiện vô cùng gian khổ. Hầu như không có mấy đơn vị được nghỉ nghơi lấy một ngày kể từ sau cuộc Tổng khởi nghĩa.

Trở về Tuyên Quang, tôi không được gặp lại nhiều đồng chí đã cùng gối đất nằm sương trước ngày khởi nghĩa. Các đồng chí Môn, Phóng, Hồng Thái… hầu hết đã ra mặt trận, người đang phải đối phó với quân Tưởng Giới Thạch, người đang lăn lộn tiễu phỉ trong rừng sâu, người đang nghiến răng lại để đè bẹp và quét sạch các đảng phái phản động. Nhiều anh em tự vệ công nhân mỏ than, thanh niên thị xã… trong đội ngũ khởi nghĩa khi trước nay không còn ở đây nữa. Anh em đã trở thành những người chiến sĩ Vệ quốc quân và đang cùng nhau chiến đấu không ngừng để giữ gìn thành quả của cách mạng.

Chúng tôi bắt tay ngay vào việc. Nhiệm vụ trước mắt là phải làm sao nhanh chóng ổn định tình hình. Mối nguy cơ to lớn hơn hết đang đặt ra trước mắt dân tộc ta là bọn đế quốc Pháp.

Trong lời kêu gọi nhân dịp Quốc khánh 2 tháng 9 của Chính phủ đã câu: “Trong lúc này, tâm trí mỗi người đều phải hướng về sự chiến đấu cho nền độc lập. Sự lo lắng của mỗi người phải là một sự lo lắng chống ngại xâm, chỉ có thế mới thoát được họa diệt vong, mới tránh được ách nô lê”(1).

Câu nói ấy đã phản ánh đúng tâm tư của mỗi người đảng viên, cán bộ cũng như của toàn dân ta trong những ngày gay gắt không sao quên ấy.


(1) Lời kêu gọi của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, ngày 2 tháng 9 năm 1945.


Tiêu đề: Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng - Thượng tướng Song Hào
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Bảy, 2010, 08:25:19 am
PHẦN HAI

I

Cuộc tiễu trừ bọn phản loạn và thổ phỉ đã kéo dài liên miên, hết tháng này qua tháng khác, vẫn chưa kết thúc, trong lúc nhiều sự kiện lớn lao đã dồn dập xảy ra ở Thủ đô, trong Nam Bộ, trên biên giới Việt - Lào.

Chính quyền của ta vừa mới giành được, còn đang ở trong thời kì trứng nước, nhưng biết bao nhiêu nguy cơ đã đổ tới.

Mười bảy vạn quân Anh - Ấn (có quân Pháp núp đằng sau) tiến vào Nam Bộ. Ở miền Bắc, hai mươi vạn quân Tưởng ồ ạt kéo vào Hà Nội và các đô thị lớn, dắt theo cả một bầy phản cách mạng (Đại Việt, Phục quốc, Quốc dân đảng…). Đế quốc câu kết với đế quốc, Việt gian phản động cấu kết với đế quốc… tất cả bọn chúng như những bầy thú dữ chỉ lăm le nhai sống nuốt tươi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa còn quá đỗi non trẻ của chúng ta.

Tháng 2 năm 1945 bọn Tưởng trắng trợn đòi Chính phủ ta phải cải tổ và để cho bọn phản động Việt Nam Quốc dân đảng nắm quyền lãnh đạo.

Tháng 2 năm 1946, quân Tưởng nhường chỗ cho quân Pháp trở lại Đông Dương với du kích Pháp nhả cho quân Tưởng một số quyền lợi vè kinh tế.

Trước những âm mưu cực kì nguy hiểm của bọn đế quốc và bè lũ tay sai, Đảng ta - đứng đầu là Hồ Chủ tịch đã có những sách lược hết sức sáng suốt, mềm dẻo để hòa hoãn tình hình, tiến tới làm thất bại mọi thủ đoạn thâm độc của kẻ thù.

Tháng 5 năm 1946, năm vạn quân Pháp tiến vào Việt Nam với chiêu bài thay quân Tưởng, làm nhiệm vụ của đồng minh giải giáp quân đội Nhật.

Nhưng nhân dân ta đã thừa biết dã tâm của cúng. Tháng 9 năm 1945, tên Mác A-tơ- tổng chỉ huy quân đội Mỹ ở Thái Bình Dương đã nói với tên Lơ-cơ-léc - tư lệnh thiết giáp của Pháp: “Tôi chỉ có một lời khuyên ông là mang quân đội sang Đông Dương nhiều hơn nữa, mang tất cả quân đội mà ông có”. Chúng ta cũng đã biết ngay đến tháng 8 năm 1945, tướng Đờ Gôn đã phái sang Đông Dương trong lúc chúng ta đang làm Tổng khởi nghĩa một số đơn vị do Lơ-cơ-léc chỉ huy và đã chỉ định tên đô đốc Đác-găng-li-ơ làm cao ủy kiêm tổng chỉ huy hải lục không quân Pháp ở Viễn Đông, vói nhiệm vụ phải mau chóng đặt lại ách thống trị của Pháp trên đất nước ta.

Tháng 7 năm 1946, quả như dự đoán của Bác và Trung ương: quân Pháp bắt đầu trở mặt. Viên tướng A-lếch-xăng-đơ-ri đem 5.000 quân chạy Nhật hồi tháng 3 năm1945 bắt đầu quay trở lại chiếm Lai Châu. Tháng 8 năm 1946, từ Lai Châu, bọn Pháp đánh rộng ra và nhanh chóng cướp lấy Phong Thổ, một huyện rộng mênh mông, hiểm trở nằm giáp biên giới Viêt - Trung, nơi địa đầu của Tổ quốc ta ở phía bắc.

Trước tất cả các sự kiện ấy, ruột gan chúng tôi cang như có lửa cháy. Công cuộc tiễu phạt bọn phản loạn, thổ phỉ càng được đẩy mạnh. Cúng tôi biết, nếu không mau chóng quét sạch được những bọn sâu độc này sẽ không tài nào rảnh tay để kịp chuẩn bị chóng Pháp. Đã có những lúc hầu như cả cơ quan rỗng không. Các cán bộ đều được tung hết xuống các địa phương, các mặt trận.

Một điều đáng mừng là tới tháng 9 năm 1946, về cơ bản, bọn phản loạn và thổ phỉ đều bị tiêu diệt hoặc bị đánh tan rã hoàn toàn. Tất cả các thị trấn, làng bản bị chúng chiếm cứ trước đây đã được thu hồi lại. Cờ đỏ sao vàng, hạnh phúc, tự do lại mọc lên trên những mảnh đất đau hương, gian khổ ấy. Những đơn vị bộ đội của ta cho tới lúc đó mới được nghỉ ngơi để củng cố. Có những đơn vị tiễu phỉ từ những vùng núi xa xôi khi trở ra tới vùng đồng bằng trên bờ sông Hồng, mỗi đồng chí chỉ còn trên người độc một bộ quần áo vá. Mặt nũi người náo cũng võ vàng, râu, tóc bù xù… Riêng những đơn vị đánh bọn đản phái phản động dọc đường xe lửa đỡ gian khổ hơn, nhưng nỗi mệt nhóc cũng chẳng kém gì.

Tuy nói là “được nghỉ ngơi”, nhưng thực ra các chiến sĩ của ta cũng không còn đủ thì giờ để thở nữa. Bầu không khí của Tổ quốc hầu như đã sặc mùi thuốc súng. Ngay từ tháng 11 năm 1946 người ta đã thấy đồng bào từ các đô thị lớn Hải Phòng, Nam Định, Hà Nội kéo nhau tản cư lên các tỉnh miền ngược. Các thị xã Phú Thọ, Tuyên Quang, Yên Bái, Lào Cai… mỗi ngày một thêm tấp nập. Đồng bào ở Hà Nội lên mang theo cả những phong cách, màu sắc của thủ đô làm cho những thị xã nhỏ bé xa xôi này có thêm những cía gì khác lạ, tưoi vui hơn lên. Nhưng đồng thời những gia đình tản cư ấy cũng mang theo cả những nõi băn khoăn, lo âu về thơi cuộc trước mắt và đời sống mai sau… Chiến tranh chưa bùng nổ bằng tiếng súng, nhưng đã làm cho ngươi ta xao xuyến bằng tất những dấu hiệu đổi thay, xáo trộn trong đời sống. Nhưng rồi mọi người đều chung một ý nghĩ: phải bình tĩnh, phải quyết tâm chống giặc, cứu nước, bảo vệ Tổ quốc.


Tiêu đề: Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng - Thượng tướng Song Hào
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Bảy, 2010, 08:28:11 am
Trong thời kì ấy, chúng tôi nhận được chỉ thị của Đảng về chuẩn bị chiến đấu rất đều dặn.

Đêm 19 tháng 12 năm 1946, giặc Pháp trở mặt, nổ súng tiến công đánh chiếm Hà Nội. cuộc kháng chiến toàn quốc của chúng ta bắt đầu bùng nổ. Ở tuyên Quang, xẩm tối hôm đó, chúng tôi nhậ được bức điện cuối cùng từ Hà Nội đánh lên: “Giặc Pháp đã hạ tối hậu thư đòi tước khí giới của quân đội, tự vệ, công an ta. Chính phủ đã bác bỏ bức tối hậu thư ấy. Như vậy, chỉ trong vòng 24 giờ là cùng, chắc chắn giặc Pháp sẽ nổ súng. Chỉ thị của Trung ương: Tất cả hãy sẵn sàng!...".

Tuy ở xa xôi, nhưng cơ hồ chúng tôi đã nghe thấy tiếng súng từ Thủ đô lan truyền theo mặt sóng sông Hồng rẽ theo sông Lô vang vọng lên tới tận đây, làm chấn động cả lòng người.

Cuộc kháng chiến đã bắt đầu! Tất cả mội công việc ở địa phương chúng tôi (và có lẽ cũng như ở nhiều nơi khác) đều hãy còn dang dở, từ việc xây dựng một chính quyền mới thực sự dân chủ, tới việc thực hiện một đời sống no đủ, tự do, một “đời sống mới” văn minh, tiến bộ khác xưa… Tất cả chỉ mới ở bước đầu triển khai. Nay một công việc vô cùng to lớn, một trách nhiệm hết sức nạng nề đã ập tới: Chiến đấu chống đế quốc xâm lược Pháp! Làm sao đây? Làm thế nào đây để vẫn có thể tiếp tục mọi công việc hãy còn dở dang này mà vẫn tập trung được sức lực vào công việc chuẩn bị chiến đấu, và chiến đấu sắp tới? Câu trả lời của tất cả những vấn đề ấy, chúng tôi biết chỉ có thể tìm thấy trong một “cẩm nang” duy nhất, đó là đường lối của Đảng.

Sau ngày kháng chiến toàn quốc bùng nổ, theo chỉ thị của Trung ương, các tỉnh miền tây Bắc Bộ được chia làm hai chiến khu để tiện việc chỉ huy tác chiến. Chiến khu 14 gồm các tỉnh Sơn La, Lai Châu và các huyện Mai Đà (Hòa Bình), tây nam Phú Thọ. Chiến khu 10 gồm cac tỉnh Hà Giang, Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ, Vĩnh Yên, Tuyên Quang. Về khu 10 công tác, tôi có dịp gặp lại các đồng chí Bùi Quang Tạo, Tô Quang Đẩu, Vũ Dương… là những anh em quen biết cũ, đã cùng hoạt động với nhau từ lau, tình cảm rất chân thành, thắm thiết. Tham gia Bộ tư lệnh khu, làm chính ủy, lần đầu tiên tôi được gặp vào công tác với đồng chí Bằng Giang - Tư lệnh chiến khu, một đồng chí giàu nhiệt tình và nhiều nghị lực.

Những ngày đầu tiên xây dựng chiến khu 10, chúng tôi đã phải tiến hành cùng một lúc nhiều việc, nhiều mặt công tác khác nhau, nhiệm vụ rất nặng nề. Chúng tôi vừa phải tiếp tục xây dựng quân khu bộ, vừa phải tiếp tục chấn chỉnh các trung đoàn, vừa phải lo quét nốt những tàn dư của thổ phỉ ở Hà Giang, vừa phải lo đối phó ở mặt trận phía tây. Giặc Pháp từ Lai Châu đã lấn chiếm Sơn La, nhảy dù xuống Mộc Châu và đã tiến ra gần tới Nghĩa Lộ, đất của Yên Bái bên kia sông Hồng.

Các đơn vị vũ trang của mấy tỉnh Lào Cai, Hà Giang, Tuyên Quang, Phú Thọ nay đã trở thành bộ đội khu và đã được tập trung, xây dựng thành những trung đoàn ngay từ sau ngày khởi nghĩa. Trải qua các trận đánh bọn Quốc dân đảng phản động, thổ phỉ, trình độ chiến đấu của anh em đều có tiến bộ, nhưng nói cho đúng ra vẫn chưa được là bao, vì những đối tượng tác chiến của ta hồi đó đều quá nhỏ, yếu.

Cho tới bay giờ sự thiếu thốn vũ khí, trang bị vẫn còn là vấn đề chưa giải quyết được trong nhiều đơn vị. Nhưng điều nghiêm trọng hơn cả là trình độ chính trị của cán bộ và chiến sĩ vẫn chưa được nâng lên cho kịp với yêu cầu của tình hình mới. Các trung đoàn vì quân số đông, chưa được chọn lọc, giáo dục kĩ, nên chưa có được phẩm chất chính trị vững vàng giống như các đội Cứu quốc quân và Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân khi trước. Các chiến sĩ phần đông mới chỉ được giáo dục về 10 lời thề và chương trình Việt Minh. Tình hình cán bộ cũng tương tự như vậy. Bộ tư lệnh Liên khu đều nhất trí nhận định rằng: cán bộ ta tinh thần dũng cảm, dám hi sinh, chịu đựng… thì không thiếu nhưng còn thiếu nhiều về mưu trí và kinh nghiệm, hơn nữa, trình độ giác ngộ về giai cấp lại non yếu. Bới thế, nhìn chung tư tưởng, tác phong của cán bộ chỉ huy các đơn vị có nhiều mặt tốt, nhưng cũng con nhiều mặt yếu. Hiện tượng quan liêu, quân phiệt không phải là không phổ biến ở nhiêu đơn vị. Ngay khi mới về Liên khu nhận công tác, tôi đã được nghe không ít lời phản ánh, phàn nàn về lối sống, tác phong của một số cán bộ chỉ huy ở Lào Cai và Yên Bái. Ngoài ra còn có những việc làm sai, những hành động xấu, không đúng, không hợp với bản chất của quân đội nhân dân. Đó là một số anh em ở một số đơn vị trong hàng hàng ngũ quân phan động được quân đội ta giác ngộ đã trở về với cách mạng, nhưng hiểu biết của họ chưa dầy đủ nên có những việc làm không đúng với bản chất quân đội cách mạng. Những anh em và tập thể ấy đã mặc nhiên trở thành cấc cán bộ, chiến sĩ, đơn vị trong các trung đoàn của Liên khu mà chưa hề được giáo dục kĩ lưỡng để tẩy trừ những tư tưởng xấu do bọn phản loạn trước đây đã nhồi nhét, lừa bịp…

Vấn đề giáo dục chính trị, rèn luyện tác phong của quân đội ta dã trở thành một vấn đề rất lớn đặt ra trước mắt quân khu chúng tôi ngay trong những buỏi đầu bề bộn ấy.


Tiêu đề: Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng - Thượng tướng Song Hào
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Bảy, 2010, 08:28:53 am
Vấn đề thứ hai mà chúng tôi cũng lo lắng không kém là tình hình chính trị ở các vùng núi trong quân khu chưa thật ổn định. Mặc dầu bọn thổ phỉ công khai đã bị dẹp tan hoặc tiêu diệt, nhưng tàn dư của chúng vẫn chưa phải đã hết. Hơn nữa, cơ sở của ta ở những nơi đó vẫn chưa được xây dựng tốt. Hầu như ở các vùng núi, các thổ ty vẫn nắm quyền thống trị quần chúng như xưa. Bọn họ vẫn xưng hùng, xưng bá, bề ngoài có vẻ quy thuận Chính phỉ cách mạng, nhưng bên trong vẫn chống lại ngấm ngầm, phục xuống để đợi chờ cơ hội nổi dậy. ở Bác Hà có Hoàng A Tưởng, ở Hà Gaing có Vương Chí Sình, ở Si Ma Cai có Hoàng La Ú, ở Đà Bác có Đinh Công Phủ… những lãnh chúa ấy đã sinh sống cực kì xa hoa và tàn nhẫn. Họ có nhà lầu, có nô lệ, có gái hầu hàng chục, hàng trăm người. Họ có quân đội riêng, thậm chí có nơi có những dinh cơ xây dựng kiên cố phảng phất như những pháo đài thời trung cổ ở chau Âu. Chúng tôi biết ở những vùng núi này, cơ sở xã hội, chính trị của thực dân Pháp còn khá mạnh và đó là những mầm tai họa mai sau. Ở một số tỉnh, ta cũng đã có những chủ trương, sách lược để tranh thủ những tầng lớp trên, nhưng đều chưa có kết quả tốt, bời vì có nơi đã áp dụng những sách lược hữu khuynh hoặc có hành động không đúng.

Mùa xuân năm 1947 trôi qua trên khu 10 nói chung tương đối yên tĩnh. Tiếng súng vẫn còn khá xa trung tâm của khu, trừ một số trận đánh lẻ tẻ ở mãi bên Than Uyên, Khau Cọ, phía tây quân khu, nằm sâu trong vùng núi rừng của Tây Bắc. Trong các thị xã, thị trấn, nhất là ở Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai, cuộc sống của nhân dân vẫn còn rất thái bình, vui vẻ. Ý thức cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu do đó còn sơ sài. Chỉ thị phá hoại, sơ tán của khu ủy, quân khu ủy cũng chưa được chấp hành đầy đủ. Ở Phú Thọ, tới tháng tư mới chỉ có một số nhà hai tầng được đánh sập. Nhân dân đã sơ tán được ít lâu, lại lục túc kéo về, có phần đông đảo hơn trước. Các tiệm cà phê, rạp hát lại nhộn nhịp kẻ ra, người vào. Chỉ ở nông thôn, vùng đồng bằng của quân khu, ý thức chuẩn bị chiến đấu mới được hể hiện rõ nét hơn. Thanh niên rậm rịch đi tòng quân. Các làng xóm, một mặt tiếp tục sản xuất, một mặt đã biết lo trước việc cất giấu thóc lúa, trâu bò.

Trong khi tình hình còn đang như vậy thì trung tuần tháng tư địch đã nhảy dù bất ngờ xuống thị xã Phú Thọ, ngay giữa trung tâm hậu phương”đại an toàn” của quân khu. Quân Pháp nhảy xuống trong lúc đơn vị bộ đội đóng trong thị xã cũng như nhân dân vẫn chưa có dự kiến, chưa có kinh nghiệm đối phó với những thủ đoạn mới của dịch.

Cuộc nhảy dù này nhằm để gây ảnh hướng chính trị, phá cơ sở, kho tàng và tiêu diệt một số lực lượng vũ trang của ta, đồng thời cũng để thực tập chiến thuật đổ bộ đường không, chuẩn bị cho cuộc đại tấn công Việt Bắc trong thu đông sắp tới.

Cuộc nhảy dù ở thị xã Phú Thọ của bọn Pháp đã tiến hành song song với một cuộc đổ bộ đường thủy lên Việt Trì.

Khu ủy và Bộ tư lệnh quân khu 10 lúc ấy đã chủ trương phải đánh địch cả hai nơi, cố nhiên phải tập trung lực lượng để tiêu diệt địch ở Phú Thọ, quyết không cho hai đơn vị của chúng bắt liên lạc với nhau.

Những trận tập kích vào thị xã đã diễn ra liên tiếp. Tuy kết quả chưa được là bao nhưng đã làm cho quân địch mất ăn mất ngủ. Và sau đó ba ngày, biết không thể liên lạc với bọn ở Việt Trì được, bọn ở Phú Thọ xuống xuồng máy rút chạy.

Cuộc chiến đấu ấy dã nổ ra đột ngột và cũng chấm dứt đột ngột. Mọi viêc diễn ra quá mau lẹ. Dẫu sao đây cũng là một dịp làm thưc tỉnh những người còn quá nặng đầu óc chủ quan “thái bình vô sự” và đem lại cho tất cả chúng tôi, từ Khu ủy, Bộ tư lệnh quân khu cho tới từng đảng viên, chiến sĩ và người dân thương một số bài học rát sốt dẻo về chiến đấu với quân thù, nhất là về mặt chỉ huy tác chiến.

Không còn phải thúc giục nhiều, ngay sau đó, mọi mặt công tác chuẩn bị chiến đấu của quân khu đã được tất cả các tỉnh, các cấp ráo riết đẩy mạnh với một tinh thần hoàn toàn khác trước. Thêm nhiều bãi trống được cắm chông để chống quân nhảy dù. Thêm nhiều đường giao thông quan trọng được phá hoại triệt để. Cac cầu cống lớn đều bị đánh sập. Việc tản cư đã được thực hiện rất nhanh trong tất cả các đô thị lớn nhỏ. Tiếp đó là việc tiêu thổ được tiếp tục hoàn thành, việc làm vườn không nhà trống ở các vùng nông thôn được xúc tiến. Khẩu hiệu “Phá tan cuộc tấn công thu đông của giặc Pháp” được nêu lên khắp mọi nơi.


Tiêu đề: Re: Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng - Thượng tướng Song Hào
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Bảy, 2010, 08:29:34 am
II

Để chuẩn bị cho những cuộc chiến đấu lớn nhất định sẽ xảy ra trong thu đông (1947), Khu ủy khu 10 và Quân khu ủy, Bộ tư lệnh quân khu đã họp bàn nhiều lần để vạch ra phương hướng lãnh đạo về mọi mặt chính trị, quân sự… Đứng trên phạm vi của địa phương mình, chúng tôi đã xác định: Hướng tấn công chính của địch sẽ là sông Lô!

Sông Lô, dòng sông xanh tuyệt đẹp ấy sẽ không những là con đường giao thông kinh tế phồn thình mà còn là một con đường chiến lược rất quan trọng. Nếu chiếm được sông Lô và kiểm soát được đường quốc lộ số 2, địch sẽ chia cắt dược căn cứ địa Việt Bắc của ta, đồng thời tạo thành một thế uy hiếp đối với mấy tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang, Phú Thọ, Thái Nguyên… Nếu chiếm được sông Lô, địch sẽ còn chiếm được cả một vùng phì nhiêu, một kho người, kho của.

Ngày 4 tháng 10 năm 1947, Khu ủy khu 10 và Bộ tư lệnh quân khu lại họp một lần nữa ở một địa điểm tại Phan Lương, gần bờ sông Lô để kiểm tra lại việc thực hiện các nghị quyết của Hội nghị cán bộ Trung ương lần thứ II, nghị quyết của Hội nghị quân sự toàn quốc lần thứ IV và bàn việc đẩy mạnh công việc chuẩn bị chiến đấu trong toàn khu lên một bước nữa. Các đồng chí bên khu ủy: Bùi Quang Tạo, bí thư, Vũ Dương, Bùi Đức Minh… cũng có mắt trong cuộc họp.

Sau cuộc hội nghị này, không khí chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu ngày càng sôi nổi trong khắp quân khu, đặc biệt trong các đơn vị bộ đội, dân quân du kích ở dọc hai bên bờ sông Lô. Cơ quan của quân khu bộ đã được chia ra làm hai bộ phận. bộ phận nặng gồm các kho quân nhu, nhà in… được chuyển vào tận rừng sâu. Bộ phận nhẹ chỉ gồm 20 người, kể cả Bộ tư lệnh, sẵn sàng di chuyển theo mặt trận. Chúng tôi trang bị vũ khí cho tất cả nhân viên, cán bộ trong bộ phận này để có thể tự bảo vệ mình, giảm bớt quân số cảnh vệ, làm cho chỉ huy sở tiền phương càng nhẹ, càng gọn được bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Bên khu ủy cũng tổ chức là cơ quan tương tự như vậy. Tất cả các bộ phận cồng kềnh, nặng nề của bên đó dũng đều đưa vào khu an toàn. Các đồng chí khu ủy viên được phân xuống các địa phương để trực tiếp chỉ đạo công tác chiến đấu. Riêng Ban thường vụ của khu ủy thì sang ở liền với bộ phận tiền phương của Bộ chỉ huy quân khu để tiện gặp gỡ, trao đổi ý kiến, chỉ đạo mọi mặt chiến đấu cho kịp thời.

Gần như trái ngược nhau, thời tiết mỗi ngày một lạnh thêm, nhưng tinh thần sẵn sàng chiến đấu của quân dân trong quân khu lại càng như nóng hơn lên. Đồng chí Bằng Giang ngày đêm cùng với các cán bộ trong cơ quan tham mưu đi nghiên cứu thực địa trên suốt một rẻo từ Việt Trì lên tới Đoan Hùng, Bình Ca, Chiêm Hóa để lập những phương án tác chiến. Cơ quan chính trị cũng không kém phần sôi nổi bận rộn. Các phái viên kiểm tra tới tấp đi đi về về, báo cáo tình hình, phổ biến chỉ thị của khu ủy, quân khu ủy xuống tới các đơn vị địa phương xa gần…

Khắp mọi nơi nhộp nhịp, tăng cường đào hào, đắp ụ, xây dựng, kho tàng bí mật, rào làng, cắm chông, tuần tra canh gác… Một công trình lớn làm chướng ngại vật đã được tiến hành rầm rộ ở Sóc Đăng. Đó là công trình đắp kè ngăn sông để cản tàu chiến giặc. Áp dụng kinh nghiệm của ông cha ta khi xưa cắm cọc trên sông Bạch Đằng, quân dân khu 10 đã nô nức kéo nhau đi gánh đá, gánh đất, đóng cọc trên sông Lộ, dựng lên một bức tường ngầm, cao gần sát mặt nước. Cơ quan tham mưu của quân khu đã có nhiều sáng kiến và cố gắng trong việc này. Nơi được chọn để đắp kè là một eo sông tương đối hẹp, thắt cổ bồng giữa hai quả núi lớn. Nói sao cho hết quang cảnh nhộn nhịp, tưng bừng, hăng hái trên cái công trường quốc phòng đặc biệt ấy. Nhân dân, bộ đội đông tới hàng nghìn. Người gánh, người cuốc, anh đội, chị khiêng. Từng đoàn thuyền được tập trung, néo lũi lại với nhau, thả neo ghìm đứng giữa dòng sông. Những chàng trai mình trần lực lưỡng, những cụ già quắc thước, gân cốt vẫn còn săn, vừa hò, vừa hát, sát vai cùng các chiến sĩ quân đội nện vồ, lao cọc… Trên hai bên bờ, cờ bay đỏ rực, thiếu niên, nhi đồng gõ trống hò reo, cổ vũ. Làm ngày không xong, đốt đuốc làm cả đêm… Tôi nghĩ bản anh hùng ca bất hủ của sông Lô có lẽ đã bắt đầu không phải chỉ từ những trận diệt tàu chiến địch ở Khoan Bộ, Đoan Hùng, Khe Lau… mà nó đã bắt đầu ngay từ eo sông Sóc Đăng với cái kè ngầm dưới mặt sông này.

Trong khi ác công việc lớn nhỏ đang được xúc tiến khẩn trương, bộ chỉ huy quân khu chúng tôi cũng phân công nhau đi tăm một số đơn vị để kiểm tra tình hình về mọi mặt chuẩn bị tác chiến. Tôi nhớ mãi hôm xuống thăm một đại đội pháo binh, đại đội hỏa lực lớn nhất đầu tiên của quân khu. Các chiến sĩ pháo thủ đều to, khỏe, tinh thần rất hăng hái. Suốt ngày anh em hì hục lau chùi, sửa chữa những khẩu pháo yêu quý mà anh em đã đặt cho cái tên thật đẹp: “Voi gầm”. Những con “Voi gầm” ấy chỉ là những khẩu pháo đã quá cổ lỗ, cũ kĩ, sản xuất từ đầu thế kỉ 20. Khẩu nào cũng dều có tật bệnh; khẩu thiếu thứ này, khẩu thiếu thứ khác; khẩu có máy ngắm, khẩu không. Tuy nhiên thứ tất cả những khẩu pháo ấy đều có những lịch sử vẻ vang. Có khẩu đã chiến đấu ở pháo đài Láng (Hà Nội), bắn những phát đạn đầu tiên vào thành Cột Cờ, nơi giặc Pháp chiếm đóng trong những ngày đầu kháng chiến. có khẩu pháo đã từng chiến đấu ở pháo đài Hương Canh, bắn vào bọn phản loạn Việt Nam Quốc dân đảng. Có khẩu đã từng chiến đấu ở Hải Phòng trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc.

Đại đội pháo binh ấy cũng như các đơn vị pháo binh khác của quân khu đều là những đơn vị pháo binh đầu lòng củaquân đội ta, đã được Bộ điều độn về khu 10 để chiến đấu. Đứng nhìn những khẩu pháo tuy đã cũ ki và còn rất ít ỏi tôi không khỏi hồi tưởng lại những khẩu súng khai hậu, những con dao rừng cổ lỗ, thô sơ của các đội Cứu quốc quân và Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân. Tôi ngồi kể lại cho anh em nghe về những ngày chiến đấu gian khổ trước. Các đồng chí pháo thủ cùng vui vẻ thốt lên: “Ngày ấy chỉ có dao rừng, súng kíp mà quân dân ta đã đánh bại được phát xít Nhật và đế quốc Pháp giành lấy chính quyền, vậy ngày nay đã có đại bác trong tay, nhất định chúng tôi phải đánh cho bọn chúng tơi bời, bảo về bằng được chính quyền và thành quả của cách mạng!”.


Tiêu đề: Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng - Thượng tướng Song Hào
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Bảy, 2010, 08:30:46 am
Thế rồi việc mà chúng ta chờ đợi đã đến. Tháng 10 năm 1947, cuộc đại tấn công của giặc Pháp lên Việt Bắc bắt đầu mở màn. Đêm mồng 7 tháng 10 năm 1947, chúng tôi nhận được bức điện tối khẩn của Trung ương Đảng gửi cho tất cả các Khu ủy, Quân khu ủy: “Mồng 7 tháng 10, Pháp nhảy dù chiếm Bắc Cạn, Chợ Mới, mưu tấn công Việt Bắc. Vậy Trung ương Đảng ra chỉ thị cho Khu ủy và các nơi chỉ huy, lãnh đạo bộ đội đánh mạnh để chia sẻ lực lượng địch và phá kế hoạch của chúng…”.

Ngay trong đêm ấy, lệnh báo động chiến đấu được phát ra trong toàn quân khu, chỉ huy sở cũng bắt đầu chuyển vị trí ra sát bờ sông.

Tối mồng 9 tháng 10 năm 1947, chúng tôi được tin tiếp: Địch đã nhảy dù Cao Bằng, đồng thời dùng bộ binh cơ giới tiến lên chiếm Thất Khê, Na Sầm… Cũng ngay trong ngày hôm ấy, chúng tôi được cấp báo: một thủy đội gồm 40 tàu dổ bộ và ca-nô đang ngược sông Hồng tiến lên phía Việt Trì - cửa ngõ khu 10.

Một mệnh lệnh của bộ Tổng chỉ huy dược gửi tới quân khu chúng tôi trong cùng ngày: “… Ta đã bắt được bản kế hoạch tấn công của địch - kế hoạch Lê-a. Như vậy ta đã dự đoán rất đúng âm mưu địch. Khu 10 có nhiệm vụ phải bẻ bằng được gọng kìm sông Lô để góp phần phá tan cuộc tấn công chiến lược của địch…”.

Ngày 10 tháng 10 năm 1947, tiếng súng bắt đầu nổ vang trên bến Việt Trì.

Tàu chiến dịch cặp bờ, quân đổ bộ ào ạt xông lên. Nhưng Việt Trì chỉ còn là một đống gạch vụn… Khu ủy, Quân khu ủy không chủ trương tổ chức phòng ngự giữ đất Việt Trì và cũng không tổ chức đánh phục kích lớn ở đó vì địa hình bốn bề trống trải, không ó lợi thế cho ta. Chúng tôi muốn để cho địch tiến vào sâu hơn nữa, chọn nơi có địa hình tốt để tiêu diệt địch dễ hơn.

Tạm bỏ Việt Trì, ấy là ý định chủ động của quân khu, nhưng khi nhân được những lời báo cáo về: Việt Trì đã bị quân địch chiếm giữ vẫn thấy có những sợi dây nào đó trong trái tim chúng tôi rung lên, nhức nhối.

Ngày 11 tháng 10 năm 1947, tàu chiến địch tiến về địa phận Sóc Đăng đã vâp phải kè ngầm. chúng dừng lại. Những tên chỉ huy địch hết sức kinh ngạc trước cái chướng ngại vật đặc biệt này.

Chúng phải dùng máy bay ném bom và trọng pháo bắn để phá võ một mảng chướng ngại cho thủy đội vượt qua. Nhưng công việc của chúng không phải dễ dàng và nhanh chóng. Tiếc rằng, do còn ấu trĩ về chỉ huy và ít kinh nghiệm chiến đấu, chúng tôi đã không biết bố trí một trận địa hỏa lực mạnh ngay tại đây, cho nên một cơ hội diệt địch rất tốt đã trôi qua mất.

Đoàn tàu của chúng tiến lên tới gần Đoan Hùng mới chạm phải trận địa pháo binh của quân ta. Những khẩu pháo ở đây lần đầu đánh tàu chiến trong chiến dịch đã không khỏi lúng túng, hơn nữa máy ngắm lại hỏng, các bộ phận khóa cơ bẩm lại quá cũ kĩ, cho nên chỉ mới bắn được dăm bảy phát đã bị hỏng hóc.

Đoàn tàu địch vẫn còn nguyên vẹn, tiếp tục rẽ sóng ầm ĩ, ngược tới Bình Ca. Tin ấy báo về chỉ huy sở làm cho tất cả chúng tôi đều bồn chồn, sốt ruột. Tại sao vậy? Tại sao pháo binh đã không làm tròn nhiệm vụ. Sau đó chúng tôi đã tìm ra lởi giài đáp: điểm chủ yếu là tư tưởng cán bộ, chiến sĩ pháo binh chưa thông suốt với phương châm tác chiến “Phải đặt gần, bắn thẳng” của quân khu đã đề ra. Các đồng chí pháo binh vẫn còn lo dịch đổ bộ xông lên cướp mất pháo. Chúng tôi bèn nói với cơ quan tham mưu, chính trị hỏa tốc cho người vượt lên Bình Ca để phổ biến kinh nghiệm thất bại của trận địa pháo binh dưới Đoan Hùng.

