Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Văn học chiến tranh => Tác giả chủ đề:: hoi_ls trong 01 Tháng Giêng, 2010, 10:47:21 am



Tiêu đề: Về làng
Gửi bởi: hoi_ls trong 01 Tháng Giêng, 2010, 10:47:21 am

(https://www.quansuvn.net/index.php?action=dlattach;topic=31677.0;attach=23094;image)

VỀ LÀNG - Tập truyện ngắn

Tác giả : Phan Tứ (Lê Khâm)
Rút trong tập “PHAN TỨ - Tác phẩm văn học được giải thưởng Hồ Chí Minh”
Nhà xuất bản Văn học 2007
(In theo bản in của NXB Văn học Giải phóng, 1976)

Số hóa : hoi_ls




MỤC LỤC:

* MỘT BUỔI CHỢ
* NHÀ TÔI
* TẤM ẢNH
* CHÈ ĐẦU XUÂN
* MỞ CỬA
* KHÓ HIỂU
* VỀ LÀNG
* SỨC MẠNH MỚI
* CHÔNG BA LÁ
* “CON ĐĨ”
* TRONG ĐÁM MÍA
* LỬA ĐÊM
* HAI ANH EM


(http://img8.imageshack.us/img8/4374/1182f.jpg)


PHAN TỨ - MẤY NÉT TIỂU SỬ VÀ TÁC PHẨM

   Phan Tứ tên thật là Lê Khâm, ông sinh ngày 20-12- 1930 tại thị xã Quy Nhơn; nguyên quán xã Quế Châu, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam trong một gia đình trí thức yêu nước.

   Phan Tứ tham gia cách mạng từ năm mười lăm tuổi, làm liên lạc chuyển tài liệu, báo chí bí mật. Năm 1950, ông nhập ngũ tại Hà Tĩnh, tốt nghiệp Trường Lục quân ở Thanh Hóa rồi sang Lào chiến đấu trong quân tình nguyện Việt Nam.

   Năm 1954, Phan Tứ tập kết ra Bắc rồi theo học khoa Ngữ văn Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Năm 1958, ông cho xuất bản tiểu thuyết Bên kia biên giới. Năm 1960, ông cho xuất bản tập truyện ngắn Trở về Hà Nội và tiểu thuyết Trước giờ nổ súng. Năm 1961, ông trở về công tác tại chiến trường miền Nam, làm phái viên ban Tuyên huấn Khu ủy Liên khu V, lấy bút danh là Phan Tứ. Năm 1966, Phan Tứ trở ra Bắc, công tác tại Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật, làm quyền Tổng biên tập Nhà xuất bản Giải phóng. Năm 1968, ông xuất bản tiểu thuyết Gia đình má Bảy, tập truyện ngắn Trong đám nứa. Năm 1970 ông trở thành hội viên Hội Nhà văn Việt Nam và giữ chức vụ Ủy viên Ban chấp hành, Ủy viên Ban thư ký của Hội. Và ông lần lượt cho xuất bản: bút ký Măng mọc trong lửa; tiểu thuyết Mẫn và tôi năm 1972, tiểu thuyết Trại S.T.18 vào năm 1974.

   Năm 1975, Phan Tứ được nhận Giải thưởng ba mươi năm (1945-1975) của tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng.

   Sau kháng chiến chống Mỹ, Phan Tứ giữ chức vụ Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, rồi Đại biểu Quốc hội khóa VIII, được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Ba. Thời gian này ông cho xuất bản hồi ký Trong mưa núi và ba tập tiểu thuyết Người cùng quê (1985).

   Năm 1995, Phan Tứ được nhận Giải thưởng Văn học loại A mười năm (1985-1995) của tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng. Ông còn được nhận Giải thưởng Văn học Nguyễn Đình Chiểu.

   Năm 2002, Toàn tập Phan Tứ (4 tập) được Nhà xuất bản Văn học xuất bản.

   Ông mất ngày 17 tháng 4 năm 1995 do hậu quả chất độc màu da cam.
   
Năm 2000, Phan Tứ được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật cho các tác phẩm: Trước giờ nổ súng, Gia đình má Bảy, Mẫn và tôi, Về làng.



TÁC PHẨM CHÍNH

      Bên kia biên giới - Tiểu thuyết (1958);
      Trở về Hà Nội - Tập truyện ngắn (1960);
      Trước giờ nổ súng - Tiểu thuyết (1960);
      Trên đất Lào - Bút ký (1961);
      Về làng - Tập truyện ngắn (1964);
      Gia đình má Bảy - Tiểu thuyết (1968);
      Măng mọc trong lửa - Bút ký (1970);
      Mẫn và tôi - Tiểu thuyết (1972);
      Trại S.T.18 - Tiểu thuyết (1974);
      Trong mưa núi- Hồi ký (1984);
      Người cùng quê - Tiểu thuyết, 3 tập (1985);
      Sông Hằng mẹ tôi - Tiểu thuyết (dịch) (1984);
      Toàn tập Phan Tứ, 4 tập (2002).


Tiêu đề: Re: Về làng (Tập truyện ngắn) - Phan Tứ
Gửi bởi: hoi_ls trong 01 Tháng Giêng, 2010, 10:50:02 am
MỘT BUỔI CHỢ

   Đi tới cách cổng chợ chừng trăm thước, chị Hai Phước bưng mủng cá rẽ sang con đường hẻm, định lọt vào chợ chỗ hàng rào gãy mé sau. Nhưng vừa bước qua mấy cây tre rào đổ ngang, chị gặp ngay thằng Phùng thu thuế chợ lù lù đứng chực sẵn, tay ôm cái kẹp vé thuế, tay chống ba toong:

   - Ê, chị kia, trốn đâu? Dám đạp rào chợ nữa chớ!

   - Dạ không... Tôi ghé thăm bà con, tiện đường tắt mới vô đây bán mớ cá vụn. Dạ anh cho đi.

   Chị vội đi ào qua tránh hắn, nhưng bị túm nón lôi lại. Hắn thọc cây ba toong xuống cát, càu nhàu:

   - Có vài đồng bạc thuế mà cứ ráng trốn quanh cho mất công. Mà sao chị mặc rách xác xơ vầy, ai cho vô chợ hử?

   - Dạ tội quá anh, bộ quần áo lành tối qua giặt chưa kịp khô... Đây anh coi giùm, không giấu gì anh, mới tát được nắm cá vụn đem bán mua gạo cho con. Giỏi lắm được mười đồng chớ mấy.

   Thằng Phùng liếm đầu ngón tay gỡ xấp vé thuế.
   - Chị cầm tôi như con nít sao chớ? Chợ ít cá, chị bán không được bốn chục chớ kể tôi là người. Ba đồng thuế!

   - Chết, anh nghĩ lại cho...

   - Nghĩ rồi đó, thôi cho chị bớt một đồng còn hai. Hai đồng thuế, dụng tâm trốn thuế phạt gấp ba thành sáu đồng, thêm cái sự mặc rách rưới đi chợ làm xấu quốc gia phạt chị vi cảnh nhẹ mười lăm đồng, vị chi hăm mốt đồng, tính lại thử đúng chưa?

   Nhanh như làm trò ảo thuật, hắn vừa nói vừa xé toạt một khúc giấy đỏ trong tập vé thuế và một mảnh giấy biên lai phạt vi cảnh, trong khi chị Hai há miệng kinh hoảng chưa kịp kêu.

   - Xỉa tiền ra đây, hăm mốt đồng!

   - Ôi chao, anh nghĩ thương giùm, không có lấy một xu...

   - Biên lai xé rồi, bộ tôi bỏ tiền nộp thay cho chị sao. Chánh phủ buộc vậy chớ tôi muốn phạt làm gì mang oán. Xuân đâu, xách cái nón đem bỏ trạm thuế đi em.

   Mặc chị Hai kêu thét, giằng co, đứa em trai thằng Phùng giật cái nón mới quai thao chạy thẳng. Thằng Phùng gạt chị ra, nạt:

   - Muốn vô đồn công an nữa hả? Cầm biên lai, chút nữa tới chuộc nón... Ê ông già gánh chiếu, lại đây! Cha chả, nhảy rào rúc bụi dữ hè!

   Chị Hai van xin một hồi, rồi đành bỏ đi vào chợ, chửi lầm bầm: “Mẹ tổ cha cái bọn chặn đàng cướp chợ, ăn dơ ăn dáy”. Nó cướp không của chị một buổi chiều đi tát vũng, sáng nay mất đèo thêm một buổi chợ. Trưa về con chị lại rướn cổ nuốt khoai chấm muối... Chị đặt mủng cá xuống góc lều chợ, mặt hầm hầm. Trong cơn tức của chị còn pha lẫn xấu hổ, tủi nhục, chị muốn hắt mủng cá vào mặt thằng Phùng mà không dám, sợ bị tù không ai nuôi hai đứa con dại. Bây giờ ai chọc chị một câu là chị đánh xé ngay giữa chợ cho biết mặt.

   Chợ đông dần. Biển hôm nay được cá, từng chục gánh kĩu kịt chạy qua cổng. Các chị buôn rỗi cãi qua lại với thằng Phùng mấy câu rồi móc túi đưa tiền mau kẻo nó giữ lại lâu cá ươn, để nó quệt tí hồ vào nón hay đòn gánh, dán lên đó một khúc giấy đỏ dài hay ngắn tùy từng gánh nặng nhẹ. Người mua không có mấy. Dạo này loa thúc thuế cử tri kêu om ngày đêm, mấy nhà đã còn tiền đi chợ, không phải bán đổ tháo heo giống gà ấp đi là coi như may phước rồi. Đôi bà mặc sang đi qua, buông một tiếng thờ ơ: “Bảy đồng hử.... Thách ba chục thì ai dám trả!”. Chị Hai xốn xang trong bụng, không lẽ chị mất cái nón chị mượn đi chợ sao, ít ra cũng phải đủ hăm mốt đồng nộp cho nó chứ.

   Phía cổng chợ bỗng nổi lên tiếng xôn xao. Bà con tránh dạt ra rất nhanh. Chị Hai vơ mủng cá kéo vào lòng, rồi ngấp nghé dòm. Hôm nay ráp chợ soát giấy, hay biệt động quân ra ghẹo gái kiếm ăn? Không phải. Một thằng công an quận đội mũ lưỡi trai trắng đi trước, cầm một cái loa. Hai thằng dân vệ theo sau, xốc nách một người mặc áo trắng quần đen đi chệnh choạng như say rượu. Thằng công an đưa loa lên, nói ồm ồm từng loạt ngắn:

   - Nè, đồng bào chú ý. Nghe đây. Tập trung lại đây hết. Nghe cộng sản chánh hiệu hô đả đảo Hồ Chí Minh. Thôi lại đây, mua bán gì bỏ đó đã, mau!

   Bọn dân vệ xách súng đi lùa từng người một. Thằng Phùng cũng khua cây ba toong, chạy lăng xăng: “Bác kia, điếc sao? Bà con học tố cộng miết, thấm nhuần rồi chớ! Con nít cũng tới nghe, tới hết!”. Mọi người càu nhàu xếp gánh, dồn lại thành một vòng vây rộng chung quanh tên công an. Chị Hai tránh né một lúc rồi cũng bị đẩy vào chỗ đông, một tay ghì chặt mủng cá, một tay nắm biên lai phạt và vé thuế. Thấy cái thế không trốn được, chị chen vào nhìn cho bõ công đứng may nhờ chị cao nên trông thấy rõ.

   Cộng sản đây là một cô gái thấp nhỏ trạc độ hai mươi đến hăm hai, mặt xanh nhợt, môi dưới sưng trễ xuống, mặc cái áo trắng dính mấy vệt máu đã khô đen. Hai thằng dân vệ xốc cô ta đứng lên một thềm nhà gạch, ấn cái loa vào tay. Thằng công an nói nhẹ nhàng: “Thôi em, ráng hô ít tiếng rồi anh thả. Tội nghiệp”. Chị Hai thấy rõ cô gái rùng mình một cái mạnh. Đôi mắt cô đã to, trên khuôn mặt xanh gầy trông càng to quá, nhìn trừng trừng qua đầu mọi người như đang tìm một cái gì, nương theo một tia sáng gì ở đâu xa lắm. Cô dựa lưng vào tường, từ từ đưa loa lên miệng, rồi hạ xuống. Thằng công an đằng hắng, sờ tay vào bao súng ngắn. Cô lắc đầu, gạt mớ tóc xõa hất qua vai, giơ loa nói nhanh, giọng khản đặc và hổn hển:

   - Tôi là đảng viên Cộng sản. Tên là Út, Trần Thị Út ở gần chợ Đồng Trầu. Tôi bị bắt về học tố cộng ở quận bốn tháng nay...

   Thằng công an nói át đi:
   - Đồng bào hô theo cho to, nghe không? Được đó, làm đi em.

   Chị Hai quay mặt đi, “hừ” một tiếng khinh bỉ thật nhỏ trong mũi. Lần trước chính mắt chị thấy một anh đảng viên cũ ra trước mít tinh xưng tên họ rồi xé cờ búa liềm. Lần này cũng cái trò ấy. Chị không phải đảng viên, nhưng chị nghĩ thân con người đã theo bên nào thì chí quyết theo trọn một bề mới phải, đồ úy tử tham sanh vô Đảng làm gì cho xấu cả mặt mình mặt người. Tiếng hét trong loa làm chị giật mình, chưa kịp hiểu.

   - Đả đảo Mỹ - Diệm!

   - Ủa...

   - Đảng Lao động Việt Nam muôn năm! Hồ Chủ tịch muôn năm!

   Thằng công an chồm lên thềm nhà:
   - Thôi! Câm họng! Ai hô theo đó?

   Đám đông thét dậy lên một loạt tiếng “muôn năm” lộn xộn, rồi vỡ chạy tán loạn. Chị Hai chỉ kịp hô vớt theo một tiếng, nép vội vào góc nhà bên cạnh. Bốn năm tiếng súng nổ cắt ngang tiếng loa. Chị Hai kêu rít trong miệng: “Chao ôôôi!” Mủng cá và hai mảnh giấy buột rơi khỏi tay chị lúc nào không biết. Mắt chị hoa lên, chỉ thấy chập chờn những lưng người nhốn nháo. Một lúc sau, chị nhìn kỹ lại chỗ nền nhà trống trơn. Một vũng máu trên nền gạch, một vũng nữa loang tím trên bãi cát trước thềm, và một chuỗi giọt tím nối dài lấm tấm chạy ra phía cổng. Chợ tan nhanh, kẻ mua người bán táo tác ra về. Các bà các chị lén đưa tay áo quệt mắt, có người kêu thành tiếng: “Trời ơi là trời!”. Không một dấu chân nào giẫm trên các vết máu.

   Chị Hai từ từ đi như người mất hồn, bước tới chỗ cát thấm máu, cúi xuống bốc một nắm cát ướt dẻo, cầm khư khư trong tay đi ra cổng. Chị không hiểu mình đang làm gì và có ai nhìn theo mình không. Trong óc chị nhảy nhót chờn vờn những câu hò liên hoan nhận ruộng, ánh đèn chai đêm học bình dân, tiếng hò reo của trẻ em chơi trăng Trung thu, những thứ chị tưởng đã quên từ lâu nay vụt hiện về quay cuồng như một vòng lửa nung đốt chị sau khi nghe những câu khẩu hiệu quen quá.

   Hồi đó, hồi còn chánh phủ Cụ Hồ, chị hô khẩu hiệu hồn nhiên như đứa trẻ chỉ biết kêu mẹ mỗi khi vui buồn chứ không kêu ai khác. Đã đảng Lao động với Hồ Chủ tịch thì tất nhiên là muôn năm ba lần không thể nào khác được. Chị không thể ngờ rằng sau khi ngừng tiếng súng chồng chị lại bị đánh hộc máu chết vì một chữ ký đòi hiệp thương, và phần chị lại bị bắt quỳ sám hối một tháng tới hai chục đêm, hô những câu quái gở trước cái mặt heo luộc của một thằng ai cũng biết là bán nước cho Mỹ. Sau mấy năm bầm giập, chị đuối sức dần. Chị bắt mình phải quên hình ảnh cô Hai Phước, nữ du kích hay hát hay cười, lén lấy mìn của chồng đi ăn lẻ kiếm súng giật chết một thằng Tây đi chợ ngay gần chỗ thằng Phùng chặn phạt chị hôm nay. Chị muốn cắt cả đoạn đời ấy đem đào sâu chôn chặt đi cho dễ sống. Chị nén từng cơn giận, bịt lấp từng tia hi vọng mơ ước, cố tập cho mình chai đi, trơ đi, thành câm điếc đi, không còn biết yêu ghét gì nữa, để có thể yên phận làm ăn nuôi hai đứa con mất cha. Nhưng khổ cho chị, chị vẫn đau đớn, căm hờn, hi vọng. Dù muốn hay không, dòng máu trong thân chị vẫn là máu đỏ. Những hòn than chị nuốt trong lòng vẫn cháy ngún, gặp cơn gió hôm nay thổi vào lại bốc lửa. “Chao ôi, các đồng chí ở đâu, các anh chị ở đâu hết đi, sao mãi không về”. Chị kêu thầm những tiếng dài nức nở. Đứa con của Cách mạng vẫn y nguyên một lời gọi Mẹ.

   Chị Hai đi thất thểu trên đường ruộng, đầu không nón, đôi vai gò xuống nặng nề, cái áo cộc rách cùi tay phủ thân hình cao gầy, lưng khom khom như đã quá quen đứng chờ đón trước mặt các ban khai thác xã, quận, tỉnh. Cổng nhà chị đây, hằn một chữ A đen đánh dấu gia đình tình nghi loại A. Chị đi thẳng lên nhà trên, đẩy phên liếp cho sáng. Tấm ảnh người chồng điểm một chấm trắng vuông nho nhỏ trên bàn thờ khuất tối. Chị cầm bát hương trút ra phản, bỏ nắm cát tím dẻo vào bát, bốc tro đổ lên trên. Chị đánh bật lửa châm mấy nén hương, rồi cầm hương đứng trước bàn thờ chắp tay định khấn. Chị vừa hé miệng thì tiếng khóc trào ra không cầm nổi, chị ngồi thụp xuống đất, tay úp mặt, khóc rung hai vai không thành tiếng.

7-1958


Tiêu đề: Re: Về làng (Tập truyện ngắn) - Phan Tứ
Gửi bởi: hoi_ls trong 01 Tháng Giêng, 2010, 11:19:44 am
NHÀ TÔI

   Tôi níu một gốc mua nhỏ, đu người trèo lên khỏi bực đá, gọi Hậu:
   - Nè, nghỉ chút đã ông tướng Thầy Ba. Đường xuống trung châu gì mà leo dốc hung ác, vắt cắn hốt ném không kịp!

   Hậu cười hì hì, nheo một mắt:
   - Lỏng đầu góc rồi hả anh? Cái thứ cá ngừ cá núc dưới kia, mệt cấm khẩu ăn vô cũng tỉnh liền.

   Hậu trèo nhanh thoăn thoắt, không thở mạnh, chỉ tháo mồ hôi bết tóc trên gáy và ướt lưng áo cổ vuông xanh đã bạc màu, mỗi lần quay mặt lại vẫn cười hì hì nguyên một điệu. Hai má tròn thường ngày hơi tái vì sốt rét lúc này hồng lên, vết sẹo trên mang tai thành đỏ ửng. Hậu thường gõ ngón tay lên chỗ vết sẹo hình con cá nhám quẫy đuôi, kỷ niệm một trận đòn tra tấn, nói oang oang: “Rõ ràng là ngư dân có đóng dấu đây, thấy chưa? Hội đồng xã mình nó sợ lạc mất dân, nó in cho mình cái nhãn thiệt to trên đầu”.

   Hậu mang khá nặng. Lưng cõng một ba lô đầy căng, kiểu ba lô đơn giản của cách mạng miền Nam làm bằng cái bao bột mì viện trợ Mỹ, buộc cái ruột tượng rách túm góc thắt miệng dùng làm quai. Mỗi bận về căn cứ họp, Hậu mang muối lên đổi lấy mật ong, chè khô của đồng bào Thượng, đem xuống đồng bằng đổi gạo ăn. Quanh năm Hậu không lãnh một xu sinh hoạt phí nào, áo quần nhân dân cho gì mặc nấy. Khẩu súng trường 86/93 cổ lỗ dài như cây sào vịt tước của dân vệ vác trên vai. Cái thắt lưng to của Hậu đèo hai quả lựu đạn Mỹ, một bó mũi chông sắt có ngạnh mới rèn trên căn cứ, còn tất cả áo quần chăn võng chỉ nhồi vào một túi vải bố tự may lấy đeo bên mông lủng lẳng. Cứ vậy Hậu băng băng đi trước, hai bàn chân không dép bước trên đá như gắn nhựa, không vấp hay trượt lần nào trong khi tôi chụp ếch liên hồi.

   Lên đến đỉnh dốc, tôi thả phịch cái ba lô trên tảng đá phẳng:
   - Đi với thanh niên mệt gớm. Cha nội kéo luôn một hơi gần ba tiếng đường dốc, rồi cha nội cười ngon lành. Ngày mai còn đợi liên lạc, tối mai mới xuống Nghĩa Kỳ, đi gấp làm gì hả?

   Hậu cười lặng lẽ, đứng trên tảng đá nhìn về mé bên trái. Tôi đứng lên, và ngạc nhiên thấy một khoảng đồng bằng hiện ra giữa hai sườn núi. Con sông quanh co chảy ngược lên chân trời, giữa hai lưỡi cát trắng đục. Xóm làng là những mảng xanh sẫm rải rác trên ruộng kẻ ô bàn cờ, những mái nhà tranh vàng nhạt nhô ra một góc vuông dưới cây. Ngoài xa tít, một đường viền rất mỏng, xốp như bông, từ từ co duỗi, sủi lên rồi xẹp xuống: sóng biển. Tôi đùa:
   - Đứng đây nhún thiệt mạnh, nhảy ào xuống tới biển đó. Thanh niên ưa bay nhảy, làm thử coi.

   Hậu xoắn mãi cái quai súng, rồi nói chầm chậm, giọng trầm khác hẳn mọi khi:
   - Nhà tôi chỗ kia nè, anh.

   Đôi mắt Hậu bị hút vào khoảng sa bàn đóng khung giữa núi thành hình tam giác ngược đằngtrước. Môi Hậu mím trễ xuống, một đường nhăn lạ mắt hằn bên khóe miệng, hai cánh mũi mấp máy như tìm hơi gió mặn thổi về. Cái sẹo hình con cá trên mang tai Hậu từ đỏ hồng đang trắng dần lại. Hậu không nhìn tôi, nói như nói một mình:
   - Anh lại đây, lại đây tôi chỉ cho coi. Cứ nhắm con sông Trầm xuống thẳng tới biển, bên tay trái là xã tôi, sát bên xã Nghĩa Kỳ đó. Chỗ nhà tôi đó, gần cây mắm đen đen thiệt cao, bây giờ nước lên ngập gốc ngó như con người đang lội qua cửa sông, anh thấy không? Cũng chỗ gốc mắm đó, nó treo con em tôi đánh chết tươi, bốn bữa sau nó đá chị Cước sổ thai, chết cả hai mẹ con. Nhà chú Bàng nó đốt, bắt đi di dân, bây giờ còn mấy cây cột đen, ngó kỹ mới thấy, bên chỗ trạm thu thuế cầu đường của xã...

   Tôi cố nhìn nhưng không nhận ra cây mắm và nhà Hậu. Tôi biết Hậu đang nhìn vừa bằng mắt vừa bằng trí nhớ, bằng những kỷ niệm đau đớn đã hằn sâu trong óc. Theo đà Hậu nói say sưa, cảnh đồng bằng dưới kia cựa mình sống dậy, các thôn xóm tách rời nhau ra, các mái nhà hiện lên, và. những bóng người ăn nói đi lại rõ nét dần... Nhà cháy ngùn ngụt, ông già lăn vào rút chiếc chiếu bị nó đạp ngã chúi. Em gái nhỏ đang mếu máo khóc gọi mẹ bị nó rút dây treo ngược lên cành cây, đấm cho đu đưa qua lại như bao cát, đến khi chỉ còn là cái xác tím và mềm nhũn. Những chị đói gầy vì ăn khoai chấm muối ớt, phải dành dụm tiền sắm một bộ áo quần lụa “ba biên” để nó cho vào chợ, qua các trạm thuế đường thuế cầu thuế chợ còn phải móc nốt mấy đồng bạc bớt ra mua gạo cho con. Những bà mẹ chiến sĩ hồi kháng chiến, nay vừa đánh mõ vừa la làng: “Việt cộng! Việt cộng về bớ làng xóm!”, vừa kéo vạt áo thấm nước mắt. Những dây người, chuỗi người cắp chiếu đèo nối lếch thếch kéo đi học tố cộng, đi canh gác, đi làm xâu cộng đồng… Cuộc sống quằn quại ngạt thở lăn lộn đang diễn ra dưới đó. Con sông Trầm có phải đầy thêm đục thêm vì máu người chết và nước mắt người còn sống, còn cố sống để đợi cách mạng về? Những chấm sáng lấp lánh dưới vòm lá xanh kia là tia nắng hay những cặp mắt đang khắc khoải lén nhìn lên núi? Tiếng rền xa của sóng biển hay tiếng đồng bằng rên xiết đó?

   Hậu nói nhanh, lộn xộn:
   - Nhà tôi nó dỡ rồi anh à. Chỗ tôi chỉ khi nãy là cái nền đó. Phần tôi nó đánh bể đầu đã đành, còn cớ gì tới gia đình tôi mà nó cố diệt cho tàn hại nó mới ưng? Con em tôi mười lăm tuổi, tuổi Tuất. Hôm tôi đi, nó tự ý làm thịt con gà mái đẻ, nạo dừa hầm rục đi, bắt tôi ăn một mình cho hết, nó cứ chống đũa ngồi ngó rồi chảy nước mắt. Ai đời con nít mà nó nói vầy anh: “Anh lên đó hỏi các ông cách mạng coi, có cần người nấu cơm sai vặt gì thì nhắn em lên với nghe. Em làm không thua người lớn, mà ăn ít lắm, nuôi không tốn kém đâu”. Nó khôn sao khôn lạ...

   Câu nói tắc nghẽn trong cổ Hậu. Hậu đứng ngây ra, đưa tay vuốt hai lần chỗ vết sẹo hình con cá, rồi đột ngột xốc cái bao lên vai, xách khẩu súng dài thòng, gật đầu ra hiệu đi.

   Tôi lặng lẽ bước sau. Con đường đá lởm chởm hình như phẳng hơn ban nãy, chân tôi bước cũng dẻo chắc hơn. Tối mai... không, ngay tối nay chúng tôi sẽ về nằm hầm bí mật ở Nghĩa Kỳ. Phải đi gấp chạy đua với địch đến sớm một ngày, rút ngắn đau khổ của đồng bào được hăm bốn tiếng đồng hồ...

   Khoảng đồng bằng dưới kia co hẹp dần, rồi khuất sau một mỏm đồi. Chúng tôi đi sát nhau, rì rầm nói những chuyện không đầu không đuôi. Hậu đã trở lại bình tĩnh, đôi lúc buông một câu đùa quen miệng. Hai giờ sau, đến một con suối. Hậu cúi xuống vốc nước rửa mặt, quay lại nheo mắt cười hì hì như mọi khi:
   - Cho con cá trên đầu lội nước một chút… À, anh ngủ với tôi có thấy tôi giật giật bàn chân không? Có hả? Dân biển vậy đó, nằm xuồng câu cá đêm cứ vừa ngủ vừa nhấp nhấp cái dây câu cột nơi ngón chân cái. Mấy năm bỏ nghề mà còn tật. Quên không hỏi, ông có hôi nách không vậy ông? Ở hầm với ba cái ông hôi nách, kinh bỏ cha!

10-1959



Tiêu đề: Re: Về làng (Tập truyện ngắn) - Phan Tứ
Gửi bởi: hoi_ls trong 01 Tháng Giêng, 2010, 11:22:11 am
TẤM ẢNH

   Khoảng nửa đêm ông Bảy thức dậy đi đái. Vừa sờ đến tấm cửa hông, ông giật mình. Hồi đầu hôm, chính tay ông đóng cửa, gài cây ngáng, mà bây giờ cửa chỉ khép hờ, cây ngáng dựng một bên. Ông dặng hắng rồi đánh tiếng gọi:
   - Con Hai còn thức đó không?

   Đợi một chút, ông gọi to hơn:
   - Má thằng Sính còn ở nhà không?

   Vẫn không có tiếng trả lời. Ông nhúc nhắc đi vào ngồi phản giữa, trong bụng giận sôi lên. Mấy hôm nay, ông để ý ngờ con dâu, bây giờ mới bắt được tay day được cánh đây. Ông bật lửa định châm đèn rồi lại thôi, cầm cây gậy lăm lăm rình trong góc tối. Để cho con dâu thấy yên nó rúc về, ông đánh cho một trận, xé nát ra rồi tới đâu thì tới. Cha chồng đánh nàng dâu là sự hiếm có. Riêng tình cảnh ông chết vợ ở với nàng dâu vắng chồng càng dễ mang tiếng. Nhưng đến cơ sự này, con ông không ở nhà dạy vợ thì ông phải dạy dâu. Chồng nó tập kết để lại đứa con dại ẵm ngửa, lâu nay nó lo làm ăn nuôi con không mắc điều tiếng gì bà con thường khen ông khéo chọn được nàng dâu thảo. Bao nhiêu lần bị bắt ly hôn, nó vẫn chịu đòn mà không ký. Bây giờ sinh hư đốn ra, đi nằm bờ ngủ bụi với thằng nào. Ông đã ngờ ngợ từ lâu, từ cái hồi con ông định đi hỏi vợ kia, vì xem ra tuổi Ngọ lấy tuổi Dậu là bất sum hợp, tân khổ cơ hàn, trước hợp sau ly. Lại thêm tướng con dâu nó đào hoa nhỡn, lanh lợi mà có phần lẳng, ưa sự tình tứ này nọ. Hồi ấy đang kháng chiến, nói ra ai cũng chê ông phong kiến nên ông để bụng đó thôi. Bây giờ sự đã quả nhiên, thấy chưa! Phần ông năm kia bị thằng cảnh sát phó đánh tám búa vào hai mắt cá chân, tiếng rằng chưa què hẳn mà cũng như què, chỉ đan được cái nia cái rổ, ngày hai bữa cơm ghế cũng trông nhờ vào con dâu. Nó thấy vậy nó rỡn mặt. Được, để rồi coi, áo mặc không qua khỏi đầu, chồng đi còn cha, ông còn sống sờ sờ đó mà nó dám giở trò đĩ bợm! Ông rình lâu lắm. Muỗi cắn mặt, cổ và hai chân ngứa ran ông chỉ xoa xoa mà không dám đập. Cánh cửa liếp kẹt một cái. Một bóng đen luồn vào, sờ soạng khép cửa, gài cây. Ông nắm chặt đầu gậy, định nạt một hơi rồi quật luôn, nhưng lại ngồi im. Phải nọc nó ra đánh hẳn hoi, làm cái lối vơ đâu xáng đó nó khinh.

