Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Tài liệu - Hồi ký Việt Nam => Tác giả chủ đề:: chuongxedap trong 17 Tháng Tư, 2010, 07:53:35 pm



Tiêu đề: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Tư, 2010, 07:53:35 pm
Tên sách: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Nhà xuất bản: Chính trị Quốc gia
Năm xuất bản: 2001
Số hoá: ptlinh, chuongxedap




CHỈ ĐẠO NỘI DUNG:
         Đại tá PGS, TS. TRỊNH VƯƠNG HỒNG

CHỦ BIÊN:
         Đại tá NGUYỄN VĂN MINH

TÁC GIẢ:
         Đại tá    NGUYỄN VĂN MINH
         Trung tá    NGUYỄN XUÂN NĂNG
         Thượng tá    TRẦN TIẾN HOẠT
         Trung tá    NGUYỄN HUY THỤC
         Đại tá    ĐỖ XUÂN HUY

SƯU TẦM ẢNH TƯ LIỆU VÀ SƠ ĐỒ
         Thượng tá    NGUYỄN DUY BANG
         Thiếu uý    LÊ QUANG LẠNG





LỜI NHÀ XUẤT BẢN

Năm 1965, với việc đưa quân chiến đấu Mỹ và quân các nước phụ thuộc vào trực tiếp tham chiến ở chiến trường Việt Nam và tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại ác liệt bằng không quân và hải quân chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đế quốc Mỹ đã đẩy cuộc chiến tranh Việt Nam lên quy mô và cường độ chưa từng có. Với chiến lược hai gọng kìm “tìm diệt” và bình định ngông cuồng, ảo tưởng, chúng hy vọng sẽ nhanh chóng tiêu diệt cách mạng miền Nam trong vòng 18 tháng và răn đe các cuộc cách mạng trên thế giới: “cuộc khởi nghĩa nào cũng sẽ bị tiêu diệt”. Nhưng với hàng ngàn cuộc hành quân lớn nhỏ trên khắp chiến trường miền Nam, mà đỉnh cao là hai cuộc phản công chiến lược quy mô lớn vào mùa khô 1965-1966 và 1966-1967 quân xâm lược Mỹ vẫn bị thất bại thảm hại.

Nước Mỹ sen đầm ngày càng sa lầy vào cuộc chiến tranh không có đường ra, chưa biết bao giờ kết thúc. Chúng tiếp tục tăng quân, tăng chi phí quân sự và ném vào chiến trường Việt Nam một khối lượng phương tiện chiến tranh khổng lồ và hiện đại nhất. Lúc này, quân chiến đấu Mỹ có mặt ở miền Nam Việt Nam lên tới 480.000 tên và 68.800 quân của các nước phụ thuộc Mỹ. Nếu kể cả khoảng hơn 20 vạn quân đóng ở các căn cứ quân sự trên đất Thái Lan, Nhật Bản, Philíppin, Hạm đội 7, một bộ phận Hạm đội 6, đã có tới 80 vạn quân Mỹ trực tiếp tham gia chiến tranh Việt Nam. Năm 1967, quân ngụy Sài Gòn có 552.000 tên, đến cuối năm 1968, tăng lên 555.000 tên.

Đương đầu trực tiếp với quân viễn chinh Mỹ và quân các nước phụ thuộc, đặc biệt qua hai cuộc đọ sức thắng lợi trong mùa khô 1965-1966 và mùa khô 1966-1967, đã khẳng định chúng ta hoàn toàn có thể đánh thắng chúng trong cuộc chiến tranh này với một ý chí gang thép không gì lay chuyển nổi: “Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta, thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu quét sạch nó đi”. Thực tiễn chiến trường cho thấy quân và dân ta càng đánh càng mạnh, càng đánh càng thắng và luôn nắm quyền chủ động tiến công chiến lược, đẩy địch ngày càng lún sâu vào thế phòng ngự bị động, lúng túng đôi phó trên khắp các chiến trường. Tuy vậy, với những chiến dịch quân sự thông thường, với cách đánh tiêu diệt, tiêu hao sinh lực địch quy mô nhỏ, cuộc chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc của dân tộc ta sẽ phải diễn ra rất lâu dài và gian khổ. Vì vậy phải tìm cách đánh khác nhằm đập tan ý chí xâm lược, dã tâm xâm lược của tên đế quốc đầu sỏ. Qua thực tế chiến trường, những ý đồ chiến lược đã dần dần hình thành, từng bước trở thành những quyết sách của Đảng: tổng tiến công và nổi dậy, đánh thẳng vào sào huyệt của địch trong các thành phố và thị xã. Từ Kế hoạch chiến lược năm 1968 và nhiệm vụ của quân, dân ta do Bộ Tổng tham mưu chuẩn bị, hai cuộc họp Bộ Chính trị tháng 10 và tháng 12-1967 đã ra nghị quyết và trở thành Nghị quyết của Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá III), quyết định chuyển cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam sang một thời kỳ mới, thời kỳ giành thắng lợi quyết định.

Thực hiện quyết sách chiến lược lịch sử này, vào đúng giao thừa Tết Mậu Thân 1968, quân và dân ta đồng loạt nổ súng tổng công kích, tổng khởi nghĩa táo bạo vào hầu hết các thành phố, thị xã thị trấn và các căn cứ quân sự của địch trên khắp miền Nam, mà trọng điểm là Sài Gòn - Gia Định, Huế, Đà Nẵng, làm nước Mỹ bàng hoàng và thế giới chấn động. Với đòn tiến công Tết Mậu Thân, quân và dân ta ở miền Nam buộc Nhà Trắng và Lầu Năm Góc phải huỷ bỏ chiến lược “tìm diệt” thay bằng chiến lược “quét và giữ”, thế bố trí chiến lược của chúng một lần nữa bị đảo lộn, ta đã thu được những thắng lợi rất to lớn và toàn diện.

Trong lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta, nhiều người hiểu tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân ta chỉ có ở Tết Mậu Thân, nhưng trên thực tế đây được xem như đợt 1 còn đợt 2 và đợt 3 diễn ra mùa hè và mùa thu năm 1968, tạo thành tổng thể cuộc Tổng tiến công và nổi dậy năm 1968, mà kết quả của nó, theo thông báo của Bộ chỉ huy các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam, thì quân và dân ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 630.000 tên địch, tiêu diệt và đánh thiệt hại 1 lữ đoàn, 7 trung đoàn, chiến đoàn, tiểu đoàn bộ binh, 18 chi đoàn thiết giáp, 13.000 xe quân sự, 1.000 tàu xuồng chiến đấu, 700 kho đạn, diệt, bức hàng, bức rút 15.000 đồn bốt, chi khu. Thắng lợi này tạo ra một bước ngoặt quyết định của chiến tranh, đánh sập ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, làm cho chúng hiểu rằng không thể thắng được dân tộc Việt Nam trong chiến tranh, buộc phải đàm phán với ta tại Hội nghị Pari, bàn về việc rút quân Mỹ khỏi miền Nam, kết thúc chiến tranh.

Thắng lợi thực tế trên chiến trường đã nâng tầm vóc và quyết định vị thế của dân tộc ta trên bàn đàm phán. Đảng ta đã cử đến Pari những nhà ngoại giao đặc biệt xuất sắc, mưu lược, dày dạn kinh nghiệm, kiên định và có bản lĩnh do đồng chí Lê Đức Thọ dẫn đầu trực diện đấu tranh với những nhà ngoại giao rất xảo quyệt của nước Mỹ do Kítxinhgiơ đại diện. Chúng ta đến Pari với tư cách người nắm quyền chủ động chiến lược trên chiến trường, đại diện cho công lý chống lại cường quyền, tự mình đàm phán về lợi ích dân tộc mình, do chính mình quyết định.

Để có một thắng lợi mang tầm vóc chiến lược như vậy chúng ta phải trả giá bằng sự hy sinh xương máu của hàng vạn những người con ưu tú, tổn thất ấy là cực kỳ to lớn, sự hy sinh đó là cực kỳ cao cả để dân tộc có được hoà bình trong độc lập tự do vào mùa xuân toàn thắng năm 1975 lịch sử. Cả dân tộc và đời đời các thế hệ người Việt Nam ghi nhớ công ơn của các anh hùng liệt sĩ, những người ngã xuống vì lý tưởng mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta lựa chọn.

Những nội dung chính yếu và quan trọng nhất của quá trình tổng tiến công và nổi dậy 1968 đã được các tác giả của bộ Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 trình bày một cách sinh động, thuyết phục và chân thực trong tập V mang tiêu đề Tổng tiến công và nổi dậy năm 1968.

Nhân 26 năm ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng và cũng là dịp kỷ niệm 20 năm Viện và ngành Lịch sử quân sự Việt Nam được thành lập (28-5-1981 - 28-5-2001), chúng tôi trân trọng giới thiệu với bạn đọc tập sách và xin được chia vui cùng quý Viện.
 
                                                                                  Tháng 4 năm 2001
                                                                          NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Tư, 2010, 10:03:41 pm

CHƯƠNG 19
CUỘC CHIẾN TRANH CÁCH MẠNG MIỀN NAM
CHUYỂN SANG THỜI KỲ GIÀNH THẮNG LỢI QUYẾT ĐỊNH


I- GIỮ VỮNG QUYỀN CHỦ ĐỘNG TIẾN CÔNG,
ĐẨY ĐỊCH VÀO THẾ PHÒNG NGỰ CHIẾN LƯỢC

Bị thất bại trong cuộc phản công chiến lược lần thứ nhất (mùa khô 1965-1966), nhưng do đánh giá thấp tiềm lực, ý chí quyết tâm của nhân dân Việt Nam, Chính phủ và những người cầm quyền hiếu chiến ở Mỹ vẫn ngoan cố lao sâu vào cuộc chiến tranh. Họ hối hả tăng quân, tăng phương tiện chiến tranh, thực hiện chiến lược “hai gọng kìm” với ý đồ thâm độc là tiêu diệt chủ lực Quân giải phóng và bình định nông thôn miền Nam, thủ tiêu các căn cứ cách mạng và lực lượng du kích. Mặc dù chính quyền Mỹ do L. Giônxơn cầm đầu đã rất nỗ lực, sử dụng sức mạnh tối đa của nền công nghiệp quân sự hiện đại nhất và rất tốn kém trong cuộc phản công chiến lược lần thứ hai (mùa khô 1966-1967) ở miền Nam và dùng không quân, hải quân đánh phá, phong toả rất ác liệt miền Bắc Việt Nam, hòng ngăn sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam, nhưng chúng đã bị quân và dân ta đánh cho thất bại nặng nề cả về quân sự, chính trị, ngoại giao. Cùng với những thất bại về quân sự, chương trình “bình định” cũng bị sụp đổ, mọi cố gắng của Mỹ và chính quyền Sài Gòn đều không mang lại kết quả. Đây là thất bại có tính chất chiến lược của đế quốc Mỹ trong cuộc chiến tranh cục bộ ở miền Nam, khiến cho quân viễn chinh Mỹ dao động ý chí, mất lòng tin đối với những người cầm quyền nước họ. Nhiều lính Mỹ bắt đầu cảm nhận được Chính phủ Mỹ đã lừa dối họ để gây ra cuộc chiến tranh phi nghĩa ở Việt Nam. Quân đội, chính quyền Sài Gòn vốn đã yếu kém, nay quân Mỹ bị thua càng làm cho ngụy quân, ngụy quyền hoang mang, lo sợ, suy yếu hơn. Thất bại này “làm tăng cái giá phải trả về thời gian, của cải và máu và làm tăng khả năng thất bại cuối cùng trong việc thực hiện những mục tiêu ban đầu của Mỹ”1, khiến cho sự bất đồng trong nội bộ nước Mỹ thêm gay gắt, dẫn đến những mâu thuẫn trầm trọng trong giới cầm quyền về cách thức tiến hành cuộc chiến tranh Việt Nam...

Cũng từ những thất bại về quân sự trên chiến trường, sự nghi ngờ về kết quả các cuộc ném bom miền Bắc và tăng quân Mỹ vào miền Nam trong nhân dân và Quốc hội Mỹ cũng tăng lên. Nhiều nghị sĩ ở Thượng nghị viện và Hạ nghị viện Mỹ đã nhận thấy “tương lai không thể lường được của một cuộc chiến tranh hiện đang có tác động làm rã rời ý chí dân tộc Mỹ”2.

Các chuyên gia quân sự Mỹ ước tính nếu tình hình cuộc chiến tranh Việt Nam cứ xấu đi như sau cuộc phản công chiến lược lần thứ hai thì Mỹ phải đưa vào Việt Nam hơn một triệu quân viễn chinh, nhưng cũng chưa chắc đã giành được thắng lợi theo ý muốn. Lần đầu tiên nhân dân và nhiều nghị sĩ Quốc hội Mỹ bắt đầu lo ngại về số thương vong cao và chi tiêu tốn kém cho cuộc chiến tranh mà tương lai thì mờ mịt như đang “chui vào đường hầm không có lối ra”. Nếu chi phí cho cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam 1965-1966 là 4,7 tỉ đôla, thì năm 1967 đã tăng lên 30 tỉ, gấp 1,5 lần Mỹ đã chi cho cuộc chiến tranh Triều Tiên trong ba năm. Do chi phí lớn cho cuộc chiến tranh, nền kinh tế Mỹ bắt đầu suy thoái, thâm hụt ngân sách 4 tỉ đôla, giá cả tăng vọt, lạm phát không kiểm soát được. Giấc mộng của L. Giônxơn khi lên cầm quyền là sẽ xây dựng “một xã hội Mỹ vĩ đại” đã tan biến, vì không thể vừa xây dựng “xã hội vĩ đại”, lại vừa leo thang chiến tranh được. L. Giônxơn phải đệ trình Quốc hội Mỹ xin tăng 10% thuế để bù đắp vào chỗ chi tăng cho cuộc chiến tranh. Sự tăng thuế này trước tiên đánh vào nhân dân lao động Mỹ, nhất là người Mỹ da đen. Phong trào người Mỹ da đen chống chiến tranh Việt Nam bắt đầu dấy lên, hoà cùng phong trào đấu tranh của học sinh, sinh viên và nhân dân tiến bộ Mỹ đòi Chính phủ chấm dứt chiến tranh Việt Nam, rút quân về nước. Ngày 15-4-1967, tại Oasinhtơn, khoảng 40.000 người, có cả những cựu chiến binh Mỹ ở Việt Nam, tham gia biểu tình phản đối cuộc chiến tranh của Chính phủ Mỹ. Tháng 10-1967, nhiều cuộc biểu tình của nhân dân Mỹ chống chiến tranh lan rộng toàn nước Mỹ nhằm mục tiêu: đòi chăm lo tình cảnh cho người nghèo và chấm dứt chiến tranh Việt Nam. Những người biểu tình đã ngăn cản các đoàn tàu quân sự chở hàng sang Việt Nam. Thanh niên Mỹ đốt thẻ quân dịch, từ chối vào lính, thà chịu phạt tù, chứ không sang Việt Nam, v.v...

Do tác động của cuộc chiến tranh Việt Nam mà “lần đầu tiên sau nhiều năm một sự đối lập chính trị có tính chất quần chúng đối với hệ thống chính quyền hiện hành đã bắt đầu phát triển ở Mỹ”3.

Trên chiến trường Việt Nam, sau khi đánh bại cuộc hành quân Gianxơn Xiti của quân Mỹ, lực lượng vũ trang miền Nam tiếp tục tiến công địch với quy mô vừa và nhỏ trên khắp ba vùng chiến lược, dồn quân Mỹ và quân đội Sài Gòn vào thế bị động, lúng túng hơn. Đứng trước tình hình này, tháng 3-1967 tướng Oétmolen (Westmoreland) yêu cầu Tổng thống L. Giônxơn tăng thêm 4 sư đoàn, cộng với 2/3 sư đoàn hoặc tương đương, 10 phi đoàn máy bay chiến đấu chiến thuật và toàn bộ lực lượng cơ động đường sông của Mỹ với số lượng dự tính là 201.250 người để đưa tổng số quân Mỹ có mặt ở Việt Nam cao nhất vào cuối năm 1968 là 671.616 người, mới có thể giành lại được quyền chủ động và chiến thắng. Số quân xin thêm (201.250) này, Oétmolen yêu cầu một nửa trong số đó (100.000) phải có mặt ở Việt Nam trước ngày 1-5-1967.
______________________________________
1. Tóm tắt Tổng kết chiến tranh của Bộ Quốc phòng Mỹ, bản đánh máy. Tài liệu lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, t.1, tr.15.
2. Tài liệu mật Bộ Quốc phòng Mỹ về chiến tranh Việt Nam, Việt Nam thông tấn xã phát hành, Hà Nội, 1971, t.2, tr.126.
3. A.V. Nikin: Nước Mỹ, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1979, t.2, tr.185.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Tư, 2010, 10:09:27 pm

Tháng 4-1967, Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Mỹ đã chuyển đề nghị của tướng Oétmolen lên Tổng thống L. Giônxơn, đồng thời kiến nghị Tổng thống động viên lực lượng dự bị và mở rộng chiến tranh trên bộ sang Lào, Campuchia, Bắc Việt Nam. Kiến nghị của Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Mỹ bị Mắc Namara và Uyliam Bânđi phản đối. Sau các chuyến đi thị sát ở Nam Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ Mắc Namara thấy chính sách chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam đang thất bại: ném bom miền Bắc và các hoạt động mặt đất ở miền Nam cũng như những “sáng kiến hoà bình” bằng những đợt ngừng ném bom hạn chế của Tổng thống Mỹ không có tác dụng. Ngày 19-5-1967, Mắc Namara gửi lên Tổng thống L. Giônxơn một bản phúc trình nói rõ quan điểm của ông ta là “bây giờ đã là lúc chúng ta cần thay đổi mục tiêu của mình ở Việt Nam và phương cách mà chúng ta (Mỹ) sử dụng để đạt được những mục tiêu đó”1. Tiếp sau, Mắc Namara và Mắc Nâutơn yêu cầu Tổng thống Mỹ giảm bớt ném bom từ vĩ tuyến 20 trở ra, chỉ tăng 30.000 quân và đưa ra kiến nghị “Mỹ nên chấp nhận một giải pháp thoả hiệp”. Nội bộ chính quyền L. Giônxơn lúc này nổ ra những cuộc tranh cãi gay gắt xung quanh những chính sách, những giải pháp chấm dứt cuộc chiến tranh Việt Nam sao cho có lợi cho Mỹ và Sài Gòn. Nhưng những cuộc tranh cãi ở Nhà Trắng, Lầu Năm Góc không có hồi kết thúc càng làm cho nội bộ chính quyền, Quốc hội Mỹ chia rẽ thành ba phái: phái hiếu chiến đòi tăng quân theo yêu cầu của Oétmolen để mở rộng chiến tranh; phái chủ trương hạn chế leo thang chiến tranh, thu hẹp phạm vi ném bom miền Bắc và tìm giải pháp thương lượng với Hà Nội, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam sao cho Mỹ rút ra khỏi cuộc chiến tranh Việt Nam trong danh dự; phái dung hoà chủ trương cố giữ cho tình hình miền Nam không xấu thêm, tìm cách giành thắng lợi về quân sự để đi vào thương lượng trên thế mạnh... Nhưng làm thế nào để giữ cho tình hình miền Nam không xấu thêm? Đó là bài toán không dễ tìm ra lời giải. Cuối cùng, trước sức ép mạnh của phe hiếu chiến, L. Giônxơn liều lĩnh quyết định đưa thêm vào Việt Nam 10 vạn quân chiến đấu Mỹ nâng tổng số quân Mỹ ở miền Nam Việt Nam lên 480.000 vào tháng 12-1967. Trong số 10 vạn quân tăng thêm này, những tháng cuối cùng của năm 1966 và sáu tháng đầu năm 1967, Mỹ đã đưa vào Nam Việt Nam hơn 50.000 người, trong đó có Sư đoàn bộ binh số 9, Trung đoàn bộ binh 25 thuộc Sư đoàn bộ binh số 5, Phi đoàn máy bay chiến đấu chiến thuật A37... Số quân còn lại tiếp tục vào miền Nam Việt Nam sáu tháng cuối năm 1967, trong đó có lữ đoàn dù 2 và 3 thuộc Sư đoàn dù 101 (Thiên thần mũ đỏ)2, lữ đoàn bộ binh nhẹ 11 và 198. Cùng thời gian này, Sư đoàn bộ binh 9 “Bạnh Mã” Nam Triều Tiên (vào tháng 9-1966), Tiểu đoàn bộ binh 7 Hoàng gia Ôxtrâylia, Sư đoàn “Rắn hổ mang nữ hoàng” Thái Lan (9-1967), Đại đội bộ binh Niu Dilân (12-1967)... cũng được đưa vào Nam Việt Nam để tăng cường đánh phá các tỉnh miền duyên hải Khu V và tỉnh Bà Rịa, v.v... Đầu năm 1968, số quân chiến đấu Mỹ ở Việt Nam đã vượt quá nửa triệu tên. Trên diện tích khoảng 17 vạn km2, Mỹ đã tập trung một lực lượng quân chủ lực Mỹ, Sài Gòn và quân các nước phụ thuộc Mỹ đông xấp xỉ bằng tổng số lục quân của năm nước Bỉ, Anh, Áo, Canađa, Tây Ban Nha cộng lại. Mật độ lính địch trên diện tích 1 km2 trong cuộc chiến tranh Việt Nam là mật độ cao nhất chưa có cuộc chiến tranh nào trước đó đạt tới3.

Được tăng cường lực lượng mạnh, tháng 9-1967, Bộ chỉ huy Mỹ ở Nam Việt Nam thành lập Sư đoàn bộ binh 23 tại Chu Lai (Sư đoàn Amêricơn) gồm ba lữ đoàn bộ binh nhẹ 11, 196 và 198 tăng cường cho Vùng I chiến thuật (Quân đoàn I) để giải toả sức ép của ta ở vùng này và ngăn chặn Quân giải phóng đánh chiếm hai tỉnh phía bắc Nam Việt Nam.

Để thực hiện âm mưu ngăn chặn các cuộc tiến công của ta ở hai tỉnh phía bắc và củng cố tuyến phòng thủ mạnh bảo vệ Sài Gòn - Gia Định, tướng Oétmolen xúc tiến bố trí lại lực lượng trên toàn chiến trường miền Nam, chuẩn bị mở cuộc phản công chiến lược lần thứ ba dự định từ tháng 12-1967 đến tháng 4-1968. Oétmolen cấp tốc điều Sư đoàn dù 101, Sư đoàn kỵ binh không vận số 1, Lữ đoàn dù 173 về miền Đông Nam Bộ để cùng với Sư đoàn bộ binh số 1 (Anh cả đỏ) Sư đoàn bộ binh 25, Trung đoàn kỵ binh thiết giáp 11 chuẩn bị tiến công vào Chiến khu C, D. Địch gọi đó là cuộc tiến công ngăn ngừa ở tỉnh Phước Long. Đồng thời với cuộc phản công chiến lược ở hướng chính miền Đông Nam Bộ, địch dự kiến sẽ sử dụng hai sư đoàn lính thuỷ đánh bộ số 1 và 3, một trung đoàn của Sư đoàn lính thuỷ đánh bộ số 5 và Sư đoàn bộ binh (Amêricơn) Mỹ cùng với sư đoàn lính thuỷ đánh bộ Sài Gòn và lực lượng chủ lực Quân đoàn I ngụy mở bốn cuộc hành quân mang tên mật mã chung Oóc càn quét vùng biên giới Việt - Lào ở bốn tỉnh phía bắc Nam Việt Nam, nhằm lập lại quyền kiểm soát ở thung lũng A Sầu và miền tây Trị - Thiên, chuẩn bị bàn đạp tiến công sang Lào vào năm sau để cắt đứt đường mòn Hồ Chí Minh.

Nếu cuộc phản công chiến lược lần thứ ba diễn ra và kết quả như dự định, L. Giônxơn và phe hiếu chiến Mỹ hy vọng sẽ giữ được thế giằng co với ta trên chiến trường, ổn định được phần nào tình hình quân sự, chính trị ở miền Nam có lợi cho Mỹ và Sài Gòn. Qua đó, chính quyền Mỹ có thể gieo rắc ảo tưởng thắng lợi trong dân chúng Mỹ và phe đối lập, ngăn chặn mọi đảo lộn bất ngờ về quân sự, chính trị ở miền Nam Việt Nam cho đến khi bầu cử xong Tổng thống Mỹ (tháng 11-1968), rồi sẽ tìm những giải pháp quân sự hoặc chính trị tiếp sau để chấm dứt chiến tranh theo âm mưu của Mỹ và Sài Gòn.
______________________________________
1. Rôbớt S. Mắcnamara: Nhìn lại quá khứ - Tấn thảm kịch và những bài học về Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.234.
2. Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, t.IV, tr.26, 27, in sai “Sư đoàn kỵ binh không vận số 101” xin đọc đúng là “Sư đoàn dù 101”.
3. Mật độ lính Mỹ trong cuộc chiến tranh Triều Tiên: 327.000 tên/240.000 km2. Mật độ lính Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam năm 1968: 535.000 tên/170.000 km2.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Tư, 2010, 10:10:25 pm

Về phía ta, sau cuộc đọ sức quyết liệt giữa lực lượng cách mạng ở miền Nam với quân viễn chinh Mỹ trong mùa khô 1966-1967, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam họp Hội nghị lần thứ 14 khoá III (1-1968) nhận định: địch đã thất bại một bước rất cơ bản trong chiến lược chiến tranh cục bộ. Chúng đang lúng túng, bị động về chiến lược, chiến thuật; một thất bại về quân sự đối với Mỹ lúc này sẽ có tác động mạnh đến tình hình chính trị nước Mỹ, vì đây là năm bầu cử Tổng thống Mỹ (11-1968). Các phe phái ở Mỹ đang bận rộn dồn sức vận động cho ứng cử viên tổng thống của đảng mình. Ra tranh cử chức Tổng thống Mỹ lần này, các ứng cử viên đều lấy việc “chấm dứt chiến tranh Việt Nam” làm một trong những vấn đề chính để vận động tranh cử.

Trước tình hình trên, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương chủ trương động viên nỗ lực của quân, dân ta khắc phục mọi khó khăn, chớp lấy thời cơ Mỹ đang lúng túng, mở đợt hoạt động quân sự Thu - Đông đánh bồi vào quân Mỹ, quân đồng minh của Mỹ, phá sự chuẩn bị cho mùa khô của địch, đẩy chúng vào thế bị động hơn nữa, tạo thế, tạo lực và tạo thời cơ để tiến lên mở cuộc tiến công và nổi dậy quy mô lớn, nhằm giành thắng lợi quyết định.

Thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương, lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam mở các cuộc tiến công quân sự kết hợp với đấu tranh chính trị và nổi dậy của quần chúng cách mạng chống phá “bình định” của địch trên khắp ba vùng chiến lược...

Chiến sự sôi động và quyết liệt nhất mùa đông 1967 là chiến dịch tiến công Bình Long - Phước Long từ ngày 27-10 đến ngày 5-12 và chiến dịch Đắc Tô 1 ở bắc Tây Nguyên từ ngày 3-11 đến ngày 22-11.

Ở miền Đông Nam Bộ, Bộ Tư lệnh Miền quyết định mở chiến dịch tiến công địch trên địa bàn hai tỉnh Bình Long và Phước Long nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực quân Mỹ và quân ngụy Sài Gòn, thu hút, giam chân Sư đoàn 1 “Anh cả đỏ” Mỹ, tạo điều kiện cho lực lượng ta triển khai áp sát phía tây bắc Sài Gòn, hỗ trợ cho nhân dân đấu tranh giành quyền làm chủ, mở rộng vùng căn cứ của ta... Bình Long, Phước Long là hai tỉnh miền núi liền kề, đồi núi mấp mô, rừng cây thưa. Đây là khu vực khá hiểm trở, thuận lợi cho việc giấu quân, tập kết lực lượng. Quốc lộ 14 chạy hướng bắc - nam nối Tây Nguyên ở phía bắc với miền Đông Nam Bộ ở phía nam. Quốc lộ 13 và các tỉnh lộ, huyện lộ hợp với đường 14 thành hệ thống giao thông nối các thị xã, thị trấn đến các vùng trong tỉnh tương đối thuận tiện cho việc cơ động lực lượng.

Lực lượng tham gia chiến dịch gồm Sư đoàn bộ binh 9 (trung đoàn 1, 2, 3); Sư đoàn bộ binh 7 (có hai trung đoàn 141, 165); Sư đoàn bộ binh 5 (có hai trung đoàn 5 và 88) và hai trung đoàn pháo hoả tiễn ĐKB 96 và 208 cùng lực lượng vũ trang địa phương trên địa bàn chiến dịch.

1 giờ ngày 27-10-1967, một tiểu đoàn của Trung đoàn 88 tiến công đồn Phước Quả mở màn chiến dịch. Sau ba giờ chiến đấu, bộ đội ta tiêu hao nặng lực lượng địch đóng ở Phước Quả. Cùng thời gian, Trung đoàn 88 bắn pháo vào thị xã Phước Long, kiềm chế Chi khu Phước Bình, phá hỏng 6 khẩu đại bác, diệt hơn 100 tên địch. Địch điều Tiểu đoàn 2 (Trung đoàn 16, Sư đoàn 1) và Tiểu đoàn 3 (Trung đoàn 9, Sư đoàn 5) quân cộng hoà lên Phước Long đối phó với ta.

Đêm 28-10, Trung đoàn 3 (Sư đoàn 9) Quân giải phóng tiến công Chi khu Lộc Ninh, bộ đội đặc công của Sư đoàn 9 và Sư đoàn 7 tập kích Toà thị chính Lộc Ninh, thị xã Bình Long, đánh sập 2 nhà tầng, phá hỏng 4 khẩu đại bác, diệt 3 trung đội bảo an, cảnh sát. Trong hai ngày 29 và 30-10-1967, địch dùng máy bay trực thăng đổ một tiểu đoàn cơ giới Mỹ và Tiểu đoàn 2 (Trung đoàn 9 ngụy) xuống khu vực Lộc Ninh, đóng thành ba cụm ở phía đông sân bay Lộc Ninh, Mang Cải và Trường huấn luyện biệt kích. 20 giờ 30 phút ngày 30-10, Trung đoàn 2 (Sư đoàn 9), Trung đoàn 141 (Sư đoàn 7) Quân giải phóng được pháo binh yểm trợ, bất ngờ tiến công cụm quân địch ở phía đông sân bay Lộc Ninh, đánh thiệt hại 1 tiểu đoàn Mỹ, 1 đại đội biệt kích ngụy, phá hỏng 12 khẩu pháo và 40 xe cơ giới. Địch điều một tiểu đoàn Mỹ và Tiểu đoàn 36 biệt động Sài Gòn lên Lộc Ninh đối phó với ta, đồng thời đưa hai tiểu đoàn Mỹ khác và Tiểu đoàn 2 (Trung đoàn 8, Sư đoàn 5) quân cộng hoà lên Hớn Quản làm dự bị sẵn sàng chi viện cho Lộc Ninh. Đêm 1-11, Bộ Tư lệnh chiến dịch ra lệnh cho Trung đoàn pháo hoả tiễn ĐKB 96 và pháo cối của Sư đoàn bộ binh 9 pháo kích vào sân bay và Trường huấn luyện biệt kích Lộc Ninh, phối hợp với Trung đoàn 165 (Sư đoàn 7) và Tiểu đoàn 3 (Trung đoàn 3, Sư đoàn 9) tập kích tiêu diệt cụm địch ở Mang Cải.

Ngày 2-11-1967, một tiểu đoàn Mỹ đổ bộ bằng trực thăng xuống điểm cao 124 ở phía đông ngã ba đường 13, 14. Đêm đến, Trung đoàn 141 (Sư đoàn 7) bất ngờ tập kích quân Mỹ tại điểm cao này, diệt hai đại đội.

Trên hướng Phước Long, trong hai ngày 4 và 5-11, Trung đoàn 88 chủ lực miền Đông liên tục tiến công địch hành quân từ Phước Bình đi Phước Quả và đánh quân cứu viện, diệt Tiểu đoàn 3 (Trung đoàn 9) lính cộng hoà, đánh thiệt hại nặng Tiểu đoàn biệt động quân 36 ở ngã ba Tư Hiền, bắt sống 37 tên. Bị đánh mạnh, địch dùng một tiểu đoàn Mỹ, một tiểu đoàn ngụy và tàn quân Tiểu đoàn biệt động 36 tăng cường cho phía Phước Long, để sơ hở ở hướng Lộc Ninh. Nhân thời cơ địch phải phân tán lực lượng đối phó trên các hướng, quân ta pháo kích cụm quân địch đóng ở ngã ba Lộc Ninh (6-11), chặn đánh một đại đội Mỹ ở đông nam Sở cao su Brê Ling (7-11), bắn pháo vào sân bay Lộc Ninh và thị xã Bình Long, gây cho địch nhiều thiệt hại.
Ngày 7-11, đợt 1 chiến dịch kết thúc; các đơn vị khẩn trương củng cố, chuẩn bị bước vào đợt 2.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Tư, 2010, 10:13:27 pm
Giữa hai đợt chiến dịch, mặc dù thời gian tạm ngưng chiến ngắn ngủi, bộ đội ta vừa củng cố, chuẩn bị vật chất và trận địa, vừa sử dụng pháo, cối đánh bồi vào quân địch, gây hoang mang cho chúng, tạo điều kiện cho ta chuẩn bị. Sư đoàn bộ binh 7 dùng pháo, cối pháo kích các cụm địch ở khu vực Bình Long, Chi khu An Lộc và đường 13 (đoạn nam Hớn Quản). Đêm 23-11-1967, Trung đoàn 141 tiến công địch ở Tân Khai diệt 1 đại đội Mỹ và 18 xe quân sự. Ngày 24-11, một đơn vị Mỹ và một đại đội biệt kích ngụy có xe bọc thép yểm trợ phản kích, nhưng bị Trung đoàn 141 đánh diệt một số.

Đêm 26-11-1967, Trung đoàn 88 tiến công đồn Phước Hứa mở màn cho đợt 2 chiến dịch. Trên hướng chủ yếu, đêm 28-11, Trung đoàn 2 (Sư đoàn 9), tiến công Chi khu Bù Đốp; Trung đoàn 3 (Sư đoàn 9) tiến công cụm quân địch đóng ở phía đông chi khu, diệt một đại đội biệt kích ngụy, đánh thiệt hại nặng khu bảo an, khu quân trường. Ngày 29-11, địch dùng Tiểu đoàn 1 (Trung đoàn 28 Mỹ), Tiểu đoàn 2 (Trung đoàn 9), Tiểu đoàn 2 (Trung đoàn 8 ) quân cộng hoà và một đại đội pháo binh, một đại đội cơ giới Mỹ đổ bộ xuống khu vực đông nam sân bay và phía bắc Chi khu Bù Đốp phản kích, hòng đẩy lùi lực lượng ta ra xa, chiếm đóng, củng cố lại chi khu. 21 giờ ngày 29-11 chỉ huy Sư đoàn 9 Quân giải phóng Miền, ra lệnh cho Trung đoàn pháo hoả tiễn ĐKB đánh vào các cụm quân địch trong sân bay Bù Đốp, đồng thời, các chiến sĩ bộ binh Trung đoàn 1, Trung đoàn 2 (Sư đoàn 9), từ hai hướng bắc, đông chi khu, tiến công vào các cụm quân địch. Trung đoàn 2 đánh trúng, tiêu hao nặng Tiểu đoàn 1 Mỹ và một bộ phận Tiểu đoàn 2 ngụy. Do bám địch không chắc, nên mũi tiến công của Trung đoàn 1 không gặp địch, vì chúng đã di chuyển đi nơi khác.

Trên hướng Hớn Quản, đêm 2-12, Tiểu đoàn 2 (Trung đoàn 141), tiến công cụm quân địch ở cầu Tàu Ô, diệt 1 đại đội Mỹ và 14 xe quân sự.

Hướng Phước Long, ngày 3-12-1967, một tiểu đoàn của Trung đoàn 88 đánh ấp chiến lược Đắc Sơn, diệt hai trung đội bảo an. Trận đánh không dứt điểm, nên không hỗ trợ được cho nhân dân nổi dậy. Ngày 6-12, địch phản kích, Trung đoàn 5 Quân giải phóng đánh diệt 2 đại đội bảo an, bắt 15 tên, thu toàn bộ vũ khí.

Cuộc tiến công của ta trên hướng Bù Đốp, Hớn Quản tiếp tục diễn ra quyết liệt. Địch tăng cường lực lượng giành giật với ta hòng đẩy lùi ta trên từng khu vực. Ta kiên quyết tiến công giữ vững trận địa, đánh lui nhiều trận phản kích cỡ tiểu đoàn tăng cường của địch, đánh thiệt hại Tiểu đoàn 1 Mỹ, loại khỏi vòng chiến đấu 200 tên, diệt 2 đại đội bảo an...

Ngày 10-12-1967, Bộ Tư lệnh chiến dịch ra lệnh kết thúc chiến dịch, rút kinh nghiệm, chuẩn bị cho nhiệm vụ Xuân - Hè 1968.

Chiến thắng Bình Long - Phước Long chứng tỏ ta có khả năng mở chiến dịch dài ngày, thu hút giam chân một bộ phận lớn quân Mỹ cũng như quân ngụy, tạo điều kiện thuận lợi cho các hướng chiến lược khác.

Trong khi chiến dịch Bình Long - Phước Long đang diễn ra những trận đánh ác liệt trên các hướng Phước Long, Bù Đốp Lộc Ninh, thì lực lượng vũ trang Tây Nguyên mở chiến dịch Đắc Tô 1 nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực quân Mỹ, bức địch phải điều lực lượng cơ động lên Tây Nguyên để sơ hở các chiến trường khác; tiêu diệt và làm tan rã đại bộ phận lực lượng Quân đoàn II ngụy; đẩy mạnh chiến tranh du kích...

Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh cử Thiếu tướng Hoàng Minh Thảo làm Tư lệnh, Đại tá Trần Thế Môn làm Chính uỷ mặt trận Tây Nguyên thay cho Thiếu tướng Chu Huy Mân về làm Tư lệnh Quân khu V.

Lúc này Sư đoàn 4 Mỹ đang mở cuộc hành quân “Mắc Áctơ (Mc Arthur) càn quét khu vực phía tây nam tỉnh Gia Lai và bắc tỉnh Đắc Lắc; đồng thời lập căn cứ tiền phương ở thị trấn Tân Cảnh và căn cứ Đắc Tô 2 để thăm dò lực lượng ta. Bộ Tư lệnh mặt trận (đồng thời là Bộ Tư lệnh chiến dịch Đắc Tô 1) ra lệnh cho các đơn vị chủ lực tại chỗ và bộ đội địa phương hai tỉnh Gia Lai, Đắc Lắc bám đánh địch, thu hút sự chú ý của chúng về hướng nam Tây Nguyên, giữ bí mật ý định chiến dịch, tạo điều kiện cho Sư đoàn bộ binh 1 (trung đoàn 320, 66, 174), Trung đoàn pháo binh 40, Tiểu đoàn 6 độc lập mang mật danh Tiểu đoàn Tây Ninh tiến vào khu vực tây nam thung lũng Đắc Tô, xây dựng trận địa. Nơi đây, núi rừng trùng điệp, kín đáo với các dãy Ngọc Bờ Biêng, Ngọc Tang, Ngọc Dơ Lang, Ngọc Kom Liệt, Ngọc Rinh Rua cao trên 1.000 m. Chiếm các điểm cao này thì toàn bộ thung lũng Đắc Tô, thị trấn Tân Cảnh sẽ bị ta khống chế. Điểm cao 875 nằm ở phía tây các dãy Ngọc Bờ Biêng và ở phía nam dãy Ngọc Cơ Ring là trung tâm không gian chiến dịch được chọn làm điểm quyết chiến then chốt của chiến dịch.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Tư, 2010, 10:15:52 pm

Ngày 3-11-1967, chiến dịch Đắc Tô mở màn bằng trận đánh quyết liệt của các chiến sĩ Tiểu đội 7, Đại đội 11 thuộc Tiểu đoàn 6 Tây Ninh với hai đại đội Mỹ tại điểm chốt chiến dịch trên mỏm đồi yên ngựa dãy Ngọc Bờ Biêng. Đợt tiến công thứ nhất của địch bị đẩy lùi. Các chiến sĩ Tiểu đội 7 nhảy lên chiến hào thu 2 súng AR15, 1 súng M79. Đây là những khẩu súng chiến lợi phẩm đầu tiên của chiến dịch.

Sư đoàn 4 Mỹ đang mở cuộc hành quân Mắc Áctơ ở nam Tây Nguyên và Lữ đoàn dù 173 đang càn quét ở tỉnh Phú Yên phải bỏ dở các cuộc hành quân, được không vận cấp tốc lên Đắc Tô đối phó với ta.

Sáng ngày 4-11, địch dội bom xăng, bom đào và hoá chất độc xuống trận địa chốt của Tiểu đội 7. Cây cối um tùm bỗng sạch quang, lửa napan cháy nham nhở, nhiều đoạn hào giao thông, hầm chiến đấu cá nhân bị san phẳng. 8 giờ, quân Mỹ tiến công lên chốt, nhưng bị đánh bật khỏi trận địa. Trong ngày, địch tổ chức tám lần tiến công chiếm chốt của ta, nhưng các chiến sĩ Tiểu đội 7 kiên cường, bình tĩnh đánh lui, diệt 120 tên Mỹ, thu nhiều súng đạn.

Ngày 5-11, một đại đội Mỹ bất ngờ đánh chiếm trận địa chốt thứ hai của Đại đội 11 ở Ngọc Tang. Bộ đội ta đã đánh “giáp lá cà” với quân Mỹ, diệt 70 tên, giành lại điểm chốt. Trong trận này, chiến sĩ Nguyễn Tấn - một tân binh mới vào chiến trường, lần đầu ra trận đã kiên cường chiến đấu, khi còn một viên đạn cuối cùng, anh đợi tên Mỹ xông lên gần, mới ấn cò bắn gục tên địch và anh đã anh dũng hy sinh.

Các trận địa chốt chiến dịch của Đại đội 11, Tiểu đoàn 6 Tây Ninh đã nhử địch vào sâu khu trung tâm chiến dịch, tạo điều kiện thuận lợi cho Trung đoàn 320, Trung đoàn 66 (Sư đoàn 1), trong hai ngày 6 và 7-11 đánh tiêu diệt, tiêu hao 3 đại đội Mỹ, bắn rơi 2 máy bay lên thẳng, loại khỏi vòng chiến đấu 300 tên tại khu vực điểm cao 724, 823 và Ngọc Rinh Rua. Cùng với các trận ác chiến ở khu vực Ngọc Kom Liệt, Ngọc Rinh Rua, Đại đội 1 pháo binh do đại đội trưởng Bùi Xuân Phái và chính trị viên Thân Trọng Oanh chỉ huy dùng hai khẩu sơn pháo bố trí ở Ngọc Bờ Biêng bắn phá căn cứ dã chiến tiền phương của Sư đoàn 4 Mỹ ở Đắc Tô 2. Pháo ta đã bắn cháy kho đạn 1.100 tấn của địch, làm cho toàn bộ dự trữ hậu cần của cuộc hành quân bị thiêu huỷ hoàn toàn, 3 đại đội lính ngụy bị tiêu diệt, 150 tên Mỹ chết, 3 máy bay C130 chở quân ứng cứu vừa hạ xuống đường băng sân bay Đắc Tô bị trúng đạn nổ tung. Bộ chỉ huy Mỹ ở Sài Gòn phải kêu: đây là cơn bão lửa đáng kinh khủng nhất, gây thiệt hại nặng cho đồng minh (Mỹ - ngụy).

Lữ đoàn dù 173 Mỹ được máy bay lên thẳng cấp tốc chở đến Đắc Tô, lần lượt đổ xuống chiếm các điểm cao 823, 845, 882 trên dãy Ngọc Kom Liệt phối hợp với Sư đoàn bộ binh 4 tiến công vào sườn bên phải Sư đoàn 1 của ta, để tiến lên chiếm điểm cao 875. Nhưng, ngày 11-11, Trung đoàn 320 và Trung đoàn 66 hiệp đồng chiến đấu đánh trận vận động tiến công xuất sắc, diệt 4 đại đội Mỹ thuộc Lữ đoàn dù 173 và Lữ đoàn 1 (Sư đoàn 4) Mỹ, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 400 tên. Tiểu đoàn 1 dù đến cứu nguy, nhưng Tiểu đoàn 8 và đại đội trợ chiến súng máy 12,7mm thuộc Trung đoàn 66 kịp thời đánh ngăn chặn, tiêu hao một số, làm cho Tiểu đoàn 1 Mỹ không cứu nguy được cho lực lượng địch bị ta tiến công ở khu vực điểm cao 823. Địch không thực hiện được ý đồ chia cắt đội hình chiến dịch của ta. Bị ta đánh thiệt hại nặng, Lữ đoàn dù 173 và Sư đoàn bộ binh số 4 Mỹ đang bị mắc kẹt ở khu vực Ngọc Dơ Lang, Ngọc Kom Liệt, buộc Bộ chỉ huy Mỹ ở Sài Gòn phải tung lực lượng dự bị gồm hai tiểu đoàn của Sư đoàn kỵ binh không vận số 1 và Chiến đoàn dù 3 ngụy vào vòng chiến. Không quân Mỹ phải dùng mỗi ngày 700 lần chiếc máy bay B52 và máy bay phản lực ném bom huỷ diệt khu vực Đắc Tô. Những ngày cuối chiến dịch, số phi vụ ném bom của không quân Mỹ và Sài Gòn tăng lên 737 lần chiếc mỗi ngày. Núi rừng Đắc Tô trùng trùng điệp điệp, cây cối um tùm trước đó, giờ bỗng sạch quang, chỉ còn trơ ra những quả đồi trọc, hố bom chi chít. Hào giao thông, hầm cá nhân, hố bắn trên trận địa chốt của các đơn vị nhiều đoạn bị san lấp. Nhưng từ trong những trận địa bị bom đạn Mỹ cày xới tới mức tưởng chừng như không còn sự sống đó, bộ đội ta vẫn bình tĩnh chủ động tổ chức những trận đánh kết hợp giữ chốt kiên cường với xuất kích ngắn tiến công dũng mãnh. Khẩu hiệu “Quyết giữ trận địa đến cùng”, “Phấn đấu đạt dũng sĩ diệt Mỹ cấp ưu tú” ở khắp chiến hào đã có sức cổ vũ bộ đội vượt qua mọi ác liệt, quyết chiến lập công.

Từ ngày 8 đến ngày 27-11-1967, các đơn vị bộ binh, pháo binh, công binh... dồn dập tiến công quân Mỹ trên toàn tuyến chiến dịch. Trên dãy Ngọc Bờ Biêng, Tiểu đoàn 6 Tây Ninh đảm nhiệm khu chốt chiến dịch đã lập công xuất sắc, diệt 300 tên Mỹ, đánh thiệt hại Tiểu đoàn 3 (Lữ đoàn 1, Sư đoàn 4) Mỹ. Tại khu vực quyết chiến chiến dịch ở Ngọc Dơ Lang, Ngọc Kom Liệt, Ngọc Rinh Rua, Ngọc Cơ Ring, Trung đoàn 66 và Trung đoàn 320 dưới sự chỉ huy trực tiếp của Sư đoàn trưởng Nguyễn Hữu An và Chính uỷ Hoàng Thế Thiện đã vận dụng linh hoạt chiến thuật chốt kết hợp với vận động tiến công, đánh tiêu hao nặng lực lượng của Lữ đoàn dù 173 và Sư đoàn 4, đánh thiệt hại 2 tiểu đoàn, diệt 4 đại đội Mỹ khác. Những trận đánh của trung đoàn 66 và 320 đã nhử được Lữ đoàn dù 173 Mỹ vào khu quyết chiến then chốt của chiến dịch - điểm cao 875. Bởi vì sau những cố gắng tiến công chia cắt đội hình chiến dịch của ta ở khu vực Ngọc Dơ Lang, Ngọc Kom Liệt không thành, lại bị thương vong lớn, Bộ chỉ huy Mỹ cho rằng nếu không chiếm được điểm cao 875 làm bàn đạp tiến công và khống chế ta để từ đó thực hiện đòn đánh vu hồi vào sau lưng đội hình chiến dịch do Sư đoàn 1 đảm nhiệm, thì không thay đổi được thế trận. Vì vậy, dù xa các căn cứ pháo binh yểm trợ, Lữ đoàn dù 173 Mỹ vẫn quyết tiến công lên điểm cao 875. Quân Mỹ tin rằng với hoả lực yểm trợ ồ ạt của máy bay chiến lược B52 và máy bay chiến đấu chiến thuật, Quân giải phóng không thể đương đầu nổi với chúng.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Tư, 2010, 10:16:46 pm

Ngày 17-11-1967, tiểu đoàn 1 và 2 thuộc Lữ đoàn dù 173 Mỹ tiến công lên điểm cao 875. Cánh quân của Tiểu đoàn 1 chưa đến chân điểm cao đã bị Trung đoàn 66 đánh diệt từng bộ phận, buộc chúng phải dừng lại chống đỡ. Tiểu đoàn 2 Mỹ tiếp tục tiến chiếm cao điểm 875. Tại đây, Đại đội 7 (Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 174) đã bí mật xây dựng điểm cao 875 thành trận địa chốt kiên cố, đánh chặn, sát thương quân địch trước chiến hào. Ngày 18-11, địch cho từng tốp máy bay B52 luân phiên dội bom xuống điểm cao 875. Nhưng từ trận địa bị bom Mỹ cày xới nát vụn tưởng không còn sự sống, các chiến sĩ Đại đội 7 bắn mãnh liệt vào đội hình tiến công của bộ binh Mỹ, diệt từng tốp địch. Tuy vậy, lính Mỹ vẫn cố sống cố chết lao lên theo lệnh chỉ huy. Đại đội 7 kiên cường chiến đấu, động viên nhau “giữ vững quyết tâm, thà hy sinh không để mất chốt” để tạo điều kiện cho trung đoàn lập công. Tổ ba người Phùng Quang Chí, Bùi Xuân Lộc, Đỗ Văn Chuyên đã nêu gương dũng cảm, mưu trí đánh diệt 102 tên Mỹ, góp phần cùng đại đội đánh tan các đợt tiến công của địch.

Ngày 19-11, trong lúc quân Mỹ đang bị Đại đội 7 ghìm chặt dưới chân điểm cao 875, từ các hướng, Trung đoàn 174 (Sư đoàn 1), do Trung đoàn trưởng Đàm Văn Ngụy chỉ huy thực hành chiến thuật vận động tiến công kết hợp chốt, đánh tiêu diệt Tiểu đoàn 2 (Lữ đoàn dù 173) Mỹ. Ngày 20-11, bộ đội ta tiêu diệt thêm một số, bắn rơi 12 máy bay. Xác lính Mỹ và số bị thương nằm ở thung lũng chân điểm cao 875 sau trận đánh 50 giờ vẫn chưa được chúng đưa ra khỏi trận địa. Cuối cùng, Bộ chỉ huy Mỹ ở Sài Gòn phải cho máy bay ném bom xăng trong phạm vi rộng để thiêu xác chết và xoá dấu vết bại trận. Các trận kịch chiến còn tiếp diễn ác liệt đến ngày 29-11, quân Mỹ và lực lượng ta mới rút khỏi khu chiến dịch.

Chiến dịch Đắc Tô 1 kéo dài 27 ngày đêm liên tục, lực lượng vũ trang Tây Nguyên đã vượt qua muôn vàn khó khăn, ác liệt sáng tạo nhiều cách đánh đạt hiệu suất chiến đấu cao, đánh thiệt hại nặng Lữ đoàn dù 173, đánh thiệt hại Lữ đoàn 1 (Sư đoàn 4) Mỹ, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 4.000 tên địch. Tướng Oétmolen, Tư lệnh quân Mỹ ở Nam Việt Nam phải thú nhận: cuộc đương đầu với quân Bắc Việt Nam trong năm 1967 ở Tây Nguyên đã gây những tổn thất hết sức nặng nề cho cả Sư đoàn bộ binh 4 và Lữ đoàn dù 173 Mỹ. Chiến dịch Đắc Tô 1 được tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Nhất và hàng trăm cán bộ, chiến sĩ được thưởng Huân chương Chiến công các hạng. Bộ đội chủ lực Tây Nguyên đã sáng tạo và hoàn thiện chiến thuật vận động tiến công kết hợp chốt, mở ra khả năng mới về đánh tiêu diệt từng đơn vị địch trên chiến trường, là một cống hiến xuất sắc đóng góp vào kho tàng nghệ thuật quân sự của quân đội ta.

Chiến thắng Đắc Tô mùa đông 1967 cùng với chiến thắng Bình Long - Phước Long và các chiến trường khác đã buộc quân Mỹ và quân chủ lực Sài Gòn phải co dần vào thế phòng ngự chiến lược, giữ các thành phố, căn cứ lớn quan trọng.

Cùng với những chiến thắng của quân, dân ta ở miền Nam, trên miền Bắc - hậu phương lớn, mặc dù không quân Mỹ tập trung đánh phá, ngăn chặn rất ác liệt, nhưng sáu tháng cuối năm 1967, quân, dân miền Bắc đã bắn rơi 631 máy bay Mỹ, nâng tổng số máy bay Mỹ bị bắn rơi trong năm lên 1.067 chiếc, bắt nhiều giặc lái. Nhiệm vụ chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam tăng gấp sáu lần năm 1965. Việc tuyển quân đạt số lượng cao, chưa bao giờ thanh niên nam, nữ lại hăng hái, nô nức gia nhập quân đội, thanh niên xung phong để vào Nam đánh Mỹ như thời kỳ này. Mỗi tháng quân số bổ sung cho miền Nam từ 5.000 đến 7.000 người. Tháng giêng năm 1968, số quân bổ sung cho chiến trường tăng lên 22.000 người.

Vào những tháng cuối cùng của năm 1967, các đơn vị quân Mỹ ở vùng Quân khu III, Quân đoàn III bắt đầu chuyển quân, chuẩn bị cho cuộc hành binh ngăn ngừa ở tỉnh Phước Long được tướng Oétmolen dự định trong tháng 12. Nhưng trước sức tiến công của ta và tình báo địch phát hiện, lực lượng “cộng sản” từ các căn cứ ở vùng biên giới Campuchia đang di chuyển về các vùng trung tâm dân cư, kể cả Sài Gòn; hai sư đoàn 325C và 304 “cộng sản” từ miền Bắc vào và từ Lào sang đã tập kết xung quanh Khe Sanh, Oétmolen hốt hoảng ra lệnh huỷ bỏ kế hoạch phản công lần thứ ba, triệt thoái các đơn vị đã triển khai đánh vào chiến khu D, C để về giữ Sài Gòn - Gia Định. Oétmolen cũng huỷ bỏ lệnh điều động Sư đoàn kỵ binh không vận số 1 đang hoạt động ở Bình Định, Phú Yên về miền Đông Nam Bộ, để cùng với Lữ đoàn bộ binh nhẹ 196, Sư đoàn Amêricơn tăng cường cho mặt trận Quảng Trị.

Như vậy, tất cả lực lượng quân Mỹ và quân chủ lực Sài Gòn từ chuẩn bị phản công để giành lại quyền chủ động chiến trường, phải quay về phòng ngự bị động chống đỡ trên hai hướng chính: xung quanh Sài Gòn - Gia Định và Trị - Thiên. Mỹ lại bị động về chiến lược và chiến dịch, phải đảo lộn kế hoạch quân sự và thế bố trí lực lượng trên toàn chiến trường. Điều này càng tạo ra những sơ hở trong thế phòng ngự bị động của quân Mỹ, mâu thuẫn giữa phân tán và tập trung trong chiến lược phòng giữ và tiến công của địch phát triển. Quân Mỹ và quân ngụy Sài Gòn bộc lộ thế suy yếu mới.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 18 Tháng Tư, 2010, 09:16:25 am

II- QUYẾT ĐỊNH LỊCH SỬ

Chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ ở miền Nam Việt Nam đã phát triển tới mức rất cao, nhưng bị quân và dân ta đánh bại một bước rất quan trọng, đẩy chúng vào tình thế tiến thoái lưỡng nan về chiến lược. Quân Mỹ, quân Sài Gòn và quân các nước phụ thuộc Mỹ không thể làm nhiệm vụ “tìm diệt” và “bình định” có hiệu quả. Lực lượng của chúng bị căng ra các chiến trường và bị thế trận chiến tranh nhân dân của ta vây hãm. Thế chiến lược của địch bị đảo lộn và vỡ từng mảng, làm cho tinh thần, ý chí của binh lính Mỹ và Sài Gòn sa sút nghiêm trọng. Do thất bại trong cuộc chiến tranh Việt Nam, Chính phủ Mỹ phải lo đối phó với những khó khăn lớn về quân sự, chính trị và tài chính không chỉ ở Việt Nam mà ngay cả trong nước Mỹ. Địa vị của Mỹ có bước suy yếu mới, chúng đang bị cô lập với thế giới và bị loài người tiến bộ lên án mạnh mẽ, làm cho nội bộ giới cầm quyền thêm lục đục.

Trong lịch sử chiến tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, chưa bao giờ lực lượng quân sự, chính trị của ta ở miền Nam và miền Bắc Việt Nam mạnh như lúc này. Chúng ta đang nắm quyền chủ động chiến trường. Tình hình đó đã đưa lại cho quân và dân ta những điều kiện và thời cơ thuận lợi để đẩy mạnh cuộc kháng chiến, mở rộng thế làm chủ trên những vùng rộng lớn ở nông thôn đồng bằng, rừng núi và đô thị, có thể tiến lên tổng tiến công và nổi dậy, giành thắng lợi quyết định. Tháng 6-1967, Bộ Chính trị chủ trương: nhân lúc đế quốc Mỹ đang đứng trước thế tiến lui đều khó, lại phải tập trung vào cuộc vận động bầu cử Tổng thống Mỹ, ta cần chuẩn bị đánh một đòn quyết định tạo chuyển biến nhảy vọt cho cuộc đấu tranh cách mạng ở miền Nam, buộc Mỹ phải thua về quân sự. Tư tưởng chỉ đạo của Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương vẫn trên cơ sở phát huy mạnh mẽ phong trào nổi dậy của quần chúng kết hợp với đẩy mạnh chiến tranh du kích rộng khắp trên cả ba vùng chiến lược, đồng thời với đẩy mạnh tác chiến tập trung của bộ đội chủ lực thực hiện đánh vừa và đánh lớn, tiêu diệt các đơn vị cấp chiến dịch, chiến lược quân Mỹ cũng như quân ngụy Sài Gòn, đánh thắng âm mưu “tìm diệt” của địch. Mục tiêu Bộ Chính trị Quân uỷ Trung ương đề ra là đánh tiêu diệt gọn từng đơn vị địch; trước đây ta đã tiêu diệt được đại đội, tiểu đoàn, nay phải nâng mức lên đánh tiêu diệt trung đoàn, lữ đoàn Mỹ; trung đoàn, sư đoàn hoặc sư đoàn tăng cường quân chủ lực ngụy. Làm được như vậy sẽ gây “thôi động” toàn chiến trường, góp phần quan trọng giành thắng lợi quyết định, tiến lên đánh thắng hoàn toàn cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ.

Tháng 7 và tháng 8-1967, Cục Tác chiến Bộ Tổng tham mưu bắt tay xây dựng kế hoạch tác chiến chiến lược cho năm 1968 theo tinh thần Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 6 và chỉ thị của Quân uỷ Trung ương. Điểm lại hai năm đánh Mỹ, bộ đội ta đã diệt nhiều sinh lực, phương tiện chiến tranh của địch, trong đó có một số trận tiêu diệt gọn được những đơn vị cấp chiến thuật của chúng, nhất là đối với quân ngụy Sài Gòn. Song, nhìn chung ngoài tiểu đoàn Mỹ bị tiêu diệt ở thung lũng Ia Drăng tháng 11-1965, bộ đội ta chưa đánh tiêu diệt gọn được một đơn vị Mỹ nào khác, vì hoả lực phi pháo địch mạnh, sức cơ động của chúng nhanh, chỉ huy cấp chiến dịch của quân Mỹ thường không đi cùng với đơn vị trên địa bàn tác chiến. Do đó, vấn đề nâng mức đánh tiêu diệt từng đơn vị địch cấp chiến dịch, chiến lược khó có thể thực hiện được - nhất là đối với quân Mỹ. Đồng chí Văn Tiến Dũng, Tổng Tham mưu trưởng gợi ý cho “Tổ kế hoạch” do Cục trưởng Cục Tác chiến Lê Ngọc Hiền phụ trách là nên nghĩ đến kế hoạch và cách đánh khác cách đánh “truyền thống” mà lâu nay ta vẫn làm, thì mới có thể giành thắng lợi quyết định. Trong khi “Tổ kế hoạch” còn đang suy nghĩ tìm cách đánh mới, thì đồng chí Lê Duẩn khi trao đổi với các đồng chí trong Quân uỷ Trung ương về kế hoạch chiến lược năm 1968 đã đề xuất giải pháp đánh thẳng vào sào huyệt địch trong các thành phố, thị xã. Nhiều năm trên cương vị Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đồng chí Lê Duẩn luôn luôn nung nấu ý tưởng táo bạo đó, vì có đánh vào sào huyệt địch ở các đô thị mới tạo được chuyển biến mới. Với cuộc chiến tranh thực dân kiểu mới của Mỹ, thành thị là căn cứ hậu phương quan trọng, là nơi đầu não của địch. Không đánh vào đầu não địch ở thành thị thì khó có thể giành thắng lợi quyết định trong thời gian ngắn được. Từ ý tưởng đó, ngay trong thư gửi cho Khu uỷ Sài Gòn - Gia Định tháng Giêng năm 1967, đồng chí Lê Duẩn đã chỉ ra rằng: “trong một giai đoạn nhất định, cuộc chiến tranh cách mạng vừa quân sự vừa chính trị của ta sẽ phát triển đến tổng công kích, tổng khởi nghĩa nhằm đánh bại về cơ bản lực lượng quân sự, chính trị của địch ở tất cả các vùng do chúng kiểm soát mà hướng chính là thành thị, giành trọn vẹn chính quyền về tay nhân dân”1. Đồng chí còn nhấn mạnh thêm: “Trong quá trình chiến tranh cứu nước ở miền Nam, nếu ở giai đoạn đầu đấu tranh chính trị và quân sự ở nông thôn đã có tác dụng quyết định giành thắng lợi từng bước và làm thay đổi lực lượng so sánh ngày càng có lợi cho cách mạng, thì ở giai đoạn cuối, những đòn tiến công mãnh liệt về quân sự và chính trị ở thành thị, đánh vào một trong những chỗ dựa của địch, cũng là những đòn quyết định đánh bại hoàn toàn chính sách xâm lược của đế quốc Mỹ”2. Ý kiến của đồng chí Lê Duẩn bắt gặp tư duy của các đồng chí trong Quân uỷ Trung ương và Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng và trở thành ý định quyết tâm chiến lược năm 1968 của ta là chuyển hướng tiến công chiến lược chủ yếu từ rừng núi, nông thôn vào đô thị - nhất là Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng. Nhưng cách đánh mới như thế nào thì mọi người cũng chưa hình dung ra cụ thể. Song, theo đồng chí Lê Duẩn cách đánh mới là phải khởi nghĩa và tiến công vào đầu não địch ở trung tâm các thành phố lớn và thị xã - nơi địch cho là an toàn nhất, nơi chúng có nhiều sơ hở và chủ quan. Có đánh được thành phố mới tạo nên làn sóng đấu tranh chính trị mạnh mẽ ở các đô thị miền Nam và nước Mỹ, đồng thời cũng để tỏ rõ cho thế giới biết thế và lực của cách mạng miền Nam Việt Nam mạnh chứ không như Mỹ, ngụy tuyên truyền. Đánh thẳng vào thành phố sẽ tạo được bất ngờ lớn về chiến lược, củng cố lòng tin và quyết tâm cho lực lượng biệt động, đặc công, tình báo, an ninh, pháo cối chuyên trách và các tiểu đoàn mũi nhọn, cơ sở nội tuyến của ta đã từng bám trụ vùng ven và nội đô.

Theo tinh thần gợi ý của đồng chí Lê Duẩn, “tổ kế hoạch” bắt tay vào xây dựng kế hoạch tác chiến chiến lược mới. Vấn đề đặt ra trong quá trình xây dựng kế hoạch chiến lược là bộ đội ta có đánh được thành phố không? Khả năng nổi dậy của quần chúng và binh biến của ngụy quân, ngụy quyền? “Tổ kế hoạch”, Bộ Tổng tham mưu luôn trao đổi những vấn đề trên với các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy các chiến trường ở miền Nam để xây dựng kế hoạch cho phù hợp với thực tế.
______________________________________
1, 2. Lê Duẩn: Thư vào Nam, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1985, tr. 163, 164.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 18 Tháng Tư, 2010, 09:26:27 am

Tháng 10-1967, trong các ngày từ 20 đến 24, Bộ Chính trị họp Bàn về kế hoạch chiến lược Đông - Xuân - Hè 1967 – 1968. Tham gia hội nghị này có các đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Duy Trinh, Lê Thanh Nghị, Văn Tiến Dũng, Trần Quốc Hoàn, Lê Đức Thọ. Đồng chí Lê Duẩn và Võ Nguyên Giáp vắng mặt vì lý do sức khoẻ phải đi chữa bệnh ở nước ngoài. Các đồng chí Uỷ viên Trung ương Đảng và Uỷ viên Quân uỷ Trung ương Tố Hữu, Lê Văn Lương, Song Hào, Nguyễn Văn Vịnh, Trần Quý Hai cũng được mời tham dự1. Hội nghị do đồng chí Trường Chinh chủ trì.

Buổi sáng ngày khai mạc hội nghị, Bộ Chính trị nghe Đại tá Lê Trọng Nghĩa, Cục trưởng Cục 2 báo cáo về tình hình địch. Địch cho rằng ta vẫn chủ trương tiếp tục đánh lâu dài, Vùng I chiến thuật sẽ là hướng chính cuộc tiến công của ta trong Xuân - Hè 1968. Đối với các thành phố, thị xã, chúng nhận định, ta chỉ có khả năng hoạt động quấy rối, hoặc đột nhập đánh một vài điểm rồi rút. Từ nhận định trên, địch tăng cường lực lượng bố trí ở Vùng I chiến thuật 11 lữ đoàn, Vùng II chiến thuật 5 lữ đoàn, Vùng III và Vùng IV chiến thuật 10 lữ đoàn nhằm phòng ngừa và ngăn chặn ta tiến công, bảo vệ các khu vực chiến lược và cơ quan đầu não của chúng trong các thành phố, thị xã... Cách bố trí này lộ rõ lực lượng địch tập trung mạnh ở hai đầu, hướng bắc và Sài Gòn - Gia Định, phân tán và mỏng, yếu ở miền Trung, Tây Nguyên. Chiều hướng địch đang ngày càng lui vào thế phòng ngự bị động.

Chiều ngày 20, Đại tá Lê Ngọc Hiền, Cục trưởng Cục tác chiến báo cáo về tình hình ta. Sáng ngày 21, Thượng tướng Văn Tiến Dũng, Tổng Tham mưu trưởng thay mặt Quân ủy Trung ương báo cáo về kế hoạch tác chiến chiến lược năm 1968 do Bộ Tổng tham mưu soạn thảo. Bản báo cáo nêu rõ nhận định của Quân ủy Trung ương là cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ đã phát triển tới đỉnh cao, nhưng những mục tiêu mà Nhà Trắng và Lầu Năm Góc Mỹ đề ra đều bị phá sản. Thời gian tới, cả địch và ta đều nỗ lực tìm mọi cách đánh bại đối phương, giành thắng lợi quyết định về mình. Trước tình hình đó, ta càng phải nỗ lực vượt bậc để chuyển hướng tiến công chiến lược vào thành phố, thị xã bằng công kích và khởi nghĩa. Đồng chí Văn Tiến Dũng trình bày rõ mối quan hệ giữa công kích và khởi nghĩa. Nếu ta kết hợp chặt chẽ công kích với khởi nghĩa trong các đô thị thì sẽ tạo nên bước đột biến có lợi cho cách mạng...

Chiều ngày 21, Bộ Chính trị nghe mặt trận Đường 9 - bắc Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Khu V, Tây Nguyên, Nam Bộ báo cáo kế hoạch tác chiến cụ thể của từng chiến trường. Ở Nam Bộ, các đồng chí cho biết khả năng bộ đội đánh được thành phố, nhưng có trụ lại được không, quần chúng có nổi dậy được không thì chưa rõ. Các đồng chí Khu V thì bảo đảm chắc chắn ta đánh vào là có nổi dậy và thắng lợi v.v... Sau đó, các đồng chí Trần Quý Hai, Song Hào, Nguyễn Văn Vịnh trong Quân ủy Trung ương phát biểu bổ sung thêm về kế hoạch tác chiến chiến lược. Các đồng chí đều nhất trí với báo cáo của đồng chí Văn Tiến Dũng trình bày, tập trung phân tích sâu thêm về thời cơ, về khả năng đánh thành phố của bộ đội ta, khả năng khắc phục khó khăn của ta. Các đồng chí nhấn mạnh khâu tổ chức thực hiện là trọng tâm nhất, cần phải tập trung trí tuệ, sức lực chuẩn bị chu đáo, vì có tổ chức thực hiện tốt mới giành được thắng lợi của kế hoạch chiến lược đề ra...

Ngày 23 và 24, Bộ Chính trị tập trung nghiên cứu thảo luận báo cáo về tình hình địch, tình hình ta, nhiệm vụ và kế hoạch tác chiến chiến lược năm 1968, về phối hợp đấu tranh quân sự, chính trị với đấu tranh ngoại giao; về sách lược và nhiệm vụ của miền Bắc, trong đó Bộ Chính trị tập trung phân tích kỹ khả năng đánh thành phố và khả năng khởi nghĩa, các bước tiến hành và dự kiến kết quả.

Bộ Chính trị nhất trí đánh giá báo cáo của Quân ủy Trung ương là tốt, làm cơ sở để thảo luận.

Về nhận định tình hình: Bộ Chính trị cho rằng Mỹ đang thất bại lớn, dù chúng có tăng quân cũng không giải quyết được gì vì nội bộ mâu thuẫn sâu sắc, chúng đang bị cô lập. Song, Mỹ ỷ giàu tiềm lực nên rất ngoan cố, đang cố gắng tăng cường lực lượng để giữ cho tình hình quân sự, chính trị của chúng ở Nam Việt Nam không xấu thêm.

Đối với ta: Quân và dân ta đã thu được những thắng lợi to lớn có ý nghĩa chiến lược. Nhân dân ta ngày càng đoàn kết vững chắc. Cuộc kháng chiến chính nghĩa của ta được các nước xã hội chủ nghĩa và phong trào giải phóng dân tộc cùng nhân dân tiến bộ trên thế giới đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ về tinh thần, vật chất và kỹ thuật. Đó là thuận lợi lớn. Song, khả năng đánh vào thành phố của ta còn yếu, mà trụ giữ cũng khó có thể làm được. Tình hình trên đặt ra cho ta khả năng gì khi thực hành công kích và khởi nghĩa? Bộ Chính trị cho rằng nếu chuẩn bị tốt, kỹ về mọi mặt, tạo được thời cơ và nắm thời cơ chiến lược, hành động đúng lúc ta có thể có khả năng giành thắng lợi quyết định.

Về nhiệm vụ: Tranh thủ và tạo thời cơ, tích cực chuẩn bị để tiến hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa làm thay đổi tình hình, chuyển biến chiến lược có lợi cho ta như các nghị quyết của Trung ương đề ra, Bộ Chính trị đặt vấn đề: chủ trương như vậy có đúng không? Có gì là phiêu lưu không? Phải tiếp tục nghiên cứu để quyết định chính thức trong cuộc họp Bộ Chính trị tới. Khi thực hiện công kích và khởi nghĩa, Bộ Chính trị nhấn mạnh phải thực hiện chiến tranh nhân dân kết hợp chặt chẽ hai chân, ba mũi. Tổng công kích, tổng khởi nghĩa tốt nhất là làm nhất loạt cùng ngày, cùng giờ ở hai hướng trọng điểm Đà Nẵng - Sài Gòn để gây “thôi động” lớn về chính trị, quân sự và tạo ra tác động dây chuyền mạnh mẽ, buộc Mỹ, ngụy quyền Sài Gòn phải chấp nhận thua. Bộ Chính trị còn lưu ý các chiến trường trong khi tổng công kích, tổng khởi nghĩa cố gắng bắt cho được Thiệu, Kỳ hoặc Oétmolen thì rất tốt.
____________________________________
1. Biên bản Hội nghị Bộ Chính trị bàn về kế hoạch chiến lược mùa thu: Tổng công kích - tổng khởi nghĩa Đông - Xuân - Hè 1967-1968. Tài liệu ghi biên bản các hội nghị của Quân uỷ Trung ương về kế hoạch tác chiến, quyển số 053-VP-QU, ngày 3-10-1967.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 18 Tháng Tư, 2010, 09:27:31 am

Bộ Chính trị đề ra ba mức giành thắng lợi:

- Mức cao: giành thắng lợi hoàn toàn ở miền Nam, giữ vững được miền Bắc.

- Mức thứ hai: căn bản thắng lợi, nhưng địch co lại cố thủ một số nơi, tiếp tục cuộc chiến tranh.

- Mức thứ ba: chỉ thắng được một phần. Ví dụ đạt 50% chẳng hạn.

Bộ Chính trị đồng ý phối hợp với bạn Lào đánh Nậm Bạc và chuẩn bị thêm, có thời cơ thì đánh cả Bôlôven, nhưng phải bàn thống nhất với Đảng bạn và được bạn đồng ý.

Tóm lại, mức độ giành thắng lợi, nhiều đồng chí trong Bộ Chính trị có ý kiến khác nhau, nhưng quá trình thảo luận thì các ý kiến tập trung giống như cách đặt vấn đề của Quân uỷ Trung ương mà đồng chí Văn Tiến Dũng trình bày. Do đó, đồng chí Trường Chinh khi kết luận đề nghị bỏ cụm từ “ba mức” dùng cụm từ “trường hợp”. Cuối cùng, quyết tâm của Bộ Chính trị là cố gắng giành thắng lợi hoàn toàn.

Về sách lược: Bộ Chính trị đề ra tập trung mũi nhọn đấu tranh nhằm phân hoá, chia rẽ và cô lập Mỹ - Thiệu, Kỳ. Tiếp tục phổ biến thực hiện cương lĩnh Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Lập mặt trận thứ hai (chuẩn bị người cụ thể trước), tiến tới lập chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam. Kêu gọi các tầng lớp nhân dân, các tôn giáo, binh lính, ngụy quyền đoàn kết với Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, trung lập Mỹ, đánh đổ Thiệu - Kỳ, thương lượng với miền Bắc. Lập Chính phủ liên hiệp ba thành phần lấy Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam làm nòng cốt.

Ngoại giao nhằm phục vụ cho công kích và khởi nghĩa, Bộ Chính trị nêu rõ là phải tranh thủ cao độ sự ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa.

Đối với miền Bắc, nhiệm vụ hàng đầu là tập trung chi viện cho miền Nam.

Kết thúc Hội nghị Bộ Chính trị, đồng chí Trường Chinh kết luận: về quân sự, đánh vào thành phố là có khả năng. Bộ Tổng tham mưu làm kế hoạch tác chiến theo hướng Bộ Chính trị đã quyết. Vấn đề khởi nghĩa phải nghiên cứu thêm và chờ ý kiến của một số đồng chí lãnh đạo nữa sẽ quyết định trong cuộc họp sau.

Trên cơ sở những vấn đề đặt ra trong Hội nghị Bộ Chính trị tháng 10, tình hình miền Nam sau cuộc tiến công Thu - Đông của ta và báo cáo kế hoạch tổng tiến công và nổi dậy ở Nam Bộ của đồng chí Nguyễn Văn Linh, đầu tháng 12-1967, Bộ Chính trị mở hội nghị tiếp tục thảo luận, quyết định chính thức kế hoạch chiến lược năm 1968 và nhiệm vụ của quân, dân ta. Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng Hồ Chí Minh tới dự và chỉ đạo hội nghị. Đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương chủ trì.

Căn cứ vào những diễn biến mới nhất trên chiến trường miền Nam và hậu phương miền Bắc cũng như tình hình thế giới (chủ yếu là Mỹ) những tháng cuối năm 1967, thời cơ chiến lược mới đã xuất hiện có lợi cho cách mạng, Bộ Chính trị nhận định: “Chúng ta đang đứng trước những triển vọng và thời cơ chiến lược lớn. Đế quốc Mỹ đang ở trong tình thế tiến thoái lưỡng nan về chiến lược”1. Sau khi nghiên cứu những ý kiến của các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy các chiến trường, nhất là Bộ chỉ huy Miền, Khu V về khả năng đánh thành phố và khởi nghĩa, đồng thời phân tích âm mưu cơ bản của Mỹ và những thất bại của chúng về quân sự, chính trị, “bình định” trong năm 1967, Bộ Chính trị thống nhất nhận định “Địch khó có khả năng mở cuộc phản công mùa khô lần thứ ba. Xu thế của tình hình trong cả năm 1968 là địch sẽ ngày càng chuyển vào phòng ngự một cách bị động hơn trước”2. Từ những nhận định biện chứng đó, Bộ Chính trị quyết định: “Chuyển cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam sang một thời kỳ mới - thời kỳ giành thắng lợi quyết định...3. Đây là nhiệm vụ hết sức nặng nề và cấp bách, đòi hỏi quân, dân ta ở cả hai miền Nam - Bắc nỗ lực vượt bậc với những cố gắng cao nhất, cho nên Bộ Chính trị chủ trương: “Động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ở cả hai miền đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên bước phát triển cao nhất, dùng phương pháp tổng công kích, tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định”4 nhằm đạt tới những mục tiêu chiến lược mà Trung ương đã đề ra.
____________________________________
1÷3. Trích Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 12-1967 được Ban Chấp hành Trung ương Đảng thông qua tháng 1-1968, thành Nghị quyết Trung ương lần thứ 14. Tài liệu lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.
4. Tài liệu đã dẫn.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 18 Tháng Tư, 2010, 09:27:58 am

Ta tiến hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa trong điều kiện địch còn hơn một triệu quân, trong đó quân Mỹ có 480.000 tên (9 sư đoàn và 3 lữ đoàn) và tiềm lực chiến tranh lớn, chúng lại chiếm giữ những địa bàn chiến lược, những thành phố, thị xã đông dân, cho nên đòn tiến công quân sự trên chiến trường chính, hướng trọng điểm phải mạnh mẽ, đồng loạt, kết hợp chặt chẽ với đấu tranh chính trị và nổi dậy của nhân dân các thành thị lớn, làm rung chuyển toàn miền Nam, thúc đẩy cuộc tổng tiến công và nổi dậy khắp ba vùng chiến lược phát triển. Tiến công quân sự đồng loạt kết hợp chặt chẽ với nổi dậy đều khắp ở các đô thị là việc làm rất phức tạp và vô cùng khó khăn, không dễ dàng, nhưng ta có thuận lợi cơ bản là đang ở thế thắng, thế chủ động, địch đang ở thế bị động, thế thua. Do đó Bộ Chính trị dự kiến cuộc tổng tiến công và nổi dậy có thể phát triển theo ba khả năng:

Một là, ta giành thắng lợi to lớn ở các chiến trường quan trọng, công kích và khởi nghĩa thành công ở các đô thị lớn, ý chí xâm lược của Mỹ bị đè bẹp, phải chấp nhận thương lượng đi đến kết thúc chiến tranh theo mục tiêu, yêu cầu của ta.

Hai là, tuy ta giành được thắng lợi quan trọng ở nhiều nơi, nhưng địch vẫn còn lực lượng, dựa vào các căn cứ lớn và tăng thêm lực lượng từ ngoài vào phản công giành lại những vị trí quan trọng và các đô thị lớn - nhất là Sài Gòn để tiếp tục chiến đấu với ta.

Ba là, Mỹ tăng cường lực lượng, mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, sang Lào và Campuchia, buộc ta phải đối phó, hòng xoay chuyển cục diện chiến tranh và gỡ thế thua của chúng.

Quyết tâm của Bộ Chính trị là động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền Nam - Bắc nỗ lực phi thường, đạp bằng mọi khó khăn, ác liệt, tiến công và nổi dậy đánh bại ý chi xâm lược của đế quốc Mỹ, giành thắng lợi cao nhất theo khả năng thứ nhất. Nhưng trong chuẩn bị phải sẵn sàng chủ động đối phó với khả năng thứ hai, khả năng thứ ba tuy ít xảy ra, nhưng phải tích cực đề phòng. Như vậy, trong lãnh đạo phải động viên tư tưởng và quyết tâm của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân tiến lên giành thắng lợi cao nhất, nhưng trong chuẩn bị phải lãnh đạo chuẩn bị sẵn sàng đối phó với tình huống xấu nhất.

Sau khi thảo luận kỹ khả năng đánh thành phố của lực lượng vũ trang và khả năng nổi dậy của quần chúng, Bộ Chính trị thông qua phương án tổng công kích, tổng khởi nghĩa do Bộ Tổng tham mưu soạn thảo đã được Quân uỷ Trung ương nhất trí. Phương án xác định chiến trường trọng điểm là Sài Gòn - Gia Định, Đà Nẵng, Huế, hướng phối hợp chiến lược quan trọng là Đường 9 - Khe Sanh. Cụ thể là: cùng với đòn tiến công của bộ đội chủ lực ở hướng phối hợp chiến lược đặc biệt quan trọng là Đường 9 - Khe Sanh nhằm thu hút, giam chân lực lượng chiến lược của địch, một đòn tiến công chiến lược đánh vào thành phố, thị xã quy mô trên toàn miền Nam, kết hợp với nổi dậy của quần chúng các đô thị và nông thôn, mở đầu cho tổng công kích, tổng khởi nghĩa, lấy chiến trường chính là Sài Gòn - Gia Định, Đà Nẵng, Huế, trọng điểm là Sài Còn, Đà Nẵng, Huế và các thành phố lớn.

Thời gian phối hợp hành động toàn miền Nam được chọn là Tết Mậu Thân 1968 làm mốc tổng tiến công đồng loạt cho các chiến trường trọng điểm. Đây là thời gian có nhiều yếu tố bất ngờ nhất. Giờ nổ súng cụ thể, Bộ Chính trị ủy quyền cho một số đồng chí chủ chốt trong Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tham mưu nghiên cứu, quyết định cho sát thực tế tình hình và ra lệnh cho các chiến trường nổ súng.

Để thực hiện kế hoạch trên đây, Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng tư lệnh quy định giờ nổ súng cho các đơn vị, các địa phương trên hướng tiến công chiến lược trọng điểm là 0 giờ đêm giao thừa Tết Mậu Thân.

Thời gian phối hợp hiệp đồng của các chiến trường với Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân được quy định như sau:

Lào, chiến dịch Nậm Bạc sẽ khai triển trước Tết Mậu Thân từ 15 đến 20 ngày để buộc Mỹ - ngụy phải hướng sự chú ý đối phó với ta ở Lào, chúng phải phân tán lực lượng nhiều nơi.

Chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh, trước Tết Mậu Thân 10 ngày, ta sẽ nổ súng tiến công vào tập đoàn cứ điểm Khe Sanh để buộc địch phải chú ý tập trung điều lực lượng chủ lực ra phía bắc đối phó với ta, tạo điều kiện cho ta giữ bí mật hướng trọng điểm và tiếp tục chuẩn bị.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 18 Tháng Tư, 2010, 09:29:00 am

Để giữ bí mật ý đồ chiến lược, tháng 1-1968, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá III lên Kim Bôi, Hoà Bình họp, thảo luận và thông qua Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 12-1967. Hội nghị Trung ương phân tích sâu sắc toàn diện các vấn đề Bộ Chính trị nêu ra trong nghị quyết, tính toán kỹ các yếu tố thuận lợi, khó khăn, dự kiến các tình huống có thể xảy ra khi ta tiến hành tổng tiến công và nổi dậy. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương nhất trí cao với những quyết nghị của Bộ Chính trị, đặc biệt về so sánh lực lượng và kết quả tổng tiến công có thể xảy ra theo ba khả năng đã dự kiến. Hội nghị Trung ương chỉ rõ cuộc kháng chiến của nhân dân ta đến thời điểm này cần phải và có thể tạo một chuyển biến lớn, nhảy vọt bằng cách đánh mới, táo bạo vào tất cả các thành phố, thị xã, mà hướng hiểm yếu, trọng điểm là Sài Gòn - Huế - Đà Nẵng. Hội nghị Trung ương quyết định lấy Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 12-1967 làm Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 14.

Phát biểu trong Hội nghị Trung ương, đồng chí Trường Chinh đánh giá Nghị quyết Trung ương lần thứ 14 là một trong những sáng tạo lớn về đường lối kháng chiến của Đảng ta. Nó thực sự là một phát kiến lớn của Đảng về chiến lược chiến tranh nhân dân.

Lịch sử các cuộc chiến tranh trên thế giới cũng như ở Việt Nam, theo nghệ thuật đánh giặc “truyền thống” thì giai đoạn kết thúc chiến tranh, thông thường một trong các bên tham chiến thực hiện đòn đánh tiêu diệt chiến dịch lớn hoặc đánh tiêu diệt chiến lược lực lượng quân sự, chính trị đối phương, buộc chúng phải chịu thua. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, so sánh lực lượng ta và địch về quân số, vũ khí trang bị, sức cơ động và tính hiện đại địch hơn ta gấp nhiều lần, nên việc đánh tiêu diệt chiến dịch, chiến lược đối với quân viễn chinh Mỹ là điều khó có thể thực hiện được. Phải tìm cách đánh mới khác cách đánh truyền thống là đánh bại ý chí xâm lược Mỹ bằng phương pháp tổng tiến công đồng loạt đánh vào các trung tâm đầu não chính trị, quân sự của địch ở các thành phố, thị xã. Tiến công vào các thành phố, thị xã ta sẽ tạo ra bất ngờ lớn đối với địch, làm đảo lộn thế bố trí chiến lược của chúng, làm rung động nước Mỹ. Qua đó, ta chứng minh cho Mỹ thấy chúng không thể thắng trong cuộc chiến tranh này, chúng đang đứng trước nguy cơ thất bại hoàn toàn, do đó phải tìm giải pháp chấm dứt cuộc xâm lược, rút ra khỏi cuộc chiến tranh Việt Nam.

Đánh bại ý chí xâm lược của địch bằng phương pháp tổng tiến công đánh thẳng vào các trung tâm đầu não của địch ở các thành phố, thị xã kết hợp với nổi dậy của quần chúng là một sáng tạo lớn trong đường lối chỉ đạo kết thúc chiến tranh của Đảng ta, một quyết định sáng suốt và táo bạo chưa có tiền lệ trong lịch sử các cuộc chiến tranh trước đó.

Thực hiện Nghị quyết Trung ương lần thứ 14, trên cả hai miền Nam - Bắc mọi công việc chuẩn bị diễn ra rất khẩn trương, tấp nập và nhộn nhịp với tinh thần quyết dứt điểm trong trận đánh lịch sử này. Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà quyết định lấy nhiệm vụ chi viện cho miền Nam là mặt trận hàng đầu và đã tăng tổng ngân sách quốc phòng cho quân đội lên gấp 10 lần năm 1964 là năm cuối cùng thời kỳ hoà bình trên miền Bắc. Các nước xã hội chủ nghĩa, chủ yếu là Liên Xô, Trung Quốc viện trợ cho ta năm 1968 là 517.493 tấn vật chất, kỹ thuật, tính thành tiền hơn 1.615 triệu rúp. Chi viện cho chiến trường miền Nam tăng 8,4 lần so với năm 1965, nên bảo đảm hậu cần cho cuộc tổng tiến công và nổi dậy ở miền Nam và chi viện cho Lào, Campuchia.

Bộ Tư lệnh 559 được Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh giao nhiệm vụ phải phối hợp chặt chẽ với các chiến trường miền Nam, với bạn Lào và miền Bắc hậu phương, chủ động, sáng tạo sử dụng mọi phương tiện, mọi biện pháp hữu hiệu nhất đẩy mạnh vận chuyển vật chất - kỹ thuật chi viện kịp thời, đầy đủ cho chiến trường miền Nam.

Tổng cục Hậu cần khẩn trương tổ chức điều chỉnh các cung độ vận chuyển cho hợp lý và chấn chỉnh hệ thống kho tàng, bến bãi trên toàn tuyến vận tải chiến lược 559 để bảo đảm tiếp nhận và cấp phát nhanh gọn, giải phóng xe nhanh, tăng năng suất vận chuyển. Trước khi bước vào vận chuyển vật chất - kỹ thuật chuẩn bị cho tổng tiến công, lực lượng bộ đội thanh niên xung phong, công binh và nhân dân các xã có đường vận tải chiến lược đi qua đã mở mới và củng cố tuyến vận tải cơ giới gồm 725 km đường trục chính, 445 km đường trục phụ, 822 km đường ngang, 560 km đường vòng tránh các trọng điểm đánh phá của địch và 450 km đường vào kho lấy hàng, hình thành nên thế trận giao thông vững chắc bảo đảm vận chuyển thông suốt trong mọi tình huống. Mạng thông tin vô tuyến, hữu tuyến, trong đó có đường dây trần và trạm tải ba từ miền Bắc vào đến sông Bạc, bảo đảm cho chỉ huy vận chuyển và chiến đấu thông suốt, kịp thời. Các binh trạm tuyến vận tải chiến lược 559 điều chỉnh lại các cung trạm vận chuyển cho hợp lý theo ý đồ chỉ huy tác chiến của Bộ:

Binh trạm 311 đảm nhiệm vận tải từ đèo Mụ Giạ (Quảng Bình) đến Lùm Bùm (Lào).

Binh trạm 32 vận chuyển từ Lùm Bùm theo đường 128 xuống nam Tha Mé và một hướng qua Tà Khống đến Bản Đông.

Binh trạm 33 vận chuyển từ Tha Mé đến La Thạp.

Binh trạm 34 nhận hàng ở kho S4C chuyển đến A Túc (đường 45).

Binh trạm 35 từ sông Bạc vận chuyển đến Chà Vằn.

Binh trạm 36 từ Chà Vằn đi Tà Xẻng.

Binh trạm 37 vận chuyển trên đường 4.

Binh trạm 38 tiếp nhận hàng mua ở Campuchia chuyển đến Tây Nguyên và Đông Nam Bộ.

Binh trạm 42 vận chuyển từ A Túc đi Trị - Thiên và Bến Giàng (Quảng Nam).

Binh trạm 44 vận chuyển từ Chà Vằn đến Khâm Đức (Quảng Nam)...

Hệ thống đường cơ giới, binh trạm, kho tàng, bến bãi được tổ chức, bố trí hợp lý, hình thành mạng lưới vận chuyển liên hoàn theo sát các hướng trọng điểm của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968.
____________________________________
1. Các binh trạm 1, 2, 3, 4, 5, 6 trước đây nay đổi thành 31, 32-36. Binh trạm 7 thành Binh trạm 42, Binh trạm 8 thành 37, Binh trạm 21 thành 44.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Tư, 2010, 09:15:19 pm

Tháng 10-1967, thời tiết Trường Sơn ở một số khu vực bắt đầu khô ráo, từng đoàn xe vận tải ở hậu phương miền Bắc nối đuôi nhau hối hả chuyển đến các cửa khẩu đường 20 và 12 một khối lượng lớn vật chất - kỹ thuật. Hơn 1.000 xe tô vận tải của Đoàn 559 sẵn sàng chuyển tiếp hàng hoá đến các chiến trường miền Nam. Hai trăm xe nhận hàng chở đầy vũ khí, lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, vượt cửa khẩu chở vào Đông Nam Bộ và cực nam Trung Bộ. Sáu trăm xe vận chuyển hàng hoá, vũ khí... cho mặt trận Tây Nguyên. Năm trăm xe chở hàng cho chiến trường Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế. Đầu tháng 11-1967, Đoàn 559 mở đợt tổng công kích vận chuyển. Các chiến sĩ lái xe và lực lượng công binh, thanh niên xung phong anh dũng vượt qua những trọng điểm đánh phá ác liệt của không quân Mỹ, phá bom, sửa đường, vượt cung, tăng chuyến đưa hàng đến đích. Một phong trào thi đua giành danh hiệu “dũng sĩ vận tải”, “dũng sĩ phá bom”, “dũng sĩ mở đường” dấy lên sôi nổi trong các đơn vị vận tải, công binh, thanh niên xung phong. Tiểu đoàn 52 và Tiểu đoàn 102 quay vòng xe từ 25 đến 28 chuyến trong một tháng. Chiến sĩ lái xe Khúc Văn Lượng lái xe chạy 180km đường rừng khúc khuỷu trong một đêm. Nhiều chiến sĩ lái xe bật đèn pha thu hút máy bay địch về phía mình cho đồng đội vượt trọng điểm, bảo đảm an toàn người và hàng.

Để phục vụ cho các đơn vị tham gia chiến đấu ở Đường 9 - Khe Sanh, Tiểu đoàn công binh 31, Đoàn 559 được lệnh mở gấp con đường B5 nối từ tuyến chiến lược đến Trạm 8 của Quân khu Trị - Thiên. Một số đơn vị khác mở rộng khu vực kho dã chiến ở Bản Đông để tiếp nhận hàng từ hậu phương chuyển đến. Đồng chí Trần Văn Quang và Lê Chưởng - Tư lệnh, chính uỷ Quân khu Trị - Thiên - Huế yêu cầu mở gấp trong 20 ngày đường 70 và 71, từ ngã ba Bình Điền nối đường 12 vào Huế để kéo pháo vào phía tây Bình Điền và tiến công Huế, đồng thời tiếp tế vũ khí và lương thực, thực phẩm cho mặt trận này. Các đơn vị công binh 559 đã làm xong đúng yêu cầu thời gian. Nhờ đó, các binh trạm 9, 14, 32, 34, 41 huy động toàn bộ lực lượng mở nhiều chiến dịch vận chuyển liên tiếp, đưa đến các kho dự trữ của mặt trận Trị - Thiên 7.000 tấn hàng, đạt 108% kế hoạch được giao, góp phần quan trọng cho Huế tổng tiến công và nổi dậy.

