Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thảo luận Lịch sử bảo vệ Tổ quốc => Quyết tử cho Tổ quốc... => Tác giả chủ đề:: caytrevietnam trong 02 Tháng Tư, 2008, 11:14:55 pm



Tiêu đề: Anh hùng LLVTND trong kháng chiến chống Pháp
Gửi bởi: caytrevietnam trong 02 Tháng Tư, 2008, 11:14:55 pm
Đầu tháng 3-1947, giặc Pháp tập trung đánh vào hậu phương của ta, chiếm Hà My, Tuy Nhạc. Ngày 14-3-1947, Pháp chiếm Hội An, lập ra hệ thống cứ điểm Phước Trạch - Cẩm Phô - Trà Nhiêu.

Đồn Phước Trạch có 46 tên lính partisan (thân binh, việt binh đoàn) đa số là người miền Nam, có 6 tên lính Pháp do sếp  Vững - quan hai chỉ huy.  Từ ngày có đồn lính, người dân vùng Cửa Đại chịu nhiều đau thương tang tóc. Chúng khủng bố tàn bạo, lùng sục, bắt bớ, hãm hiếp, đốt nhà vây ráp lùng bắt cán bộ, xăm hầm, hơn 30 người dân ở An Bàng - Phước Trạch là nạn nhân của chúng. Chúng gom dân để dễ bề kiểm soát, lập ra hội đồng hương chính, tập hợp những tên cường hào ác bá, có nợ máu với nhân dân, trong đó có tên Sum. Trước tình hình đó, Thị ủy Hội An chủ trương thành lập và đưa đội tự vệ, thanh niên cứu quốc vào bám dân, bảo vệ dân, có điều kiện là tổ chức đánh địch, thu súng, trang bị cho du kích tự vệ cứu quốc.

Theo lời kể của ông Lê Nà, gia đình ông có 3 anh em trai làm nghề biển nhưng chỉ có một cái thúng chai, anh em phải “đi bạn” với các chủ ghe.  Anh Lập con cả đi bạn với các ghe lớn, thường vào Nam đánh cá 3-4 tháng mới về một lần. Anh Lập có gia đình ở Phan Thiết. Đầu năm 1946, anh về quê  nói với cha : “Không thể để bọn Pháp làm mưa làm gió mãi được, chắc con phải tìm cách đánh lại chúng”. Cha anh thở ra rồi nói : “Đánh cách chi ?”. “Phải tìm cách chứ cha !”... Sau đó, Lê Lập tập hợp bạn bè, anh em trong làng thành lập đội thanh niên cứu quốc, thuộc khu 7 (Cẩm An ngày nay).

Đội có 7 người, Lê Lập làm đội trưởng, Nguyễn Lạp làm đội phó. 7 người nhưng chẳng ai có súng, chỉ tự trang bị mã tấu, dao găm, gậy vót nhọn...

Lê Lập nói với anh em trong đội : “Không có súng  không đánh được thằng Tây” và trong anh luôn nung nấu ý nghĩ là làm sao có súng cho anh em.  Đội tự vệ mới manh nha, nhưng hằng đêm tập trung học võ, học cách đánh địch, luyện tập các động tác tiếp cận địch. Anh em trong đội tự vệ thường thấp thoáng trong rừng dương, anh xã trưởng Sum phát hiện và báo với sếp Vững “Có một đội du kích ở An Bàng”. Đội tổ chức đi phá đường, chặt cây ngã ra đường, không cho xe địch cơ động từ Phước Trạch lên Hội An.

Ban đêm anh em phá đường, ban ngày  địch bắt dân lấp đường, Lập bèn nghĩ cách : đặt mìn diệt xe. Anh em trong đội đi tìm những quả đạn 105 thôi, cải tạo, gài kíp  đem đặt giữa đường, nối sợi dây điện thoại dẫn vào nơi ẩn nấp. Khi xe Pháp đến giật nổ, xe cháy địch chết, anh em vọt ra lấy súng. Lần sau, chúng đi, có lính tuần đường, Lê Lập cùng anh em tìm mọi cách quấy phá địch.

Bọn lính từ đồn Phước Trạch lên An Bàng tuần tiễu, Lê Lập theo dõi, nắm được quy luật của chúng bèn nghĩ ra cách  phục kích nhưng địa thế Cẩm An khó quá, từ An Bàng xuống Phước Trạch giống như cái lá lúa, bên ngoài thì biển, bên trong sông, rừng dương không đủ sức che chở cho anh em, khó tránh tổn thất. Cuối cùng, anh nói với Nguyễn Lập : "Phải mạo hiểm thôi". Chọn nơi mật  phục không xa đồn  Phước Trạch nhưng có thế  rút lui,  Lê Lập phát hiện bọn tuần, lúc đi  chúng rất khí  thế,  cảnh giác  nhưng khi trở về, thường chủ quan ngồi nghỉ  ở cạnh đường gần bờ sông. Anh đưa quân vùi dưới cát, gác đầu lên gốc  dương nằm  chờ. Đúng như  dự kiến, chiều về,  bọn chúng đến gò dương , ngồi  nghỉ. Bất thần, Lê  Lập hô “xung  phong". Anh em đội đất lên, mã  tấu vung sáng lóe; chém mạnh  xuống vai những tên đứng gần.

Thu được hai khẩu súng, thấy bọn lính  chạy xa tầm tác chiến, Lê  Lập hô anh em nhảy xuống sống, lặn qua bờ bên kia. Thế là cả ba đội có 3 cây súng và 16 viên đạn...

Tháng 5-1947, đồng chí  Nguyễn Nho - Chủ tịch UBND  Cách mạng Khu 7 giao nhiệm vụ cho đội cùng hai đội du kích trong toàn khu đánh đồn Phước Trạch. Trận đánh diễn ra không cân sức, giặc trong đồn phản kích mạnh, anh em phải rút. Lê Lập trụ lại giữ chân địch, bị bọn chúng bắt.

Ông Lê Trung Thạch kể : Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, tôi về quê nghe Nguyễn Nề - em vợ của anh Lập là lính partisan lúc đó đóng ở đồn Phước Trạch  nói lại :

Tên Vững cho lính còng tay còng chân anh Lập, dùng báng súng đánh vào đầu,  vào bụng, dùng tay đánh vào mặt, anh Lập ngã xuống đất, chúng dùng giày đinh đạp lên,  vừa đạp vừa hỏi : Ai là chỉ huy mày ? Bọn Việt Minh Cộng sản ở đâu  ?... Anh chỉ trả lời: "Tôi không biết". Ngày thứ  hai, thứ ba cũng thế, khi tên Sum trực tiếp hỏi cung, anh Lập chửi vào mặt hắn là : “Đồ bán nước". Tên Sum dìm đầu anh Lập vào thùng nước cho ngạt thở, trói chéo tay sau lưng treo lên xà nhà, bên dưới, hắn để ngọn đèn dầu dưới hậu môn... Ngày thứ tư, thứ năm, hắn tẩm xăng  vào giấy đốt dương vật anh Lập. Anh ngất. Thấy anh rể bị hành hạ mà không có cách chi cứu,  không khéo bị vạ lây, bỏ vợ, bỏ con, nên anh Nề thường xung phong đi gác. Mỗi lần như thế, anh tìm cách nhét thuốc bổ vào mồm anh, bón cho anh miếng cơm, miếng thịt... Đến ngày thứ 7, chúng đổ than nóng vào thùng đại liên đặt lên  người anh, đặt đến đâu, da thịt cháy đến đó, khét  lẹt, tay chân anh mưng mủ, nứt nẻ, mắt sưng, tóc cháy hết. Chúng dụ anh khai, trước sau anh chỉ nói : “Tôi làm tôi chịu ngoài ra không biết chi hết". Ngày thứ 10,  người anh Lập như một cục than, anh kiệt sức, đứng không vững. Hơn 10 ngày khai thác, chúng không  nhận được một lời khai nào, bất lực,  chúng dở thủ đoạn khác xử tử chúng mời dân chúng để  thị uy. 

Buổi sáng ngày 19-5-1947, chúng kéo lê anh trên cát giữa hai hàng lính, tiến về Lăng Ông. Tên Sum huy  động tay  chân cùng lính lùa dân trong làng đi, hơn 200 người : bà già, trẻ em đứng quanh khu vực chúng quy định, bọn lính đặt đầu anh  trên một cục đá lớn. Bên cạnh, có tên lính ở trần đầu chít khăn điều, thắt lưng điều tay cầm cây mã tấu. Tên Vững quy tội cho anh là Việt Minh Cộng sản chống lại chính quyền, tử hình.  Tên Sum nói, dọa nhưng chẳng ai nghe, cuối cùng, tên Vững hô : “tử hình". Tên đao phủ giơ cao cây mã tấu chém xuống...

  Vợ và con anh Lập bặt tin nhiều năm. Anh Lê Trung Thạch làm chế độ cho anh, cơ quan thương binh xã hội nói : "Phải là vợ con anh Lập đứng ra làm". Đợi mãi cũng sốt ruột, Đảng ủy, ủy ban, mặt trận xã quyết định xây mộ cho anh Lập. Hằng năm, đến ngày 27-7, tết, đều khắp hương tưởng nhớ. Đến năm 2001, khi Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội có chủ trương mới thì tộc Lê đứng ra làm hồ sơ, cũng là lúc chính quyền thi công con đường Thanh niên đi qua ngôi mộ anh. Vậy là chính quyền quy tập anh về nghĩa trang liệt sĩ  xã... cũng là lúc Thủ tướng ký bằng Tổ quốc ghi công...

Vậy là sau 54 năm, liệt sĩ Lê Lập mới được công nhận. Nhưng ngay sau khi anh hy sinh, quân và dân Cẩm An đã coi anh là niềm tự hào của địa phương, coi anh là anh hùng, luôn được nêu tên trong các ngày truyền thống của đất nước và địa phương.

(Báo Quảng Nam)


Tiêu đề: Re: Anh hùng LLVTND trong kháng chiến chống Pháp
Gửi bởi: yeulichsu1982 trong 16 Tháng Năm, 2008, 02:52:49 pm
Có lần tôi tìm gặp ông Chu Văn Pù, quê ở Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn, là trung úy, sĩ quan quân đội về nghỉ hưu tại khối Đinh Tiên Hoàng, phường Chi Lăng, thành phố Lạng Sơn. Ông Chu Văn Pù nguyên là tiểu đội trưởng thuộc trung đoàn 174, Đại đoàn 316, người trực tiếp cùng Bế Văn Đàn chiến đấu tại khu vực Mường Pồn, trước khi chiến dịch Điện Biên Phủ mở màn. Ông kể lại:
“Hôm đó đơn vị tôi được cấp trên giao nhiệm vụ bằng mọi giá phải ngăn chặn và tiêu diệt quân địch tại khu vực Mường Pồn, không cho chúng rút về Tuần Giáo (Lai Châu). Tiểu đội của tôi được phân công phục kích quân địch tại khe một con suối cạn ngay dưới chân dốc Mường Pồn. Đội hình của tiểu đội gồm có các chiến sĩ: Vinh, Chiến, Thanh, Thàng, Pẩu... và Bế Văn Đàn.

Bế Văn Đàn là chiến sĩ liên lạc của đại đội, được trên bổ sung tăng cường cho tiểu đội. Anh có dáng người nhỏ nhắn, nước da trắng như con gái, đôi mắt to và sáng, trông rất thông minh. Trong khi tiểu đội chúng tôi chiếm lĩnh xong trận địa lúc trời tờ mờ sáng thì thình lình mặt đất bỗng rung chuyển dữ dội, bầu trời như bị xé ra từng mảnh bởi những loạt đại bác của địch bắn cấp tập xuống khu vực Mường Pồn và tiếng gầm rít của những chiếc máy bay “bà già” lượn trên đầu. Ngay sau loạt đạn đầu tiên của địch, trong làn khói súng, tôi thấy Bế Văn Đàn bị thương vào đầu do mảnh đạn moóc-chi-ê của kẻ thù. Máu anh chảy ra ướt đẫm cả vai áo. Tôi vội lao tới đỡ Đàn dậy, cởi phăng chiếc áo lót mình đang mặc để băng bó vết thương cho anh. Bốn chiến sĩ: Chiến, Thanh, Thàng, Pẩu cũng đã hy sinh. Lúc đó vào khoảng 7 giờ sáng.

Sau những đợt oanh kích ác liệt, đúng 8 giờ bỗng nhiên tiếng súng im bặt. Tiếp sau là tiếng la ó từ trên đỉnh dốc. Tôi quan sát thấy rõ những tên lính tây trắng, tây đen đang hò hét, xô đẩy nhau tràn xuống dốc. Hai trăm mét..., một trăm năm mươi mét..., một trăm mét, tôi nâng khẩu trung liên Vĩnh Cát lên rồi xiết cò. Đạn nổ giòn nhưng găm ngay trước mặt, chỉ cách nòng súng chừng 5 đến 7m, khói bụi tung lên mù mịt. Vì ở dưới chân dốc, tư thế bắn lại theo góc độ “tà dương” nên hoàn toàn bất lợi cho quân ta. Quân địch thì tiến xuống mỗi lúc một đông. Tôi lại cố nâng súng lên để chọn góc bắn thích hợp nhưng không nổi vì hai cánh tay cứng đờ và tê dại. Đang trong lúc loay hoay tìm kiếm địa hình, địa vật để kê súng lên cao thì Bế Văn Đàn đột nhiên lao tới, hai tay nắm chặt lấy hai càng súng giơ lên cao hướng thẳng về phía quân địch. Tôi ái ngại khi nhìn thấy vết thương trên đầu anh máu vẫn rỉ ra nhiều. Bế Văn Đàn hô lớn:

- Pù! Bắn đi còn chần chừ gì nữa, hãy tiêu diệt hết lũ giặc tây gian ác để trả thù cho Chiến, Thanh, Thàng, Pẩu...

Tiếng hô của Bế Văn Đàn như một mệnh lệnh chiến đấu vang lên từ trong trái tim. Tôi nghiến răng bóp cò. Khẩu trung liên rung lên, quân thù nhào xuống lăn lông lốc như những khúc gỗ lìa rừng. Cuộc chiến đấu giằng co quyết liệt với quân địch. 12 giờ trưa, đợt tấn công cuối cùng của địch đã bị tôi và Bế Văn Đàn bẻ gãy, xác giặc nằm chết ngổn ngang. Tôi reo to:

- Thắng rồi! Ta thắng rồi! Đàn ơi nhìn kìa, quân địch chết nhiều quá, vui quá Đàn ơi!

Tôi cúi xuống định đỡ Đàn dậy thì anh đã gục đầu, trút hơi thở cuối cùng mà hai bàn tay vẫn nắm chặt hai càng súng. Nhẹ nhàng gỡ hai bàn tay anh, tôi ôm anh vào lòng, máu từ vết thương trên đầu và hai bờ vai, nơi điểm tì của hai càng súng trung liên, vẫn đang rỉ ra nhuộm đỏ cả áo.

Kể tới đây ông Chu Văn Pù gạt hai hàng nước mắt nói với tôi như tâm sự:

“Đã mấy chục năm rồi mà cho đến bây giờ tôi vẫn không thể nào tưởng tượng nổi một con người nhỏ bé như Bế Văn Đàn mà lại có sức chịu đựng phi thường đến như vậy. Trong suốt thời gian 6 tiếng đồng hồ phải cắn răng chịu đựng sự đau đớn của vết thương trên đầu đã là quá sức, vậy mà suốt 4 tiếng đồng hồ tiếp theo cho đến hơi thở cuối cùng, anh ấy lấy thân mình làm giá súng để đồng đội đánh lui 5 đợt tấn công của địch cho đến khi thắng lợi hoàn toàn. Gương hy sinh oanh liệt đó của anh là biểu tượng cho ý chí quyết chiến, quyết thắng của quân đội ta, đã trở thành bất tử và tỏa sáng muôn đời như một bài ca: “Bế Văn Đàn ơi! Anh vẫn còn sống mãi!”.

Nguồn: Báo Quân đội nhân dân


Tiêu đề: Re: Anh hùng LLVTND trong kháng chiến chống Pháp
Gửi bởi: yeulichsu1982 trong 16 Tháng Năm, 2008, 03:07:38 pm
Trần Thị Bắc sinh năm 1932, tại thôn Xuân Dục Đoài, xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn, Hà Nội là nhân vật thực ngoài đời trong bài thơ “Núi đôi” của Vũ Cao.

Sinh trưởng trong một gia đình có bố làm Xã đội phó, cậu là Xã đội trưởng, các chú, các bác đều là bộ đội, cán bộ Việt Minh, nhất là được tận mắt chứng kiến bao cảnh càn quét, cướp bóc, đốt phá, bắn giết hết sức dã man của bọn lính Pháp và ngụy quân ngay tại quê mình, nên Trần Thị Bắc đã sớm giác ngộ cách mạng. Năm 1947, mới 15 tuổi, chị đã rất tích cực tham gia hoạt động trong các phong trào đoàn thể.

Cuối năm 1949, chị xin gia nhập đội du kích, làm nhiệm vụ giao thông liên lạc, tiếp tế và trực tiếp chống càn, bảo vệ nhân dân trong lúc đi tản cư. Sau đó chị được cử ra vùng tự do theo học lớp y tá. Cũng trong thời gian này, Trần Thị Bắc gặp anh bộ đội tên là Trịnh Khanh, thuộc đại đội Trần Văn Tuấn (là nhân vật: “Anh đi bộ đội sao trên mũ…” trong bài thơ “Núi Đôi” của Vũ Cao). Sau vài lần gặp gỡ, cả hai mới biết rằng họ là người cùng xã. Chàng trai ở thôn Vệ Linh, dưới chân núi Sóc, còn cô gái ở thôn Xuân Dục Đoài, dưới chân núi Đôi. Tình yêu quê hương, đất nước và lòng căm thù giặc sâu sắc đã giúp họ cùng chung một chí hướng, vượt khó khăn thử thách để hoàn thành nhiệm vụ mà đơn vị và đoàn thể giao cho.

Cụ Nguyễn Thị Thân, 89 tuổi, là thím ruột của Trần Thị Bắc, hiện còn sống tại thôn Xuân Dục Đoài kể lại:

“Bắc là con gái cả trong gia đình, nên sớm biết lo toan công việc, giúp đỡ bố mẹ. Cháu vừa nhanh nhẹn, tháo vát lại đẹp người, đẹp nết, nên đi đâu và làm việc gì cũng đều trót lọt. Có một lần bà Nguyễn Thị Tèo (mẹ của Bắc) bỗng dưng thấy cháu sắm đôi quang thúng mới, bà hỏi: “Con sắm quang thúng để làm gì?”. Bắc hồn nhiên nói với mẹ: “Con tập đi buôn đấy mẹ ạ!”. Ai ngờ chính đôi quang thúng đi buôn ấy, vừa là để che mắt kẻ địch, cũng là nơi cất giấu tài liệu của cô du kích”.

Từ năm 1951, người ta thường thấy ở thôn Đoài có một cô gái hòa lẫn vào trong dòng người đi buôn bán ở khắp mọi nơi. Với đôi quang thúng trên vai, chị đi khắp các hang cùng ngõ hẻm. Những lần mua, bán hàng ấy, chính là lúc chị dò la, thu thập tình hình một cách có hiệu quả nhất để chuyển những tin tức quan trọng ra vùng tự do. Bọn lính Tây và lính ngụy trong vùng đều quá quen thuộc chị, nên không hề có chút nghi ngờ, chúng còn kháo nhau: “Một ngày mà không nhìn thấy cô em Bắc xinh đẹp một lần, thì cả lính Tây cho chí lính ta (ngụy) đều buồn tẻ”. Trước sự mất cảnh giác đó của kẻ thù, Trần Thị Bắc lại càng tỏ ra thông minh, lanh lợi và khôn khéo. Những khi không đi buôn bán, lại thấy chị cầm liềm, quẩy đôi quang gánh lên tận đỉnh núi Đôi để cắt cỏ và không có đồn, bốt nào của địch mà chị lại không biết. Với hình thức hoạt động bán công khai ấy, không những bọn địch không nghi ngờ, mà chúng còn rất quý mến chị. Có những tên chỉ huy, khi vào làng càn quét, đã tìm đến thăm nhà Trần Thị Bắc và có ý ngỏ lời muốn lấy chị làm vợ bé. Lợi dụng tình thế ấy, Trần Thị Bắc đã linh hoạt, chuyển ngay sang hình thức làm công tác binh, địch vận đối với những tên này. Bằng những lời lẽ đầy thuyết phục, chị đã thành công trong việc vận động một người cai trong hàng ngũ lính ngụy và một lính Pháp tự động mang súng ra đầu hàng cách mạng. Nhờ có những thông tin rất quan trọng do chị cung cấp nên một số cơ sở của ta không bị lộ. Đặc biệt là tránh được những tổn thất to lớn đối với số cán bộ đang hoạt động ở trong vùng địch hậu.

Đầu năm 1954, thực dân Pháp tăng cường quân lên Điện Biên Phủ, đồng thời đánh phá quyết liệt, nhằm ngăn chặn sự chi viện của ta cho chiến trường. Để trấn an tinh thần bọn lính Pháp và ngụy quân ở phía sau, chúng ráo riết tổ chức các cuộc vây bắt, lùng sục ở khắp mọi nơi. Vào thời điểm này, Trần Thị Bắc cùng một lúc nhận được hai quyết định của trên, một là về tỉnh để tiếp tục học lớp y tá, hai là về làm công tác quân báo tại huyện đội Đa Phúc (nay là Sóc Sơn), với lý do đã bị lộ, nên trên có ý định chuyển vị trí công tác của chị.

Ông Lê Văn Túc, 77 tuổi, cán bộ lão thành cách mạng thôn Xuân Dục Đoài, tổ trưởng quân báo của huyện lúc đó, kể lại trận chiến đấu cuối cùng của nữ du kích Trần Thị Bắc:

“Hôm đó là ngày 16-3-1954, vào lúc 10 giờ đêm, sau khi đã bố trí xong lực lượng, chuẩn bị cho trận mai phục quân địch ở khu vực chùa Táo, Trần Thị Bắc nhận nhiệm vụ đưa đoàn cán bộ khoảng 30 người, từ vùng địch hậu Lương Châu ra vành đai trắng Phù Linh. Cô đi trước thăm dò, khi đến chân núi Đôi, không may rơi vào ổ phục kích của địch. Chúng bắt cô và bịt miệng cô lại, với ý định sẽ phục chờ và bắt nốt số người đi sau. Biết được âm mưu của địch, Bắc đã chống cự quyết liệt. Cô lao vào tên quan Pháp, túm ngay vào chỗ hiểm, dùng hết sức mình bóp chặt lấy bộ hạ của hắn. Bất ngờ bị đòn đau, tên quan Pháp kêu rống lên như con bò bị chọc tiết. Một tên lính lê dương đứng cạnh đó vội lôi Bắc ra và dùng súng xả trọn một băng vào ngực cô.

Thấy động, đoàn cán bộ của ta đã rút lui an toàn. Còn Trần Thị Bắc đã anh dũng hy sinh, máu chảy loang đỏ trên vầng ngực tròn, căng của cô. Những viên đạn tàn ác của kẻ thù vẫn còn găm nguyên ở đó. Quân địch trên núi Đôi đã dùng súng moóc-chi-ê bắn vòng quanh xác cô. Bất chấp nguy hiểm, anh em trong đội du kích đã vượt qua lửa đạn vào đưa thi thể của Trần Thị Bắc tới nơi Cầu Cốn, Vệ Sơn để làm lễ truy điệu và mai táng cô tại đó với lòng tiếc thương vô hạn của đồng chí, đồng đội và bà con xã Phù Linh”.

Liệt sĩ Trần Thị Bắc, dòng tên em đã khắc vào vách núi còn vang vọng và tỏa sáng về một tấm gương của người con gái núi Đôi, mãi sẽ là niềm tự hào của người dân huyện Sóc Sơn, của Thủ đô anh hùng”.

Nguồn- Báo Quân đội nhân dân


Tiêu đề: Re: Anh hùng LLVTND trong kháng chiến chống Pháp
Gửi bởi: yeulichsu1982 trong 16 Tháng Năm, 2008, 03:18:41 pm
Nữ anh hùng-liệt sĩ Hoàng NgânMột ngày đầu xuân, hoa đào khoe sắc trên nhành non lá mới, tôi được bà Phạm Thị Hiền, em gái liệt sĩ Hoàng Ngân báo tin 3-3-2008 sẽ có mặt tại Trung ương Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam dự lễ đón nhận danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho Bí thư Trung ương đoàn phụ nữ cứu quốc Việt Nam đầu tiên-Hoàng Ngân, người đã hiến trọn 28 tuổi đời cho mùa xuân độc lập, tự do của đất nước.

Tham gia cách mạng từ thuở thiếu niên

Hoàng Ngân tên thật là Phạm Thị Vân sinh năm 1921 tại Hải Phòng, con nhà tư sản dân tộc Phạm Trung Long, từng là phu mỏ, nhờ đóng tàu, thuê người đánh bắt, kinh doanh hải sản, lương thực mà trở nên giàu có. Ông kết duyên với thôn nữ Vũ Thị Đỗi ở làng Cấm (nay là Lê Lợi) Hải Phòng. Gia đình ông Long là cơ sở bí mật của Thành ủy và Xứ ủy Bắc Kỳ từ năm 1935. Với tư chất thông minh, học giỏi, Vân đến với cách mạng rất tình cờ. Một buổi đi học về, thấy trong nhà có khách lạ, bố mẹ tỏ ra quý trọng, mãi sau này Vân mới biết là các đồng chí thường qua lại là Tô Hiệu, Bí thư Thành ủy Hải Phòng; Hoàng Quốc Việt và Hoàng Văn Thụ… Mới 14 tuổi, cô bé nữ sinh Thành Chung xinh đẹp, lanh lợi vừa đi học, vừa đi làm liên lạc, qua mũi bọn mật thám, mã tà, Việt gian đưa thư, công văn cho các chú, các anh từ chợ Sắt, Nhà máy tơ, chợ Cột Đèn qua Bến Bính, Thủy Nguyên… Thấy cán bộ, đoàn thể không có nơi ăn ở, Vân nói với bố mẹ, dành cửa hàng hải sản cũ ở đường Quang Trung, chợ Sắt là nơi buôn bán, đông người qua lại, dễ che mắt mật thám, làm cơ sở nuôi giấu cán bộ, may quần áo, trang bị phương tiện làm việc như máy chữ, xe đạp… cho anh em. Gia đình Vân còn để cửa hàng bán gạo đường Lý Thường Kiệt cho đoàn thể buôn bán, làm chỗ đi lại, gây quỹ hỗ trợ cho cuộc đấu tranh của công nhân… Mới 17 tuổi, thông minh, có tài thuyết phục, vận động quần chúng, Phạm Thị Vân thu hút được lớp trẻ, trí thức, tiểu tư sản và các nhà buôn lớn ở Hải Phòng tham gia ủng hộ cách mạng. Đỉnh cao là cuộc đình công, biểu tình ngày quốc tế lao động 1-5-1938 của hàng nghìn công nhân các nhà máy ở Hải Phòng và khu đấu xảo Hà Nội do Thành ủy Bắc Kỳ chỉ đạo. Phạm Thị Vân còn được giao quyên tiền, lương thực từ gia đình và các cơ sở, quần chúng yêu nước tiếp tế cho cuộc đấu tranh thắng lợi, được báo chí Đông Dương và Pháp đưa tin…

Giặc Pháp bắt một số cán bộ, Vân sa vào tay giặc. Sau nhiều ngày tra khảo, không khai thác được gì chúng buộc phải thả. Phạm Thị Vân tham gia Thành ủy Hải Phòng, được rút đi thoát ly (1939). Cô thiếu nữ xinh đẹp được Bí thư xứ ủy Bắc Kỳ Hoàng Văn Thụ giao làm công tác phụ vận, binh vận, qua lại xây dựng cơ sở cách mạng ở Hà Nội, Hà Đông, Hưng Yên, Hải Dương. Có lẽ trái tim thiếu nữ đã cảm phục, ngưỡng mộ anh Thụ từ thuở ấy?

Phạm Thị Vân hoạt động hăng say, vượt qua mọi gian truân. Đầu năm 1941, anh Thụ, chị Vân đi Quảng Ninh, đến làm việc ở Móng Cái. Đến Đông Triều-Yên Tử, ra bãi tập xem anh Hoàng Oánh học Trường sĩ quan Hoàng Phố (Trung Quốc) về huấn luyện cho đảng viên và anh em cốt cán cách đánh biệt động, đánh du kích. Bài giảng khẩu lệnh nhiều tiếng Hán, tiếng Tây, chị Vân đã tập hợp, viết, dịch, biên soạn thành tiếng Việt, sau khi được anh Thụ, anh Oánh góp ý, chỉnh sửa rồi in thành nhiều bản rô-nê-ô, tài liệu này được dùng huấn luyện cho lực lượng vũ trang Quảng Ninh, Hải Phòng, Hải Dương, chuẩn bị cho cuộc tổng khởi nghĩa tháng 8-1945. Chị Vân cũng lao vào tập lăn lê, bắn súng, gài mìn, ném lựu đạn… Sau này, chị Vân còn phổ biến, huấn luyện một số cán bộ, đội du kích đường 5 mang tên Hoàng Ngân ở Hải Phòng, Hưng Yên, Hải Dương cách đánh phục kích xe ô tô và tàu hỏa địch, gây kinh hoàng cho giặc Pháp.

Tình yêu bất tử Hoàng Văn Thụ - Hoàng Ngân

Năm 1939, chị Vân vừa tròn 18 tuổi, còn anh Hoàng Văn Thụ 30 tuổi (sinh năm 1909). Sau mấy năm, chị Vân tình trong như đã mặt ngoài còn e, rất cảm phục sự thông minh, chỉ đạo hoạt động sát sao, quyết đoán của người con trai dân tộc Tày, xuất thân từ gia đình nhà nho bản Phạc Lạn (huyện Văn Lãng, Lạng Sơn). Anh Thụ cũng rung động trước người thiếu nữ xinh đẹp, có ý chí, nghị lực. Khi được anh Thụ đặt vấn đề muốn xây dựng hạnh phúc với mình, chị Vân chỉ dám nói “em còn phải xin ý kiến gia đình, xin trả lời anh sau”.

Phạm Thị Hiền-em gái chị Vân kể lại: Anh Thụ cử liên lạc về, đưa bố là ông giáo trường làng Hoàng Khải Lan xuống thưa chuyện với gia đình ông Phạm Trung Long cho anh Thụ được làm con rể, chị Vân được làm con dâu ông. Thấy ông Lan dáng cao ráo, hiền lành nho nhã rất hợp, ông Long đồng ý và nhắc hai con phải báo cáo tổ chức công nhận, cách mạng thành công sẽ về chung một nhà. Trong ngày lễ đính ước thiêng liêng đó, anh Thụ, chị Vân cũng chỉ gần nhau ba mươi phút rồi đi…

Nhà văn Hoàng Trung Thu-nguyên Phó chủ tịch Hội văn nghệ tỉnh Lạng Sơn, cháu ruột Hoàng Văn Thụ, cho biết: Sau khi tốt nghiệp cấp III, ông được đồng chí Trường Chinh đón về Hà Nội ở cùng gia đình nuôi 5 năm đại học. Hồi ấy ông Hoàng Khải Lan cũng được Văn phòng Trung ương Đảng đưa xuống sống cùng gia đình đồng chí Trường Chinh. Có lần ông Lan kể lại chuyến đi Hải Phòng ăn hỏi cho anh Thụ, được gia đình ông Long mua vé tàu hỏa ngược lên Lạng Sơn.

Nhà báo lão thành Hoàng Tùng, nguyên Bí thư Trung ương Đảng còn nhớ, Ủy viên Thành ủy Hà Nội Phạm Thị Vân lúc ấy 24 tuổi (năm 1945), được phân công phụ trách một số huyện ngoại thành, kiêm Bí thư phụ vận Bắc Bộ:

“Cô ấy anh dũng, sắc sảo lắm. Là con gái thành thị mà không thuộc dạng tiểu thư. Lúc ấy Ban thường vụ Trung ương Đảng có Tổng Bí thư Trường Chinh, anh Hoàng Văn Thụ và anh Hoàng Quốc Việt. Anh Trường Chinh, anh Việt thay mặt đoàn thể công nhận tình yêu đã đính ước của hai người. Sau khi anh Thụ hy sinh, cô Vân xin được ghép họ hai người thành tên-“Phạm Thị Hoàng Ngân” thường gọi là Hoàng Ngân. Tình yêu và dũng khí Hoàng Văn Thụ chẳng đã ngân vang đó sao? Ông nhắc: “Thái Nguyên nên tạc một bức tượng đá hoa cương đặt trên di tích lịch sử đồi Hoàng Ngân ở An toàn khu (ATK) Định Hóa”.

Biến tòa án, nhà tù thành diễn đàn và trường học cách mạng

Hoàng Văn Thụ lấy bí danh là Vân cùng đồng chí Trường Chinh và Hoàng Quốc Việt (từ 10 đến 19-5-1941) ngược lên Khuổi Nậm, Pác Bó dự Hội nghị Trung ương lần thứ 8 do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chủ trì… Anh Thụ được bầu vào Ban thường vụ trung ương. Cuối tháng 5, chị Vân vui mừng gặp lại anh Thụ tại cuộc họp Xứ ủy Bắc Kỳ ở ngoại ô Hà Đông. Bị giặc Pháp vây, chị Vân chạy ra đến bến tàu điện thì bị bắt. Sau 3 tháng giam cầm tại Hà Đông, ra tòa án, Phạm Thị Vân vạch mặt kẻ thù: “Dân tộc Việt Nam bị bóc lột đến tận cùng, đủ thứ thuế, ác nhất là thuế thân, lại không được học hành, các ông dùng thuốc phiện, rượu cồn làm cho nhân dân ngu muội để dễ bề cai trị. Chúng tôi đấu tranh để đuổi kẻ xâm lược ra khỏi bờ cõi, chứ không phải là những kẻ nổi loạn, vì đây là đất nước chúng tôi”. Bọn quan tòa tức tối đập bàn không cho nói… Chị Vân hô vang: “Chúng tôi phản đối lối xét xử áp đặt thiếu quyền con người…”. Quần chúng dự phiên tòa, gia đình và đồng đội đồng thanh hô: “Phản đối, phản đối…”. Bẽ mặt trước nữ chiến sĩ cộng sản 20 tuổi, tòa án thực dân Pháp kết án Phạm Thị Vân 12 năm tù, biệt giam tại Hỏa Lò (Hà Nội). Chị Vân vận động anh, chị, em tù chính trị đoàn kết, đấu tranh đòi giam chung tù nữ, không cắt tóc tù nữ, đòi ra sân làm cỏ, dọn vệ sinh, phơi nắng… để dễ liên lạc, phối hợp đấu tranh. Cai ngục phải cho chị Vân giam chung. Chị Vân tổ chức học văn hóa, dạy đan, thêu. Ngồi ngay trên sàn nhà tù lạnh giá, chị Vân giảng văn hóa-chính trị cho chị em nung nấu lòng căm thù giặc, vận động chị em tuyệt thực, tố cáo nhà tù cho ăn gạo mốc, cá khô mục nát. Lấy lý do chị, em tù chính trị đau yếu, chị đấu tranh đòi được nhận tiếp tế hằng tháng.

Chị Vân đề nghị đoàn thể liên lạc với cha, mẹ ở Hải Phòng chuẩn bị thuốc men, giấy bút, thực phẩm khô tiếp tế, sau có thêm đường đen và sữa cung cấp cho anh em bị biệt giam. Chị dặn: Mọi thứ đóng trong các vỏ dừa khô, bên trên để mấy quả có mắm tôm, lính Pháp sợ mùi. Cứ mỗi tháng tiếp tế một lần 3 giỏ cói to. Phải cho lão cai ngục một giỏ còn hai giỏ, hai căng tù nam-nữ chia nhau cũng nặng tới 40kg.



Tiêu đề: Re: Anh hùng LLVTND trong kháng chiến chống Pháp
Gửi bởi: yeulichsu1982 trong 16 Tháng Năm, 2008, 03:19:45 pm
Nữ anh hùng-Liệt sĩ Hoàng Ngân (Tiếp theo và hết)
Từ khi chị Vân vào tù (1941-1942), việc tiếp tế do chị Nguyễn Thị Huyền, liên lạc của đoàn thể, cùng bà Vũ Thị Thìn-mẹ kế chị Vân đem vào, sau bọn cai tù không cho người lớn vào, sợ động loạn…

Sau Hội nghị Ban thường vụ Trung ương Đảng (năm 1943) ở Võng La (Đông Anh, Hà Nội) triển khai Nghị quyết: “Toàn bộ công tác của Đảng phải nhằm vào chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang”. Anh Hoàng Văn Thụ đi chỉ đạo công tác vận động binh lính địch bị bắt (21-9-1943) ở ngõ Năm Diêm, khu Tám Mái (nay là khoảng đầu đường Giảng Võ, Hà Nội). Chúng đưa anh vào biệt giam ở nhà tù Hỏa Lò với mức án tử hình. Chị Vân liên lạc xin ý kiến, được anh Thụ phân công phụ trách chi bộ nhà tù, nhận chỉ thị của Xứ ủy Bắc Kỳ, để có sự phối hợp đấu tranh từ bên ngoài.

Chị Vân liên lạc với gia đình đổi cách tiếp tế qua người em gái Phạm Thị Hiền. Sau khi người nhà lo lót cho cai ngục, bé Hiền gầy ốm, bé nhỏ mỗi tháng 2 lần, mặc quần đùi, áo may ô vào nhà tù Hỏa Lò qua cổng có lính gác, còn phu tù chuyển đồ tiếp tế vào. Bé Hiền chỉ việc chạy vào, các chị ôm hôn để rút tài liệu mật giấu dưới đũng quần ra, rồi lại cài thư từ, báo cáo vào để Hiền đem ra ngoài. Cứ thế từ năm 1941 đến 1944, gia đình cùng chị Vân mất bao nhiêu công sức, tiền của mới thiết lập được đường dây tiếp tế cho anh em tù chính trị.

Đôi lần được ra sân làm cỏ, phơi nắng, qua ánh mắt trao gửi của anh Thụ, chị Vân được tình yêu thương tiếp sức. Chị tháo chiếc áo len do em gái mang vào đan thành áo len cổ cao gửi cho anh Thụ. Vào sáng sớm 24-5-1944 giặc Pháp đưa anh Hoàng Văn Thụ đi xử bắn ở Trường bắn Tương Mai. Tất cả anh em tù chính trị Hỏa Lò bừng dậy hét vang phản đối. Chị Ngân ngất xỉu. Anh Hoàng Văn Thụ nêu cao chí khí bất khuất, kiên trung, trong thư gửi chị Vân, anh dặn giữ sức khỏe, tiếp tục cuộc đấu tranh trả thù cho anh, vững bước trên con đường giành độc lập cho nước nhà. Đặc biệt có bài thơ nhắn bạn nổi tiếng không chỉ dành riêng cho chị: Việc nước xưa nay có bại thành/ Miễn sao giữ trọn được thanh danh/ Phục thù chí lớn không hề nản/ Ngọc nát còn hơn giữ ngói lành/ Hỡi bạn xa gần hăng chiến đấu… Chị Vân cùng một số anh chị em tù Hỏa Lò vượt ngục (9-3-1945). Phạm Thị Hiền cùng gia đình đưa chị Vân về ông lang làng Đậu Xá (Nam Trực, Nam Định) chữa trị trong ba tháng, bệnh thuyên giảm, đoàn thể cho đón lên Hà Nội nhận nhiệm vụ lo sắm vũ khí, cướp kho thóc của Nhật để cứu đói. Ngoài em gái Phạm Thị Hiền, tổ chức Đảng còn cử chị Nguyễn Thị Huyền giúp việc, như một nhóm buôn bán đi vận động chuẩn bị tổng khởi nghĩa tháng 8-1945.

Hiến trọn 28 tuổi xuân cho độc lập, tự do của Tổ quốc

Hoàng Ngân được Đảng giao làm thường vụ Khu ủy Liên khu Ba (1946), phụ trách Ban dân vận và phụ vận. Tuy sức khỏe, bệnh tật, còn yếu do di chứng bị đòn tra tấn, cầm cố trong nhà tù, ở tuổi 25 trẻ trung, đầy nhiệt huyết, Hoàng Ngân lao vào làm việc cả ngày. Toàn quốc kháng chiến, Hoàng Ngân cùng cơ quan di chuyển qua Vĩnh Yên, lên Tam Đảo, vượt sang An toàn khu (ATK) của Trung ương ở huyện Đại Từ (Thái Nguyên) trụ lại ở một bản gần Gốc Hồng, cạnh Đèo Khế. Tháng 10 năm 1947, Hoàng Ngân được bầu làm Bí thư Trung ương Đoàn phụ nữ cứu quốc Việt Nam đầu tiên (nay là Trung ương Hội phụ nữ Việt Nam). Năm 1948, trước yêu cầu của việc tuyên truyền, vận động đoàn kết phụ nữ kháng chiến, kiến quốc, Hoàng Ngân sáng lập tờ báo Phụ nữ Việt Nam kiêm Tổng biên tập đầu tiên của báo… Là một trong số lãnh đạo Trung ương còn rất trẻ, 27 tuổi, xông xáo, có trình độ, dày dạn kinh nghiệm, Hoàng Ngân vừa lo ổn định nơi ăn, ở, tổ chức bộ máy, xây dựng đoàn Phụ nữ cứu quốc các tỉnh, huyện, xã… vận động chị em tích cực tham gia phong trào “Mùa đông binh sĩ”, hội “Mẹ chiến sĩ”, “Đón thương binh về làng”, “Thi đua ái quốc”, thành lập đội du kích vùng sau lưng địch… đưa hoạt động của phụ nữ cứu quốc Việt Nam lên tầm cao mới.

Tại Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam, chúng tôi được bà Lưu Thị Liên là giao thông của Trung ương Đoàn phụ nữ cứu quốc khi mới 15 tuổi, nay đã vào tuổi 74, cho biết: “Do những vết thương bị tra tấn tù đày tái phát, bị sốt rét ác tính, ngày 17-7-1949 chị Hoàng Ngân được tôi, chị Thảo, chị Nhi, chị Thư, chị Ngọc Khanh, chị Thủy, chị My và anh Hồng bên Nông hội cáng đưa sang y xá Trần Quốc Toản (nay là Bệnh viện 354 Bộ Quốc phòng) ở Mỹ Yên (Đại Từ). Chị hy sinh lúc 17 giờ ngày 17-7-1949. Các y-bác sĩ và chị em thương tiếc Hoàng Ngân khóc như mưa. Lúc này gia đình ông Long đang tản cư ở Thái Bình, được chị Cảnh-bí thư phụ nữ cứu quốc huyện báo tin. Ông Long cùng Phạm Thị Hiền được liên lạc đưa đi hơn hai ngày đêm tới Mỹ Yên dự lễ truy điệu do đồng chí Hoàng Quốc Việt, Ủy viên thường vụ Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Tổng bộ Việt Minh làm trưởng ban lễ tang, đưa chị về nơi yên nghỉ cuối cùng, an táng tại quả đồi cao, đến nay vẫn được chính quyền, người dân gọi là đồi Hoàng Ngân.

Trong mái lán vầu cọ Phủ Chủ tịch đơn sơ ở ATK Định Hóa, ông Long được Bác Hồ mời ăn cơm. Bác cảm ơn ông bà đã sinh ra, nuôi dạy người con thông minh, dũng cảm, tận tụy hết lòng: “Gia đình ta mất đi một người con trung hiếu, Chính phủ ta mất đi một nữ cán bộ trẻ thông minh, xuất sắc”. Ông Long còn được Chủ tịch Hồ Chí Minh mời đến thăm hỏi, tặng hoa sau khi thành phố Hải Phòng đón Bác về thăm (1954). Đến năm 1956 ông Long đi dự Đại hội Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần I ở Hà Nội được Bác Hồ tặng một áo ba-đờ-suy bằng dạ. Đáp ứng nguyện vọng của gia đình, ngay trong năm ấy Bác cho đại diện Văn phòng Chính phủ, Trung ương Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Văn phòng Quốc hội cùng ông Phạm Trung Long, Phạm Trung Điền lên Đại Từ cùng đảng bộ huyện, xã và nhân dân Mỹ Yên làm lễ, đưa hài cốt Hoàng Ngân về cùng phần mộ anh Hoàng Văn Thụ ở nghĩa trang Mai Dịch (Hà Nội).

Trung ương Đoàn phụ nữ cứu quốc Việt Nam chuyển lên đồi Pù Ngạm Ngà, xã Điềm Mặc, ATK Định Hóa được Bác Hồ cho đặt tên là đồi Hoàng Ngân. Ở Nam Định, Hải Phòng có đường, phố Hoàng Ngân. Đảng, Nhà nước truy tặng Hoàng Ngân huân chương Độc lập (14-7-2003). Ngày 5 tháng 12 năm 2007, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết ký Quyết định số 1481/2007/QĐ/CTN truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân cho liệt sĩ Phạm Thị Vân (Hoàng Ngân), Bí thư Trung ương Đoàn phụ nữ cứu quốc Việt Nam hy sinh ngày 17-7-1949.

Tôi đã hai lần gặp bà Phạm Thị Hiền, nay đã 75 tuổi cùng em gái Phạm Thị Nguyệt trở lại ATK Định Hóa trao học bổng của Hội đồng hương Hải Phòng ở Thành phố Hồ Chí Minh cho con em xã Điềm Mặc. Ở Hà Nội bà còn em trai Phạm Trung Điền. Bà Hiền rất mong Thái Nguyên có xã, đường, phố mang tên Hoàng Ngân-người nữ anh hùng hiến trọn 28 tuổi xuân cho độc lập, tự do của Tổ quốc.

Nguồn- Báo Quân đội nhân dân


Tiêu đề: Re: Anh hùng LLVTND trong kháng chiến chống Pháp
Gửi bởi: yeulichsu1982 trong 16 Tháng Năm, 2008, 04:03:05 pm
Tiếng bom Ngô Mây
“Thưa mẹ, mẹ đừng buồn. Con sẽ chết một cái chết sướng nhất đời. Mẹ hãy vui lên vì mẹ có một người con xứng đáng đã làm tròn nhiệm vụ...”. Đó là những dòng thư cuối cùng mà Ngô Mây-người chiến sĩ Quyết tử quân của quê hương Bình Định viết cho mẹ anh trước ngày lên đường làm nhiệm vụ ôm bom lao vào diệt địch, cản bước tiến quân thù. Lá thư này được Phó thủ tướng Phạm Văn Đồng trích đăng trong cuốn “Những người con ưu tú của Hồ Chủ tịch”, và trong đó, Ngô Mây-tên người Quyết tử quân anh dũng được nêu ở trang đầu...

Ngô Mây sinh tại thôn Viên Triêm, xã Cát Chánh, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Bố mất sớm, mẹ chỉ có anh là người con duy nhất. Cuối năm 1946, giặc Pháp xâm chiếm toàn bộ Tây Nguyên và lăm le tràn xuống Bình Định. Ngô Mây xin mẹ đi bộ đội, anh gia nhập đại đội Quyết tử quân.

Mùa hè năm 1947, quân Pháp đánh mạnh ở An Khê. Đại đội quyết tử được lệnh chặn đánh địch tại đèo An Khê. Nhưng đánh địch bằng cách nào khi bọn chúng có xe tăng, đại bác, súng lớn, súng nhỏ ầm ầm còn cả đại đội chỉ có một khẩu trung liên của Pháp đã cũ với một vài khẩu súng trường, lựu đạn, kinh nghiệm chiến đấu chưa có... Bàn đi tính lại cuối cùng chỉ còn một cách: lấy tinh thần quyết tử vì Tổ quốc để làm tròn nhiệm vụ. Đại đội liền mở một cuộc lựa chọn người tình nguyện ôm bom xả thân diệt địch. Hơn 40 chiến sĩ xung phong nhận nhiệm vụ. Đại đội trưởng đếm xong, mọi người hạ tay xuống, duy còn một cánh tay vẫn giơ thẳng. Đó là Ngô Mây, anh sợ đại đội trưởng đếm sót mình nên vẫn chưa bỏ tay xuống. Sau khi cân nhắc, ban chỉ huy đại đội đã trao cho anh nhiệm vụ vinh quang đó.

Trận chiến đấu với địch trong rừng Suối Vôi, ngày 24-10-1947 diễn ra vô cùng ác liệt. Sau nửa giờ chiến đấu ta diệt được hơn một tiểu đội địch thì khẩu trung liên của đại đội bị tắc, địch lợi dụng thời cơ đánh lên dữ dội. Theo kế hoạch đã định, đại đội trưởng ra lệnh rút quân. Lúc đó, Ngô Mây vẫn bình tĩnh ngồi yên trong bụi rậm, chờ cho quân địch tiến lại đông hơn anh mới ôm bom lao vào giữa đội hình của chúng. Quân giặc còn chưa hết ngỡ ngàng thì một tiếng nổ vang lên. “Quả bom Ngô Mây” đã tiêu diệt hơn một trung đội lính lê dương, mở đường cho toàn đại đội xông lên đánh tan cuộc tiến công của chúng.

Tiếng bom Ngô Mây đã làm rung chuyển tinh thần quân viễn chinh Pháp và cổ vũ mạnh mẽ ý chí chiến đấu của bộ đội Liên khu 5, làm bùng lên phong trào giết giặc lập công khắp mặt trận nam Trung bộ. Ngô Mây đã hy sinh nhưng như lời bài hát ca ngợi anh do nhạc sĩ Nguyễn Đức Toàn sáng tác, thì “tiếng bom anh vang vọng mãi ngàn năm... Máu hùng anh tô thêm cờ vàng sao đỏ thắm vinh quang...”. Liệt sĩ Ngô Mây là người đầu tiên được Đảng, Nhà nước ta truy phong Anh hùng LLVT nhân dân.



Tiêu đề: Re: Anh hùng LLVTND trong kháng chiến chống Pháp
Gửi bởi: panphilov trong 08 Tháng Sáu, 2008, 02:01:27 am
(http://img444.imageshack.us/img444/9658/anhhungtrancuth3.jpg)

Anh hùng Liệt sĩ Trần Cừ (1920-16/8/1950), Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân (Truy tặng 1955), Khi hy sinh anh là đảng viên, đại đội trưởng bộ binh đại đội 336, tiểu đoàn 174, trung đoàn 209, Sư đoàn 312.

Huân chương Quân công (hạng Nhì, hạng Ba), Huân chương Chiến công hạng Nhất.


Anh quê ở Khoái Thọ, Đức Bác, Lập Thạch, Vĩnh PhúcTừ tháng 8 năm 1945 đến tháng 10 năm 1950, Anh chiến đấu trên chiến trường Việt Bắc, rèn luyện và trưởng thành từ chiến sĩ lên đại đội trưởng và đã từng tham gia hàng chục trận chiến đấu, trận nào anh cũng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

Lúc đó Quốc Dân Đảng phản động cấu kết với quân Nhật kéo đến Vĩnh Yên, Việt Trì và một số nơi khác với âm mưu ngóc đầu dậy. Trần Cừ dẫn đầu một tiểu đội tham gia trận đánh giáp lá cà với địch và chính Anh đã đâm chết một tên Nhật và thu một khẩu súng. Tại Cầu Oai (Vĩnh Yên), vào đầu năm 1946 đã diễn ra cuộc chiến đấu ác liệt chống bọn Quốc Dân Đảng phản động. Trần Cừ đã chỉ huy đơn vị dùng súng tiểu liên tiêu diệt hai tiểu đội địch, giữ vững trận địa, buộc chúng phải rút chạy về thị xã Vĩnh Yên.

Thu đông năm 1947, đơn vị Anh được giao nhiệm vụ tham gia chiến dịch Việt Bắc. Trần Cừ cùng đơn vị chuẩn bị trận địa trên địa bàn xã Sơn Đông, bên bờ sông Lô. Được chiến đấu ngay trên mảnh đất quê hương, Trần Cừ hạ quyết tâm phải bắt kẻ thù phải trả nợ máu.

Cuối tháng 12 năm 1947, dọc theo sông Lô một cánh quân của địch từ Việt Bắc rút về, tràn vào thôn Phú Hậu càn phá. Trung đội của Trần Cừ đã cùng bộ đội địa phương của huyện Lập Thạch và du kích xã phối hợp chiến đấu. Bọn địch cậy thế mạnh, với 4 máy bay khu trục và hai ca nô yểm hộ, chúng hung hăng ra sức cướp phá. Bộ đội và dân quân du kích đã bám sát từng bờ tre, ngõ xóm nổ súng đẩy lùi nhiều đợt tiến công của địch, buộc chúng phải rút về căn cứ. Trận đánh thắng này có tiếng vang lớn được liên khu và đã được lãnh đạo tỉnh gửi thư khen ngợi động viên cán bộ, chiến sỹ. Với Trần Cừ, trận chiến đấu này là một thử thách ban đầu, thể hiện sự trưởng thành của Anh. Sau gần ba năm chiến đấu dũng cảm, được quân đội bồi dưỡng, giáo dục Trần Cừ, được vinh dự kết nạp vào Đảng năm 1948. Khi chuyển sang trung đoàn 209 Anh cùng đồng đội lập được nhiều chiến công ở suối Rút (Hoà Bình tháng 11 năm 1949), Xuân Đại, đầu năm 1950.

Trong chiến dịch Biên giới cách đánh không phải là cách đánh lối du kích, chống càn, do vậy, người chỉ huy trực tiếp, ngoài mưu trí và dũng cảm ra còn phải có sự hiểu biết và trình độ chỉ huy hiệp đồng tác chiến, trình độ sử dụng vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự mới, Anh đã được đơn vị cử sang Trung Quốc học. Tốt nghiệp khoá học, Anh trở về vào đúng lúc chiến dịch giải phóng biên giới mở màn.

Khi trở về đơn vị, ngay trong đêm đầu tiên, Trần Cừ không sao ngủ được bởi chiến dịch biên giới đã bắt đầu. Anh nghĩ, ngày mai, ở mặt trận Đông Khê, những trận chiến đấu sẽ diễn ra quyết liệt, trong đó, có đại đội 336 do chính Anh là chỉ huy. Trước đó khoảng một tháng, cùng với các đơn vị bạn, cũng tham gia chiến đấu, được học tập rất kỹ về mục đích, ý nghĩa và tầm quan trọng của chiến dịch. Đơn vị của Anh được bổ sung thêm quân số, tăng cường hậu cần và khẩn trương ôn luyện kỹ, chiến thuật. Cả đại đội tràn đầy phấn khởi, tin tưởng và báo cáo lên cấp trên lời hứa quyết tâm đánh thắng.