   Tiếng xòe bật lửa trong buồng. Ông bỏ guốc, rón rén đến dòm qua kẽ phên: đứa con dâu để cây đèn xuống chân cột, rút cái giấy gì trong túi ra soi, đọc lẩm bẩm. Chà, quá lắm, vậy thì quá lắm, đi ngủ lang về còn đọc thư trai… Xưa nay ông vẫn giữ ý không hề bước vào buồng con dâu, nhưng lúc này giận điên lên ông quên ráo cái câu “nam đáo nữ phòng”. Ông lập cập bước tới cửa buồng, vô ý va đầu gối vào phản một tiếng cộp. Ngọn đèn trong buồng tắt biến. Tiếng hỏi run run:
   - Ai? Ai đó?

   Ông gằn giọng:
   - Con Hai thắp đèn lên, tao hỏi.

   - Ba hả ba? Vậy mà...
   - Hứ, ba con gì? Tao bửa đầu ra, đồ đĩ!

   Đèn vừa sáng lên, ông bước vào buồng, giơ ngay cây gậy định vụt. Chị Sính vội nép vào góc cột, mặt còn xanh nhợt, hốt hoảng hỏi khẽ:
   - Ủa ba, có gì thì nói... khoan, khoan đã mà...
   - Tao hỏi mày, nãy giờ mày đi với thằng nào? Nói!

   Chị Sính lúng túng, giơ tay trước mặt phòng đỡ đòn, gắt lại cha chồng:
   - Ba kìa, lạ chưa. Người ta nghe bây giờ. Để tôi nói... Tôi đi có việc.
   - Việc này tao biết rồi. Thằng nào?
   - Nói nhỏ chút chớ, con nít nó giựt mình. Ba hỏi làm gì?
   - Á, to gan hung! Nè gan!

   Ông vụt một gậy. Chị Sính né sang phía đầu giường, tránh được. Chị vừa xấu hổ, vừa tức ông lão, lại sợ lọt đến tai hàng xóm, sợ dân vệ đi tuần hay cộng tác viên rình mò nghe được. Ông Bảy cũng ngại cái chuyện con dâu ngủ lang đổ vỡ ra thiên hạ người ta cười, nên chỉ gầm nho nhỏ trong họng. Nghe chị nói quanh co một lúc, ông lại nổi điên quát to:
   - Đồ hùm tha voi xé, tưởng bộ tao không biết hả?
   - Thôi đây nè, ba biết thì biết luôn đi.

   Chị Sính không ghìm được nữa, rút tờ giấy trong túi ra mở xòe trước mặt cha chồng, nhưng lại vội vàng cất vào túi. Đưa lá thư ông coi không ra lại hỏi kì kèo mất thì giờ. Chị nhấc hũ gạo sang bên, lật viên gạch kê đáy, lấy ra một gói nilông vuông. Ông Bảy trố mắt nhìn tấm ảnh chị nhét vào tay. Trong ảnh, có một anh con trai to mập, mặc rất bảnh, đeo cà la oách hẳn hoi, tóc chải trơn bóng, cái miệng cười coi không tự nhiên, hai con mắt hơi lé đang nhìn ông... cặp mắt thằng con ông cũng lé giống má nó... Ôi đúng con trai ông đây rồi. Ông ghé sát tấm ảnh vào ngọn đèn, chòm râu đen rung rung. Con ông nó nhớ ba nó, nhớ vợ con, nó gửi ảnh về đây mà, giờ nó ra cái ông rồi, không láu táu lưởi tưởi như hồi làm thôn đội trưởng dân quân nữa. Chòm râu bật cháy xèo một tiếng gọn, mùi khét bốc lên nồng mũi. Ông giật mình né đầu ra, sờ sờ tấm ảnh xem có bị cháy lây không, rồi mới phủi râu xoa cằm.

   - Thôi ba đưa tôi cất, để khi khác coi. Còn lá thư nữa.
   - Khoan, để thử...

   Ông ngắm mãi khuôn mặt đầy đặn và đôi mắt lé, đưa ngón tay sờ mặt giấy bóng, lật đằng sau thấy chữ đề lít nhít:
   - Mày đọc tao nghe nó viết gì đây.
   - Đưa tôi. Đây nè...

   Một con chó đầu xóm bật sủa, con vện nhà láng giềng sủa theo. Ông Bảy thổi phụt ngọn đèn, nhúc nhắc chân ra nằm phản giữa, kéo chiếu trùm kín. Có tiếng ho ngay gần ngõ nhà ông. Bọn cảnh sát và dân vệ bàn gì với nhau lào xào rồi đi luôn, ở vùng sâu này chúng nó còn dám đi đêm. Một cơn giận khác từ từ bốc lên làm ông nghẹt thở. Ông thấy như suốt bảy năm ở tù ông mới nhìn mặt con trai được một chớp loáng, đã bị tụi nó lôi trở về cái nhà giam tối đen này, chút ánh sáng mới lóe lên đã vụt tắt như ngọn đèn ban nãy. Giang sơn phân cách, cha được thư con mà không dám chường mặt ra coi thì còn trời đất nào nữa.

   Đợi trong xóm thật yên tĩnh, ông trở mình nằm nghiêng, ghé mặt vào kẽ phên gọi nhỏ:
   - Hai! Con Hai còn thức không? Đưa tấm hình lại ba coi chút.

   Chỉ có tiếng ngáy phì phò đáp lại. Ông chép miệng, lẩm bẩm một mình: “Đàn bà con gái gì ngủ như chết”. Ông hơi oán con dâu, nó đi gặp cán bộ cứu nước mà giấu ông, ông có phải như bọn thuần túy quốc gia đậu mà nó nghi. Nghĩ luẩn quẩn một lúc, ông thấy con dâu chưa tin ông cũng phải, tính ông nóng nảy bụng để ngoài da, việc đời ông hơn nó chứ việc cách mạng nó hơn ông rành rành. Làm sao cho nó tin, nó đưa ra gặp cán bộ, khó chứ chẳng chơi... Con dao ông mài rất bén giắt mái tranh còn y đó. Cách mạng nổi lên một cái là ông chém thằng cảnh sát phó. Thứ roi đòn hay bạt tai lặt vặt ông chẳng đòi nợ làm gì còn lại tám búa vào chân. Tám búa là tám nhát dao. Ác giả ác báo, dĩ oán báo oán là vậy, sách dạy đâu có sai chữ nào. Ông dù bạc phước chết sớm thì còn thằng con trai gửi thư gửi ảnh về đó, nó trả thù cho ông. Khuôn mặt anh con trai mắt lé cùng với con dao mài rất bén lẫn vào nhau, đảo qua đảo lại, xoay tròn. Ông ngủ lúc nào không biết.

   Đến gần sáng chị Sính vẫn thức. Chị cố ngủ để lát nữa dậy sớm nấu cơm ăn đi cấy, nhưng trong cái đêm được kết nạp vào Phụ nữ giải phóng, lại được luôn thư ảnh chồng thì ngủ làm sao. Sáng ra chị cấy cho con Bính thì chị nắm chắc, chỉ một buổi cấy chung nói chuyện rủ rỉ là nhận công tác. Ông cha chồng phải để sau, phạt ông cái chuyện om sòm ban nãy... không, đằng nào ông cũng biết rồi, phải nói cho ông hiểu, mà mỗi ngày phải một lần nhắc ông kín miệng. Cơ sở đẻ ra cơ sở, đến khi thật mạnh rồi ùm một lần nổi dậy, chỉ nghĩ đến cũng thích mê. Phong trào trong thôn bể vỡ đã năm lần tất cả, người chết và đi tù tới hơn trăm rồi. Nhưng lần này, ta khôn khéo hơn, chắc không sao...

   Chị trở mình, ngáy một hồi để buộc mình ngủ, rồi lại mở chong mắt. Chị thò tay vào túi lấy bật lửa, định thắp đèn đọc tiếp thư chồng, nhưng nén lại được. Chị thấy thu thú như đứa trẻ mới nếm sơ cái bánh đã cất đi, đợi lúc thật đói mới ăn.

   Anh ấy đi tập kết có để lại một cái ảnh cũ, chị gói giấu kỹ, mỗi lần giở ra coi chị lại tủi thân buồn mất mấy ngày. Ấy bởi vì chị soi mặt mình trong gương và so với tấm ảnh của chồng, thấy mình mỗi năm một già đi, già hơn chồng nhiều quá, trông như chị với em. Chị tự mắng mình lẩn thẩn, anh ấy cũng phải già chớ đâu trẻ hoài như trong ảnh được. Rồi chị tự cãi rằng anh ấy ra Bắc ăn sung mặc sướng, béo tốt sởn sơ ra hẳn trẻ lâu, còn chị khổ nhiều nhất định da nhăn má hóp. Biết đâu được cái bụng đàn ông, người ta trơn lông đỏ da rồi chê vợ già xấu, giàu đổi bạn sang đổi vợ là thường…

   Đêm nay chị nằm với lá thư chồng trong túi, tấm ảnh mới dưới gối, cũng như có chồng bên mình rồi. Củng với niềm an ủi mát rười rượi, chị còn một nỗi mừng thầm kín: chồng chị mập mạnh nhưng không trẻ hơn chị. Coi kỹ tấm ảnh mới, chị thấy trên mép và dưới cằm chồng có màu râu cạo còn sâm sẫm. Anh ấy làm cách mạng ngoài Bắc, ở đây chị cũng làm cách mạng chứ thua gì. Mai sau đoàn tụ, dù chị phai tàn đến mấy, anh cũng phải thương phải nể người vợ biết lo việc nhà việc nước trọn đôi bề... Nói phòng xa vậy chứ mới đọc mấy hàng chữ mà chị đã thổn thức mừng tủi, anh viết văn chương lắm, một lời thăm ba hai lời thăm vợ con, những tiếng “anh, em” nghe thương thấm tới ruột gan. Thằng Sính đã lên bảy tuổi, mà... mà nó chưa có em, thứ con một dễ hư quá. Con có ba mà chẳng khác con . chửa hoang. Đến bao giờ con mới biết mặt ba, con ơi!

   Chị lần tay rút tấm ảnh giấu dưới chiếu. Thằng Sính quẫy mình, ú ớ. Chị thôi ru con từ lâu, bây giờ chị muốn hát lại một câu nghịch ngợm của chồng. Sợ ông Bảy thức giấc, chị ghé tai con ru thật nhỏ: “À ơi... Ai về nhắn với lão Khoai, có thương mụ Đậu thì gởi hai bát Đường”. Rồi một tay chị ôm con, một tay chị áp tấm ảnh trên má, mỉm cười xấu hổ với mình trong đêm tối, một giọt nước mắt rỉ xuống mang tai thành dòng âm ấm.

12-1959


Tiêu đề: Re: Về làng (Tập truyện ngắn) - Phan Tứ
Gửi bởi: hoi_ls trong 01 Tháng Giêng, 2010, 11:26:39 am
CHÈ ĐẦU XUÂN

   Vườn chè đã ra lứa búp đầu xuân. Những chùm xanh non mảnh dẻ nảy chen trên lá sẫm trông mát mắt lạ, mới trông tưởng như một đàn bướm xanh vừa sà xuống đậu kín vườn, xếp dựng những đôi cánh mịn màng.

   Chị Tư hái được gần đầy giỏ chè búp vẫn chưa nghe Hợp nói gì. Sáng nay chị mới nhấc nồi cơm xuống rế đã thấy Hợp tất tưởi xách giỏ qua rủ chị đi hái chè sớm. Trông con bé đờ đẫn như người mất của, chị đoán ngay nó muốn kể tâm sự gì đây. Trong nhà chưa tỏ ngoài ngõ đã hay là vậy, mọi chuyện riêng tư nó đều đem sang trút cho chị trước tiên, mà cái tuổi con gái mười chín thật là dây mơ rễ má lắm nỗi. Nhiều lúc nó kể sa đà, chị phải gắt: “Nói vừa vừa chứ, để cái miệng kịp đổi da non, không sau đẻ con nó câm”. Chị tính đưa nó vào Phụ nữ giải phóng, nhưng sợ cô ả mồm miệng hớ hênh nên còn treo lại, chỉ mới tuyên truyền bóng gió.

   Năm ngoái chị Tư mất ngủ với Hợp gần tháng vì thằng Tế công an quận lựa khi vắng đang đêm vào nhà định hiếp nó. Con bé không xinh lắm nhưng được cái lanh lợi có duyên, con nhà nghèo mà lúc nào cũng chải gỡ sạch gọn, hai con mắt lại sắc “liếc đứt tàu chuối”. Gà chưa lên chuồng nó đã ôm chiếu rúc rào sau nhà, luồn qua vườn chè đến ngủ với chị, rủ rỉ suốt đêm. Chị sợ bọn chánh quyền và cộng tác viên để ý, nhưng không nỡ đuổi nó về, xui lên xã kiện nó lại không dám, sau chị bày mưu tính kế giúp nó giữ thân. Từ đó Hợp luôn miệng kêu đau dạ con, đi hỏi thuốc tây thuốc ta các nơi, bán hai con gà mái mua mấy gói thuốc về để đầu giường làm chứng, thằng Tế thấy vậy mới bỏ qua. Đến khi hai anh cách mạng bắn chết thằng Tế ngay giữa sòng bạc, Hợp mới thật hoàn hồn. Hợp tấm tắc khen cách mạng giỏi, thằng Tế một đêm đổi chỗ ngủ hai ba lần mà họ về tìm thấy. Hợp không biết chính chị Tư đào hầm nuôi họ trong nhà, và theo rình thằng Tế nửa tháng liền.

   Mặt trời lên hơn con sào, trong vườn đã thoảng bốc mùi chè phơi nắng thơm nồng. Gió lay ngọn tre, rây những chấm vàng nhảy nhót trên lưng Hợp, lùa mát dưới nón Hợp. Hợp vẫn hái chăm chỉ, mấy ngón tay dính nhựa chè xám ngắt, những đọt mềm bỏ giỏ nhanh thoăn thoắt. Từ sáng Hợp nghĩ mãi không biết nói sao để chị Tư khỏi hiểu lầm, nói trắng ra ngay thì mắc cỡ không nói được, mà quanh co thì dễ mất lòng. Như khi thằng Tế làm bậy Hợp có giấu chị Tư đâu, nhưng cái chuyện này rắc rối quá thể đi. Hợp đưa tay với nhánh chè cao mấy lần không tới, quay lại gọi chị Tư:
   - Chị cao hơn em, níu hái mấy đọt trên ngọn chút. Mới đó đã gần nửa buổi.

   Chị Tư bước tới, ỡm ờ:
   - Nửa buổi rồi, mà cái bầu tâm sự không biết ngỏ cùng ai hả? Thôi sắp sửa về, tao còn đi thăm ruộng.
   - Tâm sự gì đâu... à, xã có giấy kêu đợt quân dịch 39 rồi đó.
   Hợp lật nón ra quạt, má đỏ rựng, không nhìn chị Tư:
   - Anh Hổ cũng đi. Chao, nắng gớm hè.

   Ra vậy đó. Chị Tư cười thầm. Lâu nay nó hay nhắc đến anh Hổ, hỏi dò chị coi anh ta tốt xấu, chừng như có tình ý gì rồi đây. Hổ là con ông Tiện, nhà vào hạng khá giả trong làng. Phần hắn ta cũng thật thà chịu khó, nhưng tính nhút nhát, mang cái tên nghe thật oai mà lại sợ rắn sợ ma đủ thứ. Còn gia đình thì năm bè bảy bối: ông cha vào công giáo, hay nịnh bợ bọn hội đồng xã, tuy không hẳn là tay chân, bà mẹ cảm tình cách mạng và thờ Phật, anh con cả vào bộ đội hồi kháng chiến làm tới đại đội phó sau đi tập kết, chị Hai lấy chồng thượng sĩ biệt kích tỉnh thuộc loại ác ôn. Đợt quân dịch này bắt một loạt hai mươi sáu thanh niên trong xã. Chị Tư đã gặp bà Tiện vận động giữ con ở nhà, chưa biết kết quả ra sao. Nghe Hợp gợi chuyện, chị không hỏi ngay vì biết tính Hợp như trẻ con, thấy người ta lờ đi thì bám theo, hễ hỏi đến lại làm mình làm mẩy. Chị giẫm những cành khô ngổn ngang dưới gốc chè, tới chỗ xa đường qua lại. Hợp bước theo, ngập ngừng:

   - Hôm kia em gặp anh Hổ… hồi đi cuốc cỏ lúa về, đông người ta... ảnh nói năm ngày nữa đi. Em coi quyển sách gì họ phát cho ảnh, thấy chụp hình những chỗ quân đội ăn ở chơi bời vui lắm, ca dao cũng nhiều.

   - Thiếu gì thứ ca dao quân dịch. Muốn nghe tao đọc cho nghe. “Em là con gái Đồng Nai, tuổi vừa đôi tám chờ ai bây giờ…”.

   - Biết chị giỏi. Mà sao người ta đồn lính chết nhiều quá, toàn bị đạn từ bụng trở lên. Bên Giải phóng bắn đâu trúng đó mà.

   - Đồn gì, xe chở xác chở thương binh về nườm nượp, trực thăng bay như chuồn chuồn, mày đi coi về nói với tao chứ ai.

   Hợp buột miệng kêu:
   - Vậy mà ảnh nhất định đi quân dịch chị à. Người đâu lại có thứ người...

   Hợp nghẹn lời, chớp mắt. Chị Tư ngừng tay hái chè, nhìn thẳng vào mắt Hợp, chặn ngọn luôn:
   - Chị hỏi thiệt em, hai đứa đã hứa hẹn gì chưa?

   Hợp ngây mặt, luống cuống cãi lấy được:
   - Dạ... không mà, chưa gì hết. Chưa đâu chị à, mới sơ sơ...
   - Em nói ảnh đừng đi, bà con chòm xóm người ta chê cười.

   Hợp ngồi xổm xuống bóng cây, thở dài, tẩn mẩn xé vụn từng cái lá chè, hai má đang đỏ dần dần tái đi:
   - Phải chị em mới dám nói thiệt, má em cũng không biết đâu. Bọn em có gặp nhau nói chuyện mấy lần, em thấy ảnh tốt bụng hiền lành. Thanh niên diệt cộng hay thanh niên cộng hòa hiếc gì cũng không... ảnh về thưa với ba má ảnh đi hỏi em, ông Tiện không chịu, nói nhà em nghèo, bị tình nghi can cứu, tánh nết em bướng sao đó. Ba con rầy lộn nhau. Ảnh nói không lấy được em ảnh nhảy xuống giếng, em sợ quá. Chị đừng nói với ai nghe. Ảnh không muốn đi quân dịch, đập bệnh ra nằm, ông Tiện cằn nhằn hoài: “Mày không đi thì họ cào nhà, tịch hết trâu ruộng, họ bắt tao đi thay. Trước sau gì cũng khó thoát, thà đi trót một lần cho xong, mười tám tháng chớ mấy. Bộ ai đi lính quốc gia cũng chết hết sao”. Đó chị nghe thử, nói ra câu nói vậy mà không mắc ngang cổ mới lạ chứ. Bà Tiện khóc miết mà cãi ông Tiện không nổi. Chị Hai còn xúi ảnh nộp đơn đi biệt kích tỉnh với chồng mình nữa mới gớm chớ, nói đi biệt kích dễ về thăm nhà nè, lãnh lương khá nè, anh em gần nhau nè, đi quân dịch phải vô tới Sài Gòn, tháng phụ cấp trăm hai bạc ăn tiêu gì. Ảnh giận gia đình mới tính đi đó. Tức cho ông Tiện, con đẻ đứt ruột chứ phải hòn đất nặn ra đâu mà coi như người dưng, ảnh chết rồi ổng ở đó mà hưởng trâu ruộng cho sướng đời, có xếp phản mít dày cả sải ra nằm cũng không êm lưng đâu. Chị Hai cũng thiệt tệ, chẳng kể gì chị em hòn máu xắn đôi. Để coi anh cả đi tập kết về ảnh chỉ ngón tay giữa mặt, hỏi “em tao đâu?” rồi ăn nói sao cho biết. Cứ tưởng cái mạng ông thượng sĩ biệt kích to lắm đó, không biết bên Giải phóng họ bắn trúng rồi có lột da sống lại được không?

   Hợp nói một hơi không nghỉ, thè lưỡi nếm dòng nước mắt chảy xuống môi, kéo ống quần lên lau mắt, rồi lại bật khóc thút thít. Chị Tư mủi lòng, trách mình lâu nay ít chuyện trò với nó, để nó băn khoăn rầu rĩ mà không biết. Hợp run giọng tiếp:
   - Em cứ thây kệ, ai có thân nấy lo. Chẳng thà trầu cau ăn hỏi thành vợ thành chồng rồi còn dễ khuyên can, chớ bây giờ nói ra người ta lại nghi ngờ này nọ, à con này lãng mạn trai gái, à con này tư tưởng Việt cộng tác động tinh thần thanh niên, gì gì nữa thì em chết với hội đồng, thịt lộn xương xương lộn thịt mất.

   - Thì đừng nói với người khác, nói riêng với anh Hổ thôi. Em khóc níu ảnh được, chớ bảo chị khóc níu giùm sao?

   - Cái chị này, giỡn có hồi có chặp... Em nói hai lần rồi, ảnh cứ phủi đi như phủi tàn lửa. Thôi mặc kệ ảnh, ảnh không nghe gia đình lại khai báo cả em nữa cho coi. Thời buổi này ai dám tin ai đâu chị. Mà cái lập trường ảnh lung lay vậy, lỡ ở nhà làm công an dân vệ lại xấu lây tới em. Níu kéo làm gì, phải vợ chồng thì em không thương cũng giả đò khúm núm rồi đó. Bà Tiện tới tìm em nói nhỏ: “Bác với cháu chưa phải má con cũng như má con, cháu biểu thằng Hổ đừng nghe ổng...”.

   


Tiêu đề: Re: Về làng (Tập truyện ngắn) - Phan Tứ
Gửi bởi: hoi_ls trong 01 Tháng Giêng, 2010, 11:26:58 am
Hợp bỗng nín tắp, quay mặt. Một bóng người cao, tóc cắt bàn chải, đang thập thò sau rào nhà Hợp ngó qua vườn chè. Chị Tư vẫy tay gọi:
   - Hổ ơi, ra hái giùm ít nắm chè coi thử.

   Hổ chỉ đợi tiếng gọi là vạch rào bước tới. Hợp đứng dậy vặn lưng, xách giỏ, con mắt ngó lơ:
   - Về chị, còn thăm ruộng nhà mà.

   Chị Tư kéo tay Hợp:
   - Làm bộ hoài, ngó coi thằng Hổ cái mặt còn bằng hai ngón tay tréo kia. Nó linh thiệt, mới nhắc đã thấy tới, hèn gì tên là Hổ.

   Hổ gầy sút hẳn, tóc đâm vành tai không buồn cắt, hai má nhô xương. Cái miệng hở một hàng răng lúc nào cũng như đang cười, bây giờ càng làm nổi rõ khuôn mặt chỉ còn răng với mắt. Hổ mặc cái sơmi trắng sạch bỏ ngoài quần bà ba đen, tay cầm rựa, đứng lúng túng:
   - Chị Tư à… thấy con trâu nhà em đâu không?
   - Có thấy một con trâu tơ, trâu cái. Thôi, đừng lấy vải thưa che mắt thánh, ngồi xuống. Tụ họp mới ba người, dân vệ chưa kiếm cớ bắt được đâu. “Túi nhung thêu nếp chỉ vàng, anh đi quân dịch vẻ vang gia đình”, chị em tôi có lời mừng ông quân đội đó nghe.

   Hổ vốn ăn nói vụng, chỉ xịu mặt xuống ấp úng:
   - Tội chết đi chị, em chưa biết tính sao đây.

   Hợp vẫn ngồi quay lưng, kéo dài giọng chua như giấm:
   - Tính sao nữa. Người ta đi lính đóng lên ông thượng sĩ đại sĩ, sắm cây ba toong bịt bạc như ông Tế công an quận đó, về gõ đầu chị em mình cho oai, ra đường con nít bỏ chạy, ông già khom lưng vái chào cho sướng chơớớ.

   - Kìa Hợp, tôi không...

   - Ông thượng sĩ Hùm tới mà tôi quên chào. Xin nhận tội lỗi để dành sau sám hối luôn. Anh đi lính, cấp trên có biểu giết đồng bào thì anh giết má con tôi thôi, chớ đừng giết má anh mà mang tội đó nghe.

   - Hợp! Hợp muốn tôi... tôi chết ngay bây giờ nè!

   Hợp ngoảnh cổ lại. Đôi mắt sắc như dao cau lúc này ướt đẫm. Hợp cười như mếu, cái môi dưới đỏ mọng giật giật:
   - Anh vậy, chớ tôi còn muốn sống nữa à?

   Chị Tư bùi ngùi nhìn hai đứa cùng khổ như nhau mà dằn vặt rỉa róc nhau vì không tìm ra lối thoát. Đập bệnh đòi miễn hoãn quân dịch thì bọn xã nhất định bắt khiêng xuống cho bọn trưng binh khám. Trốn đi xa làm ăn cũng chưa chắc đã yên. Còn một con đường mà chị đã mở cho một số thanh niên khác nhưng ngần ngại không nói với má con Hổ vì thấy tính Hổ nhát gan và gia đình quá phức tạp: bỏ nhà theo Cách mạng. Nhưng đến tình cảnh này không nói ra là có tội... Chị đắn đo ướm một câu:
   - Như anh Cả của Hổ mà hay. Hồi kháng chiến nhảy đại vô vùng tự đo đi bộ đội, ông Tiện cằn nhằn chán cũng thôi chớ sao. Có điều anh Cả dạn gan hơn Hổ nhiều.

   Hổ đáp luôn, giọng sôi nổi khác hẳn mọi ngày:
   - Hồi đó khác, chánh phủ Cụ Hồ nơi nào cũng có, bây giờ Cách mạng ở đâu đố chị tìm ra. Tìm được là em nhảy theo liền. Chưa thấy Cách mạng đâu chớ đã nghe Cách mạng mấy năm nay, họ giết thằng Tế em sướng bụng quá. Em sợ liên lụy gia đình, không em rình bằm đầu nó năm ngoái rồi. Cần dạn thì phải dạn chớ.

   Hợp nép đầu sau lưng chị Tư để giấu nụ cười. Cơn giận tan chảy trong ngực Hợp êm ru. Anh chàng sao thiệt thà như đếm, nói câu nào nghe thương gọn câu đó. Hồi thằng Tế rình mò Hợp, anh Hổ có hỏi đò mấy lần, Hợp vẫn giấu vì thằng kia dọa nếu hở ra “mất uy tín cán bộ” nó chôn sống cả nhà. Mãi về sau Hợp mới biết ảnh ghen ngầm, tưởng Hợp trai gái với thằng kia, nên thiết tha với Hợp đã lâu mà không chịu ngỏ lời, còn khích bác xa gần nữa. Con người hiền lành vậy mà vì mê Hợp cũng đâm ra nói gay nói móc mới tội chớ. Còn cái sự bằm đầu thằng Tế thì chắc ảnh thương Hợp quá nói thêm thắt ra vậy, khi ảnh hiểu rõ đầu đuôi thì thằng kia đã xanh mả rồi, Cách mạng cứu Hợp khỏi bị nhục rồi.

   Khi biết anh Hổ yêu mình, Hợp chỉ nghĩ sơ sơ thôi. Đáng lẽ ông trời sinh ra Hợp là trai mà ảnh thân gái mới đúng, giả sử lấy nhau chắc Hợp phải làm chồng. Cha ảnh cắn đồng tiền bể tư, không phải người tốt. Thêm chị Hai hay vênh vênh cái mặt bà thượng sĩ, giặc bên Ngô không bằng bà cô bên chồng. Thôi quách, mình nghèo mình dốt thì yên phận nghèo phận dốt, không thèm làm dâu nhà đó. Hợp làm kiêu với anh Hổ một dạo, lại hơi ghẹo một chút để ảnh ấp úng cười chơi. Rồi dần dần Hợp thấy ảnh không giống mọi người. Ảnh không có chí khí anh hùng làm cách mạng, mà cũng không ngổ ngáo cao bồi như cái đám vỗ ngực “làm trai phải biết chơi hoa, phải biết đốt nhà phải biết chém trâu”. Hợp đoán ảnh cố làm ra nhát gan sợ sệt quá mức đi, để bọn chánh quyền không bắt lãnh súng vô Thanh niên diệt cộng. Đến cái khoản Thanh niên cộng hòa đánh trống ghi tên mà ảnh tránh được, Hợp chịu là tài. Coi bộ ảnh im im như vậy chứ “đầu óc” lắm đó. Hợp hối hận. Hợp làm quen, lén nói đôi ba câu chuyện. Hợp mến con người làm chắc nói thiệt đó. Rồi Hợp nhận thấy đời mình không thể thiếu anh Hổ được, nhứt đánh nhì đày Hợp cũng phải sống với anh Hổ thôi. Hợp mới lớn lên, sống hăm hở nồng nàn, mở đôi mắt trong veo nhìn quanh thấy quá nhiều nhơ bẩn, tàn bạo và nghi kỵ, những mẫu người anh hùng hồi kháng chiến Hợp chỉ còn nhớ mang máng. Vì vậy Hợp yêu tha thiết một người tuy không giống với mơ ước của Hợp cho mấy nhưng có thể gọi là tốt. Hợp tô vẽ thêm cho Hổ những đức tính mà Hổ không có nhưng Hợp muốn Hổ có và tin rằng Hổ có. Càng bị ông Tiện ngăn trở, Hợp và Hổ càng gắn bó nhau, say nhau, bàn với nhau đủ mưu mẹo, từ chuyện dắt nhau vô Sài Gòn làm ăn đến viết thư ra Bắc nhờ anh Cả can thiệp, chỉ có chuyện thoát ly theo Cách mạng thì chưa nghĩ tới vì cũng chưa bức xúc gì lắm mà phải xa nhau.