Những ngày cuối tháng 11, tháng 12-1967 và tháng 1-1968 lại diễn ra đợt vận chuyển mới sôi động, khẩn trương hơn, cao hơn các đợt vận chuyển trước để chi viện kịp thời cho các chiến trường đường 9 - Khe Sanh, Thừa Thiên - Huế, Khu V, Tây Nguyên, Nam Bộ, Trung Hạ Lào, Campuchia. Trong đợt vận chuyển này có 8 tiểu đoàn xe chở lương thực, thực phẩm, thuốc quân y, 4 tiểu đoàn xe chở súng đạn B40, B41, 12.7mm, đạn hoả tiễn nhập tuyến và 18 xe Gát 69 chở tiền đi thẳng vào ngã ba biên giới Tây Nguyên. Từ đấy, trung đoàn thuyền máy chuyển tiếp theo đường sông Sê Công từ Áttôpư đến tỉnh Kratie thuộc đất Campuchia để giao cho Trung ương Cục và Bộ Tư lệnh Miền. Khối lượng vật chất và binh lực từ hậu phương lớn chi viện cho tiền tuyến lớn trong đợt này gồm 3 vạn tấn vật chất, 5 vạn quân bổ sung và 14 tiểu đoàn xe tăng, pháo binh. Riêng mặt trận Thừa Thiên - Huế, Binh trạm 42 đã chở gấp 3.000 tấn lương thực, đạn dược phục vụ bộ đội đánh chiếm và giữ Huế, đồng thời điều 3 tiểu đoàn cao xạ 37mm và 23mm bảo vệ các tuyến vận chuyển...

Song song với tuyến vận tải chiến lược của Đoàn 559, Quân chủng Hải quân vừa chiến đấu bảo vệ miền Bắc, vừa tổ chức vận chuyển tiếp tế bằng đường biển vào các chiến trường Nam Bộ, Khu V. Đoàn 125 Hải quân đầu năm 1967 vận chuyển cho Nam Bộ phải tạm dừng để vận chuyển gấp cho Khu V. Yêu cầu mỗi địa phương ít nhất phải được một chuyến. Ngày 8-3-1967, tàu 43 Đoàn 125 xuất phát từ Hải Phòng, sau năm ngày hành quân, khi cách bến Sa Kỳ (Quảng Ngãi) khoảng 30 hải lý (1 hải lý = 1.825m) thì gặp tàu chiến Mỹ đánh ngăn chặn. Thuyền trưởng Nguyễn Đức Thắng và chính trị viên Trần Quốc Tuấn chỉ huy các thuỷ thủ kiên quyết đánh trả, bắn bị thương 2 tàu giặc, đồng thời tiến thẳng vào bến Sa Kỳ lúc 5 giờ sáng cất giấu hàng. Máy bay, tàu chiến địch lao đến đánh phá ác liệt. Các chiến sĩ tàu 43 chiến đấu quyết liệt, rồi phá huỷ tàu sau khi cán bộ, chiến sĩ đã lên bờ an toàn.

Tàu 198 xuất phát ngày 6-6-1967, đến đêm 14-6 khi còn cách bến Ba Làng An (Quảng Ngãi) sáu hải lý thì gặp địch. Tàu 198 nổ súng đánh trả và lao vào bến. Cuộc chiến đấu diễn ra quyết liệt, các chiến sĩ ta phải phá hủy tàu, rút lên bờ. Trong trận này chính trị viên Huỳnh Ngọc Trạch và phó thuyền trưởng Phạm Chuyên Nghiệp đã anh dũng hy sinh.

Để tiếp tế vũ khí, đạn dược cho quân, dân ta ở miền Nam tổng tiến công và nổi dậy, Bộ Tư lệnh Hải quân quyết định sử dụng bốn tàu 165, 56, 43, 235 lần lượt lên đường vào Cà Mau và Khu V. Tàu 165 đi Cà Mau xuất phát ngày 23-2-1968. Khi tàu đến gần bến thì gặp địch. Trước tình thế gay go, các đồng chí thuyền trưởng, thuyền phó Nguyễn Chánh Tâm và Nguyễn Ngọc Lương chỉ huy 18 cán bộ, chiến sĩ (có 15 đảng viên) bình tĩnh đánh trả, đưa tàu gần bờ đổ hàng xuống biển (để sau vớt), chờ cho tàu giặc đến gần, anh em điểm hỏa phá huỷ tàu và cùng hy sinh anh dũng. Hành động hy sinh quả cảm của thuyền trưởng và thủy thủ tàu 165 mãi mãi là tấm gương sáng về chủ nghĩa anh hùng cách mạng, có tác dụng cổ vũ cán bộ, chiến sĩ quân đội ta tiến lên phía trước. Các tàu 56, 43, 235 vào Khu V cũng trải qua những trận chiến đấu quyết liệt với địch.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Tư, 2010, 09:18:00 pm

Tàu 56 vào Bình Định, bị tàu chiến địch ngăn chặn, khiêu khích trên vùng biển quốc tế. Tàu ta cách bến 40 hải lý nhưng không vào được, vì địch đông và đã nổ súng khiêu khích. Thuyền trưởng Nguyễn Văn Bé và chính trị viên Đỗ Văn San đã khôn khéo cho tàu quay lại miền Bắc, sau khi đã xin chỉ thị của quân chủng.

Lúc này tàu 43 do thuyền trưởng Nguyễn Đức Thắng và chính trị viên Trần Quốc Tuấn chỉ huy tiếp tế cho Quảng Ngãi (đi lần thứ hai), đến cách bở 12 hải lý thì gặp địch. Sáu tàu chiến địch và máy bay lên thẳng vũ trang bắn mạnh vào tàu ta. Các chiến sĩ tàu 43 đánh trả, bắn rơi hai máy bay lên thẳng và bắn bị thương một tàu cao tốc Mỹ. Sau trận chiến đấu, thấy không thể thoát khỏi vòng vây của địch, thuyền trưởng lệnh cho thủy thủ nhảy xuống biển, bơi vào bờ và cho nổ bộc phá hủy tàu. Các đồng chí Phan Văn Hải, Vũ Văn Ruệ, Vũ Tòng Nho đã anh dũng hy sinh. Mười ba đồng chí còn lại của tàu 43 được nhân dân Ba Làng An chăm sóc, sau đó trở về hậu phương an toàn.

Cùng thời gian này, tàu 235 do thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh chỉ huy đang tiến vào bến Nha Trang, cách bờ 10 hải lý thì gặp địch ngăn chặn. Thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh dũng cảm, khôn khéo chỉ huy con tàu lách qua làn đạn bắn chặn của địch, rẽ sóng vào bờ. Nhưng đến cách Hòn Hèo 6 hải lý, thì bị năm tàu địch bao vây. Trong tình huống nguy hiểm, Nguyễn Phan Vinh mưu trí cho tàu xả khói mù, lách qua giữa đội hình tàu giặc, tăng tốc đưa tàu vào bờ trót lọt. Anh lệnh cho thủy thủ nhanh chóng thả hàng xuống nước, rồi cho tàu quay ra. Nhưng thả xong hàng thì tàu địch ập đến vây chặt. Vinh vừa chỉ huy đánh địch, vừa nghĩ cách đưa tàu ra khỏi vòng vây của chúng, nhưng 2 chiến sĩ đã hy sinh, 9 đồng chí khác bị thương. Cuộc chiến diễn ra mỗi lúc một dữ dội, Nguyễn Phan Vinh và Ngô Văn Thứ quyết định cho các đồng chí còn khỏe vào bờ, rồi nổ bộc phá huỷ tàu. Nguyễn Phan Vinh và Ngô Văn Thứ đã anh dũng hy sinh, v.v...

Cùng với đường Trường Sơn, đường Hồ Chí Minh trên biển đã tiếp thêm sức mạnh cho miền Nam tổng tiến công và nổi dậy.

Vượt qua muôn vàn khó khăn, ác liệt và hy sinh, trong hai năm 1967, 1968, các chiến sĩ vận tải, thanh niên xung phong, hải quân ở miền Bắc đã vượt Trường Sơn và biển cả chi viện kịp thời cho miền Nam 118.923 tấn vũ khí, lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh và 42.619.081 đôla, cộng với 122.885 tấn vật chất do Trung Quốc chi viện quá cảnh qua cảng Xihanúcvin (trong ba năm 1966, 1967, 1968 ). Năm 1967, hơn 94.000 cán bộ, chiến sĩ ở miền Bắc biên chế thành từng trung đoàn, sư đoàn bộ binh và binh chủng kỹ thuật bổ sung cho Trị - Thiên, Khu V, Tây Nguyên, Nam Bộ, nâng tổng số Quân giải phóng miền Nam lên 220.000 quân chủ lực và 57.000 quân địa phương (không kể dân quân, du kích, tự vệ)1.

Sự chi viện tương đối đầy đủ và kịp thời về người và vật chất, kỹ thuật của miền Bắc, đã góp phần quyết định tăng cường nhanh chóng sức mạnh cho cách mạng miền Nam, tạo ra thế mới và lực mới để quân và dân ta ở miền Nam mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy lịch sử.

Cùng với việc chi viện vật chất, tăng cường về lực lượng của miền Bắc hậu phương lớn, các đảng bộ và bộ chỉ huy các chiến trường miền Nam đã tích cực động viên lực lượng tại chỗ vào Quân giải phóng, gấp rút củng cố, huấn luyện nâng cao chất lượng chiến đấu cho các đơn vị.

Ở miền Đông Nam Bộ, cuối năm 1967 ta thành lập Trung đoàn Quyết thắng gồm Tiểu đoàn 1 Quyết thắng, Tiểu đoàn 2 Gò Môn (Gò Vấp, Hóc Môn), Tiểu đoàn 3 Dĩ An, Tiểu đoàn 4 đặc công Gia Định.

Ở khu V, ta thành lập Trung đoàn đặc công 401 gồm các tiểu đoàn đặc công 406, 409 của quân khu và Tiểu đoàn đặc công 403 từ miền Bắc mới vào.

Ở đồng bằng sông Cửu Long, Quân khu VIII thành lập thêm hai tiểu đoàn và tổ chức lại lực lượng của quân khu thành hai trung đoàn. Trung đoàn 1 gồm các tiểu đoàn 261A, 261B và 514A. Trung đoàn 2 gồm các tiểu đoàn 263, 265 và 267 (tiểu đoàn 265 và 267 là hai tiểu đoàn mới thành lập, phục hồi phiên hiệu cũ của hai tiểu đoàn đã bổ sung cho Miền).

Quân khu IX thành lập thêm Tiểu đoàn 307 và một khung cán bộ Tiểu đoàn 308, đồng thời tổ chức lại lực lượng của quân khu thành một lữ đoàn với năm tiểu đoàn: tiểu đoàn 307, 303, 309, Tiểu đoàn Tây đô và Tiểu đoàn pháo 2311.
__________________________________
1. - Về quân số: theo tài liệu lưu trữ K4 - Bộ Quốc phòng, số 791.
    - Về vật chất: theo thống kê của Tổng cục Hậu cần.
    - Về tiền: theo tài liệu Vụ I của Nhà nước.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Tư, 2010, 09:25:51 pm

Bên cạnh việc củng cố, phát triển lực lượng vũ trang, lực lượng chính trị của quần chúng, các cơ sở cách mạng, các tổ chức đoàn thể (công đoàn, thanh niên, phụ nữ, nông hội...) được chấn chỉnh chặt chẽ hơn. Ở các đô thị, nhất là tại các trọng điểm Sài Gòn, Đà Nẵng, Huế, đội ngũ cán bộ, đảng viên được tăng cường, nhiều tổ chức đảng được củng cố. Công tác hậu cần, tiếp tế, ém quân, cất giấu vũ khí, tích trữ lương thực, thực phẩm, tải thương, cứu thương... cũng được chuẩn bị chu đáo.

Căn cứ nhiệm vụ trên giao, các chiến trường, mặt trận khẩn trương tổ chức giao nhiệm vụ cho các đơn vị và bố trí lực lượng áp sát các mục tiêu.

Miền Đông Nam Bộ, Sài Gòn - Gia Định là trọng điểm tổng tiến công, Trung ương Cục quyết định giải thể Quân khu miền Đông và Quân khu Sài Gòn - Gia Định, thành lập “Khu trọng điểm” gồm Sài Gòn và một số huyện thuộc các tỉnh lân cận Long An, Hậu Nghĩa, Bình Dương, Tây Ninh, Biên Hoà... do Trung ương Cục trực tiếp chỉ đạo. Đồng chí Nguyễn Văn Linh - Phó Bí thư Trung ương Cục làm Bí thư Khu uỷ, đồng chí Võ Văn Kiệt - Phó Bí thư Khu uỷ.

Khu trọng điểm gồm sáu phân khu, trong đó năm phân khu hình thành năm hướng tiến công vào trọng điểm Sài Gòn và một phân khu đảm nhiệm nội đô. Lực lượng vũ trang mỗi phân khu có từ bốn đến sáu tiểu đoàn được tổ chức trang bị gọn nhẹ thành các tiểu đoàn mũi nhọn. Riêng Phân khu 6 phụ trách nội đô, lực lượng chủ yếu là biệt động được tổ chức thành các cụm với các đội phụ trách các mục tiêu cụ thể.

Phân khu 1 ở hướng bắc và tây bắc Sài Gòn gồm: Củ Chi, Hóc Môn, Gò Vấp, một phần huyện Trảng Bàng và các huyện Bến Cát, Dầu Tiếng. Đây là hướng tiến công chủ yếu của đợt Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, nên lực lượng được tập trung khá mạnh gồm Trung đoàn 16, Tiểu đoàn 4 đặc công Gia Định, Tiểu đoàn 1 Quyết Thắng, Tiểu đoàn 2 Gò Môn.

Phân khu 2 ở hướng tây và tây nam Sài Gòn gồm: quận Tân Bình, một phần huyện Bình Chánh, các quận 3, 5, 6, huyện Đức Hoà, Bến Thủ (Long An). Lực lượng vũ trang có Tiểu đoàn 267 và Tiểu đoàn 269 của Quân khu VIII, Tiểu đoàn 6 Bình Tân, Tiểu đoàn 16, Tiểu đoàn 12 đặc công.

Phân khu 3, hướng nam Sài Gòn gồm huyện Nhà Bè, phần còn lại của huyện Bình Chánh và các quận 2, 4, 7, 8, các huyện Châu Thành, Tân Trụ, Cần Đước, Cần Giuộc (Long An). Lực lượng vũ trang có Tiểu đoàn 1, Tiểu đoàn 2 Long An, Tiểu đoàn 5 Nhà Bè, Tiểu đoàn 2 Phú Lợi, Tiểu đoàn 1 (Trung đoàn Đồng Nai) và một tiểu đoàn đặc công.

Phân khu 4 ở hướng đông Sài Gòn gồm: Thủ Đức, các quận 9, 1, huyện Nhơn Trạch (Bà Rịa). Lực lượng vũ trang có Tiểu đoàn 4 Thủ Đức, Tiểu đoàn 5 đặc công, được tăng cường Trung đoàn 3 (Sư đoàn 9 chủ lực Miền).

Phân khu 5 hướng đông bắc Sài Gòn gồm: Bình Hoà, Dĩ An, Phú Nhuận và các huyện Lái Thiêu, Phú Giáo, Tân Uyên (thuộc Thủ Dầu Một). Lực lượng vũ trang có Tiểu đoàn 3 Dĩ An và Trung đoàn Đồng Nai (thiếu).

Phân khu 6 phụ trách các lực lượng hoạt động trong nội đô mà nòng cốt là đoàn biệt động F.100. Đoàn được phân tán thành ba cụm với chín đội hoạt động trên ba hướng: đông, nam, bắc. Cụm 1 gồm các đội 3, 4, 5 phụ trách các mục tiêu ở phía đông. Cụm 2 gồm các đội 6, 7, 9 đảm nhiệm các mục tiêu ở phía bắc. Cụm 3 có các đội 1, 2, 8 phụ trách các mục tiêu ở phía nam. Ngoài chín đội đặc công thuộc F.100, còn Đội 90 độc lập. Gần đến ngày nổ súng, khu thành lập thêm Đội đặc công 11.

Nhiệm vụ của các đội này là đánh chiếm chín mục tiêu chủ yếu và giữ cho đến khi các tiểu đoàn mũi nhọn đến tiếp sức.

Cụ thể: Đội 3 đánh Bộ Tư lệnh Hải quân. Lực lượng tiếp sức là Tiểu đoàn 5 Nhà Bè (thuộc Phân khu 3). Đội 4 đánh Đài phát thanh Sài Gòn, lực lượng tiếp sức là Tiểu đoàn 3 Dĩ An (Phân khu 5). Đội 5 đánh Dinh Độc lập, lực lượng tiếp sức là Tiểu đoàn 2 Long An (Phân khu 3). Đội 6 đánh Bộ Tổng tham mưu ngụy, lực lượng tiếp sức là Tiểu đoàn 2 Gò Môn (Phân khu 1), Tiểu đoàn 16 và Tiểu đoàn đặc công 12 (Phân khu 2). Đội 2 đánh Tổng nha cảnh sát, lực lượng tiếp sức là Tiểu đoàn 1 Long An, Tiểu đoàn 2 Phú Lợi (Phân khu 3). Đội 8 đánh Biệt khu Thủ đô, lực lượng tiếp sức là Tiểu đoàn 6 Bình Tân (Phân khu 2). Đội 90 đánh Khám Chí Hoà, lực lượng tiếp sức là Tiểu đoàn 296 (Phân khu 2). Đội 11 đánh Toà đại sứ Mỹ, lực lượng tiếp sức là một tiểu đoàn thuộc Trung đoàn Đồng Nai (thuộc Phân khu 5).

Bên cạnh các tiểu đoàn mũi nhọn, các mục tiêu chủ yếu Dinh Độc lập, Đài phát thanh Sài Gòn, Toà đại sứ Mỹ, Bộ Tư lệnh Hải quân, mỗi mục tiêu có 200 thanh niên, sinh viên tiếp ứng. Tổng nha cảnh sát, Khám Chí Hoà, mỗi nơi có 1.000 thanh niên, sinh viên; riêng Bộ Tổng tham mưu có 5.000 thanh niên, sinh viên tiếp ứng.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Tư, 2010, 09:26:32 pm

Ngoài chín mục tiêu chủ yếu, ta còn đánh một số mục tiêu khác như Bộ chỉ huy thiết giáp (Trại Phù Đổng), khu kho Gò Vấp, cầu Bình Lợi, cầu Xa Lộ... nhằm ngăn chặn định cơ động ứng cứu, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đánh chiếm các mục tiêu chủ yếu.

Đảm nhiệm mục tiêu Bộ chỉ huy thiết giáp và khu kho Gò Vấp là Tiểu đoàn 1 Quyết thắng và Tiểu đoàn 4 đặc công Gia Định (Phân khu 1).

Cầu Bình Lợi do một tiểu đoàn thuộc Trung đoàn Đồng Nai (phân khu 5)phụ trách.

Cầu Xa Lộ do Tiểu đoàn 4 Thủ Đức (Phân khu 4) và lực lượng biệt động huyện phụ trách.

Ở vùng ven và vành đai Sài Gòn, bộ đội chủ lực Miền có nhiệm vụ chặn đánh lực lượng chủ lực của Mỹ - ngụy không cho chúng về ứng cứu cho nội thành. Cụ thể:

Sư đoàn 9 đánh chiếm Chi khu Thủ Đức, Liên trường võ khoa Thủ Đức, Trung tâm huấn luyện Quang Trung. Sư đoàn 5 (thiếu) đánh chiếm sân bay Biên Hoà, kho Long Bình, Bộ Tư lệnh Quân đoàn III ngụy, Bộ Tư lệnh dã chiến 2 Mỹ. Sư đoàn 7 (thiếu) diệt một bộ phận Sư đoàn 1 Mỹ và Sư đoàn 5 ngụy ở Bến Cát - Phú Giáo, ngăn chặn không cho Trung đoàn kỵ binh thiết giáp 11 Mỹ về Sài Gòn. Trung đoàn 88 đứng chân ở Trung An, Bình Mỹ giữ địa bàn phía sau cho Phân khu 1 và Phân khu 5. Trung đoàn 96 pháo ĐKB kiềm chế Lai Khê, Phú Lợi. Trung đoàn 208 (thiếu) pháo ĐKB cơ động kiềm chế Đồng Dù.

Ngoài các lực lượng trên, các đội biệt động thành được tăng cường cho các phân khu đứng chân trên địa bàn trọng yếu Trực thuộc Phân khu 6 còn có các đội vũ trang của Thành đoàn, Hoa vận, Phụ vận, Công vận... Nhiệm vụ của họ là trinh sát, dẫn đường vận động binh lính ngụy làm binh biến, phát động quần chúng nổi dậy cướp chính quyền và đánh chiếm một số mục tiêu cấp quận phối hợp với các tiểu đoàn mũi nhọn trong nội đô.

Bảo đảm cho các mũi, các hướng hoàn thành tốt nhiệm vụ công tác hậu cần được Trung ương Cục đặc biệt chú trọng. Mạng lưới hậu cần Miền ở tuyến trước được tổ chức lại thành năm đoàn, mỗi đoàn phụ trách một hướng. Đoàn 81 bố trí ở Chiến khu D từ đường 20 lên đường 14 - Phước Sang, bảo đảm cho Sư đoàn 5 và hướng đông Sài Gòn. Đoàn 82 ở Chiến khu Dương Minh Châu bảo đảm cho Sư đoàn 9 và Phân khu 1. Đoàn 83 bố trí ở Trảng Bàng, Bến Cát, Dầu Tiếng, bảo đảm cho Sư đoàn 7 và hướng bắc Sài Gòn. Đoàn 84 bố trí ở nam đường 20 - Bà Rịa đến ven biển bảo đảm cho Quân khu VI và hướng đông nam Sài Gòn. Đoàn 100 bảo đảm cho hướng tây Sài Gòn.

Ở tuyến sau, Đoàn 17 phụ trách thu mua ở Campuchia, đoàn 50 và 70 ở đông và tây liên tỉnh lộ 13 (Bình Long). Đoàn 896 ở phía bắc liên tỉnh lộ 14 (Quảng Đức). Cấp phân khu có hệ thống hậu cần phân khu, đơn vị. Mỗi đoàn hậu cần bám trụ trên từng khu vực, kết hợp chặt chẽ với các cơ sở hậu cần của phân khu, đơn vị và hậu cần nhân dân bảo đảm cho các đơn vị đứng chân và hoạt động trong khu vực đó. Ngoài ra, hậu cần Miền còn tổ chức các phân đội hậu cần cơ động (đội điều trị, đội phẫu thuật, trạm sửa chữa, các tiểu đoàn, đại đội vận tải...) sẵn sàng tăng cường cho các đoàn hậu cần khu vực để bảo đảm tác chiến thắng lợi.

Phát huy thế trận hậu cần nhân dân, ta đã huy động lực lượng lớn đồng bào trên địa bàn các tỉnh miền Đông tham gia phục vụ cho tổng tiến công và nổi dậy. Nhiệm vụ của lực lượng này là vận chuyển vũ khí, lương thực, thực phẩm vào nội đô cất giấu trước và cứu thương, tải thương khi chiến sự nổ ra, và xây dựng “hũ gạo nuôi quân”. Lực lượng quần chúng kết hợp với các đơn vị vận tải đã chuyển được hàng trăm tấn hàng từ vùng Mỏ Vẹt xuống vùng tây nam Sài Gòn. Ta đã huy động hàng trăm xe bò chở hàng từ Mỏ Vẹt xuống Hóc Môn, Gò Vấp. Huyện Đức Hoà có phong trào xây dựng “hũ gạo nuôi quân”. Trước Tết, mỗi gia đình để sẵn năm lon gạo đón chủ lực, sau đó, cứ mỗi tuần lại quyên góp một lần (do Hội phụ nữ phát động). Các huyện đều thành lập đội cung cấp chuyên lo việc huy động lương thực, thực phẩm trong nhân dân phục vụ tổng tiến công và nổi dậy. Mỗi xã có ban quân lương, đội cứu thương, tải thương. Các nhà đều đào sẵn hầm để nuôi giấu thương binh hoặc chôn giấu vũ khí. Ở Trảng Bàng, gia đình bà Nguyên (Má Bảy) đào hầm chôn tới 45 tấn vũ khí tại một vị trí chỉ cách địch 1 km.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Tư, 2010, 09:28:04 pm

Năm 1965, ta đã thành lập hai bộ phận bảo đảm mang mật danh A20 và A30 (sau đó A20 đổi thành J8, A30 đổi thành J9) để thực hiện kế hoạch mang mật danh “kế hoạch X” tích trữ vật chất, vũ khí cho lực lượng ta hoạt động ở nội đô. Từ 1965 đến 1967, A20 và A30 đã xây dựng được 15 lõm chính trị với trên 200 gia đình làm cơ sở giấu vũ khí và ém quân, đặt sở chỉ huy. Một số lượng lớn vũ khí đã được vận chuyển vào nội thành trong thời gian này. Cuối 1967, lực lượng vận chuyển vũ khí được tăng cường, nhiều lõm chính trị được xây dựng thêm. Đến đầu 1968, trước khi cuộc tổng tiến công và nổi dậy nổ ra, ta đã xây dựng được 19 lõm chính trị với 325 gia đình, phần lớn ở gần các mục tiêu sẽ đánh chiếm. Mỗi lõm có nhiều cơ sở để cất giấu vũ khí, ém quân. Những cơ sở ém quân, giấu vũ khí quan trọng phục vụ cho Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 là: nhà số 15 đường Nguyễn Bỉnh Khiêm (quận 1) tức Hiệu may Quốc Anh của gia đình đồng chí Trần Phú Cương và Trần Thị Út (cả hai anh chị đều là chiến sĩ biệt động Sài Gòn). Nhà 436/58 Lê Văn Duyệt (nay là đường Cách mạng Tháng Tám, quận 3) của đồng chí Lê Tấn Quốc, nhà 287/70 Trần Quý Cáp (nay là đường Võ Văn Tần, quận 3) của đồng chí Trần Văn Lai, nhà 248/27 Nguyễn Huỳnh Đức (nay là Huỳnh Văn Bánh, quận Phú Nhuận) của bà Bùi Thị Lý...

Đặc biệt nhà số 7 Yên Đổ (nay là Lý Chính Thắng, quận 3), tức tiệm phở Bình của gia đình ông Ngô Toại là nơi đặt Sở chỉ huy tiền phương của Phân khu 6. Nhà số 183/4 đường Trần Quốc Toản, quận 3 (nay là đường 3/2 quận 10) của gia đình đồng chí Đỗ Văn Căn là một trong những cơ sở đầu tiên được xây dựng từ năm 1965 đến ngày miền Nam giải phóng vẫn là cơ sở tin cậy để lực lượng cách mạng lui tới hoạt động và cất giấu vũ khí bí mật. Tại đây, ta đã tiếp nhận một số lượng lớn vũ khí để phục vụ cho việc đánh chiếm Tổng nha cảnh sát ngụy.

Bên cạnh việc xây dựng cơ sở để giấu vũ khí, ém quân, vấn đề đưa được vũ khí vào nội đô cũng không phải dễ. Ngoài việc vận chuyển bằng các phương tiện mà các bộ phận bảo đảm đã thực hiện trước đó, trước Tết, lợi dụng địch sơ hở và dựa vào dân, ta tiếp tục vận chuyển vũ khí vào thành bằng cách mang tay qua các vùng ven đô, ven thị, bằng chuyển vận qua các xe chở hàng hoá qua các cửa ngõ kiểm soát vào thành phố. Các chiến sĩ vận tải, quần chúng cách mạng giấu súng, đạn trong hòm xe, trên chất dưa hấu để che mắt địch. Dưới dạng vào nội thành đi mua sắm hàng Tết, nhân dân mang vũ khí qua các trạm kiểm soát tài nguyên của địch yên ổn, không có một trường hợp nào bị lộ... Ta còn cho vũ khí xâm nhập vào thành phố trên các ghe chở cát và khi bốc cát lên bờ, vũ khí được giấu ngay dưới đống cát... Vào những ngày giáp Tết, nhiều chiến sĩ biệt động, cơ sở cải trang làm thường dân có đầy đủ giấy tờ hợp lệ xâm nhập vào nội thành một cách an toàn...

Nhằm bảo đảm sự thống nhất, kịp thời cho lãnh đạo, chỉ huy các mũi, các hướng trong quá trình tổng tiến công và nổi dậy, Trung ương Cục và Bộ chỉ huy Miền tổ chức lại chiến trường miền Đông, thành lập khu trọng điểm do đồng chí Nguyễn Văn Linh làm Bí thư và hai bộ chỉ huy tiền phương Bắc, và tiền phương Nam (Sài Gòn và phụ cận). Tiền phương Bắc do các đồng chí Trần Văn Trà, Mai Chí Thọ, Lê Đức Anh đảm nhiệm, phụ trách các đơn vị chủ lực Miền ở hướng bắc, tây bắc và đông thành phố bao gồm các phân khu 1, 4, 5, một phần Phân khu 2 (Dĩ An, Gò Vấp, Củ Chi, Hóc Môn, Lái Thiêu, Thủ Đức và một phần Tân Bình). Bộ Tư lệnh tiền phương Nam do các đồng chí Võ Văn Kiệt, Trần Bạch Đằng đảm nhiệm, phụ trách các đơn vị chủ lực tiến công ở hướng nam, tây nam và toàn bộ lực lượng biệt động, quần chúng vũ trang nội thành.

Ở các phân khu, Trung ương Cục cũng chỉ định phân khu uỷ và bộ chỉ huy phân khu. Mỗi phân khu uỷ chia làm hai bộ phận, một bộ phận chỉ đạo các hoạt động trên địa bàn nông thôn và một bộ phận chỉ đạo hoạt động trên địa bàn đô thị thuộc phân khu.

Quá trình chuẩn bị cho tổng tiến công và nổi dậy ở Sài Gòn - Gia Định, ta gặp một khó khăn lớn là trước đó địch khủng bố gắt gao, đánh vào Đảng bộ nội thành. Các tên Ba Trà - Uỷ viên Đảng uỷ Trí vận, Bảy Nhỏ - thường vụ phân khu uỷ Dĩ An - thị xã Gia Định, Ca Vĩnh Phối - Phân khu uỷ viên Thủ Đức - Thị Nghè, phản bội, khai báo, nhiều cán bộ cốt cán của Đảng bị địch bắt, các cơ sở quần chúng bị thiệt hại nặng. Các đồng chí khu uỷ viên Trần Văn Kiều, Lê Thị Riêng bị bắt. Đây là một tổn thất lớn của Đảng bộ Khu Sài Gòn - Gia Định. Mặc dù vậy, lực lượng chủ lực của phong trào quần chúng là thanh niên và công đoàn vẫn được bảo toàn. Lực lượng biệt động và du kích vũ trang không chuyên nghiệp không bị thiệt hại.

Đến cuối tháng 12-1967, mọi công tác chuẩn bị cho các mũi, các hướng tiến công và nổi dậy ở Sài Gòn về cơ bản đã hoàn tất.

Đồng bằng sông Cửu Long tuy không phải là trọng điểm cuộc tổng tiến công và nổi dậy toàn Miền, Trung ương Cục cũng chỉ đạo các quân khu VIII, IX tổ chức bố trí lại lực lượng cho phù hợp với tình hình địa phương, hoàn chỉnh phương án tổng tiến công và nổi dậy theo kế hoạch chung.

Trên địa bàn Khu VIII (các tỉnh Trung Nam Bộ), quân khu xác định trọng điểm 1 là thành phố Mỹ Tho, trọng điểm 2 là thị xã Bến Tre. Chuẩn bị cho tổng tiến công và nổi dậy theo chỉ thị của Miền, từ tháng 10-1967, Long An tách khỏi Quân khu VIII về nằm trong địa bàn hai phân khu bắc Long An (thuộc Phân khu 2), nam Long An (thuộc Phân khu 3) chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ chỉ huy Miền.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Tư, 2010, 09:28:44 pm

Tháng 11 - 1967, Khu uỷ lại quyết định tách hai huyện Hoà Đồng và Gò Công ra khỏi tỉnh Mỹ Tho để thành lập tỉnh Gò Công.

Lực lượng quân khu VIII đến cuối năm 1967 có năm tiểu đoàn bộ binh, ba đại đội đặc công, bốn đại đội công binh, hai đại đội cối 82, một đại đội cối 120, ba đại đội ĐKZ 75, hai đại đội súng máy 12,8 mm. Mỗi tỉnh có một tiểu đoàn bộ binh, riêng Bến Tre có hai tiểu đoàn. Các huyện có từ một trung đội đến một đại đội bộ đội địa phương, chưa kể các phân đội đặc công, công binh và biệt động.

Ngoài lực lượng bộ đội tập trung ở khu, tỉnh, huyện, trên địa bàn quân khu, mỗi xã có một đại đội, mỗi ấp có một trung đội du kích. Các thị xã, thị trấn đều có từ một đến ba phân đội biệt động, một đến ba đại đội tự vệ chiến đấu.

Cùng với tăng cường lực lượng, quân khu chỉ đạo các đơn vị và địa phương khắc phục mọi khó khăn bảo đảm cơ sở vật chất cho tổng tiến công và nổi dậy.

Ngành hậu cần quân khu cùng lực lượng dân công ở các khu vực, dựa vào dân đã khôn khéo vận chuyển được hàng ngàn tấn vũ khí, đạn dược qua mắt địch đến các vị trí tập kết an toàn. Lương thực, thực phẩm được huy động trong dân bảo đảm cho lực lượng chiến đấu “ăn no, đánh thắng”.

Các địa phương còn vận động quần chúng, tổ chức thành đội ngũ sẵn sàng nổi dậy phối hợp cùng bộ đội tiến công vào các thị xã, thị trấn, giành quyền làm chủ.

Quân khu IX (bao gồm các tỉnh Tây Nam Bộ), Trung ương Cục và Bộ chỉ huy Miền xác định hai trọng điểm tiến công là thành phố Cần Thơ và thị xã Vĩnh Long.

Chuẩn bị cho tổng tiến công và nổi dậy, ngoài việc xây dựng, tổ chức lại lực lượng vũ trang, Quân khu IX thành lập thêm Hội đồng cung cấp để bảo đảm vũ khí, lương thực, thực phẩm cho chiến trường. Công tác vận động quần chúng, xây dựng cơ sở ở nội thành và các vùng trọng yếu cũng được tiến hành khẩn trương. Vũ khí, đạn dược được vận chuyển bằng nhiều cách đến vị trí tập kết an toàn. Chỉ trong vòng hai tháng, mọi công tác chuẩn bị cho tổng tiến công và nổi dậy được tiến hành khẩn trương và đạt kết quả tương đối tốt.

Ở Khu VI, do địch càn quét đánh phá ác liệt, đường liên lạc giữa Trung ương Cục và khu bị đứt, ngày 8-1-1968, Thường vụ Khu uỷ và Bộ Tư lệnh quân khu mới nhận được sự chỉ đạo của trên. Khu uỷ và Bộ Tư lệnh Quân khu VI tổ chức họp triển khai ngay chủ trương tổng tiến công và nổi dậy trên địa bàn quân khu. Hai trọng điểm được quân khu xác định là Đà Lạt và Phan Thiết. Hai cơ quan tiền phương của khu cũng được thành lập ngay để chỉ đạo hai trọng điểm. Mọi công tác chuẩn bị về lực lượng, vật chất được tiến hành rất khẩn trương để bảo đảm giờ nổ súng đúng như kế hoạch chung.

Lực lượng sử dụng trên hai hướng trọng điểm của Khu VI bao gồm:

Ở Phan Thiết, có Tiểu đoàn 840, Tiểu đoàn 842 và các đơn vị đặc công của Bình Thuận, lực lượng vũ trang thị xã cùng lực lượng chính trị của quần chúng ở địa phương.

Ở Đà Lạt, có Tiểu đoàn 186, Tiểu đoàn 145 (thiếu), cùng lực lượng đặc công, biệt động thị xã và tỉnh Tuyên Đức, lực lượng chính trị địa phương.

Mục tiêu Quân khu VI đặt ra là đánh chiếm, làm chủ hai thị xã Phan Thiết và Đà Lạt; cố gắng giải phóng toàn bộ nông thôn của hai tỉnh Bình Thuận - Tuyên Đức, sau đó phát triển giải phóng cả Ninh Thuận - Lâm Đồng.

Khu V, thực hiện kế hoạch tổng công kích - tổng khởi nghĩa, quân khu quyết định chia chiến trường thành bốn hướng tiến công, trong đó tỉnh Quảng Đà được xác định là chiến trường chính, thành phố Đà Nẵng là trọng điểm. Bốn hướng đó là:

Quảng Nam - Đà Nẵng (bao gồm cả bắc Quảng Ngãi). Hướng này tiếp giáp với chiến trường Trị - Thiên, có nhiệm vụ đánh bại lực lượng thuỷ quân lục chiến Mỹ và Sư đoàn 2 ngụy, bao vây các căn cứ lớn của Mỹ ở Đà Nẵng, Chu Lai, cắt đứt tuyến giao thông chiến lược giữa Trị - Thiên và Khu V, phối hợp chặt chẽ với Huế và Đường 9. Từ tháng 7-1967, Bộ Tư lệnh Quân khu V đã thành lập mặt trận 4. Mặt trận bao gồm lực lượng vũ trang của Tỉnh đội Quảng Đà, Thành đội Đà Nẵng và một số đơn vị bổ sung của quân khu. Mặt trận 4 do đồng chí Võ Thứ làm Tư lệnh, đồng chí Hồ Nghinh làm Chính uỷ.

Trước khi tổng tiến công và nổi dậy nổ ra, Khu uỷ quyết định sáp nhập tỉnh Quảng Đà và thành phố Đà Nẵng thành Đặc khu Quảng Đà. Lực lượng được tăng cường thêm hai trung đoàn pháo binh 575, 577 và một trung đoàn bộ binh thiếu (Trung đoàn 31) từ miền Bắc vào.

Lực lượng vũ trang của tỉnh Quảng Nam cũng được tăng cường, bổ sung quân số, trang bị. Tỉnh thành lập thêm Tiểu đoàn 74 bộ binh, một liên đội đặc công và hai tiểu đội đánh tăng.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Tư, 2010, 09:29:21 pm

Dưới sự chỉ đạo của Bộ Tư lệnh mặt trận 4, Đặc khu Quảng Đà, Tỉnh đội Quảng Nam, cán bộ các cấp được tập huấn về quân sự, các lực lượng vũ trang mặt trận khẩn trương huấn luyện cách đánh trong thành phố và tác chiến hiệp đồng. Nhiều đoàn cán bộ len lỏi xuống các vùng ven chuẩn bị chiến trường, xác định phương án đánh địch từ các mũi, các hướng. Một số cán bộ, chiến sĩ được phân công hoạt động trong nội đô tìm mọi cách để vào thành phố, bám sát các mục tiêu, tổ chức lực lượng sẵn sàng nổ súng khi có lệnh.

Ban chỉ huy nổi dậy và Hội đồng chi viện tiền phương các cấp được thành lập. Lực lượng chính trị của quần chúng ở vùng giải phóng, vùng ven được tổ chức chặt chẽ, sẵn sàng tiếp ứng cho nội thành. Cán bộ, đảng viên được tăng cường xuống cơ sở, chỉ huy các mũi, các hướng.

Kế hoạch tổng tiến công và nổi dậy trên hướng chủ yếu Quảng Nam - Đà Nẵng được xác định: ở thành phố Đà Nẵng, sử dụng các tiểu đoàn mũi nhọn (cả đặc công và bộ binh) cùng với lực lượng biệt động của thành phố (Đội biệt động Lê Độ) và tự vệ mật, đánh chiếm các mục tiêu then chốt, hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy giành chính quyền là chính.

Vòng ngoài, Sư đoàn 2 bộ binh đánh chiếm quận lỵ Duy Xuyên, chiếm khu trung tuyến Gò Nổi, đường 104, dãy Dương Thông, chia cắt địch giữa Đà Nẵng và Chu Lai. Công binh chốt giữ đèo Hải Vân chia cắt địch giữa Đà Nẵng và Huế.

Cùng với Đà Nẵng, các thị xã Hội An, Tam Kỳ và các quận lỵ, thị trấn, lực lượng vũ trang đồng loạt tiến công địch, kết hợp với quần chúng (tại chỗ và từ các vùng nông thôn tràn vào) nổi dậy đánh đổ ngụy quyền.

Ở Quảng Ngãi, Tỉnh uỷ và Ban chỉ huy Tỉnh đội gấp rút bổ sung quân số, xây dựng lực lượng vũ trang tập trung của tỉnh, du kích xã, thôn và du kích mật trong thị xã, xây dựng, củng cố các đội quyết tử. Mục tiêu trọng điểm của cuộc tổng tiến công và nổi dậy trong tỉnh được Tỉnh uỷ và Ban chỉ huy Tỉnh đội xác định là thị xã bao gồm tiểu khu, sân bay, Tỉnh đoàn bảo an, khu nhà lao, Đài phát thanh, Nhà máy điện, ga Ông Bố, bắc cầu Trà Khúc, điểm cao 45... Lực lượng chủ lực tỉnh có các tiểu đoàn bộ binh 20, 81, 83, 48; các đại đội đặc công 506A, 506B, 31, 95 và Tiểu đoàn đặc công 401 của quân khu tăng cường. Bên cạnh bộ đội chủ lực tỉnh, nhân dân các xã đã giải phóng thuộc các huyện Bình Sơn, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, Mộ Đức, Đức Phổ được huy động tổ chức thành từng đơn vị, từng đội kéo về thị xã hỗ trợ cho cuộc nổi dậy.

Hướng Bình Định (bao gồm cả An Khê): là hướng phối hợp chặt chẽ với Tây Nguyên, có nhiệm vụ đánh qụy Sư đoàn 22 ngụy, một bộ phận quân Mỹ và Nam Triều Tiên, cắt đứt đường 19. Mục tiêu trọng điểm là thị xã Quy Nhơn và quận lỵ Phù Mỹ, cùng Tây Nguyên căng kéo địch, tạo ưu thế cho các chiến trường khác hoạt động.

Để chỉ đạo hướng này, Bộ chỉ huy mặt trận Bình Định được thành lập. Đồng chí Nguyễn Chánh - Phó Tư lệnh quân khu làm Tư lệnh, đồng chí Đoàn Khuê - Phó Chính uỷ quân khu làm Chính uỷ mặt trận. Lực lượng đánh vào thị xã Quy Nhơn là hai đại đội của Tiểu đoàn đặc công 407 và phần lớn lực lượng của tỉnh (Tiểu đoàn 50). Sư đoàn 3 (thiếu) có nhiệm vụ đánh chiếm quận lỵ Phù Mỹ, thu hút, kiềm chế tiêu diệt một bộ phận Sư đoàn kỵ binh không vận số 1 của Mỹ. Trung đoàn 12 (Sư đoàn 3) đánh diệt và kiềm chế quân Nam Triều Tiên ở Tuy Phước, đồng thời sẵn sàng hỗ trợ cho Quy Nhơn. Lực lượng còn lại của Tiểu đoàn đặc công 407 tiến công căn cứ Sư đoàn không vận số 1 Mỹ ở An Khê.

Hướng Phú Yên - Khánh Hoà: trọng điểm là thị xã Tuy Hoà và thành phố Nha Trang. Để chỉ đạo hướng này, mặt trận A9 được thành lập. Ngày 20-1-1968, Đảng uỷ mặt trận và các tỉnh uỷ họp xác định: tập trung lực lượng tại chỗ (của các tỉnh) tiêu diệt bằng được một số mục tiêu quan trọng trong nội đô, kết hợp với nổi dậy của quần chúng, thực hiện công kích, khởi nghĩa giải phóng thị xã. Trong lúc đó, Trung đoàn 10 (thiếu) có nhiệm vụ đánh chiếm đèo Cù Mông, chia cắt địch giữa Phú Yên và Bình Định, Trung đoàn 20 (thiếu) tiến công địch, khống chế khu vực ngã ba đường số 1 và đường 21 (Khánh Hoà).

Hướng Tây Nguyên: là chiến trường đánh tiêu diệt lớn sinh lực địch. Hướng này có nhiệm vụ bao vây, cô lập các căn cứ địch ở Kon Tum, Plâycu, Buôn Ma Thuột, tiêu diệt và làm tan rã quân ngụy tại chỗ, thu hút, kiềm chế và đánh tiêu diệt lớn quân Mỹ, tạo thuận lợi cho chiến trường đồng bằng. Lực lượng gồm các trung đoàn 24, 95, 33 chủ lực cùng lực lượng địa phương tiến công vào các thị xã Kon Tum, Plâycu, Buôn Ma Thuột. Sư đoàn 1 được tập trung lên hướng đường 18, Plây Cần - nơi dự kiến quân Mỹ sẽ xông ra phản kích khi thị xã Kon Tum bị tiến công, Sư đoàn 1 sẽ đánh trận tiêu diệt lớn ở đây.

Theo kế hoạch của Khu uỷ và Quân khu uỷ thì cuộc Tổng tiến công và nổi dậy ở các thành phố, thị xã trên địa bàn quân khu tuỳ thuộc vào điều kiện và khả năng từng nơi mà áp dụng phương thức cho phù hợp. Với các thành phố và thị xã lớn như Đà Nẵng, Nha Trang, Quy Nhơn, lực lượng vũ trang chỉ đánh một số mục tiêu quan trọng, còn chủ yếu là huy động lực lượng quần chúng bên trong, kết hợp với lực lượng ở nông thôn vào khởi nghĩa giành chính quyền. Lấy khởi nghĩa của quần chúng giành chính quyền là chính. Các thị xã Kon Tum, Plâycu, Buôn Ma Thuột ở Tây Nguyên chủ yếu dùng đòn tiến công quân sự để giải phóng. Các thị xã Hội An, Tam Kỳ, Quảng Ngãi, Tuy Hoà tiến công quân sự kết hợp song song với nổi dậy của quần chúng để giành chính quyền.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Tư, 2010, 09:30:39 pm

Cùng với củng cố lực lượng vũ trang, Khu uỷ và Quân khu V chỉ đạo các tỉnh tăng cường công tác vận động quần chúng, dự kiến sẽ huy động 20 vạn người tham gia nổi dậy ở các thành phố, thị xã.

Mọi cấp, mọi ngành, mọi địa phương, nhân dân các vùng căn cứ, vùng địch hậu trên toàn quân khu khẩn trương dồn sức chuẩn bị mọi mặt như vũ khí, lương thực, thực phẩm, thuốc men kịp cho ngày nổ súng.

Huế, một trong ba chiến trường chính và là một trong ba trọng điểm của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968. Chuẩn bị cho tổng tiến công và nổi dậy, từ tháng 5-1967, Trung ương Đảng quyết định tổ chức lại hệ thống lãnh đạo chỉ huy cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ của chiến trường trọng điểm này. Theo chỉ đạo của Trung ương, các tỉnh uỷ và tỉnh đội giải thể. Các huyện uỷ chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Khu uỷ. Về quân sự, trên từng hướng tiến công thành lập đoàn phụ trách: Đoàn 4 phụ trách khu vực Phú Lộc - bắc đèo Hải Vân; Đoàn 5 phụ trách mặt trận thành phố Huế và ba huyện ngoại thành Hương Trà, Hương Thuỷ, Phú Vang; Đoàn 6 phụ trách hai huyện Phong Điền, Quảng Điền (tỉnh Thừa Thiên); Đoàn 7 phụ trách hai huyện Triệu Phong, Hải Lăng (tỉnh Quảng Trị). Các đoàn chịu sự chỉ huy trực tiếp của Bộ Tư lệnh Quân khu Trị - Thiên. Đoàn 31, chịu sự chỉ huy của Bộ Tư lệnh mặt trận B5 (Đường 9 - bắc Quảng Trị), phụ trách khu vực từ Đường 9 trở ra đến giới tuyến quân sự tạm thời.

Thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương, Khu uỷ và Quân khu uỷ Trị - Thiên - Huế họp xác định: thành phố Huế là trọng điểm, là trung tâm chỉ đạo của Khu uỷ và quân khu, là điểm mấu chốt của tổng tiến công và nổi dậy của chiến trường Trị - Thiên. Muốn đánh chiếm thành phố Huế phải kết hợp chặt chẽ công kích với khởi nghĩa. Do vậy, phải lãnh đạo toàn dân, toàn quân trong khu khẩn trương, tích cực chuẩn bị.

Cùng thời gian này, đồng chí Lê Chưởng - Phó Bí thư Khu uỷ Chính uỷ quân khu ra Bộ báo cáo tình hình và nhận lệnh của trên. Khi giao nhiệm vụ, Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh nhấn mạnh: chiến trường Trị - Thiên - Huế là một trong ba chiến trường trọng điểm của toàn Miền. Nhiệm vụ của Trị - Thiên - Huế là thực hành tiến công và nổi dậy đánh chiếm thành phố Huế và các thị xã, thị trấn, tiêu diệt và làm tan rã ngụy quân, ngụy quyền, giải phóng nông thôn, thiết lập chính quyền cách mạng. Thừa Thiên - Huế phối hợp với toàn Miền, đồng thời cùng mặt trận Đường 9 tiêu diệt một bộ phận quân Mỹ, sẵn sàng đánh địch phản kích.

Tháng 12-1967, Khu uỷ và Bộ Tư lệnh Quân khu Trị - Thiên - Huế dưới sự chủ trì của đồng chí Trần Văn Quang, Bí thư Khu uỷ kiêm Tư lệnh quân khu họp xác định quyết tâm và tư tưởng chỉ đạo: “Tập trung lực lượng chủ yếu của quân khu, phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp của ba thứ quân và của đông đảo quần chúng nhân dân, bí mật bất ngờ, đồng loạt công kích và khởi nghĩa, tiêu diệt toàn bộ cơ quan đầu não ngụy quân, ngụy quyền, chiếm lĩnh thành phố Huế. Đồng thời phát triển thắng lợi, tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ ngụy quân, ngụy quyền, giải phóng nông thôn, thành lập chính quyền cách mạng. Tiêu diệt, tiêu hao nặng một bộ phận quân Mỹ, đánh tê liệt các hậu cứ của chúng, bao vây cô lập không cho quân Mỹ cứu viện cho ngụy. Kiên quyết đánh bại mọi cuộc phản kích của Mỹ và ngụy”1.

Trọng điểm của chiến trường là thành phố Huế, nam Quảng Trị và Phú Lộc là các hướng phối hợp.

Nhằm tăng cường sự chỉ đạo, chỉ huy bảo đảm cho tổng tiến công và nổi dậy thắng lợi, mặt trận trọng điểm Huế được chia thành hai cánh:

Cánh Bắc phụ trách phần thành phố ở tả ngạn sông Hương và huyện Hương Trà. Đây là hướng chính của cuộc tổng tiến công và nổi dậy ở thành phố Huế với lực lượng gồm: Trung đoàn 6 bộ binh, Tiểu đoàn 816, Trung đoàn 9, Tiểu đoàn đặc công 12, một đại đội 12,7mm (6 khẩu), một đại đội ĐKZ 75 (4 khẩu), một đại đội súng cối 82 mm (6 khẩu), một đại đội công binh, một đại đội trinh sát, một đại đội thông tin, một đại đội vận tải, hai đội biệt động thành phố cùng các lực lượng bảo đảm và lực lượng vũ trang huyện Hương Trà. Cánh này có nhiệm vụ tiêu diệt cơ quan đầu não ngụy quân, ngụy quyền, đánh chiếm khu thành nội, mục tiêu chủ yếu là Mang Cá, Tây Lộc, Cột Cờ, sau đó phát triển, chiếm lĩnh toàn bộ khu vực tả ngạn thành phố và huyện Hương Trà, tiến lên tiêu hao, tiêu diệt căn cứ Mỹ ở Đồng Lâm, thiết lập chính quyền cách mạng, đánh địch phản kích, giữ vững trật tự an ninh.

Cánh Nam bao gồm phần thành phố ở hữu ngạn sông Hương và hai huyện Hương Thuỷ, Phú Vang. Lực lượng cánh này có hai tiểu đoàn bộ binh 840 và 810 thuộc Đoàn 5, hai tiểu đoàn bộ binh 815 và 818 của Trung đoàn 9, hai tiểu đoàn đặc công 1 và 2, một đại đội súng cối 82 mm (6 khẩu), một đại đội súng máy phòng không 12,7mm, một đại đội ĐKZ 75 mm (6 khẩu), một đại đội trinh sát, một đại đội công binh, một đại đội thông tin cùng các lực lượng biệt động, bộ đội địa phương, dân quân du kích, tự vệ và quần chúng cách mạng. Mục tiêu chủ yếu của cánh Nam là các cơ quan hành chính của ngụy quyền, cơ quan quân sự tỉnh Thừa Thiên, trung đoàn thiết giáp nhà lao, khu tam giác hữu ngạn. Sau khi tiêu diệt các mục tiêu này, cánh Nam từ kiềm chế, bao vây, ngăn chặn tiến lên đánh tê liệt căn cứ Phú Bài, trung đoàn thiết giáp Mỹ, giải phóng toàn bộ vùng nông thôn ngoại thành và hai huyện Hương Thuỷ, Phú Vang, đồng thời đánh địch phản kích từ ngoài vào thành phố.

Ban chỉ huy mặt trận trọng điểm Huế gồm các đồng chí: Lê Minh - Phó Bí thư Khu uỷ, Bí thư Thành uỷ Huế làm Chỉ huy trưởng; Lê Chưởng - Phó Bí thư Khu uỷ, Chính uỷ quân khu làm Chính uỷ; Nam Long - Uỷ viên Thường vụ Khu uỷ, Phó Tư lệnh quân khu làm Chỉ huy phó; Đặng Kinh - Khu uỷ viên, Phó Tư lệnh quân khu làm Chỉ huy phó kiêm Tham mưu trưởng.
_____________________________________
1. Dự thảo tổng kết cuộc tấn công thành phố Huế - Mậu Thân 1968. Tài liệu lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Tư, 2010, 09:31:14 pm

Trước tháng 8-1967, lực lượng chủ lực của Quân khu Trị - Thiên - Huế chỉ có một trung đoàn và bốn tiểu đoàn bộ binh độc lập hai tiểu đoàn đặc công. Từ tháng 9-1967, quân khu có thêm Trung đoàn 9 và một số tiểu đoàn độc lập. Để hoàn thành nhiệm vụ như kế hoạch đã đề ra, quân khu bổ sung quân số, ra sức củng cố tổ chức lực lượng vũ trang tại chỗ, trang bị vũ khí, kỹ thuật, bồi dưỡng sức khoẻ, mở các đợt huấn luyện theo phương án tác chiến, tập huấn cho cán bộ các cấp... Mặt khác, quân khu đề nghị Bộ tăng cường cho chiến trường 2 trung đoàn bộ binh, 3.000 quân bổ sung, 2 tiểu đoàn pháo, 1 tiểu đoàn cao xạ, 1 tiểu đoàn xe tăng và 1 tiểu đoàn thông tin và được Bộ chuẩn y. Nhờ vậy, đến trước ngày nổ ra tổng tiến công và nổi dậy, quân khu đã có 4 trung đoàn và 4 tiểu đoàn bộ binh, 4 tiểu đoàn đặc công, 15 đội biệt động thành và một số đơn vị binh chủng.

Có thêm lực lượng, Bộ Tư lệnh Quân khu Trị - Thiên - Huế điều chỉnh lực lượng, tập trung cho hướng chủ yếu và mục tiêu trọng điểm. Trung đoàn 9 được đưa từ Quảng Trị vào Huế. Thế vào vị trí Trung đoàn 9, quân khu đề nghị Bộ điều Trung đoàn 2 độc lập của B5 vào thay và điều Trung đoàn 8 (Sư đoàn 825C) ở Đường 9 vào tăng cường cho Huế. Lúc này, Thành đội Huế có 2 tiểu đoàn 804 và 810, 2 đội biệt động, sau đó phát triển thành 2 tiểu đoàn đặc công 1 và 2. Quân khu tăng cường Trung đoàn 6 gồm 4 tiểu đoàn bộ binh, 1 tiểu đoàn đặc công và 1 đại đội trợ chiến cho mặt trận Huế. Mỗi huyện gấp rút xây dựng thêm 3 đại đội bộ binh, 3 đội biệt động và 1 đại đội đặc công cùng với 1 đại đội bộ binh đã có từ trước. Các tổ du kích mật, đội quân ngầm cũng được tổ chức để thực hiện các nhiệm vụ đánh địch trong thành phố, quấy rối hậu phương của địch hoặc dẫn đường cho bộ đội...

Cùng với củng cố và tăng cường lực lượng vũ trang, công tác vận động quần chúng, tổ chức lực lượng chính trị để nổi dậy cũng được các cấp lãnh đạo của quân khu chú trọng. Khu uỷ đã mở các lớp tập huấn công tác phát động quần chúng và tổ chức khởi nghĩa cho 700 cán bộ và quần chúng cách mạng ở đô thị và nông thôn đồng bằng vùng địch chiếm. Sau khi kết thúc lớp tập huấn, số cán bộ này trở về địa phương thành lập các đội công tác cách mạng làm nòng cốt phát động quần chúng khởi nghĩa. Riêng nội thành Huế, lực lượng chính trị và phong trào cách mạng của quần chúng, dưới sự lãnh đạo của tám chi bộ đảng đã xây dựng được hàng trăm cơ sở bí mật và nửa công khai. Số quần chúng hướng về cách mạng, sẵn sàng tham gia các cuộc đấu tranh, phục vụ chiến đấu, có thể huy động 4.000 đến 5.000 người trong một ngày đêm. Trong số này, lực lượng thanh niên, học sinh, sinh viên đóng vai trò quan trọng. Tháng 10-1967, Ban cán sự sinh viên, học sinh thành phố Huế đã được thành lập. Tháng 12-1967, Thành uỷ Huế chỉ đạo cho Ban cán sự tuyên truyền và tổ chức 300 sinh viên, học sinh Huế, đưa lên chiến khu để huấn luyện, sẵn sàng tham gia chiến đấu. Qua đường dây của thanh niên, sinh viên, một số lượng lớn vũ khí đã được bí mật đưa vào nội thành an toàn. Cán bộ, đoàn viên thanh niên, sinh viên và nhân dân sáng tạo nhiều cách vận chuyển vũ khí bí mật đã che được mắt địch. Một trong nhiều điển hình về cách vận chuyển sáng tạo là đoàn viên thanh niên Trần Điền, anh bại liệt hai chân từ nhỏ, chuyên làm nghề câu cá kiếm sống, khi được giao nhiệm vụ vận chuyển vũ khí vào thành, Điền đã nghĩ cách bọc vũ khí trong túi nhựa lớn rồi buộc dây nối với thuyền thả xuống sông kéo đi đến giao cho bộ phận tiếp nhận. Nếu có dấu hiệu bị lộ, Điền chỉ cần thả dây níu cho túi vũ khí chìm xuống sông. Bằng cách này, Điền đã vận chuyển được khá nhiều vũ khí qua mắt địch. Anh Tẩy, chị Gái, bằng việc cho thủ pháo vào ghè, hũ đất nung, phía trên đổ đậu, vừng, hoặc bỏ súng ngắn, mìn vào ruột quả bí, bầu, qua những chuyến đò chở nông sản để vận chuyển vũ khí từ Xuân Ổ, Quảng Xuyên vào nội thành Huế.

Ngoài ra, số đông nhân dân lao động, viên chức, tiểu thương tuy chưa ở trong các tổ chức cách mạng nhưng có lòng yêu nước và cảm tình với cách mạng, sẵn sàng làm lực lượng đấu tranh chính trị, cùng với nhân dân nổi dậy khi cuộc tổng tiến công nổ ra.

Ở các huyện Hương Trà, Phú Vang, Hương Thuỷ giáp ranh thành phố Huế với trên 70.000 dân được giải phóng là nguồn bổ sung kịp thời cho cách mạng. Tại đây, ta đã xây dựng được nhiều đội du kích với hơn 1.000 người, nhiều tổ chức quần chúng như Nông hội, Phụ nữ... thu hút gần 30.000 hội viên. Lực lượng này sẵn sàng tham gia vào đội ngũ đấu tranh khi yêu cầu của cuộc tổng tiến công và nổi dậy đòi hỏi.

Việc chuẩn bị vật chất, hậu cần đòi hỏi phải khẩn trương hơn. Thường vụ Khu uỷ quyết định thành lập Ban chỉ huy và lãnh đạo hậu phương do đồng chí Lê Chưởng - Phó Bí thư Khu uỷ Chính uỷ quân khu làm Trưởng ban để giúp Khu uỷ chỉ đạo công việc chuẩn bị vật chất cho tổng tiến công. Các ban chuẩn bị vật chất ở thành phố và các huyện cũng được thành lập do các đồng chí trong thành uỷ và huyện uỷ được cử ra phụ trách. Các ban này có trách nhiệm chỉ đạo, đôn đốc việc huy động, tiếp nhận, vận chuyển cung cấp vật chất (chủ yếu là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, súng đạn) và tổ chức cứu chữa thương binh.

Với nỗ lực của các cơ quan kinh tế của khu và hậu cần quân khu, cùng sự đóng góp tích cực của các tầng lớp nhân dân, đến cuối tháng Giêng năm 1968, mặt trận Thừa Thiên - Huế đã có gần 1.000 tấn gạo để rải rác ở vùng giáp ranh và căn cứ miền núi Thừa Thiên, Quảng Trị, hơn 1.100 tấn để trong dân vùng đồng bằng (Thừa Thiên 700 tấn, Quảng Trị 450 tấn). Riêng mặt trận trọng điểm Huế mới có 130 tấn. Ngoài ra còn có 79 tấn muối, 15 tấn đường, 1,2 tấn sữa, 1,5 tấn bột trứng, 590 kg mì chính, chưa tính 350 tấn gạo, 400 tấn vũ khí Bộ Quốc phòng đã chuẩn y cho Trị - Thiên - Huế (qua Bộ Tư lệnh 559). Số hàng này đến ngày 20-1-1968, Đoàn 559 mới giao tại trạm đầu tiên, cách Huế khoảng 10 ngày vận chuyển bộ.

Quân khu Trị - Thiên - Huế cũng huy động các bệnh viện, bệnh xá từ cấp huyện, tỉnh đến khu, kết hợp cả quân và dân y, tổ chức mạng lưới cấp cứu, điều trị cho thương, bệnh binh, theo sát các hướng tiến công và ở tuyến sau (tuyến cơ bản) vùng hậu cứ. Các lớp huấn luyện, đào tạo cấp tốc y tá, hộ lý cứu thương được mở. Ở các địa phương, nhân dân được hướng dẫn chuẩn bị hầm hố, cơ sở để tiếp nhận nuôi giấu thương binh, củng cố các ban thương binh huyện, xã, phát triển mạng lưới y tế nông thôn để cứu chứa thương, bệnh binh. Đồng thời, y tế khu chuẩn bị được 3.200 giường cho cả Trị - Thiên, trong đó có 1.000 giường cho năm huyện đồng bằng (Phong Điền, Quảng Điền, Triệu Phong, Hải Lăng, Phú Vang). Trong số này 2/3 đặt ở miền núi bí mật, an toàn.

Ngoài ra, Ban chỉ huy hậu phương còn huy động 1.600 đồng bào miền tây Trị - Thiên, 600 đến 700 dân công ở đồng bằng tham gia vào việc vận chuyển gạo, đạn, thương, bệnh binh với hàng vạn ngày công. Nhờ vậy, số hàng ở xa mặt trận đã được chuyển đến vị trí tập kết kịp thời trước ngày nổ súng.

Nhìn chung, trên toàn chiến trường, cho đến cuối năm 1967 đầu năm 1968, mọi công tác chuẩn bị cho cuộc tổng tiến công và nổi dậy về cơ bản đã hoàn thành. Lực lượng ta trên các chiến trường, hướng trọng điểm sẵn sàng chờ giờ G giáng một đòn mạnh mẽ và bất ngờ xuống các trung tâm đầu não của địch ở các thành phố, thị xã, quyết giành thắng lợi cao nhất theo tinh thần của Nghị quyết Trung ương.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Tư, 2010, 09:40:14 pm

CHƯƠNG 20
TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY TẾT MẬU THÂN1


Tháng 1-1968 (tháng 12 năm Đinh Mùi), trên miền Bắc không quân Mỹ tăng cường đánh phá ác liệt hơn những tháng đầu năm; ở miền Nam hoạt động quân sự của ta và địch diễn ra bình thường, không có những trận đánh lớn. Ta và địch đều đang bí mật thăm dò tin tức, tìm hiểu ý đồ chiến lược của nhau. Một cuộc đấu trí giữa Bộ thống soái Việt Nam với đế quốc Mỹ diễn ra âm thầm, lặng lẽ, nhưng rất căng thẳng. Giữa lúc đó, liên quân Lào - Việt nổ súng tiến công địch, triển khai chiến dịch Nậm Bạc (12-1-1968 ). Chiến sự ở vùng Thượng Lào đột nhiên bùng lên dữ dội, đến ngày 27-1-1968, ta tiêu diệt 11 tiểu đoàn ngụy Viêng Chăn. Bằng đòn đánh Nậm Bạc, ta đã buộc Mỹ phải bị động đối phó ở Thượng Lào để sơ hở ở chiến trường miền Nam Việt Nam.

Ngày 20-1-1968, quân ta bất ngờ tiến công vào tập đoàn cứ điểm Khe Sanh và tuyến phòng thủ Đường 9, chiếm quận lỵ Hướng Hoá, vây hãm Làng Vây và Tà Cơn. Chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh - hướng phối hợp đặc biệt quan trọng diễn ra trước Tết Mậu Thân 10 ngày đã dội về nước Mỹ như một tiếng sét kinh hoàng, làm cho Tổng thống L. Giônxơn và các nhà chiến lược Mỹ kinh ngạc. Họ nhận định Khe Sanh có thể là chiến trường chính. Tổng thống L. Giônxơn liền chỉ thị cho tướng Taylo thành lập Phòng tình hình đặc biệt tại Nhà Trắng để theo dõi chiến sự Khe Sanh và chỉ đạo cho tướng Oétmolen hành động, đồng thời yêu cầu Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân phải “ký tên bằng máu” cam kết bảo vệ Khe Sanh bằng bất cứ giá nào.

Khe Sanh nằm trên một cao nguyên, mỗi bề 10 km, ở phía tây nam phòng tuyến hàng rào điện tử Mắc Namara, thuộc miền núi tỉnh Quảng Trị, gồm Chi khu quân sự Hướng Hoá, cụm cứ điểm Làng Vây và Tà Cơn. Khe Sanh có vị trí chiến lược rất quan trọng đối với địch cũng như đối với ta. Tướng Oétmolen, Tư lệnh quân Mỹ ở miền Nam Việt Nam từng đánh giá Khe Sanh là “cái mỏ neo” ở phía tây hệ thống phòng thủ phía nam khu phi quân sự, một vị trí lý tưởng để ngăn chặn “cộng sản” thâm nhập từ miền Bắc vào miền Nam hoặc từ Lào sang, là bàn đạp cho các cuộc hành quân trên bộ để cắt đứt đường mòn Hồ Chí Minh. Do vị trí quan trọng của Khe Sanh, sau khi tính toán các phương án phòng thủ, Oétmolen quyết định trụ lại Khe Sanh và tuyên bố trong cuộc họp Bộ Tham mưu MACV là “chúng ta sẽ không, xin nhắc lại sẽ không bị đánh bại ở Khe Sanh. Tôi sẽ không tha thứ cho ai nói hoặc suy nghĩ điều ngược lại”2. Oétmolen tin tưởng “Khe Sanh sẽ đứng vững trong lịch sử như một tấm gương cổ điển về thách thức đánh bại một lực lượng bao vây đông hơn nhiều lần bằng việc sử dụng hoả lực có phối hợp”3. Trong lúc các nhà thông thái, các nhà chiến lược Mỹ ở Nhà Trắng và Lầu Năm Góc cũng như Bộ Tham mưu MACV và Sài Gòn tập trung đối phó ở Khe Sanh bằng việc điều toàn bộ các máy dò điện từ định dùng để kéo dài phòng tuyến Mắc Namara sang Lào, về bố trí xung quanh Khe Sanh, để thăm dò phát hiện xem ta có đào những đường hầm tiến vào Khe Sanh, như đã từng làm ở Điện Biên Phủ hay không, thì cuộc tổng tiến công và nổi dậy của ta nổ ra.

Trước Tết, miền Bắc công bố lịch mới: ngày Tết Nguyên đán năm Mậu Thân sớm một ngày so với lịch cũ. Bộ Tổng tư lệnh chỉ thị lui cuộc tổng tiến công lại một ngày để thống nhất hành động theo giờ G trên toàn chiến trường. Nhưng lực lượng vũ trang Khu V, Tây Nguyên đã ém sẵn vào các mục tiêu không thể rút ra hoặc giấu quân tại chỗ an toàn được nên đã đề nghị trên cho nổ súng vào đêm 28 rạng ngày 29-1-1968 (tức đêm 29 tháng Chạp Đinh Mùi 1967), trước đêm giao thừa một ngày. Tỉnh nổ súng sớm nhất là Khánh Hoà. Lúc 23 giờ ngày 28-1-1968, pháo binh ta bắn phá Trung tâm huấn luyện hải quân ngụy ở thành phố Nha Trang.

0 giờ ngày 29-1-1968, ta tiến công địch trong thị xã Tuy Hoà, tỉnh Phú Yên. Từ 0 giờ 30 phút đến 1 giờ 15 phút ngày 29-1-1968, quân ta đồng loạt tiến công vào thị trấn Tân Cảnh, tỉnh Kon Tum; thị xã Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắc Lắc; thị xã Plâycu, tỉnh Gia Lai; thành phố Đà Nẵng, thị xã Hội An, tỉnh Quảng Đà, Quảng Tín; thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định và thị xã Kon Tum, tỉnh Kon Tum...

Trung Trung Bộ đã nổ súng. Dải đất miền Trung sôi động tổng tiến công và nổi dậy, nhưng ở các hướng trọng điểm vẫn im ắng. Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân tự vệ, các đội biệt động, những mũi nhọn và nhân dân trong các đô thị cũng như vùng ven đang nóng lòng chờ giờ G. Thời gian lúc này dài như vô tận, mọi người rạo rực chờ đợi sự chuyển mình của lịch sử. Trong giây phút thiêng, thơ chúc Tết của Bác Hồ vang vọng núi sông như lời hịch:

Xuân này hơn hẳn mấy Xuân qua,
Thắng trận tin vui khắp nước nhà.
Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ,
Tiến lên!
Toàn thắng ắt về ta.


Hiệu lệnh giờ G - hiệu lệnh tổng tiến công và nổi dậy đã truyền!

Đúng đêm 29 rạng ngày 30-1-1968 (tức giao thừa Tết Mậu Thân 1968 - theo lịch miền Nam), Sài Gòn - Gia Định, Huế, Quảng Trị, Tam Kỳ, Quảng Ngãi, Phan Thiết, Vĩnh Long, Cần Thơ, Sóc Trăng, Nha Trang, Đà Nẵng, Kiến Tường, Định Tường, Gò Công, Bến Tre, Kiên Giang, Vĩnh Bình, Châu Đốc, Biên Hoà, Tuyên Đức... trong thế trận mùa Xuân rùng rùng đứng lên, anh dũng xốc tới tổng tiến công và nổi dậy trong tiếng pháo giao thừa nổ ran khắp miền Nam.

Ngày 31-1 và 1-2-1968 (ngày 2 và 3 tháng Giêng năm Mậu Thân), quân và dân ta tiếp tục tăng tiến công vào Sài Gòn, Huế, Buôn Ma Thuột, Kon Tum, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Kiến Tường, Long Khánh và nhiều nơi khác.

Trong khí thế sục sôi Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, Liên minh các lực lương dân tộc, dân chủ và hoà bình miền Nam Việt Nam thành phố Huế và Sài Gòn - Gia Định ra đời. Uỷ ban lãnh đạo toàn quốc của Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình miền Nam Việt Nam ra lời kêu gọi:

“Hỡi quốc dân đồng bào! Cuộc cách mạng mà nhân dân chúng ta mong ước nay đã nổ ra rồi! Nhân dân thành phố Sài Gòn anh hùng và quân đội cách mạng đã nã súng vào Dinh Độc lập và các cơ sở chủ yếu của ngụy quyền Thiệu - Kỳ.

Từ bao nhiêu năm nay, chúng ta sống trong tủi nhục vì bị mất nước, vì bị một lũ Việt gian đè đầu, cưỡi cổ. Chúng ta không thể tiếp tục cảnh tôi đòi ấy nữa. Chúng ta nhất định đứng lên giành chính quyền, tức là giành độc lập, hoà bình, tự do và cuộc sống trong sạch, ấm no... Tất cả mọi người hãy đứng lên!

Tiến công vào sào huyệt Thiệu - Kỳ...”.

Lời kêu gọi của Liên minh đã thôi thúc các tầng lớp nhân dân ở thành thị và nông thôn đứng lên sát cánh cùng với Quân giải phóng và lực lượng cách mạng thừa thắng xốc tới, tiến công vào hang ổ kẻ thù trên khắp miền Nam.
_______________________________________
1. Nghị quyết Trung ương lần thứ 14 (l-1968 ) chủ trương “đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên bước phát triển cao nhất, bằng phương pháp tổng công kích, tổng khởi nghĩa”. Về sau, một số sách, báo, tạp chí... gọi là tổng tiến công đồng loạt và nổi dậy đều khắp, hoặc tập kích chiến lược, v.v... Nghị quyết Trung ương lần thứ 21 (7-1973) gọi tổng công kích, tổng khởi nghĩa là tổng tiến công và nổi dậy. Từ đây trở đi chúng tôi thống nhất gọi tổng tiến công và nổi dậy như Nghị quyết Trung ương lần thứ 21 đã xác định.
2, 3. Oétmolen: Một quân nhân tường trình, Nxb. Garden City, Doublday and Company, New York, 1976, Thư viện Trung ương quân đội dịch, bản đánh máy, chương 13, trang 6, 4. Tài liệu lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Tư, 2010, 09:41:36 pm

I- SÀI GÒN-HUẾ-ĐÀ NẴNG, TRỌNG ĐIỂM TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY TẾT MẬU THÂN

Theo phương án đã được Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương Đảng thông qua, Sài Gòn - Gia Định là trọng điểm lớn nhất của Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, bởi đây là trung tâm đầu não chỉ đạo toàn bộ bộ máy điều hành chiến tranh của Mỹ - ngụy tại miền Nam Việt Nam.

Để bảo vệ trung tâm đầu não này, Mỹ - ngụy đã tổ chức một hệ thống phòng thủ vững chắc nhiều tầng, nhiều lớp với nhiều loại lực lượng tham gia. Đặc biệt vào đầu năm 1968, khi phát hiện ta chuyển quân về các vùng trung tâm dân cư, Mỹ đã huỷ bỏ các cuộc hành quân mà chúng dự kiến trong cuộc phản công chiến lược lần thứ ba, co về vùng vành đai Sài Gòn, hình thành ba tuyến phòng thủ.

Ở vòng ngoài: trên hướng tây bắc có Sư đoàn 25 (thiếu Lữ đoàn 3) Mỹ đóng ở Đồng Dù (cách Sài Gòn 30 km), Lữ đoàn 3 (Sư đoàn 101 dù) Mỹ đóng ở Củ Chi, Sư đoàn bộ binh 25 ngụy ở Bến Cát cùng nhiều tiểu đoàn biệt động quân và một số đại đội bảo an.

Hướng bắc có Sư đoàn 1 bộ binh Mỹ đóng ở Lai Khê, Lữ đoàn 2 (Sư đoàn dù 101) đóng ở Phước Vĩnh, Trung đoàn 11 thiết giáp Mỹ đóng ở Bàu Khai - Bến Cát, Sư đoàn 5 ngụy đóng ở Bình Dương.

Hướng đông và đông bắc có Lữ đoàn 1 (Sư đoàn 9) bộ binh Mỹ đóng ở Biên Hoà, Lữ đoàn bộ binh nhẹ 199 đóng ở Long Bình, một lữ đoàn quân Thái Lan đóng ở Long Thành, một trung đoàn quân Ôxtrâylia đóng ở Phước Tuy, Sư đoàn bộ binh 18 ngụy đóng ở Phước Tuy, Long Khánh.

Hướng nam có lữ đoàn 2 và 3 (Sư đoàn 9 Mỹ) đóng ở Rạch Kiến (Long An) và Bình Đức (Mỹ Tho), Lữ đoàn thuỷ quân lục chiến ở Cai Lậy (Định Tường) và lực lượng giang thuyền của hải quân ngụy hoạt động trên vùng sông nước.

Sau tuyến vòng ngoài đến tuyến vùng ven. Tại đây, địch bố trí Liên đoàn 5 biệt động quân (gồm bốn tiểu đoàn) đóng thành hình vòng cung bao quanh Sài Gòn từ Nhà Bè, Bình Chánh đến Hóc Môn, Thủ Đức. Ngoài ra lực lượng bảo an, dân vệ đóng đồn tại các xã trên trục giao thông, các ngả đường dẫn vào thành phố, chưa kể mạng lưới tình báo, gián điệp, mật vụ cùng hệ thống bốt canh, trạm kiểm soát của địch giăng khắp mọi nơi.

Vòng trong, ngoài lực lượng bảo vệ lãnh thổ của Biệt khu Thủ đô, lực lượng cảnh sát dã chiến, Sài Gòn còn là nơi tập trung nhiều cơ quan chỉ huy (23 bộ chỉ huy sư đoàn, trung đoàn, 6 bộ chỉ huy lữ đoàn, liên đoàn và các bộ chỉ huy không quân, hải quân, pháo binh, thiết giáp...). Đây cũng là nơi tập trung nhiều cơ quan chỉ huy chiến lược của Mỹ - ngụy: Bộ chỉ huy viện trợ quân sự Mỹ (MACV), Toà đại sứ Mỹ, Bộ Tổng tham mưu ngụy, Dinh Độc lập, trụ sở của chính quyền Sài Gòn, các trung tâm huấn luyện, sân bay, kho tàng, hậu cứ địch... Vì vậy, lực lượng bảo vệ các cơ quan, căn cứ kho tàng, doanh trại này của địch trong thành phố rất đông. Một số tiểu đoàn, đại đội quân Mỹ, lực lượng tổng dự bị ngụy ở Sài Gòn được chúng bố trí ở sân bay Tân Sơn Nhất và các trại Đống Đa, Hoàng Hoa Thám, Trần Hưng Đạo... khi cần có thể tung đi ứng cứu các nơi.

Với lực lượng phòng thủ của địch mạnh như vậy, để thắng được chúng trong Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, ngoài việc thực hiện các đòn nghi binh đánh lạc hướng, thu hút bớt lực lượng địch sang các mặt trận khác, Trung ương Cục và Bộ chỉ huy Miền đã đề ra một phương án tiến công và nổi dậy táo bạo. Đó là việc dùng toàn bộ lực lượng của Đoàn F100 (được chia thành các đội) và biệt động các cánh bất ngờ đánh chiếm chín mục tiêu, làm tê liệt sức kháng cự của địch trong một thời gian ngắn, chờ các tiểu đoàn mũi nhọn (thuộc các phân khu) và lực lượng thanh niên, sinh viên đến tiếp ứng, mở rộng phạm vi kiểm soát, phát động nhân dân vùng dậy khởi nghĩa. Trong lúc đó, các sư đoàn, trung đoàn chủ lực chặn đánh địch ở vòng ngoài nhằm kìm chân, không cho chúng vào cứu nguy cho nội đô và sẵn sàng tiến công vào thành phố khi cần thiết.

Theo kế hoạch, hiệu lệnh tổng tiến công ở Sài Gòn - Gia Định là loạt pháo hoả tiễn ĐKB bắn vào sân bay Tân Sơn Nhất và Bộ chỉ huy MACV lúc giao thừa (đêm 29 rạng ngày 30-1-1968 ), song phải đến 2 giờ sáng mùng 1 Tết Mậu Thân (tức 30-1-1968 - theo lịch miền Nam), cuộc tổng tiến công và nổi dậy ở trọng điểm Sài Gòn - Gia Định mới bắt đầu.

Tại khu vực Bộ Tổng tham mưu ngụy và sân bay Tân Sơn Nhất, cụm biệt động 2 (gồm các đội 6, 7, 9) do đồng chí Đỗ Tấn Phong chỉ huy đánh vào cổng 5 Bộ Tổng tham mưu và cổng Phi Long (sân bay Tân Sơn Nhất). Sau ít phút tiến công, ta chiếm được cả hai cổng. Song, lực lượng ta ít, Tiểu đoàn 267 (phân khu 2) và Trung đoàn 16 (Phân khu 1) không đến kịp như dự kiến, địch phản kích quyết liệt, bộ đội ta không lọt được vào bên trong. Sau gần một ngày, dựa vào các toà nhà dọc phố Trương Quốc Dung, cán bộ, chiến sĩ ta kiên cường đánh địch, loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên, bắn cháy hai xe bọc thép, đến 14 giờ ngày 30-1-1968, bị tổn thất và hết đạn, ta buộc phải rút lui.

Tại Đài phát thanh Sài Gòn, Đội biệt động số 4 (cụm 1) do đồng chí Nguyễn Văn Tăng chỉ huy, sau ba phút chiến đấu đã chiếm được đài, loại khỏi vòng chiến đấu một trung đội cảnh sát dã chiến bảo vệ. Nhưng nhân viên kỹ thuật và bộ phận chính trị phụ trách phát thanh của ta bị địch ngăn chặn ở Phú Thọ Hoà không đến kịp nên ý đồ sử dụng Đài phát thanh làm công cụ tuyên truyền, gây tiếng vang dư luận không thực hiện được. Nhận rõ vị trí quan trọng của Đài phát thanh, ngay sau khi đài bị mất, địch đã dùng cả trực thăng vũ trang, xe tăng yểm trợ nhanh chóng tổ chức lực lượng phản kích. Chỉ 15 phút sau khi ta nổ súng, chúng đã hình thành thế bao vây toàn khu vực. Tiểu đoàn 3 Dĩ An (Phân khu 5) không đến chi viện kịp như đã hiệp đồng. Cuộc chiến diễn ra không cân sức. Sau ba ngày chiến đấu quyết liệt ta phá hỏng một góc Đài phát thanh. Lực lượng biệt động của ta thương vong gần hết (chỉ còn hai nữ đồng chí phục vụ viên).


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Tư, 2010, 09:42:27 pm

Ở Toà đại sứ Mỹ, lúc 2 giờ 30 phút ngày 30-1-1968, 17 chiến sĩ Đội biệt động số 11 do đồng chí Ngô Thành Vân (Ba Đen) chỉ huy dùng xe du lịch có hoả lực B40 yểm trợ đột nhập thẳng cổng Toà đại sứ. Sau khi diệt hai quân cảnh Mỹ gác ở cổng, ta dùng thuốc nổ phá huỷ tường tiến đánh vào bên trong, chiếm gần hết tầng 1 phát triển lên tầng 2 và 3 Toà đại sứ. Một nhiệm vụ quan trọng đặt ra cho các chiến sĩ đánh Đại sứ quán Mỹ là phải bắt sống Đại sứ Bâncơ (Bunker). Vì vậy, Ba Đen đã tổ chức lục soát khắp các phòng, nhưng các nhân viên an ninh sứ quán Mỹ đã lén đưa được Bâncơ rời khỏi biệt thự của y bằng một chiếc xe bọc thép sang ẩn nấp trong một hầm bí mật ở một địa điểm khác. Cùng lúc đó, đạn súng cối và tiểu liên của ta bắn vào các biệt thự dùng để tiếp quan chức và nhân vật quan trọng Mỹ. Địch phản kích quyết liệt. Chỉ 20 phút sau khi ta đánh Đại sứ quán, một toán quân cảnh Mỹ đến cứu viện, nhưng bị ta bắn chặn, địch không vào được cổng chính. 7 giờ sáng ngày 30-1-1968, một trung đội quân cảnh Mỹ lọt được vào cổng chính. Cuộc chiến đấu giữa ta và địch trong sứ quán diễn ra quyết liệt. Chúng nhiều lần dùng máy bay lên thẳng đổ quân xuống nóc Toà đại sứ Mỹ. Chiếc trực thăng đầu tiên bị ta bắn mãnh liệt đã không đổ quân xuống được khi trời chưa sáng.

9 giờ sáng ngày 30-1-1968, địch đổ được một bộ phận lực lượng Sư đoàn dù 101 xuống sân thượng Toà đại sứ. Các chiến sĩ Đội 11 dũng cảm chiến đấu đến viên đạn cuối cùng. Toàn đội bị thương vong và bị bắt. Lực lượng tăng viện của ta không đến được như đã hiệp đồng. Trận đánh Toà đại sứ Mỹ kết thúc.

Việc ta đánh chiếm và trụ lại trong Toà đại sứ Mỹ tới hơn sáu giờ đồng hồ đã gây một tiếng vang lớn, làm chấn động nước Mỹ. Tất cả các cấp chỉ huy quân sự, ngoại giao ở Sài Gòn và cả nước Mỹ bàng hoàng, sửng sốt. 9 giờ 30 phút sáng ngày 30-1-1968, Oétmolen có mặt ở Đại sứ quán chứng kiến “khu sứ quán thật là hỗn độn, xác người Mỹ và người Việt Nam vẫn nằm ngổn ngang. Nhưng không giống như hầu hết các chiến trường, các nhà báo, các nhà quay phim vô tuyến truyền hình Mỹ hình như có mặt khắp mọi nơi. Nét mặt họ ánh lên nỗi buồn bực và tâm trạng không tin tưởng như thể sự tận cùng của thế giới đã đến nơi rồi”1. Oétmolen báo cáo với Giônxơn rằng, Mỹ đã làm chủ tình hình. Tổng thống Mỹ nói chua chát: “Việt cộng đã đi dạo mát trong sứ quán của ta rồi”.

Tại Bộ Tư lệnh Hải quân, 16 chiến sĩ Đội biệt động số 3 (Cụm 1) do đồng chí Trần Văn Lém (Bảy Lốp) chỉ huy dùng hai xe du lịch đưa lực lượng ta đến trước mục tiêu lúc 2 giờ 50 phút ngày 30-1-1968. Sau khi diệt hai lính gác ở đầu cầu Cửu Long, ta đánh bộc phá mở cửa. Một tiếng nổ long trời, lở đất, vách tường bị khoét một lỗ thủng lớn. Ta đột nhập vào bên trong nhưng bị hoả lực địch ngăn chặn mạnh, không phát triển được. Các chiến sĩ ta anh dũng chiến đấu cho đến khi hy sinh gần hết, chỉ còn hai đồng chí về được căn cứ và Phân khu 4.

Tại Dinh Độc lập, 18 chiến sĩ Đội biệt động số 5 (Cụm 1) do đồng chí Trương Hoàng Thanh chỉ huy tiến công vào dinh từ cổng bên đường Nguyễn Du. Ta dùng ba xe hơi loại nhỏ (trong đó có một xe chở chất nổ để phá mục tiêu). Đến gần dinh, lính gác phát hiện bắt phải dừng xe, các chiến sĩ ta lập tức nổ súng diệt lính gác và dùng bộc phá để phá cổng cho xe chở chất nổ vào trong. Nhưng bộc phá không nổ, chỉ có tổ đột phá lọt được vào bên trong. Địch từ ngôi nhà án ngữ bên trái bắn ra xối xả, ba đồng chí của ta bị thương. Số còn lại chiến đấu quyết liệt với lực lượng bảo vệ của địch.

Gần sáng, bộ binh địch được xe tăng, xe bọc thép yểm trợ đến tăng viện. Lực lượng ta phải lui ra chiến đấu ngoài khu vực cổng chờ bộ phận tăng cường theo hiệp đồng. Chờ mãi không thấy, các chiến sĩ Đội 5 buộc phải lùi lên cao ốc 56 Thủ Khoa Huân cố thủ. Địch dùng thang cứu hoả trèo vào các tầng lầu, cố đẩy ta ra khỏi cao ốc. Cuộc chiến đấu giữa ta và địch diễn ra vô cùng ác liệt. Đồng chí Lê Tấn Quốc hy sinh, đội trưởng Trương Hoàng Thanh bị bắt. Số còn lại kiên cường đánh trả địch đến viên đạn cuối cùng rồi theo các tầng lầu, nóc nhà, ra đến số 8 Gia Long thì bị bắt. Trận đánh kết thúc lúc 17 giờ ngày 30-1-1968.

Tại các khu vực Biệt khu Thủ đô, Tổng nha cảnh sát, Khám Chí Hoà, do các đội biệt động 1, 2, 8 thuộc Cụm 3 và Đội 90C bị địch cản trở ngay từ lúc xuất phát hành quân nên không đến được mục tiêu như đã định.

Như vậy ở nội thành Sài Gòn, lực lượng biệt động thuộc Phân khu 6 trong ngày mùng 1 Tết Mậu Thân 1968 (theo lịch miền Nam - tức 30-1-1968 ) đã tiến công 6/9 mục tiêu chủ yếu. Mặc dù chiến đấu rất dũng cảm, song lực lượng địch mạnh, các chiến sĩ đặc công, biệt động của ta chiến đấu đơn độc, các lực lượng tăng cường không đến kịp theo kế hoạch, nên ta chỉ chiếm được Đài phát thanh và Toà đại sứ, giữ trong thời gian ngắn, các mục tiêu khác ta không vào được bên trong. Đa số các đội biệt động tham gia tác chiến bị tổn thất nặng.
_______________________________________
1. Oétmolen: Một quân nhân tường trình, Sđd, tr. 177.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Tư, 2010, 09:43:17 pm

Ở các quận nội thành, phối hợp với lực lượng biệt động của phân khu, các đội vũ trang, bán vũ trang của các ngành, các giới tổ chức đánh địch tại chỗ và phát động quần chúng nổi dậy giành quyền làm chủ ở một số khu vực.

Đội vũ trang thanh niên thuộc Thành đoàn Sài Gòn - Gia Định chiếm giữ khu vực Bàn Cờ (quận 3) trong 10 ngày.

Đơn vị nữ biệt động nội thành Sài Gòn (một trung đội) hoạt động ở khu vực Gò Vấp, quận 6 diệt nhiều ác ôn, phá huỷ một số phương tiện vận tải của địch (ở trại Lê Lợi), chị em còn vận động nhiều tân binh địch (ở trại số 3) đào rã ngũ.

Lực lượng vũ trang của Hội Phụ nữ giải phóng thành phố vừa đánh địch, vừa vận động quần chúng xuống đường trừng trị ác ôn, làm chủ nhiều khu phố...

Đội vũ trang thuộc tổ chức Hoa vận hoạt động trên địa bàn quận 5, quận 6 dùng súng ngắn, mìn, lựu đạn đánh bốt Bà Hoà, Ngô Quyền và đánh địch trên đường phố, diệt hàng trăm cảnh sát, trong đó có tên quận phó. Trong lúc đó, ở các vùng ven đô và lân cận, các tiểu đoàn mũi nhọn thuộc các phân khu cũng hoạt động tích cực.

Trên hướng bắc và tây bắc (Phân khu I), Tiểu đoàn 1 Quyết thắng và Tiểu đoàn 4 đặc công Gia Định (thuộc Trung đoàn Quyết thắng) tiến công trại Phù Đổng (căn cứ thiết giáp của địch) và trại Cổ Loa (căn cứ pháo binh). Ở trại Phù Đổng, địch phản ứng yếu ớt, ta nhanh chóng chiếm Bộ chỉ huy thiết giáp sau đó phát triển tiến công kho quân cụ, căn cứ 50 truyền tin... Ở căn cứ pháo binh Cổ Loa, sau 30 phút chiến đấu ta làm chủ mục tiêu, phá huỷ nhiều khẩu pháo, diệt nhiều địch. Hai tiểu đoàn thuỷ quân lục chiến (thuộc Chiến đoàn B) đến giải toả, nhưng đến trưa ngày 30-1-1968, ta vẫn làm chủ tình hình và tiếp tục phát triển tiến công ở khu vực ngã năm Hoà Bình, ngã ba Cây Thị, chợ Bàn Cờ. Địch điều thêm quân đến tăng viện. Cuộc chiến đấu giữa ta và địch diễn ra quyết liệt. Đến 10 giờ ngày 31-1-1968 địch chiếm lại được trại.

Cùng trên hướng này, Tiểu đoàn 2 Gò Môn được giao nhiệm vụ đánh chiếm cổng 4 Bộ Tổng tham mưu, song trên đường tiếp cận mục tiêu, đơn vị đi lạc. 4 giờ sáng 30-1-1968, đơn vị mới đến vị trí triển khai đội hình tiến công. 7 giờ sáng ngày 30-1, trận đánh vào cổng 4 mới bắt đầu. Trong điều kiện địch đông hơn, yếu tố bất ngờ không còn nữa, song tiểu đoàn vẫn tiến công được vào trong, chiếm kho đạn và Trường sinh ngữ quân đội ngụy. Trong ngày 30 và 31-1-1968, địch tăng cường đến khu vực này hai tiểu đoàn dù thuộc lực lượng tổng trù bị (tiểu đoàn 6 và 8 ). Dựa vào công sự cũ phía trong hàng rào, Tiểu đoàn 2 Gò Môn đánh bật được các mũi phản kích của địch. Đơn vị trụ lại đến hết ngày 31-1. Tối 1-2, biết không trụ lại được, tiểu đoàn tổ chức lui quân. Tiểu đoàn có trên 500 người, trên đường rút bị thương vong nặng, về đến căn cứ quân số chỉ còn 28 đồng chí.

Hướng tây - tây nam (Phân khu 2), Tiểu đoàn 16 và Tiểu đoàn đặc công 12 tiến công sân bay Tân Sơn Nhất.

Theo hiệp đồng, 2 giờ ngày 30-1-1968, lực lượng thuộc Phân khu 2 đánh vào phía tây sân bay hiệp đồng với Trung đoàn 16 thuộc Phân khu,1 đánh sân bay từ phía bắc. Song quá giờ quy định 15 phút, Trung đoàn 16 vẫn chưa đến được mục tiêu. Ban chỉ huy cánh 1 của Phân khu 2 quyết định nổ súng. Ta chiếm được hai lô cốt án ngữ bên ngoài sân bay và thọc sâu vào chỉ còn cách đường băng khoảng 400m thì hai xe tăng M.48 và Tiểu đoàn 8 quân dù ngụy phản kích. Bộ đội ta phải lui ra khu vực Hãng dệt Vinatexco và cầu Tham Lương trụ bám đánh quân phản kích đến hết ngày 30-1-1968. Trong khi đó, Tiểu đoàn 267 có nhiệm vụ tiếp viện cho cụm biệt động 2 đánh cổng 5 Bộ Tổng tham mưu, song đơn vị bị địch chặn lại ở ngã tư Bảy Hiền buộc phải lui ra khu vực cầu Tham Lương cùng Tiểu đoàn 16 và Tiểu đoàn đặc công 12 đánh địch phản kích.

Cũng trên hướng này, ở phía tây nam, Tiểu đoàn 6 Bình Tân có nhiệm vụ thọc sâu, tiếp sức cho cụm biệt động số 3 đánh Biệt khu Thủ đô, song cũng bị địch ngăn chặn suốt tám giờ không đến được mục tiêu. Đơn vị phải chia làm nhiều mũi đánh chiếm Trại cảnh sát ngụy ở Trường đua Phú Thọ rồi phát triển theo đường Trần Quốc Toản, Bà Hạt, Nguyễn Lâm, Nguyễn Kim, Nguyễn Tri Phương... Tiểu đoàn 8 biệt động quân ngụy từ Nhà Bè kéo về giải toả. Tiểu đoàn 6 Bình Tân chiến đấu quyết liệt ở khu vực Trường đua đến hết ngày 30-1 và bị nhiều thương vong. Đêm 31-1, Tiểu đoàn 6 phải rút về căn cứ.