Nhưng không kịp! Đoàn tàu địch lại vượt qua trước mũi súng của trận địa pháo binh Bình Ca hoàn toàn vô sự. Khi các cán bộ chính trị, tham mưu của quân khu lên tới nơi chỉ còn thấy những chiến sĩ pháo thủ của chúng ta gần như ứa nước mắt căm hờn, đứng lặng yên bên những khẩu pháo. Phía trước mặt họ, dòng sông Lô vẫn trải ra phẳng lặng và phía xa xa tàu chiến địch vẫn ì ì nổ máy, tiếng súng lớn nhỏ của chúng đang bắn lên hai bên bờ vọng lại nghe như xé ruột.

Cũng ngay tsau đó, một tin chiến thắng - tin chiến thắng đầu tiên trong chiến dịch đã được đưa về làm nhộn nhịp cả chỉ huy sở. Quân Pháp lên tới Bình Ca, chúng tổ chức cho một bộ phận đổ bộ. Một đơn vị bộ binh của ta phục sẵn ở đó đã nổ súng, xung phong. Chỉ với lưới lê búp đa, mã tấu, quân ta đã tiêu diệt một trung đội dịch. Những chiến sĩ của chúng ta đã chiến đấu với một tinh thần cực kì gan dạ, táo bạo. Đồng chí trung đội trưởng đã dẫn đầu trung đội từ trên thành vại nhảy bổ xuống đầu bọn địch. Trong giây phút đầu tiên, đồng chí đã bắn gục một tên sĩ quan, tước được một khẩu súng sáu.

Còn có co hội nào tốt hơn để động viên tinh thần để lập công trên toàn mặt trận hơn cơ hội này? Tin chiến thắng Bình Ca được nhanh chóng loan truyền khắp nơi đã làm cho vả các đơn vị từ chủ lực tới dân quân, từ bộ binh tới pháo binh, công binh đều nức lòng và tin rằng: Ta có đủ mưu trí và sức mạnh để đánh thắng giặc! Khu ủy, bộ chỉ huy quân khu đã khẳng định: Chiến thắng Bình Ca sẽ mở đầu cho một loạt những chiến thắng của mặt trận. Chiến thắng Bình ca đã báo hiệu sự chuyển biến mới về tình hình chiến cuộc. Quân Pháp không còn có thể bình yên vô sự tiến vào khu 10 như vào đất không người nữa.

Chúng tôi cho di chuyển ngay chỉ huy sở lên phía Tuyên Quang. Cũng từ đó, mặt trận chuyển tới đâu, chỉ huy sở của Khu ủy, quân khu cũng chuyển ngay tới đó, bám sát biến chuyển để kịp thời chỉ đạo, chỉ huy trong tất cả quá trình diễn biến chiến dịch.


Tiêu đề: Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng - Thượng tướng Song Hào
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Bảy, 2010, 08:31:09 am
*
*   *

Trên đường di chuyển chỉ huy sở, chúng tôi đã có dịp tiếp súc với nhân dân ở nhiều nơi. Tất cả những con đường mà chúng tôi đi tới chiến sự cũng vừa mới tràn qua và còn để lại những dấu vết tàn phá. Nơi này một xóm nhà bị đại bác địch từ tàu chiến bắn lên đốt trụi. Nơi kia một dãy phố nhỏ bị bom phá hủy. Những hố lớn hìn miệng phễu rải rác khắp dọc đường. Từ hàng cây lớn bị lật lốc đổ nghiêng. Từng bức tường vôi chi chít vết đạn súng máy. Quãng đường lại thấy một con trâu bị máy bay bắn chết, gục bên bờ ruộng hoặc trên một sườn đồi. Lau sậy bên bờ sông cháy sém từng vệt dài hàng trăm, hàng nghìn mét. Trên dòng gông Lô, mũ sắt… của địch trôi lềnh bềnh. Thỉnh thoảng lại thấy một xác lính Lê Dương, hoặc lính ngụy lập lờ trên mặt nước. Không khí nồng nặc mùi thuốc súng, mùi lá tươi và mùi thịt cháy khét lợm.

Nhưng giữa quang cảnh tàn phá ấy, một không khí lạc quan, tin tưởng, hăng say chiến đấu vẫn lan tràn mạnh mẽ. Từng đơn vị bộ binh chủ lực hăm hở hành quân, di chuyển đế đón đường, tìm địch mà đánh. Từng đơn vị dân quân du kích nai nịt gọn gàng tới tấp đi đánh mìn, rào làng, đắp ụ, phá đường, cắm chông. Các đồng chí giao thông liên lạc của bộ đội, dân quân, các anh chị em bưu điện… đi lại ngược xuôi tấp nập. Trong các làng xóm chưa bị bom đạn tàn phá, đồng bào gấp rút, sôi nổi di chuyển, làm vườn không nhà trống. Khi đi qua một xóm lẻ bên đường, chúng tôi gặp một gia đình đã chuyển hết quang gánh đồ đạc ra đường, ông cụ chủ nhà cầm một khúc gỗ lớn quay vào sân, đến trước hai cái chum dưới gốc cau, dang thẳng tay đập mạnh. Hai cáichum vỡ tan ra từng mảnh. Khi trở ra gặp chúng tôi, ông cụ với vẻ mặt vừa căm hờn vừa đau đớn nói: “Không mang đi được, đập vỡ, các anh ạ! Không để cho thằng Tây lấy được một cái bát mẻ!”. Qua một khu rừng khác, chúng tôi gặp một đám đông nhân dân đang vây quanh một ông già bị thương và ba thanh niên đang vác mỗi người một hòm đạn. Ông cụ già bị đau lắm, giọng nói rất yếu ớt nhưng vẫn khảng khái: “Các anh cứ đi đi, mặc tôi. Đem đạn này đến cho các anh bộ đội…”. Hỏi ra mới biết bọn địch ở Đoan Hùng đổ bộ lên bắt được một số dân, trong đó có ông cụ và ba thanh niên này, chúng bắt mọi người phải vác đạn cho chúng. Nhưng ngay đêm ấy, bộ đôi ta tập kích vào phủ Đoan, ông cụ cùng ba thanh niên đã thừa cơ lúc địch hoảng hốt, rối loạn, vác cả đạn của chúng chạy trở về, mặc cho chúng bắn đuổi theo rất dữ.

Những cảnh tượng như vậy luôn diễn ra bên đường đã làm cho chúng tôi càng thêm tin tưởng ở tinh thần, ý chí của nhân dân, Đồng thời chúng tôi càng mừng thầm, thấy công tác tư tưởng của khu ủy và quân khu đã có nhiều kết quả cụ thể, khơi động được lòng căm thù và yêu nước, làm cho quần chúng có dũng khí lớn lao, không sợ hi sinh, không ngại gian khổ. Ai ai cũng quyết tâm và tin tưởng ở thắng lợi cuối cùng.


Tiêu đề: Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng - Thượng tướng Song Hào
Gửi bởi: macbupda trong 05 Tháng Bảy, 2010, 08:56:42 am
*
*   *

Khi tới thị xã Tuyên Quang, bọn địch chỉ còn biết trơ mắt nhìn những đống gach đổ nát. Ở đây, Bộ chỉ huy quân khu không chủ trương đánh lớn, chỉ dùng lực lượng nhỏ để tập kích quấy rối. Được Bộ Tổng tư lệnh cho biết chắc chắn địch sẽ còn tiếp tục đưa thêm quân từ Việt Trì lên và chúng còn lên tới tận Chiêm Hóa, Đại Thi để gặp gọng kìm Bô-phơ-rê bên đướng số 4, quặp lại theo đúng như kế hoạch Lê-a, bộ chỉ huy quân khu đã chủ trương tập trung lực lượng đánh những trận quyết liệt trên sông Lô, sông Gâm và trên con đường bộ từ Tuyên Quang ngược theo Chiêm Hóa.

Com-muy-nan - chỉ huy trưởng của gọng kìm sông Lô có lẽ cũng đã biết rằng từ nay trở đi, chúng sẽ gặp nhiều khó khăn hơn trước nên đã ra lệnh cho các đơn vị: Phải cẩn thận, đề phòng những trận phục kích lớn…”. Lực lượng chủ yếu của bộ phận thứ nhất từ Việt Trì lên vẫn đi theo đường thủy, trong khi đó có một cánh quân trắc vệ tiến song song trên bộ. Cả hai cánh quân này đã làm theo đúng mệnh lệnh của Com-muy-nan, cùng tiến lên khá dè dặt, thận trọng. Tuy nhiên, bọn chúng vẫn không có cách gì để có thể tránh khỏi những thất bại nặng nề, vì chúng phải đi theo một con đường nguy hiểm - con đường xâm lược - con đường chống lại cả dân tộc Việt Nam.

Cánh quân đường bộ do viên quan tư Pơ-ti chỉ huy - một tên chỉ huy quân đội nhà nghề giàu kinh nghiệm. Nhưng dù Pơ-ti xảo quyệt đến đâu, hắn vẫn bị lọt vào một trận phục kích rât tài tình, táo bạo của một đơn vị ta. Ngót một trung đội Lê Dương và một thiếu úy đã bị tiêu diệt ngay tại trận. Tàn quân Pơ-ti chạy tán loạn, một giờ sau chúng mới tập trung lại được trong không khí vẫn còn hết sức bàng hoàng. Ngót một trung đội địch bị diệt, số lượng đó chưa phải là nhiều lắm, nhưng cần phải đặt con số ấy trong thời gian áy, hoàn cảnh ấy mới hiểu được hết sự hoang mang của toán quân viễn chinh. Đã có những tên sĩ quan Pháp nghĩ rằng sang Việt Nam chẳng qua như đi du lịch, quá lắm cũng như một cuộc đi săn, hoặc tiến hành một vài cuộc hành binh có tính chất cảnh sát nhẹ nhàng vui vẻ nào đó.

Ngay sau trận này, Com-muy-nan vội phái một lực lượng thứ ba do Lơ Giốt-snơ chỉ huy từ Tuyên Quang tiến lên nhằm trợ lực cho Pơ-ti và lực lượng thủy đội vẫn đang tiến rất chậm chạp, chật vật trên dong sông Gâm quái ác, lắm thác, nhiều ghềnh.

Nhưng Lơ Giốt-snơ cũng không may mắn hơn Pơ-ti. Vừa mới thấp tấp kéo ra khỏi Tuyên Quang, tới cây số 7, Lơ Giốt-snơ- viên sĩ quan kiêu ngạo, nóng nảy ấy đã gặp ngay một chiếc cầu bị phá sập. Lơ Giốt-snơ bèn ra lệnh cho công binh sửa chữa. Cả đoàn quân chừng năm trăm tên ùn lại đúng chỗ địa lôi do các đồng chí tự vệ thành Tuyên cùng anh em bộ đội bố trí đợi sẵn. chúng đã ngồi trên một quả núi lửa… Ba quả bom lớn đã gầm lên biến thành ba quả cầu lửa… Hơn một trăm tên giặc bị tan xác trên một quãng đường dài không quá vài trăm mét. Lơ Giốt-snơ không còn hồn vía nào nữa, vội vã thu tàn quân chạy ngược trở lại Tuyên Quang. Quan thúc lính, lính thúc nhau, không còn ra đội ngũ gì nữa. Chính trong lúc ấy ban chỉ huy đơn vị bộ đội bố trí tai đó đã nắm vững phương châm diệt địch đến cùng, linh hoạt cho ngay hai trung đội luồn rừng theo đường tắt, cấp tốc trở về cây số 5 bố trí tiếp một trận địa phục kích. Lơ Giốt-snơ vừa mới hổn hển về tới đây thì nhưng tiếng sét lớn lại nổ vang ngay trước mặt hắn. Thêm hơn ba mươi tên giạc nữa bị tiêu diệt. máu chảy lênh láng trên mặt đường, giày, mũ, cánh tay, vế dùi bị quật tung tóe, treo lơ lửng trên các cành cây, dây điện. Cây số 5! Nơi đây là địa điểm tập kết của quân khởi nghĩa cách đây hơn hai năm để tiến vào giải phóng Tuyên Quang, giành lại chính quyền. Những chiến sĩ Giải phóng quân khi đó bây giờ đã đi khắp các nơi, gánh vác những trách nhiệm lớn, nhỏ khác nhau. Kế tiếp họ, những chiến sĩ Vệ quốc quân hiện nay đã giáng cho quân thù những đòn đích đáng.

Dưới dòng sông, Kéc-ga-ra-vát - viên quan tư chỉ huy thủy đội cũng lâm vào tình thế có phần còn bi đát hơn Pơ-ti. Dòng sông Gâm lắm thác nhiều ghềnh làm cho bọn chúng điêu đứng đã đành, những đơn vị bộ đội, dân quân du kích của ta đã bám sát chúng từng phút, từng giây để bắn phá, càng làm cho chúng thêm khốn khổ. Mỗi một khi mắc cạn, cả đoàn tàu đành giơ sườn ra, chẳng khác gì những chiếc bia thảm hại cho quân ta thi nhau nã súng. Kéc-ga-ra-vát gần như phát điên lên. Hán điện về cho Com-muy-nan, kêu gào: ”Cho chúng tôi thêm lương thực, thuốc men! Cho chúng tôi ngựa thồ. Không thể lên Đại Thi được nữa! Cho chúng tôi lên bộ thôi”.

Tất cả binh lính địch đều đã dao động, hoang mang. Toàn bộ binh đoàn Com-muy-na đã trở nên bị động. Com-muy-nan đã phải cho quân nhảy dù xuống Chiêm Hóa để hòng đón Kéc-ga-ra-vát và Pơ-ti. Nhưng cuối cùng gã đã phải điện về Hà Nội xin tiếp viện và thú nhận: “Bắt đấu từ đây chúng tôi không còn hành động theo ý muốn được nữa. Quân địch đã tỏ ra rất khôn ngoan, lợi hại. Chúng tôi bị đánh liên miên trên suốt trận tuyến và hiện nay đang ở vào một tình trạng xấu, rất xấu như chưa bao giờ từng thấy…”.


Tiêu đề: Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng - Thượng tướng Song Hào
Gửi bởi: macbupda trong 05 Tháng Bảy, 2010, 08:57:46 am
*
*   *

Nếu những tiếng súng trên dọc sông Lô, sông Gâm và tiếng bom trên cây số 7, cây số 5 đã bắt đầu làm tan rã tinh thần quân dịch, thì mặt khác nó cũng làm cho tinh thần quân dân khu 10 được nâng lên rõ rệt. Khắp nơi tưng bừng đón tin chiến thắng. Các đơn vị pháo binh, bộ binh chưa lập được công - nhất là pháo binh cũng sôi nổi tinh thần chiến đấu.

Bộ chỉ huy quân khu cho các phái viên chính trị, tham mưu đi sâu xuống từng khẩu đội của những đơn vị pháo binh để giúp đỡ anh em rút kinh nghiệm, bàn cách khắc phục khó khăn về mặt kĩ thuật, chiến thuật, nhất là giúp anh em quán triệt sâu sắc hơn nữa chủ trương “đánh gần, bắn thẳng” để phá mọi quan niệm sai lầm, giải quyết mọi tư tưởng hoài nghi, dè dặt.

Cho đến ngày 23 tháng 10, sau khi tư tưởng đã thông suốt phương châm tác chiến, các đơn vị pháo binh kéo súng ra tận sát bờ sông, thiết lập trận địa. Một khẩu 25mm và một khẩu 75mm đã được đưa ra đầu làng Khoan Bộ bố trí nghay sát bờ sông. Để bảo vệ cho trận địa pháo binh và để phối hợp tác chiến, Bộ chỉ huy quân khu đã điều đến một tiểu đoàn bộ binh, một trung đội công binh và một đơn vị dân quân du kích.

Chiều ngày 23 tháng10, những lực lượng tiếp viện cho Com-muy-nan từ Việt Trì rẽ sóng ngược lên Tuyên Quang. Đi đầu là hai chiếc LCT chở đầy binh lính. Chúng qua Sóc Đăng vẫn rất dè dạt. Nhưng dau đó thấy hai bờ sông Lô vẫn im ắng, chỉ có những bãi lau thưa đã bị xơ sác vì bom đạn của những thủy đội lên tấn công đợt trước, hai chiếc LCT bắt đầu chạy bình tĩnh hơn. Khi tới Khoan Bộ, chúng đã hoàn toàn sa đúng vào lưới lửa. Những khẩu “Voi gầm” của chúng ta lúc này mới thực sự xứng danh “Voi gầm”. Cả hai chiếc LCT đều bị trúng đạn, khói phì ra đen đặc, kéo dài trên mặt sông. Một đám lửa bùng lên trên boong của chiếc đi cuối. Tuy đã khắc phục được tư tưởng ngại đem pháo ra bờ sông để đặt gần, bắn thẳng, như các chiến sĩ ta lại quên mang theo đạn dự trữ, mới bắn được chục phát cả hai khẩu pháo đành phải ngồi nhìn theo hai chiếc tàu địch bị thương dìu nhau cố chạy bán sống bán chết. Nhưng dù sao, trận đánh coi như đã thắng lợi và thắng lợi lớn hơn cả là anh em pháo binh đã hoàn toàn tin tưởng ở phương châm chiến thuật mới.

Bộ chỉ huy quân khu đã đánh giá: nếu như trận Bình Ca đã mở đầu cho các chiến thắng chung trong chiến dịch, thì trận Khoan Bộ đã mở đầu cho các chiến thắng to lớn về sau của pháo binh trên mặt trận.

Nhận định ấy đã đươc chứng minh ngay sau đó bằng những chiến công rực rỡ ở Đoan Hùng, Khe Lau, những chiến công đã làm cho dòng sông Lô nổi tiếng và được coi như những chiến công rạng rỡ của dân tộc đã có như Chương Dương, Hàm Tử xưa kia.

Kịp thời rút được kinh nghiệm nóng hổi của trận Khoan Bộ, các khẩu đội pháo binh bối trí ở gần Đoan Hùng đã chuẩn bị rất chu đáo. Về phía địch, chúng cũng có được những bài học thiết thân nên đã tổ chức hành quân thận trọng có cả máy bay yểm hộ. Do vậy, trận Đoan Hùng là một trận đọ sức quyết liệt giữa đôi bên, đã kéo dài trên một giờ đồng hồ. Dưới những làn bom đạn dữ dôi của không quân và thủy đội địch, các chiến sĩ pháo binh, bộ binh ta đã gan góc chiến đấu liên tục. Từng phát đạn bắn ra như những tiếng sét đánh thẳng vào đoàn tàu giặc. Khói bốc mù mịt khắp trận địa. Trên bờ, lau sậy bốc cháy. Dưới sông tàu địch bốc cháy. Dầu xăng chảy ra lênh láng khắp mặt nước. Cả một khúc sông biến thành một dòng lửa. Trong khoảnh khắc, bốn chiếc vừa tàu vừa ca-nô đã bị nhận chìm tại chỗ. Còn lại hai chiếc bị thương, không dám chống cự, phải kéo nhau tháo chạy. Nhưng các chiến sĩ ta vẫn quyết không tha. Với tinh thần chiến đấu sôi nổi, ý chí căm thù đang bừng cháy, bất chấp máy bai địch đang lồng lộn trút dạn trên đầu, các chiến sĩ pháo binh, bộ binh lập tức cùng nhau kéo pháo ra khỏi trận địa, rầm rập chạy đuổi theo tàu chiến địch, bắn đến kì cùng. Chưa có một cuộc truy kích nào từ trước tới nay giống như vậy. Gặp mô đất, khe sâu, kéo không được, các chiến sĩ bèn tháo các bộ phận pháo ra, người vác nòng, người khiêng càng, tiếp tục đuổi theo tàu chiến giặc…

Sau trận Đoan Hùng, Bộ chỉ huy quân khu nhận định: Lực lượng tiếp viện của địch ở Việt Trì không còn khả năng kéo lên nữa, đồng thời lực lượng của Com-muy-nan ở Tuyên Quang cũng không thể lên tới được Đại Thi. Ý muốn rút lui của bọn chúng đã bộc lộ rõ rệt. Bộ chỉ huy quân khu chủ trương một mặt tích cực đánh địch trên đướng số 2, một mặt tiếp tục phục kích trên sông. Cơ quan tham mưu nhận chỉ thị đi tìm địa điểm để tổ chức trận địa pháo binh. Nhiều đơn vị bộ binh, công binh, pháo binh lại được lệnh cấp tốc vòng qua thị xã Tuyên Quang, từ phía nam lên phía bắc, tới ngã ba sông Gầm, lập trận địa ở đó. Tại đây bờ lau rất dày, nên còn gọi là Khe Lau. Trận địa vừa hoàn thành thì một đoàn tàu địch cũng vừa kéo tới. Rút kinh nghiệm trận Đoan Hùng, pháo ta bắn tuy đã chính xác nhưng vẫn còn bắn quá sớm, lần này các chiến sĩ Khe Lau đã giữ bí mật trận địa tới cùng, kiên trì đợi cho tàu địch đến ngay trước mũi súng mới giật cò.

Đoàn tàu địch bị hoàn toàn bất ngờ, rối loạn, không kịp trở tay đối phó. Các khẩu “Voi gầm” của chúng ta làm mưa làm giò trên trận địa cùng các đơn vị bộ binh. Dầu xăng từ các tàu bị nhận chìm đổ loang khắp mặt sông. Xăng bén lửa, lửa cháy trùm lên hai bờ lau sậy rầm rạp. Không hiểu xưa kia trận trận “Xích Bích” của Gia Cát Lượng thế nào, ở đây quả là một biển lửa - “biển lửa Khe Lau”. Lửa cháy làm các chiến sĩ ta cũng phải nóng bỏng cả mặt mày. Cả bầu trời đen kịt những tro, khói. Khắp trận địa đỏ rực. Lửa trôi theo dòng nước. Lửa phá phách trên các con tàu. Lửa lồng lộn trên các bờ lau. Gần như đại bộ phận quân Kéc-ga-ra-vát đã bị tiêu diệt.

Ngày hôm sau, Com-muy-nan lại điện về Hà Nội: “… Chúng tôi đã phái một lực lượng trên bộ đi ứng cứu. Nhưng rừng núi rất hiểm trở. Quân Việt Nam lại phục kích chặn đường. Lực lượng ứng cứu đã buộc phải quay lại, không thể tiến được…”.


Tiêu đề: Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng - Thượng tướng Song Hào
Gửi bởi: macbupda trong 05 Tháng Bảy, 2010, 08:59:08 am
Trong khi các trận đánh đang diễn ra trên sông Lô, quân khu được tin liên tiếp về những chiến thắng to lớn của quân ta trên đường số 4, Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên… gọng kìm Bô-phơ-rê bên đó bị đánh tơi bời và cũng đã quằn lại.

Chính những chiến thắng ấy đã cổ vũ chúng tôi rất mạnh mẽ và đã tạo cho khu 10 những điều kiện thuận lợi để chiến thắng. Trong khi nhận thấy hai gọng kìm đã bị đánh nát nhừ, không có hi vọng gặp nhau được. Bộ chỉ huy tối cao của quân Pháp ra lệnh cho Bô-phơ-rê, Com-muy-nan rút lui. Com-muy-nan được lệnh rút trước, Bô-phơ-rê rút sau một vài ngày.

Bộ Tổng tư lệnh của ta cũng phán đoán được từ trước cuộc rút lui này. Quân khu được lệnh tích cực đánh địch trên đường về. Bộ phán đoán: Com-muy-nan sẽ rút bằng đường sông Lô và cả đường bộ số 13 từ Tuyên Quang qua Bình Ca sang Thái Nguyên để gặp quan Bô-phơ-rê từ phía Bắc Cạn rút về. Sự phán đoán ấy dã hoàn toàn đúng.

Khác hẳn với khi tấn công, Com-muy-nan đã tổ chức cuộc rút lui hết sức bí mật. Trong một đêm tối trời, dưới sông các tàu chiến, ca-nô được lệnh tắt máy, tắt đèn, âm thầm thả xuôi theo dòng nước. Trên đường bộ, người, ngựa như ngậm tăm, lùi lũi rời bỏ thị xã, đi về phía Bình Ca, không kèn, không trống. Binh đoàn bại trận ấy đã cuốn gói ra về trong một không khí vừa lo âu, vừa vô cùng sầu thảm. Một sĩ quan Pháp đã viết một lá thư gửi về cho vợ, con nói:”Chúng ta vừa bị một vết thương nặng nề, vừa mang một cái nhục không sao rửa được…” (bức thư không kịp gửi, viên sĩ quan này đã bị ta diệt trong một trận ở Thái Nguyên).. Những nỗi lo âu, sầu thảm ấy kông phải mỗi lúc một giảm xuống trên con đường rút chạy. những đơn vị theo đường bộ về tới Sơn Dương (căn cứ địa của Khu giải phóng trước đây) đã bị đuổi đánh kịch liệt, hơn một trăm tên lính Âu - Phi đã bị bắn chết. Các tiểu đoàn chủ lực của khu và dân quân du kích bám sát chúng từng bước để đánh. Trên con đường Bình Ca - Sơn Dương quen thuộc đã diễn ra một quảng cảnh thật lớn lao, đẹp đẽ: toàn dân đuổi giặc. có những chịu phụ nữ, những ông già trong tay không có vũ khí nhưng đã hăm hở dẫn đường cho bộ đội vượt rừng, tắt núi để truy kích địch. Có cả những em bé mười một, mười hai tuổi cũng xung phong đi làm giao thông, liên lạc. Quần chúng đã sống lại những ngày đánh Nhật, đuổi Pháp khi xưa trên mảnh đất quang vinh của căn cứ địa thần thánh.

Bị giam chân ở Sơn Dương mấy mấy hôm, sau đó bọn địch cố mở một đường máu vượt Đèo Khế để sang Đại Từ. Lại thêm một chục tên địch bị giết chết trên ngọn đèo lịch sử ấy.

Số phận của quân Com-muy-nan cũng chẳng may mắn gì hơn bọn đi trên bộ. “Biết “dòng sông xanh” tuyệt đẹp đã trở thành dòng sông lửa ghê gớm nên Com-muy-nan đã hết sức đề phòng, cho máy bay bắn phá liên tiếp và cho quan đi sục sạo suốt dọc hai bên bờ, nhưng khi doàn tàu về tới Lã Hoàng thì đột nhiên lại thấy một tiếng sét nổ. Nhưng lần này không phải sét ở bên bờ, mà ở ngay giữa dòng sông. Quả thủy lôi đã được đặt rất khéo léo tại đó. Chiếc tàu lớn chở phần đông sĩ quan tham mưu của Com-muy-nan đã bị xe ra làm đôi, chìm nghỉm. May mắn cho Com-muy-nan, gã ngồi ở một chiếc tàu khác. Nhưng hắn cũng không còn hồn vía nào nữa. Về tới Phan Lương, lại một chiếc LCT bị đắm, hơn một trung đội địch bị tiêu diệt. Ở đây, dọc theo hai bờ sông Lô, bên cạnh cách chiến sĩ pháo binh các đơn vị bộ binh chủ lực, địa phương, dân quân du kích đã bám sát địch, truy đuổi chúng liên tục.

Mãi tới ngày 21 tháng 12 năm 1947, Com-muy-nan mới về tới Việt Trì, đội ngũ tan hoang, ngựa què, tàu bẹp hết sức thảm hại. Binh đoàn Bô-phơ-rê cũng tơi tả không kém, quân số mất một nửa, về tới Hà Nội mà vẫn chưa hoàn hồn.

Chiến dịch Clô Clô đại tấn công Việt Bắc với kế hoạch Lê-a rất quy mô, tỉ mỉ cua địch đã bị đánh bẹp.

Việt Bắc oai hùng của chúng ta tưng bừng không khí chiến thắng. khắp đất nước cùng reo vui trước những chiến công lịch sử.

Mặc dù trên các bản làng, đô thị còn âm ỉ tro khói, ngổn ngang mảnh bom đạn, nhân dân từ các nơi tản cư đã trở về tiếp tục cuộc sống lao động, sản xuất, chiến đấu bình thường. Một nhạc sĩ được chứng kiến những chiến công trên sông Lô đã sáng tác một bài hát với những lời ca hào hùng:

“… Bao nhân dân khu 10 mơ thành người sông Lô..”.

“… Đời vui vút lên, đời vui sướng về…”.


Những bài ca ấy đã nói được phần nào tâm trạng sung sướng, tươi vui, rạo rực của quân dân trong quân khu 10 sau những ngày chiến thắng ấy.


Tiêu đề: Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng - Thượng tướng Song Hào
Gửi bởi: macbupda trong 05 Tháng Bảy, 2010, 09:00:24 am
*
*   *

Ngoài diễn biến trên mặt trận sông Lô, mặt trận phía tây bắc cũng của khu 10 (Lò Cai, Yên Bái) tình hình lại gần như khác hẳn.

Phối hợp với hai hướng tấn công chủ yếu của hai binh đoàn Bô-phơ-rê, Com-muy-nan, A-lếch-xăng-đơ-ri - tên tướng chạy quân Nhật hồi tháng 3 năm 1945 đã đem năm nghìn quân quay trở lại đánh chiếm Lai châu, Phong Thổ, Sơn La… từ đầu năm 1946, nay cũng dốc lực lượng đánh ra Sa Pa, Lào Cai, Nghĩa Lộ… thuộc khu 10.

Do quân khu chưa giúp cho các đơn vị quán triệt sâu sắc phương châm tác chiến và chính sách dân tộc của Đảng, mặt khác lúc đó quân khu đang tập trung chỉ đạo mặt trận sông Lô nên mặt trận phía tây các đơn vị đã phạm phải những sai lầm nghiêm trọng, không được kịp thời uốn nắn, dẫn đến những thất bại ban dầu. Ở đó, mặc dù các chiến sĩ chiến đấu vô cùng dũng cảm, nhưng do một số cán bộ chỉ huy nặng về lối đánh trận địa chiến, coi nhẹ du kích chiến, cho nên bị địch chọc thủng hết phòng tuyến này đến phá vỡ trận địa khác. Khi phải rút lui, lại cho đơn vị rút theo đường cái lớn, nên bị quân của A-lếch-xăng-đơ-ri vu hồi sau lưng, gây thêm thổn thất.

Tư tưởng chiến thuật đã sai, một số cán bộ còn mắc khuyết điểm không dựa vào dây. Đó là hai căn bệnh của một nguyên nhân không nắm vững quan điểm chiến tranh nhân dân. Do vậy, quân địch tràn tới đâu, chúng nắm ngay được Thổ ti, Phia tạo và tiếp sức được ngay cho bọn thổ phỉ nổi lên như rươi đến đấy, chúng bắn giết cán bộ, bắt bớ cơ sở ta rất dữ, đồng thời tích cực chỉ đường, tiếp tế cho giặc. Các đồng chí chỉ huy đơn vị thấy thế đã không kịp thời nhận ra khuyết điểm, lại tiếp tục xa lánh nhân dân, cho rằng nhân dân Tây Bắc đã theo giặc. Chính vì thế, cá đơn vị của ta đã chiến đấu gần như cô độc. Không có người dẫn đường, không có ai tiếp tế, không có lực lượng dân quân du kích phối hợp… Tai hại hơn nữa, do nhận thức sai, một vài cán bộ đã vi phạm kỉ luật quần chúng nghiêm trọng. Những hành động sai lầm ấy đã gây nên những phản ứng mạnh trong nhân dân địa phương. Đã có nơi, do uất ức quá, có người đã đi báo quân Pháp với mục đích chỉ cốt để trả thù người đã nghi oan cho mình. Những bi kịch ấy tuy rất lẻ tẻ, cá biệt, nhưng cũng thật đau lòng. Cô độc, mệt mỏi, chiến thuật sai lầm… các đơn vị của quân khu phía đó cứ lùi dần, lùi mãi dọc theo sông Hồng. từ Lào Cai trở xuống, từ Nghĩa Lộ trở ra. Có đơn vị một ngày đã phải rút lui tới năm mươi cây số. trong tình trạng bi đát ấy, một cán bộ chỉ huy đơn vị đã dao động, gửi báo cáo về khu: ”Quân địch quá mạnh, tiến như chẻ tre!...”.

“Tiến như chẻ tre!”. Chỉ cần đọc mấy tiếng ấy chúng tôi cũng có thể hình dung được tình hình tư tưởng của một số cán bộ ta trên mặt trận phía tây ra sao, đồng thời cũng nhận ra những thiếu sót trong công tác chỉ đạo của chúng tôi.

Lập tức Khu ủy, quân khu họp bàn và ra một nghị quyết gửi cho các đơn vị phía tây: “Phải vứt bỏ ngay lối đánh hoàn toàn sai lầm cũ. Triệt để nắm vững phương châm: du kích chiến là chính, vận động chiến là phụ trợ… Phải chia địa phương thành những khu nhỏ, phân tán ngay một số đại đội, giao cho mỗi đại đội phụ trách một khu vực, bám lấy dân mà gây cơ sở, hoạt động đánh địch, quyết không được rút nữa. Phải giáo dục nhân dân, phải củng cố cơ sở bằng các hình thức vũ trang tuyên truyền, phải thực hiện bằng được khẩu hiệu thà mất đất chứ không chịu bỏ dân”. Đó là tóm tắt tinh thần những chủ trương mới của Khu ủy và Bộ chỉ huy quân khu căn cứ vào chỉ thị của Trung ương và những mệnh lệnh cụ thể của Bộ Tổng tư lệnh.

Những nghị quyết ấy được đưa ngay xuống các đơn vị bằng những đồng chí phái viên có đầy đủ khả năng và thẩm quyền để truyền đạt, kiểm tra, đôn đốc.

Và nghị quyết ấy dã có hiệu lực Một giai đoạn mới đã mở ra trên chiến trường phía tây của quân khu. Không còn “tiến như chẻ tre” được nữa, quân dịch buộc phải dừng lại để củng cố, bình định những vùng đã chiếm được. Về phía ta, các đại đội độc lập với ý niệm sơ khai đã được ra đời và chiến tranh du kích cũng bắt đầu được mở rộng, đẩy mạnh từ đó.


Tiêu đề: Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng - Thượng tướng Song Hào
Gửi bởi: macbupda trong 05 Tháng Bảy, 2010, 09:01:45 am
III

Sau chiến dịch Việt Bắc thu đông 1947, căn cứ vào tình hình mới, Bộ Tổng tư lệnh quyết định sáp nhập hai chiến khu 14 và 10 làm một, gọi là Liên khu 10. Đồng chí Bằng Giang làm tư lệnh trưởng liên khu, đồng chí Lê Trọng Tấn làm tư lệnh phó và tôi làm chính ủy.