Những gì học được ở nước bạn, Anh ứng dụng ngay vào trận đánh Đồn Đông Khê là một cứ điểm rất kiên cố và có tầm quan trọng của địch trên tuyến biên giới Cao Bằng – Lạng Sơn và nước bạn Trung Quốc. Đánh thắng Đông Khê, sẽ làm cho tuyến phòng thủ của địch bị chia cắt, tạo cơ hội cho bộ đội ta tiêu diệt địch. 18h ngày 16 tháng 8 năm 1950, đạn pháo của ta đồng loạt dội vào cứ điểm Đông Khê mở màn cho chiến dịch. Các chiến sỹ bộ binh dũng mãnh xông lên dùng bộc phá mở cửa, lần lượt đánh chiếm các vị trí vòng ngoài và phát triển vào khu trung tâm. Trần Cừ bình tĩnh chỉ huy đại đội, dùng nhiều cách đánh khác nhau, tiêu diệt từng vị trí của địch và hướng dẫn kịp thời pháo binh chi viện. Địch phản công mãnh liệt từ các hoả điểm, gây cho ta một số thương vong. Trần Cừ xông xáo đến từng ụ chiến đấu, động viên chiến sỹ giữ vững tinh thần, kiên quyết bám trận địa, hiệp đồng tác chiến với đơn vị bạn. Nhưng lúc này trời gần sáng, mục tiêu chủ yếu của trận đánh chưa giải quyết được, theo lệnh của cấp trên, Trần Cừ cử một lực lượng nhỏ cùng mình ở lại kiềm chế hoả lực địch rồi ra lệnh cho đơn vị rút ra ngoài, tổ chức cho đại đội rút kinh nghiệm, chấn chỉnh các tiểu đội và xây dựng cho anh em một quyết tâm lớn để trận đánh thứ hai đạt kết quả hơn.

Đến 17 tháng 9 bắt đầu trận tiến công lần thứ hai; Trong trận này Anh làm đại đội trưởng, đại đội 336 là lực lượng chủ công của trung đoàn, Anh đã chỉ huy đơn vị đánh thẳng vào hầm chỉ huy của địch. Hoả lực bắn dữ dội, hòng chặn đứng các mũi tiến công của ta. Trần Cừ bình tĩnh chỉ huy đại đội vượt qua làn mưa đạn, chiếm khu vực Kỳ Sấu rồi đánh toả lên khu nhà thương. Địch rút xuống hầm cố thủ và ném lựu đạn như mưa ra ngoài. Dưới sự chi viện của hoả lực, bộ đội ta khẩn trương vận động áp sát vào lô cốt địch, dùng bộc phá diệt địch. Lúc xông lên, Trần Cừ bị thương nặng vào chân.

Trời sắp sáng, chiến sỹ ta xung phong mấy lần vẫn chưa diệt được đồn địch. Trong đồn địch còn khoảng 100 tên, Anh cầm lựu đạn hô anh em cùng ném vào lỗ châu mai. Khói toả mù mịt, lợi dụng thời cơ tốt, Trần Cừ hô lớn: “Hồ Chủ tịch muôn năm, Đảng Cộng sản Đông Dương muôn năm”, rồi vùng lên ném quả thủ pháo cuối cùng vào lỗ châu mai và dùng cả thân mình bịt kín lỗ châu mai, hoả điểm của địch bị tiêu diệt. Chiến sỹ ta ào lên, dùng bộc phá đánh sập lô cốt cố thủ của địch, trận Đông Khê thắng lợi. Noi gương đại đội trưởng Trần cừ, các chiến sỹ đại đội 336 đã dồn ý chí quyết tâm vào những trận chiến đấu tiêu diệt địch trên đường số 4, góp phần làm nên chiến thắng vẻ vang của chiến dịch biên giới.



Tiêu đề: Re: Anh hùng LLVTND trong kháng chiến chống Pháp
Gửi bởi: panphilov trong 08 Tháng Sáu, 2008, 02:18:23 am
(http://img353.imageshack.us/img353/654/lstranthibacpc6.jpg)

Liệt sĩ Trần Thị Bắc (1932-21/3/1954), chị là nữ nguyên mẫu trong bài thơ Núi đôi của Đại tá nhà báo, nhà thơ Quân đội Vũ Cao.

Trần Thị Bắc là con gái đầu của một gia đình có truyền thống yêu nước. Các bác, các cậu của cô đều là cơ sở của Cách mạng, là du kích. Có người là liệt sỹ, có người từng bị giặc bắt. Bố cô những năm đó cũng là xã đội phó xông pha gan dạ, bị địch bắt tra tấn chết đi sống lại.

Lớn lên giữa những người như vậy, mới chỉ 15 tuổi Bắc đã tham gia các hoạt động của các đoàn thể. 17 tuổi cô vào đội du kích với nhiệm vụ làm giao thông liên lạc, tiếp tế cho đội du kích trong những lần đi bắn tỉa đồn Tây. Năm 1950, cô được cử đi học y tá rồi trở về kiêm nhiệm thêm việc cứu thương. Có lần theo đội du kích đi bắn tỉa, cô bị đạn của kẻ thù bắn xướt qua mặt để lại vết thương ngay dưới khoé mắt. Nhưng cô không hề biết sợ hãi.

Là một cô gái xinh đẹp, hát hay và khéo ăn nói, năm 1951, Bắc được giao cả 3 nhiệm vụ: quân báo, cứu thương và binh vận.


Thời đó, người ta thấy có một cô gái hàng ngày quẩy gánh đi buôn bán, chiều chiều lại quanh quẩn quanh khu đồn Tây để cắt cỏ. Những tên lính đồn chẳng những không nghi ngờ mà còn tỏ ra quý mến Bắc. Cô ra vào đồn Tây tương đối dễ dàng, gánh nước giúp bọn lính đồn, lân la trò chuyện với chúng. Bắc làm quen được với những tên Tây chỉ huy để thăm dò tin tức và gây dựng được một nhân mối bao gồm hai cai ngụy, một người làm thợ mộc trong đồn Tây và một vợ Tây… Những người này đã thường xuyên cung cấp cho Bắc những thông tin về kế hoạch hoạt động của lính đồn, nhiều điều cơ mật của địch. Với những thông tin quý báu do Bắc đem về, quân ta đã tránh được rất nhiều tổn thất trong cuộc đấu tranh với quân Pháp. Sau này, khi nguy cơ bọn Pháp có thể lần ra nhân mối, cô đã tìm cách đưa hai người cai ngục được giác ngộ chạy thoát ra vùng kháng chiến.

Vào ngày 12/3/1954, nhóm cán bộ của ta họp tại Lương Châu để chuẩn bị cho kế hoạch đánh phục kích địch. Tiên lượng sau khi ta đánh thì địch sẽ tức tối điên cuồng và tổ chức vây ráp càn quét, cấp trên lệnh rút bớt cán bộ nằm vùng ra vùng tự do để tránh tổn thất. Đoàn cán bộ di chuyển ra vùng tự do ngay trong đêm hôm đó gồm có trên 30 người. Bắc được cử dẫn đoàn đi vì hai lẽ: Cô thông thạo địa bàn, gan dạ và khôn khéo trong ứng phó khi có tình huống xấu. Mặt khác, bản thân cô cũng có dấu hiệu bị lộ, nên đã được lệnh chuyển công tác, hoặc sẽ về làm quân báo của huyện đội hoặc về phòng y tế huyện.

Ngày 21/3 cũng là ngày Bắc về Núi Đôi thì gặp ổ phục kích của địch. Bọn địch bắt được Bắc, bịt miệng cô dự định ém chờ bắt nốt những người đi sau. Biết điều đó, Bắc đã chống cự quyết liệt. Cô cố kêu to và lao vào tên Tây chỉ huy túm lấy bộ hạ hắn. Tên này đau điếng quên mất việc lớn, kêu rống lên. Một tên lính lê dương đứng cạnh đã lôi Bắc ra và xả trọn băng đạn vào ngực cô. Đoàn cán bộ của ta ra khỏi Lương Châu nghe tiếng súng biết là bị lộ đã lui lại chờ đến khi địch rút. Khi anh em du kích và quân báo huyện tới nơi Bắc giằng co với địch thì Bắc đã hy sinh. Máu loang đỏ ối trên ngực cô bắt đầu se lại. Những viên đạn của kẻ thù vẫn còn găm nguyên ở đó. Bắc được anh em thay nhau cõng vượt vành đai trắng ra đến Cầu Cốn-Vệ Sơn-xã Tân Minh và được đồng đội an táng ở đây.

Sau này khi Phù Linh được công nhận là xã anh hùng và chuẩn bị xét chọn phong tặng danh hiệu anh hùng đối với một số cá nhân xứng đáng. nhiều người đã có ý kiến: Phải truy tặng danh hiệu anh hùng cho cô gái Núi Đôi năm xưa. Tuy thành tích của liệt sĩ Trần Thị Bắc khiêm nhường hơn những bậc cha chú đi trước nhưng cô lại được lòng dân yêu mến, bởi cô đã sống đẹp và dám chết khi cần thiết. Cũng phải nói thêm, phải đến lần thứ ba chuyển mộ và sau khi bài thơ "Núi Đôi" của nhà thơ Vũ Cao ra đời vào năm 1956, Trần Thị Bắc mới được công nhận là liệt sĩ. Tuy nhiên trong lòng dân và trong trái tim những người thân đồng đội, Bắc vẫn đẹp và còn mãi.


Tiêu đề: Re: Anh hùng LLVTND trong kháng chiến chống Pháp
Gửi bởi: panphilov trong 08 Tháng Sáu, 2008, 02:23:56 am
(http://img512.imageshack.us/img512/119/hoangnganyb8.jpg)

Hoàng Ngân (1921-1949), quê gốc ở Nam Định sinh trong một gia đình tiểu thương ở phố Savatxiơ (phố Quang Trung - Hải Phòng ngày nay). Tên thật là Phạm Thị Vân. Do sức người gầy yếu, không học được lên cao nữa, Hoàng Ngân ở nhà giúp mẹ bán hàng. Hoàng Ngân lớn lên trong không khí cách mạng sôi sục. Những cuộc bãi công của công nhân, cuộc đấu tranh của tiểu thương chợ Sắt đã tác động mạnh mẽ đến tư tưởng tình cảm của Hoàng Ngân. Đặc biệt thời kỳ Mặt trận dân chủ (1936 1939) phong trào đòi dân sinh dân chủ diễn ra sôi nổi ở Hải Phòng. Các tổ chức ái hữu, nghiệp đoàn của công nhân học sinh, tiểu thương, trí thức... không ngừng hoạt động. Sách báo của Đảng cộng sản được lưu hành công khai. Các cuộc đình công, biểu tình diễn thuyết, bãi thị, bãi khoá... thường xuyên nổ ra khắp nơi trong thành phố. Hoàng Ngân hoà mình vào trong phong trào cách mạng của thành phố. Chị hăng hái tham gia tổ chức Thanh niên dân chủ. Được các đồng chí trong tổ chức tin tưởng, hết lòng giúp đỡ Hoàng Ngân càng tích cực lao vào công tác, đi sâu sát vào quần chúng. Năm 1938, Hoàng Ngân được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương, khi  mới 17 tuổi. Từ đó, Hoàng Ngân tạm biệt gia đình đi hoạt động thoát ly. Chị được phân vào nhà máy Tơ, máy Chai, chợ Sắt... hoạt động xây dựng cơ sở quần chúng và hướng dẫn họ đấu tranh. Hoàng Ngân trở thành người cán bộ có tài vận động quần chúng công nhân và nhân dân lao động thành phố Hải Phòng chống  áp bức bóc lột. Là đảng viên trẻ, có bản lĩnh, có tinh thần trách nhiệm, Hoàng Ngân được phân công đảm nhiệm việc liên lạc giữa Xứ uỷ Bắc Kỳ với Trung ương Đảng và là một trong những cán bộ chủ chốt của Đảng bộ Hải Phòng.

Năm 1939, thực dân Pháp điên cuồng đàn áp phong trào cách mạng tại Hải Phòng, Ban cán sự Đảng phát động quần chúng đấu tranh chống thuế cư trú, thuế đèn, thuế nước. Hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng, ngày 30/5/1939, hơn một vạn nhân dân thành phố tập trung tại ngã tư phố Bắc Ninh (nay là phố Lãn Ông) sau đó kéo lên toà Đốc Ký đấu tranh. Khi đoàn biểu tình đến sở Cẩm thì bị binh lính và cảnh sát đàn áp. Hàng trăm người bị chúng bắt giữ, trong số đó có đồng chí Tô Hiệu, Bí thư Thành uỷ và Hoàng Ngân (ngay sau đó Tô Hiệu được đoàn biểu tình vây quanh bảo vệ để đồng chí thoát ra ngoài).

Trong nhà giam, Hoàng Ngân tiếp tục động viên mọi người đấu tranh với địch. Sau ba tháng giam giữ, không có chứng cớ gì, chúng phải trả tự do cho chị và những người bị bắt. Nói về cuộc đấu tranh này, tài liệu của mật thám Pháp ghi Trong số 250 người biểu tình bị bắt và thẩm tra căn cước, có 70 người trong đó bị đưa ra truy tố trước toà án. Mật thám Hải Phòng đặc biệt chú ý sự có mặt của Nguyễn Thị Khánh, Phạm Thị Vân, Bích Kim, Nguyễn Thị Nghĩa... Phần lớn những người này quen thuộc vì đã giữ một vai trò trong phong trào Ái hữu nghề nghiệp và trong những cuộc đình công, đã xảy ở Hải Phòng trong những năm tháng vừa qua. Trong đêm 30 rạng ngày 31 họ vẫn không ngừng biểu tình trong các nhà giam của sở cảnh sát Hải Phòng để nhấn mạnh hơn nữa khuynh hướng cực đoan của họ...

Rời khỏi trại giam Hoàng Ngân tiếp tục đi hoạt động cách mạng , mặc dù chị rất thông cảm với tình yêu thương của gia đình và người mẹ quý mến. Hoàng Ngân được chỉ định phụ trách công tác vận động phụ nữ Hải Phòng và cũng từ đây bắt đầu sự nghiệp hoạt động cho phong trào phụ nữ Việt Nam. Trong những năm 1941 1942, Hoàng Ngân làm liên lạc cho đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ.v.v. Xứ uỷ điều chị về phụ trách công tác phụ nữ ở tỉnh Hà Đông, rồi tỉnh Sơn Tây. Năm 20 tuổi, Hoàng Ngân tham gia Ban thưòng vụ Hội phụ nữ giải phóng Bắc Kỳ. Tháng 1/1944, Hoàng Ngân dự hội nghị cán bộ ở Hà Đông. Cuộc họp đang tiến hành thì bị địch bao vây. Chị giúp các đồng chí mình trốn thoát, còn bản thân bị địch bắt. Chị bị kẻ thù tra tấn dã man chết đi sống lại nhiều lần những chúng không khuất phục nổi khí tiết của người cộng sản. Chúng đành kết án chị Ngân 12 năm tù và giam tại Hoả Lò (Hà Nội). Ở trong tù, Hoàng Ngân vẫn vận động anh chị em tù đấu tranh đòi cải thiện chế độ sinh hoạt, chống đàn áp, khủng bố. Những trận đòn dã man của kẻ thù đã làm cho chị mắc chứng đau đầu, nhiều lúc như điên dại.

Ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp. Lợi dụng thời cơ, Đảng bố trí cho Hoàng Ngân vượt ngục. Trở về chị được phân công là Bí thư Đoàn Phụ nữ cứu quốc Hà Nội.

Trong những ngày chuẩn bị tổng khởi nghĩa ở Hà Nội và những ngày đầu của chính quyền cách mạng, Hoàng Ngân đã tổ chức đội nữ du kích Minh Khai để học tập, rèn luyện, sẵn sàng chiến đấu. Nam nữ thanh niên Thủ đô thời ấy gọi chị với cái tên rất thân thương 'Chị Sáu' và hăng hái tham gia tổng khởi nghĩa.

Năm 1946, Hoàng Ngân được Xứ uỷ cử làm Bí thư Đoàn Phụ nữ cứu quốc tỉnh Hải Dương. Tại đây Hoàng Ngân tích cực củng cố cơ sở, huấn luyện cán bộ và Hải Dương được đánh giá là địa phương có phong trào phụ nữ mạnh.

Đầu năm 1947, Hoàng Ngân được bầu vào khu uỷ khu 3, phụ trách công tác dân vận và khu hội phụ nữ. Cuối năm chị được cử làm Bí thư trung ương lâm thời đoàn Phụ nữ cứu quốc Việt Nam. Tiếp đó trong Hội nghị cán bộ phụ vận toàn miền Bắc vào cuối năm 1947, chị được bầu làm Bí thư Ban Phụ nữ cứu quốc Bắc bộ. Hoàng Ngân làm việc không biết mệt mỏi, hết lòng chỉ dẫn, dìu dắt cán bộ đồng thời tranh thủ thời gian học tập văn hoá, lý luận chính trị để nâng cao trình độ. Những năm 1948 1949, cuộc kháng chiến chống Pháp vào giai đoạn quyết liệt, điều kiện công tác , đời sống vô cùng khó khăn, cơ quan Hội liên hiệp phụ nữ luôn phải di chuyển từ Thái Nguyên lên Bắc Cạn, xuống Bắc Giang, lại về Hà Nam... Hoàng Ngân vẫn xông xáo lo toan, cùng các chị lãnh đạo Hội duy trì liên lạc, nắm chắc và đẩy mạnh hoạt động của phong trào phụ nữ kháng chiến.

Tờ báo Phụ nữ  số 1 và số 2 phát hành đầu năm 1948 có sự đóng góp lớn của Hoàng Ngân. Bài xã luận đầu tiên do chị viết đăng trang 2 số báo đầu tiên, tiếp sau trang 1 đăng bức thư của Bác Hồ có chữ ký của người gửi báo Phụ nữ Việt Nam, từ lâu đã trở thành kỷ niệm vô giá.

Do bệnh tật dày vò, ngày 17/7/1949, sau một cơn đau nặng Hoàng Ngân đã qua đời tại chiến khu Việt Bắc khi mới 28 tuổi đời.

Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Hoàng Ngân lúc nào cũng tỏ ra vững vàng, bất kỳ ở cương vị nào cũng nêu tấm gương sáng tận tuỵ hy sinh. Sau khi chị qua đời, nhiều nơi đã có những hình thức tưởng  niệm hết sức nghĩa tình.

Ngọn đồi, nơi cơ quan Trung ương Hội Phụ nữ cứu quốc Việt Nam đặt trụ sở, được mang tên Hoàng Ngân. Các tỉnh đội Hải Dương, Hưng Yên, Thái Bình đã tổ chức những đội du kích Hoàng Ngân. Tỉnh hội Hưng Yên còn lập một trường đào tạo cán bộ nữ mạng tên chị.

Với Hải Phòng, một đường phố gần nơi nhà xưa chị ở được đặt tên phố Hoàng Ngân.

Theo trang tin điện tử thành phố Hải Phòng.



Tiêu đề: Re: Anh hùng LLVTND trong kháng chiến chống Pháp
Gửi bởi: panphilov trong 08 Tháng Sáu, 2008, 02:28:25 am
(http://img296.imageshack.us/img296/3252/buithicucjm6.gif)

Anh hùng Liệt sĩ Bùi Thị Cúc (1930-1951), Anh hùng Lực lượng Vũ trang Công an Nhân dân (Truy tặng; 1955).

Bùi Thị Cúc tên thật là Trần Thị Lan, sinh năm 1930, tại làng Vân Mạc, một làng nhỏ thuộc xã Vân Du, huyện Ân Thi. Gia đình đông con, ông bố mất khi Cúc còn nhỏ, để lại nhiều nợ nần. Bà mẹ không trả được, phải gán Cúc làm con nuôi cho một người làng bên để trừ một khoản vay nợ.

Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, các anh trai đi bộ đội, hoặc công tác địa phương. Bùi Thị Cúc làm cán bộ phụ nữ ở thôn, được kết nạp Đảng, sau đó làm cán bộ Huyện hội phụ nữ Ân Thi. Những năm 1947-1950, thực dân Pháp đánh chiếm các huyện vùng nam Hưng Yên, chúng cấu kết với bọn tay sai phản động đóng nhiều đồn bốt, lập tề, thường xuyên càn quét, cướp bóc. Ở bốt Cảnh Lâm gần Vân Mạc, tên Nguyễn Doan Nhi, vốn là một cán bộ địa phương đã phản bội, cùng anh rể và anh trai làm sếp bốt và phòng nhì, có nhiều thủ đoạn thâm độc bắt giết cán bộ, khủng bố nhân dân. Huyện ủy Ân Thi cử Bùi Thị Cúc đóng vai là người cầu an bỏ nhiệm vụ về gia đình buôn bán ở chợ Cảnh Lâm để làm nhiệm vụ địch vận, phản gián.

Chị đã chịu đựng sự dị nghị của gia đình và dân làng tìm cách làm thân với tên Nhi, giả vờ nhận lời yêu hắn để khai thác tin tức hoạt động của bọn địch trong vùng, báo cáo với cấp trên. Chị còn khéo léo thuyết phục tên Nhi nhận cả anh Đệ, người yêu của chị, là công an hoạt động bí mật làm “chỉ điểm” cho chúng, cấp giấy phép cho anh Đệ được ra vào bốt Cảnh Lâm. Qua một số lần làm thất bại âm mưu bắt bớ, càn quét của địch, chúng có dấu hiệu nghi vấn chị Cúc và anh Đệ. Cấp trên chủ trương cho hai người tìm cách trừ khử tên Nhi và sau đó rút ra ngoài. Thực hiện chủ trương đó, Bùi Thị Cúc đã bố trí một cuộc hẹn hò với tên Nhi ở làng Vân Mạc. Nguyễn Doãn Nhi đã trúng kế, xuống làng một mình bị người của ta bắt giết, rồi đem vùi xác dưới ruộng khoai.

Mất tên Nhi, bọn địch ở bốt Cảnh Lâm lập tức quây càn bắt tất cả đàn ông trong làng giam giữ, đốt nhà, triệt phá cả làng Vân Mạc. Bùi Thị Cúc tìm đường ra nơi an toàn, nhưng chẳng may đã bị địch bắt cùng nhiều người khác ở thôn bên. Lính bốt và người nhà tên Nhi đánh đập, tra khảo, trả thù Bùi Thị Cúc, bắt chị khai báo những người đã giết tên Nhi. Chị đã nhận hết về mình, không khai báo đồng đội và dân làng.

Biết không khuất phục được chị, ngày 15 tháng 5 năm 1950 bọn địch đã đem chị ra đê bờ sông Lực Điền hành hình hết sức dã man. Bùi Thị Cúc đã nêu gương hy sinh vô cùng kiên cường, bất khuất. Hồ Chủ tịch đã truy tặng chị sáu chữ: “Sống anh dũng, chết vẻ vang”.

Theo trang thông tin điện tử tỉnh Hưng Yên


Tiêu đề: Re: Anh hùng LLVTND trong kháng chiến chống Pháp
Gửi bởi: panphilov trong 08 Tháng Sáu, 2008, 02:37:16 am
(http://static.flickr.com/88/217582597_dc5595fce8.jpg)

Anh hùng Liệt sĩ Mạc Thị Bưởi (1927-23/4/1951), Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân (Truy phong, 31/8/1955).

Huân chương Quân công hạng 2.


Mạc Thị Bưởi sinh năm 1927 tại xã Nam Tân, huyện Nam Sách Dân tộc Kinh Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

Mạc Thị Bưởi là một chiến sỹ du kích, một cán bộ cơ sở, hoạt động ở địa phương. Với lòng căm thù sâu sắc thực dân xâm lược, và giai cấp phong kiến áp bức, bóc lột, cô khắc phục khó khăn, kiên trì xây dựng cơ sở, vận động và lãnh đạo quần chúng đấu tranh chống giặc trong những năm 1946-1947, tham gia công tác phụ nữ ở địa phương.

Năm 1949, địch về đóng bốt Trung Hà, tại quê hương, chúng làm hàng rào, tháp canh, càn quét, vây bắt cán bộ. Vì vậy cán bộ ở xã Nam Tân bị bật sang các vùng lân cận. Trong điều kiện khó khăn ấy, một mình cô vẫn bám dân, bám đất, kiên trì hoạt động, giác ngộ nhân dân, xây dựng cơ sở kháng chiến, đào hầm bí mật, đón cán bộ về chỉ đạo kháng chiến. Kết quả, cô đã tổ chức được 3 tổ nữ du kích, xây dựng 35 cơ sở ở ba thôn của xã; vận động quần chúng chống nộp thuế, đi phu cho giặc

Năm 1950, bộ đội ta đánh bật bốt Thanh Dung(?), Mạc Thị Bưởi làm liên lạc, lúc nổ súng cô đã bò qua 3 hàng rào dây thép gai và ra vào vị trí địch ba bốn lần để truyền lệnh và báo tình hình, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Nhiều lần cô cùng cán bộ huyện đột nhập vào các xã để diệt tề, trừ gian, bảo vệ cơ sở.

Năm 1951, Mạc Thị Bưởi làm nhiệm vụ vận động nhân dân vùng tạm chiến chuẩn bị gạo, đường, sữa chuyển ra vùng tự do phục vụ chiến dịch Trần Hưng Đạo, đánh đường 18. Cô đã tổ chức vận chuyển ra vùng tự do chu đáo. Trong chuyến cuối cùng, cô không may bị địch phục kích bắt được.

Từ lâu cô đã bị địch theo dõi và chúng treo giải thưởng lớn, nếu ai bắt Mạc Thị Bưởi, nhưng không tìm ra tung tích cô . Khi sa vào tay giặc, chúng đã tra tấn cực kỳ tàn bạo, cô cắn răng chịu đựng không khai một lời, trung thành tuyệt đối với tổ chức. Biết không thể khuất phục được người con gái kiên cường này, giặc đã treo cô lên bụi tre và dùng dao chọc tiết lợn giết cô. Mạc Thị Bưởi hy sinh khi mới 24 tuổi xuân. Nhân dân địa phương và tất cả đồng đội vô cùng thương tiếc. Tấm gương của Mạc Thị Bưởi đã thúc dục các tất cả mọi người dũng cảm chiến đấu, tiêu diệt kẻ thù để trả thù cho cô và cho đồng bào đã bị giặc giết hại.

Ngày nay Đảng bộ và nhân huyện Nam Sách đã dựng tượng đài Mạc Thị Bưởi, cạnh quốc lộ 5 và xây nhà tưởng niệm tại khu vực đền thờ Mạc Đĩnh Chi để ghi công và tưởng nhớ người con gái anh hùng của quê hương. Tại thành phố Hải Dương có một con đường mang tên cô ngay trong trung tâm thành phố bên cạnh những cái tên như Bùi Thị Cúc...
 


Tiêu đề: Re: Anh hùng LLVTND trong kháng chiến chống Pháp
Gửi bởi: panphilov trong 08 Tháng Sáu, 2008, 02:57:32 am
(http://www.btlsqsvn.org.vn/1001000101110/uploads/AHLLVTND/Nguyen%20Thi%20Chien.jpg)

Anh hùng Nguyễn Thị Chiên (1930), Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân (19/5/1952).

Huân chương Quân công hạng ba, Huân chương Chiến công hạng nhất, 2 Huân chương Kháng chiến hạng nhất. Năm 1952, cô được Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng thưởng khẩu súng ngắn của Người.


Nguyễn Thị Chiên quê ở Xã Tán Thuật, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.
 
Trong kháng chiến chống Pháp từ năm 1946 đến năm 1952, cô tham gia xây dựng cơ sở kháng chiến ở 5 thôn, xây dựng và chỉ huy Đội du kích xã Tán Thuật đánh địch chống càn, phá giao thông đường 39, phá tề, diệt và bắt nhiều địch.

Cô đã diệt, làm bị thương và bắt 15 địch. Tháng 4 năm 1950, khi đưa cán bộ về hoạt động tại xã, cô bị địch bắt, dụ dỗ, tra tấn suốt 3 tháng rưỡi vẫn kiên trung bất khuất. Tháng 10/1951, trong trận phục kích đánh đich trên đường 39, cô bắn bị thương 1 tên địch, bắt sống 6 tên địch, thu 4 súng. Tháng 12/1951, khi địch lùng sục vào làng, cô chỉ huy du kích bất ngờ xông ra bắt sống 4 địch có một tên trung uý.

Ngày 19/5/1952, cô được bầu là chiến sỹ thi đua toàn quốc, được Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
 
Nguyễn Thị Chiên là người phụ nữ Việt Nam đầu tiên được Nhà nước ta được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

Sau kháng chiến chống Pháp, Nguyễn Thị Chiên công tác tại Tổng cục Chính trị, Quân khu Thủ đô, được phong quân hàm trung tá năm 1984.

Theo Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam.


Tiêu đề: Re: Anh hùng LLVTND trong kháng chiến chống Pháp
Gửi bởi: menthuong trong 15 Tháng Mười, 2009, 10:23:47 pm

Anh hùng Liệt sĩ Bùi Thị Cúc (1930-1951), Anh hùng Lực lượng Vũ trang Công an Nhân dân (Truy tặng; 1955).


Viết: "Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân"  là được rồi, thêm "Công an" làm chi cho thừa và khó hiểu nữa !


Tiêu đề: Re: Anh hùng LLVTND trong kháng chiến chống Pháp
Gửi bởi: hoi_ls trong 09 Tháng Mười Hai, 2010, 10:02:50 am
ANH HÙNG CÙ CHÍNH LAN
(LIỆT SĨ)

(http://img87.imageshack.us/img87/9804/scan0810140001.jpg)


Cù Chính Lan sinh năm 1930, dân tộc Kinh, quê ở xã Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Khi hy sinh đồng chí là tiểu đội trưởng bộ binh, thuộc đại đoàn 304, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

Sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo, mẹ chết sớm, nhà đông em, Cù Chính Lan phải lao động vất vả ngay từ bé dưới chế độ bóc lột hà khắc của thực dân, phong kiến để cùng cha nuôi sống đàn em dại. Hoàn cảnh đó đã tạo cho Cù Chính Lan những đức tính tốt như: cần cù, nhẫn nại, thương người cùng cảnh khổ, căm thù sâu sắc giai cấp địa chủ bóc lột và bọn thực dân cướp nước.

Sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công, thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta, Cù Chính Lan xung phong tình nguyện nhập ngũ năm 1946. Chẳng bao lâu đồng chí đã nổi bật trong học tập và công tác, ngay cả lúc ốm nằm việnn, với tinh thần luôn luôn gương mẫu xung phong làm mọi việc mình có thể làm được để giúp đỡ đóng đội, góp phần tích cực xây dựng đơn vị. Thời kỳ là chiến sĩ liên lạc, đồng chí đã được biểu dương là “quân nhân gương mẫu”; thời kỳ đi nằm bệnh xá, đã được anh em thương, bệnh binh tặng danh hiệu “Người chị cả hiền từ”. Khi được đề bạt làm tiểu đội trưởng. đồng chí luôn luôn chăm lo xây dựng đơn vị tiến bộ toàn diện, cùng anh em đưa tiêu đội từ kém lên khá. Bản thân đồng chí luôn luôn gương mẫu, khiêm tốn: giản dị, thương yêu đồng đội, được anh em mến phục, tin yêu. Đặc biệt trong chiến đấu, Cù Chính Lan luôn luôn nêu cao tinh thần dung cảm, táo bạo, mưu trí, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ.

Trận Giang Mỗ lần thứ nhất ngày 7 tháng 12 năm 1951: khi bố trí trận địa bị lộ, địch bắn dữ dội, trên ra lệnh tạm thời rút lui. Đồng chí dũng cảm đi sau cùng, dùng súng máy bắn kiềm chế địch cho đơn vị rút, rồi quay lại tìm anh em bị thương, đưa được ba đồng chí trở về đơn vị an toàn.

Trận Giang Mỗ lần thứ hai ngày 13 tháng 12 năm 1951, khi địch lọt vào trận địa, cả đơn vị nổ súng quyết liệt, diệt gọn một đại đội địch. Lúc chuẩn bị rút thì một xe tăng địch tiếp viện tới, bắn dữ dội vào đội hình ta, chặn đường rút và làm nhiều anh em thương vong. Cù Chính Lan căm giận xông lên. Anh nhảy lên xe tăng kề tiểu liên vào khe hở trên tháp xe bóp cò. Nhưng không may tiểu liên bị hóc. Chiếc xe vẫn vừa chạy vừa bắn. Cù Chính Lan hô anh em tập trung lựu đạn đến cho mình, rồi lại nhanh nhẹn nhảy lên xe, giật nắp, quẳng lựu đạn vào. Giặc nhặt lựu đạn ném ra và hốt hoảng lái xe tăng, chuyển hướng vội vàng chạy về vị trí. Thời cơ diệt xe tăng địch ngay trước mắt, không thể để nó chạy thoát, Cù Chính Lan dũng cảm táo bạo mở chốt lựu đạn, chờ cho khói thuốc xì ra được vài giây rồi mới ném vào buồng lái. Lựu đạn nổ. Những tên giặc trong xe chết đè lên nhau. Chiếc xe dừng tại chỗ. Trận đánh kết thúc thắng lợi. Tấm gương của đồng chí đã có tác dụng cổ vũ toàn quân thi đua diệt xe tăng và xe cơ giới địch.

Ngày 29 tháng 12 năm 1951, tham gia đánh đồn Cô Tô, bị thương hai lần, Cù Chính Lan vẫn dũng cảm xông lên phá tiếp hai lớp rào mở đường cho đơn vị tiến vào. Lần thứ ba, bị thương nặng, đồng chí vẫn không chịu rời trận địa, nằm tại chỗ chỉ hướng tiến và động viên anh em vào sau diệt địch. Cù Chính Lan đã anh dũng hy sinh khi trận đánh đồn Cô Tô vừa kết thúc thắng lợi.

Cù Chính Lan đã được tặng thưởng 1 Huân chương Quân công hạng ba. Trong Đại hội liên hoan Anh hùng và Chiến sĩ thi đua toàn quốc lần thứ nhất tháng 5 năm 1952, Cù Chính Lan được Chính phủ và Hồ Chủ tịch truy tặng Huân chương Quân công hạng hai, Huân chương Kháng chiến hạng nhất.

Ngày 19 tháng 5 năm 1952, Cù Chính Lan được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.






ANH HÙNG LA VĂN CẦU

(http://img153.imageshack.us/img153/8271/scan0810140002.jpg)


La Văn Cầu sinh năm 1932, dân tộc Tày, quê ở xã Quang Thành, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là tiểu đội trưởng bộ binh thuộc đại đội 671, tiểu đoàn 73, đại đoàn 316, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

La Văn Cầu sinh ra và lớn lên trong một gia đình vốn có mối thù sâu với đế quốc, phong kiến. Cha bị giặc Pháp bắt, đánh dập dã man, sau kiệt sức rồi chết. Đồng chí phải sống vất vả cực khổ ngay từ bé. Cách mạng tháng Tám thành công, được cán bộ tuyên truyền giác ngộ, đồng chí hiểu rõ nguồn gốc sự khổ cực của người nghèo và người dân mất nước. Năm 1948, La Văn Cầu mới 16 tuổi đã khai tăng lên 18 để vào bộ đội. Được toại nguyện, đồng chí rất phấn khởi, trong đời sống hàng ngày, luôn gương mẫu tự rèn luyện, giúp đỡ dìu dắt những đồng chí yếu cùng tiến bộ, được anh em rất quý mến. Đồng chí đã chiến đấu 29 trận, trận nào cũng thể hiện rõ tinh thần gương mẫu, dũng cảm, kiên quyết vượt qua khó khăn, chấp hành nghiêm mệnh lệnh, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.

Trong trận phục kích địch ở Bông Lau (năm 1949), đồng chí đã xung phong vào tổ xung kích. Khi nổ súng, có lệnh xung phong, đồng chí dũng cảm xông lên, phát hiện 1 tên Pháp ngồi trên xe tăng, đồng chí bắn một phát chết ngay, rồi nhanh nhẹn nhay lên xe cướp súng. Ngoảnh lại sau đã thấy 3 tên lính Pháp khác chạy đến, đồng chí liền dùng khẩu súng vừa cướp được bắn gục cả 3 tên rồi nhảy xuống xe, tiếp tục truy lùng, diệt thêm 6 tên nữa.

Trong chiến dịch Biên Giới, trận đánh đồn Đông Khê lần thứ nhất (năm 1950), đồng chí bị đau chân nhưng vẫn kiên quyết xin đi chiến đấu. Khi trận đánh gặp khó khăn, đơn vị bạn bị thương vong nhiều, đồng chí đã động viên anh em trong tiểu đội, hầu hết là tân binh, băng bó và cõng hết thương binh về nơi an toàn. Trên đường rút về, địch nhảy dù phản kích ta, mặc dù chân đau và rất mệt, đồng chí vẫn cố vác khẩu 12 ly 7 thu được của địch về tới đơn vị.

Trận Đông Khê lần thứ hai (năm 1950), La Văn Cầu được phân công chỉ huy tổ bộc phá làm nhiệm vụ phá hàng rào và đánh lô cốt đầu cầu. Phá được hai hàng rào thì tổ bị thương hai đồng chí. Địch tập trung bắn dữ dội vào cửa mở, phá hủy mất một số bộc phá ống. Để dành bộc phá đánh lô cốt, đồng chí đã động viên anh em trong tổ tháo gỡ mìn của địch và dũng cảm xông lên dùng mìn phá nốt hai hàng rào cuối cùng. Khi tiến đánh lô cốt thì tổ bị thương hết, chỉ còn lại một mình, nhưng đồng chí không ngần ngại vẫn hăng hái tìm cách xông lên hoàn thành nhiệm vụ của tổ bộc phá. Vượt rào được đến hào giao thông thứ ba thì đồng chí bị thương và ngất đi. Tỉnh dậy thấy cánh tay phải bị đạn bắn gãy nát, nghĩ đến nhiệm vụ chưa hoàn thành, đồng chí đã cố quay trở lại, gặp đồng đội, đồng chí khẩn thiết yêu cầu chặt hộ cánh tay để khỏi vướng rồi lại tiếp tục ôm bộc phá xông lên, phá tan lô cốt đầu cầu, mở đường cho đơn vị xung phong diệt gọn vị trí địch. Tấm gương của La Văn Cầu đã cổ vũ phong trào thi đua diệt giặc lập công trong đơn vị, là lá cờ đầu trong phong trào thi đua sử dụng bộc phá công đồn, một hình thức chiến thuật mới cua bộ đội chủ lực ta từ chiến dịch Biên Giới.

La Văn Cầu đã được tặng thưởng 1 Huân chương Quân công hạng ba. Trong Đại hội liên hoan Anh hùng và Chiến sĩ thi đua toàn quốc lần thứ nhất tháng 5 năm 1952, đồng chí được Chính phủ và Hồ Chủ tịch tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhất.

Ngày 19 tháng 5 năm 1952, La Văn Cầu được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.





ANH HÙNG NGUYỄN THỊ CHIÊN

(http://img547.imageshack.us/img547/7686/scan0810140003.jpg)


Nguyễn Thị Chiên sinh năm 1930, dân tộc Kinh, quê ở xã Tán Thuật, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Khi được tuyên dương Anh hùng, đồng chí là trung đội trưởng trung đội nữ du kích xã, đảng viên Đảng Cộng san Việt Nam.

Gia đình Nguyễn Thị Chiên rất nghèo. Hết mồ côi cha rồi đến mẹ, đồng chí phải đi ở cho địa chủ, khổ cực ngay từ nhỏ. Cách mạng tháng Tám thành công, đồng chí thoát khỏi cuộc đời đi ở. Được cán bộ cách mạng giáo dục, dìu dắt, Nguyễn Thị Chiên dần dần hiểu biết và tích cực tham gia hoạt động. Đồng chí đã làm công tác phụ nữ, tổ chức du kích, xây dựng cơ sở cách mạng, tuyên truyền giác ngộ quần chúng, chiến đấu chống giặc bảo vệ xóm làng..., công tác nào cũng nêu cao tinh thần tận tụy, gương mẫu, dũng cảm, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.

Năm 1946, Nguyễn Thị Chiên làm giao thông cho đoàn thể phụ nữ và du kích thôn. Năm 1947, được cử làm tiểu đội trưởng nữ du kích. Năm 1948, làm trung đội phó. Ở cương vị nào đồng chí cũng tích cực làm tốt mọi việc, được chị em rất tín nhiệm. Trong hoàn cảnh thiếu thốn của những ngày đầu kháng chiến chống Pháp, đồng chí đã vận động chị em cày ruộng, vỡ hoang cấy lúa, tự túc lương thực và mua sắm trang bị.

Tháng 12 năm 1949, địch âm mưu cướp phá kho lương thực ở các địa phương, Nguyễn Thị Chiên đã chỉ huy đội nữ du kích đánh trả quyết liệt bảo vệ được kho muối.

Tháng 4 năm 1950, địch càn phá, khủng bố ác liệt, cán bộ bị bật hết ra ngoài, một đêm Nguyễn Thị Chiên đang dẫn đường đưa đồng chí bí thư chi bộ về hoạt động thì bị bọn giặc phục kích. Nguyễn Thị Chiên đã ra hiệu để đồng chí cán bộ chạy thoát còn mình thì bị địch bắt. Địch dùng mọi thủ đoạn dụ dỗ tra tấn dã man, nhưng đồng chí đã nêu cao tinh thần bất khuất trước kẻ thù, kiên quyết không khai một lời. Sau ba tháng rưỡi, chúng không khai thác được tài liệu gì, buộc phải thả đồng chí. Điều trị vừa hồi sức, đồng chí lại tiếp tục hoạt động.

Tháng 5 năm 1951, đội nữ du kích do đồng chí chỉ huy hoạt động mạnh, phá đường, quấy rối, phá tề... gây nhiều khó khăn cho địch. Một lần xin trên được bảy quả mìn, đồng chí đã chỉ huy chị em gài mìn phục kích giặc, diệt 5 tên, làm bị thương 7 tên, gây phấn khởi, tin tưởng trong toàn đội và được tín nhiệm với nhân dân trong vùng tạm chiếm.

Tháng 7 năm 1951, bọn giặc điên cuồng đánh phá cơ sở cách mạng của ta, lùng bắt cán bộ, đảng viên, đàn áp nhân dân. Tình thế rất gay go, nhưng được cấp uy chỉ đạo trực tiếp, đồng chí đã tích cực tuyên truyền, vận động, giúp đỡ nhân dân, xây dựng lại được cơ sở ở 5 thôn, làm chỗ đứng chân cho cách mạng.
Tháng 10 năm 1951, đồng chí chỉ huy đội du kích phối hợp với bộ đội phục kích địch trên đường 39. Khi nổ súng, địch chạy tán loạn, đồng chí đã dũng cảm cùng bộ đội truy kích địch. Riêng đồng chí bắt, trói được 6 tên, bắn bị thương 1 tên, thu 4 súng.

Tháng 12 năm 1951, đội nữ du kích phối hợp với bộ đội phục kích đánh địch chống càn. Lợi dụng địch chủ quan sơ hở, không đề phòng, Nguyễn Thị Chiên đã cùng đồng đội bất ngờ xông ra bắt sống 4 tên, có tên quan hai chỉ huy đang đi sục vào làng. Khi giặc tiến công vào, đồng chí đã cùng đồng đội dũng cảm chiến đấu. Riêng đồng chí đã bắn chết 3 tên, bắt sống 4 tên, giật được 1 súng.

Tháng 1 năm 1952, phối hợp với bộ đội đánh bốt An Bồi, đồng chí đã dũng cảm cùng đồng đội bò vào cắt hàng rào, đánh bộc phá ném lựu đạn và cùng anh em xông vào bốt bắt sống 6 tên ngoan cố đang lẩn trốn, trong đó có tên đồn trưởng. Trận này đồng chí còn cõng được 6 thương binh ra ngoài an toàn.
Trong mọi mặt công tác, đồng chí đều gương mẫu đi đầu, tích cực học tập, rèn luyện, đoàn kết giúp đỡ chị em trong đội, xây dựng trung đội nữ du kích trưởng thành về mọi mặt.

Nguyễn Thị Chiên đã được tỉnh, huyện, xã khen 8 lần. Trong Đại hội liên hoan Anh hùng và Chiến sĩ thi đua toàn quốc lần thứ nhất tháng 5 năm 1952, đồng chí được Hồ Chủ tịch tặng khẩu súng ngắn của Người, được Chính phủ và Hồ Chủ tịch tặng Huân chương Quân công hạng ba, Huân chương Kháng chiến hạng nhất.

Ngày 19 tháng 5 năm 1952, Nguyễn Thị Chiên được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


Tiêu đề: Re: Anh hùng LLVTND trong kháng chiến chống Pháp
Gửi bởi: hoi_ls trong 09 Tháng Mười Hai, 2010, 10:13:09 am
ANH HÙNG NGUYỄN VĂN SONG

(http://img530.imageshack.us/img530/7757/scan0810140004.jpg)


Nguyễn Văn Song sinh năm 1923, dân tộc Kinh, quê ở xã Thới Hòa, huyện Bến Cát, tỉnh Sông Bé. Khi được tuyên dương Anh hùng, đồng chí là tiểu đội trưởng du kích xã, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

Gia đình Nguyễn Văn Song rất nghèo, năm 12 tuổi, đồng chí đã phải đi ở cho địa chủ. Cực khổ quá không chịu nổi, năm 17 tuổi, đồng chí bỏ trốn về đi làm thuê kiếm sống.

Cách mạng tháng Tám thành công chưa đầy một tháng, giặc Pháp lại trở lại xâm lược miền Nam, đồng chí xung phong vào đội quân cảm tử của địa phương (9-1945). Tháng 2 năm 1947 đồng chí bị địch bắt và tra tấn dã man nhưng không hề hé răng khai báo nửa lời. Địch đem đồng chí ra bắn ở bờ sông. Nhân lúc chúng sơ hở, đồng chí đã trốn thoát. Tháng 3 năm 1948, đồng chí xung phong vào bộ đội ở đơn vị đại đội 11 trung đoàn 301. Tháng 2 năm 1950 trong hoàn cảnh sinh hoạt hết sức thiếu thốn của thời gian đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, thuốc men không có, bệnh tật có những diễn biến xấu và do hậu quả cuả những trận đòn thù tra tấn đã man, Nguyễn Văn Song được đơn vị cho về nhà nghỉ 6 tháng. Sau khi khỏi bệnh thì đơn vị đi xa, mất liên lạc, đồng chí gia nhập đội du kích và hoạt động ở địa phương.

Gần 9 năm tham gia chiến đấu, khi ở bộ đội cũng như khi hoạt động du kích ở địa phương, đồng chí luôn luôn nêu cao tinh thần chủ động, hăng hái đánh giặc, dũng cảm vượt qua mọi khó khăn ác liệt, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Đồng chí đã tham gia chiến đấu hơn 30 trận, tự tay đốt cháy 12 xe vận tải của địch, diệt 5 tên thu 8 súng, vận động được nhiều binh lính ngụy trở về với nhân dân, góp phần tích cực duy trì và phát triển phong trào cách mạng ở địa phương.

Đặc biệt từ năm 1950 đến năm 1954, làm tiểu đội trưởng du kích, đồng chí đã kiên trì và tích cực bám đất, bám dân để hoạt động. Có lần tiểu đội đồng chí đảm nhiệm một mũi chặn địch trên đường 13, địch đông gấp bội, Nguyễn Văn Song đã bình tĩnh động viên tiểu đội kiên quyết chiến đấu, riêng đồng chí đã đốt được 5 xe vận tải, góp phần chặn đứng quân địch, bảo vệ được tài sản và tính mạng của nhân dân.
Nhiều lần, đồng chí đã cùng với bộ đội đi điều tra và diệt đồn. Điển hình là trận Tân Định và Vĩnh Hòa, đồng chí đã kiên trì dựa vào nhân dân bám địch mấy tháng liền, nắm vững tình hình và đưa đường cho bộ đội vào đánh đồn, giành thắng lợi.

Nguyễn Văn Song luôn luôn được đồng đội và nhân dân yêu mến. Năm 1952, đồng chí được bầu là chiến sĩ giết giặc xuất sắc của tỉnh. Trong Đại hội liên hoan Anh hùng và Chiến sĩ thi đua toàn quốc lần thứ nhất tháng 5 năm 1952, đồng chí được Chính phủ và Hồ Chủ tịch tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba.
Ngày 19 tháng 5 năm 1952, Nguyễn Văn Song được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.





ANH HÙNG NGUYỄN QUỐC TRỊ

(http://img194.imageshack.us/img194/1690/scan0810140005.jpg)


Nguyễn Quốc Trị sinh năm 1921, dân tộc Kinh, quê ở xã Phương Ky, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An. Khi được tuyên dương Anh hùng, đồng chí là đại đội trưởng bộ binh thuộc trung đoàn 102, đại đoàn 308, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

Sống trong một gia đình yêu nước, được cán bộ dìu dắt, Nguyễn Quốc Trị sớm có lòng yêu nước, căm thù giặc. Trước Cách mạng tháng Tám, đồng chí tham gia hoạt động chống giặc bắt phu. Bị bắt, đồng chí tham gia vận động đấu tranh, giúp đỡ các anh em trong tù. Nhật lật đổ Pháp, đồng chí xung phong vào đội tự vệ tiên phong chống Nhật. Trận đầu đánh Nhật đồng chí đã cùng tiểu đội diệt được 10 tên, đốt cháy 5 xe. Cách mạng tháng Tám thành công, đồng chí xung phong vào bộ đội chủ lực. Trưởng thành từ chiến sĩ lên cán bộ đại đội, đồng chí đã tham gia chiến đấu và chỉ huy chiến đấu nhiều .trận, trong nhiều chiến dịch lớn, trận nào cũng thể hiện tinh thần dũng cảm, mưu trí, táo bạo, chỉ huy linh hoạt, kiên quyết, cùng đơn vị hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.

Từ tháng 12 năm 1946 đến tháng 1 năm 1947, đồng chí đã tham dự nhiều trận đánh ở Vinh, Huế, Đông Hà, cùng đồng đội diệt hàng trăm tên giặc, bắt sống nhiều tên, riêng đồng chí đã diệt 19 tên Pháp và 2 tên Nhật.

Hè năm 1947, Nguyễn Quốc Trị chuyển sang học và phụ trách khẩu đội ba-dô-ca. Trận đầu đánh địch trên đường số 4 (2-1948), đồng chí đã bắn cháy một xe diệt 30 tên.

Trận An Châu tháng 10 năm 1948, đồng chí chỉ huy tiểu đội mũi nhọn làm nhiệm vụ đột kích. Khi tiến sát An Châu thì bị lộ, địch nổ súng chống cự, đồng chí đã linh hoạt, dũng cảm, nhanh nhẹn cho tiểu đội xung phong đánh chiếm ụ súng số một, rồi đánh phát triển ra hai bên, đánh xong đơn vị rút ra an toàn. Anh em rất tin tưởng vào sự chỉ huy của đồng chí.

Trận Đồng Khuy tháng 10 năm 1948, Nguyễn Quốc Trị chỉ huy tiểu đội xung kích của đại đội chủ công đánh sập lô cốt cố thủ của địch diệt 13 tên, có 1 tên quan một, thu toàn bộ vũ khí.

Thu - Đông năm 1950, đại đội đồng chí nhận nhiệm vụ vượt núi ngăn chặn không cho hai cánh quân của trung đoàn Lơ-pa-giơ và trung đoàn Sắc-tông gặp nhau. Đồng chí chỉ huy một trung đội, dùng địa bàn đi tắt đường, đánh tan 2 trung đội của trung đoàn Lơ-pa-giơ, diệt và bắt 22 tên, cùng đơn vị phá được kế hoạch hợp quân của địch.

Tháng 5 năm 1951, đại đội do Nguyễn Quốc Trị chỉ huy có nhiệm vụ tiêu diệt vị trí Gối Hạc, mở đường cho đơn vị đánh vị trí Non Nước. Đồng chí đã chỉ huy đơn vị nhanh chóng áp sát mục tiêu, khi có lệnh nổ súng, đơn vị đồng loạt xung phong diệt ngay 1 trung đội địch. Bọn địch phản kích dữ đội, Nguyễn Quốc Trị chỉ huy đơn vị đánh trả quyết liệt và bí mật vòng phía sau lưng địch đánh tới, diệt một trung đội nữa. Trời sáng, địch càng phản kích mạnh hơn, máy bay chúng đến oanh tạc, đồng chí vẫn bình tĩnh chỉ huy toàn đơn vị và trực tiếp dẫn 1 trung đội đánh vào bọn địch cố thủ, tiêu diệt chúng, làm chủ trận địa. Trận này, đơn vị đã diệt và bắt 160 tên địch, làm chủ trận địa, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

Nguyễn Quốc Trị luôn luôn chú ý xây dựng đơn vị tiến bộ toàn diện. Trong mọi mặt công tác, đồng chí gương mẫu dẫn đầu, tích cực học tập và rèn luyện.

Nguyễn Quốc Trị đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công hạng nhất và nhiều lần được trung đoàn, tiểu đoàn khen. Trong Đại hội liên hoan Anh hùng và Chiến sĩ thi đua toàn quốc lần thứ nhất tháng 5 năm 1952, đồng chí được Chính phủ và Hồ Chủ tịch tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba, Huân chương Kháng chiến hạng nhất.

Ngày 19 tháng 5 năm 1952, Nguyễn Quốc Trị được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.





ANH HÙNG MẠC THỊ BƯỞI
(LIỆT SĨ)

(http://img194.imageshack.us/img194/706/scan0810140006.jpg)

Mạc Thị Bưởi sinh năm 1927 , dân tộc Kinh, quê ở xã Tân Hưng, huyện Nam Thanh, tỉnh Hải Hưng, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

Sẵn mối thù sâu với đế quốc và giai cấp địa chủ, phong kiến đã đàn áp bóc lột gia đình và làng xóm quê hương, Mạc Thị Bưởi là một chiến sĩ du kích, một cán bộ cơ sở hoạt động ở địa phương đã luôn luôn nêu cao tinh thần khắc phục khó khăn, chịu đựng gian khổ, kiên trì xây dựng cơ sở và lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống giặc. Đồng chí đã nêu cao tinh thần dũng cảm, táo bạo, đảm bảo giao thông liên lạc thông suốt, bảo vệ và giúp đỡ cán bộ hoạt động tốt, tham gia quấy rối và phá hoại địch có kết quả, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ.

Năm 1946 - 1947, Mạc Thị Bưởi tham gia công tác đoàn thể phụ nữ ở địa phương. Khi địch về đóng ở xã, đồng chí vào du kích hoạt động chống địch.

Năm 1949, địch kéo về đóng bốt Trung Hà. Chúng càn quét liên tiếp, bọn phản động ở địa phương nổi lên xây tháp canh, rào làng, bắt cán bộ. Cán bộ hoạt động ở địa phương bị bật sang vùng khác. Một mình đồng chí vẫn kiên trì bám làng hoạt động, tuyên truyền giác ngộ nhân dân, xây dựng cơ sở rồi đào hầm bí mật đưa cán bộ về hoạt động. Đồng chí đã tổ chức được ba tổ nữ du kích, thường xuyên tích cực hoạt động, xây dựng được 35 cơ sở ở ba thôn, lãnh đạo nhân dân chống nộp thuế và đi phu cho giặc.
Có lần đưa cán bộ về hoạt động, qua chặng đường địch phục kích nhiều, Mạc Thị Bưởi đã táo bạo tìm đường bất ngờ đi sát vào vị trí địch, đưa cán bộ bí mật vượt qua được vòng vây địch. Nhiều lần phải vượt qua sông, nước chảy xiết, bọn địch thường phục kích, đồng chí đã dũng cảm bơi sang trước nắm tình hình, đảm bảo cho cán bộ sang sau được an toàn. Suốt thời kỳ giặc chiếm đóng ở địa phương, bốn tháng trời ròng rã, đồng chí đã giữ vững được mối liên lạc, đưa cán bộ đi về hoạt động, tổ chức diệt được bốt địch đóng ở thôn.