   Hợp chỉ ngước mắt nhìn tới, xăm xăm đi tới mà không biết có ổ gà dưới chân. Đùng một cái, đợt quân địch đến. Hổ sắp bị cuốn vào cái che đạp mía khổng lồ nghiến hết thanh niên đó. Tránh trớ được ít lâu rồi Hổ sợ vạ lây tới gia đình, định đi lính. Hợp ngạc nhiên, kinh hoảng. Hợp lầm rồi, mắc lừa rồi! Hợp thù ghét cái lối giằng co, lưng chừng, nửa nạc nửa mỡ, đen trắng nhập nhèm của Hổ. Quốc gia xấu, Cách mạng tốt, dứt khoát vậy đó. Chính Hổ cũng biết. Vậy sao Hổ còn muốn đi lính quốc gia đánh Cách mạng? Hợp khinh Hổ thậm tệ, đay nghiến cho sướng miệng, không kịp nghe Hổ phân trần gì hết, thề nhất định không thèm nhìn mặt cái anh đồ tồi đồ hèn ấy nữa. Ông Phật trên tòa biến ra hòn đất. Viên ngọc hóa mảnh chai. Chấm dứt. Cắt đứt. Hết.

   Mới tránh mặt Hổ ba ngày rưỡi đúng mà Hợp chống chếnh như mất đi nửa người, cầm gì rớt nấy, mất ngủ đến phát bệnh. Hợp phải cầu cứu đến chị Tư. Kể lể từ sáng đến giờ Hợp đã nguôi giận. Hết giận đến thương, thương con người phải khổ vì Hợp đi tìm Hợp như ma lạc mồ mà sợ Hợp đến nỗi không dám ngó thẳng. Hai tay bó gối, Hợp nhìn Hổ đăm đăm như người vợ ngắm chồng đi xa mới về. Ánh nắng soi xiên trên mặt Hổ, cái má lõm sâu và những đường nhăn mới chung quanh mắt trông càng rõ. Vậy mà Hợp còn nhiếc móc ảnh, nghi ngờ ảnh. Ác sao ác quá vậy. Hợp không nén được cảm động rộn rực:
   - Anh Hổ nè, em đi lính thay anh được em đi liền.

   Hổ cũng quên hẳn chị Tư đang ngồi bên, tuôn ra cái câu văn hoa đã nhẩm thuộc lòng sẵn từ. đêm qua, tay chém cái rựa đứt một nhánh chè con:
   - Anh mà phụ bạc cõi lòng em thì chuỗi ngày xanh cũng đoạn trường ngay lập tức như vầy.
   - Đừng anh, thề độc miệng dữ...
   - Thề vậy chớ thề nữa cũng chưa xứng. Trước đây anh không dám liều, bây giờ cái thế không bước lui được nữa Hợp à. Anh nghĩ chín rồi. Ở nhà trước sau cũng bị nắm đầu, thà theo Cách mạng chết còn vinh hiển hơn, đi lính quốc gia sống sót cũng nhục. Má anh đồng ý rồi. Anh tính tìm Hợp hỏi thử coi hễ Hợp đồng ý nữa thì anh trốn đi tìm Cách mạng, tìm miết rồi phải gặp. Miễn là Hợp nhớ cho lời hứa bữa trước, chừng nấy thôi.

   Hợp chưa bao giờ khuyên ảnh đi tìm Cách mạng, vì biết Cách mạng ở đâu mà tìm. Hợp cũng không kíp nhớ mình đã hứa những gì, nhưng nghe ảnh nói đúng, Hợp cảm thấy như chính Hợp đã nhiều lần thúc giục ảnh theo con đường của anh Cả. Ờ, có vậy thôi. Mọi việc trở nên đơn giản lạ. Hợp nói rất trịnh trọng:
   - Em trước sau như một, em chỉ muốn có một người chồng cứu nước, xông pha những sự khó khăn chiến trường. Anh theo Cách mạng thì đừng nói năm ba năm, đến năm ba chục năm em cũng đợi.

   Bốn con mắt nhìn nhau, quấn lấy nhau, ngời ngời ánh sáng. Trên quả đất và trong vườn chè này không còn ai nữa hết, chỉ còn Hợp và Hổ say sưa cười với nhau trong khi bao nhiêu lớp rào độc ác còn cố ngăn cách họ. Cả hai cùng giật mình xấu hổ khi nghe chị Tư bật ho một tiếng. Chị nói thấp giọng:
   - Chuẩn bị sẵn mà đi, Cách mạng sắp về đón anh em đó.

3-1960



Tiêu đề: Re: Về làng (Tập truyện ngắn) - Phan Tứ
Gửi bởi: hoi_ls trong 01 Tháng Giêng, 2010, 11:30:17 am
MỞ CỬA

   Sau cái ngày đi hai chuyến tàu lặn, tức là bị đổ một thùng nước xà phòng và một thùng nước vôi, bà Tư Lạng đâm ra nặng tai, ai nói gì bà cũng đưa bàn tay khum khum lên vành tai, hỏi gặng. Hàng xóm qua kêu đi cấy, bà bốc đưa cho nắm chè là chuyện thường.

   Đêm ấy bà nhai đến miếng trầu thứ ba vẫn chưa buồn ngủ. Con Hường nằm bên bà thỉnh thoảng nghiến răng trèo trẹo, bà lại vỗ vào miệng cháu một cái cho im. Con nhỏ ngày hai lần xách cơm cho má nó ở tù trên nhà lao xã, sưng cả bàn chân, hôm nay dầm mưa về lạnh cóng, cứng hàm không nói được.

   Phía đầu xóm chợt rộ tiếng chó sủa, năm bảy con một lần. Chân người chạy huỳnh huỵch. Nhà bên cạnh kẹt cửa. À, lão thôn trưởng cũng chạy, thôi rõ rồi, bên ta về rồi! Con Hường vẫn ngủ lăn như củ khoai. Bà Lạng lập cập nhổm dậy, trống ngực đập mạnh tưởng chừng như cả xóm nghe được. Đêm xưa Cách mạng về bắt thằng đại diện ở thôn bên cạnh, bà ra hé cửa dòm, đợi mãi không thấy anh em giải phóng vô cho coi mặt một chút.

   Tiếng gọi loa dội ngay gần ngõ nhà bà. Con chó Mực vừa giật lùi vừa sủa ăng ẳng, bà không nghe được gì. Tức cho con chó, bà đập chết ngay bây giờ! Bà rón rén mở hé tấm cửa hông, gọi khẽ: “Chậc chậc, Mực ô!”. Con chó luồn vào nhà còn gừ, bà vỗ đầu nó cho im. Tiếng loa vẫn gọi khàn khàn: “... Ai hành động lộn xộn nê là đi báo cáo với địch sẽ bị trừng trị nghiêm khắc. Alô!”. Anh em đi đêm dầm mưa lạnh cổ cách sao mà nghe tiếng khản quá. Họ cũng khôn, chặn ngay cái sự đánh mõ la làng. Bà đứng nép vào bên cửa, phập phồng đợi. Một bàn tay nhỏ kéo áo làm bà giật mình. Con Hường dậy lúc nào, đứng bên bà thì thào:
   - Việt cộng về hả bà?

   Hỏi xong nó mới sực nhớ bà nó nặng tai. Nó định hỏi lại bà nó thật to, nhưng bà nó đã nói:
   - Im, im coi. Cháu vô giường nằm đi.

   Mấy người nói gì trước ngõ. Bà Lạng chợt nghe rõ một câu: “Ừ, đồng chí vô đây”. Anh em vào nhà bà, đến thăm riêng bà! Vô mau các con, lâu quá rồi, vô mau cho má gặp má mừng một chút… Bà rút cây gài cửa được nửa chừng, bỗng dừng lại. Bàn tay bà, cả người bà lạnh tê. Thằng thôn trưởng mai sẽ trở về, nháy con mắt chột chột cười: “Sướng hử! Hồi hôm mới nghe họ giả cộng sản loa một tiếng, bà lo mở cửa đón liền. Họ nói chuyện vui không hả?”. Thằng cảnh sát trưởng tuổi xứng con bà sẽ gầm lên: “Treo mụ già này cho đi tàu bay, đồ chó đẻ!”. Ông Ất xóm bên bị tù ba năm vì trúng bọn biệt kích giả làm Cách mạng đi thử lòng dân. Lỡ lần này bọn nó cũng giả Cách mạng thì sao? Bà đứng im bên cửa, hai tay run đến nỗi con Hường phải hỏi nhỏ:
   - Bà sợ hả bà? Họ làm gì mà sợ?
   - Không. Để yên, cháu đừng nói.

   Tiếng chân bước trong sân, lên thềm. Tiếng gõ cửa cành cạch. Một giọng chưa vỡ hẳn, khi thanh thé, khi ồ ồ, nửa trống nửa mái cất lên ngoài cửa:
   - Má Tư ơi má Tư, mở cửa cho con vô!

   Im lặng.
   - Má Tư ơi, Cách mạng tới đây, má mở cửa vô nói chuyện chút. Bộ má sợ Cách mạng làm hại sao?
   Trong nhà, bà Lạng nín thở. Không phải giọng bọn biệt kích lắng nhắng. Cách mạng mới về mà đã biết rõ nhà bà, tên bà... Con Hường giật áo bà, ra hiệu thúc bà mở, bà vẫn không động đậy. Bà đã tin chắc là Cách mạng thật rồi, nhưng không mở được. Thằng thôn trưởng chạy, còn nhà thằng cộng tác viên mật ở ngay mé sau, nó đang lắng tai rình. Khổ cho bà, biết làm sao đây? Gia đình bà bị treo bảng cô lập ngoài ngõ, con gái bà đang bị bắt, lúc này chỉ cần kẹt cửa một tiếng là mai nhà ra tro, người đi tù. Bà như đứng trên đống kiến lửa, phần sợ anh em kêu cửa không được bỏ đi mất, phần thương “thằng nhỏ” nào đó đứng ngoài mưa nói rỉ rả mãi, phần lại tức sao nó dại quá, nó khờ quá, nó chưa biết ra lệnh ồn ào để bà con đây có cớ mà đến với Cách mạng, địch không trả thù được...

   Bên ngoài một giọng trầm hỏi:
   - Sao, không mở hả?
   - Dạ, báo cáo anh bả không mở. Đồng bào đây tệ quá!

   Câu nói xóc thẳng vào ruột bà Lạng. Bà muốn kêu to: “Con ơi, hiểu cho má một chút, tội nghiệp!”. Đến nước này bà đành mở liều, tới đâu thì tới... Cánh cửa bỗng nảy lên đánh thình, tiếng quát tiếp theo:
   - Mở cửa thắp đèn ngay! À, chứa ác ôn hả! Không coi mệnh lệnh Cách mạng ra gì hả?

   Bà Lạng dạ thật to, mừng quá đỗi mừng. Có vậy chớ, anh nào tới sau đó đã hiểu bụng bà. Trong khi bà bật lửa châm đèn, con Hường đã lanh tay kéo cây gài cửa. Luồng gió lạnh lùa vào, ánh đèn soi rõ hai anh giải phóng quân lạ mặt, đội mũ vải chỏm tròn vành mềm, mặc áo bà ba quần đùi đen, quàng tấm nilông còn chảy nước ròng ròng. Trong khi họ cởi áo mưa giũ bớt nước, bà ngó chăm chăm: đúng thiệt rồi, “bộ đội mũ sụp” nổi tiếng của đằng mình trăm phần trăm rồi, nghe mãi bây giờ mới xáp mặt, đứa nào đứa nấy to như tấm phản, tóc tai hớt sạch sẽ coi xinh quá. Vậy mà bọn xã dám nói anh em ăn lá cây ốm nhom, tóc dài tới mông, bảy người đeo trên một cọng đu đủ không gãy. Thiệt cái bọn nói láo không sách.

   Anh bộ đội trẻ bước vào trước, một giọt nước còn đọng long lanh trên cái cằm chưa có sợi râu nào. Bà Lạng khẽ gắt cháu:
   - Hường, không thấy à? Thổi lửa lên các anh ngồi ấm chút, ngó coi tội chưa.

   Rồi bà túm cánh tay anh bộ đội trẻ, gí ngón tay vào cằm anh quệt giùm giọt nước mưa, nửa cười nửa mếu:
   - Mấy năm đợi miết, bây giờ mới thấy mặt bọn bay. Sao không ở luôn trên núi, còn xuống làm gì nữa? Bộ ở dưới này thiếu gạo hay sao mà bay chê không tới? Mà sao mày dại vậy hả con, tiếc gì một tiếng nạt mà con không nạt cho má mở cửa? Con về rồi con đi, má phải giả bộ vậy chớ đau lòng lắm con ơi...

   Con Hường thổi lửa, cầm cây than cho các anh hút thuốc, quanh quẩn bên bà nghe các anh nói chuyện, rồi mệt quá lăn quay ra ngủ tiếp lúc nào không biết... Nghe tiếng kêu to, nó giật mình mở mắt. Bà nó đang xúc lúa đổ vào ba lô của hai anh bộ đội mình, miệng la ồn xóm:
   - Các ông bắt bán tôi phải bán, chớ rồi bà cháu tôi kéo đi ở tù hết. Khổ quá trời ôi, mai kia ôm nhau chết đói cả nhà...

   Rồi bà thì thào:
   - Bay cứ lấy thêm vài ang, một lần đi một lần khó. Đồng bào khoai củ sao cũng được mà. ăn no đánh mạnh về đây giải phóng má mừng. Gói ít hột muối nữa.

   Tay bà trút hũ muối, miệng bà la:
   - Để cho bà cháu tôi vài lon với quý ông ơi, mua muối ghi sổ có chừng, lấy chi ăn nữa đây.

   Con Hường định ngồi dậy, nhưng bà nó trừng mắt: “Ngủ đi, luẩn quẩn cái gì”. Nó nằm im nhắm mắt chập chờn, nghe bà nó hết la om sòm lại nói thầm, không hiểu làm cái trò gì kỳ cục quá. Nó định đợi hỏi thử, nhưng chỉ thức một lúc giập miếng trầu là ngủ tít mất.

   Sáng hôm sau nó dậy, thấy bà đang nấu cơm, ngồi lờ đờ bên bếp. Nhà sau có tiếng kêu khóc xôn xao, nó nghe lõm bõm như ai bị bắt sao đó. Nó đến gần bà, xòe hai bàn tay sưởi ấm:
   - Các ảnh đi rồi hả bà?
   - Cái gì?
   - Cách mạng đâu hết rồi bà? Họ bắt ai vậy?

   Bà nó vành bàn tay lên mang tai như mọi ngày, gật gật:
   - Ừ, vậy cũng được, bữa nay cháu gởi thằng Chín đem cơm lên xã, ở coi nhà cho bà đi vun khoai.

   Con Hường ngơ ngác nhìn bà, nhìn căn nhà trống trơn. Rõ ràng đêm qua nó thấy bộ đội mình về. Hay là nó ngủ mê sao đó. Nó lại mê thấy bà nó lanh lợi, tai không điếc, nói thầm cũng nghe mới lạ chứ. Nó không hỏi thêm, lẳng lặng đi lấy cái mo cau nhúng nước để gói cơm gởi cho má. Nó thầm xếp giấc chiêm bao đêm qua vào trong số chuyện lạ trẻ con không hiểu được, hỏi thì không ai nói rõ, đợi lớn lên sẽ biết. Ví dụ như chuyện má nó tự nhiên phải ở tù, như thằng Chín chăn trâu sau nhà hội đồng, đào dế đụng phải bốn năm cái xương sọ người chôn chung một chỗ.

10 - 1960


Tiêu đề: Re: Về làng (Tập truyện ngắn) - Phan Tứ
Gửi bởi: hoi_ls trong 01 Tháng Giêng, 2010, 11:34:15 am
KHÓ HIỂU

   Trung sĩ bảo an Trần Dĩnh dậy từ ba giờ sáng, chải tóc kỹ hơn mọi ngày, lấy bộ chiến phục xanh ra ngắm một chút rồi chép miệng cất đi, thắng bộ y phục làm việc bằng ka ki vàng vào mình, bấm lên cánh tay áo trái cái cấp hiệu trung sĩ, cài lên trên nắp túi cái huy chương Anh dũng bội tinh sao đồng, rồi ưỡn ngực soi gương. Chỉ tiếc rằng người hắn thấp lùn, nên mặc gì thì mặc trông vẫn không oai. Đáng lẽ mặc chiến phục mới phải, vì hắn tự coi như sắp ra trận. Số là hôm qua đại úy quận trưởng đích thân gọi hắn lên bàn giấy, dặn bằng cái giọng Bắc pha Nam lơ lớ:

   - Dĩnh, nghe kỹ đây. Có tin của công an chìm báo rằng Việt cộng nội nhật ngày mai sẽ đẩy dân xã Phù Dương xuống quận đấu tranh hợp pháp. Chúng nó phá tan hoang hết bốn cái ấp chiến nược rồi, bây giờ tính chống không chịu rào nại, gớm chưa. Mày người Phù Dương, tao tin mày, giao mày hai tiểu đi chặn chỗ đầu đường cái, gặp dân Phù Dương xuống đấu tranh mày nắm đầu hết cho tao. Cố tóm cho gọn nhá, tao tính thăng thưởng đặc cách cho mày nên trung sĩ chánh, cố gắng em nhá. Mà đừng bắt nộ niễu quá, Việt cộng tuyên truyền ầm ĩ, phiền ra.

   Trung sĩ Dĩnh “dạ” một tiếng vừa phải, hơi nhỏ để tỏ lòng cảm động biết ơn, và đủ to để tỏ ý quyết tâm chống cộng. Hắn ngửng đầu đi ra, cảm thấy mình cao lớn hơn lên hàng tấc.

   Trời chưa sáng hẳn. Hai tiểu đội của Dĩnh đã đặt trung liên và súng phóng lựu kiểm soát chỗ ngã ba đầu đường cái, cách quận đường hai cây số. Dĩnh cầm khẩu các bin lăm lăm, quát bọn lính đang uể oải ngáp, hút thuốc, ngồi lê la giở bài cáctê định sát phạt nhau:
   - Nè, đừng có giỡn mà đứt đầu với đại úy. Bọn nó đấu tranh hợp pháp chớ không vừa đâu.

   Thực ra chính hắn cũng không hình dung được đấu tranh hợp pháp là thế nào. Chắc hẳn là một cuộc biểu tình lớn mang biểu ngữ chống cụ Ngô và nước bạn Huê Kỳ, rước cờ đỏ búa liềm của cộng sản. Có lúc hắn lại thấy một đoàn người gậy gộc giáo mác ùa tới cướp quận như hồi Việt Minh khởi nghĩa 45. Hôm qua mấy chục người dân Phù Dương hốt hoảng chạy xuống báo cáo quận: Việt cộng về đông tới số ngàn, bắt trụm các ông chánh quyền và dân vệ, chỉ trong một đêm phá hết rào, lấp hết mương ấp chiến lược rồi. Hắn nghe nói mà rởn gáy, nhắm chừng mất quận đến nơi, cái mạng trung sĩ của hắn sắp đến ngày tận chăng. Nhưng tối đến có tin của cộng tác viên công an báo về rằng Việt cộng chỉ vỏn vẹn có năm người hai súng, chính dân Phù Dương nghe lời xúi giục nổi lên làm loạn đó. Hắn còn nửa tin nửa ngờ, nhưng cũng thấy vừng bụng hơn. Lời hứa thăng thưởng đặc cách của đại úy khiến hắn say như nốc rượu đế, không biết sợ nữa. Chỉ còn lo một nỗi là vợ con hắn bị kẹt trên ấy. Đại úy đang xin thêm lính để hành quân lên Phù Dương. Hắn cũng sốt ruột muốn theo quân đội về thăm nhà, đón vợ con xuống quận ở sau đó tàu bay đại bác cứ mặc sức triệt hạ xã Phù Dương, hắn không oán trách gì.

   Người đi chợ hôm nay khá đông, gồng gánh lũ lượt. Bọn lính chặn hỏi giấy khám xét mãi không thấy gì khả nghi. Trung sĩ Dĩnh ghé vào quán định làm cốc bia, chợt nghe gọi to sau lưng:
   - Báo cáo, có người Phù Dương!

   Hắn giật mình, túm khẩu các bin bước ra, lưng hơi khom theo thói quen sẵn sàng chiến đấu. Bọn lính đang xốc đôi bầu của mẹ con bà Lãnh quen buôn chợ quận, ném ra từng bó chè tươi, từng nải chuối xanh. Bà Lãnh túm lấy Dĩnh, rên rỉ:
   - Cháu coi đó, không hiểu sao anh em họ đòi bắt bác, dọa trói đánh, ném đồ đạc lung tung. Mọi ngày anh em mua chịu đủ thứ rồi quên chưa cho tiền, bác có nói gì đâu. Cách mạng về cấm xuống quận, bác trèo bờ rúc bụi chạy xuống báo cáo, gặp anh em bộ đội chưa kịp mừng đã bị…

   - Thôi bác, đừng la ồn. Cấm không được gọi Việt cộng là Cách mạng, nhớ đó. Khám có gì không bay?
   - Không... À, có một lá cờ.

   Trung sĩ Dĩnh quắc mắt, bước lại đống chè chuối, nhưng lại thất vọng khi thằng lính xổ ra một lá cờ vàng ba sọc đỏ. Bà Lãnh không rên rỉ nữa mà gào lên:
   - Bộ bây giờ mang cờ quốc gia cũng bị tội nữa sao? Để ở nhà Việt cộng họ soát, thấy đâu xé đó, bác liều mạng đem xuống quận gởi cất giùm, đợi yên yên mang về treo.

   - À, vậy thì tốt Dân Phù Dương vẫn một lòng theo quốc gia đó chớ. - Dĩnh ngẫm nghĩ, rồi nghiêm giọng phán: Được, cho bác đi. Cấm không được đấu tranh hợp pháp nghe chưa! Ba trăm bạc tôi mua chịu của bác dạo trước để thiếu nợ đó đã, không mất đâu mà lo nhắc khéo.

   Mẹ con bà Lãnh đi khuất, Dĩnh mới dạy bọn lính:
   - Bọn bay dốt lắm, không biết chiến tranh tâm lý là gì. Tức là... è, nghĩa là phải phân biệt ai tay chân Việt cộng, ai thuần túy quốc gia, rồi mới la hét chớ. Ai mở miệng nói đấu tranh, tự do dân chủ, chống khủng bố, bay cứ kéo vô xóm nện một trận tơi bời cho tao. Còn dân chúng người ta chạy Việt cộng xuống trình báo quốc gia thì đừng động tới. Điều giáo lệnh thứ bảy nói rằng: “Phải thân dân, bảo vệ dân và giúp đỡ dân”. Ấy là bay phải nhớ, hiểu chưa?

   Hắn còn định nói dài, nhưng nhác thấy hai ba thằng lính che miệng ngáp nên kết luận cụt lủn.

   Từ lúc ấy trở đi, lác đác có người Phù Dương bồng con bế cái đi từng nhóm xuống quận, mang theo cờ ba sọc, ảnh cụ Ngô giấu kín dưới đáy mủng đít bầu. Họ khai trốn Cách mạng đem cờ ảnh xuống gửi quận, kẻo nữa phạm luật 10/59. Có người lại nói xin ở luôn với quốc gia, xin quân đội về bảo vệ cho dân làm ăn. Trung sĩ Dĩnh ngờ ngợ, bèn thử ra oai một lần:
   - Ai xuống quận coi như đi đấu tranh, bắt hết cho tao.

   Đồng bào chẳng những không kêu van, lại còn ríu ríu đi theo bọn lính: “Dạ phải, các ông bắt cho bà con nhờ, kiếm miếng cơm ăn qua ngày, đợi bên Giải phóng rút thì bà con về xã. Về bây giờ cũng nguy, chắc họ làm tội hết, lỡ xuống báo cáo với quốc gia rồi, như con gái chửa hoang...”. Nghe vậy Dĩnh lại ra lệnh thả cho đi cả, và nhắc bọn lính không được ngủ gật, đề phòng bọn đấu tranh hợp pháp bất ngờ kéo xuống.

   Khi một đoàn hơn bốn mươi người đi tới, Dĩnh bắt đầu hoảng, hô lính chuẩn bị chiến đấu. Nhưng phải rằng mắt quáng đèn lòa, chính vợ hắn bồng con đi trước, ông nhạc hắn chống gậy theo sau. Vợ hắn dúi đứa bé vào tay chồng, khóc thút thít, kể lể. Trung sĩ Dĩnh mủi lòng, nhưng chưa đến nỗi quên rằng mình đang thừa hành công vụ, nên đưa trả con cho vợ và dặn về đồn sẽ nói chuyện. Vợ hắn chỉ đám người vây quanh:
   - Bà con đây trước sau cũng là đi trình báo cả đó anh à, đừng nghi họ mà tội.
   - Được, không sao, tôi biết coi người lắm chớ.

   Ông nhạc hắn nán lại sau, nói nhỏ cho hắn biết rằng Việt cộng kỳ này toàn thứ đội mũ sụp, mang súng nòng to có hai ba chân. Hắn hiểu ngay là trung liên đại liên, có thể là súng cối nữa. Ông nói thêm một câu khiến hắn lạnh người: “Anh có thân thì giữ, đừng để vợ anh phải mẹ góa con côi nó thảm thiết lắm nghe”. Bà con đi xa rồi, hắn vẫn thừ người ra nghĩ ngợi. Được thăng trung sĩ chánh mà vào nằm trong sáu tấm gỗ thì sầu đời quá. Bọn lính bàn tán cái gì với nhau, mặt nhớn nhác. Hắn nạt mấy câu lấy lệ, rồi len lén lùi về phía sau, ngồi vào trong cái cổng gạch, bí mật gỡ cái Anh dũng bội tinh sao đồng nhét vào túi áo trong cùng. Mẹ cha mấy thằng cộng tác viên làm phản, Việt cộng dữ vậy mà báo cáo láo chỉ có năm người hai súng, may dân chúng nói cho biết, không thì quận trưởng cũng chết không kịp ngáp!

   Mặt trời đứng bóng, hỏa đầu vụ vẫn chưa mang cơm đến, bọn lính kêu đói ồn ồn lên, đòi về. Dĩnh cho người đi gọi cơm. Đúng hai tiếng đồng hồ sau, thằng lính mới trở lại, hình như đang cố nín cười:
   - Báo cáo không có cơm. Đại úy cho mời trung sĩ về. Bộ đội cũng rút hết.

   Trung sĩ Dĩnh đang mừng vì được lệnh lui quân nên không hỏi gì thêm. Theo thói quen lâu ngày, hắn tập họp lính cho đi đều hàng ba để biểu dương lực lượng và nhất là để bà con chợ quận thấy rõ hắn đã chỉ huy gần một trung đội. Gần đến cổng quận đường, Dĩnh cau mày bực dọc, sao hôm nay đường sá lại ngập ngụa những lá bánh, vỏ sắn, khúc củi thừa ra vậy. Rồi hắn bịt mũi nhổ toẹt, trong khi bọn lính nhốn nháo bước quanh tránh mấy đống phân trẻ con, kéo qua cổng không còn hàng ngũ gì cả.

   Sân quận đường đầy chật những người dân Phù Dương ngồi im, còn đại úy quận trưởng đứng trên thềm đang nói to, giọng hằn học và khản như nuốt than:
   - Đã nói mãi rồi. Tôi biết cộng phỉ xui các người xuống đây than khóc, đòi gạo ăn, trả cờ ảnh để giở trò yêu sách chánh phủ, tôi đi guốc vào bụng chứ đừng tưởng thằng này dại! Nhưng thôi tôi nhắc nại: tình hình đang chộn rộn thế này, tôi tạm thời cho hoãn rào ấp chiến nược, cho gửi lại cờ ảnh. Tôi chỉ giải quyết được đến thế thôi, các người nằm vạ đây đến hàng tháng cũng chả hơn gì đâu, bảo cho mà biết, rồi đi tù cả xã đừng trách.

   Tiếng rì rầm nổi lên trong đám đông. Một cụ già đứng lên, Dĩnh nhận ra chính ông nhạc hắn. Cụ thưa gửi rất lễ phép:
   - Dạ cấp trên đã chiếu cố mà chấp nhận ý kiến bà con đây, vậy chúng tôi xin kiếu. Xin chào đại úy. Xin chào quý ông, quý bác, quý anh chị trong quận.

   Mấy trăm người gồng gánh dắt díu nhau đi ra cổng. Trung sĩ Dĩnh gật đầu chào mấy người quen. Hắn định hỏi xem họ báo cáo hay xin xỏ gì mà xem đại úy có vẻ gắt gỏng vậy, chợt thấy vợ hắn bồng con đi lẫn trong đồng bào. Chết cha! Sao vợ hắn lại về làng? Lỡ Việt cộng hãm hại thì sao? Lỡ bom đạn quốc gia giội xuống thì sao? Hắn cuống quít định chạy theo, nhưng bị tiếng quát trên thềm lôi giật lại:
   - Dĩnh, thằng Dĩnh đâu? Vào đây!

   Hắn hậm hực trở vào. Trước mặt bàn dân thiên hạ, đại úy gọi hắn bằng thằng nghe chướng quá… Đại úy đóng cửa phòng giấy đánh sầm, ngồi phịch xuống ghế lau mồ hôi trán, rồi trợn mắt:
   - Mày gác thế đấy hở? Đồ ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản, mẹ kiếp, ông xách cổ mày đi, ông cho mày một tháng trọng cấm, ông nhốt mày vào khám tối với bọn binh nhì, ông tống mày nên cao nguyên cho mọi nó thịt, hiểu chưa thằng khốn?

   Trung sĩ Dĩnh xanh mặt, cúi đầu len lét, không dám hỏi vì sao thượng cấp nổi cơn thịnh nộ. Nghe chửi đã khá lâu, hắn mới đánh bạo thưa:
   - Dạ bẩm... con gặp toàn những phần tử thuần túy quốc gia...
   - Thuần túy, thuần cái mả mẹ mày hay cái gì kia?