Liên khu 10! Một vùng mênh mông chiếm một phần không nhỏ của Bắc Bộ. Nhìn vào tấm bản đồ chỉ thấy hầu hết một vùng màu xanh cùng với những đường biên độ dày đặc ghi lại những dải núi non trùng trùng điệp điệp.

Liên khu 10 có hàng mấy chục dân tộc khác nhau, kinh tế thì nghèo nàn lạc hậu, đường sá giao thông rất ít ỏi và vô cùng khó khăn, hiểm trở.

Liên khu 10 bị địch chiếm một phần lớn đất đai. Từ biên giới Việt - Lào qua sông Đà tới tận bờ sôg Hồng, tất cả đều nằm dưới gót sắt của giặc. Hơn thế nữa, một vùng rộng lớn phía Lào Cai, Hoàng Su Phì đổ xuống tới Phố Ràng, sông Chảy cũng đã bị địch chiếm. Dưới phía nam, mấy huyện tây nam Phú Thọ và Mai Đà (Hòa Bình) cũng đã mất, đất tự do của liên khu chỉ còn khoanh lại mấy huyện phía trên của Phú Thọ, hai huyện của Yên Bái, mấy huyện của Hà Giang và tỉnh Tuyên Quang. Gần như không còn một tỉnh nào nguyên vẹn. Đứng về mặt quân sự, tất cả những vùng chiến lược của liên khu đều đã rơi vào tay quân thù. Các cửa ngõ của liên khu đi khu 3, khu 4… đều đã bị bịt chặt.

Trong vùng tạm chiếm, các thổ ti, lang đạo lại leo lên những chiếc ghế vương hầu tột đỉnh của chúng ngày trước, thả sức ra oai tác quái. Mọi luật lệ hà khắc tệ tục khi xưa lại được chúng phục hồi đầy đủ.

Về phía bọn Pháp, chúng không mở những cuộc hành binh lớn mà quay ra bình định, vì miếng mồi đã quá to, nuốt chưa trôi, chưa thể ngoạm thêm những miếng khác. Chính sách càn quét nhỏ để bình định của chúng đã kết hợp chặt chẽ. Thủ đoạn chính trị nham hiểm như lập ngụy quân, ngụy quyền, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt và chiến thuật “vết dầu loang” cũng bắt đầu ra đời từ lúc này với những hệ thống cứ điểm nhỏ và những cuộc hành quân càn quét liên tục.

Có thể nói Liên khu 10 là một trong những vùng điển hình trong những khu vực mà quân Pháp đã triệt để dùng chiến thuật “cứ điểm nhỏ, vết dầu loang”. Các cuộc hành binh của chúng thường xuyên diễn ra, dùng chủ lực càn quét xong rút đi, lực lượng chiếm đóng trên thay thế lập đồn, sau đó tiến tới lập tề và cứ thế các “vết dầu” tiếp tục loang ra mãi.

A-lếch-xăng-đơ-ri là một con có già thực dân rất quỷ quyệt. Ngay từ năm 1946 đánh chiếm lại Lai Châu, chúng đã chuẩn bị  việc thành lập các thứ “xứ tự trị”. Cho tới khi Tây Bắc bị chiếm gần hết thì chúng cũng bắt đầu tuyên bố thành lập “Nước Thái”, “Nước Nùng”, “Nước Mường tự do”. Trong liên khu đã có đủ ba thứ “nước” của chúng! Đi đôi với việc lập các “nước”, chúng còn dùng thủ đoạn lưu manh hóa một số người trong nhân dân còn quá chất phác, nông cạn, lạc hậu bằng đủ thứ như rượu, thuốc phiện, gái, trộm cắp, thổ phỉ… Và hiểm độc hơn chúng tìm mọi cách để chia rẽ các dân tộc. Cá khẩu hiệu dã man được chúng nên lêu để xúi giục nhân dân như “giết Kinh lấy muối, giết Thổ lấy ruộng, giết Mán lấy bạc, giết Mèo lấy thuốc phiện”. Sự chia rẽ, hằn thù dân tộc trước đây do bọn chúng gây nên nay cũng được khơi sâu. Ngay sau khi quân ta rút về tả ngạn sông Hồng, quân Pháp kéo tới chưa bao lâu, các cuộc chém giết hết sức thương tâm giữa các dân tộc đã xảy ra gần như liên tục ở khắp nơi.

Trong khi đó bọn Pháp vẫn ra sức truy lùng cán bộ ta, treo giải thưởng rất lớn bằng bạc trắng, thuốc phiện, muối, vải… cho những ai cắt được đầu, xẻo được tai cán bộ.

Mặt khác, giặc Pháp ra lệnh triệt để bắt lính. Các đạo quân ngụy Thái, Nùng… lần lượt được lập ra để càn quét các nơi hoặc tham gia chiếm đóng trên các cứ điểm nhỏ.

Có thêm ngụy quân, bọn Pháp đã thành lập và củngcố được một phòng tuyến dài trên ba trăm cây số suốt từ Hoàng Su Phì cho tới tận bờ sông Đà, hình thành một lưỡi liềm khổng lồ cắm ngập vào mạng sườn của căn cứ địa Việt Bắc.


Tiêu đề: Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng - Thượng tướng Song Hào
Gửi bởi: macbupda trong 05 Tháng Bảy, 2010, 09:03:08 am
*
*   *

Sau khi dự lễ mừng chiến thắng sông Lô ở thị xã Tuyên Quang, tôi cùng đồng chí Trần Tử Bình - phái viên kiểm tra của Bộ đi xuống thăm một số đơn vị từ mặt trận phía tây rút về. Chúng tôi muốn có dịp được trực tiếp tìm hiểu sâu hơn nữa tất cả những nguyên nhân đã dẫn anh em đến không giữ vững dược mặt trận, đồng thời tìm hiểu thêm về tình hình tư tưởng, tổ chức, trang bị của các đơn vị hiên nay ra sao, cần được giúp đỡ những gì?

Chuyến đi này đã để lại cho chúng tôi nhiều kỉ niệm khá sâu sắc. trước khi tới các đơn vị đóng dọc theo bờ sông Hồng, chúng tôi đã dược thấy nhiều điều mới mẻ, phong phú trong đời sống hàng ngày của nhân dân vùng tự do trong những ngày đầu kháng chiến. Chính những điều mắt thấy tai nghe đã trở thành những thu hoạch bổ ích cho chúng tôi trong chuyến đi dài ngày này.

Một số cán bộ tham mưu, chính trị cùng đi với chúng tôi. Qua các làng xóm trù phú của những huyện Phù Ninh, Thanh Ba, qua những thị trấn Thanh Cù, Vũ Ẻn, Ấm Thượng, chúng tôi dần dần ngược Yên Bái. Vết tích của những trận bom đạn tàn phá trong chiến dịch và rồi vẫn còn hai bên đường, nhưng trên mặt đất còn nóng hổi tro than ấy, cuộc sống của nhân dân ta đã được phục hồi mau chóng và tươi trẻ lạ kì. Bên cạnh những nền nhà còn đen nhẻm, bề bộn kèo cột cháy nham nhở đã mọc lên những căn nhà mới, vách đất còn ướt, mái còn xanh màu nứa. Bên cạnh những hố bom đã móc lên những xóm đông vui, những dãy phố “nấm” nhộn nhịp. Trên các thửa ruộng bên đường, bà con đang vực từng con nghé để thay thế cho những con trâu mẹ vừa mới bị giặc bắn chết hôm qua. Có đôi nơi thiếu cả nghé, từng tốp hai, ba người kéo cày để bảo đảm thời vụ. Trên gương mặt họ, ánh lên những niềm tự hào và tin tưởng. Đằng sau những rặng cây, trong nhưng cánh rừng thưa… tiếng trẻ học bài bi bô vọng ra. Trên con đường Chè, những chiếc xe đạp “tay ngai” lại tấp nập ngược xuôi cả đêm lấn ngày.

Ở các thị trấn “nấm”, cuộc sống cũng không kém sôi nổi. Những thị trấn ấy trước kia rất nhỏ bé, lèo tèo dăm ba cửa hàng, vài cơ sở sản xuất thủ công nhưng từ khi có đồng bào dưới xuôi tản cư lên lập tức trở nên phồn thịnh ra, kéo dài thêm mãi. Có những nơi trước đây chỉ là một ngã ba, một đoạn đường vắng vẻ nay đã có cả một thị trấn sầm uất. Bom đạn giặc bắn cháy hôm nay, mai lại mọc lên dãy phố khác. Bom đạn giặc đốt trụi, phá sạch ở chỗ này, mai cái thị trấn ấy lại tái sinh ở một đoạn đường khác. Ở một mức độ nào đó, các thị trấn “nấm” (hoặc còn gọi là “thành phố nứa”) cũng trở thành lưu động trong kháng chiến.

Một số không ít những thị trấn ấy đã bị bắn cháy trong thu đông vừa qua nay cũng được dựng lại mới tinh bằng tre nứa và có phần đông đúc hơn xưa. Đây là một xưởng giấy đang sản xuất. Tiếng máy quay tay chuyển động đình đình. Giấy phơi trắng lốp trên các giàn cao, tràn cả ra dọc hai bên đường. Kia là một cơ sở dệt vải tấm với những cô gái duyên dáng ngồi trên khung cửi đưa thoi thoăn thoắt. Rồi những cơ sở làm nón, làm bột sắn, làm sơn, làm chè, nhuộm vải… Khẩu hiệu “Tự túc tự cấp để trường kì kháng chiến” dán trang trọng khắp mọi nhà, cùng với các kẩu hiệu bình dân học vụ, thi đua sản xuất, tòng quân giết giặc… Không còn nghi ngờ gì nữa, đường lối trường kì kháng chiến, tự lực cánh sinh của Đảng ta đã thấm sấu vào quần chúng, biến thành hiện thực.

Từ Ấm Thượng, chúng tôi bắt đầu ra bờ sông Hồng, đi dọc theo đướng xe lửa. Gọi là đường xe lửa, nhưng tất cả những đường ray đều bị bóc đi hết để đưa vào các công binh xưởng của quân khu đúc súng đạn, hoặc đem cắm trên các đường giao thông lớn làm chướng ngại vật chống cơ giới địch. Nền đường chỉ còn toàn đá củ đậu. Mới bỏ hoang ít lâu mà lau lách đã móc rậm rạp như rừng. có những đoạn lau ngả ra, giao nhau che kín cả mặt đường.

Từ đây trở đi, ở bên kia sông bắt đầu có địch. Các đồng chí quân báo cho biết bọn chúng vẫn thường đi tuần và bắn sang bên này. Từ Yên Bái ngược lên bắt đầu có những cứ điểm nhỏ dọc theo bờ sông. Đó là phòng tuyến sông Thao của địch.

Đoàn chúng tôi nghỉ lại một đêm trên thị xã Yên Bái đã hoàn toàn tiêu thổ. Bây giờ vào khoảng tháng ba. Đêm nằm, trong dạ cứ ngổn ngang trăm mối, không sao ngủ được. bỗng thoảng đâu có mùi hoa bưởi. Tưởng như có người, nhưng nhìn ra, bốn bề rất vắng lặng. nhân dân đã đi hết. Tất cả chỉ còn lại những đống gạch vỡ. Mùi hoa bưởi bỗng nhiên như nhắc cho chúng tôi rằng vẫn còn những mạch sống âm ỉ dưới mảnh đất này, không bao giờ tắt được; chỉ cần làm sao biết khơi động cái mạch sống ấy lên thôi…

Từ Yên Bái trở đi, đoàn chúng tôi phải đi thận trọng hơn, nhưng vẫn đi theo đường xe lửa, bám bờ sông. Cúng tôi vẫn muốn đi theo con đường này vì mau tới các đơn vị bạn hơn và được tận mắt quan sát quang cảnh vùng tạm chiếm.

Qua những quãng lau thưa, chúng tôi nhìn sang bên kia khá rõ. Không phải do đã có một ấn tượng trong tình cảm, ý nghĩ nên nhìn cái gì cũng hóa ra ảm đạm, mà quả thật quang cảnh bên đất địch sao mà vắng lặng, âm thầm đến vậy? Lau sậy xác xơ, tiêu điều, ruộng bỏ hoang, cỏ mọc đầy. Quạ bay từng đàn trên những xóm làng đã bị đốt phá nham nhở. Không còn một bóng người, không một tiếng chó sủa.

Một buổi sáng chúng tôi đang đi, chợt nghe thấy tiếng trung liên nổ vang ở bên kai sông, rồi lau sậy trên đầu chúng tôi đổ rạp. Mọi người vội nằm xuóng. Khẩu trung liên bên kia sông tiếp tục bắn san. Sau đó, qua lùm cây, chúng tôi nhìn thấy lố nhố bóng áo vàng. Ước khoảng một tiểu đội địch đang đi tuần. Đồng chí liên lạc của tỉnh đội Yên Bái dẫn đường chúng tôi là một thanh niên địa phương mới vào bội đội. Thấy súng nổ, đồng chí này lo lắng hỏi chúng tôi: “Báo cáo! Bây giờ đi đâu?” Đồng chí Trần Tử Bình bật cười, đáp: “Cậu muốn đưa chúng tôi đi đâu thì đi!”. Một lúc sau, có lẽ không thấy động tĩnh gì nữa, bọn địch bỏ đi. Chúng tôi lại tiếp tục cuộchành trình. Đồng chí liên lạc vẫn chưa hết lo lắng, đề nghị chúng tôi đi vòng theo đường núi. Nhưng chúng tôi động viên và nói rằng chúng tôi vẫn cứ muốn đi theo đường bờ sông. Có điều là mỗi khi tới chỗ quang quá thì đồng chí liên lạc nên đưa chúng tôi đi lánh vào bên trong chút ít cho kín đáo hơn.


Tiêu đề: Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng - Thượng tướng Song Hào
Gửi bởi: macbupda trong 05 Tháng Bảy, 2010, 09:03:30 am
Chiều hôm ấy chúng tôi tới đơn vị đầu tiên từ Nghĩa Lộ rút ra. Anh em đang bố trí trận địa bên bờ sông. Công sự ngổn ngang. Lều lán mọc khắp trong rừng. Thấy đoàn chúng tôi đến, các đồng chí cán bộ chỉ huy đều ra đón. Các chiến sĩ cũng vui vẻ chào hỏi chúng tôi như những người anh em xa lâu ngày mới gặp nhau. Trước khi nghe các đồng chí chỉ huy báo cáo tình hình, chúng tôi đề nghị cho đi thăm nơi ăn, chốn ở, trận địa của các đại đội. Chúng tôi tới một đại đội vào đúng bữa ăn. Nhìn vào rá cơm chỉ thấy phần lớn là sắn độn. Bát to không có, canh đựng vào máng tre. Bát nhỏ cũng không, anh em dùng các vỏ hộp, hoặc những khoanh tre bương, gáo dừa để thay thế. Thức ăn ngoài món canh cà chua nấu với chút mỡ, chỉ còn một món muối rang giã nhỏ với giềng. Tuy vậy anh em ngồi ăn vẫn vui vẻ. thiếu thốn và gian khổ đã không làm giảm được lòng lạc quan cách mạng của cách chiến sĩ. Có những anh với biệt hiệu là “thày cù”, thỉnh thoảng lại chêm dăm ba câu pha trò làm cả đơn vị cười ồ lên náo nhiệt.

Chúng tôi nhìn vào quần áo, không thấy một chiếc áo nào, một cái quần nào còn lành lặn. Nhiều chiến sĩ có lẽ mới vào bộ đội, chưa được phát quân trang, còn mặc nguyên cả những bộ quần áo nâu, áo chàm ở nhà. Nhưng tất cả cũng đã cũ và bạc. Hầu hết anh em đều đi đất. Những bàn chân vì đi và leo núi nhiều nên đã to bè ra, gót nứt nẻ. Chúng tôi xem đến vũ khí, toàn là kiểu cũ thu được của Pháp, Nhật, phần lớn không còn tốt. Tuy nhiên, có một điều rất đáng chú ý là tất cả đều được lau chùi rất cẩn thận. Hình như các chiến sĩ có thể quên tất cả mọi việc chăm lo tới quần áo, thậm chí tới cả râu, tóc của mình đề dồn thời gian vào việc chăm lo cho những khẩu súng, thanh mã tấu yêu quý ấy. Không cần có một lời giải thích, bình luận, chúng tôi cũng hiểu được ngay: tinh thần, ý chí diệt thù của các chiến sĩ ở đây vẫn nồng cháy và vững vàng tới mức nào! Và chính điều ấy đã làm chúng tôi suy nghĩ mãi, làm gì đề có thể đánh giá tình hình cho đúng và tìm cho ra những vấn điều mấu chốt nhất trong công tác lãnh đạo.

Nếu như các chiến sĩ đã gây cho chúng tôi cảm giác tin tưởng, phấn chấn thì phần lớn cán bộ ở đây đã làm chúng tôi lo lắng. Các đồng chí chỉ huy đơn vị đã báo cáo với chúng tôi khá tỉ mỉ về tất cả quá trình chiến đấu vừa qua và hiện tình của đơn vị. Các dc cũng đã tổng hợp, phân tích nêu bật được nhiều vấn dề quan trọng. Tuy nhiên qua ý kiến của các đồng chí ấy, chúng tôi thấy rõ một tư tưởng sai lầm nghiêm trọng mà quân khu đã nhận thấy ngay từ khi các đơn vị này rút lui trong chiến dịch thu đông vừa qua.

Nhiều đồng chí đã tỏ ra thiếu tin tưởng ở nhân dân, cho rằng dân Tây Bắc đã theo địch hết. Anh em đã kể cho chúng tôi nghe khá nhiều chuyện về những người dân “đã theo địch” ấy, nào là nộp gà, nộp gạo cho Tây, nào là dẫn đường, chỉ điểm, nào là đi phu, đi lính… tóm lại, các đồng chí đó chỉ nhìn thấy những hiện tượng khiếp nhược, lạc hậu, mà không nhìn thấy những điều cơ bản khác như lòng căm thù giặc và tinh thần cách mạng của nhân dân Tây Bắc.

Rời các đơn vị đóng ở đây, đoàn chúng tôi tiếp tục ngược sông Thao, đi gặp những đơn vị khác đóng ở phía trên. Tới đâu chúng tôi cũng thấy một vấn đề trầm trọng là tư tưởng thiếu tin tưởng ở nhân dân và ngại quay trở vào Tây Bắc. Nhiều đồng chí chỉ muón lập một phòng tuyến “quyết tử” bên này sông để ngăn chặn địch.

Khi câu hỏi “vậy để Tây Bắc vĩnh viễn mất vào tay địch hay sao?” được đặt ra, nhiều đồng chí cán bộ im lặng. Sau đó có đồng chí thở dài, đáp:

- Nếu muốn trở lại Tây Bắc ta phải có dăm trung đoàn mạnh! Chứ như hiện any, vào bao nhiêu chỉ nướng bấy nhiêu!

Câu nói thật đau lòng! Tây Bắc đối vói các đồng chí ấy đã trở thành một cái gì quá ghê gớm! Các đồng chí ấy đã sợ địch, sọ dẻo cao, suối thẳm, thậm chí sợ cả từng người dân.

Nhưng dù sao việc phát hiện ra vấn đề lớn ấy, đoàn chúng tôi vẫn cứ mừng. chính những điều tìm hiểu được trong chuyến đi này đã giúp ích cho chúng tôi rất nhiều trong iệc chỉ đạo những hoạt động võ trang tuyên truyền, hoạt động của những đại đội độc lập sau này. Ngay trên đường về, đoàn chúng tôi đã khẳng định: nếu không giải quyết tốt những tư tưởng nói trrên, sẽ không còn mong gì quay trở lại giải phóng Tây Bắc nữa.


Tiêu đề: Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng - Thượng tướng Song Hào
Gửi bởi: macbupda trong 05 Tháng Bảy, 2010, 09:06:22 am
IV

Những nghị quyết của hội nghị Trung ương Đảng hồi tháng 1 năm 1948 đã nhận định tình hình cục diện chiến tranh trong nước đã chỉ rõ: từ sau chiến dịch thu đông 1947, cuộc kháng chiến của ta đã chuyển sang giai đoạn mới. Quân thù đã buộc phải thay đổi chiến lược, chiến thuật. Do đó Trung ương Đảng ta đã đề ra phương châm chiến lược mới để phá tan âm mưu địch, đẩy mạnh cuộc kháng chiến tiến tới. Chủ trương phân tán chủ lực, thành lập các đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung, và đẩy mạnh hoạt động võ trang tuyên truyền đã được ra đời từ lúc này. Đây là chủ trương vô cùng sáng tạo, tài tình. Trung ương đã chỉ thị rất rõ ràng: Với các đội võ trang tuyên truyền, đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung, tiểu tổ bí mật (ở đô thị) chúng ta sẽ đi sâu vào lòng dịch, gây dựng cơ sở mới, phục hồi những cơ sở đã tan rã, xây dựng các căn cứ du kích trong lòng địch, tạo điều kiện đẩy du kích chiến tranh phát triển, dần dần biến hậu phương địch thành tiền phương ta, tạo nên thế xen kẽ cài răng lược, thực hiện cho được phương châm: Hình thức tác chiến du kích và tác chiến vận động sẽ hỗ trợ cho nhau cùng phát triển, làm cho mối quan hệ giữa đánh tiêu hao và đánh tiêu diệt phát triển nhịp nhàng, đúng hướng.

Đường lối, phương châm ấy dã hoàn toàn phù hợp vớ đặc điểm của giai đoan mới, với quy luật phát triển của chiến tranh, phù hợp với yêu cầu của cuộc kháng chiến, do đó có thể khai thác được mọi nguồn dự trữ trong nhân dân, huy động được tinh thần của quảng đại quần chúng đấu tranh với địch, đẩy mạnh chiến tranh nhân dân toàn diện.

Liên khu ủy, Quân khu ủy và Bộ tư lệnh Liên khu 10 đã nghiên cứu sâu sắc đường lối, phương châm mới của Đảng để thực hiện.

Có thể nói, trong những tháng đầu năm 1948, Liên khu 10 đã tập trung gần như toàn bộ lực lượng vào việc tổ chức các đội võ trang tuyên truyền, đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung. Những kinh nghiệm xây dựng, tổ chức các đội võ trang tuyên truyền hồi tiền khởi nghĩa đén lúc này lại được áp dụng rất tốt, rất có hiệu lực. Toàn liên khu đã tổ chức bốn đội võ trang tuyên truyền chủ yếu: đội xung phong Quyết thắng, đội xung phong Quyết tiến, đội xung phong Trung dũng và đội xung phong Tây Bắc, đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của quân khu. Các trung đoàn chủ lực dều phân tán hai phần ba lực lượng để tổ chức thành các đại đội độc lập.

Bộ Tổng tư lệnh rất quan tâm tới chiến trường Tây Bắc, một chiến trường có vị trí chiến lược trọng yếu. Do đó Bộ cũng rất quan tâm tới việc giúp đỡ chúng tôi trong việc xây dựng, chỉ đạo các đội võ trang tuyên truyền, đại đội độc lập. Riêng Bác Hồ cũng rất lưu tâm tới những hoạt động võ trang tuyên truyền. Bác đã vạch cho các đội của Liên khu 10 một cái đích: Điện Biên Phủ! Bác chỉ thị cho các đội phải làm sao xây dựng, phát triển cơ sở quần chúng, cắm bằng dược lá cờ đỏ sao vàng trên đất Điện Biên Phủ! Điện Biên Phủ! Ngay từ lúc ấy, Bác đã nhìn tới vị trí chiến lược quan trọng đó.

Trong quá trình thành lập các đội võ trang tuyên truyền, không phải chúng tôi không gặp nhiều khó khăn, trở ngại, nhưng chủ yếu vẫn là tư tưởng sai lầm không tin ào dân, ngại núi rừng Tây Bắc.

Các đồng chí Trần Tử Bình, Bằng giang và tôi đã tới trung đoàn Yên Bái để giúp đỡ giải quyết những tư tưởng nói trên. Bằng tất cả những dẫn chững cụ thể trong lịch sử đấu tranh cách mạng từ trước tới nay, bằng những luận cứ cơ bản của cách mạng chúng tôi dần dần đã giúp cho các đồng chí cán bộ trong đơn vị nhận ra được vấn đề và tin rằng nhân dân Tây Bắc vẫn căm thù giặc, vẫn hướng theo cách mạng. Mặt khác, quân địch ở Tây Bắc chỉ cứng ở vỏ ngoàì, còn bên trong thì sơ hở, mỏng yếu.

Không những ở Đảng bộ trung đoàn Yên Bái phải tiến hành gian khổ những cuộc đấu tranh tư tưởng trong nội bộ, mà ở cá đơn vị khác cũng thế. Khi những cuộc đấu tranh tư tưởng ấy đã thắng lợi, Liên khu ủy, Quân khu ủy nhận định rằng đây là một bước tiến mới, thắng lợi đầu tiên nhưng hết sức quan trọng để mờ đầu cho một giai đoạn mới trong liên khu.


Tiêu đề: Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng - Thượng tướng Song Hào
Gửi bởi: macbupda trong 05 Tháng Bảy, 2010, 09:07:42 am
Tôi đã đến dự lễ lên đường của đội xung phong Quyết Tiến, một đội mới được tổ chức ra, có nhiệm vụ tiến theo đường Nghĩa Lộ - Than Uyên - Quỳnh Nhai, qua Tuần Giáo để tiến vào Điện Biên Phủ. Đội do đồng chí Luân, thường vụ tỉnh ủy Yên Bái làm chính trị viên, Hồng Quân là người phụ trách đội tự vệ thanh niên thành Tuyên hồi khởi nghĩa. Hồng Quân đã được Đảng dìu dắt, giáo dục, tiến bộ rất nhanh. Năm 1947, đồng chí đã làm Bí thư tỉnh ủy Hà Giang. Nay cần có cán bộ gan dạ và có năng lực đi xây dựng các đội võ trang tuyên truyền, Liên khu ủy chủ trương rút Hồng Quân về hoạt động. Đồng chí Châu Thành, trưởng ban huấn luyện của khu 10 cũ được phân công làm đội phó.

Buổi lễ lên đường của đội xung phong Quyết Tiến được tổ chức ở một làng cách thị xã Yên Bái không xa, dưới môt gốc đa cổ thụ. Khung cảnh ấy làm cho tôi liên tưởng tới Tân Trào, tói những đội võ trang tuyên truyền đầu tiên và những đội Việt Nam Giải phóng quân hồi Tổng khởi nghĩa. Đường cách mạng quả là quanh co khúc khuỷu. Khởi nghĩa đã thành công, quân đội đã được xây dựng, trưởng thành lên một bước mới, nhưng mấy ai đã nghĩ rằng sĩ có ngày những đơn vị ấy lại tách ra để thành lập lại những đơn vị nhỏ, những đội võ trang tuyên truyền. Con đường cách mạng quả là khúc khuỷu; có thể phải đi vòng trở lại để vượt qua thác ghềnh, rội sau đó mới có thể vươn tới những địa vực xa hơn, cao hơn nữa.

Anh em đang xếp hàng nghiêm chỉnh dưới bóng cờ, trước đại biểu của đảng bộ, nhân dân địa phương, các cán bộ của đơn vị và liên khu. Hầu hết anh em tuổi từ hăm hai, hăm ba trở lên, tất cả đều là cán bộ. Mỗi đội viên ở đây là một huyện ủy viên cứng, hoặc một cán bộ trung đội vững vàng. Khi tiến vào vùng hậu địch, mỗi đội viên sẽ phải phụ trách cả một vùng. Hoặc ít nhất một xã, thay mặt Đảng lãnh đạo, tổ chức nhân dân đấu tranh toàn diện với quân thù.

Trang bị của anh em khá gọn nhẹ để có thể đi được lâu, được xa. Tất cả những thứ mang trên người đều đã được nghiên cứu rất tỉ mỉ, không thừa, không thiếu. Ngoài gạo, muối, mỗi đội viên còn mang theo bạc trắng, kim chỉ, thuốc men… những thứ rất cần thiết cho đời sống hàng ngày, đồng thời để trao đổi với đồng bào lấy lương thực khi cần thiết. Trang bị của anh em tư tưởng đầy đủ, riêng vũ khí vẫn thiếu nhiều, mặc dầu quân khu đã dành cho các đội phần ưu tiên thích đáng. Cả đội trên ba mươi người, chỉ có hơn mười khẩu súng các loại, mỗi khẩu kèm theo hai mươi nhăm viên đạn. có thể nói anh em ra đi, tiến vào Tây Bắc, đi sâu vào lòng địch, chủ yếu chỉ có chủ trương, chính sách của Đảng trong tay.

Hôm ấy, đồng chí Võ Nguyên Giáp cũng gửi tới một lá thư do chính tay đồng chí viết để độnng viên, dặn dò anh em khi lên đường. Chỉ một cử chỉ ấy cũng đã chứng tỏ sự quan tâm của trên đối với công tác võ trang tuyên truyền trong giai đoạn này như thế nào. Sau đó, tôi thay mặt Liên khu ủy, bộ chỉ huy quân khu chúc mừng anh em tiến quân thắng lợi. Có lẽ cũng đã lâu, tôi mới cảm thấy mình xúc động như hôm ấy. Anh em sắp lên đường, bước vào cuộc chiến đấu gian lao, khó khăn đặc biệt. Trước mắt anh em, Tây Bắc lúc này như biển cả mênh mông, đang nổi sóng dữ. Không những Liên khu ủy, Bộ tư lệnh liên khu, mà bây giờ cả Bác hồ, cả Trung ương, cả Bộ Tổng tư lệnh cũng đang đặt tất cả niềm tin tưởng ở anh em, những người chiến sĩ của Đảng đang lĩnh một trách nhiệm nặng nề và vinh quang: đi bước đầu trong sự nghiệp chiến đấu giành lại Tây Bắc về cho Tổ quốc. Những bước đầu ấy thường bao giờ cũng là những bước gian nan, nguy hiểm. Tôi ôn lại với anh em những kinh nghiệm hoạt động của các đôi võ trang tuyên truyền khi trước kinh nghiệm của bản thân chúng tôi trong những ngày còn đen tối phải chui rừng, ngủ bụi, tìm bắt liên lạc, giác ngộ, tổ chức bí mật tới từng người dân… Các chiến sĩ võ trang tuyên truyền đã được nhắc nhở: cần phải luôn luôn nắm thật vững quan điểm quần chúng, chính sách dân tộc của Đảng. Đó là nguồn gốc của thắng lợi. có dân là sẽ có tất cả, sẽ chiến thắng tất cả. Để tiến hành tốt công tác, anh em gần như thực hiện ba hóa: địa phương hóa, dân tộc hóa và quần chúng hóa. Ngoài ra người chiến sĩ cách mạng đều phải phát huy đầy đủ đức tính dũng cảm, ngoan cường, đoàn kết kỉ luật…

Lễ lên đường bế mạc. Toàn đội xuất phát. Hồng Quân - người thanh niên của thành Tuyên khi xưa có ý dừng lại đợi tôi để gửi lại lời tạm biệt. Tôi siết chặt tay Hồng Quân nhìn mãi vào cặp mắt sáng, thông minh, giàu nghị lưc của anh. Tôi không nghĩ rằng đó là lần cuối cùng tôi được câm tay người đồng chí thân yêu. Hồng Quân vào Tây Bắc và không bao giờ trở ra nữa. Anh cũng như không ít các đồng chí thân yêu khác đã ngã xuống giữa núi rừng Tây Bắc mênh mông lúc còn ngập đầy bóng giặc. Người ngã xuống vì một viên đạn của quân thù, người ngã xuống sau những trận ốm đau mòn mỏi, những ngày đói khát… Mỗi người ngã xuống vì môt lí do khác nhau, nhưng tất cả những đảng viên quang vinh, những người con ưu tú của đất nước ấy đều đã đem máu của mình để viết nên những trang sử giải phóng Tây Bắc.


Tiêu đề: Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng - Thượng tướng Song Hào
Gửi bởi: macbupda trong 06 Tháng Bảy, 2010, 10:25:19 am
*
*   *

Liên khu ủy và Bộ tư lệnh liên khu đã chờ đợi tin tức của các đội võ trang tuyên truyền với tất cả nỗi lo lắng, niềm hi vọng của mình. Chúng tôi cứ phàn nàn với nhau mãi: “Giá có điện đài, cho mỗi đội một cái thì hay biết mấy!”. Tiếc thay, không những liên khu mà cả trên Bộ lúc đó vẫn còn quá nghèo. Tất cả mỗi liên lạc với các đội chỉ còn trông chờ ở đôi chân của các đồng chí giao thông.

Tung các đội ra đi mà không có cách gì để theo sát những hoạt động ccủa anh em từng bước, từng ngày, chúng tôi cảm thấy mắt mình, tai mình như có ai bịt lại. Tin tức đưa về rất thưa và thất thường, càng làm cho chúng tôi sốt ruột. Qua tháng đầu tiên, đươc biết các đội đều đang gặp khó khăn. Qua tháng thứ hai, tin tức thưa thớt hơn,chỉ biết anh em đã tiến rất sâu vào lòng địch theo phương pháp “cóc nhảy” hoặc “nhảy dù”, địch đang đối phó, vây lùng ráo riết. Sang tháng thứ ba hầu như bặt tin. Rồi sau đó, đùng một cái, chúng tôi nhận được báo cáo. Các đội đề đã bị bật trở ra bò sông Hồng. Hiện có đội đã vượt sông trở vê vùng tự do bên này để củng cố.

Không chậm trễ, chúng tôi phân nhau đi tới ngay những đơn vị ấy. “Bị bật tất cả trở lại”, chỉ bằng từng ấy chữ thôi cũng đã làm cho chúng tôi hình dung được phần nào những khó khăn mà anh em đã vấp phải. Tây Bắc! Hai tiếng ấy lại ngân vang lên trong đầu óc chúng tôi vơi tất cả những âm thanh bi hùng của nó.

Các chiến sĩ trở ra hầu hết đều đau yếu, gày còm. Có đồng chí do bị sốt rét niều quá, lại không có thuốc men, tóc đã rụng gần hết. Có đồng chí chỉ vì bị địch vây phải lẩn lút mãi, không có lương thực, ăn nắm lá, trái cây, rau rừng, hai hàm răng đã xanh lè. Nom thấy chúng tôi, có đồng chí rơi nước mắt.

Chúng tôi đã được nghe kể lại tất cả những bước đường hoạt động gian nan của các đội. Ở đây, trên những trang hồi kí này, không thể viết lại được hết, nhưng tôi cũng muốn ghi lại vài dòng về những người đảng viên, những chiến sĩ đầy lòng hi sinh, dũng cảm ấy.