Hướng nam (Phân khu 3), các tiểu đoàn mũi nhọn thuộc phân khu chia làm ba cánh tiến vào Sài Gòn. Cánh 1 có Tiểu đoàn 2 Long An đánh vào Phú Định, Lò Gốm, Hãng rượu Bình Tây diệt địch ở đây rồi phát triển theo đường Hậu Giang, Tháp Mười đến Chợ Thiếc.

Cánh 2 gồm Tiểu đoàn 1 Long An và Tiểu đoàn 2 Phú Lợi thọc vào quận 8 để phối hợp với cụm biệt động 3 đánh chiếm Tổng nha cảnh sát, song bị địch chặn ở phía bắc cầu Nhị Thiên Đường. Tại đây Tiểu đoàn 1 Long An chiến đấu quyết liệt sau đó tiếp tục đánh địch phản kích ở phường Bến Đá, Hùng Thái, còn Tiểu đoàn 2 Phú Lợi lui ra Đa Phước giữ phía sau đội hình tiến công của Tiểu đoàn 1 Long An.

Cánh 3, Tiểu đoàn 5 Nhà Bè làm nhiệm vụ tiếp ứng cho cụm biệt động 3 đánh Bộ Tư lệnh Hải quân bị địch chặn ở Tân Quy nên phải dừng lại đánh địch ở khu vực này.

Tiểu đoàn 1 (Trung đoàn Đồng Nai) tiến công thị xã Tân An nhưng chỉ đánh được ven thị xã sau đó rút về Hưng Long.

Hướng đông và đông bắc (phân khu 4 và 5): lúc 2 giờ ngày 30-1-1968, Tiểu đoàn 3 Dĩ An đánh chiếm Chi khu cảnh sát Hàng Xanh. Theo kế hoạch, Tiểu đoàn 3 Dĩ An phải đến chi viện cho Đội biệt động 4 (Cụm 1) đánh chiếm Đài phát thanh. Song sau khi đánh chiếm Chi khu cảnh sát Hàng Xanh, địch đưa lực lượng đến giải toả, Tiểu đoàn phải liên tục đánh địch phản kích tại khu vực Hàng Xanh - Cầu Sơn đến 19 giờ ngày 30-1-1968. Trung đoàn Đồng Nai (trừ Tiểu đoàn 1 tăng cường cho Long An - Phân khu 3) có nhiệm vụ phá cầu Bình Lợi, nhưng đại đội công binh của trung đoàn đi lạc không đến được mục tiêu, ý định phá cầu không thực hiện được. Cùng hướng, Tiểu đoàn 4 Thủ Đức (Phân khu 4) tiến công cầu xa lộ và đánh địch phản kích, một tiểu đoàn của Trung đoàn 3 thuộc Sư đoàn 9 (lực lượng tăng cường cho Phân khu 4) tiến công Chi khu Thủ Đức nhưng không dứt điểm được.

Nhìn lại các mũi, các hướng thuộc các phân khu, bộ đội ta tuy chiến đấu dũng cảm, đánh chiếm được một số mục tiêu vòng ngoài, song lực lượng địch trên tuyến phòng thủ vùng ven khá mạnh, vì vậy hầu như các tiểu đoàn mũi nhọn không thực hiện được nhiệm vụ tiếp sức cho lực lượng biệt động trong nội đô đánh chiếm các mục tiêu chủ yếu như đã dự định. Qua quá trình chiến đấu, lực lượng ta bị thương vong, tiêu hao nhiều, có tiểu đoàn chỉ còn 1/5 đến 1/10 quân số.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Tư, 2010, 09:44:23 pm

Ở vòng ngoài, các đơn vị chủ lực Miền đánh vào các sở chỉ huy căn cứ, kho tàng, bàn đạp xuất phát tiến công của địch, ngăn không cho chúng tăng cường lực lượng ứng cứu cho nội thành. Đêm 29 rạng ngày 30-1-1968, cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 5 cùng đặc công Miền và lực lượng vũ trang địa phương tiến công sân bay Biên Hoà, kho Long Bình, Bộ chỉ huy dã chiến 2 Mỹ, Bộ Tư lệnh Quân đoàn III ngụy. Sư đoàn 9 chủ lực Miền đánh Trường võ khoa Thủ Đức, diệt một số bốt ở Củ Chi, tiêu hao và giam chân Lữ đoàn 1 (Sư đoàn 25 bộ binh Mỹ). Sư đoàn 7 Quân giải phóng tiến công Sở chỉ huy Sư đoàn 25 ngụy tại Bến Cát, tập kích các cụm quân thuộc Sư đoàn bộ binh 1 Mỹ.

Tại các huyện ngoại thành, nhân dân và lực lượng vũ trang địa phương vừa dốc sức phục vụ tổng tiến công, vừa trực tiếp phối hợp với nội thành đánh địch.

Tiểu đoàn 7 bộ đội địa phương huyện Củ Chi cùng du kích tiến công Chi khu Củ Chi, Chi khu Phú Hoà, bắt sống tên chỉ huy phó chi khu và nhiều tay chân đắc lực của Mỹ. Nhiều đồn địch bị ta diệt hoặc bức hàng, tạo điều kiện cho nhân dân nổi dậy giành quyền làm chủ.

Ở Gò Vấp và Hóc Môn, lực lượng vũ trang cùng nhân dân diệt các đồn An Phú Đông, Tân Thới Hiệp, Nhị Bình, Đông Thạnh, Vàm Thuật..., đánh chiếm và làm chủ quận lỵ Hóc Môn suốt ba ngày liền.

Các huyện Tân Bình, Bình Chánh, Duyên Hải... tranh thủ thời cơ địch tập trung ứng cứu trong nội đô, các lực lượng vũ trang địa phương vừa đánh địch, vừa phát loa kêu gọi binh lính địch trở về với nhân dân. Nhờ vậy, nhiều đồn ta lấy được không tốn một viên đạn...

Huế - trọng điểm thứ hai của Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968. Đây là thành phố lớn thứ ba của miền Nam (sau Sài Gòn và Đà Nẵng). Lực lượng địch ở đây khá mạnh. Toàn mặt trận Huế có khoảng 25.000 đến 30.000 quân (nòng cốt là Sư đoàn 1 bộ binh).

Phía bắc thành phố (khu tả ngạn), Sư đoàn 1 bộ binh ngụy đặt Sở chỉ huy tại đồn Mang Cá với khoảng 700 tên thuộc cơ quan sư đoàn bộ và các đại đội bảo vệ, đại đội quân y, đại đội chiến tranh tâm lý...

Sân bay Tây Lộc có khoảng 250 đến 300 tên địch, bao gồm một đại đội vận tải với 40 máy bay lên thẳng và 100 xe các loại, một bộ phận nhân viên kỹ thuật và lính bảo vệ.

Khu Đại Nội có đại đội thám báo ngụy, quân số khoảng 120 tên. Ngoài ra còn có tám trung đội cảnh sát được trang bị tương đối hiện đại đóng rải rác ở các khu phố, làm nhiệm vụ trấn áp quần chúng nhân dân, bốn tiểu đoàn ngụy và hai tiểu đoàn Mỹ đóng ở ngoại thành, làm lực lượng cơ động, sẵn sàng chi viện cho hướng bắc khi cần thiết. Chưa kể lực lượng phòng thủ cứ điểm tập trung ở căn cứ như Đồng Lâm (hai tiểu đoàn kỵ binh không vận Mỹ, một chiến đoàn thiết giáp và một tiểu đoàn pháo), An Lỗ (một tiểu đoàn thuộc Chiến đoàn 2 ngụy và một đại đội pháo), căn cứ Rú Lầu - La Chữ - Từ Hạ (một tiểu đoàn bộ binh, một chi đoàn thiết giáp, một đại đội pháo), căn cứ Sịa (một tiểu đoàn thuộc Chiến đoàn 2 ngụy), Văn Thánh (một tiểu đoàn bộ binh).

Phía nam thành phố (khu hữu ngạn), Sở chỉ huy Tiểu khu Thừa Thiên đặt tại khu Phan Sào Nam. Bốt Cò cũ, có tiểu đoàn bộ của hai tiểu đoàn cảnh sát dã chiến. Các khách sạn Thuận Hoá, Hương Giang là nơi ở của các cố vấn và tình báo Mỹ. Đài rađa được bố trí ở sân vận động Huế. Các Toà khâm sứ cũ, Toà tỉnh trưởng Thừa Thiên, Nhà lao Thừa Phủ, khu cơ quan đại diện Trung phần, khu biệt kích, Trường sắc tộc, các kho, xưởng... đều có lực lượng bảo an canh giữ rất cẩn mật. Lực lượng cơ động của địch ở hướng này có sáu tiểu đoàn (hai tiểu đoàn Mỹ, bốn tiểu đoàn ngụy). Căn cứ lớn Phú Bài có hai tiểu đoàn bộ binh Mỹ, một tiểu đoàn pháo hỗn hợp và một chi đoàn xe tăng. Ở đây còn có sân bay dùng cho máy bay vận tải lên, xuống vận chuyển vật chất và binh lính, Trung tâm huấn luyện lính mới Đống Đa, thường xuyên có hai tiểu đoàn trở lên; Tam Thai - hậu cứ trung đoàn bộ Trung đoàn 7 thiết giáp ngụy, thường xuyên có từ hai chi đoàn xe tăng sẵn sàng cơ động chiến đấu; Phước Quả - Phú Cam, hang ổ của bọn đầu sỏ trong bộ phận Công giáo phản động, có lực lượng biệt kích bảo vệ.

Hướng phối hợp liên quan: nam Quảng Trị, địch bố trí hai tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ Mỹ, Trung đoàn 1 (Sư đoàn bộ binh 1 ngụy), hai chi đoàn thiết giáp và hai tiểu đoàn pháo cùng lực lượng bảo an, cảnh sát, dân vệ (tổng cộng khoảng 10.000 tên). Phú Lộc (nam Thừa Thiên) có một tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ Mỹ cùng lực lượng bảo an, dân vệ.

2 giờ 33 phút ngày 30-1-1968, pháo binh Quân giải phóng đồng loạt bắn phá các mục tiêu địch ở khu Tam giác, khu Phan Sào Nam, Phú Bài, Động Toàn, Đông Ba, mở đầu cho tổng tiến công vào Nội đô Huế. Sau loạt pháo mở màn, lực lượng ta trên hai hướng cùng lúc đánh vào 40 mục tiêu địch trong và ngoại thành Huế.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Tư, 2010, 09:45:12 pm

Đại đội 1 (Tiểu đoàn 12 đặc công) và Đại đội 2 (Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 6) đánh vào Mang Cá. Do không nắm chắc địa hình, các đơn vị phải dùng sức mạnh để đột phá vào cổng chính. Ngay từ phút đầu, bốn chiến sĩ của ta lọt được vào bên trong. Địch trên các nhà tầng bắn trả quyết liệt. Xe tăng địch tiến ra bịt cổng. Cả bốn chiến sĩ đều hy sinh. Ta dùng B40 đẩy lui xe tăng địch. Sau đó 14 chiến sĩ đặc công và 12 chiến sĩ bộ binh xung phong vào căn cứ chiếm được khu nhà đại đội quân y, đại đội chiến tranh tâm lý. Xe tăng địch phản kích giành giật với ta, cố bịt cho được cửa mở. Lực lượng ta từ phía sau lên tiếp viện không vượt qua được hoả lực rất mạnh của địch. Trận đánh ác liệt kéo dài, thương vong mỗi lúc một tăng. Đến 11 giờ trưa, toàn bộ lực lượng ta phải rút ra. Trận đánh vào Mang Cá chấm dứt.

Trong lúc Đại đội 1 (Tiểu đoàn 12 đặc công) và Đại đội 2 (Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 6) đánh Mang Cá thì Đại đội 2 (Tiểu đoàn 12 đặc công) phối hợp với Đại đội 1 (Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 6) đánh chiếm sân bay Tây Lộc. Được cơ sở bên trong hỗ trợ, một bộ phận đánh sân bay bí mật đột nhập qua cổng Thuỷ Quan, nhanh chóng theo sông Ngự Hà vào chiếm góc tây nam sân bay (gồm khu nhà lính bảo vệ và một phần khu vực để máy bay), phá hỏng 20 máy bay và một số xe quân sự. Bộ phận khác đánh qua cửa Chánh Tây vào phía tây bắc sân bay, chiếm khu thông tin, kho đạn. Địch phản kích, ta không trụ lại được, đến 20 giờ cùng ngày phải rút khỏi sân bay. Đêm 30 rạng ngày 31-1-1968, ta dùng lực lượng Tiểu đoàn 1 (Trung đoàn 6) đánh sân bay lần thứ hai. Đến 5 giờ ngày 31-1, ta chiếm toàn bộ sân bay. Song định từ Mang Cá ra phản kích chiếm lại. Tính chung cả hai đợt, ta phá hỏng 40 máy bay, 100 xe, đốt 1 kho đạn, 1 kho xăng.

Tại khu Đại Nội, Cột Cờ, 2 giờ 40 phút ngày 30-1-1968, Đại đội 4 đột phá cửa Hữu, dùng một mũi thọc sâu nhanh chóng chiếm khu Cột Cờ lúc 4 giờ 30 phút. Còn lại đại bộ phận của Đại đội 4 cùng Đại đội 3 theo đường Yết Kiêu, Lê Huân đánh vào khu Đại Nội. Đến 5 giờ sáng ta chiếm toàn bộ khu Đại Nội, diệt một đại đội thám báo và 130 tên cảnh sát ngụy, bắt 26 tên. 8 giờ sáng, lá cờ của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được kéo lên trên cột cờ báo hiệu ta đã làm chủ trung tâm thành phố Huế. Đến ngày 1-2, phần lớn Huế đã nằm trong tay lực lượng cách mạng, 90% dân chúng thành Huế đã giành được quyền làm chủ.

Phối hợp với các đòn đánh vào các mục tiêu chủ yếu như Mang Cá, sân bay Tây Lộc, khu Cột Cờ - Đại Nội, các lực lượng biệt động, đội công tác du kích, tự vệ mật cùng quần chúng cách mạng tiến công và nổi dậy làm chủ khu phố Gia Hội. Đây là khu phố đông dân ở phía đông nam thành phố bị địch kìm kẹp gắt gao. Ta đánh chiếm và giữ khu phố này trong nhiều ngày thể hiện sự thành công trong việc phát động quần chúng nổi dậy. Và, có ý nghĩa lớn là tạo thuận lợi cho cánh Bắc và cả thành phố Huế trụ lại đánh địch lâu dài.

Cùng với thành nội, các khu phố khác thuộc cánh Bắc lực lượng vũ trang và nhân dân cũng tiến công và nổi dậy giành quyền làm chủ.

3 giờ ngày 30-1, Tiểu đoàn 806 đánh chiếm khu vực An Hoà, Đốc Sơ, diệt và bắt toàn bộ địch ở đây, sau đó phát động quần chúng nổi dậy truy lùng ác ôn và tổ chức lực lượng sẵn sàng đánh địch phản kích.

Cùng thời gian, Tiểu đoàn 816 (Trung đoàn 9) phối thuộc tiến công địch ở các làng La Chữ, Quế Chữ, Bồn Trì, Bồn Phổ, diệt một đại đội chủ lực ngụy và nhiều ác ôn, dân vệ. Ta còn dùng súng cối bắn kiềm chế căn cứ pháo địch ở Từ Hạ và sân bay lên thẳng ở Liễu Cốc Thượng.

Tại huyện Hương Trà, lực lượng vũ trang địa phương cùng đông đảo quần chúng cách mạng nổi dậy đánh địch làm chủ nhiều vùng. Chính quyền cách mạng ở nhiều thôn xã được thành lập. Đây là thời kỳ phong trào cách mạng phát triển cao nhất trong vòng 20 năm nay ở huyện.

Trước đà tiến công và nổi dậy mạnh mẽ của lực lượng vũ trang và quần chúng cách mạng cả trong và ngoài thành phố thuộc cánh Bắc, địch phải rút bỏ một số đồn để tăng cường cho các vị trí khác; đồng thời chúng điều động quân ở các nơi về để giữ thành phố không bị rơi vào tay “cộng sản”.

Từ 8 giờ sáng ngày 31-1-1968, Tiểu đoàn 7 dù ngụy cùng với Chi đoàn 3 (Trung đoàn 7 thiết giáp) từ An Lỗ theo đường số 1 vào giải toả cho Huế. Song chúng bị Trung đoàn 6 đánh thiệt hại nặng, năm xe M113 bị phá huỷ, ba chiếc khác bị bát giữ.

Ngày 1-2-1968, Tiểu đoàn 3 ngụy ở Bồn Trì, Bồn Phổ cũng được điều vào trọng điểm Huế.

Ngày 2-2, địch tăng cường vào Mang Cá, Tây Lộc thêm hai tiểu đoàn dù 1 và 2.

Ngày 3-2, một tiểu đoàn kỵ binh không vận Mỹ từ Đồng Lâm vào Liễu Cốc Thượng để phản kích đẩy ta ra khỏi La Chữ, Quế Chữ.

Lúc này, mặt trận Huế được tăng cường thêm Trung đoàn 8. Có thêm lực lượng, ta tổ chức đánh địch phản kích, đẩy lùi và ngăn chặn lính kỵ binh không vận Mỹ vào An Hoà.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Tư, 2010, 09:46:19 pm

Sau mấy ngày công kích và khởi nghĩa trên cánh Bắc, ta chuyển hẳn sang đánh địch phản kích.

Ở cánh Nam, đường hành quân tiếp cận mục tiêu xa, các mục tiêu lại phân tán trên nhiều ngả, nhiều hướng. Trên đường đi, bộ đội ta bị địch phục kích, ngăn chặn, vì thế các mũi không thể nổ súng tiến công cùng lúc vào các mục tiêu. Mặc dù vậy, bộ đội ta cũng tiến công diệt được nhiều mục tiêu trọng yếu như Tiểu khu Thừa Thiên, Khách sạn Thuận Hoá, Trung đoàn 7 thiết giáp ngụy ở Tam Thai, tiểu đoàn công binh địch ở Nam Giao...

Tại Tiểu khu Thừa Thiên, sau tiếng súng lệnh ĐKB, Đội 2 (Tiểu đoàn 2 đặc công) đột nhập và nhanh chóng chiếm giữ mục tiêu sau đó phát triển tiến công Khách sạn Hương Giang và trạm rađa Mỹ.

Cùng lúc, Đội 1 (Tiểu đoàn 2) đánh vào Khách sạn Thuận Hoá. Đây là mục tiêu quan trọng nhất trong khu Tam giác vì nó là nơi đặt Sở chỉ huy của phái đoàn MACV và là nơi ở của cố vấn Mỹ. Địch phòng thủ kiên cố và chống trả quyết liệt. Ta đưa lực lượng dự bị vào tiến công, nhưng không diệt gọn được địch. 4 giờ ngày 30-1-1968, Đội 1 buộc phải rút ra cùng Đội 2 về vùng ngoại ô Vân Dương củng cố.

Đội 3 (Tiểu đoàn 2 đặc công) có nhiệm vụ phối hợp với biệt động thành đánh chiếm chợ An Cựu. Sau khi đã diệt gọn hai đoàn bình định tại đây, Đội 3 phát triển đánh địch ở cầu Kho Rèn, diệt một số cảnh sát, ác ôn, phá huỷ 23 xe M113. Lúc này, Đại đội 3 (Tiểu đoàn 804) được giao nhiệm vụ đánh diệt mục tiêu Sở chỉ huy cảnh sát dã chiến ở bốt Cò cũng vừa đến cầu Kho Rèn (vì đi lạc). Hai đơn vị này phối hợp tiến công mục tiêu Sở chỉ huy cảnh sát, đến 9 giờ, ta hoàn toàn làm chủ trận địa.

13 giờ ngày 30-1-1968, một đại đội bộ binh cùng bốn xe tăng địch từ trại Lê Lợi ra phản kích hòng chiếm lại bốt Cò cũ. Đại đội 3 cùng Đội 3 dũng cảm chiến đấu diệt một số địch. Sau do lực lượng ta ít, buộc phải lui về ngã tư Lý Thường Kiệt - Đống Đa trụ lại. Trong lúc đó Đại đội 1 và Đại đội 2 (Tiểu đoàn 804) tiếp cận được mục tiêu thì trời đã sáng. Đại đội 2 phải quay ra chờ đến đêm 31-1 mới tiến công mục tiêu được phân công (trại Lê Lợi) còn Đại đội 1 đánh chiếm ngã sáu, Sở Bưu điện, Ty Ngân khố, sau đó phát triển đánh chiếm Đài phát thanh, đầu cầu Tràng Tiền (ở phía nam), song cũng không trụ lại được lâu. Đến ngày 1-2, toàn Tiểu đoàn 804 phải bật ra tuyến sông An Cựu đánh địch phản kích.

Cũng như Tiểu đoàn 804, Tiểu đoàn 815 bị địch phục kích, ngăn chặn nên không tiếp cận được các mục tiêu trong đêm như dự kiến.

Sáng 30-1, Đại đội 2 (Tiểu đoàn 815) mới vượt được qua cầu Bến Ngự đánh chiếm Trường Quốc học Huế, Trường Đồng Khánh và Toà tỉnh trưởng (lúc 7 giờ sáng). Sau đó đại đội phát triển tiến công Nhà lao Thừa Phủ, giải phóng 2.200 tù chính trị. Trong số này, gần một nửa (1.000 người) được bổ sung kịp thời cho các đơn vị, làm tăng thêm sức chiến đấu.

Đại đội 3 (Tiểu đoàn 815) cũng sáng 30-1 mới đến cầu Nam Giao cùng với Đại đội 6 - Tiểu đoàn 818 (lực lượng dự bị của cánh Nam) đánh địch chiếm Trường sắc tộc (huấn luyện cho người Thượng), Toà đại diện “Chính phủ cao nguyên Trung phần”. Cùng thời gian này, Đại đội 1 (Tiểu đoàn 815) tiến công tiểu đoàn công binh địch ở Bồ Ghè nhưng không thành công.

Đêm 3-2, được tăng cường một khẩu đội ĐKZ 75, một khẩu đội cối 82 mm, Đại đội 1 và Đại đội 3 phối hợp tiến công vào tiểu đoàn công binh ngụy lần thứ hai. Trận đánh kéo dài đến ngày 5-2 không dứt điểm được. Địch tăng cường lực lượng đến phản kích, Tiểu đoàn 815 bị địch đánh bật ra khỏi thành phố, phải rút về nam sông An Cựu.

Như vậy, cho đến ngày 7-2-1968, toàn bộ lực lượng đánh vào hữu ngạn thành phố (khu Tam giác) thuộc cánh Nam đều phải rút ra đứng ở vòng cung sông An Cựu và sông Vân Dương ngoại ô thành phố làm nhiệm vụ kiềm chế, bao vây, ngăn chặn địch ở ngoài tiếp viện cho nội đô, tạo điều kiện cho lực lượng ta ở cánh Bắc trụ vững đánh địch trong thành nội.

Cũng như trên cánh Bắc, ngoài lực lượng đánh vào thành phố, ở cánh Nam còn có một bộ phận đánh ở vòng ngoài. Đó là các Tiểu đoàn 1 đặc công, Tiểu đoàn 818, Tiểu đoàn 810 cùng bộ đội các huyện Hương Thuỷ, Phú Vang...

Vào lúc 2 giờ 33 phút ngày 30-1-1968, khi Đội 3 (Tiểu đoàn 2 đặc công) tiến công Tiểu khu Thừa Thiên, thì Tiểu đoàn 1 đặc công (thiếu) được tăng cường bốn khẩu ĐKZ 75, bốn khẩu cối 82 mm và một trung đội thuộc Tiểu đoàn 818 tiến công vào Trung đoàn 7 thiết giáp ngụy ở Tam Thai. Đây là một trong những mục tiêu rất quan trọng bởi thiết giáp là binh chủng chủ yếu có khả năng tiếp ứng, giải vây nhanh. Nếu đánh diệt được trung đoàn này, ta có điều kiện đánh chiếm và trụ bám ở các mục tiêu trọng yếu khác. Với một quyết tâm cao và tinh thần chiến đấu dũng cảm, các chiến sĩ đặc công, bộ binh và pháo cối mang vác đã đánh chiếm gần hết căn cứ Tam Thai, phá hỏng 35 xe tăng, xe thiết giáp, thu một số súng đạn. Địch còn lại cố sức chống trả quyết liệt, trận đánh kéo dài đến ngày 2-2-1968, ta phải rút về Ngũ Tây củng cố.

Cùng thời gian này, Đội 5 (Tiểu đoàn 1 đặc công) được tăng cường một trung đội thuộc Tiểu đoàn 818 tiến công tiểu đoàn công binh địch ở Nam Giao. Chỉ sau 30 phút chiến đấu ta diệt 100 tên, bắt 12 tên, phá 10 xe quân sự. Vì không đủ sức trụ bám, 7 giờ sáng 30-1, ta lại rút ra. Đây cũng là lúc mà Đại đội 8 (Tiểu đoàn 818 ) đánh địch đóng trong khu Nhà thờ Phước Quả. Nhà thờ nằm trên một quả đồi phía nam thành phố. Địch lợi dụng danh nghĩa Công giáo để xây dựng nơi đây thành một tụ điểm ác ôn, một trung tâm huấn luyện biệt kích với những khu nhà kiên cố được bao bọc xung quanh bằng một hệ thống hàng rào dây thép gai không kém gì những căn cứ quân sự của Mỹ. Lần đầu ta đánh vào Phước Quả không thành. Ngày 1-2, được tăng cường hai khẩu ĐKZ 75, Đại đội 8 (Tiểu đoàn 818 ) tiến công Phước Quả lần thứ hai, diệt toàn bộ bọn phản động ở đây, thu 200 súng. Trong lúc đó Đại đội 6 (Tiểu đoàn 818 ) tiến công đánh chiếm trại Lê Lợi, trại Quang Trung, thu nhiều vũ khí, quân trang quân dụng của địch.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Tư, 2010, 09:54:26 pm

Tại các huyện tiếp giáp trực thuộc cánh Nam, Tiểu đoàn 810 tiến công vào Đại đội 3 (Tiểu đoàn 4, Trung đoàn 3) ngụy ở Dưỡng Mông, diệt 45 tên, sau đó phát triển tiến công diệt tiểu đoàn bộ Tiểu đoàn 4 ở Tam Đông và số địch còn lại ở Đồng Di.

Ngày 2-2, Tiểu đoàn 810 cùng đặc công đánh trạm rađa Mỹ, Nhà lao Thẩm Vấn...

Để hỗ trợ cho lực lượng ta đánh địch trong thành phố, Ban chỉ huy cánh Nam quyết định dùng hoả lực tập kích địch ở Phú Bài (nơi có lực lượng pháo binh Mỹ đóng giữ) và Động Toàn (nơi có thiết giáp Mỹ) nhằm hạn chế hoả lực ở các căn cứ này chí viện cho thành phố.

Tại các huyện Hương Thuỷ, Phú Vang, bộ đội địa phương huyện, các đội biệt động, đội công tác cùng quần chúng cách mạng tiến công và nổi dậy mạnh mẽ trên nhiều khu vực. Nhiều nơi, chính quyền cách mạng được thiết lập.

Nhìn chung, trong những ngày đầu tổng tiến công và nổi dậy ở thành phố Huế ta đánh chiếm được một số mục tiêu chủ yếu, đồng thời phát động quần chúng nổi dậy giành được chính quyền ở một số nơi. Mặt trận Liên minh dân tộc, dân chủ và hoà bình thành phố ra đời, tiếp đó Uỷ ban nhân dân cách mạng Thừa Thiên - Huế được thành lập. Đó là một thắng lợi hết sức to lớn. Hãng tin Pháp AFP ngày 7-2-1968 đã bình luận: “Sau một đêm đánh nhau, Việt cộng đã kiểm soát 90% dân chúng thành phố Huế. Ngay sáng hôm sau, bộ máy hoạt động và cổ động chính trị của Mặt trận Dân tộc Giải phóng đã bắt tay vào làm việc. Rõ ràng họ có một tổ chức mạnh mẽ trong thành phố này vì họ có thể huy động rất nhiều người ra làm việc cho họ”. Còn Hãng tin Anh Roitơ (cũng ngày 7-2-l968 ) thì ca ngợi : “Sau 5 ngày đánh nhau ác liệt giành giật từng ngôi nhà, quân cộng sản vẫn chiếm hơn một nửa thành phố Huế và quân “chính phủ” tiến dần từng bước một cách vất vả. Các nhà quân sự ở đây cảm thấy rằng quân cộng sản chứng tỏ là họ có thể vào và ra Huế bất cứ khi nào họ muốn. Cho đến nay không có dấu hiệu nào tỏ ra là họ có ý định rút lui”.

Mặc dù vậy, yếu tố bất ngờ mất dần, một số mục tiêu quan trọng như đồn Mang Cá, khách sạn Thuận Hoá, sân bay Tây Lộc... ta chưa dứt điểm được, thế giằng co kéo dài ở một số nơi, chiến đấu liên tục, thương vong nhiều, vật chất bị tiêu hao không kịp bổ sung. Đó là những khó khăn mà quân và dân thành phố Huế phải đối mặt trên chặng đường tiếp theo của tổng tiến công và nổi dậy ở một trong hai hướng trọng điểm này.

Phối hợp với trọng điểm Huế, tại nam Quảng Trị, mặc dù địch bố trí lực lượng phòng thủ khá dày đặc (vì từ 23 đến 31-1-1968 ta đánh mạnh trên Đường 9 nên địch dự kiến sẽ có đánh lớn ở Quảng Trị), 3 giờ sáng ngày 1-2, Tiểu đoàn 1 (Trung đoàn 2) vượt sông Thạch Hãn đánh vào Nhà đèn, Ty Cảnh sát, Toà tỉnh trưởng, trụ sở cơ quan bình định và trụ sở MACV. Tiểu đoàn 814 đánh địch ở Tri Bưu sau đó phát triển sang phường Đệ Tứ. Đến Thành Cổ thì bị Trung đoàn 1 ngụy chặn lại, Tiểu đoàn phải chuyển sang trụ bám bên ngoài đánh địch phản kích suốt ngày 1-2. Tiểu đoàn 6 (Trung đoàn 2) đánh vào La Vang, Tiểu đoàn 10 đặc công đánh điểm cao 49. Đến tối 1-2-1968, các lực lượng tiến công của ta ở nam Quảng Trị đều bị giảm sức chiến đấu phải rút ra vòng ngoài. Trong khí đó, nhân dân Triệu Phong, Hải Lăng, Bến Đá rầm rộ nổi dậy cùng bộ đội địa phương bao vây địch ở trong các quận lỵ, cầu Nhùng, Bến Đá làm chủ đoạn quốc lộ 1 từ Diên Sanh đến Mỹ Chánh.

Ở hướng Phú Lộc (mặt trận phối hợp), đêm 31-1-1968, ta mới tiếp cận được các mục tiêu và nhanh chóng đánh chiếm quận lỵ, cắt đứt quốc lộ 1 đoạn từ Đà Nẵng ra Huế. Đồng thời ta phá sập Cầu Hai, cầu Nước Ngọt, giải phóng khu vực xung yếu ven biển và phía nam Cầu Hai, khu vực Truồi.

Đà Nẵng - một trong những thành phố lớn và là căn cứ liên hợp quân sự đứng vào hàng thứ hai ở miền Nam Việt Nam, là một trong bốn hướng tiến công quan trọng nhất của Khu V. Lực lượng địch ở đây mạnh, đặc biệt là quân Mỹ (khoảng tám vạn tên) đóng tập trung ở hai khu liên hợp quân sự lớn Chu Lai và Đà Nẵng. Tại hai khu này, quân Mỹ đóng tới bốn bộ tư lệnh sư đoàn (Sư đoàn bộ binh 2, Sư đoàn Amêricơn, Sư đoàn 1 và Sư đoàn 3 lính thuỷ đánh bộ). Riêng quân ngụy cả chủ lực và địa phương có tới 34.500 tên. Bộ Tư lệnh Quân đoàn I ngụy đóng ở thành phố Đà Nẵng. Ngoài lực lượng Mỹ và ngụy, còn có trên 5.000 lính đánh thuê Nam Triều Tiên (thuộc Sư đoàn lính thuỷ đánh bộ Rồng Xanh). So với ta, lực lượng quân sự địch mạnh hơn nhiều lần. Song, ta có lực lượng chính trị hùng hậu. Toàn thành phố Đà Nẵng có 250 đảng viên và 3.000 cơ sở hoạt động ở khắp các cơ quan, xí nghiệp. Quần chúng nhân dân trong thành phố cũng như các vùng ngoại ô, vùng ven được tập hợp đông đảo, sẵn sàng nhất tề nổi dậy khi có lệnh. Nhằm phát huy thế mạnh này, tỉnh Quảng Đà chủ trương động viên toàn bộ lực lượng quân sự và chính trị, lấy khởi nghĩa của quần chúng là chủ yếu để đánh đổ ngụy quyền.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Tư, 2010, 09:55:22 pm

Đúng 1 giờ ngày 29-1-1968 (30-12 Đinh Mùi), trước Tết Mậu Thân một ngày (theo lịch miền Nam), cùng với các tỉnh đồng bằng trong khu và Tây Nguyên, các trung đoàn pháo 575, 577 bắn phá sân bay Đà Nẵng, sân bay Nước Mặn và một số vị trí địch trong thành phố mở đầu cho cuộc tổng tiến công và nổi dậy. Trong lúc ở nội đô, lực lượng tự vệ, biệt động đánh chiếm một số mục tiêu quân sự địch thì ở phía bắc, Trung đoàn 31 (thiếu) cùng công binh và lực lượng Khu 11 tiến công đồn Nhất, phá sập cầu cống, cắt đường đèo Hải Vân, đánh chiếm thị trấn Nam Ô.

Phía nam thành phố, Tiểu đoàn đặc công 89 cùng lực lượng vũ trang Khu 2 tiến công Sở chỉ huy Trung đoàn 51 ngụy ở Miếu Bông, đánh chiếm Cầu Đỏ và một số vị trí địch ở nam sông Cẩm Lệ mở đường cho quần chúng ở các vùng giải phóng vào tiếp ứng cho nội đô nổi dậy.

Cùng ngày, Đại đội đặc công 25 của tỉnh tập kích điểm cao núi Phước Tường, phá nát trạm rađa và khu thông tin của địch. Tiểu đoàn bộ binh 1 đánh vào Sở chỉ huy Quân đoàn I ngụy. Đây là trận đánh khá điển hình ở Đà Nẵng trong Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968. Từ sớm ngày 29-1-1968, Tiểu đoàn 1 từ vị trí tập kết ở Trung Lương, Cồn Dầu, bí mật luồn sâu vượt sông Cẩm Lệ để vào thành phố. Song lực lượng biệt động ngụy rải theo dọc sông kiểm soát ngăn chặn, Tiểu đoàn 1 không vượt qua được trừ Trung đội 1 (Đại đội 1) và một trung đội bộ đội địa phương Khu 3 đi trước tiếp cận được mục tiêu. Bộ phận này có 57 cán bộ, chiến sĩ được trang bị hoả lực mạnh do đại đội trưởng Chín chỉ huy. Lúc pháo ta bắn vào sân bay Đà Nẵng làm hiệu lệnh tiến công trên toàn mặt trận 4 thì 57 cán bộ, chiến sĩ Trung đội 1 và trung đội bộ đội địa phương cũng tiến công vào Sở chỉ huy Quân đoàn I. Bộ đội ta chiếm giữ được một vài vị trí quan trọng trong sở chỉ huy, song lực lượng ít, bộ phận tiếp ứng không đến kịp, địch phản kích quyết liệt hết đợt này đến đợt khác. Các chiến sĩ ta anh dũng chiến đấu đến viên đạn cuối cùng, diệt hàng trăm tên địch và hy sinh anh dũng ngay trên vị trí chiến đấu. Trận đánh không cân sức của 57 cán bộ, chiến sĩ thuộc Tiểu đoàn 1 và bộ đội địa phương Khu 3 tại Sở chỉ huy Quân đoàn I ngụy thể hiện tinh thần chiến đấu bất khuất, kiên cường, tư tưởng tiến công, ý thức chấp hành kỷ luật cao của quân và dân đất Quảng trong Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968. Sự hy sinh anh dũng của 57 cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 1 mãi mãi là tấm gương sáng về chủ nghĩa anh hùng cách mạng mà quân, dân Quảng Đà cũng như cả nước không bao giờ quên.

Đòn quân sự bên trong yếu, không đánh diệt được các mục tiêu quan trọng, nên không hỗ trợ được cho quần chúng nổi dậy. Trong khi đó, Sư đoàn 2 chủ lực Quân khu V có nhiệm vụ đánh địch ở phía nam thành phố, do nhận được lệnh hoãn ngày nổ súng nên đã lui lại phía sau. Lực lượng quân sự của địch mạnh. Chúng tổ chức chốt chặn các ngả tiến vào Đà Nẵng, đồng thời dùng hoả lực bắn vào lực lượng nổi dậy của quần chúng trên đường từ nông thôn kéo vào thành phố. Không một mũi tiến công nào lọt được vào bên trong. Kế hoạch nổi dậy ở Đà Nẵng không thực hiện được.

Cùng với Đà Nẵng, các tiểu đoàn bộ binh 2, 3 tiến công địch ở thị xã Hội An đánh chiếm khu công binh (Tiểu đoàn 102), Biệt khu và nhiều vị trí quan trọng làm chủ phần lớn thị xã. Song sang ngày 30-1, địch tập trung lực lượng tổ chức phản kích quyết liệt, các lực lượng vũ trang của ta phải rút ra bám đánh địch ở ven thị xã.

Tại các huyện Hoà Vang, Điện Bàn, Duy Xuyên, sau khi lực lượng vũ trang đánh vào quận lỵ, hàng vạn nhân dân tràn vào các thị trấn cùng bộ đội giành chính quyền. Địch ngoan cố bắn vào các đoàn biểu tình làm nhiều cán bộ và đồng bào ta hy sinh. Chị Nguyễn Thị Hồng, Hội phó Hội Phụ nữ Điện Bàn bị địch bắn gãy tay vẫn giương cao cờ Mặt trận kêu gọi mọi người xông lên giành cho được chính quyền. Trúng đạn lần thứ hai, chị ngã xuống, tay vẫn nắm chặt cán cờ.

Cũng như ở thành phố Đà Nẵng và thị xã Hội An, do lực lượng vũ trang của ta mỏng, địch mạnh, các cuộc tiến công quân sự của ta vào các thị trấn, quận lỵ khác yếu không hỗ trợ được cho nổi dậy, nên không nơi nào thành công như dự định. Đây là một bài học không chỉ cho riêng Quảng Đà mà cả Khu V và miền Nam trong Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, khi lực lượng quân sự địch còn mạnh mà ta lại lấy khởi nghĩa của quần chúng làm chính (như kế hoạch tổng tiến công và nổi dậy ở Quảng Nam - Đà Nẵng đã xác định) thì khó giành được thắng lợi trọn vẹn. Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong một bức điện chỉ đạo Đà Nẵng đầu tháng 2-1968, cũng đã nhấn mạnh “Vùng I chiến thuật là trọng điểm tiến công quân sự của ta trong toàn miền Nam. Đà Nẵng là một thành phố quan trọng, đồng thời là một căn cứ liên hợp của Mỹ, cho nên không thể coi nhẹ công kích quân sự được”2.

Nhìn chung, trong những ngày đầu của cuộc tổng tiến công và nổi dậy ở các trọng điểm Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng ta đã đánh chiếm được một số mục tiêu chủ yếu, tiêu hao được một phần lực lượng địch. Nhưng sau đòn choáng váng, bất ngờ, địch định thần lại tổ chức phản kích quyết liệt, gây cho ta nhiều tổn thất.

Trong lúc đó, những trận tiến công của các sư đoàn chủ lực miền Đông và lực lượng vũ trang các huyện ngoại thành có tác dụng kìm chân và phân tán các đơn vị chủ lực cơ động của Mỹ và ngụy, không tăng viện được cho nội thành Sài Gòn - Gia Định. Bộ đội chủ lực của ta không tiến được vào nội đô; đặc công, biệt động và các đơn vị mũi nhọn tác chiến bên trong trở thành đơn độc, lực lượng bị tiêu hao đến 80%, một số đơn vị chiến đấu hy sinh đến người cuối cùng, cơ sở nội thành bộc lộ và tổn thất nặng, lương thực cất giấu bí mật đã hết. Vì thế, các đơn vị chiến đấu trong nội thành được lệnh rút ra vùng ven củng cố. Cuộc tổng tiến công và nổi dậy ở trọng điểm Sài Gòn - Gia Định cao điểm 1 giảm dần và kết thúc, riêng Huế và Khe Sanh thì cuộc chiến đấu vẫn tiếp tục sôi động và quyết liệt.
_______________________________________
1. Chuẩn bị cho đánh vào Đà Nẵng, huyện Hoà Vang có địa bàn bao quanh thành phố được chia thành ba khu: Khu 1 (cánh Bắc), Khu 2 (cánh Trung), Khu 3 (cánh Nam).
2. Phan Hàm: Trong cuộc đối đầu thế kỷ, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1996, tr. 209.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Tư, 2010, 09:56:04 pm

Tại Huế, sau những thắng lợi ban đầu của ta, từ ngày 8-2-1968, địch bắt đầu phản kích dữ dội. Chúng huy động cả lực lượng tổng dự bị từ Sài Gòn ra (Chiến đoàn A thuỷ quân lục chiến ngụy) và từ Vùng I chiến thuật tới. Ngày 11-2, Tiểu đoàn 1 (Trung đoàn 5) thuỷ quân lục chiến Mỹ cũng được tăng cường cho khu Tam giác, đưa tổng số quân địch ở đây lên 16 tiểu đoàn cả Mỹ lẫn ngụy. Tình hình mặt trận Huế diễn biến ngày một phức tạp.

Ở cánh Bắc, từ ngày 9-2 đến ngày 12-2, bộ đội ta phải liên tục đánh địch phản kích. Tối 13-2, Tiểu đoàn 9 (Trung đoàn 8 ) được điều vào tăng cường cho thành nội. Song vì địch đã tăng viện nên so sánh lực lượng, ta vẫn không chiếm được ưu thế. Không còn khả năng tiến công, ta chuyển sang tổ chức phòng ngự, ngăn chặn địch phản kích quyết liệt đồng loạt trên bốn cổng thành (cửa Chánh Tây, cửa Hữu, cửa Thượng Tứ, cửa Đông Ba) và từ quốc lộ 1 vào An Hoà. Khó khăn của ta ngày một tăng, đạn thiếu, thương vong nhiều. Trước tình hình này, Khu uỷ và Ban chỉ đạo định cho lực lượng ta rút khỏi thành phố để bảo toàn lực lượng thì đêm 15-2, Quân uỷ ra lệnh: “Phải giữ thành nội vì lợi ích của toàn Miền và của bản thân Trị - Thiên”. Khu uỷ và Ban chỉ đạo xác định quyết tâm trụ vững trong nội đô thêm một tuần nữa.

Ngày 16 và 17-2, địch lại tổ chức phản kích dữ dội và chiếm được cả Đông Ba. Ngày 18-2, địch chiếm cổng Thuỷ Quan, uy hiếp cửa Hữu, cửa An Hoà và cửa Thượng Tứ. Tình hình xấu đi rõ rệt. Ban chỉ đạo quyết định điều Tiểu đoàn 816 (Trung đoàn 9) đang chặn địch ở Bôn Trì, An Lưu vào tăng cường cho Trung đoàn 6 và Trung đoàn 8, điều Tiểu đoàn 810 từ cánh Nam qua khu Gia Hội chặn địch từ cửa Đông Ba lấn ra.

Ở vòng ngoài của cánh Bắc, ngày 13-2, địch từ Liễu Cốc Thượng đánh ra Quế Chữ và từ Rú Lầu đánh Bôn Trì, Bôn Phổ. Ta tổ chức phản kích quyết liệt, dùng hoả lực tập kích mạnh vào đội hình phía sau của địch, đẩy chúng trở lại vị trí xuất phát.

Nhằm tăng cường lực lượng đánh địch phản kích ở vòng ngoài, sau khi Tiểu đoàn 816 được điều vào tăng cường cho thành nội, Tiểu đoàn 815 (Trung đoàn 9) từ cánh Nam được đưa vào thay thế Tiểu đoàn 816.

Đến lúc này, lực lượng ta trong nội đô đã khá đông, song sức chiến đấu giảm sút. Địch đã tăng cường cho khu Mang Cá và Đông Ba một tiểu đoàn thuỷ quân lục chiến Mỹ để cùng lực lượng từ bên ngoài bao vây tiêu diệt quân ta đang giữ phần còn lại ở tả ngạn thành phố. Chúng dùng pháo hạm và máy bay ném bom bắn phá suốt ngày đêm. Một trung đoàn từ Đường 9 về tăng cường cho Huế còn đang trên đường hành quân. Ngày 18-2, Tiểu đoàn 7 và trung đoàn bộ mới về đến vị trí tập kết. Không đủ sức đánh lui được quân địch. Lực lượng ta bị đẩy lùi dần vào trong thành nội.

Ở cánh Nam, trừ một vài bộ phận còn đứng chân được ở khu Tam giác thực hiện đánh nhỏ, kìm chân địch, còn đại đa số lực lượng của Trung đoàn 9, Tiểu đoàn 810, Tiểu đoàn 4 đặc công rút ra đứng ở ven sông An Cựu, Vân Dương.

Từ ngày 10-2-1968, ta liên tục dùng từng mũi nhỏ tập kích, phục kích diệt địch ở khu Tam giác và ở ngã sáu.

Khi hai tiểu đoàn 810 và 815 tăng cường cho cánh Bắc, lực lượng cánh Nam còn lại mỏng, sức tiến công giảm. Chính vào thời điểm này, địch ồ ạt tăng quân lên 23 tiểu đoàn (11 tiểu đoàn trong thành phố, 12 tiểu đoàn ở vòng ngoài) nhằm giải toả cho thành Huế. Sức ép của địch ngày càng tăng. Trong khi đó, hoạt động của ta ở Đường 9 - Khe Sanh cũng như hướng phối hợp nam Quảng Trị, Phú Lộc chưa đủ mạnh để có thể kéo lực lượng địch tới những khu vực đó đối phó.

Khu uỷ và Ban chỉ đạo có ý định rút khỏi Huế vào ngày 20-2, kết thúc cuộc chiến đấu không cân sức để tranh thủ giữ nông thôn. Song theo chỉ đạo của trên, Khu uỷ và Ban chỉ đạo phải tổ chức, điều chỉnh lực lượng tăng cường cho cánh Bắc để vừa tiếp tục chiến đấu đánh địch phản kích giữ nội đô vừa hỗ trợ nông thôn tiếp tục nổi dậy giành quyền làm chủ ở một số nơi.

Những cố gắng của ta trong các ngày 20, 21, 22-2-1968 cũng chỉ đủ sức kiềm chế địch từng bước, tiêu hao một số lực lượng địch, không làm cho tình hình tiến triển khá hơn được.

Ngày 21-2, địch chiếm toàn bộ tuyến Bôn Trì, Bôn Phổ, An Lưu, La Chữ, Quế Chữ, Cổ Bưu. Trong thành nội chúng chiếm thêm cầu Thượng Tứ, dồn lực lượng ta về phía tây.

Trước tình hình đó, để bảo toàn lực lượng, tránh bị bao vây ngày 22-2-1968, Khu uỷ Trị - Thiên và chỉ huy mặt trận Huế quyết định rút toàn bộ lực lượng ra ngoài thành phố.

Để tạo thuận lợi cho việc rút quân an toàn, trong các ngày 22, 23-2, ta tập kích một số mục tiêu địch ở An Lưu, An Hoà, Trúc Lưu, Phú Tài, Phú Thiện, cắt đường sông từ Huế ra cửa Thuận An và đường bộ từ các nơi vào Huế (cánh Nam). Địch ở vòng ngoài buộc phải co lại đối phó. Ta rút dần từng đơn vị ra khỏi thành phố theo kế hoạch. Đến 25-2-1968, toàn bộ lực lượng ta rút khỏi thành Huế bí mật, an toàn. Một bộ phận chiến đấu bên tả ngạn sông Hương nhận lệnh chậm, ngày 27-2 mới vượt sông ra vùng giải phóng Phú Vang.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Tư, 2010, 09:57:16 pm

Sau 25 ngày đêm chiến đấu và làm chủ thành phố Huế, quân và dân ta đã diệt, bắt sống, bức hàng và làm tan rã 25.000 tên địch, bắn rơi và phá hỏng hơn 200 máy bay, bắn cháy 41 tàu chiến, phá huỷ 533 xe quân sự, giải phóng 210.000 dân, 20 xã, 271 thôn, thành lập chính quyền ở 200 thôn. Trong những ngày chiến đấu oanh liệt để giữ thành phố Huế, ở mặt trận đông nam thành phố, đã xuất hiện hàng trăm tấm gương sáng chói tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng, đặc biệt là Tiểu đội nữ du kích sông Hương (gồm 11 cô gái) do Phạm Thị Liên làm tiểu đội trưởng. Cùng với các chiến sĩ đặc công K10, tiểu đội đã góp phần đánh tan một tiểu đoàn lính thủy đánh bộ Mỹ đến phản kích ở khu vực Phú Xuân. Trong trận chiến đấu không cân sức này, bốn cô gái của tiểu đội đã hy sinh khi tuổi đời còn trẻ. Chiến công của 11 nữ du kích sông Hương tiêu biểu cho khí phách anh hùng của quân và dân thành Huế trong Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 19681. Được tin tiểu đội nữ du kích tự vệ thành phố Huế dũng cảm chiến đấu lập công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm thơ khen tặng, biểu dương công trạng:

Dõng dạc tay cầm khẩu súng trường,
Khôn ngoan dàn trận khắp trong phường.
Bác khen các cháu dân quân gái,
Đánh giặc Hoa Kỳ phải nát xương
2.

Với việc giữ được thành phố 25 ngày, Huế đã lập một kỳ công - giành thắng lợi lớn nhất và giữ được thành phố lâu nhất so với các thành phố khác, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trên giao, góp phần quan trọng vào thắng lợi chung của tổng tiến công và nổi dậy trên toàn Miền.

Khi lực lượng ta ở Huế có lệnh rút khỏi thành phố, thì tại Sài Gòn - Gia Định, cao điểm 2 của cuộc tổng tiến công đã bắt đầu. Sau cao điểm 1, các đội biệt động gần như không còn (do thương vong và hy sinh), các tiểu đoàn mũi nhọn đều đã rút ra đứng chân ở vùng ven. Trong thành phố lúc này lực lượng địch tràn ngập (do chúng được củng cố và tăng cường lực lượng tổng trù bị, lực lượng bảo vệ vòng ngoài về). Vì vậy chủ trương của ta trong cao điểm 2 là: dùng pháo kích là chính, kết hợp với tiến công một vài mục tiêu nhằm tiêu diệt và làm tan rã một bộ phận quan trọng quân ngụy, làm cho địch mất sức phản kích và khả năng phòng giữ, tiêu diệt một bộ phận quân Mỹ. Đồng thời, phát động quần chúng nổi dậy ở quy mô thích hợp giành quyền làm chủ ở phần lớn các quận. Hướng chủ yếu là tây và tây nam. Lực lượng sử dụng gồm các tiểu đoàn 267, 269, Tiểu đoàn 16, Tiểu đoàn 12 đặc công (thuộc Phân khu 2) và các tiểu đoàn của Phân khu 3.

Thực hiện chủ trương này, đêm 17-2-1968, trung đoàn 96 và 208 ĐKB pháo kích sân bay Tân Sơn Nhất, Nha cảnh sát đô thành, căn cứ Sư đoàn bộ binh số 1 Mỹ ở Phú Lợi. Kết quả theo bình luận của Hãng tin Anh BBC sáng 18-2, ở căn cứ Phú Lợi, “có ít nhất 400 người thương vong, nhiều kho tàng, máy bay bị phá huỷ”. Đài này còn bình luận: “Đây là trận đánh khá trúng đích của Việt cộng”. Với sân bay Tân Sơn Nhất “hoả tiễn rơi đúng phòng chờ đợi đang chật ních khách. Trong số 88 quân nhân Mỹ thuộc lực lượng tuần giang Cửu Long chờ máy bay về Mỹ, số đông bị chết, sáu máy bay bị phá huỷ”3.

Cùng với pháo kích các mục tiêu, Tiểu đoàn 1 (Trung đoàn Quyết thắng) tiến công vào Tiểu đoàn dù 8 ở Tân Thới Hiệp nằm trên đường Hóc Môn - Xóm Mới do Chiến đoàn 2 dù phụ trách.

Ở nội thành, 2 giờ 15 phút ngày 19-2, Tiểu đoàn 1 Long An và Tiểu đoàn 6 Bình Tân tiến công Tiểu đoàn 30 biệt động quân ngụy đóng ở Phú Lâm nhưng không thành công.

Trưa 20-2, ta tiến công địch ở Cầu Tre, Tân Thới, Phú Thọ Hoà... Trận đánh ác liệt nhất diễn ra tại nghĩa địa Triều Châu cách tây bắc Trường đua Phú Thọ 3 km. Trận đánh kéo dài từ 12 giờ ngày 20-2 đến 14 giờ ngày 21-2. Ta đánh lui nhiều đợt phản kích của Tiểu đoàn 33 biệt động quân có máy bay, xe tăng yểm trợ, diệt nhiều tên, bắn cháy hai xe tăng, xe bọc thép M113, bắn rơi một máy bay.

Cùng thời gian này, một tiểu đoàn của Trung đoàn 2 (Sư đoàn 9) tiến công Lữ đoàn 3 (Sư đoàn 25 Mỹ) đang càn quét, giải toả ở Vĩnh Lộc quận Tân Bình, cách Sài Gòn 6 km về phía tây bắc.

Liên tiếp trong các ngày 24, 25-2, ta pháo kích sân bay Tân Sơn nhất, Biệt khu Thủ đô, Trường hạ sĩ quan Thủ Đức, khu kho xăng An Nhơn (Thủ Đức).

Ngày 24-2, ta phá sập cầu Giồng Ông Tố (Thủ Đức) và cầu Kinh (đông bắc Gia Định 3 km).

Ngày 25-2, ta chiếm Hãng dệt Sicôvina (Thủ Đức). Đến ngày 28-2-1968, tiếng súng tổng tiến công ở Sài Gòn chấm dứt. Đợt 1 tổng tiến công và nổi dậy ở các hướng trọng điểm cũng như toàn miền Nam kết thúc.

Cuộc tổng tiến công vào Sài Gòn - Gia Định Tết Mậu Thân 1968 đã giáng một đòn bất ngờ vào Mỹ - ngụy ngay tại sào huyệt của chúng. Hầu hết các mục tiêu đầu não của ngụy quân, ngụy quyền trong nội thành đều bị tiến công. Đây là lần đầu tiên, chiến tranh diễn ra ác liệt ở hậu phương địch và ngay trên đường phố của trung tâm sào huyệt của chúng.

Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng cùng với quân, dân ta trên toàn miền Nam trong suốt một tháng đã liên tục tiến công và nổi dậy, giành được thắng lợi to lớn và toàn diện chưa từng có, gây cho địch những tổn thất nặng nề hơn bất cứ thời gian nào trước đó.

Ba thành phố lớn, ba trọng điểm của cuộc tổng tiến công và nổi dậy đã góp phần quyết định vào thắng lợi chung của Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968.
_______________________________________
1. Tiểu đội nữ du kích sông Hương thành lập tháng 12-1967 gồm: Phạm Thị Liên, tiểu đội trưởng (được truy tặng Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân); Đỗ Thị Cúc, Đỗ Thị Hoa, Hoàng Thị Sáu, Hoàng Thị Nết, Nguyễn Thị Diên (sáu chiến sĩ trên đã anh dũng hy sinh trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 và trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước); Chế Thị Mừng, Nguyễn Thị Hoa, Hoàng Thị Nở, Nguyễn Thị Nội, Nguyễn Thị Xô (năm chiến sĩ đều quê làng Vân Dương ven thành Huế).
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t. 12, tr. 334.
3. Phan Hàm: Trong cuộc đối đầu thế kỷ, Sđd, tr. 320.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Tư, 2010, 10:15:10 pm

II- TRUNG TRUNG BỘ, ĐÔNG NAM BỘ VÀ ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY TẾT MẬU THÂN

Cùng với ba trọng điểm lớn Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng; vào dịp Tết Mậu Thân 1968, lực lượng vũ trang và nhân dân ta đồng loạt tiến công và nổi dậy ở nhiều thành phố, thị xã, thị trấn, quận lỵ trên toàn miền Nam.

Trước Tết, nhằm nghi binh, đánh lạc hướng và thu hút, giam chân lực lượng chiến lược của địch, tạo điều kiện cho các chiến trường khác, trực tiếp là Trị - Thiên - Huế thực hành tổng tiến công và nổi dậy, quân ta đã nổ súng tiến công địch ở Đường 9 - Khe Sanh. Ở đây địch tập trung lực lượng khá lớn, xây dựng tuyến phòng thủ với một hệ thống căn cứ hết sức kiên cố. Cuối năm 1967, lực lượng địch tại đây có 45.000 tên, trong đó có 28.000 tên Mỹ, gồm 3 trung đoàn thuỷ quân lục chiến, 9 tiểu đoàn pháo binh, 3 tiểu đoàn và 1 đại đội cơ giới. Lực lượng này được bố trí thành ba khu vực:

Khu vục phía đông gồm các cứ điểm: 31, Dốc Miếu, Cồn Tiên, Gio Linh, Quán Ngang, miếu Bái Sơn. Phía sau có Đông Hà, Cam Lộ, Quảng Trị hình thành một tuyến phòng ngự có chiều sâu.

Ở giữa gồm các cứ điểm: Tân Lâm, Cà Lu, điểm cao 241 nối liền khu đông và tây, đồng thời án ngữ, ngăn chặn lực lượng ta thâm nhập vào hướng Ba Lòng - Quảng Trị.

Phía tây là tập đoàn cứ điểm Khe Sanh, gồm các cứ điểm: Hướng Hoá, Làng Vây, Tà Cơn, Huội San và cụm cứ điểm ngoại vi Tà Cơn (bố trí dọc theo thung lũng Tà Cơn với diện tích khoảng 2 km2) với các điểm cao 558, 950 kiểm soát lưu vực sông Đắc Krông chảy vào Khe Sanh từ hướng bắc, điểm cao 861, 881 ở phía nam.

Do vị trí chiến lược quan trọng của Khe Sanh, địch đã bố trí ở đây ba tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ thuộc Trung đoàn 26 Mỹ, một tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ thuộc Trung đoàn 9, một tiểu đoàn biệt động ngụy Sài Gòn (Tiểu đoàn 37), một đại đội lực lượng đặc biệt và cố vấn, hai trung đội súng cối 106,7 mm do xe tăng Ôntốt (Ontos) kéo, năm xe tăng có trang bị đại bác 90 mm, ba khẩu pháo 105 mm và một khẩu pháo 155 mm, tổng cộng khoảng 6.000 quân do tướng Cuxơmen (Cushman) trực tiếp chỉ huy, chưa kể 16 khẩu pháo 175 mm bố trí ở điểm cao 241 và lực lượng không quân hiện đại của Mỹ, kể cả máy bay B52 sẵn sàng chi viện cho Khe Sanh bất cứ lúc nào.

Vào cuối năm 1967, nghiên cứu thực tiễn, ta nhận thấy: lực lượng Mỹ trên tuyến Đường 9 đã khá đông và có chiều hướng ngày càng tăng. Nếu ta đánh mạnh, địch bị diệt nhiều, chắc chắn chúng sẽ đưa lực lượng lớn quân Mỹ đến ứng cứu. Tuy chúng tổ chức phòng ngự trên cả hai hướng đông và tây, song tập trung chủ yếu vẫn là hướng đông. Ở hướng tây, địch chỉ đủ sức phòng ngự tại chỗ. Ta cắt đứt được tuyến giữa (đoạn từ Tân Lâm đến Cà Lu), Khe Sanh coi như bị cô lập về đường bộ. Điều này càng tăng thêm khả năng thu hút quân Mỹ. Mặt khác, với địa hình rừng núi ở hướng tây, ta hạn chế được thế mạnh của địch, phát huy được sở trường của ta. Đây chính là những cơ sở để Bộ Tư lệnh chiến dịch hạ quyết tâm chọn hướng tây là hướng chủ yếu, hướng đông là hướng quan trọng. Cụ thể: hướng tây, diệt chi khu, quận lỵ Hướng Hoá, Huội San, điểm cao 832, bao vây cứ điểm Làng Vây, thu hút lực lượng Mỹ đến để đánh diệt ở khu vực tây và nam Tà Cơn. Hướng đông, diệt các cứ điểm phòng ngự của địch trên đường 75, bao vây Cồn Tiên, Dốc Miếu, cắt giao thông ở đoạn Cam Lộ - Cà Lu, đánh địch tăng viện ở khu vực Quán Ngang, Dốc Miếu và ở tây, tây nam Đông Hà, cắt đường sông Cửa Việt, đánh phá kho tàng, sân bay địch...

Để thực hiện quyết tâm trên, ngoài lực lượng đang hoạt động tại khu vực Đường 91, mặt trận được tăng cường thêm hai sư đoàn bộ binh (304, 320), hai trung đoàn pháo binh (675, 45), một trung đoàn pháo cao xạ (241), năm đại đội đặc công, bốn đại đội xe tăng.

Từ cuối tháng 10-1967, công tác chuẩn bị cho chiến dịch đã được xúc tiến từ việc làm đường, tổ chức các kho dự trữ... Mặc dù vậy, thời gian chuẩn bị trực tiếp cho chiến dịch không nhiều nên vấn đề bảo đảm còn nhiều hạn chế. Có đơn vị đến ngày nổ súng vẫn chưa xác định được mục tiêu định diệt, có đơn vị không kịp chuyển gạo và đạn vào lót ổ, thậm chí Sở chỉ huy mặt trận, mạng thông tin còn chưa được triển khai đầy đủ.
_________________________________
1. Gồm Sư đoàn bộ binh 325, các trung đoàn 1, 2, 3 thuộc Sư đoàn 324 cũ; Trung đoàn bộ binh 270 của Vĩnh Linh; một tiểu đoàn tên lửa vác vai A72; hai tiểu đoàn bộ đội địa phương tỉnh Quảng Trị; ba trung đoàn pháo binh 84, 164, 204; hai trung đoàn cao xạ 37 mm (128, 282); một đoàn đặc công; các đại đội bộ đội địa phương huyện cùng các lực lượng bảo đảm khác.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Tư, 2010, 10:16:46 pm

Ngày 20-1-1968, chiến dịch mở màn, Tiểu đoàn 7 (Trung đoàn 66, Sư đoàn 304) được pháo binh chiến dịch chi viện đã nổ súng tiến công chi khu quân sự, quận lỵ Hướng Hoá. Lực lượng địch ở đây có một đại đội bảo an. Trận đánh diễn ra thuận lợi, phần lớn địch tại chi khu bị diệt, trừ một số chạy thoát vào cứ điểm Tà Cơn, ta làm chủ hoàn toàn quận lỵ ngay trong đêm. Cùng thời gian, Tiểu đoàn 6 (Trung đoàn 2, Sư đoàn 325) tiến công điểm cao 832 (có một đại đội thuỷ quân lục chiến Mỹ), nhưng không thành, buộc phải chuyển vào bao vây kiềm chế địch. Đến trưa 22-1-1968, ta hoàn toàn làm chủ phía nam cụm cứ điểm Tà Cơn.

Mất quận lỵ Hướng Hoá, điểm cao 832 bị bao vây, Tà Cơn bị uy hiếp trực tiếp từ phía nam song địch vẫn không chịu tăng viện để phản kích lấy lại những mục tiêu đã mất mà chỉ đối phó chủ yếu bằng hoả lực phi pháo nhằm ngăn chặn lực lượng ta và nghe ngóng tình hình.

Trước tình hình này, ngày 23-1-1968, Bộ Tư lệnh chiến dịch quyết định diệt cụm cứ điểm Huội San ở sát biên giới Việt - Lào do Tiểu đoàn 33 ngụy Lào phòng giữ để tăng áp lực ở hướng tây, mở đường tiếp cận Làng Vây, buộc địch phải tăng viện. Tiểu đoàn 1 (Trung đoàn 24, Sư đoàn 304) được tăng cường một đại đội xe tăng (8 chiếc PT-76) thực hiện nhiệm vụ này. Sau ba ngày chiến đấu, ta làm chủ hoàn toàn Huội San. Địch vẫn không tăng viện, buộc Bộ Tư lệnh chiến dịch quyết định tiến công tiêu diệt cứ điểm Làng Vây, giải phóng đoạn Đường 9 từ Khe Sanh đến biên giới Việt - Lào, đưa thêm lực lượng vào vây hãm Tà Cơn buộc địch phải có phản ứng mạnh hơn.

Làng Vây nằm cách quận lỵ Hướng Hoá 5 km về phía tây ở độ cao 320m, có Đường 9 chạy qua giữa, là cứ điểm mạnh của địch với hệ thống công sự vững chắc, xung quanh có hàng rào kẽm gai và mìn. Lực lượng địch ở đây có khoảng 600 tên bố trí thành nhiều khu vực, mỗi khu vực do một đại đội biệt kích ngụy đóng giữ. Để diệt cứ điểm Làng Vây, Sư đoàn 304 phải sử dụng Trung đoàn 24 (thiếu một tiểu đoàn) với sự tăng cường của Tiểu đoàn 3 (Sư đoàn 325), Tiểu đoàn xe tăng 198 (thiếu) gồm 16 chiếc, một đại đội của B5, một đại đội đặc công của Sư đoàn 304, một đại đội súng máy 14,5mm (sáu khẩu), một trung đội súng phun lửa. Kế hoạch dự kiến ban đầu, ta sẽ nổ súng tiến công cứ điểm vào ngày 5-2-1968, song công tác chuẩn bị của Trung đoàn 24 chưa tốt nên phải hoãn lại.

23 giờ 30 phút ngày 6-2-1968, trận đánh mở màn. Đến 8 giờ sáng 7-2-1968, ta hoàn toàn làm chủ cứ điểm, diệt 400 tên, bắt sống trên 200 tên (trong đó có 5 cố vấn Mỹ), thu toàn bộ vũ khí, quân trang, quân dụng.

Trong lúc hướng tây phát triển khá thuận lợi thì ở hướng đông ta gặp nhiều khó khăn. Cuối tháng 1-1968, địch chiếm lại chốt Lâm Xuân và Bạch Cầu mà trước đó Trung đoàn 270 đã đánh diệt. Đêm 31-1-1968, Trung đoàn 48 (Sư đoàn 320) tiến công quận lỵ Cam Lộ cũng không thành công.

Tính đến ngày 7-2-1968, trên cả hai hướng chiến dịch, ta diệt và bắt sống 1.600 tên (có 200 tên Mỹ), bắn rơi, bắn cháy 19 máy bay các loại, phá hỏng 11 khẩu pháo, cối, 11 xe quân sự thu nhiều vũ khí, quân trang, quân dụng.

Trong lúc Bộ chỉ huy quân sự Mỹ tại Sài Gòn và giới lãnh đạo chóp bu ở Nhà Trắng đang dồn hết tâm trí và lực lượng ra Đường 9 - Khe Sanh, thì quân và dân ta đồng loạt nổ súng đánh vào hầu khắp các thành phố, thị xã, thị trấn, quận lỵ trên toàn miền Nam.

Ở Khu V và Tây Nguyên, ngoài Đà Nẵng còn các thành phố, thị xã Nha Trang, Tuy Hoà, Buôn Ma Thuột, Plâycu, Quy Nhơn, Kon Tum đã nổ súng sớm hơn một ngày so với kế hoạch chung.

Tại thị xã Tuy Hoà (tỉnh Phú Yên), đúng giao thừa (theo lịch cũ), địch trong thị xã và các cứ điểm ở vùng ven bắn súng đón năm mới. Lợi dụng pháo sáng của địch, quân ta nhanh chóng áp sát mục tiêu, đồng loạt tiến công vào nhiều vị trí, cơ quan đầu não địch trong thị xã và các huyện trong tỉnh. Đại đội đặc công 202 của tỉnh dưới sự chỉ huy của đại đội trưởng Lê Trung Kiên tập kích trung đoàn bộ Trung đoàn 47 ngụy và khu cố vấn Mỹ, diệt 78 tên, làm chủ trận địa. Trung đội Quyết thắng của thị xã tập kích Ty Cảnh sát ngụy diệt gần hết địch ở đây trừ một số ít bỏ chạy. Tiểu đoàn 12 kiên cường đánh địch đẩy lui nhiều đợt phản kích của quân Mỹ và quân ngụy ở khu nhà 18 gian thuộc phường 2 thị xã.

Ở vòng ngoài, ta tiến công vào Sở chỉ huy Trung đoàn 28 thuộc Sư đoàn Bạch Mã (Nam Triều Tiên), sân bay Đông Tác ở nam sông Đà Rằng. Hàng ngàn nhân dân các huyện Tuy Hoà, Tuy An, Đồng Xuân xuống đường biểu tình, thị uy...

Tính chung, trong đợt tổng tiến công và nổi dậy đầu tiên (từ đêm 29-1 đến 5-2-1968 ), các lực lượng vũ trang Phú Yên đã loại khỏi vòng chiến đấu 1.114 tên địch, trong đó có 349 tên Mỹ, 464 lính Nam Triều Tiên, phá huỷ 47 máy bay các loại, 28 xe quân sự, 5 xe M113 và M118, 10 khẩu pháo từ 105 mm đến 155 mm.

Mặc dù vậy, ta chưa đánh quy được lực lượng quân sự của Mỹ - ngụy để hỗ trợ quần chúng nổi dậy giành chính quyền.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Tư, 2010, 10:17:55 pm

Sau Phú Yên là Khánh Hoà. Đây là tỉnh nằm xa hậu phương, việc vận chuyển, tiếp tế, bổ sung lực lượng gặp nhiều khó khăn. Chuẩn bị cho tổng tiến công và nổi dậy, ngoài Trung đoàn 20 chủ lực mới được xây dựng, tỉnh có bốn đại đội đặc công, bốn đại đội bộ binh, một đại đội công binh. Trọng điểm tiến công và nổi dậy của tỉnh là thành phố Nha Trang. Mở đầu cuộc tiến công, ta pháo kích vào Trung tâm huấn luyện hải quân, kế đó, lực lượng vũ trang tỉnh đánh chiếm Đài phát thanh, Tiểu khu Khánh Hoà, Tỉnh đường, Sở chỉ huy tiếp vận 5, Tiểu đoàn 651 truyền tin. Bằng cách dùng xe lam, lợi dụng sự lộn xộn đêm giao thừa, bộ đội ta cải trang như những người đi vui Tết, tiến thẳng đến các mục tiêu, diệt lính gác, chiếm lĩnh trận địa. Tiếng súng và tiếng pháo vang rền xen lẫn. Địch không phân biệt được đâu là dân, đâu là bộ đội, nên chỉ sau 10 phút chiến đấu ta đã làm chủ khu vực Tỉnh đường, Sở chỉ huy tiếp vận 5, tiểu khu và Tiểu đoàn truyền tin 651. Riêng Bộ Tư lệnh đặc biệt ở ngay trung tâm thị xã không bị tiến công. Tên Đoàn Văn Quảng, Tư lệnh lực lượng đặc biệt kiêm Chỉ huy trưởng Yếu khu Nha Trang, khi nắm được tình hình các nơi báo về, y lập tức điều động lực lượng đặc biệt cùng các lực lượng khác tổ chức phản kích. Nhiều trận đánh ác liệt diễn ra trong thành phố ngay sau đó. Tiêu biểu là các trận đánh ở Sở chỉ huy tiếp vận 5 và đồi Trại Thuỷ (còn gọi là đồi Kim Thân Phật tổ).

Tại Sở chỉ huy tiếp vận 5, bảy chiến sĩ của ta dũng cảm đẩy lùi chín đợt phản kích của địch, diệt hàng chục tên, phá huỷ hai xe bọc thép và hy sinh đến người cuối cùng. Ở đồi Trại Thuỷ, bộ đội ta chiến đấu với địch suốt ngày 29-1-1968 (tức ngày 30-12 Đinh Mùi - theo lịch miền Nam). Đến 17 giờ, ta rút xuống chân đồi. Ngày hôm sau, một đại đội biệt kích được không quân yểm trợ tiến lên chiếm lại đồi. Nhưng lực lượng ta nằm phục kích ở các khu phố và hàng cây dưới chân đồi chặn đánh làm đại đội biệt kích địch bị thiệt hại nặng.

Cuộc chiến đấu trong thành phố còn dai dẳng đến ngày mùng 6 Tết. Song áp lực của địch ngày càng tăng, ta không đủ sức dứt điểm, buộc phải rút ra. Trong lúc đó, ở hai huyện Diên Khánh, Vĩnh Xương, Trung đoàn 20 phối hợp với các lực lượng địa phương đánh địch hỗ trợ đồng bào phá ấp, diệt tề, trừ gian, cắt đường 21 và quốc lộ 1, cô lập địch ở từng khu vực tạo thế phục vụ kế hoạch lâu dài.

Tỉnh Gia Lai với tỉnh lỵ là thị xã Plâycu. Tại đây lực lượng Mỹ có tới hai sư đoàn là Sư đoàn kỵ binh không vận số 1 đóng Sở chỉ huy ở An Khê và Sư đoàn bộ binh số 4 đóng Sở chỉ huy ngay tại thị xã Plâycu. Chủ trương của ta trong Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 với các tỉnh Tây Nguyên nói chung, Gia Lai nói riêng là dùng đòn tiến công quân sự là chủ yếu để tiêu diệt địch, giành chính quyền.

Đúng 0 giờ 55 phút ngày 29-1-1968, lực lượng ta chia làm nhiều cánh đánh thẳng vào trung tâm thị xã, chiếm Khu cảnh sát vùng 2, Khu hành chính, Khu biệt động ngụy, Tỉnh đoàn bảo an, phá ba nhà lao giải thoát cho 2.000 đồng bào yêu nước bị địch giam giữ. Đáng chú ý là các trận đánh của Tiểu đoàn 408 đặc công vào sân bay Arêa, phá hỏng 15 máy bay lên thẳng và 35 xe các loại; trận Trung đoàn 95 diệt một đoàn xe 26 chiếc trên đường 19; trận pháo kích vào Sở chỉ huy Quân đoàn II ngụy và khu rađa. Chỉ trong ngày đầu tiến công và nổi dậy, 11 xã vùng ven được giải phóng.

Ở Kon Tum, Tiểu đoàn 304 của tỉnh và Tiểu đoàn 406 đặc công đánh chiếm Khu hành chính, Tiểu khu và sân bay Kon Tum, Biệt khu 24, phá huỷ nhiều kho tàng, đạn dược, làm chủ một nửa thị xã trong đêm. Phản ứng của địch yếu ớt, chủ yếu chúng dùng máy bay ném bom và pháo bắn vào những mục tiêu đã bị ta đánh chiếm. Mờ sáng, địch tung quân phản kích. Tiểu đoàn 304, 406 chống trả quyết liệt, bẻ gãy hàng chục đợt phản kích của địch, bảo vệ trận địa. Nổi bật là gương chiến đấu dũng cảm của A Xâu, chiến sĩ Tiểu đoàn 304. Anh đã mưu trí quần nhau với địch suốt ngày giữa địa hình trống trải, bẻ gãy hàng chục đợt phản kích của chúng, giữ vững trận địa. Địch ném lựu đạn tới tấp vào trận địa, A Xâu chụp bắt ném trở lại, diệt hàng chục tên1. Dũng sĩ A Thang, mới 16 tuổi đã chiến đấu với địch đến viên đạn cuối cùng và hy sinh anh dũng. Phối hợp với thị xã, ở vòng ngoài, ta bao vây đồn Kleng ở phía tây, diệt địch, giải phóng bảy ấp chiến lược dọc tỉnh lộ 5 ở phía đông thị xã, mở rộng vùng làm chủ trên các trục lộ Krông - Kon Tum và Kon Tum - Kon Brai, đánh chiếm và làm chủ thị trấn Tân Cảnh.
_________________________________
1. A Xâu được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân ngày 23-11-1969.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Tư, 2010, 10:22:24 pm

Nổi bật hơn cả trong Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 trên địa bàn Tây Nguyên là cuộc tiến công vào thị xã Buôn Ma Thuột (Đắc Lắc). Mặc dù Buôn Ma Thuột được ví như mái nhà của nam Đông Dương, song địch lại tập trung chủ yếu trên hướng Gia Lai, Kon Tum nhiều hơn, bởi lẽ Kon Tum có ngã ba biên giới, là cửa ngõ thâm nhập từ Lào sang Gia Lai, có đường 19, đường 7 nối với các tỉnh đồng bằng Khu V và Campuchia, còn Buôn Ma Thuột nằm sâu về phía nam, ta khó đưa lực lượng lớn vào, lại có bộ máy kiểm soát rất chặt chẽ. Địch vẫn coi Buôn Ma Thuột là hậu phương an toàn của chúng. Trong điều kiện như vậy, hoạt động của các lực lượng vũ trang cũng như chính trị của ta trên địa bàn này gặp nhiều khó khăn. Cơ sở để ta có thể khai thác được so với các nơi khác là lực lượng địch ở đây mỏng yếu, nhất là quân Mỹ. Nếu Gia Lai - Kon Tum còn có các Sư đoàn kỵ binh không vận số 1, Sư đoàn 4 bộ binh, thì ở Đắc Lắc, Mỹ chỉ có một nhóm cố vấn thuộc Bộ Tư lệnh viện trợ quân sự Mỹ (MACV) và nhân viên kỹ thuật, một đại đội trực thăng với tổng quân số không quá 400 tên. Trước Tết, những hoạt động nghi binh của ta đã buộc địch phải đưa lực lượng đi ứng cứu các nơi. Tại thị xã Buôn Ma Thuột, địch chỉ còn Đại đội thám kích 413, Đại đội trinh sát 23, Đại đội vận tải 514, Đại đội địa phương quân 702 và Đại đội 23 biệt động quân. Lực lượng chiến đấu chỉ có một tiểu đoàn của Trung đoàn 45 và Thiết đoàn 8 thiết giáp với quân số còn khoảng 30% (đa số đi phép Tết).

0 giờ 40 phút ngày 29-1-1968, cuộc tiến công vào thị xã bắt đầu. Ta dùng súng cối và ĐKZ bắn phá sân bay Hoà Bình, Bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 ngụy, Bộ chỉ huy Trung đoàn 45... Cùng lúc, trên hướng tây bắc, tiểu đoàn 301 và 401 cơ động của tỉnh đánh vào căn cứ pháo binh của địch (tiểu đoàn 231 và 232) sau đó phát triển sang Khu hành chính, chiếm Ty Ngân khố. Cánh khác do Tiểu đoàn 3 đặc công (mới được trên bổ sung) làm nhiệm vụ đánh vào khu thiết giáp (Thiết đoàn 8 ). Đội hình hành quân bị lạc nên gần sáng ta mới tiếp cận được mục tiêu. Chỉ có một tổ đặc công lọt được vào bên trong, dùng thủ pháo diệt được hai xe thiết giáp của địch. Lúc này, Thiết đoàn 8 của địch được lệnh xuất kích đi cứu nguy cho các vị trí bị ta tiến công trong đêm. Một chiếc vừa ra khỏi cửa đã bị chiến sĩ ta dùng B40 diệt tại chỗ. Chiếc thứ hai liều mạng xông ra chạy về hướng Ty Ngân khố cũng bị diệt. Trong ngày đầu tiên, tám xe thiết giáp địch bị bắn cháy ngay trong thị xã.

Hướng đông nam, Trung đoàn 33 từ suối Ea Knao tiến công Bộ Tư lệnh Sư đoàn 23, Toà hành chính tỉnh, Bộ chỉ huy tiểu khu, Đại đội 514 vận tải...

Ở phía tây nam, Tiểu đoàn 39 đánh chiếm Đài phát thanh sau đó phát triển tiến công vào căn cứ của Tiểu đoàn 4, Trung đoàn 45 ngụy và Trại huấn luyện nghĩa quân, diệt 200 tên, bắt hơn 100 tù binh. Địch huy động bộ binh, cơ giới đến phản kích hòng chiếm lại căn cứ, thêm hai chiếc M113 bị bắn cháy, hai trực thăng bị bắn rơi, buộc chúng phải tháo lui.

Trưa ngày 30-1-1968, Bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 điều Tiểu đoàn 2 (Trung đoàn 45) về cứu nguy cho thị xã. Đơn vị này tức tốc hành quân về đến gần thị xã (cách 1 km) thì bị lực lượng ta chặn lại mãi đến chiều mới vào được trong nội đô để cùng với Chiến đoàn 318 giải toả Ty Ngân khố. Ý đồ này địch không thực hiện được, bởi ngay sau khi xuất kích một chiến xa đi đầu bị diệt, chúng phải lui quân. Tổ chức chiến đấu lại thì trời đã tối.

Nhìn chung, đợt tiến công đầu tiên vào thị xã Buôn Ma Thuột, ta đã đánh chiếm được một số mục tiêu, song không diệt được cơ quan đầu não ngụy quyền địch, nên không dứt điểm được thị xã. Cuộc chiến đấu quyết liệt suốt mấy ngày đêm, đặc biệt ở trung tâm thị xã như Ty Ngân khố, Băngalô (Bungalow), trụ sở MACV. Cả ta và địch đều ra sức ngăn chặn lực lượng tiếp viện của nhau không cho bên nào vào tăng cường được cho trung tâm thị xã.

Phối hợp với đòn tiến công quân sự, lực lượng chính trị của quần chúng trong nội đô cũng như các huyện xung quanh thị xã xuống đường với khí thế mạnh mẽ đấu tranh với địch, hỗ trợ cho bộ đội đánh chiếm các mục tiêu.

Ngay trong ngày đầu cuộc tiến công, hàng ngàn đồng bào các huyện 6, 8, Buôn Hồ kéo vào thị xã bao vây căn cứ Trung đoàn 45 ngụy, kêu gọi binh lính địch quay về với cách mạng. Địch phản kích, nhân dân mang bàn, tủ, thậm chí cả bàn thờ ra đường dựng chiến luỹ ngăn chặn xe tăng địch, tạo điều kiện cho bộ đội đánh lui các đợt phản kích của quân ngụy. Với tinh thần dũng cảm, kiên cường, quân dân thị xã Buôn Ma Thuột nói riêng, Đắc Lắc nói chung đã đánh chiếm tỉnh lỵ và trụ lại được sáu ngày đêm trong thị xã. Đây là một nỗ lực lớn, góp phần vào thắng lợi chung của toàn miền Nam trong Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968.

Tại Bình Định, tỉnh xác định trọng điểm cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, là thành phố Quy Nhơn và quận lỵ Phù Mỹ. Để thực hiện nhiệm vụ đánh địch trong thành phố, Tiểu đoàn đặc công Liên ấp 3 được tổ chức gồm các đại đội Đ10, 30, 117B và 598 đặc công nước sáp nhập lại. Tiểu đoàn này cùng với Tiểu đoàn 50 (của tỉnh), lực lượng biệt động, tự vệ mật có nhiệm vụ đánh chiếm những mục tiêu chủ yếu trong thành phố. Sư đoàn 3 của Quân khu V được giao nhiệm vụ đánh chiếm quận lỵ Phù Mỹ và sẵn sàng đánh địch (Trung đoàn 41, Sư đoàn 22 của Vùng II chiến thuật) ứng cứu, hỗ trợ quần chúng kéo vào thành phố, nổi dậy giành chính quyền. Tiểu đoàn 405 đặc công quân khu tiến công khu kho Đèo Son. Lực lượng vũ trang các huyện và du kích các địa phương đánh chiếm các huyện lỵ, cắt phá giao thông địch trên quốc lộ 1, hỗ trợ quần chúng nổi dậy giành chính quyền ở huyện, xã, giải phóng nông thôn.

1 giờ 15 phút ngày 29-1-1968, cuộc tiến công vào thành phố Quy Nhơn bắt đầu bằng trận đánh chiếm Đài phát thanh ở trung tâm thị xã. Sau đó ta phát triển đánh chiếm các mục tiêu Dinh tỉnh trưởng, Ty Cảnh sát, quân cảng, bến xe, nhà ga... Địch đưa quân đến phản kích hòng chiếm lại các vị trí đã mất. Các chiến sĩ ta kiên cường đánh lui hàng chục đợt phản kích của địch. Đặc biệt, Tiểu đoàn đặc công Liên ấp 3 ngoan cường đánh địch tại khu vực Đài phát thanh và các khu 1, 2 trong thành phố, hy sinh đến người cuối cùng. Trong số này có đồng chí Nguyễn Khuông (Biên Cương) - Thường vụ Tỉnh uỷ, Bí thư Thành uỷ Quy Nhơn1.
_________________________________
1. Đồng chí Nguyễn Khuông bị địch bắt trước khi cuộc tiến công nổ ra. Khi lực lượng ta đánh vào thành phố, đồng chí được giải thoát và trực tiếp chỉ huy bộ phận đánh địch trong nội thành.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Tư, 2010, 10:23:11 pm

Trong lúc Tiểu đoàn 50, Tiểu đoàn đặc công Liên ấp 3 cùng biệt động đánh địch trong thành phố thì ở vòng ngoài, Trung đoàn 12 (Sư đoàn 3 chủ lực Quân khu V) tiến công quận lỵ An Nhơn, Sở chỉ huy Trung đoàn quân Nam Triều Tiên ở Phú Kiều. Trung đoàn 2 đánh địch ở Phù Mỹ. Phía nam, Trung đoàn 10 đánh chiếm đèo Cù Mông, làm chủ quốc lộ 1 từ đèo Cù Mông đến đèo Thị Nại. Hàng vạn quần chúng nổi dậy bao vây các thị trấn, quận lỵ trong tỉnh.

Mặc dù vậy, nhiệm vụ chính của Sư đoàn 3 trong đợt này là đánh quỵ Trung đoàn 41 ngụy - lực lượng cơ động của Sư đoàn 22 và của Vùng II chiến thuật chưa thực hiện được. Cũng như ở Đà Nẵng, ta không diệt được lực lượng quân sự chủ yếu của địch thì không thể hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy giành chính quyền trong thành phố.

Hai tỉnh duy nhất của Khu V nổ súng đúng thời gian theo chỉ thị lùi lại một ngày của Bộ Tổng tư lệnh (đêm 29 rạng ngày 30-l-1968 ) là Quảng Nam và Quảng Ngãi.

Quảng Nam theo tên gọi hành chính của ngụy là Quảng Đà với thủ phủ là thị xã Tam Kỳ. Về phía ta, trong kế hoạch Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 của Khu V, thì Quảng Nam cùng với Đà Nẵng là một trong bốn hướng và là hướng tiến công quan trọng nhất của khu. Mặc dù Đà Nẵng đã nổ súng trước, nhưng Quảng Nam do kịp thời nhận được chỉ thị của trên lùi cuộc tiến công lại một ngày để phối hợp chung với toàn Miền nên đêm 29 rạng ngày 30-1-1968, tiếng súng tiến công Mậu Thân ở đây mới nổ. Cùng lúc ta đồng loạt pháo kích vào các cơ sở hành chính và mục tiêu quân sự của địch, song các mũi tiến công lại tập trung chủ yếu vào Toà hành chính, Bộ chỉ huy tiểu khu, Sở chỉ huy Trung đoàn 6, Tiểu đoàn 22 pháo binh và cổng ga xe lửa. Mạnh mẽ nhất là cuộc tiến công vào Trung đoàn 6 và Tiểu đoàn 22 pháo binh. Sau bốn đợt xung phong ta đột nhập được qua hàng rào phòng thủ. Địch phản kích quyết liệt nên sau đó ta phải rút ra.

Tại Toà hành chính và Bộ chỉ huy tiểu khu, bộ đội ta chiến đấu quyết liệt và cắm được cờ Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam lên nóc Toà hành chính.

Ta còn bắn phá sân bay Chu Lai, Sở chỉ huy Sư đoàn Amêricơn. 35.000 nhân dân các vùng nông thôn tràn vào thị xã thị trấn vây bắt ác ôn, giành quyền làm chủ ở một số nơi.

Ở Quảng Ngãi, mặc dù địch đã được báo động trước về các cuộc tiến công của ta, song lực lượng chúng ở các đơn vị đi nghỉ Tết khá đông. Tiểu đoàn 2 (Trung đoàn 4 ngụy), đơn vị ứng chiến của khu chỉ còn 50 tên tại trại. Vào lúc 2 giờ 30 phút ngày 30-1-1968, cuộc tiến công vào thị xã Quảng Ngãi bắt đầu. Sau loạt đạn pháo bắn vào sân bay, Bộ Tư lệnh Sư đoàn 2 ngụy và Trung tâm huấn luyện nghĩa quân, ta đánh chiếm điểm cao 45 (căn cứ Núi Ông), Trung đoàn 4 bộ binh, Ty Cảnh sát, Tỉnh đoàn bảo an, Nhà lao... làm chủ phần lớn thị xã và trụ lại đánh địch suốt ngày 30-1. Hàng ngàn đồng bào tập trung tại núi Thiên Ấn ở phía bắc và sông Vệ ở phía nam để kéo vào thị xã hỗ trợ cho nhân dân nổi dậy, nhưng không có lực lượng quân sự yểm trợ nên không vào được.

Đêm 31-1-1968 ta phải rút khỏi thị xã ra vùng ven vừa bám trụ đánh địch vừa củng cố sẵn sàng bước vào cuộc chiến đấu mới.

Ở Khu VI, đến những ngày giáp Tết, Khu uỷ và Bộ Tư lệnh quân khu mới nhận được lệnh nổ súng tiến công vào lúc giao thừa Tết Mậu Thân 1968. Mọi mặt chuẩn bị trước đó đã phải tiến hành trong điều kiện quá gấp (vì Khu VI là chiến trường xa nên lệnh trên đến nơi thường chậm), nay thời gian nổ súng cũng được thông báo muộn, vì vậy có đơn vị hành quân không kịp đến mục tiêu quy định. Mặc dù vậy, với quyết tâm cao và ý thức chấp hành mệnh lệnh nghiêm, 0 giờ ngày 30-1-1968, các lực lượng vũ trang trên hướng trọng điểm Phan Thiết đã nổ súng tiến công địch ở thị xã.

Theo kế hoạch thì cuộc tiến công vào thị xã thực hiện trên ba hướng:

Từ hướng đông, Tiểu đoàn 840, Đại đội 3 (Tiểu đoàn 481 đặc công thị xã) đánh thẳng vào Bộ chỉ huy tiểu khu, Toà hành chính, Tỉnh đoàn bảo an và các ty, sở xung quanh.

Hướng bắc, tiểu đoàn 482 (thiếu), Đại đội 2 (Tiểu đoàn 481), Đại đội trinh sát, Đại đội trợ chiến của tỉnh, theo đường 8 đánh diệt đồn Trịnh Tường, sau đó phát triển đánh chiếm Biệt khu Bình Lâm (trại Quang Trung) và trại Đinh Công Tráng, chiếm và kiểm soát các ty, sở trong khu vực.

Từ hướng tây nam, Đại đội 1 (Tiểu đoàn 481), Đại đội 3 (Tiểu đoàn 482), Đại đội 480 Phan Thiết, Đại đội 30 trợ chiến quân khu đánh vào căng Êxêpíc, cổng chữ Y, Chi cảnh sát Châu Thành, trụ sở cơ quan MACV của Mỹ.

Đến giờ nổ súng, Tiểu đoàn 480 chưa đến kịp nên hướng đông vẫn yên lặng.

Ở hướng bắc, thực hiện đúng kế hoạch, ta đánh vào đồn Trịnh Tường. Lực lượng địch ở đây có một trung đội của Tiểu đoàn 23 pháo binh, lực lượng bảo vệ hậu cứ của Trung đoàn 44, Đại đội 954 địa phương quân của tiểu khu. Sau một ngày chiến đấu quyết liệt, ta chiếm 2/3 đồn. Địch đưa lực lượng lớn, có cả pháo binh, máy bay và xe tăng yểm trợ cho bộ binh phản kích sáu lần vẫn không chiếm lại được đồn. Đến 16 giờ ngày 31-1-1968, bị thiệt hại nặng, chúng dùng máy bay ném bom huỷ diệt toàn bộ khu vực này. Ta phải lui ra ngoài củng cố. Từ ngày 1-2-1968, ta chuyển qua bao vây, dựa vào các khu phố và công sự đánh địch phản kích. Lúc này ở cánh 1, Tiểu đoàn 840 đã tiếp cận mục tiêu, 24 giờ ngày 31-1, từ hướng đông, đơn vị nổ súng đánh chiếm Tỉnh đoàn bảo an, Ty Cảnh sát, uy hiếp Tiểu khu Bình Thuận. Cánh 3, ta đánh căng Êxêpíc, hậu cứ Chiến đoàn 506 Mỹ và cổng chữ Y.

Trước áp lực cửa ta ở thị xã, Khu 23 chiến thuật phải điều Trung đoàn 44 và Chi đoàn xe bọc thép 4 (Trung đoàn 8 ) từ Vĩnh Hảo vào ứng cứu.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Tư, 2010, 10:37:24 pm

Sau bốn ngày đêm chiến đấu ác liệt, ta đã đánh chiếm được một số khu vực, mục tiêu quan trọng trong nội đô, gây cho địch nhiều thiệt hại. Địch phải thừa nhận “trong suốt bốn ngày Tết tình hình tại tỉnh lỵ hết sức căng thẳng. Việt cộng lan tràn chiếm đến khu chùa Giác Hoa, chiếm Ty Lâm vụ để tấn công Câu lạc bộ sĩ quan, đào hố cá nhân trong vườn hoa trước nhà ga để bắn vào tiểu khu”1. Nhưng sau đó địch tăng cường lực lượng phòng thủ các mục tiêu quan trọng và tiến hành phản kích mạnh mẽ bằng cả bộ binh, pháo binh, xe tăng. Ta không đủ sức chốt giữ các vị trí trong thị xã phải rút ra bám trụ ở vùng ven.

Đà Lạt, trọng điểm 2 của Khu VI, nằm trong bối cảnh chung của khu là lệnh đến chậm, việc triển khai lực lượng gặp nhiều khó khăn. Tuy phương án tác chiến ở đây đã xác định “tổ chức tiến công trên ba hướng với tinh thần lực lượng đến được bao nhiêu thì đánh bấy nhiêu”2. Song, đêm 29 rạng 30-1, cả ba hướng đều không tiếp cận được mục tiêu nên phải hoãn lại đến ngày hôm sau. So với hiệp đồng chung toàn khu và toàn Miền, Đà Lạt nổ súng chậm hơn một ngày. Do đánh chậm, lực lượng ít lại bị phân tán (Tiểu đoàn 186, đơn vị chủ công đêm 4-2-1968 mới vào được vị trí chiến đấu), ta gặp nhiều khó khăn.