Tháng 11 năm 1950, bộ đội ta đánh bốt Thanh Dung, đồng chí làm liên lạc. Lúc nổ súng, đồng chí đã bò qua 3 hàng rào dây thép gai, ra vào vị trí địch tới ba bốn lần để truyền lệnh và báo cáo tình hình, hoàn thành nhiệm vụ phục vụ trận đánh tốt.

Nhiều lần, đồng chí đã cùng cán bộ huyện đột nhập vào các xã, diệt tề trừ gian, bảo vệ cơ sở.
Năm 1951, Mạc Thị Bưởi làm nhiệm vụ vận động nhân dân vùng tạm chiếm chuẩn bị gạo, đường, sữa và tổ chức vận chuyển ra vùng tự do phục vụ cho chiến dịch. Đồng chí đã tích cực chuẩn bị và tổ chức vận chuyển các thứ ra chu đáo. Trong chuyến cuối cùng, không may đồng chí bị địch phục kích bắt được. Địch đã theo dõi từ lâu và treo thưởng để tìm bắt Mạc Thị Bưởi, nhưng không dò được ra tung tích đồng chí, vì vậy chúng tra tấn đồng chí cực kỳ dã man, nhưng đồng chí vẫn không khai báo một lời. Cuối cùng chúng treo đồng chí lên bụi tre và chọc tiết giết chết.

Nhân dân địa phương và đồng đội rất thương tiếc đồng chí, đã nêu quyết tâm hăng hái chiến đấu và tích cực công tác để trả thù cho đồng chí.

Ngày 31 tháng 8 năm 1955, Mạc Thị Bưởi được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa truy tặng Huân chương Quân công hạng nhì và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


Tiêu đề: Re: Anh hùng LLVTND trong kháng chiến chống Pháp
Gửi bởi: hoi_ls trong 09 Tháng Mười Hai, 2010, 10:18:32 am
ANH HÙNG TRẦN CỪ
(LIỆT SĨ)

(http://img560.imageshack.us/img560/7840/scan0810140007.jpg)

Trần Cừ sinh năm 1920, dân tộc Kinh, quê ở xã Đức Bắc, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phú, nhập ngũ ngày 19 tháng 8 năm 1945 tức là ngay ngày Cách mạng tháng Tám thành công. Khi hy sinh đồng chí là đại đội trưởng bộ binh đại đội 336, tiểu đoàn 174, trung đoàn 209, đại đoàn 312, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

Từ tháng 8 năm 1945 đến tháng 10 năm 1950, Trần Cừ chiến đấu trên chiến trường Việt Bắc. Trưởng thành từ chiến sĩ lên đại đội trưởng, đã tham dự hàng chục trận đánh, ở cương vị nào, trong trận nào, đồng chí cũng khắc phục khó khăn, chiến đấu dũng cảm, cùng đơn vị hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Đồng chí luôn luôn chú trọng xây dựng đơn vị tiến bộ toàn diện, thương yêu đồng đội chăm sóc giúp đỡ chiến sĩ mới, khiêm tốn giản dị, được đồng đội tin yêu mến phục.

Tháng 9 năm 1945, mới vào bộ đội được một tháng, đồng chí tham gia đánh bọn Nhật và Quốc dân đảng phản động ở thị xã Vĩnh Yên. Đồng chí đã dẫn đầu tiêu đội, dũng cảm xung phong đánh giáp lá cà với địch, bản thân đâm chết 1 tên Nhật, thu một khẩu súng.

Đầu năm 1946, trong trận đánh bọn Quốc dân đảng phản động tràn lên cầu Đông Đạo (Vĩnh Yên), Trần Cừ đã dùng súng trung liên diệt hai tiểu đội địch, giữ vững trận địa đến sáng.

Đầu năm 1948, Trần Cừ chỉ huy trung đội chống càn ở vùng Sơn Đông (Vĩnh Phú). Giặc Pháp đông gấp bội, có ca 2 ca nô và 4 máy bay khu trục yểm hộ vẫn không sao tiến vào được làng. Đơn vị đã đánh lui nhiều đợt tiến công của chúng, diệt một tiểu đội địch, bảo vệ được nhân dân.

Trong chiến dịch Biên Giới, trận Đông Khê lần thứ hai, đồng chí làm đại đội trưởng đại đội chủ công của trung đoàn. Đêm thứ nhất, đại đội chiến đấu rất dũng cảm, gần sáng có lệnh phải tạm rút vì hướng khác đơn vị bạn chưa vào được. Đêm sau, trận chiến đấu diễn biến gay go, ác liệt hơn. Địch tập trung hỏa lực bắn lướt sườn làm đơn vị bị thương vong một số, trời gần sáng vẫn chưa làm chủ được trận địa. Trần Cừ không do dự dẫn đầu một tiểu đội xông lên đánh vỗ mặt uy hiếp địch, để toàn đại đội thừa thế phát triển diệt gần hết đồn. Địch còn lại gần 100 tên, chúng dồn vào một hầm cố thủ. Trước cửa hầm có một lô cốt, chúng dựa vào lô cốt này chống cự rất quyết liệt. Hai lần Trần Cừ dẫn đầu đơn vị xông lên nhưng vẫn chưa giải quyết được, bản thân lại bị thương nặng vào chân. Trời đã rạng sáng. Phải nhanh chóng tiêu diệt gọn đồn Đông Khê, không thể để trận đánh kéo dài, trời sáng địch sẽ dùng phi pháo và viện binh phản kích chiếm lại đồn, đơn vị sẽ bị thương vong nhiều và không hoàn thành nhiệm vụ, ảnh hưởng tới toàn bộ chiến dịch. Đồng chí đã chỉ huy anh em tập trung hỏa lực bắn mãnh liệt và đồng loạt ném lựu đạn vào lô cốt để xung kích xông lên, quyết tâm tiêu diệt bọn địch ngoan cố. Trong khói đạn mù mịt, hỏa điểm của địch trong lô cốt chỉ tạm ngừng giây lát rồi lại hồi phục, điên cuồng nhả đạn sát thương bộ đội ta. Trần Cử căm giận, nén chịu vết thương đau, nhảy lên hô lớn:

- Hồ Chủ tịch muôn năm ! Đảng Cộng sản Đông Dương muôn năm!

Rồi lao tới sát lô cốt ném quả thu pháo cuối cùng còn lại vào lỗ châu mai và dùng cả thân mình bịt kín hỏa điểm địch.

"Học tập đại đội trưởng! Trả thù cho đại đội trưởng!". Cả đơn vị ào ào xông lên, đánh sập hầm ngầm tiêu diệt toàn bộ bọn địch.

Với thành tích chiến đấu xuất sắc, Trấn Cừ đã được tặng thưởng 1 Huân chương Quân công hạng ba, 1  Huân chương Kháng chiến hạng nhất, 1 Huân chương Chiến công hạng nhất.

Ngày 31 tháng 8 năm 1955, Trần Cừ được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa truy tặng Huân chương Quân công hạng nhì và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.





ANH HÙNG TRẦN VĂN CHUÔNG
(LIỆT SĨ)

(http://img821.imageshack.us/img821/8687/scan0810140008.jpg)


Trần Văn Chuông sinh năm 1929, dân tộc Kinh, quê ở xã Cát Lại, huyện Bình Lục, tỉnh Nam Hà. Khi hy sinh đồng chí là đại đội phó đại đội công binh (đội giao thông chiến) thuộc tỉnh đội Hà Nam, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

Sau 8 lần xung phong tòng quân nhưng đều không trúng tuyển vì người nhỏ, sức yếu, Trần Văn Chuông đã tích cực tham gia đoàn thể thanh niên, hoạt động du kích, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ ở địa phương.
Tháng 11 năm 1948, được vào bộ đội, Trần Văn Chuông rất phấn khởi. Đồng chí đã tham dự hơn 200 trận đánh, trưởng thành từ một chiến sĩ lên cán bộ đại đội, ở cương vị nào trong trận đánh nào, đồng chí cũng hăng hái vượt qua mọi khó khăn ác liệt, dũng cảm, mưu trí, chỉ huy bình tĩnh, táo bạo. Đồng chí luôn luôn gương mẫu về mọi mặt, hết lòng thương yêu đồng đội, nhiều lần cõng thương binh vượt qua bom đạn về phía sau an toàn. Có lần trong tình thế hiểm nghèo, đồng chí tìm cách cứu thoát 4 đồng đội và 20 thanh niên địa phương, còn mình bị địch bắt. Trần Văn Chuông có nhiều sáng kiến, đặc biệt trong việc đánh mìn diệt địch, đạt hiệu suất cao, lập nhiều chiến công xuất sắc. Đồng chí đã cùng đơn vị diệt nhiều địch, phá hủy nhiều xe; riêng bản thân đã diệt 392 tên, bắt sống 19 tên, phá hủy 79 xe địch.

Bảy lần bị địch bắt, chúng tra tấn Trần Văn Chuông cực kỳ dã man : dùng dùi nung đỏ đâm vào người, tra điện, treo ngược lên cây, ngâm trong bể nước mùa đông, hất từ trên xe xuống đất trong lúc xe đang chạy nhanh... nhưng đồng chí vẫn trung kiên bất khuất không hề khai báo; cả 7 lần, đồng chí đều tìm cách vượt khỏi nhà tù, trở về đơn vị tiếp tục chiến đấu.

Đầu năm 1949, đồng chí đã táo bạo, khôn khéo luồn vào đặt mìn gần bốt Bương (trên đê Át Lợi), phá hủy một xe giép, diệt 5 tên sĩ quan tham mưu của bộ chỉ huy trận càn, phá vỡ cuộc càn của chúng vào Hà Đông.

Trần Văn Chuông là người đầu tiên có sáng kiến : lấy sơn quét ngoài quả mìn, rồi lấy mo cau và giấy có nhựa sung bọc ngoài, khi chôn, máy dò mìn của địch rất khó phát hiện. Đồng chí còn dùng mảnh bom, đạn, gang, sắt vụn... vứt rải rác trên đường làm cho bọn đi dò mìn phải mò mẫm lâu và hoang mang chán nản. Sáng kiến của đồng chí được nhiều nơi áp dụng đánh địch có kết quả tốt.

Trong những trận đánh đồn, đồng chí luôn luôn tỏ ra dũng cảm, táo bạo, lập công xuất sắc.

Tháng 10 năm 1949, đồng chí đã dẫn đơn vị bí mật bất ngờ vượt qua 7 cây số đồng lầy và hai bốt giặc, đột nhập thành phố Nam Định đánh nhà tên chánh mật thám. Anh em công kênh nhau để vượt tường. Trần Văn Chuông trèo lên mái nhà, nhảy vào trong giết chết tên chánh mật thám Nam Định, lấy nhiều tài liệu rồi rút ra an toàn.

Trận tiêu diệt vị trí Quyển Sơn (năm 1950) là trận công đồn đầu tiên của bộ đội địa phương tỉnh Hà Nam. Trần Văn Chuông đã dùng kiếm xông vào chém chết 4 tên địch, diệt vọng gác, mở đường cho đơn vị tiến vào. Địch ném lựu đạn ra nhiều, đồng chí đã nhanh nhẹn bắt, ném trả lại, khi bị thường nặng vẫn cố nén đau, không cho đồng đội biết, tiếp tục chiến đấu diệt thêm 8 tên nữa. Kết quả đơn vị đã diệt gọn vị trí Quyển Sơn do gần một đại đội địch đóng giữ.

Trận chống càn ở Đồng Phú tháng 6 năm 1952, đồng chí đã bình tĩnh chỉ huy tiểu đội ngoan cường chiến đấu kìm chân 5 tiểu đoàn địch có máy bay, đại bác yểm hộ, để bảo vệ nhân dân sơ tán và tạo thuận lợi cho đơn vị vòng phía sau đánh địch.

Tháng 2 năm 1954, sau khi chỉ huy đơn vị phục kích bắn cháy một tàu chiến địch trên sông Hồng (đoạn Yên Lệnh), địch ở các tàu chiến khác bắn lên quyết liệt, trong khi dẫn đầu đơn vị xông lên bờ đê để chiếm lợi thế đánh trả địch. Trần Văn Chuông không may bị trúng đạn đã anh dũng hy sinh.

Trần Văn Chuông đã được tặng thưởng 1 Huân chương Quân công hạng ba, 1 Huân chương Chiến công hạng nhất, 28 lần được quân khu, khu ủy và tỉnh khen, được Bác Hồ tặng danh hiệu “Cán bộ gương mẫu” và được bầu là Chiến sĩ thị đua số một của toàn liên khu.

Ngày 31 tháng 8 năm 1955 đồng chí Trần Văn Chuông được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa truy tặng Huân chương Quân công hạng nhì và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.






ANH HÙNG BẾ VĂN ĐÀN
(LIỆT SĨ)

(http://img607.imageshack.us/img607/7229/scan0810140009.jpg)


Bế Văn Đàn sinh năm 1931, dân tộc Tày, quê ở xã Quang Vinh, huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng nay là xã Triệu Ẩu, huyện Quảng Hòa, tỉnh Cao Bằng. Khi hy sinh đồng chí là tiểu đội phó bộ binh thuộc đại đoàn 316, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. (Tháng 12 năm 1953 được truy nhận).

Xuất thân từ gia đình vô sản, mẹ chết sớm, cha làm thợ mỏ, chú hoạt động cách mạng bị giặc Pháp giết, đồng chí phải đi ở cho địa chủ từ nhỏ. Sau năm năm đi ở, đồng chí trốn về ở với dì và tham gia hoạt động du kích.

Tháng 1 năm 1949, Bế Văn Đàn xung phong vào bộ đội và đã tham gia nhiều chiến dịch, chiến dịch nào cũng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Từ ngày nhập ngũ đến lúc hy sinh, đồng chí luôn nêu cao tinh thần dũng cảm, tích cực vượt qua mọi khó khăn ác liệt, chấp hành mọi mệnh lệnh nghiêm túc chính xác, kịp thời.

Đông-Xuân năm 1953-1954, Bế Văn Đàn làm liên lạc tiểu đoàn đưa đơn vị hành quân đi chiến dịch. Một đại đội của tiểu đoàn đồng chí được giao nhiệm vụ bao vây địch ở Mường Pồn. Thấy lực lượng ta ít, địch tập trung hai đại đội có phi pháo yểm trợ liên tiếp phản kích, nhưng cả hai lần chúng đều bị quân ta đánh bật lại. Tình hình chiến đấu hết sức căng thẳng. Địch liều chết nống ra. Ta kiên quyết ngăn chặn. Cần có lệnh cho đại đội quyết tâm giữ địch bằng bết cứ giá nào để đơn vị lớn triển khai lực lượng thực hiện chủ trương chung của chiến dịch. Bế Văn Đàn vừa đi công tác về đã xung phong làm nhiệm vụ. Đồng chí dũng cảm vượt qua lưới đạn dày đặc của địch xuống truyền đạt mệnh lệnh cho đại đội kịp thời, chu đáo. Tình hình chiến đấu càng ngày càng ác liệt; đồng chí được lệnh ở lại đại đội chiến đấu. Địch phản kích đợt thứ ba, điên cuồng mở đường tiến. Đại đội bị thương vong, chỉ còn 17 người, bản thân Bế Văn Đàn cũng bị thương nhưng đồng chí vẫn tiếp tục chiến đấu. Một khẩu trung tiên của đơn vị không bắn được vì xạ thủ hy sinh. Khẩu trung liên của Chu Văn Pù cũng chưa bắn được vì vận động lên không có chỗ đặt súng. Tình thế hết sức khẩn trương; không ngần ngại, Bế Văn Đàn chạy lại cầm hai chân trung liên đặt lên vai mình và hô bạn bắn. Pù còn do dự thì Bế Văn Đàn đã nói : "Kẻ thù trước mặt, đồng chí có thương tôi thì bắn chết hết chúng nó đi !". Pù nghiến răng nổ súng vào đội hình quân địch, quật ngã liên tiếp hàng chục tên. Địch hoảng hốt bỏ chạy. Đợt phản kích của chúng bị bẻ gãy. Trong thời gian đứng làm giá súng. Bế Văn Đàn bị hai vết thương nữa và đã anh dũng hy sinh, hai tay còn ghì chặt chân súng trên vai mình. Tấm gương dũng cảm của Bế Văn Đàn đã cổ vũ cán bộ chiến sĩ trên toàn mặt trận hăng hái xông lên tiêu diệt quân thù, đem toàn thắng về cho chiến dịch.

Trong Đại hội mừng công của đơn vị, Bế Văn Đàn được truy tặng Huân chương Chiến công hạng nhất và được bình bầu là Chiến sĩ thi đua số một của đại đoàn.

Ngày 31 tháng 8 năm 1955 Bế Văn Đàn được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa truy tặng Huân chương Quân công hạng nhì và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


Tiêu đề: Re: Anh hùng LLVTND trong kháng chiến chống Pháp
Gửi bởi: hoi_ls trong 10 Tháng Mười Hai, 2010, 04:18:51 pm
ANH HÙNG PHAN ĐÌNH GIÓT
(LIỆT SĨ)

(http://img194.imageshack.us/img194/3512/scan0810140010.jpg)


Phan Đình Giót sinh năm 1922, dân tộc Kinh, quê ở làng Vĩnh Yên, xã Cẩm Quan, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh, đi bộ đội năm 1950. Khi hy sinh đồng chí là tiểu đội phó bộ binh đại đội 58, tiểu đoàn 428, trung đoàn 141, đạị đoàn 312, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

Gia đình đồng chí Phan Đình Giót rất nghèo. Bố bị chết đói. Đồng chí đã phải sống cuộc đời đi ở, làm thuê từ năm 13 tuổi rất cực khổ. Cách mạng tháng Tám thành công, đồng chí tham gia tự vệ chiến đấu, đến năm 1950 xung phong vào bộ đội chủ lực. Trong cuộc sống tập thể ở quân đội, Phan Đình Giót luôn luôn tự giác gương mẫu về mọi mặt, hết lòng thương yêu giúp đỡ đồng đội, sẵn sàng nhận khó khăn về mình, nhường thuận lợi cho bạn nên luôn được đồng đội mến phục, tin yêu. Phan Đình Giót đã tham gia nhiều chiến dịch lớn : Trung Du, Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên Phủ... trận đánh nào đồng chí cũng nêu cao tinh thần quả cám, kiên quyết vượt qua mọi khó khăn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, hai lần bị thương nặng vẫn tiếp tục chiến đấu và đã hy sinh oanh liệt với chiến công đặc biệt : lấy thân mình lấp lỗ châu mai mở đường cho đơn vị tiến lên tiêu diệt cứ điểm Him Lam, giành toàn thắng cho trận đánh mở màn chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ.

Mới 3 tháng tuổi quân, Phan Đình Giót đã tham gia chiến dịch Đường số 18, đánh đồn Tràng Bạch, trận chiến đấu diễn ra gay go, ác liệt, đồng chí vẫn bám sát tổ trưởng, thể hiện tinh thần chiến đấu rất hăng say. Tiêu diệt xong lô cốt số một, đồng chí bị thương nặng, nhưng vẫn xin ở lại tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến lúc trận đánh kết thúc thắng lợi.

Trong trận tiêu diệt vị trí Chùa Tiếng (cuối năm 1950), đồng chí đã dũng cảm xung phong một mình đánh sập bốn ụ súng của địch.

Mùa Đông năm 1951, địch đánh lên Hòa Bình, đơn vị đồng chí nhận nhiệm vụ vượt sông Đà, thọc sâu vào hoạt động trong lòng địch vùng chân núi Ba Vì. Địch phát hiện chủ lực ta, tập trung máy bay, đại bác, thường xuyên bắn phá dữ dội. Phan Đình Giót vẫn kiên trì và gương mẫu, xung phong đi đầu trong mọi công tác, đã cùng đơn vị hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trên giao.

Mùa Đông năm 1953, đơn vị đồng chí được tham gia chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ. Hành quân gần 500 cây số, vượt qua nhiều đèo, dốc mang vác nặng đồng chí vẫn kiên trì và giúp đỡ đồng đội đi tới đích.
Trong nhiệm vụ xẻ núi, mở đường, kéo pháo lên đèo xuống dốc vào trận địa rất gay go gian khổ, đồng chí đã nêu cao tinh thần gương mẫu, bền bỉ và động viên anh em kiên quyết chấp hành nghiêm mệnh lệnh của cấp trên.

Chiều ngày 13 tháng 3 năm 1954, lệnh nổ súng tiêu diệt vị trí Him Lam. Cả trận địa rung chuyển mù mịt sau nhiều loạt pháo ta bắn chuẩn bị. Các chiến sĩ đại đội 58 lao lên mở đường, đã liên tiếp đánh đến quả bộc phá thứ tám. Phan Đình Giót đánh quả thứ chín thì bị thương vào đùi nhưng vẫn xung phong đánh tiếp quả thứ 10. Địch tập trung hỏa lực bắn như trút đạn xuống trận địa ta. Đồng đội bị thương vong nhiều. Lửa căm thù bốc cao, đồng chí lao lên đánh tiếp hai quả nữa, phá toang đoạn rào cuối cùng, mở thông cửa mở để đồng đội lên đánh sập lô cốt đầu cầu. Lợi dụng thời cơ địch đang hoang mang, Phan Đình Giót lại vọt lên bám chắc lô cốt số hai, ném thủ pháo, bắn kiềm chế cho đơn vị tiến lên. Đồng chí lại bị thương vào vai, máu chảy đầm đìa. Nhưng hỏa điểm địch từ lô cốt số ba đã xuất hiện rất nguy hiểm, bắn mạnh vào đội hình ta. Lực lượng xung kích bị ùn lại, Phan Đình Giót cố gắng lê lên, nhích dấn người đến gần lô cốt số ba với ý nghĩ cháy bỏng, duy nhất là phải dập tắt ngay nó. Đồng chí dùng hết sức mình còn lại nâng tiểu liên lên bắn mạnh vào lỗ châu mai, miệng hô to :

- Quyết hy sinh... vì Đảng... vì dân !! ... rồi rướn người lấy đà, lao cả thân mình vào bịt kín lỗ châu mai địch. Hỏa điểm lợi hại nhất đã bị dập tắt, toàn đơn vị ào ạt xông lên như vũ bão, tiêu diệt gọn cứ điểm Him Lam.

Phan Đình Giót đã được tiểu đoàn, đại đoàn khen thưởng 4 lần.

Ngày 31 tháng 8 năm 1955, Phan Đình Giót được Chủ tịch nước Việt Nam dân chu cộng hòa truy tặng huân chương Quân công hạng nhì và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.






ANH HÙNG NGÔ MÂY
(LIỆT SĨ)

Ngô Mây sinh năm 1924, dân tộc Kinh, quê ở xã Cát Chánh, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định, nhập ngũ tháng 4 năm 1947. Khi hy sinh đồng chí là đội viên đại đội quyết tử, trung đoàn 120, đại đoàn 305, Liên khu 5.

Đồng chí Ngô Mây sinh trưởng trong một gia đình nông dân nghèo. Bố chết sớm. Đồng chí là người con duy nhất trong gia đình. Cách mạng tháng Tám thành công, đồng chí tham gia dân quân du kích ở xã. Khi giặc Pháp trở lại xâm lược nước ta, đồng chí xung phong tình nguyện vào bộ đội. Để đợi thời cơ giết giặc lập công, trong huấn luyện lúc nào đồng chí cũng nêu cao tinh thần gương mẫu bền bỉ, say sưa học tập và rèn luyện. Có lấn bị đau chân không tập được, cán bộ cho nghỉ, đồng chí vẫn xin ra thao trường ngồi xem anh em tập để rút kinh nghiệm. Có thể nói : đồng chí đã chuẩn bị rất tích cực, vì vậy, khi có dịp bước vào chiến đấu, đồng chí đã nêu tấm gương dũng cảm tuyệt vời của người chiến sĩ cách mạng. Tiếng bom của đồng chí đã làm cho quân và dân ta rất tự hào, kẻ thù thì hết sức kinh hoàng khiếp sợ.

Thu Đông năm 1947, đơn vị Ngô Mây được lệnh chuẩn bị chiến đấu, mặt trận đang có phong trào vận động thi đua tiêu diệt bộ binh và cơ giới địch. Thời kỳ này, trang bị của ta còn yếu kém, chỉ có vũ khí thô sơ, phải có lòng dũng cảm của người chiến sĩ cách mạng dám trực tiếp dùng bom mới diệt được xe tăng, xe cơ giới địch. Ngô Mây thiết tha xin xung phong vào đội cảm tử để được nhận nhiệm vụ vẻ vang đó. Đồng chí chuẩn bị rất chu đáo, hỏi han, học tập cách đánh kỹ càng, lau chùi giữ gìn quả bom rất cẩn thận. Tuy biết rõ trận đánh này mình có thể hy sinh, nhưng Ngô Mây vẫn bình tĩnh, tự tin, biên thư về động viên mẹ và đem những đồ dùng cá nhân của mình tặng lại các đồng chí thiếu.

Đầu tháng 10 năm 1947, đơn vị lên đường đi phục kích địch ở Suối Voi (trên đường An Khê đi Plây Cu). Ngô Mây có nhiệm vụ ôm bom phá xe tăng tạo điều kiện cho bộ binh xung phong tiêu diệt địch. Nhưng tình hình trận đánh đã diễn biến phức tạp, không thuận lợi cho ta ngay từ đầu. Trận địa bị lộ, hơn một đại đội Âu Phi và bốn xe cơ giới địch hành quân mới tới gần trận địa ta đã phát hiện và nổ súng trước. Lực lượng quá chênh lệch cả về binh lực và hỏa lực buộc đơn vị phải chống trả quyết liệt, rồi yểm hộ cho từng bộ phận rút dần để bảo toàn lực lượng. Ngô Mây ôm bom, nấp kín trong bụi cây. Quả bom nặng, địch lại đến đã rất gần. Không diệt được cơ giới thì đây cũng là thời cơ để tiêu diệt sinh lực địch. Ngô Mây bình tĩnh chờ một toán đông quân địch tới thật gần rồi dũng cảm mở chốt, ôm bom xông thẳng vào giữa bọn chúng. Tiếng bom nổ rền vang dữ dội. Hơn 1 trung đội lính Âu Phi tan xác và đồng chí Ngô Mây cũng hy sinh vô cùng oanh liệt.

Sau trận đánh, bọn địch không dám lên xuống con đường đó nữa; nếu có đi, chúng phải huy động lực lượng đông và hễ gặp chiến sĩ ta cổ quàng khăn đỏ (đồng chí Mây khi đánh bom, cổ quàng khăn đỏ) là khiếp vía bỏ chạy.

Ngô Mây đã được tặng thưởng 1 Huân chương Quân công hạng nhì, được tuyên dương công trạng trong toàn Liên khu.

Ngày 31 tháng 8 năm 1955 đồng chí Ngô Mây được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.





ANH HÙNG TRƯƠNG CÔNG MAN
(LIỆT SĨ)

(http://img263.imageshack.us/img263/9362/scan0810140011.jpg)


Trương Công Man sinh năm 1930, dân tộc Mường quê ở xã Cẩm Phong, huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa, nhập ngũ năm 1947. Khi hy sinh đồng chí là tiểu đội trưởng liên lạc thuộc trung đoàn 2, đại đoàn 320, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

Đồng chí Trương Công Man là một chiến sĩ liên lạc xuất sắc, mưu trí, dũng cảm của đại đoàn Đồng Bằng, đại đoàn chủ lực hoạt động trong vùng sau lưng địch. Nhiều lần đồng chí xung phong nhận nhiệm vụ khó khăn, vượt dưới làn bom đạn ác liệt của địch, truyền đạt mệnh lệnh kịp thời, chính xác. Trương Công Man chiến đấu mưu trí, dũng cảm, bị thương nhưng vẫn tìm mọi cách để hoàn thành nhiệm vụ góp phần vào chiến thắng chung của đơn vị.

Đồng chí luôn luôn gương mẫu về mọi mặt, chấp hành nghiêm chỉnh mọi mệnh lệnh cấp trên, hết lòng thương yêu đồng đội, bảo vệ cán bộ, chấp hành nghiêm túc các chính sách và kỷ luật chiến trường.
Tháng 1 năm 1952 , trong trận Yên Ninh (Ninh Bình), khi đơn vị được lệnh xuất kích, đồng chí lập tức xung phong diệt địch ngay. Bị thương vào sườn, Trương Công Man vẫn nén đau, bám sát đại đội trưởng để truyền lệnh kịp thời. Trận đánh vừa kết thúc, địch tập trung máy bay, đại bác các nơi bắn về liên tục và ác liệt. Suốt một ngày, đồng chí đã nhiều lần như con thoi chạy đi, chạy về giữa đồng nước, dưới làn bom đạn, đưa lệnh của trên xuống các đơn vị, và tham gia chuyển thương binh về trạm. Năm lần bị thương, không rời trận địa, Trương Công Man vẫn quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ được giao và cùng với đồng đội chuyển được 15 thương binh ra ngoài an toàn.

Trong trận Tầm Phương (Thái Bình), đồng chí bình tĩnh chờ địch tới gần mới nổ súng diệt ngay 3 tên. Địch phản công mãnh liệt, trung liên ta bị tắc, xạ thủ bị thương, đồng chí đã nhảy ra chữa súng, rồi bắn mạnh cản địch lại, diệt thêm 7 tên. Địch bắn dữ dội để uy hiếp và chuẩn bị phản kích, đồng chí đã nhanh chóng đưa lệnh của đại đội xuống điều một trung đội kịp lên phối hợp đánh tan bọn chúng. Trong trận này, cả đơn vị đã đánh lui 5 đợt phản kích của địch, riêng Trương Công Man đã diệt được 19 tên.

Tháng 2 năm 1952, trong trận chống càn ở Thái Ninh (Thái Bình), bị máy bay địch bắn phá, 2 lần Trương Công Man bị thương nhưng vẫn cố gắng hoàn thành nhiệm vụ liên lạc. Khi về trạm giải phẫu, dụng cụ y tế thiếu, phải dùng cưa gỗ để cưa, mổ vai lấy đạn, đồng chí vẫn nghiến răng chịu đau, không hề kêu rên.
Trong trận An Bình (Thái Bình), ngay lúc đầu, Trương Công Man đã chủ động chỉ huy tổ trung liên bắn chết 6 tên địch, gọi hàng được 6 tên, thu 9 súng.

Khi cùng đoàn cán bộ đi nghiên cứu trận địa lạc vào chỗ địch, đồng chí đã dũng cảm một mình chiến đấu đánh lạc hướng địch để cán bộ rút ra an toàn.

Trong trận tiến công đồn Tìm (Đông Quan, Thái Bình), đơn vị vừa mở được một hàng rào thì đại bác địch ở các vị trí khác tập trung bắn về dữ dội. Tổ đánh bộc phá tiếp tục mở cửa dưới hỏa lực địch, bị thương vong gần hết, Trương Công Man xung phong lên đánh tiếp và cũng bị trọng thương. Trước lúc hy sinh, đồng chí còn nhắn lại đồng đội :

- Các đồng chí giữ vững quyết tâm, làm tròn nhiệm vụ.

Căm thù bọn giặc, cả đơn vị đã xông lên diệt gọn vị trí này.

Trương Công Man đã được trung đoàn, đại đoàn khen thưởng 9 lần, và được bầu là Chiến sĩ thi đua của đại đoàn, được thưởng 1 Huân chương Chiến công hạng nhất.

Ngày 31 tháng 8 năm 1955, Trương Công Man được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa truy tặng Huân chương Quân công hạng nhì và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


Tiêu đề: Re: Anh hùng LLVTND trong kháng chiến chống Pháp
Gửi bởi: hoi_ls trong 10 Tháng Mười Hai, 2010, 04:24:08 pm
ANH HÙNG LÂM ÚY
(LIỆT SĨ)

Lâm Úy sinh năm 1926, dân tộc Kinh, quê ở xã Quảng Hòa, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình, nhập ngũ tháng 9 năm 1945. Khi hy sinh đồng chí là tiểu đội phó bộ binh thuộc đại đoàn 325, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

Nhà nghèo, ngay từ nhỏ, đồng chí Lâm Úy đã phải đi ở, làm thuê để kiếm sống. Cách mạng tháng Tám thành công, đồng chí xung phong đi bộ đội và tình nguyện vào đội quân Nam tiến chiến đấu ở chiến trường Bình - Trị - Thiên.

Từ tháng 2 năm 1947 đến tháng 5 năm 1950, đơn vị Lâm úy về hoạt động và chiến đấu ở vùng Bình - Trị - Thiên. Đồng chí đã chiến đấu hơn 30 trận, trận nào cũng bình tĩnh, dũng cảm, mưa trí và xông xáo. Đặc điểm chiến đấu của đồng chí Lâm Úy là : dù một mình cũng kiên quyết tiến công tiêu diệt địch, không có súng thì dùng mã tấu, súng hết đạn thì dùng lưỡi lê, báng súng, đánh giáp lá cà với địch. Đồng chí đã diệt được hơn 100 tên địch, bắt sống 3 tên, thu 15 súng các loại, lập nhiều chiến công xuất sắc.

Đầu năm 1947, Lâm Úy xung phong dẫn một tổ đem cờ vào cắm ở đồn Phú Vinh (Huế). Khi tới chân hàng rào, Lâm Úy để anh em nằm ngoài yểm hộ, còn mình bí mật chui vào đồn, leo lên cắm cờ rồi lại bí mật luồn ra. Sáng hôm sau, nhân dân nhìn thấy lá cờ Tổ quốc hiên ngang phấp phới trên đồn địch, rất phấn khởi tin tưởng, trầm trồ khen ngợi bộ đội ta. Trái lại, kẻ địch rất hoang mang lo sợ.

Cũng trong thời gian này, đồng chí về hoạt động phá tề, xây dựng cơ sở ở vùng Sào Nam (Lệ Thủy). Bọn địch thường tập trung nhân dân để tuyên truyền lừa gạt. Một hôm, đồng chí và 4 đồng đội, chỉ có mã tấu và lựu đạn, đã xông vào giữa lúc chúng đang tập trung nhân dân, chém chết tại chỗ 4 tên ngoan cố chống cự, bắt sống 8 tên và giải thích rõ chính sách của Đảng ta cho đồng bào biết.

Giữa năm 1948, đơn vị về hoạt động xây dựng cơ sở, tô chức dân quân ở vùng Cảnh Dương - Tú Loan. Lâm Úy đã tích cực, xông xáo tuyên truyền giác ngộ quần chúng, tô chức và hướng dẫn hoạt động cho dân quân. Một lần đồng chí đưa dân quân vào sát đồn rồi một mình bò vào đặt mìn làm mẫu cho anh em học tập, giết 20 tên, gây được lòng tin tưởng cho anh em đánh giặc.

Cuối năm 1948, đơn vị bị địch phản kích bất ngờ. Chúng dùng một lực lượng lớn bao vây chặt trung đội đồng chí. Đơn vị lui lên nấp kín ở mỏm Đồi Cao (gần Minh Lê). Bọn địch ở các hướng cùng tiến công lên. Ta chờ chúng đến thật gần, bất ngờ nhằm chỗ địch yếu nhất đồng loạt xung phong quyết liệt. Bọn địch hoảng sợ bỏ chạy, vòng vây bị phá vỡ, trung đội rút an toàn. Trong trận này, một mình Lâm Úy đã dùng lưỡi lê đâm chết 6 tên địch.

Tháng 1 năm 1950, Lâm Úy tham gia chống càn bảo vệ cán bộ và nhân dân vùng Bang Bơn (Quảng Bình). Giặc Pháp dùng một tiểu đoàn có máy bay yểm hộ, hai lần tiến công đều bị đại đội đồng chí đánh bật trở ra. Lần thứ ba, địch củng cố lại lực lượng, tập trung sức tiến công. Đơn vị bị thương vong một số, đạn gần hết; tình thế vô cùng hiểm nghèo. Địch vẫn tiến lên, chỉ còn cách ta độ 20 mét nữa. Lâm Úy dũng cảm nhảy lên khỏi công sự, dùng khẩu trung liên vừa cướp được của chúng, bắn mạnh vào đội hình quân địch, diệt hàng chục tên, bọn còn lại hốt hoảng bỏ chạy. Đơn vị đã đánh tan cuộc càn, diệt gần 1 đại đội địch, thu hơn 100 súng các loại.

Trận Xuân Bồ (tháng 5 năm 1950), địch tập trung một tiểu đoàn lính lê dương có máy bay, pháo binh yểm trợ hòng diệt chủ lực ta và phá hoại mùa màng của nhắn dân ở khu vực này. Đơn vị được lệnh vượt sông chiến đấu. Lâm Úy hăng hái vượt trước. Sang tới bờ bên kia, đại đội đồng chí nhanh chóng xung phong tiêu diệt địch ngay, chiếm vị trí có lợi, làm chỗ đứng chân chiến đấu. Suốt từ 9 giờ đến 14 giờ, đơn vị đã đánh lui hơn 10 đợt phản kích của địch. Đạn gần hết, quân số lại thương vong nhiều. Lâm Úy vẫn bình tĩnh động viên anh em "tìm mọi cách diệt địch". Bản thân đồng chí tự đi nhặt lựu đạn của địch về phát cho đơn vị chiến đấu, tiếp tục đánh lui hai đợt phản kích nữa. Nhưng rồi lựu đạn cũng hết. Lâm Uy liền nêu khẩu hiệu "Dùng lưỡi lê, báng súng quyết chiến đấu đến cùng!". Địch lại phản kích. Lâm Úy dẫn đầu đơn vị nhảy ra khỏi công sự, dùng lưỡi lê đâm chết 3 tên, vừa đâm được tên thứ 4, lưỡi lê mắc chưa rút ra được thì bị một tên khác lao vào ôm chặt. Mặc dù người nhỏ, sức yếu đồng chí đã mưu mẹo quật ngã tên địch, một tay bóp bộ hạ, một tay bóp cổ, miệng cắn chặt vào bụng nó. Thấy vậy, những tên địch khác xả súng bắn vào đồng chí. Tuy bị thương nặng, Lâm Úy vẫn cố hết sức ghì chặt tên địch và kéo nó cùng lăn xuống sông.

Đồng chí Lâm Úy đã hy sinh vô cùng anh dũng. Khi được đồng đội vớt lên, hai tay Lâm Úy vẫn ghì chặt tên giặc và miệng vẫn còn cắn chặt vào bụng tên Pháp.

Lâm Úy đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công hạng nhì, 2 lần được Liên khu 4 và Ủy ban kháng chiến tỉnh Quảng Bình khen.

Ngày 31 tháng 8 năm 1955, Lâm Úy được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa truy tặng Huân chương Quân công hạng nhì và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.






ANH HÙNG ĐẶNG QUANG CẦM

(http://img222.imageshack.us/img222/4253/scan0810140012.jpg)

Đặng Quang Cầm sinh năm 1921, dân tộc Kinh, quê ở xã Lạc Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An, nhập ngũ tháng 9 năm 1945. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là trung đội phó thuộc đội vũ trang tuyên truyền Liên khu 5, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

Từ ngày nhập ngũ đến tháng 7 năm 1954, Đặng Quang Cầm hoạt động và chiến đấu ở chiến trường cực Nam Trung Bộ. Khi là chiến sĩ trinh sát, khi phụ trách đội bảo đảm một tuyến giao thông liên lạc quan trọng, khi làm công tác vũ trang tuyên truyền xây dựng cơ sở cách mạng, tổ chức dân quân trong lòng địch, dù ở cương vị công tác nào, đồng chí cũng luôn luôn nêu cao tinh thần dũng cảm, kiên trì, bám đất, bám dân hoạt động, đoàn kết cùng đồng đội vượt qua nhiều khó khăn gian khổ, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ.

Đặng Quang Cầm tham gia chiến đấu từ ngày đầu kháng chiến chống Pháp ở vùng Đà Lạt - Ninh Thuận. Lúc mặt trận vỡ, đơn vị rút, đồng chí bị kẹt lại cùng với chín thương binh, nhiều đồng chí cụt tay, cụt chân không làm gì được, di chuyển một chút cũng phải dùng cáng để khiêng, địch lại lùng sục khủng bố, nhân dân thì hoang mang lo sợ. Đồng chí đã tìm cách chuyển anh em ra rừng và nuôi dưỡng trong 3 tháng 15 ngày. Sau đó tìm cách liên lạc được với trung đoàn, tổ chức đưa anh em về đơn vị an toàn.

Đầu năm 1947, địch huy động gần 2.000 quân bao vây chiến khu ta. Được giao nhiệm vụ theo dõi nắm địch, đồng chí đã gan dạ liên tục bám sát địch suốt một ngày. Mười bốn lần đụng đầu với địch, có lần chỉ cách chúng 20 mét. Địch phát hiện chúng cố đuổi bắt sống, nhưng đồng chí đã bình tĩnh, nhanh nhẹn, đánh lừa địch chạy thoát. Sau khi đã nắm chắc mọi hoạt động của địch, đồng chí đã báo cáo kịp thời và đưa được cơ quan thoát ra khỏi vòng vây của chúng.

Từ tháng 2 năm 1948 đến tháng 12 năm 1950, Đặng Quang Cầm là trung đội phó, phụ trách một đoạn trên tuyến đường giao liên "Hồ Chí Minh" giữ vững liên lạc giữa các miền trong quân khu, giữa Nam Bộ và Trung ương. Trên chặng đường hơn 200 cây số đi qua nhiều đèo dốc, nhiều vùng chưa có cơ sở cách mạng, địch thường xuyên đánh phá ngăn chặn, điều kiện ăn ở khó khăn thiếu thốn, có lần mất liên lạc, đơn vị bị đói 7 ngày, phải tìm rau, lá rừng ăn thay cơm, đồng chí đã gương mẫu chịu đựng những khó khăn đó và chỉ huy, lãnh đạo đơn vị quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ. Gần 3 năm bám trụ, trung đội đồng chí đã bảo đảm cho 70 đoàn cán bộ, đoàn vận tải vũ khí từ Trung ương đi vào và đi ra an toàn, dần dần xây dựng được cơ sơ cách mạng ở khắp các địa phương mình hoạt động.

Từ tháng 1 năm 1951 đến tháng 7 năm 1954, Đặng Quang Cầm phụ trách đội vũ trang tuyên truyền xây dựng cơ sở cách mạng ở vùng đồng bào dân tộc ít người. Các vùng này tề điệp nhiều, nhân dân hiểu biết rất ít về cách mạng. Đồng chí đã kiên trì lãnh đạo đơn vị đi vào tuyên truyền vận động quần chúng, dần dần xây dựng được chính quyền, tổ chức được dân quân, vận động những người lầm đường theo giặc trở về làm ăn. Đơn vị đã xây dựng được chính quyền ở 19 xã, với gần 1.000 dân quân du kích, phối hợp cùng dân quân đánh gần 30 trận, diệt hàng trăm địch, bảo vệ được cơ sở và tính mạng tài sản của nhân dân.
Đồng chí Đặng Quang Cầm luôn luôn chú trọng xây dựng đơn vị tiến bộ về mọi mặt. Bản thân đồng chí luôn luôn gương mẫu, hết lòng thương yêu đồng đội, bảo vệ và giúp đỡ nhân dân nên được đồng đội và nhân dân tin yêu, mến phục.

Ngày 31 tháng 8 năm 1955 Đặng Quang Cầm được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.






ANH HÙNG BÙI CHÁT

(http://img17.imageshack.us/img17/2016/scan0810140013.jpg)

Bùi Chát sinh năm 1925, dân tộc Kinh, quê ở xã Cẩm Hà, thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, nhập ngũ tháng 1 năm 1951. Khi được tuyên dương Anh hùng là trung đội trưởng công binh thuộc trung đoàn 93, đại đoàn 324, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

Năm 1947, giặc Pháp chiếm Hội An, Bùi Chát xung phong vào tự vệ, tham gia diệt ác, trừ gian. Sau đó đồng chí là một trong những thanh niên đầu tiên của thị xã tham gia đội biệt động. Đồng chí đã chiến đấu 55 trận, trận nào cũng dũng cảm, táo bạo, nhiều trận đột nhập thị xã giữa ban ngày để diệt bọn tề điệp, ác ôn, có lần đã bắt sống cả tên tỉnh trưởng. Trong đánh giao thông đồng chí cũng đã lập công xuất sắc, đặt mìn giật đổ 7 đoàn tàu có 3 đầu máy, 18 toa, diệt 5 xe, cùng đơn vị diệt gần 2 đại đội địch.

Năm 1949, 2 ca nô địch thường xuyên chạy trên đoạn sông Hội An - Câu Lâu bắn phá gây nhiều thiệt hại cho nhân dân. Đơn vị đã nhiều lần phục kích nhưng đều đánh hụt. Đồng chí xung phong dẫn một tổ lặn lội suốt đêm đưa thuỷ lôi tới tận nơi đánh chìm cả 2 chiếc, diệt 14 tên giặc Pháp.

Từ năm 1952, đơn vị Bùi Chát nhận nhiệm vụ đánh giao thông địch trên đèo Hải Vân. Đây là đoạn giao thông huyết mạch cua địch, địa hình rất hiểm trở, địch bố trí canh phòng nghiêm ngặt, đồn bốt san sát, quân tuần tiễu và ứng chiến thường xuyên sẵn sàng phản kích khi có động. Tháng 1 năm 1952, đồng chí dẫn một tổ xuống đường đặt mìn tự động. Sáng hôm sau, tàu địch chạy qua, mìn nổ hất nhào một đầu máy và một toa xuống vực. Đại bác địch các nơi bắn về dữ dội, quân của chúng tỏa đi sục khắp nơi. Tổ đồng chí đã mưu trí và sáng tạo, bò vào sát đồn địch ẩn nấp, đánh lạc hướng địch, đến tối rút ra an toàn.
Tháng 12 năm 1953, để phối hợp với chiến dịch Xuân Hè 1953, Bùi Chát được giao nhiệm vụ đánh đoàn tàu chở lính địch từ Đà Nẵng đi Huế. Suốt 10 ngày trèo đèo, lội suối, tìm đường, vừa tới nơi đồng chí trực tiếp ra chọn chỗ chôn mìn ngay. Địch cho nhiều đoàn tàu chở đá và toa không chạy trước, anh em trong tổ nóng lòng muốn đánh, Bùi Chát bình tĩnh động viên đồng đội chờ đợi. Đúng như phán đoán của đồng chí, chuyến tàu chờ lính và vũ khí chạy sau cùng. Khi đoàn tàu lọt vào trận địa, đồng chí trực tiếp bấm nút điện; mìn nổ, hất cả đoàn tàu xuống chân đèo, gần 100 tên địch gồm cả lính và sĩ quan bị tiêu diệt không sót một tên. Đồng chí dẫn đầu tổ xông ra thu 300 súng các loại.

Cuối tháng 5 năm 1954, Bùi Chát nhận được lệnh đánh đoàn tàu chở bọn sĩ quan Pháp. Thời gian rất gấp, vừa chôn mìn xong thì bọn lính tuần tiễu đi tới. Có nguy cơ bị lộ, nhưng đồng chí vẫn bình tĩnh quan sát và ra hiệu cho cả tổ nằm im. Bọn chúng vừa đi qua thì đoàn tàu đến, đồng chí chập điện cho mìn nổ, hất cả đoàn tàu xuống chân đèo, rồi rút về căn cứ an toàn. Trận này ta đã diệt gọn 100 tên sĩ quan Pháp. Sáng hôm sau, các đồn bốt địch ở khu vực Đà Nẵng và Huế đều treo cờ tang.

Đồng chí Bùi Chát tuy lập nhiều chiến công xuất sắc nhưng luôn luôn khiêm tốn, giản dị, tìm hiểu, lắng nghe ý kiến mọi người, thể hiện một tinh thần ham học hỏi, cầu tiến bộ. Là một cán bộ gương mẫu, tận tụy, đồng chí hết sức quan tâm xây dựng đơn vị tiến bộ toàn diện, hết lòng thương yêu đồng đội, tích cực giúp đỡ chiến sĩ mới nhanh chóng trưởng thành.

Bùi Chát đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công hạng ba, 10 lần được tỉnh, Liên khu khen thưởng và là Chiến sĩ thi đua của Liên khu 5.

Ngày 31 tháng 8 năm 1955, Bùi Chát được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


Tiêu đề: Re: Anh hùng LLVTND trong kháng chiến chống Pháp
Gửi bởi: hoi_ls trong 10 Tháng Mười Hai, 2010, 04:41:05 pm
ANH HÙNG BÙI ĐÌNH CƯ

(http://img691.imageshack.us/img691/5909/scan0810140014.jpg)

Bùi Đình Cư sinh năm 1927, dân tộc Kinh, quê ở xã Việt Tiến, huyện Lâm Thao, tỉnh Vĩnh Phú, nhập ngũ tháng 5 năm 1949. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là trung đội trưởng pháo binh thuộc trung đoàn 675, đại đoàn 351, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

Suốt từ ngày nhập ngũ đến năm 1954, đồng chí Bùi Đình Cư liên tục chiến đấu và trưởng thành ở binh chủng pháo binh, đã trực tiếp tham gia 9 chiến dịch lớn ở Bắc Bộ, luôn luôn thể hiện rõ tính thần hăng say đánh giặc, bền bỉ tích cực trong công tác, dũng cảm mưu trí trong chiến đấu, lập nhiều chiến công xuất sắc, nhiệm vụ nào cũng xung phong gương mẫu đi đầu, có tác dụng động viên, cổ vũ mọi người noi gương phấn đấu.

Trong chiến dịch Hoàng Hoa Thám (năm 1950), đơn vị Bùi Đình Cư phối hợp với đơn vị bạn đánh bốt Vẽn. Đồng chí đã trực tiếp bắn 4 quả pháo sát thương 1 trung đội địch, tạo điều kiện cho xung kích diệt đồn.
Trong chiến dịch Quang Trung (năm 1951), trận đánh đồn Yên Mô Thượng vào giữa đêm mưa, trời tối đen như mực không nhìn rõ mục tiêu, đồng chí xung phong bò vào vị trí địch, bấm đèn soi vào từng lỗ châu mai cho pháo bắn. Địch bắn ra dữ dội về phía mình nhưng Bùi Đình Cư vẫn bình tĩnh, khôn khéo làm tròn nhiệm vụ, tạo điều kiện thuận lợi cho đơn vị tiêu diệt gọn đồn.

Trong chiến dịch Hoàng Hoa Thám (năm 1952), khi đơn vị chuẩn bị tiến công đồn Tu Vũ thì bị lộ, pháo phải di chuyển trận địa. Để bảo đảm an toàn cho pháo và kịp thời bắn chi viện cho bộ binh, Bùi Đình Cư đã không do dự vác cả nòng súng cối nặng 101 ki-lô-gam chuyển tới vị trí mới cách xa hơn 200 mét dưới hỏa lực địch. Hành động dũng cảm của đồng chí đã cổ vũ toàn đơn vị nhanh chóng chấp hành nghiêm mệnh lệnh.

Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, trận đánh đồn Him Lam mở màn cho chiến dịch, đồng chí đã dũng cảm động viên đồng đội tháo rời từng bộ phận pháo, vượt dưới làn bom đạn ác liệt của địch vào chiếm lĩnh trận địa. Mặc cho địch phản pháo, đồng chí đã bình tĩnh liên tục bắn hơn 30 quả pháo, đánh sập lô cốt, chi viện đắc lực cho bộ binh, góp phần cùng đơn vị bạn tiêu diệt toàn bộ vị trí quan trọng này.
 
Trận đánh đồn Độc Lập, sau khi ta đã làm chủ trận địa, pháo binh địch ở các nơi bắn về dữ dội, đồng chí đã dũng cảm chỉ huy tiểu đội xông vào tháo súng địch vác ra, thu được ba khẩu cối 120 ly.

Không những anh dũng trong chiến đấu, đồng chí Bùi Đình Cư còn luôn luôn chăm lo xây dựng đơn vị tiến bộ về mọi mặt. Đồng chí hết lòng thương yêu chiến sĩ, nhiều lần cõng thương binh, tử sĩ vượt qua bom đạn địch về phía sau. Bùi Đình Cư là một cán bộ khiêm tốn, giản dị, sống cởi mở, chân thành, được đồng đội tin yêu, mến phục.

Bùi Đình Cư đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công hạng nhì, 1 Huân chương Chiến công hạng ba, 42 lần được trung đoàn, đại đoàn khen vả được Hồ Chủ tịch tặng một áo lụa.

Ngày 31 tháng 8 năm 1955. Bùi Đình Cư được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng thưởng 1 huân chương Quân công hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.





ANH HÙNG HOÀNG KHẮC DƯỢC

(http://img593.imageshack.us/img593/4828/scan0810140015.jpg)

Hoàng Khắc Dược sinh năm 1917, dân tộc Kinh, quê ở xã Mỹ Xá, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Hà, nhập ngũ năm 1947. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là tiểu đội trưởng nuôi quân thuộc trung đoàn 66, đại đoàn 304, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

Cuối năm 1946, giặc Pháp trở lại xâm lược nước ta, chúng tiến công đánh chiếm thành phố Nam Định. Hoàng Khắc Dược tham gia tự vệ thành cùng bộ đội chiến đấu liên tiếp 13 ngày liền trong thành Nam Định. Đồng chí đã dùng mã tấu lựu đạn chiến đấu. Tự mình đem được một thương binh và một tử sĩ ra phía sau. Trong trận đánh quân nhảy dù (tháng 1 năm 1947), đồng chí đã dùng mã tấu chém chết 3 tên địch, thu 2 súng.

Chiến đấu đã anh dũng như vậy, khi được phân công làm công tác nuôi quân, Hoàng Khắc Dược cũng rất chịu khó, với một tinh thần trách nhiệm rất cao. Bảy năm làm công tác nuôi quân, Hoàng Khắc Dược vân luôn luôn phấn khởi, không hề kêu ca phàn nàn, dù gặp nhiều khó khăn thiếu thốn vẫn tìm mọi cách khắc phục, bảo đảm nuôi dưỡng bộ đội chu đáo. Nét nổi bật ở đồng chí là tinh thần liêm khiết, chí công vô tư, hết lòng thương yêu đồng đội, phục vụ đơn vị, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ phục vụ bộ đội chiến đấu.
Năm 1954, có lần máy bay địch bán phá và thả bom na-pan đốt cháy lán trại. Đơn vị đi công tác vắng, chỉ còn anh nuôi ở nhà, Hoàng Khắc Dược dũng cảm xông vào chữa cháy và cùng tổ nuôi quân đưa hết được bộc phá, địa lôi và nhiều dụng cụ khác ra ngoài an toàn.