… Sau khi vượt sông Hồng, đội xung phong Quyết Tiến bắt đầu tiến vào đất địch kiểm soát. Trước mặt anh em là đồn Ca Vịnh trấn giữ con đường duy nhất đi vào Tú Lệ. Toàn đội loanh quanh ở đó đã hàng tuần lễ mà vẫn chưa đi được. Bộ chỉ huy liên khu thấy vậy bèn viết thư giục, đồng thời phái đại đội Kim Sơn tiến vào tập kích Ca Vịnh để tạo điều kiện cho anh em vượt vào bên trong. Đại đội Kim Sơn đã hoàn thành nhiệm vụ của mình. Quân địch ở Ca Vịnh bỏ đồn rút chạy. toàn đội xung phong Quyết Tiến rất phấn khởi, cứ dọc theo đường cái tiến vào Gia Hồi, rồi Tú Lệ, đàng hoàng như một đội quân chủ lực lớn. Anh em đã quên mất đặc điểm hoạt động của mình, quên cả ý thức giữ bí mật. Bộ chỉ huy liên khu nắm được tình hình ấy lại phải có thư nhắc nhở. Sau đó, đội mới bớt chủ quan, bắt đầu chuyển từ hành quân ban ngày sang ban đêm, đội tiến vẫn rất dễ dàng vì quân địch nghe tin đồn “có năm nghìn quân Việt Minh kéo vào” nên chúng đã cuốn gói bỏ chạy. Đội xung phong Quyết Tiến lại phát sinh tư tưởng chủ quan. Vào Tú Lệ không mất một phát súng, lại thấy nhân dân nô nức kéo ra đón mừng, các đồng chí bèn tổ chức một cuộc liên hoan khá nhộn nhịp, tưng bừng. Mọi công tác quần chúng gần như chưa làm được gì. Toàn đội chỉ mới thực hiện được một việc là gọi những tay sai của địch cùng các phìa tạo dến cảnh cáo, bắt phải cam đoan trung thành với cách mạng, không được làm hại nhân dân.

Sau gàn một tuần ở Tú Lệ, đội tiếp tụ tiến vào vùng Kim Nọi. Trời bắt đầu mưa tầm tã ngày này qua ngày khác. Đèo trơn, suối lũ, cuộc hành trình lúc đó mới băt đầu vất vả. Suối lũ ở Tây Bắc quả là dữ. Đoàn quân không dài lắm, những người đi trước mới chỉ tới quá đầu gối, đến người cuối cùng bước xuống, nước đã ngập ngang cổ, Cũng trong thời kì đó, trong lúc toàn đội đang tiến thì quân Pháp đã tập trung hàng mấy trăm tên, từ Lai Châu kéo về, từ Than Uyên kéo ra để chuẩn bị vây càm mà đội không hề biết.

Khi tới Cấp Na, chưa tới Kim Nọi, toàn đội đã xao vào trận địa phục kích của địch. Mặc dầu tinh thần chiến đấu rất dũng cảm nhưng bị lâm vào thế bị động, toàn đội buộc phải chia ra làm ba tổ để rút. Đồng chí Luân, nắm một tổ dạt lên rẻo cao của đồng bào Mèo. Đồng chí Châu Thành nắm được một bộ phận rút về vùng Bản Khì. Đồng chí Hồng quân cùng với hai tiểu đội rút trở lại phía Tú Lệ, định liên lạc với đại đội Kim Sơn (nhưng đại đội này đễ lên vùng đồng bào Mèo từ trước). Thấy đạn dược của toàn đội đã tiêu hao gần hết trong trận phục kích vừa qua, Hồng Quân quyết định quay trở ra Nghĩa Lộ để bắt liên lạc với quân khu, xin tiếp tế. Trời vẫn mưa, suối lũ vẫn ngập tràn. Tới Ngòi Thia, Hồng Quân cùng anh em chặt chuối làm mảng để vượt qua. Trong khi ấy, ở biên kia sông, một toán đi đi tuần kéo tới.

Hồng Quân cầm sào nhảy xuống chiếc bè đầu tiên cùng đồng chí Năng, một đội viên trong đội trước kia là chính trị viên tiểu đoàn. Cả hai người mới đẩy bè ra tới giữa dòng thì một băng trung liên từ bụi cây trên bờ bên kia đột ngột nổ xé. Hồng Quân ôm lấy ngực, ngã vật ngửa trên bè. Năng cũng không kịp nói một lời, buông ngay cây sào, ngã xuống… Và cứ thế chiếc bè tiếp tục băng băng trôi theo dòng nước lũ. Tất cả những đồng chí còn lại đánh gạt nướ mắt, quay trở lại Cáp Na, tìm bắt liên lạc với bộ phận của đồng chí Châu Thành đang bám dân, cố thủ ở đó. Mưa vẫn xùi xut. Bản Khì nằm lọt trong một vùng suối lũ bao quanh. Ta không ra được, mà địch cũng không vào được. cho đến lúc này anh em trong đội mới bắt đầu thấm thía bài học chủ quan, mới bắt đầu biết là cần phải bám lấy dân, tích cực giáo dục, tổ chức nhân dân mới có thể sống để chiến đấu và chiến thắng.

Nhân dân Bản Khì vốn đã nghèo đói, nay bị mưa lũ giam chân, địch lại vây chặt bốn phía, không đi rừng tìm củ mài, củ sắn được nên càng đói khổ. Tuy nhiên, không có một ai quên bộ đội. Còn một mẩu sắn cũng chia đôi.

Một tháng sau, trời hửng sáng, lũ rút. Nhân dân lại đeo dao, lên núi kiếm ăn. Anh em võ trang tuyên truyền cũng chuẩn bị lên đường định đi bắt liên lạc với bộ phận đồng chí Luân, nhưng một trận càn nữa lại ập tới. Trận càn này còn lớn hơn trận trước gấp bội. Hơn một nghìn quân từ Mường Cang đánh xuống, hai trăm quân từ Nghĩa Lộ đánh lên. Lần này địch không ồ ạt tấn công như trước mà chia thành từng mũi nhỏ lùng sục tất cả các ngọn nguồn, khe suối. Các cơ sở của đội mới xây dựng bị phá tan hoang. Hàng loạt thanh niên nam nữ bị bắn chết. Bộ phận võ trang tuyên truyền lại bị vỡ một lần nữa. Một số đồng chí hi sinh, một số dạt lên vùng đồng bào Mèo, một số bật trở lại bờ sông Hồng, mặc dầu đã vào sâu được khoảng hai trăm cây số.


Tiêu đề: Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng - Thượng tướng Song Hào
Gửi bởi: macbupda trong 06 Tháng Bảy, 2010, 10:26:29 am
*
*   *

Đội xung phong Trung Dũng đi theo một đường khác. Đội này quân số ít hơn, chỉ có mười bảy đồng chí, đại đa số là người dân tộc Thái, quê hương dọc sông Mã. Đồng chí Xích Vân được trao nhiệm vụ chỉ huy, đưa anh em vượt sông Hồng tiến vào đất Sơn La để bắt liên lạc với đồng chí trưởng Lê Thanh. Đồng chí Lê Thanh đã hoạt động từ trước ở vùng Mộc Thượng, Mộc Hạ, một vùng cơ sở nhỏ bé còn lại ở phía dưới Mộc Châu thuộc đất Sơn La. Vùng cơ sở này do tỉnh ủy Sơn La đã kiên trì giữ vững suốt từ khi địch đánh chiếm Sơn La, bộ đội chủ lực bị bật ra ngoài bờ sông Hồng, sang Phú Thọ, Mộc Thượng, Mộc Hạ có đầy đủ tính chất một căn cứ du kích đặc biệt. Nhân dân nơi này dưới sự lãnh đạo của tỉnh ủy đã rời bản vào các triền núi đá hiểm trở làm lán ở, bất hợp tác với giặc đến cùng. Trong vùng núi đá ấy, nhân dân đã sống triệt để theo quân sự hóa, cá gia đình chia thành từng tiểu đội, trung đội tương tự như bộ đội. Tất cả nam nữ thanh niên đều vào du kích. Nam thanh niên có nhiệm vụ chủ yếu là canh gác, tuần tra, đánh giặc để bảo vệ cho nữ thanh niên làm nương sản xuất. Lương thực thu hoạch được bao nhiêu đem chia đều theo đầu người. Ở đây không còn kinh tế cá thể. Mọi người gần như sống theo chế độ cung cấp, kể cả các tỉnh ủy viên cũng cùng ở với nhân dân. Khi đồng chí Xích Vân đưa toàn đội dến cũng được cấp phát mỗi đồng chí mỗi ngày một nắm xôi như tất cả những người khác trong khu căn cứ. Trước nếp sống chiến đấu rất mới mẻ ấy, các đồng chí chúng ta không khỏi thầm thán phục và hiểu ra; quản là nhân dân Tây Bắc cũng rất anh hùng.

Sau mấy ngày dừng lại ở Mộc Thượng, Mộc Hạ, toàn đội võ trang xung phong Trung Dũng tiếp tục lên đường. Lần này đi đã có thêm đồng chí Lê Thanh, đội trưởng. Toàn đội vẫn hướng về cái đích cuối cùng do Bác đã chỉ thị là Điện Biên Phủ. Tới bản A Má, một bản vẫn nằm trong vùng du kích, toàn đội dừng lại vì đươc tin địch sẽ về sục sạo khủng bố. Đồng chí Lê Thanh, Xích Vân nhất trí với nhau: phải tìm mọi cách bảo vệ dân. Sau khi điều tra biết bọn địch hay về càn không phải ai xa lạ, chính là một tên người làng hiện làm châu đoàn (chỉ huy dõng toàn châu) ở Mộc Châu. Lần nào về, gã cũng đem theo lính để lùng bắt cán bộ, quần chúng cơ sở và cướp bóc gà, lợn. Đồng chí Xích Vân, Lê Thanh bèn tìm đến nhà người em ruột của tên châu đoàn. Anh này là một thanh niên tốt. Các đồng chí ta bèn nói với anh Lò Văn Tình (em tên châu đoàn) cần phải theo dõi mọi hoạt động của tên phản quốc kia và giúp bộ đội bắt nó. Anh Tình không những không ngần ngại, mà vui vẻ nhận lời ngay. Quả nhiên hôm sau tên châu đoàn đem lính về, anh Tình đã bày mưu đưa cán bộ ta ập vào nhà bắt. Tới khi tên châu đoàn bị trói chặt, bấy giờ anh Tĩnh mới khóc: “Dầu sao nó cũng là anh em với tôi, nay đã đưa cán bộ về bắt được nó rồi, tôi chỉ xin đội tha chết cho nó, còn bắt tù bao nhiêu năm cũng được”. Rất cảm động trước tinh thần cách mạng, lòng yêu nước của người thanh niên hiền lành chất phác này, các đồng chí ta nhận lời sẽ tha giết tên châu đoàn. Lò Văn Tình mừng lắm đề nghị được đi theo đội. Về sau, dần dần anh trưởng thành, trở nên một trong những người cán bộ trung kiên, xứng đáng.

Sau khi rời A Mã, toàn đội bắt đầu đi vào vùng địch hậu theo nghĩa hoàn toàn đầy đủ của nó. Cũng bắt đàu từ đây toàn đội thay đổi chiến thuật, dùng lối :nhảy dù”: có nghĩa là dùng một bộ phận táo bạo di thật nhanh, thật sâu vào vùng tạm chiếm để tiến. Khi tới một cái đích đã định sẵn, bộ phận này mới dừng lại và tiến hành gây cơ sở. Trong khi đó bộ phận ở phía sau cứ tiến dần, vừa tiến vừa gây cơ sở hai bên đường để nối với cái đích mà bộ phận trước đã “nhảy dù” xuống. Cứ thế liên tục tiến lên, cho tới khi vào tới Điện Biên Phủ.

Đồng chí Lê Thanh được phân công trực tiếp chỉ huy bộ phận đi trước. Đồng chí Xích Vân chỉ huy bộ phận đi sau. Để che mắt địch cho dễ hoạt động và đi lại được dễ dàng, mau chóng, bộ phận “nhảy dù” nảy ra một mẹo nhỏ: giả trang làm binh lính địch về phép. Các đồng chí đã cố tìm được một bộ ka-ki giao cho một đồng chí cao lớn nhất mặc giả làm đội, còn các đồng chí khác mặc theo kiểu lính dõng. Sau khi đã giả trang, các đồng chí ta rất yên tâm có thể che mắt được địch, che mắt được cả nhân dân ha bên đường. Nhưng không ngờ qua ba ngày đi đường, các đồng chí ta đi tới đâu nhân dân cũng đều nhận ra ngay bộ đội Cụ Hò. Bởi lẽ, dù mặc giả địch, nhưng qua cách cư xử, các đồng chí ta vẫn hoàn toàn bộc lộ ra bản chất tốt đẹp của quân đội cách mạng. Đi tới đâu, các đồng chí cũng được nghe những câu nói gần giống như nhau: “Không phải Pháp ddâu! Lính của Pháp đến chỗ nào cũng đánh người, trêu phụ nữ, bắt gà, bắt lợn chỗ đó. Các anh không làm như thế, đúng là bộ đội Cụ Hồ rồi!”.

Thấy nhân dân nhận ra mình, các đồng chí ta đều lo lắng. Ai dám bảo đảm rằng quân địch sẽ không có chỉ điểm, tạo bản đến báo Pháp; “Việt Minh đã đột nhập vào vùng này?”. Thế nhưng qua ba ngày đóng vai kịch bất đắc dĩ ấy, đi qua hét bản này tới bản khác toàn đội vẫn hoàn toàn bình yên, vô sự. thâm chí có nơi tạo bản còn ra lệnh cho dân làng “không được bép xép lộ bí mật của các đồng chí!”. Một lần nữa, các đồng chí ta thêm tỉnh ngộ: trước sau nhân dân Tây Bắc vẫn một lòng yêu nước, vẫn tiến theo lá cờ của Đảng, mặc dầu vẫn đang bị địch kìm kẹp, o ép rất ngặt nghèo, khổ cực. Không một đồng chí nào không đọc được những niềm vui sướng, mừng rỡ trong ánh mắt của từng ngươi dân khi họ rụt rè đến gần và khe khẽ kêu lên: Ôi, các anh bộ đôi Cụ Hồ…”.

Sau ba ngày đi miết, các đồng chí ta tới Mường Sài, một bản ở gần sông Mã, cách biên giới Việt - Lào chẳng còn bao xa. Đây là cái đích đã được họn để cho dội “nhảy dù” cắm lại. Đồng chí Lê thanh đưa anh em vào rừng làm lán ở tạm, rồi cử một đồng chí trong đội trước đây vốn là chủ tịch Mường Sài hồi chưa bị giặc tạm chiếm trở về làn tìm cách bắt liên lạc với gia đình. Trong đôi còn có một đồng chí trước làm thư kí ủy ban một xã ở bên cạnh. Đồng chí này cũng được phái về làng gây cơ sở.

Công việc trong những ngày đầu khá trót lọt, tốt đẹp. Các đồng chí ta dựa vào các cơ sở mới được xây dựng lại, chia làm ba nhóm hoạt động rải ra một vệt dài mấy bản liền nhau từ Chiềng Khương xuống Mường Sài. Trước tình hình đó, đồng chí Lê Thanh bèn cử người ngay trở lại để đón bộ phận của đồng chí Xích Vân. Nhưng chỉ mấy hôm sau đó đã có những tin chẳng lành đưa về. Hai đồng chí đi đón bộ phận đồng chí Xích Vân đã bị địch phục kích bắn chết một. Quân địch đang tập trung để kéo về Mường Sài càn quét. Khi các đồng chí ta vừa kịp chuyển địa điểm vào trong rừng thì quả nhiên cuộc càn quét đã nổ ra. Địch bắt bớ nhân dân, lùng rừng, sục núi rất ráo riết. Tất cả các đường dây liên lạc giữa đội và cơ sở đều bị cắt đứt.

Bọn địch ở đây càn quét rất dai dẳng, có ý dồn các đồng chí ta lâm vào tình thế bế tắc. Đứng không yên nữa, các đồng chí trong đội đã buộc phải rời bỏ Mường Sài, vượt núi kéo sang một bản khác. Bản này toàn người mắc bệnh hủi. Nhưng vì lòng nhân đạo của Đảng, vì cần thiết phải có cơ sở trong nhân dân, các đồng chí ta không quản bệnh tật, bí mật lần xuống núi, tìm vào từng nhà đồng bào. Nom thấy các đồng chí ta, mọi người không khỏi ngạc nhiên và cảm động. Tất cả đều khóc “Ôi! Cụ Hồ, Chính phủ đã không ruồng bỏ những người tật bệnh như chúng tôi…, ơn này biết lấy gì đền đáp…”. Từ buổi đó, các đồng chí ta đã có một chỗ ẩn náu để hoạt động. Những cũng chẳng được bao lâu, quân địch ở Mường Sài đánh hơi thấy quân ta xuất hiện ở đây, lại kéo quân sang truy lùng dữ dội. Giữa lúc đó, bộ phận đồng chí Xích Vân ở phía sau kéo lên. Nhận thấy chưa thể tập trung được, đội vẫn phải bắt buộc phân tán, đồng chí Xích Vân đành phải đưa bộ phận của mình quay trở lại, đồng thời làm nhiệm vụ nghi binh để thu hút, đỡ đòn cho bộ phận đồng chí Lê Thanh. Kế hoạch ấy đã có hiệu quả. Bọn địch ở Mường Sài và ở bản đồng bào hủi thấy có dấu hiệu quân ta rút lui, bèn hấp ấp kéo quân đuổi theo. Thế là vòng vây được giải tỏa. Tình hình Mường Sài dần dần trở lại yên tĩnh. Nhưng cũng chỉ được ít ngày, quân địch lại từ các đồn Mai Sơn và Then Luông (trên đất Lào) kéo vào càn quét.

Trận càn quét này còn có phần còn ác liệt, dai dẳng hơn trận trước. Các đồng chí chúng ta và nhân dân địa phương lại sống những ngày cực kì căng thẳng. Tất ả các bản bị ây hặt. Không một người nào đươc phép ra rừng. Tất cả các đường mòn, khe suối đều có trạm lính gác. Các đồng chí ta bị dồn lên tận các mỏm núi cao nhất, không có một khe nước nhỏ, không có một thứ củ rừng nào có thể ăn được. Bệnh tất bắt đầu hoành hành cùng với những cơn đói kéo dài đến kiệt sức. Tất cả anh em nhìn nhau lắc đầu, muốn ứa nước mắt. Mấy hôm sau, quân ta bắt đầu rút khỏi vòng vây, đi ngược trở lại, lần tìm trở về căn cứ Mộc Thượng, Mộc Hạ…


Tiêu đề: Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng - Thượng tướng Song Hào
Gửi bởi: macbupda trong 06 Tháng Bảy, 2010, 10:27:20 am
*
*   *

Riêng đội xung phong Quyết Thắng lên đường có phần sớm hai hai đội kia một vài tuần. Hướng đi của đội theo phái Cam Đường (Lào Cai) - Phong Thổ rồi xuống Tuần Giáo, vào Điện Biên Phủ. Đội xung phong Quyết Thắng vượt sông Hồng vào một đêm tối trời, mưa tầm tã. Đặt chân sang tới bờ bên kia, toàn đội đã bắt đầu sống với núi rừng hoang vu. Các làng bản đều đã bị địch đốt cháy từ lâu. Nhân dân một phàn bị tập trung vào các chân đồn, một phần chạy tản mác vào núi. Toàn đội im hơi lặng tiếng, tìm đường để tiến vào phía Châu Quế, Vũ Lao sau đó sẽ ngược lên Cam Đường. Tất cả các con đường mòn có sẵn địch đều kiểm soát rất ngặt. Các cứ điểm ở đây hình như có pần còn dày hơn ở các vùng phía dưới. Toàn đội đã phải chiếu hướng, xuyên rừng mà đi. Gặp núi vượt núi, gặp suối lội suối, gặp khe xuống khe, phá rừng lấy đường mà đi, gian nan cực khổ không sao kể xiết. Người khỏe dìu người ốm, toàn đội nghiến răng, cố gắng bước, không một ai chịu lùi. Nhưng đến một hôm, khi toàn đội mới ra khỏi cửa rừng, chưa tới Châu Quế thì đã gặp địch. Trân đánh diễ ra rất bất ngờ. Quân địch đông gấp bội. Toàn đội phải phân tán sau những giờ chiến đấu quyết liệt. Từng đồng chí, từng bộ phận phải hái rau rừng để năm, chém gốc nứa lấy nước để uống và tìm đường quay trở lại.

Sau một thời gian củng cố, toàn đội lại vượt sông Hồng lần thứ hai, tiến vào Tây Bắc. Tuy nhiên do chưa già dặn trong công tác địch hậu, khi tới gần Châu Quế, anh em lại bị địch vây càn ráo riết. Toàn đội lại bật trở ra một lần nữa.

Thất bại liên tiếp, bệnh tật, ốm đau, hi sinh, không thực hiện được nhiệm vụ. Suốt mấy tháng đầu năm 1948, tất cả các đội võ trang tuyên truyền của liên khu đã phải trải qua những ngày lo nghĩ thật căng thẳng. Phương châm, đường lối của Đảng rất đúng, nhưng tại sao mọi việc vẫn chưa thắng lợi? Chúng tôi dần dần hiểu ra: chúng tôi vận dụng phương châm, đường lối ấy chưa thật tốt trong liên khu, chưa chỉ đạo tốt các đơn vị trong quá trình hoạt động. Chúng tôi chưa làm cho các đội thấm nhuần sâu sắc, triệt để phương châm của Đảng, nên các đội thường quên nhiệm vụ gây cơ sở, thiên về tác chiến với địch. Có đội quên cả nguyên tắc công tác bí mật. Bệnh “công khai” còn rất nặng nề. Điều này hoàn toàn trái với phương pháp hoạt động võ trang tuyên truyền,. Tổ chức của các đội cũng chưa thật thích hợp vơi đặc điểm của chiến trường Tây Bắc. Nói chung tổ chức các đội còn nặng nề, cồng kềnh và thiếu rất nhiều cán bộ người dân tộc địa phương. ngoài ra, các cán bộ, đôi viên của các đội đều chưa được huấn luyện tốt. Tất cả hầu như chỉ mới có được một điều cơ bản là lòng trung hành và tận tụy.

Liên khu ủy, Bộ tư lệnh quân khu đã nghiên cứu rất kĩ toàn bộ những vấn đề đó rồi đề ra chủ trương: phải nhanh chóng củng cố lại các đội tăng cường tới mức cao nhất cán bộ người dân tộc địa phương. Việc tổ chức huấn luyện luân chuyển cho cán bộ, đội viên của các đội cũng được đặt ra một cách khẩn trương.

Một hội nghị chuyên về công tác võ trang tuyên truyền của liên khu đã được mở ra dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Quân khu ủy. Trên bộ cũng rất quan tâm tới hội nghị này. Đồng chí Văn Tiến Dũng thay mặt bộ xuống tham dự hội nghị. Có thê coi đây là một lớp học sống. Biết bao nhiêu thiếu sót, khuyết điểm đã được vạch ra và phân tích cặn kẽ. Khá nhiều kinh nghiệm bổ ích đã được đúc kết lại thành những bài học, những nguyên tắc để tiến lên giành thắng lợi. Cũng từ cuộc hội nghị ấy niềm tin tưởng đã được dần dần nâng cao. Những tâm lí bi quan, dao động đã đọc dần dần giải quyết.

Lại một lần nữa, chúng tôi đem hết tâm lực của mình ra chăm sóc cho các đội để anh em lại có thể mau chóng quay trở vào Tây Bắc.


Tiêu đề: Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng - Thượng tướng Song Hào
Gửi bởi: macbupda trong 06 Tháng Bảy, 2010, 10:29:05 am
V

Cũng trong thời kì các đội võ trang tuyên truyền hoạt động, những đại đội độc lập của liên khu đã phải trải qua rất nhiều khó khăn gian khổ. Các đại đội phải phân tán thành từng tổ nhỏ, “nhảy dù” vào lòng địch. Hàng tháng trời, các chiến sĩ phải ẩn náu trong rừng, chịu đựng đủ mọi gian nan, nguy hiểm. Có những nơi bị địch tuyên truyền lừa gạt, nhân dân thấy bóng cán bộ là lẩn trốn. thậm chí có nơi đã có người đi báo quân Pháp về vây bắt, hoặc vác dao đuổi giết. có những nơi nhân dân không nghe những lời xảo trá, xuyên tạc của địch nhưng lại sợ uy thế củ chúng, nên gặp bộ đội chỉ đành ứa nước mắt, rồi đề nghị hãy tạm lánh đi nơi khác, kéo địch biết, kéo về khủng bố. Trong tình hình nhân dân khó khăn phức tạp thì địch lại luôn luôn vây lùng dữ dội. Chúng treo giải thưởng lớn cho những ai cắt được đầu cán bộ, bộ đội. Chúng phục kích trên các nẻo đường, lần theo khắp các khe suối. Đã có một số đồng chí ta bị bắt hoặc bị giết. có đồng chí bị lạc chạy hàng tháng trong rừng sâu, phải ăn lá cây cầm hơi.

Nơi ở của các chiến sĩ thường là những gốc cây, hang đá. Nhưng vẫn phải luôn luôn di chuyển. Có nhiều khi đang đêm cũng phải trở dậy để thay đổi vị trí. Anh em đã phải chịu đựng những cơn mưa rừng tầm tã, những đợt gió lạnh nhức xương, những cơ suốt rét ác tính làm mê man bất tỉnh mà không có một giọt hồ, giọt cháo, chưa nói tới thuốc men.

Gian khổ như vậy, nhưng tất cả các chiến sĩ đã thâm nhuần chủ trương của Đảng, với bản chất cách mạng cao đẹp, vẫn kiên trì bám rừng, bám núi dể tiến tới bám được nhân dân mà hoạt động. Nói tới những đại đội độc lập vinh quang ở trên các miền Hà Giang, Lào Cai, Yên Bái phải nơi tới đại đội Thắng Bình, thuộc trung đoàn X. Từ Lao - Hà rút trở về vùng Phố Ràng vào thu đông năm 1947, đại đội Thắng Bình là một trong những đại đội độc lập đầu tiên được thành lập của liên khu. Trong những ngày thoạt vào rừng Lương Sơn, đại đội Thắng Bình phải phân tán trong rừng sâu nghe ngóng một thời gian sau đó mới lần ra nương để tìm gặp dân. Nhưng vừa nom thấy bóng quân ta, đồng bào đã vội vã bỏ chạy, mặc dầu nương lúa đã vàng hoe, sắp đến ngày gặt hái. “Cái giặc nó về đấy!”. Các đồng chí ta lòng xót như xát muối, đành đứng lại để nguyền rủa bọn giặc Pháp quỷ quyệt để xuyên tạc, lừa bịp nhân dân đến nông nỗi ấy. Nhưng không hề nản chí, thấy nhân dân bỏ nương chạy, các đồng chí bèn bảo nhau chông nom, vun xới, rào lại cho thú rừng khỏi phá hoại. Khi lúa chín, các chiến sĩ ta gặt hái, gánh về làm lán cất giấu cho nhân dân thật chu đáo. Từ cái máng nước bị hỏng, mảnh nương chưa có người làm cỏ, cho tới con đường ra suối lầy lội… Tất cả đều có những bàn tay ân cần, khéo léo của các đồng chí ta mó tới sửa sang, làm hộ. Những gia đình nghèo khổ thường xuyên nhận được những bức thư thăm hỏi, có kèm theo kim chỉ hay muối trắng. Tất cả những hành động ấy dần dần đã lọt vào trong mắt nhân dân, làm cho mọi người phải suy nghĩ, bàn tán. Đồng bào bắt đầu thấy thương những “người tốt bụng” ấy phải ở rừng, ở núi, không có cơm ăn, nước uống tử tế. Đồng bào bắt đầu hiểu được: đây không phải là giặc như quân Pháp đã nói. Người ta dần dần nhớ lại tất cả những chuyện trong những nbgày còn tăm sối xưa. Trước đây “những người này” kéo về với lá cờ đỏ sao vàng, đã làm cho dân biết bao điều tốt. Không! Họ quyết không phải là giặc rồi! Ngày xưa, mọi người vẫn quen gọi là Việt Minh, là bộ đội…

Một hôm, một tổ của đơn vị ra nương thấy có gói cơm nếp và mấy bắp ngô để lại. Hôm sau lai thấy như thế. Anh em đón đợi và gặp một cụ già… Từ đó, đại đội bắt đầu có cơ sở quần chúng đâu tiên, rồi dần dần phát triển lên mãi, từ gia đình này tới gia đình khác.

Tình hình khá lên hẳn. Các hình thức đấu tranh với địch như: chống đi phu, chống nộp thuế, chống bắt lính bắt đầu được triển khai và đẩy mạnh. Sau đó, các đội du kích được thành lập. du kích hoạt động vũ trang đã tới. Chi bộ đại đội nhận chỉ thị mới của liên khu phải nắm vững phương châm “đẩy mạnh du kích chiến”, cho nên đã đấu tranh thắng lợi với những tư tưởng “ăn to, đánh lớn” và nhất là tư tưởng trận địa chiến còn khá nặng nề trong đầu óc nhiều đồng chí cán bộ. Sau đó chi bộ chủ trương lãnh đạo bộ đội đánh một trận phục kích nhỏ trên đèo Mã Yên Sơn để lấy thực tế giải quyết triệt để moi vướng mắc, hồ nghi còn tồn tại. Lúc này địch đang xây ứ diểm Phố Lu và các cứ điểm vừa chiếm được. Chúng phải luôn luôn di chuyển trên các đường giao thông để tiếp tế lương thực cho nhau. Trận Mã Yên Sơn tuy nhỏ, nhưng đã giết gọn được dăm tên dõng, thu được một số chiến lợi phẩm. Thắng lợi đầu tiên ấy đã làm cho tinh thần chiến sĩ và nhân dân đều phấn chấn hẳn lên. Chi bộ đại đội lại chủ trương chuẩn bị kĩ để đánh tiếp một trận nữa ở Cốc Chiếm.

Trận phục kích nhỏ lần này đã thắng lợi giòn giã, chiến lợi phẩm gồm một súng trường Mỹ, hai mũ sắt, hai con bò và một túi đầy thư từ. Bắt đầu từ đó, các chiến sĩ trong đại đội mới thực sự biết thế nào là đánh du kích và đánh du kích tốt như thế nào.

Không đầy nửa tháng sau, đại đội lại đi phục kích địch ở làng Bon. Cả đại đội đi với mục đích để anh em “tham quan”, còn thực sự tham gia chiến đấu chỉ có một trung đội bố trí rất kín đáo tại một vị trí rất bất ngờ và hiểm trở. Ta lại thắng lợi. Thu hai súng Mỹ, đạn Mỹ và lương thực của Mỹ.

Từ bấy giờ cho sang tới cuối tháng 5 năm 1948, đại đội liên tiếp đánh nhiều trận khác, tính ra trong ba tháng đại đội đánh mười trận phục kích, hai mưoi trận bắn phá. Đơn vị huấn luyện được liên tiếp ba bốn lớp dân quân. Mặt khác, anh em địa phương cũng nô nức xin đi theo đại đội. Bắt đầu từ đó, đơn vị có anh em người địa phương. Phong trào mỗi ngày một lên cao và mở rộng. Đã có những xã bộ độ ta đi lại hoạt động công khai giữa ban ngày, trong khi các xã chung quanh địch vẫn còn kiểm soát.

Tới đầu mùa hạ, quân địch củng cố xong các vị trí, chúng đưa quân từ Lào Cai về thêm, đánh tràn qua vùng Lương Sơn, rồi chiếm đóng các làng chung quanh như Tổng Già, Khe Pịa, Ngòi Mác, Nủ, Trí Ngoại, xuống tới cả Bến Cóc… Chúng đã chọc thủng hết khu vực hoạt động và căn cứ của đại đội Thắng Bình. Cơ sở vỡ lung tung. Cso đồng chí đã lo lắng phát biểu: “Nếu không rút về Lục Yên Châu, chúng nó sẽ bắt gọn không còn một người”. Trong tình hình ấy, chi bộ đại đội lại đấu tranh để nắm vững đường lối của Đảng và nhiệm vụ của cấp trên giao phó, kiên quyết chủ trương không rút và đã tìm ra được mọt biện pháp rất tích cực để phá tan âm mưu và kế hoạch vây quét của địch. Chi bộ nêu khẩu hiệu “Đánh ngay vào bụng giặc” và khẳng định ; quân giặc muốn đông thế nào cũng không thể diệt mổi một đại đội độc lập của chúng ta.

Thừa lúc chung đang rầm rộ tỏa xuống để vây càn ở đây, ta phải kiên quyết, dũng cảm, bí mật luồn lên, thúc sâu vào vùng kiểm soát của chúng.

Sau đó, toàn đại đội đã phân tán ra nhiều tổ, đi làm nhiều ngả, tiến vào vùng chung quanh Phố Ràng, Bảo Hà, Bắc Cường và ngược lên nữa. Cuộc hành quân rất gian nan, vất vả, nhưng tư tưởng đã được thông suốt nên tất cả các bộ phận đều hăng hái luồn rừng, vượt núi, đi đêm, đi ngày không nghỉ. Trận đầu tiên của đại đội là trận phục kích Khe Pịa ngày 6 tháng 6 năm 1948. Trận này ta thu được một cặp tài liệu quý của chính tên đồn trưởng dồn Phố Ràng. Máy ngày sau đó, bộ phận thứ hai của đại đội lại đánh ở Dốc Sài. Chỉ có một quả mìn nhỏ chôn ở mặt đường và một ổ phục kích, quan ta đã giết được ba tên địch, thu một số súng, có cả khẩu trung liên còn mới nguyên.

Các bộ phận khác tiến hẳn vào các vùng sau lưng Phố Ràng để phá ngụy quyền. Quân ta đi tới đâu, ngụy quyền bị tan rã tới đó. Trong hơn hai tháng, đại đội đã đánh được ba mươi trận phục kích, hai mươi trận bắn phá vị trí; về chính trị, đã tranh thủ được nhân dân ở khắp các làng trong vùng địch giữa ranh giới ba tỉnh Lào Cai, Hà Giang, Yên Bái.

Cam Pan - chỉ huy trưởng tiểu khu Phố Ràng không dám mải mê với công cuộc càn quét quy mô nữa. Gã đã bị lạnh gáy và khi quay cổ lại thì thấy ở sau lưng mình đối phương đã làm cho xáo trộn, nghiêng ngả. Cực chẳng đã, Cam Pan phải ra lệnh rút quân bỏ Bến Cốc, bỏ Nủ, bỏ Trì Ngoại…; bỏ tất cả những nơi vừa chiếm được, tức tốc quay về củng cố lại Phố Ràng. Tình hình trở lại y nguyên như cũ tạo thêm nhiều điều kiện thuận lợi cho quân ta hoạt động tốt hơn.


