Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Tài liệu - Hồi ký Việt Nam => Tác giả chủ đề:: chuongxedap trong 04 Tháng Mười Hai, 2009, 06:12:15 pm



Tiêu đề: Chỉ có một Nguyễn Sơn - Vị lưỡng tướng quốc
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Mười Hai, 2009, 06:12:15 pm

(https://www.quansuvn.net/index.php?action=dlattach;topic=31677.0;attach=23399;image)

Tên sách: Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc
Tác giả: Hà Anh
Nhà xuất bản: Thanh Hoá
Năm xuất bản: 2006
Số hoá: ptlinh, chuongxedap
 

LỜI CỦA ĐẠI TƯỚNG VÕ NGUYÊN GIÁP
NGUYÊN TỔNG TƯ LỆNH QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM
VỀ TƯỚNG NGUYỄN SƠN



Anh Nguyễn Sơn lúc 16 tuổi đã tham gia phong trào Thanh niên cách mạng đồng minh hội và được vinh hạnh học tập tại trường Võ bị Hoàng Phố nổi tiếng của Trung Quốc. Khi anh về nước thì quân Pháp đã xâm lược miền Nam nước ta. Trong cuộc họp, Bác Hồ, anh Trường Chinh và tôi yêu cầu anh Nguyễn Sơn vào Nam phụ trách Ủy ban kháng chiến miền Nam Việt Nam (nơi diễn ra chiến sự ác liệt giữa ta và địch). Đây là một chức vụ cực kỳ quan trọng thể hiện lòng tin của Đảng và Chính phủ đối với anh.

Anh Nguyễn Sơn là tướng lĩnh có công với quân đội ta. Đặc biệt anh đã từng tham gia cuộc chiến tranh cách mạng lâu dài ở Trung Quốc. Anh là vị tướng nước ngoài duy nhất của Hồng Quân Trung Hoa. Các đồng chí láng giềng khi nhắc đến anh đều có một tình cảm tôn trọng và sâu nặng. Năm 1993, tôi sang thăm Trung Quốc đã gặp vợ con anh Sơn, tôi rất vui và yên lòng khi thấy những đứa con bên đó cũng như những đứa con bên này đều đã thực hiện được những điều mà cha anh mong đợi, cần cù phấn đấu, học tập và công tác với tinh thần lạc quan.

Tướng Nguyễn Sơn là một chiến sĩ cộng sản của Trung Quốc và Việt Nam, là người có khí phách dũng cảm, cũng là một vị tướng tài không chỉ ở lĩnh vực quân sự mà còn ở các lĩnh vực văn hoá nghệ thuật. Anh luôn rất coi trọng đào tạo cán bộ. Trong phong trào luyện quân tại Quân khu 4 anh đã rất thành công khi đưa ra một hình thức huấn luyện “Đại hội Tập” được Bộ quốc phòng áp dụng trong toàn quân và nhân dân.

Có thể nói Cách mạng tháng Tám vừa mới thành công, cách mạng Trung Hoa còn chưa giành được thắng lợi, Đảng và nhân dân ta đã phát huy tinh thần tự lực cánh sinh, độc lập tự chủ, kiên quyết đấu tranh bảo vệ chính quyền non trẻ trong điều kiện bị bao vây đầy khó khăn phức tạp. Dưới sự lãnh đạo của Bác Hồ và Đảng toàn dân đoàn kết xây dựng lực lượng chính trị, vũ trang, xây dựng từ dân quân đến sư đoàn chủ lực đầu tiên. Chúng ta đã nêu cao tinh thần tự lực tự cường, đã đứng vững và lớn mạnh, đặt nền móng vững chãi cho việc tiếp thu và sử dụng có hiệu quả sự viện trợ hết lòng của các nước anh em, đặc biệt là Trung Quốc.

Năm 1949 có một tài liệu của Pháp công bố, Pháp đã buộc phải thừa nhận: “Dùng lực lượng quân sự không thể thắng nổi Việt Minh”.

Anh Sơn về nước giữa những ngày khó khăn đó. Trong các cuộc thảo luận anh đã đưa nhiều ý kiến sâu sắc về bồi dưỡng cán bộ tác chiến, xây dựng bộ đội chủ lực, đặc biệt là xây dựng lực lượng dân quân. Anh phát biểu sôi nổi đã thu hút được sự chú ý của mọi người. Trong quan hệ bạn bè anh tôn trọng đồng chí, đồng đội. Anh thường tâm sự với mọi người thâu đêm, suối sáng làm cho ai cũng có cảm giác thoải mái và quyến rũ.

Sau khi công hiến hết mình cho miền Nam, mùa hè năm 1950 anh đã nhận công tác của Bác Hồ để đi Bắc Kinh. Trong thời gian kháng Mỹ viện Triều anh đã mang bệnh nặng. Mặc dù đã được nhà nước Trung Quốc hết lòng cứu chữa thậm chí gửi sổ y bạ đi hội chẩn ở Liên Xô nhưng bệnh tình anh không thể qua nổi. Đảng đã đón anh về nước để chữa bệnh theo yêu cầu của anh. Anh đã từ trần trong niềm thương tiếc vô hạn của người thân, bạn bè, chiến sỹ trên mảnh đất quê hương mình.

Mặc dù mất sớm nhưng anh đã để lại hình ảnh của một người cộng sản suốt đời cung cúc tận tuỵ cho sự nghiệp cách mạng nước ta và nước bạn. Hình ảnh một đồng chí - một người bạn chiến đấu thân thiết hết sức chân thành vẫn sáng chói. Anh mãi mãi được ghi nhớ trong trang sử cách mạng Việt Nam và khắc sâu trong mỗi trái tim chúng ta.
 
Hà Nội, tháng 06 năm 2000
Đại tướng Võ Nguyễn Giáp ký



Trích lời đề tựa của Đại Tướng đã viết cho cuốn “Nguyễn Sơn vị tướng huyền thoại” của Minh Quang - tháng 6/2000. Nhà xuất bản trẻ - 161B Lý Chiến Thắng TPHCM


Tiêu đề: Re: Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Mười Hai, 2009, 09:34:36 pm

LỜI TÁC GIẢ VÀ BẠN BÈ
cùng là sinh viên thuộc trường Võ bị I Nguyễn Sơn
(Trường Lục Quân Trung học Quảng Ngãi 1946)


Tướng Nguyễn Sơn sinh năm 1908 tên thật là Vũ Nguyên Bắc quê tại thôn Kiêu Kỵ huyện Gia Lâm ngoại thành Hà Nội (nơi đây có nghề sơn mài dát vàng). Sau 23 năm chiến đấu trong quân đội Hồng quân Trung Hoa, ông đã tham gia nhiều trận đánh chống quân Quốc dân đảng của Tưởng Giới Thạch. Năm 28 tuổi ông đã là Sư đoàn trưởng lại là dân biểu Quốc hội qua 2 nhiệm kỳ. Khi quân Pháp có dã tâm chiếm Nam Bộ để thôn tính Việt Nam lần thứ 2 ông được Mao chủ tịch chấp thuận về nước nhà tham gia chống ngoại xâm.

Đầu tháng 1/1946 Bác Hồ phong Nguyễn Sơn là Chủ tịch Ủy ban kháng chiến miền Nam Việt Nam. Ông đến Quảng Ngãi rồi lập tức lên đóng đại bản doanh tại An Khê.

Tôi cũng là người đầu tiên lên mặt trận An Khê phụ trách về quân giới tại mặt trận An Khê. Tôi lại có may mắn được gặp gỡ và nói chuyện với ông tại bờ suối An Khê. Ông cũng là trí thức tiểu tư sản, tôi cũng thế nên hai người dễ thông cảm nhau. Ông đã cho tôi biết về hoàn cảnh gia đình của ông ở Việt Nam và bên Trung Quốc.

Sau khi chỉ đạo các lực lượng chiến đấu tại An Khê phần đất gần quân khu 15. Ông lập giới tuyến phòng ngự chống địch bung ra từ Buôn Ma Thuột, ông dời đại bản doanh về Bồng Sơn. Ông dành thời gian vào mặt trận Khánh Hoà, Phan Rang để ổn định chiến trường quân khu 6. Khi trở về ông lại dời đại bản doanh về Quảng Ngãi và xúc tiến việc thành lập trường Lục quân Trung học Quảng Ngãi với nhận xét quân đội ta lúc ấy rất non kém và thiếu nhiều cán bộ có năng lực chỉ huy trong chiến đấu nên vì thế phải có trường đào tạo cấp tốc. Tôi cũng đã đăng ký và thi đậu vào học trường này, có thể nói tôi có nửa năm làm việc dưới quyền Tướng Nguyễn Sơn cộng với thời gian học trường lục quân là một năm.

Rất nhiều sách nói về Nguyễn Sơn đúng cũng có, sai cũng có. Ở đây tôi xin được tổng hợp cuộc đời và sự nghiệp của ông qua con mắt nhận xét của một sinh viên là học trò của ông cùng với sự tham khảo của các bạn đồng học, chúng tôi nhận thấy trình độ có hạn chưa nói lên được tất cả những điểm ưu việt qua 30 chục năm chinh chiến đã rèn luyện ông thành con người thép với ý chí tấn công quyết chiến quyết thắng, không lùi bước trước kẻ địch, ông lại còn muốn lời văn, câu thơ, khúc nhạc, tiếng ca phải vang lên theo những bước chiến sĩ tiến lên tiêu diệt quân thù. Ông là nhà hùng biện, nhà thơ, nhà văn, soạn giả kiêm kịch sĩ nổi tiếng của ban kịch đầu tiên nước Cộng hoà nhân dân Trung Quốc. Do lối sống hài hoà nhiều khi hài hước dí dỏm đã thuyết phục một số lớn văn nghệ sĩ, số học giả có tiếng trong nước, những người thuộc chế độ cũ kể cả những sĩ quan phát xít và ngoại quốc cùng theo ông làm cách mạng.

Học trò của Thầy thành đạt rất nhiều, cán bộ tại các trường Võ bị I, Võ bị II, Trường quân chính đại đội, các lớp Trung đoàn, trường Thiếu sinh quân và trường Văn học kể ra có trên 5000 học viên trong vòng năm năm khi thầy hoạt động tại Việt Nam. Riêng các sinh viên trường Võ bị I khi nhập học có 480 sinh viên, đợt đầu loại 50 sinh viên do trình độ kém, sức khoẻ kém, hoặc thiếu kỷ luật. Đợt cuối 430 sinh viên được phân công hoạt động về các đơn vị ở ba miền đất nước.

Sau 30 năm kháng chiến thành công các sinh viên Võ bị I họp mặt chỉ còn 120 người (bảo vệ Thủ đô 40 sinh viên hy sinh). Trên 300 sinh viên đã được phủ quốc kỳ trên thân xác họ tại các chiến dịch Đông Xuân, Biên giới, Thượng Lào, Khe Sanh, Quảng Trị, Khánh Hoà, Đồng Tháp Mười, Trường Sơn, Điện Biên Phủ v.v...

Trong vinh quang cũng có những đau xót. Trong cuộc trường kỳ kháng chiến gian khổ chống Pháp, chống Mỹ sự hy sinh tính mạng của cải là đương nhiên. Đa số sinh viên chúng tôi nằm trong thành phần địa chủ, tiểu tư sản, trí thức nên qua những đợt chỉnh phong, chỉnh đảng, cải cách ruộng đất một số cũng bị lao đao dao động nhưng cuối cùng đều khắc phục khó khăn noi gương thầy đeo đuổi kháng chiến đến ngày thành công.

Số sinh viên thành đạt có thể kể ra: Trung tướng Phan Quang Tiệp và trên 20 Thiếu tướng như Hồ Đệ, Lê Văn Kiện, Hồ Quang Hóa, Vũ Hắc Thông, Tống Trần Thuật, Lê Trung Ngôn, Dương Bá Nuôi, Y Block,... và trên 50 chục Đại tá. Ngoài ra, có 3 Đại sứ: Nguyễn Khắc Huỳnh, Tô Anh, Vũ Hắc Bồng, Nhà văn dã sử nổi tiếng Thái Vũ, hoạ sĩ Vũ Anh, v. v...

Về phía trường Thiếu sinh quân và các lớp văn hoá khác đều cũng có những người đã thành đạt làm: Bộ trưởng, Ủy viên Trung ương, Tiến sĩ, Bác sĩ, Kỹ sư... chúng tôi mong rằng các bạn ở thế hệ sau tìm hiểu và noi gương chiến đấu của Thầy về mọi lĩnh vực.

Tôi nghĩ không những Thầy đã củng cố các Quân khu 4, 5, 6, 15 trở nên vững mạnh mà theo tôi công lớn nhất của Thầy lại là thực hiện nhiệm vụ do Bác Hồ giao cho khi qua Trung Quốc liên lạc mật thiết với các lãnh tụ để nhận được sự yểm trợ tối đa về vũ khí, về hóa chất... kể cả công lao của đoàn Cố vấn Trung Quốc sang giúp đỡ Việt Nam tận tình. Đây cũng là bằng chứng hùng hồn đánh bật những luận điệu cho là thầy Sơn qua Trung Quốc vì bất mãn địa vị.

Trong lần kỷ niệm 50 năm ngày thành lập trường Lục quân trung học Quảng Ngãi, thiếu tướng Lê Văn Kiện, Tư lệnh Tăng, Thiết Giáp là sinh viên Đại đội 1 đã đại diện cho toàn trường làm 2 câu đối mô tả tình quân dân cá nước. Ông trân trọng tặng Bí thư tỉnh ủy Quảng Ngãi Đỗ Minh Toại để tỏ sự biết ơn Tỉnh ủy, Ủy ban, Mặt trận Tổ quốc cùng các đoàn thể và nhân dân đã giúp mọi phương diện cho trường Lục quân.

“Quảng Ngãi dựng xây công đức lớn
Lục quân nhớ mãi cội nguồn xưa”.


Đồng chí Toại đã cho khắc hai câu thơ lên bia kỷ niệm của nhà trường. Khi tướng Nguyễn Sơn qua Trung Quốc đại tướng Võ Nguyên Giáp đã chúc ông “Mã đáo công thành” trong công cuộc kháng Mỹ viện Triều. Quả thật ông đã đem chuông đi đánh xứ người như đại tướng mong muốn. Khi rời Liên khu tư bao nhiêu văn nghệ sĩ và đồng bào tiễn đưa ông. Họ đã khóc trong niềm thương nhớ kính mến. Phải chăng đấy là “triệu bất tường”.

Sau cái chết còn son trẻ của ông, bà Trần Kiếm Qua và bà Lê Hằng Huân đã gặp nhiều cực khổ trong vấn đề nuôi con khôn lớn thành tài. Khi đại tá Chúc, sĩ quan dưới quyền ông, đã đến thăm gia đình bà, ông đã phải khóc vì thấy những đứa con bé tí chập chững đã sớm mất cha. Theo di chúc của ông, bà Huân đã trao số tiền chính phủ Trung Quốc trao tặng Nguyễn Sơn tặng lại nhà nước Việt Nam.

Đấy gia đình Tướng Nguyễn Sơn đã thừa hưởng cung cách con người của Nguyễn Sơn là thế, là thẳng thắn, kiên cường, không vụ lợi, không khuất phục, không dua nịnh, cương quyết, tự lực, dũng cảm vượt qua các trở ngại của cuộc sống, tranh đấu cho hoà bình, cho tự do và công bằng, bác ái của nhân loại như ông. Ngay như các cán bộ văn nghệ dưới quyền cũng noi theo ông không khuất phục trước cường quyền, không bị lôi cuốn trước sự sai trái, sống trong sạch đúng lương tâm con người.

Giờ đây tượng Thầy đã có chỗ trong hội khoa học lịch sử Việt Nam. Tại núi Hồng Lĩnh nhân dân đã lập đền thờ thầy quanh năm khói hương nghi ngút. Chính phủ 2 nước Trung - Việt nhất là Chủ tịch Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai, Diệp Kiếm Anh, Chu Đức... và các vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta như: Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Lê Đức Anh, Trần Đức Lương, Võ Văn Kiệt, Nông Đức Mạnh khi viếng thăm Trung Quốc đã ưu ái chú ý đến gia đình hai bên. Các vị đã thăm viếng và tạo điều kiện để các vợ con Thầy được sum họp trong tình hữu nghị Trung - Việt bền vững. Vong hồn thầy chắc đã hài lòng vì mong ước về gia đình của thầy đã đạt được. Các con cháu Thầy ở Trung Quốc như: Hàn Phong đã trưởng thành là một học giả có tiếng vang được báo chí Trung Quốc khen ngợi. Tiểu Việt cũng là một Tổng giám đốc của Công ty liên doanh với Việt Nam. Tại nước nhà các con như: Thanh Hà, Nguyễn Cương đều là Trung tá và cũng là Giám đốc công ty liên doanh Hồng Đạt hoạt động giữa 2 nước Trung Việt và Châu Á. Cô Mai Lâm sống theo gương bố năm xưa cũng xông vào chiến trường miền Nam với tiếng hát của mình thúc dục miền Nam chiến thắng. Các cháu Vũ Tuấn là giáo sư, Vũ Kỳ Lân là nhà văn, Vũ Ký, cục trưởng trong Bộ Ngoại giao Việt Nam. Nói chung con cháu của thầy đều là những người thành đạt trong cuộc sống tự lập, họ tự đi lên bằng hai chân họ. Họ đang dắt tay nhau, hiên ngang đi trên hai con đường thênh thang có tên Nguyễn Sơn tại Thủ đô Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.

Đây chỉ là những mẩu chuyện nhỏ gợi nhớ đầy tình cảm thương mến đối với Thầy, nó chưa có thể là tác phẩm diễn tả đúng mức cuộc sống oai hùng của Thầy tại hai nước. Vì trình độ có hạn, tôi không đủ lời để nhận xét đánh giá và phê phán thầy tôi: một vị tướng có trình độ rất cao, chỉ có cấp trên của ông mới đánh giá đúng. Tôi mong những bạn là học trò của Thầy, những vị là bạn của ông, những nhà Khoa học, Nhà Văn hóa Nghệ thuật sẽ góp nhiều ý hay, tư liệu chính xác để tác phẩm viết về cuộc đời và sự nghiệp tướng Nguyễn Sơn khi tái bản được hoàn chỉnh hơn.

Xin trân trọng cám ơn quí vị, quí bạn.


Hà Anh (Nguyễn Quốc Tài)
Sinh viên số 229 - Trung đội 2 - Đại đội 3
Trường Võ bị I (Lục quân Trung học Quảng Ngãi)


Tiêu đề: Re: Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Mười Hai, 2009, 09:36:44 pm

Ý KIẾN CỦA BAN ĐẠI DIỆN TOÀN QUỐC,
BAN ĐẠI DIỆN PHÍA BẮC, PHÍA NAM CỦA TRUỜNG VÕ BỊ I (LỤC QUÂN TRUNG HỌC QUẢNG NGÃI) CÙNG MỘT SỐ SINH VIÊN


1- Thiếu tướng Hồ Đệ nguyên phụ trách Tiểu đoàn pháo binh 954/E34 chiến đấu tại chiến trường Điện Biên Phủ sau là Tham mưu trưởng Quân đoàn III. Ông là sinh viên Đại đội 3 làm Đại diện ban liên lạc toàn quốc của trường.

… Thầy Sơn đã để lại cho sinh viên chúng ta một kho kinh điển về quân sự, chính trị, văn hoá. Từ phép luyện quân, nuôi quân đến cầm quân... thầy trao cho chúng ta những căn bản về phát triển quân đội và văn hóa nghệ thuật. Những tư tưởng đi trước đã làm Quân khu 4 nổi tiếng một thời về mọi mặt.

Thầy để lại cho chúng ta một gương sáng về chiến sĩ quốc tế phục vụ vô tư cho nhân loại: cương quyết, kiên trì chiến đấu dũng cảm bất kỳ nơi nào có bọn đế quốc xâm lăng. Tuy nhiên, thầy rất mềm dẻo đối xử với mọi tầng lớp dân chúng và cán bộ các cấp. Thời gian dài tuy chiến đấu tại nước ngoài thầy vẫn luôn nghĩ phải làm gì cho tổ quốc của thầy. Quả đúng là tư tưởng của vô sản quốc tế. Sự cống hiến của thầy rất to lớn với hai dân tộc. Thầy là tượng trưng sự thắt chặt bền chắc tình hữu nghị giữa hai nước Trung Quốc và Việt Nam. Chúng tôi sung sướng được là học trò của thầy và cũng ngậm ngùi tiếc thương khi sức thầy còn có thể làm được nhiều nữa...


2- Đại tá Trần Đình Mai nguyên Vụ trưởng vụ I Tổng cục Mỏ địa chất (sinh viên đại đội 3).

… Thiếu tướng Nguyễn Sơn vị tướng đa tài huyền thoại như gần đây nhiều sách đã viết. Cũng như hàng trăm đồng môn khác chúng tôi thật vinh hạnh có được một người thầy, một biểu tượng tài năng ngời sáng: Trí, Dũng quả đoán, tình huynh đệ chan hoà, bình dị hiếm có. Thầy mất đi đã để lại vốn quý về quân sự, chính trị văn hoá nghệ thuật và chúng ta cũng mất đi một nhân tài hết lòng vì quốc tế vô sản và vì sự tồn vong của đất nước Việt Nam.

Sinh viên Hà Anh thuộc Đại đội 3 đã có may mắn sống bên thầy từ khi thầy nhận chức chủ tịch Uỷ ban kháng chiến miền Nam Việt Nam trong một năm. Với hai năm sưu tầm, anh đã đi từ nam ra bắc hay miền trung và cao nguyên, những nơi có dấu vết tướng Nguyễn Sơn đã hoạt động để lượm nhặt những tư liệu về một người thầy và cũng là một vị tướng lỗi lạc, oai hùng. Có những chuyện anh đã làm chúng ta xúc động khi tưởng nhớ tới thầy và các bạn đồng môn đã hy sinh làm rạng rỡ trường Lục quân trung học Quảng Ngãi nay là Võ bị I.


3- Thiếu tướng Võ Hắc Thông đại diện Ban liên lạc trường Lục quân trung học (nhóm A miền Bắc) là sinh viên Đại đội II của nhà trường. Ông đã phụ trách tổng kết chiến tranh của Cục Dân quân Bộ quốc phòng:

… Tôi là một trong số mười sinh viên được nhà trường chọn để đi theo thầy Sơn ra miền Bắc lập trường Võ bị II. Sau hôm khai giảng với trên 300 sinh viên, tối hôm ấy thầy Sơn triệu tập những sinh viên có giấy giới thiệu về sinh hoạt Đảng đều được mời đến họp tại văn phòng của thầy. Riêng nhóm sinh viên trường Võ bị Trần Quốc Tuấn thì chưa ai là đảng viên cả.

Ngồi trên chiếc chiếu dưới ngọn đèn dầu, thầy Sơn nhắc lại cương lĩnh của Đảng và năm bước công tác. Việc này chứng tỏ thầy rất chú trọng việc tổ chức và phát triển Đảng trong nhà trường. Một chuyện gây ấn tượng cho chúng tôi là thầy đã kể những sự gian khổ mà thầy đã trải qua trong cuộc vạn lý trường chinh để tiến lên phía Bắc lập căn cứ địa. Suốt dọc đường chống máy bay địch truy kích, chống đói, rét, bệnh tật với tinh thần sắt đá chiến đấu cho giai cấp vô sản, thầy đã chiến thắng trong chiến đấu góp phần quan trọng cho công cuộc thành công của cách mạng nước bạn. Những hình ảnh ấy đã động viên chúng tôi khi về công tác tại vòng đai thủ đô trong buổi đầu gặp nhiều khó khăn gian khổ nhưng chúng tôi đã vượt qua được. Có thể nói công tác tổ chức Đảng đối với thầy rất quan trọng. Trong khóa đó các sinh viên chúng tôi đã cố gắng tuyên truyền vận động và hai tháng sau chúng tôi đã phát triển được trên 50 chục đảng viên...

… Bằng việc làm trong những hành động cụ thể, bằng lý luận chuyên sâu, bằng lời nói có sức thuyết phục lòng người, bằng kho kinh nghiệm tích lũy nhiều năm trong sách vở và thực tế tại các chiến trường, với nguồn vốn dồi dào và nhiều khía cạnh phong phú trên mọi lĩnh vực với cuộc sống đầy sóng gió, trắc trở, oan trái trong cách mạng và đời thường đã hun đúc nên một vị tướng vừa kiên nghị, cứng rắn, vừa mềm dẻo đầy tình đồng chí, đồng đội, tình người đã cảm hoá cán bộ, chiến sĩ, nhân dân trong cuộc kháng chiến trường kỳ.

Một vị tướng văn võ song toàn mà sinh viên Hà Anh mô tả như là một thiên tài. Tôi cho là không quá đáng và đây có thể là bài học cho những thế hệ sau này noi theo.


4- Thiếu tướng Hồ Quang Hóa sinh viên Đại đội II trong Ban đại diện trường LQTH (nhóm C tại phía Nam). Ông cũng là sĩ quan đã lấy khẩu cung đầu tiên của tù binh là Thiếu tướng Đe Castrie tư lệnh tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ của Pháp.

… Nguyễn Sơn là một vị tướng khẳng khái dũng mãnh, oai phong nhưng rất chan hoà với cán bộ dưới quyền và dân chúng. Giới Văn nghệ sĩ rất thích ông vì lòng rộng rãi thương yêu giúp đỡ họ. Ông cũng là người sâu sắc, luôn có tư tưởng đúng đắn trong các môn thi ca, kịch nghệ, văn chương. Tôi đã đọc bản thảo của Hà Anh cũng là học trò thầy Sơn đã được sống gần thầy từ mặt trận An Khê, Hà Anh đã có một phần nào hiểu biết hơn các bạn khác. Việc người ta đồn thầy nhiều vợ, theo tôi thầy không phải là người đèo bồng, nhăng nhít. Các vợ đến với thầy đều có khoảng cách hợp lý, cho phép thầy có vợ nữa.

Thầy là người rất thương vợ, thương con không kể cả bên Tàu hay bên ta. Thầy chỉ có 5 năm để chỉ huy quân đội phía Nam trong hoàn cảnh khốc liệt với hai bàn tay trắng thầy đã tạo một đội ngũ cán bộ tin cẩn có trình độ dũng cảm quyết theo thầy ra sức chiến đấu xây dựng quân đội.

Năm năm đầy trí tuệ và mồ hôi thầy đã làm cho các quân khu 4, 5, 6, 15 từ yếu ớt trở nên vững mạnh. Thầy chú tâm dốc toàn lực đào tạo lực lượng dân quân các quân khu để có trình độ tự chiến đấu mặt đối mặt với quân thù. Thầy đã tạo một hậu bị quân với hậu cần dồi dào tiếp ứng cho các đơn vị trực chiến tại quân khu 4 về quân trang, quân lương, quân dụng, vũ khí...

Như Hà Anh nhận xét: du kích chiến là phương pháp tối ưu của các nước yếu chống đế quốc xâm lược cho nên thầy Sơn chú trọng rất nhiều về đào luyện dân quân. Cuộc đời thầy đầy lửa và ánh sáng để các sĩ quan noi theo trên đường xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Chúng ta phải coi đây là “tinh thần Nguyễn Sơn”. Tinh thần sắt đá khắc phục mọi gian khổ khó khăn quyết vươn lên tới đích công cuộc giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.


Tiêu đề: Re: Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Mười Hai, 2009, 10:22:18 pm

Vào truyện...


1

Nắng chiều đỏ rực làm nổi bật dãy núi xanh thẫm bao bọc chung quanh đồi An Khê… Từ phía tây nam có bóng ngựa đang phi từ xa xuống thung lũng. Bụi đất cuồn cuộn ở phía sau lưng. Nguyễn Sơn từ trên lầu đi xuống, với một sĩ quan Nhật. Trong lúc đó hết giờ làm việc ba chúng tôi ngồi chơi trên ghế xi măng đặt hai bên cửa toà lầu. Thỉnh thoảng chúng tôi nghe những loạt súng văng vẳng từ rừng xa vọng về. Ông Sơn tay cầm ống nhòm vừa ra giữa sân thì người phi ngựa đã dừng trước mặt ông cách ba thước. Người cưỡi ngựa đứng nghiêm và giơ tay chào:

- Tôi, Nam Long1, trung đoàn trưởng trung đoàn tiền tuyến xin báo cáo: Trung đoàn đã nhận được tin từ mặt trận cho biết, địch đã lọt vào vòng phục kích của ta tại Bô Keo, quân ta đã tiêu diệt 2 xe tăng địch. Trước hỏa lực trây đơ2 và “Ép em” 3 của ta bắn dữ dội, địch đã quay xe chạy thoát. Ta lấy được 4 khẩu súng máy liên thanh gắn trên xe4, 2 súng lục, 2 thông sông5, 4 tên chết, 2 tên chạy thoát vào rừng. Hết!!

- Lực lượng chúng bao nhiêu? - Tướng Nguyễn Sơn hỏi.

- Khoảng hơn Trung đội, 2 xe tăng bị cháy, 2 xe “đốt” chở lính quay đầu chạy. - Trung đoàn trưởng Nam Long trả lời.

Với giọng sang sảng, tướng Nguyễn Sơn nói tiếp:

- Phải cảnh giác đề phòng, không phải chúng chạy luôn đâu. Chúng sẽ quay trở lại với lực lượng lớn hơn. Đồng chí hãy tổ chức ngay mạng lưới trinh sát cách mặt trận 2 cây số để nắm địch tình đồng thời tổ chức thông tin về chỉ huy sở. Tăng cường thêm chướng ngại vật đốn một số cây cho đổ ngang đường. Đồng chí thông báo khẩn cấp vào 12 giờ trưa mai, các cán bộ đại đội về họp tại đây! Đồng chí rõ chưa?

- Rõ! Tuân lệnh!


Lúc ấy hơn 5 giờ rưỡi. Chúng tôi, nhìn cảnh núi rừng lần đầu tiên mới được thấy. Khi mục kích những việc xảy ra trước mặt chúng tôi ngắm ông Long, thân hình vạm vỡ, hơi lùn. Ông đội mũ nỉ to vành, bên mũ cắm một lông ngỗng dài. Trên vai ông có một hàng đạn nhỏ dài kéo xuống thắt lưng xệ bên phải với bao da đựng cây côn đui6. Vòng dây dù cột liền với súng được luồn qua cầu vai tạo thành một kiểu trang trí đẹp mắt. Trông ông Long giống những chàng trai “cô bồi” 7 Chicagô trong phim găng-tơ8 thường chiếu tại các rạp chiếu bóng lúc bấy giờ.

Khi ông Long đi khuất vào cánh rừng. Nguyễn Sơn còn nói với sĩ quan Nhật này vài câu sau đó cùng đi thẳng đến mép rừng.

Ánh chiều mờ dần và tối hẳn. Chúng tôi bước vào nhà thì mâm cơm đã dọn sẵn ở nhà sau. Chiều nay thầy Tố đi công tác nên còn lại 3 chúng tôi bên mâm cơm.

Hồi sáng, thầy Tố có dặn chúng tôi đừng gọi bằng “thầy” nữa vì đi làm cách mạng, đi kháng chiến ở chung với đồng đội chúng ta chỉ xưng hô là đồng chí mà thôi.

Chúng tôi ngạc nhiên sao lại có 2 lính Nhật trong quân đội cách mạng. Sau những lần gặp ông Sơn ở dưới thung lũng sau nhà lầu, ông đã kể: khi tôi được Bác Hồ giao trọng trách chỉ huy kháng chiến tại miền Nam, tôi đã ở Huế hai ngày trước khi nhận nhiệm vụ. Tôi cũng đã thấy vũ khí của quân đội ta rất nghèo nàn. Một phân đội chỉ có một số súng Nga, một số súng Nhật, một số súng Pháp, thậm chí có người chỉ có lựu đạn và mã tấu. Hiện giờ tôi biết nguồn súng của Nhật rất dồi dào. Để họ giao cho quân đội đồng minh nhưng thực tế là quân ô hợp của tướng Lư Hán dưới quyền Tưởng Giới Thạch là Thống chế quân đội quốc dân đảng thì thật rất uổng. Do đó tôi đàng hoàng xin gặp vị tướng Nhật chỉ huy miền trung tại Huế. Vị tướng này thấy tôi mặc quần tây đen, áo sơ mi cộc tay, da mặt đen sạm nhưng cử chỉ đĩnh đạc. Tôi tự xưng là người chỉ huy các lực lượng yêu nước từ Trung Bộ vào đến Nam Bộ. Tôi kêu gọi các sĩ quan Nhật ủng hộ tôi chống thực dân Pháp. Lúc đầu hai bên nói tiếng Trung Quốc nhưng có đoạn khó họ lại phải bút đàm với tôi. Sĩ quan nói chuyện với tôi là Ykawa Tham mưu trưởng quân đội Nhật Bản ở Việt Nam. Ông này đang trực tiếp phụ trách quân Nhật tại Miền Trung. Ykawa có vẻ trầm ngâm nghĩ ngợi. Sau đó tôi bảo bọn họ: Các ông thấy đây là việc làm tốt đẹp cho nhân dân Việt Nam thì các ông đi theo chúng tôi. Tôi nói với giọng tự nhiên và chân thành. Các sĩ quan đã tiễn đưa tôi ra tận cổng...


Trở vào bàn, Ykawa ngồi suy tư... Ông nhìn từng chiếc lá vàng rơi ngoài sân lúc cuối đông. Ông đã chứng kiến bọn lính Tàu khi tiếp nhận vũ khí từ tay quân đội Nhật tại Thái Nguyên. Bọn này đã hoảng sợ bỏ chạy khi nghe vị chỉ huy Nhật hô nghiêm và giao súng. Hình ảnh ấy đã làm ông cảm thấy nhục nhã khi phải giao súng cho bọn ô hợp này. Ông suy nghĩ tại sao ta không theo Việt Minh và giao khí giới cho họ vì họ cũng là bộ phận của đồng minh thắng trận, hơn nữa mình lại được tiếng tham dự cuộc kháng chiến chống Pháp của họ. Đây cũng là ý tưởng cao đẹp...

Cả tuần bàn bạc, sau đó họ nhất định kéo một số sĩ quan vào Phú Phong thuộc tỉnh Bình Định.

Ông Sơn nhận được tin liền mời hai người là Ykawa (tên Việt Nam là Nhất Cử) và Minh Ngọc được đi thẳng lên An Khê gặp ông. Còn các sĩ quan khác vẫn ở lại Phú Phong nghỉ ngơi. Họ lên ở với ông 4 ngày trên nhà lầu là trụ sở của ông Sơn. Sau đó Nguyễn Sơn phái Ykawa cùng theo phái đoàn đồng chí Lê Văn Hiến đi thanh tra mặt trận Buôn Ma Thuột và Pleiku.

Do cảm nhận sự chân thành và bộc lộ lòng yêu nước tha thiết của Nguyễn Sơn, Ykawa đã ra lệnh cho số sĩ quan Nhật theo cách mạng. Họ đã đi mở các kho vũ khí từ Huế vào tới Phú Yên, đèo Cả giao súng cho quân đội ta đủ trang bị gần một trung đoàn.
_________________________________________
1. Nam Long, sau này là Trung tướng.
2. Tiếng Pháp Trây đơ (treige deux) súng liên thanh nặng 13 ly 2
3. “Ép em” tiếng Pháp là Fusil Miltrailleur (liên thanh nhẹ)
4. 2 liên thanh gắn trên xe là Fusil jumelé có nghĩa là 2 súng máy gắn liền nhau.
5. Thông sông: liên thanh nhẹ. Tiếng Anh là thompson
6. Côn đui tiếng Pháp Colt.douze (súng lục với 12 viên đạn)
7. Cô bồi tiếng Anh: Cowboy: là kẻ chăn ngựa.
8. Găng-tơ tiếng Anh: Ganster: là kẻ cướp.



Tiêu đề: Re: Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Mười Hai, 2009, 10:26:52 pm

2

Sáng hôm sau, thầy Tố trở về Văn phòng lúc 9 giờ sáng. Thầy nhận được lệnh tham dự buổi họp của Uỷ ban đồng thời coi sóc việc chuẩn bị cơm chiều và đồ giải khát cho cuộc họp trên 30 cán bộ từ mặt trận về.

Trước 1 giờ trưa cán bộ các cấp đã tập trung đông đảo trên lầu. Thầy giao cho anh Quảng ghi chép, theo dõi hội nghị còn thầy lo đôn đốc “hoả đầu quân” 1 phục vụ cơm chiều.

Đồng chí Nguyễn Sơn lên tiếng: Nhân danh người phụ trách các đơn vị miền Nam Việt Nam tôi xin chào các đồng chí chỉ huy đơn vị. Khi tới Quảng Ngãi tôi cũng đã tìm hiểu một phần nào về tình hình diễn biến tại miền Nam Việt Nam. Tôi phải lập tức lên gặp các đồng chí để cùng đề ra kế hoạch đối phó gấp rút với địch. Như các đồng chí đã biết, đất nước ta dài nhưng khoảng giữa lại rất mỏng manh. Địch có thể uy hiếp ta từ vùng cao nguyên xuống 4 tỉnh miền trung (Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên). Kể cả chúng đổ bộ mặt biển.

Tỉnh Buôn Ma Thuột là điểm chiến lược giữa ta và địch vì nó tiếp giáp nước Lào, nước Thái Lan (vùng ba biên giới).

Trước ngày toàn quốc kháng chiến (19/12). Ngày 14/10/1945, quân Pháp đổ bộ lên Hòn Cau đánh chiếm thị xã Nha Trang tháng 11/1945, 1 vạn quân của sư đoàn Thiết giáp số 2, Trung đoàn bộ binh thuộc địa số 5 (5c RIC) 2 và chiến hạm Richclieu phối hợp máy bay, xe tăng tấn công các tỉnh Nam Trung Bộ.

Ngày 18/11/1945, cánh quân cơ giới lên Bù Đốp theo đường 14 tiến chiếm Buôn Ma Thuột. Phía ta, đơn vị giải phóng quân từ Khánh Hoà lên phối hợp với quân địa phương bảo vệ Buôn Ma Thuột.

Ngày 30/11/1945, Pháp chia 2 mũi tập kích vào thị xã Buôn Ma Thuột. Một đại đội ta bị tập kích đã tan rã chung với một phái đoàn đi kiểm tra mặt trận.

Do sự chống trả quyết liệt của số đơn vị ta nên quân Pháp tạm thời rút lui.

Ngày 2/12/1945, ta đã tăng cường thêm đơn vị của Thu Sơn và Nguyễn Đôn bảo vệ đường 14 về Buôn Ma Thuột.

Ngày 5/12/1945, binh đoàn bộ binh cơ giới Pháp có pháo binh, cơ giới yểm trợ đã tấn công vào Buôn Ma Thuột. Ta đánh mìn nổ cầu Sêrêpôk nhưng vẫn không ngăn cản được sự tấn công của địch. Mất Buôn Ma Thuột ta phải rút ra ngoài chờ chi viện của cánh quân ba biên giới (lúc đó ta đã mất phòng tuyến CADA và phòng tuyến Phượng Hoàng3.

Trước tình hình trên chứng tỏ quân dân Buôn Ma Thuột không chống cự nổi lực lượng mạnh mẽ của địch. Qua hoạt động trên ta có nặng về chiến đấu chính quy. Chưa nắm được tương quan lực lượng giữa ta và địch để đối phó với mọi tình huống. Một phần cũng vì quân đội ta chưa được huấn luyện tốt: kinh nghiệm chiến đấu còn ít.

Sau thắng lợi của trận Bô Keo tôi mong các đồng chí chỉ huy đơn vị uyển chuyển vận dụng du kích chiến để tránh mũi nhọn của địch, nên đánh vào lưng và đuôi địch. Không nên háo thắng mà phải vận động đánh vào chỗ yếu của địch. Địch tập trung thì ta phân tán vì ta không đủ lực lượng gấp ba địch nên phải phối hợp với dân quân thực hiện đánh tỉa và gài lựu đạn tiêu hao địch.

Yêu cầu của chiến trường Buôn Ma Thuột là bằng mọi cách không cho địch nống ra chiếm các vùng phụ cận. Huy động du kích bắn tỉa để chúng không thực hiện xây lô cốt chung quanh thị xã. Chúng ta khống chế được Buôn Ma Thuột thì vùng đồng bằng mới mong được an toàn.

Ủy ban kháng chiến miền Nam Việt Nam sẽ cố gắng mở lớp đào tạo một số sĩ quan để cung cấp cho các mặt trận Tây Nguyên và đồng bằng. Trong cuộc trường kỳ kháng chiến, phía địch mạnh, ta yếu ta phải dùng trí hơn là dùng sức, vì vậy lực lượng vũ trang tuyên truyền cùng địch vận phải cố hoạt động để làm yếu địch và xây dựng cơ sở quần chúng là rất cần thiết.

Bộ chỉ huy miền Nam sẽ dời về đồng bằng vì An Khê là vị trí tuyến đầu để tạm thời giải quyết những diễn biến về quân sự, chính trị trước mắt tại quân khu 5 và quân khu 15.

Trước khi chấm dứt cuộc họp, đồng chí Nguyễn Sơn nhấn mạnh: củng cố tinh thần quân đội quyết dành độc lập tự do, phải tổ chức sâu rộng các đoàn thể người Kinh, người Thượng cùng sát cánh với quân đội để chống Pháp đến cùng. Chúng ta phải chống tư tưởng sợ địch cũng như khinh địch. Đánh giá đúng giữa địch và ta để tập trung lực lượng hoặc phân tán lực lượng đánh du kích. Các đồng chí về kê khai các cấp chỉ huy cấp trung, đại đội có thành tích chiến đấu hoặc có trình độ học lực ngang trung học (lớp 9) để sau này Ủy ban sẽ mở trường huấn luyện quân sự chính quy cho các cấp.

Trước mắt, ta phải tập luyện binh sĩ bắn giỏi, học tập cách gài lựu đạn, đặt mìn phá xe cơ giới, sử dụng mìn định hướng, nếu thiếu mìn thì bó 2 quả lựu đạn làm một gói để chống. Lấy khúc cây cột lại để vào dưới xích xe địch khi xe tăng chúng tấn công. Ta cho nổ, xích đứt, xe tăng sẽ dừng lại. Phải xây dựng hầm chông, bãi chông v v… Tìm những chiến sĩ xuất sắc để tăng cường các đội bắn tỉa làm tiêu hao và làm hoang mang tinh thần địch.
________________________________________
1. Hoả đầu quân: là cán bộ cấp dưỡng bây giờ.
2. RIC tiếng Pháp Régiment Infanterie Colonial.
3. Trích lịch sử đảng bộ và nhân dân thị xã Buôn Ma Thuột xuất bản 7/1992.
    - Ngày 20/12/1945 ta phản công chiếm thị xã Buôn Ma Thuột hướng Bắc từ đường 14 vào do Lê Thanh chỉ huy Đại đội Nghệ An. Hướng Đông đánh theo đường 12, đánh đồn có Đại đội Bắc Sơn, 2 trung đội Nghệ An, trung đội Thuận Hoá do đ/c Nam Long chỉ huy. Hướng Nam do lực lượng tỉnh đảm nhiệm. Ta pháo kích và tấn công dữ dội. Pháp phải co cụm tại khu vực Bungalow. Ta tiêu diệt 400 địch. Sau đó dịch phản công mạnh mẽ, ta bỏ thị xã và rút về cây số 19 (Hà Đông) để củng cố lực lượng, xây dựng phòng tuyến. Ngày 21/1/1946 địch tập trung toàn lực tấn công phòng tuyến CADA. Phòng tuyến ta vỡ ngày 25/1/1946 phòng tuyến Môxắk, Phượng Hoàng cũng bị vỡ luôn.


Tiêu đề: Re: Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Mười Hai, 2009, 10:33:15 pm

3

Buổi họp một số cán bộ tiếp giáp khu 15 được kết thúc. Đồng chí Tố mời tôi và Huệ cùng ăn chung bữa cơm này.

Đêm đó tôi trằn trọc không ngủ được, tôi lại nghĩ đến thầy Tố. Thầy xuất thân là thầy ký làm việc tại Tòa sứ Quảng Ngãi. Tôi không biết thầy có tham gia công tác bí mật thời tiền khởi nghĩa trong hàng ngũ công chức không? Hồi đó tôi làm trinh sát trong thành nội Quảng Ngãi đôi khi có đưa thơ cho thầy Trọng và thầy Tố. Cha tôi làm Giám đốc bưu điện tỉnh1.

Khi dân chúng đang sục sôi đứng lên diệt phát xít Nhật, Quảng Ngãi là tỉnh có cao trào cách mạng mạnh mẽ so với các tỉnh miền Trung. Vài năm trước đây bọn thực dân Pháp đã xâu dây kẽm vào tay hàng chục người chúng nghi là chính trị phạm2. Chúng đánh cho họ chạy xuống nước và chết tại sông Trà Khúc. Ở Ba La, Vạn Tường tại bãi cát này chúng đã chặt đầu hoặc chôn sống nhiều chiến sĩ. Dân chúng khi đi ngang qua vùng bãi cát này còn nghe dưới lớp cát có tiếng kêu “ri - ri” 3 của người chưa chết.

Khắp thôn xóm trong huyện, nhiều nông dân đã bị chết trong phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh năm 1930 đến Nam kỳ khởi nghĩa năm 1940. Các nhà tù Gi Lăng, Ba Tơ đều chật ních những chính trị phạm. Dân chúng Quãng Ngãi nơm nớp lo sợ và nhiều người đã căm thù trước hành động dã man của bọn chúng. Họ đã tìm đường lên núi theo cách mạng.

Ngọn cờ đỏ sao vàng đã phất cao tại tỉnh Quảng Ngãi. Những chủ sở làm cho Tây đều bị bắt giam hoặc bị xử tử. Các tên mật thám và cảnh sát ác ôn bị hành quyết. Riêng cha tôi, ông đã chống lại thằng Phó công sứ Dubois, ông đã lên án nó tại Toà sứ Trung kỳ về tội nó đánh đập ức hiếp dân. Một tháng sau nó đã bị khiển trách và bị đổi đi nơi khác. Chuyện đó đa số người trong tỉnh đều biết sự ngay thẳng, không khuất phục của cha tôi mà người ta tại thị xã thường gọi là “ông chủ dây thép cứng đầu”. Vì thế cha tôi không bị tù và còn được xem là nhân sĩ yêu nước trong tỉnh. Tôi cũng được tổ chức giao cho việc theo dõi những hành động, số quân và di chuyển của bọn Nhật đóng tại nhà dây thép (bưu điện).

Cách mạng tháng 8 tỉnh Quảng Ngãi thành công, tôi được phụ trách đội Thiếu niên xung phong của thị xã. Đội này thường đi tuyên truyền tham gia diễn hành và ca hát4.

Trong không khí hăng say cách mạng tôi không còn tâm trí để tiếp tục học tập. Tôi nghiêng về dạy cho đội các bài hát cách mạng, hoặc tập quân sự, tập diễn hành.

Trong giấc ngủ, tôi nghe tiếng trống, tiếng kèn, tiếng hô 1, 2, 1 của các chiến sĩ từ chiến khu ra, cùng các chị em du kích Ba Tơ mặc đồ soóc xanh5, đầu húi cua đi đều trông rất nhịp nhàng, oai dũng với tiếng hát hùng hồn.

