Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Tài liệu - Hồi ký Việt Nam => Tác giả chủ đề:: SaoVang trong 09 Tháng Tư, 2010, 09:21:52 pm



Tiêu đề: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 09 Tháng Tư, 2010, 09:21:52 pm

(https://scontent.fhan3-3.fna.fbcdn.net/v/t1.0-9/119637730_739224753474074_5463949727283472247_n.jpg?_nc_cat=100&_nc_sid=730e14&_nc_ohc=7N3SCQC-FqgAX_Nl52n&_nc_ht=scontent.fhan3-3.fna&oh=9488077f5e20b0e93c6cf6ff8a0e98c1&oe=5F8BF102)

Tên sách: Trường Sơn - Đường khát vọng
Nhà xuất bản: Chính trị quốc gia
Năm xuất bản: 2009
Số hoá: ptlinh, Sao Vàng


BAN CHỈ ĐẠO BIÊN SOẠN
Nguyễn Bắc Sơn
Vũ Tiến Lộc
Nguyễn Duy Hùng

BAN BIÊN SOẠN
Đồng Trưởng ban:
Nguyễn Thế Kỷ
Nguyễn Sĩ Cử (chủ biên)

Các thành viên:
Nguyễn Thanh Yên,
Ngô Doãn Khuyển,
Thành Tâm,
Bùi Minh Châu,
Hương Ly,
Nguyễn Trọng Tạo,
Nguyễn Thụy Kha
Nguyễn Thanh Châu


Lời Nhà xuất bản


Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đường Hồ Chí Minh là tuyến chi viện và căn cứ chiến lược, một hướng chiến trường trọng yếu, một tổ chức giúp bạn xây dựng cơ sở cách mạng và phối hợp với bộ đội ta đánh địch ở Trung - Hạ Lào. Trong 16 năm từ 1959- 1975, đường Hồ Chí Minh luôn là trọng điểm đánh phá, là chiến trường thực nghiệm chiến tranh ngăn chặn, chiến tranh điện tử, chiến tranh hoá học ... của đế quốc Mỹ hòng cô lập miền Nam, thực hiện mưu đồ xâm lược, chia cắt lâu dài đất nước ta.

Với mục tiêu cao cả giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, Đoàn 559 - Bộ đội Trường Sơn đã vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ, chiến đấu và phục vụ chiến đầu anh dũng chống chiến tranh ngăn chặn khốc liệt của đế quốc Mỹ, đưa sự chi viện sức người, sức của từ hậu phương lớn miền bắc đến các chiến trường miền Nam và chiến trường nước bạn. Đường Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một con đường huyền thoại, một kỳ tích trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trong thế kỷ XX.

Ngày 3 tháng 12 năm 2004, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua chủ trương đầu tư xây dựng đường Hồ Chí Minh (Nghị quyết số 38/2004/QH 11) với tổng chiều dài toàn tuyến khoảng 3.167 km. Từ năm 2003 đến nay, nhiều tuyến trên đường Hồ Chí Minh được thi công và nghiệm thu đã phát huy hiệu quả, tạo ra sức vươn và diện mạo mới cho nhiều vùng quê từ đông Trường Sơn sang tây Trường Sơn, từ Bắc vào Nam. Đây là những tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa kinh tế yếu kém, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn nhưng cũng là những địa phương có nhiều thế mạnh chưa được khai thác, nhất là tiềm năng về đất đai, tài nguyên rừng, tài nguyên khoáng sản...

Đường Hồ Chí Minh nay đã dần trở thành con đường huyết mạch, phá thế độc đạo của quốc lộ 1A,. trở thành trục đường xuyên Việt, có tầm quan trọng lớn lao trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế – xã hội của đất nước đặc biệt với các vùng đất dọc suốt chiều dài phía tây Tổ quốc.

Nhân dịp kỷ niệm 50 năm đường Hồ Chí Minh ra đời và ngày truyền thống Bộ đội Trường Sơn (5/1959 - 5/2009), nhằm góp phần tôn vinh truyền thống yêu nước, tinh thần vượt qua khó khăn đồng thời củng cố, tăng cường sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Tạp chí Vietnam Business Forum - Cơ quan tuyên truyền đối ngoại của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam phối hợp với Nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản cuốn sách: "Trường Sơn - Đường khát vọng.

Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách với bạn đọc.
Tháng 5 năm 2009
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 09 Tháng Tư, 2010, 09:23:02 pm
Lời nói đầu


Đường Trường Sơn được Chủ tịch Hồ Chí Minh khai sinh vào ngày 19/5/1959. Lúc đầu là tuyến vận tải chiến lược, sau này mang tên Đường Hồ Chí Minh.

Đường mòn Hồ Chí Minh khởi đầu từ huyện Tân Kỳ (Nghệ An) vượt qua dãy Trường Sơn trùng điệp chạy suốt đến Chơn Thành (Bình Phước)  dài khoảng 16.000 km gồm 5 hệ thống đường trục dọc, 21 đường trục ngang, một tuyến đường cho xe chạy ban ngày dài 3.100 km, một hệ thống sông dài 500 kilômét, một hệ thống đường ống dài 3.000 km từ miền bắc vào tận Lộc Ninh.

Đường mòn Hồ Chí Minh, trung bình cứ 200mi có một dốc cao, 1 đến 2 km có một suối nhỏ, 10 đến 20 km có một sông hoặc một suối lớn.
Trường Sơn nơi đây đã ghi dấu chân của khỏng biết bao nhiêu chàng trai cô gái đã hiến dâng cả tuổi thanh xuân của mình trong sự nghiệp giòi phóng miền Nam thống nhất đất nước. Những địa danh nổi tiếng như. Truông Bồn, Đồng Lộc, Xuân Sơn, Phong Nho, Long Đọi, ATP cổng Trời, động Voi Mẹp, Đak Rông A So, Pa Lin, A Lưới .... đã gắn liền với tuổi thanh xuân của những thanh niên xung phong đầy nhiệt huyết cùng những người lính quả cảm của Bộ đội Trường Sơn.

Ai đã một lần có mặt ở đường Trường Sơn hẳn sẽ hiểu rõ sự hy sinh, mất mát và sức chịu đựng vô bờ bến của một dân tộc ra trận đã trả giá như thế nào cho ngày chiến thắng.

Trong một bài viết nhân kỷ niệm 30 năm ngày mở đường Trường Sơn, cố thi sĩ phạm Tiến Quật đã viết: “... trong lịch sử chiến tranh nhiều thời của nhiều vùng đất trên hành tinh này, có những tuyến đường quân sự nổi tiếng: Đường vận chuyển quân lính trong bụng con ngựa gỗ khổng lồ vào thành Tơroa, đường vận tải qua hồ Lađôga đóng băng của Liên Xô bao vệ thành phố Lêningrát, “Con đường xanh" của Stalin xuyên dọc châu Âu đánh vào sào huyệt của phát xít Đức... Nhưng tuyến đường Trường Sơn có hai sự độc đáo. Một là, thời gian tồn tại của tuyến đường dài hơn mọi tuyến đường chiến tranh ở bất kỳ nơi đâu trên thế giới. Hai là, tuyến đường Trường Sơn là một chiến trường trọng yếu và là một căn cứ hậu phương chiến lược cho chiến trường ba nước Đông Dương”.

Trong Ban biên soạn chúng tôi nhiều người đã từng sống, chiến đấu ở Trường sơn hoặc đã từng hành quân vượt Trường Sơn. Nhưng khi tiếp cận với các tư liệu về Trường Sơn, chúng tôi mới thực sự kinh ngạc về tầm vóc của tuyến đường và những kỳ tích của dân tộc Việt Nam mà cụ thể là các lực lượng đã từng chiến đấu và phục vụ chiến đấu trên các tuyến đường Trường Sơn.

Tài liệu về đường Trường Sơn phong phú đến mức phải ví như một núi băng mà Ban biên soạn chúng tôi chỉ tiếp cận được một phần nổi. Chiến tranh đã lùi xa và người cầm bút còn suốt đời mang nợ Trường Sơn.

Câu hỏi đặt ra với Ban biên soạn là: với khối tư liệu đồ sộ như thế thì cần tiếp cận lịch sử Trường sơn từ đâu?

May sao, trong khi đang thực hiện đề cương cuốn sách thì chúng tôi có Tài liệu tuyên truyền 50 năm ngày mở đường Hồ Chí Minh ngày truyền thống Bộ đội Trường Sơn (19/5/1959 - 19/5/2009) do Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam ấn hành với những nội dung cô đọng để Ban biên soạn bám sát và triển khai. Như vậy trong quá trình biên soạn chúng tôi coi tư liệu trên là Chính sử về đường Trường Sơn và Bộ đội Trường Sơn.

Cuốn sách còn tập hợp các bài viết của những nhà văn, nhà báo, người lính từng có mặt ở Trường Sơn. Trong các bài viết cũng đề cập những số liệu và vì tôn trọng các tác giả nên Ban biên soạn không chỉnh lý các số liệu này (chẳng hạn, bài viết của cố thi sĩ Phạm Tiến Duật) và đề nghị bạn đọc cũng xem như là số liệu tham khảo. Số liệu chính thức đã có ở phần “chính sử"

Ban biên soạn cũng tuyển chọn và giới thiệu các bài viết về ký ức Trường Sơn, 50 bài thơ, 50 bản nhạc, một số bức ký hoạ về Trường Sơn nhằm giới thiệu những "binh chủng" từng góp phần cùng Bộ đội Trường Sơn dựng nên một con đường huyền thoại.

Phần thứ hai. Đường Hồ Chí Minh công nghiệp hoá - Một khát vọng hùng cường, Ban biên soạn không đề cập nhiều đến công việc xây dựng đường Trường Sơn “nối dài" hai phía đã và đang tiến hành mà chú trọng đến việc làm thế nào để sử dụng, khai thác tốt nhất tuyến quốc lộ thứ hai chạy dài theo đất nước. Phần này liên quan đến một số địa phương có tuyến đường chạy qua.

Do thời gian gấp gáp và khả năng có hạn, cuốn sách không khỏi có những khiếm khuyết nhất định. Chúng tôi mong bạn đọc góp ý, phê bình và lượng thứ

Nhân dịp cuốn sách hoàn thành và được xuất bản, chúng tôi xin chân thành cảm ơn Ban Tuyên giáo Trung ương, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đã chỉ đạo góp ý kiến để cuốn sách được hoàn thành. Cảm ơn một số tỉnh thành, địa phương nằm trên đường Hồ Chí Minh, Bộ Tư lệnh Binh đoàn 12 - Tổng Công ty Xây dựng Trường Sơn đã Cung cấp tư liệu, hình ảnh hoạt động của Bộ đội Trường Sơn xưa và nay. Cảm ơn các nhà văn, nhà báo, nhạc sĩ, hoạ sĩ, những cựu chiến binh Trường Sơn đã gửi tác phẩm, tư liệu hoặc những ý kiến đóng góp cho cuốn sách. Cảm ơn Nhà xuất bản Chính trị quốc gia đã tạo điều kiện để cuốn sách kịp ra mắt bạn đọc đúng dịp kỷ niệm lần thứ 50, ngày mở đường Hồ Chí Minh, ngày truyền thống Bộ đội Trường Sơn.
BAN BIÊN SOẠN


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 09 Tháng Tư, 2010, 09:28:43 pm
PHẦN THỨ NHẤT
ĐƯỜNG TRƯỜNG SƠN HUYỀN THOẠI
.

“Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra đất nước...”

(Nguyễn Khoa Điềm)


CHƯƠNG MỘT
CON ĐƯỜNG VÀ SỨ MỆNH LỊCH SỬ

I. NHỮNG BƯỚC CHÂN THẦM LẶNG

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và sự can thiệp của Mỹ (1945 - 1954) mở ra một thời kỳ mới của cách mạng Việt Nam.

Ngày 20 tháng 7 năm 1954, Hiệp định Giơnevơ về chấm dút chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam, Lào và Campuchia được ký kết. Các nước tham gia hội nghị long trọng tuyên bố tôn trọng độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của ba nước Đông Dương.

Là một nước trực tiếp giúp Pháp trong cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương (1945 - 1954) và là một thành viên của Hội nghị Giơnevơ, nhưng Tổng thống Mỹ Aixenhao tuyên bố "Mỹ không bị hiệp định này ràng buộc". Từ đó Mỹ ráo riết thực hiện việc hất cẳng Pháp, thống trị miền Nam nước ta bằng chủ nghĩa thực dân mới, chia cắt lâu dài nước Việt Nam; ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản, đẩy lùi phong trào giải phóng dân tộc ở châu Á và trên thế giới, uy hiếp các nước xã hội chủ nghĩa.

Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận rõ bản chất xâm lược của đế quốc Mỹ và luôn theo dõi sát âm mưu, hành động của chúng. Giữa tháng 7 năm 1954, trong diễn văn bế mạc Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ sáu (khóa II), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Mỹ không những là kẻ thù chính của nhân dân thế giới, mà Mỹ đang biến thành kẻ thù chính và trực tiếp của nhân dân Việt - Miên - Lào. Người chủ trương: “Tập trung lực lượng chống đế quốc Mỹ”. Từ đây bắt đầu một thời kỳ mới của lịch sử dân tộc: thời kỳ chống Mỹ, cứu nước.

Ngày 5 tháng 9 năm 1954, Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp, ra nghị quyết về “Tình hình mới, nhiệm vụ mới và chính sách mới của Đảng", chỉ rõ nhiệm vụ trước mắt của quân và dân ta trên hai miền Nam - Bắc là: đấu tranh thực hiện Hiệp định Giơnevơ, ra sức củng cố miền Bắc, giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh chính trị của quân và dân miền Nam nhằm củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập dân chủ trong cả nước.

Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, quân và dân ta trên hai miền Nam - Bắc khẩn trương củng cố, sắp xếp lại lực lượng, chuẩn bị bước vào cuộc chiến đấu mới.

Trên miền Bắc, nhân dân ta khẩn trương khắc phục hậu quả chiến tranh, tiến hành cải cách ruộng đất, khôi phục và phát triển kinh tế, nhằm đưa miền Bắc tiến dần từng bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng miền Bắc thành cái "Nền", cái "Gốc" của cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam. thống nhất nước nhà. Quân đội nhanh chóng chấn chỉnh tổ chức, sắp xếp lại lực lượng; xây dựng theo hướng chính quy từng bước hiện đại, sẵn sàng đáp ứng nhiệm vụ mới của cách mạng.

Ở miền Nam, quân và dân ta một lòng hướng về Trung ương Đảng, Bác Hồ, hướng về miền Bắc, tiếp tục cuộc đấu tranh kiên cường, bền bỉ chống mưu đồ chia cắt đất nước của Mỹ - Diệm, chống “quốc sách tố Cộng, diệt Cộng"


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 09 Tháng Tư, 2010, 09:29:34 pm
Trước phong trào đấu tranh mạnh mẽ của nhân dân, Mỹ - Diệm đã vứt bỏ mặt nạ "thực thi dân chủ”, thẳng tay dùng chính sách phát xít, khủng bố, nhằm duy trì chế độ thống trị của chúng.

Nhân dân ta ở miền Nam không có con đường nào khác hơn là phải vùng lên, sống chết với kẻ thù.

Thực tiễn nóng bỏng của cách mạng miền Nam vừa là điều kiện, vừa đặt ra yêu cầu bức bách đòi hỏi Đảng ta chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, tìm ra con đường đưa cách mạng miền Nam tiến lên.

Tháng 1 năm 1959, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 15 (mở rộng) do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì họp tại Hà Nội, xác định con đường tiến lên của cách mạng miền Nam, vạch ra mục tiêu và phương pháp cách mạng miền Nam, mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng ở hai miền Nam - Bắc nhằm giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất đất nước.

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 của Trung ương Đảng khẳng định nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là giải phóng miền Nam, phương pháp cách mạng và phương thức đấu tranh là dùng bạo lực cách mạng, từ đấu tranh chính trị tiến lên kết hợp đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang, đánh đổ quyền thống trị của đế quốc, phong kiến, trước mắt là đánh đổ tập đoàn thống trị Ngô Đình Diệm tay sai của đế quốc Mỹ, thiết lập chính quyền cách mạng.

Dự kiến xu thế phát triển của cách mạng miền Nam, Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng đã chỉ ra phương hướng xây dựng, chiến đấu của lực lượng vũ trang trên hai miền Nam - Bắc, giao nhiệm vụ cho quân đội chủ động chuẩn bị về mọi mặt, sẵn sàng đáp ứng yêu cầu phát triển của tình hình.

Tháng 2 năm 1959, Tổng Quân ủy họp bàn những nhiệm vụ cấp thiết về xây dựng lực lượng vũ trang ở miền Nam, phát huy vai trò của miền Bắc đối với miền Nam, chuẩn bị cho lực lượng vũ trang cả nước sẵn sàng đập tan mọi âm mưu xâm lược của địch.

Chấp hành Nghị quyết của Trung ương Đảng và Nghị quyết của Tổng Quân ủy Trung ương, cùng với việc đẩy mạnh công cuộc xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, từng bước hiện đại trên miền Bắc, việc chuẩn bị lực lượng và vật chất chi viện cho miền Nam được xúc tiến. Sư đoàn 338 bộ đội miền Nam tập kết và một số trung đoàn bộ binh chuyển thành cán đoàn huấn luyện cán bộ, chiến sĩ làm nhiệm vụ ở miền Nam. Từ Vĩnh Linh - giới tuyến quân sự tạm thời đến biên cương phía Bắc, các đơn vị trong toàn quân đều tổ chức cho bộ đội học tập, rèn luyện, sẵn sàng vào Nam chiến đấu. 

Thực hiện chủ trương chi viện lực lượng vật chất cho miền Nam, Bộ Chính trị quyết định tổ chức tuyến giao liên vận tải quân sự trên bộ và trên biển.

Ngày 5 tháng 5 năm 1959, Trung tướng Nguyễn Văn Vịnh - ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Chủ nhiệm ủy ban Thống nhất Trung ương thừa lệnh Bộ Chính trị trực tiếp giao cho thượng tá Võ Bẩm - nguyên Cục phó Cục Nông trường tổ chức "Đoàn công tác quân sự đặc biệt" làm nhiệm vụ mở đường, vận chuyển hàng quân sự vào miền Nam; tổ chức đưa đón bộ đội, cán bộ; chuyển công văn, tài liệu từ Bắc vào Nam và từ Nam ra Bắc.

Quyết định thành lập tuyến vận tải quân sự Trường Sơn là một sáng tạo về chiến lược, thể hiện quyết tâm sắt đá giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 12 Tháng Tư, 2010, 08:48:37 am
Cơ quan chỉ đạo, tổ chức mọi hoạt động của Đoàn khi mới thành lập là Ban Cán sự Đảng, gồm ba người, do đồng chí Võ Bẩm làm Đoàn trưởng kiêm Bí thư.

Tiếp đó, trung tá Nguyễn Thạnh - nguyên Giám đốc nông trường quân đội Đồng Giao, Ninh Bình, được điều về làm Đoàn phó. Đại úy Nguyễn Chương là ủy viên Ban Cán sự kiêm trợ lý bảo vệ.

Trợ lý cơ quan Đoàn ban đầu có: thượng úy Lê Trọng Tâm - bí thư Đoàn trưởng, thượng úy Huỳnh Chuẩn - trợ lý quân nhu, thượng úy Huỳnh Thường - trợ lý tài vụ, trung úy Nguyễn Ngọc Linh - trợ lý quân giới, Phạm Công Chuyên - trợ lý xây dựng... đều là những cán bộ đã từng chiến đấu trên chiến trường Trị - Thiên và Khu 5 trong kháng chiến chống Pháp.

Thời gian mới thành lập, cơ quan "Đoàn công tác quân sự đặc biệt” làm việc tại các nhà số 61, 63 và 83 phố Lý Nam Đế, Hà Nội. Những vị trí này xen giữa khu dân cư, gần cơ quan Bộ Quốc phòng, vừa tiện liên hệ với cấp trên và cán bộ miền Nam ra công tác, vừa bảo đảm bí mật.

Ngày 19 tháng 5 năm 1959, Thường trực Tổng Quân ủy triệu tập Ban Cán sự, chính thức giao nhiệm vụ cho Đoàn mở đường Trường Sơn chi viện cho chiến trường miền Nam. Trong năm 1959, Đoàn có nhiệm vụ soi đường bảo đảm giao thông liên lạc từ miền Bắc vào miền Nam, vận chuyển gấp một số hàng quân sự theo yêu cầu của Liên khu 5 (gồm 7.000 súng bộ binh), tổ chức bảo đảm cho 500 cán bộ hành quân vào chiến trường làm nòng cốt xây dựng lực lượng chủ lực.

Trong điều kiện bình thường, với biên chế và thời gian cho phép, khối lượng công việc trên giao không có gì khó khăn. Nhưng đối với "Đoàn công tác quân sự đặc biệt” lúc này là một thử thách lớn, đòi hỏi phải cố gắng vượt bậc mới có thể vượt qua. Bởi lẽ đối với Đoàn, tất cả đều là bước khởi đầu. Mọi công việc từ tổ chức lực lượng, chuẩn bị vật chất, soi đường mở tuyến giao liên vận chuyển bí mật về Nam... đều còn ở phía trước. Đặc biệt toàn bộ hoạt động của Đoàn phải bảo đảm bí mật tuyệt đối cả khi chuẩn bị trên đất Bắc và khi thực hành trên tuyến

Với ý đồ chiến lược bí mật chủ động tiến công, Bộ Chính trị, Tổng Quân ủy yêu cầu Đoàn tuyệt đối không để đối phương biết được sự chi viện của miền Bắc đối với miền Nam - dù chi là một hoạt động nhỏ lẻ. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc.

Để hoàn thành nhiệm vụ, Tổng Quân ủy, Bộ Quốc phòng quyết định biên chế bước đầu của Đoàn là 500 cán bộ chiến sĩ. Ngoài Đoàn bộ, Đoàn sẽ tổ chức tiểu đoàn vận tải bộ 301 và các bộ phận: xây dựng kho, bao gói hàng, sửa chữa vũ khí, chế biến thực phẩm. Chỉ trong một thời gian ngắn, Đoàn 559 đã định hình về tổ chức, nhiệm vụ và phương thức hoạt động.

Ra đời tháng 5 năm 1 959, Đoàn được mang phiên hiệu Đoàn 559. Ngày 1 9/5- ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày Bộ Chính trị và Thường trực Tổng Quân ủy giao nhiệm vụ mở tuyến chiến lược Trường Sơn được xác định là ngày truyền thống của Đoàn 559 - Bộ đội Trường Sơn - Đường Hồ Chí Minh.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 12 Tháng Tư, 2010, 08:49:18 am
Ngày 20 tháng 5 năm 1 959 - một ngày sau khi chính thức nhận nhiệm vụ. tại nhà số 25A phố Phan Đình Phùng - Hà Nội, Ban Cán sự họp phiên đầu tiên quán triệt chỉ thị của Tổng Quân ủy và bàn biện pháp tổ chức thực hiện.

Nhận rõ bước phát triển mới của cách mạng miền Nam, nơi đang ngày đêm trông đợi người và vũ khí từ miền Bắc, Ban Cán sự Đảng, các cán bộ, chiến sĩ đầu tiên của Đoàn 559 gấp rút lao vào mặt trận mới, thầm lặng và vô cùng khẩn trương.

Một kế hoạch tổng thể về tổ chức các mối quan hệ công tác giữa Đoàn 559 với các cơ quan Bộ Quốc phòng và các đơn vị tuyển quân, mở đường, chuẩn bị cơ sở vật chất... nhanh chóng hoàn thành để thông qua đồng chí Chủ nhiệm ủy ban Thống nhất Trung ương và trình Bộ Chính trị. Sau khi được Bộ Chính trị phê duyệt, một số cán bộ chủ trì cơ quan Bộ Quốc phòng như Cục phó Cục Cán bộ, Cục trưởng Cục Quân giới, Cục phó Cục Tài vụ... được giao nhiệm vụ trực tiếp giúp Đoàn 559 tuyển chọn cán bộ, chiến sĩ bảo đảm trang bị và tài chính...

Những ngày cuối tháng 5 năm 1959, chiếc xe Gát 69A của Đoàn gần như lăn bánh suốt ngày đêm đưa các đồng chí trong Ban Cán sự đến các tập đoàn sản xuất miền Nam, các Sư đoàn 324, 325, 305 ... tuyển nhận quân. Lực lượng vận tái bộ (sau này là tiểu đoàn vận tải bộ 301) chủ yếu được tuyển ở Sư đoàn 305 bộ đội Liên khu 5 tập kết. Thời gian này, tình hình tư tưởng bộ đội Sư đoàn 305 đang có những diễn biến khá phức tạp. Phần đông cán bộ, chiến sĩ đã chuyển ra công tác tại các cơ sở kinh tế thuộc Khu công nghiệp Việt Trì, Nhà máy supe phốt phát Lâm Thao, Nông trường Việt Lâm, Nông trường Đồn Vàng..., vừa được huy động trở lại xây dựng quân đội.

Mặc dầu đang trong quá trình ổn định tổ chức, gặp nhiều khó khăn, song với tình cảm và trách nhiệm đối với miền Nam, những yêu cầu của Đoàn 559 đều được Bộ Tư lệnh sư đoàn và các đơn vị hết lòng giúp đỡ. Sau khi thống nhất nguyên tắc, yêu cầu tuyển nhận quân với Bộ Tư lệnh Sư đoàn, Đoàn phó Nguyễn Thạnh trực tiếp tiếp nhận lực lượng, giáo dục nhiệm vụ và huấn luyện bộ đội. Đoàn trưởng Võ Bẩm tổ chức lực lượng khảo sát đường và hiệp đồng với các đơn vị, cơ quan có liên quan.

Mở đường về Nam - nhiệm vụ mà toàn Đảng, toàn dân, toàn quân gửi gắm vào cán bộ, chiến sĩ Đoàn 559 là trọng trách vô cùng lớn lao. Con đường bắt đầu từ đâu, cung chặng bố trí như thế nào cho thích hợp; phương thức hoạt động trên tuyến như thế nào để bí mật vượt qua được cái gọi là “phòng tuyến chống thâm nhập" mà kẻ thù chủ định dựng lên ngay khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, sẽ đem quân, đem hàng đến bờ bắc sông Bến Hải hay vượt qua bờ nam... ? là những vấn đề đặt ra lúc này với bao trăn trở đối với lãnh đạo, chỉ huy Đoàn 559.

Tiên liệu những khó khăn trở ngại kể trên, trong khi giao nhiệm vụ, đồng chí Chủ nhiệm uỷ ban Thống nhất Trung ương đã gợi ý Ban Cán sự nên trực tiếp gặp và trao đổi cụ thể với đồng chí Trần Lương (Trần Nam Trung) Bí thư Khu ủy Khu 5 tìm giải pháp tháo gỡ từng bước ...

Được đồng chí Trần Lương giúp đỡ tích cực, đầu tháng 6 năm 1959, Đoàn trưởng Vò Bẩm vào Hồ Xá, Vĩnh Linh chủ trì cuộc họp bàn cụ thể việc mở đường vào Nam. Dự họp có các đồng chí Nguyễn Quyết (ông giáo Dụng) - ủy viên Khu ủy Khu 5, phụ trách công tác liên lạc với miền Bắc, Trương Chí Công - Bí thư tỉnh ủy Quảng Trị, Lê Hành - Tỉnh ủy viên Quảng Trị, Hồ Sĩ Thản - Bí thư đặc khu Vĩnh Linh.

Qua báo cáo của các đại biểu Trị - Thiên và Liên khu 5, Ban Cán sự Đoàn 559 bước đầu nắm được tình hình đấu tranh của nhân dân, tình hình hoạt động của địch ở phía nam sông Bến Hải và miền tây Trị - Thiên, Quảng Nam. Điểm nổi bật là càng ngày địch càng tăng cường hệ thống đồn bốt, bổ sung lực lượng tuần phòng dọc đường số 9... Chúng ráo riết gom dân vào các trại tập trung, tung biệt kích rình mò, lùng sục dọc theo bờ nam sông Bến Hải. Các cơ sở cách mạng trong vùng bị đảo lộn. Tuyến giao liên Thống Nhất từ Tây Nguyên ra Bắc thường xuyên bị đứt. Cùng với hoạt động đánh phá của kẻ địch, khí hậu nghiệt ngã của núi rừng Trường Sơn cũng gây cho tuyến giao liên Thống Nhất không ít khó khăn, tổn thất. Các đại biểu Khu ủy 5 và Trị - Thiên còn nêu một số kinh nghiệm cụ thể về tổ chức, duy trì tuyến giao liên Thống Nhất.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 12 Tháng Tư, 2010, 08:49:58 am
Từ thực tiễn tình hình chiến trường, hội nghị chủ trương thời gian đầu tuyến vận tải quân sự chiến lược được mở dựa vào tuyến giao liên Thống Nhất. Nguyên tắc hoạt động là vừa mở đường, vừa giữ được cơ sở cách mạng những nơi tuyến đường đi qua. Hội nghị xác định hướng mở tuyến, vị trí đặt trạm, quy ước thông tin liên lạc...

Một trong những vấn đề quan trọng và bức xúc được bàn kỹ ở hội nghị là Đoàn 559 dừng lại ở bờ bắc sông Bến Hải hay vượt qua bờ nam sông Bến Hải. Các đại biểu chiến trường khẩn thiết yêu cầu cấp trên cho Đoàn 559 đưa người, hàng vào sâu hơn bởi vì lúc này Liên khu 5 và Trị-thiên thiếu người để vận chuyển hàng; lực lượng vũ trang thiếu, không thể tổ chức một lực lượng bảo vệ tuyến ... Đồng chí Đoàn trưởng đã lĩnh hội ý kiến của các đại biểu chiến trường, báo cáo cấp trên và nguyện vọng chính đáng này đã được Bộ Chính trị chấp nhận.

Mặc dù hội nghị được tiến hành hết sức bí mật, nhưng mạng lưới tình báo, gián điệp của địch cũng “đánh hơi" thấy. Tình hình đó càng đòi hỏi mọi hoạt động của Đoàn 559 phải tuyệt đối bí mật. Ban Cán sự kịp thời và chủ động đề đạt với Bộ Công an có giải pháp phối hợp đối phó các hoạt động tình báo, gián điệp của địch.

Sau hội nghị ở Hồ Xá, Đoàn 559 tổ chức ngay đội khảo sát mở tuyến do Đoàn trưởng Võ Bẩm trực tiếp chỉ huy. Tỉnh ủy Quảng Trị cử đồng chí Pả Cương - Thường vụ Huyện ủy Hướng Hóa và một số cán bộ địa phương thông thạo địa hình Trường Sơn giúp mở đường. Đồng chí Ngô Văn Diệm - tiểu đoàn phó tiểu đoàn 301 và một số cán bộ trợ lý tiểu đoàn tham gia đội khảo sát. Qua nghiên cứu thực địa, đặc biệt là nghiên cứu con đường do Lữ đoàn 270 Quân khu 4 mở ở khu vực tây nam Vĩnh Linh để kết hợp khai thác gỗ và cơ động chiến đấu để phòng địch tiến công ra miền Bắc, đội khảo sát quyết định chọn Khe Hó là điểm khởi đầu cho tuyến đường lịch sử.

Khe Hó nằm giữa thung lững hẹp ở tây nam Vĩnh Linh, dưới chân dãy núi Động Nóc, kề thượng nguồn Rào Thanh. Ở đây dân cư thưa thớt, chủ yếu là người Pa Cô Vân Kiều, mức sống thấp kém, nhưng nặng nghĩa nặng tình với cách mạng. Mặc dầu vị trí khởi đầu nằm gần khu phi quân sự, nhưng nếu ta giữ được bí mật sẽ tạo được yếu tố bất ngờ, phát huy được hiệu quả.

Sau khi khảo sát tuyến đường bộ ở bắc sông Bến Hải, Đoàn trưởng Võ Bẩm khẩn trương trở ra Hà Nội chỉ huy việc tổ chức lực lượng, chuẩn bị “hàng" đưa vào chiến trường. Nhiệm vụ trực tiếp chỉ huy khảo sát mở tuyến vào phía Nam sông Bến Hải được giao cho đồng chí Ngô Văn Diệm tiếp tục thực hiện. Căn cứ sơ đồ khảo sát Đoàn 559 quyết định mở tuyến hành lang bắt đầu từ Khe Hó phát triển về hướng tây nam qua làng Mít (Quảng Bình) vượt các đỉnh 1001, 1600, vượt sông Bến Hải. qua đỉnh 1701 (động Voi Mẹp), Chăng Hin, động Cà Lư, Cát Sứ, Rào Quán, vượt đường số 9, qua Đá Bàn vào Tà Riệt. Điểm đặt trạm cuối cùng là Pa Lin, kế cận trạm tiếp nhận của Liên khu 5.
Với lộ trình trên, tuyến giao liên vận tải quân sự buổi đầu phải vượt qua nhiều dãy núi cao hiểm trở, vượt qua nhiều sông suối và qua cả hệ thống đồn bốt của địch.

Địa hình Trường Sơn nói chung và khu vực “cửa khẩu” là nơi “thiên hiểm", có giá trị lớn về mặt chiến lược: che đậy kín đáo những hoạt động quân sự, hoạt động vận chuyển của ta trên mặt đất, giành lợi thế trong chiến tranh ngăn chặn hiện đại... Tuy vậy, trở ngại lớn nhất đối với những người tìm đường mở tuyến cũng như sau này thực hành vận chuyển là địa hình bị chia cắt mạnh.

Các sông, suối dọc Trường Sơn ở khu vực nam - bắc sông Bến Hải phân bố tự nhiên, trung bình 1 đến 2 km có một suối nhỏ, 10 đến 20 km có một sông hoặc một suối lớn. Sông, suối đều phát nguyên từ đỉnh Trường Sơn đổ về hai hướng đông và tây. Phía đông xuôi về biển, phía tây hợp lưu với sông Mê Kông. Ở vùng thượng nguồn, hầu hết sông, suối nơi đây có độ chênh lớn, nhiều thác ghềnh. Mùa khô gần như cạn kiệt, cả vùng thiếu nước. Mùa mưa hết thảy những dòng sông, ngọn suối đều trở nên hung hãn, nước chảy xiết... Cũng do địa hình, đặc biệt là sự xen kẽ giữa những thung lũng hẹp dưới chân các ngọn núi nhỏ, nên mùa mưa nước các triền sông suối dâng cao đột ngột (2 – 18m) nhiều điểm trở thành những túi nước lớn, chia cắt núi đồi thành những khu vực biệt lập.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 12 Tháng Tư, 2010, 08:50:30 am
Điều kiện khí hậu nghiệt ngã của vùng rừng nhiệt đới gió mùa đầy tính chất hoang sơ nơi đây là môi trường thuận lợi cho các loạt ký sinh trùng, côn trùng gây bệnh và một số vật chủ mang bệnh phát triển. Đáng lo ngại nhất là muỗi Anôphen truyền bệnh sốt rét.

Dẫu biết rằng mọi con đường cách mạng đều xuất phát từ lòng dân, dựa chặt vào dân, song do yêu cầu bảo đảm hết sức bí mật trong buổi đầu mở tuyến, ta không chỉ chủ trương tránh địch mà tạm thời phải tránh dân (tránh địch - bí mật với dân). Đội khảo sát không theo những lối mòn dân đi lại ở bình độ thấp, mà tìm hướng đi mới ở bình độ cao hơn, địa hình hiểm trở hơn. Khẩu hiệu có tính chất mệnh lệnh lúc này là: “ở không nhà, đi không dấu, nấu không khói, nói không tiếng”.

Từ Khe Hó theo hướng tiếp cận sông Bến Hải qua đường số 9, đội khảo sát phải vượt đính núi 1001, ngược lên động Voi Mẹp - đỉnh 1701. Lên tới động Hàm Nghi, bắt gặp lác đác những gốc cam, gốc chè của nghĩa quân Cần Vương xưa còn lại như lời nhắc với những người mở đường nỗi đau một thời đất nước đắm chìm trong đêm trường nô lệ, thôi thúc họ nhanh chóng mở đường về Nam, góp phần đưa sự nghiệp giải phóng dân tộc đến ngày toàn thắng.

Qua khảo sát tổng thể, Đoàn tập trung nghiên cứu dự kiến các cung đoạn, những điểm vượt xung yếu như sông Ra Gã (thượng nguồn sông Cam Lộ), khe Nước Chảy (một nhánh thượng nguồn sông Ba Trăng). Hai nơi này có đường tuần tra của lực lượng bảo an từ Ba Trăng đến Miệt Xá - bắc Làng Vây. Đặc biệt, đội khảo sát phải tìm được điểm vượt qua đường số 9 và sông Đak Rông (một nhánh của sông Thạch Hàn), vùng trọng yếu trong thế phòng ngự chốt chặn của địch.

Trong khi bộ phận khảo sát thăm dò tìm đường thì bộ phận phía sau khẩn trương tổ chức lực lượng và chuẩn bị nguồn hàng đưa vào chiến trường.

Trong điều kiện miền Bắc có hòa bình, quân đội từng bước xây dựng chính quy hiện đại, một số cán bộ, chiến sĩ, trong đó có những người là con em đồng bào miền Nam tập kết được đào tạo tại các trường sĩ quan trong quân đội. Một số đã chuyển ngành sang các cơ quan nhà nước, cơ sở kinh tế. Được điều trở lại miền Nam chiến đấu theo yêu cầu của cách mạng, vì nghĩa tình son sắt với miền Nam... tất cả đã vượt lên mọi toan tính đời thường, nhanh chóng xác định quyết tâm, sẵn sàng lên đường.

Cuối tháng 5 năm 1959, Đoàn đã tuyển được 440 cán bộ, chiến sĩ, tổ chức hoàn chỉnh tiểu đoàn 301. Cán bộ, chiến sĩ được chọn hầu hết quê miền Nam, chủ yếu là các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi.

Toàn tiểu đoàn được tổ chức thành 11 đội (9 đội làm nhiệm vụ vận tải, 1 đội trinh sát bảo vệ, 1 đội làm nhiệm vụ xây dựng hậu cứ). Ban chỉ huy tiểu đoàn lúc mới thành lập gồm đại úy Chu Đăng Chữ (tức Vũ) tiểu đoàn trướng, đại úy Nguyễn Danh (tức Chính) chính trị viên, đại úy Ngô Văn Diệm tiếu đoàn phó. Về tổ chức Đảng, toàn tiểu đoàn tổ chức một Đảng bộ. Đảng ủy gồm ba đồng chí là Nguyễn Danh - Bí thư, Chu Đăng Chữ và Trần Ất (đảng ủy viên). Mỗi đội tổ chức một chi bộ. Cơ quan tiểu đoàn có các tiểu ban tham mưu, chính trị, hậu cần.

Sau khi ổn định tổ chức, toàn tiểu đoàn bước vào học tập chính trị. Cán bộ, chiến sĩ được phổ biến sẽ về Nam công tác, song tuyệt đối phải giữ bí mật ngay cả với gia đình, người thân. Yêu cầu cao nhất đối với mỗi cán bộ, chiến sĩ lúc này là hoàn toàn tự nguyện, sẵn sàng cống hiến hy sinh vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Mỗi cán bộ, chiến sĩ đều nhận rõ vinh dự, tự hào, đồng thời cũng nhận rõ đây sẽ là một trận tuyến mới thầm lặng, nhiều thử thách khốc hệt. Ở đây người lính không chỉ chiến đấu với kẻ thù mà còn phải chống chọi với thời tiết nghiệt ngã, với thú dữ... của núi rừng Trường Sơn, với sự cô quạnh, cách biệt tổ ấm gia đình và xã hội.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 12 Tháng Tư, 2010, 08:51:04 am
Những ngày tiếp theo, bộ đội được huấn luyện thể lực, tăng cường sức chịu đựng, chủ yếu là tập mang vác nặng, hành quân xa trong điều kiện đêm tối, trên địa hình phức tạp trung du vào mùa mưa. Những dãy núi đồi san sát ở Lâm Thao, Phú Thọ trở thành thao trường và điều kiện huấn luyện khá lý tưởng của tiểu đoàn 301. Đêm đêm, bất kể trời tạnh ráo hoặc mưa rào xối xả, trên vai là ba lô gạch nặng 30kg, những người lính lầm lũi leo đồi, vượt dốc. Thời gian hành quân mỗi đêm thường là 6 giờ. Lửa thử vàng, gian lao tôi luyện sức vóc và ý chí con người.

Việc chuẩn bị vũ khí trang bị để vận chuyển vào Nam cũng được tiến hành khẩn trương. Số vũ khí bộ binh chiến lợi phẩm ta thu được trong kháng chiến chống Pháp (chủ yếu là súng trường Mát, tiểu liên Tuyn - khoảng 20 tấn) trước đây do Cục Quân giới quản lý được lệnh chuyển toàn bộ cho Đoàn 559. Địa điểm tập kết vũ khí là bốt Lũ - Kim Giang, huyện Thanh Trì (cạnh bờ sông Tô Lịch), phía nam Hà Nội. Ngoài vũ khí, một số quân trang, quân dụng chiến lợi phẩm như ống nhòm, địa bàn, dao găm ... đã trang bị cho các đơn vị cũng được lệnh thu hồi và chuyển giao cho Đoàn 559.

Lúc này bốt Lũ vừa là kho, vừa là xưởng sửa chữa, hiệu chỉnh vũ khí do trung úy Nguyễn Ngọc Linh phụ trách. Mười bốn cán bộ, công nhân quân giới J23 ngày đêm tập trung sửa chữa, hiệu chỉnh từng khẩu súng bảo đảm chính xác cao. Nếu là vũ khí, trang bị do các nước xã hội chủ nghĩa sản xuất thì phải tẩy xóa hết ký hiệu.

Vũ khí sau khi sửa chữa, hiệu chỉnh, được bao gói, bảo quản cẩn thận. Việc đóng gói phải tính toán trọng lượng vừa sức người mang vác hành quân đường dài trong điều kiện địa hình rừng núi hiểm trở (mỗi gói nặng khoảng 25kg). Súng đạn bao gói còn phải dự kiến tình huống khi vận chuyển gặp địch, phải cất giấu trong nước, trong bùn đất lâu ngày mà không han gỉ, hư hỏng.

Qua nhiều lần thử nghiệm, bộ phận bao gói tìm ra cách bôi khắp súng, đạn một lượt mỡ bảo quản, bọc một lớp vải nhúng paraphin và bọc ba lớp vải chống ẩm bên ngoài. Cả gói được cuộn chặt, đem dìm xuống đáy sông Tô Lịch; hơn nửa tháng vớt lên súng, đạn vẫn khô ráo bình thường. Kết quả thử nghiệm khiến mọi người vô cùng phấn khởi.

Vũ khí trang bị sau khi hoàn tất khâu bảo dưỡng, bao gói, được đoàn xe đặc biệt cua Tổng cục Hậu cần bí mật chuyển tới khu tập kết (chân hàng) của Đoàn 559 tại một cánh rừng già gần Khe Hó. Những đồ dùng thiết yếu hàng ngày của cán bộ, chiến sĩ trong Đoàn cũng được chuẩn bị tỉ mỉ, chu đáo. Từ chiếc bút viết, ca uống nước, thắt lưng, đến chiếc bật lửa... đều mua loại mà trước đây binh lính Pháp thường dùng trên chiến trường Việt Nam.

Các bước chuẩn bị cơ bản hoàn thành, toàn Đoàn được lệnh hành quân nhập tuyến. Ngày 4 tháng 6 năm 1959, tiểu đoàn 301 có lệnh "cấm trại", tổ chức cấp phát bổ sung quân trang, lương thực, thuốc quân y và những đồ dùng cá nhân thiết yếu. 19 giờ ngày 4 tháng 6, tiểu đoàn 301 hành quân từ nông trường Vân Lĩnh về ga Tiên Kiên (Lâm Thao, Phú Thọ). Sau đó đoàn tàu quân sự đưa những người con của miền Nam “thành đồng Tổ quốc" rời vùng đồi trung du về Hà Nội và chuyển tàu đi Hàm Rồng, Thanh Hóa. Tạm biệt những vùng quê còn nghèo nhưng đã gắn bó, đùm bọc trong mấy năm hòa bình xây dựng, cán bộ, chiến sĩ ra đi không khỏi bùi ngùi xúc động.

Từ Hàm Rồng, sau hai ngày, đoàn xe Lam Sơn (đoàn xe I) Tổng cục Hậu cần đã chở tiểu đoàn 301 vào tập kết tại doanh trại của Sư đoàn 325 ở tây nam thị xã Đồng Hới (Quảng Bình). Riêng đội 12 rẽ về huyện Lệ Thủy, hành quân bộ lên vùng núi Bang Rợn, thượng nguồn sông Kiến Giang, tổ chức khu hậu cứ của Đoàn tại làng Ho (Quảng Bình). Để bảo đảm bí mật, bộ phận xây dựng hậu cứ lấy danh nghĩa bộ đội biên phòng tỉnh Quảng Bình.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 12 Tháng Tư, 2010, 08:51:47 am
Ngày 16 tháng 6 năm 1959, tại nhà khách Tỉnh ủy Quảng Bình, Ban Cán sự Đoàn 559 họp mở rộng triển khai kế hoạch rải tuyến. Dự họp có các đồng chí Bí thư Đảng ủy tiểu đoàn 301, bí thư các chi bộ. Đồng chí Ngô Văn Diệm báo cáo tình hình khảo sát mở tuyến, đặc biệt trên địa bàn phía nam sông Bến Hải, Tỉnh ủy Quảng Trị và huyện ủy Hướng Hóa đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ, cử cán bộ tham gia chỉ đạo giải quyết các vấn đề nảy sinh giữa địa phương và đơn vị. Tỉnh ủy Quảng Trị cử 3 đoàn viên ưu tú người dân tộc Vân Kiều làm liên lạc, trinh sát ở những trọng điểm xung yếu: Hồ Ôi ở Ra Gã, Hồ Nuồn ở Chăng Hin - khe Nước Chay, Hồ Tèo khu vực đường số 9.

Vấn đề đặt lên hàng đầu là Đoàn 559 phải giữ được bí mật, giữ được cơ sở nhân dân. Để làm được điều đó, cán bộ, chiến sĩ Đoàn 559 phải thật sự "địa phương hóa” cả về trang phục, cách thức sinh hoạt... Bộ đội hành quân cũng như trong khi chuyển hàng không được dùng gậy và giày, dép... Nếu trường hợp bị địch bắt phải nhận là cán bộ nằm vùng để nhân dân và cơ sở địa phương có lý do đấu tranh với địch. Việc mua bán hàng hóa tại chỗ tuyệt đối hạn chế, tránh gây xáo động lớn, làm cho địch nghi ngờ...

Từ thực tế trên, các đại biểu dự hội nghị xác định quyết tâm: "Lấy ý chí quyết tâm giải phóng miền Nam làm cơ sở để chiến thắng mọi khó khăn thử thách ... đưa được nhiều vũ khí, trang bị về miền Nam. Thường trực cảnh giác với mọi hành động để tránh địch; dựa vào dân, hoạt động lâu dài”.

Sau hội nghị, Ban Cán sự lệnh cho cán bộ, chiến sĩ khẩn trương thay đổi trang phục, tìm kiếm mây rừng đan gùi như đồng bào Vân Kiều vẫn dùng để thay thế ba lô. Được sự hỗ trợ hết lòng của Khu ủy Đặc khu Vĩnh Linh, chỉ sau mấy ngày, toàn Đoàn đã có được hơn 1.000 bộ quần áo bà ba, 600 đôi dép lốp...

Hoàn thành các khâu chuẩn bị, ngày 20 tháng 6, tiểu đoàn 301 hành quân vào tập kết tại khu vực Khe Hó, lấy danh nghĩa là "Công trường khai thác gỗ" và "Nông trường chăn nuôi bò". Trên cơ sở kết quả khảo sát, toàn tuyến được bố trí làm chín đội. Quân số mỗi đội giảm dần từ đội đầu đến đội cuối cùng. Đội đầu có 60 cán bộ, chiến sĩ. Đội cuối: 30 cán bộ, chiến sĩ. Mỗi đội tổ chức một chi bộ.

Đội 1 : Phụ trách cung đầu tiên, do trung úy đội trưởng Phan Văn Nho và thiếu úy đội phó Nguyễn Văn Hóa chỉ huy. Điểm đặt trạm 1 gần sở chỉ huy cơ bản tiểu đoàn 301 ở Khe Hó.

Đội 2: Phụ trách cung làng Mít (Vĩnh Linh) - Ra Gã, do trung úy đội trưởng Phạm Canh và trung úy chính trị viên Nguyễn Thúc Xuyên chỉ huy. Vị trí đặt trạm 2 ở bắc làng Mít.

Đội 3 : Phụ trách cung Ra Gã - bắc Chăng Hin, do trung úy đội trưởng Nguyễn Văn Chừng và thiếu úy đội phó Lê Toán chỉ huy. Điểm đặt trạm 3 ở nam sông Ra Gã.

Đội 4: Phụ trách cung Chăng Hin - nam động Voi Mẹp, do trung úy đội trưởng Nguyễn Cửu và thiếu úy đội phó Thi Huỳnh chỉ huy. Điểm đặt trạm 4 ở đỉnh 1600 (núi Chăng Hin).

Đội 5: Phụ trách cung nam động Voi Mẹp đến làng Cát Sứ bắc đường số 9, do trung úy đội trưởng Nguyễn Văn Tứ và thiếu úy đội phó Nguyễn Tiên chỉ huy. Điểm đặt trạm 5 ở đỉnh 1701 - nam động La Rừng.

Đội 6: Phụ trách cung từ làng Cát Sứ - vượt đường số 9 đến Ba Lòng, do trung úy đội trưởng Nguyễn Xuất và thiếu úy đội phó Trần Văn Hỷ chỉ huy. Điểm đặt trạm 6 ở nam động Cà Lư.

Đội 7: Phụ trách cung Ba Lòng - A So, do trung úy đội trưởng Hồ Huyền và thiếu úy đội phó Nguyễn Văn Tri chỉ huy.

Đội 8: Phụ trách cung A So - Pa Lin do trung úy đội trưởng Phạm Mãn và thiếu úy đội phó Nguyễn Văn Toàn chỉ huy. Điểm đặt trạm 8 ở Ly Tông.

Đội 9: Đóng ở Tà Rụt, bắc A Lưới, do trung úy đội trưởng Nguyễn Hiến và thiếu úy đội phó Nguyễn Văn Khánh chỉ huy. Đội có nhiệm vụ nhận hàng do đội 8 chuyển vào, giao cho đại diện Liên khu 5.

Chỉ huy tiền phương của tiểu đoàn 301 đứng ở trạm 5 và trạm 6 trực tiếp chỉ huy toàn tuyến, tại đây bố trí một máy vô tuyến điện và hai tổ trinh sát kiêm bảo vệ, liên lạc. Vô tuyến điện của sở chỉ huy tiền phương tiểu đoàn 301 chỉ được làm việc với vô tuyến điện chỉ huy sở Lữ đoàn 341 ở Vĩnh Linh. Từ Vĩnh Linh về Khe Hó dùng liên lạc chạy chân.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 12 Tháng Tư, 2010, 08:52:24 am
Để hỗ trợ cho Đoàn 559 hoàn thành nhiệm vụ, Bộ Tổng tham mưu quyết định tăng cường cho Đoàn ba trung đội trinh sát bảo vệ lấy từ Lữ đoàn 341. Số cán bộ, chiến sĩ trinh sát này có kinh nghiệm nắm địch, thông thuộc địa hình, đường sá và dân tình trong vùng. Ba trung đội phối hợp cùng lực lượng trinh sát, bảo vệ của tiểu đoàn 301 đảm trách những cung, chặng trọng yếu nhất. Một trung đội phụ trách khu vực Ra Gã (trạm 3 - trạm 4). Một trung đội do thiếu úy Nguyễn Minh Thông chỉ huy, phụ trách khu vực đường số 9 (trạm 5 - trạm 6). Một trung đội do chuẩn úy Võ Sĩ Bơi chỉ huy, phụ trách khu vực Đak Rông - Đá Bàn - Ly Tông - Tà Riệt. 

Để bảo đảm bí mật, việc giao nhận hàng giữa các trạm được quy định theo ký, tín hiệu, mật khẩu. Riêng giao nhận hàng giữa trạm 5 và trạm 6 (qua đường số 9) phải tiến hành vào ban đêm. Lối vượt đường số 9 cũng phải luôn luôn thay đổi. Tuy nhiên những lối vượt đó chỉ tập trung từ cầu Đak Rông đến Khe Sanh (km 14 đến km 61).

Cán bộ, chiến sĩ trên tuyến không ở cố định một chỗ, không sinh hoạt tập trung. Từng tổ, trạm trú dưới từng mái đá, tán cây rừng rậm rạp, cứ sau ba đến năm ngày lại chuyển chỗ. Bộ đội chỉ được nấu ăn ban ngày. Ban đêm chỉ những trường hợp cần thiết mới được sử dụng đèn pin, song phải hạn chế ánh sáng ở mức thấp nhất...

Đầu tháng 7 năm 1 959, việc rải quân trên tuyến, từ trạm đầu đến trạm cuối Pa Lin được triển khai xong. Về cơ bản, độ dài từng cung chặng khoảng một ngày đi bộ; toàn tuyến đi mất tám ngày. Lực lượng trinh sát cũng được cài cắm trên tuyến, tích cực nắm địch, thông báo kịp thời cho từng trạm và chỉ huy tiểu đoàn.

Cùng thời gian này, Ty Giao thông Quảng Bình đã hoàn thành việc mở gấp đường ô tô từ bến Long Đại đến Bang dài 70km. Đoạn tiếp theo dài 80km từ Bang vào Khe Ổ cũng được Sư đoàn 325 khẩn trương khai thông. Theo tuyến đường cơ giới làm gấp các đoàn xe của Tổng cục Hậu cần được lệnh bí mật vận chuyển vũ khí, khí tài, gạo... vào lập chân hàng cho Đoàn 559 tại khu vực Khe Hó.

Sự phối hợp hoạt động giữa Đoàn 559 với các đơn vị, ban, ngành có liên quan, đặc biệt là Tổng cục Hậu cần, Sư đoàn 325, Ty Giao thông Quảng Bình ... ngay từ đầu đã khá đồng bộ, nhịp nhàng. Đây là một trong những yếu tố quan trọng bảo đảm cho Đoàn 559 ra quân trận đầu thắng lợi.

Đúng vào lúc cán bộ, chiến sĩ Đoàn 559 gấp rút chuẩn bị chuyển hàng qua tuyến thì địch cho một lực lượng lớn xe quân sự chở lính quần đảo liên tục dọc đường số 9; trọng tâm là khu vực từ Khe Sanh đến Lao Bảo. Ban chỉ huy tiểu đoàn 301 kịp thời báo cáo tình hình lên Ban Cán sự Đoàn 559 và tăng cường trinh sát nắm địch.

Cuộc lùng sục, vây ráp của địch kéo dài ba tuần. Nhờ chủ động nắm địch và đã có phương án đối phó, ta kịp thời “án binh bất động”, làm cho địch không phát hiện được dấu vết nào. Khi hoạt động tuần phòng của chúng trở lại với quy luật thường nhật, tiểu đoàn 301 được lệnh tiếp tục chuyển hàng qua tuyến.

Ngày 13 tháng 8 năm 1959, chuyến hàng đầu tiên vượt Trường Sơn. Với quyết tâm giành thắng lợi trận đầu, cán bộ, chiến sĩ các cung trạm đã không quản núi cao, suối sâu đêm tối, tuyệt đối bảo đảm bí mật, an toàn, đưa hàng tới đích ...

Từ chuyến ra quân đầu tiên, đối với người lính vận tải Trường Sơn cuộc sống yên bình những ngày qua đã lùi vào ký ức. Đối mặt với họ giờ đây là gian khổ, hy sinh...

Vượt đường số 9 vào ban đêm không trăng, các chiến sĩ vận tải vẫn phải sử dụng hai miếng gỗ nhỏ, nhẹ, khi qua đường mọi người lần tìm và dẫm đúng miếng gỗ đó; tuyệt đối không để lại dấu chân. Khi vượt sông Bến Hải, Ra Gã, Đak Rông ... , bộ đội phải dùng dây mây rừng buộc nối hai gốc cây ở hai bờ sông, kết thân cây chuối làm bè. Người vượt sông ngâm mình trong nước, một tay bám giữ bè chuối, trên bè là súng đạn, một tay lần dây mây rừng để sang bờ bên kia. Hết sông sâu là núi cao, dốc đứng. Có những dốc muốn vượt qua, sau này bộ đội đã phải sử dụng bốn chiếc thang, thậm chí tới sáu thang. Cũng vì vậy mà có tên là dốc "Bốn Thang", dốc “sáu Thang"...


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 12 Tháng Tư, 2010, 08:52:59 am
Sau tám ngày đêm, vượt qua bao sông sâu, suối dữ, đèo cao và hệ thống đồn bốt chốt chặn của kẻ thù, chuyến hàng đầu tiên (gồm 20 khẩu tiểu liên Tuyn, 20 khẩu súng trường Mát, 10 thùng đạn tiểu liên và súng trường) đã được tiểu đoàn 301 chuyển tới Tà Riệt an toàn. Đồng chí Nguyễn Vạn - Thường vụ Liên khu ủy, đại diện Liên khu ủy khu 5 cùng một sổ cán bộ, chiến sĩ vô cùng phấn khởi và xúc động khi tiếp nhận số hàng này; vì họ biết mỗi khẩu súng, viên đạn đến được nơi này là tình dân ý Đảng, là tình cảm của Bác Hồ, của quân dân miền Bắc gửi gắm tới đồng bào và chiến sĩ miền Nam.

Phát huy thắng lợi chuyến đi đầu tiên, đồng thời tranh thủ yếu tố bí mật, bất ngờ, toàn Đoàn dốc sức chuyển hàng và dẫn quân qua tuyến. Đến hết tháng 8 năm 1959, Đoàn 559 đã chuyển giao tiên khu 5 được 60 súng trung liên, 100 súng tiểu liên, súng trường và hàng nghìn viên đạn súng bộ binh.

Ngày 3 tháng 9 năm 1959, Ban Cán sự Đoàn 559 họp, đánh giá kết quả những chuyến đi đầu tiên, biểu dương thành tích bước đầu của toàn đơn vị; đồng thời chỉ ra những hạn chế cần khắc phục. Ban Cán sự đặc biệt nhấn mạnh yêu cầu bảo đảm bí mật bất ngờ; luôn thay đổi quy luật hoạt động, tìm nhiều điểm vượt đường số 9.

Trong khi việc mở đường Trường Sơn đưa lực lượng, vũ khí trang bị vào miền Nam được xúc tiến khẩn trương, phong trào đấu tranh cách mạng ở miền Nam tiếp tục phát triến mạnh.

Lực lượng vũ trang tự vệ từng bước được khôi phục và phát triển. Đến đầu năm 1959, ở Nam Bộ đã có 139 trung đội vũ trang tự vệ; miền núi Liên khu 5 có 34 trung đội vũ trang tự vệ và hàng trăm đội tự vệ ở các xã, ấp. Đây là một thành quả to lớn của cách mạng miền Nam trong những năm đấu tranh chính trị 1954 - 1959, góp phần quan trọng vào việc giữ gìn, phát triển lực lượng, đưa cách mạng miền Nam đi lên.

Cũng trong năm 1959, trước yêu cầu ngày càng cấp thiết của chiến trường, Bộ Chính trị, Tổng Quân ủy quyết định mở tuyến vận tải đường biển, chủ yếu vào Nam Bộ, Khu 6 (cực Nam Trung Bộ). Cùng với phát triển tuyến đường vận tải đường bộ, Đoàn 559 được giao nhiệm vụ quan trọng có ý nghĩa chiến lược này.

Ban Cán sự Đoàn 559 cử cán bộ đến các Sư đoàn 324, 325 và một số đơn vị thuộc Quân khu Tả Ngạn, tuyển mộ một số cán bộ, chiến sĩ miền Nam tập kết, thạo nghề đi biển để thành lập đoàn vận tải đường biển. Việc tuyền quân khá thuận tiện, bởi lẽ trong số cán bộ, chiến sĩ miền Nam tập kết có rất nhiều người quê ven biển Quảng Nam, Quảng Ngãi ... xuất thân là ngư dân. Đặc biệt, một số người đã tham gia Đoàn 248 vận tải biển của Liên khu 5 trong kháng chiến chống Pháp, trong đó có đồng chí Nguyễn Bất - chiến sĩ thi đua Cục Hải quân. Nguyễn Văn Nửa - nguyên chiến sĩ thi đua Liên khu 5 (thời kỳ kháng chiến chống Pháp).

Tháng 7 năm 1959, tiếu đoàn 603 vận tải biển trực thuộc Đoàn 559 được thành lập Tiểu đoàn biên chế 107 cán bộ, chiến sĩ (90 phần trăm là đảng viên). Đồng chí Hà Văn Xá - nguyên là cán bộ Cục Hải quân làm tiểu đoàn trường, đồng chí Lưu Đức làm chính trị viên tiểu đoàn.

Sau khi ổn định tổ chức, biên chế, khảo sát tình hình, tiểu đoàn chọn cảng cá Thanh Khê cách cửa sông Gianh (Quảng Bình) về phía nam 4 km làm địa điểm đóng quân. Với danh nghĩa "Tập đoàn đánh cá miền Nam", tiểu đoàn vừa khẩn trương xây dựng doanh trại, vừa chuẩn bị thuyền buồm và các loại “ngư cụ” khác.

Để có được những thuyền biển như của ngư dân Liên khu 5, nhiều cán bộ, chiến sĩ miền Nam biết nghề mộc đã được điều về tiểu đoàn 603 để đóng thuyền. Riêng buồm phải nhờ Tỉnh ủy Quảng Trị tổ chức cho ngư dân làm và chuyển qua sông Bến Hải ra Thanh Khê.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 14 Tháng Tư, 2010, 11:26:19 am
Sau hai tháng chuẩn bị khẩn trương, tháng 9 năm 1959, tiểu đoàn đã cơ bản xây dựng xong doanh trại, đóng hoàn chỉnh hai thuyền; một thuyền có trọng tải bảy tấn và một thuyền có trọng tải hai tấn. Tiểu đoàn chủ động tổ chức bộ đội đánh cá và vận chuyển tiếp tế cho đảo Cồn Cỏ, kết hợp tập dượt làm quen với sông nước ...

Để có thêm lực lượng vận tải biển, Ban Cán sự Đoàn 559 đề nghị Quân khu tăng cường đội thuyền vận chuyển hàng ra đảo Cồn Cỏ cho tiểu đoàn 603; đồng thời khẩn trương đóng thêm thuyền, chuẩn bị hàng, tìm hiểu quy luật hoạt động của địch trên biển. Theo lệnh của Ban Cán sự Đoàn 559, đầu tháng 9 năm 1959, tiểu đoàn 603 tổ chức một tổ vô tuyến điện bí mật vào “cắm" tại khu vực đèo Hải Vân, liên lạc với Liên khu 5 chuẩn bị bến bãi, đón hàng...

Đối với tuyến vận tải bộ, sau khi đã ổn định, bước đầu phát triển về tổ chức, lực lượng và vận chuyển những chuyến hàng đầu tiên thành công, ngày 12 tháng 9 năm 1959, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 46/QĐ-QP chính thức thành lập Đoàn 559 trực thuộc Bộ Quốc phòng; về Đảng, trực thuộc Tổng Quân ủy. Nhiệm vụ của Đoàn lúc này là mở đường, vận chuyển vật chất, đưa đón cán bộ, bộ đội từ miền Bắc vào miền Nam, vận chuyển và bảo đảm hậu cần cho Đoàn 959 chuyên gia ở Lào và vận chuyển vật chất giúp bạn Lào. Bộ Quốc phòng cung quy định một số chính sách cụ thể đối với cán bộ, chiến sĩ Đoàn 559 (tiền lương, phụ cấp khu vực, chế độ bồi dưỡng ... ) .

Quyết định của Bộ Quốc phòng về việc thành lập Đoàn 559 và những chính sách đối với cán bộ, chiến sĩ trên tuyến là nguồn lực mới, động viên toàn Đoàn cố gắng hơn nữa, năng động, khôn khéo tìm mở đường, đưa lực lượng và vận chuyển hàng vào chiến trường đạt hiệu quả cao hơn.

Sau hội nghị lần thứ nhất trên tuyến của Ban Cán sự, tranh thủ những ngày khô ráo hiếm hoi ở đông Trường Sơn, toàn Đoàn tập trung sức vận chuyển liên tục, gần như không một ngày nghỉ. Vấn đề hệ trọng lúc này là tìm những giải pháp vượt đường số 9 cho thích hợp, bảo đảm bí mật, tránh qua lại một lối ...

Từ cách dùng hai miếng gỗ để vượt đường số 9 được áp dụng buổi đầu, bộ đội đã tìm ra cách rải tấm vải tăng hẹp (khổ rộng khoảng 40cm) qua mặt đường, người đi sau cùng sẽ cuộn mang theo. Tuy vậy, vượt đường số 9 trên mặt đất cạnh đồn Rào Quán của địch là mạo hiểm, sớm muộn sẽ bị lộ.

Biết được nỗi lo lắng này của cán bộ, chiến sĩ Đoàn 559, đồng chí Lê Duẩn - ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng gợi ý Đoàn nên nghiên cứu đào đường ngầm xuyên qua đường số 9. Mặc dầu phương án đào đường ngầm không thực hiện được, song gợi ý của đồng chí Lê Duẩn đã giúp Đoàn tìm được một đường cống ngầm ở khu vực Rào Quán. Hai bên miệng cống có cây cối um tùm. Đường kính của cống chỉ một mét. Do vậy, muốn qua được, từng người phải lần bò khá vất vả.

Cuối tháng 10, khi những đợt gió mùa đầu tiên tràn về biên giới phía Bắc, đồng bằng Bắc Bộ. Thanh, Nghệ Tĩnh..., thì vùng cửa khẩu cũng xuất hiện những đợt mưa tầm tã. Song vì chỉ tiêu kế hoạch vận chuyển chưa hoàn thành, toàn Đoàn vẫn dồn sức để chuyến hàng. Dù đường xa vác nặng, trèo đèo vượt suối ..., cán bộ, chiến sĩ vẫn động viên nhau chuyển hết hàng, không để hàng ứ đọng ở các trạm.

Những tháng cuối năm 1959, do có kẻ đầu thú khai báo, địch tăng cường củng cố “phòng tuyến chống thâm nhập". Dọc đường số 9 - chỉ riêng đoạn từ Cam Lộ đi Lao Bảo, địch đóng tới bảy đồn (Tân Lâm, Ba Trang, Mai Lãnh, Rào Quán, Khe Sanh, Làng Vây. Lao Bảo), nhiều đồn nằm sâu trong các bản làng hai bên đường số 9 như Miệt Xá, Tà Cơn, Làng Cát... Bọn bảo an, thám báo, dân vệ... lùng sục suốt ngày đêm. Thâm độc và giảo quyệt hơn, chúng còn giả dạng người tìm trầm, phu đồn điền cao su, cà phê, lần mò phát hiện tuyến chi viện của ta, tìm bắt cán bộ, chiến sĩ vận tải, giao liên.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 14 Tháng Tư, 2010, 11:27:01 am
Vào một đêm cuối tháng 10 năm 1959, trong khi bảo vệ cho đội 6 và đội 7 giao hàng ở nam đường số 9, tổ trinh sát do thiếu úy Nguyễn Minh Thông phụ trách đã lọt vào ổ phục kính của thám báo địch tại bờ sông Đak Rông. Trong tình thế bị động, tồ trinh sát đã dũng cảm chiến đấu chặn địch, tạo điều kiện cho lực lượng vận tải rút lui bảo toàn lực lượng. Thiếu úy Nguyễn Minh Thông (quê Nghi Lộc, Nghệ An) đã hy sinh anh dũng sau khi đã cùng đồng đội tiêu diệt 4 tên địch. Thượng sĩ Trần Tương (quê Đại Lộc - Quảng Đà) bị thương và bị địch bắt đưa về căn cứ. Trước mọi đòn tra tấn dã man của kẻ thù, Trần Tương vẫn một mực trả lời là "cán bộ nằm vùng" và đanh thép tuyên bố với kẻ thù rằng: đồng chí, đồng đội của anh sẽ bắt chúng đền tội. Không nhận được nguồn tin gì ở Trần Tương, kẻ thù đã thủ tiêu anh.

Tổ trinh sát do Võ Sĩ Bơi phụ trách có mặt ở đó, súng đạn trong tay, nhưng đành phải nén lòng, náu mình để bảo toàn lực lượng và giữ bí mật tuyến chi viện. Thiếu úy Nguyễn Minh Thông và thượng sĩ Trần Tương - những chiến sĩ kiên trung bất khuất chiến đấu dũng cảm, là những cán bộ, chiến sĩ đầu tiên hy sinh trên tuyến vận tải quân sự 559, để lại trong lòng đồng đội, nhân dân địa phương niềm cảm phục và tiếc thương vô hạn.

Vào cao điểm mùa khô 1959 - 1960, cường độ hoạt động của lực lượng vận chuyển trên tuyến ngày càng cao. Biên chế từng trạm không được bổ sung, bộ đội nghỉ do sốt rét ngày càng nhiều. Khối lượng hàng mang vác của từng người tăng lên. Vì vậy việc giao hàng trong đêm theo nguyên tắc “vai sang vai" để tránh bỏ quên đã không thực hiện được.

Tháng 10 năm 1 959, trong khi giao hàng tại đồn điền cà phê Rômơ (của một tư bản người Pháp ở Khe Sanh), đội 6 và đội 7 đã bỏ quên một gói hàng gồm 2 khẩu súng trường Mát. Hôm sau, vợ người chủ đồn điền phát hiện được đã bảo anh Cha Mồm - cai đồn điền có cảm tình với cách mạng cất đi. Cha Mồm đem giấu súng và báo cho ta đến lấy. Vì vậy, một tháng sau anh đã bị thủ tiêu. Từ sự việc ấy, đối phương đã có thêm tín hiệu về một tuyến chi viện quân sự từ miền Bắc vào miền Nam đang hoạt động.

Ngay sau những "sự cố” trên, tháng 10 năm 1959 Đoàn 559 quyết định chuyển chỉ huy sở, hệ thống kho tàng, sở chỉ huy tiểu đoàn 301, đội 1 ra làng Mít (Quảng Bình). Sở chỉ huy mới nằm sát hữu ngạn sông Kiến Giang, cách Bang Rợn 10km về phía nam, cách đội 2 ở làng Mít (Vĩnh Linh) bắc sông Bến Hải một cung đường đi về khoảng 10 giờ. Đồng thời theo lệnh của Ban Cán sự, đội 12, tiểu đoàn 301 khẩn trương cơ động theo hướng tây tới khu vực làng Ho, tây Quảng Bình - cạnh thượng nguồn một nhánh khác của sông Kiến Giang, sát chân đỉnh núi 1001. khẩn trương xây dựng lán trại, kho tàng. Đây là khu vực Đoàn chọn làm hậu cứ cơ bản, thuận tiện cho việc cơ động ở cả hai hướng đông và tây Trường Sơn.

Hành động ngăn chặn của kẻ thù, sự hy sinh của đồng chí, đồng đội không làm giảm nhiệt tình cách mạng của cán bộ, chiến sĩ trên tuyến. Những khẩu súng, hòm đạn đêm đêm vẫn được chuyển vào chiến trường. Tuy vậy, trước thử thách vô cùng gay go, khốc liệt của những ngày đầu hoạt động: dãi dầu nắng mưa. gối đất nằm sương, đói rét đeo đuổi suốt ngày đêm, kẻ thù luôn rình chụp, hơn thế cuộc sống âm thầm gần như câm lặng giữa rừng đại ngàn, gặp nhân dân phải tránh, gặp kẻ thù không được nổ súng tiêu diệt..., đã có chiến sĩ không tránh khỏi mềm lòng, nhớ lại những ngày sống yên bình, sôi động trên đất Bắc.

Nắm bắt những diễn biến khá phức tạp trong tư tưởng cán bộ, chiến sĩ, Ban Cán sự kịp thời chỉ đạo Đảng ủy tiểu đoàn 301 có biện pháp giáo dục, động viên bộ đội nêu cao tình cảm, trách nhiệm với đồng bào, chiến sĩ miền Nam.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 14 Tháng Tư, 2010, 11:27:31 am
Kết thúc năm 1959, Đoàn đã chuyển vào Tà Riệt - Pa Lin 1.667 khẩu súng bộ binh, hàng trăm nghìn viên đạn, súng trường, tiểu liên, súng ngắn... và một số quân dụng thiết yếu khác giao cho Liên khu 5. Một phần trong số đó được Liên khu 5 chuyển tiếp vào phía trong để trang bị cho các đơn vị vũ trang tự vệ vừa thành lập ở Tây Nguyên và miền tây các tỉnh Trung Bộ. Ngoài số hàng vận chuyển qua tuyến, Đoàn còn tạo chân hàng ở hậu cứ tiểu đoàn 301 và đoàn 603 một khối lượng khá lớn.

Cũng theo tuyến giao liên vận tải quân sự Trường Sơn, đến cuối năm 1959, đã có 542 cán bộ, chiến sĩ gồm phần lơn là cán bộ chỉ huy cấp trung đội, đại đội, cán bộ kỹ thuật quân khí vào làm nhiệm vụ ở miền Nam, trong đó có 515 người vào Liên khu 5 và 27 người vào Nam Bộ. Những cán bộ, chiến sĩ này đã tham gia ngay vào việc thành lập các tiểu đoàn, đại đội bộ đội tập trung ở Liên khu 5 và Nam Bộ ...

Trong khi tuyến giao liên vận tải quân sự từ miền Bắc dọc theo dãy Trường Sơn tiến dần vào phía Nam thì ở Trung Bộ các con đường giao liên được mở tiếp vào các khu căn cứ, và từ miền Đông Nam Bộ các đội vũ trang tuyên truyền cũng tiến hành soi đường ra Bắc.
Tại Trung Bộ, Liên khu ủy 5 tổ chức các đường dây hành lang vận chuyển từ Pa Lin qua các khu căn cứ vào các tỉnh duyên hải miền Trung và Tây Nguyên.

Tháng 5 năm 1959. Tổng Quân ủy, Bộ Quốc phòng quyết định thành lập Đoàn B90 tăng cường cho Liên khu 5 soi đường nối hai chiến trường Khu 5 và Nam Bộ, nối thông hành lang chiến lược Bắc- Nam. Đoàn B90 gồm 25 cán bộ, chiến sĩ (quê ở Nam Bộ, Khu 5, từng hoạt động ở chiến trường rừng núi miền Đông Nam Bộ, nam Tây Nguyên và đông bắc Campuchia) do đồng chí Trần Quang Sang (nguyên cán bộ Phòng Quốc dân thiểu số miền Đông Nam Bộ) làm Đoàn trưởng; hai Đoàn phó là đồng chí Phùng Đình Ấm (Ba Cung) và đồng chí Phạm Lạc.

Ngày 20 tháng 6 năm 1959, Đoàn B90 vượt thượng nguồn sông Bến Hải theo đường giao liên hành quân qua miền tây các tỉnh Trị - Thiên vào Quảng Nam. Tiếp đó Liên khu ủy Liên khu 5 quyết định sáp nhập Đoàn B90 với đội vũ trang công tác tỉnh Đắk Lắk, lấy phiên hiệu là B4 do đồng chí Bí thư Tỉnh ủy Đắk Lắk phụ trách. Phương châm hoạt động của B4 là vừa soi đường, vừa tuyên truyền trong nhân dân để gây dựng cơ sở, tạo lập tuyến hành lang.

Ngoài một bộ phận xây dựng cơ sở giữ mối liên hệ với Tỉnh ủy Đắk Lắk và tuyến đường dây Thống nhất, B4 chia làm hai bộ phận soi đường vào Nam Bộ. Bộ phận thứ nhất do đồng chí Trần Quang Sang (đội trưởng) và đồng chí Nguyễn Quang Nhường (đội phó) chỉ huy, đi từ phía đông tỉnh Quảng Đức qua Kờ Pút, vượt sông Đồng Nai Thượng phát triển về hướng Tà Lài - Cát Tiên. Bộ phận thứ hai do đồng chí Phùng Đình Ấm (đội trưởng) và đồng chí Nguyễn Đình Kính (đội phó) chỉ huy, mở đường ra phía nam Đắc Min, vượt đường 14 tiến về Bà Rá, chiến khu Đ...

Khu vực tiếp giáp giữa Khu 5 và Nam Bộ, nơi B4 soi đường tạo lập tuyến hành lang, kể từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 hầu như là một "vùng trắng"; cách mạng chưa "cắm rễ" được ở nơi đây. Ngay trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954), nhiều đợt vũ trang tuyên truyền từ Nam Bộ ra hay từ Khu 5 vào đều bị địch đẩy bật trở lại. Để bám được vào dân, gây dựng được cơ sở cách mạng, mở tuyến hành lang nhích dần về Nam, cán bộ, chiến sĩ B4 đã phải "hóa thân thành người các dân tộc Ê Đê, Mơ Rông, Châu Ro... ; cùng làm nương rẫy và sinh sống với bà con dân tộc. Có đồng chí đã hy sinh do địch phục kích hoặc bị "quật ngã” bởi những cơn sốt rét rừng.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 14 Tháng Tư, 2010, 11:28:04 am
Ở Nam Bộ, từ cuối năm 1958, Xứ ủy đã chủ trương mở tuyến giao liên bộ ra bắt liên lạc với Trung ương. Đội vũ trang tuyên truyền của Xứ ủy do đồng chí Lâm Quốc Đăng phụ trách; đội vũ trang tỉnh Phước Long do đồng chí Phạm Thuận - Bí thư Tỉnh ủy phụ trách và đại đội 59 thuộc Liên tỉnh ủy miền Đông Nam Bộ do đồng chí Nguyễn Văn Tâm phụ trách đã cắt rừng, xuyên qua những vùng chưa từng có dấu chân người ở Bù Đăng, Bù Gia Mập (Phước Long), Sơ Nia (Quảng Đức) tiến ra cực Nam Trung Bộ và Tây Nguyên.

Sau những tháng ngày len lỏi tìm đường giữa những cánh rừng hoang vu và núi non hiểm trở, với một niềm tin son sắt vào ánh sáng của Đảng, vào sự tất thắng của cách mạng, vào lúc 16 giờ ngày 30 tháng 10 năm 1960, đội thứ nhất của B4 đã bắt được liên lạc với đại đội 59 Liên tỉnh ủy miền Đông Nam Bộ tại một dòng suối cạn thượng nguồn sông Đồng Nai Thượng; và ngày 4 tháng 11 năm 1960, tại km 5 trên đường 14, khu vực ngã ba biên giới Việt Nam - Lào - Campuchia, đội vũ trang tuyên truyền tỉnh Phước Long đã bắt được liên lạc với đội thứ hai của B4 do đồng chí Phùng Đình Ấm phụ trách.

Thiết lập được tuyến hành lang giao liên từ Trung Bộ vào miền Đông Nam Bộ, tuyến giao liên vận tải quân sự Trường Sơn thật sự trở thành cầu nối giữa căn cứ địa miền Bắc với miền Nam.

Ngày 15 tháng 1 năm 1960, Ban Cán sự họp lần thứ hai trên tuyến, đánh giá tình hình, rút kinh nghiệm bước đầu triển khai nhiệm vụ và đề ra chủ trương, biện pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động có hiệu quả hơn.

Ở miền Nam, sau khi có Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng, phong trào cách mạng đã có những chuyển biến mau lẹ, mạnh mẽ. Nhân dân miền Nam vùng dậy đấu tranh với nhiều hình thức phong phú, sáng tạo. Từ phong trào đấu tranh của quần chúng, từ những cuộc khởi nghĩa nổ ra ở vùng rừng núi Liên khu 5, cực Nam Trung Bộ và Nam Bộ đã phát triển thành phong trào Đồng Khởi cuối năm 1959 - đầu năm 1960.

Thắng lợi của phong trào Đồng Khởi giáng một đòn mạnh và bất ngờ vào chính quyền phát xít Mỹ - Diệm. Vùng giải phóng và vùng quần chúng nổi dậy giành quyền làm chủ được mở rộng. Lực lượng đấu tranh chính trị có tổ chức của quần chúng phát triển nhanh chóng, trở thành lực lượng tiến công hùng hậu và sắc bén của cách mạng. Lực lượng vũ trang cách mạng qua phong trào Đồng Khởi có bước phát triển mạnh mẽ về số lượng và chất lượng. Bằng phong trào Đồng Khởi, cách mạng miền Nam đã từ thế giữ gìn lực lượng chuyển sang thế tiến công.

Trước bước phát triển có ý nghĩa chiến lược của cách mạng miền Nam, Bộ Chính trị, Trung ương Đảng chủ trương đẩy mạnh hoạt động chi viện chiến trường. Vị trí, vai trò của Đoàn 559 ngày càng quan trọng, nhiệm vụ của Đoàn ngày càng nặng nề hơn. Trong thư gửi Ban Cán sự Đoàn 559 nhân dịp Tết Canh Tý, Thường trực Tổng Quân ủy đánh giá cao cố gắng nỗ lực của cán bộ, chiến sĩ Đoàn 559: "Các đồng chí đã đảm nhiệm một nhiệm vụ vinh quang, góp phần cống hiến rất cụ thể vào sự nghiệp đấu tranh hoàn thành giải phóng dân tộc của nhân dân ta ... Các đồng chí có những người rất gương mẫu ..., tinh thần yêu nước cách mạng cao, nên đã vượt mọi khó khăn gian khổ, đạt những kết quả bước đầu tốt đẹp ...".

Chúng ta tin tưởng rằng rồi đây dù khó khăn gian khổ gấp bội, với quyết tâm ngày càng được củng cố, ý chí ngày càng cao, chúng ta sẽ vượt qua tất cả, bắt đỉnh Trường Sơn phải cúi đầu, Mỹ - Diệm phải khuất phục... Tổng Quân ủy khẳng đinh: “Nhiệm vụ công tác của Đoàn 559 ngày càng trở thành quan trọng, cấp thiết hơn; cán bộ, chiến sĩ của Đoàn càng phải cố gắng vượt qua mọi khó khăn hoàn thành nhiệm vụ hơn nữa". Ngày 15 tháng 1 năm 1960, Ban Cán sự Đoàn họp ra nghị quyết lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ của tuyến trước yêu cầu và tình hình mới.

Trên cơ sở đánh giá đúng những thuận lợi, khó khăn, Ban Cán sự chủ trương: "Tăng cường xây dựng kế hoạch vận chuyển cho hợp lý, cụ thể, nhằm bảo đảm số lượng hàng chính và chủ yếu... Luôn luôn bảo đảm chất lượng hàng hóa trên đường. Bảo đảm bí mật, sẵn sàng đối phó với địch trong mọi trường hợp... Lấy tránh địch là chủ yếu; trường hợp không tránh được thì phải có kế hoạch đối phó, chiến đấu, không được để lọt vào tay địch".


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 14 Tháng Tư, 2010, 11:28:35 am
Thực hiện chủ trương của Ban Cán sự và được sự giúp đỡ trực tiếp của Tỉnh ủy Quảng Trị, một ban chỉ huy hành lang hỗn hợp được thành lập gồm các đồng chí: Chu Đăng Chữ, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 301, Nguyễn Danh - Chính ủy tiểu đoàn 301 và đồng chí Đào - Tỉnh ủy viên Quảng Trị. Ban chỉ huy hành lang hỗn hợp có nhiệm vụ liên hệ chặt chẽ với Tỉnh ủy Quảng Trị và Ban Cán sự Đoàn 559, tổ chức nắm cụ thể tình hình địch và ta trên đường để quyết định nhưng giải pháp cụ thể, kịp thời.

Thực hiện nhiệm vụ năm 1960, toàn Đoàn bước vào đợt sinh hoạt chính trị, quán triệt Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng, thư của Thường trực Tổng Quân ủy và Nghị quyết Hội nghị Ban Cán sự lần thứ hai; tiếp đó tiến hành Đại hội Đảng từ chi bộ tới Đảng bộ Đoàn. Công việc chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức kéo dài gần hết tháng 1.

Khi quân và dân miền Bắc nhộn nhịp chuẩn bị đón Tết cổ truyền Canh Tý, cán bộ, chiến sĩ Đoàn 559 chính thức ra quân trên tuyến - cả hai tuyến vận chuyển đường bộ và đường thủy.

Đêm 27 tháng 1 năm 1960 (đêm 30 Tết Canh Tý), con thuyền chở chuyến vũ khí đầu tiên của Đoàn 603 được lệnh rời cảng Gianh vào giao hàng cho Liên khu 5. Thuyền có 6 người do trung úy Nguyễn Bất làm thuyền trưởng, Trần Thuế thuyền phó và các thuyền viên: Nguyễn Sanh, Nguyễn Sơn, Nguyễn Văn Nửa, Huỳnh Ba. Thuyền chở hơn 5 tấn vũ khí, đạn và thuốc quân y.

Triệt để lợi dụng yếu tố bí mật bất ngờ (đêm giao thừa), thuyền lặng lẽ rời cảng Gianh. Nhưng càng ra khơi, sóng biển càng to, gió nổi lên mỗi lúc thêm mạnh. Sáu cán bộ, thuyền viên dũng cảm chống chọi với sóng gió, đưa thuyền vào được vùng biển Quảng Nam thì bất ngờ thuyền bị gãy bánh lái và trôi dạt tới Cù Lao Xanh (thuộc vùng biển tỉnh Quảng Ngãi). Lực lượng phòng thủ của địch phát hiện được và lập tức tổ chức vây bắt thuyền của ta. Để giữ bí mật ý định chiến lược mở tuyến chi viện từ miền Bắc vào miền Nam bằng đường biển; theo phương án đã định sẵn, thuyền trưởng Nguyễn Bất lập thời quyết định thả hàng xuống biển trước khi sáu cán bộ, thuyền viên rơi vào tay địch. Bị địch bắt và tra khảo dã man, lưu đày qua nhiều nhà tù, song cả sáu cán bộ, chiến sĩ vẫn một lòng kiên trung với Đảng, với cách mạng, giữ vững bí mật tuyến đường và phương thức vận chuyển.

Sau chuyến đi đầu tiên không thành công, tiểu đoàn 603 tạm ngừng hoạt động. Mặt khác trên thực tế lúc này việc cùng một lúc tổ chức điều hành hai tuyến vận chuyển chi viện với các phương thức khác nhau, địa bàn cách xa nhau là một trở ngại, phức tạp đối với lãnh đạo, chỉ huy Đoàn 559. Trước tình hình đó, tháng 4 năm 1960, Bộ Quốc phòng quyết định giải thể tiểu đoàn 603, giao nhiệm vụ vận tải chi viện bằng đường biển cho bộ đội hải quân. Phần lớn lực lượng tiểu đoàn 603 sáp nhập vào tiểu đoàn vận tải bộ 301 

Tháng 11 năm 1960, Bộ Tổng tham mưu quyết định thành lập Đoàn 70, lực lượng nòng cốt là tiểu đoàn 301. Tiểu đoàn 603 (Đoàn 759 - Tập đoàn đánh cá miền Nam) chỉ tồn tại trong một thời gian rất ngắn, thực hiện chuyến ra quân đầu tiên tuy không thành công nhưng đã cung cấp nhiều kinh nghiệm quý về phương thức bí mật vận chuyển vũ khí chi viện chiến trường bằng đường biển, giúp bộ đội hải quân hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ này trong những năm sau.

Trên tuyến đường bộ, đầu tháng 2 năm 1960, tiểu đoàn 301 (sau là Đoàn 70) chính thức vào tuyến. Sau đợt sinh hoạt chính trị, củng cố tổ chức, rút kinh nghiệm, tranh thủ thời tiết khá thuận lợi, tới trung tuần tháng 2, Đoàn 70 đã chuyển vào tuyến 5.870kg vũ khí, đạn (giao cho trạm đầu của Liên khu 5 được 5.190kg) đồng thời lập chân hàng ở trạm 2 (bắc sông Bến Hải) được 1.042 kg.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 14 Tháng Tư, 2010, 11:29:08 am
Để đối phó với hoạt động đánh phá, ngăn chặn của địch, ngày 20/2/1960 - ngay sau khi địch mở cuộc càn “Hoành Sơn", Ban Cán sự họp khẩn cấp (lần thứ ba). Hội nghị thống nhất phương châm ánh địch tích cực, bảo đảm an toàn bí mật, tranh thủ mọi điều kiện để thực hành vận chuyển; đồng thời chỉ rõ một số nhiệm vụ cụ thể: yêu cầu trước mắt là phối hợp với địa phương ra sức củng cố cơ sở nhân dân...; tăng cường cán bộ cho những trạm xung yếu (mỗi rạm có từ 2 - 3 cán bộ cấp đại đội). Bố trí mạng vô tuyến điện, bảo đảm chỉ huy cả hai đường, tổ chức nắm địch chặt chẽ hơn nữa.

Chủ trương mới của Ban Cán sự chưa kịp triển khai, cuộc càn "Hoành Sơn" vừa kết thúc, thì đầu tháng 4 năm 1960, địch mở tiếp cuộc càn lần thứ hai, nhằm tiếp tục khủng bố triệt phá cơ sở, chặn cắt hành lang giao liên vận tải Bắc - Nam. Một trung đoàn chủ lực và nhiều đại đội địa phương quân ngụy lùng sục suốt hai tháng dọc theo hai bên đường số 9, phía bắc tới vĩ tuyến 17. Chúng đã truy bắt hơn 200 thường dân và một số đồng chí chi ủy viên, đảng ủy xã, cơ sở mật. Già Nường, già Riêu lái đò trên sông Đak Rông bị địch bắn chết. ông Vô Hơ phải bỏ thuyền trốn vào rừng. Già Lừa ở làng Bíu bị địch tra khảo đến tàn phế...

Dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng địa phương, đồng bào các dân tộc trong vùng đã đoàn kết, kiên cường đấu tranh chống địch khủng bố, bắt bớ, bảo vệ cơ sở cách mạng, bảo vệ tuyến hành lang... Trong đấu tranh, đã xuất hiện nhiều gương dũng cảm, mưu trí, anh dũng hy sinh.

Khi địch mở cuộc càn lớn thứ hai, đồng chí Hồ Vang - người bản Nước Chảy, cơ sở liên lạc với đội 5 nhận lệnh của Tỉnh ủy Quảng Tri báo cho Đoàn 559 biết kế hoạch càn quét của địch. Dù địch có chỉ điểm, lại bị khống chế chặt, Hồ Vang vẫn khôn khéo hướng dẫn vợ tìm cách bí mật báo cho chỉ huy Đoàn 70. Nhờ đó lãnh đạo chỉ huy Đoàn kịp thời dồn đội 7 và đội 8 vào khu vực đội 9; đội 6 và đội 5 ra khu vực đột 3, nhanh chóng cất giấu hàng hóa, bảo đảm bí mật.

Làng Cát - một làng nhỏ cạnh đường số 9, thuộc xã Hương Sơn (Hướng Hóa) nằm giữa trạm 5 và trạm 6 là trọng điểm càn quét của địch. Phát hiện địch phục kích trên tuyến vận chuyển, một số thiếu nữ Vân Kiều làng Cát đã tìm cách đấu tranh trực diện để báo động cho các trạm vận chuyển có kế hoạch phòng tránh. Vợ chồng anh Lâm Pàng - người làng Cát được giao nhiệm vụ mua và chuyển gạo, thực phẩm khô cho trạm 5. Khi bị địch bắt, tra tấn dã man, vợ chồng Lâm Pàng vẫn không khai một lời, thà hy sinh, không để tuyến đường bị lộ. Có người dân tộc Vân Kiều sáng sớm ra suối, lên nương thấy lối mòn do bộ đội hành quân trong đêm hiện rõ trên cỏ ướt lập tức quay về gọi dân bản lùa trâu bò ra quần đảo, xóa nhanh dấu vết con đường ...

Trước sự khủng bố truy bắt ráo riết của kẻ thù, hầu hết nhân dân 39 thôn, bản bắc đường số 9 phải tạm lánh vào rừng. Khác với những cuộc càn trước đây, lần này địch chốt lại vùng càn trong một thời gian khá dài, tiếp tục lùng sục tìm bắt cơ sở và manh mối tuyến vận tải quân sự. Nhân dân buộc phải ở lâu trong rừng. Bản làng tiêu điều xơ xác thưa vắng bóng người. Khu vực bắc đường số 9 dọc tuyến hành lang trở thành “vùng trắng".

Trước tình hình đó, Ban Cán sự Đoàn 559 kịp thời báo cáo Tổng Quân ủy, Bộ Quốc phòng và quyết định đưa toàn bộ Đoàn 70 lùi về hậu cứ để củng cố lực lượng, chuẩn bị tìm phương thức mới.

Việc địch truy quét gắt gao, chốt giữ lâu ngày tạo nên "vùng trắng” dọc tuyến hành lang đặt Đoàn 559 trước những khó khăn rất lớn. Không thể tiếp tục vận chuyển trên tuyến cũ, Ban Cán sự quyết định tìm mở đường mới. Ngay sau khi rút toàn bộ đội hình ra làng Mít (Quảng Bình), nhiều đoàn cán bộ, chiến sĩ được cử đi soi tìm đường mới ở tuyến đông Trường Sơn song đều không có kết quả.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 14 Tháng Tư, 2010, 11:29:42 am
Tháng 6 năm 1960, một đoàn cán bộ, chiến sĩ kết hợp cùng với một số cán bộ Tỉnh ủy Quảng Trị, Huyện ủy Hướng Hóa, Huyện ủy Cam Lộ soi đường, song không bắt liên lạc được với quần chúng cơ sở ở khu vực nam - bắc đường số 9, vì phần lớn nhân dân phải chạy vào rừng lánh giặc. Một bộ phận trở về bản làng cũ do sợ địch khủng bố, không dám hoạt động. Đoàn soi đường không vượt được đường số 9, phải quay về hậu cứ.

Tháng 8 năm 1960, Đoàn trưởng Võ Bẩm vào làng Mít trực tiếp chỉ đạo tổ chức lực lượng soi đường mới dọc biên giới Việt - Lào, với phương châm "tránh địch, giấu dân", vừa tìm đường vừa gây dựng cơ sở. Mãi tới tháng 3 năm 1961, tổ soi đường này mới bắt được liên lạc với đại diện Liên khu ủy 5 ở vùng Chun, trên dãy Trường Sơn. 

Trên thực tế, mùa mưa năm 1960 hoạt động vận chuyển của Đoàn 559 gần như ngừng trệ. Đường cũ không duy trì được. Đường mới chưa khai thông; các giải pháp khắc phục hoạt động ngăn chặn của kẻ thù chưa có kết quả.

Gần cuối mùa mưa năm 1960, qua trinh sát nắm tình hình, ta biết sau một thời gian chốt chặn, lừng sục, không tìm được gì hơn lực lượng địch càn quét khu vực đường số 9 đã rút về Đông Hà - Quảng Trị. Hầu hết nhân dân vào rừng lánh giặc đã trở về bản làng cũ, từng bước ổn định đời sống, sản xuất.

Trước tình hình đó, ngày 1 tháng 9 năm 1960, Ban Cán sự họp hội nghị lần thứ năm, nghiên cứu tìm giải pháp hoạt động có hiệu quả nhằm chấm dứt sự ngừng trệ vận chuyển chi viện trong gần 6 tháng vừa qua (từ tháng 3 đến tháng 9 năm 1960). Ban Cán sự chủ trương "phải quyết tâm tự lực cánh sinh, tranh thủ sử dụng đi đường cũ đồng thời tiếp tục soi đường mới để làm đường dự bị

Ngay sau hội nghị Ban Cán sự, một đoàn cán bộ gồm các trung đội trưởng và trinh sát viên do đồng chí Hà Kỳ Thự chỉ huy nhận nhiệm vụ trinh sát lại đường cũ, nắm tình hình và quy luật hoạt động của địch sau cuộc càn, tình hình nhân dân trong vùng chuẩn bị kỹ phương án bố trí lại các trạm, nghiên cứu nắm lại những đoạn đường buộc phải điều chỉnh.

Trở lại tuyến hành lang cũ sau những cuộc càn quét, chà xát dài ngày khốc liệt của địch, đoàn trinh sát tận mắt chứng kiến đời sống nhân dân vốn khó khăn càng thêm khốn khó. Những gì có thể dùng được đã bị kẻ địch cướp hết. Vào đúng thời kỳ giáp hạt, dân các bản làng hầu như cạn kiệt gạo, bắp ...; nguồn sống chủ yếu là măng rừng, lõi cây chuối non ...

Ban Cán sự Đoàn 559 quyết định đưa ngay một bộ phận Đoàn 70 vào tuyến, khẩn cấp chuyển muối, gạo, thuốc chữa bệnh, cứu đói, cứu bệnh cho dân. Khi cuộc sống của nhân dân tạm qua buổi cùng cực, thì việc khôi phục tuyến hành lang cũng được hoàn tất về cơ bản; lực lượng cảnh giới, trinh sát tăng gấp 4 đến 5 lần. Toàn Đoàn được lệnh chuyển hàng qua tuyến.

Phương thức vận chuyển lúc này cũng có một số thay đổi tùy theo tình hình thực tế, chủ yếu là chuyển hàng về đêm; song cũng có lúc, có chặng tổ chức vận chuyển ban ngày. Bình thường vận chuyển tuần tự từng cung, trạm; nhưng khi nắm chắc tình hình an toàn, Đoàn tổ chức đi ồ ạt từng chuyến. Trước khi bộ đội vượt đường số 9, các tổ trinh sát cảnh báo tình hình địch chính xác. Với nhiều giải pháp vận chuyển khá năng động, năng suất vận chuyển của bộ đội tăng đáng kể. Trung bình lượng hàng vận chuyển của Đoàn trong một tháng vào mùa khô 1959 - 1960 là 4 tấn, nay tăng lên 6 tấn.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 14 Tháng Tư, 2010, 11:30:14 am
Với quyết tâm dồn sức vận chuyển bù lấp khoảng thời gian dài hoạt động của tuyến bị ngừng trệ, kết thúc năm 1960, Đoàn 70 đã chuyển giao cho Liên khu 5 được 30,6 tấn vũ khí, đạn và hàng quân dụng (trong tổng số hàng bao gói xuất tại kho hậu cứ là 50 tấn). Hàng chục tấn gạo, muối được gùi cõng vào tuyến, bảo đảm cho Đoàn và cứu đói cho dân. 1.808 cán bộ, chiến sĩ được bảo đảm hành quân vào miền Nam.

Ngày 22 tháng 11 năm 1960, Ban Cán sự họp đánh giá: " Thắng lợi lớn nhất là mặt bảo đảm nhiệm vụ chính trị. Kẻ địch đã dùng đủ các loại quân (chủ lực, công an, mật vụ gián điệp, bảo an, biệt kích), có lúc chúng kéo cả trung đoàn sục sạo phục kích chúng ta, có lúc chúng cải trang thành thường dân, có lúc chúng trú quân ngay trên hành lang của ta, bắt bọn phản động người địa phương dẫn đi trên đường của ta ..., nhưng chúng ta đều tránh khỏi, không để lọt vào tay chúng một vật gì và cũng không cho chúng giáp mặt lần nào".

Tuy nhiên, từ thực tiễn khó khăn của hoạt động vận chuyển trong mùa mưa năm 1960, ngoài nguyên nhân địch tăng cường đánh phá, ngăn chặn, Ban Cán sự cũng sớm thấy sự bị động lúng túng của Đoàn, không phát huy được tính tích cực chủ động khi cơ sở bị vỡ, trông nhờ địa phương mở đường mới. Đặc biệt, chủ trương lánh dân đã bộc lộ rõ sự bị động của ta. "Khi địch đánh phá đường dây dễ bị đứt, lúc địch rút thì không nắm được tình hình để nhanh chóng khôi phục hoạt động bình thường. Khi cần tìm đường mới thì không có người thông thuộc địa hình giúp đỡ. Việc tiếp tế lương thực cho số anh em hoạt động trong lòng địch không khai thác được khả năng tại chỗ, phải gùi từ ngoài vào, làm giảm khả năng mang hàng chính cho chiến trường”.

Những bài học rút ra từ thực tiễn có ý nghĩa vô cùng quan trọng, tạo tiền đề khi điều kiện cho phép, Đoàn nhanh chóng chuyển đổi phương thức vận chuyển cho phù hợp, từ phòng tránh bị động tiến tới phòng tránh tích cực và cao hơn là: đánh địch mà đi, đánh địch để vận chuyển.

Kết thúc kế hoạch vận chuyển năm 1960, Đoàn tổ chức hội nghị mừng công tại sở chỉ huy tiền phương, khẩn trương củng cố tổ chức, bồi dưỡng phục hồi sức khỏe cho cán bộ, chiến sĩ. Hội nghị mừng công của Đoàn vinh dự được đón các đồng chí Trần Nam Trung (Trần Lương) - ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Liên khu ủy 5, đồng chí Trần Văn Trà - Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam tới dự, tặng quà và động viên cán bộ, chiến sĩ.

Nhân dịp này Đoàn 70 vận tải bộ được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Nhất. Ba đơn vị trực thuộc Đoàn 70: đội 6, đội 7 vận tải bộ, đội 10 trinh sát bảo vệ được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Nhì. Thiếu úy liệt sĩ Nguyễn Minh Thông được truy tặng Huân chương Chiến công hạng Ba. Nhiều cán bộ, chiến sĩ của Đoàn được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Ba và bằng khen của Nhà nước. Đây là những phần thưởng cao quý đầu tiên mà Đảng Nhà nước dành cho cán bộ, chiến sĩ Đoàn 559 - là sự ghi nhận những chiến công thầm lặng song có ý nghĩa vô cùng lớn lao trong bước khởi đầu của những người lính giao liên, vận tải trên tuyến đường Trường Sơn lịch sử.

Tròn 18 tháng, trải qua hai mùa khô và một mùa mưa Trường Sơn, Đoàn vận tải quân sự chiến lược 559 đã tiến được những bước mở đầu quan trọng trên con đường chiến lược Bắc - Nam. Từ những bước lặng lẽ soi đường mở lối đầu tiên, những người lính Trường Sơn đã thiết lập được tuyến hành lang giao liên, vận tải quân sự dài hàng trăm kilômét trong điều kiện địa hình bị chia cắt và kẻ thù ngăn chặn quyết liệt. Theo nhưng con đường rừng ấy, hàng chục tấn vũ khí, khí tài thiết yếu đã được chuyển giao cho lực lượng vũ trang Liên khu 5 và Tây Nguyên, hơn hai nghìn cán bộ, chiến sĩ đã được bảo đảm hành quân vào các chiến trường.

Từ đại ngàn Trường Sơn, bằng những chiến công thầm lặng của mình, cán bộ, chiến sĩ Đoàn 559 đã viết nên màn dạo đầu của bản trường ca hào hùng "Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 19 Tháng Tư, 2010, 03:14:09 pm
II. NHỮNG BƯỚC TIẾN DÀI, VƯƠN RỘNG

Mùa thu năm 1960, miền Bắc cơ bản hoàn thành kế hoạch khôi phục và cải tạo kinh tế bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ở miền Nam, Mỹ-ngụy chuyển sang thực hiện chiến lược "Chiến tranh đặc biệt”. Cách mạng miền Nam chuyển từ đấu tranh chính trị lên kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị. Tình hình mới đòi hỏi Đảng ta kịp thời đề ra chiến lược cách mạng mới.

Từ ngày 5 đến ngày 10 tháng 9 năm 1960, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III tiến hành tại Thủ đô Hà Nội.

Khai mạc Đại hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Đại hội lần này là Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà".

Sau 3 năm thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ III, miền Bắc đã có sự thay đổi sâu sắc toàn diện trên các mặt kinh tế, chính trị, xã hội. Những thành tựu đó không chỉ khẳng định thắng lợi bước đầu của cách mạng xã hội chủ nghĩa trên miền Bắc mà còn tạo cơ sở vật chất, kinh tế - xã hội, sức mạnh chính trị - tinh thần cho sự nghiệp giải phóng miền Nam.

Ở miền Nam, từ cuối năm 1960, hình thức thống trị thực dân mới thông qua chính quyền tay sai độc tài phát xít Ngô Đình Diệm bị thất bại. Mỹ - ngụy buộc phải thay đổi chiến lược.

Ngay sau khi nhậm chức Tổng thống Mỹ (28/1/1961) Kennơđi đã chọn miền Nam Việt Nam làm nơi thí nghiệm chiến lược "Chiến tranh đặc biệt”. Quân đội Sài Gòn được sử dụng làm công cụ tiến hành càn quét, dồn dân, lập ấp chiến lược trên quy mô lớn, hòng tách lực lượng cách mạng ra khỏi nhân dân; chiếm lại những địa bàn và những vùng đông dân cư đã mất do cuộc Đồng Khởi của ta; nhanh chóng bình định miền Nam.

Để đối phó, tiến tới đánh thắng chiến lược "Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ, trên cơ sở thế và lực đã có Đảng ta chủ trương chuyển cách mạng miền Nam lên giai đoạn mới, phát triển các cuộc khởi nghĩa từng phần thành chiến tranh cách mạng trên toàn miền Nam.

Ngày 31 tháng 1 năm 1961, Bộ Chính trị ra nghị quyết về nhiệm vụ quân sự 5 năm (1961- 1965) và phương hướng, nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam. Bộ Chính trị chỉ rõ những nhiệm vụ quan trọng của cách mạng miền Nam lúc này là: Phát triển nhanh lực lượng vũ trang, cả lực lượng tại chỗ và lực lượng cơ động; chú trọng mở rộng các căn cứ địa, xây dựng hậu phương tại chỗ...

Về tổ chức chỉ đạo, chỉ huy, Bộ Chính trị đề ra những chủ trương quan trọng; đặc biệt là: "Mở rộng đường hành lang vận chuyển Bắc - Nam, cả đường bộ và đường biển, tăng cường cán bộ chỉ huy, chính trị, hậu cần và một số đơn vị chiến đấu cấp đại đội tiểu đoàn, nâng dần quy mô và khối lượng tiếp tế, vận chuyển phương tiện vũ khí, cung cấp tài chính từ miền Bắc vào miền Nam".

Trong tình hình thế giới còn có những diễn biến phức tạp, đối với hoạt động vận tải vào chiến trường cũng như đối với cách mạng miền Nam nói chung, Bộ Chính trị vẫn chủ trương: "Phải hành động khéo léo để tránh một cuộc can thiệp vũ trang lớn của đế quốc, thực hiện kiềm chế Mỹ và thắng Mỹ ở miền Nam. Đồng thời phải tích cực chuẩn bị, sẵn sàng đối phó với âm mưu và hành động mở rộng chiến tranh của địch".

Chủ trương của Bộ Chính trị có ý nghĩa chỉ đạo trực tiếp đối với hoạt động của tuyến chi viện chiến lược Trường Sơn.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 19 Tháng Tư, 2010, 03:15:05 pm
Cùng với các lực lượng vũ trang trên miền Bắc, đầu xuân 1961, cán bộ, chiến sĩ Đoàn 559 tiến hành một đợt sinh hoạt chính trị quán triệt các nghị quyết của Đảng về kế hoạch quân sự 1961- 1965, về nhiệm vụ cách mạng hai miền Nam - Bắc và nhiệm vụ của Đoàn năm 1961. Đoàn trưởng Võ Bẩm vào làng Ho tổ chức hội nghị Ban Cán sự, phổ biến nhiệm vụ của Đoàn trong năm 1961 là: vận chuyển vào miền Nam 300 tấn vũ khí, trang bị (gấp 3,5 lần năm 1960) và tổ chức bảo đảm cho 6.000 cán bộ, chiến sĩ qua tuyến công tác ở chiến trường. 

Để thực hiện được nhiệm vụ trên giao, Ban Cán sự ra nghị quyết: "Ra sức nâng cao quyết tâm, nâng cao ý chí phấn đấu hy sinh, lòng phấn khởi, tin tưởng trong Đảng bộ hơn nữa vào sự nghiệp giải phóng miền Nam... Sẵn sàng phấn đấu lâu dài, bền bỉ, hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ của Đảng giao... Đoàn kết phối hợp với địa phương để củng cố hành lang chiến lược hiện có và khẩn trương xây dựng hành lang mới bảo đảm vững chắc, hoạt động tích cực...

Về phương châm công tác: phải bảo đảm tuyệt đối bí mật, an toàn cho cán bộ, bộ đội vũ khí, hàng hóa, tài liệu; không để lọt vào tay địch... Tất cả hoạt động của Đoàn phái tránh địch là chủ yếu, đánh địch là trường hợp phải tự vệ”.

Kết thúc đợt sinh hoạt chính trị và hoàn tất công tác chuẩn bị, toàn Đoàn chính thức nhập tuyến. Đoàn 70 trở lại hoạt động trên tuyến hành lang cũ. Một số cán bộ cơ quan và trinh sát viên xuất phát từ Hướng Lập tìm mở đường mới dọc theo biên giới Việt - Lào.

Do chuẩn bị chu đáo, triệt để tận dụng thời cơ địch "lơi lỏng” tuần phòng, sục càn trong dịp Tết Tân Sửu (1961), Đoàn 70 bí mật, khẩn trương chuyển hàng và bảo đảm hành quân qua tuyến. Đến cuối tháng 2 năm 1961, Đoàn đã chuyển giao Khu 5 được 4,034 tấn vũ khí, trang bị; bảo đảm cho gần 600 cán bộ, chiến sĩ hành quân vào chiến trường.

Nhưng thời cơ kể trên chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn. Để thực hiện chiến lược "Chiến tranh đặc biệt”, từ đầu năm 1961cùng với việc tăng cường cố vấn và lực lượng đặc biệt của Mỹ vào miền Nam, cải tiến hệ thống tổ chức chiến trường, tăng viện trợ cho chính quyền Sài Gòn, Mỹ gấp rút triển khai chương trình bình định miền Nam trong vòng 18 tháng. Nhằm củng cố "Phòng tuyến chống thâm nhập từ miền Bắc”, Mỹ giúp Diệm xây dựng "lực lượng đặc biệt” chốt chặn dọc theo đường số 9.

Trên chiến trường Trị - Thiên, địch điều đại bộ phận sư đoàn 1 ngụy ra Quảng Trị. Trung đoàn 1 ngụy được bố trí ở La Vang. Trung đoàn 2 đóng ở Đông Hà và một bộ phận dọc theo đường số 9. Trung đoàn 3 đứng chân ở miền tây và vùng núi giáp anh hai tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên. Cùng với xây dựng quân chủ lực cơ động, Mỹ ngụy khẩn trương gia tăng lực lượng biệt kích, chú trọng tuyển mộ lính là người các dân tộc thiểu số để dễ bề phục kích đánh phá tuyến hành lang của ta. Đồng thời địch ra sức kìm kẹp nhân dân, hòng tách nhân dân khỏi ảnh hưởng của cách mạng, triệt phá sức đề kháng của nhân dân ở vùng đồng bằng, tạo điều kiện để chúng dồn lực lượng lên đánh phá miền núi, trọng tâm là dọc đường số 9 và khu vực dọc theo biên giới Việt - Lào.

Ngay sau khi điều chỉnh lực lượng, tháng 3 năm 1961, quân ngụy Sài Gòn phối hợp với quân của Phumi Nôxavẳn (quân ngụy Lào) mở cuộc hành quân càn quét quy mô lớn dọc theo đường số 9 đánh vào một số căn cứ của ta và bạn trên hành lang đông Trường Sơn. Trong trận càn này, địch đã tập kích một trạm vận chuyển của Đoàn 70, hai lần phục kích buộc hai tổ trinh sát của Đoàn 70 ở khu vực đường số 9 phải nổ súng tự vệ. Địch cũng ráo riết dồn dân về các trại tập trưng: A Lưới, A So, Rào Quán, Tân Lâm..., mở rộng "vành đai trắng"...


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 19 Tháng Tư, 2010, 03:15:48 pm
Trước hoạt động đánh phá ngăn chặn ngày càng quyết liệt của kẻ thù, tháng 3 và tháng 4 năm 1961, Đoàn 70 được lệnh tạm ngừng chuyển hàng, bảo toàn lực lượng và tìm giải pháp mới.

Để thống nhất lực lượng cũng như hoạt động giao liên vận tải vào chiến trường trên cùng tuyến hành lang, tháng 4 năm 1961, Trung ương Đảng và Quân ủy Trung ương Bộ Quốc phòng quyết định sáp nhập tuyến giao liên của ủy ban Thống nhất Trung ương gồm 200 cán bộ, chiến sĩ thuộc Phòng Hành quân và các trạm giao liên từ Vinh (Nghệ An) tới Thừa Thiên (trong vùng địch kiểm soát gọi là đoàn Lam Sơn) vào Đoàn 559.

Tổ chức lực lượng của Đoàn 559 được tăng cường đáng kể; đồng thời cũng kết thúc tình hình trên một địa bàn, một tuyến hành lang tồn tại hai tổ chức, hai lực lượng cùng làm nhiệm vụ vận tải vào chiến trường, bảo đảm giao liên hành quân.

Chủ động đánh địch, tháng 5 năm 1961, công an vũ trang Vĩnh Linh phối hợp với trung đoàn 270 được sự hỗ trợ của nhân dân, tổ chức một đợt hoạt động kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính tri ở khu vực phía tây bắc đường số 9, buộc địch phải rút bỏ các vị trí: A Rông, Tà Riệt, Nguồn Rôn, Ra Gã, Tà Rụt... Ta giải phóng 6 tổng phía bắc đường số 9.

Khi địch giảm cường độ sục càn tuyến hành lang và sau khi tiếp nhận đường dây Thống Nhất, "xốc" lại đội hình, Ban Cán sự quyết định đưa Đoàn 70 trở lại tuyến hoạt động. Nhưng lúc này mưa ngàn đã vào mùa nên hiệu quả vận chuyển, bảo đảm hành quân của Đoàn 70 trong những tháng đầu hè năm 1961 rất hạn chế. Triển vọng thực hiện kế hoạch vận chuyển cả năm rất khó khăn. 

Hoạt động trên tuyến hành lang cũ gần như ngưng trệ. Tuyến đường dọc theo biên giới Việt - Lào qua kết quả khảo sát của hai đoàn được phái đi trước đã có tín hiệu khả quan nhưng nếu mở được tuyến thì địa hình phức tạp khó có thể tổ chức vận chuyển, hành quân quy mô lớn. Trong khi đó, nhu cầu của chiến trường ngày càng cấp thiết, nóng bỏng. Trách nhiệm chính trị, nghĩa tình đối với đồng bào, đồng chí trên chiến trường đặt cán bộ, chiến sĩ Đoàn 559 trước những thử thách hết sức căng thẳng.

Phương án tìm mở đường "lật cánh" sang tây Trường Sơn, một vấn đề có tính chiến lược đã được Ban Cán sự Đoàn 559 trình lên Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng.

Theo yêu cầu của bạn, từ đầu tháng 1 năm 1961, quân tình nguyện Việt Nam phối hợp với bộ đội Pa thét Lào tiến công địch, giải phóng Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng, khu vực đường số 8, đường số 12. Cuối tháng 4 năm 1961, liên quân Lào - Việt tiến công địch ở khu vực đường số 9, giải phóng một loạt các căn cứ quan trọng: Sê Pôn, Mường Phin, Mường Pha Lan... 

Với thắng lợi liên tiếp trong các chiến dịch đầu xuân 1961 trên địa bàn tây Trường Sơn vùng giải phóng ở Trung Lào được mở ra từ Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng xuống Khăm Muộn, Sa Van Na Khét, nối thông với vùng giải phóng Hạ Lào và miền Nam Việt Nam.

Thắng lợi của liên quân chiến đấu Việt - Lào có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, tạo bước ngoặt có tính chiến lược đối với Đoàn 559. Vùng giải phóng Trung - Hạ Lào được mở rộng, tạo thành thế liên hoàn là điều kiện rất thuận lợi để khi hai Đảng, hai Nhà nước Việt - Lào cho phép Đoàn 559 có thể lật cánh sang tây Trường Sơn mở đường dọc theo biên giới Việt - Lào tây Trường Sơn, chấm dứt tình trạng độc tuyến tồn tại đã gần 2 năm, đáp ứng yêu cầu ngày càng lớn của chiến trường.

Ngay sau khi tiếp nhận lực lượng của đường dây Thống Nhất, tháng 5 năm 1961 Đoàn 559 được Bộ bổ sung 500 cán bộ, chiến sĩ, phần lớn mới tuyển ở Nghệ An, Hà Tĩnh. Được tăng cường lực lượng, Đoàn vừa có thể tiếp tục chuyển hàng, bảo đảm hành quân trên tuyến hành lang cũ, vừa khẩn trương mở đường mới .

Căn cứ vào kết quả của hai đoàn trinh sát tìm đường, đầu tháng 3 năm 1961, Ban Cán sự Đoàn 559 đệ trình Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng phương án mở đường dọc theo biên giới . Trung tuần tháng 3 năm 1961, chỉ huy Đoàn 70 cùng với trạm đầu chuyển lên chốt ở Bang, trực tiếp chi huy bộ đội mở đường và thực hành vận chuyển. Ở làng Ho, chỉ còn Chủ nhiệm hậu cần và một bộ phận trông coi kho tàng.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 19 Tháng Tư, 2010, 03:16:23 pm
Đầu tháng 5 năm 1961, việc soi đường xác định các cung, trạm dọc theo biên giới cơ bản hoàn tất. Ngày 14 tháng 6 năm 1961, tuyến mới chính thức bước vào hoạt động. Phần lớn Đoàn 70 chuyển sang hoạt động ở tuyến này. Trên tuyến hành lang cũ chỉ còn một bộ phận nhỏ làm nhiệm vụ giao liên.

Tuyến đường mới bắt đầu từ Vít Thù Lù (cao điểm 592) đi ngang qua động Vàng Vàng, bản A Chốc, vượt biên giới sang bản Tà Ha - cao điểm 1034 (đất bạn), xuôi xuống bản Tà Lăng, qua Cha Ky, vượt sông Sê Pôn, đường số 9 (vùng Bản Keng), men theo phần cao điểm 549, qua Sa Đi, Mường Noọng tới La Hạp.

Cuối năm 1961, một số vùng các huyện miền tây Quảng Trị được giải phóng, Đoàn 559 có điều kiện phát triển tuyến hành lang dọc theo biên giới Việt - Lào. Từ La Hạp, Đoàn 70 mở thêm một đường nữa vượt sông Tam Luông, qua Ta Oác vào tới Pe Hai giao hàng cho Trị -Thiên và Khu 5 . Một đường khác được phát triển tiếp vào Ton Sa, làng Y Óp (thượng nguồn sông Sê Keng, tây bến Giàng khoảng 60km) rồi vào Tăng Non, giao hàng cho Khu 5 và Tây Nguyên.

Các tuyến mới mở ở nam đường số 9 có rất nhiều đoạn khá bằng phẳng; bộ đội ta chỉ cần mở rộng mặt đường và gia cố thêm là có thể sử dụng xe đạp thồ để chuyển hàng.

Đường từ Hướng Lập vào đường số 9 có thể sử dụng ngựa, voi để thồ hàng, tuy vậy cũng có chặng chỉ sử dụng được sức người. Đoạn đường này đi qua ba tổng đất Lào; cơ sở của bạn được xây dựng từ trước, bản làng nào cũng tổ chức dân quân du kích, nên hoạt động trên tuyến khá thuận lợi. Khu vực phía nam đường số 9 vào La Hạp trên đất bạn là vùng mới giải phóng đầu năm 1961, cơ sở còn yếu, chưa phân biệt rõ địch - ta.

Ở những địa bàn phức tạp, Mỹ - ngụy đã tổ chức nhiều tổ biệt kích, thám báo, tề điệp trà trộn vào nhân dân, phá hoại hành lang. Để bảo vệ hành lang, thực hiện tốt nhiệm vụ vận chuyển, Đoàn 70 đã nhiều lần buộc phải nổ súng đánh địch.

Tháng 8 năm 1961, một tiểu đội bảo vệ của Đoàn 70 đẩy lùi một đại đội biệt kích của địch đột nhập vùng giải phóng và hành lang vận chuyển nam đường số 9.

Tháng 10 năm 1961, một tiểu đội vận tải có vũ trang của Đoàn 70 chủ động vây bắt 6 tên biệt kích ngụy Lào khi chúng đang lùng sục phía bắc đường số 9, đuổi một số khác ra khỏi tuyến hành lang.

Tuy vậy, những hoạt động biệt kích, thám báo của địch cũng gây cho ta một số tổn thất. Mùa mưa năm 1961, thượng úy Nguyễn Xuất - tiểu đoàn phó tiểu đoàn trinh sát Đoàn 70 bị địch phục kích và hy sinh trong khi chỉ huy một tổ trinh sát địa hình ở khu vực bờ nam sông Sê Pôn, đối diện Bản Đông. Tiếp đó, một tiểu đội trưởng trinh sát cùng một chiến sĩ bị địch phục kích và hy sinh ở dốc Bà Riềng.

Để bảo vệ hành lang vận chuyển, Đoàn 70 điều động hai trung đội bảo vệ, một trung đội trinh sát phối hợp hoạt động với lực lượng du kích địa phương. Trung đoàn 101 Sư đoàn 325 được giao nhiệm vụ chiến đấu, trực tiếp bảo vệ hành lang của Đoàn 559.

Sau những thắng lợi của liên quân Lào - Việt ở Trung - Hạ Lào và sau khi được hai Đảng, hai Nhà nước Việt - Lào chấp thuận, Đoàn 559 khẩn trương "lật cánh" sang tây Trường Sơn, mở tuyến chi viện qua đất bạn.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 19 Tháng Tư, 2010, 03:17:15 pm
Đầu tháng 4 năm 1961, khi liên quân Việt - Lào chuẩn bị mở chiến dịch giải phóng khu vực đường số 9, Đoàn trưởng Võ Bẩm trực tiếp chỉ huy một lực lượng trinh sát gồm các chiến sĩ dày dạn kinh nghiệm, được tăng cường 20 cán bộ, chiến sĩ thuộc Quân khu 4 hiệp đồng với Tỉnh ủy, Tỉnh đội Sa Van Na Khét trinh sát thực địa chuẩn bị đón thời cơ.

Chiến dịch giải phóng đường số 9 kết thúc thắng lợi, theo lệnh của Bộ Quốc phòng, Quân khu 4 điều gấp tiểu đoàn 25 và tiểu đoàn 27 công binh, tiểu đoàn 927 bộ đội địa phương Hà Tĩnh khẩn trương mở đường nối đường số 12 với đường số 9.

Cùng với cán bộ, chiến sĩ ta, nhân dân các bộ tộc Lào đã góp công, góp của để mở đường. Nhân dân nhiều bản làng của bạn đã tự động rời nhà, bỏ nương rẫy đã từng nuôi sống họ bao đời để tuyến đường mới đảm bảo được yêu cầu "gần nhất, dễ đi nhất". Nhân dân bạn sẵn lòng chia sẻ cùng bộ đội lon gạo, bắp ngô, củ sắn cuối cùng khi bộ đội thiếu đói.

Đến cuối tháng 6 năm 1961, đường mới mở nối liền đường số 12 ở Lằng Khăng tới Pác Pha Năng và đến tháng 12 năm 1961 đã thông tới đường số 9 ở Mường Phin. Tuyến đường này dài trên 180km, mặt đường rộng 4m, vượt sông Sê Băng Phai, sông Sê Băng Hiêng và nhiều suối nhỏ. Do nối đường số 12 với đường số 9 nên đường này có tên là đường 129.

Thông đường 129 là một bước phát triển quan trọng của tuyến chiến lược 559 - đường Hồ Chí Minh. Từ thế độc tuyến đông Trường Sơn, Đoàn 559 đã mở thêm đường dọc theo biên giới Việt - Lào và đặc biệt quan trọng là đường tây Trường Sơn Từ đơn thuần là đường gùi thồ nội địa và dọc theo biên giới, Đoàn đã tiến tới mở thêm ở tây Trường Sơn gần 200 km đường cho xe cơ giới.

Trước yêu cầu ngày càng lớn của chiến trường và do hệ thống đường phát triển khá mạnh, tổ chức biên chế Đoàn 559 không còn phù hợp với tình hình mới, không đủ lực lượng hoạt động trên ba tuyến hành lang.

Ngày 23 tháng 10 năm 1961, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 96/QP phát triển Đoàn 559 tương đương cấp sư đoàn, chuyển Đoàn 70 thành trung đoàn 70, thành lập trung đoàn 71 trực thuộc Đoàn 559.

Ngày 24 tháng 10 năm 1961, Bộ Tổng tham mưu ra Quyết định số 98/TM-06, bổ sung cho Đoàn 800 tân binh vừa tuyển ở Nghệ An, Hà Tĩnh (chế độ nghĩa vụ) và 400 cán bộ, chiến sĩ thuộc đối tượng quân tình nguyện.

Trên cơ sở Quyết định số 96/QP của Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng tham mưu ra Quyết định số 131/TM quy định biên chế cụ thể của đoàn bộ và các đơn vị trực thuộc. Đoàn bộ gồm: Phòng Tham mưu (thiếu tá Nguyễn Văn Cẩm - Tham mưu trưởng), Phòng Chính trị (thiếu tá Trần Trọng Kiếm - Chủ nhiệm chính trị), Phòng Hậu cần (đại úy Trần Kim Thạch - Chủ nhiệm hậu cần).

Biên chế cơ quan gồm 16 cán bộ, chiến sĩ, Đoàn trưởng - thượng tá Võ Bẩm, Đoàn phó - trung tá Nguyễn Thạnh. Trung đoàn 70 có 2.653 cán bộ, chiến sĩ. Cơ quan trung đoàn gồm các ban: tham mưu, chính trị, hậu cần. Trung đoàn trưởng - thiếu tá Chu Đăng Chữ, Chính ủy - thiếu tá Nguyễn Danh, trung đoàn phó Tham mưu trưởng - đại úy Nguyễn Thiện Lành, phó chính uỷ, chủ nhiệm chính trị - đại úy Nguyễn Xuân Liễu.

Trung đoàn 70 biên chế 3 tiểu đoàn vận tải, 1 đại đội bảo vệ, 1 trung đội trinh sát, có nhiệm vụ vận chuyển, bảo đảm hành quân, mở đường trên tuyến hành lang dọc theo biên giới và hành lang tây Trường Sơn.

Trung đoàn 71 có 1.308 cán bộ, chiến sĩ. Cơ quan trung đoàn gồm các ban: tham mưu, chính trị, hậu cần. Trung đoàn trưởng - Lê Quang Dự, Chính ủy Nguyễn Linh Anh, trung đoàn phó - Nguyễn Thân, Tham mưu trưởng - Hòa Bái, chủ nhiệm chính trị - Hồ Anh, chủ nhiệm hậu cần - Phùng Sẻ.

Ngày 23 tháng 10 năm 1961, trung đoàn 71 mới chính thức được thành lập, nhưng từ giữa năm 1961, các đồng chí Nguyễn Thân, Hồ Anh, Phùng Sẻ đã nhận nhiệm vụ vào Vĩnh Linh làm việc với các đồng chí: Hồ Sĩ Thản - Bí thư Đặc khu ủy, Trần Đồng - Chủ tịch ủy ban hành chính Đặc khu và đồng chí Phan Du - Tỉnh ủy viên Quảng Trị phụ trách đường dây Thống Nhất trên địa bàn Trị - Thiên để tìm hiểu tình hình, tiếp nhận lực lượng, trang bị của đường dây sáp nhập vào Đoàn 559.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 19 Tháng Tư, 2010, 03:18:05 pm
Tiếp theo là ổn định biên chế cơ quan trung đoàn, khung cán đơn vị trực thuộc, tiếp nhận thêm cán bộ, chiến sĩ, bước đầu làm quen với nhiệm vụ vận chuyển, bảo đảm giao liên hành quân ... Do vậy khi có quyết định chính thức thành lập, trung đoàn 71 có điều kiện thuận lợi để nhanh chóng củng cố tổ chức, thực hành huấn luyện, thực hiện nhiệm vụ mới. Hành lang của trung đoàn 71 từ Cù Bai (tây nam Vĩnh Linh), vượt sông Bến Hải, qua Ra Gã, động Voi Mẹp, Chăng Hin, Cà Lư, vượt đường số 9 và sông Đak Rông, Đá Bàn, giao hàng cho Thừa Thiên tại Tà Riệt.

Về phương tiện hoạt động, Đoàn 559 được trang bị sáu xe Gát 69, hai xe Gát 51, 16 xe Gát 63, hơn 600 xe đạp thồ, 1 tổng đài, 10 đài thông tin 15W, 5 máy bộ đàm, 40 ống nhòm, 40 địa bàn. Đặc biệt do yêu cầu chiến đấu tự vệ, tiến tới đánh địch mà đi, đánh địch để vận chuyển, cán bộ, chiến sĩ của Đoàn được trang bị một số vũ khí bộ binh gồm: 313 súng ngắn, 173 súng trường, 1.100 súng tiểu liên, 15 trung liên, 3.222 lựu đạn bộ binh, 40 lựu đạn chống tăng, 340 mìn muỗi, 40 mìn hộp. Chủ trương của lãnh đạo, chỉ huy Đoàn là: 100o/o lực lượng trinh sát, bảo vệ được trang bị súng trường, tiểu liên; các lực lượng khác được trang bị 30o/o súng trường, tiểu liên và 100o/o lựu đạn

Không chỉ phát triển về số lượng, Đoàn 559 đã có bước phát triển quan trọng về chất lượng. Các chiến sĩ Trường Sơn vừa là người lính vận tải, vừa là chiến sĩ bộ binh, công binh, vừa công tác vừa chiến đấu. .

Sau bước ổn định về tổ chức lực lượng, cuối năm 1961, Quân ủy Trung ương ra quyết định (do đồng chí Văn Tiến Dũng - Phó Bí thư Quân ủy Trung ương ký) thành lập Đảng ủy 559, chỉ định đồng chí Võ Bẩm làm Bí thư Đảng ủy và các ủy viên: Nguyễn Thạnh, Nguyễn Văn Cẩm, Trần Trọng Kiếm, Nguyễn Danh, Nguyễn Linh Anh, Phạm Tề.

Cùng với củng cố tổ chức lực lượng, Đoàn 559 đẩy mạnh hoạt động vận chuyển, triệt để tận dụng tuyến hành lang mới mở và thời tiết mùa khô thuận lợi.

Do trung đoàn 71 cần một thời gian để ổn định tổ chức, huấn luyện, nên trung đoàn 70 có nhiệm vụ vận chuyển, bảo đảm hành quân ở cả tuyến hành lang dọc theo biên giới và trên đất bạn Lào. Ban chỉ huy tiền phương Đoàn 559 do Đoàn phó Nguyễn Thạnh phụ trách cùng với ban chỉ huy trung đoàn 70 vươn ra phía trước đứng chân ở bắc Bản Đông, cách đường số 9 khoảng 600 in về phía bắc. Trung đoàn 70 thành lập một đại đội kho xe ở tây thị trấn Sê Pôn để nhận hàng do ô tô của Tổng cục Hậu cần từ Mụ Giạ - đường số 12 chuyển vào.

Hoạt động trên tuyến hành lang mới, trung đoàn 70 cùng lúc thực hiện ba nhiệm vụ chủ yếu:

- Vận chuyển vật chất, vũ khí cho lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam và bạn Lào.

- Đưa đón, bảo đảm cho các lực lượng hành quân qua tuyến...

- Cùng Đảng bộ, chính quyền, quân đội Pa thét Lào và nhân dân bạn xây dụng, bảo vệ hành lang, củng cố vùng giải phóng.

Do đường 129 đang trong quá trình thi công nên ở các cung đoạn từ nam - bắc đường số 9 vào trong tuyến, trung đoàn 70 áp dụng phương thức gùi thồ là chủ yếu

Đối với đường 9, căn cứ vào hiện trạng cụ thể, trung đoàn 70 sử dụng từ 2 - 3 xe Gát 63, xe GMC chuyển hàng thay cho hai cung gùi thồ.

Để tăng cường xây dựng cơ sở dọc hành lang vận chuyển trên đất bạn, Ban Cán sự tăng cường cho trung đoàn 10 sáu cán bộ dân vận thông thạo tiếng Lào, giúp ban chỉ huy trung đoàn hiệp đồng với đồng chí Xổm Xắc, Tỉnh đội trưởng tỉnh Sa Va Na Khét xây dựng kế hoạch bảo vệ hành lang, xây dựng cơ sở của bạn.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 19 Tháng Tư, 2010, 03:18:48 pm
Ở tuyến đường dọc theo biên giới, trung đoàn 70 tổ chức 13 đại đội vận chuyển, 1 đại đội trinh sát bảo vệ, 1 đại đội cơ động, vận chuyển hàng từ làng Ho vào giao cho Khu 5 ở Mường Noọng. Tuyến đường này, đặc biệt là đoạn từ Vít Thù Lù đi Hướng Lập (từ Bang, làng Ho vào cầu Khỉ) quá xấu. Bộ đội đánh vật với đèo cao dốc đứng, năng suất vận chuyển rất thấp, tốc độ chậm. Để hỗ trợ cho Đoàn 559 hoàn thành nhiệm vụ, Bộ Quốc phòng kịp thời đề ra một số giải pháp tình thế:

Ngày 13 tháng 10 năm 1961, theo đề nghị của Ban Cán sự Đoàn 5 59, Tổng Tham mưu phó Trần Văn Trà ký Quyết định số 90/TM điều một tiểu đoàn công binh Sư đoàn 325, tăng cường cho trung đoàn 70 làm đường thồ từ Vít Thù Lù đi Hướng Lập; phấn đấu tháng 11 năm 1961 hoàn tất tuyến đường này với yêu cầu: mở rộng nền, bạt bớt dốc, bảo đảm vận chuyển bằng phương tiện thô sơ được dễ dàng.

Sau khi liên quân Việt - Lào giải phóng khu vực đường số 9, tiểu đoàn công binh Sư đoàn 325 khẩn trương sửa chữa sân bay Tà Khống theo lệnh của Bộ. Tiếp đó, Bộ Quốc phòng lệnh cho trung đoàn không quân 919 chuyển hàng vào Sê Pôn.

Trung đoàn không quân vận tải 919 - đơn vị không quân đầu tiên của quân đội ta đã mở đầu trang sử truyền thống của Không quân nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến thống Mỹ, cứu nước, bằng nhiệm vụ vận chuyển hàng vào chiến trường miền Nam. Bộ đội không quân vận tải của ta với sự giúp đỡ của phi công Liên Xô đã đưa máy bay từ các sân bay Vinh, Đồng Hới, hạ cánh ở sân bay Sê Pôn hoặc thả bằng dù xuống Mường Phin hàng chục tấn hàng; trong đó có một số sơn pháo 75 mm, ĐKZ 75 mm, súng cối 120 mm, máy vô tuyến điện... Đặc biệt toàn bộ trang thiết bị kỹ thuật đầu tiên để lắp đặt Đài phát thanh Giải phóng cũng được chuyển vào Sê Pôn bằng đường không và Đoàn 559 chuyển tiếp về vị trí quy định.

Ngày 2 tháng 7 năm 1961, Bộ Tổng tham mưu ra mệnh lệnh số 336/TM quyết định sử dụng gần 4.000 cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 325 vận chuyển gấp 40 tấn vũ khí từ Vít Thù Lù vào Sê Pôn. Trong thời gian một tháng, Sư đoàn 325 đã hoàn thành nhiệm vụ. Tiếp đó, đầu mùa khô 1961- 1962, Bộ Tổng tham mưu chỉ thị Sư đoàn 325 tổ chức 2 đợt vận chuyển đột kích đưa 60 tấn vũ khí và 60 tấn lương thực, thực phẩm vào lập chân hàng cho Đoàn 559 tại Sê Pôn.

Những người lính Sư đoàn 325 đã từng vượt núi, cắt rừng đuổi giặc, cùng bạn tạo điều kiện cho Đoàn 559 "lật cánh" sang tây Trường Sơn, giờ đây lại ghé vai, chung sức cùng Đoàn 559 chuyển hàng ra phía trước.

Đầu năm 1961, lượng người vào công tác ở chiến trường ít và chủ yếu qua tuyến hành lang trong nước. Khi ta bắt đầu mở chiến dịch Trung Lào, mặc dầu lực lượng bảo đảm giao liên hành quân đã chủ động và khẩn trương mượn nhà dân để đặt trạm và tổ chức phục vụ, song do thời gian chuẩn bị chỉ có 2 ngày nên chỉ bảo đảm được những cung trạm từ Lằng Khăng trở ra. Từ Lằng Khằng trở vào, các đơn vị phải tự soi đường mà đì. Việc tiếp tế gặp khó khăn vì bạn và Khu 5 không chuẩn bị kịp, có đơn vị bị đói. Trong khi đó, quy mô tổ chức các đơn vị vào chiến trường ngày càng lớn; từ các đơn vị nhỏ lẻ đến đại đội, tiểu đoàn.

Ngày 4 tháng 9 năm 1961, tiểu đoàn pháo binh Lữ đoàn 338 gồm 163 cán bộ, chiến sĩ nhập tuyến, được Đoàn 559 bảo đảm hành quân tăng cường cho Khu 5. Hơn 10 ngày sau (15/9/1961) tiểu đoàn 12 Quân khu 4 cũng vượt Trường Sơn vào tăng cường cho Khu 5. Bộ đội được tổ chức đưa đón, bảo đảm hành quân an toàn, chu đáo vào chiến trường đúng thời gian quy định.

Về xây dựng lực lượng, củng cố tổ chức, trong điều kiện nhiệm vụ, kế hoạch luôn biến động, Đoàn đã tích cực, tháo vát cơ động, linh hoạt sắp xếp tổ chức biên chế trang bị phù hợp với yêu cầu của từng nơi, từng lúc, từng mặt công tác... Từ một trung đoàn phát triển thành đơn vị cấp sư đoàn; từ một trung đoàn thành hai trung đoàn... thật sự là bước nhảy vọt cả về số lượng và chất lượng.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 19 Tháng Tư, 2010, 03:19:27 pm
Trên mặt trận mở đường, Đoàn thực hiện tốt chủ trương giữ và củng cố đường cũ mở thêm và xây dựng đường mới, phá được thế độc tuyến. Đặc biệt từ đường gùi cõng hàng để tiến tới mở đường dùng cho phương tiện thô sơ và bước đầu làm đường cho cơ giới hoạt động.

Năm 1961, Đoàn 559 đã vận chuyển giao cho Khu 5 được 317 tấn; vận chuyển tiếp tế bảo đảm hành quân 91 tấn gạo, tiếp tế cho đường dây Trị - Thiên 20 tấn gạo và muối; bảo đảm nội bộ và Khu 5 ra trực tiếp lấy 324 tấn gạo. Ngoài ra, còn 117 tấn vũ khí trang bị đang được chuyển tải trên tuyến, lập chân hàng ở khu vực đường số 9 hơn 200 tấn.

Trong năm, Đoàn 559 tổ chức đưa đón, bảo đảm cho 7.664 cán bộ, chiến sĩ qua tuyến tăng cường cho các chiến trường và 616 người từ Nam ra Bắc. Dù đi lẻ hay hành quân quy mô cấp đại đội tiểu đoàn, bộ đội đều được bảo đảm, bảo vệ chu đáo và an toàn...

Đoàn đã thực hiện vượt chỉ tiêu Bộ giao về vận chuyển hàng cũng như bảo đảm giao liên hành quân. Về người vượt 28%, về hàng vượt 5%...; quán triệt tốt phương châm "tuyệt đối bí mật và an toàn, liên tục và bảo đảm kế hoạch".

Ngày 23 tháng 11 năm 1961, Đảng ủy Đoàn 559 họp, kịp thời rút kinh nghiệm, xây dựng quyết tâm, ban lãnh đạo chuẩn bị chu đáo cho đợt ra quân mới. Nghị quyết hội nghị Đảng ủy chỉ rõ phải tuyên truyền, giáo dục trong toàn đơn vị tài liệu: "Hãy quán triệt tình hình nhiệm vụ và phương châm công tác của Đoàn".

Tài liệu do Đảng ủy soạn thảo khái quát phương châm chỉ đạo của Quân ủy Trung ương đối với Đoàn 559 trong năm 1962 gồm những nội dung cơ bản như: Bảo đảm tuyệt đối an toàn; Vận chuyến liên tục, bảo đảm tính kế hoạch, chất lượng hàng; Dựa vào cơ sở chính trị, vũ trang quần chúng để tạo lập hành lang và bảo vệ hành lang; Tránh địch là chính, đánh địch là trường hợp bất đắc dĩ phải tự vệ, nhưng khi đã đánh thì phải kiên quyết diệt địch, bảo vệ mình.

Ngày 28 tháng 2 năm 1962, Đảng ủy Đoàn 559 họp ra nghị quyết lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ năm 1962. Theo kế hoạch Bộ giao, năm 1962, Đoàn phải báo đảm giao liên hành quân 110 tấn gạo, vận chuyển giao các hướng chiến trường 380 tấn vũ khí trang bị.

Bước vào thực hiện nhiệm vụ năm 1962, trung đoàn 71 được giao phụ trách tuyến hành lang đông Trường Sơn, trung đoàn 70 phụ trách tuyến hành lang dọc theo biên giới Việt - Lào và hành lang tây Trường Sơn.

Vào thời điểm nhập tuyến, trung đoàn 71 gồm ba tiểu đoàn vận chuyển bộ và một số phân đội trực thuộc (trung đội bảo vệ, trung đội trinh sát, tổ cán bộ xây dựng cơ sở, tổ sản xuất lương thực, bệnh xá), tổ chức 13 trạm. Phương thức vận chuyển chủ yếu là gùi, cõng hàng. Do tuyến hành lang chủ yếu đi qua vùng địch kiếm soát nghiêm ngặt nên phải chuyển hàng theo đội hình nhỏ lẻ, hạn chế đụng độ với địch.

Tiếp tục thực hiện thủ đoạn "chống thâm nhập", trong mùa khô 1961- 1962, Mỹ ngụy liên tục tổ chức nhiều cuộc hành quân càn quét quy mô lớn, dài ngày dọc đường số 9 và miền tây Trị - Thiên.

Ngày 27 tháng 11 năm 1961, địch mở cuộc càn quy mô tiểu đoàn, kéo dài đến ngày 3 tháng 2 năm 1962 đánh vào khu vực Ba Lòng - Cam Lộ, hòng phá hoại căn cứ kháng chiến tây Quảng Trị, chặn cắt tuyến hành lang chi viện của ta. Địch đã đốt phá nhiều bản làng, giết hại hàng trăm dân thường.

Tiếp đó, chúng mở chiến dịch "Lê Lợi", huy động 800 quân và hơn một chục máy bay càn đi quét lại hàng tháng khu vực Ngược Nước (đường số 9). Địch còn chốt thêm một số đồn bốt tại các vị trí hiểm yếu: Tà Rụt, Tà Lương, Cô Ca Va, A So, A Lưới ... Quân ngụy đã ba lần sục vào các kho, trạm của ta ở bắc đường số 9 và phát hiện một bộ phận nhỏ của Đoàn 559 ở Sa Moi.

Cán bộ, chiến sĩ trung đoàn 71 dũng cảm kiên trì bám tuyến, tranh thủ từng đêm, từng quãng đường vắng địch để chuyển hàng. Nhưng gặp lúc địch đánh phá quyết liệt, hiệu quả vận chuyển, bảo đảm giao liên hành quân của trung đoàn rất hạn chế. Mùa khô 1961- 1962 đã qua, nhưng hàng qua tuyến chỉ tính từng cân, quân vào chiến trường tính từng người.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 19 Tháng Tư, 2010, 03:20:05 pm
Mùa mưa đến, tình hình hoạt động của trung đoàn 71 trên tuyến đông Trường Sơn càng khó khăn hơn. Cũng chính thời điểm đó (tháng 7 năm 1962) địch mở cuộc càn lớn vào khu vực tây Trị - Thiên, đổ trực thăng xuống Đá Bàn trên trục hành lang. Trung đoàn 71 chủ động kịp thời mở đường tránh Đá Bàn để tiếp tục vận chuyển.

Nhiều gương tiêu biểu xuất hiện trên mặt trận vận chuyển trong thời gian này như Văn Tiến Mòi (quê Quảng Trị), người tuy nhỏ nhắn nhưng luôn gùi cõng 40 - 50 kg hàng qua những cung đường phức tạp. Nhiều tân binh quê Nghệ An, Hà Tĩnh, còn tươi nguyên màu quân phục, đã dùng gánh thay gùi, gắng thêm từng cân cho mỗi chuyến hàng vào miền Nam.

Với những cố gắng rất lớn, đến cuối năm 1962, trung đoàn 71 đã chuyển được trên 65 tấn vũ khí, trang bị qua tuyến. Lượng hàng giao Khu 5 là trên 39 tấn. Số hàng còn lại báo đảm cho giao liên hành quân. Hơn 2.000 cán bộ, chiến sĩ đã được Trung đoàn 71 tổ chức đưa đón, bảo đảm hành quân vào chiến trường an toàn.

Trên tuyến hành lang dọc biên giới Việt - Lào và tây Trường Sơn, Đoàn 559 bước vào mùa vận chuyển mới đầy lạc quan, tin tưởng. Sở chỉ huy tiền phương Đoàn 559 và sở chỉ huy trung đoàn 70 vẫn đứng chân ở khu vực Sê Pôn trực tiếp chỉ huy mọi hoạt động của trung đoàn 70.

Cuối năm 1961, đường 129 cơ bản khai thông. Năm 1962, cung đường Bản Đông - Mường Noọng được tiểu đoàn 1 trung đoàn 98 sửa chữa để xe ô tô hoạt động và đường gùi thồ từ Mường Noọng vào A Túc cũng được mở mang, tu chỉnh thêm.

Sau khi thông đường 129, Bộ Tổng tham mưu lập tức lệnh cho trung đoàn 101 Sư đoàn 325 phối hợp cùng bộ đội Pa thét Lào xây dựng thế trận chốt giữ các khu vực trọng yếu: cầu Ka Ky, Bản Đông, Mường Phin, Mường Pha Lan..., đánh trả các cuộc hành quân càn quét, các hoạt động biệt kích, thám báo của địch, bảo vệ tuyến hành lang giao liên vận chuyển.

Tháng 1 năm 1962, Quân khu 4 được lệnh điều tiểu đoàn 927 thuộc Tỉnh đội Hà Tĩnh cơ động tới phối hợp với lực lượng tại chỗ bảo vệ đường số 12 và tiểu đoàn 44 chốt giữ hướng Tà Khống .

Tháng 3 năm 1962 ta hạ đồn La Vi (km 84 đường 22 sau này) là vị trí còn sót lại của địch trong khu vực. Tuyến hành lang tây Trường Sơn càng vững chắc hơn.

Đầu năm 1962, Tổng cục Hậu cần tổ chức một lực lượng gồm 60 xe ô tô điều từ đoàn xe 1 và đoàn xe 3, chạy theo đội hình nhỏ lẻ chuyển hàng vào theo đường 129 giao cho Đoàn 5 59 tại Sê Pôn, Mường Phin...

Từ Vít Thù Lù, làng Ho, Sư đoàn 325 tiếp tục gùi hàng vào Sê Pôn và trung đoàn không quân vận tải 919 từ sân bay Gia Lâm - Hà Nội cũng tiếp tục chuyển hàng cho khu vực này. Mặc dầu lực lượng vận tải cơ giới và lực lượng không quân vận tải không thuộc quyền quản lý của Đoàn 559, song sự xuất hiện của những loại hình vận tải này đã đem đến cho tuyến chi viện chiến lược Trường Sơn một sắc thái mới, một sự phát triển về chất. Kết thúc mùa khô 1961- 1962, các đơn vị phối thuộc đã lập chân hàng cho Đoàn 559 tại khu vực Sê Pôn, Mường Phin 828 tấn (chủ yếu là vận chuyển bằng ô tô).

Kết quả vận chuyển tạo chân hàng của các lực lượng phối thuộc tạo điều kiện cho trung đoàn 70 dồn sức tiếp chuyển hàng từ khu vực đường số 9 vào các hướng chiến trường.

Trên cơ sở đường sá hiện có, với biên chế 3 tiểu đoàn vận tải, trung đoàn 70 bố trí đội hình vận chuyển như sau: tiểu đoàn 1 nhận hàng ở Sê Pôn, Mường Phin, chuyển vào La Hạp. Tiểu đoàn 3 chuyển hàng từ làng Ho vào La Hạp. Tiểu đoàn 2 nhận hàng và số cán bộ, chiến sĩ vào công tác ở chiến trường do tiểu đoàn 1 và tiểu đoàn 3 giao tại La Hạp; dẫn quân và chuyển hàng từ đó vào A Túc.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 19 Tháng Tư, 2010, 03:20:44 pm
Phương châm chỉ đạo vận chuyển của Đoàn lúc này là: Chủ động, linh hoạt, tận dụng triệt để mọi phương tiện phù hợp với điều kiện địa hình mà vẫn bảo đảm được bí mật. Tuyến đường Sê Pôn - La Hạp và từ La Hạp đi A Túc do địa hình khá bằng phẳng, đường được mở mang, gia cố khá tốt nên tiểu đoàn 1 và tiểu đoàn 2 sử dụng xe đạp thồ là chủ yếu. Năng suất bình quân mỗi chuyến của các chiến sì xe thồ Trường Sơn lúc này thường từ 90- 100kg.

Về phía địch, nhằm đẩy mạnh hoạt động "chống thâm nhập”, ngày 1 tháng 11 năm 1961, tướng D. Tay lo, cố vấn quân sự đã gửi điện văn lên Tổng thống Mỹ Ken-nơ-đi đề nghị “tổ chức một lực lượng biệt động biên phòng để tiến hành một chiến dịch dài hạn ở vùng biên giới Lào, chống Vệt cộng thâm nhập”. Tháng 1 năm  962, quân ngụy Lào cũng liên tục tung tề điệp phá cơ sở cách mạng, tiến hành chiến tranh tâm lý phá hoại vùng giải phóng Lào, gây nhiều khó khăn cho hoạt động của ta trên tuyến hành lang tây Trường Sơn.

Lãnh đạo, chỉ huy Đoàn 559 và trung đoàn 70 luôn sâu sát nắm bắt tình hình, chỉ đạo kịp thời lực lượng trinh sát bảo vệ, lực lượng xây dựng cơ sở phối hợp với các cấp bộ Đảng, chính quyền, nhân dân các bộ tộc Lào và lực lượng vũ trang của bạn thành lập các tổ “quân báo nhân dân", phát triển dân quân du kích, hình thành mạng lưới bố phòng đường dây. Các lực lượng phối thuộc đều chủ động đánh địch, bảo vệ hành lang, bảo đảm hoạt động vận chuyển liên tục, có hiệu quả cao.

Trên tuyến hành lang dọc biên giới, do địa hình khá phức tạp, mặc dầu công binh Sư đoàn 325 tập trung cải tạo nâng cấp, song kết quả rất hạn chế. Bộ đội gùi, cõng hàng là chủ yếu. Nhưng năng lượng cơ bắp của người lính cũng chỉ có hạn. Để giải phóng sức người và nâng cao hiệu quả vận chuyển đòi hỏi cán bộ. chiến sĩ năng động tìm kiếm những phương thức vận chuyển mới.

Phương án dùng voi, ngựa chuyển hàng ở những cung đường hiểm trở từ làng Ho vào La Hạp đã được Đoàn áp dụng. Với sự hỗ trợ tích cực của Bộ Tư lệnh Quân khu 4, trung đoàn 70 nhanh chóng có được một số ít voi đã qua thuần dưỡng. Ngựa thồ chủ yếu là số ngựa chiến lợi phẩm mà liên quân Việt - Lào thu được trong chiến dịch giải phóng khu vực tây đường số 9 (đầu năm 1961), đơn vị bạn giao lại cho Đoàn 559. Dưới sự điều khiển của các quản tượng lão luyện số voi, ngựa nhanh chóng được đưa vào tuyến chuyển hàng.

Việc sử dụng voi, ngựa chuyển hàng trên những cung đường núi hiểm trở tuy có kết quả nhất định, nhưng tốc độ chậm, khối lượng hạn chế; đặc biệt việc nuôi dưỡng voi, ngựa khá tốn kém, phức tạp, nên chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn.

Trên tuyến hành lang tây Trường Sơn, trung đoàn 70 còn sử dụng thuyền gỗ nhỏ chuyển hàng từng quãng ngắn trên sông Sê Băng Hiêng, Sê Pôn... Những cung vận chuyển đường sông ngắn, sơ khai này tạo tiền đề cho Đoàn phát triển vận chuyển đường sông khi mở tuyến xuống vùng Hạ Lào.

Tháng 2 năm 1964, trung đoàn 70 sử dụng 4 chiếc Oõ tô cũ của Pháp (loại xe Đốt - chiến lợi phẩm thu được của địch trong chiến dịch giải phóng đường số 9) chuyến hàng từ Sê Pôn đi Bản Đông sau một thời gian, thay xe Đốt bằng xe Gát). Để khắc phục khâu vượt sông Sê Băng Hiêng và sông Sê Pôn, chỉ huy Đoàn 559, trực tiếp là hai đồng chí Võ Bẩm, Nguyễn Thạnh đã chỉ đạo làm phà bằng cách kết thùng xăng rỗng, trên ken nhiều lớp tre. Những chiếc phà tre, thùng phi tự tạo đã đưa nhiều chuyến xe qua sông tại bến vượt giữa Bản Đông và Bản Keng an toàn.

Mặc dù mới chỉ sử dụng 4 ô tô trên mỗi cung đường, Trung đoàn 70 đã có điều kiện dồn lực lượng phát triển vào sâu hơn, tổ chức thêm hơn chục trạm gùi thồ từ A Túc vào Pe Hai giao hàng cho đoàn vận tải Bình Sơn của Khu 5 ở vùng A Sáp, A Vương...

Tuy vậy, ngay từ bước khởi đầu đưa cơ giới vào tuyến, trung đoàn 70 đã chịu tổn thất. Tháng 6 năm 1962, thượng sĩ Nguyễn Cảnh Thiềm lần đầu tiên điều khiển xe Gát 63 chở gạo từ Sê Pôn đi Bản Đông bất ngờ bị lũ lớn cuốn trôi mất tích cả người và xe hàng ra sông Sê Pôn tại khu vực bản Keng. Nguyễn Cảnh Thiềm là chiến sĩ lái xe đầu tiên của Đoàn 559 hy sinh trên đường Trường Sơn. Tổn thất này cho thấy một thực tế ở Trường Sơn, hiểm họa "giặc trời" không hề kém kẻ thù Mỹ-ngụy.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 19 Tháng Tư, 2010, 03:21:17 pm
Bằng cố gắng nỗ lực của toàn đoàn, phối hợp đồng bộ giữa tuyến trước và tuyến sau, giữa hai tuyến hành lang, đặc biệt được Tổng cục Hậu cần và Sư đoàn 325 tạo chân hàng đủ, kịp thời, trung đoàn 70 đã hoàn thành vượt mức nhiệm vụ được giao trong những tháng mùa khô đầu năm 1962.

Sáu tháng đầu năm 1962, Trung đoàn 70 giao cho Khu 5 tại A Túc và Pe Hai được 388 tấn vũ khí, trang bị; 35 tấn muối, 23 tấn gạo; tổ chức đưa đón và bảo đảm hậu cần bảo đảm an toàn cho 5 tiểu đoàn thực binh, 19 khung trung đoàn, tiểu đoàn với 5.877 cán bộ vượt Trường Sơn vào chiến trường.

Tháng 5 năm 1962, Đoàn trưởng Võ Bẩm cùng một số cán bộ chủ trì cơ quan ra Hà Nội làm việc theo điện triệu tập của Bộ Quốc phòng. Thật vinh dự và cảm động, đồng chí Võ Bẩm đã được gặp và trực tiếp báo cáo với Chủ tịch Hồ Chí Minh. Với Bác Hồ, miền Nam luôn luôn trong trái tim Người; đồng bào, chiến sĩ miền Nam và đường Trường Sơn - con đường nối hai miền Nam - Bắc, con đường của ý chí thống nhất đất nước luôn hằn sâu trong nếp nghĩ và tình cảm của Người.

Làm việc với đồng chí Võ Bẩm, Bác ân cần thăm hỏi tình hình sức khỏe, hoạt động của cán bộ, chiến sĩ Đoàn 559. Người đặc biệt quan tâm đến đời sống của đồng bào các dân tộc thiểu số dọc theo dãy Trường Sơn.

Sau khi nghe đồng chí Võ Bẩm báo cáo tổng thể hoạt động của Đoàn 559, hiệu quả của việc mở đường tây Trường Sơn, Bác động viên và nhắc nhở: “các chú mở được đường như vậy là tốt, cần tiếp tục phát huy. Mọi hoạt động phải khôn khéo để làm việc tốt hơn nữa".

Khi được kể về đồng bào các dân tộc thiểu số dọc tuyến hành lang dẫu muôn vàn gian khổ: thiếu muối, gạo, quần áo bị kẻ thù kìm kẹp... song vẫn sắt son một niềm tin vào Đảng, vào Bác Hồ, vào tương lai của cách mạng, Bác vô cùng xúc động và giao nhiệm vụ cho đồng chí Võ Bẩm: Việc đầu tiên, chỉ huy Đoàn lựa chọn danh sách những anh em nào hoàn thành nhiệm vụ xuất sắc nhất, báo cáo để Bác khen thưởng. Đoàn tổ chức chuyển gấp cho đồng bào dọc tuyến hành lang 30 tấn muối, 10 tấn vải.

Thực hiện lời căn dặn và nhiệm vụ Bác Hồ giao, lãnh đạo, chỉ huy Đoàn 559 khẩn trương phối hợp với Uỷ ban Thống nhất Trung ương chuẩn bị số muối và vải nói trên.

Trở lại tuyến, Đoàn trưởng, Bí thư Đảng ủy nhanh chóng triệu tập hội nghị quân chính toàn Đoàn để truyền đạt tình cảm, sự động viên của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng dành cho cán bộ, chiến sĩ Trường Sơn, đồng thời phổ biến nhiệm vụ của Đoàn trong mùa khô 1962 - 1963. Lúc này nguồn hàng gạo, muối cũng đã được Uỷ ban Thống nhất Trung ương chuyển vào tập kết tại hậu cứ trung đoàn 71. Ban chỉ huy Đoàn lập tức lệnh cho trung đoàn 71 vận chuyển theo tuyến từ Bang vào cung cấp cho nhân dân dọc hành lang.

Trên đà thắng lợi của kế hoạch vận chuyển, bảo đảm hành quân những tháng đầu năm 1962, lại được Bác Hồ động viên, nhắc nhở, cán bộ, chiến sĩ Đoàn 559 tích cực chủ động chuẩn bị cho một mùa khô giành nhiều thắng lợi. Đúng vào thời điểm này tình hình cách mạng Lào có bước chuyển biến mới.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 19 Tháng Tư, 2010, 03:22:00 pm
Ngày 23 tháng 7 năm 1962, Hiệp định Giơnevơ về Lào được ký kết. Ngày 12 tháng 8 năm 1962 Chính phủ Liên hiệp ba phái của Lào được thành lập. Hiệp định Giơnevơ về Lào được ký kết là một thắng lợi của cách mạng Lào, buộc đế quốc Mỹ phải rút khỏi nước Lào. Tuy vậy, sự kiện trên cũng đặt Đoàn 559 trước những phức tạp và khó khăn mới.

Với bản chất phản động, tráo trở, mặc dầu về danh nghĩa buộc phải thừa nhận Hiệp định Giơnevơ, công nhận độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Lào, công nhận Chính phủ Liên hiệp ba phái, rút cố vấn quân sự, lực lượng đặc nhiệm của Mỹ khỏi lãnh thổ Lào, song đế quốc Mỹ vẫn rắp tâm nuôi dưỡng lực lượng phản động, phá hoại cách mạng Lào một cách có hệ thống.

Tôn trọng Hiệp định Giơnevơ về Lào, tôn trọng đường lối trung lập lại hòa bình của Chính phủ Liên hiệp ba phái của Lào, Trung ương Đảng và Quân ủy Trung ương kịp thời chỉ đạo Đoàn 559 chuyển hướng hoạt động cho phù hợp với tình hình mới.

Tình hình chuyển biến hết sức mau lẹ. Lãnh đạo và chỉ huy Đoàn 559 kịp thời đề đạt Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng cho phép thực hiện các giải pháp tình thế:

1. Chuyển hướng đường trên đất bạn, mở đường mới, bỏ đường cũ, tổ chức và hoạt động tuyệt đối bí mật, đồng thời dùng đường trong nước với mức độ có thể gấp đôi hiện thời.

2. Đối với đường trên đất bạn, trước mắt tạm thời hạ mức vận chuyển xuống còn mỗi ngày 200 kg, chủ yếu là lương thực, công cụ. Đồng thời ra sức cộng tác với tổ chức Đảng của bạn xây dựng cơ sở chính trị các cấp, tạo mọi điều kiện đảm bảo cho hành lang được vững chắc, lâu dài...

3. Bảo đảm các hành lang phải "địa phương hóa” và vũ trang tự vệ. Đồng thời phải ra sức sản xuất để dần dần tự cấp, giảm bớt số lượng tiếp tế nội bộ.

Nắm vững tình hình cách mạng Lào, yêu cầu của Đoàn 559 tổ chức một đợt vận chuyển đột xuất từ ngày 1 tháng 7 đến ngày 25 tháng 8 năm 1962, nhằm tăng nhanh số lượng hàng giao cho miền Nam, nhanh chóng kết thúc vận chuyển ở tuyến đường cũ, kịp triển khai các giải pháp đã được Quân ủy Trung ương và Bộ thông qua.

Bảo đảm cho Đoàn 559 thực hiện mệnh lệnh trên, Bộ chỉ thị Cục Không quân tiếp tục cho máy bay chuyển gấp hàng vào Sê Pôn, Mường Phin; Sư đoàn 325 cho bộ đội gùi hàng vào Sê Pôn. Đồng thời, trung đoàn 101 Sư đoàn 3 25 đang làm nhiệm vụ giúp bạn bảo vệ vùng giải phóng và bảo vệ hành lang cũng được lệnh rút quân, giao lại toàn bộ vũ khí nặng, một số lương thực để Đoàn 559 chuyển giao cho chiến trường.

Thực hiện nhiệm vụ đột xuất trên giao, trung đoàn 70 huy động hơn 1.800 cán bộ, chiến sĩ và 250 xe đạp thồ tập trung chuyển hết số hàng hiện có tại Sê Pôn, Mường Phin vào La Hạp, Pe Hai. Đến cuối tháng 9, trung đoàn 70 đã chuyển được 440,6 tấn hàng các loại vào Pe Hai.

Hoàn tất việc chuyển số hàng ở Sê Pôn, Mường Phin giao chiến trường, ngày 15 tháng 9 năm 1962 Đoàn 559 được lệnh của Bộ bố trí 166 cán bộ, chiến sĩ ở lại vừa giúp bạn củng cổ cơ sở, vừa nắm địch; lực lượng còn lại rút về hoạt động trên tuyến hành lang dọc theo biên giới Việt -Lào, chờ khi điều kiện cho phép để trở lại hoạt động. 

Hoàn thành việc rút quân của trung đoàn trên tuyến hành lang phía tây Trường Sơn Đoàn 559 có điều kiện củng cố, điều chỉnh lại tổ chức hoạt động trên tuyến đông Trường Sơn, đồng thời thực hiện nhiệm vụ chi viện lực lượng cho đường dây Trị - Thiên và Khu 5 đã được Đảng ủy Đoàn đề ra trong nghị quyết hội nghị Đảng ủy ngày 18 tháng 1 năm 1962.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 22 Tháng Tư, 2010, 09:08:52 am
Theo đề nghị của lãnh đạo, chỉ huy Đoàn 559, ngày 18 tháng 10 năm 1962, Bộ  Tổng tham mưu ra quyết định (số 392TM) tổ chức một khung tiểu đoàn huấn luyện biên chế 35 cán bộ, chiến sĩ làm nhiệm vụ tổ chức huấn luyện tiểu đoàn 72 vận tải bộ giao cho Khu 5. Sau 2 tháng huấn luyện, tiểu đoàn 72 gồm 250 cán bộ, chiến sĩ - phần đông rút từ trung đoàn 71, do đồng chí Nguyễn Thân - trung đoàn phó trung đoàn 71 phụ trách, được bàn giao cho Khu 5, kịp bổ sung cho lực lượng vận tải chủ yếu của khu (đoàn Bình Sơn).

Trên cơ sở phát triển mạnh về tổ chức biên chế, đặc biệt tận dụng ưu thế hoạt động trên tuyến hành lang tây Trường Sơn, được đơn vị bạn và nhân dân, quân đội cách mạng Lào hỗ trợ tích cực, Đoàn 559 đã hoàn thành vượt mức, toàn diện các chỉ tiêu nhiệm vụ năm 1962.

Về tạo lập phát triển hành lang vận chuyển, chi viện, Đoàn đã mở được trục chính và trục dự bị, tuyến vận chuyển và tuyến hành quân, cả đường gùi thồ và đường ô tô báo đảm liên tục và bí mật. Nhờ xây dựng tốt cơ sở quần chúng, tổ chức trinh sát quân báo chu đáo và vũ trang cho phần lớn lực lượng vận tải, bộ đội ta đã tổ chức chiến đấu, tiêu hao sinh lực định khi buộc phải nổ súng, bảo vệ được hành lang, tránh được tổn thất, thực hành vận chuyến và đảm bảo hành quân đạt hiệu quả cao.

Trong năm, với quân số khoảng 3.200 cán bộ, chiến sĩ, được trang bị hơn 1.000 xe đạp toàn Đoàn đã chuyển được 625 tấn vũ khí, trang bị thiết yếu giao cho chiến trường, bảo đảm 140 tấn gạo cho lực lượng hành quân; chi viện cho hành lang Khu 5 và Trị - Thiên 196 tấn gạo, muối. Tổng lượng hàng chuyển giao qua tuyến là 961 tấn, chưa kể bảo đảm nội bộ (so với kế hoạch 670 tấn Bộ giao, đạt 143% kế hoạch).

Trên cả ba trục hành lang Trường Sơn có 9.990 cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang và cán bộ dân - chính - Đảng được bảo đảm hành quân vào chiến trường chu đáo; 320 cán bộ từ miền Nam và 520 thương binh (có 30 cáng thương binh) được tổ chức đón, đưa ra Bắc an toàn.

Cuối năm 1962, Đoàn 559 tổ chức hội nghị mừng công tại Câu lạc bộ Quân nhân. Nhiều cán bộ quân chính và những điển hình tiên tiến của Đoàn vinh dự được về dự hội nghị giữa Thủ đô. 

Hội nghị được đón Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng tới dự. Thay mặt Trung ương Đảng, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng, Đại tướng biểu dương thành tích to lớn của Đoàn 559 trong hơn 3 năm kể từ ngày thành lập. Đặc biệt Trung ương Đảng, Bộ Quốc phòng đánh giá cao cống hiến lớn lao, sự hy sinh thầm lặng của những chiến sĩ trên mặt trận mở đường, vận chuyển vào chiến trường. Nhưng do tình hình cụ thể ở trong nước và thế giới lúc bấy giờ, thành tích cùng như sự hy sinh lớn lao của cán bộ, chiến sĩ Trường Sơn không thể tuyên truyền công khai với bất cứ hình thức nào.

Sau hội nghị, Chính phủ và Bộ Quốc phòng đã bổ sung một số tiêu chuẩn về bảo đảm hậu cần, tài chính đối với Đoàn 559.

Đánh giá của đồng chí Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng thay mặt Trung ương Đảng, Chính phủ là nguồn động viên cố vũ lớn lao, tăng thêm sức mạnh mới, tạo đà cho cán bộ, chiến sĩ Trường Sơn tiếp tục vượt qua những thử thách, khó khăn trên chặng đường mới.

Cuối năm 1962, chương trình bình định miền Nam trong 18 tháng của Mỹ - Diệm căn bản bị đánh bại. Đây là thất bại bước đầu rất quan trọng của chiến lược “chiến tranh đặc biệt". Tuy nhiên, với viện trợ kinh tế, quân sự, cùng cố vấn quân sự và lực lượng đặc biệt được đưa vào miền Nam ngày càng nhiều, Mỹ đã tạo nên chỗ dựa cho chính quyền, quân đội Sài Gòn tiếp tục đẩy mạnh chiến tranh. Cục diện chiến trường ta và địch ở thế giằng co quyết liệt.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 22 Tháng Tư, 2010, 09:10:48 am
Từ đầu năm 1963, ở miền Nam, bằng thủ đoạn chiến thuật "trực thăng vận", "thiết xa vận"..., Mỹ - ngụy liên tiếp mở nhiều cuộn hành quân càn quét vùng nông thôn đồng bằng và tăng cường đánh phá vùng rừng núi.

Ở Lào, Mỹ và tay sai phá bỏ Chính phủ liên hiệp. Mặc dầu vùng giải phóng do lực lượng cách mạng làm chủ vẫn được giữ vững, nhưng hoạt động tề điệp, thám báo của địch đã gây không ít khó khăn cho đồng bào các bộ tộc Lào dọc tuyến hành lang Đoàn 559.

Trên cả hai tuyến hành lang đông và tây Trường Sơn lúc này, tình hình khách quan khó khăn ngoài dự kiến của lãnh đạo, chỉ huy Đoàn. Trong khi đó nhu cầu của chiến trường ngày càng tăng cả về khối lượng, quy mô, chủng loại ... Trong kế hoạch vận chuyển chi viện chiến lược, Quân ủy Trung ương chỉ thị: Năm 1963, ngoài bảo đảm hành quân, bảo đảm nội bộ, Đoàn 559 có nhiệm vụ vận chuyển, giao cho Khu 5, Tây Nguyên và Trị - Thiên 600 tấn vũ khí, trang bị. Hai tháng sau (tháng 3 năm 1963), chỉ tiêu được nâng lên 1.020 tấn gồm cả vũ khí, trang bị và hàng sinh hoạt thiết yếu.

Để bảo đảm cho Đoàn 559 hoàn thành nhiệm vụ, Bộ Quốc phòng chuẩn y phương án tổ chức đã được điều chỉnh và bổ sung cho Đoàn 1.600 chiến sĩ mới vừa tuyển từ miền Bắc vào, cùng với 400 người chọn trong số cán bộ, chiến sĩ của Đoàn đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự tình nguyện ở lại phục vụ quân đội. Quân số toàn Đoàn lúc này lên hơn 5.000. Đồng thời, Bộ cũng cấp bổ sung cho Đoàn 450 xe đạp thồ, 31 xe Gát 63.

Ngày 3 tháng 2 năm 1963, Đảng ủy Đoàn họp, thống nhất chủ trương: Trong năm 1963 phải giữ vững và củng cố hành lang hiện có, đồng thời xây dựng thêm hành lang dự bị. Nhiệm vụ chủ yếu của hành lang là nhất thiết bảo đảm giao thông bí mật, liên tục, lâu dài. Do đó công tác hành lang phải gắn chặt với công tác dân vận, địch vận và nắm địch... Trong trường hợp cần thiết, các lực lượng trên hành lang phải chủ động đánh địch. Nếu địch ít thì kiên quyết bao vây tiêu diệt, nếu địch đông thì đánh đuổi ra khỏi khu vực hành lang, kiên quyết không để người và hàng rơi vào tay chúng.

Về vận chuyển, Đảng ủy chỉ rõ trong tình hình địch đánh phá quyết liệt, tuyến hành lang trên đất bạn gặp khó khăn, toàn Đoàn phải phấn đấu thực hiện chỉ tiêu Quân ủy Trung ương và Bộ đã giao. Trường hợp quá khó khăn, cũng phấn đấu giao chiến trường 660 tấn hàng chính. "Đó là cơ sở tối thiểu để bảo đảm những chủ trương, đường lối của Trung ương đối với miền Nam. Để thực hiện được chỉ tiêu đó trong vận chuyển phải bảo đảm số lượng, chất lượng, thứ tự ưu tiên, đồng bộ... Tạo điều kiện tận dụng mọi phương tiện thô sơ ở những chặng đường có thể dùng đưực, tận dụng khả năng thực phẩm của địa phương và tăng gia tự túc để giảm bớt sự tiếp tế, tăng lượng hàng cho chiến trường”.

Để thực hiện mục tiêu kế hoạch năm 1963, sau khi được bổ sung lực lượng, Ban chỉ huy Đoàn 559 củng cố lại tổ chức, biên chế các đơn vị. Trung đoàn 70 gồm 2.328 cán bộ, chiến sĩ, biên chế thành cơ quan trung đoàn và 4 tiểu đoàn vận tải bộ, 1 tiểu đoàn bảo vệ trinh sát, 2 đại đội phụ trách đường dự bị, bệnh xá, tổ sản xuất lương thực, thực phẩm.

Do tình hình vùng giải phóng Trung - Hạ Lào chưa ổn định, trung đoàn 70 có nhiệm vụ xây dựng hành lang và thực hành vận chuyển dọc biên giới từ Cù Bai đi A Túc. Dự kiến trên cung đường này sẽ bố trí 18 trạm thồ, gùi, nhiều đoạn vẫn đi theo đường cũ, vượt đường số 9 ở khu vực Bản Đông. Trong năm 1963, trung đoàn 70 có nhiệm vụ chuyển giao chiến trường 180 tấn vũ khí, trang bị, 120 tấn gạo, muối cho hành lang Trị - Thiên và Khu 5.

Trung đoàn 71 trên hành lang đông Trường Sơn trung đoàn tổ chức 12 trạm gùi thực hiện chỉ tiêu chuyển giao chiến trường 120 tấn vũ khí, trang bị... Trên tuyến của trung đoàn 71, sau một vài tháng đầu năm vận chuyển trót lọt, Mỹ - ngụy tập trung đánh phá tuyến hành lang đông Trường Sơn và vùng căn cứ miền núi Trị - Thiên ngày càng quyết liệt. Chỉ trong mấy tháng đầu năm 1963, địch mở liên tiếp 4 cuộc càn vào miền tây Trị - Thiên, dọc theo đường số 9.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 22 Tháng Tư, 2010, 09:11:32 am
Ngày 23 tháng 3 năm 1963, địch mở "Chiến dịch Phượng Hoàng" đánh vào hành lang tây Trị - Thiên. Với lực lượng hai trung đoàn chủ lực có máy bay, cơ giới và pháo binh yểm trợ, địch chia làm hai cánh: từ tây Thừa Thiên đánh ra Tà Rụt và từ Đá Bàn đánh vào Ba Bình, đồng thời địch còn cho máy bay lên thẳng bất ngờ đổ quân xuống Ly Tôn. Mặc dầu bị lực lượng vũ trang và nhân dân vùng núi Trị- Thiên đánh trả quyết liệt dũng cảm chặn các mũi càn quét thọc sâu của địch, song với "Chiến dịch Phượng Hoàng" kéo dài 2 tháng, địch cũng gây cho ta một số tổn thất.

Do địch càn quét ác liệt, dài ngày, nhân dân khu vực hành lang nam- bắc đường số 9 chạy dạt lên vùng rừng núi cao hơn. Nhiều đoạn trên trục đường hành lang trở thành "vùng trắng”. Trung đoàn 71 mất dần chỗ dựa. Có những lúc tình hình hết sức căng thẳng. Hàng hóa dồn ứ lại các trạm hoặc rải rác dọc hành lang. Các lực lượng phải tìm mọi cách cất giấu, tránh rơi vào tay địch. Đường tắc, bộ đội cùng cán bộ dân - chính - đảng dồn lại trên tuyến cólúc gần 1000 người. Việc bảo đảm sinh hoạt và an toàn cho "khách” bình thường đã vất vả, nay khó khăn gấp bội, đặc biệt là đối với thương binh nặng và các cháu nhỏ từ nam ra Bắc...

Ba tháng đầu năm 1963, hoạt động của trung đoàn 71 trên tuyến hành lang trong nước rất hạn chế. Trung đoàn chỉ chuyển vào Mường Noọng được trên 4 tấn vũ khí.

Nhằm nhanh chóng tìm giải pháp tháo gỡ bế tắc, đưa hoạt động vận chuyển, bảo đảm hành quân trên hành lang trở lại bình thường, Đoàn trưởng Võ Bẩm trực tiếp chỉ huy một bộ phận cán bộ chủ trì các cơ quan đoàn bộ vào kiểm tra gấp tình hình tuyến đông Trường Sơn, kịp thời báo cáo lên Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng tham mưu.

Từ thực trạng của tuyến, Đảng ủy họp khẩn cấp, chủ trương: “chỉnh đốn kế hoạch nắm địch và chuẩn bị mọi mặt chống địch, giữ vững cơ sở quần chúng, giữ vững hành lang”. Đảng ủy đề ra một số giải pháp tình thế như: củng cố các đơn vị bảo vệ, trinh sát chính trị; Củng cố lực lượng địa phương về các mặt tổ chức, huấn luyện và tác chiến du kích; Xây dựng kế hoạch bố phòng, chống càn quét cho đơn vị cơ sở dọc hành lang; Tuyển chọn, bố trí những cán bộ, chiến sĩ có năng lực, tư tưởng vững vàng ở những quãng hành lang trọng yếu nguy hiểm... Đảng ủy Đoàn đề nghị Phân khu Trị - Thiên đẩy mạnh hoạt động quân sự ở miền Tây, tăng cường cho Đoàn một lực lượng cơ động đủ sức bẻ gãy các cuộc càn sâu, quy mô nhỏ của địch vào địa bàn hành lang

Đảng ủy chỉ đạo cơ quan và chỉ huy trung đoàn 71 tổ chức cho các phân đội sinh hoạt rút kinh nghiệm, mạnh dạn chỉ ra những tồn tại về phương diện bảo mật, phê phán tình trạng lơ là mất cảnh giác, dẫn đến hy sinh mất mát, không hoàn thành nhiệm vụ.

Khi toàn trung đoàn kết thúc sinh hoạt chính tri, xác định quyết tâm, tăng cường lực lượng cho các khâu, các vi trí xung yếu, hiệp đồng cùng các địa phương xây dựng hành lang, tác chiến, bảo vệ tuyến ... thì mùa mưa Trường Sơn đã tới . Sáu tháng đầu năm 1963 kết thúc đối với trung đoàn 71 trong sự day dứt, trăn trở bởi hiệu quả vận chuyển còn hạn chế.

Trên trục hành lang dọc theo biên giới, tháng 2 năm 1963 trung đoàn 70 mới chính thức hoạt động, vừa khảo sát tìm mở đường mới, vừa tổ chức vận chuyển, bảo đảm hành quân... Ban chỉ huy trung đoàn lên đứng chân tại La Hạp.

Do việc tìm đường mới, rải trạm mất thời gian khá dài, nên đầu tháng 4 năm 1963, trung đoàn 70 mới chính thức chuyển hàng. Trong khi đó, do đường mới làm gấp, chất lượng quá kém, từ tháng 5 trở đi mưa lớn kéo dài, nhiều đoạn đường dốc trơn như đổ mỡ. Những quãng thấp trở thành túi bùn, túi nước... Không kể hết nỗi nhọc nhằn của các lực lượng trên tuyến. Từ dùng xe thồ, bộ đội phải gùi hoàn toàn. Sau đó, một bộ phận thay gùi bằng gánh mà hiệu quả vận chuyển vẫn rất thấp...


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 22 Tháng Tư, 2010, 09:12:31 am
Sáu tháng đầu năm 1963, Đoàn 559 chỉ chuyển giao cho Khu 5 và Tây Nguyên được 36 tấn vũ khí, trang bị; bảo đảm cho hành quân được hơn 47 tấn gạo; tiếp tế cho hành lang Trị - Thiên trên 11 tấn gạo, muối (tổng cộng 94 tấn); đón dẫn quân vào 2.200 và ra 100 người. Từ đường số 9 trở ra hoạt động có hiệu quả hơn, lại được lực lượng vận tải cơ giới của Tổng cục Hậu cần tạo chân hàng 167 tấn ở khu vực đường số 9, ở Cù Bai 386 tấn. Đây là nguồn hàng đảm bảo cho Đoàn có khả năng hoàn thành chỉ tiêu vận chuyển trong 6 tháng còn lại của năm 1963.

Trước tình hình khó khăn của tuyến, ngày 30 tháng 6 năm 1963, Đảng ủy Đoàn 559 họp khẩn cấp, thống nhất đánh giá: Ngoài những nhân tố khách quan (địch ngăn chặn, thời tiết) thì nguyên nhân cơ bản thuộc về chủ quan là: "Việc tổ chức lãnh đạo kế hoạch của hai trung đoàn còn yếu; chưa xem kế hoạch vận chuyển như là một mệnh lệnh tác chiến... Quản lý lực lượng chưa chặt, chưa tốt. Nhiều đơn vị chỉ sử dụng 50o/o lực lượng vận chuyển... Tổ chức đường sá, nhất là đường dự bị quá gần đường chính, nên khi đường chính bị tắc thì đường dự bị cũng không dùng được...”.

Đánh giá xác đáng, khách quan tình hình, nhận thấy tuyến hành lang đông Trường Sơn tiếp tục bị địch đánh phá, ngăn chặn, Đảng ủy, chỉ huy Đoàn 559 quyết định tạm đưa trung đoàn 71 sang mở thêm một trục đường từ bắc sông Bến Hải qua biên giới Việt - Lào, đến Cù Bai, qua Lây Nhây, Lây Nòi, Bản Keng, Bản Đông, điểm cao 700, giao hàng cho trung đoàn 70 tại Mường Noọng. Chỉ huy Đoàn 559 đề nghị Tổng cục Hậu cần đảm bảo đủ chân hàng tại khu vực làng Ho và đường số 9. Đồng thời, Bộ Tổng tham mưu bổ sung cho Đoàn 559 đại đội 36 công binh gồm 109 cán bộ, chiến sĩ.

Theo chỉ thị của Bộ Tổng tham mưu, Cục Công binh khẩn trương khảo sát, chuẩn bị mở đường ô tô từ Bản Đông đi Bạc. Tháng 6 năm 1963, một tổ gồm ba cán bộ công binh do đồng chí Hoàng Đình Luyến phụ trách được phái vào Trường Sơn. Sau gần hai tháng khảo sát, được trung đoàn 70 và nhân dân địa phương giúp đỡ, tổ khảo sát đã chọn được hai tuyến, định vị trên bản đồ và lập được hồ sơ kèm theo làm cơ sở cho việc mở đường cơ giới khi điều kiện cho phép.

Để bảo đảm đủ hàng cho Đoàn 559 tại khu vực đường số 9, đầu mùa khô 1963 - 1964 Tổng cục Hậu cần quyết định tăng cường lực lượng cơ giới chuyển hàng trên đường 129. Đoàn xe 3 (Đoàn xe 245) được tung vào Trường Sơn. Ngày đầu nhập tuyến lượng xe của Đoàn 245 gồm hơn 60 chiếc, sau nâng dần lên hàng trăm chiếc.

Đoàn xe 245 không thuộc quyền quản lý của Đoàn 559. Tuy vậy, quyết định đưa một đơn vị cấp trung đoàn vận tải cơ giới vào Trường Sơn, hoạt động trên đường 129 đánh dấu một bước phát triển quan trọng của quá trình tổ chức vận chuyển trên tuyến chi viện chiến lược. Bằng cố gắng nỗ lực của mọi lực lượng trên tuyến, lại được sự hỗ trợ có hiệu quả của cấp trên và các đơn vị bạn, đến cuối tháng 9 năm 1963, Đoàn 559 đã chuyển giao chiến trường 240 tấn vũ khí, trang bị; tiếp tế cho hành lang Trị - Thiên hơn 11 tấn gạo, bảo đảm cho hành quân hơn 47 tấn gạo.

Mọi hoạt động của Đoàn đang có những chuyển biến tính cực thì tình hình chiến sự trong khu vực lại diễn biến phức tạp.

Tháng 5 năm 1963, Mỹ - ngụy điều 6 tiểu đoàn bộ binh có máy bay, pháo binh yểm trợ từ Đà Nẵng ra, mở cuộc càn "Lam Sơn 12" vào khu vực tây Trao (trạm 3), đánh phá cắt đứt hành lang vận chuyển của đoàn Bình Sơn (khu 5). Tiếp đó, ngày 15 tháng 7 năm 1964, địch mở liên tiếp hai cuộc càn “Bình Châu” và “Dân Chiến" đánh phá miền tây Khu 5. Quân và dân Khu 5 đã dũng cảm chiến đấu tiêu hao một phần sinh lực địch. Nhưng do địch tập trung lực lượng lớn, càn quét dài ngày nên đường dây Bình Sơn tạm thời bị đứt.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 22 Tháng Tư, 2010, 09:13:17 am
Không để tuyến giao liên chi viện Bắc - Nam bị gián đoạn, tháng 10 năm 1963 đoàn 559 được Bộ giao nhiệm vụ tổ chức 3 tiểu đoàn đủ quân vào “tiếp quản" đường dây Bình Sơn. Đoạn đường này kéo dài từ Ba Tôi vào làng Y Óp, Tăng Non gồm 12 trạm gùi. Nhiệm vụ trước mắt của Đoàn 559 là thu gom gần 200 tấn hàng còn tồn đọng rải rác trên tuyến hành lang Bình Sơn giao cho Khu 5, tiếp đó tổ chức chuyển hàng sâu vào các hướng chiến trường.

Xem xét quá trình phát triển về tổ chức cũng như hoạt động của Đoàn 559 kể từ ngày thành lập, đồng thời dự kiến bước phát triển mới của tình hình, trung tuần tháng 8 năm 1963, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng quyết định chuyển Đoàn 559 trực thuộc Tổng cục Hậu cần. Bộ còn giao cho Đoàn 559 tổ chức tiểu đoàn tìm mở đường từ Ba Tôi qua Bạc vào Nậm Hiên để chuyển hàng giao cho bạn Lào thông qua Đoàn 963 và tổ chức một tiểu đoàn khác được tăng cường đại đội 36 công binh (Cục Công binh) khôi phục đường Na va cũ (tức đường từ Bản Đông đi Mường Noọng).

Trước yêu cầu nhiệm vụ mới, Đảng ủy Đoàn 559 thống nhất chủ trương tiếp tục thực hiện kế hoạch thường xuyên, đồng thời khẩn trương thực hiện các nhiệm vụ mới.

Để tăng cường cán bộ cho Đoàn 559, ngày 10 tháng 10 năm 1963, Bộ Quốc phòng quyết định bổ nhiệm trung tá Nguyễn An, Trưởng phòng Giao thông quân sự - Bộ Tham mưu Tổng cục Hậu cần làm Đoàn phó, Đảng ủy viên Đoàn 559.

Tháng 10 năm 1963, Trung đoàn 70 tổ chức hai tiểu đoàn vào tiếp thu đường dây Bình Sơn, một tiểu đoàn được tăng cường đại đội công binh 36 sửa chữa đường ô tô Bản Đông - Mường Noọng. Trung đoàn 71 đưa tiểu đoàn 4 (do Quân khu 4 bổ sung) vào mở đường Ba Toi đi Bạc.

Do một phần lực lượng phải vào tiếp nhận đường dây Bình Sơn, một bộ phận khác vươn sâu mở đường mới nên việc bảo đảm hậu cần cho những lực lượng này gặp nhiều khó khăn. Lực lượng vươn sâu, đặc biệt là tiểu đoàn 1 (trung đoàn 71) mở đường Ba Tôi - Bạc thiếu đói trầm trọng. Nếu không giải quyết được vấn đề thiếu đói thì không những kế hoạch thường xuyên không thực hiện được mà ngay cả nhiệm vụ đột xuất cũng có nguy cơ không hoàn thành.

Trước tình hình đó, Đảng ủy Đoàn 559 xin ý kiến Bộ Quốc phòng và quyết định: từ ngày 25 tháng 11 năm 1963, lực lượng vận chuyển tạm dừng vận chuyển hàng theo kế hoạch để tập trung vận chuyển gạo bảo đảm cho các đơn vị phát triển hành lang sâu về phía nam đủ gạo ăn đến hết năm 1963, có "gối đầu” và chuẩn bị một phần cho toàn tuyến. Đối với hàng trong kế hoạch, chỉ tập trung chuyển giao chiến trường những thứ thiết yếu có sẵn trên tuyến. Vì vậy việc vận chuyển hàng kế hoạch quý IV năm 1963 giao chiến trường chỉ đạt một phần tư chỉ tiêu đề ra. Số vũ khí, trang bị và hàng dân chính (hàng của ủy ban Thống nhất Trung ương) tồn đọng trên tuyến đến giữa tháng 11 năm 1963 là 340 tấn, chỉ chuyển được 170 tấn; số còn lại, đầu năm 1964 Đoàn mới tổ chức chuyển tiếp.

Kết thúc năm 1963 , mặc dầu có nhiều khó khăn, biến động về nhiệm vụ cũng như tổ chức, kẻ thù đánh chặn quyết liệt đường trên đất bạn gần như không hoạt động, nhưng Đoàn 559 đã chuyển giao cho Tây Nguyên và Khu 5, Trị - Thiên... 436 tấn hàng; trong đó vũ khí, trang bị thiết yếu khoảng 340 tấn; số còn lại là hàng bảo đảm hành quân, gạo và muối bảo đảm cho đường dây Khu 5. Khối lượng lương thực, thực phẩm bảo đảm nội bộ khoảng 1 .600 tấn. Số cán bộ, chiến sĩ được bảo đảm hành quân qua tuyến vào chiến trường là 7.116 người; số từ Nam ra Bắc là 1.080 người.

Thắng lợi nổi bật của Đoàn 559 trong năm 1963 ngoài nhiệm vụ vận chuyển, mở thêm đường mới, tiếp quản đường dây Khu 5, còn kéo dài thêm 8 cung trạm trên tuyến hành lang chiến lược từ Pe Hai, A Túc vào đến La A Bơ Rơ.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 22 Tháng Tư, 2010, 09:13:57 am
Ngày 2 tháng 1 năm 1964, Đảng ủy Đoàn 559 họp đánh giá: "Qua một năm phấn đấu đầy gian khổ hy sinh, Đảng bộ đã cố gắng cao để lãnh đạo, xây dựng đơn vị lớn lên một bước về mọi mặt. Thành công lớn nhất của chúng ta là nắm vững lãnh đạo chính trị tư ltởng, phát huy yếu tố tinh thần quyết định mọi thắng lợi. Chủ trương lãnh đạo về tổ chức kế hoạch khá toàn diện. Nhưng chúng ta phải nhận thấy một cách sâu sắc những khuyết điểm, nhược điểm cũng còn nhiều, có nơi, có việc còn nghiêm trọng... Trình độ lãnh đạo, khả năng chỉ huy của cán bộ còn yếu, tác phong một số còn quan liêu, mệnh lệnh... Tổ chức và biện pháp chỉ đạo thực hiện chưa toàn diện, sáng tạo còn ít tự lực cánh sinh còn thấp”.

Đánh giá của Đảng ủy là cơ sở để các lực lượng trên toàn tuyến củng cố quyết tâm, tìm giải pháp khắc phục khó khăn, tạo bước tiến vững chắc trong thời gian tới .

Bước sang năm 1964, tình hình nhiệm vụ cách mạng trên cả hai miền Nam - Bắc có bước phát triển quan trọng.

Trên miền Bắc, công cuộc lao động thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất của toàn Đảng, toàn dân ta đã đạt được nhiều thành tựu, bước đầu thiết lập được hình thái kinh tế - xã hội mới, với quan hệ sản xuất mới và những cơ sở vật chất kỹ thuật ban đầu của chủ nghĩa xã hội, đưa lại những biến đổi sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực Đánh giá những thắng lợi quan trọng đó, tại Hội nghị chính trị đặc biệt (3 - 1964) Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Miền Bắc nước ta đã tiến những bước dài chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc. Đất nước, xã hội và con người đều đổi mới". Những thắng lợi đó đã tạo cơ sở vật chất - tinh thần để miền Bắc thực hiện ngày càng tốt hơn nghĩa vụ đối với cách mạng miền Nam.