Tiêu đề: Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng - Thượng tướng Song Hào
Gửi bởi: macbupda trong 06 Tháng Bảy, 2010, 10:31:31 am
*
*   *

Đại đội Kim Sơn Cùng với đội võ trang tuyên truyền xung phong Quyết tiến hoạt động ở vùng Nghĩa Lộ, Than Uyên, Tú Lệ. cũng giống như đại đội Thắng Bình, đại đội Kim Sơn là một trong những đơn vị xuất sắc ở bên hữu ngạn sông Hồng. Đại đội đã giác ngộ được một người thuộc tầng lớp trên của dân tộc Mèo (viên thống lí ở Trạm Tấu) do đóc công tác gặp khá nhiều thuận lợi, gây được nhiều cơ sở rất tốt ở vùng bản Liu, bản Hát, Trạm Tấu… Sự thành công lớn nhất và cũng là đặc điiểm nổi bật nhất của đại đội này là chi bộ đã biết nắm vững phương châm hoạt động của Đảng đề ra, lãnh đạo bộ đội tổ chức được cả một vùng đồng bào Mèo thành một vùng cơ sở rất vững, có những đội du kích giỏi, mà nổi tiếng nhất là đội du kích trên dãy núi Cao Phạ. Đội du kích anh hùng này đã hiên ngang giữ vững dải núi hùng vĩ ấy suốt tám năm kháng chiến. Đường liên lạc giữa Than Uyên - Nghĩa Lộ của địch thường xuyên bị anh em cắt đứt. Đường từ Nghĩa Lộ đi Mù Cang Chải cũng luôn luôn bị uy hiếp. Có những gia đình cả hai anh em cùng tham gia du kích và chiến đấu cùng hăng hái, bền bỉ như nhau: đó là hai anh em ông Giàng Phố Kỷ. Người đội trưởng đầu tiên của đội là ông Súng Tu, sau đó là đồng chí Lý Nụ Chu. Lúc ấy trong đội vẫn chưa có chi bộ Đảng, đội hoạt động theo sự lãnh đạo của các đồng chí đảng viên bên quân đội và họ chỉ biết rằng Đảng là Cụ Hồ, Cụ Hồ là Đảng. Cụ Hồ bảo tức là Đảng bảo, cứ thế mà làm… Trong lịch sử chiến đấu của đội chỉ có một lần chín đội viên bị địch bắt. Nhưng cả chín đội viên ấy khi bị giải về Nghĩa Lộ đã lấy súng của giặc, bỏ trốn về đầy đủ, không những thế còn tháo cửa nhà giam để cho một số đông nhân dân bị địch bắt cũng trốn được. Có lúc bị địch vây càn lớn, đại đội Kim Sơn hoạt động xa, toàn đội du kích Cao Phạ đã mất liên lạc hoàn toàn với Đảng, với chính quyền, với quân đội nhưng vẫn tuyệt đối trung thành, kiên trì chiến đấu liên tục. Cho đến khi trở về, các cán bộ không khỏi ngạc nhiên khi thấy toàn đội du kích ây vẫn kiên trì hoạt động chiến đấu và đã thu được nhiều thắng lợi.

Tôi đã nói tới những thành công bước đầu ở một, hai trong số rất nhiều đại đội độc lập của liên khu. Tuy nhiên cũng phải nói thêm rằng trong thời kì đầu, các đội không phải không gặp khá nhiều sai lầm do trình độ nhiều mặt còn non yếu, chẳng khác gì những đội võ trang tuyên truyền. Ngay chính bản thân đại đội Thắng Bình trong thời kì đầu cũng đã có nhiều lần không nắm vững phương châm hoạt động, đã đem cả hai trung đội đi cường tập Phố Ràng, không những không diệt được dồn mà còn bị tổn hại dến sinh lực, cơ sở. Đại đội Kim Sơn cũng vậy, sau khi vào Tú Lệ gây được cơ sở tốt, lập được chính quyền, sinh ra chủ quan. Địch bất ngờ tấn công, cả đại đội lao đao, phải rút ra vùng tự do, cơ sở tan vỡ một phần lớn. Ở Yên Bái, Sơn La, các cấp ủy địa phương cũng có những chủ trương không đúng như đưa một đại đội độc lập ra vùng tự do để củng cố. Đến khi củng cố xong quay trở vào thì các cơ sở đã bị địch phá tan hoang.

Liên khu ủy, Bộ tư lệnh liên khu đã chăm lo tới việc củng cố, chỉ đạo cá đại đội độc lập không kém gì các độ võ trang tuyên truyền. Đối với các tiểu đoàn tập trung cũng vậy. Cả ba hình thức tổ chức ấy đều liên quan rất chặt mật thiết với nhau, cái nọ hỗ trợ cái kia cùng phát triển. Điều chăm lo trước hết vẫn là tăng cường công tác Đảng, công tác chính trị. Sinh hoạt Đảng của tất cả các đội đều được chỉ đạo chặt chẽ. Do đặc điểm của chiến trường rừng núi của liên khu, do đặc diểm hoạt động phân tán của các đội cho nên chúng tôi đã chú trọng xây dựng, bồi dưỡng các chi bộ có trình độ tự động, độc lập công tác. Làm như vậy nhằm tạo cho mỗ chi bộ khi đi sâu vào vùng địch hậu, dù mất liên lạc với khu vẫn tiếp tục lãnh đạo bộ đội theo đúng phương châm, đường lối của Đảng, giành lấy thắng lợi. Công tác chính trị cũng tập trung xây dựng cho mỗi cán bộ, chiến sĩ có tinh thần cách mạng tốt, tin tưởng ở quần chúng, chịu đựng gian khổ, đoàn kết và kỉ luật, quyết tâm làm tròn nhiệm vụ.

Với tất cả những bài học đã có từ khi xây dựng, chỉ dạo các đội võ trang tuyên truyền, Cứu quốc quân hồi tiền khởi nghĩa tới nay đã trải qua những vấp váp, thất bại đầu tiên, quân khu càng tích lũy thêm được những kinh nghiệm xương máu và càng hiểu sâu sắc bí quyết, điều mấu chốt đê lãnh đạo các lực lượng vũ trang xây dựng chiến đấu giành lấy thắng lợi. Cũng chính vì thế mà công tác tổng kết kinh nghiệm của Liên khu 10 rất được coi trọng ngay từ khi những ngay đầu. Mùa hè năm 1949, Liên khu 10 đã đóng góp kinh nghiệm của mình trong hội nghị chính trị viên toàn quốc bằng hai bản báo cáo tổng kết: Chỉ đạo tự động công tácVõ trang tuyên truyền, đại đội độc lập.


Tiêu đề: Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng - Thượng tướng Song Hào
Gửi bởi: macbupda trong 06 Tháng Bảy, 2010, 10:32:09 am
VI

Thực tế ngày càng chứng minh một cách rõ ràng cụ thể rằng: nhân dân Tây Bắc trước sau vẫn mọt lòng hướng theo cách mạng, quyết tâm đi theo Đảng. Nhân dân Tây Bắc đã bao nhiêu năm nay rất cực khổ. Gờ đây ngọn cờ giải phóng của Đảng giương lên đúng lúc, chẳng khác gì mặt trời mọc lên chói lọi giữa đêm tối. Thực tế đã làm cho chúng tôi hiểu sâu sắc thêm: quần chúng hướng theo cách mạng, đi theo Đảng thì đôi ngũ cán bộ của Đảng càng phải mạnh mẽ. Chính nhờ có đội ngũ cán bộ mạnh mẽ mà Đảng có quần chúng và giác ngộ, phát động được quần chúng đấu tranh. Tới khi phong trào quần chúng đã lên cao, đội ngũ cán bộ lại càng phải đông đảo hơn và mạnh mẽ hơn Trước kia, khi chưa có chính quyền trong tay, còn gặp rất nhiêu khó khăn, Đảng ta đã quyết tâm xây dựng đội ngũ cán bộ hùng hậu, các đồng chí cán bộ đã quyết tâm tu dưỡng, rèn luyện mình để trở thành cán bộ của Đảng. Quán triệt những bài học ấy, Liên khu 10 đã rất quan tâm tới công tác đào tạo và bồi dưỡng lực lượng cán bộ.

Trong toàn liên khu có tới sáu trường lớn: trường Đảng, trường Nguyễn Huệ (bổ túc, đào tạo cán bộ đại đội), trường Hoàng Hữu Nam (bổ túc, đào tạo cán bộ trung đội), trường đào tạo cán bộ tiểu đội và một trường thiếu sinh quân. Ngoài ra còn có một trường bổ túc cho cán bộ huyện đội và một lớp huấn luyện luân chuyển cho cán bộ, chiến sĩ cá đội võ trang tuyên truyền.

Trong khi trên tiền tuyến, các đội võ trang tuyên truyền, các tiểu đoàn độc lập vẫn lăn lộn chiến đấu thì ở hậu phương liên khu, các nhà trường đều đặn hoạt động giống như những guồng máy của một xí nghiệp khổng lồ. Trong các nhà trường, theo chủ trương của liên khu, thành phần cán bộ dân tộc ít người ở miền núi đã chiếm một tỉ lệ khá cao, có không ít các chiến sĩ người dân tộc được giao nhiệm vụ làm cán bộ và đưa về các trường để bổ túc bồi dưỡng thêm. Mỗi khi tới dự khai giảng hoặc mãn khóa một lớp học, chúng tôi cùng các đồng chí Bùi Quang Tạo, Vũ Dương cùng các đồng chí khác trong Khu ủy lại thường ôn lại với nhau những kỉ niệm trước đây trong nhà tù. Ở trong những nhà tù cực khổ ấy, các đồng chí ta tay đèo xiềng, chân mang cùm, án chém lơ lửng trên đầu mà vẫn rất lạc quan, tin tưởng ở tiền đồ sáng lạn của dân tộc, của giai cấp. Các đồng chí ta đã biến nhà tù thành trường học, mặc dầu thiếu thốn đủ mọi thứ và địch lại ra sức ngăn cản. Lòng ham học, tinh thần lạc quan, nghị lực của các đồng chí ta đã làm cho nhiều tên chúa ngục phải kinh ngạc kêu lên: “Thật là những con người kì lạ”. Bây giờ hoàn cảnh đã đổi khác, Đảng ta đã có biết bao nhiêu trường sở. Các học viên giờ đây, dù kháng chiến còn gian khổ cũng đã có bàn tre, ghế gỗ để ngồi… Bây giờ không còn phải giấu giếm, không một ai ngăn cản được đảng viên ta dạy dỗ lẫn nhau và truyền đạt lại cho quần chúng tất cả nhữn tư tưởng lớn lao vô địch và nhân đạo của chủ nghĩa Mác - Lênin.

Lớp học này tốt nghiệp xong, lớp khác lại được triệu tập. Cứ thế, đều đặn các nhà trường của liên khu đã góp phần tôi luyện nên những người cán bộ vững vàng để tung ra mặt trận. Một đội ngũ cán bộ đông đảo của liên khu đã hình thành dần dần và đã làm tròn trách nhiệm của mình trước Đảng, trước nhân dân một cách xứng đáng.


Tiêu đề: Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng - Thượng tướng Song Hào
Gửi bởi: macbupda trong 06 Tháng Bảy, 2010, 10:34:02 am
VII

Cuối năm, tính thời gian từ khi các đội vũ trang tuyên truyền được tung trở lại Tây Bắc và các đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung được uốn nắn lại các siai lầm cho tới nay cũng chưa quá sáu tháng nhưng tình hình đã sáng sủa trông thấy. Các tin thắng lợi được liên tiếp báo về. Đội xung phong Trung Dũng đã kiên trì giác ngộ nhân dân, tổ chức, củng cố cơ sở, tiến tới sát bờ sông Mã và có bộ phận đã gần tới địa phận châu Điện Biên. Đội xung phong Quyết Tiến đã vào tới Tuần Giáo. Đội xung phong Quyết Thắng đã xuống tới Quỳnh Nhai, đội xung phong Tây Bắc đã tới biên giới Việt - Lào… Các đại đội độc lập cũng hoạt động rất tốt, xây dựng được nhiều khu căn cứ du kích vững chắc ở vùng Mường Bó (phía dưới Cam Đường- Lào Cai), Kim Nọi - Bản Kết (gần Quỳnh Nhai), Bảo Lạc (dưới phía nam Nghĩa Lộ) và Mường Hung (biên giới Việt - Lào).

Đến cuối năm, cơ sở ta đã mở rọng được hơn một vạn rưởi cây số vuông, với mấy nghìn đồng bào Mèo và hàng vạn đồng bào Thái cùng đồng bào các dân tộc ít người khác. Những cuộc tổng phá tề đã được mở ra rộng rãi và thu được những thắng lợi giòn giã. Một số đồn lẻ đã bị các tiểu đoàn tập trung, đại đội độc lập tiêu diệt hoặc bức rút. Khối ngụy quân rạn nứt trông thấy. Đã có từng đơn vị tiểu đội, trung đội ngụy vác súng chạy ra xin hàng.

Trước tình hình ấy, bọn Pháp bắt đầu hoang mang lo sợ. Chúng đã buộc phải rút dần một số đồn nhỏ để lập những cứ điểm lớn và những đội quân cơ động ứng cứu cho các vi trí bị tập kích, hoặc đi càn quét những vùng có phong trào kháng chiến nổi dậy. Các mâu thuẫn khủng khiếp và không sao giải quyết nổi của giặc Pháp đã hình thành bắt đầu từ đấy. Đó là mâu thuẫn giữa tập trung và phân tán, giữa chiếm đóng và cơ động. Muốn chiếm đóng phải rải quân, nhưng rải quân thì dễ bị tiêu diệt. Muốn tránh bị tiêu diệt phải tập trung quân. Nhưng tập trung quân lại phải bỏ vị trí, không thực hiện được việc chiếm đóng đất đai. Thật là khó xử!

Các vùng cơ sở, căn cứ du kích của ta đã làm cho các cứ điểm của địch bắt đâu trở thành những hòn đảo cô lập. Chiến thuật “vết dầu loang” đã hiển nhiên bị giảm tác dụng! Bi Gia - một tên sĩ quan vào loại giỏi trong quân đội nhà nghề của Pháp chuyên hoạt động ở Tây Bắc đế đến lúc lo sợ, hoảng hốt kêu lên: “Chúng ta dã bị giam trong các vị trí mất rồi!”.

Tây Bắc như bừng sáng trở lại sau những đêm dài tăm tối. Cố nhiên đây mới chỉ là bình minh của thắng lợi.

Bước sang năm 1949, đà thắng lợi càng tăng lên. Rõ ràng khi đã có đường lối đúng và tổ chức thưc hiện tốt, không có đỉnh cao nào chúng ta không thể vươn tới, không có tình hình khó khăn nào là không có thể xoay chuyển lại được. Tháng 1 năm 1949, trước sự trưởng thành mơi, liên khu đã chủ trương mở chiến dịch Sông Đà. Chiến dịch này kết quả rất ít, chỉ tiêu hao được một số sinh lực địch, nhưng đã làm cho tinh thần bộ đội, nhân dân rất tin tưởng, phấn khởi vì thấy đây là một dấu hiệu báo rằng: cái thời kì long đong, khốn khổ dưới gót sắt của giặc đã chấm dứt… Sang tháng 2 năm 1949, chiến dịch Lào - Hà được mởi tiếp. Đồng thời, chiến dịch Sơn La và chiến dịch tây nam Phú Thọ cũng được mở màn. Cả ba chiến dịch cùng gần như song song tiến hành. Bọn địch ở Tây Bác kêu la lên “Việt Minh đã giành lại được quyền chủ động”.

Tháng 5 năm 1949, bộ đội của liên khu tham gia chiến dịch Sông Thao cùng hai tiểu đoàn chủ lực của Bộ (Tiểu đoàn 54, Tiểu đoàn 11). Đồng chí Lê Trọng Tấn - Tư lệnh phó liên khu trực tiếp làm chỉ huy trưởng mặt trận. Chiến dịch này đã thu được nhiều thắng lợi giòn giã. Cùng tháng 5 năm 1949, bộ đội của liên khu lại tham gia chiến dịch Sông Lô II cùng súa tiểu đoàn trực thuộc của Bộ, phá tan kế hoạch Pô-mô-nơ của Pháp trên dọc bờ sông Lô lịch sử. Đồng chí Bằng Giang làm Tư lệnh mặt trận này. Chiến dịch Sông Lô II cũng đã thắng lợi.

Tháng 11 năm 1949, chiến dịch Lào - Hà lại mở tiếp. Các đơn vị của liên khu đã tập kích quyết liệt vào Nghĩa Lộ, Yên Bình Xã. Kết quả: đồn Yên Bình Xã phải rút chạy.

Cuối tháng 11 năm 1949, chiến dịch Sông Mã - một chiến dịch mở ra đúng lúc địch ở biên giới Việt - Lào đang hoang mang, đã thắng lợi khá gòn giã: tiêu diệt hoàn toàn một số cứ điểm địch, gây ảnh hưởng lớn đối với chiến trường Bắc Lào, tạo điều kiện thuận lợi cho các đồng chí bộ độ Pa-thét Lào tăng cường và mở rộng hoạt động.

Tháng 2 năm 1949, tham gia chiến dịch đánh địch ở Hòa Bình, bộ đội của liên khu đã tiêu diệt gọn được một đại đội Lê Dương tinh nhuệ.

Năm 1949 có thể nói là một năm ta mở chiến dịch liên tục: chiến dịch do liên khu mở, chiến dịch do Bộ mở, liên khu tham gia. Mặc dầu trình độ kĩ thuật, chiến thuật còn kém, trang bị rất thiếu thốn, chưa tiêu diệt được thật nhiều sinh lực địch, nhưng bộ đội của liên khu đã gây được những tác động không nhỏ về chính trị, quân sự. Cũng trong năm 1949, từ tháng 5, liên khu đã tập trung được hai mươi bảy đại đội trở về để xây dựng lại các trung đoàn chủ lực, căn cứ theo chủ trương, phương châm mới của Đảng. Tôi còn nhớ khi thực hiên chủ trương ấy của Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh cũng đã nảy ra nhiều cuộc tranh cãi gay gắt trong hàng ngũ cán bộ của Tây Bắc. Có đồng chí cho rằng địch còn mạnh, còn đủ sức để thực hiện chiến thuật “vết dầu loang’. Có đồng chí cho là lực lượng vũ trang địa phương còn quá non yếu, chưa đủ sức giữ vững phong trào. Có đồng chí lo xa hơn, rút bộ đội về tập trung, khéo lại phạm sai lầm như năm 1948, lại mất đất bỏ dân, lại từ hữu sang tả… Liên khu ủy đã kiên trì giải thích để anh em hiểu: sự so sánh lực lượng giữa ta và địch đã thay đổi, ta đã mạnh lên, địch ngày càng suy yếu. Địch không đủ sức vừa rải quân ra chiếm đóng, bình định trong vùng tạm chiếm, vừa đi cướp thêm đất của ta như trước nữa. Hiện nay địch đang co về phòng ngự để tránh đòn của quân dân ta tiến công cả ở hậu phương, cả ở tiền tuyến. Trong khi đó, chiến tranh du kích của ta đã phát triển rộng khắp, bộ đội địa phương đã lớn mạnh; nếu không rút những đại đội độc lập và xây dựng thành những lực lượng tập trung lớn hơn thì không thể đánh được những trận lớn, mở những chiến dịch lớn, tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch để làm thay đổi sự so sánh lực lượng giữa ta và địch mau chóng hơn. Nói tóm lại nếu không xây dựng được chủ lực mạnh thì không đẩy mạnh được vận động chiến tiến lên như phương châm mới của Đảng đã đề ra. Cuối cùng, sau những cuộc đấu tranh khá gay go, tất cả các cán bộ trong liên khu mới nhất trí. Và sau đó, khi rút hai mươi bảy đại đội độc lập về, quả như nhận định của Liên khu ủy, bộ Tư lệnh liên khu, phong trào ở các địa phương vẫn hoàn toàn vững chắc, không những thế có nơi lại tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn trước.

Năm 1949. Suốt cả năm, liên khu sôi nổi không khí chiến đấu và dồn dập tin thắng lợi. Trong cuộc hội nghị cuối năm kiểm điểm công tác của liên khu trong ba năm chiến đấu, báo cáo của Liên khu ủy và Bộ tư lệnh quân khu đã có những nhận định rất quan trọng: “… Tình hình đen tối của năm 1947 đã hoàn toàn chấm dứt. Về cư bản liên khu đã thực hiện được chỉ thị của Đảng: biến hậu phương địch thành tiền phương ta làm cho chiến thuật “cứ điểm nhỏ, vết dầu loang” của địch đã giảm sút và đang dần dần đi tới mất hết tác dụng. Mộng của chúng khép chặt biên giới Việt - Lào, Việt - Trung đã gặp nhiều khó khăn. Âm mưu của chúng định dùng nhân lực, vật lực của Tây Bắc để theo đuổi chiến tranh đã bị phá vỡ về cơ bản… Ở Tây Bắc, ta từ thế bị động hoàn toàn đã tiến sang chủ động ở nhiều mặt trận. Trước kia ta bị địch bao vây, bây giờ tình hình đã đổi ngược lại, địch bị ta vây hãm. Công cuộc xây dựng căn cứ địa Tây Bắc theo chỉ thị của Đảng đã thành công một phần lớn…”.


Tiêu đề: Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng - Thượng tướng Song Hào
Gửi bởi: macbupda trong 07 Tháng Bảy, 2010, 08:23:33 am
*
*   *

Mùa xuân 1950. Chiến dịch Sông Mã thắng lợi làm rung chuyển cả phòng tuyến quân địch ở suốt dọc biên giới Việt - Lào, vang dội sang cả chiến trường Bắc Lào. Theo chủ trương mới của Đảng, mặt trận Tây Bắc đã được thành lập(1). Tôi cùng một số cán bộ chính trị, tham mưu đi vào Tây Bắc để tìm hiểu tình hình chiến trường và giải quyết một số vấn đề về tổ chức. Vì cuộc hành quân xa xôi, lại đi qua một số nơi chưa phải đã hoàn toàn giải phóng, hoặc chưa quét sạch phỉ, cho nên chúng tôi phải tổ chức thành bộ đội hành quân chiến đấu, đồng thời phải mang khá nhiều lương thực và vật dụng đi theo. Ngoài trang bị vũ khí ra, chúng tôi còn có điện đài, đèn bão, cà mèn, lều vải… lỉnh kỉnh, hai con ngựa thồ không hết.

Chúng tôi từ Phú Thọ vượt sông Hồng, đi theo hướng Đồn Vàng để sang Vạn Yên (Sơn La). Qua sông Hồng được một chặng, đường đi bắt đầu rậm rạp, gập ghềnh. Đất Đồn Vàng trước đây vẫn là đất tạm chiếm gần đây mới được giải phóng nhưng thỉnh thoảng địch vẫn từ đất Sơn La chọc sang quấy rối. Buổi chiều hôm ấy, cả đoàn chúng tôi đang đi, sắp tới Đồn Vàng thì thấy một số dân từ phía trước chạy lại, tưởng có địch, anh em vệ binh của đoàn dừng lại bố trí. Nhưng một lúc sau hấy một đoàn dân công kũ kịt gánh gạo đi tới. hỏi ra mới biết anh chị em đang đi tiếp tế cho chiến dịch Lê Lợi. ngày hôm sau, vượt Dốc Bụt, chúng tôi sang đất Sơn La.

Càng đi càng thấy sự bao la, hiểm trở, càng thấy rõ mọi vẻ đẹp kì diệu của núi rừng Tây Bắc. Việt Bắc có sự hấp dẫn khác thì Tây Bắc cũng có không khí riêng, vẻ mặt riêng biệt hùng vĩ của nó. Càng đi, càng hiểu thấm thía hơn mọi bước đường gian lao và vô cùng anh em, kiên cường của các đội võ trang tuyên truyền, đại đội độc lập đã trải qua. Càng đi càng hiểu nhiều điều cụ thể hơn. Đồng bào Tây Bắc rất đáng mến, chỉ trừ một số người thuộc tầng lớp trên, còn tất cả đều đi theo cách mạng, căm thù giặc, yêu Tổ quốc thiết tha. Lòng yêu Tổ quốc, tin tưởng cách mạng đã thể hiện rất giản dị và cụ thể ở lòng tin yêu, ủng hộ cán bộ, bộ đội.

Đoàn chúng tôi phần nhiều đi ban ngày vì vùng giải phóng đã rộng lên. Đi tới đâu chúng tôi cũng được nhân dân các bản (vẫn tản cư ở trong rừng) tiếp đón ân cần, mừng rỡ đến đó, mặc dầu chỉ biết chúng tôi là “cán bộ, bộ đội” như tất cả các “cán bộ, bộ đội” mà đồng bào đã được gặp. Đồng bào còn rất nghẻo khổ vì hầu hết của cải, trâu bò, gà lợn đã bị giặc vơ vét, nhưng còn cái gì quý, có thứ gì ngon đồng bào đều đem ra cho “cán bộ, bộ đội”. Có một cụ già ở một bản, nghe tin có đoàn chúng tôi đi qua, mang đến một con gà và ba quả trứng. Đoàn chúng tôi cảm ơn và nhất định không nhận. Ông cụ khóc và nói: “Bố con chúng tôi được sống đến hom nay là nhờ có cán bộ, bộ đội. Nay không nhận cho, lòng dạ tôi khổ sở lắm”. Bản nào cũng đều có người đưa chúng tôi đi theo từng cung đường một (mỗi cung thường là một ngày đường). Người của bản này đưa đoàn chúng tôi tới đầu bản kia ở cuối cung đường, gọi người ra bàn giao lại rất cẩn thận, rồi mới quay về. Người của cung đường mới rất vui vẻ tiếp nhận  chúng tôi, rồi hôm sau lại hăng hái dưa đi bàn giao cho trạm mới. Người nào cũng tích cực, yêu cầu là đi ngay, gia đình dù đang bận việc gì cũng để đây. Đồng bào làm nhiệm vụ của mình một cách rất hồn nhiên, tưởng như vô tư lự, nhưng thực ra đã được giác ngộ hiểu rõ trách nhiệm của mình từ lâu.

Sau những ngày đi ròng rã, đoàn chúng tôi đã tới bờ sông Mã. Đứng trên một quả đồi hoa lau nở trắng, nhìn dòng sông êm ả chảy, với những chiếc thuyền độc mộc thon dài, mũi cong vút, trôi xuôi, chúng tôi cảm thấy mọi nỗi mệt nhọc của đường trường như dịu hẳn xuống. Đang mùa xuân, hoa nở suốt một dải bên sông. Những ngọn đồi phủ hoa trắng xóa, nom nhấp nhô xa gần như những đàn cừu ở xứ lạnh. Bầu trời mùa xuân trên biên giới bao la trong vắt. Những dải mây hiền lành trôi từ đất Việt qua Lào, soi bóng xuống dòng sông đang tắm mát ở cả hai bờ thân thiết. “Tổ quốc ta thật là tươi đẹp!”. Câu nói ấy ở đây không còn là một cái gì trừu tượng. Thiên nhiên hiền hòa và tươi trẻ của đất nước có lẽ cũng đã góp một phần quan trọng vào việc tạo nên tâm hồn đẹp đẽ, nhuần nhị của mỗi người dân Việt Nam ta. Bỗng nhiên, khi đứng dậy tôi lại nhớ tới các đồng chí trong Trung đoàn Bế Sơn Cương, tiểu đoàn 90… những đơn vị đã anh dũng lập công trong chiến dịch vừa qua. Đã có một số đồng chí vĩnh viễn nằm xuống bên bờ sông Mã cổ kính này. Trong số những đồng chí đã hi sinh có Lê Báo, một cán bộ trẻ tuổi, hăng say, đầy triển vọng. Lê Báo trước đây vốn là bí thư của Bộ tư lệnh liên khu. Người thanh niên anh tuấn ấy đã bao lần thiết tha xin được ra đơn vị để chiến đấu. Lê Báo đã lập nhiều chiến công đáng kể, nhưng tại đây, một viên đạn của quân thù đã cướp anh đi mất…

Bên bờ sông Mã, đoàn chúng tôi đã dừng lại gặp gỡ các đồng chí lãnh đạo các đơn vị và địa phương. Công việc thống nhất các lực lượng đã được đem ra thảo luận và quyết định. Một giai đoạn mới của chiến trường đã mở ra trước mắt chúng tôi, làm dấy lên những niềm hi vọng, vui sướng dào dạt trong lòng.

Ít ngày sau, đoàn chúng tôi trở về qua đường Hồi Xuân, La Hán. Đã có chỉ thị chuẩn bị mở chiến dịch Lê Hồng Phong I.


Tiêu đề: Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng - Thượng tướng Song Hào
Gửi bởi: macbupda trong 07 Tháng Bảy, 2010, 08:24:07 am
VIII

Trung ương nhận định hiện nay ở Bắc Bộ, Tây Bắc là nơi địch đã yếu và sơ hở nhát, vì cơ sở địch hậu của ta đã rộng rãi, vững chắc, nhất là các vùng Sơn La, Điện Biên Phủ. Những thắng lợi gần đây quân dân ta ở mặt trận Hòa Bình, của quân Pa-thét Lào và những thắng lợi của Quân giải phóng Trung Hoa ở biên giới Trung - Việt đã có những ảnh hưởng rất to lớn, làm cho tinh thần bọn Pháp ở Tây Bắc càng thêm lung lay dữ dội. Hơn nữa, so với các chiến trường khác, công sự của địch ở Tây Bác chỉ kiên cố ở mức tương đối.

Chấp hành chỉ thị của Trung ương, Bộ tổng tư lệnh quyết định mở chiến dịch lê Hồng Phong I với mục đích tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng thêm một phần đất đai của Tây Bắc.

Chiến dịch Lê Hồng Phong I là chiến dịch lớn nhất trên chiến trường Tây Bắc từ trước tới nay, cho nên đã làm cho tất cả cán bộ, chiến sĩ trong mặt trận đều hân hoan, phấn khởi. Riêng đối với tôi và đồng chí Lê Trọng Tấn, đây cũng là lần đầu tiên chỉ huy một mặt trận rộng lớn, quy mô, với binh lực mạnh, tập trung. Bộ đã điều tới một trung đoàn và một tiểu đoàn chủ lực có truyền thống đánh công kiên oanh liệt (Trung đoàn Thủ đô và Tiểu đoàn Phủ Thông) để làm lực lượng chủ yếu cho chiến dịch. Ngoài ra, còn có đại bác 75mm và phóng pháo 187mm, một loại súng cối hạng nặng do quân giới ta tự chế tạo, tham gia chiến đấu.

Phố Lu đã được chọn là điểm công kích đầu tiên và chủ yếu trong đợt đầu của chiến dịch. Tôi đã có dịp đi qua Phố Lu trong những ngày chưa kháng chiến. Phố Lu khi ấy còn là một dãy phố nhà cửa san sát, buôn bán sầm uất bên sông Hồng. Nó được coi là một “cửa ngõ” của Tây Bắc, một “thương khẩu” quan trọng trên con đường giao thông Lào Cai - Hà Nội và xa hơn nữa là Hà Nội - Vân Nam. Phố Lu khi xưa hầu như thâu đêm rực lửa. Lửa chài trên sông, lửa trên nhà ga với những chuyến tàu đêm thét còi xuôi ngược. Từ ngày giặc chiếm, Phố Lu bị biến thành một cứ điểm lớn. Tường thành kiên cố bao quanh. Lô cốt nhòm ra tất cả các dãy phố làm nhà ngủ, trại con gái, tàu ngựa, nhà kho… Phố Lu trở thành một chỉ huy sở phân khu của địch, một cái ung nhọt rất lớn, làm nhức nhối cả Tây Bắc. Đã nhiều lần đi thăm chiến trường của liên khu và các đơn vị, chúng tôi phải vượt núi, đi vòng phía sau lưng Phố Lu, rất gian khổ, vất vả. Từ những mỏm núi cao nhìn xuống thị trấn cũ, chỉ thấy những bóng giặc đi lại lúc nhúc, những chiếc ống bơ sáng lóe ở hàng rào dây thép gai và những lỗ châu mai hau háu…

Bộ chỉ huy mặt trận Tây Bắc cũng như ban chỉ huy chiến dịch quyết định phải tiêu diệt bằng được Phố Lu để mở đường lên biên giới và nếu có điều kiện thì giải phóng cả vùng biên giới Trung - Việt.

Trận đánh được giao cho Trung đoàn Thủ độ dảm nhiêm. Chiều ngày 8 tháng 2 năm 1950, cuộc chiến đấu bắt đầu. Thực ra từ buổi trưa, bọn lính tuần tiễu của Phố Lu đã chạm một số đơn vị của ta; súng đã nổ lẻ tẻ, máy bay địch đã kéo lên oanh tạc nhiều đợt vào các cửa rừng và cao điểm quanh thị trấn.

Chỉ huy sở của mặt trận đặt cách Phố Lu không xa. Đứng ở đài quan sát, chúng tôi có thể nhìn ra trận địa. Sau những trận oanh kích của máy bay địch, chúng tôi điện hỏi ngay trung đoàn về tình hình thương vong của đơn vị. Được trung đoàn trả lời: lực lượng vẫn nguyên vẹn, tinh thần bộ đội vẫn rất tốt, chúng tôi mừng thầm.

Giờ G. đã tới. Quyết tâm của mặt trận khôg hê thay đổi. Quả phóng pháo đầu tiên nổ vang dội cả rừng núi. Tiếp sau đó là sơn pháo 75mm, phóng bom, SKZ…

Từ trên đài quan sát, chúng tôi nom rất rõ những chiến sĩ xung kích chạy theo con đường đất đỏ như son rồi tỏa ra, tiến vào đồn địch, thấy cả những làn khói moóc-chi-ê bốc chung quanh thị trấn mù mịt.

Cuộc chiến đấu mỗi lúc một thêm gay gắt. Cúng tôi đã đánh giá địch chưa đúng. Địch ở Phố Lu rất mạnh. Điện từ trung đoàn báo về: bộ đội đã xung phong rất quả cảm nhiều đợt nhưng vẫn chưa chiếm được đầu cầu, mấy lần chiếm được một số lô cốt nhưng lại bị đánh bật trở ra.


Tiêu đề: Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng - Thượng tướng Song Hào
Gửi bởi: macbupda trong 07 Tháng Bảy, 2010, 08:24:26 am
Trời tối đần. Đêm tối ở Tây Bắc cũng có một vẻ riêng biệt của nó; dày đặc, giá lạnh. Tất cả mọi người trong chỉ huy sở đều thức trắng. Tiếng súng ngoài Phố Lu vẫn dồn đập dội về.