Tại thị xã luôn tưng bừng, nhộn nhịp.

Độc lập rồi! Tự do rồi!

Ta đã đuổi Pháp, đuổi Nhật thoát ách nô lệ ngoại bang! Còn gì sung sướng cho bằng! Đi khắp nơi đâu đâu cũng nghe tiếng hát, tiếng trống, tiếng sáo vang lừng...

Đài phát thanh6 vang vang loan tin khắp phố phường: Bọn thực dân Pháp đã núp sau bọn đồng minh Anh, Ấn chúng tiến vào Sài Gòn và bắt đầu cuộc lấn chiếm đến các tỉnh miền đông, miền tây. Các mặt trận được quân dân ta dựng lên như mặt trận Cầu Bông, Thị Nghè, Cây Mai, Bà Điểm, Bình Điền, Bình Chánh v.v... đều lần lượt tan vỡ. Chúng đi đến đâu nhà cửa bị đốt, con trai bị bắn, con gái bị hãm hiếp. Biết bao cảnh tang thương trong khói lửa.

Nghe lời Bác Hồ kêu gọi, toàn dân đứng lên diệt thù. Ai có gươm dùng gươm, ai có súng cầm súng quyết tiến ra mặt trận. Tại bắc bộ, trung bộ phát động phong trào Nam Tiến. Các đoàn học sinh, sinh viên nhập ngũ nườm nượp tiến vào nam diệt giặc xâm lược.

Rồi Tiếp Phòng Quân cũng vậy7, tôi đã lác mắt trước bước chân các chiến sĩ mặc bộ ka ki và đội ca lô vàng, giầy cao cổ đen. Hết đoàn này lại đoàn khác nhộn nhịp đi qua thị xã Quảng Ngãi làm tôi đứng xem không biết chán. Tôi lại liên tưởng tới tại rạp Cinêma8 các cán bộ uỷ ban nhân dân tỉnh hô hào tòng quân. Trong đầu óc tôi đã nẩy ra sự quyết tâm “phải đi giết giặc”. Lòng tôi luôn nôn nao, chân tôi không ngừng bước khi đến trụ sở thị xã, hoặc đến ban âm nhạc tỉnh đoàn để học hát. Lúc ấy tôi lại khâm phục thầy Thiều nghiện hút á phiện, thân thể gầy còm vẫn dạy cho đoàn hát và thổi sáo suốt ngày không biết mệt. Tôi lại nhớ bài Quân Tiền phong từ trung ương gửi vào không đánh dấu nên thầy và chúng tôi đã hát: Quân Tiền phong “theo cơ đồ sáo vang” thay vì phải hát “cờ đỏ sao vàng”...

Ngoài giờ học ở trường, tôi lăn vào huấn luyện cho các em những buổi tối. Đội Thiếu niên xung phong chỉ có gần 40 người. Tất cả đều đồng phục, quần xanh cụt, áo trắng cụt, đầu đội mũ calô9. Đội tôi được đánh giá là đội hạng nhất trong toàn thị xã về hát và diễn hành. Các em phần đông là con công chức nên đầy vẻ khôi ngô, tuấn tú dễ thương.
________________________________________
1. Giám đốc Bưu điện: (Receveur des Postes Télegraphe et Téléphpne)
2. Chính trị phạm: Những người yêu nước hoặc những cán bộ cách mạng hô hào tổ chức dân chúng đứng lên đánh đổ thực dân Pháp đang cai trị nước ta. Họ bị chính quyền Pháp bắt bỏ tù.
3. Bọn thực dân Pháp bắt đồng bào tình nghi là hoạt động cách mạng, chúng chôn sống dưới cát nên đồng bào đi qua chỗ chôn vẫn còn nghe tiếng ri ri.
4. Trong đội thiếu niên xung phong có em Trương Quang Lục, sau này là Nhạc sĩ nổi tiếng và một số em thành đạt là kỹ sư, bác sĩ...
5. Soóc: tiếng Anh là Short là quần cụt hay quần đùi.
6. Đài phát thanh Tiếng nói Nam Bộ thuộc phòng Nam bộ do Nhạc sĩ Huỳnh Văn Tiểng trong nhóm Hoàng Mai Lưu (Hoàng là Huỳnh Văn Tiểng, Mai Văn Bộ, Lưu Hữu Phước). Đài này do đ/c Tiểng phụ tránh cùng với đ/c Cao Hồng Lĩnh...
7. Tiếp Phòng Quân là một lực lượng quân đội Việt Nam được đóng chung với quân Pháp có nhiệm vụ cùng quân Pháp giải quyết những việc đụng chạm giữa nhau trước ngày toàn quốc kháng chiến.
8. Ci nê ma: tiếng Pháp Cinema là rạp chiếu bóng.
9. Calô: Tiếng Pháp là calot loại mũ vải đầu trước và sau hơi nhọn.



Tiêu đề: Re: Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Mười Hai, 2009, 10:37:10 pm

4

Chiều hôm đó. Quảng, bạn học trong đội hướng đạo sinh lại gặp tôi tại sân bóng rổ nằm trong chu vi nhà dây thép1. Quảng bảo:

- Mày đi bộ đội không? Trưa mai đi liền.

Tôi ngừng tung bóng và hỏi.

- Đi chứ, nhưng bằng cách nào?

- Không lo, thầy Tố2 bảo trưa mai sẽ có ô tô chở chúng mình lúc 12 giờ

- Được! Tao sẽ đúng hẹn đến nhà mày và cùng đi với mày.

Tối hôm đó tôi nhét vào túi xách 2 bộ đồ và áo lạnh, phu la3 1 cuốn sổ và vài đồ linh tinh.

Ba tôi hỏi:

- Con xếp quần áo đi đâu?

- Con chuẩn bị đi cắm trại ở núi Thiên Ấn 2 ngày.

Đêm hôm đó tôi trằn trọc không ngủ được. Những bước chân du kích Ba Tơ, những hình bóng trẻ, khoẻ của nữ dân quân, những tiếng súng lách cách lên đạn đã dấy lên sự sôi sục trong huyết quản làm tôi nôn nao như muốn thét lên. Chợt tôi vừng thức dậy viết lên giấy vài lời: “Kính chúc bố mẹ mạnh khoẻ, con tòng quân vào nam đánh giặc, nếu thuận tiện con sẽ gửi thư. Con rất yêu quý bố mẹ nhưng nếu đánh đuổi bọn giặc Pháp giành lấy Độc lập, Tự do lại càng quý hơn. Kính mong bố mẹ hiểu cho nỗi lòng của con khi đất nước còn bị đe doạ bởi quân thù”.

Tôi đặt tờ giấy lên giường và đè chân bình mực lên trên.

Sáu giờ sáng, tôi gửi ba lô ở nhà bạn Quảng và lại trụ sở Thiếu niên xung phong để từ giã các em. Có một số các em khóc: “Anh đi rồi ai dạy quân sự và dạy hát cho bọn em”? Tôi trả lời:

- Phòng tuyên truyền thị xã sẽ cử người phụ trách, các em đừng lo. Nếu gặp khó khăn hãy liên lạc với giáo sư Hồ Văn Điềm4 sẽ được hướng dẫn công tác.

Tình cảm giữa các em và tôi rất thắm thiết. Tôi đã lo cho các em từng li từng tý về học tập lẫn giải trí và giải khát khi biểu tình.

Tôi phải kết thúc và giải tán nhanh các em để chuẩn bị lên đường. Nếu còn kéo dài tôi sợ sẽ ra đi không nổi.


Chiều hôm đó ba chúng tôi ra đi ô tô đến tỉnh Bình Định.

Trong thành cổ ở đấy đang bị các dân quân đập phá - Cơm chiều vừa xong chúng tôi lại lên ô tô cùng với một số chiến sĩ ở trạm lên bổ sung mặt trận An Khê. Xe qua Phú Phong nơi có nhà máy dệt lớn nhất miền Trung. Nửa đêm xe đã đến An Khê. Chúng tôi được bố trí một góc trong căn lầu. Anh Nguyễn Tố tiếp đón chúng tôi niềm nở. Anh phân công liền:

- Huệ phụ trách kế toán tài chính có nhiệm vụ giữ và xuất tiền, Quảng lo văn phòng nhận và thảo công văn, Tài phụ trách quân khí nhận vũ khí hư hỏng và cung cấp vũ khí đạn dược cho các đơn vị - Ưu tiên đơn vị đang bám gần địch.

Tôi ngạc nhiên:

- Thưa anh! Phòng quân nhu của mình chỉ có ba người!

- Mới đầu thành lập, tạm thời có bấy nhiêu sau này theo yêu cầu công tác sẽ phát triển thêm người (thầy Tố đã nói đúng, chúng tôi từ 4 người, 2 tháng sau đã phát triển gần năm chục chiến sĩ)

Dưới lầu là phòng quân nhu chúng tôi, trên lầu là văn phòng Ủy ban kháng chiến miền Nam Việt Nam với một người thư ký cùng ông Sơn và hai người Nhật.
__________________________________
1. Dây thép: Là nhà bưu điện bây giờ.
2. Thầy Tố: trước cách mạng là Thư ký toà bố (Sécrétaire de Résidence)
3. Phu La tiếng Pháp: Foulard là khăn quàng cổ.
4. GS Hồ Văn Điềm dạy trường Cẩm Bàng phụ trách tổ chức tráng sinh hướng đạo tại Quảng Ngãi. Sau này ông là Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Quân khu 5.



Tiêu đề: Re: Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Mười Hai, 2009, 10:39:04 pm

5

Càng đến ngày giáp tết, gió rừng càng lạnh buốt. Mỗi đêm ông Sơn thường trằn trọc có khi 2, 3 giờ sáng mới chợp mắt. Trong đầu óc ông đầy ắp những kế hoạch, những phương án cho các đơn vị các nơi nhận lệnh để thực hiện. Ông ngồi dậy khoác chiếc áo dạ từ Trung Quốc mang về. Nó là trang phục chính quy của Hồng quân Trung Hoa nhưng khi về nước ông ít dùng đến và áo này chỉ để khoác vào những đêm giá lạnh.

Hơn 20 năm chiến đấu ở Hải ngoại. Lúc gặp lại người thân trong gia đình đã làm ông xúc động. Ông nhớ lại những phút hàn huyên giữa mọi người trong gia tộc. Ông hỏi anh Bảo con bác hai:

- Nhà mình có ai nghiện thuốc phiện không nhỉ?

- Không ạ!

- Có ai làm việc cho bọn dưới kia không?

(Ông chỉ vào trụ sở bọn phản động quốc dân đảng1 ở cuối phố Quán Thánh).

- Không ạ!

Ông vui mừng hiện ra mặt vì bọn này dựa vào Quốc dân đảng của Tưởng Giới Thạch đã lập ra một đảng gọi là Quốc dân đảng để quấy rối và muốn cướp chính quyền nhà nước ta.

Ông lại hỏi thăm các chú, các bác, các bà chị dâu, em dâu. Ông vỗ ngực oang oang:

- Thế là gia đình ta toàn là những công dân tốt, các bác các anh chị tôi họ Vũ nhưng không giống tên Vũ Hồng Khanh phản loạn. Nào chúng ta vỗ tay mừng cho cuộc hội ngộ gia đình quí báu này. Tất cả vỗ tay vang lên...

Ở một đêm khác ông lại nhớ đến Kiếm Qua người vợ tiến bộ, kiên cường, khí phách. Một sinh viên có tầm hiểu biết sâu sắc về văn học cổ đại trung quốc, một phụ nữ có đầu óc tân tiến, một người vợ tâm đầu ý hợp, ông thường mơ thấy trong giấc ngủ.

Cây rừng vẫn rải lá xào xạc. Núi rừng vẫn mờ sương, gió vẫn thổi lùa từ dưới nhà lên lầu tạo một không khí lạnh lẽo. Đấy là những đêm cô đơn cuối năm của ông tại núi đồi An Khê.


Giữa đêm 30 Tết mịt mùng của núi rừng tôi nghĩ đến Ủy ban kháng chiến miền Nam lúc đầu lèo tèo vài ba người như chúng tôi quả thật đầy rẫy khó khăn. Nguyễn Sơn đã dám mời những người Nhật kể cả thầy ký toà sứ “Tố” của chúng tôi. Sau này ông Sơn lại lôi kéo một số trí thức làm cho Pháp cho Nhật vào tham gia kháng chiến chống bọn thực dân xâm lược Pháp. Ông quả là có đầu óc khoa học trong việc sử dụng người. Cách tiếp cận của ông như đá nam châm có sức hút mạnh mẽ thuyết phục mọi người đi làm theo cách mạng.

Như Bác Hồ nói: “Cây cong, thợ khéo vẫn sử dụng được” huống chi ông lại tìm ra những người tài giỏi đi theo ông làm cách mạng.
_______________________________________
1. Đảng quốc dân Đảng là một tổ chức phản động đứng đầu là Cường Đế và các phụ tá là Võ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam...


Tiêu đề: Re: Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Mười Hai, 2009, 10:55:38 pm

6

Tối hôm qua thầy Tố đã giới thiệu sơ khởi với chúng tôi và có những điểm tôi còn nhớ rõ - đồng chí Chủ tịch Nguyễn Sơn nguyên là Sư đoàn Trưởng của Bát lộ quân thuộc Tư lệnh Nhiếp Vĩnh Trăn chỉ huy. Ông là người sinh tại thôn Kiêu Kỵ thuộc huyện Gia Lâm. Sống trong gia đình địa chủ, cha ông làm thầu khoán xây cất nhà cửa ở Hà Nội và vùng ngoại ô. Mỗi tuần ông cụ trở về làng, ông mang theo một bị đựng đầy bạc giấy. Ông Sơn được học trường Bưởi1 năm 1939. Nhân dịp nghỉ hè, ông đã qua Pháp cùng với cha ông trong thời gian nửa tháng. Bên bờ sông Seine ông đã làm quen người thợ chụp ảnh. Đó chính là Bác Hồ. Bác đã chỉ cho ông những nơi danh lam thắng cảnh của kinh đô Balê2 hoa lệ. Nào là viện bảo tàng Mỹ thuật Louvre, nào là tháp Eiffel, xóm Monmarte có người Việt Nam và số hoạ sĩ các nước tụ tập hành nghề v.v... Thấy ông thông minh, từ nước nhà qua chơi, Bác đã dần dần gieo cho ông đầu óc ghét thực dân Pháp nên cuộc đời ông đã có chuyển biến, “Phải cứu vãn người Việt Nam nghèo khổ dưới ách nô lệ của bọn thực dân Pháp”.

Tên thật của ông là Vũ Nguyên Bác nhưng khi ông bắt đầu hoạt động cách mạng trong đội quân du kích Trung Hoa thì ông lấy tên là Hồng Thủy.

Buổi đầu Bác Hồ đặt cho các đồng chí hoạt động tại Quảng Châu lấy dòng họ Lý để bảo đảm bí mật. Tên ông là Lý Anh Tự, tên đồng chí Trần Phú là Lý Quý, tên đồng chí Phạm Văn Đồng là Lý Tống và một học sinh là Lý Tự Trọng, tên Bác Hồ là Lý Thụy. Năm 17 tuổi tại đây ông được đi học trường Hoàng Phố.

Việc Nguyễn Sơn hoạt động cách mạng tại Trung Hoa đã gặp rất nhiều khó khăn. Lúc đầu Tôn Trung Sơn là vị lãnh tụ Đảng Tân Dân chủ, Tưởng Giới Thạch chỉ huy quân sự. Bên Cộng sản có Bác Cổ (Tần Bang Hiến) Lý Duy Đức: Trưởng ban Tổ chức, Trương Văn Thiên - Trưởng ban Tuyên truyền, Chu Đức - Chủ tịch Hội đồng quân sự, Tổng tư lệnh Hồng quân, Chu Ân Lai - Chính uỷ, Lưu Bá Thừa - Tổng tham mưu trưởng, Vương Gia Tường - Tổng cục chính trị, cố vấn quân sự Lý Đức (là người Đức tên là Otto Braun), Mao Trạch Đông rất có công trong xây dựng căn cứ địa nhưng bị cô lập và không được phân công trong hàng lãnh đạo. Tôn Trung Sơn chủ trương Quốc - Cộng kết liên để diệt phát xít Nhật nên có một số cán bộ Hồng quân hoạt động chung trong hàng ngũ Quốc dân Đảng.

Năm 1934, Tưởng Giới Thạch với ác tâm đã chủ trương “yên trong mới dẹp ngoài”. Vì chúng cho là lực lượng quân đội Nhật ít ỏi ở vài tỉnh nên chúng trở mặt chống lại Hồng quân và mở cuộc tàn sát đẫm máu.

Nguyễn Sơn tức giận trước sự phản bội với hành động dã man tàn bạo của bọn chúng đối với các đồng chí mình, ông rời bỏ hàng ngũ bọn chúng. Ông tổ chức dân chúng chống lại. Cuộc khởi nghĩa Quảng Châu do Hồng quân tổ chức bắt đầu. Khi quân ông tấn công vào thị xã ông thấy trên tường viết chữ Cộng sản là Hồng Thủy.

Ông tức tối bèn lấy tên mình là Hồng Thủy3 với ý nghĩa nước lũ sẽ cuốn hết bọn Tưởng ra ngoài biển Đông.


Mùa thu 1934, quân Tưởng tiếp tục tấn công Hồng quân. Khu Xô Viết bị thu hẹp. Hội nghị Tuân Nghĩa chấm dứt chủ trương mạo hiểm chính qui của Ottoman, đã làm lực lượng Hồng quân hao mòn phân nửa. Mao Trạch Đông đã phê phán gay gắt lối “phòng ngự tiêu cực”. Sau đó hội nghị bầu Mao Trạch Đông làm ủy viên thường trực bộ chính trị vì chủ trương đúng đắn của ông4. Chu Đức, Chu Ân Lai chỉ huy quân sự. Mao thực hiện vạn lý trường chinh tiến lên Thiểm Tây thành lập căn cứ địa. Nguyễn Sơn đã nằm trong cánh quân của Trương Quốc Đào.

Đào ỷ y trong tay nắm số quân lớn nên chống lại chủ trương Mao. Y muốn tách ra nhưng bị phát hiện. Lúc ấy ông Sơn đã tranh đấu quyết liệt với Đào và bị Đào quy là gián điệp quốc tế. Ông bị Đào khai trừ ra khỏi đảng và suýt bị thiệt mạng, nếu không có các tướng Trần Canh, Lưu Bá Thừa can thiệp. Ba lần ông bị khai trừ đảng nhưng sau đấy đều được cấp trên xét và lại được phục hồi đảng tịch cả 3 lần.

Nguyễn Sơn đã ba lần vượt qua núi tuyết5 theo sự phân công của cấp trên. Có lần thua trận trước lực lượng địch mạnh gấp mười lần. Các binh sĩ thuộc đơn vị ông đều bị hy sinh hết chỉ còn lại một mình ông thoát chết. Ông sống lang thang đói rách. Ông phải chăn cừu thuê để có cơm ăn và lần lần đi về căn cứ địa.

Anh Tố nói tiếp.

- Nguyễn Sơn rất nghiêm khắc với những việc sai trái ông quyết đoán mau, nhưng ông lại sống rất hài hoà với đồng đội, đồng bào. Ông có con mắt tinh đời hễ giao công việc cho người nào ông biết chắc người ấy sẽ làm được - Sau này các đồng chí sẽ biết thành tích của ông. Tạm thời, chúng ta được biết lai lịch của thủ trưởng Nguyễn Sơn là như thế. Tôi mong các đồng chí phải làm việc chăm chỉ, nghiêm túc và vượt mọi khó khăn trong buổi ban đầu.
_______________________________________
1. Trường Bưởi là trường trung học công lập. Hồi ấy thường gọi là Lycée Protectorat (trường bảo hộ của Nam triều)
2. Balê (tiếng Pháp: Paris)
3. Hồng thủy có nghĩa là cơn lũ lớn tàn phá nhà cửa và các sinh vật. Bọn quốc dân đảng đặt tên cho những người cộng sản là hồng thủy, là thú dữ cộng vợ, cộng chồng.
4. Xem phụ trang nói về sự sai lầm của cấp lãnh đạo Hồng quân.
5. Núi tuyết (Miêu Sơn), cao hiểm trở khi hành quân lên đỉnh không được ngồi nghỉ. Nếu ngồi xuống sẽ không thể đứng lên được vì người đóng thành băng.



Tiêu đề: Re: Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Mười Hai, 2009, 11:03:25 pm

7

Chúng tôi đã ăn khoanh bánh tét1 gọi là đón xuân tại An Khê. Tiếng súng từ xa dội lại thay tiếng pháo. Khí trời lành lạnh gió thổi vào nhà rát mặt. May là tôi đã đem chiếc áo bludông bằng nỉ nên cũng chống lại sự lạnh lẽo phần nào2.

Mỗi buổi sáng lúc 5 giờ Nguyễn Sơn đã chạy ra giữa sân hô “tập họp”: Dáng ông mờ đen lẫn trong sương mù. Đám văn phòng chúng tôi và một số sĩ quan Nhật vội vã chạy ra xếp thành hàng. Ông thổi một hơi còi dài lập tức đơn vị cảnh vệ cũng đã chạy đến xếp hàng ba sau chúng tôi với đầy đủ súng lớn nhỏ.

“Chạy đều… chạy!” Nguyễn Sơn hô to. Ông chạy trước và dẫn anh em chạy sau - Lâu lâu ông lại lách qua một bên đôn đốc đội hình phải ngay hàng - Nhóm quân nhu chúng tôi đều mang ba lô chạy theo nhóm văn phòng và cần vụ3. Ông vẫn băng mình qua suối, có khi leo lên ngọn đồi - hoặc nhảy qua dòng suối nhỏ - Tôi tính nhẩm cuộc chạy vòng vo cũng khoảng 4 cây số.

Chạy một hồi lâu mới thấy ánh sáng ban mai hừng lên một màu hồng trên dãy núi. Sương mù dần tan. Lúc đầu chúng tôi còn thấy lạnh nhưng khi chấm dút cuộc chạy chúng tôi lại thấy nóng toàn thân.

Huệ nói: Chưa quen chạy! Mệt quá!

Khi giải tán, ba chúng tôi ngồi nghỉ tại ghế đá dài đặt trước lầu ủy ban, Nguyễn Sơn lại gần chúng tôi, ông hỏi:

- Chạy có mệt lắm không?

- Thưa mệt ạ!

Ông liếc nhìn chúng tôi, người thì mặc quần dài trắng, áo vàng, người quần cụt áo xanh. Mặt ai cũng trắng trẻo đúng vẻ thư sinh. Anh em mới vào bộ đội nên chưa nhận được quân phục.

Ông cười và nói tiếp:

- Mấy cậu học sinh tiểu tư sản này chưa quen với sinh hoạt quân đội! Cố gắng lên! Bây giờ các cậu đã là chiến sĩ mà đã là quân đội phải luôn tập tành để tạo ra sức khoẻ phục vụ đất nước, luôn luôn ở tư thế sẵn sàng chiến đấu. Các cậu phải luôn chuẩn bị tinh thần khắc phục khó khăn gian khổ - Thế đã hiểu rõ chưa!

Ba chúng tôi đồng thanh hô:

- Rõ!

- Các đồng chí đi xuống suối tắm đi.

Nói xong ông quay lại đi lên lầu. Ở dưới nhà, sau khi tắm và ăn cháo chúng tôi quây quần trên bàn và chuẩn bị sổ sách cho chuyên môn của mình. Giữa lúc này đồng chí Tố đi xuống đơn vị đã về.

Lúc 5 giờ chiều hôm ấy khi ánh nắng đã bắt đầu hạ xuống và sáng lên ở đỉnh núi xung quanh. Tôi lững thững xuống đèo, men theo đường mòn tôi gặp một đoạn suối xa chỗ chúng tôi tắm. Tôi thấy ông Sơn đang ngồi trên tảng đá tay cầm ống điếu, miệng phả từng chùm khói thuốc. Thấy ông trầm ngâm tôi chào và nói:

- Trông Chủ tịch giống nhạc sĩ Mozart và cảnh trước mặt giống trong phim Symphonie Pastoral.

Thấy tôi nói pha tiếng Pháp ông khoái chí:

- Đồng chí học lớp mấy?

- Tôi lên quatrième anneé4, vừa mới học xong vở kịch của Sếc-Pia5 thì đi kháng chiến.

Ông nói:

- Ở Hà nội tôi cũng học đến thế - Đồng chí ngồi xuống đây nói chuyện chơi!

Tôi nói:

- Đây cảnh đẹp thật! Hoa trắng hoa đỏ chen nhau mọc trùm lên những mảng đá xám, giống như tranh vẽ.

- Đồng chí quan sát đúng đấy! Ông nói tiếp:

- Cảnh này giống thôn Thạch Từ vùng Ngũ Hành Sơn tỉnh Sơn Tây bên Trung Quốc. Lúc ấy tôi đã có vợ tên là Trần Kiếm Qua. Vợ tôi phụ trách mẫu giáo phân khu Tấn Sát Ký bên Trung Quốc. Chúng tôi vì công tác nên ở xa cách nhau khoảng 5 cây số thỉnh thoảng chúng tôi gặp nhau và cảnh này đã làm tôi nhớ đến nước bạn. Ông ngừng lại một phút, rồi nói tiếp:

- Lúc ấy Tưởng Giới Thạch trở mặt không liên minh với Hồng Quân để đánh phát xít Nhật. Chúng quyết tâm tiêu diệt Cộng sản trước. Chúng huy động một triệu quân để đánh vào căn cứ Hồng Quân hòng tiêu diệt toàn bộ - Ta chỉ có hai chục vạn quân nên buộc phải rút lui - Vợ tôi đang có thai phải di tản theo Bát lộ quân. Hành quân biết bao vất vả. Vợ tôi sinh con dọc đường thiếu sữa phải nhờ đồng bào nuôi. Tôi đặt tên con tôi là Phong Ba, nhưng 6 tháng sau nó đã chết vì sưng phổi - Tiếc rằng suốt thời gian rút lui tôi không có mặt ở bên vợ tôi vì tôi bị phân công ở đơn vị khác cách xa đơn vị vợ tôi.

Ông rít một hơi thuốc dài và từ từ nhả làn khói ra trước mắt. Ông nhìn đăm đăm ra suối. Tôi biết ông buồn vì mất con, tôi hỏi luôn.

- Thế Chủ tịch còn cậu nào nữa không?

- Có! Sau đấy vợ tôi sinh 2 cháu trai tên Hàn Phong và Tiểu Việt - Khi tôi về Việt Nam cháu lớn mới 1 tuổi, cháu nhỏ đang trong bụng mẹ.

Tôi hỏi tiếp:

- Đây là người vợ đầu tiên?

- Không! Đây là người vợ thứ 2, vì người vợ đầu tiên là cô Diệm ở Hà Nội đã chết6 và tôi ở với cô chỉ 1 năm, cô đã có được 1 đứa con gái. Khi nhận được tin Bác Hồ cho người đưa tôi đi Trung Quốc học tôi mừng quá, tôi phải kiếm cách dứt tình với vợ để ra đi.

Ông lại nhả thêm một làn khói dầy đặc.

Trong buổi hoàng hôn, sương đêm dần trắng xoá núi đồi. Khí trời lạnh lẽo ập đến. Ông đứng lên nói:

- Chúng ta về đi, đồng chí chuẩn bị mai hành quân dời địa điểm - Tôi đáp:

- Tôi nghe rõ!

Tôi bước từng bước sau lưng Tư lệnh. Tôi ngạc nhiên sao ông lại dễ dàng thổ lộ tâm tình của ông. Phải chăng ông cũng là nhà trí thức nên dễ cảm thông với tôi cũng là trí thức.

Hôm sau khi chấm dứt cuộc chạy buổi sáng chúng tôi ăn cháo xong thì ô tô lớn đã đậu trước cửa văn phòng - Anh Tố huy động anh em ra xe. Đi dọc đường xe ghé Phú Phong rước thêm 5 người thuộc bộ phận tiếp tân và y tế cùng bốn người sĩ quan Nhật Bản đồng lên xe chạy thẳng về Bồng Sơn. Gần đến nơi tôi nhìn dọc đường những hàng dừa cao đầy quả, bóng tàn cây dừa làm rợp mát dọc đường. Khi xe ngừng trước toà lầu có lô cốt chúng tôi xuống xe và biết đây là đồn của bọn lính Pháp trước kia đã đóng quân. Chúng bỏ lại khi thất trận trước sự tấn công của quân đội phát xít Nhật.
______________________________________
1. Bánh tét: lại bánh nếp miền Trung gói tròn và dài khoảng gần 2 tấc.
2. Bludông (tiếng Pháp Blouson là áo khoác)
3. Cần vụ: Nấu bếp, quản lý gạo nước. Hồi đó còn có danh từ “hoả đầu quân”.
4. Quatrième ammé (năm thứ tư thành chung chương trình Pháp) tương đương lớp 10 bây giờ.
5. Secpia tiếng Anh: Shakesper là một văn sĩ nổi tiếng của Anh.
6. Thực ra là sau 5 năm ông đi thì cô lấy chồng khác.



Tiêu đề: Re: Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Mười Hai, 2009, 11:29:31 pm

8

Bồng Sơn là một huyện nhỏ thuộc tỉnh Bình Định - Nhà dân chúng đều bám theo dọc quốc lộ 1 rải rác đến Tam Quan. Một vùng có tiềm năng kinh tế, sản xuất dầu dừa và dây dừa, thảm dừa đủ cỡ cung cấp cho những nhà đánh cá ven biển kể cả kẹo dừa, kẹo lạc1. Bộ đội cảnh vệ thường lấy đường làm sân tập dọc theo quốc lộ 1 - ngã ra Bắc đi Quảng Ngãi, ngã vào Nam đi Phú Yên, Tuy Hòa.

Mỗi buổi sáng như thường lệ, Chủ tịch Sơn mặc thường phục quần dài đen, áo “Puy ô vơ” 2 xanh lá cây chạy dẫn đầu. Nối theo là bộ phận tư lệnh bộ rồi đến cảnh vệ. Hôm ấy tôi đang đau chân nhưng vẫn cố khập khiễng chạy. Máu đọng nên đau nhức. Nguyễn Sơn vừa chạy vừa quan sát và đôn đốc đội hình cho ngay thẳng, cự ly đúng tầm 1 cánh tay. Ông đã thấy tôi chạy khập khiễng.

Đến giờ làm việc ông gọi tôi lên lầu. Ông bắt cởi băng chân cho ông xem. Ông thấy vết sâu bằng đồng xu có cạnh có mủ xanh như sâu quảng - Tôi nói:

- Vết thương lúc đầu chỉ bằng đồng trinh nhưng sau lở lói, có mủ và rộng ra bằng đồng xu có lẽ do tắm nước suối An Khê độc quá.

Ông Sơn quay sang thư ký và bảo:

- Viết giấy giới thiệu cho đồng chí Tài đi bệnh xá để rửa thuốc cho mau khỏi.

Thế là tôi được đi rửa vết thương trong thời gian một tuần lễ.

Vừa đi vừa suy nghĩ: Nguyễn Sơn vị Tư lệnh đã ưu ái chăm sóc cấp dưới và coi như anh em. Lúc này ông đã 38 tuổi.


Bộ phận “Quân khí” (sau đổi tên là quân giới) của tôi đã may mắn được 2 người Nhật tiếp tay để sửa súng hóc đạn, hoặc sửa nòng và sửa cò súng. Trong công việc hàng ngày họ đã đáp ứng được những nhu cầu về súng hỏng và tiếp tế một số đạn dược cho các đơn vị. Công việc điều hoà làm tôi rất phấn khởi. Tôi lại được dịp trao dồi tiếng Nhật. Tôi còn nhớ khi Nhật chiếm Đông Dương chúng đã bắt buộc các trường trung học phải học chữ Nhật (Katakana và loại chữ Hiromenzi). Cũng nhờ ba tên lính Nhật canh gác nhà dây thép. Họ ăn ở luôn tại đấy nên tôi nói được tiếng Nhật tàm tạm.

Tại Bồng Sơn tôi lại được tăng cường thêm 2 đội viên tên là Hào và Thọ. Nhờ họ nên việc chuyển tải vũ khí càng dễ dàng nhanh chóng.


Một lần nữa, khi tôi đang làm báo cáo các vũ khí hỏng của một số đơn vị. Tôi thấy một chiến sĩ quần rách ở đầu gối. Anh đưa giấy cho tôi xin chữ ký để được cấp lộ phí nghỉ phép về Hà Nội. Trong giấy đề tên Báu. Anh này mặt trắng xanh, ốm yếu. Tôi giật mình chợt nhớ nửa năm trước khi tôi tham dự buổi họp Truyền bá Quốc Ngữ tại Hàng Da ở Hà Nội có anh Báu đã hát bài Thanh niên trước đông đảo anh em.

Tôi chợt hỏi:

- Hình như lúc trước anh có hát bài Thanh Niên tại buổi họp Hội Truyền Bá Quốc Ngữ3. Anh đáp “Đúng ạ!” và anh cao hứng hát luôn:

“Này thanh niên ơi! Dắt nhau lên đường cùng vang hát. Sánh vai cùng đi. Này thanh niên ơi! Ngắm trông phương trời đừng lui bước và chớ phân ly... Ta trông xem trời nam xinh tươi, kìa hoa sau đêm còn vương sương rơi” Đắm đuối cười, nhắn nhủ lời...

Anh hát luôn 6 câu. Tôi giơ tay ra dấu ngừng và nói:

- Bây giờ trưởng phòng ngày mai mới về, nhưng tôi ký xuất không biết có được không?

Anh cầm giấy có chữ ký của tôi và anh lĩnh được tiền. Anh lại bắt tay tôi lắc mạnh và luôn miệng nói “Cám ơn đồng chí! Cám ơn đồng chí!”

Trưa hôm ấy Huệ vẫy tôi lại, anh cằn nhằn:

- Ký xuất lĩnh tiền chỉ có chữ ký thầy Tố và chủ tịch Ủy ban kháng chiến miền Nam Việt Nam, ngoài ra các chữ ký khác đều không có giá trị.

Tôi nói vuốt ve:

- Huệ cảm thông. Mình đâu muốn sai nguyên tắc nhưng thấy thương anh ấy “cà lơ, thất thểu” quần áo rách xơ xác ở mặt trận về. Anh ấy cũng là trí thức quen từ mấy tháng trước ở Hà Nội. Anh được trở về nhà nghỉ phép mười ngày. Vả lại anh Tố vắng mặt...

Câu chuyện lại đến tai ông Sơn, ông gọi tôi lên gác - Khi bước lên cầu thang tôi đã có linh cảm như mình đã phạm tội nào đó.

Tôi đứng nghiêm chào trước mặt ông. Ông nhìn sâu vào mắt tôi. Mắt ông sáng lên. Tôi hồi hộp - ông nói từng tiếng một:

- Đồng chí Tài! Nguyên tắc là nguyên tắc! Phải tuyệt đối tuân thủ! Không phải quyền hành mình mà ký phiếu xuất là sai. Tôi đã nghe đồng chí kia hát và đã hiểu nội dung đồng chí muốn giúp đỡ đồng đội! Cũng tốt! Nhưng lần sau không nên tái phạm.

- Xin cám ơn Chủ tịch, tôi xin ghi nhớ.

Tôi xuống lầu. Cậu Trung, cần vụ rỉ tai tôi:

- Mai, chủ tịch đi vào Nam. Tôi phải lo 2 gói cơm nắm, muối vừng giao cận vệ theo ông.
_______________________________________
1. Tiếng nam bộ: kẹo đậu phộng.
2. Puy ô vơ (tiếng Anh) áo thụng (Pull’ over)
3. Hội truyền bá quốc ngữ là một tổ chức của những người yêu nước có cán bộ Việt Minh lèo lái.



Tiêu đề: Re: Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Mười Hai, 2009, 11:33:15 pm

9

Theo lệnh Bác Hồ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp khi ấy là chủ tịch Ủy ban kháng chiến toàn quốc1 được Bác Hồ ủy nhiệm vào thanh tra phía Nam. Trong cuộc mít tinh ở sân vận động Quảng Ngãi. Tôi đã thấy ông Giáp mặc âu phục xanh nước biển và đội mũ nỉ xanh. Ông nói chuyện rất khoan thai về tình hình miền Nam và động viên đồng bào dốc toàn lực đầu quân giết giặc giữ nước.

Khi ông Giáp đi vào Khánh Hòa ông đã gặp ông Nguyễn Sơn tại đình làng Phan Rang. Ông Sơn đã báo cáo tình hình về các tỉnh phía nam cũng như Buôn Ma Thuột… Hai ông đang ngồi uống nước trà thì Đại đoàn trưởng Trần Công Khanh bước vào chào hai người.

Ông Sơn chỉ ông Giáp và bảo:

- Đây là đồng chí Võ Nguyên Giáp bộ trưởng Bộ quốc phòng đi thanh tra các mặt trận miền Nam.

Ông Khanh đứng nghiêm chào và báo cáo với vẻ có phần tự đắc.

- Thưa các đồng chí tôi vừa đánh trận Võ Canh và Võ Xương mới về...

Ông Sơn thấy quần áo ông Khanh dính bùn be bét từ ngực xuống chân, hai tay đầy bụi bậm. Ông gằn giọng và chỉ ngón tay ra góc phòng:

- Đồng chí Khanh ra đứng tại góc phòng...

Ông Khanh ngơ ngác.

Ông Giáp cười và nói:

- Chủ tịch Sơn phạt đồng chí đứng nghiêm đấy!

Ông Khanh vội ra đứng góc phòng.

Với giọng sang sảng, ông Sơn nói:

- Là Đại đoàn trưởng có nghĩa là đồng chí nắm sinh mạng cả sáu nghìn chiến sĩ. Đồng chí không thể nào bỏ chỉ huy sở để xuống chiến đấu với binh sĩ cùng cầm súng bắn địch như vai trò một người lính. Nếu đồng chí thích làm lính thì tôi sẽ cho đồng chí xuống trung đội để chiến đấu.

Ông Khanh sợ sệt tái mặt... Chừng vài phút sau ông Sơn hô “nghỉ”... và ông dịu giọng nói:

- Đồng chí lại ngồi đây uống nước.

Ông Giáp lại cười... đoạn ông hỏi ông Khanh tình hình giữa ta và địch...


Ban lãnh đạo Liên khu 5 đều không thể quên chuyện này: khi đồng chí Phạm Kiệt biệt danh T đơ2 là Đại đoàn phó từ mặt trận về báo cáo trước chủ tịch Sơn. Ông thấy quần áo dơ bẩn đầy bùn. Ông nói: tôi đã dự đoán tình hình trong ấy, đồng chí về tắm rửa sạch sẽ rồi lại đây báo cáo cũng không muộn.

Phong cách của ông Sơn là thế. Ông rất nghiêm khắc trong công việc. Một vị tướng có tính kỷ luật cao khi đã nói thì như đinh đóng cột không nể nang dầu với cấp trên như khi ông đã hoạt động bên Trung Quốc. Cách nói của ông oai nghiêm, dõng dạc, trấn áp người nghe như buộc họ phải làm theo ý ông.

Khi ông Giáp trở về Trung ương, Nguyễn Sơn lại tiếp phái đoàn Trung ương do đồng chí Đàm Minh Viễn vào thị sát mặt trận. Lần này ông đã phái đại tá Ykawa đi theo đoàn ông Viễn, ông Viễn rất mừng được Ykawa là vị tướng lừng danh của Nhật hoàng đầy kinh nghiệm chiến trường. Họ lên đường bằng hai xe jeep và ô tô do quân đội Nhật trước đây thất bại để lại. Đoàn đang đi trên đèo Mang Giang thì bị hai máy bay Spitfire của địch phát hiện và truy kích. Chúng bắn xối xả. Đoàn xe phải ngừng lại. Trên xe Ykawa đã dùng súng trường bắn lên máy bay. Một chiếc đã bị trúng đạn rơi vào rừng. Cả đoàn phải nhảy xuống vì xe bị cháy. Đoàn đã bị máy bay bắn, lớp mìn gài hai bên lề đường cả đoàn đều hi sinh3.

Thời điểm này cũng là lúc tướng Leclecre đã trực tiếp chỉ huy chiếm trọn thị xã Buôn Ma Thuột. Sau đó vài ngày quân Pháp lại chiếm luôn Pleicu.
______________________________________
1. Chiếu theo tài liệu của Bộ quốc phòng xuất bản về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
2. Tê đơ: là hai chữ T có nghĩa ở tù 2 lần.
3. Sau này Hiệu trưởng Nguyễn Sơn nhân dịp lễ Quốc khánh năm 1946 đã tổ chức lễ truy điệu, kỷ niệm vị danh tướng Nhật này.


Tiêu đề: Re: Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Mười Hai, 2009, 11:36:59 pm

10

Cuối tháng 7 năm 1947. Tư lệnh Nguyễn Sơn thông báo cuộc họp khẩn cấp cho các đơn vị toàn quân khu về họp trên lầu khu bộ ở Bồng Sơn.

Với giọng nói sang sảng ở dưới nhà cũng nghe rõ, Tư lệnh trình bày tình hình chung, dã tâm của thực dân Pháp vẫn quyết đặt ách nô lệ lên cổ người Việt Nam lần thứ hai.

Để khủng bố tinh thần dân chúng và cán bộ Việt Minh chúng đốt phá nhà cửa, tàn sát dân lành. Cán bộ thì bị chặt đầu moi gan do các lính lê dương1 Sénégalais, Maroc dã man, tàn bạo. Chúng ta không thể làm nô lệ lần nữa.

Lực lượng của ta lúc đầu còn yếu kém: Việc đánh Pháp là việc lâu dài. Tư tưởng các đồng chí phải luôn trung thành với nước, tác phong luôn khẩn trương, sáng suốt lãnh đạo bộ đội và am hiểu chiến thuật, chiến lược. Kinh nghiệm của Hồng quân Trung Hoa đã chỉ cho ta thấy rõ khi lực lượng của địch lớn gấp 20 lần của ta, ta phải tránh để bảo toàn lực lượng. Hồng Quân phải trải qua cuộc vạn lý trường chinh lên phía bắc, đường dài 12.500 km bằng 4 lần chiều dài nước Việt Nam. Một cuộc hành quân đầy gian khổ, phải ăn cả cỏ, nhai cả gót giày vì không có gì ăn. Có khi phải giết ngựa gầy để ăn. Đại đội đi trước được ăn thịt, đại đội đi sau phải gậm xương để chống cơn đói đang hoành hành trong bụng lép xẹp. Có người bị chết vì ăn phải cỏ dại. Rùng rợn nhất là đi qua thảo nguyên mênh mông đầy sình lầy. Khi nắng dữ dội, khi mưa dầm bất chợt, chiến sĩ phải bện giầy rơm to để chống lún xuống sình lầy. Họ phải tết dây dài để mỗi người cầm lấy dây. Họ dìu nhau đi giữ vững đội hình. Kỹ lưỡng như vậy nhưng cũng có người lún sâu xuống sình và ngập đầu chết luôn. Khi vượt qua Miêu Sơn (núi Tuyết) gồm 18 ngọn núi. Lệnh hành quân cấm các chiến sĩ trong khi dừng lại nghỉ không được ngồi xuống vì ngồi xuống sẽ đứng lên không nổi và bị đóng băng chết tại chỗ. Ông đã đi qua núi Tuyết ba lần do sự phân công của cấp trên. Ông đã thấy các đồng chí mình vẫn còn bị đóng băng ngồi tại đó. Trên đường đi Hồng quân bị Quốc quân 6 lần chặn đánh cho đến khi về tới căn cứ. Quân số lúc đầu 20 vạn, hy sinh và chết dọc đường hết 18 vạn nhưng cuối cùng vị lãnh đạo tài tình Mao Trạch Đông đã lập chiến khu phát triển quân đội, đánh thắng Nhật, thắng quân đội Quốc dân đảng phản động của Tưởng Giới Thạch. Bài học này cho ta thấy phải sáng suốt cân nhắc khi chỉ huy.

Tình hình trong nước ta còn rất khó khăn Chính phủ ta đã phải cực nhọc để đối phó 20 vạn quân Tưởng do tướng Lư Hán chỉ huy nhân danh đồng minh qua giải giới bọn Nhật. Bọn Tàu Tưởng này đi đến đâu cướp phá sách nhiễu dân chúng đến đó. Hồ Chủ tịch đã nhận được báo cáo tới tấp về đạo quân Lư Hán này. Bác Hồ đã tìm cách đẩy chúng về Trung Quốc. Quả là một thành công lớn. Ngoài ra bọn Việt Nam quốc dân đảng và bọn Việt Nam phục quốc hội thừa cơ muốn lật đổ chính quyền ta. Lúc đầu ta đã phải nhượng bộ để phe Cường Đế2 có một số ghế trong Chính phủ. Bọn Quốc dân đảng đã lợi dụng sự nhượng bộ của ta, chúng bắt cóc các cán bộ của ta như ở Ôn Như Hầu và vài nơi khác chúng giết và lấy súng. Cụ Hồ và chính phủ đã phải khổ trí đối phó từng giờ từng phút với bọn phản động này.

Tôi nói qua về tình hình phía Nam:

Sáng ngày 23/9 Pháp núp sau lực lượng đồng minh gồm Anh, Ấn giải giới quân Nhật. Chúng chiếm Sài Gòn và nống ra các tỉnh tại Sài Gòn. Mặt trận Cầu Bông, Cây Mai, Bình Điền cùng các mặt trận khác dần dần tan vỡ vì chúng có vũ khí tối tân còn ta chỉ có súng kíp, súng săn, gươm giáo, tầm vông, vạt nhọn nên không ngăn nổi bọn thực dân Pháp gồm các binh lính Lê Dương viễn chinh tinh nhuệ đã lần lần chiếm các tỉnh miền đông và miền tây3. Phía miền Nam trung bộ lúc ấy bọn Pháp đã chiếm Nha Trang và nống ra lập các tiền đồn ở Củng Sơn, Vạn Giã, Bàn Nham, Núi Hiềm. Chúng còn lăm le toan chiếm Tuy Hòa của tỉnh Phú Yên - Trên cao nguyên chúng đã xông ra từ Buôn Ma Thuột đánh chiếm Bô Keo. Chúng bị ta làm tê liệt và không thể chiếm An Khê được. Ủy ban kháng chiến miền Nam Việt Nam rời khỏi An Khê - để những thông tin báo cáo từ miền Nam gửi ra và ở trung ương gửi vào nhận được mau chóng, đối phó kịp thời.

Trong cuộc họp hôm nay một số cán bộ đòi kỷ luật đồng chí Trần Công Khanh, vị Tư lệnh mặt trận Khánh Hoà đã không tuân lệnh chủ tịch Sơn ra lệnh phải rút lui khi ta yếu hơn giặc nhưng ông đã liều lĩnh chống trả với lực lượng địch mạnh hơn nên bị thất bại thật nặng nề.