Trong chiến dịch Tây Bắc (năm 1952), đơn vị hành quân xa, đồng chí đã chuẩn bị đầy đủ và tỉ mỉ lương thực thực phẩm cho bộ đội. Nhiều đêm đồng chí thức đến 2, 3 giờ sáng. Ban ngày nấu cơm, kiếm củi, chiều tối lại đi 8, 9 cây số tìm mua thức ăn, Hoàng Khắc Dược vẫn vui vẻ phục vụ chu đáo bộ đội. Có lần, một mình đồng chí bảo đảm nuôi dưỡng 30 đồng chí ốm mà vẫn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, chỉ một thời gian ngắn anh em đều hồi phục sức khỏe và trở về đơn vị tiếp tục chiến đấu.

Chiến dịch Đông Xuân 1953 - 1954, trong những ngày truy kích địch, Hoàng Khắc Dược thường gánh nặng 30, 40 ki-lô-gam, chạy theo đơn vị, bảo đảm đầy đủ cơm, nước cho bộ đội. Có thời kỳ thiếu gạo, mỗi ngày bộ đội chỉ được ăn có 2 lạng, Hoàng Khắc Dược rất gương mẫu chấp hành và vận động tổ nuôi quân bớt phần mình cho các chiến sĩ trực tiếp chiến đấu. Bản thân có những lần bị đau ốm, nhưng đồng chí vẫn bền bỉ làm nhiệm vụ trong suốt chiến dịch, góp phần cùng đơn vị lập nhiều chiến công xuất sắc.

Là một tiểu đội trưởng nuôi quân gương mẫu về mọi mặt, Hoàng Khắc Dược, với đức tính khiêm tốn, giản dị, liêm khiết và tinh thần trách nhiệm phục vụ cao, rất xứng đáng với lòng tin yêu, mến phục của toàn đơn vị.

Đồng chí đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công hạng nhất, 1 Huân chương Chiến công hạng nhì, 2 Huân chương Chiến cộng hạng ba, 6 lần được trung đoàn, đại đoàn khen và là Chiến sĩ thi đua của đại đoàn.

Ngày 31 tháng 8 năm 1955, Hoàng Khắc Dược được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.





ANH HÙNG PHẠM ĐƯỜNG

(http://img63.imageshack.us/img63/3918/scan0810140016.jpg)

Phạm Đường sinh năm 1922, dân tộc Kinh, quê ở xã Đức Tân, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi, nhập ngũ tháng 10 năm 1945. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là chính trị viên phó đại đội bộ binh thuộc Liên khu 5, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

Sinh trưởng trong một gia đình nông dân nghèo, lên 10 tuổi Phạm Đường đã phải đi ở cho địa chủ, sống cuộc đời đắng cay, cực nhục 4 năm liền. Sau đó đồng chí phải trốn đi lang thang làm thuê để kiếm sống. Năm 1944, may mắn gặp được cán bộ cách mạng, Phạm Đường được tuyên truyền giác ngộ và rất phấn khởi hăng hái tham gia tổ chức Thanh niên cứu quốc. Năm 1945, đồng chí hoạt động du kích bí mật, cùng với du kích Ba Tơ khởi nghĩa cướp chính quyền. Ngày 14 tháng 8 năm 1945, đồng chí dẫn đầu đội du kích đánh chặn đoàn xe địch chở đầy lính, dùng mã tấu diệt 40 tên, riêng đồng chí chém chết 2 tên.

Tháng 10 năm 1945, đồng chí xung phong.vào bộ đội chiến đấu và hoạt động trên chiến trường Khu 5, tham gia 65 trận đánh, trận nào cũng thể hiện tinh thần quyết tâm tiêu diệt địch, dũng cảm, táo bạo, dù bị thương vẫn tiếp tục chiến đấu. Trong mọi tình huống khó khăn nguy hiểm Phạm Đường luôn bình tĩnh, kiên trì tìm mọi cách vượt qua, kiên quyết hoàn thành nhiệm vụ, lập công xuất sắc.

Năm 1949, Phạm Đường cùng một đồng chí đi chuẩn bị chiến trường trong vùng địch tạm chiếm ở Khánh Hòa. Suốt 3 tháng ròng gặp bao khó khăn: địch lùng sục gắt gao, địa bàn chưa quen, cơ sở chưa có, nhiều khi phải nhịn đói nằm hầm bí mật mấy ngày liền..., đồng chí đã kiên trì cùng bàn điều tra nằm chắc địch, báo cáo kịp thời và dẫn bộ đội vào chiến đấu giành thắng lợi.

Trong hoạt động Hè năm 1952, đồng chí tham gia đánh trận Vạn Lý (Quảng Nam). Đây là một trận đánh công sự kiên cố của địch. Ngay từ đầu ta đã vấp phải sức kháng cự tập trung, quyết liệt của chúng, gặp nhiều khó khăn trong việc mở...cửa. Giữa lúc gay go, đồng chí đã xung phong ôm bộc phá, dũng cảm lao qua lửa đạn dày đặc, phá bung 3 lớp hàng rào, mở thông cửa cho xung kích xung phong diệt gọn cứ điểm địch.

Năm 1953, tham gia đánh đồn Tứ Thủy (vị trí kiên cố vào bậc nhất của địch ở An Khê), đồng chí đã dẫn đầu tổ bộc phá vào phá được 5 lớp rào, dọn sạch chông, khai thông cửa mở cho bộ đội tiến vào diệt địch. Trận đánh diễn ra gay go ác liệt, bộ đội thương vong nhiều. Đồng chí nhận nhiệm vụ chuyển thương, đã dũng cảm dẫn đầu tổ lên xuống 5 lần, đưa được 14 thương binh và 2 liệt sĩ ra ngoài.

Năm 1954, đánh trận Tuy Hòa, ngay phút đầu Phạm Đường đã chỉ huy tiếu đội mũi nhọn vượt dưới làn đạn địch xông vào đánh chiếm 3 nhà lính, diệt 6 xe rồi thọc sâu chia cắt khu nhà lính và khu hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho đơn vị xung phong và tiêu diệt toàn bộ tiểu đoàn địch, bắt sống 550 tên Pháp.
Là một cán bộ chính trị, Phạm Đường luôn luôn gương mẫu về mọi mặt, chăm lo đời sống tinh thần, vật chất của anh em, khiêm tốn, gian dị, cởi mở, chan hòa, được mọi người thương yêu quý mến.

Phạm Đường đã được tặng thương 1 Huân chương Chiến công hạng nhất, 13 lần được trung đoàn và Liên khu khen, 2 lần là chiến sĩ thi đua của liên khu.

Ngày 31 tháng 8 năm 1955, Phạm Đường được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


Tiêu đề: Re: Anh hùng LLVTND trong kháng chiến chống Pháp
Gửi bởi: hoi_ls trong 10 Tháng Mười Hai, 2010, 04:45:18 pm
ANH HÙNG PHÙNG VĂN KHẦU

(http://img442.imageshack.us/img442/2678/scan0810140017.jpg)

Phùng Văn Khầu sinh năm 1930, dân tộc Nùng, quê ở xã Đức Hùng, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng, nhập ngũ tháng 12 năm 1949. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là trung đội trưởng Pháo binh thuộc đại đoàn 351, đảng viên Đảng Cộng sản Việt nam.

Bố mẹ Phùng Văn Khầu chết sớm. Năm lên 8 tuổi, Phùng Văn Khầu đã phải đi ở để kiếm ăn. Cách mạng tháng Tám thành công, cuộc đời đi ở của đồng chí được giải phóng. Năm 1946 (16 tuổi), Phùng Văn Khẩu tham gia hoạt động ở địa phương, khi làm chiến sĩ liên lạc, khi làm chiến sĩ công an, nhiệm vụ nào đồng chí cũng hoàn thành xuất sắc.  

Tháng 12 năm 1949, Phùng Văn Khầu xung phong vào bộ dội. Từ đó đến năm 1954, đồng chí đã tham gia chiến dịch lớn, đánh hàng chục trận. Chiến dịch nào, trận đánh nào, đồng chí cũng tỏ ra dũng cảm, mưu trí, khênh pháo vận động giỏi, chuyển đạn, thao tác pháo nhanh, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

Đặc biệt trong chiến dịch Điện Biên Phủ, khẩu đội Phùng Văn Khầu làm nhiệm vụ bán phá đồi E, đồng chí đã chỉ huy khẩu đội bắn 22 phát đạn đều trúng mục tiêu, góp phấn tích cực tiêu diệt sinh lực địch tại đồi này. Khi nhận nhiệm vụ chuyển sang phòng ngự, đồng chí đã cùng anh em khẩn trương, tích cực đào trận địa. Suốt 35 ngày đêm, mặc dù pháo binh địch bần phá rất ác liệt, có lúc tiểu đội chỉ còn 2 người, bản thân nhiều lần bị sức ép và bị thương, nhưng đồng chí vẫn luôn luôn nêu cao tinh thần ngoan cường bám trận địa, tích cực tiến công địch, chi viện đắc lực cho bộ binh chiến đấu ở các điểm cao 203, 207, 507 và đồi C. Có lần đơn vị hết người, bản thân Phùng Văn Khầu vừa làm pháo thủ ngắm bắn, vừa quan sát mục tiêu và điểm nổ để điều chỉnh, liên tiếp bắn trúng 2 khẩu pháo 105 ly và 1 khẩu đại tiên của địch. Nhiều lúc bị sức ép ngất đi tỉnh dậy lại tiếp tục chiến đấu, bộ binh vừa yêu cầu chi viện, chỉ một phát đạn đầu, đồng chí đã bắn trúng mục tiêu, dập tắt hỏa điểm địch.

Tính tổng cộng trong thời gian phòng ngự ở đồi E, với một khẩu sơn pháo 75 ly, Phùng Văn Khầu đã bắn phá hủy 5 khẩu pháo 105 ly, 6 đại liên, 1 lô cốt, 1 kho đạn, diệt hàng trăm lính địch, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chi viện cho bộ binh chiến đấu thắng lợi.

Phùng Văn Khầu là một cán bộ gương mẫu, sâu sát đơn vị, luôn luôn chú trọng xây dựng đơn vị tiến bộ về mọi mặt; với đức tính khiêm tốn, giản dị, chân thành, đồng chí được mọi người mến phục, tin yêu.

Phùng Văn Khầu đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công hạng nhì, 2 Huân chương Chiến công hạng ba, 7 lần được đại đoàn và trung đoàn khen, 2 lần là Chiến sĩ thi đua đại đoàn.

Ngày 31 tháng 8 năm 1955, Phùng Văn Khầu được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.






ANH HÙNG CHU VĂN KHÂM

(http://img220.imageshack.us/img220/4246/scan0810140018.jpg)

Chu Văn Khâm sinh năm 1925, dân tộc Kinh, quê ở xã Minh Đức, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phú, nhập ngũ tháng 8 năm 1947. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là trung đội phó công binh, đại đội 56, tiểu đoàn 206, Cục Vận tải, Tổng cục Hậu cần, đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam.

Nhà nghèo, Chu Văn Khâm phải đi ở cho địa chủ. Sau Cách mạng tháng Tám, đồng chí tham gia du kích và công an xã. Tháng 8 năm 1947, Chu Văn Khâm xung phong đi bộ đội. Vào đơn vị bộ binh, đồng chí đã trực tiếp tham gia chiến đấu 11 trận, trận nào cũng nêu cao tinh thần dũng cảm, mưu trí, tích cực tiến công địch, đã diệt 22 tên địch, phá hủy 1 lô cốt, 1 xe quân sự, đánh bộc phá phá nhiều hàng rào.

Từ năm 1950, Chu Văn Khâm được điều động sang đơn vị công binh. Từ đó đến tháng 7 năm 1954, khi làm nhiệm vụ phá cầu, chặn đường tiếp viện cua địch, khi làm đường, chờ phà cho bộ đội hành quân, khi phá bom bảo đảm giao thông vận tải cho chiến dịch, nhiệm vụ nào đồng chí cũng phát huy sáng kiến vượt qua mọi khó khăn, ác liệt, kiên quyết hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

Tháng 1 năm 1953, Chu Văn Khâm phụ trách tiêu đội làm nhiệm vụ quan sát và phá bom ở đèo Khế, bảo đảm đường vận chuyển cho chiến dịch Tây Bắc. Máy bay địch thường xuyên ném bom phá hoại cầu đường. Đơn vị chưa có kinh nghiệm phá, gỡ bom nổ chậm Chu Văn Khâm đã tình nguyện xin nghiên cứu tháo quả đầu tiên và đồng chí đã thành công. Nhờ đó rút được nhiều kinh nghiệm để phổ biến chung.
Trong quá trình làm nhiệm vụ gặp những trường hợp phải phá những quả bom có thể nguy hiểm đến tính mạng, Chu Văn Khâm đều xung phong nhận thay đồng đội và tìm mọi cách phá bằng được. Có lần một quả bom nổ chậm chui sâu 4 mét, khoan thành một lỗ chỉ chui lọt một người. Không ngần ngại, đồng chí đã chui xuống hố sâu trinh sát chỗ bom nằm, nghiên cứu cách phá rồi quay lên dùng chân đưa bộc phá xuống đặt, phá được quả bom hiểm ác này, kịp thời thông đường, bảo đảm cho các đơn vị vận tải vượt qua an toàn.

Kết quả trong 1 tháng, Chu Văn Khâm đã chỉ huy tiểu đội phá gỡ được 35 quả bom nổ chậm. Riêng đồng chí tự tay phá gỡ được 18 quả, trong đó có một số quả nguy hiểm và khó phá, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.

Trong chiến đấu cũng như trong công tác, Chu Văn Khâm luôn luôn gương mẫu về mọi mặt, hết lòng thương yêu đồng đội, đi sát động viên, giúp đỡ chiến sĩ trong những lúc khó khăn, ác liệt nên rất được anh em quý mến, tin yêu.

Đồng chí đã được tiểu đoàn khen thưởng 9 lần.

Ngày 31 tháng 8 năm 1955, Chu Vãn Khâm được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.






ANH HÙNG CHU VĂN MÙI

(http://img560.imageshack.us/img560/6466/scan0810140019.jpg)

Chu Văn Mùi sinh năm 1929, dân tộc Kinh, quê ở xã Thượng Lan, huyện Việt Yên, tỉnh Hà Bắc, nhập ngũ năm 1949. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là trung đội trưởng thông tin vô tuyến điện thuộc trung đoàn 102, đại đoàn 308, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

Từ khi nhập ngũ đến năm 1954, Chu Văn Mùi đã tham gia bảy chiến dịch lớn, đảm nhận những công tác khác nhau : pháo thủ, chiến sĩ nuôi quân, chiến sĩ xung kích, tiểu đội phó súng cối, tiểu đội trưởng thông tin liên lạc; nhiệm vụ nào đồng chí cũng nêu cao tinh thần bền bỉ, quyết vượt qua mọi thử thách, ác liệt hoàn thành một cách xuất sắc.

Đặc biệt trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Chu Văn Mùi phụ trách máy vô tuyến điện, phối thuộc với đơn vị bạn chiến đấu phòng ngư trên đồi A1 và đồi 311B. Trong điều kiện bom đạn địch vô cùng ác liệt, đồng chí đã thể hiện rõ tinh thần ngoan cường dũng cảm, kiên quyết bám trận địa, giữ vững liên lạc với sở chỉ huy và điều khiển cho pháo binh ta bắn chính xác tiêu diệt nhiều địch, bẻ gãy nhiều đợt phản kích của chúng.

Khi được lệnh vào phối thuộc phòng ngự đồi A1, Chu Văn Mùi đã dũng cảm vượt qua làn mưa đạn của địch, tới nơi kịp thời đặt máy làm việc luôn. Ngày thứ nhất, đồng chí đặt đài quan sát báo cho pháo binh ta bắn chính xác diệt nhiều địch, đánh lui hai đợt phản kích của chúng. Ngày hôm sau, đơn vị được lệnh rút ra, tổ đồng chí được lệnh ở lại nắm tình hình địch và báo cáo, đồng chí vừa chỉ huy tổ chiến đấu, dũng cảm bảo vệ thương binh, giữ vững trận địa, vừa báo cáo kịp thời tình hình địch với sở chỉ huy. Pháo địch bắn mỗi lúc càng thêm ác liệt, địch lên mỗi lúc một đông, tổ chỉ còn lại hai người, đồng chí vẫn kiên quyết chiến đấu giữ vững trận địa cho đến khi được lệnh rút lui.

Trận phòng ngự trên đồi 311B, suốt 4 ngày đêm liền đơn vị phải nằm dưới hầm. Trời mưa, hầm sập và ngập nước, bom đạn các cỡ của địch thường xuyên bắn về dữ dội, đồng chí vẫn bảo vệ được máy, giữ vững liên lạc với sở chỉ huy. Có lần máy bị hỏng nặng, đồng chí đã dũng cảm đi tìm máy của địch tháo lấy phụ tùng đem về thay thế, kịp thời bắt liên lạc, góp phấn tích cực phục vụ cho việc chỉ huy chiến đấu thắng lợi.

Chu Văn Mùi là một cán bộ thông tin gương mẫu về mọi mặt, với đức tính khiêm tốn, giản dị, cởi mở, chân thành, đồng chí được đồng đội hết sức tin yêu.

Chu Văn Mùi đã 9 lần được trung đoàn và đại đoàn khen.

Ngày 31 tháng 8 năm 1955, Chu Văn Mùi được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba và danh hiệu Anh bùng lực lượng vũ trang nhân dân.


Tiêu đề: Re: Anh hùng LLVTND trong kháng chiến chống Pháp
Gửi bởi: hoi_ls trong 21 Tháng Mười Hai, 2010, 03:26:20 pm
ANH HÙNG NÚP

(http://img204.imageshack.us/img204/6075/scan0810140020.jpg)

Núp sinh năm 1914, dân tộc Ba Na, quê ở thôn Sê Tơ, xã Tơ Tung, huyện Kbang, tỉnh Gia Lai. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là thôn đội trưởng du kích, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

Núp mồ côi cha mẹ từ khi 10 tuổi. Năm 15 tuổi Núp đã phải đi phu và bị đánh đập dã man, nên đồng chí sớm căm thù quân giặc. Năm 1935, quân Pháp về lùng bắt phu, dân làng lánh hết vào rừng, một mình đồng chí ở lại dũng cảm dùng nỏ bắn chết một tên giặc. Năm 1945, Nhật đảo chính Pháp. Lính Pháp qua làng, đồng chí mưu trí đi báo Nhật về vây bắt bọn lính Pháp, lợi dụng cơ hội lộn xộn, Núp lấy được một khẩu súng và 10 hòm đạn.

Trong Cách mạng tháng Tám, đồng chí tích cực tham gia tổng khởi nghĩa cướp chính quyền, và từ đó đến năm 1954, hoạt động chiến đấu ở địa phương. Trong hoàn cảnh rất khó khăn : địch liên tiếp càn quét, đốt làng, dồn dân, phá rẫy, nhân dân thì trình độ giác ngộ chưa cao, lại đói rét, thiếu muối, bệnh tật nhiều... đồng chí đã luôn luôn dũng cảm, gương mẫu đi đầu trong chiến đấu và sản xuất, kiên trì vận động tổ chức nhấn dân vượt qua mọi khó khăn, vừa bảo đảm sản xuất tốt, vừa chiến đấu chống giặc thắng lợi, duy trì và phất triển phong trào cách mạng ở địa phương ngày một vững chắc.

Suốt 3 năm từ 1947 đến 1949, là những năm đầu kháng chiến gay go gian khổ nhất. Địa phương đồng chí Núp mất liên lạc với trên, nên gặp muôn vàn khó khăn. Nhưng đồng chí Núp vẫn tin tưởng ở thắng lợi. Nắm vững phương châm "trường kỳ kháng chiến, tự lực cánh sinh", đồng chí Núp đã lãnh đạo nhân dân thay đổi chỗ ở năm lần. Đi đến khu rừng nào đồng chí cũng vận động nhân dân phát triển sản xuất bảo đảm đủ lương ăn, xây dựng làng chiến đấu, tổ chức du kích kiên quyết đánh giặc diệt được 80 tên.

Năm 1950, địch ra sức càn quét bình định, khủng bố vùng du kích Tây Nguyên rất gắt gao, đồng chí Núp vẫn kiên trì vận động dân làng ra sức rào làng chiến đấu sáng tạo nhiều cách đánh dùng chông mìn, cạm bẫy, tên nỏ diệt địch, bảo vệ nương rẫy và dân làng.

Đặc biệt trong trận đánh địch càn tháng 10 năm 1952, liên tục 7 ngày liền đồng chí chỉ huy trung đội du kích ngoan cường luồn rừng chiến đấu với cả trung đoàn địch, diệt nhiều tên, phá vỡ cuộc càn của chúng, bảo vệ được tài sản và tính mạng của nhân dân. Bản thân đồng chí đã gương mẫu về mọi mặt, đồng chí còn giáo dục xây dựng gia đình gương mẫu về sản xuất, tích cực tham gia canh gác, chiến đấu giữ làng, nuôi dưỡng cất giấu cán bộ, bài trừ mê tín dị đoan, đoàn kết với dân bản.

Núp hoàn toàn được dân làng và đồng đội mến yêu, tin cậy, xứng đáng là lá cờ đầu trong phong trào thi đua giết giặc cứu nước của đồng bào Tây Nguyên.

Núp đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công hạng nhất, 1 Huân chương Chiến công hạng nhì, được Hồ Chủ tịch tặng một áo lụa và huy hiệu của Người.

Ngày 31 tháng 8 năm 1955, Núp được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.






ANH HÙNG VÕ VĂN NGÔM

(http://img574.imageshack.us/img574/6943/scan0810140021.jpg)

   Võ Văn Ngôm sinh năm 1926 , dân tộc Kinh, quê ở xã Mỹ Cẩm, luyện Càng Long, tỉnh Trà Vinh, nhập ngũ tháng 1 năm 1949. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là tiểu đội phó công binh thuộc đội công binh bộ đội địa phương tỉnh Mỹ Tho (cũ), đảng viên Đang Cộng sản Việt Nam.

   Võ Văn Ngôm nhà rất nghèo, lên 10 tuổi đã phải đi ở cho địa chủ, mãi tới khi Cách mạng tháng Tám thành công mới chấm dứt được cuộc đời đi ở, làm thuê. Tháng 2 năm 1946, đồng chí tham gia du kích xã, đã chiến đấu 3 trận, trận nào cũng hoàn thành tốt nhiệm vụ. Tháng 1 năm 1949, đồng chí xung phong vào bộ đội tập trung cua tỉnh và từ đó đến tháng 7 năm 1954, hoạt động chiến đấu ở vùng Mỹ Tho, chuyên làm nhiệm vụ đánh phá giao thông đường bộ và đánh tàu chiến địch trên sông. Trong nhiều trận đánh gay go, phức tạp, đồng chí đã luôn nêu cao quyết tâm chiến đấu, xung phong gương mẫu từ việc điều tra nằm địch, đến hành động dũng cảm táo bạo dẫn đầu đơn vị khi bước vào chiến đấu. Đồng chí đã tham gia đánh 15 trận, góp phần chủ yếu vào việc phá hủy 4 chiếc cầu lớn, đánh chìm 25 tàu, gây cho địch nhiều thiệt hại, khó khăn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

   Cầu Bến Lức là một chiếc cầu loại lớn ở Nam Bộ nằm trên quốc lộ 4, địch canh phòng rất nghiêm ngặt. Qua 6 tháng kiên trì điều tra và tập luyện, đêm 24 tháng 2 năm 1952, Võ Văn Ngôm mang khối thuốc nổ nặng 50 ki-lô-gam dẫn đầu đơn vị bơi qua sông vào đánh. Bộc phá nổ đã diệt 6 tiểu đội lính bao vệ và đánh sập một nhịp cầu dài 50 mét, làm ngưng trệ giao thông của địch trên tuyến đường này trong 7 tháng liền.

   Nhận nhiệm vụ đánh tiếp cầu Tân An, đồng chí đeo 30 ki-lô-gam vũ khí và thuốc nổ dẫn đầu tổ bơi 30, 40 ki-lô-mét suốt hai đêm. Địa hình trống trải, ban ngày phải giấu mình ở các bụi ô rô, sình lầy. Đồng chí đã động viên đồng đội chịu đựng gian khổ, giữ bí mật tuyệt đối và bảo quản vũ khí thật tốt. Đêm thứ hai tổ đồng chí luồn vào đánh sập cấu Tân An hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

   Cuối năm 1952, đồng chí tham gia đánh đoàn tàu gồm 22 chiếc của địch đậu ở bến cảng thị xã Vĩnh Long. Đây là lực lượng ứng chiến của địch để tiến công vùng Đồng Tháp Mười và kiểm soát hệ thống đồn bốt hai bờ sông Cửu Long. Nhận được lệnh, đồng chí dẫn một tổ vào đánh chiếc tàu mang số 720 là chiếc tàu trọng điểm, đồng thời diệt một số tàu hộ vệ xung quanh. Đặt xong thuốc nổ quay ra thì dây điện bị đứt, địch lại đang tuần tra, đồng chí cho cả tổ rút ra, còn mình ở lại chập điện ngay chỗ dây đứt. Mìn nổ, chiếc tàu 720 chìm ngay tại chỗ và 6 chiếc tàu bên cạnh cũng bị nổ và chìm theo.

   Trong chiến đấu cũng như trong công tác, Võ Văn Ngôm luôn luôn gương mẫu, nhận khó khăn về mình, nhường thuận lợi cho bạn. Đồng chí sống khiêm tốn, giản dị, hết lòng thương yêu đồng đội, được mọi người tin yêu, quý mến.

   Võ Văn Ngôm đã được tặng thưởng 1 Huân chương Quân công hạng ba, 4 lần được tỉnh và khu tuyên. dương công trạng và tặng bằng khen.

   Ngày 31 tháng 8 năm 1955, Võ Văn Ngôm được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.



ANH HÙNG NGUYỄN VĂN TY

(http://img683.imageshack.us/img683/7125/scan0810140022.jpg)

   Nguyễn Văn Ty sinh năm 1931, dân tộc Kinh, quê ở xã Ninh Sơn, huyện Việt Yên, tỉnh Hà Bắc, nhập ngũ tháng 2 năm 1949. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là đại đội trưởng bộ binh thuộc trung đoàn 88, đại đoàn 308, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

   Nguyễn Văn Ty xung phong vào bộ đội ba lần nhưng vì người nhỏ, sức yếu, mãi đến lần thứ tư đồng chí mới được chấp nhận. Từ ngày nhập ngũ đến tháng 7 năm 1954, Nguyễn Văn Ty đã tham gia 7 chiến dịch lớn trên chiến trường Bắc Bộ, với 35 trận đánh, trận nào cũng thể hiện tinh thần dũng cảm, táo bạo, bị thương vẫn không rời trận địa, lập công xuất sắc. Khi làm chiến sĩ liên lạc cũng như khi phụ trách tiểu đội trưởng bộc phá, bất kỳ nhiệm vụ nào, trong hoàn cảnh nào, đồng chí đều chấp hành nghiêm chỉnh mệnh lệnh.

   Chiến dịch Biên Giới năm 1950, khi xung phong lên chiếm điểm cao, địch tập trung hỏa lực bắn xả xuống, Nguyễn Văn Ty bị thương vào chân phai, máu chảy nhiều, liền lấy chân trái giẫm đè lên vết thương cho máu đỡ chảy và tiếp tục chiến đấu, ném lựu đạn diệt tại chỗ 5 tên, tạo điều kiện cho đơn vị xung phong đánh chiếm điểm cao, diệt xong địch mới chịu băng bó.

   Chiến dịch Hòa Bình năm 1951, đơn vị đánh trận Tu Vũ, đồng chí làm tổ trưởng thông tin liên lạc. Khi trận đánh gay go ác liệt, cả tổ bị thương vong, đồng chí làm thay nhiệm vụ cả 4 người, và đã dũng cảm vượt dưới làn mưa đạn địch, lên xuống qua cửa mở 18 lần, truyền đạt mệnh lệnh chính xác kịp thời, góp phần cùng đơn vị tiêu diệt vị trí Tu Vũ.

   Trận đánh đồi Độc Lập (chiến dịch Điện Biên Phủ). Nguyễn Văn Ty phụ trách tiểu đội đánh bộc phá. Trời tối, địch tập trung hoa lực bắn dữ dội về hướng cửa mở, tiểu đội bạn đánh bị chệch hướng. Đồng chí lên quan sát rồi dẫn tiểu đội vào thay, tự mình đánh quả bộc phá đầu, chỉnh lại đúng hướng đường mở, sau đó tiếp tục chỉ huy tiểu đội đánh liên tục 28 qua bộc phá, phá tan 7 lớp rào. Đến hàng rào cuối cùng, địch bắn và ném lựu đạn ra ác liệt, đồng chí bị thương vào mắt trái, máu chảy tràn đầy mặt, nhưng vẫn cố dùng tay căng mắt phải để quan sát, chỉ huy tiểu đội phá bung nốt hàng rào cuối cùng, mở thông cửa cho xung kích vào diệt gọn vị trí địch.

   Nguyễn Văn Ty là một cán bộ gương mẫu, tận tụy, luôn luôn chú trọng xây dựng đơn vị tiến bộ về mọi mặt. Bản thân tuy có nhiều thành tích nhưng đồng chí rất khiêm tốn, giản dị, được đồng đội trong đơn vị tin yêu.

   Nguyễn Văn Ty đã được tặng thưởng 3 Huân chương Chiến công hạng nhất, 1 Huân chương Chiến công hạng nhì, 1 Huân chương Chiến công hạng ba và 4 lần được bầu là Chiến sĩ thi đua của đơn vị.

   Ngày 31 tháng 8 năm 1955, Nguyễn Văn Ty được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


Tiêu đề: Re: Anh hùng LLVTND trong kháng chiến chống Pháp
Gửi bởi: hoi_ls trong 21 Tháng Mười Hai, 2010, 03:29:57 pm
ANH HÙNG PHAN TƯ

(http://img5.imageshack.us/img5/3754/scan0810140023.jpg)

   Phan Tư, sinh năm 1931, dân tộc Kinh, quê ở xã Thọ Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An, nhập ngũ tháng 6 năm 1951. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là đại đội trưởng thuộc đoàn 555 công binh, Cục Công binh, đang viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

   Từ khi nhập ngũ đến tháng 7 năm 1954, đồng chí Phan Tư đã tham gia 4 chiến dịch lớn ở Bắc Bộ. Trong các nhiệm vụ: mở đường, phá bom bảo đảm giao thông, phá thác... nhận bất cứ nhiệm vụ gì, dù ở cương vị nào, đồng chí cũng luôn luôn nêu cao tinh thần dũng cảm vượt mọi khó khăn ác liệt, kiên quyết hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

   Chiến dịch Hòa Bình năm 1952. Phan Tư làm nhiệm vụ quan sát và phá bom nổ chậm bảo đảm đường giao thông vận chuyển. Có lần địch đánh phá ác liệt, bom nổ rất gần, đất đá tung cả vào hầm đồng chí vẫn động viên đồng đội bình tĩnh quan sát bom rơi, khi máy bay bay đi, lại ra phá gỡ. Có quả bom nổ chậm chui sâu, phải đào gỡ liên tục 4 giờ liền, quá giờ an toàn quy định, đồng chí vẫn dũng cảm kiên quyết tháo bằng được qua bom để thông đường.

   Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Phan Tư làm nhiệm vụ quan sát. Khi may bay địch quay trở lại ném bom tiếp, Phan Tư đã dũng cảm nằm ngay tại mặt đường quan sát để nắm chắc vị trí bom rơi, đánh dấu cho anh em phá gỡ. Một quả bom nổ chậm nằm giữa mặt đường, không nắm được giờ an toàn, nên không ai dám vượt qua, dân công bị ùn lại. Đồng chí đã dũng cảm dốt đuốc đứng cạnh quả bom, làm lộ tiêu cho dân công vượt qua an toàn nhanh chóng.

   Tháng 2 năm 1954, trung đội Phan Tư nhận nhiệm vụ phá thác trên sông Nậm Na. Lần đầu phá thác chưa có kinh nghiệm, gặp nhiều khó khăn: nước chảy xiết, trời mùa đông rét buốt, địa hình khó, nhảy xuống không khéo sẽ bị nước cuốn trôi, hoặc người đập vào đá. Đồng chí xung phong nghiên cứu phá trước, rút kinh nghiệm cho toàn đơn vị. Sau nhiều lần lặn xuống nghiên cứu tìm nơi đặt bộc phá, đồng chí đã quyết định ôm khối thuốc nổ 6 ki-lô-gam, ngòi đốt sẵn, nhoài người xuống ấn khối thuốc nổ vào kẽ đá, rồi nhanh chóng ngoi lên bơi vào bờ, vừa xong thì bộc phá nổ. Tiếp theo, đồng chí trực tiếp phá 4 thác khác để rút kinh nghiệm. Nhờ đó, trung đội đồng chí đã phá được hơn 30 thác, bảo đảm thời gian quy định, thông luồng cho thuyền chở vũ khí phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ được dễ dàng và an toàn.

   Không những lo lắng cho đơn .vị hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, mà Phan Tư còn thường xuyên chú trọng xây dựng đơn vị tiến bộ về mọi mặt, vì vậy trung đội do đồng chí chỉ huy luôn luôn là trung đội dẫn đầu đại đội trong công tác, chiến đấu cũng như sinh hoạt, rèn luyện.

   Phan Tư đã được tặng thưởng 2 Huân chương Chiến công hạng nhì, 11 lần được trung đoàn, đại đoàn và Tổng cục Chính trị khen thưởng.

   Ngày 31 tháng 8 năm 1955, Phan Tư được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.








ANH HÙNG SON TON

(http://img810.imageshack.us/img810/9789/scan0810140024.jpg)

   Sơn Ton sinh năm 1933, dân tộc Khơ Me, quê ở xã Lưu Nguyệt Ánh, huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là tiểu đội trưởng đặc công thuộc trung đoàn 3, bộ đội miền Tây Nam Bộ.

   Cách mạng tháng Tám thành công vào lúc Sơn Ton 15 tuổi, đang đi ở đợ. Với nhiệt tình hăng hái của tuổi trẻ, đồng chí tuy vẫn phải làm việc quần quật suốt ngày hầu hạ nhà chủ, nhưng vẫn tích cực tham gia công tác cách mạng, canh gác, phá đường ngăn cản địch. Năm 1949, đồng chí tham gia du kích xã, rồi lên du kích tập trung huyện, sau chuyển thành bộ đội địa phương (tháng 1 năm 1953).

   Gần 7 năm, Sơn Ton vừa chiến đấu, vừa tham gia hoạt động xây dựng cơ sở cách mạng, tổ chức dân quân du kích chiến đấu trong vùng người dân tộc Khơ Me. Tuy trình độ có hạn, địch lại thường xuyên càn quét đánh phá, tuyên truyền gây hiềm khích chia rẽ dân tộc, cơ sở Đảng chưa có nhưng với lòng yêu nước nồng nàn, chí căm thù giặc sâu sắc, Sơn Ton đã kiên trì vận động quần chúng, vạch rõ âm mưu giặc, giác ngộ, tổ chức thanh niên người Khơ Me kiên quyết đứng lên cấm súng chống Pháp, bảo vệ làng xóm. Trong hoàn cảnh khó khăn ban đầu, Sơn Ton dũng cảm tự tay gài mìn và nổ súng diệt địch trước để đồng bào tin tưởng noi theo. Dần dần Sơn Ton đã xây dựng được nhiều cơ sở cách mạng tốt, nhiều tổ đội du kích, duy trì và phát triển phong trào chiến tranh du kích trong vùng đồng bào dân tộc Khơ Me ngày một vững chắc.

   Một lần xã đang họp hội nghị, có cán bộ tỉnh về dự, địch bao vây tiến công vào, một mình đồng chí dũng cảm chiến đấu bắn chặn, cầm cự với giặc để hội nghị rút an toàn.

   Hai năm 1952 - 1953 là thời kỳ khó khăn nhất của huyện Long Phú. Địch thường xuyên dùng 2, 3 tiểu đoàn càn quét, có máy bay, pháo binh bắn phá yểm trợ, đóng đồn bốt khắp trong huyện. Trước tình hình giặc lùng sục khủng bố ác liệt, đội du kích hầu như không còn. Cả đội chỉ còn đồng chí và một cán bộ xã đội là vẫn kiên cường cầm súng chống giặc. Suốt 2 năm liền, hai anh em vừa bảo vệ vũ khí, vừa tuyên truyền gây cơ sở, vừa chiến đấu chống giặc, tới trận Mương Ông Tám. Cuối năm 1952, giặc đổ bộ vào xã, đồng chí tổ chức gài lựu đạn, dụ địch vào diệt được nhiều tên, khiến nhân dân phấn khởi tin tường, phong trào du kích lại lên. Từ đó Sơn Ton tổ chức được 15 trung đội dân quân và 15 tiểu đội du kích thường xuyên tập luyện sẵn sàng đánh giặc.

   Năm 1953, Sơn Ton được điều lên đội du kích tập trung của huyện. Năm 1954, ta mở chiến dịch tiến sâu vào vùng địch tạm chiếm. Đồng chí dẫn đầu tổ vũ trang tuyên truyền (hầu hết anh em là người Việt) vào tuyên truyền xây dựng cơ sở. Đến sóc (làng) nào đồng chí cũng xung phong vào trước để tuyên truyền giác ngộ đồng bào. Nhiều lần dựa vào nhân mối, Sơn Ton đã táo bạo đến thẳng bốt địch tuyên truyền vận động binh lính quay súng về với nhân dân. Đối với bọn ngoan cố thì kết hợp với dân quân tiến công tiêu diệt hoặc uy hiếp. Kết quả trong 7 tháng hoạt động, tổ vũ trang tuyên truyền đã diệt 67 tên địch bắt sống 100 tên, thu 43 súng, vận động được nhiều binh lính về với nhân dân và động viên được 50 thanh niên tòng quân.

   Do tinh thần tích cực, dũng cảm, tác phong gương mẫu khiêm tốn, giản dị, Sơn Ton rất có uy tín với đồng đội và nhân dân địa phương. Đồng chí đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công hạng nhì, 4 lần được huyện, tỉnh và Miền khen.

   Ngày 31 tháng 8 năm 1955, Sơn Ton được Chu tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.



ANH HÙNG NGUYỄN VĂN THUẦN

(http://img46.imageshack.us/img46/1356/scan0810140025.jpg)

   Nguyễn Văn Thuần, sinh  năm 1916, dân tộc Kinh, quê ở xã Cộng Hòa, huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh, nhập ngũ tháng 9 năm 1945. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là trung đoàn phó bộ binh, trung đoàn 209, đại đoàn 312, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

   Từ lúc 10 tuổi đến 28 tuổi, Nguyễn Văn Thuần hết đi ở cho địa chủ lại đi phu, nhiều lần bị địa chủ cường hào đánh đập tàn nhẫn. Năm 1944 Nguyễn Văn Thuần bị bắt đi lính cho Pháp, cuộc đời ở lính cũng bị đánh đập đối xử tệ bạc. Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp, Nguyễn Văn Thuần bị bắt làm tù binh, chúng đánh đập dã man phải đi nhà thương, ở đây Thuần đã tìm cách trốn được về nhà.

   Cách mạng tháng Tám thành công, Nguyễn Văn Thuần xung phong vào bộ đội, chiến đấu dũng cảm, lập nhiều chiến công xuất sắc. Từ ngày nhập ngũ tới tháng 7 năm 1954, đồng chí chiến đấu trên chiến trường Bắc Bộ, ở đơn vị chủ lực tập trung, trưởng thành từ chiến sĩ lên cán bộ trung đoàn, bao giờ cũng hăng say đánh giặc. Đồng chí, chỉ huy linh hoạt, bình tĩnh, mưu trí, dù trong hoàn cảnh nào cũng dẫn đầu đơn vị vượt qua. Đồng chí Nguyễn Văn Thuần đã tham gia chiến đấu 30 trận, chỉ huy đơn vị diệt gần 1.000 địch, bắt sống hàng trăm tên, tự tay đồng chí diệt gần 200 tên, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của chúng.

   Năm 1947, đánh địch càn ở Lạc Điền, Hải Dương, Nguyễn Văn Thuần làm nhiệm vụ bắn trung liên, bố trí hướng chính diện bản chặn địch và hỗ trợ cho đơn vị xung phong. Đồng chí đã bình tĩnh chờ cho địch vào cách 30 mét mới nổ súng, diệt hàng chục tên lính Pháp đi đầu; khiến bọn còn lại hoảng hốt chạy tán loạn, tạo điều kiện cho đơn vị vận động lên tiêu diệt địch, phá vỡ cuộc càn của chúng.

   Trận Phủ Thông (năm 1948), đồng chí phụ trách tiểu đội xung kích, dũng cảm dẫn đầu một tổ xông thẳng vào đồn, dùng dao và mác đánh giáp lá cà với địch rất quyết liệt, cùng đơn vị diệt gọn đồn này.

   Trận Phố Ràng (năm 1949), khi nổ súng, địch chống cự quyết liệt, Nguyễn Văn Thuần dẫn tiểu đội xông vào đánh chiếm cửa mở, cướp lựu đạn địch tiếp tục phát triển thọc sâu. Tiểu đội chỉ còn 3 người, đồng chí vẫn động viên đồng đội kiên quyết chiến đấu, đánh chia cắt địch và giữ trận địa.

   Trận đánh đồn Ba Huyên (tháng 1 năm 1951), ta tiến công suốt đêm vẫn chưa giải quyết xong, 8 giờ sáng hôm sau địch phản kích chiếm lại 3 lô cốt quan trọng. Trung đội Nguyễn Văn Thuần được lệnh đánh chiếm lại. Với lối đánh xung phong mãnh liệt, nhanh chóng áp sát địch, chỉ ít phút sau Nguyễn Văn Thuần đã chỉ huy trung đội diệt được 2 lô cốt, bọn còn lại vào lô cốt số ba, ngoan cố chống cự. Đồng chí thu nhặt bộc phá, gói lại thành khối thuốc nổ 10 ki-lô-gam, bò lên đặt và giật nổ phá sập lô cốt, diệt hết bọn địch còn lại, chiếm toàn bộ vị trí.

   Nguyễn Văn Thuần có tác phong khiêm tốn giản dị, sâu sát gần gũi anh em, đoàn kết thương yêu chăm sóc chiến sĩ, được anh em trong đơn vị rất yêu mến.

   Nguyễn Văn Thuần được tặng thưởng 2 Huân chương Chiến công hạng nhất, 1 Huân chương Chiến công hạng ba, 11 lần được tiểu đoàn, trung đoàn, đại đoàn khen thưởng và được Hồ Chủ tịch tặng Huy hiệu của Người.

   Ngày 31 tháng 8 năm 1955, đồng chí Nguyễn Văn Thuần được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


Tiêu đề: Re: Anh hùng LLVTND trong kháng chiến chống Pháp
Gửi bởi: hoi_ls trong 21 Tháng Mười Hai, 2010, 03:34:59 pm
ANH HÙNG LÝ VĂN THÍM

(http://img146.imageshack.us/img146/1812/scan0810140026.jpg)

   Lý Văn Thím sinh năm 1925, dân tộc Nùng, quê ở xã Nam Sơn, huyện Thất Khê, tỉnh Lạng Sơn, nhập ngũ 1 tháng 2 năm 1945. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là đại đội phó bộ binh thuộc trung đoàn 335, đơn vị quân tình nguyện, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

   Trước Cách mạng tháng Tám (tháng 2 năm 1945), Lý Văn Thím đã xung phong vào Giải phóng quân, tham gia đánh bọn phỉ ở Hang Cấu, đánh Nhật ở Pò Mã và cùng nhân dân khởi nghĩa cướp chính quyền ở thị xã Lạng Sơn. Sau đó đồng chí bị yếu, được trên cho về nhà nghỉ chữa bệnh. Đến tháng 6 năm 1946, đồng chí lại trở về đơn ví tiếp tục chiến đấu đến tháng 7 năm 1954. Đồng chí đã nhận nhiều nhiệm vụ, công tác khác nhau khi trực tiếp chiến đấu, khi làm chiến sĩ trinh sát, liên lạc, khi làm công tác tuyên truyền vận động quần chúng xây dựng cơ sở cách mạng... nhiệm vụ nào đồng chí cũng hoàn thành xuất sắc. Đồng chí đã tham gia chiến đấu 46 trận, luôn luôn nêu cao tinh thần dũng cảm, kiên quyết tiến công địch, diệt và làm bị thương 25 tên, bắt sống 5 tên, xây dựng được nhiều cơ sở cách mạng ở 7 bản thuộc vùng dân tộc ít người.

   Tháng 12 năm 1946, giặc Pháp trở lại xâm lược nước ta, tiểu đội Lý Văn Thím làm nhiệm vụ phòng ngự chống địch trong thị xã Lạng Sơn. Địch huy động 1 tiểu đoàn có xe tăng và cả máy bay, pháo binh yểm trợ tiến công vào thị xã. Tiểu đội bị thương vong một số. Đồng chí vẫn cố thủ trong thành, đợi địch đến gần mới bắn và ném lựu đạn, chiến đấu liên tục 8 giờ liền, diệt nhiều địch, giữ vững trận địa.

   Trận đánh đồn Na Y (trên đường số 4) đầu năm 1949, Lý Văn Thím xung phong vào đội quân cảm tử, xông thẳng vào đồn phá bung ba lớp rào, đánh sập lô cốt rồi tiến lên chiếm hào giao thông, ném lựu đạn dập tắt hỏa điểm xung yếu nhất, tạo điều kiện cho đơn vị xung phong tiêu diệt toàn bộ quân địch.

   Tháng 12 năm 1949, Lý văn Thím làm chiến sĩ liên lạc và trinh sát ở vùng PĐây là vùng dân tộc ít người, nhân dân chưa hiểu còn xa lánh cán bộ, bộ đội. Địch thường phục kích trên các con đường đi lại. Đồng chí đã kiên trì gần gũi giúp đỡ, tuyên truyền giác ngộ nhân dân, xây dựng được cơ sơ, qua đó nắm vững tình hình địch. Có lần chuyển công văn hoa tốc, đường đi mất 7 ngày, giữa đường gặp địch, cơm không có, phải nhịn đói, nhưng Lý Văn Thím vẫn tìm cách xuyên rừng đưa công văn tới nơi, trước giờ quy định.

   Từ tháng 12 năm 1952 đến tháng 8 năm 1953, đồng chí nhận nhiệm vụ hoạt động xây dựng cơ sở cách mạng ở một vùng trọng điểm. Suốt 9 tháng liền, ngày nằm rừng, đêm về tìm dân ở các bản, nhiều khi địch lùng sục, gạo không có phải ăn rau, củ rừng, nhưng Lý Văn Thím vẫn kiên trì bám dân hoạt động, gây được cơ sở ở 7 bản.

   Với tinh thần và tác phong kiên trì, chịu đựng gian khổ, khắc phục khó khăn, liên hệ mật thiết với quần chúng, đồng chí Lý Văn Thím đã cảm hóa được mọi người, tranh thủ được sự đồng tình mến phục của nhân dân và lòng tin yêu của anh em đồng đội.

   Lý Văn Thím đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công hạng nhất và được bầu là Chiến sĩ thi đua của đơn vị.

   Ngày 31 tháng 8 năm 1955, Lý Văn Thím được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.





ANH HÙNG LÊ VĂN THỌ

(http://img204.imageshack.us/img204/3738/scan0810140027.jpg)

   Lê Văn Thọ sinh năm 1931, dân tộc Kinh, quê ở xã Tân Thới Hiệp, huyện Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh, nhập ngũ tháng 4 năm 1947. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là trung đội trưởng đặc công thuộc miền Đông Nam Bộ, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

   Lúc còn nhỏ, Lê Văn Thọ đã tham gia canh gác giấu cán bộ về hoạt động bí mật ở xã.

   Từ ngày nhập ngũ đến tháng 7 năm 1954, đồng chí hoạt động ở Sài Gòn và miền Đông Nam Bộ, luôn luôn dũng cảm, táo bạo trong chiến đấu, kiên trì, mưu trí, thận trọng, chính xác trong việc điều tra, trinh sát nằm địch. Gặp nhiều trường hợp khó khăn nguy hiểm đồng chí vẫn không nan, kiên quyết khắc phục khó khăn hoàn thành nhiệm vụ. Trong quá trình chiến đấu, đồng chí đã diệt được 161 tên địch, góp phần tích cực cùng đơn vị phá hủy nhiều cầu cống, kho bom đạn và đồn bốt địch.

   Năm 1949, Lê Văn Thọ nhận nhiệm vụ trinh sát và đánh cầu Lái Thiêu (trên đường số 13), ở đây địch canh phòng rất cẩn mật. Đồng chí đã dũng cảm kiên trì trinh sát và dẫn đơn vị vào đánh đến lần thứ tư, mới đánh sập cầu.

   Từ năm 1950 - 1952, Lê Văn Thọ đã tham gia đánh nhiều trận, lập công xuất sắc, đặc biệt trong nhiệm vụ điều tra và đánh kho bom Tân Sơn Nhất. Đây là một vị trí địch tổ chức bố phòng nghiêm ngặt: nhiều đồn bốt bao bọc bên ngoài, rồi hàng rào dây thép gai, bãi mìn, bãi cát trảng, đường xe đi tuần, con mương rộng sâu lút đầu người, dưới đáy cắm chông, rồi lại thành đất cao và dày, đèn pha bật sáng suốt đêm, một đại đội Âu Phi thường xuyên tuần tiễu. Đồng chí đã mưu trí táo bạo kiên trì trinh sát trong 4 tháng liền, hết vào lại ra, nhiều lần nằm lại theo dõi nằm chắc địch và xây dựng cơ sở. Khi được lệnh trên cho đánh, Lê Văn Thọ đã cùng một đồng chí nữa đột nhập gài mìn vào giữa kho bom và những nơi xung yếu rồi giật nổ làm chết 182 tên địch, bị thương nhiều tên, phá hủy hơn 700 quả bom, một đại bác, làm sập ba tháp canh, một dãy nhà lính và 15 dãy nhà kho. Trận đánh thắng này đã gây cho địch rất nhiều thiệt hại, có tác dụng cổ vũ toàn chiến trường Nam Bộ lúc bấy giờ.

   Ngoài tinh thần anh dũng chiến đấu, tích cực tiêu diệt sinh lực địch, đồng chí Lê Văn Thọ còn hết lòng thương yêu đồng đội, tuy thường phải hoạt động và chiến đấu độc lập ít người giữa vòng vây dày đặc của địch, nhưng dù khó khăn ác liệt thế nào đồng chí cũng tìm cách đưa bằng được thương binh, tử sĩ ra ngoài an toàn, chu đáo. Thường xuyên trong hoạt động, đồng chí còn biết dựa vào dân gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân đùm bọc che chở qua các bước hiểm nghèo.

   Lê Văn Thọ đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công hạng nhất, 1 Huân chương Kháng chiến hạng nhất, 5 lần được Mặt trận miền Đông Nam Bộ khen và là Chiến sĩ thi đua toàn quốc.

   Ngày 31 tháng 8 năm 1955 , Lê Văn Thọ được Chủ tịch nước Việt Nam dân chu cộng hòa tặng thưởng Huân chương Quân công hạng nhì và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.




ANH HÙNG LỘC VĂN TRỌNG

(http://img593.imageshack.us/img593/8686/scan0810140028.jpg)

   Lộc Văn Trọng sinh năm 1905, dân tộc Tày, quê ở xã Chí Thảo, huyện Quảng Uyên, tỉnh Cao Bằng, nhập ngũ năm 1950. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là trung đội phó lái xe ô tô thuộc Cục Vận tải, Tổng cục Hậu cần, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

   Trước Cách mạng tháng Tám, đồng chí Lộc Văn Trọng bị bắt đi lính. Chúng đưa đồng chí sang Pháp học lái xe. Năm 1945, nghe tin nước nhà độc lập, mặc dù bọn đế quốc ra sức khủng bố, đồng chí đà tham gia tổ chức ái hữu cua binh lính người Việt ở Pháp, đấu tranh không chuyển vũ khí sang Việt Nam và đòi hồi hương, do đó bị chúng bắt bỏ tù và đày đi Bắc Phi. Năm 1946, trước đòi hỏi chính đáng của Chính phủ ta, bọn Pháp phải tha số anh em này và cho hồi hương. Đồng chí trở về quê, xung phong vào du kích. Năm 1948, giặc càn vao làng, đồng chí đã cùng tổ du kích dũng cảm chiến đấu, bắt sống 2 tên lính Pháp, thu 2 tiểu liên và 200 viên đạn.

   Năm 1950, tuy đã 45 tuổi, Lộc Văn Trọng được tin bộ đội đang rất cần lái xe để phục vụ kịp thời cho chiến dịch Biên Giới, đồng chí xung phong đi ngay. Từ đó đồng chí đã lái xe phục vụ trong suốt 5 chiến dịch lớn, luôn luôn nêu cao tinh thần bền bỉ, tích cực, dung cảm vượt qua mọi khó khăn ác liệt, đưa được nhiều hàng tới đích kịp thời và an toàn. Gần 3 năm, trong những điều kiện phục vụ chiến dịch hết sức khó khăn, chiếc xe do đồng chí lái và bảo quản đã chạy hơn 3 vạn ki-lô-mét an toàn đưa được hãng nghìn tấn vũ khí, lương thực tới chiến trường, kịp thời phục vụ đơn vị chiến đâu. Trong phong trào thi đưa lập công, đồng chí Lộc Văn Trọng là chiến sĩ lái xe xuất sắc của Cục Vận tải, Tổng cục Hậu cần; với tinh thần trách nhiệm cao, kết hợp những kinh nghiệm, nền nếp bảo quản và sử dụng xe, đồng chí đã nêu tấm gương sáng trong ngành vận tải, xứng đáng là lá cờ đầu của toàn đơn vị.

   Chiến dịch Biên Giới, Lộc Văn Trọng theo sát bộ đội vào thu chiến lợi phẩm ở Đông Khê, Thất Khê. Xe bị hư hỏng nhiều, đồ nghề thiếu, đồng chí đã vận động anh em thu nhặt phụ tùng ở các xe hỏng, sửa chữa liên tục nhiều ngày đêm được 36 xe, riêng bản thân đồng chí sửa được 4 xe, kịp thời phục vụ đắc lực cho việc vận chuyển sau chiến dịch.

   Phục vụ chiến dịch Tây Bắc và Điện Biên Phủ, qua nhưng quãng đường gay go nguy hiểm, gặp bom nổ chậm, Lộc Văn Trọng đều bình tĩnh xem xét, tổ chức và dẫn đầu đơn vị vượt qua an toàn.

   Cuối năm 1952, địch đánh lên vùng Đoan Hùng (Phú Thọ). Thấy giặc sắp đến vùng kho hàng của ta, đồng chí nhanh nhẹn lái chiếc xe của mình dẫn đầu  anh em đi chuyển kho, cứu hàng ra ngoài. Trời mưa, đường trơn nhiều xe và hàng còn bị mắc kẹt, Lộc Văn Trọng quay lại động viên anh em chặt tre, đan phên rải đường cho xe chạy. Suốt đêm mưa tối, đồng chí đã cùng anh em đưa được 80 thùng xăng và 14 tấn vũ khí vượt ra vùng an toàn.