   Nhìn theo ngón tay đại úy, trung sĩ Dĩnh thấy một đống lù lù những cờ ba sọc và ảnh cụ Ngô nhàu nát, dính bẩn nhem nhuốc, chất đầy có ngọn trên cái bàn và rơi vãi xuống thềm nhà. Hắn rập gót chào kính rồi lùi lũi bước ra khỏi phòng giấy, mồ hôi ngấm ướt cả cái cấp hiệu trung sĩ và cái Anh dũng bội tinh sao đồng hắn mới gắn lại trên ngực. Một đống dấu hỏi lộn tròn trong đầu khiến hắn chóng mặt. Hắn không hiểu gì nữa hết. Dân Phù Dương theo cộng hay theo quốc gia, cộng phá ấp chiến lược hay dân phá? Gia đình vợ hắn và chính vợ hắn trốn xuống đây lại trở về, sao vậy? Vì sao đại úy đi guốc vào bụng người ta mà chịu thua đám dân nhếch nhác kia, để họ vất trả cờ ảnh vào mặt rồi nhè hắn mà chửi? Còn riêng phần hắn, ừ, riêng Dĩnh có nên bám mãi cái lon trung sĩ với mấy ngàn bạc lương đầy bấp bênh, cực nhục và nguy hiểm này nữa không?

   Chiều hôm đó, lần đầu tiên từ ngày đăng vào quân đội Liên hiệp Pháp đến nay, trung sĩ Trần Dĩnh đập bệnh ra nằm lì trong đồn trại.

1 - 1961



Tiêu đề: Re: Về làng (Tập truyện ngắn) - Phan Tứ
Gửi bởi: hoi_ls trong 01 Tháng Giêng, 2010, 11:39:33 am
VỀ LÀNG

   Ông Sần tụt đôi guốc ra cầm tay, trèo lên chỗ dốc trơn trước miếu Cây Đa, mắt lấc láo coi có ai gác không. Thằng cháu xách chai nước mắm và chai dầu lửa buộc chung chạy vượt lên, dừng lại trước miếu, ngửng cổ đọc cái gì. Ông vừa đi tới, nó kêu:
   - Nè ông, tờ lệnh của Giải phóng. Các ảnh về tới đây rồi, mau quá hè.

   - Mô Phật, đi cháu! Đại bác bắn bây giờ.

   - Ca dao nữa ông: “Bảy năm đóng thuế quốc gia, để mua súng Mỹ phá nhà giết dân”. Úi, nhiều thứ lắm. Họ vẽ thằng Mỹ kỳ chưa!

   - Cái thằng! Đi, nói không nghe hả? Tàu bay tới rồi chạy đâu!

   Ông đi thẳng qua miếu, chỉ kịp ngước nhìn sơ những tờ giấy to viết và vẽ xanh đỏ. Chỗ này trống trải quá nên ông vội đi cho thoát. Về đến làng sẵn hầm hố, sẵn con cháu, có trúng bom đạn cũng không ra cái người chết đường chết chợ.

   Ông Sần đang trở về làng.
   Cách đây đúng mười một hôm, đang đêm trong ấp chiến lược bỗng nổi lên mấy chục phát súng cắc bụp. Mười phút sau có tiếng loa nghe trọ trẹ như người rao cố uốn lưỡi cho khác giọng: “Đồng bào chú ý: Quân giải phóng đã về tiêu diệt chánh quyền Mỹ - Diệm và giải phóng thôn nhà, ra lệnh cho toàn thể đồng bào tập trung dự mít tinh tại trụ sở, alô alô!”. Ông Sần nửa tin nửa ngờ, theo bà con ra chỗ họp thì thấy cả một xâu một xốc bọn hội đồng, thôn trưởng, dân vệ, công an, cộng tác viên mật bị trói ngồi đấy, thanh niên trong thôn cầm súng đứng gác. Còn Quân giải phóng thì nghe nói rằng đông lắm chứ không thấy ra mặt, chỉ có những bóng đen lừ lừ đi qua lại ngoài đường lớn. Mấy ông cán bộ mặt trận cũng người trong xã đứng ra kêu gọi đồng bào vạch tội ác ôn đầu sỏ. Bà con ngó mặt nhau, thậm thụt. Một người bật ra nói trước, một người nữa, thế là ầm ầm ào ào cả chục người giơ tay xin tố. Ông Sần không đám tin mình đang tỉnh ngủ. ông hồi hộp nín thở nghe bà con vừa nói vừa khóc. Mô Phật! Sao ta lật được chính quyền nó gọn gàng quá vậy? Cái làng này lọt vào tay nhân dân thật rồi ư? Tất cả những nỗi ngậm đắng nuốt cay trong bảy năm qua đã đến lúc thanh thỏa ư?

   Mười mấy người đã vạch tội bọn ác ôn. Nếu xảy ra tai vạ đã có họ đứng mũi chịu sào hứng lấy trước. Vậy thì ông nói, ông nói hết, ông ngửng cao đầu chửi to vào mặt cái bọn đại gian ác cho nó hả cục lửa nuốt trong bụng. Ông giơ tay rõ cao gọi chủ tọa, ông xăm xăm đi lên trước ánh măng sông, ông chỉ tay giữa mặt thằng đại diện ác ôn mà thét: “Mày còn nhớ mày đánh tao bao nhiêu cây sắt không? Mày cướp của tao bao nhiêu ruộng, khai đi! Đồ quỷ, đồ chó Mỹ!”. Người ông hừng hực. ông càng nói cơn giận càng bốc dữ, ông giơ gậy quật vào mặt nó, mới được một gậy đã bị bà con cản lại: “Đừng đánh nó chết, để nó nghe tiếp đã”. Ông nói đến khản tiếng ngút hơi mới đi xuống, mặt bừng bừng. Dù sáng mai đứt đầu, đêm nay ông cũng thỏa được mối hờn phần nào rồi, không đến nỗi sống để bụng chết chôn đi. Ông ăn hiền ở lành, chứ đâu phải ông hiền giả quá ngu?

   Hai thằng đầu sỏ bị bắn ngay tại chỗ. Bọn tiểu yêu được khoan hồng ra nhận tội trước nhân dân. Ông Sần ưng ý lắm. Sát nhứt miêu cứu vạn thử, nhưng không ham điều sát sanh, Cách mạng xử vậy là hợp lẽ đạo tình người. Ông xách cuốc rựa đi đốt rào lấp mương ấp chiến lược với bà con, mãi gần sáng mới về, còn bắt con dâu mổ gà ăn mừng và sai cháu xách chai đi mua rượu về làm đôi chén ngà ngà.

   Rồi ông nhập vào đám đông bà con đi xuống quận, báo cáo rằng Quân giải phóng về đông đen như kiến, phá sạch ấp chiến lược, mang toàn thị thứ súng gì mối gặm thủng lỗ chỗ hết cái đầu, có lẽ chôn lâu mới đào lên. Bây giờ họ nằm phục kích trên các ngả đường, cắm chông dày kín như cỏ vườn hoang. Ông cười thầm trong bụng khi thấy bọn quận xanh mặt nhớn nhác. Nhứt sinh ông chưa bao giờ hả như lần này. Ông bấm ngón tay tính: trong quận có hai mươi lăm xã, cứ bỏ rẻ đi mỗi xã phát động một đêm, chỉ trong vòng một tháng là hốt gọn cái quận này thôi. Lòng dân theo Cách mạng hết, châm một ngòi lửa là dây pháo nổ tung, tổng khởi nghĩa đến nơi rồi còn gì.

   Nhưng chỉ ba hôm sau, đại bác ở đồn chợ Cà bắt đầu bắn vào thôn. Quả đạn đầu tiên hú một tiếng dài to dần như mèo gào, kêu rẹt rẹt như ai cào nong, rồi rắc rối như cây đổ, nổ một tiếng rầm trời sập ngay trước nhà ông Sần. Ông hoảng hồn đứng đờ ra không biết chạy đâu, cũng quên không nằm xuống trong khi mảnh đạn veo véo trên đầu, xốc ngược mái tranh đổ bụi mù. Mùi thuốc cháy khét nồng, thối như trâu chết trương. Một quả nữa nổ sập thành giếng xây gạch. Liên tiếp hơn ba chục quả đại bác rơi rải rác trong thôn, giết hai con trâu, phá mấy khoảng ruộng, chặt khá nhiều dừa, tre, chuối, may chỉ trúng một người bị thương nhẹ.

   Ông Sần khiếp vía không kịp đôi hồi đắn đo nữa. Không xong, không ổn, phải lật đổ Mỹ - Diệm cách nào chắc ăn kia, chứ cái lối hùa nhau nổi dậy cướp chánh quyền như thôn ông thì chết ráo, chết bất đắc kỳ tử cả lũ. Bọn chó dại bây giờ ra mặt giết dân, mình tay không đương đầu với nó sao được, ở lì đó cho nó dập pháo trên lưng thì liều mạng chứ cách mạng gì. Ông buộc tay nải, gói túm gạo đi tản cư. Trong thôn những mấy chục gia đình bỏ chạy, có phải riêng gì ông đâu. Nếu có vùng tự do như hồi kháng chiến thì chắc chắn ông đã về với Cách mạng, nhưng bây giờ đồn lũy của địch giăng kín mọi nơi, ông đành xuống ở nhà người quen trong ấp chiến lược chợ Cà. Ông cố kéo con cháu chạy theo. Anh con trai chỉ đủng đỉnh xách cái mai ra đào hầm tránh pháo.

   - Tôi sống với Cách mạng, chết với Cách mạng, chẳng đi đâu hết. Nó lên thì đánh, nó câu pháo thì núp hầm. Hồi xưa tàu bay như chuồn chuồn còn không sợ nữa là pháo. Ông muốn đi cứ đi, có điều đừng khai báo gì với nó mà xấu lây cả nhà.

   Con dâu ông đã soạn gánh dắt con theo ông, nghe chồng nói cứng là đâm do dự, ngồi xuống chân cột sụt sịt:
   - Ba nói cũng phải, ảnh nói cũng phải, tôi loạn ù chẳng biết đằng nào mà rờ... Đi bỏ ruộng bỏ vườn, trâu ăn hết lúa, heo ủi hết khoai, ra giêng lấy gì nuôi mấy đứa nhỏ. Rồi còn lúa mướn ruộng, còn mấy chục ang nợ ông xã Bổn... Thôi, ba để má con tôi sống đâu chết đó, sợ gì không bằng sợ đói. Mình nhà nghèo, rời hòn đất ra là treo niêu, bom đạn chưa chắc chết chớ hết gạo không sống nổi đâu ba à.

   Nghe con cái nói có lý, ông Sần đặt tay nải xuống, xách cuốc ra đào hầm. Chưa được một thép mai đất ông lại nghe luôn một hồi mười hai quả pháo nữa bay rít qua đầu, nổ ở thôn bên. Ông bỏ cơm trưa, không kịp thay bộ quần áo lấm lem, tất tưởi ra đi một mình, miệng niệm liên hồi cái câu chú tịnh pháp giới “úm lam xóa ha” vì không kịp nhớ ra các câu chơn ngôn trừ nguy cứu nạn khác.

   Suốt tám ngày chạy xuống vùng địch trốn pháo, ông ăn cơm như nhai rơm khô, đêm nằm mở mắt đến sáng. Cái cảnh ăn nhờ ở đậu thôi thì đủ thứ cực nhục, nằm chen chỗ nấu chen bếp, thiếu từ cây củi nắm chè thiếu đi. Ông không quản ngại những cái vặt đó, đâu phải như khi ở nhà, cơm mình ăn ngon con mình dễ khiến. Ông chỉ khổ vì nhớ con cháu, vì phải xa bà con họ mạc giữa cái lúc vui sướng nhất mà cũng gian nan nhất này. Sáu bảy năm ông thiết tha trông đợi ngày giải phóng, ông mơ tưởng thấy cái ngày đó chói lọi vàng son chứ có đâu bom đạn dữ dội như vầy. Bà con chạy tránh pháo năm ba ngày rồi lần lượt trở về làng, ở trong ấp chiến lược như nằm trong rọ không chịu nổi. Ông cũng buộc khăn gói định về, nhưng nghe đại bác trên đồn khạc đạn một tiếng ùng, đằng xa dội về một tiếng rầm, ông lại nhủn đầu gối ngồi xuống bậc cửa.

   Bọn quận phát cho dân các xã tản cư mỗi nhân khẩu hai cân gạo, lại bắt nhận truyền đơn gửi về làng. Chúng nó liệu thế không chiếm lại được các xã trên ấy, nên vừa dập pháo vừa hù dọa, vừa tung gạo ra nhử, định kéo dân về lập những ấp chiến lược mới gần đồn chợ Cà, bỏ đất hoang trên đó cho Cách mạng ở. Thằng đoàn trưởng dân vệ xã ông Sần trốn thoát Cách mạng xuống ở đồn, bắt ông tới tra gạn mãi. Ông chỉ nhất mực khai rằng Quân giải phóng ở trong rừng, đêm về hoạt động, ngày biến đâu mất, mọi việc do họ làm hết chứ dân chúng không dính vào. Hắn chỉ mặt ông, dọa: “Bác liệu sao mua đời mà sống, kêu hết gia đình tộc thuộc xuống ở với quốc gia cho khỏi liên quan. Biệt động quân đeo đầu cọp họ sắp đánh lên, mổ bụng ăn gan hết ba đứa theo Cộng. Mới đại bác chưa ăn thua gì, còn cho tàu bay thả bom lửa nữa, tiêu ra tro hết. Trên đó chánh phủ phát cho mỗi đầu người năm trái bom, mười trái đại bác, liệu sắm thúng mà đội...”. Còn may hắn chưa biết ông đứng ra vạch tội thằng đại diện, nếu biết hắn đã vằm ông ra làm mắm rồi. Ông vâng dạ đỡ đòn, vừa rủa thầm thằng ác ôn lọt lưới, vừa lo mất vía cho bà con trên làng, cho con cháu ông không chịu tản cư.

   Chiều chiều ông ra ngồi trước thềm, nhìn về dãy đồi thấp phía tây. Ông tưởng trông thấy làng ông nhỏ bằng bàn tay đang chịu mỗi ngày đêm bốn năm chục quả đại bác trút xuống, cày nát nhà cửa cây cối, xốc tung cả mồ mả tổ tiên lên vất mỗi nơi một mảnh xương vụn, người chết nằm la liệt không ai chôn. Nhà trong ấp đỏ đèn ăn cơm, rồi bọn biệt kích dân vệ lắng nhắng đi tuần, rồi kẻng gọi dân canh ra điếm, ông vẫn ngồi trơ như tượng đất, đếm từng tiếng ùng tiếng rầm, nhìn những đường lửa đỏ bầm màu nước mắm phụt từ đồn về phía mặt trời vừa lặn. Miệng ông lẩm bẩm niệm Phật, mà bụng ông đau buốt như bị cật nứa khía dọc ngang, nước mắt giàn giụa trên mặt ông, chảy lẫn vào chòm râu bạc.

   Nghĩ quanh quẩn mãi, ông lại thấy bà con ở bám làng là phải. Mỹ - Diệm nó đè đầu cưỡi cổ mình bấy lâu, nay hất được nó xuống rồi ai mà chịu rời bỏ Cách mạng chạy về ở với nó lần nữa. Cái xương sống của người dân nghèo là vậy, đã thẳng lưng ngửa mặt lên sống ra con người một lần thì không có sức nào bắt họ cúi xuống làm thân trâu ngựa như cũ được. Chỉ có riêng ông cam chịu nhục, ông chạy về đây mong thoát nạn một mình, để cho bọn đầu trâu mặt ngựa nó xỉa ngón tay nó chửi lại, như hôm nào ông chửi thằng đại diện. Ngay gia đình người bạn già cho ông ở nhờ đây cũng xì xầm nói bóng cái chuyện con cá rúc ra khỏi lờ rồi tiếc miếng mồi tôm lại rúc trở vào. Người ở vùng địch còn kìm kẹp mà nói vậy, huống chi dân làng ông còn rủa ông tới đâu nữa. Cọp chết để da, người ta chết để tiếng. Bà Quan Âm Thị Kính tắt thở mới gỡ được oan, chứ ông có nhắm mắt xuôi tay cũng mang mãi cái tiếng xấu bỏ Cách mạng, bỏ làng chạy theo bợ đít Mỹ - Diệm. Mô Phật, oan này đeo nặng đến đời nào xong?

   Ông sắm hương đèn bánh chuối lên chùa xin một lễ cầu yên nữa. Sáng sau, lúc gà gáy đầu, người bạn già nhổ chông vạch rào cho ông lọt ra khỏi ấp chiến lược, rồi xóa sạch dấu. Ông đeo khăn gói về làng. Quái ác làm sao, hôm đó đồn chợ Cà bắn sớm, tám quả đạn nổ trắng lóa trên chỗ đèo ông sắp đi qua. Ông lại chống gậy trở lui, run lập cập vì sợ và vì ngấm sương lạnh, may sao bọn dân vệ không dám đi tuần sớm nên không lộ.

   Cũng hôm đó con ông cho thằng cháu xuống đón ông về. Thằng nhỏ đắp chung chiếu với ông một đêm, kể bi bô những chuyện cóc nhảy:
   - Chông bây giờ nhiều lắm, cháu vót được hai trăm ông à. Ba vô du kích rồi, lãnh một cây súng bắn heo cũng được bắn người cũng được, cái miệng nó đút lọt ngón chân cái vậy đó.

   - Mô Phật, nói nhỏ chút cháu.

   - À nhà mình được một miếng ruộng to lắm, chu cha to lắm. Có điều chia chưa xong, nghe loa nói đang lập hương án...

   - Sao, cháu nói sao? Đã chia ruộng rồi à?

   - Ông hỏi ba thử coi. Cháu làm đội phó thiếu nhi ông à, chị Mùi nói cháu hay cãi lộn không cho cháu làm đội trưởng. Mai ông về sớm ông nghe?

   - Ờ ờ… ở chơi với ông vài ngày đã, ông dẫn đi chợ mua bánh cho. Nè cháu, bà con trên đó có nói gì ông không?

   - Họ nói sao hè... dưới chợ Cà chôn cả hầm vàng hay sao mà ở riết dưới đó vậy. Người ta ở làng làm ăn đã ai chết đâu. Mai cháu về ông à. Cháu phải đi kêu bọn nó làm vườn rau thiếu nhi. Ông đi chợ mua bánh rồi về sau cũng được, ông có mắc việc Cách mạng đâu.

   Nó cười rúc rích, rồi trở mình một cái, ngáy khò khò luôn. Ông Sần không ngủ, nằm cân nhắc một lúc nữa. Chưa biết ông còn cân nhắc đến bao giờ, nếu ngay trong đêm ấy không xảy ra chuyện mới. Cách mạng kéo về chụp đầu được thằng đoàn trưởng dân vệ xã ông đang ve gái dưới xóm, nổ súng đánh bọn biệt kích đi tuần, đốt mấy ngàn thước rào ấp chiến lược chợ Cà. Bọn trên đồn khiếp vía, giã vung vãi xuống mấy chục quả cối, quét súng máy như mưa, chẳng kể gì dân sống hay chết. Suốt đêm hai ông cháu rúc nằm dưới phản gỗ, và sáng ra ông Sần mang tay nải lên vai từ lúc tờ mờ đất. Ông tới số chết cũng về làng mà chết với con cháu, chôn bên mồ cha mả mẹ. Đâu cũng ào ào bom đạn của Mỹ - Diệm giội xuống đầu dân, đến cơ sự này ông phải thì gan với chúng nó, bám làng mà sống chứ còn biết đi đâu cho thoát cái cơn binh lửa.


Tiêu đề: Re: Về làng (Tập truyện ngắn) - Phan Tứ
Gửi bởi: hoi_ls trong 01 Tháng Giêng, 2010, 11:41:42 am
*
*    *

   Ông Sần đi khỏi vùng địch kiểm soát đã xa, mà chân vẫn ngập ngừng như bước vào đất lạ, tai dỏng lên nghe chừng tiếng đạn hú trên đầu, nghe quả dừa rụng đánh bịch cũng chực nằm sấp. Mới tám ngày mà trông ông gầy hõm đi như người mới ốm dậy, râu tóc phờ phạc, hai hố mắt đựng hết một chén gạo. Không, không có gì. À mà có, đây, một hố đạn khoét đất hình lòng chảo trên đám ruộng mạ. Mấy cây dừa gục đầu qua đường. Từng luồng lạnh chạy lên xuống trong lưng ông. Ông theo không kịp thằng cháu nhưng vẫn luôn miệng giục nó: “Đi mau, mau lên cháu!”. Ông niệm mãi bài kinh “Phát nguyện tu trì” mà không tĩnh được cõi tâm chút nào.

   Gần tới làng rồi. Đường bị phá nát, cầu sập hết, hố chông rải chi chít còn cắm cây rào chung quanh để đồng bào khỏi sụp. Ông Sần nhẹ người hẳn khi thấy những hầm tránh pháo đào sẵn dọc đường, chừng mươi thước một cái. Đỡ lo được một nỗi, ông lại xốn xang khi nghĩ đến lúc gặp lại bà con chòm xóm, gặp Cách mạng. Chẳng biết họ nghĩ sao nói sao. Có lẽ họ sẽ trừng trừng nhìn mặt ông: “Lão này xuống báo cáo dưới đồn lâu nay chắc lãnh liền cả bó bằng đầu gối”. Người không nghi ngờ ông cũng buông một câu mỉa xóc hông: “Ăn gạo quốc gia về coi mập mạnh hung hè?”. Hay họ níu ông bắt đền: “Chạy bậy bỏ trâu ăn hết lúa tôi, làm sao đó làm”. Ông chỉ còn cách úp mo lên mặt, giả câm giả điếc, luồn ngõ tắt về nhà...

   Thằng cháu đang chạy lon ton trên đường ruộng bỗng tạt vào một bụi duối, thò đầu ra dòm. Ông Sần ngó quanh tìm chỗ núp, nhưng chung quanh đều là ruộng mới cấy, ông đành ngồi thụp xuống, đợi. Một đoàn người lô nhô từ xa đi đến, che dù đen, đội nón lá, gồng gánh thứ gì nhiều lắm như dạo bị địch lùa vào ở trong ấp chiến lược. Thằng cháu quay lại réo: “Ông ơi, bà con mình đó”. Ông vững bụng đứng dậy, nhưng một chân vẫn để né né phía sau, phòng có bất trắc là chạy.

   Ông dần dần nhận ra từng người. Cụ Trĩ thầy thuốc bắc chống gậy đi đầu. Hai ông già khiêng một cái võng, chiếu phủ tùm lum. Chị con gái bà Đậu quấn khăn tang, mắt đỏ hoe, bồng con theo sau. Rồi ông Tám có hai con đi quân dịch, chị Mậu vợ một trung sĩ bảo an, mụ Lợi địa chủ. Rồi mấy chục ông già bà lão với phụ nữ ôm con mọn, gánh chõng chiếu nồi niêu, lùa cả trâu bò. Ông Sần nhếch mép cười trong chòm râu, khoái chí. Ra vậy chớ, có phải một mình ông tản cư đâu, bà con ở lì được bấy lâu rồi cũng chạy, ai còn mở miệng trách ông nữa mà lo.

   Ông Tám mau miệng gọi:
   - Anh Sần ở chợ về hả?
   - Phải.
   - Vừa khéo đó, đi luôn với bọn này xuống quận hử?

   Ông Sần nhập vào đám người gồng gánh, một lần nữa đi ngược lại con đường về làng. Ông đắn đo tìm một lời phân trần để mọi người hiểu rằng ông không hề khai báo làm hại bà con. Ông định đi nói chuyện một quãng rồi tách ra, về thăm con cháu, hỏi kỹ cái chuyện chia ruộng, xong sẽ liệu tản cư lần nữa với đám bạn già hôm nay rời làng. Ông Tám gãi gáy, lắc đầu:
   - Anh đi vắng không biết, chớ bọn nó làm quá tay không chịu nổi. Tối qua bà Đậu trúng mảnh chết.
   - Mô Phật!
   - Bọn này xuống quận kêu kiện đây. Nằm lì ăn vạ nó, đấu tranh tới bao giờ thôi bắn pháo vô làng mới về, anh hiểu chưa? Còn ba cánh nữa, đi đường khác, nó cao tay cũng chặn được một hai cánh là cùng.
   - Nè anh Tám... mô Phật, dám kiện tới quận à?

   Ông Tám vốn nóng tính. Ông nảy bật cái đầu như bị rắn cắn, ngó ông Sần trân trân như không nhận ra là ai. Rồi ông dồn một hồi gay gắt, trút luôn cơn tức đã dồn cục sẵn tự bao giờ:
   - Đại bác nó đào mả ông mả cha lên cũng ngồi trơ thổ địa ra đó hả? Hay là lạy quý ông đồng chí, quý ông đừng cách mạng nữa, để cho Mỹ - Diệm nó ngồi trên lưng bọn tôi y như cũ, chớ cựa quậy thì nó gõ đầu đau lắm! Hay là cứ xàng xê hai chân như cái điệu anh, ai chết mặc ai?
   - Ủa, anh Tám...
   - Mất lòng trước được lòng sau, tôi có miệng ăn cũng có miệng nói. Tôi nói bọn Mỹ - Diệm có giỏi cứ đem quân về chọi với anh em giải phóng, có sừng có mỏ cứ gõ với nhau, chớ nhè con nít lên ba bà già đi sấp mà giết thì dân coi không bằng con chó. Giáp mặt thằng Mỹ ở trung ương thượng đỉnh của nó tôi cũng nói, không phải tới quận tới tỉnh mà thôi đâu. Mình im thì nó dấn tới, rồi còn tàu bay Mỹ thả bom lửa bom xăng nữa, mẹ tổ nó chớ!

   Bà cụ Trĩ đi sau cũng chêm vào một câu lơ lửng:
   - Trẻ không tiếc mạng mà già còn ham sống dữ hè.
   Ông Sần đớ lưỡi, há miệng mấy lần mà không thưa thốt được câu nào, chỉ ờ ờ chịu trận. Ông sượng mặt quá đỗi còn biết cãi làm sao. Ông cụ Trĩ quay đầu lại, dịu giọng:
   - Bà con nghĩ vậy đó anh Sần à, anh nhắm chừng đi được thì đi, thêm một tiếng nói là quý. Cãi gắt tới chớ. Đây nè: “Cách mạng về, bọn tôi đã tới quận báo cáo từ đầu rồi. Cách mạng ở rừng ở núi chớ ở đâu trong làng mà bắn pháo? Cụ Ngô nói chánh quyền vì dân do dân, bộ bây giờ muốn giết hết dân sao? Luật 10/59 trừng trị những kẻ giết người, phá hại làng xóm mùa màng, coi thử bây giờ ai phạm cho biết?”. Nó đánh đập hay bỏ tù, bà con lại đấu tranh đòi thả mình ra. Nói cho cùng kỳ lý, nó giết cũng không lùi, liều mấy năm mình sống ráng cho con cháu nó sống cả đời, phải không anh?

   Ông Sần đang lúc rối ruột, chưa biết trả lời sao. Mặt ông nổi gai rân rân vì xấu hổ nhưng một cơn sợ khác lại bóp ngực ông đến khó thở. Hôm mới phát động ông đã xuống quận rồi, nhưng lần đó ông đi báo cáo để giữ thế hợp pháp, ông giả dại qua ải mà hù bọn nó thất kinh, chứ lần này rõ ràng ông đi đấu tranh. “Đấu tranh là đánh trâu”, nó nện cho như đánh trâu còn sống sao nổi. Cái khí thế bừng bừng căm thù trong đêm tố khổ bây giờ nguội rồi. Ông lạnh lưng rồi. Tam thập lục kế, tẩu vi thượng sách...

   Ông tạt qua bên đường, vén quần giả đi đái. Đợi đoàn người qua hết, ông tọt vào cái quán lụp xụp ngồi nghỉ một chút, vì khắp người ông tự nhiên mỏi nhừ, mồ hôi vã ra dán áo vào lưng. Ông rút cái khăn cháo lòng vắt vai xuống lau mặt, gọi một bát nước chè, mua cho thằng cháu vài cái kẹo. Ông phùng má thổi bát nước nóng. Ông làm lăng xăng vậy để không phải ngó ra đường, khỏi trông theo đoàn kiện đang đi xa dần. Ruột ông cồn cào như đang đói uống bát nước đậm quá. Ông trốn, ông lủi một mình. Bà con trước rủa ông một, bây giờ hẳn rủa mười…

   Hai vợ chồng chủ quán đang bàn chuyện gì, thấy ông vào họ nín lặng. Được một lúc anh chồng ngừng tay thái rau, hỏi khẽ:
   - Bà con xã trên xuống đông quá ông hè?
   - Phải.
   - Nói sai ông đừng chấp, có phải trên đó Cộng về chia ruộng không ông?
   - Mô Phật, cũng nghe nói vậy…

   Hai bên chưa ai dám tin ai, nên câu chuyện cứ lấp lửng. Ông Sần ngứa miệng muốn khoe làng ông anh hùng nổi lên làm cách mạng, nhưng đành bấm bụng ngồi yên. Rồi ông chợt nghĩ: làng ông anh hùng chứ ông có anh hùng đâu mà khoe. Người ở lại đánh giặc cày cấy. Người ra đi lo đi đấu tranh ăn nói với địch. Chỉ còn trơ trụi một mình ông tiến thoái lưỡng nan, ba lần về làng mà bây giờ còn ngồi ì trong cái quán giữa đường này. Thằng cháu đang mút kẹo và nghịch con chó con trong quán nên không giục ông về mau, nếu nó giục mấy tiếng chắc ông đã đứng dậy về làng để khỏi xuống quận rồi.

   Anh chủ quán vẫn thăm dò cái chuyện chia ruộng:
   - Nhắm chừng ruộng chia được kha khá không ông?
   - Ờ nghe đồn mỗi người được vài ba sào gì đó.
   - Liệu có giữ được mà ăn không ông?

   Ông Sần thổi bát nước một lúc lâu mới nói:
   - Chắc họ cũng ráng mà giữ...
   Thấy ông không mặn chuyện, anh chủ quán lại cúi xuống thái rau. Nhưng mấy câu hỏi của anh đã đánh thức nỗi thèm khát ruộng trong lòng ông Sần. Nỗi thèm khát đó từ đời ông đời cha truyền lại, ngấm vào ông theo dòng sữa mẹ. Nhà ông trước sau chỉ được đúng một sào hai thước đất ở, hoàn toàn không có ruộng. Mới biết đi ông đã bị một roi trên lưng vì ỉa vào ruộng hàng xóm. Rồi lớn lên bao nhiêu lần ông ăn đòn trừ cơm vì con trâu nuôi rẽ đi qua ruộng người thò mõm đớp đôi bụi lúa. Rồi đống lúa gặt về vàng chói giữa sân bị chia năm xẻ bảy, phần đóng tô, phần trả nợ lãi. Rồi những câu chửi réo chiều ba mươi Tết đòi nợ tất niên.