Ông Sơn giơ tay bình tĩnh nói:

- Chuyện này tôi đã được báo cáo rõ ràng, các đồng chí nên bình tĩnh phê phán.
_________________________________________
1. Bọn Pháp lấy lính ở các thuộc địa Phi châu như nước Maroc, Tunisie, Sônégalei... Chúng gọi là quân dội Lê dương viễn chinh (Légion étrangère)
2. Cường Đế là con vua Thành Thái đã chạy sang ở nước Nhật. Bọn quốc dân đảng tôn Cường Đế và Nguyễn Hải Thần ở vai lãnh đạo. Mục đích chúng là lập lại nền quân chủ.
3. Phía quân ta tại Nam Bộ các lực lượng Thanh niên Tiền Phong của ta kể cả lính Hai Hổ và đệ tam sư đoàn chia ra nhiều cánh phân tán lực lượng và rút lui. Cánh đi lên miền Đông, cánh đi xuống miền Tây để củng cố bộ đội và xin Trung ương viện trợ. Trong lúc đó tại miền Bắc và miền Trung, Chính phủ lập nhiều đoàn quân đi giải phóng miền Nam gồm sinh viên, học sinh do tướng Cao Văn Khánh dẫn đầu nhưng đi tới Nha Trang đụng địch bị tan rã. Bác Hồ đã kịp thời phái tướng Nguyễn Bình đưa một Đại đội vào Nam. Nguyễn Bình đã vào đến khu 7 lập một số chi đội như chi đội 25 và bộ đội Hoàng Thọ. Sau đó lập 10 ban công tác thành, tiểu đoàn Phạm Hồng Thái. Trong hoàn cảnh tan vỡ của chiến trường Nam Bộ, Bác Hồ lại phái cụ Vũ Đức là đảng viên cộng sản bị địch bắt trong trận càn vào chiến khu Việt Bắc khoảng năm 1944 (ông bị đày ra đảo Madagascar. Khi đồng minh Pháp, Anh, Mỹ đang đánh Phát xít Nhật tại Việt Nam họ có nghe ở Việt Bắc có 1 lực lượng chống Nhật nên đã tìm trong nhà tù đưa Vũ Đức ra học nhảy dù tại Ấn Độ và sẽ nhảy vào chiến khu Việt Bắc để tiếp tế súng đạn cho Việt Minh)
    Cụ Vũ Đức đã đưa 1 đại đội vào Nam sau đó là Khu trưởng Khu 4 cùng với các cán bộ dong mán, Thiếu Lang, Tăng Thiên Kim...
    Tư liệu “Lịch sử Đảng thành phố Hồ Chí Minh”



Tiêu đề: Re: Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Mười Hai, 2009, 07:00:32 pm

11

- Sau khi mặt trận Khánh Hoà tan vỡ trước sự tấn công ồ ạt với hỏa lực mạnh mẽ của số lê dương tinh nhuệ trong quân đội Pháp1, các chiến sĩ ta đã hốt hoảng và mất tinh thần chiến đấu - Chúng ta đã rút được kinh nghiệm gì? Các đơn vị hoàn toàn tan rã - Các chỉ huy không được huấn luyện tốt và một số lớn cũng chưa từng ra trận nghĩa là chúng ta chưa am hiểu về cách đánh địch, về chiến thuật.

Vậy chiến thuật là gì? Là các lối đánh khi giao chiến với giặc, mục đích ngăn giặc, đuổi đánh hay tiêu diệt giặc. Muốn làm thế phải sắp xếp bộ đội, qui định tiến thoái, phối hợp các binh chủng, các đơn vị rồi tuỳ ở tình hình địch, ở địa hình địa vật, ở nhiệm vụ của mình mà điều khiển cuộc giao chiến.

Chiến thuật áp dụng từ cấp trung đoàn trở xuống. Nó là những nguyên tắc cụ thể dùng trong tác chiến đòi hỏi từ đội viên lên đến cấp trung đoàn phải am hiểu nhuần nhuyễn.

Trong quân đội cấp tướng là chiến lược, cấp tá là chiến thuật, cấp úy là chiến đấu. Phối hợp cả 3 cấp ấy mới giành được thắng lợi trong cuộc chiến.

Hội nghị hôm nay tôi chỉ nói những nét chính của chiến thuật như:

1. Tích cực tiến công

2. Giữ thế mạnh đè bẹp giặc

3. Tập trung đánh vào chỗ yếu của giặc

4. Khéo dùng cơ động

Cấp dưới phải hiểu ý định của cấp trên khi nhận lệnh. Để thực hiện kế hoạch phương châm chiến lược thì những hình thức chiến thuật cần thiết phải cần những động tác chiến đấu mau lẹ thành thuộc, cương quyết trực tiếp tiêu hao mau lẹ, sức người, sức vũ khí của quân giặc, đó là nhiệm vụ của binh sĩ. Chúng ta chưa tận dụng đúng mức lực lượng dân quân. Về mặt trinh sát, tình báo chưa phối hợp với dân quân để thực hiện theo dõi địch làm gì, đi đâu, số lượng quân và vũ khí của địch - Khi chúng ruồng bố, cướp tài sản, hãm hiếp thường dân, ta lại chưa có các lực lượng dân quân, du kích, những tổ 3 người để tổ chức bắn tỉa hoặc gài mìn với mục đích chận lại sự hung hăng tàn bạo của chúng - Phải quan niệm những đội du kích, những đội thường trực kể cả bộ đội địa phương ta phải tận dụng lực lượng cũng như lắng nghe sáng kiến của họ.

Ông đi sâu vào nguyên tắc chiến thuật, phải tích cực tiến công - giữ thế mạnh đè bẹp địch - tập trung binh lực đánh vào chỗ yếu của giặc - Khéo dùng lực lượng cơ động - hoặc đánh cắt phía sau lưng địch, hoặc đánh đồn là phụ, đánh tiếp viện là chính. Cách đánh hay nhất vẫn là địch vận, đánh chiếm đồn ít tốn đạn, ít hy sinh chiến sĩ hoặc gọi lính ra đầu hàng, ta không tốn một viên đạn.

Tích cực tiến công không có nghĩa là đánh liều, đánh ẩu. Yếu tố trinh sát là hàng đầu. Phải luôn theo dõi động, tĩnh của địch. Đánh ẩu, khi ta đuối sức, giặc sẽ đè bẹp ta ngay tức khắc.

Kinh nghiệm tại mặt trận Khánh Hòa: Chi đội Vi Dân vì không công phá được đồn địch nên tức giận, ông đã tập trung cán bộ từ tiểu đoàn xuống phụ trách đại đội từ đại đội xuống phụ trách trung đội và từ trung đội xuống phụ trách tiểu đội để biến thành một đại đội mạnh. Vì không “tri kỷ tri bỉ” 2 nên Vi Dân tấn công thất bại. Ông đã hy sinh cùng với cả đại đội.

Bên Trung Quốc cũng vậy: Trong trận đánh Cao Hưng gần tháp Tử Lộ Quan, Lâm Bưu cũng tập trung cán bộ y như Vi Dân đã làm để có một đơn vị mạnh xung phong đánh vào quân Tưởng Quang Đại - Không ngờ Tưởng Quang Đại cũng thành lập đơn vị y như Lâm Bưu - Hai bên đánh nhau 5 ngày khốc liệt. Hai bên đều rút lui và đều thiệt hại nặng nề.

Mới nghe diễn biến trận đánh có vẻ oai lắm nhưng Mao Trạch Đông đã gọi Lâm Bưu về phê bình: Không phải là đọ lực với nhau, đánh ăn thì đánh, đánh kém thì rút lui. Đem cán bộ hy sinh như thế không phải chỉ từng người mà là hàng loạt. Cán bộ chiến sĩ Quân đoàn Lâm Bưu mất 50 đại đội trưởng, non 100 cán bộ Trung đội trở xuống bị hy sinh và mất đứt 30 đại đội. Thật là một chuyện đau đớn!

- “Không thể đem tính anh hùng cá nhân để đánh cho sướng! Ai cho phép thế!”

Đó là hành vi không duy vật - không biện chứng - Đánh lấy tinh thần gây ảnh hưởng chính trị tất nhiên cũng tốt nhưng thiếu gì cách để gây ảnh hưởng chính trị. Đánh thục mạng quả là tội lỗi lớn đối với quân đội và đối với nhân dân.

Ông Sơn liếc nhìn các cán bộ ngồi họp. Ông gằn giọng:

- Có người nghĩ rất sai: bộ đội ta giác ngộ tinh thần cao, không cần phải tập luyện kiên trì vẫn đánh thắng giặc.
____________________________________
1. Lê dương: légion étrangère.
2. biết người, biết ta (ý nói về tương quan lực lượng và cách đánh sở trường của địch)



Tiêu đề: Re: Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Mười Hai, 2009, 07:03:25 pm

- Có người duy tâm đến nỗi nói rằng quân đội Pháp đánh giặc với tư tưởng phi chính nghĩa, nội bộ hoang mang nên đánh không thể thắng ta được. Ta có chính nghĩa nên ta phải thắng. Đó là nhận định sai lầm - Ta phải đánh nhiều vào nó, đánh mạnh địch để chúng không phản công nổi, chúng suy yếu mới có thể làm chúng hoang mang. Tiểu đoàn Ba Dương thuộc Phòng Nam Bộ bao vây ba ngày tại đồn Bàn Nham tỉnh Phú Yên đã uy hiếp địch từng giờ, từng phút với hỏa lực mạnh của ta làm địch hoảng loạn. Ngày thứ 4 chúng chờ đêm khuya đã lén rút chạy vì thiếu lương thực, thiếu đạn và cùng vì sức quyết chiến của ta. Trận này lại bắt chước theo Vi Dân để làm đơn vị mạnh tuy có thắng nhưng ta đã bị hy sinh 1 tiểu đoàn phó (Tấn) và Trẩm là đại đội trưởng1.

Mỗi chỉ huy nên tự kiểm điểm về thiếu sót của mình đã hy sinh bao nhiêu chiến sĩ trong một trận đánh!

Yếu tố bất ngờ cũng quyết định trận đánh. Trong trận chiến giữa Anh và Pháp. Quân Pháp đã lập phòng tuyến dọc theo bờ biển Bretagne để chống sự đổ bộ của quân Anh. Họ đã bố trí lực lượng phòng ngự tại bãi cát là lài vùng này vì địch dễ đổ bộ nhưng họ không đề phòng chỗ có bờ biển hiểm trở. Quân Anh đã vượt 30 cây số đường biển để đổ bộ vào nước Pháp. Họ không đổ bộ lên bãi cát lài là chỗ thấp vì họ biết ở đó sẽ có sự bố phòng nên quân lính họ đã leo lên những vách đá dựng đứng của bờ biển Pas de Calais nơi quân Pháp không lập phòng tuyến. Quân Anh đã chiến thắng Pháp ở chỗ Pháp không ngờ tới.

Đồng chí Trần Công Khanh có sai lầm đã trải dài quân lại không có hệ thống thông tin nên không nắm được lực lượng của đồng chí. Tướng đại tài của Đức là Clausewitz nói: “Tấn công là lối phòng ngự hay nhất” “Le meilleur de défense c’est l’attaque”. Với lực lượng mạnh, địch đã chủ động tấn công ta, đồng chí lại quyết cố thủ, nhưng đã bị hy sinh một số lớn cán bộ, chiến sĩ. Đó là không nắm được “biết địch, biết ta”, không có trinh sát, tình báo để nắm hoạt động địch, không tận dụng dân quân để phá rối địch. Cán bộ, binh sĩ chỉ với tinh thần yêu nước cao không đủ - Nói đến quân đội là nói đến luyện tập mọi cách để tiêu diệt địch: Rèn luyện khỏe mạnh, bắn giỏi, vận động mau chóng chiếm lĩnh trận địa địch, biết đánh chỗ nào trước chỗ nào sau. Đánh có duy vật biện chứng phán đoán địch. Bình tĩnh, không nên đánh liều, đánh ẩu.

Tôi đã tham dự một trận đánh tại Tây Khang bên Trung Quốc. Vì tuân lệnh cấp trên phải giữ trận địa nhưng quân Tưởng lực lượng gấp 10 lần Hồng Quân nên tiểu đoàn tôi bị tiêu diệt chỉ còn hai người. Tôi sống sót trở về đơn vị ăn không ngon, ngủ không yên, luôn nghĩ trong đầu phải tìm cách chôn các đồng chí ấy - Hơn một tuần sau tôi huy động dân quân mới chôn hết số tử sĩ.

Vì vậy ai chịu trách nhiệm sự hy sinh to tát này! Sự hy sinh này rất ảnh hưởng đến tinh thần chiến đấu của chiến sĩ.

Các chiến sĩ đã cùng đồng cam cộng khổ với ta, ta phải mến yêu và bảo trọng sinh mạng họ. Tôi nhớ lại chuyện xưa tại Tây Âu: đội quân Les Croisades của Pháp đi viễn chinh. Trời lạnh lẽo. Có người lính bị thương đang co ro nằm rên. Vị tướng chỉ huy cởi áo đắp cho họ. Vì nghĩa cử đó, đã động viên binh lính chiến thắng quân địch.

Chiến sĩ khi đã vũ trang cho mình lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, tin tưởng và thương yêu người cấp chỉ huy mình như anh em. Họ sẽ dốc lòng chiến đấu vì danh dự của đơn vị, vì cách mạng. Họ quyết hy sinh đến hơi thở cuối cùng.

Hiện thời đ/c có công nhận đ/c là Tổng chỉ huy mặt trận Khánh Hòa? Và tôi là Chủ tịch Ủy ban kháng chiến miền Nam Việt Nam không?

Khi tôi nhận quyết định của Bác Hồ phân công tôi vào miền Nam, Bác chỉ vỗ vai tôi nhấn mạnh một câu: Tôi là Chủ tịch nước, chú là Chủ tịch Ủy ban kháng chiến miền Nam Việt Nam có nghĩa là chú chỉ huy một nửa nước rồi đấy. Tôi vội nói: Bác ạ! Trọng trách nhiều, khó khăn cũng nhiều, Bác cho phép tôi vào lập được chiến công hãy nhận chức này. Từ đấy những văn bản phần nhiều tôi để cho đ/c Thanh Sơn, Phó chủ tịch Ủy ban kháng chiến miền Nam Việt Nam ký thay tôi.

- Đồng chí Khanh thân mến, chúng ta là đồng đội sống chết có nhau! Chúng ta không nên khinh suất để chiến sĩ đổ máu nhiều do cái háo thắng và anh hùng cá nhân của ta. Đồng chí cũng đã thấy trong phim ngoại quốc tại cuộc đấu bò ở đấu trường Madrid bên Tây Ban Nha. Khi thấy màu đỏ của tấm vải do người đấu bò dương ra, bò như thấy mầu máu đỏ nó cứ việc húc không nghĩ đến hậu quả của những nhát gươm người đấu bò đã làm chúng gục ngã. Người ta thường bảo: Ngu như bò - Ông gằn giọng: Chúng ta không nên bắt chước những con bò háo thắng - Là chỉ huy phải sáng suốt nhanh nhậy - Khi tấn công phải như thế nào và cả lúc rút lui cũng làm sao bảo toàn được lực lượng. Về việc rút lui trong cuốn Tam Quốc Chí cũng mô tả đến phép tăng và giảm bếp ăn của Khổng Minh, Thừa tướng Tây Thục quân sư của Lưu Bị2

Sinh mạng chiến sĩ giao cho đồng chí. Đồng chí phải biết nuôi dưỡng, rèn luyện, thận trọng và cân nhắc khi nào cần phải hy sinh xương máu đồng đội. Việc đồng chí cãi lệnh trên là một lỗi nặng nhưng tôi sẵn sàng bỏ qua nếu đồng chí còn tái phạm thì sẽ bị chết như Trương Phi của thời Tam Quốc do tác phong độc tài độc đoán sẽ mất lòng tin của quân sĩ3.

Trần Công Khanh, lắng nghe một hồi và thấm thía lỗi của mình. Ông cúi đầu đứng lên nhận lỗi và hứa không tái phạm. Sau này ông Khanh nói với các chỉ huy một số đơn vị:

- Cuộc hội nghị này Nguyễn Sơn đã làm tôi sáng mắt và tôi đã thấy vai trò chỉ huy của mình rõ ràng. Tôi đã có sai lầm nặng nhưng được Tư lệnh khoan hồng tha lỗi làm cho tôi mến phục vì từ trước tới nay tôi chưa bao giờ sợ ai nhưng bây giờ lại sợ ông Sơn.


Do việc xử lý của tư lệnh, toàn hội nghị đã có một niềm tin tưởng vững mạnh vào sự lãnh đạo của Nguyễn Sơn, một vị tướng lẫy lừng của Trung Quốc sẽ chỉ đạo thắng được những âm mưu thâm độc của giặc Pháp.

Để tạo một khí thế dũng mãnh của quân đội, quân khu phải cố gắng lập nên một chiến công có tiếng vang lớn tại miền Nam.

Buổi họp hôm sau ông đưa ra quyết định phải nhổ cho được đồn Vạn Giã để mở cửa vào miền Nam. Các vị chỉ huy Trung đoàn hôm ấy đã cùng nhất trí. Ông giao Trung đoàn 99 làm chủ công và Trung đoàn Nam Long chia ra đánh chặn đường tiếp viện.

Sau buổi họp 2 ngày Trung đoàn trưởng Hữu Thành đã trình lên ông Sơn đủ sơ đồ đồn Vạn Giã. Ông Sơn đi khảo sát một lần nữa. Ông đến kiểm tra lại thực địa. Sau khi quan sát kỹ ông về thảo ra kế hoạch thực tập công đồn. Ông cho lập một đồn to như thật, bố trí dây kẽm gai xung quanh cho giống sự bố phòng của địch. Các chiến sĩ đã hăng hái tập luyện chiến đấu. Để khắc phục bàn chông của địch, khi xung phong được lót những tấm ván gỗ để chiến sĩ vượt qua bàn chông dễ dàng. Ông thông báo trước: cuộc tập này phải coi như một cuộc tấn công thật sự. Các đồng chí giả làm địch phải bắn đạn thật. Ai bò vào không thấp, bị trúng đạn chớ có than vãn.

Sau đó trung đoàn xuất quân chiến đấu đúng theo kế hoạch của Bộ Tư lệnh. Kết quả ngày 13/5/1946 ta đã tiêu diệt một đại đội Âu Phi 150 lính tại đồn Vạn Giã.

Chiến công lớn Vạn Giã đã làm các cứ điểm khác tan vỡ bỏ chạy. Uy tín của tướng Nguyễn Sơn đang lớn lên dần. Từ tư lệnh Trần Công Khanh đến các sĩ quan cao cấp và binh sĩ các quân khu 5, 6, 15 đã trọn niềm tin tưởng vào vị tướng tài ba xuất sắc từ Trung Quốc về biết làm thay đổi cục diện đen tối của một quân khu non yếu.

Sau này sinh viên đại đội 4 của trường lục quân trung học Quảng Ngãi là Đại tá công binh Ung Răng người dân tộc Ê Đê đã phát biểu:

- Đây là trận đầu tiên, điển hình về chiến thuật “công kiên chiến” không những của khu 6 mà còn là của toàn chiến trường Việt Nam trong mùa hè năm 1946.
____________________________________
1. Trận này sinh viên Quốc Tài, Nguyễn Tuấn và Bạch thọt có tham dự.
2. Khi Lưu Bị phái Thừa tướng Khổng Minh đem quân ra đánh Tràng An. Suốt một tháng bị mưa dầm không đánh được. Ông đã tính rút lui về thì nghe Tư Mã Ý, một tướng tài của Tào Tháo đem đại quân đến để đón đánh. Ông biết rằng sức quân không chống lại được quân Tư Mã Ý nên tổ chức rút lui. Tư Mã Ý nghe được, cho quân đuổi theo. Ông bèn làm kế tăng bếp, cứ mỗi ngày rút quân ông lại tăng thêm 500 bếp. Tư Mã Ý lại kiểm tra thấy mỗi ngày bếp ăn đều tăng lên nên Ý sợ lọt vào vòng mai phục của Khổng Minh. Y bèn tổ chức mau rút quân trở về Tràng An. Vì thế khi rút lui Khổng Minh đã bảo toàn được lực lượng.
3. Quan Công và Trương Phi, tướng nhà Thục, là anh em kết nghĩa. Khi Quan Công bị giết, Trương Phi bắt thợ may phải may gấp 500 đồ tang trong 1 đêm nếu không kịp thì bị chém đầu. Đang đêm thợ may vào báo cáo thấy Trương Phi ngủ ngồi, thợ may bèn giết luôn.



Tiêu đề: Re: Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Mười Hai, 2009, 07:12:15 pm

12

Nguyễn Sơn có thần uy của bậc tướng. Ông nhìn ai là biết người đó có thể làm, có gan làm. Tính kỷ luật cao, ai sai là khiển trách thẳng, không vị nể nhưng sau đó lại dịu dàng uốn nắn cho người sai cách sửa như thế nào. Một tướng lĩnh thương yêu và quan tâm đến cán bộ chiến sĩ, kể cả quan tâm đến đời tư của họ.

Một người nào đó khi tiếp xúc lần đầu với ông nếu nhát gan không dám nhìn thẳng vào mắt ông. Đôi mắt sắc sảo sáng như mắt cọp, chiếc mũi như chim ưng, miệng rộng tiếng nói sang sảng, gò má cao, xương quai hàm bạnh ra, trán rộng, dính theo những làn tóc quăn dài như chưa bao giờ cắt tóc. Khuôn mặt rất uy nghi đúng phong cách của một Tư lệnh và cũng có vẻ là một nghệ sĩ. Trên 23 năm hoạt động bên nước bạn Trung Quốc đã đào tạo ông thành con người thép, con người chỉ biết theo lẽ phải, theo chủ nghĩa cộng sản. Tính cứng rắn của ông đã làm những kẻ cơ hội trong Đảng Trung Quốc không hài lòng nên ông đã bị quy kết “gián điệp quốc tế” và nếu không có các tướng Trần Canh, Lưu Bá Thừa, Nhiếp Vĩnh Trăn cứu và che chở cho ông thì ông đã bị hại. Qua kinh nghiệm cho thấy thẳng thắn quá cũng có hại. Cả ba lần bị trục xuất ra khỏi Đảng. Lần nào khai trừ sau đó đều được phục hồi đảng tịch. Trong thời gian khai trừ ông vẫn bình tĩnh công tác, rút kinh nghiệm và trở nên tế nhị, tránh lỗi lầm vì tính nóng nẩy của mình.

Tháng 4/1946 Chủ tịch Nguyễn Sơn đã triệu tập hội nghị mở rộng, gồm thành phần Bộ Tư lệnh có các chỉ huy đơn vị các nơi và một số cán bộ phòng ban để thực hiện nghị quyết của hội nghị trung ương1. Bộ Tổng chỉ huy sẽ mở lớp huấn luyện cho cán bộ cấp Trung đoàn và cấp Tiểu đoàn.

Chủ tịch đưa ra 3 vấn đề:

1. Tổ chức lớp quân chính đại đội cấp tốc cho các cán bộ đại đội tiểu đoàn (học tại đồn Khố Đỏ2 trong 4 tháng) 3

2. Trong thời gian 4 tháng chấn chỉnh phòng Nam Bộ do đồng chí Nguyễn Thanh Sơn làm Trưởng phòng kiêm Phó Chủ tịch Ủy ban kháng chiến miền Nam Việt Nam lên kế hoạch đem vàng và vũ khí, tài liệu và cán bộ Trung ương vào Nam (bằng 2 đường thủy và bộ) đồng thời mở lớp ngắn ngày bồi dưỡng cán bộ trung, tiểu đoàn, tại Bungalow4

3. Mở trường Lục quân Quảng Ngãi để đào tạo các sĩ quan chính quy làm nòng cốt trong việc đào tạo 3 thứ quân tại 3 miền đất nước.





13

Đầu tháng 4 năm 1946 Ủy ban kháng chiến miền Nam Việt Nam ra thông tư gửi khắp 3 miền: Ủy ban thành lập trường Lục quân trung học. Trong bản chiêu sinh có ghi: Các sinh viên trong toàn quốc có bằng tương đương với Thành Chung5 đều được học. Học viên phải được cấp ủy địa phương giới thiệu, với hồ sơ khám sức khoẻ và chứng chỉ học lực. Ngày 10/5/1946 thí sinh thi trong một ngày. Các môn thi gồm: Toán, hình học, sử, và luận văn. Ngày 15/5/1946 được báo kết quả cuộc thi. Ngày khai giảng là ngày 1/6/1946, các thí sinh phải tự túc ăn ở trong thời gian thi. Địa điểm tại trường công lập thành phố Quảng Ngãi. Học sinh tập trung trước ngày 25 tháng 5 để dự lễ khai giảng.

Về nội bộ Chánh văn phòng bộ tư lệnh ra thông báo cho các phòng, ban để chọn lựa cán bộ dự thi học trường Lục Quân Quảng Ngãi. Phòng Quân Nhu vẫn anh Tố phụ trách. Quân Khí được đổi thành phòng Quân Giới do anh Cúc Trung úy hải quân (chế độ cũ) làm Trưởng phòng. Tôi làm Phó phòng, anh Cống làm Chính trị viên (sau này Cống ra trung đoàn độc lập làm Chính trị viên đại đội) cùng một số binh sĩ miền Nam là nhân viên biết sửa súng.

Khi xét học lực của nhân viên phòng Quân nhu Quân giới chỉ có 3 chúng tôi là có trình độ tương đương với Thành chung nên được đưa đi học. Trong chúng tôi, Huệ không muốn thi để ra sĩ quan, chỉ có tôi và Quảng đăng ký thi vào trường Lục quân. Chúng tôi trước kia cùng học chung tại Collège Cẩm Bàng6. Khi biết kết quả cả hai chúng tôi đều đậu vào trường, tôi được xếp vào đại đội 3 và Quảng ở đại đội 2.
___________________________________
1. Trích từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam (Nhà xuất bản Quân đội 18/1/1985)
2. Đồn Khố Đỏ là đồn trước đây quân Pháp đóng.
3. Tháng 3 năm 1946 Trung ương Đảng mở trường Quân chính Bắc Sơn.
    Tháng 5 năm 1946 Bộ Quốc Phòng mở trường Võ bị Trần Quốc Tuấn.
    Tháng 6 Uỷ ban kháng chiến miền Nam VN mở trường Lục Quân Quảng Ngãi. (Trích trang 232 lịch sử Quân đội Việt Nam, lịch sử Học viện Lục Quân (1946 - 1991).
4. Bungalow chỗ khách sạn của Pháp, mỗi tỉnh đều có.
5. Thành Chung: Lớp 10 chương trình Pháp
6. Collège: trường trung học


Tiêu đề: Re: Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Mười Hai, 2009, 07:18:44 pm

14

Trường Lục Quân Quảng Ngãi được cất ở phía trái trên đường lên nhà ga Quảng Ngãi. Đi dọc cuối trại lính Khố Đỏ1 là trường Quân Chính Đại đội rồi đến trường Lục Quân. Trường được cất thành 10 căn nhà lá, hai căn đầu ở bên trái của trường là Đại đội 1 dùng để ngủ, 1 là nhà ăn vừa là chỗ học. Căn thứ ba cũng để ngủ và căn thứ tư để ăn của Đại đội 2. Căn thứ 5 cùng để ngủ và căn thứ 6 để ăn dành cho Đại đội 3, hai căn thứ 7 và 8 ở bên phải cổng trường dành cho Đại đội 4 - 1 căn dài gần cổng vào dành cho các giáo viên - 1 phòng cho nhân viên hành chính - 1 phòng cho tổng đội có Ban giám hiệu và giáo viên Nhật trong đó có 1 bác sĩ.

Hiệu trưởng Trường Lục quân Trung học Quảng Ngãi là Nguyễn Sơn Chủ tịch Ủy ban kháng chiến miền Nam Việt Nam. Tổng đội trưởng là Phạm Kiệt (trong thời gian chiêu sinh là Trần Thùy) nguyên chỉ huy đội Du kích Ba Tơ.

Tổng đội phó là Nguyễn Thuần.

Chính trị viên: Nguyễn Chính Giao (thời gian đầu Bí thư Chi bộ toàn trường).

Phụ trách tổng đội toàn khoá: Đoàn Khuê2

Các giảng viên về chính trị, triết học, lịch sử dân tộc… đều là cán bộ cao cấp trong Đảng như Lê Duẩn, Hoàng Quốc Việt, Nguyễn Chánh, Trần Lương, Đoàn Khuê, Đào Văn Trường, Hoàng Minh Thi, Nguyễn Sơn - với hai giảng viên người Áo là Hồ Chí Dân cháu nuôi Bác Hồ dạy về học thuyết Mác-Lê Nin bằng tiếng Pháp. Giảng viên này là người Đức giảng bài bằng tiếng Pháp về thuyết tiến hoá của Darwin. Anh nói hơi khó nghe vì có lai giọng địa phương. Ban huấn luyện phải nhờ anh Tố sinh viên đại đội 3 đã đậu tú tài toàn phần lên làm phiên dịch trong những lần anh Dân, anh Long lên lớp.

Ban huấn luyện chia ra 2 nhóm A và B. Các học viên được quyền đăng ký học tiếng Việt vào nhóm A và tiếng Pháp ở nhóm B. Trong toàn trường sinh viên có trình độ Thành chung (lớp 9) chiếm 3/4.


Đồng chí Lê Duẩn trước khi vào Nam có dành 3 buổi để nói về tình hình trong nước và quốc tế. Đồng chí nhấn mạnh vấn đề thanh niên với nhiệm vụ trước mắt. Đồng chí Nguyễn Văn Nguyên nói về vấn đề dân tộc, đồng chí Đoàn Khuê giảng về kinh tế, đồng chí Đào Xuân Trường về chủ nghĩa mác xít, duy vật biện chứng, duy vật lịch sử. Thầy Nguyễn Sơn nói về quân sự và chính trị. Thầy là kho trí thức luôn làm sáng tỏ bài học của các giảng viên. Ấn tượng đầu tiên với tôi là thầy giảng về chính trị. Chính trị là gì? Là cung cách áp bức người làm theo mình. Thật là đơn giản. Sau này tôi suy rộng ra ai cũng có chính trị, nước mình có chính trị của nước mình, nước khác có chính trị của họ. Khi đã mất chính trị có nghĩa là mình mất quan điểm, lập trường mình sẽ thất bại.

Hồ Chí Long dạy về vũ khí - Ban chính trị phụ trách tổ nghiên cứu Mác - Lê Nin cũng nắm phần tổ chức và sinh hoạt Đảng cho toàn trường. Trường lại có Ban thể dục thể thao đã từng đấu bóng đá với đội bóng của tỉnh.

Huấn luyện quân sự có các sĩ quan Nhật Bản tình nguyện đi theo cách mạng.

Đại đội 1 có huấn luyện viên Đông Hưng (tên Nhật Camo)

Đại đội 2 có huấn luyện viên Minh Ngọc (Nakahara)

Đại đội 3 có huấn luyện viên Phan Lai (Igari)

Đại đội 4 có huấn luyện viên Minh Tâm (Sato)

Huấn luyện viên trưởng Nguyễn Văn Thống (ishu Taku và phụ tá là Phan Khuê)

Một số sĩ quan Việt Nam phụ trách quản lý sinh hoạt:

Đại đội 1 có anh Hiền, Lộc, Thành

Đại đội 2 có anh Bằng và Thám

Đại đội 3 có anh Trường và Thắng

Đại đội 4 có anh Phi Hùng (Mũi) và Thám

Ban hành chính quản trị có anh Du Phong tức Nguyễn Chính nguyên chánh văn phòng Bộ tổng tham mưu. Chánh vãn phòng Ủy ban kháng chiến miền Nam Trung Bộ trong những ngày tựu trường sau đó Ngô Kiên thay thế đến gần ngày mãn khóa là Trần Ren.
______________________________________
1. Thời Pháp thuộc có 2 loại lính: Khố đỏ và Khố xanh. Lính khố đỏ thuộc quân đội Pháp. Khố xanh là lính của Nam triều (garde indigène)
2. Các cán bộ trường sau này ở cấp cao: Đoàn Khuê: Bộ trưởng bộ Quốc phòng. Phạm Kiệt: Trung Tướng. Nguyễn Thuần: Tư lệnh phó quân khu 4. Nguyễn Chính Giao: Phó ban đối ngoại Trung ương. Phan Hàm: Thiếu tướng. Lê Văn Nhiều: Chánh Văn phòng Tổng cục chính trị...


Tiêu đề: Re: Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Mười Hai, 2009, 07:21:50 pm

15

Hôm khai mạc trường Lục quân trung học Quảng Ngãi, đồng chí Nguyễn Sơn giới thiệu thành phần tham dự có thủ tướng Phạm Văn Đồng đại diện Nhà nước tại miền trung, đồng chí Hoàng Quốc Việt - ủy viên Trung ương Đảng, đồng chí Nguyễn Chánh (Chính trị viên đội du kích Ba Tơ) làm ủy viên UBKC và ba là Ủy trưởng quốc phòng Trung bộ. Trần Hữu Dực UBHC Trung Bộ và Nguyễn Duy Trinh, Ủy viên, đồng chí Trương Quang Giao, Bí thư tỉnh, đồng chí Trần Toại (tức Phương) -  Chủ tịch UBNDCM tỉnh Quảng Ngãi.

Đồng chí Nguyễn Sơn nói mục đích của Bác Hồ và Bộ Tổng tham mưu chủ trương lập một trường quân sự chính quy ở miền Trung và miền Bắc để cung cấp cán bộ trước mắt cho các tỉnh trong toàn quốc.

Đồng chí nhắc lại lời nói của Bác Hồ với quân đội: “Trung với nước, hiếu với dân” là bổn phận thiêng liêng, một trách nhiệm nặng nề, nhưng cũng là một vinh dự của người chiến sĩ trong đạo quân quốc gia đầu tiên của nước ta và những lời dặn dò của Đại tướng Võ Nguyên Giáp về huấn luyện quân đội1.

Đồng chí Sơn nói về thực tế của chiến trường miền trung. Giặc Pháp lấn ra Củng Sơn, Đèo Cả với manh tâm chiếm tỉnh Phú Yên. Cách đây 4 hôm chúng đã tấn công An Khê. Phía ta, tương quan lực lượng yếu hơn chúng về vũ khí và kỹ thuật chiến đấu rất nhiều. Ta chỉ với tinh thần yêu nước dũng cảm chưa đủ, phải học cách đánh giặc cho có hiệu quả. Vì lý do đó trường Trung học lục quân ra đời mặc dù chỉ cách mặt trận 100 cây số.

Trong buổi lễ này, Nguyễn Sơn đã đả phá luận điệu của bọn phản động gán cho trường Lục Quân này là trường cộng sản, cộng vợ, cộng con, cộng của cải.

Ông nói:

- Còn có người ngộ nhận bị bọn phản động lừa bịp cố tình chia rẽ mặt trận đoàn kết dân tộc. Chúng cho đây là trường Hồng quân của cộng sản “có lẽ vì tôi là người của Hồng Quân từ bên Tầu về đây”. Nhưng trường này toàn là người của mặt trận Việt minh yêu nước.

Trước mắt bọn Pháp đang lăm le hòng chiếm lại ba nước Đông Dương. Ta cần phải xây dựng đào tạo một đội ngũ chỉ huy quân sự có trình độ gồm những thanh niên yêu nước có học vấn, có sức khỏe. Trong số học viên có mặt hôm nay đâu chỉ là Việt Minh và Cộng Sản mà gồm đủ các thành phần trong xã hội kể cả con em phú hào và quan lại (Trong số học viên có hai thầy phán2 trên ba mươi tuổi. Có cả dòng Tôn thất nhà Nguyễn và các thành phần dân tộc ít người như dân tộc Mường, Mán, Êđê, Bana, Chăm và Hoa Kiều.)

Về phần các huấn luyện viên Nhật, chúng ta không nên coi họ giống như quân Phát Xít. Đây là các đồng chí tiến bộ chúng ta gọi là người “Việt Nam mới”, họ tình nguyện cùng chúng ta chống Pháp, tranh đấu cho lẽ phải cho hạnh phúc của nhân loại. Còn các huấn luyện viên người Pháp, người Đức cũng vậy: Hồ Chí Long, Hồ Chí Dân đều là những người tự nguyện mang họ của Bác Hồ hoặc cháu Bác Hồ với ý chí noi theo Bác cùng đi làm cách mạng. Chúng ta phải tôn trọng và hoan nghênh thiện chí của những người “Việt Nam mới” này3

Tôi mong rằng tất cả chúng ta, giảng viên, sinh viên và tất cả các cơ quan, ban ngành, các đoàn thể trong các tỉnh miền Nam góp sức lại để cùng diệt giặc bằng cách làm tốt công việc của mình.

Giọng ông oang oang hùng hồn đã gây trong sinh viên, ấn tượng và tin tưởng ở vị hiệu trưởng tài ba, lỗi lạc của mình.

Đồng chí Lê Văn Kiện, sinh viên đại đội 1 trước khi đi học là đại đội trưởng đã từng chiến đấu ở Phú Yên, Khánh Hoà4. Đồng chí thay mặt các sinh viên toàn trường lên phát biểu đại ý hoan nghênh chủ trương lập trường của Trung ương cùng sự nỗ lực xây dựng nhà trường và yểm trợ mọi mặt của chính quyền địa phương và đoàn thể. Ông hứa hẹn các sinh viên sẽ cố gắng học tập trao dồi đạo đức để xứng đáng là sĩ quan quân đội Việt Nam và không phụ lòng sự ưu ái giúp đỡ của quân dân chính đảng cũng như thầy Hiệu trưởng Nguyễn Sơn.

Trước khi bế mạc, ông Nguyễn Sơn đã mời các sĩ quan Nhật lên tập trung trước cột cờ đứng hàng ngang cùng ông và các sinh viên tưởng niệm sĩ quan Ikawa đã hy sinh tại An Khê vì tổ quốc Việt Nam và cũng vì hoà bình thế giới.

Tất cả sinh viên: 480 người theo chương trình huấn luyện 6 tháng bắt đầu học từ 01/6 đến 01/12/1946 thì mãn khoá. Lúc đầu trường lục quân thuộc Ủy ban kháng chiến miền Nam Việt Nam quản lý cho đến tháng 12 Ủy ban này giải thể theo quyết định của trung ương sau tháng 12 chuyển thành Ủy ban kháng chiến trung bộ. Trường đã được Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quảng Ngãi Trần Toại giúp đỡ trường mọi việc trong xây cất trường kể cả huy động các bà mẹ, các chị chiến sĩ lo nấu ăn, cải thiện đời sống sinh viên. Ngoài ra trường còn có bộ phận dịch thuật, thông ngôn, ấn loát tài liệu học tập phổ biến các đại đội toàn trường. Mỗi học sinh được cấp một mũ sắt mũ cối, mũ ca lô, 2 bộ đồ vải xám (Sita do hãng Phú Phong dệt), 1 đôi giầy da. Mỗi chủ nhật sinh viên được nghỉ để xả hơi và tham quan thị xã Quảng Ngãi.


Ông luôn lái xe vào các mặt trận miền Nam. Khi trở về theo thường lệ bất cứ ở nơi nào đồng chí Nguyễn Sơn cũng dậy sớm đôn đốc các đơn vị chạy đều với ba lô (quần áo, sách vở). Khi ông dẫn đầu đại đội này, qua ngày khác ông lại dẫn đầu đại đội khác. Các sinh viên phải đeo ba lô vác súng trường, đạn dược chạy từ trường đến núi Bút hoặc núi Thiên Ấn khoảng 4-5 cây số và trở về. Khi vào thành phố cách trường một cây số sinh viên bắt đầu hát bài: “Dân Nam ơi nhớ ơn Bác Hồ”, “Đoàn giải phóng quân”, “Lục quân Việt Nam”, “Quyết chiến”, “Cảm tử quân”, “Cương quyết ra đi”, “Xếp bút nghiên”...

Anh em sinh viên tập luyện rất nhịp nhàng, hùng dũng lại đẹp trai, hát hay nên có một số cô gái Quảng rất khâm phục và cảm tình. Khi đoàn sinh viên đi tập về ngang thị xã, các thiếu nữ, thiếu nhi đã ùa ra cửa trầm trồ khen ngợi. “Các anh diễn hành khéo quá”.
_____________________________________
1. Lịch sử Bộ Tổng tham mưu trong kháng chiến chống Pháp 1945-1954 (BTTM 1991)
2. Thầy phán là chức vụ cao hơn Thầy ký trong tổ chức chính quyền Pháp (Sécrétaire résidence)
3. Sau này Hồ Đệ và Trần Đình Mai đánh giá chủ trương đại đoàn kết của tướng Nguyễn Sơn ví như tỉnh Quảng Ngãi là cái nôi, Nguyễn Sơn là bà đỡ cho người “Việt Nam mới”.
4. Đại đội trưởng Lê Văn Kiện có gởi 2 cán bộ trung đội đi thi vào trường lục quân nhưng đều bị trượt (rớt)



Tiêu đề: Re: Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Mười Hai, 2009, 07:36:39 pm

16

Ngoài sự tập luyện gian khổ với các giáo sư Nhật hết lòng dạy dưới nắng gắt hoặc mưa sa. Thao trường là những nơi đồng ruộng, sông rạch, núi Ân, núi Búi, Ba La, Thu Xà, Vạn Tượng. Sinh viên vẫn cố gắng với tâm niệm sẽ được đem sở học của mình thi thố tại chiến trường. Họ đại đa số là trí thức, có rất nhiều tài. Đại đội 1 với tiếng đàn Hạ uy di réo rắt của Hà Thúc Cần, câu ca Văn Thọ. Thọ là sinh viên trong thành nội Quảng Ngãi. Anh là con bà Ưng Đoá, dòng dõi nhà vua. Trong các cuộc biểu diễn văn nghệ tại rạp chiếu bóng (Cinéma) anh giới thiệu các tiết mục rất hấp dẫn và có duyên (Sau này anh ra ngoài miền Trung làm Trung đoàn phó một đơn vị)

- Đại đội 2 có Papa Kỳ1 với những câu vọng cổ mùi mẫn và số bài thơ hùng hồn của Tống Sĩ Uyên - Riêng đại đội 3 nổi bật là tờ bích báo Búa do Nguyễn Tố (Thiết Vũ) cùng Ngụy Trường Sanh, Trần Đình Mai nằm gần nhau và Cát Tường là ban biên tập mạnh nhất trường với chủ trương “Búa từ ban huấn luyện, xuống sinh viên, đến nhà bếp v.v… Nó cũng biểu hiện được phong cách thẳng thắn, hiên ngang của thầy Sơn hiệu trưởng. Tố giỏi về tiếng Pháp. Anh thường được mời lên phiên dịch những bài về mác xít do cháu Bác Hồ người Đức là Hồ Chí Dân giảng dạy. Ngoài ra còn có Nguyễn Văn Tuấn trong nhóm Hoàng Mai Lưu (Nam Bộ) là sinh viên số 230 học tú tài một, giỏi guitare đã phối âm nhiều bài với 3 bè như 'Tiếng gọi sinh viên” và “Mau về Nam” của Lưu Hữu Phước. Sinh viên Cát Tường (một thời nổi tiếng chủ hiệu may Le Mur ở Hà Nội) đã vẽ vài nét là xong Bác Hồ. Sinh viên Quốc Tài đã sáng tác bài Sinh viên lục quân hành khúc. Hai người này luôn cùng đi chơi với nhau và hay bị phạt vì về trễ, nên anh em gọi là Cát Tài.

Nội dung bài hát: Sinh viên lục quân hành khúc:

Cùng nhau sinh viên ta mau tiến lên, kìa...
Chim hót trên cành đem bao phút vui mừng
Lục quân ta mong tương lai sáng trong hồng
Chung sức ta cùng bền chí bước lên đường
Còn đâu thu qua với ngày tàn qua.
Nào cùng bước! cùng nhau vang hát
Rền khắp phương trời Nam
Ngày mai Lục Quân bước
Theo Bác Hồ xây đời sáng trong


Bài hát này chỉ phổ biến một số người trong trung đội 2 đại đội 3.

Một số anh em sinh viên khác cũng có những sáng tác thơ về tâm tình giữa sinh viên cũng như về thầy.

Đây là bài thơ của Trần Đình Mai - Trung đội 1 - Đại đội 3:

Cờ khởi nghĩa thúc hùng binh
Hồn thiêng sông núi chúng mình nối tay
Cẩm Thành
2 hội tụ từ đây
Lục Quân khai giảng, cờ bay rợp trời


Tướng Nguyễn Sơn râu hùm, hàm én
Dậy cầm quân diệt giặc hiên ngang
Bút Sơn, Thiên Ấn kỳ quan
Chạy đều rèn luyện thân mình vì dân


Trong kháng chiến không nài gian khổ
Học tại đây, vui chuyện mày, tao
Sống cho đáng mặt anh hào
Sinh viên luôn nhớ công lao của thầy.



Một bài khác có tên “Vị tướng lĩnh”:

Một ngày mộ Xuân
Vị tướng lĩnh áo bạc phong trần
Đối với nụ cười khô, lạnh
Của những ngày xưa
Mấy mươi năm bôn tẩu giang hồ.


Có đêm vui thân mật
Người kể chuyện tâm tình
Ngoài muôn dặm chén nồng cũng lạt
Nước mất còn vui gì tuổi xanh
Lần lữa tháng năm cằn mái tóc
Mộng vàng dệt mãi vẫn chưa thành
Đêm đêm nặng trĩu sầu chinh khách
Nằm vọng quê nhà qua bức tranh
Bâng khuâng biết đền bao giờ nhỉ
Có thể đem về vạn chiến binh.



Dương Viết Nuôi - Đại đội 1 (sau này là Thiếu tướng) có bài:

Ta đã ra đi khắp mọi miền
Ngôi sao trên mũ, dạ trung kiên
Chiến trường vẫy gọi cùng hăng bước
Gác chuyện riêng tư, lỡ tình duyên
Thương những chàng trai đã một lần
Xông pha chiến trận chẳng tiếc thân
Nắm xương gửi lại ngoài tiền tuyến
Nhiệm vụ vinh quang quyết hoàn thành


Cùng nhau gặp gỡ trong luyện tập
Ba hướng về đây kết tình thương
Miền Trung Quảng Ngãi ngày khai giảng
Cố học, mai sau lập chiến công



Sinh viên Tống Sĩ Uyên (sau là Đại tá, thương binh) có những câu thơ:

“Đời lính trẻ chỉ quen mùi thuốc súng,
Góp công lao xây dựng cho trường
Thắm tình “cá nước” thân thương
Lục Quân ghi tạc cội nguồn từ đây”

3
_____________________________________
1. Papa Kỳ là chiến sĩ từ mặt trận Đất Đỏ tại Bà Rịa bị vỡ. Ông đi theo cánh quân của Trung đoàn trưởng Hiền trôi dạt ra miền Trung cùng với Nhàn (Hoàng Thành) Tuyết Minh và Tuấn...
2. Cẩm Thành là tên thành Quảng Ngãi năm 1946 đã bị dân quân phá.
3. Xem phụ trang



Tiêu đề: Re: Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Mười Hai, 2009, 07:38:14 pm

17

Các huấn luyện viên người Nhật dạy rất chăm chỉ, nghiêm túc. Sau khi hết giờ tập đại đội trở về trường nếu hàng ngũ học viên không ngay thẳng hoặc hát không to, thì bị huấn luyện viên phạt. Khi tới trường, huấn luyện viên hô: Mục tiêu sân bay... chạy đều... có nghĩa là chạy thẳng lên sân bay cách ba cây số rồi mới trở về trường cũng có nghĩa là bị phạt phải chạy thêm sáu cây số.