   Một lần trong chiến dịch Điện Biên Phủ, do yêu cầu vận chuyển cấp tốc, đoàn xe phải tranh thủ vượt một trọng điểm, vừa tiến đến thì một quả bom nổ, mảnh bom, đất đá văng tung tóe vào các xe, trong lúc đó máy bay địch vẫn đang quần lượn, Lộc Văn Trọng bình tĩnh ra lệnh tắt đèn và lái xe dẫn dầu đơn vị vượt ra khỏi khu vực nguy hiểm.

   Lộc Văn Trọng luôn gương mẫu, cởi mở, khiêm tốn, chí công vô tư, được đồng đội tin yêu.

   Lộc Văn Trọng đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công hạng nhất, được Cục Vận tải khen và bầu là chiến sĩ lái xe xuất sắc.

   Ngày 31 tháng 8 năm 1955, Lộc Văn Trọng được Chủ tịch nước Việt Nam dân chu cộng hòa tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


Tiêu đề: Re: Anh hùng LLVTND trong kháng chiến chống Pháp
Gửi bởi: hoi_ls trong 21 Tháng Mười Hai, 2010, 03:38:30 pm
ANH HÙNG NGUYỄN PHÚ VỊ

(http://img46.imageshack.us/img46/2734/scan0810140029.jpg)

   Nguyễn Phú Vị sinh năm 1924, dân tộc Kinh, quê ở xã Ngọc Thụy, huyện Gia Lâm thành phố Hà Nội, nhập ngũ tháng 3 năm 1946. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là đại đội trưởng bộ binh thuộc trung đoàn 48, đại đoàn 320, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

   Năm 16 tuổi, nhà nghèo, đồng chí Nguyễn Phú Vị xin vào làm công nhân ở nhà máy điện Hà Nội. Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, đồng chí đã cùng công nhân tham gia cướp chính quyền ở Hà Nội, chiếm nhà máy điện và trại lính bảo an, sau đó xung vào đội quân Nam tiến, chiến đấu ở Nam Bộ, bị thương, được đưa ra Bắc điều trị.

   Tháng 3 năm 1946, sau khi bình phục Nguyễn Phú Vị trở về đội ngũ, tham gia chiến đấu ở giữa Thủ đô những ngày đầu kháng chiến toàn quốc và sau đó đồng chí hoạt động ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Nguyễn Phú vị đã đánh 30 trận luôn luôn thể hiện tinh thần hăng say đánh giặc, đã nổ súng là kiên quyết xung phong, gặp tình huống gay go ác liệt cũng không nản, kiên quyết tiến công tiêu diệt địch, chỉ huy bình tĩnh, mưu trí, táo bạo, đã cùng trung đội diệt 500 tên địch, thu và phá hủy nhiều xe pháo của chúng. Riêng đồng chí diệt 60 tên, bắt sống 5 tên, thu 10 súng các loại.

   Trận Trung Thứ, Hà Nam năm 1951, địch dùng 2 đại đội bất ngờ tiến công bao vây 1 đại đội ta ở làng Trung Thứ. Đồng chí được lệnh sang đánh giải vây cho đơn vị bạn, mặc cho địch bắn pháo chặn đường, đồng chí dũng cảm dẫn đầu trung đội vượt qua lửa đạn, đánh thốc vào sau lưng địch, diệt ngay sở chỉ huy, bắn chết tên quan ba, bắt sống tên chỉ huy và 17 tên khác, diệt gọn 1 trung đội địch, khiến toàn bộ địch hoang mang tan rã, tạo điều kiện cho tiểu đoàn bao vày chia cắt, diệt gọn cả 2 đại đội địch, giải vây cho đơn vị bạn.

   Trong trận tiến công địch ở thị trấn Phát Diệm (năm 1952), Nguyễn Phú Vị nhận nhiệm vụ chỉ huy đơn vị thọc sâu, diệt sở chỉ huy và khu điện đài của địch. Đồng chí chỉ huy đơn vị bí mật tiếp cận trước giờ nổ súng. Khi có lệnh, cả đơn vị xông lên bắn chết 2 tên lính gác, rồi nhanh chóng vượt rào, chia làm 3 mũi đánh vào sở chỉ huy, khu máy điện và khu thông tin. Chỉ ít phút sau, ta đã diệt xong địch và làm chủ khu vực này. Đồng chí tổ chức lại lực lượng chiếm giữ trận địa, và cử 6 đồng chí đánh tiếp sang khu bên, diệt thêm 2 tiểu đội địch nữa rồi cố thủ ở đó, đánh lui ba đợt phản kích cua lực lượng tiếp viện địch. 7 giờ sáng, được lệnh rút Nguyễn Phú Vị chỉ huy đưa hết thương binh ra ngoài và tranh thủ tiếp tục đánh chiếm khu để pháo của địch, diệt thêm 6 tên, mở rộng bàn đạp cho toàn trung đoàn triển khai, diệt gọn 7 đại đội địch, làm chủ thị trấn 1 ngày 1 đêm.

   Nguyễn Phú Vị là một cán bộ gương mẫu, tận tụy, luôn luôn xung phong dẫn đầu trong mọi công tác đoàn kết giúp đỡ mọi người. Với đức tính khiêm tốn, giản dị, chân thành, đồng chí được anh em trong toàn đơn vị tin yêu.

   Nguyễn Phú Vị đã được tặng thưởng 3 Huân chương Chiến công (một hạng nhất, một hạng nhì, một hạng ba), 17 lần được trung đoàn và đại đoàn khen.

   Ngày 31 tháng 8 năm 1955, đồng chí Nguyễn Phú Vị được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.



ANH HÙNG TRẦN CAN
(LIỆT SĨ)

(http://img152.imageshack.us/img152/2628/scan0810140030.jpg)

   Trần Can sinh năm 1931, dân tộc Kinh, quê ở xã Sơn Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An, nhập ngũ tháng 1 năm 1951. Khi hy sinh đồng chí là đại dội phó bộ binh thuộc trung đoàn 209, đại đoàn 312, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

   Từ hồi còn nhỏ Trần Can đã rất ham thích đi bộ đội để được cầm súng giết giặc cứu nước. Lớn lên, đã 3 lần đồng chí xung phong tình nguyện xin đi bộ đội, nhưng vì sức yếu nên mãi lần thư tư mới được chấp nhận.

   Từ khi vào bộ đội, Trần Can chiến đấu rất dũng cảm, mưu trí, chỉ huy hết sức linh hoạt. Trong mọi trường hợp khó khăn ác liệt, đồng chí đều kiên quyết dẫn đầu đơn vị vượt lên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ; đã hai lần đồng chí bị thương nặng vẫn tiếp tục chiến đấu, chỉ huy đơn vị kiên quyết tiến công tiêu diệt địch. Tấm gương của đồng chí đã thiết thực cổ vũ phong trào thi đua giết giặc lập công sôi nổi trong toàn đơn vị.

   Chiến dịch Tây Bắc năm 1952, trong trận đánh địch ở Ban Hoa, Trần Can làm nhiệm vụ xung kích, vừa có lệnh xung phong đồng chí đã nhanh chóng cùng tiểu đội vượt qua cửa mở, dùng thủ pháo diệt một ụ súng địch rồi lập tức phát triển sâu vào bên trong. Khi tiểu đội bị thương vong hết, đồng chí tự động sát nhập với hai đồng chí của tiểu đội khác lập thành một tổ tiếp tục chiến đấu. Đồng chí dẫn đầu tổ diệt luôn ba ụ súng nữa và đánh thắng vào sở chỉ huy địch diệt cơ quan đầu não, bắt sống 22 tên, thu 17 súng các loại.

   Trong trận đánh đồn Him Lam mở đầu cho chiến dịch Điện Biên Phủ, Trần Can được giao nhiệm vụ chỉ huy tiểu đội thọc sâu diệt sở chỉ huy và cắm lá cờ “Quyết chiến quyết thắng” của Hồ Chủ tịch giao cho quân đội lên đồn giặc. Khi nổ súng, mặc cho hỏa lực địch bắn ra dữ dội, đồng chí dẫn đầu tiểu đội vượt qua lô cốt tiền duyên, chọc thẳng vào đánh chiếm sở chỉ huy như một mũi dao nhọn cắm vào giữa tim gan địch, rồi nhảy lên nóc lô cốt cắm cờ. Sau đó chỉ huy tiểu đội diệt bọn địch còn lại trong hầm ngầm, bắt 25 tên, thu nhiều súng.

   Trong trận đánh điểm cao 507, Trần Can đã dũng cảm dẫn đầu tiểu đội xông lên áp đảo địch, chiếm mỏm cột cờ. Địch bắn pháo dữ đội và cho quân đánh chiếm lại. Ta với địch giành giật nhau từng thước đất hết sức quyết liệt. Đồng chí đã cùng đồng đội kiên quyết giữ vững và tiến công đánh bại 4 đợt phản kích của chúng. Địch lại xông lên trong đợt công kích thứ năm, chúng ném lựu đạn tới tấp trước khi xung phong, Trần Can nhặt ném lại và chỉ huy đơn vị nhảy lên hào đánh giáp lá cà với địch. Cán bộ đại đội bị thương vong hết, bản thân Trần Can cũng bị thương, nhưng đồng chí vẫn quyết tâm thay thế cán bộ đại đội chỉ huy đơn vị chiến đấu suốt một đêm. Sáng hôm sau. đồng chí tập trung thương binh nhẹ lại, động viên bộ đội, chấn chỉnh tổ chức, củng cố trận địa. Địch lại phản kích lên dữ dội, mong đánh bật quân ta, giành lại cửa ngõ tiến vào Mường Thanh. Trần Can chỉ huy đơn vị đánh tan đợt phản kích của chúng, kiên quyết giữ vững trận địa, tạo thế cho đơn vị tiến vào trung tâm Mường Thanh. Đồng chí Trần Can đã hy sinh anh dũng sáng ngày 7 tháng 5 năm 1954, ngày kết thúc chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử.

   Trần Can đã được tặng thưởng 1 Huân chương Quân công hạng ba, 2 Huân chương Chiến công hạng nhất, 2 lần được bầu là Chiến sĩ thi đua của đại đoàn.

   Ngày 7 tháng 5 năm 1956, Trần Can được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa truy tặng Huân chương Quân công hạng nhì và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.



ANH HÙNG CAO THẾ CHIẾN
(LIỆT SĨ)

(http://img833.imageshack.us/img833/6012/scan0810140031.jpg)

   Cao Thế Chiến sinh năm 1926, dân tộc Kinh, quê ở xã Quảng Hải, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình, nhập ngũ tháng 1 năm 1947. Khi hy sinh đồng chí là đại đội phó, thuộc đại đội 2, trung đoàn 101, đại đoàn 325, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

   Hơn bảy năm chiến đấu ở chiến trường Bình - Trị - - Thiên, đồng chí Cao Thế Chiến đã trưởng thành từ chiến sĩ lên cán bộ đại đội. Ở cương vị nào đồng chí cũng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Đồng chí đã tham gia 50 trận đánh. Nhiều trận gặp tình huống gay go, phức tạp, đồng chí vẫn bình tĩnh, linh hoạt chỉ huy đơn vị đánh thắng địch.

   Năm 1947, Cao Thế Chiến là chiến sĩ thông tin ở bộ phận điện đài, đồng chí đã khắc phục nhiều khó khăn để nắm vững nghiệp vụ và hoàn thành tốt nhiệmvụ phục vụ chỉ huy chiến đấu.

   Năm 1948, Cao Thế Chiến được chuyển về đơn vị chiến đấu làm nhiệm vụ diệt tề, trừ gian, đồng chí đã lập được nhiều thành tích. Một lần đồng chí dẫn tiểu đội bao vây vị trí bọn tề đang họp (gần thị xã Đồng Hới), rồi tự mình xông vào bắt bọn chúng. 2 tên ngoan cố tháo chạy, đồng chí nổ súng tiêu diệt, bọn còn lại bị tiểu đội xông vào bắt gọn.

   Trận Mỹ Trung (Quảng Bình) đầu năm 1949, kế hoạch định đánh bằng binh vận bị lộ, địch xảo quyệt gài bẫy lừa ta, khi đồng chí dẫn đầu tiểu dội tiến vào, chúng đã bố trí sản hoả lực bắn ra dữ dội. Tuy lâm vào linh thế bất lợi, nhưng đồng chí vẫn bình tĩnh chỉ huy tiểu đội anh dũng chiến đấu với một đại đội địch, diệt 14 tên rồi phá hàng rào rút ra an toàn.

   Trận Xuân Bồ (năm 1950), đơn vị Cao Thế Chiến bị địch bao vây bất ngờ. Cuộc chiến đấu diễn ra gay go ác liệt. Tiểu đội trưởng hy sinh. Đồng chí thay thế chỉ huy tiểu đội và trực tiếp dùng trung liên bắn mạnh cản địch cho đơn vị rút ra an toàn.

   Trong trận chống càn ở Thanh Hương (Thừa Thiên) năm 1952, địch tập trung 18 tiểu đoàn, có hơn 50 máy bay, 18 khẩu pháo và 100 xe cơ giới yểm trợ tiến công ta. Sau đợt phản kích đầu tiên, trung đội đồng chí bị đứt liên lạc với đại đội và bị thương vong chỉ còn lại 17 người. Suốt 1 ngày, Cao Thế Chiến đã động viên và tổ chức anh em đánh lui 6 đợt phản kích điên cuồng của địch. Đến tối, được lệnh mở đường phá vây đưa đồng bào ra ngoài. Đồng chí đã chỉ huy đơn vị dung cảm chiến đấu phá vỡ vòng vây địch, đưa 500 đồng bào rút về căn cứ an toàn.

   Đầu năm 1954, địch dùng 4 tiểu đoàn bao vây tập kích vào cơ quan trung đoàn bộ của ta. Nghe tiếng súng nổ, Cao Thế Chiến chủ động nhanh chóng chỉ huy trung đội đánh tạt sườn quân địch, diệt gọn một trung đội. Bị đánh bất ngờ vào giữa đội hình, địch hoang mang tan ra. Đồng chí đang dẫn đầu trung đội truy kích địch, không may bị thương nặng. Không bỏ lỡ thời cơ kẻ địch đang hoang mang Cao Thế Chiến không cho đồng đội băng bó, tiếp tục chỉ huy đơn vị tiến công dồn dập, phá tan cuộc tập kích của chúng, bảo vệ được sở chỉ huy. Do vết thương nặng, đồng chí đã anh dũng hy sinh trên đường truy kích địch.

   Cao Thế Chiến đã được tặng thưởng 2 Huân chương Chiến công (một hạng nhất, một hạng ba), 9 bằng và giấy khen.

   Ngày 7 tháng 5 năm 1956, Cao Thế Chiến được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa truy tặng Huân chương Quân công hạng nhì và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


Tiêu đề: Re: Anh hùng LLVTND trong kháng chiến chống Pháp
Gửi bởi: hoi_ls trong 21 Tháng Mười Hai, 2010, 03:45:08 pm
ANH HÙNG TÔ VĨNH DIỆN
(LIỆT SĨ)

(http://img189.imageshack.us/img189/3743/scan0810140032.jpg)

   Tô Vĩnh Diện sinh năm 1924, dân tộc Kinh, quê ở xã Nông Trường, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa, nhập ngũ tháng 7 năm 1949. Khi hy sinh đồng chí là tiểu đội trưởng pháo cao xạ 37 ly thuộc đại đội 827, tiểu đoàn 394, trung đoàn 367.

   Tô Vĩnh Diện sinh trưởng trong một gia đình nghèo khổ, lên 8 tuổi đã phải đi ở cho địa chủ. Suốt 12 năm đi ở đồng chí đã phải chịu đựng bao cảnh áp bức bất công. Năm 1946 đồng chí tham gia dân quân ở địa phương, đến năm 1949 xung phong vào bộ đội. Trong học tập và công tác, đồng chí luôn thể hiện tinh thần gương mẫu đi đầu, lôi cuốn đồng đội noi theo. Trong hành quân chiến đấu, đồng chí đã cùng đồng đội bền bỉ vượt qua khó khăn chấp hành nghiêm chỉnh các mệnh lệnh, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

   Tháng 5 năm 1953, quân đội ta thành lập các đơn vị phát) cao xạ để chuẩn bị cho đánh lớn, đồng chí Tô Vĩnh Diện được điều về làm tiểu đội trưởng một đơn vị cao pháo. Quá trinh đơn vị hành quân cơ động trên chặng dường hơn 1.000 ki-lô-mét tới vị trí tập kết để tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, đồng chí luôn luôn gương mẫu làm mọi việc nặng nhọc, động viên giúp đỡ đồng đội đưa pháo tới đích an toàn.

   Trong lúc kéo pháo qua những chặng dường khó khăn nguy hiểm, đồng chí xung phong lái để bảo đảm cho pháo được an toàn. Trong lúc kéo pháo cũng như lúc nghỉ dọc đường. Tô Vĩnh Diện luôn luôn nhắc đồng đội chuẩn bị chu đáo và tự mình đi kiểm tra tỉ mỉ từng dây kéo pháo, xem xét từng đoạn đường, từng cái dốc rồi phổ biến cho anh em để tránh những nguy hiểm bất ngờ xảy ra.

   Kéo pháo vào đã nhiều gian khổ hy sinh, kéo pháo ra càng gay go ác liệt. Đồng chí đã đi sát từng người động viên giải thích rõ nhiệm vụ, giúp anh em xác định quyết tâm cùng nhau khắc phục khó khăn để đảm bảo thắng lợi.

   Qua 5 đêm kéo pháo ra đến dốc Chuối - một cái dốc nghiêng 70 độ: đường hẹp và cong rất nguy hiểm - Tô Vĩnh Diện cùng đồng chí Ty xưng phong lái pháo. Nửa chừng, dây tời bị đứt, pháo lao nhanh xuống dốc, đồng chí vẫn bình tĩnh giữ càng, lái cho pháo xuống thẳng đường. Nhưng một trong bốn dây kéo lại bị dứt, pháo càng lao nhanh, đồng chí Ty bị hất xuống suối. Trước hoàn cảnh hiểm nghèo đó, Tô Vĩnh Diện hô anh em: “Thà hy sinh, quyết bảo vệ pháo” và đồng chí buông tay lái xông lên trước, lấy thân mình lao vào chèn bánh xe pháo. Pháo bị vướng, nghiêng dựa vào sườn núi, nhờ đó đơn vị kịp ghìm giữ được pháo dừng lại.

   Tấm gương hy sinh vô cùng anh dũng của đồng chí Tô Vĩnh Diện đã cổ vũ mạnh mẽ toàn đơn vị vươn lên hoãn thành tốt nhiệm vụ chuẩn bị chiến đấu và chiến đấu thắng lợi.

   Tô Vĩnh Diện đã được tặng thương 1 Huân chương Chiến công hạng nhất.

   Ngày 7 tháng 5 năm 1956, Tô Vĩnh Diện được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa truy tặng Huân chương Quân công hạng nhì và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.




ANH HÙNG TRẦN ĐỨC
(LIỆT SĨ)

(http://img843.imageshack.us/img843/6254/scan0810140033.jpg)

   Trần Đức sinh năn 1917, dân tộc Kinh, quê ở xã Hải Yến, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa, nhập ngũ tháng 1 năm 1946. Khi hy sinh đồng chí là tiểu đội trưởng bộ binh thuộc đại đội 212, tiểu đoàn 19, trung đoàn 108, đại đoàn 305, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

   Ngày 23 tháng 9 năm 1945, giặc Pháp gây hấn ở Nam Bộ, trong phong trào Nam tiến, đồng chí Trần Đức xung phong tòng quân vào Nam giết giặc. Bốn năm chiến đấu trong quân đội, đồng chí đã tham gia 40 trận đánh, với đặc điểm sử dụng trung liên rất chính xác, phát huy hiệu lực cao, đồng chí đã áp đảo hỏa lực địch, tạo điều kiện thuận lợi cho đơn vị xông lên giải quyết trận đánh thắng lợi. Nhiều trận, đồng chí đã góp phần quyết định trong những tình huống gay go, phức tạp, tự tay đã diệt 200 tên địch, bắn hỏng bảy xe vận tải quân sự.

   Tháng 12 năm 1946, đơn vị đồng chí làm nhiệm vụ vây hãm sân bay địch. Nhiều lần địch nống ra, đồng chí đã dùng trung liên bắn chặn bẻ gãy nhiều đợt phản kích của chúng, chân súng gãy, đồng chí lấy đá kê lên tiếp tục chiến đấu, giữ vững trận địa.

   Tháng 2 năm 1947, địch dùng 2 đại đội chia làm 2 mũi tiến công vào đơn vị. Đồng chí chờ cho địch tới thật gần, mới bất ngờ nổ súng và cùng đơn vị dũng cảm xung phong tiêu diệt quân địch. Trận này, đồng chí diệt 25 tên, tạo điều kiện cho đơn vị đánh lui 2 đợt phản kích của địch.

   Tháng 4 năm 1947, 3 đại đội địch từ Nam Ô tiến công lên. Nhận nhiệm vụ chặn địch, ngay từ phút đầu, Trần Đức đã dùng trung liên diệt 15 tên. Địch thấy lực lượng ta ít liền triển khai bao vây hòng tiêu diệt, đồng chí nhanh trí lấy thùng sắt kê súng lên bắn, giả làm đại liên để uy hiếp tinh thần địch. Suốt 1 ngày, Trần Đức và đồng đội đã đánh lui 3 đợt phản kích của địch, diệt 2 trung đội, bẻ gãy một mũi tiến công nguy hiểm của địch.

   Trận đánh địch trên đèo Hải Vân (tháng 5 năm 1947), đại đội đồng chí phụ trách chặn đầu đoàn xe địch. Khi 6 chiếc xe chở lính lọt vào trận địa, Trần Đức nổ súng chính xác bắn hỏng ngay chiếc xe đi đầu, bọn địch bị ùn lại, đơn vị ào ạt xung phong diệt gọn bọn địch đi trên sáu xe.

   Tháng 2 năm 1949, địch dùng hơn 1.000 quân bao vây 2 đại đội ta ở Nam Thừa Thiên. Đại đội đồng chí bố trí trên đường cái, trước mặt là con sông. Ngay từ phút đầu, Trần Đức đã dùng trung liên bắn chế áp địch, buộc chúng phải phân tán đối phó. Suốt 1 ngày, đồng chí đã cùng đơn vị đánh lui 3 đợt phản kích của địch. Riêng đồng chí đã bắn chết và bắn bị thương 70 tên, góp phần cùng đơn vị phá tan cuộc tiến công lớn của chúng.

   Tháng 11 năm 1950, địch tiến công ta với lực lượng đông gấp nhiều lần, có máy bay, pháo binh yểm trợ. Suốt 1 ngày, đại đội đồng chí bị vây 4 mặt. Ta quyết mớ đường rút ra. Trần Đức được giao nhiệm vụ dùng hoả lực mở đường và ngăn chặn địch, bảo vệ cho đơn vị rút. Đồng chí đã chiến đấu dung cảm cho đến phút cuối cùng và hy sinh ngay tại trận địa.

   Khi còn sống, đồng chí Trần Đức luôn luôn gương mẫu trong mọi mặt công tác, đoàn kết với anh em, hướng dẫn và phổ biến kinh nghiệm sử dụng trung liên, loại hoả lực mạnh chủ yếu của bộ đội ta lúc bấy giờ, cho mọi người trong đơn vị.

   Trần Đức đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công hạng nhì, 5 lần được Liên khu khen.

   Ngày 7 tháng 5 năm 1956, Trấn Đức được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa truy tặng Huân chương Quân công hạng nhì và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.




ANH HÙNG LÊ CÔNG KHAI
(LIỆT SĨ)

(http://img222.imageshack.us/img222/3381/scan0810140034.jpg)


   Lê Công Khai sinh năm 1925, dân tộc Kinh, quê ở xã Hoằng Phú, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa, nhập ngũ tháng 6 năm 1946. Khi hy sinh đồng chí là đại đội trưởng bộ binh Liên khu 5,   đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

   Sau khi nhập ngũ, đồng chí Lê Công Khai xung phong vào đội quân Nam tiến, chiến đấu giết giặc. Gần 9 năm trong quân đội đồng chí đã tham gia chiến đấu và chỉ huy chiến đấu 40 trận, ở cương vị nào trong hoàn cảnh nào cũng luôn luôn nêu cao tinh thần dũng cảm, chỉ huy linh hoạt, bình tĩnh, nhiều lần bị thương vẫn bám trận địa, tiếp tục chiến đấu.

   Đầu năm 1947, Lê Công Khai làm chiến sĩ liên lạc, bị địch bắt và tra tấn dã man, nhưng đồng chí vẫn không hề khai báo. Sau 4 tháng bị giam, đồng chí vận động 10 anh em trong tù tổ chức vượt ngục về đơn vị tiếp tục chiến đấu.

   Trong trận Ninh Mã (Khánh Hòa) tháng 7 năm 1949, Lê Công Khai bắn súng máy kiềm chế hoả lực địch, diệt 13 tên (có 1 tên quan ba nguy), chi viện đắc lực cho đơn vị chiến đấu.

   Trận phục kích địch ở nam Khánh Hòa (năm 1950) đồng chí phụ trách tiểu đội, tự tay bắn súng máy diệt 10 tên và chỉ huy tiểu đội đánh lui 1 đại đội địch.

   Đánh đồn Túy Loan (Quảng Nam) tháng 5 năm 1952, cửa vừa mở, địch tập trung bắn ra dữ dội, Lê Công Khai bình tĩnh chỉ huy trung đội nhanh chóng đánh chiếm lô cốt đầu cầu rồi phát triển đánh vào hầm đặt pháo và sở chỉ huy địch. Lê Công Khai bị thương vào lòng bàn chân nhưng tự băng bó và kiên quyết chỉ huy đơn vị chiến đấu đến khi diệt xong đồn giặc.

   Trong trận Tú Thủy, Kon Tum, trời đã gần sáng nhưng xung kích bị thương vong nhiều vẫn chưa tiến lên được. Lê Công Khai tổ chức lại bộ đội, động viên tinh thần chiến đấu của anh em rồi dũng cảm xông lên trước, lôi cuốn toàn đơn vị xung phong diệt đồn. Đại đội trưởng bị thương nặng, đồng chí lên thay thế chỉ huy, diệt và bắt sống hơn 1 đại đội địch.

   Hè năm 1954, đơn vị Lê Công Khai đánh đồn Đắc Đoa, đây là một vị trí then chốt của địch. Ta đã đánh 2 lần nhưng chưa dứt điểm, địch càng tăng cường phòng thủ. Ba đêm liền, đồng chí kiên trì vào điều tra, về lập kế hoạch tỉ mỉ, động viên đơn vị quyết tâm đánh thắng. Khi nổ súng, trận đánh diễn ra hết sức gay go ác liệt. Lê Công Khai bị thương gãy chân trái, vẫn tiếp tục chỉ huy chiến đấu, bị gãy thêm chân phải, vẫn kiên trì chịu đựng nằm tại chỗ đông viên chỉ huy đơn vị xông lên tiêu diệt gọn 1 đại đội Âu Phi tinh nhuệ của chúng.

   Trên đường về quân y, vì vết thương nặng máu ra nhiều, đồng chí Lê Công Khai đã hy sinh.

   Lê Công Khai đã được tặng thưởng 2 bằng khen, 2 lần ban chỉ huy chiến dịch tuyên dương công trạng, là Chiến sĩ thi đua cua Liên khu 5.

   Ngày 7 tháng 5 năm 1956, Lê Công Khai được Chủ tích nước Việt Nam dân chủ cộng hòa truy tặng Huân chương Quân công hạng nhì và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


Tiêu đề: Re: Anh hùng LLVTND trong kháng chiến chống Pháp
Gửi bởi: hoi_ls trong 21 Tháng Mười Hai, 2010, 03:48:50 pm
ANH HÙNG PHẠM MINH ĐỨC
(LIỆT SĨ)

(http://img29.imageshack.us/img29/832/scan0810140035.jpg)

   Phạm Minh Đức sinh năm 1932, dân tộc Kinh, quê ở xã Diễn Trung, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An, nhập ngũ tháng 4 năm 1951, khi hy sinh đồng chí là chiến sĩ bộ binh thuộc đại đội 1, tiểu đoàn 1, trung đoàn 53, đại đoàn 350.

   Từ khi là một tân binh, dù  được giao nhiệm vụ gì, làm chiến sĩ xung kích hay chiến sĩ tải thương, chiến sĩ nuôi quân, đồng chí Phạm Minh Đức đều vui vẻ chấp hành, nêu cao tinh thần tận tụy, gương mẫu trong chiến đấu, học tập và công tác. Hòa bình lập lại, khi được phân công làm nhiệm vụ bảo vệ Thủ đô và thành phố cảng Hải Phòng, đồng chí luôn luôn nêu cao tinh thần canh giác cách mạng, góp phần cùng đơn vị bảo đảm an toàn khu vực được phân công, đặc biệt trong trận chống bão lụt tháng 9 năm 1955, đồng chí đã dũng cảm lập nhiều thành tích và đã hy sinh thân mình để cứu sống nhân dân.

   Tháng 4 năm 1951, Phạm Minh Đức vào bộ đội, cùng đơn vị đi chiến dịch Tây Bắc. Trong trận đầu tiên thấy đồng chí xạ thủ trung liên hy sinh, đồng chí đã xung phong lên thay thế và bình tĩnh chiến đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ. Có lần trên điều đi công tác, tuy bị thương nhưng Phạm Minh Đức vẫn bình tĩnh phố hợp cùng công an, bắt được 2 tên gián điệp đang chỉ điểm cho máy bay bắn phá.

   Tháng 10 năm 1954, đơn vị làm nhiệm vụ bảo vệ Thủ đô và cảng Hải Phòng. Phạm Minh Đức luôn luôn tích cực, tận tụy trong khi làm nhiệm vụ tuần tra canh gác nên đã phát hiện được nhiều vụ gián điệp đang liên lạc tuyên truyền, phá hoại, cũng như bắt bọn buôn gian bán lậu, góp phần tích cực cùng đơn vị bảo đảm an toàn khu vực được phân công.

   Trận bão ngày 26 tháng 9 năm 1955, mưa to, nước lớn tràn đê, gây lụt lớn, tràn ngập một số vùng dân cư ở Hải Phòng, tính mạng và tài sản nhân dân bị đe dọa. Đơn vị được lệnh cấp tốc đi chống lụt cứu dân. Phạm Minh Đức bị yếu, đơn vị phân công ở nhà, nhưng đồng chí vẫn cố xin đi bằng được. Với tinh thần dũng cảm, vì dân, đồng chí đã lặn lội, vật lộn với sóng gió đưa được 18 đồng bào bị nước cuốn về chỗ an toàn. Lúc ấy đồng chí đã gần kiệt sức, nhưng không nỡ khoanh tay nhìn đồng bào bị trôi, Phạm Minh Đức lại rán hết sức cứu thêm 2 người nữa. Một cơn sóng to ập đến giữa lúc sức đã đuối, đồng chí bị dòng nước cuốn trôi và đã anh dũng hy sinh.

   Đồng đội và nhân dân địa phương vô cùng thương tiếc Phạm Minh Đức. Tấm gương hy sinh của anh đã làm rạng rỡ thêm bản chất và truyền thống của quân đội ta, một quân đội cách mạng từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mã hy sinh chiến đấu.

   Phạm Minh Đức đa được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công hạng nhất, 5 lần được trung đoàn, sư đoàn khen và là Chiến sĩ thi đua số một cửa sư đoàn.

   Ngày 7 tháng 5 năm 1956, Phạm Minh Đức được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa truy tặng Huân chương Quân công hạng nhì và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


ANH HÙNG NGUYỄN ĐÔ LƯƠNG
(LIỆT SĨ)

(http://img252.imageshack.us/img252/3039/scan0810140036.jpg)

   Nguyễn Đô Lương, sinh năm 1929, dân tộc Kinh, quê ở xã Đức Quang, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh, nhập ngũ tháng 9 năm 1945. Khi hy sinh đồng  chí là trung đội trưởng trinh sát thuộc trung đoàn 108, đại đoàn 305, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

   Năm 16 tuổi, Nguyễn Đô Lương đã xung phong vào bộ đội theo đoàn quân Nam tiến vào chiến đấu ở chiến trường Liên khu 5.

   Tám năm liền Nguyễn Đô Lương làm trinh sát, đồng chí đã tham dự nhiều trận đánh, luôn luôn dũng cảm, linh hoạt, vượt qua mọi khó khăn, có nhiều sáng kiến để hoàn thành nhiệm vụ.

   Cuối tháng 12 năm 1946, Nguyễn Đô Lương đã dũng cảm giả làm người đi buôn, lọt vào thành phố điều tra tình hình địch suốt 3 ngày đêm liền. Đêm thứ tư đồng chí đưa đơn vị vào hoạt động. Quá trình diễn biến chiến đấu, đồng chí theo dõi, nắm chắc tình hình địch, báo cáo kịp thời tạo điều kiện cho đơn vị tiêu hao được nhiều địch, giữ vững phòng tuyến Túy Loan trong mấy tháng liền.

   Tháng 3 năm 1947, Nguyễn Đô Lương cùng đơn vị chuẩn bị đánh địch ở Đại An, Quang Nam (cũ). Vết thương ở tay chưa lành, đồng chí vẫn xin đơn vị cho làm nhiệm vụ trinh sát nắm địch. Qua một đêm theo dõi, đồng chí đã bí mật dũng cảm bắt sống 1 tù binh, khai thác được tài liệu, chuẩn bị cho trận đánh.

   Trận đánh giao thông trên đường Thanh Quýt - Quảng Nam (tháng 2 năm 1950), đồng chí Nguyễn Đô Lương đã hoàn thành nhiệm vụ trinh sát, nhưng vẫn đề nghị được trực tiếp tham gia chiến đấu tiêu diệt quân địch. Khi đơn vị xung phong đồng chí đã dũng cảm nhảy lên xe địch, vật lộn và giết chết 1 tên lính Pháp, thu 6 súng.

   Trận Diên Hòa (Quảng Nam) tháng 11 năm 1950, máy bay, pháo binh địch bắn phá dữ dội vào đội hình quân ta. Nhận nhiệm vụ đi liên lạc, đồng chí đã dũng cảm nhiều lần đi lại truyền lệnh của cấp trên cho các đơn vị được chính xác, kịp thời. Trận này, đơn vị đã đánh tan một lực lượng lớn quân địch định bao vây uy hiếp, tiêu diệt chủ lực ta.

   Cuối năm 1950, hoạt động ở miền tây Quảng Ngãi, đồng chí phụ trách trinh sát đồn Măng Giang, Mang Bút. Trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn gian khổ, cơ sở không có, có lần nhịn đói suốt 5 ngày, đồng chí đã kiên trì động viên đơn vị chịu đựng, khắc phục, điều tra được tình hình địch ở hai đồn này, xây dựng được cơ sở cách mạng và phong trào du kích ở 5 xã đồng bào dân tộc ít người.

   Tháng 5 năm 1953, Nguyễn Đô Lương phụ trách điều tra vị trí đồn Bàng (Quảng Nam). Tuy cơ sở quần chúng không có, địch thường phục kjch bất ngờ ở các ngả đường, nhưng đồng chí đã mưu trí táo bạo, 3 lần dẫn tổ vào tận đồn điều tra tỉ mỉ, chính xác rồi rút ra an toàn. Trước khi đánh, đồng chí được cử vào điều tra lần cuối cùng. Lần này Nguyễn Đô Lương đã bị địch phục kích và bắt được. Trước khi bị bắt, đồng chí đã hô to để anh em kịp thời chạy thoát. Chúng đưa đồng chí về tra tấn cực kỳ dã man, nhưng đồng chí không những không chịu khuất phục mà còn chửi thẳng vào mặt chúng. Biết không khai thác được gì ở Nguyễn Đô Lương, bọn địch đã trói đồng chí vào cột cờ, rồi khoét 2 mắt và bắn chết.

   Nguyễn Đô Lương đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công hạng nhất, 3 lần được Bộ tư lệnh Liên khu khen.

   Ngày 7 tháng 5 năm 1956, Nguyễn Đô Lương  được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa truy tặng Huân chương Quân công hạng nhì và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.



ANH HÙNG TRƯƠNG VĂN LY
(LIỆT SĨ)


   Trương Văn Ly sinh năm 1924, dân tộc Kinh, quê ở xã Võ Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình, nhập ngũ tháng 10 năm 1945. Khi hy sinh đồng chí là đại đội trưởng bộ binh, tiểu đoàn 86, trung đoàn 812, sư đoàn 305, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

   Ngay sau Cách mạng tháng Tám thành công, đồng chí Trương Văn Ly gia nhập bộ đội. Đồng chí đã chiến đấu trên 100 trận ở chiến trường Cực Nam Trung Bộ. Đồng chí luôn luôn xung phong ở bộ phận xung kích, chỉ huy đội quân cảm tử, chiến đấu dũng cảm, mưu trí, tiến công tiêu diệt địch, chi viện cho bạn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

   Năm 1947, Tiểu đoàn 86 đánh chặn 2 đại đội địch ở Mỹ Hòa, đồng chí là đại đội trưởng đại đội chủ công. Địch chống cự mạnh, tiểu đoàn trưởng hy sinh, đồng chí đã chủ động thay tiểu đoàn trưởng chỉ huy đơn vị dũng cảm xung phong, kiên quyết truy kích, diệt hơn một đại đội của chúng.

   Trong trận Cà Ná, Ninh Thuận (cũ), năm 1947, đồng chí chỉ huy một trung đội, táo bạo bố trí sát đường cái. Địch đi qua, đồng chí ra lệnh trung đội xung phong, nhanh chóng diệt gọn hai trung đội địch.

   Trong chiến dịch Hè năm 1948, trận đánh đồn Đuồng lần thứ nhất, Trương Văn Ly chỉ huy tiểu đội cảm tử giả làm phụ nữ, táo bạo tiến công vào đồn, mở đường cho đơn vị tiếp ứng đi sau vào diệt gọn một đại đội địch. Sau một thời gian, địch đóng lại đồn này, đồng chí lại chỉ huy đơn vị đánh tiếp. Suốt từ 10 giờ đêm đến 3 giờ sáng chiến đấu quyết liệt, đồng chí đã chỉ huy đại đội kiên quyết chiến đấu, dồn dập tiến công diệt gần hết đại đội địch, bọn còn lại hoảng hốt kéo cờ trắng xin hàng.

   Tháng 1 năm 1952, ta đánh trường sĩ quan địch ở Phan Thiết. Vị trí này đóng gần thị xã, địch bố phòng nghiêm ngặt.

   Trương Văn Ly chỉ huy 23 đồng chí cảm tử, táo bạo vượt qua ba vị trí địch đóng vòng ngoài, vào diệt tên lính gác, sau đó chia thành nhiều mũi bất ngờ tiến công mãnh liệt, áp đảo bọn địch, đánh tan 1 đại đội bảo vệ của chúng, diệt 80 tên học viên sĩ quan, giải tán 2 đại đội tân binh, thu 2 đại bác, 100 súng trường và rất nhiều đạn các loại.

   Trong trận phục kích ở Cầu Cháy (tháng 2 năm 1952), ta vừa nổ súng được 15 phút thì tổ súng máy bị thương vong hết. Địch phản kích mạnh, đơn vị gặp khó khăn. Đồng chí bình tĩnh trực tiếp dùng súng máy quét vào đội hình địch, rồi lệnh cho toàn đơn vị xung phong. Trương Văn Ly vượt lên đầu để chỉ huy đơn vị thì bị trúng đạn hy sinh. Căm thù sôi sục toàn đơn vị ào ạt xông lên đánh tan cả đại đội địch, diệt hơn một trung đội của chúng.

   Trương Văn Ly không những chỉ là người đại đội trưởng xuất sắc dũng cảm trong chiến đấu mà còn là người chỉ huy hết lòng thương yêu chiến sĩ, chăm lo xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện. Đồng chí đã 5 lần tự thân cõng anh em thương binh vượt qua lửa đạn về hậu phương an toàn.

   Ngày 7 tháng 5 năm 1956, Trương Văn Ly được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa truy tặng Huân chương Quân công hạng nhì và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


Tiêu đề: Re: Anh hùng LLVTND trong kháng chiến chống Pháp
Gửi bởi: hoi_ls trong 21 Tháng Mười Hai, 2010, 04:30:47 pm
ANH HÙNG LÝ VĂN MƯU
(LIỆT SĨ)

(http://img31.imageshack.us/img31/7471/scan0810140037.jpg)

   Lý Văn Mưu sinh năm 1934, dân tộc Tày, quê ở xã Độc Lập, huyện Quảng Uyên, tỉnh Cao Bằng, nhập ngũ tháng 3 năm 1950. Khi hy sinh đồng chí là chiến sĩ bộ binh, đại đội 675, tiểu đoàn 251, trung đoàn 174, đại đoàn 316.

   Đồng chí Lý Văn Mưu sinh trưởng trong một gia đình nghèo, bố chết sớm, chị đi lấy chồng, chỉ còn một mẹ già.

   Năm 1947, giặc chiếm Cao Bằng, Lạng Sơn, mới 13 tuổi đồng chí đã tham gia công tác ở địa phương phục vụ kháng chiến. Năm 16 tuổi (tháng 3 năm 1950) đồng chí xung phong tòng quân giết giặc.

   Trận đánh Đông Khê lần thứ nhất năm 1950, Lý Văn Mưu là chiến sĩ đánh bộc phá. Mới chiến đấu lần đầu, đồng chí có nhiều bỡ ngỡ, chưa quen sử dụng vũ khí, nhưng với tinh thần dũng cảm, lại được cán bộ và đồng đội hướng dẫn, Lý Văn Mưu đã sử đụng bộc phá phá tung hàng rào mở cửa mở, rồi cùng anh em đánh vào tung thâm, diệt thêm ụ súng của địch.

   Trận đánh Đông Khê lần thứ hai tháng 10 năm 1950, Lý Văn Mưu ở thê đội dự bị. Khi xung kích thê đội một bị địch phản công ác liệt không dứt điểm được, đơn vị đồng chí được lệnh bước vào chiến đấu. Trận đánh gặp khó khăn ngay từ đầu cứ kéo dài mãi, càng gần về sáng địch càng phản kích mạnh, Lý Văn Mưu bị thương vào tay, nhưng đồng chí vẫn tiếp tục chiến đấu, đến khi có lệnh đưa toàn bộ thương binh, tử sĩ ra và bộ đội tạm rút về củng cố. Đồng chí lại tự nguyện xin tham gia cõng thương binh ra ngoài. Suốt 6 tiếng đồng hồ, Lý Văn Mưu đã cố gắng đem được 20 thương binh, tử sĩ về phía sau.

   Sau 1 đêm và 1 ngày chuẩn bị, quân ta lại tiếp tục tiến đánh đồn Đông Khê. Lần này, đại đội đồng chí Lý Văn Mưu nhận nhiệm vụ chủ công. Tiểu đội xung kích cua đồng chí đi đầu. Hàng rào vừa mở xong, cả tiểu đội xung phong. Đồng chí dẫn đầu một tổ đánh hết ụ súng này đến ụ súng khác, hết bộc phá, dùng lựu đạn, tiểu liên diệt địch. Địch chống cự ác liệt, đơn vị bị thương vong nhiều mà vẫn chưa giải quyết xong trận đánh. Còn một lô cốt và hầm ngầm, địch tập trung cố thủ. Đồng chí thứ nhất, thứ hai, rồi thứ ba lên đánh bộc phá đều bị thương vong. Lý Văn Mưu đề nghị cán bộ cho lên đánh. Vừa lên khỏi công sự, đồng chí đã bị hỏa lực địch tập trung bắn tới như mưa, bất chấp hiểm nguy, Lý Văn Mưa ôm quả bộc phá trước bụng vừa chạy vừa giật nụ xòe. Địch bắn đồng chí bị thương vào tay, vào chân rồi vào ngực, máu trào ra lênh láng. Đã mấy lần Mưu lảo đảo gục xuống. Nhưng rồi đồng chí gượng dậy cố trườn lên đưa quả bộc phá tới lỗ châu mai. Bộc phá nổ làm nổ liên tiếp những quả bộc phá của các đồng chí đã hy sinh và bị thương để lại. Lô cốt giặc sụp đổ tan tành và đồng chí cũng hy sinh anh dũng. Đơn vị ào ạt xung phong, buộc bọn địch còn lại phải đầu hàng. Cứ điểm Đông Khê bị tiêu diệt mở đầu cho chiến dịch giải phóng Biên Giới.

   Lý Văn Mưu đã được trung đoàn, tiểu đoàn khen thưởng nhiều lần.

   Ngày 7 tháng 5 năm 1956, đồng chí Lý Văn Mưu được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa truy tặng Huân chương Quân công hạng nhì và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.



ANH HÙNG NGÔ CHÍ QUỐC
(LIỆT SĨ)

(http://img209.imageshack.us/img209/6232/scan0810140038.jpg)

   Ngô Chí Quốc sinh năm 1929, dân tộc Kinh, quê ở xã Hiệp Bình, huyện Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh, nhập ngũ tháng 3 năm 1946. Khi hy sinh đồng chí là tiểu đội phó trinh sát tiểu đoàn 303, đại đoàn 330, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

   Sinh trưởng trong một gia đình đánh cá nghèo. Ngô Chí Quốc bơi lặn rất giỏi. Qua 9 năm tháng gia chiến đấu ở chiến trường Đông Nam Bộ, đồng chí đã tham gia đánh trên 100 trận, cùng đơn vị diệt 941 tên địch, bắt sống 38 tên, thu 231 súng các loại. Trận nào Ngô Chí Quốc cũng nêu cao tinh thần dũng cảm, kiên quyết tiến công tiêu diệt địch, xứng đáng là lá cờ đầu của toàn đơn vị.

   Cuối năm 1946, Ngô Chí Quốc đã cùng 2 người nữa dùng thuyền nhỏ giả làm thuyền buôn tiến sát chiếc tàu tuần tiễu của địch đậu gần xưởng Ba Son (sông Sài Gòn), trinh sát và tìm cách lên tàu lấy súng. Lợi dụng đêm tối, Ngô Chí Quốc để 2 người ở lại giữ thuyền, còn mình buộc dây lần đến mạn tàu rồi táo bạo trèo vào tàu, ba lần vào ra, lấy được 1 đại liên, 1 nòng pháo 20 ly, 2.000 viên đạn và 2 hòm lựu đạn trở về an toàn.

   Năm 1947, Ngô Chí Quốc nhận nhiệm vụ lặn tìm súng đạn của Nhật trước đây đổ xuống đoạn sông Bình Lợi, Thị Nghè. Hơn 6 tháng len lỏi trong lòng địch, vượt qua bao khó khăn, lặn lội sâu quá, máu chảy ra tai, đồng chí vẫn kiên trì tìm kiếm, mò được 1 khẩu 12 ly 7, 7 khẩu súng trường, 40.000 viên đạn các cỡ về trang bị cho đơn vị, góp phần giải quyết một khó khăn lớn về nạn thiếu vũ khí của bộ đội ta lúc đó.

   Trận đánh đồn Lái Thiêu tháng 3 năm 1949, đồng chí phụ trách một mũi, vượt qua nhiều lớp rào và tốp lính tuần tra vào đặt bộc phá sát lỗ châu mai. Khi có lệnh nổ súng, đồng chí giật bộc phá đánh sập một lô cốt rồi nhanh chóng phát triển vào bên trong. Địch chui xuống hầm cố thủ chống cự mạnh, đồng chí dùng lưu đạn diệt gọn 2 tiểu đội, cùng với đơn vị tiêu diệt đồn này.

   Trong trận Cầu Đinh (tháng 4 năm 1952) Ngô Chí Quốc bị thương nặng chưa kịp ra, địch bắt được tra tấn dã man, chết đi sống lại, đồng chí vẫn không khai, luôn luôn tìm cách vượt ngục. Vượt lần thứ nhất bị lộ, Ngô Chí Quốc dũng cảm đứng lên nhận tất cả trách nhiệm, chịu đòn thay cho anh em. Lần thứ hai, nhân lúc trời bão, đồng chí đã đưa được 7 cán bộ cùng thoát về đơn vị an toàn.

   Trận Cầu Đinh lần thứ hai (tháng 3 năm 1954), ở đây địch bố trí một đại đội có công sự kiên cố, chúng cho là nơi bất khả xâm phạm và thường tung tin thách bộ đội ta vào đánh. Ngô Chí Quốc chỉ huy tiểu đội bộc phá đánh vào đến hàng rào thứ 3 thì bộc phá hết, vẫn còn vướng 2 khung hàng rào mái nhà nữa. Đồng chí liền bò lên dùng kéo cắt một đầu rào rồi nhanh nhẹn xông lên kéo tung hàng rào ra cho bộ đội tiến vào. Địch bắn mạnh ra đường mở, đồng chí bị thương nặng ngã xuống, xung kích vẫn chưa vào được. Trước hỏa lực ác liệt của địch, Ngô Chí Quốc giao súng cho đồng chí khác rồi lăn chếch sang hướng khác (xa đội hình tiến công của đơn vị) và hô lớn: Xung phong! Địch tưởng ta chuyển hướng nên tập trung hỏa lực bắn về phía đó. Ngô Chí Quốc đã anh dũng hy sinh, nhưng đơn vị đã tiến vào tiêu diệt được toàn bộ đồn này.

   Ngô Chí Quốc đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công hạng nhất, 12 lần được tiểu đoàn và trung đoàn khen và được bầu là Chiến sĩ thi đua của toàn đơn vị.

   Ngày 7 tháng 5 năm 1956, Ngô Chí Quốc được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa truy tặng Huân chương Quân công hạng nhì và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


ANH HÙNG VỪU
(LIỆT SĨ)

   Vừu sinh năm 1905, ở xã Đăc Đoa, huyện Mang Yang, tỉnh Gia Lai, dân tộc Ba Na. Khi hy sinh đồng chí là chủ tịch xã kiêm xã đội trưởng xã Nam Đắc Đoa, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

   Xuất thân từ một gia đình nông dân nghèo Vừu sớm được giác ngộ cách mạng. Năm 1939, Vừu đã là một trong những người đầu tiên tham gia phong trào “đất nước đứng lên" chống bắt phu bắt lính ở địa phương.

   Cách mạng tháng Tám thành công, Vừa hăng hái tham gia xây dựng chính quyền. Tháng 6 năm 1946, Pháp đánh chiếm Kon Tum, đồng chí bị đứt liên lạc với tổ chức từ đó. Hơn 2 năm mất liên lạc, đồng chí vẫn chủ động, tích cực, bí mật làm công tác tuyên truyền vận động quần chúng. Tháng 3 năm 1949, đội tuyên truyền vũ trang về địa phương, Vừu bắt liên lạc được với đội và tiếp tục hoạt động.

   Giặc ngày càng tăng cường hoạt động, tổ chức mạng lưới tề điệp dày đặc ở kháp các buôn làng, đồng chí tìm mọi cách đến từng nhà, vạch rõ âm mưu của giặc cho đồng bào các dân tộc biết. Vừu đã vận động  đồng bào các dân tộc tiếp tế nuôi 10 đồng chí trong đội vũ trang suốt 8 tháng liền. Vừu còn dẫn đường cho đội vũ trang phục kích diệt gọn đội tuần tiễu của địch gồm 14 tên, và bắt được tên Vít, một tên tay sai đi theo giặc có nhiều nợ máu với nhân dân.

   Một lần, trong lúc đang đi tuyên truyền vận động nhân dân, Vừu bị địch ập vào bắt. Chúng đánh đập tàn nhẫn và giai đồng chí về Đắc Đoa. Đồng chí đã không khai báo mà còn chửi thằng vào mặt tên Thông là tên phản cách mạng, đầu hàng,vạch rõ bộ mặt phản bội của hắn. Không khai thác được điều gì chúng đành phải giải đồng chí lên Kon Tum nộp cho cấp trên của chúng. Nửa đường, nhân lúc chúng sơ hở, đồng chí chạy vào rừng trốn thoát, sau lại về quê tiếp tục hoạt động.

   Tháng 8 năm 1950, Vừu làm chủ tịch xã, tuy sức yếu, đồng chí vẫn hăng hái hoạt động, góp phần xây dựng lực lượng dân quân du kích vững mạnh, đẩy mạnh phong trào chiến tranh du kích ở địa phương. Một hôm đồng chí đi công tác, dọc đường bị mưa ướt, đói rét, vừa về đến nhà thì địch xuyên rừng ập đến bao vây bắt được. Chúng dùng báng súng giáng tới tấp vào người rồi lấy dao nhọn rạch nát da thịt đồng chí. Nhưng đồng chí Vừu nhất mực không khai. Chúng bắt đồng chí đi theo lùng sục ở chiến khu để nhận mặt cán bộ. Gần đến nơi, đồng chí đã kêu to báo động để 6 cán bộ của ta nghe động trốn thoát. Địch xô vào lùng sục; nhân lúc lộn xộn đồng chí lại trốn thoát vào rừng.

   Tháng 4 năm 1952, trong khi đi công tác, đồng chí Vừu lại bị địch phục kích bắt được. Lần này chúng tra tấn đủ mọi cực hình; cắt 2 tai, chặt 10 ngón tay, rồi xẻo mũi, nhưng đồng chí vẫn nêu cao khí tiết người chiến sĩ cách mạng không hề khai báo mà còn nói thẳng vào mặt chúng: "Chúng mày có giết tao thì trăm ngàn người như tao sẽ giết chúng mày!”. Cuối cùng, biết thế nào mình cũng chết, đồng chí đã dùng mưu lừa địch: dẫn bọn chúng đến nơi trước đây đồng chí đã cùng dân quân du kích bố trí hầm chông, nói là chiến khu bí mật của ta. Bọn địch sục vào bị sập hầm chông, chết và bị thương hàng chục tên, chúng điên cuồng dã man dùng dao khoét 2 mắt, bắn chết đồng chí rồi vứt xác xuống sông.

   Trải qua 12 năm hoạt động, Vừu lúc nào cũng tận tụy kiên trì, trung thành với cách mạng, một lòng một dạ phục vụ nhân dân nêu cao dũng khí cách mạng trước quân thù.

   Năm 1953, trong Đại hội liên hoan chiến sĩ thi đua Liên khu 5, đồng chí được tuyên dương công trạng toàn Liên khu.

   Ngày 7 tháng 5 năm 1956, Vừu được Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa truy tặng Huân chương Quân công hạng nhì và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


Tiêu đề: Re: Anh hùng LLVTND trong kháng chiến chống Pháp
Gửi bởi: hoi_ls trong 21 Tháng Mười Hai, 2010, 04:35:16 pm
ANH HÙNG TRẦN Á

(http://img213.imageshack.us/img213/4012/scan0810140039.jpg)

   Trần Á sinh năm 1928, quê ở xã Duy Vinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quang Nam - Đà Nẵng, nhập ngũ tháng 8 năm 1948. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là đại đội trưởng vận tai thuộc Liên khu 5, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

   Suốt 5 năm làm nhiệm vụ vận tải đường biển, đưa vũ khí và cán bộ từ vùng tự do Liên khu 5 vào chiến trường Cực Nam Trung Bộ, đồng chí Trần A đã cùng đồng đội dũng cảm bình tĩnh, mưu trí vượt qua lưới bố phòng nghiêm ngặt của địch và qua bao hiểm nguy sóng to gió lớn, bao mũi đá ngầm, bảo đảm 19 chuyến đi, đưa cán bộ và hơn 60 tấn vũ khí tới đích an toàn, góp phần tích cực vào việc chi viện cho chiến trường Cực Nam Trung Bộ trong những ngày tháng khó khăn nhất.