Ở miền Nam, sau một năm rưỡi thực hiện kế hoạch Xtalây - Tay lo mà không thể cứu được tình thế nguy ngập của chính quyền và quân đội Sài Gòn, giới cầm quyền Mỹ cho rằng nguyên nhân chính của tình hình là do tập đoàn tay sai Ngô Đình Diệm bất tài, bất lực. Ngày 1 tháng 11 năm 1963 thông qua nhóm tướng lĩnh quân đội Sài Gòn do Dương Văn Minh cầm đầu, Mỹ đảo chính lật đổ Ngô Đình Diệm. Nhưng hy vọng "thay ngựa giữa dòng” để "rút ngắn cuộc chiến tranh và tinh thần quân đội Việt Nam cộng hòa sẽ được cải thiện”, đã trở thành ảo vọng. Chính quyền Sài Gòn từ đó lâm vào cuộc khủng hoảng triền miên

Gần một tháng sau ngày Ngô Đình Diệm bị giết, ngày 23 tháng 11 năm 1963, tổng thống Mỹ Kennơđi bị ám sát, Giônxơn được đưa lên làm tổng thống. Tập đoàn cầm quyền Mỹ vẫn ngoan cố tiếp tục chính sách tăng cường chiến tranh ở miền Nam Việt Nam.

Tháng 12 năm 1963, Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) tiếp tục khẳng định phương châm của chiến tranh cách mạng giải phóng miền Nam là kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang. Nhân dân và lực lượng vũ trang trên miền Bắc phải tăng cường hơn nữa tiềm lực kinh tế, quốc phòng, đẩy mạnh chi viện miền Nam về mọi mặt, đồng thời khẩn trương chuẩn bị, sẵn sàng đánh bại hành động mở rộng chiến ranh xâm lược của địch.

Thực hiện chủ trương của Đảng, quân và dân ta ở miền Bắc đẩy mạnh hoạt động xây dựng, tăng cường tiềm lực về mọi mặt sẵn sàng chiến đấu, đồng thời tăng cường chi viện sức người, sức của cho miền Nam. Đầu năm 1964, Đoàn 759 được thành lập (sau đổi thành Đoàn 125) tổ chức vận chuyển chiến lược vào miền Nam bằng đường biển.

Trên tuyến chi viện chiến lược đường bộ, Quân ủy Trung ương chỉ thị củng cố và phát triển tuyến vận tải quân sự Trường Sơn.

Ngày 4 tháng 12 năm 1963, Bộ Tổng tham mưu, Tổng cục Chính trị, Tổng cục Hậu cần và Đảng ủy, chỉ huy Đoàn 559 họp, quyết định một số việc cụ thể: chấn chỉnh cơ bản tổ chức Đoàn 559, tăng cường lực lượng chỉ huy trên tuyến, tổ chức sản xuất tự túc một phần lương thực, thực phẩm; tăng cường lực lượng quân y, điều trị có hiệu quả, hạn chế tử vong do sốt rét...


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 22 Tháng Tư, 2010, 09:14:35 am
Ngày 24 tháng 1 năm 1964, Bộ Quốc phòng ra Quyết đinh số 19/QĐ-QP (Thiếu tướng Trần Quý Hai - Thứ trưởng Bộ Quốc phòng ký) chuyển Đoàn 559 trực thuộc Tổng cục Hậu cần và điều chỉnh hướng hoạt động, bổ sung chỉ tiêu vận chuyến, bảo đảm giao liên hành quân của Đoàn trong năm 1964.

Theo quyết định của Bộ Quốc phòng, Đoàn 559 giao lại toàn bộ hành lang đông Trường Sơn cho Trị - Thiên, chuyển toàn bộ hoạt động sang tuyến tây Trường Sơn chuyển hàng và dẫn quân từ làng Ho vào khu vực ba biên giới. Hàng chi viện cho Trị - Thiên, Khu 5, Tây Nguyên giao ở A Tép, Tăng Non... Hàng chi viện cho bạn Lào giao ở Nậm Hiên. Chỉ tiêu vận chuyển năm 1964 của Đoàn được trên giao gồm 1.000 tấn hàng cho miền Nam và bạn Lào 220 tấn gạo bảo đảm giao liên hành quân .

Tháng 1 năm 1964, Đảng ủy Đoàn 559 họp bàn chủ trương, biện pháp phát triển đường đảm bảo giao thông, điều chỉnh lại đội hình, bố trí lực lượng phụ trách từng tuyến cho phù hợp yêu cầu nhiệm vụ mới. Đảng ủy thống nhất chỉ đạo tuyệt đối giữ bí mật, an toàn, đoàn kết chặt chè với bạn, dựa vào dân tạo thế vững chắc, cùng bạn kiên quyết đánh địch, xây dựng, bảo vệ hành lang vững chắc lâu dài.

Để chi viện ngày càng tốt hơn cho chiến trường, đầu năm 1964 Bộ Quốc phòng tổ chức một đoàn cán bộ, do đồng chí Trần Thọ - Phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần, đồng chí Đỗ Đức Kiên - Cục trưởng Cục Tác chiến phụ trách vào chiến trường Khu 5, nghiên cứu nhu cầu trang bị vật chất của bộ đội, trong đoàn có Đoàn trưởng Đoàn 559.

Thời gian này trung tá Nguyễn Lang - Phó Văn phòng Bộ Tổng tham mưu, sau khi đi học quân sự ở Học viện Bộ Tổng tham mưu Liên Xô về được bổ nhiệm giữ chức Đoàn phó Đoàn 559.

Tháng 1 năm 1964, quân số toàn Đoàn được biên chế 5.901 cán bộ, chiến sĩ. Do phải căng lực lượng ra trên địa bàn dài, rộng, nên ngoài một số phân đội trực thuộc, hai trung đoàn 70 và 71 được tổ chức thành 10 tiểu đoàn vận tải (mỗi trung đoàn có 5 tiểu đoàn) Tuy vậy, do nhiệm vụ của Đoàn 559 luôn ở trong trạng thái động, nên tổ chức Đoàn liên tục được điều chỉnh nhằm phát huy tối đa năng lực từng lực lượng, đơn vị tạo sức mạnh tổng hợp hoàn thành nhiệm vụ.

Trong đợt điều chỉnh tổ chức lần này, bộ phận bao gói vũ khí trang bị ở Hà Nội và các kho trạm từ Vinh (Nghệ An) vào Vĩnh Linh được chuyển giao cho Tổng cục Hậu cần. Hệ thống kho, trạm trên tuyến được tăng cường đáng kể. Hai đại đội kho xe được bố trí ở khu vực đường 12, tây nam Quảng Bình là cơ sở để xây dựng tổng kho "R” sau này.

Lực lượng quân y phát triển mạnh. Tháng 8 năm 1963, ban quân y 559 được thành lập, do bác sĩ Lê Trung Nguyên làm chủ nhiệm. Bệnh xá của Đoàn đặt tại Bang, có 50 giường, do bác sĩ Phạm Văn Phối (bác sĩ vào tuyến sớm nhất) phụ trách, cùng với hai bệnh xá của trung đoàn 70, trung đoàn 71, bước đầu hình thành bậc thang điều trị, nâng cao hiệu quả cứu chữa thương bệnh binh trên tuyến. 

Từ bài học thiếu cảnh giác, không quan tâm đúng mức việc xây dựng cơ sở, bị động hoàn toàn khi địch đánh phá hành lang..., nên bước vào chấn chỉnh tổ chức, củng cố lực lượng, chỉ huy Đoàn 559 đặc biệt coi trọng xây dựng đơn vị vững mạnh về mọi mặt, thực hiện phương châm "Tăng cường khả năng tổ chức, nâng cao trình độ kỹ thuật và tinh thần sẵn sàng chiến đấu để đủ sức tự vệ thực hiện kế hoạch bố phòng tác chiến cùng bạn tích cực xây dựng củng cố địa bàn hành lang thành căn cứ vững chắc..." .


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 22 Tháng Tư, 2010, 09:15:20 am
Về tổ chức trang bị, Đảng ủy chủ trương đảm bảo chất lượng mạnh cho các lực lượng chiến đấu và dân vận ở những nơi xung yếu đồng thời tăng cường và cải tiến trang bị thích hợp...". Đối với lực lượng bảo vệ trinh sát và cán bộ đi công tác lẻ 100% được trang bị súng bộ binh, 30% lực lượng vận tải được trang bi vũ khí. Mỗi tiểu đội vận tải được trang bị 2 tiếu liên, 1 súng trường, 2 lựu đạn ...

Thực hiện kế hoạch chuyển toàn bộ lên hoạt động ở tuyến tây Trường Sơn, trung đoàn 70 phụ trách từ làng Ho vào A Tép, có nhiệm vụ vận chuyển giao cho Khu 5 (tại A Tép) 200 tấn vũ khí, trang bị; giao cho Trị - Thiên (tại La Hạp) 50 tấn vũ khí, trang bị và 180 tấn gạo bảo đảm giao liên hành quân. Tổng khối lượng hàng phải chuyển qua là 430 tấn.

Trung đoàn 71 phụ trách các cung đường từ Pe Hai đi Tăng Non, có nhiệm vụ vận chuyển 350 tấn vũ khí, trang bị giao cho Khu 5 tại Tăng Non (tây nam Quảng Đà).

Ngoài số hàng trên, trong năm 1964, Đoàn còn phải vận chuyển bảo đảm nội bộ 2.106 tấn lương thực, thực phẩm. Số hàng này được Tổng cục Hậu cần chuyển giao 2.066 tấn tại Sê Pôn, Mường Phin và 40 tấn tại làng Ho.

Nhận nhiệm vụ trên giao, lãnh đạo, chỉ huy các trung đoàn 70, 71 khẩn trương điều chỉnh đội hình, giải quyết dứt điểm những phần việc còn lại của kế hoạch năm 1963, đồng thời nhanh chóng triển khai nhiệm vụ mới. Do số lượng xe ít, lại thiếu kinh nghiệm vận tải cơ giới trên tuyến nên hiệu quả hạn chế; tuy vậy, đã giải phóng được một lực lượng đáng kể để tập trung rải tuyến sâu hơn.

Từ đầu năm 1964, hành lang tây Trường Sơn hoạt động thuận lợi. Nhưng các lực lượng của ta vào chiến trường, cả những đơn vị cấp trung đoàn theo tuyến giao liên đều phải đi vòng qua A Túc, sau đó đi tiếp vào miền tây các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi..., đường vừa xa vừa hiểm trở. Được Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng cho phép, Đoàn 559 tổ chức mở đường mới gùi thồ và giao liên qua Bạc xuống Tà Xẻng nối với đường CD2 của Tây Nguyên và mở tiếp đường vào tây Quảng Ngãi, qua Chà Vằn, Đắc Mỹ..., rút ngắn được một phần ba cung đường.

Tháng 3 năm 1964, Đoàn 559 bố trí lại lực lượng để mở đường dây mới. Hai tiểu đoàn của trung đoàn 71 sau khi giải quyết số hàng tồn đọng trên đường dây Bình Sơn sẽ rải trạm vận chuyển từ La Hạp vào A Tép. Trung đoàn 70 phụ trách đường từ La Hạp đi Bạc.

Tuy nhiên, do nhiệm vụ biến động lớn, thiếu cân đối giữa mở đường vươn quá xa và tổ chức vận tải gùi thồ nên kết quả vận chuyển chi viện chiến trường của Đoàn 559 trong sáu tháng đầu năm 1964 chỉ đạt một phần sáu chỉ tiêu hàng hóa và hai phần năm kế hoạch bảo đảm hành quân.

Mùa mưa tới, ngoài khó khăn do thiên nhiên khắc nghiệt, tuyến chi viện quân sự chiến lược phải đối đầu với những hoạt động phá hoại ngày càng tăng của địch.

Tiếp tục chiến tranh xâm lược miền Nam Việt Nam, tháng 3 năm 1964 Tổng thống Mỹ Giônxơn thông qua kế hoạch Giônxơn - Macnamara tăng cường sự chỉ huy trực tiếp cua Mỹ, tăng viện trợ hậu cần, kỹ thuật cho quân đội Sài Gòn..., cố gắng ổn định tình hình miền Nam trong 2 năm (1964 - 1965); dùng không quân đánh phá miền Bắc Việt Nam và Lào hòng phá hoại tiềm lực kinh tế và làm nao núng quyết tâm giải phóng miền Nam, buộc miền Bắc phải ngừng chi viện cho miền Nam.

Ngày 17 tháng 4 năm 1964, Mỹ họp bộ tư lệnh Thái Bình Dương ở Hônôlulu (quần đảo Haoai) vạch kế hoạch "OPLAN-37" đánh phá các đường thâm nhập từ miền Bắc vào qua biên giới Lào và Campuchia. Để tạo thuận lợi cho việc thực thi kế hoạch trên, đế quốc Mỹ mua chuộc, lôi kéo Coongle và lực lượng phái hữu ở Lào phá hoại Chính phủ Liên hiệp. Hai ngày sau (19/4/1964) được Mỹ hỗ trợ, quân ngụy Lào tiến công lấn chiếm vùng giải phóng Cánh Đồng Chum, đánh ra đường số 7, mở rộng "Chiến tranh đặc biệt” ở Lào...


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 22 Tháng Tư, 2010, 09:19:17 am
Với kế hoạch "OPLAN-37" cuộc chiến tranh ngăn chặn của đế quốc Mỹ được thực hiện với cường độ ngày càng cao trên tuyến chiến lược Trường Sơn. Đầu năm 1964, địch cho quân đổ bộ bằng trực thăng xuống chốt chặn ở A Ro trên đoạn hành lang do trung đoàn 71 phụ trách. Tiếp đó, chúng tung biệt kích hành quân càn quét, đóng thêm một số đồn bốt dọc biên giới Việt - Lào, phía tây huyện Giằng để ngăn chặn tuyến hành lang của ta. Máy bay T28 của quân đội hoàng gia Lào và máy bay AD6 của không quân Mỹ hoạt động liên tục thả biệt kích, rải truyền đơn dọc tuyến hành lang vừa đe dọa, vừa kêu gọi bộ đội ta bỏ ngũ. Cuộc chiến chống ngăn chặn của những người lính Trường Sơn của quân và dân ta bước sang một giai đoạn mới

Chủ động, kịp thời đối phó với chiến tranh ngăn chặn của địch trên tuyến chiến lược 559, từ sau Hội nghị chính trị đặc biệt (tháng 3 năm 1964), Trung ương Đảng chủ trương: Hơn bao giờ hết hậu phương phải dồn sức cho miền Nam, chuẩn bị phát triển phương thức vận tải cơ giới. Thực hiện chủ trương của Quân ủy Trung ương, chỉ huy Đoàn 559 khẩn trương tổ chức lực lượng nghiên cứu phát triển mạng đường cơ giới. Thực tiễn cho thấy, chỉ có phát triển phương thức vận tải cơ giới Đoàn mới thực hiện được chỉ tiêu khối lượng trên giao trong năm 1964.

Nhằm bảo đảm cho tuyến chi viện thực hiện tốt nhiệm vụ trong tình hình mới, Bộ Quốc phòng kịp thời bổ sung cho Đoàn 559 một trung đoàn công binh 2.000 tân binh, đồng thời dự kiến phương án tăng cường lực lượng vận tải cơ giới quy mô trung đoàn khi điều kiện: đường, cầu, bảo đảm giao thông trên đường Trường Sơn cho phép.

Tháng 6 năm 1964, Trung đoàn 98 công binh (Cục Công binh) được lệnh tăng cường cho Đoàn 559 làm nhiệm vụ mở đường cơ giới. Đang trong quá trình giải thể theo quyết định của Bộ (tháng 2 năm 1964), ngay sau khi nhận nhiệm vụ mới. trung đoàn 98 nhanh chóng tiếp nhận nhiều nguồn lực lượng, ổn định tổ chức đủ ba tiểu đoàn.

Ngày 17 tháng 6 năm 1964, Thiếu tướng Lê Quang Hòa - Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị thay mặt Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng giao nhiệm vụ và trao cho trung đoàn 98 lá cờ thêu bốn chữ "Mở đường thống nhất" . Tháng 7 năm 1964, trung đoàn hành quân vào tập kết tại làng Ho. Tiếp đó, những người lính công binh trong trang phục bà ba đen, mũ tai bèo bí mật hành quân bộ vượt đường số 9, vượt sông Sê Pôn vào tập kết tại La Hạp. Cán bộ, chiến sĩ tiểu đoàn 1 đang mở đường ở đây vô cùng phấn khởi được trở về với trung đoàn mình sau mấy năm xa cách.

Tuy vào cao điểm mùa mưa năm 1964, song do yêu cầu nhiệm vụ, sau khi được tăng cường lực lượng, Ban chỉ huy Đoàn 559 kiên trì bám tuyến thực hiện nhiệm vụ Đảng ủy đề ra trong sáu tháng cuối năm là: Xây dựng hành lang thành căn cứ vững chắc, đủ sức đảm đương nhiệm vụ trước mắt và lâu dài; kiên quyết bỏ những đoạn trống, mở những tuyến đường kín đáo, đề phòng không quân địch đánh phá, tích cực chuẩn bị đường dự bị ...

Chỉ huy Đoàn 559 nêu quyết tâm thực hiện lệnh của Bộ, đến ngày 15 tháng 9 năm 1964 hoàn thành đường ô tô từ Mường Noọng vào Bạc dài 140 km, mở đường sông từ Bạc đi Pác Ca Don và mở tiếp đường gùi thồ vào Tà Xẻng để giao hàng, giao quân cho Khu 5, Tây Nguyên, xa hơn là Nam Bộ.

Ngày 9 tháng 8 năm 1964, trung đoàn 98 mang mật danh "Chi hội Bình Minh" thuộc Hội Lao động giải phóng miền Nam Việt Nam chính thức khởi công "nâng cấp 43km đường Na va từ Bản Đông đi Mường Noọng thành đường ô tô. Tiếp đó, trung đoàn được lệnh chuyển quân mở tiếp 97 km đường ô tô từ Mường Noọng đi Bạc và điều tiểu đoàn 10 mở tuyến đường thồ từ Chà Vằn vào Đắc Tô, Đắc Lê, Đắc Trưng (đường B46). Phối hợp với Quân khu Trị - Thiên, Đoàn 559 tổ chức một lực lượng do đồng chí Dương Bá Nuôi - Tư lệnh Phân khu Trị - Thiên phụ trách làm đường ô tô từ La Hạp đi A Túc để chuyển hàng cho Trị -Thiên (đường B45).

Sau ba tháng lao động quên mình, trung đoàn 98 hoàn thành việc mở đường ô tô từ Mường Noọng vào Bạc. Ngày 15 tháng 12 năm 1964, chiếc xe do tham mưu phó công binh Nguyễn Văn Nhạn chỉ huy chạy vào đến Bạc, đánh dấu chiến công mới của công binh Trường Sơn.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 22 Tháng Tư, 2010, 09:20:54 am
Cùng với củng cố và phát triển hệ thống đường vận tải bộ, chỉ huy Đoàn 559 giao cho trung đoàn 70 khai thác khả năng vận tải đường sông... từ Bạc đi Pác Ca Don, tạo nguồn hàng để tiểu đoàn 4 gùi thồ vào Tà Xẻng.

Địa hình ở nam Bạc vận tải đường sông ưu thế hơn gùi thồ, song ở cung Bạc - Pác Ca Don có hàng chục thác dữ như: thác Rồng, thác Hài, thác Hàm Sư Tử... Nhiều thuyền hàng đã không qua khỏi những con thác này. Không khuất phục trước thiên nhiên, kinh nghiệm phá thác trên dòng Nậm Na của những người lính công binh Điện Biên Phủ năm xưa đã được công binh Trường Sơn vận dụng trên dòng Sê Kông.

Theo đề nghị của ban chỉ huy trung đoàn 70, một tiểu đội công binh trung đoàn 98, do đồng chí Hoàng Văn Nghiên chỉ huy kịp thời tăng cường cho tiểu đoàn 161 chinh phục thác dữ. Chỉ sau một thời gian ngắn, thác dốc được bạt xuôi, dòng Sê Kông bớt đi phần dữ dằn. Trên cung đường sông dài 60 km, những con thuyền gỗ nặng hàng từ Bạc xuôi về Pác Ca Don ...

Suốt mùa mưa năm 1964, toàn tuyến 559 không có thời gian ngưng nghỉ. Việc thay đổi địa bàn hoạt động, mở các tuyến vận chuyển thọc sâu tiếp cận các hướng chiến trường, phát triển đường cơ giới... đòi hỏi phải có thời gian điều chỉnh lực lượng, củng cố tuyến hành lang, xây dựng cơ sở tổ chức bảo vệ ...

Trong khi các lực lượng trên tuyến dồn sức khắc phục hậu quả của thiên nhiên, đẩy nhanh tốc độ mở đường, ngày 5 tháng 8 năm 1964, đế quốc Mỹ mở đầu cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân trên miền Bắc nước ta. Tháng 10 năm 1964, máy bay Mỹ đánh phá một số vị trí trên tuyến hành lang Trường Sơn, như: Mường Phin, Sê Pôn, Cha Ky, Mường Noọng; tiếp đó, ném bom Cù Bai, Lằng Khằng, Sông Phan, Ta Long, Ca Vát... Bộ binh địch nống ra Na Bo, Noọng Bua Lao, Đồng Mót, Sê Kun Kam (khu vực đường số 9) và thọc sâu vào một số điểm trên tuyến hành lang.

Nhiệm vụ ngày càng lớn và khẩn trương, địch tăng cường đánh phá, thời tiết phức tạp, đặt Đoàn 559 trước những khó khăn mới. Do bộ đội bám tuyến liên tục từ đầu mùa khô 1963 - 1964 sang suốt mùa mưa 1964, sinh hoạt thiếu thốn, quân số ốm ở trung đoàn 70 và trung đoàn 71 thường xuyên lên tới 40% - 50%, số lao động chỉ đạt 50%. Trên tuyến hành lang trung đoàn 70 phụ trách, do đường tắc trong quý III năm 1964 chỉ có 1065 cán bộ, chiến sĩ hành quân vào chiến trường, số người ra Bắc là 336; có thời điểm đường tắc, khách qua tuyến dồn ứ hàng nghìn người ở các trạm giao liên gần một tháng... Bảo đảm cho bộ đội hành quân, trú quân đủ lương thực thực phẩm, an toàn và cho gần 8.000 quân của toàn tuyến không bị đói trở thành vấn đề "nước sôi lửa bỏng".

Trước tình hình đó chỉ huy Đoàn 559 đề nghị Đoàn 763 chuyên gia giúp bạn ở Hạ Lào trực tiếp đề xuất với Tỉnh ủy tỉnh Tà Ven Oọc của bạn vận động nhân dân địa phương giúp đỡ. Với tinh thần quốc tế cao cả, trong sáng và ý thức giúp bộ đội Việt Nam là tự giúp mình, nhân dân tỉnh Tà Ven Oọc, đặc biệt là các huyện Cà Lươn, Sê Ca Mán... đã nhanh chóng thu gom thóc. Khắp các bản làng tiếng chày giã gạo rộn ràng suốt ngày đêm. Chỉ trong thời gian nửa tháng, bạn đã huy động được hơn 30 tấn lương thực. Với một địa phương còn nghèo, huy động được khối lượng gạo kể trên trong thời gian ngắn là một cố gắng lớn, thể hiện tình đoàn kết chiến đấu của quân và dân bạn đối với sự nghiệp cách mạng và lực lượng vũ trang ta.

Trung đoàn 70 cử cán bộ cùng đại diện cấp bộ Đảng, chính quyền đia phương đến từng bản làng bày tỏ lòng biết ơn nghĩa tình "nhường áo, sẻ cơm” của nhân dân các bộ tộc Lào. Ta tổ chức tiếp nhận, làm sổ, phiếu mượn gạo để tiện cho việc hoàn trả bạn khi điều kiện cho phép.

Cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang Khu 5, Tây Nguyên vô cùng xúc động khi đón nhận những hạt gạo nghĩa tình của nhân dân bạn do Đoàn 559 chuyển tới. Giải pháp tình thế trên của Đoàn 559 được Bộ Tổng tư lệnh đánh giá cao.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 22 Tháng Tư, 2010, 09:21:39 am
Trước yêu cầu của chiến trường mở nhiều chiến dịch tiến công tiêu diệt địch nhằm đánh thắng chiến lược "Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ, Quân ủy Trung ương vừa chỉ đạo Quân chủng Hải quân đẩy mạnh chi viện cho chiến trường theo tuyến đường biển, vừa chỉ thị Đoàn 559 mở chiến dịch vận chuyển quy mô lớn gọi là "Kế hoạch S". Theo kế hoạch, từ tháng 10 năm 1964 đến hết tháng 3 năm 1965, Đoàn 559 phải chuyển giao cho Mặt trận Tây Nguyên (tại Tà Xẻng) 705 tấn vũ khí, trang bị; đồng thời phải bảo đảm cho bộ đội hành quân vào chiến trường quy mô cấp trung đoàn. Quân ủy Trung ương còn giao cho Đoàn tổ chức khai thác, thu mua lương thực, thực phẩm tại chỗ vừa để chi viện chiến trường vừa bảo đảm nội bộ.

Ngày 10 tháng 10 năm 1964, Thường vụ Đảng ủy Đoàn 559 họp thống nhất phương châm lãnh đạo đơn vị hoàn thành "Kế hoạch S" và quyết đinh triển khai sở chỉ huy tiền phương của Đoàn tại La Hạp là tâm điểm của hành lang, nhằm lãnh đạo các đơn vị sâu sát kịp thời.

Cuối tháng 10 năm 1964, sở chỉ huy tiền phương chuyển thành sở chỉ huy cơ bản của Đoàn. Hậu cứ làng Ho chỉ còn một số cơ sở hậu cần và nhà số 63 phố Lý Nam Đế (Hà Nội) cũng chỉ còn lại một bộ phận nhỏ để liên hệ thường xuyên, chặt chẽ với cấp trên..

Nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ vận chuyển đột xuất, tranh thủ thời tiết thuận lợi khi mùa khô tới, toàn tuyến xốc lại đội hình, tập trung sức bảo đảm cầu đường trên các cung vận tải cơ giới từ Mường Noọng vào Bạc và các trục đường ngang B45, B46.

Trung đoàn 70 khẩn trương đóng mới và sửa chữa những chiếc phà "thùng phuy, tre” chở ô tô vượt các sông lớn, chuyển hàng vào Bạc. Lực lượng vận tải bộ được bổ sung hàng trăm xe đạp thồ. Tiểu đoàn 161 vận tải đường sông đóng mới thêm hàng chục chiếc thuyền, đồng thời "sửa thác, nắn dòng” bảo đảm vận chuyển đạt hiệu quả cao. Đặc biệt với chủ trương đưa nhanh cơ giới lên Trường Sơn Bộ Quốc phòng và Tổng cục Hậu cần quyết định tăng cường cho Đoàn 559 một trung đoàn vận tải ô tô.

Trung tuần tháng 10 năm 1964, trung đoàn 265 ô tô vận tải được điều vào tăng cường cho Đoàn 559. Trung đoàn trưởng là đồng chí Thiết Cương, Chính ủy trung đoàn - Phạm Thái, Tham mưu trưởng - Vũ Thi và Chủ nhiệm chính trị là Phan Hữu Đại.

Ngày 17 tháng 10 năm 1964, đại đội 4 biên chế 36 xe Gát 63, do đại đội trưởng Vũ Hữu Doãn, chính trị viên đại đội Vũ Mỹ Thụ dẫn đầu đội hình trung đoàn xuất phát tại Thường Tín (Hà Tây). Tiếp đó cho tới đầu năm 1965, toàn bộ đội hình trung đoàn 265 gồm hàng trăm ô tô chở đầy vũ khí, gạo... được tung vào tuyến.

Việc xuất hiện cả trung đoàn ô tô vận tải hàng trăm chiếc vượt đường rừng dã chiến thọc sâu vào Bạc gây xúc động mạnh đối với mỗi người lính Trường Sơn. Đồng bào các dân tộc ở Mường Noọng, Tà Ôi hết sức ngỡ ngàng, kéo nhau ra xem "máy bay chạy dưới đất”. Trung đoàn vận tải ô tô 265 nhập tuyến thắng lợi đánh dấu bước phát triển mới về tổ chức lực lượng của tuyến vận tải quân sự chiến lược 559.

Lúc này tuyến vận tải ô tô từ Tà Khống vào Bạc chủ yếu là tuyến đường quân sự làm gấp. Mặt đường hẹp chỉ đủ cho xe đi một chiều. Đèo dốc liên tục, xe hoạt động trên đường, nếu lái xe giữ chân ga không hợp lý, xe chết máy sẽ tuột dốc và lao xuống vực. Có tới hàng trăm cua đường gấp khúc bán kính rất hẹp, xe phải tiến lùi hai - ba lần mới qua được... Lòng đường lởm chởm gốc cây, mấp mô "ổ trâu”, "ổ gà”. Từ Bản Đông vào Bạc, có đêm xe chỉ chạy được không quá 5 km...


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 26 Tháng Tư, 2010, 11:07:00 pm
Với tình cảm da diết vì miền Nam ruột thịt, với quyết tâm đánh thắng "Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ, cán bộ, chiến sĩ trung đoàn 265, trong "trận đầu” ra quân đã vượt lên mọi khó khăn, thử thách, nỗ lực vượt bậc. Bộ Tư lệnh chỉ đạo kịp thời, sâu sát có sự hỗ trợ tích cực của công binh, bộ binh... trên tuyến, sau 5 tháng trung đoàn đã chuyển vào Bạc khoảng 3.000 tấn vật chất để từ đó phát tán tới các hướng chiến trường. Đó là một khối lượng hàng mà vận chuyển bằng phương thức gùi thồ không thể nào đạt được trong điều kiện lực lượng, thời gian như thế.

Kịp thời đối phó với chiến tranh ngăn chặn bằng không quân của Mỹ, bảo vệ hành lang vận chuyển chi viện, đặc biệt là bảo vệ lực lượng vận tải cơ giới trên Trường Sơn tháng 11 năm 1964, Bộ quyết định tăng cường cho tuyến 2 tiểu đoàn pháo phòng không: tiểu đoàn 14 pháo 37 ly (sư đoàn 325) và tiểu đoàn 20 pháo 37 ly (Quân khu 4).

Ngày 18 tháng 11 năm 1964, đại đội 3 tiểu đoàn 14 pháo phòng không bảo vệ trọng điểm Lằng Khằng (Cha Lo) - miền tây Quảng Bình đã chiến đấu dũng cảm, bắn rơi máy bay Mỹ. Trong trận chiến đấu này xuất hiện gương chiến đấu vô cùng anh dũng của Anh hùng liệt sĩ Nguyễn Viết Xuân, để lại niềm tiếc thương, cảm phục của cán bộ, chiến sĩ Trường Sơn. Lời hô "Nhằm thẳng quân thù mà bắn!" của anh đã trở thành khẩu lệnh chiến đấu của lực lượng phòng không Việt Nam trong những năm đánh Mỹ. 

Trên cơ sở lực lượng được tăng cường, hệ thống đường sá được củng cố một bước và động viên cao độ nỗ lực của từng cán bộ, chiến sĩ, Đoàn 559 đã thực hiện được chỉ tiêu “Kế hoạch S" mà Quân ủy Trung ương giao. Kết thúc mùa khô 1964 - 1965, Đoàn 559 đã chuyển giao cho các mặt trận Trị - Thiên, Khu 5, bắc Tây Nguyên gần 2.000 tấn vũ khí, lương thực. Đặc biệt, Đoàn đã tổ chức đưa đón, bảo đảm cho các trung đoàn 95, 18, 101 - Sư đoàn 325B và sau đó là các trung đoàn 66, 42, - Sư đoàn 320... vào tới Tây Nguyên.

Trên cơ sở chiến tranh nhân dân phát triển mạnh mẽ, rộng khắp, lại được sự chi viện kịp thời có hiệu quả của hậu phương miền Bắc, lực lượng vũ trang tập trung miền Nam trưởng thành nhanh chóng; Quân ủy, Bộ Tư lệnh Miền và các Bộ Tư lệnh quân khu khẩn trương triển khai kế hoạch tác chiến Đông - Xuân năm 1964 - 1965 .

Đầu tháng 12 năm 1964, Quân khu 5 mở màn đợt hoạt động bằng thắng lợi giòn giã trong chiến dịch An Lão (bắc Bình Định).

Từ ngày 2 tháng 12 năm 1964 đến ngày 3 tháng 1 năm 1965, lực lượng vũ trang miền Đông Nam Bộ mở Chiến dịch Bình Giã giành thắng lợi lớn, tiêu diệt hai tiểu đoàn chủ lực ngụy và một chi đoàn xe bọc thép, đánh thiệt hại nặng ba tiểu đoàn khác, diệt bảy đại đội bảo an, làm tan rã hầu hết dân vệ trong khu vực. Vùng căn cứ Hát Dịch (Bà Rịa) được củng cố và mở rộng, tạo điều kiện thuận lợi cho Đoàn 125 vận chuyển đường biển đưa cán bộ, hàng hóa vào miền Đông Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ. 

Ngày 11 tháng 5 năm 1965, quân chủ lực miền Đông Nam Bộ mở chiến dịch Đồng Xoài. Sau hơn 2 tháng chiến đấu loại khỏi vòng chiến đấu 4.459 tên địch, thu 1652 khẩu súng, phá hủy 28 xe bọc thép, 5 xe tăng, bắn rơi 34 máy bay...; giải phóng một vùng rộng lớn thuộc tỉnh Phước Long, tạo thuận lợi cho việc mở rộng hành lang chiến lược Bắc - Nam.

Đêm 25 tháng 5 năm 1965, quân chủ lực Quân khu 5 phối hợp với bộ đội và nhân dân địa phương mở chiến dịch Ba Gia (bắc Quảng Ngãi). Trong hơn 50 ngày đêm chiến đấu, ta đã tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 4 tiểu đoàn chủ lực ngụy, loại khỏi vòng chiến đấu 2.065 tên. Đây là lần đầu tiên trên chiến trường miền Nam, bộ đội ta tiêu diệt chiến đoàn - đơn vị ứng chiến lớn nhất quân chủ lực ngụy lúc đó...

Ở Tây Nguyên, các trung đoàn chủ lực của ta thực hành "đánh điểm, diệt viện", cắt đứt đường số 21, đường số 7, đường số 14, giải phóng một vùng rộng lớn từ đường số 14 xuống sát Cheo Reo. Ở bắc Kon Tum, ta tiêu diệt cứ điểm Pô Cô, giải phóng Đắc Pét, Đắc Tô, Tu Mơ Rông, mở rộng và củng cố bàn đạp quan trọng bắc Tây Nguyên. Ở Gia Lai, ta tiêu diệt quận lỵ Lệ Thanh; đánh viện cắt đứt đường số 19 đoạn Thanh An - Đức Cơ, phá khu dồn dân của địch ở đây, tạo điều kiện kéo dài tuyến vận chuyển chiến lược từ Sa Thầy, bắc Kon Tum vào Đắk Lắk.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 26 Tháng Tư, 2010, 11:07:41 pm
Cùng với thắng lợi trong đợt hoạt động Đông - Xuân năm 1964 - 1965, thắng lợi của các Chiến dịch Bình Giã, Đồng Xoài, Ba Gia... đánh dấu bước phát triển mới về trình độ tác chiến tập trung của bộ đội chủ lực trên chiến trường miền Nam, đẩy Mỹ - ngụy vào tình thế vô cùng nguy khốn. Quân đội Sài Gòn không còn là công cụ chủ yếu và chỗ dựa của chính sách thống trị thực dân mới của Mỹ. Chiến lược "Chiến tranh đặc biệt” bị phá sản.

Là cấu nối vận chuyển vũ khí, vật chất đưa lực lượng từ hậu phương chiến lược tới chiến trường, Đoàn 559 phấn khởi, tự hào đã góp sức lực, máu xương cùng toàn dân, toàn quân giành thắng lợi lớn trên chiến trường miền Nam.

Sau hơn 5 năm thực hiện nhiệm vụ, được Quân ủy Trung ương trực tiếp chỉ đạo, Đảng bộ, chính quyền tỉnh Quảng Bình, đặc khu Vĩnh Linh và nhiều địa phương, đơn vị hết lòng giúp đỡ; đặc biệt có sự hỗ trợ tích cực, có hiệu quả của các cấp bộ Đảng chính quyền, nhân dân và lực lượng vũ trang cách mạng Lào, Đoàn 559 đã trưởng thành nhanh chóng, toàn diện trên tuyến vận chuyển chiến lược. Đầu năm 1965, Đoàn 559 đã xây dựng được tuyến hành lang từ miền tây Quảng Bình vào khu vực ngã ba biên giới Việt - Lào - Campuchia.

Quá trình hình thành, phát triển của Đoàn 559, ngay từ giai đoạn mở đầu (1959 - 1964) là một bằng chứng sống động về quy luật phát triển của cuộc chiến anh giải phóng của dân tộc ta. Từ những ngày soi đường âm thầm, lặng lẽ giữa mùa mưa năm 1959, những người lính Trường Sơn đã từng bước nghiên cứu, nắm bắt quy luật đánh phá ngăn chặn của kẻ thù, nghiên cứu điều kiện tự nhiên núi rừng Trường Sơn, khảo sát mở hệ thống đường gùi thồ, đường ô tô dã chiến kết hợp đường sông với tổng chiều dài gần 2.000KM. Khối lượng hàng Đoàn 559 chuyển giao chiến trường gồm 2.912 tấn. Hơn 12.000 cán bộ, chiến sĩ được bảo đảm hành quân qua tuyến vào công tác, chiến đấu ở chiến trường.

Về tổ chức lực lượng, Đoàn 559 cũng có những bước phát triển vừa mang tính tuần tự vừa mang tính nhảy vọt. Khởi đầu với gần 500 cán bộ, chiến sĩ hoạt động chủ yếu là gùi, vác hàng; sau hơn 5 năm con số đó đã lên tới hơn 8.000 và bước đầu hình thành tổ chức kết hợp vận tải thô sơ với vận tải cơ giới quy mô cấp trung đoàn. Từ một đơn vị vận tải - giao liên, bước đầu hình thành một lực lượng bộ đội hợp thành gồm vận tải, bộ binh, công binh, phòng không, bảo đảm tuyến vận chuyển không ngừng phát triển, góp phần đưa cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng lên thế tiến công, đánh thắng chiến lược "Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ.

Kết quả xây dựng hoạt động trong những năm này cũng đã tạo cơ sở vật chất và kinh nghiệm bước đầu để Đoàn 559 phát triển cơ giới hóa tuyến vận tải quân sự chiến lược lên quy mô lớn, xây dựng hành lang Trường Sơn thành căn cứ hậu cần chiến lược trực tiếp của các chiến trường Nam Đông Dương trong những giai đoạn tiếp sau của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 26 Tháng Tư, 2010, 11:08:35 pm
*
*   *

Bước sang năm 1965, cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ta trên hai miền Nam - Bắc có những chuyển biến quan trọng.

Ở miền Nam, chiến lược "Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ bị phá sản, ngụy quyền khủng hoảng nghiêm trọng. Cách mạng miền Nam đứng trước thời cơ mới, có khả năng giành thắng lợi mới.

Để cứu vãn thất bại, đế quốc Mỹ buộc phải thay đổi chiến lược. Chúng ồ ạt đưa quân chiến đấu Mỹ vào miền Nam, đồng thời mở rộng chiến tranh bằng không quân và hải quân ra miền Bắc nhằm phá hoại tiềm lực kinh tế quân sự của hậu phương lớn, uy hiếp tinh thần nhân dân ta, ngăn chặn sự chi viện từ Bắc vào Nam.

Từ ngày 7 tháng 2 năm 1965, Mỹ liên tiếp dùng không quân đánh phá các tỉnh nam Quân khu 4 với quy mô ngày càng lớn. Giao thông vận tải là mục tiêu số 1. Các đường huyết mạch như đường số 1, đường 15, đường 12..., ở nam Quân khu 4, bị địch đánh phá dữ dội. Các cầu Hàm Rồng, Đò Lèn, Tào Xuyên (Thanh Hóa); cầu Bùng, cầu Cấm (Nghệ An); Nghẽn, Tùng Cốc (Hà Tĩnh); Khe Tang, Khe Ve (Quảng Bình) đều bị phá. Các điểm vượt sông quan trọng như Bến Thủy, Nam Đàn, Linh Cảm, Địa Lợi, phà Gianh, Long Đại đều bị khống chế. Không quân địch đã hoạt động cả ban đêm, liên tục thả pháo sáng để kiểm soát các trục giao thông.

Mạng lưới giao thông vận tải ở các tỉnh Quân khu 4 bị tắc nhiều đoạn, nhất là các con đường dẫn vào tuyến chi viện chiến lược 559. Giao thông vận tải trở thành mặt trận chiến đấu quyết liệt.

Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương tăng cường chỉ đạo công tác giao thông vận tải xác định rõ nhiệm vụ bảo vệ và giữ vững giao thông vận tải là công tác trung tâm đột xuất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân. Bộ Giao thông Vận tải và Ty Giao thông các tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Đặc khu Vĩnh Linh tập trung lực lượng đảm bảo giao thông từ vĩ tuyến 20 trở vào, tăng thêm lực lượng sửa chữa đường, cầu, làm thêm các bến vượt giữ vững giao thông thông suốt trong mọi tình huống.

Tháng 4 năm 1965, Cục Vận tải thuộc Tổng cục Hậu cần được tái lập, đảm nhiệm toàn bộ tuyến vận tải quân sự trên miền Bắc, các tuyến vận tải cho Trung, Thượng Lào, đảm bảo "chân hàng” cho Đoàn 559. Trên tuyến chiến lược 559, trước nhu cầu vận chuyển vào chiến trường ngày càng lớn, tổ chức và phương thức vận chuyển cũ không còn thích ứng nữa. Cuộc chiến đấu ở chiến trường đòi hỏi phải thay đổi phương thức hoạt động, phải chuyển lên cơ giới mới có thể vận chuyển khối lượng lớn vào các chiến trường xa, đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn của các chiến trường.

Ngày 3 tháng 4 năm 1965, Thường trực Quân ủy Trung ương ra nghị quyết tăng cường nhiệm vụ và tổ chức của Bộ Tư lệnh 559. Nghị quyết nêu rõ: Nhiệm vụ chủ yếu của Bộ Tư lệnh 559 là mở đường và tổ chức vận chuyển chi viện cho các chiến trường miền Nam và Hạ Lào. Đồng thời có nhiệm vụ bảo đảm vật chất và an toàn cho các lực lượng hành quân; bảo vệ hành lang địch tập kích, biệt kích bằng đường bộ và đường không; phối hợp và giúp đỡ các địa phương củng cố vùng giải phóng ở dọc hành lang.

Đoàn 559 có ba lực lượng chính là: lực lượng mở đường mới, giữ gìn và sửa chữa đường cũ; lực lượng vận chuyển và giữ kho; lực lượng bảo vệ. Ngoài ra, còn có các lực lượng bảo đảm như: thông tin, quân y, sửa chữa... Các lực lượng đó được huy động từ quân đội, Bộ Giao thông Vận tải và dân công địa phương các tỉnh; tất cả đều đặt dưới sự lãnh đạo và chỉ huy thống nhất của Đảng ủy và Bộ Tư lệnh 559.

Về tổ chức và quan hệ, Bộ Tư lệnh và Đảng ủy 559 như một quân khu, trực thuộc Quân ủy Trung ương. 

Những quyết định trên đây đánh dấu bước phát triển mới của Đoàn 559: từ vận chuyển thô sơ chuyển sang vận chuyển cơ giới; từ quy mô cấp sư đoàn lên quy mô một quân khu với những nhiệm vụ chiến lược to lớn, vô cùng khó khăn phức tạp trên một địa bàn rất sâu và rộng.

Để tăng cường lãnh đạo theo tổ chức, nhiệm vụ mới, Bộ Chính trị chỉ định đồng chí Phan Trọng Tuệ, ủy viên Trung ương Đảng - Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải làm Tư lệnh kiêm Chính ủy Đoàn 559, thượng tá Võ Bẩm làm Phó Tư lệnh; đại tá Vũ Xuân Chiêm - Phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần làm Phó Chính ủy; thượng tá Vũ Văn Đôn - Cục trưởng Cục Quản lý ô tô vào giữ chức Tham mưu trưởng Đoàn.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 26 Tháng Tư, 2010, 11:09:21 pm
Các cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần trực thuộc Bộ Tư lệnh cũng được tăng cường. Các đồng chí: Đỗ Hữu Đào làm Tham mưu phó tác chiến, Nguyễn Cận làm Tham mưu phó phòng không, Nguyễn Văn Nhạn làm Tham mưu phó công binh, Lê Nghĩa Sĩ làm Phó Chủ nhiệm chính trị, Võ Văn Dật làm Chủ nhiệm hậu cần, Lê Xy làm Chính ủy hậu cần.

Về Đảng, đồng chí Phan Trọng Tuệ được chỉ định làm Bí thư Đảng ủy; các đồng chí Vũ Xuân Chiêm, Võ Bẩm, Vũ Văn Đôn, Vũ Toàn, Nguyễn An là ủy viên.

Bên cạnh cán bộ chủ trì, nhiều cán bộ quân sự, chính trị, hậu cần và các cán bộ chuyên môn có kinh nghiệm về giao thông vận tải của các cơ quan Bộ Quốc phòng, các quân khu, quân binh chủng và Bộ Giao thông Vận tải được điều động vào tăng cường cho Đoàn. Nhiều lực lượng và phương tiện: công binh, ô tô vận tải, pháo cao xạ được điều gấp vào tuyến để kịp thời triển khai nhiệm vụ. Một số công trường làm đường của các tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình, hai đội cơ giới mạnh của Bộ Giao thông Vận tải cũng được điều vào để tham gia mở đường. Các đoàn thanh niên xung phong của các tỉnh Nam Hà, Ninh Bình, Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Quảng Bình và 1.600 dân quân loại 1 của các tỉnh Nghệ An, Hà lĩnh cũng hành quân vào Trường Sơn tham gia làm đường và đảm bảo giao thông.

Theo phương thức hoạt động mới, Đoàn 559 tổ chức thành ba tuyến, tương đương cấp lữ đoàn:

- Tuyến I gồm các lực lượng hoạt động từ Khe Ve (đường 12) vào đến đường 9, nòng cốt là trung đoàn 245 ô tô vận tải và các cơ sở kho tàng, tiểu đoàn 25 công binh, các lực lượng mở đường, đảm bảo giao thông, tiểu đoàn 14 cao xạ. 

- Tuyến II gồm các lực lượng trung đoàn 265 ô tô vận tải lực lượng trung đoàn 279 công binh mở đường, lực lượng thanh niên xung phong gùi thồ, lực lượng bộ binh, lực lượng giao liên, lực lượng cao xạ hoạt động từ làng Ho (Quảng Bình) vượt đường 9 vào đến bắc Bạc (Nam Lào) và trục đường ngang B45 từ Lạ Hạp đi Trị - Thiên. 

- Tuyến III gồm lực lượng trung đoàn 98 công binh mở đường, lực lượng vận chuyển, giao liên từ Bạc vào đến Tà Xẻng, gồm cả đường ngang B46 từ Chà Vằn đi Khâm Đức và đường C4 từ ngã ba Phi Hà đi Tà Ngâu (biên giới Campuchia).

Phát hiện sự phát triển mới của tuyến chi viện chiến lược giặc Mỹ ráo riết hoạt động ngăn chặn. Máy bay Mỹ trinh sát tuyến đường suốt ngày đêm. kết hợp thả thám báo biệt kích dò la chỉ điểm. Các cuộc đánh bom phá đường và săn đuổi đội hình xe bằng máy bay AD6 của Hoàng gia Lào và máy bay phản lực của Mỹ từ khu vực Đường 9 trở ra cũng tăng dần, đặc biệt tập trung ở một số đầu mối quan trọng hoặc hiểm yếu như Tà Khống, Mường Phin, Pác Pha Năng, Pha Nộp, Ba Na Phao... hình thành các trọng điểm đánh phá ngày càng ác liệt.

Tuyến 559 đã chủ động phối hợp với các cấp ủy Đảng, chính quyền cách mạng địa phương của bạn để đối phó. Mặt khác dựa vào pháp lý quốc tế, Pa thét Lào và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kịch liệt lên án việc làm sai trái của chính phủ Hoàng gia Phuma và hành động xâm lược của Mỹ, đòi phải tôn trọng chủ quyền của Pa thét Lào trong các vùng kiểm soát theo các hiệp nghị đã ký kết.
Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào chỉ thị cho các địa phương hết lòng giúp đỡ, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tuyến hành lang, coi đó là nghĩa vụ quốc tế cao cả, xây dựng tình đoàn kết chiến đấu Lào - Việt, đập tan các âm mưu chia rẽ dân tộc của bọn phản động.

Trước đòi hỏi của nhiệm vụ mới, Bộ Tư lệnh 559 vừa gấp rút tập hợp và tổ chức lực lượng, vừa tranh thủ xúc tiến các mặt hoạt động.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 26 Tháng Tư, 2010, 11:10:13 pm
Tình hình lúc này vô cùng khẩn trương. Khối lượng hàng phải đưa ngay vào các chiến trường rất lớn và cấp bách, trong khi đường cơ giới từ Bạc trở vào chưa có, mùa mưa đã gần kề, đòi hỏi mọi việc phải ra sức chạy đua với địch, với thời tiết. Đầu tháng 4 năm 1965 Bộ Tư lệnh họp tại Hà Nội, nêu lên mấy việc chính bức bách cần tranh thủ giải quyết cho kịp:

1. Chỉ đạo đẩy mạnh vận chuyển phấn đấu đến hết tháng 10 năm 1965 đưa đến các điểm từ La Hạp trở vào 27.270 tấn (14.361 tấn hàng chi viện và 12.909 tấn cho nội bộ Đoàn 559).

2. Triển khai ngay việc củng cố và chống lầy các đường cũ để phục vụ vận chuyển theo kế hoạch trước mắt. Đồng thời xúc tiến kế hoạch mở 400 km đường mới, gồm đường 128 từ Xóm Péng qua Lùm Bùm xuống đường 9 (hết tháng 6 năm 1965 phải xong) để kịp vận chuyển trong mùa mưa; đường từ Bạc đến Tà Xẻng (hết tháng 10 năm 1965 phải thông xe) kịp đáp ứng nhiệm vụ vận chuyển trong mùa khô tới .

3. Tổ chức và đảm bảo hành quân từ tháng 6 đến tháng 10 năm 1965, trung bình mỗi ngày phục vụ cho 300 người đi.

Đó là những công việc đầy khó khăn vì khối lượng lớn, phải triển khai trên tuyến rất dài, thời gian gấp, địch đánh phá ngày càng mạnh, thời tiết lại không thuận lợi.

Bản thân lực lượng trên tuyến, ngoài tổ chức cũ của Đoàn có 6.500 người, các lực lượng đảm bảo cho nhiệm vụ mới chưa vào kịp, mọi phương tiện và khí tài kỹ thuật khác đều thiếu thốn. Vì vậy phải động viên mọi lực lượng nhận thức rõ tình thế, xây dựng quyết tâm, tìm nhiều biện pháp tích cực sáng tạo để vượt qua mọi khó khăn, thực hiện cho được nhiệm vụ.

Tư tưởng chỉ đạo lúc này là cố gắng đẩy mạnh mọi hoạt động, tranh thủ thời tiết còn thuận lợi trong mấy tháng cuối mùa khô, đồng thời chuẩn bị để liên tục làm nhiệm vụ trong mùa mưa.

Sở chỉ huy mới của Bộ Tư lệnh 559 tạm đặt ở vùng Hóa Tiến, Hóa Thanh (khu vực Khe Ve) thuộc huyện Minh Hóa - Quảng Bình, điểm tiếp giáp và nhận hàng cửa tuyến hậu phương.

Thời điểm này, tuyến hậu phương cũng phối hợp chặt chẽ các hoạt động đảm bảo cho Đoàn 559. Tổng cục Hậu cần điều Tổng đội I xây dựng công trình quốc phòng vào xây dựng các tổng kho trên đường 15 và đường 16, thành lập tổng kho 765 (Kho R) ở khu vực Khe Ve (đầu đường 12) và làng Ho (đầu đường 16) để lập chân hàng cho Đoàn 559; thành lập Binh trạm 12 gồm các phân trạm Vinh, Truông Bát, Tân Đức, Lệ Thủy, sử dụng các Đoàn xe 225 và 235 vận chuyển hàng từ Vinh vào tổng kho R và các vị trí tiếp cận tuyến 559.

Theo kế hoạch vận chuyển của Bộ Tư lệnh trong tháng 4 và 5 năm 1965, Tuyến I phải xây dựng hệ thống kho ở Khe Ve (tỉnh Quảng Bình), Xiêng Phan, Pác Pha Nang, Xóm Péng (tỉnh Khăm Muộn) để lập chân hàng chuẩn bị cho vận chuyển mùa mưa; sử dụng trung đoàn 245 ô tô vận tải (có 340 xe loại 2 tẩn) vừa vận chuyển lập chân hàng ở khu vực Pác Pha Năng, Xóm Péng vừa vận chuyển thẳng vào Tà Khống (đường 9) 11.797 tấn. Tuyến 11 sử dụng 141 ô tô loại 2 tấn của trung đoàn 265, 1.300 xe đạp thồ và 130 thuyền gỗ loại 1 tấn chuyển tiếp đến Bạc trên 4.000 tấn. Đồng thời có kế hoạch chuẩn bị các mặt để vận chuyển tiếp cho mùa mưa.

Thời gian này, cán bộ, chiến sĩ Đoàn 559 còn chưa hiểu rõ tình hình thời tiết và thủy văn ở khu vực Mụ Giạ từ đường 12 đến đường 9, chỉ phỏng đoán là trong mùa mưa cả khu vực thung lũng Lằng Khằng có thể ngập lụt, hình thành một túi nước lớn. Muốn vận chuyển trong mùa mưa phải có biện pháp vượt qua túi nước đó. Vì vậy Bộ Tư lệnh Đoàn dự định trong tháng 4 và 5 khẩn trương đưa khoảng 3.000 tấn hàng vượt khu vực Lằng Khằng vào lập chân hàng dự trữ ở khu vực Xóm Péng, cũng là điểm đầu của đường 128 sắp mở để đề phòng khi mùa mưa đến túi nước hình thành - lúc đó đường 128 đã mở xong sẽ lấy số hàng đó vận chuyển xuống đường 9 để đưa tiếp vào phía trong.

Song khi bắt đầu thực hiện kế hoạch mới thì hoạt động đánh phá của không quân Mỹ cũng tăng mạnh. Từ ngày 4 tháng 4 năm 1965 cầu đường từ hậu phương vào ngày nào cũng bị oanh tạc, nhất là đường từ Nghệ An, Hà Tĩnh vào Khe Ve. Đoạn La Khê, Khe Núng có khi tắc 3 - 4 hôm liền.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 26 Tháng Tư, 2010, 11:10:58 pm
Ngày 16 tháng 4 năm 1965, cầu Khe Tang bị đánh sập. Đường từ Thanh Lạng vào Khe Ve bị tắc, mười ngày sau mới làm được đường ngầm cho xe qua. Có lúc, xe ở Khe Ve ra Hà Tĩnh phải đi vòng vào Quy Đạt (Minh Hóa), Minh Cầm sang Ba Đồn (Quảng Bình) rồi theo đường số 1 đi ra.

Liên tiếp những ngày sau, các cầu Khe Ve, La Trọng, Bãi Dinh và cả những cầu nhỏ dài 5 đến 10 mét cũng bị đánh sập. Binh trạm 12 phối hợp với các công trường giao thông của các tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình tổ chức khắc phục phá hoại, đảm bảo giao thông. Nhưng do nhiều khó khăn lúng túng ban đầu và chưa thống nhất được chỉ huy nên để tắc đường kéo dài. Tình hình đó đã ảnh hưởng lớn đến hoạt động vận chuyển của tuyến hậu phương lập chân hàng cho tuyến 559.

Đường từ Khe Ve vào đường 9 cũng bị đánh phá mạnh. Đèo Mụ Giạ và Pha Nốp thường xuyên bị đánh. Ban đêm máy bay địch liên tiếp thả pháo sáng khống chế và lùng đánh đội hình xe. Thời kỳ này, bộ đội xe chưa có kinh nghiệm, cứ thấy pháo sáng (dù địch thả rất xa), là dừng xe tránh nên càng kéo dài thời gian thực hiện cung độ.

Đầu tháng 5, trời bắt đầu mưa. Đường bị bom cày xới, mưa xuống càng hư hỏng nặng. Từ 25 tháng 5, phía tây Trường Sơn bắt đầu mưa lũ lớn, túi nước dâng cao có chỗ hơn 6 mét, cầu Pác Pha Năng bị trôi 7 nhịp. Vận chuyển ô tô từ Mụ Giạ vào đường 9 hoàn toàn bế tắc. Trong tình hình như vậy, khối lượng vận chuyển trong hai tháng 4 và 5 năm 1965 trên toàn tuyến thực hiện được rất thấp.

Ở Tuyến 1, khi thời gian còn vận chuyển được thì thiếu hàng, lại phải dành một số xe phục vụ công trường làm đường 128 chuẩn bị thi công. Đến khi có hàng thì mưa lũ lớn đường bị tắc.Cuối tháng 5, tuy đã bắt đầu mưa, vẫn phải dồn lực lượng cố chạy thêm một chuyến xe đưa một số hàng thiết yếu vào đường 9. Xe vừa xuất phát được một đêm thì mưa lũ lớn ập xuống, túi nước dâng lên, tuyến đường 129 bị ngập nhiều đoạn và lầy nặng, hơn 100 xe của Tuyến I bị mắc kẹt nằm rải rác từ Pác Pha Năng vào đến Na Mô, Na Nhôm dọc đường 129 trong suốt cả mùa mưa. Đơn vị phải cử người đi cứu đói.

Ở Tuyến II và Tuyến III, tuy địch chưa đánh phá nhiều nhưng đường khó đi, nhất là dốc 12 cua ở bác Bạc. Từ giữa tháng 5, do mưa lũ liên tục, thời gian đi của một chuyến xe tăng lên gấp 3 - 4 lần, đột xuất có cung tăng lên 6 lần. Từ La Hạp vào Bạc đường quá xấu, nhiều đèo dốc rất nguy hiểm, bình thường xe chỉ đi mất 2 ngày lúc này phải đi tới 15 ngày 1 chuyến. Kế hoạch vận chuyển tháng 4 và 5 chỉ đạt trên 50%. Sang đến tháng 6 do mưa lớn trên toàn tuyến, vận chuyển cơ giới bị tê liệt hoàn toàn.

Cùng với hoạt động vận chuyển, công việc thu hút nhiều lực lượng và gặp nhiều khó khăn nhất lúc này là mở đường mới và bảo đảm giao thông.

Trước hết là tăng cường chống lầy các đường cũ cho xe chạy những tháng cuối mùa khô và tiếp đó chạy được trong mùa mưa, chủ yếu tập trung vào tuyến đường 129 nối từ Lằng Khằng (đường 12) xuống Mường Phin (đường 9) dài 140km. Vì lực lượng quá ít, quân số lao động thực chất chỉ có khoảng một đại đội, đường đã xấu do mưa lũ càng trở nên tồi tệ, xe đi chậm hơn người đi bộ, cuối tháng 5, túi nước dâng cao, giao thông từ ngoài vào bị tắc hoàn toàn, công việc chống lầy đảm bảo giao thông đường 129 phải dừng lại.

Từ Bản Đông vào Bạc, Tuyến II dùng một tiểu đoàn công binh và 600 bộ binh, huy động thêm cả cán bộ chiến sĩ các lực lượng để chống lầy trên đường dài 137km bằng cách chặt cây rải "rông đanh". Khi mưa xe vẫn chạy được, nhưng rất chậm, cả đêm chỉ chạy được từ 15 - 20km.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 26 Tháng Tư, 2010, 11:11:53 pm
Bộ Tư lệnh chủ trương, khảo sát và thi công nhanh tuyến đường 128 để kịp có đường vận chuyển từ Xóm Péng xuống đường 9 trong mùa mưa và triển khai mở đường từ Bạc vào Tà Xẻng để kịp có đường vận chuyển vào cuối năm 1965. Đồng thời hiệp đồng với Quân khu 4 và các tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình đảm bảo giao thông từ Khe Ve trở vào và mở đường tránh đèo Mụ Giạ.

Đường 128 là tuyến đường nối từ Xóm Péng chạy song song với đường 129, qua Tha Pa Chôn, Lùm Bùm, Cốc Mạc, đèo Văng Mu, xuống Na Bo nối vào đường 9. Tuyến đường này có bình độ cao hơn đường 129 và đi xuống đường 9 gần hơn. Qua khảo sát, tuyến đường dài 137km, địa hình tương đối bằng phẳng, ít có dốc cao. Đoan từ Xóm Péng vào Lùm Bùm, rừng còn kín, ô tô có thể chạy ban ngày. Khối lượng đất đá phải đào khoảng 300.000 m3, có chỗ chỉ chặt cây, vét đường là xe có thể chạy được. Vì vậy thời gian mở đường dự tính chỉ cần khoảng 2 tháng.

Bộ Tư lệnh 559 đã tập trung vào công trình này 2 đội cơ giới của Bộ Nông trường, hai đội cơ giới của Bộ Giao thông Vận tải với 53 máy húc và 600 dân quân của Quân khu 4, dự kiến ngày 1 tháng 5 bắt đầu thi công, cuối tháng 6 năm 1965 thì hoàn thành, khoảng giữa tháng 7 bắt đầu cho xe chạy. 

Tuy nhiên, việc thi công gặp khó khăn trở ngại khôn lường. Đường từ ngoài vào bị tắc luôn lại thiếu phương tiện vận tải nên người và phương tiện chuyển vào không kịp. Chuyến đầu tiên gồm 23 máy húc và 1.441 người vào công trường chậm nửa tháng. Số còn lại bị tắc ở ngoài Khe Ve. Máy đưa vào không đồng bộ, thiếu phụ tùng nên cuối tháng 5 vẫn chưa lắp xong, công trường phải dùng lực lượng thô sơ thi công nên tiến độ rất chậm. Đến ngày 31 tháng 5, toàn công trường mới làm được hơn 10km đường mà dự kiến phải làm 70km.

Đường từ Bạc vào Tà Xẻng, dựa vào tuyến đường thồ cũ dài khoảng 250km. Nhưng phải qua đèo Long, Tăng Cát, Xa Nắc, Bờ Ne, Chà Vằn, Bô Phiên, Xê Ca Mán, Xê Sụ nhiều đèo dốc hiểm trở, khối lượng đất đá phải đào rất lớn.

Phía đường 12, các Ty Giao thông Hà Tĩnh, Quảng Bình cũng xúc tiến việc mở đường tránh túi nước và đường tránh Mụ Giạ. Nhưng đường tránh túi nước phải qua nhiều núi đá dựng đứng không mở được. Còn đường tránh Mụ Giạ đi về phía đông đường 12 xuống cánh đồng Lằng Khằng nối vào đường 129, do công trường 050 thi công mới được hơn 20km thì bị mưa lũ ngập trắng, nên cũng chưa hoàn thành.

Do tình hình mở đường và vận chuyển gặp nhiều khó khăn lớn nên lượng hàng tồn kho ở các khu vực rất mỏng, ở Khe Ve, còn 937 tấn (216 tấn gạo); khu vực đường 9 còn 1.900 tấn (hơn 1.000 tấn gạo). Số lượng đó chỉ đủ tiếp tế cho các lực lượng làm đường và bảo đảm cho các đơn vị hành quân trong vài tháng; việc cung cấp cho các lực lượng nội bộ 559 khoảng 9.000 người rất nan giải, chưa kể xe máy không còn nhiên liệu để hoạt động.

Mùa mưa tới, các mặt hoạt động càng khó khăn phức tạp bội phần. Hội nghị Đảng ủy Đoàn từ ngày 5 đến 9 tháng 7 năm 1965 xác định rõ các nhiệm vụ trên giao, nhấn mạnh: "Dù khó khăn đến mấy cũng phải thực hiện cho kỳ được những yêu cầu tối thiểu và cấp bách để đảm bảo cho cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam giành được thắng lợi to lớn", đề ra nhiều biện pháp chỉ đạo nhằm đẩy mạnh việc xây dựng lực lượng và triển khai các mặt hoạt động của toàn tuyến. Trọng tâm là tổ chức vận chuyển vượt túi nước để bổ sung cho các lực lượng phía trong; đẩy nhanh việc thi công đường 128; nhanh chóng khảo sát và mở đường ngang từ đường 15 sang đường 128 để tránh túi nước Lằng Khằng và bổ trợ cho đường 12; xây dựng hệ thống kho ở Tuyến I để kịp tiếp nhận hàng của hậu phương lập chân hàng cho mùa khô tới.

Quán triệt Nghị quyết Trung ương lần thứ 11 và nghị quyết của Đảng ủy Đoàn, các lực lượng trên tuyến nhận rõ sự cấp bách của nhiệm vụ chi viện cách mạng miền Nam nên dù gian khổ, thiếu thốn, ốm đau vẫn quyết tâm cố gắng thực hiện nhiệm vụ.

Hoạt động căng thẳng nhất lúc này là tổ chức vận chuyển vượt tai nước. Kế hoạch của Đoàn là dùng ô tô đưa hàng lên khu kho 050; dùng thuyền mảng tiếp chuyển theo dòng sông Nậm Hơ và Nậm Ngo đến bờ nam sông Xiêng Phan 2.300 tấn; từ đó làm đường "rông đanh" chống lầy vào Xóm Péng, đợi khi thông đường 128 (trước ngày 15 tháng 7) sẽ dùng ô tô chuyển tiếp vào Noọng Kà Đeng. Từ Noọng Kà Đeng chuyển tiếp vào Tà Khống bằng đường sông giao cho Tuyến II khoảng 2.250 tấn.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 26 Tháng Tư, 2010, 11:12:41 pm
Từ Tà Khống trở vào, Tuyến II phải chống lầy để vận chuyển thường xuyên. Đồng thời tổ chức 2.000 người gánh bộ theo đường từ làng Ho kết hợp với mở đường thồ vào đường 9 (khu vực Bản Đông) để thồ hàng đảm bảo kế hoạch và nội bộ. Đến 30 tháng 10 năm 1965, Tuyến II phải giao 2.247 tấn cho Tuyến III, giao cho Trị - Thiên tại A Túc 245 tấn và đảm bảo 230 tấn gạo cho bộ đội hành quân.

Tuyến III sử dụng lực lượng gùi thồ và một phần cơ giới đưa vào Sa Khe 1.334 tấn Đắc Lây 345 tấn và đảm bảo cho bộ đội hành quân 189 tấn.

Để vận chuyển vượt túi nước, việc quan trọng đầu tiên là chuẩn bị khoảng 300 đến 400 thuyền nhỏ, loại từ 0,5 tấn đến 1 tấn và hàng trăm thủy thủ. Bộ Tư lệnh Đoàn chủ trương đóng tại chỗ một phần, đưa một số thuyền từ Tuyến II ra và mua thêm thuyền nan từ Nam Hà, Phú Thọ chuyển vào.

Bộ Tư lệnh Đoàn đã cử cán bộ ra các tỉnh Quảng Bình, Nam Hà huy động gấp một số công nhân lên mở công trường đóng thuyền ngay tại rừng săng lẻ ở khu vực 050. Đồng thời chuyển 700 nam thanh niên xung phong của Thanh Hóa dự định sử dụng làm lực lượng thồ ở Tuyến II, bổ sung cho Tuyến I đưa vào phục vụ công trường đóng thuyền và huấn luyện làm thủy thủ; giao cho lực lượng công binh đi phát cây, đánh đá, khai quang luồng lạch. Thuyền đóng được đến đâu đưa vào vận chuyển đến đấy.

Do lúng túng về tổ chức và gấp gáp về chuẩn bị, nên đến giữa tháng 7 mới vận chuyển được thuyền đầu. Thời tiết mưa lũ lớn, thủy thủ mới huấn luyện, phải chèo chống trên dòng sông hẹp, nước chảy mạnh, luồng lạch chưa quen, thuyền gặp chướng ngại tránh không kịp thường bị lật. Thuyền xuôi dòng từ 050 xuống Xiêng Phan khoảng 35km chỉ mất 1 ngày nhưng ngược về phải lên bờ kéo nên thường mất 3 - 4 ngày mới được một chuyến. Những ngày sau dùng thêm thuyền nan và một số thuyền bằng vải bạt bọc khung tre, để khi về có thể khiêng bộ nhưng vô cùng nặng nề, vất vả. Hiệu suất vận chuyển rất thấp, mỗi ngày chỉ được từ 10 đến 20 tấn.

Đến cuối tháng 8 số thuyền đóng được lên tới 84 thuyền gỗ, 250 thuyền bạt. Nhưng vì tải trọng hạn chế, thới gian mỗi chuyến bị kéo dài, từ cuối tháng 8 trời giảm mưa, nước cạn dần khó đi, nên chỉ đưa vào Xiêng Phan được 460 tấn là phải kết thúc.

Đoạn phía nam túi nước từ Xiêng Phan vào Xóm Péng đã lát "rông đanh" toàn bộ, nhưng đường rất lầy, ô tô không đi được, phải dùng một số đại đội dân quân gánh bộ vào Pác Pha Năng được hơn 20 tấn. Phần lớn số hàng vượt túi nước vẫn đọng lại ở Xiêng Phan. Kế hoạch vận chuyển hàng vào đường 9 tuy đã phấn đấu rất gian khổ tốn kém, nhưng đành bỏ dở.

Ở tuyến 11, tuy không có hàng từ Tuyến I đưa vào, Ban chỉ huy tuyến đã huy động mọi lực lượng ra chống lầy, vận chuyển số hàng tồn từ đường 9 vào Tuyến III cung cấp cho chiến trường, bộ đội hành quân và cứu đói cho lực lượng phía trong.

Đường gùi từ làng Ho đi Bản Đông không có hiệu quả; Bộ Tư lệnh cho mở thành đường thồ đồng thời khai thác chở thuyền theo sông Sê Băng Hiêng từ Chà Lì về Bản Cọ, rồi gùi tiếp về Bản Đông được hơn 100 tấn. Tuyến III cũng cố gắng đảm bảo cho Khu 5 được 2 tấn/ngày ở hướng B46 và từ 1 tấn đến 2 tấn/ngày ở Sa Khe.

Thời gian này, Bộ Tư lệnh Đoàn đã động viên các đơn vị ở bên kia tai nước, nhất là ở Tuyến II và Tuyến III rút bớt khẩu phần gạo xuống 3 đến 4 lạng mỗi ngày để tăng thêm lượng hàng cung cấp cho chiến trường.

Nhờ các biện pháp tích cực như vậy nên kế hoạch vận chuyển van đảm bảo được một phần gạo cho chiến trường và đủ gạo cho các đơn vị hành quân. Riêng đối với đời sống của bộ đội trên toàn tuyến rất thiếu thốn, kham khổ, ốm đau bệnh tật hoành hành.

Công việc mở đường mới cũng gặp khó khăn lớn. Tiến độ thi công đường 128 rất chậm. Tuy có nhiều máy nhưng do mưa lớn, đất lầy không phát huy được. Đường mở đến đâu bị lầy đến đó lại phải chặt cây chống lầy, nên càng thiếu lực lượng thi công nghiêm trọng. Ngay lực lượng tiếp tế hậu cần cho các đơn vị cũng không đảm bảo. Bộ đội thiếu đói, ốm đau hàng loạt. Nhất là số nữ công nhân và nữ thanh niên xung phong sống rất cực vì thiếu thốn những nhu cầu tối thiểu cho sinh hoạt, vệ sinh và phòng bệnh.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 26 Tháng Tư, 2010, 11:13:29 pm
Giữa tháng 10 năm 1965, Tư lệnh Phan Trọng Tuệ vào kiểm tra tình hình ở công trường đã chỉ thị Tuyến I tổ chức một chuyến hàng đặc biệt gồm 20 xe Zil 57 đưa hàng tứ Xóm Péng vào Lùm Bùm cứu đói cho công trường 128. Nhờ đó tiến độ thi công được đẩy lên nhưng thời gian cũng phải kéo dài tới đầu tháng 11 mới thông đến đường 9.

Đoạn đường từ Bạc đi Tà Xẻng còn khó khăn hơn. Thời gian thi công triển khai chậm, máy móc ít, thuốc nổ thiếu, phần lớn phải dùng lao động thủ công. Gặp những đoạn núi đá các đơn vị phải nhảy cóc thi công sang đoạn khác chờ khi có thuốc nổ mới quay lại làm tiếp.

Lương thực và thuốc men đều rất thiếu thốn. Bộ đội phải đào củ mài, củ dái ngựa, củ chuối để ăn. Thực phẩm chủ yếu là măng, lá sần. Thuốc sốt rét và các loại vi-ta-min không đủ, ăn uống kham khổ trong khi lao động rất căng thẳng, sức khỏe của cán bộ, chiến sĩ giảm sút nghiêm trọng, quân số ốm cao. Nhiều người gầy sút, cơ bắp bị teo lại. Tuy vậy, cán bộ chiến sĩ các đơn vị vẫn động viên nhau giữ vững quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ.

Trước tình hình bức xúc, Bộ Tư lệnh 559 đã điều tiểu đoàn 56 ô tô vận tải dưới sự chỉ huy của thượng úy tiểu đoàn trưởng Trần Đức Dục và thượng úy chính trị viên Nguyễn Long thực hiện một chuyến vận chuyển đột kích mang mật danh “ngọn đèn xanh Bác Hồ" xuất phát từ Xóm Péng thuộc Tuyến I, theo đường 129 vào thẳng Tuyến III, chuyển gấp một số lương thực, thực phẩm, thuốc nổ và dụng cụ làm đường để đẩy nhanh việc làm đường từ Bạc vào Tà Xẻng kịp đưa vào sử dụng.

Đại đội trưởng Nguyễn Văn Cân được chỉ định trực tiếp lái xe mở đường mỗi khi vượt qua những đèo dốc hiểm trở. Được tổ chức chặt chẽ, có đội ngũ lái xe tay nghề vững và hành quân bí mật bất ngờ, không bị địch phát hiện đánh phá nên toàn đơn vị đến đích gọn, đúng thời gian, tổn thất nhẹ, một xe đổ xuống vực khi qua dốc Đèo Long.

Được tiếp tế những nhu cầu cần thiết, tiến độ thi công được đẩy mạnh. Đầu tháng 1 năm 1966, đường đã được mở thông đến Tà Xẻng tạo được tuyến giao thông vận tải cơ giới liền mạch từ Mụ Giạ vào ngã ba biên giới Việt - Lào - Campuchia.

Hoàn thành được đoạn đường này là một thắng lợi to lớn, thể hiện nỗ lực phi thường của Bộ đội 559. Tuy vậy đường vẫn mang tính chất quân sự làm gấp, mặt đường và bán kính đường vòng rất hẹp, gồ ghề, độ dốc leo đèo rất cao đòi hỏi phải tiếp tục cải tạo mới sử dựng có hiệu quả và an toàn.

Cùng với việc mở đường mới, từ tháng 9, Tuyến I đã đưa lực lượng công binh, công nhân, thanh niên xung phong vào sửa chữa đường 129 rút được số xe bị mắc kẹt từ Na Mô, Na Nhôm, khôi phục lại hệ thống đường, cầu trên đường 12; củng cố hoàn chỉnh đường 050 tránh đèo Mụ Giạ. Từ 19 tháng 9 năm 1965, xe đã chạy được từng đoạn. Đầu tháng 11 đường đã thông từ Mụ Giạ đến Tà Khống trên cả 2 trục đường 129 và 128.

Trong khi phải tập trung cố gắng thực hiện các nhiệm vụ mở đường và vân chuyển, Bộ Tư lệnh Đoàn vẫn xúc tiến nhiệm vụ tổ chức và bảo đảm cho bộ đội hành quân vào chiến trường. Toàn tuyến giao liên được tổ chức thành 33 trạm: Từ làng Ho đến Bạc có 18 trạm. Từ Bạc trở vào có 15 trạm. Mỗi trạm có từ 9 đến 11 người do một chuẩn úy hoặc thiếu úy (có nơi là thượng sĩ phụ trách).

Lưu lượng hành quân mỗi ngày khoảng 600 người và ngày càng tăng thêm, nhưng biên chế phục vụ của các trạm giao liên quá ít, không đủ người làm cấp dưỡng, cáng thương, dẫn đường, đào hầm hố, làm lán trại. Có chiến sĩ đang lên cơn sốt rét cũng phải lên đường đưa quân. Với sự nỗ lực vượt bậc của bộ đội giao liên, đến tháng 10 năm 1965, đã có 29.000 người được giao cho các chiến trường.
Nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ hành lang cũng bắt đầu được đặt ra.

Mùa mưa ở Lào là lúc địch thường lợi dụng tung các toán quân thâm nhập, hoạt động gián điệp, biệt kích phá hoại kho tàng của ta, chỉ điểm cho máy bay đánh phá. Các đơn vị trên tuyến đã chủ động ngụy trang che phòng, truy lùng gián điệp biệt kích, không cho chúng tiếp cận phá hoại. Ngày 7 tháng 5 năm 1965, Tuyến III sử dụng đặc công tiêu diệt đồn Na Kay diệt 60 tên, bắt 1 tên.

Nhiệm vụ tác chiến phòng không ngày càng bức thiết nhưng Đoàn chưa có biên chế lực lượng cao xạ. Vì vậy còn lấy phương châm phòng tránh là chủ yếu. Tiểu đoàn 20 và tiểu đoàn 12 cao xạ 37 ly của Quân khu 4 vào phối hợp chiến đấu ở khu vực Lằng Khằng, Tà Khống đã chiến đấu dũng cảm, lần đầu tiên bắn rơi 2 máy bay F 105 trên tuyển Trường Sơn nhưng bộ đội pháo cao xạ chưa quán triệt tư tưởng tác chiến bảo vệ hành lang và đội hình xe, nên tác dụng còn hạn chế.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 26 Tháng Tư, 2010, 11:14:02 pm
Qua 7 tháng thực hiện chủ trương đưa cơ giới vào vận chuyển trên tuyến Trường Sơn nhằm kịp thời phục vụ yêu cầu đánh thắng “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ, cán bộ chiến sĩ Đoàn 559 đã vượt qua những thử thách nghiệt ngã của mùa mưa lũ, liên tục phấn đấu mở được 328km đường, vận chuyển được một khối lượng vật chất vào chiến trường lớn hơn mùa khô trước, tổ chức bảo đảm hành quân quy mô tương đối lớn, đánh địch bảo vệ an toàn hành lang, bước đầu hình thành một tổ chức làm nhiệm vụ chi viện chiến lược bằng phương thức vận tải cơ giới. Đảng ủy - Bộ Tư lệnh đã tự kiểm điểm và khẳng định quyết tâm khắc phục khuyết điểm chủ quan, hạn chế khó khăn khách quan, tiếp tục thực hiện chủ trương vận chuyển cơ giới chi viện chiến lược.

Đánh giá tình hình và hoạt động trên tuyến, Quân ủy Trung ương cũng chỉ rõ: "Do yêu cầu của cách mạng miền Nam, Quân ủy đề ra làm đường để chạy mùa mưa là cần thiết, Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Đoàn cũng quyết tâm hoàn thành, nhưng chưa nắm chắc thủy văn địa chất, lại không đủ thì giờ chuẩn bị mà cứ triển khai công tác. Khi gặp khó khăn không kịp thời phát hiện để Quân ủy giải quyết, đưa lại nhiều khó khăn không hoàn thành kế hoạch, để lại hậu quả về người đau, xe hỏng... Về khách quan, sự lãnh đạo của trên cũng chưa sát; do thiếu kiểm tra nên vạch kế hoạch còn chủ quan; các Tổng cục của Bộ Quốc phòng yêu cầu thực hiện kế hoạch thì nhiều, nhưng giải quyết những khó khăn cho 559 và chỉ đạo có tính chất toàn diện thì còn lúng túng và có lúc khoán trắng. Tổ chức và hoạt động gặp nhiều khó khăn nhưng không có hậu phương đắc lực trợ giúp. Các ngành Trung ương tuy được Thủ tướng Chính phủ giao nhiệm vụ đảm bảo cho 559 nhưng thực tế chưa được biết và chưa quán triệt nhiệm vụ của 559 nên còn chậm trễ, thậm chí khi giải quyết còn gây khó khăn ảnh hưởng đến thời gian cần có của 559".

Nhận xét của Quân ủy Trung ương đã chỉ ra phương hướng tiến lên thực hiện nhiệm vụ chi viện chiến lược của tuyến.

Đầu tháng 11 năm 1965 thời tiết Trường Sơn chuyển sang mùa khô. Nhà nước và Bộ Quốc phòng bổ sung lực lượng, tăng quân số toàn Đoàn lên 25.754 người, trong đó có 16.485 quân nhân, 1.604 công nhân giao thông, 7.665 thanh niên xung phong, cùng 46 máy húc, 10 máy ép hơi khoan đá, 738 xe ô tô các loại. Bộ Tư lệnh Đoàn khẩn trương sắp xếp lại tổ chức để bước vào cuộc chiến đấu mới.

Toàn Đoàn vẫn tổ chức ba tuyến tương đương cấp lữ đoàn. Lực lượng từng tuyến được tăng cường và điều chỉnh mạnh và hợp lý hơn.
Các cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần được kiện toàn. Đồng chí Hồng Kỳ - Cục trưởng Cục Chính trị Quân khu Tây Bắc được điều vào làm Chủ nhiệm chính trị Đoàn 559. Đồng chí Hồng Tiến vào làm Chủ nhiệm hậu cần thay đồng chí Võ Văn Dật. Đồng chí Trần Trọng Kiếm làm Chính ủy hậu cần thay đồng chí Lê Xy vào làm Chính ủy Tuyến III.

Tổ chức Đảng được kiện toàn, đảm bảo nguyên tắc Đảng lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối và toàn diện. Dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy Đoàn, Đảng ủy tuyến có 32 Đảng ủy cơ sở 6 liên chi và 232 chi bộ.

Mùa khô năm 1965 - 1966, cuộc chiến đấu trên chiến trường miền Nam đang bước vào trận quyết chiến mới. Đế quốc Mỹ đã đưa hơn 20 vạn quân viễn chinh cùng hơn 3 vạn quân các nước chư hầu vào trực tiếp tham chiến. Chúng gấp rút chuẩn bị cuộc phản công mùa khô để "tìm diệt” chủ lực ta. Quân dân miền Nam qua những trận đọ sức đầu tiên với quân viễn chinh Mỹ, đã giành được chiến thắng vang dội ở Núi Thành, Ba Gia, Vạn Tường, Bầu Bàng, Plây Me... đang tích cực chuẩn bị quyết đánh bại cuộc phản công của địch, tiếp tục tạo thời cơ giành thắng lợi quyết định.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 26 Tháng Tư, 2010, 11:14:48 pm
Tình hình mới càng đòi hỏi sự chi viện lớn từ miền Bắc. Tháng 11 năm 1965, Ban Bí thư Trung ương và Quân ủy Trung ương quyết định nhiệm vụ của Đoàn năm 1965 - 1966 với khối lượng vận chuyển và đảm bảo hành quân rất lớn. Quân ủy Trung ương chỉ rõ:

"Phải xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ chi viện cho miền Nam còn lâu dài và hành lang qua đất bạn là con đường vận chuyển chiến lược cho đến khi chiến thắng đế quốc Mỹ ở Việt Nam và ở Lào. Trước hết, để phát huy trận thắng phủ đầu và phá tan âm mưu lấn chiếm vùng rừng núi, hòng gây cho ta bị động, ta phải thường xuyên tăng cường chi viện cho miền Nam để chủ động tấn công địch, bảo đảm các trận đánh mạnh, đánh lớn, đồng thời ngăn chặn âm mưu lấn chiếm vùng Hạ Lào và chủ động đối phó với âm mưu chiếm đóng từng vùng trên đường số 9 để ngăn chặn chi viện của ta. Do đó, vận chuyển phải thỏa mãn yêu cầu cấp bách, tối thiểu của chiến trường và có dự trữ cần thiết ở gần chiến trường miền Nam và phía nam đường số 9, phục vụ mặt trận Trung - Hạ Lào và chú trọng đối phó với địch khi chúng đánh chiếm đường 9”

Bộ Chính trị điều đồng chí Phan Trọng Tuệ trở lại cương vị Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải để tăng cường chỉ đạo củng cố hệ thống giao thông cả nước đủ sức đối phó có hiệu quả với cuộc chiến tranh phá hoại, ngăn chặn của Mỹ.

Để thống nhất chỉ đạo công tác vận tải quân sự, phối hợp chặt chẽ giữa tuyến trước và tuyến sau, Quân ủy Trung ương quyết định chuyển Đoàn 559 trực thuộc sự chỉ đạo của Tổng cục Hậu cần và chỉ định đại tá Hoàng Văn Thái, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần làm Tư lệnh Đoàn 559; đại tá Vũ Xuân Chiêm giữ chức Chính ủy Đoàn. Bộ Giao thông Vận tải cử Thứ trưởng Nguyễn Tường Lân vào làm Phó Tư lệnh Đoàn 559 đặc trách về làm đường và đảm bảo giao thông. Phó Tư lệnh Võ Bẩm về Bộ nhận nhiệm vụ khác. Chỉ huy sở của Đoàn được chuyển vào khu vực Ka Tốc (đường 20) gần khu vục Lùm Bùm thuộc tỉnh Khăm Muộn của Lào.

Tháng 12 năm 1965, Đảng ủy Bộ Tư lệnh 559 họp và tổ chức hội nghị cán bộ để quán triệt quyết tâm chiến lược của Trung ương và Quân ủy Trung ương đồng thời bàn phương hướng hoạt động mùa khô 1965 - 1966. Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Đoàn hạ quyết tâm :

1. Cố gắng khắc phục khó khăn để hoàn thành cho được các đường quan trọng và từng bước nâng cao mặt đường để chạy được cả mùa mưa. Bên cạnh đường cơ giới vẫn duy trì và cải thiện đường thồ, đường sông để hỗ trợ nhau.

Chỉ tiêu quy định: Đầu tháng 1 năm 1966 phải thông đường đến Tà Xẻng. Nền đường rộng từ 4,5m - 5m, tốc độ xe chạy được 100 km một đêm và cơ động được xe kéo pháo; Mở thêm đường 35 từ Tha Mé - Mường Noọng để tránh 2 bến phà Tà Khống và Bản Đông đang bị địch đánh phá ác liệt và đề phòng địch chiếm đường số 9; Lát mặt đường 050 và làm đường tránh Pha Nốp; Đến 15 tháng 6 năm 1966 thông xe đường 20 từ Phong Nha đến Lùm Bùm, để kịp sử dụng trong mùa mưa 1966; Chuẩn bị xẻ sẵn gỗ để lát đường từ nam đường 9 đến bờ sông Sê Kông cho xe chạy trong mùa mưa và làm mặt đường cấp phối từng đoạn để xe có thể chạy được tốc độ trung bình. Từ Bạc đi Tà Xẻng chống lầy từng đoạn để đến mùa mưa xe tranh thủ chạy từng chuyến đảm bảo được 8 tấn/ngày; Khảo sát đường từ Tà Xẻng nối với đường 14, và từ Tà Xẻng nối về Nam dọc theo 3 biên giới; Cải tạo và duy trì vận chuyển đường sông đoạn từ Bạc đi Pác Ca Don; duy trì đường thồ B44 (từ làng Ho vào Bản Đông) và cải thiện đường thồ C4 (Tà Ngâu về Phi Hà).

2. Trong nhiệm vụ vận chuyển, phương châm chung là phát huy cao độ khả năng cơ giới đồng thời tận dụng mọi phương tiện thô sơ; tranh thủ vận chuyển trong mùa khô đẩy càng nhiều hàng vào phía Nam đường 9 càng tốt, chuẩn bị để đối phó với mùa mưa không để vận chuyển bị bế tắc. Phối hợp đẩy mạnh vận chuyển đường C4 từ Campuchia về Phi Hà. Nếu khai thác được nhiều gạo và xăng ở hướng đó thì tuyến ngoài Bắc vào sẽ tập trung chuyển vũ khí cho chiến trường miền Nam và Trung-Hạ Lào. Kế hoạch quy định trong năm 1966 phải vận chuyển giao cho các chiến trường miền Nam 14.345 tấn; giao cho bạn Lào 5.919 tấn; đảm bảo cho nhu cầu nội bộ Đoàn 559: 23.842 tấn.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 26 Tháng Tư, 2010, 11:15:38 pm
Tuyến I hoàn toàn dùng cơ giới vận chuyển từ Tổng kho 050 vào giao cho Tuyến II tại Na Hi (S1) hoặc Mường Noọng, (9B) giao cho bạn tại Mường Xén. Ngoài ra, từ tháng 1 đến tháng 5 năm 1966 phải vận chuyển 1.748 tấn đi Mường Phin cho kế hoạch dân sinh của bạn do Bộ Giao thông Vận tải bàn giao sang. Tổng khối lượng vận chuyển cả năm của Tuyến I là 32.417 tấn.

Tuyến II tiếp nhận hàng của Tổng cục Hậu cần ở làng Ho và hàng của Tuyến 1 tại Na Hi, Mường Noọng, dùng ô tô kết hợp với gùi thồ chuyển vào giao cho Trị - Thiên và cho Tuyến III. Khối lượng vận chuyển cả năm là 25.827 tấn.

Tuyến III kết hợp vận chuyển cơ giới và thô sơ, nhận hàng ở Bạc đưa tới Pác Ca Don (cho bạn), Đắc Lây (cho Khu 5), Tà Xẻng (cho Tây Nguyên) và đưa vào Tà Ngâu (C4) theo nhu cầu của Bộ. Khối lượng cả năm phải đảm bảo 17.766 tấn.

3. Trong nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ hành lang, phải thực hiện thật tốt biện pháp phòng tránh máy bay địch, đồng thời tập trung một số hỏa lực cao xạ vào các vùng trọng điểm như: Lằng Khằng, Xóm Péng, Tà Khống... và những nơi có kho tàng lớn, các đèo hiểm trở, bến phà... Quá trình chiến đấu phải nắm vững nhiệm vụ bảo vệ mục tiêu, trên cơ sở quyết tâm bảo vệ mục tiêu mà tiêu diệt sinh lực địch. Với địch mặt đất, chú trọng đề phòng biệt kích, gián điệp, chủ động phá kế hoạch tấn công lấn chiếm của địch, đẩy địch ra xa để bảo vệ và giữ vững đường hành lang.

4. Công tác đảm bảo hành quân phải phục vụ cho các đơn vị đi liên tục, nhanh chóng, an toàn, sức khỏe tốt để khi đến nơi chiến đấu được ngay. Tăng cường lực lượng cho các trạm giao liên, chuẩn bị chỗ trú quân cho chu đáo và giúp các đơn vị nấu ăn được nhanh chóng. Mở thêm những đoạn đường mới để hành quân được nhiều, nhanh và giữ được bí mật.

Trước những yêu cầu to lớn, nặng nề của nhiệm vụ mới, các cán bộ tham dự hội nghị đều xác định quyết tâm thực hiện. Cũng có một vài băn khoăn vì công việc rất mới mẻ, khó khăn, nhưng nhận thấy yêu cầu của thời cơ cách mạng là cấp bách không thể bàn lùi, nên nhất trí cao với nhiệm vụ.

Theo chỉ thị của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng tiếp tục bổ sung quân, tăng cường cán bộ, khẩn trương bổ sung lực lượng công binh và pháo phòng không, đưa số quân của Đoàn lên 30.000 người. Đồng thời bổ sung thêm các phương tiện thiết bị làm đường, tăng thêm phương tiện vận chuyển, bổ sung lái xe, cho đổi xe 2 cầu lấy xe 3 cầu, tăng cường lực lượng phòng không từ biên giới Lào - Việt vào Trường Sơn, tăng cường các chuyên gia và cố vấn giúp bạn ở hành lang, cho kinh phí về công tác dân vận, cho mua đài bán dẫn loại tốt phân phối đến đạt đội để theo dõi thời sự và đảm bảo sinh hoạt tinh thần cho bộ đội trên tuyến.

Quân ủy Trung ương còn đề nghị trung ương Đảng và Chính phủ chỉ thị cho các Bộ, các ngành đặt quan hệ chặt chẽ và giúp đỡ Đoàn 559 một cách khẩn trương tích cực.

Từ tháng 1 năm 1966 thời tiết Trường Sơn đã khô ráo. Với lực lượng, phương tiện được bổ sung, toàn tuyến chính thức bước vào kế hoạch năm 1966, nhưng cũng là lúc địch thực hiện âm mưu mới rất xảo quyệt. Nhân dịp lễ Nôen 1965, chúng tuyên bố kéo dài thời gian ngừng đánh phá ở miền Bắc, bề ngoài làm ra vẻ thiện chí "hòa bình" để đánh lừa dư luận, thực chất là tập trung lực lượng không quân đánh phá tuyến 559 hòng chặn đứng nguồn chi viện trên đoạn xung yếu nhất.

Từ ngày 14 tháng 1 đến ngày 16 tháng 1 năm 1966, đường bị đánh tắc ở Pha Nốp, Xiêng Phan, Pác Pha Năng, Văng Mu, Tà Khống, đến ngày 24 mới khắc phục xong. Vận chuyển trên toàn tuyến bị đình trệ mất hơn nửa tháng.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 26 Tháng Tư, 2010, 11:16:29 pm
Kế hoạch vận chuyển tháng 1 năm 1966 đạt thấp: Tuyến I chuyển vào Tuyến II chỉ được 815 tấn (34% kế hoạch) Tuyến II chuyển vào Tuyến III được 356 tấn (40% kế hoạch). Hàng giao cho các chiến trường được rất ít. Chỉ tiêu tối thiểu đưa vào Trị - Thiên 200 tấn, nhưng chỉ thực hiện được 79 tấn. Khu 5 yêu cầu 100 tấn chỉ giao được 27 tấn.

Trước tình hình trên Thường trực Quân ủy Trung ương gửi thư cho Đảng ủy - Bộ Tư lệnh 559 nhận xét:

"Trong thời gian vừa qua, các cơ quan hậu phương đã cố gắng đảm bảo khối lượng vật chất lớn, tạo chân hàng vững, cung cấp cán bộ, phương tiện... cho Đoàn 559. Tuy có những lúc chưa kịp thời, song cơ bản đã tạo thuận lợi cho Đoàn. Phía Đoàn 559 đã có cố gắng nhất định, một số nhiệm vụ đã đạt được hiệu quả, đặc biệt là đảm bảo cho các đơn vị hành quân nhưng việc vận chuyển hàng cho chiến trường hiệu quả quá thấp, ảnh hưởng nghiêm trọng trực tiếp đến chiến trường. Nguyên nhân chủ yếu là do lãnh đạo của Đoàn còn nhiều thiếu sót, nhận thức trách nhiệm chính trị đối với địch và quyết tâm chiến lược của Trung ương chưa đầy đủ; ý chí chiến đấu, tinh thần khắc phục khó khăn chưa cao; chỉ huy ở xa đường không nắm được tình hình để đường tắc; chuyển biến tổ chức chậm, nhiều cấp trung gian!”

Thường trực Quân ủy Trung ương chỉ thị cho Bộ Tư lệnh Đoàn và các đơn vị phải nghiêm khắc kiểm điểm rút kinh nghiệm để thực hiện nhiệm vụ có hiệu quả hơn.

Nhận được chỉ thị của Quân ủy, Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Đoàn đã họp kiểm điểm và bàn các biện pháp khắc phục.

Đầu tháng 1 năm 1966, đề án mở đường 20 nhằm tăng thêm một cửa khẩu vào tuyến, tạo thế trận phân tán sự ngăn chặn của địch và ánh túi nước ở đường 12 được Ban Bí thư Tnmg ương Đảng và Hội đồng Chính phủ thông qua. Đây là công trình trọng điểm được Bộ Tư lệnh khẩn trương khai thác, tập trung lực lượng thi công nhanh để kịp sử dụng vào mùa mưa 1966 và chuẩn bị cho những năm sau.

Tuyến đường được mở từ Phong Nha (huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình) qua U Bò, Cà Rùng, Ta Lê nối sang đường 128 ở Lùm Bùm. Đường dài 125km, do công trường 20 và công trường 128 thi công từ hai đầu vào. Công trường 20 thi công từ Phong Nha đến km 82 (Tà Lê). Công trường 128 làm từ Lùm Bùm ra km 82. Khối lượng thi công khoảng trên 1.000.000 m3 đất đá. Thời gian dự định trong 3 tháng sẽ hoàn thành.

Công trường 20 có hơn 7.000 người gồm Trung đoàn 10 và Trung đoàn 4 công binh, 4 đội thanh niên xung phong của Hà Tĩnh, Quảng Bình, Nam Hà, Ninh Bình cùng hơn 100 cán bộ công nhân của Bộ Giao thông Vận tải. Tuy được tăng cường đội thi công cơ giới số 6 với 50 máy húc và máy Gát, nhưng vì triển khai gấp, việc đưa máy móc từ hậu phương vào không kịp, nên thời gian đầu việc thi công của công trường hoàn toàn dựa vào sức người và bộc phá. Bộ đội công binh là lực lượng xung kích nhận những đoạn khó, khối lượng lớn. Chỉ tiêu toàn công trường mỗi tháng phải mở được 25km, làm đến đâu gia cố ngay đến đó. Riêng đầu mối đường từ Phong Nha vào, mở sau để giữ bí mật.

Ngày 21 tháng 1 năm 1966 tức sáng mồng 1 Tết Bính Ngọ, tại công trường 20, Phó Tư lệnh Nguyễn Tường Lân ra lệnh nổ loạt bộc phá đầu tiên mở đầu chiến dịch "Chọc thủng Trường Sơn mở đường thắng lợi" do Bộ Tư lệnh 559 phát động. Từ dốc Đồng Tiền vào đến km 25 là đoạn trọng điểm về khối lượng đá. Dốc Ba Thang ở km 16 có mỏm núi đá phải phá 10.000 m3, là cái chốt của toàn chiến dịch. Tiểu đoàn 3 - đơn vị thiện chiến nhất của trung đoàn 10 - được giao mở thông dốc này. Nhiều đồng chí dũng cảm quên mình đứng trên đỉnh của 3 cái thang tre ghép lại, cột mình hàng giờ vào sườn đá để choòng đục các lỗ bộc phá. Hết tốp này đến tốp khác, hết loạt này đến loạt khác, liên tục trong 15 ngày với 900 lượng bộc phá, 9 tấn thuốc nổ, trung đoàn 10 đã hạ gục dốc Ba Thang, "Chọc thủng Trường Sơn".

Địch phát hiện ta mở đường, cho máy bay đánh phá mạnh khu vực phà Xuân Sơn và dốc Đồng Tiền. Đại đội 4 súng máy 12,7 ly bảo vệ phà Xuân Sơn dũng cảm chiến đấu bắn rơi một máy bay F 105. Toàn công trường vẫn bám tuyến mở đường vượt tiến độ thi công.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 26 Tháng Tư, 2010, 11:17:13 pm
Phía tây, công trường 128 thi đua với công trường 20 quyết thông đường nhanh trước thời hạn. Cùng thời gian này, tại Tuyến I, đường tránh Pha Nốp được mở thông. Bộ Tư lệnh Đoàn còn chỉ đạo mở thêm đường từ Bản Viếng đi Na Phi Lăng nối với đường 129 tạo thành đường vu hồi tránh trọng điểm Văng Mu xuống đường 9.

Tại Tuyến II, công trình mở đường 35 (Tha Mé - Mường Noọng) cũng được thi công gấp...

Cuối tháng 2 năm 1966 Bộ Tư lệnh Đoàn giải thể các tuyến, chia thành 7 binh trạm nhằm tăng cường sự chỉ huy trực tiếp. Việc điều chỉnh lớn về tổ chức đã bước đầu tăng cường được chỉ huy trực tiếp nhưng chưa tạo được chuyển biến về vận chuyển. Toàn Đoàn vẫn trong thế bị động, khó khăn. Cầu đường tuy được mở thêm nhưng chất lượng rất xấu và mang tính độc đạo. Lực lượng cao xạ mỏng, không đủ chốt ở các trọng điểm. Lực lượng ô tô vận tải chủ yếu là xe cũ nhiều chủng loại (gát 63, Praga, Star cũ) sức chở thấp (2 tấn), đầu xe thường xuyên bị hao hụt do hư hỏng không có phụ tùng vật tư thay thế, nhiều xe bị đâm đổ và bị địch đánh cháy.

Đặc biệt là khâu chỉ đạo chỉ huy còn rất hạn chế. Thế trận vận chuyển chưa được hoạch định. Quan điểm tư tưởng đánh giá địch ta chưa rõ ràng, chiến thuật vận chuyển, tác chiến phòng không, chống phá hoại chưa được định hình. Nhận thức tư tưởng của bộ đội về tình hình nhiệm vụ chưa sâu. Thông tin liên lạc chưa đáp ứng yêu cầu chỉ huy thông suốt từ trên xuống dưới để đảm bảo xử lý kịp thời các tình huống xảy ra trên đường.

Từ tháng 2 năm 1966, địch đánh trở lại miền Bắc nên cường độ đánh phá trên toàn tuyến có giảm. Tuy vậy các trọng điểm Văng Mu, Tà Khống, Bản Đông, Dốc Thơm vẫn bị địch khống chế, đánh tắc liên tục. Cuối tháng 2, một đoàn xe của tiểu đoàn 52 bị tắc đường ở Dốc Thơm, Bản Đông, đã ùn lại tại cua chữ S phía đông Tà Khống. Địch phát hiện, tập trung đánh phá liên tục 2 ngày, phá hủy 45 xe.

Một số đơn vị cao xạ 37 ly và súng máy 12,7 ly đã tích cực đánh địch, hạ được 3 máy bay, bắn bị thương một số khác, nhưng do không bám và bảo vệ mục tiêu vẫn để chúng tự do đánh phá cầu đường và đội hình xe.

Mặc dù cán bộ, chiến sĩ nỗ lực rất lớn nhưng khối lượng vận chuyển trong tháng của toàn tuyến đạt thấp so với chỉ tiêu kế hoạch. Hàng vào đường 9 được 870 tấn (32%), vào La Hạp được 232 tấn (23%), giao cho Trị - Thiên được 327 tấn (96%), vào Chà Vằn được 107 tấn (27%), giao cho Khu 5 được 35 tấn.

Sau 4 tháng mùa khô 1965 - 1966 toàn Đoàn mới giao cho các chiến trường được 10% kế hoạch. Riêng với lực lượng nội bộ của các binh trạm từ Sa Khe vào Tà Xẻng và chiến trường Tây Nguyên hoàn toàn chưa chuyển được gì, gây nên thiếu đói nghiêm trọng, gạo không đủ để nấu cháo!

Để cứu vãn tình hình, Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cẩn chỉ thị cho Bộ Tư lệnh 559 phái đồng chí Hồng Kỳ vào tổ chức rút hàng từ phía Tà Ngâu ra Tà Xẻng, Chà Vằn cứu đói cho các chiến trường Khu 5, Tây Nguyên và các binh trạm phía trong; đồng thời chỉ thị cho bộ phận thu mua của Tổng cục Hậu cần do đồng chí Đức Phương phụ trách khai thác nguồn hàng ở đông bắc Campuchia và nam Lào khoảng 10.000 tấn gạo, thực phẩm và 1.000 tấn xăng dầu giao cho Đoàn 559.

Do đường từ Campuchia về còn là đường thồ nên khối lượng vận chuyển được không đáng kể. Ngày 24 tháng 1 năm 1966, Bộ Tư lệnh Đoàn lệnh cho trung đoàn 98 cơ động gấp sang mở đường C4 từ Phi Hà đi Tà Ngâu thành đường cơ giới - gọi là đường 49, cố gắng hoàn thành vào tháng 3 năm 1966 để đưa xe từ các binh trạm ngoài vào rút hàng ra Tà Xẻng, Chà Vằn.

Trước những khó khăn gay gắt trên tuyến 559, đầu tháng 3 năm 1966, Quân ủy Trung ương cử đồng chí Đinh Đức Thiện - Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần và đồng chí Phạm Ngọc Mậu - Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính tri vào tuyến kiểm tra và trực tiếp chỉ đạo. Nhiều cán bộ ở cơ quan Tổng cục Hậu cần, Tổng cục Chính trị đi cùng. Đồng chí Đinh Đức Thiện và đồng chí Phạm Ngọc Mậu đã cùng Bộ Tư lệnh 559 nghiên cứu, đề ra nhiều biện pháp cụ thể về vận chuyển, đảm bảo giao thông, tác chiến bảo vệ hành lang, về công tác chính trị và cải thiện đời sống vật chất cho bộ đội để đẩy mạnh các hoạt động trên tuyến.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 26 Tháng Tư, 2010, 11:17:50 pm
Căn cứ vào tình hình chân hàng và khả năng vận chuyển trong 2 tháng còn lại của mùa khô, Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần cho tính toán điều chỉnh lại kế hoạch nhằm đảm bảo cho được những nhu cầu chính là gạo cho các đơn vị hành quân và cho nội bộ 559, xăng cho xe hoạt động và đảm bảo yêu cầu của chiến trường. Kế hoạch này cần có 3.400 tấn gạo rải tới Bạc, 2.500 tấn xăng dầu rải xuống đến Tà Xẻng; phải đưa được 500 tấn vũ khí cho chiến trường Nam Bộ, 1.000 tấn dự trữ ở Tà Xẻng và đảm bảo cho Lào 2.500 tấn các loại.

Tổng cục ra lệnh cho tuyến hậu phương điều chỉnh mặt hàng đưa vào và giao cho cơ quan Tổng cục ở Hà Nội tổ chức 2 đoàn xe chở 1.000 tấn đạn đi thẳng từ Hà Nội vào Tà Xẻng, giao hàng xong thì ở lại tăng cường cho Đoàn 559. Cuối tháng 3 năm 1966, đoàn thứ nhất phiên hiệu là Đoàn 90 trang bị 100 xe Gát 63 mới, có rất nhiều xe đầu tời, chở 200 tấn đạn vào; khi giao hàng xong ở Tà Xẻng, tổ chức thành tiểu đoàn 58, hoạt động trên đường 49, trực thuộc Binh trạm 8. Đoàn thứ hai gọi là Đoàn 100 có 314 xe, đầu tháng 4 cũng vào đến tuyến, tăng thêm lực lượng vân tải cơ giới cho tuyến 559.

Cùng với việc điều chỉnh kế hoạch, tăng cường lực lượng ô tô vận tải, Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần chỉ đạo tập trung lực lượng thi công dứt điểm các đường Tha Mé Mường Noọng, đường 49; khẩn trương hoàn thành đường 20 để đưa vào sử dụng; tăng cường chỉ huy chống phá hoại ở các trọng điểm; hạn chế thời gian tắc đường; tích cực chuẩn bị chống lầy để vận chuyển trong mùa mưa; đồng thời chỉ thị điều nhanh 4 tiểu đoàn cao xạ (10, 14, 16, 18) vào chiến đấu bảo vệ vận chuyển, tập trung vào đoạn đường từ Mụ Giạ đến La Hạp.

Để giúp cấp dưới quán triệt tình hình nhiệm vụ, tháo gỡ khó khăn, Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần đã cùng Bộ Tư lệnh Đoàn lần lượt làm việc với cán bộ chỉ huy 4 binh trạm, các tiểu đoàn xe, tiểu đoàn công binh, trạm giao liên từ phía bắc trở ra để nghe báo cáo và trực tiếp giao nhiệm vụ.

Trong các cuộc gặp, Chủ nhiệm Tổng cục phê phán lối làm ăn tắc trách, tuỳ tiện, không bám sát nhiệm vụ, phòng tránh đơn thuần, bị động chờ đợi, không tích cực chủ động khắc phục khó khăn hoàn thành nhiệm vụ. Mặt khác đồng chí tỏ thái độ thông cảm với những gian lao vất vả của cán bộ, chiến sĩ, chỉ ra những việc cần làm và ân cần động viên mọi người nỗ lực phấn đấu hy sinh vì sự nghiệp giải phóng miền Nam. Tuy các cuộc gặp diễn ra khá căng thẳng, nhưng cán bộ dự họp đều nhận thức rõ hơn nhiệm vụ, tăng thêm tin tưởng và quyết tâm. Ra về, cán bộ các đơn vị đều nhận được quà của Tổng cục.

Cuối tháng 3 năm 1966, đường Tha Mé - Mường Noọng được đưa vào sử dụng, giảm bớt được mật độ xe trên đường Tà Khống, Bản Đông, Dốc Thơm. Ngày 3 tháng 4, trung đoàn 98 hoàn thành đường 49, lập chiến công mở đường thần tốc: Trong 38 ngày đêm làm cấp tốc 204km đường từ Phi Hà vượt bãi đá Lâm Phu, vượt dốc 200 đến Xiêm Pạng đáp ứng kịp thời kế hoạch rút hàng từ Campuchia, Hạ Lào về.
Các đơn vị phòng không đánh địch tích cực hơn. Ngày 15 tháng 3 năm 1966, tiểu đoàn 16 cao xạ 37 ly đánh một trận xuất sắc ở bản Na Hi, nam đèo Văng Mu, hạ 8 máy bay địch.

Trận đánh quyết liệt này diễn ra liên tục từ 10 giờ sáng đến 16 giờ chiều. Mở đầu, tiểu đoàn bắn rơi tại chỗ một máy bay L19. Địch kéo đến đánh phá nhiều đợt bị tiểu đoàn bắn rơi liên tiếp 4 máy bay F 105. Địch càng lồng lộn kéo đến đánh phá đông hơn nhưng bị tiểu đoàn chống trả kịch liệt, bắn rơi thêm 3 chiếc nữa. Đây là trận thua đau nhất đối với không quân Mỹ trên tuyến 559 kể từ trước đó .

Kết quả vận chuyển đạt thấp, việc cung cấp cho các chiến trường cũng như cho lực lượng của Đoàn 559 từ nam đường 9 trở vào gặp khó khăn lớn. Theo chỉ thị của Quân ủy Trung ương và Tổng cục Hậu cần, Đảng ủy và Bộ Tư lệnh 559 chỉ đạo kế hoạch hoạt động mùa mưa 1966 tập trung giải quyết những vấn đề cơ bản khẩn cấp nhất là vận chuyển bổ sung cho các nơi, bảo đảm cho hành quân trong mùa mưa, tổng kết xây dựng lực lượng chuẩn bị cho năm sau.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 26 Tháng Tư, 2010, 11:18:26 pm
Nhằm rút bớt số người trên tuyến để giảm bớt khối lượng phải đảm bảo trong mùa mưa và tranh thủ xây dựng củng cố lực lượng, ngày 4 tháng 5 năm 1966, Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ thị cho Bộ Tư lệnh 559 chuyển một phần lực lượng về hậu phương, chỉ để lại đủ số người và phương tiện cần thiết làm nhiệm vụ bảo đảm hành quân và chuyển đạn cho chiến trường.

Chấp hành lệnh trên, Bộ Tư lệnh Đoàn cho rút ra hậu phương 12.270 người, gồm tất cả các tiểu đoàn ô tô, tiểu đoàn cao xạ, những người ốm yếu, các thương, bệnh binh và những người không cần thiết cho công tác trong mùa mưa. Các lực lượng rút ra chia làm 2 khu vực. Từ Sa Nắc trở ra rút về nước; 4 tiểu đoàn xe (51, 52, 54, 55) về Nghệ An, các đơn vị khác về vùng Bố Trạch - Quảng Bình. Từ Sa Nắc trở vào tập trung ở vùng từ Lâm Phu đến Nậm Công. Các đơn vị cao xạ chỉ rút quân, tổ chức cất giấu pháo tại chỗ.

Lực lượng để lại làm nhiệm vụ trong mùa mưa có 16.609 người, gồm 7.320 người trực tiếp làm công việc vận chuyển (xe, thồ gùi, thủy thủ); 9.289 người ở cơ quan, kho tàng, công binh, bộ binh, 2 tiểu đoàn cao xạ bảo vệ đường 20 và 17 đại đội 12,7 ly bảo vệ địa bàn các binh trạm, một số lái xe, pháo thủ, thợ sửa chữa, làm nhiệm vụ sửa chữa, bảo quản xe, pháo.

Cơ quan Đoàn bộ chuyển về Bố Trạch (Quảng Bình) để tiện chỉ đạo chung.

Tháng 7 năm 1966, Bộ Quốc phòng tăng cường trung tá Bùi Đức Tạm vào làm Phó Chủ nhiệm chính trị Đoàn, đồng chí Phạm Đôn làm Tham mưu phó phòng không, đồng chí Võ Văn Ve làm Trưởng phòng xăng dầu; trung tá Phạm Hồng Thái làm Binh rạm trưởng Binh trạm 2 thay đồng chí Nguyễn Lang, trung tá Cao Tâm làm Chính ủy Binh trạm 2 thay đồng chí Đặng Ba.

Để thực hiện nhiệm vụ mùa mưa, sau khi cân nhắc, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh chủ trương giao cho Binh trạm 2 để lại 1 đại đội xe Zil 157 chạy từ Ta Lê đến Noọng Kà Đeng bảo đảm mỗi ngày 8 tấn. Từ Noọng Kà Đeng đi Tà Khống và Tà Khống đi Bản Đông, vận chuyển bằng thuyền và máy đẩy. Từ Ho vào Bản Đông sử dụng 1500 xe đạp thồ đảm bảo một ngày 8 tấn. Từ Bản Đông trở vào sử dụng xe đạp thồ và gùi. Từ Bạc đi Pác Ca Don sử dụng thuyền; kế hoạch vận chuyển giao cho bạn Lào ở Tà Khống 37 tấn, giao cho Trị - Thiên 8 tấn, giao cho Binh trạm 5 ở Bạc 70 tấn, cho bộ đội hành quân 63 tấn, giao cho Khu 5 (đường B46) 23 tấn. Vận chuyển từ hướng C4 ra cung cấp cho hành quân, nội bộ và Tây Nguyên.

Liên tục trong mấy tháng mùa mưa, cán bộ, chiến sĩ trên tuyến đã nỗ lực hết mình, vật lộn với bao khó khăn để mở đường và vận chuyển. Nhưng do mưa lũ kéo dài, đường nhiều dốc đèo trơn lầy, ô tô cũng như xe đạp thồ không đi được. Vận chuyển bằng mang vác bị hạn chế. Hàng từ hậu phương vào cũng gặp khó khăn. Lực lượng Đoàn 559 bị đói nghiêm trọng, số ốm đau lên tới 50 – 60% quân số, có đơn vị 100% mất sức chiến đấu hoàn toàn. Đây là lần thứ hai kế hoạch vận chuyển mùa mưa trên địa bàn Trường Sơn thiên hiểm không thành công.

Trong khi đó ở hậu phương, việc chuẩn bị cho mùa khô 1966 - 1967 được xúc tiến rất khẩn trương. Lực lượng xe tập kết ở Nghĩa Đàn được Tổng cục Hậu cần trực tiếp theo dõi chỉ đạo, ưu tiên sửa chữa và khôi phục đầu xe, bổ sung xe mới, chấn chỉnh tổ chức các tiểu đoàn. Phương tiện thông tin được cấp khá đồng bộ để tăng cường mạng thông tin hữu tuyến, phục vụ cho chỉ huy vận chuyển, chiến đấu. Công tác đảm bảo hậu cần cho các lực lượng cũng khá hơn. Riêng các đơn vị xe, trước khi vào tuyến được cấp phát đủ tiêu chuẩn cho cả mùa. Quân số tập kết được điều trị bồi dưỡng, nâng sức khỏe lên 90%.

Với sự chuẩn bị một cách toàn diện, lại được hậu phương tích cực giúp đỡ, bước vào mùa khô 1966- 1967, tuyến 559 đã tạo được thế trận và sức mạnh mới, hứa hẹn sẽ thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ chi viện chiến trường trên giao.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 28 Tháng Tư, 2010, 01:19:08 pm
III. ĐÁNH ĐỊCH MÀ ĐI, MỞ ĐƯỜNG MÀ TIẾN

Sau thất bại trong cuộc phản công chiến lược lần thứ nhất, đế quốc Mỹ tiếp tục tăng quân ráo riết chuẩn bị mở cuộc phản công lớn lần thứ hai. Đến tháng 8 năm 1966, số quân Mỹ tham gia cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam đã lên gần 300.000 tên. Hải quân và không quân Mỹ tăng cường tối đa các vụ oanh kích hòng chặn đứng mọi nguồn chi viện của miền Bắc cho các chiến trường miền Nam. Số lượng máy bay và số trận máy bay Mỹ đánh phá miền Bắc trong năm 1966 tăng gấp hai lần năm 1965 .

Ngày 29 tháng 6 năm 1966, đế quốc Mỹ đã leo nấc thang mới rất nghiêm trọng: Ném bom một số điểm ở Thủ đô Hà Nội và thành phố Hải Phòng.

Trước hành động mở rộng chiến ranh xâm lược của đế quốc Mỹ, ngày 17 tháng 7 năm 1966 Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi quân và dân cả nước: "Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn".

Đáp lời kêu gọi thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân cả nước đoàn kết một lòng vượt qua mọi gian khổ hy sinh, quyết chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn. Miền Bắc càng sục sôi khí thế đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại của địch, dồn sức chi viện cho miền Nam đánh bại cuộc phản công chiến lược lần thứ hai của địch. 

Tình hình đặt ra yêu cầu mới và thôi thúc cán bộ, chiến sĩ tuyến 559 cố gắng hơn nữa trong thực hiện nhiệm vụ mới. Tháng 6 năm 1966, Đảng ủy - Bộ Tư lệnh 559 và Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần báo cáo kế hoạch mùa khô 1966 - 1967 lên Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng, dự tính nhu cầu vận chuyển từ tháng 11 năm 1966 đến tháng 10 năm 1967 khoảng 42.210 tấn, trong đó giao cho chiến trường miền Nam 16.400 tấn, chiến trường Lào 3.010 tấn.

Phương thức hoạt động: Lấy cơ giới là chủ yếu, đồng thời tận dụng mọi phương tiện thô sơ, kết hợp cả phương tiện đường thủy để bổ sung cho vận chuyển cơ giới. Trong đối phó với địch, phải tích cực giành chủ động bằng nhiều cách: Vừa tổ chức đánh địch, vừa làm nhiều đường vòng đường tránh để phân tán địch, kết hợp với phòng tránh ngụy trang nghi binh, thay đổi phương thức và quy luật vận chuyển để giữ được bí mật bất ngờ.

Sau khi nghe báo cáo, Thường trực Quân ủy chỉ thị phương hướng đặt kế hoạch thực hiện chi viện cho chiến trường miền Nam cần bảo đảm một cách vững chắc, đề ra mức tối thiểu phải hoàn thành bằng được, trên cơ sở đó sẽ phấn đấu để tăng khối lượng lên.

Riêng vấn đề phương thức hoạt động của tuyến chi viện chiến lược, trong cuộc họp Thường trực Quân ủy Trung ương ngày 7 và 8 tháng 9 năm 1966, khi thảo luận nguyên nhân tình hình vận tải cơ giới ở Tây Trường Sơn mùa khô 1965 - 1966 chưa thành công và tổn thất lớn, có hai loại ý kiến. Ý kiến thứ nhất cho rằng địch đánh phá dữ dội như vậy không thể vận chuyển cơ giới được, phải chuyển sang vận chuyển bằng gùi thồ, tuy nhỏ nhưng chắc.

Ý kiến thứ hai, đặc biệt là ý kiến của đồng chí Đinh Đức Thiện và đồng chí Phan Trọng Tuệ là người đã trực tiếp chỉ huy vận chuyển cơ giới trên tuyến mùa khô 1965 - 1966 là năm chưa thành công, đều khẳng định: Phải vận chuyển bằng cơ giới là chính, nếu gùi thồ thì không thể theo kịp sự phát triển của chiến trường. Ta chưa thành công trong một mùa khô chưa thể khẳng định không vận chuyển cơ giới được.

Sau cuộc thảo luận sôi nổi căng thẳng, đồng chí Bí thư Quân ủy Trung ương Võ Nguyên Giáp kết luận: Mỹ đã chuyển chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” sang "Chiến tranh cục bộ”. Chúng huy động một triệu quân Mỹ - chư hầu và quân ngụy, nhằm đánh bại Cách mạng miền Nam trong vòng 25 - 30 tháng, đồng thời đẩy mạnh chiến tranh phá hoại miền Bắc. Hội nghị Trung ương Đảng đã động viên và tổ chức cả nước kháng chiến chống Mỹ. Từ nửa nước có chiến tranh thành cả nước có chiến tranh, với mức độ và hình thức khác nhau.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 28 Tháng Tư, 2010, 01:19:47 pm
Tuyến vận tải quân sự chiến lược 559 tuy gặp khó khăn bước đầu, nhưng đó là những thử thách không thể tránh. Ta không có cách lựa chọn nào khác, trong khi yêu cầu của chiến trường ngày càng lớn; Bộ Tổng tham mưu, Tổng cục Chính trị, Tổng cục Hậu cần, Bộ Tư lệnh 559 phối hợp với các địa phương, các lực lượng chiến trường ta và bạn, sử dụng mọi biện pháp tổng hợp, từng bước phát triển vận tải cơ giới đường bộ, đường sông là chủ yếu, đồng thời tùy tình hình cụ thể từng nơi từng lúc mà kết hợp vận chuyển thô sơ. Giao đồng chí Đinh Đức Thiện phối hợp với các tổng cục trực tiếp chỉ đạo giúp đỡ Tuyến 559. .

Theo phương hưởng chỉ đạo của Thường trực Quân ủy Trung ương, khối lượng vận tải năm 1967 được xác định là 20.235 tấn, trong đó chi viện cho chiến trường miền Nam và Lào 8.765 tấn, cho các lực lượng nội bộ Đoàn 559 là 11.470 tấn và đảm bảo hành quân cho 37.000 người.

Thường trực Quân ủy Trung ương chỉ rõ khối lượng vận chuyển và hành quân đó là yêu cầu thấp nhất, Đảng ủy Tổng cục Hậu cần và Đảng ủy 559 phải nỗ lực phấn đấu thực hiện bằng được và cố gắng thực hiện vượt mức càng nhiều càng tốt. Phải giáo dục nhiệm vụ và lãnh đạo tư tưởng thật chặt chẽ, để phòng hiện tượng thấy kế hoạch mới thấp hơn kế hoạch cũ sinh ra chủ quan, lơi lỏng. Phải tận dụng những điều kiện thuận lợi và kinh nghiệm sẵn có ra sức vượt qua mọi khó khăn, quyết tâm hoàn thành vượt mức kế hoạch mùa khô 1966 - 1967, sau đó sẽ rút quân ra hậu phương nhằm giảm tiêu thụ nội bộ và tăng khối lượng vận chuyển cho chiến trường.

Đầu tháng 10 năm 1966, Đảng ủy Đoàn họp bàn kế hoạch triển khai thực hiện. Trên cơ sở đánh giá chất lượng các tuyến đường, Đảng ủy chủ trương lấy tuyến đường 12 làm trục vượt khẩu chủ yếu, tuyến đường 20 làm trục bổ trợ. Sử dụng tuyến vận chuyển cơ giới trên các đoạn từ Mụ Giạ vào Sa Đi - La Hợp - A Túc, từ Chà Vằn vào Tà Xẻng, từ Phi Hà đi Tà Ngâu, còn các đoạn khác thì dùng xe thồ.Tuyến sông Sê Kông từ Bạc đi Pác Ca Don và Sa Khe thì dùng vận chuyển thuyền.

Đảng ủy nhấn mạnh: muốn thực hiện thắng lợi nhiệm vụ vận chuyển phải tiến hành các biện pháp tổng hợp, trước hết là phát động toàn tuyến "đánh địch mà đi”. Phát huy tất cả các lực lượng đánh máy bay, biệt kích, để bảo vệ hành lang, bảo vệ cầu đường, bảo vệ vận tải. Lực lượng đảm bảo giao thông phải coi cầu đường là chiến trường, bám sát cầu đường, làm đường và sửa đường ban ngày là chính, kết hợp khôi phục đường cũ với mở thêm đường mới để đảm bảo giao thông thông suốt cả mùa khô. Tổ chức vận chuyển phải vận dụng cách "đánh nhỏ ăn chắc” đi theo đội hình trung đội, tiểu đội là chủ yếu.

Đặc biệt phải tăng cường lãnh đạo, chỉ huy chặt chẽ. Giao cho các binh trạm trực tiếp chỉ huy lãnh đạo các lực lượng xe, công binh, cao xạ, giao liên trong biên chế; tăng cường cán bộ đốc chiến tại các trọng điểm. Công tác lãnh đạo của Đảng và công tác chính trị phải tập trung giáo dục nâng cao ý thức trách nhiệm chính trị với chiến trường, sẵn sàng hy sinh xả thân vì nhiệm vụ, nêu cao ý thức đoàn kết hiệp đồng chiến đấu giữa các lực lượng, ý thức tổ chức kỷ luật.

Trung tuần tháng 10 năm 1966, Đảng ủy - Bộ Tư lệnh 559 tổ chức hội nghị quân chính toàn tuyến tại Cự Nẫm (Bố Trạch, Quảng Bình) nhằm nghiên cứu quán triệt nghị quyết của Bộ Chính trị về tình hình nhiệm vụ, giúp mọi người nhận rõ thắng lợi to lớn và tình thế mới của cách mạng miền Nam, thế bị động thất bại của địch; đánh giá đúng khả năng có hạn của địch về biện pháp chiến tranh ngăn chặn tuyến chi viện 559. Từ đó củng cố lòng tin và khả năng hoàn thành kế hoạch sắp tới. Đồng thời quán triệt nghị quyết của Đảng ủy Đoàn về nhiệm vụ mùa khô 1966 - 1967 và phát động phong trào thi đua "quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, phục vụ chiến trường đánh to thắng lớn".

Riêng với lực lượng xe, phát động phong trào thi đua giành danh hiệu "Dũng sĩ 10.000 tấn/km" cho các lái xe loại 4 tấn, và "dũng sĩ 5.000 tấn/km" cho các lái xe loại 2 tấn; các lực lượng phòng không "thi đua bắn rơi chiếc máy bay thứ 100”.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 28 Tháng Tư, 2010, 01:20:23 pm
Hội nghị quân chính Cự Nẫm có ý nghĩa quan trọng. Lần đầu tiên cán bộ chủ trì các cấp được nhận thức có hệ thống tình hình mới của nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ chi viện chiến lược, các biện pháp tổng hợp, trên cơ sở đó đã tạo được sự nhất trí về tư tưởng và quyết tâm cao, báo hiệu sự "chuyển mình" của Đoàn trong cuộc chiến đấu sắp tới. Quyết tâm của hội nghị đã nhanh chóng biến thành hành động tự giác của cán bộ, chiến sĩ toàn tuyến, tạo được khí thế thi đua lập công mạnh mẽ ngay từ đầu mùa.

Đầu tháng 11, các đơn vị công binh đã dàn xong đội hình. Trên trục đường dài khoảng 1.200km, bố trí 2 trung đoàn và 10 tiểu đoàn với số quân 7.786 người. Lực lượng đảm bảo giao thông lên tới 12 tiểu đoàn với số quân 4.786 người, trung bình 1km có 4 người, ở những đoạn xung yếu lên tới 7 - 8 người/ 1 km. Cán bộ, chiến sĩ đều đã có kinh nghiệm chiến đấu bước đầu.

Song mùa mưa năm này kéo dài hơn bình thường. Đến giữa tháng 11, trên tuyến vẫn còn mưa, nhất là khu vực từ bắc Bạc trở ra. Mặt đường nhiều chỗ còn lầy. Mức nước ở các đường ngầm quan trọng nhiều ngày vẫn cao từ 1,5 đến 1,7m. Cầu Na Tông, các đường ngầm Pác Pha Năng, Tha Mé, Tà Khống chưa qua được. Thời gian bước vào kế hoạch vận chuyển chậm hơn mọi năm nửa tháng.

Trong khi đó hoạt động của địch cũng tăng dần. Không quân địch tăng cường trinh sát dọc tuyến vận chuyển, tập trung từ các cửa khẩu đường 12, đường 20 đến đường 9, đánh mạnh đường 128 và phà Tha Mé, chặn đánh đội hình xe ban đêm từ Pắc Pha Năng đến đường 9. Ở phía trong, chúng rải chất độc hóa học xuống khu vực Phi Hà, dốc 200 (đường C4); thả biệt kích dọc tuyến từ Bô Phiên đến Tà Xẻng. 

Theo kế hoạch, ngày 15 tháng 11 năm 1966, toàn tuyến mở đầu hoạt động vận chuyển. Các xe đều ngụy trang tốt, đội hình hành tiến có chỉ huy chặt chẽ, xử lý các tình huống trên các đường khá linh hoạt. Khi địch đánh chặn, xe vẫn cứ tiến và lợi dụng ánh sáng đèn dù của địch vượt nhanh qua các khu vực trọng điểm. Vì vậy các đội hình khi tới đích tương đối an toàn và đúng thời gian quy định. Ba lực lượng công binh, cao xạ, lái xe, bắt đầu xây dựng được quan hệ hiệp đồng trong chiến đấu.

Trong chuyến vận chuyển đầu tiên từ Lùm Bùm xuống đường 9, trung đội xe của đại đội 5 - tiểu đoàn 54 do đai đội trưởng Trần Ngọc Tẩn chỉ huy bị máy bay địch chặn đánh ở đoạn đường Noọng Kà Đeng - Nậm Mi. Bom phá, bom bi, đạn 20 ly của địch đánh phá rất ác liệt nhưng đội hình xe vẫn dũng cảm băng qua. Mặt đường ngổn ngang đất đá cây đổ, cán bộ chiến sĩ lái xe chủ động dùng cưa cắt cây dùng thuốc nổ đánh bật những chướng ngại vật. Công binh cũng lao đến ứng cứu, cùng bộ đội lái xe sửa đường và dùng súng bộ binh bắn trả máy bay địch, chi viện cho đội hình xe vượt qua an toàn. Trận thắng này thể hiện một nét mới trong phong cách chiến đấu của bộ đội xe và công binh. .

Ở phía nam, do tình hình Campuchia có biến động nên ta không mua được xăng. Binh trạm 5 phải dùng xe thồ kết hợp với một số ô tô chạy từng đoạn, cố gắng đảm bảo gạo cho các đơn vị hành quân và giao cho chiến trường Tây Nguyên được 52 tấn. Cung đường từ A Túc đi Bù Lạch chưa làm kịp đường thồ nên phải tổ chức gùi bộ, giao cho Trị - Thiên được 24 tấn vũ khí và Khu 5 được 45 tấn vũ khí. Kết quả vận chuyển tháng 11 của toàn tuyến còn thấp nhưng đã khởi đầu thắng lợi làm cho mọi người phấn khởi, tăng thêm tin tưởng vào khả năng hoàn thành nhiệm vụ.

Cũng trong tháng này, tuyến giao liên mới từ Mụ Giạ qua Lùm Bùm vào đường 9 đã triển khai xong, cơ bản hoàn thành việc mở đường, rải trạm, bắt đầu phục vụ bộ đội hành quân.

Từ tháng 12, thời tiết khô ráo, đường cầu thông suốt, các đơn vị xe vào cung. Mọi mặt hoạt động được triển khai nhanh mạnh trên toàn tuyến. Khó khăn lớn nhất là máy bay địch đánh phá mạnh từ cửa khẩu vào đến nam đường 9, chủ yếu đánh đường giao thông, tập rung vào các trọng điểm Pác Pha Nang (60 lần/chiếc/ngày), Tà Khống, Tha Pa Chôn (77 lần/chiếc/ngày), Văng Mu (68 lần/chiếc/ngày), Tha Mé (601 lần/chiếc/ngày). Mặt đường có chỗ bị phá hoại hàng trăm mét khối. Các đơn vị công binh tích cực bám trụ mặt đường, tranh thủ khắc phục phá hoại ngay sau trận đánh nên ban đêm vẫn đảm bảo thông đường. Trong lực lượng công binh xuất hiện khẩu hiệu thi đua "Địch đánh ngày coi như không đánh". Một số trường hợp bị địch đánh tắc đường vào ban đêm, các đội trực chiến cơ động ứng cứu khắc phục thông xe ngay trong đêm, hạn chế số giờ tắc đường.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 28 Tháng Tư, 2010, 01:20:57 pm
Bộ đội phòng không cũng có chuyển biến tích cực trong nhiệm vụ đánh địch bảo vệ vận chuyển. Trong tháng 12 năm 1966 và tháng 1 năm 1967, các lực lượng trên tuyến bắn rơi được 35 máy bay. Vấp phải hỏa lực đánh trả ngày càng mạnh, máy bay địch buộc phải nâng độ cao hoạt động, hiệu quả đánh phá giảm nhiều. Tỷ lệ bom trúng đường chỉ từ 2% đến 3%, tạo điều kiện cho công binh khắc phục nhanh, giữ đường cầu luôn thông suốt. Chỉ tiêu quy định mỗi tháng không để tắc đường quá 5 đêm nhưng trong tháng 12 năm 1966 và tháng 1 năm 1967 toàn tuyến không có đêm nào bị tắc..

Thắng lợi của lực lượng phòng không và công binh đã tạo thuận lợi và khích lệ bộ đội xe. Ý thức rõ vai trò xung kích trên mặt trận vận chuyển, cán bộ chiến sĩ các đơn vị xe coi nhiệm vụ vận chuyển là nhiệm vụ chiến đấu, mỗi chuyến xe là một trận đánh, động viên nhau dũng cảm vượt qua bom đạn đưa hàng đến đích.

Trong lán trại, trong các buồng lái, đâu đâu cũng gặp khẩu hiệu hành động: "Thà hy sinh trên vành tay lái, quyết không để chiến trường thiếu hàng". Trong mỗi chuyến đi, dù đêm nào cũng bị máy bay địch săn chặn, cán bộ chiến sĩ các đơn vị đều dũng cảm chiến đấu, mưu trí nắm quy luật đánh phá của địch để vượt qua an toàn. Tuy các đơn vị đều có tổn thất, xe cháy, người bị thương vong nhưng luôn động viên nhau giữ vững ý chí chiến đấu, cứu xe, cứu hàng, cứu thương binh.

Không khí thi đua hoàn thành nhiệm vụ ngày càng sôi nổi. Cán bộ, chiến sĩ lái xe nô nức phấn đấu vượt cung, tăng chuyến, quyết giành danh hiệu "Dũng sĩ lái xe quyết thắng”. Phong trào thi đua giải phóng xe nhanh của các đơn vị kho cũng phối hợp tạo thuận lợi cho xe quay vòng nhanh. Chỉ tiêu mỗi tháng một xe phải thực hiện được 7 đến 8 chuyến, nhưng phần lớn đã đi được 10 đến 11 chuyến. Khối lượng hàng đến đích ngày càng tăng. Binh trạm 1 và Binh trạm 2 đạt 115% đến 125% kế hoạch, luân phiên được Bộ Tư lệnh Đoàn tặng cờ thi đua luân lưu của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Nhằm tăng thêm tính vững chắc cho kế hoạch, đầu tháng 12 năm 1966, Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần đề nghị Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng cho mở tuyến vận tải thô sơ xuyên từ ngã ba biên giới qua Tây Nguyên để chuyển vũ khí cho Nam Bộ đề phòng tình hình chính trị ở Campuchia còn khó khăn và tăng cường lực lượng mở nhanh đường xe cơ giới nhẹ có trọng tải khoảng 500kg (loại Gát 69B) từ A Túc vào Bù Lạch để tăng khả năng bảo đảm cho hướng trọng điểm là Khu 5.

Kế hoạch mở đường từ A Túc đi Bù Lạch được Bộ chấp thuận và chỉ thị phải làm gấp để kịp sử dụng trong mùa khô 1967. Bộ cũng cấp ngay cho tuyến 20 xe Gát 69B để sử dụng vận chuyển khi thông đường. Vì công việc quan trọng và cấp bách, Bộ Tư lệnh Đoàn cử Phó Tư lệnh Nguyễn Tường Lân và Phó Tham mưu trưởng công binh Lê Nam Hải vào trực tiếp chỉ đạo, khảo sát và thi công.

Những tháng cuối năm 1966, Mỹ bắt đầu cuộc phản công chiến lược lần thứ hai nhằm “tìm diệt” quân chủ lực, phá căn cứ kháng chiến của ta và "bình định", giành dân, mở rộng phạm vi kiểm soát, giải tỏa thế uy hiếp của ta xung quanh Sài Gòn và các đô thị hòng giành thắng lợi về quân sự, làm chuyển biến cục diện chiến tranh.

Nhiệm vụ tăng cường lực lượng vật chất cho các chiến trường miền Nam ngày càng lớn. Bộ Quốc phòng và các Tổng cục khẩn trương bổ sung lực lượng và phương tiện cho Đoàn 559, tăng cường nhiều cán bộ có kinh nghiệm vào vị trí chủ chốt ở Bộ Tư lệnh Đoàn và các binh trạm. Đầu tháng 1 năm 1967, đại tá Đồng Sĩ Nguyên - Phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần đặc trách Tổng cục Hậu cần tiền phương ở tuyến nam Quân khu 4 được chỉ định kiêm Tư lệnh Đoàn 559 nhằm tăng cường công tác chỉ huy tuyến 559 đồng thời đảm bảo sự hợp đồng chặt chẽ giữa tuyến trước và tuyến sau.

Ngay sau khi nhận nhiệm vụ, được sự đồng ý của Đảng ủy và Bộ Tư lệnh 559, đồng chí Đồng Sĩ Nguyên đã cùng cán bộ các cơ quan khảo sát tình hình cầu đường và hoạt động của các lực lượng trên toàn tuyến, trước hết là các binh trạm từ đường 9 trở ra. Sau đợt khảo sát, đồng chí Tư lệnh đã báo cáo trước Đảng ủy thực trạng tình hình, biểu dương ý chí kiên cường và những nỗ lực lớn của cán bộ, bộ đội, thanh niên xung phong trong các hoạt động bảo đảm giao thông, đánh địch, vận tải. ..; đồng thời cũng chỉ ra những vấn đề cần nhanh chóng và kiên quyết khắc phục như không đánh giá đúng tình hình so sánh lực lượng địch - ta trên tuyến.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 28 Tháng Tư, 2010, 01:21:29 pm
Do địch đánh phá liên tục và ngày càng ác liệt một số cán bộ, chiến sĩ mới thấy cái mạnh của địch mà chưa thấy những hạn chế của chúng, chỉ nhìn thấy hoặc quá nhấn mạnh cái khó khăn, yếu kém, mà chưa nhận rõ đánh giá đúng những mặt mạnh của ta. Từ đó, dẫn đến đánh giá cao địch, tư tưởng dao động, nặng về phòng tránh, làm ăn nhỏ lẻ, rụt rè, hiệu quả thấp, không đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của các chiến trường. Đồng chí Tư lệnh phân tích:

Tình hình hoạt động, sự đánh phá của địch trên tuyến thời gian qua cho thấy, không quân Mỹ với nhiều loại máy bay và bom đạn hiện đại, có sức tàn phá ngăn chặn lớn, song trên một tuyến có chính diện rộng, kéo dài, đã bộc lộ rõ khả năng có hạn, không thể kiểm soát hết mọi chỗ.

Tại những điểm tập trung cao, mỗi ngày địch đánh phá từ 6 đến 10 đợt, mỗi đợt từ 15 đến 25 phút, cộng lại thời gian đánh phá mỗi ngày cao lắm khoảng hơn 3 giờ. Nhưng tập trung đánh nơi này thì bỏ lỏng nơi khác, đánh phía cửa khẩu nhiều thì giảm phía trong, đánh ban ngày nhiều thì giảm ban đêm. Thực chất không quân Mỹ có làm chủ ở mức độ nhất định, chứ không phải làm chủ hoàn toàn về thời gian và không gian.

Dưới mặt đất, ta mới là người làm chủ. Ta lại có nhiều thế lợi am hiểu địa hình, có công sự, có cây rừng che phủ, cán bộ chiến sĩ đều dũng cảm mưu trí, nếu được trang bị kiến thức quân sự và tư tưởng chủ động tiến công, thực sự biến tuyến vận tải thành một chiến trường "Đánh địch mà đi, mở đường mà tiến" thì nhất định hiệu quả sẽ khác, sức mạnh của địch còn hạn chế hơn nữa. Để nâng cao hiệu suất chiến đấu, cần vận dụng các quan điểm tư tưởng quân sự của Đảng vào lĩnh vực vận tải quân sự, quan trọng nhất là tư tưởng tiến công, tư tưởng đánh tập trung, đanh tiêu diệt, đánh gần, vào hoạt động của từng lực lượng.

Tư tưởng tiến công phải được cụ thể hóa, nhất là ở các binh chủng chủ yếu.

Đối với bộ đội cao xạ phải bố trí lại trận địa bám sát các mục tiêu bảo vệ, lấy chốt trọng điểm là chính, kết hợp với cơ động thích hợp. Từ trận địa bám trụ ở trọng điểm mà đánh tiêu diệt máy bay địch để bảo vệ đội hình hành tiến của bộ đội xe, đội hình tác nghiệp của công binh và cầu đường, làm cho xác suất bom đạn giảm, tổn thất của ta ít, tốc độ vận chuyển tăng.

Đối với bộ đội công binh phải xây dựng công sự bám trụ ở ngay trọng điểm, lấy chốt trọng điểm như trận địa chiến, tăng công cụ cải tiến, tăng máy húc, xe ben, thuốc nổ để giảm bớt người mà vẫn ứng cứu khắc phục phá hoại nhanh. Kết hợp chống phá hoại với mở rộng mặt đường, thực hiện "Địch càng đánh thì mặt đường càng rộng, xe qua càng nhanh". Đồng thời dành một lực lượng cơ động để liên tục mở đường mới. Từ việc mở các đường tránh cục bộ ở từng trọng điểm sẽ nổi dần lại thành một tuyến mới song song. Nắm vững quy luật đánh phá của địch, lợi dụng thời tiết, sương mù, mây thấp, từ lấn sáng, lấn chiều chuyển sang làm đường ban ngày là chính, ban đêm tập trung khắc phục hậu quả và ứng cứu cho đội hình xe.

Đối với bộ đội xe vận tải phải chuyển sang tổ chức thành đội hình nhiều thê đội quy mô đại đội hoặc tiểu đoàn, có chỉ huy chặt chẽ; xóa lối đi tự do từng chiếc, từng tốp nhỏ. Xây dựng các căn cứ tập kết xuất phát an toàn với nhiều đường tiếp cận ra đường trục; tận dụng sương mù và thời tiết chạy lấn chiều lấn sáng để tăng thời gian xe lăn bánh, lợi dụng pháo sáng và quy luật đánh phá của địch, chủ động và liên tục tiến công, luôn đạt hiệu suất cao, vượt cung tăng chuyến.

Không quân địch thường tập trung đánh vào trọng điểm nhằm tạo ưu thế chặn đứng đội hình xe tiến công, chia cắt bệ thống giao thông. Vì vậy phải tổ chức chiến đấu hiệp đồng binh chủng tại nơi đó, đánh bật địch, bảo vệ đội hình xe vượt trọng điểm. Đây là hình thức tác chiến ở trình độ cao, bảo đảm thắng lợi cho từng chuyến vận chuyển.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 28 Tháng Tư, 2010, 01:22:08 pm
Các binh trạm phải trở thành một tổ chức chỉ huy chiến đấu thực sự của bộ đội hợp thành, biết nắm và vận dụng sáng tạo nghệ thuật quân sự vào đặc điểm chiến đấu trên tuyến vận tải chiến lược, khắc phục cách làm cũ chỉ biết vận tải đơn thuần. Cơ quan Bộ Tư lệnh cũng chuyển hẳn sang chỉ huy hợp đồng binh chủng, không phải dừng lại ở chỉ đạo. Tăng cường nhanh trang thiết bị xây dựng mạng thông tin đa phương tiện, thông suốt liên tục, đảm bảo chỉ huy trực tiếp của Đoàn với các binh trạm phía bắc (từ cửa khẩu đến bắc Bạc), nắm trực tiếp từ một đến hai trọng điểm ở gần như Văng Mu, Cốc Mạc. Sau đó khẩn trương triển khai bảo đảm chỉ huy trực tiếp của Đoàn với các binh trạm phía nam.

Vấn đề có ý nghiã đặc biệt quan trọng là phải biết tạo thời cơ và nắm thời cơ. Khi thời cơ đến phải huy động cao độ sức mạnh tổng hợp để giành thắng lợi. Hiện nay mùa khô chỉ còn 3 tháng. Phải động viên các lực lượng tranh thủ từng giờ từng phút, bằng mọi biện pháp thực hiện chỉ tiêu vận tải tháng 2 năm 1967 với khối lượng trên 6.000 tấn, tăng gấp đôi so với tháng 1 năm 1967, giao đến các chiến trường đủ số lượng, chủng loại, kịp thời, ưu tiên với các chiến trường xa.

Công tác chính trị tư tưởng lúc này phải quán triệt, làm chuyển biến cho được tu tưởng tiến công, khắc phục tư tưởng dao động, phòng tránh đơn thuần, đồng thời đề phòng chủ quan, mất cảnh giác.

Theo đề nghị của Chính ủy Vũ Xuân Chiêm, báo cáo của Tư lệnh được bổ sung,  xây dựng thành một nghị quyết quan trọng của Đảng ủy và cần được tổ chức quán triệt ngay cho cán bộ các cấp.

Trong các cuộc họp cán bộ ở cơ quan và các binh trạm phía bắc, khi nghe trình bày nội dung nghị quyết mới, mọi người đều rất phấn khởi trước những nhận định, phân tích sắc sảo tình hình, những chủ trương mới mẻ, sát thực tiễn, có sức thuyết phục cao và tin tưởng sẽ tạo được sự chuyển biến mạnh trong các lực lượng. Sau hội nghị, cán bộ hối hả về ngay đơn vị để lo triển khai nhanh công việc mới.

Thời gian này, tin chiến thắng trên các chiến trường ngày càng dồn dập. Ở miền Bắc, quân và dân các địa phương liên tiếp đánh thắng giòn giã, bắn rơi được nhiều máy bay địch; sản xuất được giữ vững, đởi sống của nhân dân trong chiến tranh vẫn căn bản được ổn định; giao thông vận tải tuy gặp nhiều khó khăn, nhưng ngày càng phát triển mạnh mẽ, đáp ứng yêu cầu chi viện tiền tuyến.

Chiến trường miền Nam cũng đang thắng to. Các cuộc hành quân Attơnborơ, Xêđaphôn của Mỹ - ngụy vào chiến khu Dương Minh Châu và vùng tam giác Củ Chi - Bến Cát - Bến Súc bị quân và dân miền Nam bẻ gãy. Các chiến trường đồng bằng sông Cửu Long, Tây Nguyên, Khu 5, Trị-Thiên đẩy mạnh hoạt động phối hợp với miền Đông Nam Bộ làm cho Mỹ - ngụy rất lúng túng.

Cuối tháng 1 năm 1967, Quốc hội và Chính phủ công bố quyết định tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho nhiều đơn vị và cá nhân. Đây là nguồn cổ vũ rất lớn, làm cho cán bộ, chiến sĩ Tuyến 559 thêm tin tưởng vào thắng lợi, càng thấy rõ sự gắn bỏ của hoạt động trên tuyến với cuộc chiến đấu trên các chiến trường. Không khí thi đua phục vụ chiến trường đánh to thắng lớn sôi nổi trong các đơn vị.

Từ tháng 2 năm 1967, cường độ đánh phá của địch tăng gấp từ 2 đến 3 lần, tập trung ở khu vực cửa khẩu vào đến đường 9; đồng thời bắt đầu đánh mạnh ở phía trong như Tà Beng, La Hạp, dốc 105, phà Bạc, dốc Bô Phiên.

Sang tháng 3 và tháng 4 năm 1967, địch bắt đầu đánh mạnh vào khu vực Binh trạm 7 và đường B45 đi Thừa Thiên. Địch cũng tăng hoạt động biệt kích, thám báo phá hoại ở mặt đất, dùng trực thăng đổ bộ quân xuống những nơi quan trọng như ngã ba La Hạp và những nơi tiếp giáp với chiến trường. Chúng còn tung các trung đội quân ngụy miền Nam có trang bị cả súng cối 81 ly, đại liên, trung liên vào khu vực Chà Vằn, Phi Hà uy hiếp đường giao liên của ta.

Thường vụ Đảng ủy Đoàn động viên cán bộ, chiến sĩ các lực lượng quyết thắng địch trong bất kỳ tình huống ác liệt nào; đồng thời đề nghị Bộ Quốc phòng cho phép được tự điều chỉnh lực lượng, tổ chức thêm một số đơn vị từ cấp tiểu đoàn trở xuống để tăng thêm lực lượng chiến đấu.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 28 Tháng Tư, 2010, 01:22:49 pm
Quán triệt tư tưởng tiến công, cả mặt trận vận tải Trường Sơn hừng hực khí thế lập công, quyết tâm đóng góp cao nhất vào nhiệm vụ chi viện. Những tấm gương về chủ nghiã anh hùng cách mạng xuất hiện ngày càng nhiều. Phong trào đánh máy bay địch bằng mọi thứ vũ khí có trong tay phát triển mạnh.

Các đơn vị cao xạ mở hội nghị quân sự dân chủ nghiên cứu cách đánh địch có hiệu quả hơn, tìm cách khắc phục trở ngại về địa hình, xây dựng trận địa ngay tại trọng điểm để đánh địch ngay trên mục tiêu bảo vệ. Tiểu đoàn 1 8, tiểu đoàn 10 bảo vệ tốt các khu vực Pác Pha Nang, Lùm Bùm, Noọng Kà Đeng. Tiểu đoàn 14 vừa được xây dựng lại sau trận tổn thất nặng ở Rừng Thông năm 1966, được giao nhiệm vụ bảo vệ khu vực Tha Pa Chôn đã bố trí ngay cạnh đường, đánh trả địch quyết liệt, liên tiếp bắn rơi 3 máy bay. Tiểu đoàn 7 bảo vệ khu vực từ Sa Đi đến Sê La Măng, trong tháng 2 năm 1967 đánh 3 trận đều bắn rơi máy bay; riêng ngày 5 tháng 2 bắn rơi 4 chiếc. Ở đèo Tha Mé, ngày 15 tháng 3, đại đội 1 thuộc tiểu đoàn 16 mặc dù bị tổn thất nặng, chỉ còn 2 khẩu đội vẫn ngoan cường chiến đấu bắn rơi 1 máy bay.

Các ổ thổ phỉ, biệt kích bị truy lùng ráo riết, bị đánh bật khỏi các cao điểm ven hành lang, làm đảo lộn hệ thống hoạt động thám báo của địch khiến chúng không chỉ điểm được cho không quân đánh phá. Khu vực Bản Sọc (đông nam Sa Ra Van) có 2 đại đội ngụy Lào thường xuyên nống ra vùng Chà Vằn - Pa Hưng quấy phá dân, bắt người, uy hiếp tuyến đường sông từ Bạc đi Sa Khe. Binh trạm 3 đã tập trung lực lượng bộ binh và bộ đội thồ, tiến công tiêu diệt gọn căn cứ Bản Sọc, diệt và gọi hàng 253 tên; toàn bộ vùng Bản Sọc được giải phóng.

Bộ đội công binh ngày càng có kinh nghiệm chống phá hoại. Các đội ứng cứu giao thông bám sát mặt đường, bám sát các trọng điểm. Địch đánh xong là trinh sát tình hình và tổ chức khắc phục ngay, giành giật với địch từng thước đường, từng giờ thông đường. Binh trạm 1 bị đánh rất quyết liệt nhưng là đơn vị có nhiều kinh nghiệm nên thường khắc phục nhanh, ít để ảnh hưởng đến cung độ của xe.

Các điểm vượt sông quan trọng (Pác Pha Năng, Tà Khống, Tha Mé) đều tạo được nhiều bến vượt; tắc bến này điều chỉnh cho xe đi bến khác. Các đơn vị thường chuẩn bị sẵn vật liệu, dự trữ đá, vỏ phuy xăng hỏng, gỗ..., để san lấp các hố bị phá hoại được nhanh. Các cầu hiểm yếu đều có sẵn vật liệu thay thế. "Cầu ông Giảng” - một cầu hiểm yếu ở chân đèo Văng Mu, cao hơn 5m bị đánh gãy phải thay mặt cầu khác nhưng chỉ đến nửa đêm đã khắc phục xong.

Các đơn vị xe động viên nhau nâng cao đầu xe hoạt động, vượt cung tăng chuyến đưa nhiều hàng ra phía trước. Trong bom đạn ác liệt, các dũng sĩ lái xe nêu cao khí phách anh hùng, mưu trí, dũng cảm xả thân vì nhiệm vụ. Nhiều chiến sĩ lái xe bị thương nặng vẫn dũng cảm chịu đau đưa xe vượt khỏi vùng bom đạn để cứu xe, cứu hàng. Chiến sĩ bị thương vong thì cán bộ lái thay. Hành động tiên tiến xuất hiện ngày càng phổ biến trong các đơn vị. Bộ Tư lệnh 559 đánh giá đó là những con người "gan vàng dạ ngọc".

Các chỉ tiêu về cung độ liên tiếp được nâng lên. Từ 050 (Mụ Giạ) đi Lùm Bùm đường dài 110km, gần 50% số xe của tiểu đoàn 51 đã rút xuống 2 đêm 1 chuyến. Từ Lùm Bùm vào Na Hi, tiểu đoàn 102 và tiểu đoàn 52 thực hiện phổ biến 2 đêm 1 chuyến. Cung 050 vào Ka Vát, tiểu đoàn 101 cũng rút xuống 2 đêm 1 chuyến. Các cung Na Hi đi Sa Đi, Sa Đi vào Bạc, vào A Túc, tiểu đoàn 54 và tiểu đoàn 55 cũng rút xuống 3 đêm 1 chuyến.

Cách phục vụ của các đơn vị kho chuyển biến hẳn. Các kho đều cải tiến quy hoạch cho phù hợp với yêu cầu vận chuyển lớn giải phóng xe nhanh như: Tổ chức từng khu kho cho từng mặt hàng, làm bãi đỗ xe trong khu vực kho để tiện lấy và trả hàng, mở đường ra vào thuận tiện để xe không bị ùn tắc, mở đường tiếp cận trục đường chính để xe xuất phát được nhanh. Việc bốc dỡ được thực hiện theo khẩu hiệu "Tất cả để chuyển nhanh hàng ra phía trước", "Kho chờ xe chứ không để xe chờ kho".

Bất kể ngày đêm, xe đến lúc nào cán bộ chiến sĩ kho khẩn trương bốc dỡ lúc đó, đưa năng suất lên rất cao: Xếp dỡ một xe 2 tấn chỉ hết 4 đến 5 phút, xe 4 tấn chỉ cần 6 - 8 phút. Trong khoảng 30 đến 40 phút đã xếp dỡ xong cho một đại đội xe. Bình quân mỗi chiến sĩ kho bốc dỡ một ngày từ 14 tấn đến 15 tấn có người đạt 21 tấn một ngày.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 28 Tháng Tư, 2010, 01:23:28 pm
Ngày 22 tháng 2 năm 1967, địch huy động 45.000 quân, 11.000 xe cơ giới (có 2.000 xe tăng, xe bọc thép), 600 máy bay các loại mở cuộc hành quân Gian xơn Xi ti đánh phá căn cứ Dương Minh Châu. Đây là cuộc hành quân lớn nhất trong cuộc phản công chiến lược lần thứ hai, cũng là đỉnh cao nhất trong các cuộc tiến công của Mỹ ở chiến trường miền Nam.

Để đảm bảo đánh bại cuộc hành quân của địch, kế hoạch vận chuyển tháng 2 được giao gần gấp rưỡi. Mặc dù Đoàn đã rất cố gắng, nhưng tính đến ngày 18 tháng 3, toàn tuyến mới đạt hơn 50% kế hoạch. Từ bắc đường 9 trở ra không quân địch thay đổi thủ đoạn đánh phá, một mặt tăng cường săn đuổi xe, mặt khác chúng bất ngờ tập trung lực lượng mở trọng điểm mới khiến hàng mấy trăm xe của các tiểu đoàn 102, 52 ứ lại nằm rải rác từ đèo Pa Kha đến Lùm Bùm. Lượng hàng từ ngoài vào đường 9 bị cắt đứt, gây nguy cơ đổ vỡ kế hoạch chi viện chiến trường.

Trước khó khăn mới trên toàn tuyến, Thường vụ Đảng ủy Bộ Tư lệnh Đoàn chỉ thị cho các đơn vị phải nhanh chóng khắc phục hiện trạng về tổ chức chỉ huy; mấu chốt là tổ chức hiệp đồng chiến đấu ở các khu vực trọng điểm. Cán bộ chỉ huy phải quán triệt tư tưởng tiến công và tiến công liên tục, dũng cảm, có gan phụ trách, dám thích ứng cái mới, không ngừng khắc phục những biểu hiện trì trệ lạc hậu để giành thắng lợi từng ngày, từng tuần, tiến lên giành thắng lợi cả tháng. Tại các trọng điểm Văng Mu, Tha Mé, Tà Khống hình thành cụm chỉ huy hiệp đồng chiến đấu mạnh, tạo điều kiện cho các đội hình xe tiến công liên tục.

Cùng thời gian này, Bộ Tư lệnh Đoàn cử Phó Chính ủy Hồng Kỳ vào kiểm tra và chỉ đạo Binh trạm 3 để chấn chỉnh và đẩy mạnh vận chuyển từ Bạc vào phía nam, nhất là đẩy mạnh kế hoạch vận chuyển vũ khí ĐKB. Quán triệt tư tưởng chỉ đạo mới, các lực lượng trong Binh trạm nhanh chóng cải tiến phương pháp hoạt động, tập trung khôi phục đoạn đường ô tô từ Bạc vào Chà Vằn và làm đường ngầm vượt sông Bạc thay cho phà, lấy vận chuyển cơ giới là chính để tăng nhanh khối lượng.

Đường ngầm qua sông Bạc có khó khăn vì nước còn sâu, phải khai thác và vận chuyển đá cách ngầm gần 10km. Đại đội công binh cầu phà được một đại đội 12,7 ly bảo vệ tổ chức làm suốt ngày đêm, hoàn thành công việc sau 9 ngày. Cung ô tô từ Bạc vào Chà Vằn, trước đây phải đi mất 8 đêm một chuyến, nay có mạng thông tin và tổ chức chỉ huy chặt chẽ, chuyến đầu đi mất 5 đêm, rồi rút xuống 3 đêm.
Vận chuyển đường sông cũng phát triển tốt, Binh trạm đóng thêm thuyền, chấn chỉnh lại các cung, chỉ huy chặt chẽ, nắm chắc tình hình địch, vận chuyển lấn chiều, lấn sáng. Khối lượng tăng dần lên 10 tấn, rồi 15 tấn một ngày, có ngày đạt tới 20 tấn.

Phối hợp với chiến dịch vận chuyển trên tuyến 559, đồng chí Đồng Sĩ Nguyên chỉ đạo Binh trạm 12 thuộc Tổng cục Hậu cần tiền phương dồn nhanh chân hàng vào Tổng kho 050 và dùng một số chuyến xe đưa thẳng hàng vào Lùm Bùm, tạo điều kiện cho Đoàn 559 vận chuyển vượt đường 9 đưa hết hàng về các điểm tập kết.

Trong những ngày này, Tư lệnh Đoàn còn chỉ đạo Binh trạm 1 thí điểm chạy ngày, sử dụng một trung đội xe của tiểu đoàn 52 tranh thủ lúc trưa máy bay địch ít hoạt động mật tập vượt nhanh một cung ngắn qua các trọng điểm cua Chữ A, ngầm Ta Lê, đèo Phu La Nhích (ATP) về kho K4 gần Lùm Bùm, đường dài khoảng 45 km, nhằm tăng thêm một chuyến trong ngày. Chuyến thứ nhất trót lọt, chuyến thứ hai về gần đến căn cứ bị máy bay trinh sát địch phát hiện đánh chặn; cao xạ phải đánh trả để bảo vệ cho đội hình xe rút nhanh, sơ tán. Kế hoạch tổ chức chạy ngày tạm ngừng.

Phát triển thắng lợi, Đoàn 559 tổ chức "Tổng công kích” trong tháng 4 nhằm kết thúc kế hoạch mùa khô với mục tiêu giao xong hàng năm 1967 cho các chiến trường Nam Bộ, Tây Nguyên, Lào; dồn đủ chân hàng vào các khu vực Bù Lạch, Động Con Tiên, La Hạp, Bạc để tiếp tục vận chuyển cho Khu 5, Trị - Thiên; đồng thời đáp ứng các yêu cầu về đảm bảo cho bộ đội hành quân trong mùa mưa và dự trữ cho các lực lượng ở lại làm nhiệm vụ chiến đấu, vận chuyển và xây dựng cầu đường chuẩn bị cho năm sau. .

Khối lượng tháng 4 còn lại hơn 3.000 tấn, Tổng cục Hậu cần lại giao thêm nhiệm vụ chuyển gấp 300 khẩu súng cối 60 "Giải phóng" cho Nam Bộ và 119 khẩu cho Tây Nguyên. Kế hoạch bảo đảm hành quân làm đường cũng tăng thêm. Trong khi đó do hoạt động liên tục, bộ đội đã mệt mỏi, đầu xe hao hụt khá nhiều. Tuy nhiên lợi thế lúc này là thời tiết rất thuận lợi, đến hết tháng 4 vẫn chưa có mưa.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 28 Tháng Tư, 2010, 01:24:05 pm
Hoạt động của địch càng về cuối tháng càng giảm, cách đánh rời rạc, chủ yếu nhằm vào kho tàng và nơi trú quân của ta. Địch bắt đầu tăng các hoạt động ở mặt đất, tổ chức 10 vụ đổ bộ bằng trực thăng từ một trung đội đến một đại đội biệt kích với âm mưu trinh sát, phá hoại. Nhưng xuống nơi nào chúng cũng bị ta đánh thiệt hại, phải rút chạy.

Tin thắng lớn của các chiến trường, dồn dập đến với Bộ đội 559, quân và dân Đông Nam Bộ đánh bại các cuộc hành quân "Gaxđơn" ở biên giới Việt Nam - Campuchia, cuộc hành quân "Tắcxơn" ở khu vực Minh Thạnh, Dầu Tiếng, Bến Củi Và đặc biệt là đánh bại cuộc hành quân lớn Gianxơn Xi ty, đỉnh cao của cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ hai của Mỹ.

Tổng kho Long Bình, sân bay Tân Sơn Nhất, căn cứ Suối Rầm, Biên Hòa, sân bay Plây Cu, trường bắn Nam Giao (Huế); các sân bay Đà Nẵng, Phú Lợi, Sóc Trăng, Chu Lai, An Khê, Cà Mau... đều bị quân ta tiến công dữ dội, diệt hàng vạn tên Mỹ - ngụy và chư hầu, phá hỏng hàng trăm máy bay, hàng nghìn tăng, xe bọc thép...

Thắng lợi to lớn của quân và dân ta đánh bại cuộc phản công chiến lược lần thứ hai của Mỹ càng làm nức lòng Bộ đội 559. Không khí lạc quan, tin tưởng, quyết tâm thi đua lập công, đạt thành tích cao hơn tháng trước dâng lên trong các lực lượng. Đến cuối tháng 4 năm 1967, kế hoạch vận chuyển đạt cao nhất trong cả quý 1. Hàng giao chiến trường Nam Bộ được 768 tấn (156%(, chiến trường Lào 1.360 tấn (110%). Rải gạo đảm bảo hành quân và dự trữ chiến đấu đều đạt 100%.

Tranh thủ thời tiết còn nắng, Bộ Tư lệnh Đoàn quyết định kéo dài vận chuyển sang nửa đầu tháng 5 để dồn hết hàng vào các khu vực tập kết, tăng thêm một số hàng dự trữ ở Bạc, Chà Vằn, Phi Hà, sẵn sàng đáp ứng các nhu cầu của Khu 5 và Tây Nguyên trong đầu mùa khô năm sau.

Công tác chỉ huy và phục vụ bộ đội hành quân cũng từng bước được cải tiến. Ngay từ tháng 12 năm 1966, lực lượng giao liên đã triển khai xong tuyến hành quân từ Mụ Giạ (đường 12) và từ Ta Lê (đường 20) vào đến Noọng Khung phía đông Lùm Bùm, từ đó nhập làm một theo tuyến cũ vượt đường 9 đi vào các chiến trường.

Lưu lượng quân vào ngày càng đông. Từ đầu năm 1967, Bộ Tổng tham mưu chỉ đạo đẩy nhanh kế hoạch hành quân. Tuyến Tổng cục Hậu cần tiền phương tổ chức chuyển quân bằng ô tô vào Liên trạm I, nên quân vào hàng ngày dồn dập. Bộ đội hành quân phải hợp lực với bộ đội giao liên làm bãi trú quân, đào hầm hố, làm công trình vệ sinh, nấu ăn và thu xếp chỗ nghỉ. Nhờ tuyến hành quân mới khô ráo, thuận lợi hơn nên các đơn vị đã nhanh chóng hoàn thành.

Từ tháng 2 năm 1967, công tác phục vụ của tuyến giao liên, nhất là các trạm từ Bạc trở ra có bước chuyển biến khá mạnh. Theo chỉ đạo của Đoàn, công tác chỉ   huy và phục vụ bộ đội hành quân cũng phải quán triệt tư tưởng tiến công, không ngừng vươn lên phục vụ bộ đội hành quân với số lượng lớn, đảm bảo cho quân đi nhanh, an toàn mạnh khỏe, phấn khởi, phục vụ được yêu cầu tác chiến lớn của các chiến trường.

Trong khí thế chung, các trạm giao liên đã hăng hái thi đua thực hiện khẩu hiệu “biến bãi trú quân thành doanh trại thoải mái”. Các khu vực trú quân đều chọn nơi thoáng mát, sạch sẽ, quy hoạch từng khu vực ngăn nắp, có giá cho bộ đội mắc võng, có lán cho người ốm; có bếp Hoàng Cầm cho bộ đội nấu cơm; có đủ hố xí, hố tiểu đảm bảo vệ sinh chung. Từng thời gian, quân y lại phun thuốc DDT diệt muỗi khắp các khu vực trú quân.

Kết hợp rèn luyện bộ đội trong quá trình hành quân, các trạm đã cùng cán bộ chỉ huy các đơn vị hướng dẫn bộ đội củng cố hệ thống công sự phòng không, đồng thời có kế hoạch sẵn sàng chiến đấu đánh địch ở mặt đất. Mỗi đơn vị đến bãi trú quân đều tranh thủ đào một số hầm. Đơn vị đi sau lại củng cố thêm, dần dần các bãi đều có đủ công sự cho bộ đội.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 30 Tháng Tư, 2010, 07:02:02 pm
Đầu tháng 3 năm 1967, Trạm 1 ở chân đèo Mụ Giạ bị máy bay B52 oanh tạc trúng nơi trú quân. Cây rừng, đất đá, mảnh bom văng đi khắp phía, nhưng nhờ có đủ công sự nên chỉ có 3 chiến sĩ bị thương nhẹ. Một số trường hợp khác ở nam - bắc đường 9, địch đánh sát gần nơi trú quân, nhưng bộ đội vẫn an toàn. Nhiều bãi trú quân làm được cả báo liếp và khẩu hiệu để động viên bộ đội.

Từ tháng 2 năm 1967, trên Tuyến bắt đầu cấp phát bổ sung cho bộ đội một số thực phẩm khô như mì chính, ruốc khô, đường, sữa; bổ sung quân trang, túi thuốc bị tổn thất dọc đường. Các trạm còn được giao nhiệm vụ quan hệ với chính quyền và nhân dân bạn, khai thác tại chỗ, tổ chức cho bộ đội được ăn thịt tươi, một tuần một lần. Anh em thương bệnh binh được cung cấp thêm thực phẩm, đường sữa, bảo đảm đủ mức ăn 0,90 đồng một ngày.

Trang bị của bộ đội hành quân lúc này còn rất nặng. Cả quân trang, vũ khí, lương thực, mỗi người phải mang trên dưới 25 kg. Để giảm bớt khó khăn này, Bộ Tư lệnh Đoàn cho sử dụng ô tô chở bớt các vũ khí trang bị nặng cho bộ đội đến vị trí tập kết của tùng đơn vị và chỉ đạo các binh trạm khắc phục đường sá, tăng thêm các trạm cấp phát gạo dọc đường để bộ đội chỉ phải mang theo từ 3 đến 5 ngày lương thực .

Riêng các đoàn cán bộ đi công tác được bố trí chỗ nghỉ trong lán và hưởng tiêu chuẩn thống nhất do Tổng cục Hậu cần quy đinh.

Trước tình hình vận chuyển cơ giới phát triển thuận lợi, Bộ Tư lệnh Đoàn chỉ thị cho các binh trạm từ khu vực Bạc trở ra, sử dụng xe quay ra chuyển thương binh về phía sau. Các xe chuyển thương đi thành đoàn, có tổ chức quân y đi hộ tống, được theo dõi, chỉ huy, bảo vệ chặt chẽ; nếu bị địch đánh hoặc gặp trở ngại dọc đường thì các đơn vị công binh có nhiệm vụ cấp cứu và đảm bảo việc ăn nghỉ. Sau hơn hai tháng, 1.526 thương binh được chuyển về hậu phương an toàn, không để ứ đọng trên tuyến.

Đến hết tháng 4 năm 1967, bộ đội giao liên đã phục vụ 57.726 người vào chiến trường bằng 156% kế hoạch ban đầu. Giao đến chiến trường 46.733 người với tỷ lệ quân số khỏe từ 94% đến 97,8%; chuyển ra được 1.914 thương, bệnh binh và phục vụ cho 115 đoàn gồm 740 người từ các chiến trường ra miền Bắc. Ngoài ra còn chuẩn bị đủ gạo, thực phẩm cho 30.000 quân đi tiếp trong mùa mưa.

Giữa tháng 5 năm 1967, thời tiết tây Trường Sơn bắt đầu chuyển sang mùa mưa. Theo quyết định của Bộ Quốc phòng, Đoàn 559 để lại một phần lực lượng tiếp tục làm nhiệm vụ vận chuyển hàng cho các chiến trường Khu 5, Trị - Thiên; bảo đảm công tác giao liên chuyển thương xây dựng đường cầu, bảo vệ kho tàng và chống địch lấn chiếm, phá hoại. Bộ Tư lệnh 559 tổ chức Sở chỉ huy tiền phương đóng tại La Hạp, trực tiếp chỉ đạo công việc trên tuyến.

Phần lớn lực lượng của đoàn tập kết về khu vực Hương Sơn, Hương Khê - Hà Tĩnh để tổng kết, tập huấn bồi dưỡng sức khỏe, củng cố bổ sung lực lượng, chuẩn bị các mặt cho nhiệm vụ năm sau. Các Binh trạm nam Bạc trở vào tập kết về khu vực Lâm Phu (đường C4). Riêng lực lượng xe đưa ra vùng Vân Đình, Mỹ Đức, tỉnh Hà Tây để Tổng cục Hậu cần trực tiếp chỉ đạo khôi phục sửa chữa và bổ sung trang bị, phụ tùng. Số xe, máy, phương tiện của các lực lượng phòng không, công binh đưa vào các xưởng trung tu A 1 (Nghệ An), A2 (Hà Tĩnh) xưởng Tạ Công Nông (Con Cuông - Nghệ An) để sửa chữa.

Cuối tháng 5, các lực lượng đã tập kết về địa điểm quy đinh.

Đúng vào thời điểm đó, hoạt động vận chuyển trên tuyến đường phía tây Thừa Thiên bước vào giai đoạn quan trọng nhất nhưng cũng gian khổ ác liệt nhất.

Sau nhiều năm khai phá, đường cơ giới đã được mở tiếp từ A Túc đến Bù Lạch. Đoạn đường này đi vào thung lũng A Chiêng Chăn vùng núi A Dai Nhơ, từ đó liên tiếp leo dốc theo sườn núi qua Động Con Tiên, Động Tam Bôi, vượt qua dốc "Con Mèo” cao 630m rồi lao tụt xuống Hà Tia, theo dãy thung lũng tây Trị - Thiên dài gần một trăm kilômét, qua A Lê Thiêm, A Lưới, Ta Bát đến A Sầu, Bù Lạch. Địa hình từ A Túc đến La Đụt dốc cao, vực sâu hiểm trở, đường độc đạo, rất hẹp, xe chỉ đi được một chiều. Nền đường dễ lầy bùn khi có mưa.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 30 Tháng Tư, 2010, 07:02:41 pm
Từ Tây Trường Sơn vượt qua Đông Trường Sơn, thời tiết mưa nhiều nắng ít (mưa 9 tháng nắng khoảng 3 tháng). Phía tây nắng thì phía đông mưa và ngược lại. Dân vùng này gồm các dân tộc Vân Kiều, Pa Cô - quê hương của nữ Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng Kan Lịch.

Tuy đời sống còn đói khổ nhưng tinh thần chống Mỹ rất cao, mỗi người hăng hái tham gia các phong trào dân quân du kích, diệt biệt kích, bắn trực thăng vũ trang của địch, xung phong đi dân công phục vụ chiến trường. Khi bộ đội mở đường cơ giới sâu vào chiến trường, dân ở những bản ven đường đã vui vẻ dời đi nơi khác...

Tuy địa hình và thời tiết vùng này khó khăn như vậy, nhưng nơi đây vẫn là hướng ưu việt nhất để mở đường chi viện cho Khu 5, vì nếu đi qua phía Tây Nguyên thì quá xa, tốn công sức gấp bội, thời gian cũng lâu hơn. Vì vậy Bộ Tư lệnh chủ trương mở đường cơ giới, song do địa hình phức tạp nên phương án đầu tiên định mở đoạn đường từ La Đụt vào A Sầu cho xe con (Gát 69B) chạy, còn phía ngoài khó đi hơn thì vẫn dùng gùi thồ kết hợp với một đoạn chạy xe con.

Nhưng thực tế trong quá trình mở đường, ta phát hiện khả năng phía trong hay phía ngoài đều có thể mở cho xe cơ giới chạy được. Bộ Tư lệnh điều chỉnh phương án mở toàn bộ đường vận tải cơ giới. Việc thiết kế thi công do đó lại bị động, chắp vá, kéo dài. Thời gian thông đường định vào cuối tháng 2 năm 1967 nhưng phải kéo đến tháng 4 năm 1967. Vì vậy khối lượng hàng quan trọng của Khu 5 và Trị - Thiên bị dồn lại chờ thông đường mới vận chuyển được. .

Đợt vận chuyển này là cuộc chiến đấu vô cùng quyết liệt với địch, với thời tiết. Tuy là những tháng nắng ráo nhưng ở đây vẫn xen kẽ có mưa. Đường mới mở nên khi gặp mưa là lầy lội, nhất là đoạn từ Động Con Tiên qua dốc "Con Mèo", công binh đã dùng đá rải đường để chống lầy nhưng vùng này chỉ có đá "sít” non, xe chỉ đi được một chuyến là đá lại tan vụn thành bùn lầy. Binh trạm phải vận chuyển theo lối cuốn chiếu, tranh thủ dồn hết chân hàng sang dốc "Con Mèo". Tại đây thiếu kho phải dùng các hố bom B52 của địch tạm chứa hàng để kịp chạy đua với thời tiết.

Tuyến đường này đi vào chiến trường Khu 5, thọc vào sườn vùng chiến thuật I của địch, nên chúng ngăn chặn quyết liệt. Khi đường mới vươn tới A Túc, chúng đã thả biệt kích thám báo xuống ngăn chặn, đồng thời ném bom không ngớt, kết hợp rải chất độc hóa học phát quang tuyến đường.

Đường càng vươn sâu vào, địch đánh phá càng dữ dội. Trực thăng vũ trang bay suốt ngày từ 6 giờ sáng đến 5 giờ chiều, nghi ngờ đâu, bắn phá đó. Hàng ngày địch thả biệt kích, nhảy cóc xuống chỗ này rồi lại bốc lên đi chỗ khác. Ban đêm máy bay B52 đánh từ 2 đến 3 đợt, lúc vào đường giao thông, lúc vào sâu các suối nơi bộ đội ta đóng quân. Có trận trúng vào sở chỉ huy Binh trạm, có trận trúng vào chỗ đóng quân của đơn vị gây thương vong cả trung đội.

Ngày 14 tháng 4 năm 1967, bộ phận chỉ huy tiền phương của Binh trạm 2 do Phó Chính ủy Nguyễn Lan phụ trách đặt tại kho S4C gần chỉ huy sở Binh trạm 7, bị đánh gần chục đợt B52, hy sinh hơn 50 người. Trước tình hình đó, Binh trạm 7 quyết định lợi dụng những nơi trống trải gần trọng điểm địch không chú ý, huy động cơ quan và đơn vị đào địa đạo sâu vào lòng núi để ăn ở, sinh hoạt và làm việc. Nhờ đó sau một tháng từ A Túc đến Bù Lạch, các đơn vị giữ được hoạt động và sinh hoạt bình thường.

Tuy phải chịu đựng những hy sinh to lớn nhưng cán bộ, chiến sĩ vẫn chiến đấu rất kiên cường.

Đại đội 634 bộ binh ngày đêm bám sát địch truy lùng đánh hơn 20 trận tiêu diệt gọn một toán biệt kích Mỹ - ngụy, tiêu hao nhiều toán khác, bắn rơi 3 trực thăng vũ trang.

Đại đội 4 súng máy 12,7 ly - đơn vị Anh hùng cơ động phục kích đánh địch ở Động Con Tiên bắn rơi 1 chiếc F105. Khi phát hiện máy bay địch thường bay thấp hơn đỉnh núi đã đưa khẩu đội lên điểm cao 1.000 m đánh địch theo góc tà âm bắn rơi thêm 1 chiếc F4. Những ngày sau cơ động sang dốc Chè (La Đụt), Đại đội liên tiếp bắn rơi tại chỗ 1 trực thăng vũ trang, 1 máy bay trinh sát L19. Từ đó trực thăng vũ trang giảm hẳn hoạt động. Cuối tháng 3, Đại đội chuyển vào vùng A So bảo vệ ngầm km 7 1 -73, chính trị viên đại đội Phan Văn Nhật trực tiếp chỉ huy bắn rơi 1 chiếc B57.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 30 Tháng Tư, 2010, 07:03:25 pm
Việc bảo đảm giao thông tuyến đường này rất căng thẳng. Đường mới mở còn hẹp, độ dốc nhiều chỗ còn cao, lại bị địch phá hoại kết hợp với mưa lầy thường xuyên gây tắc đường, cháy xe, thương vong. Tiểu đoàn 7, tiểu đoàn 8 công binh mới vào tuyến nhưng thích ứng nhanh, dũng cảm bám đường, ứng cứu, hộ tống xe, đã hoàn thành nhiệm vụ được giao.

Đến tháng 10 năm 1967, Binh trạm 7 giao xong cho Khu 5 được 690 tấn hàng, giao mặt trận Trị - Thiên 243 tấn, hoàn thành kế hoạch cả năm 1967, làm cho Khu 5 rất phấn khởi. Kết quả này được Bộ Tư lệnh và Tổng cục Hậu cần đánh giá là rất xuất sắc và đề nghị Bộ Quốc phòng tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Ba cho Binh trạm.

Ở phía trong, Binh trạm 4 cũng dồn hàng giao thêm cho chiến trường Tây Nguyên tại khu vực Tà Xẻng 682 tấn.

Cùng với các hoạt động đánh phá khu vực Binh trạm 7, giữa tháng 6 năm 1967, địch tổ chức một trận tập kích lớn bằng bộ binh vào khu kho La Hạp thuộc Binh trạm 2. Đây là kho dự trữ có hơn 3.000 tấn hàng.

Sau nhiều đợt máy bay B52 oanh tạc vào chỉ huy sở tiền phương của Đoàn và khu vực kho địch dùng trực thăng đổ xuống một tiểu đoàn - chủ yếu là quân Mỹ, một số ít là quân ngụy Sài Gòn.

Phó Tư lệnh Lê Đình Sum và Phó Chính ủy Hồng Kỳ trực tiếp chỉ huy các đơn vị triển khai chiến đấu. Các lực lượng tại chỗ, nòng cốt là bộ đội kho S4 chiến đấu vô cùng dũng cảm, liên tiếp đánh bật các đợt tiến công của địch vào khu vực kho. Chúng phải giãn ra chiếm một số cao điểm chờ máy bay chi viện. Suốt đêm máy bay B52 và phản lực liên tục rải bom vào vùng kho.

Lực lượng của ta bị thương vong nhiều, 3 đồng chí trong ban chỉ huy kho đều hy sinh. Song tất cả đơn vị vẫn giữ vững quyết tâm chiến đấu. Các trận địa bảo vệ khu kho được tăng cường thêm một đại đội bộ binh; trung tá Bùi Quốc Uỷ thuộc chỉ huy sở tiền phương được cử thay làm Chỉ huy trưởng khu kho.

Sau 3 ngày chiến đấu, bộ đội ta đánh lui 3 đợt tiến công của gần 200 lần chiếc trực thăng, phản lực, hạ 4 phản lực, 7 trực thăng, bắt hơn 100 tù binh. Ta thiệt hại gần 400 tấn hàng, hy sinh và bị thương 47 người.

Cuối tháng 4 năm 1967, Tư lệnh Đồng Sĩ Nguyên và Chính ủy Vũ Xuân Chiêm cùng một số đồng chí trong Bộ Tư lệnh 559 về Hà Nội báo cáo với Tổng cục Hậu cần, Bộ Quốc phòng kết quả hoạt động năm 1967 và chuẩn bị kế hoạch năm 1968.

Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần Đinh Đức Thiện hoan nghênh kết quả hoạt động của các lực lượng 559 trong mùa khô 1967, coi đó là minh chứng hùng hồn khẳng định sự tất yếu của vận chuyển cơ giới, loại bỏ các ý kiến hoài nghi.

Ngày 4 tháng 6, Thường trực Quân ủy và Bộ Quốc phòng do Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Bí thư Quân ủy Trung ương chủ trì làm việc với Bộ Tư lệnh Đoàn 559. Sau khi nghe đồng chí Đồng Sĩ Nguyên báo cáo hoạt động của Đoàn 559 trong mùa khô 1966- 1967, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đánh giá:

“Đây là bản báo cáo đã khái quát được một số vấn đề mới. Điều quan trọng nhất là Đảng ủy và Bộ Tư lệnh 559 đã đánh giá đúng chỗ mạnh, chỗ yếu của không quân Mỹ trên tuyến vận tải, đã lợi dụng thiên thời, địa lợi, nhân hòa, đã sử dụng sức mạnh tổng hợp của các lực lượng, quán triệt tư tưởng tiến công và vận dụng sáng tạo nghệ thuật quân sự của Đảng vào vận tải quân sự... Thắng lợi mùa khô 1966 - 1967 khẳng định chủ trương cơ giới hóa tuyến vận tải chiến lược Trường Sơn là chính xác”

Đại tướng biểu dương và chuyển lời chúc mừng thắng lợi đến tất cả cán bộ, chiến sĩ, thanh niên xung phong Đoàn 559.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 30 Tháng Tư, 2010, 07:04:05 pm
Ngày 6 tháng 6, đồng chí Lê Duẩn - Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã gặp Tư lệnh và Chính ủy Đoàn 559. Đồng chí thân mật động viên: "Mùa khô vừa rồi, Đoàn 559 làm như thế là tốt! Bác rất muốn gặp các anh, nhưng hiện Bác đang bị mệt". Sau khi phân tích khái quát một số tình hình địch, ta ở miền Nam, đồng chí Lê Duẩn kết luận:

“Tương quan lực lượng, đứng về quân sự mà nói thì hiện nay Mỹ - ngụy còn mạnh hơn chúng ta. Nhưng với quy luật phát triển thì cái mạnh đó là trước mắt, là tạm thời... Đảng ta, dân tộc ta, cả 2 miền có đầy đủ khả năng để thực hiện một quá trình chuyển đổi tương quan lực lượng... Bộ Chính trị đang tính đến một phương hướng chiến lược cho năm 1968. Công việc của Tuyến 559 cũng là một yếu tố quan trọng trong cuộc tính toán đó. Bộ Quốc phòng sẽ giao việc cụ thể cho các anh, chúc các anh chuẩn bị tốt cho kế hoạch năm 1968”.

Qua chỉ thị của đồng chí Bí thư thứ nhất, Bộ Tư lệnh 559 dự cảm một chủ trương chiến lược mới và trách nhiệm nặng nề của Đoàn sắp tới .

Ngày 8 tháng 6, đồng chí Phạm Hùng - Thường trực Ban Bí thư Trung ương Đảng đã nghe báo cáo và làm việc với Bộ Tư lệnh Đoàn về kế hoạch chuẩn bị nhiệm vụ năm 1968.

Ngày 7 tháng 6, trong buổi làm việc với lãnh đạo Tổng cục Chính trị, đồng chí Đồng Sĩ Nguyên báo cáo:

“Trong chiến đấu ác liệt, chết - sống tính từng giây, từng phút, công tác lãnh đạo trên tuyến phải dùng nhiều hình thức khác nhau làm cho mọi người phải hết sức tự bảo vệ mình và bảo vệ đồng đội, đồng thời phải hiểu rõ: Để đạt được lý tưởng cao đẹp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, phải chấp nhận sự trả giá. Đi đôi với giáo dục phải biết tổ chức, tạo cho được sự tương trợ của đồng đội làm cho người chiến binh thấy không lúc nào bị cô đơn. Họ sợ nhất là một mình một xe giữa chiến trận, hỏa lực cao xạ không bảo vệ trực tiếp, công binh ở xa đường, xe đi phân tán, chỉ huy không đi theo đội hình, trạm cứu thương, đội kích kéo vắng bóng, trọng điểm không có chỉ huy thống nhất...”

Kinh nghiệm này được đồng chí Song Hào - Chủ nhiệm Tổng cục Chính trịi đánh giá là những bài học rất sống về công tác chính trị tư tưởng.

Hạ tuần tháng 6, Bộ Tư lệnh 559 kết hợp với tuyến Tổng cục Hậu cần tiền phương tổ chức hội nghị tổng kết hoạt động mùa khô năm 1966 - 1967 tại xã Hương Xuân, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh.

Đây vừa là hội nghị tổng kết, vừa kết hợp tập huấn với nhiều nội dung rất mới về nghệ thuật quân sự được vận dụng thắng lợi trên tuyến vận tải chiến lược 559. Đây cũng là hội nghị lớn nhất từ khi thành lập Đoàn 559. Dự hội nghị có cán bộ quân chính của Tuyến 559 và Tổng cục Hậu cần tiền phương, đại diện các cơ quan Bộ Quốc phòng, Bộ Giao thông Vận tải, các binh chủng có liên quan, các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, các văn nghệ sĩ...

Đảng ủy, Bộ Tư lệnh 559 khẳng định mặc dù trong điều kiện địch đánh phá ngăn chặn ác liệt, nhưng các lực lượng 559 đã giành được thắng lợi một cách toàn diện:

Tổng khối lượng vận chuyển đạt 27.469 tấn, căn bản hoàn thành kế hoạch cả năm trên tất cả các hướng chiến trường của ta và bạn. Việc chỉ huy đảm bảo hành quân thực hiện vượt mức, đảm bảo cho bộ đội đi nhanh, an toàn, sức khỏe tốt, căn bản chuyển hết thương binh về hậu phương. Tổ chức đánh địch bảo vệ hành lang có hiệu quả, bước đầu đánh bại âm mưu của địch ngăn chặn tuyến hành lang, giữ được chủ động trong suốt mùa vận chuyển. Xây dựng đường cầu ngày càng hoàn thiện, mở thêm được 108 km đường mới và 248 km đường vòng tránh, tạo thành 2 tuyến vận chuyển song song ở phía bắc, giữ thế vững chắc trong cả mùa. Đi đôi với chiến đấu, đã xây dựng bộ đội từng bước trưởng thành về mọi mặt. Tuy nhiên bên cạnh thành tích đạt được, cũng có những tổn thất nhất định.

Thành tích trên có ý nghĩa chiến lược lớn, tăng cường lực lượng cho miền Nam, chi viện cho Lào, góp phần quan trọng trong chiến thắng Đông Xuân 1966 và tạo cơ sở cho các chiến trường tiếp tục giành thắng lợi. Đồng thời khẳng định ta có đầy đủ khả năng để tổ chức và giữ vững một tuyến hậu cần dài từ hậu phương lớn đến tiền tuyến xa trên một địa bàn rừng núi, bị địch đánh phá ác liệt, mưa lũ cản trở.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 30 Tháng Tư, 2010, 07:04:52 pm
Báo cáo tổng kết nhấn mạnh: điều hết sức quan trọng là phải thấy đầy đủ không chỉ ưu điểm mà cả khuyết, nhược điểm. Phải rút ra được những bài học có giá trị cả về lý luận và thực tiễn, trên cơ sở đó tiến lên giành những thắng lợi to lớn hơn.

Tư lệnh Đồng Sĩ Nguyên nêu lên một số kinh nghiệm từ hoạt động thực tiễn mùa khô vừa qua:

- Trong chiến tranh, muốn thắng địch phải đánh giá đúng địch một cách toàn diện, cả mặt mạnh lẫn mặt yếu. Phải nắm được âm mưu, thủ đoạn và quy luật hoạt động, đánh phá của chúng. Khoét sâu chỗ yếu của địch, khai thác chỗ mạnh của ta, đồng thời có cách đánh đúng.

- Vận tải quân sự trong chiến tranh, dưới điều kiện đánh phá ngăn chặn ác liệt của không quân Mỹ, nhất thiết phải quán triệt tư tưởng tiến công "đánh địch mà đi, mở đường mà tiến", chủ động xây dựng thế trận vận chuyển, trước hết là thế trận cầu đường khắc phục thế độc đạo, chống địch ngăn chặn có hiệu quả là điều kiện cơ bản nhất. 

- Quán triệt quan điểm chiến tranh nhân dân, phát huy sức mạnh tổng hợp, tổ chức chỉ huy thống nhất, thực hiện chiến đấu hiệp đồng binh chủng, vận dụng sáng tạo các hình thức chiến thuật phù hợp với đặc điểm từng binh chủng, chiến đấu đánh bại địch bảo vệ đội hình xe tiến công thắng lợi. 

- Vận chuyển chi viện chiến lược bằng sức mạnh bộ đội hợp thành nhất thiết phải tổ chức các chiến dịch vận chuyển với quy mô thích hợp (nhỏ, vừa, lớn) đặt dưới sự chỉ huy thống nhất, trực tiếp, chặt chẽ, liên tục.Triệt để xóa bỏ hình thức hoạt động đơn lẻ, rời rạc, khoán cấp theo thời gian.

- Nắm vững phương châm đánh địch kết hợp với phòng tránh và nghi binh. Chốt tập trung bảo vệ trọng điểm kết hợp với cơ động tiêu diệt địch, bảo đảm đội hình xe tiến công.

- Xác định đúng cung độ từng binh trạm, nhằm phát huy sức tiến công của bộ đội xe, đảm bảo thực hiện gọn, dứt điểm 2 đêm 1 chuyến. Xác định cung độ phải căn cứ vào tình hình đánh phá của địch, đặc điểm địa hình đường sá, khả năng chiến đấu của bộ đội. Với tình hình khách quan, chủ quan hiện nay, mùa khô 1967 - 1968 quy định mỗi cung có chiều dài 80 - 100 km là hợp lý.

- Khẳng định phương thức vận tải cơ giới là chủ yếu, không chao đảo trước mọi tình huống ác liệt; tận dụng phương thức vận tải đường sông, gùi thồ từng nơi, từng lúc cần thiết.

- Nỗ lực vượt bậc tạo thời cơ, nắm thời cơ tận dụng thời cơ, giữ quyền chủ động, là một trong những yếu tố giành thắng lợi nhảy vọt. Đầu mùa địch đánh phá còn ít, ta còn sung sức, nhưng chưa chuẩn bị sớm cầu đường và chân hàng nên không vận chuyển được mấy. Như vậy là vừa không tạo được thời cơ vừa bỏ lỡ thời cơ.