Giữa trưa nắng chang chang của mùa hè có người chạy tới trường mệt quá không ăn được cơm. Nhưng tới giờ học cũng vẫn phải cố gắng lên lớp học. Toàn đại đội chịu phạt huấn luyện viên chạy theo cùng chịu phạt chung với sinh viên. Có thể nói quân phong, quân kỷ, các sinh viên Lục quân thi hành rất nghiêm chỉnh.


Các huấn luyện viên người Nhật tuy nghiêm nhưng đôi khi cũng kể vài chuyện để sinh viên thư giãn. Huấn luyện viên Minh Ngọc nói: Khi ông học trường Võ bị Hoàng gia Nhật Bản, trong giờ tập bắn sinh viên thấy vài thiếu nữ xuất hiện gần bia ngắm, họ vội hô mục tiêu xuất hiện: nhắm bắn... Các sinh viên mình cũng đều cười ồ lên vì cùng là học trò cả, bên Nhật hay bên ta cũng thế. Ta cũng hô mục tiêu áo hồng... nhắm bắn... ấy là “nhất quỷ nhì ma, thứ ba học trò”.

Thiếu tướng Hồ Đệ (sinh viên Đại đội 3) nhớ lại: Tập kiếm phải hét to với tiếng “Sát” quan trọng là đôi tay phải vận lực thật cứng, chém thẳng tới trước đúng theo bí truyền của võ sĩ đạo. Vì vậy các sinh viên đã luyện cổ tay bằng khúc tre ngắn. Lúc nào rảnh rang họ cũng tập. Kể cả khi chờ đợi ăn cơm anh nào anh nấy cũng nắn bóp khúc tre. Cảnh này làm cho các chị em nhà bếp tò mò.

Các chị nói:

- Các anh chỉ cho bọn em tập bóp với!

Các sinh viên đều cười ồ. Lúc ấy các chị mới hiểu mình đã nói hớ. Con gái xứ Quảng không ngán ai, họ mặc quần soọc ngắn, mang dao găm bên lưng, cắt tóc “cua” 1 như đàn ông lúc này lại phải một phen thẹn thò trước các chàng sinh viên quỷ quái...


Mỗi tuần đều có hai lần lên giảng đường tại rạp chiếu bóng Quảng Ngãi về các môn học Mác - Lênin2, quân sự, chiến lược chiến thuật, triết lý, xã hội học và cũng có hôm nói rộng về tôn giáo và chiến sự v. v...

Chúng tôi không ngờ thầy Sơn đã mời được các đức cha bên Tin lành, Thiên chúa giáo, Phật giáo, các giáo sĩ trong đạo Cao đài cùng đến dự buổi nói chuyện về tôn giáo của thầy. Buổi nói này đều được mở rộng chung cho cả đồng bào đều được nghe. Chúng tôi không nhớ kỹ sự trình bày chi tiết của thầy nhưng chỉ thấy các vị tôn giáo khả kính kia thỉnh thoảng lại phá lên cười hoặc thích thú vỗ tay. Sự trình bày của thầy quả là giản dị nhưng thâm thúy. Lối diễn tả duyên dáng hóm hỉnh, cách trình bày dẫn chứng sáng sủa mạch lạc lôi cuốn được cả những vị chân tu có tiếng là nghiêm nghị cũng phải bật cười.

Nhận xét về thuyết trình với một vấn đề cụ thể nào ông Nguyễn Sơn là một nhà hùng biện hơn hẳn các thuyết trình viên khác. Để tạo cho học viên có được sự chăm chú ông chen vào những mẩu chuyện lấy từ trong cuộc chiến đấu trường kỳ chống quân Nhật và quân Tưởng trên 20 năm tại Trung Quốc. Ông kể lại có lần ông chỉ huy một đại đội, được tin quân Tưởng thất trận đang rút lui. Ông đã kéo quân đuổi theo và tước khí giới một sư đoàn quân Tưởng Giới Thạch - ông diễn tả hùng hồn y như đang lâm trận. Ông chạy chỗ này hô: “Giơ tay lên, bỏ súng xuống, tiến thẳng về phía trước” - Ông chạy qua bụi mía hô to: “Ai chống cự bắn chết liền”. Trong đêm trăng sương mờ bọn lính quốc dân đảng không biết Hồng quân có bao nhiêu người vì đại đội ông giăng hàng hai bên cùng hô - Chúng bỏ súng và đi luôn về phía trước cứ thế hết đại đội này đến đại đội khác đều bỏ súng. Đêm ấy ông phải huy động dân chúng đem hơn 10 xe bò mới chở hết súng đạn.

Giọng ông sang sảng hợp với khổ người cứng rắn giống pho tượng đồng đen - Khi ông tả những cảnh dã man của bọn Pháp lê dương chém giết hoặc hãm hiếp dân lành. Ông đã làm các sinh viên sởn ốc và sục sôi căm thù.

Ông là người nghiện thuốc lá, nhưng khi nói chuyện cả ba bốn tiếng đồng hồ ông không cần bản thảo, không cần hút thuốc và không cần uống nước. Cứ thế thao thao bất tuyệt rất lưu loát, hùng hồn.

Chúng tôi học lý thuyết thường thường vào buổi chiều 4 tiếng và cứ 2 tiếng lại nghỉ xả hơi 15 phút - Một lần tôi đã chứng kiến ông nói tại sân vận động Quảng Ngãi trước 10 nghìn khán giả suốt hơn 4 tiếng đồng hồ. Ly nước để trước mặt vẫn không vơi tí nào. Người nói hấp dẫn, người nghe say mê. Sân vận động tuy rộng nhưng im phăng phắc. Có thể khoa nói của ông được hình dung như thác lũ tuôn trào như dầu sôi lửa bỏng làm cho người nghe phải phấn khởi, phải sục sôi lửa hận và tức khắc cầm súng, cầm gươm lao về phía trước tiêu diệt quân xâm lăng dã man tàn bạo.

Hôm ấy ông nói về tình hình đất nước, ông vạch mặt bọn phản động mà trên chủ trương đoàn kết: Bác Hồ buộc phải nhường cho chúng những Bộ trong nội các của ta. Cách nói của ông xem ra đơn giản nôm na, ví von nhưng lại rất hấp dẫn người nghe. Bọn phản động Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam, “đã được đàng chân lân đàng đầu” ông coi họ là “ngu như bò”. Trong các cuộc nói chuyện với công chúng hoặc sinh viên ông thường nói “ngu như bò” để chỉ bọn phản động. Những kẻ kêu gào đòi lật đổ Chính phủ Hồ Chí Mình, chúng cho là chính phủ cộng sản thì quả đúng la “ngu như bò” bởi vì trong chính phủ có vua Bảo Đại là cố vấn, Nguyễn Hải Thần là Phó chủ tịch nước, Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh đều là Bộ trưởng. Chính bọn chúng đã vả vào miệng chúng. Còn những vị như Huỳnh Thúc Kháng, Bùi Bằng Đoàn, Phan Kế Toại, Bùi Kỷ, Phan Anh, Linh mục Phạm Bá Trực... nếu các ông này là cộng sản thì lừa bịp được ai kể cả trẻ con. Luận điệu xuyên tạc này giống như người nằm ngửa nhổ nước bọt lên nhưng bao nhiêu nước bọt lại rơi xuống mặt, như thế có phải là chúng “ngu như bò không?”. Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà non trẻ mới thành lập. Tiền trong ngân khố do chế độ cũ để lại chỉ còn hai ngàn bạc rách không tiêu được. Ta lại để tang hai triệu đồng bào chết đói vì bọn phát xít Nhật dùng lúa để chạy máy nên các kho lúa đều hết cả. Chúng ta lại còn diệt giặc dốt, giặc đói và diệt giặc ngoại xâm. Vậy thì làm gì ta có “sản” để mà “cộng” quả thật chúng “ngu như bò” và hơn cả bò nữa. Với khoa nói của ông rất nôm na, giản dị nhưng trong sáng, các tầng lớp nào cũng hiểu được. Những ví dụ lý thú đã gây nhiều ấn tượng cho người nghe.
______________________________________
1. Cua (tiếng Pháp là court) có nghĩa là cắt tóc ngắn cỡ 3 phân.
2. Vì tình hình trong nước & thế giới lúc đó, Bác Hồ tạm thời tuyên bố giải tán Đảng cộng sản Việt Nam - Đảng được nghi trang là Hội nghiên cứu Mác xít. Về dạy Mác xít tại trường có: Nguyễn Sơn, Đào Văn Trường, Nguyễn Chính Giao, Hà Huy Giáp, Lê Duẩn v.v...



Tiêu đề: Re: Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Mười Hai, 2009, 07:50:07 pm

18

Nguyễn Sơn 17 tuổi là một trong số người ngoại quốc học trường Võ bị Hoàng Phố1 đầu tiên của nước Trung Hoa. Trong thời kỳ tham gia Bát lộ quân (tức là Hồng Quân) ông là giáo sư giảng dạy về chính trị, về chiến lược chiến thuật, về công tác tổ chức vận động quần chúng thành từng đoàn thể để đi theo phục vụ cách mạng - Qua kinh nghiệm giảng dạy tại đại học kháng Nhật phân hiệu 2 trường đảng cục 2 trung ương và một số trường khác do trung ương đảng tổ chức, ông rất mong muốn tại Việt Nam được thành lập trường đào tạo cho cán bộ có đầy đủ trình độ, kinh nghiệm để chỉ huy và tổ chức quần chúng thành một hậu phương vững chắc chống xâm lăng.

Trong thời gian luyện tập cũng có những lúc gây cho anh em nhiều ấn tượng. Sau khi được nghỉ 5 phút trên đỉnh núi Thiên Ấn, chúng tôi thấy một chiếc xe hòm đen2 leo lên đồi. Xe này do ông Nguyễn Sơn lái vòng quanh núi và dần dần tiến vào chỗ tập. “Thầy hiệu trưởng đã đến”. Đại đội trưởng Đào Văn Trường tập họp các sinh viên để chào thầy, “Nghiêm” chào tư lệnh “Chào”, Nguyễn Sơn khoát tay và bảo anh em cứ tiếp tục học. Sau 10 phút quan sát ông cho tập hợp để giảng về sự phối hợp của bộ binh với các loại vũ khí nặng.

Thường thường ông hay đến chỗ tập của các đại đội khi ở núi Thiên Ấn, hay núi Bút, khi sông Trà hay Ba La, Thu Xà để góp ý cho sinh viên thu thập rõ ràng về bài đang học. Trần Đình Mai nói với tôi: Xưa kia chỉ có tên công sứ Pháp đi xe Limousin lên núi ngoạn cảnh. Nay tướng Nguyễn Sơn lái xe jeep lên núi này để dạy ta đánh Pháp. Sự kiện đó không những riêng anh mà các sinh viên khác đều lấy đó làm niềm tự hào được tướng Nguyễn Sơn làm thầy.


Có một lần, phòng Thông tin Quảng Ngãi tổ chức đêm văn nghệ để chào mừng ngày khai giảng trường Sĩ quan Quảng Ngãi. Ban tổ chức có mời các giáo sư và sinh viên tham dự các tiết mục có đơn ca song ca, vũ khúc và kịch - Cô Duyên Hường, một ca sĩ cũng là một hoa khôi của tỉnh và cũng là chị ruột tôi đã lên hát bài: “Thiên Thai” - Một tuần sau, cũng tại rạp này, ông Nguyễn Sơn nói:

- Chúng ta ở cách mặt trận hơn 100 cây số. Mọi người đang chuẩn bị tinh thần để chiến đấu từ bên trong địch đổ ra và dưới biển Thu Xà cách thị xã 10 cây địch có thể đổ bộ tấn công ta. Ta phải xếp bài Thiên Thai lại một bên và sau khi chiến thắng quân xâm lược chúng ta giở ra hát cũng không muộn - Chuyện đó đến bây giờ các sinh viên Lục quân vẫn còn nhớ - Hơn nữa anh Trường đại đội trưởng đại đội 3 của trường lại là người nhớ dai nhất vì anh đã lại nhà tôi đánh đàn Hạ uy Di cho chị tôi nghe. Nếu nhà trường kéo dài thêm 6 tháng nữa, anh Trường có thể là anh rể của tôi vì những ngày nghỉ anh thường đến nhà tôi chơi đàn.

Một lần khác tại sân vận động Quảng Ngãi có cuộc đấu võ Ăng Lê (boxe) 3. Họ đấu hăng đến nỗi sứt miệng chảy máu mũi. Ông Nguyễn Sơn leo lên đài và bắt buộc các võ sĩ ngừng tay không được đánh “Hiện giờ không phải lúc chúng ta gây thù hận giữa nhau. Lúc này nên tập trung hết sức lực đi vào hàng ngũ Vệ quốc đoàn để đánh giặc ngoại xâm. Tạm thời các anh em hãy dẹp lối chơi này qua một bên để đầu quân bảo vệ Tổ quốc đang cần đến sức lực các anh để giữ nước”. Nói xong ông yêu cầu Ban tổ chức dẹp liền cuộc đấu này.
______________________________________
1. Trường này do Tôn Trung Sơn mở. Ông là vị lãnh đạo Quốc dân đảng thục hiện cuộc cách mạng tân dân chủ tại Trung Quốc.
2. Xe hòm đen: Loại xe du lịch của Pháp tên Traction quinze
3. Ăng lê: tiếng Pháp là Anglais: người Anh. Xưa kia ta thưòng gọi là đánh bốc (tiếng Pháp là boxe)


Tiêu đề: Re: Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Mười Hai, 2009, 07:51:06 pm

19

Khi đợt 1 thi xong. Tôi qua bên Văn phòng Ủy ban kháng chiến miền Nam tại phía bên trái trước mặt trường. Tôi vào văn phòng bất ngờ gặp ông Nguyễn Sơn. Ông hỏi:

- Đồng chí Tài đi đâu đấy!

- Thưa Chủ tịch tôi xin cấp giấy phép dùng súng lục.

- Đánh sẵn chưa? Ông hỏi.

- Dạ có và có dán ảnh với nội dung được dùng súng tại khắp các tỉnh miền Nam Việt Nam

- Đưa tôi ký.

Chủ tịch liếc sơ và ký liền.

Tôi cám ơn và nói:

- Đồng chí Chủ tịch có thể tiếp tôi trong 15 phút về vấn đề tình báo được không?

- Được, chiều 2 giờ đồng chí đến gặp tôi.

Đúng hẹn tôi đến và trình bày về tổ chức tình báo không biết ta có để ý chưa chẳng hạn - Guépiou của Nga, Scoland Yard của Mỹ, Zestapo của Đức, Intelligent service của Anh, 2 e bureau của Pháp. Ông giơ tay ngắt ngang.

- Tốt! Hiện giờ tôi và đồng chí Thanh Sơn đang nghĩ đến việc đó nhưng chưa có người huấn luyện.

Tôi nói liền:

- Chủ tịch yên chí! Tôi có người quen ở Sài Gòn làm trong sở nghiên cứu mật thám, anh ấy là bạn với anh tôi, hồi năm 1938, 1939, khi cha tôi là chủ bưu điện ở Phước Long, tỉnh Rạch Giá (Kiên Giang). Tôi học ở Long Mỹ và anh tôi học ở Collège Bassac - Cần Thơ. Sau anh lên Sài Gòn học và quen anh Đức. Hiện nay anh ấy đang ở trong bộ đội Bà Rịa thất trận trôi dạt ra ngoài này, Chủ tịch cần, tôi giới thiệu - Tôi tin anh ấy điều khiển lớp tốt.

- Bon! Sava, merci!1 Nói xong ông vỗ vai tôi.

- Cho anh ta gặp tôi vào 9 giờ 30 sáng mai.

Tôi trở về rất hân hoan và đi gặp Đức để cho biết cuộc hẹn này. Sau đó Đức đã đến đúng hẹn.

Cách hai tháng sau ông Thanh Sơn đã lập phòng Tình báo Điệp báo miền Nam Việt Nam và anh Đức người tôi giới thiệu là thầy huấn luyện cho khoá đầu tiên cho các học viên ở tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Phan Rang về học tại Phong Niên thuộc tỉnh Phú Yên trong thời gian 6 tháng vào đầu tháng 3 năm 1947. Sau đó rút lại còn bốn tháng vì tình hình chiến sự căng thẳng.

Ông Thanh Sơn đã cho người ra trường Võ bị Sơn Tây rút Phạm Ngọc Thảo mới học có 2 tháng ở Võ bị về. Sau đó là sinh viên Nguyễn Thống cũng ở trường Võ bị này được chuyển vào Nam Bộ năm 1948 làm phó khoa Tình báo Quân khu 9. Phòng Tình báo2, Điệp báo miền Nam Việt Nam được thành lập vào tháng 10, Phạm Ngọc Thảo làm Phó phòng3, Nguyễn Duy Khâm làm Trưởng phòng, anh Chi làm Chánh văn phòng.

Khi rời Tư lệnh Bộ, tôi gặp cô Nội vợ ông Nguyễn Sơn ở chung với một cô trong căn nhà gần Bộ Tư lệnh.

Trong dịp này Thiếu tướng Lê Thiết Hùng đại diện Bộ Tổng tham mưu đi thanh tra các trường quân chính tại miền trung. Ông có ghé thăm trường lục quân đang học giai đoạn đầu. Nhà trường được tin đã chuẩn bị thật chu đáo về mọi mặt.

Hiệu trưởng Nguyễn Sơn đã đón tiếp Thiếu tướng với nghi thức long trọng cùng các đại đội ngay hàng thẳng lối. Sau khi Thiếu tướng được hướng dẫn đi thăm trang trại kể cả nhà bếp và giếng nước, Thiếu tướng khen nhà trường tổ chức có quy củ, ngăn nắp tuy nhiên ông nhấn mạnh quân đội đi lên chính quy phải đầu tư nhiều hơn nữa. Nguyễn Sơn hoan nghênh sự đóng góp của Thiếu tướng đồng thời ông “phản pháo”. Ông vuốt râu và chỉ vào những trang trại che lá trong hoàn cảnh thiếu thốn, ông nói:

- Thiếu tướng ạ! (vì hai ông đều là bạn cùng học một trường Võ bị Hoàng Phố) đây là trường ở rất gần mặt trận nên cách huấn luyện dựa vào nhu cầu thực tế của chiến trường. Trường đóng ở một tình nghèo nên gặp rất nhiều khó khăn. Đây là một trường kháng chiến, các sinh viên vừa học vừa chuẩn bị luôn luôn sẵn sàng để chiến đấu khi địch tấn công. Vừa qua quân Pháp đã chiếm An Khê, nhà trường đã mở cuộc mít tinh và đã có đa số sinh viên tình nguyện ra mặt trận.


Trường Lục Quân bước qua giai đoạn đầu, Nhà trường đã mở kỳ thi sát hạch trình độ quân sự, chính trị của các sinh viên sau hai tháng học tập. Số sinh viên bị loại khoảng gần 50 người với một số lý do, sức khoẻ kém, học tập kém và vô kỷ luật. Sau khi thông báo kết quả thầy hiệu trưởng quyết định cho sinh viên tham gia cuộc luyện tập dã ngoại trong một tháng. Các sinh viên được đi thâm nhập các đơn vị từ Thanh Hoá vào tới Khánh Hoà. Đây là chuyến công tác vào thực tế chiến trường để sinh viên tham gia huấn luyện và sâu sát với đời sống bộ đội.

Tại mặt trận Đèo Cả, Củng Sơn đã có 2 sinh viên bị thương khi lâm trận. Một chuyến đi đầy bổ ích cho số sinh viên non trẻ mới bước khỏi ngưỡng cửa trường học phổ thông trung học được tập dượt để làm quen với không khí mặt trận.

Phòng Nam bộ đã kịp thời lập Đài tiếng nói Nam Bộ do các đồng chí Nguyễn Văn Nguyễn, Huỳnh Văn Tiểng, Cao Hồng Lĩnh phụ trách đóng tại đình Thọ Lộc huyện Sơn Tịnh gần sông Trà Khúc - Đài đã loan nhiều tin chiến thắng của quân khu 5 quân khu 6, các hoạt động chống Pháp bằng mưu trí tại đồng bằng Sông Cửu Long và tố cáo tội ác của giặc tại miền Nam. Đài có nhiều chương trình phát thanh, ngâm thơ rất sinh động. Bọn Pháp cố tìm địa điểm này để phá hoại nhưng chúng không tìm ra được nơi đài hoạt động.
_______________________________________
1. Thế là tốt đấy! Cám ơn! Hồi ấy ai cũng sợ nói tiếng Pháp vì chính quyền quy là thân Pháp. Họ cho là Việt gian. Nhưng ông Sơn biết ai là người có học thức, đào tạo trường Tây, ông hay nói vài câu tiếng Pháp... cho vui với người đối thoại.
2. Nhân viên Tình báo phải là người có học thức để nghiên cứu các tài liệu tình báo các nước và các chủ trương của quân Pháp.
3. Phạm Ngọc Thảo là người công giáo, dòng Roma đậu tú tài làm kỹ sư công chính. Sau khi sinh viên Tài học xong lớp tình báo vào tháng 5/1947 Tài đã được phòng tình báo phân công làm phụ tá cho đồng clú Thảo với nhiệm vụ mở các đường bộ và thủy đưa cán bộ Trung ương, tài liệu và vàng để mua vũ khí ở Thái Lan đem viện trợ Nam bộ.



Tiêu đề: Re: Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Mười Hai, 2009, 07:53:29 pm

20

Quảng Ngãi cũng là trung tâm nhận các thương binh trên các chiến trường từ miền Nam ra dưỡng bệnh và dưỡng thương. Các chiến sĩ từ miền Bắc vào được nghỉ ngơi trước khi được phân phối ra mặt trận - Tỉnh Quảng Ngãi cũng là trung tâm văn hoá, văn nghệ miền trung để các chiến sĩ về nghỉ được giải trí trước khi đi nhận công tác. Tại rạp chiếu bóng đều có trình diễn văn nghệ dịp cuối tuần.

Trường Quân chính Đại đội đã mãn khoá vào tháng 7 do tình hình chiến trường miền Nam căng thẳng. Căn cứ vào tình hình chiến sự phía nam trung bộ, Nguyễn Sơn đã đề nghị được rút ngắn thời gian luyện tập của trường lục quân. Bác Hồ và Quân ủy Trung ương đã chấp thuận. Ngày 20/11/1946 trường Lục quân trung học cũng bế mạc.

Buổi lễ diễn long trọng và chứa chan tình cảm giữa thầy trò, quân dân. Sau khi tuyên bố kết quả học tập của các sinh viên, thầy Nguyễn Sơn căn dặn: sinh viên phải cố gắng khắc phục mọi trở ngại luôn học tập trong chiến đấu để làm rạng danh trường.

Các sinh viên phải hiểu vị trí mình trong hoàn cảnh lực lượng ta còn non yếu hơn địch rất nhiều, phải cùng đồng đội, đồng bào nuôi lấy lòng căm thù giặc và bọn Việt gian bán nước. Phải khắc phục mọi khó khăn, gian khổ sáng tạo trong chiến thuật, quyết đoán mau và dốc toàn lực diệt quân thù.

Cuối cùng đồng chí Lê Văn Kiện đại diện cho sinh viên toàn trường đã cảm ơn thầy Nguyễn Sơn cùng toàn thể Ban Giám hiệu và các huấn luyện viên ngoại quốc đã giảng dạy. Đồng chí Kiện không quên cám ơn đồng chí Bí thư, đồng chí Chủ tịch cùng các ban ngành, đoàn thể, nhất là các mẹ, chị chiến sĩ đã giúp đỡ về hậu cần cho trường trong khi tỉnh nhà phần đông ăn cơm sắn, khoai để nhường cơm sẻ áo cho sinh viên. Đồng chí đánh giá: chúng tôi xem đây là một mối tình đẹp nhất giữa địa phương và tiền tuyến, giữa quân và dân như cá với nước.

Sau lễ bế mạc, chúng tôi ra trường sớm hơn một tháng để kịp thời trường tung cán bộ về các địa phương. Tuy nhiên nhà trường cũng cho các sinh viên nghỉ 10 ngày phép để chuẩn bị hành trang, sau này lên đường ra mặt trận với sự phân công của nhà trường.

Riêng phần tôi, nhờ dịp này tôi đã được về thăm mẹ ở Gia Lâm sau 10 năm xa cách. Khi tôi lên 5 tuổi mẹ tôi đã đi tu nhưng năm sau bà được ông chánh tổng Gia Quất huyện Gia Lâm rước về làm vợ. Dịp này tôi đã gặp bà ở một căn nhà lá riêng biệt trong đất nhà ông Chánh tổng. Bà được sống độc lập nhưng vì ham buôn bán, gánh gạo nhiều quá nên bị cụp xương sống làm cho bà gù lưng. Bà vẫn còn mạnh khỏe khi tôi trở về trường. Đó là điều làm tôi rất mừng và yên chí vào tiểu đoàn Ba Dương thực hiện “Nam Tiến”.

Thế mà hơn 30 năm sau khi hoà bình lặp lại tôi mới gặp mẹ tôi, như thế cũng là điều may mắn hơn một bạn sinh viên trường này sau hiệp định Giơnevơ1 đáng lẽ được về nhà gặp mẹ nhưng vì có lệnh đi học Trung Quốc gấp trong 3 năm. Đến khi trở về nhà thì mẹ đã mất rồi...

Việc nghỉ phép 10 ngày riêng đối với tôi thật quý. Đây cũng là một quyết định rất tình cảm và khoa học của thầy Sơn đã dành cho các sinh viên được sum họp với gia đình trước giờ xuất phát và chuẩn bị từ tinh thần đến vật chất thật dứt khoát, gọn nhẹ trước khi trở về trường nhận nhiệm vụ phục vụ mặt trận tại 3 miền trung, nam, bắc. Họ đã rũ bỏ hết những vấn vương trong lòng trước khi ra đi với tinh thần sung mãn được vinh dự hiến thân cho Tổ quốc.



21

Nhận được quyết định số 214 ngày 20 tháng 11 năm 1946 ông Nguyễn Sơn đã bàn giao với Thiếu tướng Lê Thiết Hùng sẽ thay ông làm Chủ tịch Ủy ban kháng chiến miền Nam Việt Nam và ông sẽ về trung ương làm Tham mưu trưởng. Đi theo ông có 17 người gồm 1 cần vụ, 1 y tá, 1 thư ký và 2 bảo vệ với 10 sinh viên lục quân Quảng Ngãi, bà Nội vì mang thai 4 tháng nên ông để ở lại khi nào yên sẽ ra Bắc sau.

Ông cho biết trước đường đi ra Bắc rất gian nan phải xuyên rừng vượt núi. Ông ra lệnh mỗi người phải chuẩn bị một ruột tượng 5kg gạo - Và lương khô cùng đồ gia vị muối vừng (muối tiêu) muối đậu. Mỗi người được cấp 1 võng, 1 tấm ny lông che mưa và để đắp, 1 hộp mùng tròn dùng khi đứng gác, hộp này trồng vào đầu để tránh muỗi, một khăn mặt, một đôi giầy da và hai đôi tất, 30 viên thuốc cảm, ỉa chảy và kiết, một gói nhỏ bông băng với lọ thuốc đỏ - Ông giao la bàn cho thư ký quản lý.

Các đồng chí Nguyễn Chánh, Phạm Kiệt, Hoàng Quốc Việt đã tổ chức một bữa cơm tiễn đưa ông Nguyễn Sơn và đoàn đi về trung ương có mặt cả cô Nội. Trong bữa ăn ông nhắc nhở các vị chỉ huy nên chú ý vùng biên giới Trung Lào, địch có thể xâm nhập bất cứ lúc nào kể cả các cửa biển Mỹ Khê, Thu Xà, Sa Huỳnh - nhất là Sa Huỳnh nên có những phòng tuyến chống địch đổ bộ - Nơi đây là đường huyết mạch, núi lại sát biển nếu địch chiếm được chúng sẽ uy hiếp vùng Đức Phổ, Mộ Đức làm trở ngại cho hoạt động quân sự của ta.

Hiện lại tỉnh Buôn Ma Thuột đã thành lập 3 đại đội độc lập, 3 đội vũ trang tuyên truyền và 3 ban xung phong công tác gồm:

- Đại đội độc lập 29 phụ trách Cheo Leo và tả ngạn sông Ba.

- Đại đội độc lập 79 hoạt động ở M’Drak

- Đại đội độc lập 49 hoạt động ở Buôn Hồ2

Phải liên lạc với 2 ban xung phong công tác ở bản Đôn và một ban hoạt động ở phía Tây đường 14 (từ Buôn Ma Thuột đến Buôn Trắp) để chỉ đạo chiến đấu.

Tình hình lúc này thuận lợi cho ta vì các cán bộ, đảng viên các cấp, bộ đội du kích, bắt đầu bám vào dân, bám đất, vào cơ sở cách mạng. Tuy nhiên các đồng chí phải theo sát tình hình để tìm cách tạo cho địa phương những thuận lợi trong chiến đấu và xây dựng. Đây cũng chứng tỏ về mặt chiến lược khi ông mới bước chân vào miền Nam ông đã lên liền An Khê để chỉ đạo việc bố phòng mạn sườn của Trung bộ là Buôn Ma Thuột, Pleiku, Kontum chống lại dã tâm lấn chiếm của thực dân Pháp.

Mãi 8 giờ tối mới chia tay. Theo thường lệ, sau buồi cơm chiều ông nghỉ chừng 15 phút và sau đó là giờ đọc sách của ông tối thiểu cũng phải mất 2 giờ. Đây xem như kỷ luật ông đã áp dụng suốt thời gian ở nước bạn.

Đặc biệt tối nay, ông bỏ việc đọc sách, và lái xe đưa cô Nội đi vào Sa Huỳnh vì biển Mỹ Khê cô Nội đã đến tắm biển ở đó rồi.

Trước khi đi ra bắc ông cũng có chuyện cần bàn với cô
_______________________________________
1. Hiệp định đình chiến tại Genève (Thụy Sĩ) giữa Pháp và Việt Nam ký kết vào tháng 7/1954.
2. Trích cuốn Đảng bộ tỉnh Đắc Lắc tập 2 năm 1992



Tiêu đề: Re: Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Mười Hai, 2009, 07:57:32 pm

22

Biển Sa Huỳnh nằm hai bên ngọn núi nhỏ gần bờ. Ánh trăng bàng bạc khắp trời - Hai người leo ngồi trên tảng đá phẳng lì. Cô Nội ngả người vào vai ông - Ông lại nhớ phảng phất mùi hoa bưởi khi mới gặp nhau - Cô Nội nói:

- Về đây nhiều khi em nhớ Huế nhất là ngày đầu tiên gặp nhau chúng mình rong chơi cả ngày quên ăn...

- Em lãng mạn còn hơn anh! Chỉ khi nào em cười anh mới thấy đấy là Nội của Huế năm xưa, và những lúc...

Cô Nội cướp lời:

- Những lúc mình cãi nhau, là anh không nhớ phải không? Nói rồi cô véo vào đùi ông. Ông suýt xoa nói nhỏ: Đừng thế!

Ông xoay mặt cô hôn cô và bảo:

- Bao giờ anh cũng yêu quý em kể cả hòn máu đang nhúc nhích trong bụng em! Em cũng biết thời giờ đối với anh rất quý vì thế có khi em buồn vì thời gian gần bên em ít ỏi và anh lại là người tham công tiếc việc anh phải luôn xuống chỉ đạo tại các tỉnh, huyện và những điểm anh cảm thấy còn yếu kém. Trong cuộc trường kỳ kháng chiến cán bộ, chiến sĩ phải được chăm sóc cũng như ta trồng cây. Giống cây tốt đã đành nhưng nếu ta không bón phân và luôn tưới nước thì cây, cũng không thể nẩy mầm ra hoa kết quả mau chóng được.

Hai người tâm sự với nhau một hồi lâu. Trăng vừa ló trên ngọn núi trước mặt. Họ đã thỏa thuận ông Sơn đi ra bắc và sau khi sinh đẻ xong vài tháng cô Nội sẽ ra sau.

Hai vợ chồng lên xe ra về khi trăng lên khỏi đỉnh núi. Biển vẫn im lìm dưới bầu trời xanh lơ - Không ngọn gió, không tiếng sóng dạt dào. Không một bóng người - Ánh sáng mờ mờ của biển và trời nhập nhòa. Cảnh biển lùi dần phía sau xe...


6 giờ sáng ngày 02 tháng 01 năm 1947. Đoàn được một xe ô tô lớn chở ra Tam Kỳ. Tại đây bắt đầu cuộc đi bộ xuyên rừng vì đường sá đã bị phá hủy. Các địa phương triệt để “Tiêu thổ kháng chiến” 1 vườn không, nhà trống, đường quốc lộ đào thành những hố ngang dọc để đề phòng quân Pháp không thể dùng đường để đi ruồng bố, dùng nhà để ở dễ dàng.

Đoàn đã phải vất vả khi qua các khu vườn hoang, dân chúng di tản xa thành thị tất nhiên đoàn phải tự chuẩn bị nấu nướng để giải quyết bữa ăn dọc đường. Qua ba ngày đi trong núi rừng, đoàn đã lên được đỉnh đèo Hải Vân.

Ngồi trên tảng đá Nguyễn Sơn thấy mây bay là là dưới chân như những dải bông gòn - Khí lạnh núi rừng làm tê buốt mặt. Sau khi ăn cơm nóng sốt anh em phải tìm những cành khô nhóm lửa sưởi tay. Lúc anh em vào ngủ trong lều vải Nguyễn Sơn vẫn ngồi trầm ngâm bên bếp lửa sắp tàn. Ông nhìn màn đêm mờ mờ dưới trăng đã gợi ông nhớ đến Ngũ Hành Sơn, đến thôn Đông Dã nhà của người vợ trẻ Trần Kiếm Qua, cái tên do ông đặt và nàng đã vui lòng chấp nhận. Kiếm Qua có nghĩa là gươm, giáo hợp với bản chất cứng rắn của nàng thay vì tên Ngọc Anh. Nàng là người năng động, quả cảm, cứng rắn, nói là phải làm cho được. Mọi việc quyết định mau lẹ, tính tình như đàn ông. Nàng đã dám cắt tóc ngắn trong khi phụ nữ Trung Hoa lúc ấy để tóc dài và thắt bím của thời phong kiến. Ông đã cưới nàng bất chấp luật lệ của Hồng Quân vì sự kiện này ông đã bị kỷ luật “khai trừ khỏi đảng”.
____________________________________
1. Tiêu thổ kháng chiến là tất cả đường sá, cầu cống, nhà gạch kiên cố, thành quách đều phá để quân địch khi tiến chiếm không có chỗ ở, không vườn rau để ăn...


Tiêu đề: Re: Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Mười Hai, 2009, 07:58:18 pm

23

Trăng vẫn mờ mờ thấp thoáng sau những làn mây đang lững lờ trôi trên khắp núi đồi. Ông nhớ lần lượt hồi mới gặp Kiếm Qua, nàng đã chấp thuận cùng ông sinh cùng một ngày (1/10) Ông nhớ ông nắm tay nàng, ông lắc lắc và nói:

- Em hãy ghi nhớ không cần biết năm nào tháng nào ta chết, hãy cứ quyết định chúng ta sinh ra cùng tháng cùng ngày. Ngày ấy là ngày 1/10 và ta tôn thờ chủ nghĩa cộng sản mãi mãi. Ông nhớ cả bữa tiệc cưới chỉ có ông nội của Kiếm Qua đứng chủ hôn. Ông đã hứa trước ông nội và anh em: “Thưa ông nội! Xin ông cứ yên tâm, cháu và Ngọc Anh trên trời như đôi chim liền cánh, dưới đất như hai cành lý liền cành sẽ theo cách mạng cho đến chết, cháu nguyện cùng kết bạn với Ngọc Anh suối đời”. Nói xong ông uống hết chén rượu đầy không còn sót một giọt. Cảnh tượng đêm động phòng ông nhớ rõ như in.

Khi vừa tiến vào “phòng hoa chúc” 1, tửu hứng của Hồng Thủy vẫn còn. Ông bỗng nổi hứng vừa đi lại vừa cao giọng ngâm bài thơ đã làm rung động Hoa Hạ của thi sĩ Vương Bột đầu đời Đường. Bài thơ “Đằng Vương Các” bất hủ. Khi ông đang say sưa ngâm đến câu: “Lạc hà dữ cô vụ tề phi; Thu thuỷ cộng trường thiên nhất sắc” là 2 câu thơ hay tuyệt trần, Kiếm Qua nhịn không được, cười rũ ra:

- “Anh vừa làm rể của Trung Hoa, lại vừa muốn làm “thiếu niên tài tử” của Trung Quốc nữa cơ đấy!”

Hồng Thủy dừng lại hỏi Kiếm Qua:

- “Kiếm Qua, em có biết Vương Bột là nhân sĩ đất nào không?”

- “Tất nhiên là em biết! Ông ta là người Hà Tân, Sơn Tây, là “thiếu niên tài tử” của quê em. Ông được coi là người đứng đầu “Tứ kiệt” thời đầu nhà Đường”.

- “Thế em có biết ông ta chết chôn ở đâu không?”

Cô lắc đầu im tịt.

Ông từ từ thong thả đáp:

- “Vương Bột chết chôn ở Việt Nam”.

Cô nghĩ rằng có lẽ trong khi vui mừng ngày cưới, Hồng Thủy lại da diết nhớ về Việt Nam chăng, nên cô không dám hỏi.

Hồng Thủy bỗng nhiên cười phá lên “Người Sơn Tây và Việt Nam có duyên với nhau đấy!”

Bấy giờ Kiếm Qua mới rõ là Hồng Thủy chúc mừng hai người thành đôi thành lứa.


Về vấn đề Vương Bột cha là Vương Phúc Kỳ, một huyện lệnh của quận Giao Chỉ thời đó (nay là Việt Nam). “Đằng Vương Các tự” là tác phẩm của Vương Bột sáng tác tại Nam Dương, Sơn Tây.

Trên đường về nam, sang Giao Chỉ thăm người thân vào mùa thu năm 676 (sau công nguyên). Vương Bột cùng gia đình cả thảy 7 người đi thuyền vượt biển gần tới bờ thì biển nổi bão lớn, thuyền chìm. Tất cả đều chết hết. Theo truyền thuyết thì sau khi thuyền chìm, chỉ duy nhất xác Vương Bột nổi lên và trôi dạt vào bờ bắc sông Lam (ở Trung Bộ Việt Nam). Thời ấy Vương Phúc Kỳ làm quan được lòng dân, nên dân chúng tổ chức chôn cất Vương Bột tử tế. Người dân địa phương thường đồn đại: cứ nửa đêm ở hai ven sông lại vang lên tiếng Vương Bột ngâm hai câu thơ tuyệt cú:

“Lạc hà dữ cô vụ tề phi
Thu thuỷ cộng trường thiên nhất sắc”.


Tạm dịch:

Ráng chiều theo cánh chim cô đơn
Nước mùa thu lẫn trời một sắc.

Dân chúng bèn lập đền thờ Vương Bột để cầu cho vong hồn của một thiếu niên từ miền Bắc Trung Quốc đến đây gặp nạn tại Việt Nam. Ít lâu sau người cha của Vương Bột là Vương Phúc Kỳ tạ thế. Dân chúng địa phương cũng đem chôn ông cạnh mộ của con, và thành kính thờ. Trải hơn một nghìn năm đã trôi qua, hương khói của đền vẫn luôn nghi ngút cho đến bây giờ.


“A! Anh còn là một nhà Trung Quốc học”. Kiếm Qua mỉm cười khen ông.

- Em còn nhớ 2 câu thơ khác của Vương Bột cũng đã được lưu truyền thiên cổ không?”

“Hải nội tồn tri kỷ
Thiên nhai nhược tỉ lân”

Tạm dịch:

“Bốn bể còn tri âm
Chân trời xa mà gần”

Kiếm Qua và Hồng Thủy thực sự hợp ý nhau. Khi ấy hai trái tim của hai người đã hoà cùng nhịp đập. Người này mới mở miệng người kia lại đáp liền.

Đây cũng thể hiện tính hiếu học của ông đã nghiên cứu về cả văn chương cổ đại Trung Quốc.
________________________________________
1. Phòng hoa chúc có nghĩa là phòng ngủ của đôi tân hôn.


Tiêu đề: Re: Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Mười Hai, 2009, 07:58:55 pm

24

Một hôm, bí thư Đặc ủy Tấn Đông Bắc, Vương Dật Quần, mời Kiếm Qua lên phòng làm việc của ông. Ông mặc một chiếc áo bông dài, hai tay đút vào hai ống tay áo, đi đi lại lại, mặt có vẻ đăm chiêu. Kiếm Qua nghi ngại không hiểu ra sao. Ông ngừng lại và hỏi thẳng:

“Nghe nói cô và Hồng Thủy kết hôn rồi, có phải không?”

Kiếm Qua gật đầu, cảm thấy có điểu bí ẩn.

“Cô có biết Bát lộ quân có một điều quy định, không cho phép quan binh kết hôn trong thời gian kháng Nhật không?”

Cô lắc đầu “Không biết ạ”

Lúc đó mặt cô đỏ bừng lên. Bản tính cô rất bướng, thế mà lúc ấy vì chuyện kết hôn bị phê bình, thật chẳng biết làm thế nào cho phải.

Thấy thái độ phản ứng của cô, Vương Dật Quần dịu giọng hơn:

“Việc này không trách cô được, điều này do Bát lộ quân quy định. Cô cũng lớn tuổi rồi, ở huyện Ngũ Đài, người tuổi như cô thì đã có con bồng, con mang”

Vương Dật Quần không phê bình cô nữa, song trong lòng cô rất không yên. Điều quy định chỉ áp dụng với người trong Bát lộ quân, thế nhưng “sai lầm” đó đều do hai người gây nên. Nghĩ lại cô vô cùng lo lắng cho Hồng Thủy. Vì việc lấy vợ này, Hồng Thủy bị phê bình, song ông không nói nửa lời cho cô hay. Hồng Thủy là người tính tình quả cảm, chỉ cần thấy đúng là ông dám làm và cũng dám chịu. Trời có sập, thì một mình chịu, quyết không để ai bị liên luỵ, và nét mặt vẫn bình thản như không có gì xẩy ra.

Cô hiểu rõ tính cách của Hồng Thủy. Việc ông Vương gọi cô lên nói, cô cũng không kể lại. Cô nghĩ Hồng Thủy đã chịu đả kích quá nhiều, lẽ nào cô lại gây thêm nỗi đau lòng cho ông! Hồng Thủy đã ba mươi tuổi rồi, thời gian ở trong Bát lộ quân đâu có ngắn. Hàng ngày anh vẫn vui vẻ, nói nói, cười cười, không lúc nào thấy anh lộ vẻ buồn rầu. Một người chịu nhiều đả kích như thế, nếu không có ý chí cách mạng kiên cường thì sao còn luôn giữ được niềm lạc quan.

Việc Hồng Thủy và cô lấy nhau, nghe nói trong Bát lộ quân thời đó là việc xảy ra đầu tiên và vang dội khắp nơi. Một số cán bộ lớn tuổi đều cười:

- Hồng Thủy đã có vợ, chúng ta lớp lớn tuổi chắc có thể được cấp trên lưu ý và thay đổi chính sách đối với cán bộ lớn tuổi chưa vợ chăng!

Tin Hồng Thủy cưới vợ và bị khai trừ khỏi Đảng đã được truyền về Diên An, đến tai Mao Chủ tịch và Chu Tổng tư lệnh. Hai người cảm khái nói: “Đây là lòng quân rồi! Con đường cách mạng Trung Quốc quá dài. Rất nhiều chú bé ngày nào vào bộ đội, súng đeo dài lê thê gần quét đất, tham gia chống bao vây dũng cảm, xông pha trận mạc, đánh rồi lại tiếp tục đánh nữa, luôn hăng hái trung thành với cách mạng. Nay đã quá tuổi. Yêu cầu lấy vợ ngày càng bức thiết. Địa bàn của khu giải phóng có hạn con gái vốn dĩ đã thiếu, nay lại về đóng thêm bao nhiêu quân, tỷ lệ nam nữ chênh lệch rất lớn. Tại Diên An tỷ lệ đó đã đạt tới mười tám nam trên một nữ. Tranh dành với đàn bà con gái địa phương, thì làm sao còn được lòng dân! Chúng ta phải nghĩ ra một giải pháp hợp lý để hạn chế việc bộ đội kết hôn, chứ không nên cấm hẳn.

Cấp lãnh đạo quân đội bàn đi tính lại rồi ra một quy định gọi là “28 + 7 + đoàn” (Đoàn: trung đoàn), tức là người đã đủ hai mươi tám tuổi, có bẩy tuổi quân, là cán bộ cấp trung đoàn, phù hợp với điều kiện trên thì được phép kết hôn.

Tuy có quy định nghiêm như vậy, song số lượng nữ đồng chí quá ít. Vì vậy bộ đội chiến đấu có thêm một nhiệm vụ nữa: mỗi khi đến một nơi nào, hết sức thu nạp nữ thanh niên tham gia quân đội, làm cán bộ hậu cần.

Khi nói đến chuyện này, các đồng chí lớn tuổi đã dự đoán đúng và hả hê nói với nhau:

“Phải cảm ơn Hồng Thủy đã nã phát súng đầu tiên tạo điều kiện cho chúng ta lấy vợ”.

Sự việc cô và Hồng Thủy kết hôn đã làm Mao Chủ tịch và Chu Tổng tư lệnh phải thay đổi chính sách hợp lý khoa học đối với các cán bộ trong quân đội.


Tiêu đề: Re: Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Mười Hai, 2009, 08:02:23 pm

25

Trăng le lói trên dải Trường Sơn. Đêm này ông lại liên tưởng đến người vợ đầu tiên đã có một cháu gái mới vài tháng. Bà tên Hoàng Thị Diệm người Hà Nội, học lớp 5 sau bỏ học bán hàng xén1, là người xinh đẹp thùy mị của đường Quán Thánh. Lúc bấy giờ khi quen nhau ông mới 16 kém bà 4 tuổi. Mỗi lần đi học ngang qua quán, ông đều tìm một lý do để mua hàng của bà. Có lần ông mua gói thuốc lào, ông để lá thư tỏ tình trong gói thuốc và trả lại bảo là thuốc hỏng. Bà giở gói thuốc và biết là thư của ông. Nội dung muốn nói gì, bà nhìn ông và cười. Sau đó bố ông đã sắm lễ vật xin cưới bà Diệm cho con mình.

Trong vòng 1 năm giữa 2 bà thông gia có chuyện bất đồng. Chiều theo ý mẹ, vợ ông ôm bé Võ Thanh Các về bên ngoại. Sẵn dịp đồng chí Thụ đón ông qua Trung Hoa gặp Bác Hồ để tham gia cách mạng, ông giả vờ gây gổ đập tan cửa kính, chửi bới om sòm cho láng giềng biết để tối hôm đó ông, cùng đ/c Thụ và một người nữa đi tàu hỏa lên Bắc Giang. Bắt đầu từ đây ba người phải đi bộ qua Trung Quốc đến Quảng Châu.