   Chuyến đầu tiên (năm 1948), các đồng chí chở một số thùng xăng để rút kinh nghiệm cho những chuyến  đi sau, giữa đường gặp sóng to, bão lớn, thuyền chìm. Trần A cùng một đồng chí nữa bình tĩnh bơi tìm, vớt được hai thùng xăng đưa vào bờ, rồi lại tiếp tục bơi ra tìm vớt các thứ khác. Lúc về, 17 anh em bị vây, các đồng chí đã mưu trí giả làm dân đánh cá, vượt vòng vây của địch an toàn.

   Năm 1949, Trần Á chỉ huy phân đội chở 3 tấn vũ khí vào đến vùng biển Phú Yên thì gặp địch. Đồng chí dùng mưu đánh lạc hướng địch rồi bình tĩnh cho thuyền men theo mép sông thoát ra ngoài. Thuyền của ta vào đến Hòn Khói (Khánh Hòa), vì sương mù nên đi gần tới tàu giặc mới biết. Đồng chí vẫn bình tĩnh đẩy thuyền ra hướng Hòn Lao rồi nhanh chóng giấu hàng, vừa xong thì trời sáng, đến tối lại đưa hàng xuống thuyền và tiếp tục chở tới đích an toàn.

   Năm 1950 đồng chí phụ trách 3 thuyền vào đến Cam Ranh thì bị 3 tàu giặc vây và rọi đèn săn đuổi. Đồng chí Trần Á cho thuyền lùi lại nép vào khe đá chờ tàu địch vượt qua, rồi đồng chí lanh lẹ vượt ra khỏi vòng vây. Giao hàng xong thuyền Trần A quay ra, lại gặp địch ở cửa Nha Trang. Trong thuyền có 6 cán bộ, đồng chí nhanh chóng giấu cán bộ vào trong khoang rồi giả làm thuyền đánh cá, bơi lẫn vào các thuyền của dân, đi thoát.

   Năm 1951, Trần Á lái một thuyền lớn chở 15 tấn vũ khí gặp sóng to gió lớn, anh em say sóng, bánh lái thuyền bị gẫy một nửa, máy bay địch quần lượn theo dõi, đồng chí vẫn bình tĩnh ra sức chèo chống. lựa sóng lái thuyền xuôi theo dòng nước. Đồng chí đã giăng lưới bắt cá, ngụy trang giả thuyền đánh cá của dân, che mắt máy bay địch, nhờ đó đã cập bến an toàn.

   Năm 1952, Trần Á phụ trách đoàn thuyền 8 chiếc chở hàng. Thuyền Trần Á đi đầu đội hình, vừa về đến Cam Ranh bất ngờ gặp tàu địch đi tuần. Đồng chí ra hiệu cho các thuyền sau giạt vào bờ chạy thoát, riêng thuyền Trần Á không quay lui tháo chạy mà tiến thằng tới khu vực các đoàn tàu buôn, tàu chiến của địch đang đậu ở cảng, nhanh chóng lách vào giữa các tàu buôn, rồi chui ra lẫn vào giữa đoàn thuyền đánh cá của dân; tàu tuần tra địch không tìm được; thuyền đồng chí lại ra đi an toàn.

   Trần Á đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công hạng nhì, 1 Huân chương Chiến công hạng ba, 3 lần phòng hậu cần Liên khu 5, 2 lần Bộ tư lệnh và Ủy ban kháng chiến miền Nam khen, và được tặng danh hiệu Chiến sĩ thi đua toàn Liên khu.

   Ngày 7 tháng 5 năm 1956, Trần Á được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


ANH HÙNG BÙI VĂN BA

(http://img145.imageshack.us/img145/2250/scan0810140040.jpg)

   Bùi Văn Ba sinh năm 1929, dân tộc Kinh, quê ở Rạch Cát, ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh, nay là phường 22, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh, nhập ngũ tháng 11 năm 1947. Khi được tuyên dương Anh ' hùng đồng chí là trung đội phó đặc công, phân liên khu miền Tây Nam Bộ, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

   Là một chiến sĩ đặc công, gần 7 năm chiến đấu và hoạt động ở chiến trường Nam Bộ, Bùi Văn Ba được giao nhiệm vụ bám sát nhân dân xây dựng cơ sở, điều tra nắm vững địch, tạo điều kiện cho đơn vị đánh những trận hiểm vào nơi xung yếu của địch trong thành phố. Đồng chí đã trực tiếp điều tra và tham gia chiến đấu 7 trận: đặc biệt là trận đánh bọn giặc lái máy bay Pháp ở sân bay Tân Sơn Nhất và đánh kho bom Phú Thọ. Đồng chí đã nêu cao tinh thần dũng cảm mưu trí, táo bạo, kiên trì khắc phục mọi khó khăn, kiên quyết tấn công tiêu diệt địch, lập công xuất sắc.

   Tháng 9 năm 1952, để kỷ niệm ngày Nam Bộ kháng chiến, đồng chí Bùi Văn Ba nhận nhiệm vụ tiêu diệt bọn sĩ quan lái máy bay ở sân bay Tân Sơn Nhất. Vị trí địch bố trí sâu trong thành phố, canh phòng nghiêm mật, đồng chí đã dũng cảm chỉ huy tổ ba người bí mật đột nhập vào. Cả tổ động viên nhau kiên trì nằm bám bí mật suốt đêm hôm đó và ngày hôm sau chờ thời cơ tốt nhất đế đánh địch. Trời vừa tối bọn sĩ quan địch đã tập trung đông chè chén ở câu lạc bộ sĩ quan. Thời cơ hành động đã đến. Bùi Văn Ba và một đội viên nữa nhanh nhẹn vượt qua vọng gác, xông thẳng vào câu lạc bộ. Vừa tới cửa, bọn địch bên ngoài phát hiện hô lên và nổ súng, nhưng 2 đồng chí đã lọt được vào trong, liên tiếp ném thủ pháo và xả súng diệt địch. Chúng bị bất ngờ, không kịp đối phó chết chồng lên nhau. Ra tới ngoài, nhân bọn địch đang rối loạn, Bùi Văn Ba bồi quả thủ pháo nữa diệt thêm một số, rồi rút ra an toàn. Trận này, tổ đồng chí giết và làm bị thương hơn 50 tên lái máy bay, một sinh lực rất quý giá của giặc Pháp lúc bấy giờ, ở ngay giữa hậu phương chúng cho là rất an toàn, khiến kẻ địch rất hoang mang, lo sợ, nhân dân ta thì tin tưởng phấn khởi.

   Ngày 6 tháng 1 năm 1954, Bùi Văn Ba nhận nhiệm vụ đánh kho bom Phú Thọ. Khu kho này rộng gần 3.000 mét vuông, địch bố phòng hết sức nghiêm ngặt, ngoài cùng chúng bố trí 6 hàng rào dây thép gai, cách 25 mét có một bóng đèn sáng và cứ 100 mét lại có bốt gác. Trong rào, chúng bố trí mìn và bẫy chông sắt dày đặc, xung quanh có đường lớn, chúng thường tuần tiễu bằng mô tô, xe đạp, bộ binh và chó béc-giê. Ngoài hàng rào là một bãi trống bằng phẳng, đèn pha từ các lô cốt thường xuyên bật sáng để phát hiện đối phương từ xa. Lực lượng cơ động phòng thủ bên trong là một đại đội Âu Phi, bên ngoài 2 tiểu đoàn ứng chiến, ngoài ra còn mạng lưới tề điệp dày đặc cứ 15 phút lại phải báo cáo về bọn chỉ huy của chúng một lần.

   Đã nhiều lần Bùi Văn Ba cùng đồng đội lọt vào xây dựng cơ sở và điều tra khu vực kho bom, nhưng đều bị chúng phát hiện phá vỡ cơ sở và bị thương vong một số đồng chí. Gần 2 năm kiên trì bám địa bàn, dũng cảm vượt qua muôn vàn thử thách ác liệt, cuối cùng tổ đồng chí đã điều tra xong và lập được kế hoạch tác chiến báo cáo lên trên.

   Đêm 5 rạng ngày 6 tháng 1 năm 1954 được lệnh trên, Bùi Văn Ba chỉ huy 10 người vào đánh kho bom. Nắm vững quy luật bố phòng và nhằm đúng nơi sơ hở của địch, đồng chí dẫn đầu một tổ đi trước cắt rào gỡ mìn, sau đó đưa toàn đội vào đặt mìn rồi rút ra êm thấm gọn gàng. Tiếng mìn nổ dữ dội ở khu bom Phú Thọ đêm đó đã làm chấn động dư luận trong và ngoài nước. Ta đã phá hủy 10.000 tấn bom đạn, 80.000 lít dầu xăng, 28 khu nhà kho lớn, cùng một đại đội Âu Phi bị hủy diệt hoàn toàn.

   Bùi Văn Ba đã được tặng thương 1 Huân chương Chiến công hạng nhất, được thành đội Sài Gòn khen và là Chiến sĩ thi đua của Đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn.

   Ngày 7 tháng 5 năm 1956, Bùi Văn Ba được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


ANH HÙNG TRIỆU VĂN BÁO

(http://img401.imageshack.us/img401/5798/scan0810140041.jpg)

   Triệu Văn Báo sinh năm 1932, dân tộc Tày, quê ở xã Tri Viễn, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng, nhập ngũ tháng 1 năm 1950. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là đại đội phó thông tin thuộc đại đoàn 316, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

   Năm 14 tuổi, Triệu Văn Báo làm liên lạc cho xã. Có thời gian cơ quan phân tán ở cách nhau 6, 7 ki-lô-mét, suốt 3 tháng liền bất kể ngày đêm, đồng chí vẫn bền bỉ bảo đảm chuyển công văn đầy đủ, kịp thời.

   Năm 1948, Triệu Văn Báo tham gia công an xung phong cua tỉnh, đồng chí đã cùng với dân quân dũng cảm phá cầu, cắt dây điện thoại gây nhiều khó khăn cho địch.

   Từ khi vào bộ đội, (tháng 1 năm 1950) Triệu Văn Báo là một chiến sĩ thông tin, đồng chí luôn luôn nêu cao tinh thần dũng cảm, hết lòng phục vụ đơn vị chiến đấu, kiên quyết vượt qua mọi thử thách ác liệt, đảm bảo thông tin liên lạc thông suốt, nêu tấm gương tiêu biểu cho toàn thể đơn vị học tập.

   Trận diệt đồn La-ri-vê (Bắc Ninh), năm 1952, lần đầu tiên đơn vị đánh địch trong công sự vững chắc, đồng chí làm tổ trưởng thông tin, phụ trách đường dây từ tiểu đoàn đến đại đội. Tiểu đoàn ra lệnh nổ súng. Đại đội trưởng vừa định bắn súng báo hiệu tiến công thì bị trúng đạn hy sinh. Triệu Văn Báo đã không chậm trễ, chủ động hô to lềnh phát hỏa: bao đảm sự thống nhất hiệp đồng giờ nổ súng tiến công cho toàn đơn vị. Pháo binh địch bắn tới tấp. Lần thứ tư đường dây lại đứt giữa lúc tình hình khẩn cấp: đơn vị đang phát triển vào bên trong gặp một lô cốt địch bắn cản dữ dội, đang cần phía sau đem bộc phá lên. Trước yêu cầu khẩn trương ấy, Triệu Văn Báo đã không ngần ngại, dũng cảm cắn 2 đầu dây làm điểm nối cho dòng điện chạy qua, máy quay gấp, đồng chí bị điện giật ngất đi, nhưng mệnh lệnh đã được truyền đạt kịp thời, bộc phá được nhanh chóng đưa lên đánh sập lô cốt giặc.

   Trận Cầu Ngà (Bắc Ninh), năm 1952, đơn vị làm nhiệm vụ đánh chặn viện. Trong lúc đang nổ súng, đại đội đồng chí còn thiếu 500 mét dây nữa mới liên lạc được với tiểu đoàn. Triệu Văn Báo đã dũng cảm chạy bộ dưới tầm đạn pháo của địch chuyển lệnh 7 lần, giữ vững mối liên lạc của trận đánh. Có lần đạn địch bắn rát, đồng chí phải dùng động tác lăn từ trên sườn đồi xuống rãnh nước dưới chân đồi rồi lại tiếp tục chạy đi truyền lệnh. Nhờ đó đã bảo đảm chỉ huy thông suốt, góp phần giành thắng lợi cho trận đánh.

   Trận Vận Tải, (Hải Dương), 2 trung đội của ta đã vào sát hai bên đồn thì bị lộ. Địch bắn ra ác liệt, lực lượng đại đội chưa vào hết. Trước mặt lại vướng đầm lầy, đồng chí không ngần ngại đặt máy lên lưng bò xoài trên mặt đầm, đưa máy vào trước, mở đường an toàn qua bãi lầy cho đại đội trưởng và lực lượng phía sau nhanh chóng, vào chiếm lĩnh trận địa, nổ súng kịp thời.

   Khi gần kết thúc trận đánh, đại đội trưởng bị thương nặng, Triệu Văn Báo chủ động cùng 2 người nữa đặt đại đội trưởng lên lưng rồi trườn qua bãi lầy đưa ra ngoài an toàn.

   Đồng chí đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công hạng nhất, 1 Huân chương Chiến công hạng nhì, 4 lần được trung đoàn khen, là Chiến sĩ thi đua của trung đoàn, đại đoàn và Chiến sĩ thi đua toàn quốc năm 1952.

   Ngày 7 tháng 5 năm 1956, Triệu Văn Báo được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


Tiêu đề: Re: Anh hùng LLVTND trong kháng chiến chống Pháp
Gửi bởi: hoi_ls trong 21 Tháng Mười Hai, 2010, 04:38:13 pm
ANH HÙNG LÒ VĂN BƯỜNG

(http://img227.imageshack.us/img227/4996/scan0810140042.jpg)

   Lò Văn Bường sinh năm 1924, dân tộc Thái, quê ở xã Thanh Cao, huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa, nhập ngũ tháng 8 năm 1948. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là trung đội phó bộ binh thuộc đoàn 335, bộ đội tình nguyện, đảng viên Đảng Cộng sản việt Nam.

   Năm năm chiến đấu và hoạt động ở miền Tây giúp bạn, đồng chí Lò Văn Bường luôn luôn nêu cao tinh thần tận tụy, hy sinh của người chiến sĩ cách mạng. Đặc điểm công tác của đồng chí là âm thầm hoạt động xây dựng cơ sở năm này qua năm khác ở những vùng sau lưng địch mà ta chưa có cơ sở, hoặc cơ sở vừa bị tan vỡ. Với muôn ngàn khó khăn gian khổ; rừng núi âm u, khí hậu khắc nghiệt, địch khủng bố, dân chưa giác ngộ, sinh hoạt thiếu thốn, đói rét, bệnh tật liên miên, nhưng đồng chí đã cùng anh em kiên trì tìm dân, bám dân, quyết tâm hoạt động xây dựng và củng cố cơ sở cách mạng. Các đồng chí đã xây dựng được cơ sở ở 28 làng, lập được 70 đội du kích, đào tạo được nhiều cán bộ làm nòng cốt ở địa phương. Tổ chức lãnh đạo nhân dân hai lần phá vỡ âm mưu "dồn dân" của địch. Trong thành tích chung đó, đồng chí Lò Văn Bường dã đóng góp phần công lao xứng đáng.

   Tháng 3 năm 1950, tổ công tác của Lò Văn Bường nhận nhiệm vụ đi trước vào ban H. nắm tình hình, vận động tổ chức nhân dân và chuẩn bị lương thực. Sau 2 tháng, các đồng chí đã tổ chức được cơ sở, tạo được bàn đạp cho toàn đội tiến vào hoạt động sâu vùng sau lưng địch. Các đồng chí còn được nhân dân giúp đỡ 7 tạ gạo và 2 con lợn làm lương thực đi đường.

   Tháng 11 năm 1950, tổ đồng chí vào xây dựng cơ sở ở một vùng khác để tổ chức đường liên lạc từ đội về khu. Đây là một vùng do địch kiểm soát, chúng thường hay tuần tra, lùng sục. Tổ đồng chí phải nằm rừng, ngày ra nương đón dân đi làm để tuyên truyền vận động, vạch rõ âm mưu địch, dần dần giác ngộ cho dân. Sau 2 tháng kiên trì tích cực, tổ đã xây dựng được cơ sở ở 5 bản vững vàng. Một lần được tin địch tiến hành âm mưu "dồn dân", Lò Văn Bường đang làm nhiệm vụ chăm sóc anh em ốm trong đội, vội đi xem tình hình ngay. Mấy ngày tiếp sau, vừa chăm sóc đồng đội, vừa len lỏi bám sát, vận động tổ chức nhân dân phá vỡ âm mưu địch, giữ vững được hệ thống cơ sở trên đường dây liên lạc.

   Tháng 9 năm 1951, Lò Văn Bường được bổ sung về một tổ khác, nhận nhiệm vụ đi củng cố một cơ sở vừa bị vỡ. Vùng này gần đồn địch, chúng khống chế mạnh, nhân dân lại vừa bị nạn lụt, đang đói. Đồng chí tổ trưởng bị địch bắn, hy sinh giữa lúc đang tiến hành công tác. Cả tổ chỉ còn một mình Lò Văn Bường biết tiếng địa phương, đồng chí đã kiên trì vận động từng người dân, từng bước tổ chức quần chúng chống đói và đấu tranh phá tan âm mưu dịch. Sau 3 tháng, cơ sở cách mạng ở đây đã được củng cố lại vững chắc.

   Tháng 1 năm 1952, tổ Lò Văn Bường lên xây dựng cơ sở. Một buổi chiều đồng chí vào bản, gặp 1 trung đội địch đang đi lùng sục. Tên đi đầu phát hiện thấy Lò Văn Bường, vừa kêu lên thì đồng chí đã nhanh nhẹn nằm xuống bắn chúng bị thương mấy tên. Địch tập trung bắn dữ dội về hướng đồng chí. Địa hình trống trải không chỗ nấp, đồng chí bị 5 vết thương ở tay phải, lưng, và mắt phải. Tưởng đồng chí đã chết, chúng bỏ đi, sục vào nhà dân để vơ vét. Lợi dụng lúc sơ hở đó của địch, Lò Văn Bường cố lết dần ra rừng, bò về nơi tạm trú của tổ. 5 ngày không có thuốc, các vết thương của Lò Văn Bường càng nặng, cả tổ lo lắng cho đồng chí nhưng đồng chí lại lo địch khủng bố các cơ sở bị vỡ; nên đồng chí động viên anh em đi củng cố giữ vững cơ sở, mà đừng lo lắng quá đến mình. Sau có y tá lên chăm sóc và được nhân dân giúp đỡ, các vết thương lành dần, Lò Văn Bường lại tiếp tục công tác ngay. Cuối năm 1952, đồng chí được điều lên hoạt động ở một huyện có nhiều khó khăn. Suốt 3 tháng phải ăn ngô với rau rừng trừ bữa, đồng chí đã cùng với cán bộ địa phương củng cố lại các cơ sở và tổ chức phòng chống biệt kích, bảo đảm an ninh, phát triển phong trào du kích ở địa phương.

   Lò Văn Bường đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công hạng nhì, được Khu và đoàn khen 3 lần, là chiến sĩ thi đua của bộ đội tình nguyện giúp bạn.

   Ngày 7 tháng 5 năm 1956, Lò Văn Bường được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


ANH HÙNG DƯƠNG QUẢNG CHÂU

(http://img834.imageshack.us/img834/8827/scan0810140043.jpg)

   Dương Quảng Châu, (tức Dương Ngọc Chiến), sinh năm 1929, dân tộc Kinh, quê ở xã Quảng Châu, huyện Phù Tiên, tỉnh Hải Hưng, nhập ngũ tháng 5 năm 1948. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là trưng đội phó đại đội quân báo trung đoàn 36, đại đoàn 308, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

   Do hoàn cảnh thiếu đói, gia đình Dương Quảng Châu phải bỏ làng chạy lên Thái Nguyên làm tá điền. Sau Cách mạng tháng Tám, ba lần đồng chí xung phong đi bộ đội nhưng không đủ sức khỏe, đến 1948 đồng chí vào bộ đội địa phương, sau chuyển sang chủ lực. Suốt 5 năm chiến đấu, đồng chí đã dự các chiến dịch từ Biên Giới đến Điện Biên Phủ, lúc nào cũng nêu cao tinh thần dũng cảm, mưu trí, linh hoạt của một chiến sĩ quân báo, điều tra tỉ mỉ, cụ thể, gặp địch là chủ động kiên quyết tấn công, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

   Năm 1949, một mình Dương Quảng Châu nhận nhiệm vụ đi trinh sát bốt Bồng Lai, Hạ Trì, Hà Đông, 2, 3 ngày địch vây, bị đói nằm trong lòng địch đồng chí vẫn kiên trì khéo léo giả làm phu lọt vào trong bốt địch trinh sát cụ thể, rồi mới tìm cách thoát ra, trở về đơn vị báo cáo.

   Chiến dịch Biên Giới năm 1950, địch đánh lên Khâu Luông, Dương Quang Châu được lệnh từ Thất Khê quay về làm nhiệm vụ. Giữa đường phát hiện có tàn binh địch lẩn trốn trong rừng, đồng chí liền chỉ huy anh em nhanh chóng bao vây, vừa nổ súng uy hiếp, vừa kêu gọi đầu hàng, bắt được 4 tên.

   Năm 1953, đơn vị giao nhiệm vụ điều tra bốt Thái Đào, Bắc Giang. Dương Quang Châu chỉ huy một mũi, luồn lách vượt qua hai con đường thường xuyên có lính tuần tra, một con sông máng và 11 hàng rào, vào sát tận nơi điều tra nắm chắc tình hình về báo cáo.

   Cuối năm 1953, trên đường truy kích địch ở Mường Ngòi, Dương Quảng Châu chỉ huy một tiểu đội vượt sông đuổi địch. Tổng cộng trong ngày đồng chí đã 9 lần dũng cảm dẫn đầu tiểu đội đánh tan một tiểu đoàn địch. Khi súng hết đạn, Dương Quảng Châu đã lấy súng đạn địch tiếp tục truy kích, săn lùng những tên còn đang lẩn trốn.

   Một lần khác ở Nậm Bạc, tiểu đội đồng chí truy kích địch suốt từ sáng tới khi trời gần tối, anh em vừa dừng lại tạm nghỉ ăn cơm, đột nhiên 4 tên tàn binh địch xuất hiện bất ngờ, tên đi đầu hung hăng giương súng bắn, nhanh tay đồng chí gạt được súng ra và dùng dao đâm nó ngã ngay tại chỗ 3 tên kia hốt hoảng giơ tay hàng. Hôm sau đánh Nậm Ngà; tổ Dương Quảng Châu đang chuẩn bị thì 1 đại đội địch ập tới, chúng xả súng bắn, đồng chí nhanh nhẹn chỉ huy anh em nấp vào các gốc cây bắn trả quyết liệt, làm chúng chết và bị thương một số. Cùng lúc đó đơn vị ở phía sau vận động lên, kịp thời bao vây địch. Lợi dụng lúc chúng đang nhốn nháo, đồng chí nhảy ra bắt sống 1 tên, rồi bắt nó gọi hàng được 46 tên, thu 43 súng, cùng với đơn vị tiêu diệt gọn đại đội địch.

   Trong thời gian chuẩn bị chiến trường Điện Biên Phủ, một hôm đơn vị đi làm nhiệm vụ vắng, chỉ còn Dương Quảng Châu và một chiến sĩ bị sốt nằm nhà. Gần trưa, cơn sốt vừa dứt, Dương Quảng Châu đang ngồi lau súng, thấy một toán địch đi từ hướng Lai Châu về, đồng chí bình tĩnh phán đoán là lũ tàn binh địch vừa bị ta đánh hôm trước, liền mưu trí hô to nghi binh, rồi xông ra chẹn bắt được 22 tên, thu 8 súng. Ngày hôm sau Dương Quảng Châu còn chỉ huy tổ lùng bắt 10 tên nữa. Bước vào Chiến dịch, trong một trận đánh phản kích, đồng chí bị thương gẫy chân không di động được, nhưng vẫn nằm tại chỗ bình tĩnh giao nhiệm vụ cho tổ và động viên anh em quyết tâm chiến đấu.

   Trong khi nằm điều trị, Dương Quảng Châu đã gương mẫu tham gia lao động, góp phần xây dựng viện và giúp đỡ nhân dân, xung phong vận động 60 đồng chí thương binh còn khỏe cùng với 50 đồng bào đắp đoạn đê ngập, cứu lụt được 480 mẫu lúa.

   Dương Quảng Châu đã được Bác Hồ tặng Huy hiệu của Người, được thưởng 3 Huân chương Chiến công hạng nhì, 9 lần được tiểu đoàn, trung đoàn, đại đoàn khen và là Chiến sĩ thi đua của đại đoàn.

   Ngày 7 tháng 5 năm 1956, Dương Quảng Châu được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


Tiêu đề: Re: Anh hùng LLVTND trong kháng chiến chống Pháp
Gửi bởi: hoi_ls trong 18 Tháng Giêng, 2011, 03:42:17 pm
ANH HÙNG ĐỖ VĂN CHÂU

(http://img146.imageshack.us/img146/3155/scan0810140044.jpg)

   Đỗ Văn Châu, sinh năm 1934, dân tộc Kinh, quê ở xã Hạ Bằng, huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây, nhập ngũ tháng 2 năm 1951. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là trung đội phó bộ binh tải thương thuộc trung đoàn 48, đại đoàn 320, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

   Suốt từ ngày nhập ngũ, Đỗ Văn Châu được phân công làm nhiệm vụ tải thương. Đồng chí đã xác định rõ trách nhiệm và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ qua 12 trận đánh lớn. Dù gặp khó khăn ác liệt đến đâu, Đỗ Văn Châu vẫn nêu cao tinh thần gương mẫu, dũng cảm, tận tụy quên mình để giải quyết đưa thương binh, tử sĩ về nơi an toàn. Có những lần bị thương, bị ốm, nhịn đói, khiêng nặng đi xa, đồng chí vẫn gương mẫu và tổ chức động viên anh em đoàn kết giúp đỡ nhau, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ: giữ vững danh hiệu tiểu đội tiên tiến về mọi mặt.

   Trận Yên Bình, Ninh Bình, tháng 11 năm 1952, khi đơn vị nổ súng, tổ tải thương của Đỗ Văn Châu còn ở tuyến sau. Trận đánh đang diễn biến gay go, nhưng khi biết có người bị thương, đồng chí đã chủ động dẫn tổ chạy trên con đường độc đạo đang bị địch bắn kiềm chế ác liệt, nhanh chồng cõng được 3 thương binh đi xa 7 cây số về trạm an toàn.

   Trận tập kích Trại Chuối, Nam Định (1952) không thành công. Đơn vị đã rút, song trên trận địa còn lại một thương binh. Mặc cho hỏa lực địch bản ra dày đặc, đồng chí quyết tâm dẫn tổ chạy quay lại: bò vào sát đồn, tìm kỳ được và đưa đồng chí thương binh về nơi tập kết an toàn.

   Trận chống càn An Nông, Nam Định, Thu Đông năm 1952, địch dùng 3 tiểu đoàn và 40 xe cơ giới bao vây tiến công gần 1 đại đội của ta. Tiểu đội đồng chí phải làm nhiệm vụ dưới hỏa lực ác liệt của địch. Tiểu đội trưởng và một chiến sĩ hy sinh, trong anh em có người ngần ngại. Đỗ Văn Châu vượt ngay lên dẫn đầu tiểu đội dùng hành động gương mẫu của mình để khích lệ anh em, một mặt cất giấu thương binh, mặt khác phối hợp với xung kích chiến đấu. Địch thả bom na-pan, bom cháy, đồng chí xông vào cõng một thương binh nặng đưa về trạm, rồi cùng các đồng chí khác tìm nong, đắp bùn che cho thương binh ở chỗ cất giấu an toàn. Địch tiến công mãnh liệt bằng nhiều mũi vào trận địa ta. Ở một mũi y tá chưa lên kịp, đồng chí đảm nhiệm băng cho thương binh trước khi tập trung về một chỗ và tranh thủ chuyển đạn của anh em bị thương tiếp cho đồng đội chiến đấu. Giữa lúc đó ở một hướng khác, địch tấn công lên mạnh, đồng chí dùng ngay súng đạn địch chết bỏ rải rác trên trận địa, cùng anh em chiến đấu đánh bật đợt phản kích của chúng. Vừa xong thì ở mũi bên cạnh, đồng chí xạ thủ trung liên hy sinh, địch lợi dụng xô lên. Đỗ Văn Châu chạy tới sử dụng trung liên bắn cản chúng lại. Được một lúc, trung liên bị hóc, địch lại xô lên, đồng chí cùng anh em dùng lưỡi lê, lựu đạn đánh bật bọn địch ra ngoài và tiếp tục ở lại chiến đấu cho đến khi bị thương không thể chiến đấu được nữa mới thôi.

   Trận Quỳnh Côi, Thái Bình năm 1952, Đỗ Văn Châu đã bị sốt mấy ngày trên đường hành quân, nhưng khi có lệnh chiếp đấu, đồng chí vẫn cố xin được tham gia. Bước vào trận chiến đấu, được tin có đồng chí bị thương nặng ngay ở cửa mở, đồng chí không nề nguy hiểm, vượt lên băng bó và cõng chạy về trạm an toàn. Sau đó đồng chí lại quay lại tiếp tục cùng anh em chuyển thêm 2 cáng thương binh nữa.

   Trận chống càn Sa Đê, Nam Định năm 1953, suốt một ngày nhịn đói và bị lạc đơn vị, Đỗ Văn Châu vẫn động viên giữ vững tinh thần đồng đội, chăm sóc chu đáo thương binh, khiêng cáng suốt ngày cho tới khi tìm thấy quân y.

   Trận Kinh Thanh, Hà Nam, năm 1954, đơn vị vào chiếm lĩnh trận địa bị lộ, súng các cỡ trong đồn địch bắn ra như mưa, ta bị thương vong một số. Đồng chí dẫn đầu tiểu đội vào lấy thương binh, bị thương vào tay, đồng chí vẫn giấu anh em tiếp tục làm nhiệm vụ. Đến khi máu ra nhiều quá, trung đội trưởng ra lệnh Đỗ Văn Châu mới buộc phải chấp hành về quân y băng bó.

   Đỗ văn Châu đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công hạng ba, 13 lần được trung đoàn, đại đoàn, Liên khu khen và là Chiến sĩ thi đua của trung đoàn, đại đoàn.

   Ngày 7 tháng 5 năm 1956, Đỗ Văn Châu được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


ANH HÙNG NGUYỄN CỤ

(http://img529.imageshack.us/img529/2216/scan0810140045.jpg)

   Nguyễn Cụ (tức Nguyễn Tư Cường) sinh năm 1927, dân tộc Kinh, quê ở xã Ninh Đa, huyện Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa, nhập ngũ tháng 0 năm 1945. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là tiểu đoàn phó đặc công thuộc tiểu đoàn 323, đại đoàn 324, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

   Từ tháng 10 năm 1945 đến 1 năm 1954, Nguyễn Cụ tham gia chiến đấu ở chiến trường Liên khu 5, luôn luôn nêu cao tinh thần hăng say đánh giặc. Trưởng thành từ chiến sĩ lên cán bộ tiểu đoàn, đồng chí đã tỏ ra xuất sắc trên các cương vị được giao. Ở hoàn cảnh nào đồng chí Nguyễn Cụ cũng tìm cách hoàn thành nhiệm vụ, luôn luôn dẫn đầu đơn vị xung phong tiêu diệt địch, 7 lần bị thương vẫn kiên quyết chiến đấu không rời trận địa.

   Nguyễn Cụ đã đánh 101 trận, chỉ huy diệt 605 tên địch, riêng đồng chí đã diệt 294 tên, lập công xuất sắc.

   Năm 1945, lúc còn là chiến sĩ, đồng chí đã đánh 7 trận, có trận bị lạc nhịn đói 10 ngày phải tìm lá cây, củ rừng ăn nhưng vẫn quyết tâm luồn rừng tìm về đơn vị.

   Năm 1947, trong trận phục kích địch ở đèo Phượng Hoàng trên đường 21, Nguyễn Cụ chỉ huy 1 trung đội bộ đội địa phương phối hợp chiến đấu với bộ đội chủ lực. Giữa lúc trận chiến đấu đang giằng co ác liệt, đồng chí dẫn đầu trung đội vòng bên sườn rồi bất ngờ xung phong vào giữa đội hình địch, làm cho chúng rối loạn, diệt 75 tên, đốt cháy 5 xe, tạo điều kiện thuận lợi cho bộ đội chủ lực diệt gọn gần một tiểu đoàn địch.

   Trận Hòn Khói năm 1948, ngay phút đầu Nguyễn Cụ đã xông lên vượt qua hàng rào dây thép gai, ném lựu đạn vào lỗ châu mai diệt bọn địch trong lô cốt, yểm hộ cho đơn vị tiến vào. Sau khi xông lên gác, bắn chết tên đồn trưởng, đồng chí bị thương nhưng vẫn bình tĩnh chỉ huy trung đội tiêu diệt xong đồn, bắt sống 38 tên, thu toàn bộ vũ khí.

   Năm 1948-1949, nhiều lần địch tập trung lực lượng tiến công trung đội của Nguyễn Cụ, hòng tiêu diệt lực lượng vũ trang của địa phương, có lần chúng huy động một trung đoàn có máy bay, pháo binh yểm hộ, bao vây bộ đội và cơ quan chính quyền địa phương. Đồng chí chỉ huy đơn vị ngoan cường chiến đấu suốt một ngày, cơ động chặn địch hết nơi này đến nơi khác, bảo vệ cho cơ quan rút lui an toàn.

   Một lần khác, có 40 cán bộ huyện, xã đi hội nghị về nghỉ tại đơn vị, mới mờ sáng đã bị một đại đội địch bao vây, đồng chí dũng cảm chỉ huy trung đội đánh lui địch, diệt một tiểu đội, bảo vệ được cán bộ.

   Trận Vạn Khê năm 1952, biết tin địch sắp đi càn, trong khi cơ sở ta chưa chuẩn bị kịp để đối phó, Nguyễn Cụ bí mật đưa trung đội lọt qua nhiều vòng kiểm soát và bố trí trận địa phục kích ngay gần cửa đồn. Giặc vừa ra khỏi cửa bị đánh bất ngờ, một tiểu đội bị diệt, chúng hoang mang chạy vào đồn cố thủ, bỏ ý định đi càn ngày hôm đó.

   Trận Đại Mỹ năm 1953, đồn giặc bố phòng rất nghiêm ngặt, Nguyễn Cụ đã táo bạo và kiên trì bò vào tận đồn điều tra tỉ mỉ, sau đó chỉ huy đơn vị tiến công chớp nhoáng, diệt các mục tiêu rất chính xác bằng thủ pháo, tiêu diệt gọn 2 trung đội địch, rồi rút ra an toàn.

   Tháng 7 năm 1954, đơn vị được giao nhiệm vụ diệt đồn Cầu Đức. Đây là một cứ điểm mạnh của địch ở Khánh Hòa. Chúng canh phòng cẩn mật, bố trí lực lượng và hỏa lực mạnh. Sau khi điều tra, Nguyễn Cụ chỉ huy đơn vị bí mật vào đánh. Sắp đánh thì bị lộ, đồng chí dũng cảm dẫn đầu trung đội lập tức tiến công rất quyết liệt, bị thương hai lần vẫn không rời trận địa, sau hai giờ chiến đấu ác liệt, đơn vị đồng chí đã diệt gọn đồn này, tiêu diệt một đại đội địch, bắt 38 tên, thu toàn bộ vũ khí.

   Tháng 5 năm 1954, Nguyễn Cụ chỉ huy 3 tiểu đội đột nhập nhà lao Ninh Hòa diệt gọn hai trung đội địch, giải thoát 600 cán bộ du kích và đồng bào bị giam giữ.

   Nguyễn Cụ đã được tặng thưởng 3 Huân chương Chiến công hạng ba, 17 lần được Liên khu và tỉnh khen.

   Ngày 7 tháng 5 năm 1956, Nguyễn Cụ được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


ANH HÙNG PHAN TRỌNG ĐƯỜNG

(http://img151.imageshack.us/img151/5618/scan0810140046.jpg)

   Phan Trọng Đường sinh năm 1926, dân tộc Kinh, quê ở xã Xuân Long, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên, nhập ngũ tháng 1 năm 1950, khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là trung đội phó bộ binh bộ đội tình nguyện, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

   Suốt 4 năm hoạt động trên vùng phía tây Tổ quốc, Phan Trọng Đường đã luôn luôn nêu cao tinh thần chịu đựng gian khổ, khắc phục khó khăn, nắm chắc đường lối, phương châm, chính sách, kiên trì bám sát nhân dân xây dựng cơ sở biểu thị tinh thần quốc tế chân chính của người chiến sĩ tình nguyện Quân đội nhân dân Việt Nam. Để thâm nhập quần chúng, Phan Trọng Dường đã kiên trì học thêm được ba thứ tiếng, tuyên truyền xây dựng cơ sở cách mạng ở 77 thôn trong vùng địch tạm chiếm, củng cố và phát triển mối quan hệ tốt với quân đội và nhân dân nước bạn.

   Từ tháng 9 năm 1950 đến tháng 1 năm 1951, Phan Trọng Đường phụ trách một tổ 3 người hoạt động ở một vùng trắng, chưa có cơ sở cách mạng, địch càn quét liên tiếp, tổ đồng chí phải tránh địch, ở bí mật trong rừng, mưa rét thiếu thốn, muỗi độc nhưng vẫn kiên trì hoạt động. Có lần hàng tháng trời thức khuya dậy sớm, Phan Trọng Đường đi hết nơi này sang nơi khác, tuyên truyền xây dựng cơ sở, qua 7 tháng, đã thành công trong việc xây dựng chính quyền ở 7 thôn, tổ chức được 70 dân quân phối hợp với đội vũ trang đánh giặc.

   Từ tháng 1 năm 1951 đến tháng 7 năm 1951, Phan Trọng Đường chuyển về hoạt động ở một vùng khác, núi non hiểm trở, sinh hoạt rất khó khăn, thiếu thốn, nhiều đồng chỉ ngại khổ nảy sinh tư tượng tiêu cực, Phan Trọng Đường đã động viên giúp đỡ anh em cùng nhau vượt qua khó khăn xây dưng được cơ sở ở 30 thôn. Vùng này sau trở thành căn cứ địa tốt của ta.

   Tháng 7 năm 1951, tổ Phan Trọng Đường đến hoạt động ở một vùng địch thường vây quét, đánh phá, khủng bố nhân dân, đồng chí bị ốm, hai chân phù thũng sưng tấy vẫn chống gậy dầm mưa đi vận động quần chúng. Sau khi xây dựng cơ sở, củng cố tổ chức được vững vàng, các đồng chí vận động và tổ chức nhân dân tiến lên đánh địch, phá sập 10 cầu gỗ trên đường 23, gây nhiều khó khăn cho địch.

   Tháng 7 năm 1952, Phan Trọng Đường được điều về công tác ở vùng dân tộc Gia Rai. Lúc đầu nhân dân bị địch lừa bịp còn sợ cán bộ cách mạng, thấy ta là chạy trốn. Có đêm đồng chí đi vận động bị đồng bào đuổi ra khỏi bản 3 lần. Phan Trọng Đường vẫn kiên trì tìm gặp và hòa mình gần gũi nhân dân, khi giúp đỡ người già, khi thăm hỏi chữa bệnh cho người ốm. Địch đe dọa và treo giải thưởng cho ai lấy được đầu cán bộ người Kinh. Để che mắt chúng, hòa vào đồng bào tiếp tục hoạt động, Phan Trọng Đường đã hóa trang: để tóc dài, đóng khố, phơi nắng cho đen da, xâu tai đeo vòng, cưa răng sát lợi, nói tiếng địa phương... Nhân dân rất tin yêu, hết sức giúp đỡ các đồng chí hoạt động, vì vậy 10 thôn cơ sở ở vùng này được xây dựng và củng có rất tốt.

   Tháng 4 năm 1954, Phan Trọng Đường phụ trách một đội vượt .qua bao khó khăn phức tạp, xây dựng chính quyền cách mạng có lực lượng dân quân bảo vệ ở 30 thôn.

   Suốt quá trình hoạt động, Phan Trọng Đường đã gương mẫu về mọi mặt, hết lòng thương yêu đồng đội, đoàn kết giúp đỡ nhân dân, luôn luôn nhận khó khăn về mình, nhường thuận lợi cho đồng chí, lúc nào cũng khiêm tốn, giản dị, được đồng đội và nhân dân hết sức tin yêu.

   Phan Trọng Đường đã được bộ đội bạn khen thưởng hai lần, là Chiến sĩ thi đua của bộ đội tình nguyện Việt Nam bên nước bạn.

   Ngày 7 tháng 5 năm 1956, Phan Trọng Đường được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


Tiêu đề: Re: Anh hùng LLVTND trong kháng chiến chống Pháp
Gửi bởi: hoi_ls trong 18 Tháng Giêng, 2011, 03:48:10 pm
ANH HÙNG ĐẶNG ĐÌNH HỒ

(http://img822.imageshack.us/img822/7247/scan0810140047.jpg)

   Đặng Đình Hồ sinh năm 1923, dân tộc Kinh, quê ở xã Phong Thịnh, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An, nhập ngũ năm 1950. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là tiểu đoàn phó bộ binh, đại đoàn 304, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

   Nhà nghèo, cha mẹ chết sớm, có đứa em lại bị chết đói, Đặng Đình Hồ phải đi chăn trâu, kiếm củi kiếm ăn. Từ ngày vào bộ đội, đồng chí rất hăng hái, dũng cảm, trưởng thành từ chiến sĩ xung kích lên cán bộ trung đội. Đặng Đình Hồ có tác phong chiến đấu linh hoạt, táo bạo, đã nổ súng là kiên quyết xung phong tiêu diệt địch, dù bị thương vẫn tiếp tục chiến đấu, có tác dụng cổ vũ đơn vị hăng hái thi đua giết giặc lập công.

   Trận Đồi Mồi trong chiến dịch Hòa Bình (tháng 1 năm 1952), khi nổ súng, Đặng Đình Hồ đã nhanh chóng dẫn đầu tổ ba người xông lên cửa mở, chiếm lô cốt đầu cầu tạo điều kiện cho đơn vị đánh thẳng vào trung tâm, diệt một đại đội địch, làm chủ trận địa. Trong khi chiến đấu, Đặng Đình Hồ bị thương cả hai mắt, nhưng tự bò ra ngoài để anh em dìu về trạm quân y, nhường cáng thương cho đồng chí khác.

   Trong trận Lạc Quần (ngày 5 tháng 4 năm 1952), khi qua bộc phá cuối cùng vừa nổ, đồng chí dẫn đầu tổ ba người vượt lên chiếm vị trí đầu cầu. Thấy hỏa lực địch bắn rất mạnh uy hiếp cửa mở, đồng chí đề nghị đại đội điều trung liên lên cùng với tổ đồng chí đánh chiếm rộng ra, giữ vững chỗ dừng chân cho toàn đơn vị phát triển vào bên trong. Sau đó, đồng chí dẫn đầu tổ đánh vào chiếm được hai căn nhà thì bị thương, không chạy được nữa. Đồng đội đến băng bó, đồng chí động viên anh em xông lên tiếp tục tiêu diệt địch, khi diệt xong vị trí địch, mới chịu đi quân y.

   Trong trận Tuy Lộc Thượng, Ninh Bình (tháng 11 năm 1952), do chuẩn bị chu đáo nên tổ Đặng Đình Hồ làm nhiệm vụ mở cửa rất nhanh. Cửa mở xong, tiểu đội bạn đang phát triển vào bên trong thì vấp phải hỏa lực địch ở tường hộp cản lại. Đây là một kiểu chướng ngại mới, bộ đội ta chưa có kinh nghiệm nên không giải quyết được lại bị thương vong. Tiểu đội Đặng Đình Hồ lên thay, đánh đầu này, chúng cụm lại đầu kia, rất khó; đồng chí liền nghĩ ra sáng kiến dùng bộc phá và lựu đạn đánh sập đoạn tường giữa, chia đôi địch ra, từ đó đánh phát triển ra hai đầu tiêu diệt địch, tạo điều kiện cho đơn vị bạn tiến vào giải quyết nhanh trận đánh. Sáng kiến đánh tường hộp của Đặng Đình Hồ được phổ biến trong toàn đại đoàn, các đơn vị áp dụng tốt.

   Trận đánh bốt Vạn Lại (tháng 12 năm 1952) rất đặc biệt: ở bốt này địch bố trí hàng rào thép gai dài hàng trăm mét, dùng pháo binh các nơi bắn về mãnh liệt sát thương ta từ bên ngoài. Vừa mở xong cửa mở, Đặng Đình Hồ đã hết sức mau lẹ dũng cảm đánh chiếm vị trí đầu cầu, dùng lựu đạn, thủ pháo uy hiếp địch, cùng đơn vị đánh mạnh giải quyết nhanh diệt và bức hàng một đại đội Âu Phi trong 20 phút.

   Tháng 4 năm 1954, Đặng Đình Hồ phụ trách trung đội phó trung đội dũng sĩ của trung đoàn ở chiến dịch Điện Biên Phủ. Đơn vị nhận lệnh phối hợp với đại đội bạn đánh sở chỉ huy địch ở đồi C. Bước vào trận đánh, bạn chưa mở được cửa đã bị thương vong nhiều, Đặng Đình Hồ đề nghị xin lên đánh nhưng bộc phá hết, phải chờ, giữa lúc đó đồng chí không may bị thương. Nhưng đồng chí vẫn kiên quyết ở lại chỉ huy đơn vị, chờ bộc phá đưa lên mở được cửa mới chịu để anh em đưa ra ngoài.

   Ngoài tinh thần chiến đấu hăng say, lập công xuất sắc, Đặng Đình .Hồ còn rất chịu khó học tập, rèn luyện. Bị thương, hong mắt phải và tay phải yếu, đồng chí đã kiên trì tập bắn tay trái và đã bắn giỏi.

   Đặng Đình Hồ đã được tặng thưởng 2 Huân chương Chiến công hạng nhì, 7 lần được tiểu đoàn, trung đoàn, đại đoàn khen và là Chiến sĩ thi đua của trung đoàn.

   Ngày 7 tháng 5 năm 1956, Đặng Đình Hồ được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


ANH HÙNG TRẦN ĐÌNH HÙNG

(http://img508.imageshack.us/img508/2246/scan0810140048.jpg)

   Trần Đình Hùng, sinh năm 1931, dân tộc Kinh quê ở xã Canh Thụy, huyện Yên Dũng, tỉnh Hà Bắc, nhập ngũ tháng 7 năm 1950. Khi được tuyên dương Anh hùng, đồng chí là trung đội trưởng pháo binh ĐKZ, trung đoàn 36, đại đoàn 308, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

   Từ tháng 7 năm 1950 đến tháng 5 năm 1954, Trần Đình Hùng đã tham gia tất cả các chiến dịch lớn trong đội hình chiến đấu của đại đoàn ở Bắc Bộ. Đồng chí luôn cùng đồng đội phát huy truyền thống "chân đồng vai sắt, đánh giỏi bắn trúng" của binh chủng pháo binh. Bản thân đồng chí đã có nhiều hành động rất dũng cảm, có tác dụng động viên khích lệ đơn vị hăng hái xông lên giết giặc lập công.

   Trong một trận chiến đấu, Trần Đình Hùng nhận nhiệm vụ pháo thủ số một. Ngay phút đầu đồng chí đã ngắm bắn chính xác, diệt 2 hỏa điểm địch, mở thông cửa mở. Nhưng xung kích chưa lên kịp, địch dùng lựu đạn ném ra và phản kích chiếm lại, đồng thời dùng pháo bắn vào trận địa khẩu đội. Đồng chí bị pháo đổ đè lên người nhưng đã bình tĩnh thoát ra, nâng pháo lên tiếp tục ngắm bắn, diệt thêm một số địch. Lúc này đồng chí đã bị thương, nhưng vẫn động viên đồng đội, đồng thời tiếp tục ngắm bắn, diệt hỏa điểm đầu cầu tạo điều kiện thuận lợi cho xung kích xông lên diệt gọn bọn địch trong vị trí.

   Chiến dịch Điện Biên phủ năm 1954, khẩu đội Trần Đình Hùng làm nhiệm vụ phòng ngự đồi 106. Địch tập trung 1 tiểu đoàn, có máy bay và pháo binh yểm trợ, tấn công lên trận địa phòng ngự của đơn vị (chỉ có 1 khẩu ĐKZ và 1 tiểu đội bộ binh gồm 20 người). Thấy lực lượng ta ít, một số anh em lo ngại, Trần Đình Hùng vừa động viên anh em củng cố công sự, vừa đi tìm trong các hầm hào lô cốt của địch nhặt được 40 quả lựu đạn đem về phân phát thêm cho khâu đội. Đồng chí vui vẻ nói: “Hỏa lực tăng cường đây, khi nào bắn hết đạn, ta dùng lựu đạn này kiên quyết đánh đến cùng!”. Quyết tâm chiến đấu và hành động tích cực của Trần Đình Hùng đã bước đầu củng cố được tư tưởng đơn vị.

   Bộ binh địch bắt đầu tiến lên, kính ngắm ĐKZ bị hỏng, đồng chí ngắm qua nòng pháo, hô cho xạ thủ bắn, ngay phát thứ nhất đã trúng giữa đội hình địch. Một số tên bị tiêu diệt, bọn còn lại chững lại rồi tản ra. Sau một hồi nghe ngóng chúng lại hò nhau xông lên. Lần này đồng chí chờ cho chúng vào thật gần mới bắn, để vừa sát thương được nhiều, vừa uy hiếp tinh thần địch. Cứ thế liên tiếp nhiều lần, bọn địch xông lên, lần nào cũng đều bị pháo ĐKZ của khẩu đội Trần Đình Hùng bắn trúng đội hình, buộc phải rút lui ra xa. Biết không làm gì nổi, chúng gọi pháo bắn rất ác liệt vào trận địa khẩu đội. Anh em bị thương vong hết, đồng chí đặt nòng pháo lên miệng chiến hào tiếp tục bắn. Kết quả trận địa vẫn được giữ vững, khẩu đội ĐKZ do đồng chí chỉ huy đã bắn diệt tại chỗ 40 tên địch, phá hủy một súng cối 81 mi-li-mét.

   Cũng trong chiến dịch Điện Biên phủ, khi đánh vị trí 311B, chân súng ĐKZ bị hỏng, không ngần ngại, Trần Đình Hùng đã lấy vải bạt lót nòng súng vác lên vai, bò lên bờ hào để đồng đội nạp đạn bắn, diệt nhiều hỏa điểm và binh lính địch, chi viện cho xung kích phát triển thuận lợi. Lúc gần diệt xong đồn, đồng chí đang chuẩn bị ngắm bắn một hoả điểm thì bị thương vào đầu và cánh tay, nhưng Trần Đình Hùng vẫn cố gắng chịu dựng, bắn diệt được hỏa điểm địch rồi mới chịu băng bó, hành động dũng cảm của đồng chí đã được đơn vị phát động học tập.

   Ngoài tinh thần anh dũng chiến đấu, Trần Đình Hùng còn là một cán bộ gương mẫu về mọi mặt, có tác phong sâu sát, hết lòng thương yêu dìu dắt anh em đồng đội. Trong công tác cũng như trong chiến đấu, đồng chí luôn luôn giúp đỡ, tạo điều kiện cho đồng đội lập công.

   Trần Đình Hùng đã được tặng thưởng 2 Huân chương Chiến công hạng nhì, 1 Huân chương Chiến công hạng ba, 4 lần được trung đoàn, đại đoàn khen và là Chiến sĩ thi đua cua đại đoàn.

   Ngày 7 tháng 5 năm 1956, Trần Đình Hùng được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


ANH HÙNG NGUYỄN XUÂN LỰC

(http://img267.imageshack.us/img267/6043/scan0810140049.jpg)

   Nguyễn Xuân Lực sinh năm 1926, dân tộc Kinh, quê ở xã Song Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh, nhập ngũ tháng 1 năm 1948. Khi được tuyên dương Anh hùng, đồng chí là tiểu đoàn phó bộ binh thuộc đại đoàn 325, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

   Từ ngày nhập ngũ đến 1954, đồng chí Nguyễn Xuân Lực tham gia chiến đấu ở Bình - Trị - Thiên và chiến trường miền Tây. Đồng chí đã trải qua nhiều thử thách được rèn luyện và trưởng thành từ chiến sĩ lên cán bộ tiểu đoàn. Đồng chí liên tục chiến đấu 36 trận, chỉ huy bình tĩnh, gan dạ, xử trí linh hoạt, lúc nào cũng nêu cao quyết tâm tiêu diệt địch, bảo vệ dân. Trong trận chống càn ở Thanh Hương đầu năm 1951, với cương vị chiến sĩ, đồng chí bị 2 viên đạn xuyên qua mông nhưng vẫn dũng cảm xông lên bắt sống một tên địch.

   Trận chống càn ở chiến khu Dương Hòa (Thừa Thiên), đơn vị đồng chí chặn đánh 2 tiểu đoàn Âu Phi đi càn. Được lệnh xung phong, Nguyễn Xuân Lực dẫn đầu tiểu đội từ ngang sườn đánh thẳng vào giữa đội hình địch, tạo điều kiện cho toàn đơn vị, đánh bật chúng xuống bờ sông, tiêu diệt nhiều địch, phá vỡ cuộc càn.

   Trận Thanh Hương, Thừa Thiên (tháng 9 năm 1952) Nguyễn Xuân Lực chỉ huy trung đội suốt một ngày một đêm đánh lui 6 đợt phản kích của địch, diệt 1 xe và 50 tên. Ngoài ra đồng chí còn chủ động phối hợp với đơn vị bạn chiến đấu quyết liệt, bẻ gãy một cánh quân khác cua địch, diệt nhiều tên, bảo vệ được cơ quan, giải thoát cho 500 đồng bào bị địch bắt tập trung.

   Trận Sơn Tùng (tháng 3 năm 1953), lần đầu tiên trung đoàn dùng bộc phá đánh vào một vị trí kiên cố của địch với nhiều hàng rào dây thép gai các kiểu, nhiều công sự, hầm ngầm. Đồng chí tự tay đánh liên tiếp 7 quả bộc phá, phá bung ba hàng rào phức tạp nhất rồi hướng dẫn anh em phá nốt hàng rào cuối cùng. Cửa mở thông, đồng chí đứng lên quan sát, địch ném lựu đạn bị thương nhưng vẫn dũng cảm dẫn xung kích lên đánh chiếm lô cốt đầu cầu.