- Đổi mới phong cách chỉ huy, thực hiện tác phong chỉ huy 4 trực tiếp: trực tiếp giao nhiệm vụ, trực tiếp tổ chức chỉ huy, trực tiếp kiểm tra đôn đốc giúp đỡ, trực tiếp đánh giá động viên cổ vũ khí thế.

- Tăng cường công tác Đảng, công tác chính trị trong chiến đấu; xây dựng yếu tố con người, đội ngũ cán bộ là vấn đề hàng đầu có ý nghiã quyết định thắng lợi.

Ngoài báo cáo chung của Tư lệnh, còn có báo cáo tổng kết chuyên đề của các ngành tác chiến, cầu đường, vận tải, hành quân, thông tin, quân y, hậu cần, dân vận công tác Đảng, công tác chính trị. Những báo cáo này đã cụ thể hóa và làm sáng tỏ sự đúng đắn về lý luận và thực tiễn của những kinh nghiệm đã được tổng kết của Đảng ủy và Bộ Tư lệnh.

Tại hội nghị, các đại biểu rất phấn khởi nghe Chính ủy Vũ Xuân Chiêm đọc thư của Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng gửi Đoàn 559. Thay mặt Quân ủy Trung ương, Đại tướng biểu dương các lực lượng 559 trong mùa khô 1966 - 1967 đã vươn lên mạnh mẽ, thực hiện vượt mức các nhiệm vụ, trưởng thành vượt bậc, phát huy được truyền thống càng đánh càng mạnh của quân đội ...

Đại tướng nhắc nhở cán bộ, chiến sĩ toàn Đoàn không được chủ quan thỏa mãn mà phải cố gắng hơn nữa trong mọi công tác, tích cực xây dựng đường hành lang cả về chính trị, quân sự và kinh tế, tiến tới thành lập các khu căn cứ hậu cần mạnh và hoàn chỉnh của ta trên địa bàn này... "Đoàn 559 cần phấn đấu xây dựng thành một đội quân hậu cần chiến lược rất giỏi, một đội quân chiến đấu rất giỏi, một đội quân sản xuất rất giỏi, một đội quân quốc tế giúp bạn rất giỏi, trong đó nhiệm vụ hậu cần chiến lược là nhiệm vụ chủ yếu...".


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 30 Tháng Tư, 2010, 07:05:26 pm
Căn cứ vào khả năng của Bộ Tư lệnh 559, Quân ủy Trung ương quyết định "đẩy mạnh hơn nữa vận tải cơ giới trên tuyến chi viện chiến lược, kéo dài thêm cung vận tải ô tô tiếp cận cho đến Khu 5, Tây Nguyên và chủ trương tăng thêm một số lực lượng cao xạ, công binh và thông tin, tăng thêm lực lượng xe vận tải cho Tuyến 559 để thực hành vận chuyển với quy mô cao hơn tiến lên đảm bảo được nhiệm vụ vận chuyển chiến lược phục vụ cho cách mạng ba nước Đông Dương”.

Thắng lợi vận chuyển chi viện chiến trường mùa khô 1966 - 1967 không chỉ là niềm vui, niềm tự hào của những chiến sĩ Trường Sơn mà còn là niềm vui chung của quân và dân cả nước. Các phương tiện thông tin đại chúng, báo chí, đài phát thanh mở một đợt tuyên truyền rộng rãi về hoạt động của Bộ đội Trường Sơn. Lần đầu tiên những hoạt động của tuyến vận tải quân sự chiến lược được giới thiệu công khai dưới danh hiệu "Đoàn vận tải quân sự Quang Trung". Trong dịp này, một số văn nghệ sĩ trong và ngoài quân đội đến dự hội nghị đã thâm nhập sâu các đơn vị để tìm hiểu, sáng tác về Tuyến 559.

Ghi nhận công lao và động viên kịp thời thành tích của Bộ đội Trường Sơn, trong dịp kỷ niệm ngày Quốc tế lao động 1-5, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quyết định tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Nhất cho Đoàn 559.

Trung tuần tháng 7, hội nghị mừng công của Đoàn được tổ chức rất trọng thể. Toàn tuyến có 63 tập thể được công nhận danh hiệu đơn vị quyết thắng, 1.024 chiến sĩ thi đua, 100 chiến sĩ quyết thắng, 382 đơn vị và 307 cá nhân được xét tặng huân chương các loại. Binh trạm 1, tiểu đoàn 52 vận tải ô tô, tiểu đoàn 20 pháo cao xạ, tiểu đoàn 25 công binh vinh dự được nhận cờ "Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược", phần thưởng cao quý của Chủ tịch Hồ Chí Minh trao tặng.     

Trong những ngày này, nhân dân hậu phương đã dành cho cán bộ, chiến sĩ 559 những tình thương sâu sắc. Hiểu rõ cuộc chiến đấu gian khổ ác liệt trên tuyến, nhìn những đoàn xe dáng hình tơi tả, móp méo, mang đầy vết tích bom đạn, ai cũng thấy tự hào và xúc động. Nhân dân các khu vực tập kết hết lòng chăm sóc giúp đỡ bộ đội, dành những chỗ ở tốt nhất, ưu tiên cung cấp nguồn thực phẩm tại chỗ cho các đơn vị.

Những phần thưởng cao quý của Quốc hội, Nhà nước và Bác Hồ trao tặng cùng với tình thương yêu đùm bọc của nhân dân hậu phương, kể cả những nơi đang ngày đêm hứng chịu nhiều bom đạn Mỹ, là nguồn động viên, cổ vũ Bộ đội Trường Sơn tích cực củng cố lực lượng, chuẩn bị mọi mặt cho mùa khô tới .

Sau hội nghị tổng kết, mừng công, toàn Đoàn bước vào chuẩn bị cho mùa khô tới. Ở trong tuyến, công binh tranh thủ làm đường nâng cấp rải đá một số đoạn đường cũ để có thể vận chuyển sớm lúc đầu mùa và kéo dài thêm vận chuyển cuối mùa khô. Công việc chính là mở rộng và hoàn thiện đường 20, rải đá đoạn từ Lùm Bùm đến đường 9, đoạn Tha Mé đến Sa Đi và từ Sa Đi vào La Hạp. Binh trạm 7, tổ chức chống lầy đoạn Động Con Tiên vào A Sầu. Binh trạm 3, tổ chức khảo sát và làm mới đường B46 - chủ yếu đoạn Đăk Rây đến Bến Giàng.

Căn cứ vào ý định của Bộ và Tổng cục Hậu cần, Đoàn triển khai làm các đường A Sầu - A Tép (30km), Tà Xẻng nối với đường 14 (40km), Tà Xẻng - Pe Xốp (70km).

Đầu tháng 8 năm 1967, các đơn vị công binh bắt đầu hành quân vào tuyến triển khai việc khôi phục, sửa chữa toàn bộ hệ thống cầu đường, chống lầy và chuẩn bị các phương tiện đảm bảo vượt sông suối đầu mùa. Các bến vượt sông đều tổ chức làm cầu, làm đường ngầm. Đến 20 tháng 10, hệ thống cầu đường toàn tuyến đã chuẩn bị xong.

Ở phía ngoài, Bộ Tư lệnh 559 và Tổng cục Hậu cần tiền phương phối hợp tổ chức diễn tập "chiến dịch vận tải” hiệp đồng binh chủng quy mô tương đối lớn nhằm ứng dụng những kinh nghiệm đã được tổng kết, rèn luyện nâng cao trình độ chiến đấu của bộ đội, đồng thời kết hợp nhiệm vụ tạo "chân hàng" cho Đoàn 559.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 30 Tháng Tư, 2010, 07:06:07 pm
Trung tâm khu vực diễn tập từ Chu Lễ đến Khe Ve, lực lượng tham gia gồm ba tiểu đoàn xe của Đoàn 559, hai tiểu đoàn xe của Tổng cục Hậu cần tiền phương. Một số lực lượng công binh, thanh niên xung phong bảo vệ cầu đường và bốc dỡ kho. Một số tiểu đoàn, trung đoàn cao xạ. Tư lệnh 559 đảm nhiệm vị trí binh trạm trưởng, các cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần của Tổng cục Hậu cần tiền phương và Bộ Tư lệnh 559 đóng vai trò cơ quan binh trạm, các chỉ huy binh trạm đóng vai trò chỉ huy trọng điểm.

Cuộc diễn tập kéo dài 1 tháng đã thành công tốt đẹp, lập được chân hàng tại Tổng kho 559 hơn 8.200 tấn vật chất, đồng thời xây dựng bước đầu Điều lệnh tổ chức chiến dịch, Điều lệnh chỉ huy, chiến đấu, Điều lệ công tác chính trị trong chiến đấu hiệp đồng binh chủng.

Cùng với thành công và tổ chức diễn tập "chiến dịch vận tải", việc chuẩn bị kỹ thuật xe - máy của các lực lượng cơ bản hoàn thành. Từ tháng 7, các đơn vị đã bắt đầu nhận xe chuẩn bị cho kế hoạch nhập tuyến.

Việc lập chân hàng ở hai hướng cửa khẩu được tiền phương Tổng cục Hậu cần thực hiện rất sớm. Ở hướng đường 12, Binh trạm 12 liên tục đưa hàng vào kho 050 thuộc Binh trạm 1 Đoàn 559 trên 10.000 tấn. Phía đường 20, Binh trạm 14 cũng vận chuyển từ 3.000 - 4.000 tấn hàng vào dự trữ ở cụm C (bắc Ta Lê). Cũng thời điểm này, 5 tiểu đoàn xe của Đoàn 559 sau khi nhận được xe đã tham gia vận chuyển lập chân hàng cùng với tuyến sau, đẩy hàng từ Thanh Hóa vào Hương Khê - Hà Tĩnh.

Như vậy sau khi kết thúc mùa mưa 1968, Đoàn 559 đã có sự chuẩn bị một cách toàn diện về tư tưởng, tổ chức, lực lượng và cơ sở hạ tầng. Được sự chỉ đạo, cổ vũ động viên kịp thời của Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Bác Hồ và Quân ủy Trung ương, cán bộ, chiến sĩ Bộ đội Trường Sơn đầy tin tưởng lạc quan bước vào nhiệm vụ chiến lược mùa khô 1967 - 1968 .

*
*   *

Sau thất bại trong cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ hai ở chiến trường miền Nam, đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai càng lún sâu vào thế bị động phòng ngự. Cuộc chiến tranh phá hoại đối với miền Bắc đã leo tới nấc thang rất cao - đánh phá vào một số mục tiêu ngay trong thành phố Hà Nội - nhưng không đạt được mục đích lại bị tổn thất nặng nề. Tâm lý thất bại lan tràn trong nhân dân và chính giới Mỹ: Đòi hỏi phải chấm dứt chiến tranh Việt Nam, đưa quân đội Mỹ về nước trở thành vấn đề thời sự nóng bỏng trong đời sống chính tri của nước Mỹ.

Các hội nghị Bộ Chính trị trong nửa cuối năm 1967 đều chỉ rõ: Cuộc kháng chiến của ta lúc này cần phải và có thể tạo một chuyển biến lớn giữa lúc đế quốc Mỹ đang ở thế ngập ngừng về chiến lược, giới cầm quyền Mỹ đã dao động và trong thời điểm rất nhạy cảm của năm bầu cử tổng thống Mỹ; Để chuyển cách mạng và chiến tranh cách mạng miền Nam sang một thời kỳ mới, thời kỳ giành thắng lợi quyết đinh, Phải tạo được một bước ngoặt lớn của cuộc chiến tranh.

Ở Lào, vùng giải phóng được mở rộng, lực lượng cách mạng được củng cố về mọi mặt. Uy tín của Pa thét Lào ngày càng cao ở trong nước và trên thế giới. Tuy nhiên, việc xây dựng và củng cố vùng giải phóng còn nhiều khó khăn nhất là về xây dựng phát triển kinh tế và ổn định đời sống của nhân dân. Nhiệm vụ xây dựng và củng cố vùng giải phóng Lào có liên quan mật thiết đến thắng lợi của các dân tộc Đông Dương và liên quan trực tiếp đến hoạt động của tuyến hành lang 559.

Thực hiện nghiã vụ quốc tế, Trung ương Đảng và Quân ủy Trung ương giao cho Bộ Tư lệnh 559 nhiệm vụ vận chuyển chi viện cho bạn. Đồng thời trực tiếp giúp bạn xây dựng, củng cố các huyện dọc theo tuyến hành lang thuộc các tỉnh Khăm Muộn, Sa Van Na Khét, miền Đông (Tà Ven Oọc).


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 30 Tháng Tư, 2010, 07:06:41 pm
Trước yêu cầu của tình hình mới và để thực hiện quyết tâm chiến lược của Trung ương Quân ủy Trung ương - Bộ Quốc phòng quyết định đẩy mạnh nhiệm vụ chi viện miền Nam và bạn Lào với quy mô lớn, liên tục, kịp thời phục vụ các yêu cầu xây dựng và chiến đấu. Trên tinh thần đó, Bộ giao khối lượng vận chuyển mùa khô 1967 - 1968 cho Đoàn 559 là 48.100 tấn. Tháng 1 năm 1968, Tổng cục Hậu cần đề nghị Quân ủy Trung ương nâng khối lượng vận chuyển lên 58.356 tấn.

Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng chỉ thị Tuyến 559 vừa thực hiện nhiệm vụ vận chuyển chiến lược, vừa vận chuyển chiến dịch, khi cần thì làm cả nhiệm vụ vận chuyển phục vụ chiến đấu. Trong nhiệm vụ đảm bảo hành quân, ngoài việc đảm bảo hành quân bộ là chủ yếu, khi có điều kiện phải tranh thủ tổ chức cho bộ đội hành quân bằng cơ giới và phải bảo đảm việc cơ động của các binh khí kỹ thuật.

Trong khi làm nhiệm vụ, tuyến 559 phải kết hợp chặt chẽ thành một khối với các chiến trường Trị -Thiên, Khu 5, Tây Nguyên, Đoàn 565 bộ đội tình nguyện, giữ bằng được con đường vận chuyển chiến lược ngày càng vững chắc, phát triển sâu vào các chiến trường, tăng cường lực lượng bảo vệ trên không và mặt đất, khi cần thì chuyển các đơn vị hỏa lực tăng cường cho chiến trường. Bản thân tuyến 559 vừa là tuyến vận chuyển chiến lược vừa là một tuyến chiến đấu, vừa mang tính chất một bộ phận tiền phương của Bộ đối với các lực lượng hành quân qua tuyến, đồng thời cũng là căn cứ chiến lược chung của các chiến trường.

Để thực hiện quyết tâm của Quân ủy Trung ương và sự chỉ đạo của Tổng cục Hậu cần Đảng ủy - Bộ Tư lệnh 559 quyết định kiện toàn tổ chức, bố trí thế trận, phân chia lại phạm vi phụ trách các binh trạm, động viên toàn tuyến khẩn trương hoàn thành nhiệm vụ chuẩn bị cho mùa khô 1967 - 1968 .

Căn cứ vào kinh nghiệm đã được tổng kết, nhằm đảm bảo chỉ huy trực tiếp và đội hình xe khép gọn cung độ 2 đêm 1 chuyến, tăng sức đột kích của lực lượng vận tải, Bộ Tư lệnh quyết đinh bố trí toàn tuyến thành 9 binh trạm mỗi binh trạm phụ trách từ 100km đến 130km.
Cơ quan của Bộ Tư lệnh được xây dựng theo hướng chuyên sâu, với ba cơ quan tham mưu: Tham mưu tác chiến, Tham mưu vận tải và Tham mưu công binh. Đồng chí Nguyễn Lang được điều về làm Tham mưu trưởng tác chiến; đồng chí Nguyễn An được điều về làm Tham mưu trưởng vận tải; đồng chí Phạm Diêu - quyền Tham mưu trưởng công binh.

Cuối tháng 7 năm 1967, Bộ Tư lệnh họp cán bộ quân chính để triển khai kế hoạch năm 1967 - 1968. Hội nghị đã quán triệt ý định nhiệm vụ, nhưng chỉ tiêu lớn của kế hoạch; nêu lên những yếu tố và biện pháp giành thắng lợi. Trong đó nhấn mạnh yêu cầu xây dựng quyết tâm, đoàn kết nhất trí từ trên xuống dưới, kế thừa và tiếp thu các kinh nghiệm đã tổng kết, vận dụng sáng tạo nghệ thuật quân sự trong mọi hoạt động của tuyến chi viện chiến lược, nắm vững tư tưởng tiến công, giữ vững nguyên tắc lãnh đạo tập thể thủ trưởng phân công, xây dựng tác phong chỉ huy trực tiếp đưa vận chuyển đi vào đội hình chiến thuật trong thế hiệp đồng binh chủng, nâng cao hiệu suất, bám sát yêu cầu phục vụ các chiến trường đánh lớn, đánh liên tục.

Trong khi giao nhiệm vụ chiến đấu cho các đơn vị, Bộ Tư lệnh lưu ý phải chuẩn bị quyết tâm theo hướng: Khối lượng chỉ có tăng hơn, thời gian khẩn trương hơn và địch đánh phá mạnh hơn, sẵn sàng đáp ứng mọi yêu cầu đột biến.

Đến giữa tháng 10, công tác chuẩn bị cho nhiệm vụ mới đã cơ bản hoàn thành. Mưa lũ trên tuyến bắt đầu giảm, mực nước các sông suối xuống dần. Nhiều đơn vị đã vào tuyến, triển khai xong các vị trí chiến đấu. Lực lượng xe, pháo đã tiếp cận các khu vực đầu tuyến. Cán bộ, chiến sĩ các lực lượng đều quyết tâm khắc phục khó khăn, chuẩn bị thật tốt để ra quân đúng thời gian và đánh thắng giòn giã ngay từ trận đầu.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 30 Tháng Tư, 2010, 07:07:15 pm
Ngày 12 tháng 10, Tư lệnh Đồng Sĩ Nguyên vào đường 20 và Chính ủy Vũ Xuân Chiêm vào đường 12 để trực tiếp quán triệt nhiệm vụ cho các binh trạm từ đường 9 trở ra, đôn đốc triển khai kế hoạch tháng 11, tổ chức chỉ huy các lực lượng xe, pháo nhập tuyến. Bộ Tư lệnh chọn đường 20 làm hướng vượt khẩu chủ yếu vì đường tốt và cự ly gần đường 9.   

Chỉ huy sở Bộ Tư lệnh chuyển đến vị trí mới, nằm ở trung tâm tập đoàn trọng điểm Văng Mu - Tha Mé - Na Bo (ngã ba đường 9), kẹp giữa đường 128 và đường 129 trên đất bạn Lào. Chọn địa điểm này vừa lợi dụng yếu tố bất ngờ, vừa là trung trạm giữa nhiều tuyến đường.
Chỉ huy sở được xây dựng quy mô, trong một địa đạo vào lòng núi có chiều dày 170m và chiều dài 200m. Cấu trúc có đầy đủ hầm cho trực chỉ huy, hầm giao ban Bộ Tư lệnh, hầm trực ban cho các cơ quan tham mưu các binh chủng, cơ quan chính tri, hậu cần; có hệ thống điện thoại nối thông đến tất cả các trọng điểm, các binh chủng - Tư lệnh có thể nói chuyện một lần với 4 - 5 binh trạm từ bắc Bạc trở ra. Đèn điện trong địa đạo sáng suốt 24 giờ. Vào chỉ huy sở, ai cũng tự thấy phải đổi cách làm việc, khẩn trương, nghiêm túc và vững vàng tin tưởng. Hệ thống thông tin đã tạo điều kiện rất thuận lợi cho chỉ huy trước khi bước vào mùa chiến đấu mới .

Nhằm thay đổi quy luật hoạt động, Bộ Tư lệnh quyết tâm tranh thủ ngay từ tháng đầu mùa - nhanh chóng hoàn thành việc triển khai lực lượng trên toàn tuyến, lợi dụng lúc địch còn sơ hở, bất ngờ và chủ động tiến công, vận chuyển một khối lượng lớn hàng đáp ứng yêu cầu cấp thiết của chiến trường và nội bộ, khắc phục sự căng thẳng đầu mùa; đồng thời chuẩn bị cơ sở để sang tháng 11 thực hiện khối lượng lớn, vận chuyển đi các hướng 7.500 tấn (11% kế hoạch cả năm), giao cho các chiến trường miền Nam 3.270 tấn. Đặc biệt, phải gấp rút triển khai cơ sở kho tàng và rải được từ 1.200 tấn đến 1.500 tấn hàng chuẩn bị cho chiến dịch Đường số 9 - Khe Sanh.

Vào mùa vận chuyển, các đường ngầm, các cầu phà vượt sông được chuẩn bị tốt đặc biệt đã làm được 7 cầu vượt các sông lớn ở Na Tông, Pác Pha Năng, Ta Lê, Tha Mé... đảm bảo được yêu cầu vận chuyển từ các cửa khẩu vào Bạc một cách vững chắc.

Từ ngày 24 tháng 10, ta triển khai lực lượng tổ chức nhập tuyến thì không quân địch cũng tăng cường hoạt động. Chúng liên tục đanh phá các trọng điểm Pha Nốp, Xiêng Phan (đường 12), "cua chữ A", Ta Lê (đường 20), Lùm Bùm, Văng Mu, Tha Mé (đường 128); đồng thời đánh phá mạnh khu vực kho 050 và cơ quan Binh trạm 31, gây một số tổn thất. Chúng khống chế liên tục từ các cửa khẩu tới đường 9, ngăn chặn gắt gao các đoàn xe nhập tuyến.

Tuy vậy, theo lệnh của Bộ Tư lệnh, kiên quyết "đổi đầu đạn để giữ lấy đầu xe”, các lực lượng phòng không đã đánh địch rất mạnh, hất địch lên cao làm cho chúng không tự do hoạt động được nên tỷ lệ bom trúng đường, trúng xe thấp. Tiểu đoàn cao xạ 14 thuộc Binh trạm 31, tiểu đoàn cao xạ 18 thuộc Binh trạm 32 là những đơn vị Phòng không triển khai chiến đấu sớm nhất, bảo vệ có hiệu quả hệ thống cầu đường và đội hình xe trên 2 khu vực cửa ngõ.

Đến ngày 10 tháng 11, hầu hết lực lượng xe và pháo đã tập kết an toàn vào tới các binh trạm xa nhất. Đợt nhập tuyến diễn ra nhanh gọn trong 8 ngày, bất ngờ, cấp tập, dứt điểm, không lai rai như các năm trước. Có tổn thất về người, xe pháo nhưng không đáng kể. Toàn tuyến bắn rơi được 17 máy bay. Phía ta chỉ có 10 xe bị cháy, hỏng.

Vào thời điểm này, lực lượng toàn tuyến được tổ chức thành 9 binh trạm, 4 trung đoàn cơ động, 63 tiểu đoàn, 89 phân đội bảo đảm. Tổng quân số là 32.576 người. Cơ quan Bộ Tư lệnh được củng cố về số lượng và chất lượng gồm 3 cơ quan với 28 phòng. Cơ quan Tham mưu tác chiến gồm các phòng: tác chiến, cao xạ, quân lực thông tin, quân giới, cơ yếu, giao liên bộ, giao liên cơ giới, hành chính.

Do thời tiết tương đối thuận lợi, Bộ Tư lệnh chỉ thị các binh trạm khẩn trương hoàn thành mọi mặt chuẩn bị, đến ngày 15 tháng 11 tổ chức ngay một đợt đột kích 10 ngày nhằm hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch tháng 11, đồng thời tập dượt lực lượng, tiến lên tổ chức vận chuyển quy mô đội hình đại đội hoặc tiểu đoàn tập trung trong thế chiến đấu hiệp đồng binh chủng. Tham gia đợt đột kích có 4 binh trạm phía Bạc gồm 8 tiểu đoàn công binh, 5 tiểu đoàn cao xạ và 7 tiểu đoàn ô tô với 752 xe. Đợt đột kích thu được thắng lợi bước đầu, tạo dự trữ ở đường 9 lên 1.000 tấn và giao cho chiến trường một số nhu cầu thiết yếu.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 30 Tháng Tư, 2010, 07:07:54 pm
Tuy nhiên tình hình các binh trạm phía Nam vẫn còn nhiều khó khăn. Binh trạm 34 còn nhiều trở ngại khi vận chuyển vượt Bạc. Từ Lục Tùng Bế đến Bạc, đoạn "dốc 12 cua" bị đánh sập từ mùa trước chưa khôi phục được. Đường mới mở về phía đông Bạc còn rất hẹp và dốc, xe chỉ đi được 1 chiều với đội hình nhỏ, tốc độ chậm, lại bị máy bay khống chế mạnh, nên mỗi đêm chỉ vượt Bạc khoảng 10 xe. Do đó, các Binh trạm 35, 36, 44 thiếu hàng để chạy. Hướng Binh trạm 37 bị địch đánh mạnh ở Lâm Phu, dốc 200 nên hàng từ Tà Ngâu về Phi Hà bị hạn chế.

Hướng đường B45 đi Trị - Thiên và bắc Khu 5 còn khó khăn hơn, đường lầy, nhiều dốc, độc đạo rất khó đi. Từ La Hạp vào Động Con Tiên đường hẹp. Cứ 10 - 15km mới tạo được một chỗ tránh nhau. Xe ra vào phải chờ đợi mất nhiều thời gian “chết". Cung đường chưa đến 50 km nhưng không mấy xe đi được 2 đêm một chuyến.

Binh trạm 34 lợi dụng sương mù cho chạy ngày 8 xe, chuyển hàng từ La Hạp vào km 21, dọc đường sương mù tan dần, xe vừa đến cửa kho thì mù tan hẳn, bị máy bay phát hiện đánh cháy toàn bộ... Binh trạm tập trung lực lượng nâng chất lượng đường, mở rộng thêm nhiều đoạn tránh xe, điều chỉnh hệ thống chỉ huy giao thông, nhờ vậy từ giữa tháng trở đi các đội hình xe mới thực hiện được cung độ. Đoạn từ A Túc trở vào, xe cơ giới chưa đi được. Binh trạm 42 phải tổ chức gùi thồ nên kể hoạch giao hàng cho Trị - Thiên mới được 38%, cho Khu 5 được 9 tấn.

Để nắm chắc tình hình phía trong và phát triển đồng đều trên toàn tuyến, khắc phục sự mất cân đối giữa các binh trạm phía ngoài và các binh trạm phía trong, từ ngày 1 đến ngày 8 tháng 12, Tư lệnh Đồng Sĩ Nguyên cùng đoàn cán bộ cơ quan Bộ Tư lệnh vào kiểm tra các binh trạm phía nam từ khu vực Bạc đến đường C4, giúp cho các binh trạm quán triệt nhiệm vụ và các quan điểm tư tưởng mới, tiếp thu những kinh nghiệm của các binh trạm phía ngoài về xây dựng hệ thống tổ chức chỉ huy và chỉ huy hiệp đồng binh chủng, về chiến thuật vận chuyển, bảo đảm cầu đường và tác chiến, về xây dựng mạng thông tin hữu tuyến kết hợp với vô tuyến thông suốt trên toàn tưyến. Đợt kiểm tra tạo ra sự chuyển biến mạnh về mọi mặt, nhất là lòng tin vào khả năng hoàn thành nhiệm vụ của các binh trạm phía Nam.

Bước sang tháng 12 năm 1967, toàn tuyến đã ổn định thế trận và có bước tiến bộ đồng đều. Bộ Tư lệnh quyết định mở chiến dịch vận tải quy mô lớn. Thời gian đợt một chiến dịch là một tháng. Trong chiến dịch này, Bộ Tư lệnh chủ trương chỉ đạo "điểm" thúc đẩy "diện"; xây dựng Binh trạm 32 thành mô hình chỉ huy vận tải đội hình tiểu đoàn tập trung, thực hiện chiến đấu hiệp đồng binh chủng quy mô lớn.

Chủ trương này xuất phát từ đặc điểm Binh trạm 32 có vị trí nhiệm vụ trọng yếu là nhận hàng từ hai cửa khẩu đường 12 và đường 20, đẩy vào nam đường 9, đảm bảo đủ hàng cho các hướng phía trong. Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ, Bộ Tư lệnh tăng cường cho Binh trạm 32 tiểu đoàn xe 990, tiểu đoàn pháo cao xạ 24, tiểu đoàn 1 công binh.

Bộ Tư lệnh chỉ thị các binh trạm phải hoàn thiện đồng bộ một loạt vấn đề gồm: Điều chỉnh hệ thống kho tàng theo quy hoạch đảm bảo bí mật, an toàn và giải phóng hàng loạt xe nhanh; Hoàn chỉnh hệ thống đường trong khu kho đảm bảo đội hình xe vào ra không gặp nhau; Mở hệ thống đường cho các đội hình xe tiếp cận vận chuyển với yêu cầu mỗi đại đội có một đường riêng để tập kết đội hình; Mở rộng mặt đường 5m, "là" phẳng mặt đường, đảm bảo tốc độ xe 15 - 20 km/giờ; Mở đường vòng tránh trọng điểm, nơi không có điều kiện mở đường vòng tránh thì mở rộng mặt đường ở trọng điểm tối thiểu đủ 2 làn xe; Thiết lập chỉ huy sở tiền phương binh trạm ở trọng điểm chủ yếu, xây dựng hệ thống trận địa phòng ngự cho các binh chủng hợp thành tác chiến bảo vệ đội hình vận chuyển vượt trọng điểm.
Bộ Tư lệnh yêu cầu các binh trạm có từ 2 tiểu đoàn xe trở lên thực hiện chiến thuật đội hình vận chuyển tiểu đoàn tập trung. Các binh trạm khác tùy tình hình cụ thể thực hiện chiến thuật đội hình vận chuyển tiểu đoàn hoặc đại đội tập trung.

Kiên quyết thực hiện chạy lấn sáng, lấn chiều, tăng thời gian lăn bánh vào thời điểm địch có nhiều sơ hở nhất. Vận dụng sáng tạo, linh hoạt chiến thuật đội hình vận chuyển xuất kích 2 chiều thuận tránh nhau ở giữa hoặc một chiều thuận tuyệt đối.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 02 Tháng Năm, 2010, 08:10:22 am
Về tác chiến phòng không, vận dụng linh hoạt phương châm: Khi bảo vệ đội hình vận chuyển thì chủ động tích cực đánh địch, "đổi đầu đạn để giữ lấy đầu xe”, kết hợp hạ máy bay. Khi bảo vệ cầu đường ban ngày thì "đổi đạn lấy máy bay”, bảo vệ cầu đường nơi trọng điểm. Coi trọng cả đánh đêm và đánh ngày. Lấy đánh đêm làm chủ yếu. Coi trọng cả chốt và cơ động, lấy chốt làm chủ yếu. Coi trọng lực lượng chuyên nghiệp và không chuyên, thực hiện phương châm lấy ít thắng nhiều.

Dồn súng 12,7 ly cho lực lượng công binh, mỗi tiểu đoàn công binh có 1 tiểu đội 2 khẩu. Tăng pháo 37 ly cho các tiểu đoàn cao xạ. Về giáo dục tư tưởng, Bộ Tư lệnh tìm nhiều phương thức, biện pháp giáo dục động viên bộ đội. Cho ra tờ báo "Trường Sơn" để phản ánh mọi mặt chiến đấu và đời sống bộ đội, góp phần nâng cao chất lượng công tác chính trị tư tưởng. Cục Chính trị được phép thành lập đội văn công, các binh trạm thành lập đội văn nghệ xung kích, nhằm dấy lên khí thế "tiếng hát át tiếng bom", cổ vũ chiến sĩ tiến lên phía trước.

Ngày 5 tháng 12 năm 1967, Bộ Tư lệnh ra lệnh mở màn chiến dịch. Như một cỗ máy khổng lồ được khởi động và vận hành, toàn tuyến ra quân với khí thế dũng mãnh, rầm rộ, quyết liệt, tự tin, hợp đồng chặt chẽ và giành thắng lợi ngay từ trận đầu. Đội hình xe các binh trạm tới đích 70 - 80%. Chỉ rơi rớt dọc đường một số xe cũ, lái mới.

Phát hiện ta vận chuyển lớn, địch tập trung máy bay đánh phá dữ dội. Chỉ trong 16 ngày đầu tháng, số máy bay hoạt động tăng 38%. Riêng số vụ oanh tạc của máy bay B52 tăng 66%. Số bom đánh phá tăng gấp 2 lần tháng trước. Chúng tập trung đánh rất ác liệt vào địa bàn các binh trạm 31, 32. Trọng điểm Văng Mu là nơi bị đánh ác liệt nhất.

Do đánh giá đúng tình hình, chủ động chuẩn bị thế trận và kế hoạch đối phó, trên toàn tuyến, các binh chủng hiệp đồng chiến đấu chặt chẽ, bảo vệ các đội hình xe vượt trọng điểm an toàn. Trong 20 ngày đầu tháng 12 ta bắn rơi 33 máy bay, bắn bị thương 50 chiếc khác. Xuất sắc nhất là đại đội 1 tiểu đoàn cao xạ 14 trong hai ngày 12, 13 đánh trả quyết liệt hàng chục máy bay địch, bắn rơi 5 chiếc, bảo vệ an toàn cầu Na Tông.

Các đơn vị công binh chiến đấu rất kiên cường. Các đơn vị xe dũng cảm, mưu trí, khôn khéo tránh địch, lợi dụng sơ hở của chúng, nâng tốc độ tiến công, dũng mãnh vượt trọng điểm. Nổi trội nhất là tiểu đoàn xe 102, mỗi đêm vượt qua 8 trọng điểm (Lùm Bùm, Bản Viếng, km 66, km 76, km 86, km 93, Văng Mu, Tha Mé) nhưng luôn giữ vững đội hình vận chuyển tiểu đoàn tập trung, đi gọn về gọn, đạt khối lượng cao. Phần lớn xe của tiểu đoàn 102 chạy vượt cung từ Lùm Bùm vào nam Tha Mé cự ly 130 km, được Bộ Tư lệnh 559 tặng danh hiệu "Tuấn mã Trường Sơn". Chính trị viên tiểu đoàn Nguyễn Xuân Trì, thường xuyên dẫn đầu đội hình tiến công. Những đêm địch đánh trúng đội hình xe, đồng chí trực tiếp cùng chiến sĩ cứu xe, cứu hàng. Anh em đơn vị tuyên dương chính trị viên là "Ngọn cờ chống Mỹ số 1" của tiểu đoàn.

Bộ đội thông tin hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ triển khai mạng thông tin hữu tuyến và vô tuyến bổ trợ nhau giữ vững liên lạc thông suốt từ chỉ huy sở Bộ Tư lệnh đến chỉ huy sở các binh trạm và từ chỉ huy sở binh trạm đến các đơn vị tiểu đoàn đại đội các trạm chỉ huy giao thông và chỉ huy sở tiền phương chốt ở trọng điểm, giúp các cấp nắm được từng xe, từng đơn vị, từng trận đánh, từng tình huống diễn biến, phục vụ đắc lực cho chỉ huy chiến đấu, vận chuyển 24/24 giờ trong ngày.

Khi địch đánh phá, đường dây bị đứt, nhưng khi ngớt bom, chiến sĩ thông tin lao ngay vào khu vực bị đánh phá, lần đường dây đứt để nối lại, dù tình huống nào cũng không để mất liên lạc quá một giờ.

Kết thúc đợt một chiến dịch, các binh trạm đã hoàn thành thắng lợi các chỉ tiêu vận chuyển đồng thời tổ chức hành quân bằng cơ giới cho 6 đoàn gồm 1.977 người hỏa tốc vào chiến trường đúng thời gian quy định. Đây là bước phát triển mới trong chỉ huy vận tải quân sự. Binh trạm 32 dẫn đầu toàn tuyến đạt 10.000 tấn/tháng vượt đường 9, được Bộ Tư lệnh tặng danh hiệu "Binh trạm vạn tấn".

Tin vui nhanh chóng được truyền đi khắp toàn tuyến. Phong trào thi đua vớiBinh trạm 32 dâng cao trong các đơn vị. Không khí toàn Đoàn như ngày hội. Tuy nhiên, ta cũng chịu một số tổn thất: 8 khẩu pháo 37 ly, 2 khẩu súng máy 12,7 ly bị đánh hỏng, 15 xe vận tải bị đánh cháy. Hầu hết cầu phao bị phá hủy, thương vong 100 người.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 02 Tháng Năm, 2010, 08:11:11 am
Phát huy thành quả bước đầu, Bộ Tư lệnh quyết định điều chỉnh một số cung vận chuyển của các binh trạm để phát huy công suất của xe: Các cung mới có cự ly từ 125 - 180 km; Các kho đầu mối và cơ quan chỉ huy các Binh trạm 33, 34, đều di chuyển vào vị trí mới.

Cùng với hoạt động vận chuyển, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh 559 đặc biệt quan tâm cải tiến nâng cao chất lượng công tác chỉ huy hành quân nhằm bảo đảm khối lượng quân đi lớn tốc độ nhanh, gọn; giữ được sức khỏe và an toàn; hoàn thành chỉ tiêu giao quân cả năm trong mùa khô, sẵn sàng phục vụ quân đi trong mùa mưa; đồng thời bảo đảm thật tốt cơ động binh khí kỹ thuật.

Trên tinh thần đó, Bộ Tư lệnh chủ trương công tác tổ chức hành quân trên toàn tuyến, lấy hành quân bộ là chủ yếu, đồng thời kết hợp tổ chức hành quân bằng cơ giới cho những đơn vị cần vào chiến trường gấp. Những trang bị nặng của các đơn vị hành quân bộ được chở bằng xe vào “mút" chiến trường để giảm nhẹ mang vác của bộ đội và tăng nhanh tốc độ hành quân. Đảng ủy, Bộ Tư lệnh yêu cầu cải tạo cầu đường hành quân thật tốt, qua sông suối chủ yếu đi cầu; bỏ bớt dốc và các đoạn đi vòng; điều chỉnh hợp lý các cung trạm.

Để đảm bảo được nhiều đoàn trong một ngày, không bị ùn tắc, Bộ Tư lệnh chủ trương mở thêm một trục mới song song với trục cũ; mở thêm tuyến giao liên bộ theo trục ngang từ Chà Vằn đi song song với tuyến vận tải ô tô vào Khâm Đức để giao nhận quân ở cánh nam Khu 5. Điều chỉnh cung độ toàn tuyến từ Mụ Giạ vào Tà Xẻng, rút bớt 8 ngày so với trước; biên chế mỗi binh trạm một trạm giao liên cơ giới chuyên trách nhiệm vụ hợp đồng với các đơn vị xe chuyển thương bệnh binh về phía sau và đưa đón phục vụ các đoàn cán bộ đi công tác lẻ vào Nam ra Bắc bằng xe con.

Đối với các đoàn quân được chỉ định hành quân bằng cơ giới và các đơn vị binh khí kỹ thuật cơ động, Bộ Tư lệnh giao cho các binh trạm trực tiếp tổ chức chỉ huy. Yêu cầu đội hình hành quân bằng cơ giới và đội hình binh khí kỹ thuật cơ động phải tách hẳn đội hình vận chuyển để bảo đảm tốc độ và an toàn cho nhau. Cố gắng đảm bảo một số thực phẩm chủ yếu, mỗi tuần có được 100 g thịt tươi/1 người cho các đoàn quân. Tích cực thu dung bộ đội ốm đau, đào lạc ngũ, chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục động viên, tạo mọi điều kiện cho anh em ra tiền tuyến. Tăng cường công tác chính trị, phổ biến thời sự, sinh hoạt văn nghệ góp phần nâng cao tinh thần lạc quan tin tưởng và ý chí chiến đấu cho bộ đội hành quân. Quán triệt những chủ trương trên, cuối tháng 12 năm 1967 công tác bảo đảm chỉ huy hành quân trên tuyến đã có bước tiến nhảy vọt, vững chắc.

Nhiệm vụ giúp đỡ Cách mạng Lào xây dựng, củng cố vùng giải phóng dọc theo tuyến hành lang vừa mang ý nghiã quốc tế, liên minh chiến đấu giữa hai dân tộc, vừa có ý nghĩa trực tiếp đối với việc giữ vững và phát triển tuyến chi viện chiến lược.

Địa bàn tuyến hành lang chi viện chiến lược 559 xuyên qua vùng giải phóng rộng lớn của bạn, với hơn 600 bản thuộc 18 huyện của 4 tỉnh: Khăm Muộn. Sa Van Na Khét, Tà Ven Dọc, A Tô Pơ. Dân số khoảng 82.000 người gồm trên 20 dân tộc, phần lớn là dân tộc Lào Thơng. Cơ sở chính trị về Đảng, chính quyền, mặt trận, dân quân du kích đã có tổ chức và hoạt động từ lâu nhưng còn yếu. rời rạc.
Kinh tế còn ở trạng thái tự nhiên, nông nghiệp độc canh, lạc hậu; thủ công nghiệp đình trệ, thương nghiệp giao lưu phân phối hàng hóa chưa hình thành. Qua mấy năm hạn hán mất mùa và bị bom đạn của Mỹ tàn phá, nhân dân các bản làng trên dọc hành lang đều phải sơ tán vào núi rừng, hang đá, thường xuyên thiếu đói, bệnh tật, đời sống vô cùng cơ cực.

Thực hiện nghĩa vụ quốc tế đối với bạn, Thường trực Quân ủy Trung ương chỉ thị cho Bộ Tư lệnh 559 phải cùng với các lực lượng chuyên gia và bộ đội tình nguyện có kế hoạch và biện pháp tích cực giúp bạn về mọi mặt chính trị, quân sự kinh tế, văn hóa - xã hội, góp phần xây dựng vùng giải phóng Lào thành căn cứ địa cách mạng, qua đó tạo thêm thế vững chắc cho tuyến hành lang.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 02 Tháng Năm, 2010, 08:12:00 am
Cuối tháng 11 năm 1967, Đảng ủy Bộ Tư lệnh 559 họp bàn chuyên đề về công tác giúp bạn xác định nội dung, phương châm và phương pháp cũng như phạm vi địa bàn hoạt động, tổ chức, lực lượng giúp bạn. Theo thỏa thuận với phái đoàn chuyên gia Nam Lào, Đoàn 559 phụ trách giúp bạn trong 11 huyện trên hành lang. Do địa bàn rộng lớn và phức tạp, Đảng ủy chủ trương mọi lực lượng trên tuyến đều phải tham gia công tác giúp bạn, lấy đội ngũ chuyên gia làm nòng cốt lấy binh trạm là đơn vị tổ chức thực hiện phụ trách từ một đến hai huyện trong địa bàn hoạt động của mình.

Phương châm công tác giúp bạn là "Dựa vào đường lối chủ trương của Đảng bạn, hiệp đồng chặt chẽ với đoàn chuyên gia Nam Lào, phát huy sức bạn là chính nhưng phải tích cực trực tiếp giúp bạn, cùng bạn làm, tránh làm thay”.

Trước sự phát triển của nhiệm vụ giúp bạn, Bộ Tư lệnh quyết định chuyển đội ngũ cán bộ dân vận của Đoàn thành cán bộ chuyên gia giúp bạn, tăng cường thêm cán bộ và tổ chức các lớp tập huấn. Sau khi nghị quyết về công tác giúp bạn của Đảng ủy - Bộ Tư lệnh được triển khai, tình đoàn kết giữa Đảng, chính quyền, các đoàn thể và nhân dân đia phương dọc hành lang với Bộ đội 559 phát triển rất tốt đẹp.

Ngày 28 tháng 12 năm 1967, chiến dịch vận chuyển đợt một kết thúc thắng lợi, Đảng ủy Bộ Tư lệnh nhận định tình hình toàn tuyến đã xuất hiện những nhân tố mới đang phát triển theo chiều hướng thuận lợi.

Tháng 1 năm 1968, thời tiết trên trục dọc hành lang chuyển sang cao điểm mùa khô. Đường hết trơn lầy, mực nước sông cạn, sử dụng được đường ngầm. Nhiều đường vòng, đường tránh được mở thêm. Mặt đường được cải thiện, đảm bảo tốc độ xe từ 20 - 25km/giờ. Bộ đội các binh chủng đang ở thời điểm sung sức; trình độ chiến đấu hiệp đồng binh chủng được nâng cao. Khí thế bộ đội được giữ vững, lại được thắng lợi của các chiến trường cổ vũ...

Về địch, Bộ Tư lệnh dự đoán trong tháng 1 và các tháng tiếp theo địch sẽ đánh mạnh hơn, thủ đoạn xảo quyệt hơn, vũ khí mới hơn, nhưng mức độ chưa vượt quá khả năng đối phó của ta.

Từ nhận định trên, Bộ Tư lệnh quyết định mở đợt 2 chiến dịch với quy mô lớn hơn, tốc độ tiến công nhanh hơn, cung độ thọc sâu hơn. Thời gian đợt 2 là một tháng (từ 2/1/1968 - 2/2/1968). Khối lượng vận chuyển phải thực hiện là 19.300 tấn. Để đảm bảo thắng lợi nhiệm vụ, Bộ Tư lệnh đề ra một loạt biện pháp bổ sung, nhấn mạnh những nội dung của nghị quyết trước đây:

- Bằng mọi biện pháp nâng đầu xe hoạt động lên 90% tổng đầu xe biên chế. Hệ số này ngang với hệ số của những đơn vị được trang bị hoàn toàn xe mới hoạt động trong thời bình.

- Giải quyết khâu cầu đường, đảm bảo tốc độ xe từ 20 đến 25km/giờ.

- Kéo dài cung vận chuyển thêm 20 - 30km để phát huy sức đột kích của xe, tiết kiệm đầu xe hoạt động và tăng thời gian xe lăn bánh trong đêm.

- Kiên trì chiến thuật vận tải đội hình tiểu đoàn, đại đội tập trung. Tùy điều kiện đường cầu và địch đánh phá mà kết hợp thật tốt cung dài, cung ngắn, kết hợp vận chuyển đường bộ và đường sông.

- Tập trung hỏa lực tầng cao, tầng thấp, tiêu diệt nhiều máy bay ngay trên trọng điểm kết hợp cơ động hỏa lực súng máy 12,7 ly, 14,5 ly diệt máy bay ngay trên đội hình xe.

- Phát triển mạng thông tin xa hơn, vững chắc hơn. Trước mắt tiến sâu vào chiến trường Trị - Thiên.

- Tăng cường chỉ huy chiến đấu hiệp đồng binh chủng ở các trọng điểm xung yếu.

- Tổ chức cứu người, cứu xe, cứu hàng kịp thời, nhanh chóng.

- Tập trung nuôi dưỡng, giữ vững sức khỏe bộ đội, đặc biệt là đội ngũ lái xe.

- Tiến hành công tác chính trị tư tưởng thường xuyên, liên tục, sâu sắc, sôi nổi; đoàn kết, lạc quan, tin tưởng, cảnh giác.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 02 Tháng Năm, 2010, 08:12:47 am
Những nội dung chỉ đạo của Đảng ủy Bộ Tư lệnh được các cấp triển khai nhanh chóng. Lực lượng công binh được huy động tối đa vào việc cải thiện mặt đường. Trong vòng một tuần, cầu đường các binh trạm bắc đường 9 đảm bảo tốc độ xe 25 km/gỉờ. Các cung vận chuyển được điều chỉnh lại. Cung từ cụm C (km 68 đường 20) vào Lùm Bùm cự ly khoảng 70 km nay đi thẳng vào Tha Mé. Cung từ Tha Mé vào La Hạp đi thẳng đến Động Con Tiên, Hà Tía (đường B45). Cung La Hạp vào Sê La Măng nay đi thẳng vào nam Bạc.

Các Binh trạm 34 và 35 phối hợp chặt chẽ khai thông điểm vượt Bạc, mở thêm một số đường tránh và đường nghi binh, tranh thủ bất ngờ, lợi dụng bản Bạc cũ hoang tàn, cây dại mọc um tùm và những bờ cao dọc đường còn sót mấy cây che phủ, đào hầm xe, ngụy trang kiến thiết khu trung chuyển tiếp cận bến Bạc.

Các tiểu đoàn thông tin tập trung phát tuyến, lợi dụng cây rừng làm cột mắc đường dây tai ba xuống Động Con Tiên và vào Bạc. Bộ đội cao xạ nhanh chóng điều chỉnh lực lượng, bố trí theo phương án chốt đánh tập trung ở trọng điểm kết hợp cơ động trên phạm vi phụ trách. Bộ đội vận tải vận dựng nhiều biện pháp, nâng hệ số kỹ thuật lên 80%.

Thế và lực trên toàn tuyến được chuẩn bị khá tốt. Ngày 2 tháng 1 năm 1968, đợt 2 chiến dịch mở màn. Khí thế ra quân của các binh trạm rất rầm rộ. Các đoàn xe được ngụy trang chu đáo thực hiện chiến thuật đội hình tiểu đoàn hoặc đại đội tập trung tiến công theo chiều thuận tuyệt đối với tốc độ 20 - 25 km/giờ. Tại các trọng điểm, pháo binh giương cao nòng súng sẵn sàng nhả đạn khi máy bay đánh đội hình xe. Công binh áp sát mặt đường sẵn sàng khắc phục phá hoại, đảm báo thông xe hên tục.

Địch phát hiện ta hoạt động mạnh, nhưng chưa nắm được quy luật của ta vì vậy chúng đánh dàn trải trên các trọng điểm toàn tuyến. Do lực lượng phân tán lại bị ta giáng trả bằng sức mạnh chiến đấu hiệp đồng binh chủng kiên cường và mưu trí nên sự đánh phá của địch ít hiệu quả. Lợi dụng tình hình đó, bộ đội vận tải tiến công rất mạnh.

Nhưng do cung độ kéo dài, đội hình xe của các binh trạm tới đích chỉ khoảng 30 - 40%. Nhiều xe cũ, lái mới bị rớt lại ở cung cũ. Bộ Tư lệnh chỉ đạo Binh trạm 32 tổ chức ngay cung trung chuyển, sắp xếp lại đội hình vận chuyển, thực hiện chiến thuật đội hình mạnh chạy cung dài, đội hình yếu (xe cũ, lái mới) chạy cung trung chuyển, tổ chức tổ mũi nhọn đột phá cung dài quay vòng tiếp chuyển xe chạy cung trung chuyển. Chiến thuật trên đã đưa tỷ lệ xe đi cung dài tới đích 60 – 70%. Kinh nghiệm này đã được áp dụng rộng rãi ở hầu hết các binh trạm. 

Cùng với hoạt động chi viện chiến lược, hoạt động tác chiến mở rộng khu vực giải phóng của bạn ở Trung - Hạ Lào, nhằm bảo vệ an toàn tuyến vận tải chiến lược từ phía tây cũng được đặt ra cấp bách.

Ngày 4 tháng 1 năm 1968, Tư lệnh Đồng Sĩ Nguyên với danh nghĩa Tư lệnh Đoàn 559 kiêm Tư lệnh bộ đội tình nguyện, kiêm Trưởng đoàn cố vấn chuyên gia Trung - Hạ Lào đến làm việc với Đoàn chuyên gia quân sự 565, do thượng tá Hà Tuấn Khanh làm Tư lệnh, thượng tá Phạm Sinh làm Chính ủy, bàn kế hoạch mở đợt tác chiến mùa khô 1967 - 1968 mở đầu bằng đòn tiến công tiêu diệt địch ở thị xã Lào Ngám nhằm mở rộng hành lang 559 sang phía tây.

Lực lượng tham gia gồm các tiểu đoàn quân tình nguyện phối hợp với lực lượng vũ trang quân khu bạn. Đoàn 559 tăng cường cho Đoàn 565 một tiểu đoàn cao xạ 37 ly, một đại đội pháo mặt đất và 6 khẩu súng máy 12,7 ly cùng với cơ số đạn dự trữ. Thời gian mở màn đợt hoạt động là thượng tuần tháng 1 nhằm phối hợp với chiến dịch vận tải chiến lược Chủ trương này được đồng chí Phuma - Tư lệnh quân khu bạn nhất trí.

Ngày 12 tháng 1 năm 1968, quân ta nổ súng tiến công địch. Bị đánh bất ngờ, địch bỏ chạy tán loạn. Ngày 27 tháng 1 ta giải phóng thị xã Lào Ngám và một số khu vực quanh Sa Ra Van, A Tô Pơ với 47 xã và 1.045 dân; phá vỡ hệ thống phòng ngự của địch dọc tuyến Sê Đôn - A Tô Pơ. Hành lang 559 phía tây từ nam đường 9 đến Sa Ra Van dọc tây đường 23 được mở rộng.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 02 Tháng Năm, 2010, 08:14:05 am
Ngày 20 tháng 1 năm 1968, lực lượng chủ lực ta mở cuộc tiến công và vây hãm Khe Sanh - cứ điểm lớn nhất của Mỹ ở bắc Quảng Trị. Tiếp đó ngày 21 tháng 1 ta tiêu diệt chi khu quân sự Hướng Hóa, bức rút hệ thống phòng thủ của chúng trên đường số 9 từ Hướng Hóa đến Huội San cách Bản Đông 7km. Cuộc tiến công và vây hãm cứ điểm Khe Sanh đã chia lửa với tuyến 559, giảm áp lực của không quân Mỹ, tạo điều kiện cho tuyến 559 đẩy mạnh vận chuyển chiến lược; nhưng đồng thời cũng đặt tuyến 559 trước nhiệm vụ mới là tổ chức vận chuyển trực tiếp phục vụ mặt trận Đường 9 - Khe Sanh.

Thời điểm này quân vào dồn dập, khoảng 45.000 người, trong đó có một số đơn vị binh khí kỹ thuật, một tiểu đoàn tăng, hai tiểu đoàn pháo 122 ly và 85 ly, ba tiểu đoàn cao xạ 37 ly và 23 ly được các binh trạm tổ chức bảo đảm và chỉ huy hành quân đến các chiến trường đúng thời gian quy định và an toàn. Hai trung đoàn và hai tiểu đoàn bộ binh gồm 6.000 người được tổ chức hành quân bằng cơ giới. Trên đường hành quân bị máy bay địch săn đuổi ráo riết. Một tiểu đoàn khi qua trọng điểm Noọng Kà Đeng bắc đường 9 bị địch phát hiện, thả pháo sáng và bắn pháo. Tiểu đoàn 18 cao xạ đánh trả quyết liệt buộc địch phải ném bừa bom bi xuống và tháo chạy.

Linh cảm về một sự kiện lớn sẽ bùng nổ trên chiến trường, toàn tuyến bừng bừng khí thế. Cán bộ, chiến sĩ nô nức lập công với khẩu hiệu "Tất cả vì miền Nam ruột thịt. Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược", công binh khẩn trương mở rộng và kéo dài cầu đường, pháo cao xạ đánh mạnh và hiệu quả, đội hình xe đột kích nhanh. Nhiều cán bộ, chiến sĩ các binh chủng lập thành tích xuất sắc trở thành lá cờ đầu toàn tuyến.

Tuy nhiên, các trục ngang vào Trị - Thiên, Khu 5 còn trở ngại lớn, vì mưa dầm, đường trơn lầy. Các ngầm qua sông A Sáp, Con Tôm ngập sâu từ 1,5m - 2m. Tuần đầu tháng, từ Động Con Tiên về A Lưới không một chuyến xe nào vào được

Ngày 8 tháng 1, trời ngớt mưa, Binh trạm 42 tổ chức đội hình 29 xe đi từ Động Con Tiên (km 34) vào Hà Tía (km 61) đường dài 27km dự định 2 đêm tới đích, nhưng 5 đêm mới đi được nửa đường. Đường lầy có chỗ bánh xe lún sâu từ 0,4m - 0,5m. Cán bộ, chiến sĩ lái xe tập trung kéo đẩy suốt đêm mới qua được vài chiếc. Hàng chục xe hư hỏng nằm rải rác dọc đường. Vận chuyển cơ giới bị tê liệt. Binh trạm 42 buộc phải huy động lực lượng tổ chức gùi thồ tiếp chuyển đồng thời ra sức chống lầy, khôi phục cầu đường.

Đến giữa tháng, trời mới tạnh ráo, thời tiết đi vào ổn định. Binh trạm tập trung xe đẩy gấp hàng vào, đáp ứng nhu cầu cấp bách của chiến trường Trị - Thiên và Khu 5.

Đến cuối tháng 1 năm 1968 toàn bộ kế hoạch vận chuyển cho các hướng cơ bản hoàn thành với khối lượng lớn nhất kể từ đầu mùa khô bằng 175% tháng 12 năm 1967. Cùng với việc hoàn thành cơ bản kế hoạch vận chuyển đáp ứng yêu cầu các chiến trường, Bộ đội 559 còn lập nhiều thành tích trong hiệp đồng chiến đấu, bắn rơi 31 máy bay, bảo vệ và giữ vững cầu đường thông suốt, nâng cao chất lượng mặt đường, mở thêm nhiều đường vòng, đường tránh, kéo dài mạng lưới thông tin, củng cố vững chắc thế trận.

Tuy nhiên, trong cuộc chiến đấu quyết liệt với kẻ địch chiếm ưu thế trên không và vũ khí, phía ta cũng chịu những tổn thất nhất định: 8 pháo, 15 xe vận chuyển bị đánh hỏng, trên 200 cán bộ, chiến sĩ bị thương vong.

Trước khi kết thúc chiến dịch vận chuyển 2 ngày, Thường vụ Đảng ủy, Bộ Tư lệnh họp, đánh giá: trong tình hình địch đánh phá ác liệt hơn bao giờ hết, nhưng với sự dũng cảm, sáng tạo và nỗ lực vượt bậc của các lực lượng, đợt hai chiến dịch đã thu được thắng lợi giòn giã, toàn diện. Bộ đội trưởng thành một bước quan trọng. Đảng ủy chủ trương trong điều kiện các yếu tố thuận lợi vẫn còn và đang phát triển, yêu cầu bảo đảm của chiến trường rất lớn và cấp bách, trên đà thắng lợi đã đạt được, toàn tuyến cần dấy lên thành cao trào mới, tiếp tục chuyển hàng chiến dịch trong tháng 2 với khối lượng vận chuyển cao hơn nhằm đáp ứng nhu cầu lớn của chiến trường và chủ động trước mọi tình huống.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 02 Tháng Năm, 2010, 08:14:57 am
Chủ trương của Đảng ủy, Bộ Tư lệnh được truyền gấp xuống các đơn vị đúng thời điểm sắp bước sang năm mới. Cán bộ, chiến sĩ toàn tuyến hân hoan đón nhận với tinh thần vừa chiến đấu, vừa đón tết, quyết lập thành tích cao nhất để mừng xuân dâng Đảng.
Đêm 29 rạng ngày 30 tháng 1 năm 1968 - vào lúc giao thừa Tết Mậu Thân, cán bộ, chiến sĩ Đoàn 559 chăm chú lắng nghe lời chúc mừng năm mới của Chủ tịch Hồ Chí Minh:

"Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua,
Thắng trận tin vui khắp nước nhà.
Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ.
Tiến lên!
Toàn thắng ắt về ta!".

Xúc động, phấn khởi và tràn ngập niềm tin, Bộ đội Trường Sơn lao vào cuộc chiến đấu mới với quyết tâm mới.

Ngày 1 tháng 3, toàn tuyến bước vào "Tổng công kích". Lúc này, hoạt động tác chiến ở các chiến trường miền Nam tạm lắng để chuẩn bị cho đợt mới. Không quân địch tập trung đánh phá tuyến 559 dữ dội hơn trước. Đoạn đường qua Tha Pa Chôn bị đánh ác liệt suốt một tháng liền. Đại đội 5 (tiểu đoàn 25) dũng cảm bám đường, san lấp hố bom, đồng thời khắc phục địa hình mở đường tránh nên chỉ chịu tắc giờ.

Đường qua Đèo Long cũng bị địch đánh phá và khống chế liên tục. Binh trạm 35 đã tổ chức chiến dịch "giải phóng Đèo Long" huy động nhiều lực lượng và cơ quan tham gia, mở được con đường tránh nên trọng điểm này cũng được giải tỏa. Đèo Văng Mu, dốc Tà Beng, dốc La Hạp, động Con Tiên bị đánh phá ngày đêm. Các đơn vị phòng không chuẩn bị tốt, vừa tập trưng vừa cơ động, đánh giỏi, bắn rơi 40 máy bay, bắn bị thương 90 chiếc.

Các đơn vị xe đều thi đua tăng cung, vượt chuyến. Binh trạm 42, Binh trạm 37 hoàn thành vượt kế hoạch. Hàng giao cho các chiến trường đạt từ 106 đến 131%. Tuy vậy số xe bổ sung vào chậm nên không kịp cho kế hoạch mới. Đến ngày 24 tháng 3 Tổng cục Hậu cần bổ sung 442 xe nhưng hỏng 89 xe nằm rải rác từ Mụ Giạ đến đường 9. Tình trạng kỹ thuật các xe bổ sung cũng rất xấu, hầu hết là xe cũ huy động từ các đơn vị phía sau. Riêng số xe Zil 130 chưa phát huy được vì đã có mưa, đường trơn không đi nổi. Vì vậy số tấn/xe sau khi được bổ sung vẫn thấp hơn hồi tháng 11 năm 1967.

Sang tháng 4, số xe bổ sung đã vào đủ và được Tổng cục Hậu cần tăng cường 3 tiểu đoàn xe của Binh trạm 12 và Binh trạm 14 thuộc tuyến Tổng cục Hậu cần tiền phương vào chạy cung từ Mụ Giạ và bắc Ta Lê vào Lùm Bùm, Bộ Tư lệnh điều chỉnh lực lượng, đẩy mạnh "Tổng công kích”, quyết tâm hoàn thành kế hoạch mùa khô ở mức 54.000 tấn. 

Nhưng đúng vào thời điểm đó, địch bắt đầu mở những đợt đánh phá mới trong hoạt động ngăn chặn giao thông vận tải. Từ ngày 1 tháng 4 năm 1968, đế quốc Mỹ xuống thang một bước ở miền Bắc, ném bom hạn chế từ vĩ tuyến 20 trở vào. Địa bàn Quân khu 4 bị không quân địch đánh phá rất dữ dội. Các tuyến đường từ bắc sông Lam trở vào đến biên giới Việt - Lào bị đánh liên tục gây tắc nghẽn nhiều đoạn nên chân hàng từ tuyến Tổng cục Hậu cần tiền phương vào các cửa khẩu bị hụt nhiều. Xăng vào không đủ, có lúc gây nên tình trạng rất căng thẳng.

Trên tuyến 559 địch tăng cường ngăn chặn cả bằng không quân và bộ binh với mức độ cao và quy mô lớn. Số lần chiếc máy bay đánh phá hàng ngày và số bom dội xuống tăng gấp đôi tháng cao nhất trước đây. Số vụ đánh phá bằng máy bay chiến lược B52 cũng tăng gấp ba lần. Các trọng điểm trên địa bàn các binh trạm phía bắc và binh trạm giáp chiến trường Trị - Thiên, Khu 5, Tây Nguyên bị đánh phá rất ác liệt.

Mặc dù không quân địch đánh phá quyết liệt cầu đường và đội hình xe suốt ngày đêm, các lực lượng trên toàn tuyến vẫn bình tĩnh, mưu trí, dũng cảm, hiệp đồng chiến đấu rất hiệu quả, làm chủ địa bàn, làm rối loạn địch, bắn rơi máy bay, bảo vệ đội hình xe hành tiến.

Trong tháng 4, ta hạ được 97 máy bay trong đó 45 chiếc rơi tại chỗ. Lực lượng công binh anh dũng bám đường, bám xe, san lấp 426.740m3 đất đá, khôi phục nhanh đoạn đường bị phá, làm thêm trên 1 000 000 m3 đường tránh (khoảng 300 km) tạo thành 2 trục song song ở địa bàn các Binh trạm 31, 32, 33.

Lực lượng vận tải được tăng cường phương tiện đã nâng tốc độ vận chuyển với đội hình tập trung lớn, dũng cảm mưu trí vượt bom đạn địch, thực hiện vượt cung tăng chuyến. Mỗi đêm bình quân hàng vượt đường 9 trên 400 tấn, vào Động Con Tiên 120 tấn, vào Bạc 70 tấn, giao các hướng chiến trường 142 tấn.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 02 Tháng Năm, 2010, 08:15:41 am
Ngày 19 tháng 4 năm 1968 địch mở cuộc hành quân lớn. Sư đoàn Kỵ binh bay số 1 của Mỹ và lữ đoàn dù số 3 của ngụy dồn dập đổ quân xuống khu vực A Sầu A Lưới, Đông Sơn, khu vực hoạt động của nhiều đơn vị như sở chỉ huy. Ngay khi địch vừa đổ quân xuống, lực lượng tại chỗ của các binh trạm như công binh, pháo cao xạ, bộ binh, kho, thông tin, giao liên cơ quan đã chặn đánh rất quyết liệt, tiêu diệt nhiều sinh lực địch và phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của chúng.

Bộ Tư lệnh Đoàn cử Phó Tư lệnh Lê Đình Sum xuống binh trạm chỉ đạo tác chiến, đồng thời cấp tốc cơ động 2 tiểu đoàn bộ binh đến tham gia đánh địch bảo vệ khu vực Hà Tía, A Lưới chặn đánh nhiều cuộc càn quét, diệt hàng trăm tên Mỹ - ngụy, yểm trợ cho việc sơ tán kho, tăng pháo ở khu vực này về Bù Lạch, A Yên.

Trong 3 đêm 19, 20 và 21 tháng 4, tiểu đoàn 55 ô tô vận tải rút được 70 xe hàng từ kho Hà Tía vào Xưởng Giấy. Nhưng sau đó bị hết xăng. Vùng kho Hà Tía tuy tổ chức chiến đấu bảo vệ rất kiên cường nhưng địch xuống quá đông, tràn vào phá mất hơn 200 tấn hàng. Ở Tà Lương, 35 xe của tiểu đoàn 55 đang vận chuyến cho mặt trận Trị - Thiên bị nghẽn lại, cùng pháo của tiểu đoàn 85 và tiểu đoàn pháo 23 của chiến trường đang tập kết ở đó cũng bị địch phá.

Mấy hôm sau, Bộ Tư lệnh Trị - Thiên tăng cường trung đoàn 6, 8, 9 bộ binh cùng đơn vị đặc công và pháo lớn tổ chức các cuộc tiến công và pháo kích vào các khu vực đóng quân dã chiến của địch, nhất là khu vực A Bia gây cho địch tổn thất rất nặng. Ngày 16 tháng 5, địch phải rút khỏi khu vực A Sầu, A Lưới chấm dứt cuộc hành quân.

Cuộc hành quân của 16 tiểu đoàn Mỹ - ngụy xuống các khu vực A Sầu, A Lưới đã làm cho vận chuyển cơ giới hướng Trị Thiên và bắc Khu 5 tắc 26 ngày, ngăn chặn một số đơn vị binh khí kỹ thuật cơ động chi viện cho mặt trận Huế và gây cho ta một số tổn thất: 150 cán bộ, chiến sĩ Đoàn 559 bị thương vong; mấy trăm tấn hàng và phương tiện kỹ thuật bị phá hủy.

Song chúng đã bị tổn thất nặng. Trên 1.000 tên Mỹ - ngụy bị thương vong, trong đó các lực lượng 559 đã diệt 734 tên Mỹ, 105 tên ngụy, bắn rơi 86 máy bay. Dư luận phương Tây coi đây là "cuộc hành quân đẫm máu” đối với sư đoàn Kỵ binh bay Mỹ. "Thung lũng A Bia (tây A Lưới) trở thành cối nghiền thịt lính Mỹ”.

Cuối tháng 4 khi địch đổ quân xuống 11 Binh trạm 42 và Binh trạm 44 làm nghẽn vận chuyển cơ giới, Bộ Tư lệnh kịp thời điều hòa lực lượng tổ chức gùi thồ hướng Trị - Thiên, kiên quyết giữ vững nhịp độ "Tổng công kích" toàn tuyến và đã đạt được kết quả cao trong cả mùa. Vận chuyển vượt đường 9 được 11945 tấn, gấp hai lần tháng cao nhất của năm 1967 gấp rưỡi tháng 3 năm 1968.

Bước sang tháng 5, quân và dân miền Nam lại mở đợt tiến công và nổi dậy mới. Nhu cầu của chiến trường ngày càng cao và bức thiết. Một số hướng như Trị - Thiên và Khu 5 rất căng thẳng. Bộ Tư lệnh Khu 5 đã phải cử Chủ nhiệm Hậu cần quân khu Mai Nhân ra gặp Bộ Tư lệnh 559 yêu cầu cố gắng nâng mức bảo đảm cho Khu 5. Bộ Tư lệnh Trị - Thiên cũng yêu cầu tăng thêm chi viện, nhất là bảo đảm kịp thời nhu cầu cho các đơn vị tác chiến trên khu vực A Sầu. Các đơn vị bộ binh, pháo binh, cao xạ với trên 1 vạn người hành quân đi các chiến trường phải tạm dừng lại trên tuyến, tiêu thụ vật chất hàng ngày rất lớn. Công việc chuẩn bị các mặt cho hoạt động mùa mưa lại thúc bách.

Trước đòi hỏi mới, Bộ Tư lệnh quyết định tranh thủ thời gian kéo dài tổng công kích" hết tháng 5, dồn nhiều hàng xuống đường 9 và các đầu mút chiến trường.

Ở hướng đường 9, Bộ Tư lệnh quyết định tách một bộ phận của Binh trạm 33 tổ chức thành Binh trạm 41 do thiếu tá Võ Văn Quỳ làm Binh trạm trưởng, thiếu tá Nguyễn Văn Lạn làm Chính ủy, đứng tại khu vực Tà Khống, chuyên vận chuyển phục vụ mặt trận Khe Sanh.

Toàn tuyến huy động lực lượng chống lầy, bảo đảm cho vận chuyển. Tin quân và dân ta trên các chiến trường từ Trị - Thiên đến Cà Mau đánh giỏi thắng lớn, diệt hàng vạn tên Mỹ và chư hầu, phá hủy hàng trăm máy bay, hàng ngàn xe quân sự hàng chục tàu chiến, bức rút hàng trăm đồn bốt trong đợt tổng công kích mới đã cổ vũ và giục giã cán bộ, chiến sĩ 559 dốc sức thực hiện thắng lợi nhiệm vụ tháng 5, kịp thời chi viện các chiến trường.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 02 Tháng Năm, 2010, 08:16:20 am
Tuy nhiên hoạt động của các đơn vị trên tuyến trong tháng này gặp rất nhiều khó khăn. Thời tiết mưa nhiều, nắng ít. Xăng nhập từ hậu phương bị hạn chế. Toàn tuyến thiếu xăng nghiêm trọng. Các binh trạm phía trong phải bốc hàng sẵn chờ xăng. Khi nhập được xe xăng nào Bộ Tư lệnh phải trực tiếp phân chia và tổ chức chạy tiếp sức cả ngày lẫn đêm đảm bảo cho các binh trạm vận chuyển phục vụ chiến trường.

Cuối tháng 5, mưa liên tục nhiều ngày, không còn khả năng vận chuyển lớn. Đảng ủy, Bộ Tư lệnh quyết định kết thúc vận chuyền mùa khô 1967 - 1968, nhanh chóng chuyển sang vận chuyển mùa mưa, giữ cho được chi viện liên tục vào các chiến trường. Đồng thời không ngừng xây dựng và củng cố mọi mặt công tác một cách cơ bản

Ngày 6 tháng 6 năm 1968, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh họp kiểm điểm đánh giá: 7 tháng mùa khô 1967 - 1968, các lực lượng 559 đã nỗ lực phi thường giành được thắng lợi to lớn, toàn diện, toàn tuyến, liên tục và giòn giã. Khối lượng vận chuyển đạt 63.024 tấn, bằng 140% kế hoạch Quân ủy Trung ương giao ban đầu. Tổ chức hành quân vào chiến trường với khối lượng lên tới 155.758 người, trong đó có 43 đoàn binh khí kỹ thuật, 11 đoàn khách quốc tế, lớn gấp rưỡi kế hoạch được giao. Quân giao cho chiến trường được 124.016 người trong đó có 20 tiểu đoàn tăng, pháo. Các đơn vị binh khí kỹ thuật tập kết xong ở khu vực: đường 9, đường B45, B46, B49, khu vực S8, đang chờ lệnh. Thương bệnh binh và con em cán bộ miền Nam đã chuyển về hậu phương được 17.159 người, trong đó có 7.425 thương bệnh binh, tăng 8 lần so với mùa khô trước.

Về tác chiến, toàn Đoàn bắn rơi 330 máy bay các loại, diệt 1.275 tên Mỹ - ngụy; phối hợp với quân dân Trị - Thiên đánh bại cuộc hành quân của sư đoàn “Kỵ binh bay" Mỹ xuống A Sầu, A Lưới; phối hợp với bạn Lào giải phóng Lào Ngàm, mở rộng chính diện tuyến vận tải sang phía tây.

Về xây dựng cầu đường, đã khôi phục, nâng chất lượng được 1.567km. Mở thêm được 457km đường mới, làm được 15.412m cầu, bảo đảm vận chuyển quy mô lớn và cơ động binh khí kỹ thuật thông suốt. Về giúp bạn, đã xây dụng vùng giải phóng trên địa bàn 11 huyện tiến triển tốt.

Đảng ủy, Bộ Tư lệnh nhấn mạnh: Thắng lợi trên đây có ý nghĩa chính trị rất lớn, biến quyết tâm của Trung ương và Quân ủy Trung ương về chi viện miền Nam để đánh to thắng lớn thành hiện thực. Xây dựng được lòng tin và sự cổ vũ đối với chiến trường. Tăng thêm ảnh hưởng to lớn của chế độ xã hội chủ nghĩa miền Bắc đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở miền Nam. Biểu thị đầy đủ tinh thần: "Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”.

Đảng ủy, Bộ Tư lệnh xác định toàn tuyến phải nỗ lực vượt bậc, nhanh chóng chuyển sang vận chuyển mùa mưa nhằm đáp ứng nhu cầu của một số chiến trường trọng điểm và nhu cầu vật chất cho bộ đội trên tuyến; đồng thời chuẩn bị từng bước nhiệm vụ mùa khô 1968 - 1969. Bộ Tư lệnh quyết định:

Khối lượng vận chuyển mùa mưa là 19.000 đến 20.000 tấn; giao cho các chiến trường từ 11.400 tấn đến 12.000 tấn. Hướng chủ yếu là Trị - Thiên, Khu 5. Phương thức vận chuyển là kết hợp vận chuyển cơ giới đường bộ - đường sông và gùi thồ. Từ Lùm Bùm vào Động Con Tiên lấy vận chuyển cơ giới làm chủ yếu. Những hướng khác tranh thủ vận chuyển cơ giới khi thời tiết cho phép, kết hợp với vận chuyển thô sơ.

Bộ Tư lệnh chủ trương bổ sung lực lượng cho các Binh trạm phía bắc đủ số xe để đảm bảo khối lượng vượt đường 9 khoảng 3.000 - 4.000 tấn một tháng. Song song với nhiệm vụ vận chuyển phải tổ chức hành quân quy mô lớn, nhanh, gọn, an toàn. Dự kiến số quân vào chiến trường khoảng 51.000 người.

Để thực hiện thắng lợi vận chuyển và hành quân, việc bảo đảm cầu đường giữ vị trí quyết định. Trước mắt chống lầy 420 km đường từ Ta Lê đi Lùm Bùm vào Động Con Tiên đảm bảo vận chuyển cơ giới liên tục. Chống lầy cục bộ 548 km đường khác để tranh thủ vận chuyển những ngày nắng ráo. Tích cực mở thêm đường mới, hình thành 2 trục song song từ Mụ Giạ đến Bạc. Từ Bạc vào Tà Xẻng mở rộng đường 5,5m - 6m. Đẩy nhanh việc thi công đường mới ở phía đông Trường Sơn để kịp cơ động binh khí kỹ thuật và vận chuyển bằng cơ giới vào sâu Trị - Thiên, Khu 5 .


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 02 Tháng Năm, 2010, 08:16:54 am
Để kịp triển khai nhiệm vụ, Bộ Tư lệnh triệu tập hội nghị cán bộ các binh trạm vào ngày 7 tháng 6 để quán triệt và giao nhiệm vụ. Cán bộ dự họp ý thức được trách nhiệm đối với chiến trường và hàng chục vạn con người, ở trên tuyến nên biểu thị quyết tâm cao, song rất lo lắng, trăn trở trước khó khăn lớn gần như bất khả kháng là mùa mưa ở Trường Sơn.

Ngày 17 tháng 6 năm 1968, Thường trực Quân ủy Trung ương gửi thư cho Đảng ủy Bộ Tư lệnh 559 động viên và chỉ đạo những mặt cần phải nỗ lực trong nhiệm vụ vận chuyển mùa mưa và chuẩn bị cho nhiệm vụ mùa khô 1968 - 1969. Thường trực Quân ủy Trung ương biểu dương Đoàn 559 đã anh dũng, sáng tạo, khắc phục khó khăn, chịu đựng gian khổ, liên tiếp giành những thắng lợi to lớn.

Tuy nhiên so với yêu cầu ngày càng tăng của chiến trường thì hiện nay vận chuyển chưa đáp ứng được. Thường trực Quân ủy Trung ương nhắc nhở Bộ đội 559 cần nêu cao quyết tâm hy sinh, phấn đấu, dũng cảm, sáng tạo, quán triệt và thực hiện tốt nhiệm vụ hết sức quan trọng của "Một đội quân hậu cần chiến lược rất giỏi"; làm tốt đợt động viên chính trị "Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược"...

Quán triệt tư tưởng chỉ đạo của Quân ủy Trung ương và quyết tâm của Đảng ủy Bộ Tư lệnh 559, các lực lượng trên toàn tuyến đã nêu cao tinh thần chiu đựng gian khổ, khắc phục khó khăn, lăn lộn suốt ngày đêm chống chọi với thiên nhiên và bom đạn để bảo vệ đường và vận chuyển hàng vào chiến trường.

Những người lính Trường Sơn hàng ngày đối mặt với những thách thức nghiệt ngã. Những trận mưa lớn liên tục nhiều ngày gây lầy lội lớn trên các trục đường. Nhiều cầu phà bị nước cuốn trôi. Đèo dốc trơn trượt, đường thấp trũng bùn.

Đường 128 B từ Lùm Bùm vào tới ngã ba La Hạp được chống lầy bằng rải "rong đanh" biến mặt đường như một cầu gỗ dài hàng trăm cây số ghìm tốc độ xe xuống 7km/giờ. Xe qua vài chục lần là "rong đanh" bị phá, mặt đường bị khoét sâu thành rãnh, thành hố, thường làm xe ngập bùn từ 0,30 - 0,50m phải kéo liên tục.

Các đường vào kho cũng bị hư hỏng, lầy lội. Việc bốc xếp hàng trong mưa vừa hạn chế năng suất, vừa dễ làm hàng bị hỏng. Sinh hoạt của lái xe, công binh, pháo binh trên mặt đường vô cùng cơ cực: áo quần ẩm ướt, cơm canh khê sống, lao động vất vả, sức khỏe sa sút...

Vượt lên mọi thử thách hà khắc về mưa lũ, bom đạn và thiếu nhiên liệu, cuối tháng ta đã giao cho bộ đội Trị - Thiên 587 tấn, giao cho Khu 5 được 306 tấn, giao cho mặt trận Khe Sanh được 330 tấn. Về hành quân, thêm 15.133 người nhập tuyến; giao cho chiến trường 17.393 người; chuyển về hậu phương được 1924 thương binh.

Tháng 7 là thời kỳ cao điểm của mưa lũ, ở phía ngoài, không quân địch mở rộng đánh phá quyết liệt vùng "cán xoong" Khu 4 nhằm cắt đứt tuyến giao thông chiến lược chi viện miền Nam. Trên các trục giao thông thủy bộ từ sông Lam trở vào, hình thành các trọng điểm liên hoàn, những "tam giác lửa" Truông Bồn - Bến Thủy - Đồng Lộc; Đồng Lộc - Kỳ Anh - Truông Bát; Sông Gianh - Minh Cầm - Đò Vàng; Sông Gianh - Minh Cầm - Xuân Sơn; Sông Gianh - Xuân Sơn - Long Đại; Khe Tang - Khe Ve - La Trọng... kéo dài gần 300km.

Quân và dân các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình không nề hà gian khổ hy sinh, chiến đấu vô cùng dũng cảm để giải tỏa giao thông, nhưng khó khăn rất lớn. Chân hàng từ hậu phương - nhất là xăng và gạo đưa vào tuyến 559 ngày càng khó. Binh trạm 14 vần bộ từng phuy xăng chuyển tải qua trọng điểm Trà Ang, chịu thương vong lớn nhưng kết quả rất hạn chế. Bộ Tư lệnh 559 phải hạn chế các nhu cầu nội bộ, dành hàng vận chuyển cho chiến trường.

Sang tháng 8, tình trạng thiếu xăng rất nghiêm trọng. Cả tháng chỉ nhập được 20 tấn trên cả 2 hướng đường 12 và đường 20, cộng với số tồn kho ở Mụ Giạ chỉ có 50 tấn. Binh trạm 31 được lệnh chuyển gấp số xăng trên vào Lùm Bùm. Đại đội 5 công binh do đại đội trưởng Nguyễn Trình chỉ huy, ghép các phuy xăng lại thành từng mảng, chống xuôi dòng Nậm Hơ - Nậm Ngo 30km đến Xiêng Phan. Từ đây, tiểu đoàn 25 công binh vần bộ từng phuy xăng qua 30 km vào Pác Pha Năng, rồi chuyển tải - qua sông Sê Băng Phai. Sau đó kết hợp vừa dùng người vần, kéo, vừa dùng ô tô chở từng đoạn, lặn lội gần một tháng mới chuyển hết số xăng đó giao cho Binh trạm 32.

Hướng đường 20, Binh trạm 32 cũng tổ chức kéo xăng dọc suối Bản Thắm nửa tháng mới được 10 tấn. Trước tình hình nghiêm trọng trên, Bộ Tư lệnh phải chỉ định phân phối từng phuy xăng cho các binh trạm, kêu gọi tiết kiệm nghiêm ngặt, vét xăng trong các phuy cũ tăng cường tổ chức gùi thồ. Trong tình hình đó, kế hoạch vận chuyển cho chiến trường đạt rất thấp.

Đầu tháng 9 mưa lũ lớn kéo dài gây ngập lụt sâu và phá vỡ nhiều đoạn đường từ Lùm Bùm vào đến bắc Bạc. Hoạt động vận chuyển kết thúc trên toàn tuyến. Công tác chuẩn bị cho mùa khô 1968 - 1969 cũng lắng xuống.



Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 02 Tháng Năm, 2010, 08:18:05 am
IV. NHỮNG CUNG ĐƯỜNG MÁU LỬA

Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu thân năm 1968 của quân và dân ta ở miền Nam đã làm phá sản chiến lược “chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải xuống thang chiến tranh, ngừng ném bom miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra nhằm xoa dịu dư luận thế giới, đặc biệt là nhân dân Mỹ, tìm lối thoát cho cuộc chiến. Nhưng chúng vẫn tiếp tục đẩy mạnh chiến tranh bằng biện pháp chiến lược mới.

Một mặt chúng tăng cường phản kích nhằm tiêu diệt chủ lực của ta và "bình định cấp tốc" ở miền Nam; mặt khác, tập trung không quân, hải quân đánh phá địa bàn nam Quân khu 4 - hậu phương trực tiếp của chiến trường miền Nam, hậu cứ của tuyến chi viện chiến lược 559 hòng chặn đứng sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam ngay từ tuyến đầu.

Từ tháng 4 đến tháng 10 năm 1968, Mỹ huy động 79.000 lượt máy bay chiến thuật và máy bay chiến lược B52 cùng pháo hạm ngoài biển liên tục đánh phá vào các kho hàng, bến cảng, đặc biệt các đầu mối giao thông hiểm yếu, nhằm cắt đứt tuyến vận chuyển chi viện chiến lược của ta.

Bom đạn và bão lụt đã gây thiệt hại nặng nề về vật chất, phá hoại nghiêm trọng các tuyến đường vào tiền tuyến.

Để tăng cường lãnh đạo, chỉ huy các lực lượng, kịp thời đối phó với âm mưu mới và thủ đoạn đánh phá điên cuồng của Mỹ, tháng 7 năm 1968, Bộ Chính trị và Hội đồng Chính phủ quyết định thành lập Bộ Tư lệnh 400 bảo đảm giao thông vận tải Quân khu 4 để cùng cơ quan tiền phương Tổng cục Hậu cần và các tỉnh trên địa bàn huy động lực lượng đánh địch, bảo đảm nhu cầu ngày càng lớn của tiền tuyến.

Thiếu tướng Phan Trọng Tuệ - ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải được cử làm Tư lệnh, Thiếu tướng Lê Quang Hòa - Chính ủy Quân khu 4 làm Chính ủy. Đại tá Hoàng Văn Thái - Phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần và đại tá Lê Văn Tri - Phó Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân được cử làm Phó Tư lệnh Bộ Tư lệnh bảo đảm giao thông vận tải.

Các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình và đặc khu Vĩnh Linh thành lập Ban bảo đảm giao thông vận tải do Chủ tịch ủy ban hành chính làm trưởng ban. Bộ Tổng tham mưu, các quân khu phía Bắc, Quân chủng Phòng không – Không quân, Bộ Tư lệnh Công binh, Pháo binh, Tổng cục Hậu cần, Bộ Giao thông Vận tải đã điều nhiều lực lượng vào tăng cường cho Quân khu 4.

Hàng chục vạn bộ đội, dân quân, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến cùng cán bộ cơ quan quân, dân, chính, Đảng đã dồn sức cho mặt trận chống ngăn chặn, bảo vệ cầu đường. Tuy nhiên sự đánh phá của địch trong mùa mưa bào làm cho việc khắc phục cầu đường bị phá hoại trở nên khó khăn gấp bội.

Đường 1 A đoạn từ Vinh vào sông Gianh, đường 15A đoạn từ ngã ba Đồng Lộc vào đèo Đá Đẽo Xuân Sơn bị tắc liên tục. Nhiều tháng phương tiện vận tải cơ giới từ nam Hà Tĩnh đến Quảng Bình hầu như ngừng hoạt động. Nhân dân các tỉnh khu 4 ra sức gom gạo cho chiến trường và huy động hàng chục vạn xe đạp thồ, xe ba gác, xe cút kít cùng hàng chục ngàn dân công chuyển tải hàng qua trọng điểm.

Nhiều gia đình tình nguyện dỡ nhà lấy cột bắc cầu. Có địa phương dời làng, đốn cây trong vườn để bộ đội làm đường vòng tránh trọng điểm. 

Ngày 28 tháng 10 năm 1968, Quân ủy Trung ương quyết định giải thể Bộ Tư lệnh 400 bảo đảm giao thông vận tải Quân khu 4, thành lập Đoàn 500 nhằm tăng cường tổ chức chỉ huy trên các trục vận chuyển nam Quân khu 4 vào đường 12 và đường 20 đưa hàng giao cho tuyến 559 tại khu vực 050 dưới dãy núi Phuxe và phân trạm C, bắc sông Ta Lê.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 02 Tháng Năm, 2010, 08:18:57 am
Thiếu tướng Nguyễn Đôn - Phó Tổng Tham mưu trưởng được cử làm Tư lệnh. Thiếu tướng Lê Quang Đạo - Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị được cử làm Chính ủy Bộ Tư lệnh. Đại tá Vũ Xuân Chiêm - Chính ủy Đoàn 559 giữ chức Phó Chính ủy Bộ Tư lệnh kiêm Chủ nhiệm chính trị. Đại tá Hồng Kỳ - Phó Chính ủy Đoàn 559 giữ chức Phó Tư lệnh.

Đường số 12 và đường số 20, hai tuyến vượt khẩu bị địch đánh phá ác hệt nhất. Binh trạm 14 phụ trách đường 20 do các đồng chí Hoàng Trà làm Binh trạm trưởng, Nguyễn Việt Phương làm Chính ủy và Binh trạm 12 phụ trách đường 12 do các đồng chí Nguyễn Đàm làm Binh trạm trưởng, Lê Tự Do làm Chính ủy đã kiên cường chiến đấu với địch, với trời, song chưa xoay chuyển được tình thế.

Tuyến trong bị thiếu xăng nghiêm trọng làm tê liệt vận chuyển cơ giới. Bộ đội phải kéo từng phuy xăng ngược suối Trà Ang, dưới sự khống chế và đánh phá điên cuồng của máy bay địch. Một tấn xăng qua trọng điểm phải đổi hàng chục mạng người.

Để tháo gỡ khó khăn do địch đánh phá ngăn chặn tuyến đường 12 và đường 20, ngày 15 tháng 8 năm 1968 Quân ủy Trung ương nhất trí với chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần và Bộ Tư lệnh 559 tổ chức mũi vu hồi từ Hương Sơn Hà Tĩnh qua Lạc Sao - Trung Lào tiến xuống Nhom Ma Lát, vòng qua Ma Hả Xây (theo đường 12B) chạy về Ka Vát giao hàng cho Binh trạm 31, đường dài khoảng hơn 200km. Binh trạm 5, Binh trạm 27, Binh trạm 28 được giao nhiệm vụ thực hiện mũi vu hồi này.

Do triển khai về mùa mưa, nước sông Nậm Thơn dâng cao và dốc núi Phuxe quá lớn, lại bị địch phát hiện ngăn chặn nên hoạt động của các đơn vị ở hướng này cũng kém hiệu quả.

Đầu tháng 4, hàng và xăng không vào được đã đặt Đoàn 559 trước những thử thách nghiêm trọng. Tư lệnh Đồng Sĩ Nguyên điện báo cáo về Bộ: Do thiếu xăng, xe phải ngừng hoạt động. Nếu không kịp chuyển xăng và lương thực vào sẽ có nguy cơ hàng vạn bộ đội bị đói.

Tổng cục Hậu cần đã khẩn trương nghiên cứu, thiết kế thi công đường ống dẫn xăng dầu bao gồm cả kho chứa, trạm bơm, mạng thông tin từ Nam Đàn vượt sông Lam; sông La vào Can Lộc thuộc tỉnh Hà Tĩnh. Nhờ sự nỗ lực vượt bậc của hậu phương, sau một thời gian Đoàn 559 đã nhận được khoảng 300 tấn xăng, 3.000 tấn hàng khác nhưng vẫn không đủ cứu đói cho bộ đội trên các mặt trận.

Bộ Tư lệnh 559 chỉ thị cho toàn tuyến rút khẩu phần ăn mỗi người xuống 3 lạng một ngày để lấy gạo chi viện chiến trường. Đồng thời phát động phong trào tăng gia sản xuất, trồng ngô, khoai sắn, nuôi gà lợn; tổ chức săn bắn, khai thác rau, măng, củ mài để cải thiện đời sống bộ đội. Tình hình khan hiếm lương thực thực phẩm, thuốc men cộng với điều kiện khí hậu, thời tiết, muỗi rừng, sên vắt làm cho sức khỏe của các lực lượng trên tuyến bị giảm sút nghiêm trọng. Năng suất lao động và chiến đấu của các binh chủng tụt xuống.

Ở miền Nam, sau những thất bại bởi cuộc tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt của quân và dân ta trong Tết Mậu Thân, địch tập trung lực lượng phản kích dữ dội. Nhiều đơn vị chủ lực của ta phải rút lên địa bàn 559. Hàng nghìn quân trên đường vào chiến trường phải dừng lại trên tuyến. Khó khăn của Đoàn 559 càng thêm chồng chất.
Cuối tháng 9 năm 1968, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh 559 họp, nhận định mùa khô tới cuộc chiến giữa ta và địch ở miền Nam sẽ diễn ra vô cùng quyết liệt, ở miền Bắc, Mỹ có thể ngừng chiến tranh phá hoại như phán đoán của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương. Nhưng dù tình hình diễn biến thế nào thì trục hành lang 559 vẫn là nơi Mỹ tiến hành biện pháp chiến lược ngăn chặn ác hệt nhất nhằm chặn đứng sự chi viện của ta, cô lập và bóp nghẹt cách mạng miền Nam, làm cho "chiến tranh tàn lụi"...


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 02 Tháng Năm, 2010, 08:19:38 am
Đảng ủy dự kiến khu vực địch tập trung đánh phá mạnh nhất là các binh trạm bắc đường 9 và các binh trạm tiếp giáp chiến trường Trị - Thiên, Khu 5, Tây Nguyên. Do vậy trên các khu vực này phải tăng cường tác chiến phòng không, coi trọng tác chiến mặt đất, phải tập trung xây dựng thế trận vận chuyển vững chắc trước hết là thế trận cầu đường. Khôi phục đường cũ bị mưa bão phá hoại, mở thêm đường vòng, đường tránh, làm thêm đường mới, phá dần thế độc đạo trên các trục dọc tây Trường Sơn.

Với tư tưởng chỉ đạo trên, Bộ Tư lệnh quyết định các trung đoàn, tiểu đoàn được điều sang làm đường đông Trường Sơn phải quay lại tây Trường Sơn cùng các binh trạm tập trung khôi phục và mở đường, kịp triển khai chiến dịch vận chuyến mùa khô 1968 - 1969.

Từ cuối tháng 9 đến cuối tháng 10 năm 1968, các lực lượng trên toàn tuyến đã chống chọi với thời tiết, lao động quên mình, mở thêm được 526 km đường mới, trong đó có những đường rất trọng yếu đối với chiến thuật vận tải như hệ thống đường vượt khẩu số 12A, 12B dài 92 km, đường tránh Pác Pha Năng dài 39 km. Hệ thống đường thọc sâu tiếp cận hậu cứ các chiến trường Tây Nguyên, Khu 6, Nam Bộ như: S9 đi Tân Cảnh, S9 đi Đắk Tô và Sa Thầy, dài 155km. Hệ thống đường đi xuống chiến trường Trị Thiên như: B70, B71, B72 dài 129 km. Đường tránh dốc Con Mèo 25 km. Đường vòng tránh Cha Ky - Bản Đông 27 km. Đường tránh Mường Noọng, Tà Beng 21 km. Các ngầm, cầu qua các sông được khôi phục và củng cố.

Cuối tháng 10, khi toàn bộ cầu đường vừa mới khôi phục xong thì bị cơn bão số 8 ập đến, phá hủy nghiêm trọng, Bộ Tư lệnh chỉ thị các binh trạm phải tập trung lực lượng để khắc phục, đồng thời hoàn thành nhiệm vụ chuẩn bị để đầu tháng 11 năm 1968 sẽ mở màn chiến dịch vận chuyển mùa khô. Nhưng, khi tiến gần đến thời điểm đó thì tình hình diễn biến hết sức phức tạp.

Ngày 1 tháng 11 năm 1968, Tổng thống Mỹ Giônxơn tuyên bố chấm dứt chiến tranh phá hoại miền Bắc và chấp nhận họp hội nghị bốn bên tại Pa ri - thủ đô nước Pháp để bàn về vấn đề Việt Nam

Quyết định này của Mỹ là sự thú nhận công khai về sự phá sản của chiến lược “chiến tranh cục bộ" ở Việt Nam, về sự thất bại của cuộc chiến tranh phá hoại ở miền Bắc. Mỹ mưu toan cứu vãn tình thế bằng một chiến lược mới - chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh". Để thực hiện chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" các chính khách Mỹ coi điều kiện tiên quyết cho sự thành công là phải chặn đứng bằng được sự hoạt động tiếp tế trên đường mòn Hồ Chi Minh.

Vì vậy sau khi ngừng ném bom miền Bắc, Mỹ huy động lực lượng không quân tập trung đánh phá tuyến 559, ác liệt nhất là hai trọng điểm cửa khẩu Xiêng Phan đường 128 và cửa khẩu chữ A - Ta Lê - Phu La Nhích đường 20.

Vào 4 giờ sáng ngày 4 tháng 11 năm 1968, không quân Mỹ ồ ạt mở cuộc tập kích vào hai trọng điểm trên với cường độ lớn chưa từng thấy, ngăn chặn các mũi đột kích của các binh trạm 12, 14, 31, 32, đẩy ta vào thế bị động. Việc lập chân hàng cho tuyến 559 bị tê liệt hoàn toàn.

Địch đã chọn đúng điểm xung yếu nhất của tuyến chiến lược 559 vì mọi nguồn chi viện cho miền Nam phải qua hai cửa khẩu này mới vào được phía trong. Hơn nữa, đây là hai khu vực có địa hình phức tạp, khi địch đánh tắc và khống chế mạnh thì rất khó khắc phục.

Trọng điểm Xiêng Phan nằm trên đoạn đường độc đạo, men theo sông Pha Nốp, kẹp giữa hai dãy núi đá ở phía đông tỉnh Khăm Muộn, cách biên giới Lào - Việt Nam khoảng 15 km, địa thế hiểm trở, không có vị trí đóng quân tiếp cận và khó cơ động máy húc để chống phá hoại, rất dễ bị đánh tắc.

Những năm 1967 - 1968, Xiêng Phan chưa bị địch đánh thành trọng điểm. Nhưng, dự kiến địch sẽ mở thành trọng điểm, nên khi chuẩn bị cho mùa khô 1968 - 1969, Binh trạm 31 đã mở thành hai đường ô tô bám theo dọc sông Pha Nốp đoạn từ Na Tông đến Pác Pha Năng.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 10 Tháng Năm, 2010, 10:35:50 am
Ngày 4 tháng 11 năm 1968, địch huy động máy bay chiến lược B52 và máy bay cường kích dồn dập ném bom rải thảm xuống khu vực này trên chiều dài 2 km, rộng 200m, liên tục 7 ngày đêm. Trên 1 vạn quả bom các loại trút xuống đã làm biến mất con đường, chỉ còn lại những cồn đá, những hố lớn. 50 cán bộ, chiến sĩ bị thương vong, 12 chiến sĩ trú ẩn trong hang bị đánh sập không lấy được xác, 2 khẩu pháo bị phá hủy.

Bộ Tư lệnh đã kịp thời phái ngay đồng chí Nguyễn Văn Kỷ - Tham mưu phó công binh cùng nhiều cán bộ chính trị, quân sự xuống giúp Binh trạm 31 giải tỏa trọng điểm. Bộ Tư lệnh tăng cường trung đoàn 83 công binh do đồng chí Cường làm Trung đoàn trưởng cùng 2 tiểu đoàn (25, 27) công binh của binh trạm để khắc phục đoạn Na Tông - Xiêng Phan, mở đường tránh Xiêng Phan - từ Lằng Nhằng đi Xóm Péng. Đồng thời, điều trung đoàn 84 cao xạ do đồng chí Nguyễn Văn Thành làm Trung đoàn trưởng, đồng chí Phạm Trang làm Chính ủy bố trí bảo vệ các lực lượng tác nghiệp. Yêu cầu trong vòng 15 ngày phải giải phóng được trọng điểm.

Ở hướng đường 20, địch chọn hệ thống trọng điểm liên hoàn gồm cua chữ A, ngầm Ta Lê và đèo Phu La Nhích (gọi tắt là trọng điểm ATP) làm mục tiêu triệt phá. Đây là tuyến vận tải cơ giới vượt Trường Sơn từ hậu phương vào chiến trường gần nhất. Hệ thống trọng điểm cua chữ A - ngầm Ta Lê - đèo Phu La Nhích nằm sát biên giới giữa tây nam tỉnh Quảng Bình (Việt Nam) với đông nam tỉnh Khăm Muộn (Lào), dài khoảng 7 km.

Cua chữ A là đoạn đường leo quanh sườn núi gấp khúc, một bên là vách núi cao, một bên là vực thẳm, chiều dài khoảng 3 km. Tiếp giáp đoạn cua chữ A là ngầm qua sông Ta Lê có khẩu độ rộng gần 100m, nước sâu và chảy xiết. Phía nam sông là đèo Phu La Nhích chạy men bình độ đi lên dài khoảng 2 km có độ dốc 15% lại chạy gấp khúc trở lại để trèo lên đỉnh, vượt sang tây Trường Sơn, chạy về phía Ka Tốc - Lùm Bùm giáp đường 128.

Những năm trước địch đánh trọng điểm cua chữ A và ngầm Ta Lê chưa nhiều. Vì vậy, ta cũng chỉ bố trí tại đây một đại đội pháo 37 ly, một đại đội thanh niên xung phong, một đại đội công binh.

Lần này, Mỹ sử dụng máy bay chiến lược B52 kết hợp với máy bay cường kích F 105, F4 đánh suốt ngày đêm liên tục 15 ngày. Mỗi ngày có trên dưới 30 lần/chiếc máy bay B52 và khoảng 50 lần/chiếc máy bay cường kích vừa đánh bổ nhào, vừa rải thảm theo tọa độ, trút xuống hàng mấy vạn quả bom, biến toàn bộ khu vực này như bãi "sa mạc". Đường cua chữ A biến mất để lại hàng trăm hố bom và cồn đất đỏ lòm. Hai đầu ngầm Ta Lê bị cày xới để lại hàng trăm hồ nước. Đèo Phu La Nhích bị bóc hết cây cối, hàng ngàn mét đường bị khoét sâu vào ta luy. Để không cho ta khắc phục, địch cho máy bay trinh sát và đánh cầm canh suốt đêm ngày.

Bị đánh bất ngờ, đại đội pháo của ta không kịp trở tay, mặt khác tầm cao của đạn cũng không với tới máy bay chiến lược B52 . Đại đội bị tổn thất nặng: 3 khẩu pháo bị phá hủy, 15 cán bộ, chiến sĩ bi thương vong. Đại đội 1 công binh bám trụ khôi phục mặt đường, ngay trong ngày đầu địch đánh phá, bị thương vong 31 đồng chí.

Khắc phục trọng điểm ATP trở thành nhiệm vụ cấp thiết, quan trọng bậc nhất ở hướng đường 20. Đây cũng là việc làm vô cùng khó khăn, phức tạp vì phạm vi bị phá hoại rất lớn, máy bay địch lại khống chế suốt ngày đêm.

Về tổ chức, hệ thống trọng điểm này vốn thuộc phạm vi phụ trách của Binh trạm 32 - Đoàn 559, nhưng để chia sẻ bớt khó khăn cho Đoàn 559, từ đầu tháng 11 năm 1968, Bộ quyết định Đoàn 500 quản lý từ bắc sông Ta Lê trở ra đến cua chữ A. Sự điều chỉnh rơi đúng vào thời điểm địch đánh mạnh, biến liên hoàn trọng điểm ATP ở thế bị cắt khúc, thiếu sự chỉ đạo tập trung khắc phục.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 10 Tháng Năm, 2010, 10:36:32 am
Ngày 13 tháng 11, Quân ủy Trung ương điện giao nhiệm vụ cho Đoàn 559 chỉ huy giải tỏa toàn bộ hệ thống trọng điểm liên hoàn ATP từ km 68 trở vào, đồng thời cử Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần Đinh Đức Thiện cấp tốc vào truyền đạt chủ trương trên cho Bộ Tư lệnh 500. Sau khi tiếp nhận chủ trương của Quân ủy Trung ương, ngày 14 tháng 11 năm 1968, Đảng ủy Bộ Tư lệnh 559 đã họp và quyết định:

1. Bằng mọi giá, giải tỏa cho được hai trọng điểm vượt khẩu: chậm nhất ngày 25 tháng 11 năm 1968 phải xong trọng điểm Xiêng Phan, ngày 5 tháng 12 năm 1968 phải xong trọng điểm ATP.

2. Tổ chức ngay một đợt vận chuyển đột kích quy mô nhỏ nhằm kéo bớt địch ra khỏi hai trọng điểm yết hầu trên, làm giảm bớt áp lực của chúng đối với các lực lượng đang làm nhiệm vụ giải tỏa. Đồng thời, chỉ đạo các binh trạm phía nam lợi dụng sơ hở khi địch đang bám đánh các binh trạm phía bắc, tổ chức vận chuyển nhanh chóng rút hàng tồn kho và trên 2.000 tấn hàng do bộ phận đồng chí Nguyễn Đức Phương thu mua được ở hướng C4 (tức vùng nam A Tô Pơ của Lào và bắc Tung Trọng của Campuchia), đảm bảo nhu cầu tối thiểu và cấp thiết cho Tây Nguyên và Khu 5. Đối với các binh trạm phía bắc, thu gom và tận dụng số xăng còn lại, vận chuyển nhỏ vào đường 9 rồi gùi thồ cho chiến trường Trị - Thiên.

3. Tăng cường công tác Đảng, công tác chính trị, quán triệt tình hình nhiệm vụ, xây dựng khí thế cách mạng, khắc phục tư tưởng bi quan dao động trước sự đánh phá dữ dội của địch.

4. Hoàn thiện mọi mặt chuẩn bị. Sau khi giải tỏa được hai trọng điểm, lập tức mở ngay chiến dịch vận chuyển. Thực hiện Nghị quyết của Đảng ủy, Bộ Tư lệnh cử đồng chí Nguyễn Lang - Tham mưu trưởng tác chiến vào phía nam chỉ đạo các binh trạm 36, 37, 44. Đồng chí Lê Đình Sum - Phó tư lệnh, đồng chí Ngô Thành Vân - Chủ nhiệm chính trị, đồng chí Nguyễn An Tham mưu trưởng vận chuyển, trực tiếp chỉ huy chung tại sở chỉ huy cơ bản.

Ngày 15 tháng 11 năm 1968, Tư lệnh cùng Tham mưu trưởng công binh Phạm Văn Diêu, Trưởng phòng bảo đảm giao thông Đinh Hào xuống Binh trạm 32 cùng chỉ huy Binh trạm đến trọng điểm ATP trực tiếp thị sát và quyết định tại chỗ các biện pháp giải tỏa.

Sau khi tham khảo ý kiến tại chỗ, Tư lệnh Đoàn quyết định:

- Sử dụng lực lượng thích hợp tổ chức trận địa phòng ngự, kiên cường bám trụ mặt đường. Nắm vững quy luật đánh phá của địch, tranh cướp với chúng từng thước đường. Khẩn trương khôi phục đường A từ hai đầu lại. Tích cực nghi binh kéo địch vào đường giả, tạo điều kiện cho các lực lượng khôi phục đường A.

- Khôi phục đường C rộng đủ cho đội hình xe lớn chạy, ngụy trang che phòng, không được đề địch phát hiện khi còn thi công... Tập trung lực lượng mở thêm một đường kín ở sườn dãy núi Cu Xê Bao (gọi là đường Đ), cách đường A khoảng 3 km, tạo ra một thế trận mới làm thất bại âm mưu đánh dứt điểm của địch.

- Khôi phục ngầm A, ngầm B, mở thêm ngầm C, ngầm Đ tạo thêm nhiều điểm vượt sông Ta Lê, có điểm vượt chính, điểm vượt dự bị, điểm vượt nghi binh.

- Điều hòa phối hợp lực lượng đảm bảo toàn bộ các công trình hoàn thành đúng vào một thời điểm nhằm mở toang cửa khẩu, chấm dứt triệt để sự ngăn chặn của địch ở bất cứ nơi nào trên trọng điểm. Yêu cầu giữ cho được bí mật các công trình trong vòng 20 ngày.

- Hết sức coi trọng công tác chính trị, phát động quần chúng, động viên cán bộ, đảng viên đi đầu, dấy lên thành cao trào "Mở đường mà tiến, đánh địch mà đi”.

- Lực lượng tham gia giải tỏa trọng điểm gồm: tiểu đoàn 33 công binh, 2 đội thanh niên xung phong và 3 tiểu đoàn công binh (17, 335, 336), trung đoàn 32 bộ binh, 3 máy húc, 80 tấn thuốc nổ. Về phòng không, ở phía bắc trọng điểm bố trí trung đoàn cao xạ 280 do Bộ phối thuộc; ở phía nam và trung tâm trọng điểm bố trí 2 tiểu đoàn cao xạ 18 và 42.

- Chính ủy Binh trạm 32 chỉ huy chung cùng Binh trạm phó Binh trạm 14 Trần Đình Cầu và Trưởng phòng đảm bảo giao thông Đinh Hào tổ chức giải tỏa trọng điểm. Tham mưu trưởng công binh Đoàn 559 Phạm Văn Diêu đốc chiến. Thời gian hoàn thành các công trình giải tỏa trọng điểm và thông xe chậm nhất là ngày 25 tháng 12 năm 1968.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 10 Tháng Năm, 2010, 10:37:23 am
Thực hiện quyết định trên, sau một ngày khẩn trương chuẩn bị về mọi mặt, nhất là về tư tưởng, tổ chức, kế hoạch, tất cả các lực lượng vào vị trí chiến đấu.

Ngày 17 tháng 11 năm 1968, trên 2.000 cán bộ, chiến sĩ trên trọng điểm đồng loạt ra quân. Cuộc chiến đấu diễn ra vô cùng khẩn trương, quyết liệt.

Địch tiếp tục đánh phá theo lối cầm canh. Tuy cường độ ném bom của máy bay B52 có giảm, nhưng lại tăng các phi vụ máy bay cường kích và dùng các thủ đoạn đánh phá mới rất xảo quyệt: Thả bom mìn hỗn hợp, bom phá, bom nổ chậm. bom từ trường, mìn vướng nổ... nhằm ngăn cản ta tiếp cận mặt đường và gây thương vong cho lực lượng khắc phục. Ban chỉ huy tiểu đoàn 33 công binh cấp tốc họp nghiên cứu tính năng, tác hại của từng loại bom mìn, tổ chức các phân đội chuyên trách phá từng loại, nhanh chóng mở đường cho các phân đội máy húc và các phân đội khác tiến vào tác nghiệp san lấp hố bom. Chiến thuật này đã hạn chế đáng kể thương vong và nâng cao nhịp độ khôi phục mặt đường.

Ngày 18 tháng 11 năm 1968, đại đội cao xạ thuộc tiểu đoàn 18 do đồng chí Sóc, Tiểu đoàn trưởng chỉ huy, đã đánh một trận xuất sắc hạ 2 máy bay cường kích. Ngày hôm sau, đại đội cơ động sang trận địa dự bị tiếp tục đánh trả quyết liệt buộc máy bay địch phải nâng độ cao, rải bom mìn không trúng mục tiêu, hạn chế tý lệ thương vong.

Cuộc chiến đấu giữa ta và địch diễn ra hàng ngày vô cùng quyết liệt, không ngày nào không có thương vong. Nhưng, bộ đội ta chẳng hề chùn bước, người trước ngã, người sau tiến lên. Đại đội trưởng đại đội 1 công binh Nguyễn Vũ bị bom B52 chôn vùi. Lúc đồng đội bới lên, đồng chí bị sức ép hộc máu mũi. Vừa được cấp cứu xong, đồng chí lại bám ngay đơn vị chỉ huy chiến đấu.

Tiểu đoàn trưởng Đỗ Xuân Diễn và Chính trị viên phó tiểu đoàn Cao Xuân Hùng ngày đêm xông xáo, lăn lộn cùng anh em phá bom san đường.

Trung đội trưởng máy húc Vũ Tiến Đề bám chắc địch lái chiếc máy C 100, tiến ra rút vào một cách mưu trí, dũng cảm, mỗi ngày đêm san lấp được hàng chục hố bom, giải phóng hàng trăm mét đường. Sáng kiến nổi bật của anh là giấu máy húc ngay trên trọng điểm giữa ban ngày, nghi trang rất giỏi, máy bay địch không phát hiện được.

Ở trọng điểm Xiêng Phan, cuộc chiến đấu cũng diễn ra ác liệt. Mỗi chiến sĩ là một dũng sĩ. Trung đội trưởng công binh Hoàng Hữu Thanh cùng các chiến sĩ xông pha suốt đêm ngày, nổ đá, san đường, tranh chấp với địch từng thước đường. Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 25 công binh Nguyễn Bửu Ký và Chính trị viên tiểu đoàn Nguyễn Văn Phiên bám sát mặt đường, động viên anh em rà phá bom mìn hỗn hợp.

Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 27 công binh Chu Thế Kỳ và Chính trị viên tiểu đoàn Tống Duy Sự trực tiếp động viên anh em lấp từng hố bom dưới sự đánh phá điên cuồng của địch.

Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn cao xạ Nguyễn Văn Tú chỉ huy đơn vị đánh trả địch quyết liệt khi bị chúng đánh vào trận địa, hạ được 2 máy bay. Đồng chí đã hy sinh anh dũng trên đài chỉ huy. Giữa trọng điểm đánh phá ác liệt, các chiến sĩ Trường Sơn vẫn ngẩng cao đầu coi mặt đường là trận địa. Chính ở nơi đây “nghe tiếng bom rất nhỏ". 

Trên các khu vực làm đường mới, bộ đội ta lao động khẩn trương, căng thẳng suốt đêm ngày. Vừa khảo sát vừa thi công; thi công nhảy cóc, thi công hai đầu giáp lại, cải tiến cách đánh đổ cây lớn bằng thuốc nổ... và những sáng kiến khác đã nâng cao năng suất lao động, phát huy công suất phương tiện và công cụ, làm cho tốc độ mở đường nhanh chóng đến bất ngờ. Đường tránh Cu Xê Bao ở phía bắc trọng điểm dài khoảng 20 km leo ngang sườn núi đá rất khó thi công, nhưng cứ mỗi ngày có thêm đường.

Máy bay trinh sát OV 10 của địch bay vè vè suốt ngày trên các khu vực ta tác nghiệp để dò la tình hình. Thỉnh thoảng, những chùm bom tọa độ rơi trúng đội hình, gây thương vong nhưng khí thế lao động trên công trường rất khẩn trương, sôi động.

Ngày 5 tháng 11, ta khôi phục xong trục chính và mở được một trục tránh từ bắc Xiêng Phan đến Xóm Péng dài 10 km, trọng điểm Xiêng Phan được khai thông.

Ngày 2 tháng 12, trọng điểm ATP được giải tỏa, hình thành ba trục vượt khẩu có tổng chiều dài 48 km; ba ngầm vượt sông Ta Lê được tôn bằng 2.000 m3 đá.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 10 Tháng Năm, 2010, 10:38:04 am
Trên cả hai trọng điểm, các hệ thống công sự, trạm chỉ huy giao thông, đài quan sát trận địa pháo, trận địa công binh, trạm cấp cứu phẫu thuật, mạng thông tin hữu tuyến và vô tuyến, cùng sở chỉ huy tiền phương của binh trạm được nhanh chóng triển khai đồng bộ, hoàn chỉnh.

Hàng trăm xe ứ lại ở hai đầu trọng điểm dồn dập vượt khẩu. Đây là thời điểm đánh dấu sự phá sản bước đầu âm mưu bịt cửa khẩu của đế quốc Mỹ.

Vài ngày sau, địch phát hiện trọng điểm đã được giải tỏa. Chúng phán đoán ta đã mở đường tránh nên trinh sát suốt ngày đêm. Chỗ nào ngờ vực có đường là máy bay cường kích kéo đến oanh tạc. Khoảng 15 ngày sau, những đường mới mở cũng bị chúng phát hiện và đánh phá mạnh bằng máy bay B52. Nhưng thế trận đã thay đổi, địch buộc phải phân tán lực lượng đánh cả ba trục làm cho mật độ bom trúng đường bị giảm, không cản nổi đội hình vận chuyển cơ giới của ta.

Được tin hai trọng điểm cửa khẩu được giải tỏa, nhất là cửa khẩu ATP, toàn tuyến phấn khởi bừng bừng khí thế. Tiền tuyến, hậu phương đều chia sẻ niềm vui trước thắng lợi chung. Đại tướng Bộ trưởng Bộ Quốc phòng điện biểu dương Đoàn 559.

Đánh bại hành động tập kích quy mô lớn của không quân Mỹ ở hai cửa khẩu có ý nghiã rất to lớn. Mặc dù gần 200 cán bộ, chiến sĩ bị thương vong, nhưng chứng tỏ dù địch đánh phá mạnh, âm mưu thủ đoạn xảo quyệt, phương tiện kỹ thuật tiên tiến, chúng không thể ngăn được quyết tâm sắt đá, tinh thần dũng cảm, ngoan cường, mưu trí, sáng tạo của Bộ đội Trường Sơn. Một lần nữa, Bộ đội Trường Sơn có thêm bài học sâu sắc về đánh giá địch, ta, về tổ chức chiến đấu, nghi binh lừa địch, về tổ chức thế trận cầu đường bảo vệ trọng điểm, về ý chí quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Với sự nỗ lực của các lực lượng toàn tuyến, các yếu tố chuẩn bị cho đợt Tổng công kích quy mô lớn của chiến dịch vận chuyển mùa khô 1968- 1969 cơ bản hoàn thành. Chân hàng trên hai binh trạm 31, 32 đã có gần 10.000 tấn.

Hậu quả nặng nề của cơn bão số 8 phá hủy hàng loạt đường, cầu, phà, ngầm trên các tuyến vượt khẩu đã được khắc phục. Nhiều đường vòng các trọng điểm được mở, các hệ thống hầm hào tiếp cận trọng điểm, hầm tránh bom dọc đường, các đài quan sát máy bay oanh tạc, các trạm chỉ huy giao thông, các điểm chốt kích kéo cứu xe, các điểm chốt các đội phẫu thuật cấp cứu thương binh đã được bố trí xong.

Các phân đội chuyên trách như: mở đường, bảo đảm cầu phà, trinh sát bom mìn, điều chỉnh giao thông chống phá hoại, rà phá các loại bom mìn hỗn hợp được tổ chức và đi vào hoạt động.

Trên mặt trận tác chiến phòng không, ta đã bố trí Trung đoàn 591 pháo cao xạ ở trọng điểm yết hầu Văng Mu. Phương án bố trí bảo đảm tập trung đủ mạnh, hỏa khí phân tán, hỏa lực tập trung, có tầng cao, tầng thấp, kết hợp chốt với cơ động bảo vệ đội hình xe và đón lõng tiêu diệt máy bay bay thấp. Bộ Tổng tham mưu tăng cường hai trung đoàn cao xạ 280 và 284 bảo vệ hai cửa khẩu trên đường 12 và đường 20.

Trên mặt trận tác chiến mặt đất, bố trí 5 tiểu đoàn và 12 đại đội bộ binh chiếm lĩnh các điểm cao từ xa, kết hợp với cơ động lùng sục tiêu diệt biệt kích thám báo khi chúng tiếp cận mặt đường để dò la tình hình và chỉ điểm.

Về giao liên, bố trí 10 tiểu đoàn trên tuyến đường dài gần 1.000 km, mở thêm một tuyến mới, tổ chức 67 trạm giao liên đường bộ, 17 trạm giao liên đường cơ giới cùng với các bãi trú quân, các hệ thống hầm hào và bếp Hoàng Cầm.

Về vận chuyển, bố trí 15 tiểu đoàn ô tô vận tải với 2.055 xe trên 15 cung có tổng chiều dài gần 2.000 km. Các đơn vị xe chủ lực đều có căn cứ đứng chân, bàn đạp xuất kích. Các khu kho với sức chứa từ 5.000- 10.000 tấn hàng với 20 đại đội bốc dỡ được bố trí tương ứng với số xe của từng binh trạm. Hơn 240 km đường xe ra vào các khu kho được xây dựng theo quy hoạnh đảm bảo cơ động đội hình xe lớn và giải phóng xe nhanh, hàng loạt.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 10 Tháng Năm, 2010, 10:38:44 am
Để bảo đảm chỉ huy thông suốt, sở chỉ huy cơ bản, sở chỉ huy tiền phương của Bộ Tư lệnh và các binh trạm được xây dựng trên các vị trí thuận lợi cho chỉ huy hiệp đồng binh chủng, nắm tình hình và xử lý mau lẹ các tình huống phức tạp xảy ra trên địa bàn phụ trách. Thông tin liên lạc giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong công tác chỉ huy được triển khai sớm, hình thành mạng lưới hữu tuyến, vô tuyến, tải ba, tiếp sức và các tổng trạm thông tin khu vực, tổng trạm thông tin trung tâm từ Sở chỉ huy Bộ Tư lệnh tỏa xuống tất cả các đơn vị từ cấp đại đội trở lên trên toàn tuyến, đảm bảo chỉ huy vững chắc ở mọi nơi, trong mọi tình huống.

Về hậu cần, đã tổ chức 1 bệnh viện, 14 đội điều trị, 50 đội phẫu thuật, hoàn chỉnh hệ thống cấp cứu thương binh từ tiền tuyến đến hậu cứ. Các cơ sở vật chất bảo đảm đời sống cho bộ đội chiến đấu dài ngày được chuẩn bị tương đối đầy đủ.

Về công tác chính trị tư tưởng, cơ quan chính trị các cấp đã quán triệt tình hình nhiệm vụ, xây dựng tư tưởng tiến công, phát động phong trào "Đánh thắng giặc Mỹ xâm lược" giành cờ thưởng luân lưu của Chủ tịch nước. Tờ báo Trường Sơn của cơ quan chính tri Bộ Tư lệnh Đoàn, tờ tin của các binh trạm được phát hành rộng rãi. Các đoàn văn công từ hậu phương vào, các đội văn nghệ của Đoàn và Binh trạm hoạt động sôi nổi. Đầu tháng 1 năm l969, Tư lệnh Đoàn 559 và Tư lệnh Đoàn 500 được triệu tập ra báo cáo Quân ủy Trung ương về chủ trương, biện pháp giành thắng lợi trên mặt trận vận chuyển chi viện chiến lược và nhận chỉ thị mới về nhiệm vụ mùa khô 1968- 1969.

Ngày 12 tháng 1 năm 1969, Tư lệnh Đoàn 559 từ Hà Nội về tới Sở chỉ huy cơ bản tại Na Hi phía bắc đường 9 chừng 7 km.

Ngày 13 tháng 1 năm 1969, Đảng ủy Bộ Tư lệnh triệu tập hội nghị để truyền đạt tinh thần Nghị quyết Quân ủy Trung ương và đề xuất những nội dung cần tổ chức thực hiện trong đợt "Tổng công kích". Tư tưởng chỉ đạo của Quân ủy Trung ương về tổ chức vận tải chiến lược là:

Xây dựng thế trận vững chắc, phát huy tư tưởng tiến công, kiên quyết đánh địch, kết hợp với phòng tránh và nghi binh làm thất bại mọi âm mưu thủ đoạn đánh phá của không quân Mỹ với bất cứ quy mô, cường độ nào.

Về phương thức vận chuyển trên toàn tuyến trong mùa khô, vẫn lấy vận tải cơ giới làm chủ yếu. Hết sức coi trọng khâu khai thác đường sông, phát huy tất cả các phương tiện thô sơ hỗ trợ nhau và vận dụng thích hợp với từng đoạn, từng lúc khác nhau. Phối hợp chặt chẽ giữa tuyến trước với tuyến sau, giữa tuyến hậu cần chiến lược với tuyến hậu cần chiến dịch. Tăng cường tổ chức hậu cần chiến dịch, nhất là đối với chiến trường Trị - Thiên. Chú ý cân đối việc chuyển hàng của tuyến 559 với sức hút của chiến trường. Nỗ lực hơn nữa chở hàng nhanh, kịp thời đến tay bộ đội đủ số lượng, chất lượng tốt.

Bộ Tư lệnh 559 được giao thêm nhiệm vụ tiền phương, Tổng cục Hậu cần trực tiếp chỉ đạo công tác hậu cần các chiến trường Trị - Thiên, Khu 5, Tây Nguyên, đặc biệt là Trị - Thiên. Đại tá Hoàng Văn Thái - Phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần được cử làm Phó Tư lệnh kiêm Chủ nhiệm hậu cần Quân khu Trị - Thiên, đồng thời tham gia Đảng ủy Bộ Tư lệnh 559.

Về tình hình nhiệm vụ của Đoàn 559, Đảng ủy chỉ rõ: “Địch ngừng ném bom hoàn toàn miền Bắc là thắng lợi lớn của ta, nhưng chúng chuyển lực lượng đánh phá tuyến 559, trước hết tập trung cao độ lực lượng không quân triệt phá, bịt chặt cửa khẩu chặn đứng sự chi viện miền Nam, âm mưu đó đã bị đánh bại. Nhưng quyết tâm đánh phá ngăn chặn tuyến 559 của chứng không hề thay đổi. Mùa khô 1968- 1969, cường độ đánh phá của chúng sẽ mạnh gấp nhiều lần so với mùa khô năm ngoái. Nhưng sức mạnh của địch cũng có hạn.

Cách đánh của địch có những sơ hở, lúc tăng, lúc giảm, chỗ tăng, chỗ giảm. Chúng đang bị động đối phó với ta trên một tuyến vận tải dài gần 3.000 km. Nếu ta có thế cầu đường vững chắc, nắm vững quy luật địch, vừa nghi binh lừa địch, vừa ngụy trang phòng tránh, vừa kiên quyết đánh địch với tư tưởng chủ động tiến công và tác chiến hiệp đồng binh chủng thì ta có thể thắng chúng.

Tuy nhiên, tiềm lực của địch còn lớn, cách đánh của địch nham hiểm, thường thay đổi quy luật và thủ đoạn đánh phá nên dễ gây cho ta sự lúng túng, tổn thất ban đầu. Do đó, toàn tuyến phải xác định quyết tâm thực hiện nhiệm vụ Quân ủy Trung ương giao, nỗ lực, dũng cảm, nhạy bén tạo thời cơ, chớp thời cơ, chỉ huy linh hoạt, sắc sảo, cùng tuyến hậu phương thực vượt khẩu thắng lợi, tạo chân hàng dồi dào ở các binh trạm phía bắc, tranh thủ nguồn hàng tại chỗ ở phía nam hướng C4. Kiên quyết phấn đấu đạt chỉ tiêu mà Bộ đã giao là 55.157 tấn”.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 10 Tháng Năm, 2010, 10:39:21 am
Căn cứ vào tình hình thời tiết, địch tình và sự phát triến của từng chiến trường, Đảng ủy xác định cần thực hiện phương châm vận chuyến vươn xa hơn, sâu hơn, ưu tiên những nơi xa, nơi khó và nơi có khối lượng lớn trước để giảm bớt sức ép căng thẳng cuối mùa. Cần tăng cường khả năng bảo đảm hành quân cho 9 vạn rưỡi quân vào, trong đó có các binh chủng kỹ thuật. Củng cố vững chắc những khu vực tiếp giáp hậu cứ các chiến trường.

Sau khi xem xét các yếu tố chuẩn bị cho chiến dịch vận chuyển. Bộ Tư lệnh quyết định toàn tuyến thực hiện "Tổng công kích" đợt 1 vào 17 giờ ngày 15 tháng 1 năm 1969.

Yêu cầu của "Tổng công kích" là bất cứ tình huống nào cũng phải vận chuyển vượt đường 9 mỗi tháng một vạn rưỡi tấn. Đồng thời, chớp thời cơ khi địch đang bị hút vào các trọng điểm ở phía bắc, tranh thủ vận chuyển giao cho các chiến trường 7.000 tấn/tháng, trước hết ưu tiên cho chiến trường Trị - Thiên và Liên khu 5 . Trong tổng công kích cần vận dụng, phát huy mọi phương thức vận chuyển.

Các binh trạm phía bắc sử dụng hoàn toàn phương thức vận chuyến cơ giới. Các binh trạm phía nam sử dụng phương thức vận chuyển cơ giới đường bộ, kết hợp với vận chuyển đường sông nếu có điều kiện. Các binh trạm đường ngang tiếp giáp chiến trường sử dụng phương thức vận chuyển cơ giới là chính, kết hợp với gùi thồ đi sâu vào hậu cứ chiến trường khi cần thiết. Tất cả các binh chủng phải hiệp đồng chiến đấu chặt chẽ, lấy binh chủng vận tải làm trung tâm, lấy kết quả vận tải làm mục đích.

Đảng ủy, Bộ Tư lệnh củng chỉ thị cấp chỉ huy binh trạm phải trực tiếp dẫn đầu đoàn xe, có cờ hiệu để động viên khí thế bộ đội: trực tiếp nắm tình hình cầu đường tình hình địch, ta và trực tiếp xử lý các tình huống phức tạp.

17 giờ ngày 15 tháng 1 năm 1969, toàn tuyến 559 ra quân với quyết tâm đánh thắng trận đầu. 11 binh trạm, 5 trung đoàn, 99 tiểu đoàn, 111 đại đội với 4 vạn quân trực tiếp tham gia chiến đấu trong đội hình binh chủng hợp thành. 15 tiểu đoàn ô tô xuất kích trên nhiều tuyến, nhiều hướng. Tất cả các lực lượng đều hướng về phía trước.

Địch phát hiện quy mô vận chuyển lớn của ta, lập tức đánh phá quyết liệt, nhất là các trọng điểm và ráo riết lùng sục đội hình xe. Chúng sử dụng nhiều loại máy bay trinh sát (OV 10, OV2, C 130) được trang bị khí tài đặc biệt, thường xuyên túc trực trên không để tìm kiếm mục tiêu. Đồng thời, chúng rải khắp rừng, dọc tuyến hành lang hàng vạn khí tài trinh sát điện tử, gồm các loại máy cảm ứng địa chấn. Khi bắt được mục tiêu, chúng phát tín hiệu báo cho máy bay đến đánh phá.

Mùa khô 1967- 1968, không quân Mỹ chủ yếu đánh bằng bom phá, bom phát quang, bom bi. Mùa khô này, chúng sử dụng phổ biến các loại bom nổ chậm, bom từ trường, bom bi nổ chậm, mìn vướng nổ, mìn răng rồng, mìn lá. Thủ đoạn đánh phá của chúng là phá hoại đường trước, sau đó thả bom bi nổ chậm, rồi tiếp đến thả bom từ trường, cuối cùng thả mìn vướng nổ. Mục đích là cản trở ta khắc phục đường, ngăn chặn đội hình xe và gây sát thương lớn cho ta.

Các trọng điểm bị đánh phá nhiều nhất bằng thủ đoạn và vũ khí mới là Phe Pha Năng, Xiêng Phan, Xóm Péng ở Binh trạm 31; ATP, Ca Tốc, Cốc Mạc, Văng Mu, ngầm Tha Mé ở Binh trạm 32; Bạc, Đèo Long ở Binh trạm 35; Dốc Thơm, Tam Luông ở Binh trạm 41; Dốc Trực ở Binh trạm 37; Động Con Tiên ở Binh trạm 42; Chà Vằn ở Binh trạm 44; đèo Tha Mé ở Binh trạm 33; La Hạp ở Binh trạm 34... Máy bay định còn ráo riết lùng sục, tìm đánh các căn cứ kho tàng, bãi đậu xe, trạm kỹ thuật, sở chỉ huy các đơn vị.

Từ cuối tháng 1 năm 1969 đến đầu tháng 3 năm 1969, Sở chỉ huy Bộ Tư lệnh 559 và hầu hết sở chỉ huy các binh trạm đều bị oanh tạc.
Với vũ khí và thủ đoạn đánh phá mới, đánh với cường độ cao một cánh đột biến, địch đã gây cho ta những lúng túng ban đầu và tổn thất lớn về người và phương tiện. Từ đầu tháng 11 năm 1968 đến đầu tháng 2 năm 1969, địch huy động 45.785 lần chiếc máy bay cường kích và 1.618 lần chiếc máy bay chiến lược B52 ném trên nửa triệu quả bom các loại xuống các trọng điểm, đánh hỏng 300 xe, làm thương vong 500 cán bộ, chiến sĩ.

Bộ Tư lệnh đã lệnh cho các đơn vị Pháo cao xạ chốt ở các trọng điểm chiến đấu kiên cường, tập trung hỏa lực, đánh dứt điểm, tiêu diệt các loại máy bay thả các phương tiện trinh sát điện tử và máy bay cường kích thả bom mìn hỗn hợp. Các phân đội súng máy 12,7 ly cơ động đón lõng đường bay, các phân đội súng trường leo lên đỉnh núi, kiên quyết bắn rơi máy bay địch.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 10 Tháng Năm, 2010, 10:40:19 am
Bộ Tư lệnh phát động rộng rãi phong trào bắn rơi máy bay bay thấp, tích cực đanh địch một cánh liên tục cả ngày lẫn đêm, tạo nên uy lực và hỏa lực liên hoàn tiêu diệt và uy hiếp địch. Tổ chức phòng tránh và nghi binh lừa địch, tận dựng kinh nghiệm đánh địch, tránh địch và nghi binh ở trọng điểm ATP, nhử địch vào một hướng, tuyến, nhanh chóng vu hồi, lật cánh đội hình vận chuyển sang hướng, tuyến khác để giữ vừng sức đột kích. Tăng cường đài quan sát bám sát các máy bay cường kích, nắm chính xác số lượng các đợt đánh phá, số lượng bom mìn và phương tiện trinh sát điện tử, thời gian và địa điểm rơi của chúng, kịp thời báo cáo về sở chỉ huy binh trạm và tiểu đoàn để xử lý. 

Bộ Tổng tham mưu, Tổng cục Hậu cần và Tổng cục Chính trị ngày đêm theo dõi, chỉ đạo và trực tiếp giúp đỡ Đoàn 559. Tháng 2 năm 1969, Bộ điều tiểu đoàn xe bọc thép AM có gắn súng máy 14,5 ly bổ sung cho Đoàn để cơ động đánh máy bay bay thấp.

Bộ cũng điều vào 5 xe phóng từ BTR do Viện Kỹ thuật Quân sự sáng chế. Các đồng chí Hoàng Đức Dụ, Chử Ngọc Bích, Thái Quang Sạ, Nhâm Xuân Cũng được Cục Nghiên cứu kỹ thuật Quân sự - Tổng cục Hậu cần phái vào tuyến, hướng dẫn cách sử dụng.

Bộ còn tăng cường cho Đoàn nhiều cán bộ chỉ huy chiến đấu phòng không. Đồng chí Ngô Huy Biên được điều vào làm Tham mưu phó phòng không của Đoàn. Các đồng chí Vũ Thành, Phạm Lê Hoàng, Nguyễn Văn Tiệp, Trần Bưởi, Trần Bút và nhiều cán bộ phòng không khác lần lượt được điều vào tuyến 559.

Trong khi toàn tuyến rầm rộ bước vào đợt Tổng công kích, toàn thể cán bộ, chiến sĩ được nghe lời chúc mừng năm mới của Hồ Chủ tịch gửi đồng bào cả nước. Bác kêu gọi:

Vì độc lập vì tự do ...
Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào

Lời của Bác như tiếng gọi của núi sông, làm rung động trái tim, cổ vũ khí thế cán bộ, chiến sĩ trên tuyến Trường Sơn quyết xả thân vì sự nghiệp cách mạng giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Tiểu đoàn xe 10, Tiểu đoàn xe 102, Tiểu đoàn xe 52;

Tiểu đoàn 60, Tiểu đoàn 51..., là những tiểu đoàn mạnh của các binh trạm phía bắc, đã xông pha bom đạn hết đêm này qua đêm khác. Một số đại đội tới đích trả hàng xong còn quay về để tiếp chuyển cho những xe bị đánh hỏng dọc đường như Đại đội 9, Tiểu đoàn 102, Đại đội 1, Tiểu đoàn 52. Đảng ủy Bộ Tư lệnh đã điện biểu dương tặng các đơn vị trên danh hiệu "Tuấn mã Trường Sơn".

Tháng 1 năm 1969, toàn tuyến bắn rơi 91 máy bay, trong đó có 50 chiếc rơi tại chỗ. Nhiều đơn vị phòng không được Đảng ủy Bộ Tư lệnh biểu dương là đơn vị đánh giỏi bắn trúng. Các chiến sĩ công binh với kinh nghiệm dày dạn và tinh thần quyết tử "Một tấc không đi, một ly không dời” thường xuyên bám sát mặt đường kịp thời khôi phục đường khi bị trúng bom, thực hiện khẩu hiệu "địch đánh ngày coi như không đánh, xóa bỏ tắc đêm, hạn chế tắc giờ”.

Một trong những thử thách mới trong mùa khô này là bom từ trường và mìn vướng nổ. Các tiểu đoàn công binh đều thành lập đội cảm tử để khắc phục. Lúc đầu bị thương vong, nhưng dần dần rút được kinh nghiệm, lại có xe phóng từ hỗ trợ nên phần lớn đã phá được. Nhưng có những trường hợp bị địch đánh bất ngờ vào nơi ta không có phương tiện rà phá nên lái xe phải quyết tử phóng xe vượt bom từ trường để mở đường giải phóng đội hình. Trước tình hình đó, Bộ Tư lệnh Đoàn đã chỉ thị tăng cường phương tiện rà phá, mở thêm nhiều đường tránh để hạn chế thương vong.

Đối với mìn vướng, các đơn vị đã sử dụng các phương tiện thô sơ để phá như dùng sào để chọc, hoặc dùng các liều nhỏ thuốc nổ để ném. Với mìn lá, dùng máy húc quét. Vì bị ta đánh mạnh, địch ném bừa bom mìn hỗn hợp vào rừng.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 10 Tháng Năm, 2010, 10:40:59 am
Bằng các phương tiện chiến tranh điện tử hóa và tự động hóa, địch đã tăng thêm khả năng phát hiện mục tiêu, phá hủy nhiều phương tiện và gây thương vong không ít cho ta. Sau một tháng chiến đấu liên tục, "Tổng công kích" đợt 1 kết thúc thẳng lợi. Đảng ủy Bộ Tư lệnh họp nhận định:

" Vào đầu mùa khô, địch đánh phá ác liệt chưa từng thấy, nhưng vẫn không ngăn chặn được chúng ta. Điều đó chứng tỏ sức mạnh ý chí quyết tâm sắt đá, tinh thần cực kỳ dũng cảm ngoan cường, sự mưu trí và sáng tạo của bộ đội cũng như trình độ tổ chức chỉ huy hiệp đồng binh chủng của cán bộ các cấp có những bước tiến lớn.

Sắp tới địch sẽ xảo quyệt hơn, tàn bạo hơn, cường độ đánh phá của chúng mãnh liệt hơn. Nhưng chúng ta cũng hiểu địch hơn, rút được nhiều kinh nghiệm trên nhiều mặt, lại có thế trận tương đối vững chắc, có lực lượng chiến đấu dày dạn kinh nghiệm và kiên cường, được bố trí hợp lý, nhất định chúng ta sẽ đánh bại chúng”.

Đảng ủy chỉ rõ: Vừa qua ta đã nỗ lực vượt bậc, nhưng do hoạt động của tuyến bị ngừng trệ mất 2 tháng đầu mùa khô (từ 15-10 đến 15-12) nên trong "Tổng công kích" đợt 1 ta cùng chỉ mới đưa tới các chiến trường được 30% chỉ tiêu kế hoạch, còn 70% ta phải hoàn thành bằng được trong 3 tháng mùa khô còn lại (tháng 2 - 3 - 4), đồng thời phải chủ động đối phó với mưa lũ có thể đến sớm.

Để hoàn thành được khối lượng đó, phải quán triệt hơn nữa tư tưởng tiến công, phát huy hơn nữa sức mạnh tổng hợp, thực hiện tốt chỉ huy tác chiến hiệp đồng binh chủng, vận dụng tốt các chiến thuật, xây dựng đồng bộ tư tưởng, tổ chức, kỹ thuật, hậu cần trong từng binh chủng. Đồng thời, tận dụng thời cơ các tháng cao điểm mùa khô, phát động quần chúng đột phá dứt điểm kế hoạch cho từng hướng chiến trường theo thứ tự ưu tiên đã xác định. Cần có phương án đối phó với địch mặt đất trên địa bàn các binh trạm trực tiếp phục vụ các chiến trường.

Đảng uỷ Bộ Tư lệnh quyết định phát động “tổng công kích" đợt 2 vào ngày 5 tháng 2 năm 1969, cử Phó Chủ nhiệm chính trị Bùi Đức Tạm và Nguyễn Linh Anh vào các binh trạm phía nam để truyền đạt chỉ thị và phổ biến kinh nghiệm cửa các binh trạm phía bắc.

Thực hiện tư tưởng chỉ đạo của Đảng ủy - Bộ Tư lệnh, các lực lượng trên toàn tuyến đã dốc sức chuẩn bị với quyết tâm giành thắng lợi to lớn, giòn giã trong “tổng công kích" đợt 2. Các binh trạm đều tích cực cải thiện cầu đường, bảo đảm thế vững chắc hơn.

Thế cầu đường của toàn tuyến từ một trục dọc đã phát triển thành hai trục, dài 1.850 km, ba trục ngang vượt khẩu dài 400 km, bốn trục ngang ra 4 hướng chiến trường dài 450 km. Qua các trọng điểm đều có từ 2 đến 3 đường vòng, đường tránh. Trên các cung đường tránh phụ, bộ đội công binh thường xuyên duy tu, nâng chất lượng đường, mở rộng mặt đường qua trọng điểm từ 8 - 10 m, san phẳng đường bảo đảm tốc độ xe 20 km/giờ.

Với mạng cầu đường được xây dựng thành thế trận liên hoàn, ta có khả năng hạn chế sức mạnh của địch, chia cắt, phân tán hỏa lực của chúng, tạo điều kiện cho các đơn vị khắc phục nhanh bom mìn, giữ vững sức đột kích của đội hình vận chuyển.

Lực lượng phòng không được điều chỉnh, tăng cường cho các khu vực cửa khẩu, nam bắc đường 9, ngã ba La Hạp và Bạc. Toàn tuyến phát động phong trào bắn rơi máy bay bay thấp thả máy thu phát tiếng động, tổ chức nghi binh lừa địch vào mục tiêu giả nhằm vô hiệu hóa từng bước chiến tranh điện tử và tự động hóa của địch. 

Các lực lượng tác chiến bộ binh một mặt tích cực lùng sục thám báo biệt kích, mặt khác sẵn sàng phương án cơ động nhanh tới những khu vực dự kiến địch nống ra, nhất là các khu vực trên trục đường B45, B46, B49 đi ra bốn hướng chiến trường Trị - Thiên, Khu 5, Nam Bộ, Tây Nguyên. Trong tác chiến, quán triệt tư tưởng chủ động tiêu diệt địch, làm chủ chiến trường, bắt tù binh. thu chiến lợi phẩm, giải quyết tốt chính sách thương binh liệt sĩ và tù hàng binh.

Đối với vận tải, các binh trạm quán triệt chiến thuật tiểu đoàn (hoặc đại đội) tập trung xuất kích trên một chiều thuận hoặc trên hai chiều tránh nhau ở giữa, bảo đảm đội hình đi gọn về gọn; cải tạo bàn đạp, thực hiện lấn sáng, lấn chiều; cải tiến cung độ, có cung cơ bản, có cung tiếp chuyển phù hợp với khả năng và chỗ mạnh của từng đơn vị và lái xe, nâng cao hiệu suất vận chuyển. Nhiều đơn vị tổ chức các tổ mũi nhọn, bứt phá đội hình, quay vòng khép kín 1 đêm 1 chuyến trên cung quy định 2 đêm 1 chuyến; tổ chức các tổ tháo gỡ, thu hồi phụ tùng xe bị địch đánh cháy dọc đường, tăng thêm vật tư sửa chữa, nâng cao hệ số kỹ thuật đảm bảo đầu xe, đầu máy. Tổ chức hiệp đồng bốc dỡ giải phóng xe nhanh, đảm bảo mặt hàng ra chiến trường đồng bộ, có chất lượng.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 10 Tháng Năm, 2010, 10:41:53 am
Bộ đội giao liên tích cực củng cố bãi trú quân, mở đường nhánh, nối trục hành quân bộ với trục vận tải cơ giới để tiện cho việc tiếp tế và khi cần thiết chuyển từ hành quân bộ sang hành quân bằng cơ giới, rút ngắn thời gian, bảo đảm sức khỏe bộ đội.

Các tổ dân vận đi xuống các bản tuyên truyền giáo dục về quan hệ giữa cách mạng Lào và Việt Nam, vạch trần âm mưu thủ đoạn của địch; động viên nhân  dân kêu gọi con em trong hàng ngũ địch trở về với gia đình, phát hiện và thông báo kịp thời hoạt động của bọn thám báo biệt kích, tích cực làm hầm trú ẩn, ngụy trang, đề phòng lửa khói.

Các mặt công tác tổ chức chỉ huy, tư tưởng chính trị, kỹ thuật hậu cần phối hợp chặt chẽ, bám sát nhiệm vụ, bám sát đơn vị, thúc đẩy các lực lượng hoàn thành nhiệm vụ.

Trong những tháng "Tổng công kích" đợt 2 các đại đội xe Zil 130 đã đạt năng suất gấp 1,5 lần đại đội xe 3 cầu. Thành công bước đầu trong việc sử dụng xe Zin 130 góp phần nâng cao sức chiến đấu cho các đơn vị xe, là bài học sâu sắc về tính quyết đoán, sáng tạo và thực tiễn.

Đầu tháng 3 năm 1969, được sự chỉ đạo của Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần Đinh Đức Thiện, Cục Xăng dầu đã xây dựng được tuyến đường ống dẫn xăng dầu từ Cổng Trời theo đường 12 vượt Trường Sơn vào đến tuyến 559.

Liên tục chiến đấu trong những điều kiện cực kỳ gian khổ và ác liệt, Tiểu đoàn 29 và Tiểu đoàn 968 của Quân khu 4 được tăng cường cho Cục Xăng dầu, phối hợp với Trung đoàn 83 công binh Đoàn 559 đã mở đường, khuân vác hàng trăm tấn đường ống vượt qua đồi núi, sông suối, bom đạn, lắp đặt từ hậu phương theo hướng tây từ Mụ Giạ men theo đường số 12 vòng qua trọng điểm Pha Nốp, Xiêng Phan vào tới Ka Vát trên trục đường 128 tuyến chiến lược Trường Sơn.

Lần đầu tiên trong lịch sử chiến tranh ở Việt Nam, tuyến đường ống dẫn xăng từ hậu phương lớn vượt Trường Sơn vào đến tuyến chiến lược tạo thêm một nhân tố mới cực kỳ quan trọng cho vận chuyển cơ giới quy mô lớn. Trong 1 tháng, hệ thống đường ống đã tạo chân xăng cho tuyến 559 được 6.212 tấn, góp phần bảo đảm cho việc tiếp tục đợt 2 "Tổng công kích" mùa khô 1968 - 1969, nhất là khi chân xăng ở hướng C4 bị cắt đứt do Mỹ mở cuộc tấn công sang Campuchia.

Sau khi đưa đường ống tới Ka Vát, Tổng cục Hậu cần nhận thấy hướng này đi theo đường vòng cự ly xa, không có lợi nên đã bàn và thống nhất với Đoàn 500 và Đoàn 559 mở thêm các trục vận chuyển vượt khẩu từ đường 10, theo đó sẽ phát triển đường ống sang hướng đông để tiếp cận nhanh xăng vào Đoàn 559.

Nhận rõ vị trí chiến lược của hệ thống đường ống; sau khi xin ý kiến của đồng chí Đinh Đức Thiện, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Đoàn 559 đã kiến nghị với Quân ủy Trung ương cho Đoàn 559 tổ chức lực lượng khảo sát thi công, xây dựng một tuyến đường ống xuyên suốt Trường Sơn từ cửa khẩu vào tới chiến trường xa nhất là miền Đông Nam Bộ với chiều dài khoảng 1.400 km.

Chủ trương đúng đắn và kịp thời đó đã được Quân ủy Trung ương phê duyệt, đáp ứng khát vọng cháy bỏng của bộ đội vận tải. Nhưng phải có sự quả cảm và giải pháp cụ thể mới thực hiện được, vì việc xây dựng tuyến đường ống hiện đại và quy mô, trong điều kiện vô cùng phức tạp về địa hình, thời tiết, sự đánh phá, ngăn chặn ác liệt của địch, đòi hỏi phải huy động nhân lực, vật lực khổng lồ là vấn đề rất lớn và bội phần khó khăn. Tuy nhiên, nếu thực hiện được sẽ là một bất ngờ lớn đối với địch và sẽ thêm một kỳ tích trên đường Trường Sơn.

Tuyến đường ống xuyên suốt Trường Sơn được xây dựng sẽ tạo nên sự chuyển biến về chất lượng trong hoạt động chi viện chiến lược, tăng thêm sự vững chắc của hậu cứ chiến trường ba nước Đông Dương.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 10 Tháng Năm, 2010, 10:42:30 am
Từ đầu tháng 3 năm 1969, địch thay đổi thủ đoạn, đánh phá dữ dội hai đầu gọi là "thắt cổ họng và chọc thủng đáy". Chúng đánh mạnh các binh trạm phía bắc nhằm ngăn chặn việc lập nguồn hàng dự trữ ở đường 9, đồng thời đánh phá quyết liệt các binh trạm tiếp giáp chiến trường như đường B45 thuộc Binh trạm 42 tiếp giáp chiến trường Trị - Thiên, hòng triệt nguồn tiếp tế hậu cần, phá sự chuẩn bị các cuộc tiến công của ta. Máy bay cường kích vừa ném bom rải thảm, vừa đánh bổ nhào, biến những nơi này thành các túi lửa. Đường vận chuyển bị tắc hầm hào bị phá sập, các kho tàng, các bãi để xe, sở chỉ huy binh trạm đều bị đánh phá. Cao điểm Cô Ca Va bị 6 tiểu đoàn quân Mỹ - ngụy chiếm đóng.

Cuộc chiến đấu diễn ra vô cùng ác liệt: Tiểu đoàn pháo cao xạ 36, Đại đội 4 súng máy 12,7 ly, cùng với các phân đội súng máy của công binh và các tay súng bộ binh đã chiến đấu rất anh dũng, vừa bảo vệ trọng điểm, vừa cơ động linh hoạt, bắn rơi, bắn cháy nhiều máy bay.

Tiểu đoàn 2 bộ binh, 2 đại đội (Lam Sơn và 643) bộ binh cùng Trung đoàn 4 công binh cơ động bao vây địch ở Cô Ca Va, diệt hàng trăm tên, buộc chúng phải rút chạy. Tiểu đoàn 45 và Tiểu đoàn 39 công binh được tăng cường 4 máy húc, 24 tấn thuốc nổ, kiên cường bám trụ trọng điểm, nhanh chóng khôi phục hầm hào, kết hợp sửa đường với mở đường vòng đường tránh, giải tỏa các trọng điểm. Tiểu đoàn 55 ô tô vận tải dũng cảm vượt qua bom đạn đưa hàng lên phía trước. Một số cán bộ, chiến sĩ hy sinh, nhiều xe bị cháy, nhưng không ai nao núng.

Cuộc chiến đấu cực kỳ ác liệt, giành đi, giật lại từng thước đường với địch kéo dài 15 ngày đêm. Mỹ, ngụy quyết cắt đứt sự tiếp viện cho chiến trường, ta thì bằng mọi giá quyết thực hiện kỳ được chỉ tiêu nhiệm vụ Quân ủy đã giao bảo đảm cho chiến trường Trị - Thiên 15.000 tấn để chuẩn bị những đòn tấn công mới. Với tinh thần chiến đấu dũng cảm và mưu trí, Binh trạm 42 đã làm thất bại âm mưu thủ đoạn của địch, giữ vững tuyến vận chuyển.

Cuối tháng 4 năm 1969, trời âm u, mây thấp, những cơn mưa đầu tiên báo hiệu mùa mưa đến sớm. Địch tăng cường đánh tọa độ và dùng B52 ném bom rải thảm, nhưng không ngăn chặn được vận chuyển vì ta đã có nhiều đường vòng, đường tránh Bộ đội vận tải lợi dụng mây mù che khuất tầm nhìn của địch, tranh thủ lấn sáng lấn chiều, liên tục mở các đợt vận tải đột kích vào các hướng chiến trường. Cuối tháng 5, thời tiết chuyển dần sang mùa mưa. Chiến dịch vận chuyển mùa khô 1968 - 1969 kết thúc .

Đây là một mùa vận chuyến vô vàn khó khăn ác liệt, đầy thử thách ngặt nghèo. Cả ta và địch đều huy động rất cao trí tuệ và sức mạnh vật chất nhằm giành phần thắng quyết định. Mỹ đã huy động tối đa lực lượng không quân ở Thái Bình Dương, thực hiện 47.820 phi vụ với 137.345 lần chiếc máy bay oanh tạc, đánh phá cầu đường và đội hình xe. Cường độ đánh phá tăng gấp ba lần mùa khô 1967 - 1968, trong đó có 3.853 lần chiếc B52 (tăng gấp 5 lần).

Chúng đã ném 1.579.760 tấn bom các loại, trong đó có 18.628 tấn bom từ trường và hàng ngàn tấn mìn vướng nổ, rốc két... Chúng đã thâm nhập 182 vụ, chủ yếu là dùng thám báo, biệt kích đổ bộ bằng trực thăng, trong đó có 5 trận đổ bộ quy mô trung đoàn, tiểu đoàn vào địa bàn các binh trạm tiếp giáp chiến trường, với ý đồ ngăn chặn vận chuyền của ta, phá sự chuẩn bị tấn công của các chiến trường. Nhưng chúng đã vấp phải sự giáng trả kiên quyết.

Trong 6 tháng mùa khô, toàn tuyến bắn rơi 380 máy bay các loại, trong đó có 168 chiếc rơi tại chỗ..., đã nghi binh lừa địch đánh vào hàng trăm mục tiêu giả với trên một vạn quả bom, đã diệt 2.097 tên lính bộ binh, làm bị thương 216 tên, bắt 24 tên, bắn rơi 47 trực thăng, thu nhiều vũ khí, đạn.

Bộ đội công binh, thanh niên xung phong đã san lấp trên 1 vạn hố bom, khôi phục mở rộng mặt đường với khối lượng trên 2 triệu mét khối đất đá; mở trên 1.000 km đường dọc, đường ngang, đường vòng, đường tránh, nâng tổng cây số chiều dài các đường vận chuyển lên gần 3.000 km, phá dần thế độc đạo; bộ đội vận tải đã giao cho các chiến trường Nam Bộ, Tây Nguyên đạt 103% kế hoạch, đưa 348 đoàn quân (gồm 98.242 người). Đã giúp bạn củng cố địa bàn ở 11 huyện, kiện toàn các huyện đội phát triển thêm 4.000 quân bộ đội địa phương và dân quân du kích. 

Các lực lượng trên tuyến đã phối hợp với bạn đánh 11 trận, tiêu diệt 110 tên, bắt 68 tên. Bộ đội địa phương và dân quân miền Đông tỉnh A Tô Pơ bắn rơi 11 trực thăng bằng súng máy và súng bộ binh, góp phần củng cố an toàn hành lang và bản làng. Nhân dân huyện ăng Khăm, Bu La Pha, Mường Noọng, Sê Pôn di chuyển bản làng xa tuyến đường mới, tổ chức đào hầm hố phòng tránh, ổn định cuộc sống. Tình đoàn kết chiến đấu đặc biệt giữa quân và dân hai nước Việt - Lào trên địa bàn Trường Sơn ngày càng thắm thiết.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 10 Tháng Năm, 2010, 10:43:06 am
Trong cuộc chiến đấu chống chiến tranh ngăn chặn vì sự nghiệp chi viện giải phóng miền Nam mùa khô 1968 - 1969, Đoàn 559 tổn thất gấp 3 lần năm trước: 1.518 cán bộ, chiến sĩ hy sinh, 3.414 người bị thương, 1.154 ô tô của bộ đội vận tải, 268 ô tô của binh chủng khác, 30 xe húc, 21 xe ben, 5 xe phóng từ, 16 máy đẩy, 56 khẩu pháo bị đánh cháy, đánh hỏng, đâm đổ, tổn thất 7.139 tấn hàng.

Quán triệt tư tưởng chỉ đạo của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, Đảng ủy Bộ Tư lệnh 559 xác định nhiệm vụ chi viện chiến lược mùa khô năm 1969 - 1970 rất lớn, cần phải chuẩn bị cơ bản về mọi mặt: thế trận vận chuyển, tổ chức lực lượng, trang bị vật chất kỹ thuật, chính trị tư tưởng và sức khỏe bộ đội, tạo ra sự sung sức đáp ứng yêu cầu trước mắt và lâu dài, vượt qua mọi khó khăn ác liệt, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chi viện chiến lược.

Do lực lượng bị hao hụt nghiêm trọng cả về quân số và phương tiện sau nhiều mùa mưa nắng, chiến đấu liên tục, ngày 20 tháng 5 năm 1969, Đảng ủy Bộ Tư lệnh họp, chủ trương:

Mùa mưa 1969 chỉ để lại trên tuyến khoảng 2 vạn quân, chủ yếu là các cán bộ, chiến sĩ còn có sức khỏe của các binh trạm từ nam đường 9 trở vào nhằm tiếp tục vận chuyển bổ sung khối lượng còn thiếu cho chiến trường Trị - Thiên và Quân khu 5; đưa đón và chuyển thương binh ra hậu phương; quản lý và bảo vệ hành lang, khôi phục và làm thêm đường vòng, đường tránh, đường kín, chuẩn bị tại chỗ một bước cho mùa khô 1969 - 1970.

Phần lớn lực lượng khoảng 3 vạn quân sẽ được rút ra miền Bắc để củng cố tổ chức, điều dưỡng phục hồi sức khỏe, bổ sung quân số, trang thiết bị, học tập chính trị và tập huấn quân sự, chiến thuật, kỹ thuật. Lực lượng tập kết chủ yếu là bộ đội vận tải cơ giới. khoảng hai phần ba lực lượng các binh chủng khác, hai phần ba cơ quan Bộ Tư lệnh, các binh trạm, trung đoàn, tiểu đoàn cùng toàn bộ thương binh, bệnh binh, trên 1.000 phương tiện xe, pháo bị hư hỏng.

Chủ trương được Thường trực Quân ủy Trung ương Bộ Quốc phòng phê duyệt. .

Ngày 25 tháng 5 năm 1969, Bộ Tư lệnh 559 phân công cán bộ xuống từng khu vực để quán triệt nhiệm vụ và trực tiếp chỉ huy đôn đốc các đơn vị thực hiện. Tư lệnh và Chính ủy xuống các binh trạm cửa khẩu để chỉ đạo các phó tư lệnh, phó chính ủy, các thủ trưởng cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần xuống các binh trạm nam đường 9. Vấn đề số một của việc thực hiện chủ trương này là phải tuyệt đối giữ bí mật, bất ngờ, chủ động và an toàn.

Bước sang tháng 6, thời tiết chuyển hẳn sang mùa mưa. Trên toàn tuyến, máy bay địch giảm cường độ đánh phá. Địch không nắm được việc ta chuẩn bị rút quân tập kết nên vẫn hoạt động theo quy luật cũ, bỏ lỏng phía bắc đường 9, tập trung đánh phá các binh trạm phía nam, đặc biệt là các binh trạm tiếp giáp các chiến trường Trị - Thiên, Khu 5, Tây Nguyên: Bộ đội ở lại tuyến bước vào cuộc chiến đấu mới chống địch, chống trời vô cùng ác liệt và gian khổ. 

Với sức mạnh tổng hợp trên toàn tuyến, trong thời gian 2 tháng, ta đã giao cho các chiến trường được 2.364 tấn (100% kế hoạch), giao cho hành quân được 4.197 tấn (135% kế hoạch), giao cho nội bộ được 805 tấn (80% kế hoạch). Ngoài ra còn giao ngoài kế hoạch cho miền Đông Nam Bộ 20 tấn vũ khí. 

Lực lượng giao liên đưa quân vào giao cho chiến trường 9.313 người, chuyển quân ra hậu phương được 48.920 người, trong đó có 6.354 thương binh, 11.028 1 bệnh binh (713 thương binh nặng phải cáng). 

Trung tuần tháng 8 là cao điểm của mùa mưa, mưa xối xả suốt ngày này qua ngày khác. Hàng tháng trời mới có một vài ngày hửng nắng. Đường, cầu bị phá vỡ nghiêm trọng, nước các sông suối dâng cao và chảy mạnh như thác đổ. Cầu, ngầm đều bị trôi hết. Vận chuyển cơ giới đường bộ, đường sông, gùi thồ đều không hoạt động được. Bộ đội hành quân phải nằm lại ở các trạm giao liên. Kế hoạch vận chuyển mùa mưa kết thúc. Ta giành được thắng lợi nhưng cũng bị tổn thất đáng kể.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 10 Tháng Năm, 2010, 10:43:48 am
Đảng ủy Bộ Tư lệnh đánh giá: Các lực lượng ở lại tuyến trong mùa mưa đã hoàn thành chỉ tiêu đề ra, đảm bảo yêu cầu tối thiểu về vũ khí và lương thực bổ sung cho chiến trường, đưa đón và bảo đảm vật chất cho số lượng lớn quân vào, quân ra, đặc biệt là thương bệnh binh, tạo điều kiện nâng cao sức chiến đấu cho các chiến trường. Mở thêm được nhiều đường vòng tránh.

Trong điều kiện có nhiều khó khăn, lực lượng phương tiện đều giảm, khối lượng nhiệm vụ đã thực hiện được trong mùa mưa là thành tích rất lớn, thể hiện nỗ lực phi thường, tinh thần chịu đựng gian khổ sẵn sàng hy sinh của cán bộ, chiến sĩ các lực lượng. Sau khi kết thúc nhiệm vụ vận chuyển mùa mưa, Đảng ủy Bộ Tư lệnh đã chỉ thị các lực lượng trong tuyến cần khẩn trương củng cố về mọi mặt, theo dòi rất chặt chẽ thời tiết, chủ động chuẩn bị cơ sở hạ tầng cho mùa khô tới.

Trong khi bộ đội ở lại tuyến bắt tay vào nhiệm vụ vận chuyển mùa mưa, trên 3 vạn quân với hàng ngàn phương tiện cơ giới nhanh chóng rút ra hậu phương miền Bắc.

Đội hình đi bộ rút theo các đường giao liên. Đến trung tuần tháng 6, đơn vị cuối cùng đã ra khỏi cửa rừng và được các binh trạm 14, 12 đưa về các khu tập kết ở các tỉnh Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa.

Đội hình cơ giới rút theo đường 12 và đường 20. Sau 5 ngày, đơn vị cuối cùng đã vượt qua cửa khẩu, 2 ngày sau tập kết về các địa phương thuộc tỉnh Thanh Hóa.

Đi đến đâu, Bộ đội 559 cũng được chính quyền, các đoàn thể và nhân dân   địa phương nồng nhiệt đón tiếp. Địa phương nào cũng muốn bộ đội về, nhà nào cũng muốn bộ đội ở. Giường chiếu mới nhất, sạch nhất đều dành cho bộ đội. Tình quân dân cả nước đã nâng tâm hồn, nghị lực và ý chí chiến đấu của những người lính chuẩn bị trở về chiến trường nóng bỏng.

Ngày 20 tháng 6 năm 1969, cuộc rút quân tập kết quy mô lớn kết thúc tốt đẹp thể hiện trình độ tổ chức chỉ huy, ý thức tổ chức kỷ luật và khả năng cơ động cao của Bộ đội Trường Sơn.

Được sự nhất trí của Bộ Tổng tham mưu, Sở chỉ huy của Bộ Tư lệnh đóng ở thị xã Sầm Sơn, một thị xã bãi biển đã bị bom đạn Mỹ tàn phá nặng nề, chỉ còn sót lại vài ba ngôi nhà nhiều tầng hư hỏng, có thể ở tạm.

Ngày 22 tháng 6 năm 1969, Đảng ủy Bộ Tư lệnh họp, chỉ ra những nhiệm vụ cần xúc tiến trong giai đoạn chuẩn bị nhiệm vụ mùa khô 1969 - 1970:

1. Gấp rút triển khai thực hiện chỉ thị của Quân ủy Trung ương về hoàn thiện đường 18 đoạn giáp km 42 đường 10 kéo xuống Chà Lì đường 16, dài khoảng 72 km, đến Bản Cọ do Bộ Tư lệnh 500 đã mở từ đầu năm; tiếp tục mở thông xuống Sê Pôn nhằm tạo thêm một tuyến mới, một hướng vượt khẩu mới từ đông Trường Sơn, chậm nhất đến tháng 12 năm 1969 phải thông tuyến, thông xe. Tiếp tục làm đường ống dẫn xang dầu theo đường 18 vào đường 9.

2. Mở cửa khẩu đường 16 qua Ho, Vít Thù Lù đến Chà Lì, dài khoảng 86 km. Từ đó xuống Bản Đông, Quân ủy Trung ương chủ trương xây dựng hai đường này nhằm tạo một tuyến mới ở hướng đông Trường Sơn, khi được sử dụng sẽ tạo thêm một cửa khẩu mới và rút ngắn cung độ xuống đường 9 và Trị - Thiên... (chỉ bằng một phần ba so với hướng vượt khẩu đường 12). Khai thác sông Sê Băng Hiếng, chuẩn bị vận chuyển đường sông từ Chà Lì đến Bản Cọ.

3. Khi mùa mưa sắp kết thúc, các lực lượng tại chỗ tranh thủ khôi phục toàn bộ cầu đường, ưu tiên khôi phục các tuyến vượt khẩu, mở thêm đường vòng, đường tránh trên những đoạn xung yếu còn độc đạo.

4. Khẩn trương giao các phương tiện hư hỏng vào xưởng, tiếp nhận các trang thiết bị xe, máy, các phương tiện kỹ thuật..., đảm bảo cho mùa khô 1969 - 1970.

5. Nhanh chóng điều dưỡng khôi phục sức khỏe bộ đội, đưa tỷ lệ chiến đấu lên 98%.

6. Tổ chức sinh hoạt chính trị, quán triệt nghị quyết của Trung ương và Quân ủy Trung ương về tình hình và nhiệm vụ cách mạng. Tập huấn về quân sự, huấn luyện kỹ thuật cho mọi đối tượng trong tuyến cũng như ở các khu vực tập kết. Phấn đấu kết thúc về cơ bản những nhiệm vụ trên vào đầu tháng 10 năm 1969 để có thể tố chức nhập tuyến vào ngày 15 tháng 10 năm 1969 và dàn đội hình chiến dịch, chiếm lĩnh trận địa trên toàn tuyến vào đầu tháng 11 năm 1969.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 11 Tháng Năm, 2010, 06:09:57 pm
Ngày 15 tháng 7 năm 1969, Đảng ủy Bộ Tư lệnh đã họp kiểm điểm thực hiện nhiệm vụ. Hội nghị đã đánh giá: Mùa khô 1968 - 1969 là mùa khô cực kỳ khó khăn. Song nhờ có đường lối, chủ trương đúng đắn của Quân ủy Trung ương, sự chỉ đạo của Tổng cục Hậu cần, sự chi viện to lớn của hậu phương về vật chất và tinh thần, sự giúp đỡ của các cơ quan Bộ, các quân binh chủng, sự nỗ lực phối hợp của tuyến vận chuyển Đoàn 500, nhất là nhờ có quyết tâm và nỗ lực phi thường của toàn thể cán bộ, chiến sĩ trên tuyến, chúng ta đã giành được thắng lợi to lớn:

Nếu so với nhiệm vụ Quân ủy Trung ương giao, đạt được mức cơ bản của kế hoạch so với mùa khô 1967 - 1968 không cao hơn, cũng không thấp hơn. Nhưng, thắng lợi của ta ở chỗ: địch tập trung đánh dứt điểm bằng những thủ đoạn mới, vũ khí mới rất tàn khốc, ta vẫn giữ được hành lang, giữ được chi viện người và vật chất cho chiến trường đế củng cố, giữ vững khối chủ lực, phát triển thế tiến công. Với ý nghĩa đó kết quả đạt được có giá trị gấp bội, nói lên thắng lợi mùa khô 1968-1969 là to lớn và toàn diện.

Thắng lợi đó, trước hết là thắng lợi của quan điểm tư tưởng tiến công, chủ động và liên tục tiến công của Đảng ta, là thắng lợi của ý chí kiên định, kiên cường không khuất phục địch, dũng cảm, mưu trí, sáng tạo của cán bộ, chiến sĩ toàn Đoàn; đồng thời khẳng định, dù chiến tranh ngăn chặn ác liệt đến mức nào, chúng ta vẫn thực hiện được vận chuyển lớn, kết hợp được các phương thức vận chuyển, lấy vận chuyển cơ giới làm chủ yếu, vẫn phát huy được sức mạnh của các lực lượng thực hiện đột kích, tổng công kích liên tục, thực sự góp phần tăng cường sức chiến đấu của chiến trường, tạo điều kiện đánh lớn, đánh liên tục.

Thắng lợi mùa khô 1968 - 1969 đã góp phần củng cố lòng tin giữa tiền tuyến với hậu phương, giữa tuyến trước với tuyến sau, giữa cấp trên và cấp dưới, giữa cán bộ và chiến sĩ. Đó là nhân tố mới, sức mạnh tổng hợp mới để giành thắng lợi to lớn hơn nữa.

Ngày 31 tháng 7 năm 1969, Bộ Tư lệnh tổ chức Hội nghị quân chính toàn Đoàn tại Sầm Sơn với sự tham gia của trên 200 đại biểu nhằm tổng kết việc thực hiện nhiệm vụ mùa khô 1968 - 1969. Hội nghị đã kiểm điểm ưu khuyết điểm, rút ra những bài học trong thực tiễn chiến đấu; đồng thời phân tích kỹ, đánh giá về địch, ta, về thời tiết, đề ra phương án xây dựng thế trận củng cố tổ chức, đáp ứng nhiệm vụ mùa khô tới.

Một trong những nội dung chủ yếu của Hội nghị là học tập, quán triệt Nghị quyết của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng về đánh giá nhận định tình hình chiến trường miền Nam và chiến tranh phá hoại miền Bắc từ sau Tết Mậu Thân, âm mưu chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" của đế quốc Mỹ; nhiệm vụ của quân và dân hai miền Nam - Bắc trong việc phát triển chiến lược tiến công, chuyển hóa tương quan lực lượng trên chiến trường, tạo thời cơ và sử dụng thời cơ đánh bại âm mưu của Mỹ muốn kết thúc chiến tranh trên thế mạnh tiến lên giành thắng lợi quyết định.

Trên cơ sở quán triệt những nội dung trên, xây dựng cho bộ đội có lập trường kiên định, quyết tâm chiến đấu lâu dài, tranh thủ thời cơ giành thắng lợi trong thời gian tương đối ngắn.

Hội nghị vinh dự được đón Đại tướng Bộ trưởng Quốc phòng Võ Nguyên Giáp đến dự. Các đồng chí Đinh Đức Thiện - Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần, Nguyễn Đôn - Phó Tổng tham mưu trưởng, Phạm Ngọc Mậu - Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, Nguyễn Tường Lân - Thứ trưởng Bộ Giao thông Vận tải, đại diện các tổng cục, các quân binh chủng, đại diện các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình và đặc khu Vĩnh Linh đã tới dự. Nhiều nhà văn, nhà báo, phóng viên, quay phim quân đội, phóng viên Đài Tiếng nói Việt Nam... được mời dự.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 11 Tháng Năm, 2010, 06:10:42 pm
Đánh giá thắng lợi của Đoàn 559 trong mùa khô 1968 - 1969, Đại tưởng Võ Nguyên Giáp nhấn mạnh: "Một điều hết sức quan trọng là cuộc chiến đấu anh dũng và sáng tạo của Đoàn 559 đã xác minh một sự thật là trong điều kiện địch đánh phá đường giao thông ác liệt, ta vẫn có thể thực hiện được đều đặn, ngày càng cao việc tiếp tế vận tải cho tiền tuyến, vượt qua được những cố gắng điên cuồng của kẻ địch có nhiều phương tiện phá hoại hiện đại. Đó là thắng lợi rất lớn, mặc dù vừa qua kế hoạch vận chuyển chưa đạt được vêu cầu".

Đại tướng nhiệt liệt biểu dương cán bộ, chiến sĩ Đoàn 559 và căn dặn cần khắc phục thiếu sót, quán triệt hơn nữa tình hình, nhiệm vụ, nâng cao chủ nghiã anh hùng cách mạng, dũng cảm, mưu trí, sáng tạo, đánh bại sự ngăn chặn ác liệt của địch, thực hiện xuất sắc nhiệm vụ chi viện chiến lược mùa khô 1969 - 1970, đảm bảo đầy đủ cho chiến trường đánh to thắng lớn.

Đại tướng thông báo tình hình sức khỏe của Bác Hồ và chuyển lời thăm hỏi của Bác cùng lẵng hoa Bác gửi tặng cán bộ, chiến sĩ Đoàn 559. Cả hội trường vô cùng xúc động trước sự quan tâm của Bác Hồ đối với cuộc chiến đấu của Đoàn 559 và hứa quyết đem hết sức lực và xương máu thực hiện bằng được ước vọng của Người: “Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”.

Hội nghị vô cùng phấn khởi được nghe Chủ nhiệm chính trị Ngô Thành Vân đọc Sắc lệnh của Chủ tịch nước tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho 4 đơn vị và 9 cá nhân của Đoàn 559.

Sự động viên của Bác Hồ, của Đại tướng Tổng tư lệnh, của các đồng chí lãnh đạo Bộ, các tổng cục, đại biểu các địa phương tỉnh, huyện đã gieo vào mỗi người niềm phấn khởi, tin tưởng, quyết tâm chiến đấu vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Đánh giá đúng âm mưu mới của đế quốc Mỹ, tháng 4 năm 1969, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra nghị quyết động viên nỗ lực của quân và dân hai miền Nam Bắc, phát triển chiến lược tiến công, đánh bại chủ trương "Việt Nam hóa chiến tranh" và âm mưu kết thúc chiến tranh trên thế mạnh của địch, đánh cho Mỹ phải rút quân, ngụy phải suy sụp, tiến lên giành thắng lợi quyết định.

Nhân dân miền Bắc phải làm tốt nhiệm vụ chi viện miền Nam, đồng thời sẵn sàng chiến đấu, đập tan âm mưu địch gây lại chiến tranh phá hoại, dùng bộ binh tập kích hoặc tiến công ra phía nam Quân khu 4.

Thực hiện nghị quyết của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương đã ra chỉ thị về kiện toàn tổ chức, nâng cao chất lượng và điều chỉnh số lượng bộ đội thường trực một cách thích hợp, bảo đảm cho các đơn vị làm tốt nhiệm vụ chiến đấu ở miền Nam, bảo vệ miền Bắc, giúp cách mạng Lào và phát triển lực lượng khi cần thiết. Theo tinh thần đó, Quân ủy Trung ương thông qua đề án do Bộ Tổng tham mưu đệ trình, giải thể một số lực lượng, giảm quân số gián tiếp của cơ quan, đơn vị hậu phương tăng cường cho Đoàn 559 và các chiến trường khác.

Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng chỉ đạo Đoàn 559 phải tranh thủ thời gian xây dựng lực lượng về mọi mặt để đủ khả năng thực hiện nhiệm vụ chi viện miền Nam với khối lượng lớn.

Thực hiện nghị quyết của Bộ Chính trì và Quân ủy Trung ương, Đảng ủy Bộ Tư lệnh 559 xác định nhiệm vụ mùa khô 1969- 1970 hết sức nặng nề và khó khăn, đòi hỏi phải có lực lượng mạnh, thế trận vững và trình độ cao về chiến đấu hiệp đồng binh chủng quy mô lớn.

Ngay sau Hội nghị quân chính tháng 7 năm 1969, Đảng ủy - Bộ Tư lệnh tập trung chỉ đạo, đôn đốc các lực lượng tích cực chuẩn bị, coi việc "hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ chuẩn bị là một nửa thắng lợi trong chiến đấu”.

Sau gần 2 tháng nỗ lực vượt bậc của cán bộ, chiến sĩ hậu cần các cấp, sức khỏe bộ đội đã được khôi phục, tỷ lệ quân số chiến đấu đạt 90%.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 11 Tháng Năm, 2010, 06:11:34 pm
Cơ quan chính trị Đoàn 559 và các binh trạm, trung đoàn mở liên tiếp các đợt học tập cho cán bộ, chiến sĩ nhằm quán triệt tình hình nhiệm vụ, xây dựng quyết tâm mới .

Cơ quan Tham mưu Đoàn và các binh trạm đã tranh thủ thời gian, giải quyết một khối lượng rất lớn công việc như phân loại và điều xe vào các xưởng, nhận xe bổ sung, xin phụ từng, nhiên liệu, hàng hóa, tiếp nhận quân bổ sung...

Các cục thuộc Bộ Tổng tham mưu, Tổng cục Hậu cần ra sức hoạt động, đôn đốc việc đáp ứng nhu cầu của Đoàn 559. Chỉ sau hai tháng, Đoàn đã nhận được 1.720 xe ô tô cho lực lượng vận tải, 1.181 xe ô tô các loại cho các binh chủng khác, 154 máy các loại, trong đó có 60 máy húc, 54 xe và thuyền phóng từ, 40 máy đẩy, toàn bộ thiết bị cho 15 xưởng tiểu tu và những thiết bị bổ sưng cho xưởng đại tu Q300, trên 1.000.000 m dây trần thông tin tải ba và dây bọc, 100 máy thông tin vô tuyến sóng ngắn và bộ đàm, 1.000 máy điện thoại; 75 khẩu pháo 37 ly, 1 đại đội AM gắn súng máy 14,5 ly.

Đồng thời, nhận trên 2.000 lái xe và thợ sửa chữa, 1.500 y tá và dược tá, hàng trăm kỹ sư, bác sĩ. Quân số toàn Đoàn lên đến 55.588 người. Số cán bộ, nhân viên chuyên môn kỹ thuật khá lớn: 7.000 lái xe, 1.000 thợ sửa chữa, 50 kỹ sư, trên 1.000 y - bác sĩ, trên 1.000 dược sĩ trung cao cấp, trên 3.000 dược tá, y tá và hàng nghìn cán bộ chỉ huy kỹ thuật của các binh chủng.

Sau khi xem xét, Quân ủy Trung ương phê duyệt kiến nghị của Đoàn 559 thành lập ba cơ quan tham mưu chuyên ngành: tham mưu tác chiến, tham mưu vận chuyển, tham mưu công binh và một văn phòng tương đương cấp cục. Ở cấp binh trạm cũng tổ chức ba ban tham mưu: tác chiến, vận chuyển, công binh. Việc tổ chức cơ quan tham mưu chuyên ngành là nét đặc trưng của Binh đoàn vận tái chiến lược, đưa công tác chỉ huy lên trình độ mới, chuyên sâu, toàn diện, hiệp đồng trực tiếp liên tục, thể hiện sự sáng tạo nắm bắt đúng tình hình thực tiễn trong chiến tranh.

Do địch đã ngừng đánh phá miền Bắc, Quân ủy Trung ương quyết định giải thể Bộ Tư lệnh 500, sáp nhập các binh trạm cửa khẩu 12, 14, 9, 27 vào Đoàn 559. Địa bàn chiến đấu của Đoàn kéo ra đến Quảng Bình trên chính diện 150 km từ đèo Mụ Giạ (đường 12), qua Phong Nha (đường 20), đến ngã ba Áng Sơn (đường 15) nơi xuất phát đường 10, xuống đến Thạch Bàn nơi xuất phát đường 16.

Với quyết định này, việc chỉ đạo, chỉ huy vận chuyển chiến lược qua các tuyến cửa khẩu được thống nhất, tạo điều kiện thuận lợi cho cả phía trước và phía sau. Để tăng cường lãnh đạo, chỉ huy các lực lượng trên tuyến, Chính phủ bổ nhiệm nhiều cán bộ lên cương vị mới. Các đồng chí Ngô Thành Vân, Lê Xy giữ chức Phó Chính ủy Bộ Tư lệnh. Nguyễn Lang, Nguyễn An giữ chức Phó Tư lệnh. Nguyễn Chúc, Dương Thế Thọ giữ chức Tham mưu phó vận tải. Nguyễn Văn Kỷ giữ chức Tham mưu phó công binh. Nguyễn Danh giữ chức Chính ủy hậu cần. Hồ Quang Trung giữ chức Phó Chủ nhiệm hậu cần. Nguyễn Tôn Xương, Nguyễn Linh Anh, Nguyễn Cao Tâm giữ chức Phó Chủ nhiệm chính trị.

Quân ủy Trung ương cũng điều động, tăng cường nhiều cán bộ trung cao cấp cho các cơ quan đơn vị và các binh chủng.

Ngày 3 tháng 9 năm 1969, khi cán bộ, chiến sĩ toàn Đoàn đang nỗ lực phấn đấu hoàn thành các mặt chuẩn bị trước khi bước vào mùa vận chuyển mới thì đau đớn được tin Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, người Cha thân yêu của các lực lương vũ trang nhân dân qua đời.

Cán bộ, chiến sĩ Đoàn 559 chiến đấu trên tuyến đường mang tên Bác trải qua chặng đường 10 năm xây dựng, chiến đấu vượt qua muôn vàn gian khổ, hy sinh, chỉ mong đến ngày đất nước thống nhất, được đón Bác vào thăm nay vô cùng đau thương với tin Bác đã ra đi.

Cán bộ, chiến sĩ các đơn vị trong toàn Đoàn đều để tang Bác. Một đoàn đại biểu do Tư lệnh và Chính ủy dẫn đầu gồm các Phó Tư lệnh, Phó Chính ủy Bộ Tư lệnh, các thủ trưởng các cục, các thủ trưởng binh trạm, trung đoàn đã ra Hà Nội viếng Bác.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 11 Tháng Năm, 2010, 06:12:09 pm
Ngày 9 tháng 9, lễ truy điệu Người được tổ chức tại Quảng trường Ba Đình lịch sử Toàn thể cán bộ, chiến sĩ Đoàn 559 hướng về Thủ đô Hà Nội lắng nghe Di chúc của Người: “Cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn... Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà...". Lời của Bác như tiếng kèn giục giã quân dân xông ra tiền tuyến. Cán bộ, chiến sĩ Trường Sơn quyết biến đau thương thành sức mạnh, tiến lên phía trước thực hiện Di chúc thiêng liêng của Người.

Sau lễ tang Bác, Đại tướng Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Võ Nguyên Giáp, Thượng tướng Tống Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng và Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần Đinh Đức Thiện đã làm việc với Tư lệnh và Chính ủy Đoàn. Đại tướng phân tích âm mưu mới của đế quốc Mỹ ở miền Nam, xác định nhiệm vụ chi viện chiến lược mùa khô 1969- 1970 phải lớn hơn, kịp thời hơn, tạo điều kiện cho các chiến trường đánh bại một bước chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" của đế quốc Mỹ, sẵn sàng chủ động đón nhận kế hoạch bổ sung khi có tình huống mới.

Phân tích âm mưu thủ đoạn của địch đốt với tuyến chi viện chiến lược, Đại tướng chỉ thị cầu đường phải đi trước một bước. Khẩn trương thông đường 18, đường 16. Bỏ hướng vu hồi đường 8. Phát triển đường phía đông Trường Sơn đến Quảng Đà khi có điều kiện. Nghiên cứu quy hoạch lâu dài tuyến hành lang chiến lược nối liền Nam Bắc trên cơ sở con đường hiện nay, điều chỉnh cho phù hợp với thời bình, thời chiến, thuận lợi về kinh tế, bảo đảm về quân sự. Nghiên cứu những địa điểm cần thiết và có điều kiện xây dựng các nông trường, công trường, lâm trường.

Tăng cường tác chiến phòng không và tác chiến mặt đất, bảo vệ vừng chắc tuyến hành lang. Đẩy mạnh xây dựng tuyến đường ổng vươn sâu vào đường 9, vào Tây Nguyên, Đông Nam Bộ. Việc tổ chức nhập tuyến phải được coi như một chiến dịch vận động tác chiến lớn, cần hết sức thận trọng, bí mật, bất ngờ, an toàn và thắng lợi.

Ngày 17 tháng 9 năm 1969, Đảng ủy - Bộ Tư lệnh thông qua phương án sắp xếp lực lượng, bố trí đột hình trên toàn tuyến. Tư tưởng chỉ đạo của phương án này là giữ nguyên giới tuyến các binh trạm. Không xáo trộn khu vực chiến đấu của các lực lượng nhằm phát huy sở trường cán bộ, chiến sĩ vốn thông thạo địa hình. Bố trí những lực lượng mạnh, những cán bộ mạnh vào các khu vực trọng yếu, có nhiều khó khăn.

Đội hình toàn tuyến được bố trí gồm: 4 binh trạm bố trí trên 4 tuyến ngang vượt khẩu Trường Sơn; 7 binh trạm bố trí trên tuyến dọc từ Na Tông đến nam Sê Ca Mán cự ly trên 800 km; 6 binh trạm bố trí trên các tuyến đường ngang tiếp giáp các chiến trường Trị - Thiên, Quân khu 5, Tây Nguyên.

Các đơn vị binh chủng trong biên chế các binh trạm gồm có: 19 tiểu đoàn ô tô vận tải với 2.315 xe; 1 tiểu đoàn thuyền; 28 tiểu đoàn công binh với 70 máy húc, 39 xe ben, trên 1 vạn dụng cụ cầm tay; 22 tiểu đoàn pháo cao xạ với 284 khẩu 37 ly và 57 ly, 280 khẩu pháo 12,7 ly; 3 tiểu đoàn; 2 đại đội bộ binh; 5 tiểu đoàn; 16 đại đội thông tin; 14 tiểu đoàn giao liên, 2 đại đội xe phóng từ, 5 đội điều trị; 50 đội phẫu thuật; 12 bệnh xá; 2 đại đội quân y trung đoàn, 10 đội chuyên gia.

Ngày 18 tháng 9 năm 1969, Bộ Tư lệnh dời vào Sở chỉ huy dã chiến ở Cù Lạc, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình để tổ chức diễn tập thực binh chiên đấu hiệp đồng binh chủng cấp trung đoàn để chuẩn bị chiến dịch nhập tuyến.

Ngày 10 tháng 10, Phó Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân Lê Văn Tri vào thảo luận với Bộ Tư lệnh về kế hoạch bố trí tên lửa đất đối không và sử dụng máy bay tiêm kích bảo vệ đội hình nhập tuyến.

Ngày 14 tháng 10, Thượng tướng Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dùng vào nghe Tư lệnh Đoàn báo cáo các mặt chuẩn bị nhập tuyến, diễn tập thực binh, kế hoạch tác chiến, cầu đường và vận chuyển. Đồng chí đánh giá: “Công tác chuẩn bị như thế là tốt, toàn diện và khẩn trương. Nhưng trước mắt phải rất thận trọng để vượt khẩu thành công. Vì lực lượng nhập tuyến của Đoàn năm nay rất lớn... Thắng lợi của vượt khẩu sẽ tác động lớn đến quá trình chiến đấu và kết quả thực hiện nhiệm vụ vận tải mùa khô".


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 11 Tháng Năm, 2010, 06:12:48 pm
Với ý đồ tổ chức chiến dịch vận tải quy mô đột hình trung đoàn xúc tiến công trên các cung của một số binh trạm lớn, từ ngày 15 đến ngày 25 tháng 10. Bộ Tư lệnh tổ chức diễn tập bộ đội hợp thành cấp trung đoàn, thành phần gồm 5 tiểu đoàn xe, 1 trung đoàn pháo cao xạ, 1 trung đoàn công binh và một số phân đội phục vụ. Địa bàn hoạt động từ Ba Trại đến Hoàn Lão, Xuân Sơn (Quảng Bình). Cuộc diễn tập đã thành công tốt đẹp.

Theo kế hoạch của Bộ Tư lệnh, ngày 20 tháng 9, tất cả các lực lượng trong khối đi bộ gồm 2 vạn rưỡi người đã tập kết trên hai hướng, từ Hương Khê đi vào đường 12 và từ Bố Trạch đi vào đường 20. Sau khi được cấp phát bổ sung lương thực, thuốc men, các khối lần lượt theo thứ tự đội hình nhập tuyến. Lực lượng công binh, pháo cao xạ, thông tin, kho, thợ sửa chữa được ưu tiên đi vào trước để phối hợp với lực lượng trong tuyến chuẩn bị trước một bước những vấn đề thuộc hạ tầng cơ sở như cầu đường, kho tàng, bãi xe, trận địa mạng thông tin, bảo dưỡng kỹ thuật.

Về khối cơ giới, Bộ Tư lệnh quyết định lấy đường 20 làm hướng đột kích chủ yếu vì cự ly ngắn, có hai phần ba đường thuộc khu vực phi chiến sự. Đường 12 là hướng thứ yếu vì đề phòng mưa lớn sẽ phát sinh túi nước Xiêng Phan. Đường 18 là hướng nghi binh vì đường mới mở, hẹp, dốc, độc đạo không vững chắc.

Lực lượng cơ giới nhập tuyến có 18 tiểu đoàn xe, 2 tiểu đoàn pháo. một số phân đội cơ giới của các lực lượng công binh, hậu cần cùng với 3.000 xe pháo, máy húc, xe phóng từ, xe ben, cầu phao, cõng trên lưng 11.800 tấn hàng.

Về thứ tự hành quân, Bộ Tư lệnh quyết định các tiểu đoàn được trang bị xe mới là khối đi đầu. Các tiểu đoàn xe thuộc các binh trạm từ nam đường 9 trở vào là khối đi thứ hai. Các đội hình xe của các binh trạm bắc đường 9 là khối đi thứ ba.

Thời điểm xuất kích được quyết định lúc 16 giờ ngày 30 tháng 10 năm 1969 .

Tư lệnh Đoàn trực tiếp chỉ huy các đội hình xuất kích hướng chủ yếu. Phó Tư lệnh Đoàn chỉ huy các đội hình hướng thứ yếu. Các binh trạm cửa khẩu đặt chỉ huy sở tiền phương trên các trọng điểm vượt khẩu, đồng thời tổ chức các cụm chỉ huy hiệp đồng chiến đấu trên các trọng điểm khác.

Sáng ngày 30 tháng 10, khi các đội hình đã vào vị trí xuất phát, cơn bão số 9 đổ bộ vào đất liền, gây mưa lớn trên khu vực đường 20, làm cho mặt đường bị sụt, lở, trơn lầy, nước sông Ta Lê ở ngầm dâng cao trên 2 m, cầu bị hư hỏng nặng. Đường 12 cũng không đảm bảo được cơ động lớn. Chiến dịch nhập khẩu phải tạm dừng.

Ngày 8 tháng 11, Bộ Tư lệnh Đoàn dời chỉ huy sở dã chiến vào đường K gần trọng điểm ATP đường 20.

Sau mấy ngày liên tục theo dõi tình hình địch, thời tiết, cầu đường, tác chiến, ngày 10 tháng 11 năm 1969, Tư lệnh ra lệnh cho các đội hình xuất phát trên cả hai hướng.

Từ 4 giờ sáng ngày 11 tháng 11, trên các khu vực cửa khẩu, tất cả các xe trong đội hình đều có những tấm chắn chống bom bi và đạn 40 ly làm bằng nứa bảo vệ đầu xe và ca bin, đồng thời được ngụy trang giống như những lùm cây xanh nườm nượp tiến về phía tây Trường Sơn dưới sự hiệp đồng tác chiến bảo vệ của bộ đội cao xạ và bảo đảm giao thông của bộ đội công binh.

Ở hướng nghi binh đường 18, một tiểu đội ô tô chạy phân tán liên tục trên đường. Lửa khói nổi lên ở nhiều nơi, máy bay trinh sát của địch phát hiện tưởng ta hoạt động mạnh ở hướng này nên kéo hàng đàn máy bay cường kích tới đánh  phá dữ dội. Đèo 900A và đèo 900B phía bắc Pha Băng Nưa, bị địch đánh liên tục ngày này qua ngày khác. Mặt đường bị phá nặng nề. Nhưng địch càng phá, càng giúp cho ta có điều kiện mở rộng mặt đường.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 11 Tháng Năm, 2010, 06:13:29 pm
Trên các trục dọc tây Trường Sơn, trời hửng nắng, đường khô, nhưng địch hoạt động mạnh. Nhằm phân tán sự chú ý của địch, ta cho xe chạy nhỏ lẻ và cho bộ đội phòng không đánh có mức độ.

Ở trọng điểm vượt khẩu đường số 12 và đường số 20, ta có sẵn phương án vượt khẩu bằng sức mạnh tác chiến hiệp đồng binh chủng nếu bị máy bay cường kích địch tấn công. Tuy nhiên, khi đội hình tiếp cận, trời vẫn mờ đục, sương mù dày đặc. Địch sử dụng máy bay B52 ném bom rải thảm, nhưng do ta chủ động mở từ 3 đến 4 đường vòng tránh nên chúng không chặn nổi xe qua trọng điểm. Ta theo dõi chặt quy luật đánh phá của địch, cho xe vượt tương đối an toàn.