Thuở ấy nếu thực dân Pháp biết nhà nào có người làm cách mạng, là chúng đầy đọa gia đình người ấy khổ sở điêu đứng - Vì tránh tình trạng liên luỵ đến gia đình bên vợ, ông đã tạo một màn kịch giả trước khi đi để tránh con mắt soi mói của mật thám Pháp. Ông cố hét to cho hàng xóm nghe để lấy cớ trước khi ông đi bọn mật thám không chú ý. Đoàn ông đi trong 3 ngày bằng đường bộ lên đến biên giới vì khi đó đường tàu hỏa bị phá nên phải băng núi rừng về Quảng Châu rất vất vả vì phải luồn tránh những đồn của Quốc dân đảng.

Tại đây ông đã gặp lại Bác Hồ lần thứ 2. Ông ở với Bác một tuần, sau đó ông được vào học trường Hoàng Phố2. Khi ra trường Bác giữ ông lại bên Bác để làm sĩ quan liên lạc với các cán bộ cao cấp của Hồng Quân.
_______________________________________
1. Hàng xén: hàng tạp hoá.
2. Trường sĩ quan đầu tiên của Quốc dân đảng - Lê Thiết Hùng trong đội ngũ quân Tưởng cũng học trong này.


Tiêu đề: Re: Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Mười Hai, 2009, 08:07:07 pm

26

Trên đỉnh Hải Vân, ánh trăng khi mờ khi tỏ. Gió lạnh từng đợt lùa vào lều vải. Ông bỏ thêm củi cho to ngọn lửa để xua đuổi khí lạnh đang bao vây quanh người. Xa xa dưới dãy núi chỉ thấy một dải trắng xám mờ mờ. Trời lẫn lộn với biển và thỉnh thoảng có đám mây từ từ bay qua dưới chân ông. Ông lại nhớ Kiếm Qua sau thời gian động phòng 2 người đều không có mái nhà để ở và cả hai đều ở cách nhau 4, 5 cây số. Lúc đó ông từ Cục chính trị được điều về tại báo Kháng Địch nên ít gặp Kiếm Qua. Tờ báo này đã ra được 20 lần và viết chữ ngược lên đá litho1 để in báo. Khi ông ra thêm 1 số thì tòa báo bị máy bay Nhật đánh phá sập trụ sở. Ông được Ủy ban huyện cấp cho 1 máy in với số chữ chì. Những máy móc này rất lạ đối với ông nhưng ông quyết mấy mò cùng anh em xếp chữ tranh thủ ra báo lần thứ 22 - Sức làm việc của ông suốt ngày đêm đã cuốn hút các nhân viên cán bộ, nhà in và toà soạn cùng làm như ông. Từ đấy ông viết truyện ngắn, xã luận và thơ. Thời gian ông phụ trách đã ra được 5 lần báo thì ông được chuyển công tác.

Tư lệnh Bát lộ quân đã công nhận tờ báo của biên khu do ông làm chủ nhiệm đã tạo nội dung tốt và trình bày phong phú hơn trước. Song song trong thời gian này ông cũng đã thành lập Ban kịch nói với 5 người và 1 nữ là vợ ông. Sau lần ấy vợ ông đã lôi kéo bạn bè trong hội phụ nữ được thêm 4 người làm ca sĩ trong Ban kịch2.

Năm 1939 do sự phát triển của Bát lộ quân yêu cầu phải thành lập thêm trường huấn luyện cấp bách, Hồng Thủy được điều về làm Phân hiệu phó phân hiệu 2 trường đại học kháng Nhật do La Thụy Khanh phụ trách. Đây là trường đại học đầu tiên tại khu căn cứ địa. Các giáo viên đều có trình độ tú tài trở lên, Hồng Thủy phụ trách chủ nhiệm khoa chính trị.


Thu đông 1939 Bát lộ quân đánh 3 trận lớn tại Trấn Đông Bắc đập tan chiến dịch vây quét mùa đông của giặc Nhật. Sau đó Sư đoàn Hạ Long lại thắng 1 trận lớn tại Trần Gia Trang gần nhà trường.

Ngày 3 tháng 4 năm 1940, tướng Nhật là Trung tướng Abê Norihido phái Đại tá Mêruna Kankichi chỉ huy 1500 quân tấn công khu căn cứ cách mạng. Đội quân này đã bị Bát lộ quân tiêu diệt hoàn toàn tại núi Nhạn Túc - Đại tá Kankichi bị chết dưới hoả lực mạnh mẽ của Hồng Quân.

Trung tướng Abê người đã tự phụ là vị chỉ huy tài giỏi đứng đầu trong hàng tướng Nhật Bản, sau cái chết của sĩ quan cấp dưới, ông coi đây là một cái tát lớn của Hồng Quân đã giáng vào mặt ông. Tính tự cao, kiêu căng đã làm ông nổi giận. Bốn ngày sau ông Abê thân chinh dẫn đại quân tấn công vào biên khu tại Hoàng Phố để trả thù trận thua cay đắng vừa rồi. Abê đã bị đại quân Dương Thành Vũ bao vây. Một trận chiến đấu khốc liệt giữa hai bên. Sau cùng Abê bị tiêu diệt cùng quân đoàn của mình. Chiến thắng oai hùng này đã vang dậy khắp cả nước Trung Hoa vì đây là chiến thắng to lớn nhất chưa từng có của Hồng Quân.

Đêm nay nhớ đến chuyện cũ ông ngâm nho nhỏ, bài thơ ông viết về Abê sau trận thất bại to lớn này. Bài này đã được đăng lên báo Kháng Địch.

“Chiến thuật mũi dao nhọn thọc sâu”
“Phản công hợp kích”
“Phân khu càn quét”

Còn có trò nào
        có thể làm
bày ra cho hết!
Hỡi các anh hùng “Hoàng khuẩn”!!
(Hoàng quân)
“Chín mũi tiến công”
“bảy vòng vây quét”

Đã bao phen
Mộng xâm lược tan như bèo bọt
Thế nhưng
Như lợn chết, không sợ dội nước sôi:
lại muốn tới
lại phải tới
lại phải mò đến nơi
Chiến dịch Trần Gia Trang
Bài học đó
vẫn không dạy người sâu sắc
trận tiêu diệt Ngân Phương Nhạn Tú
cũng chưa làm người mở mắt
Cho nên “Trung tướng Abê”, con người xuất sắc,
thân chinh xuất mã
là danh tướng, tỏ rõ uy phong
nở hết cỡ “Đoá hoa danh tướng”
Tiếc thay!...
        Hoa đẹp mà sao “mệnh bạc”
“Danh tướng chi hoa”
cũng chẳng sao tránh nổi
mệnh vẫn bi thảm trời dành
Ô Ê hô! Ra ma!

*
Đường sao mà hiểm ác
như báo “Triều Nhật” đã nêu
đúng đấy
những con đường
        Trung Quốc
bọn xâm lược đi trên đường Trung Quốc
thì đâu đâu cũng là hiểm ác.
dù là phương Nam
hay lên miền Bắc
“Trung tướng”
cũng chẳng còn đường nào khác
… ngoài những con đường hiểm ác...
Vậy làm sao?
        miệt mài,
                lặn lội,
Ông cố gắng
miệt mài
mò mẫm,
từ Trương Gia Khẩu tới được Mã Dịch xong,
là đến...
        chỗ cuộc đời ông đi tong!
“Trung tướng”
Cái vận ông đen như chó mực
Không!...
Cái vận tối của Thiên hoàng mới là đích thực,
đã hại ông!
biến ông thành cây mục
chẳng nhận nỗi hình dung
Biển báo đường
đã đề rất rõ:
“Trương Gia Khẩu” từ chữ “khẩu” mà ra
“Trương Gia Phần” theo chữ “phần” mà tiến
“Xin lỗi ông,
Đừng nổi cáu!...
Trung Quốc không có họ “Abê”
trong tính danh trận họ
Họ Trương là họ đứng đầu!
Vậy nên ông,
vừa tới địa giới “Phần”
Đạn pháo!
Lũ đạn pháo thật là vô lễ
đã đợi ngài tới nổ ầm ầm.
Ông đã tới nơi ông định tới,
miệt mài,
mò mẫm
mời tới được chả muốn tới:
“Phần mộ Abê”
(trên nghĩa trang đã ghi)
“Adi đà phật!
Quan thế âm Bồ tát,
xin cứu khổ ông
cứu nạn cho ông ấy,
Khổ nạn của ông do chiến tranh xâm lược đấy!
“Trung tướng”
Ngài thương kẻ dưới trướng lắm nhỉ?
thương chàng đội trưởng Kankichi
Ngài thương hắn...
hết lòng chiến đấu
khổ cực
bên vực Nhạn Túc
chết rục
Ngài rơi lệ
Ngài nắm tay kêu
và bèn cùng hắn
chết theo...
Ôi gương “nhân ái” thực là đáng nêu

Chúng tôi
đám con cháu của Thái Hàng Sơn
Xin cám ơn ngài
Từ huyện Thanh Sơn
quê hương ngài yêu dấu
đã miệt mài
mò mẫm
đến tặng cho
mảnh đất khô cằn
thêm được ít phân bón
Đoá hoa danh tướng!...
Nay thành phân bón cho Thái Hàng Sơn


Hồng Thủy rất có tài về thơ, văn. Đoàn kịch do ông tổ chức tại Trung Quốc lúc đầu chỉ có vợ ông và ông đơn ca, hoặc nói chuyện tếu vì ông rất có khiếu hài hước. Trong cuộc trường chinh vạn lý rất khổ sở, đói khát, ai nấy mặt mày ủ rũ, mồ hôi đầm đìa ông lại có nhiều tình tiết để khai thác làm đề tài văn nghệ. Trong hoàn cảnh gian nan ông vẫn lạc quan yêu đời và đem cuốn Kiều ra ngâm nga để quên đi những cực khổ trước mắt hoặc ông lại trêu chọc tướng Trần Canh và anh em đang mệt nhọc trên đường đi xa thẳm.


Lúc đầu tiết mục trình diễn rất nghèo nàn. Ông còn nhớ vợ ông hát được 6 bài là “cạn vốn.” Bài hát ruột của vợ ông được quân dân hoan hô với những lời lẽ mộc mạc, Nguyễn Sơn nhớ lại và se sẽ hát:

Chiếc đèn nho nhỏ leo lét cháy
Chồng tôi đánh trận tôi ở lại
Không buồn không đau không rầu rĩ
Tôi mang cho chiếc áo thật ấm thật mềm
A! Hây a!
Đàn con lớn lên lại đi đánh giặc Nhật
A! Hây a!


Nguyễn Sơn còn có khiếu sáng tác kịch thơ như “Xuân canh”, “Tòng quân Triều” và trường ca “Thiên chân” 3 bản bi kịch đã đăng nhiều kỳ báo. Những bài thơ ông đều được quần chúng và nhất là thương binh bộ đội thích nhất. Sau đó kịch của ông được các anh các chị kịch sĩ ở thành thị vào kháng chiến đã dàn dựng diễn xuất và sau này có những diễn viên nổi tiếng như Hồ Bằng, Diễm Hoa và các biên tập Lưu Giai, Hồ Khả, Đỗ Phong cùng các đạo diễn Nguỵ Nguỵ, Đinh Lý, Hồ Xô, Uông Dương về với ban kịch nên có thêm nhiều sáng tác giá trị và tiết mục biểu diễn càng thêm phong phú.

Đoàn kịch Kháng Nhật đã tạo thêm nguồn sinh lực trong quần chúng - là đạo quân tiên phong phục vụ nâng cao tinh thần chiến đấu và giáo dục bộ đội, quần chúng nhân dân trong khu căn cứ địa. Đây là đoàn kịch đầu tiên của Hồng Quân Trung Hoa có những kịch bản sâu sắc với diễn viên diễn xuất rất hay được toàn quân đội và dân chúng các tỉnh hoan nghênh.
_______________________________________
1. Phải viết chữ ngược và in bằng tay trên đá. Miếng đá trắng, viết chữ ngược bằng mực charbonel.
2. Ban Kịch sau thành đoàn kịch Kháng Nhật có tăng cường các tri thức nam nữ ở thành vào chiến khu nên lực lượng Đoàn kịch trở nên vững mạnh và phong phú về tiết mục biểu diễn.
3. Tiếc rằng chúng tôi chưa sưu tầm được tác phẩm và thơ của ông.



Tiêu đề: Re: Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc
Gửi bởi: chuongxedap trong 15 Tháng Mười Hai, 2009, 05:12:13 pm

27

Qua đêm khác, trên dải Trường Sơn ông cũng đã không ngủ được. Ông đặt lưng trên vải bạt. Đêm càng khuya. Trăng mờ dần. Ông vẫn suy nghĩ miên man về những ngày hoạt động ở Trung Quốc, với người vợ trẻ nhưng kiên cường - ông nghĩ đến con ông, hai đứa Tiểu Việt, Hàn Phong còn nhỏ quá. Ông nằm trằn trọc, trong những hình ảnh quay cuồng. Mắt ông khi nhắm, khi mở.

Ba tháng trước đây ông đã nghe tin vợ con ông đều bị chết vì bom do máy bay Nhật oanh tạc. Không thể nào ngủ yên! Vợ yêu của ông có chết thật không! Chao ôi! Chiến tranh khói lửa mịt mùng. Cái gì cũng có thể gọi là đúng được. Ông bước ra ven rừng nhìn những ngọn núi xanh lam trùng điệp lớp lớp chung quanh. Xa xa có phải là cửa biển Thuận Hóa không? Ông lại nhớ đến cô Nội một chiến sĩ cách mạng năm 1940 của thời Nam Kỳ khởi nghĩa. Cô Nội trong thời kỳ bí mật đã từng là vợ đồng chí Trần Văn Bẩy, Bí thư Liên chi ủy Hậu Giang. Đồng chí đã bị giặc bắt và bị thủ tiêu trong tù. Cũng như cô Tú Anh1, cũng đi mua vật liệu làm súng, mìn cùng một công tác với cô Nội. Từ năm 1936 hai cô đã gia nhập cách mạng lúc còn rất trẻ. Đảng ủy liên tỉnh Hậu Giang đã giao cho hai cô công tác sưu tầm vật liệu làm vũ khí như thuốc nổ, ống nước đem về xưởng tại U Minh để chế tạo vũ khí, chuẩn bị thời cơ chống Pháp. Tuy cùng 1 công tác nhưng 2 người phải đi riêng với 2 hướng đi khác nhau.




28

Trước khi vào nhận nhiệm vụ tại Quảng Ngãi, Nguyễn Sơn đã ghé Huế hai ngày vì ông được biết một sĩ quan cao cấp Nhật chỉ huy các đội quân Nhật tại miền Trung nên ông cần gặp họ. Nếu thuyết phục được bộ chỉ huy này theo kháng chiến thì ta được lợi vô kể. Cuộc gặp gỡ đã diễn ra tốt đẹp.

Đã từ lâu ông có ý định thưởng thức cảnh đẹp của sông Hương núi Ngự do các bạn khen ngợi và mô tả về Phu Vân Lâu chỗ vua ngự và chùa Thiên Mụ.

Đây cũng là dịp may để ông được xem thành nội, lăng các vị vua triều Nguyễn, chỗ ở của vua, hoàng hậu và các cung tần mỹ nữ. Ở Huế còn có món ăn đặc biệt như cơm âm phủ, bánh bột lọc, tôm chua... và các nơi như chợ Đông Ba, bến Kim Luông, núi Ngự, đò sông Hương...

Ông lái ô tô đến Huế, ông được Ủy ban nhân dân thành phố bố trí ở tại khách sạn Morin Frère và ăn tại nhà sẹt2. Qua một đêm trên giường nệm êm ái, ông thức dậy đi tắm. Ông đã phải ở Huế hai ngày trong việc gặp gỡ sĩ quan Nhật.

Lúc tờ mờ sáng ông lái xe qua cầu Tràng Tiền. Ông rẽ bên trái từ từ đậu vào lề đường. Ông tò mò muốn biết chỗ vua hay ra hóng mát tại Phu Vân Lâu. Ông nhớ rất rõ lúc ấy ánh mai vừa hừng sáng. Ông bước lên bậc tam cấp của ngồi nhà cổ kính cất gần bờ sông. Chung quanh cỏ cây xinh đẹp. Chợt ông sững sờ nhìn thấy bóng một người đàn bà đang đứng nhìn ra bờ sông Hương. Người phụ nữ này dong dỏng tầm thước. Trên đầu mái tóc đen huyền được bới gọn và xệ xuống dưới vai. Gió dưới sông thổi lên làm bộ bà ba lụa trắng của cô dán sát vào người nổi bật những đường cong tuyệt mỹ. Phía sau đã vậy ông tìm cách ra phía trước để quan sát. Ông giả vờ hỏi:

- Thưa cô! Tôi từ Hà Nội vào, nghe nói chùa Thiên Mụ đẹp lắm, mong cô chỉ hộ chùa Thiên Mụ đi đường nào?

- Thiên Mụ à! May quá, người ta mới chỉ cho tôi, tôi cũng đang định đến đó.

- Thế tôi có thể đưa cô đi được không? Tôi đậu xe ngoài kia.

Ông nói thêm:

- Người bạn ở Hà Nội có giới thiệu về bún bò Huế ở Đông Ba, mắm tôm chua ở thành nội, cơm âm phủ, tiện thể mời cô ăn thử bún bò Huế sáng nay!

- Quá hân hạnh cho tôi!

Cả hai lên xe ông cầm lái. Cô ngồi bên xe Jeep chăm chú nhìn hai bên cầu. Khi qua ngang cầu Tràng Tiền ông cao hứng ngâm nho nhỏ bắt chước giọng Huế. “Cầu Tràng Tiền mười hai cái nhịp - em đi qua không kịp ờ - chậm - Cô cướp lời - chậm thì em đi nhờ xe anh. Cả hai cùng cười thích thú. Không khí giữa họ đã trở nên thân mật.

Ăn bún bò xong, khi lên xe ông giơ tay nắm tay cô nâng cô lên chỗ ngồi. Bàn tay búp mầng của cô hồng hào mềm mại. Cô cảm ơn và nhìn ông với cặp mắt dịu hiền. Đôi má trái xoan của cô ửng hồng. Cô cười rất tươi và nói:

- Mong ông giúp đỡ những người miền Nam xa xôi như tôi

Ông cầm vô lăng lái và nói:

- Tôi từ miền Bắc vào công tác có thể sẽ vào tới miền Nam của cô. Tôi cũng ước mong được sự giúp đỡ của - lúc ấy hai người cùng nhìn nhau, ông nói tiếp của mọi người và nhất là cô.

Trên xe, cô cho biết khi các mặt trận trong Nam tan vỡ cô cùng các đồng chí Dương Bạch Mai, Vũ Trường Khê (đã học 5 năm trường Hoàng phố) và Hà Huy Giáp đi thị sát mặt trận Buôn Ma Thuột khi trở về bị phục kích, Khê đã chỉ huy một tiểu đội bắn cầm chân địch để đoàn rút lui an toàn. Tiếc thay Khê đã bị một viên đạn vào ngực và hy sinh anh dũng. Năm ấy anh mới 24 tuổi. Đàm Minh Viễn anh ruột Đàm Quang Trung cũng hy sinh ở mặt trận này cách một tuần trước.

Ông liếc nhìn cô và thầm nghĩ người đẹp như cô lại thích chịu khổ cực nơi mặt trận. Quả thật cô là người đẹp toàn bích. Nếu so sánh Kiếm Qua có vẻ non trẻ và dáng người thấp hơn, chắc da chắc thịt với giọng nói cương nghị biểu hiện bản chất người nông dân cứng cỏi. Còn cô Nội lại có một vẻ đẹp quý phái trong nước da trắng hồng, với đôi mắt long lanh, với mái tóc được búi tròn và thòng xuống theo kiểu những thiếu nữ đảng Dân chủ đi kháng chiến ở Nam Bộ. Cô mặc bộ quần áo bà ba cổ “bà lai” 3 làm nổi lên một bộ ngực tròn trịa với thân hình thon thả. Quả là một vẻ đẹp lý tưởng trong sự giản đơn của bộ đồ màu mỡ gà lụa Hà Đông.

“Em Kiếm Qua! Hồn em bây giờ ở đâu có lẽ xác em và con biến thành những mảnh vụn trong làn bom khủng khiếp của bọn giặc Nhật và Quốc dân đảng. Tha lỗi cho anh trong sự so sánh ngày hôm nay. Đây cũng là đồng chí bạn của em đấy. Họ cũng gian nan cực khổ không kém em”.
_________________________________
1. Tú Anh là một nữ sinh – Đảng viên Đảng ủy Rạch Giá (Kiên Giang) đóng tại rừng U Minh. Thời đầu Nam Kỳ khởi nghĩa năm 1940. Sau 1975 cô là Giám đốc nhà hàng xuống khách sạn tỉnh Minh Hải suốt gần 20 năm, cô là vợ của đồng chí Tăng Hồng Phẩm, Bí thư tỉnh Minh Hải. Khi Tây đi ruồng bố U Minh, phần lớn các đồng chí bị bắt chỉ còn đồng chí Tám Kiệt (Tám Lục lạc) và Năm Tôn thoát khỏi. Rừng U Minh lúc ấy là nơi căn cứ của liên tỉnh ủy gồm Long Xuyên (An Giang), Rạch Giá (Kiên Giang), Cần Thơ (Hậu Giang), Sóc Trăng, Bạc Liêu (Minh Hải).
2. Nhà Sẹt, tiếng Pháp Cercle: Câu lạc bộ hồi ấy nơi này toàn tiếp khách sang trọng và các dân biểu Trung phần thời chế độ cũ (Diệm, Thiệu)
3. Bà lai: cổ chéo



Tiêu đề: Re: Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc
Gửi bởi: chuongxedap trong 15 Tháng Mười Hai, 2009, 05:25:44 pm

29

Khi xe dừng lại bên thềm chùa Thiên Mụ, hai người vào chùa và cũng dâng hương lễ phật. Đây là lần đầu tiên, ông thắp hương bắt chước vái theo cô.

- Anh biết tôi vái gì không?

- Chắc cô cầu cho ông, bà cha mẹ...

- Không phải? Tôi vái cho chồng tôi đấy.

Ông ngạc nhiên nhưng không dám hỏi giữa khói hương nghi ngút của điện thờ.

Khi hai người bước ra sân gần lan can chùa, họ đứng bên nhau cùng hướng mắt xuống dưới sông Hương nhìn con đò đang cô đơn cắm sào ở bên kia bờ sông.

Cô Nội nói tiếp:

- Chắc anh ngạc nhiên là tôi đã có chồng. Chồng tôi là Bí thư Liên chi ủy Hậu Giang1, tuy chúng tôi gần nhau có một đêm và sáng hôm sau chồng tôi bị bắt. Giặc Pháp từ Rạch Giá đi từ tờ mờ sáng vào bao vây căn cứ bắt hầu hết những người trong căn cứ. Lúc đó tôi đang đánh răng tại bờ rạch rừng U Minh. Tôi nghe tiếng súng, tôi vội lặn vào bụi ô rô nhưng tôi cũng bị bắt. Bọn Pháp dẫn tôi đi dập dềnh trên bờ kênh và lùng sục trong rừng. Khoảng chừng một tiếng đồng hồ thằng quan Pháp hô lớn

- Rassemblement2. Tiếng chạy và tiếng súng lách cách tiếp theo.

- En avant! à la direction du bâteau! Marche! 3

Nguyễn Sơn là người học tiếng Pháp thông thạo. Ông nghe cô Nội nói tiếng Tây4 lưu loát và phát âm đúng giọng “đầm” 5 sau này ông mới biết cô là sinh viên địa chủ ở Bình Minh, tỉnh Cần Thơ. Từ đấy ông và cô nói chuyện với nhau bằng tiếng Pháp vì ông rất thích giọng nói của cô phát âm giống người Pháp.

Ánh sáng ban mai hồng lên trên bờ sông Hương. Hai người vừa chuyện trò vừa nhìn những con thuyền đánh cá đang buông lưới trên dòng Kim Luông.

Ông cũng đã nói đến công tác và hoàn cảnh gia đình vợ ông ở Ngũ Hành Sơn (Trung Quốc). Cô cũng nói thời gian cô công tác với các đồng chí ở rừng U Minh.

Cô nói tiếp: bọn Pháp đã bắt được tôi và một số đồng chí đưa về nhốt tại khám Rạch Giá, sau đó tôi bị đày ra Côn Đảo6. May mắn thay còn hai anh đi công tác đến trưa mới về là anh Tám Kiệt7 và anh Năm Tôn không bị bắt.

Chiều hôm đó các anh Quảng Trọng Linh, Chín Ngự, Ba Đôn đã gặp đ/c Ba Hồ trong rừng sâu. Đ/c Ba Hồ8 là Bí thư đầu tiên của tỉnh Rạch Giá năm 1941. Đ/c phân công các anh đi các nơi để tránh mũi nhọn của giặc và tạm thời ngừng hoạt động chờ lệnh mới. Căn cứ tỉnh ủy được chuyển về Canh Đền khoảng 8 cây số gần nơi đồng chí Chín Ngự đang ở.


Hai người nói chuyện càng tâm đầu ý hợp. Tình cảm đồng chí càng dâng trào. Họ đều đồng chung cảnh ngộ một bên không vợ, một bên không chồng. Họ nắm tay nhau tung tăng hết đi quanh thành nội thăm ngai vàng của Vua Bảo Đại, khi dừng bên hồ Tĩnh Tâm đầy sen nở thơm ngát. Khi vào Hoàng cung ông lại lái xe đưa cô Nội đi các Lăng Minh Mạng, Thiệu Trị, cuối cùng là lăng Tự Đức. Họ hẹn nhau sau này nếu có thì giờ sẽ đi thăm lăng vua Gia Long. Cô Nội hứa sẽ thuê một chiếc thuyền mui, cùng ông đi trên dòng sông dài 27 cây số để hưởng thú vui trên sóng nước sông Hương. Cô quả là một trí thức có tình cảm dạt dào, lãng mạn.

Tại Lăng Tự Đức 2 người đứng bên nhau nơi ngự phòng, vua Tự Đức thường ngắm cảnh và làm thơ ở đấy. Họ nhìn ra hồ sen nở đầy mầu hồng chung quanh nhà thủy tạ. Hương sen thoảng thơm ngát. Ông nhắc lại khi Bằng Phi chết, vua Tự Đức tiếc thương và đã làm một bài thơ trong đó ông còn nhớ 2 câu thơ rất hay:

Đập cổ kính ra tìm lấy bóng

Xếp tàn y lại để dành hơi!...

Những đóa sen hồng như ánh lên giữa những tia nắng chiều trong cảnh tranh tối tranh sáng, Nguyễn Sơn nhẹ nhàng đặt hai tay lên vai cô và từ từ hai đôi môi giáp lại vào nhau. Hai thân xác nóng bỏng như đang lên cơn sốt đã hòa nhập trong những cánh tay xiết chặt giữa ánh chiều đang lóe sáng trước khi tắt.
______________________________________
1. Liên chi ủy Hậu Giang là Liên chi ủy miền tây Nam Bộ gồm Cần Thơ, Rạch Giá, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Long Xuyên.
2. Rassemblement: tập họp
3. Theo hướng tàu chiến “tiến”
4. Tiếng tây: tiếng Pháp.
5. Đầm: tiếng Pháp: madame là đàn bà.
6. Côn Đảo (Poulo condore) cách Vũng Tàu 80 cây số.
7. Tám Kiệt được gọi là “Tám lục lạc”. Đi đến đâu, tiếng nói rổn ràng và lội nước rất hay. Sau này ông Tám làm thủ tướng chính phủ Việt Nam.
8. Đồng chí Ba Hồ tên thật là Huỳnh Hữu Phước Bí thư tỉnh uỷ đầu tiên của tỉnh Rạch Giá (Kiên Giang) - Trích tư liệu lịch sử đảng Kiên Giang.



Tiêu đề: Re: Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc
Gửi bởi: chuongxedap trong 15 Tháng Mười Hai, 2009, 05:28:35 pm

30

Chiếc xe đưa 2 người về đến nhà Sẹc. Khi ngồi vào bàn ăn cô Nội nói:

- Il fait beau temps nous avons un promenade très satisfaisante1

Ông đáp:

- Bien sur2 - Ngừng một chốc ông hỏi:

- Prenez vous quelque chose? Soupe marseillaise ou bien Châtcau briand? 3

- Ca dépend de4 votre gôut.

Ông vẫy bồi lại đem đến 2 ly Cointreau và nói:

- Mình làm tí rượu khai vị - Cô nhún vai

- Si vous voulez.

Cô nói thêm:

- Cest magnifique? Ce matin nous avons oublié dè prendre le déjeuner5

Cô nhìn đĩa lớn tôm hùm, cua, cá, sò, cô nói thêm:

- J’ai pris faim! 6

Ông nói:

- Moi, aussi! 7

Lúc ấy, hai người đều nói với nhau bằng tiếng Pháp, rồi Nguyễn Sơn rót rượu vang trắng vào hai ly và cùng cô nâng cốc. Khách chung quanh tưởng đôi bạn này là người ngoại quốc.

- Chúc sức khỏe và may mắn giữa chúng ta - Cô nói tiếp:

- Khi ông gọi lấy rượu vang trắng, tôi biết ông là người lịch lãm, thành thạo môn ăn uống của người Pháp.

Vấn đề này ông Sơn rất sành sỏi. Ông ảnh hưởng người anh và người cha nên những cử chỉ của ông đều có vẻ Tây phương từ cái nhún vai cho đến cái búng ngón tay.

Ông hỏi tiếp:

- Trình độ học vấn của cô?

- Trước kia tôi có học 1 năm y khoa Sài Gòn

- Tôi cũng thế đã học 4 năm Lycéc Protectorat8 ở Hà nội và cô là địa chủ chứ?

Cô gật đầu.

- Đúng vậy!

- Tôi cũng thế! Những ruộng nương của gia đình tôi còn ở Gia Lâm

Nguyễn Sơn kêu bồi lấy thêm Sandwich (bánh mì vuông) và Roque Fort loại phó mát có tiếng bên Pháp. Ông muốn cô Nội được thưởng thức mùi vị của món này vì nó được chở từ bên Pháp qua - (ở Việt Nam làm chưa được) - Cô vừa ăn vừa gật gù:

- C’est très bon gout9

Ông cười, cầm ly nghiêng mình tới trước mặt cô quàng tréo ly, 2 cánh tay hai người đan nhau. Ông nói:

- Vidéz comme il faut10. Cô cười thỏa thích hai đầu cụng nhau cùng cạn cốc rượu

- Bien entendu! 11

- Món tôm, sò quả thật là ngon khi chấm với gia vị moutarde và sauce mayonnaise12 - cô khen:

- Bon appétit13

Ông đụng nhẹ đầu gối vào chân cô, cô cười nói:

- Ne touchez pas! 14 Nhưng cô vẫn để im không tránh né. Ăn xong cô đứng lên có vẻ không vững. Mặt cô đỏ hồng. Ông bước lại tay đặt lên vai cô - Cô nói lè nhè:

- Từ trước đến nay gia đình em chỉ ăn fromage bruyère, hôm nay quả thật ngơn tuyệt.


Ra khỏi cửa nhà hàng cô ngả đầu vào vai ông và để ông dìu ra xe. Ông cũng hơi chếnh choáng. Ông quàng tay vào vai cô. Tay cô ôm ngang lưng ông. Ông dừng lại một phút hít một hơi dài hương hoa bưởi thơm dìu dịu phảng phất trên đầu cô. Thân thể mềm mại làm nóng lưng ông. Ông ngơ ngẩn chưa bao giờ ông có được cảm giác tuyệt diệu như tối nay trong sự êm dịu, mềm mại của da thịt.

Khi lái xe trở về khách sạn, ông còn đi một vòng và ghé lại bên bờ sông Hương. Lúc ấy cô Nội đã ngả lưng nhắm mắt trên nệm xe. Ông tới ngồi bên bờ. Dòng sông mờ mờ. Bên sông có dăm bảy ánh đèn chiếu lung linh dưới màu nước đen xì. Trên bầu trời xám trong có vài ngôi sao chiếu sáng.

Phía sau lưng ông là trường Quốc Học Khải Định. Cả ngày rong chơi bên người đẹp ông mới thấy Huế là đáng yêu. Ông ngâm khẽ:

Người đâu gặp gỡ làm chi
Trăm năm biết có duyên gì hay không? 15

Ông là người rất thích truyện Kiều và gần như thuộc lòng truyện Kiều.

Ông vẫn ngồi bên bờ sông để hứng làn gió đêm mát rượi. Những phút vui sôi nổi của đêm nay lắng xuống. Ông đăm đăm nhìn về hướng bắc phía cầu Tràng Tiền. Ông nhớ tới Kiếm Qua và con. Ông nhớ tới cô vợ thông minh đã hiểu lòng ông “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” 16.

Ông nhớ lại những phút vui suốt ngày nay bên cô Nội. Ông cảm thấy ông đã có lỗi với Kiếm Qua. Ông thầm nói: hương hồn em ở đâu hãy tha thứ cho anh. Anh còn trẻ, cô bạn em đây cũng là đồng chí như em vậy, cô cũng gặp oan trái của cuộc đời cô đầy sóng gió!

Về đến cửa phòng ngủ, cô Nội ôm ông và nói bằng tiếng Pháp:

- Em ước mong ngày mai tình chúng ta vẫn mãi tươi đẹp và đậm đà như hôm nay.

Tối hôm ấy trên giường nệm êm ái, dưới ánh đèn hồng hai người đã trao cho nhau những nụ hôn cuồng nhiệt trong ân ái...
______________________________________
1. Chúng ta đã có một cuộc dạo chơi lý thú trong buổi sáng đẹp trời.
2. Tùy sở thích của anh
3. Cô ăn món gì! Súp hay thịt bò.
4. Tùy theo ý thích của anh.
5. Cuộc đi chơi thật huy hoàng làm chúng ta đã quên ăn sáng.
6. Tôi cảm thấy đói.
7. Tôi cũng thế.
8. Trường trung học Bưởi.
9, 13. Rất ngon.
10. Chúng ta hãy cạn ly.
11. Nhất trí.
12. Món mù tạc là loại bột bằng bông cải làm gia vị.
14. Cấm đụng chạm.
15. Trích thơ Kim Vân Kiều của Nguyễn Du.
16. Đồng thanh tương ứng đồng khí trưng cầu có nghĩa là hai trái tim hoà hợp, người này mới nói người kia đã hiểu hết.


Tiêu đề: Re: Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc
Gửi bởi: chuongxedap trong 15 Tháng Mười Hai, 2009, 05:34:24 pm

31

Mỗi buổi sáng theo lệ thường, Nguyễn Sơn tập thể dục. Vì không có chỗ rộng tạm thời ông tập ở ngoài hành lang khách sạn. Khi ông tập xong thì cô cũng chải đầu xong. Cô đã đồng ý ở với ông thành vợ chồng. Cô lấy hành lý theo ông lên xe về Quảng Ngãi. Nguyễn Sơn đã điện thoại cho Hội Liên hiệp Phụ nữ Thừa Thiên báo tin cô về miền Nam công tác.

Đến Quảng Ngãi ông đã trao quyết định của Bác Hồ với các đồng chí Phạm Kiệt, Nguyễn Chánh. Hai người đã dành cho ông 2 phòng ở cách ban chỉ huy 15 thước trong đồn Khố Xanh (nội thành Quảng Ngãi cũng là trụ sở của Ủy ban kháng chiến tỉnh Quảng Ngãi). Sau đó ông đến gặp Xứ ủy Trung Bộ.

Đầu tháng 1, ông đi quan sát mặt trận An Khê và Bộ Tư lệnh đóng trên đồi An Khê trong một toà lầu của bọn sĩ quan Pháp đã ở trước kia. Trên đường đi ông vẫn không biết là những giọt máu nóng hổi của ông đã thâm nhập trong thân thể cô Nội và sau nay đã hình thành một đứa bé gái, đấy là Mai Lâm.

Ông ở An Khê vài ngày ông lại lái xe vào Nha Trang Phan Rang.

Khi Ủy ban kháng chiến miền Nam Việt Nam dời về Bồng Sơn - Cô Nội đã vào ở với ông 10 ngày - Sau 1 tháng Ủy ban lại dời về Quảng Ngãi lúc đầu ở trại đồn Khố Xanh1 sau đó đóng trụ sở tại nhà hai tầng ở gần trường Lục quân Quảng Ngãi.


Đêm nay nhớ đến cô Nội, lòng ông vẫn cảm thấy ấm áp. Người trí thức bao giờ cũng tế nhị - Cô luôn chiều ông và săn sóc ông. Mỗi khi ông về nhà là luôn có một cốc nước chanh hay ly sữa và cái khăn mặt để trong chậu nước. Trong bữa ăn tự cô xào thịt bò và nấu những món ông thích như ra-gu2. Cô quấn quít bên ông. Nhiều lúc cô tỏ ra hờn giận vì thấy ông hay đi xuống địa phương bỏ cô ngủ một mình trên căn lầu rộng mênh mông. Chưa bao giờ cô được hưởng thú chăn gối đậm đà bên người trai tràn đầy nhựa sống như những ngày gần ông. Vì yêu ông quá nên nhiều khi cô cũng ghen và hờn giận. May thay văn phòng Ủy ban lúc ấy không có một cô thư ký nào. Chuyện ghen này cũng không trách cô được khi cô biết thế nào là hương tình yêu, là nguồn vui vô tận, là hạnh phúc của đời con gái với một người đàn ông dày dặn, cường tráng.

Ông lăn qua, trở lại trằn trọc không ngủ được. Sương khuya càng thấm lạnh. Ông lại ngồi dậy bỏ thêm củi vào bếp lửa. Ông cứ bước tới bước lui trên đường mòn của rừng núi. Tiếng lạo xạo sỏi cát va vào nhau dưới gót chân ông. Ông lại trở lại nằm trên tấm bạt, tay ông gác lên trán - Ánh trăng đã mờ dần để lại đêm tối vài vì sao khuya. Tiếng chim cú hót làm cho không gian thêm u sầu.

Qua hôm sau, đoàn đi vòng vèo theo dải Trường Sơn và đến Huế. Ông vẽ đường trên giấy và cho liên lạc đến nhà một số văn nghệ sĩ có tiếng để đi vào khu tham gia chống Pháp. Ông phải mất 2 ngày ở lại liên lạc với một số nhân sĩ, tri thức ở Huế.




32

Nguyễn Sơn là một người lãnh đạo nhìn xa hiểu rộng. Ông đã tận dụng những nhân tài của đất nước kể cả những người theo chế độ cũ trước đây và những người ngoại quốc như các sĩ quan Nhật, Áo, Đức hay dân tộc thiểu số như Y Bloc3, YBlum, YBlam, Ung Răng với ai ông cũng tôn trọng và coi như bạn bè.

Hồi còn ở Trung Quốc bác sĩ Buttion, một đảng viên Cộng sản do đảng Cộng sản Canađa giới thiệu đến Trung Quốc để phục vụ cách mạng. Sự tự nguyện của Bác sĩ đã làm ông yêu mến. Ông đã đàm thoại bằng tiếng Pháp với bác sĩ. Hai người rất thích thú và kết bạn với nhau. Một lần ông bị trĩ thường ra máu tại hậu môn, ông đã nhờ Buttion mổ nhưng với điều kiện là không được dùng thuốc mê vì lúc bấy giờ thuốc mê rất đắt tiền và hiếm có. Thuốc này chỉ dùng cho những ca mổ thương binh nặng. Ông phải 3 lần khẩn khoản đề nghị bác sĩ đừng dùng thuốc mê để mổ cho ông, ông cam đoan có thể chịu đựng được cơn đau. Thuốc mê dùng cho ông là lãng phí của nhà nước. Bác sĩ Buttion chiều theo ý ông. Khi mổ đau quá ông cắn răng chịu đựng không rên la tiếng nào. Mồ hôi trán nhỏ ròng ròng xuống mặt. Bác sĩ nhìn ông và lắc đầu. Trước khi mổ bác sĩ đã đưa ông 1 miếng băng gạc để ngậm khi bị đau, nhưng ông cũng không sử dụng. Ông nhớ lại ở mặt trận Mai Lâm, khi ông bị thương phải tự chữa trong khi phải chống chọi sự tê cóng của mùa đông đã làm vết thương nhức nhối. Cả khi bọn Tàu Tưởng trở mặt đã uy hiếp và đánh ông bầm tím. Dù đau đớn đến đâu ông cũng không bao giờ rên la huống hồ sự đau vì mổ của ngày hôm nay.

Sau khi mổ 1 ngày, bác sĩ xem xét lại phần mổ và khen ông:

- Vous êtes trop aimable et Courageux! 4

Riêng ông thầm cảm phục người chiến sĩ vô sản quốc tế này từ nước Canađa đã tự nguyện tham gia chiến đấu cùng Hồng quân Trung Quốc.
_______________________________________
1. Đồn khố xanh nơi đóng quân của lính Nam triều (garde indigène): quân đội bản xứ.
2. Món ăn theo Pháp có khoai tây, thịt bò, đậu trắng, cà rốt nấu sệt sệt ăn với bánh mỳ hay cơm cũng được.
3. Y Bloc cùng ở trung đội 2 - đại đội 3 với tôi. Ông mới học được 2 tháng, Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái mời về để gặp Bác Hồ. Bác Hồ nói: Vua du kích cần gì học, chỗ Y Bloc về Tây Nguyên sớm để tổ chức quần chúng đánh giặc - Sau giải phóng miền Nam Y Bloc làm Thiếu tướng.
4. Anh rất dễ thưong và can đảm.



Tiêu đề: Re: Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc
Gửi bởi: chuongxedap trong 15 Tháng Mười Hai, 2009, 05:41:27 pm

33

Sau 9 ngày đi đường núi và xuống đồng bằng, đoàn của ông đã về đến Trung ương - Bộ Tổng tham mưu, lại có sự thay đổi đột xuất của Trung ương Đảng.

Sắc lệnh số 214 ngày 20/11/1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký, căn cứ tình hình hiện tại, ông Sơn không phụ trách Tham mưu trưởng mà là Cục trưởng Cục quân huấn kiêm Hiệu trưởng trường Võ bị II.

Ông chuẩn bị chiêu sinh. Các sĩ quan Lục quân Quảng Ngãi soạn thảo chương trình huấn luyện cùng với số sĩ quan trường Võ bị Trần Quốc Tuấn.

Tối hôm khai giảng những sinh viên trường Quảng Ngãi có giấy giới thiệu đảng viên được ông Sơn mời lên chỗ ông ở gần văn phòng. Ông trải chiếu và mời các anh em ngồi. Số đảng viên lúc ấy vỏn vẹn chỉ có 5 người. Bên phía giáo viên Võ bị Trần Quốc Tuấn không có ai là đảng viên cả.

Ông nói: Lực lượng Đảng ta tại trường này rất mỏng và yếu. Tôi đề nghị các đồng chí trước hết phải thân ái đoàn kết trong Đảng rồi đến ngoài Đảng, phải làm tấm gương sáng cho quần chúng nể phục và theo Đảng cùng chung sức làm cách mạng. Ông kể lại khi tham dự chiến đấu trong hàng ngũ Hồng quân, vượt vạn lý trường chinh gian khổ. Trên không có máy bay địch truy kích, dưới đất vượt thảo nguyên bùn lầy phải làm giầy rơm lớn vì sợ ngập sình. Tuy thế cũng có người đã chết vì lún sâu ngập đầu dưới sình. Nhiều gian khổ khác, khi qua núi tuyết lúc đói khát phải ăn gót giầy. Trong cuộc dời quân về căn cứ địa vùng Thiểm Tây Hồng quân vừa đi vừa chống trả bọn Tưởng đuổi theo. Biết bao gian khổ, biết bao hy sinh. Lúc khởi hành Hồng quân có 20 vạn quân nhưng khi về đến căn cứ chỉ còn 2 vạn mà ông lại trải qua tới 3 lần vượt núi tuyết do thực hiện công tác trên giao. Các đảng viên nghe chuyện đều mến phục sự cương nghị chịu đựng của ông. Khi bị kẻ xấu hãm hại ông vẫn không sờn lòng.

Trong bốn đêm liên tiếp ông đã dạy cho số đảng viên về công tác tổ chức và hoạt động quần chúng. Ông đem những kinh nghiệm về tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể khi chỉ một mình ông trở lại tỉnh Sơn Tây, xây dựng lực lượng kháng Nhật và Quốc dân đảng. Ông tổ chức dân quân chiến đấu, tổ chức các đoàn thể làm hậu cần cho quân đội để chống 2 kẻ địch.

Trước mắt ông yêu cầu các đồng chí phải làm quen và nắm được số sinh viên Trần Quốc Tuấn lôi kéo những nhân tố tích cực để phát triển biến họ thành cánh tay mặt cho Ban giám hiệu. Đi đôi với việc này chú ý phát triển đảng trong cán bộ nhà trường và sinh viên.

Theo lời đồng chí Vũ Hắc Thông1: Trong khóa này chúng tôi đã nỗ lực và phát triển trên 50 đảng viên (1/3) của tổng số học sinh. Những lời của đ/c Nguyễn Sơn gây cho chúng tôi một ấn tượng về người tướng dũng cảm đã động viên chúng tôi vượt qua nhiều khó khăn trong việc phát triển đảng cũng như trong chiến đấu.

Vài hôm sau trường bị bom tan nát - Ông phải dời trường về Hà Đông, Sơn Tây ở tạm các nhà dân chúng. Một tháng sau trường cho mãn khóa để các học sinh về gấp địa phương đào tạo thêm cán bộ. Trường lại tiếp tục mở khóa mới.

Ông cùng Hoàng Minh Thi đóng tại nhà một cụ già người miền Trung. Cụ trước kia cũng làm ông quản Khố Xanh tại dinh ông án sát Quảng Trị dưới thời Bảo Đại. Cụ rất hãnh diện được làm quen với cấp cao của bộ đội Việt Minh - Hoàng Minh Thi hay ngồi với cụ uống vài ly trà. Thỉnh thoảng ông Sơn cũng cùng cụ uống trà và ngâm thơ Kiều. Ông giảng giải Kiều rất hay làm cụ phục lắm. Một lần cụ luộc một con gà giò cho ban giám hiệu nhậu để ngâm thơ. Tên cụ tôi không nhớ. Cụ chỉ có một cô con gái 17 tuổi. Cụ bà mất lâu rồi. Cô con gái tên Lan, sắc mặt luôn trắng hồng, vóc người mảnh mai. Đặc biệt cô có đôi mắt lá dăm long lanh. Thỉnh thoảng cô lại liếc nhìn trộm ông Sơn. Có lẽ cô phục dáng vẻ oai hùng quắc thước của ông khi đứng trước ba quân với giọng oang oang ông hô chạy đều. Cô thường đến lấp ló nhìn ông giảng bài trong đình làng. Sau này ông mới để ý về cái nhìn là lạ của cô quả thật là cái nhìn làm điên đảo anh hùng.