   Ông Sần từ từ lật hai bàn tay chai từng mảng lớn như da trâu khô, thẫn thờ ngắm lại. Gần sáu mươi tuổi đầu, ông chưa hề biết cái sướng được đánh con trâu nhà cày đám ruộng nhà. Cánh đồng làng ông rộng lắm, toàn thượng đẳng điền ăn nước đập chẳng cần nước trời, cho dù các nơi đất nẻ lúa héo, ở đồng làng ông bụi lúa vẫn xòe như cái nơm. Nhiều lần ông Sần đứng ngắm ruộng người mà mê mẩn quên cơm tối. Trong số hơn ngàn thửa ruộng trải dài đó, ước gì ông có lấy vài sào, chỉ vài sào thôi. Ông sẽ trút hết mồ hôi xuống bón ruộng, bắt hòn đất nhả lúa ra gấp đôi gấp ba để bà con chòm xóm chịu tài ông lão nông tri điền. Hồi còn Tây ông đổ sức ra vỡ ruộng, suốt hai năm làm cháy mặt lấm lưỡi mới cuốc được tám sào tư đất đồi thành ruộng một mùa, những tưởng từ đó mở mặt được với thiên hạ. Nhưng lão Chánh Phó, cha thằng đại diện ác ôn, bỗng dưng lật sổ bộ đưa biên lai ra trình làng rằng đất ấy lão trưng khẩu từ lâu. Ông giận muốn treo cổ ngay trước ngõ nhà lão để gieo vạ, nhưng còn vợ con ai nuôi cho mà chết. Tay trắng hoàn trắng tay, ông lại lang thang đi mua chịu từng cái gốc tre về chẻ đan nong, nghèo đan thúng túng đan nong chứ chẳng biết xoay nghề ngang nào khác. Mỗi lần ngoẹo cổ vác chục nong đi bán rong, qua chỗ ruộng mình vỡ đã bị cướp, ông quay mặt đi không dám ngó, ruột gan như xát muối. Thôi cũng đành bưng tai bịt mắt, số ông nghèo hèn thì quẫy lắm chỉ trầy vi tróc vẩy chớ thoát sao được cái phận nghèo hèn. Tới hồi chánh phủ Cụ Hồ, làng ông nằm lọt trong vùng tạm chiếm, mãi tới gần đình chiến mới được giải phóng, các anh cán bộ chạy sấp ngửa chia cho dân được hơn ba chục mẫu công điền rồi đi tập kết. Bọn đối phương tới cướp gọn lại hết, sau đó bày trò cải cách điền địa, cải cách ra sao mà số người lang thang mua chịu gốc tre về đan nong cứ tăng mãi lên.

   Đôi lúc ông Sần rờn rợn, nghĩ chắc hẳn đời mình khổ vì tiền oan nghiệp chướng gì đây nên mới bị đọa đầy, sinh ra kiếp người mà không có được miếng đất đặt bàn chân. Ông chăm đi lễ chùa, lo tu tâm dưỡng tánh, chống mọi điều tham sân si để mau được thoát kiếp luân hồi. Đó là về phần đạo, còn phần đời ông vẫn cứ thèm ruộng khát ruộng, càng về già càng thêm quay quắt: đời mình đã vậy tới đời con, đời cháu chắt vẫn cứ nghèo khổ mãi sao? Nam mô A Di Đà Phật! Phật tử đại từ đại bi chứng giám cho ông lòng thành, chẳng biết Ngài có ban cho lũ con cháu ông được chút ít phước lộc gì không?

   Cách mạng tới. Bọn Mỹ - Diệm lâu nay bôi xấu Cách mạng đủ điều tàn tệ, chẳng khác gì quỷ thập điện. Nhưng ông mới nghe một câu “người cày có ruộng” là ông hiểu ngay: đúng người nghèo vùng dậy rồi, cuộc cách mạng này là của ông, đem ruộng tới cho ông, đổi đời cho con cháu ông. Ông hăm hở theo Cách mạng. Rồi ông thấy hiểm nguy lắm nỗi, ông bỏ cuộc, ông chạy... Cách mạng chia cho nhà ông một miếng ruộng to lắm, ông giữ được thì ăn, không giữ thì mất. Mất lần này nữa là mất hẳn, mất hết. Ông chết đi, lớp con cháu ông lại gò lưng cúi cổ xuống cho roi đòn, nghèo đói, dốt nát chất chồng trên đầu. Chúng nó sẽ rủa ông úy tử tham sanh để chúng nó chịu mãi cái kiếp trâu ngựa. Lúc đó ông còn mặt mũi nào mà trở về hưởng phần hương hoa giỗ quải? Ninh thọ tử bất ninh thọ nhục...

   Thằng cháu đã ăn hết kẹo, con chó bị kéo đuôi vừa đớp tay nó một cái rồi chạy mất. Nó đến kéo áo ông:
   - Thôi về ông, nghỉ lâu rồi.
   - Ờ, ông đi đây.

   Ông Sần móc mấy đồng bạc cuối cùng trả quán, lặng lẽ đứng dậy ra đường cái. Máu ông sôi bốc dần lên. Mặt ông đỏ như vừa uống rượu. Đúng, ông sẽ về bám làng kiếm sống, nhưng không phải cúi mặt len lét mà về, rồi suốt ngày co ro bên miệng hầm, sợ lưng tim lưng mật đến phát đau ốm lên, để khổ cho con cháu. Ông sẽ về sau khi đem lý lẽ chống chọi với quân thù, ngửng cao đầu mà về, có kẻ mừng người đón hẳn hoi. Con đường về làng là con đường đấu tranh chống khủng bố, muốn về làng ông phải xuống quận trước đã. Làm như bà con là đúng. Nó khinh đám dân cơm khoai áo cụt mặc lòng, mà mình kéo tới số đông, đối đáp có lý có tình, nó không nghe cũng chẳng được với mình. Dây dùn khó đứt, lạt mềm buộc chặt là vậy. Sức ông không đánh chém được ai, ông cũng liều cái mạng già này chống bom đạn, tìm đường sống cho con cháu, giữ cho chúng nó miếng ruộng được chia. Ngày sau chén cơm cúng giỗ ông phải là cơm ruộng nhà, chứ dứt khoát không phải cơm đong tô trả nợ nhín lại!

   Ông giắt cái khăn cháo lòng vào thắt lưng, đặt đôi guốc xuống đất, xỏ chân vào đi lẹp kẹp cho chỉnh tề hơn. Thằng cháu đã mau chân chạy ton ton về phía làng, quay lại nhìn ngơ ngác, rồi chạy theo níu tay ông:
   - Ủa ông, sao không về? Ông sợ đại bác à?

   Ông Sần dằn từng tiếng dõng dạc:
   - Mô Phật, sợ cái gì? Nè cháu, cháu về trước nói với ba má, ông xuống quận đấu tranh với bà con rồi ông về sau. Cháu nói rõ là đi đấu tranh chớ không phải đi tản cư, nhớ chưa? Hay vấp một cái lại quên sạch trơn đi.

2-1961


Tiêu đề: Re: Về làng (Tập truyện ngắn) - Phan Tứ
Gửi bởi: hoi_ls trong 01 Tháng Giêng, 2010, 11:44:46 am
SỨC MẠNH MỚI

   Trời đã sáng rõ. Nhâm quay lại, chỉ thấy hơn chục người đi sau. Anh chột dạ:
   - Anh em đâu hết rồi?
   - Dạ, chắc còn rửa chân đằng sau.
   - Hứ, rửa hoài…

   Nhâm muốn gắt một hồi, nhưng nín được, chỉ chép miệng. Anh đang lộn ruột lên đây.
   Anh dẫn bốn chục thanh niên mới rút dưới vùng biển lên chiến khu theo Quân giải phóng, từ nửa đêm đến giờ đi một hơi không nghỉ. Ai lại truyền lệnh ra phía sau: “Bám sát cự ly chạy mau qua quốc lộ”, được hai người biết nhắc lại nhưng cắt cụt dần đi, đến câu thứ ba chỉ gật đầu: “ừ, nghe rồi”, thế là đâm đầu chạy bỏ mặc đằng sau hú gọi inh cả. Tổ bảo vệ chạm súng một lần với bọn biệt kích, anh em thanh niên chạy láo nháo may không việc gì, Nhâm phải tìm dẫn về từng người một. Rồi qua sông, ngót chục cậu không biết bơi, dân vùng biển mà kỳ cục vậy chớ, anh phải gói áo quần vào nilông làm phao dìu sang. Rồi không dép, đau chân: “Em mừng quá, nghe đập cửa chạy ra liền quên xỏ dép”. Rồi đi giữa đồng trống cứ bật lửa hút thuốc, làng tề nổi trống mõ rầm trời lên, đồn bảo an nó giã cho mấy chục quả cối phải nằm bẹp xuống ruộng nước. Thôi thì đủ tam khoanh tứ đốm !

   Bóng người trong sương hiện nhấp nhô, ho, nói chuyện, cười hơ hớ nữa. Nhâm lắc đầu:
   - Ngán các ông tướng. Lộ hết hành lang bí mật của người ta. Đi mau, im lặng. Kìa truyền xuống!
   Tiếng ồn lại tăng gấp đôi, chen cả tuồng và vọng cổ:
   - Nè, biểu im lặng mà cứ làm om.
   Trên bước đường ảm đạm phiêu lưu có một mình ai thui thủi chiếc thân... ơ... tàn!
   - Cái gì, có truyền không?
   - Đừng nói chuyện nữa bớ chư khanh!

   Đến vùng ta làm chủ rồi. Con đường bí mật luồn qua những bụi ngũ sắc, lau, mua, tránh những trận địa chông bẫy dài hàng cây số. Nhâm thở phào nhẹ nhõm. Đến đây đã xa đồn bót và làng tề, máy bay rà tìm cũng không ăn thua, chỉ còn lo đại bác câu theo thôi. Cơn bực mình hơi nguôi, anh để ý tìm chỗ sạch và kín cho anh em nghỉ một chút. Chính anh cũng mệt đuối, tai bùng nghe không rõ, mồ hôi nhỏ giọt dưới cái cằm đầy râu. Bụng anh đau quặn từng lúc, mùi chua ợ khan bốc lên cổ.

   Tiếng xì xào sau lưng to dần lên:
   - Chắc gần tới Đà Lạt.
   - Đường này qua Mên chớ Đà Lạt đâu.
   - Úi, đỉa bay ơi, đỉa trên cạn!
   - Ngu lắm, vắt đó. Bứt cái lá mua nhám mà bắt.

   Nhâm nhếch mép cười. Thật đúng là trẻ con, mới đi xa biển hơn chục cây số đã lo sắp hết đất xông xáo. Anh rẽ sang một bãi cỏ khuất bên phải:
   - Dừng lại nghỉ, tản ra phòng đại bác.

   Đám thanh niên tỏa rộng, bẻ lá lót ngồi, cười đùa, kéo xuống suối rửa mặt. Nhâm dựng khẩu tiểu liên, quấn một điếu thuốc. Đến giờ anh mới kịp nhìn kỹ những người mới rời gia đình theo Cách mạng. Cậu ngồi bên anh mặt trắng nhợt phờ phạc, mặc sơmi trắng bết bùn trước ngực và cái quần tây vải sọc ngắn trên mắt cá, đang chăm chú bóp chân. Đôi giày đinh đá bóng và đôi tất sặc sỡ vất bên cạnh. Cậu ta cười ngượng nghịu:
   - Cháu nghe nói Cộng sản... à quên, Cách mạng ở trên núi cũng đá banh giỏi lắm. Cháu tên là Cảnh chú à.

   Một anh chàng tóc tém đít vịt quay lại, cười nhe hai cái răng bọc vàng hóa học láu táu chen vào:
   - Ở dưới đó người ta đồn Cách mạng đi ô tô, ở rừng mà thắp đèn điện uống nước máy. Thiệt vậy không anh?
   - Làm gì có!
   - Thấy chưa, em đã nói mà! Em hỏi cán bộ kỹ rồi, nó không tin cứ mang giày đinh theo. Ưng đi tàu bay giấy hoài. Em ở dân vệ mới ra, còn đôi giày vải thiệt tốt cũng bỏ lại.

   Nhóm bốn năm người ngồi bên phải trông ra làm ăn, khỏe và giản dị hơn. Một cậu mặc bộ bà ba đen vá vai, bàn tay bàn chân rất to và chai sần từng mảng, nói rủ rỉ:
   - Tôi mới ở tù về được năm ngày là nhảy liền. Nghĩ tức cười, muốn sắm ba lô mà sợ lộ, khi đi phải xách cái giỏ mây của vợ đây nè anh! Đến tấm choàng đi mưa cũng thiếu.

   Anh em xúm quanh Nhâm, kể bi bô, thỉnh thoảng lại suỵt nhau nói khẽ, hay chặn nhau khi quen miệng gọi bọn tề bằng ông, Cách mạng bằng Việt cộng hay cộng sản.

   - Ba em chắc bây giờ đang báo cáo dưới trụ sở. Lần trước anh Bảy em nhảy, các ông hội đồng... bọn nó bắt dỡ nhà quy khu, má em la om sòm: “Thuế cử tri một năm bảy tám trăm bạc, rồi quỹ nuôi dân vệ, quỹ an ninh đủ thứ, vậy mà các ông bỏ chạy, để cho Việt cộng phá cửa vô bắt mất con tôi, còn tới hăm dọa cái gì nữa trời!”. Lần đó  nó chịu, lần này chắc khó lòng...

   - Đi lính Cách mạng, xin nghỉ phép thăm nhà được không anh?
   - Cái gậy họ có chịu vót tròn đâu, để bốn cạnh như cây thước đánh đau thấy bà nội...
   - Nhà mình năm nay đói. Mới tháng giêng đã chạy gạo từng bữa.
   - Thôn cháu Cách mạng mới bắt thanh niên hai lần, đâu chục người.
   - Sao lại bắt?
   - Thì cũng quen nói vậy... Các chú tới chuyến nữa, thanh niên theo hết, lứa quân dịch 39 còn đến trên ba chục đứa. Bọn nó sốt ruột lắm, đợi hoài không thấy Cách mạng về.

   Nhâm lơ đãng nghe anh em tranh nhau nói như bù lại một đêm ngậm tăm đi vội, như trút hết những lo ngại cuối cùng. Anh bồi hồi nhớ lại mười ba năm về trước... Quê anh ở vùng tạm chiếm, nhà anh bị Pháp đốt tới bảy lần, anh dựng xong cái lều thứ tám mới mang khăn gói vào vừng tự do xin theo bộ đội, cũng một đêm không trăng luồn qua vùng tề như đêm qua. Đánh hơn chục trận, rồi anh đau dạ dày phải về quê, nắm một tiểu đội du kích. Hòa bình đến. Anh cưới vợ, dựng nhà lần thứ chín, tiếp tới bị bắt đi tù. Bây giờ quê anh vẫn là vùng tạm chiếm, nhà anh vừa rồi lại bị đốt, anh lại khẩu súng trên vai đi chiến đấu, chỉ khác là anh yếu hẳn so với trước vì đòn tra tấn, vì cái dạ dày nhiều lúc làm tình làm tội anh trên những chặng đường dài hành quân. Nếu không có thân thể anh mòn đi và tâm hồn anh dày dạn vững chắc hơn, anh có thể tưởng cuộc đời mình vừa xoay đủ một vòng mười ba năm, nay trở lại chỗ đầu tiên, và trong đám thanh niên ngồi đây có thằng Nhâm trẻ con mới lớn lên ngồi nhìn ngơ ngác, anh duỗi tay ra là vỗ vai được nó.

   Cảnh khẽ đập vào đầu gối Nhâm khiến anh giật mình:
   - Chú buồn ngủ hả chú?
   - Ờ , không, không...
   - Chú ngủ một giấc, bọn cháu gác cho. Các chú đi miết, tài gì không mệt.

   Nhâm cười, hơi cảm động. Thanh niên họ mạnh thật, nghỉ một lúc, rửa mặt chải đầu xong coi tỉnh táo ngay. Anh đứng dậy vặn lưng rắc rắc, đùa:
   - Cái sự gác xách chắc các chú giỏi. Mấy năm gác “chống cộng giữ làng” rồi mà.
   - Dạ, cái đó thì có. Bỏ gác một đêm là học tố Cộng thêm bảy ngày. Em công tác cơ sở hai năm nay rồi, em gác chỗ nào các anh vô chỗ đó.
   - Hì hì... cũng kỳ thiệt, mới đánh mõ om sòm la “Cộng về”, bây giờ thành Việt cộng rồi.
   - Bốn chục đứa này xách súng về đủ giải phóng xã Yên Hải đó nghe. Các anh ở xa tới vây ác ôn dân vệ, không biết mặt bị sẩy luôn, chớ bọn em thì đố sót đứa nào. Đường ngang ngõ tắt đâu cũng thuộc lòng. Lên chiến khu được lãnh súng liền anh hè? Phải lãnh thứ thiệt tốt, nghe anh?

   Nhâm gật đầu cho anh em khoái một ít, tuy biết súng không kiếm đâu ra cho đủ ngay. Khi anh mới nhập ngũ cũng hăng, xốc nổi và nhiễm lối ăn mặc nói năng ở vùng địch như họ. Đứng giữa lứa trai mười tám đôi mươi má còn lông tơ, anh mới thấy mình đã già cả tuổi lẫn tính nết. Anh muốn tìm mấy câu đùa bỡn để anh em dễ gần dễ thân, mà nghĩ mãi không ra. Suốt mấy năm hoạt động bí mật anh đã quen lầm lì, cân nhắc từng câu nói thầm. Anh bùi ngùi đưa tay xoa cái cằm lởm chởm một lớp râu cứng như bàn chải, tự nhủ: “Mình già thiệt rồi, còn gì nữa…” . Tre già măng mọc. Bộ đội sau kháng chiến đi tập kết sạch trơn, đã có lứa thiếu nhi lớn lên cầm súng đánh giặc tiếp. Bốn mươi chàng trai này là những tảng đá còn bọc rêu, sau cơn lửa rừng sẽ đen bóng lại. Khi đã bớt vụng về khờ dại, khi trường học lớn của Cách mạng đã rèn họ thành những chiến sĩ lão luyện, họ mỉm cười nhìn lớp đàn em mới đến sau nữa: “Hồi trước mình cũng lớ ngớ như các chú em, bị anh Nhâm la hoài. Về sau anh Nhâm hi sinh trong trận giải phóng Yên Hải... Mẹ cha, quên, ảnh bị thương chớ không chết, bây giờ về công tác đâu đó”. Dân tộc Việt Nam không thể hết người, nên Cách mạng miền Nam không bao giờ kiệt sức. Nguồn sức mạnh mới từ trong lòng dân từng đợt từng đợt đổ tuôn vào cuộc đấu tranh lâu dài, như đất giữ nước mưa rỉ mãi từng giọt, góp thành sông lớn không hề cạn. Con sông xói mòn những quả núi đá, húc tung những đê đập chắn ngang, mở đường ra tới những đại đương mà Nhâm chưa được thấy nhưng biết rằng rộng và đẹp vô ngần.

   Nhâm xốc khẩu súng lên vai. Giọng anh đổi khác đi, gần như dỗ ngọt:
   - Ráng bám sát hử, còn vài tiếng nữa thôi. Tôi đi sau.
   Từng người một diễu qua, vai mang tay xách lòng thòng, cười với Nhâm rồi nhìn xuống đất coi chừng vắt bám. Nhâm bỗng nhớ đến một cảnh ngồ ngộ: con gà mái xòe đôi cánh che kín cả bầy con lau nhau. Anh muốn có đôi cánh rộng như vậy...

12-1961


Tiêu đề: Re: Về làng (Tập truyện ngắn) - Phan Tứ
Gửi bởi: hoi_ls trong 01 Tháng Giêng, 2010, 11:47:43 am
CHÔNG BA LÁ

   Cái nghề vợ chồng trẻ mới ra ở riêng, hễ đêm nằm với nhau là chuyện trò rủ rỉ không bao giờ xong. Toàn những chuyện vui vẻ cả. Nhưng suốt ba đêm vừa qua, cô Bính nhất định nằm quay lưng lại chồng, hết lời dằn vặt, day dứt, than thở. Từ khi bà con trong làng nổi lên chống lại Mỹ - Diệm, cô Bính vừa mừng vừa sợ thấp thỏm, định bụng để chờ coi ra sao. Chị em rủ vào Phụ nữ giải phóng, cô không dám vào. Mỗi lần mít tinh cô tìm cớ tránh mặt, bất đắc dĩ phải đi thì lấp ló tít đằng sau, nhắm chừng sắp đến lúc hô khẩu hiệu hay kéo biểu tình là cô lủi biến. Cô sợ Cách mạng yếu, nay mai địch lên lập lại hội đồng, truy bắt sạch ráo những người “liên quan Việt cộng”. Đến khi anh chồng xung phong vào du kích thì cô hoảng hồn thật sự. Cô van cô khóc, cô giận dỗi bỏ cơm, cô dọa đập đầu vào cột nữa, anh  chồng vẫn cứ lì lì ra, xách mác vác chông đi bố phòng với đội. Sự bất quá tam, đêm thứ tư này cô định làm tan hoang một trận đây.

   Cô sịt mũi, rên rỉ:
   - Anh một lòng một dạ không thương, vậy sáng mai tôi về ở luôn bên má. Cách mạng hơn không sao, lỡ thua thì lính quốc gia họ đánh lên, gia đình ủy ban với du kích họ riếng cổ đốt nhà hết. Không tội gì chết chìm theo anh. Yên phận làm ăn như người ta thì sao, cứ ách giữa đàng quàng vô cổ Cách mạng ép buộc gì đâu mà anh...
   - Về thì về.
   - Anh đuổi tôi, anh dứt khoát, thiệt không?
   - Không đuổi, không dứt. Lão bỏ mình thì có.

   Đang giận nghẹn cổ, cô Bính lại suýt phì cười. Đâu lại có cái lối gọi vợ bằng “lão”, xưng “mình”, kỳ khôi quá, để rồi phải cằn nhằn vài dạo cho ảnh bỏ đi. Cơn tức cười đã qua, cô lại bắt chước cái giọng đay nghiến của má mỗi khi cãi với ba cô:
   - Vậy chia của ra, tôi về nhà má tôi làm ăn.
   - Không cần chia. Cứ gánh heo lùa trâu đi hết.
   - Đồ đạc thì sao?
   - Sức lão lấy được gì cứ lấy. Khiêng nhà khiêng ruộng, khiêng cả cái hầm tránh pháo theo. Đã nói hết nước, hết cái rồi, không nghe thì thôi, ngủ!

   Đến cơ sự này thì cô chịu, không biết nói gì thêm. Cô nghĩ lan man một lúc. Lý lẽ đã cạn rồi, nước mắt khóc mãi cũng cạn nốt. Cô xoay sang cách khác, kéo anh chồng về chuyện làm ăn:
   - Thôi để trâu lại anh giữ. Mai đi cày đám ruộng chỗ gốc xoài hử, người ta cấy gần xong còn anh cứ lo súng với chông miết. Ăn cơm vay cày ruộng rẽ mà cứ đua đòi.
   - Ừ, để đó rồi cày.
   - Mai, chớ để tới bao.
   - Mai mắc vót chông.
   - Nghỉ vài bữa đã. Cơm nhà áo vợ, đi lo việc đâu đâu. Tới khi có con thì chết đói.

   Anh chồng cười khì một tiếng, quàng tay ôm cô:
   - Vợ mới cưới đã đòi bỏ, con kiếm đâu ra. Người ta đi cấy lấy công, tôi nay đi cấy hàng chông giữ làng... Nè, lão ở nhà vót chông cho mình đi cày hử? Đồng ý chưa?
   Ảnh nói như giỡn, còn cô Bính nghe phát sợ lạnh người. Cô biết chồng có nghĩ mới nói. Ảnh đã nói thì nhất định xảy ra cái chuyện lạ thế này: dù cô cãi chày cãi cối đến đâu mặc lòng, cuối cùng không hiểu vì sao cô vẫn cứ thấy chồng cô nói đúng, rồi cô vui vẻ làm theo. Ấy vậy mới nguy chứ. Cô đang sợ liên quan với du kích, ảnh lại muốn kéo cô vào du kích luôn sao?

   Cô hất tay chồng ra, gắt lu loa:
   - Chặt đầu tôi thì chặt, tôi không rờ tới thứ đó. Vợ anh anh coi không bằng cây chông, tệ chưa trời?
   - À cái đó tùy lòng.
   Anh ngáp mạnh một cái, kéo chiếu trùm đầu. Cô Bính tủi thân muốn khóc như mọi đêm, nhưng không ra nước mắt, chỉ sụt sịt hờ. Cô quờ tay giật chiếu, mếu máo:
   - Cả đời tôi có thấy cây chông bao giờ mà bắt tôi vót.
   - Hửửử? Cái gì nữa?
   - Tôi không vót được. Đời thuở nhà ai vót đũa còn không xong…
   - Ờ, thôi, không ép.

   Anh bắt đầu ngáy phì phò. Cô Bính định thúc cùi tay vào sườn chồng cho đỡ tức, nhưng không nỡ. Sức người chứ phải sức trâu đâu. Ảnh ngày đi cắm chông, đêm đi gác đi tuần, dầm mưa lạnh nổi da gà, mấy đêm nay lại bị cô dằn dỗi mãi chỉ chợp mắt được vài tiếng đồng hồ. Hai tối liền cô bỏ không nấu cơm, ảnh về lẳng lặng xách nồi đi nấu, phải như người khác không thương vợ thì đã miệng chửi tay đánh, cạn tàu ráo máng rồi đó. Ảnh ít nói, mà nói như cóc cắn đừng hòng chuyển. Một năm bảy tám bận ôm chiếu đèo gạo đi học tố Cộng, nó đánh cho hộc máu miệng, bây giờ biểu thôi việc Cách mạng đời nào ảnh chịu nghe. Mà cũng may Cách mạng nổi lên sớm, không nó chụp đầu ảnh đi quân dịch rồi. Lại thêm kỳ thuế ngân sách xã sắp đến, gia đình bốn cử tri đang lo không kiếm đâu ra 480 đồng mà nộp, bây giờ hết lo... Ờ mà quên, nhắc tới xã mới nhớ, cái số mẫu tư công điền làm rẽ vừa gặt, hội đồng không thu được tô, chẳng biết Cách mạng có thu không, hơn trăm ang lúa chứ ít đâu. Nhờ trời Cách mạng để cho nhà mình ăn thì quanh năm không phải ghế khoai, còn dư sắm sửa nữa... Mấy lần cô định hỏi chồng chuyện đó, nhưng mỗi khi ảnh bước về nhà cô chỉ lo cằn nhằn cho ảnh bỏ du kích, mà quên hết mọi sự. Cô sốt ruột lay chồng:
   - Nè anh, ngủ gì dữ vậy. Số lúa công điền bây giờ sao?
   - Ờ ờ... cái gì? Khổ lắm, ngủ đi.
   - Anh khổ, tôi lại sướng gì. Cái số trăm mốt ang lúa công điền có phải nộp không?
   - Khổ lắm, nộp cho ai? Lão cứ ngồi xó bếp không chịu đi mách tin, ủy ban đã nói rồi mà, mai kia còn chia ruộng nữa chớ… È hèm, sáng mai nhớ dậy sớm nấu cơm mình ăn đi cày. Lão ở nhà vót được bao nhiêu thì vót, khúc cau già với bốn cây tầm vông mình chẻ sẵn đó, coi kiểu chông ba lá mà làm. Nữ già nữ trẻ người ta hoạt động rầm rầm... còn lão nay chạy mai khóc… không biết xấu...

   Anh nói câu cuối cùng lúng búng trong miệng như ngậm cháo, rồi ngủ thiếp đi, coi như mọi việc đã đâu vào đấy yên ổn cả. Cô Bính lật mình nằm ép vào chồng cho ấm, lim dim mắt cười một mình. Người gì mà như khúc gỗ lăn đâu ngủ đó, cứ muốn đấm nhẹ cho vài đấm... Cô không dám ước tới chuyện chia ruộng, nghe nó xa vời quá. Còn số lúa nông điền chưa biết các ông ủy ban tiên bố ra sao, nhưng cũng chỗ dân nghèo cả chắc họ cũng có ý bênh vị. Mà chồng cô lại vô du kích, không ưu điểm cho du kích thì cô kiện tới trên thượng cấp chớ đâu có chịu lép. Vậy là khỏi lo cái nạn giáp hạt tháng ba ngày tám. Chỉ còn ráng giữ cho Mỹ - Diệm đừng về cai trị được nữa, rồi vợ chồng chí thú làm ăn, chẳng mấy lúc mà mở mày mở mặt với người ta. Hờn dỗi mãi cũng xấu hổ, lỡ anh chồng nổi điên lên bỏ ruộng hoang mạ héo thì đến phải ăn mày.

   Sáng mai cô sẽ dậy sớm nấu cơm cho chồng đi cày như mọi hôm. Cái sự để bỏ nhau thì cũng dọa già vậy chứ ai nỡ. Rồi... rồi có lẽ cô ở nhà vót chông. Cô không vót thì chồng cô vót. Không xay lúa thì phải ẵm em không lẽ để cho chồng ngày đi cày đêm vót chông, đá còn đổ mồ hôi nữa là người. Chông ba lá, kiểu gì lạ vậy hè? Nghe nói lính quốc gia sợ thứ đó lắm, nên họ không dám về lập lại chánh quyền, lấy trăm mốt ang lúa tô của vợ chồng cô. Đành vậy chứ biết sao, mai vót thử coi, chắc cũng không khó mấy. Đã “liên quan Việt cộng” thì cả mấy xã này liên quan hết. Mà ai cũng vót chông như cô thì bọn địch nhát như thỏ đế đố dám lên mà truy liên quan!

12-1961



Tiêu đề: Re: Về làng (Tập truyện ngắn) - Phan Tứ
Gửi bởi: hoi_ls trong 01 Tháng Giêng, 2010, 11:50:11 am
“CON ĐĨ”

   Đoàn biểu tình non bảy trăm người đeo băng tang kéo đến cách thị trấn Gò Bàn vài trăm thước thì bị chặn đường.