Ngày 12 tháng 11, các đội hình xe đi đầu vào tới Lùm Bùm. Ngày hôm sau, đoàn xe vượt trọng điểm Cốc Mạc và Văng Mu, là hai trọng điểm rất ác liệt. Do đường còn xấu tốc độ bị chậm, lái xe mới chưa quen địa hình, chỉ huy giao thông chưa nắm chắc quy luật hoạt động của địch nên phát lệnh vượt trọng điểm không đúng lúc. Đây là tổn thất lớn đầu mùa của ta. 4 giờ sáng hôm đó, đội hình vượt đường số 9 an toàn dưới sự chỉ huy của Bộ Tư lệnh đóng ở đông Văng Mu.

Ngày 15 tháng 11, Sở chỉ huy tiền phương của Bộ Tư lệnh chốt ở Sở chỉ huy Binh trạm 35 chỉ huy các đội hình xe vượt Bạc an toàn. Sau đó 2 ngày, đội hình xe các binh trạm tiếp giáp chiến trường đã tiến được vào khu tập kết cuối cùng.

Ngày 20 tháng 11, chiến dịch vượt khẩu kết thúc thắng lợi.

Ngày 30 tháng 11, Đảng ủy Bộ Tư lệnh họp, đánh giá: chiến dịch hành quân nhập tuyến đại quy mô diễn ra trong không gian, thời gian ngắn đã giành được thắng lợi lớn, giữ được sinh lực và phương tiện, thực hiện được một khối lượng vận chuyển trên 1 vạn tấn, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức chiến dịch mùa khô 1969- 1970. Tổn thất về xe pháo không quá 0,5%, là tỷ lệ chấp nhận được phản ánh sự trưởng thành về trình độ tổ chức chỉ huy của các cấp và trình độ chiến đấu của các lực lượng.

Đảng ủy Bộ Tư lệnh quyết định nhanh chóng ổn định về mọi mặt để ngày 5 tháng 12 năm 1969 mở màn chiến dịch vận chuyển quy mô vừa tạo thế đưa dần các lực lượng bước vào các đợt vận tải quy mô chiến dịch.

Cuối tháng 11 năm 1969, thế trận cầu đường được cải thiện một bước quan trọng. Tuyến đường từ nam đường 9 trở ra đã có 3 trục dọc, các tuyến đường ngang tiếp giáp các chiến trường nói chung đều có 2 trục, nhưng còn có đoạn độc đạo. Trên toàn bộ các trục dọc ở các tuyến, cứ 20 đến 30 km lại có một đường ngang tạo nên sự liên hoàn tương hỗ bảo đảm cho một tiểu đoàn xe tập trung tiến công trên một hướng, nhiều hướng, hoặc có thế chuyến hướng tiến công một cách chủ động nếu gặp điều kiện bất lợi do sự ngăn chặn của địch gây nên.

Toàn tuyến có 50 trọng điểm lớn nhỏ, mỗi trọng điểm đều có từ 2 đến 4 đường vòng. đường tránh. Các điếm vượt sông Pác Pha Năng, Ta Lê, Sê Băng Phai, Sê Băng Hiếng, Sê Pôn, Sê Lê Măng, Sê Kông, Sê Ca Mán... đều tổ chức ba phương thức vượt: ngầm, cầu trệt, phà. Có điểm vượt chính, có điểm vượt dự bị, có điểm vượt nghi binh. Các trọng điểm vượt khẩu nhập tuyến đường 12 và đường 20 được củng cố vững chắc, có khả năng loại trừ thủ đoạn địch đánh dứt điểm bóp nghẹt tuyến chi viện chiến lược ngay từ địa đầu.

Đường 16 và đường 18 mới mở thông, tuy chưa vững chắc, nhưng có tác dụng hỗ trợ, hình thành một hệ thống vượt khẩu có chính diện khoảng 180 km, góp phần căng kéo địch, làm mỏng sức tấn công của chúng. Đường ống dẫn xăng dầu từ Ra Mai đã tiến vào cánh rừng già phía nam Bản Cọ, bắt đầu được vận hành, tạo thêm một mũi tiến công sắc bén giáng vào âm mưu ngăn chặn của địch.

Ngày 22 tháng 12 năm 1969, lễ khánh thành đường ống được tổ chức. Tư lệnh Đoàn 559, Cục trưởng Cục Xăng dầu Phan Tử Quang, đồng chí Mai Trọng Phước, cán bộ trực tiếp chỉ huy xây lắp đường ống đã tới dự. Trước hàng quân, Tư lệnh nói:

“Sự kiện đưa vào vận hành đoạn đầu của tuyến đường ống dẫn xăng dầu chiến lược nối hậu phương lớn miền Bắc với tiền tuyến lớn miền Nam đã tăng thêm một tuyến vận tải mới, một binh chủng mới, một phương thức vận tải xăng dầu hiện đại. Từ nay sẽ thanh toán được sự tổn thất lớn trong chiến tranh do việc vận chuyển phuy hoặc téc xăng dầu bằng phương tiện ô tô. Đây là một bước ngoặt quyết định đảm bảo vận tải hàng hóa và cơ động binh khí, kỹ thuật quy mô lớn... ".


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 11 Tháng Năm, 2010, 06:14:08 pm
Tư lệnh thay mặt Đảng ủy - Bộ Tư lệnh 559 chân thành cám ơn Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần là kiến trúc sư tuyến đường ống, cảm ơn Cục Xăng dầu, cảm ơn cán bộ, chiến sĩ công binh, vận tải, thông tin, thanh niên xung phong, cán bộ, chiến sĩ đường ống đã đổ biết bao công sức, xương máu mới có được tuyến đường ống với dòng chảy thần kỳ này. Sau buổi lễ, lần đầu tiên mọi người được chứng kiến một công trình đặc biệt: 4 vòi tiếp xăng, tiếp một lúc cho một tiểu đoàn xe hết 1 giờ 30 phút mà trước đây phải mất 3 giờ.

Những hạ tầng cơ sở khác như bãi trú đậu xe, bàn đạp xuất kích, khu kho, trạm xưởng, điểm chốt của đội phẫu thuật và đội điều trị, sở chỉ huy cơ bản, sở chỉ huy tiền phương, trạm chỉ huy giao thông, điểm chốt kích kéo cứu xe đều được các binh trạm xây dựng đồng bộ, liên hoàn, nâng cao sức tiến công trong vận chuyến. xử lý các tình huống nhanh và kịp thời.

Đế đảm bảo an toàn, giữ vững tinh thần cho lái xe, công binh đã xây dựng khá kiên cố mấy vạn hầm trú ẩn và hàng trăm kilômét hào giao thông, phần lớn có cắm cờ bằng vải dù trắng để làm dấu hiệu trong đêm tối.

Cuối tháng 12 năm 1969, mọi hoạt động vận chuyển và chỉ huy chiến đấu hiệp đồng binh chủng từng bước đi vào quỹ đạo. Đảng ủy - Bộ Tư lệnh họp nhấn mạnh:

a) Về địch, trên các chiến trường Mỹ - ngụy đang ở thế đi xuống. Tuy nhiên, với hành lang của ta, địch đang cố gắng tập trung đánh phá quy mô lớn để ngăn chặn. Nhưng đó là sự cố gắng tuyệt vọng của kẻ thua trận đã bạc nhược.

b) Về thời tiết, trục dọc đã khô ráo, các ngầm sử dụng tốt, có thể vận chuyển liên tục theo quy cách của mùa khô, nhưng các đường ngang còn mưa dầm, lầy lội cục bộ.

c) Về ta, đến nay tổ chức các lực lượng căn bản đã ổn định. Thế trận mùa khô được triển khai hoàn chỉnh trên toàn tuyến. Các binh trạm đã ở tư thế sẵn sàng, cả ba phương thức vận chuyển đểu được chuẩn bị. Cán bộ, chiến sĩ có quyết tâm lớn. Tổ chức chỉ huy đã thông suốt, chặt chẽ, cơ sở kỹ thuật được bảo đảm, chân hàng vượt trội và được rải trên nhiều cung. Nguồn hàng từ Campuchia và Hạ Lào có triển vọng. 

Từ những đánh giá trên, Đảng ủy - Bộ Tư lệnh quyết định ngày 15 tháng 1 năm 1970 toàn tuyến ra quân "Tổng công kích" quy mô lớn. Đảng ủy nêu rõ:

Đợt "Tổng công kích" này có ý nghĩa chính trị và có vị trí quyết định đối với cả mùa khô. Vì vậy, tất cả các lực lượng phải phát huy sự sung sức, tiến công kiên quyết và mưu trí trong thế hiệp đồng binh chủng, giành thắng lợi ngay từ giờ đầu ngày đầu.

Toàn tuyến nhất tề nổi lửa khói, hình thành thế nghi binh chiến dịch, đưa kẻ địch vào thế bị động, rối loạn. Bộ Tư lệnh tổ chức chỉ đạo tập trung vào tập đoàn binh trạm phía bắc, đồng thời chỉ đạo các binh trạm phía nam tham gia phối hợp nhanh chóng hòa vào cao trào tổng công kích. Bộ Tư lệnh chỉ thị các thủ trưởng binh trạm phân công trực tiếp chỉ huy đội hình xe trên đường và trực chỉ huy ở sở chỉ huy cơ bản cũng như sở chỉ huy tiền phương. Các cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần tổ chức các kíp trực ban 24/24 giờ trong ngày. Thủ trưởng các binh chủng phải bám đơn vị và có mặt trên mặt đường.

Để quán triệt nhiệm vụ, nêu cao quyết tâm trước khi bước vào đợt “tổng công kích", ngày 10 tháng 1 năm 1970, Hội nghị quân chính toàn Đoàn được triệu tập. Thủ trưởng quân chính các binh trạm, trung đoàn, phòng, cục và Bộ Tư lệnh đều nhất trí thời điểm ra quân thực hiện “tổng công kích" là ngày 15 tháng 1 năm 1970.

Trong thời gian gần một tháng trước khi bước vào đợt “tổng công kích", các lực lượng trên toàn tuyến đã bắn rơi 49 máy bay, có 19 chiếc rơi tại chỗ, 8 chiếc rơi ban đêm. Địch bị động, lúng túng song cường độ đánh phá ngày một tăng, nhưng hiệu suất không cao.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 11 Tháng Năm, 2010, 06:22:52 pm
Vào 4 giờ chiều ngày 15 tháng 1 năm 1970, đợt "Tổng công kích" bắt đầu. Bộ Tư lệnh Đoàn chỉ thị các mũi tiến công chủ yếu là các binh trạm phía bắc tranh thủ vượt đường 9, tạo khối lượng dự trữ khoảng 2 vạn tấn để chủ động đối phó với trường hợp bị địch chia cắt.

Dựa vào thế cầu đường vững chắc và sức mạnh chiến đấu hiệp đồng binh chủng của các lực lượng, ngay từ đầu bộ đội xe hơi ra quân rầm rộ. Các tổ mũi nhọn của tiểu đoàn xe táo bạo xông pha trên những chặng đường địch khống chế mạnh, mưu trí, lừa địch, tránh địch, phối hợp chặt chẽ với công binh, pháo binh mật tập vượt trọng điểm đúng lúc, kịp thời. Các lực lượng thực hiện nghi binh đồng loạt, làm cho địch bị động, phân tán, rối loạn, đánh chệch mục tiêu.

Lực lượng công binh tập trung vào việc chống phá hoại: san lấp hố bom, phá bom nổ chậm, phá bom từ trường và mìn vướng nổ đều thông thạo, cả ban đêm và ban ngày, vừa chống phá hoại, vừa mở thêm đường, vừa cải tạo mặt đường nâng tốc độ xe.

Ở hướng đông Trường Sơn, lợi dụng lúc địch còn sơ hở, Binh trạm 27 tổ chức thả trôi các phuy xăng trên sông Sê Băng Hiếng từ Chà Lì đến Bản Cọ cự ly 50 km giao cho Binh trạm 9. Đây là một phương thức vận chuyển độc đáo, tạo nên một hướng vượt khẩu bổ trợ quan trọng. Mỗi tháng hàng tới đích khoảng 1.000 tấn tạo điều kiện đẩy hàng tới đường 9 nhiều hơn.

Đợt 1 Tổng công kích giành thắng lợi toàn diện. Nhiều binh trạm vận chuyển 1 vạn tấn/tháng như: Binh trạm 12, Binh trạm 14, Binh trạm 31. Riêng Binh trạm 32 nâng lên 1 vạn rưỡi tấn/tháng.

Những điểm vượt chủ yếu cũng là nơi địch tập trung ngăn chặn quyết liệt, đều giành thắng lợi. Vượt trọng điểm cửa khẩu Xiêng Phan đạt 135,8%, vượt trọng điểm cửa khẩu cua chữ A - Ta Lê - Phu La Nhích đạt 113%, vượt trọng điểm Văng Mu - đường 9 đạt 103%, vượt trọng điểm La Hạp đạt 130%, vượt trọng điểm Bạc đạt 86%. Kế hoạch vận chuyển giao cho hai chiến trường xa nhất đều vượt chỉ tiêu: Tây Nguyên 118,3%, Nam Bộ 101,2%.

Nhiệm vụ đưa quân vào chiến trường và đón quân về hậu phương đạt trên 100% kế hoạch. Việc chuyển thương, bệnh binh ra hậu phương bằng xe cơ giới rút ngắn được trên 20 ngày 1 chuyến, nhưng cần phải có đệm chèn để giảm đau đớn cho thương, bệnh binh. Tư lệnh Đoàn đã báo cáo với Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần, được Chủ nhiệm hứa sẽ gửi đệm vào trong thời gian sớm nhất.

Đợt 1 kết thúc thắng lợi. Không để lỡ thời cơ, Bộ Tư lệnh ra lệnh gấp rút chuẩn bị trong 2 ngày để tiếp tục "Tổng công kích" đợt 2.

Ngày 14 tháng 2. Đảng ủy Bộ Tư lệnh tổ chức Hội nghị cán bộ chủ trì các binh trạm, trung đoàn và cơ quan Bộ Tư lệnh nhằm rút kinh nghiệm đợt 1; quán triệt nội dung, nhiệm vụ chỉ tiêu, kế hoạch "Tổng công kích" đợt 2.

Vào Hội nghị, các đại biểu rất đau buồn khi được tin Trung tá Nguyễn Huệ - Binh trạm trưởng Binh trạm 9 vừa hy sinh do trúng bom B52 ở Bản Cọ trong đêm giao thừa khi đang trên đường đến Hội nghị.

Sau khi nghe Chính ủy và Tư lệnh báo cáo, Hội nghị đã thảo luận và thống nhất nhận đinh, Tổng công kích đợt 1 đã giành được thắng lợi giòn giã, toàn diện. Địch đã bộc lộ những âm mưu thủ đoạn nguy hiểm, gây cho ta nhiều khó khăn tổn thất. Mặc dù bị thất bại, sắp tới chúng vẫn có thể đánh mạnh hơn, thủ đoạn xảo quyệt hơn. Vì vậy, phải theo dõi chặt chẽ và kịp thời đối phó. Thời tiết là mối đe dọa nguy hiểm, nhưng ta đã vượt qua và đang ngày càng có lợi .

Về thế trận, tuy cục bộ còn chưa vững chắc, nhưng vẫn đang ổn định và có chiều hướng phát triển tốt.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 11 Tháng Năm, 2010, 06:23:30 pm
Về lực tuy bị một số tổn thất, nhưng các đơn vị đang ở thời điểm sung sức. Hội nghị quyết tâm phát động "Tổng công kích" đợt 2 trên toàn tuyến nhằm:

- Cơ bản dứt điểm chỉ tiêu vượt khẩu trong cả mùa để chủ động chân hàng và tạo dự trữ cho chiến dịch. 

- Thực hiện kỳ được khối lượng vượt đường 9 bằng ba phần tư kế hoạch cả mùa, tạo dự trữ chiến lược lớn để có điều kiện chuyển trọng tâm “tổng công kích" vào các binh trạm phía nam. Càng về cuối, càng phải tổ chức lực lượng đột kích mạnh, vươn sâu, vươn xa.

- Đối với các binh trạm tiếp giáp chiến trường, phải tranh cướp với trời, với địch, nắm vững thời cơ, tranh thủ dứt điểm kế hoạch.

- Để đảm bảo chắc thắng, phải tiếp tục mở thêm đường vòng, đường tránh những trọng điểm xung yếu, nắn lại đường, hạ độ dốc, mở rộng và san phẳng mặt đường nhằm nâng tốc độ xe, hạn chế hiệu quả đánh phá của địch, phải khẩn trương hoàn thành lập bể xăng bằng các xitéc 25m3 ở phía nam, đồng thời thi công nhanh đường ống, nối từ Bản Cọ tới ngã ba La Hạp để chủ động chân xăng khi trọng tâm "Tổng công kích" dồn xuống các binh trạm phía nam.

- Thực hiện đồng bộ mọi mắt xích, kết hợp mọi phương thức vận chuyển bổ trợ nhau, giữ vững tính nhịp nhàng cân đối, đẩy tổng công kích lên cao trào mới.

Ngày 16 tháng 2, toàn tuyến 559 đồng loạt xuất kích trên nhiều hướng với chính diện tiến công khoảng 150 km và chiều sâu khoảng 1.000 km. Phát hiện hoạt động quy mô lớn của ta, địch mở ngay một tam giác lửa tại Xiêng Phan – ATP - Văng Mu nhằm "thắt cổ họng" ở phía tây bắc đường 9, đồng thời mở thêm trọng điểm mới tại đèo 900 trên tuyến vượt khẩu đường 18 ở phía đông. Mỗi ngày địch huy động gần 700 lần/chiếc máy bay ném hàng vạn quả bom vào các trọng điểm. Nhưng bằng sức mạnh chiến đấu hiệp đồng binh chủng, toàn tuyến vẫn giữ được quy mô, nhịp độ vượt khẩu, vượt đường 9, vượt La Hạp, vượt Bạc, vượt Chà Vằn vào các chiến trường.

Để thực hiện mục tiêu ngăn chặn, địch ra sức cải tiến vũ khí, thay đổi chiến thuật và quy luật đánh phá, sử dụng la de điều khiển bom đến mục tiêu, tăng cường hoạt động của máy bay AC 130 gắn khí tài quan sát bằng tia hồng ngoại, tăng cường trinh sát điện tử, mở rộng căn cứ xuất phát của không quân.

Đặc biệt, khi phát hiện tuyến đường ống dẫn xăng dầu của ta ngày càng vươn sâu vào chiến trường, không quân Mỹ huy động máy bay trinh sát, máy bay cường kích, máy bay chiến lược B52 đánh phá nhiều điểm, nhất là ở khu vực Pha Băng Nưa và Bản Cọ Có ngày, hàng chục lần/chiếc B52 ném bom rải thảm, phá nát cả một khu vực dài 3 km, bốc đi hàng trăm ống. Trong thời gian 5 tháng, ta phải thay thế 1318 ống, làm đi làm lại tới 4 lần.

Hàng ngàn bộ đội xăng dầu, bộ đột thông tin, thanh niên xung phong ngày đêm bám đường giành giật với địch từng giờ, từng phút vừa sửa đường, đặt ống, vừa rải thông tin, làm tuyến nghi binh... Hàng trăm cán bộ, chiến sĩ hy sinh. Tiểu đội trưởng Bùi Văn Ngạn dũng cảm cởi áo dập lửa cứu xăng. Lương Văn Định anh dũng vác ống vượt bom từ trường, bom kích nổ, bị trọng thương vẫn không rời vị trí. Đặng Thị Thanh Xuân khi hy sinh tay vẫn cầm chắc tổ hợp máy thông tin...

Phát hiện các tuyến đường B45 vào chiến trường Trị - Thiên; tuyến đường B46 vào Khu 5; tuyến đường 49 đi Xiêng Pạng (đông bắc Campuchia) đã khô ráo thuận lợi cho vận chuyển cơ giới, địch tăng cường trinh sát tìm những đoạn còn độc đạo đề đánh phá. Động Con Tiên (đường B45) trở thành một trọng điểm lớn bị địch đánh phá gây tắc.

Bộ Tư lệnh điều đồng chí Võ Sở làm Chính ủy cử đồng chí Bùi Đức Tạm - Phó Chính ủy Bộ Tư lệnh và Nguyễn Văn Kỷ Tham mưu phó cầu đường xuống giúp binh trạm; điều Trung đoàn 83 công binh về mở đường tránh từ A Túc qua bắc Cô Ca Va tiến thẳng xuống A Lưới dài 70 km. điều Trung đoàn 4 mở đường tránh đi Trao dài 81 km. Sau 1 tháng chiến đấu quyết liệt ta mới phá được sự ngăn chặn của địch.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 11 Tháng Năm, 2010, 06:24:07 pm
Phát hiện ta thả trôi hàng trên sông Sê Băng Hiếng, địch cho máy bay tốc độ chậm, bay thấp dọc dòng sông, xả đạn 20 ly làm cho hàng trăm phuy xăng và bao gạo bốc cháy hoặc chìm xuống lòng sông.

Tuy nhiên, trên toàn tuyến, đặc biệt, trên các hướng tiến công chủ yếu, thế trận cầu đường và sức mạnh chiến đấu hiệp đồng binh chủng phát triển đến trình độ cao đã làm thất bại các thủ đoạn mới của địch.

Trong 30 ngày, toàn tuyến bắn rơi 63 máy bay, trong đó có 28 chiếc rơi tại chỗ. Không quân ta từ sân bay dã chiến Khe Gạt ở tây Quảng Bình cũng bất thần  xuất kích làm rối loạn hoạt động của máy bay địch, tạo điều kiện cho đội hình xe đột kích liên tục.

Ngày 16 tháng 3, "Tổng công kích" đợt 2 kết thúc Các kế hoạch, đặc biệt là kế hoạch vượt khẩu, cơ bản hoàn thành.

Đánh giá "Tổng công kích" đợt 2, Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Đoàn nhận định toàn tuyến thắng lợi lớn, các mục tiêu đề ra đều vượt trội. Song, việc tiếp cận sâu vào chiến trường còn hạn chế. Hoạt động của địch trong đợt 2 "Tổng công kích" đúng như dự kiến của ta. Sắp tới cũng chưa có thay đổi gì lớn về số lượng, về vũ khí, nhưng địch có.thể chuyển làn, đánh mạnh hơn các binh trạm phía nam. Cũng có thể địch cho bộ binh nống ra ngăn chặn một số điểm tiếp giáp chiến trường.

Từ tháng 3, thời tiết ở cao điểm mùa khô, tạo điều kiện cho ta nâng cao hiệu suất chiến đấu của mỗi binh chủng. Bộ Tư lệnh Đoàn 559 quyết định phải phát động "Tổng công kích" đợt 3 nhằm dứt điểm toàn bộ nhiệm vụ mùa khô 1969 - 1970; đồng thời sẵn sàng đón nhận kế hoạch bổ sung khi xuất hiện tình huống mới của chiến trường, chủ động chuẩn bị sớm hơn cho mùa khô tới. Mục tiêu chính của "Tổng công kích" đợt 3 là các binh trạm phía nam tổ chức đột kích mạnh vào các chiến trường: Trị - Thiên, Quân khu 5, Tây Nguyên, Nam Bộ.

Để đảm bảo chắc thắng, Bộ Tư lệnh tăng cường lực lượng xây dựng đường dây thông tin tải ba tới ngã ba biên giới ba nước; xây dựng đường ống dẫn xăng tới Bản Đông, lắp đặt một nhánh đường ống từ Bản Cọ (đường 18) kéo ngang sang Na Lai bảo đảm xăng cho các lực lượng trên tuyến đường 128B, phát triển đường giao liên tới Bù Gia Mập; cơ giới hóa vận chuyển đường sông từ A Tô Pơ (Hạ Lào) xuống Tra Chim (đông bắc Campuchia).

Bộ Tư lệnh ra lệnh cơ động 6 tiểu đoàn pháo cao xạ (8, 18, 12, 14, 26, 20) của các binh trạm phía bắc tăng cường cho các binh trạm phía nam từ La Hạp trở vào.

Ngày 18 tháng 3 năm 1970, "Tổng công kích" đợt 3 mở màn. Dựa vào thế vững chắc của cầu đường, sự bảo vệ có hiệu quả của bộ đội phòng không, sự hiệp đồng chặt chẽ giải phóng xe nhanh của lực lượng kho, sự nỗ lực nâng cao chất lượng kỹ thuật và khôi phục đầu xe của các xưởng sửa chữa, các tiểu đoàn xe các binh trạm phía bắc đường 9 đã chạy tới tốc độ 17-20 km/giờ. Từ 95% đến 100% số xe đạt cung độ 2 đêm/chuyến; 20% số xe quay vòng khép kín 1 đêm 1 chuyến. Hàng dồn dập chở vào chất đầy các kho ở khu vực nam đường 9.

Không quân địch hoạt động ráo riết, luôn thay đổi cách đánh trên địa bàn từng binh trạm, có lúc chúng đánh cuốn chiếu, có lúc từ hai đầu đánh giáp lại. Phong trào bắn rơi máy bay bay thấp được phát động Hiệu suất chiến đấu của bộ đội lên cao. Bình quân mỗi ngày các lực lượng cao xạ, công binh bắn rơi từ 2 đến 3 chiếc. Một số đơn vị đánh tốt như ngày 15 tháng 3 năm 1970, tiểu đoàn 22 bắn rơi 5 chiếc tại Văng Viếng, có 3 chiếc rơi tại chỗ. Ngày 21 tháng 4 tiểu đoàn 28 bắn rơi 6 chiếc tại đường B46, có 3 chiếc rơi tại chỗ.

Ngày 30 tháng 3, Bộ Tư lệnh ra lệnh cơ động toàn bộ lực lượng ô tô vận tải của Binh trạm 12 từ địa đầu tuyến chiến lược vào tăng viện cho Binh trạm 34. Trung tá Binh trạm trưởng Cao Đôn Luân trực tiếp chỉ huy 2 tiểu đoàn xe 101 và 770, vượt qua 3 binh trạm trên chặng đường dài 350 km vào bắc Bạc vận chuyển  hàng xuống Chà Vằn, sớm dứt điểm kế hoạch chuyển hàng cho Khu 5 - Tây Nguyên và tạo điều kiện cho các binh trạm 50, 51 dứt điểm kế hoạch chuyển hàng cho Đông Nam Bộ.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 11 Tháng Năm, 2010, 06:24:37 pm
Bộ Tư lệnh cũng ra lệnh cơ động chiến thuật theo lối cuốn chiếu. Điều 54 xe của Binh trạm 34 tăng cường cho Binh trạm 35. Điều tiểu đoàn ô tô 59 của Binh trạm 35 tăng cường cho Binh trạm 36, điều tiểu đoàn ô tô 53 của Binh trạm 31 và tiểu đoàn ô tô 60 của Binh trạm 32 tăng cường cho Binh trạm 33. Điều tiểu đoàn ô tô 965 của Binh trạm 33 và tiểu đoàn ô tô 52 của Binh trạm 14 tăng cường cho Binh trạm 41. Điều tiểu đoàn 93 công binh tăng cường cho Binh trạm 27. Điều 2 trung đoàn 10 và 83 công binh mở đường tránh Tăng Cát và đường vòng qua Bạc.

Phát hiện hoạt động của ta, địch cũng chuyển làn, đánh mạnh các tuyến phía nam đường 9. Trung bình mỗi ngày chúng huy động 200 phi vụ máy bay cường kích và 10 phi vụ máy bay B52 đánh vào các trọng điểm. Dốc Thơm, La Hạp, Bạc, Tăng Cát và Chà Vằn là những trọng điểm bị địch dội bom mạnh nhất. Các đơn vị pháo đánh trả rất quyết liệt nâng tổng số máy bay bị bắn rơi lên 73 chiếc trong đợt 3 “tổng công kích".

Tuy nhiên, do mật độ xe quá đông, đường chỉ có hai trục, một số đoạn là đường độc đạo, lại bị địch ngăn chặn quyết liệt nên khó cơ động vu hồi chuyển hướng làm cho chiến dịch phát triển chậm và chịu nhiều tổn thất. Hàng chục xe bị đánh cháy, hàng trăm cán bộ, chiến sĩ bị thương vong ngay trong tuần lễ đầu đợt 3 "Tổng công kích".

Ngày 18 tháng 3 năm 1970, đế quốc Mỹ tiếp tay cho tập đoàn phản động Lon non Xirích Ma tắc đảo chính lật đổ Chính phủ Xihanúc, xóa bỏ chế độ trung lập của Campuchia, lôi cuốn nước này vào quỹ đạo chiến tranh. Cảng "Xihanúcvin" bị khóa chặt. Tiếp tế đường biển của ta bị cắt đứt. Các cơ sở hậu cần của chiến trường miền Đông Nam Bộ hoạt động trên đất Campuchia phải rút vào bí mật. Tuyến đường 559 ở hướng này gặp khó khăn lớn.

Ngày 30 tháng 4 năm 1970, lực lượng hỗn hợp Mỹ - ngụy Sài Gòn gồm trên 100.000 tên được máy bay pháo binh yểm trợ mở chiến dịch "Thần lửa" ào ạt tiến công vào vùng "lưỡi câu” thuộc tỉnh Công Pông Chàm giáp với Tây Ninh nhằm "cất vó” cơ quan đầu não của chiến trường, tìm diệt khối chủ lực và phá hủy căn cứ hậu cần của ta. Các đoàn hậu cần 50, 70, 82, 86, 100 của miền Đông Nam Bộ bị tổn thất nặng. Chiến trường Nam Bộ và Nam Tây Nguyên bị cắt đứt nguồn tiếp tế, lâm vào khó khăn nghiêm trọng.

Cùng thời điểm này, Mỹ tăng cường chiến tranh ở Lào, sử dụng một bộ phận quân Thái và quân ngụy Lào mở cuộc tấn công vào Cánh Đồng Chum, Xảm Thông, Long Chẹng ở Thượng Lào và Mường Phin ở Trung Lào, đồng thời cho không quân ném bom từng đợt vào các mục tiêu giao thông vận tải ở Quảng Bình và Nghệ An.

Để phá thế bao vây chiến lược mới của Mỹ, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã thống nhất với Đảng anh em Lào, Campuchia mở đợt tiến công mới, mở rộng vùng giải phóng ở Trung - Hạ Lào và Đông Campuchia nối tiếp với Tây Nguyên và miền Đông Nam Bộ, hình thành một căn cứ hậu phương chiến lược của các chiến trường Nam Đông Dương, đưa vận tải cơ giới lớn vào sâu đáp ứng kịp thời nhu cầu cách mạng ba nước.

Bộ Chính trị kịp thời chỉ thị cho bộ đội ta phối hợp với bạn tiến mạnh về phía tây Chủ động đánh nhanh, đánh mạnh, đánh liên tục, không hạn chế, tạo một bước chuyển biến quan trọng về cục diện chiến lược có lợi cho ta và bạn trong thời gian ngắn.

Chấp hành chỉ thị của Bộ Chính trị, trung tuần tháng 4 năm 1970, Bộ Tư lệnh mở đợt phản công đánh chiếm Kra Chim, Stung Treng, vượt sông Mê Kông, giải phóng Vây Riêng, Xiêm Riệt. Một lực lượng Bộ đội 559 phối hợp đánh Xiêng Pạng.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 11 Tháng Năm, 2010, 06:25:31 pm
Bị thất bại lớn trên chiến trường Campuchia và trước sự phản đối mạnh mẽ của nhân dân thế giới, kể cả nhân dân Mỹ, ngày 30 tháng 6 năm 1970, Tổng thống Níchxơn buộc phải tuyên bố rút quân khỏi Campuchia.

Vùng cao nguyên rộng lớn tương đối bằng phẳng ở khu vực biên giới ba nước được giải phóng, gồm các tỉnh Sa Ra Van, A Tô Pơ và một nửa cao nguyên Bô Lô Ven của Hạ Lào, nối tiếp với 4 tỉnh đông bắc Campuchia: Ra Ta Na Ki Ri, Stung Treng, Kra Chim, Môn Đun Ki Ri men theo quốc lộ 13 xuyên Đông Dương, cặp theo bờ sông Mê Kông kéo dài về Nam Bộ, rồi từ miền Đông Nam Bộ đi ngược lên đường 14 qua Đồng Xoài, Phước Long, qua Tây Nguyên về Plây Khốc sang Phi Hà, đông tỉnh A Tô Pơ. Một căn cứ hậu cần chiến lược mới hình thành, có các trục đường cơ giới thủy, bộ, ngang, dọc tạo thế đứng và phát triển vững chắc cho tuyến 559.

Quân ủy Trung ương - Bộ Quốc phòng chỉ thị cho tuyến 559 tập trung lực lượng vận chuyển mọi nhu cầu vật chất giao cho hai chiến trường. Ý thức sâu sắc trách nhiệm to lớn của mình, các lực lượng Đoàn 559 nỗ lực cao độ, vượt qua bom đạn, vận chuyển giao cho chiến trường vượt khối lượng Bộ giao. Đồng thời, đưa 120 đoàn với 30.800 quân vào bổ sung cho chiến trường Nam Bộ, đưa 4.000 thương binh từ Nam Bộ ra hậu phương, tạo điều kiện cho chiến trường Nam Bộ phát triển thế chủ động tiến công.

Bộ Tổng tham mưu, Tổng cục Hậu cần chỉ đạo bảo đảm kịp thời cho tuyến 559 những nhu cầu bức thiết như phương tiện kỹ thuật, vật tư, xe pháo. Đặc biệt, đã thay đường ống xăng phù hợp, bảo đảm xe Zil 130 và các chủng loại xe khác, phát huy cao độ tính năng xe trọng tải 6 tấn, nâng cao sức đột kích, nhanh chóng dứt điểm kế hoạch trên các hướng.

Mặc dù một bộ phận lực lượng địch bi hút vào chiến trường Campuchia, địch vẫn đánh mạnh trên tuyến 559. Mỗi ngày địch huy động 600 lần/chiếc, đưa tổng số máy bay ném bom cả mùa lên tới 117.648 lần/chiếc. Trong đó, có 276 lần/chiếc máy bay chiến lược B52, tăng 10% so với mùa khô 1968- 1969. Số bom trúng đường lên tới 6.337 quả. Nhưng cho đến những ngày cuối cùng của chiến dịch mùa khô 1969- 1970, các lực lượng Đoàn 559 vẫn giữ vững nhịp độ vận chuyển.

Các cụm pháo ở La Hạp bắn rơi thêm 2 chiếc, cụm pháo ở Bạc bắn rơi 2 chiếc, cụm pháo ở Chà Vằn bắn rơi thêm 1 chiếc, cụm pháo ở Văng Mu bắn rơi 2 chiếc, nâng tổng số máy bay bị bắn rơi trong mùa khô 1969- 1970 lên 423 chiếc, có 180 chiếc rơi tại chỗ, 68 chiếc rơi đêm. Các trung đoàn công binh cơ động: 98, 279, 1, 10, 217 tiếp tục mở rộng các đường 18, 16, 45, 46, B70, B45, B46, đường tránh Tăng Cát, đường vòng Bạc... Các tiểu đoàn công binh chốt ở các trọng điểm bám chặt đội hình xe, bảo đảm cho xe lăn bánh liên tục.
Các ngầm, cầu, dốc, mặt đường tiếp tục được cải thiện trên các hướng, các đơn vị binh chủng hiệp đồng chiến đấu chặt chẽ.

Đến ngày 16 tháng 4, kế hoạch giao hàng cho chiến trường Nam Bộ đạt 605% kế hoạch, chiến trường Trị - Thiên đạt 102% kế hoạch, chiến trường Tây Nguyên đạt 110% kế hoạch, chiến trường Khu 5 đạt 101% kế hoạch, chiến trường Nam Lào đạt 124% kế hoạch, đồng thời đã đảm bảo hành quân thực hiện 120% kế hoạch, đảm bảo cho nội bộ 94% kế hoạch, giao quân cho chiến trường gần 100% kế hoạch.



Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 11 Tháng Năm, 2010, 06:25:38 pm
Nửa cuối tháng 4, trời bắt đầu đổ những cơn mưa lớn. Ngày 18 tháng 4, Bộ Tư lệnh ra lệnh kết thúc đợt 3 "Tổng công kích"; đồng thời kết thúc cơ bản chiến dịch mùa khô 1969- 1970. Ngày 20 tháng 4, Đảng ủy - Bộ Tư lệnh họp đánh giá toàn bộ chiến dịch mùa khô 1969-1970 và đề ra nhiệm vụ chuẩn bị cho mùa khô 1970- 1971. Đảng ủy, Bộ Tư lệnh thống nhất đánh giá: chiến dịch mùa khô 1969- 1970 hoạt động của ta và địch đã diễn ra ác liệt nhất, quy mô lớn nhất cả về không gian, thời gian và lực lượng tham chiến.

Tư tưởng tiến công được quán triệt trong.các giai đoạn và mọi hoạt động của ta từ chuẩn bị, thực hành, phát triển đến kết thúc chiến dịch. Đây cũng là chiến dịch thắng lợi giòn giã, toàn diện, toàn tuyến, lớn nhất từ trước tới nay, thể hiện sự trưởng thành về vận dụng và phát triển khoa học nghệ thuật quân sự của Đảng vào lĩnh vực vận chuyển chi viện chiến lược trong chiến tranh ngăn chặn quyết liệt của không quân Mỹ.

Đây cũng là chiến dịch được hậu phương miền Bắc, nhất là nhân dân các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, đặc khu Vĩnh Linh hết lòng chi viện; được Thường trực Quân ủy Trung ương và Bộ Tư lệnh chỉ đạo chặt chẽ, được sự giúp đỡ to lớn của bạn Lào, sự phối hợp của các chiến trường và các quân, binh chủng, nhất là Quân chủng Phòng không - Không quân và Binh chủng Công binh.

Thắng lợi của chiến dịch đã góp phần đẩy mạnh tác chiến lớn trên các chiến trường.

Trong cuộc họp ngày 20 tháng 7 năm 1970, Thường trực Quân ủy Trung ương đánh giá về hoạt động của Đoàn 559:

"Đối chiếu với nhiệm vụ 1969-1970 mà Thường trực Quân ủy Trung ương giao thì Đoàn 559 đã giành được thắng lợi to lớn và toàn diện. Thắng lơi đó góp phần rất quan trọng vào chiến thắng của toàn quân và dân ta trên khắp các chiến trường. Đồng thời đã rút được nhiều kinh nghiệm mới, mở ra triển vọng mới về khả năng chi viện chiến lược ngày càng vững chắc trong những điều kiện khó khăn quyết liệt hơn".

Đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi điện biểu dương: "Kế thừa các năm trước, mùa khô 1969- 1970 này, tuyến đường Trường Sơn đã thực hiện thành công bất ngờ, góp phần thúc đẩy mạnh mẽ các chiến trường đánh lớn hơn, dài ngày hơn, rộng khắp hơn. Bộ Chính trị - Quân ủy Trung ương rất vui mừng. Thay mặt Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh, tôi nhiệt liệt chúc mừng cán bộ, chiến sĩ các binh chủng, thanh niên xung phong, dân công... đã làm nên thành tích xuất sắc năm 1970". Các Bộ Tư lệnh chiến trường Trị - Thiên, Quân khu 5, Tây Nguyên, Nam Bộ đều gửi điện chúc mừng thắng lợi của Đoàn 559.

Nhân dịp kỷ niệm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, ngày 22 tháng 12 năm 1969 và Cách mạng Tháng Tám, năm 1970, Đảng, Nhà nước quyết định tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang cho 12 đơn vị và 4 cá nhân thuộc Đoàn 559.

Sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước đem đến nguồn lực mới, có sức động viên to lớn bộ đội, thanh niên xung phong trên toàn tuyến phấn khởi quyết tâm giành thắng lợi lớn hơn nữa trong mùa khô 1970- 1971


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 13 Tháng Năm, 2010, 05:25:15 pm
V. MỘT CHIẾN TRƯỜNG TRONG CHIẾN TRƯỜNG LỚN

Sau những thất bại trong cuộc hành quân xâm lược Campuchia vào đầu năm 1970, Tổng thống Mỹ Níchxơn vẫn cho rằng kế hoạch "bình định" ở miền Nam đã có kết quả, quân ngụy Sài Gòn được xây dựng mạnh lên. Ở chiến trường miền Nam còn có 28 vạn quân Mỹ và 70 vạn quân ngụy. Ở chiến trường Cam-pu-chia có 12 vạn quân của Lon non. Ở chiến trường Lào có 8 vạn quân Hoàng gia và phỉ Vàng Pao cùng 10 tiểu đoàn quân Thái Lan. Với lực lượng quân sự hùng hậu. Níchxơn cho rằng cần tranh thủ hành động nhằm thực hiện mục tiêu của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh", tạo vốn chính trị để giành thắng lợi trong cuộc tranh cử tổng thống năm 1972.

Đánh giá đúng bản chất hiếu chiến của Níchxơn và những âm mưu thủ đoạn mới của Mỹ - ngụy, Bộ Chính trị nhận định: Trong mùa khô 1970- 1971, địch có thể mở những cuộc tiến công quy mô vừa và lớn bằng lực lượng quân ngụy miền Nam là chủ yếu, có một bộ phận quân Mỹ hỗ trợ. Mục tiêu của địch là đánh vào Trung - Hạ Lào và vùng đông bắc Campuchia nhằm phá cơ sở cách mạng của hai nước bạn, đồng thời phá hủy cơ sở hậu cần và cắt đứt tuyến hành lang vận tải chiến lược của ta, cô lập chiến trường miền Nam, tiếp tục thực hiện chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh", giành thế mạnh trong đàm phán.

Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đề ra những chủ trương mới, trong đó nhấn mạnh yêu cầu bảo vệ tuyến vận tải chiến lược và căn cứ hậu phương chiến lược của chiến trường ba nước Đông Dương.

Tháng 6 năm 1970, Bộ Chính trị quyết định thành lập Hội đồng Chi viện tiền tuyến Trung ương nhằm động viên hơn nữa nỗ lực của quân và dân ở miền Bắc, phát huy sức mạnh của hậu phương lớn phục vụ các chiến trường. Đồng chí Đỗ Mười - ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng, được Chính phủ cử làm Chủ tịch Hội đồng.

Bộ Chính trị phê duyệt đề nghị của Quân ủy Trung ương về việc thành lập Bộ Tư lệnh khu vực 470 trực thuộc Bộ Tư lệnh Trường Sơn, nhằm xây dựng khu căn cứ chiến lược ở vùng biên giới giữa ba nước, trực tiếp vận chuyển phục vụ chiến trường Hạ Lào, đông bắc Campuchia, Tây Nguyên và Nam Bộ. Đồng chí Lê Đình Sum - Phó Tư lệnh Đoàn 559 được cử làm Tư lệnh. Đồng chí Bùi Đức Tạm - Phó Chính ủy Đoàn 559 được cử làm Chính ủy Bộ Tư lệnh khu vực.

Theo đề nghị của Bộ, Chính phủ ra quyết định bổ nhiệm các đồng chí Phan Hữu Đại, Vũ Quang Bình làm Phó Chính ủy; Hoàng Anh Vũ, Nguyễn Kỷ, Nguyễn Đức Phương làm Phó Tư lệnh. Nhưng sau đó đồng chí Lê Đình Sum được Bộ Tư lệnh cử phụ trách Bộ Tham mưu. Đồng chí Nguyễn An vào thay đồng chí Lê Đình Sum. Đồng chí Phan Hữu Đại được cử làm Phó Chủ nhiệm Cục Chính trị. Đồng chí Cao Tâm vào thay đồng chí Phan Hữu Đại.

Cơ quan Bộ Tư lệnh gồm các đồng chí: Trần Vinh - Tham mưu trưởng tác chiến, Hoàng Anh Vũ kiêm Tham mưu trưởng vận chuyển, Chu Minh Đông - Tham mưu trưởng công binh, Vũ Quang Bình kiêm Chủ nhiệm chính trị, Nguyễn Tương Phùng Chủ nhiệm hậu cần.

Nhiệm vụ của Sư đoàn 470 là trực tiếp vận chuyển phục vụ chiến trường Nam Bộ, Tây Nguyên, Hạ Lào và đông bắc Campuchia; xây dựng căn cứ địa nam Đông Dương; chiến đấu bảo vệ tuyến vận chuyển chiến lược khu vực cực nam; giúp bạn xây dựng và bảo vệ vùng giải phóng; khai thác nguồn hàng tại chỗ; đẩy mạnh tăng gia sản xuất, bảo đảm tự tức một phần lương thực.

Phạm vi hoạt động của Sư đoàn được xác định từ khu vực ngã ba biên giới trở vào Plây Khốc và đường ngang số 49 từ Phi Hà đến Tà Ngâu; đường sông Sê Kông, Sê Xan, Mê Kông từ Sê Ca Mán đến Kra Chim (Campuchia). Bộ Tư lệnh Sư đoàn được giao trách nhiệm như tiền phương của Bộ Tư lệnh 559, trực tiếp quan hệ với các chiến trường ta, bạn; nắm bắt và bảo đảm kịp thời các yêu cầu chi viện của các chiến trường, đồng thời xử lý các tình huống cấp thiết. Bộ Tư lệnh Sư đoàn được quản lý 3 binh trạm (37, 50, 51), trung đoàn 4 công binh và một số đơn vị trực thuộc khác.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 13 Tháng Năm, 2010, 05:25:57 pm
Ngày 26 tháng 6 năm 1970, Thường trực Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng triệu tập Bộ Tư lệnh 5 59 ra Hà Nội nhận nhiệm vụ mùa khô 1970- 1971. Đoàn gồm các đồng chí: Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên, Chính ủy Vũ Xuân Chiêm, Phó Tư lệnh Nguyễn Lang, Phó Chính ủy Bùi Đức Tạm.

Đại tướng Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Võ Nguyên Giáp, Bí thư Quân ủy Trung ương, Thượng tướng Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng, Trung tướng Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Song Hào, Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần Đinh Đức Thiện đã trực tiếp giao nhiệm vụ cho Bộ Tư lệnh.

Đồng chí Bộ trưởng nêu rõ: Từ khi Lon non nắm chính quyền ở Campuchia, cảng Xihanúcvin bị khóa chặt, tuyến vận chuyển chiến lược 559 trở thành tuyến duy nhất thực hiện nhiệm vụ chi viện từ miền Bắc vào miền Nam.

Vì vậy một trong những mục tiêu chiến lược rất quan trọng của Mỹ là dùng sức mạnh tổng lực cắt đứt tuyến đường Hồ Chí Minh, nhằm loại bỏ thảm họa đối với chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" của chúng.

Sắp tới chúng sẽ đặc biệt chú trọng đánh phá vùng Trung - Hạ Lào và vùng đông bắc Campuchia. Không những bằng không quân, biệt kích mà có thể dùng những lực lượng bộ binh lớn của ngụy quân miền Nam, Lào, Thái Lan và Cam pu chia, khi cần có thể dùng cả bộ binh Mỹ để mở cuộc tiến quân bằng binh chủng hợp thành quy mô lớn.

Hướng tiến công chủ yếu có khả năng là địa bàn đường 9, Nam Lào. Địch có thể tổ chức cuộc hành quân bằng lực lượng cơ động dự bị chiến lược, thực hiện chiến thuật "Trực thăng vận" đổ quân xuống các điểm cao nam - bắc đường 9, kết hợp mũi tiến công bằng bộ binh cơ giới vượt Lao Bảo tiến lên Sê Pôn, hợp điểm với quân ngụy Lào, Thái đánh từ Mường Pha Lan xuống nhằm chiếm toàn bộ đường 9, cắt hẳn tuyến chi viện chiến lược.

Vì vậy, Bộ Tư lệnh Trường Sơn phải theo dõi và chuẩn bị cho tình huống này. Tuyến chi viện chiến lược Trường Sơn có lực lượng binh chủng hợp thành mạnh, rất quen thuộc chiến trường, phải là một trong những lực lượng tác chiến chủ yếu của chiến dịch, đồng thời là lực lượng tại chỗ đánh địch và là căn cứ hậu cần chiến dịch.

Trong bất cứ tình huống nào, Bộ đội Trường Sơn cũng phải thực hiện sự chi viện tớn hơn, sâu hơn, xa hơn, bảo đảm được các yêu cầu trước mắt, đồng thời có một phần dự trữ cho các chiến trường. Mặt khác, phải chuẩn bị phương án sẵn sàng đối phó với mọi tình huống ngăn chặn của địch. Phải có kế hoạch cơ bản, toàn diện về xây dựng vùng ba biên giới thành căn cứ vững chắc về mọi mặt.

Ngày 30 tháng 6 năm 1970, Đảng ủy Bộ Tư lệnh Trường Sơn họp quán triệt tình hình nhiệm vụ theo yêu cầu của Bộ Chính trị và sự chỉ đạo của Quân uỷ Trung ương.

Căn cứ vào những nhận định của Quân ủy Trung ương và thực tiễn chiến trường, Đảng ủy Bộ Tư lệnh cho rằng hiện nay chiến tranh đã thực sự mở rộng ra cả ba nước Đông Dương. Nhân dân Đông Dương đã hình thành liên minh chống đế quốc và đã giành được thắng lợi, đang phát triển mạnh mẽ về thế và lực

Về phía Mỹ, chúng ngày càng nhận rõ giá trị chiến lược của tuyến hành lang đối với sự thành bại của chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh". Sự thành công của tuyến vận tải chiến lược trong mùa khô 1970-1971 sẽ tạo điều kiện cho các chiến trường miền Nam có cơ sở để chuyển hướng tiến công, nắm lấy nông thôn thay đổi cục diện. Vì vậy, chứng sẽ dùng mọi thủ đoạn, tập trung lực lượng không quân ngày càng lớn đánh phá tuyến đường và vùng giải phóng của bạn, kết hợp bộ binh nống ra ngăn chặn.

Sắp tới địch có thể mở chiến dịch binh chủng hợp thành nống ra đường 9, ngã ba La Hợp, ngã ba Phi Hà hoặc Khâm Đức nhằm cắt tuyến vận tải của ta trên các hướng vào chiến trường. Ở phía tây, chúng có thể nống ra Sa Ra Van, A Tô Pơ, Mường Phin.

Có hai khả năng: một là sử dụng bộ binh lớn chốt thành tuyến phòng ngự, ngăn chặn; hai là dùng đơn vị vừa hoặc nhỏ để quấy phá ta. Chúng có thể kết hợp cả phía đông và phía tây, kết hợp cả quân Mỹ, quân ngụy miền Nam, ngụy Lào và quân Thái Lan. Thời gian nống ra có thể trong mùa mưa 1970, cũng có thể đầu mùa khô 1971.

Với nhận định đó Đảng ủy Bộ Tư lệnh 559 chủ trương trong mùa mưa 1970 chỉ rút một bộ phận nhỏ thuộc lực lượng cơ giới ra miền Bắc để củng cố, bổ sung phương tiện; tuyệt đại đa số ở lại để chuẩn bị thế trận cho nhiệm vụ chi viện chiến lược và chuẩn bị chiến trường, sẵn sàng đối phó với các cuộc hành quân của địch; đồng thời tiếp tục củng cố xây dụng lực lượng, huấn luyện bộ đội.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 13 Tháng Năm, 2010, 05:26:31 pm
Do tầm quan trọng của mùa khô 1970-1971, Bộ Tư lệnh Trường Sơn được Bộ Tổng tham mưu, các tổng cục quan tâm chỉ đạo, giúp đỡ. Về quân số, Bộ bổ sung 24.114 người, trong đó có 3.335 lái xe, 382 thợ sửa chữa, 124 kỹ thuật viên đường ống. Về phương tiện, bổ sung 3.657 ô tô các loại, 96 máy húc, 64 xe BTR phóng từ, 188 xe ben. Về lực lượng làm đường, tăng cường và phối thuộc 3 trung đoàn công binh (219, 83, 7). Về lực lượng tác chiến, phối thuộc 6 trung đoàn phòng không, trong đó có 4 trung đoàn cao xạ (282, 224, 284, 230) 2 tiểu đoàn cao xạ ( 105, 11) và 2 trung đoàn tên lửa phòng không (238, 275).

Để thống nhất thành một chiến trường, nhằm đối phó với mọi âm mưu của địch ngăn chặn từ trên không và mặt đất, bảo vệ tuyến vận tải chiến lược, củng cố và mở rộng vùng giải phóng của bạn, giúp bạn xây dựng cơ sở chính trị, quân sự, kinh tế một cách toàn diện, ngày 29 tháng 7 năm 1970, Quân ủy Trung ương quyết định sáp nhập Đoàn 968 quân tình nguyện và Đoàn chuyên gia quân sự 565 ở Trung - Hạ Lào vào Đoàn 559.

Bộ cũng quyết định đổi tên Bộ Tư lệnh 559 thành Bộ Tư lệnh Trường Sơn trực thuộc Bộ Quốc phòng, về Đảng trực thuộc Quân ủy Trung ương. Đoàn 968 quân tình nguyện được bố trí trên hai hướng: X (khu vực đường 9, Mường Phin, Pha Lan) và Z (khu vực A Tô Pơ, Bô Lô Ven, Sa Ra Van).

Theo đề nghị của Bộ Tư lệnh Trường Sơn, tháng 10 năm 1970, Bộ Tổng tham mưu quyết định thành lập Trung đoàn cao xạ 593, Trung đoàn 592 đường ống, Binh trạm 39, Trường đào tạo lái xe 963, Trường quân chính 969, khôi phục lại Trung đoàn 591 cao xạ...

Bộ cũng cho phép thành lập Đoàn hậu cứ 571 đứng chân tại nam Quảng Bình có nhiệm vụ thu dung điều trị và an dưỡng thương, bệnh binh của nội bộ Đoàn; quản lý và tổ chức việc giao nhận xe, phương tiện kỹ thuật và quân bổ sung; huấn luyện bổ túc cán bộ đào tạo lái xe và thợ sửa chữa; làm công tác chính sách hậu phương; đón tiếp và hướng dẫn khách vào tuyến.

Như vậy, bước vào mùa khô 1970-1971, số quân của Bộ Tư lệnh Trường Sơn lên tới 62.992 người. Về đơn vị, có 4 sư đoàn và tương đương, gồm Bộ Tư lệnh khu vực 470, Sư đoàn bộ binh 968, Đoàn chuyên gia 565, Đoàn hậu cứ 571, 30 binh trạm, trung đoàn và tương đương, 144 tiểu đoàn và tương đương trực thuộc binh trạm.

Ban Bí thư Trung ương Đảng, Quân uỷ Trung ương tăng cường cho Bộ Tư lệnh Trường Sơn nhiều cán bộ cao cấp. Các đồng chí Hoàng Thế Thiện, Nguyễn Lệnh làm Phó Chính ủy Bộ Tư lệnh; các đồng chí Cao Văn Khánh, Nguyễn Hòa, Hoàng Kiện, Nguyễn Quang Bích làm Phó Tư lệnh; đồng chí Nguyễn Quang Bích nguyên là Phó Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân.

Chuẩn bị bước vào mùa khô 1970- 1971, Đảng ủy Bộ Tư lệnh Trường Sơn ra một loạt quyết định: trước hết là xây dựng thế trận vận chuyển chiến lược kết hợp với thế trận tác chiến để đối phó với các cuộc hành quân bằng bộ binh của Mỹ - ngụy nhằm đánh phá cơ sở hậu cần, ngăn chặn tuyến hành lang chiến lược của ta; mở thêm hướng vượt khẩu đường 16 đảm bảo vận tải bằng ô tô và cơ động binh khí kỹ thuật tiếp cận nhanh với chiến trường Trị - Thiên, tạo ra một chính diện vượt khẩu vào Trường Sơn từ đông sang tây có khoảng cách 200 km; củng cố, nâng cấp, sửa chữa đường 20, đường 12, đường 19, khôi phục đường 23, 21 B, mở thêm 10 đường vòng, đường tránh liên tục tạo thành đường 22 từ Sa Đi vào Bạc chạy song song với đường 128; mở thêm bến vượt Sê Pôn, đảm bảo có 3 bến, 2 ngầm, 1 phà; bến vượt qua Tha Mé đảm bảo có 6 bến, 3 phà, 3 ngầm; bến vượt Bạc thứ hai ở đường 22, đảm bảo có 2 phà, 1 ngầm; làm cầu nổi ở các sông hẹp.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 13 Tháng Năm, 2010, 05:27:25 pm
Cuối tháng 9, Đại tướng Võ Nguyên Giáp vào làm việc với Bộ Tư lệnh Trường Sơn tại tỉnh Quảng Bình. Tham gia làm việc có một số đồng chí trong Bộ Tư lệnh: Đồng Sĩ Nguyên, Cao Văn Khánh, Hoàng Thế Thiện, Lê Xy, Nguyễn Lang, Lê Đình Sum. 

Sau khi nghe đồng chí Đồng Sỹ Nguyên báo cáo mọi mặt công tác trên tuyến, Đại tướng nêu rõ: Theo dự đoán của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 18, địch có thể trở lại ném bom, bắn phá miền Bắc và mở rộng chiến tranh trên đất Lào và Campuchia để củng cố chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh".

Trên các chiến trường miền Nam, ta đang phát triển mạnh, khả năng Mỹ ngụy có thể sử dụng binh lực lớn, cắt đứt tuyến vận chuyển chi viện 559. Trước mắt, Bộ Tư lệnh Trường Sơn phải bằng mọi nỗ lực đảm bảo vận tải chi viện chiến lược cho các chiến trường. Đồng thời, phải phối hợp với bạn Lào tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng thêm đất đai, bảo vệ vững chắc tây Trường Sơn, nhanh chóng mở đường đông Trường Sơn thông suốt từ Cù Bai (tây Quảng Trị) đến phía tây tỉnh Thừa Thiên. Mở nhanh đường 71 vào hướng Bình Điền (tây Thừa Thiên) chuẩn bị nối đường từ A Lưới đến Khâm Đức (Quảng Nam). Chuẩn bị kế hoạch đảm bảo và phối hợp với bộ đội chủ lực của Bộ đánh địch có hiệu quả nhất nếu chúng liều lĩnh mở cuộc hành quân lên tây Trường Sơn.

Đầu tháng 11 năm 1970, Mỹ - ngụy âm mưu sử dụng binh lực lớn, cắt hẳn tuyến Trường Sơn cả đông và tây ở khu vực đường 9 từ Lao Bảo trên đất Việt Nam đến Mường Phìn trên đất bạn Lào bằng một cuộc hành quân lớn của các binh đoàn thiện chiến. Mỹ sẽ chốt một lực lượng không quân ở Quảng Trị, Huế, Đà Nẵng, trên các tàu sân bay ngoài biển và các căn cứ ở Thái Lan nhằm thực hiện công thức: bộ binh ngụy Việt - Lào - Thái cộng với chỉ huy, hỏa lực và hậu cần Mỹ.

Biết được kế hoạch này, Bộ Tư lệnh đã báo cáo với Tổng Tham mưu trưởng các mặt chuẩn bị đường sá, tác chiến bộ binh, phòng không, thông tin, khả năng vận chuyển chiến lược và phục vụ chiến dịch nếu xảy ra chiến sự ở đường 9, cũng như khả năng của Bộ đội Trường Sơn và bạn Lào tác chiến trên địa bàn phía tây Trung - Hạ Lào.

Căn cứ vào phán đoán của Trung ương và Quân ủy Trung ương, Đảng ủy Bộ Tư lệnh Trường Sơn chủ động chuẩn bị bốn nhiệm vụ cấp bách:

Một là, giữ vững và đẩy mạnh vận tải chiến lược, tranh thủ dồn nhanh hàng vào nam đường 9, chủ động đối phó khi địch cắt đứt đường 9.

Hai là, chuẩn bị chiến trường, tổ chức vận chuyển chiến dịch đảm bảo hậu cần trực tiếp cho mặt trận đường 9, cả Đông, Tây Trường Sơn và Trị - Thiên.

Ba là, thống nhất chỉ huy các lực lượng tác chiến phía tây Trường Sơn thành một cánh của chiến dịch đặt dưới sự chỉ huy của Bộ Tư lệnh chiến dịch đường 9. Đảng ủy Bộ Tư lệnh nhận định: nếu địch hành quân đánh chiếm tuyến vận tải chiến lược, nhất định chúng phải thực hiện chiến thuật trực thăng vận một cách quy mô, vì vậy cần bố trí lại thế trận tác chiến phòng không, điều các trung đoàn, tiểu đoàn cao xạ tổ chức thêm nhiều phân đội súng máy 12,7 ly, 14,5 ly chốt ở các điểm cao nam - bắc đường 9, nơi dự kiến chúng sẽ đổ quân tạo thành lưới lửa mạnh, đánh bại chiến thuật trực thăng vận, đưa chúng vào thế bị động, rối loạn ngay từ đầu.

Bốn là, phối hợp với bạn Lào tiêu diệt cánh quân ngụy Lào và Thái ở phía tây, đẩy chúng ra xa, đảm bảo an toàn tuyến vận chuyển chiến lược và không cho chúng hợp điểm với cuộc hành quân của Mỹ - ngụy từ hướng đông lên.

Thường vụ Đảng ủy Bộ Tư lệnh quyết định triển khai ngay nhiệm vụ vận chuyển chiến lược, đồng thời chuẩn bị tích cực các nhiệm vụ khác.

Phương án làm đường goòng được hủy bỏ vì thiếu tính khả thi nên phương án đẩy nhanh việc xây dựng hướng vượt khẩu đường 16 nhằm đón trước thời cơ khi xảy ra chiến sự lớn trên đường 9, đường 16 sẽ trở thành hướng chủ yếu để tập kết lực lượng, cơ động binh khí kỹ thuật chiến dịch.

Đẩy mạnh xây dựng tuyến đường ống kéo vào Mường Noọng, xây dựng các kho xăng dầu bằng bể sắt, các phuy cố định và bể cao su tại Bản Đông, Mường Noọng, La Hạp. Xây dựng mạng thông tin kéo dài tới Bộ Tư lệnh khu vực 470 và trục đường 16.

Hiệp đồng với Cục Vận tải - Tổng cục Hậu cần tổ chức cho các binh trạm 25, 26 vượt cung lên phía trước, đẩy hàng vượt khẩu sâu hơn tạo điều kiện cho các binh trạm phía nam vượt cung.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 13 Tháng Năm, 2010, 05:28:06 pm
Trung tuần tháng 10 năm 1970, việc chuẩn bị thế trận cơ bản hoàn thành. Nhưng khi quân ta chuẩn bị ra quân thì không quân Mỹ tập trung đánh phá dữ dội các cửa khẩu và một số trọng điểm quan trọng.

Để kéo bớt địch và giảm mật độ xe ở hướng đường 20, Bộ Tư lệnh nhanh chóng tăng cường lực lượng công binh khôi phục hướng vượt khẩu đường 12, tăng cường Trung đoàn cao xạ 284 và 1 tiểu đoàn tên lửa bảo vệ hướng này. Tham mưu phó vận tải Nguyễn Việt Phương được cử xuống phụ trách khôi phục hướng vượt khẩu đường 12.

Ngày 1 tháng 12 năm 1970, trên đường 20, bộ đội phòng không phóng 1 quả tên lửa vào tốp B52 đang hướng tới trọng điểm Chà Là. Tuy không diệt được mục tiêu nhưng đã làm cho địch phải ngừng đánh phá Chà Là 14 ngày, tản ra đánh các trọng điểm khác, chủ yếu tập trung vào cửa khẩu đường 16 và 18. Sau khi đường tránh QZ25 hoàn thành, điểm Chà Là được giải tỏa, đường 20 - hướng đột kích chủ yếu thông suốt hên tục.

Từ tháng 10 đến tháng 12, các binh trạm gặp khó khăn nghiêm trọng do cản trở của thời tiết và địch đánh phá. Các đồng chí trong Bộ Tư lệnh đã phân công nhau xuống các binh trạm chỉ đạo khắc phục. Các cấp chỉ huy binh trạm đều ra mặt đường động viên bộ đội chống phá hoại, làm đường.

Đầu tháng 12 năm 1970, thời tiết ngày càng thuận lợi, các đơn vị tranh thủ đẩy nhanh tiến độ xây dựng thế trận mùa khô. Sau khi kiểm tra toàn diện, Bộ Tư lệnh quyết định: hoàn thành gấp đường tránh Phu La Nhích và Ka Tốc, phá triệt để thế độc đạo ở hướng chủ yếu đường 20; mở rộng toàn bộ đường 16; củng cố và bảo vệ các căn cứ xuất phát tiến công, tăng cường sửa chữa, nâng cao hệ số kỹ thuật phương tiện vận tải cơ giới và tỷ lệ lái xe; bảo đảm vững chắc khâu nhiên liệu, lập chân hàng cân đối trên các cung, bảo vệ vững chắc bốn hướng vượt khẩu.

Bộ Tư lệnh nhấn mạnh yêu cầu tổ chức chỉ huy đồng bộ cả phía trước, phía sau, chỉ huy hai đầu trọng điểm và chính giữa trọng điểm, củng cố các mạng thông tin để chỉ huy hiệp đồng binh chủng tại sở chỉ huy cơ bản, sở chỉ huy tiền phương của Bộ Tư lệnh và các binh trạm; điều chỉnh vị trí chỉ huy, cử cán bộ có năng lực vào các binh trạm trọng yếu; tích cực chuẩn bị đội ngũ cán bộ; tăng cường chỉ đạo xây dựng hậu cứ, đặc biệt là chỉ đạo khâu bổ sung tiếp nhận người và phương tiện kịp thời cho các binh chủng.

Với hàng loạt biện pháp được các cấp ráo riết thực hiện, ngày 15 tháng 12 năm 1970, Bộ Tư lệnh ra lệnh mở màn "chiến dịch" mùa khô 1970- 1971.

Phát hiện hoạt động của ta, địch tăng cường ngăn chặn trên toàn tuyến. Các loại máy bay B52, cường kích, liên tục dội bom trên hầu hết các trọng điểm. Tuy nhiên, do đã có kinh nghiệm và bản lĩnh chiến đấu vững vàng, nên sau 10 ngày ra quân, đội hình vận tải ngày càng phát huy sức mạnh.

Đến cuối tháng 12 năm 1970, vận chuyển vượt đường 9 được 12.708 tấn, vượt Bạc 6.384 tấn, vượt Chà Vằn 1.156 tấn, giao cho Trị - Thiên và Khu 5 được 1.358 tấn.

Ngày 10 tháng 12, 3 tiểu đoàn ngụy Lào và Thái nống ra khu vực Mường Phin, uy hiếp trục vận chuyển hướng tây, Trung đoàn 29 bộ binh được lệnh của Bộ Tư lệnh đã phối hợp với phân đội xe tăng, pháo mặt đất đánh bật chúng về Đồng Hến.

Với phương châm vừa đẩy mạnh vận chuyển chiến lược, vừa khẩn trương chuẩn bị đối phó với cuộc hành quân lớn của bộ binh địch đánh chiếm Sê Pôn, Tha Mé cửa ngõ vận chuyển tiến vào các binh trạm phía nam, Bộ Tư lệnh điều 2 trung đoàn công binh 10, 98 mở trục ngắn 36 km đường 129 từ Na Phi Lăng qua Na Ka Nông xuống đường 9, nối với đường 23 tạo thành một trục vận chuyển phía tây chọc thẳng xuống Sa Ra Van.

Tranh thủ thời cơ khi địch chưa mở cuộc hành quân lên đường 9, Bộ Tư lệnh yêu cầu đẩy nhanh hàng vượt đường 9, đồng thời chủ động phối hợp với các quân binh chủng chuẩn bị tiêu diệt sinh lực địch, bảo vệ an toàn tuyến hành lang chiến lược.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 13 Tháng Năm, 2010, 05:29:01 pm
Mùa khô 1970-1971 địch đánh phá dữ dội. Các trọng điểm Xiêng Phan trên cửa khẩu đường 12; cua chữ A - Ta Lê - Phu La Nhích; Chà Là trên cửa khẩu đường 20; Chà Lì - Sê Băng Hiếng trên cửa khẩu đường 16; đèo 900 trên cửa khẩu đường 18; Văng Mu, Tha Mé trên đoạn yết hầu vượt đường 9; La Hạp, Bạc, Tăng Cát, Bô Phiên trên đường 128; Động Con Tiên trên đường B45 vào chiến trường Trị - Thiên và bắc Khu 5; dốc Trực trên đường 49A, nối với đường 128 đi về Tây Nguyên và Nam Bộ, bị đánh phá ác liệt nhất. Có trọng điểm bị đánh phá tới 300 quả bom các loại trong một ngày. Một số sở chỉ huy binh trạm và sở chỉ huy Bộ Tư lệnh cũng bị đánh bom.

Trung tuần tháng 1 năm 1971, Tổng Tham mưu trưởng cử đồng chí Phan Hàm vào tuyến 559 truyền đạt dự lệnh cụ thể: Địch sẽ sử dụng lực lượng lớn bộ binh của ngụy miền Nam, quân Hoàng gia Lào và quân Thái Lan được sự yểm trợ của không quân Mỹ mở chiến dịch cắt đứt tuyến vận tải chiến lược Trường Sơn ở trục đường 9. Địch có thể sử dụng trực thăng để thả quân chốt các điểm cao nam - bắc đường 9 và dùng lực lượng bộ binh cơ giới cùng xe tăng, thiết giáp thọc lên Sê Pôn hợp điểm với cánh quân ngụy Lào, Thái Lan từ Mường Phin sang nhằm chặn đứng tuyến hành lang chiến lược, thực hiện sự kiểm soát lâu dài.

Cùng ngày, Phó Tổng Tham mưu trưởng Lê Trọng Tấn điện cho Tư lệnh Bộ đội Trường Sơn yêu cầu cử cán bộ đến Trung đoàn 64 bộ binh của Sư đoàn 320 đang trên đường hành quân vào hưởng chiến trường Tây Nguyên, trung đoàn pháo 168 đang trú quân ở bắc Tà Khống để truyền đạt mệnh lệnh của Bộ ở lại tham gia chiến dịch.

Đồng chí Ngô Huy Biên được lệnh đi cùng đồng chí Hà Kỳ Thự - Phó phòng hành quân tìm gặp được Quyền Trung đoàn trưởng trung đoàn 64 Khuất Duy Tiến phổ biến mệnh lệnh của Bộ chuyển hướng sang Bản Đông trực tiếp giúp trung đoàn tiếp nhận thêm vũ khí và bắt liên lạc bằng điện thoại với đồng chí Trịnh Tráng là Tham mưu phó Sư đoàn 308 đang ở Bản Đông.

Nhờ hệ thống thông tin của chiến trường Trường Sơn được xây dựng đồng bộ và tương đối hiện đại, mệnh lệnh của Bộ đã được thực hiện kịp thời. Đồng chí Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng đã đánh giá cao hệ thống thông tin của Bộ Tư lệnh Trường Sơn.

Do được phổ biến sớm về dự kiến của Bộ, từ tháng 10 năm 1970, Bộ Tư lệnh Đoàn 559 đã chủ động điều chỉnh lực lượng, chủ yếu là lực lượng cao xạ và công binh theo hướng phục vụ tác chiến chiến dịch.

Theo chỉ thị của Bộ Tổng tham mưu, Bộ Tư lệnh 559 đã tổ chức cuộc họp với đại diện các quân binh chủng phòng không, không quân, pháo binh, công binh... các sư đoàn 308, 304, 324 tại cơ quan tham mưu Bộ Tư lệnh Đoàn 559 nhằm thống nhất kế hoạch hiệp đồng tác chiến khi địch đánh ra đường 9. Sau khi nhận được mệnh lệnh chính thức của Bộ Tổng tham mưu, Bộ Tư lệnh 559 nhanh chóng triển khai thế trận tác chiến tại chỗ.

Tối ngày 28 tháng 1 năm 1971, Thường vụ Đảng ủy, Bộ Tư lệnh họp quyết định:

- Sáp nhập mặt trận X và Z thành mặt trận Y phụ trách toàn bộ địa bàn Hạ Lào, tác chiến trên các hướng Sa Ra Van, Sê Pôn, Bô Lô Ven, Pắc Xoong, A Tô Pơ, kiên quyết chặn đứng địch nống ra vùng giải phóng hòng uy hiếp tuyến vận tải chiến lược. Cử Phó Tư lệnh Hoàng Kiện làm Chỉ huy trưởng kiêm Chính ủy mặt trận. Hoàng Biền Sơn và Phạm Thanh Sơn làm Chỉ huy phó, Nguyễn Ngọc Sơn làm Phó Chính ủy, Trần Soạn làm Tham mưu trưởng, Hồ Sỹ Lộc làm Chủ nhiệm chính trị.

- Kiện toàn mặt trận R, tác chiến trên hướng Pha Lan, Đồng Hến, Keng Chọc ở Trung Lào, kiên quyết giữ vững đường 23 và Mường Phin. Cử các đồng chí Tô Đình Khản nguyên Phó Tư lệnh Đoàn 968 làm Chỉ huy trưởng, Lê Văn Hiếu làm Chỉ huy phó, Hoàng Căn Nguyên làm Chính ủy.

- Thành lập tiền phương Bộ Tư lệnh Trường Sơn phụ trách hướng phối hợp chiến dịch ở phía tây Trung - Hạ Lào theo chỉ thị của Bộ, cử đại tá Phó Tư lệnh Nguyễn Hòa và đại tá Phó Chính ủy Hoàng Thế Thiện trực tiếp chỉ huy các lực lượng trực thuộc và phối thuộc của Đoàn, phối hợp với các đơn vị bạn tiêu diệt, chặn đứng quân ngụy Lào và quân Thái Lan nếu chúng đánh xuống Mường Phin để phối hợp với quân ngụy Sài Gòn chiếm khu vực Tha Mé - Sê Pôn hòng cắt ngang trung tâm tuyến vận tải chiến lược.

- Phân công Phó Tư lệnh Nguyễn Quang Bích chỉ đạo hoàn thiện thế trận phòng không đánh bại chiến thuật "trực thăng vận" của địch. Phó Tư lệnh Nguyễn Lang đặc trách chỉ huy vận chuyển chiến lược và vận chuyển chiến dịch. Phó Chính ủy Nguyễn Lệnh phụ trách khối chuyên gia giúp bạn phát động các đia phương chiến đấu chống thám báo biệt kích và tham gia phục vụ chiến dịch. Phó Chính ủy Lê Xy đặc trách chỉ đạo công tác Đảng, công tác chính trị. Phó Tư lệnh Nguyễn An trực tiếp chỉ đạo đốc chiến các binh trạm phía nam.

- Giao cho Bộ Tư lệnh khu vực 470 đẩy mạnh thu mua tại chỗ; vận chuyển đảm bảo kịp thời cho Nam Bộ và Tây Nguyên; đồng thời sẵn sàng đối phó với địch đánh ra Phi Hà, Xê Sụ (ngã ba biên giới).


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 13 Tháng Năm, 2010, 05:29:43 pm
Ngày 29 tháng 1 năm 1970, Bộ Tư lệnh triệu tập gấp cán bộ chủ trì các binh trạm 27, 9, 41, 34, 32, 31, 14, 12 giao nhiệm vụ:

- Duy trì mạnh mẽ vận chuyển chiến lược sẵn sàng tác chiến tại chỗ với mọi vũ khí có trong tay, bằng mọi loại hình chiến đấu, bắn máy bay trực thăng đổ bộ, tập kích, phục kích đánh bộ binh, xe tăng, thiết giáp địch với quy mô thích hợp, từng lúc từng nơi. Sẵn sàng phục vụ chiến dịch theo điều động của Bộ Tư lệnh mặt trận.

Các binh trạm 32, 33 có nhiệm vụ vừa vận chuyển chiến lược, vừa vận chuyển chiến dịch và tác chiến tại chỗ. Các binh trạm cánh đông đường 9 (gồm các binh trạm 9, 27, 41) chuyển hẳn sang vận chuyển phục vụ chiến dịch và là lực lượng tại chỗ đánh địch cả trên không, mặt đất. Ngoài các tiểu đoàn cao xạ trong biên chế, mỗi binh trạm khu vực này phải tổ chức thêm 5 đại đội súng máy 12,7 ly. Bộ binh hóa toàn bộ các lực lượng công binh kho, giao liên. Những lực lượng trên được trang bị đủ súng bộ binh, một số cối 81 và mìn chống tăng. Các binh trạm khác trên toàn tuyến mỗi binh trạm tổ chức một đại đội súng máy 12,7 ly hoặc 14,5 ly tăng cường cho bộ đội cao xạ hướng đường 9.

- Tạm ngừng vận chuyển chiến lược trục Bản Đông đi La Hạp, vì Bản Đông có khả năng bị đánh chiếm.

Bộ Tư lệnh xác định quyết tâm tổ chức tại bắc và nam đường 9 bảy khu vực tác chiến tại chỗ ở đoạn chính diện Bản Đông đến tây Mường Phin dài 100 km, tâm điểm là tam giác Bản Đông - Tha Mé - La Hạp với thế trận phòng không liên hoàn tầng cao, tầng thấp giăng khắp những nơi địch sẽ đến, kết hợp với thế trận phục kích, tập kích ngăn chặn bộ binh địch tiến vào tuyến vận chuyển chiến lược. Nối mạng thông tin của Bộ Tư lệnh Trường Sơn đến Bộ Tư lệnh mặt trận đường 9, Bộ Tư lệnh mặt trận cánh đông (B70) đến một số đơn vị chủ lực của Bộ và đến tất cả các đơn vị cao xạ, tên lửa, công binh, đội điều trị theo thế trận mới.

- Tổ chức mạng cấp cứu, chuyển thương, điều trị tăng cường cho chiến dịch.

Phó Chính ủy Lê Xy, Tham mưu trưởng công binh Phạm Văn Diêu, Tham mưu phó phòng không Trần Trung Tín, Phó Chủ nhiệm hậu cần Nguyễn Tốn, Chủ nhiệm quân y Nguyện Ngọc Thảo, Phó Chủ nhiệm thông tin Hoàng Đình Quý được cử xuống các đơn vị triển khai gấp theo phương án trên. Tham mưu trưởng phòng không Ngô Huy Biên, Phó Chủ nhiệm Cục Chính trị Võ Sở được cử xuống khu vực Bản Đông đốc chiến; Tham mưu phó công binh Phan Quang Tiệp xuống Binh trạm 9 chỉ đạo sửa chữa đường 18 để cơ động các đơn vị xe tăng vào tập kết ở đường 9.

Đến ngày 28 tháng 1 năm 1971, lực lượng phòng không của Bộ đội Trường Sơn được huy động tham gia chiến dịch lên tới 5 trung đoàn.
Các kho vật chất cho hướng chiến dịch đường 9 đã có 3.000 tấn, các kho dự trữ chiến lược trên tuyến có 3 vạn tấn. Như vậy, những yêu cầu Bộ giao chuẩn bị cho chiến dịch đường 9 - Nam Lào, Bộ Tư lệnh Trường Sơn đã hoàn thành về cơ bản.

Đúng như phán đoán của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, ngày 30 tháng 1 năm 1971, Mỹ - ngụy mở cuộc hành quân Lam Sơn 719 đánh ra khu vực đường 9 - Nam Lào. Hơn 4 vạn quân chủ lực ngụy miền Nam và 6.000 quân Mỹ gồm những đơn vị tinh nhuệ nhất cùng một số lớn binh khí kỹ thuật gồm 580 xe tăng và xe bọc thép, 320 khẩu pháo, 1.000 máy bay được huy động vào cuộc hành quân này.
Phối hợp với quân ngụy miền Nam, quân ngụy Lào huy động 4 tiểu đoàn của GM30, GM33 từ Đồng Hến đánh ra khu vực Mường Pha Lan, phía tây đường số 9

Mục tiêu của chiến dịch trong cuộc hành quân này là cắt đứt hoàn toàn tuyến vận tải chiến lược, phá hủy tối đa các kho chiến lược trên đường Trường Sơn, làm cho các lực lượng chiến đấu của ta ở các chiến trường không còn nguồn chi viện về người và vật chất kỹ thuật để mở các cuộc tiến trong mùa khô 1971 - 1972, tạo điều kiện cho Mỹ tiếp tục rút quân, ngụy mạnh lên.

Địch cho rằng đánh bại bộ đội chủ lực cơ động của quân đội ta sẽ chứng minh cho sự thành công của chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh", tạo thêm thế mạnh trên chiến trường nhằm ép ta nhân nhượng trong cuộc đàm phán ở Pa ri. Đây là cuộc hành quân đầy tham vọng, có quy mô lớn nhất, điển hình nhất trong chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" của Mỹ và cũng là đỉnh cao của chiến tranh ngăn chặn nhằm cắt đút hoàn toàn đường chiến lược Hồ Chí Minh.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 13 Tháng Năm, 2010, 05:30:24 pm
Để đánh bại cuộc hành quân của địch, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định mở chiến dịch phản công tiêu diệt lớn quân địch ở khu vực đường 9 - Nam Lào, thành lập Bộ Tư lệnh Mặt trận đường 9 (mật danh là Mặt trận 702); cử Thiếu tướng Phó Tổng tham mưu trưởng Lê Trọng Tấn làm Tư lệnh, Thiếu tướng Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Lê Quang Đạo làm Chính ủy Bộ Tư lệnh chiến dịch.

Bộ Chính trị phê chuẩn việc thành lập Bộ Tư lệnh mặt trận cánh đông và cánh bắc chiến dịch (mật danh là Mặt trận B70) gồm 3 sư đoàn bộ binh 304, 308, 320 và các trung đoàn, tiểu đoàn binh chủng do đại tá Cao Văn Khánh làm Tư lệnh, đại tá Hoàng Phương làm Chính ủy. Ở cánh tây chiến địch, giao cho Bộ Tư lệnh Trường Sơn phụ trách gồm: Sư đoàn 968, Sư đoàn 2, Trung đoàn 48, Trung đoàn 29 cùng một số trung đoàn, tiểu đoàn binh chủng. Bộ đội Trường Sơn là lực lượng đánh địch tại chỗ trên toàn địa bàn chiến dịch.

Thượng tướng Văn Tiến Dũng - Tổng Tham mưu trưởng được cử làm đại diện Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng trực tiếp chỉ đạo Mặt trận 702 và các chiến trường phối hợp phản công địch.

Ngày 3 tháng 1 năm 1971, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra lời kêu gọi toàn thể cán bộ và chiến sĩ trên Mặt trận đường 9 - Nam Lào:

“... Trận này là một trận có nghĩa quyết định về chiến lược, không những để giữ vững tuyến vận tải chiến lược mà còn nhằm tiêu diệt nhiều đơn vị dự bị chiến lược của địch, tạo điều kiện đánh bại một bước quan trọng âm mưu "Việt Nam hóa chiến tranh" của đế quốc Mỹ, đẩy cuộc kháng chiến tiến lên mạnh mẽ, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, làm tròn nhiệm vụ quốc tế vẻ vang và rèn luyện bộ đội chủ lực... Quân đội ta nhất định phải đánh thắng trận này”.

Riêng với Bộ đội Trường Sơn, Bộ Tổng tham mưu ra lệnh: bình tĩnh, khéo léo lừa địch, nhử địch vào sâu, cất vó một trận, diệt trực thăng đích đáng để địch biết thế nào là "Đường mòn Hồ Chí Minh".

Lời kêu gọi của Trung ương Đảng, mệnh lệnh của Bộ Tổng tham mưu được cơ quan chính trị cấp tốc phổ biến xuống các đơn vị đã làm dấy lên một cao trào diệt giặc lập công trong toàn thể cán bộ, chiến sĩ Bộ đội Trường Sơn. Mỗi người không những ý thức được tầm quan trọng của chiến dịch mà còn nhận thấy đây là cơ hội thuận lợi cho bộ đội ta tiêu diệt địch. Cán bộ, chiến sĩ đều phấn khởi sẵn sàng chiến đấu với niềm tin chiến thắng. 

Ngày 8 tháng 2 năm 1971, dưới sự yểm trợ của quân Mỹ, 7 trung đoàn, lữ đoàn bộ binh, dù, thiết giáp ngụy quân Sài Gòn chia thành ba cánh vượt qua biên giới Việt Lào. Cánh quân chủ yếu tiến theo đường 9 qua Lao Bảo, ngày 10 tháng 2 năm 1971 đã tới gần Bản Đông. Hai cánh quân khác chuẩn bị đổ bộ bằng máy bay lên thẳng xuống một số điểm cao: 500, 315, 543, 456 ở bắc đường số 9 và các điểm cao ở khu vực Cu Bốc: 619, 537, 550, 432, 540 ở nam đường 9 để bảo vệ sườn cho cánh quân chủ yếu.

Được sự chi viện hỏa lực mạnh của không quân, pháo binh Mỹ và dựa vào phương tiện cơ động hiện đại, quân ngụy Sài Gòn tiến khá nhanh và bộc lộ khá rõ sự chủ quan, ngông cuồng của chúng.

Bộ Tư lệnh Trường Sơn ra lệnh nhử địch vào sâu hơn nữa, sẵn sàng chủ động tấn công vào các đội hình trực thăng của chúng. Sử dụng mọi vũ khí, phát huy mọi tầm hỏa lực, kiên quyết tiêu diệt địch với khẩu hiệu "Cứ cho nó đến, không cho nó về”.

Do đã chuẩn bị sẵn chiến trường và phán đoán chính xác về hướng tiến quân cũng như các vị trí đổ quân của địch, lực lượng phòng không đã tránh được các đòn oanh tạc dọn đường của máy bay chiến lược B52 và các loại máy bay cường kích, chủ động nổ súng vào các tốp trực thăng.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 13 Tháng Năm, 2010, 05:31:05 pm
Bắt đầu từ 8 giờ ngày 8 đến ngày 10 tháng 2 năm 1971, từng đàn trực thăng bay rợp trời được hỏa lực yểm trợ của các tốp máy bay cường kích và máy bay trinh sát OV 10, ồ ạt đổ quân xuống các điểm cao nam - bắc Bản Đông. Các cỡ súng cao xạ, súng máy, súng bộ binh của ta tung lên một lưới lửa dày đặc, bắn rơi hàng loạt máy bay khi chúng chưa kịp đổ quân.

Ở bắc Bản Đông, hai tiểu đoàn cao xạ thuộc Trung đoàn 591 do thiếu tá Trung đoàn trưởng Lê Văn Lẫm và thiếu tá Chính ủy Nguyễn Văn Nam chỉ huy bắn rơi 14 chiếc máy bay chở quân. Mặc dù bị máy bay phản lực cường kích đánh trả quyết liệt vào trận địa, nhiều chiến sĩ bi hy sinh, các tiểu đoàn vẫn ngoan cường chiến đấu bắn rơi thêm 5 chiếc.

Địch tiếp tục đánh trả, các tổ súng máy 12,7 ly của Tiểu đoàn 27 công binh thuộc Binh trạm 41 bắn rơi 13 chiếc (có 7 chiếc H34) ở khu vực Bản Đông và cầu Ka Ky. Tiểu đoàn 18 cao xạ và tiểu đoàn 35 súng máy 14,5 1y thuộc Binh trạm 27 bắn rơi 15 chiếc trực thăng ở cao điểm 500, 300.

Cùng ngày, Tiểu đoàn 75 công binh và đại đội 5 bộ binh thuỷ Binh trạm 41 chốt ở điểm cao Cu Bốc bắn rơi thêm 5 chiếc, bẻ gãy 10 đợt tiến công của đơn vị biệt động ngụy, phá hủy một số xe bọc thép, diệt 100 tên trong đó có tên trung úy đại đội trưởng và 4 tên Mỹ, làm chậm bước tiến của trung đoàn 3 Sư đoàn 1 ngụy đang tiến quân trên đường B70.

21 giờ 30 ngày 10 tháng 2, đài phát thanh BBC của Anh đưa tin: “Quân đội Cộng hòa miền Nam tiến quân lên đường mòn Hồ Chí Minh đã vấp phải lưới lửa phòng không dày đặc chưa từng thấy của Bắc Việt: 50 chiếc máy bay lên thẳng đã bị bắn hạ. Như vậy là trúng kế "điệu hổ ly sơn" của họ ".

Ngày 10 tháng 2 năm 1971, Quân ủy Trung ương đã gửi thư khen:

"Qua mấy ngày chiến đấu các đồng chí đã đánh những trận phủ đầu quân Mỹ - ngụy, diệt một số sinh lực và phương tiện chiến tranh, bắn rơi trên 50 máy bay, phá hủy một số xe tăng, thiết giáp của chúng, giữ vững giao thông vận tải thông suốt... Quân ủy Trung ương biểu dương chiến công đầu của các đồng chí. Mong các đồng chí phát huy thắng lợi, nêu cao quyết tâm, tranh thủ thời cơ, vượt mọi khó khăn đánh cho địch những đòn đau hơn, mạnh hơn nữa tiêu diệt thật nhiều địch, hạ nhiều máy bay, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh, bắt sống nhiều tù binh, thu nhiều vũ khí, tạo điều kiện thuận lợi để đập tan cuộc phiêu lưu của chúng, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và mục tiêu của chiến dịch, bảo vệ bằng được đường chiến lược Hồ Chí Minh”.

Như vậy, ngay từ những ngày đầu địch đổ quân xuống các điểm cao ở nam và bắc đường 9 nhằm thiết lập căn cứ yểm trợ cho cánh quân theo trục chính vượt Bản Đông tiến về Sê Pôn, đã bị lực lượng phòng không, công binh và pháo binh của Bộ đội Trường Sơn đánh đòn rất đau, bắn rơi 118 máy bay lên thẳng, phá hỏng 16 xe tăng, 4 xe bọc thép. Bị tổn thất nặng nề, đội hình địch rối loạn, tinh thần hoang mang, tốc độ tiến quân chậm lại, tạo điều kiện cho bộ đội chủ lực từ xa kịp cơ động triển khai đội hình, chuẩn bị đánh những trận tập trung lớn.

Tư lệnh Mặt trận B70 Cao Văn Khánh điện cho Binh trạm 27 nhiệt liệt biểu dương chiến công của Binh trạm đã chỉ huy xuất sắc, bảo toàn được lực lượng binh khí kỹ thuật của chiến dịch.

Đến ngày 11 tháng 2 năm 1971, lực lượng tham gia chiến dịch lên đến 6 vạn quân, hàng nghìn xe, pháo, tăng và các loại vũ khí hạng nặng khác. Nhu cầu bảo đảm lương thực, đạn dược, thuốc men... cho chiến dịch tăng vọt với khối lượng lớn và đòi hỏi thời gian cấp bách. Mặc dù bị không quân địch khống chế, đánh phá ngăn chặn dữ dội, Bộ đội Trường Sơn đã vượt qua mọi hy sinh vận chuyển đảm bảo đầy đủ cơ sở vật chất cho các lực lượng tác chiến đánh lớn thắng liên tục.

Theo kế hoạch chiến dịch, bộ đội chủ lực cơ động đã nhanh chóng triển khai lực lượng ngăn chặn, tiêu diệt tìm cánh quân địch, tạo thời cơ đánh đòn quyết định.

Ở sau lưng địch, lực lượng vũ trang Mặt trận B5 liên tục tập kích, pháo kích các căn cứ Mỹ và đường giao thông, diệt hàng trăm tên, đánh chìm 9 tàu vận tải quân sự ở Cửa Việt, làm cho tuyến vận chuyển tiếp tế của địch bị tắc nghẽn một tuần.

Trên hướng chủ yếu, khu vực bắc đường 9, từ ngày 12 tháng 2 đến đầu tháng 3 năm 1971 diễn ra nhiều trận đánh ác liệt của các đơn vị chủ lực cơ động của Bộ với lữ đoàn dù và liên đoàn 1 biệt động ngụy. Từ ngày 20 đến ngày 25 tháng 2 năm 1973, Trung đoàn 64 bộ binh phối hợp với xe tăng được công binh, pháo cao xạ của Bộ đội Trường Sơn yểm trợ vây lấn điểm cao Không Tên tiêu diệt Tiểu đoàn 3 dù, tiểu đoàn pháo binh và Sở chỉ huy Lữ đoàn 3 dù, bắt sống đại tá Nguyễn Văn Thọ, Chỉ huy trưởng lữ đoàn và toàn bộ ban tham mưu của chúng.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 13 Tháng Năm, 2010, 05:31:43 pm
Trước đòn phản công mạnh của quân ta, địch vội điều Thiết đoàn 17 với 70 xe tăng và tiểu đoàn 8 dù từ Bản Đông lên phản kích hòng chiếm lại điểm cao Không Tên. Trong sáu ngày liền, Trung đoàn 36 bộ binh thuộc Sư đoàn 308, một bộ phận Trung đoàn 64 có hai đại đội xe tăng phối hợp, được pháo binh mặt trận và hỏa lực phòng không của Bộ đội Trường Sơn chi viện đã đập tan cánh quân phản kích. Tập đoàn chủ yếu của địch ở Bản Đông bị uy hiếp mạnh.

Ở khu vực Trung Lào, ba tiểu đoàn quân ngụy Lào đánh xuống tây Mường Phin, bị các trung đoàn 29, 141, 48 và các tiểu đoàn Pa thét Lào chặn đánh tiêu diệt ở Pha Lan, Phu Dơ Tuy, đập tan âm mưu của chúng phối hợp với quân ngụy Sài Gòn.

Ở khu vực Hạ Lào, các lực lượng Mặt trận Y tiến công giải phóng Nậm Lực, Nậm Tiếng, In Thi; bao vây Pắc Xoong, Không Sê Đôn chặn đứng cánh quân ngụy Lào và quân Thái mưu chiếm Sa Ra Van, uy hiếp tuyến vận tải chiến lược, phối hợp với cuộc hành quân của ngụy Sài Gòn; diệt 226 tên, bắt 18 tù binh, diệt gọn 2 đại đội, đánh tan 4 tiểu đoàn, bắn cháy 10 máy bay, thu nhiều phương tiện chiến tranh.

Ở khu vực nam đường số 9, trong hai ngày 27, 28 tháng 2 và ngày 5 tháng 3 năm 1971, địch đổ quân xuống dãy điểm cao Phu Ta Păng (639, 229), bị Bộ đội Trường Sơn bắn rơi 40 máy bay lên thẳng, diệt gọn 8 đại đội, chặn không cho chúng đổ bộ đánh chiếm. Sư đoàn bộ binh 324 của Trị - Thiên diệt một tiểu đoàn đánh thiệt hại một tiểu đoàn khác thuộc Trung đoàn 3, Sư đoàn 1 ngụy khi chúng nống ra đánh phá kho tàng.

Cả trước mặt, cả sau lưng địch, Bộ đội Trường Sơn đã đánh liên tục, tiêu diệt nhiều sinh lực, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của địch, chia cắt, kìm hãm chúng, tạo thế cho ta, phá thế địch, tạo điều kiện cho các đơn vị chủ lực cơ động vận động từ xa tiến vào địa bàn chiến dịch, kịp thời tổ chức những đòn tiêu diệt lớn. 

Ngày 28 tháng 2 năm 1971, địch tung thê đội 2 chiến dịch gồm 1 lữ đoàn dù, 2 trung đoàn thiết giáp, 2 lữ đoàn thủy quân lục chiến cùng sư đoàn 1 bộ binh vào tham chiến. Chúng tiếp tục kế hoạch tiến lên Sê Pôn, nhưng bị bộ đội ta chặn đánh kịch liệt, nên buộc phải dừng lại co cụm ở các điểm cao 723, 748, đèo Yên Ngựa và các điểm cao 550, 532.

Thời cơ chuyển từ phản công sang tiến công trên toàn mặt trận đã đến.

Ngày 8 tháng 3 năm 1971, Đảng ủy Mặt trận ra lời kêu gọi cán bộ, chiến sĩ giành toàn thắng cho chiến dịch.

Ngày 9 tháng 3 năm 1971, Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần Đinh Đức Thiện triệu tập Binh trạm trưởng Binh trạm 9 và Binh trạm trưởng Binh trạm 27 trực tiếp giao nhiệm vụ. Để đảm bảo cho hướng tiến công chủ yếu, đồng chí quyết định bổ sung 50 xe Zil 157 cho Binh trạm 27 cùng 200 áo giáp và mũ sắt.

Ngày 11 tháng 3 năm 1971, Thiếu tướng Tư lệnh chiến dịch Lê Trọng Tấn triệu tập Binh trạm trưởng Binh trạm 27 giao nhiệm vụ: ngày 12 tháng 3 năm 1971, trước  giờ nổ súng 30 phút phải bảo đảm cho hướng tiến công chủ yếu 2.000 quả đạn pháo 130 ly. Tiếp đó, mỗi ngày phải đảm bảo 200 tấn đạn và lương thực.

Dự họp có Chính ủy chiến dịch Lê Quang Đạo, Chủ nhiệm Pháo binh Doãn Tuế, Chủ nhiệm Phòng không Hoàng Văn Khánh, Chủ nhiệm Hậu cần Lương Nhân, Chủ nhiệm Chính trị Ngô Thành Vân, Chủ nhiệm Hậu cần Binh đoàn B70 Ngô Vi Thiện...


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 13 Tháng Năm, 2010, 05:32:21 pm
Tư lệnh Lê Trọng Tấn kết luận: quyết tâm tác chiến của đòn tiến công quyết định này đã được xác định nhưng mở màn được hay không là do vận chuyển bảo đảm cơ sở vật chất quyết định. Binh trạm 27 cần phải hoàn thành cho được nhiệm vụ này. Theo đề nghị của Binh trạm trưởng, đồng chí lệnh cho Quân khu 4 chở xe lội nước K61 đến bến vượt khẩu sông Sê Băng Hiêng vào 1 giờ ngày 12 tháng 3 đề phòng khi có gió mùa đông bắc, nước sông dâng cao phải chuyển tải.

Cùng ngày, Đại tướng Tổng Tư lệnh và Thượng tướng Tổng Tham mưu trưởng trực tiếp chỉ thị qua điện thoại cho Tư lệnh Bộ đội Trường Sơn phải bảo đảm đầy đủ vũ khí, đạn dược, lương thực cho các hướng chiến dịch. Đồng thời, bằng mọi giá giữ cho được tuyến hành lang phía tây, tập trung sức vận chuyển chi viện kịp thời cho chiến trường Tây Nguyên, Nam Bộ, Khu 5 để đánh bại các cuộc hành quân phối hợp của địch.

Chấp hành mệnh lệnh của trên, 2 giờ sáng ngày 12 tháng 3, 150 xe chở đầu đạn của hai tiểu đoàn 62 và 965 (Binh trạm 27) dàn đội hình thành 3 thê đội tiếp cận trọng điểm cách chỉ giới khu vực oanh tạc của máy bay 20 m tại bắc sông Sê Băng Hiêng. Đến 3 giờ sáng, sau các loạt bom B52, đội hình xuất kích theo phương án xác định, nhanh chóng vượt sông tiến vào Mường Trương, Làng Sen.

Phía đường 18, hai tiểu đoàn 878 và 54 của Binh trạm 9 anh dũng vượt trọng điểm 900 tiến về khu vực bắc Tà Khống. Lợi dụng sương mù, quân ta đã vận chuyển cả đêm và ngày đưa hàng tới tận chiến hào và các trận địa pháo.

Máy bay địch thả pháo sáng, đuổi theo đội hình xe rải bom bi và bắn đạn 20 ly liên hồi. Mặc dù hàng chục xe bị cháy, nhiều cán bộ, chiến sĩ lái xe bị hy sinh, song kế hoạch vận chuyển chiến dịch đảm bảo cho đợt tiến công mới do Bộ Tư lệnh chiến dịch giao, Bộ đội Trường Sơn đã hoàn thành trọn vẹn. Tư lệnh mặt trận phía đông Cao Văn Khánh một lần nữa gọi điện, nhiệt liệt biểu dương và cảm ơn Bộ đội Trường Sơn, 4 giờ sáng ngày 12 tháng 3 năm 1971, quân ta chuyển sang tiến công trên toàn mặt trận.

Ở phía tây, các đơn vị Bộ đội Trường Sơn tăng cường bảo vệ khu tam giác Sê Pôn - Tha Mé - La Hợp. Sư đoàn 968 phối hợp với quân dân bạn diệt nhiều sinh lực quân Thái Lan và quân Hoàng gia Lào ở Thác Hài; tập kích các đơn vị BS22 và BS28 ở Nậm Lực, Nậm Tiếng, giải phóng Xê Nậm Noi, Sê Keng, Phu Lăng Kẹo, diệt 282 tên, bắt 10 tên, thu 115 súng; tiếp đó, đánh chiếm Na Ca Chăn, Keng Chọc diệt 100 tên, giải phóng Mường Pha Lan.

Ở phía tây nam, Sư đoàn 2 vây lấn truy kích, tiêu diệt trung đoàn 1 sư đoàn 1 bộ binh địch ở điểm cao 72A, tiếp đó đánh lên điểm cao 660 diệt 905 tên, bắt 365 tên, có 3 sĩ quan cấp tá.

Ở phía nam Binh trạm 41, Bộ đội Trường Sơn phối hợp với Sư đoàn 324 đánh thiệt hại nặng lữ đoàn thủy quân lục chiến ngụy ở các điểm cao 550, 540, 532, địch phải liều mạng cho trực thăng bốc số quân còn lại trên điểm cao 550 gần Sa Đi và điểm cao 400 gần Tha Mé. Bị hỏa lực của các đại đội súng máy thuỷ Binh trạm 32, Binh trạm 33, Binh trạm 41 đánh mạnh, 40 chiếc trực thăng bị cháy và phá hủy. Sĩ quan binh lính địch tranh nhau bám càng máy bay để thoát thân.

Phía đông dọc theo đường số 9 từ Lao Bảo đến Bản Đông, các trung đoàn của Sư đoàn 304 và 308 kiên cường chốt chặn, kết hợp cơ động đánh địch giải tỏa trục lộ 9 diệt hàng trăm tên, phá hủy nhiều xe tăng, xe bọc thép, đẩy địch vào thế bị bao vây chia cắt.

Phía sau, các lực lượng bắc Quảng Trị tập kích các căn cứ địch ở Sa Mưu, Ái Tử, Tà Cơn, phá hủy 40 máy bay lên thẳng, hàng vạn viên đạn lớn, hàng triệu lít xăng, diệt hơn 100 tên, phần lớn là giặc lái và nhân viên kỹ thuật.

Phía đông bắc và đông nam, trung đoàn 64 thuộc Sư đoàn 320, trung đoàn 36 thuộc Sư đoàn 308, trung đoàn 68 thuộc Sư đoàn 304 được các đơn vị tăng, pháo mặt đất, pháo cao xạ phối hợp bao vây tập đoàn cứ điểm Bản Đông do 2 lữ đoàn dù (1 và 2) và 2 trung đoàn thiết giáp ngụy đóng giữ. Bộ đội ta bắn phá mãnh liệt các trận địa pháo, bãi xe, công sự dã chiến, đánh dồn dập khi máy bay địch hạ cánh tiếp tế. Trước nguy cơ bị tiêu diệt, ngày 18 tháng 3 năm 1971, quân địch bỏ Bản Đông rút chạy tán loạn. Ta truy kích diệt 1.726 tên, bắt 100 tên, thu và phá hủy 113 xe tăng, xe bọc thép, 24 khẩu pháo, bắn rơi 52 máy bay, trong đó có 1 máy bay B52


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 13 Tháng Năm, 2010, 05:33:07 pm
Ngày 23 tháng 3 năm 1971, chiến dịch phản công Đường 9 - Nam Lào kết thúc thắng lợi. Quân ngụy Sài Gòn - lực lượng nòng cốt thực hiện "Học thuyết Níchxơn" ở Đông Dương bị giáng một đòn tiêu diệt nặng. Âm mưu cắt đứt tuyến chi viện chiến lược bằng sức mạnh tổng hợp của chúng bị đập tan. Hơn 2 vạn tên địch bị diệt, bị thương và bị bắt, 6 trung đoàn, lữ đoàn, 13 tiểu đoàn bộ binh, pháo binh bị loại khỏi vòng chiến đấu. Cả 3 sư đoàn dù, thủy quân lục chiến và sư đoàn 1 bộ binh ngụy bị đánh thiệt hại nặng, 1.138 xe tăng, xe bọc thép, xe kéo pháo và 112 pháo lớn bị phá hủy, 556 máy bay trong đó có 505 máy bay lên thẳng bị bắn rơi, 43 tàu, 1 sà lan bị bắn chìm, 1 triệu lít xăng và 1.000 tấn đạn bị đốt cháy và phá hủy.

Quân ta bắt 1.142 tù binh, thu 2 máy bay lên thẳng, 57 khẩu pháo hạng nặng và súng cối, 2.296 súng các loại, 16 xe tăng và xe bọc thép, 6 máy húc, 274 máy vô tuyến điện, trên 100 tấn đạn và đồ dùng quân sự khác.

Vừa trực tiếp phục vụ chiến dịch, Bộ đội Trường Sơn vừa tham gia chiến đấu tiêu diệt 5.695 tên, bắt 614 tên, gọi hàng 64 tên, bắn rơi 346 máy bay (có 310 trực thăng), thu 24 khẩu pháo, 4 máy húc, 6 xe tăng, xe bọc thép và 91 xe các loại.

Ngày 31 tháng 3 năm 1971, Ban Chấp hành Trung ương Đảng gửi thư khen cán bộ, chiến sĩ Mặt trận Đường 9 - Nam Lào “đánh giỏi, thắng giòn giã, lập công xuất sắc”.

Thắng lợi to lớn của chiến dịch Đường 9 - Nam Lào đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc của quân đội ta. Nó chứng tỏ quân chủ lực ta có khả năng đánh bại hoàn toàn quân chủ lực ngụy, quân và dân ta có đủ sức mạnh đánh bại về quân sự chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" của đế quốc Mỹ.

Thắng lợi của chiến dịch cũng khẳng định chiến lược chiến tranh ngăn chặn tuyến đường chiến lược Hồ Chí Minh của Mỹ - ngụy đã phá sản. Quá trình tham gia và phục vụ chiến dịch, được Quân ủy Trung ương chỉ đạo chặt chẽ, Bộ Tư lệnh Trường Sơn đã có kế hoạch phối hợp chặt chẽ với bạn Lào và các binh đoàn chủ lực cơ động, thực hiện ý đồ tác chiến chiến dịch của Bộ. Đồng thời chủ động lập phương án đối phó với tình huống địch đánh chiếm khu trung tâm hành lang Sê Pôn - Tha Mé - La Hạp, vẫn tiếp tục nhiệm vụ vận chuyển chiến lược.

Trong khi Mỹ - ngụy mở cuộc hành quân Lam Sơn 719, Bộ đội Trường Sơn đã phát động "Tổng công kích" đợt 1 vào ngày 2 tháng 2 năm 1971, tranh thủ lúc địch tập trung đánh phá dọn đường để đẩy nhanh hàng vào các điểm vượt then chốt, giữ thế chủ động đảm bảo vật chất cho các hướng chiến trường.

Mặc dù lực lượng lớn không quân địch bị hút vào các hướng chiến dịch, chúng vẫn tiếp tục đánh phá ác liệt các cửa khẩu và các trọng điểm trong khu tam giác Bản Đông, Văng Mu, Tha Mé. Các đơn vị pháo cao xạ bố trí đối diện hai bên trục vận chuyển tại các khu vực này đã anh dũng đánh trả, trong 5 ngày đầu "Tổng công kích" bắn rơi 5 máy bay phản lực và một máy bay trinh sát OV 10 tại trọng điểm Chà Văng Mu, Tha Mé, bảo vệ đội hình xe hành tiến.

Trung đoàn 10 và Trung đoàn 98 công binh khai thông đường 36 tránh Tha Mé, đề phòng trường hợp bộ binh địch chiếm được đường 35 Tha Mé đi La Hạp. Hàng vạn cán bộ, chiến sĩ công binh ngày đêm duy tu mặt đường, củng cố cầu ngầm, đảm bảo tốc độ xe đạt 18 đến 20 km giờ. Các binh trạm huy động mọi khả năng và biện pháp nâng hệ số kỹ thuật đảm bảo 80% đầu xe hoạt động, đồng thời kiên quyết tổ chức đội hình vận tải tiểu đoàn tập trung tiến công, với nhiều đội mùi nhọn thực hiện vượt cung tăng chuyến.

Một số tiểu đoàn ô tô thiện chiến như tiểu đoàn 52, tiểu đoàn 101, tiểu đoàn 102, tiểu đoàn 781 đã nâng cao tốc độ, 50% số xe thực hiện một đêm một chuyến trên cung quy định hai đêm một chuyến. Các tiểu đoàn ô tô khác đạt từ 10% đến 30% số xe thực hiện một đêm một chuyến trên cung hai đêm một chuyến.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 15 Tháng Năm, 2010, 06:01:31 pm
Ngày 10 tháng 2 năm 1971, Quân ủy Trung ương gửi thư khen các lực lượng tại chỗ của Bộ đội Trường Sơn đã bắn rơi nhiều máy bay, diệt nhiều giặc, phá nhiều phương tiện chiến tranh của Mỹ - ngụy. Thư khen được phổ biến trên toàn tuyến làm nức lòng các lực lượng tham gia “tổng công kích" đợt 1 chiến dịch vận chuyển. Mỗi ngày cơ quan chính trị Bộ Tư lệnh ra một thông báo về thành tích của các lực lượng trên toàn tuyến. Bộ Tư lệnh lấy hai Binh trạm 12 và 32 làm điển hình để thúc đẩy toàn tuyến.

Ở tuyến hậu phương, các Binh trạm 25, 26 thuộc Cục Vận tải Tổng cục Hậu cần dốc sức đưa hàng tiếp cận các trọng điểm, tạo điều kiện cho các binh trạm cửa khẩu chủ động đối phó với địch, vượt cung lập chân hàng, đảm bảo sự nhịp nhàng giữa "hút” và "đẩy", trên toàn tuyến.

Ngày 28 tháng 2 năm 1971, một số lữ đoàn, sư đoàn địch tiến lên Sê Pôn. Nhiều trực thăng đổ quân xuống các điểm cao phía đông Tha Mé sát trục vận chuyển chiến lược, Bộ đội Trường Sơn vẫn bình tĩnh đẩy mạnh "Tổng công kích" đợt 1 của chiến dịch vận tải với nhịp độ khẩn trương và kết thúc ngày 30 tháng 2 năm 1971 theo đúng kế hoạch.

Trong đợt này, toàn tuyến đã thực hiện được một khối lượng lớn qua các điểm vượt then chốt, tạo nên thế mới cho đợt vận chuyển tiếp theo. Kết quả trên đảm bảo cho toàn tuyến đủ sức đối phó với mọi tình huống, đáp ứng yêu cầu của các chiến trường. Đảng ủy, Bộ Tư lệnh đánh giá vận chuyển chiến lược trong tình hình diễn biến khẩn trương, xuất hiện nhiều tình huống phức tạp, vừa phải đốt phó với cuộc hành quân Lam Sơn 719 của địch, vừa vận chuyển đáp ứng nhu cầu bức xúc của chiến dịch, vừa tiếp tục vận chuyển chiến lược mà đạt được khối lượng như vậy là rất giỏi.

Khi chiến dịch phản công Đường 9 - Nam Lào bước vào giai đoạn quyết liệt, Bộ Tư lệnh Trường Sơn quyết đinh mở "Tổng công kích" đợt 2 từ ngày 6 tháng 3 năm 1971 nhằm hoàn thành cơ bản nhiệm vụ vận tải chiến lược và chiến dịch mùa khô 1970- 1971. Đây là đợt vận chuyển có ý nghiã quyết định, phá tan âm mưu sử dụng sức mạnh tổng lực cắt đứt tuyến vận tải chiến lược của Mỹ - ngụy.

Mặc dù không quân địch phải phân tán trên địa bàn chiến dịch, chúng vẫn bám chặt tuyến vận chuyển hướng chủ yếu. Tuy mức độ có giảm hơn, nhưng chúng lại chuyển sang đánh các trận địa pháo cao xạ bằng máy bay cường kích có khỉ tài điều khiển la de và sử dụng AC 130 cải tiến bắn đạn 40 ly vào đội hình xe gây sát thương lớn. Trong tháng 2 và tháng 3 năm 1971, riêng máy bay AC 130 đã bắn tới 41.485 loạt đạn 40 ly, phá hỏng nhiều xe vận tải của ta.

Với tinh thần kiên quyết tiêu diệt địch bảo vệ đội hình xe vận chuyển, lực lượng cao xạ bố trí dọc tuyến đã đánh 4.160 trận, bắn rơi 70 máy bay các loại, có 23 chiếc bị bắn rơi vào ban đêm. Riêng máy bay AC 130 ta chưa hạ được; vì vậy, các đội hình xe bị uy hiếp mạnh. Các binh trạm đã có những nỗ lực lớn, tìm nhiều biện pháp đối phó nhằm giữ vững nhịp độ tổng công kích.

Ngày 23 tháng 3 năm 1971, chiến dịch phản công Đường 9 - Nam Lào kết thúc thắng lợi. Âm mưu cắt đứt tuyến chi viện chiến lược của ta bị thất bại hoàn toàn.

Ngày 30 tháng 3 năm 1971, "Tổng công kích" đợt 2 vận chuyển chiến lược cũng kết thúc. Đợt này, toàn tuyến nhận từ hậu phương và khai thác thu mua tại chỗ đạt 97% kế hoạch, vận chuyển giao các chiến trường đạt 98% kế hoạch. Về bảo đảm hành quân, đạt 91 % kế hoạch, đưa đón hàng vạn quân vào chiến trường và thương, bệnh binh về hậu phương. Ngoài ra còn bảo đảm nội bộ đạt 98% kế hoạch, phục vụ các lực lượng vận chuyển, mở đường tác chiến liên tục.

Sau khi chiến dịch Đường 9 - Nam Lào kết thúc thắng lợi, Bộ Tư lệnh Trường Sơn chỉ đạo các đơn vị khẩn trương thu dọn chiến trường, khắc phục hậu quả phá hoại của địch, khôi phục cầu đường. Bộ Tư lệnh chỉ đạo các đơn vị công binh rà phá bom mìn khắc phục phá hoại, lập lại thế trận cầu đường ở hướng đông.

Theo mệnh lệnh của Bộ Tư lệnh, bộ đội phòng không đã điều chỉnh lại thế trận, chuyển các lực lượng cao xạ và súng máy phòng không tham gia chiến dịch Đường 9 - Nam Lào sang chiến đấu trên các trục vận chuyển chiến lược, tổ chức các cụm hỏa lực mạnh ở khu vực Chà Lì, Bản Đông, Tha Mé, Văng Viếng, Sa Đi Bồ Ne, Chà Vằn. Mỗi cụm bố trí một trung đoàn hoặc hai tiểu đoàn cao xạ. Trung đoàn cao xạ, tên lửa 275, 238 cơ động áp sát đường số 9.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 15 Tháng Năm, 2010, 06:02:06 pm
Bộ Tư lệnh quyết định thành lập thêm Binh trạm 46 phụ trách tuyến vận chuyển tuyến đường Khe Tang đi Bản Đông đưa hàng tới Quân khu bạn; củng cố Binh trạm 39 phụ trách vận chuyển đường 23, đưa hàng xuống Hạ Lào; chỉ đạo các Binh trạm 50, 51 kéo dài tuyến vận tải cơ giới đường sông trên các sông Sê Kông, Sê Xan, Mê Kông đến Kra Chim xuống Sun; tổ chức đưa ngoại tệ vào cho hậu cần Nam Bộ và Bộ Tư lệnh khu vực 470; chỉ đạo Bộ Tư lệnh 470 thu mua khoảng 4.000 tấn hàng tại chỗ tạo nguồn dự trữ cho Nam Bộ và Tây Nguyên; chỉ đạo bộ đội đường ống đẩy nhanh tốc độ thi công đoạn từ Mường Noọng xuống nam Bạc.

Việc củng cố vùng mới giải phóng có ý nghiã quan trọng đối với cách mạng Lào cũng như đối với an toàn của tuyến vận tải chiến lược. Vì vậy, Bộ Tư lệnh đã chỉ đạo Đoàn chuyên gia quân sự 565 đẩy mạnh hoạt động giúp bạn xây dựng một số tiểu đoàn chủ lực, trong đó có một số tiểu đoàn hỏa lực, phát triển dân quân du kích, xây dựng hệ thống Đảng và công tác chính trị trong lực lượng vũ trang mở các lớp huấn luyện quân sự, hậu cần, xây dựng trường quân chính, xây dựng trường đào tạo y sĩ, các bệnh xá, giúp bạn 1 đại đội ô tô vận tải, mở đường vào Chăm Bát Xắc, căn cứ của quân khu bạn.

Để bảo vệ sườn tuyến vận tải chiến lược phía tây, đầu tháng 4 năm 1971, Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên cùng Phó Chính ủy Hoàng Thế Thiện trực tiếp chỉ đạo giải phóng Đồng Hến. Sau ba ngày bao vây chia cắt, ta tiêu diệt và làm tan rã ba tiểu đoàn quân ngụy Lào - Thái, đuổi địch lên Sê Nô.

Từ ngày 15 đến ngày 20 tháng 5 năm 1971, Phó Tư lệnh Hoàng Kiện trực tiếp chỉ huy tiến công giải phóng Pắc Xoong, đánh chiếm Huội San, Huội Koòng, thị trấn Tha Teng, đuổi địch tháo chạy co cụm về Ê Tu Gin trên trục quốc lộ 23 từ Pắc Xoong đi Pắc Xế, thu hồi toàn bộ cao nguyên Bô Lô Ven.

Qua 5 ngày chiến đấu, cán bộ, chiến sĩ Mặt trận Y phối hợp cùng quân dân Nam Lào đã diệt 10.274 tên, bắt 214 tên, gọi hàng 621 tên khác, thu gần 1.000 súng các loại, bắn cháy 1 máy bay; phá hủy 6 chiếc khác.

Ngày 10 tháng 6 năm 1971, ta tiến công vào Ê Tu Gin đánh tan lực lượng BV44, hai đại đội của BV701, diệt nhiều tên, mở rộng vùng giải phóng của bạn liên hoàn từ Đồng Hến xuống Hạ Lào. Đường chiến lược vươn xuống tây Sê Kông, tạo ra thế mới vững chắc cho vận chuyển và căn cứ chiến lược của chiến trường ba nước.

Thay mặt Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã gửi điện khen: "... Vượt qua nhiều khó khăn, đoàn kết hiệp đồng với quân dân bạn, các đồng chí đã giành được thắng lợi to lớn: tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, bắt nhiều tù binh, thu và phá hủy nhiều vũ khí, phương tiện chiến tranh của địch, đánh thiệt hại nhiều tiểu đoàn quân ngụy Lào và Thái, thu hồi toàn bộ cao nguyên Bô Lô Ven...".

Ngày 2 tháng 4 năm 1971, Bộ Tư lệnh quyết định tổ chức đợt vận chuyển nước rút nhằm hoàn thành một số chỉ tiêu chưa đạt và tạo thêm lượng dự trữ cho một số hướng chiến trường, nhất là Nam Bộ. Đợt vận chuyển này diễn ra đúng thời điểm chiến dịch Đường 9 - Nam Lào vừa kết thúc nên địch tập trung đánh phá dữ dội tuyến vận tải chiến lược. Khó khăn lớn nhất lúc này là máy bay AC 130.

Từ mùa khô 1970- 1971, địch chuyển từ đánh phá cầu đường là chủ yếu sang đánh tiêu diệt sinh lực, phá hủy các phương tiện vận tải, các kho tàng là chủ yếu. Chúng thay đổi quy luật đánh phá, sử dụng máy bay chiến lược B52 và máy bay cường kích thả bom nổ chậm, bom từ trường và mìn vướng nổ, đánh vào lúc chập choạng chiều tối hoặc tảng sáng, đánh vào các địa bàn xuất kích đội hình xe, các khu vực kho đầu mối giao thông.

Đặc biệt, chúng tăng cường trang bị khí tài điều khiển bằng tia lade cho các loại máy bay cường kích để đánh các trận địa pháo. Trong 3 tháng địch đánh 1.104 trận vào các trận địa, trong đó có 55 lần sử dụng tia lade, pha hủy 81 khẩu pháo, làm 311 pháo thủ hy sinh, 262 bị thương. Đó là tổn thất cao nhất của lực lượng cao xạ từ trước tới nay.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 15 Tháng Năm, 2010, 06:02:58 pm
Nhưng, nguy hiểm hơn cả là thủ đoạn sử dụng máy bay AC 130 oanh tạc cả ngày lẫn đêm. Không một đoàn xe nào không bị chúng phát hiện và tấn công. Số xe bị đánh cháy tăng vọt. Số lái xe bị thương ngày càng nhiều.

Tình hình đó gây lo ngại cho cán bộ, chiến sĩ. Các đơn vị đã ra sức động viên bộ đội nâng cao ý chí chiến đấu đánh địch mà đi, đồng thời đã tiến hành nhưng biện pháp cấp thiết như: tăng cường các vật che chắn bảo vệ cho xe và lái tổ chức đội hình vừa và nhỏ chạy lấn sáng, lấn chiều sớm hơn; tăng cường ngụy trang nghi binh; tổ chức trinh sát báo động chặt chẽ hơn tạo điều kiện cho bộ đội xe chủ động tránh đòn tấn công của địch; tăng cường thợ sửa chữa đi cùng để phục hồi xe khi bị địch đánh hỏng.

Nhưng tất cả các biện pháp trên vẫn nằm trong thế bị động, chỉ có tác dụng hạn chế một phần rất nhỏ, chưa phải là biện pháp đối phó cơ bản có hiệu quả. Đây là một trong những tháng ngày lao đao, gian khổ nhất của Bộ đội Trường Sơn kể từ ngày thành lập.

Trước sự tổn thất nặng nề do máy bay AC 130 gây ra, trong nội bộ lãnh đạo đã nảy sinh sự nhìn nhận và đánh giá khác nhau về địch và ta. Một số cho rằng máy bay AC 130 nhìn được xe ban đêm và đánh rất trúng mục tiêu. Số khác thì cho rằng AC 130 đánh mò, lái xe sợ đạn 40 ly kéo dài nên bỏ chạy, xe mới bị đánh cháy.

Để có kết luận chính xác, Bộ Tư lệnh chủ trương tổ chức một đợt đi thực tế trên đường để nghiên cứu địch. Sau 2 ngày, Bộ Tư lệnh đã nhận được các báo cáo với ý kiến thống nhất: máy bay AC 130 có khả năng nhìn rõ ô tô đang di động trong đêm. Chúng bay cao trên 3 km, chủ yếu bắn đạn 40 ly kéo dài, gây sát thương trên phạm vi rộng. Các đội hình xe khi gặp máy bay AC 130, dù đã tắt đèn để chạy vẫn bị chúng phát hiện và đánh trúng. Trong số xe bị đánh hỏng có 60 đến 70% do AC 130 gây ra.

Xe bị tiến công thường hỏng két nước, vỡ đầu máy, thủng xăm lốp, thủng thùng xăng. Số lái xe bị thương vong từ 10 đến 20%. Trừ trường hợp AC 130 bay trên đội hình xe đã dừng lâu, máy nguội thì chúng không phát hiện được. Thời gian hoạt động của AC 130 trong đêm khoảng 2 đến 3 lần, mỗi lần kéo dài từ 2 đến 3 giờ. Chúng cố tránh hỏa lực của cao xạ, vì vậy các cụm pháo 37 ly chốt ở trọng điểm không có tác dụng đối với chúng.

Từ ý kiến của những người có thực tế chiến đấu trên đường, Bộ Tư lệnh thống nhất kết luận: Máy bay AC 130 là đối tượng cực kỳ nguy hiểm đối với đội hình vận tải ban đêm, vì vậy toàn tuyến phải có những biện pháp đối phó, sáng tạo, táo bạo, linh hoạt, đa dạng, vững chắc, chủ động, bí mật, bất ngờ.

Trước hết phải nắm bắt được quy luật hoạt động của chúng trên địa bàn từng khu vực, từng binh trạm, kiên quyết thay đổi cách hoạt động của ta: chạy lấn sáng, lấn chiều sớm hơn; thiết kế địa bàn xuất phát của đội hình xe tiến lên phía trước sâu hơn; chia đội hình nhỏ xuất kích nhiều hướng; tổ chức cung ngắn: làm nhiều hầm mang cá cho xe ẩn nấp khi bị địch tấn công; tăng cường vật che chắn cho xe và lái; tăng cường các tổ trinh sát cảnh giới dưới đất, trên xe; sử dụng súng 12,7 ly, hoặc pháo 37 ly bắn báo động; tích cực cơ động pháo để bảo vệ đội hình xe; tích cực nghi binh bằng nổ máy các xe vận tải hoặc máy nổ cũ.

Bộ Tư lệnh quyết định thí điểm chạy ngày ở những đoạn đường kín để rút kinh nghiệm. Hàng loạt biện pháp chỉ đạo của Bộ Tư lệnh được triển khai thực hiện khẩn trương. Cục Tham mưu Phòng không tổ chức hệ thống trinh sát thông báo, báo động từ xa trên toàn tuyến bảo đảm cho các đội hình xe chủ động hành tiến hoặc dừng lại tránh máy bay AC 130.

Ngày 1 tháng 5, Binh trạm 41 tổ chức 12 xe do Đại đội trưởng Nguyễn Đình Chiến và dũng sĩ lái xe Trần Ngọc Thế dẫn đầu chạy ban ngày trên đoạn đường mới mở từ Tam Luông vào La Hạp. Lúc đến ngầm Tà Beng và dốc 28 bị máy bay trinh sát phát hiện, hai máy bay cường kích kéo đến thả bom từ trường và bắn đạn 20 ly. Trần Ngọc Thể đã anh dũng lái xe vượt qua, làm bom kích nổ bên vực, giải phóng cả đoàn xe về tới đích an toàn.



Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 15 Tháng Năm, 2010, 06:04:23 pm
Ngày 4 tháng 5, Binh trạm 27 tổ chức 25 xe do Chính trị viên phó tiểu đoàn 62 Nguyễn Quốc Sử và chiến sĩ quyết thắng Triệu Duy Kéo dẫn đầu chạy trên đường 16 là đường trống trải. Các trọng điểm được bố trí pháo cao xạ bảo vệ khá mạnh. Đoàn xe xuất kích lúc 2 giờ chiều, đến 15 giờ 30 phút đội hình vượt trọng điểm Cha Li, bị máy bay trinh sát OV 10 phát hiện, ba máy bay cường kích kéo đến đánh thẳng vào đội hình bằng bom phá và bom phát quang làm 6 xe bị hỏng, pháo ta đánh trả quyết liệt buộc chúng phải bay cao. Các xe hỏng được khắc phục; đội hình tiếp tục hành tiến đến đèo 300 thì trời tối, ụii máy bay AC 130 phát hiện đánh hỏng 7 xe, đến 24 giờ qua Ta Lăng lại bị AC 130 đánh cháy hỏng chỉ còn 10 xe tới đích. .

Ngày 10 tháng 5, Binh trạm 38 thí điểm chạy ngày 30 xe trong điều kiện nhiều mây mù và đường kín. Kết quả 21 xe tới đích, 9 xe bị đánh hỏng do ngụy trang kém khi giấu xe.

Từ những thử nghiệm trên, Bộ Tư lệnh kết luận đội hình xe chạy ngày nếu đường kín, được tổ chức chỉ huy chặt chẽ sẽ ít tổn thất hơn nhiều so với chạy đêm.

Giữa tháng 5, thời tiết chuyển hẳn sang mùa mưa. Bộ Tư lệnh ra lệnh kết thúc chiến dịch vận tải mùa khô 1970-1971. Ngày 15 tháng 5 năm 1971, Đảng ủy Bộ Tư lệnh Trường Sơn họp để kiểm điểm việc thực hiện nhiệm vụ chi viện mùa khô 1970- 1971 và bàn về việc chuẩn bị cho mùa khô 1971 - 1972 .

Đảng ủy đánh giá: Nhiệm vụ vận chuyển chiến lược mùa khô diễn ra trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn phức tạp. Đầu mùa, máy bay B52 kết hợp với mưa lũ phá hoại quyết liệt ở các cửa khẩu gây nhiều ách tắc. Bước vào cao điểm thuận lợi của thời tiết thì địch lại mở cuộc hành quân lớn lên đường 9, cuối mùa khô lại bị đối phương thay đổi vũ khí và thủ đoạn đánh phá mới rất nguy hiểm.

Tuy nhiên, Bộ đội Trường Sơn đã nỗ lực cao độ, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ Quân ủy Trung ương giao, trong đó nhiệm vụ trong chiến dịch Đường 9 - Nam Lào được hoàn thành xuất sắc.

Tổng khối lượng vận chuyển cho nội bộ và các chiến trường tuy mới được 63.145 tấn đạt 66%, trong đó vận chuyển cho các chiến trường được 28.623 tấn đạt 80,5%, nhưng mặt hàng chủ yếu là vũ khí, đạn cỡ lớn, đã bảo đảm đầy đủ, đặc biệt cho Nam Bộ. Riêng đối với chiến dịch Đường 9 - Nam Lào, đã thực hiện khối lượng gần 1 vạn tấn, cao hơn chỉ tiêu dự báo ban đầu 8,6 lần, xấp xỉ bằng 85% tổng khối lượng đã giao cho các chiến trường đảm bảo thỏa mãn mọi nhu cầu vật chất cho chiến dịch.

Bên cạnh đó đã bảo đảm và đưa đón được 88.000 quân vào các chiến trường đặc biệt có 19.000 quân vào chiến trường Nam Bộ kịp thời gian chiến đấu và có sức khỏe tốt. Đã chỉ huy và bảo đảm cho trên 2.000 xe pháo vượt Trường Sơn vào địa bàn chiến dịch; mở thêm cửa khẩu mới; khôi phục trên 4.000 km đường cũ, làm lại hàng trăm cầu phà, ngầm; mở thêm 1.153 km đường mới, đảm bảo vững chắc cho vận chuyển chiến lược và chiến dịch.

Các lực lượng đã chiến đấu trên 22.077 trận, bắn rơi 620 máy bay địch, có 426 chiếc rơi tại chỗ, 98 chiếc rơi đêm. Trong chiến dịch Đường 9 - Nam Lào đã đánh thắng giòn giã 481 trận, bắn rơi 356 máy bay địch. Trung bình mỗi trận bắn rơi một chiếc, làm thất bại chiến thuật trực thăng vận là thế mạnh của địch. Đồng thời, đã phối hợp tác chiến với các lực lượng chủ lực của Bộ và bạn diệt và bắt sống gần 1 vạn tên địch, phá hủy và thu nhiều vũ khí, phương tiện chiến tranh.

Đảng ủy Bộ Tư lệnh Trường Sơn đánh giá: “Trong hoàn cảnh vừa làm nhiệm vụ phục vụ chiến dịch vùa trực tiếp tác chiến chiến dịch trên cả hai hướng đông và tây Trường Sơn mà thực hiện được khối lượng như vậy là một cố gắng phi thường một thắng lợi to lớn”.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 15 Tháng Năm, 2010, 06:05:10 pm
Từ đánh giá thắng lợi và tồn tại, Đảng ủy Bộ Tư lệnh đề ra quyết tâm chuẩn bị ngay cho mùa khô 1971 - 1972 một cách toàn diện với sự nỗ lực cao nhất. Trong đó tập trung vào khâu củng cố, bổ sung phương tiện, quân số, xây dựng lực lượng huấn luyện bộ đội. Đặc biệt, phải khẩn trương xây dựng thế trận cầu đường nhằm hạn chế thiên tai và đối phó với sự đánh phá của địch, nhất là đánh phá của máy bay B52 ở cửa khẩu và của máy bay AC 130 vào đội hình xe; xúc tiến củng cố thế trận vượt khẩu; ưu tiên mở đường kín xây dựng thế trận chạy ngày, coi đây là vấn đề sống còn của vận tải chiến lược mùa khô 1971 - 1972 .

Đảng ủy Bộ Tư lệnh nêu rõ, mở hệ thống đường kín là cuộc cải cách cực kỳ lớn của tuyến vận tải cơ giới và là biện pháp tích cực nhất, chủ động nhất để chống thủ đoạn của máy bay AC 130, là việc làm thiết thực nhất để thực hiện vận chuyển cơ giới chạy thẳng.

Những nội dung kiểm điểm có tính nguyên tắc và những đề xuất chủ trương có tính sáng tạo của Đảng ủy - Bộ Tư lệnh đã khẳng định sự trưởng thành vượt bậc của Bộ đội Trường Sơn. Đó là nhân tố quyết định cho những thắng lợi mới to lớn toàn diện trong thực hiện nhiệm vụ chi viện chiến lược, đảm bảo cho các chiến trường phát huy thế chủ động tiến công, đánh bại chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" của đế quốc Mỹ trong mùa khô 1971 - 1972.

Thắng lợi có ý nghĩa chiến lược của quân và dân ba nước Đông Dương xuân hè 1971 đã dẫn đến những thay đổi quan trọng trong cục diện chiến tranh.

Chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" của đế quốc Mỹ bị thất bại một bước nghiêm trọng. Trên chiến trường miền Nam, Mỹ - ngụy phải chuyển hẳn vào thế phòng ngự, quân viễn chinh Mỹ tiếp tục rút khỏi chiến trường. Sức chiến đấu của quân ngụy Sài Sòn sa sút về nhiều mặt, nhất là về tinh thần chiến đấu và hỏa lực. Chúng lại phải dàn mỏng lực lượng để chiếm đóng các vị trí thay cho 30 vạn quân Mỹ đã rút nên càng thiếu quân cơ động.

Để cứu vãn tình thế, Mỹ - ngụy ra sức củng cố ngụy quân, đẩy mạnh hoạt động bình định nông thôn, củng cố thế phòng ngự. Đồng thời, chúng tăng cường hoạt động nống lấn, đánh phá vùng giải phóng và hành lang chi viện chiến lược của ta bằng không quân và biệt kích nhằm hạn chế tới mức tối đa sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam, tạo điều kiện cho chúng tiếp tục thực hiện chính sách "Việt Nam hóa chiến tranh" nhằm giành thế mạnh trên bàn đàm phán tại Hội nghị Pari.

Để thúc đẩy chiều hướng phát triển của tình hình, Hội nghị Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (1971) chủ trương phát triển thế tiến công chiến lược trên chiến trường miền Nam, đánh bại chính sách "Việt Nam hóa chiến tranh" của Mỹ, giành thắng lợi quyết định trong năm 1972, buộc đế quốc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh bằng thương lượng trong thế thua.

Trước mắt mở những chiến dịch tiến công lớn của bộ đội chủ lực trên các hướng chiến lược quan trọng, đồng thời đẩy mạnh tiến công quân sự rộng khắp, kết hợp với quần chúng nổi dậy, phá kế hoạch bình định của địch ở nông thôn, đồng bằng, thúc đẩy phong trào đấu tranh của quần chúng ở các thành thị, làm thay đổi hẳn cục diện chiến tranh ở miền Nam.

Thực hiện Nghị quyết Bộ Chính trị, tháng 6 năm 1971, Hội nghị Quân ủy Trung ương thông qua kế hoạch tác chiến năm 1972, xác định ba hướng chính của cuộc tiến công chiến lược là miền Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và Trị - Thiên. Mục tiêu phấn đấu trong năm 1972 là tiêu diệt một số chiến đoàn, lữ đoàn, loại khỏi vòng chiến đấu sư đoàn chủ lực ngụy, giải phóng một số khu vực, mở rộng căn cứ, đưa các khối chủ lực trở về đứng chân trên các chiến trường miền Nam, trực tiếp hỗ trợ phong trào quần chúng tiến công và nổi dậy phá bình định ở nông thôn, đồng bằng.

Trên miền Bắc, tiếp tục củng cố nâng cao trình độ chiến đấu của các lực lượng vũ trang, sẵn sàng đánh bại mọi hành động phiêu lưu của địch, đồng thời tăng cường lực lượng và vật chất vào chiến trường.

Để chuẩn bị cho những đòn tiến công chiến lược mới, Quân ủy Trung ương chỉ đạo nhiệm vụ của tuyến vận tải quân sự chiến lược Trường Sơn trong năm 1971 - 1972 là đảm bảo cho được yêu cầu tác chiến trước mắt, có một phần dự trữ ở chiến trường, tiện cho việc cơ động bộ đội, đồng thời có một phần dự trữ chân hàng trên tuyến, sẵn sàng bảo đảm cho các chiến dịch, tạo chân hàng cho hai năm 1972- 1973


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 15 Tháng Năm, 2010, 06:06:04 pm
Quân ủy Trung ương nhấn mạnh nhiệm vụ của tuyến hành lang chiến lược là một trong các khâu quyết định góp phần đánh thắng địch trên chiến trường. Do đó phải bằng mọi cách hoàn thành bằng được kế hoạch đã giao.

Để thực hiện chủ trương trên, Quân ủy Trung ương chỉ đạo triển khai xây dựng tuyến đông Trường Sơn, chậm nhất tháng 12 năm 1971 phải thông tuyến, thông xe; đồng thời, củng cố tuyến tây Trường Sơn; triển khai mở tuyến đường kín; thi công kéo dài tuyến đường ống; nghiên cứu các biện pháp đối phó với các thủ đoạn đánh phá của máy bay chiến lược B52, các loại máy bay trang bị phương tiện điều khiển bằng tia la de và máy bay AC 130.

Tháng 5 năm 1971, Đảng ủy Bộ Tư lệnh Trường Sơn họp, quán triệt tình hình nhiệm vụ theo chỉ đạo của Quân ủy Trung ương. Đảng uỷ - Bộ Tư lệnh nhận định:

Sau thất bại của cuộc hành quân Lam Sơn 719 của địch, cục diện chiến trường đã có bước phát triển mới. Ta có đủ khả năng mở các đòn tiến công chiến lược trên nhiều hướng. Vì vậy, nhiệm vụ của tuyến chi viện chiến lược sẽ tăng gấp bội. Cuộc đọ sức trên đường Trường Sơn sẽ diễn ra ác liệt hơn, mang tính chất tổng hợp nhiều loại, nhiều quy mô. Vì vậy, phải chuẩn bị một cách toàn diện và sớm cho mùa khô 1971 - 1972, trong đó cần tập trung giải quyết ba vấn đề lớn:

Một là, xây dựng cho được thế trận cầu đường mới và các khu xuất phát của bộ đội xe hơi nhằm đối phó có hiệu quả với hai đối tượng cực kỳ nguy hiểm là thời tiết và không quân địch; thay đổi hẳn quy luật hoạt động của ta làm đảo lộn hiểu biết vốn có của địch đối với tuyến vận tải chiến lược. Đây là vấn đề quan trọng bậc nhất;

Hai là, nhanh chóng khôi phục, củng cố, phát triển và xây dựng lực lượng cả về quân số, phương tiện vật chất kỹ thuật, trình độ chính trị và tác chiến đáp ứng yêu cầu  nhiệm vụ mới;

Ba là, xây dựng phương án tổ chức mới phù hợp với tình hình của tuyến chiến lược trình Quân ủy Trung ương phê duyệt.

Bộ Tư lệnh xác định cầu đường luôn luôn phải đi trước một bước; đặc biệt trong mùa khô 1971 - 1972 phải đi trước, xa hơn, chủ động hơn. Vì vậy, phải triển khai ngay trong tháng 6 ba khối việc lớn:

a. Mở tuyến đường kín.

b. Mở tuyến đông Trường Sơn .

c. Rải đá trên các tuyến vượt khẩu.

Sau khi nghiên cứu các phương án do Cục Công binh chuẩn bị, Bộ Tư lệnh quyết định mở tuyến đường kín ngay từ đầu tháng 6. Điểm xuất phát tuyến đường cách nam ngầm Long Đại 2 km chạy vào tây Văng Mu, từ đó chạy song song với trục đường 128 vào tới ngã ba biên giới, chiều dài khoảng 800 km.

Để giữ được bí mật, tuyến đường chỉ được phép mở rộng 3,5 m đủ cho xe đi một chiều. Cứ 10 km, phải tạo một đường nhánh để xe tránh nhau. Những nơi trống trải phải trồng cây và ngụy trang kín đáo. Đội hình thi công chia làm 4 mũi trên 4 cung đoạn, cùng đồng thời khởi công và cùng đồng thời hoàn thành để thông tuyến vào tháng 11 năm 1971 .

Thực hiện các chủ trương trên sẽ tạo ra một thế trận lưới có chính diện vượt khẩu kéo dài 250 km với 6 tuyến cắt ngang dãy Trường Sơn nối với mạng tây Trường Sơn; có tuyến đông Trường Sơn chạy sát sườn địch, nhanh chóng tiếp cận chiến trường, nâng hiệu suất vận chuyển và binh khí kỹ thuật vào các chiến trường Trị - Thiên và Khu 5 nhanh gấp ba lần so với trước (vì không phải đi vòng, xa hơn khoảng 200 đến 300 km), đồng thời lợi dụng sự trái ngược thời tiết đông và tây Trường Sơn để vận chuyển cả hai mùa; có tuyến đường kín mang ý nghĩa chiến lược, gây cho địch bất ngờ lớn, có khả năng vô hiệu hoá đối tượng cực kỳ nguy hiểm là máy bay AC 130; đồng thời, cho phép thực hiện vận tải ban ngày theo đội hình lớn, chạy thẳng cung dài từ đầu tuyến đến vùng ba biên giới và hậu cứ Nam Bộ, xóa được phương thức đi theo cung ngắn vừa chậm chạp, vừa tốn kém.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 15 Tháng Năm, 2010, 06:06:48 pm
Từ sau chiến dịch phản công Đường 9 - Nam Lào, địa bàn tuyến chiến lược được mở rộng với tổng diện tích khoảng 132.000 km2. Lực lượng phát triển lớn, quân số ước tính trên 8 vạn người. Các binh trạm, trung đoàn trực thuộc Bộ Tư lệnh tăng lên khoảng 50 đầu mối, phân bố trên nhiều khu vực khác nhau về địa hình, thời tiết, quy luật hoạt động, hình thức tổ chức đã mang lại hiệu quả trong những năm trước, đến lúc này không còn thích hợp, chứa đựng mầm mống quan liêu, trì trệ, thiếu sâu sát, thiếu linh hoạt, sáng tạo trong chỉ huy, có thể dẫn đến những quyết định không kịp thời và chính xác.

Đảng ủy Bộ Tư lệnh đã cân nhắc và đi đến quyết định, đề nghị Quân ủy Trung ương phê duyệt phương án tổ chúc phân chia toàn tuyến thành 5 khu vực. Trên mỗi khu vực có một Bộ Tư lệnh chỉ huy bộ đội hợp thành làm nhiệm vụ mở đường, bảo đảm giao thông, vận tải chiến lược, chiến dịch, tổ chức hành quân, tác chiến đánh địch mặt đất, trên không, bảo vệ hành lang, giúp bạn...

Bộ Tư lệnh cũng đề nghị Bộ Quốc phòng phê duyệt phương án tổ chức một số trung đoàn, binh chủng nhằm tăng cường sức cơ động, giải quyết dứt điểm các nhiệm vụ lớn trong những thời điểm quan trọng.

Để chủ động về mặt cán bộ cho phương án tổ chức mới, Thường vụ Đảng ủy Bộ Tư lệnh thông qua danh sách trên 300 cán bộ sắp xếp vào cấp phòng, binh trạm, trung đoàn do Phó Chính ủy Lê Xy và Trưởng phòng cán bộ Đặng Đình Miên đệ trình.

Qua thực tế tổ chức của Bộ Tư lệnh khu vực 470 và hiệu quả vận chuyển mùa khô vừa qua, ngày 20 tháng 7 năm 1971, Quân ủy Trung ương - Bộ Quốc phòng phê chuẩn phương án tổ chức thêm ba Bộ Tư lệnh khu vực (473, 472, 471) và Bộ Tư lệnh khu vực hậu cứ 571, phân định giới tuyến hoạt động của từng Bộ Tư lệnh khu vực đồng thời điều động và bổ nhiệm cán bộ phụ trách.

Bộ Tư lệnh khu vực 473 phụ trách các tuyến đông - tây Trường Sơn chịu trách nhiệm vận chuyển bảo đảm cho Mặt trân Đường số 9 - Bắc Quảng Trị, chiến trường Trị - Thiên và bảo đảm cho các lực lượng cơ động của Bộ hoạt động ở hướng này; tiếp nhận vận chuyển tạo nguồn dự trữ chiến lược cho Trị - Thiên. Đẩy mạnh xây dựng hệ thống đường đông Trường Sơn chọc sâu xuống Khâm Đức (Quảng Nam).

Bộ Tư lệnh khu vực 472 chịu trách nhiệm tiếp chuyển tạo chân hàng cho Bộ Tư lệnh khu vực 471; trực tiếp phục vụ cho Mặt trận Y (Trung - Hạ Lào) bảo đảm chi viện cho Quân khu Nam Lào, tổ chức đảm bảo hành quân trong phạm vi phụ trách.

Bộ Tư lệnh khu vực 471 có nhiệm vụ tiếp chuyển tạo chân hàng cho Bộ Tư lệnh khu vực 470; bảo đảm cho bộ đội tình nguyện và Pa thét Lào tác chiến củng cố vùng mới giải phóng; bảo đảm cho trung đoàn công binh mở đường 17 xuyên cao nguyên Bô Lô Ven đến Ta Pao, Nậm Công và tổ chức bảo đảm hành quân trong phạm vi phụ trách.

Bộ Tư lệnh khu vực 470 được giao nhiệm vụ là cơ quan tiền phương Bộ Tư lệnh Trường Sơn, trực tiếp quan hệ với chiến trường, giải quyết những yêu cầu cấp bách phục vụ tác chiến và thực hiện nội dung chức năng Bộ Tư lệnh khu vực gồm tiếp nhận hàng của Bộ Tư lệnh khu vực 471, vận chuyển đảm bảo cho chiến trường Tây Nguyên, Nam Bộ, Campuchia và Hạ Lào rồi chuyển ngược lại lương thực thực phẩm phục vụ chiến trường Tây Nguyên và bảo đảm một phần phục vụ sinh hoạt nội bộ.

Bộ Tư lệnh khu vực hậu cứ 571 đóng ở khu vực tây Quảng Bình từ sông Gianh vào Vĩnh Linh tiếp giáp các binh trạm cửa khẩu 27, 14, 9. Nhiệm vụ của Bộ Tư lệnh khu vực hậu cứ 571 là tiếp nhận xe pháo, vật liệu phụ tùng do Bộ bổ sung, chỉ huy các tổng kho hàng, tổng kho xe, vật tư kỹ thuật các xưởng đại tu, trung tu xe máy, trường huấn luyện, đoàn điều dưỡng, tuyến quân y phía sau của Bộ Tư lệnh Trường Sơn. Đón tiếp khách của Đảng, Nhà nước, quân đội và quốc tế ra vào Trường Sơn.

Riêng Sư đoàn bộ binh 968 trực thuộc Bộ Tư lệnh Trường Sơn tiếp tục triển khai chiến đấu trên các khu vực nam Khăm Muộn, Sa Van Na Khét, Sa Ra Van, Bô Lô Ven, A Tô Pơ. Chỉ huy sở Bộ Tư lệnh ở đông Sa Ra Van.

Ngoài 5 Bộ Tư lệnh khu vực còn có các binh trạm thuộc khu vực cửa khẩu trực thuộc Bộ Tư lệnh Trường Sơn là: Binh trạm 12, Binh trạm 14, Binh trạm 9, Binh trạm 15, Binh trạm 31, Binh trạm 29.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 15 Tháng Năm, 2010, 06:07:31 pm
Phương án tổ chức các trung đoàn binh chủng được Bộ phê duyệt gồm: năm trung đoàn công binh, hai trung đoàn ô tô, ba trung đoàn phòng không, hai trung đoàn đường ống xăng dầu, một trung đoàn thông tin, bốn quân y viện.

Bộ cho phép tăng thêm 61 tiểu đoàn, nâng tổng số lên 188 tiểu đoàn và tương đương trực thuộc các binh trạm.

Quân ủy Trung ương tăng cường và bổ nhiệm một số cán bộ vào Bộ Tư lệnh Trường Sơn và cơ quan Bộ Tư lệnh. Tháng 10 năm 1971, đồng chí Đặng Tính- Tư lệnh kiêm Chính uỷ Quân chủng Phòng không - Không quân được điều vào làm Chính ủy Bộ Tư lệnh Trường Sơn thay đồng chí Vũ Xuân Chiêm; đồng chí Phan Khắc Hy nguyên Chính ủy Bộ Tư lệnh Không quân vào làm Phó Tư lệnh Bộ Tư lệnh Trường Sơn; đồng chí Trần Quyết Thắng - Chính ủy Đoàn chuyên gia 565 được đề bạt làm Phó Chính ủy Bộ Tư lệnh.

Trong cơ quan Bộ Tư lệnh có: Bộ Tham mưu gồm 9 phòng; Cục Tham mưu phòng không gồm 4 phòng; Cục Tham mưu vận tải gồm 5 phòng; Cục Tham mưu công binh gồm 5 phòng; Cục Chính trị gồm 9 phòng và tương đương; Cục Hậu cần gồm 6 phòng.

Để bảo đảm quân số cho các đơn vị, Bộ quyết định bổ sung 35.000 quân, trong đó có 20.000 bộ đội và 15.000 thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến, công nhân giao thông, nâng tổng quân số lên 92.000 người.

Về trang bị phương tiện cũng được bổ sung rất lớn. Bộ đội vận tải được bổ sung 3.768 ô tô vận tải, nâng tổng sổ xe trong biên chế lên 5.756 chiếc. Các lực lượng công binh, cao xạ, bộ binh và giao liên cơ giới được bổ sung 1.007 ô tô, nâng tổng số xe biên chế lên 2.578 chiếc.

Trang bị khí tài công binh được bổ sung 641 xe các loại (húc, ben, phóng từ, máy đẩy, ép hơi nâng tổng số lên 961 xe các loại. Trang bị cho lực lượng phòng không 728 khẩu pháo cao xạ. Trang bị khí tài cho thông tin hữu tuyến: 7.301 máy điện thoại, 173 máy tải ba, 745 tổng đài, 14.795km dây trần và dây bọc; cho thông tin vô tuyến: 811 bộ đàm 2W, 336 chiếc 5W, 15W, 40 bộ máy tiếp sức Vũ khí bộ binh có trên 10 nghìn khẩu các loại.

Ngày 13 tháng 8, Đảng ủy - Bộ Tư lệnh họp quyết định tổ chức Hội nghị quân chính nhằm thống nhất quan điểm tư tưởng, nâng cao trình độ chính trị, quân sự cho cán bộ theo kịp yêu cầu phát triển tình hình nhiệm vụ mới.

Nội dung Hội nghị chủ yếu là quán triệt Nghị quyết Trung ương lần thứ  9 và Nghị quyết Quân ủy Trung ương về nhiệm vụ chi viện chiến lược mùa khô 1971 - 1972; quán triệt những bài học được thừa kế, sàng lọc rút ra từ nhiều năm vận tải chiến lược, đặc biệt là vận tải mùa khô 1970- 1971 mà Đảng ủy vừa tổng kết.

Hội nghị Quân chính được tổ chức vào ngày 22 tháng 8 năm 1971 tại Sở chỉ huy Bộ Tư lệnh Trường Sơn ở km 3 đường 18. Dự họp có đầy đủ các đồng chí trong Đảng ủy và Bộ Tư lệnh: Đồng Sỹ Nguyên, Hoàng Thế Thiện, Lê Đình Sum, Lê Xy, Hoàng Kiện, Ngô Thành Vân, Lê Nghĩa Sỹ, Nguyễn Quang Bích, Nguyễn Lệnh, Nguyễn Lang, Phan Khắc Hy, Nguyễn An; các đồng chí chỉ huy quân sự, chính trị các sư đoàn, binh trạm, trung đoàn; các đồng chí đại diện các cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần của Bộ Tư lệnh từ cấp phòng trở lên.

Dự họp có đồng chí Lê Quang Đạo - Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, đại diện Quân ủy Trung ương, đồng chí Đinh Đức Thiện - Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần, Nguyễn Tường Lân và Nam Hải - Thứ trưởng Bộ Giao thông Vận tải, Lê Văn Tri - Phó Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân, Đặng Tính - Tư lệnh kiêm Chính ủy Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân, các đồng chí chủ trì các cục trong cơ quan Bộ Tổng tham mưu, Tổng cục Chính trị, Tổng cục Hậu cần, các tư lệnh công binh, thông tin. Đồng chí Nguyễn Tư Thoàn Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Quảng Bình, Hồ Sĩ Thản - Bí thư Đảng bộ đặc khu Vĩnh Linh.

Hội nghị đã thực sự hội tụ đông đủ trí tuệ của những người đã từng lăn lộn trên tuyến lửa Trường Sơn, phản ánh sự quan tâm sâu sắc, sự đùm bọc, chăm 10, giúp đỡ của toàn quân, toàn dân đối với Bộ đội Trường Sơn đang quyết tâm giành thắng lợi trong cuộc chiến đấu mùa khô 1971 - 1972 sắp tới.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 15 Tháng Năm, 2010, 06:08:17 pm
Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên đọc báo cáo tổng kết. Với tinh thần tự phê bình nghiêm túc đồng chí đã nêu lên những ưu điểm, khuyết điểm trong cuộc chiến đấu vừa qua, đồng thời rút ra những bài học có tính phổ biến.

Báo cáo tập trung làm rõ các vấn đề:

- Nắm địch, thời tiết, địa hình có hệ thống, đánh giá đúng địch, lợi dụng mọi sơ hở của chúng, kết hợp khắc phục địa hình, thời tiết là một trong những yếu tố quyết định giành thắng lợi.

- Chuẩn bị chiến trường, chuẩn bị thế trận, xây dựng và sử dụng lực lượng bước đầu là cơ sở vật chất vững chắc bảo đảm cho tổ chức chiến đấu thắng lợi.

- Giữ vững quyền chủ động, thực hiện tiến công kiên quyết liên tục tiến công trong mọi tình huống, trong mọi binh chủng là tư tưởng chủ đạo xuyên suốt, là một trong những yếu tố hàng đầu đi tới thắng lợi.

- Phát huy sức mạnh tổng hợp tổ chức chiến đấu hiệp đồng binh chủng, lấy bộ đội xe hơi làm trung tâm, xây dựng phong cách chỉ huy trực tiếp là nguyên tắc bảo đảm chắc thắng.

- Liên tục động viên quần chúng. Xây dựng quan điểm tư tưởng đúng đắn là một trong những yếu tố quyết định tiến công thắng lợi.

- Nắm vững phương châm vận chuyển đa phương thức, lấy vận chuyển cơ giới đường bộ là cơ bản, coi trọng vận chuyển cơ giới đường sông, đẩy mạnh phát triển đường ống, duy trì gùi thồ ở nơi và lúc cần thiết. Trong vận chuyển phải vận dụng linh hoạt mọi hình thức chiến thuật: chạy ngày, chạy đêm, chạy lấn sáng, lấn chiều, chạy lớn, chạy vừa, chạy nhỏ, chạy cung ngắn, cung dài, chạy mùa khô, mùa mưa, lấn mùa, chạy bí mật, bất ngờ, chạy trong điều kiện địch đã biết ta và đánh ác liệt.

- Nắm vững phương châm tác chiến: táo bạo, vững chắc, linh hoạt, chủ động, bí mật, bất ngờ, tích cực đánh địch kết hợp chủ động phòng tránh. Nội dung của tích cực đánh địch là kiên quyết chiến đấu, trực diện chiến đấu, liên tục chiến đấu của mọi binh chủng trong thế hiệp đồng. Chủ động phòng tránh là tích cực xây dựng công sự, ngụy trang, nghi binh, lừa địch. Phòng tránh cũng là chiến thuật và nghệ thuật đánh địch.

Báo cáo đã phân tích thêm một số khái niệm về chiến dịch vận tải quân sự trên tuyến chiến lược với sự tham gia của nhiều lực lượng, nhiều binh chủng. Báo cáo nêu rõ trong điều kiện đánh phá, ngăn chặn quy mô, ác hệt của địch, muốn giành thắng lợi trong vận tải quân sự nhất thiết phải huy động sức mạnh tổng hợp, dưới sự chỉ huy tập trung thống nhất các binh chủng hợp thành bằng tổ chức chiến dịch tiến công; chỉ có chiến dịch tiến công mà thôi. Chiến dịch có hướng chủ yếu, hướng phối hợp. Có giai đoạn mở đầu tạo thế, thực hiện đột kích tiến lên giai đoạn tổng công kích dứt điểm kế hoạch cho từng hướng. Có giai đoạn kết thúc chiến dịch đúng lúc.

Nội dung báo cáo được hội nghị thảo luận, bổ sung thực tiễn làm phong phú, sáng tỏ và sâu sắc thêm. Hội nghị đặc biệt quan tâm thảo luận biện pháp đánh bại thủ đoạn đánh phá của máy bay AC 130 và đi đến kết luận: máy bay AC 130 cực kỳ nguy hiểm, nhưng ta không sợ. Nếu làm đường kín chạy ngày kết hợp chạy đêm, đồng thời sử dụng tên lửa và pháo tầm cao chống lại, thì nhất định sẽ đánh bại chúng.

Ngày 29 tháng 8 năm 1971, đồng chí Lê Quang Đạo - đại diện Quân ủy Trung ương nói chuyện với hội nghị. Sau khi biểu dương những nỗ lực và thắng lợi của Bộ đội Trường Sơn, đồng chí nhấn mạnh: "Nhiệm vụ của tuyến chi viện chiến lược là chìa khóa để chiến trường tận dụng thời cơ; tạo thắng lợi mới, nhảy vọt mới... Cả nước, toàn quân tạo điều kiện cho Bộ đội Trường Sơn, tin tưởng Bộ đội Trường Sơn sẽ phát huy truyền thống vượt mọi thử thách giành thắng lợi ...".

Đồng chí nhắc nhở các cấp cần coi trọng công tác tư tưởng làm cho cán bộ và chiến sĩ thấy rõ thắng lợi và tồn tại, đánh giá đúng địch ta, khó khăn và khả năng, thời cơ và yêu cầu. Thường xuyên quán triệt phương châm tư tưởng chỉ đạo để hành động đúng; giữ gìn cần kiệm, dân chủ, kỷ luật, đoàn kết nội bộ và đoàn kết quốc tế. Coi trọng xây dựng trong chiến đấu mà khâu mấu chốt là xây dựng đội ngũ cán bộ.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 15 Tháng Năm, 2010, 06:08:55 pm
Ngày 5 tháng 9, đồng chí Đinh Đức Thiện - Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần nói chuyện với hội nghị. Đồng chí khẳng đinh: “Đường Hồ Chí Minh là một chiến trường có vị trí chiến lược đặc biệt với ba nước Đông Dương, là chiến trường cực kỳ gian khổ, ác liệt. Nhiệm vụ lớn, lại khẩn trương, vừa vận chuyển vừa chiến đấu, vừa làm đường, bảo vệ đường, vì ta khai thác tại chỗ vừa giúp bạn”. Qua tổng kết thấy rõ Bộ đội Trường Sơn trưởng thành, phát triển, làm ăn bài bản, có lý luận, có sáng tạo. Cán bộ, chiến sĩ chiến đấu anh dũng mưu trí...

Sau khi biểu dương, khen ngợi cán bộ, chiến sĩ Trường Sơn, đồng chí đã có những ý kiến chỉ đạo cụ thể từng mặt công tác: cầu đường, đường bộ, đường sông, đường ống, tác chiến, vận chuyển, giao liên, bảo đảm kỹ thuật, bảo đảm đời sống, xây dựng tư tưởng, tổ chức. Đồng chí nhấn mạnh vấn đề then chốt là xây dựng con người có trình độ chính trị tư tưởng vững vàng, có trình độ chiến thuật, kỹ thuật và chuyên môn, nghiệp vụ giỏi, có sức khỏe tốt.

Hội nghị bế mạc trong không khí hân hoan, phấn khởi và tin tưởng. Từ trung tuần tháng 9 đến trung tuần tháng 10 năm 1971 các Bộ Tư lệnh khu vực kiện toàn bộ máy lãnh đạo và chỉ huy, tập trung xây dựng chức trách nhiệm vụ, lề lối làm việc, tác phong chỉ huy, đồng thời tích cực xây dựng thế trận, xây dựng lực lượng trên địa bàn được phân công phụ trách.

Do các Bộ Tư lệnh khu vực được cấu thành từ những cán bộ đã từng giữ cương vị chỉ huy cấp chiến dịch và chiến thuật, được rèn luyện trưởng thành trong nhiều năm chiến đấu trên tuyến lửa, vừa có trình độ tổ chức chỉ huy, vừa có quan điểm lập trường chính trị vững vàng và do các binh trạm trực thuộc đều đã thiện chiến, có ý thức tổ chức kỷ luật cao, có tinh thần đoàn kết hiệp đồng lập công tập thể, nên chỉ trong một tháng, guồng máy hoạt động toàn Bộ Tư lệnh từ trên xuống dưới được thông suốt. Sức mạnh chiến đấu của các lực lượng trên từng khu vực được phát huy, hứa hẹn khả năng tổ chức các chiến dịch vận tải độc lập có hiệu quả.

Tháng 10 năm 1971, mùa mưa ở tây Trường Sơn cơ bản kết thúc. Trong 5 tháng liên tục lực lượng công binh lăn lộn chống chọi với mưa gió, muỗi độc, sên, vắt và thiếu thốn mọi mặt về sinh hoạt, đã san đắp được hàng triệu mét khối đất đá sụt lở khôi phục xong hệ thống đường cũ có tổng chiều dài 7.927 km.

Đặc biệt đã mở được trục đường kín dài khoảng 720 km và mở thêm một trục đường mới phía đông Trường Sơn từ Cầu Khỉ vươn tới Khe Sanh dài trên 50km. Đã rải đá được 117 km trên các đường ở cửa khẩu và khoảng 50km trên các đường ngang ra chiến trường. Đã làm được 13 phà vượt các sông lớn, có phà chở được xe tăng 36 tấn như phà Sê San khu vực Bộ Tư lệnh 470. Một số điểm vượt sông trọng yếu được bắc cầu quân sự. Các lực lượng kho, xe và cơ quan các binh trạm khẩn trương xây dựng các khu kho, bãi xe, sở chỉ huy ở các vị trí mới.

Lực lượng phòng không đã xây dựng xong các trận địa. Lực lượng bộ binh tổ chức chiến đấu giữ vững các vùng Mường Phin, cao nguyên Bô Lô Ven, A Tô Pơ, bảo vệ an toàn tuyến hành lang. Tuy nhiên, do đánh giá sai về địch và thiếu linh hoạt về chiến thuật vùng Sa Ra Van bị các binh đoàn cơ động (GM) của ngụy Lào chiếm lại.

Cùng với việc hoàn thành chuẩn bị thế trận, các lực lượng trên toàn tuyến đều được học tập về chính trị; tập huấn về quân sự, kỹ thuật. Các lực lượng bổ sung từ hậu phương cũng đã vào tới khu tập kết, sẵn sàng nhập tuyến.

Việc chuẩn bị cho mùa vận chuyển mới được tiến hành toàn diện và sớm, đã hoàn thành về cơ bản. Nhưng điều kiện để bước vào vận chuyển mùa khô còn chưa đầy đủ vì thời tiết còn diễn biến phức tạp. Hệ thống đường cũ vẫn chưa khô. Đường kín càng ẩm ướt và chưa có hệ thống bảo đảm. Các cửa khẩu bị ảnh hưởng trực tiếp của ba cơn bão số 12, 13, 14. Mưa to, nước sông suối dâng cao.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 16 Tháng Năm, 2010, 10:57:50 am
Bộ Tư lệnh ra lệnh cho các lực lượng phải nỗ lực chạy đua với thời gian để chiến thắng thời tiết củng cố thế trận, bảo đảm tổ chức nhập tuyến cho 70% số quân bổ sung, 70% số xe pháo cùng các khí tài công binh và thông tin để kịp tăng cường cho các lực lượng. Ngày 15 tháng 11 năm 1971 các chỉ tiêu trên phải hoàn thành. 

Chấp hành mệnh lệnh, các lực lượng công binh chở gấp hàng ngàn mét khối đá để tôn ngầm và gia cố mặt đường, bắc cầu quân sự hoặc làm các loại cầu ứng dụng khác. Lực lượng phòng không bố trí các trận địa đánh máy bay phản lực trên các cửa khẩu. Ngày 15 tháng 11 năm 1971, lực lượng cơ giới do Bộ bổ sung bắt đầu nhập tuyến.

Đúng như phán đoán của ta, bước vào mùa khô 1971 - 1972 địch phá chuẩn bị của ta rất sớm. Từ đầu tháng 9 năm 1971 địch tập trung đánh phá cửa khẩu. Cường độ đánh phá so với mùa khô 1970- 1971 không giảm. Mỗi ngày khoảng 40 lần chiếc máy bay B52 và 150 lần chiếc máy bay cường kích đánh phá liên tục trên bốn cửa khấu, chủ yếu là cửa khẩu đường 16 và cửa khẩu đường 20. Ban đêm địch cho máy bay B52 ném bom rải thảm, ban ngày sử dụng máy bay cường kích đánh bổ nhào. Mục đích chủ yếu của địch là cắt đường, kết hợp diệt các đội hình xe.

Tuy nhiên âm mưu cắt đường, bịt cửa khẩu bằng thủ đoạn mới của địch không thực hiện được vì thế trận vượt khẩu đã thay đổi căn bản. Không những ta có sáu tuyến vượt khẩu mà mỗi tuyến vượt khẩu lại có nhiều đường vòng, đường tránh được rải đá khá vững chắc. Lực lượng công binh bố trí trên các tuyến này đều là những đơn vị thiện chiến, giỏi rà phá bom mìn hỗn hợp, khắc phục phá hoại nhanh. Vì vậy các cửa khẩu vẫn thông suốt, chỉ có tắc giờ không có tắc đêm và tắc ngày.

Lợi dụng những ngày thời tiết âm u, các lực lượng cơ giới được lệnh nhập tuyến.

Từ ngày 20 tháng 10 đến ngày 15 tháng 11, trên 20 nghìn quân nhập tuyến, bổ sung cho các đơn vị, trong đó có hàng trăm sinh viên đại học của các trường đại học Thủy lợi, Bách khoa, Tổng hợp, Giao thông, Y dược. 1.200 xe, 250 khẩu pháo và hàng trăm tấn khí tài công binh, thông tin đã vượt qua cửa khẩu về tới vị trí tập kết.

Ở tung thâm, địch tăng cường trinh sát đánh phá các điểm vượt sông. Nhưng lực lượng phòng không của ta đã bảo vệ các điểm vượt có hiệu quả, trong vòng một tháng giao tranh đã bắn rơi 13 máy bay địch, trong đó có 6 chiếc rơi tại chỗ. Sau một tháng hoạt động hết sức khẩn trương, thế trận và lực lượng toàn tuyến đã sẵn sàng bước vào giai đoạn tổ chức chiến dịch vận chuyển mùa khô 1971 - 1972.

Ngày 19 tháng 11 năm 1971, Đảng ủy họp bất thường, nhận định: điều kiện cơ bản để đi vào vận chuyển mùa khô đã được xác lập, nhưng để đi đến giai đoạn chiến đấu đồng đều trên toàn tuyến với quy mô lớn thì chưa thực hiện ngay được, đòi hỏi phải có bước đi thích hợp. Song nếu chậm trễ thì không thể tạo điều kiện cho các chiến trường chủ động tranh thủ thời cơ có lợi để đánh thắng.

Đảng ủy quyết định mở một chiến dịch vận chuyển đột phá quy mô vừa trên hướng quan trọng nhất nhằm mục đích vượt khẩu lập chân hàng, tạo điều kiện cho lực lượng ở tung thâm thực biện từng đợt đột kích; đồng thời để biểu dương ý chí và sức mạnh của ta, thúc đẩy toàn tuyến dấy lên khí thế mạnh mẽ bước vào chiến dịch vận chuyển có quy mô lớn.

Chiến dịch được mang tên “chiến dịch Đồng Xoài". Lực lượng tham gia chiến dịch gồm bốn binh trạm phía bắc: 12, 14, 15, 31. Các đơn vị binh chủng có 7 tiểu đoàn xe hơi, 4 trung đoàn cao xạ, 3 trung đoàn công binh, 2 tiểu đoàn bộ binh. Tất cả các lực lượng đều đặt dưới sự chỉ huy của Bộ Tư lệnh Trường Sơn.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 16 Tháng Năm, 2010, 10:58:45 am
Quá trình thực hành chiến dịch, Bộ Tư lệnh Trường Sơn giao cho Bộ Tư lệnh khu vực 473 trách nhiệm phối hợp, vận chuyển vượt khẩu phía đông, kéo bớt địch. Trung đoàn 29 bộ binh có trách nhiệm phối hợp ngăn chặn địch bảo vệ sườn phía tây. Các bộ tư lệnh khu vực khác khẩn trương củng cố thế trận, thực hiện từng đợt đột kích. Bộ Tư lệnh đề ra bốn mục tiêu lớn của chiến dịch:

- Tổ chức đánh thắng trận đầu bằng chiến đấu hiệp đồng binh chủng.

- Tạo chân hàng với khối lượng lớn trên khu vực bắc đường 9 để chuẩn bị phát triển vận chuyển quy mô lớn trên toàn tuyến.

- Tạo thế cho bước tiếp theo gồm hoàn thiện hệ thống cầu đường phù hợp với tư tưởng chỉ đạo mới; tổ chức thế trận tác chiến phòng không nhằm tiêu diệt các loại máy bay, đặc biệt là máy bay AC 130.

- Rèn luyện bộ đội xe hơi, tập dượt thực hành vận chuyển quy mô lớn.

Bộ Tư lệnh Trường Sơn quyết định thiết lập sở chỉ huy nhẹ do Chính ủy Đặng Tính và Phó Chính ủy Lê Xy phụ trách trực tiếp chỉ huy các lực lượng tham gia chiến dịch. 

Trước khi ra quân, Bộ Tư lệnh mở Hội nghị Quân chính để phổ biến nhiệm vụ và phát động phong trào thi đua phối hợp với các chiến trường, quyết giành thắng lợi có ý nghiã quyết định trong năm 1972.

Tại Hội nghị, Bộ Tư lệnh đã công bố danh sách 6 đơn vị và 3 cá nhân vừa được Nhà nước tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân ngày 1 tháng 10 năm 1971 .

Tin vui nhanh chóng được phổ biến, các đơn vị trên toàn tuyến dấy lên khí thế thi đua chiến đấu lập công trong toàn thể cán bộ, chiến sĩ trước khi bước vào chiến dịch.

Ngày 12 tháng 12 năm 1971 , chiến dịch mở màn. Đúng vào thời điểm này, cơn bão số 15 gây mưa lớn trên các trục vượt khẩu, các sông suối nước dâng cao. Cán bộ, chiến sĩ công binh đã nêu cao ý chí thắng thời tiết, ngày đêm tập trung sức chở đá tôn ngầm và ngâm mình dưới dòng nước chảy xiết đế bắc cầu quân sự bảo đảm thông xe liên tục.

Từ khu vực Lùm Bùm trở vào, thời tiết khô ráo, trời quang mây tạnh. Nhưng "đường kín" còn mềm chưa sử dụng được, buộc bộ đội xe phải tiến công ban đêm trên “đường hở". Máy bay AC 130 săn lùng xe ráo riết. Bộ đội phòng không đã triển khai được 75% số pháo cao xạ và súng máy ở các trọng điểm Bản Đông, Tha Mé, Mường Phin, Na Hang, Tam Luông, Xóm Péng, đèo 500, Bạc...

Các đơn vị đánh trên 1.000 trận, bắn rơi 27 máy bay các loại có 13 chiếc rơi tại chỗ. Nhưng đổi với máy bay AC 130 thì đánh chưa hiệu quả. Đêm nào xe ta cũng bị loại máy bay này gây tổn thất nặng. Cuộc chiến đẩu giữa ta và địch ngày càng trở nên quyết liệt. Bộ đội xe hơi phải áp dụng chiến thuật lấn chiều, lấn sáng táo bạo hơn, vừa chạy đội hình nhỏ, vừa chạy đội hình vừa, vừa tập kích bí mật, vừa tiến công dưới điều kiện uy hiếp của địch. Lực lượng công binh tập trung đào công sự và làm đường nhánh "xương cá" cho xe trú ẩn, đẩy mạnh nghi binh, tiếp tục gia cố mặt đường.

Các trung đoàn công binh cơ động (4, 10, 98) tiếp tục mở thêm đường kín, củng cố nền đường rải đá chống lầy, bứng cây tươi trồng dọc đường trống, ngụy trang vách ta luy và các bến vượt bằng cây cỏ để nhanh chóng đưa đường kín vào sử dụng.

Lực lượng phòng không tăng cường đánh máy bay trinh sát và máy bay AC 130. Lực lượng bộ binh chuẩn bị đánh chiếm lại vùng vừa bị mất và chuẩn bị giải phóng một số vùng khác. Sau hơn nửa tháng tiến hành chiến dịch Đồng Xoài, toàn tuyến có bước phát triển mới, nhiều mặt phát triển tốt. Các binh trạm trực tiếp tham gia chiến dịch nỗ lực vượt bậc, hoàn thành chỉ tiêu lập chân hàng. Các lực lượng trên các khu vực phối hợp tốt, vừa hoàn thiện thế trận cầu đường, vừa thực hiện các đợt đột kích.

Sư đoàn khu vực 473 và Sư đoàn khu vực 472 đã thực hiện khối lượng vượt đường 9 (1.460 tấn), vượt La Hợp (828 tấn). Sư đoàn khu vực 471 triển khai mở đường kín và đẩy hàng vượt Bạc 228 tấn. Sư đoàn khu vực 470 tổ chức khai thác hàng ở hướng C4 đạt hiệu quả cao (1.000 tấn), đồng thời chuyển được số vũ khí cần thiết đảm bảo cho bộ đội Tây Nguyên và Nam Bộ.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 16 Tháng Năm, 2010, 10:59:27 am
Phản công đánh bại cuộc hành quân “Chen La 2" của 50 tiểu đoàn chủ lực ngụy Lon non đánh ra khu vực đường số 6 - Công Pông Thơm. Sư đoàn tình nguyện 968 phối hợp với bộ đội Pa thét Lào đập tan cuộc hành quân của 18 tiểu đoàn địch, khôi phục các khu vực Sa Ra Van - Tha Teng, Lào Ngàm, đuổi địch ra khỏi Pắc Xoong, giải phóng cao nguyên Bô Lô Ven, bảo vệ vững chắc tuyến vận tải chiến lược. Đoàn chuyên gia 565 tích cực giúp bạn ổn định đời sống nhân dân, phát triển lực lượng cách mạng.

Ngày 27 tháng 12 chiến dịch vận chuyển mang tên “chiến dịch Đồng Xoài" kết thúc, bước đầu tạo điều kiện phát huy sức mạnh trên toàn tuyến. Song so với yêu cầu về khối lượng và thời gian cần thiết đảm bảo cho chiến trường thì mức phấn đấu chưa đạt. Một trong những nguyên nhân là ảnh hưởng cơn bão muộn, đường xấu đánh máy bay AC 130 chưa có hiệu quả. Việc phát động quần chúng chưa mạnh và biểu hiện ngại địch dẫn đến cung cách làm ăn nhỏ, lẻ, phân tán, né tránh làm cho hiệu suất thấp.

Qua "Chiến dịch Đồng Xoài", các cấp lãnh đạo, chỉ huy nhận rõ những ưu điểm khuyết điểm, rút được nhiều kinh nghiệm quý báu.

Do yêu cầu khẩn cấp của chiến trường, cần phải hoàn thành kế hoạch tháng 1 năm 1972 ở mức tối thiểu, theo thời gian khống chế của Quân ủy Trung ương, Thường vụ Đảng ủy Bộ Tư lệnh Trường Sơn quyết định mở chiến dịch tiếp theo, lấy tên là “Chiến dịch Bình Giã" bắt đầu ngày 1 tháng 1 năm 1972.

Sau khi xem xét thế trận cầu đường, tình hình thời tiết địa hình và sự đánh phá của địch trên toàn tuyến, Bộ Tư lệnh quyết định địa bàn và hướng chủ yếu của "chiến dịch" là từ các cửa khẩu tây Trường Sơn đến Bạc. Lực lượng trên hướng chủ yếu gồm Bộ Tư lệnh khu vực 472, 4 binh trạm độc lập đã tham gia "Chiến dịch Đồng Xoài" và Trung đoàn bộ binh 29 trực thuộc. Ngoài lực lượng vận tải của Bộ Tư lệnh khu vực 472 và các binh trạm trên, Bộ Tư lệnh quyết định tăng cường trung đoàn ô tô cơ động 13 và 3 tiểu đoàn ô tô độc lập khác nhằm tăng sức đột phá, dứt điểm chỉ tiêu nhiệm vụ đúng thời hạn.

Ở hướng đông, Bộ Tư lệnh khu vực 473 có nhiệm vụ phối hợp vận chuyển hàng tới chiến trường Trị - Thiên. Ở hướng nam, Bộ Tư lệnh khu vực 470 và 471 tập trung lực lượng tiếp nhận bảo quản, đồng thời tổ chức những mũi vận chuyển liên tục đi sâu vào hậu cứ các chiến trường Nam Bộ và Tây Nguyên.

Hướng chủ yếu, Bộ Tư lệnh quyết định tăng cường lực lượng phòng không gồm: trung đoàn cao xạ 591 cơ động về khu vực Tha Mé; trung đoàn cao xạ 250 chuyển xuống Bản Đông; trung đoàn cao xạ 210 vào đường 22A; ba tiểu đoàn cao xạ 12, 88 và 98 bố trí bảo vệ đường kín; tiểu đoàn 67 tên lửa hành quân vào khu vực Na Bo đường 128.

Lực lượng thông tin hoàn thiện mạng tiếp sức tải ba, vô tuyến, giữ vững liên lạc với mọi đối tượng trong chiến dịch. Lực lượng đường ống xăng dầu gồm hai trung đoàn 592 và 352, khẩn trương xây dựng đường ống vào đến Bạc, xây các khu chứa tương ứng với các cung vận chuyển phục vụ đội hình xe vừa chạy theo cung, vừa chạy thẳng, đảm bảo vững chắc nhiên liệu cho các hướng.

Lực lượng kỹ thuật khôi phục nhanh đầu xe, thực hiện các chế độ bảo dưỡng, bảo đảm cho được 80% hệ số kỹ thuật. Tổ chức tốt việc ăn nghỉ dọc đường cho bộ đội xe hơi.

Các binh trạm cửa khẩu bảo đảm chân hàng đủ cơ số trực tiếp, cơ số dự bị, cơ số dự phòng. Triển khai hệ thống chỉ huy và bảo đảm giao thông trên trục đường kín. Bố trí hệ thống cấp cứu, phẫu thuật ngay tại các trọng điểm.

Ngày 27 tháng 12, Thường vụ Đảng ủy, Bộ Tư lệnh triệu tập Hội nghị Quân chính. Sau Hội nghị các đồng chí trong Thường vụ Đảng ủy được phân công trực tiếp chỉ đạo các hướng quan trọng. Riêng hướng chủ yếu, Thường vụ Đảng ủy, Bộ Tư lệnh quyết định thành lập Chỉ huy sở tiền phương do Phó Tư lệnh Phan Khắc Hy và Phó Chính ủy Lê Xy phụ trách.

Ngày 1 tháng 1 năm 1972, "Chiến dịch Bình Giã” mở màn. Phát hiện hoạt động tập trung quy mô lớn của ta, định huy động lực lượng đánh phá ác liệt. Một mặt, chúng duy trì ngăn chặn cửa khẩu; mặt khác tập trung kiếm soát gắt gao và đánh phá ác liệt khu vực đường 9 từ ngã ba Bản Đông đến Mường Phin, khống chế các điểm vượt sông Sê Băng Hiếng.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 16 Tháng Năm, 2010, 11:00:08 am
Nhờ phát triển ba điểm vượt sông (N 11, N 12, N 13), làm xong các hệ thống công trình vượt và tổ chức hệ thống phòng không mạnh ta mới vượt qua được lưới lửa ngăn chặn của địch. Riêng ba binh trạm 33, 34, 39 thuộc Bộ Tư lệnh 472 nằm trong trung tâm hướng chủ yếu do chưa làm xong đường kín, đội hình xe phải chạy đêm nên bị đánh cháy nhiều.

Theo chỉ thị của Bộ Tư lệnh Trường Sơn, Phó Tư lệnh Nguyễn Việt Phương, Phó Chính ủy Phan Hữu Đại, Tham mưu trưởng Hoàng Trá (Bộ Tư lệnh 472) xuống ba binh trạm trên trực tiếp làm Binh trạm trưởng kiêm Chính ủy.

Ở khu vực Binh trạm 35, 37, 38 thuộc Bộ Tư lệnh 471, mỗi ngày địch huy động 150 lần/chiếc đánh phá bằng bom mìn hỗn hợp với cường độ cao. Số bom từ trường tăng 375%, bom nổ chậm tăng 173% so với trước. Trong đọt đánh phá này của địch, đồng chí Nguyễn Tam Anh - Phó Chính ủy Bộ Tư lệnh 471 và đồng chí Trương Bỉnh Khiêm - Binh trạm trưởng Binh trạm 37 hy sinh.

Trên toàn tuyến, máy bay AC 130 quần đảo đánh phá suốt đêm. Số đạn 40 ly tăng 32%, đạn 20 ly tăng 60% so với tháng 12 năm 1972.
Các đơn vị cao xạ 57 ly và 100 ly có điều khiển bằng khí tài mới được điều vào chưa tìm ra lối đánh ở địa hình rừng núi, nên chưa phát huy được tác dụng. Đội hình xe chạy đêm bị tổn thất khá nhiều, 60% số xe bị đánh hỏng do máy bay AC 130. Đường kín mới mở chưa ổn định và còn độc đạo nên tốc độ tiến công của đội hình xe chưa phát huy được.

Ở hướng phối hợp phía đông, máy bay B52 đánh quyết liệt vào cửa khẩu của Binh trạm 27. Máy bay AC 130 thường xuyên khống chế trọng điểm Chà Lì, Đèo 500 và Bản Đông. Hướng này gặp khó khăn lớn về địa hình (nhiều núi đá tai mèo, đồi trọc và rừng thưa) nên phần lớn là đường hở. Xe phải chạy đêm bị máy bay AC 130 đuổi đánh gây nhiều tổn thất.

Bộ Tư lệnh khu vực 473 huy động lực lượng chặt cây cao 4m trồng hai bên đường bắt chéo cánh xẻ lại để hạn chế khả năng quan sát của máy bay. Đồng thời vận dụng nhiều hình thức khác như chạy đêm kết hợp chạy ngày, chạy đội hình nhỏ theo cung ngắn, tăng cường đánh địch và nghi binh... để hạn chế tổn thất.

Trong 15 ngày đầu, chiến dịch diễn ra không được thuận lợi, chủ yếu là do đường kín còn ẩm ướt trơn lầy, độc đạo và chưa liên hoàn; hoạt động của máy bay AC 130 còn phát huy được. Trước tình hình đó, Bộ Tư lệnh đã phát động phong trào hạ máy bay AC 130, mở thêm đường kín, trồng cây ngụy trang đường "hở” để chạy ngày, tổ chức nghi binh, nâng cao đầu xe, nâng cao trọng tải vượt cung tăng chuyến. Bộ Tư lệnh công bố các hình thức khen thưởng: Tặng danh hiệu “Dũng sĩ diệt Mỹ - ngụy” cho những người lập công xuất sắc và trao cờ thưởng luân lưu cho những đơn vị dẫn đầu.

Càng về cuối chiến dịch, thế trận cầu đường càng được củng cố đồng bộ, khí thế bộ đội lên cao, các binh chủng hiệp đồng tác chiến chặt chẽ, các đơn vị xe chuyển sang chạy ngày là chủ yếu. Nhờ đó toàn tuyến đã thực hiện được khối lượng theo yêu cầu của Quân ủy Trung ương. Chân hàng cho Bộ Tư lệnh khu vực 470 được bảo đảm, kịp thời phục vụ yêu cầu tác chiến của chiến trường Tây Nguyên và Nam Bộ. Hướng phía đông đảm bảo đủ chỉ tiêu cho mặt trận đường 9 - bắc Quảng Trị, chiến trường Trị -Thiên và Quân khu 5.

Cuối tháng 2 năm 1972, "Chiến dịch Bình Giã" kết thúc. Toàn tuyến đảm bảo đủ khối lượng hàng cho các hướng chiến trường, đảm bảo vật chất và tổ chức hành quân cho 55.000 cán bộ chiến sĩ gồm một sư đoàn và ba trung đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn xe tăng. 20 tiểu đoàn và 44 đại đội bộ đội địa phương cùng hàng ngàn cán bộ cao cấp, trung cấp thuộc các ngành tham mưu, chính trị, hậu cần kỹ thuật từ miền Bắc vượt Trường Sơn vào tăng cường cho các chiến trường.

Đặc biệt, đã bảo đảm và chỉ huy hai trung đoàn bộ binh, hai tiểu đoàn pháo 85 ly, một tiểu đoàn pháo 122 ly hai tiểu đoàn cao xạ 37 ly, một tiểu đoàn tăng 171 (36 chiếc), một đại đội tên lửa chống tăng B72, một đại đội tên lửa bắn máy bay mang vác A72 vào tới chiến trường xa nhất (Nam Bộ) tạo sự chuyển biến mạnh về tương quan lực lượng trên chiến trường, gây bất ngờ lớn đối với địch.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 16 Tháng Năm, 2010, 11:00:58 am
Quá trình thực hiện chiến dịch, thế trận trên toàn tuyến ngày càng được củng cố, bản lĩnh và trình độ chỉ huy chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ được tôi luyện và nâng cao; thời tiết đi vào tháng cao điểm của mùa khô từ đông sang tây Trường Sơn. Để đảm bảo cho các chiến trường chuẩn bị bước vào cuộc tiến công chiến lược Đảng ủy, Bộ Tư lệnh chủ trương nắm thời cơ thuận lợi đưa toàn tuyến vào giai đoạn "Tổng công kích" nhằm dứt điểm kế hoạch chi viện chiến lược, giành thắng lợi quyết định trong mùa khô 1971 - 1972.

Đảng ủy nhấn mạnh nội dung chỉ đạo "Tổng công kích" là toàn diện, toàn tuyến phát triển đồng đều. Sử dụng tất cả 6 trục vượt khẩu dồn dập chuyển khối lượng lớn vật chất đi sâu vào phía trong. Phát triển cả 10 trục vào các hướng chiến trường. Tập trung ưu tiên các trục trọng tâm. Hướng đi mặt trận đường 9 - bắc Quảng Trị phải giữ vững bảo đảm thông suốt ba trục là đường 16, đường số 9, đường B70.

Hướng đi mặt trận Trị - Thiên phải giữ vững, bảo đảm thông suốt đường B45, đường B71. Hướng mặt trận Khu 5, phải giữ vững, kéo dài đường B46. Hướng đi mặt trận Tây Nguyên phải hoàn chỉnh ngụy trang, giữ vững trục đường 128 xuống Sa Thầy.

Hướng đi chiến trường Nam Bộ phải tăng cường truy quét biệt kích, thám báo và bộ binh địch nống lấn, giữ vững đường 49A, 49B và đường sông Sê Kông, Mê Kông. Các lực lượng trên chiến trường Lào cần phối hợp, cùng bạn truy quét biệt kích thám báo quanh khu vực đường 23 và tây đường số 9 .

Phương châm chỉ đạo vận chuyển là đội hình lớn tập trung tiến công ban ngày và chạy vượt cung là chính, khi có điều kiện thì chạy thẳng. Trên trục ngang ra chiến trường chủ yếu tổ chức đội hình đại đội tập trung kết hợp linh hoạt vận chuyển đi thẳng với vận chuyển theo cung.

Trên các địa bàn do các Bộ Tư lệnh khu vực đảm nhiệm cần duy trì một số xe vận chuyển đêm trên đường “hở” để đánh lạc hướng mục tiêu của địch. Các lực lượng công binh cơ động và tại chỗ tập trung mở đường "kín" tạo thành hai trục liên hoàn đảm bảo cho lực lượng vận tải cơ giới tiến công ào ạt. Lực lượng cao xạ và tên lửa bố trí tập trung ở các điểm "vượt", hạ bằng được máy bay AC 130. Bộ Tư lệnh quyết định kiện toàn Binh trạm 30 bảo đảm đường 24, đưa thêm trung đoàn ô tô cơ động 11 vào "Tổng công kích" để tăng cường sức đột kích trên tuyến đường “kín".

Với phương châm chỉ đạo và hàng loạt biện pháp tích cực, toàn diện đồng bộ, Bộ đội Trường Sơn đã xoay ngược được tình thế, đẩy địch vào thế bất ngờ. Máy bay địch vẫn xăm xăm nhằm đánh vào các trọng điểm trên tuyến đường "hở” và săn lùng xe chạy đêm.

Bị ta lừa, 500 lần chiếc máy bay địch đánh vào mục tiêu giả với 2.000 bom phá, bom bi bom cháy, bom từ trường, bắn trên 7.000 loạt rốc két 40 ly và 20 ly. Bộ đội phòng không đánh trả quyết liệt, bắn rơi 28 máy bay, có ba chiếc trinh sát OV 10, rơi tại chỗ.

Tại khu vực Bản Đông, tiểu đoàn 35 bắn trên 100 quả pháo sáng vây bọc máy bay AC 130 làm chúng hoảng hốt bỏ chạy. Lần đầu tiên bộ đội phòng không diệt được máy bay AC 130, đối thủ nguy hiểm nhất của tuyến chi viện chiến lược.

Choáng váng trước sức mạnh phòng không của ta, máy bay AC 130 của địch phải ngừng hoạt động trên một khu vực rộng lớn từ cửa khẩu vào Bạc trong 15 ngày, tạo điều kiện thuận lợi cho đội hình xe tiến công cả ngày và đêm, trên cả đường "kín" và đường "hở". Tổn thất xe giảm từ 20% xuống còn 1,2%. Hiệu suất vận chuyển tăng gấp từ 3 đến 4 lần so với tháng trước.

Trong tháng "Tổng công kích" hàng giao cho các hướng chiến trường vượt rất cao so với chỉ tiêu kế hoạch, xấp xỉ bằng 3 tháng đầu mùa khô. Đồng thời tổ chức hành quân, giao cho các chiến trường 97.000 cán bộ, chiến sĩ đã qua huấn luyện.

Ngày 30 tháng 3 năm 1972, các đơn vị binh chủng hợp thành đồng loạt nổ súng, tiến công trên ba hướng chiến lược tuyến phòng thủ vòng ngoài của địch ở đường số 9 - bắc Quảng Trị, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ. Hướng tiến công chiến lược chủ yếu là đường số 9 - Bắc Quảng Trị. Phối hợp với đòn tiến công chiến lược, quân và dân đồng bằng Khu 5 và đồng bằng Nam Bộ mở các chiến dịch tổng hợp, đánh vào các chi khu quân sự của địch.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 16 Tháng Năm, 2010, 11:01:39 am
Ngày 31 tháng 3 năm 1972, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra lời kêu gọi : “Chiến dịch lịch sử năm 1972 đã bắt đầu" ... "Trong cuộc đọ sức quyết liệt lần này giữa ta và địch, thắng lợi về quân sự của ta trên chiến trường có tầm quyết định về chiến lược rất quan trọng. Lúc này hơn lúc nào hết, trách nhiệm của các lực lượng vũ trang nhân dân ta rất nặng nề và rất vẻ vang”.

Lời kêu gọi của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã dấy lên khí thế mới trong các lực lượng chi viện chiến lược. Tranh thủ thời cơ khi một bộ phận lớn không quân địch bị hút vào các cuộc tiến công trên các chiến trường, con "át chủ bài" AC 130 bị đánh gục, Bộ đội Trường Sơn đẩy "Tổng công kích" lên cao trào mới. Trên 40 tiểu đoàn xe, tiến công dồn dập cả ngày và đêm. Các cung trung chuyển trong phạm vi từng khu vực bị loại dần. Nhiều đội hình được lệnh chạy thẳng từ đầu tuyến đến cuối tuyến.