Sau buổi cơm chiều, thường thường ông Sơn hay dạo chơi trên ngọn đồi phía sau nhà - Có chiều mây đỏ ối ở dẫy núi xa ông lại nhớ đến An Khê đến trận đánh Bô Keo – Số chiến sĩ đã hy sinh cùng Đàm Minh Viễn, ông nhớ vết đạn soi vùng ngực Võ Trường Khê, ông nhớ cả một đại đội đã cùng Vi Dân hy sinh! Cái sự ấu trĩ về chiến thuật ai chịu trách nhiệm! Rồi ông cùng ông Thanh Sơn đã đưa một số anh em Lục quân và quân chính đại đội đi vào nam bằng thuyền, trong đó có Xích, Võ Ban, Mai Nam Hải, Lý Nguyên Bá.v.v… là học trò của ông2. Trong những chuyến thuyền về nam ban đêm ông cũng biết khi thuyền không thoát khỏi tay địch, anh em sẽ cho nổ thuyền để không bị địch bắt và phi tang, có nghĩa là anh em chấp nhận hy sinh theo thuyền. Một số sinh viên được tăng cường vào 2 tiểu đoàn “Nam tiến” của Phòng Nam bộ là Tiểu đoàn Ba Dương và Hùng Phước.

Ông lại nhớ đêm liên hoan chung với ông Phạm Văn Đồng tiễn đưa các đoàn cảm tử đem vàng qua Xiêm để mua vũ khí đem về Việt Nam3. Có đoàn đã đi mất tăm tích trong rừng sâu hoặc thú dữ ăn thịt, hoặc chết vì đói khát. Ông lại nhớ đến những tình báo viên còn trẻ mới 16, 17 tuổi như Trinh và Vân trong những chuyến mở đường đặt trạm từ miền Trung vào Nam bộ đã bị địch bắn tại Khánh Hoà.
_____________________________________
1. Võ Hắc Thông là tỉnh đội trưởng dân quân tỉnh Bắc Ninh. Sau này là Thiếu tướng cục Dân quân Bộ quốc phòng
2. Sinh viên Lục quân đi biển vào Nam có Mai Nam Hải tới Nam bộ làm Giám đốc trường Quân chính Quang Trung khu 9, Võ Ban là Phó giám đốc chuyên đi các tỉnh huấn luyện các xã đội trưởng dân quân. Nguyễn Xích làm Trung đoàn trưởng chủ lực Tây Đô. Lý Nguyên Bá sau tên là Hoàng Xuân Hảo, Tham mưu phó khu 8, khi hoà bình là Giám đốc trường Thương mại Trung ương phía nam. Trạng làm chi đội phó 25 (khu 7, 2 tiểu đoàn Ba Dương và Hùng Phước do ông Thanh Sơn thành lập). Số sinh viên Lục quân nhập vào tiểu đoàn Ba Dương và Hùng Phước gồm có: Báng, Tuấn, Nhàn, Tài, Phát, Bạch Thọt, Hùng Anh, Nguyễn Sơn cũng góp phần xây dựng Phòng Tình Báo, Điệp Báo miền Nam Việt Nam trong buổi ban đầu.
    - Báng, Nhi, Hồng hy sinh, Thọ chết ho lao. Tuấn, Tiểu đoàn trưởng chủ lực Pokumbo Đông Bắc Kampuchia; Bạch Thọt: Tiểu đoàn phó Ba Dương
    - Đặng Hùng Anh và Tài học trường Tình báo, Điệp Báo miền Nam Việt Nam. Hùng Anh đậu số 1 làm Phó trạm tình báo Khánh Hoà - Tài đậu nhì làm phụ tá cho Phạm Ngọc Thảo Phó phòng Tình báo miền Nam Việt Nam đưa 4 thùng vàng, tài liệu, vũ khí và cán bộ Trung ương vào Nam (Bộ trưởng giáo dục Ca Văn Thỉnh, Diệp Ba giám đốc Công an Nam bộ, Nguyễn Sĩ Giám đốc báo Chống xâm lăng - Các kỹ sư Nghiêm, Tùng và Toàn, Chính - Cán bộ chính trị Trung ương v. v…
3. Nguyễn Trại đi theo đoàn qua Thái Lan 2 lần. Sau này ông là Đại tá đã bảo vệ đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn suốt 30 năm.



Tiêu đề: Re: Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc
Gửi bởi: chuongxedap trong 15 Tháng Mười Hai, 2009, 05:43:07 pm

34

Ngày 12/2/1947 khai mạc khoá IX (tức là Võ bị khoá II) được cử hành tại thị xã Tuyên Quang - Nguyễn Sơn đã giới thiệu người thứ nhất là Trần Tử Bình phụ trách Chính ủy nhà trường. Người thứ hai là Trương Trung Phụng hàm Đại tá trong quân đội Quốc dân đảng bên Trung Hoa, phụ trách phó giám đốc. Thấy ông Phụng râu đen xì, rậm dài ông dí dỏm nói: “đấy ông Phụng là em của Trương Phi, tướng quân nhà Hán. Anh em ồ lên và không nín được cười. Không khí long trọng trở nên thoải mái. Sau đó ông nói về âm mưu của giặc đang dự định tấn công ta. Ông động viên các khoá sinh cố gắng học tập và tuân theo lời Bác Hồ dạy: “Trung với nước, hiếu với dân”, khắc phục khó khăn, mọi việc đều hoàn thành xuất sắc.

Việc tổ chức nhà trường với 340 học viên chia thành 3 đại đội, được phân ra 3 loại học tập: đại đội 1 đào tạo Trung đội trưởng, đại đội 2 đào tạo Chính trị viên, đại đội 3 đào tạo Cán bộ huấn luyện dân quân. Các giảng viên là các sinh viên của hai trường Võ bị và Lục quân trung học.




35

Nắng đã tắt trên đồi Sơn Tây - Trong khói lam chiều đang quyện bao nỗi nhớ, bao luyến thương trong lòng ông. Ông có tham dự lễ xuất quân tiến về nam của 2 tiểu đoàn Ba Dương và Hùng Phước.

Hồi sáng này ông có tiếp anh Đào Chúc là sinh viên trường Lục Quân - Quảng Ngãi, hiện là đại đội trưởng trong trung đoàn Thủ Đô đến thăm ông. Ông hỏi thăm các sinh viên khác - Ông được biết một số sinh viên Võ bị Quảng Ngãi đã hy sinh anh dũng trong sáu ngày toàn quốc kháng chiến như Nguỵ Trường Sanh tại mặt trận Phùng (ngoại ô Hà Nội). Cao Duyến ở chân cầu Long Biên, Đinh Mĩ Tuệ ở Nghĩa Đô, Từ Liêm, Hồ Sĩ Tài ở Thụy Khuê, Hồ Cảnh Chung ở An Châu, Nguyễn Liên ở Chèm. Kể cả sự khai quật hài cốt chiến sĩ ở Huế. Các chiến binh đã tìm thấy huy hiệu trường Lục quân và biết đó là Trần Văn Tư và Vũ Bão Tiểu đoàn trưởng 115, Trung đoàn 165 mặt trận Tây Bắc. Đặc biệt Cát Tường một sinh viên ốm yếu “ba gai” đại đội 3 đã hy sinh anh dũng khi nâng khẩu súng máy của địch lên cao, cho anh em xung phong tại mặt trận bảo vệ Thủ Đô - Đợt đầu sinh viên ra các đơn vị trong toàn quốc đã hy sinh trên 40 người.

Ông đã mời sinh viên Chúc ăn bữa cơm trưa, và động viên anh chiến đấu đồng thời nhờ anh nhắn với các sinh viên khác: Nguyễn Sơn vẫn luôn theo dõi và chúc sự chiến đấu gan dạ, sáng suốt của các sinh viên giành thêm nhiều thắng lợi cho đất nước và làm vẻ vang cho trường Lục quân Quảng Ngãi.


Lệnh trên chỉ thị trường Quân chính Bắc Sơn và Võ bị Sơn Tây hợp nhất thành một trường do Nguyễn Sơn làm hiệu trưởng1. Yêu cầu trước mắt là đào tạo cán bộ chỉ huy cho các đơn vị chủ lực và quân địa phương.

Trước khi đi vào miền Trung ông đã thành lập một trung đội đặc biệt lấy bí số 13 với nhiệm vụ tổ chức tại các xã, thôn chung quanh vòng đai Hà Nội, Trung đội này dạy dân quân đánh du kích để ngăn đường bọn Pháp sẽ lấn chiếm ra Hà Đông, Sơn Tây... Vì đảm bảo bí mật các sinh viên trong trung đội phải đổi tên thật và lấy họ Vũ (họ Vũ là họ của thầy Nguyễn Sơn) ví dụ: anh Lưu Đình Hy đổi tên là Vũ Hắc Thông (thân mình đen đủi và cứng rắn như cây thông). Các anh em khác đổi thành họ Vũ như Vũ Hoàng Quỳnh, Vũ Hoàng Lan (giống con gái), Vũ Thanh Quế (cao, gầy), Vũ Hắc Bồng (thanh gồ) 2 v.v... Trung đội cán bộ này dưới quyền chỉ huy của đồng chí Khuất Duy Tiến. Cứ 10 ngày lại về báo cáo một lần. Khi toàn quốc kháng chiến các cán bộ họ Vũ được phân tán đi lãnh đạo phong trào dân quân tại các tỉnh xung quanh Hà Nội, như Hải Dương, Bắc Ninh, Sơn Tây...




36

Bộ Quốc phòng lại ra lệnh toàn trường Võ bị phải di chuyển về Liên khu 4 và Nguyễn Sơn vẫn là Hiệu trưởng trường này với chương trình huấn luyện cấp tiểu đoàn để đáp ứng nhu cầu cấp bách của chiến trường toàn quốc.

Ngày 14/7/1947, Nguyễn Sơn nhận được lệnh vào làm Khu trưởng liên khu 4. Với hơn 300 học viên cán bộ của trường - Ông giao cho Hoàng Minh Thi Hiệu phó - phụ trách gần 2 đại đội sinh viên hành quân theo ông vào Khu 4. Ông giao cho Thi phải hoàn tất việc chuẩn bị trong một ngày.

Khi hành quân vào miền Trung đơn vị lại đến Sơn Tây trời đã tối ông ra lệnh ban hiệu trưởng lại về đóng nơi nhà cũ của cô Lan.

Nghe tin chuyển trường vào nam, đêm đó cô Lan đã nấu một nồi xôi gấc và một con gà luộc gói lại sẵn sàng - Mới tờ mờ sáng khi cô biết ông đã thức dậy, cô gói xôi trong lá chuối, ngoài bọc giấy nhật trình và đem lại bên giường ông để tặng ông ăn khi đi đường - Cô hỏi nhỏ: chừng nào ông trở lại? - Ông bảo:

- Lâu lắm.

Mắt cô dường như đỏ hoe - Ông nhìn sâu vào mắt cô, ông nói vội:

- Cám ơn Lan, chúc cụ và Lan ở lại mạnh khỏe.

Lan mạnh dạn bắt tay ông. Ông bước liền ra sân truyền lệnh cho tập hợp đội ngũ để lên đường. Có lẽ ông không muốn nấn ná khi biết lòng ông cũng có những phút rung động yếu mềm.

Dọc đường ông suy nghĩ: Lan đã có cảm tình với ông về giọng ngâm tiếc thương đời Đạm Tiên hay khúc Kim Trọng gặp lại Kiều hoặc về cái gì! Mắt Lan sao đa tình quá nhỉ! Cặp mắt lá dăm long lanh ấy đã ám ảnh ông suốt cuộc hành trình vào Nam. Có lẽ cô yêu ông chăng! Cái bắt tay đột ngột vừa qua đã thể hiện rõ tình yêu của cô!

Nếu sáng hôm ấy ông không nhanh chân bỏ ra ngoài sân để hô lớn “tập hợp” thì không biết chuyện hai người sẽ diễn biến như thế nào.
_____________________________________
1. Tư liệu do Trung tá Võ Ban phụ trách an ninh phi trường Tân Sơn Nhất cung cấp.
2. Vũ Hắc Bồng: Trưởng ban đối ngoại Thành phố Hồ Chí Minh, đã từng làm Đại sứ 9 nước trên thế giới. Vũ Hắc Thông là Thiếu tướng tại Cục dân quân - Bộ Quốc phòng



Tiêu đề: Re: Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc
Gửi bởi: chuongxedap trong 15 Tháng Mười Hai, 2009, 05:44:00 pm

37

Nửa tháng sau đã đến Quân khu 4 - Kiểm điểm lại số sinh viên vẫn đầy đủ, mặc dầu rất vất vả trên đường vào Nam. Ông vào Khu ủy đưa sắc lệnh cho đồng chí bí thư Hồ Tùng Mậu - Ông Mậu cười và nói:

- Bác Hồ có điện cho tôi biết trước. Đồng chí hãy nghỉ hôm nay, ngày mai ta sẽ bàn giao giữa Thiếu tướng Lê Thiết Hùng, Đào Chính Nam và đồng chí. Nhưng nói trước để đồng chí biết, sau khi mặt trận Bình Trị Thiên tan vỡ các đơn vị toàn Quân khu hầu như chưa hoạt động ra hồn, các chỉ huy phần đông non yếu trong chiến đấu. Tinh thần quân đội sa sút, dân chúng hoang mang sợ sệt. Hơn nữa lại bị bọn phản động Quốc dân đảng quấy rối và các phần tử manh động trong công giáo từ Phát Diệm vào xách động phong trào - cùng bọn Pháp từ biên giới Lào lăm le xâm chiếm. Đồng chí sẽ gặp khó khăn đang 4 mặt bao vây quân khu.

Hôm sau, cuộc bàn giao tiến hành nhanh chóng. Trước khi Lê Thiết Hùng ra bắc, Phó khu trưởng Đào Chính Nam đã đãi một bữa cơm trưa với khoảng 10 cán bộ tham dự tại Tư lệnh bộ đóng ở Đô Lương - Nghệ An. Lúc ấy chính ủy Trần Văn Quang cũng từ mặt trận Bình Trị Thiên về kịp tham dự liên hoan. Đi theo ông có một số em làm trinh sát, liên lạc của mặt trận, đã chạy tán loạn, được ông Quang thu nhặt đem về.

Ngày hôm sau Chính ủy Trần Văn Quang đã trình bày tình hình chiến sự tại mặt trận Bình Trị Thiên. Đầu năm 1947 Mặt trận Huế và Lào bị Pháp chiếm đóng. Chúng chiếm Quảng Trị và tính ra Bắc Quảng Bình để liên lạc với quân Pháp ở Trung Lào. Ta đã chiến đấu dũng cảm nhưng không ngăn cản được sức tấn công như vũ bão của địch. Kiểm điểm lại Ban chỉ huy mặt trận muốn giải quyết nhanh nhưng trong chỉ đạo lại đánh nhỏ lẻ phân tán và kéo dài trận chiến. Ông lắng nghe nhưng không có ý kiến. Ông đề nghị đồng chí Quang báo cáo về tình hình dân chúng, hoạt động của các đoàn thể và phong trào dân quân các tỉnh. Ông đặc biệt chú ý đến sự hoạt động của tôn giáo và của bọn Quốc dân đảng.

Theo ông Quang cho biết tại Ninh Bình giám mục Lê Hữu Từ đã tung một số giáo sĩ và tín đồ Thiên chúa giáo vào hoạt động tại Ninh Bình, Thái Bình và Thanh Hóa. Mục đích những người này là tìm sâu những sơ hở của cách mạng để tuyên truyền trong giáo dân chống lại chính quyền ta. Cách đó một tháng chúng đã sách động dân Ba Làng biểu tình đòi trả tự do cho những giáo dân bị giữ vì đã xuyên tạc chính sách nhà nước. Thừa dịp này bọn Quốc dân đảng của Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh tìm mọi cách xuyên tạc chế độ dân chủ cộng hòa. Bọn biểu tình đã đi dọc theo bờ biển huyện Hoằng Hóa. Để đối phó, Thiếu tướng Lê Thiết Hùng đã ra lệnh cho đồng chí Phó phòng chính trị Nguyễn Sĩ Đồng tìm mọi cách dẹp bọn biểu tình. Ông này đã dẫn một đại đội đi cấp tốc về đón đầu đoàn biểu tình. Trải qua nửa ngày đụng độ trước sự sôi sục của giáo dân rất hung hăng với gậy gộc, ông Đồng không tự chủ được, ông liền bắn hai phát súng vào hai người đầu đàn. Dân chúng đả đảo vang rền. Ông phải ra lệnh quân đội bắn chỉ thiên nhiều loạt và ngay đêm đó quân đội đã rút lui.

Sau đó tôi cử hai cán bộ chính trị đại đội thay mặt Bộ tư lệnh xuống dàn hòa và tìm hiểu nguyên nhân để thoả mãn yêu sách của đoàn biểu tình. Họ yêu cầu đem Nguyễn Sĩ Đồng ra xử. Đại diện bộ đã tuyên bố ông Sĩ Đồng bị đình chỉ công tác và ông bị giải về Trung ương để xét xử. Tạm thời dân Ba Làng đã ngừng biểu tình và không khí lắng dịu.

Tôi đã cho tình báo đi dò la và đã nắm được số đầu sỏ giật dây của Thiên chúa giáo kể cả bọn phản động Quốc dân đảng.

Ông Sơn nói:

- Tốt! Tạm thời cứ để yên đó xem họ có mưu mô gì khác hay không. Đụng đến tôn giáo là phiền phức lắm đấy! Chuyện này tôi sẽ làm việc với phòng chính trị.

Ông quay sang vấn đề khác: Các cháu ở mặt trận có nơi ăn chốn ở không? Không thể để các cháu thất học được? Phải có kế hoạch ổn định đời sống và học tập cho các cháu - Nhờ đồng chí làm dự án lập trường, ta có thể lấy danh nghĩa là Thiếu Sinh quân. Bọn Pháp còn có tổ chức “Enfant de troupe” sao ta lại không thể tổ chức trường dạy con em chiến sĩ. Trường này tương lai là kế tục những hướng đi của chúng ta - Việc tổ chức phải huy động con em ở các phòng ban thuộc bộ tư lệnh và con chiến sĩ, liệt sĩ các tỉnh trong liên khu về học tập.

Ông Quang đề nghị để đồng chí Võ Viết Sơn làm hiệu trưởng. Các bộ phận trực thuộc do Viết Sơn tự tìm cán bộ phù hợp trong việc điều hành - Ông nói với Trần Văn Quang:

- Chuyện đó tự đồng chí sắp xếp, không cần ý kiến của tôi.

Địa điểm đầu tiên của Trường tại chợ Choi huyện Hương Sơn tỉnh Hà Tĩnh. Khoá đầu chiêu sinh được 200 cháu. Để bảo đảm việc dạy dỗ được tốt ông Nguyễn Sơn đã bỏ thì giờ để đi mời một số trí thức và giáo viên phụ trách giảng dạy cho các cháu.


Tiêu đề: Re: Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc
Gửi bởi: chuongxedap trong 15 Tháng Mười Hai, 2009, 05:45:01 pm

38

Ngày 6/1/1948 khai giảng trường Thiếu Sinh quân, Ban giám hiệu có mời đồng chí Tư lệnh quân khu đến khai mạc - Ông Sơn bận việc không đến được - Ông gửi thư với vài chữ vắn tắt đến các học sinh. Đại ý: “Việc đào tạo rèn luyện đội ngũ này thành công sẽ cung cấp bổ sung hàng loạt cán bộ nòng cốt tương lai cho quân đội và cho các cơ quan đảng và nhà nước sau này” Ban giám hiệu đã đọc bức thư này trước các em thiếu sinh quân để động viên các em tin tưởng vào tương lai, cố gắng trong học tập. Những lời của ông Nguyễn Sơn đã được viết to trên tường nhà trường để cổ vũ sự học tập chuyên cần của các em.

Khóa đầu tiên, Hiệu trưởng Võ Viết Sơn mời con đầu của ông Sơn là chị Võ Thanh Các làm cán bộ phụ trách giám thị của trường với nhiệm vụ đôn đốc các em tôn trọng giờ giấc, thi hành đúng thời khoá biểu, vũ trang tinh thần chịu đựng gian khổ trong luyện tập sinh hoạt hàng ngày sạch sẽ, quần áo tươm tất, chỗ đóng quân thứ tự, vệ sinh.

Trong số thiếu sinh quân có một số các cháu: Vũ Toàn (con ông bà hai); Vũ Tuấn (con ông Năm); Vũ Hồng Long tức Vũ Được (con ông Đức); anh em chú bác với ông Nguyễn Sơn những người em con cô cậu như Đào Hữu Hạnh, chị Đào Thị Hồng là cháu của ông Sơn do các chú các bác gửi đến.

Hai cháu phạm kỷ luật và cũng tỏ ra vẻ là con cháu Tướng Nguyễn Sơn đối xử phách lối với các học sinh. Ông đã nghe được chuyện đó, ông bảo chị Các tập trung tại nhà chị ở gần trường để ông nói chuyện. Khi các cháu đã ngồi đầy đủ trên chõng tre trước nhà. Chị Các mời ông Sơn đến và ngồi trên ghế đẩu.

Ngoài vườn chuối, ánh trăng vừa nhô. Ông hỏi việc học hành mỗi cháu. Ông khuyên các cháu nên cố gắng học hành để sau này giúp nước nhà được nhiều. Ông nói đến những em bé 12, 13 tuổi như các cháu, súng đeo trên vai gần đụng đất, thế mà trong khói lửa chiến tranh các cháu ấy vẫn hiên ngang bắn từng tên giặc và luôn vui vẻ không nệ khó khăn trong cuộc vạn lý trường chinh đầy hiểm nguy, gian khổ.

Bây giờ trên vùng đất này độc lập tự do, và vắng bóng quân thù, các cháu1 phải thấy rằng các chiến sĩ và đồng bào đang đổ mồ hôi xương máu tại mặt trận Bình Trị Thiên, tại Bắc Bộ, Nam Bộ để đánh đuổi quân thực dân Pháp đang mong đặt ách nô lệ lên cổ toàn dân ta. Họ chiến đấu để cho các cháu yên lành học tập mai sau phục vụ đất nước.

Các cháu phải thấy rõ nhiệm vụ của các cháu là phải học cho giỏi, rèn luyện thân thể, mở mang trí óc để sau này nối gót cha anh xông tới tiêu diệt ngoại xâm. Trước mắt các cháu phải đoàn kết trong họ hàng và đoàn kết với các bạn học khác. Ông giải thích: không đoàn kết một chiều để kéo phe, kéo cánh ức hiếp các bạn khác. Đối với nhau phải chân thành, cởi mở, “chị ngã em nâng” cùng nhau cố gắng học tập. Không nên ích kỷ chỉ lo cho mình mà luôn nghĩ tới bạn, giúp đỡ bạn cùng học tập tốt.

Ông ngừng một chốc, lấy ống điếu nhồi thuốc châm lửa và nhả từng luồng khói:

- Các cháu có hứa với ông là học hành tốt, giúp đỡ bạn cùng học, giúp đỡ đồng bào, luôn trau dồi đạo đức để tiến lên xứng đáng với sự hy sinh của cha, anh để giành độc lập. Các cháu phải tự thấy xấu hổ khi làm việc xấu để chú bác phải buồn phiền vì các cháu là cháu Tướng Nguyễn Sơn mà không biết khiêm tốn lại vỗ ngực ta đây, thể hiện sự xấu xa, làm ô danh Tướng Nguyễn Sơn.

Trong đám các cháu có tiếng sụt sùi khóc vì hối hận. Ông nói tiếp:

- Các cháu phải noi gương các chiến sĩ tí hon Trung Quốc vì yêu nước mà khắc phục mọi khó khăn gian khổ. Khi bác được phong hàm Thiếu tướng thì các cậu ấy đã trưởng thành. Người làm trung đoàn trưởng, người làm sư đoàn phó, có người làm anh hùng quân đội.

Các cháu có hứa với bác quyết phấn đấu vươn lên và chứng tỏ chúng ta đều anh hùng như Trần Quốc Toản, Nguyễn Huệ không?

- Xin hứa.

Để chấm dứt buổi họp ông nhấn mạnh:

- Sống như tầm gửi, dựa vào người khác mà tiến lên là hèn. Hãy ngẩng cao đầu, tiến lên bằng đôi chân vững chãi của mình.

Khi tan cuộc họp, trăng đã tỏa sáng trên đỉnh ngọn chuối.
_____________________________________
. Vũ Hắc Bồng. Trưởng ban đối ngoại Thành phố Hồ Chí Minh


Tiêu đề: Re: Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc
Gửi bởi: chuongxedap trong 15 Tháng Mười Hai, 2009, 05:49:03 pm

39

Đối với nhà trường, Nguyễn Sơn rất quan tâm và tìm kiếm những thầy cô giáo giỏi để tăng cường cho ban huấn luyện nhà trường như: Phạm Khuê, Nguyễn Công Nghênh, Trần Quốc Nghệ, Nguyễn Văn Thứ, Phạm Văn Thường, nhà điêu khắc Nguyễn Thị Kim, vợ chồng nghệ sĩ Nguyễn Đức Quỳnh cùng một số thầy giáo có trình độ giảng dạy kể cả Nguyễn Tiến Lãng (nguyên là Tổng đốc Hà Đông) chuyên dạy về Pháp Văn.

Một điểm đáng nói: Nguyễn Sơn rất hài hoà và thâm nhập với quần chúng hoặc bộ đội dễ dàng. Bộ đội vác củi lên xe nặng nề ông cũng lại đỡ củi tiếp. Những việc gì có thể giúp đồng bào, ông làm liền. Không những đồng bào thích ông vì tác phong giản dị, cởi mở mà kể cả gia tộc của ông ai cũng ưa ông. Vì rất dễ hiểu ông ưa thích họ, ai ông cũng có thể khen và động viên họ làm tốt việc gia đình. Gia đình càng yên ấm thì xã hội mới tốt đẹp.

Các cháu đều mến ông, ông cũng mến các cháu. Ông hay hỏi han việc học và động viên các cháu học giỏi và làm nhiều điều tốt cho gia đình, cho xã hội. Chị Thanh Các con đầu lòng của ông, ông rất thương Các, vì Các đã thiếu tình thương của ông từ thuở nhỏ, nhưng không phải vì thế mà ông không thương các cháu khác. Có lần chị Các phải ghen tỵ và thốt lên: Cậu yêu anh Bảo, anh Lân hơn con.

Đi đôi với việc xây dựng trường Thiếu Sinh quân, ông triệu tập liền các cấp chỉ huy trung đoàn, tiểu đoàn các tỉnh về họp tại khu bộ và đồng thời tập trung số cán bộ đã học trường Lục quân Quảng Ngãi về khu bộ để ông bố trí công tác.

Nghe tin Nguyễn Sơn về làm tư lệnh Quân khu 41 các cán bộ, chiến sĩ đều trông ngóng và kỳ vọng ở một vị tướng bách chiến bách thắng từ Trung Quốc trở về Việt Nam. Số sĩ quan nào được mời đi họp, họ cũng tỏ ra rất sung sướng và số ở lại thì lại buồn tiếc vì không được gặp tướng Nguyễn Sơn.

Ông Sơn đã tổ chức lại các phòng ban của khu bộ, bố trí lại nhân sự dành cho một số sĩ quan Lục quân Quảng Ngãi phụ trách. Các phòng ban đều được tăng cường cán bộ. Trung đoàn chủ lực Quang Trung của quân khu do Nam Long chỉ huy được bổ sung thêm cán bộ chuẩn bị thành lập đại đoàn, sau này là Đại đoàn 304. Tiểu đoàn phòng vệ bộ tư lệnh cũng lấy quân từ Tiếp phòng quân của Thiếu tướng Lê Thiết Hùng qua để thành lập do Nguyễn Tần làm Tổng đội trưởng và Lê Thiên Tào làm Tổng đội phó.




40

(Lê Thiên Tào, một sinh viên Đại đội 2 thuộc trường Lục quân trung học Quảng Ngãi rất gây ấn tượng đối với các sinh viên trong trường. Các bạn không thể nào quên hình ảnh một sinh viên vạm vỡ, trắng trẻo, đầu cạo trọc, tiếng hô sang sảng như tiếng của ông Sơn, động tác cơ bản rất mau lẹ như máy, thành thạo hơn cả các huấn luyện viên Nhật; khi ở trường lục quân Tào làm Tổng đội trực để chỉ huy chào cờ trông anh rất oai phong lẫm liệt.)

Thường thường tại khu bộ vào mỗi buổi sáng đều do Tổng đội trưởng Tần chỉ huy chào cờ. Có lần Tần vắng mặt nên Tào thay thế điều khiển. Tiếng hô của Tào rất lớn và dõng dạc đã làm các chiến sĩ cán bộ giật mình sửa lại đội hình ngay ngắn. Tào quay sang chào đồng chí tư lệnh và hô chào cờ. Thường thường chỉ mỗi chủ nhật anh em mới phải hát Quốc ca. Hôm ấy ông Sơn rất thích thú với việc chỉ huy và động tác nhanh nhẹn của Tào nên ngày hôm sau ông bắt Tào điều khiển thay cho Tần.

Có một lần đồng chí trung đoàn trưởng bị phạm lỗi. Trước khi giải tán, Tổng đội phó Tào đã hô lớn:

- Yêu cầu đồng chí Đồng lên cột cờ đứng nghiêm 5 phút. Đồng chí đã phạm lỗi nói chuyện trong lúc chào cờ.

Đồng chí Đồng phải lên chịu phạt tại cột cờ cho đến khi Tào cho nghỉ.

Trưa hôm đó lúc ăn cơm2 tướng Nguyễn Sơn vỗ vai Tào:

- Đồng chí đã áp dụng kỷ luật đúng đắn. Quân nhân lúc nào cũng phải nghiêm chỉnh mới thể hiện được kỷ luật sắt trong quân đội. Tôi khen đồng chí.


Ba chục năm sau khi Lê Thiên Tào về Huế thăm gia đình, họ hàng, anh lại gặp ông Đồng lúc này là Trung tướng Chủ tịch hội cựu chiến binh tỉnh Thừa Thiên. Ông Đồng mừng rỡ thăm hỏi nhắc lại chuyện xưa:

- Tào còn nhớ hồi ấy anh là đại đội trưởng mà dám phạt trung đoàn trưởng, trưởng ban tác chiến quân khu không! Nhưng tôi rất phục các sinh viên lục quân ở quân khu này đều có tác phong nghiêm chỉnh đúng yêu cầu của một quân đội chính quy.

Tào bả lả:

- Hồi đó tôi mới ra trường nên hăng lắm, ảnh hưởng tác phong của Nhật nhất là sự dõng dạc oai phong chỉ huy của tướng Nguyễn Sơn.

Cả hai cùng cười xoà...

- Anh Đồng còn nhớ không: Tập hợp không ngay ngắn là ông Sơn bắn liền sau này tôi hỏi anh Bài là sĩ quan cận vệ thường luôn đi sát bên ông, anh ta nói.

- Ông bắn có chết ai đâu! Ông nổ súng phía sau rồi giơ nòng súng ra phía trước đang bốc khói. Anh em bộ đội đều xanh mặt tưởng là ông bắn thật. Đấy là ông Sơn bắn thị uy mà thôi!

Ông Bài nói tiếp:

- Tại mặt trận Hồi Xuân, La Hán Thanh Hóa sát biên giới Lào. Trong khi giữa quân ta và địch đang giằng co do đồng chí Nam Long chỉ huy. Đây là một mặt trận giữa ranh giới Quân khu 4 và Lào. Bọn Pháp luôn có âm mưu lấn chiếm nơi này để làm bàn đạp tấn công Thanh Hóa, Nghệ An. Lúc đầu quân ta đã đẩy lui quân địch nhiều lần do quân Pháp cầm đầu bọn lính Lào toan dành thế thượng phong. Ta đã nhiều lần làm chúng thất bại nhưng sau này vì sự bố phòng của ta không cẩn mật nên bọn Pháp đã lợi dụng những Tù trưởng Lào và người dân tộc dẫn quân lén đánh úp quân ta làm cho các đơn vị phải bị động rút lui vào nội địa 10 cây số. Bài học đau đớn này cho ta thấy lực lượng dân quân còn yếu, tổ chức trinh sát không hoàn hảo vì không theo dõi từng giờ từng phút những biến chuyển của địch. Hệ thống thông tin không nhanh nhậy. Làm chỉ huy phải nắm được những điều cần yếu khi tấn công và khi phòng ngự. Đây là sơ hở và tổn thất chưa đến nỗi nặng nề nhưng nó là bài học xương máu khi các chiến sĩ đã hy sinh oan uổng.

Sau đó Nguyễn Sơn đã trực tiếp chỉ đạo mặt trận này. Bọn lính Pháp nghe danh tướng Nguyễn Sơn từ lâu. Khi tiếng ông thét ra lệnh từ xa bọn lính đã bỏ chạy toán loạn.

Cái thời ấy các cấp chỉ huy bảo nhau để phấn đấu: “Quân lệnh như Sơn” là thế.


Đại đội trưởng Lê Thiên Tào được phân công về chỉ huy Đại đội độc lập phối hợp với Trung đoàn Trung Quốc thuộc Trung đoàn 308 của tướng Trần Canh đưa sang Việt Nam yểm trợ cho Quân khu 4. Trung đoàn trưởng là Trần Kiệt người xứ Nùng, Tiểu đoàn trưởng là Hải Linh, người Móng Cái có học trường Võ bị Hoàng Phố, Tiểu đoàn phó là Thế Xương người Thái trắng.

Đại đội anh Tào đã tranh thủ trao đổi kiến thức và kinh nghiệm quân sự với đơn vị bạn.
________________________________________
1. Trong tháng 7/1947 để tiện việc chỉ dạo, quân khu được đổi thành Liên khu. Các tỉnh Bình Trị Thiên được thành phân khu Bình Trị Thiên do đ/c Nguyễn Chí Thanh, ủy viên trung ương làm bí thư phân khu và dưới hệ thống của Khu ủy Liên khu tư.
2. Thường thường ông Sơn hay ăn cơm chung với Tiểu đoàn bộ. Khi có khách ông mới ăn cơm riêng để tiếp khách.



Tiêu đề: Re: Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc
Gửi bởi: chuongxedap trong 15 Tháng Mười Hai, 2009, 06:21:50 pm

41

Trong buổi họp đầu tiên tại Bộ Tư lệnh quân khu 4 các đơn vị đều trình bày những ưu khuyết và những khó khăn cần giải quyết. Nguyễn Sơn cũng biết trước đặt vấn đề kiểm điểm là để gây lòng tin giữa tư lệnh và chỉ huy các cấp. Việc mặt trận Bình Trị Thiên tan vỡ là tất nhiên, vì lực lượng giữa ta và địch chênh lệch nhau rất nhiều. Ông đã lắng nghe ý kiến các vị chỉ huy. Sau cùng ông kết luận:

- Quân đội của ta là quân đội nhân dân chưa được luyện tập kỹ càng như quân đội thực dân Pháp. Ta chống Pháp chỉ với tấm lòng yêu nước. Vấn đề trọng yếu là phải luyện tập quân sự, chính trị. Người lính tự vũ trang cho mình một trình độ quân sự khá, một tư tưởng chống Pháp vững mạnh. Ông đưa ra những kinh nghiệm các đơn vị trong Nam Bộ đã đánh giặc bằng tầm vông đẽo nhọn, bằng giáo mác, bằng hầm chông, bằng bất cứ phương tiện thô sơ nào nhưng đầy đủ mưu trí như bắt tổ ong vò vẽ bỏ vào bao để khi bọn giặc Pháp bắn tung bao ra. Ong ùa ra đốt chúng chạy tán loạn. Bị đốt đau có đứa chết tại chỗ. Ông lại đưa ra kinh nghiệm người Ra Đê ở Chiến khu Ba Tơ đã làm những bẫy cọp. Giặc Pháp bị bẫy thất kinh không dám xông xáo vào trong rừng ruồng bố căn cứ của ta vì bẩy nỏ ấy khi bật ra, tên xuyên ngang qua ngực chúng làm chúng rất khiếp sợ.

Ông nói thêm, về kinh nghiệm chiến tranh du kích bên Trung Hoa trong một tiếng đồng hồ.

Tiếng kẻng vang 3 lần báo hiệu giờ cơm.

Ông ra dấu cho anh em nghỉ và nói:

- Chiều nay đúng 2 giờ các đồng chí đến tiếp tục họp. Bây giờ các đồng chí tranh thủ ăn cơm và nghỉ 1 giờ.

Buổi họp chiều diễn ra đúng giờ. Ông đã đúc kết tất cả ưu khuyết điểm của các đơn vị và đề ra phương pháp giải quyết. Ông chỉ nói qua về giữa tương quan lực lượng địch và ta. Ông nói qua về chiến thuật áp dụng trong chiến đấu và việc phải làm trước mắt cho các đơn vị.

Ông đề xuất ngay một kế hoạch cấp tốc củng cố các địa phương.

1. Thông báo Tỉnh đội các tỉnh tổ chức trạm thu dung để thu nhận các chiến sĩ bị thương hoặc lạc đơn vị, cho họ ăn uống đầy đủ, cho nghỉ phép vài ngày và sau đó cho vào biên chế để luyện tập quân sự, chính trị.

2. Trong trường Võ bị phụ trách thêm lớp đào tạo Xã đội trưởng, trong 3 tháng. Chương trình huấn luyện do phòng Tham mưu và phòng Chính trị soạn thảo được Chính ủy cùng Phó tư lệnh duyệt. Hai phòng này đặc biệt theo dõi kế hoạch thực hiện xây dựng dân quân tại các tỉnh, huyện, xã.

3. Biệt phái các sinh viên về các xã tại các tỉnh huấn luyện cấp tốc về quân sự, chính trị cho dân quân trong 15 ngày - Nghiên cứu địa hình tại xã, ấp lập kế hoạch tác chiến khi có giặc vào. Bằng mọi phương tiện, lựu đạn địa lôi, hầm chông để độc lập chống giặc và cướp súng giặc.

4. Đồng chí khu phó trực tiếp xuống các đơn vị hải quân tại Cửa Lò, cùng ban chỉ huy các hạm đội lên kế hoạch tuần tiễu mặt biển và phối hợp với dân quân vùng ven biển các tỉnh trong kế hoạch chống đổ bộ.

5. Đ/c Chính ủy lên phía tây biên giới Lào để củng cố lực lượng xây dựng các đội võ trang tuyên truyền vùng biên giới và thành lập mặt trận Liên quân Lào Việt.

Ông kết luận: mỗi đơn vị phải có kế hoạch huấn luyện và đối phó với địch trong mọi trường hợp có thể xảy ra.


Tiêu đề: Re: Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc
Gửi bởi: chuongxedap trong 15 Tháng Mười Hai, 2009, 06:23:49 pm

42

Một tuần lễ sau, Trường Võ bị II đã mời ông đến khai mạc lớp xã đội trưởng. Ông phân tích sự thất bại của bộ đội vừa qua là do thiếu sự yểm trợ của dân quân trong chiến đấu. Ông nói về tổ chức và hoạt động của dân quân đại để những nét lớn. Dân quân là một tổ chức nghĩa vụ của nhân dân tham dự chiến tranh do Sắc lệnh của Chính phủ quy định: Công dân Việt Nam phải có mặt trong dân quân từ 18 đến 65 tuổi. Công dân phải có nghĩa vụ giữ nước, giữ quê hương (không có tình trạng tự do gia nhập như nhiều nơi đã làm). Nếu tự do gia nhập sẽ giảm bớt số nhân dân tham chiến, lạc hướng tinh thần chiến tranh nhân dân đi đến giảm bớt sức kháng chiến và kiến quốc. Dân quân là một hình thức huấn luyện quân sự và chính trị nâng cao tạo điều kiện cho người dân thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự như trong các nước tiên tiến trên thế giới đã làm.

Chúng ta phải tuyên truyền nghĩa vụ tham gia dân quân và họ phải nhận thấy đây là vinh dự từng người được quyền tham dự chiến tranh giải phóng dân tộc. Tổ chức dân quân phải do chính quyền nhân dân chủ trì. Nó là một tổ chức nửa quân sự, vừa sản xuất vừa chiến đấu. Thực hiện nhiệm vụ chiến lược bảo vệ và xây dựng hậu phương.

Nói về nhiệm vụ dân quân có các mục cần thực hiện:

- Vườn không nhà trống (để không có chỗ giặc vào: ăn ở)

- Tổ chức tránh giặc (triệt nguồn bổ sung lính địch) dân được bảo vệ.

- Phòng gian, bảo mật (cảnh giác, dò la, nghe ngóng phần tử gian tà để bảo vệ an toàn cho dân).

- Liên lạc đưa tin (giữa các xã, giữa trên và dưới, giữa bộ đội địa phương - Các phương pháp đưa tin (trống, mõ, kẻng, chuông) thông tin địch để tránh giặc. Quy định người đưa tin gấp và thường. (Phải tạo dấu hiệu, tín hiệu, và giữ gìn giấy tờ, tin tức. Có kỷ luật về bí mật của người đưa tin, cấm không được tò mò xem giấy tờ có hại cho việc bí mật quân đội.)

Về nhiệm vụ vận chuyển, bộ đội sẽ vất vả nếu không có dân quân vận chuyển vũ khí lương thực, kể cả chiến lợi phẩm tù binh, thương binh từ mặt trận về. Thực hành nhiệm vụ này phải có nam nữ dân quân với các hình thức chiến đấu phù hợp.

Khi giặc đến và khi giặc rút lui, dân quân phải tác chiến trong điều kiện thiếu thốn vũ khí đạn dược. Do đó nhân dân đã nẩy ra nhiều sáng kiến giết giặc cướp súng giặc.

Về các chiến thuật phá hoại có những nhận thức sai lầm về phá hoại: Phá cầu cống, đường sá, địch sửa lại cũng là vô ích. Phải nhận rõ rằng phá hoại là hình thức chiến đấu của chiến tranh nhân dân và áp dụng trong mọi đường hợp - Đó là nhiệm vụ cốt yếu của dân quân du kích và dân quân tự vệ liên kết với đồng bào. Ông Sơn nói đến các mục tiêu phá hoại: đường sá, cầu cống, cắt điện thoại, chặt cột đèn, phá kho tàng đạn dược thuốc men kể cả phá hoại chính quyền bù nhìn và nội bộ địch. Phải có kế hoạch để người nào cũng làm được và nhằm vào cơ sở kinh tế, quân sự của địch để phá.

Ông Sơn nói về sử dụng địa lôi, về chiến thuật quấy rối, về tình báo trinh sát và xây dựng làng chiến đấu.

Ông nhấn mạnh về công tác chính trị của dân quân phải được tổ chức hẳn hoi có hệ thống và tăng cường cán bộ có năng lực thảo tài liệu phù hợp với địa phương về địch vận, về phá tề, về nghĩa vụ giữa dân quân và vệ quốc đoàn. Phải ý thức dân quân và đồng bào là cánh tay phải của bộ đội.

“Sức mạnh nhân dân là lấp biển vá trời” nhưng phải được tổ chức và huấn luyện mọi mặt thì mới thành sức mạnh - Tôi vừa mời một số kỹ sư, bác học lên kế hoạch phá huỷ đường sắt vào Nam. Họ tính phải mất 3 năm và rất nhiều tiền, chuyện này phải thực hiện gấp. Tôi thất vọng quá. Sau đó tôi cho uỷ ban thông báo cho dân phá đường ray. Họ được lấy làm của riêng để làm dao làm búa tuỳ sở thích thế rồi dân chúng đã phá với kỷ lục không ngờ - Họ chỉ thực hiện có 2 tháng là phá xong 90 cây số đường ray xe lửa.

Bên Nga tại phòng tuyến Stalingrad Hồng quân Liên Xô bố trí chống phát xít Đức nếu không có dân vận chuyển 350 khẩu đại bác, làm sao quân đội Xô Viết có thể vận chuyển súng trong 1 ngày. Khi Nga bao vây Beclin với chu vi 60 cây số, Hồng quân đã bố trí 600 khẩu đại bác trên một km chính diện1. Đấy cũng là nhờ sức nhân dân mới chuyên chở đến mặt trận nhanh chóng.

Yếu tố nhân dân cũng ảnh hưởng nhiều đến kỹ thuật tác chiến của quân đội. Có những cái ta phải học của nhân dân vì trong sách không có - Ví dụ: nghe máy bay, nhân dân nghe tiếng động cơ biết loại gì? Đầm già! Thám thính! Khu trực, vận tải! Máy bay bỏ bom, máy bay chiến đấu... Họ bình tĩnh và quyết định nên xuống hầm tránh máy bay hay không xuống hầm.

Người chỉ huy không biết huy động sức mạnh của nhân dân, chỉ ỷ vào máu anh hùng của mình, không cân nhắc nên thí quân hay không! Trong cuộc chiến, địch mạnh hơn ta thì nên tránh khéo léo và tổ chức từng bộ phận phối hợp với dân quân tiêu hao, quấy rối làm cho địch lúng túng hoang mang. Ta phải tâm niệm cố sử dụng tốt lực lượng dân quân địa phương.

Vị tướng tài ba Napoléon danh vang lừng lẫy Châu Âu, lại bị thất trận tại Waterloo chỉ vì một thượng tướng của ông điều động một quân đoàn đã không khẩn trương nên đến chậm nửa tiếng đồng hồ thành thử không tiếp ứng được và đi đến thất bại hoàn toàn. Ông Sơn nhấn mạnh: Sự chậm chễ là điều tối kỵ trong quân đội. Chúng ta không thể chấp nhận được.

Ngày bế mạc lớp xã đội, tướng Nguyễn Sơn đả thông tư tưởng sai lầm về dân quân, đã giúp các đại biểu tỉnh đội huyện đội, xã đội ý thức vai trò chiến lược của dân quân, một lực lượng không thể thiếu trong việc sát cánh với bộ đội địa phương và bộ đội chủ lực trong cuộc kháng chiến trường kỳ của toàn dân.


Tháng 4 năm 1948, qua báo cáo của khu phó Đào Chính Nam việc huấn luyện và kiện toàn tổ chức dân quân tại các tỉnh đã có kết quả tốt đẹp, đứng đầu là tỉnh Hà Tĩnh nhì là tỉnh Thanh Hóa.

Trong 4 tháng lực lượng dân quân thường trực đã phát triển từ 300 đến 700 dân quân tại các tỉnh. Vùng tạm bị chiếm dân quân đã tự chiến đấu chống địch, các vùng khác dân quân đã tự lực chiến đấu. Nhìn chung dân quân đã được vũ trang 1/3 súng ống.

Qua tháng năm đại hội quân sự toàn quân khu đã xác định vị trí quan trọng vai trò của dân quân trong mọi công tác, nhiệm vụ họ đã thực hiện tốt việc yểm trợ bộ đội địa phương, bộ đội chủ lực, bộ đội lưu động. Một số địa phương còn có sáng kiến lập đơn vị “dân quân thường trực” đội “Quyết tử quân” “Biệt động đội”, với các trận đột xuất tiêu hao địch trong đô thị làm chúng rất hoang mang, sợ hãi.
____________________________________
1. Trích cuốn Luận văn về chính trị, quân sự do tướng Nguyễn Sơn viết, xuất bản năm 2004 do TS. Nguyễn Văn Khoan và THS Thu Hương soạn.