Trung đoàn đề nghị cho tiếp tục tấn công. Một đồng chí cán bộ trong chỉ huy sở nhìn ra đêm tối, sốt ruột, bồn chồn:

- Hay là ta cho đốt mấy dãy phố trước khu nhà ga để lấy ánh sáng cho pháo bắn?

Tội vội nói này:

- Ấy chết, sao lại làm thế?

Hiểu ý tôi, từ đó anh không nhắc lại đề nghị ấy nữa. Bộ chỉ huy mặt trận cùng trao đổi ý kiến. Trước tình hình này, có một quyết tâm lớn chưa đủ, cần phải có những chủ trương đúng. Chúng tôi diện cho trung đoàn Thủ đô: chỉ để lại một bộ phận nhỏ bao vây và liên tục quấy rối. Đại bộ phận rút ra tiến hành rút kinh nghiệm, củng cố để mở đợt tấn công khác.

Ngày hôm sau, trong các khe núi chung quanh Phố Lu, các đại đội họp bàn kiểm điểm rất sôi nổi. Chúng tôi càng thấy rõ mình đã đánh giá Phố Lu chưa đúng. Phố Lu rất mạnh. Ngoài ra chúng tôi còn thấy một số vấn đề chưa thỏa đáng trong việc tổ chức tiêu diệt viện binh địch và sử dụng lực lượng của trung đoàn… Suốt ngày hôm ấy, máy bay địch lồng lộn bắn phá. Các cuộc kiểm điểm rút kinh nghiệm trận đánh của quân ta vẫn tiến hành đều đặn và sôi nổi. “Dừng lại để tiến mạnh hơn” - Các đơn vị đã nắm được chủ trương của Bộ chỉ huy mặt trận.

Đợt tấn công thứ hai bắt đầu. Tiểu đoàn xung kích 54 mới được thay thế đã xung phong rất gan góc đã làm rung chuyển cả Phố Lu. Nhưng vẫn chưa chiếm được đầu cầu. Những báo cáo gửi về liên tiếp, lần nào cũng gần giống như lần nào: “Đã mấy đợt qua được rào, nhưng vấp tường thành rất kiên cố, không vào được”.

Không khí trong chỉ huy sở rất trầm và căng thẳng. Chắc chắn dưới trung đoàn, ngoài trận địa còn căng hơn thế nhiều lắm. Tôi trao đổi ý kiến với đồng chí Cao Văn Khánh, chỉ huy phó mặt trận về vấn đề pháo binh. Chúng tôi đã rút được ra một só vấn đề về tổ chức đột kích củ bộ binh nhng chưa biết pháo binh cần phải làm như thế nào để cho tốt hơn.

Trong chiến dịch Sông Thao, đồng chí Cao Văn Khánh cũng làm chỉ huy phó mặt trận, đã có nhiều kinh nghiệm sử dụng pháo binh đánh Phố Ràng. Ở đây đồng chí đã áp dụng những kinh nghiệm ấy: phân tán hỏa lực pháo binh, chia khu vực để bắn, nhằm kiểm soát tất cả bốn mặt đồn. Nhưng chỗ này lại là Phố Lu, một thị trấn lớn…

Vấn đề pháo binh đã trở thành một vấn đề quan tâm chung của Bộ chỉ huy mặt trận. Và cuối cùng, sua khi trao đổi ý kiến với các đồng chí chỉ huy trực tiếp của pháo, chúng tôi cùng nhất trí phải tập trung hỏa lực lại nếu không tập trung hỏa lực không thể đột phá được cửa mở, phải tạo điều kiện cho xuất kích chiếm lấy “đầu cầu”.

Một mệnh lệnh mới được gửi xuống cho trung đoàn. Mọi viêc đều ngừng lại để củng cố, chuẩn bị cho đợt tấn công thứ ba.

Trong những ngày trung đoàn kiểm điểm rút kinh nghiệm thì pháo binh chuyển trận địa. Bộ phận chỉ huy mặt trận cũng phân công nhau xuống từng tiểu đoàn, đại đội để kiểm tra, đôn đốc. Tôi đi tới một khe suối lớn ở ngay bên sườn Phố Lu: nơi đó Tiểu đoàn 54 đang đóng rải rác. Tôi bước tới một nhóm khoảng ba mươi đồng chí đang ngồi sinh hoạt dưới một lùm cây, bên bờ suối. Quần áo người nào cũng đều lấm láp và loang lổ thốc súng. Có người đầu quấn băng trắng toát, che kín hết cả vầng trán, chỉ để lộ ra những mớ tóc rậm, cứng, đầy bụi đất và xám đi, mắt quầng thâm nhưng súng đạn vẫn kè kè bên người. Tôi biết tinh thần chiến đấu của anh em vẫn còn rất rạo rực.


Tiêu đề: Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng - Thượng tướng Song Hào
Gửi bởi: macbupda trong 07 Tháng Bảy, 2010, 08:24:47 am
Một đồng chí người mảnh dẻ, cặp măt linh lợi đứng lên báo cáo với tôi là các đồng chí đang họp chi bộ. Tôi đền nghị được cùng tham dự. Đồng chí bí thư, người cán bộ mảnh dẻ ấy quay lại phía những đồng chí ngồi vòng tròn trước mặt, anh cất tiếng nói, không to lắn, nhưng dứt khoát:

- Ý kiến các đồng chí thây thế nào? Chúng ta có thể chiến đấu được nữa không?

Hơn một chuc cánh tay cùng giơ phắt lên. Những khuôn mặt đều ngẩng cao:

- Tôi có ý kiến…

- Tôi xin nói…

- Đề nghị trên cho tiếp tục đánh!

Đằng sau làn da như đã khô đanh và xạm đen vì lửa đạn ấy, tôi như thấy có những cía gì đang dào dạt dâng lên và tỏa sáng. Chi bộ ấy, hôm mới đây, trước giờ xuất kích có ha mươi đồng chí, bây giờ còn mười bốn. nhưng sự vắng vẻ thưa thớt hôm nay không hề làm cho một ai chùn bước. Ý chí của mỗi đảng viên chỉ càng thêm rắn lại trong ngọn lửa căm thù. Chi bộ đã có những đồng chí Hội, Lanh, Tiềm…, những người công nhân Thủ đô mặc áo lính đã chiến đấu như những con sư tử trong những đợt tấn công vừa rồi.

Rời cuộc họp của chi bộ ây, tôi tới tham gia cuộc họp của các chi bộ khác. Ở đâu tôi cũng thấy bật lên một điều là đảng viên ta vô cùng quả cảm và rất nhiều mưu trí. Tất cả mọi đơn vị đều ta đánh thắng.

Ngày 13 tháng 2 năm 1950, đợt tấn công thứ ba bắt đầu. Lần này, chúng tôi ra tận cửa rừng, nơi các chiến sĩ Thủ đô xuất kích. Vui quá! Trẻ trung quá! Hăng hái quá! Cácn chiến sĩ vừa reo hò vừa lướt qua trước mặt chúng tôi. Trong khi đó những quả phóng pháo lại nổ vang trên nền trời chiều đã bắt đầu mù xám, những loạt sơn pháo 75mm đã được tập trung lại, gầm lên và vang vọng lại ầm ĩ từ các vách núi.

Chúng tôi bắt tay từng đồng chí chỉ huy và chiến sĩ xung kích, sau đó lên đài quan sát.

Cả ba khẩu đội sơn pháo vẫn tiếp tục nã tập trung vào khu A. Từng mảng tường thành vỡ tung. Những cột gỗ, ván thép bay lên từng loạt như bươm bớm. trong những đám khói dày đặc bỗng nhiên có một chấm đỏ hiện ra.

- Cờ của ta kia rồi!

Một đồng chí trong chỉ huy sở reo ầm.

Chám đỏ ấy hiện rõ dần, sau đó những bóng người lố nhố vượt lên và nói tiếp nhau thoăn thoắt vào trong đồn.

Điện từ trung đoàn báo lên: Xung kích đã chiếm được đầu cầu.

Tất cả chúng tôi cùng nhìn nhau và gần như cùng thở trút ra nhẹ nhõm.

Cuộc chiến đấu trong tung thâm tuy cũng ác liệt, nhưng chỉ kéo dài thêm một lúc. Cả Phố Lu đã bốc cháy. Ngọn lửa cao trên mười thước. Những phát ba-dô-ca, SKZ nổ rất đanh. Đúng 19 giờ 30 phút, đồng chí Vũ Yên trung đoàn trưởng nói qua máy điện thoại: “Báo cáo! Phố Lu đã hoàn toàn bị tiêu diệt”.

Tất cả chúng tôi trên chỉ huy sở cùng rảo bước xuống núi… Sáu ngay, sáu đêm đã trôi qua. Trận đánh đã kéo dài và quyết liệt ngoài dự kiến. Chiến thắng Phố Lu đã lớn, nhưng có lẽ còn lớn hơn nữa đó là những bài học xương máu mà chúng tôi đã rút được qua trận thử lửa này., những bài học về đánh đồn, diệt viện, bồi dưỡng lực lượng ta… và nhiều mặt khác nữa.

Sau chiến thắng Phố Lu, một đơn vị của Tây Bắc đã tiêu diệt Bản Lầu, Rồi một số cứ điểm khác liên tiếp bị xóa sạch trên những đoạn đường còn lại của phòng tuyến sông Thao như Chợ Châu, Bảo Nhai, Bến Đền…

Hàng mấy trăm cây số vuông cùng hàng vạn đồng bào Tây Bắc được giải phóng.


Tiêu đề: Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng - Thượng tướng Song Hào
Gửi bởi: macbupda trong 07 Tháng Bảy, 2010, 08:25:17 am
*
*   *

Chiến dịch Lê Hồng Phong I kết thúc.

Mùa đông năm 1950. Chiến dịch Lê Hồng Phong II - chiến dịch Biên Giới được gấp rút chuẩn bị. Hướng chiến dịch là đường số 4, trong khi đó quân địch vẫn đinh ninh rằng Lào Cai vẫn là mục tiêu chính của quân ta trong những đợt tấn công mới. Nhiệm vụ nghi binh của Bộ trao cho Tây Bắc là một nhiệm vụ rất lớn, nhằm đánh lạc hướng chú ý của địch, tạo điều kiện thuận lợi cho chiến dịch trên đường số 4 giữ được hoàn toàn bất ngờ.

Sau khi nghiên cứu nhiệm vụ, Đảng ủy và Bộ tư lệnh mặt trận bắt đầu triển khai công tác. Các tỉnh ủy Phú Thọ, Lào Cai, Yên Bái đã huy động một lực lượng nhân dân rất đông đảo để “chuẩn bị cho chiến dịch”. Hàng trăm bè mảng được đóng nhộn nhịp dọc bên bờ sông Hồng cùng hàng trăm thuyền lớn, nhỏ để chở gạo, chở muối. Trên các tuyến đường giao thông từ Phú Thọ lên Yên Bái, từ Yên Bái lên Lào Cai có từng đoàn dân công kĩu kịt gánh gồng đi thâu đêm này sang đêm khác. Tất cả đều hướng phía Lào Cai đi tới. Những đội quân báo nhan nhản chung quanh thị xã, thì thụt ra vào, lập đài quan sát, vẽ sơ đồ trận địa.

Đánh hơi thấy sự hoạt động sôi nổi ấy, quân địch vội vã nhảy dù xuống Phú Thọ để phá kho tàng, phá các công việc “chuẩn bị chiến dịch” rất quy mô ấy. Nhưng quân dân Phú Thọ đã dạn dày kinh nghiệm chiến đấu, hơn nữa đã chủ động có kế hoạch đề phòng từ trước cho nên đã giáng cho chúng những đòn chí mạng. Mấy trăm tên lính dù bị tiêu diệt. Cuộc hành binh của địch bị phá vỡ.

Mọi công việc “chuẩn bị chiến dịch” của Tây Bắc vẫn tiếp tục và mỗi ngày lại rầm rộ hơn, nhất là phía Cam Đường. Các đơn vị của ta đã hình thành hai gọng kìm, một gọng tiến vào Pa Kha, một gọng tiến theo phía Cam Đường. Cả hai gọng kìm điều có một hướng chung là thị xã Lào Cai và pháo đài Cốc Lếu.

Trung đoàn X, chủ lực của mặt trận, tiến theo đường Pa Kha. Vượt những dãy núi cao trùng điệp, qua sông Bảo Nhai, với tới cao nguyên Pa Kha đúng ngày 13 tháng 9 năm 1950. Giữa phố Pa Kha nổi lên dinh cơ đồ sộ của thổ ti Hoàng A Tưởng như một cung điện cua vua chúa. Đồn dịch đóng rải trên các cao điểm chung quanh cao nguyên, công sự khá kiên cố. Các chiến sĩ của trung đoàn đã trưởng thành qua nhiều chiến dịch trước tổ chức tấn công rất mạnh mẽ. Hết đồn này bị tiêu diệt, đồn kia bỏ chạy. Sau ba ngày, thị trấn và cao nguyên Pa Kha được hoàn toàn giải phóng. Trong lúc đó phía đường số 4 vẫn hoàn toàn im lặng, chiến dịch của ta chưa mở màn. Bộ chỉ huy địch ở Hà Nội càng yên chí hướng chiến dịch của ta là Lào Cai.

Tiếp tục truy kích địch, toàn Trung đoàn X vượt qua Si Ma Cai. Tới lúc ấy tiếng súng Đông Khê bên đường số 4 mơi bất thầy nổ vang, làm cho Bộ chỉ huy địch ở Hà Nội giật mình, kinh hoàng, cơ hồ rời rụng cả tay chân. Chúng biết la đã mắc kế nghi binh của ta rồi!

Đông Khê bị tiêu diệt. Tuy vậy Lào Cai vẫn tiếp tục bị uy hiếp mạnh. Cực chẳng đã, Bộ chỉ huy địch vẫn phải quẳng một đại đội quân dù xuống bản Phiệt, cách Lào Cai 9km. Nhưng Trung đoàn X đã có mặt sẵn ở đó. Đại đội quân dù bị tiêu diệt hoàn toàn trong chớp nhoáng.

Tin tức từ phía Đông Bắc được tiếp tục đưa về vang dội, binh đoàn Lơ-pa-giơ và binh đoàn Sác-tông đã bị tiêu diệt, địch ở Na Sầm bỏ chạy.

Bộ chỉ huy mặt trận chúng tôi thấy vậy liền quyết định cho các lực lượng nhanh chóng vượt sông Hồng, bao vây Lào Cai. Chúng tôio nhận được những báo cáo về những dấu hiệu hoang mang, lộn xộn của quân địch ở trong thị xã.

Chỉ huy sở của Bộ chỉ huy mặt trận đặt ngay bên lề đường cái đá. Chúng tôi họp bàn và quyết định: Do ảnh hướng lớn của chiến thắng trên đường số 4, quan địch ở đây đã hoàn toàn tan rã tinh thần, rất lo bị bao vây, tiêu diệt. Nhiệm vụ của trên giao cho Tây Bác chỉ là tiến hành nghi binh, phối hợp. Nay nhiệm vụ ấy đã làm tròn, nhưng thời cơ đang tới, quyết không thể bỏ qua. Bộ chỉ huy nhất trí hạ quyết tâm tổ chức tấn công thị xã. Một bộ phận lực lượng được lệnh cấp tốc vượt qua sông Hồng, tiến ề phía Cam Đường để chặn địch rút chạy về phía Lai Châu. Trung đoàn X tiến sát bao vây thị xã. Nhưng quân địch phát hiện được ý đinh của ta cho nên kế hoạch chưa kịp thi hành thì 12 giờ đêm ngày 2 tháng 11 năm 1950 từ phía Lào Cai vọng ra một tiếng nổ rất lớn. Rồi sau đó các phân đội trinh sát hỏa tốc báo về; địch đã giật mìn phá sập một nhịp cầu Cốc Lếu và đang rút chạy về phía Sa Pa.

Trung đoàn X được lệnh truy kích. Lệnh vừa phát ra, cả trung đoàn đổ ra đường như thác, cứ thế cuồn cuộn nhảy vào thị xã, sau đó tiếp tục băng lên phía Sa Pa. Trước tình huống này, không thể theo một kế hoạch trật tự chung nữa. có lệnh tổ chức những đơn vị gọn nhẹ nhanh chóng vượt lên trước chặn địch lại để tiêu diệt. Phải triệt để lợi dung các đường tắt để mau chóng chặn bắt địch.


Tiêu đề: Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng - Thượng tướng Song Hào
Gửi bởi: macbupda trong 07 Tháng Bảy, 2010, 08:25:53 am
Một quang cảnh vừa xô bồ, vừa hùng tráng, mãnh liệt diễn ra trên suốt dọc đường từ thị xã lên Sa Pa. Những khẩu moóc-chi-ê thi nhau nổ ì ùng theo quan địch. Từng đơn vị lớn nhỏ, từng tốp năm, tốp ba chiến sĩ rùng rùng vác đạn, xách súng đuổi theo. Quân địch tuy đã rút trước được một thời gian, nhưng vẫn chưa vượt khỏi phạm vi nguy hiểm nên càng thêm hoang mang rối loạn. chúng vứt cả súng đạn, điện đài, ba lô, quần áo, giày mũ lại đầy đường để chạy thoát thân.

Bộ chỉ huy mặt trận vào thị xã trong lúc những đơn vị cuối cùng của Trung đoàn X vẫn chưa vượt qua hết cầu Cốc Lếu. giữa thị xã còn hơn mười khẩu pháo 105mm nguyên vẹn và cơ man quân trang, đạn dược, khí tài… Chúng tôi lấy một chiếc xe jéep ở sân bay lái chạy thẳng theo đường lên Sa Pa. Nom thấy chiếc xe của đồng chí Bằng Giang và chúng tôi, anh em chiến sĩ càng thêm phấn chán, vừa hò reo, vừa hăm hở xông lên.

Khoảng bảy, tám giờ sáng, chúng tôi tới thị trấn Sa Pa. Những lâu đài biệt thự tráng lệ của bọn thực dân xây bằng xương máy nhân dân ta vẫn còn nguyên. Bước vào khách sạn thấy trên những bàn ăn vẫn còn cơm canh đang bốc khói. Quân địch không kịp ăn, đã phải tháo chạy. Lệnh truy kích đến cùng lại được phát ra, truyền xuống, từng đơn vị, chiến sĩ. Trung đoàn X lại tỏa ra thành nhiều mũi, vượt qua đường phố Sa Pa, tiếp tục lao vào các vùng rừng núi để sục sạo, vây quét.

Thế là hai tiểu đoàn địch vừa Pháp vừa ngụy ở Lào Cai đã hoàn toàn bị tiêu diệt trong một cuộc rút lui thê thảm. Khi thu quân trở về, một đồng chí trong ban chỉ huy Trung đoàn X vừa thở vừa nói với chúng tôi bằng một giọng hết sức hân hoan, vui sướng: “Bọn chúng nó chạy thật không kịp quăng chân lên cổ nữa! Quân ta tiến chứ như chẻ tre; chạm bộ phận nào của chúng là bộ phận ấy tan ngay”.

Bỗng nhiên tôi liên tưởng lại ngày nào, cách đây ba năm, cũng từ trung đoàn này có đồng chí đã gửi về quân khu một bản báo cáo với những lời bi thảm; “Quân địch tiến như chẻ tre”…

Tôi nhắc lại câu chuyên cũ ấy với các đồng chí thuộc Trung đoàn X. Tất cả chúng tôi cùng mỉm cười. Ba năm! Tình thế đã đổi ngược lại. Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng, quân đội ta đã trưởng thành và chiến thắng.

Lào Cai được giải phóng. Biên giới Việt - Trung đã được thông, nhất là bên phía đường số 4. Tình hình đã đổi khác rất nhiều. Những triển vọng mới và lớn lao đang mở ra trước mắt mỗi đảng viên, chiến sĩ Tây Bắc cũng như ở các nơi khác trên toàn quốc.

Cố nhiên, Tây Bắc chưa phải đã hoàn toàn thoát khỏi nanh vuốt giặc. Vẫn còn Lai Châu, Son la, Nghĩa Lộ… Nhưng cũng có thể coi như những ước mơ giải phóng của nhân dân Tây Bắc đã được thực hiện một phần quan trọng. Riêng những người cán bộ trên chiến trường Tây Bắc, tới nay cũng đã lớn lên nhiều và coi như đã vượt qua được một chặng đường khá dài và quanh co, gian khổ, chặng đường đầu tiên trong một cuộc kháng chiến lâu dài của cả nước.

Cũng như tất cả mọi đảng viên, chiến sĩ Tây Bắc, chúng tôi lại sẵn sàng bắt tay vào những nhiệm vụ mới. Từ sau chiến thắng vĩ đại của ta ở biên giới trong thu đông, quân địch đã mất hẳn thế chủ động trên chiến trường chính, quân ta chuyển được sang thế phản công cục bộ. Cuộc kháng chiến của chúng ta đã tiến lên một bước mới…

Mùa hè năm 1951, tôi về một đại đoàn công tác. Cũng trong thời kì đó mặt trận Tây Bắc đã hoàn thành sứ mạng lịch sử của nó và được lệnh giải tán.

Từ biệt Tây Bắc cùng với bao đồng chí thân yêu, lòng tôi không sao tránh khỏi bùi ngùi, lưu luyến. Tôi cảm thấy Tây Bắc đã gắn bó với mình như máu với thịt.

Tôi về giữa lúc đại đoàn này đang chiến đấu sôi nổi tên chiến trường Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình. Trong một buổi hợp sơ kết đợt một chiến dịch, tại một hang đá lớn, đồng chí đại đoàn trưởng Vương Thừa Vũ đang nói: “Đợt hai, chúng ta sẽ còn tiếp tục tấn công, tấn công liên tục và mạnh mẽ hơn trước…”. tôi bước vào, tất cả mọi đồng chí đều vui vẻ nhận ra tôi là người quen cũ.

Về phía tôi cũng không khỏi vui mừng cảm động khi được gặp lại hầu hết những đồng chí cán bộ rất đáng quý, đáng yêu của đại đoàn mà tôi đã từng được biết trong những lần tiếp xúc, công tác trước đây ở sông Thao, sông Lô. Về đây, tôi lại được cùng anh em cán bộ, chiến sĩ kề vai sát cánh chiến đấu lâu dài. Đây là đại đoàn chủ lực đâu tiên của quân đội ta, một đại đoàn có nhiều truyền thống vẻ vng oanh liệt, một đại đoàn rất thanh niên, sôi nổi và đầy nghị lực. Lúc đó chiến dịch đang chuyển mạnh sang giai đoạn hai. Tiếng súng nổ vang rền trên khắp các cánh đồng chiêm lầy lội. Với một thế lực bền bỉ, dồi dào, đại đoàn cùng các đơn vị lại tiếp tục ước vào những trận chiến đấu mới.


Tiêu đề: Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng - Thượng tướng Song Hào
Gửi bởi: macbupda trong 07 Tháng Bảy, 2010, 08:27:06 am
IX

Chiến dịch Hà - Nam - Ninh kết thúc. Hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, đại đoàn Quân tiên phong kéo vào Thanh Hóa, sau đó quay trở ra Phú Thọ để nghỉ ngơi rồi tiến hành một đợt chỉnh huấn theo chỉ thị của Tổng Quân ủy và Bộ Tổng tư lệnh.

Trong thời gian này, tôi đã có thì giờ để hiểu rõ thêm về đại đoàn và những đặc điểm của công tác lãnh đạo một đơn vị chủ lực lớn. Đây là một đại đoàn chủ lực trong số những đại đoàn chủ lực (do Bộ trực tiếp chỉ huy, lãnh đạo) làm lực lượng cơ động chiến lược. Quân tiên phong là một sư đoàn ra đời đầu tiên; nó luôn luôn được vinh dự nhận những nhiệm vụ nặng nề, khó khăn và then chốt trong hầu hết các chiến dịch. Trong bản chỉ thị của Bộ tổng tư lệnh giao nhiệm vụ cho đại đoàn khi thành lập đã nêu:

“… Đại đoàn có nhiệm vụ cùng các binh đoàn chủ lực đi tiên phong trên con đường tiêu diệt sinh lực địch, trên con đường chính quy hóa.

Đại đoàn hễ đánh là thắng

Hễ đánh là tiêu diệt sinh lực địch

Ngày càng lớn mạnh

Quyết định chiến trường…”.


Như vậy, hiễn nhiên đại đoàn phải có những cố gắng rất lớn mới có thể làm tròn sứ mạng củ mình, phải được xây dựng, củng cố sao cho có thể xứng đáng với một “quả đấm thép” của quân đội, nhằm giáng vào đầu quân thù những chiến lược quan trọng.

Hiểu được nhiệm vụ cơ bản của đại đoàn, tôi đã ý thức được khá rõ ràng về nhiệm vụ và công việc của đại đoàn sẽ nặng nề và khó khăn, đồng thời cũng vinh dự đến chừng nào.

Cũng trong thời gian này tôi đã hiểu thêm được nhiều cán bộ và chiến sĩ trong đại đoàn. Các đồng chí cán bộ hầu hết còn trẻ tuổi; cán bộ trung đoàn trên 30 tuổi; cán bộ tiểu đoàn trung bình 22; cán bộ đại đội trên dưới 20. Số đông anh em còn mới tham gia cách mạng từ ngày Tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945. Lại có một số mới gia nhập bộ đội từ ngày toàn quốc kháng chiến, nay cũng đã trở thành những người chỉ huy đại đội, tiểu đoàn, thậm chí chỉ huy trung đoàn. Anh em gồm đủ mọi thành phần xã hội, nhưng hầu hết là công nhân, nông dân và một số học sinh, sinh viên. Anh em mỗi người một vẻ khác nhau, nhưng đều rất giống nhau ở tinh thần sôi nổi, lạc quan và lòng dũng cảm; rất giống nhau ở tác phong trẻ trung, linh hoạt, táo bạo. Một nét đáng chú ý nữa là do sống và chiến đấu khá lâu trong một đơn vị chủ lực luôn luôn phải đảm đương những nhiệm vụ lớn, luôn luôn phải giáp chiến với những đơn vị thiện chiến, hung ác nhất của giặc Pháp cho nên ai đều có nhiều kinh nghiệm chiến đấu. Các chiến sĩ của đại đoàn cũng đã có những đặc điểm rất đáng quý: nếu như các chiến sĩ ở Tây Bắc trước đây nổi bật về tinh thần chịu đựng gian khổ và có nhiều kinh nghiệm chiến đấu du kích, bám dân… thì những người chiến sĩ của binh đoàn chủ lực này lại nổi bật về tinh thần gan góc, dũng cảm và rất giàu kinh nghiệm hành quân, chiến đấu lớn.

Lẽ cố nhiên tôi cũng nhận rõ được nhữn nhược diểm của anh em cán bộ, chiến sĩ trong đại đoàn về mặt này hoặc mặt khác. Chính vì nhận rõ được những mặt còn yếu (nhất là những điều lệch lạc đã bộc lộ qua bốn chiến dịch lớn liên miên: đánh từ biên giới xuống trung du, đánh từ trung du qua Đông Bắc rồi từ Đông Bắc kéo xuống vùng đồng chiêm lầy lội ở sâu trong vùng sau lưng địch) mà trong Đảng ủy đại đoàn đã có đầy đủ những cơ sở để đánh giá tình hình chính trị tư tưởng của đại đoàn, nắm đúng được chỗ mạnh, chỗ yếu nhằm chỉ đạo xây dựng cũng như trong chiến đấu đạt tới thắng lợi.

Trong những ngày học tập, công tác cũng như trong chiến đấu, chúng tôi luôn có dịp tiếp xúc với anh em cán bộ, chiến sĩ trong đại đoàn, khi ở lớp học, lúc trong tổ thảo luận, trong lúc hành quân, lúc chiến đấu, khi rỗi rãi đi tâm sự, buổi anh em ngồi ôn lại những việc cũ, kiểm điểm lại bản thân để tìm cho ra chõ mạnh, chỗ yếu, điểm đúng, điểm sai…, đã giúp anh em hiểu rõ thêm sức mạnh để chiến thắng, đó là sự đoan kết thống nhất, là sức mạnh của tập thể, là sức mạnh của con người có giác ngộ, có tổ chức, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, là nội dung để quan hệ giữa những người chiến sĩ cách mạng.

Trong những ngày đó, một mối cảm thông tin cậy giữa những cán bộ cũ, cán bộ mới, giữa cấp trên, cấp dưới đã phát triển rất mau và góp phần không nhỏ làm cho không khí của đại đoàn ngày càng đầm ấm và tin tưởng, yêu quý lẫn nhau hơn.


Tiêu đề: Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng - Thượng tướng Song Hào
Gửi bởi: macbupda trong 07 Tháng Bảy, 2010, 08:28:40 am
*
*   *

Mùa thu năm 1951. Cuộc chỉnh huấn kết thúc cũng vào lúc đại đoàn nhận được tin quân Pháp đã đánh ra vòng thị xã Hòa Bình với một lực lượng khá lớn. Đồng thời, đại đoàn nhận được lệnh của bộ chuẩn bị gấp để lên đường chiến đấu.

Đảng ủy đại đoàn đã họp ngay đêm ấy. Căn cứ vào những nhận định của Tổng quân ủy, Bộ Tổng tư lệnh chúng tôi thảo luận và nhất trí rằng: đây là một hành động của Đờ-lát Đờ Tát-si-nhi nhằm giành lại thế chủ động trên chiến trường Bắc Bộ. Về thực chất đây vẫn là một hành động có tính chất bị động của địch. Chúng ta có một cơ hội tốt để tiêu diệt chúng. Về phía tình hình đại đoàn, chúng tôi đều vui mừng nhận thấy sau một thời gian nghỉ ngơi và chỉnh huấn, toàn đại đoàn đang ở trong thời kì rất sung sức, đang muốn được lập công. Nhìn chung, thuận lợi có khá nhiều…

Và sau đó đại đoàn mừng rỡ được đón thư của Bác Hồ gửi tới.

Tất cả cán bộ, chiến sĩ tỏng đại đoàn nhận thấy đây là một thời cơ tiêu diệt địch rất tốt. Do đó, ý chí chiến đấu, lòng ham muốn lập công của anh em càng thêm sôi nổi, mạnh mẽ. Trong một đêm, đúng theo lời dạy của Bác toàn đại đoàn bí mật lên đường, rất mau lẹ, gọn gàng và im ắng, tạm biệt đồi chè, rừng cọ xanh tươi của Phú Thọ, tiến thẳng về phía sông Đà. Nhiệm vụ của đại đoàn đã được Bộ trao cho là: làm lực lượng chủ yếu của mặt trận tấn công tiêu diệt quan địch ở vùng thị xã Hòa bình, tạo thêm điều kiện thuận lợi cho một đại đoàn bạn thừa cơ hội Đờ-lát dốc quân ra để “giành chủ động”, tiến sâu vào vùng địch hậu khoét rỗng ruột chúng rta.

Đại đoàn đã ý thức được đầy đủ tầm quan trọng và tính chất nặng nề của nhiệm vụ, nhận rõ được đặtc điểm: “Đây là lần đàu tiên quân dân ta đánh thẳng vào nơi quân địch đang tấn công”. Như vậy, khác với những năm 1947-1948, cuộc kháng chiến của ta rõ ràng đã phát triển mạnh mẽ, quân đội ta đã trưởng thành,

Trung đoàn 8 được Đảng ủy, Bộ tư lệnh đại đoàn trao cho nhiệm vụ tiêu diệt quan địch ở vị trí Tu Vũ. Đó là một cứ điểm tương đối mạnh, gồm một tiểu đoàn Âu - Phi, có pháo và ba xe tăng yểm trợ, nằm ngay sát bờ sông dà, cách thị xã Hòa Bình koảng 20km.

Có thể coi đây là một “cửa ải” rất cứng của địch trên sông Đà, vượt được qua “cửa ải” này mới có thể tiến vào thị xã Hòa Bình.

Đại đoàn đã tập trung mọi cố gắng để giúp trung đoàn 8 hoàn thành nhiệm vụ tiêu diệt Tu Vũ. Các cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần đã đọc huy động tới mức tối đa mọi khả năng và tinh thần để giúp cho trung đoàn mau chóng hoàn thành tốt khâu chuẩn bị.

Trong những ngày khẩn trương ấy, Bộ tư lệnh chúng tôi đã thu xếp công việc để xuống giúp đỡ các đồng chí trong ban chỉ huy Trung đoàn 8. Tôi xuống Đại đội Tô Văn - đại đội nỏi tiếng của trung đoàn sẽ vinh dự được nhận nhiệm vụ làm mũi chủ công trong trận Tu Vũ; dự cuộc họp của các đồng chí trong ban chi ủy bộ đại đội, gặp gỡ những đồng chí trong các tiểu đội bộc phá, đột kích… cho tới bây giờ tôi vẫn giữ nguyên ấn tượng và niềm xúc động mạnh mẽ nhất khi gặp những chiến sĩ bộc phá. Hẳn ai cũng hiểu rằng những chiến sĩ bộc phá giữ vai trò quan trọng tới bậc nào trong việc đánh qua các bãi chướng ngại vật để mở đường cho xung kích tiến vào trong đồn diệt địch. Những chiến sĩ bộc phá phải có một dũng khí rất lớn, phải vượt qua không ít những khó khăn ác liệt để tiến lên xông thẳng tới trước mũi súng của quân thù, quyết phá tan mọi bãi mìn, mọi hàng rào dây thép gai dày đặc… vậy mà tôi thấy anh em chiến sĩ khi thảo luận việc đánh bộc phá đồn Tu Vũ, thái độ không những không một mảy may băn khoăn mà còn hăm hở khác thường. Ai ai cũng đua tranh nhận lấy nhiệm vụ đánh quả bộc phá đàu tiên, quả bộc phá xiết bao quan trọng và cũng không kém phần khó khăn ấy! Thế rồi anh em đã phải bầu nhau, sau khi đã cùng thân ái nhận xét, chon lựa. Cuối cùng, đồng chí Hanh - người chiến sĩ bộc phá lão luyện, gan góc tuyệt vời trong các trận công đồn trước đây đã được anh em nhất trí chọn làm” súy” được vinh dự đánh quả đầu tiên để mở đường, mở hướng cho toàn tiểu đội tiến lên… Tôi bắt tay Hanh. Đồng chí mỉm cười rất hiền hậu và chân thành; “Báo cáo anh, tôi quyét sẽ hoàn thành nhiệm vụ vẻ vang này để khỏi phụ lòng tin cậy của Đảng, của anh em đồng đội!”. Chỉ giản dị có thế thôi! Nhưng sự giản dị ấy mới to lớn và đẹp đẽ làm sao! Tôi cũng đã gặp anh em trong các tiểu đội xung kích. Khỏe mạnh, hăng hái và rất kiên quyết. Anh em đều nói với tôi, sẽ đạp bằng mọi khó khăn, tiêu diệt hoàn toàn quân thù ở Tu Vũ, giữ vững truyền thống Quân tiên phong

Tôi cảm thấy vô cùng sung sướng và vinh dự khi thấy những chiến sĩ, cán bộ của đại đội có một tinh thần, một sự chuẩn bị tốt đến như thế để bước vào chiến đấu.