Đầu tháng 5 năm 1972, bảy tiểu đoàn xe đưa một chuyến hàng từ cửa khẩu vào thẳng chiến trường Nam Bộ và Tây Nguyên. Số hàng tới đích đợt này bằng kết quả vận chuyển 6 tháng trước đó của Bộ Tư lệnh khu vực 470.

Trên mặt trận đường số 9 - Bắc Quảng Trị bộ đội ta đã tiêu diệt một tập đoàn phòng ngự vào loại mạnh của địch, diệt hơn 8.000 tên, bắt 2.100 tên, phá hủy trên 2.000 xe các loại, bắn rơi 50 máy bay. Ngày 2 tháng 5 năm 1972, ta giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng Trị. Địch phản kích quyết liệt, cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt, ta và địch giành đi giật lại từng khu vực.

Để đảm bảo tiếp tế vững chắc cho chiến dịch, Bộ Tư lệnh Trường Sơn giao cho Sư đoàn khu vực 473 bảo đảm cho mặt trận đường số 9 - Bắc Quảng Trị từ hướng tây và cho Trị Thiên - Huế, Bắc Khu 5.

Phát hiện nhịp độ vận chuyển gia tăng trên các hướng này, địch tập trung không quân đánh phá dữ dội. Địa bàn Binh trạm 42 từ đèo Pê Ke đến thung lũng A Lưới bị địch đánh phá ác liệt nhất. Bộ đội Sư đoàn 473 hợp đồng chặt chẽ với quân dân Thừa Thiên - Huế đánh trả quyết liệt máy bay địch.

Ngày 20 tháng 6, tại khu vực A Lưới, Tiểu đoàn 4 cao xạ bắn rơi 5 máy bay địch. Ngày 18 tháng 6, tên lửa A72 của bộ đội Trị - Thiên bắn rơi tại chỗ 1 chiếc AC 130. Ngày 7 tháng 7, Đại đội 2 tiểu đoàn cao xạ 35 bắn rơi tại chỗ 1 chiếc AD6 ở Hướng Hóa. Các Binh trạm 41, 42, 28, các trung đoàn công binh 98, 6, trung đoàn xe cơ động 13 vượt qua mọi thử thách ác liệt, bảo đảm cầu đường vận chuyển theo yêu cầu của chiến trường.

Địch vơ vét lực lượng tố chức cuộc hành quân “Lam Sơn 72" nhằm tái chiếm những vùng bị mất; đồng thời tổ chức phản kích bằng pháo hạm và máy bay rất quyết liệt vào các khu vực Cồn Tiên, Dốc Miếu, Bái Sơn, Đông Hà, Ái Tử, Thành cổ Quảng Trị, Đầu Mầu và hậu cứ Bộ Tư lệnh Trường Sơn. Đồng chí Nguyễn Văn Tốn - Phó Chủ nhiệm Cục Hậu cần hy sinh khi đi kiểm tra đơn vị. Đồng chí Lê Văn Lẫm - Trung đoàn trưởng Trung đoàn Cao xạ 591 hy sinh khi chỉ huy chiến đấu.

Trong tình hình đường bộ bị đánh dồn dập, Binh trạm 12 được lệnh nhanh chóng tổ chức một mũi vận chuyển đường thủy ven theo bờ biển vào Gia Đằng, Mỹ Thủy tiến vào sông Thạch Hãn tiếp tế cho Trung đoàn 48 đang cố thủ Thành cổ và căn cứ Tà Lương, Phù Liêu, Thanh Hội.

Đúng vào thời điểm đó, Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng lệnh cho Bộ Tư lệnh Trường Sơn đưa một số đơn vị pháo 130 ly, xe tăng và pháo cao xạ vào Khu 5 đẩy mạnh cuộc chiến đấu chia lửa với Quảng Trị. Chấp hành lệnh trên, Bộ Tư lệnh Trường Sơn điều Trung đoàn 10 công binh mở gấp đường từ Khâm Đức đến Phước Sơn; phân công Phó Tư lệnh Nguyễn Quang Bích trực tiếp chỉ huy các lực lượng pháo, tăng, cao xạ cơ động vào Khu 5 đúng thời gian quy định.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 16 Tháng Năm, 2010, 11:02:13 am
Cuối tháng 6 năm 1972, do trời mưa lớn, chiến dịch vận chuyển mùa khô kết thúc. Tổng khối lượng giao cho các chiến trường và bảo đảm hành quân là 64.785 tấn, đạt 145% chỉ tiêu kế hoạch. Ngoài ra còn vận chuyển tạo chân hàng dự trữ trên các hướng 9.000 tấn và vận chuyển đảm bảo cho nội bộ khoảng 80.000 tấn, bao gồm thiết bị vật tư ô tô, xe máy, xăng dầu, đường ống, vũ khí, đạn, thuốc quân y và vật chất sinh hoạt...

Tuyến vận chuyển kéo dài thêm 40 km vào Khu 5; 150km vào Đông Nam Bộ; 200 km vào Tây Nguyên và trực tiếp vận chuyển tới chiến hào của bộ đội chiến đấu ở đường số 9 - Bắc Quảng Trị.

Cùng với thắng lợi của vận chuyển chiến lược, các nhiệm vụ khác đều được thực hiện tốt. Trong đó, khai thác hàng tại chỗ ở đông bắc Campuchia được 15.483 tấn; xây dụng đường ống kéo dài tới Bạc, nhập được 25.692 tấn xăng. Mở được 2.258km "đường kín", trong đó có 140km ở cửa khẩu được rải đá. Mở thêm được 676km "đường hở” và khôi phục 7.500km đường cũ với khoảng 5.560.172m3 đất đá, tạo được thế trận mới, chuyển đổi quy quật hoạt động trên tuyến.

Các lực lượng phòng không bắn rơi 194 máy bay các loại, trong đó có 71 chiếc rơi tại chỗ, lần đầu tiên bắn rơi được máy bay AC 130. Lực lượng bộ binh liên tục chiến đấu, giữ vững các vị trí trong mùa mưa, tiêu diệt 1.924 tên địch, làm bị thương 1.515 tên, bắt sống 55 tên, thu và phá nhiều phương tiện chiến tranh của địch, mở rộng vùng giải phóng, bảo vệ vững chắc tuyến hành lang.

Kết thúc nhiệm vụ mùa khô 1971 - 1972, Bộ Tư lệnh Trường Sơn đã tặng danh hiệu "Dũng sĩ diệt Mỹ-ngụy” cho 1.610 lái xe và hàng trăm cán bộ, chiến sĩ các binh chủng, trong đó 241 người đạt dũng sĩ cấp ưu tú. Phong trào thi đua giành danh hiệu "Dũng sĩ diệt Mỹ-ngụy” trên mặt trận chi viện chiến lược đã khơi dậy nhiệt tình cách mạng của các lực lượng trên toàn tuyến, góp phần giành thắng lợi lớn trong mùa khô 1971 - 1972 .

Quân ủy Trung ương biểu dương Bộ đội Trường Sơn đã chiến đấu xuất sắc, giành thắng lợi to lớn toàn diện chưa từng có so với các năm trước. Vận chuyển chi viện, tổ chức bảo đảm đưa quân vào đạt kết quả rất cao trên tất cả các hướng, góp phần quan trọng cho các chiến trường Nam Đông Dương đánh mạnh cả mùa khô, mùa mưa.

Trước đòn tiến công chiến lược mùa xuân 1972 của quân và dân ta trên khắp các chiến trường miền Nam, Mỹ đơn phương tuyên bố hoãn không thời hạn cuộc đàm phán ở Pari, đồng thời huy động một lực lượng lớn không quân, hải quân, sử dụng khối lượng bom đạn gấp hai lần so với trước, chi viện hỏa lực hòng cứu nguy cho quân đội Sài Gòn và mở lại cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ hai.

Ngày 8 tháng 5 năm 1972, Níchxơn tuyên bố phong tỏa cảng Hải Phòng và toàn bộ các cửa biển miền Bắc Việt Nam. Một lực lượng lớn không quân Mỹ kể cả pháo đài bay B52 cùng với pháo hạm ngoài biển liên tục đánh phá các tuyến đường bộ, đường sắt, đường sông, cảng biển, phá hủy nhiều cầu cống bến bãi, rải bom từ trường, thủy lôi dày đặc phong tỏa các cửa biển, các luồng sông, đặc biệt tập trung đánh phá ác liệt cảng Hải Phòng và khu vực "cán xoong" Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình...

Âm mưu của đế quốc Mỹ là triệt ngay từ gốc nguồn chi viện của hậu phương cho tiền tuyến làm giảm sức tiến công của ta trên chiến trường, buộc ta phải chấp nhận những giải pháp mà Mỹ đưa ra tại Hội nghị Pari.

Trước âm mưu và hành động mới của địch, Trung ương Đảng quyết định: Tiếp tục tiến công chiến lược ở miền Nam, đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ bảo vệ vững chắc miền Bắc, chống địch phong tỏa, tập trung sức thực hiện nhiệm vụ đột xuất số một là giao thông vận tải chi viện chiến trường.

Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương quyết định đẩy mạnh hơn nữa công tác chi viện bảo đảm cho các chiến trường, tiếp tục phát triển tiến công ở miền Nam, đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại, ngăn chặn và phong tỏa lần thứ hai của đế quốc Mỹ trên miền Bắc.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 16 Tháng Năm, 2010, 11:02:56 am
Theo tinh thần chỉ đạo của Quân ủy Trung ương Bộ Tư lệnh Trường Sơn nhanh chóng tập trung lực lượng tổ chức đợt vận chuyển lớn đưa phần lớn khối lượng vật chất từ nam Khu 4 vào Trường Sơn, làm thất bại một bước âm mưu phản kích của đế quốc Mỹ. Do địch sử dụng sức mạnh tổng lực của hải quân và không quân với khí tài được cải tiến và thủ đoạn đánh phá xảo quyệt, việc tiếp nhận hàng viện trợ và hoạt động chi viện chiến lược của ta bị ngừng trệ, ảnh hưởng đến nhịp độ tiến công của quân và dân ta trên các chiến trường.
Giao thông vận tải từ hậu phương vào chiến trường lại trở thành mặt trận nóng bỏng. Hội đồng chi viện tiền tuyến của Chính phủ được thành lập. Ban Điều hòa giao thông vận tải Trung ương được phục hồi.

Trước tình hình thúc bách, Bộ Chính trị chỉ thị Tỉnh ủy Quảng Bình động viên nhân dân góp gạo chi viện cho tiền tuyến.

Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn do sự đánh phá hủy diệt của địch, sản xuất nông nghiệp khó khăn, lương thực bị cạn kiệt, nhân dân Quảng Bình vẫn nêu cao ý chí: "Nhà tan cửa nát cũng ừ, đánh tan giặc Mỹ cực chừ, sướng sau”, sẵn sàng chia sẻ với chiến trường những hạt gạo của "đất lửa". Chỉ trong một thời gian ngắn, Quảng Bình đã huy động được 500 tấn gạo chuyển giao cho Bộ Tư lệnh Trường Sơn để chuyển vào chiến trường. Số gạo hiếm hoi và quý báu đó chỉ nuôi được 8,5 vạn quân trong một tuần, nhưng có ý nghiã rất lớn.

Tại mặt trận Quảng Trị, sau hai ngày đánh phá dọn đường, ngày 28 tháng 6, Mỹ-ngụy huy động hai sư đoàn thủy quân lục chiến, một lực lượng lớn pháo binh và thiết giáp yểm trợ, mở cuộc hành quân "Lam Sơn 72A" nhằm tái chiếm Thị xã Quảng Trị.

Hội đồng Chính phủ quyết định quân sự hóa toàn bộ hệ thống giao thông vận tải từ nam Hà Tĩnh vào Vĩnh Linh, giao cho Bộ Tư lệnh Trường Sơn thống nhất chỉ huy giao thông vận tải từ bắc sông Gianh vào đến tận hậu phương chiến dịch Đường số 9 - Quảng Trị, đồng thời quyết định thành lập Ban chỉ huy giao thông vận tải thống nhất gồm các đồng chí đại diện lãnh đạo Đảng, chính quyền tỉnh Quảng Bình và đại diện Đảng ủy Bộ Tư lệnh khu vực 571.

Bộ Tư lệnh Trường Sơn cấp tốc điều chỉnh thế trận, chuyển nhiệm vụ của Bộ Tư lệnh khu vực hậu cứ 571 thành Bộ Tư lệnh khu vực có nhiệm vụ chỉ huy hiệp đồng chiến đấu, vận tải chiến dịch, tạo nguồn hàng cho tuyến chiến lược.

Nhiệm vụ trước mắt lúc này là tập trung giải tỏa hai trọng điểm phà Gianh và Long Đại. Hai trung đoàn công binh trong tuyến ra chống phá hoại, mở đường vòng, đường tránh ở các điểm trên hai trục đường 5 và đường số 1. Nhiều khí tài được huy động bảo đảm vượt hai con sông lớn. Các đơn vị tên lửa, cao xạ của Quân chủng Phòng không - Không quân và Quân khu 4 phối thuộc, đánh địch quyết liệt bảo vệ hậu phương chiến dịch.

Các hợp tác xã vận tải, đánh cá của các huyện Lệ Thủy, Quảng Ninh, Bố Trạch, Quảng Trạch được tổ chức thành các tiểu đoàn vận tải đường sông hoạt động trên các sông Kiến Giang, Gianh, Long Đại, Son, lập chân hàng cho hai binh trạm cửa khẩu đường 16 và đường 20. Tổng cục Hậu cần kịp thời cấp 100 máy đẩy cùng phụ kiện để cơ giới hóa các tiểu đoàn đường sông.

Bộ Giao thông Vận tải phối thuộc cho tuyển 559 Đoàn vận tải 8 gồm hơn 200 ô tô và đội xe của Công ty vận tải Quảng Bình. Bộ Tổng Tham mưu tăng cường các trang thiết bị phóng từ, Cục Vận tải điều các đội ca nô của đoàn Hồng Hà, trong đó có đại đội 7 ca nô phóng từ do Lò Văn Năng chỉ huy mở luồng vận chuyển đến Mai Xá (bắc Cửa Việt).

Với sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân, nhất là nhân dân tuyến lửa Quảng Bình, Vĩnh Linh và nhờ sự chỉ huy tập trung thống nhất, tuyến vận tải từng bước được khai thông.

Tháng 10 năm 1972, các đơn vị đã đưa được 1.000 tấn vũ khí vượt các trọng điểm phà Gianh, Long Đại vào mặt trận. Tháng 11 đưa tiếp 5.000 tấn vật chất vào chiến trường


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 16 Tháng Năm, 2010, 11:03:34 am
Đầu tháng 12 năm 1972, tuyến đường ống xăng dầu bị máy bay B52 đánh phá quyết liệt. Nguồn xăng dự trữ bị cạn, Tổng cục Hậu cần chỉ đạo Cục Xăng dầu tập trung toàn lực, vượt lên sự phong tỏa, ngăn chặn của địch, khôi phục dòng chảy của xăng và ứng dụng mọi biện pháp bảo đảm.

Với tinh thần chiến đấu kiên cường, chỉ trong một thời gian ngắn cán bộ chiến sĩ xăng dầu đã đảm bảo đủ nhiên liệu, tạo điều kiện cho các đơn vị vận tải chuyển trên 1 vạn tấn vật chất kỹ thuật cho chiến trường Trị - Thiên và mặt trận đường số 9 - Bắc Quảng Trị, đáp ứng yêu cầu chiến đấu.

Được hậu phương chi viện về mọi mặt qua tuyến vận tải chiến lược đường Hồ Chí Minh, quân và dân ta trên mặt trận Đường số 9 - bắc Quảng Trị đã chủ động đập tan cuộc hành quân Lam Sơn 72A, giữ vững vùng giải phóng rộng lớn từ sông Thạch Hãn - nam đường số 9 đến vĩ tuyến 17 nối liền với hậu phương miền Bắc.

Trên các chiến trường Tây Nguyên, Quân khu 5. Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông Cửu Long, Đồng bằng Nam Bộ, Nam Lào và Hạ Lào ta đều thắng lớn .

Trước nguy cơ sụp đổ không thể cứu vãn được của chế độ ngụy quyền tay sai, đêm 1 tháng 12 năm 1972 đế quốc Mỹ đi "nước cờ” cuối cùng, huy động lực lượng lớn máy bay B52 và phản lực cường kích mở cuộc tập kích chiến lược vào Thủ đô Hà Nội, thành phố Hải Phòng và một số nơi khác.

Cuộc tập kích chiến lược của không quân Mỹ kéo dài 12 ngày đêm. Quân và dân ta, nòng cốt là bộ đội phòng không - không quân đánh một trận tiêu diệt xuất sắc làm nên một “Điện Biên Phủ trên không", bắn rơi 81 máy bay trong đó có 34 máy bay B52, 5 máy bay F111 ...

Trong lúc Mỹ tập trung không quân đánh phá Hà Nội, Hải Phòng, toàn tuyến 559 và Tổng cục Hậu cần tiền phương chớp thời cơ huy động toàn lực vận chuyển cả ngày và đêm, đưa được khối lượng lớn hàng vượt cửa khẩu vào chiến trường, đẩy mạnh tác chiến và tạo dự trữ lớn.

Thắng lợi to lớn của cuộc tiến công chiến lược năm 1972 ở miền Nam và trận "Điện Biên Phủ trên không" ở miền Bắc đã làm cho chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh" hoàn toàn bị sụp đổ. Ngày 30 tháng 12 năm 1972, Tổng thống Mỹ Níchxơn buộc phải công bố chấm dứt ném bom từ vĩ tuyến 20 trở ra và nối lại hòa đàm Pari. Mưu đồ thương lượng trên thế mạnh của tập đoàn Níchxơn hoàn toàn thất bại. Ngày 15 tháng 1 năm 1973, Mỹ phải tuyên bố ngừng ném bom hoàn toàn miền Bắc. Và ngày 27 tháng 1 năm 1973, Mỹ phải ký kết Hiệp định Pari tuyên bố chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam.

Dự kiến sự phát triển của tình hình, ngày 12 tháng 1 năm 1973, Phó Thủ tướng Đỗ Mười họp với đại diện các tỉnh Khu 4, các Bộ và Tổng cục Hậu cần giao nhiệm vụ tranh thủ thời cơ tổ chức một chiến dịch vận tải đặc biệt nhằm tạo dự trữ lớn cơ sở vật chất cho tuyến 559.

Ở tuyến hậu phương, Cục Vận tải Tổng cục Hậu cần được tăng cường 5.500 ô tô của các xí nghiệp Trung ương, các tỉnh, thành phố và các Bộ mở chiến dịch “VT5". Các mũi tiến công đường sắt, đường thủy, đường bộ ào ạt đẩy hàng lên phía trước. Bộ Tư lệnh Trường Sơn huy động hai trung đoàn và 10 tiểu đoàn ô tô vận tải với trên 2.000 xe. 1.500 xe của Bộ Giao thông Vận tải và các Ty Giao thông vận tải mở chiến dịch vận tải khẩn cấp với khẩu hiệu “một ngày bằng 20 năm" đưa khối lượng lớn vũ khí, lương thực và hàng dân sinh vào các chiến trường.

Chỉ trong nửa tháng, từ ngày 10 tháng 1 năm 1973 đến ngày 5 tháng 2 năm 1973 đã đưa được khối lượng hàng vào các kho nam, bắc Đường 9 khoảng 20.000 tấn. Đây là chân hàng dự trữ lớn chưa từng có, đảm bảo cho Bộ đội Trường Sơn hoàn toàn chủ động đáp ứng kịp thời yêu cầu đột xuất của các chiến trường trong giai đoạn cuối chiến tranh.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 16 Tháng Năm, 2010, 11:04:14 am
Trên chiến trường Lào, Bộ Tư lệnh Trường Sơn chỉ thị các Bộ Tư lệnh khu vực 470, 471, 472 nhanh chóng giúp bạn xây dựng thêm nhiều đại đội, tiểu đoàn chủ lực, trang bị đầy đủ vũ khí; cùng Sư đoàn bộ binh 968 huy động lực lượng, tham gia củng cố vùng giải phóng chống địch lấn chiếm.

Ngày 22 tháng 2 năm 1973, Hiệp định Viêng Chăn được ký kết, đế quốc Mỹ và tay sai thừa nhận độc lập hòa bình trung lập, hòa hợp dân tộc của nhân dân Lào.

Hòa bình được lập lại trên đất nước Lào, tạo điều kiện thuận lợi mới cho tuyến chiến lược đường Hồ Chí Minh phát triển thế trận chi viện ba nước Đông Dương, góp phần giành thắng lợi hoàn toàn của cách mạng ba nước.

Giữa những ngày lịch sử trọng đại của cả nước, Bộ đội Trường Sơn hân hoan đón tin mừng Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ký sắc lệnh tuyên dương các Đơn vị anh hùng và Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân trong đó có 6 đơn vị và 5 cá nhân thuộc Bộ Tư lệnh Trường Sơn đã lập thành tích đặc biệt xuất sắc.

Nhân dịp đầu xuân chiến thắng, chiều mồng một Tết Quý Sửu, đúng ngày kỷ niệm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng chí Lê Duẩn - Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng vào thăm Bộ đội Trường Sơn. Tại chỉ huy sở Bộ Tư lệnh ở Hiền Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình, đồng chí đã nghe Tư lệnh Bộ đội Trường Sơn báo cáo tình hình hoạt động, chiến đấu của tuyến chi viện chiến lược mùa khô 1971 - 1972 và dự kiến công việc những năm sau. Sau khi biểu dương những thành tích to lớn của Bộ đột Trường Sơn, đồng chí Lê Duẩn nêu rõ:

"Tình hình địch ta đã khác trước nhiều, cục diện chiến trường, tương quan lực lượng đã thay đổi có lợi cho ta. Chúng ta đang đứng trước thời cơ cực kỳ thuận lợi. Thời cơ đó do ta tạo nên qua một quá trình chiến đấu. Đương nhiên thời cơ đó một phần cũng do những sai lầm của địch. Chúng ta phải biết tận dụng thời cơ, thúc đẩy thời cơ và nỗ lực tạo ra thời cơ mới để đẩy nhanh công cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.. .".

Bác Hồ từng nói: "Không có gì quý hơn độc lập, tự do!”. Hơn ai hết, Đảng ta, nhân dân ta khao khát hòa bình, nhưng phải là nền hòa bình tự ta chiến đấu giành lấy. Phải có hòa bình chúng ta mới thực hiện được độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội...

Bộ Chính trị đánh giá cao những kết quả mà tuyến đường Hồ Chí Minh đã làm những năm qua và tin chắc tuyến đường tiếp tục thực hiện thật tốt cầu nối Bắc - Nam, góp phần tích cực để quyết định thời cơ... " .

Trong Sổ Vàng truyền thống của Bộ đội Trường Sơn, đồng chí Bí thư thứ nhất của Đảng trang trọng ghi:

"Đường Trường Sơn là một chiến công chói lọi trong lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta. Đường Trường Sơn là con đường của ý chí quyết thắng, của lòng dũng cảm, của khí phách anh hùng. Đó cũng là con đường nối dài Nam Bắc, thống nhất nước nhà, là con đường của tương lai giàu có của Tổ quốc ta. Đó cũng là con đường đoàn kết của các dân tộc ba nước Đông Dương... Vinh quang thay Bộ đội Trường Sơn Anh hùng đã chiến đấu và chiến thắng trên con đường mang tên Bác Hồ vĩ đại "

Tư lệnh và Chính ủy Bộ Tư lệnh Trường Sơn đã hướng dẫn đồng chí Lê Duẩn xem một chiếc cầu phao cho hai làn xe chạy, một đoàn ô tô vận tải đang vượt qua cầu, một trận địa cao xạ 57 ly ở trọng điểm Long Đại; tiếp đó thăm Binh trạm vận tải 12, là binh trạm của ba đơn vị anh hùng; trong tám tháng phục vụ chiến dịch Bắc Quảng Trị, năm lần được thưởng cờ "Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược" của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Trước hàng quân, đồng chí Lê Duẩn xức động nói : " Tổ quốc ta, nhân dân ta, Đảng ta rất tự hào có những người con hy sinh vô cùng tận, kiên cường dũng cảm vô cùng tận như các đồng chí...".

Những lời động viên, khích lệ của đồng chí Lê Duẩn là phương hướng chỉ đạo, là nguồn động lực thúc đẩy cán bộ, chiến sĩ Trường Sơn tiếp tục tiến lên giành những thắng lợi mới to lớn hơn nữa trong giai đoạn cách mạng mới.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 17 Tháng Năm, 2010, 02:22:35 pm
VI. CON ĐƯỜNG CHIẾN THẮNG

Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết ngày 27 tháng 1 năm 1973 là thắng lợi to lớn của nhân dân ta, nhưng là thất bại nặng nề của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai. Theo Hiệp định, đế quốc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh xâm lược Việt Nam, rút hết quân Mỹ và chư hầu ra khỏi miền Nam; cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam là độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, cam kết tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam, chấm dứt dính líu nhân sự và can thiệp vào nội bộ miền Nam Việt Nam...

Trên chiến trường miền Nam, các đơn vị quân đội Việt Nam giữ nguyên lực lượng và khu vực đóng quân. Đối với miền Bắc, đế quốc Mỹ phải chấm dứt hoàn toàn và không điều kiện cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân.

Như vậy với Hiệp định Pari được ký kết, nhân dân miền Bắc có điều kiện khôi phục và phát triển kinh tế, tập trung sức người sức của cho công cuộc chiến đấu nhằm hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc. Đồng thời ở miền Nam ta thực hiện được ý định giữ nguyên thế và lực trong lúc đội quân viễn chinh Mỹ và chư hầu phải rút về nước. Đó là thời cơ rất thuận lợi để thực hiện những đòn tiến công chiến lược đánh đổ ngụy quân, ngụy quyền Sài Gòn giải phóng miền Nam, giành thắng lợi hoàn toàn cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cưu nước.

Ở Lào, ngày 22 tháng 2 năm 1973, Hiệp định Viêng Chăn về thực hiện hòa bình trung lập hòa hợp dân tộc được ký kết. Mỹ là nước cam kết không hoạt động quân sự trên lãnh thổ Lào. Đó là thắng lợi to lớn của nhân dân Lào, nhưng đồng thời cũng là thắng lợi của nhân dân ba nước Đông Dương.

Với việc ký Hiệp định Viêng Chăn, ta đã gạt được sự can thiệp của Mỹ vào công việc nội bộ của Lào, chấm dứt sự đánh phá bằng không quân của chúng trên lãnh thổ Lào, tạo điều kiện vô cùng thuận lợi để ta xây dựng căn cứ hậu phương cho cách mạng ba nước, đồng thời tiến hành công cuộc chi viện cho miền Nam và cho bạn trên hành lang tây Trường Sơn với quy mô lớn hơn.

Ngày 27 tháng 1 năm 1973, sau khi Hiệp định Pa ri được ký kết, Ban Chấp hành Trung ương Đảng kêu gọi quân và dân cả nước "tăng cường đoàn kết, đề cao cảnh giác, củng cố những thắng lợi đã giành được, hoàn thành độc lập dân chủ ở miền Nam, tiến tới hòa bình thống nhất nước nhà".

Cũng trong tháng 1 năm 1973, Thường vụ Quân ủy Trung ương họp đã đề ra nhiệm vụ mới của các lực lượng vũ trang nhân dân là củng cố tổ chức, nâng cao chất lượng chiến đấu nhằm đáp ứng yêu cầu mới của cách mạng, tham gia xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, tham gia đấu tranh chính trị và xây dựng lực lượng chính trị, xây dựng căn cứ địa vùng giải phóng vững mạnh ở miền Nam, sẵn sàng chiến đấu đánh bại mọi âm mưu phá hoại hiệp định, gây lại chiến tranh của địch, tích cực xây dựng quân đội cách mạng chính quy, hiện đại, hùng mạnh.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 17 Tháng Năm, 2010, 02:23:19 pm
Trên cơ sở những nghị quyết đó, ngày 5 tháng 2 năm 1973, Thường vụ Quân ủy Trung ương đã triệu tập Tư lệnh Đồng Sĩ Nguyên và Chính ủy Đặng Tính, giao nhiệm vụ cho Bộ đội Trường Sơn:

1. Thực hiện nhiệm vụ vận chuyển chi viện cho các chiến trường, chủ yếu là vận chuyển chiến lược, nhưng phải làm cả nhiệm vụ vận chuyển chiến dịch, vừa chở bộ đội và bảo đảm hành quân cho các binh chủng, vừa vận chuyển hàng quân sự và hàng dân sinh cho vùng giải phóng miền Nam, cho các căn cứ Lào và Campuchia. Trong nhiệm vụ vận chuyển phải bảo đảm một lượng dự trữ cần thiết về vũ khí đạn dược, nhiên liệu cũng như lương thực để cho ta chủ động trong bất cứ tình huống nào. 

2. Xây dựng hệ thống đường chiến lược, đặc biệt coi trọng xây dựng một cách cơ bản đường phía Đông Trường Sơn từ Tân Kỳ, Nghệ An đến Chơn Thành (Phước Bình) thành con đường quốc lộ xuyên Bắc - Nam. Trọng tâm là từ Quảng Bình đến Chơn Thành để phục vụ nhu cầu quân sự và kinh tế dân sinh. Cần có kế hoạch ba năm xây dựng tuyến đường này, nhưng trước mắt gấp rút làm xong đoạn từ Quảng Bình đến Khu 5, Tây Nguyên. Cơ quan Bộ Tổng tham mưu, Tổng cục Hậu cần, tuyến 559 cần phối hợp với Bộ Giao thông Vận tải để kết hợp chặt chẽ các lực lượng có trách nhiệm trong việc khảo sát, thiết kế tuyến đường, dự thảo kế hoạch chuẩn bị nhân lực, vật tư... Tuyến phía tây phải duy trì, sửa chữa, cải tạo nâng cao chất lượng kể cả tuyến vượt Bô Lô Ven sang đông bắc Campuchia xuống miền Đông Nam Bộ: chú trọng giữ tuyến đường "kín". Phát triển đường sông; hoàn thành đường ống sẵn sàng đáp ứng mọi nhu cầu nhiệm vụ.

3 . Gấp rút xây dựng căn cứ địa hai phía Trường Sơn thuộc vùng giải phóng miền Nam, Trung - Hạ Lào và đông bắc Campuchia. Từng bước biến khu vực này phát triển mọi mặt, có dân cư đông đúc, có mạng giao thông vận tải thuận lợi để làm căn cứ vững chắc của ba nước.

4. Thực hiện giúp bạn trong tình hình mới một cách toàn diện cả về quân sự và kinh tế - xã hội.

5. Tổ chức xây dựng lực lượng theo quy mô thích hợp với thời cơ mới, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trước mắt và lâu dài.

Để thực hiện được chỉ tiêu nhiệm vụ trên. Bộ Tư lệnh quyết định:

Điều Trung đoàn cầu thuyền 99 và tập trung một lực lượng lớn công binh phối hợp với Ty Giao thông Vận tải Quảng Bình khấn trương bắc một loạt cầu vượt các sông Ròn, Gianh, Long Đại, Xuân Sơn; đề nghị Bộ Tổng tham mưu cấp 7 bộ cầu LPP, cử đồng chí Đặng Hương - Trưởng phòng vật tư ra nhận, chuyển gấp vào để thông cầu sớm, củng cố các cầu ngầm trên đường số 1 vào đến Hiền Lương tạo điều kiện cho tuyến hậu phương đẩy nhanh hàng vào hậu cứ 559.

Ở tuyến Tây Trường Sơn, mở rộng nâng chất lượng đường đảm bảo cho đội hình xe tập trung vận chuyển lớn với tốc độ từ 25 đến 30 km/giờ. Trên tuyến Đông Trường Sơn, mở thông cho đến Bến Giàng xong trước tháng 5, để khi hướng Tây Trường Sơn bước vào mùa mưa thì lật cánh sang hướng đông vận chuyển cho Trị - Thiên và Khu 5.

Huy động triệt đế lực lượng vận tải, bố trí hợp lý, thực hiện chiến thuật đội hình tiểu đoàn tập trung chạy cung dài, bỏ cung ngắn. Toàn bộ xe của Sư đoàn khu vực 571 , sáu tiếu đoàn xe của Cục Vận tải - Tổng cục Hậu cần và 1.500 xe của Bộ Giao thông Vận tải tập trung lập chân hàng ở Ta Lê, Thạch Bàn. Xuân Bồ, Bãi Hà. Nếu có điều kiện và cần thiết có thể tổ chức cho một số tiểu đoàn xe quân sự đi thẳng một số chuyến. Các trung đoàn ô tô lấy hàng đi thẳng đến các chiến trường; lúc ra kết hợp chở thương binh, cán bộ, chiến sĩ và khách ở các chiến trường, mặt khác, giúp đỡ, đôn đốc các đơn vị binh chủng kỹ thuật còn rải rác ở dọc đường hành quân gấp vào chiến trường.

Tập trung lực lượng xăng dầu củng cố lại hệ thống đường ống, củng cố các khu kho chứa, tăng cường trạm bơm bảo đảm kịp thời và giải phóng xe nhanh. Đồng thời tiếp tục khảo sát thiết kế thi công tiếp tuyến ống từ nam Bạc vào ngã ba biên giới đến Bu Pơ Răng xuống Bù Đăng.

Điều chỉnh lực lượng phòng không bố trí lại thế trận mới; cảnh giác theo dõi địch, sẵn sàng nổ súng tiêu diệt máy bay địch tiến công vào đội hình vận chuyển của ta.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 17 Tháng Năm, 2010, 02:24:21 pm
Do chủ trương của trên cần tập trung dứt điểm cho chiến trường xa, đến cuối tháng 3, kế hoạch tối đa cho Nam Bộ và Tây Nguyên đã được hoàn thành, nhưng kế hoạch chi viện cho Khu 5 lại chưa thực hiện được gây căng thẳng cho chiến trường này. Bộ Tư lệnh Trường Sơn quyết định cơ động hầu hết các lực lượng của Sư đoàn 471 sang phía đông thực hiện kế hoạch cho Khu 5 và làm đường từ A Vương vào Đắk Pét, Sa Thầy. Các Sư đoàn 473 và 472 lập chân hàng cho Sư đoàn 471 .

Khu 5 yêu cầu ngoài khối lượng quân sự và dân sinh mà Bộ đã xác định, cần có ngay 1.000 tấn gạo để cứu đói nhân dân vùng giải phóng. Đến cuối tháng 7 toàn bộ kế hoạch cho Khu 5 được hoàn thành đúng thời gian. Chỉ huy Quân khu 5 biểu dương Sư đoàn 471: "Chỉ có 3 tháng mà đã chi viện cho Quân khu 5 một khối lượng bằng mười mấy năm trước, thật không ngờ các đồng chí giỏi đến thế...".

Phương án xây dựng cơ bản tuyến đường chiến lược xuyên Bắc - Nam Đông Trường Sơn tạo thế trận mới đảm bảo cho vận chuyển quy mô lớn và cơ động binh khí kỹ thuật cả hai mùa mưa nắng đã có ý đồ từ trước, nay trở thành yêu cầu bức xúc.

Bộ Tư lệnh Trường Sơn đã giao cho Cục Công binh tổ chức ba đoàn khảo sát gồm 60 kỹ sư và cán bộ kỹ thuật thị sát hướng và tuyến vẽ lên bản đồ, đồng thời làm dự án kế hoạch xây dựng: Dự toán khối lượng, vật tư, lực lượng, ngân sách, thời gian để báo cáo lên Bộ Quốc phòng và Chính phủ.

Đầu tháng 2 năm 1973, Tư lệnh và Tham mưu trưởng công binh Phạm Văn Diêu đã về Hà Nội báo cáo với Chính phủ. Các Phó Thủ tướng Lê Thanh Nghị, Đỗ Mười và Phan Trọng Tuệ nhất trí coi đây là một công trình tầm cỡ quốc gia lâu dài, còn trước mắt thì cực kỳ quan trọng đối với sự chuẩn bị cho thời cơ giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Công trình đòi hỏi kỹ thuật phức tạp, khối lượng rất lớn, Chính phủ sẵn sàng điều chỉnh những vấn đề nảy sinh trong quá trình thực hiện.

Sau đó Tư lệnh Đồng Sĩ Nguyên trực tiếp báo cáo với Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Thủ tướng hoàn toàn ủng hộ và cho biết Bộ Chính trị, Chính phủ rất quan tâm vì đây là một công trình có ý nghiã chiến lược to lớn cả trước mắt và mai sau, cả quốc phòng và kinh tế. Thủ tướng biểu dương Bộ đội Trường Sơn đã hy sinh gian khổ, bền bỉ chiến đấu cực kỳ anh dũng, mưu trí, góp phần can thiệp một cách thích đáng vào quá trình chuyển biến cục diện trên chiến trường; cả nước và thế giới đều biết đến... Thủ tướng thay mặt Bộ Chính trị, Chính phủ nhờ đồng chí Tư lệnh chuyển lời nhiệt liệt biểu dương và chúc sức khoẻ tất cả cán bộ, chiến sĩ, thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn.

Ngày 1 tháng 3 năm 1973, Đảng uỷ Bộ Tư lệnh Trường Sơn họp để nghiên cứu quán triệt nhiệm vụ Quân ủy Trung ương giao, đánh giá tổng quát tình hình 14 năm chiến đấu và xây dựng của Bộ đội Trường Sơn, xác định nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Tư lệnh Đồng Sĩ Nguyên và Chính uỷ Đặng Tính chủ trì cuộc họp.

Hội nghị nhận định từ sau Hiệp định Pa ri, chiến trường Trường Sơn có sự thay đổi căn bản. Đó là sự kết thúc đánh phá bằng không quân của Mỹ. Nhưng khả năng chính quyền và quân đội Sài Gòn sẽ phản bội hiệp định, sử dụng không quân đánh phá tuyến chi viện chiến lược mỗi khi ta tổ chức vận chuyển lớn, song so với Mỹ thì hạn chế rất nhiều. Chúng chỉ có thể hoạt động từ Phi Hà trở vào địa bàn Sư đoàn 470 và từ Giàng, Khâm Đức vào phía Tây Nguyên, vì vậy phải cảnh giác theo dõi, chủ động đối phó.

Về thời tiết, Hội nghị đánh giá địa bàn hoạt động của ta hiện nay đã khác trước, ta làm chủ cả Tây và Đông Trường Sơn, vì vậy có khả năng loại trừ khó khăn mang thuộc tính trước đây là chỉ vận chuyển một mùa, nay có thể xoá bỏ quy luật đó, tiến hành xây dựng thế trận mới, vận chuyển cả năm liên tục. Để thực hiện thắng lợi nghị quyết Quân uỷ Trung ương, Hội nghị xác định nhiệm vụ cơ bản như sau :

- Phấn đấu thực hiện nhiệm vụ vận chuyển chiến lược với mức cao nhất, sớm nhất tạo cơ sở vật chất chủ động cho chiến trường, đồng thời sẵn sàng vận chuyển chiến dịch. Tiếp tục tổ chức bảo đảm hành quân chủ yếu bằng cơ giới, bảo đảm mọi yêu cầu về vật chất, kỹ thuật, lực lượng cho ta và bạn.

- Giúp bạn Lào triển khai việc thi hành Hiệp định Viêng Chăn, xây dựng vùng giải phóng cả về quân sự, kinh tế, văn hoá xã hội ở Trung - Hạ Lào trong kế hoạch 3 năm.

- Tiến hành xây dựng cơ bản tuyến đường chiến lược. Trong năm 1973 phải mở thông tuyến phía đông từ Hướng Hoá đến Khâm Đức, sau đó đến Sa Thầy - Bù Gia Mập, trọng điểm là các đoạn Trao - Bến Giằng, đoạn tránh Đắc Pét, đoạn từ đường 19 đến Bù Gia Mập.

- Cải tạo nâng chất lượng tuyến phía tây bảo đảm vận chuyển và cơ động binh khí kỹ thuật cả hai mùa. Trọng điểm là từ Bản Đông đi PPlây Khốc (Tây Nguyên). Cải tạo một số tuyến ngang đường 20, đường 16. Đầu mùa khôi phục đường 9 đến Mường Phin, đường 25 từ KG4 (Ka Nốt) đến Sa Ra Van, đường 23 từ khu E đến Pắc Xoong, Tha Teng, Bản Phồn, A Tô Pơ để giao hàng cho bạn.

- Phát triển tuyến đường ống xuống Tây Nguyên và rẽ ngang vào một số chiến trường. Tiến tới xây dựng tuyến đường ống phía Đông Trường Sơn song song với phía Tây.

- Hoàn chỉnh hệ thống thông tin tải ba và vô tuyến nối thông với các chiến trường một cách vững chắc.

- Xây dựng hệ thống kỹ thuật liên hoàn từ bảo dưỡng kỹ thuật ở đại đội đến đại tu toàn tuyến, sửa chữa các loại xe máy hàng loạt đảm bảo hệ số kỹ thuật cao.

- Xây dựng hệ thống cơ sở sản xuất từ nhỏ đến lớn cùng với việc xây dựng cơ sở hạ tầng khác, từng bước phát triển thành các vùng căn cứ địa hoàn chỉnh.

- Củng cố, xây dựng lực lượng các binh chủng về chính trị tư tưởng, kiện toàn về tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ. Củng cố hệ thống nhà trường, đào tạo cán bộ lãnh đạo, chỉ huy, kỹ thuật, nghiệp vụ từng binh chủng, phù hợp với yêu cầu phát triển ngày càng cao. Trong xây dựng lực lượng các binh chủng cũng như xây dựng cơ bản tuyến đường cần phải cân đối, xác định quy mô thích hợp với từng vùng. Kết hợp xây dựng với chiến đấu, lấy chất lượng làm chính.

- Trước mắt, tổ chức vận chuyển đột xuất hoàn thành kế hoạch bổ sung thay thế tăng cường vũ khí, cơ sở vật chất dự trữ cho các chiến trường, chậm nhất đến tháng 3 kết thúc. Sau đó tiếp tục vận chuyển các hàng hậu cần bảo đảm sinh hoạt nội bộ, phục vụ kinh tế dân sinh và giúp bạn theo kế hoạch đã xác định là 185.000 tấn.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 17 Tháng Năm, 2010, 02:24:59 pm
Nhằm thống nhất tư tưởng, hành động, động viên khí thế bộ đội nỗ lực hoàn thành nhiệm vụ trong tình hình mới. Đảng uỷ Bộ Tư lệnh quyết định tổ chức Hội nghị Quân chính. Sau đó là Đại hội mừng công khai mạc vào ngày 7 tháng 3 năm 1973, đây là Đại hội lớn nhất. Tham dự có đầy đủ các đồng chí trong Đảng uỷ và Bộ Tư lệnh, các đồng chí cấp cục và cấp phòng, các chỉ huy sư đoàn, trung đoàn, đại diện Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, Bộ Quốc phòng, các tổng cục, các quân binh chủng, Bộ Giao thông Vận tải, đại diện một số tỉnh, các anh hùng, chiến sĩ thi đua và các nhà văn, nhà báo, phóng viên nhiếp ảnh...

Trong không khí dạt dào phấn khởi, Đại hội đã nồng nhiệt chào đón Đại tướng Võ Nguyên Giáp - ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Quân ủy Trung ương, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng vào dự. Đây là lần thứ ba Đại tướng tới dự hội nghị tổng kết của Bộ đội Trường Sơn. Điều đó nói lên sự quan tâm sâu sắc của Quân uỷ Trung ương, Bộ Quốc phòng đối với vị trí nhiệm vụ của Bộ đội Trường Sơn. Sự có mặt của Đại tướng là sự khích lệ, cổ vũ lớn đối với cán bộ, chiến sĩ trên toàn tuyến.

Thông qua bản báo cáo của Chính uỷ và Tư lệnh, các đại biểu dự Hội nghị Quân chính và Đại hội mừng công đều tự hào về sự đóng góp xương máu của hàng chục vạn bộ đội thanh niên xung phong, dân công hoả tuyến trên tuyến chi viện chiến lược suốt 5.000 ngày đêm, góp phần to lớn vào thắng lợi quyết định của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; đồng thời thấy rõ thời cơ mới và nhiệm vụ to lớn của Bộ đội Trường Sơn còn ở phía trước, xác định quyết tâm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tuyến chi viện chiến lược đường Hồ Chí Minh.

Trong đại hội mừng công, với phát biểu của mình, Đại tướng thay mặt Bộ Chính trị, Chính phủ, Quân uỷ Trung ương Bộ Quốc phòng nhiệt liệt chúc mừng và biểu dương chiến công to lớn của Bộ đội Trường Sơn: “Những chiến công trong 14 năm qua của các đồng chí đã góp phần xứng đáng vào thắng lợi của các chiến trường. Đó là những cống hiến lớn lao, một trong những cống hiến có tính quyết định về chiến lược vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc Việt Nam ta. Không những thế, những thành tích, những chiến công đó đã có tác dụng giúp Trung ương và Quân ủy Trung ương thực hiện chính sách đoàn kết chiến đấu giữa ba dân tộc trên bán đảo Đông Dương, thực hiện có hiệu lực phương châm chiến lược "Đông Dương là một chiến trường"

Thành tích chiến đấu, công tác và xây dựng trong 14 năm qua của các lực lượng vũ trang, của các lực lượng thuộc Bộ Tư lệnh Trường Sơn là một trong những thành công kiệt xuất của đường lối chính trị và quân sự của Đảng ta, là những kinh nghiệm quý báu làm phong phú thêm khoa học và nghệ thuật quân sự của quân đội ta.

Trong thành công to lớn của Bộ đội Trường Sơn, chứa đựng lời đáp về câu hỏi: “Vì sao một dân tộc nhỏ mà anh hùng như Việt Nam ta đã đánh thắng được một tên đế quốc to như đế quốc Mỹ xâm lược, tên đế quốc đầu sỏ?".

Giải thích về nhiệm vụ mới, Đại tướng nói: Đế quốc Mỹ và bọn tay sai bán nước chưa từ bỏ dã tâm của chúng, hiện đang vi phạm trắng trợn và có hệ thống nhiều điều trong Hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam, tiếp tục mưu đồ duy trì chủ nghiã thực dân mới, chia cắt lâu dài đất nước ta. Trước tình hình mới, đáp lời kêu gọi của Trung ương Đảng và Chính phủ, các lực lượng vũ trang nhân dân ta hãy tăng cường đoàn kết, đề cao cảnh giác, ra sức phấn đẩu để củng cố những thắng lợi đã giành được, nắm vững thời cơ, sáng tạo thời cơ tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn, giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc. Đại tướng nhắc nhở:

“Thắng lợi của cán bộ, chiến sĩ Bộ đội Trường Sơn vừa qua là to lớn nhưng mới là cơ sở để tiến lên giành thắng lợi to lớn hơn nữa. Những cố gắng, thành tích và thắng lợi mới của các đồng chí sẽ là một trong những nhân tố quyết định, góp phần vào sự thành công của cách mạng nước ta và cách mạng các nước anh em trên bán đảo Đông Dương”.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 17 Tháng Năm, 2010, 02:25:44 pm
Sau Hội nghị Quân chính và Đại hội mừng công, Chính uỷ và Tư lệnh đã hướng dẫn Đại tướng đi thị sát chiến trường. Trên lộ trình dài khoảng 300km. Đại tướng đã đi qua các trọng điểm địch đánh phá ác liệt trước đây và đã dừng lại thăm nhiều đơn vị anh hùng: Tiểu đoàn ô tô 101 - đơn vị hai lần được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, thuộc Trung đoàn ô tô vận tải 13; Đại đội 2 công binh (thuộc Tiểu đoàn 31 công binh) là đơn vị đã giành giật với địch từng thước đường trên đèo Văng Mu suốt 2.000 ngày đêm, được mệnh danh là “cánh cửa thép Văng Mu”, hai lần được tuyên dương Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân; đến trọng điếm ATP trên đường 20, một trọng điểm cửa khẩu bị đánh phá huỷ diệt. Gần 20 km2 rừng núi nguyên sinh trước đây, nay chỉ còn lại một số thân cây cháy trụi, hố bom chồng chất và xác xe pháo ngổn ngang.

Dừng lại trên đỉnh đèo Phu La Nhích, Đại tướng quan sát địa hình và nói: "Quan sát trọng điểm đánh phá của địch mới thấy hết sức chịu đựng, trí sáng tạo của Bộ đội đường Hồ Chí Minh. Đây thực sự là một kỳ công, kỳ tích do ý chí vì độc lập tự do của bộ đội ta".

Tiếp đó Đại tướng đến thăm Đại đội 5 công binh (thuộc tiểu đoàn 33 công binh Anh hùng) đang bám trụ trên đỉnh đèo Phu La Nhích, thăm Đại đội 1 bảo vệ ngầm Ta Lê, thăm Đại đội 25 thanh niên xung phong - đơn vị Anh hùng bảo vệ cua chữ A và một đơn vị pháo bảo vệ trọng điểm này. Nói chuyện với các đơn vị bám trụ trọng điểm, Đại tướng giải thích:

Trong cuộc chiến đấu, đây là lần đầu tiên, Đảng ta, nhân dân ta đương đầu với một tên đế quốc đầu sỏ cả về vật chất và khoa học kỹ thuật hiện đại bậc nhất thế giới. Chỉ riêng việc ngăn chặn tuyến đường của chúng ta, Mỹ đã huy động trí tuệ của rất nhiều nhà khoa học kỹ thuật nổi tiếng thế giới, đề ra các chương trình chiến tranh điện tử, hoá học... Bởi vì các nhà chiến lược Mỹ nhận thức rằng con đường Hồ Chí Minh cũng là chiếc thòng lọng thắt vào cổ họng "con người khổng lồ".

Đại tướng chỉ rõ: "Muốn đạt được đỉnh cao toàn thắng, chúng ta cần dũng cảm, mưu trí, sáng tạo hơn. Đường Trường Sơn không dừng lại ở mức độ này mà phải mở rộng, rải đá đi được hai chiều, cả mùa nắng và mùa mưa...".

Thay mặt Trung ương Đảng, Chính phủ, Quân đội, Đại tướng nhiệt liệt biểu dương cán bộ, chiến sĩ Trường Sơn, đã góp phần làm nên thắng lợi to lớn của dân tộc ta trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, cứu nước vĩ đại này.

Cùng với những thắng lợi của cách mạng Việt Nam và cách mạng Lào, sau nhiều năm phối hợp chiến đấu chống kẻ thù chung, cách mạng Campuchia cũng giành được thắng lợi quan trọng. Vùng giải phóng, căn cứ của lực lượng kháng chiến Campuchia được củng cố và mở rộng.

Nhân dịp này Quốc trưởng Nôrôđôm Xihanúc sau nhiều năm sống ở nước ngoài được Chính phủ ta giúp đỡ về thăm vùng giải phóng theo đường Hồ Chí Minh. Bộ Tư lệnh Trường Sơn được giao nhiệm vụ đưa đón Quốc trưởng cùng vợ là bà Môních và Phó chủ tịch mặt trận kháng chiến Campuchia Iêngxan về vùng giải phóng theo nghi thức nguyên thủ quốc gia.

Trong điều kiện thiếu thốn kham khổ của chiến trường, Bộ Tư lệnh Trường Sơn và các đơn vị trên tuyến đã cố gắng hết sức mình tạo mọi điều kiện tốt nhất, đảm bảo cho phái đoàn về nước chu đáo, an toàn tuyệt đối.

Trên đường quay trở lại, đoàn ghé nghỉ tại Sở chỉ huy Sư đoàn 471 ở Xê Sụ, Quốc trưởng Xihanúc đã dừng điện thoại nói chuyện với Đại tướng Võ Nguyên Giáp, bày tỏ lòng biết ơn về sự quan tâm giúp đỡ của Chính phủ Việt Nam cũng như Bộ đội Trường Sơn đã ưu ái đặc biệt, tạo điều kiện cho Đoàn hoàn thành chuyến đi lịch sử.

Ngày 5 tháng 4 năm 1973, đoàn về đến chỉ huy sở Bộ Tư lệnh Trường Sơn, dừng chân nghỉ lại một ngày. Trong buổi Bộ Tư lệnh Trường Sơn chiêu đãi mừng thắng lợi chuyến đi của đoàn, Quốc trưởng Xihanúc đã xúc động nói:

"Đây là một chuyến đi lịch sử có một không hai. Qua chuyến đi, chúng tôi được tận mắt chứng kiến thắng lợi và sức mạnh của Quân đội nhân dân Việt Nam. Tổ chức của các ngài rất khoa học, bộ đội các ngài rất có kỷ luật và thiện chiến. Việt Nam nhất định thắng, cách mạng ba nước Đông Dương nhất định thắng”.

Tháng 4 năm 1973. phái đoàn của Trung ương Đảng, Uỷ ban Thống nhất Trung ương và một số cơ quan nhà nước do đồng chí Tố Hữu - Bí thư Trung ương Đảng dẫn đầu vào làm việc với chiến trường. Thành phần của Đoàn có Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần Đinh Đức Thiện, Phó Ban thống nhất Trung ương Nguyễn Thọ Chân và một số cán bộ chủ trì cơ quan chuyên ngành, trong đó có cục trưởng hầu hết các cục của Tổng cục Hậu cần. Đoàn đi và về trên cả hai tuyến Đông và Tây Trường Sơn; thăm và làm việc với các quân khu.

Lúc quay về, đồng chí Tố Hữu và đồng chí Đinh Đức Thiện đã vào thăm Sư đoàn 471 và Sư đoàn 473. Hai đồng chí khen ngợi Bộ đội Trường Sơn có ý thức kỷ luật và trình độ thiện chiến, đã thực hiện xuất sắc nhiệm vụ mà các đồng chí yêu cầu. Trong không khí cởi mở, hân hoan, đồng chí Tố Hữu đọc bài thơ "Nước non ngàn dặm" vừa mới sáng tác.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 17 Tháng Năm, 2010, 02:26:28 pm
Cũng trong giai đoạn này, các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy các chiến trường: Võ Chí Công - ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Khu uỷ Khu 5, Chu Huy Mân - ủy viên Trung ương Đảng Tư lệnh Quân khu 5, Nguyễn Văn Linh - ủy viên Trung ương Đảng, Phó Bí thư Trung ương Cục miền Nam. Hoàng Văn Thái - ủy viên Trung ương Đảng, Tư lệnh bộ đội miền Nam, Trần Văn Trà - ủy viên Trung ương Đảng, Phó Tư lệnh bộ đội miền Nam, Trưởng ban Liên hiệp bốn bên tại Tân Sơn Nhất, Võ Văn Kiệt - ủy viên Thường vụ Trung ương Cục, Phó Chính uỷ bộ đội miền Nam, Hoàng Minh Thảo - Tư lệnh chiến trường Tây Nguyên... ra Bắc làm việc với Trung ương và Quân uỷ Trung ương đều được Bộ đội Trường Sơn đón tiếp, chăm sóc hết sức chu đáo, đảm bảo đi đường an toàn tuyệt đối với thời gian nhanh nhất và sức khoẻ tốt nhất.

Sau Hội nghị Quân chính và Đại hội mừng công, Bộ Tư lệnh bắt tay ngay vào nhiệm vụ chuẩn bị kế hoạch cho giai đoạn mới, phân công các đồng chí trong Bộ Tư lệnh và cơ quan nắm tình hình, chuẩn bị phương án để báo cáo Bộ Quốc phòng, Quân uỷ Trung ương, nhất là phương án xây dựng đường tiêu chuẩn Đông Trường Sơn.

Để có đầy đủ luận chứng trình lên cấp trên, Bộ Tư lệnh tổ chức hai đoàn đi khảo sát, nắm tình hình trên cả hai tuyến Đông và Tây Trường Sơn. Đoàn đi tuyến Đông do Tư lệnh dẫn đầu, đoàn đi hướng Tây do Chính uỷ dẫn đầu. Đoàn của Chính uỷ xuất phát từ Hướng Hoá (Quảng Trị) theo đường 9 đến Bản Đông rẽ sang đường 128 qua đường 17 đến cao nguyên Bô Lô Ven đi vào miền Đông Nam Bộ.
Kết hợp với việc thị sát tuyến đường, đoàn đã làm việc với các Sư đoàn 471 472, 565, 968, Quân khu Hạ Lào để thống nhất chủ trương, biện pháp tiến hành xây dựng cơ bản tuyến đường, chuẩn bị mọi mặt cho nhiệm vụtới và giúp bạn xây dựng vùng giải phóng...

Sáng ngày 3 tháng 4 năm 1973, đoàn đi thăm đơn vị tiền tiêu của Sư đoàn bộ binh 968 chốt ở Pắc Xoong - vị trí chiến lược ở Nam Lào mới được giải phóng. Trên đường đi, xe trúng mìn, đồng chí Đặng Tính và các đồng chí Vũ Quang Bình - Chính uỷ Sư đoàn 968, Nguyễn Xuân Yêm - Cục phó Cục tham mưu công binh, Trịnh Quý - nhạc sĩ đoàn văn công Trường Sơn, cùng đồng chí y sĩ và lái xe đều hy sinh. Đây là một tổn thất nặng nề của Bộ đội Trường Sơn trước khi bước vào giai đoạn chiến đấu mới.

Tư lệnh đi khảo sát tuyến Đông đã làm việc với Sư đoàn 473, các Bộ Tư lệnh Trị - Thiên, Khu 5, Tây Nguyên và Bộ Tư lệnh Miền. Trên đường về chỉ huy sở thì nhận được tin đau xót này, Tư lệnh đã chỉ thị và phân công các đồng chí trong Thường vụ Đảng uỷ và Bộ Tư lệnh báo cáo lên Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng tổ chức tang lễ trọng thể đồng chí Đặng Tính tại Hà Nội.

Ngày 10 tháng 4, Bộ Tư lệnh tổ chức lễ truy điệu Chính uỷ Đặng Tính tại sở chỉ huy. Toàn thể cán bộ, chiến sĩ Trường Sơn tỏ lòng thương tiếc vô hạn đối với người Chính uỷ tài năng mẫu mực thân thiết của mình, nguyện ra sức phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ trong giai đoạn mới.

Để kịp thời kiện toàn Đảng uỷ - Bộ Tư lệnh sau khi Chính uỷ Đặng Tính qua đời, ngày 1 tháng 5 năm 1973. Quân uỷ Trung ương quyết định cử đồng chí Hoàng Thế Thiện làm Bí thư Đảng uỷ và Chính uỷ Bộ Tư lệnh Trường Sơn.

Sau khi trực tiếp khảo sát và nắm tình hình các mặt, Đảng uỷ Bộ Tư lệnh họp thông qua kế hoạch 3 năm (1974 - 1976) với yêu cầu nắm vững thời cơ, nỗ lực vượt bậc tạo thế, tạo lực cho chiến trường tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.

Nội dung như sau:

1. Cải tạo tuyến Tây Trường Sơn và xây dựng cơ bản tuyến Đông Trường Sơn cùng với hệ thống đường ống xăng dầu, tạo cơ sở vững chắc cho vận chuyển lớn khối lượng vật chất và cơ động bộ đội, binh khí kỹ thuật ra chiến trường.

2. Dự kiến khối lượng vận chuyển 3 năm là 400.000 - 500.000 tấn, quyết tâm mùa khô năm 1973 - 1974 phải đạt 207.000 tấn.

3. Cơ giới hoá toàn bộ hệ tuyến hành quân, bảo đảm hành quân đơn vị lớn và đưa binh khí kỹ thuật nặng vào chiến trường.

4. Chuẩn bị tăng cường lực lượng cho chiến trường, bảo đảm vận tải chiến dịch.

5. Cải tiến tổ chức, bổ sung lực lượng và vật chất trang bị đáp ứng nhiệm vụ với quy mô lớn và yêu cầu cao.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 17 Tháng Năm, 2010, 02:27:09 pm
Từ ngày 15 đến ngày 19 tháng 5 năm 1973. Tư lệnh trực tiếp báo cáo với Thường trực Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và các Phó Thủ tướng Đỗ Mười, Phan Trọng Tuệ về vấn đề xây dựng cơ bản tuyến đường Sau đó phân công các đồng chí trong Bộ Tư lệnh cùng các đồng chí phụ trách đầu ngành làm việc với các cơ quan Nhà nước và Bộ Quốc phòng. Ngày 25 tháng 5 năm 1973, Phó Thủ tướng Đỗ Mười thông qua kế hoạch xây dựng cơ bản đường Trường Sơn với nội dung:

- Đối với đường Hồ Chí Minh - Đông Trường Sơn là đường xuyên Bắc - Nam xây dựng theo tiêu chuẩn cấp bốn miền núi từ Tân Kỳ (Nghệ An) đến Chơn Thành (Phước Bình). Bộ Tư lệnh Trường Sơn phụ trách xây dựng từ Khe Gạt (Quảng Bình) vào Chơn Thành, trước mắt đến Bù Gia Mập, có tổng chiều dài 1.200km. Nền đường 9m, mặt đường 7m, cá biệt nền đường 7m, mặt đường 5,5m. Cầu, cống vĩnh cửu hoặc bán vĩnh cửu. Bảo đảm hành quân cơ giới và vận chuyển cả hai mùa với tốc độ tối đa 60km/giờ.

- Đối với tuyến Tây Trường Sơn: Cải tạo nâng cấp trên hai trục. Trục thứ nhất: Từ Phong Nha (đường 20) và từ Thạch Bàn (đường 16) kéo vào PPlây Khốc, rồi nối với tuyến đông, chiều dài khoảng 720km. Trục thứ hai: Gồm đường 9 từ Hướng Hoá đến Mường Phin theo đường 23 xuống Sa Ra Van, A Tô Pơ, chiều dài khoảng 520 km.

Chính phủ giao trách nhiệm cho Bộ Quốc phòng phụ trách toàn bộ công trình bao gồm khảo sát, thiết kế, thi công, nghiệm thu. Bộ Giao thông Vận tải, Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp cử cán bộ tham gia xây dựng tuyến đường, giúp đỡ tổ chức các lớp đào tạo ngắn ngày cho cán bộ và nhân viên kỹ thuật của công trình. Uỷ ban Kế hoạch nhà nước, Bộ Tài chính, Bộ Vật tư, các ngành, các địa phương có liên quan tích cực giúp đỡ Bộ Quốc phòng hoàn thành công trình Trường Sơn trong thời hạn quy định.

Thực hiện chỉ thị trên, Bộ Tổng tham mưu đã duyệt nâng tổng quân số cầu đường Bộ đội Trường Sơn lên 37.388 người; trong đó được Trung ương Đoàn thanh niên chi viện 8.542 thanh niên xung phong. Các tỉnh Quảng Bình, Nghệ An, Hà Tĩnh huy động 3.219 dân công. Bộ cũng quyết định bổ sung và đổi mới trang bị cơ giới làm đường gồm 221 máy húc (C 100 và Hồng Kỳ), 632 xe ben, 428 xe tải, 51 xe lu, 99 máy ép hơi, 37 máy nghiền đá.

Trường Đại học Địa chất và Đại học Mỏ cử một số giáo viên; Trường đại học Xây dựng cử một đoàn giáo viên và sinh viên Khoa Cầu đường do đồng chí Đặng Hữu chủ nhiệm khoa dẫn đầu; Bộ Giao thông Vận tải cử Thứ trưởng Nguyễn Nam Hải cùng một số cán bộ chuyên môn kỹ thuật hàng đầu và bốn tổ khảo sát vào giúp đỡ Bộ đội Trường Sơn.

Các chuyên gia cầu đường đã cùng công binh Trường Sơn khảo sát cắm tuyến, nghiên cứu địa chất, thăm dò mỏ đá, thiết kế nền, móng, cầu cống, rãnh thoát nước, giúp xây dụng công trình sản xuất đá ở Đầu Mầu, trực tiếp khảo sát thiết kế đoạn có địa hình phức tạp: Bù Lạch - Khâm Đức. Bộ Giao thông Vận tải còn khẩn trương tiếp nhận cán bộ, chiến sĩ Trường Sơn vào các trường đào tạo cấp tốc và trường chuyên môn tu nghiệp.

Được Chính phủ, Bộ Quốc phòng hoàn toàn nhất trí và tạo mọi điều kiện cho Bộ đội Trường Sơn tiến hành xây dựng cơ bản tuyến đường, đồng thời được các bộ các ngành tận tình giúp đỡ, Bộ Tư lệnh Trường Sơn đã khẩn trương điều chỉnh lực lượng công binh ở các binh trạm thành 16 trung đoàn, trong đó có hai trung đoàn làm cầu cống và dự kiến triển khai bố trí: Tuyến đông từ Khe Gạt đến Bù Gia Mập, trọng điểm là từ Thạch Bàn qua Cù Bai đến Ngọc Hồi, bố trí 14 trung đoàn xây dựng đường cơ bản. Tuyến tây từ Bản Đông đến PPlây Khốc bố trí một trung đoàn củng cố cầu đường. Tuyến ngang đường 9 bố trí một trung đoàn và thanh niên xung phong cải tạo mở rộng đoạn Rào Quán - Lao Bảo.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 17 Tháng Năm, 2010, 02:32:26 pm
Trong khi Bộ đội Trường Sơn đang hối hả chuẩn bị công trình lịch sử này thì Thủ tướng Chính phủ Cộng hòa Cuba Phiđen Cátxtơrô, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Cuba, người bạn lớn của nhân dân Việt Nam sang thăm nước ta, vào thăm khu giải phóng tỉnh Quảng Trị. Được chứng kiến công trình xây dựng đường Trường Sơn phục vụ cho sự nghiệp giải phóng miền Nam của quân dân ta, thông cảm với sự khó khăn của một đất nước bị tàn phá nặng nề, Thủ tướng hứa sẽ báo cáo với Đảng, Chính phủ và nhân dân Cuba ủng hộ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Việt Nam đến thắng lợi cuối cùng; trước mắt sẽ điều một số chuyên gia làm việc tai Trường Sơn và tặng Bộ Tư lệnh Trường Sơn một bộ máy làm đường trị giá 6 triệu đô la. .

Về nước, Thủ tướng Phiđen Cátxtơrô phái ngay một đoàn chuyên gia gồm 73 kỹ sư, công nhân lành nghề sang Việt Nam công tác trên đường Trường Sơn và nhận 30 cán bộ Việt Nam sang học nghề ở Cuba. Sáu tháng sau ngày Thủ tướng Cuba về nước, chuyến tàu chở máy móc làm đường đầu tiên của bạn cập bến Hải Phòng, Bộ Tư lệnh Trường Sơn cử Phó Cục trưởng công binh Nguyễn Đình Cầu và Trưởng phòng vật tư kỹ thuật Đặng Hương cùng một số kỹ sư, cán bộ kỹ thuật và trung đoàn 515 tiếp nhận chuyển gấp vào tuyến.

Trước sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Chính phủ và quân đội đối với việc xây dựng cơ bản tuyến đường Hồ Chí Minh cũng như trước tinh thần quốc tế cao cả của Thủ tướng Phiđen Cátxtrô, Bộ đội Trường Sơn càng nhận rõ trách nhiệm và vinh dự của mình, quyết tâm đem hết tinh thần và nghị lực thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ trong tình hình mới.

Một vấn đề nổi bật mang tính cấp bách là nhu cầu chi viện cho miền Nam tăng theo bước nhảy vọt đòi hỏi Bộ đội Trường Sơn phải đổi mới tổ chức, đổi mới thế trận thật khẩn trương, nhanh chóng tăng cường sức chiến đấu và hiệu suất chiến đấu mới đáp ứng được yêu cầu của tình hình mới. Đảng ủy Bộ Tư lệnh quyết định đề nghị Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng cho bỏ cấp binh trạm và các sư đoàn khu vực, thành lập các sư đoàn binh chủng nhằm tạo được quả đấm mạnh thực hiện vận chuyển đường dài cũng như tập trung thực hiện các công trình trọng điểm.

Trong lúc chờ đợi quyết định chính thức, được sự đồng ý của Bộ Tổng tham mưu, Bộ Tư lệnh Trường Sơn đã giải thể các binh trạm, dồn các tiểu đoàn thành 15 trung đoàn binh chủng (công binh, pháo cao xạ, ô tô vận tải) trực thuộc các bộ tư lệnh sư đoàn khu vực; đồng thời thành lập thêm năm trung đoàn trong đó có hai trung đoàn độc lập trực thuộc Bộ Tư lệnh Trường Sơn: trung đoàn 541 kho, Trung đoàn 572 giao liên.

Ngày 11 tháng 5 năm 1973, Quân ủy Trung ương phê chuẩn thành lập một sư đoàn xe và một sư đoàn công binh.

Đây là hai sư đoàn binh chủng đặc thù đầu tiên trong tổ chức của quân đội ta và chưa thấy có trong bất kỳ quân đội nước nào trên thế giới .

Thực hiện chỉ thị của Quân ủy Trung ương, tháng 7 năm 1973, Bộ Tổng tham mưu ra quyết định chuyển Sư đoàn khu vực 571 thành Sư đoàn ô tô cơ động vận tải quân sự 571 và Sư đoàn khu vực 473 thành Sư đoàn công binh 473 trực thuộc Bộ Tư lệnh Trường Sơn. Đây là sự phát triển mới về tổ chức, đánh dấu bước trưởng thành lớn của Bộ đội Trường Sơn.

Bàn đạp đứng chân xuất phát của một sư đoàn xe có trên 2.000 ô tô vận tải là một trong những yếu tố cấu thành thế trận vận chuyển đã được Bộ Tư lệnh Trường Sơn và chỉ huy Sư đoàn 571 quan tâm đặc biệt. Tư lệnh Bộ đội Trường Sơn đích thân cùng các đồng chí chỉ huy sư đoàn trực tiếp khảo sát địa bàn, quyết định chỗ đứng cho bốn trung đoàn xe trên một khu vực rộng lớn bao gồm Đông Hà, Cam Lộ (thuộc bắc Quảng Trị) và Mỹ Đức, Thạch Bàn (thuộc nam Quảng Bình) có chính diện 30km, chiều sâu 50 km. Các trung đoàn, tiểu đoàn ô tô có bãi xe chính quy có các trục đường cơ động bảo đảm thời gian từ lúc hạ đạt mệnh lệnh xuất phát đến chiếc xe thứ 160 của tiểu đoàn ra khỏi bãi hết 15 - 20 phút.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 17 Tháng Năm, 2010, 02:34:15 pm
Vấn đề cung độ trả hàng, cung độ tạm nghỉ đều được nghiên cứu bố trí khớp với chu kỳ bảo dưỡng kỹ thuật, tiêu thụ nhiên liệu, sinh lý con người. Hệ thống chỉ huy giao thông, điểu chỉnh đội hình được bố trí trên các tuyến, đảm bảo cự ly, tốc độ và ký luật hành quân.
Phong trào xây dựng đơn vị chính quy được thực hiện rầm rộ trong toàn sư đoàn với quyết tâm biến sư đoàn thành đơn vị thiện chiến, ra quân đánh thắng trận đầu.

Bộ Tư lệnh chỉ đạo xây dựng lại hệ thống kho theo cung cách vận chuyển mới; thành lập trung đoàn kho 541. Khu vực kho rải từ Đông Hà lên Hướng Hoá, có trữ lượng 25.000 tấn, đủ sức xuất nhập mỗi ngày 15.000 tấn cho từ hai đến ba trung đoàn xe một lúc và tiếp nhận khối lượng vật chất từ hậu phương chuyển lên bằng đường bộ và đường biển tại cảng Cửa Việt - Đông Hà.

Các trạm xưởng được quy hoạch thành hệ dây chuyển từng cấp. Cục Vận tải Bộ Tư lệnh Trường Sơn phụ trách xưởng đại tu bộ phận xe máy, súng pháo. Các sư đoàn phụ trách xưởng trung tu và đội sản xuất gỗ đóng thùng bệ. Các trung đoàn phụ trách xưởng tiểu tu sửa chữa nhẹ và tổ chức các đội kỹ thuật cơ động.

Đối với lực lượng công binh, Bộ Tư lệnh quyết định đào tạo và huấn luyện lại đội ngũ cán bộ và chiến sĩ nhằm vượt qua những thách thức về xây dựng cơ bản tuyến đường chiến lược theo tiêu chuẩn cấp bốn miền núi.

Đầu tháng 6 năm 1973, Đảng uỷ Bộ Tư lệnh họp bàn chuyên đề về xây dựng cơ bản tuyến đường; sau đó mở Hội nghị tập huấn cho 202 cán bộ cấp sư đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn công binh và các cơ quan Bộ Tư lệnh. Hội nghị tập huấn này có tầm lịch sử như Hội nghị tập huấn chiến dịch, chiến thuật vận tải năm 1967 tại Hương Xuân, Hương Khê, Hà Tĩnh. Nó nhằm chuyển hướng phương pháp thi công công trình theo một sơ đồ mang tính chất công nghiệp với tư duy khoa học sáng tạo.

Trong Hội nghị này, Tư lệnh trực tiếp giảng bài về tư tưởng và phương châm xây dựng cơ bản cầu đường. Các chuyên gia giảng về kỹ thuật chuyên môn - Phó Tư lệnh Phan Khắc Hy và Tham mưu trưởng công binh Phan Quang Tiệp trực tiếp tổ chức hướng dẫn thảo luận.

Ngoài ra, Bộ Tư lệnh còn truyền đạt phương án, tiến độ và bố trí lực lượng với quyết tâm chia giai đoạn thông toàn tuyến sớm, kịp tạo thời cơ và sử dụng thời cơ. Tổ chức thi công chia thành bốn mũi trên bốn đoạn để sớm hợp điểm. Thực hiện thi công đồng bộ cầu và đường, vừa thi công xây dựng cơ bản, vừa bảo đảm vận chuyến thông suốt, liên tục. Mạnh dạn cải tiến tổ chức, bỏ cấp tiếu đoàn, nhằm tăng quân số lao động trực tiếp và chỉ huy trực tiếp.

Lực lượng chủ yếu tập trung xây dựng đường cơ bản đông Trường Sơn cụ thể:

- Từ Cù Bai đến Khâm Đức, bố trí Sư đoàn 473 cùng 7.500 thanh niên xung phong, sau đó thêm Sư đoàn 472.

- Từ Khâm Đức đến Bù Gia Mập, bố trí Sư đoàn 470 cùng hai trung đoàn độc lập.

- Từ Khe Gạt đến Cù Bai bố trí ba trung đoàn độc lập cùng 4.000 thanh niên xung phong, sau đó thêm Sư đoàn 565.

Để một trung đoàn cùng 3.000 dân công hoả tuyến duy tu đường 20, đường 16 vào đến Plây Khốc ngã ba biên giới.

Sử dụng hai trung đoàn cải tạo, mở rộng đoạn Rào Quán trên đường 9, rải đá đoạn Thà Khống - Mường Phin, mở các đoạn đường vươn sâu tới hậu cứ các chiến trường. Để rút ngắn thời gian hoàn thành trục đông Trường Sơn, Bộ Tư lệnh quyết định thành lập đoàn công binh kỹ thuật trực tiếp thi công các trục đường phía nam tuyến từ Sê Rê Pốc tới Đồng Xoài, giao cho kỹ sư Đỗ Xuân Diễn, nguyên Tham mưu trưởng Sư đoàn công binh 473 làm Trưởng đoàn, Lê Đình Xuyến làm Chính uỷ.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 17 Tháng Năm, 2010, 02:34:56 pm
Cùng với việc xây dựng và bố trí lại lực lượng ô tô vận tải và công binh, lực lượng tác chiến cũng được củng cố và bố trí theo yêu cầu mới. Sư đoàn phòng không 377 và 5 trung đoàn phòng không của Bộ phối thuộc được triến khai bố trí từ khu vực bàn đạp Cửa Việt, Đông Hà ngược lên Khe Sanh và dọc đường 14 Hướng Hóa, Ly Tôn, A Lưới, Trao, Giàng.

Với các lực lượng khác, Bộ Tư lệnh quyết định: nhập các đơn vị bộ binh trực thuộc vào Sư đoàn bộ binh 968, tăng cường trang bị hoả lực cho bộ binh địa phương của bạn, đẩy mạnh phong trào chiến tranh du kích, củng cố vững chắc vùng giải phóng Nam Lào, bảo vệ sườn phía tây hành lang.

Lực lượng đảm bảo xăng dầu đường ống được bố trí theo hai trục đông và tây Trường Sơn đảm bảo nhiên liệu cho các binh chủng thuộc Bộ đội Trường Sơn và các đơn vị kỹ thuật của Bộ qua tuyến. Đồng thời tiếp tục thi công đường ống theo kế hoạch mới. Ở hướng đông, bố trí một trung đoàn đường ống củng cố và tiếp tục thi công từ Hướng Hoá vào A Lưới - Trao. Ở hướng tây bố trí một trung đoàn đường ống củng cố và thi công từ đường 9 đến Bạc, khảo sát và thi công tiếp đến Pô Cô.

Hai trung đoàn thông tin chuyên trách mạng hữu tuyến đường dài và mạng vô tuyến tiếp sức được bố trí khớp tuyến nhằm điều chỉnh hệ thống đường dây phù hợp với thế trận mới.

Sở chỉ huy các sư đoàn được bố trí lại. Riêng Sở chỉ huy Bộ Tư lệnh Trường Sơn được chuyển về Thạch Bàn.

Địa bàn bắc Quảng Trị lúc này trở thành căn cứ của Bộ đội Trường Sơn, là nơi hội lưu lực lượng hậu cần quân đội các binh chủng, các đoàn cán bộ quân, dân, chính, đảng dừng chân trước khi đi sâu vào chiến trường.

Hàng loạt việc chấn chỉnh tổ chức, bổ sung quân số xây dựng lực lượng, bố trí thế trận được tiến hành dồn dập.

Phong trào thi đua vượt các chỉ tiêu tiên tiến về năng suất, chất lượng, an toàn, tiết kiệm trên “mặt trận cầu đường" diễn ra sôi nổi. Công trình mỏ đá Đầu Mầu khoan nổ, phá đá nghiền đá suốt ngày đêm. Hàng nghìn xe máy rầm rập hoạt động, hàng mấy vạn lao động thủ công không quản nắng mưa tác nghiệp 10 giờ/ngày. Diện mạo tuyến đường Trường Sơn thay đổi từng ngày.

Trong mùa khô năm 1972 - 1973, ta mở đường mới được 359 km, cải tạo đường cũ được 778 km, với khối lượng 7.817.000 m3 đất đá, làm công trình vượt sông được 134 cầu cứng, 15 cầu nổi, 489 cống và tôn cao các ngầm. Nhờ đó đường từ chỗ tuyến hẹp, dốc cao, bán kính nhỏ trở thành đường rộng từ 6 đến 8m, được rải đá hoặc cấp phối ở những vùng trọng điểm, được "là phẳng" ở những nơi nền có địa chất tốt; vượt sông suối hầu hết bằng cầu, bảo đảm lưu lượng trên dưới 1.000 xe chạy cả ngày đêm với tốc độ 25 - 30 km/giờ. Việc xây dựng tuyến đường ống cũng được tiến hành khẩn trương quyết liệt.

Tận dụng những thành quả về xây dựng hạ tầng cơ sở của các lực lượng bạn, bộ đội ô tô vận tải đã nỗ lực vượt bậc, phát huy chủ nghiã anh hùng cách mạng trong điều kiện mới, hoàn thành vượt mức chỉ tiêu nhiệm vụ vận chuyển với khối lượng là 222.823 tấn , đạt 182% kế hoạch Bộ giao. Với các chiến trường đã thực hiện được 88.222 tấn, đạt 147%. Việc đảm bảo xăng dầu cho các chiến trường đạt tỷ lệ gấp hai lần so với mùa khô 1971 - 1972. Năng suất vận chuyển một đầu xe từ 15.500 tấn/km trong mùa khô trước, nay tăng lên 20.000 tấn/km, bằng 130%.

Đảm bảo toàn bộ quân và binh khí kỹ thuật vào hết các chiến trường. Chuyển trên 5.000 thương binh bằng cơ giới ra hậu phương. Đưa đón nhiều đoàn khách đặc biệt, nguyên thủ một số quốc gia, các cán bộ lãnh đạo Đảng, Chính phủ và quân đội chu đáo, tận tình, an toàn tuyệt đối.   

Đảng uỷ Bộ Tư lệnh đánh giá mùa khô 1972-1973, nhất là từ sau khi Hiệp định Pari được ký kết, Bộ đội Trường Sơn đã nắm bắt thời cơ, kịp thời đổi mới một bước quan trọng về tổ chức lực lượng, triển khai xây dựng thế trận mới, thực hiện vận chuyển đạt thành tích vượt trội hơn mùa khô năm trước. Nhưng với yêu cầu của tình hình mới thì vẫn chưa đáp ứng được. Mùa khô 1973 - 1974 tới, toàn tuyến phải nỗ lực cao độ thực hiện quyết tâm đổi mới tổ chức một cách căn bản, hoàn thiện thế trận mới, chuẩn bị cho thời cơ mới.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 18 Tháng Năm, 2010, 11:14:00 am
Thực tế từ sau Hiệp định Pari, đế quốc Mỹ vẫn bám chặt chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam, biến miền Nam thành một "quốc gia” thân Mỹ. Chúng tiếp tục viện trợ quân sự và kinh tế cho ngụy quyền Nguyễn Văn Thiệu nhằm tập trung lực lượng thực hiện các kế hoạch "bình định", mở các cuộc hành quân càn quét, thực hiện các chiến dịch "tràn ngập lãnh thổ" hòng lấn chiếm vùng giải phóng, tiêu diệt một bộ phận lực lượng của ta, đẩy lực lượng của ta ra sát biên giới, loại Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam ra khỏi đời sống chính trị ở miền Nam. Cuộc chiến đấu của quân và dân miền Nam diễn ra rất quyết liệt.

Tháng 7 năm 1973, Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 21 đã kịp thời khẳng định nhiều vấn đề quan trọng về đường lối cách mạng và chỉ đạo chiến lược; khẳng định con đường của cách mạng miền Nam vẫn là con đường bạo lực. Bất kể trong tình huống nào ta cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công, đưa cách mạng miền Nam tiến lên. Phải đẩy mạnh đấu tranh trên ba mặt trận: chính trị, quân sự, ngoại giao. Trung ương cũng xác định hàng loạt nhiệm vụ lớn cấp bách để thực hiện đường lối chủ trương trên. Mặt trận chi viện chiến lược tuyến đường Trường Sơn được Trung ương Đảng và Chính phủ quan tâm đặc biệt.

Ngày 3 tháng 8 năm 1973, Đảng uỷ, Bộ Tư lệnh tổ chức Hội nghị Quân chính nhằm quán triệt quan điểm tư tưởng của Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 21, triển khai kế hoạch mùa khô 1973 - 1974.

Trong kế hoạch mùa khô này, Bộ Tư lệnh Trường Sơn được giao nhiệm vụ vận chuyển 282.000 tấn và kế hoạch bổ sung do Chính phủ giao nhằm ổn định đời sống nhân dân vùng giải phóng là 60.000 tấn. Bộ Tư lệnh quyết tâm phấn đấu đạt 350.000 tấn và thực hiện đúng tư tưởng chỉ đạo của Quân uỷ Trung ương là ưu tiên số một cho hàng quân sự, coi trọng nhu cầu xây dựng cơ bản tuyến đường chiến lược, đảm bảo đúng mức và có trọng điểm các nhu cầu dân sinh kinh tế. Đối với chiến trường, ưu tiên vận chuyển cho Nam Bộ, Tây Nguyên, coi trọng đáp ứng các yêu cầu cho bạn Lào và Campuchia.

Để thực hiện được chỉ tiêu nhiệm vụ và tư tưởng chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Tư lệnh Trường Sơn chủ trương sử dụng lực lượng linh hoạt, tập trưng dứt điểm từng hướng, từng nhiệm vụ, từng thời gian nhất định; trong vận tải, bỏ cung ngắn chạy cung dài, thực hiện chạy thẳng đối với nhiệm vụ đột xuất những hàng đặc biệt.

Nhằm quán triệt phương châm vận chuyển trong điều kiện mới là năng suất, chất lượng, tiết kiệm và hiệu quả, đầu tháng 11 năm 1973, Bộ Tư lệnh mở lớp tập huấn cho cán bộ của tám trung đoàn ô tô vận tải và các tiểu đoàn ô tô trực thuộc để quán triệt nhiệm vụ, phương châm và chiến thuật vận tải mới, phổ biến chỉ tiêu kế hoạch vận chuyến cho từng sư đoàn, trung đoàn, các chỉ tiêu về cây số chạy trong ngày, về hệ số kỹ thuật, xăng dầu, trọng tải...

Bộ Tư lệnh dự định chiến dịch vận chuyển mùa khô 1973 - 1974 sẽ được mở vào ngày 15 tháng 11 năm 1973 và bằng nhiều đợt liên tục, kéo dài trong 10 tháng, chia thành hai giai đoạn:

- Giai đoạn 1 từ ngày 15 tháng 11 năm 1973 đến ngày 15 tháng 5 năm 1974, tập trung phần lớn lực lượng xe vận chuyển chủ yếu theo tuyến tây, dứt điểm cho chiến trường Nam Bộ, Tây Nguyên, Campuchia, Lào. Khi thời tiết cho phép sẽ cơ động một bộ phận lực lượng sang phía đông, đi sâu đến hậu cứ Khu 5 và Trị - Thiên, thực hiện được một phần ba tổng khối lượng chi viện cho hai chiến trường này. Trong khi thực hiện khối lượng cho chiến trường thì kết hợp tỷ lệ thoả đáng giải quyết các khối lượng về xây dựng cơ bản đường bộ, đường ống và nhu cầu hậu cần cho các lực lượng nội bộ Bộ Tư lệnh Trường Sơn công tác ở hướng đó.

- Giai đoạn 2, lật cánh sang phía đông, dứt điểm cho Trị - Thiên, Khu 5 và nhu cầu xây dựng cơ bản. 

Trong giai đoạn này trên toàn tuyến Trường Sơn hơn 6.000 ô tô của bộ đội vận tải cùng hàng nghìn xe máy của bộ đội công binh chuyển động ầm ầm từ 4 giờ sáng cho đến 12 giờ đêm. Chiến trường đã ngớt tiếng bom đạn nhưng núi rừng vẫn rung chuyển. Chỉ mới một tháng đầu ra quân vận chuyển trong thời tiết và đường cầu chưa thật ổn định mà ta đã giao cho Nam Bộ được khối lượng bằng 25% khối lượng cả năm 1972 - 1973, giao cho Tây Nguyên khối lượng bằng 16% cả năm trước; đồng thời tạo chân hàng dự trữ lớn ở KG4.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 18 Tháng Năm, 2010, 11:14:45 am
Sang tháng 1 năm 1974, thời tiết ở hướng tây đi vào ổn định, Bộ Tư lệnh lập tức bỏ cung trung chuyển Ka Nốt; kéo dài cung vận chuyển từ Long Đại, Đông Hà vào tới Xê Sụ có cự ly 500 km và từ Xê Sụ vận chuyển trực tiếp giao hàng cho các chiến trường, trong đó xa nhất là giao hàng cho Nam Bộ tại Bù Gia Mập.

Hết tháng 1 năm 1974, khối lượng giao cho các chiến trường tăng vọt; riêng Nam Bộ đã giao 8.024 tấn các loại, bằng 106 % so với khối lượng cả năm 1972-1973, kịp thời bảo đảm cho quân và dân Nam Bộ tiến công liên tục. Giao cho bạn Lào đạt 105 % kế hoạch. Giao đủ hàng cho Campuchia đẩy mạnh cuộc tiến công, mở rộng vùng giải phóng. Năng suất bình quân mỗi đầu xe biên chế của các sư đoàn trong tháng đạt 3.608 tấn/km đến 3.928 tấn/km.

Kết quả hai tháng vận chuyển đầu mùa đã chứng tỏ tính ưu việt của mô hình tổ chức mới và thế trận vận chuyển, thế trận cầu đường mới, cũng như cung cách tập trung đội hình vận chuyển lớn chạy đường dài. Đồng thời cũng phản ánh chủ nghiã anh hùng cách mạng, lao động sáng tạo, quên mình trong điều kiện cực kỳ gian khổ, căng thẳng của cán bộ, chiến sĩ các binh chủng.

Trong không khí thi đua "Mừng xuân dâng Đảng", tối 30 Tết Giáp Dần tức ngày 22 tháng 1 năm 1974, Bộ đội Trường Sơn vinh dự được đồng chí Trường Chinh ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đến thăm và cùng vui Tết.

Tại Sở chỉ huy Bộ Tư lệnh, sau khi nghe Tư lệnh báo cáo về tình hình hoạt động của tuyến chi viện chiến lược, Chủ tịch Trường Chinh biếu dương tuyến đường Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh đã góp phần to lớn vào thắng lợi của cách mạng miền Nam và cả nước, hoan nghênh những việc làm sáng tạo, táo bạo của Bộ đội Trường Sơn trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của Đảng và nhân dân giao cho.

Đồng chí giải thích: Kinh nghiệm đấu tranh cách mạng cho thấy đối phương khó có thiện chí. Nếu Mỹ - ngụy trắng trợn phản bội Hiệp định Pari thì tuyến Trường Sơn cực kỳ quan trọng, là một trong các điều kiện có tính quyết định để miền Bắc thực hiện sự chi viện cho cách mạng miền Nam giành thắng lợi hoàn toàn.

Ngày 21 tháng 2 năm 1974, Đảng uỷ Bộ Tư lệnh Trường Sơn họp mở rộng, đánh giá về khả năng chiến đấu và thắng lợi của ba tháng đầu mùa khô. hạ quyết tâm động viên mọi lực lượng hiệp đồng chiến đấu hoàn thành dút điểm cơ bản kế hoạch năm 1973- 1974 cho Nam Bộ và Tây Nguyên vào tháng 3 năm 1974.

Từ tháng 4 năm 1974 sẽ tập trung lực lượng lập chân hàng cho đường sông để tiếp tục vận chuyển mùa mưa giao tiếp kế hoạch bổ sung cho Nam Bộ, Campuchia và vận chuyển bảo đảm nhu cầu cho lực lượng xây dựng cơ bản tuyến phía tây, đồng thời điều Trung đoàn 36 thuộc Sư đoàn 471 và Trung đoàn 17 thuộc Sư đoàn 571 lật cánh hoạt động sang tuyến phía đông nhằm bảo đảm nhu cầu đầu mùa mưa cho Trị - Thiên và Khu 5.

Tháng 2 và tháng 3 là những tháng cao điểm của mùa khô, rất thuận lợi cho vận chuyển cơ giới đường bộ, nhưng lại nảy sinh những khó khăn không nhỏ đe dọa đến việc thực hiện quyết tâm trên. Tuyến đường tuy được cải thiện nhưng vẫn là đường đất, dù có lát đá hoặc rải cấp phối được một số đoạn, nhưng không sao chịu nổi lưu lượng xe hàng nghìn chiếc chạy trong ngày. Xe càng chạy, đất càng bị vụn, đường càng bị đào thành "hào" bụi, sâu từ 30 đến 40cm.

Bụi trở thành kẻ thù nguy hiểm, đã che tầm nhìn của lái xe, giảm độ bám của đường, làm tốc độ xe bị chậm, thậm chí làm tắc đường do xe bị “lầy bụi". Nóng cũng nguy hiểm không kém, ngoài trời 40oC thì trong buồng lái 60oC, dưới chân ga 70oC, chênh lệch giữa nhiệt độ con người và nhiệt độ của môi trường trong buồng lái từ 20oC đến 30oC. Nhiệt độ cao cũng làm cho hệ thống làm lạnh của xe giảm tác dụng: máy bị nóng, ăn xăng nhiều và giảm sức kéo.

Vì bụi và nóng nên sau đợt vận chuyển tháng 2 và tháng 3 lái xe bị kiệt sức, sụt cân từ 4 đến 6kg. Mốt trung đoàn xe, hệ số kỹ thuật tụt xuống còn 45-50%. Bộ Tư lệnh Trường Sơn đã có nhiều biện pháp giải quyết tích cực:

Tập trung lực lượng công binh, bào mặt đường, rải tiếp cấp phối, tưới nước; tổ chức bếp ăn trên dọc đường; tăng thêm định lượng cho lái xe gấp ba lần lao động khác; cấp thêm sữa, thịt tươi, viên tăng lực, khẩu trang cho lái xe; tăng thêm quân số bảo dưỡng xe; tăng vòi tiếp xăng trên mỗi trạm từ 10 lên 20 vòi; tăng các đội văn hoá, văn nghệ, điện ảnh lưu động phục vụ bộ đội xe trên các khu tạm dừng. Các chỉ huy sư đoàn, trung đoàn thay nhau đi trên đường chỉ huy động viên bộ đội.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 18 Tháng Năm, 2010, 11:15:45 am
Đồng chí Tư lệnh và Phó Chính uỷ Lê Xy lên đường kiểm tra toàn tuyến và vào chiến trường Khu 5, Tây Nguyên, Nam Bộ làm việc với các Bộ Tư lệnh chiến trường nắm yêu cầu, hợp đồng kế hoạch trước mắt và kế hoạch năm 1975.

Với sự nỗ lực vượt bậc hiệp đồng chiến đấu của các binh chủng, cuối tháng 3 toàn tuyến đã vận chuyển được 94% kế hoạch cho Nam Bộ, 80% kế hoạch cho Tây Nguyên và trên 90% kế hoạch cho Campuchia và Lào; chở 4.000 thương bỉnh ra Bắc trong đó có chị Võ Thị Thắng.

Lúc này Bộ lại bổ sung thêm kế hoạch cho Nam Bộ và Tây Nguyên, với sự điều khiển linh hoạt và tinh thần khắc phục khó khăn của các cấp khi kế hoạch bị đảo lộn, hết tháng 5 năm 1974, tất cả mọi nhiệm vụ đều vượt chỉ tiêu Bộ giao: Nam Bộ đạt 116% kế hoạch, Tây Nguyên đạt 108% kế hoạch, Lào và Campuchia đạt từ 103 đến 105% kế hoạch.

Nhằm đáp ứng yêu cầu chi viện chiến lược quy mô lớn hơn, ngày 15 tháng 5 năm 1974, Quân uỷ Trung ương phê chuẩn thành lập thêm sư đoàn ô tô vận tải thứ hai lấy phiên hiệu Sư đoàn ô tô vận tải 471. Chuyển các sư đoàn khu vực 470, 472 thành các sư đoàn công binh. Thành lập thêm Sư đoàn 565 công binh. Bộ Quốc phòng đồng ý để Bộ Tư lệnh Trường Sơn tổ chức thêm sáu trung đoàn công binh trực thuộc, tăng cường quân số cho hai trung đoàn thông tin 49 và 596, dồn lực lượng đủ biên chế cho Trung đoàn hành quân cơ giới 572 và Trung đoàn kho 541.

Như vậy, vào thời điểm này Bộ Tư lệnh Trường Sơn có tất cả 8 sư đoàn binh chủng, 20 trung đoàn và tương đương trực thuộc, hàng chục tiểu đoàn trực thuộc các cục nghiệp vụ. Tổng quân số lên đến 100.495 người trong đó có 13.155 sĩ quan. Lực lượng chuyên môn có 12.318 lái xe, 961 lái xe húc, 3.618 thợ sửa chữa, 291 bác sĩ, 880 y sĩ, 3.450 y tá, 583 đài trưởng báo vụ thông tin.

Sau khi khẩn trương sắp xếp kiện toàn tổ chức và cán bộ, Sư đoàn ô tô vận tải 471 và Sư đoàn công binh 472 lật cánh sang hướng đông, tập trung lực lượng xây dựng cơ bản tuyến đường đông Trường Sơn, đồng thời vận chuyển dứt điểm kế hoạch cho Khu 5, Trị - Thiên, cho nhu cầu xây dựng cơ bản của công binh và đường ống, lập chân hàng dự trữ cho Nam Bộ năm 1975.

Đầu tháng 4 năm 1974, Quân uỷ Trung ương triệu tập Hội nghị cán bộ cao cấp toàn quân nghiên cứu Nghị quyết 21 của Trung ương Đảng và Nghị quyết tháng 3 năm 1974 của Quân ủy Trung ương. Tư lệnh Đồng Sĩ Nguyên được triệu tập dự Hội nghị. Trong dịp này đồng chí được Nhà nước phong quân hàm Trung tướng. Sau Hội nghị, đồng chí Đồng Sỹ Nguyên trực tiếp báo cáo tình hình và kết quả hoạt động của Bộ đội Trường Sơn từ sau Hiệp định Pa ri đến nay với đồng chí Bí thư thứ nhất Trung ương Đảng Lê Duẩn, Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp.

Các đồng chí trong Bộ Chính trị, Trung ương Đảng rất phấn khởi trước bước phát triển mạnh mẽ và những thành tích đạt được của tuyến chi viện chiến lược Trường Sơn, góp phần quan trọng tạo thế, tạo lực của cách mạng miền Nam, làm chuyển biển tương quan lực lượng trên chiến trường ngày càng có lợi cho ta.

Các đồng chí chỉ thị cho Bộ Tư lệnh Trường Sơn phải cố gắng hơn nữa để vượt chỉ tiêu kế hoạch năm 1974. Đồng chí Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng lưu ý Bộ Tư lệnh Trường Sơn trong việc chuẩn bị kế hoạch năm 1975, ngoài kế hoạch thông thường phải sẵn sàng bảo đảm cho kế hoạch đột xuất khi thời cơ chiến lược xuất hiện.

Cuối tháng 5 năm 1974, phía tây Trường Sơn chuyển vào mùa mưa.

Bộ Tư lệnh quyết định lật cánh toàn bộ lực lượng từ phía tây sang phía đông Trường Sơn nhanh chóng chuẩn bị và thực hành giai đoạn hai chiến dịch vận tải, chỉ duy trì trên hướng tây Trung đoàn vận tải đường sông 53 của Sư đoàn 470 hoạt động từ Xê Ca Mán theo sông Sê Kông, Mê Kông, vận chuyển hàng giao cho Nam Bộ, Campuchia.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 18 Tháng Năm, 2010, 11:16:38 am
Mục tiêu của giai đoạn hai là nhằm hoàn thành mọi chỉ tiêu bổ sung đối với các chiến trường và kế hoạch dự trữ lớn trên các hướng tác chiến; vận chuyển bảo đảm kế hoạch xây dựng cơ bản cả năm; tranh thủ điều kiện thuận lợi về thời tiết hướng đông vận chuyển dứt điểm kế hoạch cho Trị - Thiên, Khu 5; đồng thời giao trước một khối lượng kế hoạch năm 1975 cho Khu 5; rải thêm một số vật tư đường ống để thi công từ Khâm Đức trở vào theo kế hoạch năm 1975.

Phán đoán ta đang chuẩn bị chiến trường, đẩy mạnh xây dựng thế trận và vận chuyển trên cả hai phía đông và tây Trường Sơn, địch tăng cường hoạt động đánh phá. Ở phía đông, không quân ngụy Sài Gòn đã sử dụng máy bay A37 và AD6 đánh ngày, máy bay AC 119 và AC47 đánh đêm. Tập trung đánh phá dọc tây Trị - Thiên, Khu 5 từ Bung vào Trao, Giàng, dọc tây đường 14 từ Plây Khốc vào Đức Lập và dọc trục đường của Sư đoàn khu vực 470. Địch còn huy động bốn trung đoàn bộ binh, một tiểu đoàn biệt động có một lực lượng pháo binh thiết giáp.

Trước tình hình địch tăng cường hoạt động phá hoại, Bộ Tư lệnh Trường Sơn điều Tiểu đoàn 21, Tiểu đoàn 4 bộ binh, Đại đội pháo 85 ly tăng cường cho Sư đoàn 470, đồng thời chuyển phối thuộc trung đoàn 29 B bộ binh cho Mặt trận Tây Nguyên phản kích địch.

Trong lúc các lực lượng Khu 5, Tây Nguyên tiến công giải phóng Chư Nghé, Nông Sơn. Trung Phước, Thượng Đức, Đại Lộc, Bộ Tư lệnh Trường Sơn chỉ thị cho Sư đoàn 471 dốc sức mở thông đường tránh Đắk Pét tạo điều kiện cho bộ đội Khu 5 tiêu diệt đồn Đắk Pét.

Tháng 5 năm 1974, đồn Đắk Pét được giải phóng, tuyến đông Trường Sơn thông suốt từ đường 9 vào Sa Thầy, Bù Đốp. Từ đây ta có thể vận chuyền và cơ động binh khí kỹ thuật từ Bắc vào Nam theo tuyến đông Trường Sơn. Trong thời gian này Sư đoàn phòng không 377 cùng lực lượng phòng không của các sư đoàn khác đã đánh 122 trận, bắn rơi 8 máy bay địch.

Ở mặt trận phía tây, Sư đoàn 968 vừa khẩn trương giúp bạn xây dựng lực lượng chủ lực, vừa triển khai lực lượng chiến đấu ở các khu vực Pắc Xoong, Sa Ra Van, Kan Du. Pha Lan, đồng thời hiệp đồng chặt chẽ với bộ đội Pa thét Lào bẻ gãy tất cả các mũi hành quân nống lấn của địch và hỗ trợ để lực lượng Pa thét Lào từng bước tác chiến độc lập có hiệu quả.

Thắng lợi của hoạt động tác chiến chống địch nống lấn vùng giải phóng và ngăn chặn tuyến vận tải chiến lược đã tạo điều kiện cho lực lượng vận tải hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch giai đoạn hai của chiến dịch.

Đầu tháng 5 năm 1974, trong khi các lực lượng trên tuyến dồn sức lập thành tích thiết thực kỷ niệm lần thứ 11 ngày truyền thống của mình, Bộ Tư lệnh Trường Sơn vô cùng phấn khởi nhận được thư của Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng gửi Bộ đội Trường Sơn. Thư của Chủ tịch nước viết:

“Thân ái gửi đến chiến sĩ và cán bộ, Bộ đội Trường Sơn.

Năm nay, Bộ đội Trường Sơn kỷ niệm lần thứ 15 ngày truyền thống vẻ vang của mình. Nhân dịp này, tôi rất vui mừng thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ khen ngợi toàn thể cán bộ, chiến sĩ các đơn vị, các binh chủng thuộc Bộ đội Trường Sơn.

Suốt 15 năm qua, các đồng chí luôn luôn nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, quyết tâm chiến đấu và tinh thần lao động quên mình, vượt qua muôn vàn khó khăn gian khổ, cùng các lực lượng thanh niên xung phong, dân công, cán bộ, công nhân ngành Giao thông của Nhà nước hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

Được quân và dân các địa phương hết lòng giúp đỡ, các đồng chí đã lao động và chiến đấu dũng cảm, bền bỉ, mưu trí, sáng tạo, phát triển lực lượng từ nhỏ đến lớn, từ thô sơ đến hiện đại, mở đường mà tiến, đánh địch mà đi, đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn chiến tranh tàn bạo của kẻ thù, đưa sự chi viện to lớn của miền Bắc xã hội chủ nghĩa tới các chiến trường, góp phần quan trọng vào thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước...

Các đồng chí hãy phát huy bản chất và truyền thống tốt đẹp của Quân đội nhân dân Việt Nam, nêu cao tinh thần cách mạng tiến công, phất cao cờ thi đua quyết thắng, không ngừng rèn luyện, khiêm tốn học tập, nâng cao sức mạnh chiến đấu và hiệu quả công tác, tăng cường đoàn kết nội bộ, đoàn kết quân dân, giữ nghiêm kỷ luật, quản lý tốt cơ sở vật chất kỹ thuật, tích cực tăng gia sản xuất, cần kiệm xây dựng quân đội, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ.

Các đồng chí hãy xứng đáng là những cán bộ, chiến sĩ vinh dự lao động và chiến đấu trên tuyến đường chiến lược mang tên Bác Hồ vĩ đại.

Chúc các đồng chí mạnh khoẻ, lập nhiều thành tích mới.

Ngày 8 tháng 5 năm 1974
Chào thân ái quyết thắng.
TÔN ĐỨC THẮNG”

Thư của Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng được chuyển tới khắp các lực lượng trên tuyến đã dấy lên khí thế thi đua quyết tâm hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ trong giai đoạn hai của chiến dịch. Cùng thời gian này, Bộ Tư lệnh Trường Sơn vinh dự được đón Luật sư Nguyễn Hữu Thọ - Chủ tịch Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tới thăm. Đồng chí Nguyễn Hữu Thọ đã trực tiếp đến thăm và động viên cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn Công binh 473.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 18 Tháng Năm, 2010, 11:17:20 am
Ngày 30 tháng 5 năm 1974, Bộ Tư lệnh Trường Sơn quyết định chuyển sở chỉ huy từ Thạch Bàn vào Bến Tắt - bờ nam sông Bến Hải.
Tại sở chỉ huy mới, Bộ Tư lệnh Trường Sơn tập trung chỉ đạo củng cố tổ chức lực lượng, đẩy mạnh xây dựng cơ bản cầu đường, nhanh chóng dứt điểm kế hoạch vận chuyển chi viện mùa khô năm 1974, chuẩn bị kế hoạch năm 1975 .

Sau một tháng dốc sức sửa chữa, bảo dưỡng, các đơn vị đã nâng hệ số kỹ thuật lên 80% bảo đảm đầu xe cho nhiệm vụ trước mắt, đồng thời dự trữ cho nhiệm vụ năm 1975. Trên tuyến phía đông, ba sư đoàn công binh dốc sức thi đua lao động cải tạo nâng cấp xây dựng cơ bản tuyến đường kết hợp với bảo đảm vận chuyển.

Từ Đông Hà đến Sa Thầy, Bù Gia Mập đường thông suốt và khô ráo. Bộ Tư lệnh quyết định triển khai vận chuyển lớn bắt đầu từ ngày 15 tháng 6 đến ngày 30 tháng 7 kết thúc kế hoạch cho Trị - Thiên, ngày 30 tháng 8 kết thúc kế hoạch cho Khu 5. Tranh thủ vận chuyển nhu cầu xây dựng cơ bản đường bộ, đường ống và lập chân hàng dự trữ cho các chiến trường trên hướng này 20.000 tấn, đồng thời cái tạo tuyến Tây Trường Sơn.

Cuối tháng 8 năm 1974, các sư đoàn xe đã dứt điểm gọn kế hoạch cho hai chiến trường Khu 5 và Trị - Thiên, bảo đảm lượng dự trữ về lương thực, thực phẩm, nhiên liệu cho nội bộ tuyến Trường Sơn được 1.700 tấn. Lập chân hàng dự trữ cho năm 1975 tại kho L1, L2 (Hướng Hoá, Quảng Trị): được 20.000 tấn, tại Trao, Giàng thuộc Khu 5 được 21.000 tấn.

Ngày 26 tháng 8 năm 1974, Đảng uỷ Bộ Tư lệnh Trường Sơn họp sơ kết nhiệm vụ vận chuyển năm 1974 và chuẩn bị năm 1975. Hội nghị nhận định:

Với chủ trương cải thiện thế trận, phát triển tổ chức mới, chỉ đạo linh hoạt, sáng tạo của Đảng uy, Bộ Tư lệnh và sự hoạt động tích cực của các binh chủng cũng như sự nỗ lực vượt bậc của mọi cán bộ, chiến sĩ toàn tuyến, nhiệm vụ năm 1974 của tuyến chi viện được kết thúc một cách thắng lợi chưa từng có. Tổng khối lượng vận chuyển cho các hướng được 360.043 tấn đạt 102%:

Tính theo khối lượng luân chuyển được 131.558.960 tấn/km-một con số kỷ lục về năng suất vận chuyển. Về bảo đảm hành quân đã đưa đón quân vào, quân ra năm 1974 bằng 155,96% so với năm 1973 và tiếp nhận 93.000 thương binh của các chiến trường chuyển về sau.
Năm 1974 có sự thay đổi cơ bản về chất của bảo đảm hành quân là đã chuyển tư hành quân bộ sang hành quân cơ giới đường bộ, đường sông. Nhờ vậy thời gian vào đến chiến trường xa nhất giảm được 43 ngày (tức là giảm từ 3 - 4 lần so với trước). Riêng với chiến trường nam Trị - Thiên rút ngắn 23 lần thời gian so với năm 1972, quân vào chiến trường bảo đảm chiến đấu được ngay.

Về xây dựng đường ống và bảo đảm xăng dầu đã đạt khối lượng vượt xa năm 1973. Hai tuyến đường ống phía tây và phía đông Trường Sơn đã kéo từ vĩ tuyến 17 tiến sâu vào phía nam gặp nhau tại Plây Khốc (ngã ba biên giới ba nước Đông Dương); tháng 12 năm 1974, đường ống tới nam Chư Pông; tháng 3 năm 1975 vào tới Bù Gia Mập thuộc Nam Bộ.

Ở phía đông, Trung đoàn 671 đã xây dựng tuyến ống thứ hai bơm dầu điêzen từ Đông Hà vào A Lưới dài 89 km. Thành công lớn của bộ đội đường ống là đã đẩy nhanh tốc độ cấp phát, giải phóng xe nhanh. Trung bình 1 giờ 30 phút có thể cấp phát giải phóng cho một tiểu đoàn xe. Mỗi ngày có thể đảm bảo cấp phát cho 800 xe trên một bãi chính và cho hơn một vạn lượt xe hoạt động trên toàn tuyến, góp phần nâng cao tốc độ vận chuyển; không những đã đảm bảo thỏa mãn nhu cầu cho binh chủng vận tải và các binh chủng khác thuộc Bộ đội Trường Sơn mà còn có thể cấp phát trực tiếp cho các chiến trường với khối lượng lớn ...

Về nhiệm vụ cầu đường năm 1974 có sự phát triển mang tính bước ngoặt. Trên tuyến phía tây cải tạo được 563 km, hạ dốc, nắn đường, bắc cầu, mở rộng mặt đường 8 m từ nam Quảng Bình tới ngã ba biên giới. Tuyến phía đông khai thông, cải tạo kết hợp với xây dựng cơ bản trên chiều dài 1.050km từ Hướng Hoá vào Đắk Min. Các đường ngang nối liền tuyến đông và tuyến tây được duy trì sửa chữa bảo dưỡng.

Hệ thống tuyến đường đông, tây Trường Sơn liên hoàn vững chắc là cơ sở hạ tầng bảo đảm chi viện liên tục vật chất và cơ động binh khí kỹ thuật cho các đòn tiến công chiến lược với mọi quy mô, mọi không gian, mọi thời gian.

Nhiệm vụ tác chiến và giúp bạn thu được thắng lợi lớn. Đến nay trên địa bàn tây Trường Sơn, vùng giải phóng nam Lào được mở rộng hơn 40.000 km2. Lực lượng cách mạng Lào phát triển khá toàn diện. Đời sống nhân dân từng bước ổn định. Phong trào chiến tranh nhân dân phát triển mạnh. Tuyến hành lang được củng cố.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 18 Tháng Năm, 2010, 11:17:57 am
Từ đông sang tây Trường Sơn đã hình thành một căn cứ hậu cần chiến lược và chiến dịch với trên 100.000 km2, thông suốt với hậu phương miền Bắc xã hội chủ nghiã là chỗ dựa vững chắc cho các chiến trường Nam Đông Dương. Đây là thành tựu hết sức to lớn, một trong những yếu tố quyết định thực hiện nhiệm vụ chi viện của hậu phương lớn miền Bắc cho tiền tuyến lớn miền Nam và cho bạn Lào, Campuchia.

Năm 1974 tuyến thông tin được phát triển trên cả hai trục đông và tây Trường Sơn nối thẳng vào các chiến trường xa, nhất là Tây Nguyên, Nam Bộ, đảm bảo vững chắc cho chỉ huy tác chiến chiến lược chiến dịch và chiến đấu.

Một trong những thành công nổi bật của Bộ đội Trường Sơn là đã xây dựng được mô hình tổ chức phối hợp với xu thế phát triển của cục diện chiến trường và chủ trương chiến lược của Bộ Chính trị, phát triển từ quy mô binh trạm lên quy mô các sư đoàn binh chủng. Những sư đoàn này vừa có khả năng bảo đảm vận chuyển chiến lược, chiến dịch quy mộ lớn, tự đánh địch bảo vệ vận chuyển, có đủ sức mạnh phục vụ và tham gia các kế hoạch tác chiến chiến lược của Bộ, đồng thời sẵn sàng làm đội dự bị tăng cường cho các hướng chiến dịch trong thời cơ quyết định. Tổ chức các sư đoàn binh chủng thuộc Bộ đội Trường Sơn không những đem lại hiệu quả to lớn trong việc thực hiện chi viện chiến lược trước mắt mà còn tạo được "quả đấm" mạnh, đón đầu thời cơ mới.

Kết quả thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 21, Nghị quyết tháng 3 năm 1974 của Quân uỷ Trung ương đã làm thay đổi hẳn cực diện chiến trường miền Nam có lợi cho ta.

Đến giữa năm 1974 trên toàn miền Nam, ta đã xoá được 3.600 đồn bốt địch, giải phóng 850 thôn ấp với 115 vạn dân, tạo được thế mới, lực mới, đẩy nguy quyền Sài Gòn vào thế suy yếu rõ rệt. Quân chủ lực của chúng giám gần 10 vạn, phòng vệ dân sự giảm 50 vạn, hoạt động máy bay giảm 80%, pháo binh giảm 60%.

Nội bộ chính trường nước Mỹ khủng hoảng nghiêm trọng do thất bại trong cuộc chiến tranh kéo dài quá tốn kém ở Việt Nam và vụ bê bối “Oatơghết” buộc Tông thống Mỹ Níchxơn phải từ chức. Dư luận tiến bộ Mỹ và thế giới ủng hộ mạnh nhân dân Việt Nam đấu tranh giành độc lập dân tộc và thống nhất nước nhà.

Tháng 9 năm 1974, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương họp nhận định chiến tranh đã bước vào giai đoạn cuối, hạ quyết tâm giải phóng miền Nam trong hai năm 1975- 1976; xác định mục tiêu trong năm 1975 là làm cho lực lượng ta lớn mạnh vượt bậc, mở nhiều đợt tiến công và nổi dậy làm cho lực lượng địch suy yếu nhanh chóng, tạo điều kiện chín muồi để tổng công kích - tổng khởi nghiã trong năm 1976.

Mục tiêu năm 1976 là phát động tổng công kích - tổng khởi nghĩa, đánh lớn đánh nhanh, diệt từng sư đoàn dịch, đánh Sài Gòn là chỗ hiểm yếu nhất, giành thắng lợi cuối cùng. Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương chỉ thị Bộ Tổng tham mưu chuẩn bị kế hoạch chiến lược giải phóng hoàn toàn miền Nam trong hai năm.

Quân uỷ Trung ương - Bộ Tổng tư lệnh thông qua kế hoạch chi viện nhân lực, vật lực cho miền Nam mùa khô 1974- 1975, giao nhiệm vụ cho Bộ Tư lệnh Trường Sơn những chỉ tiêu, yêu cầu cơ bản:

Về vận chuyển chi viện mùa khô 1974 - 1975, khối lượng là 410 nghìn tấn hàng quân sự, 100 nghìn tấn hàng dân sinh. Chú ý làm tốt khối lượng hàng dự trữ chiến lược bảo đảm chất lượng, dự kiến 50 nghìn tấn và 2.800 tấn hàng chuẩn bị cho mùa khô 1975- 1976.

Về xây dựng đường chiến lược, tập trung xây dựng cơ bản tuyến phía đông; đồng thời coi trọng tuyến phía tây. Tiếp tục phối hợp với các chiến trường xây dựng mạng đường chiến dịch. Triển khai phát triển tuyến đường ống đông Trường Sơn sâu vào Nam Bộ. Gấp rút xây dựng kho dự trữ chiến lược có chất lượng đúng quy cách và coi đây là một nhiệm vụ chiến lược. Địa điểm các kho chiến lược tập trung ở hai khu vực nam A Lưới - Khâm Đức, Sa Thầy - Pô Cô,

Nhận nhiệm vụ Quân uỷ Trung ương - Bộ Tổng tư lệnh giao, Đảng uỷ Bộ Tư lệnh Trường Sơn tiến hành hội nghị, tập trung bàn hạ quyết tâm thực hiện vượt các chỉ tiêu yêu cầu trên giao, tạo chủ động cho chiến trường, đẩy nhanh quá trình tạo thời cơ giành thắng lợi quyết định giải phóng hoàn toàn miền Nam.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 18 Tháng Năm, 2010, 11:18:47 am
Trong lúc toàn tuyến đang sôi nổi chuẩn bị thực hiện nhiệm vụ mới, Bộ đội Trường Sơn vinh dự được đón đoàn cán bộ Lào do đồng chí Khăm tày Xiphănđon, ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng cách mạng nhân dân, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Lào làm trưởng đoàn đến thăm và làm việc với Bộ Tư lệnh Trường Sơn từ ngày 6 đến ngày 8 tháng 10 năm 1974. Chuyến thăm của đồng chí Khămtày có tác dụng tăng cường tình đoàn kết chiến đấu Việt - Lào và động viên Bộ đội Trường Sơn làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc và nhiệm vụ quốc tế của mình.

Tháng 10 năm 1974, Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp bàn chủ trương chiến lược hai năm 1974- 1975. Trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình ta và định, đặc biệt là diễn biến thực tế chiến trường, Bộ Chính trị quyết định động viên nỗ lực của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ở cả hai miền Nam - Bắc mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy cuối cùng, đưa chiến tranh cách mạng phát triển đến mức cao nhất, tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ quân nguỵ, đánh đổ nguỵ quyền, giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.

Để thực hiện được quyết tâm đó, toàn dân và toàn quân ta phải khấn trương chuẩn bị bảo đảm đầy đủ nhất cơ sơ vật chất để tiến công nhanh, mạnh. giành thắng lợi triệt để trong thời gian hai năm 1975- 1976: Trước mắt cần thực hiện tốt kế hoạch chiến lược năm 1975 và có kế hoạch đón thời cơ.

Theo chỉ thị của Bộ Chính trị, Bộ đội Trường Sơn bước vào thực hiện nhiệm vụ mùa khô 1974- 1975 gồm cả kế hoạch cơ bản và kế hoạch thời cơ. Nội dung kế hoạch cơ bản là vận chuyển chi viện chiến trường đảm bảo đủ các chỉ tiêu, đáp ứng nhu cầu hoạt động của các lực lượng vũ trang đến hết năm 1975.

Nội dung kế hoạch thời cơ là vận chuyển thêm lượng dự trữ chiến dịch lớn đến một số điểm cơ động thuộc Trị - Thiên, Khu 5, Tây Nguyên, Nam Bộ. Khi thời cơ đến, các lực lượng cơ động của Bộ vào đánh lớn thì có sẵn vật chất tại chỗ bảo đảm. Toàn bộ khối lượng vận chuyển, chuẩn bị theo dự kiến lúc đầu là 510 ngàn tấn. sau tăng lên 560 ngàn tấn. Trong đó tăng khối lượng cho Nam Bộ gấp bốn lần, cho Khu 5 gấp hai lần năm trước, tăng lượng dự trữ gấp bốn lần hiện có.

Với quyết tâm triển khai thắng lợi nhiệm vụ trên giao, Bộ Tư lệnh Trường Sơn chỉ đạo toàn tuyến khẩn trương hoàn thành mọi mặt chuẩn bị để bước vào một mùa khô hết sức chủ động, chắc thắng.

Bằng mọi cố gắng nỗ lực của Bộ đội Trường Sơn và sự chi viện to lớn của cả nước, đến cuối năm 1974, trên tuyến chi viện chiến lược, ta đã củng cố và mở rộng được 5.920 km đường trục dọc, 3.930 km đường trục ngang và 4.830 km đường vòng tránh. ở tuyến đông Trường Sơn, từ Hướng Hoá đi Plây Khốc, ta làm được 78 km đường cơ bàn cả nền và mặt, còn lại là đường cải tạo, rải đá. Kết quả đó là rất to lớn cho phép ta mở chiến dịch vận chuyển quy mô lớn mùa khô 1974- 1975.

Với việc xây dựng một bước cơ bản đường đông Trường Sơn và củng cố trục đường tây Trường Sơn, cho phép Bộ đội Trường Sơn vận chuyến liên tục cả hai mùa mưa nắng. Đồng thời rút thời gian chạy trước đây mất 22-28 ngày nay xuống 7-10 ngày. Mặt khác, có thể bảo đảm cơ động cho các loại binh khí kỹ thuật xe tăng, pháo hạng nặng và bảo đảm cơ động đội hình cấp quân đoàn...

Cùng ra quân và hiệp đồng chặt chẽ với công binh bốn trung đoàn đường ống và các tiểu đoàn vận tải đường ống đang phát triển nhanh tuyến đường ống từ Plây Khốc (ngã ba biên giới ba nước Đông Dương) xuống hướng Bu Pơ Răng trong hoàn cảnh thời tiết mưa bão thất thường gây trở ngại rất lớn.

Trung đoàn 537 đường ống phụ trách thi công từ Pô Cô vào Bu Pơ Răng khi chuẩn bị vượt sông Sê Rê Pốc thì bị lũ cuốn trôi cầu; dưới sự chỉ đạo của kỹ sư Hồ Sỹ Hậu, cán bộ và chiến sĩ trung đoàn đã vượt lên mưa lũ, tổ chức dùng dây thép bện nhiều lần làm giàn chịu lực, treo đường ống từ bờ bắc sang bờ nam sông, bảo đảm cho xăng dầu theo đường ống vào Nam Bộ.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 18 Tháng Năm, 2010, 11:19:28 am
Bằng cố gắng nỗ lực toàn tuyến, ngày 24 tháng 11 năm 1974, cán bộ, chiến sĩ bộ đội vận tải đường ống đã tổ chức cấp phát xăng dầu ở Pô Cô và ngày 20 tháng 1 năm 1975 đường ống xăng dầu đã vào tới Bu Pơ Răng thuộc đất Nam Bộ, trực tiếp bảo đảm cho chiến trường mở màn cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975.

Đến tháng 3 năm 1975, Bộ đội Trường Sơn xây dựng thêm được 596 kim tuyến đường ống kéo dài tới Bù Gia Mập (Nam Bộ), và 12.525 m3 kho, hình thành một hệ thống đường ống xăng dầu hoàn chỉnh, liên hoàn Đông và Tây Trường Sơn đồng thời đã xây dựng hoàn chỉnh mạng kho cấp phát suốt dọc tuyến với gần 50 kho lớn nhỏ có trữ lượng 27.000 m3, 114 trạm bơm đẩy có sức bơm 600-800 m3 một ngày trên một hướng. Với kết quả này, đường ống trên tuyến chi viện chiến lược thật sự trở thành xương sống của mạng lưới bảo đảm xăng dầu không chỉ cho Bộ đội Trường Sơn mà còn cho tất cả các chiến trường miền Nam Việt Nam, Lào, Campuchia.

Trong những tháng đầu năm 1975, tỷ lệ bảo đảm xăng dầu cho các đơn vị qua đường ống lên gần 100%. Kết quả đó đã góp phần tăng nhanh tốc độ và lượng hàng chuyển tải; triệt tiêu cơ bản tình trạng phuy xăng trên "lưng" xe vận tải, tiết kiệm xăng dầu.

Trước yêu cầu nhiệm vụ mới, bộ đội thông tin Trường Sơn đã dốc sức hoàn chỉnh mạng thông tin tải ba bảo đảm chỉ huy thông suốt mọi hoạt động trên toàn tuyến.

Lực lượng phòng không được bổ sung quân số, vũ khí trang bị, nhanh chóng hoàn tất chương trình huấn luyện năm 1974, khẩn trương triển khai thế trận mới. Các trung đoàn cao xạ trực thuộc Bộ Tư lệnh được bố trí trên đường 9 từ Đông Hà đến Bản Đông. Sư đoàn phòng không 377 biên chế sáu trung đoàn được bố trí trên một địa bàn rộng từ Bản Đông đến ngã ba đường 88 (Sê Rê Pốc).

Đầu tháng 12 năm 1974, toàn bộ lực lượng phòng không trên tuyến đã ở tư thế sẵn sàng chiến đấu.

Để thực hiện thắng lợi kế hoạch vận chuyển hơn nửa triệu tấn hàng hóa và bảo đảm cơ động các đội hình bộ đội hành quân với quy mô lớn, Bộ Tư lệnh Trường Sơn chỉ đạo tổ chức tốt việc tiếp nhận nguồn xe do Tổng cục Hậu cần bổ sung đồng thời sửa chữa, bảo dưỡng số xe hiện có. Cán bộ, chiến sĩ các trạm xưởng làm việc suốt ngày đêm với tinh thần "Giải phóng xe nhanh, tất cả cho tổng tiến công”, đã khôi phục được hơn 2.000 xe cũ, hỏng, đảm bảo hệ số kỹ thuật của vận tải cơ giới là 80%.

Trên cơ sở một thế trận chi viện chiến lược đã triển khai khá toàn diện, vững chắc, ngày 25 tháng 11 năm 1974, Bộ Tư lệnh Trường Sơn phát lệnh mở màn chiến dịch vận tải, với quyết tâm: Tập trung khả năng vận chuyển lớn cho các hướng chiến trường những mặt hàng chủ yếu trong thời gian đầu. Sẵn sàng làm nhiệm vụ vận tải chiến dịch và cơ động bộ đội hành quân quy mô từ sư đoàn trở lên.

Kế hoạch cụ thể là: Trong những tháng đầu mùa khô tập trung dứt điểm khối lượng hàng giao cho Nam Bộ, Hạ Lào và khối lượng hàng chuẩn bị chuyển tải theo đường sông cho Nam Bộ, Campuchia vào mùa mưa; đồng thời hoàn thành 75% kế hoạch hàng giao cho Tây Nguyên.

Bước vào thực hiện kế hoạch vận chuyển, với chủ trương áp dụng chiến thuật vận tải chạy đội hình trung đoàn đi cung dài, lực lượng vận tải trên toàn tuyến chia thành hai cung. Sư đoàn 571 huy động ba trong bốn trung đoàn chạy trên quàng Đông Hà - Xê Sụ, lập chân hàng cho Sư đoàn 471 , đồng thời chuyển hàng thẳg tới chiến trường Hạ Lào, Khu 5, Trị - Thiên khi nhiệm vụ bảo đảm phục vụ chiến dịch yêu cầu.

Cả Trường Sơn vào trận. Khẩu hiệu thi đua "Tất cả cho chiến trường đánh to thắng lớn" được Cục Chính trị và cơ quan chính trị các cấp tuyên truyền giáo dục đã trở thành mệnh lệnh của trái tim những người lính Trường Sơn trong mọi binh chủng, mọi lực lượng.

Hàng chuyển vào chiến trường giai đoạn này rất phong phú và đa dạng. Nhiều loại vũ khí có kích thước, tải trọng lớn. Do đó, nhiều loại xe vận tải thông thường phải làm thay chức năng đặc chủng. Nhiều tiểu đoàn xe một cầu như tiểu đoàn 57, 964 Sư đoàn 571 nhận nhiệm vụ kéo pháo 105 ly, 122 ly là phần việc trước đấy phải dùng xe đặc chủng.

Tiểu đoàn 70 trung đoàn 11 Sư đoàn 571 nhận nhiệm vụ chở nòng pháo xe tăng T54 (chiều dài hơn hai lần chiều dài thùng xe) đã tự thiết kế giá đỡ để vận chuyển an toàn. Tuy đã có sự phân công, phân nhiệm giữa hai cung (nam và bắc), song đối với những loại hàng đặc chủng, Bộ Tư lệnh cho chuyển thẳng vào chiến trường đúng vị trí quy định, không qua khâu trung chuyển.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 22 Tháng Năm, 2010, 09:03:20 am
Với tinh thần chủ động sáng tạo, bằng những giải pháp khoa học, bộ đội vận tải Trường Sơn quyết thực hiện khẩu hiệu "Hàng nào cũng chở, tuyến đường nào cũng đi, đã đi là thắng lợi”.

Trong những ngày này, các đồng chí trong Bộ Tư lệnh các sư đoàn ô tô vận tải thường xuyên trực tiếp chỉ huy các đội hình vận chuyển. Nhiều cán bộ cơ quan Bộ Tư lệnh dày dạn kinh nghiệm được phái ra mặt đường, tăng cường chỉ huy giao thông ở những "nút" trọng yếu nhất: ngầm Cha Ky, ngã ba Bản Đông, ngầm Sê Ca Mán... Trên cung phía nam, từ Xê Sụ vào ngã ba biên giới, có đèo Am Pun vắt qua dày Trường Sơn từ tây sang đông vừa dài vừa hẹp, đội hình xe và binh khí kỹ thuật bị ùn tắc thường xuyên.

Bộ Tư lệnh Trường Sơn kịp thời tăng cường cho Sư đoàn 471 một tiểu đoàn công binh và cho phép Bộ Tư lệnh sư đoàn dừng vận chuyển, huy động cơ quan, đơn vị phối hợp với bộ đội công binh khắc phục bằng được nút cổ chai của đèo. Sau ba ngày lao động không quản ngày đêm, sư đoàn đã giải toả được "nút cổ chai" đảm bảo giao thông thông suốt.

Một trong những thuận lợi của bộ đội vận tải trên đường Trường Sơn lúc này là được bảo đảm xăng dầu đầy đủ, thuận tiện, thông qua hệ thống cấp phát đường ống hoàn chỉnh từ tuyến tiếp giáp với hậu phương miền Bắc vào Bù Gia Mập. Tuy nhiên, trên địa hình rừng núi, bảo đảm xăng dầu cho đội hình xe hành quân quy mô trung đoàn hoặc lớn hơn trong một thời gian ngắn là điều không đơn giản dù đã tạo được một hệ thống kho, bãi cấp phát khá thuận tiện.

Để chủ động trong vận chuyển, Sư đoàn 471 chỉ đạo các đoàn xe áp dụng ba hình thức: vừa tiếp nhận xăng dầu thuộc tuyến đường ống, vừa cho xe xitéc chở xăng đi trong đội hình vận tải để bổ sung kịp thời cho các xe tại vị trí dừng nghỉ, vừa cho 30% số xe mang theo xăng dự phòng bằng thùng phuy. Kết hợp ba phương thức bảo đảm, Sư đoàn 471 đã giảm thời gian chạy một cung từ bốn ngày xuống còn ba ngày. Kinh nghiệm của Sư đoàn 471 được Bộ Tư lệnh Trường Sơn đánh giá cao và được phổ biến, áp dụng trên toàn tuyến.

Cùng với việc nâng cao chất lượng thực hành vận chuyển, việc tổ chức báo đảm cho bộ đội hành quân bổ sung cho chiến trường, kể cả cơ động binh khí kỹ thuật nặng vào và chuyển thương binh ra cũng được cải tiến. Bộ Tư lệnh quyết định lấy đường đông Trường Sơn là tuyến giao liên chính, đường tây Trường Sơn là tuyến bổ trợ.

Với nỗ lực cố gắng của các lực lượng trên toàn tuyến, kết thúc hai tháng cuối năm 1974, Bộ Tư lệnh Trường Sơn đã hoàn thành kế hoạch vận chuyển chi viện theo mệnh lệnh số 12/ML của Bộ Tổng tham mưu. Toàn tuyến bảo đảm hành quân giao nhanh gọn cho Khu 5, Tây Nguyên, Nam Bộ 52.000 quân và các chiến trường khác là 28.000 quân với đầy đủ trang bị. Lượng vật chất chuyển giao cho các hướng chiến trường tuy chỉ mới đạt 62-75% chỉ tiêu, song đã bảo đảm được những mặt hàng quân sự thiết yếu. 

Đến cuối năm 1974, cục diện chiến trường miền Nam chuyển biến mau lẹ và ngày càng có lợi cho ta. Thế tiến công địch được đẩy mạnh từ Trị - Thiên đến Tây Nguyên, miền Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long.

Từ ngày 18 tháng 12 năm 1974 đến ngày 8 tháng 1 năm 1975, Bộ Chính trị họp mở rộng, xác định và hoàn chỉnh quyết tâm chiến lược: Gấp rút chuẩn bị mọi mặt để kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trong năm 1975 hoặc năm 1976. Nhiệm vụ sắp tới là nắm vững thời cơ lịch sử, mở nhiều chiến dịch tổng hợp, liên tiếp đánh những trận quyết định kết thúc thăng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ.

Để thực hiện được quyết tâm đó, phải “động viên lực lượng mọi mặt của cả nước, đoàn kết nhất trí triệu người như một, đạp bằng mọi gian khổ, hy sinh, phấn đấu anh dũng liến lên với một tinh thần quyết chiến quyết thắng”.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 22 Tháng Năm, 2010, 09:04:05 am
Về nhiệm vụ chi viện chiến lược, Bộ Chính trị xác định: phải làm hết sức mình để tăng cường lực lượng, bảo đảm đầy đủ nhu cầu vật chất - kỹ thuật cho chiến trường, coi đó là điều kiện cơ bản giành thắng lợi .

Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương quyết định mở đầu cuộc tổng tiến công chiến lược trên toàn miền Nam bằng đòn chiến dịch Tây Nguyên, giải phóng hoàn toàn địa bàn chiến lược này; gây chấn động mạnh, bất ngờ, làm đảo lộn hoàn toàn thế bố trí chiến lược của địch.

Cùng cả nước, Bộ đội Trường Sơn bước vào một mùa quân mới, với khí thế và niềm tin mới. 

Lúc này toàn bộ lực lượng trên tuyến đang dồn sức triển khai nhiệm vụ những tháng đầu năm 1975, chuẩn bị cho một kế hoạch vận tải chi viện quy mô lớn lấy tên là “chiến dịch vận chuyển 19-5", bắt đầu từ ngày mùng 1 tháng 3 và dự kiến kết thúc vào ngày 19 tháng 5 - ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhằm lập thành tích thiết thực kỷ niệm 85 năm ngày sinh của Người và lần thứ 16 ngày truyền thống Bộ đội Trường Sơn.

Nội dung quyết tâm chiến dịch: Dứt điểm gọn kế hoạch chuyển quân bổ sung, chuyển hàng cho chiến trường Nam Bộ, Cam pu chia và Lào; hoàn thành kế hoạch dự trữ chiến lược và cho chân hàng cho vận chuyển đường sông trong mùa mưa năm 1975.

Trong khi toàn tuyến đang ráo riết chuẩn bị triển khai kế hoạch đã định thì ngày 15 tháng 1 năm 1974, Bộ Tư lệnh Trường Sơn nhận được chỉ thị của Bộ Tổng tư lệnh: Tham gia chiến dịch Tây Nguyên với nội dung bảo đảm làm đường chiến dịch, bảo đảm lương thực, đạn, xăng dầu và tham gia tác chiến chiến dịch.

Do dự kiến được diễn biến tình hình, nên Bộ Tư lệnh Trường Sơn vẫn chủ động triển khai "chiến dịch vận chuyển 19-5" kết hợp thực hiện nhiệm vụ chi viện chiến lược với thực hiện nhiệm vụ phục vụ chiến dịch Tây Nguyên và khẩn trương tổ chức lực lượng tham gia chiến dịch.

Ngày 6 tháng 2 năm 1975, trên đường vào chỉ đạo chiến dịch Tây Nguyên, đồng chí Văn Tiến Dũng - Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân uỷ Trung ương, Tổng Tham mưu trưởng cùng Trung tướng Đinh Đức Thiện, Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần, Thiếu tướng Lê Ngọc Hiền Phó Tổng Tham mưu trưởng vào làm việc với Trung tướng Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên tại Sở chỉ huy Bộ Tư lệnh Trường Sơn.

Sau khi nghe Tư lệnh Bộ đội Trường Sơn báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch của tuyến chi viện chiến lược, Tổng Tham mưu trưởng đánh giá: Bộ đội Trường Sơn đã đảm bảo được mọi yêu cầu vật chất- kỹ thuật cho các chiến trường. Đồng chí chỉ thị cụ thể về nhiệm vụ của Bộ đội Trường Sơn trong chiến dịch Tây Nguyên và tỏ ý tin tưởng chiến dịch Tây Nguyên sẽ được đáp ứng một cách đầy đủ.

Thực hiện mệnh lệnh của Bộ, Thường vụ Đảng uỷ Bộ Tư lệnh Trường Sơn quyết định Sư đoàn 470 tiến hành cùng lúc nhiệm vụ vận tải chi viện chiến lược, trực tiếp phục vụ chiến dịch và là lực lượng tác chiến tại chỗ của chiến dịch, Bộ Tư lệnh sư đoàn kiêm tiền phương Bộ Tư lệnh Trường Sơn. Đồng chí Nguyễn Lang được cử làm chỉ huy tiền phương của Bộ Tư lệnh Trường Sơn đồng thời được Bộ chỉ định làm Phó Tư lệnh Bộ Tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên trực tiếp phụ trách về hậu cần.

Sư đoàn bộ binh 968 đang hoạt động ở Hạ Lào được lệnh của Bộ cơ động gấp sang tây Gia Lai - Kon Tum chuẩn bị tham gia chiến dịch Tây Nguyên.

Tư lệnh Bộ đội Trường Sơn trực tiếp đến giao nhiệm vụ và động viên cán bộ, chiến sĩ sư đoàn đã hoàn thành tốt nhiệm vụ quốc tế trên chiến trường Trung - Hạ Lào, cần cố gắng nỗ lực để hoàn thành nhiệm vụ mới. .

Trên hướng bắc Buôn Ma Thuột, Trung đoàn 575 sử dụng tiểu đoàn 47 được tăng cường hai máy húc và một sổ đại đội sửa chữa khôi phục các đường 48, 50. Từ giữa tháng 2, lực lượng này tiếp tục mở một trục dọc gồm đường 50 B và hai nhánh (đường 50 C, 50 D) với tổng chiều dài 60 km. Vào gần thị xã, địa hình càng trống trải, dân cư đi lại nhiều, dễ bị lộ, đơn vị phải mở đường qua những cánh rừng có nhiều cây to, nhiều khe suối...

Để đảm bảo bí mật, khi mở đường vào cách thị xã khoảng 20 - 25km, đơn vị được lệnh dừng lại, chuẩn bị sẵn sàng lực lượng, phương tiện, vật liệu để khi có lệnh sẽ hoàn tất đoạn đường còn lại tới thẳng mục tiêu trong vòng một ngày đêm. Đường mở từ ngoài vào; làm đến đâu nguỵ trang chu đáo đến đó. Những gốc cây to gần nương rẫy của dân được công binh cưa ba phần tư thân sát mặt đất, xoá dấu vết; một phần tư còn lại sẽ cưa ngay trước giờ  nổ súng mở màn chiến dịch. Các ụ đất lớn, công binh cho đào lỗ, tra sẵn thuốc nổ, sẵn sàng đợi lệnh phát hoả san phẳng.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 22 Tháng Năm, 2010, 09:04:39 am
Đến ngày 4 tháng 3 năm 1975, trục đường do Trung đoàn 575 mở từ hướng Bắc đã vào đến bản Kơ Hia, Chư Mơ Nga cách thị xã Buôn Ma Thuột 20 km mà địch vẫn không hay biết. Cùng với trung đoàn 575, theo yêu cầu của Bộ Tổng tư lệnh và Tư lệnh chiến dịch, trước khi chiến dịch mở màn, Bộ Tư lệnh Trường Sơn đã điều động hai trung đoàn cao xạ 232, 546, trung đoàn thông tin 49; tiểu đoàn ô tô 55 trực tiếp tham gia chiến dịch: Sau đó điều tiếp Sư đoàn phòng không 377 vào Tây Nguyên bảo vệ khu vực Kon Tum - PPlây Cu - Đức Lập - cầu 14 Buôn Ma Thuột.

Các đơn vị phòng không Trường Sơn đã khẩn trương triển khai chiến đấu bắn rơi ba máy bay A37, một máy bay T28, bắn cháy nhiều chiếc khác, chi viện đắc lực cho bộ binh chiến đấu.

Là lực lượng bảo đảm xăng dầu chủ yếu cho chiến dịch, Trung đoàn 537 bộ đội đường ống khẩn trương thi công tuyến ống từ Đắc Đam (phía tây Buôn Ma Thuột) sang Đức Lập (phía đông), kịp thời bảo đảm xăng dầu cho lực lượng xe, pháo của ta cơ động tiến công địch. Khắc phục địa hình nhiều dốc, nhiều lèn đá... không có tuyến do công binh phát sẵn, cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 537 vác ống chạy bộ rải dọc tuyến, sau một thời gian ngắn đã lắp đặt xong 28 km đường ống, hình thành tại đây một trạm cấp phát có trữ lượng 100M3, góp phần quan trọng bảo đám chỉ tiêu 1.000 tấn xăng dầu phục vụ chiến dịch.

Thực hiện nhiệm vụ Bộ Tư lệnh giao, Sư đoàn ô tô 571 dốc toàn lực với 17 tiểu đoàn cùng 2.662 xe vận tải các loại vận chuyển lập chân hàng ở Xê Sụ và S8 với khối lượng 20.000 tấn, chủ yếu là gạo và đạn pháo bảo đảm cung cấp cho chiến dịch Tây Nguyên và vận chuyển chi viện Mặt trận Trị - Thiên, Khu 5, Nam Bộ...

Theo lệnh của Bộ ngày 26 tháng 2, Bộ Tư lệnh Trường Sơn điều 398 xe của trung đoàn 11 trung đoàn 527 thuộc Sư đoàn ô tô 571 cơ động gấp Sư đoàn bộ binh 341 thuộc Quân khu 4 vào bổ sung cho Quân đoàn 4 ở Nam Bộ. Trong vòng 12 ngày các trung đoàn xe đã thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cơ động gọn một đội hình sư đoàn vượt chặng đường 1.200 km, mở ra khả năng cơ động đội hình cấp quân đoàn vào chiến trường theo yêu cầu tác chiến hiệp đồng binh chủng quy mô lớn. Cùng lúc Bộ Tư lệnh đã tổ chức bảo đảm cho Sư đoàn bộ binh 316 cơ động vào chiến trường Tây Nguyên đúng thời gian quy định.

Cùng với Sư đoàn ô tô 571, Sư đoàn ô tô 471 cấp tốc đưa 10.300 tấn vật chất, chủ yếu là đạn hoả lực, các loại khí tài thông tin, tăng - thiết giáp vào phục vụ chiến dịch. Theo mệnh lệnh của chỉ huy sư đoàn, trung đoàn ô tô 17 từ Đông Hà đưa vào Xê Sụ lập chân hàng cùng với nguồn hàng Sư đoàn 571 chuyển vào. Từ đây, các trung đoàn khác, chủ yếu là trung đoàn ô tô 33 đưa hàng đến các cụm kho K20, K40 phía tây bắc và tây nam Buôn Ma Thuột.

Một yêu cầu bức bách của Mặt trậnTây Nguyên và các chiến trường là vũ khí hoả lực mạnh, đặc biệt là đạn pháo lớn thiếu trầm trọng.
Trước tình hình đó, Tổng cục Hậu cần kịp thời tổ chức nhiều đoàn cán bộ quân giới, quân khí vào tuyến chi viện chiến lược Trường Sơn phối hợp với lực lượng kho kiểm chọn đạn, dự kiến kế hoạch bảo đảm cho chiến trường. Bộ Tư lệnh Trường Sơn chỉ thị cho Tổng kho khu vực đường số 9 và hệ thống kho ở các hướng chiến dịch phải tiến hành ngay việc đăng ký chính xác từng loại đạn hoả lực. Kết quả chọn được 125.000 viên đạn các cỡ: cối 160 ly, 120 ly, pháo 130 ly, pháo lựu 155 ly kịp chi viện theo lệnh cấp trên.

Tham gia tác chiến chiến dịch, Sư đoàn bộ binh 968 được giao nhiệm vụ tác chiến nghi binh chiến dịch trên hướng Kon Tum, Plây Cu làm cho địch lầm tưởng hướng tác chiến chủ yếu của chiến dịch là bắc Tây Nguyên. không phải là Buôn Ma Thuột. Theo đó, ta thực hiện được ý đồ chiến dịch là giam chân bằng được các lữ đoàn đặc nhiệm 4 và 6, trung đoàn 44 ngụy Sài Gòn ở bắc Tây Nguyên, không để chúng rảnh tay cơ động về ứng cứu cho Buôn Ma Thuột khi bị tiến công.

Tại cuộc họp ở chỉ huy sở tiền phương của Bộ khi giao nhiệm vụ cho Sư đoàn 968, Đại tướng Văn Tiến Dũng giải thích trực tiếp cho Chính uỷ Sư đoàn 968 Trần Trác: Tuy là nghi binh chiến dịch nhưng nhiệm vụ của sư đoàn có ý nghiã chiến lược, góp phần quyết định thắng lợt. Sư đoàn 968 sẽ bị địch tập trung lực lượng phản kích quyết liệt; nếu sư đoàn đánh không đủ mạnh, thì địch có thể nghi ngờ về hướng tiến công chủ yếu của chiến dịch và sẽ điều quân đi ứng cứu cho Buôn Ma Thuột.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 22 Tháng Năm, 2010, 09:05:30 am
Để hoàn thành nhiệm vụ nặng nề được giao, Sư đoàn 968 đã chủ động trinh sát nắm khá chắc tình hình địch và căn cứ thực lực của mình, báo cáo với Bộ Tư lệnh chiến dịch quyết tâm chiến đấu nghi binh và được Bộ Tư lệnh chiến dịch phê chuẩn.

Vào những ngày cuối tháng 2 năm 1975, mọi hoạt động vận chuyến chi viện chiến trường, đặc biệt là tạo chân hàng bảo đảm cho chiến dịch Tây Nguyên và bố trí lực lượng tham gia chiến dịch đã được Bộ Tư lệnh Trường Sơn triển khai đạt và vượt chỉ tiêu kế hoạch. Các lực lượng trực tiếp tham gia chiến dịch đã sẵn sàng. Cơ sở vật chất hậu cần-kỹ thuật bao gồm gạo. súng đạn, quân trang... đã được tập kết tại vị trí quy định. Đồng thời, Bộ đội Trường Sơn cũng tạo được một lượng vật chất dự phòng chuẩn bị cho tình huống Bộ yêu cầu khối lượng lớn vượt mức kế hoạch 15 nghìn tấn. Riêng lượng xăng dầu, ba tháng đầu năm 1975, Bộ đội Trường Sơn đã bảo đảm cho chiến dịch Tây Nguyên 1.793,6 tấn.

Thời gian mở màn chiến dịch càng đến gần thì mọi hoạt động của địch càng bị hút về hướng nghi binh chiến dịch của ta ở Plây Cu, Kon Tum. Lúc này. một bộ phận của Sư đoàn ô tô 471 đã hoàn tất nhiệm vụ cơ động Sư đoàn bộ binh 968 vào vị trí tập kết chiến dịch, thay thế Sư đoàn 10 và Sư đoàn 320 cơ động vào nam Tây Nguyên.

Hàng ngày, Sư đoàn 968 vẫn duy trì mọi hoạt động như của hai Sư đoàn 320 và 10. Theo chỉ đạo của Bộ Tư lệnh chiến dịch, các bộ phận nghi binh của sư đoàn tiến hành phát đi nhiều mệnh lệnh, báo cáo giả.

Ngày 1 tháng 3 năm 1975, Sư đoàn 968 nổ súng tiến công tuyến phòng thủ của địch ở tây nam thị xã Plây Cu. Được sự yểm trợ của pháo binh, bộ binh Sư đoàn 968 tiến công, dũng mãnh, diệt và bức rút một số đồn bốt địch, uy hiếp căn cứ Thanh Bình và quận lỵ Thanh An. Đồng thời, trung đoàn 19 Sư đoàn 968 phối hợp với bộ đội tỉnh Kon Tum tiến công tuyến phòng thủ của địch ở bắc thị xã, cắt đứt đường 14, đoạn nam Tân Phú. Vào thời điểm này, ngày 4 tháng 3 năm 1975 trung đoàn 95 Sư đoàn 3 Quân khu 5 cắt đường 19 ở An Khê. Trước đòn tiến công mạnh mẽ của ta, quân đoàn 3 ngụy buộc phải rút trung đoàn 45 đang lùng sục ở Cẩm Ga, Thuần Mẫn về giữ Thanh An.

Địch bị sa vào cạm bẫy, thừa thắng, Sư đoàn 968 tiếp tục đẩy mạnh tác chiến nghi binh, phối hợp với đơn vị bạn tiến công một số vị trí địch, hình thành thế bao vây, chia cắt chiến dịch, tạo điều kiện cho Bộ Tư lệnh chiến dịch chuẩn bị trận đánh then chốt.

Hoạt động nghi binh chiến dịch mà với vai trò nòng cốt là Sư đoàn 968 đạt hiệu quả cao, không chỉ giam chân một lực lượng lớn của địch ở bắc Tây Nguyên. mà còn góp phần “củng cố" thêm nhận định sai lầm của đội ngũ tướng tá quân đội Sài Gòn rằng hướng tiến công chính của ta là bắc Tây Nguyên, không phải là Buôn Ma Thuột, tạo cho ta có điều kiện và thời cơ tiến công thị xã Buôn Ma Thuột khi phương án địch không có phòng ngự dự phòng.

Ở Buôn Ma Thuột, những ngày đầu tháng 3, các lực lượng Bộ đội Trường Sơn khẩn trương hoàn tất những khâu chuẩn bị cuối cùng theo yêu cầu của Bộ Tư lệnh chiến dịch.

Từ đầu tháng 3, Trung đoàn công binh 575 nhận lệnh mở tiếp quãng đường còn lại tiếp giáp căn cứ địch. Do chủ động chuẩn bị lực lượng và phương tiện, tổ chức thi công khẩn trương suốt ngày đêm, nên đúng 23 giờ đêm 9 tháng 3, trung đoàn đã khai thông trục đường 50 B, hai nhánh 50 C, 50 D và tổ chức xong đội hình công binh hộ tống xe tăng.

Ngày 8 tháng 3 năm 1975, quân ta nổ súng đánh Đức Lập. Ngày 10 tháng 3, ta tiến công đánh chiếm thị xã Buôn Ma Thuột. Theo yêu cầu tác chiến chiến dịch, công binh trung đoàn 575 đã phối hợp cùng trung đoàn 7 công binh Mặt trận Tây Nguyên hoàn thành nhiệm vụ bảo đảm cho đội hình binh chủng hợp thành cơ động tiến công địch, giành thắng lợi: Bộ đội vận tải vừa bảo đảm cơ động vừa vận chuyển kịp thời đạn pháo tiếp tế cho các đơn vị. Bộ đội xăng dầu vừa chấp hành nghiêm chỉnh kỷ luật giải phóng xe nhanh trong khâu cấp phát vừa bố trí một lực lượng xe xitéc chở xăng tiếp tế cho các lực lượng xe, pháo tham gia chiến dịch, bảo đảm cấp phát mỗi ngày trung bình 126 tấn xăng dầu.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 22 Tháng Năm, 2010, 09:06:21 am
Sau 32 giờ kể từ lúc nổ phát súng đầu tiên đánh chiếm Buôn Ma Thuột, ta đã giải phóng hoàn toàn thị xã, phối hợp với đòn "điểm huyệt” ở Buôn Ma Thuột, các lực lượng của ta trên chiến trường Tây Nguyên đẩy mạnh tiến công địch, tạo thế chia cắt buộc quân đoàn 2 ngụy phải phân tán lực lượng đối phó.

Cuộc tiến công đồng loạt của ta trên khắp chiến trường, đặc biệt là thắng lợi đánh bại hoàn toàn cuộc phản kích "tái chiếm" Buôn Ma Thuột của quân đoàn 2 ngụy, đã đẩy quân địch ở Tây Nguyên đến nguy cơ tan vỡ không thể nào cứu vãn nổi. Để bảo toàn lực lượng, ngụy quyền Sài Gòn quyết định bỏ Tây Nguyên, rút thật nhanh theo đường số 7 về co cụm giữ duyên hải miền Trung. 

Thực hiện chỉ thị phát triển tiến công tiêu diệt địch, Sư đoàn ô tô 471 được lệnh cơ động Sư đoàn 10 truy kích địch rút chạy theo đường số 7 và cơ động Sư đoàn 320 theo đường 14 xuống phía nam giải phóng thị xã Buôn Hồ, truy kích địch đến Đạt Lý, đồng thời, tổ chức một số đại đội xe vận chuyển hàng chống đói cho nhân dân thị xã Buôn Ma Thuột và vùng phụ cận.

Ngày 18 tháng 3, Sư đoàn 968 và lực lượng vũ trang địa phương tiến công giải phóng hoàn toàn thị xã Kon Tum. Tiếp đó, ngày 24 tháng 3 giải phóng quận lỵ Thanh Bình... Theo lệnh của Bộ Quốc phòng, Bộ Tư lệnh Trường Sơn chỉ thị Sư đoàn 470 tiếp quản Kon Tum, Plây Cu. Ngày 25 tháng 3 năm 1975 chiến dịch Tây Nguyên toàn thắng. Toàn bộ Tây Nguyên hoàn toàn được giải phóng.

Trước diễn biến mau lẹ và thắng lợi giòn giã ở chiến trường, ngày 18 tháng 3 năm 1975, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương hạ quyết tâm hoàn thành kế hoạch giải phóng hoàn toàn miền Nam ngay trong năm 1975; xác định hướng tiến công chiến lược là Sài Gòn.

Ngày 25 tháng 3 năm 1975, Bộ Chính tri họp chủ trương: "Tập trung lớn và nhanh nhất lực lượng binh khí kỹ thuật, vật chất bảo đảm giải phóng Sài Gòn trước mùa mưa. Nắm thời cơ địch rút lui chiến lược, tiêu diệt, làm tan rã quân đoàn 1 ngụy và đại bộ phận quân đoàn 2, không cho chúng co cụm quanh Sài Gòn".

Để thực hiện chủ trương chiến lược trên, Bộ Chính trị quyết định thực hiện hai đòn quyết chiến chiến lược là Huế - Đà Nẵng và Sài Gòn - Gia Định.

Ngày 25 tháng 3 năm 1975, Hội đồng Chi viện chiến trường do Thủ tướng Chính phủ Phạm Văn Đồng làm Chủ tịch được thành lập, nhằm huy động cao nhất sức người, sức của và chỉ đạo, tổ chức tốt việc vận chuyển, chi viện cho miền Nam.

Trong khí thế chiến thắng sau chiến dịch Tây Nguyên, toàn tuyến chi viện chiến lược Trường Sơn khẩn trương phục vụ những chiến dịch mới, với khí thế tưng bừng, rạo rực.

Sư đoàn 470 dưới sự chỉ huy trực tiếp của Phó Tư lệnh Nguyễn Lang nhanh chóng tiếp quản vùng giải phóng, tiếp thu kho tàng, cơ sở vật chất chiến lợi phẩm, tạo nguồn bổ sung theo yêu cầu của Bộ đồng thời triển khai lực lượng bảo vệ vùng giải phóng Kon Tum, Plây Cu. Tiền phương tư lệnh Trường Sơn được dời về thị xã Buôn Ma Thuột.

Một lực lượng lớn của Sư đoàn công binh 472 sẵn sàng bảo đảm giao thông cho các binh đoàn chủ lực của ta cơ động về Nam theo trục đường số 1. Lực lượng công binh còn lại tiếp tục bảo đảm cho các đơn vị của quân đoàn 3 truy diệt địch theo các trục đường 7, 11 ... và cơ động vào Nam Bộ theo tuyến đông Trường Sơn.

Lực lượng bộ đội xăng dầu tập trung xây dựng trạm cấp xăng quy mô lớn ở Đức Lập bảo đảm xăng dầu cho phần lớn lực lượng cơ động theo trục đông Trường Sơn vào tham gia giải phóng Sài Gòn, Nam Bộ. Toàn tuyến đường ống được chỉ huy chặt chẽ, vận hành suốt ngày đêm với khối lượng lớn trên tuyến tây và nam, nhất là đảm bảo đầy đủ cho các kho cuối tuyến do trung đoàn 592 phụ trách. Kết hợp bảo đảm qua hệ thống đường ống, tiếp bằng xe xitéc và tự mang theo xe, bộ đội xăng dầu Trường Sơn đã cấp phát liên tục, giải phóng trên 10 nghìn lượt xe trên tuyến trong một ngày đêm. Đồng thời, Cục Xăng dầu chỉ đạo các đơn vị tận thu xăng dầu chiến lợi phẩm cấp phát theo yêu cầu hành quân, chiến đấu.



Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 22 Tháng Năm, 2010, 09:07:05 am
Bộ đội vận tải Trường Sơn, lực lượng nòng cốt là Sư đoàn ô tô 571 và Sư đoàn ô tô 471 vừa tiếp tục vận chuyển vật chất bảo đảm cho các hướng chiến trường theo kế hoạch, vừa cơ động bộ binh theo yêu cầu tác chiến và triển khai thực hiện những nhiệm vụ đột xuất. Một trung đoàn của Sư đoàn ô tô 471 tập trung cơ động Sư đoàn 968 và sư đoàn 3 Khu 5 xuống phía nam và xuống đồng bằng tham gia giải phóng Bình Định, Ninh Thuận... .

Sau gần 40 ngày đêm thực hiện bốn chuyếnvận chuyển với bao khó khăn, trở ngại cá về đường sá và những khó khăn khách quan khác. Sư đoàn 571 đã chuyển giao đủ 800 xe cùng vũ khí, bảo đảm cho nhân dân bạn kịp thời giải phóng thủ đô Phnôm Pênh.

Thực hiện quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị: giải phóng miền Nam ngay trong năm 1975, ngày 20 tháng 3 Bộ Tổng tư lệnh chỉ thị cho Quân khu Trị - Thiên, Quân khu 5 và Quân đoàn 2 mở cuộc tiến công giải phóng hoàn toàn Thừa Thiên - Huế và Đà Nẵng. Toàn mặt trận Trị -Thiên và Khu 5 chuyển từ kế hoạch cơ bản sang thực thi kế hoạch thời cơ.

Chủ động thực hiện ý định của Bộ Tổng tư lệnh, ngay sau khi kết thúc chiến dịch Tây Nguyên, Bộ Tư lệnh Trường Sơn kịp thời tổ chức một đoàn cán bộ công binh, vận tải... do Cục phó tham mưu công binh Dương Đình Tạ phụ trách đi trinh sát nắm tình hình cầu đường dọc theo đường số 1 để lập kế hoạch đảm bảo giao thông và vận chuyền trên tuyến đường này. Tham gia đoàn có Tư lệnh Sư đoàn 571 Hoàng Trà và một số cán bộ các trung đoàn công binh.

Với sự nhạy cảm về diễn biến cục diện chiến trường, Bộ Tư lệnh Trường Sơn chỉ thị cho Cục trưởng tham mưu công binh Phan Quang Tiệp cùng cơ quan điều ngay các tiểu đoàn công binh với đủ khí tài cấp tốc cơ động đến nhưng điểm trọng yếu để bảo đảm cầu đường, trước hết là bảo đảm vận tải và binh khí kỹ thuật vượt sông Thạch Hãn, Mỹ Chánh... Tiểu đoàn công binh 73 trung đoàn 99 được lệnh cấp tốc đến bắc cầu qua sông Quảng Trị đủ cho hai làn xe qua lại.

Cùng lúc trung đoàn 99 bàn giao việc thi công cầu Đắk Rông cho trung đoàn công binh 509 để chuyển toàn bộ lực lượng còn lại đến bảo đảm giao thông đường số 1 từ Đông Hà, Quảng Trị trở vào. Bộ Tư lệnh điều trung đoàn 8 công binh do trung đoàn trưởng Trương Việt Phúc chỉ huy phối hợp với Lữ đoàn công binh 219 Quân đoàn 2 bảo đảm cho quân đoàn tiến công từ hướng tây nam Huế xuống chia cắt đường số 1. Một sở chỉ huy tiền phương Cục tham mưu công binh do Cục phó Đỗ Xuân Diễn phụ trách tiếp cận đội hình trung đoàn 99 được trang bị đầy đủ phương tiện thông tin đề kịp thời nhận mệnh lệnh của Bộ Tư lệnh.

Để bảo đảm đủ xăng dầu cho các lực lượng tham gia chiến dịch, thực hiện chỉ thị của Bộ Tư lệnh Trường Sơn, Cục Xăng dầu đã phối hợp chặt chẽ với Phòng xăng dầu Quân đoàn 2, Quân khu Trị - Thiên và Quân khu 5, cho các đơn vị nhận xăng dầu qua tuyến đường ống Trường Sơn. Đến trước ngày mở màn chiến dịch Huế - Đà Nẵng, lượng xăng dầu dự trữ của Quân đoàn 2, Quân khu Trị-thiên và Quân khu 5 đạt tới 1.827 tấn, trong đó có 902 tấn xăng, 765 tấn điêzen, 160 tấn dầu mỡ. Ở các sư đoàn, lữ đoàn, trung đoàn đều được bảo đảm đủ hai cơ số xăng dầu.

Một ngày sau khi nhận chỉ thị của Bộ Tổng tư lệnh, ngày 21 tháng 3 năm 1975, trên chiến trường Trị-thiên và Khu 5, bộ đội ta đồng loạt nổ súng, thực hiện chia cắt chiến lược Huế với Đà Nẵng, tiêu diệt sư đoàn 2 bộ binh địch, giải phóng Quảng Nam, Quảng Ngãi.

Trên cơ sở những trận đánh tạo thế từ đầu tháng 3 năm 1975, với cơ sở hậu cần - kỳ thuật và hệ thống cầu đường được bảo đảm tốt, Quân đoàn 2 và lực lượng vũ trang Trị-thiên dũng mãnh tiến công từ tây nam Huế theo các trục đường ngang 74, 10C, 14B... tràn xuống đồng bằng, làm chủ đường số 1 quãng phía nam Huế, chia cắt hoàn toàn Huế và Đà Nẵng về đường bộ. Cùng lúc các đơn vị chủ lực Quân khu Trị-thiên phát triển tiến công Huế từ hướng bắc theo mệnh lệnh của Bộ.

Bộ Tư lệnh Trường Sơn lệnh cho Sư đoàn ô tô 571 tổ chức một lực lượng cơ động gấp Sư đoàn bộ binh 325 từ khu vực đường số 9 và Li Tôn vào ngã ba đường 74 kịp thời tiến công địch. Các lực lượng công binh Trường Sơn phối hợp với Quân đoàn 2 và công binh Quân khu Trị-thiên khắc phục vật cản, làm đường vòng tránh... bảo đảm cho các đơn vị bộ binh cơ động đánh địch.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 22 Tháng Năm, 2010, 09:08:06 am
Trên hướng tiến công phía nam Huế, công binh ta cũng kịp thời khắc phục cầu Truồi, cầu Thừa Lưu, bến Tuần...đã bị địch phá khi tháo chạy.

Ngày 26 tháng 3, từ nhiều hướng, các đơn vị Quân đoàn 2 và bộ đội chủ lực Trị-thiên ào ạt tiến công, kết hợp với phong trào nổi dậy của nhân dân giải phóng hoàn toàn Cố đô Huế.

Trước diễn biến mau lẹ của tình hình, ngày 25 tháng 3 năm 1975, Bộ Chính trị họp kịp thời bổ sung quyết tâm giải phóng hoàn toàn miền Nam trước tháng 5 năm 1975, trước mắt tập trung lực lượng Quân đoàn 2 và Khu 5 giải phóng Đà Nẵng.

5 giờ 30 phút ngày 28 tháng 3, trên tất cả các hướng, bộ đội ta mở trận công kích vào Đà Nẵng - thành phố lớn thứ hai ở miền Nam, một căn cứ quân sự liên hợp lớn của địch. Sau 33 giờ chiến đấu với tinh thần tiến công dũng mãnh, mưu trí, táo bạo, chiều ngày 29 tháng 3, từ các hướng khác nhau, Quân đoàn 2 và lực lượng vũ trang Khu 5 đã hợp điểm ở trung tâm thành phố và bán đảo Sơn Trà cùng với các tầng lớp nhân dân làm chủ hoàn toàn thành phố.

Tiếp theo thắng lợi chiến dịch Tây Nguyên, thắng lợi của chiến dịch Huế - Đà Nằng đã tạo điều kiện rất thuận lợt cho chiến dịch quyết chiến chiến lược giải phóng Sài Gòn.

Sau thắng lợi của chiến dịch Huế, Đà Nẵng, Bộ Tư lệnh Trường Sơn kịp thời điều chỉnh thế bố trí lực lượng. Một bộ phận lực lượng phía bắc chuyển ra tuyến đường 1 phối hợp chặt chẽ với lực lượng của Tổng cục Hậu cần, Bộ Giao thông Vận tải, Quân khu Trị - Thiên và Quân khu 5 khôi phục tuyến đường số 1, các bến cảng và sân bay Đà Nẵng, tạo nên thế và lực mới của tuyến chi viện chiến lược. Tư lệnh phó Phan Khắc Hy được cử vào Đà Nẵng chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ này.

Thắng lợi của chiến dịch Tây Nguyên và chiến dịch Huế - Đà Nẵng khẳng định trên chiến trường miền Nam, cả về thế chiến lược và lực lượng quân sự, chính trị, ta đã có sức mạnh hoàn toàn áp đảo quân địch.

Ngày 31 tháng 3 năm 1975, Bộ Chính trị họp nhận định: thời cơ chiến lược để tiến hành tổng tiến công vào sào huyệt cuối cùng của địch đã chín muồi. Từ nhận đinh đó Bộ Chính trị hạ quyết tâm:

"Nắm vững thời cơ chiến lược hơn nữa, với tư tưởng chỉ đạo thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng, thực hiện tổng công kích, tổng khởi nghĩa trong thời gian sớm nhất, tốt nhất là trong tháng 4 năm 1975, không để chậm".

Bộ Chính trị quyết định thành lập Bộ chỉ huy chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định lấy tên là Chiến dịch Hồ Chí Minh, cử Đại tướng Văn Tiến Dũng - Tổng Tham mưu trưởng làm Tư lệnh, đồng chí Phạm Hùng làm Chính ủy. Các đồng chí Thượng tướng Trần Văn Trà, Trung tướng Lê Đức Anh, Trung tướng Đinh Đức Thiện làm Phó Tư lệnh.

Nghị quyết Bộ Chính trị nhanh chóng được quán triệt đến toàn dân, toàn quân. Cả nước bừng bừng khí thế ra trận. Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để giải phóng hoàn toàn miền Nam. 

Các lực lượng chủ lực trực thuộc Bộ tham gia chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định cơ động theo đường Trường Sơn có Quân đoàn 3 và quân đoàn 1 (trừ Sư đoàn 308 ở lại bảo vệ miền Bắc) cùng các binh chủng kỹ thuật đi cùng.

Ở hướng đường số 1, đầu tháng 4 năm 1975, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định thành lập cánh quân Duyên Hải do Trung tướng, Phó Tổng Tham mưu trưởng Lê Trọng Tấn làm Tư lệnh, Trung tướng Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Lê Quang Hoà làm Chính uỷ, Trung tướng - Tư lệnh Bộ đội Trường Sơn Đồng Sĩ Nguyên làm Phó Tư lệnh. Cánh quân Duyên Hải gồm Quân đoàn 2 (thiếu Sư đoàn 324) được tăng cường Sư đoàn 3 Khu 5 và một số đơn vị vận tải, phòng không, công binh Trường Sơn, có nhiệm vụ đánh địch trong hành tiến, cơ động thần tốc phá vỡ các tuyến phòng thủ của địch dọc theo duyên hải miền Trung, tiến vào hợp vây Sài Gòn từ hướng đông và đông nam.

Cùng với cả nước, Bộ đội Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh quyết dồn hết tâm sức và mọi nguồn lực cho chiến dịch cuối cùng.



Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 22 Tháng Năm, 2010, 09:08:38 am
Ngay sau khi ta kết thúc thắng lợi chiến dịch Tây Nguyên, ngoài việc tổ chức một lực lượng vận tải, công binh phục vụ chiến dịch Huế - Đà Nẵng, Bộ Tư lệnh Trường Sơn nhận được chỉ thị đặc biệt đột xuất của Bộ Tổng tư lệnh huy động một lực lượng lớn ô tô cơ động gấp Quân đoàn 1, Quân đoàn 3 vào tham gia chiến dịch và chuyển gấp một số đạn pháo lớn vào Nam Bộ.

Ngày 26 tháng 3, Sư đoàn ô tô 571 nhận lệnh tập trung 1.000 xe cùng với lực lượng vận tải ô tô Cục Vận tải - Tổng cục Hậu cần cơ động Quân đoàn 1 - lực lượng dự bị chiến lược của Bộ từ Vĩnh Linh vào Đồng Xoài tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh. Yêu cầu của Bộ chậm nhất là ngày 24 tháng 4, Quân đoàn 1 phải có mặt ở vị trí tập kết chiến dịch.

Ở phía đông, từ đầu tháng 4 năm 1975, Sư đoàn ô tô 471 đã nhanh chóng triển khai chỉ thị của Bộ Tư lệnh, tổ chức trinh sát xác định bàn đạp, cung độ để chạy đường 14, trả hàng tại Bù Na, Đồng Xoài. Trước diễn biến tình hình hết sức mau lẹ, sư đoàn nhận lệnh tập trung cơ động toàn bộ Quân đoàn 3 từ Tây Nguyên vào Nam Bộ và vận chuyển 6.100 tấn đạn hỏa lực bảo đảm cho chiến dịch.

Hoàn thành nhiệm vụ cơ động Quân đoàn 3 vào Nam Bộ, Sư đoàn 471 tiếp tục tổ chức vận chuyển lương thực, thực phẩm, thuốc men và đặc biệt là chuyển gấp hơn 6.000 tấn đạn hoả lực từ các kho dự trữ KG4, Xê Sụ, Buôn Ma Thuột vào Nam Bộ.

Theo yêu cầu của Bộ Tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh, trung đoàn ô tô 33 thuộc Sư đoàn 471 được phối hợp thuộc Bộ Tư lệnh chiến dịch với nhiệm vụ cơ động các đơn vị chủ lực theo các trục đường Đồng Xoài Dầu Tiếng - Bến Cát, Lò Gò - Chơn Thành.

Cũng chính trong thời điểm toàn bộ lực lượng đã tung hết trên đường, chỉ sau hai ngày nhận lệnh của Bộ Tổng tư lệnh, Sư đoàn 471 đã tổ chức được đội hình 320 xe bảo đảm cơ động lực lượng làm nhiệm vụ "hoả tốc" của Bộ.

Lực lượng cơ động chiến đấu của cánh quân Duyên Hải gồm ba sư đoàn bộ binh (3, 304, 325), Sư đoàn pháo phòng không 637, Lữ đoàn tăng thiết giáp 203, Lữ đoàn pháo binh 164, Lữ đoàn công binh 219 và cơ quan Quân đoàn 2. Ngoài các loại trang bị. khí tài, gạo, đạn,... tổng số tham gia hành quân là 32.418 người.

Với đội hình trên, lại thực hiện phương châm hành quân thần tốc, tiến công địch bằng sức mạnh hiệp đồng binh chủng, đòi hỏi một lực lượng cơ giới hùng hậu. Trong khi đó toàn bộ xe của Quân đoàn 2 hiện có kể cả xe thu được của địch mà quân đoàn có thể sử dụng được sau chiến dịch Huế - Đà Nẵng cũng chỉ đảm bảo một nửa yêu cầu. Đề thực hiện tốt mệnh lệnh hành quân, Tư lệnh Bộ đội Trường Sơn kiêm Phó Tư lệnh cánh quân Duyên Hải quyết định sử dụng hơn 600 xe của Sư đoàn 571 (đang chở gạo và đạn bảo đảm cho Quân đoàn 2 tại Đà Nẵng) cơ động bộ đội vào tham gia chiến dịch.

Tại Đà Nẵng, Chính uỷ Sư đoàn 571 Phan Hữu Đại đã chủ động thu quân, tích cực chuẩn bị; chỉ một ngày sau khi nhận lệnh, ngày 9 tháng 4, đội hình xe vận tải thuộc sáu tiểu đoàn 54, 57, 58, 66, 77, 964 và một số xe của các phân đội khác với số lượng 669 xe đã dàn đội hình từ chân phía nam đèo Hải Vân đến sân bay Đà Nẵng chờ tiếp nhận các lực lượng Quân đoàn 2. Tư lệnh Sư đoàn 571 Hoàng Trá kịp về Đà Nẵng chỉ huy đội hình. Cùng lúc, trên 600 xe khác của Sư đoàn 571 tiến vào đứng chân tại Đà Nẵng làm nhiệm vụ vận chuyển lương thực, đạn dược phục vụ cảnh quân Duyên Hải.

Trên chặng đường dài gần 1.000 km từ Đà Nằng vào Xuân Lộc có hàng trăm cầu lớn nhỏ bị địch phá sập sau khi rút chạy, trong đó có một số cầu quan trọng như Cao Lâu, Bà Rén, Hương An, Kế Xuyên, Bà Bầu... Vì vậy bảo đảm cầu đường cho cánh quân Duyên Hải cơ động "thần tốc" theo mệnh lệnh của Bộ Tồng tư lệnh là nhiệm vụ vô cùng nặng nề và cấp bách.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 22 Tháng Năm, 2010, 09:09:41 am
Để bảo đảm cho các hướng tiến công của ta, Tư lệnh Đồng Sĩ Nguyên đã trực tiếp chỉ huy và kiếm tra liên tục các sư đoàn công binh trên mặt đường. Ba trung đoàn công binh Trường Sơn 8, 99 và 531 tăng cường cho cánh quân Duyên Hải bảo đảm đường số 1 từ Huế vào Cam Ranh. Các sư đoàn công binh đã bảo đảm đường 14 từ Buôn Ma Thuột đi Đồng Xoài, đường từ Kon Tum đi Buôn Ma Thuột, đường 19 từ Plây Cu xuống Quy Nhơn và đường số 1 từ Nha Trang đi Phan Rang, các trục đường ngang 19, 21 ...

Trên các trục đường được phân công đảm trách, những người lính công binh Trường Sơn đã tận dụng khí tài thu được của địch, khai thác vật liệu tại chỗ, khôi phục và làm mới 96 cầu với chiều dài 3.300 m. Trong đó có 68 cầu be lây, 15 cầu dầm thép, 5 cầu phao trên các tuyến đường 1A, 14, 19, 21...

Đây là lần đầu tiên trong lịch sử của mình, Bộ Tư lệnh Trường Sơn đã huy động một lực lượng lớn công binh cùng lực lượng công binh chiến đấu của Bộ, các quân đoàn, quân khu đảm bảo đường, cầu cho gần ba quân đoàn chủ lực và các đơn vị binh khí kỹ thuật với hàng chục nghìn xe, pháo các loại, cơ động đường dài hàng nghìn kilômét vào tham gia chiến dịch đạt yêu cầu thời gian.

Ngoài lực lượng công binh được bố trí đảm bảo các mạng đường trên các hướng, lực lượng phòng không cũng được điều chỉnh thế bố trí. Toàn bộ Sư đoàn phòng không 377 được giao nhiệm vụ bảo vệ đội hình chiến dịch, chủ yếu là đội hình Quân đoàn 1 và Quân đoàn 3. Hai trung đoàn phòng không 528, 527 được điều về khu vực Cam Ranh - Nha Trang bảo vệ đội hình cánh quân Duyên Hải.

Bộ Tư lệnh Trường Sơn chỉ thị bộ đội tập trung mọi cố gắng dồn xăng dầu cho các binh đoàn tham gia chiến dịch. Trên tuyến đường ống Trường Sơn phần nam vĩ tuyến 17 chia làm hai hướng. Phía đông có tám điểm cấp phát, phía tây có 6 điểm, từ ngã ba biên giới vào Nam Bộ có 7 điểm, cấp phát thoả mãn cho mọi đội hình xe và phương tiện cơ động binh khí bất kỳ lúc nào.

Đầu tháng 4, Cục Xăng dầu Bộ Tư lệnh Trường Sơn còn chỉ đạo hoàn thành gấp đoạn tuyến ống 28 - 29 B nhằm triển khai cấp phát lớn ở Đức Lập là nơi xuất phát của nhiều xe máy vào tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh. Sau khi ta giải phóng Huế, Đà Nẵng và các tỉnh dọc duyên hải miền Trung, Cục Xăng dầu nhận lệnh tổ chức lực lượng, cơ động khí tài, bố trí nhiều kho bãi cấp phát xăng dầu cho các đơn vị hành quân vào Nam theo đường số 1; nhanh chóng tiếp quản kho xăng Liên Chiểu của địch dưới chân đèo Hải Vân cấp phát bổ sung cho các đơn vị.

Để bảo đảm cho cánh quân Duyên Hải, dọn đường số 1, bộ đội xăng dầu Trường Sơn tổ chức bốn trạm cấp phát: Đà Nẵng, Quy Nhơn, Cam Ranh, Phan Thiết. Khi chiến dịch phát triển với nhịp độ dồn dập hơn, Cục Xăng dầu Bộ Tư lệnh Trường Sơn đã kịp thời triển khai cơ quan và các phân đội bảo đảm ở Nha Trang tiếp nhận nguồn hàng xăng dầu được chuyển bằng đường biển vào để cấp phát cho các lực lượng hành quân qua địa bàn duyên hải miền Trung.

Đồng thời, Cục còn bố trí một bộ phận ở Buôn Ma Thuột tổ chức bảo đảm xăng dầu cho các lực lượng ở hướng này. Mặt khác điều tập trung các đơn vị xitéc vận chuyển xăng dầu từ các kho nội tuyến lên phía trước và cơ động theo đội hình xe chở quân và binh khí kỹ thuật. Với nỗ lực cao độ, kết hợp đồng bộ các hình thức bảo đảm trên cơ sở nguồn chi viện của hậu phương, bộ đội xăng dầu Trường Sơn ngay những ngày đầu đã cấp phát 4.100 tấn xăng dầu cho các đơn vị tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh.

Trong thời điểm "cả nước cùng ra trận", ngày 7 tháng 4 năm 1975, cùng lúc Bộ Tư lệnh ở Bến Tắt và tiền phương Bộ Tư lệnh ở Buôn Ma Thuột đều nhận được điện của Đại tướng Võ Nguyên Giáp Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Quân uỷ Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng:

"Thần tốc, thần tốc hơn nữa.
Táo bạo, táo bạo hơn nữa.
Tranh thủ từng giờ từng phút,
Xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam.
Quyết chiến và toàn thắng”


Mệnh lệnh chiến đấu thiêng liêng này được Đảng uỷ, Cục Chính trị Bộ đội Trường Sơn chỉ thị cho các đơn vị phổ biến ngay đến từng cán bộ, chiến sĩ.

Cả Trường Sơn được huy động vào trận, sôi sục không khí những ngày hội lớn tiến đến ngày toàn thắng.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 22 Tháng Năm, 2010, 09:10:29 am
Trên khắp các nẻo đường từ Tây sang Đông, từ Bắc xuống Nam của dãy Trường Sơn và nhiều tuyến đường khác ra trận nườm nượp xe, người, súng pháo... Từng đoàn xe dài hàng trăm kilômét chở quân, chở hàng, cùng hàng trăm xe kéo pháo, xe công trình... hối hả tiến xuống đồng bằng, tiến về phía Nam.

Rộn ràng và sôi động nhất là những trạm giao liên, bãi tạm trú quân, kho hàng, trạm chỉ huy giao thông, nhưng quãng đường vì quá chật gây ùn tắc... xe vào, xe ra, người đến, người đi không kể ngày đêm, không giờ ngưng nghỉ... "Thần tốc" lúc này không chỉ là mệnh lệnh của Tổng Tư lệnh mà là mệnh lệnh của lý trí, trái tim của những người lính Trường Sơn - những người đang cần mẫn bươn bả trên khắp những nẻo đường vừa đảm bảo, vừa cơ động các binh đoàn chủ lực của Bộ vào trận quyết chiến chiến lược cuối cùng.

Ngày 16 tháng 4, trên hướng hành tiến của cánh quân Duyên Hải, tiểu đoàn ôtô 54 - đơn vị mang truyền thống Điện Biên Phủ tham gia cơ động trung đoàn 101 Sư đoàn 325 đột phá tuyến phòng thủ Phan Rang của địch. Tại thung lũng Phan Rang đã diễn ra trận kịch chiến của một bộ phận Quân đoàn 2, Sư đoàn 3, Quân khu 5 với quân ngụy Sài Gòn. Trong cơn "giãy chết", quân địch đã tập trung tối đa hoả lực và sử dụng máy bay oanh kích hòng ngăn chặn đội hình xe, cản bước tiến của ta. Các chiến sĩ lái xe Trường Sơn dạn dày lửa đạn vẫn vững vàng tay lái phối hợp cùng lực lượng cơ giới của Quân đoàn 2 đột phá dũng mãnh, đưa bộ binh đánh chiếm hết vị trí này đến vị trí khác.

Ngày 22 tháng 4, toàn bộ cánh quân Duyên Hải đã vào tập kết tại Xuân Lộc, vượt thời gian quy định.

Sau khi cơ động các quân đoàn chủ lực vào vị trí tập kết chiến dịch, Sư đoàn ô tô 571 được lệnh để hai trung đoàn xe trực tiếp cơ động bộ đội phát triển tiến công giải phóng Sài Gòn - Gia Định; số xe còn lại khẩn cấp quay ra chuyển 4.500 tấn đạn pháo từ các kho Xê Sụ, Giàng (trên hai tuyến đông - tây Trường Sơn) và 410 tấn đạn pháo chiến lợi phẩm ở các kho Quy Nhơn, Nha Trang... theo đường số 1 vào giao, cho cơ quan hậu cần chiến dịch tại Đồng Xoài, Xuân Lộc.

Sau khi cánh quân Duyên Hải phá vỡ tuyến phòng thủ từ xa của địch, giải phóng Phan Rang, Bộ Tư lệnh Trường Sơn quyết định chuyển chỉ huy sở Bộ Tư lệnh vào Nha Trang, đóng tại trường sĩ quan Đồng Đế của địch mà ta vừa giải phóng, nhằm bám sát các đơn vị phục vụ chiến dịch trên hướng đường số 1 ở Buôn Ma Thuột, tiền phương Bộ Tư lệnh do Phó Tư lệnh Nguyễn Lang phụ trách vẫn trực tiếp chỉ đạo các đơn vị hoạt động trên hành lang đông, tây Trường Sơn.

Đồng thời Phó Tư lệnh Phan Khắc Hy phụ trách một bộ phận gồm Sư đoàn phó Sư đoàn 470 Trần Quốc Khiêm, Sư đoàn phó Sư đoàn 471 Phạm Lê Hoàng và số cán bộ tham mưu, với cương vị đại diện Bộ Tư lệnh Trường Sơn bên cạnh tiền phương Bộ Tổng tư lệnh trực tiếp nhận lệnh của Bộ Tư lệnh chiến dịch và tổ chức thực hiện.

Ngày 22 tháng 4, tại Đồng Đế, Bộ Tư lệnh triệu tập hội nghị khẩn cấp cán bộ chủ trì các đơn vị trực thuộc. Trung tướng Tư lệnh thông báo tình hình phát triển của chiến dịch, nhiệm vụ chung của Bộ đội Trường Sơn và giao nhiệm vụ cụ thể cho từng đơn vị. Kết thúc hội nghị, cán bộ khẩn trương về ngay đơn vị mình, kịp thời gian mở màn chiến dịch đang đến gần.

Cũng từ sở chỉ huy ở Đồng Đế, Bộ Tư lệnh gửi điện biểu dương, động viên các đơn vị tham gia phục vụ chiến dịch phát huy truyền thống của Bộ đội Trường Sơn, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ.

Không khí ra trận sôi sục, lời động viên kêu gọi của Tư lệnh Bộ đội Trường Sơn như tiếp thêm cho từng cán bộ, chiến sĩ nguồn sức mạnh và quyết tâm mới. Một bộ phận lớn bộ đội vận tải Trường Sơn đã trở thành phương tiện cơ giới hoá bộ binh ở các mũi tiến công đang sẵn sàng xung trận.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 22 Tháng Năm, 2010, 09:11:05 am
17 giờ ngày 26 tháng 4 năm 1975, trận tổng công kích vào Sài Gòn bắt đầu.

Từ hướng đông, đông nam, một bộ phận của Sư đoàn ôtô 517 tham gia cơ động Sư đoàn 325 Quân đoàn 2 tiến công Long Thành, thành Tuy Hạ tiến về bến phà Cát Lái chuẩn bị vượt sông Lòng Tàu phát triển vào nội đô Sài Gòn. Trên hướng này, tiểu đoàn ô tô 58 Sư đoàn 571 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ vận chuyển đạn pháo lớn cung cấp cho trận địa pháo tầm xa của Quân đoàn 2 bố trí ở Nhơn Trạch bắn cấp tập hơn 300 quả vào sân bay Tân Sơn Nhất vào hồi 9 giờ 30 phút ngày 29 tháng 4, báo hiệu sự cáo chung của chính quyền Sài Gòn.

Trên hướng tiến công chủ yếu của Quân đoàn 2 trung đoàn ô tô 512 Sư đoàn 571 cơ động Sư đoàn 304 lần lượt đánh chiếm các căn cứ quan trọng của địch như Nước Trong, Long Bình, trường bộ binh, trường thiết giáp, phát triển theo trục xa lộ Biên Hòa - Sài Gòn. Tiểu đoàn ô tô 57 và tiểu đoàn ô tô 964 là những đơn vị cơ động lực lượng đột kích thọc sâu của Quân đoàn 2 trên hướng này. 

11 giờ 30 phút ngày 30 tháng 4 năm 1975, Quân đoàn 2 đánh chiếm Dinh Độc lập, Tổng thống Dương Văn Minh cùng hầu hết những nhân vật chủ chốt của chính quyền Sài Gòn đầu hàng vô điều kiện. Cờ giải phóng tung bay trên tầng cao Dinh Độc lập, báo tin vui cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta đà đến đích toàn thắng.

Cùng thời gian này, ở hướng bắc, Sư đoàn ô tô 471 đảm bảo cơ động Quân đoàn 1 đánh vào Sài Gòn theo hai trục: Trục thứ nhất là hai tiểu đoàn ô tô 51 và 235 cơ động Sư đoàn 320 qua Tân Uyên phát triển vào thành phố.

Ở hướng tây bắc, các trung đoàn ô tô 17, 32, 536 sau khi dồn hàng, chủ yếu là đạn hoả lực phục vụ chiến dịch đã kịp thời cơ động Quân đoàn 3 tiến công đánh chiếm Đồng Dù, Củ Chi, Hóc Môn và nhanh chóng làm chủ sân bay Tân Sơn Nhất, làm tiêu tan mọi hy vọng của quân ngụy có thể được cứu nguy bằng cầu hàng không.

Vượt lên mọi thủ đoạn đánh phá ngăn chặn của địch, mọi thử thách ác liệt, hy sinh, lực lượng Bộ đội Trường Sơn tham gia chiến dịch đã bảo đảm cơ động các binh đoàn chủ lực, thực hiện thắng lợi kế hoạch hợp vây đánh chiếm Sài Gòn, tiêu diệt các trung tâm đầu não ngụy quyền Sài Gòn, phối hợp cùng quần chúng cách mạng nổi dậy làm chủ hoàn toàn thành phố.

Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, miền Nam hoàn toàn được giải phóng. Các lực lượng Bộ đội Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh tham gia chiến dịch đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ vô cùng quan trọng, bảo đảm cầu đường, hậu cần - kỹ thuật và cơ động các binh đoàn chủ lực thần tốc vượt lộ trình hàng ngàn kilômét, kịp thực hiện một chiến dịch tiến công hiệp đồng binh chủng quy mô lớn nhất trong lịch sử chiến tranh giải phóng dân tộc.

Bằng nỗ lực cao độ của mình, cán bộ và chiến sĩ Trường Sơn, đường Hồ Chí Minh đã góp phần to lớn tạo nên sức cơ động cao, khả năng đột kích mạnh của các binh đoàn chủ lực những "quả đấm" chiến lược của lực lượng vũ trang.

Giữa thành phố Sài Gòn vừa được giải phóng, trong giây phút vô cùng thiêng liêng của lịch sử dân tộc, những người lính Trường Sơn, quân phục nhuốm đỏ bụi đường, nắng gió, vô cùng xúc động tự hào, bởi đã góp sức lực, trí tuệ, máu xương của mình cùng toàn Đảng, toàn quân, toàn dân thực hiện được nguyện ước nung nấu từ 16 năm nay: mở tuyến đường Hồ Chí Minh, thực hiện chi viện chiến lược của hậu phương lớn cho tiền tuyến lớn; cơ động các binh đoàn thần tốc tiến về cùng nhân dân giải phóng Sài Gòn - thành phố mang tên Bác Hồ kính yêu. kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 22 Tháng Năm, 2010, 09:12:29 am
VII. NHỮNG KỲ TÍCH CỦA BỘ ĐỘI TRƯỜNG SƠN

Trường Sơn là chiến trường thực nghiệm chiến lược "chiến tranh ngăn chặn", “chiến tranh bóp nghẹt” bằng các thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt với các loại vũ khí, thiết bị tối tân, hiện đại của nền khoa học công nghệ Mỹ. Núi rừng Trường Sơn luôn rung chuyển, bị cày đi, xới lại bởi 4 triệu tấn bom đạn, hoá chất độc hại của địch trút xuống, nhưng với trí thông minh vào lòng quả cảm, các lực lượng Bộ đội Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh đã vượt qua mọi khó khăn gian khổ, ác liệt, làm nên những kỳ tích vĩ đại: 

1. Lực lượng cầu đường, với 4 sư đoàn công binh với hơn 4 vạn thanh niên xung phong, dân công hoả tuyến, công nhân giao thông nguyện làm "Tường đồng vách sắt” kiên cường bám trụ, giành giật lại từng thước đường “máu có thể đổ, nhưng đường không thể tắc"; một đường bị chặn lại, hai ba đường lại xuất hiện; đường chạy đêm bị đánh thì đường chạy ngày, "đường kín" xuất hiện; địch đánh một ta làm mười; đã xây dựng hệ thống đường giao thông chiến lược nối hậu phương lớn miền Bắc đến các chiến trường miền Nam, Trung Hạ Lào, Đông Bắc Campuchia, có chính diện rộng trên 100km, có chiều sâu trên 1.200 km, trên địa bàn khoảng hơn 130.000 km2, gồm 5 trục dọc, 21 trục ngang liên hoàn, đồng bộ với tổng chiều dài gần 20.000 km, xây dựng và cải tạo 500 km đường sông, hàng ngàn cầu cống, ngầm... phục vụ hoạt động vận chuyển và hành quân liên tục cả hai mùa; vô hiệu hoá mọi âm mưu ngăn chặn của Mỹ - nguỵ.

2. Lực lượng vận tải, với hai sư đoàn xe ô tô vận tải đã tiến hành một đại công trình vận tải chiến lược quân sự; bí mật luồn rừng, mang vác là chủ yếu tiến tới lấy vận tải cơ giới là chủ yếu, vận tải đường sông bổ trợ; hợp thành một binh chủng vận tải phát triển đến đỉnh cao. Trong cuộc chiến đấu quyết liệt này, cán bộ, chiến sĩ, lái xe, thợ máy xứng đáng với danh hiệu “gan vàng, dạ ngọc", thà hy sinh trên tay lái "còn người, còn xe, còn hàng" luôn luôn chủ động, táo bạo vượt lên trên tất cả mọi thủ đoạn xảo quyệt đánh phá ác liệt của địch để chạy đêm, chạy ngày, lấn sáng, lấn chiều, chạy đội hình nhỏ, chạy đội hình lớn, chạy cung ngắn, cung dài... tranh thủ mọi thời cơ vận chuyển vào chiến trường trên 1 triệu tấn vật chất, kỹ thuật hơn 2 triệu người vào, ra chiến trường; riêng từ năm 1973 đến năm 1975 đã chở bằng cơ giới 40 vạn quân vào chiến trường, tổ chức hành quân 25 quân đoàn binh khí kỹ thuật nặng vào các mặt trận; trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 đã cơ động bằng xe cơ giới 10 lượt sư đoàn, 3 quân đoàn bộ binh vào tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.