   Bốn chiếc G.M.C ù ù chạy tới cầu Gò Bàn, đỗ thành hàng dọc. Bọn lính đội mũ sắt và mặc chiến phục kaki loang lổ nhảy xuống, đặt đại liên giữ đầu cầu, tản ra thành vòng cung bên bờ sông. Chiếc xe bọc sắt đứng tại chỗ nổ máy gừ gừ, một khối thép vuông góc xanh bóng sẵn sàng chồm tới đè nghiến những người dân tay không. Chừng hai phút sau, một chiếc xe Gíp mở hết máy lái vèo ra khỏi thị trấn phóng tới cầu, suýt cán bẹp mấy tên lính đứng gác bên dãy ô tô, phanh rít như người nghiến răng, xốc bụi bay mù. Đám sĩ quan và hạ sĩ quan đang đi lại hò hét dàn quân theo đội hình chiến đấu đều dừng lại, đứng nghiêm chào. Một đại úy hiến binh cao gầy đội mũ lưỡi trai đỏ từ trên xe Gíp bước xuống, lơ đãng đưa tay lên vành mũ chào lại, rồi lộp cộp đi lên đầu cầu. Hắn nheo một bên mắt, hơi khịt mũi tỏ vẻ bực dọc. Chỉ có một đám dân tẹp nhẹp mà bọn quận hốt hoảng báo lên tỉnh là Việt cộng kéo biểu tình võ trang cướp quận, đông tới chục ngàn, rõ thật trông gà hóa cáo. Hắn giạng hai chân, chống hai tay cạnh hông, nói không to lắm nhưng chắc gọn, đĩnh đạc:

   - Dân chúng nghe đây! Lệnh của trung tá tỉnh trưởng thiết quân luật trong toàn tỉnh này, cấm mọi sự tụ họp đi lại. Tôi hẹn ba phút các người phải giải tán, nếu không sẽ dùng biện pháp quân sự. Ba phút thôi, nhớ đó!

   Hắn nghe tiếng mình dội lại trên cầu, và chợt thấy thu thú. Trương Phi một mình chặn cầu Trường Bản, một tiếng thét đủ xua quân Tào. Đây hắn không cần thét nữa. Hắn tin rằng tất cả oai phong của con người hắn, từ giọng nói, dáng đi, đến mỗi cử động nhỏ đều được tập trước từ lâu để toát ra vẻ rắn đanh lạnh lùng rất Ănglê, cũng đủ cho bọn dân quê kia lạnh buốt xương.

   Những hàng người mặc quần đen đeo băng trắng bên kia cầu chùn lại. Số người đi sau sốt ruột tràn rộng ra kín hai vệ đường, chen lên nhìn, lật nón lá ra quạt. Các bà cụ dẫn đầu bị lấn tới phải tiến thêm mươi bước nữa, nói truyền ra sau: “Đứng lại đã, lão đại úy Tòng kia nè”. Vài chị ôm con mọn hơi tái mặt, liếc ngang tìm đường sẵn. Ai chứ thằng Tòng nhất định nó bắn bừa, bọn lính quét súng máy trên cao thì nó tự tay ấn nòng súng thấp xuống cho dân chết gối lên nhau... Tiếng lào xào nổi lên to dần. Một tiếng gắt cáu kỉnh: “Cứ ào tới, ông nội nó không dám bắn”. Tấm biểu ngữ vải đen chữ trắng chùng chình một lát, giờ lại căng rộng đi lên, phơi rõ ràng hàng chữ: “Yêu cầu chánh quyền thả ngay hai mươi mốt người bị bắt oan, trừng trị bọn đốt nhà giết dân”. Đoàn biểu tình tiến từng bước chậm, hàng ngang thu hẹp, như người đấu võ vừa lựa thế bước tới vừa ngó chừng đối thủ. Ba bước, năm bước, mười bước... Đại úy Tòng không cựa quậy, nắng trưa chiếu bật màu mũ đỏ như lửa trên đầu hắn, cái cấp hiệu ba bông mai vàng trên cổ áo hắn lấp láy: Thà hắn quát tháo dọa dẫm còn không đáng ngại bằng cái vẻ cứng đờ như tượng đá ấy. Hắn chỉ hô một lệnh ngắn và rõ:
   - Đại độộội, chuẩn bị tác xạ!

   Một loạt tiếng lên đạn rắc rắc sau lưng và hai bên hắn. Nhưng lại có những tiếng thầm thì gì đó không nghe rõ. Hắn không quay lại nên không thấy đám mũ sắt bắt đầu nhốn nháo, cả các sĩ quan cũng đưa mắt tìm nhau, có người nhăn mặt.

   Bên kia cầu, tấm biểu ngữ lại đứng yên. Dòng người sùng sục như thác nước húc phải đập. Những tiếng văng tục lộn xộn. Một ông già râu bạc, quần xắn quá gối và khăn trắng vắt vai, cất giọng khàn khàn kêu to:
   - Nhơn dân chúng tôi xin tới quận bầy tỏ nguyện vọng chớ có gì đâu. Đề nghị quý ông cho đi.

   Không có tiếng trả lời. Mấy bà cụ bịt khăn tang cầm những cuộn giấy tròn đi tới:
   - Đơn đây, mời ông đại úy coi rồi để cho bà con lên quận. Con cái bọn tôi cũng đi lính quốc gia, anh em bộ đội đây biết hết...
   - Người đầu tiên bước lên cầu sẽ bị bắn chết!

   Tiếng loa giữa hàng biểu tình bật rền, tiếng hô rầm theo rung nền cầu xi măng: “Anh em binh sĩ kiên quyết không khủng bố nhân dân và gia đình binh sĩ”. Viên đại úy chỉ hơi máy môi trước những nắm tay rào rào giơ lên:
   - Còn một phút!

   Từ phía đuôi đoàn biểu tình, một bóng áo đỏ lách men vệ đường đi lên trên đầu. Một người đàn bà nhỏ nhắn, còn trẻ. Chị không đội nón, chít cái khăn tang trên mái tóc uốn quăn bọc lưới trông lạ mắt, mặc áo nhung đỏ sẫm và quần ni lông trắng ống chật may kiểu thành thị, đi dép cao su hai quai cánh bướm, chỉ giống đám đông nông dân ở cái băng vải trắng đeo trên tay áo trái. Chị len đến chỗ tấm biểu ngữ, kéo tay ông già râu bạc, nói nhanh:
   - Bác để cháu lên thử, bác Sáu.
   - Cúc hả? Lên làm gì?
   - Nói với nó. Cháu quen thằng Tòng.

   Ông già nhìn trừng trừng vào mặt chị, hơi cau mày, rồi gật:
   - Thôi cháu lên. Mà... nè, không phải mình lạy lục nó đâu nghe. Cháu thay mặt cho bà con đó.

   Chị Cúc không đáp. Câu dặn bóng gió của bác Sáu khía vào lòng chị một vết đau mới. Bác vẫn chưa tin chị. Hay thôi, đừng lên nữa, lỡ nó bắt bà con lại thêm ngờ chị. Nhưng chị đã làm gì cho bà con tin cậy đâu... Nghĩ quanh quẩn vậy, chị tách khỏi hàng biểu tình lúc nào không biết, chỉ cảm thấy mang máng rằng bên chị không còn những cùi tay những vai chen chúc nữa. Mắt chị thấy thấp thoáng những trụ xi măng bên thành cầu lùi về phía sau, và cái mũ hiến binh đỏ hiện ra to dần. Chị đọc lẩm nhẩm trong miệng như học bài: “Hỡi anh em sĩ quan và binh sĩ... hỡi anh em sĩ quan và binh sĩ...”.

   Tiếng rì rào hai bên bờ sông tắt hẳn. Đoàn biểu tình và bọn lính cùng nín thở nhìn theo cái bóng nhỏ đang liều lĩnh đi qua cầu, tới trước mặt đại úy Tòng khét tiếng hung dữ. Tòng bỏ bàn tay phải chống nẹ, nắn chuôi súng ngắn, rồi từ từ buông thõng cánh tay vì ngạc nhiên. Cúc à? Cúc thật rồi. Đúng người vợ lẽ của ty trưởng công an tỉnh vừa bị ám sát, nay Cúc là nhân viên “công an chìm”. Sao Cúc hiện ra đây? Hắn buông thõng luôn cánh tay trái, vẫn giạng hai chân thành một thế đứng lúng túng, đợi Cúc đi đến.


Tiêu đề: Re: Về làng (Tập truyện ngắn) - Phan Tứ
Gửi bởi: hoi_ls trong 01 Tháng Giêng, 2010, 11:52:00 am
*
*    *

   Hồi đình chiến, Cúc là một nữ sinh lớp 8 ở vùng tự do, con một ông giáo nghèo. Mới mười tám tuổi mà chị đẹp nổi tiếng, đến hàng chục anh bạn học, bộ đội, cán bộ gửi thư nói xa rồi lại nói gần. Chị như con bướm lượn chọn hoa nhởn nhơ, không từ chối ai mà cũng không nhận lời ai. Mãi đến khi bộ đội và cán bộ Cụ Hồ rút đi gần hết chị mới hứa với một anh bộ đội trẻ tuổi hai năm về sẽ cưới. Nói cho đúng thì chị mới mến anh chàng rụt rè dễ thương ấy chứ chưa hẳn đã yêu, nhưng trong khi xúc động kẻ ở người đi chị không kịp đắn đo nữa, để cho anh hôn một cái trên má, tặng anh một chiếc khăn tay thêu hai chữ lồng vào nhau. Có vậy thôi. Ngay sau lúc tiễn đưa, chị nằm trằn trọc lại hối đã quyết định quá gấp, một lời nói một gói vàng, đáng lẽ lúc ấy đừng hẹn hò gì mà hơn, sau hai năm thống nhất chị có thể chọn một người xứng đáng hơn nhiều...

   Cái chế độ Mỹ - Diệm vạn ác mà chị mới biết qua sách báo đã hiện lên ở quê chị, có thể sờ thấy được, và chính nó quơ tay nắm lấy chị trước. Trường học vẫn mở với hiệu trưởng và thầy giáo mới, nhưng chị không đủ tiền trả thêm hai trăm bạc học phí mỗi tháng, phải thôi học về dạy tư quàng quấy, rồi đi buôn. Chung quanh chị cả một đám sĩ quan, công chức, thanh niên du đãng xúm lại ve vãn, và chị thấy rằng người tầm thường nhất trong số con trai tìm đến chị hồi trước vẫn tốt hơn hẳn kẻ khá nhất trong số tán tỉnh chị ngày nay. Tình thương nhớ nhung đối với những người tập kết, đối với quãng đời thiếu nhi và thanh niên cháu Bác Hồ dần dần đúc lại trong hình ảnh anh bộ đội rụt rè dễ thương kia. Tình yêu ngấm sâu mãi trong lòng chị, người yêu vắng mặt trở thành tượng trưng cho tất cả những gì chị yêu quý nhất nay không còn nữa. Chị như người sốngmãi dưới mặt trời nên không thấy ánh sáng là quý, có khi còn kêu chói kêu nóng, đến khi rơi vào hầm tối mới khát khao ngửa mặt đón một tia nắng nhỏ còn lại. Qua những lần học tố cộng, bị hăm dọa, mua chuộc, cưỡng bức nữa, chị vẫn nhất định khai mình là gái có chồng, không lấy thằng chi trưởng thông tin quận đang giở mọi trò buộc chị làm vợ hắn.

   Sau khi ký kiến nghị đòi hiệp thương, chị bị khai thác năm lần, mỗi chuyến “đi cung” về phải nhờ chị em lấy kéo cắt áo vì sưng mình cởi không ra, má chị bán ruộng cho uống thuốc bắc mới lại người. Đến kỳ đấu tranh tổng tuyển cử chị khiếp không dám dính vào, lại nhận được một lá thư người yêu bí mật ném vào nhà, chị đọc mãi đến thuộc lòng. Chỉ mấy ngày sau chị bị bắt giam nhà lao tỉnh: một bàn tay nào đã viết thư giả, chị không nhớ nét chữ anh ấy nên mắc lừa, không mang thư lên trình chánh quyền, can tội “liên hệ với cộng sản Bắc Việt”. Chính thằng chi trưởng thông tin bố trí việc đó, hắn rắp ranh đứng bảo lãnh cho chị ra tù để ép chị lấy hắn. Nhưng miếng mồi lại lọt qua tay kẻ khác. Thằng ty trưởng công an tỉnh để ý chị trong một buổi hắn ngồi khán cung. Chị được lệnh “biệt phái sang phục vụ bên ty”, ngay đêm đầu bị đánh thuốc mê và hiếp. Chị định treo cổ tự vẫn, rồi nghĩ thương má thương em có thể bị vạ lây chị lại thôi, phần nữa còn mong gặp người yêu, anh hiểu lòng chị xí xóa bỏ qua cho thì may, bằng không cũng được thấy chút thống nhất rồi hãy liệu lấy thân.

   Sắc đẹp của chị trở thành tai họa. Chị bị hiếp đến có chửa. Thằng Mậu tiếc chị đẹp nên không vứt trả vào nhà lao như những người khác hắn đã hiếp. Chị không còn đường lui nữa. Mặt mũi nào về ở nhà mẹ với đứa con hoang, hi vọng nối lại tình yêu cũ cũng hết, đứa con xinh xắn bắt chị phải sống nuôi nó, chị đành ở lại thị xã làm vợ ba thằng Mậu. Hắn mê chị, nuông chiều chị, thuê nhà cho chị ở riêng, dẫn chị đi khoe với các bạn như khoe món đồ chơi đắt tiền, nhưng mỗi lần nghi chị có tình ý với ai hắn đánh nhừ tử.

   Sau bốn năm sống lối me Tây ở thành phố, chị thay đổi hẳn. Chị biết pha cốc tai lối Mỹ và uốn lưỡi nói những câu chào mời tiếng Anh, biết chọn kiểu áo khêu gợi nhất và màu phấn nổi da nhất, biết vuốt ve hoặc đanh đá để nắm chắc thằng Mậu trong tay và buộc hắn đem về cho chị đến hai phần ba số lương tháng khá lớn, chưa kể những món bổng kếch sù mà chỉ có ngành công an mới kiếm nổi. Bước chân vào hội chợ là chị được bầu ngay làm hoa hậu, có khi không cần lên sân khấu nữa. Những chiều thứ bảy. xe hơi đủ các kiểu xếp hàng dài trên phố Ngô Đình Khôi: các quan khách Việt Nam và Âu Mỹ đến dự vũ hội ở nhà riêng của chị số 172 phố ấy, cầu mong được nhảy với chị một bài và ghé tai chị tán tỉnh vài câu. Đại úy Tòng cũng một thời là “thần tử của Bà hoàng 172”. Bầu không khí ăn chơi xa hoa vây quanh chị Cúc, chị nhiễm nó như nghiện thuốc phiện trắng, không hít thở nó không sống nổi.

   Nhưng, nỗi nhớ tiếc ngày xưa từng lúc lên cơn nhức buốt trong chị như cây gai xóc nằm mãi đấy, những lúc ấy chị rót uống liền liền ba bốn ly rượu mạnh, cười sằng sặc, nhào vào tay một thằng sĩ quan Mỹ nào đó nhảy một bài phốctờrết quay cuồng điên loạn, để bớt nghe tiếng thì thào bên tai: “Con đĩ, con đĩ...”. Hai tiếng ấy chị nghe khi về thăm nhà trong bộ “y phục kim cương” bằng nilông trắng nạm những đường chấm lân tinh lập lòe, trên xe hơi của chồng. Má chị đá mèo quèo rế, chửi xa xôi những đứa trốn chúa lộn chồng. Mấy đứa em không nhận bánh chị cho, đứng thập thò nhìn rồi cười hi hí với nhau: “Cái đầu ổ quạ bay à”. - “Không, đội rế đó chứ”. Bà con quay mặt nhổ nước bọt: “Con đĩ!”. Trong làng cũng có hai cô gái nghèo bỏ đi Sài Gòn làm đĩ, nhưng bà con không khinh ghét như đối với chị. Họ nói: “Bọn kia về làng còn biết xấu hổ, không như con Cúc cứ vênh cái mặt vợ lẽ ác ôn. Con đĩ…”. Hai tiếng ấy trở nên một ám ảnh kinh khủng như những tiếng búa đóng nắp quan tài trong mùa dịch tả, càng kinh khủng vì chính chị thấy chị thực sự là con đĩ mất rồi. Chị không đủ can đảm dứt bỏ cái nghề đĩ quý phái này vì sợ thằng Mậu trả thù, sợ mất con, sợ phải sống giữa những người khinh ghét chị, sợ lam lũ cực nhọc. Đôi lúc dằn vặt đau đớn quá, căm giận thằng Mậu quá chị đâm liều, chửi lại số phận và trả thù chồng bằng cách đột ngột gọi điện thoại cho một người bạn chồng nào đó đến ngủ với chị vài giờ, rồi sau khi đuổi nhân tình đi chị ôm đầu khóc như hóa rồ: “Đã làm đĩ thì đĩ cho luôn!”. Đại úy Tòng đã một lần được hưởng lối báo thù tuyệt vọng của chị. Hắn tưởng chinh phục được chị, biết đâu rằng chị chỉ dùng hắn để cắm sừng lên đầu chồng. Khi bị thuyên chuyển đi xa, hắn tiếc mãi...

   Đứa con chị ốm vài ngày rồi chết. Ít lâu sau, thằng Mậu bị Cách mạng bắn vỡ đầu, bỏ xác lại với tờ cáo trạng gài trên ngực. Chị khóc con mà không khóc chồng, trước sau chị vẫn coi hắn là thằng cai ngục của chị. Chị không phải vợ chính thức nên không được lãnh tiền cấp dưỡng quả phụ, các gia đình trong “Hội tiết nghĩa” bị bức bách mãi mới bỏ ra cho chị tất cả được vài ngàn. Chị không đủ tiền trả nợ, phải bán hết đồ đạc và tư trang, “cung điện của Bà hoàng 172” tan biến như bọt xà phòng. Thằng ty phó công an già ngoài năm mươi đến gạ gẫm chị lấy lẽ hắn, nhưng mặc cả trước cẩn thận rằng hắn không chu cấp cho chị được rộng tay như thằng Mậu. Chị chống cằm ngồi nghe hắn nói, lơ đãng nghĩ đến một cái nhãn máy hát vẽ con chó ngồi nghe tiếng chủ trong đĩa. “Ừ, bọn kia ve vãn mình cùng một giọng với nhau như đĩa hát quay nhiều lần, còn mình thì khác gì con chó...”. Chị không từ chối hẳn, mà hẹn về thăm nhà ít lâu sẽ trở ra thị xã. Lão ty phó giao luôn cho chị làm cộng tác viên công an, đặt bí danh là C.172, đưa chị hai mẫu báo cáo tình hình Việt cộng địa phương và ngoài lai in sẵn, trả chị tháng lương đầu tiên chín trăm đồng, hẹn mỗi lần báo cáo sẽ có thưởng riêng. Chị ngửa tay nhận để đủ tiền mua vé xe về làng. Chị không định làm gián điệp, cũng không định làm gì hết, chỉ cảm thấy chán ngấy, chán tất cả.

   Trên chiếc xe hàng chật và hôi, chị kê cái vali nhỏ ngồi đọc lại cuốn “Đồi thông hai mộ”. Nên uống thuốc độc chết như Mỹ Dung hay đi tu như Bích Liên? Uống thuốc độc thì dễ, một ống vêrônan hay gácđênan là đủ, lúc nào uống cũng được, vội gì. Còn đi tu quên hết việc đời cũng hay, nhưng khi chán đời và chán cả tu hành nữa thì làm sao? Chị mong ước một sự tình cờ nào đó giúp chị thoát khỏi bế tắc, như chiếc xe này nhào xuống hố sâu chẳng hạn. Nhưng xe vẫn chạy đều, chỉ bị khám xét nhiều lần, chị ghé vào đồn công an hay trạm gác hé cho xem cái thẻ bọc nhựa bằng ngón tay của ty công an là được mời lên xe đi tiếp. Về cách làng năm cây số, đường bị phá nát, chị xuống xe xách vali kéo bộ về nhà theo các bà đi chợ.

   Làng chị đổi khác nhiều. Chính quyền Mỹ - Diệm bị diệt, những cuộc mít tinh biểu tình lớn sùng sục ngày đêm, chông hầm chông bãi giăng kín quanh làng như mạng nhện. Du kích đưa chị vào gặp Ủy ban Mặt trận, chính ông chú ruột làm chủ tịch. Chị khai là thất nghiệp phải về ở với má, không làm gì cho địch. Ông chú cười mũi: “Mày không làm gián điệp thì ai vô đó nữa?”. Ủy ban cho chị ở làng, nhưng buộc đi đâu phải xin giấy phép, cấm tiếp xúc với người lạ mặt. Chị về nhà. Má chị biết chị về mà không để phần cơm, chị ngửa nón đi mua gạo về tự nấu lấy. Chị trải chiếu nằm đất vì các em chị không chịu cho ngủ chung, nói đốp chát: “Lỡ chị mắc bệnh gì lây qua bọn tôi thì sao”. Cái hố ngăn cách chị với người thân đã sâu quá rồi. Cũng may đêm ấy chị mệt đến đờ đẫn nên đặt lưng xuống là ngủ say, không kịp nghĩ quẩn nữa. Sáng sau chị dậy sớm, vác cuốc ra vườn đánh luống trồng khoai. Bà má thấy vậy mới nấu cơm cho ăn, bà đoán đứa con gái hư hỏng đã có chiều thay đổi sau khi mắc nạn. Thực ra chị Cúc vẫn còn phân vân chưa biết nên chết, nên đi tu, hay trở ra thị xã thả xuôi những năm sống còn lại cho tới đâu thì tới. Chị hành hạ thể xác mình đến mệt lả để đỡ phải nghĩ, thế thôi.



Tiêu đề: Re: Về làng (Tập truyện ngắn) - Phan Tứ
Gửi bởi: hoi_ls trong 01 Tháng Giêng, 2010, 11:55:19 am
   Nhưng rồi hơi thở lớn của Cách mạng ngấm vào chị ngày một ít. Chị đọc sách báo mới, dự mít tinh nghe kể chuyện đấu tranh như uống từng lời, ban đầu chỉ vì tò mò ham lạ, về sau vì lòng mến phục nảy nở dần. Chị tưởng sống lại những ngày sôi nổi nhất trong kháng chiến, hồi đó chị còn tóc xõa thơ ngây... Chị không dám nhớ lại quá khứ vì tủi thân và ghê tởm cho mình. Chị vẫn sống một mình khép nép như người câm điếc, cố thu hình thật nhỏ lại để không ai chú ý đến chị. Chị định nộp giấy tờ công an chìm, khai hết với Ủy ban, nhưng sợ bị căn vặn nghi ngờ thêm nên còn chần chừ để đấy. Mặt khác chị cũng tính toán phòng khi quân địch càn lên, chị sẽ lấy giấy tờ đó làm bùa hộ thân và che chở cho gia đình chị có thằng em trai vào du kích. Thấy nữ thanh niên nô nức đi học bình dân, tập du kích, chị lén nhìn theo đầy xót xa thèm khát, nhưng không dám ngó lâu sợ bị nghi là rình mò. Nhiều đêm chị ngồi nấu cám heo đến khuya để nghe thiếu nhi tập hát ở nhà bên, chị lẩm nhẩm hát theo và cười một mình thích thú khi thuộc được một bài hát mới.

   Phong trào nhân dân như cơn xoáy lốc khuấy động tâm hồn chị đến tận đáy sâu, đánh bạt đi những ý nghĩ yếu hèn, thức tỉnh lòng ham sống yêu đời của chị. Người nữ thanh niên kháng chiến đã sống dậy phá lớp vỏ của “Bà hoàng 172” do bốn năm đồi trụy dệt nên. Chị sẽ làm lại cuộc đời, chị mới hăm bốn tuổi.

   Má chị giận mấy ngày đầu, rồi con vẫn là con, bà đâm thương chị hơn các em một chút để bù lại những lúc hắt hủi. Các em lờ chị lâu hơn, cuối cùng đâu lại vào đấy cả, chỉ trừ thằng em thứ ba ở du kích vẫn nghiêm khắc đòi chị lập công chuộc tội, nó nói rành rọt là tội bỏ chồng tập kết lấy lẽ ác ôn, cướp tiền mồ hôi nước mắt của dân nghèo vung phí như rác, “nhảy đầm cả với ác ôn Mỹ”. Chị cúi đầu không dám cãi, nó nói tàn nhẫn mà đúng, còn may nó chưa biết hết sự thật về chị. Bà con trong làng đã bớt lạnh nhạt đối với chị, không ai nhắc tới hai tiếng “con đĩ” ngày trước nữa. Người hiểu chị nhất là bác Sáu già hàng xóm, hồi trẻ bác lăn lộn đủ nghề nên dễ thông cảm với nỗi khổ khác biệt của chị hơn, thường khuyên nhủ chị như người cha rộng lượng.

   Trận càn lớn đổ úp xuống vùng giải phóng lại một lần nữa đảo lộn tất cả những dự định xây dựng tương lai của chị. Riêng làng chị bị một trung đoàn chính quy do một thiếu tá Mỹ chỉ huy thọc vào. Quân giải phóng và du kích đánh suốt mấy ngày đêm, sau bị một tiểu đoàn dùng trực thăng đổ bộ sau lưng nên phải rút vào rừng bắn tỉa. Gia đình chị cũng như dân làng đều ở lại đấu tranh chống khủng bố, riêng chị sợ bị Cách mạng nghi ngờ nên xách cái vali nhỏ lánh vào trong rừng theo số thanh niên tránh bắt lính. Địch đóng lại trong thôn năm ngày, vấp phải nhân dân chống cự giằng co nên không dồn dân lập ấp chiến lược được, chỉ bắt hú họa hai mươi mốt người mà chúng nghi là gia đình cán bộ Cách mạng và du kích đem về treo đánh, lùa hơn chục trâu bò, đốt bảy cái nhà trước khi rút.

   Chị Cúc trở về làng sau trận càn, thấy nhà mình ra tro, má và các em nhỏ bị bắt giải đi mất. Em trai chị bị thương gãy tay trong khi chống càn đã được đưa về bệnh xá. Chị trơ ra không khóc, chỉ thấy tê dại cả đầu óc và thân thể. Ủy ban đến an ủi, chị vâng dạ sơ qua, nhưng bác Sáu tới sau một câu nói vô tình mà chị không thể quên: “Không lẽ cứ để bọn nó làm khổ cháu miết vậy sao?”. Trong khi chị loay hoay thu dọn ít lúa và nồi niêu còn sót, một ý nghĩ chợt đến: “Cái bọn ác ôn Mỹ cầm quân đánh phá làng chị, đốt nhà chị, bắt gia đình chị, bắn em chị gãy tay, có thể mới hôm nào ôm chị nhảy đầm trong phòng khách 172 Ngô Đình Khôi chăng? Cũng mấy thằng Mỹ đó chăng?”. Chị đứng sững, rồi nhếch mép cười như người loạn trí, cười rất lâu.

   Đêm ấy chị che cái nong ngồi bên đống cột kèo lổng chổng còn cháy ngún, nghĩ đủ chuyện. Dần dần những kỷ niệm cũ kéo trở về xếp lớp đều đặn như chị đang xâu lại chuỗi cườm của những năm tháng qua, và chị thấy hạt nào cũng tuyền màu đen nặng trĩu đau xót cả. Đời chị còn gì nữa, còn gì nữa? Một con số không tròn xoay, trống rỗng. Chị ôn lại những ước mơ của tuổi mười tám. Nào chị có dám màng đến những gì cao xa đâu. Chị muốn học có nghề để nuôi thân nuôi má, muốn chung thủy với người chị yêu, muốn sống yên lành và có ích trong tình thương của gia đình họ mạc. Nhưng bọn nó đã chà đạp tan nát hết những ước mơ nhỏ bé của chị, từ cô nữ sinh xinh tươi và yêu đời bọn nó đã vùi mãi dập mãi chị xuống thành con đĩ dơ dáng dại hình, thành con gián điệp chui luồn như rắn độc, đến nay lại cố phá không cho chị làm lại cuộc đời. Những bộ mặt chó sói chặn hết các ngả đường chung quanh chị, hẹn nhau không cho chị trở lại nên người. Chị vò hai tờ mẫu báo cáo của thằng ty phó ném vào lửa. Con đĩ là đủ nhục rồi, đừng làm con gián điệp C.172 nữa, đã sa xuống hố bùn còn cố ngụp sâu mãi. Cuốn “Đồi thông hai mộ” in giấy quý cũng bốc cháy luôn. Tự tử à, đi tu à, nếu ai bị thất vọng cũng tự tử với đi tu hết, thì bọn nó vỗ bụng mà cười... Nỗi căm giận ghê gớm từ từ nhóm lên trong lòng chị, lửa hừng hực cháy trong lồng ngực chị, những chấm lửa li ti chạy khắp thân chị đau nhức, chị muốn cắn muốn xé ngay một thằng nào đó cho đỡ tức. Không lẽ cứ để bọn nó hành hạ miết vậy sao? Không lẽ cứ để bọn nó làm khổ miết vậy sao?

   Chị khóc lặng lẽ bên đống lửa một mình, đến khi anh em du kích đi tuần đến lay gọi chị, dỗ chị vào nghỉ trong cái chòi tranh của bà con mới dựng giúp cho chị. Đến sáng chị xé vải trắng chít khăn tang, ra dự lễ truy điệu những người hi sinh trong chống càn, rồi theo bác Sáu đi biểu tình lên quận. Hai mắt chị khô, hơi sưng và chạy những tia máu đỏ ngầu.

   Giờ đây chị xăm xăm đi tới trước mũi đại liên của thằng đại úy Tòng. Chính chị không hiểu vì sao chị thanh thản quá, đầu phơi phới nhẹ không. Miệng chị lẩm nhẩm đọc câu kêu gọi binh lính, nhưng trong óc chị có một câu hát ru con chao đi chao lại, rất xa lạ với cảnh chạm trán ác liệt đang diễn ra bên ngoài. Câu hát của má lắc nôi ru con bé Cúc hồi xưa: “À, ơ... Cầm dao cắt miếng tóc mai, hòa vô chén huyết có hai đứa mình. Uống rồi thề nguyện đinh ninh, ai mang ơn nấy mắc ai bạc tình nấy mang...”. Chị hát ru lại con mình, và sau khi con chết chị còn hát mãi câu ấy một mình tuy nó không ăn nhập gì với cuộc đời đẫm nước mắt của chị nhưng gợi chị nhớ đến những gì thật ngây thơ trong trắng như đứa con chị đã mất, như tuổi xuân chị đã mất.