Theo kế hoạch đã định của mặt trận, 10 giờ ngày 10 tháng 12 năm 1951, Trung đoàn 8 sẽ nổ súng. Cùng lúc, một đơn vị của Đại đoàn Chiến thắng sẽ đánh quân địch ở núi Chẹ (một vị trí bên kia sông, gần như đối diện với đồn Tu Vũ) nhằm hỗ trợ cho Trung đoàn 8 tập trung lực lượng hoàn thành tốt nhiệm vụ. Thế nhưng một sự kiện bất ngờ đã xảy ra, khoảng giữa trưa, bỗng nghe thấy tiếng súng máy và pháo nổ hỗn loạn ở gần Chẹ. Lát sau được biết đơn vị bạn đã chạm địch. Với tinh thần chiến đấu dũng cảm, đơn vị bạn đã tiêu diệt gọn một đại đội địch ở Ninh Mít và đang tiếp tục đánh những đơn vị khác của chúng.

Chiến thắng ấy rất tốt, tuy nhiên theo thông báo của bộ chỉ huy mặt trận, đến 10 giờ, đơn vị bạn sẽ không đánh vị trí Chẹ theo kế hoạch cũ được. Chúng tôi lo cho Trung đoàn 8. Ngay tức khắc, thường vụ Đảng ủy đại đoàn hội ý để nhận đinh lại tình hình địch, ta ruồi cùng xác đinh lại quyết tâm; sẽ tấn công Tu Vũ đúng theo ý định cũ. Tuy nhiên càn thay đổi vài chi tiết trong kế hoạch chiến đấu. Mặt khác, Đảng ủy đại đoàn cũng nhân định: yếu tố bất ngờ có thể giảm xuống một phần, do đó phải kiên quyết lãnh đạo Trung đoàn 8 chuẩn bị thật tốt về tư tưởng, cả về kế hoạch cụ th ểđể có thể tiến quan vào chiếm lĩnh trận địa thật nhanh chóng và có khả năng phải tiến quân dưới hỏa lực mạnh của địch. Quyết tâm ấy đã được phổ biến nhanh chóng xuống từng cán bộ, chiến sĩ.


Tiêu đề: Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng - Thượng tướng Song Hào
Gửi bởi: macbupda trong 07 Tháng Bảy, 2010, 08:29:12 am
… Thế rồi giờ G. sắp tới. Tại chỉ huy sở nhẹ của đại đoàn tối hôm 10 tháng 12 năm 1951, chúng tôi chăm chú theo dõi cuộc tiến quân của Trung đoàn 8 với tất cả niềm tin tưởng và hi vọng.

… Lúc đó là 19 giờ 30 phút. Mặt trận vẫn còn im lặng… Đột nhiên, nghe thấy có một loạt đạn trọng pháo nổ phía xa xa ở Tu Vũ. Sau đó nổ tiếp luôn mấy loạt nữa, cứ thế tiếng pháo rầm rầm nổ mãi, và nhân mãi lên gấp bội.

Không ngoài dự kiến ủa ta, cuộc tiến quân của Trung đoàn 8 đã bị lộ. Chúng tôi đang suy nghĩ và chờ đợi thì quả nhiên có điện từ Trung đoàn 8 gọi về báo cáo những bộ phận đi đầu đã chạm địch tuần tiễu ngoài cứ điểm. Hiện nay pháo binh địch trên hai chục khẩu từ Đá Chông, Đan Thê và Chẹ đang tập trung bắn phá quanh đồn, nhưng dày đặc nhất là ở hướng đột phá chính mà trung đoàn đang triển khai đại bộ phận bình lực của mình. Trung đoàn đang tìm mọi cách để giúp các phân bộ binh, pháo binh tiếp tục tiến quân, vượt qua lưới lửa ác liệt của địch.

Tiếng trọng pháo địch vẫn dồn dập vọng về. Không còn phân biệt nổi từng quả mà chỉ thấy từng hồi kéo dài, hồi nọ trùm lên hồi kia như sấm ran. Đường dây điện thoại từ trung đoàn về sở chỉ huy đại đoàn đứt lung tung. Việc liên lạc mỗi lúc một thêm khó khăn. Các chiến sĩ, cán bộ thông tin được tung đi liên tiếp. Phần lớn công việc nám tình hình, liên lạc với Trung đoàn 8 phải dựa vào máy vô tuyến điện.

Đạn pháo địch vẫn nổ liên hồi ngoài Tu Vũ. Trung đoàn 8 báo cáo về. tình hình tiến quân vẫn rất khó khăn và mất liên lạc với mũi đánh ở khu cứ diểm. Bên cạnh chúng tôi, các máy điện thoại đổ chuông liên hồi. Các anh bộ tham mưu liên tục gọi về nói như thét lên trong ống nói, giục dưới phải báo cáo thêm điểm này, tiến quân phải chú ý thêm việc kia…

Qua dây nói, Bộ tư lệnh đã nghe báo cáo và đề nghị của đồng chí trung đoàn trưởng Thái Dũng và đồng chí chính ủy Quốc Bảo;

- Tình hình phát triển hơi phức tạp và có nhiều khó khăn. Pháp 75mm mới vào thêm được một khẩu, nhưng vẫn chưa liên lạc được với đơn vị bạn đánh khu C. Quân số thương vong tiếp tục tăng… Chúng tôi sắp hội ý Thường vụ đảng ủy trung đoàn để có chủ trương và đề nghị với đại đoàn.

 Chúng tôi trả lời rất hoan nghênh chủ trương của trung đoàn.

- Đại đoàn cũng đang muốn các đồng chí bàn việc ấy. Đảng ủy trung đoàn cần rất bình tĩnh, sáng suốt đánh giá cho thật đúng tình hình lúc này. Càn nhìn toàn diện, đứng nhìn vào một vài việc riêng lẻ. Các anh cần xem: trước hết về phía ta, tuy mất liên lạc với mũi đánh khu C, nhưng xem mũi chủ công đã vào được tới đâu rồi? Số thương vong của mũi này có đáng kể không? Pháo 75mm thì xem có thể gắng đưa vào thêm lấy một khẩu nữa không? Mũi diện đã bám sát được cứ điểm chưa? Còn về phía địch, tuy pháo binh bắn rất dữ, nhưng phải xem sự đối phó của chính lực lượng địch trong đồn ra sao? Chúng tỏ ra hoang mang hay tổ chức phòng ngự vẫn vững?... để có cơ sở đi tới hạ quyết tâm được hoàn toàn chính xác.

Đồng thời lúc đó bộ tư lệnh được các đồng chí quân báo mừng rỡ báo cho biết vừa bắt được điện của địch trong đồn gọi về Hà Nội báo tin: khu C bị mất. Như thế có nghĩa là phân đội của ta ở phía ấy đã tự động tấn công và đánh thắng rồi. Bộ tư lệnh bèn điện ngay cho Trung đoàn 8 biết. Đây là một thuận lợi không nhỏ. Bộ tư lệnh chỉ thị cho Trung đoàn 8, mặt khác cũng chuẩn bị kế hoạch để có thể chuyển sang tác chiến ban ngày, nếu đem nay không tiêu diệt xong Tu Vũ…

Đồng chí đại đoàn phó Cao Văn Khánh đã rời sở chỉ huy xuống tận nơi giúp đỡ Trung đoàn 8. Trong lúc này, Bộ tư lệnh nhận được báo cáo của đồng chí Quốc Bảo: thường vụ trung đoàn đã họp. Các đồng chí kiểm điểm lại thấy mũi chủ chông do dày dạn kinh nghiệm nên đã mau lẹ xốc tới, bám sát cứ điểm địch nên chỉ bị thương vong có vài đồng chí, đơn vị pháo 75mm đã gan góc khiêng từng tấm thép lớn vượt qua lưới lửa của địch, vào lắp thêm được một khẩu nữa. Mũi diện dã kiên cường triển khai xong đội hình, thương vong không nhiều lắm. Nay lại được tin đã chiếm được khu C của cứ điểm, trước tình hình đó, Thường vụ trung đoàn 8 đã hạ quyết tâm nhanh chóng nổ súng tấn công tiêu diệt địch…

“Xin hứa với đại đoàn, chúng tôi sẽ hoàn thành nhiệm vụ… Hoàn thành tốt nhiệm vụ!”. Câu sau cùng của đồng chí Quốc Bảo trong ống nói đã hòa lẫn trong tiếng trọng pháo nổ rền…

Từ lúc đó đường dây liên lạc giữa đại đoàn và trung đoàn đã giữ vững được gần như liên tục. Chúng tôi có thể theo dõi khá sát tình hình cả Trung đoàn 8 từ lúc nổ súng tấn cônng trên toàn tuyến cho tới khi toàn thắng. Đã theo dõi được chi tiết từ giai đoạn nổ bộc phá phá hàng rào, bãi mìn cho tới lúc các phân đội xung kích xung phong và tiêu diệt được xe tăng địch định ra bịt “cửa mở”, sau đó là tiểu đội Vũ Đức Chư dũng mãnh thọc sâu, chia cắt, đánh trúng khu đầu não chỉ huy cứ điểm địch trong giây lát…

Cứ điểm Tu Vũ đã hoàn toàn bị tiêu diệt. Chỉ có một vài tên địch sống sót bơi vượt sông Đà sang bến Chẹ, do bộ phận bao vây của ta ở mặt đó chưa được chặt chẽ, chu đáo. Thế là cái “cửa ải” kiên cố của quân thù trên tuyến sông Đà đã bị phá tan. Toàn đại đoàn xốc lại đội hình, tiếp tục tiến thẳng tới thị xã Hòa Bình…


Tiêu đề: Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng - Thượng tướng Song Hào
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Bảy, 2010, 07:34:43 am
*
*   *

Trước khi bao vây tiến đánh quân địch ở thị xã, đại đoàn đã trao cho trung đoàn 6 bố trí một trận địa phục kích trên sông Đà, quãng Lạc Song, Đồng Việt nhằm tiêu diệt các đoàn tàu địch, tiến tới cắt đứt hoàn toàn con đường vận tải, tiếp tế trên sông, đẩy quân địch ở Hòa Bình lâm vào thế cô lập hơn nữa.

Trận địa phục kích của Trung đoàn 6 có một một lực lượng phòng không và pháo binh phối thuộc, chia làm 3 khu vực, kéo dài trên 6km, tạo thành một thế liên hoàn hiểm hóc…

Bấy giờ trời lạnh nhiều, bộ đội Trung đoàn 6 và pháo binh, phòng không bố trí bí mật trong những bãi lau rậm ben bờ sông phải nén từng cái ho, ngày đêm thay phiên nhau sẵn sàng chiến đấu, nằm hầm, ngủ lán, khá gian khổ. Nhưng cán bộ từ đại đoàn tới trung đoàn đều đã gắng làm cho anh em nắm vững yêu cầu: kiên trì, tỉnh táo, vượt mọi khó khăn, kiên quyết tiêu diệt địch. Một mặt, luôn chú ý động viên tư tưởng, tinh thần của anh em cán bộ chiến sĩ ngoài trận địa mặt khác đã tìm đủ cách làm cho đời sống của bộ đội trên hỏa tuyến bớt gian khổ, có cơm nóng, canh ngọt, sửa lại hầm hố, chống ẩm, chống muỗi.

Đã qua năm ngày vẫn không thấy tàu thuyền địch đi qua. Nhiều chiến sĩ đã nản long cho rằng địch sợ đường sông, chuyển qua đường số 6 hết rồi. Đại đoàn một lần nhữa khẳng định lại: địch sẽ qua sông vì chúng không thể nào bỏ đường thủy.

Đúng như vậy! Sáng ngày tháng sáu (22-12-1951) vừa đúng ngày kỉ niệm thành lập quân đội ta, một đoàn tàu địch gồm một tàu lớn (MONITO LCT) và năm ca-nô từ phía thị xã Hòa Bình xuôi dòng sông Đà để về Hà Nội, trên tàu chở khá nhiều binh lính, sĩ quan. Đài quan sát của đại đoàn đã kịp thời phát hiện địch từ xa và báo cho Trung đoàn 6 biết.

Khắp trận địa sôi nổi hẳn lên. Từ các vị trí giấu pháo ở phía sau, các chiến sĩ “voi gầm” rầm rập khiêng các bộ phận pháo tiến ra các công sự đã làm sẵn, ngụy trang kín ở bờ sông. Các chiến sĩ phòng không cũng nhanh nhẹn chuẩn bị các phần tử xạ kích để bắn máy bay địch. Các phân đội bộ binh thoăn thoắt triển khai, chiếm lĩnh các vị trí chiến đấu.

Trên không, một chiếc máy bay trinh sát của địch bay dọc sông nhòm ngó. Trung đoàn 6 đã tích cực nghi trang mọi đường tiến quân và các trận địa cho nên máy bay trinh sát địch dù bay rất thấp cũng không phát hiện được. Thế rồi, đoàn tàu địch đi vào trận địa phục kích cua ta và mọi việc đã diễn ra đúng như đã dự kiến.

Cả một khúc sông dài mù mịt khói lửa, dầu mỡ loang rộng trên mặt nước, đoàn tàu địch mới đây còn ầm ĩ kéo đi, nay không còn lấy một chiếc. Trước cảnh tượng ấy, chúng tôi lại liên tưởng tới những trận chiến thắng trên sông Gâm, sông Lô năm nào. Một lần nữa, chúng ta lại chiến thắng giòn giã trên sông nước. Nếu giặc Pháp còn tiếp tục chiến tranh xâm lược, chúng còn phải chịu những thất bại nặng nề. Con đường vận chuyển tiếp tế trên sông của địch đã hoàn toàn bị cắt đứt. Đại đoàn bắt đầu chuyển sang giai đoạn bao vây quân địch ở trong và chung quanh thị xã Hòa bình. Chiến dịch đã bước sang đợt hai…

Sau khi Trung đoàn 2 do chuẩn bị không chu đáo nên không hoàn thành nhiệm vụ tiêu diệt vị trí Pheo (một vị trí trong mạng án ngữ trên đường số 6 từ Xuân Mai tới Hòa Bình, tầm quan trọng tương tự như Tu Vũ), đại đoàn bèn trao cho Trung đoàn 6 nhiệm vụ mở một đợt tấn công mạnh vào khu ngoại vi và đánh sâu vào trung tâm thị xã.

Được sự chỉ đạo trực tiếp của bộ chỉ huy mặt trận, của đại đoàn, Trung đoàn 6 đã hoàn thành vượt mức yêu cầu nhiệm vụ khá khó khăn, phức tạp của mình. Rất mưu trí và linh hoạt, các đơn vị của trung đoàn trong một đêm tiêu diệt ba vị trí địch ở ngoại vi thị xã, đã dùng một phân đội nhỏ, tinh nhuệ táo bạo, khéo léo luồn vào sâu trong trung tâm thị xã và tiêu diệt hoàn toàn cụm pháo binh của địch (đây cũng là lần đầu tiên quân ta thí nghiệm một chiến thuật mới: dùng phân đội nhỏ, tinh nhuệ, đánh thọc sâu vào trong một căn cứ địch).

Đêm ấy, những ai có mặt ở đài quan sát của đại đoàn, sở chỉ huy Trung đoàn 6 đều rất phấn khởi khi nhìn xuống thung lũng Hòa Bình sáng rực lửa công đồn, diệt pháo địch. Tin chiến thắng báo về dồn dập, tin Đại đội 41 đã bí mật thọc sâu, diệt gọn cụm pháo binh trong tung thâm, tiếp đó là tin Đại đội 61 đã đánh xong vị trí đồi Cháy. Sau đó lại có tin đại đội 42 đang làm nhiệm vụ kiềm chế địch ở vị trí Rậm cho Đại đội 41 diệt pháo binh; khi thấy địch ở Rậm hoang mang, dao động đã linh hoạt, quyết tâm nắm thời cơ chuyển từ kiềm chế sang tấn công và đã tiêu diệt xong vị tí này. Cuối cùng là những tin chiến thắng dồn dập của các đơn vị đánh các vị trí chung quanh thị xã…


Tiêu đề: Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng - Thượng tướng Song Hào
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Bảy, 2010, 07:35:11 am
*
*   *

Sau những chiến thắng ở thung lũng Hòa Bình đêm ấy, Đại đoàn Quân tiên phong cùng các đơn vị bạn siết chặt vòng vây địch thêm một bước nữa. Một thời kì mới của chiến dịch đã mở ra thời kì bao vây tiêu hao, tiêu diệt địch, cầm chân đại bộ phận lực lượng cơ động tinh nhuệ của chúng ở chiến trường này, tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị bạn tung hoành ở vùng sau lưng địch, trong đồng bằng tạm bị chiếm đóng.

Đây cũng là thời kì mà Đờ-lát - viên tướng kiêu căng đặc biệt được bọn thực dân Pháp ca tụng về “tài thao lược” đã đau đầu trước sự khốn quẫn của bọn chúng ở Hòa Bình và sự thiệt hại nặng nề ở vùng đồng bằng. Trong giai đoạn này bệnh cũ lại tái phát. Đờ-lát phải quay về Pháp và đã chết. “Ông ta chế như để trốn món nợ Hòa Bình”, như nhiều nhà báo Pháp đã mỉa mai bình luận.

Trong thời kì này, đại đoàn ra sức cùng các đơn vị bạn liên tục phục kích địch trên đường số 6 để cắt nốt đường tiếp tế duy nhất trên bộ của chúng; ra sức bắn phá, tiêu hao, bắn tỉa bọn địch trong khu vực thị xã, làm cho chúng điêu đứng, khống khổ trăm bề. Tất cả mọi sinh hoạt của địch đã phải chuyển xuống mặt đất, tất cả phải chui rúc dưới hầm hố như chuột. Người xuống hầm, pháo cũng xuống hầm. xe tăng cũng phải xuống hầm… (sau này, trước cảnh bị bao vây và tiến công, sống rất khổ cực của hơn một vạn quân Pháp ở Điện Biên Phủ, nhiều đồng chí ta đã nhớ lại cảnh tượng quân địch ở Hòa Bình cuối năm 1951 đầu năm 1952 và thấy rằng Hòa Bình 1951-1952 đã là “tiền thân” của Điện biên Phủ năm 1954, hoặc ít ra cũng là hình ảnh sơ khai của cái tập đoàn cứ điểm lịch sử ấy).

Cho tới những ngày cuối tháng 2 năm 1952, do không chịu nổi những đòn rất nặng của quân dân ta ở vùng đồng bằng, Bộ chỉ huy quân viễn chinh Páp đã phải liều cho các binh đoàn cơ động chiến lược đang ở mặt trận Hòa Bình tháo chạy trở về để cứu nguy cho “đồng bằng giàu có” chúng đang tạm thời chiếm giữ.

Từ đêm 22 tháng 2 năm 1952, quân Pháp đã bí mật cho rút nhiều lực lượng sang hữu ngạn sông Đà, mặc dầu chúng tích cực nghi binh: đèn vẫn thắp sáng, xe tăng vẫn nổ máy thâu đêm, nhưng gần về sáng âm mưu của chúng đã bị ta phát hiện.

Lệnh tiến công truy kích được ban ra, truyền nhanh tới các phân đội. Tất cả đại đoàn sôi nổi hẳn lên. Có những đơn vị được lệnh nhânh chóng đánh thẳng vào thị xã nhằm tiêu diệt những bộ phận địch chưa kịp rút. Có những đơn vị được lệnh cấp tốc vượt sông Đà đuổi đánh những bộ phận địch đang cắm đầu tháo chạy trên đường số 6 dưới sự yểm trợ của máy bay và trong pháo.

Đúng 13 giờ ngày 23 tháng 2 năm 1952, thị xã Hòa Bình đã hoàn toàn giải phóng. Chúng tôi tiến vào những đường phố đổ nát, ngổn ngang xác xe, xác pháo địch. Vỏ đạn đủ các cỡ ùn lên từng gò, từng đống. Quân trang, quân dụng của địch vương vãi khắp nơi. Trên các chiến hào, hầm hố, xác địch không kịp chôn cất còn nằm la liệt. Nhiều xác đã trương lên, có mùi hôi thối. Xen lẫn với những xác chết là những tên lính địch bị thương đan nằm rên rỉ, cả lính Âu - Phi, lính ngụy. Một tên lính Âu nom thấy chúng tôi, kêu to lên rồi ra hiệu xin nước uống. Chúng tôi dừng lại và rót một chút nước đưa cho nó (thấy nó bị thương quá nặng, e cho uống nhiều nguy hiểm tới tính mạng). Tên lính địch uống xong, chúng tôi nói với những đồng chí đi cùng khiêng nó về trạm cấp cứu. Tới một ngã ba có một ụ súng đã sập, chúng tôi lại gặp một tên lính ngụy bị thương. Nó đã gần như mê man, máu đỏ kín cả mặt, chỉ còn thoi thóp thở. Chúng tôi lại nới với anh em đưa ngay nó về trạm cấp cứu của ta… Lòng chúng tôi cháy lên một niềm căm giận. Lũ đế quốc không những đã đem quân đi bắn giết các dân tôc khác, chúng còn dã man bắt cả những ngươi cùng đất nước, cùng dân tọc bắn giết chính đồng bào mình, cuối cùng để cho chúng đặt ách thống trị lên đầu, lên cổ họ. Tội ác của bọn đế quốc quả là ghê tớm và quá lớn, không có lời nào có thể diễn tả nổi.

Chúng tôi đi thăm chiến trường, khi trở về ghé thăm một số phân đội của đại đoàn. Gặp gỡ anh em, lúc này chúng tôi lại càng thấy rõ thêm những vấn đề rất trọng yếu trong việc xây dựng đơn vị vững mạnh để chiến thắng. Cần phải làm sao xây dựng, rèn luyện cho các đơn vị có khả năng đánh tập trung thành thạo để phát huy nhiều nhất sức mạnh của tác chiến với binh lực lớn. Mặt khác phải xây dựng, rèn luyện cho đơn vị không những biết đánh tập trung lớn mà có khả năng khi cần có thể tác chiến phân tán, độc lập từng phân đội mà vẫn có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ. Phải xây dựng, rèn luyện cho đơn vị có thể tác chiến dưới mọi điều kiện thời tiết, đêm, ngày, mưa, nắng, đánh nhanh được, đánh kéo dài cũng được, có thể đánh theo nhiều phương thức khác nhau: từ cách đánh của phân đội nhỏ tinh nhuệ tới các chiến thuật khác như bao vây, phục kích trên bộ, trên sông và cả cách quấy rối, tiêu hao quân địch. Phải xây dựng, rèn luyện cho đơn vị có đầy đủ tính linh hoạt, cơ động; khi có điều kiện thì chuẩn bị kĩ rồi mới đánh, nhưng khi không có thời gian để chuẩn bị kĩ thì vẫn có khả năng bước vào tác chiến thật nhanh… Tuy nhiên trên tất cả những vấn đề ấy, vấn đề cơ bản mà kinh qua thực tế đã được xác minh là vô cùng trọng yếu là việc xây dựng Đảng bộ vững mạnh, rèn luyện, đào tạo đội ngũ cán bộ vững vàng về tư tưởng và già dặn vê kinh nghiệm chiến đấu. Xây dựng và củng cố tốt sự đoàn kết nhất trí trong đơn vị từ trên xuống dưới, làm sao cho hàng vạn con người mà chí như một. đấy là những điều kiện để chiến thắng của đơn vị.


Tiêu đề: Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng - Thượng tướng Song Hào
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Bảy, 2010, 07:36:44 am
X

Sau chiến thắng ở Hòa Bình, đại đoàn cùng với nhiều đơn vị khác trong toàn quân lại bước vào một đợt chỉnh huấn mới. Khác với lần trước, kì này các đơn vị được học tập một cách cơ bản và có hệ thống hơn về đường lối cách mạng Việt Nam, về bản chất và nhiệm vụ của quân đội nhân dân… Có thể nói đây là một cuộc chỉnh huấn rất cơ bản, có tác dụng lớn trong việc nâng cao chất lượng chính trị, tư tưởng của bộ đội lên một bước rất quan trọng nhằm đáp ứng yêu cầu cách mạng và kháng chiến lâu dài đang ngày càng phát triển.

Cho tới tận bây giờ tôi vẫn không sao quên được những ngày học chỉnh huấn quan trọng ấy trong những khu rừng cọ, rừng trám ở đất Phú Thọ… Những ngày chuẩn bị tổ chức lớp học cũng khẩn trương, nhộn nhịp như chuẩn bị một chiến dịch, một trận chiến đấu. toàn thể Bộ tư lệnh đại đoàn đã trực tiếp lên lớp, giới thiệu từng bài cho anh em cán bộ từ sơ cấp trở lên. Vì quý trọng anh em đã đành và cũng vì bản thân mình rất say sưa với những nội dung học tập cho nên chúng tôi rất vui và sung sướng. chúng tôi đã hoạt động sôi nổi và khẩn trương như trong chiến đấu. Tôi nhớ mãi những đêm khuya trên bên ngọn đèn dầu trấu, dưới các mái lán trong rừng, cúng tôi ngồi trò chuyện với từng người, khêu gợi, giúp đỡ anh em thấy được những điều đúng, nhận rõ những điều sai… do đó lại càng thêm tin tưởng hơn và hiểu nhau hơn.

Sau cuộc chỉnh huấn đã có sự chuyển biến trông thấy. Về phía các đồng chí cán bộ, tư tưởng tiểu tư sản và tư tưởng không vô sản khác đã bị phê phán. Tác phong quan liêu, quân phiệt, đại khái, qua loa… đã bị chỉ trích thẳng thắng. Mặt khác, ý thức trách nhiệm, lập trường, quan điểm cách mạng đã được nâng lên rất rõ rệt.

Về phía anh em chiến sĩ cũng có những chuyển biến tốt. Ý chí tiêu diệt địch tăng lên. Đoàn kết cũng tốt hơn. Tất cả những điều ấy đã làm cơ sở giúp cho việc học tập quân sự thắng lợi tốt đẹp.

Lại giống như những năm trước, khi cuộc chỉnh huấn vừa kết thúc thì đại đoàn được lệnh chuẩn bị cùng các đơn vị bạn lên đường đi chiến dịch. Bấy giờ là thu đông năm 1952, mùa thu đông đáng ghi nhớ trong lịch sử nước nhà với sự chuyển hướng chỉ dạo chiến lược tuyệt với của Đảng ta. Do sự chuyển hướng chỉ đạo ấy mà quân dân ta tiếp tục giành được thắng lợi và thắng lợi ngày càng to lớn hơn, đẩy quân xâm lược lún sâu vào thế bị động chiến lược cho tới khi chúng bị thua hẳn. Sự chuyển hướng chiến lược của Đảng ta đã thể hiện nổi bật nhất ở việc chọn chiến trường để đánh địch. Lúc bấy giờ có nhiều hướng được đặt ra như hướng đông bắc hay trung du hoặc đồng bằng?... Bọn Pháp sau khi tính toán, thăm dò đủ nước, đã phá đoán ràng có rất nhiều khả năng “Quân Việt” sẽ đánh xuống đồng bằng…

Nhưng không! Hết sức sáng suốt, Trung ương và Bác Hồ đã chỉ cho chúng ta hướng đánh dịch là Tây Bắc! Tây Bắc là chiến trường quan trọng, là nơi quân địch nếu bị tấn công mạnh và bị cắt đường đường giao thông sẽ dễ dàng bị co lập. Tây Bắc là chiến trường rừng núi mà quân ta có thể phát huy được sở trường tác chiến của mình và hạn chế tác dụng của phi pháo địch. Tây Bắc cũng là nơi quân địch tương đối còn chủ quan và sở hở. Ngoài ra, còn những lí do khác về địa thế, vị trí chiến lược quan trọng của Tây Bắc đối với không những Việt Bắc mà cả Việt Nam và chiến trường Đông Dương… Chính vì những lẽ đó, Bác Hồ và Trung ương đã quyết tâm phái bộ đội ta vượt núi băng ngàn, mạnh mẽ tiến vào Tây Bắc diệt địch, giải phóng đồng bào, giải phóng một khu vực chiến lược trọng yếu.

Hội nghị chiến dịch mở ở Bộ, Bác đã đến thăm, mặc dầu trời mưa, suối lũ. Bác đã đem tới cho cán bộ, chiến sĩ đi tham dự chiến dịch không những một nguồn cổ vũ rất lớn mà Bác còn đem cho chúng tôi một bài học Quyết tâm rất sâu sắc qua câu chuyện quyết tâm vượt qua suối lũ của Bác để tới Hội nghị đúng hẹn… “Có quyết tâm thì việc kho đến mấy cũng làm được. Nhưng không có quyết tâm thì dễ như ngắt một cái lá cũng không xong…”. Lời bác còn vang mãi trong tâm trí chúng tôi và nội dung công tác tư tưởng trọng yếu, nội bật nhất của quân dân ta trong chiến dịch Tây Bắc to lớn năm ấy cũng không ngoài vấn đề xây dựng quyết tâm theo lời Bác dạy.

Bài học Quyết tâm đã làm cho bản thân tôi cũng như tất cả các chiến sĩ, cán bộ trong đại đoàn đều rất phấn chấn, tin tưởng. Mặt khác, Tây Bắc đối với riêng tôi không phải là nơi xa lạ. Không ngờ mới xa Tây Bắc có ngót hai năm, tôi đã có dịp được trở lại chiến trường quá đỗi thân thuôc này. Nhưng lần này tôi được trở lại Tây Bắc đau thương và anh dũng cùng với một binh đoàn lớn mạnh, trong một chiến dịch quy mô có nhiều binh đoàn cùng tham gia tác chiến, quyết giành lấy thắng lợi giòn giã.


Tiêu đề: Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng - Thượng tướng Song Hào
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Bảy, 2010, 07:38:16 am
*
*   *

Toàn đại đoàn Quân tiên phong ngày nghỉ đêm đi, chẳng mấy chốc đã tới bờ sông Hồng. Trời đột ngột đổ mưa lớn. Nước sông dâng cao cuồn cuộn chảy, sôi réo ầm ĩ trong đêm. Tuy vậy do toàn đại đoàn chuẩn bị tốt các bến và được đồng bào địa phương hết lòng giúp đỡ chèo chở nên đã đội mưa, vượt sông gọn trong một đêm.

Sang bên kia sông đã coi như đất Tây Bắc rồi. Rừng núi ngút ngàn hiểm trở. Trận mưa đêm trước làm cho mặt đất lầy bùn, quân đông, kéo đi, bùn càng sục lên kinh khủng, ngập sâu tới ngang ống chân. Cả binh đoàn chia thành hai cánh quân lớn như bị chôn trong bùn non. Có giờ chỉ nhích đi được 500m. Đồng chí đại đoàn trưởng Vương Thừa Vũ cùng với tôi phải xắn quần cao ngang đùi mà đi. Trước tình hình tiến quân rất gian nan ấy, chúng tôi đã kịp thời tổ chức hội ý, tổ chức lại đội hình cho thích hợp hơn. Những đơn vị có nhiệm vụ chiến đấu đầu tiên được phép vượt lên trước. các đơn vị khác phải tạm dẹp sang hai bên nhường đường…

Sau khi vượt qua chặng đường lầy bùn ghê gớm ở vùng bên sông, các đơn vị của đại đoàn bắt đầu vượt qua một ngọn đèo rất cao và hiểm trở, quanh năm gần như phủ đầy mây mù, gió lạnh. Đó là đèo Khâu Vác. Tuy vậy, các đơn vị của đại đoàn đã nối tiếp nhau vượt qua “ải mây” này khá mau lẹ. Một phần do quyết tâm của anh em rất lớn, một phần do công tác tổ chức của đại đoàn đã làm khá chu đáo, những đoạn quá hiểm trở đã được công binh sửa chữa lại, đánh thành bậc và có dây song chằng dọc hai bên làm tay vịn. Ở những đoạn có độ dốc lớn và những đoạn tương đối bằng phẳng bộ đội có thể ngồi nghỉ chân có treo sẵn những biểu ngữ (do cơ quan chính trị đại đoàn làm) nhắc nhủ quyết tâm và cổ vũ tinh thần hăng hái vượt đèo để tiến vào Tây Bắc diệt địch, giải phóng cho đồng bào theo lệnh của Bác.

Đơn vị tiền vệ của đại đoàn vừa vượt qua dốc, đổ xuống sườn bên kia, quãng Nậm Mười thì gặp một đại đội Âu - Phi của địch ở Nghĩa Lộ đi tuần tiễu nhằm phát hiện ta từ xa.Trong khoảnh khắc, với quyết tâm lớn và trình độ tác chiến sắc bén, mãnh liệt, đơn vị tiền vệ của ta đã tiêu diệt gọn toàn bộ đại đội Âu - Phi, làm cho quân địch trong phân khu Nghĩa Lộ hoàn toàn mù mịt, không biết tin tức về ta. Chiến thắng Nậm Mười tuy nhỏ nhưng có một tác dụng khá quan trọng đối với toàn bộ chiến dịch và đã làm cho toàn đại đoàn hết sức phấn khởi, tin tuổng ở chiến thắng. Niềm phấn khởi và tin tưởng ấy càng được nhân lên khi được tin cùng ngày đơn vị bạn (Đại đoàn Chiến thắng) đã tiêu diệt vị trí Sài Lương và Ca Vịnh la hai tiền đồn của phân khu nghĩa lộ từ phái thị xã Yên Bái tiến sang.

Mệnh lệnh của Bộ tư lệnh đại đoàn được phát ra: cấp tốc tiến xuống cánh đồng Nghĩa Lộ, càng nhanh bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Tuy nhiên, vẫn phải triệt để giữ bí mật đến phút cuối cùng. Nhiệm vụ cụ thể của đại đoàn trong đợt đầu chiến dịch là tiêu diệt hoàn toàn quân địch ở khu vực cánh đồng Nghĩa Lộ (gồm 2 vị trí: một trên cao điểm Pú Chạng, một ở cạnh phố Nghĩa Lộ cũ, là khu vực chỉ huy toàn phân khu). Ngoài hai vị trí đầu não này, đại đoàn còn có nhiệm vụ tiêu diệt vị trí Cửa Nhì nằm án ngữ trên con đường từ Yên Bái đi vào cánh đồng Nghĩa Lộ. Bộ chỉ thị cho đại đoàn phải hoàn thành nhiệm vụ tiêu diệt cả ba vị trí trên trong thời gian một tuần lễ.