3. Lực lượng đường ống xăng dầu, từ những đơn vị nhỏ phải dùng sức người gùi, vần. kéo từng phuy xăng dầu vượt qua trọng điểm, chịu thương vong lớn để chuyển xăng vào tuyến, đã hình thành bốn trung đoàn làm đường ống với trên 7.600 người, xây dựng được 1.400km đường ống xăng, dầu nối liền từ tuyến hậu phương Quảng Bình hình thành hai tuyến (Đông và Tây Trường Sơn) đến Bù Gia Mập (Bình Phước) cùng các bể chứa dự trữ lớn ở Lộc Ninh với 113 trạm bơm đẩy, 33 trạm cấp phát. Từ năm 1968 đến năm 1975, cấp cho các chiến trường 61.064 tấn xăng dầu; đảm bảo nhu cầu xăng dầu cho vận tải và cơ động các binh chủng kỹ thuật quy mô lớn phục vụ cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 giành thắng lợi.

4. Lực lượng bộ binh, từ những phân đội nhỏ đến Trường Sơn sớm nhất để bảo vệ tuyến đường đã nhanh chóng sớm hình thành sư đoàn, đủ sức đập tan những cuộc hành quân ngăn chặn của địch; tham gia chiến đấu hàng nghìn trận chống hành quân, chống nống lấn, biệt kích, thám báo của địch, tiêu diệt một bộ phận lớn sinh lực của Mỹ - ngụy, loại khỏi vòng chiến đấu hàng ngàn tên, phá huỷ nhiều phương tiện chiến tranh hiện đại của địch, giải phóng đất đai, mở rộng địa bàn hoạt động cho tuyến chi viện chiến lược; tạo ra căn cứ vững chắc cho các binh đoàn chủ lực của Bộ làm địa bàn xuất phát tiến công mở các chiến dịch lớn; góp phần trực tiếp đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược lãnh thổ và chiến tranh ngăn chặn chi viện của đế quốc Mỹ ở mức độ cao; bảo vệ an toàn hành lang giao thông chiến lược trong mọi tình huống.

5. Lực lượng pháo phòng không, từ những phân đội nhỏ, đã nhanh chóng phát triển thành những lực lượng chiến đấu lớn, gồm 1 sư đoàn và 9 trung đoàn pháo cao xạ, tên lửa; đánh nhỏ, đánh lớn, đánh ngày, đánh đêm bắn rơi 2.455 máy bay, bắt giặc lái; góp phần trực tiếp cùng các lực lượng đánh thắng chiến lược ngăn chặn của Mỹ - nguỵ bảo vệ thắng lợi nhiệm vụ chi viện chiến lược, xứng danh với danh hiệu “đánh giỏi, bắn trúng”.

6. Lực lượng giao liên, với đôi chân vạn dặm bảo đảm hành quân bộ, tiến tới cơ giới đưa đón, bố trí nơi ăn, ở cho hàng triệu lượt cán bộ, chiến sĩ, thương bệnh binh vào ra các chiến trường bí mật, an toàn, xứng đáng với 10 chữ vàng "Tận tình với các đồng chí, tận nghĩa với chiến trường”.

7. Lực lượng thông tin, với khẩu hiệu "Coi dây như ruột, coi dây như xương” đã xây dựng được mạng lưới thông tin gồm hơn 4.000KM đường dây trần dùng cho máy tải ba, hơn chục nghìn kilômét dây bọc, hàng trăm thiết bị máy móc hình thành mạng lưới thông tin đa phương thức cả đông và tây Trường Sơn đảm bảo chỉ huy được “thống nhất, trực tiếp, kịp thời" đối với các lực lượng, binh chủng trên chiến trường. Mạng lưới thông tin Trường Sơn còn nối thông với các chiến trường, với tổng đài của Bộ, phục vụ mệnh lệnh của Tổng Tư lệnh đến trực tiếp từng chiến dịch lớn, đặc biệt mật lệnh "thần tốc" trong chiến dịch Hồ Chí Minh.

8. Các lực lượng quân y, như "Người mẹ hiền" tận tình cứu chữa kịp thời thương, bệnh binh trên tuyến và qua tuyến. Lực lượng chuyên môn kỹ thuật và cán bộ, chiến sĩ cơ quan Đoàn bộ... đã ngày đêm bám sát trên tuyến đường, phục vụ đắc lực cho chỉ huy và các nhu cầu cần thiết của bộ đội, tạo điều kiện thuận lợi nhất để các lực lượng hoàn thành xuất sắc nhất mọi nhiệm vụ.

9. Đội ngũ làm công tác báo chí, văn học nghệ thuật với hàng nghìn tác phẩm về đề tài Trường Sơn, đã dựng nên những bức tượng đài về lòng dũng cảm, đức hy sinh tinh thần yêu nước, chủ nghiã anh hùng cách mạng, lòng tin vững chắc vào ngày toàn thắng của cán bộ, chiến sĩ Trường Sơn, thực sự là pho sử Trường Sơn viết bằng nghệ thuật, góp phần vào thắng lợi chung của dân tộc.

10. Lực lượng thanh niên xung phong, dân công hoả tuyến, công nhân giao thông với hàng vạn người đã hiến dâng tuổi thanh xuân, vượt qua bao gian khổ ác liệt sát cánh cùng Bộ đội Trường Sơn chiến đấu giữ vững trận địa cầu đường với khí thế "Sống bám đường, chết kiên cường dũng cảm" tất cả để cho xe lăn bánh hướng tới chiến trường.

11. Lực lượng làm công tác chuyên gia giúp bạn, luôn luôn nêu cao tinh thần quốc tế trong sáng, "giúp Bạn tự giúp mình", tích cực xây dựng cơ sở chính trị ở các vùng căn cứ, phối hợp với quân và dân Bạn chiến đấu chống địch lấn chiếm vùng giải phóng, mở rộng và bảo vệ vững chắc tuyến hành lang chiến lược Trường Sơn cả chính diện và chiều sâu với hơn 600 bản, thuộc 18 huyện, tỉnh.

Suốt 16 năm đương đầu với cuộc chiến tranh ngăn chặn vô cùng ác liệt với bao hy sinh, gian khổ không sao kể xiết, các lực lượng trên tuyến đường Hồ Chí Minh đã trở thành "Một lực lượng gang thép, một tập thể anh hùng, hoàn thành trọn vẹn và đặc biệt xuất sắc sứ mệnh mà Đảng và nhân dân đã giao phó; thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chi viện chiến lược, một nhân tố quyết định để đưa sức mạnh cả nước vào cuộc chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm lược đi đến thắng lợi hoàn toàn.

Thời gian đã lùi xa về quá khứ, nhưng huyền thoại về đường Hồ Chí Minh trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vẫn còn mãi mãi ngời sáng trong trang sử oanh liệt của dân tộc ta như một thiên anh hùng bất tử, tô thắm truyền thống đánh giặc, giữ nước của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, tiếp thêm sức mạnh cho mọi thế hệ phấn đấu thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dụng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghiã.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 26 Tháng Năm, 2010, 12:20:07 pm
CHƯƠNG HAI
KÝ ỨC TRƯỜNG SƠN

Mỗi người lính đã đi qua Trường Sơn đều có một Trưởng Sơn của riêng mình. Với những người đã nằm xuống thì đành một nhẽ. Nhưng với những người còn sống, với bây giờ những đỉnh cao Trường Sơn vẫn còn in đậm trong ký ức. Thỉnh thoảng những chớp sáng ký ức lại rực lên...

ĐẠI TƯỚNG VÕ NGUYÊN GIÁP VỚI TRƯỜNG SƠN
Nguyễn Việt Phương


“Trải mấy ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước, thời nào dân tộc Việt Nam cũng sản sinh được những danh tướng lập nhiều võ công hiển hách rạng rỡ núi sông. Đến thời đại Hồ Chí Minh, cuộc kháng chiến trường kỳ chống xâm lược đã sản sinh ra nhiều danh tướng, trong đó có Đại tướng Võ Nguyên Giáp - vị Tổng tư lệnh tài năng, lỗi lạc quân sự, chính trị đã đánh thắng hai đế quốc đầu sỏ. Ông đặc biệt quan tâm xây dựng sử dụng đường Trường Sơn như một "huyết mạch chủ” mang sức mạnh toàn diện của hậu phương lên tiền tuyến - một nhân tố quyết định đánh thắng mọi kẻ thù ở bất cứ nơi nào. ông hiện thân người kế tục thiên tính Hồ Chí Minh vĩ đại: lòng son vằng vặc trí như thần/ Tài năng, dũng khí thời vô thượng/ Sáng vạn đời sau đức, nghĩa, nhân" (ý thơ Tiến sĩ Trần Đăng Thao).

Nhân dịp kỷ niệm 50 năm ra đời Bộ đội Trường Sơn, đường Hồ Chí Minh, tôi mạo muội ghi chép những điều nhớ lại và suy ngẫm về Người Anh Cả, vị tổng chỉ huy, người thầy của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam anh hùng đối với con đường "huyền thoại ".

Khẩn trương tổ chức đội quân mang tên ngày sinh của Bác

Trước những thủ đoạn vô cùng tàn bạo của Mỹ - ngụy, nhân dân miền Nam không thể tiếp tục đấu tranh hòa bình với giặc, phải vùng lên chiến đấu tự vệ. Thực tiễn nóng bỏng của phong trào cách mạng miền Nam, đòi hỏi Đảng ta phải kịp thời chuyển hướng chỉ đạo chiến lược.

Tháng 1/1959, Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị Trung ương lần thứ 15 (mở rộng) do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì. Nghị quyết khẳng định: Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là giải phóng đất nước bằng phương pháp cách mạng bạo lực, kết hợp đấu tranh chính trị với vũ trang, đánh đổ quyền thống trị của đế quốc, phong kiến, thiết lập chính quyền cách mạng. Nghị quyết đề ra nghĩa vụ miền Bắc đối với miền Nam trong cuộc đối đầu quyết hệt.

Tháng 2/1959, Tổng Quân ủy họp mở rộng bàn nhiệm vụ kế hoạch xây dựng lực lượng vũ trang miền Nam và vai trò của miền Bắc phải: đẩy mạnh công cuộc xây dựng quân đội cách mạng chính quy, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ xã hội chủ nghiã, đồng thời tích cực chuẩn bị lực lượng, vật chất chi viện miền Nam. Thượng tá Võ Bẩm là cán bộ quân sự trưởng thành ở chiến trường Liên khu 5, đã từng vượt Trường Sơn trong thời chống Pháp, được chọn giao phụ trách đoàn trưởng.

Ngày 19/5, Tổng Quân ủy quyết định lập "Đoàn Vận tải quân sự”, quán triệt phương châm, quy tắc hoạt động cho đoàn. Xác định nội dung nhiệm vụ mở đường bí mật dọc đỉnh Trường Sơn, xa bản làng, vận tải hàng quân sự đến các chiến trường. Bảo đảm bộ đội hành quân chi viện mặt trận và đón thương, bệnh binh ra hậu phương.

Bí thư Quân ủy nhấn mạnh ý nghĩa vai trò của đội quân ban đầu tuy nhỏ bé nhưng mang sứ mệnh rất trọng đại xuyên Trường Sơn tạo nguồn chi viện; xây dựng căn cứ chiến lược dần trở thành hậu phương trực tiếp của các chiến trường. Đó là một nhân tố thường xuyên quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến trường kỳ chống đế quốc Mỹ xâm lược.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp luôn quan tâm theo dõi tiến triển của Đoàn 559. Các lần chỉ huy đoàn về Trung ương báo cáo đều được Đại tướng trực tiếp chỉ đạo kịp thời giải quyết những khó khăn vướng mắc to lớn ...


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 26 Tháng Năm, 2010, 12:20:57 pm
Cần phải mở đường lên tây Trường Sơn .

Năm 1960, Mỹ - ngụy tập trung quân mở trận càn Hoành Sơn dọc đường 9 lên tận biên giới Việt - Lào nhằm triệt phá tuyến giao liên vận tải của ta. Trước tình thế diễn biến xấu, Tổng Quân ủy chỉ đạo phải mạnh dạn mở đường lên tây Trường Sơn cố gắng phát triển sâu xuống phía nam.

Năm 1969, phong trào cách mạng miền Nam lên mạnh mẽ nhưng việc tạo "chân hàng" để vượt Trường Sơn vận chuyển sâu vào Nam Bộ còn nhiều khó khăn. Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm việc với Bộ Tư lệnh Quân khu 4, Bộ Tư lệnh 559 và Sư đoàn 325 về nhiệm vụ chi viện quân sự cho các chiến trường. Đại tướng dùng trực thăng cùng mấy cán bộ 559 và Trưởng ty Giao thông Quảng Bình (Võ Văn Ấp) quan sát vùng nam Quân khu 4. Sau đó giao Bộ Tư lệnh Quân khu phối hợp các lực lượng mở đường từ Phú Quý vào Ho hơn 70km để ô tô tạo "chân hàng" cho Đoàn 559. Giao trách nhiệm, Bộ tổng tham mưu cùng Bộ Tư lệnh không quân nghiên cứu tổ chức "cầu vận tải hàng không" kịp thời lập "chân hàng" cho tuyến chi viện.

Trung tuần tháng 3 năm 1961, Quân khu 4 phối hợp với Đoàn 559, Pa thét (Lào) mở chiến dịch 128 giải phóng một vùng rộng lớn từ đường 12 đến nam bắc đường số 9, mở rộng vùng giải phóng của Lào trên 3.000KM2. Tháng 4 năm 1961, Hiệp định Zuyrích thành lập chính phủ ba phái ở Lào. Tổng Quân ủy chỉ đạo phải tranh thủ thời cơ thuận lợi này.

Tháng 4 năm 1962, Bộ Tư lệnh không quân phối hợp với Đoàn 559 tổ chức việc thả dù hàng xuống bãi Na Phi Lăng và Lùm Bùm (Savanakhét). Sau hơn một tuần đã lập được chân hàng trên ngàn tấn gạo, vũ khí. Nhờ vậy Đoàn 559 kịp bảo đảm chủ trương chi viện lực lượng lớn rất trọng yếu cho các chiến trường miền Nam. Các khung cán bộ lãnh đạo Nam Bộ, Khu 6, Khu 5, khung các trung tiểu đoàn, tỉnh đội, cán bộ dân chính đảng các tỉnh và 14 đại đội tiểu đoàn quân chủ lực ... Tổng số trên hai vạn người đi trong vòng hai tháng tới đích gọn, an toàn.

Đầu năm 1962, trung đoàn công binh 98 mở xong đường 129 trên tây Trường Sơn cắt đường 12 từ Ba Na Phào chạy xuống phía nam cắt đường 9 tại bản Kê pô phía tây bắc Mường Phin (Lào). Bộ Tổng tham mưu điều một trung đoàn vào phối hợp lực lượng Pa thét Lào bảo vệ địa bàn này.

Táo bạo sử dụng ô tô ở tây Trường Sơn

Đến cuối năm 1961, Đoàn 5 59 cùng các quân khu miền Nam đã soi đường xong đường giao liên thông tới Nam Bộ. Nhưng việc vận tải chi viện thô sơ không đáp ứng được nhu cầu phát triển đẩu tranh cách mạng. Quân ủy Trung ương chỉ đạo “mạnh dạn thử nghiệm sử dụng ô tô ở tây Trường Sơn".

Chấp hành chủ trương Quân ủy, đầu năm 1962 Tổng cục Hậu cần điều 60 ô tô của Trung đoàn 3 (E245) chở hàng từ tổng kho 559 ở Quảng Bình vào Mường Phin, chạy dọc đường 9 xuống Sê Pôn chở 500 xe đạp vào cho trung đoàn 70 Đoàn 559, trang bị lực lượng thồ tiến sâu tới các hậu cứ Trị - Thiên, Tây Nguyên, Khu 5.

Cuối tháng 5 năm 1962, Đoàn trưởng 559 đi kiểm tra hoạt động trên tuyến tây Trường Sơn bắt đầu ổn định mọi mặt hoạt động. Võ Bẩm về Hà Nội báo cáo Đại tướng bước đầu đạt thắng lợi và triển vọng sử dụng phương tiện cơ giới kết hợp thô sơ trên Trường Sơn. Đại tướng rất mừng, nói "Bác Hồ muốn trực tiếp nghe, đồng chí chuẩn bị báo cáo cụ thể, nhưng tránh làm Bác xúc động, lúc này Bác không được khỏe ...".

Đoàn trưởng Võ Bẩm lên báo cáo tình hình tuyến 559 với Hồ Chủ tịch, ông cụ chăm chú lắng nghe và hỏi kỹ đời sống của bộ đội làm nhiệm vụ vận tải, tình hình các dân tộc Trường Sơn ...

Hồ Chủ tịch khen: Mới bắt đầu một thời gian ngắn, làm được như vậy là giỏi, rồi đây phải tích cực hơn nữa mới giúp được đồng bào miền Nam đấu tranh chống Mỹ - ngụy... Cần phải quan tâm giúp đỡ bà con dân tộc khắc phục nạn đói, đau bệnh ... Hồ Chủ tịch dặn: "Phải báo cáo thiệt kỹ với Quân ủy Trung ương, với Bộ Tổng... xin ý kiến chỉ đạo biện pháp giải quyết sớm...".

Võ Bẩm được thường trực Quân ủy nghe báo cáo lại ý của Bác Hồ. Thường trực Quân ủy chỉ đạo giải quyết khẩn cấp cứu đói cho bà con dân tộc Tây Nguyên. Về lâu dài phải giúp địa phương xây dựng các tổ chức đoàn thể, giúp kế hoạch sản xuất, giúp Đảng Nhân dân cách mạng Lào xây dựng cơ sở kinh tế, phát động phong trào kháng chiến chống Mỹ.

Bí thư Quân ủy Trung ương căn dặn: "Lòng dân Trường Sơn với cách mạng như ngọn lửa hồng không bao giờ tắt, chúng ta phải biết giữ cho ngọn lửa không khi nào vạc... Cuộc cách mạng giải phóng hiện nay cũng như trước kia đều dựa vào Trường Sơn đấy..."


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 26 Tháng Năm, 2010, 12:21:56 pm
Biển Đông là đường bổ trợ đắc lực cho đường xuyên Trường Sơn

Song song với mở đường xuyên Trường Sơn, Quân ủy Trung ương chủ trương mở đường xuyên biển bổ trợ cho đường vận tải. Đoàn trưởng Võ Bẩm trực tiếp nhận ý chỉ đạo của Đại tướng Võ Nguyên Giáp tổ chức vận tải biển chi viện sâu vào các tỉnh trong lòng địch. Tiểu đoàn 603 ra đời mang danh "Tập đoàn đánh cá miền Nam".

Đêm giao thừa Canh Tý (1960), tiểu đoàn chở hàng tiến vào Nam, không may trúng cơn bão lớn, tàu dạt vào Cù Lao Xanh (Quảng Nam) bị địch bắt. Phải tạm dừng, nghiên cứu biện pháp thực hiện tiếp.

Thời gian này, tuyến vận tải bộ trên Trường Sơn đã thông tới các chiến trường Trị - Thiên, Khu 5 và Tây Nguyên, chưa vào được Nam Bộ. Đại tướng Võ Nguyên Giáp bàn trong Thường trực Quân ủy, giao tướng Trần Văn Trà trực tiếp chỉ đạo rút kinh nghiệm hai chuyến đi thử không thành công của tiểu đoàn 603 .

Tháng 2 năm 1961, Bộ Chính Trị - Quân ủy Trung ương chỉ thị các tỉnh ven biển Nam Bộ tổ chức thuyền ra Bắc nhận vũ khí và điều nghiên đường ra vào bảo đảm an toàn. Tướng Trần Văn Trà được giao trách nhiệm trực tiếp theo dõi và chỉ đạo chuẩn bị thành lập đoàn tàu xuyên Biển Đông.

Đầu tháng 11 năm 1961, đội thuyền Bến Tre ra tới miền Bắc, tiếp theo là các đội thuyền Trà Vinh, Cà Mau. Đại tướng Võ Nguyên Giáp nghe báo cáo rồi trình bày với Hồ Chủ tịch và Bộ Chính trị. Bác cùng các đồng chí thường trực Bộ Chính trị đến thăm sức khỏe các thủy thủ và nghe cụ thể hoạt động của địch, tình hình ngư dân bảo đảm an toàn cho vận chuyển trên biển ...

Tháng 10 năm 1962, tàu Phương Đông I hạ thủy mở đường vận tải biển. Đại tướng Võ Nguyên Giáp trực tiếp giao trách nhiệm cho hai đồng chí Lê Văn Một, Bông Văn Dĩa quyết giành thắng lợi trận đầu. Chín ngày xuyên biển, con tầu vỏ gỗ chở 30 tấn vũ khí cập bến Vàm Lũng cửa Bồ Đề kịp phục vụ quân dân Mỹ Tho đánh trận ấp Bắc thắng lợi vang dội.

Để đảm bảo vận tải được trong mọi hoàn cảnh thời tiết, Bộ cho thay vỏ sắt. Tổng Tư lệnh quyết định giao Bộ Tư lệnh Hải quân đảm trách nhiệm vụ vận tải biển. Đến cuối năm 1963, Nam Bộ đón được 25 tàu, nhận 1.430 tấn vũ khí. Đánh dấu thời kỳ “vượt trùng vây phong tỏa của địch, trở lực của biển trời" bổ trợ đắc lực cho tuyến chi viện Trường Sơn.

Tăng cường mọi mặt con đường "Huyết mạnh chủ yếu” chi viện miền Nam

Trên các chiến trường miền Nam, quân dân ta đang ra sức thực hiện quyết tâm chiến lược của Đảng: "Đánh thắng Chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mỹ. Các quân khu miền Bắc đã sẵn sàng chiến đấu trong mọi tình huống.

Đại tướng Tổng Tư lệnh trực tiếp làm việc với Tổng cục Hậu cần, đặt yêu cầu “chi viện các chiến trường đủ sức đảnh mạnh hơn, giành thắng lợi quyết định". Để đạt được chỉ tiêu kế hoạch, phải tăng cường sức chiến đấu cho Đoàn 559 tương ứng vị thế con đường "huyết mạch chủ yếu” chuyển vận tiềm lực hậu phương lớn lên tiền tuyến lớn.

Năm 1964, các chiến trường được chi viện tốt, đánh mạnh đều khắp. Tháng 12 năm 1964, miền Đông Nam Bộ mở Chiến dịch Bình Giã, tiêu diệt lớn, làm rung chuyển chế độ tay sai tan rã từng mảng, các chính khách Hoa Kỳ hoang mang...
Mỹ vội đưa quân chủ lực chính quốc đổ bộ vào miền Nam nước ta, đồng thời mở chiến tranh phá hoại miền Bắc, ngăn chặn sự chi viện cho miền Nam.

Bộ Chính trị quyết định: Công tác trung tâm đột xuất của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân miền Bắc lúc này là "đánh thắng Mỹ trên mặt trận giao thông vận tải”. Bộ trưởng Công nghiệp Đinh Đức Thiện được điều trở lại quân đội làm Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần. Vừa nhậm chức, Chủ nhiệm Đinh báo cáo Tổng Tư lệnh cho phép cải tổ bộ máy lãnh đạo chỉ huy hậu cần từ trên Bộ xuống các quân binh chủng. Tổng Tư lệnh nghe phương án và biện pháp cải tổ trong thời gian địch đang chuyển hướng chiến lược... Đại tướng chấp thuận ý đề xuất cải tổ tăng cường sức chiến đấu của công tác hậu cần và chỉ ra những trở ngại, cần chú trọng khắc phục.

Ngành hậu cần được tái lập hệ thống tổ chức vận tải là binh chủng chiến đấu trong đội hình quân đội; tổ chức vận tải tách khỏi tổ chức quản lý xe máy. Toàn quân đều xác lập thống nhất có trách nhiệm phối hợp với tổ chức giao thông vận tải nhà nước trong quá trình hoạt động.

Bộ Chính trị quyết định nâng Đoàn 559 tương đương Quân khu, bổ nhiệm Thiếu tướng Phan Trọng Tuệ Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải giữ chức Tư lệnh kiêm Chính ủy binh Đoàn 559. Quân ủy Trung ương chỉ đạo chọn cán bộ cơ quan Tổng cục Hậu cần tăng cường cho đoàn 559.

Trước khi vào Trường Sơn đoàn cán bộ được Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp động viên căn dặn: Đồng chí Tuệ là Tư lệnh, nhưng mới vào, nhiều việc chuyên ngành chưa thể quán xuyến hết. Đồng chí Chiêm là Phó Chủ nhiệm Tổng cục, đồng chí Đôn nguyên Cục trưởng quản lý xe... thông thạo nghiệp vụ... Các đồng chí phải phát huy khả năng chuyên môn, chủ động hỗ trợ đồng chí Tuệ... Phải giữ vững đoàn kết giữa những đồng chí cũ và mới ở bên ngoài vào... Trên con đường máu lửa này, nếu thiếu tình thương gắn bó thành một khối thống nhất thì khó thành công lắm..

Đoàn cán bộ đi tăng cường rất thấm thía lời dặn tình nghĩa của Đại tướng, khắc sâu tâm khảm mình trong suốt cả cuộc chiến đấu quyết liệt trường kỳ.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 26 Tháng Năm, 2010, 12:23:33 pm
Phải đánh địch mà đi, mở đường mà tiến

Kết thúc nhiệm vụ mùa khô 1968 - 1969, một mùa chiến đấu cực kỳ khó khăn. So với nhiệm vụ Quân ủy giao, Đoàn 559 mới đạt được chỉ tiêu cơ bản của kế hoạch, chưa đạt yêu cầu bổ sung cao ...

Để chuẩn bị cho nhiệm vụ mùa khô tới sẽ tăng gấp hai ít nhất cũng phải tăng gấp rưỡi trong tình hình giặc Mỹ dồn sức ngăn chặn “đường mòn" với ý tưởng "cắt đứt cái cuống nhau nuôi dưỡng cuộc kháng chiến ở miền Nam". Quân ủy Trung ương phê chuẩn đề nghị tập kết đại bộ phận xe máy của Đoàn ra hậu phương để củng cố kỹ thuật, bổ sung phương tiện, rèn luyện bộ đội ... Và tổng kết kinh nghiệm, tìm biện pháp thắng chiến tranh ngăn chặn của địch trên Trường Sơn.

Ngày 31/7/1969, Bộ Tư lệnh 559 tổ chức Hội nghị Quân chính tại Sầm Sơn. Đại tướng Võ Nguyên Giáp vào dự (có các thủ trưởng tổng cục và đại diện Bộ Giao thông Vận tải). Đại tướng khái quát tình hình cách mạng hai miền, khẳng định thắng lợi chiến lược của cuộc Tổng tiến công Mậu Thân ...

Với Đoàn 559, Đại tướng đánh giá cao kết quả mùa khô 1968 - 1969, hoan nghênh tinh thần phát huy ưu điểm nhưng không coi thường khuyết điểm... Đại tướng phân tích cách vận dụng tư tưởng tiến công vào mặt trận giao thông vận tải như thế nào, không thể cường điệu yếu tố dũng cảm của bộ đội mà đặt khẩu hiệu hành động “địch cứ đánh, ta cứ đi"... Thế là liều lĩnh. Có xác định đúng, bộ đội mới tin tưởng.

Trên mặt trận giao thông vận tải khẳng định "đánh địch mà đi, mở đường mà tiến". Bộ đội cao xạ đánh địch bảo vệ mục tiêu giao thông vận tải thế nào? Tất nhiên phải đánh tiêu diệt, nhưng nếu chỉ chú trọng tiêu diệt nhiều máy bay địch mà đường bị tắc nghẽn vẫn không hoàn thành nhiệm vụ. Nếu hạ máy bay ít hơn, mà đuổi được địch đạt xa mục tiêu, đường không bị tắc là thắng lợi. Bộ đội công binh cần tích cực khảo sát mở đường mới, đường dự bị. Bộ đội xe cũng phải luôn sẵn sàng chủ động sửa đường, khai thông đường mà tiến ...
Người nghe bất giác ngẩng nhìn bảng thống kê so sánh diệt địch với thời gian tắc nghẽn vận tải ... Ngộ ra ý sâu sắc của những lời phân tích ...

Đại tướng khen đơn vị công binh đã biết lợi dụng những chiếc senso-máy do thám của Mỹ để lừa máy bay Mỹ oanh tạc mục tiêu giả... Đấy là cách đánh hay gọi là "chiến thuật thắng địch" cũng đúng...

Hơn hai trăm cán bộ Đoàn 559 dự họp rất xúc động với những lời chỉ dẫn đằm thắm ... , "Thì ra Tổng Tư lệnh dù bận trăm ngàn chuyện trọng đại, vẫn luôn theo dõi từng việc làm bước đi của Bộ đội Trường Sơn...".

Câu nói giản dị của Đại tướng “đánh địch mà đi, mở đường mà tiến" bám chặt ý nghĩa các chiến binh Trường Sơn từ đấy.



Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 26 Tháng Năm, 2010, 12:23:40 pm
Đập tan Chiến dịch Cắt cổ của Hoa Kỳ

Liên tiếp hai năm 1970 - 1971, lại cùng vào tháng 3 Mỹ bị đánh trên chiến trường Campuchia và Lào. Các chuyên gia chiến lược nhận định "Kết cục bi thảm đến mất uy danh Hoa Kỳ đều bắt nguồn từ con đường mòn ấy...". Tổng thống R.Níchxơn căm uất vì nó đe dọa tiêu vong cái học thuyết "Việt Nam hóa chiến tranh" sau khi tái đắc cử vào Nhà Trắng, ông ta liền bật tín hiệu tái diễn chiến tranh phá hoại miền Bắc, mở "Chiến dịch Cắt cổ" con đường mòn thâm nhập. Pháo đài bay B52 dồn dập trút bom dải thảm đợt sau chồng lên đợt trước dọc đường số 9... Suốt ngày đêm rực lửa.

Bộ Chính trị - Quân ủy Trung ương quyết nghị phải đánh bại âm mưu chiến lược của Mỹ. Đại tướng Tổng Tư lệnh trực tiếp chỉ đạo Bộ Tư lệnh Trường Sơn Quân khu 4, Quân chủng Phòng không - Không quân hiệp đồng đập tan “chiến dịch Cắt cổ" của địch; đẩy mạnh chi viện chiến lược đảm bảo cho các chiến trường tiến công đồng loạt phá sản hoàn toàn "chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh " của Hoa Kỳ.

Sư đoàn 472 được tăng cường trung đoàn cao xạ thiện chiến. Tập trung đánh bại thủ đoạn "Trinh sát điện tử” và thủ đoạn "Tia la de" của địch, bảo đảm cho tên lửa SAM của ta lên tây Trường Sơn. Cuộc họp hiệp đồng ngay tại trận, Sư đoàn 472 thực hiện mọi biện pháp ngụy trang bảo mật khu vực, xây dựng công sự mở đường đưa tên lửa tiếp nhận trận địa nhanh gọn, an toàn. Thông tin đặt vọng quan sát trên các đỉnh núi thành mạng lưới nắm địch trên vùng trời tây nam Lào từ ngoài 200 cây số. Có mạng vô tuyến điện thoại tiếp sức tăng hiệu quả thông báo thẳng về sở chỉ huy sư đoàn và tên lửa...

Cao xạ có khí tài của sư đoàn đánh trước để thu hút và làm rối loạn sự phán đoán của địch, nhất là vô hiệu hóa "con mắt điện tử" của máy bay EB66, tạo tình huống bất ngờ cho tên lửa.

Đầu tháng 12/1972, bầu trời Nam Lào trong xanh, nắng lóa trên nóc rừng. Các trạm quan sát T25 trên đỉnh Phu Ca Tè, T26 Phu Co Po cùng báo:

"Có tiếng rù rù nặng chịch ở hướng tây... ".

8 giờ 25, trạm T27 Phu Can đôi báo:

"Chín F4 bay qua dãy Phu Khộp đến Phu Thuổng... vọt qua Voi Mẹp lao xuống dọc đường 9...".

Lập tức, hơn chục nòng cao xạ của ta phun lửa vào địch. Chúng bật lên cao, lách qua đảo lại hung hăng nhưng không đánh trả. Đài chỉ huy biết chúng giở trò thủ thuật nhứ dử phát hiện SAM ...

T26 báo cáo: "ống nhòm rõ hai tên rất to, cao ngất ngưởng như tòa nhà hai tầng”.

Đài chỉ huy tên lửa biết ngay là CB66 - B một loại máy bay chuyên dụng gây nhiễu ngụy trang. Tên này đi thì nhất định có B52 bay tiếp theo. Nó dài 20m, cao 7m, nặng 34 tấn cơ động, không linh hoạt, bay ở độ cao một vạn “phit" (foot = 0,3048m). Nó được trang bị khí tài phát hiện sóng ra đa đối phương từ ngoài tầm phóng tên lửa để chỉ thị mục tiêu cho pháo đài bay oanh kích tức thời.

Mạng thông tin từ các trạm quan sát vùng trời liên tục báo cáo, đường bay của các tốp phản lực của EB66 được phản ánh lên bản tiêu đồ... Các sĩ quan điều khiển tên lửa căng mắt theo dõi đường bay của địch trên màn hiện sóng... Người trắc thủ kỳ cựu điều chỉnh tách mục tiêu, những tín hiệu chuyển động như bầy nhặng, nổi rõ bốn tín hiệu to đậm - đó là B52 và một EB66 gây nhiễu tích cực yểm trợ.

Trung đoàn trưởng nén thở, cả tốp vào đúng tầm, bật tiếng đanh gọn: “phóng!".

Hai quả tên lửa lao vút. Chớp mắt, những trái cầu lửa bùng đỏ rực trời giữa "bầy nhặng". Vô vàn tiếng nổ chát chúa khắp dải núi.

Cháy rồi, cháy rồi ... - Tiếng hò reo vang lừng - Tên lửa muôn năm!

Bọn giặc trời tán loạn. Chiếc pháo đài bay thoát chết vội tháo bừa bom, ngoặt đầu về hướng xuất phát... Những chiếc "F" hộ tống vội tản đi các ngả. Một tốp bay ngang đường 9 liền bị lưới lửa cao xạ bủa vây. Hai "Con Ma" tung xác, bùng cháy, giặc lái không kịp nhảy dù ...

Báo cáo về Bộ tổng. Đại tướng điện biểu dương trận tiêu diệt bẻ gãy cổ giặc lái trên Trường Sơn, đã đánh bại thủ đoạn phong tỏa của không lực Mỹ ... Đại tướng kêu gọi Bộ đội Trường Sơn khẩn trương bảo đảm quân vào nhanh, khỏe chiến đấu ngay được. Vũ khí hỏa lực mạnh kịp đến chiến trường phát huy hiệu quả cao ...đấy là mục tiêu trọng yếu nhất của tuyến chi viện trong giai đoạn này.

Lời lẽ ngắn gọn hàm chứa nhiều nội dung sâu sắc, khiến người nghe mường tượng sắp có biến chuyển động trời. Bộ Tư lệnh Trường Sơn chỉ thị các sư đoàn trưởng phải trực tiếp đi kiểm tra các trục hành quân, cải tạo theo phương châm: "Dưới phẳng, trên quang, vượt sông không lội" quân đi “mang nhẹ, mang đủ, ngủ tốt không ốm".

Sáu trung đoàn công binh hối hả nâng cấp 900km đường giao liên trong hai tuần hoàn thành đúng tiêu chuẩn chỉ đạo. Hậu cần các binh trạm, sư đoàn tăng cường lực lượng quân y, quân nhu xuống từng cung đoạn hành quân bộ, tổ chức chuyển thương bằng ô tô kết hợp chở ra... Một bước quan trọng của tuyến Trường Sơn .

Trên các trục "đường kín" suốt ngày ồn ã tiếng máy nổ xe tải, tiếng xích xe tăng nghiến đá kèn kẹt... Từng lớp, từng lớp xe pháo dầm dập bụi đỏ cuồn cuộn như sóng hồng dội xuống phía nam ...

Tin chiến thắng như chẻ tre của các chiến dịch... Cấm Dơi ở Khu 5, Đăk Tô, Tân Cảnh ở Tây Nguyên, Quảng Trị B4, Chiến dịch Nguyễn Huệ Nam Bộ cứ dồn dập bay về tuyến Trường Sơn làm nức lòng người ... Ai cũng nghĩ thật xứng đáng với quyết tâm chiến lược của Trung ương, chỉ đạo sát sao của Tổng Tư lệnh đối với Trường Sơn đập tan "Chiến dịch Cắt cổ", đưa cuộc chiến tranh giải phóng lên giai đoạn mới.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 26 Tháng Năm, 2010, 12:24:46 pm
BÍ MẬT ĐƯỜNG MÒN HỒ CHÍ MINH
Phạm Tiến Duật


Cho đến tận bây giờ, mùa hè năm 1999, sau 24 năm kết thúc chiến tranh, công dân các nước Việt Nam, Mỹ và một số nước khác có tham chiến ở Việt Nam vẫn chưa có điều kiện để hiểu đầy đủ về tuyến đường xuyên ngang, xẻ dọc dãy núi Trường Sơn trùng điệp của ba nước Đông Dương.

Mật danh, tên gọi công khai, chính thức được các phương tiện thông tin đại chúng của phía ta công bố là "Đoàn vận tải quân sự Quang Trung" để chỉ các lực lượng của Bộ đội Trường Sơn. Cái tên ấy được lặp đi lặp lại trên báo, trên đài nhiều năm thành quen. Không chỉ cán bộ dân sự mà cả bộ đội ta, nhiều người chỉ hiểu "Đoàn vận tải" nghiã là một đoàn xe tải, chắc là hàng trăm chiếc hay nhiều hơn nữa.

Bằng suy diễn và tưởng tượng, người ta hiểu thêm rằng, xe muốn chạy thì phải có đường và người làm đường. Và bên cạnh các anh lái xe Trường Sơn còn có thanh niên xung phong làm đường. Hiểu như thế là đúng ý định của Tổng hành dinh quân đội ta lúc đó. Cách nguỵ trang chiến lược ấy rất tốt, làm cho kẻ địch không nắm được ý đồ chiến lược, không hiểu được quy mô của một thế trận.

Thực ra, cái tên “đoàn vận tải quân sự Quang Trung", có một từ phát lộ bí mật mà ít ai để ý: từ “Quang Trung". Tại sao không gọi là Đoàn vận tải quân sự Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo hay một vị anh hùng nào khác mà lại phải gọi là Quang Trung? ấy chỉ vì Quang Trung (Nguyễn Huệ) là vị tư lệnh, vị anh hùng duy nhất của thời phong kiến nước ta lập được tuyến đường quân sự Nam-bắc vượt Trường Sơn người đã có mệnh lệnh "thần tốc!" nổi tiếng vào năm 1789.

Tuy nhiên, cái tên "Đoàn vận tải quân sự Quang Trung" ít thấy phía Mỹ và phương Tây dùng, trừ những khi họ đưa tin theo tin tức mà ta công bố. Để chỉ tuyến đường Hồ Chí Minh, đường Trường Sơn, phía đối phương gọi là “đường mòn Hồ Chí Minh" (Ho Chi Minh Trail).
Tên gọi "Đường mòn Hồ Chí Minh" do ai, ở đâu đặt và được đặt ra khi nào? Chính là tại đây, Việt Nam, cán bộ, chiến sĩ ta đã đặt tên. Cái tên ấy có từ cuối năm 1945 khi đoàn quân Nam tiến chống thực dân Pháp.

Tháng 5-1959

Cùng với những mật danh: Đường Trường Sơn, Đường mòn Hồ Chí Minh, Đường dây Thống Nhất, Đoàn vận tải quân sự Quang Trung, Bộ đội Trường Sơn - rồi tiếp đến là Đoàn 559 - đây là một phiên hiệu khái quát nhất, ngắn nhất và cũng rất thiêng liêng vì nó ra đời ngày 19-5-1959. Càng thiêng liêng hơn khi người thay mặt Đảng trực tiếp giao nhiệm vụ là Bác Hồ. Người nhận nhiệm vụ là Đại tá Võ Bẩm.

Đằng sau các mật danh, thực chất quy mô của hệ thống Tuyến chi viện chiến lược Đường Hồ Chí Minh như thế nào xin hãy suy ngẫm từ các con số sau đây dựa trên Tập số liệu 16 năm của Bộ Tư lệnh 559:

- Quân số cao nhất ở một thời điểm: trên 20 vạn người (nếu tính số lượt người tham gia chiến đấu trên Trường Sơn thì đến trên 1 triệu).

- Số bom đạn Mỹ trút xuống Trường Sơn: hơn 3 triệu tấn, gồm bom khoan, bom phá, bom cháy; các loại mìn; các loại đạn pháo; chất độc hoá học các loại trong đó có chất độc màu da cam.

- Số cán bộ, chiến sĩ hy sinh trên Trường Sơn: gần 3 vạn.

- Số cán bộ, chiến sĩ bị thương: trên 10 vạn. .

- Số xe, máy bị đánh hỏng: 14.500 chiếc.

- Số hàng hoá bi phá huỷ: 90.000 tấn, trong đó có 703 súng, pháo. Độ dài của tuyến đường giao liên: 1.600 km. 

- Độ dài hệ thống đường ô tô “chỉ tính hệ thống đường ngang dọc trên Trường Sơn): 20.000 km, trong đó có 5 hệ thống đường trục dọc (theo chiều dài dãy núi đến Đông Nam Bộ), 21 đường trục ngang. Trong 2 vạn km ấy có 3.140 km đường kín (đường được nguỵ trang để xe chạy ban ngày).

- Độ dài tuyến cơ giới đường sông (chủ yếu là các nhánh của sông Xê Kông và Mê Kông): 600 km. 

- Đường mòn Hồ Chí Minh trên biển: 1 tiểu đoàn (tiểu đoàn 603) gồm 107 cán bộ, chiến sĩ do Đoàn 559 thành lập tại Cảng cá Thanh Khê (cách cửa sông Gianh, Quảng Bình 4 km) với mật danh "Tập đoàn đánh cá miền Nam". Sau này bàn giao cho Bộ Tư lệnh Hải quân quản lý.

- Số máy bay Mỹ bị lực lượng phòng không thiết giáp bắn rơi: 2.455 chiếc.

- Số bộ binh địch bị tiêu diệt trên Trường Sơn: 18.000 tên, bắt sống 1.190 tên.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 26 Tháng Năm, 2010, 12:26:21 pm
"Thà xước da người còn hơn sẩy da cống"

Có một bài hát của nhạc sĩ Phạm Tuyên sáng tác từ năm xưa cho tới bây giờ mà không mấy ai không thuộc, bài Chiếc gậy Trường Sơn: “thanh niên quê tôi làm chiếc gậy hành quân...". Chữ "quê tôi" trong bài hát có địa chỉ cụ thể: đấy là làng Hoà Xá, huyện Vân Đình, tỉnh Hà Tây, nơi có sáng kiến làm gậy leo núi để tặng bộ đội. Tuy nhiên, không phải đến khi có bài hát này mới có các cuộc tập leo núi. Sau Nghị quyết 15 của Ban Chấp hành Trung ương Đáng (khoá 11) và sau khi thành lập Đoàn 559, các cuộc tập leo núi đã được tiến hành ở một nơi bí mật, ấy là vùng núi phía nam tỉnh Hoà Bình-vùng địa hình na ná như Trường Sơn.

Những chiến sĩ được huấn luyện chuẩn bị vượt Trường Sơn phải giữ bí mật tuyệt đối kể cả với bố mẹ và anh chị em trong gia đình. Họ lên xe đi tập trong những chiếc xe vận tải buông kín bạt và chỉ lái xe mới được biết là đang đi đâu. Và thế là sáng sáng, chiều chiều, ở vùng núi Xuân Mai từng đoàn chiến sĩ, với chiếc gậy trong tay, nối nhau trèo núi, hết ngày này sang ngày khác.

Đoàn người đầu tiên vượt Trường Sơn gồm nửa nghìn chiến sĩ tình nguyện, được tập họp thành Tiểu đoàn giao liên vận tải 301 do đồng chí Hà Kỳ Thự phụ trách.

Bối cảnh miền Nam cuối năm 1959 là bối cảnh đầy máu lửa và sự nhảy múa của quỷ dữ. Con đường số 9 từ cảng Cửa Việt qua thị trấn Đông Hà (Quảng Trị) cắt ngang Trường Sơn, nối với thị xã Thà Khét của Lào, hoàn toàn do địch kiểm soát. Quân lính của Ngô Đình Diệm, có cả lính con gái của Lệ Xuân ngày đêm tuần tiễu. Chúng vừa nắn bóp trêu đùa nhau vừa quăng lựu đạn, bắn vu vơ vào các bụi rậm ven Đường 9. Cho đến những năm sau này, cả Trường Sơn đều là tuyến lửa nhưng chặng đường vượt qua Đường 9 vẫn là chặng đường gian nan, ác liệt.

Các chiến sĩ đầu tiên ngày ấy tập trung tại một thung lũng hẻo lánh phía tây Vĩnh Linh, gọi tên là Khe Hò. Trước khi hành quân vào Nam, họ phải bỏ lại tất cả các hiện vật có liên quan đến các lai lịch đơn vị và cá nhân: tiền miền Bắc, tem phiếu, các sổ sách có ghi các đìa chỉ ... Con đường mà họ sẽ vượt qua là phía tây tỉnh Quảng Trị đến phía tây Thừa Thiên, tuyến đường mòn của dân đi hái củi và lối mòn của voi, của thú rừng đi qua.

Vượt rừng không khó vì đã có nhân dân các dân tộc thiểu số trên Trường Sơn mà ở phía tây Quảng Trị là bà con Vân Kiều, chỉ đường dẫn lối. Đoạn khó nhất vẫn là vượt qua Đường 9. Để đảm bảo tuyệt đối bí mật, an toàn, các chiến sĩ đã tuân thủ một mệnh lệnh có vần, dễ nhớ: "ở không nhà, đi không dấu, nấu không khói, nói không tiếng". Còn khẩu hiệu để vượt Đường 9 là: "Thà xước da người còn hơn sầy da cống".

Nguyên do là đoàn chiến sĩ vượt qua Đường 9 không thể băng qua mặt đường mà phải chui qua những cái cống ngầm ở đó. Họ phải gùi những hòm đạn, hòm súng trên lưng. Dưới cống lẹt xẹt nước có rất nhiều cây xấu hổ (hay còn gọi là cây mắc cỡ), rất nhiều gai. Nếu nâng người lên để tránh gai thì các thùng hàng sẽ làm xước thành cống, để lại dấu vết, sẽ lộ. Mà ép bụng xuống thì gai cây xấu hổ sẽ xé áo rách da. Thế là các chiến sĩ ta dũng cảm chọn cách thứ hai.

Chuyến hàng đầu tiên chưa phải là vào Nam Bộ mà là tới Thừa Thiên, phía tây huyện Phong Điền. Chuyến hàng xuất phát ngày 13-8-1959, tới đích ngày 21-8 cùng năm. Số vũ khí vận chuyển đầu tiên mang tiến công thăm dò, số lượng rất ít ỏi, bao gồm 20 khẩu tiểu liên (loại Tuyn), 20 khẩu súng trường (Mát), 10 thùng đạn. Đồng chí Bí thư huyện Phong Điền tiếp nhận lô vũ khí đầu tiên từ miền Bắc gửi vào đã ôm lấy bó súng mà reo lên: "Cách mạng đây rồi! Chính quyền đây rồi!".

Cũng vào tháng 5-1959, Bộ Quốc phòng còn quyết định thành lập Đoàn B90 tăng cường cho Liên khu 5. Đoàn B90 gồm 25 cán bộ, chiến sĩ đã vượt thượng nguồn sông Bến Hải để khai đường, mở lối, nối hai chiến trường miền Trung và Nam Bộ. Các đơn vị giao liên, vận tải, gùi thồ kế tiếp được thành lập ngày càng nhiều, ngày càng đông. Chặng đường gùi thồ kéo rất dài, rất dài.

Từ năm 1959 một phương thức mới, lại rất hiện đại: vận chuyển bằng cầu hàng không. Những chiếc máy bay cánh quạt Liên Xô vận chuyển hàng cho Lào, kết hợp vận chuyển cho ta. Những chiếc Li-2 thả dù hàng xuống phía bắc và nam Đường 9. Đội quân gùi thồ đỡ được một đường, lại gùi tiếp, thồ tiếp. Phải nói thêm rằng việc thả hàng từ máy bay Li-2 cũng chỉ được một số chuyên thôi. Công cuộc gùi thồ tiếp tục kéo qua các năm 1963, 1964.



Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 26 Tháng Năm, 2010, 12:26:28 pm
Từ năm 1963, ta đã bắt đầu dùng ôtô vận chuyển từng đoạn. Những văn bản nói lên chủ trương của những năm ấy có ghi "kết hợp cơ giới với gùi thồ", nhưng số phương tiện chiến đấu vận chuyển bằng gùi thồ vẫn chiếm tỷ trọng lớn. Vận chuyển cơ giới đáng kể là từ mùa khô 1963- 1964.

Do xuất hiện việc vận chuyển bằng cơ giới nên một mặt hàng cần thiết cung cấp cho ôtô trên đoạn đường tây Quảng Trị-Thừa Thiên là xăng dầu.

Dưới gầm trời này không có một nơi nào vận chuyển xăng dầu như ở Trường Sơn. Bộ đội khiêng và vác các thùng phuy xăng qua đèo, qua suối. Người ta bắc các máng từ đỉnh núi xuống chân núi, đổ xăng rồi hứng ở dưới, như thể hứng nước.

Cái kỳ lạ nhất là gùi xăng trên lưng. Người ta cho nilông vào trong ba lô rồi đổ xăng vào, buộc chặt và gùi. Một ba lô xăng nhẹ hơn nhiều so với một ba lô đạn, mà dường như lại nặng hơn gấp bội: ba lô xăng lại cọ vào da gây bỏng da lưng, ấy là chưa nói đến sự nguy hiểm. Băng qua các vạt lửa do dân đốt nương, do đạn pháo của giặc bắn, mỗi chiến sĩ gùi xăng đều có thể biến thành một cây đuốc sống. Chỉ có anh bộ đội Cụ Hồ mới làm được những việc như vậy.

Cho đến mãi những năm 1967- 1968, khi từng đoàn ô tô cỡ tiểu đoàn, trung đoàn rồi sư đoàn xẻ dọc Trường Sơn thì đội quân gùi thồ vẫn còn tồn tại. Chừng ấy năm họ đã gùi những gì trên vai mình? Đủ các thứ: đạn cối, tên lửa loại nhỏ, vàng bạc, ngoại tệ, máy móc, chữ chì của nhà in, thuốc men, công văn, thư từ. Khi có đội quân cơ giới rồi thì trên lưng người là những mặt hàng quý hiếm, cần độ an toàn cao.

Cuối năm 1964, "Chiến tranh đặc biệt" của Mỹ thất bại hoàn toàn và đến năm 1965, bộ binh Mỹ phải ồ ạt đổ bộ vào miền Nam thì Bộ đội Trường Sơn gùi các trận đánh trên vai mình. Lối mòn của người chiến sĩ gùi thồ ngoằn ngoèo vắt qua hệ thống hàng trăm ngọn núi lớn nhỏ của Trường Sơn cũng là tuyến đường giao liên chuyển quân nối hai miền Nam-bắc.

Đã đến lúc bộ Từ điển tiếng Việt phải bổ sung một số định nghĩa để thế hệ sau hiểu rõ về các cuộc chiến tranh đã qua. Ví dụ:

- Trạm giao liên: Là nơi đón các đoàn bộ đội hành quân. Mỗi trạm thường cách nhau từ 6 đến 8 giờ đi bộ, nếu là đường đèo thì thường cách nhau một con đèo.

- Bãi khách: Là cánh rừng bộ đội nghỉ qua đêm có sẵn cây cối để buộc võng và gần suối nước để tiện nấu ăn.

- Dốc ba thang: Dốc dựng đứng, phải dùng ba đoạn thang (gỗ hoặc dây) mới có thể qua được...). 

Năm 1970, tôi có gặp một chiến sĩ gái trên tuyến giao liên, cô tâm sự: “em cứ tưởng Trường Sơn là một quả núi thật to, trèo lên đến đỉnh là nhìn thấy miền Nam. Nào ngờ Trường Sơn nhiều núi thế, đi mấy tháng mà không hết núi". Một anh hoạ sĩ trên đường giao liên nói: "Núi trên Trường Sơn nhiều như số gai mít trên vỏ quả mít", nghe buồn cười nhưng cũng đúng.

Những năm đầu khi đường giao liên thuần tuý là "đường mòn", chưa được cải tạo đi bộ từ Quảng Bình đến Đông Nam Bộ phải mất khoảng 5 tháng, có khi tới 6 tháng. Chặng sau, đường tốt, khoảng cách ấy cũng phải đi bộ tới 3 tháng. Vừa sốt rét vừa đi với đôi chân sưng tấy và đôi vai bỏng rát vì mang vác có chiến sĩ phải kêu lên: "Cho tôi bay vào Nam đánh giặc, tung hoành lửa đạn chết cũng được, chứ đi bộ thế này thì khổ quá".

Tuy gian khổ, nhưng các chiến sĩ giao liên Trường Sơn và bộ đội hành quân qua Trường Sơn không ít những niềm vui. Mỗi một ngày đi bộ đều có cái gì khấp khởi chờ đợi ở phía trước.

Chẳng hạn Trạm giao liên T8 là trạm có con chồn bay. Con chồn bay to như con mèo nhưng có cánh như con dơi, thịt nó ăn mềm mà thơm. Chẳng biết tại sao cánh rừng ở Trạm T8 nhiều chồn bay đến vậy. Ngày nào bộ đội cũng bắn được chồn bay để ăn thịt mà không hết. Không biết chúng ở đâu bay đến. Khi hoàng hôn đổ sập xuống cánh rừng già, những con chồn bay từ các ngọn cây cao buông mình rơi xuống rồi xoè hai cánh chao liệng một vòng và đậu đâu đó ở một lùm cây khác, tiếng kêu khe khẽ mà nhọn như tiếng kim khí.
Hay như ở Trạm 21 rất nhiều thỏ rừng. Chỉ trông thấy chúng lướt qua chứ ít khi bắt được. Niềm vui của chiến sĩ giao liên đôi khi chỉ đơn giản là ở trạm trước mặt có mấy cô nuôi quân cực kỳ xinh đẹp.

Trong số các cán bộ, chiến sĩ được phong Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, có chiến sĩ giao liên Nguyễn Viết Sinh. Nếu cộng độ dài mà anh đã đi lại nhiều lần trên Trường Sơn thì tổng chiều dài bằng hơn một lần đi quanh quả đất.

Đường giao liên Trường Sơn đã đưa đón nhiều triệu lượt người (cả bộ đội và cán bộ các ngành, các địa phương, phụ nữ và trẻ em ra vào hai miền Nam- Bắc). Cho đến bây giờ, sau hơn 40 năm, không biết có đoạn nào trên vệt đường dài dằng dặc ấy còn nguyên vẹn hay không.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 26 Tháng Năm, 2010, 12:28:30 pm
Những câu chuyện mà các nhà chế tạo bom đạn của Mỹ nên biết

Tại chương "Cái giá của cuộc chiến tranh" trong bộ Sử biên niên quốc tế của cuộc chiến tranh Việt Nam, trang 358, các tác giả đã công bố hàng loạt số liệu. Số sĩ quan và binh lính Mỹ của bốn quân chủng từ tháng 8- 1964 đến tháng 1-1973 có 8.744.000 lượt người Mỹ tham chiến. Cũng chừng ấy năm họ tiêu tốn tới 150 tỷ USD tại Việt Nam.

Họ không công bổ tổng số máy bay Mỹ các loại bị bắn rơi nhưng có đưa ra con số máy bay trực thăng Mỹ bị mất tại Việt Nam là 4.865 chiếc. Số lượng bom Mỹ sử dụng trên Đường mòn Hồ Chí Minh (hình như con số này thấp hơn sự thật rất nhiều-PTD) là 2.236.000 tấn bom. Các tác giả Mỹ nói rằng nếu cộng cả số bom Mỹ đánh xuống miền Bắc thì gấp bốn lần số bom trong Chiến tranh Thế giới thứ hai.

Tôi đã từng là người trong cuộc của các trận bom Mỹ ném xuống các vùng đất khác nhau của miền Nam: Thừa Thiên, Tây Quảng Đà, Tây Ninh, Củ Chi (ngoại thành Sài Gòn). Và cũng chứng kiến các trận bom Mỹ ném xuống Hà Nội, Hà Bắc, Phú Thọ và các tỉnh thuộc Khu Bốn cũ. Cuộc chiến tranh giữa trên không và mặt đất không đâu giống như ở Trường Sơn. Dường như, cuộc hợp đồng tác chiến giữa các loại máy bay trên Đường mòn Hồ Chí Minh, Mỹ tiến hành công phu, bài bản hơn cả.

Phải chăng Mỹ hoàn toàn nắm thế chủ động, làm chủ hoàn toàn bầu trời Trường Sơn?

Có những buổi trưa, nằm trên bãi cỏ, tôi nhìn bầu trời thấy tầng cao, tầng thấp máy bay Mỹ và ao ước ở đâu đó của mạn Quảng Bình có được mấy cái sân bay cho máy bay MIG của ta thì tốt biết bao. Ngoài kia, xa quá. Nhưng không phải hoàn toàn như vậy.

Theo cách phân tích của Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên thì không quân Mỹ dù áp đảo trên không, song sức mạnh có hạn, tập trung đánh trọng điểm này thì giảm hoặc bỏ trọng điểm khác. Tập trung đánh đêm thì giảm ngày và ngược lại, ấy là chưa kể thời tiết xấu không hoạt động được. Tổng kết lại 24 giờ trong ngày, máy bay Mỹ chỉ hoạt động được từ 3 đến 4 giờ. Người thực sự làm chủ dưới mặt đất là Bộ đội Trường Sơn.

Bằng tin tức tình bảo chiến lược, chiến thuật và thiết bị kỹ thuật của chúng ta, hằng ngày, tại Bộ Tư lệnh 559, họp giao ban có thể dự đoán được số lượng máy bay chiến đấu của Mỹ chuẩn bị tác chiến ở Việt Nam. Tại các sân bay của Mỹ trên đất Thái Lan: Utapao, Đôn Mường, có bao nhiêu chiếc B52 đã mắc bom, bao nhiêu chiếc đã bơm đủ xăng dầu... Tình hình di chuyển của các hàng không mẫu hạm Mỹ, tình hình các địa điểm mà máy bay Mỹ tập trung trinh sát...

Có thể nói, một trong những lý do mà không quân Mỹ tác chiến kém hiệu quả là vì ta nắm được khá chính xác ý đồ chiến lược, chiến thuật của Mỹ. Cùng với việc nắm chắc diễn biến thời tiết hằng ngày ở cả Đông và Tây Trường Sơn, chúng ta có thể dự báo đúng ý đồ của không quân Mỹ. Cũng có khi chúng ta dự báo đúng cả nơi đánh, giờ đánh và quy mô đánh của Mỹ.

Các sĩ quan tham mưu của quân đội ta, từ sĩ quan tham mưu của Bộ Tổng tham mưu đến ban tham mưu của Bộ tư lệnh 559, là những người phân tích trận chiến tuyệt vời. Không chỉ có các tướng lĩnh và sĩ quan tham mưu mà mỗi chiến sĩ Trường Sơn đều có cái đầu tham mưu như thế. Nghe cánh đuôi bom của Mỹ từ không trung xé gió, chiến sĩ Trường Sơn đoán biết đấy là loại bom gì và nó sẽ nổ cách mình bao xa. Nghe tiếng động cơ máy bay, các chiến sĩ có thể biết là nó chở nặng hay nhẹ, còn bom hay đã trút hết bom.



Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 26 Tháng Năm, 2010, 12:28:37 pm
Trong số các chiến sĩ của Tiểu đoàn 2 Công binh, đơn vị anh hùng, có một chiến sĩ học dở dang năm thứ hai Đại học Mỹ thuật công nghiệp, quê ở Thái Bình. Tên anh là Phùng Hoàng Nam. Anh đã từng cho tôi xem các ký hoạ của mình vẽ các loại bom mìn của Mỹ ném xuống Trường Sơn.

- Làm sao cậu có màu để vẽ thế này, mang ở Hà Nội vào à? -Tôi hỏi.

Phùng Hoàng Nam đáp:

- Không. Hôm qua ở Phanốp (một địa danh gần Song Phan, thuộc tỉnh Khăm Muộn, Trung Lào) có một chiếc xe bị đánh hỏng, trên xe chở toàn văn hoá phẩm, có rất nhiều bột màu và sơn dầu.

Chỉ vào mấy bức ký hoạ, Nam nhận xét:

- Phải công nhận cái tài tạo dáng công nghiệp của các nhà chế tạo vũ khí Mỹ. Không biết khi chế tạo, các kỹ sư Mỹ có biết là sẽ đem dùng những thứ bom mìn này tại Việt Nam không mà họ toàn lấy hình thù các trái cây nhiệt đới để tạo dáng.

Tôi ngắm nhìn. Đúng là như vậy. Này là bom bi hình quả dứa, quả ổi, quả bom này giống hình quả bầu, quả bom kia giống chính quả dưa hấu. Trông vẻ đẹp của bom đạn mà thấy gai người. Phải lạnh lùng trước sự sống của con người đến thế nào, máu phải lạnh mới đủ bình tĩnh tỉa tót cho các dụng cụ giết người man rợ ấy.

Có một vài loại bom mìn hình như Mỹ chỉ sử dụng ở Trường Sơn. Ví dụ như mìn vướng. Nó giống hệt loại bom bi hình quả ổi. Quả bom mẹ rơi nổ trên không trung làm văng xuống đất hàng trăm quả bom con, mỗi quả có đường kính khoảng 6 cm. Khi rơi xuống đất chừng mấy chục giây, từ xung quanh cái quả nổ ấy văng ra những cái lò xo, kéo theo các sợi dây mảnh màu xanh lá cây. Nếu người đì qua gạt phải cái dây là mìn nổ. Tất cả những điều này nằm trong sự tính toán của các nhà chế tạo Mỹ.

Chỉ tình tiết sau đây là Mỹ không biết: các sợi dây mìn vướng là một loại chỉ khâu rất đẹp, rất bền. Nhiều chiến sĩ công binh đã lấy dây mìn vướng tặng người yêu của mình. Cách lấy dây mìn vướng rất dễ. Chỉ cần vào bãi bom với một cái bật lửa. Tất nhiên, phải rất tinh mắt vì các sợi chỉ ấy mảnh lắm, rất khó thấy, gạt vào là nổ ngay. Chớ chạm tay vào mà chỉ dùng bật lửa đốt ở hai đầu, lấy đoạn giữa. Mỗi sợi chỉ của mìn này dài đến 8 mét, tha hồ mà khâu vá. Tuy nhiên, việc đi lấy dây mìn làm chỉ khâu bị các cấp chỉ huy nghiêm cấm. Dù cẩn thận đến đâu cũng mất an toàn. Vào những đêm gió Trường Sơn, người ta thấy tiếng nổ liên tiếp của mìn do các cành cây gạt nổ, ấy vậy mà có chiến sĩ lấy được từng cuộn dây mìn to bằng cuộn chỉ lớn. Tình yêu trai gái được kết nối bằng loại dây mìn này chắc là bền vững lắm.

Còn một loại mìn nữa chỉ Trường Sơn mới có là mìn lá. Đấy là những cái gói nhỏ bằng vải, giống hệt những cái băng y tế cá nhân, nhỏ hơn bao thuốc lá. Trong bọc vải là bột thuỷ tinh trộn với thuốc nổ và một loại chất độc nào đó: Chỉ cần giẫm chân lên là mìn nổ, tiếng nổ chỉ bằng tiếng pháo tép. Người giẫm phải mìn lá bàn chân bi xé rách. Phải cắt cụt nhanh chóng, để thuốc mìn ngấm vào sẽ hoại thư mà chết.

Tôi đã từng đi bộ, lột qua trọng điểm La Hạp (đất Lào, phía Tây Thừa Thiên, ngã ba của Đường B41 và Đường 128) cùng một đồng chí đội trưởng công binh. Chúng tôi giẫm lên bước chân của nhau mà đi. Mỗi người ôm một cái mũ cối để ngửa, vừa đi vừa nhặt mìn lá, bỏ vào mũ. Đi hết trọng điểm thì hai cái mũ đã đầy ắp các gói chết chóc. Chúng tôi đặt hai cái mũ thật nhẹ nhàng vào một nơi rồi quay lui mấy bước, rút súng bắn. Một bưng khói lớn bốc cao. Hai cái mũ đi tong, tiếc ngẩn người.

Nghe những chuyện này, có người sẽ cho rằng các chiến sĩ Trường Sơn rất táo gan, chẳng sợ gì bom đạn Mỹ. Không hoàn toàn thế đâu. Có những lúc rất sợ. Chẳng hạn câu chuyện sau đây:

Một hôm vào mùa khô 1969- 1970, tôi đi cùng một đoàn xe tải của Tiểu đoàn 102, đơn vị anh hùng. Tôi là phóng viên mặt trận. Anh lái chính tên Thủy, người Thái Bình. Anh lái phụ tên Mẫn, quê Thanh Hóa. Dọc đường, xe của chúng tôi bị địch đánh cháy... Chỉ còn một cách là băng rừng, tìm đến trạm giao liên gần nhất để về đơn vị. Suốt đêm quần nhau với giặc, vừa đói, vừa mệt. Chúng tôi thèm thuốc lào. Trong túi có thuốc, có lửa mà không có điếu. Bỗng giữa rừng chúng tôi thấy một hố nước to bằng cái nong. Mẫn reo lên:

- Điếu bát đây rồi! -Tôi nghe mà không hiểu.

Mẫn ngồi sụp xuống, chúng tôi ngồi theo. Mẫn lấy nước nhào đất, đắp thành một cái ụ rỗng rồi cho nước ở cái hố to chảy vào. Thế là thành cái điếu bát. Lấy lá cây cuộn vào làm xe điếu ... Chúng tôi hút ngon lành và thở khói trắng bay mờ mịt trên cái hố nước yên tĩnh.
Hút đã rồi chúng tôi đi tiếp. Mới đi được chừng ba chục mét thì một tiếng nổ lớn hất cả ba ngã nhào. Ngoảnh lại, thấy một cột khói bom và đất đá rụng rào rào như mưa. Thì ra cái hố nước kia là một hố bom nổ chậm bị nước mưa che phủ. Qua bao nhiêu bom đạn không thấy sợ mà lần ấy thấy sợ. Bây giờ nghĩ lại vẫn thấy gai người. Ai đời châm lửa vào đuôi bom mà hút thuốc bao giờ.

Bom Mỹ đã làm thay hình đổi dạng sông núi Trường Sơn. Có những quả núi biến thành núi bột, chỉ cần mưa xuống, núi sẽ hoá thành dòng sông bùn.

Những thân cây cổ thụ, ba bốn người ôm, bom làm thân cây cổ thụ to cỡ ấy giập nát như tăm.

Thuốc độc hóa học của Mỹ làm từng cánh rừng đại ngàn rụng lá.

Không biết có bao nhiêu loại chất độc hóa học Mỹ rải trên Trường Sơn? Cho đến tận bây giờ, thuốc độc Mỹ vẫn để lại bao di họa. Nhiều phụ nữ không thể sinh đẻ được. Nhiều đứa trẻ dị dạng, khuyết tật.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 26 Tháng Năm, 2010, 12:29:48 pm
Sở Chỉ huy của Bộ Tư lệnh 559 đóng ở đâu?

Bộ Tư lệnh Đường mòn Hồ Chí Minh (559) đã trải qua nhiều thời, nhiều đồng chí cán bộ cao cấp của quân đội ta được phân công phụ trách suốt chặng đường 16 năm chiến tranh (1959- 1975), nhưng vị Tư lệnh có thâm niên lâu nhất, ở chặng đường ác liệt nhất là đồng chí Đồng Sĩ Nguyên.

Sau chiến tranh, anh đã từng tham gia nhiều công việc khác nhau của Chính phủ: Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải, Bộ trưởng Bộ Xây dựng, Phó Thủ tướng Chính phủ-ủy viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam. Hiện nay, anh là chuyên viên cao cấp của Chỉnh phủ.
Trước khi vào Trường Sơn nhận chức vụ Tư lệnh 559, anh Đồng Sĩ Nguyên đã từng đảm nhận các chức vụ: Cục trưởng Cục Dân quân, Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân tình nguyện Trung- Hạ Lào, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần, Phó Tổng Tham mưu trưởng, Chính ủy Quân khu IV, Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần tiền phương.

Anh Đồng Sĩ Nguyên có dáng người to cao và có nhiều cử chỉ, thói quen điển hình của một người được đào tạo chính quy ở Học viện quân sự: mạch lạc, dứt khoát, không có cử chỉ thừa.

Trong một cuộc chiến tranh lớn, muốn thắng lợi phải cần đến các vi tướng giỏi. Nhưng một vi tướng dù tài đến mấy cũng không thể làm nên chiến thắng. Trước hết phải nói đến cơ quan đầu não chỉ huy cuộc kháng chiến là các đồng chí lãnh đạo hàng đầu của Đảng, của Nhà nước và quân đội ta. Tôi cứ nhớ mãi câu nói của Thủ tướng Phạm Văn Đồng vào năm 1970. ấy là khi đồng chí tiếp một số nhà thơ được giải thưởng cuộc thi thơ của Tuần báo Văn nghệ, trong đó có tôi chị Phan Thị Thanh Nhàn và anh Bế Kiến Quốc. Cuộc gặp còn có nhà thơ Chế Lan Viên và thư ký riêng của Thủ tướng là anh Trần Việt Phương. Thủ tướng Phạm Văn Đồng sau một hồi tư duy, trầm ngâm nói:

- Tôi chỉ có khoảng ba mươi phần trăm thì giờ để làm công tác Thủ tướng. Bảy mươi phần trăm thì giờ là để cùng Bộ Chính trị suy nghĩ về đánh giặc.

Rồi Thủ tướng Phạm Văn Đồng hỏi tôi về sức khỏe của đồng chí Đồng Sĩ Nguyên, sau đó ông nhắm mắt, khẽ gật đầu mấy lần và thốt lên:

- Đấy là một người thật có tài, thật có tài!

Kể lại câu chuyện này, tôi chỉ muốn nói rằng, các đồng chí lãnh đạo hàng đầu của đất nước quan tâm thế nào đến tuyến đường mang tên Bác, bên cạnh các đồng chí trực tiếp lãnh đạo của Bộ Tổng tư lệnh đêm ngày theo dõi mọi diễn biến trên Trường Sơn. Về những điều này, các tổng thống Mỹ thời ấy và các tướng lĩnh Mỹ đều biết rất rõ. Nhưng guồng máy trực tiếp quyết đáp hằng ngày trên Trường Sơn là Bộ Tư lệnh 559 thì Mỹ biết rất muộn và rất ít chuẩn xác.

Mùa khô 1968- 1969, Sở chỉ huy của Bộ Tư lệnh 559 đóng tại xã Cổ Giang, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình, nơi đầu Đường 20. Địa điểm ấy được thiên thời, nhân hòa, nhưng địa không lợi. Sở chỉ huy ở hơi xa các trục đường huyết mạch. Tư lệnh Đồng Sĩ Nguyên, sau khi nghiên cứu địa thế, đã dời Sở chỉ huy đến một ngôi làng kề bến phà Xuân Sơn. Nói tới phà Xuân Sơn là nói tới một trọng điểm lửa vô cùng ác liệt trên quốc lộ 20.

Trong một cuộc họp quan trọng bao gồm các thành viên chủ chốt của Sở chỉ huy, có nhiều ý kiến không tán thành. Được Chính ủy đồng ý, Tư lệnh quyết định lập tức làm công sự và di chuyển Sở chỉ huy đến gần Xuân Sơn. Một quyết định táo bạo. Nhưng rồi thực tế chứng minh quyết định của Tư lệnh là đúng.

Từ vùng ngã ba kề Xuân Sơn là điểm bắt đầu của Đường 20 nối với Đường 15 “tọa độ lửa". Tại đây, Sở chỉ huy của Bộ Tư lệnh nắm tình hình một cách chặt chẽ hơn trước, các quyết đáp cần triển khai được thực hiện nhanh chóng hơn. Và cán bộ, chiến sĩ thuộc Bộ Tư lệnh sau đó đều hiểu rõ: đây là một cử chỉ mà Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên muốn thử thách và đào luyện cán bộ; cần phải gan góc trước mọi khó khăn, xóa tan tâm lý hoảng sợ trước sức mạnh vũ khí của địch.

Sự kiện dời Sở chỉ huy ra gần phà Xuân Sơn chính là giành yếu tố bất ngờ, độ an toàn cao hơn. Mỗi ngày, máy bay Mỹ hàng chục lần xuất kích ném bom bắn phá xuống Xuân Sơn. Tầm lượn của máy bay bao quát tất cả các cơ quan của Sở chỉ huy. Nhưng phi công Mỹ đã có mục tiêu sẵn, chỉ dán mắt vào con phà mà không nhìn thấy gì khác. Từ đó khi chuyển sang Tây Trường Sơn trên đất bạn Lào, một Sở chỉ huy dưới địa đạo hiện đại nhất, cũng đóng ngay bên “tọa độ lửa”.

Vào chặng cuối của cuộc kháng chiến, Sở chỉ huy của Bộ Tư lệnh 559 còn trú đóng ở một địa điểm nữa tại phía Đông Trường Sơn, bên bờ sông Bến Hải, xã Gio An, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị. Các địa điểm khác của Sở chỉ huy đều đặt ở phía Tây Trường Sơn, trên đất Bạn.
Có thể nói rằng, cho tới khi chiến tranh kết thúc, chưa bao giờ phía Mỹ tìm được vị trí Sở chỉ huy của Bộ Tư lệnh Trường Sơn. Nói chính xác thì có hai lần bom Mỹ rơi xuống Sở chỉ huy của Bộ Tư lệnh 559 nhưng cả hai lần đều là ngẫu nhiên. Thượng tướng Đinh Đức Thiện đã nói về sự kiện này: “bọn Mỹ đi mò cua nhưng lại suýt bắt được ếch mà chúng không biết".

Giữ được bí mật của Sở chỉ huy là một việc không dễ. Sở chỉ huy của Bộ Tư lệnh 559 có quy mô như bộ khung của một tổng cục. Ngoài trụ sở của Đảng ủy và Bộ Tư lệnh còn có các Cục: Chính trị, Tham mưu tác chiến (phòng không và mặt đất), Tham mưu vận chuyển (vận chuyển xăng dầu, vận chuyển thô sơ, cơ giới đường bộ, cơ giới đường thủy), Công binh (xây dựng và sửa chữa cầu đường, tháo gỡ bom mìn), Hậu cần và các cơ quan khác như Thông tin, Hành chính. Cơ quan đông người, phạm vi đóng quân rộng, phương tiện, khí tài nhiều... mà hàng chục năm trời, địch không phát hiện ra, không bị đánh trúng; vừa bảo vệ được mình, vừa đánh thắng địch, phải nói là một sự kiện lịch sử kỳ diệu, một chiến công tuyệt vời của Bộ Tư lệnh 559-trong đó được đúc kết bằng sự tài giỏi, khôn khéo, dũng cảm của người chỉ huy, của cán bộ, chiến sĩ Trường Sơn và điều quan trọng là có công lao chăm sóc, đùm bọc, che chở của nhân dân, của đồng bào các dân tộc.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 26 Tháng Năm, 2010, 12:30:44 pm
Binh trạm và trọng điểm lửa

Cho tới những năm cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Bộ Tư lệnh Trường Sơn đã quyết định giải tán các binh trạm để lập thành các sư đoàn, kịp ứng phó với mọi diễn biến của chiến tranh. Nhưng đến nay, khi Bộ Tư lệnh 559 đã giải thể thì Ban liên lạc của các binh trạm khi xưa vẫn hoạt động. Vậy thực chất binh trạm là gì? Ai là người đầu tiên sáng tạo ra các binh trạm dọc dài theo đất nước?

Trong lịch sử chiến tranh có những tuyến đường quân sự nổi tiếng: Đường vận chuyển quân lính trong bụng con ngựa gỗ khổng lồ vào thành Tơroa; đường vận tải qua hồ Lađơga đóng băng của Liên Xô bảo vệ thành phố Lêningrát; “con đường xanh" của Stalin xuyên dọc châu Âu đánh vào sào huyệt của phát xít Đức...

Nhưng tuyến đường Trường Sơn có hai sự độc đáo. Một là, thời gian tồn tại của tuyến đường dài hơn mọi tuyến đường chiến tranh ở bất kỳ nơi đâu trên thế giới. Hai là, tuyến đường Trường Sơn là một chiến trường trọng yếu và là một căn cứ hậu phương chiến lược cho chiến trường ba nước Đông Dương.

Tôi không thật rõ ai là tác giả của việc lập các binh trạm đầu tiên trên Trường Sơn thời chống Mỹ, nhưng từ "binh trạm" thì đã có ở nước ta từ lâu rồi. Thời Quang Trung đã thành công trong đợt hành quân thần tốc từ Nam ra Bắc dẹp giặc ngoại xâm năm 1789. Hệ thống binh trạm thời bấy giờ là tuyến đường chạy từ trung tâm của Vua Tây Sơn-ấp Bình Sơn, huyện Bình Khê, tỉnh Bình Định. theo dọc đường ven biển ra Bắc, có một số đoạn đi qua dãy Trường Sơn. Trạm U Bò là một trạm của Quang Trung đã trùng với hệ thống trạm giao liên Trường Sơn.

Về mặt biên chế, các binh trạm của Bộ đội Trường Sơn được tổ chức theo "biên chế mềm", nghĩa là tùy theo yêu cầu của mỗi nơi mà tổ chức lớn hay nhỏ. Một binh trạm cỡ trung bình có quy mô như một trung đoàn. Những binh trạm lớn hơn có quy mô như một lữ đoàn. Đại thể, mỗi binh trạm có khoảng 2 tiểu đoàn ôtô, 1-2 tiểu đoàn công binh, 1 đại đội hoặc 1 tiểu đoàn thanh niên xung phong, 1-2 tiểu đoàn pháo cao xạ, 1 đại đội thông tin, 1 tiểu đoàn bốc vác và các khu kho (vũ khí, đạn dược, lương thực, thực phẩm...), 4-6 trạm giao liên chuyển quân gồm các trạm giao liên và các cung đường giao liên.

Trước đây, các quốc lộ nối Việt Nam với Lào ở miền Bắc có mấy con đường chính: Đường 217 nối Thanh Hóa với Sầm Nưa, đường số 7 nối Nghệ An với Cánh Đồng Chum-Xiêng Khoảng, đường số 8 nối Hà Tĩnh với Bo ly Khăm xay, đường số 12 nối Quảng Bình với tỉnh Khăm Muộn. Quốc lộ duy nhất mà chúng ta sử dụng vào Tuyến chi viện chiến lược là đường số 12. Binh trạm làm nhiệm vụ vượt đỉnh Trường Sơn ở Cổng Trời - kề gần Đồn biên phòng Cha Lo mang theo tên đường: Binh trạm 12.

Cái tên “trọng điểm” là do ta đặt ra. Mỹ thì gọi là các "Điểm tắc". Muốn tạo ra một trọng điểm, không quân Mỹ dùng pháo đài bay B-52 ném bom rải thảm liên tục xuống nơi đó nhằm “bẻ gãy" hết các con đường và làm thay đổi cả địa hình. Sau đó, cho máy bay cường kích liên tục oanh tạc.

Cho tới đầu những năm 70, thế kỷ XX việc tạo ra những trọng điểm được các nhà quân sự Mỹ tiến hành một cách bài bản hơn: dùng bom cháy, bom hóa học phát quang; dùng B-52 thay đổi địa hình; ném bom nổ chậm, bom từ trường, bom bi không cho bộ đội ta sửa đường, rải các loại mìn: mìn cóc, mìn vướng, mìn lá... đế ngăn chặn công binh ta gỡ bom nổ chậm; gài các loại vũ khí trinh sát - như cây nhiệt đới - một loại máy thu phát và đo đạc tự động trông giống như một cái cây xương rồng không gai - ở hai đầu trọng điểm. Ấy chỉ là mưu mẹo của Mỹ mà chiến tranh thì không có điều nào gọi là đơn giản cả.

Điều mà phía Mỹ phán đoán nhầm liên miên trong cuộc chiến tranh là từ sự chủ quan: khả năng sử dụng lối đánh hiện đại và tổng hợp của quân đội ta. Ví dụ như về lý thuyết thì không có cách gì có thể làm đường ống dẫn xăng vượt qua trùng điệp các dãy núi hàng ngàn cây số. Trùng điệp các trọng điểm lửa mà Mỹ ngăn chặn đêm ngày, làm sao đưa xe tăng, đưa tên lửa và các loại vũ khí khác vào được miền Nam... Và ở đây trọng điểm, nếu chỉ tháo gỡ bom mìn bằng tay, nếu chỉ làm đường bằng cuốc xẻng thì làm sao khai thông các trọng điểm nhanh chóng. Vậy mà phía Mỹ lại đánh nhau theo các chương mục viết trong sách giáo khoa. Người lính thường mà nhiều kinh nghiệm cũng có thể biết được cách sắp xếp, bài bản của Mỹ.

Mỗi khi máy bay Mỹ rải mìn vướng, mìn lá xuống đâu thì y như rằng, ngày hôm đó tại địa điểm ấy tạm yên.

Chưa dứt tiếng máy bay, đã thấy tiếng gầm rú của nhiều xe bọc thép phóng từ của công binh lao vào các bãi bom. Bom mìn nổ rền như thể lại có một đợt bom B-52 mới. Khói bom chưa tan, từ trong các khe núi, góc rừng, từng đoàn máy ủi, máy xúc và trên xe là các chiến sĩ đội mũ sắt, mặc áo giáp lẫm liệt tiến ra trọng điểm. Những đoạn đường cũ, những đoạn đường mới dù còn lô mô đất đá trộn sắt thép nhưng dẫu sao cũng vẫn hiện ra.

Trong chiến tranh, bất kỳ ở đâu cũng có kẻ bạo, người nhát. Nhút nhát vốn dĩ không phải là lỗi lầm mà do khí chất của mỗi người, nhưng khi đối mặt với cam go phải quyết đoán thì cái nhát rất dễ biến thành cái hèn. Những kẻ hèn nhát như thế, ở Trường Sơn chắc là cũng có nhưng rất ít. Cái quả cảm làm cho cái thấp kém gượng dậy mà biến cải...


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 26 Tháng Năm, 2010, 12:32:29 pm
Trường Sơn người cũ giờ này ở đâu?

Nếu như câu hỏi ấy, Trường Sơn người cũ giờ này ở đâu? chỉ để nói đến người của một tờ báo mặt trận tên là Trường Sơn thì câu trả lời đã khó nhưng không khó lắm. Nếu "người cũ” là hàng triệu lượt người ngày nào đã gặp nhau, cùng chiến đấu những năm gian khó thì câu hỏi ấy chỉ là một tiếng vọng thật dài.

Ở vào chặng đường trước năm 1968, Bộ Tư lệnh 559 chỉ có một tờ tin in rônêô với cái tên nghe như tên một vở chèo: “Hoa thắm Trường Sơn”. Người làm tờ tin ấy là một sĩ quan chính trị, anh đã về hưu với quân hàm đại tá. Còn tờ báo in ti pô ra đời từ cuối năm 1968 do một nhà báo chuyên nghiệp, nguyên là Trưởng phòng Quân sự báo Quân đội nhân dân tăng cường cho Trường Sơn, làm Tổng biên tập. Tên anh là Lục Văn Thao. Thời chống Pháp, anh Thao làm ở báo Quân đội nhân dân và đã có những năm tháng sống cùng với nhà văn nổi tiếng Nguyễn Huy Tưởng.

Cũng ở báo Quân đội nhân dân tăng cường cho tờ Trường Sơn, còn có hai phóng viên nữa là Như Phong và Xuân Hội. Sau chiến tranh có lẽ các anh đã về quê, đồng đội cũ không ai được gặp. Nhà báo Phương Nam, phóng viên quân sự của bảo Tiền phong tăng cường cho tờ Trường Sơn thì đã bị bom, hy sinh ngay tại tòa soạn.

Còn một nhà báo nữa, vốn là cán bộ của Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam, sau chiến tranh về làm ở tạp chí Văn nghệ quân đội là nhà báo, nhà thơ Duy Khán. Anh đã từng có một tập văn xuôi hay đến mức khó ngờ là tập Tuổi thơ im lặng đã được giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam. Rất tiếc do bệnh trọng, anh đã mất cách đây nhiều năm.

Cùng làm báo Trường Sơn, chúng tôi còn có nhà văn Lê Lựu. Khi vào với Trường Sơn anh mới có một tập truyện ngắn trình làng là tập Người cầm súng. Nay thì Đại tá Lê Lựu có hàng chục tiểu thuyết trong đó có Thời xa vắng nổi tiếng.

Phóng viên ảnh của Trường Sơn sau chiến tranh đã có những năm làm Phó Tổng Thư ký Hội Nhiếp ảnh Việt Nam, nghệ sĩ Hoàng Kim Đáng. Bây giờ anh vẫn sáng tác ảnh và còn viết văn, làm báo nữa. Bốn họa sĩ chính của Trường Sơn thì một đã mất vì tai nạn là họa sĩ Vĩnh Phúc. Nhà điêu khắc chân phương và cần mẫn Minh Đinh vẫn làm tượng đều đều. Còn họa sĩ Hoàng Đình Tài thì từ ký họa đã và đang chuyển qua lĩnh vực sơn dầu, sơn mài. Họa sĩ Đức Dụ vẫn vẽ chăm chỉ.

Đấy là mới điểm xuyết một số tên người trong đội ngũ biên tập, ở Trường Sơn còn có nhà in nữa. Nòng cốt của bộ phận in là mấy chiến sĩ vốn là thợ bậc cao của Nhà máy in Tiến Bộ, của Nhà in báo Hải Phòng kiến thiết và xưởng khắc gỗ nổi tiếng của Hà Nội - Xưởng Tinh Hoa. Những người có nghề ấy kèm cặp những người lính mới học nghề. Trong số các cô lính trẻ làm nghề sắp chữ hồi ấy nay có một người nổi tiếng, nhà báo Nghiêm Thi Hằng. Chị đã có gần trăm bài thơ được phổ nhạc...

Nhưng không phải tất cả những người ở Trường Sơn từ mặt trận về đều thành đạt cả. Xin bạn hãy đến đầu phố Lê Văn Hưu của Hà Nội, nơi giáp với phố Huế, nhìn sang bên trái sẽ thấy một thiếu phụ ngồi bán rượu trắng và chân chó hầm. Chị chỉ ngồi ghé bên vỉa hè chứ không có quán. Chị có tên là T.B, vốn là một chiến sĩ gái đẹp đến mức lộng lẫy của Trường Sơn. Chồng đã mất, chị ở vậy nuôi con.

Chị kể, ở Hà Nội thôi, hình như phố nào cũng có người của Trường Sơn. Phố Vọng ở gần Bạch Mai, cứ vài ba nhà lại có một nhà mà chủ hộ là cựu chiến binh. Gần quán bia hơi Cây Gạo có một ngôi nhà xây dở dang, trước cửa có biển quảng cáo nước giải khát Co ca - Co la và Pepsi. Chủ hộ là anh Lê Điềm, nguyên là Xưởng trưởng một xưởng sửa chữa xe máy công binh Trường Sơn, trú đóng ở vùng ngã ba biên giới thuộc Binh trạm 37. Gần đây, anh có tặng Bảo tàng Đường Hồ Chí Minh một cái cờ lê mang về từ mặt trận và một cái ba lô con cóc bị bom bi xé rách. Anh cùng nhập ngũ với nghệ sĩ ưu tú Hoàng Chè (Trưởng đoàn Nghệ thuật Quân khu II - vốn là ca sĩ của Đoàn văn công Trường Sơn) Bây giờ hai người vẫn thân nhau.

Nghe nói về Lê Điềm thì thấy mát lòng: hết chiến tranh, về học tiếp đại học, hiện đang sinh hoạt trong một câu lạc bộ các doanh nghiệp vừa và nhỏ do Cộng hòa Liên bang Đức tài trợ cho việc huấn luyện. Anh không giấu được tôi bao cực nhọc đăng sau cái biển quảng cáo.



Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 26 Tháng Năm, 2010, 12:32:35 pm
Cũng ngay tại Hà Nội, tôi đã gặp lại một số đồng đội cũ hiện nay đang có đời sống sung túc. Chẳng hạn như V.X hồi chiến tranh, anh là lái xe Trường Sơn. Mùa hè năm ngoái khi tôi gặp lại thì V.X đã là một giám đốc của một tập đoàn kinh tế mạnh. Tiền anh kiếm được chủ yếu là tiền thưởng được công bố công khai nhờ làm lợi cho tổng công ty. Chỉ trong năm 1998, riêng cá nhân anh đã làm lợi cho tổng công ty trên một trăm tỷ đồng.

Cách đây vài năm, một nhà báo ở Thái Bình có một bài phóng sự về hàng chục sư nữ ở tỉnh ấy nguyên là bộ đội và thanh niên xung phong Trường Sơn. Lần theo địa chỉ bài báo, tôi đã đến tận nơi và thấy tài liệu của nhà báo ấy là đúng sự thực. Chỉ một ngôi chùa ở huyện Kiến Xương kề gần thị xã Thái Bình đã có đến ba sư nữ xuất xứ từ Trường Sơn, trong đó có một sư thầy nguyên là đội viên thanh niên xung phong của Tiểu đoàn 25, Binh trạm 14. Tôi chỉ nói thêm rằng họ không hề bi luỵ, mà ngược lại, rất giác và rất ngộ công việc từ thiện mà họ làm, cũng chẳng mong thành Phật mà trước hết là để quên mình lần nữa cho chúng sinh.

Không làm sao biết hết được, hàng triệu lượt người đã đến với Trường Sơn những năm tháng ấy đang sống ở khắp mọi miền của Tổ quốc. Tuy chưa được gặp lại, nhưng tôi hoàn toàn tin rằng, từ lâu họ đã hoà nhập với cuộc sống thường nhật đầy vất vả nhưng còn giữ mãi cốt cách của những người đã từng sống và chiến đấu trên tuyến đường mang tên Bác Hồ vĩ đại.

Trường Sơn người cũ giờ này ở đâu?

Vâng, cái "con voi" tên là 559 thì bây giờ không thấy, nhưng cái "ngà voi" rất dài thì vẫn tồn tại: Đó là Binh đoàn 12 - Binh đoàn Trường Sơn. Bộ Tư lệnh Trường Sơn thì giải thể nhưng gần 20 đơn vị cấp sư đoàn và trung đoàn (chủ yếu là các đơn vị xe, công binh và các đơn vị kỹ thuật) thì vẫn tồn tại và tồn tại một cách đáng tự hào.

Tuy nhiên, chỉ có các sĩ quan chỉ huy là có người cũ ngày nào. Đội ngũ các chiến sĩ thì là mới cả, đa phần sinh trước và sau năm 1975 chút ít và chỉ biết Trường Sơn đánh giặc thông qua các lời kể. Điều này cũng dễ hiểu, lịch sử đánh Mỹ của Trường Sơn dù dài đến 16 năm vẫn ngắn hơn chặng đường sau chiến dịch của Binh đoàn 12: hơn 20 năm.

Vấn đề làm kinh tế ở nước ta không phải là vấn đề mới. Phan Đình Phùng đã trụ bám ở Trường Sơn trên 10 năm, vừa đúc súng, chế tạo đạn dược, luyện quân vừa làm kinh tế để nuôi quân, chuẩn bị cho việc đánh thực dân Pháp. Việc bộ đội làm kinh tế bộc lộ phẩm chất tốt đẹp là sự không phân biệt tố chất của người chiến sĩ, phần nào là lính, phần nào là dân. ấy thế mà khi chiến tranh kết thúc, Bộ đội Trường Sơn đang còn quản lý một khối lượng xe, máy (ô tô vận tải các loại máy húc, máy ủi, xe lu, máy trộn bê tông...) và các phương tiện kỹ thuật với một khối lượng khổng lồ.

Và thế là một chặng đường mới của Bộ đội Trường Sơn lại được mở ra. Công việc đầu tiên của họ là một công việc mang tính lịch sử: tham gia sửa chữa và xây dựng tuyến đường sắt nối liền Nam-bắc mà suốt mấy thập kỷ đã bị cắt rời và băm nát. Cùng thời điểm, họ còn xây dựng cơ bản Đường Hồ Chí Minh dọc theo Đông Trường Sơn có tổng chiều dài tới 1920 km.

Tôi sẽ không nói tới tất cả các công việc mà đơn vị "hậu duệ" của 559 đã làm, chỉ cốt nhấn mạnh đến một số việc có ý nghiã để các thế hệ mai sau này không thể quên: làm thủy điện Sông Đà (cả hai đơn vị tham gia đều được Nhà nước phong danh hiệu Anh hùng lao động); đường dây siêu cao áp 500 kv Bắc-nam; đường ô tô cấp cao Bắc Thăng Long-Nội Bài; tham gia xây dựng lại đường số 1 đường số 5; xây dựng lại nghĩa trang đồi A1 và Sài Gòn Điện Biên Phủ; nghĩa trang Hàng Dương, Côn Đảo và nhiều công trình khác. Góp phần xây dựng đường sá, cầu cống, các công trình về y tế, văn hoá... tại Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào sau chiến tranh, 5 đơn vị của Binh đoàn 12 đã được Nhà nước ta tuyên dương đơn vị Anh hùng.

Hiện nay, Binh đoàn 12-tên giao dịch là Tổng Công ty xây dựng Trường Sơn là một trong những tập đoàn kinh tế hàng đầu của đất nước ta đang tiếp tục đóng góp vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Trường Sơn người cũ giờ này ở đâu? 

Câu hỏi ấy là câu nhắn tìm đồng đội. Sau biết bao nhiêu năm, sống chết có nhau, giờ mong mỏi được biết về nhau, được gặp lại.

Câu hỏi ấy cũng dành cho tất cả những ai từng một lần tới Trường Sơn nhưng trong sâu thẳm của trái tim vẫn dành một góc cho những người xẻ núi mở đường vào mặt trận ngày nào.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 28 Tháng Năm, 2010, 03:16:54 pm
MANG CẢ TRƯỜNG SƠN VỀ NHÀ SỐ 4
Ngô Vĩnh Bình


Tôi về công tác ở Tạp chí Văn nghệ Quân đội 30 năm nay và có cái may mắn là được cùng ăn, cùng ở, cùng làm việc với nhiều thế hệ nhà văn thuộc đủ các sắc lính, như: đặc công có ông thiếu tướng Dũng Hà, ông đại tá Chu Lai; thông tin có các ông đại tá Anh Ngọc, Hồng Diệu, Lê Thành Nghị; quân tiên phong có tướng Hồ Phương; hải quân có ông thượng tá Trần Đăng Khoa, ông đại tá Tô Nhuần; trinh sát có các ông đại tá Nguyễn Minh Châu, Khuất Quang Thuỵ; quân y có ông đại tá Nguyễn Khải; pháo binh có ông đại uý Ngô Thảo, tư pháp có ông đại uý Nguyễn Đình Tú; vốn là lính lái xe có các sĩ quan trẻ Đỗ Tiến Thuỵ, Phùng Văn Khai...

Với Bộ đội 559, với Bộ đội Trường Sơn thì thời nào cũng có, lúc nào cũng có thể gặp các nhà văn "từ trong rừng ra" nơi " nhà số 4" (trụ sở toà soạn Tạp chí Văn nghệ Quân đội ở số 4 phố Lý Nam Đế Hà Nội), mà là lính Trường Sơn thực sự chính hiệu.

Người mang Tây Nguyên - Trường Sơn ra Thủ đô giải phóng (1954) trước tiên là nhà văn Nguyên Ngọc. Bấy giờ ông là một anh chiến sĩ còn rất trẻ, mới 22 tuổi. Ra Bắc tập kết có chừng hai năm, ông cho trình làng luôn cuốn tiểu thuyết viết về Tây Nguyên nổi tiếng Đất nước đứng lên và được Tổng cục Chính trị điều liền về Văn nghệ Quân đội tham gia Ban biên tập đầu tiên của tạp chí này và tham dự Đại hội Nhà văn Việt Nam lần thứ nhất với tư cách là hội viên sáng lập Hội (1957).

Cuốn Đất nước đứng lên với nhân vật Anh hùng Núp và dân làng Bông Hoa đã đem đến cho bạn đọc phương Bắc một cái nhìn mới về một Trường Sơn - Tây Nguyên hùng vĩ và bất khuất. Tiểu thuyết đã được nồng nhiệt đón nhận và sau đó được trao Giải thưởng Văn nghệ Vệt Nam (1954- 1955), được tái bản rất nhiều lần, dịch và xuất bản tại nhiều quốc gia, đưa vào văn tuyển trong nhà trường...

Trong lần vượt Trường Sơn trở lại chiến trường tham gia cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước sau này, ông lại có Rừng xà nu (1969) - một tập truyện ký không chỉ mang hơi thở nóng bỏng của chiến trường Tây Nguyên mà còn có sức lay động, cổ vũ rất lớn đối với nhân dân miền Bắc, đặc biệt là lớp trẻ trong sự nghiệp " Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước" lúc bấy giờ. Tập truyện Rừng xà nu sau khi xuất bản đã được tặng nhiều giải thưởng văn học, trong đó có Giải Lotus của Hội Nhà văn Á Phi.

Đến bây giờ, Nguyên Ngọc vẫn được coi là nhà văn có những trang viết hay nhất về mảnh đất " mái nhà Đông Dương "và là một trong những chuyên gia hàng đầu về Trường Sơn Tây Nguyên của nước ta.

Nhà văn Xuân Thiều cũng là người có những trang viết đáng nhớ về miền đất này. Trước khi giữ cương vị Phó Tổng biên tập Tạp chí Văn nghệ Quân đội ông đã có nhiều năm tháng chiến đấu dọc Trường Sơn với tư cách là phóng viên mặt trận với bút danh Nguyễn Thiều Nam.
Thôn ven đường - tiểu thuyết; Chiến đấu trên mặt đường ký sự cùng các truyện dài truyện ngắn: Người quản tượng và con voi chiến sĩ, Chuyện làng Rapông, Truyền thuyết quần tiên ... là những tác phẩm xuất sắc viết về cuộc chiến đấu anh hùng của bộ đội và nhân dân ta trên tuyến đường huyền thoại Trường Sơn trong những năm ác liệt nhất. Những trang viết ấy ngời ngời lửa đạn, nhưng cũng đậm đặc chất thơ, nặng tình đồng đội, nặng nghiã đồng bào và chan chứa tình yêu đôi lứa.

Trong số này có những tác phẩm được trao Giải thưởng văn nghệ Giải phóng, Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật; đồng thời cũng có những tác phẩm một thời bị coi là "có vấn đề" vì "dám" viết cả những chuyện thuộc về mặt trái của cuộc chiến tranh.

Có một vị tướng cùng thời với Nguyên Ngọc và Xuân Thiều viết ít nhưng kỹ tính trong văn chương là ông Nguyễn Chí Trung. Ông cũng là nhà văn "từ trong rừng ra”. Nói đến ông là người đọc nghĩ ngay tới Bức thư làng Mực viết năm 1969 và mới đây là Rừng khóc của Nàng út- Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2008. Bức thư làng Mực như bài ca ca ngợi tinh thần chiến đấu hy sinh của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên. Tác phẩm được viết cùng năm với thiên tuỳ bút Đường chúng ta đi của Nguyên Ngọc. ông là nhà văn có gắn bó máu thịt với Trường Sơn, đặc biệt là miền đất Khu 5 kiên trung.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 28 Tháng Năm, 2010, 03:17:42 pm
Nhưng nhà văn chính hiệu Trường Sơn - 559 lại là Đại tá - nhà văn Lê Lựu. ông nổi tiếng bởi các tiểu thuyết Thời xa vắng, Chuyện làng Cuội và nhiều cuốn sách khác viết về nông thôn Bắc Bộ ... nhưng người ta vẫn cứ bảo ông là nhà văn của 559 bới vì ông vào Trường Sơn từ những năm đầu của công cuộc mở đường-mở rừng. ông có tiểu thuyết Mở rừng viết về con đường huyền thoại này từ đầu những năm 70, thế kỷ XX, nhưng có lẽ cái "công” lớn của ông với Trường Sơn không chỉ là tác phẩm mà là ở chỗ đã quần tụ được rất nhiều nhà văn áo lính đến với miền đất này ngay từ những năm lửa khói.

Bấy giờ các lớp tập huấn viết văn do Bộ Tư lệnh Đoàn 559 và Tổng cục Chính trị thường được tổ chức "tại trận". Ở những lớp trai ấy Lê Lựu được cử làm người chủ trì, lo tất các khâu từ chọn học viên, chọn người lên lớp, tổ chức đi thực tế, chấm bài...Cho đến hôm nay đã 40 năm có lẻ qua đi rồi mà những người viết vẽ "đồng môn" hồi ấy gặp nhau vẫn tay bắt mặt mừng, vẫn khôn nguôi những kỷ niệm đẹp về Trường Sơn những năm lửa khói.

Hồi Lê Lựu còn công tác ở Tạp chí Văn nghệ Quân đội, anh chị em viết văn, làm thơ, sáng tác bài hát, vẽ tranh về đề tài Trường Sơn từ các đơn vị địa phương vẫn thường hay lui tới phòng ông. Nhà văn Nguyễn Việt Phương, các hoạ sĩ Đức Dụ, Phạm Lực, các nhà thơ Trọng Khoát, Trần Nhương... ở Tổng cục Hậu cần tuần nào cũng có mặt. Nói lớn, đọc thơ cũng lớn, cười cũng lớn là Trọng Khoát, ông đại tá này không chỉ có nhiều thơ mà còn có cả một kho “tiếu lâm" về Trường Sơn. Nguyễn Việt Phương thì là một tổng kho tư liệu về con đường xuyên Việt vĩ đại này. Nhiều nhà nghiên cứu phương Tây cũng phải lặn lội tìm đến hỏi cụ.

Có những người không tham gia các trại viết, trại sáng tác Trường Sơn nhưng viết và vẽ nhiều viết và vẽ thành công về đề tài đường Trường Sơn, nổi danh vì những sáng tác về Trường Sơn cũng rất hay lui tới thăm Lê Lựu, lui tới "nhà số 4" để gặp gỡ nhau; trao đổi, thông tin cho nhau về đồng đội cũ, về Trường Sơn hôm nay, về những sáng tác mới của mình.

Trong số này có Phạm Tiến Duật - một "danh nhân Trường Sơn", một "con chim lửa của Trường Sơn huyền thoại", một nhà thơ của Bộ đội Trường Sơn mà ai cũng biết, ông không phải là người có biên chế ở Tạp chí Văn nghệ Quân đội, nhưng anh em ở tờ tạp chí này luôn coi ông như người nhà giống y như nhà văn Đỗ Chu vậy ông được bạn đọc biết tới sau khi đoạt giải Nhất cuộc thi thơ do báo Văn nghệ tổ chức năm 1969 với chùm thơ viết về Trường Sơn: Lửa đèn, Nhớ, Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Gửi em cô thanh niên xung phong, sau đó là các tập thơ Vầng trăng quầng lửa (1970), Thơ một chặng đường (1971 ) ...

Thơ ông là cả một Trường Sơn thu nhỏ với những anh bộ đội lái xe vui tính, những chiến sĩ công binh mở đường quả cảm, những cô gái thanh niên xung phong hồn nhiên tinh nghịch ...; những "vùng rừng không dân" với rất nhiều hoa thơm cỏ lạ, rất nhiều chim thú quý và nhiều hơn cả là lửa khói đạn bom. Với những bài thơ về Trường Sơn những năm chiến tranh vừa hiện thực sinh động vừa lãng mạn, có cả "quầng lửa" có cả "vầng trăng”, có bom rơi, có máu đổ nhưng cũng có anh có em, có trai có gái, có "nhìn nhau mặt lấm cười ha ha", có "khăn xanh khăn xanh phơi đầy nắng sớm”.

Phạm Tiến Duật đã trở thành một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất trong thế hệ các nhà thơ thời chống Mỹ và như thế đương nhiên ông là nhà thơ tiêu biểu nhất của Bộ đội Trường Sơn, bộ đội đường dây 559.

Nhà thơ Nguyễn Đức Mậu ở Tạp chí Văn nghệ Quân đội, người cũng có nhiều bài thơ hay viết về Trường Sơn nói chính anh Duật là người đầu tiên đã đưa được cả Trường Sơn vào thơ, về thành phố, về Hà Nội, về nhà số 4. Có những khi vui chuyện, anh Duật nói, không có những năm ở Trường Sơn, không có Quật.

Lại có nhà phê bình văn học khen thơ ông, cám ơn ông; nói chính ông và các nhà thơ thế hệ các ông đã làm nên một thời đại trong thơ ca Việt Nam. Nghe vậy Phạm Tiến Duật cười kể lại một câu chuyện vui ông bảo, khi nghe bài thơ Trường Sơn Đông - Trường Sơn Tây (được Hoàng Hiệp phổ nhạc thành bài hát cùng tên nổi tiếng) có người bảo cảm ơn mình vì câu thơ "muỗi bay rừng già cho dài tay áo", mình cười "ô hay, sao lại cảm ơn Duật, phải cảm ơn muỗi chứ!".

Cho đến hôm nay bài hát Trường Sơn Đông - Trường Sơn Tây cùng với các bài hát Lá đỏ (Hoàng Hiệp phổ thơ Nguyễn Đình Thi ), Đêm Trường Sơn nhớ Bác (Trần Chung phổ thơ Nguyễn Trung Thu), Bài ca Trường Sơn (Trần Chung phổ thơ Gia Dũng) ... vẫn là những bài ca về Trường Sơn hay nhất, sống mãi với thời gian.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 28 Tháng Năm, 2010, 03:18:18 pm
Tác giả bài thơ Bài ca Trường Sơn - nhà thơ Gia Dũng cũng là người của "nhà số 4". Ông vốn là lính Sư đoàn 312 anh hùng nhiều năm có mặt ở Trường Sơn, ông viết bài thơ Bài ca Trường Sơn với những câu đầy lãng mạn cách mạng: Trường Sơn ơi / Nơi mà ta qua không một dấu chân người / Có chú nai vàng nghiêng đôi tai ngơ ngác / Dừng ở lưng đèo mà nghe suối hát / Ngắt một đóa hoa rừng cài lên mũ ta đi ...

Những câu thơ bây giờ đọc lại có người tỏ ra nghi ngờ, sao lại "đường ra trận mùa này đẹp lắm"?, đi chiến đấu chứ đi trẩy hội đâu mà “ngắt một đoá hoa rừng cài lên mũ ta đi"?, nhưng ở vào thời điểm cả dân tộc "xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước / mà lòng phơi phới dậy tương lai" (Tố Hữu), hoặc như “có những ngày vui sao / cả nước lên đường” với những "tiếng cười hăm hở đầy sông đầy cầu” (Chính Hữu) là một sự thật.

Vì thế, bài thơ Bài ca Trường Sơn của Gia Dũng vừa mới ra đời đã được nhạc sĩ Trần Chung phổ nhạc và nhanh chóng trở thành bài hát có sức lay động, cổ vũ hàng triệu con tim tuổi trẻ nâng bước họ lên đường chiến đấu. Với thanh niên Việt Nam những năm tháng ấy, câu thơ của Tố Hữu: Trường Sơn đông nắng tây mưa / Ai chưa đến đó như chưa rõ mình là thơ mà cũng là lời hiệu triệu, là lời của nước non kêu gọi người người lên đường đuổi giặc.

Nhà thơ Nguyễn Trung Thu tác giả phần lời bài hát Đêm Trường Sơn nhớ Bác cũng là người hay lui tới trụ sở Tạp chí Văn nghệ quân đội để gặp gỡ những đồng đội viết văn, làm thơ ở Trường Sơn năm nào, bởi ông cũng là một nhà thơ áo lính. Rời Trường Đại học Tổng hợp lên đường nhập ngũ, ông vượt Trường Sơn vào chiến đấu ở chiến trường B.

Một đêm nghỉ lại giữa đại ngàn cùng trăng sao, cùng tiếng suối chảy, cùng tiếng hát văng vẳng, ông chợt nhớ tới Bác Hồ - vị cha già dân tộc năm nào nơi núi rừng Việt Bắc... và trong ông bật lên thành thơ: Đêm Trường Sơn / Chúng cháu nhìn trăng nhìn cây / Cảnh về khuya như vẽ / Bâng khuâng chúng cháu nghĩ / Bác như đã đến nơi này/ ơi đêm Trường Sơn/ nghe tiếng suối trong như tiếng hát xa / Mà ngỡ như từ Pác Bó suối về đây ngân nga / âm vang Trường Sơn, âm vang Trường Sơn / Đường Trường Sơn mang bóng hình của Bác / Đường Trường Sơn chúng cháu dồn chân bước / Con đường của Bác mới đi qua...

Bài thơ hoàn thành ngay sáng hôm sau khi ông và đồng đội tiếp tục cuộc hành quân đánh giặc. Bài thơ là tấm lòng thành kính, là lời hứa của những người lính với Bác nguyện mãi mãi đi theo con đường mà Bác đã vạch ra – con đường "Không có gì quý hơn độc lập tự do", "Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải giữ cho được độc lập tự do”. Sau khi được phổ nhạc, sức lan toả cả bài thơ càng được lan rộng đến bây giờ, "Đêm Trường Sơn nhớ Bác" vẫn là một trong những khúc ca hay nhất viết về tình cảm của người lính nói chung, của Bộ đội Trường Sơn nói riêng đối với lãnh tụ Hồ Chí Minh kính yêu.

Nói về những người lính, những nhà văn đã mang cả Trường Sơn về thành phố, về với Thủ đô với ngôi nhà số 4 còn phải kể đến nhiều tên tuổi khác. Đó là Chính Hữu với những Ngọn đèn đứng gác, Nguyễn Minh Châu với những Dấu chân người lính, Những người đi từ trong rừng ra, Những cánh rừng đầy giấy bay; Nguyễn Khải với Tháng ba ở Tây Nguyên, Khuất Quang Thụy với Trong cơn gió lốc. rồi Trung Trung Đỉnh với cuộc Lạc rừng. Đó là những tác phẩm xuất sắc viết về Tây Nguyên - Trường Sơn của các nhà văn áo lính. Những tác phẩm mà nói đến con đường huyền thoại Trường Sơn, nói đến một thời "Xẻ dọc Trường Sơn” của dân tộc ta mà người đời sau sẽ không thể không nhắc tới.



Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 28 Tháng Năm, 2010, 03:19:10 pm
Đường Trường Sơn, Bộ đội 559 trong chiến tranh đã về thành phố theo những trang sách, những bài ca như thế. Đường Trường Sơn, Đường Hồ Chí Minh và cả Tây Nguyên hôm nay cũng về thành phố, về Thủ đô cùng những bài ca, những trang văn ngày nối ngày. Viết về bộ đội làm kinh tế ở Tây Nguyên, Nguyên Bảo có tiểu thuyết Giám định của đất, nhà văn trẻ Đỗ Tiến Thuỵ có tiểu thuyết Màu rừng ruộng; viết về vùng kinh tế mới nơi đây, Nguyễn Trí Huân có tập truyện ngắn Cao nguyên không xa xôi... và nhiều nữa. Đặc biệt là những trang viết của Nam Hà và Nguyễn Hữu Quý.

Ngay từ khi ta làm đường lớn - đại lộ Hồ Chí Minh và đường dây tải điện 500 kv, nhà văn Nam Hà - tác giả của những câu thơ bất hủ Đất nước của những người con gái con trai / Đẹp như hoa hồng cứng hơn sắt thép / Xa nhau không hề rơi nước mắt / Nước mắt chỉ dành cho ngày gặp mặt " đã khoác ba lô, bắt xe tải cùng những người thợ đường dây vượt Trường Sơn một lần nữa để có tập bút ký 500 trang mang tên Dặm dài đất nước. Cuốn sách được Hội Nhà văn, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tặng Giải thưởng cao, được Thủ tướng Võ Văn Kiệt khen ngợi và ký lệnh cấp cho một chiếc xe ô tô con. Chiếc xe này hiện anh em phóng viên Tạp chí Văn nghệ quân đội vẫn đang sử dụng

Nhà thơ Nguyễn Hữu Quý hiện là Đại tá -Trưởng ban Thơ của Tạp chí Văn nghệ Quân đội, nhưng ông vốn sinh ra ở vùng gió Lào cát trắng dưới chân dãy Trường Sơn và là lính của Binh đoàn 12- Bộ đội Trường Sơn. Những bài thơ đầu tiên của ông là những bài viết về Trường Sơn và ông được mọi người biết đến cũng là nhờ những bài thơ này, trong đó nổi nhất là bài Khát vọng Trường Sơn viết dâng hương hồn 10.000 liệt sĩ đang nằm lại Nghiã trang Trường Sơn với những câu: Mười nghìn Trường Sơn trong một Trường Sơn / Mười nghìn bài ca trong bài ca lớn / Mười nghìn cái tên đêm đêm mẹ nhắc /Mười nghìn giấc mơ của mẹ chờ ta /Mười nghìn con đò thương về bến đợi / Mười nghìn hạt giống chưa về phù sa... Bài thơ được trao giải cao nhất trong cuộc thi thơ do Tạp chí Văn nghệ Quân đội tổ chức (1996) và được 3 nhạc sĩ (Phạm Tuyên, Võ Thế Hùng, Văn Chừng ) phổ nhạc thành ba bài hát cùng tên.

Ngoài ba bài hát này, bài Trường Sơn tóc dài của nhạc sĩ Trương Tuyết Mai cũng là bài phổ thơ Nguyễn Hữu Quý. Hơn 30 năm khoác áo quân nhân, trong đó có gần 20 năm là lính Trường Sơn những trang viết của anh (cả thơ, bút ký, truyện ngắn) dường như trang nào dòng nào cũng in đậm chất Trường Sơn, dấu ấn Trường Sơn.

Năm nay - 2009, Kỷ niệm 50 năm Đường Trường Sơn huyền thoại Nguyễn Hữu Quý lại vừa hoàn thành tập trường ca Vạn lý Trường Sơn. Anh tiết lộ, tập trường ca mới của anh không chỉ là "Một nghìn, một vạn Trường Sơn trong một Trường Sơn mà còn có cả máu và nước mắt của nhiều thế hệ chiến sĩ Trường Sơn nửa thế kỷ qua”... Và như thế, tôi nói: nếu như nói Phạm Tiến Duật là nhà thơ của Trường Sơn hôm qua thì cũng có thể nói Nguyễn Hữu Quý là nhà thơ của Trường Sơn hôm nay.

1959 - 2009, 50 năm Trường Sơn cũng là chẵn 50 năm có một đề tài Trường Sơn hiện hữu sáng ngời trong văn học, có một đội ngũ các nhà văn áo lính thế hệ sau nối thế hệ trước tâm huyết với đất và người Trường Sơn, gắn bó máu thịt với những trang viết về chiến tranh cách mạng và người lính. Đội ngũ nhà văn ấy, những trang viết ấy không chỉ góp phần làm phong phú thêm mà còn tạo nên nét độc đáo của văn học Việt Nam hiện đại.



Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 28 Tháng Năm, 2010, 03:19:57 pm
NHỮNG CHỚP SÁNG KÝ ỨC TRƯỜNG SƠN
Thanh Thản


Mỗi người lính đã đi qua Trường Sơn đều có một Trường Sơn của riêng mình. Với những người đã nằm xuống thì đành một nhẽ. Nhưng với những người còn sống, tới bây giờ những đỉnh cao Trường Sơn vẫn còn in đậm trong ký ức. Thỉnh thoảng những chớp sáng ký ức lại rực lên...

1

Cự Nẫm, cái tên đã vang lên trong bài hát vượt thời gian của Nguyễn Văn Thương "Bình Trị Thiên khói lửa", là tên của một ngôi làng nhỏ, rất dễ bị lãng quên nếu nó không nằm trên trục đường giao liên, nếu nó không từng là "bệ phóng” cho những đoàn quân lên Trường Sơn.
Làng ấy, như bàn tay của người mẹ vuốt lên tóc con ngày con lên đường ra trận, như cái vẫy tay cuối cùng của đất Quảng Bình tiễn những đoàn quân lên đường 559. Cái làng ấy, cũng là nơi lính ta đã đặt ra biết bao chuyện tiếu lâm mà nhân vật chính là "bọ”, với vô số những đối thoại cười ra nước mắt của "bọ" và các con lính.

Ai đi qua Trường Sơn mà chẳng đã ngủ một đêm cuối cùng trên đất Bắc, đêm cuối ở hậu phương tại ngôi làng ấy. Nghe nói, bây giờ, sau chiến tranh ngót một phần ba thế kỷ, mà ngôi làng vẫn nghèo như thuở ấy, dân làng vẫn khổ như xưa. Có lẽ nói "như xưa” là chưa chính xác, đứng ra, phải nói là "khổ hơn xưa”, vì "ngày xưa” ấy, ngày nào làng cũng đón các đoàn quân ghé lại trước khi lên Trường Sơn, và những người lính với những ba-lô nặng trĩu lương thực, đã san sẻ bớt cho bà con trong làng những gạo, sữa bột ngọt, lương khô... một phần vì tình cảm quân dân, một phần để cho ba-lô bớt... nặng, trước khi vào cuộc đi bộ leo núi dài ngày.

Chiều ba mươi Tết năm ấy, chúng tôi đã có cuộc "liên hoan” cuối cùng với các bọ, các mẹ trong làng, gọi là "ăn Tết trước", kịp để 6 giờ chiều là lên đường. Thực đơn bữa liên hoan gồm có bánh kẹo, lương khô 701, chè Ba Đình, thuốc lá Điện Biên, được coi là một "thực đơn" vào hạng sang lúc bấy giờ. Tôi nhớ cái màu trời chiều 30 Tết, nhớ những mái nhà lợp lá gồi, lợp tranh nhỏ thấp, nhớ những mẹ già cũng thấp nhỏ dưới khung trời xám, nhớ cái không khí cuối cùng của đất Bắc mà chúng tôi sẽ không còn được thấy nữa vào đúng sáu giờ tối 30 Tết.

Bây giờ, sau ngót 40 năm, tôi vẫn chưa có dịp nào quay trở lại Cự Nẫm, càng khó hơn nếu quay lại đúng chiều 30 Tết. Hàng triệu người lính đã qua ngôi làng ấy, đã ngủ một đêm cuối cùng ở đó trước khi vượt Trường Sơn, mấy ai trong số họ quay trở lại nơi ấy được một lần nữa? Và những mái nhà tranh thấp nhỏ đã từng đón hàng chục vạn người lính qua đêm, võng mắc chéo hai tầng, những ngôi nhà ấy vẫn thấp bé mãi vậy sao?

2

Những tiếng súng mừng xuân nổ trước hang đá. Vòm hang âm u giữ lại rất lâu những âm thanh đột ngột trong buổi sớm đầy sương. Trạm 5. Đất Lào. Tỉnh Tà-ven-oọc (Mặt trời mọc). Những chàng trai trẻ măng lố ngố. Những cô gái trẻ măng cười thật tươi, dù mới nín khóc" (trích nhật ký).

Sáng mùng một Tết, không có pháo đốt, chúng tôi đã bắn mấy phát súng mừng xuân. Trước khi hành quân, chúng tôi đã có 15 phút để ăn Tết trên Trường Sơn với đủ cả khóc cười. Khóc nhớ nhà và cười vui như trong một cuộc dã ngoại. Chúng tôi đâu biết những gì sẽ chờ mình phía trước. Nhưng đời là vậy, cứ còn sống là còn khóc còn cười. Dù chiến tranh có bộ mặt đáng sợ như thế nào, chẳng bao giờ nó dập tắt hết được những tiếng khóc và những nụ cười.

Kể từ bước chân mở lối đầu tiên của đoàn quân ông Võ Bẩm, khai sinh con đường 559, đường mòn Hồ Chí Minh nổi tiếng, nơi vết bàn chân người lính ăn lõm đá, nơi cái chết đồng hành hàng ngày cùng cái sống, nơi những nấm mộ mọc lên như những cọc tiêu chỉ đường, thì tôi vẫn thấy suốt 2 nghìn cây số ấy, những giọt nước mắt và những nụ cười.

Có lúc người ta chỉ viết về những nụ cười mà quên hoặc cố né tránh những giọt nước mắt. Có lúc, người ta lại chỉ viết về những giọt nước mắt mà không biết sự có mặt của những nụ cười. Tôi cũng đã từng ngạc nhiên: sao ở Trường Sơn mà vẫn còn những kẻ ác, những tên cơ hội, những thằng hèn? Đó là cái ngạc nhiên của người chưa trưởng thành, ở đâu mà chẳng có những người hiền kẻ ác, can đảm và hèn nhát, trung thực và cơ hội? Trường Sơn cũng là một mảng của cuộc đời này, dù là một mảng đặc biệt.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 28 Tháng Năm, 2010, 03:20:54 pm
3

Tôi không thể quên một vụ "hạ cờ tây" (thịt cầy tơ) dọc đường. Chúng tôi xé một nửa chiếc chăn mỏng đổi cho đồng bào Khơ me lấy một chú vện. Một tiểu đội trưởng được miễn mang ba lô để ôm chú vện. Đến trạm đã 7 giờ tối. Trong chốc lát triển khai xong kế hoạch. Tôi được phân công gác máy bay. Một cậu nữa gác trạm (gác “đằng mình"). Bộ phận chủ công thịt cầy dưới lòng suối cạn. Phải che kín ngọn lửa, đề phòng máy bay địch và các đồng chí trong trạm phát hiện.

Hơn nửa giờ sau, mọi việc đã hoàn tất. Có cả dồi, nướng, luộc. Có cả thứ rau rừng thơm mùi húng quế. Có cả bi-đông rượu "đồng bào” hơi nhạt nhưng cũng gây được không khí. Chúng tôi hể hả liên hoan". (trích nhật ký). Từ hơn hai chục năm nay, tôi tuyệt đối không ăn thịt chó, nhưng phải thú thật bữa "hạ cờ tây” trên Trường Sơn năm ấy là bữa liên hoan ngoại hạng, ngon nhất mà tôi được ăn từ trước đến nay. Ngon và vui.

Anh đã bao giờ thấy một đàn công rực rỡ bảy màu đột ngột bay lên trước mắt mình? Anh đã thấy một cánh rừng đầy những giò hoa phong lan nở thơm ngát? Anh đã thấy... Nếu không gặp những cái đẹp nho nhỏ những niềm vui nho nhỏ như thế, làm sao chúng tôi đi qua được Trường Sơn.

4

“Buổi sáng ấy tôi bước vào tuổi 25
Ở đường dây 559 - trạm 73
ngày sinh nhật bắt đầu bằng cơn sốt
cổ đắng khô ngồi thở trên đỉnh dốc
bạn mở bi-đông nhường hớp nước cuối cùng
hớp nước cuối cùng giữa cơn sốt đầu tiên
ngày sinh nhật tuổi 25 mình được uống"

(Trích “Những người đi tới biển") 

Rất ít khi tôi nhớ ngày sinh nhật của mình, càng không bao giờ tổ chức lễ sinh nhật. Nhưng ngày sinh lần thứ 25 giữa rừng Trường Sơn, với cơn sốt rét đầu tiên, với hớp nước cuối cùng bạn tôi nhường cho trong cơn khát hoa mắt... là những gì tôi cứ phải nhớ mãi. Với tôi, có được một "lễ sinh nhật” như thế là đủ cho cả một đời.

5

Mỗi người lính đã đi qua Trường Sơn đều có một Trường Sơn của riêng mình. Với những người đã nằm xuống thì đành một nhẽ. Nhưng với những người còn sống tới bây giờ, thì thỉnh thoảng, Trường Sơn lại sừng sững hiện lên trước họ như một thách thức. Lại phải leo dốc. Lại chinh phục những đỉnh cao của riêng mình. Lại khóc và lại cười. Đôi khi lại nghe thoang thoảng hương hoa phong lan. Và có lúc nào, trong giấc mơ, được trở lại con đường mòn ấy, thấy hiện trước mắt, không phải một con gấu ngựa, mà rực rỡ cả một đàn công bay lên với đủ bảy màu ...


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 28 Tháng Năm, 2010, 03:21:58 pm
ĐƯỜNG HỒ CHÍ MINH XUYÊN LÒNG ĐẤT
Tuấn Phùng


Đi qua "tam giác lửa"

“Nếu mọi người gọi đường Hồ Chí Minh vượt Trường Sơn là một huyền thoại thì công trình đường ống dẫn xăng dầu vượt Trường Sơn là huyền thoại trong huyền thoại đó". Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên - nguyên Tư lệnh Binh đoàn Trường Sơn - đánh giá như vậy về công trình đường ống vượt Trường Sơn đưa xăng dầu vào chiến trường trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Trong vòng sáu năm (6/1968 đến 2/1975), những người lính xăng dầu đã làm nên một "đường Hồ Chí Minh xuyên lòng đất” dài gần 5.000KM từ biên giới Việt - Trung vào Bình Phước. Một huyền thoại lịch sử đã được ghi. Huyền thoại về những người đã lập nên kỳ tích và về những người đã ngã xuống để đường ống xăng dầu thông suốt vào Nam. .

Đối xăng bằng máu

Cuối tháng 3/1968, Mỹ tăng cường ném bom nhằm chặt đứt giao thông ở các tỉnh khu IV để băm nát "khu vực cán xoong" từ vĩ tuyến 19 trở vào. Đặc biệt, ba trọng điểm phà Bến Thủy - Nam Đàn - Linh Cảm bị đánh bom triền miên tạo thành một "tam giác lửa" ngăn chặn vận chuyển từ miền Bắc vào. Ngã ba Đồng Lộc cũng bị ném bom cày đi xới lại tạo thành điểm tắc, xe vận tải, xe chở xăng khó lòng qua lọt.
Chiến sĩ đưa xăng qua suối: các đoạn ống cao su nối nhau bị thiếu nên phải dùng ống lồ ô khoét rỗng để nối vào .

Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên vẫn nhớ như in những ngày đứng ngồi không yên vì xe không vượt qua được tuyến lửa để vào Trường Sơn:
"Lúc này ở Trường Sơn, gần nửa tháng Đoàn 559 không còn xăng cho cơ giới hoạt động, kế hoạch vận tải cho mùa khô có nguy cơ bị trì hoãn. Có lúc cả ngàn xe vận tải nằm chờ. Thiếu xăng nên đạn, lương thực, quân nhu không vào được chiến trường. Thiếu gạo, thiếu muối, khẩu phần ăn của chiến sĩ chỉ còn 4 lạng gạo/ngày, có khi chỉ còn 2 lạng".

Lúc này, ở phía trong "tam giác lửa”, Binh trạm 12 nhận lệnh phải bằng mọi giá đưa nốt số xăng dầu còn lại vượt Trường Sơn giao cho Đoàn 559.

Tuy nhiên, tại cửa khẩu Binh trạm 12 (Tuyên Hóa, (Quảng Bình), đoạn ngã ba Khe Ve đến đèo La Trọng bị bom dội làm đất đá trên núi trút xuống tạo thành một đỉnh lầy hàng km. Đã có tám chiến sĩ mất bàn chân do vấp phải các loại mìn lá, mìn gíp... lẫn trong bãi lầy khi cõng hàng qua đó.

Lực lượng công binh phải dùng mìn định hướng, bộc phá nhằm thổi bay bùn đất nhưng tốn hàng tấn thuốc nổ mà bãi lầy vẫn không di chuyển, xe không thể qua. Binh trạm phải bơm xăng vào phi 200 lít rồi cho 4 chiến sĩ khiêng qua bãi lầy.

Nhưng 3 tốp chiến sĩ (12 người) suốt một ngày chỉ khiêng được 15 phuy. Ròng rã hai ngày, binh rạm giao đủ hai xe xăng cho Đoàn 559 nhưng tổn thất nặng nề: một chiến sĩ trượt chân rớt xuống vực, hai chiến sĩ trúng mìn hy sinh.

Không khuất phục, cả binh trạm tiến hành gùi xăng vượt bùn. Xăng được bọc trong 4.000 túi nilông (20 lít/túi) rồi cho vào ba lô để từng người cõng qua trọng điểm. Sau một ngày cõng xăng chân bì bõm lội bùn, đầu hứng đạn chịu bom, 500 chiến sĩ cũng chỉ vận chuyển được 10m3 xăng (đủ hai xe xitec) nhưng 40 chiến sĩ đã bị rộp lưng, bỏng da vì xăng làm giòn túi nilông thấm qua ba lô ướt đẫm cả áo, ngấm vào da thịt.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 28 Tháng Năm, 2010, 03:22:39 pm
“Một số chiến sĩ gùi xăng bị bỏng rộp da quá nặng, nhiễm độc chì nên hi sinh. Vì vậy Binh trạm trưởng Nguyễn Đàm đã bàn với chúng tôi làm đường ống dẫn xăng qua núi" - đại tá Lưu Vĩnh Cường (nguyên kỹ sư xây dựng kho chứa xăng cho Binh trạm 12 lúc bấy giờ) cho biết về đường ống tự tạo "đặc biệt".

Tôn cuốn, các đoạn ống cao su nối với nhau vẫn thiếu 100M nên phải dùng ống lồ ô khoét rỗng nối vào. Máy bơm đẩy xăng từ sườn phía bắc theo đường ống lên bể chứa (làm bằng phuy 200 lít đặt trên đỉnh đèo) rồi cho xăng tự chảy xuống. Trong vòng hai tháng "đường ống” này đưa được khá nhiều xăng vào phía trong nhưng luôn xảy ra trục trặc vì sau một tuần những đoạn lồ ô bị xăng làm teo tóp lại làm trật điểm nối khiến xăng thất thoát nhiều.

Cũng trong thời gian này, Binh trạm 14 cũng không thể đưa hàng và xăng vào chiến trường. Ngoài các đoạn đường hiểm yếu, cửa khẩu Trà Ang (km 12 và km 16 đường 20) mỗi ngày hứng 30-40 trận bom khiến đường đứt đoạn, xe không thể qua. Binh trạm đã kết các phuy xăng thành bè để thả xuôi sông Nậy, chống ngược sông Son.

Nhưng bè xăng trúng thủy lôi, xăng và máu chiến sĩ loang lổ khắp sông, ba ngày sau vẫn chưa tìm vớt hết thi hài liệt sĩ. Các tổ chuyển tải được lập để kéo từng phuy xăng ngược suối Trà Ang.

Đêm đầu, đối phương ném bom trúng hai phuy xăng khiến ngọn lửa trùm lên cả đoạn suối chụp xuống đội quân chuyển tải, 20 phuy xăng được kéo qua trọng điểm nhưng có chín chiến sĩ hi sinh. Đêm thứ hai kéo được 30 phuy lại thêm 29 người ngã xuống lòng khe. Nước suối Trà Ang thêm một lần đượm máu và xăng.

Kéo ống vượt sông

Ở tuổi 84, đại tá Phan Tử Quang (nguyên Cục trưởng Cục Xăng dầu đầu tiên của quân đội người nhận trách nhiệm xây dựng tuyến đường ống) vẫn nhớ rõ nhiệm vụ mang tính lịch sử từ Quân ủy Trung ương giao phó cho Cục Xăng dầu vừa mới thành lập: làm đường ống vượt Trường Sơn.

Đại tá Quang nhớ lại: "Theo nhận định của Quân ủy Trung ương, đối phương sẽ đánh phá ác liệt các cửa khẩu của hậu phương vận chuyển hàng vào cho đoàn 559. Quân ủy Trung ương đã đồng ý đưa đường ống vào làm tuyến từ Khe Ve vượt đèo Mụ Giạ (Quảng Bình) xuyên qua tây Trường Sơn xuống Lùm Bùm (Lào) để tiếp cận Đường 9 tạo điều kiện thuận lợi cho Đoàn 559 vận tải vào Nam".

Ngày 12/4/1968, 12 cán bộ, chiến sĩ của đoàn khảo sát tuyến đường từ Khe Ve theo đường 12 qua đèo Mụ Giạ sang Lùm Bùm do đại úy Trần Xanh (đang là Phó phòng xăng dầu) làm trưởng đoàn lên đường làm nhiệm vụ.

Đại tá Quang kể: "Nhưng lúc đó các xe chở xăng không thể vượt qua được "tam giác lửa" để chuyển cho Đoàn 559. Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần Đinh Đức Thiện cử tôi sang báo cáo tình hình với Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp.

Sau khì nghe báo cáo, Đại tướng chỉ thị: "Phải đảm bảo xăng dầu cho Đoàn 559 hoạt động. Đồng ý với phương án của các anh, trước mắt làm đường ống vượt các trọng điểm đánh phá, nhưng sau đó phải làm ngay đường ống vượt Trường Sơn vào càng sâu càng tốt".

Vì vậy đội khảo sát thứ hai do Hoàng Ngọc Minh dẫn đầu tiếp tục đi khảo sát từ Thiệu Dương (Thanh Hóa) vào Nam Đàn, Linh Cảm qua Hương Khê (Hà Tĩnh) vào giáp đoạn đoàn của Trần Xanh đang khảo sát. Công trường 18 được thành lập do Mai Trọng Phước (đang là thiếu tá chủ nhiệm khoa xăng xe vận tải của Trường Sĩ quan hậu cần, sau này là Cục trưởng Cục Xăng dầu) làm đoàn trưởng, thiếu tá Hoàng Sùng làm Chính ủy chuẩn bi vào Nghệ An làm đường ống vượt "tam giác lửa".

Đêm 12/6/1968, hơn 400 người của công trường 18 trong đó có 240 cán bộ, công nhân của Bộ Công nghiệp nhẹ, Bộ Thủy lợi, Công ty Gang thép Thái Nguyên, công nhân Xây dựng khu nam Hà Nội) rời Hà Nội hành quân vào Nam Đàn.

Khúc sông Lam nằm giữa bến đò Vạn Rú (xã Nam Đông, nay là Khánh Sơn, Nam Đàn) cách trọng điểm Rú Trét 500m (còn gọi là Rú Chết do kẻ thù đánh phá quá ác liệt) được chọn làm điểm thi công tuyến đường ống đầu tiên.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 28 Tháng Năm, 2010, 03:23:36 pm
Đúng 21g, hiệu lệnh vượt sông bắt đầu.

Mai Trọng Phước - chỉ huy lực lượng công trường 18 cùng dân quân xã Nam Đông kéo ống phía bờ nam. Phía bờ bắc, lực lượng do Trần Xanh chỉ huy nối ba ống vào nhau, đầu ống lắp cút chữ T để buộc dây. Đến 5h sáng ngày 23/6/1968, 500m đường ống đầu tiên đã vượt sông an toàn. Từ đây, đường ống tiếp tục vượt sông La (Hà Tĩnh) vào Nga Lộc (Can Lộc, Hà Tĩnh).

Ngày 10/8/1968, tuyến đường ống 42 km vượt "tam giác lửa" hoàn thành. Dòng xăng từ kho Đại kho N 1 (Nam Thanh, Nam Đàn) bơm vào kho N2 (Nga Lộc). Chai xăng đầu tiên của dòng xăng đi qua "tam giác lửa” được chuyển ra Tổng cục Hậu cần để báo cáo.

Một kỷ niệm đáng nhớ của cán bộ, chiến sĩ làm tuyến đường ống này là quá trình đào hào đặt ống đều phải làm đêm để che mắt máy bay đối phương nên rất khó chôn ống, tiến độ thi công bị chậm. Đại tá Mai Trọng Phước kể:

“Chúng tôi thấy người dân vẫn làm đồng bình thường mà không bị máy bay ném bom. Khi hỏi, bà con cho biết là đối phương rải truyền đơn bảo dân cứ làm ruộng bình thường, đừng cho bộ đội vào thì nó không đánh. Vì vậy, bộ đội cũng mặc áo tơi, đội nón làm nông dân đào rãnh qua đồng ruộng ban ngày, tối chôn ống. Để bảo đảm bí mật, chúng tôi thông báo với bà con là đặt ống làm thủy lợi dẫn nước sông vào chống hạn cho đồng ruộng phía trong".

Ngoài ra, ban ngày các chiến sĩ nhờ người dân dùng trâu kéo cày theo tuyến để tạo rãnh sâu, đêm đến đào hào chôn ống.

Dòng xăng vượt Trường Sơn

Theo kế hoạch, đường ống từ Ka Vạt (Lào) sẽ đi đến Lùm Bùm vào Đường 9 nhưng đây là con đường vòng cung có cự ly xa. Vì vậy, Tổng cục Hậu cần yêu cầu làm đường ống từ Long Đại (Qủang Bình) theo đường 18 vòng sang Lào để xuống Đường 9.

Ngoài những khó khăn do thiên nhiên gây ra, bộ đội đường ống phải chống lại sự đánh phá khốc liệt của đối phương. Để bảo vệ đường ống, mồ hôi, máu của các chiến sĩ phải đổ nhiều hơn.

Vượt “tam giác lửa" thành công, một bộ phận của công trường 18 tiếp tục dẫn ống vào Hương Khê (Hà Tĩnh) hướng tới Khe Ve (Quảng Bình). Tuy nhiên, lúc này không lực Mỹ lại tăng cường đánh phá các cửa khẩu từ Quảng Bình sang Lào, đặc biệt là các trọng điểm cua chữ A, Ta Lê, Phulanhic...

"Tổng cục Hậu cần yêu cầu thi công nhanh đoạn đường ống vượt đèo Mụ Giạ sang Na Tông (Khăm Muộn, Lào) để đảm bảo xăng cho chiến dịch vận tải nước rút của Đoàn 559. Chúng tôi bàn giao phần việc đang làm cho bộ phận khác, khẩn trương vào Quảng Bình để làm đoạn đường ống từ Cổng Trời vượt qua đèo Mụ Giạ xuống Na Tông” - đại tá Mai Trọng Phước (Chủ nhiệm khoa xăng xe vận tải của Trường Sĩ quan hậu cần, sau này là Cục trưởng Cục Xăng dầu) cho biết.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 28 Tháng Năm, 2010, 03:24:39 pm
Vượt núi

Giữa tháng 12/1968 tuyến ống hoàn thành, kho Na Tông (500m3) được xây dựng xong nhưng lúc vận hành thử rửa đường ống bằng nước lại không bơm lên được đỉnh đèo Mụ Giạ cao 700m. Lúc đó các chiến sĩ không có kinh nghiệm nên đặt hai máy bơm cùng một chỗ, đến lúc tách hai máy để bơm nối tiếp thì bơm được lên đỉnh đèo. 

Cuối tháng 12/1969, đường ống đang bơm vào kho Na Tông thì bất ngờ từng loạt bom từ B52 trút xuống đoạn đường vận tải và kho hàng của đoàn 559 tại trọng điểm.

Vệt bom cắt ngang đường ôtô đã làm vỡ đường ống bám dọc bên đường. Những ngày sau B52 tiếp tục đánh phá đêm ngày không dứt. Đơn vị công binh bạt hàng trăm khối đá tạo thành đường hào 10 km để chôn ống nhưng bom đạn vẫn bóc từng lớp núi đá nghiền thành lớp bột dày.

Đại tá Mai Trọng Phước kể: "Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần Đinh Đức Thiện gọi tôi ra Hà Nội báo cáo tình hình. Cuối cùng một tuyến đường tránh được làm cách điểm bị đánh chừng 1 km. Nhưng chúng tôi vẫn phải khắc phục như thật trên tuyến bị địch đánh phá để đánh lừa địch. 

Lúc nào bị đánh thì đốt các phuy xăng dầu cho chúng tập trung lại thả bom để tuyến tránh vận hành. Vì vây, xăng đã kịp vào kho Na Tông phục vụ đợt vận tải đột kích của Đoàn 559. Đến đêm giao thừa năm Kỷ Dậu xăng vẫn còn đầy kho để chuẩn bị cho nhiệm vụ tiếp theo. Đợt bom này giúp chúng tôi rút bài học là không được làm đường ống cạnh đường ô tô để khỏi bị đánh lây".

Ngày 3/3/1969, tuyến đường ống đầu tiên vượt Trường Sơn dài 350 km đã nồi thông từ Vinh - Cổng Trời - Na Tông tới kho Ka Vat (Lào). Sáu ngày sau, 4 tiểu đoàn đường ống lần đầu tiên đã vận hành thông suốt dòng xăng từ miền Bắc đến Ka Vat đảm bảo xăng dầu kịp thời cho 5.000 xe của Đoàn 559 tiếp tục đợt vận tải đột kích mùa khô 1968-1969. Từ đây, xe chở xăng dầu của các binh trạm không phải qua trọng điểm để lấy xăng nữa.

“Ở tuyến đường ống đầu tiên, chúng ta có được kinh nghiệm vượt sông, vượt núi. Đây là những kinh nghiệm quí báu để thi công những tuyến sau này thuận lợi hơn", đại tá Phan Tử Quang (nguyên Cục trưởng Cục Xăng dầu đầu tiên của quân đội người nhận trách nhiệm xây dựng tuyến đường ống) nói.

Mồ hôi và máu

Theo đại tá Mai Trọng Phước, phương án làm đường ống xuyên từ phía đông sang tây Trường Sơn theo trục đường ngang thứ năm (đường 18) được tiến hành theo hướng từ Long Đại vào Cẩm Ly (Lệ Thủy, Quảng Bình) rồi vượt các đèo cao 400m, 700m, 900m đến bản Ra Mai gần sông Sê Băng Hiếng (Lào) đi tiếp vào bản Cò (Sa Va Na Khét, Lào) xuống Đường 9.

Tuy nhiên, sau một thời gian vận hành được 200 tấn xăng vào kho Ra Mai cấp phát cho xe vận chuyển và thả phuy theo sông cho binh trạm 9, ngày 6-9-1969 không lực Mỹ dùng B52 rải thảm cắt ngang tuyến ống trên suối Ra Vơ làm lửa bùng cháy cả hai bên suối, rồi đánh ngược theo tuyến ống 3km dọc suối vào kho Ra Mai.



Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 28 Tháng Năm, 2010, 03:24:46 pm
Cả khu rừng nguyên sinh rộng hàng trăm hecta bi san thành bình địa. Kho bị cháy, phần lớn bể chứa và tuyến đường ống bị tàn phá nặng nề. Một số chiến sĩ của Tiểu đoàn 668 hy sinh, lực lượng của Tiểu đoàn 337 đang nối nhau vác ống cũng bị B52 đánh vào đội hình làm hơn 70 chiến sĩ hy sinh và bị thương.

"Tuyến đi Ra Mai không khắc phục được, tôi bàn với anh Phan Tử Quang là chỉ còn cách làm theo phương án 2 đi từ đỉnh 900m vượt qua 1.001 m để vào bản Cò. Sẽ gặp nhiều khó khăn khi thi công nhưng có rừng rậm, núi cao để gây bất ngờ cho địch" - trung tướng Đồng Sĩ Nguyên nhớ lại.

Thế nhưng thách thức lớn nhất là địa hình quá hiểm trở nên không thể đưa máy bơm (nặng 2,8 tấn) vào chân đỉnh 1.001 m để bơm xăng vượt qua. Để khảo sát được tuyến này, một số chiến sĩ của đội khảo sát đã hy sinh vì bom dội, vì trượt chân xuống vực. "Để vượt từ đỉnh 900m qua đỉnh 1.001m khi không đưa được máy bơm vào chân đèo 1.001 m, ... phải bỏ van điều chỉnh áp suất ở đoạn ống đổ xuống chân đèo 900m. Vì vậy, điểm sâu nhất của đường ống giữa đỉnh 900m và  1001 m đạt áp suất rất cao (khoảng 30-35 kg/cm2) gần với giới hạn cho phép của đường ống. Với áp suất đó, dòng xăng từ đỉnh 900m đổ xuống đã vượt qua được đỉnh 1001 m vị trí có bình độ khoảng 850m".

Đúng ngày 22/12/1969, lễ khánh thành tuyến đường ống xăng dầu từ kho K200 (km 21, đường 18) vào kho K5 (nam Bản Cò) được tiến hành sau gần 10 tháng thi công. Trong thời khắc thiêng liêng này, tư lệnh Đồng Sĩ Nguyên xúc động nói: "Hôm nay, chúng ta đang chứng kiến một sự kiện có ý nghĩa vô cùng lớn lao. Đoàn 559 đưa vào vận hành đoạn đầu tuyến đường ống dẫn xăng dầu chiến lược nối hậu phương lớn miền Bắc với tiền tuyến lớn miền Nam”.

Sau buổi lễ, mọi người tận mắt chứng kiến một công trình đặc biệt: 4 vòi cùng lúc tiếp xăng cho một tiểu đoàn xe chỉ mất một giờ rưỡi, nếu cấp phát qua phuy hoặc xitéc như trước đây phải mất hơn ba giờ.

Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên nhớ lại thời khắc đó: "Tôi như thấy qua dòng xăng tuôn chảy bóng dáng hàng trăm chiến sĩ đang vượt núi, băng sông gùi cõng những ba lô xăng, can xăng năm nào? Chỉ những người trong cuộc, hoặc chứng kiến những tháng ngày đắng cay, cơ cực, khi mà một giọt xăng vào tới chiến trường được đổi bằng cả bát mồ hôi, thậm chí bằng máu, mới ý thức được tầm thế lớn lao của sự kiện đưa đường ống xăng dầu Trường Sơn vào vận hành".

Để ngụy trang, đường ống, trạm bơm và các kho được chôn ngầm hoặc làm trong hang đá. Khi vượt sông, đường ống đi ngầm nhưng có những đoạn sông, suối nhiều đá ngầm, dòng chảy mạnh phải làm cầu treo ống (sông Sêrêpôc).

Ngoài những hiểm nguy rình rập từ các loại mìn lá, mìn dây, bom bi, khi đi kiểm tra sự cố nhiều chiến sĩ đã bị ngộ độc xăng. "Có lần đi kiểm tra tuyến ống, thấy một nữ chiến sĩ cứ ngồi cười sằng sặc, chỉ huy hỏi gì cũng cười. Thì ra, đường ống bị bom bi đánh thủng, xăng phun thành sương khiến nữ chiến sĩ đó bị ngộ độc xăng. Mãi đến khi các kỹ sư tìm ra phương pháp phát hiện điểm bị sự cố từ xa mới giảm được thương vong, ngộ độc xăng cho bộ đội. Phương pháp này đã hạn chế việc huy động bộ đội chạy theo hàng trăm km trên tuyến tìm chỗ hỏng. Nhiều lúc chạy băng rừng ban đêm mà không được dùng đèn pin, thương lắm!", đại tá Mai Trọng Phước ngậm ngùi.

Còn với thiếu tướng Hồ Sỹ Hậu, đến nay vẫn không nguôi ngoai trước cái chết bi thương của đồng đội: "Khi phát hiện bom đánh đứt tuyến, anh Quy - trạm trưởng trạm bơm ở Ka Tần đã lao ra nối ống. Trong lúc thao tác bất ngờ xăng trong ống phun ra tưới khắp người, ngập đầy vũng bom dưới chân. Cùng lúc ấy một loạt bom dội tiếp, nơi anh đứng trở thành biển lửa. Đồng đội nhìn thấy nhưng không sao cứu được".


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 28 Tháng Năm, 2010, 03:26:40 pm
VẬN TẢI THỦY - PHƯƠNG THỨC CHI VIỆN HIỆU QUẢ TRONG CHIẾN DỊCH QUẢNG TRỊ
Thiếu tướng Hoàng Anh Tuấn


Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở Đông Dương, mặt trận giao thông vận tải là nơi đã diễn ra cuộc chiến tranh ngăn chặn và chống ngăn chặn rất quyết liệt. Tuyến vận tải chi viện chiến lược Trường Sơn sớm trở thành mục tiêu sinh tử trong mọi học thuyết chiến tranh của các đời tổng thống Mỹ. Để thắng được cuộc chiến tranh ngăn chặn của đế quốc Mỹ, Bộ đội Trường Sơn đã phải vận dụng nhiều phương thức vận tải kết hợp. Trong đó vận tải thủy trên các dòng sông dọc Trường Sơn trở thành một phương thức vận chuyển có hiệu quả góp phần làm nên những chiến công hiển hách của Đoàn 559 - Bộ đội Trường Sơn - Đường Hồ Chí Minh.

Dãy Trường Sơn đoạn từ tây nam Quảng Bình vào Quảng Trị có nguồn nước từ một hang sâu thẳm trào lên sông Tà Rũa, đập vào sườn đá Pha Sang, rồi tách làm hai. Một chảy xuống phía đông thành dòng Chuội Hoi qua A Choạc ra Cửa Việt một chảy lên phía tây thành dòng Sê Bang Hiên trên đất Lào. Binh trạm 27 đã sớm biết lợi dụng dòng chảy này đưa hàng đến đường số 9, góp phần chi viện cho mặt trận B4.

Đầu năm 1972, Bộ Chính trị và Quân ủy chủ trương mở cuộc tiến công xuân hè khắp chiến trường miền Nam. Hướng tiến công chiến lược mở màn là mặt trận đường 9 - bắc Quảng Trị. Mục tiêu chủ yếu phải diệt nhiều sinh lực và phương tiện chiến tranh của địch; thu hút chủ lực quân ngụy ra chiến trường Quảng Trị, tạo điều kiện thuận lợi cho bộ đội khu V, Nam Bộ phát triển tiến công làm thay đổi thế chiến lược.

Tháng 2/1972, bộ đội ta nổ súng tấn công tuyến phòng ngự Cù Mông - Tà Lương (tây nam Trị - Thiên). Địch vội đưa quân chủ lực lên đối phó. Chớp thời cơ kẻ địch bị "đòn lửa", mặt trận B5 mở chiến dịch bắc Quảng Trị. Sư đoàn 308 tập trung đột kích phá vỡ vỏ thép tiền duyên của địch. Đợt II chiến dịch, ta đánh bật quân ngụy khỏi thị xã - Thành Cổ.

Để cứu nguy cho ngụy, đế quốc Mỹ vội huy động máy bay chiến lược, máy bay chiến thuật và pháo hạm đổ lửa thép dọc đường 9 - bắc Quảng Trị. Những trọng điểm như Cồn Tiên, Trung An, Trúc Khê, Thanh Hà,... mỗi ngày hứng chịu hàng vạn trái bom, đạn. Các mũi vận chuyển của ta bị chững lại, ảnh hưởng lớn đối với sức phát triển tiến công của quân ta.

Quân ủy Trung ương, Bộ Tồng Tư lệnh giao nhiệm vụ Bộ Tư lệnh Trường Sơn trực tiếp tổ chức bảo đảm cho chiến dịch Quảng Trị thắng lợi. Thực hiện nhiệm vụ cấp trên giao, Bộ Tư lệnh Trường Sơn lệnh cho Binh trạm 12 lật cánh xuống địa bàn Duyên Hải, làm nhiệm vụ hậu cần chiến dịch.

Ngay từ đầu, Bộ Tư lệnh xác định phải "kết hợp hai phương thức thủy - bộ" mới thắng được âm mưu và các thủ đoạn ngăn chặn của Mỹ ở mặt trận này. Đại đội ca nô trên sông Băng Phai - Na Tông được đưa xuống Vĩnh Linh - Hồ Xá, được bổ sung thêm lực lượng ca nô của Đoàn Hồng Hà tổ chức thành Tiểu đoàn 166 vận tải thủy. Tiếu đoàn được biên chế 3 đại đội xuồng máy, 1 đại đội công binh phá bom, thủy lôi, 2 đại đội dân công xếp dỡ kho và nạo vét sông. Chính ủy và Phó Chính ủy Bộ Tư Lệnh Trường Sơn luân phiên trực tiếp chỉ đạo tổ chức, hoạt động trên hướng này.

Nắm vững đường lối chiến tranh nhân dân và phương châm hoạt động vùng hậu địch, Tiểu đoàn 166 trực tiếp tổ chức thâm nhập địa bàn nằm sâu trong vùng bị tạm chiếm, khảo sát sông suối kể từ sông Bến Hải xuôi xuống phía đông hợp lưu với các dòng Kiến Giang, Rào Thanh trên đất Quảng Bình, cắt quốc lộ 1 chảy ra Cửa Tùng.

Vận tải tuyến sông này nếu trinh sát luồng lạch không kỹ, tổ chức điều khiển cung đoạn không tốt, dễ bị lạc dòng không thấy lối ra, hoặc lạc vào vùng địch.



Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 28 Tháng Năm, 2010, 03:26:55 pm
Mạng đường biển đơn giản hơn, chỉ chạy dọc ven biển từ Vĩnh Linh vào Gia Đẳng - Mỹ Thủy. Nhưng tuyến ven biển thường có hàng không mẫu hạm Mỹ cắm ngoài khơi trực chiến quan sát dọc biển Quảng Trị và dễ đụng tầu ngụy tuần tiễu dọc ven biển. Xuồng của ta xuất phát từ Vĩnh Thái- Vĩnh Linh phải vòng ra xa Cửa Việt - nơi đây có thủy lôi của ta chống Mỹ đổ bộ. Từ Cửa Việt vào Mỹ Thủy ven biển có nhiều cồn cát ra đến mép nước, không nắm vững dễ bị mắc cạn.

Tiểu đoàn 166 tổ chức hai tuyến vận chuyển: tuyến ven biển và tuyến sông. Đại đội 7 vận chuyển tuyến ven biển đi gọn cung, một đêm một chuyến. Từ kho hàng Vĩnh Thái chạy vào sông Gia Đẳng - Mỹ Thủy giao cho hậu cần B5. Đại đội 8, đại đội 9 vận chuyển đường sông. Tuyến này phải chia hai cung mới đảm bảo đi về gọn một đêm chuyến. cung ngoài nhận hàng ở Hồ Xá - Vĩnh Linh, chạy dọc sông Sa Lung ra sông Bến Hải vào sông Cánh Hòm rồi dọc sông Thạch Hãn tới Mai Xá thì giao nhập kho bãi.

Cung trong tiếp chuyển hàng Mai Xá, phân ra hai cánh vận tải: một cánh ngược dòng Thạch Hãn đến thị xã, Thành Cổ, cánh thứ hai đi theo sông Vĩnh Định đến Phù Liêu, Tài Lương chi viện các sư đoàn bảo vệ mặt đông Quảng Trị và chi viện hậu cần B5.

Đại đội vận tải đường sông có nhiệm vụ nhận thương binh ở khu vực thị xã và thành cổ chuyển về sau. Thương binh nhẹ thì nhập trạm quân y Mai Xá, xuồng cung ngoài vào nhận chuyển về sau Vĩnh Linh. Nếu là thương binh nặng thì chạy thẳng về bệnh viện hậu cứ ở Nông trường Quyết Thắng.

Do cung độ vận tải phức tạp như vậy, Tiểu đoàn 166 phải đặt Sở chỉ huy cơ bản tại Mai Xá, Gio Linh, chỉ huy Sở hậu cứ đặt ở rừng cao su Vĩnh Hòa, Vĩnh Linh. Có thông tin hữu tuyến và vô tuyến tiếp sức bảo đảm liên lạc, điều hành hoạt động toàn đơn vị.

Chuyến đầu tiên xuất phát tại bến phà Châu Thị Chân, cao điểm 18. Bên bờ Vĩnh Lâm, 3 xuồng Trung đội 1 chở đầy hàng bám theo chiếc xuồng gỗ không tải của dân quân Vĩnh Linh dẫn đường xuôi dòng Sa Lung tiến tới cầu Hiền Lương. Máy bay Mỹ bổ nhào phóng bom xuống sông Cam Lộ, Bến Hải. Thủy thủ vẫn bình tĩnh lái xuồng vượt qua gầm cầu Hiền Lương, ngoặt nhanh vào sông Cánh Hòm.

Đi được một quãng, xuồng bỗng khựng lại, rong rêu đóng thành mảng, ghì chặt mũi xuồng. Các thủy thủ phải nhảy xuống sông dùng dao chém, gỡ, rồi chặt tre buộc vào mũi xuồng mở máy chạy mới đẩy được những tảng rêu lâu đời ken đầy giữa lòng sông. Đội xuồng tới Bến Ngự lại bị đoạn sông bồi đúng vào lúc con nước rặc. Trời gần sáng, phải tấp vào bờ, dỡ hàng, ngụy trang, giao tổ du kích trực chiến.

Sau khi nghe báo cáo, trực tiếp kiểm tra, chỉ huy tiểu đoàn quyết định: ban ngày địch đánh không ngớt, chỉ có thể vận chuyển vào ban đêm. Đầu tuần trăng đến giữa tháng, xuồng đủ trọng tải đi suôn sẻ. Cuối tuần trăng trúng nước rặc, thuyền chở nhẹ mới nổi. Dù có nạo vét thì cát theo triều lên lại lấp đầy; ở đoạn sông Bến Ngự có đội dân công hạ thủy bớt những bao hàng đã bọc nilon, nối chúng lại thành dòng, cho xuồng chở nhẹ kéo qua 200m, lại bốc lên xuồng đi tiếp. Tập trung dân công gỡ phá hết rong rêu dọc sông Cánh Hòm và các đoạn sông Cam Lộ, Vĩnh Định ...

Bằng mọi biện pháp khắc phục, chuyến hàng chi viện đầu tiên đến Thành Cổ trót lọt. Phát tín hiệu, bộ đội giải phóng xuống nhận hàng và giao thương bệnh binh chuyển ra. Nắm vững quy luật nước các dòng sông, các đơn vị xuồng giao hai cung. Trong một tháng, đưa được hơn trăm xuồng vào Thành Cổ, chuyển thương binh về hậu cứ an toàn tuyệt đối. Cùng thời gian, tuyến ven biển, đại đội 7 cũng chuyển trót lọt 15 chuyến, giao hàng ở 3 điểm cùng quy ước.

Được chi viện theo yêu cầu, bộ đội chủ lực phối hợp lực lượng địa phương phát triển tiến công xuống phía nam. Kẻ địch vội tăng quân ứng cứu, mỗi ngày chúng huy động 200 máy bay phản lực, hơn 100 lượt máy bay chiến lược B52 đánh phá. Hạm đội 7 Mỹ với hàng chục tầu chiến các loại áp sát vùng biển Quảng Trị. Ngoài các sư đoàn bộ binh, Mỹ - ngụy đưa 4 trung đoàn tăng thiết giáp, 15 tiểu đoàn pháo tầm xa và súng phun lửa đến Quảng Trị để ngăn chặn quân giải phóng.



Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 28 Tháng Năm, 2010, 03:27:02 pm
Mỹ - ngụy mở chiến dịch Lam Sơn 72 - A tiến công tổng lực tái chiếm Thành Cổ. Trước cục diện chiến trường bất lợi, Quân ủy Trung ương chỉ đạo chuyển sang phòng ngụ trận địa (12-7) Bộ đội Trường Sơn phải bảo đảm cho bộ đội giữ vững thị xã - Thành Cổ.
Thời điểm này, tuyến vận tải đường biển bị tầu tuần tiễu địch săn đuổi khó phát triển, Bộ Tư Lệnh điều Đại đội 7 vào tuyến đường sông, cùng đại đội 8 và 9 chi viện Thành Cổ.

Tiểu đoàn tổ chức lại 2 cung Vĩnh Lâm - Mai Xá và Mai Xá - Thành Cổ cho phù hợp với tình hình chiến sự. Thời gian này ngoài việc phòng không bảo toàn lực lượng phương tiện, còn phải sẵn sàng chiến đấu chống biệt kích, thám báo. Cán bộ tiểu đoàn, đại đội phải trực tiếp chỉ huy đội hình hành tiến.

Cùng với lực lượng vận tải của B5, lực lượng của Quảng Trị lập các đội hỗ trợ, cấp cứu trên đường và ở các trọng điểm. Thủy thủ phải chủ động, tích cực vận dụng mọi biện pháp nghi trang che mắt địch (nilon xanh nước biển phủ lên xuồng, cắm lá điệp với cây ven sông); chuẩn bị sẵn công sự giấu xuồng ven sông...

Việc cải tiến tổ chức thích nghi hoàn cảnh đã nhanh chóng phát huy công suất phương tiện. Gặp lúc địch bị hút vào các trận đột kích của quân ta, các đội xuồng tăng tốc chạy thẳng từ Vĩnh Lâm vào Thành Cổ. Trường hợp địch uy hiếp mạnh khu vực Triệu Phong, Ái Tử thì lập chân hàng ở Mai Xá. Dùng đội hình nhỏ, thiện chiến chạy cung Mai Xá - Thành Cổ... Với cách tổ chức linh hoạt như trên các trung đội đều khép kín gọn cung một đêm chuyến. Bảo đảm duy trì sức chiến đấu cho quân giải phóng. Trong một tuần lễ, tiểu đoàn xuồng đã chở bổ sung cho khu vực hơn 1.000 tay súng, chuyển về sau hơn 300 thương bình.

Tháng 9, lũ Trường Sơn vào thời điểm cực đại, ào ạt đồ xuống dải đất ven biển. Thị xã - Thành Cổ bị cô lập trong biển lũ. Giặc Mỹ lợi dụng thời tiết này huy động pháo hạm, xe tăng lội nước từ năm mũi tiến vào Thành Cổ. Bộ đội ta trong Thành Cổ nhờ được tiếp tế mạnh đã kịp tổ chức thành các tuyến hỏa lực B40, DKZ, B72 diệt hơn 20 xe tăng thiết giáp...

Đội hình địch rối loạn phải lùi ra gọi máy bay lao tới đổ bom như mưa rào. Pháo bầy từ các hạm tầu đổ hàng vạn viên đạn pháo cỡ lớn vào trung tâm Thành Cổ. Hai ngày đêm liên tiếp, địch trút hàng vạn quả bom phá, bom cháy xuống mảnh đất chừng 6 cây số vuông... Máy bay B52 ném bom rải thảm khắp vùng ngoại ô, hòng cắt đứt mọi sự chi viện của ta cho Thành Cổ.

Do bị địch đánh phá ngăn chặn ác liệt, bộ đội ta bị thương vong nặng. Có những thời điểm chốt đã hy sinh đến người cuối cùng. Sau 81 ngày đêm, hai đại đội bộ binh của ta trong Thành Cổ chỉ còn 25 chiến sĩ bị thương. Trước tình hình đó Bộ Tư lệnh mặt trận quyết định rút lực lượng cố thủ trong Thành Cổ ra ngoài. Trung đoàn 48 cùng các trung đoàn 95, 64 lập tuyến ngăn chặn ở bắc sông Thạch Hãn, vây hãm lại địch trong Thành Cổ.

Sau khi quân ta rút khỏi Thành Cổ, Tiểu đoàn 166 vận tải thủy được lệnh chuyển nhiệm vụ tiếp tế cho các tuyến trận địa trải rộng trên nhiều khu vực. Tiểu đoàn nhanh chóng lập các phân đội nhỏ, phối hợp với thuyền của nhân dân và du kích địa phương, len lỏi theo từng lạch sông (Vĩnh Phước, Ái Tử, Vĩnh Đinh, Nhan Biểu, Hói Mới, Sông Nhùng...) chở vũ khí, lương thực, thuốc men đến tìm đơn vị ...

Được chi viện kịp thời, bộ đội ta đánh bật kẻ địch khỏi Nhan Biểu, Ái Tử, chặn địch ở Tích Tường, Như Lệ - Tây Nam thị xã Quảng Trị ... Ta chuyển sang thế bao vây, chia cắt địch, tiêu diệt từng bộ phận sinh lực địch ...

Lúc này, Tiểu đoàn 166 tuy vẫn đảm nhiệm chức trách chi viện chiến dịch nhưng trong hoạt động phải làm cả nhiệm vụ bảo đảm chiến đấu. Đại bộ phận lực lượng vận tải suốt ngày đêm phân tán từng xuồng len lỏi đến từng khu trận địa. Do mục tiêu phục vụ và cách thức hoạt động thay đổi nên việc phòng chống địch cũng phức tạp hơn nhưng đội quân vận tải thủy đã khắc phục, vượt mọi thủ đoạn hiểm độc của địch, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo đảm cho bộ đội ta tiến hành thắng lợi các loại hình tác chiến.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 30 Tháng Năm, 2010, 05:05:30 pm
TÔI VẪN YÊU ANH NHƯ BUỔI ẤY...
Vũ Cao Phan

“Trường Sơn không chỉ là một dãy núi mà là những cánh quân đông đảo hàng triệu người ra trận. Tôi gắn bó máu thịt với Trươgng Sơn là có thể nói, Trường Sơn đã đẻ ra nhà thơ Phạm Tiến Duật, Trước đây, bây giờ và sau này nếu tôi viết được gì neo lại trong lòng bạn đọc chính là nhờ những năm tháng Trường Sơn" (“Đi đọc cành đổng thơ” Trịnh Thanh Sơn Nxb. Hội Nhà văn)
Nhà thơ Phạm Tiến Duật


Đầu năm 1970, xong khoá huấn luyện, đơn vị tôi lên đường vào Nam. Xe lửa một mạch từ Đáp Cầu đến Vinh rồi chuyển ô tô tải quân sự, đi tiếp. Cứ thế, ngày hành quân, đêm nghỉ. Cuối đất Quảng Bình là cuộc vượt tuyến xuyên rừng bằng đôi chân: ít đạn bom và pháo sáng dọc đường hơn, nhưng nhọc nhằn hơn. Đang lúc chưa biết đích đến là mặt trận nào và tuỳ theo đó có khi biết đến vài tháng không chừng thì chưa đến ngày thứ 10 của cuộc hành quân chúng tôi dừng lại, cả tiểu đoàn tất bật từ quân tới lính được lệnh bổ sung cho một đơn vị mới được thành lập trên sườn Trường Sơn: Binh trạm 27.

- Đây thuộc đường dây 559?

- Phải. 

- Có nhà thơ Phạm Tiến Duật?

- Phải. Mấy ngày trước vừa qua đây. Về Bộ Tư lệnh rồi.

- Bộ Tư lệnh ở đâu?

- Ở đâu? Gọi thử vào cái hữu tuyến này xem...

Vậy rồi cũng phải mất vài hôm, tôi mới liên lạc và làm quen được với con người có cái tên khá trúc trắc ấy qua đường điện thoại. Tôi kể rằng chúng tôi yêu anh đến thế nào, rằng vào cái buổi tối trước ngày lên đường, tôi tập hợp đại đội lại để đọc lên những bài thơ đầy cảm xúc lính của anh thì mới hay, những Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây và Tiểu đội Xe không kính, những Lửa đèn với Gửi em cô thanh niên xung phong ấy đã nằm cả trong hành trình những người lính trẻ của mình rồi; rằng tôi cảm thấy may mắn và tự hào được ở cùng một đơn vị với anh đấy, anh Duật ạ...

Giữa bom đạn chiến trường, cuộc làm quen văn chương hơi vội vàng rối rít ấy dường như lạc lõng? Có thể, nhưng không phải không có nguyên nhân, bạn trẻ ạ. Nếu tôi nói rằng vào cái thời điểm ấy, Phạm Tiến Duật và những chùm thơ Trường Sơn mới xuất hiện của anh trên báo Văn nghệ đang bắt đầu làm nên một hiện tượng độc đáo của thơ thời chống Mỹ, cứu nước thì có lẽ còn chưa nói gì. Tôi phải nói thế này, hãy tin đi: bạn đang lim dim tỉnh thức giữa trưa hè phải không? Thì đột ngột ào xuống cả thác nước. Cảm giác đầu tiên là ngạt thở, cảm giác thứ hai là trời sụp, và thứ ba, rồi mới đến với bạn cái bất ngờ sung sướng được hưởng thụ. Và còn hơn cả một thác nước đột ngột trưa hè ấy chứ: bạn không chỉ một lần duy nhất hưởng thụ mà có quyền gặm nhấm nó hoài hoài... Đấy, thơ Phạm Tiến Duật đã đến với chúng tôi như thế

Vâng, tưởng như cùng đứng lại trong quân khu Trường Sơn (đoàn 559 còn được gọi như vậy), lại đã có phút làm quen qua sóng điện ngay từ buổi đầu ấy, chúng tôi sẽ có rất nhiều cơ hội để mà gặp nhau. Vậy mà phải đến 7, 8 năm sau, khi chiến tranh đã đi qua được gần 2 năm rồi, tôi và Phạm Tiến Duật mới có dịp được tương diện tại thủ đô Hà Nội. Chiến tranh mà, biết làm sao được. Mà Trường Sơn thì dằng dặc ôm cả chiến trường.

Những năm ấy chúng tôi đã có không ít dịp “đuổi" mà chẳng có khi nào kịp "bắt” được nhau. Trong chiến dịch Đường 9 - Nam Lào, tôi từ đường 16, anh từ đường 128, hẹn sẽ hợp quân ở Sêpôn, rồi cũng không. Sau chiến dịch, miền Bắc gửi vào một đoàn văn công. Duật gọi điện như dao chém đá nhắn đợi anh sẽ tháp tùng đoàn từ Bộ Tư lệnh Quân khu vào chỗ tôi mà cũng trượt nốt. Anh phải vội đi sư đoàn bộ binh 968, không kịp cả một lời nói đỡ.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 30 Tháng Năm, 2010, 05:06:19 pm
Nhưng đoàn văn công thì vẫn vào, và cô nghệ sĩ múa Cánh chim mặt trời xinh nhất đoàn đang làm tôi lấn bấn lúc ấy: "Có lẽ nào anh lại..." thì đã kịp khoe mấy câu thơ anh ghi tặng nàng trong sổ tay: Em cầm hoa ấy hoa gì?/ Cái cánh thì trắng cái thuỳ thì xanh? Phải gì hoa của riêng anh..." và giải thích: em bị kẹp ngón tay phải cuốn băng, Xanh mê-ti-len (thuốc sát trùng) thấm từ trong ra... Tôi đã xin phép nàng được thêm vào một câu cho trọn bài: thưa rằng hoa ấy đã dành anh P..." và dặn khi trở ra "nhớ đưa cho ông Duật coi". Đến giờ tôi vẫn chưa có dịp hỏi lại...

Không thể không thừa nhận Phạm Tiến Duật có tài gì đó hơi đồng bóng trong tính cách. Anh uyên bác, sắc sảo nhưng cũng hồn nhiên, dễ dãi, ai nói gì cũng tin, hào phóng ban tặng lời khen, thoải mái bình luận cả những lĩnh vực còn thiếu thông tin. Nếu cần tìm ra nhược điểm, theo tôi đây chính là nhược điểm của anh. Nó làm hại anh ít nhiều và thường gây những "sự cố" nho nhỏ. Nhưng anh không nhận ra cũng chính từ sự hồn nhiên ấy. Khoảng mười năm sau Đổi Mới, có lần tôi phê bình cái “chính trị - tư tưởng” của anh bò hơi chậm, đến bây giờ mà vẫn viết "đây là vấn đề ai thắng ai", anh đã cự lại kịch liệt. Nhưng ngay tối đó anh lại gọi cho tôi: "ừ mày đúng...".

Duật luôn chỉn chu, râu tóc nhãn nhụi, ngồi lên xe máy chỉ có một kiểu nét mặt thẳng về phía trước quan sát đảm bảo an toàn giao thông nhưng lại ít chú ý đến mình, ít lo cho bản thân. Hồi anh còn tá túc ở số 9, ngõ Yên Thế - gầm chạn cả nghĩa đen lẫn nghiã bóng, khách văn lại chơi vào cỡ 9 giờ tối thường chứng kiến màn gián lao vù vù như trực thăng đi càn, Duật vẫn thản nhiên gạt những chú gián "hạ cánh" xuống mặt mình để tiếp tục câu chuyện. Đồ đạc có giá duy nhất trong nhà lúc ấy là bộ xa-lông bằng gỗ xà cừ đường năm mà Tào Mạt đem đến.

Biết anh chưa có nhà cửa, ông Lê Đức Thọ thân gửi một lá thư nhờ Hà Nội lưu tâm đến chỗ ở cho gia đình một nhân tài. Duật cũng chẳng nệ vào đó để xin chỗ thuận tiện hơn (dù không khó); anh vui vẻ ngày ngày leo lên tầng 5 - tầng cao nhất của ngôi nhà mới được xây dựng ở Trung Tự là người ta phân cho: "Vậy là quá tốt rồi!".

Nhưng Duật lại thương người, yêu bạn. Cái vụ "Vua lốp" dạo trước, ngang trái quá nhà thơ bỏ đi làm phóng sự, giật lên tiếng chuông về tình cảnh khốn đốn của “vua" cùng những bất cập ngổn ngang một thời kỳ chuyển đổi. Thương các nữ đồng đội Trường Sơn thuở nào giờ đây vào nương cửa Phật, anh đi thăm, vừa đi vừa khóc để viết nên Tiếng bom và tiếng chuông chùa. Còn với bạn văn, Duật luôn sẵn lòng và nhiệt tình với những gì mình có thể.

Hầu như ai nhờ tựa hoặc bạt cho những tập thơ thậm chí tự xuất bản - anh cũng gắng giúp. Cái giỏi (và thiện chí) là Phạm Tiến Duật luôn khều ra được những sở trường lấp ló đặng làm nhẹ đi những sở đoản nhiều khi lại là "trường đằng đẵng" của tác phẩm và tác giả. Chẳng ngại mất danh, ông nói họ đang tập bước ấy mà, đừng làm họ ngã.

Một lần - cái dịp anh đang làm Phó Chủ tịch Hội đồng thơ - một bạn viết có tuổi, tóc phất phơ và đầu bóng loáng, mặt mày đỏ tía vì men rượu đến mắng anh sa sả vì vụ lại để ông ta trượt "cái hội viên". Duật rót nước mời, nhẹ nhàng giảng giải về cái chân của lý nằm ở đâu. Người đi rồi, anh ngồi thừ một lúc rồi bảo, người ta cứ nghĩ cái nọ tức là cái kia. Buồn thật.

Anh cũng chẳng ngại khen truyện ngắn và ba thứ linh tinh mà tôi viết ra khiến nhiều lúc tôi phải bối rối. Nhưng anh cũng trách tôi lười viết, lười làm bạn văn chương với anh vì không chịu... làm đơn xin vào Hội.

25 năm trước tôi và Duật cùng bắt tay viết một kịch bản truyền hình về một nơi máu lửa của một thời máu lửa của hai đứa, tên Đường Trường Sơn, những người lính nhớ lại. Không phải tài liệu không phải phim truyện, không theo chiều dọc thời gian, một thứ hồi tưởng chủ đề, dự kiến 10 tập. Vì một vài lý do, việc lúc ấy không thành khiến chúng tôi ngẩn ngơ.

Rồi dòng thời gian cứ băng băng chảy, chốc đã đứng trước lễ kỷ niệm 50 năm con đường anh hùng. Mới rồi chúng tôi bàn nhau tìm cách khởi động lại dự án. Đang tính tới những khó khăn phải khắc phục thì đứng trước khó khăn lớn nhất: sức khoẻ của anh. Gặp nhau trong bệnh viện, chúng tôi tự nhiên thôi nhắc tới việc này ...


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 30 Tháng Năm, 2010, 05:07:07 pm
Nếu có một điều gì đáng tiếc ở Phạm Tiến Duật thì có lẽ là đây: anh đã leo qua đỉnh văn chương của mình quá sớm. Không phải đến bây giờ mà từ hơn 20 năm trước tôi đã cảnh báo anh. Duật không nói gì nhưng có vẻ không đồng ý. Rồi 10 năm sau đó khi tôi thất vọng khẳng định thì anh vẫn giữ một thái độ như vậy. Thôi, dù bởi tại "sự cố khách quan" nào hay bởi tại chính anh, ta tiếc nhưng không thể trách Phạm Tiến Duật. Tinh anh đâu có thể hoài hoài phát tiết và Duật ơi, đỉnh của anh đâu vậy?

Đỉnh của anh là Trường Sơn? Từ vời vợi nơi này anh được ngắm nhìn Tổ quốc gấm vóc và tự hào đã góp phần mình cho giang sơn mãi đẹp và bền vững thời chẳng sướng sao!

Mười năm với con đường máu lửa, 10 năm đi khắp Trường Sơn với khẩu súng là ngòi bút - thơ, Phạm Tiến Duật đã để lại tất cả những gì cần để lại. Lính Trường Sơn không chỉ bộ đội vận tải mà cả công binh, bộ binh, pháo binh, giao liên ... đều biết và yêu quý anh. Với họ, Phạm Tiến Duật là một cái tên quen thuộc và ấn tượng như ngã ba Dân Chủ, trong điểm Cha Lì, Bản Đông, Tha Mé, Mường Noọng... Thậm chí, nơi Duật ngồi ngẫu hứng ca lên:

“Lại đi, lại đi, tình đời tha thiết thể
Chết cỏ đường người, trai gái mến thương nhau...”


Rồi cũng được định danh là "đá anh Duật". Năm 1973 từ Trường Sơn tôi có gửi cho báo Văn nghệ một chùm truyện ngắn (rất tiếc, nhờ người đem đến tận 17 Trần Quốc Toản mà sau này toà soạn bảo không nhận được) trong đó có một truyện (tôi rất tâm đắc) về người lính lái xe và thơ Phạm Tiến Duật. Tôi có để tình huống đưa đẩy tới nhận thức ước lệ: nếu trong chiến tranh Vệ quốc của Liên Xô, mỗi bài báo của Lia Erenbua được đánh giá với sức công phá của một sư đoàn bộ binh thì ở đây, mỗi bài thơ của Duật mang năng lượng của một tiểu đoàn xe vận tải chiến lược.

Vâng, giá mà bạn được chứng kiến những gì người lính Trường Sơn nói về anh, háo hức những câu thơ, lời hát mà mỗi lần ngân lên là mỗi lần thêm lửa; giá mà bạn từng nghe người chỉ huy cao nhất căn dặn phải bảo vệ anh như thế nào mỗi khi xuất kích cùng bộ đội vận tải chiến lược ...

Sinh ra từ đồi rừng Phú Thọ, Duật từng viết: "Từ cây ta lại về cây/ Từ rừng lại trở về đây với rừng"; và cũng từng nói: "Trường Sơn không chỉ là một dãy núi mà là những cánh quân đông đảo hàng triệu người ra trận. Tôi gắn bó máu thịt với Trường Sơn và có thể nói, Trường Sơn đã đẻ ra nhà thơ Phạm Tiến Duật. Trước đây bây giờ và sau này nếu tôi viết được gì neo lại trong lòng bạn đọc chính là nhờ những năm tháng Trường Sơn" (Thanh Thanh Sơn: Đi dọc cánh đồng thơ, Nxb Hội Nhà văn).

Nhưng Duật đâu chỉ khu trú ở Trường Sơn. Nói về sự được yêu thích và tính phổ biến thì thơ Phạm Tiến Duật của thời chống Mỹ có thể so sánh với thơ Tố Hữu của thời kháng Pháp, nhưng hiệu ứng tích cực và sức lan toả, công bằng mà nói thì hơn bởi các phương tiện truyền thông báo chí thời này đã khá hơn rất nhiều, chưa nói thơ anh còn được phổ nhạc.

Không thể không nhớ lại những năm khói lửa, thơ của Duật được đọc lên trong các giảng đường, trong những chặng nghỉ hành quân, trong rủ rỉ đôi lứa bên nhau trước giờ người con trai lên đường ra trận. Thơ của anh được hào hứng đón nhận vì nó lạ về thi pháp, nó quá đẹp mà giản dị về ngôn từ, rất giàu cảm xúc và hình tượng một thời chiến tranh giải phóng, nó tuyên truyền đấy mà không có tự thân mục đích tuyên truyền. Vâng, vì nó được sinh ra từ cảm thức quần chúng, cảm thức lính, cảm thức thế hệ.

Chính vì thế, Tư lệnh Bộ đội 559 Đồng Sĩ Nguyên đã nhiều lần được nhắc đến với những lời đánh giá sâu sắc về Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây và coi đó là bản quân ca trữ tình của Bộ đội Trường Sơn. Và cũng chính vì thế, Lửa đèn đã trở thành cổ điển ngay cả khi tác giả vẫn đang còn sáng tác. Nhạc sĩ Huy Loan lấy cảm hứng từ Lửa đèn để viết nên một giao hưởng thơ 3 chương và Dàn nhạc Giao hưởng Quốc gia đã trình diễn ở Nhà hát Lớn. Một nhà làm phim nước ngoài, Evann Ham, có lần nói với tôi anh rất muốn làm một bộ phim dựa theo Lửa đèn. Việc Evann còn đang dự tính thì hãng truyền hình ABC (Aus-tra-lia), trong loạt phim The Vietnam Peace (Hòa bình cho Việt Nam), đã dựng một trường đoạn nhiều cảm xúc nương vào Gửi em cô thanh niên xung phong, Tiểu đội xe không kính, Vòng trắng.

Tại sao không có ai nghĩ ra việc tặng Huân chương cho những nhà thơ chỉ do những dòng thơ cống hiến của họ?

Và với tôi dù có thể các Hội đồng quan phương có cách nhìn của họ, tôi nhìn vào hiệu ứng tích cực của sự vật để giơ tay xin dành cho Phạm Tiến Duật phần thưởng cao quý nhất mà anh xứng đáng được hưởng. Hỡi những người yêu thơ và những bạn cùng thời, các bạn có đồng ý với tôi?

Nhà thơ Phạm Tiến Duật sinh ngày 14 tháng 1 năm 1941. Quê quán: Thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ. Năm 1963, sau khi tốt nghiệp Đại học Sư phạm Văn khoa, nhà thơ Phạm Tiến Duật gia nhập quân đội. Sống và viết trong chiến tranh trên đường mòn Hồ Chí Minh. Từng là Phó Trưởng ban Đối ngoại Hội Nhà văn Việt Nam, Tổng Biên tập tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam (7/2001-6/2006).

Tác phẩm chính: Vầng trăng quầng lửa (Thơ, 1970); Thơ một chặng đường (tập tuyển, 1994); Ở hai đầu núi (Thơ 1981); Vầng trăng và những quầng lửa (Thơ, 1983); Thơ một chặng đường (Tập tuyển, 1994); Nhóm lứa (Thơ, 1996); Tiếng bom và tiếng chuông chùa (Trường ca, 2000); Vừa làm vừa nghĩ (2003).
Nhà thơ được nhận giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật, đợt I, 2001.

Anh mất ngày 04 tháng 12 năm 2007.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 30 Tháng Năm, 2010, 05:08:29 pm
NƠI BẮT ĐẦU CON ĐƯỜNG LỊCH SỬ ẤY
Nguyễn Khắc Phê


Con đường lịch sử ấy - "Đường mòn Hồ Chí Minh", nay đã thành Đại lộ Hồ Chí Minh.

Đã có biết bao nhiêu sách báo nói đến con đường lịch sử ấy rồi. Nhưng với mỗi thời gian khác nhau, với cách tìm hiểu và lấy tài liệu khác nhau, người ta lại hình dung con đường lịch sử ấy một cách khác nhau.

Những người khai sinh "Đoàn 559" tròn 50 năm trước, đứng đầu là tướng Võ Bẩm thì trong tâm tưởng hẳn là luôn nghĩ về "con đường mòn" theo đúng nghĩa đen của từ này - một lối đi nhỏ len lỏi giữa lau lách và rừng rậm Trường Sơn mà miền Bắc dùng để chi viện cho cuộc chiến đấu ở miền Nam, với cột số "O" ở Bến Tắt, thượng nguồn sông Hiền Lương.

Những ai là lính của Binh đoàn 559 về sau, hoặc từng đi qua Trường Sơn trong kháng chiến chống Mỹ thì lại nghĩ đó là cả một hệ thống đường chiến lược ngang dọc trên dãy Trường Sơn, một mạng lưới đường mỗi ngày một phát triển và biến hóa, với cột km số "O" ở Tân Kỳ, Nghệ An...

Với riêng tôi, đã nhiều năm cứ thầm nghĩ là mình có may mắn được ở nơi bắt đầu con đường lịch sử ấy. Đó là đoạn đường qua Ca Tang, Khe Ve lên đèo Mụ Giạ. Từ hơn một thế kỷ trước, năm 1885, Tôn Thất Thuyết và những người Việt Nam yêu nước không chịu làm tôi tớ cho giặc Pháp là đội quân đã khai sinh ra con đường này. Một tài liệu viết năm 1931 đã thuật lại những trận vua tôi Hàm Nghi đánh Tây quanh vùng Khe Ve:

"...Vua lần ra xóm Khe Ve và sai quân lính đắp lũy đất độ hai thước tây. Bấy giờ các làng đem lương thực đến, vua cấp tiền cho. Cách một tháng, Tây ở Bãi Đức kéo vào. Hai bên đánh nhau ngót một ngày ở cửa khe. Vì đường hiểm, Tây dàn quân không được, bị thua phải kéo về Bát Đức..."

Năm 1953, trong kháng chiến chống Pháp, đây là con đường quân ta tiến lên mở mặt trận Trung Lào phối hợp với chiến dịch Điện Biên. Trong những năm tháng bắt đầu cuộc chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ, trên hệ thống truyền thông quốc tế, ngày nào cũng có tin không lực Mỹ ném bom vào đoạn đầu mối "đường mòn Hồ Chí Minh" này.

Ngày ấy, những tuyến đường ngang vượt Trường Sơn như đường 20 bên phà Xuân Sơn (còn gọi là đường Quyết thắng"), đường 10 bến phà Long Đại, đường 16 qua Dốc Khỉ mới chỉ những người khảo sát biết đến. Ngày ấy, những đoàn xe, pháo vượt Trường Sơn tiến vào mặt trận chỉ bằng một con đường duy nhất: đường 12A qua đèo Mụ Giạ. Vì thế, đoạn đường hiểm yếu ấy cũng là nơi hội tụ các anh hùng: Nguyễn Viết Xuân, Nguyễn Thị Kim Huế, Tiểu đoàn 2 công binh, Đại đội Thanh niên xung phong 759 ... Chính nhờ cuộc sống ấy mà tôi đã viết được gần một ngàn trang sách (Tập ký sự Vì sự sống con đường - 1968; tiểu thuyết Đường giáp mặt trận - 1976; tiểu thuyết Chỗ đứng người kỹ sư - 1980) ...

Năm 1977, có dịp đi trên đoạn đường mới rải nhựa rộng thênh thang dọc theo triền phía đông Trường Sơn thuộc tỉnh Bình Trị Thiên, tôi lại thấy bên cầu Đakrông (Quảng Trị) cột cây số dáng thanh mảnh, phía trên nở xòe ra như cánh chim, in rõ dòng chữ "Đại lộ Hồ Chí Minh - Km 1".

Còn nhớ, buổi sáng ấy, nhìn hai câu thơ của nhà thơ Tố Hữu nổi bật trên vách đá nâu đầu cầu Đak Rông: "Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước - Mà lòng phơi phới dậy tương lai", lòng tôi náo nức nghĩ đến ngày con đường lớn trên triền phía Tây Tổ quốc, con đường mở ra vì tương lai Tổ quốc sẽ thông suốt từ Bắc chí Nam...

Đến hôm nay thì dự án nối dài đường Hồ Chí Minh lên tận Cao Bằng đang được triển khai và một ngày không xa nữa, cột Km số "O" - nơi bắt đầu con đường lịch sử, sẽ được đặt trước cửa hang Pác Bó, địa chỉ Đỏ ghi những bước chân đầu tiên của nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc trở về Tổ quốc vào đêm trước Mùa thu Cách mạng...

Thực ra, cuộc "tranh cãi" về nơi bắt đầu, nơi khởi phát "Đường Hồ Chí Minh" trên mặt đất không quan trọng, vì mỗi nơi đều có giá trị lịch sử của nó; lại còn “Đường Hồ Chí Minh" trên biển thiên biến vạn hóa, các cột km biết cắm vào đâu?. Điều có ý nghĩa hơn là tìm về cội nguồn sức mạnh tinh thần - nơi bắt đầu thực sự của những con đường đã làm nên kỳ tích trong lịch sử dân tộc ta.

Nơi bắt đầu ấy chính là tinh thần yêu nước, là ý chí quật cường, "quyết không chịu làm nô lệ cho người mãi thế", như lời Nguyễn Ái Quốc đã viết trong Thư gửi đồng bào năm 1941 tại Pác Bó, sau Hội nghị Trung ương 8 quyết định đường lối giải phóng dân tộc, thành lập Mặt trận Việt Minh. Với Nguyễn ái Quốc - Hồ Chí Minh, tròn 90 năm trước, tinh thần ấy đã tỏa sáng và được thế giới biết đến. Đó là năm 1919, tại Pa ri, anh thanh niên Nguyễn Tất Thành đã thay mặt nhóm người Việt Nam yêu nước tại Pháp, gửi đến Hội nghị Vécxây Bản yêu sách của nhân dân Việt Nam đòi chính phủ Pháp và các nước Đồng minh phải thừa nhận các quyền tự do dân chủ và quyền bình đẳng của nhân dân Việt Nam.

Tinh thần ấy đã được hun đúc nên từ biết bao anh hùng liệt sĩ trong quá trình dựng nước và giữ nước, trong đó anh hùng dân tộc Quang Trung-Nguyễn Huệ, vào một ngày Xuân 220 năm trước (1789), đã kéo đại quân tiến vào Thăng Long, sau khi quét sạch 20 vạn quân xâm lược nhà Thanh. Chợt nghĩ: Đại lộ Hồ Chí Minh hôm nay có thể được khai phá bởi đoàn voi chiến, ngựa chiến của Nguyễn Huệ hành quân thần tốc theo con đường "thượng đạo" ra Bắc diệt quân xâm lược năm xưa?...

50 năm ... 90 năm ... 220 năm ... và xa hơn nữa, trong trường tồn lịch sử dân tộc, tinh thần yêu nước, ý chí quật cường của người dân Việt đã xây đắp nên CON ĐƯỜNG VIỆT NAM không hề khuất phục trước cường quyền. Hôm qua đã như thế, hôm nay và ngày mai, cho dù "toàn cầu hoá” và thế giới đảo lộn, những con dân nước Việt vẫn nhất quyết đi trọn con đường mà tiền nhân đã đặt những bước khởi đầu vẻ vang.



Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 30 Tháng Năm, 2010, 05:09:52 pm
GIÓ RỪNG VÀ LỬA BẾP
Chu Lai


Rời khỏi lửa bếp vào rừng chỉ cần ba năm mà chưa ngã xuống là người lính mậc nhiên đánh mất khá nhiều những khái niệm cơ bản của thủ tục đời thường. Trận mạc liên miên. Sáng rừng, trưa rừng, tối rừng, đêm rừng và sáng mai tinh dậy, chao ôi, lại vẫn rừng. Rừng xanh thế mà rờn rợn tâm hồn. Xanh như không thể xanh hơn được nữa. Trong màu xanh có màu đỏ. Trong gió xanh có cả hương vị diêm sinh, xương thịt ngào vào... Gió rừng và lửa bếp.

Thử hỏi có cuộc chiến tranh nào lại dằng dặc kéo dài như trên mảnh đất quá chừng bão giông và nhiều tần tảo này ? Mảnh đất mỏng manh như dễ gãy dễ bẻ, như dáng hình của người mẹ ngàn năm dưới căng thân mình gầy guộc ra đại dương để bền bỉ chở che cho con cháu, gia đình được bình an, yên ả.

Nhưng làm sao yên ả khi hình sông thế núi, con người non nước này cứ như có một sự lựa chọn vô hình và hữu hình nào đó phải luôn luôn đứng ở tuyến đầu chống chọi lại cái ác, cái phi nhân từ khắp bốn phương tràn tới.

Bốn ngàn năm. Lịch sử đa đoan, dân tộc đa đoan, phận số con người cũng quá đỗi đa đoan. Và sức chịu đựng phi thường của con người cũng bật lên, phát lộ từ cái đa đoan không muốn có nhưng lại vẫn có như một nghiệp chướng đó. Thăm thẳm chiều sâu. Ngút ngàn chiều dài. Chịu đựng bền dai, lặng lẽ như cỏ cây như nắng gió, như mùi rơm rạ tro trấu vấn vương chung thuỷ mùa lại mùa trên những cánh đồng im ắng.

Chiếc mũ ca lô đội lệch, chiếc mũ cối bằng bặn, chiếc mũ tai bèo mềm mại, chiếc mũ ke pi kiêu hãnh... Hành trình của người lính và hành trình của hình hài những chiếc mũ. Còn có chiếc mũ nào nữa đang chờ người lính ở muôn chặng đường phía trước? Chiến tranh hay hoà bình, bom đạn hay dựng xây?