Vào lúc 1 giờ 45 phút ngày 31-1-1968, tiếng súng đầu tiên đã nổ ở Đà Lạt. Từ hướng tây nam (hướng tiến công chủ yếu), ta tiến công Bộ chỉ huy tiểu khu, chiếm khu vực Paxtơ, Ty Mục súc. Song lực lượng ta có hạn nên không dứt điểm được, đến sáng rút ra trụ lại ở Hầm Đá - Nam Thiên, đánh địch phản kích.

Đêm 1-2-1968, có thêm lực lượng (Tiểu đoàn 145, Đại đội đặc công 852, Đại đội 809 và bộ phận tiền trạm của Tiểu đoàn 186), ta tiếp tục tiến công tiểu khu và làm chủ được 2/3 vị trí cùng 9 ty, sở xung quanh.

Ngày 4-2, Tiểu đoàn 186 (lúc này đã đến đủ), Đại đội 852, Đại đội 809 tiếp tục đánh chiếm tiểu khu và các ty, sở xung quanh song cũng chỉ chiếm được 3/4 vị trí, còn ở hướng tây nam do địch điều thêm một tiểu đoàn có xe bọc thép đến chi viện, nên ta không dứt điểm được.

Trong lúc đó, ở hướng tây bắc (hướng thứ yếu quan trọng), ta chia làm ba mũi thọc sâu vào trung tâm thị xã. Một mũi đánh vào Dinh tỉnh trưởng, một mũi đánh Tỉnh đoàn bảo an, mũi thứ ba đánh vào Ty Công an. Địch phản kích quyết liệt, bộ đội ta dũng cảm đánh địch, cuộc chiến đặc biệt sôi động tại khu chợ Hoà Bình. Địch nhiều lần đưa quân đến hòng chiếm lại nhưng không được, cuối cùng chúng phải gọi máy bay trực thăng đến bắn phá huỷ diệt. Ta buộc phải rút ra Đa Cát đánh địch phản kích.

Hướng thứ ba ở phía đông nam, ta tiến công vào Trại Hầm nhưng cũng không dứt điểm được.

Sau bảy ngày chiến đấu liên tục, đến ngày 7-2 ta phải rút ra ngoài củng cố, trừ hướng tây bắc, bộ đội ta vẫn bám trụ đánh địch tại một số khu phố, đến ngày 11-2 mới rút hết.

Tính chung trong đợt đầu tiên đánh vào Đà Lạt, ta đã diệt 1.450 tên địch, có nhiều ác ôn, phá huỷ 22 xe quân sự trong đó có 10 xe bọc thép, bắn rơi 11 máy bay, bắn bị thương 4 chiếc khác, làm chủ một số khu phố.

Ở miền Đông Nam Bộ, phối hợp với trọng điểm Sài Gòn, hầu khắp các tỉnh lỵ, thị xã, thị trấn như Biên Hoà, Long Khánh, Thủ Dầu Một, Tân An... quân và dân ta tiến công và nổi dậy làm chủ nhiều thôn ấp, mở rộng vùng giải phóng.

Tại thành phố Biên Hoà, đúng giao thừa - theo lịch miền Nam (đêm 29 rạng ngày 30-1-1968 ), Sư đoàn 5 chủ lực Miền cùng đặc công và các lực lượng vũ trang địa phương tiến công sân bay Biên Hoà, Tổng kho Long Bình, Bộ chỉ huy dã chiến 2 Mỹ. Sau bốn ngày chiến đấu, ta diệt 5.500 tên, làm chủ ngã ba Tam Hiệp.

Tại Long Khánh, ta chiếm được phần lớn thị xã và trụ lại đánh địch phản kích.

Thị xã Thủ Dầu Một, Tiểu đoàn Phú Lợi cùng các chiến sĩ biệt động thị xã đánh vào Thành công binh, Toà hành chính tỉnh và một số mục tiêu khác. Địch phản kích quyết liệt. Bộ đội ta kiên cường bám trụ đến chiều tối ngày 30-1, không đủ sức tiếp tục chiến đấu, buộc phải rút ra.

Tại Bình Long, quân ta tiến công vào các mục tiêu trong thị xã An Lộc như Toà hành chính, Dinh tỉnh trưởng, cứ điểm Técních, Ty Cảnh sát... làm chủ được phần phía bắc thị xã.

Phước Long, Tiểu đoàn 186 của tỉnh tiến công mãnh liệt thị trấn Phước Bình, diệt hàng trăm tên địch, đánh sập hai lô cốt làm chủ khu phố Kiến Thiết trong hai ngày.

Nhìn chung, trên chiến trường miền Đông Nam Bộ ta đã đồng loạt tiến công vào Sài Gòn và các thị xã, thị trấn diệt và phá huỷ nhiều sinh lực và phương tiện của địch, làm cho chúng phải đối phó rất lúng túng. Nhưng sau đó, địch củng cố phản kích rất quyết liệt; các lực lượng vũ trang ta thương vong, không trụ lại được trong các thị xã, thị trấn buộc phải rút ra các vùng ven đô. Đến giữa tháng 2-1968, chiến sự tại các tỉnh này tạm lắng.
____________________________________
1. Cuộc Tổng công kích - tổng khởi nghĩa của Việt cộng Mậu Thân 1968, Bộ Tổng tham mưu quân lực Việt Nam Cộng hoà phát hành, tr. 317.
2. [i]Lịch sử Khu VI[/i], Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1995, tr. 236.
[/size]


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Tư, 2010, 10:38:01 pm

Kề với miền Đông là các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, so với các chiến trường khác trên toàn miền Nam, đồng bằng sông Cửu Long bước vào Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 có nhiều thuận lợi hơn. Lực lượng địch - nhất là quân Mỹ bố trí trên chiến trường này mỏng, yếu. Chúng chỉ có Sư đoàn 9 đóng căn cứ ở Bình Đức (Mỹ Tho) và Rạch Kiến (Long An), từng lúc, có Sư đoàn 25, Lữ dù 173 đến đánh phá trên chiến trường Long An. Song quân và dân Khu VIII đã xây dựng được những vành đai diệt Mỹ, vây hãm địch trong các căn cứ và tiêu diệt, tiêu hao khi chúng đi càn quét, làm cho quân Mỹ không thể phát triển rộng rãi xuống miền Tây Nam Bộ. Mặt khác, bước vào Đông - Xuân 1967-1968, ta đánh mạnh trên các chiến trường Trị - Thiên, Khu V và miền Đông Nam Bộ, nên địch đã tập trung lực lượng ra đối phó với các hướng này để sơ hở chiến trường đồng bằng sông Cửu Long. Đây lại là chiến trường có nguồn nhân tài vật lực khá dồi dào, phong phú có thể bảo đảm vật chất tại chỗ cho ta tổng tiến công. Các nguồn chi viện từ Bắc vào qua đường mòn trên biển, Campuchia vào đồng bằng sông Cửu Long cũng thuận lợi hơn các nơi khác.

Theo kế hoạch tổng tiến công và nổi dậy đã được xác định, tại Mỹ Tho (trọng điểm 1 của Khu VIII), quân khu tập trung toàn bộ lực lượng chủ lực: Trung đoàn 1 và 2 cùng Tiểu đoàn 514 của tỉnh và năm đội biệt động của thành phố Mỹ Tho đồng loạt tiến công vào các mục tiêu chủ yếu trong thành phố.

Trung đoàn 1 có nhiệm vụ đánh chiếm các mục tiêu: Bộ Tư lệnh Sư đoàn 7 ngụy, tiểu khu, Tiểu đoàn 32 biệt động quân, khu nhà cố vấn Mỹ.

Đêm 29-1-1968, Trung đoàn 1 nhanh chóng vượt sông Bảo Định chia làm ba mũi đánh vào trung tâm thành phố. Mũi thứ nhất theo đường Alếchxăngđrơ Rốt (Alexandre Rhodes) đánh ra lộ Hùng Vương chiếm Trường La San. Mũi thứ hai theo đường Nguyễn Tri Phương đánh xuống hồ Nước ngọt đến bùng binh. Mũi thứ ba từ bến xe sang chiếm bờ đông hồ Nước ngọt, sân bay trực thăng. 7 giờ sáng ngày 30-1-1968, ta chiếm được khu vực bến xe, đường Paxtơ (Pasteur), lộ Giồng Nhỏ, tiến đến hồ Nước ngọt. Khoảng 9 giờ địch đưa hai tiểu đoàn thuộc Sư đoàn 7 ngụy từ căn cứ Hùng Vương ra phản kích. Vừa đến đường Paxtơ và khu vực hồ Nước ngọt, bị ta đánh thiệt hại nặng, chúng buộc phải lùi lại tổ chức trận địa ngăn chặn.

Sáng 31-1-1968, địch lại đưa Lữ đoàn 3 thuộc Sư đoàn 9 Mỹ cùng ba tiểu đoàn của Sư đoàn 7 ngụy, hai chi đoàn xe M113 tiếp tục phản kích. Trung đoàn 1 của ta chặn đánh thiệt hại nặng một tiểu đoàn Mỹ, một tiểu đoàn ngụy, bắn cháy 20 xe M113 và tiếp tục tiến đánh Bộ Tư lệnh Sư đoàn 7. 16 giờ cùng ngày, địch dùng 48 khẩu pháo ở các trận địa xung quanh thị xã và các hạm tàu trên sông bắn cấp tập vào đội hình ta. Địch còn dùng máy bay ném bom và rải xăng đặc từ khu vực hồ Nước ngọt đến bốt Trung An và ngã ba Trung Lương gây nhiều thiệt hại về tính mạng và tài sản của nhân dân. Trung đoàn 1 bị tổn thất nặng phải rút ra vùng ven bám trụ đánh địch phản kích. Trong lúc đó, Tiểu đoàn 514 đánh thiệt hại nặng Tiểu đoàn 32 biệt động quân ở ấp 1 xã Đạo Thạnh.

Trung đoàn 2 đảm trách tiến công các mục tiêu Thiết đoàn 6 ngụy và Trung tâm huấn luyện Hùng Vương. Do bị địch ngăn chặn, đơn vị hành quân đến mục tiêu chậm một ngày, yếu tố bất ngờ không còn nữa, việc đánh chiếm mục tiêu như đã định gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, trung đoàn chuyển sang đánh Chi khu Thuận Tri (Trung Lương) gây thiệt hại nặng chi khu này, diệt 15 đồn trên lộ 4, giải phóng một vùng từ Trung Lương đến ngã ba Đông Hoà.

Các đội biệt động của thành phố một mặt phối hợp với chủ lực của khu đánh các mục tiêu trong nội đô, riêng đội biệt động thuỷ được giao nhiệm vụ đánh chiếm Khám đường để giải thoát cho tù chính trị. Đội diệt được ba lô cốt của Khám đường thì địch cho xe M113 đến phản kích, đơn vị phải chuyển ra diệt lô cốt Cầu Quay, sau đó rút sang Chợ Cũ, nhiệm vụ giải thoát cho tù chính trị không thực hiện được.

Cùng với tiến công quân sự, hàng ngàn quần chúng ở các vùng nông thôn kéo vào thành phố cùng với 500 quần chúng tại chỗ nổi dậy đấu tranh trực diện với địch, đòi tên Tỉnh trưởng và Tư lệnh Sư đoàn 7 ra lệnh ngừng ném bom, bắn pháo bừa bãi gây thiệt hại cho nhân dân. Bằng ba mũi giáp công, quân và dân Mỹ Tho còn bao vây 7 đồn, bức rút 3 đồn, bức hàng 1 đồn, truy lùng và diệt 120 tên tề điệp ác ôn, giải phóng 2 xã Đạo Thạnh và Mỹ Phong.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Tư, 2010, 10:38:47 pm

Tại thị xã Bến Tre (trọng điểm 2 của Khu VIII), chủ trương của tỉnh là tập trung lực lượng giải phóng cho được thị xã. Sau đó từ thị xã sẽ trở ra giải phóng các vùng nông thôn. Thực hiện chủ trương này, toàn bộ lực lượng vũ trang của tỉnh gồm bốn tiểu đoàn bộ binh (516, 2, 3, 4) và các đại đội binh chủng tập trung thành một trung đoàn. Ngoài ra, tỉnh còn xây dựng được bảy tiểu đoàn dân quân du kích và động viên được khoảng 10.000 quần chúng vào cuộc tổng tiến công và nổi dậy. Lực lượng địch ở thị xã Bến Tre có ba tiểu đoàn và một đại đội thám sát của Trung đoàn 10 (Sư đoàn 7), chín đại đội bảo an, dân vệ, Tiểu đoàn 72 đóng giữ ở những vị trí trọng yếu.

Đúng 1 giờ ngày 30-1-1968, ta bắn pháo, cối vào trung tâm hành quân Sở chỉ huy Trung đoàn 10 (Sư đoàn 7 ngụy), Tỉnh đoàn bảo an... Cùng lúc đội đặc công nước của tỉnh nhanh chóng đánh chiếm trại Đinh Tiên Hoàng (bãi quân xa) diệt sáu xe, chiếm giữ đầu cầu phía bắc sông Hàm Luông (Bến Tre), tạo điều kiện cho Tiểu đoàn 516 ở hướng chủ yếu vượt sông đánh chiếm Dinh tỉnh trưởng. Một mũi của tiểu đoàn vừa vượt sông vừa phải đánh tàu địch để chiếm bờ bắc rồi tiến theo đường Hùng Vương. Song vừa đến Bến Lở, địch trong Dinh tỉnh trưởng bắn trả dữ dội. Các đại đội của Tiểu đoàn 516 phải phân tán lực lượng, lợi dụng từng dãy nhà, góc phố chiến đấu với địch. Trong lúc đó, mũi thứ hai của Tiểu đoàn 516 nhanh chóng vượt sông chiếm được bờ bắc và tiến thẳng theo đường Nguyễn Huệ. Ta diệt được một số lô cốt, đánh thiệt hại nặng Đại đội bảo an 289 và một trung đội dân vệ tại cầu Cá Lóc. Ta tiến công đại lộ Phan Thanh Giản (nay là đường Đồng Khởi), nhưng bị địch phản kích quyết liệt. Chúng dùng đại liên, cối 60 bắn chặn đường tiến của ta. Tiểu đoàn 516 phải dừng lại, chưa đánh chiếm được Dinh tỉnh trưởng Bến Tre.

Các tiểu đoàn 2, 3 và 4 tiến công các mục tiêu Sở chỉ huy Trung đoàn 10, trận địa pháo, Đài phát thanh, sân bay Tân Thành... Trong đêm 30-1-1968, ta chiếm và làm chủ hầu hết các mục tiêu trong thị xã và bao vây Dinh tỉnh trưởng. Đến ngày 1-2, lực lượng ta vẫn bám giữ các khu vực trong thị xã mặc dù địch dùng pháo trên các hạm tàu đậu ở sông Hàm Luông và căn cứ Bình Đức (Mỹ Tho) bắn vào thị xã. Các loại máy bay phản lực, máy bay trực thăng quần lượn, ném bom, bắn phá huỷ diệt khu chợ Bến Tre. 16 giờ ngày 1-2, địch dùng trực thăng chở một tiểu đoàn Mỹ từ căn cứ Bình Đức định đổ xuống sân bóng đá thị xã, hòng cứu nguy cho đồng bọn, song ngay từ phút đầu, các lực lượng phòng không của ta bắn bị thương một chiếc buộc chúng phải quay lên sân bay Tân Thành và đổ quân tại đây. Ngày 2-2, địch lại đưa thêm một tiểu đoàn quân Mỹ đổ xuống xã Phú Hưng để cùng với tiểu đoàn Mỹ mà chúng đổ xuống ngày hôm trước từ Tân Thành đánh xuống thị xã. Tiểu đoàn 516, Tiểu đoàn 4 cùng bộ đội đặc công và du kích xã Phú Khương đánh diệt một đại đội tiêu hao nặng một tiểu đoàn quân Mỹ khác. Bị đòn đau, địch cho máy bay ném bom, bắn phá dữ dội vào đội hình ta. Lực lượng ta buộc phải rút ra ngoại ô củng cố, trừ một bộ phận ở lại bao vây Dinh tỉnh trưởng.

Phối hợp với thị xã, ở hầu hết các thị trấn trong tỉnh và vùng nông thôn, ta đồng loạt tiến công và nổi dậy làm tan rã phần lớn bộ máy kìm kẹp ở xã ấp, bức hàng, bức rứt 40 đồn bốt, giải phóng 4 xã, 25 ấp.

Thành phố Cần Thơ, thủ phủ của miền Tây Nam Bộ (Khu IX) và cả đồng bằng sông Cửu Long. Đây là nơi tập trung cơ quan đầu não Vùng IV chiến thuật và Quân đoàn IV ngụy. Trung ương Cục, Bộ chỉ huy Miền và Quân khu IX đều xác định Cần Thơ không chỉ là trọng điểm 1 của quân khu mà còn là trọng điểm tổng tiến công và nổi dậy của cả đồng bằng sông Cửu Long. Để tăng cường chỉ đạo cho vùng trọng điểm này, đồng chí Vũ Đình Liệu, Phó Bí thư Khu uỷ được cử xuống trực tiếp làm Bí thư Tỉnh uỷ Cần Thơ. Ban chỉ đạo cuộc tổng tiến công và nổi dậy ở Cần Thơ được thành lập gồm các đồng chí: Trần Văn Long - Thường vụ Khu uỷ, Phó Chính uỷ quân khu, Vũ Đình Liệu - Bí thư Tỉnh uỷ Cần Thơ, Phạm Ngọc Sến - Phó Bí thư, Nguyễn Việt Châu - Bí thư Thành uỷ Cần Thơ, Dương Cự Tẩm - Phó Chính uỷ quân khu, Đồng Văn Cống - Tư lệnh quân khu, Phạm Ngọc Hưng - Phó Tư lệnh quân khu, Chín Hiền - Lữ đoàn trưởng. Các mục tiêu tiến công trong thành phố được xác định gồm: Sở chỉ huy Quân đoàn IV (Vùng IV chiến thuật), Tiểu khu Phong Dinh, Sở chỉ huy lực lượng quân trấn Cần Thơ, Trung tâm chỉ huy địa phương quân Vùng IV, Đài phát thanh, Cư xá tình báo và cố vấn Mỹ, Toà lãnh sự quán Mỹ, sân bay Lộ Tẻ (Không đoàn 73), sân bay Trà Nóc (Không đoàn 74), căn cứ 2 Trung đoàn thiết giáp, căn cứ liên đoàn biệt động quân số 42, 44, căn cứ các tiểu đoàn bảo an, biệt kích và thám báo.

Đúng 3 giờ sáng 30-1-1968, ta đồng loạt nổ súng tiến công vào các mục tiêu đã định.

Từ hướng nam, sau loạt pháo bắn chế áp vào Sở chỉ huy Quân đoàn IV (Vùng IV chiến thuật), đội biệt động thành phố diệt đơn vị cảnh sát dã chiến ở Đầu Sấu mở đường cho Tiểu đoàn Tây Đô đánh chiếm Lãnh sự quán và cơ quan tình báo Mỹ trên đường Hùng Vương. Tiểu đoàn 307 đánh chiếm Đài phát thanh, khu vực hậu cần và Trung tâm nhập ngũ Vùng IV chiến thuật.

Ở hướng bắc, Tiểu đoàn 303 và đặc công đánh sân bay Lộ Tẻ. Đại đội 3 của tiểu đoàn vượt qua được khu thông tin của địch. Bộ phận còn lại không qua được vì địch đưa chiến xa M113 ra chia cắt. Không được tiếp ứng, Đại đội 3 bị tổn thất nặng. Sáng 31-1, Tiểu đoàn 303 phải rút ra bám trụ sau sân bay (đoạn từ cầu Tham Tướng đến cầu Rạch Ngỗng).

Thời gian này, Tiểu đoàn 309 còn đang làm công tác vũ trang tuyên truyền ở Phụng Hiệp (do nhận lệnh chậm). Ngày 31-1-1968, đơn vị 309 mới cấp tốc hành quân lên Cần Thơ cùng các đơn vị bạn đánh vào khu vực cầu Tham Tướng, khu văn hoá, làm chủ địa bàn này. Đây cũng là lúc địch bắt đầu phản kích quyết liệt. Chúng dùng pháo và máy bay ném bom bắn phá bừa bãi vào nội đô nhằm ngăn chặn các mũi tiến công của ta. Cán bộ, chiến sĩ của ta vẫn kiên cường bám trụ đánh địch phản kích tại các khu vực đã chiếm được. Đến ngày 2-2-1968, áp lực của địch ngày càng tăng, ta thương vong nhiều, các tiểu đoàn lần lượt rút ra vùng ven lộ Vòng Cung bám trụ và liên tục đánh địch phản kích. Ngày 4-2-1968, ta đánh thiệt hại nặng tiểu đoàn 42 và 44 biệt động quân. Đêm 6-2, ta tập kích vào Tiểu đoàn 2 (Sư đoàn 21 ngụy) và một đại đội bảo an, diệt 60 tên. Ngày 5-2, ta pháo kích sân bay Trà Nóc và sân bay Lộ Tẻ, phá huỷ một số máy bay địch.

Phối hợp với tiến công quân sự, lực lượng chính trị của quần chúng nổi dậy bao vây đồn bốt, phá ấp chiến lược và phục vụ chiến đấu (dẫn đường, tiếp tế lương thực thực phẩm, cứu chữa, nuôi giấu thương binh...). Hàng ngàn thanh niên ở các huyện phía sau được huy động bổ sung cho các đơn vị chủ lực của khu, tỉnh nhằm bảo đảm cho chiến đấu được liên tục, lâu dài.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Tư, 2010, 11:29:51 pm

Trọng điểm 2 của Khu IX là thị xã Vĩnh Long - trung tâm điều hành và là điểm xuất phát hành quân đánh phá chiến trưởng Vĩnh - Sa - Trà (Vĩnh Long - Sa Đéc - Trà Vinh) của Mỹ - ngụy. Xác định vị trí quan trọng của Vĩnh Long trong Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, quân khu đã tăng cường cho tỉnh hai tiểu đoàn 306 và 308. Tỉnh có Tiểu đoàn 857 và Tiểu đoàn 2 (mới thành lập), một đại đội đặc công, một đại đội pháo binh 2001, đội biệt động thị xã. Hướng tiến công chủ yếu là nội đô thị xã với mục tiêu quan trọng nhất là Tiểu khu Vĩnh Long do các tiểu đoàn 306, 308 và lực lượng biệt động của thị xã đảm nhiệm. Còn lại Tiểu đoàn 857 và Tiểu đoàn 2, đại đội đặc công, đại đội pháo binh phụ trách khu vực sân bay với các mục tiêu sân bay Vĩnh Long, Bộ Tư lệnh Sư đoàn 9 và Thiết đoàn 2.

Đúng 1 giờ 30 phút ngày 30-1-1968, từ hướng nam, Tiểu đoàn 306 do đồng chí Nguyễn Đệ chỉ huy đột nhập vào nội đô đồng loạt nổ súng. Bị đánh bất ngờ, địch chống trả yếu ớt, tiểu đoàn nhanh chóng chiếm được khu truyền tin Hoa Lư, Bệnh viện Nguyễn Trung Trực, bao vây và khống chế Dinh tỉnh trưởng, Ty Cảnh sát, Tiểu đoàn 46 bảo an, hậu cứ Tiểu đoàn 43 biệt động quân.

Hướng bắc, Tiểu đoàn 308 vượt sông gặp khó khăn, chỉ có 50 cán bộ, chiến sĩ đi đầu vào được thị xã, đánh chiếm khu Trường Tống Phước Hiệp. Tại đây, địch phản kích quyết liệt, lực lượng ta không phát triển được, bị địch bao vây, thương vong lớn buộc phải rút ra.

Hướng sân bay, đại đội đặc công bí mật đột nhập sâu vào sân bay dùng lựu đạn, thủ pháo phá huỷ máy bay địch. Sau một giờ chiến đấu ta đã phá huỷ, phá hỏng hàng chục chiếc trực thăng, hai chiếc máy bay trinh sát L19. Trong lúc đó, đại đội pháo binh bắn phá khu chuyên viên kỹ thuật và nhà ở của giặc lái Mỹ, hậu cứ Bộ Tư lệnh Sư đoàn 9 ngụy. Tiểu đoàn 857 đánh vào Sở chỉ huy Thiết đoàn 2; Tiểu đoàn 2 đánh chiếm Dinh Quận Mới, hậu cứ Thiết đoàn 2, phá huỷ 10 xe quân sự, chiếm khu căn cứ cố vấn Mỹ và một phần trận địa pháo binh Sư đoàn 9 ngụy, phá hỏng sáu khẩu pháo 105 mm. Địch ở thị xã tập trung lực lượng kể cả xe bọc thép M113, máy bay và pháo hạm trên sông phản kích quyết liệt. Các đơn vị của ta quyết tâm củng cố trận địa tại các vị trí đã chiếm được đánh lui nhiều đợt phản kích của địch.

Trong hai ngày (31-1 và 1-2-1968 ), ta vẫn làm chủ các khu vực đã chiếm, đồng thời tiếp tục tiến công địch. Tiểu đoàn 306 sau khi diệt Tiểu đoàn 43 biệt động quân, tổ chức đánh lấn từng khu vực, chiếm được Toà hành chính tỉnh, đánh bại hàng chục đợt phản kích của địch, bắn cháy 15 xe M113, bắn rơi 5 trực thăng. Tiểu đoàn 308 lợi dụng sơ hở của hải quân Mỹ, vượt sông Long Hồ chiếm một góc Dinh tỉnh trưởng (đường Gia Long).

Ngày 2-2, địch dùng máy bay trực thăng phun lửa huỷ diệt các khu phố trong nội đô, sau đó tập trung lực lượng bộ binh dưới sự yểm trợ của xe bọc thép M113 tiếp tục phản kích hòng đẩy lực lượng ta ra khỏi thị xã. Tiểu đoàn 306 lúc này được bổ sung thêm 500 quân, phần lớn là bộ đội địa phương và du kích tình nguyện đã cùng nhân dân và lực lượng tại chỗ dập lửa bảo vệ tài sản cho đồng bào và cứu chữa những người bị thương. Đồng thời, cán bộ, chiến sĩ trong tiểu đoàn bám công sự, kiên quyết giữ vững trận địa, đẩy lùi các đợt phản kích của địch. Đến ngày 3-2-1968, ta đã chiếm phần lớn thị xã, chỉ còn lại Dinh tỉnh trưởng.

Hoảng sợ trước sức tiến công của Quân giải phóng và để bảo toàn tính mạng, Tỉnh trưởng Huỳnh Ngọc Điệp xuống tàu chạy trốn.

Trước nguy cơ thị xã Vĩnh Long thất thủ, ngày 4-2-1968, sau khi dùng pháo hạm trên sông bắn phá, máy bay ném bom vào nội đô và vùng ven thị xã, địch dùng trực thăng đổ hai tiểu đoàn thuộc Lữ đoàn 2 (Sư đoàn 9 bộ binh Mỹ) xuống phía sau lộ Cầu Vồng từ Quận Mới đến căn cứ 80, cùng quân ngụy hình thành hai mũi bao vây quân ta trong thị xã. Trước tình hình địch tăng cường lực lượng phản kích quyết liệt, hòng chiếm lại thị xã, Ban chỉ huy mặt trận nhận định: sau sáu ngày đêm chiến đấu ác liệt, ta thương vong nhiều. Nếu giữ quyết tâm đánh chiếm toàn bộ thị xã và trụ lại như kế hoạch sẽ khó bảo toàn lực lượng. Vì vậy cần hết sức khẩn trương tổ chức lực lượng đánh diệt một bộ phận quân Mỹ, đồng thời rút toàn bộ lực lượng ra vùng ven gài thế đánh viện, bao vây thị xã, giải phóng nông thôn. Thực hiện kế hoạch này, 23 giờ ngày 4-2, Tiểu đoàn 306 tập kích một cụm quân Mỹ ở nam cầu Cá Trê diệt một đại đội, loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên, mở đường đưa toàn bộ thương binh và tiểu đoàn cơ động ra Phước Hậu, cách thị xã 5 km về phía nam.

Như vậy, Vĩnh Long đã tiến công và làm chủ thị xã trong sáu ngày đêm. Trong sáu ngày đó, “quân và dân Vĩnh Long đã loại khỏi vòng chiến đấu 9.800 tên, có hàng trăm tên Mỹ, trong đó, số chết 4.529 tên, bị thương 2.776 tên, bị bắt và đầu hàng 421 tên, đào rã ngũ 2.074 tên (có 1.200 phòng vệ dân sự và cảnh sát). Ta tiêu diệt 16 đại đội, đánh thiệt hại nặng 4 tiểu đoàn, bắn chìm và bắn cháy 12 tàu chiến trên sông, phá huỷ và bắn rơi 72 máy bay Mỹ, bắn cháy và phá huỷ 70 xe quân sự, có 38 xe M113 và M118, phá huỷ 15 khẩu pháo 105mm và súng cối... Ta hy sinh 228 đồng chí, bị thương 382 đồng chí, bị bắt 10, mất tích 16 đồng chí”1.

Với việc làm chủ thị xã trong sáu ngày, Vĩnh Long cùng Buôn Ma Thuột (Đắc Lắc) giữ được thị xã lâu vào hàng thứ hai (sau thành phố Huế) trên toàn Miền.
___________________________________
1. Vĩnh Long Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1996, tr. 48.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Tư, 2010, 11:32:30 pm

Cùng với các trọng điểm của Khu VIII, Khu IX, ở hầu khắp các thị xã, thị trấn trên chiến trường đồng bằng sông Cửu Long, quân và dân ta cũng đồng loạt tiến công và nổi dậy.

Thị xã Mộc Hoá, trọng điểm tiến công và nổi dậy của tỉnh Kiến Tường. Chuẩn bị cho tổng tiến công và nổi dậy, Tiểu đoàn 504 của tỉnh phải đưa về khu. Tỉnh thành lập tiểu đoàn mới (lấy từ các huyện lên). Do phải hành quân xa và vượt sông Vàm Cỏ Tây về thị xã nên ngày 30-1-1968, các đơn vị ở hướng chủ yếu vẫn chưa tiếp cận được mục tiêu. 4 giờ sáng ngày 31-1, cuộc tiến công vào thị xã mới bắt đầu. Tuy đã được cảnh báo trước, song địch vẫn không chống đỡ nổi với cánh quân ta tiến từ hướng đông. Một số địch tháo chạy về phía cầu Cá Rô, số khác ra hàng. Mặc dầu vậy, cánh Tây, lực lượng ta không đến kịp để phối hợp như kế hoạch. Địch củng cố lại lực lượng và tiến hành phản kích, lực lượng cánh Đông bị đẩy lùi và thiệt hại nặng. Đòn tiến công quân sự thực hiện không trọn vẹn, lực lượng chính trị và binh vận cũng không phát huy được hiệu lực. Cuộc tiến công và nổi dậy ở đây đạt kết quả hạn chế.

Tại thị xã Cao Lãnh (trọng điểm tiến công và nổi dậy của tỉnh Kiến Phong), ngày nổ súng cũng bị chậm do các lực lượng bảo đảm không vận chuyển đạn dược và thuốc nổ đến kịp. Đúng 1 giờ ngày 31-1-1968, các lực lượng ta nổ súng tiến công vào thị xã. Tiểu đoàn 1 trên hướng chủ yếu đánh vào Dinh tỉnh trưởng. Địch đề phòng trước, chúng chiếm các điểm cao và địa hình có lợi, tập trung các loại hoả lực đánh chặn rất quyết liệt. Tiểu đoàn 1 phải phân tán từng phân đội nhỏ, lợi dụng các dãy nhà, góc phố chiến đấu với địch, song cũng không đánh chiếm được mục tiêu và không phát triển sâu được vào trong thị xã. Tiểu đoàn 2 (hướng thứ yếu) tiến công vào cư xá Mỹ, đánh thiệt hại Tiểu đoàn 2 (Trung đoàn 16, Sư đoàn 9 ngụy). Địch dùng đạn hoá học ngăn chặn, ta không dứt điểm được mục tiêu.

Ngày 1-2, lực lượng ta tiếp tục bám đánh địch trong thị xã nhưng không phát triển được.

Từ ngày 2 đến ngày 6-2, lực lượng ta rút ra các xã vùng ven, từng lúc đánh vào nội đô thị xã, hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy diệt ác ôn, phá thế kìm kẹp.

Tính chung trong bảy ngày tiến công và nổi dậy, quân và dân Kiến Phong diệt 500 tên địch, đánh thiệt hại nặng Tiểu đoàn 41 biệt động quân và Tiểu đoàn 2 (Trung đoàn 16, Sư đoàn 9), gỡ 20 đồn bốt, giải phóng 3 xã Hoà An, Tân Thuận Đông, Tân Thuận Tây, 16 ấp với 50.000 dân1.

Tại thị xã Châu Đốc, trọng điểm tiến công của tỉnh An Giang, vào lúc 2 giờ ngày 30-1-1968, lực lượng vũ trang của tỉnh (một tiểu đoàn) cùng lực lượng chính trị, binh vận đồng loạt tiến công vào các mục tiêu chủ yếu trong thị xã. Chỉ sau vài giờ chiến đấu, các cánh quân của ta đã đánh chiếm hầu hết các mục tiêu. Đến 6 giờ, địch chỉ còn 10 cụm. Chúng tử thủ ở Dinh tỉnh trưởng, nhà Phủ Vị. Chiều 31-1, địch dùng máy bay ném bom và bắn pháo phá huỷ một số khu vực trong thị xã. Đồng thời chúng đổ một tiểu đoàn thuộc Sư đoàn 21 ngụy xuống sân bay, một đại đội xuống cánh đồng hướng kênh Lò Heo kết hợp với lực lượng tại chỗ phản kích vào nội đô thị xã. Bộ đội ta chiến đấu quyết liệt, diệt nhiều tên địch, bắn cháy, bắn hỏng một số xe M113. Song nhận thấy tình thế bất lợi, nên đêm 31-1, ta rút toàn bộ lực lượng ra khỏi thị xã, trừ một bộ phận chốt giữ cầu. Sáng 1-2, địch phản kích, bộ phận chốt giữ cầu chiến đấu dũng cảm và hy sinh gần hết để chặn địch, bảo đảm cho lực lượng ta rút quân an toàn.

Tại Trà Vinh, lúc 0 giờ ngày 30-1, tiểu đoàn 501 và 509 của tỉnh cùng các đại đội đặc công, pháo binh và bộ đội địa phương các huyện Châu Thành, Càng Long chia ba cánh tiến công vào thị xã. Cánh 1 từ Vàm Trà Vinh đánh vào Dinh tỉnh trưởng. Ta chiếm được một góc dinh, mở cửa khám giải thoát cho hàng trăm cán bộ, chiến sĩ ta bị chúng giam giữ tại đây. Cánh 2 từ Đa Lộc, Tri Tôn đánh chiếm khu vực Rạp hát Thái Bình, cầu Long Bình làm chủ khu vực này. Cánh 3 đánh sân bay, Sở chỉ huy Trung đoàn 14 (Sư đoàn 9).

Cùng với tiến công quân sự, sáng 30-1, quần chúng trong nội đô nổi dậy, kéo vào các trụ sở ngụy quyền và đồn bốt, kêu gọi chồng, con, em mình quay về với cách mạng. 13 giờ, Tiểu đoàn 2 (Trung đoàn 14, Sư đoàn 9) từ Cầu Ngang về phản kích giải vây Dinh tỉnh trưởng. Ta chuyển sang đánh địch phản kích. Cuộc chiến đấu trong nội đô trở nên gay go, quyết liệt, ta không dứt điểm được thị xã. Tỉnh uỷ Trà Vinh chủ trương rút toàn bộ lực lượng ra khỏi thị xã, về các huyện tranh thủ thời cơ địch đang tập trung đối phó ở thị xã, mở rộng vùng giải phóng. Đến ngày 5-2-1968, quân dân Trà Vinh đã tiêu diệt và làm tan rã khoảng 5.000 tên địch, bức hàng, bức rút 50 đồn bốt, giải phóng thêm 14 xã, 5 ấp với trên 100.000 dân.
___________________________________
1. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1998, tr. 166.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Tư, 2010, 11:33:06 pm

Tại Sóc Trăng, ngày 30-1-1968, Tiểu đoàn Phú Lợi (lực lượng vũ trang của tỉnh) đánh vào trung tâm thị xã chiếm toàn bộ khu hậu cần, khu gia binh rồi phát triển đến Dinh tỉnh trưởng. Đại đội 301 (của huyện Vĩnh Châu) đánh vào khu cư xá Mỹ, Đại đội 247 (trực thuộc tỉnh) đánh chiếm khu vực hồ Nước ngọt. Một mũi khác đánh sân bay Sóc Trăng. Sau khi chiếm được một số mục tiêu, các đơn vị trụ lại trong thị xã đánh địch phản kích suốt ba ngày liền nhưng sau đó bị thương vong nhiều, buộc phải rút khỏi thị xã về bám trụ tại vùng ven đánh địch.

Tại Bạc Liêu, lực lượng vũ trang tỉnh chia làm hai mũi tiến công vào thị xã. Mũi chủ yếu có một tiểu đoàn bộ binh và một trung đội biệt động. Do nước lớn, bộ đội không vượt được sông theo đúng thời gian quy định. Sáng 30-1-1968, mũi này mới dùng xuồng vượt kênh xáng Bạc Liêu đánh chiếm phường 5, phường 6 sau đó rút ra cầu Kim Cấu - Vĩnh Trạch. Mũi thứ yếu có bốn trung đội bộ binh, một đại đội hoả lực và một đại đội dân quân tiến công từ Châu Thới, qua Tân Tạo tiến đến đầu sân bay rồi phá khám lớn giải thoát cho cán bộ, chiến sĩ và đồng bào bị địch giam giữ ở đây. Sau đó phát triển chiếm bệnh viện, đánh cứ điểm pháo binh của Sư đoàn 21 đóng ở bốt Hội đồng Điều. Địch phản kích quyết liệt, ta không trụ lại được trong thị xã, cứ đêm đánh vào nội đô, ngày lại rút ra, dai dẳng suốt nhiều ngày không dứt điểm được.

Ở thị xã Cà Mau, lúc 0 giờ ngày 30-1-1968, Tiểu đoàn U Minh 2 nổ súng tiến công đánh chiếm chùa Phật Tổ và đột nhập vào các phường 2, 3, 4 làm chủ một đoạn đường dài 2 km trong thị xã. Tiểu đoàn U Minh 3, tuy nổ súng sau 1 giờ (vì đến chậm) vẫn đánh chiếm được một số mục tiêu quan trọng như Nhà thương mới, tiểu khu... Do thiếu chất nổ, đơn vị không mở được cổng Toà hành chính và Dinh tỉnh trưởng. Sáng 31-1-1968, địch cho máy bay ném bom vào trận địa Tiểu đoàn U Minh 3, đồng thời đưa Tiểu đoàn 2 (Trung đoàn 32 ngụy) đánh phía sau đội hình của đơn vị. Tiểu đoàn đã chiến đấu quyết liệt với địch, diệt một đại đội lính cộng hoà.

Cùng lúc, ở phía nam thị xã, du kích các huyện Cái Nước, Ngọc Hiển và các xã Lợi An, Lương Thế Trân, Thanh Điền hình thành một mũi tiến vào nội đô. Lực lượng này đột nhập phường 8, 9 giải tán tề và phòng vệ dân sự, diệt ác ôn, làm chủ địa bàn.

Phối hợp với thị xã, quân dân huyện Duyên Hải (Ngọc Hiển) bao vây Chi khu Năm Căn suốt 15 ngày buộc địch phải rút chạy về Đồng Cùng. Nhân dân nổi dậy diệt ác ôn, phá kìm kẹp, san bằng chi khu, giải phóng hoàn toàn huyện.

Tại Rạch Giá, 3 giờ sáng 30-1, Tiểu đoàn 207 (của tỉnh) chia làm nhiều mũi đánh vào nội đô. Sau 15 phút chiến đấu, ta làm chủ một góc trung tâm hành quân của tiểu khu, Nhà bưu điện, Trại cảnh sát, Ty Ngân khố, sau đó phát triển đánh sang Dinh tỉnh trưởng, Khám lớn. Đến Cầu Đôi, lực lượng biệt động dẫn đường hy sinh gần hết, bộ đội không thông thuộc địa bàn nên không phát triển tiếp được. Địch bắt đầu phản kích. Các lực lượng ta chiến đấu dũng cảm, song không đánh chiếm được các mục tiêu như phương án đã đề ra lại bị thương vong nhiều. 5 giờ sáng, ta buộc phải rút ra Rạch Giồng chuẩn bị đánh địch phản kích và mở đợt tiến công tiếp.

Phối hợp với đòn đánh vào thị xã, lực lượng vũ trang, bán vũ trang và nhân dân các huyện trong tỉnh bằng ba mũi giáp công nổi dậy bao vây chi khu, bức rút nhiều đồn bốt, giải phóng một số vùng nông thôn.

Như vậy Tết Mậu Thân 1968, gần như trong cùng một lúc (tập trung vào ba ngày 30, 31-1 và 1-2 tức mùng 1, mùng 2 và mùng 3 Tết - theo lịch miền Nam) hầu khắp các thành phố và thị xã, thị trấn trên toàn miền Nam, thực hiện kế hoạch tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt, đánh vào các cơ quan đầu não từ trung ương đến địa phương của địch.

Những ngày đầu, bị đánh bất ngờ, địch bị động đối phó. Có nhiều nơi như Mỹ Tho, Bến Tre... địch phải dùng máy bay ném bom và bắn phá huỷ diệt từng khu phố. Đó là biểu hiện của sự bất lực trước sức tiến công mãnh liệt của Quân giải phóng và sự tàn ác, phi nhân tính của Mỹ và bè lũ tay sai.

Cuộc tổng tiến công vào các thành phố, thị xã giảm dần, trừ mặt trận Đường 9 - Khe Sanh chiến sự đang quyết liệt.

Tại đây, sau khi diệt cứ điểm Làng Vây (7-2-1968 ), Bộ Tư lệnh chiến dịch quyết định vây hãm Tà Cơn, buộc địch phải đưa quân đến giải toả đúng ý đồ chiến lược như đã đặt ra lúc ban đầu. Cuộc vây hãm Tà Cơn bắt đầu từ ngày 10-2-1968. Sư đoàn 325 hoạt động ở hướng bắc và tây bắc Tà Cơn kiềm chế địch ở các điểm cao 845, 832 và Động Tri tìm cách diệt một đến hai cứ điểm phòng ngự của địch, mở đường vào vây hãm chặt hơn nữa.

Ở phía nam, Trung đoàn 9 (Sư đoàn 304) tổ chức các tiểu đoàn luân phiên vào vây lấn. Trung đoàn 24 và 66 sẵn sàng đánh quân tiếp viện.

Do phải đối phó với cuộc Tổng tiến công của ta ở Trị - Thiên - Huế và ta đánh chưa đủ mạnh ở mặt trận Đường 9, nên địch chưa đưa quân giải toả mà chủ yếu dừng hoả lực phi pháo bắn phá vào các trận địa vây lấn của ta, đồng thời sử dụng lực lượng tại chỗ chiếm giữ thêm điểm cao 550 ở phía bắc, 595 và 573 ở phía tây để hoàn chỉnh trận địa cố thủ Tà Cơn.

Trước tình hình đó, Bộ Tư lệnh chiến dịch chuyển phương án từ vây hãm sang vây lấn, tích cực tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch, phá huỷ phương tiện chiến tranh, triệt tiếp tế đường không, cắt tiếp tế đường bộ, đưa địch vào thế khốn quẫn hơn nữa, bức chúng phải đưa quân ra ứng cứu giải toả càng sớm càng tốt.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Tư, 2010, 11:34:10 pm

Giữa tháng 2-1968, Sư đoàn 325 được điều vào Tây Nguyên, Trung đoàn 66 vào thay thế Sư đoàn 325. Trước đó, thực hiện chủ trương vây hãm, ta chủ yếu dùng hoả lực cối 82 mm, súng máy 12,7 mm kiềm chế địch từ xa. Nay tiến hành vây lấn, Trung đoàn 66 chỉ để một lực lượng nhỏ kiềm chế điểm cao 832 và 845, lực lượng còn lại áp sát hàng rào, dùng mìn định hướng phá vật cản, đào hầm, hào tiến dần vào bên trong cứ điểm, uy hiếp trực tiếp Tà Cơn ở phía tây.

Phía nam Tà Cơn, cuối tháng 2-1968, các mũi vây lấn của Trung đoàn 9 đã cách tiền duyên phòng ngự địch 40-50m. Đêm 28-2 và ngày 1, 2-3 ta đã tổ chức đánh chiếm một số đoạn chiến hào nhưng không thành.

Hướng bắc và đông Tà Cơn, do địa hình quá hiểm trở, ta không có đủ lực lượng để uy hiếp địch.

Cuộc bao vây của ta ngày càng siết chặt, địch trong cứ điểm Tà Cơn gặp nhiều khó khăn trong sinh hoạt. Việc tiếp tế của chúng phải thực hiện chủ yếu vào ban đêm, tinh thần binh lính địch hết sức căng thẳng. Chúng cố phản kích tại chỗ nhằm đẩy lực lượng ta ra xa. Trong hơn một tháng từ cuối tháng 2 đến cuối tháng 3-1968, địch đã bốn lần tổ chức phản kích nhưng đều thất bại. Lần thứ nhất vào ngày 25-2-1968, địch dùng hai đại đội thủy quân lục chiến Mỹ chia thành hai mũi đánh vào chốt của một đơn vị thuộc Trung đoàn 66 chiếm giữ. Trận đánh kéo dài từ 8 giờ sáng đến 14 giờ 45 phút chiều. Kết quả, ta diệt hơn 100 tên, số còn lại bỏ chạy. Ngày 8-3, địch lại dùng một đại đội biệt kích ngụy đánh vào chốt của một phân đội thuộc Trung đoàn 9 chiếm giữ ở đông nam Tà Cơn. Ta có lợi thế ở trên cao, tầm khống chế rộng, nên sớm phát hiện địch và khi chúng lọt vào tầm hoả lực của ta thì tiêu diệt. Lần thứ 3, ngày 28-3, một đại đội Mỹ đánh ra chốt 3 ở phía tây (Châu Lang Chánh) cũng bị ta đẩy lùi. Ngày 30-3, địch đưa hai đại đội Mỹ, hai đại đội ngụy có xe tăng, pháo binh yểm hộ đánh chốt 3 lần thứ hai. Sau nửa ngày chiến đấu, ta diệt 300 tên.

Sau bốn lần phản kích không đẩy được quân ta ra xa trận địa, ngược lại bị tổn thất nặng, địch chuyển sang dùng không quân ném bom kết hợp pháo binh bắn phá ác liệt vào đội hình ta. Bộ đội ta vẫn kiên cường bám trụ. Suốt 50 ngày đêm vây lấn Tà Cơn, ta đã tiêu hao tiêu diệt thêm một bộ phận sinh lực địch (chủ yếu là Mỹ), thu hút phần lớn hoả lực của không quân và pháo binh Mỹ ra Đường 9 - Khe Sanh, tạo thuận lợi cho các chiến trường khác, trực tiếp là thành phố Huế tiếp tục tiến công và nổi dậy.

Trên toàn miền Nam, sau một thời gian củng cố, tổ chức, xốc lại đội hình, từ ngày 17-2-1968, quân và dân ta lại đồng loạt tiến công vào hàng chục thành phố, thị xã, hàng trăm thị trấn, quận lỵ và nhiều căn cứ quân sự của địch.

Tại mặt trận Tây Nguyên, chỉ trong vòng chưa đầy một tháng (từ ngày 17-2 đến ngày 15-3-1968 ), ta đã đánh trên 100 trận, loại khỏi vòng chiến đấu hàng ngàn tên địch, đa số là Mỹ. Nổi bật về thành tích chiến đấu là Trung đoàn 95, đơn vị đặc trách đánh giao thông trên đường 19. Trong tháng 3-1968, trung đoàn đã diệt 145 xe quân sự các loại. Cùng với Trung đoàn 95 có Trung đoàn 18 (diệt 98 xe, bắn rơi 17 máy bay), Trung đoàn 320 (diệt Tiểu đoàn 4 - Trung đoàn 45 ngụy ở bắc Buôn Ma Thuột), Tiểu đoàn 6 - Trung đoàn 24 (diệt 2 đại đội của Lữ đoàn dù 173 Mỹ ở Kon Tum).

Ở cực nam Trung Bộ, ngày 18-2-1968, Tiểu đoàn 840 và Đại đội 482 đặc công đánh vào thị xã Phan Thiết (trọng điểm 1 của Khu VI). Mục tiêu chính của lần tiến công này là Tiểu khu Bình Thuận, Ty Cảnh sát và Nhà lao. Sau bốn ngày chiến đấu, ta chiếm giữ một số mục tiêu, phá được nhà lao, giải thoát cho 780 người bị địch giam giữ. Địch phản kích quyết liệt, chúng dừng máy bay và pháo hạm ném bom, bắn phá bừa bãi vào trung tâm thị xã, ta phải chuyển lực lượng ra vùng ven tiếp tục đánh địch giải toả. Tại trọng điểm 2 (Đà Lạt), Tiểu đoàn 186 cùng Đại đội 810 và Đội biệt động 860 của tỉnh đánh vào Trường chiến tranh chính trị, trận địa pháo, khu ấp Đa Thành, từ đó phát triển tiến công vào trung tâm thành phố. Vào đến tuyến Kim Thạch - Vạn Kiếp, lực lượng ta bị Liên đoàn 2 biệt động quân ngụy ngăn chặn. Sau khi đánh, diệt hàng trăm tên địch, đến 21 giờ ngày 19-2, ta rút khỏi vùng Kim Thạch. Trong lúc đó ở hướng tây nam của thành phố, Tiểu đoàn 145 (thiếu), Đại đội 816, Đội biệt động 820 đánh chiếm các ấp Du Sinh, An Thành, Nam Thiên... pháo kích tiểu khu và Toà hành chính ngụy, song ta cũng bị địch ngăn chặn không phát triển được. Trước tình hình đó, ngày 21-2-1968, Bộ chỉ huy tiền phương quyết định chuyển phần lớn lực lượng của Tiểu đoàn 186 và Tiểu đoàn 145 về hoạt động ở nông thôn (trọng điểm là huyện Đức Trọng) chỉ để lại Đại đội 810 và các đội biệt động tiếp tục đánh nhỏ, kìm giữ địch.

Ở Nam Bộ, cùng với trọng điểm Sài Gòn, đêm 17 rạng ngày 18-2-1968, ta đồng loạt tiến công vào 11 thị xã, 17 thị trấn, 7 sân bay.

Tại Mỹ Tho, sau cao điểm 1, địch đã tăng cường lực lượng phòng thủ thành phố, nên bước vào cao điểm 2, đêm 17-2-1968, chỉ có một bộ phận Tiểu đoàn 514 thọc được vào hướng đông nam thành phố, diệt một xe M113, một lô cốt tại cầu Quay, bắn cháy một tàu trên sông Bảo Định. Còn lại trung đoàn 1 và 2 của quân khu từ ngày 19 đến ngày 29-2-1968 không đánh được vào trong nội đô mà chỉ đánh địch phản kích ở các xã vùng ven như Đạo Thạnh, Mỹ Phong, Thanh Bình, Mỹ Tịnh An...

Thị xã Châu Đốc, lực lượng ta cũng không đánh sâu được vào trong mà chỉ tiến công vào sân bay Mỹ Đức và điểm cao Núi Sam.

Thành phố Cần Thơ, từ vùng ven lộ Vòng Cung (nơi các lực lượng vũ trang ta rút ra trụ lại đánh địch từ ngày 4-2-1968 ), 1 giờ sáng ngày 18-2, một bộ phận đặc công và Tiểu đoàn 307 (của quân khu) tiến công sân bay Lộ Tẻ, phá huỷ 29 máy bay (phần lớn là trực thăng), đốt cháy một kho xăng dầu và một kho đạn rốc két, phá huỷ hai xe vận tải.

8 giờ sáng, ta rút khỏi sân bay. Địch dùng Tiểu đoàn 42 biệt động quân đuổi theo quân ta đến rạch Rau Răm. Tại đây Tiểu đoàn 307 chiến đấu quyết liệt, đánh thiệt hại nặng tiểu đoàn này.

Cũng trong ngày 18-2, địch đưa Tiểu đoàn 3 (Lữ đoàn 2, Sư đoàn 9) cùng ba tiểu đoàn chủ lực và bảo an ngụy, có một chi đoàn M113 và máy bay yểm trợ mở cuộc hành quân phản kích vào An Bình và Long Tuyền (hai xã thuộc ngoại ô thành phố Cần Thơ). Đây là lần đầu tiên bộ binh Mỹ trực tiếp tham chiến ở miền Tây Nam Bộ. Các lực lượng ta chặn đánh quyết liệt diệt gần 300 tên địch, bắn rơi 2 máy bay.

Sáng 20-2, một tiểu đoàn khác của Lữ đoàn 2 tổ chức đánh vào sau lưng đội hình ta. Lực lượng này bị ta chặn đánh, diệt gọn một đại đội.

Liên tục trong tháng 3-1968, các đơn vị thuộc quân khu, tỉnh và thành phố hoạt động trên địa bàn Cần Thơ tiến công vào lực lượng địch đi giải toả, diệt hàng trăm tên. Nổi bật nhất là trận đánh hai tiểu đoàn bộ binh thuộc Sư đoàn 21 ngụy tại rạch Rau Răm. Nhiều trận pháo kích vào các căn cứ quân sự địch trong thành phố được tiến hành gây cho địch nhiều thiệt hại. Phối hợp với lực lượng vũ trang, dân quân du kích các xã, ấp và nhân dân nổi dậy gỡ hầu hết đồn bốt trong lộ Vòng Cung, mở thông đường hành lang tiếp tế, tải thương. Trải qua 60 ngày đêm, quân và dân Cần Thơ bám trụ kiên cường, liên tục đánh địch phản kích ở vùng ven, lộ Vòng Cung, uy hiếp địch trong thành phố Cần Thơ, diệt 1.540 tên địch, làm bị thương 1.409 tên, bắn rơi và phá huỷ 129 máy bay, bắn cháy 3 xe M113. Tuy không chiếm giữ được thành phố trong thời gian dài như một số thành phố khác, song việc bám trụ kiên cường trong 60 ngày đêm ở vùng ven, đánh địch phản kích của quân và dân Cần Thơ là một thắng lợi lớn, thu hút một lực lượng địch tập trung đối phó ở đây, tạo thuận lợi cho các tỉnh khác ở đồng bằng sông Cửu Long tiến công và nổi dậy.

Tại thị xã Sa Đéc, ngày 20-2-1968, ta đánh vào Trung đoàn 15, Sở chỉ huy Sư đoàn 9 ngụy, làm chủ một phần thị xã trong hai đêm, sau đó rút ra vùng ven đánh địch phản kích.

Cùng thời gian này, tiểu đoàn 306 và 308 kết hợp với đặc công, pháo binh tập kích vào sân bay, trận địa pháo, bao vây thị xã Vĩnh Long, đánh quân viện, diệt 2 đoàn tàu trên sông Măng Thít và Cái Ngang, bắn chìm 22 tàu, đánh thiệt hại 3 tiểu đoàn địch, gỡ trên 150 đồn bốt, làm chủ một đoạn lộ 4 và lộ 7.

Ngày 25-2-1968, bộ đội đặc công kết hợp với pháo binh của Quân giải phóng tiến công vào thị xã Long Xuyên.

Đầu tháng 3-1968, ta còn tiến công địch ở nhiều thị trấn, quận lỵ và một số thị xã, song nhìn chung, từ đây áp lực của ta quanh các đô thị giảm dần. Trên thực tế cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 đã kết thúc...


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Tư, 2010, 11:46:44 pm

*
*   *

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 đã giành được thắng lợi to lớn. Cùng một lúc, lực lượng vũ trang và nhân dân ta ở miền Nam đã tiến công vào 5 trên 6 thành phố, 37 trên 44 thị xã, thành phố khác, 64 trên 242 thị trấn, quận lỵ. Hầu hết các cơ quan đầu não của Mỹ - ngụy từ trung ương đến địa phương đều bị ta tiến công. Quân ta đã đánh trúng 4 bộ tư lệnh quân đoàn, 8 trên 11 bộ tư lệnh sư đoàn quân đội Sài Gòn, 2 bộ tư lệnh biệt khu, 2 bộ tư lệnh dã chiến Mỹ, 30 sân bay trong đó có 11 trên 14 sân bay lớn nhất của Mỹ ở miền Nam. Đây là cuộc tiến công chiến lược quy mô rộng lớn nhất, cường độ mãnh liệt nhất, đều khắp nhất từ trước đến nay. Các mục tiêu quan trọng nhất như Bộ Tổng tham mưu ngụy, Biệt khu Thủ đô, Dinh Tổng thống, Toà đại sứ Mỹ, Đài phát thanh, Tổng nha cảnh sát... đều bị tiến công ác liệt. Đặc biệt cuộc chiến đấu anh dũng liên tục suốt 25 ngày đêm của quân và dân thành phố Huế góp phần rất vẻ vang vào thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của miền Nam anh hùng. Sài Gòn với việc làm chủ Tòa đại sứ Mỹ trong sáu tiếng đồng hồ làm cho cả nước Mỹ và thế giới kinh ngạc. Hãng thông tấn Pháp AFP ngày 3-2-1968 đã bình luận: “Đây chắc chắn là chiến trường rộng lớn nhất trong các cuộc chiến tranh. Toàn bộ nước Việt Nam đều bốc lửa từ Khe Sanh đến Cà Mau”. Chính tướng Oétmolen, Tổng chỉ huy lực lượng quân sự Mỹ ở miền Nam lúc đó phải thừa nhận: “Việt cộng đã đưa chiến tranh đến các thành phố, các đô thị, đã gây thương vong, thiệt hại và nền kinh tế bị phá hoại... các trung tâm huấn luyện bị đóng cửa. Nói theo quan điểm thực tế thì chúng ta (Mỹ) phải công nhận đối phương (cộng sản) đã giáng cho Chính phủ Nam Việt Nam một cú đấm nặng nề”1.

Với cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, lần đầu tiên trong nhiều năm tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam, toàn bộ hệ thống phòng thủ đô thị của Mỹ - ngụy bị quân và dân miền Nam tiến công. Hậu phương, hậu cứ chiến tranh của địch trong chốc lát bỗng trở thành chiến trường, nơi đọ sức quyết liệt giữa hai bên tham chiến trong nhiều tuần, nhiều tháng.

Trong cuộc đọ sức quyết liệt đó, quân và dân ta bằng lối đánh táo bạo, bất ngờ đã tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, phá huỷ, phá hỏng nhiều vũ khí và phương tiện chiến tranh, làm rối loạn hậu phương, hậu cứ an toàn của địch. Theo báo cáo của Bộ Tổng tham mưu quân lực Việt Nam Cộng hoà thì trong tháng 2 và 3-1968, quân đội Sài Gòn bị tổn thất 20.977 tên, có 4.954 chết. Quân Mỹ và đồng minh tổn thất 24.013, có 4.124 chết2. Con số thực tế chắc còn cao hơn nhiều. Điều quan trọng là Quân giải phóng miền Nam bằng một lực lượng không nhiều đã có thể mở cuộc tiến công rộng khắp, đồng loạt vào hàng chục thành phố, thị xã, hàng trăm thị trấn trên toàn miền Nam. Để tránh thất bại, Mỹ đã phản ứng bằng bất cứ thủ đoạn nào kể cả việc dùng hoả lực phi pháo, máy bay và thiết giáp để san bằng nhiều khu phố vốn là hậu phương chiến tranh của chúng. Tại Huế “hỏa lực Mỹ đã biến 80% thành phố thành gạch vụn”3. Còn ở Mỹ Tho, một nửa thị xã bị san bằng bởi bom, pháo Mỹ. Một sĩ quan Mỹ tuyên bố trong lúc các cộng sự đang tàn phá thị xã Bến Tre: “Cần phải huỷ diệt thành phố này để cứu nó”.

Trong lúc Mỹ - ngụy phải tập trung lực lượng ở các nơi về cứu nguy cho đô thị thì các vùng nông thôn bị bỏ ngỏ. Chớp lấy thời cơ này, lực lượng vũ trang tại chỗ đã hỗ trợ cho nhân dân nổi dậy giáng một đòn nặng nề vào hệ thống chính quyền cơ sở địch ở nông thôn, giải phóng một số vùng. Trong đợt Tết, phối hợp với đòn tiến công quân sự đánh vào các đô thị, ta đã nổi dậy giải phóng thêm 1.600.000 dân, 100 xã, hơn 600 ấp chiến lược, dinh điền. Chương trình “bình định” của địch tan vỡ từng mảng. Trong báo cáo gửi Tổng thống Giônxơn ngày 27-2-1968, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Mỹ, tướng Uylơ (Wheeler) đã thú nhận: “Trên một phạm vi rộng lớn, hiện nay, Việt cộng nắm quyền kiểm soát nông thôn”4. Chương trình bình định nông thôn mà khi ấy Mỹ gọi là “chương trình phát triển cách mạng quốc gia” bị “thụt lùi nghiêm trọng” ở nhiều nơi. “Hiện không rõ lúc nào hoặc thậm chí không biết có thể làm cho chương trình phát triển cách mạng trở lại với hình thức ban đầu của nó không. Chừng nào Việt cộng còn rình mò ở vùng nông thôn thì ở nhiều nơi không thể nói chính xác chương trình này sẽ như thế nào”5. Uylơ không ngần ngại kết luận: “Không còn nghi ngờ gì nữa là chương trình phát triển cách mạng đã bị thụt lùi nghiêm trọng”6. Còn văn phòng hệ thống phân tích tình hình thuộc Lầu Năm Góc thì đánh giá: “Cuộc tiến công (Tết) hình như đã vĩnh viễn giết chết chương trình (bình định)”. Nói về thất bại của chương trình này, Hãng tin Anh Roitơ ngày 14-2 bình luận “Cuộc chiến tranh khác (chương trình bình định) thành một vấn đề dở sống dở chết. Chương trình ưu tiên hành động này bị thiệt hại nhiều nhất trong đợt tiến công Tết của Việt cộng”. Ngày 16-2, hãng này đưa con số cụ thể: “Chương trình bình định thiệt hại nặng ở 13 tỉnh, thiệt hại vừa ở 16 tỉnh”.
__________________________________
1. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Sđd, tr. 437.
2. [i]Cuộc Tổng công kích - tổng khởi nghĩa của Việt cộng Mậu Thân 1968[/i], Sđd, tr. 35.

3. Gabrien Côncô: Giải phẫu một cuộc chiến tranh, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1989, t. 1, tr. 287.
4÷6. Tài liệu mật Bộ Quốc phòng Mỹ về chiến tranh Việt Nam, Tlđd, t.2, tr. 267, 249.[/size]


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Tư, 2010, 11:48:25 pm

Như vậy trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân ta không chỉ đưa chiến tranh vào tận hang ổ của Mỹ - ngụy ở đô thị mà còn giáng một đòn nặng vào chương trình “bình định” của địch ở nông thôn. Sự kiện Tết Mậu thân 1968 đã làm đảo lộn hoàn toàn thế bố trí chiến lược của Mỹ - ngụy trên toàn miền Nam, đẩy chúng lún sâu vào thế phòng ngự bị động. Thành công của Tết Mậu Thân đã giáng một đòn quyết liệt vào uy thế của quân đội Mỹ trên chiến trường Việt Nam, làm suy giảm vị trí và ảnh hưởng của chính quyền và quân đội Sài Gòn cả ở thành thị lẫn nông thôn, khiến cho giới lãnh đạo cao cấp Oasinhtơn phải bàng hoàng, sửng sốt. Rôbớt Kennơđi - thượng nghị sĩ Mỹ đã phải thốt lên rằng: Tại sao nửa triệu lính Mỹ, có 70 vạn lính Nam Việt Nam cộng tác, có ưu thế hoàn toàn trên không và ngoài biển, được cung cấp quá đầy đủ và được trang bị những vũ khí hiện đại nhất lại không có khả năng bảo vệ được thành phố khỏi bị đối phương tấn công. Điều này cũng có nghĩa là, trên phương diện chỉ đạo chiến tranh và tổ chức chiến đấu, Đảng ta, quân đội ta có những nét sắc sảo, táo bạo và mưu lược. Chính Bộ Quốc phòng Mỹ khi tổng kết chiến tranh Việt Nam đã thừa nhận: “Nhờ nghiên cứu các phương pháp và thói quen có thể dự đoán được của Mỹ mà đối phương đã vạch ra kế hoạch nghi binh và phân tán chiến lược của họ. Trái lại sự hiểu biết của Mỹ về đường lối chiến lược của địch nông cạn và chủ quan hơn”1. “Chiến lược của địch (VC) thể hiện sự thống nhất và gắn bó”2.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân nổ ra đúng vào thời điểm chính trị nóng bỏng ở nước Mỹ - khi cuộc vận động bầu cử Tổng thống Mỹ đang sôi động. Vào thời điểm này, Mỹ đã trải qua ba năm trực tiếp tham chiến ở Việt Nam. Những nỗ lực của Mỹ đã lên gần đến đỉnh điểm. Tính đến tháng 12-1967, Mỹ đã huy động vào cuộc chiến tranh ở Việt Nam nửa triệu quân với 40% số sư đoàn bộ binh sẵn sàng chiến đấu của nước Mỹ, 30% lực lượng không quân chiến thuật, 1/3 lực lượng hải quân. Lực lượng dự trữ dành cho một cuộc “chiến tranh cục bộ” Mỹ đã dùng hết, thậm chí, Mỹ còn sử dụng cả một phần lực lượng dự trữ dành cho chiến lược toàn cầu, chi phí cho chiến tranh Việt Nam tính đến năm 1968 lên tới trên 70 tỷ đôla (gấp ba lần chiến tranh Triều Tiên). Gánh nặng chiến tranh Việt Nam đã ảnh hưởng nặng nề đến nền kinh tế và xã hội nước Mỹ, đến chiến lược toàn cầu và xây dựng quốc phòng của Mỹ. Cuộc chiến tranh Việt Nam đã đi vào từng gia đình người Mỹ, thức tỉnh họ và trở thành sức ép hết sức nặng nề đối với chính quyền Oasinhtơn. Xã hội Mỹ bị cuộc chiến tranh Việt Nam làm rạn nứt trầm trọng, nội bộ giới cầm quyền Mỹ bị chia rẽ sâu sắc. Trong bối cảnh tình hình nước Mỹ đang rối ren như vậy, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 là một cú sốc đối với Mỹ, đặt Tổng thống L. Giônxơn trước triển vọng nếu tiếp tục cuộc chiến tranh phải động viên lính trù bị quy mô lớn và “đặt đất nước về mặt kinh tế vào tình thế nửa chiến tranh” mà trong hơn ba năm mở rộng chiến tranh cục bộ, Giônxơn hết sức tránh. Nói như nhà sử học Gabrien Côncô: “Tết là sự đối đầu với thực tế... Tết trở thành điểm ngoặt trong tính toán của chính quyền Mỹ... Tết cho thấy rằng đã đến lúc phải tập trung vào những hạn chế của chế độ. Nếu theo đuổi một quy mô leo thang với mức cao hơn nữa thì sẽ gây thiệt hại không kể xiết cho vị trí kinh tế của Mỹ ở trong nước cũng như ở nước ngoài, cho sức mạnh quân sự của Mỹ ở những nơi khác và cho cả đời sống chính trị của Mỹ nữa. Đó là cái giá mà ít ai nghiêm chỉnh muốn trả”3.

Giới lãnh đạo Mỹ thừa nhận rằng: Tết Mậu Thân 1968 đã đặt họ “trước một bước rẽ trên đường đi” và “các giải pháp để lựa chọn đã phơi bày trong một thực tế tàn nhẫn”4.

Theo báo cáo mà Uylơ gửi cho Giônxơn sau chuyến khảo sát Sài Gòn cuối tháng 2-1968, “để ngăn chặn và đánh bại mối đe doạ mới của địch (CS), Bộ chỉ huy viện trợ quân sự Mỹ đã yêu cầu cho thêm lực lượng vượt qua con số khống chế là 525.000 người đã ấn định trong chương trình năm. Tổng quân số xin thêm là 206.756 người, như vậy đề nghị mức quân số khống chế mới là 731.756 người, tức là toàn bộ lực lượng được triển khai ở Việt Nam tính đến cuối 1968”5.

Với yêu cầu này, Clípphớt (Clifford) - người được Giônxơn chỉ định thay Mắc Namara làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, sau cuộc họp đầu tiên với nhóm cố vấn cao cấp (29-2-1968 ) đã đệ trình lên Tổng thống một bị vong lục, xác định: “Cho dù có thêm 200.000 quân, chúng ta cũng không thể đẩy được địch ra khỏi Nam Việt Nam hoặc tiêu diệt được lực lượng của họ”. Clípphớt còn cảnh báo với Tổng thống rằng: “Nếu leo thang thêm nữa sẽ gây ra những nguy cơ lớn là làm nổ ra một cuộc khủng hoảng trong nước với quy mô chưa từng có”6.

Hậu quả Tết Mậu Thân đối với Mỹ thật nặng nề. Nó không chỉ thể hiện ở sự chia rẽ gay gắt trong nội bộ giới lãnh đạo Mỹ, ở sự khủng hoảng về chiến lược của Mỹ tại Nam Việt Nam mà cả sự phẫn nộ của công chúng Mỹ với Chính phủ. Phong trào phản đối chiến tranh, đòi rút hết quân Mỹ về nước dưới tác động của Tết Mậu Thân bùng lên mạnh mẽ ngay chính tại nước Mỹ.

Với sức ép của Tết Mậu Thân, cùng với việc thay Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng thống Mỹ Giônxơn còn cách chức Oétmolen, Tổng chỉ huy quân Mỹ ở Việt Nam, đưa Abram lên thay (9-3-l968 ). Đồng thời, Giônxơn tuyên bố không ra tranh cử tổng thống nhiệm kỳ tiếp theo.

Về chiến lược quân sự, Nhà Trắng và Lầu Năm Góc quyết định chuyển từ “tìm diệt” sang “quét và giữ”, không chấp nhận tăng quân như Oétmolen đã yêu cầu mà tăng cường củng cố, nâng cao hiệu lực chiến đấu cho quân ngụy Sài Gòn nhằm cải thiện thế phòng ngự, không để thua hơn, làm hậu thuẫn cho đàm phán, từng bước “phi Mỹ hoá chiến tranh”, dần dần chấm dứt sự dính líu trên bộ của quân Mỹ ở Nam Việt Nam.

Ngày 31-3-1968, Mỹ chính thức tuyên bố ngừng mọi hoạt động bằng không quân và hải quân chống Việt Nam Dân chủ Cộng hoà từ vĩ tuyến 20 trở ra và đồng ý bước vào đàm phán với Chính phủ ta.

Với quyết định này, Chính quyền Mỹ đã mặc nhiên thừa nhận sự thất bại quân sự, chính trị trên chiến trường Việt Nam và sự phá sản hoàn toàn của chiến lược chiến tranh cục bộ.

Đây là một thắng lợi hết sức to lớn và toàn diện mà Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 mang lại.
__________________________________
1, 2. Tóm tắt Tổng kết chiến tranh Việt Nam của Bộ Quốc phòng Mỹ, Thư viện Trung ương quân đội dịch, Hà Nội, 1982, tr. 6, 7.
3. Gabrien Côncô: Giải phẫu một cuộc chiến tranh, Sđd, t.1, tr. 311, 312.
4÷6. Tài liệu mật Bộ Quốc phòng Mỹ về chiến tranh Việt Nam, Tlđd, t.2, tr. 47, 50, 243.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Tư, 2010, 11:34:53 pm

CHƯƠNG 21
CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY
HÈ - THU 1968


I- TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY HÈ 1968

Thắng lợi to lớn toàn diện của quân dân ta trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 làm rung chuyển toàn bộ chiến trường miền Nam, Đông Dương và cả nước Mỹ. Đế quốc Mỹ buộc phải huỷ bỏ chiến lược “tìm diệt” thay vào đó chiến lược “quét và giữ”. Thế bố trí chiến lược của địch bị đảo lộn.

Chiến lược phòng ngự “quét và giữ” được Nhà Trắng và Lầu Năm Góc giao cho A.Bram, Tư lệnh lực lượng đồng minh Mỹ ở Nam Việt Nam tổ chức thực hiện. Để thực hiện chiến lược “quét và giữ” có hiệu quả, giữa tháng 4-1968, Clípphớt, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ chỉ thị cho Bộ chỉ huy quân sự Mỹ ở Nam Việt Nam thực thi ba biện pháp cấp bách: một là, ra sức xây dựng tuyến phòng thủ vững chắc ở trong và xung quanh các thành phố, các căn cứ, các tiểu khu, chi khu quân sự các điểm chốt trên các trục đường giao thông. Hai là, lập những vành đai đủ sức ngăn chặn các cuộc tiến công mới của ta. Đẩy chiến tranh ra xa các thành phố, thị xã quan trọng có ý nghĩa chiến lược. Ba là, mở các cuộc hành quân càn quét (kể cả các cuộc hành quân cảnh sát) để giải toả các thành thị, căn cứ, đường giao thông, ngăn chặn triệt để Quân giải phóng tiến công.

Để thực hiện kế hoạch chiến lược trên, Bộ chỉ huy quân sự Mỹ ở Sài Gòn đã dồn quân từ các nơi về giữ các thành thị, nhất là các thành phố lớn, các mục tiêu chiến lược quan trọng. Các đơn vị viễn chinh Mỹ: Sư đoàn 1 bộ binh (Anh cả đỏ) từ mặt trận biên giới Bình Long, Phước Long đã kéo về Lai Khê, Bến Cát, chốt giữ trục đường 13, bảo vệ phía bắc Sài Gòn. Sư đoàn 25 bộ binh (Tia chớp nhiệt đới) chuyên hoạt động các khu vực Dầu Tiếng, Cà Tum, Thiện Ngôn (Tây Ninh), kéo về Đồng Dù, Trảng Bàng ngăn chặn các cuộc tiến công của Quân giải phóng từ hướng tây - tây bắc. Sư đoàn dù 101 (Thiên thần mũ đỏ) đang tác chiến ở Nam Trung Bộ và Tây Nguyên, Xuân Lộc (Biên Hoà) tập trung về bảo vệ phía đông Sài Gòn. Sư đoàn 9 bộ binh đang càn quét các khu vực tây sông Tiền, sông Hậu vội vã kéo về “đại bản doanh” Mỹ Tho, rải quân bảo vệ đường số 4 đi các tỉnh Tây Nam Bộ. Ở Khu V, Sư đoàn lính thuỷ đánh bộ số 1 đang hoạt động ở khu vực An Lão, Trà Bồng, Ba Tơ (Quảng Ngãi), Quế Sơn, Đại Lộc (Quảng Nam) đã kéo về chốt giữ các vùng trọng yếu trên đường số 1 và các căn cứ quân sự xung quanh thành phố Đà Nẵng. Sư đoàn “kỵ binh bay” số 1 được tăng cường cho mặt trận Quảng Trị phải tập trung 2/3 lực lượng bảo vệ thành phố Huế. Sư đoàn bộ binh số 4 hoạt động ở tây bắc Đắc Tô (Kon Tum) và khu vực Đức Cơ, Chư Nghé (tây Gia Lai) kéo về bảo vệ thị xã Kon Tum và Plâycu. Các sư đoàn chủ lực ngụy được đẩy ra phía trước cùng với quân Mỹ mở các cuộc hành quân giải toả hòng đẩy chủ lực ta ra xa các đô thị, căn cứ quân sự, bảo đảm an ninh cho chính quyền Sài Gòn.

Thực tế diễn biến trên chiến trường cho ta thấy: ở tuyến phòng thủ Sài Gòn - Gia Định, Mỹ - ngụy bố trí ngót 100 tiểu đoàn, nhưng lực lượng này không chỉ bố trí ở khu vực Sài Gòn - Gia Định, mà chúng phải dùng 2/3 quân số rải khắp 11 tỉnh vùng Đông Nam Bộ. Ở tuyến phòng thủ năm tỉnh Vùng I chiến thuật - nơi có chiến trường Trị - Thiên nóng bỏng, Mỹ phải tung ra 1/3 lính chiến đấu Mỹ có mặt tại miền Nam để cứu nguy. Chúng không thể nào làm khác, vì muốn giữ Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng, thì phải tập trung một lực lượng lớn rải ra giữ cả những vùng nông thôn xung quanh, giữ những căn cứ trên các đường tiến về Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng. Bị mắc kẹt trong thế trận đó, chúng buộc phải rải quân ra khắp các tiểu khu, chi khu, dọc các tuyến đường giao thông lớn án ngữ từng cửa ngõ dẫn vào các thành phố Sài Gòn, Huế và Đà Nẵng. Lực lượng còn lại bị phân tán để phòng giữ các “vành đai chống rốc két”, “vành đai chống thâm nhập”, các “ổ đề kháng” trong các quận, các khu phố ở nội thành và giữ các cơ quan dân sự, kinh tế, kho tàng...

Thế bố trí và sử dụng lực lượng trên khắp chiến trường cũng như từng trọng điểm của địch luôn luôn bị phân tán, chúng không sao xoay chuyển được tình thế bất lợi. Mâu thuẫn giữa cơ động và chiếm đóng, giữa “quét và giữ” phát sinh và sẽ ngày càng phát triển làm cho chúng không thể nào khắc phục được.

Kế hoạch chiến lược “quét và giữ” nhìn chung là bế tắc, thụ động và là một bước lùi về chiến lược của Mỹ. Tuy nhiên với những thủ đoạn mới về chiến thuật đóng chốt cứ điểm, cụm cứ điểm, tổ chức các tuyến phòng thủ kiểu trận địa để giữ căn cứ, thành thị và trục giao thông, đi đôi với sử dụng hoả lực mạnh của không quân, pháo binh yểm trợ cho các cuộc hành quân càn quét để phá trước các cuộc chuẩn bị tiến công và ngăn chặn các hoạt động tiến công của ta đã làm cho quân và dân ta bước đầu gặp nhiều khó khăn.

Trung tuần tháng 3-1968, Mỹ - ngụy mở cuộc hành quân “Quyết thắng” đánh phá quyết liệt các vùng “cài răng lược” ven thành phố, thị tứ trên địa bàn Sài Gòn - Gia Định, Long An, Hậu Nghĩa, Thủ Dầu Một, Biên Hoà. Tiếp theo đó (8-4), quân địch ở Vùng III chiến thuật và ba sư đoàn Mỹ (Sư đoàn 1, Sư đoàn 25, Sư đoàn 9) mở cuộc hành quân “Toàn thắng” nhằm đẩy bằng được lực lượng vũ trang ta ra xa các vùng dân cư, đánh phá các vùng bàn đạp, hậu cứ, ngăn chặn các đợt tiến công tiếp theo của ta vào Sài Gòn.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Tư, 2010, 11:35:29 pm

Ở các tỉnh phía bắc, mặc dù bị thất bại nặng nề trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, nhưng chúng vẫn tiếp tục đưa thêm quân vào Trị - Thiên. Giữa tháng 4-1968, số quân Mỹ - ngụy ở đây đã lên tới 140.000 tên (trong đó có 98.000 tên Mỹ). Với lực lượng lớn được tăng cường, chúng mở nhiều cuộc hành quân càn quét vào các vùng đồng bằng đông dân ở Phú Vang, Phú Lộc (nam Thừa Thiên) bằng các hình thức “quét trong, giữ ngoài”. Chỉ tính riêng ở huyện Hương Thuỷ, trong vòng nửa tháng hành quân càn quét, định đã đốt phá, cày xới hơn 1.000 ngôi nhà. Thôn Thủy Chánh (xã Thuỷ Thanh) có 56 gia đình bị chúng đốt phá, cày ủi thành bình địa. Tại tỉnh Quảng Trị, chúng triệt để dồn dân vào các khu tập trung Cửa Việt, Quán Ngang, Vĩnh Đại, Tân Tường, Hoàn Cát... quyết lập các vùng trắng rộng hơn, dài hơn ở bắc Gio Linh, tây bắc Cam Lộ để phi pháo các loại tự do bắn phá nhằm giữ tuyến phòng thủ Đường 9 - bắc Quảng Trị.

Ở các tỉnh Khu V, trong hai tháng 3 và 4-1968, Mỹ - ngụy liên tiếp mở các cuộc hành quân càn quét vùng ven đô thành phố Đà Nẵng, đông bắc thị xã Quảng Ngãi, tây thành phố Quy Nhơn, nam thị xã Tuy Hoà... Tại những nơi hiểm yếu về quân sự, chính trị, hậu cần, chúng tăng quân, xây dựng hệ thống phòng thủ bằng hầm hào, dây thép gai và vô số mìn các loại. Ở vòng ngoài (chủ yếu nông thôn đồng bằng), chúng mở hàng loạt cuộc hành quân “phòng ngự dự phòng”, dùng phi pháo tạo “hành lang lửa” dọc vùng giáp ranh, tung biệt kích, thám báo lùng sục sâu vào căn cứ, đường hành lang vận chuyển nhằm đánh phá các bước chuẩn bị tiến công của ta.

Trong thế thua, đế quốc Mỹ và bọn tay sai càng bộc lộ tính chất tàn bạo, khát máu của một tên đế quốc ngoan cố. Lính Mỹ và tay sai càn quét tới đâu là bắn giết, đốt phá, cày ủi nhà cửa, ruộng vườn tới đó. Chỉ trong hai tháng (3 và 4-1968 ), lính Mỹ và lính Nam Triều Tiên đã giết hại 1.235 đồng bào ta ở ba tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định. Dã man tàn bạo nhất là vụ thảm sát đẫm máu ở Sơn Mỹ của lính Mỹ thuộc Lữ đoàn 11 (Sư đoàn Amêricơn) do tên Đại tá Henđơxơn chỉ huy. Từ 6 giờ đến 12 giờ ngày 16-3-1968, gần 200 tên lính Mỹ mặt người dạ thú được phi pháo yểm trợ đã đổ quân xuống xã Sơn Mỹ (huyện Sơn Tịnh, Quảng Ngãi) bắn giết 501 người, trong đó có 182 phụ nữ (17 chị đang có thai), 173 trẻ em (56 sơ sinh dưới 5 tháng), 60 người già trên 60 tuổi. Đặc biệt thôn Thuận Yên có 24 gia đình bị quân Mỹ giết không sót một người. Hành động giết người man rợ trên, khắc sâu thêm mối thù không đội trời chung của dân tộc ta với bọn xâm lược Mỹ...

Song song với hành động man rợ trên, Tổng thống Mỹ L. Giônxơn, Đại sứ Bâncơ, tướng Oétmolen ra sức tuyên truyền biện minh cho sự thất bại về quân sự, chính trị của Mỹ trên chiến trường và hành động dã man của quân đội Mỹ để lừa bịp dư luận Mỹ và thế giới đang lên án mạnh mẽ chúng. Các phương tiện thông tin đại chúng Mỹ và Sài Gòn ra rả suốt ngày đêm phát đi những tuyên bố của những nhà lãnh đạo Mỹ và bọn tay sai Thiệu, Kỳ, những bản tin xuyên tạc sự thật rằng: “Việt cộng” và quân Bắc Việt Nam đã bị Mỹ và đồng minh truy kích; quân Mỹ và quân đội Sài Gòn đã  nắm quyền chủ động chiến trường; “Việt cộng” đã đuối sức, hết hơi, v.v… để xoa dịu làn sóng đấu tranh của nhân dân Mỹ và những chất vấn của Quốc hội Hoa Kỳ, đồng thời hòng trấn an tinh thần cho quân đội, chính quyền Sài Gòn.

Trên mặt trận ngoại giao, Mỹ tiếp tục “tìm kiếm hoà bình” trên thế mạnh rất xảo quyệt bằng cách hối hả vận động các nước lớn trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa gây sức ép với ta và tìm cách tiếp xúc với Chính phủ Việt Nam Cộng hoà, làm như Mỹ là kẻ có “thiện chí hoà bình” muốn chấm dứt chiến tranh thật sự! Nhưng thực chất là để che đậy thất bại và làm hạn chế các cuộc tiến công của ta.

Trước tình hình trên, ngày 24-4-1968, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương họp phân tích, đánh giá tình hình và kết quả cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân, quyết định tổng tiến công và nổi dậy đợt 2.

Về tình hình địch, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương nhận định: sau Tết Mậu Thân 1968, Mỹ - ngụy đang ra sức tập trung lực lượng về các vùng trọng điểm, tạo sức mạnh ngăn chặn các cuộc tiến công của ta, quyết đẩy chiến tranh ra xa các thành thị. Nhưng chiến trường miền Nam rộng lớn, các mục tiêu thành thị, căn cứ quân sự, hậu cần, đường giao thông, vùng nông thôn đông dân mà Mỹ - ngụy cần giữ rất nhiều, nằm ở khắp nơi từ bắc Quảng Trị đến Cà Mau, từ đồng bằng đến rừng núi. Ngay ở những vùng trọng yếu Mỹ - ngụy tập trung nhiều quân, việc bố trí và sử dụng lực lượng của chúng vẫn bị phân tán. Do đó, muốn ngăn chặn các đường tiến quân, đối phó với các cuộc tiến công “thiên biến vạn hoá” của ta, Mỹ - ngụy cùng một lúc phải tập trung vào hai nhiệm vụ. Thứ nhất, chúng phải bố trí lực lượng giữ căn cứ, cơ quan chỉ huy, kho tàng, tích cực tuần tra kiểm soát đối phó với thế vây hãm nhiều tầng của ta. Thứ hai, chúng phải điều động binh lực mở các cuộc hành quân giải toả cho các đô thị, căn cứ quan trọng, đẩy lực lượng ta ra xa các thành phố, thị xã.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Tư, 2010, 11:36:31 pm

Sau đợt 1 mặc dù bị tổn thất, quân và dân ta vẫn quyết tâm tiếp tục cuộc tiến công và nổi dậy để giành thắng lợi lớn hơn nữa. Ý chí và nguyện vọng chiến đấu đó chẳng những được biểu hiện ở hầu khắp các tỉnh thành miền Nam, mà còn được quân và dân Sài Gòn - Gia Định đồng tâm hưởng ứng. Cuối tháng 3-1968, sau khi sơ bộ kiểm điểm đợt 1 tiến công vào Sài Gòn - Gia Định, Trung ương Cục và Quân uỷ Miền cử đại diện ra Hà Nội báo cáo về đề nghị cho chiến trường miền Đông Nam Bộ tiếp tục mở đợt 2 đánh vào Sài Gòn với lý do “yếu tố bất ngờ vẫn còn, mặc dù địch đã co về phòng giữ nội thành và vùng ven, nhưng chúng còn nhiều sơ hở, đợt 1 ta mới sử dụng bộ phận đặc công, một số đội biệt động, du kích mật và quần chúng. Các tiểu đoàn mũi nhọn, các trung đoàn khu vực, các sư đoàn chủ lực cơ động vẫn còn sung sức, quyết tâm lập công cao... Nếu ta khắc phục được khuyết điểm trong đợt 1 thì sức đột kích trong đợt 2 sẽ mạnh hơn nhiều và sẽ là một bất ngờ mới đối với địch”1.

Từ những xem xét đánh giá toàn diện thế địch, thế ta trên chiến trường toàn Miền sau cuộc tổng tiến công và nổi dậy đợt 1, tuy thời cơ không còn nữa, nhưng ta sẽ tạo ra thời cơ mới, Bộ Chính trị quyết định mở tiếp đợt 2 với phương hướng nỗ lực mới: “Động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân phát huy khí thế chiến thắng, tiếp tục phát triển tiến công toàn diện, giành thắng lợi ngày càng to lớn hơn nữa, nhanh chóng mở rộng lực lượng vũ trang và lực lượng chính trị cách mạng, càng đánh càng mạnh, đẩy địch vào thế thất bại liên tiếp ngày càng suy yếu, tan rã, không gượng dậy được”2.

Nghị quyết đề ra các yêu cầu cụ thể như sau:

- Liên tục đánh vào đô thị, siết chặt vòng vây, tạo ra một tình hình khủng hoảng thường xuyên, phát động quần chúng mạnh mẽ giành quyền làm chủ.

- Giải phóng đại bộ phận nông thôn tiến tới giành toàn bộ nông thôn.

- Tiếp tục tiến công toàn diện vào ngụy quân, ngụy quyền làm cho chúng bị tiêu diệt và tan rã về tổ chức, suy sụp về tinh thần không cứu vãn được.

- Tiếp tục tiến công vào quân Mỹ, tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực của chúng.

- Đánh phá liên tục các cơ sở hậu cần, căn cứ quân sự, đường giao thông trọng yếu.

- Nhanh chóng phát triển lực lượng quân sự và chính trị cả về chất và lượng.

- Củng cố vùng giải phóng một cách toàn diện, cả về quân sự, chính trị, kinh tế, xã hội.

- Miền Bắc ra sức xây dựng và củng cố quốc phòng, ra sức đẩy mạnh sản xuất, kiên quyết đánh bại mọi bước leo thang mới của địch, bảo đảm giao thông vận tải, tích cực chi viện cho miền Nam.

Ý đồ chiến lược của ta trong đợt 2 là vây hãm Khe Sanh, kìm giữ và diệt địch ở chiến trường Đường 9, Trị - Thiên, Tây Nguyên. Trọng điểm tổng tiến công và nổi dậy là Sài Gòn - Gia Định. Điểm tiến công quan trọng là Huế, Đà Nẵng. Thời gian hành động thống nhất toàn miền Nam từ ngày 4-5 đến hết tháng 6-1968.

Thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị, Bộ Tổng tư lệnh chỉ đạo Bộ Tổng tham mưu, Tổng cục Hậu cần và bộ tư lệnh các mặt trận khẩn trương vận chuyển vật chất, xây dựng lực lượng vũ trang và bố trí thế trận cho phù hợp với cuộc chiến đấu mới.

Đầu tháng 4-1968, trên “tuyến lửa” Khu IV và tuyến vận tải chiến lược Trường Sơn, mặc dù địch tập trung đánh phá quyết liệt các vùng “cổ họng”: Phương Tích - Bến Thuỷ - Linh Cảm - ngã ba Đồng Lộc; Truông Bát - Đèo Ngang - sông Gianh - Minh Cầm - Đá Đẽo - Xuân Sơn - Khe Tang - Khe Úc - La Trọng, Long Đại... tạo ra những “túi lửa” bom đạn, gây ách tắc dài ngày nghiêm trọng trên tuyến vận chuyển vào các chân hàng của Đoàn 559, nhưng quân dân ta trên mặt trận nóng bỏng này đã bất chấp mọi ác liệt hy sinh tìm mọi cách vận chuyển vật chất vào chiến trường. Ngày 20-4-1968, Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần Đinh Đức Thiện, sau khi kiểm tra thực địa bị máy bay địch đánh phá ở Khu IV, đã quyết định thành lập công trường 18 đảm nhiệm thi công đường ống dẫn dầu đầu tiên vượt qua khu “tam giác lửa” Vinh - Nam Đàn - Linh Cảm dài 42 km để đưa xăng, dầu ra phía trước. 18 giờ ngày 22-6-1968, tại bến đò Vạn Rú trên dòng sông Lam, cán bộ, chiến sĩ công trường 18 khởi công xây dựng tuyến ống dẫn dầu vượt sông Lam. Được nhân dân xã Nam Đông, huyện Nam Đàn giúp đỡ tận tình, đến 5 giờ ngày 23-6, tuyến ống dẫn dầu vượt sông Lam đã lắp đặt xong. Và, sau 45 ngày lao động cật lực dưới những trận bom ác liệt của máy bay Mỹ (ngày 10-8-1968 ) tuyến đường ống mới lắp đặt xong, dòng xăng đầu tiên chảy từ trạm Nam Thanh (Nam Đàn, Nghệ An) vượt sông Lam đến Nga Lộc (Can Lộc, Hà Tĩnh) cung cấp cho tuyến chi viện chiến lược 559 và các đơn vị chiến đấu, khắc phục được một phần khó khăn của nhiệm vụ chi viện tiền tuyến và tình trạng thiếu thốn xăng dầu ở phía nam.
_____________________________________
1. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Sđd, tr. 117, 118.
2. Trích Nghị quyết Bộ Chính trị, ngày 24-4-1968.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Tư, 2010, 11:37:10 pm

Song song với việc lắp đặt đường ống xăng dầu vượt sông Lam, một bộ tư lệnh bảo đảm giao thông Quân khu IV được thành lập đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Quân uỷ Trung ương, Bộ Quốc phòng và Thường vụ Hội đồng Chính phủ thay cho Ban chỉ đạo bảo đảm giao thông trước đây. Bộ Tư lệnh bảo đảm giao thông Quân khu IV do Thiếu tướng Phan Trọng Tuệ, Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải làm Tư lệnh; Thiếu tướng Lê Quang Hoà làm Chính uỷ; Đại tá Hoàng Văn Thái, Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng; các đồng chí Nguyễn Tường Lân - Thứ trưởng Bộ Giao thông vận tải, Đại tá Lê Văn Trị - Phó Tư lệnh Phòng không - Không quân, Chu Mạnh - Chủ tịch Uỷ ban hành chính Nghệ An, Nguyễn Tiến Chương - Chủ tịch Uỷ ban hành chính Hà Tĩnh, Cổ Kim Thành - Chủ tịch Uỷ ban hành chính Quảng Bình làm Phó Tư lệnh.

Sau khi thành lập, Bộ Tư lệnh bảo đảm giao thông đã triển khai toàn bộ lực lượng phòng không của Bộ tăng cường và lực lượng phòng không Quân khu IV để bảo vệ các trọng điểm, các “nút” giao thông; đồng thời huy động toàn bộ lực lượng, phương tiện vận tải có thể huy động được của các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình làm nhiệm vụ vận tải hàng hoá chi viện cho chiến trường miền Nam.