   Trận đánh giao thông trên đường 13 đầu năm 1954, đơn vị Nguyễn Xuân Lực làm nhiệm vụ khóa đuôi quân địch, đồng chí chỉ huy trung đội khóa chặt và xung phong lên diệt hết bọn địch trên 2 xe, chiếm 1 khẩu pháo 37 mi-li-mét, thu nhiều súng, bắt sống 3 tên.

   Trong trận chống càn ngày 29 tháng 5 năm 1954, Nguyễn Xuân Lực bình tĩnh, dũng cảm chỉ huy 1 tiểu  đội (chỉ có 7 người) chống lại 1 tiểu đoàn địch có máy bay, pháo binh yểm trợ. Đồng chí đã chỉ huy linh hoạt, lúc tập trung đánh chính diện, lúc phân tán đánh cả hai mặt: lúc khôn khéo luồn ra sau lưng hoặc đánh ngang sườn. Cuộc chiến đấu giằng co từ 9 giờ sáng đến 3 giờ chiều, tiểu đội đồng chí đã diệt 20 tên địch, phá vỡ cuộc càn của chúng.

   Nguyễn Xuân Lực đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công hạng nhất, 1 Huân chương Chiến công hạng nhì, 1 Huân chương Chiến công hạng 3, 31 lần được trung đoàn, đại đoàn khen và là Chiến sĩ thi đua của đại đoàn.

   Ngày 7 tháng 5 năm 1956, Nguyễn Xuân Lực được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


Tiêu đề: Re: Anh hùng LLVTND trong kháng chiến chống Pháp
Gửi bởi: hoi_ls trong 18 Tháng Giêng, 2011, 03:56:32 pm
ANH HÙNG BÙI QUANG MẠI

(http://img228.imageshack.us/img228/6962/scan0810140050.jpg)

   Bùi Quang Mại sinh năm 1924, dân tộc Kinh, quê ở xã Dân Chủ, huyện Đông Anh, ngoại thành Hà Nội, nhập ngũ tháng 2 năm 1946. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là đại đội trưởng bộ binh, tiểu đoàn 79, trung đoàn 102, đại đoàn 308, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

   Gia đình đồng chí Bùi Quang Mại rất nghèo, quanh năm phải đi làm mướn, bản thân đồng chí phải đi ở cho địa chủ ngay từ nhỏ.

   Từ ngày nhập ngũ đến năm 1954, Bùi Quang Mại đã tham gia chiến đấu trong tất cả các chiến dịch lớn ở Bắc Bộ, đánh 60 trận, chỉ huy đơn vị diệt hàng trăm địch, thu nhiều vũ khí, phá huy chiều phương tiện chiến tranh. Riêng đồng chí đã diệt 41 tên, phá hủy 4 xe quân sự, 2 khẩu đại liên, bắn rơi 1 máy bay khu trục.

   Tháng 8 năm 1946, Bùi Quang Mại làm nhiệm vụ trinh sát đồn Bảo Sơn, Vĩnh Yên (cũ), đồng chí đã kiên trì táo bạo nằm trong hàng rào địch nhiều đêm để theo dõi quy luật hoạt động của chúng. Khi đơn vị đánh, đồng chí chỉ huy tiểu đội giả làm lính ngụy đi thẳng vào đồn, đánh từ trong đánh ra, kết hợp với ngoài đánh vào, diệt gọn 1 đại đội địch đóng ở đây.

   Đầu tháng 1 năm 1947, đơn vị làm nhiệm vụ phòng ngự trên đê sông Đuống. Bùi Quang Mại đã dùng trọng liên bắn rơi 1 máy bay khu trục, được tuyên dương thành tích là một trong những người đầu tiên bắn rơi máy bay giặc Pháp chiến trường Bắc Bộ.

   Tháng 1 năm 1947, đơn vị phục kích đoàn xe địch trên đường Phủ Thông - Bắc Cạn, Bùi Quang Mại đã dùng súng ba-dô-ca bắn cháy 4 xe, góp phần cùng đại đội diệt gọn đoàn xe 10 chiếc chở đầy hàng quân sự.

   Trong trận Lũng Phầy (đường số 4), 2 đơn vị đang xung phong bất ngờ bị vướng 3 lớp rào (địch mới tăng thêm, ta không nắm được), đồng chí xông lên dùng mã tấu chặt đứt cả ba lớp rào, tạo điều kiện thuận lợi cho đơn vị nhanh chóng xung phong diệt gọn vị trí địch.

   Tháng 11 năm 1949, Bùi Quang Mại tham gia tiến công địch ở Phố Lu, Lào Cai, ngay phút đầu, đồng chí đã dẫn đầu đơn vị xung phong, dùng tiểu liên kiềm chế hỏa lực địch trong lô cốt cho toàn đơn vị tiến vào. Lúc đang dẫn đầu tiểu đội phát triển vào bên trong thì 1 quả pháo nổ gần làm đồng chí ngất đi. Khi tỉnh dậy đồng chí lại tiếp tục dẫn tiểu đội xông lên đánh chiếm dãy nhà lính, góp phần cùng đơn vị làm chủ hoàn toàn trận địa.

   Trong trận đánh vị trí Non Nước tháng 5 năm 1951, đồng chí Bùi Quang Mại được giao nhiệm vụ sử dụng trung liên bản kiềm chế hỏa lực địch, bảo vệ cho đơn vị pháo binh và yểm hộ cho xung kích. Ngay những phút đầu, đồng chí đã nổ súng kiềm chế hỏa lực địch và diệt 15 tên địch, sau đó đã cùng tổ trung liên chiến đấu quyết liệt đánh lui ba đợt phản kích cua chúng. Giữa lúc trận đánh đang gay go, Bùi Quang Mại được điều lên Non Nước bảo vệ thương binh. Lực lượng địch đông hơn gấp bội, chúng dùng pháo binh bắn dữ dội vào trận địa, rồi liên tiếp xông lên. Đồng chí tuy bị thương nhưng đã kiên cường động viên đồng đội chiến đấu diệt 20 tên, đánh lui hai đợt phản kích của chúng, đưa thương binh thoát ra ngoài an toàn. Về đến Gối Hạc, bộ phận đồng chí lại bị địch phục kích bất ngờ, Bùi Quang Mại đã cùng anh em thương binh trụ lại trong một hang đá, ngoan cường chiến đấu từ trưa đến tối, đánh lui 9 đợt phản kích của địch, diệt 17 tên, bảo vệ và đưa được thương binh về căn cứ an toàn.

   Bùi Quang Mại đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công hạng nhất, 2 Huân chương Chiến công hạng nhì, 6 lần được trung đoàn, đại đoàn khen và là Chiến sĩ thi đua toàn quốc năm 1952.

   Ngày 7 tháng 5 năm 1956, Bùi Quang Mại được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.



ANH HÙNG VŨ MẠNH

(http://img163.imageshack.us/img163/16/scan0810140051.jpg)

   Vũ Mạnh (tức Đỗ Văn Đoàn), sinh năm 1923, dân tộc Kinh, quê ở xã Hữu Bằng, huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng, nhập ngũ tháng 8 năm 1945. Khi được tuyên dương Anh hùng là đại đội trưởng bộ binh, đại dội 2, tiểu đoàn 9, trung đoàn 675. Quân khu Tả Ngạn, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

   Từ đời ông, cha, gia đình đồng chí Vũ Mạnh rất cực khổ, quanh năm đi làm thuê làm mướn. Bản thân đồng chí cũng phải đi ở từ năm lên 7 đến năm 20 tuổi. Tháng Tám năm 1945, đồng chí tham gia Tổng khởi nghĩa cướp chính quyền và đi bộ đội luôn từ đó. Địa bàn hoạt động và chiến đấu cua đồng chí là đồng bằng Bắc Bộ. Là một cán bộ trưởng thành từ cơ sở, Vũ Mạnh đã trực tiếp chiến đấu 65 trận, luôn luôn nêu cao tinh thần hăng say giết giặc, tác phong chiến đấu dũng cảm táo bạo, chi huy linh hoạt, mưu trí, bị thương vẫn tiếp tục chiến đấu, nêu gương sáng cho toàn đơn vị. Từ ngày nhập ngũ tới năm 1954, đồng chí đã chỉ huy đơn vị diệt được hơn 500 tên địch, bắt hàng chục tên, phá huy hơn 400 xe, 20 khẩu pháo, thu nhiều súng và nhiều phương tiện chiến tranh khác; riêng Vũ Mạnh đã diệt 71 tên địch, bắt 3 tên, gọi hàng 22 tên, thu 9 súng các loại.

   Trận Lão Phụ, An Lão (ngày 1 tháng 5 năm 1949), trước khi đánh, Vũ Mạnh đã nằm hầm bí mật trong thôn, kiên trì bám sát, nắm chắc tình hình địch và tổ chức công tác vận động binh lính địch. Khi đánh, Vũ Mạnh chỉ huy tiểu đội giả làm lính ngụy đi thẳng vào đồn phối hợp với số anh em ngụy binh đã được giác ngộ tiến công địch giữa ban ngày, diệt gọn trung đội địch, thu 19 súng, đơn vị an toàn.

   Trận Hòn Dấu (Đồ Sơn) là một trận tổ chức công phu. Đây là một hòn đảo chơ vơ, bốn bề là biển, địch canh phòng rất cẩn mật. Ta rất khó tiến quân và cũng khó đường rút vì rất dễ gặp địch. Đã ba lần đơn vị tập kích không được. Lần thứ tư, Vũ Mạnh chỉ huy anh em giả làm người đánh cá bơi ra Hòn Dấu và bí mật đột nhập sở chỉ huy, dùng dao găm diệt địch. Ngay phút đầu đồng chí xông vào phòng tên quan tư Pháp, vật lộn với tên này rồi dùng dao đâm chết. Sau đó, Vũ Mạnh cùng một tổ sang phòng bên cạnh diệt được 1 tên quan ba và 2 tên sĩ quan khác, thu toàn bộ máy vô tuyến điện, giải thoát được 200 công nhân và đồng bào bị địch giam giữ. Trước khi rút, đồng chí còn chỉ huy anh em lấy được 3 chiếc ca nô và tự mình ở lại phá huy chiếc đèn biển rồi về cuối cùng.

   Trận phục kích địch ở Quán Cháy trên đường 10 (ngày 25 tháng 3 năm 1953) Vũ Mạnh chỉ huy 2 tiểu đội đào hầm giấu mình ngay cạnh đường, khi địch đến đồng chí nhanh chóng xông lên diệt 18 tên, thu 6 súng tiểu liên, 1 trung liên.

   Trận tập kích thị xã Kiến An (đêm 20 tháng 4 năm 1953) là một trận nổi tiếng. Trước khi đánh, Vũ Mạnh đã táo bạo giả làm sĩ quan ngụy vào điều tra tình hình. Khi đánh, đồng chí chỉ huy 15 chiến sĩ chuyên đánh bộc phá, có lúc bị sức ép ngất đi, tỉnh dậy đồng chí lại chỉ hướng cho trưng liên bắn kiềm chế, và tự mình tiếp tục cùng anh em đánh bộc phá, vừa đánh vừa gọi hàng. Kết quả: bộ phận đồng chí diệt 175 tên, thu 62 súng, gọi hàng 23 tên (có 20 tên Pháp). Toàn tiểu đoàn diệt 325 tên (đa số là sĩ quan), bắt tên tỉnh trưởng và tỉnh phó, phá hủy 403 xe quân sự, 20 khẩu pháo 105 mi-li-mét. Ngày hôm sau, địch phản kích; Vũ Mạnh bình tĩnh chỉ huy trung đội đánh lui 7 đợt phản kích của chúng, diệt 120 tên, thu nhiều vũ khí.

   Trận tập kích địch ở Cao Bạt, Thái Bình (đêm 1 tháng 5 năm 1954), vừa bước vào trận đánh đã gặp trở ngại; trung đội Vũ Mạnh đứt liên lạc với đại đội, xung kích bị lạc chưa lên, trung liên bị tắc, địch tập trung bắn mạnh vào đơn vị; giữa lúc khó khăn đó, Vũ Mạnh chủ động xông lên liên tiếp ném 8 quả lựu đạn diệt ba hoả điểm trung liên của địch rồi nhanh chóng nhảy lên chiếm lô cốt đầu cầu, cướp 1 khẩu trung liên địch và bắn mãnh liệt vào trong căn cứ, tạo điều kiện cho đơn vị xông lên diệt địch và làm chủ trận địa. Kết quả trận này trung đội đồng chí diệt 157 tên địch, thu 22 súng, góp phần tích cực cùng tiểu đoàn diệt một tiểu đoàn địch, gồm 2 đại đội quân Pháp và 1 đại đội ngụy.

   Vũ Mạnh đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công hạng nhất, 4 lần được trung đoàn và tỉnh đội khen thưởng và là Chiến sĩ thi đua Quân khu Tả Ngạn.

   Ngày 7 tháng 5 năm 1956, Vũ Mạnh được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


ANH HÙNG VÕ VĂN MỪNG

(http://img51.imageshack.us/img51/920/scan0810140052.jpg)

   Võ Văn Mừng (tức Võ Văn Hoá) sinh năm 1928, dân tộc Kinh, quê ở xã Tân Thuận Tây, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp, nhập ngũ tháng 6 năm 1951. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là tiểu đội trưởng đặc công, phân liên khu Tây Nam Bộ, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

   Trong thời gian là du kích cũng như khi vào bộ đội, đồng chí Võ Văn Mừng luôn luôn nêu cao tinh thần khắc phục khó khăn hăng say giết giặc, đã đánh 107 trận, trận nào cũng dũng cảm, mưu trí, táo bạo, phát huy nhiều sáng kiến tiêu diệt địch, bảo vệ nhân dân, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

   Năm 1947 - 1948, địch đóng nhiều đồn bốt trong xã chúng thường lùng sục vào các xóm bắt bớ, cướp bóc của nhân dân. Đồng chí Võ Văn Mừng đã có sáng kiến dùng lựu đạn gài (*) để ném bằng cách lấy cỏ khô cuộn xung quanh chốt càng của lựa đạn, khi ném cuộn co dãn dần ra, quả đạn vừa tới đích thì nổ. Đồng chí còn nghĩ cách giăng dây, đào hầm gài lựu đạn chùm, những kinh nghiệm đó được phổ biến cho toàn xã áp dụng, có kết quả diệt địch rất tốt.

   Đồn Cái Bẫy là một đồn xung yếu, địch xây dựng ở giữa lòng sông rộng, nước chảy xiết, xung quanh là một thôn có nhiều bọn phản động, chúng bố trí ở đây 2 khẩu pháo. Đồng chí đã kiên trì điều tra và cùng anh em tập dượt cách đánh. Tháng 10 năm 1952, được cấp trên chuẩn y kế hoạch tiêu diệt đồn này. Võ  Văn Mừng đã phải hò vào, bò ra đến 6 lần để cùng anh em chuyển bộc phá. Đặt xong các khối bộc phá anh em ra ngoài chập điện, làm nổ tung 500 viên đạn pháo, phá hủy 2 khẩu pháo, đánh sập đồn, tiêu diệt hoàn toàn một trung đội địch.

   Tháng 11 năm 1952, đơn vị Võ Văn Mừng nhận lệnh đánh tàu trên kênh xã Phong Mỹ. Địch cho một tiểu đoàn bộ binh và ba chiếc tàu càn vào xã. Đồng chí được giao khẩu ba-dô-ca có nhiệm vụ đánh chiếc tàu chỉ huy nhưng khẩu súng chỉ có một viên đạn. Để bảo đảm đã bắn là phải chắc trúng cần phải bố trí rất gần nhưng địa hình lại rất khó khăn, kẻ địch canh phòng rất nghiêm ngặt. Qua nghiên cứu điều  tra, Võ Văn Mừng đã nắm được quy luật tuần phòng của chúng, liền dùng bè chuối đưa súng luồn vào gần và đã nổ súng bắn trúng đầu máy chiếc tàu chỉ huy này, diệt 2 tiểu đội và cơ quan đầu não địch. Đồng chí bị thương ở tay, tuy rất nhức buốt nhưng vẫn cố phá chiếc bè chuối để giữ bí mật cách đánh và đưa súng về an toàn.

   Tháng 6 năm 1953, trên đường tiến quân gặp 1 tiểu đội địch đóng giữ bốt Tân Thuận Đông, Võ Văn Mừng cùng 5 du kích giả làm lính đi vào đồn giữa ban ngày, nhanh chóng diệt tên lính gác, rồi xông vào chặn kho súng, bắn chết 1 tên gọi hàng toàn bộ, thu 9 súng và một số lựu đạn.

   Trận đánh bốt Xẻo Quýt, Cao Lãnh (tháng 2 năm 1953), nhân lúc tên gác sơ hở đồng chí đã táo bạo đưa bộc phá vào đặt tận nhà ngủ, vừa đặt xong thì bị lộ. Một tên địch trông thấy đồng chí. Võ Văn Mừng liền xông đến quật ngã, rồi rút súng ngắn bắn chết tên này. Một tên khác đuổi theo, đồng chí quay lại bắn chính xác kết liễu đời nó. Ra ngoài Võ Văn Mừng gặp 2 tên gác, đồng chí bắn chết 1 tên còn 1 tên sợ quá bỏ chạy. Đồng chí hô anh em chập điện, bộc phá nổ, bốt sập, diệt gọn 1 trung đội địch.

   Trận đánh bốt Ông Kho (tháng 8 năm 1953), Võ Văn Mừng tiến vào đánh bộc phá thì dẫm phải chông, nhưng đồng chí vẫn quyết tâm tiến lên làm nhiệm vụ. Không may, bộc phá lại không nổ. Không do dự, Võ Văn Mừng vòng ra sau, leo lên nóc nhà dỡ mái, ném thủ pháo vào diệt một số, tạo điều kiện cho đơn vị tiến vào truy kích diệt nốt bọn còn lại và tiêu diệt hoàn toàn bốt này.

   Trận đánh bốt Phong Mỹ (tháng 9 năm 1953), sau khi bí mật vượt qua 3 lớp rào, Võ Văn Mừng chạy thẳng vào trong bốt, gặp tên đốc gác, đồng chí đánh gục hắn, rồi xông vào đặt bộc phá giữa cửa giật nổ. Bị thương nhiều chỗ ngất đi, tỉnh lại đồng chí vẫn dùng đèn bấm chỉ mục tiêu cho đồng đội và hướng dẫn xung kích xông vào.

   Võ Văn Mừng đã nhiều lần được huyện, tỉnh khen và 3 lần được bầu là Chiến sĩ thi đua của huyện, tỉnh, khu.

   Ngày 7 tháng 5 năm 1956, Võ Văn Mừng được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.



------------------------------------------------------
(*) Lựu đạn gài là loại lựu đạn tự động nổ của địch gài vào hàng rào dây thép gai, hễ vướng vào là nổ. Hồi đầu kháng chiến đánh Pháp ta rất thiếu vũ khí, phải lấy vũ khí giặc giết giặc. Đồng chí Võ Văn Mừng đã có sáng kiến cải tiến lựu đạn.gài của địch thành lựu đạn ném để tiến công.


Tiêu đề: Re: Anh hùng LLVTND trong kháng chiến chống Pháp
Gửi bởi: hoi_ls trong 18 Tháng Giêng, 2011, 04:01:28 pm
ANH HÙNG ĐINH VĂN MẪU

(http://img813.imageshack.us/img813/5264/scan0810140053.jpg)

   Đinh Văn Mẫu sinh năm 1924, dân tộc Mường, quê ở xã Phúc Khánh, huyện Yên Lập, tỉnh Vĩnh Phú, nhập ngũ tháng 1 năm 1949. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là tiểu đội trưởng nuôi quân thuộc đại đội 9 tiểu đoàn 11, trung đoàn 209, đại đoàn 312, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

   Từ ngày ở bộ đội địa phương huyện, đồng chí Đinh Văn Mẫu đã tỏ ra bền bỉ, tích cực trong mọi công tác. Tuy hoạt động lẻ tẻ, nhưng qua hai trận đồng chí đã diệt 3 tên địch, mang được 7 tử sĩ và 3 thương binh ra ngoài. Bổ sung vào bộ đội chủ lực, Đinh Văn Mẫu được phân công làm cấp dưỡng, 7 năm liên tục ở công tác này, trải qua 8 chiến dịch, đồng chí đã phát huy nhiều sáng kiến, dũng cảm vượt qua mọi khó khăn ác liệt, hết lòng phục vụ, đảm bao đơn vị luôn luôn ăn uống tốt.

   Trong các cuộc hành quân chiến dịch: Biên Giới, Hoàng Hoa Thám, Lý Thường Kiệt, Điện Biên Phủ..., tuy đường xa, phải qua nhiều đèo dốc sông suối. Đinh Văn Mẫu vẫn thường xuyên gánh nặng 50 - 60 ki-lô-gam theo đơn vị, đến nơi lại vui vẻ, nhanh nhẹn thổi cơm nấu nước phục vụ bộ đội ngay. Có những lần giữa đường hành quân có người yếu mệt, đơn vị thiếu người mang vác, đồng chí đã gánh tới 80 ki-lô-gam. Có lần bản thân cũng bị ốm, giữa lúc đơn vị đang truy kích địch, Đinh Văn Mẫu vẫn cố gắng gánh chạy theo kịp đơn vị, bảo đảm có cơm cho anh em ăn đuổi giặc.

   Chiến dịch Lý Thường Kiệt (tháng 8 năm 1951), có lần Đinh Văn Mẫu cùng đồng đội mang cơm ra trận địa nhưng không gặp bộ đội (vì đơn vị đang truy kích địch), đồng chí vẫn bình tĩnh quyết tâm động viên anh em hướng theo tiếng súng tìm cho bằng được đơn vị bảo đảm cho bộ đội ăn no, tiếp tục chiến đấu.

   Một lần trong chiến dịch Tây Bắc (năm 1952), tiểu đội đồng chí đem cơm cho bộ đội phải qua con suối nước lũ chảy xiết. Đinh Văn Mẫu đã dũng cảm vượt qua trước, dùng đây rừng căng qua suối, buộc vào hai gốc cây to hai bên bờ để anh em vịn vào đội cơm qua. Đồng chí còn giúp đỡ đội cả ba gánh của các đồng chí yếu vượt suối lũ an toàn, nên đã bảo đảm cơm cho bộ đội ăn trước giờ nổ súng.

   Chiến dịch Điện Biên Phủ, đơn vị phòng ngự trên đồi C1, D1, D2. Mỗi ngày đồng chí phải đi về 2, 3 chuyến trên chặng đường gần 3 ki-lô-mét, luôn luôn bị máy bay, pháo binh địch oanh tạc. Đồng chí vẫn bảo đảm đủ cơm nước cho đơn vị mình và còn giúp thêm đơn vị bạn. Đường mang cơm từ D1 sang D2 phải vượt một đoạn hào nông giữa ban ngày, máy bay và pháo địch tập trung bắn dữ dội, nhiều anh em nuôi quân rất ngại khi mang cơm ra trận địa qua đoạn đường này. Đồng chí đã đề nghị cán bộ cho bọc cơm vào vải mưa. rồi bọc vải dù ngụy trang ra ngoài, khéo léo bò qua, kéo gói cơm theo. Anh em làm theo đồng chí và đã vượt an toàn qua lửa đạn dày đặc của địch, đưa cơm đến tận tay từng chiến sĩ. Hành động dũng cảm sáng tạo của Đinh Văn Mẫu đã giải quyết dược tư tưởng cho anh em nuôi quân và động viên bộ đội ngoài trận địa, góp phần vào chiến thắng chung của đơn vị.

   Trong các chiến dịch, điều kiện phục vụ chiến đấu gặp nhiều khó khăn, nhưng Đinh Văn Mẫu đã có nhiều cố gắng cải thiện bữa ăn cho đơn vị. Đồng chí đã tích cực đi kiếm măng, đào củ mài, lấy hoa chuối rừng... bảo đảm thường xuyên bữa ăn của đơn vị có canh rau, góp phần bảo đảm tốt sức khoe của bộ đội, thực hiện khẩu hiệu "ăn no đánh thắng".

   Đinh Văn Mẫu luôn luôn gương mẫu về mọi mặt, tích cực giúp đỡ, dìu dắt anh em trong tiểu đội, đồng chí khiêm tốn, giản dị, chân thành, liêm khiết, được đồng đội rất tin yêu.

   Đồng chí đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công hạng nhì, 1 Huân chương Chiến công hạng ba, 9 lần được đại đoàn và trung đoàn khen thưởng và là Chiến sĩ thi đua của đại đoàn.

   Ngày 7 tháng 5 năm 1956, Đinh Văn Mẫu được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


ANH HÙNG LÊ VĂN NỔ

(http://img651.imageshack.us/img651/2220/scan0810140054.jpg)

   Lê Văn Nổ (tức Lê Cường), sinh năm 1928, dân tộc Kinh, quê ở xã Hùng Sơn, huyện Nam Thanh, tỉnh Hải Hưng, nhập ngũ tháng 3 năm 1950. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là chính trị viên phó đại đội 59 bộ binh , tiểu đoàn 664, trung đoàn 42, Quân khu Tả Ngạn, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

   Từ khi nhập ngũ đến tháng 4 năm 1954, Lê Văn Nổ đã đánh 20 trận trên chiến trường đồng bằng Bắc Bộ, với nhiệm vụ chuyên đánh bộc phá. Đồng chí luôn dũng cảm, táo bạo, dù khó khăn, nguy hiểm thế nào cũng kiên quyết vượt qua, thực hiện bằng được yêu cầu của xung kích, phá được nhiều hàng rào lô cốt, hầm ngầm, ụ súng, tạo điều kiện thuận lợi cho đơn vị chiến đấu và chiến thắng.

   Trận Triệu Nội (tháng 5 năm 1952), sau khi dùng bộc phá phá xong mấy lớp rào ngoài, tiểu đội bộc phá tiến vào bên trong thì gặp một chiến hào rộng 8 mét, sâu đến cổ, giữa có hàng rào dây thép gai cản lại. Địa thế rất khó khắc phục để đánh bộc phá, nhưng chùng chình chậm phút nào lại thêm thương vong vì hỏa lực địch tập trung bắn về hướng cửa mở rất mạnh, đồng chí Lê Văn Nổ ôm bộc phá lăn xuống, quyết tâm phá rào mở thông cửa mở. Bộc phá nổ dội vào trong hào, Lê Văn Nổ bị sức ép nặng nhưng khi tỉnh dậy lại ôm bộc phá dũng cảm xông lên đánh sập tiếp một hầm ngầm, diệt được hỏa điểm quan trọng tạo điều kiện thuận lợi cho đơn vị xông vào diệt gọn 2 trung đội địch, thu toàn bộ vũ khí.

   Trận Cầu Tràng (tháng 12 năm 1952), Lê Văn Nổ đã 6 lần lên xuống đánh bộc phá dưới hỏa lực rất mạnh của địch, mở được cửa mở cho đơn vị xông lên diệt gọn 1 đại đội địch, thu toàn bộ vũ khí.

   Trận La Tiến tháng 1 năm 1954, khi mở xong cửa mở, địch ở lô cốt đầu cầu bắn về phía đơn vị rất dữ dội, cả tiểu đội bộc phá lần lượt lên đánh đều bị thương vong. Trước hoàn cảnh vô cùng khó khăn và nguy hiểm đó, đồng chí đã xung phong ôm bộc phá lên đánh. Lê Văn Nổ khéo léo lợi dụng địa hình, vừa bò vừa vần khối bộc phá, chỉ sau ít phút đồng chí đã áp được bộc phá vào lỗ châu mai và đánh sập lô cốt. Hành động dũng cảm của đồng chí đã mở đường kịp thời cho các chiến sĩ xung kích xông vào tiêu diệt gọn đại đội địch.

   Cũng vào đầu năm 1954, đơn vị Lê Văn Nổ đánh trận diệt đồn Nghĩa Lộ (đường số 5). Đây là một tiểu khu quan trọng, địch có 2 đại đội Âu Phi thường xuyên chiếm giữ để kiểm soát tuyến đường sắt Hà Nội - Hải Phòng. Khi đơn vị vừa mở xong cửa mở thì bị địch tập trung hỏa lực bắn ra rất mạnh. Đồng chí dũng cảm ôm quả bộc phá 10 ki-lô-gam lên đánh sập một ngôi nhà, mở thêm đường cho đơn vị xông vào bên trong tiểu khu, diệt gọn 2 đại đội địch gồm hơn 200 tên.

   Lê Văn Nổ là một chiến sĩ bộc phá dũng cảm kiên cường, luôn luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Đồng chí còn hết lòng thương yêu đồng đội, nhiều lần cõng thương binh vượt qua bom đạn địch về phía sau được an toàn. Khi được phân công làm công tác vận động quần chúng, đấu tranh chống âm mưu cưỡng ép di cư cua địch năm 1955, Lê Văn Nổ đã kiên trì, cùng anh em trong tổ công tác vận động được 500 đồng bào công giáo ở lại làm ăn không vào Nam theo địch.

   Lê Văn Nổ đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công hạng nhì, 2 Huân chương Chiến công hạng ba, 4 lần được trung đoàn và Quân khu khen thưởng và là Chiến sĩ thi đua Quân khu Tả Ngạn.

   Ngày 7 tháng 5 năm 1956, Lê Văn Nổ được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


ANH HÙNG ĐÀM VĂN NGỤY

(http://img684.imageshack.us/img684/2127/scan0810140055.jpg)

   Đàm Văn Ngụy, sinh năm 1928, dân tộc Tày, quê ở xã Minh Khai, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng, nhập ngũ tháng 1 năm 1945. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là tiểu đoàn phó phụ trách tiểu đoàn trưởng thuộc tiểu đoàn 11, trung đoàn 196, đại đoàn 316, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

   Sống trong một gia đình Cách mạng, đồng chí được giác ngộ sớm, 16 tuổi đã làm liên lạc dẫn đường, tiếp tế nuôi cán bộ hoạt động bí mật ở địa phương. Nhiều lần đồng chí cùng với anh em du kích chiến đấu bảo vệ cán bộ, cõng những cán bộ đau ốm vào ẩn giấu trong rừng tránh địch càn bắt.

   Từ khi vào bộ đội đến 1954, đồng chí Đàm Văn Ngụy đã tham gia chiến đấu ở nhiều nơi trên chiến trường Bắc Bộ. Đồng chí đã đảm nhiệm các cương vị: chỉ huy tiểu đội, trung đội, đại đội xung kích, trên cương vị nào đồng chí cũng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, chiến đấu dũng cảm, táo bạo, tiến công kiên quyết, phòng ngự ngoan cường, chỉ huy bình tĩnh, mưu trí linh hoạt trong mọi tình huống phức tạp, đã đánh là kiên quyết giành thắng lợi.

   Tháng 5 năm 1945, Quân giải phóng đánh dồn Pò Mã (Thất Khê), khi nổ súng bọn địch co vào lô cốt cầm cự. Đàm Văn Ngụy xung phong cùng hai đồng chí khác tiến lên chọc thủng mái (bằng đất) ném lựu đạn vào, 30 tên địch hốt hoảng mang súng ra hàng.

   Năm 1946, trong trận phòng ngự ở Đồng Đăng, Lạng Sơn, Đàm Văn Nguy nhận nhiệm vụ chỉ huy tiểu đội chiếm một mỏm núi ở đầu phố, chặn giữ địch cho các đơn vị và cơ quan rút ra ngoài. Một đại đội địch dùng hỏa lực mạnh vây xung quanh tiến công vào. Đồng chí đã bình tĩnh chỉ huy tiểu đội đánh lui bốn đợt phản kích của địch, hoàn thành nhiệm vụ cấp trên giao cho.

   Cuối năm 1946, gần 1 tiểu đoàn địch bao vây trung đội đồng chí ở Cơn Pheo (Lạng Sơn) Đàm Văn Ngụy nhận lệnh chỉ huy tiểu đội đánh cản địch và rút sau cùng. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, đồng chí dẫn tiểu đội vượt qua một cánh đồng tới chân núi thì bị hai đại đội địch chặn đường bao vây. Đồng chí đã bình tĩnh chỉ huy tiểu đội bố trí, đánh lui nhiều đợt tiến công của địch, diệt nhiều tên, giữ vững trận địa từ trưa đến tối, sau cùng chúng phải rút.

   Tháng 4 năm 1947, đơn vị Đàm Văn Nguy phục kích đánh đoàn xe địch ở Bó Củng (Lũng Vài). Khi có lệnh, đồng chí dẫn đầu tiểu đội xung phong nhảy lên xe thiết giáp địch, ném lựu đạn vào trong xe, diệt một số. Một tên lính nhảy ra, xông vào ôm chặt lấy đồng chí, ca hai cùng lăn xuống đường vật lộn nhau, vừa lúc đó cả đơn vị đã kịp xông đến, dùng lựu đạn đánh xe, diệt và bắt bọn địch còn sống sót.

   Tháng 8 năm 1949, đơn vị phục kích đoàn xe địch ở Lũng Vài. Khi đoàn xe 70 chiếc lọt vào trận địa, Đàm Văn Ngụy dẫn đầu trung đội xung phong, đánh chia cắt đội hình phía sau quân địch, diệt 20 tên, làm cho chúng rối loạn, tạo điều kiện cho đơn vị tiến công diệt nhiều xe và lính địch.

   Tháng 1 năm 1953, đơn vị đang di chuyển đội hình để bao vây tiến công Nà Sản (Sơn La) thì bị một đại đội biệt kích địch bất ngờ đánh vào bộ phận quân y phía sau, rồi rút. Đàm Văn Ngụy là quản trị trưởng, đã nhanh chóng tập hợp và tổ chức anh em luồn rừng truy kích bọn địch hơn 6 tiếng đồng hồ, diệt 14 tên, bắn bị thương nhiều tên khác.

   Thu Đông 1953-1954, Đàm Văn Ngụy chỉ huy đại đội đánh nhiều trận tiễu phỉ ở biên giới Việt - Lào, diệt được nhiều toán phỉ, bảo đảm an ninh biên giới. Đồng chí còn lãnh đạo đơn vị vận động nhân dân trong 20 bản gọi được 70 con em theo phỉ trở về.

   Đồng chí đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công hạng nhì. 1 Huân chương Chiến công hạng ba. 7 lần được Quân khu và trung đoàn khen thưởng và là Chiến sĩ thi đua của trung đoàn.

   Ngày 7 tháng 5 năm 1956, Đàm Văn Ngụy được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lương vũ trang nhân dân.


Tiêu đề: Re: Anh hùng LLVTND trong kháng chiến chống Pháp
Gửi bởi: hoi_ls trong 18 Tháng Giêng, 2011, 04:07:45 pm
ANH HÙNG NGUYỄN THÁI NHỰ

(http://img534.imageshack.us/img534/883/scan0810140056.jpg)

   Nguyễn Thái Nhự sinh năm 1930, dân tộc Kinh quê ở xã Yên Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An, nhập ngũ năm 1947. Khi được tuyên đương Anh hùng đồng chí là đại đội trưởng bộ binh thuộc tiểu đoàn 80, trung đoàn 812, Liên khu 5, đang viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

   Xuất thân trong một gia đình trung nông nhưng từ nhỏ Nguyễn Thái Nhự đã phải làm lụng vất vả và sớm xa gia đình đi làm thuê ở mướn cho đến ngày vào bộ đội.

   Từ ngày nhập ngũ đến năm 1951, Nguyễn Thái Nhự tham gia chiến đấu hơn 60 trận ở chiến trường Cực Nam Trung Bộ, trận nào cũng dũng cảm, mưu trí, linh hoạt. Đồng chí đã 7 lần xung phong vào đội quyết tử, tiêu diệt các cứ điểm, lần nào cũng đều hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Hành động quả cảm của đồng chí trong nhiều trận đánh đã tạo thời cơ cho cả đơn vị xông lên diệt địch nêu tấm gương tiêu biểu cho tinh thần sẵn sàng hy sinh quên mình vì thắng lợi chung của cách mạng, có tác dụng thúc đẩy đồng đội noi theo.

   Tháng 4 năm 1947, đơn vị đánh bốt ga Sông Lũy (Bình Thuận). Khi đó chưa có bộc phá, Nguyễn Thái Nhự xung phong vác quả đạn 75 ly bò sát lên đặt vào chân tường rồi đốt nổ, tạo điều kiện cho đơn vị xung phong diệt gọn bốt này.

   Trận đánh xe lửa ở Suối Dầu (Phan Thiết) năm 1948, Nguyễn Thái Nhự đã chỉ huy và dẫn đầu tiểu đội xông lên dùng lựu đạn ném vào toa xe, rồi nhảy lên cướp súng, lấy được 1 trung liên và bắt sống 1 tên địch.

   Tháng 6 năm 1949, Nguyên Thái Nhự tham gia đánh phục kích địch trên đoạn dường Suối Kiệt. Khi có lệnh xung phong, ngay phút đầu đồng chí đã xông ra diệt 3 tên địch, cướp 1 trung liên, rồi dùng ngay khẩu trung liên này bắn quét mãnh liệt vào đội hình quân địch, sau đó nhảy lên xe thu thêm 10 súng trường và dẫn đầu tiểu đội truy kích diệt hết bọn địch còn lại. Trận này ta diệt 2 trung đội địch, thu 2 xe, riêng tiểu đội Nguyễn Thái Nhự diệt 9 tên, bắt 8 tên, thu 2 trung liên và 20 khẩu súng trường.

   Trận đánh đồn D. tháng 2 năm 1950, Nguyễn Thái Nhự chỉ huy tiểu đội quyết tử, hóa trang giả làm phụ nữ vào cổng đồn bán hàng. Khi bọn lính ra mua, đồng chí nhanh nhẹn nổ súng bắn chết ngay bọn này, rồi dẫn đầu tiểu đội đánh thẳng vào giữa vị trí địch. Địch chống cự quyết liệt, đồng chí bị thương vào ngực, đang tự băng bó thì phát hiện thấy 2 tên đang vật nhau với một chiến sĩ ta, Nguyễn Thái Nhự cố lê đến gần dùng súng bắn chết 1 tên, còn tên kia bỏ chạy. Cùng lúc đó, cả đơn vị đã kịp thời xông vào tiêu diệt gọn vị trí này.

   Tháng 12 năm 1951, ta đánh trường sĩ quan Phan Thiết, một vị trí quan trọng nằm sâu trong lòng địch, địa hình rất. hiểm trở. Nguyễn Thái Nhự đang dẫn đầu tiểu đội quyết tử vượt qua một hồ rộng 200 mét thì bộ phận bên ngoài bị lộ, địch báo động và bắn ra dữ dội. Đồng chí bình tĩnh động viên tiểu đội tiếp tục bí mật vượt hồ rồi trườn qua một dốc cao, bất ngờ xông lên chiếm lô cốt đầu cầu trên đỉnh dốc, phát triển vào bên trong. Địch bị bất ngờ, lúng túng đối phó, đội hình rối loạn. Đơn vị nhân thời cơ đánh thốc vào, chỉ sau ít phút đã san phẳng vị trí quan trọng này, giết gần 100 tên phần lớn là sĩ quan, phá huy nhiều vũ khí. Riêng Nguyễn Thái Nhự đã diệt 15 tên địch.

   Tháng 1 năm 1953, 1 tiểu đoàn địch càn vào vùng Hàm Thuận. Nguyễn Thái Nhự chỉ huy tiểu đội ngoan cường đánh lui 5 đợt tiến công của địch, giải thoát 300 đồng bào bị địch bắt. Địch tập trung lực lượng quyết tâm càn lớn. Đồng chí được lệnh chỉ huy một tổ chặn địch cho đơn vị, cơ quan và nhân dân rút sang vùng khác. Giữa lúc đang chiến đấu căng thẳng thì đồng chí bị thương nặng. Một viên đạn xuyên từ nách ra lưng, Nguyễn Thái Nhự lấy khăn bịt lại, trao súng cho đồng đội, tiếp tục quan sát địch, hướng dẫn và động viên anh em kiên quyết chặn địch, bảo đảm cho đơn vị và nhân dân rút lui an toàn.

   Nguyễn Thái Nhự ngoài tinh thần anh dũng chiến đấu còn bền bỉ chịu đựng gian khổ, bám sát nhân dân, góp phần cùng địa phương gây dựng cơ sở, phát triển phong trào chiến tranh du kích.

   Đồng chí đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công hạng nhất, 1 Huân chương chiến công hạng ba, 1 lần được tuyên dương công trạng trong toàn quân, 5 lần được Liên khu và trung đoàn khen thưởng và được bầu là Chiến sĩ thi đua của toàn Liên khu.

   Ngày 7 tháng 5 năm 1956, Nguyễn Thái Như được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


ANH HÙNG HOÀNG VĂN PHÁC

(http://img89.imageshack.us/img89/7521/scan0810140057.jpg)

   Hoàng Văn Phác sinh năm 1924, dân tộc Kinh, quê ở xã Tân Thành, huyện Lạng Giang, tỉnh Hà Bắc, nhập ngũ tháng 1 năm 1950. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là đại đội phó công binh thuộc trung đoàn 333, Cục Công binh, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

   Hoàng Văn Phác xuất thân từ một gia đình nông dân nghèo, bố bị giặc Pháp giết, cuộc đời khổ cực đồng chí phải đi cày thuê cuốc mướn để kiếm sống. Đồng chí đã sớm nung nấu chí căm thù, nhiều lần xin tòng quân giết giặc.

   Trưởng thành từ một chiến sĩ công binh lên cán bộ đại đội, Hoàng Văn Phác luôn luôn nêu cao tinh thần tận tụy hy sinh, tích cực phát huy sáng kiến, dũng cảm khắc phục mọi khó khăn, xung phong nhận việc khó về mình, tạo điều kiện thuận lợi cho bạn.

   Trong chiến dịch Trần Hưng Đạo, công binh có nhiệm vụ bắc cầu cho bộ đội hành quân. Nửa đêm, cầu bắc chưa xong thì có đơn vị bộ binh hành quân đến. Không thể để bộ đội bị ùn, lỡ kế hoạch chiến dịch, Hoàng Văn Phác và một đồng chí nữa đã xung phong lội xuống nước lấy vai đỡ cầu để bộ đội đi qua. Hơn một giờ ngâm mình dưới nước, chịu sức nặng cua cả đoàn người đi trên, đồng chí đã góp phần tích cực cùng đơn vị đảm bảo tốt cho bộ đội cơ động chiến đấu.

   Trong chiến dịch Hòa Bình, đơn vị cơ động hành quân di chuyển mỗi đêm trên chặng đường 40 km, Hoàng Văn Phác được cử đi tiền trạm, tới nơi nhận địa điểm xong, quay về đón đơn vị, trung bình phải đi 80 km, gấp đôi anh em khác. Đồng chí rất mệt nhưng vẫn vui vẻ, đến chỗ trú quân lại tích cực đào hầm làm lán và giúp đỡ các tổ khác hoàn thành nhiệm vụ.

   Trong chiến dịch Tây Bắc, một lần đơn vị Hoàng Văn Phác làm nhiệm vụ bắc cầu. Cầu bắc chưa xong thì bộ đội đã có lệnh sang gấp để diệt đồn Ba Lay. Nước sông chảy xiết, anh em chưa biết xử trí thế nào, đồng chí xung phong đóng bè chở mảng đưa một bộ phận vượt sông, rồi kịp thời rút kinh nghiệm phổ biến cho anh em, đưa toàn bộ bộ đội qua sông an toàn, kịp thời gian vây đồn, diệt địch.

   Trong một chiến dịch khác, đơn vị làm nhiệm vụ bắc cầu bảo đảm giao thông trên con đường lớn cho bộ đội truy kích địch. Đoàn xe đang vượt qua thì một chiếc rấm cầu bị gãy, xe ùn lại. Đồng chí đề nghị cán bộ vận động anh em đi lấy gỗ làm lại rầm cho chắc chắn. Trong khi chờ đợi, để bảo đảm thông xe, đồng chí đã xung phong ngâm mình dưới nước ghì cây chống và ghé vai đỡ rầm cầu cho 21 xe vượt qua an toàn.

   Dù được giao nhiệm vụ gì: chặt gỗ, nứa, làm lán, làm cầu, đập đá, làm đường... đồng chí đều tích cực làm việc có kế hoạch nên công việc nào cũng luôn đạt năng suất gấp hai, ba lần so với các đồng chí khác. Hoàng Văn Phác còn luôn luôn rút kinh nghiệm phổ biến cho anh em và giúp đỡ các đơn vị bạn cùng hoàn thành nhiệm vụ.

   Đồng chí đã được tặng thưởng 2 Huân chương Chiến công hạng nhì và 1 Huân chương Chiến công hạng ba, được Bác Hồ tặng danh hiệu "Cán bộ gương mẫu”, được bầu là Chiến sĩ thi đua của đại đoàn, 17 lần được tiểu đoàn, trung đoàn và Bộ tư lệnh Công binh khen thưởng.

   Ngày 7 tháng 5 năm 1956, Hoàng Văn Phác được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.



ANH HÙNG TRẦN HIỀN QUANG

(http://img607.imageshack.us/img607/5172/scan0810140058.jpg)

   Trần Hiền Quang sinh năm 1928, dân tộc Kinh, quê ở xã Ninh Qưới, huyện Hồng Dân, tỉnh Minh Hải, nhập ngũ tháng 1 năm 1947. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là đại đội trưởng công binh thuộc đại đoàn 330, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

   Từ năm 1947 đến năm 1954, Trần Hiền Quang hoạt động ở chiến trường miền Tây Nam Bộ. Dù là chiến sĩ bộ binh (1947-1949) hay chiến sĩ công binh đánh tàu trên sông (1950-1954), lúc nào đồng chí cũng nêu cao quyết tâm tiêu diệt địch, bảo vệ dân, nghiêm túc chấp hành mệnh lệnh. Đặc biệt từ khi làm nhiệm vụ chiến sĩ công binh đánh tàu, Trần Hiền Quang đã nêu cao tinh thần dũng cảm, mưu trí, đã đánh là kiên quyết tiêu diệt địch, lập công xuất sắc, gây cho địch nhiều tổn thất nặng nề.

   Tháng 1 năm 1950, đồng chí tham gia trận đánh tàu trên sông Phong Điền (Ô Môn, Cần Thơ). Khúc sông này nằm sâu trong khu vực địch kiểm soát chúng đóng bốt xung quanh và bố phòng chặt chẽ. Trần Hiền Quang chỉ huy đơn vị len lỏi suốt đêm, tới nơi vừa bố trí xong thì trời rạng sáng. Đồng chí trực tiếp phụ trách hai tổ ở lại, còn cho anh em rút về trước. Sáng hôm sau, tàu địch đến; chờ cho chúng tới gần, Trần Hiền Quang mới chập điện; thuỷ lôi nổ, tàu địch chìm. Đồng chí chỉ huy anh em nổ súng diệt nốt những tên còn sóng sót rồi nhanh chóng rút ra an toàn.

   Tháng 2 năm 1954, Trần Hiền Quang được lệnh đánh đoàn tàu của bộ tham mưu địch ở vùng Cần Thơ, Rạch Giá đi kiểm tra cảng Bến Nhức (Châu Thành, Cần Thơ). Đồng chí trực tiếp đi nghiên cứu địa hình và đưa anh em đi đánh. Đến nơi, Trần Hiền Quang chỉ huy tiểu đội dùng xuồng để thủy lôi ở dưới, chất bao đựng rơm ở trên, giả làm dân chở lúa, đưa xuống tới chỗ định đánh. Bố trí xong, đồng chí cho anh em rút trước, chỉ để hai người ở lại cùng với mình. 6 giờ 30 sáng hôm sau, đoàn tàu địch lọt vào trận địa. Chiếc tàu nhỏ bảo vệ đã đến gần sát nơi đồng chí đang nấp, nhưng Trần Hiền Quang vẫn bình tĩnh để nó đi qua, chờ cho chiếc tàu chỉ huy tới gần mới chập điện. Thủy lôi nổ, chiếc tàu địch chìm tại chỗ. Toàn bộ tàu bị phá hủy, bọn sĩ quan và binh lính đi trên tàu đều bị diệt. Đồng chí bị sức ép (do thủy lôi nổ gần) nhưng vân cố gắng dìu một đồng chí thương binh trở về căn cứ an toàn.

   Trong trận đánh tàu trên sông Sa Nô (Ô Môn, Cần Thơ) tháng 3 năm 1952, Trần Hiền Quang chỉ huy một tổ, bơi thuyền hơn 50 ki-lô-mét đến nơi bố trí. Sông sâu, nước chảy xiết, gió rét, đồng chí đã gương mẫu và động viên anh em trong tổ kiên trì suốt 24 giờ, bố trí bằng được thuỷ lôi. Chờ đến sáng ngày thứ ba, tàu địch mới đến. Rút kinh nghiệm những lần trước, dọc theo bờ chúng cho bộ binh đi yểm hộ tàu. Bọn địch sục tới gần nhưng đồng chí vẫn bình tĩnh, bí mật, chờ đúng thời cơ tàu đến, mới chập điện cho thủy lôi nổ. Tàu vỡ tung chìm ngay tại chỗ. Đồng chí hướng dẫn anh em luồn ra sau địch, rút về căn cứ an toàn.

   Tháng 12 năm 1952, địch mở cuộc càn lớn, chúng cho 25 chiếc tàu và 4 tiểu đoàn bộ binh từ Cần Thơ đánh vào vùng mới giải phóng của ta. Được lệnh đánh, Trần Hiền Quang đã cùng anh em nghiên cứu chỗ đặt thuỷ lôi trên sông Cái Xình (Long Mỹ, Cần Thơ), và đưa bộ đội vào chiếm lĩnh trận địa. Chiếc tàu lớn của địch đậu đúng gần quả thủy lôi, quay mũi vào bờ đón quân đổ bộ. Đợi bọn địch lên gọn hết trên tàu, đồng chí mới cho lệnh nổ thủy lôi, chiếc tàu nổ tung, nhiều sĩ quan và 100 binh lính địch bị tiêu diệt, trận đánh sấm sét này làm chúng hoang mang phải bỏ dở cuộc càn.

   Tháng 12 năm 1953, trong trận đánh tàu trên sông Thi Đội (Ô Môn, Cần Thơ), đồng chí đã cùng một chiến sĩ kiên trì chờ đợi 3 ngày đêm liền trong điều kiện trời mưa rét, muỗi đốt, để đón thời cơ đánh thủy lôi. Kết qua đã đánh chìm một tàu, diệt gọn một trung đội địch.

   Qua 4 năm hoạt động, Trần Hiền Quang đã dẫn đầu đơn vị tích cực tham gia xây dựng phong trào du kích địa phương, đánh chìm 5 tàu chiến địch, 1 xe lội nước, đánh hỏng nặng 2 chiếc tàu khác, diệt 12 tên sĩ quan và 46 lính Âu Phi, 491 lính ngụy, phá hủy nhiều vũ khí. Chiến thắng đó đã có tác dụng lớn đối với chiến trường Khu 9 lúc bấy giờ.

   Trần Hiền Quang đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công hạng ba, 6 lần được tiểu đoàn và Quân khu khen thưởng, 4 lấn được bầu là Chiến sĩ thi đua của tiểu đoàn và của Quân khu Tây Nam Bộ.

   Ngày 7 tháng 5 năm 1956, Trần Hiền Quang được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


Tiêu đề: Re: Anh hùng LLVTND trong kháng chiến chống Pháp
Gửi bởi: hoi_ls trong 18 Tháng Giêng, 2011, 04:12:40 pm
ANH HÙNG NGUYỄN RIỀNG

(http://img263.imageshack.us/img263/4198/scan0810140059.jpg)

   Nguyễn Riềng, sinh năm 1927, dân tộc Kinh, quê ở xã Duyên Nô, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế, nhập ngũ tháng 11 năm 1945. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là tiểu đoàn phó bộ binh, bộ đội tình nguyện, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

   Cha mẹ Nguyễn Riềng làm phu đập đá, quanh năm vất vả vẫn chẳng đủ ăn, đồng chí phải đi làm mướn từ nhỏ.

   Cách mạng tháng Tám thành công, đồng chí xung phong đi bộ đội. Từ cuối năm 1945 đến 1954, Nguyễn Riềng nhận nhiệm vụ chiến đấu ở cực Nam Trung Bộ và chiến trường miền Tây. Đồng chí đã luôn nêu cao tinh thần tích cực cách mạng, tinh thần quốc tế vô sản, chiến đấu rất dũng cảm, chỉ huy mưu trí, linh hoạt, qua hơn 50 trận chiến đấu đã lập nhiều chiến công xuất sắc, nhiều lần bị thương vẫn tiếp tục chiến đấu và đã có nhiều hành động sáng tạo, quả cảm trong những lúc khó khăn, nêu tấm gương tiêu biểu cho bộ đội ta và bạn cùng học tập.

   Trận Hà Thành tháng 10 năm 1948, tiểu đội Nguyễn Riềng đi đầu đội hình đại đội, đang hành quân thì gặp 1 trung đội lính lê dương đi càn. Bọn này những ngày đầu kháng chiến rất hung hăng kiêu ngạo, được mệnh danh là con cưng của lực lượng viễn chinh Pháp. Chúng ào ạt xông lên và nổ súng trước áp đảo. Đồng chí chủ động dẫn tiểu đội bí mật vòng ra sau, bất ngờ dùng lựu đạn, lưỡi lê đánh giáp lá cà tiêu diệt địch. Cùng lúc đó đơn vị đã tiếp cận nổ súng. Bị đòn choáng váng đánh vào hai phía, địch hoang mang bỏ chạy. Trán này ta diệt 9 tên, bắt sống 4 tên, thu 14 súng các loại; đây là trận đầu tiên ta bắt sống được tù binh lê dương Âu Phi ở chiến trường này. Bộ đội và nhân dân vô cùng phấn khởi.

   Trận Thuận Phước (tháng 11 năm 1948) lần đầu đánh công sự vững chắc, đơn vị chưa có kinh nghiệm, trang bị chưa đầy đủ, tổ chức chưa hợp lý, cách đánh chưa thành thạo, bị hỏa lực mạnh của địch khống chế, xung kích đã thương vong nhiều vẫn chưa dứt điểm. Đồng chí dẫn một tổ dũng cảm vượt qua tầm hỏa lực, luồn vào bám sát một ụ súng đang bắn ra mãnh liệt. Chờ lúc địch ngừng bắn thay băng đạn, đồng chí kề tiếu liên bắn quét vào giữa lỗ châu mai, dập tắt một hỏa điểm quan trọng đang ngăn cản bước tiến của quân ta. Bọn địch còn sống sót hoảng hốt bỏ chạy. Đơn vị thừa thắng phát triển vào bên trong. Đang chiến đấu thì Nguyễn Riềng bị thương vào cả hai chân. Nhưng đồng chí vân cố gắng nén chịu tiếp tục chiến đấu cho đến khi trận đánh kết thúc.