Làn gió hội nhập đang lồng lộng thổi vào, réo sôi lên lách khắp các bản làng ngõ phố. Có cả những ngọn gió thơm thảo và có cả những nhánh gió màu đen. Các nhà lãnh đạo quốc gia thâm trầm đi ký những hợp đồng thế kỷ với các nước làm ăn đối tác bạn bè. Nhưng người lính chỉ có một hợp đồng duy nhất đã ký với nhân dân, một hợp đồng máu, vĩnh cửu, bất biến không thay đổi trước mọi thời tiết thiên nhiên, thời tiết lòng người.

Gió rừng và lửa bếp!

Gió rừng là một đời trai thấm nhuộm. Lửa bếp là khát vọng cháy nồng sau mỗi cuộc trường chinh. Sự băng mình vào trận như có hồn phách lịch sử thổi thốc tháo ở đằng sau. Sự quên thân cho nghĩa cả nơi sa trường tưởng như có một thoáng tinh thần hảo hớn trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương ẩn vào.

Phải chăng vì thế mà cảm hứng hiến dâng rất đỗi tự nhiên của các thế hệ mặc quân phục màu cỏ úa mãi là một ẩn số thần thánh mà cho đến tận bây giờ, sau biết bao can qua giặc giã, các bộ óc thông tuệ của đối phương vẫn không thể hiểu nổi. Hay không muốn hiểu.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 30 Tháng Năm, 2010, 05:10:56 pm
Gió rừng!

Rời khỏi lừa bếp vào rừng chỉ cần ba năm mà chưa ngã xuống là người lính mặc nhiên đánh mất khá nhiều những khái niệm cơ bản của thủ tục đời thường. Trận mạc liên miên. Sáng rừng, trưa rừng, tối rừng, đêm rừng và sáng mai tỉnh dậy, chao ôi, lại vẫn rừng. Rừng xanh thế mà rờn rợn tâm hồn. Xanh như không thể xanh hơn được nữa. Trong màu xanh có màu đỏ. Trong gió xanh có cả hương vị diêm sinh, xương thịt ngào vào.

Chiến tranh là lý trí, là lý tưởng nhưng chiến tranh cũng là bản năng, là tự vệ. Tự vệ mù mịt. Tự vệ triền miên, nỗi nhớ gia đình, nhớ hậu phương, nhớ bờ môi ngọt lịm người tình Trưng Vương bỗng nhạt dần thành không. Ngày sinh, ngày Tết, mùa nắng mùa khô cũng chỉ còn là mờ ảo. Ngày nào cũng hành quân, nắng mưa đều nổ súng, ngày Tết còn chôn nhau thì mọi cái mốc ước lệ kia đâu còn có ý nghĩa gì.
Khổ chịu được, chết cũng chịu được, thậm chí chịu hết sức nhẹ nhàng, nhưng sự hẫng hụt trong tâm hồn thì đúng là tan hoang thật. 
Chặng đời binh đao có ba lần hẫng hụt.

Lần thứ nhất, cả trung đội đùm bọc, dắt díu nhau hành quân suốt nửa năm mới vào đến nơi, nửa năm là bao nhiêu kỷ niệm là bao nhiêu buồn vui, gắn bó đến tận cùng máu thịt vậy mà đến nơi, bỗng bị xé ra mỗi người mỗi ngả. Ngơ ngác, chống chếnh, cô đơn như bị bỏ rơi, như bị một trái B52 mồ côi dội giữa đội hình. Nhưng rồi cảm giác đó cũng qua thật nhanh. Những trận đánh, những đêm bôn tập, những cơn sốt rét, những ngày đói ăn... đã cuốn con người vào vòng quay nghiệt ngã của nó khiến cho đầu óc không còn giây phút nào trở về được sự tĩnh lặng mà nhớ mà thương.

Lần thứ hai mới thật sự bàng hoàng. Nhằm đúng những ngày Mậu Thân, lệnh xuống nửa đêm: tất cả chuẩn bị Tổng tiến công, tổng công kích vào hang ổ của kẻ thù! Chúng ta sẽ ăn Tết một cái Tết chiến thắng giữa lòng nhân dân, giữa lòng đường phố, xóm ấp.

Chao ôi là cái mệnh lệnh chứa đựng đầy khát vọng nhân văn. Thế là sống rồi, thắng lợi rồi, sắp được trở về nhà rồi. Mẹ ơi, con sắp về với mẹ đây. Em ơi, ráng chờ anh thêm ít ngày nữa nhé. Lúc ấy hình ảnh người thân mới phá vỡ cái vỏ bọc vô cảm ùa về. Thôi, phen này vĩnh biệt bạn bè không may còn nằm lại, vĩnh biệt dòng sông nằm vùng bám trụ đêm đêm có tiếng bìm bịp kêu ẩm ướt trong lòng nước, tiếng con tắc kè nào khàn khàn đếm tuổi trên chạc cây, vĩnh biệt những ngày ở rừng khố nhưng mà vui, vĩnh biệt tất cả để ngày mai làm thằng người tự do, xoải chân trên xa lộ, ngẩng đầu đón nắng gió, ghé vào vệ đường húp một tô phở nóng bỏng môi, thêm một ly trà đá mát rượi, dẫu có chết cũng cam lòng.

Thế là chẳng ai bảo ai, cứ bấm nhau bỏ, ném quách lại mọi thứ bấy lâu đã trở thành cứu cánh, đã trở nên quá đỗi thân yêu. Ngày mai vào thành rồi, nồi niêu, cuốc xẻng, bao tượng, thùng đại liên, tăng võng rườm rà, rách rưới... còn cần gì đến nữa. Các chú mày đã hoàn thành xong sứ mệnh lịch sử của các chú mày rồi, ở lại nhé, bọn tao đi đây, mai này nếu còn sống, thỉnh thoảng sẽ ghé vào thăm chơi.

Cuộc chia tay hân hoan và bịn rịn với rừng diễn ra như thế. Như diễn ra một lần cho mãi mãi. Ai dè, chiến tranh là bao hàm một hệ thống những ai dè, sau hai lần ào ra trong tư thế xông lên như chẻ tre chẻ trúc, mấy tháng sau các đoàn quân lại lặng lẽ trở về rừng, tâm tư trĩu nặng, quân số hao đi quá nửa, nhìn nhau nửa cười nửa khóc. Và rưng rưng bảo nhau, thôi đành vậy, ngã keo này bày keo khác, lại chịu khó xuống sông mò lên nồi niêu, cuốc xẻng để ngày mai ta sẽ làm lại từ đầu.

Làm lại! Cái động từ mang ý nghĩa mệnh lệnh thức ấy vang lên tưởng như mới dễ dàng trôi chảy làm sao vậy mà cũng phải đến cả mấy tháng sau thế giới tâm hồn người lính mới lấy lại được thế cân bằng.



Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 30 Tháng Năm, 2010, 05:11:04 pm
Lần thứ ba xảy ra sau đó bốn năm, vào những ngày đầu của năm 1973 khi hiệp định về hoà bình ở Pa ri vừa được ký xong. Lại nửa đêm lệnh xuống: thời cơ đã đến, tất cả dời rừng ra ấp ra phố, khẩn trương chồm lên giữ đất giữ dân không cho kẻ thù lấn chiếm. Tức là lại ra với cuộc đời. Lại nắng gió, lại lộ mặt, lại hủ tiếu lại cà phê.

Nhưng lần này, như có sự mách bảo âm thầm của tâm linh, không ai vứt lại cái gì cả. Cứ coi như một trận đánh mới lạ trên toàn tuyến đi rồi lại về Khát vọng bỗng có độ lùi. Niềm say sưa bỗng có độ chín chắn xen vào. Và đúng là trở về thật. Trở về thật nhanh như cái mệnh lệnh chồm lên kia chỉ vang lên trong mơ. Trở về vì đối phương tráo trở không chấp hành hiệp định. Vẫn là sự trở về lặng lẽ nhưng bình thản hơn. Cũng hụt hẫng nhưng là cái hụt hẫng có chuẩn bị trước. Và vì vậy mà chỉ mấy ngày sau những cây súng đã lấy lại được thế tự tin trấn ngự ở các cửa rừng.

Và lần thứ tư, đúng hơn là lần thứ ba vì lần thứ nhất suy cho cùng chỉ là một cú hụt hẫng, may sao, chỉ xảy ra sau đó có hai năm. Năm 1975, cũng là mùa xuân. Mọi cuộc tấn công giải phóng sao bao giờ cũng là mùa xuân, lạ quá! Là lính vùng ven sát nách Sài Gòn nên cuộc tổng tiến công đến chậm. Mọi bước đi thần tốc của đại quân chỉ được nghe qua đài, qua mật báo cơ sở và qua chính đôi mắt hãi hùng của đối phương mỗi lần va đụng.

Ba lần ra đi hai lần trở lại.

Đây là lần thứ ba. Bất quá tam. Ông bà nói vậy. Liệu lần thứ ba này có là lần cuối cùng không? Hay là... Một hy vọng cháy lên, một thất vọng kéo xuống. Mỗi lần trở lại là mỗi lần già đi, vật vã, tê lạnh, tinh thần thể chất bị huỷ diệt như chết đi một nửa, nói phỉ thui, lần này mà còn trở lại nữa thì rồi không biết điều gì sẽ xảy ra với sức chịu đựng của người lính, sức người có hạn, thà cứ đánh cho liền mạch rồi đến đâu thì đến.

Để rồi vào một ngày đầy nắng ba mươi tháng tư, dường như hơi xuân, nhựa sống, khí đất khí trời, lịch sử, non sông đã thấu hiểu được nỗi lòng của người lính, thấu hiểu được nỗi khổ đau của con người mà cùng kéo về phù hộ cho cái nung nấu ngàn năm kia được biến thành hiện thực. Năm cánh quân tràn vào. Năm đại dương khát vọng tràn vào. Cái gì cần đến đã đến. Đạo lý đã thắng phi nhân. Điều chính trực đã vượt lên trên đầu tà khí. Vượt lên trên những nấm mồ đồng đội để ca khúc khải hoàn tức tưởi và kiêu hùng giữa thành đô. Mười người ra đi là chín người không có mặt trong ngày vui đại thắng này.

Gió rừng đã thổi vào bếp lửa. .

Nhân nghiã đã thắng hung tàn. Tư tưởng của thi nhân bất hủ Nguyễn Trãi một lần nữa lại được hiển hiện giữa tầng cao chói sáng. Tuy cái giá phải trả là không thể lường trước được.

Trong đó có cái giá của những ngày Tết Mậu Thân năm xưa đã làm kinh động đến tận cội rễ ý chí xâm lược kiêu ngạo của đối phương. Một cái giá thật đắt để tạo lập nên một chiến tích bất diệt, mãi mãi huy hoàng.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 30 Tháng Năm, 2010, 05:12:00 pm
GẶP NGƯỜI "ĐƯỢC" TRUY ĐIỆU SỐNG HAI LẦN
Châu Nho


Dọc đường Hồ Chí Minh trong chuyến đi làm cuốn sách "Trường Sơn- Đường khát vọng", sực nhớ ông bạn Lại Đăng Thiện- người được đơn vị truy điệu sống hai lần mà cả hai lần Diêm Vương đều từ chối, chúng tôi ghé thăm anh.

Nhà anh ở Tân Kỳ, Nghệ An, cách cột mốc số không 15 km về phía bắc. Từ khi có đường Trường Sơn trải nhựa, anh rời làng ra bám mặt đường trồng cây cảnh kiếm sống. Nói chuyện với anh cứ phải hét thật to vì di chứng bom nổ, tai điếc. Tôi và Thiện hai đứa cùng làng, nhập ngũ lại cùng đơn vị Tiểu đoàn 27 công binh, đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang. Gặp chúng tôi, anh tất bật, tay bắt, mặt mừng:

- Trưa rồi, mời các ông ở lại ăn cơm. Các ông thích món gì?:

- Gà nấu xáo- tôi đáp.

- Cá nấu cháo á?

- Gà xáo ! Tai ông thật là... . .

- Ờ ờ gà xáo gà xáo.

Thế rồi anh xăng xái đi ra ngoài. Tôi ở lại, bất giác những kỷ niệm cũ hiện về... 

Lễ truy điệu sống lần thứ nhất .

Tháng 11 năm 1967 tại phà Long Đại, Quảng Bình. 

Long Đại là bến phà trên sông Hiền Ninh, đường 15 Quảng Bình. Long Đại với tần suất bom đạn dày đặc liên tục được mệnh danh là "long đầu”. Mỗi chiến sĩ công binh trấn ải ở đây được chia mỗi ngày 15 - 20 quả bom các loại, bom bi như cơm bữa. Lấy Long Đại quay bán kính 2 km, quân bình mỗi ngày có 15 - 16 trận oanh tạc, đủ các cỡ loại bom chờ nổ chậm, bom từ trường, bom nổ hẹn giờ, không quy luật nào cả. 

Tại đây đã ba ngày đêm không thông xe, bờ Bắc các loại xe pháo nằm ngụy trang dài hàng kilômét bên đường Trường Sơn. Bộ tư lệnh Quân khu 4 chỉ thị cho D27: Bằng mọi giá mở đường máu thông phà. Với 2 phương án: Rà bom bằng nam châm và dùng bộc phá chìm xuống sông kích nổ đều không có hiệu quả số lượng bom nổ rất ít nên Tiểu đoàn trưởng Phạm Nhưng đưa ra phương án 3 là dùng ca nô kích nổ bom bằng cảm tử quân.

Tổ 4 người do Lại Đăng Thiện làm tổ trưởng gồm Nguyễn Văn Hương, Hà Huy Ty và Đậu Anh Côi được sự chấp thuận của lãnh đạo bởi bốn quyết tâm thư bằng máu xin làm cảm tử quân. Bốn chiến sĩ đứng yên dưới mưa, trăng đầu tháng lờ mờ, nghe chính trị viên Trần Sĩ Khiêm và Trung đội trưởng Phạm Thế Khang giao nhiệm vụ. Phía trước pháo sáng, bom máy bay địch thả liên hồi.

Lễ truy điệu trước giờ xuất kích đơn giản, chóng vánh. Sau khi đọc quyết tâm thư và điếu văn, đứng trước bến phà là 4 con người, trông họ như 4 vị tướng thời cổ đại. Xung quanh người phồng lên phao cứu sinh, đầu đội mũ sắt, chân đất. Họ nhìn lại đoàn quân, nhìn xuống dòng sông nơi cái chết đang thách thức họ. Tiếng chính trị viên hỏi lớn: Các đồng chí có quyết tâm không? Cả tổ dõng dạc hô vang: Chúng tôi quyết tử cho bến phà sống mãi.

Cùng lúc đó 4 người chạy ào xuống ca nô. Có tiếng máy bay, kẻng cảnh giới: Tất cả sơ tán, lùi lại dạt ra hai bên đường. Hai pháo sáng địch phóng ra, cả bến phà rực lên như ban ngày. Năm phút, mười phút trôi qua, pháo sáng tắt. Tiếng hô của tổ trưởng: Xuất kích.

Tiếng ca nô gầm lên, lao vút về phía bờ Nam như một mũi tên, hai phía bom nổ, những cột nước cao hơn mái nhà trắng xóa, bom dâng những cột nước cao mờ mịt cả bến sông. Ca nô chòng chành, nghiêng ngả gần phía bờ Nam, một cột sóng tung cả ca nô lên trời rồi rơi xuống - bốn người tung bốn phía. Chúng tôi lặng lẽ, hồi hộp chờ,...

Ba phút sau, bỗng chiếc ca nô chồm lên vòng trở lại, người tổ trưởng giơ tay vẫy vẫy chúng tôi. Ca nô chạy tiếp hai vòng, thêm 3 quả bom nổ lẫn trong tiếng hô: "Thuyền cao su cấp cứu bờ Nam". Bỗng một cột nước dâng cao đẩy nghiêng ca nô, người lái ca nô cuối cùng bị hất lên bờ. Tiếng B trưởng Cao Chung báo cáo: Đã nổ 16 quả - thông bến, ba chiến sĩ bị thương đang cấp cứu.

Từ trong động Phong Nha đoàn thuyền sắt nối đuôi nhau ra nhanh chóng ghép thành một con phà và được một ca nô dắt ra cập bến.
Xe pháo lần lượt qua sông lên đường. Pháo sáng lại thả, có lẽ địch nhận được tín hiệu từ những cây nhiệt đới có xe pháo di chuyển nên chúng chuẩn bị thả đợt bom chờ nổ mới .


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 30 Tháng Năm, 2010, 05:12:34 pm
Lễ truy điệu sống lần thứ hai.

Bến phà Linh Cảm có ba bờ Nam Đàn, Hương Sơn và Đức Thọ nằm ở ngã ba dòng sông La và sông Ngàn Phố. Qua tọa độ lửa Truông Bồn gặp ngay Linh Cảm, từ đây đi vào Nam hoặc vượt của khẩu Cầu Treo qua Lào.

Linh Cảm - Bến Thủy- Ngã ba Đồng Lộc là tam giác lửa của không quân Mỹ.

Tháng 2/ 1968 tại đây đã hai ngày không thông bến vì đài quan sát phát hiện nhiều bom nổ chậm. Ba đội rà phá bom: Bờ Bắc Nam Đàn do B trưởng Lê Duy Ý chỉ huy các chiến sĩ Hồ Xuân Thìn, Lê Văn Quang, Nguyễn Đức Trí, Nguyễn Văn Tiến. Phía bờ Nam do Trung đội Lê Doãn Dần, Hoàng Đức Thân, Nguyễn Văn Cảnh, Lê Tiến Chấn dùng bộc phá kích nổ. Dưới bến phà lúc này tiểu đội ca nô do Vũ Ngọc Chương chỉ huy làm cảm tử quân gồm có Đậu Anh Côi Nguyễn Xuân Tình, Lại Đăng Thiện.

Lễ truy điệu có đại diện phòng công binh Quân khu 4 Phạm Văn Tánh. 16 giờ ngày 18 tháng 2 năm 1968 Vũ Ngọc Chương xuất kích đầu tiên, sau 3 vòng nổ 8 quả, ca nô hất văng Vũ Ngọc Chương, bị thương nặng anh vẫn gắng hết sức bình sinh cho ca nô lao tiếp vòng thứ 4, thêm 2 quả nổ hất tung ca nô, Vũ Ngọc Chương hy sinh. Đậu Anh Côi được thay, chiếc ca nô móp méo, vượt sóng lao về bên kia bờ, 3 quả nổ hất ca nô dạt về bờ bắc. Nguyễn Xuân Tình, Lại Đăng Thiện thay thế. Đậu Anh Côi bị thương, chạy 4 vòng nổ 12 quả. Pháo hiệu thông bến.

Bây giờ trở lại với đời thường, Thiện trồng cây cảnh và làm thơ. Những vần thơ dung dị, run rẩy thấm đượm tình yêu cuộc sống. Những lúc một mình, anh thường lặng lẽ. Với tôi, Lại Đăng Thiện là người anh hùng thực sự.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 30 Tháng Năm, 2010, 05:14:52 pm
CHƯƠNG BA
TRƯỜNG SƠN - BẢN ANH HÙNG CA BẤT TẬN

Những vần thơ trên "Con đường chạy thẳng vào tim”
Nguyễn Trọng Tạo .

Mỗi lần nhớ về Trường Sơn, tôi lại nhớ về con đường mòn ấy. Con đường mòn từng nâng bước những đoàn quân kháng chiến. Con đường mòn huyết mạch nối hậu phương miền Bắc với chiến trường miền Nam nước Việt.

Con đường mòn - CON ĐƯỜNG CHẠY THẲNG VÀO TIM những người yêu nước luôn khát khao đất nước mình thống nhất, hòa bình và giàu mạnh. Con đường ấy giờ đã thành đại lộ Hồ Chí Minh xuyên Việt. Giờ chạy xe bon bon trên con đường ấy, tâm trí của tôi luôn hiện lên ký ức xa xưa của một thời làm anh bộ đội vượt đèo lội suối với ba lô trên lưng và khẩu súng trên vai cùng với những bài thơ bài hát như một hành trang tinh thần không thể thiếu trong cuộc chiến tranh vệ quốc hào hùng và đau thương của dân tộc.

Có thể nói, Trường Sơn là đề tài nổi bật trong thơ thời kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dòng văn học chiến tranh cách mạng. Những người thanh niên của miền Bắc xã hội chủ nghĩa thuở ấy luôn ấp ủ giấc mơ "vượt Trường Sơn" đánh giặc. Và họ đã "vượt Trường Sơn" trên con đường mòn ấy. Họ không chỉ là người lính cầm súng, mà chính lòng yêu nước và tâm hồn lãng mạn cách mạng đã chắp cánh cho họ làm nên những bài thơ lưu danh vào sử sách.

Và cũng có thể nói, Trường Sơn đã "đẻ" ra cho đất nước thật nhiều nhà thơ lính, mà Phạm Tiến Duật là một nhà thơ hàng đầu của thế hệ nhà thơ thời chống Mỹ, cứu nước. Nhà thơ Phạm Tiến Duật cũng thừa nhận điều đó: "Tôi gắn bó máu thịt với Trường Sơn và có thể nói Trường Sơn đã "đẻ" ra nhà thơ Phạm Tiến Duật. Trước đây, bây giờ và sau này nếu tôi viết được chút gì neo lại trong lòng bạn đọc chính là nhờ những năm tháng ở Trường Sơn".

Vâng, tâm hồn những người lính Trường Sơn thời ấy thật đẹp, họ nhìn cuộc chiến đấu đầy gian khổ hy sinh với cái nhìn lạc quan, và luôn tin vào chiến thắng:

Từ nơi em gửi đến nơi anh
Những đoàn quân, trùng trùng ra trận
Như tình yêu nối lời vô tận
Đông Trường Sơn, nối tây Trường Sơn
.



Không có kính, rồi xe không có đèn.
Không có mui xe, thùng xe có xước, 
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.


Những người lính ra trận hầu hết là lính trẻ, nhưng họ đã có những suy nghĩ thật sâu sắc về tình yêu đất nước:

Trời không mây mà lạ lắm hôm nay
Đường ra trận lòng ta thành náo động
Sờ lên súng thấy bàn tay mình nóng
Hiểu đốt lòng người đâu chỉ lúc xung phong
.



Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 30 Tháng Năm, 2010, 05:15:01 pm
Và họ luôn mang theo truyền thống hàng nghìn năm lịch sử của dân tộc:

Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang đất nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời...


Và họ biết phải dồn nén tất cả những gì cho ngày về chiến thắng:

Đất Nước Của những người con gái con trai
Đẹp như hoa hồng cứng như sắt thép 
Xa nhau không hề rơi nước mắt.
Nước mắt để dành cho ngày gặp mặt 


Những nhà thơ trên con đường sinh tử ấy luôn hiểu được cái giá máu xương của cả dân tộc để có được hòa bình thống nhất: .

Trong đời mỗi người cũng có những ngã ba đường quyết định, 
Trong đời mỗi dân tộc cũng có những ngã ba
Những ngã ba vận mệnh
Những cái nút trên đêm dài lịch sử
Gặp những ngã ba đời, con sẽ nghĩ suy
Và con ơi, muốn tìm đúng hướng đi
Con sẽ nhớ đến ngã ba Đồng Lộc .
Ngã ba Đồng Lộc làm bằng xương máu.


Ngay cả với cái chết, luôn được coi là sự hy sinh, là cao cả, là đẹp - vẻ đẹp của sự dâng hiến cho lý tưởng chung của cuộc chiến đấu:

Cái chết em xanh khoảng trời con gái
Tôi soi lòng mình trong cuộc sống của em
Gương mặt em, bạn bè tôi không biết
Nên mỗi người có gương mặt em riêng.


Cái chết của đồng đội, của người thân luôn là lời kêu gọi đối với người đang sống:

Em ra đi chẳng để lại gì 
Ngoài ánh mắt cười lấp lánh sau hàng mi
Và anh biết khi bất thần trúng đạn
Em đã ra đi với mắt cười thanh thản
Bởi được góp mình làm ánh sáng ban mai
Bởi biết mình có mặt ở tương lai.
Anh sẽ sống đẹp những ngày em chưa kịp sống ...



Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 30 Tháng Năm, 2010, 05:16:20 pm
Thơ Trường Sơn cũng là thơ nói lên ý chí của cả một dân tộc trong cuộc chiến đấu chung. Vì vậy mà nó đồng điệu về tư tưởng, nó lạc quan về tinh thần, và mạnh mẽ về giọng điệu. Nó như một giàn hợp xướng nhiều bè, nhưng lại quán xuyến trong tổng thể của giai điệu chính.

Những “nhà thơ Trường Sơn" thời đó làm thơ cho mình, nhưng cũng là làm thơ cho đồng đội, cho dân tộc mình trong dòng mạch cả dân tộc "Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/ Mà lòng phơi phới dậy tương lai". Thời mà nhiều câu thơ cũng là câu khẩu hiệu, là lời hiệu triệu cho kháng chiến thành công. Thời mà thơ ào ào chất liệu cuộc sống chiến đấu. Thời của gian khổ, hy sinh, trên bom, dưới đạn, nhưng cũng đầy tính lạc quan thường trực của người lính chiến. Thời "có những ngày vui sao / cả nước lên đường" với những "tiếng cười hăm hở đầy sông đầy cầu” để rồi những câu thơ như reo lên suốt đường ra trận: "Đường ra trận mùa này đẹp lắm", “Gì vui hơn đường ra trận mùa xuân!"...

Cái nhìn của người lính vào cuộc chiến như vậy có lạc quan quá hay không? Có là sự thật hay không? Sau cuộc chiến nhìn lại thấy có gì như là tô hồng lên, nhưng thử sống lại tâm trạng những người lính thời đó thì quả là đúng như vậy. Những người lính ra đi từ cổng trường đại học, từ cổng trường trung học... vốn nhiều mơ mộng, lại sải chân tới những vùng quê, vùng rừng tươi đẹp của đất nước quảlà gặp nhiều bất ngờ thú vị.

Thời của "cái chết nhẹ như lông hồng" đối với những chàng trai cô gái tự nguyện hiến dâng tuổi thanh xuân cho lý tưởng chung. Đó cũng là thời mà anh lính Trường Sơn Phạm Tiến Duật cũng bất ngờ phát hiện ra một "định luật" mang tính vật lý của cuộc sống: “giữa chiến trường nghe tiếng bom rất nhỏ".

Nhưng không chỉ có mộng mơ, lạc quan và chiến thắng, thơ của những người lính Trường Sơn viết về Trường Sơn vẫn còn rỏ máu trong từng con chữ. Hàng vạn người lính đã nằm lại với Trường Sơn hùng vĩ. Hàng vạn bài thơ khóc bạn đã ra đời. Và hình như càng lùi xa cuộc chiến, nỗi đau càng thấm đẫm vào con chữ.

Những người lính Trường Sơn xưa, nay trở lại Trường Sơn tìm bạn. Rừng đã khép lại vết thương chiến tranh, nhưng vết thương trong lòng người thì mãi còn rỉ máu. Những ngôi mộ có tên và không tên. Những bài thơ có đề và không đề Tất cả đều hiện lên nỗi niềm người lính:

"Chết - Hy sinh cho Tổ quốc
Hùng ơi! Máu thấm cỏ, lời ca bay vào đất
Hy sinh lớn cũng là hạnh phúc
Một cây xuân thành biển khắc tên Hùng.


Đến cả tiếng ve cũng kêu "mất - còn", cũng khắc khoải gọi người:

Ve kêu mất - còn
Tiếng kèn chiêu tập
Ve kêu mỏi mòn
Nhắc thời máu ứa
"Về chưa... về chưa?"
"Về chưa ... về chưa?"
Cũng đành nhắc lại
Với mồ không tên và mộ có tên
Đến cả cỏ cùng xanh vì người đã khuất:
Những bó hoa đến viếng đã tàn đi
Chỉ sắc cỏ vẫn sinh sôi mãnh liệt
Xanh đến rợn người
Xanh đến nhức mắt
Xanh như là vì máu đỏ mà xanh


Và Trường Sơn là núi, là đường, là mộ, là con đê chở che cho bạn hữu, chở che cho dân tộc trường tồn:

Ở đó, những con sóng chiến tranh dai dẳng không mùa
như răng kẻ xâm lược
cắn vào dân tộc tôi
cắn vào lục đị này ...
bốc lửa cánh đồng
bốc lửa rừng cây
dãy Trường Sơn máu ứa
dân tộc tôi mang thương tích đứng lên .
trùng trùng rừng xanh núi đỏ
bao người con hy sinh
sóng dạt vào đất đá
nhập với Trường Sơn dựng lũy thành ...


Rồi những đời sau sẽ hiểu tâm hồn người lính một thời qua những bài thơ Trường Sơn thuở ấy, những bài thơ như những cột mốc, hoa tiêu hay tượng đài của sự hy sinh cao cả trên dọc dài lịch sử.

50 bài thơ tuyển chọn trong cuốn sách này chỉ thể hiện một phần tâm hồn của những người lính, những nhà thơ gắn bó với Trường Sơn trong cuộc chiến tranh qua. Còn hàng nghìn, hàng vạn những bài thơ, những trường ca của lính và những người kháng chiến đã công bố hoặc chưa công bố. Và chúng ta đọc thơ họ, đọc tâm hồn lẽ sống của họ, đọc quá khứ vinh quang và cay đắng của dân tộc mình những năm ngàn cân treo sợi tóc hẳn không khỏi tự hào về thời oanh liệt ấy, thời con đường 559 - Đường Hồ Chí Minh - đã nối liền đất nước bị cắt chia, đã làm nên chiến thắng vẻ vang trong công cuộc bảo vệ và kiến thiết Tổ quốc mình.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 30 Tháng Năm, 2010, 05:18:11 pm
50 BÀI THƠ TRƯỜNG SƠN
Nguyễn Trọng Tạo tuyển và giới thiệu

Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây
PHẠM TIẾN DUẬT

Cùng mắc võng trên rừng Trường Sơn
Hai đứa ở hai đầu xa thẳm
Đường ra trận mùa nay đẹp lắm
Trường Sơn Đông nhớ Trường Sơn Tây.
Một dãy núi mà hai màu mây
Nơi nắng nơi mưa, khí trời cũng khóc
Như anh với em, như nam với bắc
Như Đông với Tây một dải rừng liền.
Trường Sơn Tây anh đi, thương em
Bên ấy mưa nhiều, con đường gánh gạo
Muỗi bay rừng già cho dài tay áo
Rau hết rồi, em có lấy măng không.
Em thương anh bên tây mùa đông
Nước khe cạn bướm bay lèn đá
Biết lòng anh say miền đất lạ
Chắc em lo đường chắn bom thù
Anh lên xe trời đổ cơn mưa
Cói gạt nước xua đi nỗi nhớ
Em xuống núi nắng về rực rỡ
Cái nhành cây gạt nỗi riêng tư.
Đông sang tây không phải đường thư
Đường chuyển đạn và đường chuyển gạo
Đông Trường Sơn, cô gói “ba sẵn sàng"xanh áo
Tây Trường Sơn bộ đội áo màu xanh.
Từ nơi em gửi đến nơi anh
Những đoàn quân, trùng trùng ra trận
Như tình yêu nối lời vô tận
Đông Trường Sơn, nối Tây Trường Sơn. .

Bài thơ về tiểu đội xe không kính
PHẠM TIẾN DUẬT

Không có kính không phải vì xe khòng có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất nhìn trời, nhìn thẳng.
Nhìn thấy gì vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim ..
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như sa vào buồng lái
Không có kính ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời .
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.
Không có kính, rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước.
Chỉ cần trong xe có một trái tim.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 30 Tháng Năm, 2010, 05:19:04 pm
Gửi em, cô thanh niên xung phong
PHẠM TIẾN DUẬT

Có lẽ nào anh lại mê em
Một cô gái không nhìn rõ mặt
Đại đội thanh niên đi lấp hố bom
Áo em hình như trắng nhất
Người tinh nghịch là anh dễ thân
Bởi vì thế có em đứng gần .
Em ở Thạch Kim sao lại lừa anh nói là “Thạch Nhọn”
Đêm ranh mãnh ngăn cái nhìn đưa đón
Em đóng cọc rào quanh hố bom
Cái miệng em ngoa cho bạn cười giòn ư
Tiếng Hà Tĩnh nghe buồn cười đáo để
Anh lặng người như trôi trong tiếng ru.
Tranh thủ có ánh sáng đèn dù
Anh vội nhìn em và bọn em khắp lượt
Mọi người cũng tò mò nhìn anh
Rồi bóng tối lại khép vào bóng tối
Em ơi em, hãy nghe anh hỏi
Xong đoạn đường này các em làm đâu
Anh đã tìm em rất lâu, rất lâu
Cô gái ở Thạch Kim “Thạch Nhọn”
Khăn xanh, khăn xanh phơi đầy lán sớm
Sách giấy mở tung tăng cả rừng chiều.
Anh đã đi rất nhiều, rất nhiều
Những con đường như tình yêu mới mê
Đất rất hồng và người rất trẻ
Nhưng chẳng thấy em, cô gái ở Thạch Nhọn Thạch Kim
Những đội làm đường hành quân trong đêm
Nào cuốc nào choòng xoong nồi xủng xoảng
Rực rỡ mặt đất bình minh
Hấp hối chân trời pháo sáng
Đường trong tim anh in những dấu chân.
Chiếc võng bạc trên đường hành quân
Anh đã buộc nhiều cây xoan cây ổi
Lại đường mới và hàng nghìn cô gói
Đâu em tinh nghịch của anh?
Bụi mù trời mùa hanh
Nước trắng khe mùa lũ
Đêm rộng dài là đêm không ngủ
Em vẫn đi, đường vẫn liền đường
Cạnh giếng nước có bom từ trường
Em không rửa ngủ ngày chân lấm
Ngày em phá nhiều bom nổ chậm
Đêm nằm mơ nói mớ vang nhà .
Chuyện kể từ nỗi nhớ sâu xa
Thương em! thương em! thương em biết mấy...
Dừng tay cuốc khi em ngoảnh lại
Sẽ giật mình đường mới to xây
Đõ có độ dài hơn cả độ dài
Của đường sá đời xưa để lại
Sẽ ra về bao nhiêu cô gái
Một ngày mai đường sẽ đứng chơ vơ
Để cho đời sau còn thấy ngẩn ngơ
Trước những công trình ngoằn ngoèo trên mặt đất.
Ơi em gái chưa một lần rõ mặt
Có lẽ nào anh lại mê em
Từ cái đêm Thạch Nhọn Thạch Kim
Tên em đã thành tên chung anh gọi.
Em là cô thanh niên xung phong.

(Bài thơ viết tại Đức Thọ, năm 1968)

Năm 1965, địch ném bom miền Bắc, Hà Tĩnh- mà đặc biệt là ngã ba Đồng Lộc là một túi bom của bắc miền Trung. Một năm sau, theo tiếng gọi thiêng, O Nhị và bạn bè lên đường, người đi bộ đội vào các chiến trường, người vào thanh niên xung phong đến với những trọng điểm bị địch bắn phá ác liệt để bảo vệ những chuyến giao thông nối từng phút lộ trình bắc-nam. O Nhị vào ngã ba Đồng Lộc thuộc quân số của C4 - Tổng đội Thanh niên xung phong 55 khi O tròn 20 tuổi.

O Nhị nhớ lại thời mình trở thành nguyên mẫu bài thơ nổi tiếng của Phạm Tiến Duật. "Hồi đó, đoàn xe của đường dây 559 trong Nam ra thì dừng lại Đức Thọ. Một anh bộ đội có cái mũi rất thẳng và giọng bắc ngọt lịm nhỏ nhẹ như con gái. "Quê em ở đâu?" O trả lời. "Quê em qua Thạch Bằng rồi đến Thạch nớ là Thạch Nhọn eng nờ”. Cả tiểu đội con gái cười giòn như pháo. Sau đó anh bộ đội ấy hỏi rõ mới biết Thạch Nhọn là Thạch Kim, và mãi sau này bài thơ phát trên đài O mới biết anh đó là Phạm Tiến Duật và là nhà thơ, nhà báo chứ lúc đó biết ông là ai? Khi bài thơ được phát thì đơn vị có gọi O lên khiển trách "tại răng lại đi nói dối anh bộ đội”.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 31 Tháng Năm, 2010, 02:09:31 pm
Ngã ba Đồng Lộc
HUY CẬN

Con ơi, bố về thăm Hà Tĩnh quê ta,
Bố kể con nghe về ngã ba Đồng Lộc
Trên mặt đất này có muôn triệu ngã ba
Và có nhiều ngã ba nổi tiếng:
Có những ngã ba nối những dòng sông lớn của một đại châu, sóng dựng trùng trùng,
Có những ngã ba nối những con đường dài chạy từ các thủ đô to
Như những mạch máu khổng lồ
Trên thân hình trái đất
Trong đó mỗi con người là một hạt hồng cầu đỏ chói,
Có những ngã ba là nơi gặp gỡ cho những dòng văn minh lớn, đông, tây, kim cổ...
Tất cả những ngã ba trên, con có thể học biết
(trong sách địa dư, trên những bản đồ),
Mai sau lớn lên con có thể đến thăm và chụp ảnh nữa...
Xong rồi, con có thể quên
Nhưng con ơi, con chớ có quên ngã ba Đồng Lộc
Trong đời mỗi người cũng có những ngã ba đường quyết định,
Trong đời mỗi dân tộc cũng có những ngã ba
Những ngã ba vận mệnh
Những cái nút trên đêm dài lịch sử
Gặp những ngã ba đời con sẽ nghĩ suy
Và con ơi, muốn tìm đúng hướng đi
Con sẽ nhớ đến ngã ba Đồng Lộc
Ngã ba Đồng Lộc.
Là ngã ba nhưng nào có phân vân
Nào có đắn đo do dự
Là ngã ba trên những đường quyết liệt
Nhưng hướng đi đã quyết
Không phải cho một lần
Mà cho tất cả mọi lần
Không phải cho một người
Mà cho tất cả quê hương, đất nước.
Hướng về Nam, một nửa mình Tổ quốc
Các ngã ba khác trên đời làm bằng nước,
bằng sông, bằng thuỷ triều lên xuống
Hay bằng đá, bằng đất
Bằng xi măng cốt sắt
Bằng vôi trắng, gạch nâu
Bằng đèn xanh đèn đỏ đủ màu
Hay bằng những sự chênh vênh vấp ngã,
Nhưng ngã ba Đồng Lộc làm bằng xương máu.
Khi con về quê con nhớ viếng thăm
Mộ mười cô kề bên đường đỏ.
Các cô như còn đứng đó
Chờ lấp hố bom
Đường thông xe các cô mới đi nằm.
Các cô để lại tuổi thanh niên
Mười chín, hai mươi, hăm hai tuổi
Cho đất nước, quê hương
Hồn trong như suối
Bình minh đời sống rực vừng dương...
Con sẽ tìm thăm mời cô La Thị Tám
Từ trường học lại về trận địa đầu non
Đứng giữa đàn bò bê mũm mĩm
Trên sườn núi cao cỏ đã mướt màu xanh
Như mảng da non trên thân thể đang lành
Cô sẽ chỉ con xem
Những hố bom loang lổ
Như đất trên mặt trăng
Mỗi thước vuông ba quả bom to bự
Cô sẽ chỉ con xem
Nghìn vạn điểm lăn bom nổ chậm
Cô từng đến cắm cờ
Mỗi lần chạy đua với cái chết
Đôi Chân cô nhanh hơn kíp nổ,
Cô là một ngọn cờ đỏ của quê ta.
Nghìn năm sau lịch sử sẽ còn ghi
Những năm tháng chiến tranh ác liệt
Nghìn vạn chuyến xe đi
Qua trái tim ngã ba Đồng Lộc
Máu qua tim máu lọc
Xe vượt ngõ ba xe xốc tới miền Nom.
Và con ơi, bố ngồi nghĩ miên mon:
Bạn bè ta trong cơn gió lốc
Hẳn cũng đang vượt những ngã ba Đồng Lộc,
Những ngõ ba Việt Nom.
Dọc đường dài kẻ địch còn găm
Nhiều bom nổ chậm
Nhưng chẳng hề chi.
Khắp năm châu còn nhiều La Thị Tám.
Nhiều Võ Thị Tần
Đường sẽ thông xe đi về các mọng.


(Hà Tĩnh 1971)

- Chị La Thị Tám chuyên phát hiện bom nổ chậm, cắm cớ bên cạnh bom để xe tránh và để hướng dẫn đội công binh đến phá bom, chị đã được tuyên  dương Anh hùng.

-  Chị Võ Thị Tần đội trường đội thanh niên xung phong (10 cô) chuyên lấp hố bom đã hy sinh trong lúc làm nhiệm vụ: toàn tổ đã được tuyên dương Anh hùng


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 31 Tháng Năm, 2010, 02:10:25 pm
Đất nước
NGUYỄN KHOA ĐIỀM

Khi ta lớn lên đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó...
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất là nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc
Nước là nơi con cá “ngư ông máng nước biển khơi"
Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rừng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ .
Yêu nhau Và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hàng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đốt Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng mình hài hoà nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người .
Đất nước vẹn tròn, to lớn
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mong đất nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sờ
Làm nên Đất Nước muôn đời...
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên*
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên ông Đốc, ông Trọng, Bà Đen, Bà Điểm
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi, Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta...
Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn ngàn năm Đất Nước .
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ
Nhưng em biết không
Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa cho mỗi nhà từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước cho Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại
Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu
Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bật lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi
Người dạy ta nghèo ăn cháo ăn rau
Biết ăn ớt để đánh lừa cái lưỡi
Cái cuốc con dao, đánh lừa cái tuổi
Chén rượu đánh lừa cơn mỏi, cơn đau
Con nộm nang tre đánh lừa cái chết
Đánh lừa cái rét là ăn miếng trầu
Đánh lừa thuồng luồng xăm mình xăm mặt
Đánh lừa thằng giặc là chuyện Trạng Quỳnh
Nhưng lạ lùng thay nhân dân thông minh
Chẳng hề lừa ta dù ca dao, cổ tích
Ta lớn lên bằng niềm tin rất thật
Biết bao nhiêu hạnh phúc có trên đời
Dẫu phải khi cay đắng dập vùi
Rằng cô Tấm cũng về làm hoàng hậu
Cây khế chua có đại bàng đến đậu
Chim ăn rồi trả ngon ngọt cho ta
Đất đai cỗi cằn thì người sẽ nở hoa
Hoa của đất người trồng cây dựng cửa
Khi ta đến gõ lên từng cánh cửa
Thì tin yêu ngay thẳng đón ta vào
Ta nghẹn ngào, Đất Nước Việt Nam ơi…


(trích trong trường ca "Mặt đường khát vọng")


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 31 Tháng Năm, 2010, 02:10:56 pm
Hôn mảnh đất quê hương
THU BỒN

Tôi cúi xuống hôn mảnh đất quê hương
Như hôn người yêu sau ngày xa cách
Tôi không khóc nhưng vẫn trào nước mắt
Con đã về đây với mẹ - Mẹ quê hương!
Thanh Quýt Giáp Năm ruộng đồng xơ xóc
Đầu con đau dưới nắng chan chan
Giếng đã cạn môi người khao khát
Quê hương dòng sữa mẹ tuôn tràn.
Đất hỡi đất. Người vẹn lòng yêu nước
Viên đạn bây giờ cày lên viên đạn năm xưa
Chiếc áo màu xanh dù rách nát
Vẫn hiền hoà đùm bọc mẹ sớm trưa.
Vẫn nguyên vẹn một màu xanh xứ sở
Như mắt ai xanh tự thuở ban đầu
Sông Thu Bồn ơi. Ta nghe người đương thở
Và triền miên gội tóc những nương dâu.
Anh đã về đây em ơi. Có gày đi một chút
Nhưng quả tim đập nhịp phi thường
Quả tim qua hai lần đạn lửa
Vẫn đợi chờ chan chứa yêu thương.
Anh về với em như con sông về biển
Chắt chiu dòng nước ngọt nguồn xa
Hãy nhận lấy dùm anh: con sóng nhỏ
Qua bãi bồi lắng đọng phù sa.
Ấp chiến lược đám mây đen che phủ
Lòng xót xa quên cháy mái nhà rơm
Mẹ lom khom vịn vào vai núi
Chúng con đi mờ khuất dãy Trường Sơn.
Tôi cúi xuống hôn mành đất quê hương
Như hôn người yêu sau ngày xa cách
Tôi không khóc nhưng bỗng trào nước mắt
Con đã về với mẹ quê hương


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 31 Tháng Năm, 2010, 02:11:35 pm
Khoảng trời - hố bom
LÂM THỊ MỸ DẠ

Chuyện kể rằng: Em cô gái mở đường
Để cứu con đường đêm ấy khỏi bị thương
Cho đoàn xe kịp giờ ra trận
Em đã lấy tình yêu Tổ quốc của mình thắp lên ngọn lửa
Đánh lạc hướng thù, hứng lấy luồng bom...
Đơn vị tôi hành quân qua con đường mòn
Gặp hố bom nhắc chuyện người con gái
Một nấm mồ, nắng ngời bao sắc đá,
Tình yêu thương bồi đắp cao lên...
Tôi nhìn xuống hố bom đã giết em
Mưa đọng lại một khoảng trời nho nhỏ
Đất nước mình nhân hậu
Có nước trời xoa dịu vết thương đau.
Em nằm dưới đất sâu
Như khoảng trời đã nằm yên trong đất
Đêm đêm, tâm hồn em toả sáng
Những vì sao ngời chói, lung linh.
Có phải thịt da em mềm mại, trắng trong
Đã hoá thành những làn mây trắng ?
Và ban ngày khoảng trời ngập nắng
Đi qua khoảng trời em - Vầng dương thao thức
Hỡi mặt trời hay chính trái tim em trong ngực
Soi cho tôi
Ngày hôm nay bước tiếp quãng đường dài ?
Tên con đường là tên em gửi lại
Cái chết em xanh khoảng trời con gái
Tôi soi lòng mình trong cuộc sống của em
Gương mặt em, bạn bè tôi không biết
Nên mỗi người có gương mặt em riêng.


1972



Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 31 Tháng Năm, 2010, 02:11:55 pm
Cây xấu hổ
ANH NGỌC

Bờ đường 9 có lùm cây xấu hổ
Chiến sĩ đi qua ai cũng mỉm cười
Giữa một vùng lửa cháy bom rơi
Tất cả lộ nguyên hình trần trụi
Cây xấu hổ với màu xanh bối rối
Tự giấu mình trong lá khép lim dim
Chiến sĩ qua đây ai cũng bước rất êm
Khi bất chợt thoảng một bàn chân lạ
Cây vội vã nhắm nghìn con mắt lá
Nhựa dồn lên cành khẽ ngả như chào
Người đi rồi bóng dáng cứ theo sau
Anh lính trẻ bỗng quay đầu tủm tỉm
Cây đã hé những mắt tròn chúm chím
Đang thập thò nghịch ngợm nhìn theo
Phút lạ lùng trời đất trong veo
Anh nghe có tiếng reo thầm gặp gỡ
Nhiều dáng điệu thoáng qua trong trí nhớ
Rất thân quen mà chẳng gọi nên lời
Giữa một vùng lửa cháy bom rơi
Cây hiện lên như một niềm ấp ủ
Anh lính trẻ hái một cành xấu hổ
Ướp vào trong trang sổ của mình
Và chuyện này chỉ cây biết với anh.



Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 31 Tháng Năm, 2010, 02:13:28 pm
Bài thơ về hạnh phúc
(Tưởng nhớ XQ thân yêu)
BÙI MINH QUỐC

I

Thôi em nằm lại
Với đất lành Duy Xuyên
Trên mồ em có mùa xuân ở mãi
Trời chiến trường vẫn một sắc xanh nguyên.
Trời chiến trường không một phút bình yên
Súng nổ gấp. Anh lên đường đuổi giặc
Lấy nỗi đau vô cùng làm sức mạnh vô biên
Bước truy kích đạp trăm rào gai sắc
Ôi mũi lê này hôm nay sao sáng quắc
Anh mất em như mất nửa cuộc đời
Nỗi đau anh không thể nói bằng lời
Một ngọn lửa thâm trầm âm ỉ cháy
Những viên đạn quân thù bắn em, trong lòng anh sâu xoáy
Anh bàng hoàng như ngỡ trái tim rơi
Như bỗng tắt vắng mặt trời hạnh phúc
Nhưng em ạ, giây phút này chính lúc
Anh thấy lòng anh tỉnh táo lạ thường
Nhằm thẳng quân thù, mắt không giọt lệ vương
Anh nổ súng.


II

Hạnh phúc là gì? bao lần ta lúng túng
Hỏi nhau hoài mà nghĩ mãi vẫn chưa ra
Cho đến ngày cất bước đi xa
Miền Nam gọi hai chúng mình có mặt.
Nhớ chăng em, cái mùa mưa đói quay đói quắt
Mỗi bữa chia nhau nửa bát măng rừng
Em xanh gầy, gùi sắn nặng trên lưng
Môi tái ngắt, mái tóc mềm đẫm ướt
Bao dốc cao em cần cù đã vượt
Và mỗi lần ngồi nghỉ, em nhìn anh
Em nói tới những điều em định viết
Giữa hai cơn đau em ngồi ghi chép
Con sông Giàng gầm reo miên man
Nước lũ về... Trang giấy nhỏ mưa chan
Em vẫn viết, lòng dạt dào cảm xúc.
Và em gọi đó là hạnh phúc..
Nhớ chăng em, ngày mở màn chiến dịch Đông Xuân
Em lên đường phơi phới bước chân .
B52 bom nghìn tấn dội
Kìa dáng em băng rừng bước vội
Vẫn nụ cười tươi tắn ấy trên môi.
Thôn 6 Bình Dương bãi cát sóng dồi
Nắng long lanh trong mắt người bám biển
Giặc mới lui càn khi em vừa đến
Bà mẹ già kể chuyện chặn xe tăng
Quanh những bờ dương bị giặc san bằng
Đã lại mở những chiến hào gai góc
Những em bé, dưới mưa bom, vẫn đi làm đi học
Những vồng khoai ruộng lúa vẫn xanh tràn
Trong một góc vườn cháy khét lửa Napan
Em sửng sốt gặp mộr nhành hoa cúc.
Và em gọi đó là hạnh phúc...
Như chồi biếc gặp mưa xuân, như chim én say trời
Em mải mê, đi giữa bao người
Xuyên Thọ, Xuyên Châu, Xuyên Hờ, Xuyên Phú...
Những mảnh đất anh hùng quyến rũ
Phút giây đầu đã ràng buộc đời em
Như tự lọt lòng từng biết mấy thân quen
Em nhỏ giao liên, mẹ hiền trụ bám
Cô du kích dịu dàng dũng cảm
Sông Thu Bồn hàng xao động tâm tư
Có tiếng hò như thực như hư
Em đã đến, tắm mình trong sông nước
Sông kể em nghe chuyện đôi bờ thủa trước
Em mở mắt nhìn kinh ngạc những làng thôn
Và kêu lên khi được thấy cội nguồn
Mỗi sự tích trên đất này thắng Mỹ.
Em đã gặp bao anh hùng dũng sĩ
Đã cùng họ xẻ chia
Cọng rau lang bên miệng hố bom đìa
Phút căng thẳng khi vòng vây giặc siết
Nỗi thống khổ ngút ngàn không kể hết
Của một thời nô lệ đau thương
Em lớn lên bên họ can trường
Giữa bom gào đạn réo
Em đã thấy những tâm hồn tuyệt vời trong trẻo
Những con người như ánh sáng lung linh
Mỗi đêm ra đi giản dị hiến mình
Để làm nên buổi mai đầy nắng .
Em bối rối, em sững sờ đứng lặng
Vẻ đẹp này em chưa biết đặt tên
Thức dậy bao điều mới mẻ trong em
Nơi ngọn bút nghe cuộc đời thôi thúc
Và em gọi đó là hạnh phúc...


III

Em ra đi chẳng để lại gì
Ngoài ánh mắt cười lấp lánh sau hàng mi
Và anh biết khi bất thần trúng đạn
Em đã ra đi với mắt cười thanh thản
Bởi được góp mình làm ánh sáng ban mai
Bởi biết mình có mặt ở tương lai.
Anh sẽ sống đẹp những ngày em chưa kịp sống
Sẽ yêu trọn những gì em chưa kịp yêu
Em trong anh là mùa xuân náo động
Từ phút này càng rực rỡ bao nhiêu.


8/3/1969
6/9/1969


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 31 Tháng Năm, 2010, 02:17:02 pm
Nhớ Trường Sơn
ĐINH NAM KHƯƠNG
.

Nếu bây giờ trở lại Trường Sơn ta không còn thấy nữa
Tuổi hai mươi cỏ đã phủ kín rồi
Cây mắc võng đã thành cây cổ thụ
Sốt rét không còn, chỉ còn gió rừng thôi....
Không còn nữa chiếc bi đông bẹp dúm
Đạn quân thù lỗ chỗ xuyên qua
Cơn khát ấy chảy vào lòng đất
Để bây giờ đất khát bài ca
Không còn nữa bếp Hoàng Cầm giấu khói
Những chiều mưa chóm lửa dưới chân đồi
Bom Mỹ đánh rừng thêm nhiều đom đóm
Nhớ thương người... Mây trắng hóa mồ côi... .
Chỉ còn mãi những linh hồn trong đất
Nói cùng ta về cuộc chiến năm nào
Yêu người sống nên nhiều người đỡ chết
Trên nóc rừng - cờ như máu bay cao..



Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 31 Tháng Năm, 2010, 02:17:39 pm
Ngọn đèn đứng gác
CHÍNH HỮU

Trên đường ta đi đánh giặc
Ta về Nam hay ta tên Bắc,
Ở đâu
Cũng gặp
Những ngọn đèn dầu
Chong mắt
Đêm thâu
Những ngọn đèn không bao giờ nhắm mắt
Như những tâm hồn không bao giờ biết tắt,
Như miền Nam
Hai mươi năm
Không đêm nào ngủ được,
Như cả nước
Với miền Nam
Đêm nào cũng thức...
Soi cho ta đi
Đánh trận trường kỳ
Đèn ta thắp niềm vui theo dõi
Đèn ta thắp những lời kêu gọi.
Đi nhanh đi nhanh .
Chiến trường đã giục
Đầy núi đầy sông
Đèn ta đã mọc.
Trong gió trong mưa
Ngọn đèn đứng góc
Cho thắng lợi, nối theo nhau
Đang hành quân đi lên phía trước.



Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 31 Tháng Năm, 2010, 02:18:15 pm
Tiếng hát trong rừng
HỮU THỈNH

Nhạc làm trong rừng em hát giữa Trường Sơn
Người sốt rét hát cho người sốt rét
Đường ngổn ngang đường đất còn cháy khét
Cây mát cho người người mát cho nhau
Nhọc ở trong đàn đàn có gì đâu
Rừng bỗng chao nghiêng trước sợi dây mỏng mảnh
Người bỗng bồn chồn tốt tươi náo động
Tay vỗ tay mình mà tưởng nắm tay ai
Em hát về rừng em hát về cây
Em hát về người đang nghe em hát
Anh bỗng quên vừa qua cơn sốt
Rừng bỗng quên vừa trận bom đau
Anh vịn vào tiếng hát vượt gian lao
Những năm Trường Sơn bạn bè trong trẻo quá
Tiếng hát đi rồi căn hầm còn đó
Thành chiếc hộp đàn giữa lòng đất âm sâu.


Trường Sơn 1974


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 31 Tháng Năm, 2010, 02:18:41 pm
Vàm Cỏ Đông
HOÀI VŨ

Ở tận sông Hồng, em có biết
Quê hương anh cũng có dòng sông
Anh mãi gọi với lòng tha thiết.
Vàm Cỏ Đông! ơi Vòm Cỏ Đông!
Đây con sông xuôi dòng nước chảy
Bốn mùa soi từng mảnh mây trời
Từng ngọn dừa gió đưa phe phẩy
Bóng lồng trên sóng nước chơi vơi
Đây con sông như dòng sữa mẹ
Nước về xanh ruộng lúa, vườn cây
Và ăm ắp như lòng người mẹ
Chờ tình thương trang trải đêm ngày
Đây con sóng như dòng lích sừ
Sóng ngời lên t thủa Cha ông
Đã bao phen đoàn quân cảm tử
Vùi đáy sông xác giặc tanh nồng
Ơi Vàm Cỏ Đông! ơi con sông
Nước xanh biêng biếc chẳng thay dòng
Đuổi Pháp đi rồi, nay đuổi Mỹ
Giặc đi đời giặc, sông càng trong
Có thể nào quên những đêm thâu
Thức với sao đêm, anh đánh tàu
Má đem cơm nóng ra công sự
Nghe tàu Mỹ rú, giục ăn mau
Có thể nào quên cô gái thơ
Bơi xuồng thoăn thoắt dưới trăng mờ
Đưa đoàn Giải phóng qua sông sớm
Bên sông, bót giặc đứng sờ sờ
Có thể nào quên những con người
Tóc còn xanh lắm tuổi đôi mươi
Dám đổi thân mình lấy tàu giặc
Nụ cười khi chết hãy còn tươi
Vàm Cỏ Đông đây, ta quyết giữ
Từng chiếc xuồng, tấm lưới, cây dầm
Từng con người làm nên lịch sử
Và dòng sông trong mát quanh năm
Vàm Cỏ Đông đây, ta quyết giữ
Từng mái nhà nép dưới rặng dừa
Từng thửa ruộng ngời đen màu mỡ
Từng mối tình hò hẹn sớm trưa...
Ở tận sông Hồng, em có biết
Quê hương anh cũng có dòng sông
Anh mãi gọi với lòng tha thiết
Vàm Cỏ Đông!.  Ơi Vàm Cỏ Đông!



Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 31 Tháng Năm, 2010, 02:19:14 pm
Bức tranh dọc đường hành quân
HOÀNG NHUẬN CẦM

Xa trung du nên tôi chửa thấy đồi
Nhà đá ong âm thầm mong lời đất
Cây xấu hổ giấu bao nhiêu cổ tích
Mắc cỡ gì mà khép cánh ư em ?
Chim rất nhiều mà tôi chẳng biết tên
Kêu chi mãi đến rối lòng lính trẻ
Bằng lăng rụng nói điều mơ mộng quá
Hao bên đường khiến mắt đến rưng rưng
Có rất nhiều tơ nhện trắng mung lung
Đường anh bạn giao liên vừa đến
Tiểu đội trưởng nhắc tên những đồi sẽ chiếm
Trâu ven đồi thành tĩnh vật trong tranh
Bứt ngọn cỏ lên cho thấu tận trời xanh
Huế bảo quê nhà giờ đang mùa cấy
Cả Hùng nữa, sao cứ cười hoài vậy
Nhớ cô bọn nào hay hát bâng quơ
Bỗng nghĩ đất nước mình chả thế mà thơ
Mỗi mảnh đất biết bao tình ấp ủ
Chuồn kim ơi thân dài cánh đỏ
Em khâu gì trên áo xám của sườn non
 Có thể rồi sau sẽ gian khó hơn
 Nhưng cái chết sẽ thuộc về chúng nó
 Rừng của ta dẫu na-pan giặc thả
 Vẫn bật chồi vẫn hát những mầm cây
 Trời không mây mà lạ lắm hôm nay
 Đường ra trận lòng ta thành náo động
Sờ lên súng thấy bàn tay mình nóng
Hiểu đốt lòng người đâu chỉ lúc xung phong



Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 31 Tháng Năm, 2010, 02:19:47 pm
Tôi đi trên những con đường rừng cũ
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG

Ai hành quân qua đây?
Đất vẫn in mòn lối cũ
Ai dừng chân nơi đây
Đá vẫn nguyên hình bếp lửa
Đồng chí nào chia tay nơi đây?
Ngã ba rừng hoang lá đầy
Ôi những con đường chỉ một lần qua
Hai mươi năm biết ai còn nhớ
Nhưng từ đó cây hoang rừng già
Thương mãi đàn con gian khổ
Đất nhớ chân người thiết tha
Mẹ Trường Sơn tóc mây bạc phơ
Chiều khói xanh mưa nguồn chớp bể
Hai mươi năm dài trên trên mẹ
Những con đường rừng vẽ nét ưu tư
Ôi những con đường không tên
Dưới ngọn cây im lặng
Vẫn nối dài đất nước hai miền
Vẫn âm thầm đưa máu về tim
Tôi đi trên những con đường ấy
Mang Việt Nam trong linh hồn
Cuộc hành trình hai mươi năm chân chưa hề mỏi
Nên tôi theo đường rừng mê mải vượt Trường Sơn
Hôm nay trên đường đánh Mỹ
Tôi dừng chân mắc võng qua đêm
Nghe suối khuya động tiếng thì thầm
Đang cùng tôi có mặt đêm nay
Quên một ngày đường dài dốc đổ
Trong giấc mơ thơm mùi cỏ lá
Ai người xưa một lần qua đây
Đang cùng tôi có mặt đêm nay
Người trước qua đây hành quân giết giặc
Người sau qua đây thấy dấu ông cha
Trên vết chân người nhọc nhằn gian khổ
Loài lan rừng mùa xuân nở hoa



Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 04 Tháng Sáu, 2010, 11:25:13 am
Chúng con chiến đấu cho người sống mãi Việt Nam ơi
NAM HÀ

Đường dài đi giữa Trường Sơn
Nghe vọng bài ca đất nước

Đất Nước
Bốn ngàn năm không nghỉ
Những đạo quân song song cùng lịch sử
Đi suốt thời gian, đi suốt không gian
Sừng sững dưới trời anh dũng hiên ngang

Đất Nước
Của những câu chuyện đều làm ta rưng rưng nước mắt
Đã trở thành những bài ca không bao giờ tắt
Trên mỗi con đường mỗi thôn xóm ta qua
Từ non ngàn cho tới biển xa

Đất Nước
Của thơ ca
Của bốn mùa hoa nở
Đọc trang Kiều tưởng câu hát dân gian
Nghe xôn xao trong gió nội mây ngàn

Đất Nước
Của những dòng sông
Gọi tên nghe mát rượi tâm hồn
Ngọt lịm những giọng hò xứ sở
Trong sáng như trời xanh mượt mà như nhung lụa

Đất Nước
Của những người mẹ
Mặc áo thay vai
Hạt lúa củ khoai
Bền bỉ nuôi chồng nuôi con chiến đấu

Đất Nước
Cho những người con gái con trai
Đẹp như hoa hồng cứng như sắt thép .
Xa nhau không hề rơi nước mắt
Nước mắt để dành cho ngày gặp mặt

Đất Nước
Của Bác Hồ
Của óc thông minh và lòng dũng cảm
Của những đèn pha cách mạng
Soi sáng chân trời xuyên suốt đại dương
Ôi tuổi thanh xuân
Mang bốn ngàn năm lịch sử trong tim
Ta sung sướng được làm người con Đất Nước
Ta băng tới trước quân thù như triều như thác
Ta làm bão, làm giông
Ta lay trời chuyển đất
Ta trút hờn căm để làm nên
những vinh quang bất diệt .
Giáng xuống quân thù
Như sấm sét không nguôi
Sức mạnh bốn nghìn năm đã biến thành
bão lửa ngấ trời

Đất Nước
Ta hát mãi bài ca Đất Nước
Cho tuổi thanh xuân sdng bừng lên như ngọc
Cho mắt ta nhìn tận cùng trời
Và cho chân ta đi tới cuối đất
Ôi Tổ quốc mà ta yêu quý nhất
Chúng con chiến đấu cho Người sống mãi Việt Nam ơi.!



Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 04 Tháng Sáu, 2010, 11:26:10 am
Nấm mộ và cây trầm
NGUYỄN ĐỨC MẬU

I. Tưởng nhớ
Đất đắp mộ Hùng bom trộn lẫn
Cây trầm cháy dở thay nén nhang
Cây trầm cháy rồi hương cứ thơm
Hùng ơi, mai gió mùa đông bắc
Võng bạt, canh khuya lại nhớ Hùng
Những đêm hai đứa xong phiên gác
Bao gạo gối đầu chăn đắp chung.
Nhớ khi mình ốm giữa rừng
Vị thuốc Hùng tìm qua ba trái núi
Quả khế rừng nấu con cá suối .
Thương mình Hùng hoá trẻ đi câu
Chúng mình có ở cách xa nhau
Một thước đất sao Hùng không nghe mình gọi ... ?
Một thước đất hoá khoảng trời vời vợi
Từ nay mình thương nhớ Hùng hơn xưa
Những lá thư Hùng chưa kịp đọc mình nghe
Thơ đánh giặc Hùng còn viết dở
Vết máu đỏ nhoà đi không rõ chữ
Mình đọc bao điều xúc động sâu xa.

II. Hy sinh
Cái chết bay ra từ nòng súng quân thù
Nhận cái chết cho đồng đội sống
Ngực chặn lỗ châu mai, Hùng đứng thẳng
Lửa bén vào áo lính tuổi hai mươi.
"Chết - Hy sinh cho Tổ quốc" Hùng ơi
Máu thấm cỏ, lời ca bay vào đất .
Hy sinh lớn cũng là hạnh phúc
Một cây xuân thành biển khắc tên Hùng.
Hùng nằm trong nôi của đất rộng vô cùng
Khoảng trời biếc hương trầm thơm hơn trước
Nhưng đoàn quân đi đánh giặc
Có hoa rừng mang đến từ xa.
Đất Hùng nằm bom đạn đào trơ
Ngày hoa nở, đêm trời sao tỏ
Tấm biển gỗ trên mộ người chiến sĩ
Thành bàn tay chỉ hướng quân thù.

III. Ra đi
Cây trầm thơm từ gốc thơm ra
Như nhắc nhở với người đang sống
Thù riêng lớn, thù chung càng lớn
Hờn căm này nhân tiếp những hờn căm
Thôi mình đi Hùng nhé! Hãy yên nằm
Trận đánh đêm nay vắng Hùng gài bộc phá
Trận đánh trường kỳ vắng Hùng tham dự
Trận đánh cuối cùng chiến thắng phải về ta
Anh trinh sát hy sinh trao lại tấm bản đồ
Anh xung kích hy sinh phất cao cờ chuẩn
Xin Hùng hãy trao cho mình khẩu súng
Trận đánh vẫn còn tiếp diễn, Hùng ơi! ...
Quân mình đang pháo kích nơi nơi
Hùng có thấy đất rùng rùng sấm dậy
Mặt trận chuyển vào sâu rồi đấy
Thôi mình đi, Hùng nhé.! Hãy yên nằm
Thơm rất xa theo gió thoảng hương trầm
Cây trầm đẹp như cuộc đời chiến sĩ
Sống tươi tốt bao niềm tin bình dị
Thân hi sinh thơm đất, thơm trời



Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 04 Tháng Sáu, 2010, 11:26:59 am
Lá đỏ
NGUYỄN ĐÌNH THI

Gặp em trên cao lộng gió
Rừng lạ ào ào lá đỏ
Em đứng bên đường như quê hương
Vai áo bạc quàng súng trường.
Đoàn quân vẫn đi vội vã
Bụi Trường Sơn nhoà trời lửa.
Chào em, em gái tiền phương
Hẹn gặp nhau nhé giữa Sài Gòn.
Em vẫy cười đôi mắt trong.


Trường Sơn, 12-1974

Bầu trời vuông
NGUYỄN DUY

Thắng rồi - trận đánh thọc sâu
lại về với mái tăng - bầu trời vuông
sục sôi bom lửa chiến trường
tâm tư yên tĩnh vấn vương một vùng
Khoái nào bằng phút ngả lưng
mở trang thư dưới bông rừng đung đưa
trời tròn còn lúc rơi mưa
trời vuông vuông suốt bốn mùa nắng xanh
mặt trời là trái tim anh
mặt trăng vành vạnh là tình của em
Thức là ngày, ngủ là đêm
nghiêng nghiêng hai mái - hai miền quê xa
đây là tấm lòng ta
sông dài núi rộng cũng là ở đây
Vuông vuông chỉ một chút này
mà che tròn vẹn ngàn ngày quân đi


Quảng Trị 1971


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 04 Tháng Sáu, 2010, 11:28:01 am
Cuộc chia ly màu đỏ
NGUYỄN MỸ

Đó là cuộc chia ly chói ngời sắc đỏ
Tươi như cánh nhạn lai hồng
Trưa một ngày sắp ngả sang đông
Thu, bỗng nắng vàng lên rực rỡ
Tôi nhìn thấy một cô áo đỏ
Tiễn đưa chồng trong nắng vườn hoa
Chồng của cô sắp sửa đi xa
Cùng đi với nhiều đồng chí nữa
Chiếc áo đỏ rực như than lửa
Cháy không nguôi trước cảnh chia ly
Vườn cây xanh và chiếc nón trắng kia
Không giấu nổi tình yêu cô rực cháy.
Không che được nước mắt cô đã chảy
Những giọt long lanh nóng bỏng sáng ngời
Chảy trên bình minh đang hé giữa làn môi
Và rạng đông đang bừng trên nét mặt
Một rạng đông với màu hồng ngọc
Cây si xanh gọi họ đến ngồi
Trong bóng rợp của mình, nói tới ngày mai
Ngày mai sẽ là ngày sum họp
Đã toả sáng những tâm hồn cao đẹp!
Nắng vẫn còn ngời trên những lá cây si
Và người chồng ấy đã ra đi...
Cả vườn hoa đã ngập tràn nắng xế
Những cánh hoa đỏ vẫn còn rung nhè nhẹ
Gió nói tôi nghe những tiếng thì thào
“Khi Tổ quốc cần, họ biết sống xa nhau...”
Tôi biết cái màu đỏ ấy
Cái màu đỏ như cái màu đỏ ấy
Sẽ là bông hoa chuối đỏ tươi
Trên đỉnh dốc cao vẫy gọi đoàn người
Sẽ là ánh lửa hồng trên bếp
Một làng xa giữađêm gió rét
Nghĩa là màu đỏ ấy theo đi .
Như không hề có cuộc chia ly...


9- 1964

Viết Cho Ngọc Huệ
TRỌNG KHOÁT

Nằm yên em nhé, ngủ ngon
Để cho đầu cáng anh còn trờ vai
Đèo thì cao, dốc thì dài
Vai đòn anh nghiến, phồng, chai, lại phồng
Đau hơn là nỗi đau lòng
Ghìm sâu tiếng nấc khỏi rung cáng đòn!
Nằm yên em nhé, ngủ ngon
Máy bay giặc lượn anh còn ngụy trang
Trời khô, đường nắng chang chang
Võng thưa, máu giọt nóng bàn chân anh
Lối vào trạm xá loanh quanh
Em ơi đừng vĩnh biệt anh dọc đường
Lời thương đồng đội, lời thương
Những ai nằm lại chiến trường hôm nay


12-1969


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 04 Tháng Sáu, 2010, 11:28:59 am
Sư đoàn
PHẠM NGỌC CẢNH

Sẽ có những sư đoàn thép
Bất kỳ nơi đâu
Không khuất phục tù đày chém giết
Nơi đâu
Người sống nợ nần người đã chết
Bất kỳ nơi đâu
Từ một cây “mút nhét”
Một sải xuồng bơi
Một nọc ong châm góp làm sự nghiệp
Gốc tre xanh thắng trận cả ba đời
Ba mươi triệu tấm lòng xông ra tuyến lửa
Vạch lối điều quân
Vai chảy xe thồ
Trồng cây xanh che chở
Mỗi bước quân đi
Đánh trận trường kỳ
Đêm trước nấp trong lùm bắn tỉa
Sớm sau dàn trận chính quy
Đến trận bão hiệp đồng cả nước
Mũi sư đoàn mong gió lốc bay đi. ..
Đất giải phóng thênh thang
Sẽ cho ta dàn đội ngũ - sư đoàn
Phía trước gọi ta
Những Điện Biên vòng đai thép tung ra làm chiến dịch
Đòn gánh hậu phương vượt đèo đi phản kích
Hành quân
Hành quân
Trùng điệp những sư đoàn
Đi lên phía bắc
Tràn vế hướng Nam
Những vị tướng lại cầm quân đi đánh giặc
Trải bản đồ
Còn nguyên
Vạch chỉ đỏ thắt quanh hầu giặc Pháp
Bài học chiến tranh nhân dân
Lại tiếp
Trong Ấp bắc - Plây me
Và chiến công lên ngực áo những binh nhì
Đất nước sẽ cho ta
Những chùm con số đẹp
Làm tên gọi khai sinh sư đoàn thép
Này đây
Doi cát Cửu Long xanh
Sư đoàn Châu Thổ.
GIữa bãi sú, rừng tràm
Vụt đứng dậy sư đoàn Nam Bộ
Sư đoàn Tây Nguyên
Từ hầm chông bẫy đá cung tên
Này đây Cực Nam Phan Rang - Phan Thiết
Này đây Quảng Ngãi - Phú Yên
Trên nguồn xa Ô Lâu - Thạch Hãn
Sẽ tiến về
Sư đoàn Trị Thiên
Lại có một ngày
Mọi cửa ô xanh Sài Gòn hớn hở
Như Hà Nội đã từng
Ba mươi sáu đường hoa tung sóng đỏ
Phất rừng cờ thổi tung ngọn gió
Đón con em
Đón những sư đoàn
Mang chiến thắng trở về
Rập bước
Ca vang!


1966


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 04 Tháng Sáu, 2010, 11:29:41 am
Con đê trên bán đảo
NGUYỄN TRỌNG TẠO

Đã có lần tôi bay trên bán đảo
nhìn xuống dãy Trường Sơn
dãy Trường Sơn kéo một vệt xanh dài
và tôi nghĩ, đấy là con đê biển.
Con đê ấy được đắp bằng đất đỏ
bằng cây nhiệt đới ken dày
không bao giờ trụi lá
xanh như cỏ xanh đã bén rễ từ lâu...
Sóng cứ đập vào chân đê
Sóng cứ đập vào chân đê ầm ào, dữ dội
ở đó, dân tộc tôi lầm lũi
ở đó dân tộc tôi...
những ruộng lúa đồng khoai cấy trồng trong bão sóng
những con người yêu nhau, làm lụng
sờn vai mưa nắng nụ cười
ở đó những con sóng chiến tranh dai dẳng không mùa
như răng kẻ xâm lược
cắn vào dân tộc tôi
cắn vào lục địa này...
bốc lửa cánh đồng bốc lửa rừng cây
dãy Trường Sơn máu ứa
dân tộc tôi mong thương tích đứng lên
trùng trùng rừng xanh núi đỏ
bao người con hy sinh
sóng dạt vào đất đá
nhập với Trường Sơn dựng lũy thành...
Cứ thế dân tộc tôi không bao giờ mất đi sau mỗi cuộc chiến tranh
dọc Trường Sơn lại trồng màu gieo lúa
như trồng cỏ trên con đê vừa đắp cao dày thêm nữa
và màu xonh như xanh vậy, từ xưa
Chỉ ở đâu người chưa kịp gieo mùa
đất ở đó vạt đê chưa kín cỏ
đất ở đó - vết thương còn tấy đỏ
máu của dân tộc tôi ở đó đập phập phồng
máu của dân tộc tôi
trên trái đất không ngừng!...



Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 04 Tháng Sáu, 2010, 11:30:14 am
Dấu chân qua trảng cỏ
THANH THẢO

Buổi chiều qua trảng cỏ voi
Ngước nhìn mút mắt khoảng trời long lanh
Gió nghiêng ngả giữa màu xanh
Tiếng bầy chim két bỗng thành mênh mong
Lối mòn như sợi chỉ giăng .
Còn in đậm đặc vô vàn dấu chân
Dấu chân ai đọc nên vần
Nên nào ai biết đi gần đi xa.
Cuộc đời trải mút mắt ta
Lối mòn nhỏ cũng dẫn ra chiến trường
Những người sốt rét đang cơn
Dấu chân bấm xuống đường trơn, có nhoè? ...
Chiếc bòng con đựng những gì
Mà đi cuối đất mà đi cùng trời
Mang bao khát vọng con người
Dấu chân nho nhỏ không lời không tên
Thời gian như cỏ vượt lên
Lối mòn như sợi chỉ bền kéo qua
Ai đi gần ai đi xa
Những gì gợi lại chỉ là dấu chân.
Vùi trong trảng cỏ thời gian
Vẫn âm thầm trải mút tầm mắt ta .
Vẫn đằm hơi ấm thiết tha
Cho người sau biết đường ra chiến trường...


Sợi nhớ sợi thương
THÚY BẮC

Trường Sơn đông
Trường Sơn tây
Bên nắng đốt
Bên mưa quây
Em dang tay
Em xoè tay
Chẳng thể nào
Che anh được
Rút sợi thương
Chằm mái lợp
Rút sợi nhớ
Đan vòm xonh
Nghiêng sườn đông
Che mưa anh
Nghiêng sườn tây
Xoà bóng mát
Sợi trời thương
Màu xanh suốt
Em nghiêng hết
Về phương anh


1973



Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 04 Tháng Sáu, 2010, 11:32:01 am
Nước vối quê hương
NGUYỄN TRỌNG ĐỊNH

Đêm rừng già đi nghe mưa rơi
Một mình áo tơi che chẳng kín người
Nước chảy qua môi hớp từng ngụm nhỏ
Bằng nhớ mẹ ngồi bên ấm giò
Nước vối mặn nồng ngọt ngào chuyện cũ
Ôi nhớ sao,
Mảnh vườn quê hương ta đó
Cây vối già bạc phếch nắng mưa
Mỗi nhánh mốc gầy đều in dấu tuổi thơ
Tháng năm tới cành chỉ còn thấy nụ
Nụ chín vàng mẹ lấy vào dấm ủ
Hạt khô giòn trong nắng nhỏ xôn xao
Rồi những ngày ngâu trần
chum nước gốc cau
Những tháng rét trải rơm làm ổ ngủ
Bắc ấm nước mưa con ngồi nhóm lửa
Nụ tích mấy mùa mẹ lại xẻ ra pha
Chén nước ấm nồng ngai ngái
vị thuốc ta
Mà nhấp khỏi cứ ngọt hoài đầu lưỡi
Con ủ tay dưới nắp bông nóng hổi
Nghe rì rầm câu chuyện cũ năm nao
Có gà chín cựa, ngựa chín hồng mao
Trận thuỷ chiến nước dâng lên cuồn cuộn
Cô láng giềng lén song nghe trộm
Bỗng hỏi dồn:
- Sơn Tinh thắng hay không?
Mẹ ơi !
Quê ta đêm nay có nặng hạt mưa giông
Ấm vối đặc chắc vẫn nồng trong giỏ
Tháng năm rồi vối trong vườn kết nụ
Cô láng giềng còn hái giúp mẹ không?
Chúng con đi giữa rừng đêm mưa xối
Lòng vẫn ngọt ngào vị
nước vối quê hương
Súng chắc trong tay, gạo cuốn bên sườn
Theo bước chân nhau gạt cây băng tới
Đất nước mình còn đạn thù cày xới
Giục giã chúng con nhanh bước
trong mưa
Mẹ hãy nói giùm con cô gái tuổi thơ.
- Ta sẽ chẳng như Sơn Tinh thuở trước
Con sẽ về với bao nhiêu hẹn ước
Bên ấm vối nồng kể lại mẹ
những chiến công
Thoang thoảng đầu nhà nụ
vối đưa hương.



Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 04 Tháng Sáu, 2010, 11:32:54 am
Những linh hồn khuất
THÁI THĂNG LONG

Ai kia
Gương một bạn bè
Hiện lên và rồi xa vắng
Mãi mãi câm lặng
Câm lặng mãi mãi bạn ơi
Chiến tranh để ta không nguôi
Không nguôi những gì còn lại
Ta đau
Nỗi đau tê dại
Rừng sâu nơi chỗ bạn nằm.
Những linh hồn khuất
Nhớ mong.
Những linh hồn thao thức
Những linh hồn bay đi dưới trận càn của giặc
Bay đi và mãi không về
Bay đi dưới làn pháo bầy bom bi
Máu loang đỏ bìa rừng trảng cỏ.
Những linh hồn
Hơi thở
Của trời xanh
Những linh hồn đã khuất
Mong manh
Mong manh cơn mơ
Nhớ về năm tháng.
Ta đau
Mất bạn
Chiến tranh qua rồi
Mà vẫn còn đau.


Đêm ngủ rừng
TRẦN THỊ THẮNG

Đêm đầu tiên em ngủ với rừng
Em thầm thì nhắc gọi tên anh
Anh xa cách trở nên gần lại
Anh ở đâu có nghe tiếng em không?
Rừng ở đây rất lạ chưa quen
Đêm sập xuống em trở nên nhỏ bé
Trên cánh võng lắc lư trăn trở
Rừng lặng im mà em xốn xang
Đêm đầu tiên anh ngủ với rừng
Có nhớ về em không đấy?
Con trai các anh nghĩ cũng lạ
Dễ quen rừng chẳng sợ bóng đêm
Đêm ngủ rừng là đêm thao thức
Nghĩ về anh con đường trước mặt
Và em thấy lòng mình dịu êm
Như có người ngồi canh cho em
Đêm đầu tiên em ngủ với rừng
Là đêm em hiểu mình nhiều nhất
Khi yêu anh giúp em quên sợ
Xa lạ cánh rừng nối em lại gần anh



Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 04 Tháng Sáu, 2010, 11:33:23 am
Bài ca Trường Sơn
GIA DŨNG

Trường Sơn! Đường ta qua chưa một dấu chân người
Chú nai vàng nghiêng đôi tai ngơ ngác
Dừng ở lưng đèo nghe suối hát
Ngắt đoá hoa rừng gài lên mũ, ta đi.
Trường Sơn! đèo vút cao vượt trên mây gió
Đạp nát đá tai mèo bằng sức pháo ngàn cân
Đi ta đi những trai làng Phù Đổng
Gì vui hơn đường ra trận mùa xuân!
Ôi những vì sao thức cùng ta đêm đêm không mỏi
Như mắt em mang trọn niềm tin yêu chờ đợi
Như hải đăng vời vợi ngàn trùng
Giục lòng ta vượt Trường Sơn
Đi luyện chí anh hùng.
Miền Nam gọi ta bằng tiếng pháo xé trời Đà Nẵng
Bằng đường lê ngang dọc Sài Gòn
Bằng Huế hiên ngang tung bay cờ Giải phóng
Từng phút từng giờ thôi thúc, Trường Sơn!
Trường Sơn ơi. Ta biết người còn mang gánh nặng
 Nhức nhối nửa đầu đòn gánh: miền Nam!
 Nhớ má Năm Căn, thương em Cửa Việt
Mười bốn năm - một giấc ngủ chưa tròn!
Miền Nam! Miền Nam! Lửa đốt lòng ta
Hỡi Trường Sơn hãy biến thành con ngựa sắt
Và rừng xanh thành vạn khóm tre ngà
Cho con cháu Bác Hồ làm Thiên Vương đuổi giặc
Đêm nay ta đi, Trường Sơn lộng gió
Trời vắng trăng sao nhưng trong tim rực lửa
Đi ta làm ngọn sóng giữa trùng dương
Quật xuống đầu thù bằng sức mạnh Trường Sơn!



Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 05 Tháng Sáu, 2010, 04:06:26 pm
Thung lũng tiếng chim
LÂM HUY NHUẬN

Thung lũng này là "thung lũng tiếng chim"
Khi cánh rừng già lặng ngủ trong đêm
Thung lũng tiếng chim còn truyền trong cây lá
Các loài chim như tụ về đây cả
Thung lũng này là “thung lũng tiếng chim"
Tiếng vút tận cành cao, tiếng quấn cỏ mềm
Không phải tiếng véo von từng đôi thỏ thẻ
Không phải tiếng chuyền cành chọn tổ
Tiếng ma-níp nhẹ nhàng của đội thông tin
Thung lũng này là “thung lũng tiếng chim"
Tiếng cần mẫn gọi nhau không ngớt
Bàn tay chiến sĩ làm nên điệu hát
Truyền theo niềm háo hức trong tim
Có lúc bầu trời nổi cơn giông tố
Bầy muông thú im hơi nấp sợ
Thung lũng này chim vẫn hót lên
Thi với tiếng gào vang chớp giật sấm rền
Máy bay địch ngày đêm lần mò làn sóng
Thung lũng tiếng chim vẫn đều đều hót vọng
Dù giữa vùng bom toạ độ B52
Những bức điện cần không thể đánh sai
Thung lũng này là thung lũng tiếng chim
Rạo rực không gian mỗi sớm im lìm
Tiếng tạch tè của con chim chích
Cắn chắt hạt vàng suốt mùa chiến dịch
Tiếng “tút tút" của con tu hú gọi hè
Rắc hoa gạo rừng đỏ khắp lòng khe.



Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 05 Tháng Sáu, 2010, 04:07:10 pm
Tiếng ve ở nghĩa trang Trường Sơn
NGUYỄN HỮU QUÝ

Kêu sớm, kêu chiều, kêu cả hoàng hôn
Kêu bồ đề xanh, kêu tượng đài trắng
Kêu buốt lá kim trên cây mọc thẳng
Tiếng kêu nhức nhức Trường Sơn
Ve kêu mất - còn
Tiếng kèn chiêu tập .
Ve kêu mỏi mòn
Nhắc thời máu ứa
“Về chưa?. Về chưa?"
“Về chưa ... về chưa?"
Cũng đành nhắc lại
Với mồ không tên và mộ có tên
“Về chưa... về chưa?"
Cũng đành nhắc mãi
Gọi hồn rừng sâu thăm thẳm lạnh lùng
Nén hương cháy lên thành đuốc bùng bùng
Ve kêu như lửa trùng trùng ngọn sông...


Những giọt mưa đồng hành
NGUYỄN THỤY KHA

Những giọt mưa ngồ ngộ say mê
Đám mây nắng vỡ ra giữa gió
Những đứa con
Ồn ào không gian
Cười nói
Những giọt mưa chẳng hề mệt mỏi
Reo hót triền miên
Người lính trú vội mái hiên
Rồi lại đi mảnh ni lông khoác chéo
Anh lẫn vào mưa lúc nào chẳng hiểu
Ngỡ mưa dệt nên anh
Có một đứa trẻ con từ trong anh chạy nhanh
Nhập vào đám trẻ con trần truồng
Đang hò reo giữa phố
Có một người nông dân từ trong anh hớn hở
Xoè tay đồng hạn đón mưa
Có một người lính Trường Sơn từ trong anh năm xưa
Vội vã vắt áo quần ướt mưa hơ lửa
Có một người... có một người nào nữa
Người lính bước nhanh
Anh và mưa cứ như thế đã bao lần
Người lính đi
Đi qua thành phố
Bao chân trời thử thách đợi anh
Trong cuộc hành trình chưa nghỉ
Mưa và anh là bạn đồng hành



Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 05 Tháng Sáu, 2010, 04:08:25 pm
Hương thầm
PHAN THỊ THANH NHÀN

Cửa sổ hai nhà cuối phố
Không hiểu vì sao không khép bao giờ
Đôi bạn ngày xưa học chung một lớp
Cây bưởi sau nhà ngan ngát hương đưa
Giấu một chùm hoa trong chiếc khăn tay
Cô gái ngập ngừng sang nhà hàng xóm
Bên ấy có người ngày mai ra trận
Họ ngồi im không biết nói năng chi
Mắt chợt nhìn nhau rồi lại quay đi
Nào ai đó một lần dám nói
Hoa bưởi thơm cho lòng bối rối
Anh không dám xin cô gái chẳng dám trao
Chỉ mùi hương đậm đà thanh tao
Không giấu được cứ bay dịu nhẹ
Cô gái như chùm hoa lặng lẽ
nhờ hương thơm nói hộ tình yêu
(Anh vô tlnh anh chẳng biết điều
tôi đã đến với anh rổi đấy...)
Rồi theo từng hơi thở của anh
Hương thơm ấy thâm sâu vào lồng ngực
Anh lên đường hương sẽ bay theo khắp
Họ chia tay vẫn chẳng nói điều gì
Mà hương thầm thơm mãi bước người đi.



Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 05 Tháng Sáu, 2010, 04:08:55 pm
Đêm hành quân qua phà Long Đại
VŨ ĐÌNH VĂN

Đêm ấy đêm trăng
Chúng tôi hành quân qua phà Long Đại
Bom nổ chậm rình ở hai đầu bãi
Pháo sáng lập lờ vòng quanh
Mặc quân thù cứ xuống bến đi anh
Nước Nhật Lệ khuya rồi còn âm ấm
Tiếng côn trùng không kêu làm đêm đi
rất chậm
Càng hay cho nhiều chuyến phà sang
Xe chở đá làm đường
Lầm lầm như gấu
Sáng mặt người xuống khe tìm chỗ giấu
Chờ qua cửa khẩu đêm nay
Đoàn xe hàng đi nấp trong cây
Xuống phà lần chót
Bọn xích chúng tôi sốt ruột
Kêu rầm rù rung cả đồi mua
Đêm rất xanh chẳng ai đi đèn rùa
Người lái xe chiến trường trăng
trong đôi mắt
Chở nặng rú ga leo dốc
Tời giùm một chiếc xe lầy
Ở nơi sống chết từng giây
Càng đẹp thêm tình đồng đội
Đêm ấy đêm trăng
Chúng tôi hành quân qua phà Long Đại
Nơi mảnh bom thù dày hơn đá sỏi
Nơi trao tay mình tiền phương,
hậu phương
Nơi ấy ngã ba chiến trường
Nơi một tấm ván phà mấy trăm vết đạn
Nơi ngọn hải đăng trong gió gào
vẫn sáng
Nơi mở đường đưa máu chảy về tim
Nơi chuyến phà sang ngang trong đêm
Tôi thấy lửa gọi những ngày sẽ đến
Thấy những xe hàng nôn nao
ra tiền tuyến
Và thấy những đoàn quân
đi xanh dãy Trường Sơn
Tự nhủ lòng mình hãy tỉnh táo nhiều hơn
Quyết canh giữ những con đường
cho mãi mãi
Đêm ấy đêm trăng
Chúng tôi hành quân qua phà Long Đại.


5-1972


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 05 Tháng Sáu, 2010, 04:11:11 pm
Tháng ba Tây Nguyên
THÂN NHƯ THƠ

Tháng ba mùa con ong đi lấy mật
Mùa con voi xuống sông hút nước
Mùa em đi phá rẫy làm nương
Anh vào rừng đặt bẫy cài chông
Tháng ba sớm sớm mẹ ra rừng
Theo dấu chân rùa đi tìm nấm mối
Chiều chiều cha chọn một góc vườn
Dạy con trai phóng lao trừ hổ báo.
Tháng ba mùa hoa bông đang nảy nở
Cho con công múa, cho con cá bơi
Bông không rụng xuống lòng suối nhỏ
Tung lên trời vạn cánh sao rơi
Bông lách bay để lại nụ cười.
Tháng ba rừng Tây Nguyên hoa thắm đỏ
Làng buôn vang tiếng chiêng múa hát
Bồy chim muông cất cánh rợp trời
Sông từng đàn con cá lội bơi.
Tháng ba tay em dệt khăn hồng
Thêu cánh chim trời cho người em mến
Chiều chiều anh dựng lai nếp nhà
Phòng khi qua những đêm ngày giông bão.
Tháng ba trời trong xanh như suối ngàn
Cho em múa hát cho anh đánh chiêng
Chiêng anh rộn núi rừng buôn làng
Em ca giọng vút mây xanh
Chim hót theo nghe sao ngọt lành.
Tháng ba người Tây Nguyên chan chứa tình
Con tim xao xuyến đôi môi hé cười
Tháng ba mùa núi rừng sôi sục
Tháng ba mùa hạnh phúc Tây Nguyên
Ôi tháng ba tô thắm cuộc đời!



Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 05 Tháng Sáu, 2010, 04:11:41 pm
Tình em
HỒ NGỌC SƠN

Khi chiếc lá xa cành
Lá không còn màu xanh
Mà sao em xa anh
Đời vẫn xanh rời rợi
Có gì đâu em ơi
Tình yêu là sự sống
Nên nắng hửng trong lòng
Mạch đời căng máu nóng
Anh đi xa bao núi...
Tình em như khe suối
Lưu luyến và nhớ thương
Chảy theo anh khắp rừng
Anh đi xa càng xa
Tình em như cỏ hoa
Âu yếm và thiết tha
Theo anh dài nương rẫy
Anh đi xa xa mõi
Đường giải phóng gian nan
Tình em là buồm căng
Qua bão bùng sông lộng
Tình em là lửa hồng
Rực cháy giữa đêm đông
Mặt trời lên đỏ mọng
Như môi em tươi hồng
Vì sao khuya đỉnh đồi
Là mắt em xa xôi
Làm cánh gió em ơi
Chắp cánh chim em ơi
Chắp cánh ta yêu nhau
Trọn đường đời chiến đấu
Anh đi biệt tháng ngòy
Tình em như sông dài..



Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 05 Tháng Sáu, 2010, 04:17:09 pm
Đêm đi vào lịch sử
(Tặng các dũng sĩ đỉnh Trà Ang)
NGUYỄN VIỆT PHƯƠNG

Ai đã biết đêm dài hơn thế kỷ?
Có những giờ như thể đứng không trôi.!
Trà Ang ơi.!
Đó trăm lẻ đêm rồi
Núi và người quên ngủ
Lắng tiếng Trà Ang
trăn trở không yên.
Giặc Mỹ - bom và lửa
Nước Trà Ang sôi lên
Rừng Trà Ang đỏ rực
Bỗng ngàn cây biến thành giáo dựng
đèo vút ngang trời
thế đứng chon von.
Tổ quốc gởi lòng tin
Những con gái, con trai dũng sĩ
Ra trận
Vẫn hò ơi.!... giọng hò quê mẹ
Chiếc mũ xanh,
đôi dép cao su rất nhẹ
Không tiếng kèn đồng,
chỉ tiếng hô khe khẽ
Mà chân tọac bao lần
không nghỉ
đầu vỡ mẫy lần máu đổ
vẫn xông lên
- “Đường Quyết Thắng
Như dòng tim đỏ!”
- “Thế giữ đường như
hơi thở mẹ hiền!”
Mỗi tấc đất
mỗi niềm gian khổ
Mỗi thước đường
thấm đỏ vết chân đi
Bom gạt hết rồi.
Rực sáng rừng khuya
đèo cõng xe lên
Đêm đi vào lịch sử
Đỉnh Trà Ang ơi.!
Đêm nay yên nghỉ
Vọng gió đưa về sấm nổ dậy miền Nam
Muôn vì sao sóng Ngân Giang
Ghé thăm lòng suối Trà Ang bồi hồi...


Tháng 10/1968


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 05 Tháng Sáu, 2010, 04:18:09 pm
Chùm thơ chưa hái
(Tưởng nhớ Vương Lân)
HOÀNG TRẤN CƯƠNG

Nắng cũng biết già đến thế Lân ơi
Hoàng hôn đại ngàn dìu nhau về núi
Gốc săng lẻ nào mày từng ngồi làm thơ và nhớ mẹ
Cuốn nhật ký mỏng dần theo đêm sáng trăng
Nửa cuốn vở sót lại tòan giấy trắng
Đứt ngang
Thác nắng
Đầu ngày
Sao không là tao mà lại là mày
Sao không cả hai thằng một lúc
Nhớ chiều mày hy sinh
Đất Quảng Trị ghì mình vào những chùm thơ chưa hái
Những nỗi niềm đang ráo riết xanh
Tận bây giờ mỗi bữa nắng hanh
Mày vẫn về với tao giữa những câu thơ viết vội
Nói một điều gì đi Lân ơi
Đừng bỏ tao ngồi ngậm tăm
trước nửa phần giấy trắng...


Chiếc lá
HOÀNG CÁT

Chiếc lá sà vào võng
Áp nhẹ lên ngực ba
Như bàn tay con nhỏ
Con gái của ba à!
Con ba ở quê xa
Trưa nay sao gần gụi
Chiếc lá không biết nói
Chiếc lá chẳng biết cười
Nhưng vuốt ve chơi nhởi
Như tay con, con ơi.!
Ba đi dọc Trường Sơn
Ngày tháng dài mưa nắng
Lưng mang ba lô nặng
Vai vác súng AK
Mỗi lần lá vào võng
Lại nhớ tay con xa.
Con gái nhỏ của ba
Ba đường trường đánh Mỹ
Trên đất nước bao la
Vẫn thấy tay con vẫy
Như chiếc lá non tơ...
Tạm nghỉ chân giữa rừng
Ba gửi về cùng gió
Ba gửi về cùng hương
Chiếc lá từ Trường Sơn
Con học ngoan, con nhé.!
Con học hát, học vẽ .
Vẽ lá ba gửi về
Gửi cho ba con nghe!


Trường Sơn, thu 1966


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 05 Tháng Sáu, 2010, 04:18:50 pm
Đi trong rừng Khộp mùa khô
NGUYỄN HOA

Đi trong rừng khộp mùa khô
Cùng tôi có gió ngâm thơ giữ trời
Cuối rừng kêu khản tiếng nai
Trong sâu thẳm thức một tôi thuở nào
Bọn bè ngủ kín đêm sao
Cũng mùa khô với nôn nao đêm rừng
Gió lùa lạnh buốt sống lưng
Bỗng dựng người. Nhớ bom rừng, đất bay...
Mới ngày đó đã hôm nay
Áp bờ sống chết tháng ngày đâu quên!
Tôi đi trong cánh rừng liền
Đo lòng suối cạn gọi tên nước về
Đo rừng gọi một vùng quê
Đo mình bằng bước chân về lại bưng...
Gia tài vẫn chỉ trên lưng
Ba lô từ thuở biết rừng ấy thôi.
Bạn bè ơi - Bạn bè ơi
Cùng tôi gió với khoảng trời mùa khô!


Một phía chiến trường
HOÀNG VÕ THUẬT

Con phà như nhịp cầu phao
Đón những chiếc xe từ mặt trận
Những chiếc xe bụi lầm
Chở đầy hàng.
Và đạn pháo ánh vàng
Mũ sắt giặc bẹp dí
Cánh máy bay đạn xé
Theo con phà qua sông
Một phía chiến trường
In lên đó
Ở buồng lái
Chú sóc nhỏ
Làm xiếc trong lồng
Một giò phong lan
Lá tết đuôi sam con gái
Cũng in lên đó
Một phía chiến trường.


Tháng 10/1973


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 05 Tháng Sáu, 2010, 04:19:30 pm
Trước nhà em sông Vu Gia
THANH QUẾ

Trước nhà em sông Vu Gia
Sau nhà em cũng lại là dòng sông
Anh đi, đi giữa cánh đồng
Ngóng trông bên nọ ngóng trông bên này
Nắng mưa đã chạy ngàn ngày
Đôi dòng sông hóa đôi tay chiến trường
Thương sông thương tự ngọn nguồn
Thương em từ buổi đưa xuồng anh qua
Dịu hiền như khúc dân ca
Thẳm sâu chung thủy như là đất quê
Sáng như một ánh sao Khuê
Tiễn anh đi đón anh về tháng năm
Mãi nghe gió thổi bên đồng
Giật mình anh đứng trên sông đây mà
Đò xưa vẫn đợi ta qua
Bóng ai đó cứ nhập nhòa mặt sông
Ngày mai vào trận hiệp đồng
Quân đi bóng trải chập chùng dưới trăng
Biết còn gặp lại hay chăng
Nhủ thầm bên nớ vẫn đang đợi chờ
Nước xanh mát cả đôi bờ
Vu Gia em bỗng bây giờ của anh.


Cỏ trên mộ
NGUYỄN QUANG TÍNH

Xa làng, xa phố, vắng người yêu
Đến khi mất mới được về quê mẹ .
Bông lau bên đồi vặn mình lặng lẽ
Cỏ Trường Sơn có theo các anh về?
Những bó hoa đến viếng đã tàn đi
Chỉ sắc cỏ vẫn sinh sôi mãnh liệt
Xanh đến rợn người
Xanh đến nhức mắt
Xanh như là vì màu đỏ mà xanh
Cỏ ở đây dịu ngọt trong sương
Cỏ trên mộ âm thầm nhàu nát
Vì nước mắt người thân rơi mặn xót
Vì nước mắt người thân rơi bỏng rát từng ngày.
Xin đừng ai trách ngọn cỏ ở đây
Vừa xanh biếc lại vừa héo lả
Vừa tươi mát lại như vừa đốt lửa
Bởi trên nấm mộ này
Cỏ nhận hết mọi nỗi đau


Đêm Trường Sơn nhớ Bác
NGUYỄN TRUNG THU

Đêm Trường Sơn
Chúng cháu nhìn trăng, nhìn cây
Cảnh khuya như vẽ...
Bâng khuâng chúng cháu nghĩ
Bác như đã đến nơi này .
Đêm Trường Sơn
Chúng cháu nghe tiếng suối
Trong như tiếng hát xa
Chúng cháu ngỡ như Pác Bó
Suối về đây ngân nga
BBỗng chúng cháu bồn chồn
Thương nhớ Bác
Rừng khuya đã dậy tiếng gà
Súng trĩu nặng vượt dốc cao ngàn thước
Đường Trường Sơn chúng cháu dồn chân bước
Con đường Bác mới đi qua.



Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 05 Tháng Sáu, 2010, 04:20:56 pm
Nước non ngàn dặm
(trích)
TỐ HỮU

Nước non nghìn dặm
Ra đi
Cái tình chi
(Câu Ca Nam Bình)
Nửa đời tóc ngả màu sương
Nhớ quê, anh lại tìm đường thăm quê
Đường vào như tỉnh như mê
Đường ra phía trước, đường về tuổi xuân
Đã đi muôn dặm xa gần
Nay về Nam cũng bước chân bồi hồi
Sông Bến Hai bên bồi bên lở
Cầu Hiền Lương bên nhớ bên thương .
Cách ngăn mười tám năm trường
Khi mô mới được nối đường vô ra?
Bây giờ cầu lại bắc qua
Vẫn thơm gỗ mới cho ta gặp mình...
Anh về Quảng Trị... Gio Linh
Trèo lên Dốc Miếu, lặng nhìn Quán Ngang
Bời bời cỏ lút đồng hoang
Chim kêu cành cụt, chang chang nắng cồn
Tả tơi mấy ấp khu dồn
Mái tôn rào kẽm, tháp đồn chơ vơ!
Thương em chín đợi mười chờ
Con thuyền nay đã đỏ cờ sang sông
Em vui em mặc áo hồng
Máy reo máy đẩy, mênh mông biển trời
Thuyền về Cửa Việt ra khơi
Thuyền lên Ái Tử, thuyền bơi Đông Hà...
Anh còn lặn lội đường xa
Sông Hương đành nhớ, chưa qua sông Bồ
Phù lai ba bến con đò
Thanh Lương quê ngoại câu hò còn chăng?
Êm dòng Thạch Hãn đềm trăng
Những lo ngược gió Tam Giang nặng chèo!
Xe lên Đường 9 cheo leo
Hố bom đỏ mắt, trắng đèo bông lau
Cây khô, chết chẳng nghiêng đầu
Nghìn tay than cháy rạch màu trời xanh
Trưa nắng, gà gáy Khe Sanh
Tà Cơn dứa mật, hoa chanh ngát đồi.
Chợt nghe... từ tuổi hai mươi
Tiếng xiềng Lao Bảo gọi người bạn xưa
Ngỡ ngàng rẽ lối le thưa
Vông đồng mấy cội xác xơ lá cành
Hoang tàn hầm đá, đồn canh
Bâng khuâng nhớ bóng các anh
những ngày.!
Nhìn quanh, núi đứng mây bay
Võng anh giải phóng
rừng lay nắng chiều...
Thương nhau, đừng khóc, em yêu
Tự do, phải trở bao nhiêu máu này.
Có qua những bước đi đời
Càng thêm ấm những bàn tay giữa đời.
Sáng hè đẹp lắm, em ơi
Đầu non cỏ lục mặt trời vừa lên
Da trời xanh ngắt, thần tiên
Đỏ au đường lớn mang tên Bác Hồ
Trường Sơn mây núi lô xô
Quân đi, sóng lượn nhấp nhô, bụi hồng...
Ai trông, lên đó mà trông
Cha Ki oanh liệt, Bản Đông anh hùng
Mỹ thua, ngụy chạy đường cùng
Xác tăng như xác bọ hung đen bờ
Mấy chàng lính trẻ măng tơ
Nghêu ngao gõ bát hát chờ cơm sôi.
Xe lao qua dốc qua đồi
Gió tây giội lửa ồi ồi sau lưng
Bụi bay, bụi đỏ lá rừng
Mịt mù lối kín cát bưng đường hầm
Nóng nung vạt áo ướt đầm
Thương con bướm trắng
quạt ngầm suối khô.
Con sông Xê Noọng ai dò
Mà dòng nước mát hẹn hò cùng ta?
Tới đây, tre nứa là nhà
Giò phong lan nở nhành hoa nhuỵ vàng
Trưa nằm đưa võng thoảng sang
Một làn hương mỏng,
mênh mông nghĩa tình.
Lán đêm ghé tạm trạm binh
giường cây lót lá cho mình đỡ đau
Nghĩ người, thăm thẳm rừng sâu
Mười năm bom đạn, măng rau, sốt ngàn.
Xê Công, Xê Noi, Chà Vàn
Mở đường, bao nỗi gian nan với đường!
Trường Sơn xẻ dọc, rọc ngang.
Xẻng tay mà viết nên trang sử hồng.
Trường Sơn, vượt núi, băng sông
Xe đi trăm ngả, chiến công bốn mùa.
Trường Sơn đông nắng, tây mưa
Ai chưa đến đó, như chưa rõ mình.
Vui sao buổi bình minh, gặp cháu
Nhớ ngày nào cháu mới lên ba
Gác canh cho chú trong nhà...
Nay giữa Phi Hà, D trưởng công binh
Trên đường lớn Hồ Chí Minh
Gác ba biên giới... mối tình Đông Dương!


Tam Đảo, hè 1973


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 05 Tháng Sáu, 2010, 04:21:34 pm
Nhớ mưa quê hương
LÊ ANH XUÂN

Quê nội ơi
Mấy năm trời xa cách
Đêm nay, ta nằm nghe mưa rơi
Nghe tiếng trời gầm xa lắc...
Cớ sao lòng thấy nhớ thương.
Ôi cơn mưa quê hương.
Đã ru hát hồn ta thuở bé,
Đã thầm nặng lòng ta những tình yêu chớm hé.
Nghe tiếng mưa rơi trên tàu chuối, bẹ dừa,
Thấy mặt trời lên khi tạnh những cơn mưa.
Ta yêu quá như lần đầu mới biết
Ta yêu mưa như yêu gì thân thiết
Như tre dừa, như làng xóm quê hương.
Như những con người - biết mấy yêu thương.
Ôi tuổi thơ, ta dầm mưa ta tắm.
Ta lội tung tăng trên mặt nước mặt sông
Ta lặn xuống, nghe vang xa tiếng sấm
Nghe mưa rơi, tiếng ấm tiếng trong.
Ôi đâu rồi những trò chơi tuổi trẻ
Những tàu chuối bẹ dừa, những mảnh chòi nhỏ bé
Những vết chân thơ ấu buổi đầu tiên
Mấy tấm mo cau là mấy chiếc thuyền
Mưa cuốn đi rồi.
Mưa chảy xuống dòng sông quê nội
Sông nước quê hương dào dạt chảy về khơi
Chờ những kỷ niệm xưa, chìm lắng bốn phương trời.
Và ta lớn tình yêu hòa bể rộng
Cơn mưa nhỏ của quê hương ta đã sống
Nay vỗ lòng ta rung động cả trăm sông,
Ôi cơn mưa quê hương.
Mưa là khúc nhạc của bài ca êm mát.
Những đêm ta nằm nghe mưa hát mưa ơi
Nghe mưa đập cành tre, nghe mưa rơi tàu lá,
Thầm thì rào rạt vang xa...
Có lúc bỗng phong ba dữ dội
Mưa đổ ào như thác dồn trăm lối.
Giấc mơ xưa có chớp giật, sấm gầm,
Trang sử nhỏ nhà trường bỗng hóa mưa giông.
Nghe như tiếng của cha ông dựng nước
Truyền con cháu phải ngẩng cao mà bước
Nghe như lời cây cỏ gió mưa.
Đang hát tiếp bài ca bất khuất ngàn xưa...
Mưa tạnh rồi, như mùa xuân nhẹ trổi
Thấy sáng xanh trên những cành xanh nắng rọi
Mưa ơi mưa, mưa gội sạch những cành non
Mang đến mùa xuân những quả ngọt tươi ngon.
Ôi vui quá không thấy chim đâu cả
Mà bờ tre nghe giọng hót trong lành.
Nhà ai đấy nhịp chày ba rộn rõ,
Làm hạt mưa trên cành lá rung rinh.
Mấy cô gái bên kia sông giặt áo
Tay rẩy nước. Bỗng mưa rào nho nhỏ
Cánh tay cô hay cánh gió nhẹ đưa
Rung cành tre rơi nhỏ một cơn mưa...
Ôi yêu quá mấy hàng dừa trước ngõ
Rễ dừa nâu, mườn mượt gân tơ
Đường tạnh ráo, đất lên màu tươi mởn
Đã yêu rồi sao bỗng thấy yêu hơn...
Quê hương ơi, mấy năm trời xa cách
Đêm nay ta nằm nghe mưa rơi.
Nghe tiếng trời gầm xa lắc...
Cớ sao lòng lại xót đau...
Ta muốn về quê nội
Ta muốn trở lại tuổi thơ
Ta muốn nằm trên mảnh đất ông cha
Nghe mưa đập cành tre, nghe mưa rơi tàu là...
Ôi tiếng sấm từ xa, bỗng gầm vang rộn rã...



Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 05 Tháng Sáu, 2010, 04:22:09 pm
Anh vẫn hành quân
TRẦN HỮU THUNG

Anh vẫn hành quân
Trên đường ra chiến dịch
Mé đồi quê anh bước,
Trăng non ló đỉnh rừng
Anh vẫn hành quân
Như ngày em có nhớ
Đứng bên cầu xóm nhỏ
Nón che em dặn thêm
Anh vẫn hành quân
Lưng đèo qua bãi suối
Súng ngang đầu anh gối,
Súng kề tay anh cầm
Trời lại mưa lâm thâm
Gió xoay chiều rét dữ
Bên cầu em thấy chứ
Anh vẫn hành quân
Và tiếng hát vang ngân
Như đường lên Cao Lạng
Trời Điện Biên mây trắng
Cờ chiến thắng oai hùng
Anh vẫn hành quân
Như chín năm kháng chiến
Năm nay tròn thêm chín
Anh vẫn hành quân
Em ơi Mỹ điên cuồng
Có thêm nhiều chất độc
Súng tay anh cầm chắc
Anh vẫn hành quân
Ai trở bước lùi chân
Ai tình quên hẹn lại
Thì lòng anh em hỡi
Càng nóng bỏng tình em
Dù còn đó bóng đêm
Dù xa em xa má
Đã sáng bừng hai ngả
Em ơi ta thẳng đường
Ngoài này hỡi em thương
Trên cánh đồng hợp tác
Trên giàn giáo công trường
Trên tuyến đường anh đặt
Lòng anh mang Ấp Bắc
Anh vẫn hành quân
Em ơi anh càng gần
Bên cầu xưa em nhớ
Trong lời thơ giấc ngủ
Anh vẫn hành quân


12/1963


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 05 Tháng Sáu, 2010, 04:23:13 pm
Nhớ
(Kính tặng những người lính thời chống Mỹ)
HỒ XUÂN HÙNG

Chiến tranh lùi về dĩ vãng
Bạn tôi.
Đứa nằm lại chiến trường xa
Và bản tình ca... bất tử
Đứa cụt què, bệnh tật
Ngẩn ngơ, thương binh sọ não vô hồn
Đứa nhiễm chất độc màu da cam
Con cháu mấy chục năm sau vẫn còn thương tích
Đứa về quê sau nhiều năm xa cách
Ngày vui đồng ruộng, tối vui gia đình
Thảnh thơi anh dân quê giấc ngủ ngon lành
Bạn bè đứa nào yêu thì đến
Đứa đam mê tiếp đường binh nghiệp
Hết biên giới Tây Nam - Tây Bắc
Quê hương: một năm vài ba tuần phép
Cấp tá về hưu tóc nửa bạc nửa xanh,
Đứa bỏ quê đánh đác thị thành
Lính - giám đốc, thủ trưởng thành giúp việc
Đời so le biết đâu là hơn thiệt
Chiến trường tử sinh có ai nghĩ thiệt hơn?
Đứa khoác ba lô về với giảng đường
Nuôi một ước mơ từ thời đi đánh giặc
Nay có người giàu sang
Cổng kín, tường cao, bạn bè không dễ đến
Có người đủ lương sống qua ngày, đoạn tháng
Cũng có người thất nghiệp
Có người đang ngày đêm vật lộn:
Đấu tranh cho lẽ phải công bằng
Bảo vệ trường tồn những đồng đội đã hy sinh.
Ba mươi năm giải phóng miền Nam
Chiến tranh lùi về dĩ vãng
Con cháu chúng ta
Đang trưởng thành, khôn lớn...


Được chơi với Kiến
TRẦN MẠNH HẢO

Bọn ta bảy chục tuổi xuân
Giờ ngồi xem kiến hành quân thay người
May còn con kiến để chơi
Có khi vạn sự ở đời con con
Dễ từng lấp biển dời non
Lưng còng mới được lon ton tuổi già
Góc vườn đàn kiến bò ra
Kéo đi hàng dọc như là Trường Sơn.
Nhớ ơi đồng đội chập chờn
Chiến tranh bỏ lại cô đơn hòa bình
Ngồi chơi với kiến giật mình
Một ta mà cả đội hình ngày xưa.
Tiếng rừng gọi bạn không thưa
Hoá thân thành kiến như vừa đâu đâu
Tuổi già thơ thẩn lâu lâu
Ngồi chơi với kiến bạc đầu không hay...



Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 05 Tháng Sáu, 2010, 04:24:03 pm
Gởi người yêu(*)
CHÂU NHO
(Thay lời của một liệt sĩ gửi người yêu trước lúc hi sinh)

Chiều vàng trôi
Mặt trời về khép cửa Trường Sơn
Anh ngắm biên cương
Bâng khuâng nhớ chiều quê hương
Chiều vàng trôi
Không níu lại được thời gian
Riêng anh giữ mãi chiều gặp em
Núi trở mình rừng buông màn đêm.
Và bây giờ sau lưng núi trăng lên
Trăng đầu tháng lặng im không nói
Trăng yếu ớt xua chiều đi vồi vội
Trăng hiểu rằng, từ đây anh xa em.
Nhớ nhau nhiều là buổi đầu tiên
Khi anh nói lời yêu em thẹn thùng cúi mặt
Trăng bẽn lẽn sau vòm cây ẩn nấp
Em nhìn anh, ôi, gương mặt trong đầy
Trăng rắc vàng lên mái tóc mây
Trời lấm tấm những vì sao xa lắc
Một dải Ngân hà mờ ánh bạc
Ngưu Lang và Chức Nữ có gần nhau. ...
Trên sao xa rồi cũng sẽ có người
Những làng mạc thay bằng thành phố
Mái trường xinh với đàn em nhỏ
Hát sau giờ ra chơi
âm thanh xa anh không rõ ý lời .
Vọng tiếng nhạc tận khoảng không vũ trụ
Và dáng dấp những người thiếu nữ
Cô gái Lào, nàng tiên hay là em?.
Đồng đội và anh thức với màn đêm
Súng gác sao trời hiện mảnh trăng đầu tháng
Anh ngỡ mình bay ra ngoài giới hạn
Đến một vì sao xa, nơi ấy có em yêu.


Khe Tang, 10-11-1968

(*) Năm 1968 tại mặt trận biên giới Việt - Lào, trung đội chúng tôi sau 3 ngày quần nhau với giặc có ba đồng chí đã hy sinh và trung đội trưởng bị thương rất nặng. Đêm đó, trước khi trút hơi thở cuối cùng, đồng chí ấy đã nằm ngửa mặt lên bầu trời và nói chuyện với người yêu trong cơn mê sảng. Xúc động trước hình ảnh đó, tôi đã làm bài thơ này gửi về cho người yêu của anh là cô giáo ở huyện Quế Phong (Nghệ An). Do chiến tranh, nay đây mai đó, tôi khòng còn giữ được bản thảo bài thơ nữa. May thay, năm 2002 tôi có được một đồng đội cũ là anh Bé đại tá, cán bộ trường Sĩ quan Công binh tìm gặp trao lại bài thơ do anh chép tay và giữ suốt 34 năm qua.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 07 Tháng Sáu, 2010, 04:45:13 pm
BẤT TỬ MỘT TRƯỜNG SƠN ÂM THANH
Nguyễn Thuỵ Kha

Nếu tôi không nhầm thì bài ca đầu tiên về Trường Sơn đã được giải thưởng Nguyễn Đình Chiểu là một giai điệu tha thiết, trữ tình mang tên "Vui mùa chiến thắng” của nhạc sĩ Văn Chừng. Ra Bắc tập kết được vài năm, Văn Chừng trở về hoạt động ở Khu Năm. Rừng Trường Sơn thuộc Khu Năm bắt đầu từ dốc Bò Lạch, qua sông A Vương tới thung lũng Trao, qua sông Bung tới thung lũng Giằng và cứ thế dọc ngược sông Giằng tới thung lũng Khâm Đức. Từ dốc Lò Xo trở đi đó là đoạn Trường Sơn - Tây Nguyên.

Giai điệu thanh bình của Văn Chừng tả thật đúng cảnh Trường Sơn những ngày đầu của đường mòn Hồ Chí Minh còn ít đạn bom: "Chiều nay tôi đứng trên Trường Sơn lòng tràn đầy vui sướng mùa lúa thơm ngạt ngào". Những nương rẫy Kà Tu đã đi vào âm nhạc thật hồn nhiên. Văn Chừng kể rằng sở dĩ tên tác giả ghi Văn Chừng và Lam Lương là vì Lam Lương là người đã cõng Văn Chừng bị thương đưa vào bệnh xá.

Nhưng Trường Sơn thực sự là Trường Sơn khốc liệt, bi tráng từ năm đế quốc Mỹ leo thang ra miền Bắc. Con đường vận chuyển vô Nam đã oằn mình dưới đạn bom và chất độc hoá học. Người nhạc sĩ có mặt ngay thời điểm đó là Vũ Trọng Hối - một cá tính sáng tạo âm nhạc độc đáo.

Đọc nhiều lần cuốn nhật ký Trường Sơn anh trao cho tôi trước khi qua đời mới thấy sự vật vã trong cảm hứng khi người nhạc sĩ chìm đắm trong thực tế gay gắt này. Và ông đã viết ra "Đường tôi đi dài theo đất nước" rung động tới tâm can bao con người: "Đời giao liên bước tôi đi dài theo - theo đất nước...".

Cũng với cảm hứng ấy, một hành khúc trầm hùng của người lính Trường Sơn, bài "Bước chân trên dái Trường Sơn " đã ra đời với sự góp lời của nhà viết kịch Tào Mạt, khi đi Trường Sơn lấy bí danh là Đăng Thục. Hành khúc ngay từ đầu với nốt kết ở phách nhẹ, gây một ấn tượng hẫng khác thường: "Ta vượt trên triền núi cao Trường Sơn...

Sau đó, người nhạc sĩ quân đội từ Hà Nội vào chiến trường Tây Nguyên đã vút cao một bản hoan ca "Hát mừng chiến thắng Tây Nguyên" với nhịp đảo phách như mô tả những đỉnh Trường Sơn: "Tiếng súng Đắc Tô đã nổ. Mở đầu đông xuân quyết thắng ê ề ê...".

Từ thời điểm đó, liên tiếp các bài ca Trường Sơn ra đời cho đến tận hôm nay, năm kỷ niệm nửa thế kỷ Trường Sơn. Cần kể đến ngay là "Bài ca Trường Sơn" của Trần Chung, phỏng thơ Gia Dũng. Nhịp hành khúc của Trần Chung về Trường Sơn còn thăng hoa thêm "Đêm Trường Sơn nhớ Bác", thơ Nguyễn Trung Thu. Rồi đến "Cô gái mở đường” của Xuân Giao, "đường tôi đi dài theo đất nước” của Phạm Tuyên.

Với cảm hứng từ phong trào tòng quân của thanh niên huyện ứng Hoà, Hà Tây mà Phạm Tuyên còn viết thêm "Chiếc gậy Trường Sơn", rồi sau đó thì rắn rỏi với "Đêm trên Cha Lo". Hoàng Tạo sau "Tên lửa về bên Sông Đà” thì chợt lãng mạn với Trường Sơn qua "Đưa em đi hái măng rừng”. Hoàng Vân thì sau những "Tiếng cồng giải phóng, tiếng cồng chiến thắng”, "Trên đường tiếp vận" với bút danh Y Na thì thật hào sảng với "Chào anh giải phóng quân, chào mùa xuân đại thắng” ngay từ nhịp mở đầu: "Trông lên Trường Sơn - Kìa gió đã nổi ... ".

Còn Huy Thục thì thật hứng khởi với "Tiếng đàn Ta Lư”, "ôi dòng suối La la", "Cô gái Pa Kô". Bằng bút danh Lê Anh Chiến thì có “tiếng hát trên đường chiến thắng”. Ở các trọng điểm đường Trường Sơn Khu Bốn đã lẫm liệt một Truông Bồn (Nghệ An), ngã ba Đồng Lộc (Hà Tĩnh)... . Và gây cảm xúc mãnh liệt để Doãn Nho viết "Người con gái sông La", thơ Phương Thuý, Ánh Dương viết "Chào em cô gái Lam Hồng”. 

Sau Mậu Thân 1968, những bài ca Trường Sơn lại tuôn trào như "Bài ca bên cánh võng” của Nguyên Nhung, "Cánh chim báo tin vui" của Đàm Thanh ... Thuận Yến sau những "Mỗi bước ta đi", "Bài ca đội nữ tiếp vận" thì thật đĩnh đạc trong hành khúc "Những bàn chân không nghỉ”, Nay ta lại ra đi - Qua Trường Sơn - Từ đỉnh Chư Lây tới bưng biền Đồng Tháp...".

Khi Huy Du vào Trường Sơn thì những bài ca Trường Sơn lại có thêm những góc nhìn mới, cảm hứng mới qua "Bài ca Trường Sơn", "Đêm Trường Sơn" với bút danh Huy Cầm .. sau ngày rất xa phổ "Tình em" của người lính Tây Nguyên Ngọc Sơn. Với chính tên mình Huy Du viết "Trên đỉnh Trường Sơn ta hát” và "Nổi lửa lên em", thơ Giang Lam, làm xao động cả một thời trận mạc.

Khi chiến dịch Đường 9 - Nam Lào nổ ra mùa xuân 1971, lại có thêm bao nhiêu bài hát về Trường Sơn. Không ai có thể quên "Trường Sơn đông - Trường Sơn tây” của Hoàng Hiệp phổ thơ Phạm Tiến Duật. Văn Dung sau "Bài ca Đường Chín chiến thắng” tưng bừng là "Đường Trường Sơn xe anh qua”. Tân Huyền có "Xe ta đi trong đêm Trường Sơn" phơi phới hy vọng. Hoàng Hà vạm vỡ với "Gặp nhau trên đỉnh Trường Sơn": "Trên đỉnh Trường Sơn ta gặp nhau giữa đường đi đánh Mỹ...".

Vào những năm sau đó, lính Trường Sơn lại réo rắt "Rừng xanh vang tiếng Ta Lư” của Phương Nam, "Anh đi tìm em" của Phan Nhân rất trữ tình: "Anh đi tìm em chứ em ở nơi đâu ... " , chợt mới mẻ trong hành khúc "Ta ra trận hôm nay” của Văn An: "Trường Sơn - gập ghềnh dốc đá đường trơn - Đôi chân chiến sĩ bước mòn đá xanh ..." và tràn đầy hy vọng khi nghe "Lá đỏ" của Hoàng Hiệp, thơ Nguyễn Đình Thi: "Gặp em trên cao lộng gió - Đường Trường Sơn - ào ào lá đỏ . Hẹn gặp nhé - Giữa Sài Gòn".

Hoà Bình. Khi các binh trạm rời khỏi Trường Sơn để lại những cô gái đã qua tuổi xuân ở Trường Sơn, trở thành người dân Trường Sơn với nỗi cô đơn lặng lẽ, chợt ta lại thấy xao xuyến khi nghe "Sợi nhớ sợi thương” của Phan Huỳnh Điểu phổ thơ Thúy Bắc. Còn Nguyễn Đình Bảng thì hồi ức trở lại một vẻ đẹp nguyên sơ của các nữ chiến sĩ Trường Sơn trong "Khoả trần Trường Sơn".

Bây giờ, khi những cuộc hành quân xưa kia chỉ còn trong ký ức. Bây giờ, khi một đời sống mới đã lấn dần hoang vu từng mảnh Trường Sơn và những cơn đường Trường Sơn của thời đại công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã mở ra thênh thang để chào đón những đoàn xe, những khách du lịch đến thăm viếng Trường Sơn như một bảo tàng xanh của thiên nhiên, thì lòng ta càng khôn nguôi nhớ về những năm tháng gian lao xưa cũ.

Nguyễn Trọng Tạo lại khóc ròng khi trở về ngã ba Đồng Lộc kiêu hùng mà rơi nước mắt trong "Đồng Lộc thông ru”. Chính người viết lời giới thiệu và tuyển chọn những ca khúc trong tập sách này cũng không thể cầm lòng khi đọc bài thơ "Truông Bồn - lời sim tím" của Châu Nho và đã phải hát lên thành ca khúc.

Rồi đường Trường Sơn sẽ đưa ta đến tương lai. Nhưng mãi bất tử một Trường Sơn âm thanh của một thời bi tráng.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 07 Tháng Sáu, 2010, 04:48:19 pm
PHẦN THỨ HAI
ĐƯỜNG HỒ CHÍ MINH, CÔNG NGHIỆP HÓA - MỘT KHÁT VỌNG HÙNG CƯỜNG

CHƯƠNG MỘT
CON ĐƯỜNG THỜI ĐẠI

NGÀNH GIAO THÔNG VẬN TẢI VỚI TUYẾN ĐƯỜNG CHIẾN LƯỢC TRƯỜNG SƠN
(Hồ Nghĩa Dũng, ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải)

Bài viết tại hội thảo khoa học: "Chiến trường Trường Sơn - Đường Hồ Chí Minh, khát vọng độc lập, tự do và thống nhất Tổ quốc"

50 năm đã trôi qua, nhắc tới đường Trường Sơn, chỉ cái tên thôi là đủ gợi nhớ đến sự ác liệt của một tuyến đường đã từng là dòng máu huyết mạch chi viện cho chiến trường Miền Nam, là cái gai không bao giờ có thể nhổ được của đế quốc Mỹ - ngụy, là bản anh hùng ca bất khuất của những chàng trai, những cô gái tuổi đôi mươi nhưng đã trở nên bất tử. Thật khó có thể ngợi ca hết được sự kỳ diệu cũng như đóng góp to lớn của con đường mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh trong cuộc kháng chiến vĩ đại chống Mỹ, cứu nước ...

Với ngành Giao thông Vận tải, có thể nói tuyến chi viện chiến lược Trường Sơn đã ghi dấu ấn nổi bật của ngành trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ kính yêu, ngành Giao thông Vận tải Việt Nam đã lập nên những kỳ tích huy hoàng, góp phần quan trọng vào chiến thắng của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ oanh liệt.

Cùng với những người lính Trường Sơn, thanh niên xung phong, dân công gái trai, các cán bộ chiến sĩ, nhân viên ngành Giao thông Vận tải, đã cống hiến tâm lực xương máu và tuổi xuân của mình để xây dựng, duy trì sức chiến đấu mãnh liệt của tuyến chi viện chiến lược Trường Sơn dưới mưa bom, bão đạn suốt thời kỳ đánh Mỹ.

Ngành Giao thông Vận tải, với tuyến đường chiến lược Trường Sơn trong chiến tranh chống Mỹ
Đường Trường Sơn, đường đi tới chiến thắng ...

Năm mươi năm trước, cách mạng miền Nam gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt là giao thông liên lạc, chi viện từ Bắc vào Nam. Đầu tháng 5/1959, Bộ Chính trị và Chủ tịch Hồ Chí Minh giao cho Quân uỷ Trung ương nghiên cứu tổ chức một đoàn giao thông quân sự đặc biệt, mở tuyến giao liên và vận tải, đưa cán bộ, vũ khí và những hàng hoá cần thiết vào miền Nam. Đồng chí Võ Bẩm được giao nhiệm vụ tổ chức và phụ trách Đoàn 559 đầu tiên, mở đường vận tải vào miền Nam.

Sau một thời gian nghiên cứu mở đường và nắm bắt tình hình, Đoàn đã tổ chức được những tuyến đường gùi, thồ đưa vũ khí, lương thực... chi viện đầu tiên cho mặt trận. Làng Ho, rồi Phong Nha nơi tập kết hàng nghìn chiếc xe đạp Phượng Hoàng, Vĩnh Cửu, một thời là nơi xuất phát của các đoàn gùi thồ đó...

Việc sử dụng xe cơ giới vận chuyển từng đoạn cũng được Đoàn 559 thực hiện sau khi con đường từ Bản Đông đến Mường Noọng (nam Đường 9) được khôi phục, sử dụng 4 chiếc ô tô chiến lợi phẩm sau chiến dịch Tà Khổng, phà vượt sông Xê Băng Hiêng được ghép bằng tre nứa và thùng phuy xăng.

Tính đến cuối năm 1964, cán bộ, chiến sĩ Đoàn 559 vận tải quân sự đã xây dựng được 781 km đường ô tô, trên 600 km đường giao liên và gùi thồ. Đã hình thành mạng lưới đường vận tải từ đông sang tây Trường Sơn với hệ thống 3 đường song song: đường giao liên, đường vận tải gùi thồ và đường vận tải cơ giới bao gồm trục đường chính và các đường nhánh đi vào chiến trường.

Do cầu đường mới mở, phương tiện vận tải thô sơ nên kế hoạch hàng năm chỉ đạt 25-45%, nhưng một khẩu súng, một hòm đạn vào được đến miền Nam trong những năm đầu cách mạng chuyển từ đấu tranh chính trị lên đấu tranh vũ trang có ý nghĩa rất lớn.



Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 07 Tháng Sáu, 2010, 04:49:40 pm
Nhưng rồi cuộc chiến tranh leo thang dần lên, số vũ khí hậu cần yêu cầu lớn hơn, xe đạp và gùi thồ không thể đáp ứng nhu cầu bức bách của chiến trường, Trung ương Đảng và Bác đã giao cho Bộ Quốc phòng và Bộ Giao thông Vận tải nghiên cứu khẩn trương mở đường và đảm bảo giao thông cho xe cơ giới. Đây thực sự là nhiệm vụ rất lớn và nặng nề có tính chiến lược.

Đồng chí Phan Trọng Tuệ, ủy viên Trung ương Đảng, Thiếu tướng quân đội nhân dân Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải, được giao nhiệm vụ Tư lệnh trưởng kiêm Chính uỷ Đoàn 559. Ngoài đồng chí Phan Trọng Tuệ còn có đồng chí Nguyễn Tường Lân, Thứ trưởng Bộ Giao thông Vận tải,, nhiều đồng chí lãnh đạo Cục, Vụ, Viện như đồng chí Nguyễn Nam Hải, Phan Trầm, Nguyễn Lang... Và hàng nghìn cán bộ công nhân viên ưu tú với nhiều trang thiết bị cơ giới "đổ bộ" vào Trường Sơn mục tiêu phải giải quyết việc mở đường, phá thế độc tuyến, thông xe cơ giới chi viện lớn cho chiến trường miền Nam.

Trong đó, nhiệm vụ quan trọng có tính quyết định là mở con đường mới xuyên từ Đông sang Tây Trường Sơn để khắc phục việc ách tắc vào mùa mưa và túi nước Xiêng Phan. Vì vậy khu vực Phong Nha, Ta Lê được coi là mục tiêu trong tầm ngắm. Mở đường ở vị trí này "húc" vào dãy núi đá tai mèo, đó là một thách thức lớn. Nhưng bằng tất cả trí thông minh và lòng quả cảm ta đã quyết định mở đường 20 - Quyết Thắng với tên chiến dịch “chọc thủng Trường Sơn mở đường thắng lợi", một sự kiện chưa từng có từ trước tới nay: vừa thiết kế, vừa thi công kết hợp thủ công với cơ giới.

Để hoàn thành khối lượng công việc rất lớn, nhằm thi công con đường 20 Quyết Thắng trong thời gian cho phép là 4 tháng, Bộ Giao thông Vận tải đã điều lực lượng cơ giới mạnh nhất của Bộ do các đồng chí Nguyễn Trí Tuệ (tức Lam Chi) và Nguyễn Lang phụ trách, Bộ còn huy động thêm cán bộ khoa học kỹ thuật và công nhân bậc cao vào phục vụ chiến trường do đồng chí Phan Trầm phụ trách. Toàn bộ cán bộ, công nhân, thanh niên xung phong ngành Giao thông Vận tải, đều được quân sự hóa trong đội hình của Đoàn 559 ... .

Nhờ áp dụng sáng tạo phương pháp mở đường núi đá bằng máy ủi và bộc phá, trên 65 cây số có hàng vạn quân bố trí gần như “đồng khởi", cuốn chiếu gồm nhiều lực lượng: công binh, bộ binh, pháo cao xạ, thanh niên xung phong, công nhân viên giao thông vận tải,. Đường làm đến đâu lập kho tàng đến đó, chỉ trong 77 ngày đêm đã thông xe. Đoàn 559 đã hoàn thành tuyến đường 20 đúng vào dịp kỷ niệm sinh nhật Bác Hồ ngày 19/5/1966.

Con đường mới nhờ vòng tránh được túi nước Xiêng Phan đã tạo nên tuyến vận tải từ đông sang tây Trường Sơn hoạt động cả 4 mùa. Có đường 20 ta phá được thế độc tuyến và tạo nên hệ thống đường cơ giới. mở ra khả năng vận tải liên tục lương thực, vũ khí...từ hậu phương sang tây Trường Sơn, để tiếp tục đi vào chiến trường.

Đường 20 Quyết Thắng (tức là tuổi trẻ 20 quyết thắng) đã đi vào lịch sử như tạo được một huyết mạch quyết định, khai thông một trong những khâu xung yếu nhất của đường chiến lược Hồ Chí Minh. Đây là công trình làm đường lớn nhất tạo ra hiệu suất cao nhất của tuyến vận tải Trường Sơn, thể hiện sự quyết đoán, thông minh, táo bạo với ý chí quyết chiến thanh niên xung phong ngành Giao thông Vận tải, và cán bộ, chiến sĩ quân đội. Đường 20 - Quyết thắng cũng là con đường được hoàn thành nhanh nhất, có ý nghiã chiến lược quan trọng của hệ thống đường mang tên Bác.

Từ thực tế Đường 20, nhiều bài học quý giá về "chiến tranh nhân dân" được tổng kết. Đó là sự phối hợp giữa giao thông vận tải,và quốc phòng, chế độ song trùng lãnh đạo. Sau đó Bộ Giao thông Vận tải quyết định thành lập Ban Xây dựng 67 (chịu sự lãnh đạo song trùng của Bộ Giao thông Vận tải, và Tổng cục Hậu cần tiền phương) với nhiệm vụ chính trị chủ yếu là cùng với các lực lượng quân đội tổ chức mở đường và chiến đấu bảo đảm giao thông các tuyến đường thuộc hệ thống đường Trường Sơn để phục vụ nhiệm vụ vận tải chiến lược chi viện cho chiến trường miền Nam trong suốt quá trình chống Mỹ, cứu nước.

Ban 67 đã được tăng cường hàng vạn quân bám cầu, bám đường suốt cả cuộc chiến tranh phá hoại cho đến ngày toàn thắng. Ban 67 chính là "Tiền tuyến" của ngành Giao thông Vận tải. Chiến tranh phá hoại leo thang đánh phá cả miền Bắc nhưng tập trung cao nhất vẫn là hạ tầng giao thông vận tải. Trong hạ tầng đó thì đánh phá có tính chất hủy diệt vẫn là đường Trường Sơn, mà đường Trường Sơn phải nói đến vùng "Cán Xoong", hàng trăm trọng điểm địch đánh phá ác liệt như: cua chữ A, ngầm Ta Lê, đèo Phu La Nhích, Cà Roong, Trà Ang, Đá Đẽo La Trọng, Bãi Dinh...

Kết thúc sự nghiệp đảm bảo giao thông, Ban 67 có 1.105 cán bộ, thanh niên xung phong, công nhân lao động đã anh dũng hy sinh, hàng nghìn thương bệnh binh. Ban 67, toàn ngành Giao thông Vận tải, cùng quân và dân cả nước đã viết lên những trang sử chói lọi nhất trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.



Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 07 Tháng Sáu, 2010, 04:49:48 pm
Từ năm 1967 trở đi, nhờ biết vận dụng nghệ thuật quân sự vào vận tải quân sự chiến lược trong chiến tranh, Tuyến chi viện chiến lược 559 (đường Trường Sơn) đã từng bước hoàn thành xuất sắc 3 nhiệm vụ: Vận tải chiến lược, cơ động bộ đội; Đánh địch trên không và mặt đất; Xây dựng căn cứ chiến lược cho chiến trường 3 nước thuộc bán đảo Đông Dương. Đồng thời phối hợp với bạn Lào tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng đất đai, xây dựng cơ sở cách mạng Trung, Hạ Lào. Với 3 nhiệm vụ đó, Tuyến chi viện chiến lược Đường Hồ Chí Minh đã tiếp tục phát triển năm sau cao hơn năm trước, phục vụ đắc lực cho các chiến trường.

Sau Hiệp định Pa ri năm 1973, một thuận lợi mới, một thời cơ mới đã đến với Tuyến chi viện chiến lược Đường Hồ Chí Minh. Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Bộ Chính trị, Chính phủ, Quân uỷ Trung ương, Bộ Quốc Phòng, Bộ Giao thông Vận tải, Bộ Tư lệnh Trường Sơn đã sớm nắm bắt được thời cơ, phát huy mọi kinh nghiệm và sáng tạo, chuyển hướng mọi mặt hoạt động trên tuyến sát với tình hình, nhiệm vụ mới. Tuyến chi viện chiến lược Trường Sơn được phát triển nhanh chóng, toàn diện, quy mô lớn trên tất cả các mặt. Đường Trường Sơn được nâng cấp tuyến phía Tây. Năm 1974, đường mở thêm tuyến phía Đông.

Để đáp ứng cho thời cơ mới, giữa năm 1973, bộ đội Trường Sơn sắp xếp lại tổ chức theo hướng Sư đoàn binh chủng trực thuộc Bộ Tư lệnh. Lực lượng bao gồm: 9 Sư đoàn binh chủng, 8 Trung đoàn trực thuộc, 1 Sư đoàn cao xạ, tên lửa phối thuộc.

Cụ thể: 2 Sư đoàn và 2 Trung đoàn xe vận tải, 4 Sư đoàn công binh; 2 Sư đoàn và 5 Trung đoàn cao xạ, tên lửa, 1 Sư đoàn và 1 Trung đoàn bộ binh và 11 Trung đoàn binh chủng độc lập (đường ống, đường sông, thông tin, xe vận tải cao xạ, giao liên, bộ binh), 4 Đoàn thanh niên xung phong trực thuộc Bộ Tư lệnh; 1 Đoàn lực lượng Bộ Giao thông Vận tải, phối thuộc. Tổng quân số 12 vạn người.

Chỉ huy thời kỳ này là Đại tá Đồng Sỹ Nguyên - Tư lệnh và Đại tá Hoàng Thế Thiện - Chính ủy. Năm 1974, Đại tá Đồng Sĩ Nguyên được thăng vượt cấp lên Trung tướng, Đại tá Hoàng Thế Thiện được thăng cấp Thiếu tướng. Đầu năm 1975, Đại tá Lê Xy được cử làm Chính ủy.

Đến mùa hè năm 1974, đường Đông và Tây Trường Sơn đã hình thành một hệ thống liên hoàn, vững chắc, là cơ sở hạ tầng bảo đảm chi viện liên tục vật chất, cơ động lực lượng, binh khí kỹ thuật, bảo đảm cho đòn tiến công chiến lược khi thời cơ đến.

Đồng thời, tuyến hành lang Đông - Tây Trường Sơn đã hình thành một căn cứ hậu cần chiến lược, chiến dịch, nối liền hậu phương lớn miền Bắc với các chiến trường nam Đông Dương, là chỗ dựa vững chắc cho các chiến trường. Đây là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi nhiệm vụ chi viện của hậu phương chiến lược miền Bắc cho các chiến trường tại miền Nam, Lào và Campuchia.

Cho đến ngày Việt Nam thống nhất, suốt 16 năm chiến đấu, Đoàn 559 bộ đội Trường Sơn trên Đường Hồ Chí Minh đã làm nên mạng đường liên hoàn, vững chắc với 16.700 km đường dã chiến các loại, trong đó có: 6.800 km đường trục dọc, 5.000KM đường ngang và 5.000 km đường vòng tránh, 800 km đường kín được nguỵ trang bằng tán rừng tự nhiên; 1.500 km đường đá; trên 200 km đường nhựa; 500 km đường sông; 3.500 km đường đi bộ; trên 1000 km đường ống dẫn xăng dầu.

Hệ thống hậu cần đường Trường Sơn đã chuyển được hơn 1 triệu tấn hàng, vũ khí vào cho các chiến trường, bảo đảm hành quân bổ sung cho các chiến trường trên 1,5 triệu bộ đội và cán bộ. Đã đảm bảo cho 30 vạn chiến sĩ hành quân bằng cơ giới, trong đó có 3 quân đoàn, 6 sư đoàn, 10 sư, lữ, trung đoàn binh chủng. Cũng trong 16 năm chiến đấu đó, gần 2 vạn cán bộ, chiến sĩ, thanh niên xung phong, giao thông đã hy sinh và trên 2 vạn người bị thương.

Có thể nói, quyết định xây dựng tuyến chi viện chiến lược - đường Hồ Chí Minh và thực hiện thắng lợi quyết định này là một thành công kiệt xuất trong lãnh đạo chiến tranh của Đảng Cộng sản Việt Nam, là biểu hiện của “ý chí quyết thắng, của lòng dũng cảm, của khí phách anh hùng" của quân và dân ta, là con đường thể hiện sức mạnh to lớn của khối hiệp đồng chiến đấu quân dân, giữa bộ đội vận tải quân sự với hàng vận cán bộ, công nhân và lực lượng thanh niên xung phong ngành Giao thông Vận tải, là sức mạnh của tình đoàn kết Việt Lào - Campuchia, là một trong những biểu tượng đặc trưng và sâu sắc nhất của tình đoàn kết Bắc - Nam

Lịch sử tuyến chi viện chiến lược - đường Hồ Chí Minh còn phản ánh trình độ vận dụng sáng tạo khoa học và nghệ thuật quân sự của Đoàn 559 - bộ đội Trường Sơn từng bước tiến lên theo quy luật chung của chiến tranh giải phóng dân tộc - quy luật phát triển từ thấp đến cao, từ yếu đến mạnh, từ thô sơ đến hiện đại.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 07 Tháng Sáu, 2010, 04:51:35 pm
Ngành Giao thông Vận tải với Đường Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới

Trong chiến tranh hay trong thời bình, giao thông vận tải đều đóng vai trò vô cùng quan trọng. Nếu như trong chiến tranh, giao thông vận tải góp phần giải phóng đất nước thì trong công cuộc hiện đại hoá đất nước, giao thông vận tải, sẽ góp phần phát triển đất nước.
Nhận thức được tầm quan trọng của giao thông vận tải, ngay từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới, phát triển nền kinh tế đất nước theo kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chủ trương phải ưu tiên đầu tư phát triển giao thông vận tải, để giao thông vận tải đi trước một bước tạo tiền đề và thúc đẩy kinh tế phát triển.

Và trong chủ trương đầu tư phát triển giao thông vận tải, Đảng và Chính phủ đã quan tâm trước hết đầu tư xây dựng Đường Hồ Chí Minh - trục dọc "xương sống" thứ hai của đất nước - bởi đây sẽ là huyền thoại và biểu tượng mới của giai đoạn đầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Sự cần thiết của việc đầu tư xây dựng Đường Hồ Chí Minh đã được khẳng định rõ trong Công văn số 1313/CP-CN ngày 15/12/1999 của Chính phủ gửi Bộ Chính trị:

"Việc xây dụng một trục đường bộ xuyên Việt thứ hai là rất cần thiết và cần thực hiện sớm. Tuyến đường này sẽ là một trục Bắc - Nam chủ yếu trong tương lai.

Ngay sau khi xây dựng xong giai đoạn 1, tuyến đường sẽ đóng vai trò đắc lực trong việc quy hoạch và phân bố lại lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế công - nông - lâm nghiệp, khai thác có hiệu quả tiềm năng đất đai và lao động của đất nước, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế vùng trung du - miền núi. Từ đây sẽ hình thành các khu công nghiệp, đô thị, tác động tích cực vào việc xoá đói giảm nghèo của cả một vùng đất đai giàu tiềm năng chưa được khai phá ở phía Tây của Tổ quốc.

Tuyến đường này cùng với hệ thống gồm 63 đường ngang, trong đó có các trục hành lang Đông - Tây nối liền với quốc lộ 1 và hệ thống cảng biển, tạo nên một mạng lưới giao thông hoàn chỉnh từ Bắc vào Nam và liên thông với các nước trong khu vực. Nhiều đoạn trên tuyến sẽ hỗ trợ đắc lực để giải quyết ách tắc giao thông trên quốc lộ 1 trong mùa mưa lũ, đặc biệt ở khu vực miền Trung. Hệ thống giao thông này phát huy tối đa năng lực vận tải của các tuyến đường hiện có do nhiều thế hệ đã dày công xây dựng nhưng trong những năm qua gần như bị bỏ hoang, mặc cho thiên nhiên tàn phá đến mức trên nhiều đoạn tuyến không còn đi lại được.

Xây dựng trên cơ sở hệ thống đường Hồ Chí Minh trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trục đường bộ Bắc Nam thứ hai là hành lang phía Tây, có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ và củng cố an ninh quốc phòng, đặc biệt là trong bối cảnh thế giới phức tạp hiện nay".

Thực hiện chủ trương và mục tiêu mà Đảng và Chính phủ đề ra, để bắt tay vào việc xây dựng đường Hồ Chí Minh, ngày 11/8/1999, Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải Lê Ngọc Hoàn đã ký Quyết định số 1999/1999/QĐ- BGTVT thành lập 1 Ban Quản lý dự án Đường Hồ Chí Minh. Ban Quản lý dự án Đường Hồ Chí Minh được giao nhiệm vụ đại diện chủ đầu tư quản lý dự án đầu tư xây dựng đường Hồ Chí Minh - công trình quan trọng của quốc gia. 

Theo Quy hoạch tổng thể đường Hồ Chí Minh đã được Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng phê duyệt tại Quyết định số 242/QĐ-TTG ngày 15/02/2007 (thay thế Quyết định số 789/TTG ngày 24/9/1997 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tổng thể xa lộ Bắc - Nam), đường Hồ Chí Minh sẽ đi qua 30 tỉnh, thành phố trong cả nước Việt Nam, với tổng chiều dài toàn tuyến 3.167 km (trong đó tuyến chính dài 2.667 km, tuyến nhánh phía Tây dài 500 km).



Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 07 Tháng Sáu, 2010, 04:51:53 pm
Điểm đầu tuyến tại Pác Bó, tỉnh Cao Bằng, điểm cuối tại Đất Mũi, tỉnh Cà Mau. Đường Hồ Chí Minh được thiết kế theo tiêu chuẩn đường ô tô cao tốc và tiêu chuẩn đường ô tô thông thường. Riêng các đoạn qua thị trấn, thị tứ, thị xã và thành phố thiết kế phù hợp với quy hoạch địa phương được duyệt.

Tuyến chính của Đường Hồ Chí Minh (dài 2.667 km) sẽ đi qua các điểm: Pác Bó, thị xã Cao Bằng, thị xã Bắc Kạn, Chợ Mới, Chợ Chu, đèo Muồng, ngã ba Trung Sơn ngã ba Phú Thịnh, cầu Bình Ca (sông Lô), Kmi24+500 Ql2, ngã ba Phú Hộ, thị xã Phú Thọ, cầu Ngọc Tháp (sông Hồng), Cổ Tiết, cầu Trung Hà, thị xã Sơn Tây, Hoà Lạc, Xuân Mai, Chợ Bến, Xóm Kho, Ngọc Lạc, Lâm La, Tân Kỳ, Khe Cò, Tân Ấp, Khe Gát, Bùng, Cam Lộ, cầu Tuần, Khe Tre, đèo Đê Bay, đèo Mũi Trâu, Túy Loan, Hoà Khương, Thạnh Mỹ, đèo Lò Xo, Ngọc Hồi, Kon Tum, Pleiku, Buôn Ma Thuột, Gia Nghĩa, Chơn Thành, ngã tư Bình Phước, Tân Thạnh, Mỹ An, thị xã Cao Lãnh, cầu Cao Lãnh (sông Tiền), cầu Vàm Cống (sông Hậu), Rạch Sỏi, Minh Lương, Gò Quào, Vĩnh Thuận, thành phố Cà Mau, cầu Đầm Cùng, Năm Căn, Đất Mũi.

Nhánh phía Tây (dài 500 km) sẽ đi qua các điểm: Khe Gát, đèo U Bò, Tăng Ký, cầu Khỉ, Sen Bụt, Khe Sanh, Đắk Rông, đèo Pê Ke, A Lưới, A Đớt, A Tép, Hiên, Thạnh Mỹ.

Trên cơ sở Nghị quyết số 38/2004/QH 11 ngày 03/12/2004 của Quốc hội và phù hợp với thực tế cập nhật, việc đầu tư xây dựng đường Hồ Chí Minh theo Quy hoạch tổng thể được chia thành 3 giai đoạn:

Giai đoạn 1 (từ năm 2000 - 2007): Đầu tư hoàn chỉnh với quy mô 2 làn xe, bao gồm cả kiên cố hóa và chống sạt lở đoạn từ Hòa Lạc (Hà Tây) đến Tân Cảnh (Kon Tum). Cho phép một số điểm kiên cố hóa khó khăn hoàn thành trong năm 2008 .

Giai đoạn 2 (từ năm 2007 - 2010): Nối thông toàn tuyến từ Pác Bó (Cao Bằng) đến Đất Mũi (Cà Mau), và nghiên cứu triển khai đầu tư nâng cấp một số đoạn tuyến đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bằng sông Cửu Long. 

Giai đoạn 3 (từ năm 2010 - 2020): Hoàn chỉnh toàn tuyến và từng bước xây dựng các đoạn tuyến theo tiêu chuẩn đường cao tốc phù hợp với quy hoạch được duyệt và khả năng nguồn vốn, trong đó lưu ý kết nối với quy hoạch hệ thống đường sắt, đường ngang và các quy hoạch khác có liên quan.

Năm 2000 - năm chuyển giao thế kỷ - thực sự là một năm ghi đậm dấu ấn đối với ngành Giao thông Vận tải nói chung và những công nhân ngành cầu đường Việt Nam nói riêng bởi sự kiện ngày 05/4/2000, dự án đường Hồ Chí Minh (giai đoạn 1) được Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải chính thức phát lệnh khởi công tại cầu Xuân Sơn (Quảng Bình), bắt đầu mở ra một huyền thoại mới cho đường Trường Sơn lịch sử (sau khi được Thủ tướng Phan Văn Khải phê duyệt tại Quyết định số 18/2000/QĐ-TTG ngày 3/2/2000 đầu tư dự án xây dựng đường Hồ Chí Minh (giai đoạn 1 ).

Đây cũng là sự kiện được các phương tiện thông tin đại chúng chọn là sự kiện tiêu biểu nhất trong năm 2000. Thời khắc đó tất cả người dân cả nước đều trong tâm trạng hồi hộp ngóng chờ như đất nước chuẩn bị viết nên một trang sử mới.

Và đến ngày 30/4/2008, sau gần 3.000 ngày đêm của 8 năm đằng đẵng qua, hàng ngàn, hàng vạn công nhân cầu đường không quản nắng, gió Trường Sơn, đổ biết bao mồ hôi, công sức, thậm chí cả máu của mình phá đá, mở rừng, đường Hồ Chí Minh giai đoạn 1 từ Hòa Lạc (Hà Tây) đến Tân Cảnh (Kon Tum) (chiều dài gần 1.300 cây số) chính thức được bàn giao và đưa vào sử dụng, khai thông một trục dọc Bắc- Nam mới, mở ra một giai đoạn phát triển, một kỳ tích mới của đường Trường Sơn năm xưa nói riêng và của cả đất nước nói chung.

Huyền thoại xưa đã tiếp thêm sức mạnh cho hôm nay, để đường Trường Sơn xưa đã trở thành đường Hồ Chí Minh với tất cả sự hùng vĩ và hiện đại. Đối với một số tỉnh miền Trung Trung Bộ, tuyến đường Hồ Chí Minh chạy qua dường như đã thổi vào cuộc sống của cư dân khu vực này một luồng sinh khí mới. Cả vùng rừng núi hắt hiu ngày xưa nay như khoác lên mình một tấm áo mới đầy tươi tắn và sống động.



Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 07 Tháng Sáu, 2010, 04:52:02 pm
Không chỉ đời sống vật chất, mà đời sống văn hóa, tinh thần của đồng bào miền núi cũng được phát triển bởi sự giao thoa mạnh mẽ hơn với cuộc sống hiện đại thông qua những người miền xuôi lên đây làm dự án, xẻ núi, dựng cầu, làm đường. Sự kiện xây dựng thành công đường Hồ Chí Minh (giai đoạn 1) do người Việt Nam thiết kế, xây dựng bằng nguồn nội lực thực sự là dấu mốc quan trọng khẳng định sự lớn mạnh cả về chất và lượng của đội ngũ những công nhân cầu đường Việt Nam.

Tiếp đến, ngày 20/9/2008, Ban Quản lý dự án đường Hồ Chí Minh đã làm lễ khởi công điểm đầu của tuyến đường Hồ Chí Minh đoạn qua Pác Bó - Cao Bằng tại khu di tích lịch sử Pác Bó (huyện Hà Quảng, Cao Bằng). Đây là đoạn đầu tiên của đường Hồ Chí Minh giai đoạn 2 được khởi công xây dựng cùng với nhiều đoạn khác sẽ được khởi công trong năm 2008 để hoàn thành mục tiêu năm 2010 sẽ nối thông toàn tuyến từ Pác Bó (Cao Bằng) đến Đất Mũi (Cà Mau).

Đường Hồ Chí Minh đoạn từ Pác Bó - Cao Bằng có chiều dài 52,47km, bắt đầu từ khu di tích lịch sử Pác Bó (KM0+00). Đường được xây dựng đạt tiêu chuẩn đường cấp 3, cấp 4 miền núi (tùy theo từng đoạn) bảo đảm cho xe chạy với vận tốc 60km/giờ hoặc 40km/giờ.

Đến hôm nay đường Hồ Chí Minh tại Pác Bó (Cao Bằng) đang được triển khai xây dựng và một ngày không xa nữa, cột Km số "0" nơi bắt đầu con đường lịch sử năm xưa - điểm đầu của con đường trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hôm nay sẽ được đặt trước cửa hang Pác Bó, địa chỉ đỏ ghi những bước chân đầu tiên của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trở về Tổ quốc vào đêm trước Mùa Thu Cách mạng...

50 năm đã đi qua, giờ đây, những ký ức về chiến tranh với những trận mưa bom quân thù, những trận đánh tàn khốc gắn liền với đường Hồ Chí Minh đa trở thành lịch sử. Con đường chiến lược năm xưa, giờ trở thành một huyết mạch giao thông đưa đất nước tiến lên trong công cuộc hiện đại hóa. Và bên con đường ấy những xóm làng đã mọc lên, cuộc sống đã hiện ra với những sắc màu rộn rã. Và những người lính giao thông năm xưa ấy chưa kịp nghỉ ngơi đã có mặt ngay ở những con đường, cây cầu cần khôi phục để phục vụ công cuộc xây dựng đất nước, tham gia một trong những công trình tiêu biểu đó là xây dựng đường Hồ Chí Minh lịch sử.

50 năm, 100 năm... hay xa hơn nữa, đường Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một con đường huyền thoại", một kỳ tích của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại trong thế kỷ XX. Lịch sử sẽ còn nhắc lại những chiến công dũng cảm của cán bộ chiến sĩ, nhân viên ngành giao thông vận tải với các sáng kiến đã đi vào huyền thoại.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: "Giao thông là mạch máu của tổ chức. Giao thông tốt thì mọi việc dễ dàng. Giao thông xấu thì các việc đình trệ". Câu nói giản dị của Bác không chỉ nhấn mạnh đến vai trò quan trọng của Giao thông Vận tải trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, mà còn là lời nhắc nhở nhiệm vụ đối với những người làm công tác giao thông vận tải trong quá khứ, hiện tại và tương lai sau này.

Nhớ tới câu nói của Người, cùng với những thành quả đạt được từ tuyến chi viện chiến lược Trường Sơn trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, ngành giao thông vận tải quyết tâm xây dựng và hoàn thiện đường Hồ Chí Minh ngày thêm hiện đại và thuận lợi để con đường này luôn là mạch máu nối liền thông suốt giữa hai miền của Tổ quốc, luôn xứng đáng với tên gọi của Người.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 07 Tháng Sáu, 2010, 04:52:53 pm
CHƯƠNG HAI
TẠO SỨC BẬT CHO ĐỊA PHƯƠNG

ĐẤT TỔ SẴN SÀNG VƯƠN DẬY
Hương Hậu


Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh Phú Thọ Nguyễn Doãn Khánh hào hứng nói về tương lai phát triển khi tuyến đường Hồ Chí Minh đoạn qua tỉnh sẽ khởi công trong tháng 5/2009. Khi giao thông thuận lợi, ông hy vọng những con đường này sẽ là cầu nối cho sự phát triển mạnh mẽ kinh tế Phú Thọ, nhất là du lịch.

Tuyến đường Hồ Chí Minh nối dài với điểm đầu của tuyến là Pác Bó (Cao Bằng) và điểm cuối là Đất Mũi (Cà Mau), Km124+500 quốc lộ 2, ngã ba Phú Hộ chạy qua thị xã Phú Thọ (Phú Thọ) cầu Ngọc Tháp (sông Hồng)... với mặt cắt ngang đường quy mô từ 2 - 8 làn xe, nền đường và khoảng 2/3 tuyến đường được quy hoạch thiết kế theo tiêu chuẩn của đường cao tốc.

Với vị thế là cửa ngõ phía tây, cách Thủ đô Hà Nội 80km, vị trí "ngã ba sông" - điểm giao nhau của sông Hồng, sông Đà và sông Lô, Phú Thọ là đầu mối trung chuyển, giao lưu kinh tế giữa các tỉnh vùng đồng bằng Bắc Bộ với các tỉnh miền núi phía bắc Việt Nam và hai tỉnh Quảng Tây, Vân Nam Trung Quốc.

Nằm trong vành đai của các tuyến trục giao thông quan trọng: đường bộ có quốc lộ 2, đường cao tốc Vân Nam, Côn Minh (Trung Quốc- Hà Nội, Hải Phòng, đường Hồ Chí Minh; đường sắt có tuyến đường xuyên Á, đường sông chạy từ Trung Quốc qua các tỉnh phía tây vùng Đông Bắc đều quy tụ về Phú Thọ rồi mới toả đi Hà Nội, Hải Phòng và các địa phương khác.

Do nằm trong vùng trung du nên nền đất có kết cấu thuận lợi cho xây dựng các công trình công nghiệp và kết cấu hạ tầng. Ngoài ra, Phú Thọ còn có một số loại khoáng sản quan trọng trong nền kinh tế: cao lanh, fenspat, quặng pirit, đá vôi cho sản xuất xi măng, đá xây dựng, cát sỏi và mỏ nước khoáng có trữ lượng lớn và chất lượng tốt. Phú Thọ là tỉnh có quỹ đất và nguồn nước dồi dào thuận tiện cho phát triển công nghiệp và đô thị.

Là một trong những tỉnh của cả nước sớm có nền công nghiệp được đầu với quy mô tập trung, Phú Thọ hiện đứng thứ 18 của cả nước về giá trị sản xuất công nghiệp; là địa phương có các ngành sản xuất hàng đầu của cả nước như: giấy, sản xuất phân bón, chế biến nông - lâm sản... Tỉnh hiện có trên 2.000 doanh nghiệp đầu tư trong đó có 100 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài, với tổng vốn đăng ký gần 1 tỷ đô la Mỹ; 50 dự án đầu tư tỉnh ngoài với tổng mức vốn trên 35 nghìn tỷ đồng.

Phú Thọ đã quy hoạch và phát triển 4 khu công nghiệp với tổng diện tích 1500ha; gần 30 cụm công nghiệp, điểm công nghiệp trên địa bàn huyện, thị với diện tích 1.600ha. Trong quy hoạch đến năm 2020, tỉnh tiếp tục phát triển thêm 6 khu công nghiệp mới với diện tích 2.400ha và dành quỹ đất dự trữ 3.000ha cho phát triển công nghiệp tập trung.

Vùng đất cội nguồn dân tộc Việt Nam, với khu di tích lịch sử Đền Hùng - di tích lịch sử đặc biệt của quốc gia. hàng năm có từ 3-4 triệu lượt khách về thăm viếng và nhiều di tích lịch sử gắn liền với thời đại của các vua Hùng; với Rừng quốc gia Xuân Sơn, nước khoáng nóng Thanh Thủy và hệ thống hang động, hệ động thực vật phong phú trên địa bàn tỉnh... Phú Thọ có nguồn tài nguyên và tiềm năng rất lớn về phát triển du lịch.

Tại tỉnh, có thể đầu tư khai thác nhiều loại hình du lịch như: tham quan, nghỉ dường, chữa bệnh, du lịch sinh thái, du lịch văn hóa tâm linh... Nhiều khu, điểm du lịch đã được tỉnh quy hoạch và đầu tư hạ tầng như: khu du lịch Văn Lang, khu du lịch nước khoáng nóng Thanh Thủy, khu du lịch Vườn quốc gia Xuân Sơn, khu du lịch Đầm Ao Châu, khu du lịch Đầm Vân Hội, Ao Giời Suối Tiên, khu dịch vụ cao cấp Xuân Quang (Tam Nông)... Đây sẽ là các địa điểm đầu tư hấp dẫn đối với các nhà đầu tư.

Để thu hút mạnh mẽ các nguồn đầu tư, Phú Thọ luôn quan tâm cải cách hành chính và cải thiện môi trường đầu tư; chuyển mạnh hoạt động chính quyền sang cung cách phục vụ công dân, tổ chức và doanh nghiệp; giản đơn thủ tục, tiết kiệm chi phí, thời gian và công sức, tiền của cho doanh nghiệp và công dân.

Tỉnh cũng tăng cường đối thoại, xử lý tháo gỡ vướng mắc, khó khăn, chỉ đạo kiên quyết giải phóng mặt bằng, chuẩn bị quỹ đất sạch bàn giao cho nhà đầu tư; thực hiện cơ chế một cửa liên thông, đưa công nghệ thông tin vào việc thẩm định, cấp giấy chứng nhận đầu tư. Đồng thời, Phú Thọ còn ban hành nhiều chính sách ưu đãi thu hút đầu tư nên đã tạo ra môi trường thông thoáng, cởi mở, thân thiện, được các doanh nghiệp, doanh nhân tin tưởng, yên tâm khi đầu tư vào tỉnh.

Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh Nguyễn Doãn Khánh cho biết, hiện tại tỉnh còn nhiều khó khăn, nội lực còn hạn chế, cơ sở hạ tầng còn nhiều bất cập. Vì vậy để có thể khai thác tốt tiềm năng hiện có, Phú Thọ mong muốn, kêu gọi và sẵn sàng tạo mọi điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp, nhà đầu tư trong và ngoài nước đến đầu tư vào tỉnh.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 07 Tháng Sáu, 2010, 04:54:18 pm
THANH HÓA - HẬU CỨ LỚN CỦA ĐƯỜNG TRƯỜNG SƠN
Hải Khanh


Mặc dù không trực tiếp nằm trên con đường tiếp vận lịch sử mang tên Bác, nhưng những đóng góp của Thanh Hóa cho công cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước vẫn vô cùng to lớn. Trong lịch sử đường Hồ Chí Minh, những địa danh của Thanh Hóa luôn được đề cập đến với vai trò là địa bàn trọng yểu, là kho dự trữ chiến lược, là hậu phương vững chắc. Khi quốc lộ 1B hoàn thành, Thanh Hóa lại được nhắc đến như một địa phương trọng điểm đi đầu về phát triển kinh tế - xã hội.

Chia lửa cho chiến trường miền Nam

Xứ Thanh trong kháng chiến chống Mỹ là địa phương đi đầu phong trào góp sức người, sức của, cầu nối giữa miền Bắc và miền Nam. Hơn 227.080 người con Thanh Hóa đã xung phong ra tuyến lửa, đem tuổi thanh xuân của mình vì miền Nam ruột thịt. Thanh Hóa đã huy động hơn 40.000 thanh niên xung phong ra chiến trường và hơn gần 100.000 thanh niên xung phong ra cơ sở phục vụ giao thông vận tải và chiến đấu tại chỗ, vận chuyển trên 15 triệu tấn hàng cho tiền tuyến kể cả đường bộ và đường thủy.

Những dũng sĩ đất Lam Sơn phát huy truyền thống cha anh xông pha trên khắp các chiến trường đánh Mỹ, là những người "Biết đi tới và làm nên chiến thắng", lập nên những chiến công xuất sắc, nổi bật những tấm gương chói ngời về chủ nghiã anh hùng cách mạng, góp phần quan trọng làm nên "Đại thắng mùa Xuân 1975".

Sau sự kiện Vịnh Bắc Bộ, Thanh Hoá là vùng đất đầu tiên của miền Bắc chịu bom đạn của đế quốc Mỹ. Năm 1965, giắc Mỹ đã huy động nhiều đợt máy bay xâm phạm bầu trời Thanh Hóa, trút hàng trăm tấn bom đạn xuống khu vực cầu Hàm Rồng, cầu Lèn ở phía bắc và phà Ghép ở phía nam.

Trước mưa bom bão đạn, quân và dân Thanh Hóa quyết giữ những khu vực trọng yếu này. Ngày 3 và 4/4/1965, chiến thắng Hàm Rồng đã đi vào lịch sử hào hùng cuộc chiến tranh chống Mỹ, cứu nước. Không chỉ người trẻ, Thanh Hóa tự hào có các cụ tuy tuổi cao vẫn dùng súng trường bắn cháy máy bay địch.

Thành tích chiến đấu của quân dân Thanh Hoá mãi mãi là dấu son in đậm về một mặt trận oanh liệt. Quân và dân Thanh Hóa đã đánh 9.983 trận, bắn rơi 376 máy bay, bắt sống 36 giặc lái; sau 175 trận đánh trên biển cũng đã làm tiêu hao 57 tàu lớn của địch.

Hơn 43.000 chiến sĩ xứ Thanh đã vĩnh viễn ra đi cho hòa bình dân tộc, 1.125 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 15 đơn vị đã vinh dự đạt danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang trong những năm chiến tranh. Tuổi trẻ Thanh Hóa đã cùng nhân dân toàn tỉnh vinh dự hai lần được Ban Chấp hành Trung ương Đảng tặng cờ luân lưu “quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược", có 84 người được tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang.

Viết tiếp trang sử hào hùng

Phát huy truyền thống lịch sử vẻ vang, trong thời kỳ đổi mới, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thanh Hóa đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh vực. Những năm gần đây, kinh tế tỉnh tăng trưởng với tốc độ khá cao với mức tăng trưởng bình quân 11,3%. Theo chiến lược phát triển kinh tế của tỉnh, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm giai đoạn 2011 - 2015 có thể đạt 17 - 18% và đạt trên 19% giai đoạn 2016 - 2020. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp; kết cấu hạ tầng được quan tâm đầu tư, nhiều dự án quan trọng đã và đang được xây dựng. Lĩnh vực văn hóa - xã hội có nhiều chuyển biến tiến bộ, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện.

Hiện tại, trung tâm kinh tế - chính trị của tỉnh là Thành phố Thanh Hoá, ngoài ra còn có hai thị xã: thị xã công nghiệp Bỉm Sơn ở phía bắc tỉnh, là một trong số ba địa phương có nhà máy xi măng đầu tiên của Việt Nam, phía đông thành phố Thanh Hoá là thị xã du lịch Sầm Sơn, một trong những bãi tắm đẹp nhất Việt Nam.

Theo tầm nhìn đến năm 2015, tỉnh sẽ phát triển đồng bộ hệ thống thương mại, trở thành một trong những điểm hội tụ hàng hoá chính của tuyến giao thông Bắc - Nam và tuyến lưu chuyển hàng hoá giữa vùng Tây Bắc và các tỉnh Bắc Lào gắn với Cảng Nghi Sơn và các vùng miền trong cả nước.

Về mặt xã hội, tỉnh sẽ hoàn thành phổ cập trung học phổ thông trước năm 2020; nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 45% năm 2015 và 55 - 60% năm 2020 cũng như giải quyết việc làm cho khoảng 5 vạn lao động/năm. Giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị từ 4% năm 2010 xuống dưới 3% năm 2020; giảm tỷ lệ thiếu việc làm ở nông thôn từ 6,5% năm 2010 xuống 5% năm 2015 và dưới 3,5% năm 2020.

Những cái tên quen thuộc như Nhà máy xi măng Bỉm Sơn, Nghi Sơn, Công Thanh, Nhà máy đóng mới và sửa chữa tàu biển Nghi Sơn, sản xuất men vi sinh, may Sakurai, các dự án chế biến khoáng sản; triển khai một số dự án mới như Nhiệt điện Nghi Sơn, Thuỷ điện Trung Sơn... đã ghi dấu ấn của Thanh Hóa trên bản đồ các vùng kinh tế trọng điểm Việt Nam.

Đặc biệt, Thanh Hóa đang chú trọng đầu tư vào cơ sở hạ tầng như cảng nước sâu Nghi Sơn; chuẩn bị mở các con đường nối các tỉnh phía Tây Bắc như; Sơn La, Lai Châu ..., thu hút luồng đầu tư vì lợi thế giao thông, phát huy dịch vụ vận chuyến.

Đường Hồ Chí Minh với Thanh Hóa

Đường Hồ Chí Minh đoạn chạy qua địa bàn tỉnh Thanh Hóa dài 133 km, đi qua 7 huyện miền núi Thanh Hóa là Thạch Thành, Cẩm Thủy, Ngọc Lặc, Thường Xuân, Như Xuân, Như Thanh và Thọ Xuân. Đường Hồ Chí Minh sẽ tạo điều kiện phát triển cho 7 huyện này cũng như mở rộng giao lưu với Lào, Mianma.

Theo chương trình của Thủ tướng về xây dựng các khu đô thị kinh tế dọc đường Trường Sơn, Thanh Hóa có 10 điểm. Trong đó, tỉnh đang xây dựng đường nối từ Nghi Sơn đến Khu công nghiệp Bãi Chành (Như Xuân), tạo điều kiện giao lưu kinh tế với các tỉnh Bắc Trung Bộ.

Để khai thác có hiệu quả những tiềm năng và lợi thế của tuyến đường Hồ Chí Minh, nhất là về phương diện du lịch, truyền thống và văn hoá lịch sử, quốc lộ 1B trên địa bàn Thanh Hóa sẽ được phát triển hệ thống đường ngang để tương ứng với tiềm năng vốn có. Một số thắng cảnh như Lam Kinh (Thọ Xuân), Suối Cá Thần (Cẩm Thuỷ), Bến En (Như Thanh), Thành Nhà Hồ (Vĩnh Lộc),... ngày càng thu hút nhiều du khách. Mặc dù một số địa điểm không thuộc các huyện nằm trên trục đường Hồ Chí Minh, nhưng từ đường Hồ Chí Minh đi qua các tỉnh và ghé qua thì cũng rất thuận tiện lợi.

Ngoài ra, Thanh Hóa đã huy động tối đa mọi nguồn lực trong và ngoài nước tạo điều kiện để sản phẩm du lịch ngày càng phong phú, đa dạng; xây dựng môi trường du lịch văn minh, phát triển bền vững. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI, đã khẳng định phát triển du lịch là một trong 5 chương trình kinh tế lớn của tỉnh giai đoạn 2006-2010, với mục tiêu doanh thu du lịch tăng bình quân hàng năm 14,5%, đưa du lịch tỉnh nhà phát triển, trở thành địa bàn trọng điểm du lịch quốc gia.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 07 Tháng Sáu, 2010, 04:55:48 pm
TRƯỜNG SƠN - NỐI DÀI DU LỊCH NGHỆ AN
Cao Đăng Vĩnh
,
Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nghệ An

Nằm ở trung tâm vùng Bắc Trung Bộ, Nghệ An có tuyến đường sắt, đường bộ xuyên Việt chạy qua, có sân bay, cảng biển. Nghệ An còn là điểm đầu của tuyến du lịch Con đường di sản miền Trung, điểm đầu con đường huyền thoại Hồ Chí Minh lịch sử và cũng là điểm đầu tuyến du lịch theo hành lang kinh tế đông-tây qua con đường số 8 nối Việt Nam-Lào-Thái Lan. Nghệ An còn có hai cửa khẩu quốc tế quan trọng là Nậm Cắn và Thanh Thuỷ tạo điều kiện thuận lợi nối liền tour du lịch đường bộ từ Nghệ An qua Lào, Thái Lan và ngược lại.

Đặc biệt, từ Nghệ An có thể mở các tuyến du lịch bằng đường hàng không, đường thủy đến các trung tâm du lịch lớn trong nước và quốc tế: đảo Hải Nam, Thẩm Quyến, Hồng Kông, Ma Cao (Trung Quốc), Phukhẹt, Băng Cốc, Pattaya (Thái Lan), Nhật Bản, Singapore... Và các tuyến du lịch nội địa đi Sầm Sơn, Đồ Sơn, Hạ Long hoặc vào Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Hội An, thành phố Hồ Chí Minh... Nhờ đó Nghệ An trở thành điểm dừng hợp lý cho các tour du lịch nội địa và quốc tế.

Với diện tích trên 16.000 km2, 2/3 lãnh thổ là núi, rừng với độ cao trung bình 400 m, vùng đồng bằng còn lại có nhiều núi, đồi, sông suối đan xen tạo cho Nghệ An có nguồn tài nguyên du lịch thiên nhiên đa dạng, phong phú. Nghệ An còn bảo tồn được nhiều khu rừng nguyên sinh như Vườn quốc gia Pù Mát, khu bảo tồn thiên nhiên rừng nguyên sinh Pù Huống, Pù Hoạt là những kho tàng bảo tồn đa dạng sinh học đã được Hội đồng Liên hợp quốc công nhận là khu sinh quyển thế giới.

Bên cạnh đó, Nghệ An có 82km bờ biển với nhiều bãi tắm đẹp hấp dẫn khách du lịch quốc tế như bãi biển Cửa Lò, Cửa Hội; Nghi Thiết, bãi Lữ (Nghi Lộc) Quỳnh Bảng, Quỳnh Phương (Quỳnh Lưu), Diễn Thành (Diễn Châu). Nghệ An vinh dự là quê hương của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại và kính yêu của dân tộc Việt Nam, Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hoá thế giới.

Nghệ An là một vùng đất cổ, nơi đây các nhà khoa học đã tìm thấy dấu vết cư trú của người cổ từ thời đại đồ đá cũ cách đây hàng chục vạn năm. Tại Hang Thẩm Om ở Quỳ Châu, các nhà khảo cổ đã phát hiện bên cạnh dấu tích động vật có tuổi trung kỳ khoảng 250.000 năm, những hiện vật đá có thể là công cụ của người xưa. Tiếp đó là những phát hiện về nền văn hoá Sơn Vi, nền văn hoá đá mới Quỳnh Văn và rực rỡ nhất là dấu vết của nền văn minh Đông Sơn tại khu di chỉ Làng Vạc - Nghĩa Đàn. Những phát hiện trên cho thấy Nghệ An từng là một trong những cái nôi sinh ra người cổ - tổ tiên xa xôi của người Việt ngày nay và cũng đã thuộc cương vực của đất nước ngay từ buổi đầu khởi dựng.

Những chiến công hiển hách của nhân dân Nghệ An cùng với nhân dân cả nước trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm đã để lại trên mảnh đất này những tư liệu lịch sử quý báu. Hiện nay, Nghệ An có trên 1 ngàn di tích lịch sử văn hoá, trong đó có 183 di tích lịch sử văn hoá được xếp hạng, đặc biệt là khu di tích Kim Liên, quê hương của danh nhân văn hoá thế giới, lãnh tụ vĩ đại của nhân dân Việt Nam- Chủ tịch Hồ Chí Minh, đây là khu di tích lịch sử, văn hóa đặc biệt của quốc gia có giá trị lịch sử - văn hoá muôn đời.

Nghệ An không chỉ giàu sản phẩm văn hoá vật thể mà còn rất phong phú văn hoá phi vật thể, có nền văn hoá dân gian phong phú và đậm đà bản sắc dân tộc như hát dân ca, hát ví dặm, hát phường vải, hò, vè, v.v. với 6 dân tộc anh em cùng chung sống trên đất Nghệ An: dân tộc Thái, Khơ Mú, Thổ, Mông, Đan Lai, Ơ Đu đã để lại nhiều sản phẩm văn hoá dân tộc đặc sắc tại vùng miền Tây Nghệ An, là những sản phẩm du lịch có sức cuốn hút khách du lịch quốc tế và trong nước.

Khi đánh giá về Nghệ An, ngày 24/2/2005, tại Lễ Công bố Năm Du lịch Nghệ An 2005 và Kỷ niệm 975 năm - Danh xưng Nghệ An, Phó Thủ tướng Vũ Khoan đã phát biểu:

"...Trên đất nước ta, không ít vùng miền được coi là địa linh nhân kiệt, song xứ Nghệ là một trong những địa linh hàng đầu. Đối với mỗi du khách, về Nghệ An trước hết là hành hương về nơi sinh trưởng của Bác Hồ kính yêu để hấp thụ ý chí quật cường "Không có gì quý hơn độc lập, tự do", khát vọng tột cùng xây dựng nước mạnh dân giàu trên con đường xã hội chủ nghĩa, làm cho "ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành", cảm nhận tình yêu bao la của Người đối với đồng bào và nhân loại, lĩnh hội những tinh tuý của nền văn hoá đặc sắc và đạo đức thanh tao - những giá trị tinh thần và phẩm chất cao quý nhất mà Người là một biểu tượng sáng ngời.

Bên cạnh những di tích vô giá về Bác Hồ, ở Nghệ An còn không ít những di tích lịch sử khác vì nơi đây thời nào cũng có danh nhân, vùng nào cũng có anh hùng. Với thế mạnh nổi trội ấy, Nghệ An phải trở thành điểm đến về du lịch lịch sử vào loại đệ nhất giang sơn.

Đồng thời, với những cảnh quan thiên nhiên non xanh nước biếc, những công trình văn hoá độc đáo và câu ca tiếng hò quyến rũ, Nghệ An có thể và cần trở thành một điểm hẹn đầy hấp dẫn về du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng và thưởng thức những giá trị văn hoá, tinh thần cao đẹp...".




Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 07 Tháng Sáu, 2010, 04:55:59 pm
Nghệ An được đánh giá là một điểm đến rất hấp dẫn và thuận lợi của các chương trình du lịch nội địa và quốc tế. Những tiềm năng và lợi thế trên tạo cho Nghệ An có điều kiện thuận lợi phát triển nhiều loại hình du lịch: du lịch văn hoá - lịch sử, du lịch sinh thái, nghiên cứu khoa học, du lịch tắm biển, nghỉ dưỡng, thể thao, hội nghị, hội thảo...

Trong những năm qua, công tác quy hoạch phát triển du lịch được triển khai đồng bộ, góp phần quan trọng bảo vệ tốt nguồn tài nguyên du lịch, giúp cho du lịch Nghệ An phát triển bền vững, có hiệu quả, đồng thời thu hút vốn đầu tư trong và ngoài tỉnh. Đến nay các quy hoạch chi tiết phát triển du lịch các khu, điểm du lịch như: Khu du lịch biển Cửa Lò, Cửa Hiền, Biển Quỳnh, khu Lâm viên Núi Quyết- Bến Thuỷ, khu du lịch biển Nghi Thiết, v.v. đã được phê duyệt và đang tiến hành đầu tư; Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch toàn tỉnh thời kỳ 2009-2020 đang được triển khai và gấp rút hoàn thành.

Đầu tư vào du lịch đạt tốc độ nhanh: đến nay hầu hết các đường giao thông tiếp cận với khu, điểm du lịch trọng điểm đã được xây dựng hoặc nâng cấp. Số lượng các đơn vị kinh doanh lưu trú du lịch phát triển nhanh, quy mô và chất lượng có xu hướng tốt hơn. Tính đến 31/12/2008 trên địa bàn tỉnh có 395 cơ sở lưu trú du lịch, trong đó có 01 khách sạn 4 sao, 07 khách sạn 3 sao, 13 khách sạn 2 sao, 02 khách sạn 1 sao. Hoạt động kinh doanh du lịch đã thu hút tạo việc làm và thu nhập cho gần 6.000 lao động trực tiếp và hàng ngàn lao động gián tiếp ngoài xã hội.

Công tác tuyên truyền quảng bá du lịch ngày càng được đầu tư có quy mô và bài bản hơn nên hình ảnh Nghệ An nói chung và du lịch Nghệ An nói riêng đã được quảng bá rộng rãi khắp các thị trường trong nước và nước ngoài. Nhờ vậy kết quả kinh doanh du lịch trong những năm qua có hiệu quả và bền vững; lượng khách du lịch trong thời kỳ 2002- 2008 tăng nhanh, đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 20,4% /năm; doanh thu du lịch tăng bình quân 26,5% năm.

Tuy vậy, những kết quả thu được vẫn chưa tương xứng với tiềm năng du lịch hiện có. Hoạt động du lịch chủ yếu đang diễn ra tại vùng ven biển: thành phố Vinh, thị xã Cửa Lò và các bãi biển: Diễn Thành (Diễn Châu), Quỳnh Phương, Quỳnh Bảng (Quỳnh Lưu)... Trong khi đó, miền Tây Nghệ An được coi là nơi giàu tài nguyên thiên nhiên, nơi có nhiều loài động, thực vật đa dạng, phong phú. Đặc biệt, tại đây còn lưu giữ được các di sản văn hoá phi vật thể được đúc kết từ quá trình lao động sáng tạo lâu dài: tiếng nói, chữ viết, tín ngưỡng, dân ca, nghề thủ công, lễ hội truyền thống, tục thờ cúng tổ tiên, thờ thần của các dân tộc thiểu số...

Việc tuyến đường Hồ Chí Minh được khai thông xuyên Việt sẽ tạo ra cơ hội mới và điều kiện thuận lợi cho phát triển du lịch của Nghệ An nói chung và vùng miền Tây Nghệ An nói riêng. Từ tuyến đường Hồ Chí Minh khả năng kết nối các tour du lịch trong tỉnh, trong nước và quốc tế rất dễ dàng: bãi biển Cửa Lò cách 60km, thành phố Vinh 30km, khu di tích Kim Liên 40km, bãi biển Diễn Thành, Quỳnh Phương, Quỳnh Bảng 40km.

Cũng từ đường Hồ Chí Minh, việc kết nối với các điểm du lịch vùng miền Tây Nghệ An vừa thuận lợi, vừa nhanh chóng. Ngoài việc tăng nhanh lượng khách đến các điểm du lịch hiện có như: thành Trà Lân, Bia Ma Nhai, cây đa Cồn Chùa huyện Con Cuông; Hang Bua, hang Thẩm Om, Hang Thẩm Chạng huyện Quỳ Châu; Đền Chín Gian huyện Quế Phong; di chỉ khảo cổ Làng Vạc huyện Nghĩa Đàn, Đình Võ Liệt tại Thanh Chương, đền Bạch Mã tại Đô Lương, cột mốc số "O" đường chiến lược Hồ Chí Minh tại huyện Tân Kỳ... thác Kèm ở Trung Chính xã Yên Khê, huyện Con Cuông; thác Xao Va, Thác 7 cấp ở Quế Phong ...

Nghệ An có thêm điều kiện thuận lợi cho việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng đến các vùng có tài nguyên du lịch để phát triển sản phẩm du lịch mới: du lịch sinh thái Phà Lài- Khe Khăng; du lịch tham quan làng dệt thổ cẩm Lục Dạ; tham quan Bảo tàng gene động thực vật ở khu bảo tồn Vườn quốc gia Pù Mát... Có thể khẳng định, đường Trường Sơn đã nối dài cho du lịch Nghệ An.

Với tinh thần quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đạt hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI về phát triển kinh tế - xã hội, trong thời gian tới Nghệ An sẽ khai thác triệt để những tiềm năng, thế mạnh về du lịch của tuyến đường Hồ Chí Minh vào mục đích phát triển du lịch. Đồng thời, kêu gọi đầu tư xây dựng các khu dịch vụ du lịch dọc theo tuyến đường Hồ Chí Minh như: cơ sở lưu trú, nhà hàng, điểm mua sắm hàng hóa dân dụng và lưu niệm...; nâng cấp các sản phẩm du lịch hiện có; mở thêm nhiều khu, điểm du lịch mới có chất lượng cao thu hút khách du lịch quốc tế nội đia.

Tăng cường mở rộng hợp tác phát triển du lịch với các địa phương trong nước và quốc tế để hình thành các tour du lịch liên vùng, liên tỉnh, liên quốc gia dọc theo tuyến đường Hồ Chí Minh.Từng bước đưa Nghệ An trở thành điểm trung chuyển khách của các tour du lịch trong nước và quốc tế. Phấn đấu đến năm 2010 Nghệ An đón 2,6 triệu lượt khách du lịch, trong đó có 150.000 lượt khách du lịch quốc tế. Đến năm 2015 đón được 4,8 triệu lượt khách, trong đó có 341.000 khách du lịch quốc tế và năm 2020 đón được 8,7 triệu lượt khách du lịch, trong đó khách du lịch quốc tế đạt 701.000 lượt khách.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 07 Tháng Sáu, 2010, 04:57:11 pm
NHỚ VỀ HÀ TĨNH
Anh Phương

Trong dọc dài những tháng ngày ác liệt nhưng hào hùng trên tuyến đường đánh Mỹ, không thể không nhắc đến những đóng góp của quân và dân đất Hà Tĩnh, nơi đường Trường Sơn huyền thoại đã đi qua, cùng cả nước giành thắng lợi cuối cùng.

Những con số lịch sử

Theo dòng lịch sử, ngày 12/2/1965, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Hà Tĩnh đã họp và nhận định: "Sắp tới đế quốc Mỹ nhất định sẽ dùng máy bay đánh vào Hà Tĩnh” và đề ra nhiệm vụ trước mắt: "Khẩn trương làm tốt công tác phòng không nhân dân, tổ chức lực lượng sẵn sàng chiến đấu và phục vụ chiến đấu”. Thực hiện chủ trương của Trung ương, Chỉ thị của Tỉnh uỷ, công tác chuẩn bị chiến đấu được tiến hành khẩn trương khắp toàn tỉnh: "Củng cố lực lượng dân quân tự vệ, chuẩn bị lực lượng dự bị động viên, tuyển quân thời chiến, tổ chức các đội, các cụm trực chiến, sơ tán cơ quan, xí nghiệp, kho tàng ra khỏi thị xã".

Tuy đã biết trước tình hình và đã tích cực chuẩn bị, nhưng ngành Giao thông Vận tải Hà Tĩnh vẫn phải đứng trước nhiều khó khăn, thách thức: Hà Tĩnh bề ngang hẹp, phía trên là núi rừng trùng điệp, phía dưới là biển, đường bộ nhỏ, mặt đường thấp, lại bị sông suối, kênh rạch chằng chịt cắt ngang, lượng cầu cống lớn: 127 km đường số 1 có tới 100 chiếc cầu, cống; bình quân 0,7 m cầu, cống/1 km đường Cho dù khó khăn, gian khổ, cho dù trên bom dưới đạn, nhiệm vụ cấp bách của ngành Giao thông Vận tải Hà Tĩnh là phải thông đường cho xe nhanh ra tiền tuyến.

Trước nhiệm vụ cấp bách đó, đã xuất hiện nhiều tấm gương sáng dũng cảm, mưu trí trong toàn ngành Giao thông vận tải như Thư ký công đoàn ngành Hồ Sành, Trưởng phòng bảo đảm an toàn giao thông Nguyễn Đình Hiền; Chủ tịch ủy ban nhân dân huyện Kỳ Anh Nguyễn Toát,... đã xuất hiện. Trong tình huống khẩn trương, các anh đã ôm bom nổ chậm ở Cầu Họ vần khỏi mặt đường cho xe qua.
Kinh nghiệm sáng tạo và thành quả của công tác đảm bảo an toàn giao thông huyện Kỳ Anh đã được nhân rộng ra các huyện trong tỉnh như Đức Thọ, Nghi Xuân, Can Lộc, Cẩm Xuyên.

Trên các tuyến đường bộ, đường sắt, đặc biệt là các tuyến chính: đường số 1, đường 15, đường goòng, địch đánh phá ác liệt liên tục. Với nỗ lực không ngừng thông đường nhanh ra tiền tuyến, tỉnh đã chỉ đạo: Phá bom, thông đường bằng mọi lược lượng và phương tiện sẵn có. Với bè chuối, lưỡi cày hỏng, đoạn sắt gỉ, nam châm lấy trong bình đi-na-mô của xe đạp... đến tháng 12/1967, lực lượng công binh Hà Tĩnh đã phá được 413 quả bom, 196 quả thuỷ lôi ... Nhân dân trong tỉnh thì hăng hái tham gia với khẩu hiệu: "Xe chưa qua, nhà không tiếc", đã phá dỡ nhà mình để mang lấp hố bom.

Nói đến Hà Tĩnh trong những năm chiến tranh, không ai có thể quên địa danh Ngã ba Đồng Lộc với tên 10 người con gái đã trở thành bất tử. Ngã ba Đồng Lộc là "yết hầu” của mạch giao thông nối liền "hậu phương lớn miền Bắc" với "tiền tuyến lớn miền Nam" nên Mỹ đã tập trung toàn lực để cắt đứt con đường này. Chỉ riêng nửa đầu năm 1968, chúng đã trút xuống nơi đây 4.200 quả bom và tên lửa các loại không kể bom nổ chậm và mìn sát thương... Theo con số thống kê, mỗi mét vuông ở Ngã ba Đồng Lộc phải gánh chịu ít nhất 3 quả bom tấn.

Bên địch càng quyết phá, bên ta càng quyết giữ. Chúng ta đã tập trung mọi nguồn lực để giữ bằng được con đường này. Vào lúc cao điểm nhất, tại ngã ba này đã tập trung 16 vạn người, phần lớn là bộ đội pháo binh và lực lượng thanh niên xung phong.

Tiểu đội 4 thuộc Đại đội 2 Tổng đội thanh niên xung phong 55 của tỉnh Hà Tĩnh gồm 10 cô gái còn rất trẻ (từ 17 đến 24 tuổi) do chị Võ Thị Tần làm tiểu đội trưởng, chịu trách nhiệm san lấp hố bom ở đoạn đường này để không đứt mạch giao thông nối hậu phương với tiền tuyến. Bình thường, tiểu đội hoạt động về đêm để lấp hố bom mà máy bay đã bắn phá vào ban ngày. Nhưng ngày 24-7-1968 có lệnh đặc biệt của đại đội phải thông đường nên 10 cô gái thanh niên xung phong đã ra ngã ba giữa ban ngày để lấp đường.

Ngày hôm ấy, sau vài lần máy bay trinh sát bay qua là 15 lần các tốp máy bay khác lao tới trút bom vào ngã ba. Ba lần, cả tiểu đội bị bom vùi, nhưng sau đó các cô lại rũ đất đứng lên tiếp tục công việc. Đến lượt bom thứ 15, một quả bom rơi ngay trước mặt họ. Một phút... rồi năm phút... trôi qua. Trên đài quan sát không thấy ai trong số mười cô rũ đất đứng dậy. Cả trận địa lặng đi, những người đồng đội òa khóc nức nở...