Các trung đoàn cầu, thuyền vượt sông, các tiểu đoàn, đại đội công binh tỉnh Nghệ An, công binh dân quân, các đơn vị giao thông vận tải của Nhà nước, các đoàn viên thanh niên xung phong, dân công, bộ đội cao xạ chủ lực, địa phương và dân quân du kích, nhanh chóng triển khai sửa đường, làm đường vòng tránh, v.v… bảo đảm giao thông thông suốt trên địa bàn các tỉnh phía nam Quân khu IV. Đoàn công binh hỗn hợp 152 của Quân khu IV cùng với Tiểu đoàn công binh 28 bảo đảm giao thông từ phà Đại Lợi đến ngã ba Khe Ve, Xuân Sơn. Đoàn công binh 129 phụ trách vượt sông ở các bến Bến Thuỷ, Nam Đàn, Linh Cảm đến ngã ba Lạc Thiện. Đoàn công binh 249 của Bộ tăng cường cho Khu IV từ tháng 10-1967, đã triển khai 30 đầu máy và canô bảo đảm vượt các bến Quán Hầu, Lý Hoà, Cầu Dài, Xuân Sơn, sông Gianh. Cán bộ, chiến sĩ của đoàn đêm ngày cần mẫn lao động làm 145 lượt cầu qua các sông, bảo đảm cho 40.000 lượt ôtô vận tải chở hàng qua lại và bốc dỡ 350.000 tấn hàng hoá ra khỏi vùng địch đánh phá. Đoàn công binh 239 của Bộ tăng cường cho Quân khu IV từ tháng 3-1968 có nhiệm vụ ứng cứu giao thông ở hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh và tổ chức vượt sông theo tuyến dọc. Đoàn có sáng kiến vận chuyển đi dọc sông La dài 100 km để tránh địch đánh phá. Các đội xe Páp (xe bánh hơi lội nước do Liên Xô sản xuất) của đoàn xông xáo khắp các luồng lạch. Đoàn 239 còn mở đường vận tải qua rú Trót đi Linh Cảm, rà phá 760 quả bom chờ nổ các loại, bảo đảm an toàn cho sáu vạn lượt xe vượt các trọng điểm. Cán bộ, chiến sĩ Đội trinh sát 93 độc lập, rà phá và tháo kíp nổ tất cả các loại bom, mìn có cấu trúc tinh vi của địch thả xuống quốc lộ 1, đường 15 và 34 ở Nghệ An, Hà Tĩnh. Ngã ba Đồng Lộc năm 1968 trở thành “điểm nóng” đánh phá quyết liệt của địch.

Địch đánh phá ngăn chặn ngày càng ác liệt. Ta bố trí một lực lượng ứng cứu giao thông thường xuyên gồm 1.200 thanh niên xung phong, một tiểu đoàn công binh chủ lực, 57 cán bộ, chiến sĩ công binh xung kích phá bom, một tổ xe ủi đất và một trung đoàn cao xạ. Bộ Tư lệnh bảo đảm giao thông Quân khu IV và Thường vụ Tỉnh uỷ Nghệ An họp liên tịch quyết định huy động thêm 2.000 thanh niên trong tỉnh ra mặt đường cùng ứng cứu giao thông và động viên toàn bộ số thuyền nan của các hợp tác xã trong huyện Quỳnh Lưu vào cửa sông Gianh chuyển gạo. Tỉnh Thanh Hoá động viên toàn bộ thuyền nan của các hợp tác xã và tư nhân trong tỉnh, biên chế thành từng đội vận chuyển hàng vào phía nam. Đêm đêm dưới ánh đèn dù, pháo sáng của máy bay địch, từng đoàn thuyền nan chở hàng, ngụy trang từ Thanh Hoá lặng lẽ đi theo sông đào nhà Lê qua Quỳnh Lưu, Nghi Lộc vào Hà Tĩnh tiếp tế cho tiền tuyến. Nghệ An, ngoài các đội thuyền nan của huyện Quỳnh Lưu, tỉnh tổ chức đội xe đạp thồ 7.000 chiếc, đội xe ba gác 8.500 chiếc, đội cút kít 11.000 chiếc và đội xe trâu 6.500 cỗ chở nặng hàng hoá, hằng ngày khi mặt trời tắt nắng là các đội khởi hành cắt ngang quốc lộ 1 đi theo bờ sông nhà Lê rồi toả ra vượt qua Truông Bến, Cầu Cay về Nam Yên, Nam Xuân đổ vào các cụm kho chân hàng để Đoàn 559 chuyển tiếp vào Đường 9, Trị - Thiên, Khu V, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ...

Về điều động, xây dựng lực lượng: mặt trận Đường 9 - bắc Quảng Trị và chiến trường Trị - Thiên ngoài việc được Bộ tăng cường Sư đoàn 308 (thiếu một trung đoàn), Trung đoàn 46 bộ binh, sáu đại đội hỗn hợp của các tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình (chủ yếu cho mặt trận Đường 9 - bắc Quảng Trị), Quân khu Trị - Thiên còn điều Trung đoàn 2 (Sư đoàn 324 cũ) từ chiến khu Ba Lòng vào hoạt động ở Quảng Điền đánh cắt giao thông trên đường số 1. Song song với việc củng cố xây dựng năng lực chiến đấu cho các trung đoàn 6, 9 bộ binh, hai tiểu đoàn 7, 10 đặc công, hai tiểu đoàn pháo binh, công binh..., quân khu tiếp tục chỉ đạo 10 đội vũ trang công tác luồn sâu vào ven nội thành và các khu vực Hương Trà, Hương Thuỷ, Phú Bài xây dựng, củng cố cơ sở cách mạng, vận động quần chúng hỗ trợ bộ đội tổng tiến công và nổi dậy đợt 2.

Chiến trường Khu V và mặt trận Quảng Đà sau khi tiếp nhận hai trung đoàn 36 (Sư đoàn 308 ), 141 (Sư đoàn 312), Tiểu đoàn đặc công 471 của Tỉnh đội Thanh Hoá chuẩn bị địa bàn hoạt động ở Quảng Nam - Đà Nẵng, Khu uỷ Khu V tiếp nhận hàng ngàn tân binh từ hậu phương lớn vào bổ sung cho Sư đoàn 2 và Sư đoàn 3 đang hoạt động ở Quảng Ngãi, Bình Định. Hai trung đoàn 10 và 20 ở Phú Yên và Khánh Hoà được bổ sung quân số và trang bị khẩn trương huấn luyện nâng cao chất lượng chiến đấu. Binh đoàn vận tải chiến lược 559 gấp rút mở thông đường cơ giới vận chuyển vũ khí, trang bị cho các tỉnh đồng bằng Khu V.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Tư, 2010, 11:38:11 pm

Chiến trường Tây Nguyên được bổ sung Sư đoàn 325 (thiếu một trung đoàn) và Trung đoàn 209 (Sư đoàn 312) di chuyển từ Trị - Thiên vào. Các trung đoàn bộ binh 88, 174, 320 của mặt trận Tây Nguyên được điều động tăng cường cho mặt trận Đông Nam Bộ. Tiểu đoàn 15 Tỉnh đội Gia Lai; tiểu đoàn 304 và 402 Tỉnh đội Kon Tum, khẩn trương củng cố tổ chức, bổ sung lực lượng chuẩn bị cho đợt chiến đấu mới.

Chiến trường Tây Nam Bộ, Khu IX tranh thủ thời gian giữa hai đợt chiến đấu, sắp xếp lực lượng,ổn định biên chế, nâng cao chất lượng chiến đấu. Tại mặt trận Cần Thơ, giữa tháng 4-1968, Khu IX thành lập hai trung đoàn 1 và 2 trên cơ sở sáp nhập các tiểu đoàn độc lập 303, 307, 309 và hàng trăm tân binh tuyển lựa từ các tỉnh miền Tây. Cuối tháng 4-1968, Khu IX thành lập tiếp Trung đoàn 3 gồm các tiểu đoàn 306, 309, 312, 316 đảm trách hoạt động trên mặt trận Vĩnh Trà.

Đặc biệt trên chiến trường Sài Gòn - Gia Định, Bộ chỉ huy Miền chỉ thị cho các sư đoàn chủ lực và các phân khu 1, 2, 3, 4, 5 nằm trên vùng phụ cận thành phố được bổ sung quân số từ hậu phương lớn và các chiến trường chi viện nhanh chóng ổn định tổ chức, chuẩn bị tinh thần, vật chất cho đợt 2 tổng tiến công và nổi dậy. Hướng nam và tây nam - hướng tiến công chủ yếu vào nội đô, Phân khu 2, Phân khu 3 và Sư đoàn 9 (thiếu một trung đoàn) chuẩn bị tiến công các mục tiêu Trường đua Phú Thọ, Bà Quẹo, ngã tư Bảy Hiền, sân bay Tân Sơn Nhất... Phân khu 1 ở bắc Sài Gòn được tăng cường Trung đoàn 16, hai tiểu đoàn (1, 2) của Trung đoàn Đồng Nai, chuẩn bị tác chiến ở khu vực Bình Lợi, Gò Vấp, quận 3. Phân khu 4 được hai đại đội đặc công Miền chi viện chuẩn bị đánh vào quận 9 và các mục tiêu cảng Sài Gòn. Hướng đông bắc, Phân khu 5 chuẩn bị tiến công khu vực Bình Triệu, Hàng Xanh...

Cùng thời gian này, để mở rộng mặt trận dân tộc đoàn kết chống Mỹ, cứu nước trong các tầng lớp nhân dân đang dâng cao ở khắp các đô thị, ngày 20 và 21-4-1968, Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình miền Nam Việt Nam ra đời từ trong Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân, tổ chức Đại hội bầu ra Uỷ ban Trung ương Liên minh do Luật sư Trịnh Đình Thảo làm Chủ tịch.

Trong bản Tuyên ngôn của mình, Uỷ ban Trung ương Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình miền Nam Việt Nam đã kêu gọi đồng bào yêu nước, các bạn thanh niên sinh viên, học sinh, giáo chức tiểu học, trung học, đại học, các tín đồ Phật giáo, Công giáo yêu nước, cùng các anh chị em tiểu thương, lao động đã từng đấu tranh chống Mỹ và tay sai, hãy siết chặt hàng ngũ trong mặt trận liên minh sát cánh cùng Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam “kiên quyết chống ngoại xâm, đánh đổ toàn bộ chế độ bù nhìn Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, thành lập chính phủ liên hiệp dân tộc, giành độc lập, dân chủ và hoà bình”1.

Sự ra đời của Liên minh dân tộc, dân chủ và hoà bình miền Nam Việt Nam là bước phát triển mới của khối đại đoàn kết toàn dân trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, tăng thêm sức mạnh và là nguồn cổ vũ kịp thời, tích cực cho toàn quân, toàn dân ta bước vào đợt 2 tổng tiến công và nổi dậy.

Trong khi quân và dân ta đang chuẩn bị lực lượng quân sự chính trị cho cuộc tổng tiến công và nổi dậy đợt 2 theo nghị quyết và chỉ thị của Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương, thì trên khắp chiến trường miền Nam, Mỹ - ngụy tăng cường các đợt hành quân càn quét.

Trên các địa bàn Mỹ Tho, Bến Tre (Khu VIII), Cần Thơ, Rạch Giá (Khu IX), Tuyên Đức, Bình Thuận (Khu VI), Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Quy Nhơn (Khu V), Mỹ - ngụy tập trung hàng chục chiến đoàn dã chiến hỗn hợp, được phi pháo yểm trợ tối đa, càn quét đánh phá hết sức ác liệt vùng ven các thành phố, thị xã, vùng trọng điểm chiến lược và các đầu mối giao thông quan trọng. Nhiều nơi lực lượng vũ trang ba thứ quân phải rút về vùng nông thôn và rừng núi tổ chức đánh nhỏ lẻ, giữ thế đứng chân bảo toàn lực lượng.

Đặc biệt các vùng xung quanh Sài Gòn - Gia Định, Mỹ- ngụy huy động lực lượng lớn lên đến 20 vạn quân (tương đương 60 tiểu đoàn) gồm đủ các sắc lính, tổ chức hàng chục liên cụm chốt dã chiến hỗn hợp cố định gồm bộ binh, pháo binh, xe bọc thép kết hợp với liên tục mở các cuộc hành quân ngăn chặn và phản kích bằng chiến thuật “dưới vây trên bịt kín” gây cho ta rất nhiều khó khăn trong công tác chuẩn bị bàn đạp đứng chân ở vùng ven cho đợt 2.

Nhưng với quyết tâm “đánh bại ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, giành thắng lợi quyết định”, quân và dân miền Nam vẫn vượt lên chạy đua với thời gian, khẩn trương chuẩn bị cho cuộc chiến đấu mới.
_____________________________________
1. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Những sự kiện quân sự, Viện lịch sử quân sự Việt Nam, Hà Nội, 1988, tr. 190.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Tư, 2010, 11:38:43 pm

Cùng với các chiến trường Đường 9 - Trị - Thiên suốt ngày đêm bom rơi đạn nổ; Khu VI, Khu V đầy khó khăn gian khổ thiếu thốn từ hạt muối, hạt gạo đến viên đạn, khẩu súng; Khu VIII, Khu IX bưng biền nước nổi, sình lầy, chằng chịt kênh rạch ngăn cách, chiến trường chính Sài Gòn - Gia Định, trong những ngày cuối tháng 4-1968, đêm đêm trên các cánh đồng, gò, bãi, kênh rạch ven đô như Củ Chi, Hóc Môn, Bình Thạnh, tiếng bom B52 và pháo bầy các loại của địch nổ như sấm rền, tưởng không không một đơn vị nào của ta có thể vượt được vành đai ngăn chặn bằng bom đạn và các sắc lính của Mỹ - ngụy, nhưng các chiến sĩ pháo binh Quân giải phóng đã dũng cảm, mưu trí đưa pháo, đạn sát vùng ven, bắn vào căn cứ sào huyệt Mỹ - ngụy. Dưới ánh sáng của lửa đạn và pháo sáng, hàng ngàn dân công các tỉnh Long An, Bình Dương, Bà Rịa, ra vào hối hả vận chuyển gạo, đạn cho bộ đội chuẩn bị đánh Sài Gòn.

Cùng thời gian trên, để giữ vững vị trí đứng chân cho ngày tổng tiến công và nổi dậy vào nội đô, lực lượng vũ trang một số phân khu phải chiến đấu quyết liệt giữ bàn đạp. Ở các xã An Phú Đông, Thanh Lộc, Quới Xuân (Vườn Cau Đỏ), Tân Thới Hiệp (Cây Xoài), các vùng An Sơn, An Thành... bộ đội ta phải phân tán từng đơn vị nhỏ vừa chiến đấu, vừa bảo toàn lực lượng. Một số đơn vị bộ đội chủ lực cấp trung đoàn, tiểu đoàn hành quân từ xa phải “đánh địch mà đi, mở đường mà tiến”. Tiểu đoàn 2 Long An, Tiểu đoàn 4 Phú Lợi, Tiểu đoàn 6 Đồng Nai khi xuất phát trên dưới 400 người đến vị trí tập kết chỉ còn một nửa...

Đúng 0 giờ 30 phút ngày 5-5-1968, cuộc tổng tiến công và nổi dậy đợt 2 trên toàn Miền đã nổ ra. Trong tuần lễ đầu tổng tiến công và nổi dậy (từ ngày 5 đến 12-5), quân ta đánh trúng 89 thành phố, thị xã, thị trấn, quận lỵ căn cứ địch từ Trị - Thiên đến Cà Mau, từ đồng bằng ven biển đến Tây Nguyên.

Trên chiến trường trọng điểm Sài Gòn - Gia Định, từ hướng tiến công chủ yếu phía tây thành phố, Trung đoàn 2 gồm các tiểu đoàn 267, 269, Tiểu đoàn 6 Bình Tân do Trung đoàn trưởng Võ Văn Hoàng chỉ huy tiến công cụm rađa Phú Lâm, phát triển vào Cầu Tre, tập kích đánh thiệt hại một tiểu đoàn biệt động quân, phát triển đánh chiếm khu vực đường Minh Phụng và Bình Thới. Địch cho hai tiểu đoàn biệt động quân có xe thiết giáp yểm trợ phản kích quyết chiếm lại các khu đã mất. Khi toán quân địch đi đầu đến công trường Duy Linh (đầu đường Minh Phụng) phân đội hoả lực B40, B41, đại liên của Trung đoàn 2 chốt giữ ở đây nổ súng tiêu diệt. Trong hai ngày 7 và 8-5, đại bộ phận cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 2 đã bám trụ chiếm lĩnh hai nhà cao tầng ở ngã tư đường Minh Phụng khống chế các điểm xuất phát tiến công của địch từ Bình Thới xuống đến Duy Linh. Đây là những ngày giờ chiến đấu vô cùng căng thẳng. Địch cho hàng chục lần chiếc máy bay A37 ném bom bắn phá hai nhà cao tầng gây nhiều đám cháy. Hai tiểu đoàn biệt động quân được hàng chục xe tăng M41 yểm trợ phản kích quyết liệt hòng đẩy quân ta ra khỏi ngã tư. Nhưng cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 2 vẫn kiên cường trụ vững đánh bại các cuộc tiến công của địch, không một tốp lính, một xe tăng thiết giáp nào có thể tiến vào được. Trận đánh trên đường Minh Phụng kéo dài được một tuần (từ ngày 5 đến ngày 10-5), sau đó Trung đoàn 2 được lệnh chia thành hai hướng. Một tiểu đoàn cơ động về hướng bắc đánh địch ở khu vực nghĩa trang Phú Thọ. Hai tiểu đoàn còn lại tiến xuống phía nam Cầu Gỗ đánh chiếm khu vực Bình Tiên.

Cũng thời điểm trên, Trung đoàn 1 (Sư đoàn 9) lực lượng phối thuộc của Phân khu 2, sau khi đột phá qua một số tuyến ngăn chặn vòng ngoài của địch đã tiến công khu vực ngã tư Bảy Hiền và một số mục tiêu xung quanh sân bay Tân Sơn Nhất. Tại khu nghĩa địa Pháp, địch cho quân dù (lực lượng dự bị chiến lược ngụy) từ trong sân bay đánh tràn ra quyết ngăn chặn lực lượng ta đang phát triển. Một trận đánh ác liệt đã xảy ra ở khu mả Xây. Ta và địch giành giật nhau từng vị trí trong nhiều giờ. Qua hai ngày chiến đấu (ngày 5 và 6-5) trung đoàn đã diệt gần 200 tên địch. Ngày 7-5, trung đoàn được lệnh của Phân khu 2 lui về phía tây Bà Quẹo, tổ chức phòng ngự đánh địch phản kích.

Ở hướng nam Sài Gòn, lực lượng Phân khu 3 chia làm ba cánh tiến công vào thành phố. Đêm 8-5-1968, Tiểu đoàn Phú Lợi (lực lượng phối thuộc Phân khu 3) tập kích địch ở Lò Heo, bám trụ ở Chánh Hưng đánh địch phản kích. Cùng thời gian, Tiểu đoàn 1, Tiểu đoàn 2 và lực lượng đặc công Long An tiến đánh địch ở cầu Chữ Y, Tiểu đoàn 5 Nhà Bè và Tiểu đoàn 6 Đồng Nai phát triển song song hỗ trợ.

Cầu Chữ Y là một trong ba cầu (cầu Tân Thuận, Cầu Nhị Thiên Đường) quan trọng ở cửa ngõ phía nam Sài Gòn. Bộ chỉ huy Phân khu 3 chọn cầu Chữ Y làm mục tiêu tiến công đầu tiên, vì nó thu hút mạnh lực lượng đối phó của địch. Đánh chiếm được cầu này không chỉ tạo điều kiện quan trọng để ta đưa lực lượng đánh sâu vào thành phố, mà còn có khả năng phá huỷ cầu Chợ Quán ngăn cản địch ứng cứu, chi viện cho nhau làm cho chúng bị cô lập trên từng khu vực.

Đêm 9-5, bộ đội Phân khu 3 thực hành đánh chiếm mục tiêu cầu Chữ Y. Sau khi Tiểu đoàn 1 loại khỏi vòng chiến đấu một đại đội thuộc Lữ đoàn 3, Sư đoàn 9 Mỹ đã đánh chiếm cầu Rạch Ông, bao vây Cầu Một, truy kích địch ở Trại tế bần.

Bị mất mục tiêu quan trọng, Bộ chỉ huy Mỹ cho máy bay ném bom dữ dội xuống khu vực cầu Chữ Y và một số khu dân cư Tiểu đoàn 1 chốt giữ phía nam cầu, chiến đấu giằng co quyết liệt với địch. Sau ba ngày chiến đấu (từ ngày 9 đến ngày 11-5) tiểu đoàn 1 đã loại khỏi vòng chiến đấu 200 tên Mỹ, bắn cháy 4 xe M113, bắn rơi 1 máy bay. Đêm 11-5, Tiểu đoàn 1 và Tiểu đoàn 2 Long An được lệnh rút khỏi quận 8 để bảo toàn lực lượng.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Tư, 2010, 11:39:21 pm

Phân khu 1 đảm nhiệm hướng tây bắc, được Trung đoàn 16 chủ lực Miền hỗ trợ, tiến công sân bay Tân Sơn Nhất và một số mục tiêu xung quanh Bộ Tổng tham mưu ngụy. Nhưng trong quá trình hành quân vào nội đô, Trung đoàn 16 và các tiểu đoàn độc lập của Phân khu 1 liên tục đụng đầu với các tiểu đoàn dù 1, 5, 7 ngụy. Bộ đội ta phải tổ chức phòng ngự đánh địch ở An Phú Đông, Tân Thới Hiệp từ ngày 4 đến ngày 7-5, loại khỏi vòng chiến đấu trên 200 tên. Ngày 8-5, để cải thiện vị trí đứng chân trụ bám đánh địch, các lực lượng Phân khu 1 và phối thuộc tập kích cụm xe cơ giới địch ở Tân Thới Đông và Tân Thới Trung, phá hỏng 50 xe các loại, diệt và làm bị thương 230 tên địch.

Trên hướng đông, ngày 5-5, mặc dù địch bố phòng hết sức chặt chẽ, nhưng các đội “cảm tử” của Tiểu đoàn 2 và Tiểu đoàn 4 (Phân khu 4) vẫn đánh sập được một góc cầu xa lộ làm tắc nghẽn giao thông trong nhiều ngày. Đêm 7-5, các đơn vị chủ lực Phân khu 4 tổ chức đánh địch ở quận 9. Nhiều trận đánh ác liệt giữa quân ta và Chiến đoàn A lính thuỷ đánh bộ ngụy diễn ra. Một phân đội đặc công đánh cầu Rạch Chiếc bị lộ không thành. Một phân đội đặc công khác chiếm được Xí nghiệp Sincovina. Địch chốt giữ các đồn bốt lân cận hoảng sợ tháo chạy. Chớp thời cơ, bộ đội công binh được du kích phối hợp dùng mìn phá hủy Cầu Sụp, cầu Trao Trảo, bức hàng nhiều đồn bốt, làm chủ nhiều ngày khu vực từ Long Bình đến Bình Trưng.

Phân khu 5 phụ trách hướng đông bắc cho hai tiểu đoàn tiến công địch chốt giữ cầu Bình Triệu, ngã ba Hàng Xanh, cầu Bình Lợi. Rạng sáng ngày 5-5 hai đại đội bộ binh của ta có tự vệ khu vực phối hợp dùng xe tải chở quân vượt cầu Phan Thanh Giản chiếm một số nhà cao tầng ở cuối đường Tự Đức, xây dựng trận địa, đánh lui các đợt phản kích của một tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ ngụy. Trưa ngày 6-5, địch tăng viện một tiểu đoàn biệt động quân có hàng chục xe thiết giáp yểm trợ phản kích quyết tiêu diệt quân ta. Bộ đội ta phải chia thành nhiều tổ, lợi dụng tường nhà che khuất hỗ trợ cho nhau, đánh lui các đợt tiến công của địch, bắn cháy hai xe bọc thép M113, giữ vững trận địa cho đến lúc được lệnh chuyển hướng tiến công.

Để phối hợp với bộ đội chủ lực tiến công từ ngoài vào, các lực lượng vũ trang cách mạng nội đô đã tích cực chủ động hiệp đồng chiến đấu. Trong các ngày 6, 7, 8-5 lực lượng Thành đoàn phối hợp với một phân đội đặc công tiến công ba đồn cảnh sát ngụy, làm chủ khu vực Bàn Cờ, Vườn Chuối (quận 3). Ngày 9-5, địch huy động một tiểu đoàn biệt động quân, cùng cảnh sát khu vực phản kích chiếm lại các khu vực đã mất. Giữa vòng vây địch, các chiến sĩ Thành đoàn dưới sự chỉ huy của đồng chí Nguyễn Sơn Hà đã chiến đấu đến người cuối cùng, quyết không khuất phục trước bom đạn địch.

Noi gương tinh thần chiến đấu của các chiến sĩ Thành đoàn ngày 9 và 10-5, các đội viên Đội biệt động Lê Thị Riêng do đội trưởng Lê Thị Bạch Cúc chỉ huy đã tích cực phối hợp với các chiến sĩ Phân khu 5 diệt ác ở nhiều khu vực trong quận 1, quận 2. Các anh chị dùng loa vừa kêu gọi địch quay súng trở về với nhân dân, vừa động viên quần chúng cách mạng xuống đường lùng diệt ác ôn, tham gia xây dựng trận địa chiến đấu. Bị địch bao vây bốn phía, đội trưởng Lê Thị Bạch Cúc vẫn kiên cường chỉ huy các chiến sĩ biệt động chiến đấu đến viên đạn cuối cùng với tinh thần “thà chết quyết không rời trận địa”.

Hiệp đồng chiến đấu với bộ đội chủ lực phân khu, các đội biệt động, các đội vũ trang công tác thành phố đã vận động quần chúng xuống đường đấu tranh bằng mọi hình thức chống địch càn quét, bắn phá bừa bãi. Trên các đường phố Nguyễn Trãi (quận 5), Nguyễn Thiện Thuật, khu Bàn Cờ (quận 3) hàng ngàn đồng bào đã xuống đường xé thẻ kiểm tra, phá hàng rào vật cản, tự vũ trang đánh trả bọn ác ôn. Từ ngày 6 đến ngày 8-5, lực lượng vũ trang Hoa vận đã vận động hàng trăm đồng bào tấn công làm chủ Toà hành chính quận 5; sau đó phát triển chiếm khu Lò Gạch, Lò Gốm, Lò Sâu, khóm 1, phường Trang Từ, khóm 6, phường Phú Lâm.

Chiến sự ở nội thành diễn ra quyết liệt, thúc đẩy quân và dân ngoại thành tích cực đánh địch, khống chế nhiều cửa ngõ ra vào nội đô, hỗ trợ quân và dân bên trong diệt địch. Hướng tây bắc Sài Gòn, trong ba ngày 5, 6, 7 tháng 5, hai tiểu đoàn hỗn hợp của Sư đoàn 9 tập kích quân Mỹ ở căn cứ Đồng Dù và thị trấn Củ Chi loại khỏi vòng chiến đấu gần 200 tên Mỹ, phá huỷ 60 xe quân sự, đốt cháy 2 kho chứa nhiên liệu. Ngày 8-5, Tiểu đoàn 5 (Trung đoàn 2, Sư đoàn 9) tập kích hai đại đội Mỹ chốt giữ Bà Điểm, loại khỏi vòng chiến đấu gần 100 tên địch, phá huỷ 2 xe M113. Đêm 9-5, hai đại đội đặc công Miền tập kích Trại huấn luyện Quang Trung ở Hóc Môn, loại khỏi vòng chiến đấu 80 tên, phá huỷ khu thông tin chỉ huy của địch. Cùng thời gian, hàng chục trận địa pháo hoả tiễn của ta tiếp tục pháo kích căn cứ Đồng Dù, sân bay Tân Sơn Nhất, Tân Cảng, kho Long Bình... phá huỷ nhiều kho tàng quân sự Mỹ - ngụy.

Giai đoạn 1 của cuộc tổng tiến công và nổi dậy đợt 2 trong nội đô của các lực lượng vũ trang 5 phân khu đến ngày 12-5 tạm thời lắng xuống. Hầu hết các lực lượng chủ lực của ta được lệnh rút ra vùng ven để củng cố tổ chức, vừa đánh địch càn quét vừa làm công tác chuẩn bị sẵn sàng bước vào giai đoạn 2. Những vấn đề nổi bật của giai đoạn 1 là, các phân khu thực hiện tương đối tốt nhiệm vụ trên giao, diệt được khá nhiều sinh lực và phương tiện chiến tranh của địch. Điển hình trong bảy ngày đêm chiến đấu một mất một còn của các chiến sĩ Phân khu 3 trên mặt trận cầu Chữ Y không những được Bộ chỉ huy Miền đánh giá cao, các đơn vị bạn khâm phục, mà ngay cả báo chí nước ngoài cũng chú ý đến trận đánh làm cho quân Mỹ khốn đốn này. Tuy nhiên, qua giai đoạn 1 hoạt động tác chiến trong thành phố, nhìn chung các phân khu còn bộc lộ nhiều hạn chế về chỉ huy và điều hành lực lượng. Một số phân khu hoạt động ở hướng tây và nam vào được khu vực trên giao, nhưng lại không bám trụ được lâu dài do bị thương vong nhiều. Một số phân khu hoạt động ở hướng bắc và đông chỉ vào được cửa ngõ nội đô, tác chiến ở những mục tiêu thứ yếu, hạn chế tới thắng lợi chung của toàn mặt trận.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Tư, 2010, 11:39:56 pm

Giữa lúc Mỹ - ngụy tưởng chừng cuộc tổng tiến công và nổi dậy đợt 2 của ta đã kết thúc, thì ngày 24-5-1968, quân và dân Sài Gòn - Gia Định lại mở một loạt trận tiến công mới vào các mục tiêu quan trọng trong nội đô. Tại phía bắc thành phố, bốn tiểu đoàn của hai phân khu 1 và 5 được du kích vùng ven và tự vệ thành phố dẫn đường đã luồn lánh qua các hàng rào phòng thủ vòng ngoài, tiến công vào hai cụm địch chốt giữ khu vực Bình Hoà, Hàng Xanh. Bị tiến công bất ngờ, chỉ huy địch một mặt ra lệnh cho bọn địch ở Bình Hoà, Hàng Xanh cố thủ chặt, phản kích nhanh, đánh bật các đợt tiến công của ta, mặt khác điều hai tiểu đoàn lính biệt động quân và dù lên ứng cứu cho đồng bọn. Ngày 25-5, bốn tiểu đoàn địch được máy bay và xe thiết giáp yểm trợ, liên tục mở các đợt phản kích vào lực lượng Phân khu 1 và Phân khu 5 đang bám trụ khu vực, gây nhiều thương vong cho ta.

Để mở rộng hoạt động quân sự, phân tán sự đối phó của địch ở hướng đông bắc, ngày 26-5, Bộ chỉ huy Miền chỉ thị cho các đơn vị đang hoạt động ở hướng tây và nam khẩn trương đưa lực lượng mở các đợt tiến công vào nội đô.

Trên hướng tây, tây nam, mặc dù chỉ còn hai tiểu đoàn (trong đó có Tiểu đoàn 308 mới từ Trà Vinh lên) còn đủ sức chiến đấu, chỉ huy Phân khu 2 vẫn nghiêm chỉnh chấp hành mệnh lệnh tiến công vào thành phố.

Ngày 27-5, Phân khu 2 cho các tiểu đoàn 6, 308, 7 (lực lượng Trung đoàn 1, Sư đoàn 9 tăng cường), bắt đầu hành tiến đánh địch ở quận 6, quận 5. Sau bảy ngày chiến đấu kiên cường, bộ đội Phân khu 2 và lực lượng vũ trang địa phương đã chiếm được cầu Phú Định, loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên địch.

Được lực lượng vũ trang quần chúng và nhân dân quận 5 hỗ trợ, đầu tháng 6, ba tiểu đoàn của Phân khu 2 tiếp tục tiến công địch trên các đường Khổng Tử, Mạnh Tử, Nguyễn Tri Phương... Địch điều động lực lượng phản kích quyết liệt. Có nơi chúng dùng hàng chục lần chiếc máy bay ném bom, bắn phá giết hại cả dân thường sống trong khu vực. Để trụ bám lâu dài, các phân đội phải củng cố công sự, phân công các tổ chốt giữ tầng cao, khống chế địch từ xa, không để bị bất ngờ. Dưới phố, các chiến sĩ và tự vệ đục thông tường từ nhà này sang nhà khác, nung nấu quyết tâm chiến đấu đạt hiệu suất cao “mỗi viên đạn một quân thù”, “thà chết không rời trận địa”. Ngày 2-6, trong thế trận cận chiến giằng co quyết liệt ở đường Khổng Tử, máy bay lên thẳng vũ trang Mỹ đã bắn hoả tiễn nhầm vào Trường Phước Đức làm chết hàng chục sĩ quan ngụy (trong đó có 2 đại tá, 4 trung tá, 2 thiếu tá) đang chỉ huy quân phản kích ta.

Phối hợp với bộ binh chiến đấu ở nội đô, các đơn vị pháo binh ta từ vùng ven liên tiếp bắn phá sân bay Tân Sơn Nhất, bến cảng Sài Gòn, Bộ Tư lệnh Hải quân ngụy, Toà đô chính, Sứ quán Mỹ, gây cho địch nhiều thiệt hại về vật chất và tinh thần.

Bước vào trung tuần tháng 6, các cuộc chiến đấu của bộ đội Phân khu 2 ở hướng nam, Phân khu 1, 5 ở hướng bắc và các đơn vị chủ lực Miền tăng cường trên các quận 5, 6, 1, 2... diễn ra hết sức quyết liệt. Suốt trong các ngày từ 7 đến 14-6, hàng chục trận đánh không cân sức giữa các phân đội bộ binh ta với các tiểu đoàn 5, 9 dù, 4, 6 biệt động, 81 biệt kích... được thiết đoàn xe tăng và xe bọc thép cùng hàng trăm lượt chiếc máy bay đủ loại chi viện. Quân ta bị thiệt hại lớn. Hai tiểu đoàn của phân khu 1, 2, cán bộ cấp trưởng đại đội, tiểu đoàn bị thương vong gần hết. Đại đội 1 và 2 của Tiểu đoàn Phú Lợi chỉ còn một, hai chiến sĩ. Trong những ngày chiến đấu vô cùng cam go này, các chiến sĩ ta luôn luôn được nhân dân các quận, phường trong thành phố chăm lo giúp đỡ. Ở phường An Tịnh nhiều gia đình nuôi dưỡng từ bốn đến năm thương binh. Ở Gò Vấp, hàng chục thương binh nặng của Phân khu 1 được đồng bào chăm sóc, che chở đưa ra ngoài. Gia đình má Phan Thị Thêm ở phường Tân Phước lần lượt nuôi giấu hơn 40 cán bộ, chiến sĩ trinh sát và biệt động thành, bị địch bắt tra tấn dã man vẫn kiên quyết không khai báo...

Cuộc tổng tiến công giai đoạn hai đợt 2 vào sào huyệt địch kéo dài đến ngày 13-6 kết thúc. Mặc dù bộ đội chủ lực, lực lượng vũ trang địa phương Sài Gòn phải chiến đấu trong khi yếu tố bí mật không còn, địch tăng cường triển khai đối phó, hầu hết các cuộc hành quân tiếp cận đều bị địch ngăn chặn, nhiều đơn vị không đến được mục tiêu trên giao. Nhưng với tinh thần quyết chiến quyết thắng “đợt sau cao hơn đợt trước”, các tiểu đoàn “cảm tử” của ta chẳng những gây nhiều bất ngờ về chiến thuật và khả năng chiến đấu thọc sâu trong thành phố, mà còn tiếp tục giáng một đòn nặng nề vào phương thức tác chiến phòng ngự của địch.

Phối hợp chặt chẽ với quân, dân nội đô tấn công sào huyệt Mỹ - ngụy, quân dân các tỉnh ở phía bắc, đông và tây Sài Gòn - Gia Định tiến công dồn dập, quyết liệt các căn cứ, chi khu, quận lỵ, đường giao thông của địch. Ngày 5-5-1968, quân dân tỉnh Bình Dương phối hợp với Trung đoàn 12 (Sư đoàn 7), mở đợt hoạt động ở phía tây đường 16, loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên địch ở khu vực Tân Uyên, Lái Thiêu. Trung tuần tháng 5, Trung đoàn 14 (Sư đoàn 7) được pháo binh Miền chi viện, tập kích căn cứ Sở Hội, loại khỏi vòng chiến đấu một tiểu đoàn bộ binh, phá huỷ hai trận địa pháo hỗn hợp. Bộ đội huyện Tân Uyên được du kích xã Bình Mỹ chi viện, tổ chức thành nhiều chiến tuyến đánh bại cuộc hành quân càn quét của một tiểu đoàn Mỹ ở bàu Đồng Tràm, diệt và làm bị thương gần một trăm tên. Đại đội 61 bộ đội địa phương Bến Cát được nhân dân các xã Thanh An, Thanh Tuyền, Long Nguyên, Thới Hoà hỗ trợ tiến công thị trấn Bến Cát, đánh thiệt hại nặng hai đại đội địch thuộc Trung đoàn 8 (Sư đoàn 5 ngụy). Lực lượng vũ trang tỉnh Bình Phước, trong nửa tháng đợt 2 đã tiến công Chi khu Bù Đốp, Quản Lợi, An Lộc, Lộc Ninh, Chân Thành, loại khỏi vòng chiến đấu gần ba trăm tên, phá huỷ nhiều phương tiện chiến tranh của địch...


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Tư, 2010, 11:40:28 pm

Trong khi đó ở phía đông Sài Gòn, ngay tuần đầu tổng tiến công và nổi dậy đợt 2, Trung đoàn 4 (Sư đoàn 5 Quân giải phóng) đã tiến công tiêu diệt Tiểu đoàn 2 (Trung đoàn 43 ngụy) rút chạy từ Túc Trưng về La Ngà. Trung đoàn pháo ĐKB Miền pháo kích sân bay Biên Hoà, kho Long Bình. Ở khu vực Long Đất, tuần đầu tháng 5-1968, lực lượng vũ trang huyện tiến công Chi khu Đất Đỏ, diệt hầu hết cơ sở ngụy quyền xã, ấp. Địch huy động quân phản kích quyết liệt. Bốn tiểu đoàn địch (trong đó có một tiểu đoàn Ôxtrâylia) được ba chi đoàn xe tăng, thiết giáp, hàng chục lần chiếc máy bay đủ loại và hàng chục khẩu pháo chi viện tiến công căn cứ Minh Đạm, hòng triệt phá bàn đạp tiến công của ta. Với tinh thần “quyết tử giữ Minh Đạm” quân, dân huyện Long Đất được Tiểu đoàn 445 Tỉnh đội hỗ trợ đã vận dụng mọi hình thức chiến thuật, vượt mọi khó khăn thiếu thốn, bám trụ dài ngày, đánh bại mọi đợt tiến công của địch, loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên, phá huỷ 12 xe cơ giới; giữ vững vùng hậu cứ quan trọng của khu vực Bà Rịa - Long Khánh.

Ở hướng tây và nam Sài Gòn, quân, dân Long An một mặt tích cực chi viện cho các mũi, hướng tiến công vào nội đô Sài Gòn, mặt khác huy động lực lượng đồng loạt đánh chiếm thị xã Hậu Nghĩa, thị trấn Đức Hoà, Đức Huệ, Bến Lức, Thủ Thừa. Ngày 8-5, lực lượng vũ trang Đức Hoà bất chấp bom đạn địch đánh phá quyết liệt đã chặn đánh một tiểu đoàn Mỹ càn quét vào Mỹ Hạnh diệt và làm bị thương gần 100 tên. Trung tuần tháng 5, quân dân Tây Ninh pháo kích căn cứ Mỹ ở Trảng Lớn, tập kích quân Mỹ đóng dã chiến ở Trảng Bàng, phá thế càn quét của hai tiểu đoàn ngụy ở núi Bà Đen. Đầu tháng 6-1968, quân dân Tây Ninh đánh địch ở Gò Dầu Hạ, Trảng Lớn, đường 22 đi Thiện Ngôn loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên địch, phá huỷ nhiều phương tiện chiến tranh của chúng. Đặc biệt, trung tuần tháng 6-1968, một tổ đặc công Miền do đồng chí Tư Cường chỉ huy được lệnh đánh cầu Bến Lức nhằm cắt đứt giao thông quốc lộ 4 từ Sài Gòn, Long An đi các tỉnh miền Tây. Đêm 29-6, sau khi rút kinh nghiệm hai lần (đêm 20-6 và 28-6) không đưa được khối bộc phá vào chân cầu, tổ ba người Dương, Trung, Bảy tiếp tục vào trận với quyết tâm “chưa phá được cầu chưa về”. 23 giờ 30 phút, bằng những động tác kỹ thuật khéo léo, nhịp nhàng, tự tin các anh đã đưa được khối bộc phá nặng 1.000 kg vào trụ cầu quy định. Đúng 0 giờ 30 phút ngày 30-6, từ cầu Bến Lức một tiếng nổ dữ dội rung chuyển đất trời phát ra, hai nhịp cầu 5 và 6 bị gãy sập hoàn toàn, một trung đội địch bảo vệ cầu bị quét sạch. Chiến công phá huỷ cầu Bến Lức, cắt đứt đường số 4, không chỉ gây cho địch nhiều thiệt hại mà còn tạo nên sự chấn động lớn với chúng, góp phần vào thắng lợi trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy đợt 2 của quân dân Sài Gòn - Gia Định.

Cùng thời gian này, quân và dân Quân khu VIII bước vào tuần đầu cuộc tổng tiến công và nổi dậy đợt 2, mặc dù quân và dân Mỹ Tho bị Sư đoàn 7 bộ binh ngụy và Lữ đoàn 3 (Sư đoàn 9 Mỹ) dùng phi pháo yểm trợ, đánh phá dữ dội các xã ven thành phố và một số vùng trọng điểm nam, bắc quốc lộ số 4 gây tổn thất lớn cho ta. Nhưng Tỉnh đội Mỹ Tho vẫn tập trung Tiểu đoàn 263 có hai đại đội đặc công 312, 314 Khu VIII phối hợp, bất ngờ tiến công căn cứ huấn luyện Hùng Vương loại khỏi vòng chiến đấu gần 500 tên địch. Được chiến thắng Hùng Vương cổ vũ, Tiểu đoàn 514C đứng chân ở bắc Cái Bè tiến công tiêu diệt các đồn Hộ Cư, Hậu Mỹ, Mỹ Thiên giải phóng hàng trăm dân khỏi vòng kìm kẹp của ngụy quyền Sài Gòn. Đội biệt động thành phố Mỹ Tho đánh chiếm các mục tiêu hiểm yếu như cư xá Mỹ, đồn cảnh sát ngụy, căn cứ Thiết đoàn 6... Du kích các xã Bình Trưng, Long Hưng, Song Thuận bắn rơi ba trực thăng, bắn cháy hai thuyền chiến. Ở Gò Công, Tiểu đoàn 514B diệt đồn Sơn Quy và các đoàn bình định. Ngày 8-5, tiểu đoàn tiếp tục đánh địch phản kích vào Bình Lạc, Bình Phú, Bình Nho, Bình Thọ. Ở Bến Tre, ngày 6-5, Tỉnh đội sử dụng hai tiểu đoàn phục kích đánh địch hành quân giải toả vùng ven thị xã và đánh tàu địch trên sông Ba Lai. Sáng ngày 7-5, Trung đoàn 10 ngụy được phi pháo yểm trợ tiến vào trận địa mai phục của ta. Khi Ban chỉ huy Trung đoàn 10 và tiểu đoàn tiến công chủ yếu của địch lọt vào khu “quyết chiến điểm” ở trung tâm cánh đồng Phú Hưng, Hữu Định, quân ta được lệnh nổ súng tiến công. Không chịu nổi những đợt xung phong dũng mãnh của quân ta, nhất là khi tên Thiếu tá trung đoàn phó và tên Đại uý pháo binh tử trận, chỉ huy Trung đoàn 10 và tiểu đoàn đi đầu bỏ chạy tán loạn. Ta diệt và làm bị thương gần 400 tên, thu 125 súng các loại, 8 máy vô tuyến PRC25 và nhiều đồ dùng quân sự. Đây là một trận đánh đạt hiệu suất cao ở chiến trường Khu VIII nói chung và Bến Tre nói riêng trong giai đoạn Mỹ thực hiện chiến tranh cục bộ.

Để cứu nguy cho quân ngụy, ngày 8-5, quân Mỹ ở thị xã Bến Tre huy động 14 tàu chiến chở một tiểu đoàn từ Vàm An Hoá vào sông Ba Lai đánh diệt quân ta ở Hữu Định. Bất chấp bom pháo địch đánh phá ác liệt làm cây cối gãy đổ ngổn ngang, quân ta mật phục hai bên bờ sông Ba Lai đợi cho địch lọt vào đúng phương án tác chiến mới nổ súng. Sau hơn một giờ chiến đấu quyết liệt, các trận địa hoả lực ĐKZ 82, B41 bắn chìm và cháy tại chỗ 10 tàu, loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên Mỹ. Thừa thắng xốc tới, đêm 11-5, quân ta từ hai hướng tiến công địch ở thị xã Bến Tre. Đại đội đặc công khu diệt hai đồn ở xã Bình Phú; bộ binh, biệt động ta làm chủ một số vùng trọng yếu trong thị xã. Sáng 12-5, địch huy động ba đại đội bảo an, một chi đội xe bọc thép phản kích quyết chiếm lại những vị trí đã mất. Sau ba ngày bám trụ đẩy lùi được hầu hết các đợt tiến công của địch, loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên, nhưng do thương vong lớn, hậu cần khó khăn, nên quân ta phải rút ra ngoài.

Trong khi đó ở An Giang, dưới sự chỉ đạo của khu, Tỉnh đội đưa ba tiểu đoàn chủ lực luồn sâu vào các xứ tôn giáo Hoà Hảo, Tân Châu và Khánh Hoà phá thế kìm kẹp của địch, tuyên truyền chính sách đoàn kết dân tộc, tôn trọng tự do tín ngưỡng của Mặt trận Dân tộc giải phóng. Qua đó động viên lòng yêu nước, từng bước tách tín đồ ra khỏi ảnh hưởng giáo phái phản động của Mỹ - ngụy, vận động giáo dân ủng hộ cách mạng. Ngày 12-5 tại Khánh Hoà, bộ đội ta tăng cường đánh phá tuyến giao thông Long Xuyên - Châu Đốc làm tắc nghẽn một số đoạn có vị trí chiến thuật. Để giải toả tuyến giao thông huyết mạch “một ngày bị chia cắt là rất nguy ngập”, bọn địch ở An Giang cấp tốc điều hai tiểu đoàn biệt động quân ở Bảy Núi, có ba chi đoàn xe thiết giáp M113 và tám tàu chiến ở Vịnh Tre - Cái Dầu theo sông Hậu lên phản kích quân ta. Cuộc chiến đấu diễn ra quyết liệt kéo dài suốt cả ngày. Hàng chục đợt tiến công của địch đều bị bẻ gãy, 11 xe cơ giới (có 3 xe M113) bị bắn cháy, gần 100 tên bị loại khỏi vòng chiến đấu, 30 súng các loại bị thu và phá huỷ. Tranh thủ thời gian địch điều quân thay thế, bộ đội cùng các tổ vũ trang công tác và các đoàn thể cách mạng, phát động quần chúng tín đồ Hoà Hảo phá tề, trừ gian, rải truyền đơn kêu gọi binh lính địch quay súng về với nhân dân.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Tư, 2010, 11:40:58 pm

Đầu tháng 6-1968, quân ta rút khỏi các vùng ven thị xã, thị trấn và các căn cứ quân sự quan trọng, quân Mỹ ở vùng sông Tiền huy động ba tiểu đoàn bộ binh và một số đơn vị hoả lực đóng chốt dọc quốc lộ 4 đoạn Nhị Bình - Bà Dâu. Ở mỗi chốt, chúng bố trí một đại đội pháo binh 105 mm và từ một đến hai đại đội bộ binh. Từ những căn cứ này được pháo binh và máy bay (kể cả máy bay B52) yểm trợ, chúng liên tục dùng chiến thuật “nhảy cóc” đánh sâu vào các vùng căn cứ, các tuyến hành lang vận chuyển của ta. Được Mỹ yểm trợ, quân ngụy tăng cường đánh phá các trục giao thông, thị trấn, ven thành phố để tiến hành “bình định cấp tốc” các vùng vừa bị ta chiếm, nhất là các huyện Gò Công, Hoà Đồng, Chợ Gạo. Trên sông Tiền và các kênh Nguyễn Tấn Thành, kênh 28... địch dùng chiến thuyền kiểm soát chặt chẽ để ngăn chặn lực lượng vũ trang ta.

Hạ tuần tháng 7-1968, Mỹ - ngụy lại tập trung quân càn quét lớn vào căn cứ Giồng Trôm (Bến Tre). Quân Mỹ huy động hàng chục tàu chiến chạy dọc sông Giồng Trôm đánh phá dữ dội các xã “đỏ” Lương Phú, Thuần Điền, Long Mỹ. Trung đoàn 10 ngụy được trực thăng vận đổ quân xuống Tân Trào, Hiệp Hưng càn quét vào các nơi chúng nghi có cơ sở cách mạng và căn cứ kháng chiến của ta. Với tinh thần chủ động tiến công tiêu diệt địch, Tiểu đoàn 516, Tiểu đoàn 5 và các đại đội phối thuộc đã bố trí nhiều tổ hoả lực ĐKZ 75, ĐKZ 57, B40, B41 đánh tàu địch trên sông Giồng Trôm. Một lực lượng lớn của ta khẩn trương cơ động đến Hiệp Hưng, thiết kế trận địa sẵn sàng tiêu diệt Trung đoàn 10 ngụy đổ bộ bằng đường không xuống khu vực này. Đúng như dự kiến, sáng ngày 23-7, sau khi cho sáu lượt chiếc máy bay B52 ném bom rải thảm xuống các xã Lương Phú, Long Mỹ, Tân Hào, địch cho 14 chiếc trực thăng chở hai đại đội thuộc Trung đoàn 10 đổ xuống trận địa ta ở đồng Gò Tranh. Ngay 15 phút đầu Đại đội phòng không 12,8 mm đã bắn rơi năm máy bay. Cùng lúc Tiểu đoàn 5 và Đại đội 3 (Tiểu đoàn 516) bật dậy đánh giáp lá cà, trong vòng hơn một giờ loại khỏi vòng chiến đấu hơn 100 tên địch. Dọc bờ sông Giồng Trôm, 20 tàu chiến chở đầy quân Mỹ liều mạng tiến vào xã Lương Phú liền bị các tổ săn tàu của ta diệt chín chiếc. Số còn lại vội vã quay đầu tháo chạy về thị xã.

Ở hướng Khu IX, bước vào đợt 2 tổng tiến công và nổi dậy, lực lượng vũ trang và cơ sở quần chúng cách mạng ở thành thị bị tổn thất nặng trong Tết Mậu Thân chưa kịp khôi phục, địch lại tăng cường phòng bị trên cả hai tuyến, nhưng quân dân các tỉnh vẫn chấp hành nghiêm chỉ thị của Trung ương Cục và Bộ Tư lệnh Miền và sử dụng đặc công biệt động đánh vào các mục tiêu trong nội đô; còn các đơn vị bộ binh rút ra vùng giải phóng, vừa củng cố, vừa đánh địch, thu hút lực lượng cơ động của Mỹ - ngụy ra vòng ngoài, tạo thuận lợi cho nội thành tiến công và nổi dậy.

Tại tỉnh Cần Thơ, đêm 24-5-1968, một đại đội đặc công quân khu đột nhập sân bay Lộ Tẻ dùng thủ pháo, lựu đạn phá huỷ 18 máy bay trực thăng, 2 xe vận tải, 1 kho xăng dã chiến, diệt và làm bị thương gần 30 tên. Ngày 25-5, lực lượng vũ trang Cần Thơ (chủ yếu là Tiểu đoàn Tây Đô) phục kích trên đoạn đường từ Cái Tắt đi Tầm Vu (huyện Vị Thanh) đánh thiệt hại nặng 1 tiểu đoàn của Trung đoàn 33 ngụy, phá huỷ 50 xe ôtô, thu nhiều đồ dùng quân sự. Phát huy thắng lợi, đầu tháng 6, quân dân nhiều huyện ở Cần Thơ đã tiến công tiêu diệt 50 đồn bốt, diệt và bắt hàng chục tề điệp ác ôn ngoan cố, giải phóng hàng chục xã, ấp...

Ở tỉnh Vĩnh Long, đầu tháng 5-1968, Trung đoàn 3 do Trung đoàn trưởng Nguyễn Đệ chỉ huy, tổ chức một bộ phận đặc công và pháo mang vác luồn sâu, đánh các căn cứ, chỉ huy, kho tàng địch trong thị xã. Trung đoàn 3 đứng chân ở Phước Hậu ven thị xã Vĩnh Long từ ngày 10-5 đến ngày 15-6 cùng lực lượng vũ trang địa phương trong và ngoài thị xã đánh 12 trận, chủ yếu ở các khu vực Bà Kha, cầu Ông Me, lộ Cầu Vồng loại khỏi vòng chiến đấu hai tiểu đoàn địch, bắn cháy 25 xe (có 12 xe thiết giáp), bắn rơi 9 trực thăng, phá hỏng 10 khẩu pháo, làm chủ nhiều đoạn quốc lộ 4 và 7, triệt hạ 50 đồn bốt, mở rộng vùng giải phóng Tam Tân, và vùng bắc đường 4... Ở Trà Vinh, ta sử dụng một bộ phận nhỏ của Tiểu đoàn 501 bám trụ ở Tấm Phương (ven thị trấn huyện Châu Thành và đường 7 huyện Càng Long) hoạt động thu hút lực lượng địch. Lực lượng lớn toả về các địa phương bao vây đồn bốt hỗ trợ cho nhân dân nổi dậy giành quyền làm chủ, mở rộng vùng giải phóng.

Phối hợp với các hoạt động quân sự, chính trị mạnh mẽ ở hai tỉnh Cần Thơ và Trà Vinh, Tỉnh đội Sóc Trăng sử dụng Đại đội pháo binh mang vác cối 82, ĐKZ 75 luồn sâu vào hậu phương địch bắn phá sân bay Sóc Trăng và Yếu khu Ba Xuyên, phá huỷ tám máy bay. Đại đội 301 và các tổ công tác biệt động thị xã táo bạo đột nhập khu 17, 18, chùa Đại Giác kêu gọi binh sĩ địch không hành quân càn quét bắn phá, quay về với nhân dân. Trên vành đai diệt địch huyện Thạnh Trị, ngày 5-5, lực lượng vũ trang địa phương vây diệt đồn Cống Đá, một bộ phận phục kích đánh thiệt hại nặng đại đội bảo an ở Chi khu Thạnh Trị đi cứu viện. Giữa tháng 5, bộ đội địa phương và du kích Tân Long bao vây bức địch ở đồn Trà Cú đầu hàng. Ngày 29-5, B68 (đội phòng thủ của Tỉnh uỷ) cùng du kích địa phương diệt đồn chùa Phật Mẫu, chốt Cầu Đá phát triển vào trung tâm Thạnh Trị, xoá bỏ bộ máy kìm kẹp chi khu. Cùng thời gian, bộ đội địa phương huyện Châu Thành và du kích các xã Thuận Hưng, Mỹ Phước bao vây bức địch ở đồn Mỹ Thuận, Tà Ông, Đại Súa đầu hàng, mở rộng vùng giải phóng huyện Châu Thành tới giáp thị xã.

Ở Bạc Liêu, Tiểu đoàn 368 đứng chân ở nam tỉnh lộ 4, được bộ đội địa phương huyện Mỹ Xuyên phối hợp tiến công phá ấp chiến lược Sô La, Giồng Tắc; thừa thắng bức địch rút đồn Thạch Sên. Địch ở Sóc Bưng, Bưng Chụm, Tà Mẹt nghe tin hoảng sợ bỏ đồn tháo chạy.

Ở Rạch Giá, Tiểu đoàn 207 được tăng cường Đại đội bộ binh An Biên, hai đại đội pháo (616, 617) tấn công một số mục tiêu trọng yếu trong thị xã; sau đó được lệnh bám trụ lại ven thị xã đánh địch ở Cù Là. Ban công binh tỉnh chỉ huy Đại đội 512 đánh cắt lộ Tân Hiệp và chỉ đạo lực lượng vũ trang huyện, xã đánh phá cầu bằng bom, mìn tự tạo. Ngày 19-5, nữ giao liên Ban binh vận tỉnh cùng chị Nhơn, em Đức ở Giục Tượng đánh sập cầu Hoằng. Lực lượng vũ trang huyện Tân Hiệp tiến công và làm chủ nhiều mục tiêu trên lộ Cái Sắn...


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Tư, 2010, 11:41:52 pm

Phối hợp với các chiến trường miền Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long, chiến trường Khu VI (cực nam Trung Bộ), Khu uỷ và Bộ Tư lệnh quân khu đã lãnh đạo, chỉ đạo lực lượng vũ trang và lực lượng chính trị trong địa bàn quân khu tích cực tham gia tổng tiến công và nổi dậy đợt 2 trên hầu khắp các tỉnh, thành từ Lâm Đồng, Tuyên Đức đến Bình Thuận, Ninh Thuận.

Trên cánh Bắc tỉnh Bình Thuận, rạng ngày 5-5, Tỉnh đội sử dụng Đại đội 440 đánh chiếm thị trấn Chợ Lầu, tiêu diệt gọn trung đội bảo an, dân vệ. Chiều ngày 7-5, một đại đội bảo an kéo vào giải toả thị trấn Chợ Lầu bị Đại đội 440 phục kích đánh thiệt hại nặng, 15 giờ cùng ngày, địch cho bốn đại đội biệt kích từ Lương Sơn chia làm ba cánh kéo ra định đánh úp, tiêu diệt quân ta. Nắm được ý đồ thâm hiểm của địch, Tỉnh đội Bình Thuận đã cho Tiểu đoàn 840 nhử địch vào trận địa phục kích tiêu diệt hai đại đội. Số còn lại tháo chạy trên đường 1 bị quân ta truy diệt hàng chục tên. Ngày 8-5, Tiểu đoàn 840 cho một đại đội đánh chiếm ấp Lâm Lộc, sau đó toả về các ấp Long Lễ, Hội Tân hỗ trợ cho lực lượng vũ trang địa phương và nhân dân chống địch càn quét, bảo vệ quê hương. Được chiến công của Tiểu đoàn 840 cổ vũ, lực lượng vũ trang địa phương Phan Rí, Tuy Phong đột nhập vào các ấp ven đường số 1 diệt ác, phá kìm hỗ trợ đồng bào nổi dậy giành quyền làm chủ. Bị vây ép mạnh từ nhiều phía, ngày 11 -5, Bộ chỉ huy Mỹ tức tốc điều Tiểu đoàn 3 (Lữ đoàn 1 kỵ binh không vận Mỹ) và Tiểu đoàn 3 (Trung đoàn 44 ngụy), được phi pháo yểm trợ mạnh, từ Phan Thiết ra giải toả cho Lâm Lộc và Phan Rí. Nhưng một lần nữa địch lại bị Tiểu đoàn 840 tổ chức trận địa phục kích sẵn trên cánh đồng Hậu Quánh, đánh thiệt hại nặng hai đại đội (có một đại đội Mỹ), làm cho chúng phải huỷ bỏ cuộc hành quân càn quét, tìm cách thu nhặt xác đồng bọn.

Cùng thời gian này, Tiểu đoàn 482 hoạt động ở cánh Nam Bình Thuận, được nhân dân địa phương hết lòng hỗ trợ, tiến công giải phóng hàng chục xã, ấp ở vùng nam thị xã Phan Thiết. Để giải toả Bình Thuận, cuối tháng 5-1968, Bộ chỉ huy Mỹ ở Sài Gòn đã cho hai chi đoàn thiết giáp (phần lớn là xe tăng M41 và M48 ) ra hỗ trợ cho quân Mỹ - ngụy càn quét nhằm chiếm lại bằng được những khu vực đã mất.

Trước tình hình địch tăng cường lực lượng ra tỉnh Bình Thuận, Bộ Tư lệnh Quân khu VI quyết định bổ sung Tiểu đoàn 840 cho vùng trọng điểm nam Bình Thuận. Trong năm ngày (từ 16 đến 20-5), Tiểu đoàn 840 cùng các lực lượng phối hợp của địa phương vượt mọi khó khăn ác liệt, chặn đánh hai cuộc càn quét vào Tân An, Phú Bình, đánh thiệt hại nặng Tiểu đoàn 44 ngụy, phá huỷ hai xe tăng M41, làm chủ vùng giải phóng.

Ở Tuyên Đức, bước vào tuần đầu đợt 2, được sự chỉ đạo sát sao của khu và tỉnh, lực lượng vũ trang ba thứ quân và lực lượng chính trị quần chúng hoạt động mạnh mẽ, đều khắp ở cả nông thôn và thành thị. Ngày 10-5 trên đường 21 kéo dài, Tiểu đoàn 186 và Tiểu đoàn 240 bí mật luồn sâu tiến công các ấp Thanh Bình, Gia Thạch (bắc quận lỵ Đức Trọng). Với hình thức tác chiến vận động tiến công kết hợp bao vây chốt chặt, quân ta lần lượt kéo địch từ Chi khu Đức Trọng và Tiểu khu Tuyên Đức ra để tiêu diệt; đồng thời hỗ trợ cho Đại đội pháo cối 82, ĐKZ 75 bắn phá khống chế sân bay Liên Phương. Kết quả sau 10 ngày chiến đấu, ta đã diệt và làm bị thương bốn đại đội (hai đại đội biệt động quân, hai đại đội bảo an), thu và phá huỷ một số đồ dùng quân sự. Được đấu tranh quân sự hỗ trợ, hàng ngàn đồng bào Thượng và Kinh ở các ấp dọc đường 21 nổi dậy kéo lên quận đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ, chống địch bắn phá bừa bãi. Trong vòng một tuần giữa tháng 5, Tiểu đoàn 810 và các đại đội biệt động tỉnh tổ chức tiến công 26 lần vào 13 mục tiêu: Dinh thị trưởng Đà Lạt, khu cư xá Mỹ, Trường võ bị, Sở Cảnh sát…, ba lần pháo kích sân bay Cam Ly, phá hỏng Nhà máy thuỷ điện Suối Vàng. Bộ đội địa phương Lạc Dương, Đơn Dương đánh tiêu hao các đoàn bình định và bảo an, dân vệ giữ ấp, cảnh giới giao thông đường 11 và đường 20.

Trong khi đó, lực lượng vũ trang hai tỉnh Lâm Đồng và Ninh Thuận đánh địch trên đường 20, pháo kích sân bay Thành Sơn, phá ống dẫn dầu và đốt cháy năm triệu lít xăng ở cảng Ninh Chữ...

Trong hơn một tháng hoạt động đợt 2, tuy mục đích, kế hoạch tiêu diệt địch, giành dân như quân khu đặt ra không đạt nhưng với tinh thần đoàn kết hiệp đồng vì thắng lợi chung của toàn Miền, quân dân Khu VI đã vượt mọi thiếu thốn về vật chất (nhất là vũ khí trang bị) giữ vững và phát triển thế tiến công và nổi dậy đều hơn, mở rộng, nối thông nhiều vùng giải phóng ở bắc Bình Thuận với Tuyên Đức, Ninh Thuận... tạo điều kiện thuận lợi cho việc củng cố xây dựng lực lượng chuẩn bị cho cuộc chiến đấu mới.

Chiến trường Khu V và Tây Nguyên bước vào cuộc tổng tiến công đợt 2 không diễn ra sôi động như chiến trường Sài Gòn - Gia Định và đồng bằng Nam Bộ. Từ sau Tết Mậu Thân 1968, khi địch co về giữ thành phố, thị xã, Thường vụ Khu uỷ và Đảng uỷ Bộ Tư lệnh Quân khu V nhận định: “Đây là thời cơ thuận lợi cho Khu V củng cố và mở rộng vùng giải phóng nông thôn”. Và chủ trương: “Chỉ để một bộ phận nhỏ tiếp tục tiến công vây ép các đô thị, đại bộ phận lực lượng chuyển về đánh địch ở nông thôn”1.

Vì vậy bước vào đầu tháng 5-1968, quân khu và tỉnh đội các tỉnh từ đồng bằng đến cao nguyên, từ Quảng Đà đến Phú Khánh chỉ tổ chức những đội đặc công, biệt động, tổ vũ trang công tác đột nhập vào nội đô đánh nhỏ lẻ và dùng pháo mang vác, pháo hoả tiễn bắn phá các sân bay, kho tàng. Tại Quảng Đà đầu tháng 5-1968, Tiểu đoàn 89 đặc công quân khu tập kích bãi xe cơ giới Cẩm Bình, đánh thiệt hại nặng một đại đội Mỹ, phá huỷ 36 xe các loại. Cùng thời gian 60 chiến sĩ biệt động đột nhập phường Thanh Khê diệt hai đồn cảnh sát. Mặc dù bị lộ và bị địch ngăn chặn, các chiến sĩ đặc công tinh nhuệ được nhân dân thành phố che chở vẫn bám trụ tiến công bảy mục tiêu địch gây cho chúng một số tổn thất. Ở thị xã Hội An, hai tiểu đoàn bộ binh mặt trận 4 hiệp đồng chặt chẽ với lực lượng vũ trang địa phương, đồng loạt tiến công hàng chục vị trí của Mỹ - ngụy trong thị xã, diệt và bắt 321 tên, làm chủ 3 phường, 4 xã.
_____________________________________
1. Khu V - 30 năm chiến tranh giải phóng, Bộ Tư lệnh Quân khu V xuất bản, 1989, t. 2, tr. 347.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Tư, 2010, 11:42:22 pm

Hỗ trợ cho các đội đặc công, biệt động hoạt động ở thành thị, nửa cuối tháng 5-1968, Trung đoàn 36 bộ binh đứng chân trên hai huyện Duy Xuyên, Điện Bàn đánh bại cuộc hành quân giải toả của Trung đoàn 5 lính thuỷ đánh bộ Mỹ, loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên, buộc chúng phải co về căn cứ An Hoà. Ngày 30-5, Tiểu đoàn 1 (Trung đoàn 86) vận động phục kích đánh diệt hàng chục tên, bắn rơi hai máy bay trực thăng. Từ ngày 6-5 đến ngày 13-6, Sư đoàn 2 hoạt động ở Khâm Đức đánh thiệt hại hai lữ đoàn 196 và 11 bộ binh Mỹ ở khu vực Núi Ngang, tạo điều kiện cho lực lượng vũ trang Quảng Nam tiến công một loạt cứ điểm ở vùng ven thị xã quận lỵ. Tiểu đoàn bộ binh 70 Quảng Nam tập kích diệt gọn đại đội bảo an ở Cống Lở, cắt đứt đoạn đường Quán Rồng - Chiên Đàn uy hiếp phía tây tỉnh đường Quảng Tín.

Trong khi đó ở Quảng Ngãi, để trả thù cho hơn 500 đồng bào Sơn Mỹ bị giặc Mỹ giết hại giữa tháng 3, các lực lượng vũ trang ba thứ quân tiến công vào nhiều vị trí quan trọng trong thị xã, thị trấn từ Bình Sơn, Sơn Tịnh đến Nghĩa Hành, Đức Phổ.

Trong hai ngày (5 và 6-5) hai đại đội đặc công tỉnh và lực lượng vũ trang thị xã đánh vào Tiểu khu Quảng Ngãi, đánh thiệt hại nặng hai đại đội lính cộng hoà và lính bảo an. Các đơn vị bám trụ tiến công địch ở bắc cầu Trà Khúc và ga Ông Bố, phát triển làm chủ các đường Phan Bội Châu, Trần Hưng Đạo. Tiểu đoàn 107 dùng pháo cối 82, ĐKZ 75 bắn phá Rừng Lăng, sở chỉ huy tiểu đoàn bảo an, đốt cháy nhiều kho tàng, công sở địch. Tiểu đoàn 48 cùng lực lượng vũ trang địa phương tiến công huyện lỵ Bình Sơn, Sơn Tịnh, cắt đứt giao thông quốc lộ số 1, gây cho địch nhiều khó khăn trong việc tiếp tế vận chuyển. Đầu tháng 6, Đại đội đặc công 506A tổ chức hai bộ phận đánh vào Tỉnh đoàn xây dựng nông thôn, khu vực đóng quân Mỹ trên đường Võ Tánh, truy kích diệt hàng chục tên từ Cống Kiều đến đường Trần Quốc Toản. Đại đội 506B đánh Đài phát thanh. Tiểu đoàn 81 tiến công tiểu đoàn bảo an, dùng súng cối 82 bắn phá Đặc khu Quảng Ngãi...

Phối hợp với quân và dân Quảng Ngãi, rạng sáng ngày 5-5, Sư đoàn 3 bộ binh (thiếu một trung đoàn) của quân khu bám trụ ở Bình Định được lực lượng vũ trang tỉnh, huyện hỗ trợ, cùng một lúc tiến công tám mục tiêu trên đường số 1, đoạn từ cầu Ông Diệu đến huyện lỵ Phù Mỹ, nhằm kéo Lữ đoàn dù 178 Mỹ ra giải toả để tiêu diệt... Khoảng 23 giờ đêm ngày 6-5, một đoàn xe địch được máy bay và pháo binh yểm trợ, chạy từ Phù Mỹ ra, lọt vào trận địa phục kích của Sư đoàn 3, bộ đội ta nổ súng bắn cháy 32 chiếc, hơn 100 tên đi trên xe bị diệt. Cùng thời gian, Tiểu đoàn 53 tổ chức đánh quân Mỹ đổ bộ đường không xuống thôn Tường Lâm, Mỹ Trung (Hoài Ân), đẩy lui sáu đợt phản kích của địch, loại khỏi vòng chiến đấu 130 tên, bắn rơi 2 máy bay trực thăng.

Phát huy thắng lợi, sáng ngày 23-5, hai tiểu đoàn chủ lực thuộc Quân khu V, Sư đoàn 3 và hai đại đội địa phương Bình Định tiến công trận địa pháo Đèo Nhông, hai điểm chốt Gò Lôi, Mồ Côi (tây bắc quận lỵ Phù Mỹ), buộc Lữ đoàn 173 một lần nữa phải ra giải toả. 10 giờ sáng ngày 24-5, một đoàn xe 26 chiếc chở quân Mỹ, được một chi đoàn thiết giáp ngụy hỗ trợ tiến vào xã Mỹ Trinh, bị bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương chặn đánh diệt 16 chiếc, số còn lại phải tháo lui.

Đầu tháng 6-1968, Đ40 đặc công tỉnh tập kích hai đại đội Mỹ ở gò Ông Thường, xã Hoài Thanh và cầu Ông Tú, xã Hoài Châu, huyện Hoài Nhơn. Giữa tháng 7, Tiểu đoàn 53 phục kích đánh địch trên quốc lộ 1 đoạn Tam Quan đi Chợ Cát, loại khỏi vòng chiến đấu gần 200 tên Mỹ - ngụy, bắn cháy 15 xe (có 4 xe bọc thép), 2 máy bay, 2 pháo 105 mm. Đặc công Đ10 tập kích cứ điểm tháp Bánh Ít, diệt 30 tên, đánh sập 8 lô cốt đốt cháy 2 kho xăng. Giữa tháng 6, Tiểu đoàn 50 được bộ đội địa phương huyện và du kích phối hợp, chặn đánh một tiểu đoàn Nam Triều Tiên càn quét xã Cát Thắng, loại khỏi vòng chiến đấu gần 100 tên.

Cùng thời gian, lực lượng vũ trang hai tỉnh Phú Yên, Khánh Hoà tuy còn gặp nhiều khó khăn về lực lượng tác chiến chưa kịp củng cố, bổ sung; công tác chuẩn bị vật chất (vũ khí trang bị) chưa bảo đảm..., nhưng bước vào đợt 2, lực lượng vũ trang Phú Yên pháo kích căn cứ Lữ đoàn dù 173 Mỹ, Sở chỉ huy Trung đoàn 28, “Sư đoàn ngựa trắng” Nam Triều Tiên và sân bay Đông Tác, thị xã Tuy Hoà. Đại đội địa phương huyện Củng Sơn phục kích diệt một trung đội biệt kích hoạt động trên đường 7. Đầu tháng 6, Đại đội pháo cối mang vác bắn phá hai lần vào quận lỵ Đồng Xuân, Tuy An diệt hàng chục tên. Ở Khánh Hoà, cuối tháng 5 bộ đội đặc công đột nhập cảng Cam Ranh, căn cứ huấn luyện hải quân Nha Trang đốt cháy hai kho xăng. Đại đội địa phương huyện Ninh Hoà hoạt động ở Đá Bàn diệt một trung đội địch “hành quân tảo thanh” ở Cung Hoà, Quảng Thiện. Giữa tháng 6, đại đội địa phương Khánh Hoà phục kích diệt năm xe địch trên đèo Phượng Hoàng đường 21...


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Tư, 2010, 11:43:14 pm

Trên chiến trường Tây Nguyên, giữa tháng 4-1968, Đảng uỷ và Bộ Tư lệnh mặt trận Tây Nguyên họp tổng kết rút kinh nghiệm tổng tiến công và nổi dậy đợt 1 và đề ra nhiệm vụ đợt 2. Sau khi cân nhắc kỹ tình hình ta, địch, lãnh đạo và chỉ huy mặt trận thấy rằng thời cơ giải phóng thị xã lúc này không còn thích hợp. Từ Tết Mậu Thân 1968 đến nay, bị ta đánh nhiều lần quân địch ở thị xã và các yếu khu quan trọng đã tăng cường lực lượng và các biện pháp phòng thủ. Cơ sở cách mạng của ta trong thị xã yếu, đấu tranh chính trị của quần chúng đang gặp nhiều khó khăn, yếu tố bí mật bất ngờ không còn. Vì vậy Đảng uỷ, Bộ Tư lệnh mặt trận chủ trương sử dụng pháo cối đánh bồi vào các thị xã, căn cứ địch, Sư đoàn bộ binh 1 và các trung đoàn, tiểu đoàn độc lập đứng chân ở ba tỉnh căn cứ vào tình hình hoạt động của địch từng vùng mà chọn mục tiêu tiến công cho thích hợp, hỗ trợ cho đồng bào các dân tộc nổi dậy diệt ác, phá kìm, giải phóng buôn làng, chú trọng đánh phá giao thông trên các đường 14, 19, 21 coi đó là một trong những nhiệm vụ quan trọng góp phần đẩy mạnh chiến tranh du kích, quét sạch ngụy quyền xã, đánh rã ngụy quyền quận, làm chủ vùng nông thôn, mở rộng vùng phụ cận, xây dựng bàn đạp xung quanh thị xã và quận lỵ.

Chấp hành chỉ thị của Bộ chỉ huy mặt trận Tây Nguyên, đêm 29 rạng ngày 30-4, một tổ đặc công đột nhập sân bay Buôn Ma Thuột phá huỷ 4 máy bay, 8 xe GMC, 6 căn nhà, diệt hàng chục tên. Pháo ĐKB bắn vào sân bay Hoà Bình thiêu cháy 5 máy bay, 3 kho hàng, diệt 21 địch (có 12 Mỹ). Đêm 4 rạng ngày 5-5, bộ đội đặc công và lực lượng vũ trang địa phương tiến công Ty Cảnh sát, Ty Thông tin trong thị xã. Một đại đội của Tiểu đoàn 39 đánh vào khu công chánh diệt 40 tên. Pháo cối của ta bắn phá quận lỵ Đức Lập, căn cứ Đắc Sắc và Sa Pa. Cuối tháng 5, lực lượng vũ trang tỉnh đánh địch ở các quận Buôn Hồ, Cheo Reo, Lak hỗ trợ cho binh vận tỉnh vận động binh sĩ địch quay súng về với cách mạng...

Ở bắc Tây Nguyên đầu tháng 4-1968, Sư đoàn 1 từ hướng đường 18 - Plây Cần hành quân sang hướng tây Kon Tum đánh quân Mỹ nống ra các khu vực Chư Tăng Kra, Chư Mo, Chư Tô Bla, Chư Ben... Suốt trong hai tháng 5 và 6, với các hình thức tác chiến phục kích, tập kích, vận động tiến công kết hợp chốt, Sư đoàn 1 đã loại khỏi vòng chiến đấu 1160 tên địch, bắn rơi 72 máy bay, phá huỷ 42 xe quân sự.

Sư đoàn 325C (thiếu) mới có mặt ở Tây Nguyên tháng 4-1968, đã nhanh chóng thích ứng với chiến trường mới, khẩn trương bước vào hoạt động trên đường 18. Ngày 8 và 9-5, một tiểu đoàn tăng cường của Trung đoàn bộ binh 28 tổ chức trận tập kích đầu tiên tiêu diệt đại đội Mỹ ở Ngọc Pơ tạo niềm tin cho cán bộ chiến sĩ. Ngày 25-5, một tiểu đoàn của Trung đoàn 28 tập kích vào điểm cao 824, diệt hai trung đội Mỹ. Phát huy thắng lợi, ngày 29-5, sư đoàn tổ chức hai tiểu đoàn tập kích cứ điểm Ngọc Hồi, loại khỏi vòng chiến đấu 150 tên. Ba trận tập kích trên đạt kết quả chiến đấu tốt, khẳng định trong điều kiện chiến trường mới lạ, vật chất khó khăn, cán bộ, chiến sĩ sư đoàn vẫn đánh thắng quân Mỹ.

Nổi bật nhất trong hoạt động đợt 2 ở Tây Nguyên là những trận đánh cắt giao thông trên các mạng đường quốc lộ, tỉnh lộ ba tỉnh. Sáng ngày 9-5, một đoàn xe cơ giới Mỹ chạy trên đường 14 (Plâycu - Kon Tum) bị lực lượng vũ trang Gia Lai phục kích diệt tám chiếc. Ngày 28-5, các chiến sĩ Trung đoàn 95 đánh đoàn xe quân sự địch trên đường 19 (An Khê - Măng Giang) diệt 20 chiếc (có 5 xe tăng, xe bọc thép). Nửa tháng sau cũng trên đoạn đèo này, Trung đoàn 95 phục kích diệt 25 xe, loại khỏi vòng chiến đấu gần 100 tên định.

Trong hai tháng 6 và 7-1968, cuộc chiến đấu trên mặt trận giao thông ở Tây Nguyên tiếp tục diễn ra sôi động. Cả ba thứ quân trên khắp chiến trường đều xông ra mặt đường diệt xe, phá cầu, cắt giao thông địch. Các trung đoàn chủ lực 24, 95 diệt các đoàn xe địch trên đường 14, 19, 21. Bộ đội địa phương tỉnh chốt cắt giao thông trên các đường 5, 7, 18. Đồng bào các dân tộc đổ ra mặt đường đào hào, chặt cây, đắp ụ dựng chiến luỹ ngăn xe giặc... Phong trào đánh cắt giao thông của quân và dân Tây Nguyên, khiến giặc Mỹ kinh hoàng trước sức mạnh của chiến tranh nhân dân.

Trên chiến trường Trị - Thiên, từ sau thất bại nặng nề trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân, Mỹ - ngụy tăng cường đưa quân ra Trị - Thiên - Huế nhằm ổn định tình hình, khôi phục thế trận đã mất. Cuối tháng 3- 1968, Mỹ - ngụy đã đưa ra bắc Vùng I chiến thuật 14 vạn quân1, trong đó 2/3 là lính Mỹ.

Với lực lượng quân sự lớn chưa từng có ở khu vực này, Mỹ - ngụy tiến hành phản kích điên cuồng “quét trong giữ ngoài” thiết lập hệ thống phòng ngự chiều sâu bằng hai biện pháp “ngăn chặn từ xa” và “bình định cấp tốc” nhằm giải toả triệt để đô thị và bình định nông thôn đồng bằng. Ở các huyện Phú Vang, Hương Trà, Hương Thuỷ... địch tập trung 30 tiểu đoàn càn quét “bình định” bằng mọi thủ đoạn dã man trong suốt ba tháng liền. Chúng đốt hơn 1.000 ngôi nhà ở xã Thuỷ Thượng, “đốt sạch, phá sạch” thôn Thuỷ Chánh, xã Thuỷ Thanh. Trong hơn một tháng chúng cày ủi nhà cửa, dồn toàn bộ dân các xã Phong Sơn, Phong Nguyên, Hương Đồng, Hương Thọ xuống phía đông đường số 1. Ở Gio Linh, Cam Lộ (Quảng Trị) chúng dồn dân quyết liệt vào các khu tập trung Cửa Việt, Quán Ngang, Tân Tường, Hoàn Cát... Sau đó chúng lập các đoàn thanh tra, giám sát, phân loại quần chúng, cử những tên ác ôn khét tiếng vào bộ máy hành chính thôn, xã “thanh lọc đến cùng” những cán bộ và quần chúng ưu tú của cách mạng.
_____________________________________
1. Quân Mỹ ở Trị - Thiên - Huế lúc này có ba sư đoàn: Sư đoàn 3 lính thuỷ đánh bộ, Sư đoàn dù 101 không vận, Sư đoàn 1 lính thuỷ đánh bộ, 28 thiết đoàn xe tăng, xe bọc thép.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Tư, 2010, 11:44:12 pm

Đầu tháng 4-1968, mặc dù gặp rất nhiều khó khăn về quân số, trang bị kể cả bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, cơ sở cách mạng ở thành thị và nông thôn bị đánh phá chưa kịp khôi phục, nhưng khi nhận được chỉ thị của Bộ Tổng tư lệnh chuẩn bị lực lượng đánh chiếm Huế, phối hợp chung với toàn Miền1 trong đợt 2, Khu uỷ Trị - Thiên đã hạ quyết tâm: “Sử dụng lực lượng tại chỗ tăng cường tập kích, phục kích đánh phá bình định của địch, tạo điều kiện để đưa lực lượng chủ lực tăng cường cho Huế thực hành tổng tiến công và nổi dậy”2.

Chấp hành nghị quyết Khu uỷ, các lực lượng vũ trang Trị - Thiên vượt lên mọi trở ngại, hiệp đồng nổ súng với toàn Miền đúng thời gian quy định.

Rạng sáng ngày 5-5, bộ binh, pháo binh, đặc công cùng lúc tiến công vào các mục tiêu ven thành phố Huế, thị xã Quảng Trị, 8 thị trấn và 12 căn cứ hành quân của địch. Ngày 22-5, Trung đoàn 2 (Sư đoàn 324) phục kích đoàn xe địch trên đường số 1 (đoạn Mỹ Chánh - Huế) diệt gần 100 tên, bắn cháy 16 xe quân sự. Tiểu đoàn 1, Tiểu đoàn 12 đặc công cùng tiểu đoàn pháo hỗn hợp tiến công căn cứ trung đoàn thiết giáp Mỹ ở Động Toà, phá huỷ gần 100 xe quân sự, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 300 tên. Đêm 24-5, Tiểu đoàn 2 đặc công tập kích trận địa pháo Mỹ ở Phú Bài, phá huỷ 10 khẩu pháo các loại. Đặc biệt trong tuần cuối tháng 5, hai trung đoàn bộ binh 6 và 9 chủ lực quân khu lợi dụng địa hình rừng núi thông thuộc ở A Sầu, A Lưới, bằng các trận tập kích, phục kích đánh vào các cụm quân của Sư đoàn dù 101 và Sư đoàn 1 bộ binh ngụy đang hành quân càn quét, làm thiệt hại 12 đại đội (có một nửa là quân Mỹ) bắn rơi 20 máy bay.

Đồng thời với việc chỉ đạo quân và dân toàn Miền tổng tiến công và nổi dậy đợt 2, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương tập trung chỉ đạo Bộ chỉ huy chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh sử dụng lực lượng, vận dụng mọi hình thức tác chiến, tích cực vây hãm địch ở Tà Cơn, vừa giam chân tiêu hao sinh lực địch, vừa kéo quân Mỹ ra Đường 9 - bắc Quảng Trị, tạo điều kiện cho các chiến trường khác tiêu diệt địch, thực hiện mục tiêu đã đề ra. Chính vì vậy, kể từ sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, tình hình chiến sự ở mặt trận Đường 9 - bắc Quảng Trị diễn ra liên tục và hết sức ác liệt. Thượng tuần tháng 2-1968, mặc dù mất Làng Vây và bị vây hãm ở Tà Cơn (hai trong ba vị trí quan trọng của tập đoàn cứ điểm Khe Sanh), nhưng Mỹ - ngụy vẫn không cho lực lượng ra ứng cứu, mà vẫn co lực lượng về lo đối phó với ta ở thành phố, thị xã. Bộ Tư lệnh chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh quyết định: dùng hai sư đoàn 304 và 325 chuyển từ vây hãm sang vây lấn Tà Cơn, tích cực tiêu hao, tiêu diệt địch, phá huỷ nhiều phương tiện chiến tranh, cắt đứt tiếp tế đường bộ, đẩy địch vào tình thế khốn quẫn hơn nữa, buộc chúng phải đưa quân ra ứng cứu giải toả.

Thực hiện chỉ thị của Bộ Tư lệnh chiến dịch, sau một tuần chuẩn bị, hai trung đoàn 9, 66 (Sư đoàn 304) và hai trung đoàn 95C, 101D (Sư đoàn 325C) được bộ đội địa phương Hướng Hoá hỗ trợ xây dựng được 13 trận địa vây lấn bao quanh căn cứ Tà Cơn. Từ đêm 12-2 trở đi, trên các trận địa vây lấn, bộ đội ta đào dũi xuyên qua các lớp rào, tiến dần vào tung thâm căn cứ tiến hành đánh phá các lô cốt tiền duyên, bắn tỉa tiêu hao sinh lực địch. Pháo binh ta liên tục bắn chế áp hỗ trợ cho bộ binh đẩy lùi các đợt phản kích của địch, bắn phá sân bay và các mục tiêu trọng yếu, làm cho chúng ăn ngủ không yên, suốt ngày đêm nơm nớp lo sợ, chui rúc dưới hầm ngầm. Trung bình mỗi ngày không quân Mỹ phải thực hiện 140 lần chiếc máy bay cho nhiệm vụ tiếp tế, tải thương, nhưng chỉ 40 lần được an toàn. Nhiều chiếc thoát được lưới lửa phòng không nhưng khi xuống đường băng lại trúng đạn pháo của ta. Phóng viên hãng Roitơ (Anh) ngày 18-3-1968 mô tả: “Một sân bãi gồm máy bay lên thẳng và máy bay vận tải bị đốt cháy nằm dọc đường băng của Khe Sanh đã chứng minh cho các khó khăn hạ cánh và cất cánh của máy bay ở đó. Cộng sản đã khoá chặt căn cứ không quân này. Suốt ngày cộng sản nã súng cối và đạn pháo vào đường băng, không chiếc máy bay nào hạ cánh được”. Tình trạng thiếu lương thực, thuốc chữa bệnh, vũ khí trang bị và sự tồn đọng ngày một nhiều binh lính bị thương làm cho bọn địch trong căn cứ vô cùng hoang mang, dao động.

Để đẩy lùi lực lượng ta ra khỏi tập đoàn cứ điểm Khe Sanh, Mỹ đã cho phi pháo đánh phá không hạn chế. Tính từ ngày 21-1 đến ngày 3-3, không quân Mỹ (kể cả B52) đã xuất kích 24.000 lần chiếc, trút gần 100.000 tấn bom các loại, đồng thời, pháo binh từ Tân Lâm, Cà Lu bắn 150.000 quả đạn từ 105 đến 175 mm tạo nên những trận bão lửa dừ dội chưa từng thấy trên khắp khu vực Khe Sanh.

Với mức độ đánh phá như vậy, mỗi ngày ta phải sửa, đào mới 40% đến 50% công sự, ngày cao điểm đánh phá của địch, có mũi, có hướng phải sửa chữa tới 70% trận địa. Cùng với thiệt hại vật chất kỹ thuật, số lượng cán bộ, chiến sĩ bị thương và hy sinh lên tới hàng trăm người. Mặc dù vậy, cán bộ, chiến sĩ trên các trận địa vây lấn của hai sư đoàn vẫn bám trụ kiên cường, người trước ngã, người sau lên, phân đội này sức chiến đấu giảm, phân đội khác vào thay thế, cả sư đoàn, cả mặt trận đều dành mọi sự ưu tiên cao nhất cho các mũi, các hướng. Hiệu suất chiến đấu của bộ đội ta ngày càng cao, có tuần ta lấn sâu được gần 100 m; tập kích, pháo kích, bắn tỉa loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên địch.
_____________________________________
1. Điện số 592B ngày 19-4-1968 do đồng chí Võ Nguyên Giáp ký.
2. Quân khu IV - Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1999, tr. 246.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Tư, 2010, 11:44:40 pm

Trước thất bại liên tiếp trên chiến trường Đường 9 - Khe Sanh, Bộ chỉ huy quân sự Mỹ ở Nam Việt Nam phải đưa Sư đoàn kỵ binh không vận số 1 - lực lượng cơ động mạnh nhất của chúng ra Đường 9 cùng với Lữ đoàn dù 3 ngụy tổ chức hành quân giải toả cho Tà Cơn.

Việc kéo được một sư đoàn Mỹ, một lữ đoàn ngụy và một khối lượng lớn phương tiện chiến tranh ra Đường 9 - bắc Quảng Trị trong thời gian cuối tháng 3 đầu tháng 4-1968, đã tạo điều kiện thuận lợi cho quân và dân toàn Miền tổng tiến công và nổi dậy đợt 2 giành thêm những thắng lợi mới. Tuy nhiên, với lực lượng 2 vạn tên địch cùng một lúc ra Đường 9 - Quảng Trị đã làm thay đổi so sánh lực lượng giữa ta và địch ở khu vực chiến sự nóng bỏng này. Cuối tháng 3-1968, sau khi Sư đoàn 325C được lệnh hành quân vào chiến trường Tây Nguyên, trên chiến trường Đường 9 - Quảng Trị chỉ còn hai sư đoàn bộ binh (304, 320), hai trung đoàn pháo binh mặt đất và cao xạ (45, 241), hai trung đoàn bộ binh (27, 270) và Trung đoàn đặc công 126 cùng một số đơn vị hậu cần, kỹ thuật quân số hao hụt nhiều sau hai tháng liên tục chiến đấu. Lực lượng Mỹ có mặt ở Quảng Trị tương đương ba sư đoàn (chưa kể các đơn vị pháo binh thiết giáp) hơn 60.000 quân, trong đó 2/3 là lính Mỹ.

Bộ Tư lệnh chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh quyết định điều chỉnh lực lượng: rút một nửa quân số đang vây lấn Tà Cơn sang cơ động đánh địch dọc Đường 9 làm chậm bước tiến của địch. Các bộ phận còn lại tổ chức chấn chỉnh đội hình vây lấn giữ vững trận địa, tích cực đánh quân đổ bộ giải toả, triệt để cô lập cứ điểm Tà Cơn.

Sáng ngày 1-4-1968, trong lúc các đơn vị đang khẩn trương hoàn thiện mọi công tác chuẩn bị đánh địch dọc khu vực Đường 9 và vây lấn Tà Cơn, thì Sư đoàn kỵ binh không vận số 1 Mỹ và Lữ đoàn dù số 3 ngụy, cùng các đơn vị lính thuỷ đánh bộ ở Đường 9 mở cuộc hành quân “Ngựa bay” (“Lam Sơn 207”) hòng cứu nguy cho đồng bọn ở Khe Sanh.

Với lực lượng 30.000 tên chia làm bốn mũi: mũi thứ nhất đổ xuống Làng Cát, Làng Khoai, Húc Thượng, Húc Hạ cách Khe Sanh 18 km về phía đông; mũi thứ hai đổ xuống Cà Lu, Tân Lâm rồi hành quân theo Đường 9 lên Khe Sanh; mũi thứ ba đổ bộ xuống phía bắc Khe Sanh nhằm đánh úp các lực lượng vây lấn của ta; mũi thứ tư do Lữ đoàn dù 3 ngụy đảm nhiệm đổ xuống Ku Bốc và bắc Làng Vây bảo vệ mặt phía bắc và tây bắc cuộc hành quân của quân Mỹ. Tuy làm nhiệm vụ giải vây cho Khe Sanh, nhưng lính kỵ binh bay Mỹ cũng chuẩn bị phòng thủ khá chu đáo, đổ bộ xuống nơi nào chúng đều đưa lô cốt đúc sẵn xuống đó, để phòng ngừa các đợt tấn công của ta. Cùng với việc đổ quân giải toả, địch tập trung hoả lực pháo binh bắn phá hết sức khốc liệt cả vòng trong, vòng ngoài, phía tiền duyên cũng như hậu phương chiến lược. Trong những ngày này, địch dùng máy bay chiến thuật ném bom chỉ cách trung tâm Tà Cơn 400m, còn máy bay B52 thì phong toả vòng ngoài từ 2 đến 3 km. Địch đã gây cho ta nhiều tổn thất về người và phương tiện, phá huỷ nhiều mạng thông tin, làm mất liên lạc ở một số đơn vị trong nhiều giờ, thậm chí trong nhiều ngày.

Bên cạnh việc gia tăng áp lực ở nhiều nơi, quân Mỹ chuyển từ đánh ngày sang đánh đêm, chiếm được một số trận địa chốt của ta, làm hàng chục chiến sĩ thương vong.

Để khắc phục khó khăn, lúng túng ban đầu, cán bộ các cấp từ mặt trận xuống đến tiểu đoàn đã nhanh chóng xốc lại đơn vị ngay trên chiến hào diệt giặc, tổ chức đánh thí điểm lấy lại niềm tin cho cán bộ, chiến sĩ. Ngày 5-4 tại điểm cao 400, Tiểu đoàn 4 (Trung đoàn 24) tập kích bất ngờ một đại đội Mỹ, loại khỏi vòng chiến đấu gần 100 tên. Trưa ngày 7-4, một tiểu đoàn thuộc Lữ đoàn dù số 3 ngụy đổ quân xuống điểm cao 542 và 567 (tây bắc Làng Vây) bị pháo binh ta bắn trúng đội hình làm mất sức chiến đấu hai đại đội địch. Ngày 10-4, Trung đoàn 24 tiến công Tiểu đoàn 8 (Lữ đoàn dù 3 ngụy) ở điểm cao 400, diệt gần 100 tên trong đó có tên Thiếu tá Tham mưu trưởng lữ đoàn. Ngày 15-4, Tiểu đoàn 8 (Trung đoàn 66) ém quân ở vị trí có lợi, bất ngờ tập kích vào hai đại đội Mỹ ở điểm chốt 622 loại khỏi vòng chiến đấu hơn 100 lính kỵ binh Mỹ.

Cuối tháng 4-1968, mặc dù công việc ứng cứu giải toả cho Khe Sanh chưa thực hiện được, nhưng do bị thiệt hại về sinh lực và phương tiện, nên Mỹ - ngụy buộc phải kết thúc cuộc hành quân “Ngựa bay”. Địch đã đẩy được phần lớn lực lượng vây lấn của ta ra xa, vòng vây Tà Cơn được nới lỏng, chúng thay được quân. Lúc này hình thái phòng ngự Khe Sanh, địch vẫn lấy Tà Cơn làm trung tâm và được tăng cường lực lượng gồm hai trung đoàn lính thuỷ đánh bộ, hai tiểu đoàn kỵ binh không vận, đồng thời chúng chiếm thêm các cao điểm quan trọng như 689, 552, 471, Ku Bốc, Làng Khoai. Tuy nhiên, toàn bộ hướng tây Tà Cơn địch bỏ trống, chúng không chiếm được vị trí khống chế nào.