   Trận Quang Thiện tháng 12 năm 1948, đơn vị Nguyễn Riềng lại chạm trán 1 trung đội lê dương. Sau khi dẫn đầu tiểu đội đánh vào phía sau đội hình, diệt gọn 1 tiểu đội địch. đồng chí phát hiện 1 tên lính Pháp đang bắn đại liên ngăn cản đội hình xung phong của bộ đội ta phía trước. Nguyễn Riềng liền bò tới sau một ụ đất bất ngờ diệt tên này rồi cướp khẩu đại liên, bắn xối xả vào quân địch, tạo thời cơ cho đơn vị xông lên diệt gọn trung đội lính lê dương.

   Trận Ninh Mã tháng 12 năm 1948, khi đoàn xe thiết giáp lọt vào trận địa phục kích của ta trên đường số 1, đơn vị vừa nổ súng, chuẩn bị xung phong thì bị 2 chiếc xe thiết giáp đi sau bắn vào đội hình, trung đội trưởng bị hy sinh. Đơn vị mất chỉ huy, đang gặp khó khăn lúng túng, một số đồng chí đã ngần ngại do dự, Nguyễn Riềng chủ động nêu khẩu hiệu động viên anh em quyết tâm trả thù cho trung đội trưởng, rồi tự động dẫn đầu tiểu đội xung phong ra mặt đường đánh xe thiết giáp. Cả đơn vị ào ạt lao theo, chiến đấu quyết liệt và chỉ sau ít phút kết thúc trận đánh.

   Trận Kiệt Ngôn tháng 5 năm 1950, chiến đấu trên đất bạn, Nguyễn Riềng cùng tổ súng máy chiếm giữ được điểm cao, đánh lui 2 đợt tiến công của địch. Các đồng chí có nhiệm vụ chặn giữ ở đây để đơn vị lớn bí mật di chuyển, vòng phía sau bất ngờ đánh thọc ngang sườn, tiêu diệt quân địch. Súng máy hết đạn, đơn vị lớn vẫn chưa thấy. Địch lại tiến công lên. Nguyễn Riềng bảo đồng đội ghìm súng máy tại chỗ nghi binh, còn đồng chí dùng tiểu liên kê lên thùng đạn bắn điểm xạ ngắn, diệt từng toán địch. Lúc thấy đấu hiệu phía sau địch rối loạn biết đơn vị lớn đã bắt đầu tiến công, đồng chí liền tập trung tiểu liên bắn mãnh liệt uy hiếp dồn địch trở lại, tạo điều kiện cho đơn vị xung phong diệt gọn 2 trung đội địch (1 trung đội lính Âu Phi, 1 trung đội lính ngụy). Đây là trận thắng lớn đầu tiên ở vùng này. Nhân dân bạn rất phấn khởi và tin tưởng ở bộ đội tình nguyện Việt Nam. Trận đánh thắng đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc củng cố và phát triển cơ sở mở rộng vùng giải phóng trên đất bạn.

   Ngoài nhiệm vụ chiến đấu, Nguyễn Riềng còn làm tốt công tác vận động quần chúng xây dựng cơ sở chính quyền cách mạng. Từ cuối năm 1950 đến 1954, đồng chí đã gương mẫu vượt qua mọi khó khăn thiếu thốn, luôn luôn đi sát lãnh đạo đơn vị và vận động nhân dân cùng tích cực tăng gia, sản xuất, từ đó xây đựng và dìu dắt các đơn vị dân quân du kích ở các làng bản, củng cố chính quyền cách mạng, góp phần xây dựng vùng căn cứ của bạn thêm vững chắc.

   Nguyễn Riềng đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công hạng nhất, 5 lần được trung đoàn và Liên khu khen thưởng, là Chiến sĩ thi đua Liên khu 5.

   Ngày 7 tháng 5 năm 1956, Nguyễn Riềng được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


ANH HÙNG PHẠM VĂN RY

(http://img96.imageshack.us/img96/3334/scan0810140060.jpg)

   Phạm Văn Ry, sinh năm 1933, dân tộc Kinh, quê ở xã Đông Thành, huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh, nhập ngũ tháng 10 năm 1945. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là tiểu đội trưởng đặc công, Phân khu miền Tây Nam Bộ, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

   Phạm Văn Ry xuất thân từ dân nghèo thành thị, cuộc sống lam lũ, vất vả để kiếm ăn đã sớm tạo cho đồng chí sự khôn ngoan, nhanh nhẹn, tháo vát để đối phó trong xã hội cũ. Cách mạng tháng Tám thành công giữa lúc đồng chí mới 13 tuổi. Tuổi nhỏ nhưng chí lớn; đồng chí quyết tâm tìm mọi cách để được vào bộ đội.

   Tháng 9 năm 1945, Phạm Văn Ry đang đi bán kẹo như thường lệ, nhận thấy địch sơ hở, đồng chí đã mưu trí lấy được một khẩu súng trường đem nộp cho bộ đội. Được nhận vào bộ đội, Phạm Văn Ry rất phấn khởi. Hai năm đầu làm liên lạc, đồng chí đã khôn khéo, bí mật vào đồn giặc lấy được 18 súng và 9 lựu đạn về trang bị cho đơn vị.

   Năm 1947, được trên phân công, Phạm Vãn Ry đã vận động được người chú họ là trung úy ngụy lấy được của địch 12 súng ngắn, 1 trung liên, 4 tiểu liên và 10.000 viên đạn ra hàng.

   Tháng 2 năm 1948, Phạm Văn Ry bị địch bắt: chúng tra tấn dã man, đổ nước vào mũi, quay điện, nhiều lần chết đi sống lại, đồng chí vẫn một mực không khai. Không khai thác được gì chúng đưa đồng chí qua đồn Hà Chiểu. Nhân một hôm đi làm, tên lính gác sơ hở, đồng chí đã giật được khẩu súng, chạy thoát về đơn vị tiếp tục chiến đấu.

   Trong 2 năm 1948-1949, Phạm Văn Ry đã chỉ huy một tổ đánh mìn phá hủy 7 đầu máy xe lửa, tự tay đồng chí đã phá được 5 đầu máy trên đường số 9. Có lần đồng chí giấu búa đinh trong người, giả vờ đi nhặt chim thuê cho tên quan một Pháp đi bắn chim trong 3 ngày liền. Đến ngày thứ ba đồng chí đã được  tên Pháp tin cậy, nó dựng súng một bên ngồi nghỉ mát. Đồng chí nhảy tới dùng búa đập vỡ đầu tên Pháp, thu được một khẩu súng các-bin về đơn vị.

   Tháng 4 năm 1949, đồng chí đã mưu trí và táo bạo lừa giết được tên đồn trưởng Nhị Bình - một tên phòng nhì lợi hại, thu được súng và cặp tài liệu quan trọng. Tài liệu này đã giúp trên nghiên cứu bắt được 40 tên phản động chui vào hàng ngũ ta.

   Từ tháng 2 năm 1950 đến tháng 6 năm 1951, Phạm Văn Ry làm nhiệm vụ giao liên dẫn đường. Đoạn đường đồng chí phụ trách thường bị địch phục kích bắt, giết cán bộ, miền Đông gọi đây là đoạn "đường máu”. Nhiều lần giữa đường gặp địch, Phạm Văn Ry đã bình tĩnh xử trí, tìm mọi cách đưa cán bộ vượt qua an toàn. Có lần bị địch bao vây, đồng chí đã bình tĩnh cất giấu tài liệu, rồi dũng cảm chiến đấu thu hút sự chú ý cua địch về mình để cán bộ vượt qua an toàn. Suốt trong thời gian này, Phạm Văn Ry đã bảo đảm an toàn cho cán bộ và không để mất mát tài liệu, giữ vững đường dây liên lạc.

   Cuối năm 1953 đầu năm 1954, Phạm Văn Ry được giao nhiệm vụ xây dựng cơ sở trong lòng địch và làm công tác địch, ngụy vận. Đồng chí đã kiên trì vận động nhân dân mạnh dạn gặp các gia đình và cả binh lính ngụy để giác ngộ họ. Nhờ đó qua 6 tháng, Phạm Văn Ry đã củng cố tốt lại cơ sở ở 2 xã đã bị địch phá rã và qua gần một năm công tác, đồng chí đã làm tan rã 3 đại đội ngụy binh.

   Tổng cộng trong 10 năm chiến đấu Phạm Văn Ry đã tự tay phá được 5 đầu máy xe lửa, một xe bọc thép, diệt 41 tên địch, thu 20 súng, vận động 3 đại đội ngụy ra hàng và 166 tên khác đấu tranh trở về nhà làm ăn. Hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ trên giao. Đồng chí được khu và huyện khen 6 lần, 2 lần được thưởng 2 khẩu súng ngắn.

   Ngày 7 tháng 5 năm 1956, Phạm Văn Ry được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


ANH HÙNG SÙNG PHÁI SINH

(http://img200.imageshack.us/img200/9108/scan0810140061.jpg)

   Sùng Phái Sinh sinh năm 1915, dân tộc H’mông, quê ở xã Pú Nhung, huyện Tuần Giáo, tỉnh Lai Châu. Tham gia cách mạng năm 1949. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là xã đội trưởng xã Pú Nhung.

   Từ năm 1949 đến 1954, Sùng Phái Sinh tham gia chiến đấu bảo vệ làng bản. Đồng chí luôn luôn nêu cao tinh thần hăng say đánh giặc, kiên trì vận động tổ chức nhân dân, chiến đấu dũng cảm, mưu trí một mình cũng kiên quyết đánh địch, bảo vệ tính mạng và tài sản cua đồng bào, chỉ huy linh hoạt, táo bạo, biết phát huy truyền thống lấy ít đánh nhiều, lợi dụng địa hình rừng núi để diệt.địch. Đồng chí còn tích cực tuyên truyền giác ngộ đồng bào, vạch rõ âm mưu giặc chia rẽ giữa các dân tộc, xây dựng khối đoàn kết giữa các bản làng ngày một tốt hơn.

   Tháng 9 năm 1951, bốn lần địch càn vào xã cướp thóc, ngô và thuốc phiện của dân, ba lần chúng tới tuy chỉ có một mình nhưng Sùng Phái Sinh đã chủ động đánh địch ngay từ khi chúng chưa vào tới bản, bắn chết 10 tên, buộc chúng phải rút chạy. Lần thứ tư, chúng huy động 300 quân từ ba hướng càn vào xã; Sùng Phái Sinh báo cho cán bộ và nhân dân tạm lánh, còn mình khôn khéo lợi dụng rừng cây, di chuyển cả trên ba hướng, lúc nấp, bắn, toán địch này, lúc bắn toán địch kia, kéo chúng lại gần nhau. Sau khi bắn chết 3 tên, bắn bị thương nhiều tên và quan sát thấy chúng đã bắt đầu bắn lẫn nhau, đồng chí nhanh nhẹn lẩn vào rừng. Chúng bắn nhau loạn xạ một hồi, rồi tưởng lực lượng ta đông nên xô nhau bỏ chạy về đồn. Qua 4 lần tự động đánh địch, đồng chí đã xây dựng được lòng tin cua nhân dân, nhiều thanh niên xung phong vào đội du kích đánh giặc giữ làng.

   Tháng 2 năm 1952, địch lên cướp phá ở Mai Thuận, Sùng Phái Sinh chỉ huy tổ du kích diệt 4 tên tại chỗ, buộc chúng phải rút. Ngày hôm sau chúng lên 150 tên, thấy lực lượng địch đông, đồng chí cho chiến sĩ rút, còn mình ở lại luồn rừng, lợi dụng núi cao, khe đá, ẩn nấp bắn tiêu diệt 7 tên, trong đó có tên quan ba chỉ huy, em trai tên vua Mèo phản động Đèo Văn Long, làm địch rất hoang mang, tháo chạy.

   Cuối năm 1952, Sùng Phái Sinh dẫn bộ đội đến bao vây đồn Tuần Giáo. Đồng chí gọi hàng được 25 tên, tạo điều kiện cho bộ đội chiếm đồn không tốn một viên đạn. Sau đó Sùng Phái Sinh còn chỉ huy du kích về bản Phênh Pi và Tênh La truy quét bọn tàn binh, bắt sống 1 tên Pháp, buộc nó khai nơi cất giấu súng đạn, lấy được 60 khẩu súng và nhiều đạn.

   Năm 1953, địch rút chạy khỏi Nà Sản, Sùng Phái Sinh chỉ huy du kích xuyên rừng, đón đường, vây bắt được 20 tên giặc.

   Suốt 5 năm hoạt động, Sùng Phái Sinh đã làm tốt công tác xây dựng cơ sở cách mạng trên rẻo cao miền Tây Bắc, nêu tấm gương về chịu đựng gian khổ, tích cực công tác, hết lòng bảo vệ cán bộ, kiên quyết phá tan âm mưu chia rẽ dân tộc của địch. Khi mất liên lạc với cán bộ, đồng chí ăn rau, củ rừng thay cơm, xuyên rừng đi tìm cho kỳ được để tiếp tục hoạt động. Đồng chí đã vận động, xây dựng được cơ sở cách mạng ở 16 bản, giáo dục tinh thần tương trợ lẫn nhau và lập được 50 tổ sản xuất, xây dựng quan hệ tốt đẹp giữa dân tộc Mèo và dân tộc Thái, được nhân dân tin yêu.

   Sùng Phái Sinh đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công hạng nhất, 2 lần là Chiến sĩ thi đua của Quân khu Tây Bắc.

   Ngày 7 tháng 5 năm 1956, Sùng Phái Sinh được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


Tiêu đề: Re: Anh hùng LLVTND trong kháng chiến chống Pháp
Gửi bởi: hoi_ls trong 18 Tháng Giêng, 2011, 04:17:01 pm
ANH HÙNG ĐẶNG ĐỨC SONG

(http://img214.imageshack.us/img214/33/scan0810140062.jpg)

   Đặng Đức Song sinh năm 1934, dân tộc Kinh, quê ở xã Cộng Hòa, huyện Nam Thanh, tỉnh Hải Hưng, nhập ngũ tháng 4 năm 1952. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là trung đội trưởng bộ binh đại đội 5, tiểu đoàn 2, trung đoàn 98, đại đoàn 316, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

   Đặng Đức Song tham gia chiến đấu từ năm 1952, đến năm 1954. Đồng chí là chiến sĩ liên lạc và chiến sĩ xưng kích, đã có nhiều hành động dung cảm trong chiến đấu, tạo điều kiện thuận lợi cho đơn vị kết thúc các trận đánh thắng lợi.

   Đặc biệt trong chiến dịch Điện Biên Phủ, ở những trận phòng ngự rất ác liệt, địch tiến công mạnh, lực lượng ta ít, Đặng Đức Song dã anh dũng chiến đấu, dìu dắt tổ tân binh lập công xuất sắc, giữ vững trận địa, giải quyết nhiều tình huống khó khăn.

   Trong trận phòng ngự Đồi Xanh chiến dịch Điện Biên Phủ, Đặng Đức Song chỉ huy một tổ tân binh chiến đấu ngoan cường, đánh lui hai đợt tiến công của địch. Sau đó pháo binh địch bắn rất ác liệt vào trận địa, đồng đội bị thương vong rút hết xuống hầm, chỉ còn đồng chí Đặng Đức Song và một tân binh, Đặng Đức Song bình tĩnh động viên đồng chí tân binh quyết tâm chiến đấu và đã cùng nhau đánh lui đợt tiến công thứ ba của địch, giữ vững trận địa.

   Cũng trong chiến dịch này, trận chiến đấu trên đồi C1 là một trận chiến đấu rất ác liệt, giành đi giật lại  từng thước đất giữa ta và địch. Lần thứ nhất Đặng Đức Song dẫn ba tân binh vượt qua đạn pháo địch để nghiên cứu tình hình địch rồi về đưa đơn vị lên. Khi đạn pháo làm sập hầm, đồng chí bị đất lấp nửa người ngất đi, tỉnh dậy lại tiếp tục cùng đơn vị tham gia chiến đấu. Lần thứ hai, Đặng Đức Song lại được lệnh vượt qua tầm hoả lực ác liệt của địch, đưa một đơn vị nữa vào chiến đấu. Khi phát hiện hỏa lực trung liên địch bắn ngăn chặn đường tiến của ta, đồng chí dũng cảm bò đến gần ném lựu đạn diệt ổ trung liên này, mở đường cho đơn vị xung phong, rồi lại đưa 6 thương binh vượt ra khỏi khu vực nguy hiểm. Lần thứ ba, mặc cho hỏa lực địch bắn dày đặc, đồng chí lợi đụng pháo sáng dũng cảm lên xuống 6 lần tìm đường dẫn một đơn vị vào bổ sung chiến đấu. Quá trình lên xuống, bản thân đồng chí đã dùng lựu đạn diệt 5 tên địch để mở đường.

   Trận đồi Mâm Xôi ngày 3 tháng 5 năm 1954, trên đoạn đường hào gần 2 ki-lô-mét, hỏa lực địch tập trung bắn rất ác liệt, Đặng Đức Song đã 3 ngày lội dưới đường hào bùn nước ngập đến bụng, đưa đại đội trưởng qua lại đoạn đường nguy hiểm này để nghiên cứu mở cửa đột phá. Khi chiến đấu, đại đội trưởng hy sinh, đồng chí cùng một chiến sĩ nữa đã dũng cảm đưa bằng được đại đội trưởng về phía sau. Tinh thần thương yêu đồng đội của đồng chí đã cổ vũ toàn đơn vị hăng hái xung phong diệt địch.

   Đặng Đức Song đã được tặng thưởng 2 Huân chương Chiến công hạng ba, 14 lần được trung đoàn, đại đoàn khen thưởng, và được bầu là Chiến sĩ thi đua của đại đoàn.

   Ngày 7 tháng 5 năm 1956, Đặng Đức Song được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


ANH HÙNG NGUYỄN VĂN THÀNH

(http://img24.imageshack.us/img24/6015/scan0810140063.jpg)

   Nguyễn Văn Thành, sinh năm 1928, dân tộc Kinh, quê ở xóm Hào Nam, xã Thịnh Hào, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội, nhập ngũ tháng 10 năm 1950. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là đại đội trưởng bộ binh thuộc trung đoàn 48, đại đoàn 320, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

   Từ ngày nhập ngũ, Nguyễn Văn Thành đã đánh 17 trận trên chiến trường đồng bằng Bắc Bộ. Đồng chí luôn luôn thể hiện rõ tinh thần dũng cảm, mưu trí, chỉ huy linh hoạt, lập nhiều chiến công xuất sắc, nhất là đánh địch trong công sự vững chắc, hai lần bị thương vẫn quyết tâm chỉ huy đơn vị chiến đấu cho đến khi trận đánh kết thúc thắng lợi.

   Trận Cầu Vật (đường số 10 - Thái Bình) năm 1952, khi mở xong cửa mở, địch bắn rất mạnh vào đội hình đơn vị, một số bị thương vong, Nguyễn Văn Thành cũng bị thương gãy ba cái răng, giữa lúc đang dẫn đầu tiểu đội xung phong. Nhưng đồng chí nén đau dẫn đầu đơn vị vượt qua lưới lửa của địch, đánh chiếm một căn nhà và dãy tường hộp làm chỗ đứng chân, rồi phát triển vào bên trong chia cắt địch, tạo điều kiện thuận lợi cho hướng chính xung phong áp đảo, diệt và bắt toàn bộ quân địch (40 tên), thu toàn bộ vũ khí và quân dụng trong đồn.

   Trận Vô Tình, Nam Định, tháng 11 năm 1952, sau mấy phút nổ súng đồng chí đã chỉ huy trung đội đánh chiếm dược lô cốt chính rồi nhanh chóng phát triển vào bên trong. Các hướng tiến công khác đơn vị bạn chưa vào được, Nguyễn Văn Thành đã linh hoạt tổ chức trung đội hình thành ba mũi tiến công, đánh chia cắt địch, liên tiếp chiếm được 5 lô cốt, tạo điều kiện cho các hướng khác tiến vào diệt toàn bộ quân địch (60 tên).

   Trận Quỳnh Côi (Thái Bình), tháng 1 năm 1953, sau khi phá xong hai lớp rào, Nguyễn Văn Thành dẫn đầu tiểu đội xung phong, diệt lô cốt đầu cầu rồi nhanh chóng vừa phát triển vừa gọi hàng (diệt thêm 4 tên, gọi hàng 18 tên). Nhờ đó đã củng cố và mở rộng được bàn đạp cho toàn đơn vị xung phong diệt gọn vị trí địch (hơn 70 tên).

   Trận Yến Vĩ, Mỹ Đức - Hà Tây, tháng 5 năm 1953, địch đóng trong công sự kiên cố, rất khó đánh, Nguyễn Văn Thành có sáng kiến tự mình dẫn đầu một tổ, bí mật vào sát lô cốt, trèo lên nóc thả lựu đạn qua lỗ thông hơi diệt ụ trọng liên 12,7 mi-li-mét tạo điều kiện cho đơn vị xung phong diệt địch.

   Trận Kim Thanh, Hà Nam, tháng 2 năm 1951, ta chiếm lĩnh trận địa vào đêm sáng trăng, địch phát hiện được chúng gọi pháo và các ụ súng trong đồn bắn ra ác liệt Đồng chí vẫn bình tĩnh động viên đơn vị quyết tâm đánh. Ngay phút đầu, đơn vị Nguyễn Văn Thành đã phá được 20 mét rào thép gai và đồng chí dẫn đầu đơn vị xông lên đánh chiếm ngay lô cốt đầu cầu. Đồng chí bị thương nặng vào đùi, nhưng vẫn giấu đồng đội. Nằm trên nóc lô cốt, đồng chí bình tĩnh quan sát và chỉ huy đơn vị chiến đấu, góp phần chủ yếu cùng đơn vị bạn diệt và bắt toàn bộ quân địch trong vị trí (80 tên).

   Nguyễn Văn Thành không những chỉ huy đơn vị chiến đấu giỏi, mà còn thường xuyên chủ động xây dựng đơn vị tiến bộ về mọi mặt, hết lòng thương yêu chiến sĩ, dìu dắt anh em nhanh chóng trưởng thành. Đối với đơn vị bạn, đồng chí luôn luôn nhận phần khó về mình, nhường thuận lợi cho bạn, tích cực học tập, rút kinh nghiệm, không ngừng nâng cao trình độ chỉ huy. Đồng chí sống khiêm tốn, giản dị, được mọi người mến phục tin yêu.

   Nguyễn Văn Thành đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công hạng nhì, 1 Huân chương Chiến công hạng ba, 2 lần được tiểu đoàn và đại đoàn khen thưởng, 4 lần là Chiến sĩ thi đua đại đội và đại đoàn.

   Ngày 7 thắng 5 năm 1956, Nguyễn Văn Thành được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


ANH HÙNG NGUYỄN VĂN THẬM

(http://img227.imageshack.us/img227/986/scan0810140064.jpg)

   Nguyễn Văn Thậm sinh năm 1931, dân tộc Kinh, quê ở xã An Tây, huyện Bến Cát, tỉnh Sông Bé, nhập ngũ tháng 2 năm 1948. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là tiểu đội trưởng công binh thuộc trung đoàn 1, phân liên khu miền Tây Nam Bộ, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

   Sáu năm hoạt động ở chiến trường Nam Bộ, Nguyễn Văn Thậm đã tham gia chiến đấu 17 trận, đồng chí luôn luôn nêu cao tinh thần hăng say chiến đấu dũng cảm vượt qua mọi thử thách ác liệt, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Đặc biệt trong đánh phá gian thông địch, đồng chí đã có nhiều hành động quả cảm, nêu tấm gương tiêu biểu cho toàn đơn vị học tập. Đồng chí đã đặt mìn đánh sập 10 chiếc cầu quan trọng, phá hủy 4 xe quân sự, diệt 178 tên địch, gây cho chúng nhiều khó khăn và thiệt hại.

   Trận đánh cầu An Nhơn (Sài Gòn - Thủ Dầu Một) năm 1949, lần đầu tham gia chiến đấu, Nguyễn Văn Thậm đã bình tĩnh, bám sát đồng đội vượt qua nhiều tuyến canh gác của địch, vào đặt bộc phá đánh sập chiếc cầu dài 80 mét, làm ngừng trệ giao thông đường sắt của địch trên tuyến đường này hàng tháng trời liên tiếp.

   Cầu Lái Thiêu nằm trên tuyến đường chiến lược Sài Gòn - Thủ Dầu Một. Địch tổ chức canh gác tuần phòng nghiêm ngặt. Nguyễn Văn Thậm đã dũng cảm và mưa trí dùng bè chuối đưa bộc phá vào chân cầu, đánh sập hai nhịp cầu dài 120 mét, diệt luôn cả bọn lính canh gác bên trên.

   Năm 1950, sau một tháng rèn luyện kỹ thuật hoạt động dưới nước, Nguyễn Văn Thậm cùng tổ tiến hành nghiên cứu và đánh 2 cầu xi măng Bến Phấn, Bến Cát để phối hợp chiến đấu với chiến dịch Lê Hồng Phong. Trong trận đánh cầu Bến Phấn, đồng chí vừa đặt bộc phá xong, vào chưa tới bờ thì bị địch phát hiện và bắn đuổi theo như trút đạn. Sợ đứt đây điện, vừa uổng công vừa mất không bộc phá, đồng chí liền không quản hiểm nguy, chập điện cho bộc phá nổ sập cầu. Đồng chí bị sức ép ngất đi, may mắn được đồng đội dò theo luồng nước cứu sống dìu về.

   Trận.tập kích cầu Ông Khương bị lộ, địch từ tháp canh ở hai đầu cầu bắn ra mãnh liệt, ngăn cản quân ta tiếp cận. Đồng chí đề nghị một kế hoạch táo bạo đánh nhanh diệt gọn: cho 2 tiểu đội đánh mạnh vào hai tháp canh ở hai đầu cầu, phân tán hỏa lực địch, còn đồng chí dũng cảm bất ngờ ôm bộc phá vượt qua làn đạn địch chạy thẳng vào giữa cầu giật đổ. Kế hoạch được thực hiện trót lọt. Cầu Ông Khương đổ sụp kéo theo xác hai tiểu dội địch ở tháp canh hai đầu cầu xuống lòng sông.

   Trận đánh cầu Lái Thiêu lần thứ hai, năm 1952, địch rút kinh nghiệm lần bị đánh trước, chúng bố trí hàng rào bao bọc, chăng điện sáng và cho quân tuần tra canh gác nghiêm ngặt. Nguyễn Văn Thậm đã kiên trì bám sát, điều tra tỉ mỉ 20 ngày đêm, nắm vững quy luật và tìm ra kẽ hở trong kế hoạch bố phòng của địch, giúp trên hạ quyết tâm chính xác. Khi được lệnh, đồng chí chỉ huy tiểu đội vào đặt mìn theo đúng kế hoạch. Cầu Lái Thiêu bị đánh sập đã gây nên tiếng vang rất lớn. Trận đánh đã làm rung động mạnh mẽ hàng ngũ quân địch, ảnh hưởng trực tiếp và phá vỡ cuộc càn lấn chiếm của địch vào vùng căn cứ của ta.

   Tháng 6 năm 1953, Nguyễn Văn Thậm lại chuẩn bị một trận đánh thứ ba tại cầu Lái Thiêu. Lần này nắm được quy luật đại đội biệt kích địch thường ra tắm ở cầu sau lúc đi sục sạo về, đồng chí cho bộc phá vào thùng gắn kín làm thủy lôi thả chìm ở bến. Khi bọn địch ra tắm, đồng chí chập điện cho bộc phá nổ diệt 75 tên (có 10 tên Pháp). Nhân dân địa phương rất phấn khởi vì bộ đội ta đã tiêu diệt được lũ biệt kích vô cùng tàn ác, có nhiều nợ máu với nhân dân trong vùng.

   Nguyễn Văn Thậm sống gương mẫu về mọi mặt, khi chiến đấu cũng như khi công tác, lúc học tập cũng như sinh hoạt bình thường, hao giờ đồng chí cũng xung phong nhận việc khó về mình, đoàn kết thân ái giúp đỡ đồng đội, khiêm tốn thật thà với đồng bào, đồng chí, được mọi người mến yêu.

   Nguyễn Vãn Thậm đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công hạng nhì và 3 lần được Quân khu khen thưởng.

   Ngày 7 tháng 5 năm 1956, Nguyễn Văn Thậm được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba va danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


Tiêu đề: Re: Anh hùng LLVTND trong kháng chiến chống Pháp
Gửi bởi: hoi_ls trong 18 Tháng Giêng, 2011, 04:21:32 pm
ANH HÙNG HÀ NGUYÊN THỊ

(http://img547.imageshack.us/img547/3226/scan0810140065.jpg)

   Hà Nguyên Thị, sinh năm 1916, dân tộc Kinh, quê ở xã Tích Giang, huyện Tùng Thiện, tỉnh Hà Tây, nhập ngũ tháng 7 năm 1946. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là chiến sĩ quân y, thuộc Cục Quân y, Tổng cục Hậu cần, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

   Suốt 8 năm làm công tác hộ lý, y tá, Hà Nguyên Thị luôn luôn nêu cao tinh thần tích cực, tận tụy trong công tác, hết lòng thương yêu, phục vụ thương bệnh binh vô điều kiện. Mặc dầu chân bị thọt nhưng năng suất làm việc của đồng thí thường không thua kém người khác. Đồng chí còn luôn luôn gương mẫu học tập, rèn luyện, đoàn kết giúp đỡ đồng đội, là tấm gương tiêu biểu, có tác dụng thúc đẩy phong trào thi đua trong toàn ngành quân y.

   Năm 1947, địch càn lên Mỹ Đức, Hà Tây, Hà Nguyên Thị phụ trách một thuyền chở 25 thương binh. Dân công không có, đồng chí xưng phong lội xuống sông cạn đẩy thuyền và vận động được một lái thuyền cùng chở giúp suốt đêm, đưa được số thương binh đó vượt ra khỏi vòng vây của địch an toàn.

   Có lần hai thương binh bị bệnh thần kinh chạy vào rừng, Hà Nguyên Thị đã một mình đi suốt đêm tìm kiếm đưa được hai đồng chí thương binh đó trở về viện quân y.

   Đối với thương binh nặng hoặc bệnh binh mắc các bệnh truyền nhiễm, với tình thương yêu đồng đội sâu sắc, đồng chí đã luôn đi sát chăm sóc, giúp đỡ. Bình thường mỗi hộ lý chỉ phục vụ được 4 đến 5 thương binh nặng, nhưng đồng chí đã phục vụ được 10 đến 15 người mà vẫn chu đáo.

   Những lúc có nhiều thương, bệnh binh về điều trị, thường là đồng chí thức suốt đêm để xoa bóp hoặc ngồi làm chỗ dựa cho thương binh dễ ngủ. Thấy thương, bệnh binh ăn ít, đồng chí đi sát tìm hiểu nguyên nhân, rồi vừa động viên an ủi, vừa tự tay nấu lại các món ăn cho anh em ăn.

   Sau mỗi chiến dịch, thương, bệnh binh đông nên thiếu chỗ ở, Hà Nguyên Thị đi vận động nhân dân giúp đỡ; giường chiếu hỏng, đồng chí tự tay tìm cách sửa _ chữa lại cho thương binh; thiếu người phục vụ đồng chí xung phong làm thêm giờ.

   Ngoài tinh thần trách nhiệm tận tụy phục vụ, Hà Nguyên Thị còn say mê học tập. Vào bộ đội còn chưa biết chữ, đồng chí chịu khó, tranh thủ học, chỉ sau một thời gian đã đọc thông, viết thạo. Về chuyên môn, Hà Nguyên Thị đã phấn đấu từ hộ lý trở thành một y tá giỏi.

   Hà Nguyên Thị luôn luôn điềm đạm, gương mẫu, đoàn kết, khiêm tốn và giản dị. Đồng chí được mọi người tin cậy, mến yêu. Anh em thương, bệnh bính thường nói: "Thật đúng là một lương y kiêm từ mẫu, xứng đáng với lời dạy của Bác Hồ".

   Hà Nguyên Thị đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công hạng nhì, 1 Huân chương Chiến công hạng ba, 28 bằng khen và giấy khen.

   Ngày 7 tháng 5 năm 1956, Hà Nguyên Thị được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


ANH HÙNG VÕ THIẾT

(http://img841.imageshack.us/img841/4863/scan0810140066.jpg)

   Võ Thiết, sinh năm 1920, dân tộc Kinh, quê ở xã Hải Đường, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị, nhập ngũ tháng 12 năm 1945. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là tiểu đoàn phó thuộc đại đoàn 305, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

   Từ năm 1946 đến năm 1954, Võ Thiết đã cùng đơn vị tham gia chiến đấu trên nhiều chiến trường Quảng Trị, miền Tây và Liên khu 5. Bất kỳ ở đâu, đồng chí cũng nêu cao tinh thần hăng say giết giặc, dũng cảm, mưu trí, bình tĩnh khắc phục mọi khó khăn, kiên quyết chỉ huy đơn vị đánh thắng. Chiến đấu đã giỏi, xây dựng cơ sở vũ trang trong vùng địch tạm chiếm cũng giỏi, đồng chí dã chiếm được lòng tin của nhân dân và đồng đội. Đồng chí đã chiến đấu và chỉ huy chiến đấu 44 trận, cùng đơn vị diệt và bắt hơn 1.000 tên địch: xây dựng được 20 tổ dân quân du kích, dìu dắt anh em chiến đấu trưởng thành, góp phần củng cố lực lượng vũ trang ở nhiều địa phương.

   Tháng 1 năm 1946, đơn vị tập kích đồn M, (thuộc miền Tây), đồng chí chỉ huy một tổ giả làm người đi buôn, táo bạo bất ngờ vào diệt bọn lính gác rồi xung phong vào đồn diệt 1 lính Pháp, bọn ngụy hốt hoảng bỏ chạy. Tổ đồng chí thu được 25 súng và nhiều trang bị khác của địch. Khi rút, bị địch phục kích đánh bất ngờ, đồng chí dũng cảm chỉ huy anh em phản công quyết liệt, diệt tại chỗ một số tên, bọn còn lại bỏ chạy, đơn vị rút về an toàn.

   Tháng 3 năm 1948, Võ Thiết chỉ huy tiểu đoàn bám sát, bao vây, liên tục quấy rối đồn Phường Lan (Quảng Trị), buộc bọn lính phải bỏ đồn rút chạy, tạo điều kiện cho đơn vị đón đường diệt gọn 1 trung đội.

   Tháng 3 năm 1953, Võ Thiết chỉ huy một trung đội phân tán hoạt động xây dựng cơ sở du kích và vận động nhân dân đấu tranh chống địch. Qua một thời gian, các đồng chí đã xây dựng được 20 tổ du kích ở vùng Quảng Nam và dìu dắt anh em chiến đấu chống càn, diệt 13 tên địch, bảo vệ được nhân dân, khiến anh em rất phấn khởi và tin tưởng.

   Trận Măng Đen tháng 1 năm 1954, Võ Thiết là đại đội phó phụ trách hỏa lực. Đồng chí dã chỉ huy đơn vị diệt 12 ụ súng, yểm hộ cho đơn vị xung phong, bắt sống 24 tên địch, giải quyết xong đồn phụ, thấy hướng đồn chính đang khó khăn, đồng chí chủ động xin lệnh phối hợp và chỉ huy đơn vị đánh bộc phá mở cửa. Bản thân dùng trung liên khống chế hỏa điểm địch, rồi dẫn đầu xung kích xung phong, tiêu diệt hoàn toàn vị trí địch.

   Trận tập kích thị xã Plây Cu tháng 2 năm 1954, do đồng chí trực tiếp chỉ huy, đơn vị chia thành ba mũi tiến công, tập kích chớp nhoáng vào thị xã đánh tan 2 đại đội địch, đốt 6 kho, 4 nhà lính, phá hủy 1 xe tăng.

   Trong trận tiêu diệt binh đoàn cơ động số 100 của địch trên đường 19 ngày 24 tháng 6 năm 1954, Võ Thiết chỉ huy đại đội tiến công cắt đứt đội hình phía sau đoàn quân địch, diệt gọn 14 xe chở đầy lính. Đoàn quân đi trước quay lại phản kích, đồng chí chỉ huy đơn vị nhanh chóng chiếm điểm cao đánh lui 3 đợt phản kích của 2 tiểu đoàn địch, giữ vững trận địa và giam chân chúng tại chỗ, tạo điều kiện thuận lợi cho toàn trung đoàn triển khai, cơ động lực lượng, kết quả: đã đánh tan binh đoàn cơ động của Pháp gồm 5 tiểu đoàn, bắt sống 800 tên, thu 279 xe quân sự, thu và phá hủy 12 khẩu pháo địch.

   Qua các trận đánh, Võ Thiết luôn luôn chú ý rút kinh nghiệm, không ngừng nâng cao trình độ lãnh đạo và chỉ huy, bản thân hết sức tích cực học tập, gương mẫu về mọi mặt, khiêm tốn, đoàn kết, được đồng đội tin yêu.

   Võ Thiết đã được quân khu, trung đoàn, tiểu đoàn khen thưởng 7 lần.

   Ngày 7 tháng 5 năm 1956, Võ Thiết được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


ANH HÙNG LƯU VIẾT THOẢNG

(http://img42.imageshack.us/img42/1156/scan0810140067.jpg)

   Lưu Viết Thoảng, sinh 1 năm 1926, dân tộc Kinh, quê ở xã Cảnh Thụy, huyện Yên Dũng, tỉnh Hà Bắc, nhập ngũ tháng 11 năm 1949. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là chính trị viên phó đại đội thuộc Đoàn 151, Cục Công binh, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

   Từ khi nhập ngũ đến năm 1954, Lưu Viết Thoảng đã tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu trong nhiều chiến dịch. Đồng chí là một chiến sĩ công binh dũng cảm, có nhiều sáng tạo trong việc phá bom nổ chậm, góp phần bảo đảm tốt tuyến đường vận chuyển ra tiền tuyến.

   Trong thời gian làm đường chuẩn bị chiến dịch, đơn vị cử đi tháo bom lấy thuốc phá đá, Lưu Viết Thoảng mới ở cấp dưỡng chuyển sang làm tổ trưởng, chưa có kinh nghiệm, dụng cụ lại thiếu, nhưng đồng chí đã kiên trì vừa học anh em, vừa mày mò nghiên cứu để hoàn thành nhiệm vụ. Có lần gặp loại bom mới, Lưu Viết Thoảng bố trí anh em ở xa, một mình vào tìm cách tháo gỡ để rút kinh nghiệm cho toàn đội. Trong một thời gian ngắn, đồng chí đã cùng tổ tháo được 18 quả bom, lấy được 3.525 ki-lô-gam thuốc nổ, cung cấp cho đơn vị phá đá mở đường.

   Thời kỳ địch ném bom ác liệt đoạn đường đi Sơn La, hòng ngăn can sự tiếp tế của ta, Lưu Viết Thoảng được giao phụ trách một tổ bám trụ trên đường, quan sát và đánh dấu vị trí bom rơi của địch. Nhiều lần máy bay địch ném bom vừa bay đi, Lưu Viết Thoảng đã ra đánh dấu vị trí bom rơi, thì chúng vòng lại ném tiếp. Một mình đồng chí vẫn bình tĩnh nằm bên đường quan sát. Một lần, địch ném 4 quả bom nổ chậm, không trúng mặt đường nhưng cần tháo gỡ ngay để đảm bảo an toàn cho dân công và xe pháo đi qua. Đồng chí đã dũng cảm dẫn đầu cùng đồng đội đào hố chui xuống, đặt thuốc nổ phá bom, giải quyết được kịp thời yêu cầu cấp bách của tuyến đường vận chuyển.

   Tháng 4 năm 1954, để mở đầu đợt tổng công kích tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, Lưu Viết Thoảng được giao nhiệm vụ phụ trách một tổ đào đường hầm, đưa một khối bộc phá lớn vào đánh sập lô cốt trung tâm trên đồi A1. Trải qua 16 ngày đêm, đồng chí đã cùng anh em dũng cảm, kiên trì đào 43 mét đường hầm, đưa 900 ki-lô-gam bộc phá vào đặt giữa lòng đồi A1. Ngày 6 tháng 5 năm 1954 ta cho nổ khối bộc phá, đánh sập cả hệ thống ụ súng phòng ngự phía ngoài, một lô cốt phụ và nửa lô cốt chính, làm tê liệt sức đề kháng của địch, tạo điều kiện cho bộ binh tiêu diệt vị trí quan trọng này.

   Đồng chí đã được tặng thưởng 2 Huân chương Chiến công hạng ba, 16 lần được trung đoàn, đại đoàn khen thưởng và là Chiến sĩ thi đua của đại đoàn.

   Ngày 7 tháng 5 năm 1956, Lưu Viết Thoảng được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


Tiêu đề: Re: Anh hùng LLVTND trong kháng chiến chống Pháp
Gửi bởi: hoi_ls trong 18 Tháng Giêng, 2011, 04:26:29 pm
ANH HÙNG NGUYỄN VĂN TỊCH

(http://img213.imageshack.us/img213/6721/scan0810140068.jpg)

   Nguyễn Văn Tịch sinh năm 1931, dân tộc Kinh, quê ở xã An Vĩnh Ngải, thị xã Tân An, tỉnh Long An, nhập ngũ tháng 2 năm 1946. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là đại đội trưởng đặc công, tiểu đoàn 303, miền Đông Nam Bộ.

   Nhà nghèo, Nguyễn Văn Tịch phải đi ở cho địa chủ từ khi còn nhỏ. Năm 15 tuổi, đồng chí xin vào làm liên lạc cho bộ đội để được tham gia chiến đấu.

   Chín năm chiến đấu ở chiến trường miền Đông Nam Bộ, Nguyễn Văn Tịch đã tham gia đánh 76 trận. Đồng chí luôn luôn nêu cao tinh thần anh dũng chiến đấu giết giặc lập công, dũng cảm vượt qua mọi nguy hiểm khó khăn, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ. Khi làm chiến sĩ trinh sát, Nguyễn Văn Tịch luôn luôn táo bạo bám sát theo dõi nắm chắc địch, kịp thời phục vụ đơn vị chiến đấu. Khi trực tiếp chiến đấu, dù gặp tình huống khó khăn phức tạp thế nào, đồng chí cũng luôn luôn xung phong dẫn đầu đơn vị vượt qua, kiên quyết tấn công tiêu diệt địch. Đồng chí đã tự tay đặt bộc phá và nổ súng diệt 404 tên địch, chỉ huy đơn vị diệt hàng trăm tên khác, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của chúng.

   Trận Thanh Bình, Mỹ Tho năm 1947, địch huy động 5.000 quân bao vây căn cứ ta. Các đơn vị bị quân địch chia cắt và bị đứt liên lạc với nhau. Suốt một ngày, Nguyễn Văn Tịch dũng cảm vượt qua lửa đạn và vòng vây của địch, mang lệnh của cấp trên tới các đơn vị phản công lại địch, phá được vòng vây.

   Trận đánh địch tiến công vào Đồng Tháp Mười năm 1950, đồng chí chỉ huy tiểu đội trinh sát suốt ngày đêm vào tận vị trí nắm tình hình địch báo cáo lên cấp trên kịp thời. Có lần đồng chí dũng cảm nổ súng để thăm dò lực lượng địch, tạo điều kiện cho cấp trên hạ quyết tâm và chỉ huy tác chiến. Nhờ vậy, đơn vị đã đánh rất trúng, tiêu diệt được nhiều địch.

   Tháng 11 năm 1951, Nguyễn Văn Tịch được lệnh đánh đồn Hòa Khanh. Đồng chí chỉ huy một tổ vượt qua bãi lầy 10 ki-lô-mét tiếp cận địch. Một chiến sĩ bí mật luồn vào đặt bộc phá để phá khẩu pháo, chưa thực hiện được kế hoạch đặt quả thứ hai để diệt đồn thì bộc phá đã nổ. Không để địch kịp phản ứng, Nguyễn Văn Tịch nhanh chóng xông vào đặt quả thứ hai vào đúng vị trí đã định rồi giật nổ, diệt đồn lính Âu Phi và khẩu pháo của chúng.

   Trận đánh thị trấn Cái Bè, Mỹ Tho (tháng 4 năm 1952), Nguyễn Văn Tịch đã kiên trì vượt qua mạng lưới tuần tiễu, bố phòng nghiêm ngặt của địch, điều tra cụ thể, giúp trên lập kế hoạch tác chiến chính xác. Lúc được lệnh tiến công, Nguyễn Văn Tịch dẫn hai đồng chí đi đầu bí mật vượt qua hàng rào và lô cốt phụ bên ngoài, vào sâu bên trong đặt bộc phá, phá tan lô cốt chính. Đó cũng ]à hiệu lệnh nổ súng. Đơn vị đã chiến đấu đúng theo kế hoạch và đã tiêu diệt gọn 4 đại đội địch đóng giữ đồn này. Tháng 3 năm 1953, đánh bót Ông Tồn, Mộc Hóa, đồng chí đã vượt qua bao nguy hiểm, điều tra liên tục 15 đêm giúp trên định xong kế hoạch tác chiến. Được lệnh đánh, đồng chí lại chỉ huy một tổ bí mật cắt hàng rào vào đánh lô cốt chính.

   Khi vượt qua hàng rào, gặp 3 tên lính gác đứng chặn, đồng chí xử trí rất nhanh, ra hiệu cho đồng đội nghi binh lạc hướng đối phó với 3 tên này, cần thì nổ súng tiêu diệt, còn mình xông thẳng tới lô cốt, ấn bộc phá qua lỗ châu mai. Bọn địch ở trong cố đẩy ra, đồng chí quyết đẩy vào và không trù trừ, giật luôn kíp nổ. Lô cốt chính đổ sụp, bọn địch ngoan cố bên trong bị tiêu diệt tạo thuận lợi cho đơn vị tiêu diệt hoàn toàn đồn địch.

   Nguyễn Văn Tịch xứng đáng là một trong những tấm gương tiêu biểu trong phong trào thi đua giết giặc lập công của miền Đông Nam Bộ.

   Nguyễn Văn Tịch đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công hạng nhất, 10 lần được phân khu, trung đoàn, tiểu đoàn khen, được công nhận là Chiến sĩ thi đua toàn quốc năm 1952.

   Ngày 7 tháng 5 năm 1956, đồng chí Nguyễn Văn Tịch được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


ANH HÙNG NGUYỄN THÀNH ÚT

(http://img227.imageshack.us/img227/1646/scan0810140069.jpg)
   
   Nguyễn Thành Út (tức Huỳnh Văn Voi) sinh năm 1931, dân tộc Kinh, quê ở xã Mỹ Thới, thị xã Long Xuyên, tỉnh An Giang, nhập ngũ tháng 11 năm 1945. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là trung đội phó thuộc đại đội 2, tiểu đoàn 9, trung đoàn 570, đại đoàn 330, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

   Mồ côi cha mẹ từ năm 10 tuổi, Nguyễn Thành Út phải đi lang thang làm thuê kiếm sống. Cách mạng tháng Tám thành công, lúc đó Nguyễn Thành Út mới 15 tuổi nhưng đã khai tăng cho đủ tuổi để xung phong vào bộ đội.

   Chín năm chiến đấu ở chiến trường Nam Bộ, Nguyễn Thành Út đã đánh 42 trận lớn nhỏ, trận nào cũng nêu cao tinh thần dũng cảm mưa trí, luôn luôn dẫn đầu đơn vị vượt qua mọi khó khăn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

   Trận Ngà Tu tháng 3 năm 1946, đồng chí đã dũng cảm chỉ huy một tổ chiến đấu, liên tục 2 ngày đêm giữ vững phòng tuyến. Ngày thứ ba, địch dùng đạn lửa bắn vào trận địa, tổ súng máy bị thương vong hết, đồng chí xông vào hầm đang cháy, mang được khẩu trung liên ra tăng cường cho tuyến phòng thủ. Bị bỏng cả vai và tay, Nguyễn Thành Út vẫn kiên quyết chiến đấu bảo vệ phòng tuyến đến cùng.

   Tháng 8 năm 1948, một trung đội địch đi càn lọt vào vòng vây của ta ở Mộc Hóa. Chúng co lại cố thủ và đánh trả quyết liệt mong tìm đường thoát. Giữa lúc tình thế đang giằng co, Nguyễn Thành Út bí mật bò vòng ra sau lưng địch, rồi bất ngờ xông lên ném thủ pháo vào giữa đội hình chúng, miệng hô lớn "xung phong”. Quân địch hoang mang, rối loạn. Bộ đội ta kịp thời xông lên diệt gọn cả trung đội. Ngày hôm sau bọn địch huy động lực lượng phản kích lại. Đồng chí đã cùng đơn vị bố trí chặn đánh, xung phong đuổi chúng trên 2 ki-lô-mét, diệt nhiều tên, làm địch rất khiếp sợ. Những tên sống sót hoảng hốt chạy về đồn cố thủ.

   Trận đánh đồn Bà Lực (tháng 12 năm 1950), địch bắn ra dữ dội. Đơn vị xưng phong hai đợt vẫn chưa vào được Đợt thứ ba Nguyễn Thành Út xách trung liên xông vào sát đồn, đứng hẳn lên kẹp trung liên vào nách bắn chế áp hỏa điểm địch, mở được cửa mở cho đơn vị tiến vào diệt gọn vị trí này.

   Tháng 8 năm 1952, đánh trận Bảy Ngàn, Nguyễn Thành Út và trung đội trưởng đi trước. Hai người đội bèo, ngâm mình dưới nước, bí mật lọt vào đồn, chiếm cầu thang gác chẹn địch. Địch trên gác phản kích quyết liệt. Trung đội trưởng hy sinh, chỉ còn một mình, Nguyễn Thành Út vẫn dung cảm, kiên quyết chiến đấu chặn địch cho đến khi xung kích xông vào tiêu diệt gọn bọn chúng.

   Tháng 3 năm 1954, đơn vị đồng chí đánh trận vận động diệt địch ngoài công sự ở An Biên. Trận chiến đấu diễn biến phức tạp, cả tiểu đội bị thương vong gần hết. Đồng chí cũng bị thương nhưng vẫn bình tĩnh dũng cảm chỉ huy anh em đánh thẳng vào giữa đội hình địch gây cho chúng rối loạn. Tạo thuận lợi cho đơn vị diệt gọn đại đội địch.

   9 năm chiến đấu, 6 lần bị thương, sức khỏe bị giảm sút nhiều, nhưng Nguyễn Thành Út vẫn cố gắng liên tục chiến đấu và công tác, luôn luôn ở vị trí hàng đầu.

   Nguyễn Thành Út đã được tặng thương 1 Huân chương Chiến công hạng nhì, 7 lần được quân khu, đại đoàn và tiểu đoàn khen thưởng.

   Ngày 7 tháng 5 năm 1956, Nguyễn Thành Út được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba va danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


ANH HÙNG NÔNG VĂN VƯƠNG

(http://img375.imageshack.us/img375/7094/scan0810140070.jpg)

   Nông Văn Vương, sinh năm 1930, dân tộc Tày, quê ở  xã Đại Đồng, huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn, nhập ngũ tháng 6 năm 1946, khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là chính trị viên phó đại đội bộ binh thuộc đại đoàn 316, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

   Từ khi nhập ngũ đến tháng 7 năm 1954, Nông Văn Vương đã tham gia chiến đấu trên địa bàn Việt Bắc và Tây Bắc. Đồng chí luôn luôn nêu cao tinh thần hăng say đánh giặc, chiến đấu dũng cảm, mưu trí, dù khó khăn nguy hiểm thế nào cũng kiên quyết vượt qua, tạo điều kiện thuận lợi cho đơn vị kết thúc trận đánh thắng lợi. Đặc biệt trong nhiệm vụ đánh bộc phá, đồng chí luôn luôn thể hiện tinh thần quả cảm, đã đánh là phá bằng được hàng rào, nổ sập lô cốt dù hỏa lực địch ngăn chặn dày đặc vẫn tìm mọi cách áp sát mục tiêu, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, được đơn vị ca ngợi là "chiến sĩ bộc phá anh dũng”. Gần 9 năm tham gia chiến đấu, đồng chí đã tự tay diệt 55 tên địch, bắt 9 tên.

   Trong trận đánh đồn Bình Liêu, Móng Cái (tháng 10 năm 1951), lúc tổ bộc phá đã phá được mấy hàng rào ngoài, địch tập trung hỏa lực bắn ra hướng cửa mở rất dữ dội, một số đồng chí chạy lên làm nhiệm vụ đã hy sinh, không ngần ngại, Nông Văn Vương xung phong ôm bộc phá lên phá nốt hàng rào, rồi lại ôm bộc phá lên ấn vào lỗ châu mai lô cốt đầu cầu; địch đẩy ra, đồng chí ném lựu đạn qua lỗ châu mai và đẩy tiếp bộc phá vào: phá tung lô cốt, diệt 7 tên. Đồng chí cũng bị sức ép ngất đi. Ít phút sau tỉnh dậy lại tiếp tục theo đơn vị chiến đầu. Vì lực lượng ta ít nên bọn địch chống trả quyết liệt suốt từ 6 giờ đến 12 giờ. Biết địch dồn vào khu vực lô cốt chính ở giữa đồn để cố thủ chờ tiếp viện. Nông Văn Vương xung phong ôm khối bộc phá 15 ki-lô-gam vượt qua lưới đạn dày đặc của địch, nhanh chóng phá sập lô cốt chính, diệt 20 tên, tạo điều kiện thuận lợi cho đơn vị xông lên diệt gọn đại đội địch, làm chủ trận địa.

   Trận Cầu Ngà, Bắc Ninh (năm 1952), Nông Văn Vương phụ trách tổ đi đầu làm nhiệm vụ phá lô cốt.
Khi có lệnh nổ súng hai đồng chí phá hàng rào bị thương, Nông Văn Vương lên thay và phá tung luôn hai hàng rào, rồi cùng đồng đội lên đánh lô cốt cao. Anh em đang loay hoay vì đồng chí vác thang đã bị thương ở bên ngoài; không nề nguy hiểm, Nông Văn Vương nhờ đồng đội công kênh lên để đặt bộc phá. Địch bắn đồng chí bị thương nhưng vẫn ở lại hướng dẫn anh em giải quyết xong trận đánh mới chịu để bộ phận tải thương đưa ra.

   Nông Văn Vương rất chú trọng xây dựng đơn vị tiến bộ về mọi mặt, hết lòng thương yêu đồng đội, luôn luôn nhận khó khăn về mình, nhường thuận lợi cho bạn, dũng cảm cứu giúp đồng đội trong chiến đấu. Đặc biệt trong trận Nà Xi (Nà Sản, Sơn La), tháng 1 năm 1953, tuy bị hỏa lực địch khống chế rất nguy hiểm, Nông Văn Vương vẫn bò qua hai lớp rào đưa hai thương binh, trườn ra ngoài an toàn. Hành động của đồng chí đã có tác dụng giáo dục sâu sắc đối với cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị.

   Nông Văn Vương đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công hạng nhì, 1 Huân chương Chiến công hạng ba, 5 lần được đại đoàn, trung đoàn khen thưởng và là Chiến sĩ thi đua số một của đại đoàn.

   Ngày 7 tháng 5 năm 1956, Nông Văn Vương được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng thưởng Huân chương Quân công hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.