   Đại úy Tòng sừng sờ nhìn chị đi tới. Khuôn mặt gái một con trắng mịn đầy đặn đang đến gần, dưới nắng trưa càng đỏ hồng lồ lộ. Dáng đi hấp tấp nhưng vẫn óng ả như khi lượn trong phòng khách 172 Ngô Đình Khôi. Hắn thoáng nghĩ: “Cúc vẫn đẹp mê hồn, đẹp rất Tây phương. Và tất cả pho tượng Vệ nữ ấy là của mình...”. Theo thói quen lâu ngày, hắn khép hai chân lại, mỉm cười, và suýt nữa hắn bước tới đón Cúc nếu không sực nhớ đến cuộc biểu tình. “À, tuyệt diệu, cô nàng đi theo biểu tình để nắm tình hình. Một người đàn bà thông minh hiếm có”. Hắn nháy mắt để tỏ vẻ hiểu và phục tài Cúc. Nhưng hắn còn một chút phân vân: “Cúc đã nên thoát thân về ty công an luôn chưa, hay còn có thể quay lại ở chung với Cộng sản ít lâu nữa để theo dõi thêm?”. Muốn khỏi bị hớ, hắn lên giọng quát phủ đầu:
   - Chị này muốn chết sao? Kiến nghị của cộng đâu, trình đây coi thử.

   Hắn đưa tay, đoán chắc Cúc sẽ trao cho hắn một tờ kiến nghị, trong đó gài sẵn một mảnh giấy ghi tên những người cầm đầu cuộc biểu tình cần bắt ngay. Nhưng Cúc dừng lại cách hắn chừng năm bước, bật kêu lanh lảnh:
   - Hỡi anh em sĩ quan và binh sĩ!

   Hắn như bị đấm giữa trán, ngó ra bàn tay vẫn chìa tới trước. Rồi hắn vụt hiểu sang cách khác. Cúc bị lộ, bị cộng sản bắt đi theo, đẩy lên thương lượng với hắn, làm bia đỡ đạn cho Cộng, làm kế mỹ nhân. Chắc hẳn hàng chục mũi súng đang bí mật chĩa sẵn vào lưng Cúc, nên cô nàng sợ khiếp, phải đọc những câu đã học thuộc lòng ở nhà. Có thể gia đình Cúc bị bắt làm con tin. Gớm thật, bọn Cộng hiểm độc quá thể. Hắn vạch rất nhanh một kế hoạch giải thoát cho Cúc, trừng trị thẳng tay và chớp nhoáng. Cúc đang kêu gọi quân đội đừng khủng bố dân. Đại úy Tòng để mặc Cúc đấy, quay lại nói nhỏ:
   - Hạ sĩ Trung đâu? Lại đây, mau. Đem ngay tiểu đội mày tới đây, dàn hàng ngang... Ngu lắm, dàn bịt kín đầu cầu hễ chị kia chạy qua thì đứng né hai bên, chị qua lọt rồi bọn bay đứng ráp lại thành hàng rào, xả súng bắn luôn. Hiểu chưa, What an ass! (Đồ con lừa!) Bắn bọn Cộng, chớ sao lại bắn chị ta...

   Chị Cúc không để ý đến đại úy Tòng đang xếp lính sau khẩu đại liên. Chị đọc hết bài binh vận ngắn trước mấy trăm con mắt đang sửng sốt nhìn chị dưới vành mũ sắt xanh xám. Chị nói thêm những điều chị nghĩ lâu nay, giọng oán trách như nói với đám người thân mà khờ dại:
   - Đó anh em nghĩ kỹ coi, bọn Mỹ ở đâu tới nó bắt anh em đốt nhà mình, đánh đập bắn giết ba má mình, nhốt bà con mình vô ở tù trong ấp chiến lược, anh em cũng cúi đầu mà nghe sao? Cứ chịu làm đầy tớ cái bọn khát máu tanh lòng đó sao? Đàn ông con trai đâu mà kỳ cục vậy; tôi như anh em tôi đập đầu hết bọn khỉ đột chớ không có để. Nó cũng người mình cũng người…

   Tiếng rì rầm trong bọn lính to dần, không rõ là tán thành hay bực tức. Một người buột miệng: “Nè chị kia...”. Bốn năm tiếng suỵt tiếng ồ chặn hẳn lại. Những lời gay gắt của người đàn bà quất vào đám lính mũ sắt, gây một cơn náo động kỳ lạ. Vừa lúc ấy đại úy Tòng bước tới trước mặt chị Cúc, đột ngột hét: “Con kia, câm họng”. Chị giật mình quay lại. Tòng nói nhỏ và nhanh qua kẽ răng:
   - Cúc nghe anh dặn đây. Chạy ngay ra chỗ xe anh, nói sốp phơ lái về trước. Chắc bọn Cộng không dám bắn theo đâu. Nếu nghe súng nổ sau lưng, Cúc nằm sấp xuống, nhớ chưa, nằm im đó. Anh sẽ quật chết hết bọn kia. Chuẩn bị... kìa Cúc mau lên em, đừng sợ...

   Chị Cúc trừng mắt nhìn hắn. Đến bây giờ chị mới nhớ ra mình đứng trước đại úy Tòng, người bạn chồng đã ôm chị nhảy những bài rumba rất khó và ghé tai chị tán tỉnh nhiều lần, cầu xin “cái ân huệ cao nhất của Bà hoàng 172”. Một con quỷ ham tiền ham sắc, giết người tới số trăm. Một trong những bộ mặt chó sói vây quanh không cho chị sống.. Vào lúc khác có thể chị mềm dẻo nói với hắn đòi thả hai mươi mốt người bị bắt, nhưng lúc này đầu chị nóng rực như lò than, chị say máu ngà rồi. Chị giơ tay chỉ thẳng vào mặt Tòng:
   - Anh em nghe thằng Tòng nói gì không? Nó biểu tôi chạy đi để nó bắn chết hết bà con...

   Tòng lắp bắp:
   - Điên à? Đừng nói bậy nữa, chạy mau!
   Chị nghĩ nhanh: “Mất chánh trị. Mình khiêu khích nó rồi. Lỡ nó bắn mấy trăm bà con...”. Nhưng chị không tự chủ nổi, chị vẫn chửi sa sả:
   - Thằng Tòng muốn giết đồng bào, anh em thấy chưa? Chút nữa nó hô bắn đó, để coi anh em có nỡ cầm súng Mỹ bắn vô bà con mình không? Để coi anh em có còn là người mình hay biến ra người Mỹ hết rồi? Để coi anh còn biết tình nghĩa máu mủ hay hết trơn lương tâm rồi?

   Đại úy Tòng chợt hiểu hết: Cúc đã theo Cộng, dẫn cộng đi đấu tranh, đang đứng vạch tội hắn. Hắn gầm lên: “Đồ đĩ, tao giết mày!”. Hắn sải chân bước tới, tay trái túm vai chị, tay phải quật một cái tát như đập búa. Chị loạng choạng ngã quỳ xuống đất, một bên áo rách toạc, trên mặt hằn những đầu ngón tay đỏ sẫm. Bên kia cầu dội tới ầm ầm tiếng hô của đoàn biểu tình: “Phản đối đánh đập người vô tội! Kiên quyết không cho bắt người vô tội! Giữ lại bớ bà con!”. Bảy trăm người đằng sau đang tiếp sức cho chị, nâng chị lên. Chị đứng dậy, nghiến răng xô mạnh vào ngực Tòng, mạnh đến nỗi hắn bật lùi, va phải hàng lính sau lưng. Câu chửi của thằng Tòng vừa xé lại vết thương thầm kín của chị chưa liền da hẳn. Chị tức đến điên cuồng. Chị gạt tóc xõa trên mặt, bíu hai tay run lật bật vào thành cầu, trợn trừng đôi mắt đỏ và sáng chói. Chị kêu hổn hển:
   - Đồ Việt gian... đồ đầy tớ Mỹ... chủ mày tới đây tao cũng xé nát mặt ra... Bộ mày dám đánh tao à? Mày dám chửi tao à? Tao khổ sở điêu đứng, tao lỡ sống lỡ chết, tao tan nát cuộc đời cũng tại thầy trò bọn mày. Ừ, tao làm đĩ. Tao làm đĩ cũng bán một cái thân tao thôi. Còn mày làm chó ngao cho Mỹ mày bán cả đồng bào, mày bán nước, mày bán nước...

   Một loạt tiếng rú thất thanh trước mặt và sau lưng chị. Thằng Tòng vừa rút súng ngắn, bật khóa hãm, chĩa vào ngực chị. Chị chỉ kịp thấy nòng súng đen nẩy nẩy trên tay hắn, phụt khói liên tiếp, không rõ mấy tiếng. Chị bị đánh túi bụi giữa ngực. Nền cầu xi măng trắng xám tròng trành đập nhào vào mặt. Chị mở miệng định kêu, máu nóng hổi ộc lên đầy cổ, thoảng mằn mặn. Chị quẫy mạnh, lật nghiêng người, quờ bàn tay cào cấu nền cầu nhám, thở phì một búng bọt máu ra mũi. Tiếng ù ù vang to trong tai chị. Thánh thót đâu đó một câu hát ru con rất quen thuộc chao đi chao lại theo nhịp bàn tay đưa nôi êm và chậm, trong khi thân thể chị tê dần, rã dần, tan thành bụi. Một tiếng nấc cuối cùng. Chị tắt thở.

   Cơn sấm sét nổ bùng trên cầu Gò Bàn sau mấy phát súng châm ngòi. Đoàn biểu tình ùa tới xốc cái xác chị Cúc, gào thét, chửi rủa. Đại úy Tòng hô lệnh bắn chưa dứt, một người lính đã quật báng súng tomxơn xuống đầu hắn, thọc mũi súng vào bụng hắn ghì cò hết một băng đạn, thịt và ruột văng từng mảnh tung tóe. Mấy sĩ quan và hạ sĩ quan đâm đầu chạy vào xóm, mấy chục người đeo súng và tay không len ngược dòng biểu tình đi về phía vùng giải phóng. Xác chị Cúc đặt trên tấm ván cửa, sáu người khiêng trên vai, vượt lên trước tấm biểu ngữ vải đen. Bảy trăm đồng bào biểu tình ùa qua chiếc xe bọc sắt và hàng ô tô bỏ chơ chỏng, kéo vào thị trấn Gò Bàn như thác đổ trong tiếng hô khẩu hiệu rung trời.

5-1962



Tiêu đề: Re: Về làng (Tập truyện ngắn) - Phan Tứ
Gửi bởi: hoi_ls trong 01 Tháng Giêng, 2010, 01:44:50 pm
TRONG ĐÁM MÍA

   - Thằng Út làm gì đó?

   Út vừa trong đám mía rút ra, bị tiếng nạt bất ngờ, giật mình đến thót bụng. Chết cha, lộ mất rồi. Út co giò định chạy. Lão Sáu bước tới gần:

   - Bộ ăn cắp mía tao hả? Tao nói má mày đánh cho nhừ xương.

   Út bình tĩnh lại ngay. Ừ, dễ gì lộ đâu. Mình phải tự nhiên chớ. Lão dân vệ này còn lên mặt lắm, nghi ai lão đi báo cáo liền. Vẫn nghịch ngợm như mọi ngày, Út nhảy tót lên lưng trâu, cãi to tiếng:

   - Thèm mía thì xin mía lựa mà ăn, tôi nghèo chớ không trộm cắp của ai. Tôi đi đồng chút cũng la.

   - Mới bữa trước tao tìm ra dấu bẻ, không mày thì ai vô đó?

   - Chú không tin tôi thề chú nghe. Đứa nào bẻ mía chú thì cái cổ mang gông, tay cầm lóng mía, vừa đi vừa hít, cái đít chịu đòn. Chú ưng bụng chưa?

   Út giật mũi cho trâu đi, tay vỗ hông trâu, miệng hát nghêu ngao: “Cầu bơ cầu bất cầu bần, có ông ăn mía một lần tới nửa cây. Ăn rồi tiếc đắng tiếc cay...”. Cái đầu hớt trọc lắc qua lắc lại coi rất bướng.

   Lão Sáu càu nhàu, xốc lại khẩu súng săn một nòng, kéo sụp cái mũ vải xuống trán, rúc vô đám coi thử. Đám mía rộng non mẫu, lâu nay lão chưa đi thăm. Dấu chân Út còn in trên đất xốp, thiệt, sâu lắm. Nhất định nó ăn cắp cả vác mía, đem cho lũ chăn trâu xúm lại nhai rồi nhổ nước vô nồi, tập nấu đường chớ không vừa gì. Cái trò ấy lúc nhỏ chính lão cũng làm nhiều nên biết rõ. Lần này bọn bay chết.

   Đến chỗ đất cứng, vết chân Út biến mất. Vẫn không có dấu bẻ mía. Lão Sáu gỡ một túm lá móc vào quai súng, đi một quãng nữa rồi quay ra. Chân lão giẫm phải một chỗ lún. Lão hất lá mía khô phủ đất, thấy dấu đào còn mới. Lão ngồi xuống, lấy khúc cây xoi thử.

   - Chú Sáu!

   Lão ngoảnh cổ lại. Út chui theo lúc nào đang đứng sau lưng lão, mặt hơi tái:

   - Ra mà coi, trâu ăn lúa chú ê hề kia.

   - Trâu nào ăn tao bắt đền gấp mười... Mày ăn cắp gì đem chôn đây, tao biết.

   Mũi cây chạm phải cái gì cứng, cạch một tiếng. Út giẫm chân, bật kêu như khóc:

   - Chú không được đào, không được mà.

   - Cái thằng ngang thiên nghịch địa, mày cấm tao hả?

   - Tôi cấm chú đó!

   - À, cái hộp gì đây, mẹ cha... Út, mày đứng đó. Bắt quả tang đồ ăn trộm, thấy chưa?

   Út quát lên:

   - Của Cách mạng đó, chú lấy chú chết!

   Lão Sáu rụt tay như phỏng lửa, ngó Út trân trân. Út đang bậm môi, trợn mắt, coi dữ quá. Nó nói thiệt chớ không chơi. Mới mười bốn tuổi, mặt bấm ra sữa, dám theo Việt cộng à? Chôn mìn hay lựu đạn đây? Lão thấy rờn rợn, nhưng vẫn nạt ra oai:

   - Của ai thì của, tao giải về hội đồng cái đã. Đứng yên, hễ chạy tao bắn chết. Cha chả, dám xưng cộng sản nữa chớ!

   - Tôi nói chú biết, chú bắt tôi thì chú đứt cái đầu.

   Lão Sáu đứng phắt dậy, ngó quanh nhớn nhác, cởi súng ra cầm tay. Rõ ràng Việt cộng về làng rồi. Về ban ngày hẳn hoi như vậy chắc phải đông. Phần lão bị Việt cộng đuổi chạy một lần đứt hơi văng đạn rớt mũ, lão khiếp lắm.

   Thấy lão đứng tần ngần, Út bước đến moi đất, rút lên một cái hộp nhôm tròn, loại hộp sữa bột. Út mở hộp lấy ra một cuộn giấy, giơ lên nói dằn giọng:

   - Truyền đơn đây nè. Truyền đơn Cách mạng đây nè. Chú có giỏi cứ bắt tôi về hội đồng đi, tối nay Cách mạng họ vây cả làng, họ bắt chú ra chặt cái đầu vầy nè.

   - Úi mẹ!

   - Chú về không được nói với ai, nghe chưa?

   - Nghe rồi... Vậy chớ mày... mày gặp ai?

   - Không biết.

   - Có bộ đội không?

   - Chu chao, bộ đội thì cả trăm cả ngàn. Thôi chú đi ra ngoài. Chú ra đi!

   Lão Sáu ngập ngừng xách súng, quay lui.

   Tới thằng con nít cũng theo Việt cộng, thì cả làng theo hết còn gì nữa. Lão không sợ gì thằng Út mà sợ cái số trăm số ngàn ở đâu trong bóng tối đằng sau lưng nó. Trứng gà không nở riêng một con, mà nở cả ổ một lần. Đâu cũng nghe Việt cộng nổi dậy, đánh quốc gia chạy re có khói có ngời, đi tới đâu dân theo tới đó. Dân vệ chín trăm bạc lương chớ mấy, mà có ngày chết không kịp ngáp... Lão lạnh toát cả người, đầu gối nhủn ra. Chung quanh cái làng này chắc Việt cộng cũng nằm chật rồi, họ cho thằng Út đi dò tin tức, rồi họ đổ ra vây làng, nắm đầu hết ba đứa dân vệ. Chao ôi! Phải như có giấy tờ gì của họ, đưa ra nói ngọt chắc họ không giết đâu. Ừ, chỉ cần một tờ truyền đơn bỏ sẵn trong mình, một tờ thôi...

   Lão dừng một phút, mồ hôi đổ lấm tấm trên trán. Rồi lão đút cây súng vào bụi, hớt hải luồn trở lại chỗ Út, bước như chạy. Chết, nó đi đâu rồi, nó núp đâu rồi? Lão nghe tiếng sột soạt phía tay trái, vội rúc miết về phía đó, suýt đâm sầm vào Út đang tìm chỗ chôn cái hộp. Lão ngửa bàn tay, vừa thở vừa nói lập cập:

   - Út à cho... cho chú xin một tờ truyền đơn. Chú xin một tờ thôi. Em ưng ăn mía cứ mặc sức bẻ ăn, hay để chú lựa cây ngon cho. Nè, tờ xấu xấu cũng được em à.

6-1962


Tiêu đề: Re: Về làng (Tập truyện ngắn) - Phan Tứ
Gửi bởi: hoi_ls trong 01 Tháng Giêng, 2010, 01:48:37 pm
LỬA ĐÊM

   Bác Tám Sành nằm nửa mê nửa tỉnh trên phản. Tiếng thình thịch từ dưới đất dội lên rõ dần, to dần, nghe âm nặng và lộn xộn. Bác nghĩ chập chờn: “Sấm đất đâu trên nguồn... Nhà nào giã gạo. Không, ai đào cái gì, đông người. Nó bắt đào mương ban đêm nữa sao? Hay bà con tưởng mình chết, đào hố chôn?”. Bác mở mắt chỉ thấy tối đen, hơi hoảng. “Mình mù rồi à? Sao mau vậy?”. Bác gượng kêu ú ớ. Bác gái đang ngồi ngủ gật trên chõng, giật mình đứng dậy khêu đèn, hỏi dồn:

   - Ba nó khỏe chưa? Uống nước không? Dậy ăn miếng cháo hử?

   - Đỡ rồi... Đào cái gì?

   Bác gái ngơ ngác tưởng chồng nói sảng:

   - Gì đâu. Ba nó đang đào mương bị cảm nắng, họ khiêng vô bóng cây, vắt nước rau má đổ không tỉnh. Sợ quá chừng là sợ, không biết... Đang khi không ba nó ngã ngửa ra, sùi bọt mép coi dữ dằn... Vậy mà ông trung úy còn nói ba nó giả bộ chớ cảm kiếc gì...

   Thấy vợ bắt đầu mếu máo, bác Tám gắt khàn khàn:

   - Tao đã chết đâu mà khóc kể? Hỏi ai đào gì bịch bịch vậy?

   Bác gái ngó ra cửa, rồi đến ngồi bên chồng thì thào:

   - Cách mạng đó. Họ về chụp đầu hết ban trị sự ấp. Rồi họp dân lại biểu vạch tội. Đồng bào cứ xói vô ông ấp trưởng nói lu bù, khiếp quá. Bắt lão đó đem đi mất rồi, cũng đáng đời. Bây giờ đang lấp mương phá rào.

   - Ai phá?

   - Dân chớ ai. Mệt đừ cả ngày, vậy chớ sợ oai Cách mạng cũng đi hết. Ba nó mệt nghe chi chuyện đó. Súc miệng rồi ráng ăn miếng cháo hành cho ra mồ hôi hử?

   Bác Tám bật “hứ” một tiếng trong mũi, không rõ ra gắt vợ hay muốn nói gì. Bác to khỏe, đen thui, tóc lốm đốm tiêu muối, râu cằm râu mép nhổ trụi cho gọn, cả ngày cạy răng không ra được một tiếng cười, ngó mặt bác lì lì đố ai đoán ra bác đang vui hay buồn, đang nghĩ gì trong óc. Vợ bác sợ bác như hùm tuy chưa lần nào bác đánh vợ cả, chỉ vì người non nghĩ hay sợ người cả nghĩ.

   Bác lim dim mắt nằm một lát, rồi chống tay ngồi dậy:

   - Má nó pha bát nước. Đưa tao cái rựa.

   - Ba nó đi đâu. Nằm liệt giường từ chiều tới giờ rồi.

   - Tôi trình với mấy ông Cách mạng, họ nói đau cứ ở nhà...

   - Cãi ngang à?

   Bác gái nín thinh ngay, nhưng cũng không đi lấy rựa, chỉ ngồi xuống chân cột kể lể, sụt sịt. Bác Tám uống một hơi cạn bát nước, đứng lên, lại lảo đảo ngồi xuống phản. Chân tay bác rã rời nhấc không nổi, trong đầu bác một hòn cân lăn qua lăn lại, ngọn đèn nổ ra thành vô số đốm vàng xoay lộn. Mới một buổi cảm nắng mà bác kiệt sức vậy sao, mọi ngày bác vẫn nổi tiếng lực điền, gánh lúa gãy đòn càn, cày ngã vài đôi trâu là thường. Bác níu cái nẹp phên, đứng dậy được. Bác bước tới bếp rút cái rựa, tiện tay bốc một củ gừng, cắn nửa củ nhai giập rồi ngậm trong miệng cho ấm. Thấy bác đẩy cửa ra đi, bác gái vừa thút thít vừa chạy theo quàng vội cái khăn rằn vào cổ chồng, nhét hộp dầu cù là vào túi chồng, cằn nhằn mấy câu nữa, nghe chồng “hừ” một tiếng lại im, đứng trong cửa lau mắt.

   Gió đêm từ trên nền trời đầy sao quạt thông thốc xuống mặt bác Tám. Bác tỉnh người dần, đầu nhẹ hơn. Tiếng cuốc lấp mương nổi to hẳn, tới lấp vây khắp chung quanh bác, thêm tiếng chặt tre chan chát, tiếng kéo gai sồn sột, mới nghe tưởng chừng địch vẫn ốp dân xây ấp chiến lược cả đêm khuya. Ngày làm đêm phá. Ban ngày ồn hơn vì thêm bọn lính hò hét, chó sủa gà kêu, ô tô rồ máy đi về. Giờ đây chỉ có tiếng cuốc rựa dồn dập, nhanh gấp đôi gấp ba cái nhịp điệu xây ấp ban ngày.

   - Ai? Đứng lại!

   Bác Tám chưa kịp trả lời, một bóng người đã nhô trước mặt. Mũi súng đen hạ xuống:

   - Ủa, ba! Đau không nằm, ra đây làm gì?

   - Cái thằng, làm tao hoảng hồn. Ra coi bộ đội chút.

   - Hồi nãy hốt cũng gọn ba à. Bọ đội đang phá đường sắt dưới kia. Mai đánh gắt đó.

   Thằng con bác cười hề hề, xin bác điếu thuốc, rồi lại kẹp súng đi tuần. Nó ở đội Thanh niên diệt Cộng, lại là du kích bí mật của Cách mạng lâu nay. Bác Tám cũng được gặp cán bộ vài lần, còn vợ bác phải để ngoài không cho biết gì hết vì nhát gan như thỏ, nhằm chừng địch đánh ba roi là nhớ gì khai nấy ráo.

   Bác Tám dò dẫm đi ra lớp công sự ngoài. Dãy bụi tre rậm quanh làng đã bị chặt trụi đem rào ấp, chỉ còn mớ gốc thấp và những cây măng nhu nhú nép vào bên các thân dừa như khiếp sợ. Những bóng đen vác tre gánh chông chạy qua lại trên đường ruộng, kêu nho nhỏ: “Né ra, tránh, chông đây... coi chừng đụng tre”. Bác lội hẳn xuống ruộng tránh người. Chân bác đạp lên một bụi lúa còn đứng, bác vội rụt lại, quờ hai ngón chân kẹp gốc lúa kéo dựng lên. Rồi bác chợt nhớ ra tất cả ruộng lúa mé trong rào đã bị xéo nát hết rồi còn đâu. Bụng bác nổi cồn cào, bác đi vội tới chỗ ruộng mình.

   Suốt bốn ngày qua địch kéo về hai đại đội và bắt đầu toàn xã trên ba ngàn người tới xây ấp chiến lược Đồng Dừa. Mẫu hai lúa của bác Tám đang phơi đòng bị lớp rào ngoài xén mất hai sào, cái mương thứ nhất nuốt thêm ba  sào nữa, rồi lớp rào thứ hai mới chớm dựng lên đã ngoạm gần hết sào rưỡi. Thằng ấp trưởng còn bắt dân vót thêm chông để cắm xuống cái mương thứ hai sắp đào, mỗi cử tri thêm một ngàn chông loại ba gang tay, ngày làm công sự đêm vót chông cho kịp. Nếu không phá ấp thì non nửa số ruộng của bác còn lại sẽ mất trụi, mùa này bác sạch vốn trắng tay, và các mùa sau chưa biết mướn đâu ra ruộng mà cấy, đến hột lúa nhổ râu cũng phải đi mót ruộng người.

   Ban ngày chính bác đào cái mương rộng năm thước Tây trên ruộng mình. Mỗi nhát cuốc vập xuống bụi lúa như một nhát dao băm trên thân bác. Bác thấy dân làng đang tự tay đan cái rọ khổng lồ để rúc vào trong cho địch giam đói. Bác thấy bác đang đào hố chôn mình, chôn vợ con mình. Ruộng gần phá nát, ruộng xa bỏ trắng thì lấy gì mà ăn mà hòng sống. Có lúc bác chống cuốc đứng ngây ra, tưởng mình chiêm bao, ai đời tay mình cày cấy rồi tay mình chém cây lúa măng tơ như vậy.

   Thằng ấp trưởng cầm cái roi gõ trên nón bác: “Nè, muốn đi học lớp ù lì hả?”. Bác lại cúi mặt bổ từng nhát cuốc nặng nề giết lúa. Bốn thằng Mỹ tới chụp ảnh, lay từng cây cọc, suỵt chó cho rúc thử qua rào, bắt nhổ mấy chục ngàn chông cắm lại cho đúng kiểu. Bác nổi điên muốn bửa một đai cuốc trên những cái mặt lông lá nhăn nhở kia, nhưng nén lại được không làm liều, chỉ vừa cuốc vừa rủa thầm cho đỡ tức: “Tao đào mả cha mày lên đây Mỹ nè. Tao rạch mặt mẹ mày nè, tới đây mà chụp...”. Ngay các ông già đầu trắng như thúng bông cũng chưa hề nghe nói tới thứ giặc nào phá hại như Mỹ - Diệm bây giờ. Hồi kháng chiến Tây nó đóng đồn kia, tới mùa cho xe cóc đi xéo lúa, nhưng bộ đội với du kích đánh, dân gặt đêm, mười phần còn thu được sáu bảy. Bọn Mỹ - Diệm cũng giữ y cái đồn cũ, chỉ bớt đi một lá cờ tam tài còn lại cờ ba que, nó không thèm phá từng mùa lúa nhốt từng người dân nữa, mà bắt dân phá hẳn ruộng cho hết tiệt chỗ cấy trồng, tháo đòn tay nhà làm rào nhất cả mấy ngàn dân, tàn ngược đến vậy là cùng.


Tiêu đề: Re: Về làng (Tập truyện ngắn) - Phan Tứ
Gửi bởi: hoi_ls trong 01 Tháng Giêng, 2010, 01:51:02 pm
   Ruộng bác đây rồi. Khúc mương bác đào giờ bà con đã lấp gần xong, ném gai tre gai dứa xuống phủ đất lại, còn chông thì nhổ cho du kích đi cắm chống càn. Mấy chục người đang bổ cuốc hối hả trên nền đất xám. Một mảng sẫm màu còn lại chỗ góc bờ kia. Những cây lúa sống sót vẫn nghiêng thân phơi đòng trong ánh sao trắng bạc, gặp gió vẫn nổi cái tiếng lào xào quen tai và thân thiết để mừng bác Tám tới thăm. Bác ngồi xuống đất đưa tay mơn những ngọn lúa tội nghiệp cho lá cọ vào tay ngưa ngứa, như vuốt tóc bầy trẻ mồ côi. Mới cách bốn ngày đồng lúa còn trải rộng dưới nắng, chiều chiều hương lúa tỏa nồng vào xóm như nhà ai nấu xôi mới…

   Một tiếng “pắc” trên đồn. Đốm lửa đỏ lừ bay vút lên, thả rơi sau đuôi những chấm lả tả, bùng ra thành cái đèn dù sáng chói mắt, lắc lư soi xuống. Trên mặt ruộng hiện rõ những khúc rào nhổ chưa xong còn khấp khểnh như hàm răng rụng dở, những đống tre dựng to sù. Bác Tám nằm nép vào bờ ruộng, nín thở đợi đạn đại liên bay veo vèo trên đầu hay những quả cối rít dài đâm bổ xuống. Cái đèn dù hạ thấp, ngả sang màu vàng, lụi dần. Không có gì cả. Chúng nó ngủ gật, hay người lính gác nào đó trông thấy mà không muốn báo động. Cảnh chợ đêm không đèn lại diễn ra, rộn rịp hơn, gấp hơn. Tiếng cuốc lấp mương bật rào rào như hàng trăm quả tim cùng đập vội sau mấy phút nguy hiểm. Một bóng đen xắn quần quá gối để lộ hai chân trắng lốp đến lay vai bác Tám, hổn hển nói giọng con gái:

   - Nè, thanh niên ra đây ngồi à. Lại nhổ giùm khúc rào chút, chôn sâu quá đi.

   Con nhỏ lầm bác với người khác. Bác lẳng lặng cầm rựa đến chỗ rào. Chân tay bác đã chắc lại gần như lúc thường, chỉ còn đầu bác choáng váng và hâm hấp sốt. Khúc rào này giao cho thanh nữ phá, thêm mấy cậu du kích đi cắm chông về thấy họ phá chậm cũng sà vào giúp, súng đeo trên lưng. Những câu ghẹo câu đáp thì thào bay qua lại, bên nữ ỷ đông nên nói táo tợn, dồn cho bên nam đuối dần.

   - Lính Lệ Xuân vụng òm, được cái đánh mõ la làng là giỏi. Cách mạng vô đập mõ, còn cầm đũa bếp gõ cột nhà...

   - Tết mới đi lính cho nó. Còn hơn Thanh niên cộng hòa xếp hàng chào cái đáy quần ba sọc của con đĩ Lệ Xuân.

   - À, à, gớm cái miệng...

   - Hát nữa chớ. Nè: “Toàn dân biết ơn Ngô tổng rống! Tổng rống! Tổng rống!”. Hí hí hí.

   - Hồi chiều chính tay các mụ rào chỗ này. Ăn cây nào rào cây đó, chổng mông lên chôn rào giờ nhổ không lên...