Đầu tháng 5-1968, để hoàn thành nhiệm vụ được giao trong đợt 2 tổng tiến công và nổi dậy toàn Miền là: “Tiếp tục vây hãm Khe Sanh, kìm giữ và diệt địch ở Đường 9”, Đảng uỷ và Bộ Tư lệnh chiến dịch họp quyết định: tập trung lực lượng, chủ động mở các trận tiến công nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực và phương tiện chiến tranh của địch, nhanh chóng khôi phục và củng cố lại thế trận vây lấn Tà Cơn, tạo thế uy hiếp mạnh hơn nữa, buộc địch phải đưa lực lượng lên giải toả lần thứ hai hoặc phải rút chạy, tạo điều kiện cho Trị - Thiên - Huế tiến công và nổi dậy.

Thực hiện nhiệm vụ trên, ngày 15-5-1968, sau khi được Bộ tăng cường Sư đoàn bộ binh 308 cho mặt trận, Bộ Tư lệnh chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh giao nhiệm vụ cho các đơn vị ở hướng tây: đẩy mạnh đánh cắt Đường 9 (đoạn từ Ku Bốc đến Rào Quán), đưa Khe Sanh trở lại tình trạng cô lập về đường bộ, buộc địch phải ra giải toả, để ta tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch ngoài công sự, siết chặt vòng vây ở Tà Cơn, buộc chúng phải rút lực lượng ở nơi khác lên giải toả.

Với phương châm đánh địch ngoài công sự là chủ yếu, kết hợp đánh nhỏ, đánh vừa, tạo điều kiện đánh lớn, ngày 19-5, Tiểu đoàn 7 (Trung đoàn 66) tổ chức phục kích phía tây căn cứ Tà Cơn, tiêu diệt một đại đội lính thuỷ đánh bộ Mỹ, thiêu huỷ ba xe M113 khi chúng hành quân sục sạo lực lượng ta. Địch tập trung hai tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ hành quân ra hướng tây nam Ché Riêng nhằm đẩy lực lượng ta ra xa. Sau ba ngày (19, 20, 21) hành quân đánh phá quyết liệt, quân Mỹ chẳng những không đẩy được lực lượng vây lấn của ta, mà ngược lại chúng còn bị tiêu hao lớn buộc phải co về căn cứ Tà Cơn. Ngày 28-5 Trung đoàn 102 (Sư đoàn 308 ), sử dụng Tiểu đoàn 8 đánh trận mở màn ở Làng Cát (cách Rào Quán 1 km về phía nam), diệt hơn 100 tên địch. Ngày 31-5, Trung đoàn 102 tiếp tục cho Tiểu đoàn 7 tiến công Làng Cát lần thứ hai. Trận đánh diễn ra hết sức quyết liệt. Quân Mỹ dựa vào phi pháo yểm trợ và lô cốt đúc sẵn chống trả các đợt xung phong của ta. Mặc dù bị thương vong cao (có đại đội mất gần 1/3 quân số), nhưng sau hai giờ chiến đấu kiên cường, ta diệt hơn 100 tên địch, buộc hai đại đội Mỹ chốt giữ Làng Cát phải gọi quân tăng viện...


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Tư, 2010, 11:45:39 pm

Trong khi Sư đoàn 304 và 308 đẩy mạnh hoạt động ở Tà Cơn - Khe Sanh - Đường 9, thì ở hướng đông Sư đoàn 320 và các đơn vị phối thuộc vừa chiến đấu diệt địch trên Đường 9 vừa đánh tàu trên sông Cửa Việt. Đầu tháng 5-1968, do sự chuẩn bị tác chiến chu đáo, sử dụng các hình thức chiến thuật linh hoạt, táo bạo, các lực lượng vũ trang hướng đông đã đánh bại liên tiếp các cuộc hành quân phản kích của địch, diệt hàng trăm tên, đánh chìm hàng chục tàu chở đầy hàng hoá. Tiêu biểu nhất trong đợt hoạt động này là trận đánh trên bãi cát Gio Hà (gần Cửa Việt) chiều ngày 2-5 của Tiểu đoàn 3 (Trung đoàn 48 ) và Tiểu đoàn 6 (Trung đoàn 52, Sư đoàn 320) đánh thiệt hại nặng Tiểu đoàn 2 (Trung đoàn 4) lính thuỷ đánh bộ Mỹ.

Bị đánh đau ở Đông Hà, Cửa Việt và bị vây ép mạnh ở Tà Cơn, Cốtxman, Tư lệnh Sư đoàn 3 lính thủy đánh bộ Mỹ quyết định dùng Trung đoàn 4 và Trung đoàn 9 lính thuỷ đánh bộ mở cuộc hành quân “Scốtlen II” giải toả cho Khe Sanh.

Quân ta tiến công tiêu diệt một loạt các vị trí án ngữ phía tây Tà Cơn và dọc Đường 9, cắt đứt đường bộ, khống chế đường không, Tà Cơn hoàn toàn bị cô lập. Mọi cố gắng của quân Mỹ trên chiến trường Đường 9 - bắc Quảng Trị đều vô vọng. Đầu tháng 6, chúng đổ hai tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ Mỹ xuống Tà Ri, Tà Quan và Pa Trang, Húc Cốt lập bàn đạp chuẩn bị giải toả Tà Cơn, Khe Sanh. Nhưng lính Mỹ chưa kịp chấn chỉnh đội hình đã bị Sư đoàn 308 tiến công. Tại Phu Nhòi, Tông Cháy, qua ba ngày tiến công liên tục, Trung đoàn 88 đã đánh thiệt hại nặng Tiểu đoàn 3 lính thuỷ đánh bộ, số còn lại co cụm kêu cứu. Ngày 19-6, Cốtxman vội vã ra lệnh bốc toàn bộ quân Mỹ ra khỏi Ka Long, Pa Trang, điểm cao 835 về Tà Cơn, Đường 9, Đông Hà cố thủ.

Trước sức tiến công mạnh mẽ của ta, địch chấm dứt cuộc hành quân “Scốtlen II” và ngày 26-6-1968, Abram, Tổng chỉ huy quân đội Mỹ ở Nam Việt Nam đã phải ra lệnh rút bỏ tập đoàn cứ điểm Khe Sanh để bảo toàn lực lượng. Nhưng mãi 11 ngày sau khi có lệnh rút lui quân Mỹ sống sót mới rút khỏi Tà Cơn. Ngày 10-7, Đường 9 từ Cà Lu lên biên giới Việt - Lào dài hơn 40 km được hoàn toàn giải phóng. Sau 170 ngày đêm chiến đấu liên tục và vô cùng anh dũng, Quân giải phóng mặt trận Đường 9 - bắc Quảng Trị đã chiến thắng oanh liệt, loại khỏi vòng chiến đấu 11.000 tên địch (có 2/3 là quân Mỹ), bắn rơi 197 máy bay, bắn chìm, bắn cháy 80 tàu vận tải, phá huỷ 78 xe các loại, 46 khẩu pháo. Chiến thắng Khe Sanh làm cho “cả thế giới như vừa chứng kiến một câu chuyện thần kỳ: Quân giải phóng miền Nam vừa vây hãm một lực lượng lớn quân Mỹ ở Khe Sanh ròng rã 170 ngày đêm và cuối cùng thắng chúng. Lá cờ cách mạng cắm giữa Khe Sanh hôm nay báo tin thắng lợi của cả một dân tộc, của ý chí Việt Nam ta. Mặt trận Khe Sanh được ghi vào lịch sử là một mặt trận anh hùng. Cuộc chiến đấu của các chiến sĩ và đồng bào ta ở Khe Sanh là cuộc chiến đấu có một không hai tượng trưng cho thế mạnh, lực lượng của cách mạng miền Nam đang xốc tới. Hai tiếng Khe Sanh ngân cao và vang xa mãi như tiếng kèn chiến thắng hùng tráng của thời kỳ mới trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước”1.

Chiến thắng Khe Sanh là chiến thắng có ý nghĩa chiến lược đạt đến trình độ nghệ thuật điêu luyện, nó không những tạo thêm thời cơ và yếu tố bất ngờ cho cuộc tiến công và nổi dậy toàn miền Nam, mà còn tượng trưng cho thế và lực của cách mạng miền Nam đang thời kỳ thừa thắng xốc tới; đế quốc Mỹ đang thời suy yếu phải chấp nhận thua và từng bước xuống thang chiến tranh. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá “thắng lợi của ta ở Khe Sanh tỏ rõ mưu lược và sức mạnh vô địch của quân, dân và cán bộ ta, nó góp phần xứng đáng vào thắng lợi to lớn của miền Nam từ đầu xuân đến nay. Cùng với những thắng lợi của ta ở các chiến trường khác, nó mở đường cho những thắng lợi to lớn hơn nữa”2.

Cùng với chiến thắng Khe Sanh oanh liệt, cuộc tổng tiến công và nổi dậy đợt 2 đã đánh bồi một đòn nặng vào sinh lực và ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, quân và dân ta đã đẩy địch lún sâu vào thế thua, buộc Tổng thống Mỹ L.Giônxơn ngày 13-5-1968 phải chấp nhận cử đại diện của Mỹ đến Pari, mở đầu cuộc đàm phán hai bên giữa Mỹ với Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Sau đợt tổng tiến công tháng 5, Oétmolen thú nhận “Họ (ta) đã đạt được mục tiêu là làm cho phía Mỹ phải đơn phương xuống thang ngừng ném bom, đình chỉ việc tăng quân và làm hỏng một chiến lược đánh mạnh và trong quá trình đó làm cho người Mỹ phải đến bàn hội nghị, trong khi đó nhiều người Mỹ cứ tưởng là Chính phủ Mỹ đã bắt địch đến hội nghị”3.
_____________________________________
1. Xã luận báo Nhân Dân số ra ngày 27-6-1978.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập. Sđd, t. 12, tr. 369.
3. Oétmolen: Một quân nhân tường trình, Sđd, tr. 47.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Tư, 2010, 11:46:59 pm

II- TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY THU 1968

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy tháng 5-1968 của ta đã diệt nhiều sinh lực và phá hỏng một số lượng lớn phương tiện chiến tranh của địch, đánh bồi một đòn vào ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ. Sự thật này đã bóc trần luận điệu lừa bịp dư luận của chính quyền Hoa Kỳ đối với nhân dân Mỹ cũng như nhân dân thế giới là “Việt cộng” và “Bắc Việt Nam” đã “đuối sức hết hơi”, quân đồng minh đã truy kích ráo riết “Việt cộng và Bắc Việt Nam”.

Song song với việc tìm cách làm “yên lòng” dư luận thế giới và nhân dân Mỹ, tại miền Nam Việt Nam, Mỹ - ngụy tìm mọi cách tăng cường sức mạnh quân sự hòng giành lại thế chủ động trên chiến trường. Một mặt, lợi dụng lúc quân và dân ta tập trung mọi mặt cho cuộc tổng tiến công và nổi dậy ở các thành phố, thị xã, địch ráo riết thực hiện kế hoạch “bình định cấp tốc” ở nhiều vùng nông thôn rộng lớn, ra sức bắt lính, đôn quân, tiếp tục chiến tranh. Chỉ tính từ ngày 19- 6-1968, khi Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh tổng động viên đến cuối năm 1968, chính quyền Sài Gòn chẳng những bù đắp đủ cho số quân đã mất, mà còn nâng tổng quân số từ 552.000 (11 sư đoàn, 11 trung đoàn) trong năm 1967 lên 555.000 (12 sư đoàn, 9 trung đoàn) vào cuối tháng 12-19681. Cùng với gia tăng quân ngụy, Mỹ đã chuyên chở một khối lượng lớn vũ khí, đạn dược, phương tiện chiến tranh hiện đại vào Nam Việt Nam để bù đắp số mất mát, hư hỏng qua hai đợt tổng tiến công và nổi dậy của ta, đồng thời thay thế một số chủng loại vũ khí cũ bằng vũ khí hiện đại hơn. Về lực lượng, ngoài số quân thay phiên theo định kỳ hằng tháng (khoảng 54.000 tên/tháng), từ nửa cuối năm 1968, Giônxơn đã quyết định tăng thêm một số đơn vị quân chiến đấu Mỹ và quân các nước phụ thuộc vào miền Nam Việt Nam. Đến cuối năm 1968, tại Nam Việt Nam đã có 535.000 lính Mỹ và 65.791 lính thuộc quân đội các nước phụ thuộc Mỹ, được biên chế trong 9 sư đoàn, 5 lữ đoàn quân Mỹ, 2 sư đoàn và 3 trung đoàn quân các nước phụ thuộc. Mặc dù tinh thần của phần lớn sĩ quan, binh sĩ địch vẫn chưa hết hoang mang dao động, ý chí chiến đấu giảm sút do hậu quả của hai đợt tổng tiến công và nổi dậy của ta nửa đầu năm 1968, song về mặt tổ chức ngụy quân, ngụy quyền chưa tan rã, nên Mỹ và Sài Gòn đã huy động mọi lực lượng và phương tiện chiến tranh hiện có lập lại và củng cố hệ thống phòng thủ các thành phố, thị xã thị trấn, các căn cứ quân sự, hậu cần và các tuyến giao thông huyết mạch. Mặt khác, Mỹ - ngụy khẩn trương tổ chức các cuộc hành quân, sử dụng pháo binh, không quân, đặc biệt là máy bay chiến lược B52 đánh phá các căn cứ và ngăn chặn, đẩy lùi các đơn vị Quân giải phóng ra xa các đô thị, phá kế hoạch chuẩn bị tiến công của ta, hòng giành lại thế chủ động, tạo thêm các thắng lợi về quân sự để phối hợp với hoạt động ngoại giao.

Về phía cách mạng miền Nam, qua hai đợt tổng tiến công liên tục Tết và tháng 5 lực lượng và vũ khí, đạn dược của quân và dân ta đã bị tổn thất nặng, chưa kịp bổ sung. Bên cạnh đó, lực lượng bí mật ém trong nội thành và phần lớn cơ sở - nơi cất giấu vũ khí, trang bị, chỗ đứng chân, nơi xuất phát tiến công cho các đợt tiến công tiếp sau đã bị lộ, bị đánh phá mất gần hết. Đây là những khó khăn rất nghiêm trọng mà ta không dễ gì khắc phục được trong thời gian ngắn.
Tại Sài Gòn, mặc dù thời cơ đã mất, nhưng “Không khí tổng công kích - tổng khởi nghĩa vẫn còn, nhưng có kèm theo tâm lý cay cú ở một số đồng chí muốn tấn công vào Sài Gòn như hai đợt trước”2. Ở mặt trận Quảng - Đà (Khu V) và một số mặt trận khác, do còn giữ được thế và lực còn mạnh, nên Bộ Tư lệnh Khu V đã đề nghị Trung ương cho mở tiếp đợt 3 tổng tiến công và nổi dậy3. Ngược lại, cũng có nhiều nơi xin tạm dừng tiến công để xốc lại đội hình, bổ sung, củng cố lực lượng, vũ khí trang bị...

Nhằm thống nhất chủ trương hoạt động trên chiến trường, ngày 24 và 25-7-1968, Thường trực Quân uỷ Trung ương, gồm các đồng chí: Lê Duẩn, Võ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng, Song Hào, Trần Quý Hai họp bàn kế hoạch hoạt động trong Đông - Xuân (1968 - 1969). Ngoài ra, Thường trực Quân uỷ Trung ương còn mời thêm các đồng chí Hoàng Anh, Lê Trọng Tấn, Trần Sâm, Đinh Đức Thiện, Nguyễn Đôn... cùng tham dự cuộc họp.

Sau khi nghe đồng chí Văn Tiến Dũng báo cáo khái quát tình hình ta, địch trên toàn chiến trường miền Nam sau đợt 1 và 2 cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, dự kiến quyết tâm và phương án tác chiến chiến lược Đông - Xuân, các đại biểu tham dự cuộc họp tiến hành thảo luận. Theo ý kiến của đồng chí Lê Duẩn: quân và dân ta phải tập trung mọi cố gắng tiến công Sài Gòn, đồng thời đẩy mạnh tiến công ở nông thôn. Đánh được Sài Gòn thì ta có điều kiện mở phong trào ở vùng nông thôn mạnh hơn. Ngay bây giờ phải đẩy mạnh hoạt động quân sự để mở ra và thúc đẩy phong trào đấu tranh chính trị lên, chính trị sẽ quyết định thắng lợi và phải làm gấp ba lần đợt tháng 5. Để tạo ra bước ngoặt cho cách mạng miền Nam trong năm 1968, cần phải cố gắng diệt cho được 70 - 80% lực lượng dự bị chiến lược của Mỹ - ngụy. Đánh mạnh vào Sài Gòn, còn ở Đà Nẵng thì tuỳ theo khả năng mà đánh ở quy mô thích hợp. Song, dù thế nào cũng phải đẩy mạnh hoạt động ở nông thôn để tạo điều kiện cho đánh lâu dài. Đồng thời, đưa lực lượng dự bị chiến lược của ta vào đứng chân ở Tây Nguyên chờ thời cơ. Để tránh bị bất ngờ, đồng chí Võ Nguyên Giáp đề nghị: phải có phương án dự kiến thời cơ đến trước trong kế hoạch hoạt động Đông - Xuân.

Tiếp đó, tháng 8-1968, Bộ Chính trị họp nhận định: mặc dù những khuyết điểm và nhược điểm của đợt Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân chưa được khắc phục trong đợt Tổng tiến công và nổi dậy trong tháng 5, nhưng những mặt nổi dậy, binh vận, hiệu suất tiến công... lại giảm sút đi nhiều so với trước. Về địch, chúng đang bị giằng xé bởi nhiều mâu thuẫn không thể nào khắc phục được. Chỗ yếu cơ bản của chúng là sự sa sút về tinh thần, sự cô lập về chính trị, tư tưởng thất bại trong sĩ quan và binh sĩ Mỹ - ngụy ngày càng phát triển. Trong khi đó về chiến lược, cách mạng miền Nam “đang ở thế thắng, thế mạnh và có lực lượng mạnh để thực hiện quyết tâm đánh thắng Mỹ trong bất cứ tình huống chiến tranh nào”4. Hơn nữa, xuất phát từ nhận thức tổng công kích - tổng khởi nghĩa là một quá trình tấn công thường xuyên liên tục, trong đó nổi lên những đợt sóng ngày càng mạnh, Bộ Chính trị quyết định mở tiếp đợt 3 tổng công kích - tổng khởi nghĩa nhằm vào các thành phố lớn, mặt trận nông thôn là quan trọng. Đánh cho địch thua to trên các mặt, làm cho địch “thất bại ở ngay nước Mỹ”. Mục tiêu của đợt 3 Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 vẫn được Bộ Chính trị xác định: chiến trường Sài Gòn, Gia Định và miền Đông Nam Bộ, Khu V là hướng phối hợp, trọng điểm là Quảng Đà. Thời gian nổ súng được ấn định vào ngày 17-8, kết thúc vào ngày 28-9-1968.
_____________________________________
1. Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam (1976): Thống kê số liệu trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Tài liệu lưu tại Trung tâm lưu trữ Bộ Quốc phòng (K4).
2. Lịch sử Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định kháng chiến (1945 - 1975), Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1994, tr.532.
3. Thượng tướng Lê Ngọc Hiền: Ghi nhớ về xây dựng kế hoạch và triển khai kế hoạch thực hiện đòn tiến công chiến lược Mậu Thân 1968, in trong Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Sđd, tr. 198.
4. Nghị quyết Hội nghị Bộ Chính trị, tháng 8-1968. Tài liệu lưu tại Thư viện Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Tư, 2010, 11:52:20 pm

Để cụ thể hoá chủ trương mở đợt 3 Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 của Bộ Chính trị, Trung ương Cục miền Nam đã họp Hội nghị lần thứ 8 quyết định: động viên sự nỗ lực cao nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân phát huy thắng lợi to lớn đã giành được, quyết tâm khắc phục mọi khó khăn, ra sức tăng cường lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang của ta, tiếp tục đẩy mạnh tổng công kích - tổng khởi nghĩa, đẩy mạnh thế tiến công toàn diện bằng quân sự, chính trị bằng ba mũi giáp công, kết hợp tiến công ngoại giao, đánh bại chiến lược “quét và giữ” và các âm mưu chính trị phản động của địch, tạo nên một bước nhảy vọt mới, kiên quyết giành thắng lợi quyết định trong thời gian tới... ; cụ thể là: “Đánh bại địch trên các chiến trường: đập tan thế phòng thủ, làm chúng mất thế chiếm đóng nông thôn, mất quyền kiểm soát đô thị, chính quyền bên trên tê liệt đổ vỡ, quân Mỹ - ngụy đều bị tổn thất nặng và mất tinh thần chiến đấu. Đánh bại địch trên chiến trường trọng điểm: tiêu hao nặng những sư đoàn cơ động Mỹ và đánh quỵ những lực lượng trù bị ngụy, đập tan các cơ quan đầu não Mỹ - ngụy, đưa nhân dân lên khí thế đấu tranh và khởi nghĩa rộng lớn, giành quyền làm chủ trong nhiều khu vực thành phố, một số thị xã và nhiều thị trấn”1.

Thực hiện quyết định của Bộ Chính trị và Trung ương Cục miền Nam, mặc dù yếu tố bí mật, bất ngờ không còn, song lực lượng pháo binh, đặc công, biệt động đã khắc phục mọi khó khăn, phối hợp chặt chẽ đồng loạt tiến công địch trên 27 thành phố và thị xã, hơn 100 thị trấn, quận lỵ, chi khu quân sự, 47 sân bay các loại, 3 tổng kho hàng hoá quân sự 6 bộ tư lệnh cấp sư đoàn của Mỹ và Sài Gòn.

Trên địa bàn Sài Gòn, Chợ Lớn và các tỉnh miền Đông Nam Bộ, sau khi chống trả với đợt Tổng tiến công và nổi dậy tháng 5 của ta, địch đã tập trung 38 tiểu đoàn Mỹ, 4 tiểu đoàn quân các nước phụ thuộc Mỹ và 61 tiểu đoàn chủ lực ngụy cùng lực lượng địa phương tại chỗ tổ chức hệ thống phòng thủ bảo vệ Sài Gòn, với chiều sâu khoảng 100 km, chia làm ba tuyến. Tuyến trong gồm toàn bộ khu vực nội và ngoại thành, trọng điểm là các cửa ngõ ra, vào thành phố, với lực lượng bố trí khoảng 20 đến 21 tiểu đoàn (chủ yếu là quân ngụy) có nhiệm vụ tổ chức các cuộc hành quân cảnh sát, bảo đảm an ninh và chốt chặn các cửa ngõ ra vào thành phố. Tuyến giữa - còn gọi là “vành đai nút chặn”, gồm toàn bộ khu vực vành đai cao su Biên Hoà, Thủ Dầu Một, nối với Hậu Nghĩa, Long An (quân Mỹ và quân ngụy bố trí xen kẽ nhau) với lực lượng tập trung từ 64 đến 66 tiểu đoàn, để thường xuyên tổ chức các cuộc hành quân càn quét, xúc tát dân, lập vành đai trắng phục vụ cho kế hoạch “bình định cấp tốc”. Tuyến ngoài cùng trải rộng trên khu vực Tây Ninh, Bình Long, Phước Long, có chỗ tiếp cận với một số căn cứ rừng núi của ta do các đơn vị Mỹ đảm nhiệm chủ yếu. Lực lượng sử dụng trên tuyến này có từ 14 đến 16 tiểu đoàn, với nhiệm vụ đánh phá hành lang, căn cứ kho tàng, chỗ đứng chân của lực lượng vũ trang giải phóng. Do địch tập trung lực lượng ưu thế, tổ chức canh phòng cẩn mật, trong khi quân số và vũ khí phương tiện chiến đấu của ta đã bị tổn thất nặng, cơ sở mất gần hết, cơ quan lãnh đạo kháng chiến bị đẩy ra xa thành phố, nên việc tiến công vào các mục tiêu trong nội thành là rất khó khăn.

Đứng trước tình hình gay cấn này, Trung ương Cục, Quân uỷ Miền đã đề nghị và được Bộ Chính trị chấp nhận: trong đợt 3, trọng tâm tiến công được chuyển ra vòng ngoài, hướng chủ yếu là địa bàn hai tỉnh Tây Ninh và Bình Long, các địa bàn còn lại là hướng phối hợp. Riêng với nội đô Sài Gòn - Gia Định và các thành phố, thị xã khác chủ yếu sử dụng lực lượng pháo binh và biệt động, đặc công bí mật luồn sâu tập kích vào các mục tiêu quan trọng, gây mất ổn định trong các cơ quan chỉ huy đầu não của Mỹ - ngụy; đồng thời, đưa cán bộ thâm nhập vào nội thành củng cố, ráp nối lại các cơ sở cũ, xây dựng thêm các cơ sở mới, từng bước củng cố lại phong trào.

Dựa trên chủ trương của Quân uỷ Miền, Bộ chỉ huy Miền đã nhanh chóng xây dựng phương án tác chiến cho đợt 3 là: tập trung chủ lực Miền và lực lượng các địa phương tại chỗ khẩn trương mở chiến dịch tiến công trên địa bàn Tây Ninh - Bình Long, đánh vào tuyến ngoài của hệ thống phòng thủ bảo vệ Sài Gòn - Gia Định từ xa của Mỹ - ngụy, nhằm mục đích: tiêu diệt, tiêu hao một bộ phận sinh lực cơ động của Mỹ - ngụy trực tiếp bảo vệ Sài Gòn, làm tê liệt thành phần quan trọng trong hệ thống phòng thủ Sài Gòn của chúng gồm có hai sư đoàn Mỹ bảo vệ vòng ngoài, lực lượng tổng trù bị ở vùng ven và làm tan rã một bộ phận quân ngụy, nhất là khối bảo an, dân vệ, thanh niên chiến đấu. Các địa phương đẩy mạnh phong trào diệt ác, phá kìm, giành dân, mở rộng vùng làm chủ, thu hút lực lượng và phi pháo của địch ra phía ngoài, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động quân sự, chính trị trong nội đô và xung quanh Sài Gòn. Các đơn vị chủ lực vừa tác chiến vừa xây dựng, càng đánh càng mạnh, chú trọng nâng cao trình độ của các trung đoàn mới vào để nhanh chóng thích ứng với chiến trường mới, đồng thời, qua tác chiến tìm hiểu thêm quy luật đối phó của địch và tạo cơ sở chuẩn bị cho các đợt sau.

Để bảo đảm cho việc mở chiến dịch đúng như dự kiến, Bộ chỉ huy Miền lên kế hoạch phân chia lực lượng và nhiệm vụ cụ thể cho các đơn vị như sau: trên hướng chủ yếu (Tây Ninh): Sư đoàn bộ binh 9 được tăng cường Trung đoàn 174 của Sư đoàn bộ binh 5 và một tiểu đoàn đặc công Miền, được một cụm pháo binh chiến dịch chi viện trực tiếp, có nhiệm vụ tiến công căn cứ Trảng Bàng, tổ chức đánh quân tiếp viện đổ bộ đường không xuống khu vực phía bắc và tây bắc thị xã. Sư đoàn 5 (thiếu một trung đoàn) được tăng cường một đại đội đặc công đánh địch trên các tuyến giao thông số 22, 26 và sẵn sàng tổ chức đánh địch phản kích từ phía sau lên. Ở hướng thứ yếu (Bình Long): Sư đoàn bộ binh 7 có nhiệm vụ tiến công tiêu diệt Chi khu Lộc Ninh, sau đó tổ chức đánh quân tiếp viện từ bên ngoài vào; đồng thời, phối hợp và hỗ trợ cho các lực lượng vũ trang tại chỗ phá các ấp chiến lược, diệt ác phá kìm, phát động quần chúng nổi dậy giành quyền làm chủ, mở rộng vùng giải phóng.

Mặc dầu thời gian chuẩn bị mọi mặt rất gấp, nhưng chiến dịch Tây Ninh - Bình Long - trọng điểm hoạt động của đợt 3 Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 ở chiến trường miền Đông Nam Bộ vẫn nổ ra đúng với kế hoạch đã định.
_____________________________________
1. Nghị quyết Hội nghị Trung ương Cục lần thứ 8. Tài liệu lưu tại Thư viện Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, tr. 7.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Tư, 2010, 11:55:13 pm

Ngày 17-8-1968, chiến dịch chính thức mở màn. Tại hướng chủ yếu, các trận tiến công của ta diễn ra như ý định và phát triển tốt. Điển hình là ngay trong đêm 17, Trung đoàn 3 (thiếu một tiểu đoàn) thuộc Sư đoàn 9 bất ngờ tập kích cụm cứ điểm Trà Phí, loại khỏi vòng chiến đấu khoảng 400 tên Mỹ, phá huỷ, phá hỏng 31 xe cơ giới các loại và 6 khẩu pháo của địch. Cùng thời gian này, một đơn vị đặc công bí mật tập kích căn cứ núi Bà Đen, diệt một đại đội biệt kích, phá huỷ khu trung tâm truyền tin của địch.

Tại khu vực tác chiến được phân công trên trục đường số 22, Trung đoàn 33 (Sư đoàn 5) tổ chức phục kích đánh ba trận liên tục đạt kết quả tốt; trong đó nổi bật nhất là trận ngày 19-8, Trung đoàn diệt một tiểu đoàn bộ binh cơ giới và phá 57 xe bọc thép Mỹ.

Tiếp đó, đêm 21-8, cùng lúc Trung đoàn 3 (Sư đoàn 9) tập kích căn cứ Mỹ tại Trà Phí lần thứ hai, loại khỏi vòng chiến đấu một tiểu đoàn bộ binh cơ giới, phá huỷ, phá hỏng 96 xe quân sự các loại, 14 khẩu pháo và bắn rơi 4 máy bay lên thẳng của Mỹ; Trung đoàn 5 (Sư đoàn 5) tập kích cụm cứ điểm Chà Là lần thứ nhất, diệt và làm bị thương hàng trăm tên Mỹ, bắn cháy, phá hỏng 140 xe quân sự các loại và 13 khẩu pháo, bắn rơi 1 máy bay.

Trên đà thắng lợi, đêm 22 rạng ngày 23-8, Tiểu đoàn 2 (Trung đoàn 33, Sư đoàn 5) tập kích cụm xe quân sự Mỹ ở suối Ông Hùng, phá huỷ 60 xe quân sự, bắn rơi 4 máy bay, loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên địch. Ngày 2-8, Trung đoàn 88 (thiếu một tiểu đoàn) tổ chức phục kích trên đường 22 (đoạn từ Đá Hàng đến Vên Vên thuộc huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh) đánh thiệt hại nặng một đoàn xe cơ giới 147 chiếc (trong đó có 33 xe tăng và xe bọc thép, 15 xe Jeép), loại khỏi vòng chiến đấu 400 tên địch.

Hoà chung với khí thế chiến thắng của các đơn vị chủ lực ở Trà Phí, Chà Là, núi Bà Đen, suối Ông Hùng, đường 22... các đơn vị bộ đội địa phương tỉnh Tây Ninh cùng các tổ, đội đặc công, biệt động đã đột nhập đánh vào một số mục tiêu phía nam Toà thánh và khu vực Thanh Điền rồi trụ lại đánh lui nhiều đợt phản kích của địch, tiêu hao thêm một bộ phận sinh lực và vũ khí của chúng, tạo thế uy hiếp trực tiếp đối với ngụy quân, ngụy quyền địch ở thị xã Tây Ninh.

Cũng trong khoảng thời gian trên, trên hướng thứ yếu chiến dịch ở tỉnh Bình Long, các đơn vị của Sư đoàn bộ binh 7 đã tiến công Chi khu quân sự Lộc Ninh. Địch đưa Trung đoàn 11 thiết giáp và một bộ phận quân của Sư đoàn 1 bộ binh Mỹ đến ứng cứu, giải toả. Do vậy, Sư đoàn 7 phải cùng lúc vừa tổ chức tiến công chi khu, vừa đánh quân địch đến ứng cứu, giải toả, loại khỏi vòng chiến đấu được một bộ phận sinh lực và phương tiện chiến tranh của chúng, song chưa tiêu diệt được mục tiêu đặt ra là Chi khu quân sự Lộc Ninh.

Sau một thời gian liên tục chiến đấu, đêm 31-8, ta quyết định kết thúc bước 1 chiến dịch trên cả hai hướng. Mỗi trung đoàn chỉ để lại một tiểu đoàn để tổ chức “đợt hoạt động đệm”, đại bộ phận còn lại rút ra phía sau củng cố, chấn chỉnh, bổ sung quân số, trang bị, vũ khí đạn dược, chuẩn bị cho đợt 2 chiến dịch.

Do có chủ trương sát với thực tế tình hình, nên 10 ngày đầu tháng 9-1968, ta đã củng cố, điều chỉnh được đội hình của các trung, sư đoàn chiến dịch và mở “đợt hoạt động đệm” có kết quả tốt. Tất cả các tiểu đoàn được phân công trụ lại địa bàn đã tổ chức tập kích trại biệt kích Bến Sỏi, Thiện Ngôn, Cà Tum và đánh các toán quân địch cơ động trên đường số 22, 26 và tây bắc Lộc Ninh, hỗ trợ cho du kích và nhân dân Hiệp Thanh bẻ gãy các trận càn quét phục vụ cho kế hoạch “bình định cấp tốc” của Mỹ - ngụy. Những kết quả trên đã tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ, chiến sĩ của các sư đoàn 9, 5 và 7 cùng lực lượng địa phương và nhân dân Tây Ninh, Bình Long thêm vững tin bước vào thực hiện đợt 2 chiến dịch.

Để tạo điều kiện cho lực lượng vũ trang và nhân dân các địa phương nổi dậy phá ấp, phá kìm, mở rộng quyền làm chủ, trên hướng chủ yếu Tây Ninh, ta đã chủ động chuyển khu vực tác chiến chủ yếu sang phía đông và đông nam, đồng thời đánh mạnh trên khu vực phía tây và tây nam. Do công tác tổ chức chặt chẽ, bố trí và sử dụng lực lượng hợp lý, nên ngày 10-9, các đơn vị nổ súng mở màn đợt 2 chiến dịch đúng ý định và phát triển tốt.

Ngày 12-9, Trung đoàn 2 (Sư đoàn 9) tập kích cụm quân Mỹ tại Lâm Vồ lần thứ hai, làm thiệt hại nặng một tiểu đoàn bộ binh cơ giới hỗn hợp, phá huỷ, phá hỏng 58 xe quân sự (trong đó có 39 xe bọc thép), 14 khẩu súng cối, bắn rơi 7 máy bay. Cùng ngày, trên mặt trận đường 22, Trung đoàn 88 (Sư đoàn 5) tổ chức phục kích và đánh phản kích, loại khỏi vòng chiến đấu khoảng 350 tên địch, 46 xe quân sự các loại, bắn rơi 6 máy bay lên thẳng.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Tư, 2010, 11:55:45 pm

Trên mặt trận đường 26, ngày 16-9, Trung đoàn 174 (Sư đoàn 5) phục kích bất ngờ chặn đánh một đơn vị bộ binh cơ giới đang cơ động, diệt và làm bị thương hơn 200 tên, bắn cháy 26 xe quân sự (có 9 xe bọc thép), 5 máy bay trực thăng vũ trang hộ tống của địch. Cùng ngày, Trung đoàn 5 (Sư đoàn 5) thực hành trận tập kích căn cứ Bến Củi (Bến Cát) lần thứ nhất; ngày 17, tổ chức tập kích Bến Củi lần thứ hai, loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên địch, phá huỷ, phá hỏng hàng trăm xe quân sự các loại và nhiều pháo cỡ lớn của địch. Một ngày sau đó, trung đoàn lại mở trận tập kích lần thứ ba đánh bồi tiếp một một đòn nữa vào quân địch ở Bến Củi, loại khỏi vòng chiến đấu gần 400 tên địch, 100 xe quân sự và 9 khẩu pháo thuộc lực lượng của tuyến phòng thủ vòng ngoài bảo vệ Sài Gòn từ xa của Mỹ - ngụy. Phối hợp với Trung đoàn 5, liên tiếp trong các ngày 16, 17, 18-9, Trung đoàn 33 (Sư đoàn 5) tổ chức bốn trận tập kích trên đường 22, đánh thiệt hại nặng bốn tiểu đoàn cơ động của Mỹ, loại khỏi vòng chiến đấu nhiều sinh lực và phương tiện chiến tranh của chúng.

Ngày 19-9, sau khi tập kích diệt cụm địch tại Lâm Vồ lần thứ hai, Trung đoàn 2 (Sư đoàn 9) được lệnh chuyển sang đánh Tà Păng - Rô Boong. Đây là cứ điểm phòng ngự có công sự vững chắc do một đơn vị biệt động biên phòng ngụy chốt giữ; phải sau vài lần tập trung lực lượng đột phá, Trung đoàn 2 mới dứt điểm được mục tiêu. Biết Tà Păng - Rô Boong là một cứ điểm án ngữ biên giới rất quan trọng của địch, trước sau chúng cũng sẽ đem quân đến ứng cứu giải toả, nên Trung đoàn 2 quyết định rút ra ngoài chuẩn bị tổ chức đánh phản kích. Do phán đoán đúng ý đồ của địch và chủ động trong công tác bảo đảm mọi mặt, trong hai ngày 20 và 26-9, Trung đoàn 2 đã đánh thiệt hại nặng một tiểu đoàn thuỷ quân lục chiến và Tiểu đoàn 8 dù của quân đội Sài Gòn, loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên, phá huỷ, phá hỏng nhiều vũ khí và phương tiện chiến tranh của chúng.

Tại thị xã Tây Ninh, ngay từ đêm 10-9, các đơn vị lực lượng vũ trang tỉnh, các đội biệt động, đặc công, trinh sát Miền và Tiểu đoàn 5 (Trung đoàn 2) đã đồng loạt nổ súng tiến công tiêu diệt một số mục tiêu quan trọng trong nội và ngoại thị, gây sự hoang mang dao động mạnh về tinh thần trong nội bộ ngụy quân và ngụy quyền các cấp ở tỉnh Tây Ninh. Để cứu vãn tình thế này, ngày 11, địch đổ hai tiểu đoàn dù xuống thị xã, đưa tiểu đoàn 4 (Lữ đoàn 23 Mỹ) ra phản kích ở khu vực Thanh Điền, nhưng bị Tiểu đoàn 5 chặn đánh buộc chúng phải co cụm chờ quân cứu viện. Chớp thời cơ thuận lợi khi địch chưa tăng viện, một bộ phận chủ lực Trung đoàn 2 và các đơn vị vũ trang địa phương tại chỗ đã phối hợp tổ chức đột nhập vào Thanh Điền diệt thêm một số.

Cũng như hướng chủ yếu Tây Ninh, trên hướng thứ yếu Bình Long, mở đầu đợt 2 chiến dịch, ngày 12-9, Trung đoàn 320 và hai tiểu đoàn của Trung đoàn 14 (Sư đoàn 7) cùng lực lượng địa phương xuất kích đánh năm trận quy mô cấp tiểu đoàn, bẻ gãy cuộc hành quân giải toả của hai tiểu đoàn bộ binh, hai đại đội biệt kích và một chi đoàn xe thiết giáp của địch trên khu vực phía đông bắc Chi khu quân sự Lộc Ninh, loại khỏi vòng chiến đấu khoảng 600 tên địch, bắn cháy 16 xe thiết giáp, bắn rơi 6 máy bay và thu 43 súng các loại. Ngày 13, Trung đoàn 14 lại đánh thiệt hại nặng cuộc hành quân của hai tiểu đoàn bộ binh Mỹ nống ra khu vực phía bắc và đông bắc Chi khu Lộc Ninh, diệt và làm bị thương hàng trăm tên địch, bắn rơi 2 trực thăng vũ trang, thu 19 khẩu súng. Được các thắng lợi của bộ đội chủ lực tạo đà, lực lượng du kích, tự vệ và cơ sở mật tại chỗ đã phát động và tổ chức cho nhân dân nổi dậy phá ấp chiến lược, phá thế kìm kẹp, giành quyền làm chủ ở một số địa phương. Cùng ngày, đại đội cao xạ thuộc Trung đoàn 320 tổ chức phục kích bắn rơi chiếc trực thăng chở tên K.Ware - tướng 2 sao, Tư lệnh Sư đoàn bộ binh số 1 (Anh cả đỏ) của quân đội Mỹ tại khu vực tây nam Làng 2.

Sau gần 20 ngày liên tục giữ thế chủ động đánh địch bằng các chiến thuật: phục kích, tập kích, đánh bồi, đánh nhồi vào các cụm quân địch, tiêu hao, tiêu diệt được một bộ phận quan trọng sinh lực và phương tiện chiến tranh của Mỹ - ngụy, hoàn thành cơ bản các mục tiêu chiến dịch đặt ra, ngày 28-9-1968, ta đã chủ động kết thúc đợt 2, cũng là kết thúc toàn bộ chiến dịch.

Tổng kết thành quả giành được sau 43 ngày đêm chiến đấu liên tục của chiến dịch Tây Ninh - Bình Long (từ ngày 17-8 đến 28-9-1968 ), các sư đoàn 5, 7, 9 chủ lực Miền và quân, dân Tây Ninh, Bình Long đã đánh 315 trận (có 53 trận cấp tiểu đoàn, 16 trận cấp trung đoàn), loại khỏi vòng chiến đấu 13 tiểu đoàn, 55 đại đội, tiêu hao nặng 7 tiểu đoàn thuộc các sư đoàn 1 và 25 bộ binh cơ giới Mỹ, một số đơn vị thuộc lực lượng tổng trù bị chiến lược ngụy và nhiều đơn vị biệt kích, bảo an tại chỗ; loại khỏi vòng chiến đấu 18.406 tên địch, phá huỷ 1.507 xe quân sự, 112 máy bay, 107 khẩu pháo, thu được 24 máy vô tuyến điện, 282 súng các loại... Qua tác chiến chiến dịch, bộ đội chủ lực Miền đã trưởng thành lên một bước mới về khả năng đánh tiêu diệt cấp tiểu đoàn địch. Bộ đội địa phương Tây Ninh, Bình Long đã làm tốt chức năng vừa chiến đấu tiêu hao, tiêu diệt địch, vừa hỗ trợ cho quần chúng nhân dân nổi dậy diệt ác phá kìm, chống phá có hiệu quả kế hoạch “bình định cấp tốc” của Mỹ - ngụy, giữ vững và mở rộng vùng giải phóng.

Hoà chung với tiếng súng tiến công của chiến dịch Tây Ninh, Bình Long, lực lượng vũ trang và nhân dân ta trên các chiến trường phối thuộc cũng bước vào cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Thu sôi động, linh hoạt và phù hợp với điều kiện thực tế của mình.

Tại thành phố Sài Gòn, Gia Định, theo quyết định của Quân uỷ Miền, tháng 7-1968, Thành uỷ Sài Gòn được tái thành lập do đồng chí Võ Văn Kiệt làm Bí thư. Bộ chỉ huy Miền đã lệnh cho các phân khu bàn giao toàn bộ các quận nội thành về trực thuộc Phân khu 6. Việc điều chỉnh, sắp xếp lại địa bàn lãnh thổ Phân khu 6 về cơ bản đã tạo được những thuận lợi rất quan trọng cho việc chỉ huy, lãnh đạo phong trào; song chính nó lại nảy sinh một điều bất lợi là phân khu phải thường xuyên “mượn” một số địa bàn đứng chân tập kết lực lượng, vũ khí, cơ sở vật chất, “mượn” bàn đạp xuất phát xung phong của các phân khu bạn cho việc chuẩn bị và tổ chức tiến công vào nội đô.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Tư, 2010, 11:56:29 pm

Chấp hành mệnh lệnh tổng tiến công và nổi dậy đợt 3, giữa tháng 8-1968, tại hậu cứ Ba Thu, Thành uỷ Sài Gòn tổ chức Hội nghị cán bộ lần thứ nhất để bàn chủ trương, biện pháp hoạt động cho phong trào trong nội đô. Trên cơ sở phân tích sâu sắc, chỉ ra những chỗ mạnh, yếu cụ thể các mặt của ta và của địch, Hội nghị thống nhất xác định: “Một mặt phải tiếp tục khí thế tiến công, phát huy các hình thức bạo lực, làm nhiệm vụ tổng công kích - tổng khởi nghĩa, mặt khác phải khẩn trương trở về các hoạt động cơ sở, đi sâu vào công tác vận động quần chúng có tính chất lâu dài, vững chắc”1, từ đó nắm và phát động quần chúng, xây dựng lại cơ sở, cùng với củng cố, mở rộng các khu vực làm chủ ta còn giữ được, khôi phục, ráp nối, phát triển các cơ sở bí mật trong các xóm ấp của dân lao động nghèo, các trường học, các nhà máy xí nghiệp, mở rộng Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình miền Nam Việt Nam... để thu hút các tầng lớp trung gian tham gia phong trào đấu tranh. Nhưng do lúc này địch tập trung lực lượng tổ chức càn quét, đánh phá dữ dội, nên Thành uỷ quyết định chỉ để một số cán bộ ở lại hậu cứ, số còn lại được phân công trở lại căn cứ Cai Lậy tổ chức bám địa bàn nắm lại cơ sở và gây dựng phong trào nội thành. Với sự chuyển hướng chỉ đạo kịp thời này, Thành uỷ đã giác ngộ và đưa được nhiều quần chúng tích cực vào các tổ chức bí mật của ta dưới danh nghĩa hợp pháp là những nhà tu hành trong các chùa, các tiểu thương buôn bán trong các chợ của thành phố và cả trong một số đơn vị, trại lính của quân đội Sài Gòn.

Song song với quá trình tổ chức, củng cố lại cơ sở nội thành, thực hiện chủ trương của Thành uỷ, trong suốt thời gian của đợt 3, Phân khu tổ chức chia lực lượng hoả lực, đặc công thành các đơn vị nhỏ, lẻ, thực hiện luồn sâu, đánh hiểm vào nhiều mục tiêu quan trọng trong lòng địch. Điển hình là ngày 21 và 22-8, trong khi một phân đội hoả lực ĐKZ của phân khu 6 tập kích nhiều loạt vào Dinh Độc lập, bồi thêm nỗi kinh hoàng cho giới lãnh đạo chóp bu của cả quân ngụy và quân Mỹ ở Sài Gòn, thì Đoàn 10 đặc công Rừng Sát đánh cháy, đánh chìm năm tàu chở hàng quân sự trọng tải khoảng bảy ngàn tấn của Mỹ trên sông Lòng Tàu và cảng Cát Lái. Trên cảng Nhà Bè, đặc công Rừng Sát đã bí mật đột nhập cài thuốc nổ đánh chìm hai tàu chở dầu (trọng tải 30 triệu lít/tàu) thuộc Hãng Caltex vào ngày 10-10 và ngày 4-12-1968. Bên cạnh đó, lực lượng vũ trang thuộc các tổ chức Thành đoàn, Hoa vận, An ninh, Biệt động... được nhân dân che chở, giúp sức đã phát huy ưu thế của mình, tổ chức đánh một số trận đạt kết quả tốt. Tiêu biểu là trung tuần tháng 11-1968, một tổ vũ trang Hoa vận bí mật cài đặt khối thuốc nổ 105 kg lên một xe lam, đánh Trường Sinh ngữ thuộc Bộ Tư lệnh Không quân ngụy, đóng trên đường Đồng Khánh (thuộc quận 5), diệt và làm bị thương hàng chục sĩ quan Mỹ, Thái Lan, Nam Triều Tiên cùng nhiều sĩ quan, binh sĩ ngụy. Đầu tháng 12, một tổ vũ trang an ninh bí mật phục kích, dùng mìn và lựu đạn chặn đánh đoàn xe chở tướng Kiêm, Tư lệnh Biệt bộ Phủ Tổng thống kiêm phụ trách đặc uỷ tình báo cho Nguyễn Văn Thiệu, làm Kiêm và một số sĩ quan tuỳ tùng bị thương. Tiếp đó, ta còn tổ chức đánh vào một loạt mục tiêu là các tụ điểm bắt lính, đào tạo ác ôn trá hình dưới danh nghĩa trụ sở nhân dân tự vệ của địch ở Cây Thị, quận 4, Gia Định..., gây cho chúng nhiều thiệt hại về người và vật chất. Do các hoạt động có hiệu quả ngay trong lòng địch tạo đà, hỗ trợ, nên phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân nội thành dần dần được phục hồi và phát triển với những hình thức và nội dung phong phú.

Từ phong trào nữ phật tử tổ chức cầu nguyện cho những nạn nhân chiến tranh và vận động quyên góp tiền, vật chất giúp đỡ những gia đình khó khăn hoạn nạn, thu hút được đông đảo quần chúng nhân dân, trong đó có nhiều thân nhân của binh sĩ và nhân viên ngụy quyền tham gia, ta đã bí mật cài các cán bộ phụ vận vào ban lãnh đạo, phát triển phong trào ra toàn thành phố. Bên cạnh việc tổ chức cầu nguyện cho các nạn nhân chiến tranh và quyên góp giúp người hoạn nạn, phong trào nữ phật tử đã phát triển lên cầu nguyện cho hoà bình, đòi chấm dứt chiến tranh. Nổi bật nhất là cuộc hành lễ cầu nguyện và mít tinh của hơn 500 đại biểu đại diện cho 20 đoàn thể, tôn giáo tại chùa Ấn Quang đòi Thiệu - Kỳ - Hương từ chức, đòi chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở miền Nam Việt Nam được tổ chức vào ngày 27-10-1968... Cùng với phong trào đấu tranh hợp pháp của các phật tử, dưới sự lãnh đạo của các tổ chức đảng bí mật, các cuộc mít tinh, biểu tình, bãi công đòi cải thiện đời sống, điều kiện làm việc chống bắt lính, chống đuổi việc, tố cáo các hành động vơ vét bóc lột nhân dân để phục vụ chiến tranh... của công nhân các nhà máy, xí nghiệp... diễn ra liên tiếp, khiến cho chính quyền Thiệu thêm bối rối. Mặt khác, để chống lại sắc lệnh “tổng động viên” của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, dưới sự lãnh đạo của Tổng hội sinh viên, học sinh, sinh viên tất cả các trường đại học ở Sài Gòn, mà tiên phong là Trường đại học Văn khoa đã xuống đường đấu tranh chống chính sách “quân sự hoá học đường”, bắt học sinh, sinh viên tham gia vào lực lượng phòng vệ dân sự, đòi chấm dứt chiến tranh. Phong trào diễn ra sôi nổi nhất là ba tháng cuối năm 1968, dưới hình thức các cuộc hội thảo, mít tinh, gửi kiến nghị, yêu sách đòi Mỹ rút quân về nước, lập lại hoà bình ở miền Nam. Đặc biệt, đúng vào ngày lễ Chúa Giáng sinh năm 1968, hơn 1.000 học sinh, sinh viên của các trường đại học, trung học Sài Gòn tổ chức cuộc rước đuốc hoà bình từ trụ sở Trung tâm Thiên chúa giáo Hiền Vương đến nhà thờ dòng Chúa cứu thế.

Trước sự phát triển mạnh mẽ và rộng khắp của các tổ chức đoàn thể quần chúng nội đô, cảnh sát và quân đội ngụy sử dụng vũ lực thẳng tay đàn áp và dùng mật vụ, chỉ điểm trà trộn điều tra, phát hiện bắt giữ hàng trăm cán bộ lãnh đạo và quần chúng tích cực của phong trào. Mặc dù vậy, phong trào đấu tranh chính trị kết hợp với đòi dân sinh, dân chủ, hoà bình của các tầng lớp nhân dân toàn miền Nam vẫn phát triển ngày càng mạnh, góp phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Thu ở miền Đông Nam Bộ và của toàn miền Nam.
_____________________________________
1. Lịch sử Sài Gòn - Gia Định - Chợ Lớn kháng chiến (1945-1975), Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1994, tr. 530.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Tư, 2010, 11:56:50 pm

Cùng với phong trào đấu tranh của nhân dân nội đô Sài Gòn - Gia Định, tại Củ Chi, Trảng Bàng..., bằng cách xây dựng hệ thống địa đạo vững chắc, nhiều tầng, nhiều lớp ngang dọc trong lòng đất, kết hợp với bố trí hệ thống trận địa, công sự chiến đấu hợp lý, liên hoàn trên mặt đất, lực lượng vũ trang và nhân dân các địa phương vẫn duy trì được thế giằng co, đánh phản kích, chống kế hoạch “bình định cấp tốc”, của Mỹ - ngụy có hiệu quả.

Củ Chi là một trong những địa bàn thuộc Phân khu 1. Khi bước vào đợt 3 của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, Phân khu 1 quyết định chia đất Củ Chi thành hai huyện Bắc Chi và Nam Chi để tạo thuận lợi cho việc chỉ đạo phong trào đấu tranh chống Mỹ - ngụy càn quét, “bình định cấp tốc”. Hầu hết các xã ở Bắc Chi và Nam Chi đều tiến hành Hội nghị quân sự bàn phương thức hoạt động cho lực lượng vũ trang thoát ly sao cho có hiệu quả cao trong tình hình địch đang tập trung ưu thế lực lượng, vũ khí tổ chức phản kích quyết liệt và lực lượng ta đã bị tiêu hao nhiều qua đợt 1 và 2 chưa kịp bổ sung. Song, dựa vào hệ thống địa đạo ngầm sâu trong lòng đất và những kinh nghiệm tác chiến tích luỹ được từ những năm trước đó, các địa phương, các đơn vị vũ trang đã lấy địa đạo làm nơi chuẩn bị lực lượng, vũ khí trang bị và bàn đạp xuất phát xung phong, mở những trận đánh quy mô vừa và nhỏ, kết hợp với sử dụng những tổ du kích mật đánh vào các mục tiêu trong hang ổ, sào huyệt của kẻ thù.

Ngày 27-10, một tổ du kích mật dưới sự chỉ huy trực tiếp của đồng chí Chín Khảnh, Huyện đội phó phụ trách quân báo, cải trang đột nhập đặt mìn hẹn giờ vào câu lạc bộ sĩ quan ở căn cứ Đồng Dù, diệt và làm bị thương một số sĩ quan, trong đó có tám sĩ quan cấp tá của địch.

Cũng trong tháng 10, du kích xã Phước Thạnh (Nam Chi) tổ chức phục kích đánh hai trận trên đường 22 và đường 7, diệt tám xe tăng, xe bọc thép và toàn bộ số quân đi cùng của chúng. Tháng 11, du kích các xã Thái Mỹ, Phước Hiệp, Trung Lập, Nhuận Đức, An Nhơn Tây, Phú Mỹ Hưng đánh 23 trận, loại khỏi vòng chiến đấu khoảng 200 tên địch, phá huỷ, phá hỏng 18 xe quân sự, bắn rơi, bắn hỏng 9 máy bay.

Giữa tháng 12-1968, sau khi phát hiện được nơi tập kết của Tiểu đoàn 7 Quân giải phóng tại thôn Vườn Trầu, xã Phước Thạnh, Bộ Tư lệnh Sư đoàn 25 bộ binh Mỹ sử dụng một trung đoàn có pháo binh và xe tăng yểm trợ, bao vây, tiến công đơn vị bộ đội tập trung của Củ Chi. Dựa vào hệ thống hầm ngầm, địa đạo, trận địa được chuẩn bị sẵn, cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 7 đã cơ động tác chiến công, thủ linh hoạt, hạn chế tối đa được thương vong. Trong hơn một ngày chiến đấu ác liệt Tiểu đoàn 7 đã loại khỏi vòng chiến đấu được hai đại đội Mỹ, giữ vững trận địa. Bị ta tiêu hao một bộ phận quan trọng sinh lực cùng vũ khí, đạn dược, nhưng mục đích đặt ra chưa giải quyết được địch điều thêm hai tiểu đoàn bộ binh và một số xe thiết giáp tăng viện cho bọn còn lại tiếp tục tiến công. Thấy tương quan lực lượng quá chênh lệch, để bảo toàn lực lượng cho những trận chiến đấu tiếp sau, Ban chỉ huy Tiểu đoàn 7 quyết định tổ chức mở đường rút quân ra khỏi vòng vây. Đây là trận đánh không chỉ điển hình về cách “công, thủ” linh hoạt để tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch, mà còn phản ánh sự nhạy cảm, quyết đoán trong tư duy quân sự của những cán bộ chỉ huy Tiểu đoàn 7 bộ đội địa phương Củ Chi trong việc quyết định rút quân một cách kịp thời để bảo toàn lực lượng khi tình thế đã thay đổi sang hướng bất lợi.

Được các hoạt động vũ trang rộng khắp hỗ trợ, quần chúng nhân dân ở khắp các ấp, xã đã đấu tranh phá rã, phá dứt điểm hàng trăm ấp chiến lược và khu tập trung, mở rộng thêm nhiều vùng giải phóng, làm thất bại kế hoạch “bình định cấp tốc” năm 1968 của Mỹ - ngụy.

Riêng cán Trung đoàn Quyết thắng, trung đoàn 268 và 16, sau khi tham gia đợt 2 tổng tiến công và nổi dậy, đã cơ động ra đứng chân ở các địa bàn ngoại thành, trong những tháng cuối năm 1968, vừa khẩn trương củng cố lực lượng, vừa tác chiến chống địch hành quân phản kích đẩy lực lượng ta ra xa thành phố.

Ở huyện Bến Cát và huyện Dầu Tiếng, Trung đoàn 16 kiên trì bám trụ, linh hoạt tiến công và phản công, thực hiện thắng lợi nhiều trận đánh ở khu vực Đồng Cỏ Đỏ, Đồng Ngỗng, Rạch Bắp, Bưng Còng... tiêu hao, tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, hỗ trợ có hiệu quả cho du kích và nhân dân các địa phương tại chỗ đấu tranh chống kế hoạch “bình định cấp tốc” của địch.

Tại địa bàn huyện Trảng Bàng (Tây Ninh), Trung đoàn 268 cũng đã thực hiện xuất sắc các trận đánh tại rừng Cầy, Lộc Khê, Mộc An, Bàu Mây, Trảng Tròn, Mít Nài, Cỏ Ống, Tầm Đinh, Đồng Lớn, An Tịnh, Trà Nguồn, Lộc Châu... loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên địch, phá huỷ, phá hỏng khoảng 200 xe quân sự, giữ vững vùng trung tuyến trên hướng Trảng Bàng - Củ Chi.

Trên khu vực đường 14 (thuộc phía nam huyện Bến Cát), Trung đoàn Quyết thắng tổ chức phục kích đánh hai trận, diệt và làm bị thương hơn 400 tên địch cùng nhiều xe quân sự các loại.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Tư, 2010, 11:57:32 pm

Không giống như Trảng Bàng, Củ Chi..., tại chiến trường Long An, phong trào đấu tranh trong đợt 3 gặp rất nhiều khó khăn. Từ giữa năm 1968, ngoài việc điều thêm ba tiểu đoàn biệt động quân kết hợp với Sư đoàn 25 bộ binh Mỹ đóng ở phía bắc, địch tăng cường Lữ đoàn 199 bộ binh nhẹ Mỹ cho Lữ đoàn 3 (Sư đoàn 9 Mỹ) chốt giữ ở phía nam Long An; nâng số xe tăng và xe thiết giáp cơ động thường xuyên trên quốc lộ số 4 lên khoảng 500 xe. Bên cạnh đó, địch còn sử dụng nhiều lần chiếc máy bay B52 đánh phá với quy mô huỷ diệt rộng lớn gồm cả một số khu dân cư dọc hai triền sông Vàm Cỏ Đông để làm bàn đạp cho các cuộc hành quân phản kích, hòng tiêu diệt, đẩy lùi lực lượng vũ trang ta ra xa, đồng thời triển khai kế hoạch “bình định cấp tốc”. Trong khi đó, phần lớn các đơn vị vũ trang của ta đứng chân trên địa bàn sau đợt 1 và 2 tổng tiến công và nổi dậy quân số hao hụt chỉ còn khoảng một nửa (đặc biệt có đơn vị như Tiểu đoàn 6 lúc bước vào đợt Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân quân số là 200, đến khi kết thúc đợt 2 chỉ còn lại 50 cán bộ, chiến sĩ). Mặc dù vậy, lực lượng vũ trang đứng chân trên địa bàn Long An vẫn kiên trì bám trụ, chuẩn bị sẵn sàng tạo thời cơ tiến công vào Sài Gòn trong đợt 3. Lãnh đạo, chỉ huy phân khu 2 và 3 thống nhất phương châm chỉ đạo lực lượng vũ trang hai phân khu “vừa tổ chức phòng ngự tích cực, vừa chủ động tiến công, linh hoạt trong việc tập trung hoặc phân tán lực lượng tuỳ theo từng trận đánh để hạn chế thương vong”. Do phải tập trung giữ bàn đạp áp sát Sài Gòn, cả vùng nông thôn rộng lớn ở phía sau bị bỏ trống, nên địch đã nhanh chóng triển khai kế hoạch “bình định cấp tốc” chiếm trở lại. Các đơn vị chiến đấu giữ bàn đạp tuy đã cố gắng bảo toàn lực lượng, song cùng với thời gian quân số vẫn bị hao hụt dần. Nhiều đơn vị đã phải giải thể, sáp nhập lại với nhau để bảo đảm tập trung quân số chiến đấu, hầu hết các tiểu đoàn phải tổ chức xuống cấp thành các đại đội. Khi đợt 3 kết thúc, các đơn vị được lệnh rút quân trở về các căn cứ để củng cố. Đây cũng là tình trạng chung của các phân khu vùng ven còn lại.

Như vậy, thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị và Quân uỷ Miền, Quân khu uỷ và Bộ Tư lệnh miền Đông Nam Bộ đã đưa ra kế hoạch hành động phù hợp với khả năng thực tế sau hai đợt tổng tiến công và nổi dậy, nên đợt 3 quân và dân miền Đông Nam Bộ đã giành thêm được nhiều thắng lợi về quân sự và chính trị quan trọng. Ta đã tiêu diệt, tiêu hao được một lực lượng quan trọng quân Mỹ và quân chủ lực Sài Gòn, từng bước khôi phục, củng cố được phần lớn cơ sở bị địch phá vỡ trong đợt Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân, đồng thời phát triển thêm được một số cơ sở mới ở cả nội và ngoại thành, đưa phong trào đấu tranh chính trị của các tầng lớp nhân dân dần dần phục hồi trở lại. Song những thắng lợi trong đợt 3 ở miền Đông cũng không làm thay đổi được tình hình nhiều, vì lực lượng ta bị tổn thất nặng. Lợi dụng cơ hội này, địch “líp” lại phần lớn vùng nông thôn ta mới giải phóng. Cuối năm 1968, sau ba đợt tiến công liên tục quân số, vũ khí đạn dược của ta đã cạn kiệt, những bộ phận còn lại của các đơn vị được lệnh rút lên các căn cứ để củng cố và bổ sung quân số. Nhưng để lên được căn cứ, cán bộ và chiến sĩ ta phải tiếp tục đột phá mở đường qua các tuyến phòng thủ bảo vệ Sài Gòn từ xa của địch với chiều sâu hàng trăm kilômét của quân Mỹ và quân ngụy, nên lực lượng ta lại tiếp tục bị tiêu hao thêm. Đây là khó khăn lớn mà ta không dễ gì khắc phục được trong một thời gian ngắn và nó còn ảnh hưởng lớn đến tác chiến của quân và dân miền Đông trong thời gian tiếp theo.

Nằm kế cận với chiến trường miền Đông Nam Bộ, Quân khu IX nhận được lệnh tổng tiến công và nổi dậy đợt 3 của Trung ương Cục và Bộ Tư lệnh Miền trong lúc lực lượng vũ trang ba thứ quân và cơ sở cách mạng của ta đã bị tổn thất nặng nề, chưa có điều kiện bổ sung, khôi phục; nhiều vùng giải phóng đã bị địch lấn chiếm trở lại. Tình hình đó đã lay động lòng tin và tâm lý của nhiều cán bộ, chiến sĩ và nhân dân, trong đó có cả một số cán bộ chỉ huy, lãnh đạo cấp khu và tỉnh. Song, vấn đề đặt ra khẩn thiết lúc này là nếu không tiếp tục tiến công thì không tồn tại được, nên Khu uỷ và Bộ Tư lệnh Quân khu IX quyết định rút phần lớn chiến sĩ bảo vệ và phục vụ ở các cơ quan dân chính đảng, huấn luyện gấp một số chiến sĩ mới đưa lên bổ sung cho các trung đoàn bộ đội chủ lực đứng chân tác chiến ở khu vực lộ Vòng Cung; đồng thời, vẫn lấy nơi đây làm căn cứ đóng quân của Bộ chỉ huy tiền phương quân khu1. Là một địa bàn quan trọng, nên chiến sự tại lộ Vòng Cung diễn ra vô cùng ác liệt. Mỹ - ngụy tập trung hoả lực của máy bay và pháo binh các loại ngày đêm đánh phá có tính huỷ diệt, sau đó dùng bộ binh và xe tăng càn quét chà xát hết khu vực này đến khu vực khác, gây nhiều thiệt hại về người và tài sản của nhân dân, nặng nề nhất là các xã thuộc triền sông Cần Thơ - nơi trú đóng quân của một số đơn vị chủ lực quân khu. Do quá hoảng sợ trước mật độ bom, pháo ác liệt của địch, hầu hết số quân mới bổ sung cho các đơn vị chủ lực vì chưa được thử thách nên đã bỏ ngũ. Mặc dù khó khăn chồng chất, song quân và dân toàn khu vẫn đồng lòng tập trung mọi lực lượng, kiên quyết tiến hành đợt 3 tổng tiến công và nổi dậy theo mệnh lệnh của cấp trên.

Mở đầu cho đợt 3 tổng tiến công và nổi dậy ở chiến trường Quân khu IX diễn ra sớm hơn so với các chiến trường khác trên toàn miền Nam. Đêm 13-8-1968, tại Cần Thơ, Tiểu đoàn 307 và một phân đội đặc công quân khu bất ngờ tập kích sân bay Lộ Tẻ, sử dụng lựu đạn, bộc phá phá huỷ, phá hỏng gần 60 máy bay các loại. Thắng lợi của trận ra quân mở màn này đã tạo lòng tin và khích động khí thế tiến công không chỉ đối với quân dân thành phố Cần Thơ, mà còn là hiệu lệnh hành động cho toàn khu.

Học tập kinh nghiệm tác chiến của đặc công và Tiểu đoàn 307 trong trận đánh sân bay Lộ Tẻ, đêm 21-8, 39 tay súng của Tiểu đoàn 309 cùng một phân đội đặc công dưới sự chỉ huy thống nhất của đồng chí Dương Tử, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 309, bí mật cơ động lực lượng, tập kích bất ngờ căn cứ pháo binh Bình Thuỷ, loại khỏi vòng chiến đấu khoảng 170 tên địch, phá huỷ, phá hỏng 18 khẩu pháo, gây thiệt hại nặng về sinh lực và máy móc, cơ sở vật chất - kỹ thuật của quân ngụy ở Vùng IV chiến thuật, sau đó tiểu đoàn rút quân ra ngoài để bảo toàn lực lượng. Khi Tiểu đoàn 309 vừa ra khỏi căn cứ thì bị địch phát hiện, chúng tập trung hoả lực đánh chặn dữ dội, làm một số đồng chí hy sinh, một số bị lạc khỏi đội hình, hai ba ngày sau mới tìm về được đơn vị.
_____________________________________
1. Bộ chỉ huy tiền phương Quân khu IX trong đợt 3 Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 gồm các đồng chí: Đồng Văn Cống - Tư lệnh, Phạm Ngọc Hưng - Phó Tư lệnh, Tham mưu trưởng và Dương Tự Cẩm - Chính uỷ.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Tư, 2010, 11:58:05 pm

Ở Vĩnh Long, một trong những tỉnh còn giữ được nhiều vùng giải phóng sau đợt 1 và đợt 2 tổng tiến công và nổi dậy; do vậy nửa cuối năm 1968, thực hiện kế hoạch “bình định cấp tốc” địch sử dụng máy bay, pháo binh bắn phá yểm trợ cho xe thiết giáp, giang thuyền chở quân liên tục càn quét vùng giải phóng của ta ở vùng lộ 4, lõm chữ V, Tam Tân, nhằm đánh bật lực lượng vũ trang ba thứ quân của ta ra xa, dồn dân vào các ấp chiến lược, tạo vành đai an toàn cho thị xã Vĩnh Long, nhưng mọi âm mưu và hành động của địch đều bị ta đánh bại. Suốt trong thời gian thực hiện đợt 3 tổng tiến công và nổi dậy, Trung đoàn 3 chủ lực quân khu đã trụ bám địa bàn, “một tấc không đi, một ly không rời”, phối hợp chặt chẽ với lực lượng vũ trang và nhân dân tại chỗ liên tiếp đánh địch bằng các hình thức tác chiến thích hợp, loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên địch, đánh chìm, đánh hỏng 10 giang thuyền chiến đấu trên sông Măng Thít, bảo vệ vững chắc vùng giải phóng.

Giữa tháng 11, địch sử dụng Tiểu đoàn 405 ngụy đến chiếm đóng, xây dựng căn cứ hành quân tại ngã tư Nhà Đài, phục vụ cho kế hoạch tiếp tục tiến công xoá vùng giải phóng của Vĩnh Long. Phát huy những kinh nghiệm chiến đấu của các tháng trước đó, Trung đoàn 3 khẩn trương củng cố lại đội hình tiếp tục tiến công ngăn chặn các cuộc hành quân càn quét bình định của địch. Cuối tháng 11, Trung đoàn 3 sử dụng hai tiểu đoàn tập kích căn cứ hành quân Nhà Đài, loại khỏi vòng chiến đấu 350 tên địch, sau đó cơ động về các địa bàn Vĩnh Xuân, Thầy Phó, Hựu Thành, An Trường chuẩn bị đánh càn, giữ vùng giải phóng. Được nhân dân che chở và nuôi dưỡng, lực lượng du kích, tự vệ các ấp xã phối thuộc chiến đấu, nên trong tháng 12-1968, Trung đoàn 3 đã bẻ gãy được hầu hết các trận càn quét, tiêu hao nặng một tiểu đoàn biệt động quân và một tiểu đoàn của trung đoàn 16 chủ lực vùng IV chiến thuật ngụy, diệt và làm bị thương hơn 500 binh sĩ thuộc các sắc lính khác nhau.

Tại tỉnh Sóc Trăng, sau khi mệnh lệnh tổng tiến công và nổi dậy đợt 3 được phổ biến xuống các đơn vị và địa phương trong toàn tỉnh, cuối tháng 8-1968, bộ đội chủ lực tỉnh dùng súng ĐKZ 75, cối 82 bất ngờ tập kích vào sân bay, tiểu khu, Dinh tỉnh trưởng trong thị xã Sóc Trăng; Đại đội 247 tập kích diệt đồn cầu Trà Men; Đại đội 301 bao vây tiêu diệt gọn một trung đội bảo an ngụy ở Vọng Thoàn; Tiểu đoàn Phú Lợi dùng một đại đội tập kích đánh thiệt hại nặng đoàn cán bộ bình định số 8 của địch tại khu vực kinh xáng Xà Lan. Cũng thời gian này, một số tổ biệt động, đặc công tập kích đánh thiệt hại nặng hậu cứ Trung đoàn 33 ngụy, phá huỷ một số lượng lớn cơ sở vật chất và phương tiện dự trữ chiến tranh của địch. Những tháng cuối năm 1968, quân và dân Sóc Trăng tiếp tục tiến công địch giành thêm những thắng lợi quan trọng. Điển hình nhất là ngày 20-11, được bộ đội và du kích huyện Thạnh Trị phối hợp chiến đấu, Tiểu đoàn Phú Lợi tiến công tiêu diệt bảy lô cốt bảo vệ Chi khu quân sự Thạnh Trị, xoá sổ Đại đội bảo an số 127, thu nhiều vũ khí và đồ dùng quân sự. Ngày 5-12, quân và dân các huyện Châu Thành, Hồng Dân, Lịch Hội Thượng tổ chức tiến công một số mục tiêu trong các chi khu, gây cho địch nhiều thiệt hại về người và vật chất. Ngày 18-12, Tiểu đoàn Phú Lợi và bộ đội huyện Châu Thành phối hợp tác chiến bao vây, tiến công làm tan rã hoàn toàn ba trung đội phòng vệ dân sự, thu một số súng đạn, hỗ trợ cho nhân dân trong ấp chiến lược Trà Cú Cạn nổi dậy diệt ác phá kìm, giành quyền làm chủ. Cùng ngày, tổ biệt động thị xã Sóc Trăng tập kích vào bãi đỗ, diệt nhiều xe quân sự của địch; Đại đội 301 bất ngờ tiến công lần thứ hai loại khỏi vòng chiến đấu hoàn toàn đoàn cán bộ bình định số 8 tại kinh xáng Xà Lan. Chỉ riêng những tháng cuối năm 1968, quân và dân Sóc Trăng đã đánh 114 trận vừa và nhỏ, tiêu diệt và làm bị thương gần 500 tên địch, thu hơn 50 súng các cỡ cùng nhiều quân trang, quân dụng.

Không giống như Cần Thơ và Sóc Trăng, sau khi tập trung sức lực cho việt thực hiện liên tiếp đợt 1 và 2 Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, lực lượng vũ trang Rạch Giá đã bị tổn thất nghiêm trọng về người và vũ khí, trong khi nguồn bổ sung tiếp tế mất dần. Lợi dụng tình trạng này, những tháng cuối năm 1968, địch sử dụng hàng chục lần chiếc máy bay chiến lược B52 kết hợp với pháo binh đánh phá nhiều ngày đêm vào khu vực hai bên triền sông Cái Lớn và kinh xáng Chợ Mới (thuộc địa bàn xã Hoà Thuận, huyện Giồng Riềng) yểm trợ cho một trung đoàn của Sư đoàn 21 chủ lực ngụy ở Vùng IV chiến thuật mở cuộc hành quân phản kích đánh vào các vùng giải phóng để tiêu diệt và đẩy lùi lực lượng vũ trang của ta ra xa, từng bước giành quyền làm chủ địa bàn. Quân và dân các lõm giải phóng kiên cường bám trụ, dựa vào thế trận chiến tranh nhân dân chống trả, đẩy lùi nhiều đợt phản kích của địch. Song, cuộc chiến đấu không cân sức, nên cứ mỗi ngày địch lại đẩy ta vào thế bất lợi hơn, vùng giải phóng bị thu hẹp, lực lượng vũ trang phải lùi dần. Không những vậy, khi các đơn vị ta rút lên bưng biền lại phải đương đầu với các đơn vị cơ động của địch ở khu vực trung tuyến, quân số tiếp tục bị tiêu hao thêm. Đi đôi với việc hành quân phản kích đẩy lực lượng vũ trang của ta, để thực hiện kế hoạch “bình định cấp tốc”, chúng sử dụng cảnh sát kết hợp với địa phương quân và các đội bình định tổ chức các cuộc càn quét, dồn dân lập ấp chiến lược. Do vậy, đến cuối năm 1968, địch đã cơ bản thiết lập lại được hệ thống kìm kẹp ở thị xã và vùng ven cùng một số địa bàn trọng điểm thuộc các huyện Tân Hiệp, Châu Thành B, Giồng Riềng. Thực tế diễn biến tình hình trên đã gây nên những khó khăn lớn cho phong trào cách mạng của Rạch Giá trong năm 1969.

Tại Bến Tre, một địa danh lịch sử nổi bật gắn chặt với phong trào “Đồng khởi” tám năm trước đó, sau hai đợt đầu của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, tuy cũng nằm trong tình trạng chung là lực lượng và cơ sở bị thiệt hại nặng chưa kịp bổ sung, phục hồi, song vẫn khẩn trương triển khai thực hiện kế hoạch tổng tiến công và nổi dậy đợt 3 theo đúng chỉ lệnh của Bộ chỉ huy Miền, Tỉnh uỷ và Tỉnh đội Bến Tre đã chủ động điều động, bố trí lực lượng theo hướng ưu tiên cho các mục tiêu trọng điểm. Các Tiểu đoàn 516, Tiểu đoàn 5 và các đại đội binh chủng của Bến Tre được lệnh tập trung về các xã căn cứ Lương Phú, Long Mỹ, Thuận Điền thuộc huyện Giồng Trôm để củng cố lực lượng, củng cố quyết tâm và phương pháp tác chiến. Bộ đội vừa củng cố xong, thì địch triển khai cuộc càn quét vào căn cứ Giồng Trôm. Được không quân yểm trợ, một đơn vị quân Mỹ dùng tàu cơ động theo sông Giồng Trôm đánh vào ba xã căn cứ Lương Phú, Thuận Điền, Long Mỹ; cùng lúc, máy bay trực thăng đổ Trung đoàn 10 ngụy xuống xã Hiệp Hưng. Để có đủ sức tác chiến với địch, Tỉnh đội Mỹ Tho sử dụng Đại đội ĐKZ 75, ĐK 57 cùng các tổ hoả lực B40, B41 xây dựng các trận địa dã chiến dọc theo bờ sông Giồng Trôm tại khu vực xã Lương Phú chặn đánh tàu địch; đồng thời, lệnh cho Tiểu đoàn 5 và Tiểu đoàn 516 nhanh chóng cơ động về địa phận đồng Gò Tranh xã Hiệp Hưng tổ chức đánh Trung đoàn 10 ngụy đổ bộ đường không.

Khoảng 5 giờ sáng ngày 23-7, sau đợt hoả lực chuẩn bị bằng 5.000 quả pháo các loại bắn cấp tập vào Long Mỹ, Lương Phú, 20 tàu chiến chở Lữ đoàn 3 Mỹ lần lượt tiến vào sông Giồng Trôm. Khi đội hình tàu địch vào đúng trận địa mai phục sẵn của ta, các loại hoả lực được lệnh phát hoả. Sau vài giờ chiến đấu đã có 16 tàu cùng lực lượng đi cùng của địch bị tiêu diệt. Số tàu còn lại tháo chạy về hướng thị xã. Ngày 24, địch sử dụng đội tàu cứu hộ ra trục kéo số tàu bị diệt ngày hôm trước đưa về căn cứ sửa chữa, lại bị ta bắn chìm thêm 12 chiếc nữa.

Hiệp đồng chặt chẽ với lực lượng đánh tàu trên sông Giồng Trôm, Tiểu đoàn 516, Tiểu đoàn 5 và các đơn vị hoả lực sau khi cơ động đến chiếm lĩnh địa bàn tác chiến đã khẩn trương triển khai đội hình đánh quân địch đổ bộ đường không. Khoảng 7 giờ sáng ngày 23, sau khi máy bay B52 ném bom rải thảm dọn bãi, địch huy động 14 máy bay trực thăng chở hai đại đội của Trung đoàn 10 chủ lực ngụy đổ xuống khu vực đồng Gò Tranh. Dự kiến đúng ý đồ, địa điểm đổ quân của địch, ta bố trí lực lượng phục sẵn, nên khi máy bay trực thăng chở quân vừa hạ thấp độ cao, chuẩn bị tiếp đất đã bị lưới lửa của Đại đội súng máy phòng không 12,8 mm của ta bất ngờ quật trúng đội hình làm 7 chiếc rơi tại chỗ. Số còn lại tuy tiếp đất và đổ được quân, nhưng bộ binh chưa kịp triển khai đội hình đã bị Tiểu đoàn 5 và một bộ phận lực lượng Tiểu đoàn 516 xuất kích xung phong tiêu hao thêm một số. Để cứu vãn tình hình, ngày 24, địch tiếp tục đổ một tiểu đoàn của Trung đoàn 10 xuống ứng cứu giải toả cho đồng bọn còn sống sót; song chúng chẳng những không thực hiện được, mà còn mất thêm hàng trăm binh sĩ nữa. Cuối ngày 24-7, địch buộc phải kết thúc cuộc hành quân.

Như vậy, sau hai ngày chiến đấu lực lượng vũ trang Bến Tre đã loại khỏi vòng chiến đấu khoảng 500 tên địch, bắn cháy, bắn chìm 28 tàu trên sông, bắn rơi, bắn hỏng 12 trực thăng, đánh bại hoàn toàn cuộc hành quân càn quét của địch, giữ vững vùng giải phóng.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Tư, 2010, 11:58:32 pm

Trong tháng 9 và 10-1968, Bộ chỉ huy Vùng IV chiến thuật đã tăng cường cho Bến Tre hai tiểu đoàn thuỷ quân lục chiến ngụy, Lữ đoàn 3 bộ binh và Lữ đoàn 117 tàu xung kích Mỹ, với ý đồ diệt cho được các tiểu đoàn cơ động của ta, thực hiện kế hoạch bình định, gom dân lập ấp chiến lược. Khởi đầu ngày 3-11, chúng sử dụng các trung đoàn 10, 11 (Sư đoàn 7 quân đội Sài Gòn) mở cuộc càn quét, đánh phá vào vùng giải phóng Giồng Trôm (gồm các xã Long Mỹ, Tân Hào, Thuận Điền, Phước Long, Thạnh Phú Đông), đồng thời, dùng một đại đội bảo an càn quét vào địa bàn xã Nhơn Trạch. Được chuẩn bị tốt về các mặt nên quân và dân hầu khắp các ấp xã trên đã dựa vào hệ thống công sự trận địa tại chỗ đánh trả, đẩy lùi nhiều đợt xung phong của địch, tiêu hao một bộ phận quan trọng sinh lực của chúng, giữ vững địa bàn. Qua giao chiến địch phát hiện được đội hình các tiểu đoàn chủ lực cơ động của ta, lập tức chúng “bốc” ngay một tiểu đoàn Mỹ đang ở lộ 26 và một tiểu đoàn thuỷ quân lục chiến ngụy đang chốt tại xã Phú Hưng về Nhơn Trạch phối hợp với các đơn vị hiện có trên địa bàn, hình thành thế bao vây, quyết diệt gọn các tiểu đoàn cơ động của ta. Cuộc chiến đấu của Tiểu đoàn 5, Tiểu đoàn 516 và các lực lượng vũ trang địa phương tại Giồng Trôm trở lên vô cùng ác liệt và kéo dài đến hết ngày 3-11.

Trước một thực tế bất lợi cho ta cả về tương quan lực lượng cũng như vũ khí và phương tiện chiến tranh, nếu tiếp tục trụ lại chiến đấu thì nguy cơ bị tổn thất lớn là không tránh khỏi. Do vậy, để bảo toàn lực lượng, ngay trong đêm 3-11 Ban chỉ huy thống nhất của Tỉnh đội Bến Tre quyết định bí mật rút toàn bộ lực lượng về đứng chân tại xã Sơn Phú - một địa bàn hẻo lánh, nhưng là điểm mật phục đánh các tàu địch cơ động trên sông Hàm Luông rất lợi hại. Mặc dầu vậy, sáng hôm sau trinh sát địch cũng “mò” tìm ra được đội hình trú quân của ta. Một cuộc đọ sức mới lại bắt đầu.

Sau khi bắn cấp tập hơn 400 quả đạn pháo các loại vào khu vực bố trí đội hình của ta, từ Vĩnh Long, Hải đoàn 23 ngụy tiến vào sông Hàm Luông, Chi đoàn xe bọc thép M113 đã triển khai đội hình trên lộ 5 hình thành thế bao vây, tổ chức các mũi đột phá tiến công vào trận địa ta. Để giữ vững trận địa, bộ đội ta tập trung lực lượng và hoả lực tổ chức phòng ngự chặt, chủ động, kiên quyết đánh trả quân địch. Trong ngày 4-11, ta đã đẩy lùi được hàng chục lần xung phong của địch, tiêu diệt được hàng trăm tên, phá huỷ, phá hỏng nhiều vũ khí, phương tiện chiến tranh của chúng. Nhưng quân địch đông lại có xe tăng, xe bọc thép yểm trợ đang bao vây quân ta. Ban chỉ huy thống nhất quyết định phải nhanh chóng mở đường máu rút hết lực lượng ra ngoài. Đêm 4-11, một trung đội đặc công, một trung đội bộ binh và một số hoả lực đã được lệnh bí mật tập kích vào khu vực bố trí của Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 10 ngụy. Bị đánh đòn bất ngờ và áp đảo ngay trong đêm, địch vội cho quân trên các hướng cơ động gấp đến ứng cứu - thế bao vây của chúng tan vỡ. Nhân thời cơ này, các đơn vị ta lần lượt rút êm ra ngoài tiếp tục củng cố lực lượng chiến đấu. Với thành tích chiến đấu trên, Tiểu đoàn 5 và Tiểu đoàn 516 được Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam tặng Huân chương Chiến công hạng ba.

Phối hợp với các trận chiến đấu của quân chủ lực cơ động, trong những tháng cuối năm 1968, các đội đặc công nước, đặc công bộ đã đánh nhiều trận đạt hiệu suất cao. Điển hình nhất là ngày 15-11, đại đội đặc công nước bí mật đột nhập gắn chất nổ đánh chìm 15 tàu thuộc một hạm đội trên sông của Mỹ trên vàm Bến Tre.

Mặc dù ta đã giành được nhiều thắng lợi, nhưng do tập trung lực lượng chiến đấu vào đô thị, nên nhiều vùng nông thôn của ta, cơ sở cách mạng đã bị thiệt hại rất lớn chưa có điều kiện củng cố, bổ sung; do đó, địch tập trung lực lượng càn quét, thực hiện kế hoạch “bình định cấp tốc”, nhiều vùng đất đai Phú Phụng, Vĩnh Bình, Bình Hoà Phước, Đồng Phú thuộc huyện Chợ Lách... trong đó có cả một số vùng mới giải phóng cũng bị chúng dồn dân lập ấp, xây dựng đồn bốt, thiết lập hệ thống kìm kẹp. Đối với vùng căn cứ, chúng tăng cường sử dụng máy bay B52 đánh phá kết hợp với rải chất độc hoá học triệt phá cây cối, ruộng vườn, đi đôi với dùng trực thăng chở quân nhảy cóc xuống lùng sục, tiêu diệt các cơ quan lãnh đạo kháng chiến và lực lượng vũ trang cách mạng. Tất cả những hành động trên của địch đã gây nhiều khó khăn cho phong trào cách mạng của Bến Tre. Song nhìn chung, cũng như các đợt trước, trong đợt 3 và những tháng cuối năm 1968, quân dân Bến Tre đã tự lực, tự cường, vừa chiến đấu vừa xây dựng phát triển lực lượng, luôn luôn đáp ứng yêu cầu chiến tranh tại chỗ, đánh bại các cuộc càn quét, tiêu diệt một bộ phận quân số và phương tiện chiến tranh của địch, giữ căn cứ và vùng giải phóng. Với những thành tích đạt được trong năm 1968 quân và dân toàn tỉnh đã được Uỷ ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tặng tám chữ vàng truyền thống “Anh dũng Đồng khởi - thắng Mỹ, diệt ngụy”.

Ở Mỹ Tho và Gò Công, sau đợt 2 tổng tiến công và nổi dậy của ta, Mỹ - ngụy lập các căn cứ chốt chặn giao thông trên lộ 4 (tại các điểm Nhị Bình, Thẻ 23, Thẻ 33 và Bà Lâm). Mỗi căn cứ chúng bố trí một đại đội bộ binh và một đại đội pháo 105 mm, riêng căn cứ 23 bố trí một tiểu đoàn. Thực hiện chiến thuật nhảy cóc, với sự yểm trợ của pháo binh và máy bay, quân địch từ các căn cứ trên tổ chức đánh sâu vào các căn cứ kháng chiến và hành lang vận chuyển của ta. Mặt khác, để phục vụ cho kế hoạch “bình định cấp tốc”, địch huy động nhiều đơn vị chủ lực xuống kết hợp với quân địa phương và các đội bình định tiến hành càn quét, dồn dân lập ấp chiến lược, trước hết là “ưu tiên” ở các huyện trọng điểm Gò Công, Hoà Đồng, Chợ Gạo, vùng ven thành phố Mỹ Tho, hai bên lộ 4 và hai triền sông Tiền.

Để chuẩn bị địa bàn đứng chân cho lực lượng cơ động của khu, của tỉnh tiến công vào thành phố Mỹ Tho khi có lệnh, Thành uỷ và Thành đội Mỹ Tho đã phát động lực lượng du kích cơ quan, du kích ấp, xã và bộ đội địa phương trú đóng trên các địa bàn ven thành phố Mỹ Tho và huyện Chợ Gạo phân tán thành các đơn vị nhỏ, dựa vào hệ thống công sự, trận địa của các xóm ấp chiến đấu chuẩn bị sẵn, tổ chức đánh địch phản kích, giữ vững chỗ đứng chân cho chính mình và cho các đơn vị bộ binh, đặc công, công binh, pháo binh của Tỉnh đội.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Tư, 2010, 11:59:26 pm

Song song với hoạt động của bộ đội đặc công, pháo binh..., các tiểu đoàn bộ đội chủ lực của tỉnh Mỹ Tho và Gò Công vẫn là lực lượng chủ công trong đợt 3 Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968.

Theo kế hoạch của Tỉnh đội, đêm 24-8, Tiểu đoàn 514A và Tiểu đoàn 263 triển khai lực lượng chiếm lĩnh trận địa xuất phát tiến công, chuẩn bị đánh chiếm Chi khu Giáo Đức. Nhưng khi cối 120 mm của ta đánh đòn hoả lực chuẩn bị do trời tối không phát hiện được nền đất nơi đặt bàn đế bị lún, đạn rơi trúng vào đội hình quân ta, làm nhiều cán bộ, chiến sĩ bị thương vong, nên kế hoạch tiến công phải huỷ bỏ. Riêng Tiểu đoàn 514B, cuối tháng 8, đầu tháng 9 tập kích diệt gọn một đại đội biệt kích ngụy ở Cá Chốt và một trung đội bảo an ở đồn Vàm Giồng, phục kích diệt hai xe quân sự Mỹ trên lộ Hoà Đồng..., sau đó rút về hậu cứ để bổ sung lực lượng. Chiến đấu dài ngày, lực lượng ta bị tiêu hao, sức chiến đấu giảm, trong khi địch tập trung lực lượng, phương tiện phản kích quyết liệt kết hợp với việc triển khai kế hoạch “bình định cấp tốc” trên quy mô toàn tỉnh, nên vùng giải phóng của ta bị thu hẹp dần, phong trào đấu tranh tạm thời lắng xuống1.

Tại Kiến Phong2, sau hai đợt 1 và 2 Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 lực lượng vũ trang và cơ sở bị tổn thất rất nghiêm trọng, hầu hết các đơn vị bộ đội tỉnh, huyện, du kích và tự vệ ấp xã đều mất sức chiến đấu, lại chưa có điều kiện để củng cố, bổ sung. Đợt 3 tổng tiến công và nổi dậy lại đúng vào mùa nước nổi, nên phong trào ở Kiến Phong diễn ra yếu ớt. Những tháng cuối năm 1968, địch lại tiếp tục đánh phá quyết liệt trên diện rộng, làm cho lực lượng vũ trang của tỉnh tiếp tục bị thiệt hại nặng nề. Chỉ trong tuần đầu tháng 12-1968, máy bay B52 ném bom huỷ diệt khu vực từ rạch Cái Lân đến Kinh Phèn thuộc địa phận xã Thanh Mỹ, giết hại các đồng chí Võ Văn Trị (Mười Đồng) - Phó Bí thư Tỉnh uỷ, Chính trị viên Tỉnh đội, Lê Văn Nhị (Hai Tiến) - Thường vụ Tỉnh uỷ, Tỉnh đội trưởng Kiến Phong. Cũng thời gian này, chúng tổ chức lực lượng bất ngờ “nhảy cóc” đánh vào cơ quan Huyện uỷ Cao Lãnh, giết hại một số cán bộ của ta, trong đó có đồng chí Hồ Văn Tiến - tỉnh uỷ viên, Bí thư Huyện uỷ Cao Lãnh; tại khu vực bờ nam kinh Nguyễn Văn Tiếp, trong khi chỉ huy Tiểu đoàn 1 chống càn, đồng chí Đỗ Hữu Cảnh (Út Mới) - tỉnh uỷ viên, chính trị viên tiểu đoàn đã anh dũng hy sinh. Như vậy, cũng như nhiều địa phương khác của đồng bằng sông Cửu Long, tuy đợt 3 vẫn được quân dân Kiến Phong thực hiện đúng với mệnh lệnh của trên, nhưng kết quả rất hạn chế, lực lượng tiếp tục bị hao tổn nghiêm trọng. Đây là vấn đề bức xúc, gay cấn nhất cho Kiến Phong trong năm 1969 và những năm tiếp theo.

Nhìn lại toàn bộ hoạt động trong đợt 3 và những tháng cuối năm 1968, quân và dân đồng bằng sông Cửu Long tuy đã có nhiều cố gắng trong việc thực hiện nghiêm túc mệnh lệnh tổng tiến công và nổi dậy của Trung ương Cục và Bộ Tư lệnh Miền, song kết quả đạt được hạn chế. Mặt khác, do phải liên tục tác chiến trong nhiều tháng ròng, lực lượng, vũ khí, thuốc men, lương thực... bị hao tổn nhiều mà chưa có điều kiện bổ sung, củng cố, trong khi đó, từ nửa cuối năm 1968, địch càng tăng cường đánh phá với cường độ mạnh và quy mô rộng lớn, ta càng bị mất đất, mất dân. Dù vậy, những hoạt động của đợt 3 với kết quả giành được đã chứng minh ý thức chấp hành mệnh lệnh cấp trên nghiêm túc và sự nhất trí cao giữa địa phương với trung ương là một trong những yếu tố rất quan trọng để giành thắng lợi trong chiến đấu của quân và dân miền Nam trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 nói riêng và trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nói chung. Đó còn là biểu hiện tinh thần khắc phục khó khăn, ý chí sắt đá quyết đánh và quyết thắng giặc Mỹ trong bất kỳ hoàn cảnh, điều kiện nào dù là gian khổ, ác liệt nhất của quân và dân ta.

Trên chiến trường Khu V, tuy đợt 1 và 2 tổng tiến công và nổi dậy đã giành được những thắng lợi có ý nghĩa chiến lược hết sức quan trọng, song lực lượng, vũ khí, trang bị, vật chất bảo đảm, cơ sở mật ở cả nông thôn và thành thị của toàn khu đã bị tiêu hao nghiêm trọng, phải mất một thời gian khá dài mới khôi phục lại được bằng mức đầu năm 1968. Ngược lại, Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã tăng cường lực lượng, phương tiện chiến tranh, tổ chức các tuyến phòng thủ bảo vệ các thành phố, thị xã, các căn cứ quân sự quan trọng. Sau khi rút quân khỏi Khe Sanh, Mỹ - ngụy đã cấp tốc đưa một bộ phận quan trọng lực lượng và phương tiện chiến tranh từ Trị - Thiên về tăng cường đánh phá các tỉnh Quảng Đà, Quảng Nam, Quảng Ngãi; đồng thời, điều Trung đoàn 44 thuộc Sư đoàn 23 ngụy và một bộ phận của Sư đoàn kỵ binh không vận Mỹ từ Tây Nguyên xuống Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà mở các cuộc hành quân phục vụ cho kế hoạch “bình định cấp tốc”.
_____________________________________
1. Theo cuốn Cuộc kháng chiến 30 năm của quân dân Tiền Giang, Bộ chỉ huy quân sự Tiền Giang xuất bản, 1988, tr. 287 thì: năm 1968, Mỹ Tho và Gò Công đã loại khỏi vòng chiến đấu 6.280 tên địch, phá huỷ 179 xe quân sự, 24 tàu thuyền vũ trang, bắn rơi và phá huỷ 63 máy bay, bức hàng và diệt 96 đồn tua.
2. Cuối năm 1965, chính quyền Diệm đã cắt các huyện Hồng Ngự, Thanh Bình, Cao Lãnh, Mỹ An, quận Đồng Tiến, Kiến Văn và thị trấn Cao Lãnh thuộc bốn tỉnh Sa Đéc, Long Xuyên, Châu Đốc, Mỹ Tho thành lập nên tỉnh Kiến Thạnh, sau vài tháng đổi thành Kiến Phong và lấy thị trấn Cao Lãnh làm tỉnh lỵ.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Tư, 2010, 12:07:56 am

Điểm ưu tiên hàng đầu cho kế hoạch phòng thủ của địch trên địa bàn Khu V là thành phố Đà Nẵng, căn cứ quân sự lớn thứ hai của Mỹ ở miền Nam (sau Sài Gòn). Tại đây, Mỹ xây dựng các tuyến vành đai bảo vệ vững chắc xung quanh thành phố. Chúng hy vọng sẽ ngăn chặn, đẩy lùi có hiệu quả các cuộc tiến công của lực lượng vũ trang ta vào thành phố, đồng thời, chống phá được các cuộc nổi dậy của nhân dân.