Tiêu đề: Re: Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc
Gửi bởi: chuongxedap trong 15 Tháng Mười Hai, 2009, 06:28:48 pm

43

Tư lệnh Nguyễn Sơn về Liên khu 4 tổ chức, báo chí văn nghệ đã phát triển mạnh - Tại khu bộ có báo Cứu quốc Chiến sĩ. Thanh Hoá có báo Truyền tin, Chống giặc. Nghệ An có báo Truyền Thanh, Kháng chiến. Hà Tĩnh có báo Thông Tin, Gọi Bạn. Quảng Bình có báo Truyền Tin, Thống Nhất. Quảng Trị có báo Tiếng Vang, Địch Vận, Người Lính. Thừa Thiên có báo Giết Giặc, Tiến Quân.

Về mặt văn hoá nghệ thuật tướng Sơn luôn là mũi xung kích trong các tập san báo chí. Thường thường ông lấy biệt hiệu là Lâm Phong có nghĩa là con gái cô Nội tên Mai Lâm và con trai Kiếm Qua tên là Hàn Phong. Ông ghép lại làm biệt hiệu Lâm Phong để luôn nghĩ đến con mình. Việc này chứng tỏ ông là người rất nhiều tình cảm đối với gia đình cũng như xã hội...

Tướng Nguyễn Sơn thường viết các truyện ngắn, xã luận, kịch và thơ để đăng trong tập san Liên khu 4. Tập san đầu ra đời có đến 9/10 là bài của ông thể hiện đủ các loại và đủ các tên khác nhau. Nguyễn Sơn còn viết lý thuyết về quân sự, cách đánh trận ở đồng bằng, ở miền núi. Ban tuyên huấn Liên khu 5 trước đây đã in 500 bản lý thuyết quân sự chính trị đã phổ biến đến các Trung đoàn.

Tại Liên khu 4 ông điểm lại và soạn thêm cuốn “Chiến tranh du kích”; “Bí quyết người chỉ huy”. Ngoài ra Nguyễn Sơn còn viết những cuốn với tiêu đề người Cộng sản làm gì: “Chủ nghĩa Mác Lênin”, “Lịch sử Đảng cộng sản Trung Quốc”, “Vấn đề đánh lâu dài” v. v… để nâng cao trình độ chính trị của chiến sĩ và dân chúng. Ông cũng đã soạn xong một chương trình lớn về huấn luyện dân quân, lập xã chiến đấu đã được Xứ ủy Trung bộ duyệt.

Tới số thứ 2, tập san của quân khu được đổi tên là Chiến Sĩ. Cũng từ số này các văn nghệ sĩ từ các nơi đã nghe đồn Nguyễn Sơn là một tướng hào hùng, văn võ song toàn, cũng là một trí thức hiểu sâu, biết rộng các vấn đề, tâm hồn lại rất cởi mở, bình dị đã cuốn hút nhiều người tài theo ông. Họ đã mến mộ và đã về hợp tác làm cho tập san được phong phú về bài vở cũng như chất lượng. Từ đấy mỗi tháng đều ra 1 tập san và kỳ nào cũng có bài của tướng Nguyễn Sơn. Đây cũng thể hiện kỷ luật sáng tác của ông và sự ước mong cán bộ, nhân viên cũng cùng sáng tác.


Để gây phong trào văn hóa, nghệ thuật ông đã tổ chức một cuộc nói chuyện quy mô giữa các Văn nghệ sĩ và các giới đồng bào, học sinh Thiếu Sinh quân, sinh viên Võ bị II trong 7 buổi sáng tại Sim nhưng trong tay ông lại không có một miếng giấy soạn sẵn.

Ông thuyết trình văn nghệ với các dẫn chứng sống động lấy từ truyện Kiều, kịch Tào Ngu và Lôi Vũ của hồng quân Trung Quốc làm ví dụ. Tất cả thính giả đều chăm chú nghe không biết mệt mỏi. Cuối cùng Nhà văn Đặng Thái Mai phải thốt lên: ông Sơn nói về Lôi Vũ có nhiều chi tiết sáng tỏ hơn tôi dịch cuốn Lôi Vũ.

Những ngày ấy ông thuyết trình rất lưu loát. Ông đã đem lại sự ngạc nhiên đến các nhà văn tên tuổi như Nguyễn Tuân, Đặng Thái Mai, Chế Lan Viên, Cù Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Hồ Dzếnh, Thanh Tịnh, Phùng Quán, Xuân Diệu, Nguyễn Đình Lạp, Nguyễn Xuân Sanh, Tương Tửu v.v… và các nhạc sĩ, kịch sĩ tên tuổi như Phạm Duy, Phạm Đình Chương, Nguyễn Đình Nghi, Bửu Tiến v.v...

Qua buổi nói chuyện này các văn nghệ sĩ chất vấn Nguyễn Sơn và ông cũng giải đáp rõ ràng, mạch lạc, lưu loát. Họ đã không ngờ vị tướng oai hùng lại am hiểu tường tận về văn nghệ. Đấy cũng là kết quả hoạt động về văn nghệ trên 20 năm ông đã thâu thập nhiều kinh nghiệm tại Trung Quốc để đem truyền bá lại cho Quân đội Việt Nam.

Sau tập san số 2 ra đời, quân khu được tăng cường đồng chí Nguyễn Kiệm về phụ trách phòng Chính trị1 Ban văn nghệ đứng đầu là Nhà văn Nguyễn Đình Lạp (cháu đồng chí Nguyễn Phong Sắc) tác giả 2 cuốn tiểu thuyết “Ngoại ô” và “Ngõ hẻm” đã xuất bản và có tiếng vang ở Hà Nội.

Trong tháng qua quân đội ta đã đánh đắm thông báo hạm Amyot D’inville tại ngoài khơi biển Sầm Sơn do bộ ba Nguyễn Văn Hoàng Đạo, Chu Duy Kính và Kim Sơn thực hiện. Chị Nguyễn Thị Lợi đóng vai vợ Hoàng Đạo đã anh dũng hy sinh được nhà nước phong danh hiệu liệt sĩ ngành An Ninh và được truy tặng huân chương quân công hạng 3. Tướng Nguyễn Sơn gợi ý với nhà văn Nguyễn Đình Lạp nên viết về đề tài này.

Mấy tháng sau Nguyễn Đình Lạp đã hoàn thành truyện “Chiếc va ly”. Cùng thời đó hoạ sĩ Sĩ Ngọc vẽ bức hoạ “cái bát” đã nổi tiếng cho đến bây giờ.

Báo “Chiến sĩ” do nhà thơ Hữu Loan làm Tổng biên tập. Thơ văn của ông đăng tải đều đều trên các báo với bút danh “Hữu” nhưng nhiều Hữu quá: Tố Hữu, Chính Hữu, Thôi Hữu v.v... nên ông lấy tên thật: Hữu Loan. Ông là một nhà thơ sâu sắc và nổi tiếng một thời. Nguyễn Sơn đã lôi kéo người thanh niên này đã đậu tú tài toàn phần từ kinh đô Huế vào phục vụ văn nghệ cho quân khu. Chúng ta còn nhớ bài thơ “Màu tím hoa sim” do Hữu Loan sáng tác và được nhạc sĩ phổ nhạc đã phổ biến sâu rộng trong toàn quốc kể cả bài “Các anh đi bao giờ trở lại”...

Tôi nhớ lại những đêm hành quân bằng xuồng trên kinh xáng Chắc Băng gần rừng U Minh, tôi nghe bên bờ tiếng hát văng vẳng “Những đồi hoa sim tím chiều hoang biền biệt. Một chiều hành quân được tin em gái mất trước tin em lấy chồng...” Tôi cảm nhận nỗi buồn man mác của thời chiến chinh. Người lính không bao giờ chết, vẫn tiến lên mà em gái thì đã mất rồi.


Ban văn nghệ còn lập thêm đoàn tuồng, chèo và một đội ca kịch với nhiều nhạc sĩ, nhà văn, hoạ sĩ, nhà báo, nhà trí thức.

Anh trùm chèo Nguyễn Đình Nghi rất khâm phục ông tướng của mình đã góp ý thật chính xác cho anh xây dựng một số vở chèo thêm hoàn hảo, anh đã học tập những cách thể hiện dân gian về chèo của quần chúng.

Nhạc sĩ Phạm Duy sáng tác được nhiều bài hay như: “Thi đua ái quốc”, “Tiếng hát Sông Lô”, “Bà mẹ Gio Linh”, “Về miền Trung”. Riêng bài “Xuất quân” đã được anh em chiến sĩ hát trước khi bộ đội chủ lực liên khu 4 xuất quân đánh trận đèo Hải Vân đã tiêu diệt 24 toa chở lính Pháp. Tiếng hát ấy đã làm sôi sục đoàn quân quyết chiến diệt thù. Trận này ta thu rất nhiều vũ khí. Nhạc sĩ Ngọc Bích với các bài: “Khúc nhạc tương tư”, “Bản đàn xuân” v.v... Phạm Đình Chương cũng có một số bài hát được phổ biến, riêng ca sĩ Phạm Đình Viêm đã nổi tiếng nhờ tài bắt chước ngựa hí là khúc dạo đầu cho bài hát “Kỵ binh Việt Nam”. Nguyễn Tiến Lãng, người giỏi Pháp văn, em vợ Tản Đà, được tướng Nguyễn Sơn mời ông làm công việc dịch thuật, và dạy tiếng Pháp ở trường Thiếu Sinh quân và trường Võ bị.

Riêng Nguyễn Đức Quỳnh, Nguyễn Sơn giao cho dịch Le capitaênsme (Tư Bản luận) đó là một cuốn sách dầy hơn 1 tấc do Karl Marx soạn thảo.

Vợ chồng họa sĩ Phạm Văn Đôn, Nguyễn Thị Kim (điêu khắc) và người anh ruột là Phạm Văn Chừng đều là những nghệ sĩ hoạt động sôi nổi ở Thanh Hóa thời ấy.

Trường hợp đầu quân đặc biệt của Nguyễn Phan Chánh, ông là họa sĩ tốt nghiệp trường Cao đẳng mỹ thuật Đông dương khóa đầu tiên nhưng khi ra trường suốt một năm vẫn không được nhà nước bảo hộ Pháp trọng dụng. Ông đã phải biến thành thợ vẽ chân dung đi lang thang tại các chợ hoặc các nơi như Vinh, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh để vẽ hình chân dung làm kế sinh nhai. Lúc không có khách ông bèn vẽ sẵn, người hoặc 2 ông bà ngồi bàn “sa lông” có bình hoa, ấm trà, đằng sau có tủ thờ. Khi có khách ông vẽ thêm đầu vào bức hình vẽ sẵn cho mau.

Nguyễn Sơn nghe tiếng Nguyễn Phan Chánh. Ông ra Chợ Gạo và nhờ họa sĩ vẽ cho một bức hình trông giống như vị tướng. Ông Chánh đã dựa theo quân phục của Napôlêông để vẽ chân dung cho ông. Ngày hôm sau giao tranh. Nguyễn Sơn cười và bảo đây là công việc của nghệ nhân và không phải của hoạ sĩ. Hoạ sĩ phải sáng tạo, chân dung phải có hồn. Ví dụ, muốn vẽ cảnh dân giàu thì vẽ cảnh các cô gánh lúa về nhà vì họ quan niệm đấy là vàng... Tôi thấy anh làm việc này phí thời gian, vì dân chúng cũng lo đánh giặc nên thu nhập của anh ít ỏi. Anh nên theo tôi vẽ tranh tuyên truyền. Tôi sẽ cung cấp đủ tiện nghi cho anh. Lúc ấy ông Chánh mới biết mình đang tiếp chuyện với vị tướng danh tiếng Tư lệnh Liên khu 4.

Từ đấy hoạ sĩ Chánh về ở chung với Sĩ Ngọc ở tại Phòng tuyên truyền Quân khu 4. Ngoài những tranh vẽ cổ động kháng chiến ông còn sáng tác những bức hoạ nổi tiếng như “Cô gái rửa rau”, “Trục lúa”, “Mẹ bồng con”, “Đi chợ”, “Cây đuốc sống”, “Lê Văn Tám đốt kho xăng”.

Màu sắc trong tranh phản ánh trung thực người dân đôn hậu, thuần khiết, mộc mạc của nông dân Việt Nam. Cái lò văn hoá, nghệ thuật của Nguyễn Sơn đã đúc ra nhiều tác phẩm giá trị lưu đến những thế kỷ sau này2. Nguyễn Sơn đã khuyến khích vẽ tranh bằng tất cả thể loại với đề tài tự do, nếu nghiêng về chiến đấu, sản xuất càng tốt. Nguyễn Sơn muốn để văn nghệ sĩ tự do sáng tác tuỳ theo cảm hứng của mình. Ở Liên khu 4, cách 3, 4 tháng lại có triển lãm trưng bày tranh và tác phẩm sơn mài nhân các ngày lễ. Do đó trình độ thưởng thức của dân chúng liên khu được nâng cao.

Về sáng tác nhạc Tư lệnh rất chú ý tới những dấu huyền, sắc, ngã, nặng trong tiếng Việt Nam. Nguyễn Sơn nhắc khéo các nhạc sĩ khi sáng tác nên quan tâm lúc dùng nét nhạc cao thấp phải phù hợp với các dấu sắc, huyền, nếu không, có thể thành phản tác dụng như câu: “góp phần cho chiến trường” khi sáng tác và hát, lại thành “góp phân cho chiến trường”. Ông khuyến khích nên sáng tác những bản nhạc vui và hạn chế những giai điệu ủ rũ.

Bộ môn Kịch có nghệ sĩ lớp cũ Minh Trâm từ Hà Nội nghe tiếng đồn về Nguyễn Sơn cũng đã vào khu cùng xây dựng Ban Kịch với nghệ sĩ Vũ Đình Hải. Hoàng Trọng Miên họ hàng với học giả Hoàng Xuân Hãn cũng là một cây viết xuất sắc về kịch.
_______________________________________
1. Đoạn nói về Văn nghệ, cuốn “Nguyễn Sơn vị tướng huyền thoại” nói rất rõ - Xin được đăng tải lại đoạn này để quý bạn hiểu biết thêm
2. Mấy chục năm sau Hội Mỹ thuật Việt Nam đã triển lãm tranh của ông đi khắp các nước Trung Âu, Mạc Tư Khoa, Bắc Kinh, Tiệp Khắc. Những tranh nổi tiếng như: “Cô hàng xóm”, “Chống hạn”, “Con thô”, “Đẩy đò”, “Rổ thóc”



Tiêu đề: Re: Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc
Gửi bởi: chuongxedap trong 15 Tháng Mười Hai, 2009, 06:30:03 pm

44

Để tăng cường thêm đội ngũ văn nghệ Nguyễn Sơn đã liên lạc với ông Ưng Úy là cha của nhà bác học Bửu Hội để ông động viên con là Bửu Tiến vào giúp cách mạng. Khi vào khu kháng chiến, Bửu Tiến đã hoàn thành 1 vở kịch xuất sắc với tựa đề “Trên nớ” gây được tiếng vang khi lưu diễn tại các tỉnh trong quân khu.

Tư lệnh triệu tập số Văn nghệ sĩ tên tuổi như Đặng Thái Mai, Nguyễn Xuân Sanh, Nguyễn Tuân, Bửu Tiến v. v… để mở 1 lớp huấn luyện về Văn Nghệ với các môn tiểu thuyết, thi ca, phóng sự, phê bình văn học v.v… nhưng vẫn giữ tên lớp là Văn học cho rộng đường tư tưởng, mặc dù các môn lịch sử thế giới, lịch sử Việt Nam, tiếng Anh, tiếng Pháp chiếm không nhiều trong chương trình huấn luyện.

Khai giảng lớp Văn học Nguyễn Sơn nói qua về tác dụng văn học nghệ thuật có thể ăn sâu trong các tầng lớp nhân dân. Sáng tác văn học nghệ thuật giá trị cao có thể đem đến một kết quả hơn hẳn chiến công của quân đội. Nguyễn Sơn nói đến việc Lưu Bang bao vây Hạng Vũ. Trong khi hùng binh của Hàn Tín dồn tàn quân của Hạng Vũ đến sông Ô Giang. Binh lính Hạng Vũ chỉ còn một nghìn người. Họ đã mất tinh thần. Đêm hôm ấy vì tiếng địch của Trường Lương réo rắt, ảm đạm, thê lương đã làm hàng ngàn quân sĩ của Hạng Vũ nhớ nhà, nhớ vợ con. Họ đã bỏ trốn gần hết. Hạng Vũ một danh tướng bách chiến bách thắng của nước Sở, trước cảnh thảm thương đó, cuối cùng phải giết người đẹp Ngu Cơ và tự vẫn bên bờ sông Ô Giang.

Nguyễn Sơn đơn cử thêm một vở kịch của Hồng quân diễn đã làm rung động các nguỵ quân. Vở kịch tả một thanh niên Mãn Châu đi lính cho Nhật. Anh lập được chiến công, Nhật thưởng cho một cô gái. Anh lính cùng anh em ăn mừng nhận quà trong khi đang vồ vập người thiếu nữ. Bà già là mẹ cô gái bị Nhật bắt này, bà đã đuổi theo đến đây. Bà đẩy cửa bước vào, anh lính vội đứng dậy chào mẹ. Bà là mẹ anh và cũng là mẹ cô gái. Khi anh biết cô này là em mình vội quỳ xin lỗi mẹ. Bà cụ lạnh lùng trả lời:

- Bẩm quan lớn, tôi không phải là mẹ quan lớn. Quan lớn đánh giặc cho Nhật được nhận thưởng thì quan lớn cứ việc thưởng. Nó là em quan đấy! Thôi chào quan lớn. Bà cụ bỏ ra về.

Diễn đến đây, bọn lính ngụy yêu cầu đừng diễn nữa. Chúng hứa sẽ vác súng đi theo đoàn kịch.

Quan niệm đơn thuần chỉ nhìn một mặt quân sự là sai. Chiến tranh nhân dân phải bao gồm mọi mặt đúng với mức cần thiết của nó. Chúng ta không nên nói chiến tranh nhân dân ở ngoài miệng mà phải đào sâu mọi khía cạnh để áp dụng, vào thực tế của từng địa phương.

Nguyễn Sơn nói thêm về vở Bạch Mao Nữ. Khi diễn xuất trên sân khấu trước dân chúng tại huyện, có người đã chửi bới thậm chí ném gạch vào người diễn viên đóng vai địa chủ. Diễn như thế là xuất sắc đạt yêu cầu diễn xuất làm cho đồng bào tưởng lầm đây là tên địa chủ thật.

Nguyễn Sơn nhìn chị Minh Trâm, cười và nói:

- Chị Minh Trâm ạ! Kháng chiến rất cần đôi mắt và miệng xinh đẹp của chị. Trong diễn xuất làm cho quần chúng nhân dân xúc động và muốn đi chiến đấu thì vũ khí diễn xuất của chị còn hơn sức chiến đấu của một đạo quân hùng mạnh.

Chị Trâm cúi đầu mỉm cười e thẹn.




45

Thời điểm này, Thanh Nghệ Tĩnh là vùng tự do. Bọn Pháp chưa dám lấn chiếm vào nên các văn nghệ sĩ từ Hà Nội từ các tỉnh nghe tiếng Nguyễn Sơn một người trọng nhân tài. Khi biết ông dùng các người trong lòng địch và các sĩ quan phát xít Nhật họ thấy họ đã tìm ra một hướng đi hứa hẹn nhiều tương lai sáng sủa.

Năm 1947 trường Văn hoá kháng chiến ra đời và khai giảng khoá I ở Cổ Bồn.

Năm 1948 khoá II ở Quần Tín

Năm 1949 khoá III cũng ở địa điểm này

Học viên hầu hết là cán bộ, giáo viên ở Quảng Bình trở ra.

Cuối khoá II, Ban giám hiệu đã phát giải nhất về thi ca: Bài “Vỡ đất” của Hoàng Trung Thông trong đó có câu “Có sức người sỏi đá cũng thành cơm”, ý thơ đẹp này đã lưu truyền vào quân đội và thấm nhuần trong dân chúng. Trần Hữu Thung có bài “Cò trắng phát thanh”, sau này Minh Huệ có bài “Đêm nay Bác không ngủ”.

Về lý luận văn học, Xuân Tửu ở hàng đầu. Nguyễn Sơn nhà chỉ đạo văn học nghệ thuật của quân khu lại rất khiêm tốn. Đến lớp học ông tự nhận là học viên không thường xuyên và ngồi cùng ghế chung với học viên để nghe giảng nhưng nếu đoạn nào giáo viên không giảng thông suốt thì ông đứng ra giảng đáp ứng yêu cầu ngay tức khắc. Nếu trường hợp học viên của khóa có thắc mắc ông sẵn sàng giảng giải vấn đề khúc mắc một cách rõ ràng rành mạch. Có lần ông nghe Trương Tửu lên lớp tại trường Thiếu Sinh quân. Ông Tửu đánh giá Thuý Kiều là con người bịnh hoạn. Ông nghe được lập tức cho Võ Trí Sơn hay nguyên ngày mai ông sẽ lên lớp cho các em họcvề Kiều. Đấy là tác phong Nguyễn Sơn, những cái sai phải sửa trong tức khắc.

Dưới thời Nguyễn Sơn, nhà văn Nguyễn Tuân đã từng nổi tiếng với tác phẩm “Vang bóng một thời” (1940), “Tuỳ bút” (1941), “Thiếu quê hương” (1943).

Ở Liên khu 4 nhà văn Tuân cũng có những tác phẩm như “Đường vui” (1949), “Tình chiến dịch” (1950) và nhiều tuỳ bút... Ông là Tổng thư ký Hội văn nghệ Việt Nam từ năm 1948 đến năm 1958. Sau đó là ủy viên Hội văn học nghệ thuật Việt Nam. Ông cũng là nhà phê bình xuất sắc nhất thời ấy1

Giảng viên toàn là những học giả, những nhà văn, nhà thơ, nhà soạn nhạc, kịch sĩ, hoạ sĩ có tiếng như Đặng Thái Mai, Tôn Quang Phiệt, Đào Duy Anh, Hải Triều, Nguyễn Tuân, Vũ Ngọc Phan, Nguyễn Đình Lạp, Nguyễn Xuân Sanh, Chế Lan Viên v.v... về giảng dạy. Ban giám hiệu còn mời thêm các đồng chí đến giảng như: Trường Chinh, Nguyễn Chí Thanh, Hồ Tùng Mậu, Phạm Ngọc Thạch, Nguyễn Đình Thi, kể cả Nguyễn Sơn cũng trong hàng ngũ giảng viên khi cần thiết.

Quyết định của Khu bộ chỉ thị cho Ban Văn hoá tổ chức những chuyến đi thực tế để các văn nghệ sĩ thâm nhập vào chiến trường Bình Trị Thiên. Có vài lần ông Nguyễn Sơn tham gia cùng đoàn để gợi ý đề tài hoặc uốn nắn các sáng tác của họ. Ông chú trọng vấn đề tổng kết văn học nghệ thuật và phổ biến kinh nghiệm, các sáng tác phẩm phải được lưu hành trong toàn Quân khu 4 và một số tỉnh bạn.
______________________________________
1. Xem phụ trang về Văn hoá nghệ thuật
    Trích “Vang bóng một thời” - Nhà xuất bản Đồng Nai, năm 2001



Tiêu đề: Re: Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc
Gửi bởi: chuongxedap trong 15 Tháng Mười Hai, 2009, 06:31:30 pm

46

Việc in ấn ra báo hàng ngày, và tập san hàng tuần được thực hiện đúng thời gian. Trong vài ba ngày khoảng 2, 3 giờ đêm ông lại ghé thăm nhà in để động viên gần 20 công nhân viên in ấn đang làm việc hăng say dưới ngọn đèn dầu.

Anh Nguyễn Văn Thắng, Giám đốc nhà in cho biết:

Những đồ xa xỉ phẩm tịch thu của con buôn trong chiến dịch bao vây kinh tế địch đã được Nguyễn Sơn lịnh cho đồng chí Cần, sĩ quan cận vệ cứ mỗi ngày đem đến 3 gói thuốc thơm và cứ 3 đêm lại cho công nhân nhà in ăn cháo gà hoặc cháo cá khoảng 3 giờ sáng khi việc in ấn hoàn thành.

Giặc Pháp không tấn công được vùng Thanh, Nghệ Tĩnh, chúng quay sang phá hoại kho tàng, bến bãi, cơ xưởng, đập nước và phá hoại mùa màng. Nhà in luôn luôn cảnh giác.

Thường thường cứ đến 4, 5 tháng nhà in lại phải di chuyển qua điểm khác để bảo đảm bí mật. Những căn cứ nhà in thường đóng tại Bồn Trung, Cổ Định, Bàn Thạch, Núi Nưa. Lúc di chuyển nhà in được cấp 20 phạm nhân trực tiếp gồng gánh máy móc, giấy in. Khi di chuyển dọc theo bờ đập Đại thủy nông từ chợ Đu đi về Neo, một phạm nhân làm đổ xe cút kít. Thùng chữ bị rơi xuống dòng mương, nước sâu dưới 2 thước không thể nào mò lấy được, đồng chí Thắng chạy gấp về báo cáo cho Nguyễn Sơn biết ngay. Nguyễn Sơn vội chụp máy điện đàm ra lệnh cho trưởng trạm đóng cửa đập tức khắc... Qua 3 giờ nước rút sát lòng mương, công nhân đã mò lấy không sót một chữ. Nguyễn Sơn đã đến khen và không trừng phạt phạm nhân này.

Nhà in vẫn bảo đảm báo hàng ngày phải ra từ 400 đến 500 tờ để cung cấp cho bộ đội toàn quân khu kể cả tập san mỗi tháng đều ra đúng hạn.

Trong 6 năm in ấn nhà in liên khu tư đã đào tạo được một số chuyên viên kỹ thuật và một số lãnh đạo nhà in làm giám đốc các tỉnh như các đồng chí Nguyễn Trung Lân, Nguyễn Đình Quý, Nguyễn Thể v.v...



47

Các văn nghệ sĩ quân khu có kể lại một chuyện có vẻ ngộ nghĩnh nhưng cảm động. Mới tảng sáng, khoảng 6 giờ, Nguyễn Sơn vừa chạy bộ từ biển về. Ông đã gặp đồng chí Võ Trí Sơn, Giám đốc trường Thiếu Sinh quân đứng ngay cửa nhà - Thấy Nguyễn Sơn về, Trí Sơn đan những ngón tay vào nhau và nói:

- Điểm thứ nhất, nhân danh cá nhân tôi đến thăm sức khoẻ Tư lệnh vì lâu nay tôi không gặp. Tướng Sơn cũng đan ngón tay vào nhau trả lời:

- Rất cám ơn anh, tôi vẫn khỏe và làm việc đều đặn. Thế còn điểm thứ hai?

Hơi lúng túng, Võ Trí Sơn nói:

- Mấy hôm nay tôi mất cái bút, làm việc khó khăn lại không có tiền mua nên phải mạnh dạn đến xin Tư lệnh cho 1 cái bút.

- Thế cần bao nhiêu tiền, nhưng phải mua bút máy thật tốt có thế mới lâu hỏng. Võ Trí Sơn nói số tiền và Nguyễn Sơn vào lấy tiền đưa cho Sơn và hỏi luôn:

- Thế còn điều thứ ba?

- Thôi ạ! Đủ quá rồi!

Ông cười xoà và mời Trí Sơn ăn sáng với ông.


Chiều hôm đó, bộ đội cảnh vệ có tổ chức đấu bóng đá với một đơn vị bạn. Trọng tài điều khiển trận đấu. Nguyễn Sơn vào ngồi bệt dưới cỏ cùng với dân và binh sĩ, cán bộ. Sĩ quan cận vệ vào nhà dân lấy ghế cho ông ngồi - Ông khoát tay “không cần, đem cất đi”. Trong lúc đá bóng xảy ra một cầu thủ chơi xấu. Nguyễn Sơn thấy rõ và bắt trọng tài ngưng cuộc đấu lại. Ông ra sân nói liền:

- Các anh em phải nhớ: Đá bóng để đem lại sức khoẻ và tình đoàn kết, dìu dắt nhau cùng đá cho giỏi. Đá mà chơi xấu là không tốt, là mất đoàn kết, là thất chính trị. Tôi mong trọng tài phạt gắt gao những trường hợp vi phạm này. Khi Nguyễn Sơn trở về chỗ ngồi, ông nghe một khán giả nói:

- Đá bóng mà có chính trị thì mất cả hứng thú. Ông nhìn lại, hóa ra là một chính trị viên đại đội! Ông quát liền: “Chú là chính trị viên mà không quan niệm được chính trị trong thể thao là gì thì đừng nên làm chính trị viên nữa.

Cá tính của Nguyễn Sơn cứ như một hiệp sĩ thấy chuyện bất bình, không đẹp mắt giữa đường liền nhảy vào can thiệp.


Tiêu đề: Re: Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc
Gửi bởi: chuongxedap trong 15 Tháng Mười Hai, 2009, 06:32:36 pm

48

Việc thành lập đội Văn nghệ lưu động lúc đầu rất khó khăn vì chiến sĩ, cán bộ phần đông ít học. Đồng chí Quang Thiện kể lại:

- Hồi đầu kháng chiến, lúc tôi mới tốt nghiệp trường Quân chính Nhượng Bạn được đưa về phòng chính trị quân khu. Một hôm, đồng chí chính ủy quân khu Trần Văn Quang gọi tôi và đồng chí Huỳnh Quốc Thạnh lên trao nhiệm vụ thành lập đội tuyên truyền Vệ quốc đoàn Liên khu 4, dùng kịch múa và ca hát để tuyên truyền trong quân đội và cổ động nhân dân ủng hộ kháng chiến, tham gia mọi mặt trong công cuộc trường kỳ kháng chiến. Chính ủy Quang chỉ định đồng chí Huỳnh Quốc Thạnh làm đội trưởng và tôi làm đội phó.

Nhiệm vụ thì to lớn, tôi mới 18 tuổi chưa hiểu về văn nghệ nhiều nên rất bỡ ngỡ khi nhận tổ chức này. Chính ủy bảo cứ cố gắng quyết tâm là làm được. May sao, Tư lệnh Nguyễn Sơn từ miền Bắc về nhận chức Khu trưởng, chúng tôi đã được nghe sự am hiểu về văn hoá, văn nghệ của tướng Nguyễn Sơn nên đã mạnh dạn gặp ông để xin ý kiến xây dựng đoàn kịch.

Mới chân ướt chân ráo về khu, Nguyễn Sơn nói còn bận bàn giao công việc giữa Khu trưởng cũ nên hẹn chúng tôi sáng mai gặp ông. Đây cũng là dịp ông đang mong ước quân khu phải có một đoàn Kịch lưu động đi các đơn vị các địa phương để giáo dục chiến sĩ đồng bào cùng hăng hái diệt thù. May mắn thay, hôm nay lại có người đem món ăn hợp với khẩu vị của vị tướng. Ấy là Liên khu 4 phải thành lập đội văn nghệ “ra hồn”. Ông hẹn sáng mai sẽ mở lớp huấn luyện hai ngày về kịch nghệ cho chúng tôi học tập.

Chúng tôi sung sướng được ông nhận lời giúp. Suốt 2 buổi sáng cứ 7 giờ chúng tôi đến để được nghe Nguyễn Sơn giảng. Chúng tôi đã hiểu kịch là gì? Bây giờ tôi vấn còn nhớ lời ông dạy: “Kịch là cuộc sống nhân dân hình tượng hoá, điển hình hóa đưa lên sân khấu để tuyên truyền đường lối cách mạng của đảng, chính phủ. Diễn viên là ai? Là cán bộ, là nhân dân, bộ đội tự biên tự diễn. Sân khấu ở đâu? Ở chợ, ở ngã ba đường, ở rạp hát, ở đình chùa, ở nơi có đông quần chúng. Đề tài là các chuyện trong đời sống nhân dân và quân đội nhằm phục vụ nhân dân và quân đội. Phương châm kịch phải rất bình dân gọn nhẹ không cao xa, lê thê, dài dòng, ít cảnh, ít màn. Tất cả đều thu gọn trong ba lô. Chú ý không phân biệt tôn giáo, dân tộc. Đi tới đâu phải làm công tác dân vận để dân chúng thương mến và giúp đỡ đoàn kịch. Họ tiếp dựng sân khấu cùng bảo vệ trật tự an ninh trong đêm diễn kịch...

Sáng này qua sáng khác Nguyễn Sơn đi sâu vào kỹ thuật đưa những vở kịch bên Trung Quốc, để đơn cử cách diễn tả, cảnh bố cục cốt chuyện, thuật đối đáp kể cả hoá trang. Lối trình bày của ông hấp dẫn, lời giải ngắn gọn. Chúng tôi đã được khai thông về một số cơ bản để thực hiện sân khấu kịch. Chúng tôi cảm ơn Tư lệnh đã tận tâm giúp chúng tôi đặt viên gạch đầu tiên trong việc xây dựng đoàn kịch. Chúng tôi lại được tham dự cuộc nói chuyện của tướng Nguyễn Sơn trong 7 ngày cùng với Văn nghệ sĩ tại Sim, Thanh Hóa.

Riêng Thạnh và tôi, Nguyễn Sơn đã giúp thêm sáng tỏ về Kịch nghệ, đã tác động vào hoạt động của chúng tôi càng ngày càng tăng tiến. Đây cũng là một kỷ niệm thân thương ưu ái giữa chúng tôi và Tư lệnh. Chúng tôi không bao giờ quên nghĩa cử ấy. Nó cũng là trọng trách của người lãnh đạo luôn muốn mọi sự đều tiến lên vẹn toàn.




49

Đoàn ca kịch của Liên khu 4 đã ra đời.

Ban đầu, đoàn trình diễn cho đơn vị cảnh vệ và các phòng ban Bộ Tư lệnh để rút kinh nghiệm và cũng để thầy Nguyễn Sơn uốn nắn thêm. Những vở kịch như: “Tòng Quân”, Hát trống quân về Tăng gia sản xuất, về Trần Quốc Toản, Lý Thường Kiệt... và một số vở chèo đều được khán giả tán thưởng.

Lần lần đoàn đã đi nhiều xã thuộc quân khu để nghiên cứu dân ca, ca dao địa phương, đồng thời nghe ngóng ý kiến của nhân dân để hoàn chỉnh kỹ thuật diễn xuất của các đào kép.

Trong suốt hơn 1 năm, đoàn đã đi biểu diễn tại các huyện trong các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Vinh, Quảng Bình, Quảng Trị, đặc biệt lưu diễn trước tiên tại các đơn vị phụ trách mặt trận Bình Trị Thiên.

Có một lần đoàn đến đình Bình Lâm biểu diễn. Sáng hôm sau lúc 10 giờ có khoảng 9 phi cơ được chia làm 3 mũi bay dọc, bay ngang trên không phận tỉnh Thanh Hóa để công phá cầu Hàm Rồng. Đây là một cứ điểm trọng yếu của quân đội. Nó là đường huyết mạch để các đơn vị chuyển quân, khí giới, khí tài đi vào Trường Sơn. Trước sự đề phòng cẩn mật của quân đội ta, các cao xạ pháo phối hợp với các loại súng máy liên thanh, kể cả súng trường của dân quan đều bắn lên trời tạo thành một lưới lửa dày đặc làm địch hoảng hốt không bắn trúng mục tiêu. Chúng lại bay lượn lên cao và sau cùng chúng trút bom xuống làng Bình Lâm, làm cả làng bị thiêu hủy, có trên 120 xác của dân chúng bị cháy.

Tư lệnh Nguyễn Sơn khi nghe tin đã ra lệnh cho trung đoàn 55 đốn cây, đốn tre để dựng nhà cho dân chúng còn sống sót. Sĩ quan cận vệ đem lệnh Nguyễn Sơn xuống đốc thúc các đội tăng gia sản xuất chuyên chở gạo, muối, khô để tiếp tế cho các nạn nhân.

Khi đời sống của dân làng được ổn định, họ làm kiến nghị xin liên khu cấp thêm súng để được bắn máy bay.

Sau này cứ đến ngày 17/2 dân chúng huyện Hà Trung đều làm một ngày giỗ công cộng cho những linh hồn đã hy sinh. Họ vẫn nhớ và hát bài: “17 tháng 2” tương tự như một bài điếu văn khóc người đã khuất và cũng để ghi ơn sự chăm lo của Tư lệnh Nguyễn Sơn.


Tiêu đề: Re: Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc
Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Mười Hai, 2009, 12:01:06 pm

50

Nhà văn Chu Ngọc người sống sát bên tướng Nguyễn Sơn qua các tháng năm gian khổ nhưng đầy phấn khởi tại Liên khu 4 đã nói:

Tôi hiểu Nguyễn Sơn. Tôi thấy nhiều cái thú vị chung đúc ở ông. Ông có gì thật rộng rãi về suy nghĩ, tôi thấy như hơi hướng của chủ tịch Mao, có một lúc tôi lại thấy ông hiền hậu và tế nhị như khi ta nghĩ về Hồ Chủ tịch. Đôi khi tôi lại thấy Nguyễn Sơn là một nhân vật của Thủy Hử sống lại. Rồi trong lúc hành quân của Liên khu 4 có đoàn văn nghệ râu ria gươm giáo đi len vào những khẩu badôca, tôi lại thấy ông là Từ Hải của Nguyễn Du.

Tôi rất thích thú thấy trong cuộc cách mạng của nước nhà có một vị tướng phóng khoáng như Nguyễn Sơn. Cái tác phong quần chúng của ông giúp cho tôi suy nghĩ nhiều về con người cách mạng. Một người tướng oai nghiêm nhưng đối xử rất bình dị với cán bộ và dân chúng. Nên họ rất thương mến và tin tưởng vào ông... 1




51

Bên bờ biển Đô Lương, dưới mái lá của nhà khu ủy Hồ Tùng Mậu, Nguyễn Sơn nhấp chén trà và nói với ông Mậu:

- Bác ạ, đất Nghệ này cuộc sống dân chúng còn nghèo nàn. Chúng ta đóng quân ở đây cũng gây một gánh nặng cho dân. Lực lượng tại chiến trường đã gượng lên được, trước mắt tôi thấy vấn đề quân nhu là quan trọng, cấp bách. Hiện nay tôi đã tổ chức được 4 đại đội tăng gia sản xuất để trồng lúa, trồng mỳ giải quyết lương thực cho bộ đội. Tôi đã phái anh Kiệm ra Thanh Hoá bàn bạc với các cấp ủy địa phương có đất nhiều, họ dành cho ta một ít để canh tác. Bộ Tư lệnh sẽ dời ra Thanh Hoá, tuy có xa mặt trận nhưng lại dễ đối phó với các lực lượng phản động. Thanh Hoá lại là vựa lúa của miền Trung, dân chúng đều có trình độ văn hoá khá, đường giao thông thuận tiện. Đồi núi ít hơn ở đây nhưng cũng là vùng có địa hình thuận tiện cho việc huấn luyện chiến thuật quân sự. Ý bác thế nào!

- Nhất trí cả hai tay! Tôi có ý đó nhưng chưa kịp nói thì anh đã nói rồi.

Một tuần sau trung đoàn chủ lực cùng các bộ phận văn phòng và đơn vị thuộc bộ đều dời ra Nông Cống, Thanh Hóa.

Qua 3 tháng sản xuất hè thu Bộ tư lệnh, Khu ủy và các đơn vị đều thừa gạo ăn. Tư lệnh Nguyễn Sơn thân chinh xuống tập đoàn sản xuất của Bộ. Nguyễn Sơn theo dõi và đặt vấn đề xây dựng thêm hai đại đội sản xuất cùng lập những kho lương thực trong núi để tránh máy bay địch oanh tạc. Năm sau quân khu đã có dự trữ tương đối dồi dào. Liên khu đã tiếp tế gạo cho liên khu 5 và muối cho liên khu 3.


Công cuộc xây dựng văn hóa nghệ thuật đi đôi với xây dựng cấp tốc các đơn vị của liên khu. Nguyễn Sơn không bỏ phí một thời gian nào để lãnh đạo các đơn vị kém.

“Để trở thành một quân đội hùng mạnh tất nhiên phải luyện tập, phải học hành, trao dồi kỹ thuật chiến đấu, nghệ thuật chỉ huy”. Phong trào rèn cán chỉnh quân được Nguyễn Sơn nghiên cứu tỉ mỉ để áp dụng tại khu giải phóng và ngay cả các vùng tạm bị chiếm chú trọng đào luyện dân quân học tập đánh du kích cùng thi đua giết giặc, bắt tù binh, tiếp hàng binh, tiết kiệm đạn và bằng mọi cách lấy vũ khí địch trang bị cho ta. Tất cả chiến binh luôn luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu kể cả nhân viên cán bộ của ban, phòng thuộc khu bộ (Sau này văn phòng của Nguyễn Sơn cùng đi lưu động chỗ này vài ngày chỗ kia vài ngày theo sự di chuyển của ông).

Đi đối với việc rèn cán chỉnh quân, Tư lệnh đã khai mạc lớp ngắn ngày cho các tỉnh ủy viên quân khu về hội thảo để thông suốt đường lối lãnh đạo chiến tranh nhân dân áp dụng tại vùng tự do, vùng tạm bị chiếm và vùng biên giới Trung - Lào và phòng ngự mặt biển. Tư lệnh mời Khu ủy Hồ Tùng Mậu, đ/c Nguyễn Chí Thanh, đ/c Đặng Thái Mai, Trương Tửu trong ban giảng viên. Hội thảo này cũng đặt vấn đề diệt tề, diệt ác, diệt quan lang phản động, Công giáo phản động. Mở rộng mặt trận Liên Việt đoàn kết giữa Kinh và 60 dân tộc thiểu số miền biên giới và duyệt lại một số luật áp dụng với bọn phản động, và phát triển việc sản xuất vũ khí.
________________________________________
1. Xem phụ trang: lời bình của Chu Ngọc


Tiêu đề: Re: Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc
Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Mười Hai, 2009, 12:02:11 pm

52

Ngày 21 tháng 10 năm 1948 bắt đầu bằng tiếng súng lệnh “Đại hội tập” nổ vang. Mười phát đại bác chĩa ra bắn về phía giặc ở xa khơi cùng với các loạt súng trên những tàu chiến Việt Nam đang tuần tra cửa biển tại Cửa Lò. Tiếng nổ đì đoành đánh dấu chủ trương của Tư lệnh Nguyễn Sơn đang đi vào giai đoạn mới để xây dựng bộ đội vững mạnh, chính quy hoá. Bộ tư lệnh đã phái các cán bộ tham mưu và chính trị cùng một số sinh viên trường Võ bị xuống các đơn vị các tỉnh để hướng dẫn phong trào “rèn cán, chỉnh quân”.


Từ sáng đến chiều, bãi biển Sầm Sơn luôn ồn ào náo nhiệt, các chiến sĩ thi đua tập luyện. Đám này nhẩy rào, đám kia leo dây, đám nọ thực hiện 4 động tác bò lăn, lê toài…

Nguyễn Sơn luôn nhắc đi nhắc lại các câu: Đổ mồ hôi ở thao trường nhiều, ít đổ máu tại chiến trường. Hôm tổng kết về “cấp hành quân” 1 trong cuộc thi chạy mười cây số giữa 3 đơn vị, Đại đội phó Nguyễn Văn Vang nguyên là sinh viên Võ bị Quảng Ngãi đã vượt tiêu chuẩn dẫn đơn vị mình chạy tới đích vượt 2 đơn vị khá xa. Đồng chí đã mệt nhoài và nằm lăn ra cỏ vì quá kiệt sức.

Thường thường “cấp hành quân”, đơn vị đi bộ 5 phút và chạy 10 phút cứ thế vừa đi vừa chạy. Nguyễn Sơn ra lệnh đơn vị tỉnh này chuyển qua tỉnh kia phải thực hiện “cấp hành quân”.

Suốt 3 tháng các cán bộ được lên lớp về chiến lược chiến thuật và chính trị. Các chiến sĩ học các động tác cơ bản bắn súng và sửa súng hóc đạn, tập bắn ba dô ca và bom bay.

Dọc theo bãi biển chỗ nào cũng có bộ đội đang thi đấu hoặc tập hát các bài ca cách mạng.

Cứ tối thứ bẩy có đoàn ca kịch, đoàn chèo góp vui. Dân chúng được dịp cùng bộ đội thưởng thức văn nghệ và tham gia múa tập thể. Thời điểm này tỉnh Thanh Hoá và các tỉnh tưng bừng những tiếng ca tiếng nhạc tiếng trống cổ vũ cho đại hội - các cờ phướn tung bay với chữ “Gian khổ tập luyện, chiến thắng về ta”. Các chiến sĩ hăng hái luyện tập. Họ thấy tương lai đất nước sẽ càng ngày càng rực rỡ. Dân chúng vui mừng trước sự tập luyện của bộ đội. Họ tin tưởng tướng Nguyễn Sơn vị tướng oai hùng, bách chiến bách thắng sẽ lãnh đạo quân khu đánh đuổi mau chóng thực dân Pháp đem lại chiến thắng cuối cùng.

Trong những ngày tập luyện, bộ đội được dân chúng xa gần, đoàn thể, các mẹ, các chị chiến sĩ đem hoa quả, bánh trái, xôi, chè, gạo nếp tiếp tế cho bộ đội, kể cả các đồng bào vùng cao (dân tộc thiểu số) 2 cũng xuống thăm hỏi và chung vui với bộ đội.


Với chiếc xe hòm đen, Nguyễn Sơn đã lái từ chỗ này qua chỗ khác, từ tỉnh này qua tỉnh nọ. Ông kiểm tra và uốn nắn sự luyện tập của các tỉnh đội, huyện đội phải chính xác. Khi đến chỗ bắn bia, Nguyễn Sơn nhắc nhở: “bắn phải đúng mục tiêu, một viên đạn là một quân thù”. Đến chỗ nào đóng quân Nguyễn Sơn cũng vào quan sát bếp ăn các đơn vị làm món ăn như thế nào. Ông ra lệnh trong thời gian Đại hội tập, cán bộ chiến sĩ được hưởng khẩu phần gấp rưỡi. Ông ra phần thưởng bằng tiền cho các đơn vị xuất sắc trong luyện tập và xử lý nghiêm những quản lý cấp dưỡng.

“Phải chi tiêu đúng đắn tiền bạc của dân. Ai tham ô ăn chặn tiền cơm trong 3 tháng tôi đem ra bắn tức khắc”, Nguyễn Sơn nói.

Khi về đến Bộ tư lệnh Nguyễn Sơn lại lấy ngựa đi vào các làng chung quanh để kiểm tra các đơn vị đã giúp đỡ dân quân, du kích được đến đâu. Ở mọi thôn xóm người ta đều nghe tiếng sang sảng của ông. Các cô gái Thanh bất chợt gặp ông đều cúi đầu, co rúm người lại với vẻ sợ sệt.

Luôn dịp này ông bảo đồng chí Võ Viết Sơn cho các cháu Thiếu Sinh quân được tham gia sự luyện tập của bộ đội trong 1 tuần để học hỏi và cũng để có dịp tắm biển cho các cháu thư giãn tinh thần. Ông cũng đi tắm biển chung với các Thiếu Sinh quân. Ông nhờ Võ Trí Sơn dạy ông học bơi. Một số cháu ngơ ngác vì ông đã ở bên Trung Hoa lâu và tham dự vạn lý trường chinh. Ông đã chiến thắng bao nhiêu trận mạc, giỏi như thế tại sao ông không biết bơi. Có lẽ, Nguyễn Sơn đã đi làm cách mạng quá sớm, ông chưa đến bể bơi bao giờ, mà bể bơi thời ấy chỉ dành cho những người Pháp và quốc tịch Pháp mà thôi.