… Các trận chiến đấu và chiến thắng ở khu vực Nghĩa Lộ đã diễn ra như thế nào, báo chí và lịch sử của đại đoàn đã ghi lại tỉ mỉ. Ở đây tôi chỉ ghi lại những điều gây ấn tượng sâu sắc nhất đối với Đại đoàn Quân tiên phong.

Trong trận Pú Chạng mở màn cho chiến dịch, các sự kiện và diễn biến chiến đấu đã gây nên những xúc động mạnh mẽ hơn cả là giai đoạn tiến quân và bao vây, triển khai đội hình đột phá cứ điểm. Đây là giai đoạn xiết bao khó khăn và phức tạp. nếu không có truyền thống chiến đấu tốt đẹp từ xưa và nếu không được rèn luyện, giáo dục và tổ chức lãnh đạo chặt chẽ thì có lẽ bộ đội không vượt qua nổi những khó khăn từ đầu…

Tôi còn nhớ sau khi đổ dốc xuống cánh đồng Nghĩa Lộ một cách khá mau lẹ, gọn gàng, các đơn vị của đại đoàn đã tiến hành bao vây Pú Chạng (sở chỉ huy địch) từ rộng tới hẹp dần, rồi nhanh chóng triển khai đội hình chiếm lĩnh trận địa để sẵn sàng bước vào tấn công tiêu diệt địch. Việc chiếm lĩnh trận địa của Trung đoàn 2 trên dãy đồi Pú Chạng thật là khó khăn, vất vả và cũng táo bạo, mưu trí. Mũi chủ công của trung đoàn đã bí mật lên chiếm lĩnh trận địa ở ngay một mỏm đồi hơi thấp hơn mỏm mà địch xây đồn, cách nhau chỉ có một “yên ngựa” không quá hai trăm mét. Chọn hướng đột kích chủ yếu ở chỗ này, Trung đoàn 2 đã quyết giành lấy yếu tố bất ngờ để có thể nhanh chóng đột phá và thọc sâu mau lẹ vào giữa vị trí địch. Tuy nhiên, cũng vì thế mà việc giữ bí mật ở trên mỏm đồi chỉ cách địch trong “gang tấc” đã trở thành một vấn đề rất trọng yếu… các chiến sĩ Trung đoàn 2 và pháo binh phối thuộc đã phải thận trọng xắn nhẹ từng nhát xẻng, dùng tay moi từng viên sỏi để làm công sự và ụ pháo. Phải nén từng cơn ho, phải trao đổi ý kiến với nhăng bằng cử chỉ nhiều hơn là nói, đã nói là phải ghé sát miệng vào tai nhau thì thào rõ nhỏ… Từ chân đồi ngược lên, dốc tới trên 45 độ. Bộ binh leo trèo đã vất vả, các chiến sĩ pháo binh còn vất vả gấp bội. Tuy vậy, cuối cùng với một nghị lực phi thường cùng với mưu trí, kinh nghiệm sẵn có, anh em đã đưa được những cỗ sơn pháo lên tới mỏm đối diện với đồn địch để sẵn sàng trực tiếp yểm trợ cho xung kích đột phá cứ điểm.


Tiêu đề: Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng - Thượng tướng Song Hào
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Bảy, 2010, 07:38:44 am
… Sau khi Trung đoàn 2 đã chiếm lĩnh trận địa thắng lợi, Trung đoàn 8 cũng báo cáo đã triển khai đội hình bao vây đồn phố Nghĩa Lộ xong xuôi.

Có lẽ chưa một chiến dịch nào các đồng chí trong Bộ tư lệnh đại đoàn lại cảm thấy rất phấn chấn và tin chắc ở thắng lợi như lần này. Cuộc chiếm lĩnh trận địa rất khó khăn, phức tạp, quân đông, hàng vạn, vũ khí, khí tài không ít, lại mới từ xa đột ngột kéo tới và phải gấp rút triển khai đội hình ban ngày; có nơi đã táo bạo, bất ngờ tiến hẳn vào bố trí pháo và đội chủ công ở ngay trước mũi quân dịch…. Vậy mà anh em đã hoàn thành gọn gàng, mau lẹ và vẫn giữ được hoàn toàn bí mật; vượt mức thời gian yêu cầu khá nhiều. Rõ ràng đây là kết quả cụ thể của cuộc chỉnh huấn cơ bản vừa qua.

Còn sáu giờ nữa mới tới giờ nổ súng theo kế hoạch cũ. Chúng tôi trong Thường vụ Đản ủy và Bộ tư lệnh đại đoàn trao đổi ý kiến và cũng nhất trí với nhau: trước thắng lợi của việc chiếm lĩnh trận địa, tình hình càng trở nên rất thuận lợi và quyết định thay đổi một phần kế hoạch cũ, cho bộ đội nổ súng tấn công sớm hơn giờ quy định, tranh thủ lúc trời còn sáng. Mặt khác, lệnh cho Trung đoàn 8 chuẩn bị để tiến đánh đồn phố Nghĩa Lộ cùng đêm, khi ở trên Pú Chạng Trung đoàn 2 đã nắm chắc phân thắng lợi.

Chúng tôi vừa trao đổi ý kiến xong thì Trung đoàn 2 cũng điện về báo cáo xin đánh sớm hơn giờ quy định. Trung đoàn 8 cũng xin được đánh đồn phố Nghĩa Lộ cùng đêm khi Trung đoàn 2 về cơ bản đã làm chủ được Pú Chạng…

Trên, dưới thật kéo gặp nhau! Chúng tôi càng thêm phấn chấn và tin chắc ở thắng lợi.

Đồng chí đại đoàn trưởng gọi điện về Bộ chỉ huy mặt trận xin chỉ thị. Bộ chỉ huy trả lời: đồng ý!

Thế là trận đánh trên Pú Chạng bắt đầu. Cối 120mm của ta lần đầu xuất trận, gầm vang. Tiếp đó là các khẩu sơn pháo cũng tham gia đợt bắn phá. Trên Pú Chạng, địch có pháo 105mm. Chúng bắn trả về phía trận địa cối, pháo của ta. Nhưng chúng chỉ mới bắn được hai ba phát đã bị tiêu diệt tức khắc. Lửa cháy đỏ, lan rộng dần trên cứ điểm địch.

Xung kích của Trung đoàn 2 bắt đầu tiêế ra “yên ngựa” để sẵn sàng đột phá các bãi mìn, dây thép gai, mở cửa tiến vào diệt địch trong đồn. Từ trên đài quan sát của đại đoàn, trung đoàn nom rất rõ những cán bộ, chiến sĩ thân yêu của đại đoàn đang tiến với đội hình tuyệt đẹp, một tốc độ nhịp nhàng và một khí thế dũng mãmh lạ thường. Cũng lúc đó máy bay địch từ Hà Nội ầm ầm bay lên, gồm máy bay Hen-cát, phóng pháo kiểu B.26. Chúng lập một vòng lượn trên bầu trời Nghĩa Lộ khi còn vàng rực ánh hoàng hôn. Sau đó, chúng lao xuống nhằm đúng khu “yên ngựa” - nơi mà chúng đã kịp phát hiện là bị tán công mạnh và nguy hiểm nhất. Những quả bom na-pan vàng ệch nối tiếp nhau rơi xuống. Từng đám lửa lớn bùng lên... Lòng chúng tôi không khỏi thắt lại. Nhưng không. Bình tĩnh và mau lẹ, dũng cảm, các chiến sĩ của đại đội đột kích chủ công đã cùng lao lên bám lấy hàng rào địch. Những quả bom lửa rơi hầu hết ở phía sau đội hình của đại đội. Chỉ có một số cán bộ, chiến sĩ thuộc trung đội cuối cùng bị dính lửa. hết sức bình tĩnh và tỉnh táo, anh em ôm lấy súng lăn tròn trên mặt nước để dập lửa trên lưng áo; có những đồng chí vừa lăn vừa bốc đất dập vào những đám lửa cháy bùng bùng trên đầu, trên cổ mình. Trung đoàn phó Hung Sinh - người cán bộ kiên cường, anh dũng tuyện vời của đại đoàn cũng đã có mặt tự lúc nào với các chiến sĩ xung kích. Anh cũng bị một mảng lửa bám cháy ở bên mang tai và một bên má. Anh cũng bốc đất tự dập lửa cho mình, đoạn tiếp tục xông lên cổ vũ các chiến sĩ bình tĩnh, gan góc bám chắc trận địa, mặt khác lệnh cho đại đội xung kích thứ hai tạm lui lại phía sau để tránh bom lửa địch, sau đó tiếp tục tiến lên chiếm lĩnh vị trí cũ.

Quang cảnh ở trước cửa mở cứ điểm Pú Chạng lúc đó thật là hùng vĩ. Bom lử cứ tiếp tục bùng lên. Các chiến sĩ vẫn vẫn bám chặt lấy đồn địch và xuyên qua các màn khói, các đám cháy tiếp tục tiến lên. Trong lúc ấy, các chiến sĩ phòng không của đại đoàn nổ súng mãnh liệt để bảo vệ đơn vị. Đạn bắn lên như xé trời. Một chiếc Hen-cát như một con quạ sắt đen bị bắn xuyên họng, rơi xúng vun vút. Một chiếc khu trục nữa bị thương, khói đen kéo dài vắt ngang bầu trời Nghĩa Lộ vừa tắt nắng, bóng tối bắt đầu tràn ngập trong thung lũng. Những chiếc máy bay còn lại phải quay về Hà Nội. Thời cơ đột phá “cửa mở” đã tới. Với sức tấn công vẫn còn gần như hoàn toàn nguyên vẹn, với một khí thế manh liệt và kinh nghiệm công kiên dồi dào, các đơn vị của Trung đoàn 2 đã từ ba hướng nhất tề xông lên. Chỉ trong khoảnh khắc, chúng tôi dã nhận được báo cáo: các chiến sĩ ta đã làm chủ hoàn toàn trên mặt đồn Pú Chạng. Chỉ còn lại một hầm ngầm cố thủ. “Phải mưu trí và nhanh chóng tìm ra hầm ngầm để tiêu diệt!” - Chúng tôi ở sở chỉ huy đại đoàn diện ngay cho Trung đoàn 2.


Tiêu đề: Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng - Thượng tướng Song Hào
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Bảy, 2010, 07:39:20 am
Nếu như đặc điểm nổi bật thứ nhất của trận tiêu diệt đồn Pú Chạng là quân ta đã anh dũng, ngoan cường chiếm lĩnh trận địa dưới bom lửa của địch thì đặc điểm nổi bật thứ hai là nhanh chóng phát hiện được hầm ngầm và tiêu diệt hầm ngầm cố thủ của chúng.

Các chiến sĩ, cán bộ của Trung đoàn 2 đã dũng cảm và mưu trí nhử dịch, lừa địch, đi tìm được hầm cố thủ và đặt bộc phá đánh từ khối lượng nhỏ tới khối lượng to hơn. Vừa đánh bộc phá vừa kêu gọi địch ra hàng. Cuối cùng, không chịu nổi sức tấn công và sự uy hiếp dữ dội của ta, quân địch trong hầm (gồm 82 tên) đã phải lốc nhốc giơ tay lên ra hàng (trong đó có toàn thể bộ chỉ huy phân khu Nghĩa Lộ, từ chỉ huy trưởng tới chỉ huy phó và tham mưu trưởng, tham mưu phó).

Chiến thắng giòn giã của Trung đoàn 2 trên Pú Chạng đã làm nức lòng Trung đoàn 8. Khi được lệnh tấn công, Trung đoàn 8 đã tiến đánh quân địch ở vị trí Nghĩa Lộ cũng không kém phần mạnh mẽ và cuối cùng đã hoàn thành nhiệm vụ tròng thời gian không quá hai giờ.

Chỉ trong một đêm, cả hai vị trí đầu não, then chốt của phân khu Nghĩa Lộ đã bị hoàn toàn tiêu diệt. Quân địch bị giết và bắt sống toàn bộ. Cuối trận đánh, máy bay địch lên thả pháo sáng và ném bom để hòng tiêu diệt quân ta và phá hủy các kho tàng của chúng. Nhưng đấy chỉ là những hành động tuyệt vọng.

Đêm sau, đến lượt Trung đoàn 6 tấn công tiêu diệt quân địch ở vị trí Cửa Nhì. Trung đoàn 6 đã kịp thời phát hiện quân địch ở vị trí này đang hoang mang tới cực độ, chuẩn bị tháo chạy. Trung đoàn đã nắm thời cơ, trách nhiệm thủ nổ súng đúng lúc quân địch bắt đầu đeo ba lô lên vai để rút ra khỏi đồn. Trận chiến đấu đã diễn ra chớp nhoáng. Trung đoàn 6 đã chiến thắng giòn giã, góp phần cùng các đơn vị trong đại đoàn và tất cả các đơn vị bạn quét sạch quân thù, giải phóng hoàn toàn khu vực Nghĩa Lộ với hàng vạn dân và cả một cánh đồng phì nhiêu rộng lớn đứng vào háng thứ hai ở Tây Bắc (sau Điện Biên).

Đợt một chiến dịch kết thúc, Đại đoàn đã được Bộ chỉ huy mặt trận ngợi khen vì chỉ sau có 36 giờ chiến đấu đã hoàn thành nhiệm vụ nặng nề và to lớn mà bộ giao cho phải hoàn thành trong một tuần lễ.

Một buổi sáng, tôi cùng đồng chí Vương Thừa Vũ vào phố Nghĩa Lộ đã được giải phóng. Khó nói cho hết niềm vui của chúng tôi và anh em cán bộ, chiến sĩ khi ấy. Đồng chí Vũ ngày trước vì hoạt động cách mạng đã bị giặc Pháp bắt giam an trí ở đây một thời gian. Nay đồng chí đã trở lại với tư cách của một người chỉ huy chiến thắng. Còn đối với riêng tôi, Nghĩa Lộ đã là một cái gì mang nặng trong lòng từ những ngày ở Tây Bắc… Đã bao lần, từ bên kia dòng sông Hồng, đỏ mắt nhìn sang Nghĩa Lộ đau thương dưới gót giặc, mà lòng những ước mong và thề nguyền sẽ có ngày được tiến vào giải phóng vùng đất giàu đẹp này của Tổ quốc…

… Phân khu Nghĩa Lộ đã bị tiêu diệt. bộ chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp rất lo ngại vì thấy rõ hướng tấn công chiến lược trong thu đông 1952 của quân ta. Chúng vội vã đưa hai binh đoàn cơ động chiến lược (GM7 và GM1) đánh lên vùng Phú Thọ nhằm cắt đứt tiếp tế từ hậu phương của ta ra tiền tuyến, kéo chủ lực của ta từ Tây Bắc trở về.

Nhưng âm mưu của chúng hoàn toàn bị thất bại. Đảng ta vẫn kiên trì chủ trương tiêu diệt sinh lực địch ở Tây Bắc và giải phóng một phần đồng bào, đất đai Tây Bắc. Theo mệnh lệnh của Bộ, đại đoàn chỉ cần phái một trung đoàn trở về Phú Thọ để phối hợp cùng quân dân địa phương đánh địch; còn đại bộ phận vẫn tiếp tục tiến sâu vào Tây Bắc cùng các đơn vị khác thực hiện nhiệm vụ chiến dịch.

Trung đoàn 6 được phái trở lại Phú Thọ. Chúng tôi đã căn dặn anh em mọi điều, mọi mặt. Chúng tôi bắt tay các đồng chí chỉ huy và gửi gắm ở anh em một niềm tin tưởng và hi vọng không nhỏ. Cũng từ đó, đại đoàn chỉ thị cho cơ quan tham mưu, chính trị cố gắng theo dõi chặt chẽ mọi bước tiến của Trung đoàn 6; mặc dầu về Phú Thọ, Trung đoàn 6 sẽ nằm dưới quyền chỉ huy của một Bộ chỉ huy mặt trận mới được thành lập.

Về Phú Thọ, được nhân dân địa phương hết lòng giúp đỡ dẫn đường, tiếp tế, thông báo tin tức địch… và được các đơn vị bạn tích cực phối hợp, hỗ trợ, Trung đoàn 6 đã đánh một trận phục kích lớn và nổi tiếng trên đường số 2. Trong trận này, các chiến sĩ Trung đoàn 6 đã tiêu diệt 400 tên địch, phá hủy ngót 50 xe cơ giới, trong đó có cả xe tăng 18 tấn và xe bọc thép. Trận vận động phục kích khá mưu trí và rất quyết tâm như một trùy nặng có tính chất quyết định cuuả quân dân Phú Thọ giáng vào âm mưu địch, phá tan kế hoạch phá giao thông, ngăn tiếp tế từ hậu phương và kéo chủ lực ta trở về, cứu nguy cho đồng bọn chúng ở Tây Bắc. Một lần nữa, Trung đoàn 6 đã cùng các đơn vị bạn viết thêm những trang sử vẻ vang của đại đoàn, làm giàu thêm truyền thống Quân tiên phong đã được xây đắp từ trước.

Trong khi Trung đoàn 6 chiến thắng ở Phú Thọ, trên Tây Bắc, các trung đoàn (Trung đoàn 2, Trung đoàn 8) cùng bộ đội phòng không, pháo binh, công binh của đại đoàn đã tiến sát tới bờ sông Đà để chuẩn bị bước vào giai đoạn 2 của chiến dịch.


Tiêu đề: Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng - Thượng tướng Song Hào
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Bảy, 2010, 07:40:25 am
*
*   *

Sông Đà! Dòng sông xanh đen chảy len lởi giữa những triền núi hiểm trở, hùng vĩ. Sông Đà! Dòng sông quá đỗi quen thuộc, nưm nay tôi lại có dịp trở lại với nó…

Đêm ấy, sau khi tiểu đoàn 79 của đại đoàn đã dũng cảm dùng tre, bương làm phao bơi vượt dòng sông lạnh buốt sang bờ bên kia tiêu diệt quân địch ở đồn Hát Tiếu, thì đơn vị công binh của đại đoàn được lệnh cấp tốc làm một cầu phao dã chiến cho đại đoàn tiến sang đất Sơn La.

Đêm ấy, trong ánh đuốc bập bùng, một cảnh tượng vượt sông hùng tráng, đẹp đẽ đã diễn ra. Quan kéo đi nườm nượp trên chiếc cầu nổi khá chắc chắn. Trước cảnh tượng này, tôi không khỏi nhớ lại những đội võ trang tuyên truyền khi bước vào Tây Bắc. Trong những năm còn nhiêu khó khăn, gian khổ ấy, anh em đã bao lần thầm lặng vượt dòng sông lạnh gió này để đi sâu vào lòng địch, giác ngộ nhân dân, gây dựng lại các cơ sở cách mạng, kháng chiến. Tôi biết có không ít anh em khi qua dòng sông này đã không còn bao giờ trở về nữa. Có anh em đã bị quân thù sát hại ngay giữa dòng sông, máu hòa cùng với nước sông Đà chảy mãi về xuôi.. Nay tình hình đã khác trước…; nếu như anh em được trông thấy cảnh tượng đoàn quân lớn, vượt sông rầm rộ, khí thế như dời non, lấp biển đêm nay, hẳn thấy rằng công lao, xương máu của mình không uổng.

Vượt qua sông Đà, Trung đoàn 8 được lệnh tiêu diệt một cứ điểm mạnh của địch - cứ điểm Mường Lum để nhanh chóng tiến ra con đường chiến lược 41. Được một đơn vị của Trung đoàn 2 phối hợp, Tiểu đoàn 29 (của Trung đoàn 8) đã tấn công Mườn Lum và tiêu diệt đồn này khá mau lẹ, đặc biệt đây là một trận đánh đồn có công sự vững chăc trong tiến quân, không có thời gian chuẩn bị kĩ.

Cũng trong thời gian này các đơn vị bạn ở phía Mộc Châu đã anh dũng tiêu diệt các cứ điểm Bản Hoa, Ba Lay, đánh tan một chi đoàn ứng cứu của địch. Chiến thắng Bản Hoa, Ba Lay và Mường Lum, Hát Tếu đã góp phần quan trọng phá tan phòng tuyến của địch trên sông Đà. Đường chiến lược số 41 đã phơi mình trước mũi súng của các chiến sĩ Quân tiên phong cùng các đơn vị chủ lực khác của ta. Thường vụ Đảng ủy đại đoàn cấp tốc hội ý và nhận định: phòng tuyến sông Đà của địch đã hoàn toàn tan vỡ, như vậy quân địch trên tuyến đường 41 nhật định sẽ hoang mang. Nếu phía dưới, đơn vị bạn tiêu diệt nốt quan địch ở Mộc Châu thì đường số 41 nhất định càng rung chuyển mạnh, tinh thần quân địch sẽ còn tan rã nhanh hơn nữa. Như vậy có khả năng quân địch sẽ rút chạy phần lớn các vị trí trên dọc đường để về Sơn La hoặc Nà Sản. Do đó, đại đoàn cần nhanh chóng hơn mữa, tiến ra đường 41 để đánh địch…

Nhận định và chủ trương ấy được phổ biến tức khắc xuống các đơn vị và đã có tác dụng quyết định đối với những chiến thắng của đại đoàn trong thời gian đó.

Trung đoàn 8 đang tiếp tục dẫn đầu đội hình của đại đoàn thì được tin cấp báo: địch sẽ đốt đồn Sông Con, tháo chạy về cứ điểm Yên Châu. Lệnh truy kích được phát ra. Thế là quân ta như gió lốc băng rừng tiến ra đường chiến lược. Vẫn còn thấy lửa cháy đỏ rực một góc trời phía đồn Sông Con. Một bộ phận của trung đoàn bứt lên phía trước. đến cầu Tà Vài, bộ phận này bắt được “cái đuôi” của chúng. Địch chiếm hai đồi cao bên kia cầu, bắn trả lại rất dữ. Trong khi đó, các chiến sĩ ta chỉ có súng cá nhân và súng máy nhẹ. Cối và đại liên chưa có khẩu đội nào lên dược. tuy vậy với một ý chí kiên cường, lòng dũng cảm cao độ, các chiến sĩ ta vẫn đánh mở đường qua cầu xông lên, quyết không cho quân thù chạy thoát. Trận chiến đấu đã diễn ra khá ác liệt. Đạn địch bắn tóe lửa chi chít trên thành cầu; một số chiến sĩ ta hi sinh. Nhưng cuối cùng quân ta đã hoàn toàn chiếm được cầu sắt, tiêu diệt bọn địch có đại liên ở hai quả đồi đầu cầu. Đại bộ phận quân thù ở phía trên biết không thể chạy nổi về Yên Châu, chúng vứt hết ba lô, điện đài, chạy tản sang hai bên đường và tan rã hết. Để lại một bộ phận vây quét bọn này, đại bộ phận Trung đoàn 8 tiếp tục rầm rập tiến về Yên Châu.

Một bộ phận nhỏ trang bị nhẹ của trung đoàn lại được phái đi trước, có nhiệm vụ vạch đường, đi vòng núi vượt qua Yên Châu, đóng một cái chốt để đề phòng bọn đich ở Yên Châu có thể sẽ hoảng hồn rút chạy trước.

Phán đoán đó không sai và chủ trương ấy rất đúng. Khi bộ phận nhẹ của ta vòng núi vừa tiến ra, đặt chân lên đường 41 thì đã chạm quân địch ở Yên Châu rút chạy. Đại bộ phận Trung đoàn 8 vẫn còn ở phía dưới Yên Châu. Máy bay địch đang thả bom phá hủy kho tàng ở trong thị trấn. Trươc tình hình ấy, phân đội đóng chốt của quân ta van ngoan cường nổ súng xông vào đánh địch mặc dầu chúng đông gấp bội. Quân địch bị tiêu diệt một số, một số tháo chạy vào rừng. Chỉ riêng bộ phận đi đầu của chúng là chạy thoát về Cò Nòi, rồi Chiềng Đông…

Cuộc truy kích địch của Trung đoàn 8, Trung đoàn 2 tiếp tục diễn ra mỗi lúc một mãnh liệt. Tới giờ phút này, đại đoàn lệnh cho các đơn vị; “Ai khỏe cứ tiến lên phía trước mà đánh địch. Không cần phân biệt đơn vị này với đơn vị khác. Tự động phối hợp với nhau mà tác chiến. Linh hoạt và dũng cảm. Kiên trì và quyết tâm. Táo bạo và mưu trí…”.

Sở chỉ huy của đại đoàn đã ra tới đường 41 dể bám sát các đơn vị nắm chắc tình hình, chỉ đạo tình hình cho sát và kịp thời.

Trước cảnh tượng đuổi địch dữ dồi ấy, tôi không khỏi nhớ tới năm 1941; cũng trên con đường này, rất vắng vẻ, bọn Pháp đã giải đi từng đoàn tù chính trị để đưa lên đày ải ở nhà ngục Sơn la. Hai tay bị xích chặt, lê từng bước lòng không khỏi có lúc buồn rầu, nhưng khi ấy tôi vẫn luôn luôn nghĩ tới một ngày mai thắng lợi, tươi sáng… Tuy nhiên, khi ấy không thể nào hình dung ra cảnh tượng quân ta đánh đuổi địch như hôm nay với cái khí thế như chẻ tre, tiến tới đâu quân thù tan vỡ, tháo chạy tới đó.

Yên Châu địch chạy rồi. Rồi Cò Nòi, rồi Chiềng Đông, rồi Hát Lót… địch cũng đều chạy nốt. chạy đến nỗi không còn kịp phá hủy kho tàng, hầm hố. Họa chăng chúng chỉ còn kịp gọi máy bay từ Hà Nội lên ném bom lên đèo Cò Nòi, trong đó có khá nhiều bom bươm bướm, hòng ngăn bước tiến của quân ta. Nhưng ngăn sao nổi! Các chiến sĩ ta vẫn người tiếp người, đoàn tiếp đoàn, xông lên. Mặt khác. Đại đoàn cũng đã kip thời điều công binh lên dể gỡ, phá bom bảo đảm đường tiến quân cho đơn vị.

Hàng trăm, hàng trăm tàn binh dịch bị vây bắt ở các khu rừng ven đường. Súng, đạn, đồ dùng quân sự địch vứt bỏ đầy đường. Xác địch chết nằm rải rác suốt từ cầu Tà Vài lên tới tận Nà Sản. Ở thung lũng này có một sân bay. Cũng ở đây tàn quân địch các nơi sống sót chạy về cùng những đơn vị ứng cứu từ Sơn La kéo xuống đã vón cục lại thành một tập đoàn cứ điểm.

Tập đoàn cứ điểm! Một hình thái phòng ngự mới của địch, có màng lưới hỏa lực dày dặc, có công sự vững chắc đã hình thành rõ rệt. Quân ta cần phải được chuẩn bị tốt hơn nưa mới có thể tấn công chắc thắng. Mặt khác lúc đó không những đại đoàn Quân tiên phong mà tất cả các đơn vị khác đều đã hoàn thành nhiệm vụ vượt mức, yêu cầu của chiến dịch cũng đã đạt được rất cao so với chỉ tiều đề ra, bởi vậy Bộ chỉ huy đã cho kết thúc chiến dịch.

Đại đoàn Quân tiên phong cùng với các đơn vị bạn chỉ để lại một bộ phận nhỏ ở chiến trường, còn đại bộ phận ca khúc khải hoàn, tưng bừng kéo trở về khu căn cứ Việt Bắc! ở Phú Thọ, lúc đó Trung đoàn 6 của đại đoàn đã hoàn thành vẻ vang nhiệm vụ, đang chờ đại đoàn quay trở về cùng mở đại hôi mừng công, bình bầu chiến sĩ thi đua về dự Đại hội Anh hùng và Chiến sĩ thi đua toàn quốc.


Tiêu đề: Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng - Thượng tướng Song Hào
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Bảy, 2010, 07:42:52 am
Trải qua mấy chiến dịch nữa, Đại đoàn Quân tiên phong đã tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử.

Rồi cuối năm ấy, năm 1954, đại đoàn hết sức vinh dự được Bác Hồ, Trung ương Đảng, Chính phủ và Bộ Tổng tư lệnh trao cho nhiệm vụ tiến về tiếp quản thủ đô Hà Nội.

Nói sao cho hết niềm vui sướng, cảm động của các cán bộ, chiến sĩ trong đại đoàn khi nhận được nhiệm vụ vẻ vang ấy. Có lẽ vui sướng, cảm động hơn hết là các cán bộ, chiến sĩ thuộc Trung đoàn Thủ đô. Sinh trưởng trong lòng Hà Nội khói lửa, trung đoàn chiến đấu rất oanh liệt rồi ra đi tham gia cuộc kháng chiến lâu dài, nay chiến thắng trở về, thực hiện đúng lời thề khi xưa: “Thề sẽ quay về giải phóng Thủ đô!”. Tuy nhiên, không phải chỉ riêng có các cán bộ, chiến sĩ thuộc Trung đoàn Thủ đô là có những kỉ niệm thiêng liêng, những mối ràng buộc ruột thịt, máu xướng với Hà Nội. Trong Trung đoàn 8 cũng có nhiều đại đội vốn là những đại đội Vệ quốc đoàn khi trước đã từng đóng trong nội thành làm nhiệm vụ bảo vệ nơi Bác ở và các cơ quan của Đảng và Nhà nước. Trung đoàn 6 cũng vậy, tuy trước đây gọi là trung đoàn của Bắc Ninh - Bắc Giang (Bắc - Bắc) nhưng hầu hết các phân đội của trung đoàn đều đã tham gia những trận chiến đấu ở vùng chung quanh Hà Nội (năm 1946, 1947) như Gia Lâm, Yên Viên, Đông Anh…

Bởi vậy, nay cùng được trở về tiếp quản Thủ đô, tất cả các chiến sĩ, cán bộ trong đại đoàn đều rất phấn khởi, sung sướng. Anh em đều ý thức được rằng việc Đại đoàn Quân tiên phong quay trở về tiếp quản Hà Nội có một ý nghĩa tượng trưng vô cùng đẹp đẽ và sinh động cho sự chiến thắng của Đảng ta, cho nhân dân ta, có sự lớn mạnh của quân đội ta.

Từ tháng 8 năm 1945, đại đoàn đã rời Việt Bắc, tiến qua trung du, về đồng bằng để chuẩn bị vào tiếp quản giải phóng Hà Nội. Bấy giờ đang mùa nước lũ, dòng sông Hồng dỏ khé phù sa, rộng mênh mông, nhiều quãng đường như nom không rõ bờ bên kia. Nhân dân các đơn vị đã nô nức đem hàng trăm chiếc thuyền bè để chở đại đoàn qua sông. Đi tới đâu, qua làng này, xóm khác, các chiến sĩ đều gặp những cảnh rất cảm động, đồng bào già trẻ, trai gái đổ ra, tay bắt mặt mừng, mừng mừng tủi tủi.

Tới ngày 10 tháng 10 năm 1954, toàn Đại đoàn Quân tiên phong chia làm hai mũi; đội hình tề chỉnh, trong rừng hoa, tiến vào giữa biển người tràn ngập khắp các quảng trường, các đường phố; cổng chào, khẩu hiệu, biểu ngữ gắn như rợp trời Hà Nội:

- Hồ Chủ tịch muôn năm!

- Hoan hô Hồ Chủ tịch, Chính phủ và Quân đội ta về giải phóng Hà Nội!

… Đi trong hàng ngũ của đơn vị cao xạ, chúng tôi ngắm nhìn quang cảnh kì diệu của ngày giải phóng này! Lòng tràn ngập những niềm hân hoan, vui sướng, xúc động. chúng tôi ngắm nhìn những đồng chí cán bộ, chiến sĩ thân yêu cả đại đoàn đang người tiếp người, đoàn nối đoàn hùng dũng tiến trên đường phố, trên đầu mỗi đồng chí đều như đang tỏa ánh hào quang của Chiến thắngVinh quang. Những đồng chí thân yêu ấy đã 8 năm nay chịu đựng biết bao gian khổ, đã bao lần vào sống ra chết mà không hề nao núng, sờn gan; trước sau chỉ quyết một lòng tin theo Đảng, căm thù đế quốc, phong kiến tới xương tủy, chiến đấu bền gan vững chí cho tới ngày hôm nay… Chúng tôi ngắm nhìn đồng bào Thủ đô đang cực kì hân hoan, súng sướng. Rõ ràng đây là những con người mất nước nay đã thấy Tổ quốc trở lại với mình. Đồng bào càng hoan hô, càng hân hoan, long trọng đón mừng các chiến sĩ ta bao nhiêu thì lòng yêu nước, tin Đảng, tin Bác hồ của đồng bào càng được bày tỏ ra nồng nhiệt bấy nhiêu.

Sau ngày tiếp quản ít lâu, tôi có dịp đi xem xét lại nhiều nơi trong nội, ngoại thành. Khi đi ngang qua nhà giam tù nhân mà nhân dân vãn quen gọi là “nhà Hỏa Lò”, tôi chầm chậm bước chân và hổi tưởng lại ngày nào cách đây gần tròn 15 năm, tôi và nhiều đồng chí hãy còn bị giam giữ trong những bức tường đá cao vút, lạnh lùng kia.

Mười lăm năm! Kể cũng là một thời gian khá lâu, nhưng đối với cuộc đời hoạt động, chiến đấu của một người thì cũng có thể nói là không dài cho lắm. Mười lăm năm đã qua đi, hôm nay tôi đã trở lại chốn này cùng với bao nhiêu đồng chí thân yêu. Nhưng sau mười lăn năm, tôi trở về Hà Nội tay không còn bị xiềng, áo không còn phải in số tù như trước nữa… Mười lăm năm! Tôi đã cùng biết bao đồng chí thân yêu trở về Thủ đô giữa muôn vàn tình yêu thương, quý mến của đồng bào, trong hào quang chiến thắng, trong niềm vinh dự của những chiến sĩ vẻ vang của Bác Hồ, của Đảng.

Một lần nữa, chân lí càng được lịch sử, thực tiễn cách mạng khẳng định: chỉ có đi theo con đường của Đảng, tự nguyện bền gan chiến đấu dưới ngọn cờ vinh quanh của Đảng thì ta mới có thể chiến thắng, mới giải phóng được ta, giải phóng được dân tộc, bảo vệ được đất nước, quê hương. Chỉ có đứng vững dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng, ta mới có thể giành lấy được tương lai tươi sáng cho Tổ quốc, một tương lai huy hoàng trong chủ nghĩa xã hội hôm nay và chủ nghĩa cộng sản mai đây.