Bên cạnh việc xây dựng các hệ thống phòng thủ ở các thành phố, thị xã, địch sử dụng các đơn vị chủ lực cơ động mạnh tiến hành thường xuyên các cuộc hành quân càn quét quy mô lớn và tổ chức các cuộc mật phục đón lõng tại các vùng giáp ranh và vùng núi nhằm tiêu diệt, tiêu hao và đẩy lùi những đơn vị chủ lực của ta; đồng thời, thực hiện kế hoạch “bình định cấp tốc” để giành lại vùng đồng bằng.

Những hoạt động chống trả quyết liệt của địch sau hai đợt đầu của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 đã gây cho quân và dân toàn khu những khó khăn nghiêm trọng. Ngoài sự thiếu thốn về vũ khí, đạn dược, thì lượng dự trữ về lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh... cũng đều đã cạn, trong khi nguồn khai thác tại chỗ đã bị địch khống chế gần như hoàn toàn. Còn nguồn của trung ương, bị địch đánh phá ngăn chặn rất ác liệt trên tuyến hành lang chiến lược nên số lượng hàng hoá chi viện không được bao nhiêu. Nhiều đơn vị lực lượng vũ trang (kể cả quân địa phương) và cơ quan lãnh đạo chỉ huy các cấp trên địa bàn quân khu lâm vào tình trạng đói cơm, thiếu thuốc, sức khoẻ của cán bộ chiến sĩ suy giảm nghiêm trọng. Khắc phục tình trạng này, hầu hết các đơn vị phải thực hiện phương châm ngày đánh giặc, đêm bí mật vượt qua vòng vây của địch xuống vùng sâu lấy gạo. Mặc dù vậy, khi nhận được mệnh lệnh tổng tiến công và nổi dậy đợt 3, toàn quân, toàn dân Khu V vẫn triển khai thực hiện đúng với thời gian quy định.

Trong đợt 3 Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, Bộ Tư lệnh Quân khu V vẫn xác định mục tiêu chủ yếu là các đô thị. Xuất phát từ tình hình thực tế về thế cũng như lực của ta và địch, rút kinh nghiệm từ các đợt trước, việc tổ chức các trận tiến công vào thành phố lần này bảo đảm tập trung hơn, nhưng lực lượng thực hiện các trận đánh chủ yếu là những đơn vị đặc công, biệt động, pháo cối và các tiểu đoàn chủ lực cơ động của tỉnh.

Mở đầu cho đợt tổng tiến công và nổi dậy tháng 8, mặc dù còn rất nhiều khó khăn về mọi mặt, song tại mặt trận Tây Nguyên, các đơn vị chủ lực đã tổ chức tiến công Chi khu quân sự quận lỵ Đức Lập và tuyến phòng thủ phía tây nam Đắc Lắc, loại khỏi vòng chiến đấu gần 2.000 tên địch, hỗ trợ cho nhân dân nổi dậy mở rộng vùng làm chủ. Tại các tỉnh đồng bằng Khu V một bộ phận lực lượng của Sư đoàn 3 tiến công các vị trí địch ở tây Tư Nghĩa (Quảng Ngãi). Sư đoàn 2 (thiếu) đánh địch ở vùng Tam Kỳ (Quảng Nam). Các Trung đoàn 21 (Sư đoàn 2), Trung đoàn 36 và Trung đoàn 141 (vừa từ miền Bắc bổ sung vào) triển khai đánh địch ở vùng B Đại Lộc, Điện Bàn, Thượng Đức (Quảng Đà). Do có chủ trương kịp thời sớm đưa lực lượng chủ lực cơ động về đứng chân, hoạt động ở các vùng nông thôn, nên Khu V vẫn củng cố và xây dựng được nhiều địa bàn chiến lược quan trọng, lập được thế trận phối hợp đánh địch giữa bộ đội chủ lực với bộ đội địa phương và dân quân du kích một cách chặt chẽ. Khó khăn của ta tuy còn chồng chất, địch tập trung càn quét, đánh phá ác liệt, đi đôi với thực hiện kế hoạch “bình định cấp tốc” xúc được một bộ phận dân chúng vào các ấp chiến lược và khu tập trung, nhưng Mỹ - ngụy vẫn không “thu hẹp” được vùng giải phóng của ta. Thế trận chiến tranh nhân dân trên ba vùng chiến lược của Khu V cơ bản được giữ vững.

Phối hợp chặt chẽ với các cuộc tiến công ở các vùng nông thôn, bộ đội đặc công, biệt động và các phân đội hoả lực đã thực hiện nhiều trận đánh đạt hiệu quả tại nhiều thành phố, thị xã và căn cứ quân sự của Mỹ - ngụy.

Tại thành phố Đà Nẵng, đêm 22-8, Đội biệt động Lê Độ tiến công các mục tiêu Đặc khu Đà Nẵng, Đài phát thanh, đồn cảnh sát ngã năm, trụ sở cơ quan ngụy quyền quận Mỹ Khê, trụ sở Hội đồng xã Thanh Khê. Cùng lúc, Tiểu đoàn đặc công 484 (Đà Nẵng) đánh chiếm quận lỵ Hoà Vang và một số mục tiêu ở trung tâm thị trấn Cẩm Lệ. Theo nhận xét của một số hãng tin nước ngoài thì đây là trận đánh ác liệt nhất trong số khoảng 50 trận do ta mở trong tháng 8-1968 đánh vào các thành phố, thị xã toàn miền Nam.

Trên địa bàn Quảng Nam, cũng vào đêm 22-8, các tiểu đoàn đặc công 406, 409 Quân khu V cùng Tiểu đoàn đặc công 10 (Sư đoàn 2) hiệp đồng tiến công cụm căn cứ gồm: 10 sở chỉ huy cấp tiểu đoàn, 2 sở chỉ huy cấp lữ đoàn trong tổng số 14 sở chỉ huy đóng tại Chu Lai của Sư đoàn Amêricơn (Mỹ). Đây là trận tiến công diễn ra ác liệt và kéo dài trong bốn ngày đêm liên tục, trong đó có những mục tiêu bộ đội ta phải thực hành đánh đi, đánh lại đến hai, thậm chí ba lần mới dứt điểm được. Phát huy chiến quả của bộ đội đặc công, ngày 23-8, một tiểu đoàn bộ binh của Sư đoàn 2 đã tiến công tiêu diệt một tiểu đoàn thiết giáp ngụy đứng chân ở Kỳ Thịnh và đánh thiệt hại nặng Tiểu đoàn 1 thuộc Trung đoàn thiết giáp 11 của Mỹ. Tiếp đó, ngày 19-9, lực lượng đặc công phối hợp với bộ đội địa phương tại chỗ tổ chức tập kích quận lỵ Thăng Bình. Với lực lượng áp đảo và tạo được yếu tố bất ngờ, nên chỉ sau vài giờ chiến đấu ta loại khỏi vòng chiến đấu được 350 tên địch, làm chủ mục tiêu. Được đòn quân sự tạo thế, bộ đội hỗ trợ trực tiếp, các cơ sở mật đã phát động nhân dân nổi dậy diệt ác, phá kìm, giành quyền làm chủ ở bảy thôn. Hơn 20.000 dân được giải phóng trở về làng cũ làm ăn. Đặc biệt, ngay sau khi các thôn xóm được giải phóng đã có hơn 100 thanh niên tình nguyện gia nhập bộ đội và du kích. Một không khí cách mạng sôi nổi, trào dâng trên các địa phương huyện Thăng Bình và các vùng lân cận.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Tư, 2010, 12:09:35 am

Ở Bình Định, cuối tháng 8-1968, phân đội du kích đặc công của huyện Phù Mỹ gồm bốn đồng chí bất ngờ tập kích diệt gọn một đoàn cán bộ bình định, thu 2 khẩu súng và 26 quả lựu đạn. Tiếp đó, các đơn vị trong lực lượng vũ trang của tỉnh đã tổ chức được một số trận đánh nữa, song kết quả đạt được rất hạn chế.

Bằng những cố gắng vượt bực của mình, trong đợt 3 và các tháng cuối năm 1968, lực lượng vũ trang và nhân dân Khu V đã liên tục tiến công và nổi dậy, tạo được sự tiếp nối liên tục cho khí thế quyết đánh và quyết thắng trong toàn quân khu1. Nhưng sau ba đợt tiến công liên tục, quân số, vũ khí, đạn dược, sức chiến đấu của các đơn vị vũ trang ba thứ quân bị giảm sút nghiêm trọng, trong khi đó Mỹ - ngụy lại tăng cường hoạt động với quy mô lớn, nếu tiếp tục trụ lại đánh địch trong thành phố và vùng ven chẳng những không đạt kết quả mà thương vong nhất định sẽ tăng. Để bảo toàn lực lượng còn lại Bộ Tư lệnh Quân khu V ra lệnh cho các đơn vị rút lên các căn cứ rừng núi củng cố. Đối với những đơn vị đặc công đến cuối năm 1968, quân số, vũ khí bị tiêu hao nhiều, hiệu quả chiến đấu giảm sút, đặc biệt là nguồn tiếp tế rất khó khăn, nên Trung đoàn đặc công 401 của quân khu, các đội đặc công 202 của Phú Yên, 90 của Khánh Hoà phải tạm thời giải tán; các trung đoàn hoả tiễn 575 và 577 phải rút gọn lại thành các tiểu đoàn. Đây là những khó khăn rất lớn đặt ra cho phong trào đấu tranh của quân dân Khu V trong năm 1969.

Cũng như Khu V, bước sang nửa cuối năm 1968, tuy thế và lực đã giảm, địa bàn đứng chân đã bị địch tập trung lực lượng đánh phá thu hẹp một phần đáng kể, song lực lượng vũ trang Khu VI vẫn trụ lại cùng nhân dân các địa phương tổ chức đợt 3 tổng tiến công và nổi dậy như chủ trương của Bộ Chính trị.

Trong hơn một tháng của đợt 3 (17-8 - 28-9-1968 ), tiếng súng tiến công của quân và dân các tỉnh của Khu VI không lúc nào ngừng. Tại tỉnh Bình Thuận, được nhân dân hỗ trợ, lực lượng vũ trang của tỉnh tổ chức nhiều trận tiến công tiêu diệt hệ thống đồn bốt địch và phá các ấp chiến lược mới xây dựng trên vành đai phòng thủ bảo vệ xung quanh thị xã Phan Thiết của địch. Các đơn vị đặc công, biệt động, pháo cối mang vác luồn sâu tập kích kho chứa nhiên liệu ở trung tâm thị xã, phá huỷ một số kho chứa hàng hoá quân sự của Mỹ trên khu vực căng Êxepíc. Tiểu đoàn 200C phối hợp với một bộ phận Tiểu đoàn 840 tiến công tiêu diệt Chi khu quân sự Hoà Đa, tạo thế uy hiếp hệ thống phòng ngự Chợ Lầu - Phan Rí của địch. Cũng trong khoảng thời gian trên, các đơn vị pháo, cối tỉnh Tuyên Đức tập kích quận lỵ Đức Trọng, Yếu khu Thạnh Mỹ, tiêu hao nặng đại đội bảo an ngụy chốt tại M’lơn. Lực lượng vũ trang huyện Đơn Dương sử dụng pháo mang vác đánh phá quận lỵ Đran, cắt giao thông trên lộ 11. Ở nội đô thành phố Đà Lạt, các tổ hoả lực pháo, cối luồn sâu đã bất ngờ tập kích sân bay Cam Ly, Trường võ bị Đà Lạt và căn cứ Mỹ tại Nam Thiên. Các tiểu đoàn 186 và 145 phối hợp tiến công Chi khu quân sự Di Linh, loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên địch, phá hỏng sáu khẩu pháo cỡ lớn, hàng chục xe quân sự và nhiều phương tiện chiến tranh của địch. Quân và dân Ninh Thuận tổ chức bao vây, kết hợp với bắn pháo vào sân bay Thành Sơn, phá huỷ, phá hỏng một số máy bay cùng một số đoạn đường băng, loại khỏi vòng chiến đấu hàng chục giặc lái và nhân viên kỹ thuật. Được Tiểu đoàn 610 hỗ trợ, lực lượng vũ trang vùng ven các thị trấn Phú Quý, Krông Pha, Cà Ná và ven quốc lộ số 1 và 11 liên tục tiến công, loại khỏi vòng chiến đấu nhiều sinh lực và phương tiện chiến tranh của địch. Phối hợp với các hoạt động vũ trang, ở các thị xã, thị trấn Phan Thiết, Phan Rang, Bảo Lộc..., dưới sự lãnh đạo của các tổ chức mật, nhân dân đã nổi dậy mít tinh, biểu tình, đưa kiến nghị yêu cầu ngụy quyền cơ sở chấp nhận cho dân đào hầm tránh phi pháo, không được khám xét, lục soát nhà dân vào ban đêm, không được tự ý tăng thuế và cưỡng ép thanh niên gia nhập phòng vệ dân sự. Riêng nhân dân vùng nông thôn đã tổ chức nhiều đợt đấu tranh chống kế hoạch “bình định cấp tốc” của địch, phá banh, phá rã, phá lỏng được gần 50 khu dồn và ấp chiến lược, tạo điều kiện cho gần một vạn dân giành được quyền làm chủ ở nhiều mức độ khác nhau2. Nhờ đó, trong đợt 3 tổng tiến công và nổi dậy, mặc dù địch tập trung lực lượng phản kích quyết liệt, song quân dân Khu VI cơ bản giữ được khu vực giải phóng ở nông thôn, giữ được thế giằng co với địch ở vùng giáp ranh các thị xã, thị trấn. Nhưng cũng như các địa phương khác trên toàn miền Nam, sau nhiều tháng ròng chiến đấu không nghỉ, sức chiến đấu của lực lượng vũ trang sa sút dần, mà nguồn bổ sung hầu như không có, trong khi địch ngày càng tập trung phản kích lại ta với quy mô rộng lớn hơn, cường độ ác liệt hơn, nên đến cuối năm 1968, phần lớn lực lượng vũ trang ba thứ quân của khu đều bị địch đẩy ra xa. Thực trạng này đã ảnh hưởng lớn đến hoạt động của toàn khu trong những năm tiếp theo.

Trên chiến trường Trị - Thiên sau đợt Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân, địch dồn lực lượng và phương tiện tổ chức phản kích đẩy lùi lực lượng ta ra khỏi thành phố Huế và các thị xã thị trấn, đồng thời mở nhiều cuộc hành quân kết hợp với việc sử dụng không quân, pháo binh đánh phá dữ dội hành lang vận chuyển chiến lược, dùng các toán biệt kích, thám báo ngày đêm lùng sục, tập kích phá các kho tàng, căn cứ kháng chiến của ta và hình thành các tuyến phòng thủ chặn các mũi tiến công của ta vào thành phố. Trong nội thành địch sử dụng quân đội cảnh sát mở liên tiếp các cuộc hành quân tảo thanh chà đi xát lại các khu phố và vùng ven yểm trợ cho các đội bình định thực hiện kế hoạch “bình định cấp tốc”. Do sự đánh phá ác liệt của địch, hầu hết các cơ sở cách mạng bị chúng phát hiện tróc nã, quần chúng nhân dân một số bị dồn ép vào các trại tập trung và ấp chiến lược, hàng trăm thanh niên bị chúng ép buộc vào lực lượng phòng vệ dân sự. Bên cạnh đó, do mưa lũ kéo dài, địa hình bị chia cắt, việc cơ động lực lượng cũng như công tác tiếp tế của ta trở nên vô cùng khó khăn. Đến khi nước rút, địch lại rải chất độc hoá học huỷ diệt nốt những vùng trồng cây lương thực, hoa màu còn sót lại qua mùa lũ, do vậy cảnh đói kém diễn ra nghiêm trọng, các loại bệnh dịch phát sinh đe doạ tính mạng nhân dân và lực lượng vũ trang trên nhiều vùng cả ở đồng bằng và rừng núi Trị - Thiên. Để giải quyết vấn đề lương thực duy trì cuộc sống và chiến đấu, quân và dân Trị - Thiên không những phải đổ mồ hôi, công sức mà còn phải trả bằng máu và tính mạng của chính mình. Trước thực tế vô cùng khó khăn này, một số cán bộ, đảng viên và nhân dân hoang mang, dao động, dẫn đến nhiều đảng viên, cán bộ và quần chúng cách mạng ra đầu hàng, đầu thú hoặc chạy sang vùng địch cư trú. Tuy gặp khó khăn chồng chất, nhưng Đảng bộ và Bộ Tư lệnh Quân khu Trị - Thiên - Huế đã lãnh đạo nhân dân và lực lượng vũ trang khắc phục khó khăn, gắng sức tiến công và nổi dậy phối hợp với chiến trường toàn Miền. Tại Quảng Trị, sau khi 6 tiểu đoàn bộ binh, 6 đại đội đặc công, 3 tiểu đoàn phòng không, 3 tiểu đoàn pháo và súng cối, hàng trăm thanh niên xung phong và dân công hoả tuyến từ Quảng Bình vào khu vực Đường 9 thay cho các đơn vị chủ lực B5 rút ra hậu phương củng cố, bổ sung lực lượng3, đã nhanh chóng phối hợp với các đơn vị địa phương tổ chức một số trận đánh địch trên Đường 9, sử dụng pháo, cối luồn sâu tập kích các căn cứ 241, Cồn Tiên, Dốc Miếu, mật phục đánh các đoàn tàu cơ động trên sông Cửa Việt tiêu hao một bộ phận quan trọng sinh lực và phương tiện chiến tranh của địch. Riêng đối với lực lượng vũ trang hai huyện Triệu Phong và Hải Lăng, phong trào thi đua bắn máy bay lên thẳng (phương tiện chủ yếu để thực hiện chiến thuật “nhảy cóc” của địch) phát triển rộng khắp. Nổi bật nhất là ở Triệu Phong, trong ngày 19-8, lực lượng vũ trang và nhân dân toàn huyện đã phối hợp chiến đấu bẻ gãy hầu hết các đợt càn quét của Lữ đoàn kỵ binh bay Mỹ, bắn rơi 19 máy bay trực thăng. Cũng vào thời gian trên, tại Thừa Thiên, nhân thời cơ địch dồn lực lượng mở các cuộc hành quân lên vùng núi và giáp ranh, bộ đội địa phương và du kích các huyện Hương Thuỷ, Phú Vang, Phú Lộc chủ động tiến công một số đồn bốt, trụ sở ngụy quyền cơ sở, diệt nhiều tên ác ôn, cảnh sát có nhiều tội ác với nhân dân. Được lực lượng vũ trang hậu thuẫn, huyện uỷ các huyện Quảng Điền, Phong Điền, Hướng Điền đã khẩn trương đưa dần cán bộ, đảng viên về trụ bám địa bàn lãnh đạo quần chúng chống địch, giữ thế, xây dựng và củng cố cơ sở. Còn ở thành phố Huế, cuối tháng 8, Thành uỷ đã tổ chức thêm được hai đội biệt động và một số đội công tác mật hoạt động trong các quận nội thành, nên cả những khi tình hình khó khăn nhất, tiếng súng tiến công cũng không bao giờ ngừng. Nhiều mục tiêu quan trọng của Mỹ - ngụy vẫn liên tục bị ta đánh đi, đánh lại nhiều lần. Mặc dù vậy, những kết quả giành được còn hạn chế nhiều mặt, chưa tạo ra được sự thay đổi lớn về thế và về lực có lợi cho ta. Các đơn vị chủ lực quân khu phải tạm rút ra Quảng Bình củng cố, chỉ để lại một bộ phận giữ địa bàn, giữ thế4.
_____________________________________
1. Theo cuốn Khu V - 30 năm chiến tranh giải phóng, Bộ Tư lệnh Quân khu V xuất bản, tr. 352 thì đến cuối năm 1968, dân số vùng giải phóng Khu V vẫn còn 1.100.000 so với trước Tết Mậu Thân là 1.219.000 và thời điểm cao nhất là tháng 4-1968 là 1.400.000 người.
2. Trong đợt 1 và 2 Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, lực lượng vũ trang và nhân dân Khu VI đã loại khỏi vòng chiến đấu khoảng 15.000 tên địch, phá huỷ và phá hỏng một số lượng lớn vũ khí và phương tiện chiến tranh của Mỹ - ngụy.
3. Khi đợt 3 Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 bắt đầu, Bộ Quốc phòng quyết định thành lập mặt trận Trị - Thiên. Chủ lực của mặt trận Trị - Thiên khi đó gồm Sư đoàn 308, Sư đoàn 324, các đơn vị cao xạ, xe tăng và toàn bộ lực lượng vũ trang của B4, đồng thời được uỷ nhiệm chỉ huy cả lực lượng vũ trang còn lại của B5.
4. Theo số liệu thống kê trong tài liệu Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ của Bình Trị Thiên, không kể mặt trận Đường 9 - Khe sanh, qua ba đợt Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 (31-1 - 30-9), quân dân Trị -Thiên - Huế đã loại khỏi vòng chiến đấu 200.000 tên địch, bắn rơi và phá huỷ 200 máy bay các loại, phá huỷ và phá hỏng trên 400 xe quân sự, 48 tàu xuồng chiến đấu, 13 kho đạn, 70 khẩu pháo, diệt, bức rút và bức hàng 34 đồn, bốt và chi khu.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Tư, 2010, 12:10:23 am

Cuối tháng 8-1968, Khu uỷ Trị - Thiên họp phân tích tình hình, so sánh lực lượng địch, ta trên chiến trường đã đi đến quyết định: “không tiếp tục tổng công kích - tổng khởi nghĩa vào thành phố, mà phải đẩy mạnh tiêu hao, tiêu diệt từng bộ phận địch, giữ gìn và xây dựng lại cơ sở, xây dựng lại thế ba vùng liên hoàn có lợi cho ta, kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị, đấu tranh hợp pháp với nửa hợp pháp ở vùng địch kiểm soát, nhằm từng bước vượt qua khó khăn, khôi phục lại thế và lực của ta trên chiến trường, triển khai ngay thế đứng chân mới ở miền núi, phát động phong trào sản xuất, tự túc, phấn đấu trồng cho được 15 triệu gốc sắn để chống đói. Để bảo vệ sản xuất phải đẩy mạnh phong trào săn máy bay, hạn chế máy bay rải chất độc hoá học, đồng thời kiên quyết chặn đánh các cuộc hành quân “nhảy cóc”, “chốt giữ điểm cao” của địch, bảo vệ tốt kho tàng, căn cứ và đường vận chuyển chiến lược. Ở đồng bằng và thành phố phải khẩn trương tập hợp lực lượng, phát triển lực lượng mới, chuyển dần sang đấu tranh chính trị thích hợp, kết hợp với đấu tranh vũ trang, từng bước phá kế hoạch bình định của địch”1.

Thực hiện chủ trương của Khu uỷ, đầu tháng 9-1968, Bộ Tư lệnh quân khu chỉ đạo cho các tỉnh và các đơn vị nhanh chóng đưa cán bộ và bộ đội về các thôn, xã bám dân, giúp đỡ nhân dân khắc phục khó khăn, dần dần khôi phục lại cơ sở và phong trào cách mạng, vận động toàn dân thực hành tăng gia sản xuất trồng ngô, khoai, sắn... tạo nguồn lương thực tại chỗ cho không chiến. Tại Hướng Hoá, tính đến tháng 10, nhân dân và các lực lượng vũ trang đã trồng được hơn ba triệu gốc sắn, quyên góp được 250 tấn lương thực các loại cung cấp cho lực lượng vũ trang... Dựa vào lòng dân và cùng chia sẻ với nhân dân cảnh thiếu cơm, nhạt muối và phải thường xuyên đối phó với mọi âm mưu, thủ đoạn tàn bạo của địch, bộ đội và du kích vẫn kiên cường bám trụ, bảo vệ địa bàn, bảo vệ an toàn cho nhân dân. Tính đến hết tháng 10, tại một số huyện ở Trị - Thiên (chủ yếu là đồng bằng) các đơn vị vũ trang được củng cố. Riêng các huyện vùng ven thành phố Huế, mỗi huyện có một tiểu đoàn trinh sát, một đại đội trinh sát đặc công. Thành phố Huế đã phát triển lực lượng biệt động lên tới 500 người. Cùng với những kết quả về củng cố lực lượng và xây dựng cơ sở, sự thiếu thốn lương thực, thực phẩm cũng dần được khắc phục. Ngoài việc đáp ứng cho nhu cầu tại chỗ, quân dân Trị - Thiên đã dành được một phần cho nguồn dự trữ chuẩn bị đón các đơn vị chủ lực trở về tiến công địch, khôi phục lại thế trận chiến tranh nhân dân ở ba vùng chiến lược.

Tháng 12-1968, các đơn vị chủ lực sau một thời gian củng cố và bổ sung lực lượng ở hậu phương đã lần lượt quay lại chiến trường hoạt động. Đây là điều kiện rất thuận lợi giúp quân và dân Trị - Thiên tổ chức tiến công địch, giành lại đất giành lại dân, khôi phục lại thế trận chiến trường.

Với sự nỗ lực vượt bậc trên tất cả mọi phương diện, quân và dân miền Nam đã tiến hành đợt 3 Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968. Song, do đợt 1 và 2 cuộc tổng tiến công và nổi dậy diễn ra liên tục, lực lượng ta bị tổn thất nặng, chưa kịp thời bổ sung, thời cơ lại không còn, nên so với hai đợt đầu kết quả giành được trong đợt 3 hạn chế hơn. Trong đợt 3 tổng tiến công và nổi dậy của ta diễn ra rời rạc, chủ yếu là ở khu vực rừng núi và giáp biên giới với Campuchia, đối với các mục tiêu thành phố, thị xã, căn cứ quân sự lớn của Mỹ - ngụy, ta chỉ thực hiện được một số trận tập kích quy mô nhỏ bằng pháo binh, đặc công, biệt động. Đây là đòn đánh bồi vào ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, tiêu hao, tiêu diệt thêm được một bộ phận quan trọng sinh lực, vũ khí và phương tiện chiến tranh của chúng. Về phương diện quân sự đợt 3 đã góp phần đẩy quân đội Mỹ, quân đội Sài Gòn tiếp tục sa lầy thêm trong thế chiến lược “quét và giữ” bị động. Song qua đợt 3, lực lượng ta tiếp tục bị tổn thất, rất nhiều cơ sở trong nội thành bị vỡ, hầu hết vùng giải phóng ta mở được trong đợt 1 và đợt 2 bị địch líp trở lại; phần lớn lực lượng vũ trang chủ lực của ta bị đẩy lên căn cứ rừng núi và vùng giáp biên. Riêng trên lĩnh vực “bình định”, lợi dụng những khó khăn lớn của ta, Mỹ - ngụy triển khai kế hoạch “bình định cấp tốc” mà trọng điểm là các vùng nông thôn trên toàn miền Nam. Đến cuối năm 1968, chúng đã dồn được khoảng chín triệu dân miền Nam (trên 50%) vào 3.300 ấp chiến lược, lập 4.954 đồn bốt.

Trong khi quân và dân ta ở miền Nam đang tiến hành đợt 3 cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, thì quân và dân miền Bắc - mà trực tiếp là quân dân Khu IV ngày đêm kiên cường chiến đấu đánh trả cuộc chiến tranh phá hoại của không quân và hải quân Mỹ, bảo vệ giao thông thông suốt để tiếp tế cho miền Nam tổng tiến công và nổi dậy.

Ngoài việc tập trung một số lượng bom pháo gấp nhiều lần so với trước đây, thủ đoạn đánh phá của không quân và hải quân Mỹ chủ yếu tập trung vào các trọng điểm trên những khu vực Cầu Cấm, Phương Tích, Rú Nguội, Truông Bồn, các phà Nam Đàn, Bến Thuỷ (Nghệ An); bến Linh Cảm, ngã ba Đồng Lộc, Thượng Gia, Hạ Vàng, Khe Út, Bến Ràng, Còi Sâu (Hà Tĩnh); Bến Ròn, phà sông Gianh, Xuân Sơn, Long Đại, Quán Hàu, Phong Nha (Quảng Bình). Đặc biệt, trên các trục đường số 8, 10, 12, 20... với những cửa khẩu như Đèo Dước, Nam Thôn, Seng Phan, Ta Lê suốt 24 giờ trong ngày tiếng bom pháo của địch không lúc nào dứt. Chỉ tính riêng từ tháng 4 đến cuối năm 1968, tại ngã ba Đồng Lộc và Thượng Gia (Hà Tĩnh), không quân Mỹ đã ném xuống khoảng 37.000 quả bom phá và 5.000 quả bom từ trường. Nhiệm vụ chiến đấu bảo đảm giao thông vận tải ở Khu IV thực sự trở thành mặt trận nóng bỏng - nơi đọ sức, ý chí và quyết tâm của quân và dân miền Bắc xã hội chủ nghĩa với đế quốc Mỹ.

Ngay từ đầu năm 1968, các sư đoàn 367, 368, 377 phòng không, Sư đoàn 351 pháo binh của Bộ được điều động gấp vào Khu IV chiến đấu. Đồng thời, Bộ Tư lệnh Quân khu IV đã thành lập Sư đoàn phòng không 375, với biên chế ba trung đoàn (214, 218, 284) tổ chức đánh địch trên trục đường, bảo vệ các bến bãi, bảo vệ các trận địa pháo binh, các khu vực tập kết lực lượng, bổ sung trang bị vũ khí, lương thực thuốc men chuẩn bị hành quân vào chiến trường đánh Mỹ. Dựa vào cơ sở nòng cốt là các đơn vị phòng không còn lại và lực lượng phòng không các tỉnh, các huyện trên địa bàn, Quân khu IV tổ chức thêm 6 trung đoàn, 11 tiểu đoàn, 9 đại đội phòng không, với nhiệm vụ đánh địch bảo vệ các trọng điểm nút giao thông yết hầu như Nam Đàn, Linh Cảm, ngã ba Đồng Lộc và các trục đường thuộc địa bàn phía bắc quân khu. Ngoài lực lượng phòng không tập trung của quân khu, các tỉnh đã tổ chức được 528 đội dân quân trực chiến, được trang bị súng máy phòng không 12,7 mm, 14,5 mm và pháo phòng không 37 mm, trong đó có 245 đội thoát ly sản xuất với nhiệm vụ bảo vệ các mục tiêu tại chỗ và cơ động chiến đấu bảo vệ các phương tiện vận tải đường thuỷ của ta. Như vậy trên địa bàn tuyến lửa Quân khu IV, lực lượng phòng không 3 thứ quân của ta với lưới lửa nhiều tầng, nhiều lớp, có lực lượng tại chỗ và lực lượng cơ động, phương pháp bố trí lực lượng vừa có diện vừa có điểm. Bên cạnh lực lượng phòng không, Bộ Tư lệnh Phòng không - Không quân quyết định sử dụng máy bay tiêm kích tham gia đánh máy bay Mỹ trên vùng trời hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh. Đồng thời, lực lượng pháo binh cũng đã luôn luôn ở tư thế sẵn sàng chiến đấu chống tàu chiến địch, bảo vệ vùng biển.
_____________________________________
1. Dẫn theo Quân khu IV - Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975), Sđd, tr. 253.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Tư, 2010, 12:11:30 am

Mở đầu cho quyết tâm đánh thắng chiến tranh phá hoại của Mỹ trên địa bàn Quân khu IV, trong tháng 5, Trung đoàn tên lửa 238 đã liên tục bắn rơi bảy máy bay địch. Sánh vai với bộ đội tên lửa, ngày 31-5, bộ đội cao xạ đảo Cồn Cỏ đã gan dạ bám trụ trận địa, kiên cường đánh trả không quân Mỹ, bắn rơi bốn máy bay, giữ vững hòn đảo tiền tiêu của Tổ quốc. Với chiến công này “Cồn Cỏ xứng đáng là đảo nhỏ anh hùng”1 và trở thành một tấm gương trong phong trào thi đua “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược” của lực lượng vũ trang, cổ vũ quân và dân tuyến lửa Quân khu IV anh dũng chiến đấu bắn rơi nhiều máy bay giặc Mỹ hơn nữa.

Thi đua với bộ đội Cồn Cỏ, chiều 25-6, bằng sự phối hợp chiến đấu kịp thời và chặt chẽ của các loại hoả lực phòng không, quân dân huyện Tuyên Hoá (Quảng Bình) đã bắn rơi tại chỗ chiếc máy bay thứ 3.000 của không quân Mỹ trên miền Bắc. Sau hai tháng chiến đấu chống cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ, quân và dân Quân khu IV được Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen ngợi: “...Tôi nhiệt liệt khen ngợi quân và dân Quân khu IV rất xứng đáng là tuyến đầu của miền Bắc, anh dũng đập tan mọi thủ đoạn dã man của giặc Mỹ.

Tôi đặc biệt khen ngợi quân và dân Quảng Bình đã đánh giỏi, hạ chiếc máy bay Mỹ thứ 3.000 và gửi tặng đơn vị X. một lá cờ vinh dự. Đó là thành tích chung của quân và dân miền Bắc ta”2. Lời khen ngợi của Bác tiếp thêm nguồn sức mạnh mới thúc đẩy lực lượng phòng không miền Bắc nói chung, lực lượng phòng không trực tiếp chiến đấu trên “tuyến lửa” Khu IV nói riêng ngày đêm hăng say luyện tập và sẵn sàng chiến đấu lập thêm nhiều thành tích mới.

Tháng 8-1968, lực lượng phòng không ba thứ quân trên địa bàn Khu IV lập thêm nhiều chiến công vang dội trong chiến đấu chống máy bay địch và bảo vệ giao thông. Ngày 5-8, quân dân Vĩnh Linh đã bắn rơi một tốp hai chiếc máy bay phản lực F4H của không lực Mỹ (trong đó có chiếc máy bay thứ 200 bị bắn rơi tại địa phương). Tại tỉnh Hà Tĩnh, ngày 28-8, các tay súng tự vệ phòng không Lâm trường Hương Khê bắn rơi một máy bay F111. Đây là chiếc máy bay F111 đầu tiên của không quân Mỹ bị bắn rơi trên miền Bắc. Cũng ngày 28 và 29-8, Tiểu đội nữ dân quân xã Kỳ Phương, huyện Kỳ Anh liên tục đánh trả nhiều trận oanh kích của địch, bắn rơi ba máy bay, giữ vững trận địa. Tấm gương tiêu biểu cho phong trào bắn máy bay Mỹ của lực lượng phòng không nhân dân địa phương Quân khu IV trong tháng 8-1968 là nữ dân quân xóm đạo Thiên chúa xã Quảng Phúc, Quảng Trạch, Quảng Bình Nguyễn Thị Xuân, một mình một súng bám trận địa bắn rơi một máy bay F4H của địch.

Hiệp đồng chặt chẽ với các trận địa phòng không của bộ đội địa phương và dân quân tự vệ, trong tháng 8, các đơn vị pháo cao xạ của Bộ và Quân khu IV đã giành được những thắng lợi lớn: Trung đoàn 230 bắn rơi 15 chiếc, Trung đoàn 233 bắn rơi 6, Trung đoàn 224 bắn rơi 2, Trung đoàn 228 bắn rơi 2, Trung đoàn 232 bắn rơi 3, Trung đoàn 222 bắn rơi 12, Trung đoàn 214 bắn rơi 14 và Tiểu đoàn 17 bắn rơi 7 chiếc máy bay các loại của không quân Mỹ.

Bên cạnh việc tổ chức lực lượng phòng không đánh trả máy bay Mỹ, để bảo đảm giao thông và vận tải thông suốt ở những nút giao thông quan trọng phía tây Quân khu IV, tiếp theo việc thành lập Bộ Tư lệnh bảo đảm giao thông vận tải Quân khu IV, ngày 28-10-1968, Quân uỷ Trung ương và Bộ Quốc phòng quyết định thành lập Bộ Tư lệnh 500 do Thiếu tướng Nguyễn Đôn làm Tư lệnh, Thiếu tướng Lê Quang Đạo làm Chính uỷ. Nhiệm vụ của Bộ Tư lệnh 500 được xác định là: lãnh đạo, chỉ huy xây dựng lực lượng vận tải, bảo đảm giao thông vận chuyển phía tây Quân khu IV, gồm đường sông và các đường bộ số 8, 12, 20.

Để tăng cường sức mạnh cho lực lượng bảo đảm giao thông vận tải, ngoài các đơn vị cầu đường thuộc ngành vận tải trung ương, các trung đoàn công binh 229, 239, 249 của Bộ Quốc phòng, bảy tiểu đoàn công binh công trình của hai quân khu Tả ngạn và Hữu ngạn, Bộ Quốc phòng điều động thêm hai đại đội phá bom mìn của Cục Công trình Bộ Tư lệnh Công binh vào tuyến lửa Khu IV phá bom mìn, mở đường cho các đoàn vận tải chiến lược đưa hàng vào tiền tuyến miền Nam. Sát cánh với các lực lượng của Bộ, Quân khu IV đã huy động 500 đội công binh dân quân thoát ly sản xuất và các đơn vị công binh của quân khu và của các tỉnh không quản ngày đêm, mưa nắng san lấp hố bom, giải phóng mặt đường và tham gia thồ gùi hàng đến các cụm kho, chân hàng Đoàn 559.
_____________________________________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 358.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 364.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Tư, 2010, 12:12:22 am

Có lực lượng mạnh và được tổ chức chặt chẽ, thống nhất, nên trên hầu khắp địa bàn các tỉnh Khu IV việc bảo đảm giao thông, vận tải thống nhất. Tại Hà Tĩnh, một khu vực lãnh thổ có chiều ngang hẹp, một “yết hầu” quan trọng trên tuyến vận tải chiến lược Bắc - Nam, không quân và hải quân Mỹ đã ném xuống Hà Tĩnh trung bình một mét vuông đất bốn quả bom. Nhưng, với tinh thần tất cả vì miền Nam ruột thịt, tất cả để chiến thắng giặc Mỹ xâm lược, các đơn vị công binh, thanh niên xung phong và dân quân địa phương đã tham gia chiến dịch mở đường vòng tránh, san lấp hố bom, sửa và mở rộng mặt đường, sửa chữa và nâng cấp các bến phà, bến vượt bảo đảm giao thông thông suốt. Đặc biệt, ở những khu vực nút giao thông: Nam Đàn - Linh Cảm - Bến Thuỷ... được các đội công binh dân quân phối hợp, Trung đoàn công binh 239 liên tục rà soát, phá gỡ hàng ngàn quả bom từ trường và bom nổ chậm của Mỹ thả xuống dòng sông Lam, sông La. Tiểu đoàn 27 ghép phà vận chuyển được nhiều tấn hàng dọc theo sông Ngàn Sâu và sông Lam. Ở ngã ba Đồng Lộc, điểm giao hội của quốc lộ 15 và tỉnh lộ số 2, huyết mạch giao thông sống còn của tuyến vận chuyển chiến lược trên đất Hà Tĩnh, nên cuộc đọ sức vô cùng ác liệt giữa ta và địch diễn ra triền miên không kể ngày đêm, thời tiết mưa hay nắng. Chỉ trong tháng 5-1968, không quân Mỹ đã ném 3.000 quả bom phá, 970 quả bom từ trường, cắt đứt quốc lộ số 1; riêng trên trục đường 15 địch đánh 8 trận, thả 2.000 quả bom phá và 126 quả bom từ trường. Để giữ cho được điểm giao thông huyết mạch này, Bộ Tư lệnh bảo đảm giao thông vận tải Quân khu IV tập trung năm đại đội thanh niên xung phong, một đại đội công binh phá bom và một đội cầu thuộc Tổng đội 55 thanh niên xung phong, Đại đội 2 chủ lực của lực lượng giao thông Can Lộc, một đội cơ giới gạt ủi, một đơn vị cảnh sát giao thông... ngày đêm thay phiên nhau đánh máy bay và ứng phó giao thông. Khi cần thiết, Tiểu đoàn 500 công binh trạm 9 sẽ cơ động đến giúp sức.

Những tháng chiến đấu và công tác trên địa bàn Khu IV vô cùng gay go, ác liệt, ranh giới giữa cái sống và cái chết chỉ cách nhau gang tấc, đã có biết bao chiến sĩ và đồng bào ta bất chấp bom đạn dũng cảm, ngoan cường, thông minh, sáng tạo dám đối mặt với tử thần để tìm ra các bí quyết gỡ mìn, phá bom và san lấp mặt đường... giữ thông huyết mạch giao thông cho những chuyến xe chở hàng ngày đêm nối đuôi nhau vào chiến trường. Những tên tuổi thân thuộc như Vương Đình Nhỏ, với các dụng cụ thủ công tự tạo đã phá nổ, tháo gỡ được 189 quả bom các loại và trở thành dũng sĩ phá bom xuất sắc nhất trên quyết chiến điểm Đồng Lộc; chiến sĩ lái máy ủi Uông Xuân Lý đã dũng cảm gạt ủi hàng ngàn mét khối đất đá để san lấp hố bom, đẩy hàng trăm quả bom nổ chậm giải phóng mặt đường cho các đoàn xe vận tải chở hàng vào tiền tuyến; La Thị Tám, với kỷ lục có mặt liên tục 86 ngày trên ngã ba Đồng Lộc, 30 ngày ở Thượng Gia, Cổ Ngựa, đã 23 lần bị bom nổ vùi kín, nhưng sau khi được đồng đội cứu chữa vẫn kiên quyết ở lại trận địa cùng đồng đội theo dõi điểm rơi, cắm cờ đánh dấu được 703 quả bom nổ chậm để cho công binh khắc phục kịp thời. Với những thành tích đặc biệt xuất sắc trên tuyến lửa ngã ba Đồng Lộc, ngày 22-12-1969, La Thị Tám được Quốc hội, Nhà nước tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

Để chặn phá sự chi viện của miền Bắc cho tiền tuyến miền Nam tiếp tục mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy đợt 3, Mỹ tập trung không quân đánh phá ngăn chặn ác liệt ở ngã ba Đồng Lộc. Cuộc chiến đấu bảo đảm giao thông tại đây đã xuất hiện nhiều tấm gương hy sinh quên mình vô cùng cao đẹp. Và cũng “từ mảnh đất thiêng liêng này, lúc 16 giờ ngày 24-7-1968, Tiểu đội nữ thanh niên xung phong: Võ Thị Tần, Hồ Thị Cúc, Nguyễn Thị Nhỏ, Nguyễn Thị Xuân, Trần Thị Hường, Vũ Thị Hà, Võ Thị Hợi, Trần Thị Rạng, Dương Thị Xuân, Hà Thị Xanh đã anh dũng hy sinh, hiến trọn tuổi thanh xuân để nối liền mạch máu giao thông “hậu phương lớn” với “tiền tuyến lớn” góp phần cho Tổ quốc toàn thắng. Tên tuổi 10 cô mãi mãi được nhân dân cả nước và bạn bè thế giới nhắc đến như một kỳ tích anh hùng của dân tộc Việt Nam anh hùng”1. Ghi nhận những cống hiến to lớn của 10 cô gái Đồng Lộc, Quốc hội, Hội đồng Nhà nước đã truy tặng danh hiệu đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho Tiểu đội thanh niên xung phong do Võ Thị Tần chỉ huy.

Tại Nghệ An, bằng kinh nghiệm sử dụng nam châm phá thành công bom từ trường của đồng chí Nguyễn Văn Minh, chiến sĩ công binh Thành đội Vinh, các lực lượng bảo đảm giao thông vận tải trên địa bàn Nghệ An đã vận dụng rộng rãi, đồng thời nghiên cứu cải tiến tận dụng tất cả những lưỡi cuốc, cày, khung dây thép,...kết hợp với máy phóng từ gắn trên xe đã phá nổ các loại bom, mìn từ trường của đế quốc Mỹ. Trong tháng 8, tại Truông Bồn, Đại đội 3 công binh và Tiểu đội nữ thanh niên xung phong huyện Đô Lương đã phá gần 2.000 bom từ trường. Cùng với những tháng ngày khắc phục gian khổ, thường xuyên đối mặt với cái chết, song quân và dân Nghệ An không lúc nào chùn bước. Càng trong thử thách gian nan, càng xuất hiện nhiều dũng sĩ phá bom xuất sắc: Nguyễn Xuân Toán, chiến sĩ lái canô của Tiểu đoàn 27 công binh; Nguyễn Trọng Được ở Hưng Vĩnh, Hưng Nguyên; Nguyễn Thị Tính ở Nam Giang, Nam Đàn; Nguyễn Thị Vợi ở Rú Nguộc, Thanh Chương; Vương Thị Hải ở Trung Sơn, Đô Lương... Để giữ cho mạch máu giao thông không lúc nào ngừng chảy, nhiều thôn, xã, nhiều gia đình đã tự nguyện chuyển nhà ở của mình đi nơi khác để giải phóng mặt bằng cho việc mở các đường vòng tránh ở các trọng điểm đánh phá của không quân Mỹ. Và trong những thời điểm gay cấn nhất, không ít gia đình đã hy sinh căn nhà thân yêu của mình để lấy gạch, ván gỗ lát đường chống lầy cho xe qua. Tháng 8-1968, nhân dân xã Tiến Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh đã tự nguyện dỡ chuyển 130 ngôi nhà để lấy đất mở đường vòng tránh. Xã Võ Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình có 37 ngôi nhà của dân tự nguyện trao cho bộ đội và thanh niên xung phong tháo dỡ lấy vật liệu chống lầy. 30 gia đình thôn Trường Giang tự nguyện dỡ nhà đem chống lầy cho xe ra tiền tuyến. Nhân dân xã Phúc Sơn dỡ nhà lấy cột làm tời để kéo phà qua sông Long Đại... Đó là những tấm gương vì nước, vì giải phóng miền Nam mà tự nguyện hy sinh. Những hình ảnh cao đẹp này mãi mãi đi vào lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc như những chiến công chói lọi, một biểu tượng sáng ngời về chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX.
_____________________________________
1. Theo bia mộ của 10 cô gái tại nghĩa trang Đồng Lộc - Can Lộc - Hà Tĩnh, được hoàn thành vào ngày 24-7-1988.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Tư, 2010, 12:27:11 am

Tiếp tế cho chiến trường miền Nam tổng tiến công và nổi dậy là nhiệm vụ trọng tâm, hàng đầu của quân dân ta ở miền Bắc, vì vậy Bộ và Quân Khu IV đã động viên các đơn vị vận tải huy động mọi phương tiện tới mức cao nhất vận chuyển hàng hoá vào chiến trường. Chính phủ còn huy động thêm của Thanh Hoá 2.000 xe đạp thồ, 500 thuyền nan, 800 tàu thuyền đánh cá cùng với lực lượng bảo đảm tương ứng vào tăng cường cho các đoàn vận tải đang ngày đêm hoạt động trên địa bàn hai tỉnh Hà Tĩnh và Quảng Bình... góp phần vào công tác vận chuyển chi viện cho chiến trường miền Nam tiến công và nổi dậy.

Bằng sự nỗ lực to lớn vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại, vừa phá gỡ bom mìn, sửa đường, mở đường... với biết bao vất vả, hy sinh, các lực lượng vũ trang, thanh niên xung phong và nhân dân trên vùng đất lửa Khu IV vẫn giữ vững được các huyết mạch giao thông vận tải, bảo đảm cho các chuyến hàng đều đặn vào các chiến trường tiếp sức cho miền Nam. Chỉ trong bảy tháng (từ tháng 4 đến tháng 10-1968 ) đánh trả cuộc ném bom hạn chế của Mỹ, lực lượng phòng không ba thứ quân trên địa bàn Khu IV đã bắn rơi 425 máy bay, bằm chìm và bắn cháy 32 tàu chiến các loại của địch. Lực lượng công binh, thanh niên xung phong và nhân dân các địa phương tại chỗ đã khôi phục, làm mới được 2.500 km đường vận tải cơ giới, 173 km đường goòng. Xí nghiệp đóng tàu Chiến Thắng và các trạm sửa chữa lưu động của các đơn vị đóng được 21 chiếc phà, 17 bộ cầu phà, 17 phao cầu, sửa chữa 33 phà, 200 thuyền vận tải đủ loại cho các binh trạm. Huy động được sức mạnh tổng hợp to lớn như vậy nên miền Bắc hậu phương lớn đã cơ bản đáp ứng lực lượng, vật chất, kỹ thuật cho miền Nam tiếp tục tổng tiến công và nổi dậy đợt 3.

Bị thất bại nặng nề trên cả hai miền Nam - Bắc, ngày 1-11-1968, Tổng thống Mỹ Giônxơn đã phải tuyên bố chấm dứt ném bom và các hành động quân sự khác chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà không điều kiện, đồng thời chấp nhận Hội nghị bốn bên ở Pari. Nhân dịp này Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra tuyên bố vạch rõ: “Việc Mỹ chấm dứt không điều kiện ném bom, bắn phá trên toàn bộ lãnh thổ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sau bốn năm chồng chất tội ác tày trời đối với nhân dân miền Bắc Việt Nam và sau năm tháng làm bế tắc cuộc nói chuyện ở Pari, đánh dấu một thắng lợi to lớn của nhân dân Việt Nam ở cả hai miền. Đó cũng là một thắng lợi to lớn của phe xã hội chủ nghĩa, của phong trào giải phóng dân tộc và phong trào hoà bình, một thắng lợi của nhân dân toàn thế giới trong đó có cả nhân dân tiến bộ Mỹ”1. Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi cả nước tiên lên đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Lời kêu gọi có đoạn: “Đế quốc Mỹ rất ngoan cố và xảo quyệt. Chúng nói “hoà bình”, “thương lượng” nhưng vẫn chưa từ bỏ dã tâm xâm lược của chúng. Hơn một triệu quân Mỹ, quân ngụy và quân chư hầu còn đang hằng ngày gây ra biết bao tội ác dã man đối với đồng bào miền Nam ta.

Vì vậy nhiệm vụ thiêng liêng của toàn dân ta lúc này là phải nâng cao tinh thần quyết chiến quyết thắng, quyết tâm giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiên tới hoà bình thống nhất Tổ quốc.

Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta, thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu, quét sạch nó đi”2.

Nhìn lại diễn biến và kết quả của đợt 2 và đợt 3 Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 tuy “chúng ta đã mắc một số khuyết điểm, chủ quan trong việc đánh giá tình hình cho nên ta đã đề ra yêu cầu chưa thật sát với tình hình thực tế lúc đó nhất là sau đợt Tổng tiến công Tết Mậu Thân ta đã không kịp thời kiểm điểm và rút kinh nghiệm ngay, nhằm đánh giá lại tình hình và có chủ trương chuyển hướng kịp thời”3, nên để mất đất, mất dân, lực lượng vũ trang, cơ sở cách mạng và vật chất chiến tranh bị tổn thất nghiêm trọng, gây những khó khăn rất lớn cho phong trào đấu tranh năm 1969; song, thắng lợi trong đợt 2 và 3 tổng tiến công và nổi dậy cũng rất lớn, ta không chỉ tiêu diệt được một lực lượng chiến lược của Mỹ - ngụy, mà điều quan trọng là ta đã đánh bồi liên tiếp, đập tan ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc Tổng thống Mỹ Giônxơn phải tuyên bố chấm dứt hoàn toàn cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc, chấp nhận đoàn đại biểu của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam là một trong bốn thành viên chính thức tham gia hoà đàm tại Pari. Những thắng lợi này góp phần cho ta thế mạnh chủ động đấu tranh ở Hội nghị Pari.
_____________________________________
1. Tuyên bố của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Báo Quân đội nhân dân, số 2675, ngày 3-11-1968.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr.407.
3. Nghị quyết Trung ương lần thứ 21 (tháng 7-1973).



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Tư, 2010, 09:08:40 pm

CHƯƠNG 22
KẾT HỢP GIỮA TIẾN CÔNG QUÂN SỰ VỚI ĐẤU TRANH NGOẠI GIAO,
TẠO THẾ, TẠO LỰC, TẠO THỜI CƠ CHO TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY MẬU THÂN 1968,
BUỘC MỸ PHẢI ĐẾN HỘI NGHỊ PARI


I- ĐẤU TRANH NGOẠI GIAO CÔ LẬP KẺ THÙ,
TRANH THỦ SỰ ĐỒNG TÌNH VÀ ỦNG HỘ CỦA NHÂN DÂN THẾ GIỚI

“Thêm bạn, bớt thù” là chính sách đối ngoại xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta trong kháng chiến cũng như trong hoà bình. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Trong cuộc chiến đấu chính nghĩa của mình, nhân dân Việt Nam được sự đồng tình ủng hộ của nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa, nhân dân các nước Á, Phi, Mỹ Latinh và nhân dân toàn thế giới, kể cả nhân dân tiến bộ Mỹ. Dựa vào sức đoàn kết chiến đấu của mình, đồng thời dựa vào sức ủng hộ của nhân dân thế giới, nhân dân Việt Nam kiên quyết chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm lược và nhất định sẽ thu được thắng lợi hoàn toàn”1.

Thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, các hoạt động ngoại giao của ta đã được triển khai tích cực, nhịp nhàng; phối hợp chặt chẽ giữa ngoại giao nhà nước với ngoại giao nhân dân, giữa ngoại giao của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà với ngoại giao của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Trong lịch sử cách mạng của các nước, chưa có một tiền lệ nào như thế, cùng một lúc có hai hệ thống hoạt động đối ngoại đều phục vụ cho một mục tiêu: độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc. Thông qua các phương tiện báo chí, phát thanh, các cơ quan đại diện ngoại giao, các cuộc hội nghị, hội thảo quốc tế, các đoàn cán bộ của Bộ Ngoại giao, của tổ chức công đoàn, nhà báo, thanh niên, phụ nữ, tổ chức hoà bình... được cử đi công tác nước ngoài đều làm tốt nhiệm vụ tuyên truyền tính chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến, đồng thời vạch mặt kẻ thù xâm lược làm cho nhân dân thế giới hiểu rõ và cảm thông sâu sắc với cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam, đoàn kết với Việt Nam chống lại kẻ thù bằng mọi hình thức rất phong phú và đa dạng.

Cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta diễn ra trong bối cảnh các nước xã hội chủ nghĩa và phong trào cộng sản, công nhân quốc tế đang có sự bất đồng về đường lối và chia rẽ sâu sắc. Phải trải qua một quá trình vận động, thuyết phục có lý có tình và nhất là trong đường lối, chính sách của Đảng ta luôn xác định cuộc kháng chiến của ta là cuộc chiến tranh cách mạng vừa để giải phóng dân tộc, vừa cống hiến vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Với đường lối kháng chiến tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính, đồng thời có chủ trương đúng đắn trong việc tăng cường mở rộng và củng cố các quan hệ hợp tác, giúp đỡ quốc tế, nhân dân ta luôn được các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa đồng tình ủng hộ cả về tinh thần và vật chất. Các nước xã hội chủ nghĩa luôn đứng bên cạnh nhân dân Việt Nam, ủng hộ lập trường chính nghĩa, cổ vũ mọi thắng lợi của nhân dân ta, lên án mạnh mẽ đế quốc Mỹ xâm lược. Từ khi Mỹ ồ ạt đem quân viễn chinh vào miền Nam và dùng hải quân và không quân ném bom, bắn phá miền Bắc nước ta thì các nước xã hội chủ nghĩa lại tích cực giúp đỡ nước ta về mọi mặt nhiều hơn, nhất là sự giúp đỡ to lớn, có hiệu quả của Liên Xô, Trung Quốc.

Ngày 22-7-1966, Trung Quốc đã tổ chức một cuộc mít tinh lớn tại quảng trường Thiên An Môn để ủng hộ Việt Nam. Tại cuộc mít tinh, Chủ tịch Lưu Thiếu Kỳ đã trịnh trọng tuyên bố. “Chính phủ Trung Quốc nhắc lại rằng, đế quốc Mỹ xâm lược Việt Nam tức là xâm lược Trung Quốc. Bảy trăm triệu nhân dân Trung Quốc là hậu phương vững chắc của nhân dân Việt Nam. Đất đai rộng lớn của nhân dân Trung Quốc là hậu phương đáng tin cậy của nhân dân Việt Nam. Nhân dân Trung Quốc hạ quyết tâm, đã sẵn sàng về mọi mặt, sẽ có những hành động bất cứ lúc nào và ở đâu mà nhân dân hai nước Việt - Trung cho là cần thiết để cùng nhau đánh bại xâm lược Mỹ”2. Những năm đầu cuộc kháng chiến chống Mỹ, Đài phát thanh Bắc Kinh đã dành một thời lượng lớn tuyên truyền cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược của nhân dân ta bằng nhiều thứ tiếng, góp phần làm cho nhân dân thế giới hiểu rõ về cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta.

Ngày 17-8-1966 tại Liên Xô, 6.000 đại biểu nhân dân Thủ đô Mátxcơva đã họp mít tinh nhiệt liệt hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cuộc mít tinh đã thông qua nghị quyết khẳng định: ý chí của Chính phủ Liên Xô tiếp tục giúp đỡ và ủng hộ tất cả mọi sự cần thiết để giúp nhân dân Việt Nam anh em đẩy lùi sự xâm lược của bọn đế quốc là hoàn toàn phù hợp với tình cảm thiêng liêng nhất của tất cả nhân dân Liên Xô.

Điện của Thủ tướng nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên Kim Nhật Thành gửi Chính phủ ta nêu rõ: nhân dân Triều Tiên đã có mọi biện pháp để tích cực ủng hộ nhân dân Việt Nam hơn nữa dưới mọi hình thức, kể cả việc gửi quân tình nguyện, cho đến khi nhân dân Việt Nam hoàn toàn tiêu diệt được bọn đế quốc xâm lược Mỹ.

Cuba là nước đầu tiên trên thế giới đã tiếp nhận đoàn đại biểu thường trực của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và là nước đầu tiên đã nâng đoàn lên thành một cơ quan đại diện ngoại giao chính thức. Cuba cũng là nước đầu tiên thành lập Uỷ ban đoàn kết với nhân dân Việt Nam. Đầu năm 1966, Thủ tướng Phiđen Caxtơrô đã tuyên bố: “Vì Việt Nam, chúng tôi sẵn sàng hiến dâng đến cả dòng máu của mình”3.

Ngay ở bên cạnh nước ta, nhân dân hai nước Campuchia và Lào hoàn toàn ủng hộ nhân dân Việt Nam chiến đấu. Theo sáng kiến của Việt Nam và Campuchia, Hội nghị nhân dân Đông Dương họp tại Phnôm Pênh từ ngày 1 đến ngày 9-3-19654, nhằm đoàn kết nhân dân ba nước Đông Dương chống đế quốc Mỹ. Hội nghị đã nhấn mạnh “Sự cần thiết phải củng cố tình đoàn kết chân thành và bền vững của các dân tộc Đông Dương”. Từ đó, nhiều lần Quốc trưởng Xihanúc và Chính phủ Campuchia tuyên bố kiên quyết chống đế quốc Mỹ xâm lược, ủng hộ mạnh mẽ nhân dân Việt Nam. Nhân dân Lào và các lực lượng yêu nước Lào mà nòng cốt là Pa thét Lào, đang kiên cường chiến đấu chống lại đế quốc Mỹ và tay sai, không ngừng cổ vũ và giúp đỡ Việt Nam chống Mỹ. Tình đoàn kết chiến đấu giữa nhân dân ba nước ở Đông Dương ngày càng được củng cố vững chắc, tăng thêm sức mạnh để chống kẻ thù chung là đế quốc Mỹ xâm lược.

Cùng với các cuộc mít tinh, biểu tình ủng hộ nhân dân ta, phong trào ghi tên tình nguyện sang Việt Nam sát cánh chiến đấu cùng quân, dân ta chống đế quốc Mỹ ngày càng mở rộng tại nhiều nước Liên Xô, Trung Quốc, Triều Tiên, Anbani, Cuba, Hunggari, Cộng hoà Dân chủ Đức... Ngoài ra các đoàn thể thanh niên, phụ nữ, thiếu niên tại các nước anh em đã tổ chức nhiều đợt đi lao động, biểu diễn văn nghệ, hoà nhạc, chiếu phim, quyên tiền để ủng hộ nhân dân Việt Nam. Nhiều cơ quan, đoàn thể đã tổ chức lấy chữ ký và kiến nghị phản đối cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ đang tiến hành ở Việt Nam. Điều đặc biệt cảm động là tại các nước bạn Liên Xô, Trung Quốc, Triều Tiên, Cộng hoà Dân chủ Đức, Hunggari, Cuba... nhiều quân nhân và thanh niên nam, nữ đã tình nguyện hiến máu gửi tặng nhân dân ta.
________________________________________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 5-6.
2. Dẫn theo Sự thật về những lần xuất quân của Trung Quốc và quan hệ Việt – Trung, Nxb. Đà Nẵng, 1996, tr.60.
3. Báo Quân đội nhân dân số ra ngày 2-11-1966.
4. Tham gia hội nghị gồm có đoàn đại biểu Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, Cộng đồng xã hội bình dân Campuchia, Neo Lào Hắcxạt, lực lượng trung lập yêu nước Lào và các đoàn thể, tổ chức khác thuộc ba nước.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Tư, 2010, 09:09:52 pm

Từ ngày 4 đến ngày 6-7-1966, các nước tham gia Hiệp ước Vácxava họp tại Bucarét, Thủ đô Rumani. Dự hội nghị có các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước, các vị Bộ trưởng Bộ Ngoại giao và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng các nước hội viên: Liên Xô, Bungari, Hunggari, Cộng hoà Dân chủ Đức, Ba Lan, Rumani và Tiệp Khắc. Sau khi nghe thông báo về tình hình Việt Nam, hội nghị đã ra bản tuyên bố quan trọng: căm phẫn lên án tội ác của bè lũ Giônxơn, nhất trí tăng cường ủng hộ và giúp đỡ Việt Nam về mọi mặt, sẵn sàng gửi người tình nguyện sang giúp nhân dân Việt Nam chống Mỹ.

Đi đôi với việc ủng hộ về chính trị, tinh thần, nhân dân ta còn nhận được sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô, Trung Quốc và các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa về vật chất và cố vấn, chuyên gia kỹ thuật. Liên Xô, nước có nền công nghiệp quốc phòng hùng mạnh đã viện trợ cho Việt Nam ngoài một số vũ khí thông thường còn phần lớn là những vũ khí hiện đại như máy bay, xe tăng, xe bọc thép, tên lửa, pháo phòng không, pháo binh... Trung Quốc viện trợ cho ta chủ yếu là vũ khí bộ binh, quân trang, quân dụng, lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, một phần nhiên liệu, phương tiện vận tải và một số xe quân sự, pháo và đạn pháo... Theo thoả thuận giữa ta và bạn, một số đơn vị công binh và pháo binh của Trung Quốc đã sang giúp Việt Nam nâng cấp, sửa chữa, mở rộng thêm và bảo vệ các tuyến đường giao thông trên bộ thuộc các tỉnh biên giới giáp Trung Quốc. Từ cuối năm 1966 đến đầu năm 1969, một số chi đội phòng không của quân đội Trung Quốc đã luân phiên nhau sang tham gia chiến đấu chống máy bay Mỹ, bảo vệ các tỉnh phía bắc Việt Nam giáp với biên giới Việt - Trung. Khi sự bất hoà trong phong trào cộng sản quốc tế và các nước xã hội chủ nghĩa, nhất là giữa Liên Xô và Trung Quốc ảnh hưởng đến cuộc kháng chiến của nhân dân ta, Đảng và Chính phủ ta đã cố gắng làm hết sức mình, góp phần hàn gắn những mối bất đồng để bạn cùng nhất trí với ta về những chủ trương quân sự và tiếp tục viện trợ về vật chất, vũ khí, trang bị kỹ thuật cho ta. Trung Quốc đã đồng ý cho quá cảnh một khối lượng lớn hàng quân sự của Liên Xô viện trợ cho ta qua biên giới Xô - Trung và vận chuyển bằng đường sắt qua lãnh thổ Trung Quốc vào Việt Nam. Cuba là nước xã hội chủ nghĩa duy nhất ở Tây bán cầu đã nhiệt tình giúp đỡ ta về thiết bị xây dựng đường sá. Được sự thoả thuận giữa ta và Triều Tiên, năm 1967, một số phi công của Quân giải phóng nhân dân Triều Tiên cũng được cử sang Việt Nam để huấn luyện, học tập kinh nghiệm và tham gia chiến đấu cùng với các phi công Quân đội nhân dân Việt Nam. Trong một số lần xuất kích, các phi công Triều Tiên đã lập công bắn rơi được máy bay Mỹ. Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên còn cử một số đoàn cán bộ sang Việt Nam, vào chiến trường Tây Nguyên, Khu V nghiên cứu, giúp ta làm công tác binh địch vận đối với quân Nam Triều Tiên.

Tất cả sự giúp đỡ quốc tế to lớn và quý báu trên đã được nhân dân và quân đội ta khai thác và sử dụng hiệu quả, góp phần rất quan trọng vào thắng lợi của cuộc kháng chiến.

Cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược không những để giành lại độc lập cho nhân dân ta mà còn góp phần quan trọng vào sự nghiệp đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc của nhân dân yêu chuộng tự do, hoà bình và công lý trên thế giới. Song không phải nhân dân các nước ngay từ đầu đã nhận thức được đầy đủ vấn đề này. Mặc dù họ cũng chống chủ nghĩa đế quốc, nhưng có nước lại chấp nhận chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ, để cho Mỹ sử dụng nước mình làm căn cứ đánh phá Việt Nam. Có những nước họ cũng nghe nói đến Việt Nam, đến chiến thắng Điện Biên Phủ, nhưng cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam thì họ chưa hiểu bao nhiêu, thậm chí có người còn ngờ vực hỏi nhau: Mỹ giàu thế, đi xâm lược Việt Nam là nước chậm phát triển làm gì? Vì vậy, công tác đối ngoại và đấu tranh ngoại giao của ta không những có nhiệm vụ vạch mặt xâm lược của Mỹ mà còn thuyết phục dư luận thế giới, làm cho nhân dân các nước thấy rõ Mỹ không chỉ là kẻ thù của Việt Nam mà còn là kẻ thù chung của nhân dân yêu chuộng hoà bình trên thế giới. Cùng với việc tuyên truyền vạch mặt kẻ thù, nêu cao thiện chí hoà bình và hữu nghị, nhân dân ta tin tưởng và khẳng định mình có thể đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược bằng những cuộc tiến công quân sự và đấu tranh chính trị, binh vận, qua đó làm cho nhân dân thế giới, nhất là các nước trong thế giới thứ ba thấy rõ đế quốc Mỹ không có gì ghê gớm, chúng cũng có thể bị đánh bại, mà mạnh dạn đấu tranh.

Những chiến thắng quân sự trên chiến trường của nhân dân Việt Nam qua cuộc đọ sức với đế quốc Mỹ mùa khô 1965-1966, 1966-1967 đã tác động đến tinh thần và lòng tin của nhân dân thế giới, cùng với nó, trên mặt trận đấu tranh ngoại giao chúng ta hoạt động có hiệu quả cho nên đã tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ của nhân dân thế giới, và đã tập hợp được các nước Á, Phi, Mỹ Latinh, các nước Tây Âu, Bắc Âu rồi cả sang Bắc Mỹ, ngay trong lòng nước Mỹ vào một mặt trận chống Mỹ, ủng hộ Việt Nam.

Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam là thành viên chính thức của phong trào Không liên kết, của thế giới thứ ba.

Tại các hội nghị đoàn kết Á - Phi rồi đoàn kết Á - Phi - Mỹ Latinh, các nước đều ủng hộ Việt Nam, lên án Mỹ và ngụy quyền Sài Gòn. Tiếng nói của Đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được hầu hết các nước đồng tình, ủng hộ.

Tháng 6-1965, Uỷ ban Công đoàn quốc tế đoàn kết với lao động và nhân dân miền Nam Việt Nam đấu tranh chống Mỹ xâm lược (được lập ra từ cuối năm 1963) đã tổ chức khoá họp lần thứ hai tại Thủ đô Hà Nội. Dự họp có đại biểu công đoàn 31 nước Á, Phi, Mỹ Latinh, châu Âu và châu Đại Dương. Hội nghị đã quyết định lấy ngày thành lập Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam 20-12 làm “Ngày Quốc tế đoàn kết với lao động và nhân dân miền Nam Việt Nam”.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Tư, 2010, 09:11:13 pm

Từ ngày 3 đến ngày 15-1-1966, Hội nghị đoàn kết nhân dân Á, Phi, Mỹ Latinh họp ở La Habana, Thủ đô của Cuba bàn về mục tiêu đấu tranh hoà bình, trung lập của phong trào Không liên kết và ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Đặc biệt, Hội nghị đoàn kết Á, Phi, Mỹ Latinh lần này đã ủng hộ mạnh mẽ cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược. Hội nghị nhất trí nhận định rằng: “Bản thân cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam là một sự ủng hộ trực tiếp và góp phần mạnh mẽ vào phong trào giải phóng dân tộc của nhân dân các nước ở khắp ba châu, đồng thời là một tấm gương chói lọi cổ vũ mạnh mẽ toàn thể loài người tiến bộ”1. Hội nghị “coi việc đoàn kết với Việt Nam, bảo vệ sự nghiệp chính nghĩa của nhân dân Việt Nam là nhiệm vụ trung tâm của chiến lược cách mạng của các dân tộc Á, Phi, Mỹ Latinh”2. Kết quả của hội nghị đánh dấu sự hình thành trên thực tế của mặt trận nhân dân ba châu chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân do Mỹ cầm đầu, một biểu hiện sình động của tình đoàn kết nhân dân ba châu đối với nhân dân Việt Nam, một sự cổ vũ quý báu đối với cuộc kháng chiến của nhân dân ta.”

Ngày 7-7-1966, bà Inđira Ganđi, Thủ tướng Ấn Độ đã tuyên bố yêu cầu Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc Việt Nam, rút quân đội nước ngoài ra khỏi miền Nam Việt Nam, triệu tập lại Hội nghị Giơnevơ năm 1954, bảo đảm độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam...

Để đoàn kết và ủng hộ Việt Nam chống Mỹ, hơn 200 tổ chức, uỷ ban, phong trào đoàn kết được lập ra ở hầu hết các nước trên thế giới với nhiều hoạt động tích cực. Hàng triệu người thuộc nhiều nước ghi tên tình nguyện sang giúp nhân dân Việt Nam đánh Mỹ. 16 nước có phong trào hiến máu; trên 50 nước có phong trào quyên góp ủng hộ Việt Nam. Ở Pháp có các phong trào quyên góp “1.000 triệu Frăng ủng hộ Việt Nam”, “một chiếc tàu cho Việt Nam”...; ở Nhật Bản có chiến dịch quyên góp “100 triệu yên cho Việt Nam”; ở Thuỵ Điển, hưởng ứng phong trào “Một triệu cuaron ủng hộ Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam”, các em thiếu niên, thanh niên, người già đứng ở các góc đường, trên tay cầm hộp sắt sơn cờ Mặt trận để quyên góp ủng hộ Việt Nam. Gôndalét, một công dân ở Áchentina kể lại: “Đã có những người dân đi khắp nơi, cần mẫn quyên góp từng viên kí-ninh, từng đồng pêxô để mua thuốc gửi cho Quân giải phóng và nhân dân miền Nam Việt Nam”3. Đó là những hình ảnh về tình hữu nghị đẹp đẽ và cao thượng, rất cảm động của nhân dân thế giới đối với Việt Nam.

Tại hàng trăm nước đã tổ chức những cuộc mít tinh ủng hộ Việt Nam và biểu tình, bãi công phản đối đế quốc Mỹ xâm lược. Nổi bật là cuộc tổng bãi công của 5,5 triệu công nhân thuộc 91 tổ chức công đoàn Nhật Bản trong năm 1965. Hội Liên hiệp Phụ nữ Pháp tổ chức “Đêm thức vì hoà bình ở Việt Nam”, v.v… Công nhân năm nước đấu tranh không chở vũ khí, phương tiện chiến tranh sang Việt Nam như cuộc bãi công của 17 tổ chức công đoàn cảng Côbê (Nhật Bản), cuộc đấu tranh của công đoàn thuỷ thủ Ôxtrâylia không lái dắt tàu chiến Mỹ vào các cảng của Ôxtrâylia. Giữa lòng Thủ đô Stốckhôm, từng xuất hiện các “chiến khu giải phóng” của thanh niên Thuỵ Điển. Họ lấy cờ Mặt trận và bài hát Giải phóng miền Nam làm cờ và bài ca chính thức, lập ra nhóm hành động ủng hộ Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Nhân dân Cộng hoà Liên bang Đức đã sôi sục biểu tình tại hơn 50 thành phố phản đối Mỹ ném bom Hà Nội, Hải Phòng và cuộc chiến tranh xâm lược bẩn thỉu của Mỹ ở Việt Nam. “Phong trào giải trừ quân bị” ở Cộng hoà Liên bang Đức đã phát 20 vạn truyền đơn trong nhân dân Cộng hoà Liên bang Đức và binh lính Mỹ đóng ở đây, tố cáo chính sách xâm lược của Mỹ, đòi rút quân khỏi Nam Việt Nam, đình chỉ ngay lập tức xâm lược Việt Nam. Chiều 4-7-1966 tại thành phố Hămbuốc, khoảng 2.000 sinh viên và nhân dân thuộc các giới đã họp mít tinh và kéo đến biểu tình trước Lãnh sự quán Mỹ giương khẩu hiệu “Bọn Mỹ cút đi”, “Rút lui bàn tay can thiệp khỏi Việt Nam”. Tại thành phố Frăngphuốc trên sông Ranh, nhân dân Cộng hoà Liên bang Đức đã biểu tình 20 giờ liền cả ngày lẫn đêm trước Lãnh sự quán Mỹ ở đây, phản đối tội ác mới của Mỹ. Tại nhiều thành phố khác như Muyních, Xtútgát, Hâyđenben, Đuétxenđơ, v.v... cũng diễn ra những cuộc biểu tình như vậy.

Từ châu Phi, châu Mỹ Latinh xa xôi cũng vang lên những tiếng thét phẫn nộ phản đối hành động xâm lược của đế quốc Mỹ và tỏ rõ nhiệt tình ủng hộ sâu sắc với cuộc đấu tranh của nhân dân ta. Ngày 23-2-1966 Chủ tịch Angiêri Bumêđiên gửi thư trả lời bức thư ngày 24-1-1966 của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bày tỏ sự ủng hộ đối với lập trường nghiêm chỉnh và đúng đắn của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, và lên án việc chính quyền Giônxơn dùng thủ đoạn “thương lượng hoà bình” giả hiệu để hòng che đậy việc chúng ngoan cố tiếp tục chiến tranh xâm lược Việt Nam.

Chilê là nước luôn nhiệt tình ủng hộ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Việt Nam. Năm 1963, Chilê tổ chức ra “Uỷ ban Chilê giúp đỡ đoàn kết với Việt Nam”. Năm 1967, Viện hữu nghị Chilê - Việt Nam được thành lập. Tháng 5-1969, Tổng thống Agienđê sang thăm Việt Nam. Tổng thống nói, Chilê hoàn toàn ủng hộ cuộc kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam “Vì chiến tranh Việt Nam mà giá đồng đã ở mức cao trên thị trường quốc tế. Nhân dân Chilê với tình cảm của mình muốn giá đồng hạ xuống, miễn là Mỹ phải chấm dứt chiến tranh xâm lược Việt Nam, một dân tộc nhỏ bé mà có phẩm giá đang đấu tranh cho nền độc lập của mình”4. Nhiều nhà hoạt động xã hội ở Mêhicô đã cho biết: không phải chỉ có một số người Mêhicô mà toàn thể nhân dân Mêhicô đều phản đối sự xâm lược của Mỹ ở Việt Nam. Nhiều nhà hoạt động chính trị ở Pêru đã cực lực phản đối Giônxơn bắt cả sinh viên Pêru đang theo học tại Mỹ đi lính sang làm bia đỡ đạn ở miền Nam Việt Nam.

Các nước Áchentina, Urugoay, Cốtxta Rica, Cônggô (B), Xômali... đã tổ chức nhiều cuộc mít tinh, biểu tình, triển lãm tranh ảnh, chiếu phim, v.v… giới thiệu cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam. Ở đâu nhân dân thế giới cũng biểu thị thái độ ủng hộ cuộc đấu tranh anh dũng của nhân dân ta, đòi đế quốc Mỹ phải rút quân ra khỏi Việt Nam và chấm dứt cuộc ném bom, bắn phá miền Bắc nước ta.
________________________________________
1, 2. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954 -1975 - Những sự kiện quân sự, Sđd, tr.153.
3. Báo Nhân Dân số 16158, ra ngày 3-10-1969.
4. Do Mỹ nhập khẩu đồng của các nước để sản xuất vũ khí phục vụ cho chiến tranh Việt Nam.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Tư, 2010, 09:12:01 pm

Được sự ủng hộ tích cực và giúp đỡ của nhân dân yêu chuộng hoà bình trên thế giới, đến cuối năm 1967 đã có 41 chính phủ, 12 tổ chức quốc tế, 5 tổ chức khu vực lên tiếng ủng hộ cương lĩnh chính trị của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Mặt trận đã có phái đoàn đại diện ở Hà Nội và cơ quan thường trú tại các nước: Liên Xô, Cuba, Hunggari, Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, Ba Lan, Tiệp Khắc, Trung Quốc, Campuchia, Cộng hoà Ảrập thống nhất, Angiêri, Inđônêxia. Cảm kích trước cuộc chiến đấu chính nghĩa của nhân dân Việt Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược cụ Béctơrăng Rútxen, nhà trí thức lớn có tên tuổi đã vận động thành lập toà án quốc tế mang tên ông để xét xử tội ác đế quốc Mỹ, ủng hộ nhân dân Việt Nam.

Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam ngày càng có tiếng vang lớn và tác động mạnh mẽ đến mọi mặt của xã hội Mỹ. Nếu trước đây nhân dân tin vào những lời hứa hẹn huênh hoang của các tổng thống Mỹ về chương trình: “xã hội vĩ đại” và “xây dựng một xã hội công bằng, giàu mạnh ở Mỹ”, về “chống bọn cộng sản”, “nhanh chóng giành thắng lợi”, “mang lại tự do cho nhân dân Việt Nam”... thì đến nay những lời hứa hẹn ấy chỉ là thứ bánh vẽ giả dối. Nhân dân Mỹ, đặc biệt là nhiều lính Mỹ đang tham chiến ở Việt Nam không chỉ thấy sự vô nghĩa, tính chất phi đạo lý của cuộc chiến tranh xâm lược, mà còn thức tỉnh, kính phục một dân tộc giàu lòng yêu nước, dũng cảm chiến đấu bảo vệ nền độc lập, tự do của mình. Chính vì vậy, họ hiểu rằng dù Mỹ có đổ bao nhiêu quân lính, tiền của, súng đạn, thực hiện bao nhiêu chiến lược cũng không thể thắng được nhân dân Việt Nam. Cũng do phải chi tiêu quá lớn cho cuộc chiến tranh ở Việt Nam làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế của Mỹ, đời sống nhân dân gặp rất nhiều khó khăn. Tiến sĩ mục sư Máctin Luthơ Kinh, người sáng lập Hội nghị lãnh đạo Thiên chúa miền Nam nước Mỹ đã mô tả tình hình đang diễn ra: “Tôi lo ngại là với việc leo thang chiến tranh, sẽ có sự cắt giảm và thiệt hại cho các chương trình ở đây Mục sư Luthơ Kinh lại nói: “Những lời hứa của xã hội vĩ đại đã bị bắn gục tại chiến trường Việt Nam” và ông kêu gọi: “Chúng ta phải biểu tình, hội thảo và tuyên truyền cho đến khi chính những nền móng của đất nước chúng ta phải rung chuyển”1. Đi đôi với việc suy giảm về kinh tế, lần đầu tiên đa số người Mỹ bắt đầu cảm thấy khó chịu về những cảnh tượng chết chóc và tàn phá do lính Mỹ gây ra ở Việt Nam, về việc xác lính Mỹ chết trận phải trở về trong các túi xác nilông hoặc mất tích trong rừng rậm Việt Nam ngày càng tăng. Chính vì vậy, chưa bao giờ có một phong trào phản đối chiến tranh trong lịch sử Hoa Kỳ rầm rộ như trong thời kỳ chiến tranh xâm lược Việt Nam.

Phong trào đấu tranh của nhân dân Mỹ đã phát triển cả về hình thức và nội dung do sự thất bại về quân sự, chính trị của Mỹ trên chiến trường ngày càng tăng trong quá trình tiến hành cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Mở đầu cho cuộc đấu tranh của nhân dân Mỹ là phong trào đấu tranh của sinh viên Mỹ. Do chiến tranh, sinh viên phải nghỉ học đi làm quân dịch, đi đánh nhau, không ít người trong số họ đã phải tử trận hoặc mang trên mình thương tật suốt đời. Hình thức đấu tranh ban đầu của sinh viên trong các trường đại học, cao đẳng là tổ chức những cuộc hội thảo về chiến tranh Việt Nam tiến lên các cuộc biểu tình ở ngoài đường phố.

Ngày 24-3-1965, cuộc hội thảo đầu tiên về chiến tranh Việt Nam được tổ chức tại Trường đại học Michigân có hơn 3.000 sinh viên tham dự, sau đó đã nhanh chóng lan ra các trường đại học khác. Qua hội thảo, giới sinh viên đều thống nhất nhận thức chiến tranh ở Việt Nam là một sự mạo hiểm, không hợp lý và vô đạo đức.

Những cuộc hội thảo của sinh viên ở các giảng đường đã bị chính quyền Mỹ tìm cách xoa dịu và bóp nghẹt. Bộ Ngoại giao Mỹ công bố sách trắng để bào chữa rằng: chiến tranh Việt Nam do Bắc Việt Nam xâm lược gây ra, Mỹ không thể bỏ rơi Nam Việt Nam được và an ninh quốc gia của Mỹ đang lâm nguy! Đại diện của chính quyền Mỹ là Uyliam Gioócđen dẫn đầu một đoàn lần lượt đến các khu đại học tuyên truyền xuyên tạc sự thật, bóp méo bản chất cuộc chiến tranh do Mỹ tiến hành để trấn an dư luận.

Bất bình trước thái độ làm ngơ của nhà cầm quyền, phong trào đấu tranh của sinh viên từ các giảng đường đã lan toả ra các đường phố. Ngày 8-6-1965, hơn 18.000 người đã họp ở Niu Yoóc quyết định: “Tất cả những ai chống chiến tranh Việt Nam phải xuống đường”. Các cuộc đấu tranh từ tự phát chuyển sang có tổ chức, sinh viên đã lập ra “Uỷ ban phối hợp toàn quốc nhằm chấm dứt chiến tranh Việt Nam”. Từ đó, các cuộc biểu tình ngày càng nhiều hơn và mang quy mô toàn quốc. Ngày 15 và 16-10-1965, đã có hơn 10 vạn người ở 60 thành phố trong cả nước Mỹ xuống đường đấu tranh. Nhiều cuộc xô xát giữa sinh viên với cảnh sát Mỹ đã xảy ra. Sôi nổi nhất là cuộc biểu tình ban đêm của hơn một vạn sinh viên ở thành phố Bớccơlây. Họ đốt đuốc kéo đến căn cứ quân sự Ốclen, nơi quân Mỹ tập trung trước khi sang Nam Việt Nam để kêu gọi binh lính Mỹ đừng đi chết ở Việt Nam. Tại trung tâm tuyển quân Oaytơhon (Niu Yoóc), anh Đêvít Milơ đã hiên ngang đốt thẻ quân dịch trước cuộc biểu tình rồi căm phẫn lên án cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam. Hành động này, khiến Quốc hội Mỹ thông qua một đạo luật vô lý và vô nhân đạo là trừng phạt những người đốt thẻ quân dịch với bản án 5 năm tù và nộp 1.000 đôla.
________________________________________
1. Giôdép A. Amtơ: Lời phán quyết về Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1985, tr. 192, 196.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Tư, 2010, 09:13:11 pm

Sau cuộc biểu tình tháng 10-1965, xuất hiện thêm hình thức làm xúc động lòng người dân Mỹ và nhân loại tiến bộ là việc tự thiêu để phản đối chiến tranh. Mở đầu là Noócman Morixơn1, người theo phái Quâycơ trẻ. Anh đã đặt con gái nhỏ Êmêly 18 tháng tuổi xuống đất rồi tẩm xăng vào mình và châm lửa tự thiêu ngay trước cửa sổ phòng làm việc của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mắc Namara. Theo tấm gương Morixơn, một tuần sau (9-11-1965), một thanh niên Mỹ tên là Rôgiơ Lapotơ, 22 tuổi cũng tẩm xăng, tự thiêu trước trụ sở Liên hợp quốc để phản đối cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam. Tiếp đó, ngày 10-11 chị Xilin Giancaoxki, một phụ nữ trẻ, mẹ của hai con nhỏ và cụ bà Helga Alíthớt, 79 tuổi lại tự thiêu để chống cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam.

Hành động cao đẹp và dũng cảm trên được báo chí nhiều nước lúc đó hết sức ca ngợi, coi đây “là những bó đuốc tiếp sức phản kháng cuộc chiến tranh dã man ở Việt Nam”2, “là lời tố cáo nghiêm khắc của người dân Mỹ đối với đế quốc Mỹ quen thói xâm lược gây tai hoạ”3. Tờ Quang Minh Nhật báo (Trung Quốc) ra ngày 11-11-1965 còn chỉ rõ nguyên nhân của những hành động đó là do “lòng người dân Mỹ không thể chịu đựng được nữa, đã bốc lên ngọn lửa này”4.

Cũng thời gian này, các phương tiện thông tin đại chúng ở Việt Nam liên tiếp đưa tin, đăng tải các ý kiến của các tầng lớp nhân dân và những văn nghệ sĩ trên thế giới bày tỏ tình cảm xúc động, lòng ngưỡng mộ và quý trọng những tấm gương dũng cảm quên mình của những người Mỹ tiến bộ đã hy sinh vì sự nghiệp chính nghĩa của dân tộc Việt Nam. Nhân dân Việt Nam vô cùng biết ơn những tấm gương hy sinh cao cả của những người bạn Mỹ.

Qua đó, hình tượng về những tấm gương hy sinh anh dũng trên đã tác động mạnh mẽ đến phong trào đấu tranh của nhân dân Mỹ. Nhiều người Mỹ đã vượt hàng rào dây thép gai để xông vào cảng quân sự Ốclen chặn một tàu thuỷ chở hàng sang Việt Nam. Ba trăm người đứng chặn một đoàn tàu hoả chở lính đến địa điểm tập trung trước khi sang Việt Nam. Thanh niên, sinh viên phát động cuộc hiến máu gửi chiến sĩ giải phóng miền Nam Việt Nam. Uỷ ban luật gia về chính sách của Mỹ ở Việt Nam công bố giác thư dài 25 trang, tố cáo chính sách của Mỹ ở Nam Việt Nam đã vi phạm Hiến pháp Mỹ, Hiến chương Liên hợp quốc và Hiệp định Giơnevơ năm 1954. Nhiều cuộc bãi công của công nhân trong các nhà máy, xí nghiệp, hải cảng, nhất là trong các ngành công  nghiệp phục vụ chiến tranh đã nổ ra. Đáng chú ý là cuộc bãi công của 12.000 người tại Công ty Hàng không thế giới Liên Mỹ; của 250.000 người ở Nghiệp đoàn điện quốc tế, của công nhân hải cảng Bantimo làm tê liệt nhiệm vụ chuyển dụng cụ chiến tranh sang Việt Nam; của 30.000 công nhân thuộc 7 nhà máy, công ty điện thông dụng ở 6 bang chuyên sản xuất máy bay lên thẳng, bom và tên lửa cho chiến trường Việt Nam. Cuộc bãi công của 14.000 công nhân tại 26 nhà máy ở 80 bang của Công ty điện Oéttinhhao làm ngưng trệ những đơn đặt hàng về phụ tùng điện tử cho Nam Việt Nam. Cuộc bãi công kéo dài nhiều tháng của 37.000 công nhân sản xuất đồng, làm tê liệt 90% ngành này, gây ra sự khan hiếm đồng sản xuất súng đạn cho chiến tranh Việt Nam. Những cuộc bãi công trên đã diễn ra đồng thời và phối hợp nhịp nhàng với phong trào đấu tranh phản đối chiến tranh của các tầng lớp nhân dân Mỹ.

Cùng với phong trào bãi công của công nhân, phong trào phản chiến của thanh niên, sinh viên, phong trào đấu tranh của người da đen ở Mỹ cũng ngày càng phát triển và diễn ra quyết liệt. Cả nước Mỹ có 22 triệu người da đen. So với các tầng lớp nhân dân Mỹ, người da đen chiếm tỷ lệ cao nhất về nghèo khổ, thất nghiệp, thất học và bị đối xử tàn tệ do chế độ phân biệt chủng tộc gây nên. Hoa Kỳ đã không chấp nhận tự do cho người da đen nhưng lại sử dụng họ vào lính đánh thuê ở Việt Nam với số lượng cao nhất trong đội quân viễn chinh Mỹ. Trước những bất công, uất ức, người Mỹ da đen đã bất bình và nổi dậy. Ngày 11-8-1965, người da đen khu Oát ở Lốt Angiơlét đã cầm súng chống lại Chính phủ. Tiếp đó, trong đợt “mùa hè nổi dậy” năm 1966 đã có những cuộc xung đột đẫm máu ở Chicagô, Cơlivơlen, Minnipôlít, Átlanta, và trong gần 40 thành phố khác. Mùa hè năm 1967, khi quân và dân miền Nam đánh bại cuộc phản công chiến lược lần thứ hai của quân viễn chinh Mỹ và quân, dân miền Bắc trong sáu tháng đầu năm 1967 đã bắn rơi 436 máy bay, bắt nhiều giặc lái thì cuộc đấu tranh của nhân dân Mỹ và người Mỹ da đen lại liên tiếp nổ ra mạnh mẽ, ở nhiều nơi gần như biến thành nội chiến. Từ 23-7 đến 28-7-1967 tại Đơtroi, trung tâm lớn nhất về công nghiệp ôtô đã xảy ra nhiều cuộc xô xát kịch liệt. Chính quyền Mỹ phải điều động khoảng 10.000 bảo an, 5.000 lính dù có máy bay lên thẳng, xe tăng, xe bọc thép để lập lại trật tự.

Từ giữa tháng 7 đến giữa tháng 8-1967, cuộc chiến đấu giữa những người da đen với cảnh sát và lính Mỹ đã diễn ra ở hơn 100 thành phố làm hàng trăm người chết, hàng ngàn người bị thương, hàng vạn người da đen bị bắt. Thiệt hại về vật chất lên đến hàng trăm tỉ đôla. Đây có thể coi là những “trận ác chiến” của người Mỹ da đen mà theo thượng nghị sĩ Mỹ Phunbrai là do “kết quả trực tiếp của cuộc chiến tranh ở Việt Nam”. Để che đậy tính chính nghĩa của cuộc đấu tranh của người da đen, chính quyền Mỹ cho rằng những cuộc nổi dậy ấy “không phải là chính trị”, nhưng H.Ráp Brau, lãnh tụ của người da đen, thì nhấn mạnh tính chất chính trị của các cuộc nổi dậy này, vì nó gắn liền tình cảnh sống của người nghèo nói chung, người da đen nói riêng với cuộc chiến tranh ở Việt Nam.
________________________________________
1. Noócman Morixơn, 31 tuổi, quê ở Bantimo, bang Marilen là một trí thức, một chiến sĩ đấu tranh vì hoà bình. Trước khi tự thiêu anh đã hai lần tham gia các cuộc biểu tình trước trụ sở Bộ Quốc phòng để phản đối chính sách xâm lược của Chính phủ Mỹ ở Việt Nam. Sau khi biết tin chồng tự thiêu, vợ anh đã đến đón bé Êmêly và tuyên bố. “Chồng tôi đã hy sinh hôm nay để nói lên sự lo lắng của mình về sự thiệt hại rất nhiều sinh mạng trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam”. Tại quê hương Morixơn và trước Lầu Năm Góc (Oasinhtơn) các bạn của anh và những người tham gia các tổ chức đấu tranh của Mỹ đòi hoà bình ở Việt Nam đã tổ chức lễ truy điệu tưởng nhớ anh.
2, 3. Báo Tin tức (Liên Xô) số ra ngày 10-11-1965.
4. Quang Minh Nhật báo (Trung Quốc) ngày 11-11-1965.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Tư, 2010, 09:14:10 pm

Phối hợp với các cuộc đấu tranh trên, năm 1967, một số tổ chức đấu tranh mới ở Mỹ đã ra đời. “Nhóm động viên mùa xuân” đã thuyết phục mọi người chống chiến tranh xuống đường để biểu dương lực lượng. Ngày 15-4-1967, nhóm này tổ chức một cuộc biểu tình lớn tại Oasinhtơn. Trong đoàn biểu tình khoảng 40.000 người có đủ các thành phần tham dự như: sinh viên đốt thẻ quân dịch, các nhà lãnh đạo da đen, các công dân Mỹ chống chiến tranh và các cựu binh Mỹ ở Việt Nam trở về.

Hưởng ứng cuộc đấu tranh của “Nhóm động viên mùa xuân”, “Uỷ ban động viên phía đông” và một nhóm gọi là “Kháng cự phía tây” đã được thành lập và đề ra chủ trương chống lại quân dịch và quân sự nói chung của chính quyền Mỹ. “Nhóm kháng cự phía tây” dẫn đầu một cuộc biểu tình ngồi hoà bình tại trung tâm tuyển quân ở Oáccơlân. Lập tức, ngày hôm sau (17-10-1967), cảnh sát chống lại những người biểu tình bằng những hành động tàn bạo; những người này đánh lại cảnh sát rồi rút lui, nhưng lại xuất hiện biểu tình ở nơi khác.