   Các cô ồ ạt đập lại không kịp thở:

   - Ăn gì? Ăn roi ba cạnh, uống nước ớt nước vôi.

   - Chớ không ăn lương diệt Cộng tháng ba trăm như các anh còn nói điệu bắn súng cho quận ném lựu đạn cho xã.

   - Thanh niên các anh không có Cách mạng về thì bỏ chó chê. Phải lập công chuộc tội nghe chưa? Dạ đi!

   - Anh Quỳ đó hả? Bọn tôi cấm con Thìn không được nhận đơn anh rồi đó. Bắn chết ba thằng địch mới cho nộp miếng trầu đi hỏi. Giết một Mỹ mới cho cưới.

   - Thôi thôi tôi lạy các mụ. Bớt cái miệng lại, nó động cho ít chục bắp chuối bây giờ.

   Bác Tám không nói gì. Đám trẻ lúc nào cũng cười giỡn được, còn bác chẳng bụng dạ đâu mà đùa. Bác lay những đoạn tre rào dài bơn năm thước nguyên cây, nhổ bật lên, vác dựng thành đống. Mười lăm đồng bạc một cây tre chạy rụng tóc mới mua được vài chục tre làm nhà, mà nó đếm từng bụi tre ghi sổ rồi bắt chặt nộp hết, thiếu gì dỡ đòn tay tháo kèo nhà bù thêm cho đủ số. Bây giờ lại phải cố đốt cho sạch, nghĩ đã ngược đời chưa!

   Bác lay một cây tre tới chục lần, nhổ không lên. Bác để đó, luồn tay kéo cây khác. Cũng vậy. Bác sực nhớ khúc rào này gần cổng, thằng ấp trưởng bắt chôn cái loại tre chứa mấy khúc nhánh dưới gốc như ngạnh lưỡi câu. Bác nghiến răng bạnh quai hàm, lay mạnh hơn, rồi đu hẳn mình lên cây tre, đánh vật nó như với thằng địch lì lợm, quật đổ nó xuống. Cây tre ngã nạy lên một mảng đất to, bác thấy đau nhói một cái trong mình, chỗ nào không biết.

   Lứa trẻ mới lớn lên họ chưa bén rễ vào đất quê hương cho mấy, không phải như lớp già đã thuộc hết từng gốc mít, từng mảnh ruộng. Đất Đồng Dừa này nuôi bảy đời nhà bác Tám Sành rồi đây, từ thuở ông tiền hiền tới vỡ ruộng khai mương đến nay kể đã dư hai trăm năm. Đất nuôi người và người giữ đất, đuổi giặc to giặc nhỏ không nhớ bao nhiêu lần. Bác bước mỗi bước là giẫm trên vết chân của tổ tiên đã sống trước bác, mồ mả còn xếp dãy ngoài kia. Bác lớn lên, mồ hôi nước mắt rưới xuống đất ngày một nhiều. Tới hồi kháng chiến, bác gặt đêm trúng đạn bị thương, máu chảy trên ruộng lúa, rồi tiếp tới thằng Cả nhà bác hi sinh trong chống càn, đất lại ngấm thêm ít nhiều máu mủ của bác. Một ngày nào đó bác sẽ nhận phần vài thước đất cuối cùng, nằm xuống cho đất ấp ủ, nhường chỗ cắm lúa lại cho con cháu giữ lấy mà kiếm miếng ăn. Trăm ngàn sợi dây thương yêu như vậy níu bác Tám vào quê cha đất tổ. Đất đã thành một phần da thịt của bác. Bác đau cái đau của đất Đồng Dừa bị cào xé, những cọc tre có ngạnh móc xuống đất kia là những lưỡi câu của địch móc vào mình bác... Những ý nghĩ ấy thoảng rời rạc trong đầu bác Tám không rõ nét, chỉ gộp lại thành một nỗi uất ức dồn ứ trong ngực bác cồm cộm khó thở, mỗi lúc một sôi lên. Bác đã say như con nhà võ uống rượu mã tiền, không biết mệt nữa. Bác xô ngã từng hai ba cây rào một lần. Một mũi chông ở chân rào nhổ còn sót chợt cứa vào bắp chân bác chảy máu, bác túm lấy nó bẻ vụn.

   Đám thanh nữ bật lên nói xì xào, ngồi bệt xuống đất kéo ống quần lau mặt, thở phì phò:

   - Xong rồi bà con. Về các chị, mai còn lên đồn. Hai tay muốn rụng, con mắt cứ đòi sập cửa xuống.

   - Mệt mệt đừ, vậy mà thiệt sướng chị em hè!

   - Xì, con gái nói vô duyên...

   Mấy cậu du kích lấy rựa chẻ tre khô làm củi mồi, tiếp tục gây chiến:

   - Giao cho giống cái ở lại đốt hử?

   - À thanh niên mất tinh thần. Chị em tôi xung phong nhận liền. Đưa súng đây!

   - Còn lâu. Mai bọn này đánh long trời lở đất, mời quốc gia ăn kẹo đồng. Hễ đoàn quân búi tóc không dám đấu tranh thì...

   - Thì các anh ra níu kéo lính đồn được không? Phụ nữ đánh giặc được, biểu tình được, binh vận được. Thanh niên chỉ được cái vác súng đi nghêu ngao. Thua chưa, ê ê thua chưa?

   Các cô cười khúc khích, đi lượm hết những nắm chông bỏ rải rác xếp vào thúng đem về cắm thêm ngoài đường lớn. Anh em du kích vác đến những bó rơm khô sửa soạn đốt. Hết việc rồi. Bác Tám nhập vào đám đông, lầm lũi đi vào làng theo con đường ruộng trắng mờ, giẫm trên những đoạn mương đã lấp đất lổn nhổn. Đèn trong nhà bác còn cháy leo lét. Chắc vợ bác ngủ rồi, bốn ngày phơi nắng xây ấp đến sức bác còn đuối nữa là đàn bà. Bác đứng nán lại chỗ ngõ nhìn ra đồng, đợi nổi lửa.

   Tiếng loa đột ngột dội lên. Bác Tám nhận ra giọng anh Sảng người cùng xóm, tuy anh cố rặn ra giọng nói ồm ồm, nhân danh bộ đội giải phóng cấm đồng bào không được ra chữa cháy. Ngoài ruộng, mười bốn cái bật lửa cùng xòe một lần: Lửa bén rơm khô cháy lem lém, bốc rất mau. Mười bốn đống rào tre khô lẫn tre tươi, mỗi đống to bằng năm sáu cây rơm gộp lại, chỉ trong một phút đã cháy rừng rực. Bác Tám ngoảnh cổ vào nhà hét vợ:

   - Dậy báo động mau lên. Xách mõ xuống hầm mà đánh.

   Tre bắt đầu nổ, ban đầu từng tiếng lẻ tẻ, về sau dồn dập túi bụi như một trận đánh lớn dùng toàn súng trường và lựu đạn. Những bó đuốc khổng lồ bốc luồng lửa lên cao hơn hai ngọn tre, cột khói xoáy tròn thành cây nấm cao bốn năm chục thước, tàn lửa lấp lánh trong ánh đỏ bay thốc lên trời, đổ về phía đồn. Cánh đồng rộng không bị mấy lớp rào chắn ngang nữa bật sáng màu xanh tươi như phơi dưới nắng, trong khi trời đêm vẫn giăng màn đen kịt: một cảnh bình minh kỳ lạ. Bóng cây chạy dài trên mặt ruộng, quẫy như rắn. Những mái tóc dừa cau trên đầu bác Tám cũng chói rực lên, xao động. Tiếng chó sủa lạc giọng, gà tưởng mặt trời mọc nổi lên gáy, tiếng mõ nổi rân ran trong các thôn, tất cả bị chìm lấp trong tiếng tre nổ mỗi lúc một dữ dội. Bác Tám ngây người ra. Chưa bao giờ bác thấy cảnh gì hùng vĩ đến vậy. Chưa bao giờ bác sướng đến vậy. Bác muốn reo muốn hét muốn nhảy lên, muốn chạy ra tắm ánh lửa đốt rào, nhưng chỉ đứng cười lặng lẽ. Tiêu ấp chiến lược rồi. Tháo cũi sổ lồng rồi. Đố mày trói voi bỏ rọ được Mỹ - Diệm ơi!

   Các mái nhà lợp tôn trên đồn hiện ra trắng lấp lánh. Bác Tám không nghe tiếng súng máy nổ, chỉ thấy những đường lửa tua tủa vọt xuống chân đồn. Súng cối nữa. Tắc tắc pình pình, đạn bùng trắng lóa phía bên kia đồn, chỗ sườn đồi khuất tối. Ra nó sợ Quân giải phóng đánh đồn, đốt rào cho sáng dễ bắn. Các đồn xa cũng bắt đầu rống ằng ặc. Một vầng sáng đỏ lừ vừa nổi lên phía xã dưới. Mé sau dẫy đồi, một quầng sáng nữa hưng hửng. Vậy ta đốt khắp nơi à? Bác Tám bật cười ra tiếng. Ánh lửa soi rõ nụ cười trên khuôn mặt khắc khổ, lâu lắm bác mới được một lần cười vui. Chung quanh bác, vô số mặt trời nhỏ đang mọc trong đêm đen của miền Nam trước khi rạng đông bùng lên hẳn.

   Bác Tám chợt nghe một tiếng xé vải đâu đó. Chớp lòe trước mắt bác, đất nảy mạnh hất bác ngã nhào. Chúng nó bắn vào làng sáu quả cối 81 liên tiếp rồi ngừng. Bà con xúm khiêng bác vào nhà. Anh y tá của bộ đội giải phóng tới băng hai vết thương nhẹ trên vai và đùi bác, hẹn đến sáng sẽ cho khiêng về bệnh xá huyện.

   Vợ bác lại ngồi bên giường kể lể suốt nửa giờ liền:

   - Đau ốm không chịu phận đau ốm còn ra chỗ bom đạn, trời ơi là trời! Tánh nết gì tức ói vậy chớ, chẳng đời nào nghe ai một câu. Qua được lần này nữa tôi mới nói cho, cứ làm hùng làm hổ một mình rồi hết bệnh đến bị thương, để khổ cho vợ con…

   Bác Tám từ nãy vẫn mở mắt nằm im, nghĩ cái gì lung lắm, khuôn mặt lì lì không động, chỉ một mạch máu đập nhấp nhô chỗ mang tai, dưới mái tóc hoa râm. Đến giờ bác quay đầu nhìn vợ, “hừ” một tiếng trọng mũi. Vợ bác im xo lảng đi. Bác gọi con trai tới dặn:

   - Mày báo cáo với các ảnh, đừng đem tao về bệnh xá, tốn cơm tốn thuốc Cách mạng. Mai sớm mày kêu đồng bào xúm khiêng tao xuống đồn bắt nó bồi thường, cùng lắm cũng bắt nó chữa. Nó không nhận cũng cứ ném ào tao lại đó, chớ dại khiêng về nghe. Còn gì nữa cứ để tao đối đáp với nó cho. Tháo hết băng bó của anh em ra cho khỏi lộ.

   Thấy vợ lau mắt xì mũi liên tiếp, bác lại gắt:

   - Lè nhè hoài, tao còn sống đã đòi làm đám hả? Cái quân giặc chỉ có đập vô mặt nó, bộ khóc lóc mà nó thương mình sao… Hừ, mạng tao dai như đỉa, bao nhiêu thứ giặc tao còn qua được, dễ gì bọn nó ăn được tao mà khóc!

8-1962



Tiêu đề: Re: Về làng (Tập truyện ngắn) - Phan Tứ
Gửi bởi: hoi_ls trong 01 Tháng Giêng, 2010, 01:54:12 pm
HAI ANH EM

   Đến bốn giờ sáng cái lô cốt cố thủ ở góc đồn vẫn quét đại liên ra, từng chùm đạn lằng nhằng vạch những nan quạt lửa xòe rộng trên đầu xung kích. Những bóng mũ chỏm tròn nhô lên lại thụp xuống, đạn tốc tốc cào đất rạch tường vôi sát bên cạnh. Tiếng loa binh vận bị súng địch cắt vụn : “Anh em binh sĩĩĩ… súng xuống ra hàng sẽ…. chỉ huy ngoan cố…”. Nhiều người gọi hối hả trong các góc tối:

   - Tập trung lựu đạn mau. Chậm như rùa!

   - Báo cáo, trung liên bị nghẹt.

   - Cam đâu? Đồng chí Cam!

   Cam nhổm đít, xách khẩu Lơben dài thòng chạy tới chỗ tiểu đội trưởng Lục. Một loạt tiểu liên rắc rắc vãi tới. Lục túm vai Cam kéo ngã sấp xuống, vừa kịp tránh đạn. Cả tiểu đội dồn sau bức tường gạch, thở hồng hộc.

   - Dại quá, sao không bò thấp xuống?

   - Dạ tôi quên.

   - Mìn nổ thì xung phong liền, Cam hử.

   - Dạ.

   - Rõ, chứ dạ cái gì.

   - Rõ.

   Cam vừa thở vừa lắp thêm đạn vào súng, sờ ngón tay xem đầu nòng có bị nhét đất không, rồi bò ra góc tường chọn chỗ nằm bắn. Cam mới ở vùng sâu lên chiến khu vào Quân giải phóng được hai tháng, không ngờ đánh nhau lần đầu lại gặp một trận công đồn lớn thế này. Lúc mới vào bố trí ngoài rào thép gai, trống ngực Cam đập dữ, đến nỗi Lục phải vỗ lưng nói nhỏ: “Đừng sợ, dũng cảm lên em”. Thực tình Cam không sợ chết, chỉ hồi hộp ngứa ngáy thế nào, bụng mót đái, tay chân cứ giậm giựt, thỉnh thoảng rùng mình một cái. Quả bộc phá đầu tiên nổ xong Cam trở lại bình tĩnh ngay, cứ bám theo Lục, anh nằm bắn thì Cam nằm bắn, anh xung phong thì Cam chạy theo cái bóng mũ sùm sụp cài mẩu vỏ cây mục lập lòe đằng trước là tránh được chông, thép gai, đạn địch đạn ta bắn xối xả.

   Một vầng trắng lóa bùng lên, đất quẫy dưới ngực Cam, tiếng nổ muốn bưng cái đầu, mấy mảnh đá vụn quất trên vai Cam xé toang một mảnh áo lụa. Anh Lục hét, nghe tiếng nhỏ tí:

   - Xung phooong!

   Cam xách súng chồm lên trong khói, tai ù loạn xạ như cả bầy ong rúc vào trong. Mấy cái bóng lảo đảo đi ra, giơ hai tay. Cam co tay trái định cho một đấm, nhưng nén được, chỉ chửi: “Mẹ cha ba thằng ngoan cố.” Tiếng Lục reo hò trong lô cốt:

   - Thằng Mỹ chết nhăn răng bay ơi! Sĩ quan nó dồn cục trong này, hèn gì không chịu hàng ngay.

   Bốn người túm bốn góc tấm vải bạt khiêng ra khỏi lô cốt một cái xác. Trong ánh sáng đùng đục như nước gạo, Cam thấy một thằng Mỹ cởi trần, mặc quần sáu túi, đi chân không, nằm ngoẹo đầu. Cam nhìn rướn theo, trong cái tò mò còn điểm một chút sợ sệt từ dưới vùng địch mang lên chưa gột hết. “À, lông xoắn nó mọc đen thui cả ngực cả bụng. Nó nằm trông ngắn hơn khi nó đứng”. Cam nghỉ qua loa vậy rồi đi coi cái đồn mới làm chủ, quên khuấy luôn thằng Mỹ đã chống cự đến cùng. Cam qua lại lăng xăng, cười hì hì một mình, tống một báng súng giữa cái mặt thằng Diệm lồng kính, nhảy lên ô tô ngồi chỗ lái nhún mấy cái, xỏ chân vào đôi giày da kéo lệt sệt vài bước rồi bĩu môi đá vung mỗi nơi một chiếc. Lục ở đâu nhô ra, cau mày:

   - Đừng lấy tầm bậy, kỷ luật chiến lợi phẩm đâu? Cầm cây garăng với nịt đạn đây, bỏ khẩu sào vịt vô đống cho dân công mang đi. Ưng bụng chưa hả chú em?

   Cam chụp lấy khẩu trường Mỹ tự động như sợ ai giành mất. Đang lúi húi thắt nịt đạn vào mình, Cam nghe gọi nhỏ:

   - Anh Tý!

   Cam sửng sốt quay lại. Ai kêu đúng tên Cam ở nhà mà giọng thật quen. Anh em Giải phóng vẫn qua lại nhốn nháo, có ai đâu. Cái nịt đạn rộng quá, phải rút bớt vài nấc đã... Cam cúi xuống sửa nịt, lại nghe:

   - Em ở đây nè, anh!

   Sau cái xe commăngca có tiếng sột soạt. Một cái đầu bù thò ra, tới một cổ áo xanh xám vấy máu. Cam lên đạn một tiếng xoảng, chĩa súng nạt:

   - A, thằng này núp chống cự. Ra hàng mau! Lì sớm chưa!

   - Dạ em ra, em ra.

   - Em em gì, đồ ngoan cố!

   - Lạy anh đừng bắn. Khoan! Sửu đây, anh đừng bắn.

   - Ủa, thằng Sửu!

   Tên lính cộng hòa đứng trước mặt Cam, máu mũi chảy nhỏ giọt xuống ngực, hai tay lẩy bẩy cố giơ thật cao như tập thể dục, chính là thằng Sửu em ruột Cam. Khi ở nhà ai cũng nói hai anh em giống nhau như lột, cũng thân hình gầy dong dỏng, đôi tai xòe to, cái mũi hếch, như cùng đúc một khuôn. Các ông già bà lão gọi lầm hai đứa với nhau mãi...

   Sửu trố mắt nhìn anh nó đội mũ vải chỏm tròn, mặc bộ bà ba đen rách hở vai, đeo cái nịt đạn Mỹ rộng quá thòng gần đến háng, đang đứng sững chĩa súng vào ngực nó, lắp bắp:

   - Mày... mày bị thương à?

   - Dạ không. Bị hơi nổ tức ngực sơ sơ.

   - Ngồi xuống đó. À khoan, để tao trói đã.

   Sửu co ro ngồi xuống góc cột, đưa ống tay áo quệt máu mũi, rồi gục mặt khóc òa lên, hai vai rung mạnh theo tiếng nấc. Đang tháo cuộn dây dừa, Cam ngừng tay chớp chớp mắt, gắt:

   - Khóc cái gì, im, làm như đòi mẹ vậy nữa! Sao bây giờ mới ra?

   - Dạ... khi nãy tối quá... em... em sợ các ảnh bắn lầm.

   - Biểu đừng khóc mà lại! Ra chỗ tù binh kia, nghe giải thích rồi thả cho về, không đánh không giết đâu mà sợ. Nè, ba má ra sao?

   - Họ bắt dỡ nhà vô ấp chiến lược gần chợ rồi anh à. Anh đi được hai ngày, họ đưa giấy...

   - Thôi, để đó đã.

   Cam bối rối bỏ đi nơi khác, tay vẫn nắm một đầu dây kéo lòng thòng sau lưng mà không biết. Lúc này không tiện nói nhiều. Một đằng nó là tù binh không thể chuyện trò vui vẻ được, một đằng nó lại là em mình. Cam hiểu bụng nó lắm, nhưng dịu ngọt thì khó coi, trói nó lại không nỡ, thôi để anh em khác nói chuyện với nó. Tay Cam khuân từng thùng đạn từng bó súng mà bụng nghĩ linh tinh chẳng ra đầu ra đũa gì, khi thấy nực cười, khi lại nao nao muốn chảy nước mắt. Đáng lẽ Tý và Sửu cùng phải đi quân dịch một lần, nhưng gia đình giằng co kêu xin hoãn dịch, sau xã bắt hai đứa phải đi một, đứa nào tùy ý Sửu chịu đi, để anh ở nhà tìm liên lạc với Cách mạng rồi cùng trốn. Cam bắt mối được gửi mấy lá thư báo nhà cháy, ba sắp chết, má ốm nặng nhưng mãi không thấy em trả lời. Để lâu sợ lộ, nhân gặp chuyến rút thanh niên Cam phải nhảy trước. Ai ngờ hôm nay em cầm súng bắn anh, anh bắt trói em như vầy. Mặt Cam bốc nóng hừng hực. Phải lúc đang xung phong thì cứ báng súng bửa đầu bọn chỉ huy ác ôn. Bây giờ Cam chỉ biết chửi một câu quen miệng: “Mẹ cha cái bọn ngoan cố!”.

   Cam giở gói cơm nắm ăn vài miếng đỡ đói, bỗng đứng ngây ra: “Thằng Sửu có bắn anh em mình không hè? Hai người hi sinh, năm sáu người trúng đạn bị thương nặng nhẹ khi đánh đồn, có viên đạn nào của thằng Sửu không? Phải hỏi cho ra lẽ. Nếu nó bắn thì... thì...”. Cam nuốt vội miếng cơm, xăm xăm đi ra khỏi kho đạn. Rồi đột ngột tất cả những buồn giận thương tủi cùng đổ dồn đến một lần, mắt Cam ướt nhòa không thấy gì nữa. Cam bước nép vào bên cửa nhà kho vắng, khóc thút thít một hồi mới nhẹ người, cố khóc thật khẽ để anh em qua lại không nghe tiếng.

   Đợi hai mắt ráo hẳn, Cam mới trở lại chỗ nhà chứa xe. Sửu còn ngồi yên dựa cột nhìn anh em Giải phóng đang hì hục lắp cái lốp mới vào xe commăngca, như đứa trẻ ưa coi người lớn làm việc. Cam phát cáu:

   - Sửu, ra tập trung với tù binh mau. Nói không nghe hả, có phải ở nhà đâu mà... Đi đi!

   Sửu ngẩng đầu, máu khô dính loang lổ trên cái má tròn. Nó rụt rè:

   - Anh cho em theo với. Em thưa với cấp chỉ huy rồi.

   - Gì nữa?

   Sửu nói hấp tấp như sợ bị lôi đi nửa chừng:

   - Anh cho em theo Cộng... theo Cách mạng với. Em theo liền, đi đánh giặc lập tức đây nè. Cực lắm, nhục nhã lắm, anh không tin nữa thì em liều mạng, anh bắn thì bắn. Bao lần tìm đường nhảy, mà không nhảy được. Mà cũng tại anh nữa chớ, hẹn bắt liên lạc rồi đi với nhau, anh lại không đợi. Anh lo được phần anh, anh bỏ anh đi một mình…

   - Tại mày còn đổ tại ai? Tao viết bốn lá thư liền, bày đặt đủ chuyện để mày đòi về phép sao mày không về? Đúng địa chỉ mày KBC 4352, quân số mày 297.508 chớ trật à?

   Sửu cũng nổi nóng cự lại:

   - Thì nó có phát thư cho đâu. Xé đốt sạch trơn từ trên sư đoàn. Phải như anh chịu khó tới tận nơi mà nói, hay tìm người gởi thơ tay thì đến nỗi gì?

   Cam ngớ ra, không cãi được nữa. Tiểu đội trưởng Lục đến sau Cam lúc nào, cất giọng ồm ồm:

   - À, thằng nhỏ xin vô Giải phóng còn đây. Đồng chí Cam quen nó à?

   - Thằng Sửu đó anh à, thằng em tôi kể chuyện bữa trước đó.

   - Ủa... mà thiệt, hai đứa ngó như đẻ sanh đôi. Khi nãy đại đội hỏi kỹ rồi, đợi thử trên quyết định ra sao. Dẫn nó ra rửa mặt đi, nhớ giáo dục chút hử.

   


Tiêu đề: Re: Về làng (Tập truyện ngắn) - Phan Tứ
Gửi bởi: hoi_ls trong 01 Tháng Giêng, 2010, 01:55:28 pm
Cam xách súng dẫn em ra thùng nước sau bếp, cởi bọc đeo lưng lấy cho nó cái sơmi vải rằn ở nhà mang theo hồi trước hai đứa vẫn mặc chung. Cam định hỏi xem cô Liễu xóm trên đã nhận trầu cau nhà ai chưa, nhưng thấy không phải lúc nên quay sang kể cho Sửu nghe chuyện mình. Chợt nhớ ra, Cam nghiêm giọng hỏi:

   - Hồi đêm mày có bắn không?

   - Có.

   - Sao lại bắn hử? Bắn trúng ai?

   - Em gác xe, đang ngồi ngủ thì nghe một cái rầm ngoài rào. Em rúc xuống dưới xe nằm một chặp rồi mới nhớ, em bắn hai phát vô bánh xe cho xì hết hơi. Sợ thằng Mỹ lên xe chạy mất uổng. Khi nãy em báo cáo, ông chỉ huy của anh vô coi lốp xe, tháo khẩu garăng ra đếm đạn nữa, ông gật đầu ừ ừ trong miệng.

   - À, ra vậy. Cũng khá.

   Cam hí hửng như chính mình đã bày cho em phá xe Mỹ. Vậy chắc ăn quá rồi, anh em nhất định được ở chung đơn vị. Cam dặn nhỏ em:

   - Anh Lục giỏi lắm, hay thương bọn trẻ mình. Có điều mày ở với tao phải giữ gìn, đừng kêu Cách mạng là Cộng sản cộng phỉ, Mỹ - Diệm là quốc gia, anh em người ta cười. Mà ai dặn cái gì cũng đừng dạ, cứ “rõ” một tiếng thiệt to hử. Mày “rõ” thử tao nghe... ừ, vậy đó. Chải đầu cho gọn cái đã.

   Cam hăm hở dẫn em vào sân đồn, coi như một chiến sĩ mới trong tiểu đội rồi. Tiểu đội trưởng Lục đứng đợi sẵn một tay cầm bao gạo nhỏ, tay kia xách khẩu cácbin. Cam mở to mắt, nghĩ: “Chà, sang quá, thằng Sửu được phát cácbin kia à. Các ảnh thương nó nhỏ...”. Lục khịt mũi lúng túng, khoác dây súng lên vai mình, nói mấy câu khiến Cam ngẩn người:

   - Nè em nhớ... trước sau gì em cũng theo đằng mình, đừng ngại hử. Trên giải quyết bây giờ em đi học đã. Không, không, không phải cái kiểu học tố Cộng đâu, việc gì xanh mặt đi vậy. Học vài ngày cho biết địch biết ta rồi mới làm Cách mạng được chớ. Còn bốn năm người xin nhập ngũ như em cũng cho đi học hết, xong rồi ai muốn về thì về, ai theo Cách mạng thì giả đò giữ lại điều tra thêm. Làm vậy nó khỏi khủng bố gia đình, em hiểu chưa? Thôi, gạo đây, lấy gói áo quần rồi ra trước cổng, họ đang đợi kìa.

   Sửu không nói gì, xách bao gạo và ôm gói áo quần lủi thủi đến chỗ hơn trăm tù binh đang xếp hàng trên góc sân bay. Cam đứng sững nhìn theo em. Nắng sớm chiếu le lói trên lưng nó, nó mặc sơmi trông càng mảnh khảnh, nhỏ hẳn lại. Nó mới mười tám tuổi đầu...

   Một chiếc bà già quần vè vè xuống thấp dần, nghiêng nghé dòm, sắp gọi tới cả bầy khu trục và ném bom. Sáu khẩu 105 ly nổ ì ùm suốt đêm, ngừng vài tiếng lúc mờ sáng, giờ lại giã gần hơn, dựng những cột khói trắng bên cạnh những đống lửa đốt rào ấp chiến lược còn cháy rần rật dưới xóm. Chiếc xe commăngca và ba chiếc GMC chở súng đạn giấy tờ chất đống, lắc lư nghiến bẹp những chai lọ và thùng rỗng vất ngổn ngang trên sân đồn, bóp còi pin pin bò ra cổng.

   Cam đứng né sang bên rào cho xe đi, tiện tay bẻ mấy cành lá ngụy trang thêm, rồi lẳng lặng bước theo tiểu đội trưởng Lục xuống đường lớn tập hợp. Phải đi đánh viện gấp, nó lên ba tiểu đoàn, mấy chục thằng Mỹ chỉ huy, có thể thêm một tiểu đoàn đổ bộ bằng trực thăng. Hôm nay Cam chiến đấu không có Sửu. Mai kia nó sẽ vác súng đi bên Cam, nhưng giờ đây em Cam còn là tù binh, là thằng lính địch bị ta bắt sống sau trận công đồn ác liệt... Cam vững hơn rồi, không chảy nước mắt nữa, nhưng trong tim Cam vẫn rơi rơi hoài những giọt chì nấu lỏng. Ai gói đứa em tội nghiệp của Cam vào bộ áo quần Mỹ; bắt nó bắn lại Cam? Mỹ, Mỹ nữa, đâu cũng Mỹ, cái gì cũng Mỹ trong cái đồn ghê tởm này. Một tấm lưới Mỹ đang bọc kín anh em Cam suốt bảy tám năm nay, cuốn dần vào chỗ chết. Cam thoát ra ngoài, nay đến em Cam lọt lưới theo, còn bao nhiêu bạn cùng lứa tuổi với anh em Cam đang giãy giụa trong đó! Bao nhiêu người đau khổ vì đế quốc Mỹ trên trái đất này đang lắng nghe tiếng súng thắng trận của Cách mạng miền Nam ta!

   Trong một loáng Cam vụt cảm thấy hết sự hung ác của bọn đế quốc giấu tay lẩn mặt. Những bài học và những chuyện mắt thấy tai nghe về đế quốc Mỹ đột ngột ngấm sâu vào lòng Cam cùng một lần sau cuộc gặp gỡ éo le sáng nay, cũng như một ánh chớp trong đêm vừa soi bật lên bộ mặt trừng trợn của con cọp tô vẽ trước cổng đình mà hằng ngày Cam chăn trâu thường nhìn nhưng chưa xem kỹ. Cam sẽ bắn nát đầu con cọp Mỹ. Cam còn lờ mờ thấy thêm rằng mười mấy phát súng đầu tiên trong đời Cam nổ vào kẻ thù đêm qua còn mang những ý nghĩa nào đó rất cao rất đẹp mà bây giờ Cam chưa hiểu hết nhưng chắc chắn ngày sau Cam sẽ hiểu dần, khi tay đã chai và tuổi đã chín trong chiến đấu.

   Đầu ngửng cao trong ánh nắng, đôi mắt nghiêm và nặng trĩu suy nghĩ, Cam vác súng đi theo tiểu đội trưởng Lục về phía quân địch mạnh gấp mười lần đang ồ ạt tràn tới.

9 - 1972





Hết