Hà Tĩnh hôm nay

Hà Tĩnh nằm ở Bắc Trung Bộ, phía tây giáp với Lào, phía Đông tiếp giáp biển Đông, phía bắc giáp Thành phố Vinh, phía nam giáp Quảng Bình. Dân số 1,3 triệu người; có 11 đơn vị hành chính gồm thành phố Hà Tĩnh, thị xã Hồng Lĩnh và 9 huyện. Lợi thế của Hà Tĩnh là tiếp cận với các thị trường lớn như: Đông- Bắc Thái Lan, Viêng Chăn (Lào), Thành phố Vinh, Thành phố Huế ... Bằng các tuyến đường quốc lộ 1 A, đường sắt Bắc - Nam, đường Hồ Chí Minh, đặc biệt là tuyến đường 8A từ thị xã Hồng Lĩnh chạy qua cửa khẩu quốc tế Cầu Treo sang thủ đô Viêng Chăn ( Lào) và các tỉnh Đông - Bắc Thái Lan.

Ngoài ra, Hà Tĩnh nằm ở bắc miền Trung là "yết hầu” của con đường giao thông chiến lược hai miền Bắc - Nam, là nơi hội tụ nhiều tuyến đường bộ thông thương sang các nước ASEAN. Do có hệ thống giao thông đường bộ , đường sắt và đường thuỷ thuận lợi nên kinh tế những năm gần đây phát triển khá. Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 10%, trong đó: khu vực công nghiệp - xây dựng tăng 16,9% thương mại dịch vụ tăng 10,1%; khu vực nông - lâm - ngư nghiệp tăng 3,6%,

Theo số liệu thống kế năm 2008 của tỉnh, giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp đạt 2.724 tỷ đồng, tăng 7,5% so với năm 2007. Giá trị sản xuất công nghiệp - xây dựng ước đạt 4.528 tỷ đồng, bằng 104,3% so với kế hoạch, tăng 16,38% so với năm 2007. Kim ngạch xuất khẩu đạt 50 triệu USD, bằng 100% kế hoạch và tăng 7,4% so với năm 2007. Dịch vụ bưu chính - viễn thông và công nghệ thông tin có bước tăng trưởng khá, hệ thống cơ sở hạ tầng được tăng cường, đến nay 100% số xã đã có điện thoại cố định, 98% số xã được phủ sóng điện thoại di dộng.

Một trong những lĩnh vục ưu tiên của Hà Tĩnh là chú trọng thu hút đầu tư. Tại khu kinh tế cửa khẩu quốc tế Cầu Treo, khu công nghiệp cảng biển Vũng Áng, khu công nghiệp Gia Lách - Nghi Xuân, tỉnh đã có các cơ chế chính sách ưu đãi nhằm khuyến khích các nhà đầu tư trong và ngoài nước đến liên doanh liên kết với các doanh nghiệp, thành phần kinh tế trong tỉnh để phát triển công nghiệp, thương mại - du lịch - dịch vụ đáp ứng với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Phía nam tỉnh có cảng nước sâu Vũng Áng, phía bắc tỉnh có Cảng Xuân Hải - Nghi Xuân, các loại tàu từ 10 - 45 ngàn tấn có thể cập hai cảng này để vận chuyển, bốc dỡ hàng hoá thuận tiện.

Đường Hồ Chí Minh trên đất Hà Tĩnh có chiều dài trên 80 km qua ba huyện Hương Sơn, Hương Khê, Vũ Quang. Đây là các vùng kinh tế triển vọng của miền tây Hà Tĩnh, đang thức dậy những tiềm năng du lịch lớn. Nếu cửa khẩu Cầu Treo có được cơ chế như cửa khẩu Lao Bảo (Quảng Trị), Mộc Bài (Tây Ninh) và quan điểm quy hoạch phát triển cửa khẩu này với tầm vóc quốc tế cùng với các giải pháp mạnh bạo thì vùng cửa ngõ phía tây Hà Tĩnh sẽ là một vùng sầm uất, một điểm sáng về kinh tế, xã hội trên con đường xuyên Việt thứ hai của đất nước.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 07 Tháng Sáu, 2010, 05:01:05 pm
QUẢNG BÌNH ĐẨY NHANH TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ, NÂNG CAO HIỆU QUẢ VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
Phan Lâm Phương

Quảng Bình là nơi hẹp nhất tính theo chiều ngang từ biên giới Việt - Lào của dãy Trường Sơn hùng vĩ đổ về phía biển Đông, là nơi trải qua những năm chiến tranh oanh liệt. Quảng Bình có một vị trí chiến lược cực kỳ xung yếu trên tuyến giao thông huyết mạch vào Nam, ra Bắc của cách mạng Việt Nam. Đặc biệt, trong chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, Quảng Bình là tuyến đầu của hậu phương lớn miền Bắc xã hội chủ nghĩa.

Cùng quân và dân cả nước, Đảng bộ và nhân dân Quảng Bình đã không quản ngại hy sinh, gian khổ bám đất, bám làng, bám trận địa và tuyến đường để sản xuất giỏi, chiến đấu giỏi, bảo vệ và giữ cho mạch máu giao thông qua Quảng Bình thông suốt với khẩu hiệu: Tất cả vì miền Nam ruột thịt, xe chưa qua nhà không tiếc.

Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng và quyết định của Quân uỷ Trung ương tháng 5/1959, Đoàn 559 - đơn vị tiền thân của Bộ đội Trường Sơn sau này, được thành lập và là đơn vị đứng chân, bí mật xây dựng mở tuyến trên đất Quảng Bình. Có thể nói, Quảng Bình là trung tâm để mở các tuyến của đường Hồ Chí Minh (khu vực làng Ho, huyện Lệ Thuỷ) và từ đây về sau đã hình thành nên hệ thống huyết mạch liên hoàn đường Hồ Chí Minh huyền thoại, lan toả rộng khắp cả nước, góp phần to lớn vào thắng lợi chung giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc,

Xác định vị trí, vai trò hết sức trọng yếu của tuyến đường Hồ Chí Minh lịch sử, Đảng, Quốc hội, Chính phủ đã quyết định đầu tư xây dựng đường Hồ Chí Minh từ Bắc vào Nam, phục vụ công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Năm 2000, nguyên Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải đã vào Quảng Bình dự lễ và trực tiếp cắt băng khởi công công trình cầu Xuân Sơn, khởi đầu cho xây dựng toàn tuyến đường Hồ Chí Minh lịch sử.

Cũng như trong kháng chiến, Quảng Bình trong những năm đổi mới, lại nỗ lực vươn lên, vượt qua mọi trở ngại, phát huy truyền thống cách mạng kiên cường của Quảng Bình "quật khởi", Quảng Bình "hai giỏi", từng bước chuyển mình, đi lên, xây dựng lại quê hương giàu mạnh và văn minh.

Quảng Bình, nhìn từ các thế mạnh

Quảng Bình là tỉnh thuộc khu vực Bắc Trung Bộ, có 201 km đường biên giới chung với nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào về phía tây và 116 km bờ biển về phía đông; cách Thủ đô Hà Nội khoảng 500 km về phía Nam; có hệ thống giao thông khá đồng bộ, như Sân bay Đồng Hới, cảng biển nước sâu Hòn La (giai đoạn một cho tàu 1 vạn tấn cập cảng; đang xúc tiến xây dựng giai đoạn hai cho tàu từ 3 đến 5 vạn tấn cập cảng), tuyến đường sắt, đường quốc lộ 1A Bắc - Nam, quốc lộ 12 lên Cửa khẩu quốc tế Chao nối liền với vùng trung Lào và vùng đông bắc Thái Lan rộng lớn, có hai nhánh Tây - Đông đường Hồ Chí Minh.

Quảng Bình có diện tích tự nhiên 8.065km2; dân số đến cuối năm 2007 có 854.900 người, với nguồn lao động dồi dào, trẻ, cần cù, sáng tạo, có trình độ đào tạo cơ bản; tài nguyên khoáng sản phong phú, nhất là trữ lượng đá vôi chất lượng tốt cho sản xuất xi măng, clanhke, có nhiều tiềm năng để phát triển sản xuất công nghiệp, vật liệu xây dựng và công nghiệp chế biến sản phẩm nông lâm thuỷ sản.

Tài nguyên biển Quảng Bình cũng đa dạng, cùng với thềm lục địa rộng gấp 2,6 lần diện tích đất liền, tạo cho Quảng Bình có một ngư trường rộng lớn, với trữ lượng hải sản khá dồi dào, chất lượng cao, hàng năm có thể khai thác đánh bắt trên 40.000 tấn/năm. Nguồn lợi hải sản biển phong phú về loài (1.650 loài), với nhiều loại hải sản quý hiếm như: tôm hùm, mực, hải sâm, các loại cá có giá trị chế biến xuất khẩu... Bờ biển có hệ thống núi đá đổ ra biển, tạo nên một số cảng biển, bãi tắm và các điểm nghỉ ngơi giải trí kỳ thú, cho phép Quảng Bình phát triển kinh tế tổng hợp về biển; như cửa biển Nhật Lệ, cảng Gianh, cảng biển Hòn La, bãi tắm Đá Nhảy, Vũng Chùa - Đảo Yến,...

Đặc biệt, Quảng Bình có tiềm năng phát triển du lịch văn hoá, lịch sử và sinh thái rừng - biển rất đa dạng; có Di sản thiên nhiên thế giới Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng, nhiều bãi tắm đẹp, môi trường xanh, sạch...; Hệ thống dịch vụ phục vụ các nhà đầu tư, khách du lịch không ngừng được cải thiện, như sân bay, hệ thống cảng, đường giao thông, cửa khẩu quốc tế, các khách sạn, nhà hàng, hệ thống bưu chính, viễn thông, các ngân hàng, y tế, bảo hiểm xã hội ... ngày càng phát triển. Những yếu tố đó đã và đang là cơ hội tốt để mời gọi các nhà đầu tư trong và ngoài nước đã và đang đến với Quảng Bình.



Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 07 Tháng Sáu, 2010, 05:01:20 pm
Quảng Bình quyết tâm thoát nghèo, phát triển đi lên vững chắc

Qua gần 3 năm (từ năm 2006 đến năm 2008) thực hiện Nghị quyết Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV về Kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội 5 năm 2006 - 2010, kinh tế - xã hội của tỉnh vẫn tiếp tục phát triển ổn định; tăng trưởng kinh tế vẫn giữ mức cao nhất trong các năm qua; cơ sở vật chất - kỹ thuật, hạ tầng kinh tế - xã hội tiếp tục được tăng cường; các lĩnh vực văn hoá, xã hội có chuyển biến tích cực; đời sống nhân dân cơ bản vẫn ổn định, an ninh, quốc phòng, trật tự an toàn xã hội được giữ vững.

Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) bình quân hàng năm đạt mức trên 2 con số; cụ thể: năm 2006 đạt 11,5%, năm 2007 đạt 11,63%, và năm 2008 đạt 11,42% (mục tiêu 11 - 12%); giá trị sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp tăng bình quân 3 năm: 22,65% (mục tiêu 20 - 21 %); giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tăng bình quân: 4,0% (mục tiêu 4 - 4,5%); Giá trị tăng thêm các ngành dịch vụ tăng bình quân: 11,6% (mục tiêu 11 - 12%); Cơ cấu kinh tế: nông, lâm, ngư nghiệp: 24,1%; công nghiệp - xây dựng: 36,6%; dịch vụ: 39,2% (mục tiêu đến năm 2010 tương ứng là: 20%, 40%, 40%); Sản lượng lương thực đến cuối năm 2008 ước đạt: 26,1 vạn tấn (mục tiêu 25,5 -26 vạn tấn); Kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân hàng năm 14 - 15%; Thu ngân sách trên địa bàn 853 tỷ đồng (mục tiêu năm 2010: 1.000 tỷ đồng). Tỷ lệ hộ nông thôn được dùng nước sạch 68% (mục tiêu 70%); Tỷ lệ số xã phủ sóng truyền hình 97%; Thu nhập bình quân đầu người: 9,5 triệu đồng/ người/ năm (mục tiêu năm 2010 đạt 11,2 đến 12,8 triệu đồng/người/năm); Tổng vốn đầu tư phát triển trên địa bàn từ năm 2006 đến năm 2008 đạt 6.916 tỷ đồng.

Năm 2007, 2008 là hai năm đầu nước ta gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), cũng là hai năm Quảng Bình thực hiện chủ đề cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư, kinh doanh và phát triển nguồn nhân lực; với phương châm chính quyền đồng hành cùng doanh nghiệp, nhà đầu tư; Uỷ ban nhân dân tỉnh đã triển khai nhiều giải pháp tích cực trong việc đổi mới hình thức, phương thức mời gọi đầu tư, kịp thời ban hành chương trình, bổ sung chính sách khuyến khích ưu đãi đầu tư và đã tập trung chỉ đạo thực hiện đồng bộ các giải pháp như: phát triển cơ sở hạ tầng, tập trung hoàn thành đưa vào sử dụng các công trình trọng điểm có tính đột phá như cảng biển Hòn La, sân bay Đồng Hới ... Tăng cường công tác quy hoạch, phát triển nguồn nhân lực, phát triển các loại hình dịch vụ, đẩy mạnh cải cách hành chính ... Nhờ đó, công tác xúc tiến đầu tư trong hai năm qua đã có nhiều chuyển biến tích cực và đạt được kết quả khá. Số lượng nhà đầu tư đến tìm hiểu cơ hội đầu tư, khảo sát, đăng ký và triển khai các dự án trên địa bàn tỉnh tăng nhiều so với các năm trước.

Đến nay, toàn tỉnh đã có trên 125 dự án đăng ký đầu tư trên địa bàn vớt tống số vốn lên đến 25.620 tỷ đồng; năm 2008 đã cấp giấy chứng nhận đầu tư cho 36 dự án với tổng vốn đầu tư 7.308 tỷ đồng. Quý 1/2009 có 10 dự án đăng ký đầu tư mới và 17 dự án được cấp chứng nhận đầu tư với số vốn 914 tỷ đồng ... . Trong đó có một số dự án quy mô lớn, có vị trí, vai trò động lực quan trọng đối với sự thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh như: xây dựng cảng Hòn La giai đoạn II, sản xuất clanhke, xi măng, luyện và sản xuất phôi, thép, trung tâm nhiệt điện Quảng Trạch, công suất 2.400 MW, công nghiệp đóng tàu, khu nghỉ dưỡng, du lịch sinh thái suối Bang, khu nghỉ dưỡng Sun Spa Resort...

Hiện các nhà đầu tư trong và ngoài nước tiếp tục đến nghiên cứu tìm hiểu xúc tiến đầu tư các dự án ở Quảng Bình, báo hiệu xu hướng đầu tư vào địa bàn tỉnh trong năm 2009 và các năm tới vẫn có xu hướng tăng lên, mặc dù thời gian qua kinh tế thế giới và khu vực có sự suy giảm.

Phấn đấu đạt được chuyển biến quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả và sự phát triển bền vững

Năm 2009 là năm có ý nghiã quan trọng đối với tỉnh Quảng Bình trong việc tiếp tục tạo đà tăng trưởng và phát triển cao hơn các năm trước, là năm áp cuối của việc hoàn thành Kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội 5 năm 2006 - 2010.

Nhằm nỗ lực phấn đấu hoàn thành sớm các mục tiêu mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV, Quảng Bình đã định hướng, mục tiêu nhiệm vụ của kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội của các năm tới là: Phấn đấu ngăn chặn suy giảm, duy trì để đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế hợp lý và bền vững; huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực trên cơ sở cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư kinh doanh để tạo chuyển biến về chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh của nền kinh tế; chủ động tham gia hội nhập kinh tế và hợp tác quốc tế có hiệu quả theo Chương trình hành động của Chính phủ và của tỉnh; nâng cao chất lượng hoạt động giáo dục- đào tạo, y tế, khoa học - công nghệ, văn hoá, thể dục thể thao theo hướng xã hội hoá; phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; thực hiện tốt chính sách giảm nghèo, giải quyết việc làm, cải thiện mức sống nhân dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số, các vùng còn nhiều khó khăn, bị thiệt hại do thiên tai, bảo đảm an sinh xà hội; giữ vững quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội, đẩy mạnh cải cách hành chính, phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; tiếp tục tăng cường các giải pháp để thực hiện có hiệu quả chủ trương của Chính phủ về ngăn chặn suy giảm, duy trì tăng trưởng, vượt qua khó khăn; nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy chính quyền các cấp.

Để thực hiện có hiệu quả mục tiêu trên, Uỷ ban nhân dân tỉnh tiếp tục xác định chủ đề năm 2009 là: “Tiếp tục cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư kinh doanh và phát triển nguồn nhân lực”.

Nhằm khai thác hiệu quả lợi thế của tuyến đường Hồ Chí Minh hai nhánh Tây, Đông qua Quảng Bình, cũng như các tuyến đường ngang nối quốc lộ 1A với tuyến đường Hồ Chí Minh và đường quốc lộ 12A, tỉnh Quảng Bình đã sớm có quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội cho các địa phương, khu vực hành lang hai bên của các tuyến đường này; trên cơ sở thế mạnh từ tài nguyên rừng, đất rừng để bảo vệ và phát triển trồng rừng nguyên liệu, trồng cây công nghiệp phục vụ công nghiệp chế biến; tập trung phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm và phát triển du lịch sinh thái gắn với các điểm di tích văn hoá - lịch sử. Phát triển kinh tế để sớm thoát nghèo, đi lên làm giàu chính đáng và góp phần bảo vệ chủ quyền an ninh trên tuyến biên giới Việt - Lào.

Ngày nay khi đi qua các tuyến đường vừa nêu trên, ai cũng có thể thấy được cơ sở hạ tầng giao thông, điện, trường học, trạm y tế, chợ cụm xã, nhà ở của đồng bào,... đã được đầu tư xây dựng về đến các xã, các bản làng vùng sâu vùng xa, miền núi. Các chương trình 134, 135 của Chính phủ đã giúp đồng bào các dân tộc thiểu số ở miền tây Quảng Bình cải thiện sản xuất và đời sống ngày càng chuyển biến tiến bộ hơn. Và trên thực tế, công trình Đường Hồ Chí Minh lịch sử ngày nay, cũng như các địa phương khác trong cả nước có con đường đi qua - đã giúp Quảng Bình hướng tới một dải đất còn nhiều tiềm năng, khai phá đi lên ở thời kỳ phát triển mới ... . Đó thực sự là con đường tri ân đối với đồng bào các dân tộc vùng miền núi phía đông dãy Trường Sơn hùng vĩ, đã chịu bao đau thương, gian khổ cùng cách mạng kháng chiến thành công - và cũng là con đường xoá đói, thoát nghèo đi lên công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Nhìn lại gần 3 năm thực hiện kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế- xã hội (2006 - 2010), mặc dù còn nhiều tồn tại, hạn chế cần tiếp tục khắc phục và trong điều kiện phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức thì những kết quả đã đạt được trên đây là rất đáng phấn khởi. Và, cũng có thể nói từ đây Quảng Bình đã xác định được lối ra thoát nghèo, mở hướng phát triển đi lên phải là công nghiệp, du lịch, dịch vụ và tiếp tục ổn định sản xuất, đời sống trong khu vực nông nghiệp, nông thôn. Trên cơ sở đó, tiếp tục phấn đấu thực hiện hoàn thành nhiệm vụ kế hoạch Nhà nước 5 năm 2006 - 2010 trong thời gian còn lại với nỗ lực và quyết tâm mới để giành thắng lợi mới cao hơn nữa. Đảng bộ và nhân dân Quảng Bình kiên định phương châm: đồng tâm, đồng lòng, đoàn kết phấn đấu vì một quê hương sớm thoát nghèo và phát triển nhanh, giàu, mạnh, sánh kịp cùng các địa phương trong khu vực và cả nước.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 08 Tháng Sáu, 2010, 07:31:04 pm
HƯỚNG HOÁ -TỪ CHIẾN TRƯỜNG ĐẾN THƯƠNG TRƯỜNG
Hương Ly

Đã 41 năm trôi qua kể từ ngày tiếng súng cuối cùng dứt trên thung lũng Khe Sanh, huyện Hướng Hoá, Quảng Trị, vùng đất đầy bom mìn, đạn pháo phế liệu chiến tranh ấy đã vươn mình đứng dậy thành một miền trù phú tràn đầy sinh lực, một thương trường sôi động ngay trên Hành lang kinh tế Đông - Tây.

Chiến trường lịch sử

Trong chiến tranh, Khe Sanh một thời là cứ điểm lớn nhất trong tuyến phòng thủ Đường 9, được coi là "bất khả xâm phạm" của Mỹ. Tại Khe Sanh đã diễn ra những trận đánh lớn trong chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh năm 1968, chiến dịch Đường 9 - Nam Lào năm 1971. Trong lịch sử chiến tranh thế giới, chưa có một nơi nào mà mật độ giội bom dày như ở Khe Sanh. Pháo đài bay hạng nặng B.52 đã được tung ra, hơn 100.000 tấn bom đã trút xuống trong một vùng rộng chưa đến 5 dặm vuông không ngăn được quyết tâm thông đường Hồ Chí Minh đoạn Đường 9 qua Nam Lào của quân dân ta.

Ngày 9-7-1968, sau 170 ngày đêm chiến đấu anh dũng, mưu trí và kiên cường trong Chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh, huyện Hướng Hóa với hơn mười nghìn đồng bào Vân Kiều, Pa Cô được giải phóng. Thắng lợi to lớn này khiến Khe Sanh mãi mãi được vinh danh như một "Điện Biên Phủ thứ hai". Ngay sau chiến thắng oai hùng ấy, hãng tin Reuters (Anh), ngày 27-6-1968 đã phải công nhận "Khe Sanh được ghi vào lịch sử chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam như là một nơi phải trả với giá đắt nhất bằng máu”, làm cho "uy tín của nước Mỹ suy sụp" ...

Đường 9, một nhánh của con đường tiếp vận mang tên Bác cũng từ đây được thông suốt để chuyên chở vật lực cho chiến trường miền Nam Việt Nam. Đường 9, con đường kinh hoàng của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ ngày xưa, nay đã được nâng cấp để trở thành con đường xuyên Á trên Hành lang kinh tế Đông - Tây trong thời kỳ hội nhập và phát triển. Ngày nay, khi Đại lộ Hồ Chí Minh hiện đại lưu thông, Hướng Hóa sẽ được gắn kết các vùng miền kinh tế phía Tây đất nước.

Thị trường tiềm năng

Giờ đây Hướng Hoá không còn dấu vết hoang tàn của thời mưa bom bão đạn, của những cánh rừng trơ trụi bởi chất độc hoá học và bom Napan. Phủ trên các ngọn đồi ngút ngàn xanh sắc lá cà phê. Với đất đai màu mỡ, lúa ngô, sắn và các loại cây công nghiệp, cây ăn quả đang đua nhau vươn dậy.

Trong lĩnh vực kinh tế, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm đạt hơn 18%. Các hoạt động kinh doanh thương mại - dịch vụ của các thành phần kinh tế trên địa bàn ngày càng đa dạng phong phú và sôi động; kích thích sự cạnh tranh, thúc đẩy sản xuất giữa các thành phần kinh tế. Với tinh thần chủ động hội nhập, Hướng Hoá đã đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm nông sản như cà phê, chuối, bột sắn nguyên liệu sang Mỹ, Đức, châu Âu...

Hệ thống giao thông trên địa bàn cơ bản đã được đầu tư có hệ thống và phát triển vượt bậc, thương mại - dịch vụ đã và đang được đầu tư xây dựng và nâng cấp. Toàn huyện có 100% số xã có điện lưới, trên 90% hộ trong huyện sử dụng điện lưới. Huyện tập trung xây dựng các trường kiên cố, góp phần phát triển quy mô giáo dục, tỷ lệ học sinh trong độ tuổi đến trường bình quân hàng năm đạt 97%. Hệ thống y tế từ huyện đến cơ sở được củng cố và mở rộng, cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật phục vụ khám chữa bệnh được tăng cường.”

Hướng Hoá rất chú trọng đến xây dựng cơ sở hạ tầng để tạo thành một trục kinh tế liên hoàn từ trung tâm huyện và nam bắc Đường 9, mở ra một triển vọng mới trong khai thác tiềm năng đất đai.

Đặc biệt, Hướng Hoá đã huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển; coi trọng kinh tế nông nghiệp, nông thôn miền núi, đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm nông sản với 3 loại cây chủ lực là cà phê sắn, chuối; Khuyến khích mọi người làm giàu chính đáng, đồng thời tích cực xoá đói giảm nghèo; Chăm sóc những gia đình có công với nước, những người bị rủi ro, hoạn nạn. Năm 2008, Hướng Hoá đã vinh dự được Đảng và Nhà nước trao tặng danh hiệu Anh hùng Lao động.

Hướng Hoá là điểm đầu của con đường xuyên Á, nằm trên trục hành lang kinh tế Đông Tây nối liền Mianma, Đông Bắc Thái Lan, Sa Va Na Khét - Lào... Vì vậy, huyện có vị trí địa lý vô cùng thuận lợi và quan trọng trong việc mở rộng quan hệ thương mại với các nước trên thế giới qua cửa khẩu Lao Bảo.

Đến Khu Kinh tế Thương mại đặc biệt Lao Bảo của Hướng Hoá còn bắt gặp hình ảnh một Hướng Hoá sôi động, một thị trường với doanh nghiệp từ nhiêu quốc gia: Thái Lan, Lào, Trung Quốc... đến buôn bán, đầu tư Hoạt động thương mại - dịch vụ trong khu kinh tế - thương mại đặc biệt Lao Bảo đang phát triển mạnh cả về số lượng, quy mô, chất lượng cũng như các loại hình kinh doanh, làm cho môi trường kinh doanh thương mại ở đây ngày càng sôi động; hàng năm đóng góp vào ngân sách nhà nước hàng chục tỷ đồng, tạo việc làm cho hàng ngàn lao động ở địa phương. Lao Bảo xứng đáng là cửa ngõ trên hành lang kinh tế Đông- Tây trong tiến trình hội nhập và chắc chắn sẽ trở thành một đô thị hiện đại trong tương lai không

Tuy vậy. đối với một huyện vùng cao biên giới, những khó khăn thách thức cùng không ít: nền kinh tế Hướng Hoá phát triển nhanh nhưng chưa bền vừng; trình độ dân trí còn có sự chênh lệch giữa các vùng; cơ sở vật chất - kỹ thuật chưa đáp ứng với tiềm năng, thế mạnh để phát triển. Chính vì vậy, vùng “đất lửa" xưa kia đang gồng mình để khắc phục khó khăn, vươn lên trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 08 Tháng Sáu, 2010, 07:32:57 pm
A LƯỚI - ĐẤT THÉP NƠI BIÊN GIỚI PHÍA TÂY
Ly Nguyễn


Nếu như cần tìm hiểu thông tin về A Lưới qua internet, những lưu trữ trên Google hiển thị vẻn vẹn vài dòng thông tin: “Từ thành phố Huế đi về phía tây 70 km là đến huyện A Lưới, đây là một thung lũng khá rộng, nơi có đường mòn Hồ Chí Minh chạy qua và là chiến trường trong kháng chiến chống Mỹ những năm từ 1960 đến 1975".

Với những ai đã từng một lần đặt chân đến A Lưới, hẳn ấn tượng về vùng đất này không thể giản đơn như thế. A Lưới thực sự là bức tường thành phía Tây Thừa Thiên - Huế trong cách mạng giải phóng dân tộc, là “đất thép" trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hàng chục trận đánh dữ dội đã diễn ra, hàng trăm tấn bom đạn đã dội xuống, và máy bay rải chất độc hóa học Mỹ đã "đan lưới" trên vùng trời này khai tử biết bao cánh rừng rậm rạp. Thế mà, sức sống nơi đây vẫn bất diệt, "con đường huyền thoại” vẫn không bị chặt đứt.

Đường Hồ Chí Minh trên địa bàn A Lưới

Trong kháng chiến, A Lưới là nơi đóng quân của Bộ Chỉ huy Mặt trận giải phóng Trị - Thiên, nơi sản sinh ra nhiều người con anh hùng các dân tộc miền núi như A Nam, Kan Lịch, Hồ Vai ... Và nơi có nhiều địa danh lịch sử với những tên núi, tên sông của vùng rừng núi A Lưới đã đi vào lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam, đã ăn sâu trong ký ức của biết bao đồng bào, đồng chí và đã không biết bao phen làm cho quân thù khiếp sợ...

Đường Hồ Chí Minh qua A Lưới đan xen bới các tuyến đường mòn 71, 72, 73, 74 mà trong cuộc kháng chiến chổng Mỹ, cứu nước, đây là đầu mối giao thông quan trọng để vận chuyển sức người, sức của từ hậu phương miền Bắc vào chiến trường miền Nam.

Nếu không tính tổng chiều dài các nhánh rẽ về đồng bằng của 4 con đường 71, 72, 73, 74 và tuyến đường Tây Trường Sơn từ Lào sang, thì đoạn đường Hồ Chí Minh - Đông Trường Sơn đi qua huyện A Lưới bắt đầu từ cầu Đắk Rông (Quảng Trị) qua đèo Pê Ke vào đến đất A Lưới có chiều dài gần 90 km, đoạn đường Hồ Chí Minh đi qua huyện A Lưới dài 106 km rồi tiếp tục qua A Đớt, Hiên, Thạnh Mỹ (Quảng Nam). Đây là con đường vận chuyển chiến lược bằng cơ giới được mở vào năm 1968 khi Khe Sanh (Quảng Trị) giải phóng.

Dọc theo con đường mang tên Bác từ xã Hồng Thủy đến A Ràng, nhà nhà khang trang, công trình dân sinh hiện hữu khắp nơi. Đi trên con đường này sẽ dẫn đến các địa danh lịch sử cách mạng nổi tiếng một thời, như: các nhánh đường 70, 71, 72, 73, 74, Bốt Đỏ, sân bay A So, thung lũng A Sầu, các đồi A Bia, Co Ca Va, hệ thống địa đạo ở Hồng Bắc, Hồng Kim, A So... Những địa danh này gắn kết núi rừng Trường Sơn hùng vĩ càng khơi dậy ký ức về một A Lưới anh hùng bất khuất, mang sức sống mãnh hệt diệu kỳ.

Đường Hồ Chí Minh hoàn thành là một động lực quan trọng thúc đẩy huyện miền cao A Lưới của Thừa Thiên - Huế phát triển mọi mặt. Con đường là đầu mối giao thông liên lạc giữa huyện miền núi A Lưới về với đồng bằng, giữa đồng bào các dân tộc miền núi, vùng cao về với miền xuôi; từng bước xóa bỏ sự ngăn cách, chênh lệch về văn hóa, kinh tế, xã hội của từng vùng để cùng nhau tiến lên trên con đường đổi mới của tỉnh nhà. Tiềm năng du lịch ẩm thực, thắng cảnh, di tích lịch sử, văn hóa truyền thống sẽ được khai phá. Vì vậy, có thể đặt niềm tin rằng, du lịch A Lưới sẽ trở thành một "vệ tinh" quan trọng trên con đường di sản miền trung, một nhân tố tích cực trong tiến trình xóa đói, giảm nghèo.

Trong kháng chiến chống Mỹ, 557 người con dân tộc thiểu số đã hy sinh cho đất nước, 1.080 thương binh, bệnh binh, hàng nghìn lượt dân công hỏa tuyến, hàng nghìn người đang bị ảnh hưởng bởi chất độc màu da cam.

Không như những huyện vùng đồng bằng khác, A Lưới là huyện có nhiều dân tộc như Tà Ôi (hay còn gọi là Pa Cô), Cà Tu, Vân Kiều, Pa Hy ... Trong mạch nguồn mỗi câu chuyện kể của dân tộc mình thì ơn Đảng, ơn Bác Hồ như suối nguồn chảy mãi, không bao giờ cạn. Cũng vì lẽ đó, đồng bào các dân tộc ở đây đã tự nguyện lấy họ Hồ làm họ của mình để thể hiện một lòng son sắt theo cách mạng. Tính đến nay, toàn huyện có gần 11 nghìn người mang họ Hồ.

Trên quê hương của những người mang họ Hồ hôm nay, cải đói nghèo lạc hậu đả lùi xa. Nhiều năm qua, huyện đã tập trung cho chương trình phát triển, nâng cao đời sống bà con đồng bào các dân tộc thiểu số. Nhất là Chương trình 135 đã mang lại hiệu quả rõ rệt, tạo được bộ mặt nông thôn mới, rút ngắn khoảng cách giữa các vùng, miền. Màu xanh của mía, của cà phê... đã từng bước khỏa lấp đi những sườn đồi trơ trụi lá. Hình ảnh từng đàn bò gặm cỏ đã cho thấy sự hồi sinh của một vùng quê.

Hệ thống điện chiếu sáng đã về với bà con ở từng bản xa xôi hẻo lánh. Mạng lưới y tế, giáo dục được nâng cấp, cải tạo (100% xã có trường học và trạm y tế). Đời sống văn hóa tinh thần không ngừng được nâng cao. Có hàng trăm học sinh cấp III và nhiều em đang theo học tại các trường đại học, cao đắng, trung học chuyên nghiệp... đã góp phần tạo nên một sức bật mới cho A Lưới hôm nay và mai sau.

Tiềm năng du lịch

Tiềm năng du lịch của A Lưới rất lớn, rất nhiều địa danh như hồ A Co, suối nước nóng A Ràng... Đặc biệt, thiên nhiên ưu đãi cho A Lưới có được thác nước hùng vĩ A Nô (cách trung tâm huyện 5, 6 km). Hiện nay, điểm du lịch sinh thái này đã thu hút khá đông du khách trong nước và ngoài nước đến thưởng ngoạn.

Thác A nô tọa lạc tại xã Hồng Kim, huyện A Lưới, Thừa Thiên - Huế. Không kỳ vĩ bao la như Bạch Mã, khu du lịch sinh thái thác Anô rộng chừng 10 ha, gợi cho du khách cảm giác gần gũi, thân quen với cảnh vật núi rừng gần như còn trong trẻo nguyên sinh.

Đến A Lưới còn là dịp đến vùng đất giàu bản sắc văn hóa truyền thống. Chiếm vị trí trang trọng giữa các làng, bản là các nhà rông, nhà sàn to lớn. Những ngôi nhà này dùng làm nơi sinh hoạt cộng đồng, họp bàn chuyện hệ trọng, trưng bày hiện vật quý giá... A Lưới còn là nơi nổi tiếng bởi bàn tay các thiếu nữ Tà Ôi làm nên sản phẩm dệt thổ cẩm đầy mầu sắc, hoa văn ấn tượng. Cùng với sản phẩm dệt, ở A Đớt, A Ngo, các xã khác như Hồng Thái, Nhâm vẫn còn lưu giữ được nghề làm khèn, nhạc cụ, gùi cõng, đồ trang sức các loại, với những nghệ nhân có bàn tay, sức sáng tạo điêu luyện.

Mỗi năm hàng trăm lượt khách du lịch là cựu chiến binh đã trở về đây để thăm lại chiến trường xưa. Địa đạo Động Sọ là một nơi như vậy, nằm ở phía dưới 2 ngọn đồi A So và A Túc. Đây là một hệ thống cụm, hầm địa đạo có khoảng 15 cụm, phân bố ở 3 khu vực theo 3 con khe nhỏ khác nhau là khe Cúp, khe Chân Chồm và khe Tầng Hối. Trải qua nhiều đợt công kích và mưa bom của kẻ thù, nhưng các địa đạo đến ngày nay vẫn còn nguyên vẹn.

Địa đạo Động So được đào năm 1967, trước đây là kho chứa vũ khí của Binh đoàn 559. Trong chiến dịch Mậu Thân 1968, địa đạo là nơi cung cấp lương thực, vũ khí cho quân ta đánh vào thành phố Huế. Hàng loạt các di tích lịch sử khác như sân bay Tà Lụt, đèo Tà Lương, đồn A Sầu... ; đến hầm địa đạo A Dòn, nơi đặt Đài phát thanh giải phóng đầu tiên của Quân khu Trị Thiên- Huế vào năm 1968. Rồi đến đồn A Bia, nơi trở thành di chứng khủng khiếp cho thất bại của lịch sử của quân đội viễn chinh Hoa Kỳ mà những người lính Mỹ khiếp sợ đã đặt tên cho nó là Đồi Thịt Băm.

Du lịch A Lưới cần được kết nối với các tour du lịch Phong Nha - Kẻ Bàng (Quảng Bình), các nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn, Đường 9 - Nam Lào - Khe Sanh... (Quảng Trị), di tích lịch sử và di sản quần thể di tích Cố đô Huế (Thừa Thiên - Huế), Hội An (Quảng Nam). Đồng thời, cũng phải tính đến lợt thế khi hai cửa khẩu biên giới đã thông với nước bạn Lào để tăng cường sức quảng bá, đa dạng các loại hình dịch vụ du lịch, tham quan, giao lưu, hợp tác,.... Mặt khác, A Lưới cũng cần sớm tính đến bài toán quy hoạch bảo tồn lâu dài các điểm di tích lịch sử cách mạng để đón chào đường Hồ Chí Minh hiện đại.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 08 Tháng Sáu, 2010, 07:34:30 pm
QUẢNG NAM VỚI ĐƯỜNG TRƯỜNG SƠN HUYỀN THOẠI
Nguyễn Ngọc Hạnh, Phạm Phúc, Lê Anh Dũng


Như một mạch nguồn cách mạng, đường Trường Sơn - Hồ Chí Minh huyền thoại chạy qua đất Quảng Nam bồi đắp nên hào khí "trung dũng kiên cường đi đầu diệt Mỹ". Với lợi thế của Đường Hồ Chí Minh mới hiện nay, Quảng Nam, nhất là các địa phương vùng sâu, vùng cao, vùng căn cứ kháng chiến cũ ngày càng thay da đổi thịt. Con đường mới đã biến khát vọng của những người mở đường Trường Sơn năm xưa trở thành hiện thực của ấm no, hạnh phúc.

Đường Trường Sơn chạy qua 4 huyện của tỉnh Quảng Nam, đó là các huyện Nam Giang, Tây Giang, Đông Giang và Phước Sơn với tổng chiều dài 175 km. Trong những năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nhân dân miền núi Quảng Nam đã tích cực hưởng ứng các phong trào "Làm rẫy cách mạng, nuôi con heo, con gà cách mạng".

Nơi nơi tăng gia sản xuất, giao ước thi đua với khẩu hiệu “đánh giặc giữ làng"; mỗi người phấn đấu trồng thêm sắn; tất cả các rẫy được đặt tên “rẫy cách mạng", "Rẫy đoàn kết”, "Rẫy độc lập", "Rẫy nhớ Bác Hồ", “rẫy mong thống nhất" nhằm giải quyết vấn đề lương thực, bảo đảm cho số cán bộ lên miền núi và lực lượng vũ trang hoạt động lâu dài và ngày càng đông.

Nhân dân còn góp phần không nhỏ vào việc mở đường, tham gia cõng, thồ hàng trên các tuyến Trường Sơn. Nhiều tấm gương gùi thồ hàng, giao liên, mở đường cho xe pháo ra tham gia chiến dịch, chiến đấu và phục vụ chiến đấu, những tấm gương hy sinh anh dũng,... đã được sử sách ghi lại như những chiến công chói lọi.”

Từ khi đường Hồ Chí Minh công nghiệp hóa hình thành đã tạo ra những biến đổi kinh tế- xã hội sâu sắc, hình thành các khu dân cư, định canh định cư theo hướng quy hoạch lâu dài.

Huyện Tây Giang có 28 km đường Hồ Chí Minh đi qua ba xã Bha'lêê, Vương và Nông. ông Bh'riu Liếc, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện cho biết: "Khi mới chia tách, tỷ lệ hộ đói nghèo của Tây Giang là 86%, qua 5 năm, tỷ lệ trên giảm xuống còn 58%. Lúc đầu, Tây Giang được coi là 6 không (không điện, không đường, không trường, không trạm, không chợ, không nơi làm việc) nay Tây Giang có đầy đủ: 100% xã có điện thoại, hơn 85% xã có điện, 7/10 xã có bác sĩ đứng trạm, 70/70 thôn có trường tiểu học và lớp mầm non, bình quân 2,4 người dân có 1 người đi học, 9/10 xã và 56/70 thôn có đường ô tô đến được mùa nắng. Huyện có 3 trường trung học cơ sở bán trú cụm xã kiên cố, có trường dân tộc nội trú, trường trung học phổ thông, mở lớp đại học nông nghiệp hệ vừa học vừa làm đào tạo cho 86 cán bộ huyện, xã... Riêng 3 xã có đường Hồ Chí Minh đi qua, đời sống kinh tế, văn hoá phát triển mạnh hơn các xã khác".

Từ đường Hồ Chí Minh, huyện có cơ hội đầu tư và tỉnh đã phê duyệt quy hoạch 107 ha tại xã Nông để phát huy chiều dài 12km đường Trường Sơn năm xưa vào xây dựng và phát triển du lịch, sinh thái, lịch sử và văn hoá. Ở khu vực ngã ba gần Đồn Biên phòng 645, huyện đã có dự định xây dựng đền thờ tưởng nhớ các anh hùng, liệt sĩ với thiết kế biểu tượng 2 nền văn hoá Việt- Cơ tu ...

Trên địa bàn huyện Đông Giang, Trao là trạm đầu tiên của trục đường Nam - Bắc trên đất Quảng Nam nối với trạm A Lưới - Thừa Thiên. Trên trục đường này, nhân dân Đông Giang tích cực tham gia gùi cõng, xây dựng kho tàng, bảo vệ các tuyến hành lang đi qua huyện. Là một bộ phận căn cứ địa miền núi nằm sát cạnh Thượng Đức (Đại Lộc), huyện Đông Giang là hậu phương trực tiếp, là nơi tập trung binh lực của ta phục vụ cho cuộc tiến công vào Thượng Đức, Huyện ủy đã huy động phần lớn cán bộ dân chính và nhân dân tham gia mở đường vận chuyển, làm lán trại, huy động dân công tham gia mở được 25 km đường

Ngoài ra, nhân dân Đông Giang còn phục vụ mở đường từ Trao đi Bến Hiên với 5.500 công. Cuối năm 1974, đầu năm 1975 Đảng bộ và nhân dân huyện Đông Giang đã tham gia mở con đường Thắng Lợi chạy từ Trao nối với Đường Hồ Chí Minh, xuống đến dốc Kiền để đưa xe, pháo và một cánh quân lớn của ta tiến công giải phóng thành phố Đà Nẵng.



Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 08 Tháng Sáu, 2010, 07:34:38 pm
Ngày nay, Đường Hồ Chí Minh công nghiệp hóa đi qua huyện Đông Giang 37 km, trải dài trên địa bàn 2 xã và 1 thị trấn. ông Nguyễn Bằng, Bí thư Huyện uỷ cho biết: "Cái lợi trước mắt là việc giải tỏa đền bù đã giúp cho đồng bào sinh sống hai bên trục đường này có thêm khả năng tài chính đầu tư, phát triển kinh tế hộ gia đình, xóa đói giảm nghèo". Con đường góp phần hình thành các khu dân cư, định canh định cư theo hướng quy hoạch lâu dài. Các công trình hạ tầng cơ sở, giao thông liên thôn, liên xã được nhanh chóng triển khai, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt nhiều mặt của nhân dân trên địa bàn.

Các hoạt động kinh tế, thương mại du lịch không chỉ bó gọn trong một mùa nắng như trước đây; đặc biệt các loại hình dịch vụ theo đó cũng bắt đầu phát triển như xây dựng nhà hàng, khách sạn, cây xăng, du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng... , kéo theo việc thu hút đầu tư tăng lên đáng kể. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực và đúng hướng, các mô hình về nông - lâm nghiệp bước đầu hình thành và khẳng định trên thực tế. Văn hóa xã hội chuyển biến rõ nét, đời sống nhân dân có bước cải thiện và nâng lên đáng kể...

Đường Hồ Chí Minh đã góp phần rất lớn giúp cho Đông Giang nhanh chóng thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, thoát khỏi ốc đảo tự cung tự cấp dần dần hột nhập với nền kinh tế thị trường...".

Với huyện Phước Sơn, đường Hồ Chí Minh có tuyến hành lang kinh tế Đông- Tây (xuyên Á), Bắc - Nam (xuyên Việt), kết nối đến các trung tâm đô thị và kinh tế lớn như Đà Nẵng, khu kinh tế mở Chu Lai, khu công nghiệp Dung Quất, khu kinh tế cửa khẩu Đắk - Ốc (Quảng Nam), cửa khẩu Bờ Y (Kon Tum), tuyến đường đông Trường Sơn, tuyến Khâm Đức - Bắc Trà My... đã giúp cho đồng bào đi lại, hàng hóa lưu thông dễ dàng giữa miền xuôi và miền ngược.

Trên địa bàn huyện, con đường đã góp phần rút ngắn khoảng cách từ trung tâm hành chính huyện đến các xã vùng sâu vùng xa, góp phần đưa kinh tế xã hội địa phương phát triển. Các tiềm năng về thủy điện, khoáng sản quý đang được đầu tư khai thác. Hiện các công trình thủy điện lớn như Đắk My 1, Đắk My 4 đang được xây dựng. Mỏ vàng có trữ lượng khoảng 20 tấn được Công ty trách nhiệm hữu hạn Phước Sơn liên doanh với các đối tác nước ngoài như Ôxtrâylia, Niu Dilân, Canađa, Philíppin... xây dựng nhà máy khai thác, chế biến. Dự án này có quy mô khoảng 30 triệu USD, đã bắt đầu đi vào hoạt động có hiệu quả.

Phước Sơn cũng đã xây dựng kết cấu hạ tầng điện, đường, trường, trạm, ... đến tận các xã hẻo lánh, xa xôi; sắp xếp dân cư theo hướng hợp lý nhằm triển khai các chương trình kinh tế - xã hội; đặc biệt tập trung phát triển nguồn lợi từ rừng bằng cách đẩy mạnh giao đất, giao rừng để đồng bào trực tiếp nuôi trồng, chăm sóc bảo vệ; phát triển mạnh cây quế, nhân rộng cây sâm Ngọc Linh, khai hoang ruộng bậc thang, kiên quyết không phá rừng già làm nương rẫy... .

Trên Đường Hồ Chí Minh đi qua Phước Sơn có nhiều điểm dừng chân của du khách rất lý thú như : Thác nước, đèo Lò Xo, Suối Đăk Ga, Đồi E... Nơi đây có thể phát triển nhiều loại hình du lịch, dịch vụ phong phú, hấp dẫn, đặc biệt là du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng kết hợp với du lịch văn hóa - lịch sử...

Ông Phạm Thế Quyền, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện khẳng định: "Trong tương lai không xa, Phước Sơn sẽ là điểm đến của các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Tỉnh Quảng Nam cũng đang từng bước xây dựng Khâm Đức trở thành thị xã miền núi đông vui, xanh, sạch, đẹp và văn minh phía tây của tỉnh- một đô thị hoàn chỉnh trong các lĩnh vực giao thông nội thị, hệ thống cấp thoát nước sinh hoạt, bến xe mới, bệnh viện, điện chiếu sáng công cộng, trường học, các khu vui chơi giải trí...".

Huyện Nam Giang có 53km Đường Hồ Chí Minh chạy qua Thạnh Mỹ và xã Cà Dy, nơi có làng Rô đã đi vào thơ của Tố Hữu "ơi làng Rô nhỏ của tôi. Cao cao đỉnh núi chiếc nôi đại bàng". Từ ngày có Đường Hồ Chí Minh qua huyện, đời sống đồng bào các dân tộc, nhất là nơi có con đường chạy qua đã thay đổi vượt bậc, các địa phương đã có đường, điện, trường, trạm, từ chỗ lương thực tự cung tự cấp đã dần dần chuyển sang sản xuất hàng hoá; từ chỗ thất học đã có nhiều con em vào đại học, từ chỗ hàng năm phải cứu trợ, nay đã giảm thiểu tỷ lệ hộ đói nghèo, chính trị ổn định, quốc phòng- an ninh được giữ vững.

Trò chuyện với lãnh đạo các huyện miền núi của Quảng Nam có Đường Trường Sơn đi qua, họ đều cho rằng Đường Hồ Chí Minh huyền thoại thực sự là đòn bẩy phát triển kinh tế- xã hội của địa phương. Tuy nhiên để phát huy hơn nữa hiệu quả của con đường này, theo Chủ tịch ủy ban nhân dân huyện Tây Giang Bh'riu Liếc, từ con đường hiện đại này, rất mong Chính phủ sớm có kế hoạch đầu tư mở đường "xương cá" về phía tây để 8 xã biên giới của huyện gồm Nông, Atiêng, Lăng, Tr'hy, Xan, Châm, Ga'ri, Bha'lêê có điều kiện phát triển kinh tế, văn hoá - xã hội, tạo điều kiện thông thương, thuận lợi đến huyện Nam Giang và sang cả nước bạn Lào.

Ông Hồ Đơ, nguyên trợ lý tác chiến thuộc Đoàn 559 cho rằng, Nhà nước cần quan tâm đãi ngộ xứng đáng những người có công, không để bỏ sót bất cứ ai đã từng tham gia phục vụ trên con đường Trường Sơn huyền thoại năm xưa. Trung ương cũng cần mở nhiều dự án phát triển kinh tế trên tuyến đường này để giải quyết công ăn việc làm cho đồng bào dân tộc thiểu số; sớm đưa khoa học kỹ thuật tiên tiến vào chăn nuôi, trồng trọt, tăng năng suất cây trồng, vật nuôi cho người dân miền núi nhanh chóng thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 08 Tháng Sáu, 2010, 07:35:34 pm
GIAO THÔNG ĐẮK LẮK - MỞ ĐƯỜNG ĐI LÊN CÔNG NGHIỆP HÓA
Kim Bảo - CX

Đắk Lắk là 1 trong 5 tỉnh của vùng Tây Nguyên có vị trí quan trọng nằm trong chương trình tam giác phát triển khu vực của ba nước Việt Nam-Campuchia- Lào. Với diện tích 13.125 km2, dân số 1,9 triệu người trong đó có 2 huyện biên giới giáp Campuchia (huyện Buôn Đôn và huyện Ea Súp), có đường biên giới khoảng 70 km. Toàn tỉnh hiện có 15 đơn vị hành chính, bao gồm thành phố Buôn Ma Thuột, thị xã Buôn Hồ và 13 huyện. Tỉnh có trên 311.000 ha đất đỏ bazan rất thuận lợi phát triển cây công nghiệp có giá trị cao, theo hướng sản xuất hàng hoá lớn, tập trung chuyên canh.

Với đặc điểm đia hình có nhiều sông, suối thác nước, Đắk Lắk đang chú trọng vào phát triển công nghiệp thuỷ điện. Trong những năm gần đây kinh tế của tỉnh liên tục tăng trưởng. Năm 2009, trong bối cảnh khủng hoảng tài chính thế giới, lạm phát trong nước ... nhưng kinh tế của tỉnh tiếp tục duy trì được tốc độ khá. Đặc biệt quý 1/2009, tổng sản phẩm quốc nội đạt 3.877 tỷ đồng, tăng hơn 10% so với cùng kỳ năm trước. Khu vực Công nghiệp - Xây dựng tăng 16%, khu vực Dịch vụ tăng 23%. Tuy nhiên để duy trì sự tăng trưởng ổn định này cần có sự đóng góp không nhỏ của hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật, đặc biệt là mạng lưới giao thông.

Trước năm 1975 mạng lưới giao thông Đắk Lắk rất yếu kém. Sau ngày giải phóng đến nay được sự quan tâm đầu tư cơ sở hạ tầng của nhà nước, Đắk Lắk đã có mạng lưới giao thông tương đối hoàn chỉnh.

Thành phố Buôn Ma Thuột - thủ phủ của tỉnh nằm ngay đầu mối các trục giao thông trọng yếu như quốc lộ 14 nối Đắk Lắk với các tỉnh Tây Nguyên và xuôi về thành phố Hồ Chí Minh; quốc lộ 26 nối Buôn Ma Thuột với tỉnh Khánh Hoà; quốc lộ 27 nối Buôn Ma Thuột với tỉnh Lâm Đồng; quốc lộ 14C chạy dọc biên giới Việt Nam - Campuchia.

Ngoài ra, còn có 14 tuyến tỉnh lộ và hàng trăm tuyến đường huyện, đường xã toả ra khắp địa bàn tỉnh. Tổng chiều dài các tuyến giao thông của Đắk Lắk lên đến gần 7.851 km, trong đó quốc lộ dài khoảng 398 km, tỉnh lộ dài 460 km, còn lại hơn 6.994 km là đường huyện, xã...

Từ năm 1998 khi Đắk Lắc đầu tư mạnh vào giao thông bằng các dự án nâng cấp quốc lộ 26, quốc lộ 14, quốc lộ 27 và nhiều tuyến tỉnh lộ khác, mạng lưới giao thông đường bộ của Đắk Lắk đã đạt được những kết quả đáng mừng. Ngoài các tuyến quốc lộ được hoàn chỉnh với mặt đường bê tông nhựa và toàn bộ cầu cống được xây dựng vĩnh cửu, tỷ lệ nhựa hoá của các tuyến tỉnh lộ đã vươn lên con số 72%.

Hệ thống đường giao thông nông thôn cũng được cải tạo đáng kể. Tính đến cuối năm 2008 đã có khoảng 439 km đường huyện được nhựa hoá; khoảng 478 km đường xã được nhựa hoá;... Địa bàn Đắk Lắk hiện có hai phương thức vận tải chính, đó là vận tải đường bộ và vận tải hàng không, trong đó vận tải đường bộ đóng vai trò quan trọng nhất. Đắk Lắk có sân bay Buôn Ma Thuột là sân bay cao nguyên miền Trung thuộc cụm cảng hàng không sân bay miền Nam hoạt động vận tải hành khách từ năm 1977. Hàng ngày có các chuyến bay từ Buôn Ma Thuột đi Thành phố Hồ Chí Minh và ngược lại. Hàng tuần có 3 chuyến bay thẳng Buôn Ma Thuột -Hà Nội.

Mạng lưới giao thông đường bộ cũng được phân bố khá hợp lý, tạo được sự giao lưu giữa các tỉnh trong vùng, các cửa khẩu quốc tế và các cảng biển quan trọng ở đồng bằng duyên hải miền Nam Trung Bộ. Nhờ đầu tư có trọng điểm nên diện mạo đô thị và nông thôn được thay đổi nhanh chóng.

Tỉnh Đắk Lắk đã chú trọng phát triển đều khắp các tuyến đường quốc lộ, tỉnh lộ, huyện lộ. Cụ thể, trong năm 2008 tỉnh đã hoàn thành dự án cải tạo mở rộng quốc lộ 2; dự án cải tạo quốc lộ 27; triển khai dự án nâng cấp các tuyến đường tỉnh nâng tỷ lệ rải nhựa đến 14 tuyến đường tỉnh lộ chiếm khoảng 70%.

Bên cạnh đó, để bắt nhịp cùng tiến độ phát triển kinh tế, tỉnh Đăk Lăk đã tiến hành thi công tuyến đường Hồ Chí Minh qua địa phương, trở thành trục xương sống của mạng lưới giao thông tỉnh, nhằm phát huy nội lực kinh tế cho tỉnh.

Tuy nhiên, để đáp ứng nhu cầu phát triển với tốc độ cao, giao thông Đắk Lắk vẫn cần được tiếp tục đầu tư nâng cấp đồng bộ và hoàn thiện, nhằm tạo động lực cho vùng kinh tế trọng điểm này phát triển ổn định, bền vững, tương xứng với tiềm năng và thế mạnh của mình. Khi tuyến đường hoàn thành sẽ góp phần nâng cao chất lượng lưu thông hàng hóa và hành khách.

Giai đoạn sau năm 2010, Chính phủ sẽ triển khai lập báo cáo tiền khả thi mở tuyến đường Hồ Chí Minh đi song song quốc lộ 14 và thành đường cao tốc dài khoảng 160 km với 6 làn xe đi qua Ea’H leo- Krông Buk- Thành phố Buôn Ma Thuột - khu công nghiệp đến địa phận Đắk Nông.

Hiện nay tỉnh đang tích cực mời gọi đầu tư vào tuyến đường huyết mạch nối hai tỉnh Đăk Lắk - Phú Yên (từ cảng Vũng Rô đến cửa khẩu Đắk Ruê tổng chiều dài 265 km) xuất phát từ Vũng Rô (tỉnh Phú Yên) - Krông Năng - Buôn Hồ - Cư Mgar - Ea Súp đến Đồn 3 Biên phòng - Cửa khẩu Đắk Rê. Nếu dự án này hoàn thành sẽ tạo sức bật kinh tế cho các huyện biên giới. Tuy nhiên để hoàn thành dự án này vẫn chờ vào nguồn vốn ngân sách nhà nước.

Ngành giao thông vận tải Đắk Lắk cũng đang triển khai các giải pháp tích cực như đề xuất Chính phủ và các bộ, ngành Trung ương hỗ trợ; xây dựng chương trình giao thông nông thôn, bố trí kế hoạch vốn hàng năm; phân công, phân cấp các huyện, xã chủ động thực hiện, kêu gọi các doanh nghiệp hỗ trợ đầu tư... Tuy nhiên cái đích của mục tiêu nhựa hoá đường giao thông đến năm 2010 của tỉnh Đắk Lắk vẫn đang là sự thách thức mà nếu không có một sự đầu tư "đột phá" và quyết liệt hơn thì khó lòng đạt được chỉ tiêu mà Hội đồng nhân dân tỉnh đề ra cho giai đoạn 2006-2010.

Đường Hồ Chí Minh là một trong những công trình trọng điểm của Nhà nước giai đoạn từ nay đến năm 2010. Con đường là huyết mạch giao thông, là cơ sở đề đồng bào miền Trung và Tây Nguyên phát triển kinh tế - xã hội. Hiện nay Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định 1181/QĐ-TTG về việc phê duyệt thành phố Buôn Ma Thuột thành đô thị hạt nhân của các vùng Tây Nguyên, đồng thời là đầu mối giao thông liên vùng, tạo điều kiện, phát triển giao lưu kinh tế, văn hóa. xã hội giữa Tây Nguyên với các vùng trong nước và quốc tế.

Trong tương lai có thể nói, cùng với con đường quốc lộ 14, Đường Hồ Chí Minh sẽ là một trong những sản phẩm du lịch hấp dẫn của Đắk Lắk. Hiện nay, tuyến đường này vẫn chưa lộ rõ trên hành trình của mỗi du khách đến Đắk Lắk nhưng trong tương lai nó sẽ trở thành điểm nhấn mỗi khi nhắc đến vùng đất Buôn Ma Thuột.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 08 Tháng Sáu, 2010, 07:36:32 pm
GIAO THÔNG ĐẮK NÔNG - TẠO ĐÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
Kim Bảo


Là một tỉnh "trẻ" của Tây Nguyên, sau 5 năm thành lập, Đăk Nông đã có hệ thống giao thông khá phát triển, thể hiện sự "thay da đổi thịt" trên mọi bình diện.

Giám đốc Sở Giao thông Vận tải Đắk Nông Nguyễn Văn Viện cho biết: Để khai thác tốt lợi thế có hai cửa khẩu quốc gia Bu Prăng và Đác Per thông thương với tỉnh Mundunkiri, Vương quốc Campuchia, địa phương cần khai thác tốt hệ thống các tuyến quốc lộ nối liền với các tỉnh khu vực Tây Nguyên, các tỉnh duyên hải miền Trung, Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Phước và các khu kinh tế trọng điểm Đông Nam Bộ.

Trong năm qua Đăk Nông đã hoàn thành dự án cải tạo, nâng cấp quốc lộ 14C có tổng chiều dài 99 km, tổng mức đầu tư 60 tỷ đồng từ nguồn vốn trái phiếu Chính phủ; đang thi công nền, mặt đường đoạn Đăk Song đi cửa khẩu Bu Prăng; thi công hệ thống thoát nước vĩnh cửu đoạn Đồn 1 đi Đăk Mil.

Bên cạnh đó, Đắk Nông đã hoàn thành hệ thống tỉnh lộ bao gồm: Dự án tỉnh lộ 5 với tổng chiều dài 11 km, tổng mức đầu tư 6 tỷ đồng, nguồn vốn của Ngân hàng thế giới, đã thực hiện xong, đưa vào sử dụng năm 2006; Dự án đường tỉnh lộ 6 với tổng chiều dài 62,8 km, tổng mức đầu tư 100 tỷ đồng, đã nghiệm thu đưa vào sử dụng gói thầu số 3 với chiều dài 11 km; Các đoạn thuộc các gói thầu còn lại đang triển khai thi công nền, mặt đường; Dự án nâng cấp cải tạo tỉnh lộ 4 đoạn từ km 50 đến km 84 tổng chiều dài 34km, tổng mức đầu tư 120 tỷ đồng, nguồn vốn của Ngân hàng phát triển châu Á.

Tính đến cuối năm 2008, toàn tỉnh đầu tư 2.500 tỷ đồng để xây dựng 3.412 km đường trong đó có 1.046 km đường nhựa, chiếm 30,7%. Bao gồm ba tuyến quốc lộ 14, 14C và 28 với tổng chiều dài 310 km, trong đó có 225 km đường nhựa, chiếm 72,6%; hệ thống đường giao thông đô thị 125,2 km có 90,8 km đường nhựa, chiếm 72,5%; sáu tuyến tỉnh lộ với tổng chiều dài 318 km, trong đó có 150 km đường nhựa, chiếm 48,3%; hệ thống đường cấp huyện có tổng chiều dài là 497 km, trong đó nhựa hóa được 251 km, chiếm 54,5%; hệ thống đường xã, thôn, buôn toàn tỉnh có 2.170 km, trong đó có 309 km đường nhựa, chiếm 14,3%.

Đến nay, tất cả 71 xã, phường, thị trấn trong tỉnh đều có đường ô tô đến tận trung tâm. Hệ thống đường giao thông thông suốt đã tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế cũng như trao đổi, giao thương hàng hóa giữa khu vực nông thôn và thành thi.

Để đẩy mạnh hơn công tác cải tạo hạ tầng giao thông, tỉnh Đắk Nông còn khuyến khích các địa phương tự đầu tư xây dựng các tuyến đường phục vụ cho việc phát triển kinh tế tại các huyện.

Phó Chủ tịch ủy ban nhân dân huyện Cư Jút - Trương Thanh Tùng cho biết: Những năm qua, từ các nguồn vốn chương trình mục tiêu của tỉnh và huyện với tổng kinh phí hàng chục tỷ đồng đã đầu tư vào phát triển giao thông trên địa bàn huyện. Đến nay hệ thống đường giao thông liên xã đã được trải thảm nhựa 100%, tạo điều kiện thuận lợi cho việc lưu thông hàng hóa và đi lại của nhân dân; nhờ đó đã thúc đẩy kinh tế - xã hội của huyện phát triển nhanh, tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm đạt hơn 14,6%; tổng giá tài sản xuất đạt 1055 tỷ đồng, tăng 1,64 lần so với năm 2005; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư vào địa bàn Khu Công nghiệp Tâm Thắng. Hiện nay, Cư Jút là địa phương có tỷ lệ bê tông hóa đường giao thông nông thôn cao nhất của tỉnh Đắk Nông nhờ kết quả của quá trình thực hiện phương châm: Nhà nước và nhân dân cùng làm.

Bên cạnh những thuận lợi, Đắk Nông vẫn còn nhiều khó khăn, ông Nguyễn Văn Viện trăn trở: Đắk Nông là một tỉnh miền núi, địa hình bị chia cắt, bình quân độ dốc là 32%, nên chi phí đầu tư xây dựng đường giao thông cao gấp hai lần so với nơi khác. Hằng năm, mùa mưa ở Đắk Nông kéo dài đến bảy tháng, lượng mưa lớn, nhưng các công trình thoát nước trên tuyến còn ít và mới được xây dựng tạm, không bền vững.

Hệ thống đường thôn, buôn, chủ yếu là các tuyến đường nhỏ phục vụ người đi bộ và các loại xe có tốc độ thấp, chất lượng đường chưa bảo đảm do không được cải tạo, sửa chữa. Công tác quản lý, bảo trì đường giao thông còn gáp nhiều khó khăn, nhất là cấp huyện và xã, do chưa có lực lượng làm công tác này và nguồn kinh phí còn hạn hẹp.

Công tác xã hội hóa làm đường giao thông nông thôn còn hạn chế, do đời sống của nhân dân còn khó khăn, nhất là ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Việc huy động các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh là do doanh nghiệp nhỏ, nguồn vốn ít. Bên cạnh đó, thu ngân sách của tỉnh còn eo hẹp, cho nên việc bố trí vốn xây dựng đường giao thông còn khó khăn; bình quân mỗi năm chỉ khoảng 20 tỷ đồng.

Ngoài ra, thời gian gần đây do tác động suy thoái kinh tế toàn cầu và sự biến động giá vật liệu xây dựng trên thị trường đã ảnh hưởng lớn đến quá trình đầu tư xây dựng đường giao thông trên địa bàn tỉnh. Do đó, hệ thống đường giao thông ở Đắk Nông vẫn còn lạc hậu. Đặc biệt, hệ thống đường nối từ các khu dân cư, các khu vực sản xuất đến các trung tâm tiêu thụ sản phẩm còn nhiều khó khăn, ảnh hưởng đến quá trình trao đổi, giao thương hàng hóa, nông sản cũng như việc khai thác các tiềm năng, khoáng sản trên địa bàn.

Theo quy hoạch đường Hồ Chí Minh đoạn qua địa bàn tỉnh Đắk Nông, có hướng chạy dọc từ Bắc đến Nam, có tổng chiều dài khoảng 154 km, với quy mô 6 làn xe. Hiện nay, Đường Hồ Chí Minh qua địa bàn tỉnh Đắk Nông chưa được đầu tư xây dựng, vẫn sử dụng quốc lộ 14 để đảm bảo giao thông, tuyến đường này được đầu tư từ năm 1997, theo quy mô đường cấp 3, nền rộng 9m, mặt bê tông nhựa rộng 6m, là tuyến đường duy nhất nối Đắk Nông với Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh Tây Nguyên. Hiện tại cũng như trong tương lai gần, nếu tuyến đường không được đầu tư nâng cấp mở rộng sẽ không đáp ứng kịp so với tốc độ phát triển kinh tế.

Đường Hồ Chí Minh là tuyến đường xương sống của tỉnh Đắk Nông, nối Đắk Nông với các tỉnh khu vực Tây Nguyên, và nối thông khu vực Tây Nguyên với Thành phố Hồ Chí Minh và với các khu kinh tế trọng điểm Nam Bộ. Ngoài ra, theo chương trình phát triển tam giác kinh tế ba nước Đông Dương, hệ thống đường bộ của Lào và Campuchia được đấu nối vào Đường Hồ Chí Minh tại thị trấn Kiến Đức huyện Đắk R'lấp thông qua cửa khẩu quốc tế Bu Prăng. Như vậy, Đường Hồ Chí Minh còn tạo điều kiện để phát triển thương mại, du lịch với các nước Campuchia và Lào, mở ra triển vọng đầu tư trong tương lai.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 13 Tháng Sáu, 2010, 05:17:30 pm
CHƯƠNG BA
VIẾT TIẾP "BÀI CA TRƯỜNG SƠN"

PHÁT HUY TRUYỀN THỐNG BỘ ĐỘI TRƯỜNG SƠN TRÊN MẶT TRẬN MỚI
Thiếu tướng Lương Sỹ Nhung
Tư lệnh Binh đoàn 12,
Tổng Giám đốc Tổng Công ty xây dựng Trường Sơn


Cuộc kháng chiến chống Mỹ thắng lợi, mở ra một giai đoạn mới cho cách mạng Việt Nam. Tháng 7-1975, Quân ủy Trung ương giao nhiệm vụ cho Bộ đội Trường Sơn chuyển sang xây dựng kinh tế. Tháng 6 - 1976, Bộ Quốc phòng quyết định thống nhất Bộ đội Trường Sơn và Bộ Tư lệnh Công binh thành Bộ Tư lệnh công trình. Đến tháng 3 - 1977, Bộ Quốc phòng ra quyết định thành lập Tổng cục Xây dựng kinh tế thay cho Bộ Tư lệnh công trình.

Tổng cục Xây dựng kinh tế có nhiệm vụ chỉ đạo toàn quân xây dựng kinh tế, có quân số lên đến 280 nghìn người, phần lớn là bộ đội Trường Sơn trước đây và bổ sung lực lượng chuyên làm kinh tế từ các đơn vị trong toàn quân. Tháng 10 - 1977, Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập Binh đoàn 12 trực thuộc Tổng cục Xây dựng Kinh tế, gồm các sư đoàn, trung đoàn công binh Trường Sơn trong chiến tranh.

Binh đoàn 12 - Binh đoàn xây dựng cầu đường chiến lược

Phát huy truyền thống bộ đội Trường Sơn anh hùng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, với tinh thần cách mạng tiến công không ngừng, cán bộ, chiến sĩ công nhân viên quốc phòng của Binh đoàn 12 lại tiếp tục có mặt ở những nơi khó, việc khó trải ra trên địa bàn 21 tỉnh, thành trong nước và 5 tỉnh trên nước bạn Lào, phần lớn là địa bàn xa xôi, núi rừng hẻo lánh, các vùng chiến lược quan trọng làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế kết hợp với quốc phòng.

Nhiệm vụ chủ yếu đầu tiên của Binh đoàn là xây dựng cơ bản Đường Hồ Chí Minh dọc theo Đông Trường Sơn từ Tân Kỳ (Nghệ An) đến Chơn Thành (Bình Phước), có tổng chiều dài 1.920 km, xây dựng các công trình công nghiệp, dân dụng, các khu kinh tế mới ở Tây Nguyên, kết hợp sản xuất với sẵn sàng chiến đấu bảo vệ an ninh quốc phòng trên địa bàn hoạt động.

Năm 1978, trước yêu cầu xây dựng kinh tế kết hợp với quốc phòng, đặc biệt trước yêu cầu phòng thủ đất nước, Bộ Quốc phòng quyết định kiện toàn Binh đoàn 12 là Binh đoàn cầu đường chiến lược, tiếp nhận toàn bộ các đơn vị cầu đường của Tổng cục Xây dựng kinh tế, chuyển trụ sở từ tỉnh Gia Lai về Hà Nội với lực lượng cao nhất gồm 8 sư đoàn, 2 trung đoàn vận tải, 2 xí nghiệp cơ khí sửa chữa, 1 viện khảo sát thiết kế, 5 trường đào tạo huấn luyện, tổng số quân lên đến 38 nghìn người.

Binh đoàn đã đưa 5 sư đoàn làm nhiệm vụ chủ yếu xây dựng quốc lộ 279 dài gần 1.000 km, là con đường vành đai chiến lược nối 7 tỉnh biên giới phía bắc từ Quảng Ninh đến Điện Biên, góp phần đảm bảo cơ động lực lượng, binh khí kỹ thuật cho Bộ Quốc phòng làm nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Ngoài ra, Binh đoàn đã triển khai lực lượng nâng cấp hàng trăm kilômét đường bộ quốc lộ 6, 7, 8, 9, 18, đường Na Pheo - Si Pha Phin (Lai Châu), ... tham gia xây dựng 6 tuyến đường sắt Thống Nhất (đoạn Minh Cầm - Tiên An), Chí Linh - Phả Lại, Cao Sơn - Mông Dương, ...

Cùng với xây dựng giao thông, Binh đoàn còn tham gia xây dựng hàng loạt công trình quan trọng của Nhà nước như: thuỷ điện Hoà Bình, thủy điện Đray H'ling (Đắk Lắk), mỏ Apatit (Lào Cai), thiếc Quỳ Hợp, trồng cà phê ở Tây Nguyên ...

Vốn đã gắn bó với nhân dân nước bạn Lào từ nhiều năm chiến tranh chống Mỹ ở Trường Sơn, sau khi ngừng tiến súng, một số đơn vị của Binh đoàn với hơn 10 năm xây dựng cơ bản 9 tuyến đường của nước bạn Lào với tổng chiều dài 360 km đường, 36 cầu vĩnh cửu, đồng thời, giúp bạn đảm bảo giao thông vào mùa khô trên 4 tuyến đường dài 588 km. Một số đơn vị còn giúp bạn xây dựng các công trình kinh tế, văn hóa ở 4 tỉnh và huy động hàng nghìn chuyến xe chở lương thực.

Từ năm 1977 - 1988, Binh đoàn 12 đã mở mới, sửa chữa nâng cấp được trên 5.500 km đường (trên 500 km đường nhựa), 5.147 m cầu, 31.758 cống bê tông, đào đắp hàng chục triệu mét khối đất đá. Sự trưởng thành của Binh đoàn 12 đã gắn liền với nhiều công trình của Nhà nước. Những con đường, cây cầu, nhà máy,... do Binh đoàn xây dựng chính là những công trình kinh tế kết hợp với quốc phòng, góp phần củng cố quốc phòng và xây dựng kinh tế - xã hội vùng sâu, vùng xa của đất nước cũng như củng cố tình hữu nghị đặc biệt Việt - Lào.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 13 Tháng Sáu, 2010, 05:18:18 pm
Binh đoàn 12 - Tổng Công ty xây dựng Trường Sơn trong thời kỳ đổi mới

Từ năm 1989, thực hiện sự chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế theo quyết định của Nhà nước và Bộ Quốc phòng, Tổng Công ty xây dựng Trường Sơn được thành lập trên cơ sở tổ chức biên chế và các lực lượng của Binh đoàn 12 là doanh nghiệp kinh tế - quốc phòng tự hạch toán. Đây là thời kỳ hết sức khó khăn bởi cơ chế thị trường cạnh tranh gay gắt, quyết liệt. Kế thừa và phát huy truyền thống Bộ đội Trường Sơn và kinh nghiệm hơn 10 năm làm kinh tế và quốc phòng, Tổng Công ty từng bước vượt qua khó khăn thử thách.

Để duy trì sự ổn định và phát triển, Đảng ủy và Chỉ huy Tổng công ty đã đề ra chủ trương đổi mới toàn diện, sắp xếp tổ chức bộ máy đảm bảo tinh gọn, phù hợp với mô hình đơn vị làm kinh tế (giảm trên 2 vạn quân, trong đó có 3.500 sĩ quan); các cơ quan Binh đoàn chuyển từ cấp cục xuống cấp phòng theo cơ cấu chức năng của Tổng Công ty; các sư đoàn lữ đoàn, trung đoàn chuyển thành các công ty, xí nghiệp nhưng vẫn duy trì chế độ kỷ luật, nền nếp của quân đội.

Tổng Công ty luôn coi trọng và xác định nhiệm vụ xuyên suốt là sản xuất - kinh doanh đúng hướng, đúng pháp luật, đúng quy định của Bộ Quốc phòng; kết hợp chặt chẽ với việc xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện; kinh tế kết hợp với quốc phòng, hiệu quả kinh tế với hiệu quả chính trị - xã hội; phát huy truyền thống và sức mạnh tổng hợp.

Tổng Công ty đã đầu tư hàng nghìn tỷ đồng để đổi mới trang thiết bi công nghệ, nâng tổng số xe máy, thiết bị lên 2.100 chiếc, trong đó có một số thiết bị công nghệ thi công cầu đường tiên tiến, thi công thủy điện, các công trình sân bay, bến cảng, ... đáp ứng nhu cầu thi công các công trình lớn, hiện đại. Đội ngũ sĩ quan duy trì hợp lý, còn chủ yếu là quân nhân chuyên nghiệp, công nhân viên chức và lao động quốc phòng, trong đó đội ngũ lao động kỹ thuật chiếm trên 70% quân số và 25% có trình độ trung cấp chuyên môn trở lên.

Với lực lượng hùng hậu, Tổng Công ty đã thi công hàng nghìn công trình trên khắp mọi miền Tổ quốc, góp phần xây dựng kinh tế - xã hội và củng cố an ninh quốc phòng. Tống Công ty đã tham gia thi công các công trình lớn như: thuỷ điện Hoà Bình, đường dây 500 kv Bắc - Nam, đường cao tốc Bắc Thăng Long - Nội Bài, Láng - Hoà Lạc, quốc lộ 1A (đoạn Pháp Vân - Cầu Giẽ), Quốc lộ 5, nghiã trang liệt sĩ A1 (Điện Biên Phủ), Nghĩa trang Hàng Dương (Côn Đảo)...

Hiện nay, Tổng công ty đang triển khai thi công nhiều công trình trọng điểm như: thủy điện Sơn La, thủy điện Bản Chát (Lai Châu), thủy điện Buôn Kuốp, Buôn Tua Srah, Srêpốk 3 (Đắk Lắk), đường cao tốc Nội Bài - Bắc Ninh, Cầu Giẽ - Ninh Bình, đường Trường Sơn Đông, ... Ngoài ra, Tổng Công ty xuất khẩu nông sản từ nông trường cà phê (gần 400ha) ở Đắk Lắk. Trường Trung học cầu đường và dạy nghề của Tổng Công ty từ năm 1977 đến năm 1998 đã đào tạo được 13 khoá trung cấp cầu đường (1.018 người), 8 khoá công nhân xây dựng (370 người), bồi dưỡng và bổ túc cán bộ các loại (725 người), đào tạo đại học tại chức (53 người).

Với định hướng đúng đắn, Tổng Công ty đã từng bước vươn lên khẳng định mình. Giá trị sản lượng tăng trưởng bình quân 15 - 20%/năm (năm 1989 mới đạt 38,5 tỷ đồng thì năm 2007 đã đạt 1.600 tỷ đồng), nguồn vốn được đảm bảo và phát triển, lợi nhuận hàng năm đạt 2 - 2,5% trên giá trị doanh thu.

Vinh dự, tự hào được kế tục truyền thống vẻ vang của Bộ đội Đường Hồ Chí Minh anh hùng, hơn 20 năm qua trên lĩnh vực xây dựng kinh tế - quốc phòng, nhất là 10 năm tự hạch toán trong thời kỳ đổi mới, Tổng Công ty xây dựng Trường Sơn đã vượt qua khó khăn thử thách, tự khẳng định để đứng vững và phát triển trong cơ chế thị trường, góp phần khẳng định uy tín của quân đội làm kinh tế, góp phần cùng các doanh nghiệp nhà nước giữ vững vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân và thiết thực giữ gìn, tăng cường tiềm lực quốc phòng. sẵn sàng đáp ứng yêu cầu khi chiến tranh xảy ra, nhanh chóng chuyến thành thừng đơn vị công binh công trình phục vụ chiến đấu thắng lợi.

Với thành tích xây dựng kinh tế - quốc phòng, từ năm 1976 đến nay, Binh đoàn 12 - Tổng Công ty xây dựng Trường Sơn đã có 5 tập thể (Công ty Xây dựng 565, Công ty xây dựng 470, ...), 3 cá nhân được phong danh hiệu Anh hùng Lao động và hàng ngàn cán bộ, chiến sĩ được tặng Huân, Huy chương các loạt. Binh đoàn 12 - Tổng Công ty xây dựng Trường Sơn đã được tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhất, Nhì, Huân chương Quân công hạng Nhất, Nhì, Ba,... , đặc biệt là Huân chương Quân công hạng Nhì vào đúng dịp kỷ niệm 50 năm ngày mở đường Hồ Chí Minh và ngày truyền thống Bộ đội Trường Sơn (19/5/ 1959- 19/5/2009) .


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 13 Tháng Sáu, 2010, 05:19:04 pm
Phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ trong giai đoạn tới

Những thành quả trên đã nói lên phần nào những cố gắng của Đảng ủy, của tập thể cán bộ, chiến sĩ và người lao động thuộc Binh đoàn 12 - Tổng Công ty xây dựng Trường Sơn trong công cuộc đổi mới. Nhưng là một doanh nghiệp quốc phòng tự hạch toán nên Tổng Công ty cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn thử thách mới trong nền kinh tế thị trường. Để vươn lên thanh một trong những doanh nghiệp hàng đầu của quân đội nhân dân Việt Nam, trong những năm tới, Tổng Công ty đang nỗ lực phấn đấu thực hiện tốt các nhiệm vụ sau:

Một là, tiếp tục quán triệt sâu sắc chủ trương, đường lối của Đảng về nhiệm vụ sản xuất, xây dựng kinh tế của quân đội, nhiệm vụ xây dựng kinh tế kết hợp với quốc phòng, Tổng Công ty sẽ tập trung xây dựng tổ chức Đảng trong sạch, vững mạnh là khâu then chốt, sản xuất kinh doanh có hiệu quả là nhiệm vụ hàng đầu, gắn hiệu quả kinh tế với hiệu quả xã hội.

Hai là, xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện làm cơ sở thúc đẩy sản xuất phát triển, nâng cao hiệu quả kinh tế, tích cực tham gia xây dựng cơ sở chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh ở địa bàn chiến lược,vùng sâu vùng xa.

Ba là. kiên trì lấy định hướng cơ bản là chủ yếu, thực hiện đa dạng hóa sản phẩm, ngành nghề và công trình xây dựng, trong đó xây dựng công trình cầu đường sân bay, bến cảng, thủy điện, thủy lợi là trọng tâm; mở rộng và nâng cao năng lực xây lắp các công trình dân dụng và công nghiệp, xây dựng các chung cư cao tầng, cơ sở hạ tầng các khu công nghiệp, các nhà máy lớn,..

Bốn là, đầu tư xây dựng lực lượng có cơ cấu hợp lý, tăng tỷ lệ cán bộ kỹ thuật, công nhân lành nghề, tăng cường đầu tư đổi mới trang thiết bị công nghệ hiện đại đẩy mạnh liên doanh liên kết tạo sức cạnh tranh, xây dựng Binh đoàn 12 Tổng Công ty xây dựng Trường Sơn thành một đơn vị, một doanh nghiệp mạnh của quân đội, đủ sức cạnh tranh trong cơ chế thị trường và đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.

Năm là, tăng cường sự lãnh đạo của tổ chức Đảng các cấp, coi trọng công tác đảng, công tác chính trị. Giữ gìn và tăng cường tiềm lực quốc phòng, đáp ứng yêu cầu của binh đoàn công binh chiến lược của Bộ Quốc phòng.

50 năm xây dựng chiến đấu và trưởng thành, dưới sự lãnh đạo của Đảng, được sự giúp đỡ tận tình của cấp ủy Đảng và nhân dân các địa phương, sự phối hợp hiệp đồng của các cơ quan đơn vị trong và ngoài quân đội, các thế hệ cán bộ, chiến sĩ quân nhân chuyên nghiệp, công nhân viên chức, lao động quốc phòng Đoàn 559 - Bộ đội Trường Sơn - Binh đoàn 12 - Tổng Công ty xây dựng Trường Sơn luôn phát huy bản chất tốt đẹp, truyền thống vẻ vang của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, trung thành với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân; đoàn kết, mưu trí, kiên cường, dũng cảm trong chiến đấu; tích cực, chủ động, sáng tạo, tự lực tự cường trong lao động sản xuất, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 13 Tháng Sáu, 2010, 05:20:37 pm
ĐEM THÊM NIỀM TIN CHO CUỘC SỐNG
Cựu chiến binh - Doanh nhân Đoàn Xuân Tiếp


Ngày 15-11-2007, tại Hải Dương, cựu chiến binh, doanh nhân Đoàn Xuân Tiếp vinh dự đón nhận danh hiệu Anh hùng lao động thời kỳ đổi mới. Phần thưởng cao quý này không chỉ mang đến niềm vui cho anh Tiếp và hàng trăm lao động "đặc biệt" của Hồng Ngọc mà còn tiếp thêm sức mạnh cho những người làm nhân đạo.

Đường đến thành công của người lính lái xe trên đường Trường Sơn năm nào đã truyền ngọn lửa thương yêu, niềm tin cuộc sống tới những người khuyết tật.

35 năm sau cuộc chiến, khi lật tìm về miền ký ức, trong lòng người lính Trường Sơn năm nào đầy ắp những bâng khuâng: một cô y tá người Hà Nội vất vả, lóng ngóng với sợi miến dài cố bón cho người bệnh binh sốt rét. Câu chuyện nhỏ anh kể trong "Người đương thời” trên VTV1 chứa chan cảm xúc. Sự ngẫu nhiên ấy đã tạo nên một khoảnh khắc đáng nhớ trong thời đạn bom. Khi đó, giữa sự sống và cái chết, khát vọng sống của mỗi người thật mãnh liệt, và người chiến binh đường Trường Sơn hình dung tương lai khi mình chiến thắng tử thần. Xa dần trạm quân y dã chiến, ánh sáng cuộc sống, niềm tin ngày mai tươi đẹp dần trở về .

Đoàn Xuân Tiếp sinh năm 1950 tại xã Đại Lai, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh. Dù là con một trong gia đình nhưng hòa cùng khí thế cả nước ra trận, tháng 6/1972, anh xung phong nhập ngũ, được biên chế vào Trung đoàn 13 (Sư đoàn 571 thuộc Đoàn 559). Đó là lúc chiến tranh ác liệt nhất. Người lính lái xe Đoàn Xuân Tiếp đã cùng đồng đội của mình chạy qua những trọng điểm ác liệt của chiến trường: "tuyến lửa" khu IV, từ Đông Hà qua Bản Đông; từ Đak Rông đi A Lưới đến Quảng Nam, đường 14 Đắc Tô - Tân Cảnh; tây Trường Sơn qua Saravan, ... Đối điện với bom đạn, những con người cùng thế hệ anh đưa niềm tin cho ngày đại thắng. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước kết thúc, người lính trở về và những thử thách đời thường, những khát vọng mới đang chờ họ chinh phục.

Vươn lên thực hiện khát vọng

Đất nước thống nhất, Đoàn Xuân Tiếp được phân công về công tác tại Sân bay Gia Lâm, khi ấy anh vẫn còn ở độ tuổi đôi mươi nhưng một phần sức lực đã để lại với đại ngàn Trường Sơn. Có lần được cơ quan phân công trực Tết Nguyên đán, đúng lúc ấy cơn sốt rét ập về. Vật lộn với cơn tê cóng, Đoàn Xuân Tiếp nghĩ: người lính đã vượt qua được khó khăn, ác liệt của cuộc chiến tranh thì cũng vượt qua những thử thách của đời thường để vươn lên. Không chỉ sức khỏe hạn chế, người lính vốn chỉ biết lăn lộn trên chiến trường nay trở về đời thường còn bao thử thách khác. Nhưng vượt qua tất cả, anh đã chiến thắng.

Những năm 1980 - 1990, với sự năng động, chiu khó suy nghĩ cùng sự giúp đỡ của bạn bè đồng đội, gia đình anh mở một cơ sở sản xuất đá mỹ nghệ nhỏ. Người cựu chiến binh Trường Sơn không chỉ hoàn thành việc cơ quan mà còn hỗ trợ phát triển kinh tế gia đình. Cuộc sống êm trôi, có lúc, anh đã nghĩ tới những ngày nghỉ ngơi, đem chuyện hành quân trên đường Trường Sơn kể cho con cháu mình.

Song, công cuộc đổi mới ùa tới, lan vào từng ngõ ngách cuộc sống, các thành phần kinh tế bung ra. Bâng khuâng, anh nghĩ nếu là 10 năm về trước thì hào hứng biết bao, nhưng giờ đã có 23 năm quân ngũ. Cứ làm việc rồi đoàn viên cùng cháu con chẳng phải bình yên hơn sao? Cũng vào lúc ấy, hình ảnh cô y tá trong trạm quân y dã chiến hiện lên... Ngày ấy chính mình đã hứa nếu sống thì phải sống thật ý nghĩa không chỉ cho riêng mình.

Sau nhiều đêm trăn trở, anh đi đến quyết định xin nghỉ việc cơ quan để thực hiện khát vọng làm giàu, làm ấm no cho không chỉ riêng mình. Chọn đất Chí Linh Hải Dương làm nơi lập nghiệp, Đoàn Xuân Tiếp mở rộng cơ sở sản xuất đá mỹ nghệ của mình. Tháng 6/1996, được sự giúp đỡ của tỉnh Hải Dương, đặc biệt là Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh, Trung tâm nhân đạo Hồng Ngọc (tiền thân của Công ty trách nhiệm hữu hạn Hồng Ngọc) được thành lập tại thị trấn Sao Đỏ.



Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 13 Tháng Sáu, 2010, 05:20:45 pm
Những ngày ấy thật vô vàn khó khăn, thương trường thực sự là chiến trường; cơ chế và một số người thực hiện chính sách nhà nước chưa có sự thông thoáng thực sự là những rào cản lớn đối với doanh nghiệp. Trong khi đó, Công ty Hồng Ngọc lại chọn đối tượng lao động là những người khuyết tật. Cái khó cũng là đây: người khuyết tật sống nhờ gia đình, trình độ văn hóa không cao; phần lớn trong số họ lại mang nặng tâm trạng bi quan. Làm sao giúp họ có thể hòa nhập với xã hội'? Hơn thế, khi Trung tâm nhân đạo Hồng Ngọc ra đời, khách du lịch quốc tế đến nước ta thưa vắng, sản phẩm làm ra gần như không có chỗ tiêu thụ.

Tiền lương ban đầu rất thấp khiến nhiều công nhân nghỉ việc, Trung tâm lao đao; bản thân anh đã có lúc nghĩ đến bỏ cuộc. Nhưng một lần nữa ý chí của người lính lại giúp anh chiến thắng. Đoàn Xuân Tiếp bán cả những đồ quý trong nhà, vật dụng cá nhân, huy động đến đồng tiền cuối cùng vào nghiệp kinh doanh. Anh đôn đáo tìm cách hợp tác với các đơn vị tổ chức các tour du lịch, thuyết phục họ dẫn khách nước ngoài vào Trung tâm Hồng Ngọc.

Trời không phụ người có tâm, Hồng Ngọc dần khẳng định được chỗ đứng của mình và trở thành điểm đến hấp dẫn cho du khách. Từ một Trung tâm nhân đạo chỉ có vài chục công nhân, hoạt động trong khuôn viên 0,6ha, đến nay Hồng Ngọc đã có gần 700 cán bộ, công nhân viên với 3 cơ sở lớn : cơ sở Sao Đỏ và cơ sở Hoàng Tân ở huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương; cơ sở Chân - Thiện Mỹ ở huyện Quế Võ, Bắc Ninh. Ngoài ra, anh còn làm chủ 2 cơ sở khai thác, chế tác đá tại Nghệ An, Yên Bái.

Được sự hỗ trợ từ Tỉnh ủy, Sở Lao động- Thương binh xã hội 2 tỉnh Hải Dương và Bắc Ninh, bằng bàn tay trí óc Đoàn Xuân Tiếp đã vượt qua thử thách, nêu cao truyền thống "Bộ đội Cụ Hồ". Không chỉ làm giàu cho bản thân, Đoàn Xuân Tiếp đã tạo dựng nên một mô hình mới - mô hình doanh nghiệp cho người khuyết tật vì người khuyết tật.

Thắp sáng niềm tin cho người khuyết tật

Có người nói nghiệp kinh doanh của Đoàn Xuân Tiếp gắn liền với lòng yêu thương bởi ngay từ ngày đầu khởi nghiệp, anh đã chăm lo cho người khuyết tật. Anh bảo: "Chứng kiến những đứa con khuyết tật của đồng đội, mình rất xót xa và tự nhủ phải làm một điều gì đó để sẻ chia". Hơn thế, theo anh những khuyết tật còn có những điểm mạnh riêng, cái khó là đánh thức những điểm mạnh ấy. "Con cá" và "cần câu”, câu nói nghe ra quen quá rồi nhưng làm được nó thật khó. Đoàn Xuân Tiếp đã làm được, hàng trăm công nhân khuyết tật đã làm ra sản phẩm tự nuôi sống mình và thêm tin yêu cuộc sống.

Điều này được thực hiện ngay từ năm 1994, khi cơ sở sản xuất còn khiêm tốn của gia đình, anh đã kết hợp Hội Chữ thập đỏ huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội, mở lớp đào tạo nghề đầu tiên ở Cầu Chui. Kết quả bước đầu đó giúp anh mạnh dạn mở rộng bằng việc mở Trung tâm nhân đạo Hồng Ngọc tại Sao Đỏ với khóa đầu tiên chỉ dạy nghề chạm khắc đá, gỗ mỹ nghệ cho 60 học viên. Càng về sau, Trung tâm Sao Đỏ càng mở rộng về quy mô dạy nghề. Hàng trăm người đã theo học tại Trung tâm trong các lớp như: may, thêu, sơn mài, chạm khắc đá, sản xuất đồ gốm và kim hoàn. Công ty còn tổ chức cho các em học văn hóa, học ngoại ngữ, giao lưu, học tập kinh nghiệm ở các cơ sở bạn. Và một điều lạ lùng nhưng cũng đầy tự hào, nhiều anh chị em đã thành thạo từ 2 đến 3 ngoại ngữ.

Trong số những học sinh khuyết tật theo anh từ ngày đầu (năm 1996) có chị Lưu Thị Tình. Khi nghe đài phát thanh huyện thông báo có lớp dạy nghề cho người khuyết tật, miễn phí, có chỗ ăn chỗ ở, chị nộp đơn vào học ngay. Nhưng háo hức ban đầu qua đi rất nhanh, nhường chỗ cho khó khăn thực tế: cơ sở còn nhỏ chưa hoàn thiện, công việc phức tạp. Lùi bước chăng? Lưu Thị Tình nghĩ: họ là người xa lạ, họ đã đến và cho mình một cơ hội để vươn lên, vậy không có lý gì để mình không thành nghề. Giờ đây khi đã là người quản lý, đủ thu nhập để nuôi gia đình và giúp người em học đại học, chị đang là tấm gương sáng cho những thế hệ học trò tiếp theo của Công ty.

Không chỉ dạy nghề, tạo việc làm, Công ty của Đoàn Xuân Tiếp còn quan tâm đến đời sống của họ: không chỉ là những dụng cụ y tế, đảm bảo kịp thời sơ cứu cấp cứu mà còn là những đợt phẫu thuật miễn phí cho người khuyết tật. Từ năm 2000 đến nay, Công ty đã phối hợp với Hội Chữ thập xanh, tổ chức phi Chính phủ Mỹ tổ chức phẫu thuật chỉnh hình miễn phí 2 đợt cho 17 người khuyết tật tại Bệnh viện Tình Thương, tỉnh Nam Định và Bệnh viện Bạch Mai, Hà Nội.... Từ Hồng Ngọc, nhiều cô gái, chàng trai đã nên duyên vợ chồng cùng xây tổ ấm. Hồng Ngọc là, một mái nhà đầy tình thương luôn rộng cửa với mỗi người khuyết tật.

Chia tay với cựu chiến binh, doanh nhân Đoàn Xuân Tiếp, chúng tôi nhớ mãi câu chuyện anh kể: vào dịp 20-11-2001, anh đi công tác tới 11 giờ khuya mới về xưởng nhưng vẫn thấy một nhóm em khuyết tật. Trời lúc đó rất lạnh, các em đứng nép bên cổng chờ anh về chỉ để tặng một bó hoa rất giản dị. Ồ cái được của đời doanh nhân không chắc đã phải là sản nghiệp mà chính là sự đồng cảm biết sẻ chia.
Tạm biệt người cựu chiến binh Trường Sơn, chúng tôi ra về mang theo niềm cảm phục về tinh thần và nghị lực của anh, mang theo những niềm tin của cuộc sống đang dần được thắp sáng.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 13 Tháng Sáu, 2010, 05:21:58 pm
NƠI TÌNH YÊU CHÁY MÃI
(Trọng Đạt thực hiện)

17 tuổi chị đã là một nữ văn công Trường Sơn. Nơi ấy chị đã dành cả một thời tuổi trẻ để cống hiến cho Tổ quốc, để yêu và để có thêm nghị lực. Giờ chị đã là một người vợ hạnh phúc bên người chồng luôn dành bờ vai để chị ngả đầu mỗi lúc buồn vui. Là người mẹ của hai cô con gái giỏi giang, xinh đẹp. Là một nữ doanh nhân thành đạt, với một trang trại 50 ha, lập công ty có doanh thu cả tỷ đồng mỗi tháng. Là một phụ nữ nhân hậu, sẵn sàng sẻ chia, cưu mang những mảnh đời khốn khó. Nhưng chị vẫn thường tâm sự với bạn bè, nếu có thể đánh đổi tất cả để sống lại những năm tháng Trường Sơn, chị cũng không hề do dự, bởi với chị, Trường Sơn là máu thịt, là nơi tình yêu cháy mãi.

Quê chị ở thành Nam, nơi người phụ nữ vốn có tiếng đảm đang, tháo vát. Bố là cán bộ kỹ thuật, mẹ là công nhân Nhà máy dệt Nam Định. Là con thứ tư trong một gia đình có chín người con. Trong tâm trí của chị vẫn thường bị ám ảnh với hình ảnh nồi cơm còn nóng bốc hơi mà cơm đã hết rồi.

Thiếu thốn đủ đường, nhưng bố chị vẫn thường khuyên các con: "Bố không có tiền nong của cải cho các con, bố chỉ cho các con cái chữ. Nó sẽ giúp các con biết cách sống để thành người". Những lời căn dặn ấy đã theo các chị em chị suốt cuộc đời. Có lẽ vì thế mà dù trong hoàn cảnh khó khăn đến đâu họ vẫn vượt qua thử thách, và đều thành đạt. Còn với chị, từ những lời căn dặn ấy, cùng với những năm tháng Trường Sơn máu lửa đã tiếp thêm nghị lực để sống, để chiến đấu và để hạnh phúc.

Tôi gặp chị đúng dịp cả nước đang náo nức chuẩn bị lễ kỷ niệm 50 năm ngày truyền thống Bộ đội Trường Sơn. Chị như trẻ lại như sống lại một thời tuổi trẻ. Chị bận rộn tối ngày, không phải chỉ chuyện kinh doanh mà là tham gia các cuộc hội ngộ, những chuyến đi làm từ thiện...Và trong không khí phấn chấn ấy, chị đã kể cho tôi nghe những kỷ niệm Trường Sơn, nơi tình yêu hòa quyện trong tình đồng chí, đồng đội để rồi trong hành trang ngày trở về của mỗi người lính Trường Sơn luôn ấm áp nghiã tình.

Tuổi 14 và khát vọng lên đường

14 tuổi, cái tuổi chưa đủ trải nghiệm để cảm nhận về Tổ quốc, về độc lập. Vậy mà cô bé Vũ Thúy Lành đã trốn nhà, dối tuổi, tình nguyện vào tuyến lửa. Chị bảo: "Chính cái hối hả, gấp gáp của đất nước trong những ngày chiến tranh khốc liệt đã cuốn hút tôi". Mỗi lần cắp sách đến trường, nhìn những chàng trai, cô gái trong màu xanh áo lính khiến lòng chị háo hức, nôn nao.

Dịp đó có đoàn văn công về tuyển nữ diễn viên vào phục vụ Bộ đội Trường Sơn, chị đã tham gia và trúng tuyển vòng đầu, nhưng không ai đồng ý khi biết chị mới 14 tuổi.

Chị còn nhớ người trực tiếp làm công tác tuyển quân, chị vẫn gọi là "chú Cường". Khi biết mình không được nhận vào tuyến, chị đã gặp chú và khóc. Chị bảo: "Nhà cháu không có anh trai, nên chưa có ai đi bộ đội. Nhà ai cũng có người vào quân đội, chỉ nhà cháu là chưa có. Xin chú cho cháu đi. Nếu không cháu sẽ bỏ học và đi làm ăn thật xa". Những lời nói trong veo của một cô bé khiến “chú Cường" cảm động. Thế là "chú Cường" đã đồng ý gửi chị vào Trường múa của Tống cục Chính trị, chờ đến khi tròn 17 tuổi sẽ được vào Trường Sơn.

Tháng 12/1973 chị lên đường. Được phân công vào đoàn múa nghệ thuật của Đoàn văn công đội Tuyên văn, Sư đoàn bộ binh 968 - Quân tình nguyện Nam Lào. Tuổi 17, vừa rời xa vòng tay gia đình đã phải đối mặt với cuộc chiến. Trong tâm trí của chị không thể quên những lần đang biểu diễn thì bị lộ và bị máy bay địch ném bom, thám báo lùng bắt. Địch còn rải truyền đơn nói rằng chị đã bị bắt và đòi tiền chuộc. Rồi lần đầu tiên bị sốt rét, cơn nóng lạnh thất thường, mồ hôi rịn ra thấm vào mặt đất. Cái nóng, cái rét như từ trong ruột, trong gan. Nhưng vừa bình phục là chị lại tung tăng trên sàn diễn.

Hình ảnh cô bé Lành nhí nhảnh hồn nhiên như bông hoa thắm giữa rừng, mang đến những giây phút yên bình hiếm hoi sau mỗi cuộc đối đầu máu lửa. Là một diễn viên múa, lại thuộc sư đoàn bộ đội tình nguyện chiến trường Lào, một trong những mặt trận tàn khốc, nhiều lúc chị đã không dám nghĩ đến ngày về. Nhưng sự hồn nhiên của tuổi trẻ, lại được các thủ trưởng và đồng đội dìu dắt đã giúp chị vững vàng để đi hết cuộc chiến tranh.

Gần 40 năm qua, cứ mỗi lần có dịp ôn lại quá khứ, chị lại thấy tự hào với những tháng ngày đẹp đẽ ấy. Chị bảo: "Tôi chỉ ước ao cuộc đởi của mình có dịp sống lại những ngày oanh liệt ấy để được ôm ấp nâng niu”. Những ngày ăn lương khô, uống nước suối, đối mặt với mất mát, hy sinh nhưng thật đẹp và trong sáng.

Hình ảnh những cô gái ngây thơ, đội mũ tai bèo, sắn quần lội suối nhưng miệng vẫn hát vang bài “anh vẫn hành quân". Tiếng hát ấy có thể chưa hay, phong cách biểu diễn không chuyên nghiệp nhưng lại có sức lay động, lại đi vào lòng biết bao chiến sĩ. Với chị, Trường Sơn đã là một phần xương thịt của mình.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 13 Tháng Sáu, 2010, 05:22:51 pm
Tình yêu thuở ấy

Cô bé 17 tuổi với những điệu múa mượt mà đã lay động tâm hồn bao chiến sĩ. Qua chị, họ tìm thấy hình bóng của quê hương, của mẹ tần tảo sớm hôm. Và trong hàng nghìn ánh mắt ấy đã có một ánh nhìn đam mê. Chị đã nhận ra anh và chị đã yêu với một tình yêu lửa cháy.
Kể đến đây tôi thấy chị ngập ngừng. Chị bảo đã có nhiều người đến gặp chị với ý tưởng sẽ viết thành một cuốn tiểu thuyết, nhưng chị chối từ. Bởi tình yêu của chị được viết lên bằng cả cuộc đời, cả những mất mát, hy sinh đâu dễ đem sẻ chia với mọi người được.

Sau một năm vào chiến trường, trong một lần đi biểu diễn ở Sa Ra Van, địa danh thuộc một tỉnh cao nguyên (nước Lào) chị đã gặp anh. Lúc đó đoàn của chị ở sát một trạm thông tin thuộc một trung đoàn bộ binh. Người cùng với chị viết lên câu chuyện tình lãng mạn giữa rừng Trường Sơn có tên Nguyễn Thanh Tùng. Anh quê ở Cổ Đô, Ba Vì, Hà Tây (nay thuộc Hà Nội). Phải 25 năm sau chị mới có địa chỉ rõ ràng thế. Khi quen nhau, rồi yêu, chị chỉ biết anh ở Hà Tây, nhưng cụ thể ở đâu thì không nhớ rõ. Tình yêu trong bom đạn đâu cần phải tìm hiểu quá nhiều.

Hai người quen nhau cũng thật tình cờ. Hai doanh trại đóng ở gần nhau, mỗi lần chị ra sân tập múa, hay ra suối giặt quần áo thì hai người gặp nhau. Chung một bờ rào, chung một dòng suối, một bến nước và tình yêu nảy nở. Tuổi 18, sẵn sàng yêu thương, vậy mà suốt 2 năm họ cũng chỉ dừng lại ở những ánh nhìn âu yếm, những cái nắm tay vội vàng. Chị bảo, đó chính là nét đẹp nhất của tình yêu Trường Sơn. Có những đôi nam nữ nằm chung với nhau trong một chiến hào để tránh đạn, nhưng họ vẫn vượt qua được ham muốn nhục dục. Bởi kỷ luật chiến trường, bởi tư cách của một quân nhân không cho phép họ vượt qua giới hạn.

Nhưng tình yêu của chị không thể tới đích. Sau hai năm quen nhau, năm 1975, đơn vị của anh về nước, tham gia chiến dịch giải phóng miền Nam. Chị vẫn còn nhớ cái đêm chia tay ấy. Hai tiếng đồng hồ ngồi với nhau ở cổng doanh trại, lần đầu tiên họ trao cho nhau nụ hôn đầu. Động viên anh rắn rỏi lên đường, chị nói với anh rằng: vì độc lập, vì kỷ luật của người lính, không thể không chấp hành mệnh lệnh. Không thể vì tình yêu mà quay lưng với đồng đội, với Tổ quốc.

19 tuổi yêu và sống, và đã biết hy sinh. Chỉ có trong chiến tranh, trong bom đạn mới rèn đúc được những con người như thế.
Và họ chia tay với niềm tin ngày giải phóng sẽ tìm thấy nhau. Anh bảo: "Nhà anh nằm bên bờ sông Hồng. Nếu em về Việt Nam thì cứ đi dọc bờ sông Hồng là sẽ đến nhà anh". Và hàng chục năm sau chị vẫn khắc khoải nhớ câu nói ấy.

Thân gái dặm trường

Khi chia tay người yêu, do bị sốt rét, sức khỏe suy giảm nên chị không thể tiếp tục làm diễn viên múa. Năm 1976, chị được chuyển sang học nghề y tá. Tốt nghiệp chị đi phục vụ cho một đội nghệ thuật. Đến năm 1977 chị ra tuyến. Chị được cử đi học về nông nghiệp, học ghép cây, trồng lúa. Rồi chị đi chăn dê. Được giao quản lý cả đàn dê 700 con, chỉ có trong tay chiếc đàn acmonica, chị đã huấn luyện đàn dê thuần thục. Chính từ đó mà chị đam mê nghề chăn nuôi và đó cũng là vốn kiến thức đầu tiên cho con đường khởi nghiệp của chị sau này.

Năm 1978, chị ra quân và cũng là lúc chị phải đối mặt với những tháng ngày bi kịch. Chị lấy chồng, có con và thi đỗ Đại học Ngoại giao (nay là Học viện Quan hệ quốc tế). Ra trường chị đi xuất khẩu lao động 4 năm tại Tiệp Khắc, với mong muốn sẽ kiếm được nhiều tiền để chăm lo cho chồng, cho con.

Ở xứ người, chị mải mê kiếm tiền, phải thức trắng đêm đan móc áo bán cho người nước ngoài. Rồi chị mua xích líp xe đạp và gửi về nước. Vất vả là thế, nhưng đổi lại là sự bất hạnh.

Gia đình chị tan vỡ. Không hiểu bằng phép lạ nào mà chị đã vượt qua giai đoạn khó khăn ấy. Một mình bươn chải để gây dựng sự nghiệp và trở thành một nữ doanh nhân thành đạt. Chị bảo có lẽ chính những năm tháng Trường Sơn đã tiếp cho chị nghị lực. Những kỷ niệm Trường Sơn đã làm dịu vợi trái tim chị mỗi khi rỉ máu. Và hơn hết chị còn có các con, chỗ dựa tinh thần để chị đứng dậy và sống.

Nhưng rồi hạnh phúc đã đến khi chị gặp anh V, giờ là chồng của chị. Người đàn ông điềm tĩnh, ít nói và rắn rỏi. Anh là một sĩ quan không quân. Cuộc đời của anh cũng là một chuỗi ngày bất hạnh. Vợ mất vì tai nạn giao thông. Anh ở một mình nuôi hai con nhỏ. Vốn đã quen anh từ lâu, nhưng giữa họ mới chỉ dừng lại ở tình đồng đội. Chứng kiến nỗi đau của anh, trái tim chị đã động lòng trắc ẩn. Rồi được sự vun vén của đồng đội, hai người đến với nhau. Chị bảo, khi gặp anh, chị thực sự tìm thấy hạnh phúc.

Sự đồng cảm của người lính cùng với sự trải nghiệm đằng sau những mất mát khiến anh có đủ bao dung và sẻ chia những vui buồn với chị. Sống với nhau gần 20 năm, anh không thể đem lại cho chị nguồn tài chính dồi dào, cũng không cho chị thêm một đứa con. Nhưng anh luôn dành bờ vai để chị ngả đầu sau một ngày mệt nhọc.

Chị bắt tay vào làm kinh tế từ những đồng vốn ít ỏi khi đi xuất khẩu lao động. Nắm bắt cơ hội khi đất nước mở cửa, hội nhập, chị bước vào con đường kinh doanh. Năm 2003, chị đầu tư một trang trại rộng 50 ha tại tỉnh Hòa Bình. Chị trồng keo, đào ao thả cá, chăn nuôi gà, trâu bò, dê. Tại đây, chị còn xây dựng nhà trẻ và bệnh xá, chị vừa là giáo viên, vừa làm y tá để giúp bà con địa phương.

Chị thành lập Công ty tại Bình Dương, tạo việc làm cho gần 1.000 lao động. Rồi chị tiếp tục mở rộng chi nhánh công ty tại Hưng Yên. Chị thường tâm niệm, chính những năm tháng Trường Sơn đã cho chị kiến thức, bản lĩnh để đối mặt với thách thức của thị trường, tạo bước phát triển bền vững cho doanh nghiệp.



Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 13 Tháng Sáu, 2010, 05:23:15 pm
Hơn cả tình yêu

Trở thành một người vợ, người mẹ, nhưng chị vẫn không quên những năm tháng Trường Sơn, nơi tình đồng đội, đồng chí còn mãi với thời gian. Trong bộn bề của cuộc sống đời thường, chị vẫn canh cánh bên lòng khi nghĩ đến "người xưa”. Không biết anh còn hay đã mất và lời hứa ngày đất nước độc lập sẽ gặp lại khiến chị quyết tâm đi tìm. Chỉ biết nhà anh nằm bên bờ sông Hồng và trong suốt 25 năm, không biết bao lần chị tìm về bên dòng sông ấy. Nếu không có một niềm tin và sự động viên của chồng, chắc chị không thể đi hết đoạn đường để tìm thấy anh.

Đã gần 10 trôi qua, nhưng chị vẫn còn nhớ cái ngày hai người gặp nhau. Đó là một buổi chiều chị đến bến xe Trung Hà, cũng như mọi lần chị lại đi tìm dọc bờ sông. Nhưng lần này may mắn hơn bởi chị tình cờ gặp một người phụ nữ, nhà cũng có người là bộ đội Trường Sơn đã hy sinh và có mẹ được phong tặng Bà mẹ Việt Nam Anh hùng. Xúc động với câu chuyện của chị, người phụ nữ ấy đã nhờ người đưa chị đi tìm. Và lần đó chị đã tìm thấy nhà anh.

Cả nhà anh xúc động khi biết chị chính là cô văn công tên Lành. Bởi những lá thư của chị gửi, anh Tùng vẫn giữ, và câu chuyện tình yêu về một cô văn công nơi hỏa tuyến anh vẫn thường kể cho mọi người. Họ gặp nhau, mừng tủi, vui sướng. Lúc này chị mới biết anh đã lấy vợ và có ba con.

Và trong hành trình đi tìm người yêu cũ, nguồn động viên nhiều nhất lại chính là chồng chị. Anh dõi theo từng bước chân của vợ. Chính tình yêu mãnh liệt của chị đã chinh phục anh, làm cho anh thấy tự hào. Chị bảo với anh rằng: “em tìm anh ấy, nếu anh ấy có là liệt sĩ thì em sẽ thắp cho anh ấy một nén nhang và sẽ thay mặt anh ấy để chăm nom bố mẹ. Nếu anh còn thì vợ chồng mình sẽ có thêm một người bạn". Và anh đã đồng cảm với chị, giúp chị tìm được người yêu cũ.

Chị tìm "người xưa" không phải để đến với nhau. Đi tìm để lời hứa trọn vẹn, để nghĩa tình Trường Sơn mãi mãi đong đầy. Hai năm quen nhau, đổi lại là cả một hành trình 25 năm thực hiện lời hứa. Chỉ khi tìm thấy anh, chị mới thanh thản. Lúc này anh đã yên bề gia thất, thấy gia cảnh anh Tùng khó khăn, vợ chồng chị đã cưu mang các con. Sau khi chu cấp cho ba người con của anh học hành, thành đạt, vợ chồng chị còn xây tặng cho anh Tùng một căn biệt thự tại Cổ Đô, bên bờ sông Hồng.

Đến khi đó, chị mới cảm thấy nhẹ nhõm, chồng chị cũng khuyên chị rằng: "Em làm thế là đủ rồi, đã đến lúc phải dành phần cho chị ấy". Giờ đây, hai gia đình họ đã trở thành những người bạn tốt. Chỉ có những người lính Trường Sơn trải qua những khoảnh khắc của sự sống và cái chết mới có những tình cảm trong sáng, vị tha đến thế.

Giờ chị đã có một gia đình hạnh phúc, các con của chị đều trưởng thành. Niềm vui lớn nhất của chị là thấy các con mạnh khỏe, thông minh. Điều mà nhiều đồng đội của chị không có được. Chính vì thế, chị coi việc làm từ thiện là cách để tri ân với đồng đội. Chị đến từng nhà, giúp vốn, giúp kiến thức để đồng đội có thể tạo công ăn việc làm. Chị không tiếc thời gian, công sức, tiền bạc để giúp những đồng đội không may mắn và những đồng vốn ấy đà giúp nhiều người thoát khỏi khó khăn.

Chưa có bài báo nào viết về chị, chị bảo mình làm là vì cái tâm, vì những kỷ niệm Trường Sơn, đâu phải để đánh bóng mình. Suy nghĩ ấy thật giản dị, nó không có ở bất kỳ trường đại học hay giáo trình đạo đức nào. Nó chỉ có được từ những năm tháng Trường Sơn khốc liệt, nhưng rất đỗi tự hào.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 13 Tháng Sáu, 2010, 05:24:49 pm
Tổng Công ty Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex)
TỪ GIAN KHÓ VƯƠN TỚI MỤC TIÊU TRỞ THÀNH MỘT TẬP ĐOÀN KINH TẾ MẠNH
Vũ Ngọc Hải - Chủ tịch Hội đồng quản trị Tổng Công ty Petrelimex

Với 41 Công ty Xăng dầu, 23 Công ty cổ phần, 3 Công ty liên doanh liên kết, 1 chi nhánh Petrolimex tại Singapore với hơn 1.700 cửa hàng bán lẻ xăng dầu hoạt động trên khắp mọi miền của Tô quốc, Tổng Công ty Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex) đang ngày càng phát triển bền vững. Thương hiệu chữ "P” ngày càng chiếm được lòng tin của khách hàng trong và ngoài nước.

Tổng Công ty Xăng dầu Việt Nam tiền thân là Tổng Công ty Xăng dầu mỡ được thành lập theo Nghị định số 09/BTN-NĐ.KB ngày 12-1-1956 của Bộ Thương nghiệp và được thành lập lại theo Quyết định 224/TTG ngày 17-4-1995 của Thủ tướng Chính phủ. Theo Quyết định này, Tổng Công ty Xăng dầu Việt Nam là doanh nghiệp nhà nước hạng đặc biệt trực thuộc Bộ Thương mại (nay là Bộ Công Thương). Từ khi thành lập đến nay, dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào, Tổng Công ty luôn hoàn thành nhiệm vụ được Đảng và Nhà nước giao.”

Dòng xăng vào chiến trường

Ngay khi thành lập, Tổng Công ty Xăng dầu mỡ (từ tháng 4-1964 là Cục Xăng dầu mỡ) bắt tay ngay vào việc kiện toàn tổ chức, đồng thời tích cực tham gia vào công cuộc xây dựng chủ nghiã xã hội ở miền Bắc. Năm 1965, giặc Mỹ leo thang chiến tranh, đánh phá miền Bắc mà một trong những trọng điểm mà chúng dồn sức phá hoại là các kho, các tuyến tiếp tế xăng dầu. Cuộc chiến giành lại xăng, mở đường cho xăng vào kho, bảo vệ xăng có khi phải đánh đổi bằng máu của những người công nhân cán bộ Tổng Công ty.

Nhưng vượt qua bom đạn, vượt qua những mất mát hy sinh và những lần các tổng kho xăng dầu bị đánh phá, những chiến sĩ xăng dầu vẫn luôn đảm bảo cho dòng xăng không ngừng vươn tới chiến trường. Họ đã có mặt ở khắp các nẻo đường ra trận trên các cung đường Trường Sơn huyết mạch. Từ điểm đầu là Tổng kho B 12 tại Quảng Ninh, xăng dầu được bơm tới các kho ở Hải Dương, Hà Nội (Đức Giang), Thanh Hóa (Đinh Hương), Nghệ An (Vinh, Bến Thủy, Tân Kỳ, Nam Đàn ....)... để tiếp vận ra tiên tuyến.

Năm 1968, Trung ương quyết định xây dựng "đường Trường sơn xuyên lòng đất", những cán bộ ngành xăng dầu đã cùng chiến sĩ đường Trường Sơn làm nên một huyền thoại. Trong bảy năm (1968 - 1975), cán bộ ngành xăng dầu đã xây dựng nên đường ống kéo dài từ biển cả vào nội địa, từ Bắc vào Nam. Đường ống đó xuyên lòng biển vượt sông suối, núi đèo, cánh đồng qua cả những tọa độ lửa vào thẳng tới chiến trường để quân dân ta đánh Mỹ.

"Có ai dám vượt Cổng Trời
Để cho suối chảy ngược đồi lên non
Cổng Trời mở rộng chọc thông đỉnh đồi
Đưa bể lớn chứa xăng dầu
Khẩn trương đáp ứng nhu cầu tiền phương
"

Đó là những câu thơ, niềm tự hào rất riêng của cán bộ ngành xăng dầu khi góp tay xây dựng đường Trường Sơn xuyên lòng đất. Ghi nhận những công lao ấy, Nhà nước đã phong tặng 8 đơn vị thành viên của Tổng công ty danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân và 1 cá nhân đạt danh hiệu Anh hùng lao động. 31 cán bộ công nhân viên Tổng Công ty đã anh dũng hy sinh trong khi làm nhiệm vụ và được công nhận liệt sĩ.

Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thắng lợi, những người lính xăng dầu khi xưa bắt tay vào nhiệm vụ mới, không bom đạn nhưng cũng rất cam go, quyết liệt



Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 13 Tháng Sáu, 2010, 05:25:14 pm
Nhiên liệu cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Sau khi đất nước thống nhất, cùng cả nước vượt qua gian khó, Tổng Công ty Xăng dầu đã lập được những thành tích vẻ vang và được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhì, một cá nhân được phong tặng danh hiệu Anh hùng lao động và nhiều cá nhân, tập thể đã được tặng thưởng Huân chương Lao động. Đó là hành trang góp thêm động lực để Tổng Công ty chuyển sang một giai đoạn phát triển mới.

Năm 1986, Tổng Công ty chuyển sang hạch toán kinh doanh và bắt đầu giại đoạn phát triển toàn diện cả về chiều rộng và chiều sâu. Tổng Công ty đã phát triển sang các lĩnh vực kinh doanh như: vận tải xăng dầu viễn dương, gas, dầu mỡ nhờn, nhựa đường, thiết kế và xây lắp các công trình xăng dầu, bảo hiểm, tài chính, bất động sản, v.v.. Đến nay đã có nhiều lĩnh vực đứng hàng đầu tại Việt Nam.

Bên cạnh đó, Tổng Công ty tiếp tục mở rộng quy mô, hiện đại hoá hệ thống cơ sở vật chất và thiết lập mạng lưới kinh doanh xăng dầu, xác lập cơ chế kinh doanh phù hợp đặc thù từng giai đoạn; áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến vào quản lý sản xuất.. Những nỗ lực đó đã đem lại hiệu quả trong kinh doanh, đáp ứng thuận tiện nhu cầu xăng dầu từ thành thị đến nông thôn, đến vùng sâu, vùng xa của Tổ quốc, vươn ra xuất khẩu dầu. Petrolimex trở thành một thương hiệu quen thuộc với người tiêu dùng cả nước, một địa chỉ tin cậy của các đối tác, khách hàng nước ngoài.

Hiện nay, Tổng Công ty hoạt động trên 13 lĩnh vực khác nhau nhưng đều phục vụ cho nhiệm vụ chính là kinh doanh xăng dầu. Năm 2008, lợi nhuận trước thuế của toàn Tổng Công ty đạt 1.082 tỷ đồng, nộp ngân sách nhà nước 16.500 tỷ đồng. Những lĩnh vực đặc biệt quan trọng như vận tải xăng dầu, các sản phẩm hóa dầu, gas, thiết kế, xây lắp xăng dầu và sản xuất thiết bị chuyên dùng luôn khẳng định được vị thế của Petrolimex trên thị trường.

Những lĩnh vực mới như ngân hàng - tài chính, bất động sản đã và đang vượt qua những thách thức, biến động của nền kinh tế. Đặc biệt năm 2008, để đáp ứng nhu cầu nhiên liệu phục vụ cho ngành hàng không, Petrolimex đã bắt đầu triển khai kinh doanh mặt hàng nhiên liệu bay, cung ứng tại thị trường nội địa và xuất khẩu sang nước bạn Lào và Campuchia. Và tháng 2 - 2009, tại nhà máy lọc hóa dầu Dung Quất, dòng xăng dầu mang thương hiệu "Ma de in Việt Nam" lần đầu tiên xuất xưởng.

Vận tải xăng dầu: Petrohmex tiếp tục duy trì vị trí dẫn đầu về vận tải viễn dương và vận tải bộ. Tổng Công ty có đội tàu với tổng trọng tải 300.000 DWT trực tiếp vận chuyển gần 70% lượng xăng dầu nhập khẩu. Vận tải bằng đường ống, đường bộ và đường sông đáp ứng được đầy đủ và liên tục cho các nhu cầu trong nước và xuất khẩu sang nước bạn Lào và Campuchia. Doanh thu vận tải đạt 5.737 tỷ đồng.

Các sản phẩm hoá dầu (dầu nhờn, nhựa đường, hoá chất,v.v.. tiếp tục đạt mức độ tăng trướng tích cực về số lượng và hiệu quả, khẳng định vị trí dẫn đầu trong một số lĩnh vực như nhựa đường với sản lượng trên 110.000 tấn, doanh.thu đạt 2.909 tỷ đồng. Mặt hàng gas doanh thu đạt 1.700 tỷ, khẳng định vị trí số một về kinh doanh gas tại Việt Nam.

Có thể nói, từ khi thành lập đến nay, Tổng Công ty đã luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao. Petrolimex đã và đang khẳng định vai trò chủ đạo của một Tổng Công ty nhà nước góp phần quan trọng trong việc điều tiết ổn định thị trường xăng dầu và các sản phẩm hoá dầu, cùng Chính phủ thực hiện các mục tiêu: kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội; góp phần vào thực hiện thắng lợi mục tiêu Đảng và Nhà nước đề ra "dân giàu, nước mạnh, xà hội công bằng, dân chủ, văn minh”.

Ghi nhận những thành tích nổi bật này, Nhà nước đã tặng thưởng cho Tổng Công ty Huân chương Độc lập hạng Nhất và Huân chương Chiến công hạng Nhì, phong tặng danh hiệu Anh hùng lao động thời kỳ đổi mới cho 2 đơn vị thành viên; vinh danh 5 Chiến sĩ thi đua toàn quốc và tặng 114 Huân chương Lao động cho tập thể và các cá nhân của Petrohmex.

Phát huy truyền thống, đưa con người là trung tâm, từ đó khơi dậy sức sáng tạo, khẳng định văn hoá doanh nghiệp, Petrohmex chuẩn bị cho bước tiến trở thành một tập đoàn kinh tế nhà nước vững mạnh và năng động.

Cùng với đó, Tổng công ty tập trung vào những nhóm giải pháp sau: tiếp tục đa dạng hoá có chọn lọc các lĩnh vực kinh doanh; đẩy mạnh việc ứng dụng các dịch vụ tiên tiến; chương trình hiện đại hoá quản lý và áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất kinh doanh. Bên cạnh lĩnh vực hạ nguồn, Petrolimex sẽ đầu tư mạnh vào lĩnh vực lọc dầu, hoá dầu và các lĩnh vực khác trong lĩnh vực thượng nguồn dầu khí; khai thác các tiềm năng kinh tế biển; thúc đẩy kinh doanh trên thị trường quốc tế và khu vực, đặc biệt là tại Singapore - một trong những trung tâm thương mại lớn của thế giới về xăng dầu.

Và mục tiêu trở thành một tập đoàn kinh tế mạnh, năng động cạnh tranh thành công trên thị trường quốc tế là điều mà chúng tôi, những cán bộ, công nhân của Petrolimex tin tưởng sẽ đạt được.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 13 Tháng Sáu, 2010, 05:26:33 pm
TẬP ĐOÀN CAO SU VIỆT NAM - TRƯỞNG THÀNH CÙNG ĐẤT NƯỚC

Tập đoàn cao su Việt Nam là một trong những tập đoàn kinh tế hàng đầu Việt Nam, có nhiều thành tựu và đóng góp quan trọng trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước thời hòa bình.

Lịch sử kiêu hùng

Lịch sử ra đời và hình thành ngành khai thác cao su, giai cấp công nhân cao su; phong trào đấu tranh của công nhân cao su gắn liền với chính sách khai thác thuộc địa của chủ nghĩa thực dân Pháp.

Từ năm 1858, khi thực dân Pháp nổ phát súng đầu tiên bắt đầu cuộc đánh chiếm Việt Nam, nhận thấy điều kiện thuận lợi của thổ nhưỡng ở đây thích hợp với cây cây cao su, chúng đã đầu tư phát triển cây cao su trên vùng đất Đông Nam Bộ, diện tích cây cao su vì thế tăng lên rất nhanh. Các đồn điền cao su dần dần lan rộng khắp miền đất đỏ Nam Kỳ.

Sự tăng lên về quy mô khai thác khiến người dân địa phương không đáp ứng được lượng nhân công cho các đồn điền, do đó chúng phải ra Bắc, ra Trung để tuyển mộ mà chúng hay gọi là "mộ phu” hay "chiêu mộ nhân công giao kèo". Công nhân bị bóc lột thậm tệ: tăng giờ làm, cúp lương, thậm chí bị đánh đập, lăng nhục,... do đó phong trào đấu tranh của công nhân cao su dâng cao.

Sau thực dân Pháp đến đế quốc Mỹ, việc bóc lột công nhân tuy có thay đổi về hình thức nhưng bản chất vẫn là một. Phong trào đấu tranh của công nhân cao su vẫn liên tục tiếp diễn.

Từ sau năm 1968 đến ngày giải phóng đất nước, mức độ bom pháo của Mỹ - ngụy càng ác liệt, các kế hoạch bình định, gom dân được tiến hành khốc liệt hơn, chiến dịch bình định của địch liên tiếp mở ra đi đôi với việc bắt lính đôn quân của ngụy quyền... Nhiều phong trào đấu tranh của công nhân liên tục nổ ra, trong đó Dầu Tiếng và Bình Sơn là hai nơi có phong trào công nhân đấu tranh mạnh mẽ và làm công tác binh địch vận đạt hiệu quả cao.

Cố Tổng Bí thư Lê Duẩn đã viết: "Lịch sử đấu tranh của công nhân cao su Đông Nam Bộ là lịch sử đấu tranh liên tục".

Trong kháng chiến chống Mỹ, rừng cao su là nơi bộ đội đóng quân. Gỗ cao su dùng làm hầm trú ẩn, hầm giấu xe tăng và pháo hạng nặng. Rừng cao su nông trường Việt Trung, nông trường Phú Quý (Quảng Bình), Bài Hà (Vĩnh Linh) đã ghi dấu chân hàng vạn cán bộ, chiến sĩ vào Nam đánh giặc. Rừng cao su Đông Nam Bộ từng là cứ điểm xuất phát của những cánh quân tham gia các chiến dịch.

Tiếng súng tiến công vào mùa xuân năm 1975 mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến lâu dài và gian khổ để giành độc lập cho dân tộc. Cũng bắt đầu từ đây, cuộc đời người công nhân cao su Việt Nam vĩnh viễn chấm dứt những năm tháng nô lệ và trở thành những người chủ thật sự của những đồn điền cao su.



Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 13 Tháng Sáu, 2010, 05:26:40 pm
Thời kỳ hòa bình: tập đoàn kinh tế lớn mạnh

Với địa vị mới và với niềm phấn khởi dạt dào của người chiến thắng, công nhân tích cực ra sức khôi phục sản xuất, tạo ra nhiều sản phẩm để làm giàu cho Tổ quốc. Qua nhiều năm đấu tranh với khó khăn và đói nghèo, ngành công nghiệp cao su Việt Nam đã từng ngày thay da đổi thịt, từng bước khẳng định vị trí của mình trong nền kinh tế của đất nước.

Ngày 22-4-2007, Tập đoàn công nghiệp cao su Việt Nam (chuyển đổi từ Tổng Công ty cao su Việt Nam) với chức năng ngành nghề được xác định là thực hiện kinh doanh đa ngành, đa lĩnh vực trong đó ưu tiên thực hiện nhiệm vụ chính là trồng, chăm sóc, khai thác và chế biến mủ cao su, làm nòng cốt để thực hiện chương trình phát triển 700.000 ha cao su đến năm 2010 và làm đầu mối để phát triển 100.000 ha cao su ở các tỉnh biên giới Lào và Campuchia...

Tập đoàn công nghiệp cao su Việt Nam hiện gồm 80 đơn vị thành viên và liên kết, 4 đơn vị sự nghiệp, 22 doanh nghiệp nhà nước và hơn 50 doanh nghiệp hoạt động theo Luật Doanh nghiệp, đặc biệt có 13 công ty được thành lập để đầu tư ra nước ngoài. Tổng tài sản của Tổng công ty cao su Việt Nam đến cuối năm 2006 là 14.350 tỷ đồng, trong đó vốn nhà nước là 7.320 tỷ đồng.

Năm 2008, Tập đoàn công nghiệp cao su Việt Nam đã thu được nhiều thành công, giá bán bình quân năm 2008 cao hơn năm trước. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã xác định cây cao su là cây đa mục đích có thể sử dụng cả cho các mục đích nông nghiệp và lâm nghiệp. Quyết định này sẽ tạo điều kiện cho phép chuyển đổi rừng nghèo sang trồng cao su, tháo gỡ những thủ tục đất đai, nhất là ở các tỉnh Tây Nguyên.

Về tình hình khai thác cao su, tính đến cuối tháng 12/2008, Tập đoàn đã khai thác được 316.341 tấn cao su, đạt 105,20% kế hoạch năm, nhiều công ty đạt kết quả cao như Công ty cao su Phú Riềng đạt 114,8%; Công ty cao su Dầu Tiếng 107,4%, Công ty Cao su Bình Long 105,2%. Diện tích cao su khai thác đạt 173.903 ha, trong đó miền Đông Nam Bộ 132.161 ha, Tây Nguyên 36.518 ha, Duyên hải Miền Trung 5.223 ha, năng suất bình quân của tập đoàn đạt 1,82 tấn/ha. Trong đó có 8 công ty, 43 nông trường miền Đông Nam Bộ đạt năng suất bình quân trên 2 tấn/ha, 2 công ty, 11 nông trường Tây Nguyên và Duyên hải Miền Trung đạt năng suất bình quân trên 1,8 tấn/ha, chiếm 43.85% trên tổng diện tích khai thác.

Toàn Tập đoàn hiện có 40 nhà máy, xí nghiệp và xưởng chế biến mủ cao su: tổng công suất thiết kế các nhà máy chế biến là 354.500 tấn/năm, trong năm 2008 đã chế biến được 324.993 tấn cao su các loại, đạt 107% kế hoạch. Các nhà máy chế biến trong Tập đoàn không ngừng được nâng cấp cải tạo liên tục trong năm qua. Nhiều công ty được đầu tư máy chế biến, trang thiết bị hiện đại cùng với việc áp dụng quy trình công nghệ chuẩn chế biến cao su SVR đã có hiệu quả thiết thực trong việc nâng cao chất lượng cao su sơ chế, tỷ lệ rớt hạng giảm, đáp ứng được yêu cầu của khách hàng.

Năm 2008, Tập đoàn đã đưa dây chuyền thiết bị công nghệ mới vào hoạt động gồm: dây chuyền mủ SVR 10,20 3.000 tấn/năm, nhà máy K'dang, công ty cao su Mang Yang; dây chuyền mủ SVR 10,20 3000 tấn/năm, nhà máy Ia Chim, công ty cao su Kon Tum; dây chuyền mủ SVR 31 9.000 tấn/ năm, nhà máy Long Hà, công ty cao su Phú Riềng,..

Hiện nay, Việt Nam là một trong những nước xuất khẩu cao su lớn trên thế giới. Trong đó, cao su thiên nhiên là sản phẩm mà Việt Nam xuất khẩu gần 85% sản lượng. Nhận rõ tiềm năng của thị trường cao su thế giới và lợi ích của việc phát triển cây cao su, Chính phủ Việt Nam đã lên nhiều kế hoạch để giữ vững vị thế của ngành cao su như tăng diện tích và nâng sản lượng cao su thiên nhiên lên con số 1,5 triệu tấn.

Với lợi thế rất lớn là có khí hậu, đất đai thuận lợi, người dân đồng lòng trong việc mở rộng mô hình trồng cây cao su nên hướng mở rộng diện tích cây cao su trong nhiều vùng là hoàn toàn khả thi. Trong những năm qua, Nhà nước cũng đã tạo nhiều điều kiện để ngành cao su có thể nhân rộng diện tích cây cao su tự nhiên ở nhiều vùng trong cả nước, qua đó góp phần làm tiền đề để cây cao su Việt Nam nâng cao vị trí trên trường quốc tế.

Để tăng giá trị sản phẩm, Tập đoàn Công nghiệp cao su đã áp dụng nhiều phương thức, trong đó yếu tố khoa học công nghệ được ngành tập trung cao độ. Từ công ty mẹ là Tập đoàn cao su Việt Nam đến các thành viên khác đều chủ trương đầu tư đổi mới công nghệ chế biến nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh với các nước sản xuất cao su và đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thị trường.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 13 Tháng Sáu, 2010, 05:28:13 pm
KHI NGƯỜI LÍNH TRỞ VỀ
Phan Quang - Thành Trung

Chúng tôi bắt đầu việc tiếp xúc với Tổng Công ty Đông Bắc bằng cuộc trò chuyện với Thiếu tướng Nguyễn Mạnh Đạt, ông là người gắn bó với Tổng Công ty Đông Bắc từ ngày đầu mới thành lập và là vị chỉ huy trưởng của đơn vị này từ năm 2000 tới cuối tháng 3 - 2009.

Cuộc trò chuyện với người chiến binh già đã đưa chúng tôi tìm về quá khứ, về với đường Trường Sơn huyền thoại nơi ông cùng nhiều cán bộ lãnh đạo của Tổng Công ty Đông Bắc đã từng sống, chiến đấu.

Khi ký ức vọng về, ông kể: đơn vị công binh của ông ngày ấy chốt trên điểm Trà Ang, cứ chiều muộn thì máy bay Mỹ kéo tới nã rocket thẳng vào sườn núi. Cả ngàn tấn đá đổ xuống và sau đó là đợt rải bom nổ chậm. Nhiều người lính công binh của binh Đoàn 559 đã hy sinh vì dẫm phải loại bom, mìn này khi thông đường cho xe, cho thiết giáp, pháo ta vào trận.

Chúng tôi có hỏi ông: tuổi 20 khi ấy nghĩ gì khi đến với đường Trường Sơn, đến với sự sống, cái chết cách nhau trong tấc gang? ông bảo: "Ghét thằng Mỹ xâm lược thì chúng tôi lên đường thôi, khi ấy chỉ nghĩ tới việc nhanh chóng đuổi nó đi để đất nước mình yên bình". Thế đó, cái khát vọng lớn nhất của dân tộc này là cuộc sống bình yên bởi đã có bao kẻ thù xâm lược, bao bom rơi đạn nổ trên quê hương rồi.

Cuộc kháng chiến thắng lợi, nhiều người lính công binh trong đó có Nguyễn Mạnh Đạt nhận nhiệm vụ xây dựng đường Trường Sơn phục vụ cho phát triển kinh tế, quốc phòng. Ít lâu sau, ông được cấp trên cử đi học ở Học viện Kỹ thuật Quân sự, rồi về phục vụ tại lực lượng công binh Quân khu III. Khi Bộ Quốc phòng chủ trương đưa một số đơn vị bộ đội chuyển sang sản xuất và kinh doanh, xây dựng các doanh nghiệp chủ lực của quân đội, Nguyễn Mạnh Đạt đến với Đông Bắc.

Những ngày gian khó.

Người lính từ mặt trận trở về, không còn đội trên đầu mình mưa bom bão đạn nữa, những hụt hẫng là khó tránh khỏi, huống chi cũng người lính ấy nay thành doanh nhân lo miếng cơm, manh áo cho đồng đội, con em mình thì còn bỡ ngỡ lạ lùng hơn nhiều. Hơn 10 doanh nghiệp vốn là lính công binh của Quân khu III, Tăng - thiết giáp, Phòng không - không quân đóng trên địa bàn Quảng Ninh bắt đầu loay hoay làm kinh tế. Có than, có sức đấy lo gì. Buổi đầu mấy ông lính chiến nghĩ vậy! Nhưng thương trường cam go không kém chiến trường.

Mười mấy sứ quân cứ mạnh ai nấy làm, cộng với tình hình khai thác bừa bãi tự phát của người dân khiến cho việc khai thác than ở Quảng Ninh thời gian đó "hỗn loạn". Để chấm dứt tình trạng đó, Chính phủ đã có Quyết định 381 ngày 27-7-1994 và Chỉ thị 382 ngày 28/7/1994 của Thủ tướng Chính phủ về việc lập lại trật tự khai thác và kinh doanh than. Đối với các đơn vị bộ đội đang hoạt động khai thác than thì hợp nhất lại thành Công ty Đông Bắc. Với biên chế đặc thù của Bộ nhưng quản lý và phân công nhiệm vụ là của Tổng Công ty Than (nay thuộc Tập đoàn Công nghiệp than khoáng sản Việt Nam (TKV).

Lính trận, quen phá đá làm đường, quen cầm súng ngắm bắn giờ đi làm than. Chỉ nội cái việc "đào lò trong lòng đất, bóc đất trên tầng cao" cho hiệu quả cũng đã khó rồi. Không có kinh nghiệm khai thác hầm lò, không có vốn để đầu tư công nghệ nên Tổng công ty Đông Bắc làm lò hầm thủ công kiểu "xúc bằng tay, quay bằng sườn". Công sức, mồ hôi và đôi khi cả máu đổ xuống các hầm than mà đời sống cán bộ, vẫn công nhân viên chưa khấm khá. Ngay trong năm đó Công ty Đông Bắc đạt sản lượng 200 ngàn tấn nhưng có một thực tế là đơn vị nào có được mỏ than tốt thì đời sống anh em có khấm khá và ngược lại.

Và vòng xoáy thương trường khéo thử sự kiên gan của người lính. Vừa hợp nhất được bốn năm, đang loay hoay kiếm cho mình một chỗ đứng thì Đông Bắc phải đương đầu với cuộc khủng hoảng thừa. Năm đó ngành than cả nước làm được 10 triệu tấn thì có đến 20% trong số đó không xuất khẩu được. Sống cách nào đây? Nhiều hướng đi đã được đưa vào thực hiện, nhưng không khả quan.

Cuộc khủng hoảng của ngành than còn dẫn tới một tác hại khác, đó là sự giảm sút lòng tin của người dân, công nhân vùng mỏ với Tổng Công ty Đông Bắc. Khó khăn đến nỗi giờ nhắc lại chuyện xưa nét mặt vị Thiếu tướng không khỏi đăm chiêu.

Có điều gì đó như sự tự ái chăng? Không, cao hơn đó là quyết tâm khẳng định mình. Lãnh đạo của Tổng Công ty Đông Bắc đã tự hứa với mình, với người dân đất mỏ rằng: người lính cầm súng đánh giặc giỏi thì cũng làm kinh tế giỏi. Và ở Đông Bắc người ta đã thấy một cuộc cách mạng.

Vững bước trên thương trường

Vượt lên khỏi thách thức bắt đầu từ đâu? Giành lại tình cảm, lòng tin của mọi người bắt đầu từ đâu? Không thể cứ trông chờ vào cấp trên được mà phải dựa vào chính mình. Nhìn thẳng vào vấn đề, phân tích đúng - sai, tìm ra nội lực của mình từ đó đề ra hướng đi phù hợp. Vậy là Tổng Công ty cơ cấu lại tổ chức.

Thay vì việc để các doanh nghiệp thành viên mạnh ai nấy làm, thì Đông Bắc thực hiện việc chuyên môn hóa cao, sử dụng triệt để thế mạnh của từng công ty thành viên. Trên cơ sở sự phân công công việc theo tính chuyên môn hóa, Tổng Công ty Đông Bắc trở thành người bao tiêu toàn bộ số than khai thác được; tùy theo tình hình thực tiễn của từng mỏ, từng vỉa than mà có giá thu mua đáp ứng được yêu cầu của người lao động.

Tác phong quân đội được đưa vào sản xuất: họp ít, bàn nhanh và chính xác; giám đốc nói là mệnh lệnh của cấp trên. Không những thế, để làm chủ công nghệ các "ông lính" còn mời cả giảng viên trường Đại học Mỏ địa chất về Quảng Ninh mở khóa đào tạo Đại học cho cán bộ chủ chốt của Tổng Công ty và các doanh nghiệp thành viên.

Tiếp đó Tổng Công ty tập trung đầu tư vốn vào các mỏ than trọng điểm, bắt đầu từ các mỏ lộ thiên (mỏ có yêu cầu công nghệ không cao), tiến hành cơ giới hóa; và đầu tư cho công nghệ hầm lò. Cuộc chiến khẳng định chính mình bắt đầu từ chính cuộc cách mạng về con người và công nghệ.

Không chỉ dừng lại ở đó, Tổng Công ty Đông Bắc còn đang triển khai các dự án khai thác đá, vàng ở Lào Cai, quặng sắt ở Hà Giang, crommit ở Thanh Hóa, điện đạm khí ở Bình Thuận và đặc biệt là mũi nhọn trong dự án bô xít ở Tây Nguyên. Đông Bắc giờ không chỉ bó hẹp trong phạm vi hoạt động ở vùng Đông Bắc nữa mà đã có những bước tiến vững vàng chắc chắn trên cả nước. Chúng tôi tin những người lính Cụ Hồ sẽ làm tốt cả hai nhiệm vụ chiến đấu và xây dựng Tổ quốc.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 13 Tháng Sáu, 2010, 05:29:17 pm
ĐƯỜNG TRƯỜNG SƠN VÀ ĐƯỜNG HỒ CHÍ MINH QUA NHỮNG CON SỐ

a)   Những con số huyền thoại

Trong toàn bộ quá trình mở đường, bộ đội và dân quân xung phong đã đào đắp, san lấp khoảng 29 triệu m3 đất đá.

- Xây dựng 5 hệ thống đường trục dọc, 21 đường trục ngang ở Đông và Tây Trường Sơn với tổng chiều dài gần 2 vạn km; 1 tuyến đường kín dài 3.140 km, hệ thống đường sông dài 500 km.

- Xây dựng đường ống dẫn xăng dầu dài 1.400 km nối dài từ Quảng Bình, Vĩnh Linh vào tới Bình Phước. Toàn tuyến có 113 trạm bơm đẩy, 33 trạm cấp phát xăng dầu. Từ 1968 - 1975 đã nhập vào tuyến 317.596 tấn, cấp phát cho chiến trường 61.064 tấn xăng dầu.

- Xây dựng trên 4.000 km đường dây trần dùng cho máy tải ba, 11.569 km đường dây bọc thông tin hữu tuyến, 384 km dây cáp và thiết bị như 299 bộ máy thu phát sóng ngắn, 163 bộ tải ba (loại 1, 3, 6, 12 kênh); 590 tổng đài (từ 10, 30, 100 số); 15 xe điện đài (1 w, 50w, tiếp sức 401 và 104AM)

- San lấp 78.000 hố bom, phá 12.600 quả bom từ trường, 8.000 bom nổ chậm, 85.100 mìn các loại.

- Đánh 2.500 trận bộ binh, loại khỏi vòng chiến 18.740 tên địch, bắt sống 1.190 tên; thu giữ và phá hủy hơn 100 xe quân sự, hàng ngàn súng các loại; bắn rơi 2.455 máy bay

- Vận chuyển tổ chức hành quân hơn 2 triệu lượt bộ đội, cán bộ dân quân. Vận chuyển tới các chiến trường hơn 1 triệu tấn vật chất kỹ thuật .

Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975, ngoài tuyến Tây và Đông Trường Sơn còn đảm bảo giao thông toàn tuyến đường quốc lộ 1 và 7 tuyến đường ngang khác, bắc lại 88 cầu, sử dụng trên 2.000 xe ô tô chở 10 lượt sư đoàn, 3 quân đoàn chủ lực, hộ tống 90 đoàn binh khí kỹ thuật và đưa 40 vạn quân hành quân bằng ô tô vào các chiến trường. Cấp phát 4.100 tấn xăng dầu cho các đơn vị tham gia chiến dịch.

b) Những địa danh, kỷ vật và con người huyền thoại

Trong quá trình chiến đấu, phục vụ chiến đấu trên tuyến đường Trường Sơn có gần 20.000 chiến sĩ đã anh dũng hy sỉnh, hơn 32.000 người bị thương.

- Nghĩa trang Trường Sơn hiện là nơi an nghỉ của hơn 10.300 liệt sĩ bộ đội Trường Sơn

- Chiếc xe thồ đầu tiên được đưa vào Trường Sơn từ năm 1961 là chiếc Favorit có số khung 20220, từ năm 1963 - 1965 đã thồ 1.800 tấn hàng vào chiến trường. Trong 2 năm (1969- 1970) đã chở 50 thương binh, 450 ba lô, 1.000 kg lương thực, thực phẩm.

- Chiếc bao gùi đầu tiên dùng để gùi hàng bằng vải bạt dài 0,7m, rộng 0,4 m, cho đến 15-3-1970 đã gùi được 50 tấn hàng, 915 kg công văn từ các chiến trường.

- Đơn vị bắn rơi nhiều máy bay nhất trên tuyến đường là Tiểu đoàn cao xạ 36 đã bắn rơi 157 máy bay Mỹ.

- Anh hùng Nguyễn Viết Sinh (Tiểu đoàn 11, Bỉnh trạm 3) trong gần 6 năm làm nhiệm vụ gùi, thồ vận chuyển hàng vượt Trường Sơn, tổng cộng đã đi 1 chặng đường vượt độ dài vòng quanh trái đất.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 13 Tháng Sáu, 2010, 05:30:03 pm
CÁC ĐƠN VỊ, CÁ NHÂN NHẬN DANH HIỆU ANH HÙNG

A . Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1959-1975)

- Bộ đội Trường Sơn được Đảng và Nhà nước tuyên dương danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân ngày 3-6-1976, được tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh ngày 19-5-1979.

- Đảng, Nhà nước tuyên dương danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân cho 81 đơn vị (4 đơn vị cấp sư đoàn, 17 đơn vị cấp trung đoàn, 32 tiểu đoàn, 25 đại đội, 1 đội điều trị quân y, 1 Trạm sửa chữa ô tô, 1 Trạm giao liên), trong đó có 3 đơn vị được tuyên dương Đơn vị Anh hùng lần thứ hai); 48 cán bộ, chiến sĩ được tuyên dương Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.

- 202 tập thể được tặng thưởng Huân chương Quân công, 4.814 Huân chương chiến công và 11.000 Huân, Huy chương các loại; 30 cán bộ, chiến sĩ được tặng Huy hiệu Bác Hồ.

B. Trong thời kỳ xây dựng kinh tế quốc phòng (1976 - 2009)

Binh đoàn 12 Tổng Công ty Xây dựng Trường Sơn được tặng thưởng: Huân chương Độc lập hang Nhất, Huân chương Quân công hạng Nhất, Huân chương Quân công hạng Nhì; 5 năm liền (1981 - 1985) nhận cờ thưởng của Hột đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ); 2 năm liền (1982-1983) được tặng Cờ luân lưu của Bộ Quốc phòng; 1 lần được tặng cờ của Bộ Tài chính; 5 công trình của Tổng Công ty được tặng Huy chương vàng và Bằng chứng nhận chất lượng cao cấp Nhà nước.

Từ năm 2002 đến nay, Binh đoàn 12 Tổng Công ty Trường Sơn được khen thưởng: Cờ thi đua của Bộ Quốc phòng, Cờ thi đua của Chính phủ, Huân chương Lao động hạng Nhất (thi công Đường Hồ Chí Minh giai đoạn 1)

+ 5 tập thể được tuyên dương Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.

+ 3 tập thể được tuyên dương Anh hùng Lao động.

+ 3 cá nhân được tuyên dương Anh hùng Lao động.

+ 1 Huân Chương Độc lập hạng Nhất, 3 Huân chương Quân công hạng Nhất, 20 Huân chương Lao động cho các tập thể và cá nhân; hàng ngàn cá nhân được tặng thưởng huân, huy chương các loại khác.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 13 Tháng Sáu, 2010, 05:39:05 pm
Lời cuối sách
ĐƯỜNG TRƯỜNG SƠN HÔM NAY
Ghi chép của Hồng Quang

Khởi phát ý tưởng xây dựng một ấn phẩm về đường Trường Sơn mang tên "Trường Sơn - Đường khát vọng” nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày mở đường Hồ Chí Minh được bắt đầu từ tháng 3/2009 và phải in xong trước ngày 10/05/2009.

Làm cuốn sách này có nhiều cái khó, thứ nhất là thời hạn gấp rút mà nội dung lại đề cập đến nhiều vấn đề chuyện xưa và nay trải dài gần nửa thế kỷ xoay quanh tuyến đường lịch sử từ khi nó chỉ là những lối mòn đến nay đã thành quốc lộ thênh thang. Thứ nữa là kinh phí để làm sách rất eo hẹp, hầu như từ số không.

Tuy nhiên, làm ấn phẩm này, ban biên soạn coi là một việc nghĩa, một sự tri ân với những người đã mất và cả những người còn sống đã một thời không tiếc xương máu, không tiếc tuổi xanh cùng với cả nước làm nên những chiến công lẫy lừng. Cuốn sách này còn có tác dụng cung cấp tư liệu cho thế hệ trẻ ngày nay hiểu thêm một chặng đường lịch sử của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước đồng thời nó cũng phản ánh được những nét đổi thay sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phỏng.

Đất nước sang một trang sử mới, tuyến đường Trường Sơn xưa đã được xây dựng lại thành đường Hồ Chí Minh và kéo theo đó cũng là một sự thay đổi lớn lao về bộ mặt kinh tế của những vùng, địa phương có tuyến đường đi qua. Tất nhiên, tuyến đường không chỉ có ý nghiã phát triển kinh tế ở miền tây của đất nước dọc theo dải Trường Sơn mà còn mang nhiều ý nghĩa về mặt chính trị, quốc phòng và đặc biệt là ý nghiã xã hội, dân tộc.

Với tất cả những ý nghĩa này mà đoàn "khảo sát" đường Trường Sơn mới chúng tôi lên đường vào giữa tháng 3/2009. Đoàn gồm có anh Nguyễn Sĩ Cứ, Tổng Biên tập Tạp chí Vietnam Business Forum, nhà thơ Châu Nho, nhà báo trẻ Hương Ly; anh Thắng lái xe và tôi. Thành phần như vậy là tương đối đầy đủ và gọn nhẹ; có già có trẻ, có nam và nữ.

Anh Sỹ Cứ và anh Châu Nho đều là những cựu binh tham gia cuộc kháng chiến chống Mỹ, hơn nữa lại hoạt động ở chính những khu vực mà tuyến đường lịch sử đi qua. Vì thế trên chặng đường dài dằng dặc các anh luôn kể những câu chuyện ngày xưa khi đến những miền đất cũ, đi qua những kỷ niệm chiến trường, hồi tưởng lại những bạn bè, đồng đội...

Những câu chuyện mà chắc chẳng có sách báo nào có thể viết ra được hết. Đối với chúng tôi, thế hệ sau không được trực tiếp cầm súng ra chiến trường thì đó là lịch sử sống động, là chuyện người thật việc thật một trăm phần trăm. Được đi thế này mới biết rằng đã có rất, rất nhiều sách báo, phim ảnh, nhạc phẩm, thơ văn về đường Trường Sơn nhưng sự thật lịch sử hào hùng ấy còn lâu mới viết hết được. Trường Sơn, quả thật nó còn là nguồn cảm hứng vô tận cho tất cả các ngành nghệ thuật.

*
*   *

Điểm đến đầu tiên của Đoàn là cột mốc số 0 tại huyện Tân Kỳ (Nghệ An). Khu vực "km số 0" này đã được xây dựng khá khang trang và thoáng đãng trở thành một công viên nhỏ có nhiều cây xanh của các vị lãnh đạo trồng lưu niệm. Trên bệ đặt cột mốc còn được xây dựng thành sân khấu có thể tổ chức mít tinh hoặc biểu diễn nghệ thuật. Trong khuôn viên còn có trụ sở của Ban quản lý di tích trưng bày các tư liệu lịch sử, tranh ảnh hiện vật suốt quá trình xây dựng đường Hồ Chí Minh từ trong chiến tranh và sau giải phóng đến nay.

Điểm di tích lịch sử này còn có một ý nghĩa rất đặc biệt trong suốt chiều dài tuyến đường. Hiện nay vẫn còn có nhiều ý kiến tranh luận: Tại sao lại có km số 0 ở đây? ở Đức Lạc, Đức Thọ (Hà Tĩnh) cũng có km số 0; trên tuyến đường 20 của Quảng Bình cũng có km số 0; ở Hoà Lạc nơi bắt đầu tuyến đường Hồ Chí Minh cũng có km số 0 Vậy "km số 0" ở Tân Kỳ (Nghệ An) được hình thành ra sao và nó có vị trí như thế nào đối với cả tuyến đường?

Đem những câu hỏi này đến lãnh đạo Huyện uỷ, ủy ban nhân dân huyện Tân Kỳ chúng tôi được giới thiệu với một cán bộ được coi là am hiểu vấn đề này và đã từng sưu tập tài liệu xoay quanh km số 0 tại Tân Kỳ. Ông là Vũ Văn Kiều, đại tá, chính trị viên Ban chỉ huy quân sự huyện Tân Kỳ đã nghỉ hưu, ông nhập ngũ từ năm 1967 từng vào Nam ra Bắc, từ năm 1983 đến năm 1998 làm chỉnh trị viên huyện đội và làm các phần tư liệu chuẩn bị cho kỷ niệm 30 năm Bộ đội Trường Sơn.

Ông Kiều cho biết: "Con đường Hồ Chí Minh nếu tính từ phía nam ra bắc có 5 trục đường chính, điểm vươn ra bắc xa nhất, giao điểm của đường 15A và đường 15B là ở Tân Kỳ. Chính cột mốc cũ cắt đường 15A được mở từ năm 1971".



Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 13 Tháng Sáu, 2010, 05:39:53 pm
Tại sao lại có nhiều ý kiến khác nhau về đường mòn Hồ Chí Minh bởi vì có những con đường mòn, đi mãi thành đường rồi sau có khi lại mất, lấp lại ngay. Vả lại, đường mòn Hồ Chí Minh bao gồm rất nhiều con đường hình thành nên. Có đường mòn sau này lại trở thành đường cơ giới chiến lược.

Cái mốc đầu tiên phải nhớ đó là ngày 19/5/1959 Bác Hồ ký quyết định thành lập Đoàn 559, sau này gọi là Bộ đội Trường Sơn. Đoàn lúc đó gần 500 người, chủ yếu là cán bộ miền Nam tập kết ra Bắc. Lúc đó ông Nguyễn Văn Vịnh, là Trưởng ban Thống nhất Trung ương trực tiếp giao cho ông Võ Bẩm thành lập đơn vị đầu tiên đi bộ, gùi hàng trên vai, mang một số vật dụng, quân dụng vào Nam. Hiện nay các tỉnh Quảng Bình, Hà Tĩnh cũng đặt cột mốc số 0, nhưng vấn đề là địa điểm Khe Hò là đơn vị bộ đội đầu tiên vận chuyển vào Nam bằng con đường cơ giới chiến lược.

Trong cuốn “Ba mươi năm bộ đội đường Hồ Chí Minh" do Binh đoàn Trường Sơn xuất bản cũng đã ghi rõ: "Đường Hồ Chí Minh khởi nguồn từ Tân Kỳ (Nghệ An - quê Bác) vắt qua dãy Trường Sơn trùng điệp chạy suốt tận Chơn Thành -gần thành phố mang tên Người". Cuốn sách này do ông Lê Si, đại tá làm chủ biên, xuất bản tháng 5/1989. Đây có thể coi như một tài liệu chính thức của Bộ đội Trường Sơn công nhận “km số 0" tại Tân Kỳ (Nghệ An). Và cũng chính vì vậy mà Nhà nước mới cho xây cột mốc số 0 hoành tráng như hiện nay.

Anh Nguyễn Duy Thuỷ, Chủ tịch ủy ban nhân dân huyện Tân Kỳ còn bổ sung thêm: “ngược lại lịch sử vài trăm năm con đường mà những nhà nghiên cứu lịch sử đặt tên là “đường Thượng đạo" của Quang Trung khi tiến quân ra Bắc cũng rất trùng hợp với đường Hồ Chí Minh này".

Vị trí "km số 0" ở Tân Kỳ là một điểm đặc biệt, phải đi gấp khúc tay áo, vào Nam hay ra Bắc theo tuyến đường thượng đạo đều phải qua đây. Hơn nữa Tân Kỳ còn có nhiều lợi thế để đóng quân, làm hậu cứ, làm điểm xuất phát. Nó có hệ thống hang động, rừng núi nếu nâng cấp có thể đóng quân hàng sư đoàn, thậm chí có cả sân bay cho máy bay lên thẳng.

Trong cuộc kháng chiến chống giặc Minh, Lê Lợi đã chọn địa bàn Tân Kỳ làm nơi tập kết mộ binh, luyện quân, cất giữ lương thảo và đã ra quân với trận đầu Trà Lân oanh liệt được Nguyễn Trãi ghi trong Bình Ngô đại cáo: “miền Trà Lân trúc chẻ tro bay". Trà Lân là một địa danh thuộc huyện Con Cuông, giáp với Tân Kỳ.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Tân Kỳ thực sự là hậu phương chiến lược của Quân khu 4 và cả nước; là nơi có các kho tàng quân sự, nơi trú quân huấn luyện của các sư đoàn 318, 324, 316A, 316B và là nơi dừng chân làm công tác tổ chức bổ sung lực lượng, vũ khí, phương tiện của các binh đoàn chủ lực khi vào các chiến trường miền Nam chiến đấu.

Đất và dân Tân Kỳ cũng là nơi, chở che đùm bọc Trường Quân chính liên khu 4; Trại điều dưỡng tâm thần; Trường Trung học sư phạm miền núi; Trường sư phạm mẫu giáo Nghệ An và trên 3 vạn người dân Vĩnh Linh ra sơ tán trong thời kỳ chiến tranh chống Mỹ ác liệt. Nếu nhìn một cách xuyên suốt, có thể nói Tân Kỳ là nơi ghi nhiều dấu ấn của nhiều cuộc kháng chiến.

Địa bàn Tân Kỳ không chỉ là hậu phương của cả nước mà còn là điểm tập kết của cả hệ thống xã hội chủ nghĩa. Chúng tôi đang xây dựng đề án để lập một tượng đài, có phù điêu để ghi lại những chiến công của quân và dân Tân Kỳ. Phù điêu này có thể sẽ được ghi là "Hậu phương hướng về tiền phương".

Tân Kỳ hiện còn nghèo, nhưng là một trong bảy trung tâm văn hoá của tỉnh. Nhiều tiềm năng để phát triển kinh tế - xã hội của huyện chưa được khai thác hết, đặc biệt là từ khi con đường Hồ Chí Minh xây dựng xong, Tân Kỳ càng có những điều kiện thuận lợi hơn.

Tuyến đường Hồ Chí Minh chạy qua huyện Tân Kỳ từ đông bắc tới tây nam dài 38 km, cách Hà Nội gần 300 km đã trở thành tuyến đường giao thông rất quan trọng để phát triển kinh tế. Toàn huyện có 7.000 ha đất canh tác trên tổng diện tích 72.000 ha, trong đó một phần tư đất rừng. Để khai thác quỹ đất này, huyện đã đầu tư trồng cây công nghiệp dài ngày. Hiện có trên 1.000 ha cao su, trong đó 800 ha đã được thu hoạch. Trong quy hoạch, diện tích trồng cao su sẽ tăng từ 4.000 - 5.000 ha.

Cây mía còn được gọi là "cây xoá đói giảm nghèo" của Tân Kỳ, có thể lợi nhuận không được nhiều nhưng đây là loài cây dễ trồng có thể tận dụng được rất nhiều loại đất để trồng. Nhưng năm trước huyện mới có 2.000 ha mía, phục vụ cho nhà máy đường 1.200 tấn/ngày. Hai năm qua đã nâng diện tích mía lên 3.500 ha, phục vụ cho nhà máy đường 1.600 tấn/ngày và kế hoạch tới đây sẽ nâng công suất lên 2.500 tấn/ngày.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 13 Tháng Sáu, 2010, 05:40:36 pm
Từ sau khi có tuyến đường Hồ Chí Minh mới Tân Kỳ đã có sự thay đổi rất lớn. Nhìn chung, nhân dân trong huyện đã biết chuyển sang sản xuất hàng hoá, đi sâu vào thâm canh. Tuy nhiên vẫn phải đảm bảo cung cấp lương thực đủ ăn trong toàn huyện ở mức 4,6 tạ/người/năm. Quỹ đất chủ yếu vẫn là trồng rừng để bán nguyên liệu cho ngành công nghiệp sản xuất giấy. Đi theo hướng này người dân Tân Kỳ có thể sống được bằng kinh tế rừng với mức thu nhập ròng 7 triệu đồng/ha/năm.

Hướng về công nghiệp, huyện sẽ tận dụng những ưu thế sẵn có là cát, sỏi, đá, đất sét là nguồn nguyên liệu phục vụ cho ngành xây dựng. Đá ở đây có nhiều loại: granite, đá trắng xay thành bột đá siêu mịn, đá vôi để sản xuất xi măng...Theo khảo sát huyện có trữ lượng 2,8 tỷ tấn nguyên liệu để sản xuất xi măng chất lượng cao.

Ngày 04/3/2009, Thủ tướng Chính phủ đã có Công văn số 535/TTG-KTN đồng ý bổ sung dự án xi măng Sài Gòn - Tân Kỳ vào quy hoạch phát triển công nghiệp xì măng Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020. Dự án này do Tập đoàn Đầu tư Sài Gòn làm Chủ đầu tư, giai đoạn I có công suất 2.500 tấn clinke/ngày tương đương khoảng hơn 1 triệu tấn ximăng/năm với 100% vốn đầu tư của Nhà đầu tư dự kiến sẽ khởi công vào cuối năm 2009.

Ngoài ra, huyện Tân Kỳ còn có vùng nguyên liệu đất sét nổi tiếng làm gốm hoặc làm ngói chất lượng cao tại thị trấn Cừa. Vấn đề là phải đầu tư vào công nghệ cao để làm tăng giá trị của đất. Đường Hồ Chí Minh chạy qua Tân Kỳ là một lợi thế lớn. Nhưng khai thác, sử dụng nó như thế nào vẫn là những câu hỏi bức xúc của lãnh đạo huyện. Các dự án phát triển kinh tế của huyện đều phải tính đến việc sử dụng phát huy con đường này.

Tuy nhiên, các đồng chí lãnh đạo huyện cũng muốn đề xuất với tỉnh và Nhà nước cần quan tâm nhiều hơn nữa mới có thể khai thác hết năng lực của con đường chiến lược này, phát triển kinh tế xã hội phía tây của Nghệ An. Sự quan tâm, theo lãnh đạo huyện không phải việc cho tiền mà là đầu tư để khai thác, phải xác định đâu là lợi thế của huyện để đầu tư đúng hướng, có trọng tâm trọng điểm chứ không dàn trải.

Đầu tư cơ sở hạ tầng ngoài con đường Hồ Chí Minh là trục chính còn cần đầu tư một hệ thống “đường xương cá" đến những cụm điểm công nghiệp của huyện hoặc vùng. Chính sách để phát triển miền tây, ngoài việc đầu tư vào hạ tầng còn cần đầu tư nâng cao chất lượng lao động, đào tạo nghề cho người lao động gắn với đặc điểm kinh tế miền núi. Cần phải có một sự đầu tư đồng bộ như vậy mới có thể khai thác đầy đủ những lợi thế của khu vực miền núi phía tây này.

Rời Tân Kỳ, đoàn chúng tôi tiếp tục hành trình vào sâu dãy Trường Sơn. Đường Hồ Chí Minh ngày nay làm đẹp, đường phẳng, vắng người, ô tô có thể chạy trên 100km/h dù đường có quanh co qua đèo, qua núi. Với tốc độ này mà so sánh với tốc độ bộ đội ta hành quân ngày xưa thì "chẳng biết nói thế nào". Mọi sự so sánh đều khó khăn quá mà. Chỉ thấy các anh Bộ đội Trường Sơn trong đoàn xuýt xoa: "ấy cái đoạn mình vừa đi qua, bọn tớ ngày xưa đi mất nửa tháng đấy”.

Dọc tuyến đường quốc lộ mới, thi thoảng lại qua một vài điểm có dân, lác đác đã có những người dân ra đường bán khoai, ngô luộc hoặc vài thứ lâm thổ sản của địa phương. Đường xe chạy rất vắng người và xe cộ qua lại. Quả thật, Nhà nước đã bỏ ra khá nhiều tiền để xây dựng nên tuyến đường này cũng mong để cho dân cư hai bên đường đông đúc lên, tiến bộ hơn, kinh tế sẽ khá lên và theo đó là sự phát triển cả văn hoá, xã hội để miền núi tiến kịp miền xuôi

Tuy nhiên, để có thể trở thành một tuyến đường tấp nập xe cộ có lẽ còn lâu lắm vì còn cần nhiều yếu tố khác nữa. Không phải cứ có đường là kinh tế phát triển, cuộc sống đổi thay. Mong muốn là một chuyện, thực tế là một chuyện. Vả lại, muốn thay đổi cũng cần phải có một thời gian nhất định.

Cách thành phố Đồng Hới khoảng hơn 40 km về phía Nam theo đường Trường Sơn đoàn chúng tôi còn ghé một địa danh khác đang được tỉnh Quảng Bình đầu tư để làm điểm du lịch sinh thái, đó là khu suối nước khoáng Bang, thuộc huyện Lệ Thuỷ. Từ trục đường Hồ Chí Minh đi lên phía tây (giáp biên giới Lào) rẽ phải khoảng 15km theo tỉnh lộ là đến suối nước nóng Bang.

Thoạt tiên chúng tôi cứ ngỡ là đi vào một công trường, đất đai lổn nhổn, suối chẳng thấy đâu, một vài dày nhà lèo tèo nằm ẩn trên sườn núi, lọt thỏm giữa rừng xanh. Có đâu hình ảnh suối Bang như mơ trong một bức hình quảng cáo tại một khách sạn ở Đồng Hới. Trong bức tranh sơn thuỷ có cả cô "sơn nữ” xinh đẹp tươi cười nổi bật giữa rừng xanh, nắng vàng. Té ra quảng cáo với sự thật khác nhau ghê lắm. Thậm chí, quanh khu vực này không có một ai để hỏi thăm.

Thôi thì cứ liều vào cái "công trường dở dang" ấy xem sao vì đây đúng là khu suối nước khoáng Bang rồi. May sao có anh công nhân của xí nghiệp khai thác nước khoáng đang trực trong một căn nhà cấp bốn. Phía trước còn đậu một xe ô tô đang lấy nước khoáng nóng.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 13 Tháng Sáu, 2010, 05:41:21 pm
Dọc theo một con suối nóng có những chỗ hơi nước bốc lên nghi ngút, lên đến gần cuối bãi có một “căn nhà" lồng sắt quây 4 phía một cái trụ bằng xi măng. Dưới cái trụ xi măng ấy là một ống thép dẫn nước nóng, nước khoáng tự trong đất đá trào lên chứ chẳng cần bơm hút gì cả. Cái trụ xi măng ấy xây lên để ngăn cột nước bắn lên cao té nước nóng ra xung quanh. Người ta phải làm lồng sắt để tránh nguy hiểm cho mọi người. Nước ở đây đo được sôi đến 105oC, có thể nói là nóng nhất trong các loại suối nước nóng ở Việt Nam, mà không chừng cả khu vực Đông Dương. Mùi lưu huỳnh đậm đặc bốc lên hăng hăng, thum thủm.

Theo những công nhân làm ở đây thì nước được đưa về xí nghiệp của huyện mỗi ngày khoảng 2 xe. Sau đó xí nghiệp xử lý qua một số công đoạn rồi đóng chai đưa ra thị trường. Còn ở tại đây, khi suối nước nóng phun lên còn tạo ra một số vũng nước nhỏ vẫn sôi sùng sục suốt ngày suốt đêm. Khách đến thăm thường có mang hoặc mua ngay tại nhà của công nhân trực ở đây một ít trứng vịt lộn rồi thả xuống ngâm độ 10 phút là trứng chín. Anh Châu Nho hăng hái mua cả một rổ trứng vịt lộn xuống ngâm. Trứng ngâm trong nước khoáng nóng 105oC ăn tuyệt ngon.

Tìm hiểu kỹ hơn chúng tôi được biết khu suối nước khoáng nóng Bang này đã được tỉnh Quảng Bình phê duyệt cho chủ đầu tư là Công ty trách nhiệm hữu hạn Đông Dương xây dựng và khai thác từ tháng 3/2008. Hiện nay, Công ty này đang đầu tư xây dựng khu suối nước khoáng thành một khu mang tên khu nghỉ dưỡng phục hồi chức năng suối nước nóng Bang".

Đây thật là một điểm du lịch đẹp và quý do thiên nhiên ban tặng cho Lệ Thuỷ - Quảng Bình. Nếu chủ đầu tư thực sự tâm huyết để xây dựng khu du lịch này, nếu đường xá đi vào được cải tạo tốt hơn và nếu công tác tuyên truyền quảng bá được rộng rãi thì tôi tin rằng nơi này sẽ thu hút khách. Đây cũng chính là những điểm nhấn, kích thích cho kinh tế quanh khu vực, nơi có Đường Trường Sơn đi qua phát triển. Hết chiến tranh là phải làm kinh tế, và du lịch chính là một trong những ngành kinh tế đang phát triển mạnh. Quảng Bình đã có động Phong Nha - Kẻ Bàng, có bãi biển Nhật Lệ, nay lại có suối nước nóng Bang, tiềm năng phát triển du lịch rất dồi dào.

Trở lại với tuyến đường Trường Sơn, chúng tôi đến Ban Quản lý di tích tỉnh Quảng Bình. Chị Trần Thị Lý, Phó ban cho chúng tôi biết: “Quảng Bình có 7 cụm di tích lịch sử liên quan đến đường Trường Sơn, được Nhà nước công nhận xếp hạng từ năm 1986, gồm:

một là, các trọng điểm trên đường 12, Khe Ve, La Trọng, Cổng Trời, đồi 37 (nơi anh hùng Nguyễn Viết Xuân hy sinh để lại câu nói nổi tiếng: "Nhằm thẳng quân thù mà bắn"), Bãi Dĩnh;

hai là, đường 20 - Quyết thắng, Km số 0 của đường 20, cầu Trà Ang, Đền 8 thanh niên xung phong hy sinh do bom Mỹ đánh sập cửa hang (còn gọi là hang 8 cô), Trọng điểm ATP (cua chữ A, ngầm Ta lê, đèo Phu La Nhích);

ba là, bến phà Xuân Sơn (bến A);

bốn là bến phà Long Đại (Hiền Ninh);

năm là, cơ sở chỉ huy Bộ tư lệnh 559 ở Hiền Ninh, huyện Quảng Ninh;

sáu là, trạm thông tin A72 tại xã Ngân Thuỷ, huyện Lệ Thuỷ;

bảy là, các hang động ở xã Hoá Thanh, Hoá Tiến, huyện Minh Hoá (các hang này sử dụng để làm kho vũ khí).

Ngoài ra còn rất nhiều di tích lịch sử nữa đã và đang được Ban quản lý lập hồ sơ để xin công nhận như: đồi Trà Ang, hang Lèn Hà, rồi Ngầm Dinh, đèo Đá Đẽo, cầu Ca Tam, cảng cá Thanh Khê, v.v..

Thực ra với một danh sách dày như thế cũng có thể chưa phản ánh hết được những chiến công hay những hy sinh mất mát mà quân và dân Quảng Bình phái gánh chịu trong những năm chiến tranh. Thấy được những địa danh này mới thấy được thế nào là "Tuyến lửa" anh hùng.

Hết Quảng Bình là vào đến đất Quảng Trị, vì là ngày nghỉ khối các cơ quan đơn vị đều không làm việc nên đoàn chúng tôi quyết định dành hẳn một ngày để viếng hai nghĩa trang. Hôm nay là ngày chủ nhật, nắng gắt, đoàn chúng tôi đến Nghĩa trang Trường Sơn - nơi chôn cất hàng vạn liệt sĩ đã anh dũng hy sinh trên chiến trường để thắp hương tưởng niệm các anh. Hầu như đoàn khách nào đi qua cũng ghé vào đây thắp hương.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 13 Tháng Sáu, 2010, 05:42:08 pm
Trưa hôm ấy ngoài một số đoàn thăm viếng có đoàn của tập thể thầy cô giáo và các em học sinh trung học ở Vĩnh Linh đến làm lễ thắp hương tưởng niệm. Đoàn được tổ chức rất chu đáo, các em học sinh ăn mặc đồng phục chỉnh tề, có kèn, trống và vòng hoa, có cả ban tổ chức là Ban Quản lý nghĩa trang Trường Sơn đem micro đọc trên loa bài điếu văn tưởng nhớ công lao các anh hùng hệt sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc. Tiếp đến là những lời hứa trước linh hồn những chiến sĩ Trường Sơn của các thầy cô giáo và các em học sinh cố gắng học tập tốt, dạy thật tốt để trở thành lớp người xây dựng mảnh đất này giàu đẹp hơn, mảnh đất mà hàng vạn sinh mạng đã ngã xuống để giành được độc lập.

Giữa trời trưa nắng gắt, với một bầu không khí trang nghiêm và tại đây, một khu nghĩa trang rộng bát ngát, tôi cũng cảm nhận một không khí linh thiêng khó tả. Thắp nén hương cho các anh mà hồn tôi cũng lắng sâu. Đối với các anh Sĩ Cứ, Châu Nho là các anh thắp hương cho đồng đội. Đối với tôi là thắp hương cho những người anh, người chi thân thiết của tôi. Ai mà chẳng phải chết, nhưng có những cái chết vinh, có những cái chết nhục. Cái chết của những liệt sĩ sẽ đời đời được Tổ quốc ghi công và được đời đời những thế hệ sau kính trọng.

Rời Nghĩa trang Trường Sơn chúng tôi lại đến Nghĩa trang liệt sĩ Đường 9. Ngày xưa mặt trận Đường 9 - Nam Lào được coi là mặt trận nóng bỏng nhất, là nơi diên ra cuộc đối đầu ác liệt giữa ta và địch. Những chiến sĩ đã từng chiến đấu và hy sinh trên mặt trận này và cả số chiến sĩ chiến đấu, hy sinh trên đất bạn Lào đều được quy tập vào đây.

Nghĩa trang được xây ngay sát đường số 9 trên một khu đồi thoáng và rộng. Ở đây vắng vẻ hơn Nghĩa trang Trường Sơn. Khách đến thăm viếng cũng ít hơn vì quy mô và diện tích nhỏ hơn. Tuy vậy, Nghĩa trang được kiến trúc rất trang nhã, từ cổng vào đến tận nhà tưởng niệm có mái che; các bức tượng, phù điêu nổi lên rất đẹp, toát lên vẻ thanh thoát mà trang nghiêm, diễn tả được cái hào khí của bộ đội giải phóng miền Nam. Phía trước, mặt tiền của khu tưởng niệm còn xây lầu chuông rất hoành tráng trong đó có treo một chuông đồng lớn, gióng lên một tiếng âm vang khắp cả vùng. Làm đầy đủ thủ tục thắp hương tưởng niệm xong chúng tôi tiếp tục lên Đường 9, quay trở lại Khe Sanh và lên Khu kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo.

Cách đây chừng 5 - 6 năm, tôi đã từng lên Lao Bảo (huyện Hướng Hoá - Quảng Trị). Khi ấy, Khu kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo mới đang được mở ở giai đoạn thí điểm. Mọi điều kiện cơ sở hạ tầng còn vô cùng thiêu thôn. Đường sá chật hẹp. Đến chỗ ăn nghỉ cũng còn khó khăn.

Khi ấy, nạn buôn lậu hàng hoá qua biên giới vẫn còn phổ biến. Hình ảnh những chiếc xe Minxcơ phóng như bay trên Đường 9, trên xe chở đầy những tải thuốc lá ngoại nhập đã được tôi chụp lại làm tư liệu. Đến nay thì đã khác hẳn, chỉ dạo một vòng quanh thị trấn của khẩu đã thấy sự thay đổi không ngờ. Đường sá rộng rãi khang trang, rất nhiều siêu thị được xây dựng trên những khu đất rộng rãi. Khách sạn cao tầng cũng rất nhiều.

Điều đặc biệt là ở khu kinh tế này có rất nhiều xe hơi đẹp, sang trọng của Nhật Bản, cả châu Âu và Mỹ... Những chiếc xe mang biển số Lào và cả "biển vàng LB" tức là biển số xe của riêng "đặc khu” Lao Bảo. Hỏi ra mới biết xe hơi hay tất cả hàng hoá nhập vào khu này không phải chịu thuế nhập khẩu.

Ở trong các siêu thị Lào - Thái cũng tràn ngập hàng nhập khẩu. Tuy nhiên về giá cả cũng không khác biệt lắm so với những nơi khác và chủ yếu là hàng tiêu dùng. Những đổi thay về bộ mặt đô thị ở Khu kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo, những phát triển vượt bậc về đời sống kinh tế cư dân trong vùng rất dễ nhận ra. Nhưng những thay đổi khác về số phận con người, về từng gia đình, nếp sống văn hoá, về giáo dục thì phải tiếp xúc với những con người cụ thể thì mới biết được.

Thật là may, trong cuộc làm việc với chính quyền huyện Hướng Hoá tại thị trấn Khe Sanh, chúng tôi được gặp chị Hồ Thị Lệ Hà, vừa mới nhận chức Phó Chủ tịch ủy ban nhân dân huyện Hướng Hoá. Chị rất trẻ và nhanh nhẹn, bố là người Vân Kiều, mẹ là người Pa Cô. Chị sinh ra ở Hà Nội, học Đại học Kinh tế ở Đà Nẵng khoa Tài chính ngân hàng. 22 tuổi chị làm cán bộ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Sau đó chuyến sang phụ trách Chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội. Tiếp đó, chị là đại biểu Hội đồng nhân dân huyện và mới đây được giữ chức Phó Chủ tịch ủy ban nhân dân huyện phụ trách Tài chính - Công thương.

Có lẽ đây là một nhân vật khá tiêu biểu về sự thay đổi lớn lao trên mảnh đất đầy bom đạn trước đây. Chính thế hệ cha và anh của chị theo Đảng, theo Bác Hồ cầm súng đánh Mỹ ứơc mong đất nước được giải phóng, để lớp con cháu sau này được nên người. Một cán bộ trẻ người dân tộc Pa Cô đã được học hành và trưởng thành như vậy chính là niềm khát khao của thế hệ những người đi trước.

Anh Phùng Huy Hoàng, Trưởng Ban Tuyên giáo huyện Hướng Hoá cho biết: chỉ riêng hai dân tộc Vân Kiều và Pa Cô đã chiếm 47,64% dân số toàn huyện. Hướng Hoá là một huyện miền núi biên giới của tỉnh Quảng Trị, là địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống Mỹ xâm lược. Đầu năm 1997, tỉnh tách 10 xã từ huyện Hướng Hoá để thành lập huyện mới Đakrông. Hiện nay, Hướng Hoá có 22 xã, thị trấn; 15 xã thuộc vùng sâu vùng xa, 13 xã có biên giới giáp Lào. Đường Hồ Chí Minh qua địa bàn huyện có 2 tuyến.


Tiêu đề: Re: Trường Sơn - Đường khát vọng
Gửi bởi: SaoVang trong 13 Tháng Sáu, 2010, 05:43:11 pm
Về con đường huyền thoại Hồ Chí Minh trong tài liệu mà sử sách có ghi hiện chưa có cuốn sách hay tài liệu nào in riêng, chỉ có cuốn sách xuất bản nhân kỷ niệm 40 năm ngày giải phóng huyện (1968-2008). Hướng Hoá là huyện đầu tiên của miền Nam được giải phóng. Trên địa bàn huyện hiện nay trong khoảng 10km2 có các điểm di tích nổi tiếng trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước như sân bay Tà Cơn, Làng Vây, khu di tích đồi Cô Bốc, Thung lũng Khe Sanh và đặc biệt có "con đường Hồ Chí Minh huyền thoại" mà điểm đầu từ ngã tư Đường 9 tại thị trấn Khe Sanh đi A Lưới. Đoàn chúng tôi cũng đã đi thử con đường huyền thoại này chừng 5-7 km, đến đoạn con suối La La cắt ngang, chụp vài kiểu ảnh rồi vẫn phải quay lại Đường 9 chứ xe con không thể đi được trên “con đường huyền thoại" này.

Rời Khe Sanh, lại xuôi Đường 9 đến Đakrông, một cây cầu nổi tiếng để từ đây lại vào Nam tiếp tục theo con đường Hồ Chí Minh đi A Lưới (Thừa Thiên Huế). Từ đây trở đi chúng tôi có cảm giác rõ rệt là xuyên qua dãy Trường Sơn hùng vĩ về phía đông. Tôi còn nhớ, trước đây trên vách núi đã dựng đứng gần cây cầu Đakrông còn khắc sâu hai dòng thơ nổi tiếng của Tố Hữu: "Xẻ dọc Tn(ờng Sơn đi cứu nước. Mà lòng phơi phới dậy tương lai”. Đúng là xẻ dọc núi thật, dù núi tiếp núi, đèo tiếp đèo. Đường Hồ Chí Minh đoạn này làm có vẻ nhỏ hẹp hơn đoạn đường từ Bắc vào. Có lẽ do nhu cầu và mật độ giao thông xe cộ còn quá ít chăng?

Từ cầu Đakrông đến trung tâm huyện A Lưới khoảng hơn 90 km, tuy đường hẹp lại đèo dốc quanh co nhưng xe vẫn chạy tốt và khá nhanh, chỉ chừng nửa buổi là đến thị trấn. Rừng A Lưới trong những năm chiến tranh là nơi mà Mỹ thả chất độc màu da cam nhiều nhất. Chúng muốn biến mảnh đất xanh tốt này thành khu trắng. Thế nhưng, màu xanh giờ đây đã trở lại, vết thương đã được hàn gắn. Và chắc chắn rằng cuộc sống của người dân miền tây Thừa Thiên- Huế đã được đổi đời.

Tiếp chúng tôi tại trụ sở Huyện uỷ A Lưới có Bí thư Huyện ủy Lê Văn Trừ, 51 tuổi anh là người dân tộc Tà Ôi và anh Lê Văn Miệng, Trưởng Ban Tuyên giáo Huyện uỷ, là người dân tộc Pa Kô. A Lưới là huyện được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vù trang vào năm 1979, cả huyện cũng có 17/2 1 xã được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang. Huyện có 42.000 dân trong đó có 35.000 người dân tộc Tà Ôi và Pa Cô.

Anh Trừ cho biết, A Lưới ngày nay phát triển kinh tế nông - lâm nghiệp là chủ yếu. Các loại cây lương thực như lúa, ngô, khoai, sắn với tổng diện tích gieo trồng hàng năm khoảng gần 5.000 ha, sản lượng lương thực có hạt đạt gần 10.000 tấn, bình quân lương thực đầu người đạt 240 kg, khắc phục được tình trạng đói giáp hạt triền miên.

Trong những thành tựu về phát triển kinh tế, điều ghi nhận là cơ sở hạ tầng đã được đầu tư thích đáng; đến nay 100% xã có đường ô tô với 185 tuyến và gần 300 km phần lớn là đường nhựa và bê tông. Đặc biệt, Đường Hồ Chí Minh xuyên qua huyện với chiều dài 106 km, khai thông hành lang Bắc - Nam. Đã hoàn thành xây dựng của khẩu S10 A Dớt - Tà Vàng, mở ra triển vọng khai thông hành lang Đông - Tây trong tương lai.

Năm 2006, huyện A Lưới đã tổ chức kỷ niệm 40 năm chiến thắng A So và 30 năm thành lập huyện A Lưới. Sau 30 năm xây dựng và trưởng thành, người dân A Lưới giờ đây mới có thể nói rằng đã được "đổi đời hàng vạn sải" (có nghĩa là một sự thay đổi lớn chưa từng thấy với tất cả các tiêu chuẩn của vùng nông thông miền núi: điện - đường - trường - trạm).

Buổi trưa, Huyện uỷ mời đoàn ăn cơm tại quán “cơm phở bắc Ngọc Hoà", ngay trên phố trung tâm huyện. Rất bất ngờ, bà chủ quán cơm lại là cựu bộ đội công binh Đường 559. Chị tên là Phạm Thị Hoà, quê gốc ở Thái Bình, lấy chồng ở Phổ Yên - Thái Nguyên. Chị tham gia bộ đội công binh từ tháng 8- 1973 đến năm 1976. Lúc đầu chị làm ở đèo Lý Hoà sau đó lại chuyển vào đường 14 (thời kỳ đồng chí Đồng Sĩ Nguyên là chỉ huy). Sau giải phóng chị chuyển sang ngành Thương nghiệp, học Thương nghiệp ở Thái Nguyên và lấy chồng ở đó. Sau này cùng chồng vào tận đây để xây dựng vùng kinh tế mới. Khi gặp và biết đoàn chúng tôi đi tuyên truyền cho 50 năm ngày truyền thống Bộ đội Trường Sơn nên chị rất vui và mở lòng tâm sự. Chị có 3 người con, sắp tới sẽ cưới vợ cho con trai đầu, chị sẽ mời bằng được những bạn bè là những đồng đội - lính công binh 559. Ngày gặp nhau ấy chắc phải vui lắm.

Ở thị trấn A Lưới, đoàn chúng tôi còn đến thăm Anh hùng lực lượng vũ trang Kan Lịch, người con gái nổi tiếng "Lấy súng giặc đánh lại giặc". Chị vẫn khoẻ mạnh và nhanh nhẹn dù đã ở tuổi bà. Chị kể vắn tắt đã 7 lần gặp Bác Hồ và 4 lần được ăn cơm cùng Bác. Rất nhiều câu chuyện của chị, chuyện xưa và nay chị kể rất hồn nhiên.

Chuyện chị xông vào đồn bọn nguỵ lúc ban đêm, lính gác ngủ gật chị giật súng đâm chết, còn bọn bên trong vẫn đang ngủ chị lại dựng dậy rồi mới nổ súng. Lúc đó chị còn không biết gọi tên bọn nguỵ như thế nào. Thấy anh em bộ đội gọi nhau là "đồng chí", chị cũng gọi bọn ngụy đang ngủ trong đồn là "đồng chí", bảo các "đồng chí" dậy rồi mới bắn để đếm cho khỏi sót. Câu chuyện này khiến chúng tôi cười chảy nước mắt.

Sau giải phóng một thời gian dài khi đất nước khôi phục kinh tế sau chiến tranh, gia đình chị Kan Lịch cũng khó khăn vất vả, nhưng rồi được nhiều người giúp đỡ nên đến nay đời sống cũng tạm ổn. Cuộc đời người con gái Pa Cô, người anh hùng đã được sách báo viết rất nhiều, nhưng cũng thật bình dị như nhiều người Pa Cô, Vân Kiều khác trên quê hương A Lưới.

Một điều nữa cũng phải nói là trên mảnh đất miền tây Thừa Thiên - Huế có một bề dày truyền thống cách mạng, có rất nhiều người con anh hùng lực lượng vũ trang vậy mà đến nay A Lưới vẫn chưa có phòng truyền thống đế trưng bày những hiện vật, chứng tích chiến tranh, để ghi lại truyền thống lịch sử oanh liệt của cuộc kháng chiến và của cả công cuộc đổi mới xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội của huyện. Phòng truyền thống này cũng là nơi để giáo dục thế hệ đi sau tiếp tục sự nghiệp xây dựng quê hương đất nước.

Đây là tâm tư nguyện vọng của anh Lê Anh Miệng. Trưởng Ban Tuyên giáo Huyện uỷ A Lưới. Anh còn muốn ngoài việc xây dựng Phòng truyền thống huyền cũng muốn xây dựng một tượng đài "Chiến thắng Trường Sơn" nhưng không biết đề nghị đến đâu, tìm nguồn kinh phí ở đâu để làm. Tâm sự của anh Miệng có lẽ cũng trùng hợp với đa phần lãnh đạo huyện là những cán bộ lớp trước, ít nhiều có tham gia chiến đấu hoặc công tác phục vụ chiến đấu, còn có thâm tình với quá khứ. Đối với việc làm sách về đường Trường Sơn của đoàn chúng tôi anh hết sức nhiệt tình hưởng ứng, vận động tuyên truyền mua cuốn sách này đến từng chi bộ.

Chúng tôi còn được biết người Pa Cô trước đây chưa hề có chữ viết. Mãi đến năm 1983, cùng với sự giúp đỡ của Viện Ngôn ngữ, Uỷ ban Khoa học Xã hội (nay là Viện Khoa học xã hội Việt Nam) và một số người ở địa phương thì bộ chữ viết Pa Cô - Tà Ôi mới được biên soạn hoàn chỉnh. Người dân A Lưới trước đây phần đông là mù chữ. Vậy mà giờ đây đã có Tiến sĩ ngôn ngữ học, chị Nguyễn Thị Sửu, sinh năm 1973. Nói theo cách của anh Miệng "đổi mới đến hàng vạn sải".

Theo kế hoạch, đoàn "khảo sát đường Trường Sơn" chúng tôi sẽ phải đi từ km số 0 (Tân Kỳ) đến tận Chơn Thành (Lộc Ninh). Tuy nhiên do thời hạn để ra cuốn sách cho đúng dịp kỷ niệm quá gấp rút nên mới đi được nửa chặng đường đã phải quay ra. Thật là tiếc, dẫu vậy, từ Hà Nội vào đến tận A Lưới cũng đã là một chặng đường dài. Chuyến đi của chúng tôi đã để lại rất nhiều những ấn tượng, cảm xúc trong mỗi thành viên. Đối với tôi có những "thu hoạch" ngắn gọn thế này:

Trường Sơn ngày nay khác xưa nhiều lắm. Con đường Hồ Chí Minh - hiện đại hoá, công nghiệp hoá đã hình thành đem lại bao thay đổi cho bộ mặt núi rừng Trường Sơn. Kinh tế phát triển, văn hoá, giáo dục và đời sống tinh thần của đồng bào các dân tộc cũng được cải thiện. Đây phải chăng là con đường khát vọng của những người đi.

HẾT