Cuộc biểu tình tại Oáccơlân đã tác động đến Oasinhtơn, tại đây các lực lượng phản chiến đã tổ chức Tuần lễ chống chiến tranh xâm lược Việt Nam. Ngày 21-10-1967, đã có 200.000 người từ khắp nước Mỹ về tập hợp trước đài kỷ niệm Lincôn và bao vây Lầu Năm Góc với những khẩu hiệu “Rút quân Mỹ về nước” và “Nước Việt Nam của người Việt Nam”. Tuần lễ đấu tranh này được sự phối hợp ủng hộ rộng rãi của nhân dân các nước như Canađa, Anh, Cộng hoà Liên bang Đức,Pháp, Italia, Bỉ, Thuỵ Điển, Phần Lan, Na Uy, Đan Mạch, Nhật, Ôxtrâylia...

Tháng 12-1967, nhân dân Mỹ lại tổ chức Tuần lễ phản đối chiến tranh Việt Nam và chống quân dịch. Trong tuần lễ này đã có 50 tổ chức thành viên của sinh viên, tôn giáo, người da đen tham gia mít tinh, biểu tình bao vây trạm tuyển binh, v.v...

Mùa xuân và mùa hè năm 1968, phong trào chống chiến tranh lại nổi lên trong sinh viên. Sinh viên biểu tình để chống những người lãnh đạo Trường đại học Côlumbia đã nhận tiền trợ cấp của Bộ Quốc phòng để nghiên cứu các đề tài quân sự, tức là đã tham gia vào việc phá hoại Việt Nam và giết hại thanh niên Mỹ.

Tháng 4-1968, phản ứng lại các cuộc biểu tình của sinh viên, Hiệu trưởng Trường đại học Côlumbia là Grâyxon Kơcơ đã buộc những người lãnh đạo chống chiến tranh phải nghỉ học không thời hạn. Sinh viên lập tức tổ chức một cuộc biểu tình ngồi trong trường. Hiệu trưởng trường gọi cảnh sát đến định dùng vũ lực, nhưng sinh viên đã nhanh chóng tập hợp lại chiếm năm toà nhà của trường đại học, đòi cải cách đại học và chấm dứt chiến tranh. Sau năm ngày chiếm trường, các lớp học đều thống nhất nghỉ học suốt học kỳ sáu tháng và Kơcơ đã phải từ chức. Cùng với Trường Côlumbia, sinh viên ở các trường khác, nhất là ở Nothơ Oéttơn, Xtanpho, bang Michigân cũng đấu tranh đòi Chính phủ Mỹ phải có trách nhiệm và sớm chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam.

Tháng 8-1968, tại Đại hội toàn quốc Đảng Dân chủ Mỹ đã diễn ra “cuộc chiến đấu Chicagô”. Những người biểu tình chống chiến tranh tại đại hội này đã chống trả quyết liệt sự đàn áp dã man của cảnh sát. Những lính cận vệ quốc gia mang mặt nạ phòng độc xả hơi cay vào đoàn biểu tình; tiếp đó, cảnh sát đội mũ sắt xông vào đánh đập và bắt bớ. Những người biểu tình đã ném trứng thối và chai lọ vào bọn khủng bố. Cuộc đàn áp này đã làm 800 người bị thương và gần 700 người bị bắt vào nhà tù, trong đó có một số phóng viên của các hãng thông tấn, báo chí. Chính giới Mỹ đã thừa nhận cảnh sát đã “quá tay”, không đạt được mục đích duy trì trật tự và làm cho luật pháp có hiệu lực.

Phong trào đấu tranh của nhân dân Mỹ, những năm về sau còn phát triển khi Mỹ tiếp tục gây thêm nhiều tội ác ở Việt Nam. Nhưng những cuộc đấu tranh vừa qua đã là “cuộc chiến tranh trong lòng nước Mỹ” tác động đến mọi mặt xã hội Mỹ. Oantơ Lípman, nhà bình luận chính trị nổi tiếng nước Mỹ hồi đó nhận xét “lương tâm người Mỹ nổi giận... Cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam là cuộc chiến tranh không được lòng người nhất trong lịch sử Hoa Kỳ”. Sau này, Henry Kítxinhgiơ đã thừa nhận: “Các thế hệ tương lai có thể khó hình dung được cơn biến động trong nước mà chiến tranh Việt Nam gây ra... Chính cơ cấu của chính phủ đã bị tan rã. Ngành hành pháp bị choáng váng. Cuối cùng, con em của họ và con em bạn bè của họ đã tham gia các cuộc biểu tình... Sự kiệt sức là dấu ấn của tất cả chúng tôi. Tôi phải đi từ nhà tôi, vây quanh là đám người phản đối, đến tầng dưới của Nhà Trắng để được ngủ đôi chút”1.

Cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân dân Việt Nam đã được cả loài người yêu chuộng hoà bình trên thế giới ủng hộ. Có được thành công đó là do ta kết hợp tốt đấu tranh quân sự và đấu tranh ngoại giao nên đã tập hợp được nhân dân tiến bộ thế giới vào một mặt trận chống kẻ thù chung dưới nhiều hình thức và mức độ khác nhau, ngày càng cô lập được đế quốc Mỹ, góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp - sức mạnh của dân tộc và sức mạnh thời đại để không ngừng tăng cường thế và lực cho cuộc kháng chiến. Vì vậy, sau này khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc thắng lợi, thay mặt nhân dân Việt Nam, đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn đã: “Bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đối với Liên Xô, Trung Quốc, các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác, đối với các đảng cộng sản và công nhân, đã vì tình nghĩa quốc tế vô sản cao cả, dành cho nhân dân ta sự ủng hộ và sự giúp đỡ hết sức to lớn và quý báu. Chúng ta chân thành cảm ơn giai cấp công nhân các nước trên thế giới, các nước dân tộc chủ nghĩa, các tổ chức dân chủ quốc tế và loài người tiến bộ đã cổ vũ và ủng hộ mạnh mẽ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta. Chúng ta gửi đến nhân dân tiến bộ Mỹ đã vì hoà bình và công lý mà đồng tình, ủng hộ cuộc chiến đấu chính nghĩa của nhân dân ta, lời chào hữu nghị”2.
________________________________________
1. Henry Kítxinhgiơ: Hồi ký những năm tháng ở Nhà Trắng, bản tiếng Việt, Thư viện Trung ương quân đội dịch, 1982, tr. 190.
2. Trích điện văn của đồng chí Lê Duẩn trong buổi lễ mừng chiến thắng ngày 15-5-1975 tại Hà Nội, dẫn theo Sức mạnh Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1976, tr. 394.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Tư, 2010, 09:16:17 pm

II- PHỐI HỢP ĐẤU TRANH QUÂN SỰ VỚI ĐẤU TRANH NGOẠI GIAO TRONG CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY, BUỘC MỸ PHẢI ĐÀM PHÁN CHÍNH THỨC VỚI VIỆT NAM TẠI PARI

1. Những cuộc tiếp xúc đầu tiên và những đòn tiến công của ta trên mặt trận ngoại giao

Bị thất bại nặng nề trên chiến trường miền Nam trong hai cuộc phản công chiến lược năm 1965-1966, năm 1966-1967 và cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân đánh phá miền Bắc, lại bị nhân dân thế giới và nhân dân Mỹ phản đối, đế quốc Mỹ một mặt, tiếp tục đưa thêm lực lượng và phương tiện chiến tranh vào miền Nam hòng giành thắng lợi về quân sự, mặt khác, tăng cường những thủ đoạn hoạt động ngoại giao xảo quyệt để lừa bịp dư luận đang lên án chúng.

Đầu năm 1965, cùng với việc bắt đầu đưa quân viễn chinh Mỹ vào miền Nam Việt Nam và mở rộng chiến tranh phá hoại ra miền Bắc, Tổng thống Mỹ Giônxơn cũng đồng thời mở chiến dịch ngoại giao rầm rộ. Ngày 7-4-1965, đọc diễn văn tại Bantimo, Giônxơn đưa ra lời kêu gọi thương lượng không điều kiện với Hà Nội nhưng khăng khăng từ chối nói chuyện với Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, người đại diện chân chính duy nhất của nhân dân miền Nam. Như vậy, có thể nói điều kiện hoà bình của Mỹ là miền Bắc phải thôi ủng hộ miền Nam.

Để lừa bịp dư luận Mỹ và thế giới đòi hỏi chấm dứt ném bom miền Bắc, Giônxơn dùng chiêu bài cho tạm ngừng ném bom từng đợt để tỏ thiện chí, có đợt vài ngày, có đợt vài chục ngày. Cùng với những đợt ngừng ném bom này, Mỹ thăm dò tìm những nhân vật trung gian, nhưng phải trung thành với Mỹ và được Việt Nam chấp nhận để tiếp xúc, thăm dò thái độ ta, đồng thời qua đó cũng hạn chế ta chi viện cho miền Nam. Ngày 6-5-1965, Đô đốc Rabom, Giám đốc CIA cho rằng Hà Nội không có ý định tham gia các cuộc nói chuyện với Mỹ trong những tháng sắp tới. Mỹ nên thử điều hành một chương trình ném bom mở rộng mà vẫn để ngỏ một cơ hội cho Hà Nội có thể tìm kiếm đàm phán mà hoàn toàn không mất mặt, đồng thời không khiến Liên Xô ép Hà Nội tiếp tục chiến tranh và không tạo một sức ép của thế giới đối với Mỹ. Trong bối cảnh đó, L. Giônxơn quyết định tạm ngừng ném bom miền Bắc nhân ngày lễ Phật đản cho tới tuần sau đó nhằm mục đích bắt đầu dọn đường hướng tới đàm phán hoà bình hoặc tăng cường hoạt động quân sự tuỳ theo thái độ của Hà Nội. Chiến dịch ngừng ném bom này được gọi là “Hoa tháng Năm” (May flower).

Ngày 11-5-1965, Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ Đin Raxcơ điện đến báo cho Đại sứ Mỹ Côlơ ở Mátxcơva, yêu cầu gặp Đại sứ Nguyễn Văn Kỉnh của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà để chuyển thông điệp của người cầm quyền cao nhất nước Mỹ cho nhà cầm quyền Bắc Việt Nam. Đại sứ quán Việt Nam đã từ chối không tiếp Côlơ và không nhận bức thông điệp ấy, vì hai nước chưa có quan hệ ngoại giao. Sau đó, Côlơ lại tìm cách nhờ Liên Xô, vì Liên Xô là một trong hai đồng chủ tịch Hội nghị Giơnevơ để chuyển cho Việt Nam. Thứ trưởng Ngoại giao Liên Xô Phiriubin cũng từ chối không chuyển bức thông điệp đó tới Hà Nội, bởi vì Chính phủ Việt Nam chưa bao giờ yêu cầu Liên Xô làm việc đó. Thấy không có kết quả, ngày 13-5-1965, Côlơ nhờ ông E.F Út, lãnh sự Anh ở Hà Nội, gửi cho Trưởng phòng Ngoại vụ của Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội một bức thư có kèm theo bức thông điệp của Hoa Kỳ. Nhưng hôm sau cả thư và bức thông điệp đó cũng đã được trả lại cho lãnh sự Anh. Thực chất nội dung bức thông điệp của Giônxơn vẫn là những lời lẽ đe doạ chiến tranh: hoặc Bắc Việt Nam chấp nhận kiểu hoà bình của Mỹ, hoặc Mỹ sẽ tăng cường chiến tranh ở cả hai miền. Trong buổi tiếp Đại sứ Canađa, thành viên của Uỷ ban quốc tế từ Sài Gòn ra Hà Nội, ngày 3-6-1965, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh nhận xét: Mỹ đang theo đuổi chính sách “cái gậy và củ cà rốt”.

Trong dịp ngừng ném bom 37 ngày nhân lễ Nôen năm 1965 (từ ngày 23-12-1965 đến hết tháng 1-1966), Oasinhtơn mở chiến dịch “Cuộc tiếp xúc PINTA trên đường Penxinvania” bao gồm cuộc tiếp xúc của Đại sứ Mỹ Henri A. Bairốt ở Rănggun (Thủ đô Mianma) với Tổng lãnh sự Việt Nam Dân chủ Cộng hoà Vũ Hữu Bình, cuộc tiếp xúc của Đại sứ Mỹ Côlơ với đại diện lâm thời Lê Trang ở Mátxcơva; của P.Xtơmơ, nguyên Tổng lãnh sự Mỹ tại Sài Gòn với Tổng đại diện Việt Nam Dân chủ Cộng hoà Mai Văn Bộ tại Pari, v.v... Cùng với lệnh ngừng ném bom Bắc Việt Nam, ngày 29-12-1965, Nhà Trắng đã đưa ra lập trường 14 điểm để giải quyết vấn đề chiến tranh Việt Nam nhằm phục vụ cho chiến dịch ngoại giao lớn nhất trong thời kỳ này. Lập trường 14 điểm của Tổng thống Mỹ là:

1- Mỹ chấp nhận Hiệp định Giơnevơ năm 1954 và năm 1962 như là những cơ sở “đủ tốt” cho việc đàm phán.

2- Mỹ sẽ hoan nghênh một cuộc hội nghị về Đông Nam Á hoặc bất cứ một khu vực nào của châu Á.

3- Mỹ sẵn sàng tiến hành những cuộc đàm phán không điều kiện.

4- Mỹ sẵn sàng, nếu Hà Nội muốn tiến hành các cuộc thảo luận chính thức và không điều kiện.

5- Một cuộc ngừng bắn có thể là điểm đầu tiên của hội nghị hoà bình, hoặc bước chuẩn bị cho một hội nghị như vậy.

6- Mỹ sẵn sàng thảo luận Chương trình bốn điểm của miền Bắc Việt Nam.

7- Mỹ không muốn có căn cứ quân sự ở Đông Nam Á.

8- Mỹ không muốn có sự có mặt về quân sự của Mỹ ở miền Nam Việt Nam.

9- Ủng hộ tuyển cử tự do.

10- Việc thống nhất hai nước Việt Nam có thể được quyết định bằng sự tự do quyết định của nhân dân hai nước.

11- Các nước Đông Nam Á có thể là không liên kết hoặc trung lập. Mỹ không muốn có đồng minh mới.

12- Mỹ sẵn sàng đóng góp một tỉ đôla cho chương trình phát triển khu vực mà Bắc Việt Nam có thể tham gia.

13- Việt cộng sẽ không có khó khăn gì trong việc trình bày quan điểm của họ tại một hội nghị sau khi chiến sự chấm dứt.

14- Việc ném bom sẽ được chấm dứt nếu những gì xảy ra sau đó sẽ được công bố.

Oasinhtơn thông báo quyết định này cho Tổng thư ký Liên hợp quốc U Than, cho các đồng minh ở Thái Bình Dương và một số chính phủ khác, trong đó có Liên Xô. Tổng thống Giônxơn viết thư giải thích lập trường của Mỹ cho nguyên thủ quốc gia hàng trăm nước; cử phái viên đi hơn 40 nước; thảo luận với 113 nước có quan hệ ngoại giao với Mỹ. Đây là một trong những cuộc vận động ngoại giao rộng lớn nhất của Mỹ trong nhiệm kỳ tổng thống của L. Giônxơn.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Tư, 2010, 09:17:11 pm

Đợt ngừng ném bom 37 ngày và cuộc vận động hoà bình khá ồn ào của Mỹ đã không có tác dụng. Bản tuyên bố về lập trường 14 điểm của Giônxơn bề ngoài dường như là sự tổng hợp các giải pháp hoà bình cho vấn đề Việt Nam trong lập trường bốn điểm của Hà Nội, đề nghị của 17 nước không liên kết ở Bêôgrát, đề nghị của Liên Xô về một hội nghị quốc tế về Campuchia, nhưng thực chất lập trường 14 điểm lộ rõ âm mưu xâm lược của Mỹ không thay đổi; Mỹ không thừa nhận Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, đòi thương lượng có điều kiện, v.v…

Ngày 31-1-1966, L. Giônxơn ra lệnh ném bom trở lại miền Bắc càng chứng tỏ Mỹ cố theo đuổi chính sách chiến tranh, chứ không hề có thiện chí hoà bình thật sự. Trong buổi gặp Đại sứ Bairốt của Mỹ ở Rănggun, tối 31-1-1966, Tổng lãnh sự Nguyễn Hữu Bình đã phê phán những mâu thuẫn trong cái gọi là “sáng kiến hoà bình” của Mỹ. Đồng chí khẳng định một giải pháp chính trị cho vấn đề Việt Nam chỉ có thể tính đến khi Chính phủ Hoa Kỳ chấp nhận lập trường bốn điểm của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, chứng minh điều đó bằng hành động thực tế, chấm dứt không điều kiện và vĩnh viễn việc ném bom nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.

Chiến dịch “Bông cúc vạn thọ” (Mêricôn), tiến hành từ mùa hè năm 1966, kéo dài sáu tháng, nhờ môi giới trung gian là Đại sứ Lêvanđôxki, Trưởng đoàn Ba Lan trong Uỷ ban quốc tế về Việt Nam và Đại sứ Italia Đoóclanđi ở Sài Gòn để bố trí cuộc gặp gỡ giữa Đại sứ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Đại sứ Mỹ tại Vácsava (Ba Lan), nhưng phía Mỹ không đến.

Vai trò làm trung gian của một số nước được Mỹ sử dụng đều không đem lại kết quả. Cuối cùng, không còn cách nào tốt hơn là việc Mỹ phái sứ giả bí mật đến Hà Nội. Mục đích của chuyến đi để thăm dò nhằm tiến tới sự gặp gỡ giữa những đại diện có thẩm quyền của hai chính phủ, trước hoặc sau việc ngừng ném bom, bắn phá. Nhưng ai sẽ là sứ giả và người đó phải trung thành với Mỹ và lại được Hà Nội chấp nhận. Phải mất khá nhiều thời gian và công sức Mỹ mới tìm ra được người để “chọn mặt gửi vàng”. Đầu tiên, Mỹ nhờ đến sự giúp đỡ của Viện Pắpoát (Pugwash) là một tổ chức chống chiến tranh hạt nhân, gồm những nhà khoa học nhiều nước như Mỹ, Liên Xô, Anh, Pháp... và do một nhà công nghiệp Mỹ tài trợ. Viện Pắpoát đã cử ra một nhóm nhà khoa học có tín nhiệm của Mỹ và Pháp, cùng với Henry Kítxinhgiơ, giáo sư Trường đại học Havớt đã “nhân danh Tổng thống Mỹ” vừa tham gia, vừa chủ trì cuộc họp. Suốt ba ngày 16, 17 và 18-6-1967, nhóm này đã họp tại Pari, Thủ đô nước Pháp. Họ đã nhất trí cử ông Máccôvích, nhà sinh học phân tử làm việc tại Viện Pátxtơ (Pari) là người mà Mỹ tin cậy, nhưng chưa phải là người quen biết của Hà Nội nên cũng khó hoàn thành được nhiệm vụ. Vì vậy, phải tìm thêm một nhân vật có khả năng tiếp xúc một cách dễ dàng với các nhà lãnh đạo Bắc Việt Nam. Quá trình tìm kiếm, người ta đã mời được Giáo sư Raymông Ôbrắc cũng là người Pháp. Ông đã quen Chủ tịch Hồ Chí Minh thời Hội nghị Phôngtennơblô năm 1946. Khi đó, có thời gian Chủ tịch Hồ Chí Minh đến ở nhờ nhà ông ở ngoại ô Pari và đã nhận là cha đỡ đầu cháu Êlidabét, con thứ ba của ông bà Ôbrắc.

Để giữ bí mật, hai ông Máccôvích và Ôbrắc xin sang Việt Nam với nhiệm vụ công khai là phái viên của Viện Paxtơ Pari, đến Việt Nam làm việc với Viện vệ sinh dịch tễ Hà Nội, đồng thời nghiên cứu tổ chức ở Phnôm Pênh (Campuchia), một hội nghị địa phương bàn những vấn đề hợp tác quốc tế trong lĩnh vực y tế và phòng bệnh.

Ngày 21-7-1967, hai ông tới Hà Nội với danh nghĩa một phái đoàn khoa học làm việc với Bộ Y tế. Ngày 24-7, ông Ôbrắc được Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp đón ân cần. Cùng ngày 24 và ngày 25-7, hai ông làm việc với Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Trong quá trình làm việc, Thủ tướng đã nêu vắn tắt quá trình vấn đề Việt Nam từ năm 1954 cho đến hiện nay, giới thiệu lập trường của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà về vấn đề thương lượng. Thủ tướng đã chỉ ra con đường: “Muốn thương lượng về nội dung của vấn đề, nghĩa là toàn bộ vấn đề Việt Nam và trước hết là vấn đề miền Nam, thì Mặt trận Dân tộc giải phóng phải có mặt. Tuy nhiên, chúng tôi chấp nhận giai đoạn đầu không bao gồm Mặt trận”1 và “Nếu các ông cần một sự tiếp xúc, hãy gặp đại diện chúng tôi tại Pari”2.

Rời Hà Nội trở về Pari, trong suốt hai tháng từ ngày 17-8 đến ngày 17-10-1967, hai ông Máccôvích và Ôbrắc đã phải làm việc trong tâm trạng vừa hào hứng, vừa căng thẳng. Đó là ba lần chuyển thông điệp của Chính phủ Mỹ (vào các ngày 25-8, 13-9 và 6-10-1967) cho Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà qua đồng chí Mai Văn Bộ, Tổng đại diện Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ở Pari.

Nội dung các thông điệp của Chính phủ Mỹ đã khiến hai ông rất thất vọng. Ông Ôbrắc nói với đồng chí Mai Văn Bộ: “Không biết từ nay chúng tôi có nên tiếp tục chuyển thông điệp của Mỹ không, khi mà chính bản thân chúng tôi cũng thấy được là “vẫn có điều kiện”. Có lẽ chúng tôi sẽ cắt đứt với Mỹ, nếu không Hà Nội sẽ nghĩ gì về chúng tôi”3.
________________________________________
1÷3. Lưu Văn Lợi - Nguyễn Anh Vũ: Tiếp xúc bí mật Việt Nam - Hoa Kỳ trước Hội nghị Pari, Viện Quan hệ quốc tế ấn hành, Hà Nội, 1990, tr. 241.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Tư, 2010, 09:17:57 pm

Với những cuộc vận động có quy mô lớn, cùng những chiến dịch ngoại giao trong năm 1966, 1967 thông qua các nhà chính trị, các nhân sĩ trong phong trào hoà bình, các nhân vật tôn giáo có uy tín... để làm trung gian vẫn không có được kết quả nào (trong cuốn Cuộc đời làm tổng thông của tôi Giônxơn đã liệt kê có tới 17 cuộc tiếp xúc với Bắc Việt Nam về hoà bình). Bởi vì, tất cả những chiến dịch ngoại giao của Mỹ đều lộ rõ bản chất xâm lược của chúng là không thắng ta trên mặt trận quân sự thì tìm cách thắng ta trên mặt trận ngoại giao, vừa đưa “củ cà rốt” ra để nhử ta, lại vừa “giơ cao cây gậy” để doạ nạt. Điều đó càng chứng tỏ Mỹ cố bám giữ lập trường xâm lược của kẻ mạnh - ngoại giao trên thế mạnh. Do đó, những cuộc ngừng ném bom, những cuộc vận động ngoại giao, không phải là cơ hội hoà bình bị bỏ lỡ như đế quốc Mỹ thường rêu rao.

Thấu hiểu bản chất, âm mưu của kẻ địch, với những kinh nghiệm dày dạn trong đấu tranh ngoại giao, Đảng và Chính phủ ta nhận thức rõ cái gọi là “sáng kiến hoà bình”, “thương lượng không điều kiện” của Mỹ, chỉ nhằm che giấu các hành động chiến tranh và sự thất bại của chúng trên chiến trường. Tuy nhiên, phải đương đầu với đế quốc Mỹ - một nước có tiềm lực quân sự và kinh tế mạnh hơn ta gấp nhiều lần, ta phải có đường lối, sách lược ngoại giao khôn khéo, độc lập tự chủ, khơi nguồn triệt để sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, để chiến thắng kẻ địch cả về quân sự, chính trị và ngoại giao.

Ngày 22-3-1965, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam đã ra một bản tuyên bố quan trọng. Sau khi vạch trần luận điệu bịp bợm “thương lượng không điều kiện tiên quyết” của Mỹ, Mặt trận đưa ra lập trường năm điểm của nhân dân miền Nam:

1- Đế quốc Mỹ là kẻ phá hoại Hiệp nghị Giơnevơ, là kẻ gây chiến và xâm lược cực kỳ thô bạo, là kẻ thù không đội trời chung của nhân dân Việt Nam.

2- Nhân dân miền Nam Việt Nam anh hùng cương quyết đánh đuổi đế quốc Mỹ để giải phóng miền Nam, thực hiện một miền Nam Việt Nam độc lập, dân chủ, hoà bình và trung lập tiến tới thống nhất đất nước.

3- Nhân dân miền Nam Việt Nam và Quân giải phóng miền Nam anh hùng quyết hoàn thành đầy đủ nhất nghĩa vụ thiêng liêng của mình là đánh đuổi đế quốc Mỹ để giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc.

4- Nhân dân miền Nam Việt Nam tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với sự ủng hộ nhiệt tình của nhân dân yêu chuộng hoà bình và công lý trên toàn thế giới và tuyên bố sẵn sàng tiếp nhận mọi sự giúp đỡ kể cả vũ khí và mọi dụng cụ chiến tranh khác của bè bạn khắp năm châu.

5- Toàn dân đoàn kết, toàn dân vũ trang, tiếp tục anh dũng xông lên, quyết chiến quyết thắng giặc Mỹ và bọn Việt gian bán nước.

Bản tuyên bố của Mặt trận gây tiếng vang lớn, đã được 27 đảng cộng sản và công nhân, 22 chính phủ, 22 tổ chức quốc tế và 446 tổ chức và đoàn thể quốc gia của 92 nước ủng hộ.

Ngày 8-4-1965, Thủ tướng Phạm Văn Đồng công bố lập trường bốn điểm của Chính phủ ta:

1- Xác nhận các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam, Mỹ phải rút quân đội, nhân viên quân sự, các loại vũ khí Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam, triệt thoái các căn cứ quân sự ở miền Nam Việt Nam, chấm dứt can thiệp ở miền Nam, các hành động quân sự chống miền Bắc Việt Nam.

2- Hai miền đều không có liên minh quân sự với nước ngoài, không có căn cứ quân sự, nhân viên quân sự nước ngoài trên đất nước mình.

3- Công việc miền Nam do nhân dân miền Nam tự giải quyết theo cương lĩnh của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam việt Nam, không có sự can thiệp của nước ngoài.

4- Việc hoà bình thống nhất đất nước Việt Nam do nhân dân Việt Nam ở hai miền tự giải quyết không có sự can thiệp của nước ngoài.

Ngày 10-4-1965, từ diễn đàn của Quốc hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định lại lập trường của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Người kêu gọi toàn dân: “Kiên quyết bảo vệ nền độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam. Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, không ai được xâm phạm đến quyền thiêng liêng ấy của nhân dân ta”1.

Các tuyên bố trên là những câu trả lời kiên quyết và đầy chính nghĩa của Đảng và Chính phủ ta, vạch trần luận điệu xảo quyệt của đế quốc Mỹ, đồng thời khẳng định ý chí sắt đá chống Mỹ, cứu nước không chịu khuất phục trước sức mạnh của kẻ thù xâm lược, không chấp nhận một cuộc thương lượng theo điều kiện của Mỹ.
________________________________________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 11, tr.433.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Tư, 2010, 09:19:06 pm

Tháng 12-1965, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 12, sau khi chỉ ra phương hướng chiến lược cho quân và dân ta trong giai đoạn chống chiến tranh cục bộ đã nhấn mạnh phải áp dụng sách lược đấu tranh chính trị và ngoại giao khôn khéo để phối hợp với đấu tranh quân sự.

Tháng 10-1966, Bộ Chính trị họp ra chủ trương: tích cực và chủ động tạo điều kiện vận dụng sách lược vừa đánh vừa đàm, vừa đàm vừa đánh, nhằm mục đích tranh thủ dư luận thế giới, cô lập đế quốc Mỹ...

Thực hiện chủ trương của Đảng, các hoạt động đối ngoại và đấu tranh ngoại giao đã được đẩy mạnh. Ta đã cử đại diện của ta ở một số nước tiếp xúc với đại diện của Mỹ do phía Mỹ yêu cầu. Những cuộc nói chuyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Thủ tướng Phạm Văn Đồng với các nhà ngoại giao, các nhân sĩ quốc tế các nhà báo Mỹ và nước khác càng giúp cho họ hiểu rõ hơn lập trường của Việt Nam là trước sau như một, nhất quán và sáng ngời chính nghĩa, có lý, có tình.

Tháng 1-1966 trên báo Nhân Dân đăng một bài lên án Mỹ là chủ yếu, nhưng cuối cùng có nêu một ý quan trọng là nếu Mỹ chấm dứt ném bom ở miền Bắc thì có thể tính đến “nói chuyện”. Bộ Ngoại giao Mỹ nhận thấy đây là một tín hiệu mới. Nhưng đây lại là chỗ yếu nhất của Mỹ, vì ném bom miền Bắc gây nên những tội ác to lớn với dân thường, chà đạp trắng trợn chủ quyền, an ninh của một nước độc lập. Dư luận thế giới hết sức căm phẫn trước những tội ác của quân Mỹ gây ra trên đất nước ta, đồng tình ủng hộ lập trường đúng đắn của ta.

Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 13 từ ngày 23 đến ngày 26-1-1967, bàn việc đẩy mạnh đấu tranh ngoại giao, chủ động tiến công địch, phục vụ sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước. Hội nghị chủ trương: “... trên cơ sở tiếp tục phát huy thắng lợi đã giành được, chúng ta phải ra sức đẩy mạnh đấu tranh quân sự và chính trị ở miền Nam, ta cần tiến công địch về mặt ngoại giao, phối hợp với hai mặt đấu tranh đó để giành thắng lợi to lớn hơn nữa”1. Để đạt chủ trương đó, Hội nghị chỉ rõ: “... cần vận dụng sách lược ngoại giao một cách linh hoạt, khôn khéo. Trước mắt, cần tập trung vào khẩu hiệu đòi Mỹ phải chấm dứt không điều kiện và vĩnh viễn ném bom và mọi hành động khác chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà”2. Ban Chấp hành Trung ương chỉ rõ, hiện nay đấu tranh quân sự và chính trị ở miền Nam là nhân tố chủ yếu quyết định thắng lợi trên chiến trường, làm cơ sở cho thắng lợi trên mặt trận ngoại giao. Tuy nhiên, do tính chất cuộc chiến tranh giữa ta và Mỹ hiện nay, “đấu tranh ngoại giao giữ một vai trò quan trọng, tích cực và chủ động”. Nghị quyết Trung ương lần thứ 13 ra đời rất kịp thời, làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động ngoại giao của Đảng và Nhà nước ta.

Mở đầu cho mặt trận ngoại giao mới, ngày 28-1-1967, trả lời phỏng vấn nhà báo Ôxtrâylia về chủ trương của Việt Nam để giải quyết vấn đề Việt Nam, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh khẳng định lập trường trước sau như một của nhân dân Việt Nam. Về điều kiện để Mỹ và Việt Nam đi vào đàm phán, Bộ trưởng cho rằng phía Mỹ phải chấm dứt không điều kiện việc ném bom và mọi hoạt động chiến tranh khác chống Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Chỉ sau khi Mỹ thực hiện điều này thì Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Mỹ mới có thể nói chuyện với nhau.

Đề nghị của đồng chí Nguyễn Duy Trinh lần này không chỉ nói lên thiện chí của ta mà còn vạch ra một khả năng hiện thực tìm ra một lối thoát cho cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Từng bước đẩy đối phương đi vào thế trận mới, thế trận “đánh - đàm”, mà ở đó ta có thể phát huy hết được sức mạnh chính nghĩa, sức mạnh dân tộc và thời đại. Đề nghị đó được dư luận thế giới đồng tình, ủng hộ mạnh mẽ. Nhiều chính phủ, tổ chức, nhân vật quốc tế yêu cầu chính quyền Giônxơn hưởng ứng đề nghị của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Tổng thư ký Liên hiệp quốc U Than tuyên bố mong muốn một giải pháp hoà bình cho vấn đề Việt Nam3. Tổng thống Pháp Đờ Gôn lên tiếng nghiêm khắc phê phán Mỹ. Ngày 8-2-1967, Bộ trưởng Ngoại giao Ấn Độ Chagala tuyên bố. Chính phủ Ấn Độ ghi nhận với sự hài lòng tuyên bố của ông Trinh về khả năng nói chuyện một khi ném bom chấm dứt. Tại Mỹ, nhiều nghị sĩ, nhiều chiến sĩ hoà bình, sinh viên các trường đại học, bằng nhiều hình thức, đòi chính quyền Mỹ nói chuyện với Bắc Việt Nam.
________________________________________
1, 2. Những sự kiện lịch sử Đảng, Sđd, tr. 389, 390.
3. Đề nghị của U Than gồm ba điểm: 1. Ngừng ném bom miền Bắc Việt Nam. 2. Giảm đáng kể các hoạt động quân sự của tất cả các bên ở miền Nam Việt Nam. 3. Phải có sự tham gia của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam trong bất cứ một giải pháp hoà bình nào.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Tư, 2010, 09:20:55 pm

Sức ép của dư luận trong và ngoài nước đòi Giônxơn chấm dứt ném bom Bắc Việt Nam, rút quân đội Mỹ ở miền Nam về nước, thương lượng với Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ngày càng tăng. Ngày 29-9-1967, tại Hội nghị lập pháp toàn quốc ở Xan Antôniô (bang Tếchdát), Giônxơn phải tuyên bố rằng: chúng ta và đồng minh Nam Việt Nam “đã chuẩn bị sẵn sàng để thảo luận ngay tối nay” với Bắc Việt Nam, “sẵn sàng nói chuyện với cụ Hồ Chí Minh”, “sẵn sàng cử đại diện có thẩm quyền của nước Mỹ đi bất cứ nơi nào trên trái đất để nói chuyện công khai hay bí mật với người phát ngôn của Hà Nội”1. Tiếp đó, Giônxơn đã nêu những điều kiện cho việc ngừng ném bom: “Hoa Kỳ sẵn sàng ngừng mọi hành động bắn phá bằng không quân và hải quân chống Bắc Việt Nam khi việc ngừng này nhanh chóng dẫn tới những cuộc thảo luận có hiệu quả. Chúng ta, đương nhiên, giả định rằng trong khi các cuộc thảo luận được tiến hành, Bắc Việt Nam không được lợi dụng việc chấm dứt hay hạn chế ném bom”2.

Các nhà quan sát gọi đây là công thức Xan Antôniô - không có gì mới. Vì trước sau đây vẫn là những cuộc thương lượng có điều kiện, tức là đòi hỏi có đi có lại.

Sở dĩ Giônxơn nêu ra công thức trên - một công thức bề ngoài có vẻ mềm dẻo, nhưng thực chất chứa đựng một lập trường thương lượng cứng rắn và có điều kiện, vì các báo cáo về tình hình quân sự và dân sự của các quan chức Mỹ ở Sài Gòn đều tô vẽ tình hình miền Nam lúc đó là thuận lợi và lạc quan. Giônxơn đã thành lập nhóm thông tin về Việt Nam nằm trong văn phòng của Tổng thống. Nhóm này có nhiệm vụ thông báo đều đặn tình hình tiến bộ của Mỹ ở Việt Nam nhằm tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân Mỹ. Bộ máy ngoại giao Mỹ được huy động để giải thích và tuyên truyền cho công thức Xan Antôniô. Nhân ngày cựu chiến binh Mỹ, giữa tháng 11-1967, Giônxơn đi một loạt các bang trong nước nhằm thuyết phục các tầng lớp xã hội Mỹ tin rằng, Mỹ đang đạt được các tiến bộ vững chắc ở Việt Nam. Các quan chức dân sự và quân sự của Mỹ tại Sài Gòn còn được triệu về Oasinhtơn nhằm bênh vực cho đường lối chiến tranh của Giônxơn. Tại Sài Gòn, Bộ chỉ huy quân sự Mỹ được lệnh tổ chức đều đặn các buổi thuyết trình về thắng lợi của quân Mỹ và quân đồng minh. Tại Mỹ, Giônxơn vẫn còn được sự ủng hộ của nhóm “người thông thái”3. Do đó, Giônxơn vẫn tin tưởng, hy vọng rằng chính sách về Việt Nam của ông ta là đúng và kế hoạch quân sự của Oétmolen sẽ sớm đưa lại kết quả. Vì vậy số quân đã được cho phép trước đây tiếp tục được gửi sang Việt Nam, tất cả các căn cứ không quân mới trên đất Việt Nam và Thái Lan tiếp tục hoạt động. Oétmolen bảo đảm với Giônxơn rằng cuộc chiến tranh ở miền Nam đang thắng một cách vững chắc.

Với niềm tin đó, trong Thông điệp ngày 17-1-1968 về tình hình Liên bang của Tổng thống Mỹ, khi đề cập tới chiến tranh Việt Nam, Giônxơn vẫn khẳng định “các cuộc thương lượng (với Bắc Việt Nam) phải trên cơ sở công thức Xan Antôniô” - một công thức tưởng như có thể xoa dịu được dư luận ở Mỹ và trên thế giới, “để cho Mỹ vượt qua được năm khó khăn trước tổng tuyển cử, còn lập trường của Mỹ vẫn là lập trường chiến tranh”4.

Trước cái gọi là “thương lượng không điều kiện” và các hành động chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam, Đảng và Chính phủ ta đã áp dụng đường lối và sách lược đấu tranh ngoại giao khôn khéo để tranh thủ rộng rãi dư luận thế giới và cô lập hơn nữa đế quốc Mỹ.

Tháng 12-1967, Chính phủ ta tuyên bố phóng thích ba tù binh Mỹ để họ trở về đoàn tụ với gia đình nhân lễ Nôen 1967. Cử chỉ nhân đạo này của ta đã làm cho một số nhân vật cao cấp trong chính quyền Mỹ vội chủ quan nhận định: “Các nhà lãnh đạo Hà Nội đã từ bỏ hy vọng chiếm được miền Nam trong một tương lai gần”5. Theo họ có nghĩa là, khả năng đàm phán trực tiếp với đại diện miền Bắc Việt Nam đang hé mở và “Mỹ đang ở trong một giai đoạn Bàn Môn Điếm nào đó”6.

Trong bữa tiệc chiêu đãi Bộ trưởng Ngoại giao Mông Cổ (29-12-1967), đồng chí Nguyễn Duy Trinh tuyên bố. “Sau khi Mỹ chấm dứt không điều kiện việc ném bom và mọi hành động chiến tranh khác chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẽ nói chuyện với Mỹ về những vấn đề liên quan”. Tuyên bố này đã làm cho các hãng thông tấn nước ngoài, các đại sứ quán ở Hà Nội khẩn trương tìm hiểu thêm tin tức mới và nhanh chóng thông báo về nước. Dư luận thế giới và ở Mỹ càng tăng thêm sức ép đòi Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc Việt Nam.
________________________________________
1, 2. Lưu Văn Lợi - Nguyễn Anh Vũ: Tiếp xúc bí mật Việt Nam - Hoa Kỳ trước Hội nghị Pari, Sđd, tr. 243.
3. Nhóm “người thông thái” là chỉ một nhóm những chính khách đàn anh mà Tổng thống Hoa Kỳ thỉnh thoảng hỏi ý kiến về chính sách đối ngoại. Các thành viên của nhóm này đã từng giữ các chức vụ cao trong Chính phủ hoặc làm cố vấn cho các tổng thống.
4. Lưu Văn Lợi - Nguyễn Anh Vũ: Tiếp xúc bí mật Việt Nam - Hoa Kỳ trước Hội nghị Pari, Sđd, tr. 247.
5, 6. Nâylơ Shihan: Sự lừa dôi hào nhoáng - Giôn Pônvan và nước Mỹ ở Việt Nam, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1990, t. 2, tr.390.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Tư, 2010, 09:22:08 pm

Cùng với bước đi trên mật trận đấu tranh ngoại giao, trên mặt trận quân sự, quân và dân miền Nam đã mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân (31-1-1968 ), đánh thẳng vào các cơ quan đầu não Mỹ - ngụy ở hầu khắp các thành phố, thị xã, thị trấn và những vùng nông thôn còn bị địch kiểm soát, giành thắng lợi to lớn. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 đã làm lung lay ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ.

Tình hình trên làm cho Tổng thống Mỹ Giônxơn vô cùng bối rối. Hàng loạt vấn đề đặt ra đòi hỏi người đứng đầu Nhà Trắng phải giải quyết kịp thời: phải bổ sung thêm bao nhiêu quân nữa để đối phó lâu dài với ta; ngân sách cần thêm bao nhiêu nữa và lấy ở đâu ra; cần yêu cầu Quốc hội thông qua những vấn đề gì; cần làm gì để củng cố tinh thần chính quyền Nguyễn Văn Thiệu... Để có những ý kiến rộng rãi và khách quan, Giônxơn triệu tập cuộc họp với các cố vấn phi chính phủ (thường gọi là các nhà quân sự), từ cựu Bộ trưởng Ngoại giao Đin Akixơn đến Áctơ Đin (người đã tham gia cuộc thương lượng để giải quyết cuộc chiến tranh Triều Tiên), các danh tướng như Oma Brátlây, Mathiu Rítuây... Giônxơn cũng tham khảo ý kiến của những nhân vật có thế lực của Quốc hội Mỹ. Sau này, trong hồi ký, Giônxơn phải thừa nhận Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân là “một sự choáng váng đối với tất cả người Mỹ”1, “cố gắng của đối phương đã gây ra một hậu quả tác động xấu đến một số người trong và ngoài Chính phủ”, “nhân dân Mỹ và một số nhân vật trong chính quyền bắt đầu nghĩ rằng chúng ta đã thất bại”2.

Chính trong tình hình đó, ngày 31-3-1968, Tổng thống Giônxơn phải tuyên bố:

1- Đơn phương ngừng đánh phá miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra.

2- Bỏ chiến lược tìm diệt thay bằng chiến lược quét và giữ.

3- Không ra tranh cử Tổng thống Mỹ nhiệm kỳ hai.

4- Chấp nhận đàm phán với ta.

Với tuyên bố này, mặc nhiên Chính phủ Hoa Kỳ thừa nhận thất bại sau gần bốn năm tiến hành chiến lược chiến tranh cục bộ chống lại nhân dân Việt Nam.

Tuyên bố của L. Giônxơn đánh dấu những thay đổi lớn trong chiến lược của Mỹ, từ tăng cường chiến tranh đến phải bắt đầu xuống thang chiến tranh, từ khước từ thương lượng sang chấp nhận thương lượng để thăm dò.

Trước tuyên bố của Tổng thống Mỹ, nếu ta từ chối lời yêu cầu cử đại diện tiếp xúc trực tiếp với đại diện Chính phủ Mỹ thì không tranh thủ được sự ủng hộ của dư luận. Bộ Chính trị Trung ương Đảng cho rằng có thể tiếp xúc nhưng trước hết cần đòi hỏi chấm dứt hoàn toàn việc ném bom miền Bắc rồi mới bàn các vấn đề có liên quan. Ngày 3-4-1968, Chính phủ ta ra tuyên bố nêu rõ: “rõ ràng Chính phủ Mỹ chưa đáp ứng nghiêm chỉnh và đầy đủ đòi hỏi chính đáng của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, của dư luận tiến bộ Mỹ và dư luận thế giới. Tuy nhiên, về phần mình, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tuyên bố sẵn sàng cử đại diện của mình tiếp xúc với đại diện Mỹ nhằm xác định với phía Mỹ việc Mỹ chấm dứt không điều kiện việc ném bom và mọi hành động chiến tranh khác chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà để có thể bắt đầu cuộc nói chuyện”3.

Trong khi nhiều nghị sĩ có tên tuổi ở Mỹ về chống chiến tranh còn nghi ngờ những đề nghị của Giônxơn thì sự hưởng ứng nhanh chóng và rõ ràng của Chính phủ ta là một đòn ngoại giao bất ngờ. Tác giả Pitơ Apulơ đã nhận xét: “Tốc độ đáp ứng của Hà Nội rõ ràng đã làm cho chính quyền Giônxơn bị bất ngờ - điều này được thể hiện qua việc giải quyết một cách lúng túng chung quanh vấn đề chủ yếu thuộc về thủ tục là triệu tập hội nghị ở đâu”4.

Cuộc đấu tranh buộc Mỹ phải ngồi vào bàn đàm phán với ta là một thắng lợi to lớn của nhân dân ta; đánh dấu một bước phát triển mới trong việc kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh quân sự, chính trị với ngoại giao của ta.
________________________________________
1, 2. Giôn-xơn: Cuộc đời làm tổng thông của tôi, Sđd, tr.64, 504.
3. Việt Nam - Những sự kiện (1954 -1975), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1976, t.II, tr.82.
4. Pitơ Apulơ: Nước Mỹ và Đông Dương từ Rudơven đến Níchxơn, Nxb. Thông tin lý luận, Hà Nội, 1985, tr.255.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Tư, 2010, 09:24:06 pm

2. Cuộc dàm phán chính thức giữa Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Chính phủ Mỹ (từ 10-5 đến 31-10-1968)

Để chuẩn bị cho cuộc đàm phán chính thức được thoả thuận giữa Việt Nam và Mỹ, hai bên đã tiến hành trao đổi những vấn đề như cấp bậc đại biểu, địa điểm, thời gian tiến hành.

Tối ngày 3-4-1968, sứ quán Mỹ ở Lào báo cho sứ quán Việt Nam là Mỹ đề nghị tiếp xúc ở Giơnevơ. Phía ta đề nghị ở Phnôm Pênh với dụng ý là gần chiến trường miền Nam Việt Nam, có tác dụng cổ vũ và củng cố tình đoàn kết chiến đấu của nhân dân ba nước Đông Dương. Oasinhtơn không chấp nhận và đề nghị bốn địa điểm khác: Niu Đêli, Giacácta, Viêng Chăn, Rănggun. Ta đề nghị Vácxava. Lúc đầu, họ chấp nhận nhưng sau lại không đồng ý vì tin bị lộ ra ngoài. Họ lại đưa ra một danh sách 10 địa điểm: Côlômbô, Kátmandu, Cuala Lămpua, Raoapindi, Cabun, Tôkiô, Brúcxen, Henxinhki, Viên, Rôma. Chỉ riêng việc trao đổi ý kiến về địa điểm họp, được dư luận thế giới hết sức quan tâm theo dõi đã phải mất hàng tháng.

Cuối cùng, ta đề nghị lấy Pari làm địa điểm họp chính thức, phía Mỹ đồng ý. Phiên họp đầu tiên được hai bên ấn định vào ngày 10-5-1968, phía ta cử Bộ trưởng Xuân Thuỷ làm Trưởng đoàn, đồng chí Hà Văn Lâu làm Phó trưởng đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà1. Hoa Kỳ cử Hariman và C.Vanxơ làm Trưởng đoàn và Phó trưởng đoàn đại biểu Chính phủ Mỹ2.

Ngày 9-5-1968, đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đến Pari. Đồng chí Lê Đức Thọ, Uỷ viên Bộ Chính trị được bổ sung làm Cố vấn đặc biệt của Bộ trưởng Xuân Thuỷ đến Pari vào trung tuần tháng 6-1968.

Trong hai ngày 10 và 11-5-1968, chuyên viên của hai đoàn đã gặp nhau trao đổi và thoả thuận thủ tục cuộc nói chuyện chính thức vào ngày 13-5-1968.

Ngày 13-5, cuộc nói chuyện chính thức giữa đại diện Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và đại diện Chính phủ Mỹ đã diễn ra tại Hội trường các hội nghị quốc tế ở đại lộ Klebê (Kléber), Thủ đô Pari của Pháp. Bộ trưởng Xuân Thuỷ phát biểu trước, nhấn mạnh mục đích của cuộc nói chuyện này “là để xác định với phía Mỹ việc Mỹ chấm dứt không điều kiện việc ném bom và mọi hành động chiến tranh khác chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và sau đó nói chuyện về những vấn đề khác liên quan đến hai bên”3.

Cuộc nói chuyện chính thức giữa hai bên từ 13-5 đến 31-10-1968 đã trải qua nhiều bước. Sự tiến triển của mỗi bước phụ thuộc vào tình hình chính trị của mỗi nước và diễn biến thực tế trên chiến trường. Đầu tiên là cuộc tranh luận về nguồn gốc cuộc chiến tranh. Phía ta nêu Mỹ là kẻ vi phạm Hiệp định Giơnevơ năm 1954 về Việt Nam, phá hoại thống nhất nước Việt Nam; đòi Mỹ phải rút quân Mỹ và quân các nước phụ thuộc Mỹ về nước; đòi Mỹ phải từ bỏ ngụy quyền Sài Gòn, tay sai của Mỹ. Phía Mỹ cố tìm cách biện hộ cho chính sách xâm lược của Mỹ, vu cáo miền Bắc xâm lược miền Nam, đòi có đi có lại... Cuộc đấu lý đó kéo dài hết tuần này qua tuần khác, được nhắc đi nhắc lại gần như xuyên suốt cả quá trình đàm phán.

Ngày 3-6-1968, đồng chí Nguyễn Duy Trình - Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, chỉ thị cho đoàn ở Pari: “Tiếp tục làm tốt việc đấu tranh công khai và chuẩn bị lúc nào thuận lợi thì vừa nói chuyện công khai vừa nói chuyện hậu trường”4.

Từ ngày 26-6 đến ngày 19-8-1968, Phó trưởng đoàn hai bên có những cuộc tiếp xúc riêng để thăm dò ý đồ của nhau. Lần này vì bị phê phán nhiều, phía Mỹ ít dùng khái niệm “có đi có lại” mà thay bằng công thức “tạo ra hoàn cảnh” để Mỹ chấm dứt ném bom Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Sau đó C. Vanxơ nêu kế hoạch hai giai đoạn:

Giai đoạn một: Mỹ chấm dứt ném bom, bắn phá miền Bắc, nhưng trước đó hai bên thảo luận những gì sẽ xảy ra sau khi chấm dứt ném bom, bắn phá.

Giai đoạn hai: Khôi phục lại khu phi quân sự theo quy chế đề ra năm 1954 (tức là muốn Bắc Việt Nam không đưa quân qua hay đóng ở khu đó, không bắn pháo vào phía nam từ khu đó), Mỹ và Việt Nam Dân chủ Cộng hoà không tăng thêm quân vào miền Nam quá mức như hiện nay; bắt đầu nêu các vấn đề về thực chất: có đại diện của Việt Nam Cộng hoà và của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, Mỹ sẵn sàng xét các vấn đề tương tự do phía Việt Nam nêu lên. Bắc Việt Nam và “Việt cộng” không bắn pháo hay tên lửa vào các thành phố lớn ở miền Nam như Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng.

Phía ta phản đối những đòi hỏi của Mỹ, coi đó vẫn là những điều kiện cho việc chấm dứt ném bom và đòi phải chấm dứt không điều kiện việc ném bom, phải để Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tham gia cuộc nói chuyện. Nhân dịp kỷ niệm 14 năm ký Hiệp định Giơnevơ (20-7-1954), Bộ Ngoại giao ta công bố bị vong lục tố cáo chính sách can thiệp và xâm lược của Mỹ. Dư luận thế giới và Mỹ tiếp tục đòi Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc, rút quân khỏi miền Nam.

Qua những lần tiếp xúc, cả công khai và hậu trường với phía Mỹ, ta thấy rõ ý đồ của Mỹ đối với miền Nam vẫn chưa thay đổi, song tình thế và thời gian thôi thúc, Mỹ phải tính tới việc giải quyết “cả gói” vấn đề Việt Nam trước ngày bầu cử Tổng thống Mỹ (ngày 5-11-1968 ). Do đó, lúc đầu phía Mỹ nêu phải giải quyết cả vấn đề miền Nam, miền Bắc, cả Việt Nam và Lào; sau chỉ còn vấn đề chấm dứt ném bom miền Bắc, nhưng vẫn đòi có đi có lại, có điều kiện.
________________________________________
1. Các thành viên đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hoà gồm:
    - Trần Công Tường, Trưởng ban pháp chế.
    - Phan Hiền, Vụ trưởng Vụ báo chí Bộ Ngoại giao.
    - Nguyễn Minh Vỹ, Tổng cục trưởng Tổng cục Thông tin.
    - Nguyễn Thành Lê, Phó tổng biên tập báo Nhân Dân, là người phát ngôn của đoàn.
2. Trưởng, Phó đoàn Mỹ:
    - Hariman: đã từng làm đại sứ ở Liên Xô, lãnh đạo đoàn đại biểu Mỹ tại Hội nghị Giơnevơ 1961 -1962 về Lào, chuyên gia các vấn đề Viễn Đông.
    - C Vanxơ, lần lượt là cố vấn chung của Lầu Năm Góc (1961 -1962), bộ trưởng Lục quân thời Kennơđi, Thứ trưởng Quốc phòng thời Giônxơn.
    Cùng hai chuyên gia kỳ cựu về ngoại giao là: Habíp và W.Joócđơn.
3. Cuộc kháng chiền chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Những sự kiện quân sự, Sđd, tr. 191.
4. Lưu Văn Lợi: Năm mươi năm ngoại giao Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 1996, t. 1, tr.272.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Tư, 2010, 09:25:42 pm

Từ ngày 8-9 đến ngày 14-10-1968 là các cuộc tiếp xúc riêng của cấp cao của hai đoàn. Ngày 8-9-1968, các đồng chí Lê Đức Thọ và Xuân Thuỷ gặp Trưởng, Phó đoàn Mỹ. Tiếp theo là bốn cuộc tiếp xúc nữa vào các ngày 12, 15, 20-9 và 14-10-1968. Trong những cuộc nói chuyện riêng này, Mỹ vẫn cố nêu vấn đề chấm dứt hoàn toàn ném bom miền Bắc để thực hiện xuống thang chiến tranh ở miền Nam, đi vào thực hiện kế hoạch “cả gói”. Ngày 20-9-1968, Mỹ chính thức đưa ra yêu cầu có đại diện chính quyền Sài Gòn được tham gia đàm phán sau khi chấm dứt ném bom miền Bắc. Phía Mỹ cho đây là đề nghị mới của Mỹ và coi đó là “yếu tố quan trọng làm dễ dàng cho việc chấm dứt ném bom miền Bắc”. Ngày 11-10-1968, đồng chí Xuân Thuỷ hỏi Trưởng đoàn Mỹ, nếu Việt Nam chấp nhận cho chính quyền Sài Gòn tham gia giai đoạn tiếp theo của cuộc nói chuyện thì phía Mỹ có chấm dứt hoàn toàn các cuộc ném bom miền Bắc Việt Nam hay không? Dù ta mới hé ra khả năng trên và Trưởng đoàn Mỹ nói còn phải hỏi ý kiến của Oasinhtơn, nhưng trên thực tế, phía Mỹ cho đây là một sự tháo gỡ tình hình bế tắc.

Từ ngày 15-10 đến ngày 31-10-1968, cuộc nói chuyện giữa ta và Mỹ tập trung vào các nội dung: Mỹ phải chính thức chấm dứt hoàn toàn và không điều kiện ném bom và các hoạt động chiến tranh khác chống Việt Nam Dân chủ Cộng hoà; hai bên ra một văn kiện chung; hội nghị sắp tới là giữa bốn bên hay là giữa hai phía.

Trong cuộc gặp ngày 15-10-1968, Trưởng đoàn Mỹ Hariman đọc chỉ thị của Oasinhtơn: “... Chúng tôi sẵn sàng ra lệnh chấm dứt ném bom và mọi hành động khác liên quan đến việc dùng vũ lực trên toàn lãnh thổ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà nếu các ông đồng ý bắt đầu “cuộc nói chuyện nghiêm chỉnh” ngay hôm sau, sau khi Hoa Kỳ chấm dứt ném bom và trong những cuộc thảo luận đó, đại diện Chính phủ Việt Nam Cộng hoà sẽ tham gia bên phía chúng tôi”1. Hariman nói rõ thêm rằng lệnh chấm dứt ném bom sẽ được ban hành một, hai ngày sau đó.

Đồng chí Xuân Thuỷ tuyên bố. “Nếu Hoa Kỳ chấm dứt không điều kiện việc ném bom và mọi hành động chiến tranh khác chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thì sau khi Hoa Kỳ làm việc đó, chúng tôi đồng ý sẽ có đàm phán bốn bên... để bàn một giải pháp chính trị cho vấn đề miền Nam Việt Nam”2.

Ngày 21-10-1968, đoàn ta thông báo chính thức cho đoàn đại biểu Mỹ: “Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sau khi đã trao đổi ý kiến với Uỷ ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam đồng ý rằng, sau khi Hoa Kỳ chấm dứt hoàn toàn và không điều kiện việc ném bom và mọi hành động chiến tranh khác chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẽ có cuộc hội nghị bốn bên về việc nhằm tìm một giải pháp chính trị cho vấn đề Việt Nam trên cơ sở tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam”.

Chủ trương của ta là cuộc đàm phán tới có bốn bên tham gia: Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, Mỹ, chính quyền Sài Gòn. Quan điểm của Mỹ là hai phía: một phía là Mỹ và chính quyền Sài Gòn; một phía là Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Ý đồ của Mỹ là muốn hạ thấp vai trò của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Cuối cùng hai bên vẫn nhất trí thành phần dự họp là bốn đoàn, còn mỗi bên gọi theo cách của mình.

Về vấn đề hai bên ra một văn kiện chung, phía Mỹ không tán thành. Hai bên chỉ ký một biên bản thoả thuận nhưng không công bố như sau:

“1- Hoa Kỳ sẽ chấm dứt mọi cuộc oanh tạc bằng không quân, hải quân, pháo binh và mọi hành động khác liên quan tới việc dùng vũ lực trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà bắt đầu từ... giờ, giờ GMT, ngày... tháng 10-1968.

2- Một cuộc họp để tìm một giải pháp hoà bình cho vấn đề Việt Nam sẽ được tiến hành ở Pari ngày...

Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã nói rằng sẽ có mặt của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam; Hoa Kỳ đã nói rằng sẽ có mặt của Việt Nam Cộng hoà.

Do đó cuộc họp sẽ gồm có Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng hoà”.

Trong quá trình diễn biến các cuộc nói chuyện ở Pari, phía Mỹ đã thường xuyên thông báo tình hình cho chính quyền Sài Gòn. Và Nguyễn Văn Thiệu luôn tỏ ra chấp nhận lập trường của phía Mỹ. Nhưng khi đạt được sự dàn xếp giữa Oasinhtơn và Hà Nội thì lại nảy sinh sự bất hoà giữa Mỹ và Sài Gòn - nói chính xác hơn là sự phá rối của tập đoàn Thiệu - Kỳ. Ngày 29-10-1968, Đại sứ Mỹ ở Sài Gòn báo cáo về Mỹ cho biết Nguyễn Văn Thiệu không chấp nhận tham gia vào các cuộc thương lượng tại Pari với lý do: Thiệu còn phải xin ý kiến Quốc hội; không muốn Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam là một bên; cần giải quyết xong mọi thủ tục rồi mới họp. Như vậy, phía Mỹ muốn họp hội nghị bốn bên sớm hơn mà không thực hiện được. Trong hồi ký, Giônxơn đã nói rõ rằng tập đoàn Thiệu - Kỳ âm mưu cố kéo dài thời gian để chờ đợi kết quả bầu cử Tổng thống ở Mỹ. Giônxơn oán thán “một số người nhân danh Níchxơn khuyến khích chính quyền Sài Gòn không đi Pari. Họ hứa nếu Níchxơn trúng cử, sẽ thực hiện chính sách gần với nguyện vọng của chính quyền Sài Gòn”3.
________________________________________
1, 2. Lưu Văn Lợi: Năm mươi năm ngoại giao Việt Nam, Sđd, t.1, tr. 277, 278.
3. Giônxơn: Cuộc đời làm tổng thống của tôi, Sđd, tr.657.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Tư, 2010, 09:26:49 pm

Mặc cho chính quyền tay sai Thiệu - Kỳ làm mình làm mẩy, nửa đêm ngày 30-10, Trưởng, Phó đoàn Mỹ đến nơi ở của đoàn ta tại Pari để thông báo sẽ công bố lệnh chấm dứt ném bom tối 31-10, vào 7 giờ hay 8 giờ, giờ Oasinhtơn ngày 31-10-1968.

Lúc 20 giờ ngày 31-10-1968, Tổng thống Giônxơn đọc bản tuyên bố với nhân dân Mỹ. Sau khi phân tích tình hình tìm kiếm hoà bình từ tuyên bố 31-3-1968, đến các cuộc nói chuyện ở Pari, Giônxơn ra lệnh: “chấm dứt kể từ 8 giờ (giờ Oasinhtơn) sáng thứ sáu tất cả các cuộc oanh kích bằng không quân, hải quân và đại bác đối với Bắc Việt Nam”1 (tức ngày 1-11-1968 ).

Trải qua 28 phiên họp chính thức, 21 cuộc gặp riêng, bí mật, nhờ đấu tranh kiên quyết giữ đúng nguyên tắc, phía ta đã đạt được hai yêu cầu cơ bản: buộc Mỹ phải chấp nhận chấm dứt ném bom hoàn toàn và không điều kiện Việt Nam Dân chủ Cộng hoà; buộc Mỹ phải ngồi vào đàm phán với Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam trong một hội nghị bốn bên (Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, Mỹ và chính quyền Sài Gòn).

Ngày 2-11-1968, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra tuyên bố ghi nhận sự kiện trên và khẳng định sự kiện này “đánh dấu một thắng lợi to lớn của nhân dân Việt Nam ở cả hai miền. Đó cũng là thắng lợi to lớn của phe xã hội chủ nghĩa, của phong trào giải phóng dân tộc và phong trào hoà bình, một thắng lợi của nhân dân toàn thế giới trong đó có nhân dân tiến bộ Mỹ”2.

Nhân dịp này, ngày 3-11-1968, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi: “Chúng ta đã đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền Bắc. Song đó chỉ mới là thắng lợi bước đầu. Đế quốc Mỹ rất ngoan cố và xảo quyệt. Chúng nói “hoà bình”, “thương lượng” nhưng vẫn chưa chịu từ bỏ dã tâm xâm lược của chúng...

Vì vậy nhiệm vụ thiêng liêng của toàn dân ta lúc này là phải nâng cao tinh thần quyết chiến quyết thắng, quyết tâm giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới hoà bình thống nhất Tổ quốc3.

Cùng trong ngày 3-11-1968, đại diện Mỹ gặp phái đoàn ta đề nghị hai bên họp vào ngày 6- 11 bàn sắp xếp cho “cuộc họp thực chất dưới hình thức mới”. Ta đồng ý, nhưng lưu ý với phía Mỹ, cuộc họp đó là cuộc họp bốn bên. Bà Nguyễn Thị Bình, đại diện cho đoàn Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam đã có mặt ở Pari ngày 4-11 và sẽ dự cuộc họp đó. Phía Mỹ lúng túng, vì chính quyền Sài Gòn chưa cử đoàn đại biểu tham dự. Ta và Mỹ tranh luận gay gắt xung quanh tên gọi cuộc họp và chiếc bàn để họp. Phía Mỹ gọi là cuộc họp hai phía, ta gọi là cuộc họp bốn bên. Chỉ có một việc thống nhất tên gọi cuộc họp và hình thù cái bàn họp mà ta và Mỹ phải tranh luận suốt trong 14 phiên họp. Mỹ gọi là cuộc họp hai phía, nên đề ra một cái bàn chữ nhật: Mỹ và Sài Gòn ngồi một bên; Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam một bên. Tiếp đó, phía Mỹ đề ra ba kiểu bàn khác nhau để thể hiện lập trường cuộc họp hai phía của họ, thực chất âm mưu của Mỹ trong việc này là phủ nhận vai trò của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam; kéo dài thời gian hội nghị để tiếp tục chiến tranh hòng giành thắng lợi trên chiến trường để ép ta trong đàm phán. Phía ta đấu tranh, đây là cuộc họp bốn bên, nên các đoàn phải bình đẳng, độc lập như nhau thể hiện vai trò, vị trí của mỗi đoàn, phản ánh tương quan lực lượng của mỗi bên trên chiến trường. Xuất phát từ mục đích đề cao vai trò Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, ta đề nghị một bàn hình vuông, bốn đoàn ngồi bốn cạnh hoặc một bàn hình thoi... Cứ như thế ta và Mỹ tranh luận nhau suốt hai tháng vẫn chưa đi đến thống nhất. Cuối cùng ta và Mỹ chấp nhận gợi ý của Liên Xô ngày 15-1-1969 là một bàn tròn phẳng, có hai bàn chữ nhật kê cách bàn tròn 0,45 m, đặt ở hai địa điểm đối diện nhau, dành cho thư ký - không có cờ và biển.

10 giờ 25 phút ngày 25-11-1969, phiên họp chính thức đầu tiên bốn bên Hội nghị Pari về Việt Nam khai mạc. Đây là thắng lợi đầu tiên của ta tại Hội nghị Pari.


*
*   *


Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta diễn ra trong bối cảnh quốc tế vừa có thuận lợi, vừa có khó khăn, phức tạp, nhờ có đường lối, chính sách đối ngoại và nghệ thuật đấu tranh ngoại giao đúng đắn, sáng tạo và độc lập tự chủ, ta đã phát huy được các nhân tố thuận lợi, hạn chế những khó khăn. Có thể nói chưa có cuộc đấu tranh nào được sự ủng hộ rộng rãi và mạnh mẽ của nhân dân thế giới, nhân dân nước đối phương như cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam. Trên thực tế ta đã hình thành được mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam chống chiến tranh xâm lược của Mỹ. Những thắng lợi đã đạt được còn cho thấy ta đã khéo kết hợp đấu tranh ngoại giao với đấu tranh quân sự, kết hợp cuộc chiến đấu trên chiến trường với cuộc đấu tranh trên bàn đàm phán. Do ta thắng lớn, thế và lực của ta ngày càng mạnh. Đế quốc Mỹ liên tiếp bị thất bại trong hai mùa khô 1965 -1966 và 1966 -1967, nhất là trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, buộc phải chấp nhận thương lượng với ta, từng bước xuống thang chiến tranh, để tìm một lối thoát danh dự. Tuy nhiên, với bản chất ngoan cố của đế quốc Mỹ, cuộc đấu tranh trong Hội nghị bốn bên ở Pari để đi đến một hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam đã diễn ra gay go, phức tạp. Với đường lối đúng đắn, độc lập tự chủ của Đảng và Nhà nước ta, với kinh nghiệm đấu tranh dày dạn, kiên trì, bền bỉ, cuối cùng nhân dân ta đã giành được thắng lợi.
________________________________________
1. Tài liệu Lầu Năm Góc, G.E. t. IV, tr.272.
2. Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Những sự kiện quân sự, Sđd, tr. 197.
3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 12, 407.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Tư, 2010, 09:29:41 pm

KẾT LUẬN

Trực tiếp đưa quân chiến đấu Mỹ và quân của các nước phụ thuộc Mỹ sang Việt Nam tiến hành chiến tranh xâm lược, những người cầm quyền nước Mỹ tin tưởng chắc chắn họ sẽ chiến thắng một cách dễ dàng. Bởi vậy, khi vạch kế hoạch chiến lược, Lầu Năm Góc dự đoán một cách chủ quan, tự mãn rằng chỉ cần ba tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ hoặc cùng lắm cũng chỉ cần 175.000 quân trong vòng 18 tháng (cuối năm 1966) là Mỹ có thể kết thúc thắng lợi cuộc chiến tranh; lúc đó Việt cộng và Hà Nội sẽ đầu hàng; Mỹ sẽ chứng minh cho các dân tộc trên thế giới thấy sức mạnh vô địch của Mỹ, các cuộc chiến tranh cách mạng và khởi nghĩa nào cũng sẽ bị tiêu diệt. Chủ quan, kiêu ngạo đánh giá mình quá cao mà coi thường đối phương là bản chất, quan điểm xem xét của đế quốc Mỹ. Chẳng thế mà kế hoạch chiến lược ba giai đoạn của tướng Oétmolen được Tổng thống L. Giônxơn chuẩn y ngày 17-7-1965 mang tên kế hoạch “tìm và diệt” nghĩa là một kế hoạch chiến lược chủ động tiến công đối phương. Trong kế hoạch này, Oétmolen đề ra ba giai đoạn để giành chiến thắng, mà giai đoạn cuối cùng sẽ kết thúc vào giữa hoặc cuối năm 1967.

Song bước vào cuộc chiến, mà tập trung là cuộc phản công chiến lược “tìm và diệt” mùa khô 1965-1966 với quân hùng, tướng mạnh, vũ khí tối tân, quân Mỹ và quân ngụy Sài Gòn chẳng những không tiêu diệt được một đơn vị nào của Quân giải phóng như mục tiêu của cuộc phản công đề ra, trái lại bị quân và dân ta đánh cho thất bại, trận sau thất bại nặng hơn trận trước, thương vong lính Mỹ ngày càng nhiều, gây nên sự căm phẫn của nhân dân Mỹ đối với chính quyền L. Giônxơn. Cuộc chiến tranh Việt Nam trở thành thanh nam châm cực mạnh thu hút tâm trí, nghị lực và nhân tài, vật chất của cả nước Mỹ vào đó. Nhà Trắng và Lầu Năm Góc đã phải huy động đến 70% lực lượng bộ binh toàn nước Mỹ, trong đó có các đơn vị con cưng số một dạn dày trận mạc, có nhiều thành tích trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai, ném vào chiến trường Việt Nam tới chín sư đoàn và năm lữ đoàn, cùng nhiều loại vũ khí - kỹ thuật tối tân nhất mà thành tựu khoa học - kỹ thuật quân sự Mỹ đạt được trong những năm giữa thế kỷ XX. Nếu tính cả 20 vạn quân Mỹ đóng trên đất Thái Lan, Philíppin, Nhật Bản và ở Hạm đội 7, một bộ phận Hạm đội 6... tham gia vào cuộc chiến tranh mà không ở trên đất Việt Nam, thì Mỹ đã huy động vào cuộc chiến tranh 80 vạn quân (Theo Biên bản điều tra của Quốc hội Mỹ, tháng 5-1970), vượt xa số quân Mỹ bố trí trên chiến trường châu Âu là hướng trọng điểm của chiến lược toàn cầu của Mỹ. Bên cạnh quân Mỹ, còn có 68.800 quân Nam Triều Tiên, Ôxtrâylia, Thái Lan, Philíppin, Niu Dilân và 555.000 quân chủ lực ngụy Sài Gòn. Để phục vụ cho quân Mỹ tác chiến ở Việt Nam, Chính phủ Mỹ phải huy động hai triệu rưỡi lượt lính Mỹ vừa tình nguyện vừa quân dịch luân phiên sang Việt Nam và hơn 5,5 triệu công nhân, 40% các nhà vật lý khoa học, 260 trường đại học, 22.000 nhà máy, xí nghiệp lớn của nước Mỹ chuyên nghiên cứu, chế tạo vũ khí, trang bị kỹ thuật cung cấp cho cuộc chiến tranh.

Không quân là một trong những lĩnh vực quân sự quan trọng nhất, Mỹ đã sử dụng 50% lực lượng không quân chiến thuật, 50% máy bay chiến lược B52. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, trên chiến trường Thái Bình Dương, Mỹ sử dụng 593 máy bay cánh quạt; chiến tranh Triều Tiên, Mỹ đã sử dụng 1.000 chiếc máy bay cánh quạt và phản lực; nhưng chiến tranh xâm lược Việt Nam, Mỹ đã sử dụng tới 5.300 máy bay phản lực, với 60 kiểu khác nhau, không kể 2.000 chiếc của quân đội Sài Gòn. Mỹ còn đưa sang Việt Nam hơn 4.000 chiếc máy bay lên thẳng và thành lập hẳn một sư đoàn kỵ binh bay có sức cơ động nhanh và đổ quân xuống bất cứ nơi nào chúng muốn mà không cần chuẩn bị trước. Chiến tranh bằng máy bay lên thẳng là một thành tựu khoa học - kỹ thuật quân sự lớn của Mỹ mới đạt được trong những năm đầu của thập kỷ 60. Việc đưa phương tiện này vào sử dụng trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, theo Oétmolen, có thể thay thế cho hơn một triệu quân đánh bộ mà lẽ ra Mỹ và Sài Gòn phải huy động.

Hạm đội 7 hải quân Mỹ được mệnh danh là “Chúa tể đại dương” tượng trưng cho sức mạnh trên biển của Mỹ, được trang bị rất hiện đại và tinh xảo, đánh phá, yểm trợ cho quân Mỹ trên bộ. Mỹ còn huy động một bộ phận của hạm đội 1, 2 và Hạm đội 6 ở Địa Trung Hải vào cuộc chiến tranh. Bộ Quốc phòng Mỹ tiết lộ là lực lượng hải quân Mỹ tham chiến ở Việt Nam lớn nhất từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai.

Hầu hết các loại vũ khí trang bị cho quân Mỹ, quân ngụy dùng trong chiến tranh đều được cải tiến, từ súng trường M16, đại bác 175mm, xe tăng M48 đến máy bay không người lái, máy bay trinh sát điện tử, máy bay F111, B52; từ quả mìn mỏng “cây nhiệt đới”, máy dò điện tử đến máy phát nhiễu cực mạnh, bom 7 tấn, bom vô tuyến, bom điều khiển bằng lade, bom napan và chất độc hoá học, v.v… Tướng Oétmolen đã chiến đấu trong ba cuộc chiến tranh nhưng y “tin tưởng rằng nước Mỹ chưa hề cho ra trận một lực lượng tinh nhuệ, thiện chiến hơn lực lượng ở Việt Nam trong những năm 1966-1969”1.

Thế nhưng, càng lao sâu vào cuộc chiến tranh, đế quốc Mỹ càng bị sa lầy, mắc kẹt, thất bại càng lớn, thương vong càng cao. Tuy vậy, Chính phủ Hoa Kỳ vẫn không từ bỏ âm mưu xâm lược, quyết giành thắng lợi bằng quân sự, nên đẩy cuộc chiến tranh cục bộ đến cuối năm 1967 và 1968 vượt quá giới hạn dự định ban đầu của kế hoạch “tìm và diệt” và trở thành cuộc chiến tranh cục bộ lớn nhất, hiện đại nhất, ác liệt nhất so với các cuộc chiến tranh trước đó Mỹ đã tiến hành. Nhưng, sau hai năm trực tiếp đương đầu với quân viễn chinh Mỹ, chẳng những phong trào cách mạng miền Nam không bị tiêu diệt, trái lại, quân, dân ta đã đánh thắng địch từng bước và nắm quyền chủ động chiến lược. So sánh lực lượng trên chiến trường, ta mạnh lên và tạo được thế mới, lực mới; địch đang suy yếu, từ chiến lược phản công và tiến công giữa năm 1965, buộc phải lùi dần vào phòng ngự chiến lược bị động cuối năm 1967 trên toàn chiến trường. Quân Mỹ lui vào phòng ngự chiến lược đúng vào thời điểm nước Mỹ đang chuẩn bị vận động cho cuộc bầu cử tổng thống vào tháng 11-1968 và phong trào phản đối chiến tranh của nhân dân Mỹ lên cao, mâu thuẫn trong nội bộ chính quyền L. Giônxơn phát sinh gay gắt. Vào dịp này, Mắc Namara, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ cho công bố Tài liệu mật Lầu Năm Góc, bóc trần sự thật về âm mưu và chính sách của chính quyền Mỹ đối với cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam mà lâu nay họ bưng bít, che đậy không cho nhân dân Mỹ biết, làm cho L. Giônxơn càng bối rối “tỏ ra mệt mỏi, đầy lo âu và tư thế bắt đầu chao đảo”2.

Tình hình trên đây mở ra thời cơ thuận lợi lớn cho cách mạng miền Nam. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nắm lấy cơ hội này quyết định chuyển cuộc chiến tranh cách mạng miền Nam sang thời kỳ mới - thời kỳ giành thắng lợi quyết định bằng phương pháp tổng tiến công và nổi dậy, đánh thẳng vào trung tâm đầu não địch ở các thành phố, thị xã trên toàn miền Nam, trọng điểm là Sài Gòn - Huế - Đà Nẵng, đập tan ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ. Đây là quyết định cực kỳ táo bạo và sáng suốt, thể hiện rõ đường lối kháng chiến độc lập, tự chủ của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Thực hiện quyết tâm chiến lược của Đảng, đúng vào đêm giao thừa Tết Mậu Thân, ở miền Nam là thời điểm bất ngờ nhất, quân và dân ta đồng loạt tổng tiến công và nổi dậy đánh trúng vào hầu hết các cơ quan đầu não địch ở trung ương và địa phương. Đòn tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân đã làm rung chuyển nước Mỹ, làm hiện lên trước mắt những người cầm quyền Mỹ ở Nhà Trắng và Lầu Năm Góc là quân đội Mỹ sẽ bị đánh bại. Cuộc chiến tranh Việt Nam đã đi vào từng gia đình người Mỹ, thức tỉnh lương tri họ. Làn sóng phản đối chiến tranh, đòi chính quyền Giônxơn phải rút quân về nước, chấm dứt chiến tranh Việt Nam của nhân dân Mỹ đã trở thành sức ép hết sức nặng nề đối với chính quyền Oasinhtơn.

Trong khi ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ đang lung lay, chúng phải từ bỏ chiến lược “tìm và diệt” thay vào đó chiến lược “quét và giữ” bị động thì quân và dân ta ở miền Nam mở tiếp hai đợt tổng tiến công vào các đô thị, đánh bồi một đòn nặng vào quân Mỹ - ngụy, đánh bại ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc Hoa Kỳ phải tuyên bố chấm dứt không điều kiện việc ném bom và mọi hành động chiến tranh khác chống Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, chấp nhận họp Hội nghị Pari về Việt Nam.
________________________________________
1. Oétmolen: Một quân nhân tường trình, Sđd, tr. 129.
2. Giôdép A. Amtơ: Lời phán quyết về Việt Nam, Sđd, tr. 214.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Tư, 2010, 09:31:13 pm

Kết quả một năm tổng tiến công và nổi dậy, theo Thông cáo của Bộ chỉ huy các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam ngày 20-12-1968, quân và dân ta ở miền Nam đã loại khỏi vòng chiến đấu 630.000 tên Mỹ, ngụy và quân của các nước phụ thuộc Mỹ; tiêu diệt và đánh thiệt hại 1 lữ đoàn, 7 trung đoàn, chiến đoàn, tiểu đoàn bộ binh, 18 chi đoàn thiết giáp; phá hỏng, phá huỷ 13.000 xe quân sự, 1.000 tàu, xuồng chiến đấu trên sông, 700 kho đạn, 100 khẩu pháo các loại; diệt, bức hàng, bức rút 15.000 đồn, bốt, chi khu1. Hoà cùng chiến thắng của cuộc tổng tiến công và nổi dậy ở miền Nam, trong năm 1968, quân và dân miền Bắc bắn rơi 557 máy bay, bắt nhiều giặc lái, đưa tổng số máy bay Mỹ bị bắn rơi trên miền Bắc lên 3.243 chiếc (tính đến cuối năm 1968 ).

Chiến thắng của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 là rất to lớn và toàn diện - nhất là đợt Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân. Với thắng lợi vang dội của cuộc tổng tiến công và nổi dậy ở miền Nam và thắng lợi trong cuộc chiến tranh chống sự phá hoại bằng không quân và hải quân lần thứ nhất ở miền Bắc, quân và dân ta đã đánh bại ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, đánh bại hoàn toàn chiến lược chiến tranh cục bộ ở đỉnh cao, buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh; đồng thời góp phần quan trọng cùng với cuộc đấu tranh của loài người tiến bộ, làm phá sản chiến lược quân sự toàn cầu “Phản ứng linh hoạt” thời Kennơđi - Giônxơn. Một chiến thắng như vậy không còn trong phạm trù chiến thuật, mà mang tầm vóc thắng lợi chiến lược, nó tác động toàn diện đến tình hình quân sự, chính trị, tâm lý xã hội nước Mỹ mà trong thời gian tiếp sau chính quyền Giônxơn khó có thể hàn gắn được: “chiến tranh Việt Nam đã trở thành vấn đề chính trị với triển vọng địch (Việt cộng, Hà Nội) có thể thắng ở Oasinhtơn như họ đã thắng ở Giơnevơ năm 1954. Ý chí các chính khách Mỹ đang suy giảm”2. Nhờ chiến thắng này “Việt cộng và Hà Nội đã bước vào giai đoạn vừa đánh, vừa đàm ở thế mạnh hơn so với Mỹ”3.

Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân và cả năm 1968 là to lớn, toàn diện, chưa có năm nào trước đó đạt tới, nhưng tổn thất của ta cũng nặng nề, nhiều đơn vị chủ lực, bộ đội tinh nhuệ, biệt động bị thương, hy sinh gần hết; cơ sở cách mạng trong một số thành phố, thị xã tan vỡ; phong trào đấu tranh chính trị giảm sút; ở địa bàn nông thôn ta bị mất đất, mất dân... Tổn thất này đã làm giảm sút thế và lực của cách mạng miền Nam, gây hậu quả khó khăn chồng chất kéo dài suốt năm 1969. Nguyên nhân là do ta mắc sai lầm, khuyết điểm trong chủ trương chỉ đạo và thực hiện, trong đó khuyết điểm lớn nhất được Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 21 tháng 10-1973 chỉ ra là “chủ quan trong việc đánh giá tình hình nên ta đã đề ra yêu cầu chưa thật sát với tình hình lúc đó”. Sau đợt 1, thời cơ đã mất, ta vẫn chủ trương tiếp tục tổng tiến công vào thành phố, thị xã để hở mặt trận nông thôn. Đáng lẽ sau đợt Tết Mậu Thân, ta kịp thời chuyển hướng về mặt trận nông thôn, đánh tan rã hệ thống chính quyền cơ sở của địch, phá ấp, giành dân, mở rộng vùng giải phóng thì thắng lợi của ta sẽ lớn hơn và hạn chế được tổn thất.

Đánh với đối tượng là một siêu cường có tiềm lực kinh tế, quân sự mạnh nhất trên thế giới thì không dễ gì chiến thắng mà ít tổn thất. Đó là sự hy sinh, tổn thất cần thiết để dẫn đến hoà bình. Song, nếu ta đúng hơn, sát thực tế hơn và không phạm phải chủ quan trong đánh giá tình hình và chủ trương thì thắng lợi sẽ lớn hơn, nhưng đó là kết luận sau khi thực tiễn đã diễn ra rồi. Ta có khuyết điểm, sai lầm, nhưng cái chính và điều quan trọng là ta chiến thắng.

Về sự kiện Tết Mậu Thân, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 21, tháng 10-1973, đã kết luận: “Mặc dù có những khuyết điểm, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân (1968 ) vẫn giữ một vị trí to lớn và oanh liệt trong cuộc kháng chiến chống Mỹ”4. Ngày 23-4-1994, Bộ Chính trị họp cho ý kiến về Bản dự thảo Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Sau khi nghe các ý kiến của các đồng chí cố vấn, các đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị và Ban Bí thư, Bộ Chính trị kết luận một số vấn đề lớn trong kháng chiến còn tồn tại. Về cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân, Bộ Chính trị kết luận: Tết Mậu Thân thắng rất lớn, mà nhất là đánh bại được ý chí xâm lược của Mỹ, tạo nên bước ngoặt quyết định của chiến tranh. Nhưng sau đó ta chuyển chậm, chủ trương tiếp tục các đợt tiến công vào các đô thị khi không còn điều kiện là sai lầm về chỉ đạo chiến lược để địch gây cho ta nhiều khó khăn, tổn thất5.

Sau Tết Mậu Thân, cuộc chiến tranh chuyển sang một giai đoạn mới - giai đoạn vừa đánh vừa đàm gay go và ác liệt. Song trên đà thắng lợi trong năm 1968, quân và dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, mà tập trung là Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị, Ban Bí thư, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, nêu cao tinh thần quyết thắng, quyết tâm giải phóng miền Nam: “Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta, thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu, quét sạch nó đi”6.
________________________________________
1. Địch thú nhận sáu tháng đầu năm 1968 đã chết, bị thương, mất tích 101.400 tên, trong đó có 50.387 Mỹ (có 9.301 Mỹ chết).
2. Oétmolen: Một quân nhân tường trình, Sđd, tr. 42.
3. Tóm tắt Tổng kết chiến tranh của Bộ Quốc phòng Mỹ, bản đánh máy. Tài liệu lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, t. V, tr. 8.
4. Trích Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 21, tháng 10-1973.
5. Kết luận của Bộ Chính trị họp ngày 23-4-1994, số 215 - BBK/BCT.
6. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr. 407.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Tư, 2010, 09:32:10 pm

TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH

1. Giôgiép A. Amtơ: Lời phán quyết về Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1985.
2. Báo cáo tổng kết kinh nghiệm cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường Nam Bộ và cực nam Trung Bộ (B2), Ban Tổng kết chiến tranh B2, 1979. Tài liệu lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.
3. Báo cáo tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường Khu VI (cực nam Trung Bộ - nam Tây Nguyên), Phòng Tổng kết chiến tranh Khu VI thuộc Ban Tổng kết chiến tranh B2. Tài liệu lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, tập 2.
4. Ba mươi năm kháng chiến của quân dân tỉnh Đồng Tháp, Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Đồng Tháp, 1990.
5. Biên bản Hội nghị Bộ Chính trị bàn về kế hoạch chiến lược mùa Thu: Tổng công kích - tổng khởi nghĩa Xuân - Hè 1967-1968. Tài liệu lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.
6. Bến Tre - 30 năm kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Bến Tre, 1990.
7. Bình Định - Lịch sử chiến tranh 30 năm, Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Bình Định, 1992.
8. Chiến dịch tiến công Đường 9 - Khe Sanh Xuân - Hè 1968, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Hà Nội, 1987.
9. Chiến trường Tri-Thiên-Huế trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Nxb. Thuận Hoá, 1985.
10 Gabrien Côncô: Giải phẫu một cuộc chiến tranh, Nxb. Hà Nội, 1991, tập 1.
11 Ban Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị: Chiến tranh cách mạng Việt Nam 1945'1975 - Thắng lợi và bài học, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.
12. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Những sự kiện quân sự, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Hà Nội, 1988.
13. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1998.
14. Cuộc Tổng công kích - tổng khởi nghĩa của Việt cộng Mậu Thân 1968, Khối quân sự phông 5 - Bộ Tổng tham mưu quân lực Việt Nam Cộng hoà xuất bản, 1968.
15. Cuộc kháng chiến 30 năm của quân dân Tiền Giang, Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Tiền Giang, 1988.
16. Cuộc chiến tranh chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Tây Ninh, Ban Tổng kết chiến tranh Tỉnh uỷ Tây Ninh, 1984.
17. Cửu Long - 21 năm kiên cường đánh Mỹ, Nxb. Cửu Long, 1986.
18. Lê Duẩn: Thư vào Nam, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1979.
19. Lê Duẩn: Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập, vì tự do, vì chủ nghĩa xã hội, tiến lên giành những thắng lợi mới, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1985.
20. Dự thảo tổng kết cuộc tấn công thành phố Huế - Mậu Thân 1968. Tài liệu lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, số TK/2585.
21. Đồng Nai - 30 năm chiến tranh giải phóng, Nxb. Đồng Nai, 1986.
22. Đường Hồ Chí Minh - một sáng tạo chiến lược của Đảng, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1999.
23. Ilya V. Gaiduk: Liên bang Xôviết và cuộc chiến tranh Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 1998.
24. Trần Văn Giàu: Miền Nam giữ vững thành đồng, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1978, tập 5.
25. L. B. Giônxơn: Cuộc đời làm tổng thống của tôi, Nxb. Buysét Saxten, Pari, 1972.
26. L. B. Giônxơn: Về cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam và cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc Việt Nam, Việt Nam Thông tấn xã phát hành, Hà Nội, 1972.
27. Hậu phương miền Bắc cung cấp người, vật chất cho chiến trường miền Nam từ 1959 đến 1975. Tài liệu lưu tại Bộ Quốc phòng Quân đội nhân dân Việt Nam, số 791.
28. Hậu Giang - 21 năm kháng chiến chống Mỹ, Nxb. Tổng hợp Hậu Giang, 1987.
29. Gioócgiơ C. Hirinh: Cuộc chiến tranh dài ngày nhất của nước Mỹ, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1988.
30. Khu V - 30 năm chiến tranh giải phóng - Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1968 ), Bộ Tư lệnh Quân khu V 1989, tập 2.
31. Kiên Giang - 30 năm chiến tranh giải phóng (1945-1954), Bộ chỉ huy quân sự Kiên Giang, 1987.
32. Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tập 2.
33. Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, tập 2.
34. Lịch sử Khu VI (cực nam Trung Bộ và nam Tây Nguyên) kháng chiến chống Mỹ (1954-1975), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1995.
35. Lịch sử Bà Rịa-Vũng Tàu kháng chiến (1954-1975),Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1995.
36. Lịch sử bộ đội đặc công, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1987.
37. Lịch sử Hải quân nhân dân Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1985.
38. Lịch sử hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam (1954-1975), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1999, tập 2.
39. Lịch sử Quân chủng Phòng không, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1993, tập 2.
40. Lịch sử pháo binh Quân đội nhân dân Việt Nam (1954-1975), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1991.
41. Lịch sử Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định kháng chiến (1945-1975), Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1994.
42. Lịch sử Viện kỹ thuật quân sự (1960-2000), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2000.
43. Long An - Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994.
44. Lưu Văn Lợi: Năm mươi năm ngoại giao Việt Nam 1954-1995, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 1996, tập 1.
45. Lưu Văn Lợi - Nguyễn Anh Vũ: Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ - Kítxinhgiơ, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 1996.
46. Lực lượng vũ trang nhân dân Tây Nguyên trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1980.
47. Lực lượng vũ trang ta trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước từ 1955 đến 1975, bản số 1 - Tập thống kê số liệu trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Bộ Tổng tham mưu và Bộ Quốc phòng Quân đội nhân dân Việt Nam. Tài liệu lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.
48. Lực lượng vũ trang nhân dân Trà Vinh 30 năm kháng chiến (1945-1954), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1988.
49. Lưu Văn Lợi - Nguyễn Anh Vũ: Tiếp xúc bí mật Việt Nam - Hoa Kỳ trước Hội nghị Pari, Viện quan hệ quốc tế ấn hành, Hà Nội, 1990.
50. Mấy vấn đề về chỉ đạo chiến lược trong 30 năm chiến tranh giải phóng (1945-1975), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1999.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Tư, 2010, 09:33:02 pm

51. Miền Đông Nam Bộ kháng chiến (1945-1975), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1993.
52. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 11.
53. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 12.
54. Minh Hải - 30 năm chiến tranh giải phóng, Nxb. Mũi Cà Mau, 1986.
55. Một số văn kiện của Đảng về chống Mỹ, cứu nước, Nxb. Sự thật, Hà Nội,l985.
56. Rôbớt S. Mắc Namara: Nhìn lại quá khứ - Tấn thảm kịch và những bài học về Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995.
57. Nghị quyết Bộ Chính trị, tháng 12-1967. Tài liệu lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.
58. Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam lần thứ 21, tháng 7-1973. Tài liệu lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.
59. Nghị quyết Hội nghị Trung ương Cục lần thứ 8. Tài liệu lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.
60. Những sự kiện lịch sử Đảng, Nxb. Thông tin lý luận, Hà Nội, 1985, tập 3.
61. Những sư kiện Lịch sử Đảng, Nxb. Thông tin lý luận, Hà Nội, 1985, tập 4.
62. A. V. Nikin: Nước Mỹ, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1979, tập 2.
63. Đôn Obođoiphơ: Tết, Nxb. An Giang, 1988.
64. Oétmolen: Một quân nhân tường trình, Nxb. Garden City Doublay and Company, New York, 1976, Thư viện Trung ương quân đội dịch, 1978. Bản đánh máy.
65. Đavít R. Panmơ: Tiếng kèn gọi quân, Nxb. Thông tin lý luận, Hà Nội, 1987.
66. Phú Yên - 30 năm chiến tranh giải phóng, Bộ chỉ huy quân sự Phú Yên, 1993.
67. J. Pimlốt: Việt Nam - Những trận đánh quyết định, Trung tâm thông tin Khoa học - Công nghệ - Môi trường Bộ Quốc phòng ấn hành, Hà Nội, 1997.
68. Pitơ A. Pulơ: Nước Mỹ và Đông Dương từ Rudơven đến Níchxơn, Nxb. Thông tin lý luận, Hà Nội, 1985.
69. Quân khu IX - 30 năm kháng chiến, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1996.
70. Quân khu VI - Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994.
71. Quân khu III - Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1995.
72. Quân khu IX - 30 năm kháng chiến (1945-1975), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1996.
73. Quảng Ngãi - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975), Nxb. Tổng hợp Nghĩa Bình, 1988.
74. Quảng Nam-Đà Nẵng - 30 năm chiến đấu và chiến thắng, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1988, tập 2.
75. Quảng Trị - Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Quảng Trị, 1998.
76. Lê Quốc Sản: Cuộc đọ sức thần kỳ, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1991.
77. H. Y. Schanđờlơ: Sự nghiệp của một tổng thống bị đổ vỡ - L. Giônxơn và Việt Nam, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1999.
78. Nâylơ Shihan: Sự lừa dối hào nhoáng - Giôn Pônvan và nước Mỹ ở Việt Nam, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1990.
79. Sông Bé - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm, Nxb. Tổng hợp Sông Bé, 1990.
80. Sự thật về những lần xuất quân của Trung Quốc và quan hệ Việt - Trung, Nxb. Đà Năng, 1996.
81. Sức mạnh Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1976.
82. Tài liệu mật Bộ Quốc phòng Mỹ về chiến tranh xâm lược Việt Nam, Việt Nam Thông tấn xã phát hành, Hà Nội, 1971, tập 2.
83. Tây Bắc - Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội 1994.
84. Tây Bắc - 30 năm chiến tranh cách mạng, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1992, tập 2.
85. Thủ đô Hà Nội - Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1991.
86. Thái Bình - Chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Thái Bình, 1995.
87. Thương vong của quân đội Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam (tính đến tháng 1 -1973), Công bố của Bộ Quốc phòng Mỹ trên Tạp chí Lục quân Mỹ, tháng 9-1973. Tài liệu lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.
88. Tổng tiến công Mậu Thân và hoạt động của B5. Tài liệu lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, số 514.
89. Tóm tắt Tổng kết chiến tranh Việt Nam của Bộ Quốc phòng Mỹ, bản đánh máy, số lưu trữ VL/83, tập 1.
90. Trong cuộc đối đầu thế kỷ, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1996.
91. Tuy Hoà - Những chặng đường đấu tranh cách mạng (1929-1975), Ban Lịch sử Đảng Tuy Hoà, 1988.
92. Việt Nam - Con số và sự kiện, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1990.
93. Việt Nam - Những sự kiện, (1954-1975), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1976, tập 2.
94. Vĩnh Long - Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1968, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1996.


Hết!