Lớp Văn học đang mở khoá II. Ông ra lệnh các học viên phải dành nửa ngày để tập thể lực và quân sự. Các thôn xóm quanh Bộ tư lệnh cũng được ông phái cán bộ xuống huấn luyện dân quân. Kể cả Tư lệnh bộ cũng phải tham gia luyện tập.

Suốt ngày, chiếc xe hòm đen cùng ông không ngừng nổ máy. Chỗ nào không đi được ông dùng con ngựa màu hồng để di chuyển. Tôi còn nhớ khi học tại trường lục quân Quảng Ngãi, Nguyễn Sơn vừa lái xe ở Huế về Quảng Ngãi lúc 12 giờ, quần áo bám bụi, ông ra lệnh cho tập hợp và nói chuyện với sinh viên trong hơn một tiếng đồng hồ về tình hình miền Nam nóng bỏng giữa buổi trưa nắng chang chang. Gương mặt ông xạm đen. Những lọn tóc quăn như bùng lên. Cái tính nhiệt tình xông xáo trong tác phong khẩn trương của ông là như thế. Việc gì cũng muốn được thực hiện ngay tức khắc. Đấy cũng thể hiện tình thương của Nguyễn Sơn đối với sinh viên và muốn họ mau trở thành những sĩ quan giỏi để chỉ huy quân đội đánh giặc, cứu nước.

Trần Đình Mai Đại đội trưởng là sinh viên Đại đội 3 của trường LQTHQN lúc ấy công tác tại tiểu đoàn 187 thuộc Trung đoàn 57 (trước kia là chi đội Đội Cung) thuật lại: Do tình yêu thương chan hoà đối với cán bộ chiến sĩ mỗi khi ông xuống Hậu Hiền, Cầu Quan, để kiểm tra hoạt động của các tiểu đoàn. Sau đó ông mời cấp chỉ huy đi ăn phở. Thừa cơ hội này một số cán bộ đại đội cũng vào quán “ăn theo” và “chuồn trước” để Nguyễn Sơn trả tiền. Trần Đình Mai có vẻ khoái chí khi kể lại chuyện này.

Trong cuộc lễ của huyện, ông bí thư lên nói dài dòng quá. Ông lên đài cắt ngang và bảo trọng tâm của chúng ta phải nỗ lực làm việc phục vụ mặt trận. Vụ cắt ngang của ông nhiều khi cũng có một số chỉ huy cấp dưới không vừa lòng. Chẳng qua là tính tích cực của Nguyễn Sơn mạnh quá, ông muốn sửa liền những cái sai của người khác ngay tức khắc.
______________________________________
1. Cấp hành quân là hành quân mau
2. Tại vùng cao và biên giới Trung - Lào có 60 dân tộc thiểu số người Mường, Thái, Hmông...



Tiêu đề: Re: Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc
Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Mười Hai, 2009, 12:03:47 pm

53

Buổi lễ bế mạc “Đại hội tập” được cử hành long trọng, tưng bừng náo nhiệt. Mới tờ mờ sáng, sương mù cuối năm chưa tan, tiếng kẻng, tiếng trống, tiếng chiếng đã vang lừng dội vào núi Nưa vang vang... Một số đoàn thể và dân chúng từ các tỉnh háo hức đi về dự lễ. Mục đích chính của họ là được thưởng thức “Văn nghệ Nguyễn Sơn”. Có số người ở xa cũng đốt đuốc đi nghe Nguyễn Sơn nói chuyện và xem văn nghệ. Đồng bào đồn nôm na như vậy, sự thật Quân khu 4 có nhiều đoàn văn nghệ, đoàn chèo, đoàn ca vũ kịch, đoàn trống quân. Kể cả những đoàn văn nghệ của Trung đoàn.

Đồng chí Hồ Tùng Mậu Bí thư khu ủy đến tham dự. Tiểu đoàn phòng vệ Bộ Tư lệnh được diễu binh trước khán đài.

Đồng chí Đào Chính Nam trình bầy kết quả của hội nghị tổng kết thi đua Đại hội Tập qua 3 tháng rèn cán chỉnh quân. Về thành tích các tỉnh, quân khu tuyên dương tỉnh Hà Tĩnh đứng đầu đến tỉnh Thanh Hoá thứ nhì. Một số sĩ quan đạt điểm cao về thi đua đã được Tư lệnh phong thêm một cấp. (Số sinh viên Lục quân trung học Quảng Ngãi có Lê Thiên Tào, Tống Sĩ Uyên, Nguyễn Văn Vang, Trần Đình Mai, Dương Viết Nuôi1 cùng một số sinh viên khác đều được khen thưởng). Đồng chí Nam đọc danh sách được Bộ tư lệnh chấp thuận cho dự lớp bổ túc cán bộ tiểu đoàn trung đoàn do Quân khu mở.

Từ núi Nưa và dọc theo bờ biển Hoằng Hóa, dân chúng tụ tập từng đám chung quanh bộ đội để ca hát nhảy múa.

Khi bắt đầu trời tối đã thấy ánh đèn măng xông lóe sáng tại các rạp của các tỉnh. Ánh sáng đèn được che đi phía mặt biển để tránh sự chú ý của địch. Những rạp này đều cách nhau khoảng 100 thước. Tiếng loa, tiếng đàn, tiếng sáo vang lừng. Các đoàn ca vũ kịch của quân khu cũng chia làm 4 điểm để biểu diễn cho đồng bào xem. Tiếng vỗ tay hoan hô vang dội át cả tiếng sóng biển ngoài khơi. Các tầu chiến của ta luôn tuần tiễu dọc theo bờ biển để phòng chống đổ bộ.

Đồng bào bảo: các chiến sĩ thao diễn mạnh mẽ thế này thì thằng Tây phải “cút” mau mà thôi...




54

Sau tổng kết “Đại hội tập” để trắc nghiệm trình độ luyện tập trong thời gian qua. Nối tiếp chiến thắng Hộ Thành, Đất Đỏ. Chính ủy Trần Văn Quang thân chinh dẫn 1 đại đội 87 tấn công đồn địch tại Đồng Dương bắt tù binh và thâu vũ khí đáp ứng đúng yêu cầu của Tư lệnh quân khu là luyện quân, luyện cơ quan như quân.

Sau khi phân bổ cán bộ về huấn luyện tại các đơn vị thúc đẩy việc hoàn thành các xã chiến đấu như Cảnh Dương, Cự Nẫm2, Ba Lồng, Nam Đông v.v… Củng cố các xã Ba Rền, U Bộ, Gio Linh, Cam Lộ, Triều Phong để giữ vững đường chiến lược Bắc - Nam luôn được thông suốt. Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh biến thành địa phương vững chắc để yểm trợ cho Phân khu Bình Trị Thiên.

Có thể nói Đại hội tập đã đem lại những kết quả thiết thực cho các chiến sĩ toàn quân khu về mặt quân sự cũng như chính trị, văn hoá. Cục quân huấn Bộ Quốc phòng đã phái đại diện vào quan sát và đúc kết kinh nghiệm huấn luyện bộ đội.

Đây là một thành công lớn của Quân khu 4, cũng từ đấy Bộ Quốc phòng đã triển khai rộng rãi trong toàn quân thực hiện phong trào “rèn cán, chỉnh quân” (Quân khu 9 đã thực hiện vào đầu năm 1950).

Trong dịp này tổng đội phó Lê Thiên Tào ra sức huấn luyện cho lực lượng phòng vệ của Bộ. Hôm ấy Tào được tuyên dương cùng chung với một số chỉ huy.

Trong một tháng học tập tại trường quân sự cao cấp chỉ còn 5 ngày thì bế mạc anh Tào đã được tướng Nguyễn Sơn gọi về để nhận công tác mới.

Khi gặp Tào ông vỗ vai và nhấn mạnh:

- Đây là công tác rất quan trọng, tôi nhận thấy đồng chí có thể cáng đáng nổi. Trong 3 hôm nay tại Bộ tư lệnh tôi đã tiếp phái đoàn cao cấp của Trung ương do đồng chí Lê Đức Thọ Trưởng ban tổ chức Trung ương Đảng dẫn đầu cùng với Thiếu tướng Dương Quốc Chính đưa đoàn cán bộ vào nam để chấn chỉnh và phát huy sức chiến đấu của Nam Bộ. Đêm qua tôi đã suy nghĩ: để đồng chí đi thì tôi tiếc nhưng theo yêu cầu của Thiếu tướng Chính xin tăng cường tôi thấy chỉ có Tào mới đáp ứng được nhu cầu chiến trường Nam Bộ.

Nguyễn Sơn nói sơ lược về tình hình phức tạp của Nam Bộ. Sau khi Đảng cộng sản giải tán để tạo thuận lợi, chánh phủ liên hiệp ra đời giữa lúc bên ta còn yếu kém. Các tôn giáo trong nam như Cao Đài, Hoà Hảo, Thiên chúa giáo cũng nổi lên đòi nhà nước phải đáp ứng yêu cầu của họ. Các đảng phái như đảng dân chủ, đảng xã hội, đảng cấp tiến đấu tranh đòi giữ ngành công an và quân đội3. Về phía quân đội cũng bị ảnh hưởng do đảng chưa nắm được quần chúng, chưa có sự đối phó hợp lý. Kỳ này đồng chí Lê Đức Thọ vào nam thay đồng chí Lê Duẩn cũng để chấn chỉnh nội bộ và đối phó với bên ngoài.

Đây cũng là cơ hội cho Tào nỗ lực hoạt động, tôi tin ở vùng đất mới này lại được Thiếu tướng Chính nâng đỡ anh sẽ có thể tiến lên nhiều hơn ở đây. Mai đoàn đã lên đường anh cố tranh thủ bàn với trưởng đoàn những phương án xử lý khi gặp địch dọc đường để bảo vệ sự an toàn của đoàn về đến Nam Bộ. Nguyễn Sơn bắt tay Tào, ông nói: “Cố gắng lên!”, mạnh bạo vượt gian nguy trở ngại, bước mạnh về phía trước...

Thế là sinh viên Tào được cử là đoàn phó phụ trách điều hành và dẫn dắt đoàn xuyên qua dãy núi Trường Sơn từ Liên khu 5 qua Liên khu 6 về đến Bình Thành, Vàm Cỏ Đông...(Nam Bộ) 4 Đoàn đã đi trên con đường mới mở dài 200 cây số nối liền Nghệ Tĩnh đến Quảng Trị (đường chiến lược tiếp tế phía Nam) dọc theo dãy núi Trường Sơn.

Sau “Đại hội tập” các sinh viên trường Võ bị Nguyễn Sơn đã học xong khóa chỉ huy cấp Tiểu đoàn trong khoá IX. Bộ Quốc phòng lại ra lệnh khóa này trở ra Việt Bắc cùng với khóa X ở Bắc Cạn để học thêm chiến thuật cấp trung đoàn. Cán bộ khung của Lục quân Quảng Ngãi và Võ bị Sơn Tây nhập chung là một chuẩn bị lên đường.
_________________________________________
1. Đ/c Dương Viết Nuôi, sinh viên trường Lục quân trung học Quảng Ngãi, Tiểu đoàn trưởng 274 cùng 436 vượt sông qua Quảng Trị đã chiến thắng nhiều trận vận động chiến. Sau này ông là Thiếu tướng.
2. Đầu tiên “xã chiến đấu Cự Nẫm” điển hình cho sự bố phòng các giao thông hào để bảo vệ người già, trẻ em. Xã đã tổ chức hầm chông lựu đạn gài, bắn tỉa đã làm đại đội địch không tiến vào xã được
3. Trong đoàn đi vào Nam có ủy viên thanh tra đảng Lê Toàn Thư, Hoàng Minh Đạo, Hoàng Hồng Sơn sau là Tiểu đoàn trưởng 307 Lâm Sơn, Tiểu đoàn trưởng Tùng Lâm (tiểu đoàn trưởng) sau là Tỉnh đội trưởng Thủ Biên…
4. Theo bảng báo cáo của đồng clú Lê Duẩn Bí thư xứ ủy Nam Bộ năm 58-59 (chiếu theo tư liệu do Ban Nghiên cứu lịch sử đảng Hậu Giang cung cấp): ... Trương Văn Giầu đảng dân chủ giữ chức Khu trưởng, khu phó, Trịnh Khánh Vàng: Cha đạo Thiên chúa khu 9. Hoàng Xuân Nhị đảng xã hội phụ trách trường trung học Nguyễn Văn Tố, Kha Vạng Cân là đảng dân chủ. Phạm Ngọc Thuần Thiên chúa giáo là Phó Chủ tịch UBKCHC Nam Bộ. Phía đạo Hoà hảo của Huỳnh Phú Sổ và đạo Cao đài phe Cao Triều Phát cũng đều có chân trong chính quyền.



Tiêu đề: Re: Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc
Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Mười Hai, 2009, 12:05:32 pm

55

Khi ông Sơn về đến khu bộ, cô Nội cũng từ Quảng Ngãi bồng con ra gặp ông. Cô đưa con cho ông bế và hôn ông “Em nhớ anh lắm! Tưởng anh ở luôn ngoài trung ương không thèm trở về”- Cô véo tay ông:

- Có cô gái Bắc nào mê anh chưa?

- Á!... Ông suýt xoa và nói:

- Anh luôn nghiêm chỉnh, làm gì có chuyện đó...

Hai người nằm gần nhau như lửa gần rơm. Cuộc tình nổi loạn bù vào những tháng xa cách.


Công việc chỉ đạo của ông như con thoi khi chỗ này khi qua địa phương khác - Cô Nội một phụ nữ đa cảm lại chỉ muốn ông luôn ở bên cô - Cô muốn chăm sóc giặt áo quần cho sạch, nấu ăn cho ngon để ông có sức khoẻ và mỗi ngày ông phải thay áo quần để cô giặt. Khốn nỗi có khi ông đi 4 đến 5 ngày khi về quần áo chua loét như giấm. Cô lại một phen cằn nhằn vì giặt mỏi tay mới sạch, hơn nữa cô luôn cảm thấy cô độc dầu ở gần con nhỏ. Sữa nuôi con ít quá phải cho con bú bằng sữa bò. Có khi Nguyễn Sơn đi quá một tuần, ông bị cô tra khảo, hạnh họe, ghen tuông. Ông phải bình tĩnh khuyên nhủ và giải thích. Cùng lắm ông phải át giọng để cô bỏ thói ghen bóng, ghen gió.

Một buổi chiều bồng con dạo chơi bên bờ biển Sầm Sơn nhìn cánh buồm xa xa, cô lại nhớ đến nhà cô bên bờ sông Cửu Long. Cô nhớ đến mẹ và em, sống chết ra sao. Cây vú sữa, cây lý, cây xoài đã già hơn mười năm đã rất sai quả nhưng không biết giờ đây có còn được như trước không, vì nghe nói tàu giặc thường hay bắn vào nhà bên bờ sông Tân Lược, Tân Quới. Chúng rình tiêu diệt những xuồng liên lạc chở cán bộ, bộ đội vượt qua sông. Thuở ấy sông Cửu Long có tên là sông “Bạc đầu”. Những cán bộ đã vượt qua con sông này thường thấp thỏm lo âu vì tàu giặc thường tắt đèn neo một chỗ đón xuồng liên lạc qua sông để chúng xả súng tiêu diệt ta. Đã có bao nhiêu lần xuồng chìm và cán bộ bị hy sinh dưới làn đạn của chúng cho nên mỗi lần cán bộ qua khỏi con sông này họ cảm thấy già đi hơn mười tuổi, cũng như Ngũ Tử Tư bên nước Sở trước khi qua cổng thành ra ngoài đã bạc đầu vì lo có thoát được tay giặc đang truy lùng ông.

Hồi trưa, cô gặp người bạn cùng quê ra Trung ương tối nay xuôi về Nam hỏi cô có muốn về thăm nhà không? Cô do dự nhưng sau đó cô gửi con cho chị Các và ra đi cùng chị bạn ngay tối hôm ấy. Chị Các tin cô vào Nghệ Tĩnh thăm chồng đang xuống kiểm tra đơn vị.

Khi ông Sơn về, ông cầm bức thư vẻn vẹn vài chữ “Em có việc phải đi gấp về nam thăm mẹ già và giải quyết việc gia đình..., mong anh thứ lỗi và trông con hộ”. Nguyễn Sơn biết cô cũng có phần hờn giận ông nhưng công việc bù đầu, không thể dành thì giờ đi “dung dăng dung dẻ” với cô được. Ông có cảm giác cô sẽ đi mãi mãi, cô đã đánh mất đi những ngày nồng ấm trong tình vợ chồng.

Trong kháng chiến khó tìm được người đẹp và có học thức khéo may vá, chăm lo việc nhà, nấu ăn giỏi dang như cô Nội. Ông linh cảm đây là lần cuối cô xa ông mãi.

Nguyễn Sơn phải mất hai ngày thẫn thờ nuối tiếc vì cuộc tình mà ông cảm thấy mất mát dang dở.





56

Sau những buổi tập ông thường ra biển hít khí trời trong lành hoặc xuống biển tắm. Bãi biển Sầm Sơn cũng là nơi lý tưởng sau này cho các du khách đến tham quan. Biển sạch, hàng thông rì rào mát mẻ, sóng vỗ lao xao suốt ngày tạo nên một bản nhạc trầm buồn man mác. Xa xa dãy núi Mê xanh lam chen lẫn trong những đám mây đang lờ đờ như không buồn trôi. Một cảnh nên thơ mà những người có tâm hồn lãng mạn như ông đều ưa thích.

Cứ mỗi buổi trưa, theo thói quen Nguyễn Sơn xem một quyển sách và phải chợp mắt chừng 15 phút mới đem lại tỉnh táo cho đầu óc. Buổi tối sau khi ăn cơm ông nghe đài, sau đó lại xếp bằng tròn trên giường, ông ngồi đọc sách y hệt như 6 năm ông đã từng sống với Kiếm Qua tại Ngũ Hành Sơn bên Trung Quốc. Thú đọc sách là thú duy nhất của ông, thứ nhì là chơi bóng rổ. Bởi vậy khi dời ra Thanh Hóa ông đã xây dựng một số sân bóng rổ đúng quy cách quốc tế và tự ông huấn luyện cho một số cán bộ chưa biết chơi bóng rổ. Cuối năm ông treo giải thưởng và làm trọng tài giữa các tỉnh tham dự đấu với khu bộ.


Trưa nay, trời nóng nực dưới ánh nắng gay gắt của tháng 4, người ông thấm đượm mồ hôi. Nguyễn Sơn vội ra xe, lái dọc theo bờ biển. Khi đến 1 gềnh đá, Nguyễn Sơn cho xe dừng lại dưới bóng cây, ông dựa lưng vào gộp đá suy nghĩ:

“Em Kiếm Qua, có thật em đã chết rồi không? Những tin từ Trung Quốc đưa về cho hay bọn Tưởng Giới Thạch đã trở mặt đem 2 vạn binh tấn công vào khu Tấn Sát Ký như vũ bão, chúng chiếm giữ và tàn sát đồng bào tại khu”.

Ông suy nghĩ, tất nhiên Kiếm Qua và 2 con phải di tản về căn cứ Diên An mà căn cứ thì đường xa vạn dặm. Trên đường đi địch thường tấn công bằng bộ binh, bằng máy bay. Đoàn di tản cồng kềnh làm sao có thể chu toàn sinh mạng cho tất cả. Nghĩ đến đây ông đưa mắt nhìn ra xa khơi và thở dài:

- Nếu thế thì em chết thật! Con cũng chết và giờ này anh chẳng còn gì nữa!

Ông lại nhớ sự ra đi của cô Nội, một phụ nữ lịch sự yêu ông tha thiết nhưng lại hay ghen. Kể cả cô Nội cũng bỏ ông vào nam. Nhớ đến cô Nội ông lại nhớ đến Huế - đến sự gặp gỡ bất ngờ mà nên duyên. Nhìn cánh buồm xa tắp trên biển mênh mông, hình ảnh cô nhoà theo cánh buồm bé nhỏ, Nguyễn Sơn thở dài và ngâm nhỏ:

“Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa” 1

Lúc ấy nhà thơ Hữu Loan đạp xe đạp từ từ đi đến chỗ Nguyễn Sơn. Nhà thơ dừng xe và nói:

- Biết mà! Thế nào Tư lệnh cũng ra đây vì tôi thấy vắng bóng chiếc xe hòm. Có một chuyện khẩn cấp tôi muốn bàn với ông, nhưng ông suy nghĩ gì mà thừ người ra thế! Nhớ vợ hiền bên Trung Quốc hả! Thôi bà ấy và con đã hy sinh rồi! Còn bà Nội cũng đã ra đi! Nhớ bà Nội phải không? Có thể bà Nội “Một ra đi là không trở về”. Nhớ vừa thôi! Đừng để nỗi buồn lũng đoạn tinh thần người tướng lĩnh!

Hữu Loan đem chuyện ông Hồ Tùng Mậu đã bàn với nhà thơ nên cưới vợ cho Nguyễn Sơn, trong khi ông ấy có những nỗi buồn dồn dập của gia đình. Đã vài lần ông Mậu gặp 2 vợ chồng Nguyễn Sơn đang hục hặc, giận dỗi. Hồ Tùng Mậu có cảm giác cuộc sống của hai người không được thuận hoà. Bây giờ cô Nội đi vào Nam lại chứng tỏ sự rạn nứt đã bắt đầu từ đây. Hồ Tùng Mậu thấy nhiều khi ông Sơn thờ thẫn, buồn rầu. Ông cố tìm giải pháp để an ủi Nguyễn Sơn, cuối cùng Hồ Tùng Mậu đã chọn được một người mà ông cho là đẹp đôi khi ông đến xưởng giấy Hòa Bình của nhà học giả Lê Dự. Ông Mậu đã nói chuyện với cô Huân con của ông Dự. Cô này có vẻ hiền hậu, nết na, phong cách đúng dân Hà Nội. Cô cũng ưng ý nhưng “Các bác phải hỏi bố cháu”.

Thấy Nguyễn Sơn cứ hút thuốc và không nói gì, Nhà thơ Hữu Loan nói tiếp:

- Con người cường tráng như anh phải có vợ! Nhưng vợ như thế nào? Tôi có hỏi vợ tôi về cô Huân, bà rất vừa ý và nói Hồ Tùng Mậu có con mắt quan sát tinh tường.


Chuyện đã đến, phải đến! Vài hôm sau chỉ có một lần ông mời cô ra biển ngắm trăng đang lên. Hai người trong tay nhau nhưng chẳng nói một lời nào có lẽ những điều ông muốn nói với cô, nhà thơ Hữu Loan đã nói hết từ sự nghiệp cho đến tình duyên của ông. Phần cô Huân đi bên ông. Cô cũng tự hào đã có một người chồng tài ba, một vị tướng oai hùng khắp quân khu ai cũng nể, sợ. Phần Nguyễn Sơn, ông cũng cảm thấy được một nguồn vui đang dào dạt trong khối tim cô đơn. Cô Huân đẹp, nhỏ tuổi, hiền hậu dễ thương quá! Ông không biết nói gì hơn là im lặng đón nhận một mối tình tinh khiết, trong sáng của người thiếu nữ.
________________________________________
1. Câu thơ của Nguyễn Du trong Kim Vân Kiều


Tiêu đề: Re: Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc
Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Mười Hai, 2009, 12:06:47 pm

57

Năm 1948 Đại hội đảng bộ toàn quân khu với 230 đảng viên các trung đoàn tiểu đoàn về tham dự đã cử hành tại Nông Cống, không phô trương như Đại hội Tập. Hội trường được cất 1 dẫy nhà lá cách xa nhà dân. Đại biểu gồm các cán bộ chính trị từ cấp đại đoàn cho đến trung đội.

Tư lệnh nêu lên những ý lớn: Đảng ủy các đơn vị phải cố gắng thâm nhập và đi sát các đảng bộ địa phương để có kế hoạch phối hợp chặt chẽ, nâng cao tinh thần yêu nước của dân chúng và tìm những nhân tố tích cực để phát triển đảng. Phải chú trọng việc đối xử với các đạo giáo cho thật mềm dẻo đồng thời chú ý theo dõi bọn phá hoại nằm trong các tôn giáo và dân tộc thiểu số. Nếu gặp khó khăn không giải quyết được phải cấp tốc báo về khu bộ... Tôi mong rằng số lượng kết nạp đảng hôm nay vẫn chưa đạt được yêu cầu về phát triển đảng. Ông nhấn mạnh các đảng viên phải gương mẫu và là đầu tầu trong mọi chủ trương kế hoạch của quân khu. Tư lệnh Sơn còn nhận xét thêm về vấn đề phòng ngự dọc theo bờ biển chưa được chặt chẽ. Khi địch muốn tấn công bờ biển, chúng sẽ nã pháo hạng nặng dọn đường, ta phải tổ chức phòng ngự vững chãi và nắm chặt lực lượng dân quân địa phương trong việc trinh sát và thông tin. Về mặt trận biên giới phía tây, liên kết chặt chẽ với liên quân Lào - Việt chặn đứng sự lấn chiếm của quân Pháp.

Trong đại hội này có một sự bất ngờ là các cán bộ đảng viên rất tin tưởng sự lãnh đạo sáng suốt của tướng Nguyễn Sơn. Họ xem ông như ngọn hải đăng để quân đội tiến lên. Do đó toàn đại hội đã bầu tướng Nguyễn Sơn làm Chính ủy kiêm Tư lệnh. Chuyện này có lẽ chưa xẩy ra ở các quân khu khác.


Cuối tháng Giêng năm 1948, một sự kiện trọng đại đã xảy ra, Chủ tịch Hồ Chí Minh phong đồng chí Võ Nguyên Giáp là Đại tướng. Ngày sau phong cấp Thiếu tướng cho các ông: Hoàng Văn Thái, Nguyễn Sơn, Hoàng Sâm, Trần Tử Bình, Văn Tiến Dũng, Lê Hiến Mai, Lê Thiết Hùng. Năm ngày sau Chủ tịch phong tiếp cấp Trung tướng cho Nguyễn Bình. Có lẽ vì sự phong chậm của Chủ tịch Hồ Chí Minh làm các tướng có thể nghĩ Chủ tịch Hồ Chí Minh đắn đo cân nhắc rất nhiều khi đặt bút phong cho ông Bình.

Riêng về Nguyễn Sơn, ông nghĩ rằng các công việc được trên giao ông đều làm đến nơi đến chốn đem lại hiệu quả cao trong hoàn cảnh đầy khó khăn trở ngại có thể nói đây là thời hạn kỷ lục. Trong các lĩnh vực quân sự, văn hoá, kinh tế Nguyễn Sơn đều thực hiện xuất sắc với một thời gian ngắn tại hai nơi: miền Nam và Quân khu 4, so với một số tướng khác sự phong tướng này có hẹp đối với ông không?





58

Bên bờ biển Sầm Sơn, Nguyễn Sơn ngồi hút thuốc không ngừng và suy nghĩ miên man. Có thể có những đụng chạm giữa Khu ủy hoặc cán bộ Bộ tư lệnh. Nguyễn Sơn không biết rằng những hành động độc tài, độc đoán của mình đã lọt đến tai Trung ương đảng và Hồ Chủ tịch. Có thể có ai đó dèm pha, mặc dầu ông cống hiến nhiều thành tích cho Trung Quốc, nhưng tại Việt Nam mới hoạt động có 4 năm. Hay là ông đã nổi tiếng về mọi mặt, trong thời gian ngắn đã đóng góp nhiều nên họ ghen ghét hoặc giả đây biểu hiện tính cách gây thành tích cá nhân của ông. Ở đời thường hay “con gà ghét nhau tiếng gáy”.

Phàm những người chỉ huy quân sự, ai cũng có tính nóng và có quyết định cứng rắn. Tôi nhớ khi xưa tôi là cán bộ đại đội có nhiệm vụ tấn công vào đồn địch phía bên trái. Đã phân bố rõ ràng trên sơ đồ nhưng tại thực địa chiến trường một trung đội đã lùi xuống, đội hình dàn quân không đúng vị trí. Tức giận tôi lại đá đít người chỉ huy và gằn giọng: cho anh em phục tại chỗ gò kia mau! Gần tới giờ khai hoả, anh Trung đội phó vội vã đứng lên huy động các chiến sĩ mai phục đúng chỗ. Sau trận đánh Đại đội về kiểm điểm không thấy đồng chí đó phê bình về hành động của tôi gì cả. Có lẽ anh ấy đã biết lỗi của mình chăng!

Người giỏi hay tự phụ, người chỉ huy giỏi cũng hay độc tài độc đoán. Nhiều khi phải châm chước cho ông Nguyễn Sơn, cái tài của ông đã lấn lướt những tiểu tiết va chạm trong đời thường...

Nguyễn Sơn trì hoãn không nhận chức Thiếu tướng. Ông cho một cán bộ hỏa tốc đi về Trung ương gặp Bác Hồ, trong thư đại ý: “Tôi xin nhường cho Khu phó Đào Chính Nam lên Thiếu tướng còn tôi tài sơ đức mỏng xin Bác cho tôi chức Đại tá đủ rồi”. Lúc ấy ông Hoàng Đạo Thuý1 đang ăn cơm chung với Bác, Bác nói:

- Nguyễn Sơn có tài tổ chức và điều khiển bộ đội nhưng tự cao, tự đại dễ đụng chạm và làm mất lòng người khác. Từ Liên khu 4 đã có dư luận Nguyễn Sơn không nhận sắc phong mà còn xuyên tạc: Nguyễn Sơn là thừa... tướng chứ không có thiếu... tướng.

Khi ông Thúy trở về doanh trại, Bác lấy tấm thiệp viết ít chữ, ngoài đề: Thân gửi Sơn đệ - dưới bài thơ ký tên: “Người anh họ Nguyễn” - Trong thơ vẻn vẹn có 4 câu:

Đảm dục đại
Tâm dục tế
Trí dục viễn
Hạnh dục phương2

Dịch: Cái mặt phải cho lớn gan rộng rãi. Cái tâm mình cho tế nhị, chín chắn. Cái trí cho tròn trịa mềm mỏng. Cái nết cho vuông vức ngay thẳng, cứng cáp. Ấy là phép làm người, khi tưởng phải tưởng như ngay trước mặt giặc, cái lòng phải e sợ như lúc đi qua cầu. Bác Hồ lấy đoạn trước 12 chữ bỏ đoạn sau nhưng người đọc đã biết thay chữ tiểu bằng chữ Tế, tiểu là nhỏ nhưng chữ tế còn nhỏ hơn nhiều (tế nhị) khi tế đi với đại còn có nghĩa là bao dung, rộng lượng. Thay chữ tế người đọc có thể hiểu: Cái tâm mình phải cho khéo léo, tế nhị chín chắn hơn nhiều lần so với người xưa đã dạy. Trong trường hợp này nếu ra 1 mệnh lệnh chỉ trích thì sẽ làm cho Nguyễn Sơn phản ứng. Nếu không sử dụng lối đối phó mềm dẻo cho Nguyễn Sơn vui lòng chấp nhận có tính cách gia đình trong ấm, ngoài êm đã. Bác Hồ chỉ lấy tình anh em chứ không nhân danh chủ tịch nước.


Đại ý của bài thơ: Khen Nguyễn Sơn đã làm được 12 chữ của Tôn Tử Mạo nhưng khuyên phải làm tốt hơn nữa. Việc chuyển thơ, Bác phái Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch nguyên Bộ trưởng đại diện chủ tịch nước chủ trì cuộc phong tướng cho Nguyễn Sơn, việc phong tướng cho các quân khu với tư cách thay mặt Nhà nước tưởng thưởng sự có công phong hàm cấp tướng. Bác Hồ không muốn Khu ủy tổ chức việc này. Bác biết bác sĩ Thạch và Nguyễn Sơn rất thích nhau và các tướng khác cũng biết đến bác sĩ Thạch nhiều.
______________________________________
1. Hoàng Đạo Thuý, Chủ tịch hội Hướng đạo toàn Đông Dương. Tôi là học trò của thầy khi thầy dạy moyen 2è anneé (lớp 5) tại trường Pierre Pasquier phố (Sinh Từ)
2. Viện Bảo tàng Hồ Chí Minh có tấm thiệp đã ghi câu thơ Bác Hồ gửi Nguyễn Sơn.

[/color]


Tiêu đề: Re: Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc
Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Mười Hai, 2009, 12:08:05 pm

59

Ngồi trên thuyền xuôi theo dòng sông Mã ra biển, lòng Bác sĩ Thạch ngổn ngang trăm mối. Khi thuyền ra khơi mênh mông, bác sĩ mới thấy lòng lắng xuống ít nhiều. Nhìn lên cánh buồm nâu, Bác sĩ nhớ tới cánh buồm nâu của Nguyễn Bính, ông buột miệng ngâm nhỏ:

Hôm nay trên biển xuôi đò
Thương nhau qua cửa tò vò nhìn nhau
Ai đi đấy, Ai về đâu!
Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu
Cánh buồm. 1

Có thể mình cũng nhớ Nguyễn Sơn đấy! Khi nằm chung với cậu ta ở Bắc Bộ phủ2 cậu cũng ngâm Kiều cho mình nghe:

Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồn xa xa... 3

Bác sĩ ngẫm nghĩ: Nguyễn Sơn mê Kiều có lẽ tâm trạng của ông cũng có dáng dấp giống như Kiều, câu thơ nào ông ngâm cũng phảng phất một nỗi buồn sâu lắng.





60

Thuyền vẫn lững lờ trôi. Mây lãng đãng trên bầu trời xanh lơ. Gió biển mơn man nhẹ thổi. Nắng vẫn sáng trắng cả vùng biển. Đoàn người trên thuyền im lặng cảnh giác tàu chiến của địch xuất hiện. Họ thấy bác sĩ hay ngồi im lặng suy tư nên anh em cũng không muốn gợi chuyện. Quả thật! Bác sĩ băn khoăn suy nghĩ, ông biết Nguyễn Sơn có trình độ, có tài nhưng tính khí ngang tàng nóng nẩy. Trước kia ông quen Nguyễn Sơn tại Bắc bộ phủ. Hai người mến nhau về trình độ kiến thức và khí phách. Ông hay nói những chuyện vui hồi ông còn đang học tại Balê (Pháp) ông đánh tụi sinh viên Pháp ghét người Việt Nam. Bây giờ, giữa trời nước bao la, con thuyền vẫn lững lờ trôi mang theo cánh buồm nâu giữa làn sóng bạc lăn tăn. Trọng trách Bác giao cho ông thay mặt Đảng và Nhà nước ông phải làm tròn, nhưng làm thế nào.

Qua một đêm suy nghĩ ông cũng tìm ra một vài giải pháp để đối phó với sự cứng đầu của ông Nguyễn Sơn.


Hôm sau, thuyền đã vào đậu tại bờ biển Sầm Sơn. Người trung đội trưởng đưa thơ cho Bác, về cùng một chuyến với Phạm Ngọc Thạch đã đưa đoàn ông về Tư lệnh bộ chỉ cách bờ biển hơn 1000 thước.

Gặp nhau tay bắt, mặt mừng, Nguyễn Sơn cho gọi cô Huân về nhờ đi mua vài ký tôm cho ông ăn cơm chiều.

Bác sĩ nói về chiến khu Việt Bắc, còn Nguyễn Sơn nói chuyện về Quân khu 4. Nguyễn Sơn khen một số trí thức đi kháng chiến đã quen chịu khổ cực như các ông Tiến Lãng, Đặng Thái Mai, Nguyễn Tuân v.v…

Cả hai đã ăn cơm xong. Nguyễn Sơn mời ông Thạch dùng nước chè và nhìn chăm chú vào ông Thạch ngập ngừng hỏi:

- Anh Thạch vào thăm tôi chắc cũng có chuyện?

Bác sĩ Thạch cười vã lã:

- Chuyện tấn phong cho cậu ấy mà! Nói xong ông lấy tấm thiệp của Bác Hồ đưa cho Nguyễn Sơn. Nguyễn Sơn coi xong và ngẫm nghĩ vài phút, ông chép miệng:

- Ông cụ kỹ quá!

Rồi Nguyễn Sơn cười to với Bác sĩ:

- Cà n’inquìèté pas, je vai organiser la cérémonie comme il faut. 4

Thế là bao nhiêu lo lắng, Bác sĩ đã chất cả lên mâm cơm đầy vỏ tôm đỏ au. Tối nay ông muốn uống cùng Nguyễn Sơn cho say tuý luý...

Chiều hôm sau lễ tấn phong đã diễn ra long trọng có mặt các đồng chí Khu ủy khu 4 và một số chỉ huy đơn vị tại Thanh Hóa, Nghệ An. Một đại đội, quần áo chỉnh tề được dàn ra làm hàng rào danh dự. Tư lệnh Nguyễn Sơn trịnh trọng cùng Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch diễu qua đoàn quân. Trống kèn vang lừng. Nguyễn Sơn đưa bác sĩ lên khán đài ngồi trước các cán bộ Khu ủy. Bác sĩ Thạch đã thay mặt Đảng và Chính phủ đọc tuyên dương công trạng của Nguyễn Sơn và trao cho ông quyết định phong Thiếu tướng. Nguyễn Sơn đã vui vẻ nhận và tỏ cảm tưởng biết ơn chính phủ.
________________________________________
1. Thơ của Nguyễn Bính.
2. Bắc bộ phủ: phủ Chủ tịch nước
3. Thơ Nguyễn Du
4. Đừng lo ngại! Mai tôi sẽ tổ chức buổi lễ tấn phong đàng hoàng.



Tiêu đề: Re: Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc
Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Mười Hai, 2009, 07:48:15 pm

61

Sau cuộc lễ một ngày Khu phó Đào Chính Nam đã chiêu đãi các quan khách và văn nghệ sĩ khoảng 200 người. Buổi liên hoan nay mừng sự thụ phong Thiếu tướng và cũng là ngày cưới của tướng Nguyễn Sơn và cô Hoằng Huân. Đội ca nhạc kịch quân khu cấp tốc dựng sân khấu để trình diễn phục vụ đêm liên hoan. Nhân dịp này, Tổng biên tập Hữu Loan phụ trách Trưởng ban tổ chức đã hướng dẫn chương trình và giới thiệu quan khách tham dự. Nhà thơ Hữu Loan tuyên bố lễ kết hôn cho Nguyễn Sơn và cô Huân. Không khí nhộn nhịp, tươi vui, tiếng vỗ tay vang dậy, tiếng đụng cốc lách cách chúc mừng.

Nhà thơ Giả Cử đã lên sân khấu ngâm một bài thơ ông làm không đầy 10 phút để góp vui cho đám cưới.

Chúc bà chúc ông
Trăm năm chữ đồng
Thuận vợ thuận chồng
Tát cạn bể đông
Kế hoạch Thu Đông.
Chuẩn bị đã xong
Ừ đánh thì đánh
Đánh ắt thành công
Đì đùng đì đùng
Đại bác thần công
Ông đánh bà đánh
Đánh cho tới cùng
Giành lại non sông
Cháu tiên, cháu rồng
Hạnh phúc thực sự
Chúc bà cùng ông

Chị gái của bà Huân là nhà thơ Hằng Phương đã tặng cho đôi uyên ương một bài lục bát để mừng ngày trọng đại này:

Mừng em lòng chị bâng khuâng
Tiếng cười ngỡ khúc hành quân rộn ràng
Giữa thời kháng chiến ngang tàng
Anh hùng, thục nữ sẵn sàng se duyên
Khu tư đang được bình yên
Anh hùng chớ để vì duyên “giặc vào”.
Viết ngày 4/10/1948

Nhà thơ Hữu Loan còn là hoạt náo viên, đã động viên các nghệ sĩ tích cực tham dự và hô hào các cán bộ nhân viên đăng ký các tiết mục thơ, nhạc để góp vui trong lễ cưới này. Nhất là đội chèo biểu diễn, nhì là sự trình bày các sáng tác của Phạm Duy, Phạm Đình Chương lại thêm bài hát Râu bác Sơn do Trần Đình Xuyên sáng tác.




62

Nguyễn Sơn tính giữ bác sĩ Thạch ở chơi trong một tuần để tắm biển và ăn uống bồi dưỡng cho bác sĩ vì ông biết sinh hoạt ở Việt Bắc kham khổ không như ở nơi Thanh Hóa này. Ông nghe bác sĩ khen biển Sầm Sơn giống như Cô te d’Azur một bờ biển của miền Nam nước Pháp mà những mùa hè ông Thạch hay đi nghỉ tại đó. Nguyễn Sơn cố thuyết phục ông Thạch ở lại nhưng bác sĩ từ chối vì phải vào nam với phái đoàn để chủ trì việc phong tướng cho ông Nguyễn Bình.

Sau đêm liên hoan, đoàn bác sĩ Thạch lên đường đi thuyền buồm vào Nam. Trong số người đi tôi biết hai người: anh Việt Quang, Trung đoàn trưởng và anh Hoài Quang, Chính trị viên trung đoàn.

Sau này cán bộ liên lạc đưa đoàn tới Phan Rang trở về báo cáo với Nguyễn Sơn: đoàn ông Thạch đã bỏ thuyền buồm đổ bộ lên làng Im vì tàu giặc phong tỏa rất nhiều trên đường biển. Để bảo vệ phái đoàn chính phủ, đồng chí Nguyễn Mô Bí thư quân khu 6, đã chỉ định Tiểu đoàn trưởng Lâm tổ chức bố phòng từ làng Im qua quốc lộ tiến về chiến khu 17 (hai tháng trước đây giặc Pháp đã tấn công chiến khu 17. Khu bộ trưởng Vũ Đức trên đường trở về trung ương, đoàn ông đụng độ với cuộc tấn công của Pháp vào chiến khu. Ông đã cùng một trung đội chống trả quyết liệt và đã hy sinh).

Cán bộ liên lạc còn nói bác sĩ Phạm Ngọc Thạch đi dưới nắng gay gắt rất giỏi. Trong khi các anh em trong phái đoàn phải lấy lá cọ để chống lại ánh nắng chói chang gay gắt thì bác sĩ vẫn để đầu trần hành quân. Khi bước lên căn cứ của chiến khu. Bác sĩ được đ/c Mô giới thiệu bà Sáu là vợ Khu trưởng Vũ Đức. Ông đã lại gặp bà Sáu, Bác sĩ nhân danh Nhà nước an ủi bà và hứa sẽ về trình để đồng chí Vũ Đức được tuyên dương công trạng trong toàn quân đội.

Thấm thoát đã 2 năm trôi qua. Hai năm đối với tư lệnh Nguyễn Sơn là một núi công việc - Việc nào trước khi làm ông đều nghiên cứu tỉ mỉ. Thủ tướng Phạm Văn Đồng từ năm 1947 đã đại diện cho Nhà nước tại miền Trung. Thủ tướng Đồng và Chủ tịch Sơn trước đây đã mở lớp huấn luyện thành lập một số đội cảm tử mở đường đem vàng, hồ tiêu, quế, thuốc phiện sang đất Thái Lan bán để mua vũ khí đem về đánh Pháp. Trong số đội này tôi có quen một người tên là Nguyễn Trại1 đã đi qua lại bên Thái Lan hai lần trong công tác đặc biệt này - Tư lệnh thường luôn nhắc lời của Thủ tướng: “Chuẩn bị kỹ lưỡng là thành công phân nửa”. Trước đây 1 đại đội được tổ chức và trang bị vũ khí tối tân từ bên Thái Lan về đến quân khu 4 đã được Tư lệnh giao cho đồng chí Lê Thiên Tào phụ trách huấn luyện.
_____________________________________
1. Nguyễn Trại, Đại tá An ninh, trong 31 năm đã bảo vệ đồng chí Lê Duẩn, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam tại Hà Nội.


Tiêu đề: Re: Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc
Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Mười Hai, 2009, 07:49:17 pm

63

Qua lần “Đại hội tập” thứ hai của Liên khu đến Đại hội tổng kết toàn quân 1949, Tư lệnh Nguyễn Sơn đã về Việt Bắc tham dự. Ông đi với Nguyễn Kiệm và có nhà văn Nguyễn Tuân đi cùng đoàn để tham dự đại hội Văn nghệ toàn quốc.

Đến Hà Nội, Nguyễn Sơn được Bác Hồ mời ăn cơm, Bác nói:

- Không ngờ cậu bé liên lạc tại Quảng Châu năm xưa nay đã trở thành một ông tướng với bao chiến công. Nguyễn Sơn nhỏ nhẹ:

- Đấy là nhờ sự dạy bảo, uốn nắn của Bác đấy!

Bác Hồ hỏi thăm chuyện gia đình của ông. Sau đó bác nói tiếp:

- Ngày mai đúng 7 giờ sáng chỉ một mình chú vào gặp tôi.

Sáng hôm sau ông y hẹn đến gặp Bác. Bác Hồ mời uống nước trà và đưa hộp Craven “a” mời ông. Nguyễn Sơn cám ơn và bẻ điếu thuốc nhét vào tẩu thuốc của ông. Ông châm lửa hút. Kiểu cách cầm ống điếu có vẻ phong lưu công tử.

Nguyễn Sơn cho Bác Hồ biết tình hình chung của quân khu về mọi mặt, Bác khen Nguyễn Sơn đã có nhiều sáng tạo trong việc lãnh đạo chiến đấu đã củng cố tổ chức để toàn liên khu được vững mạnh trong Đại hội tập vừa qua.

Ngừng lại nhấp một ít trà, Bác hỏi tiếp:

- Quân khu 4 chiến sĩ có đủ súng đạn không?

- Thưa đủ, nhưng súng lớn bắn vòng cầu thì thiếu nhiều, kể cả các chất hóa học làm thuốc nổ.

- Đó là vấn đề tôi gặp chú hôm nay. Chỉ có chú mới làm được việc này.

- Thưa Bác việc gì ạ!

- Tình hình chiến đấu của ta phải có sự yểm trợ của quốc tế mới giải quyết cho ta được. Tôi sẽ qua nước bạn trước tiên là Trung Quốc sau là Liên Xô. Với đảng cộng sản Trung Quốc tôi sẽ đề nghị chú phụ trách công tác liên lạc và ngoại giao. Các vị lãnh đạo Trung Quốc đã sẵn có cảm tình với chú, việc chúng ta xin tiếp tế vũ khí có thể họ sẽ giúp đỡ nhiều. Vì đại cuộc chú nên cố gắng theo sát vấn đề này để tạo điều kiện cho nước ta mau đi đến chiến thắng quân thù. Vai trò của chú rất quan trọng chú cố vận động để những vũ khí đạn dược, khí tài của Liên Xô được đi về Việt Nam qua đất Trung Quốc mà không phải đi đường biển mất nhiều thời gian và không bảo đảm. Nguyễn Sơn tuân lệnh và nghĩ thầm:

- Ta lại có dịp thăm họ hàng của Kiếm Qua và chia buồn vì sự hy sinh của mẹ con Kiếm Qua.


Tiêu đề: Re: Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc
Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Mười Hai, 2009, 07:50:24 pm

64

Đầu năm 1950, Bác Hồ đã bí mật sang Trung Quốc và sang Liên Xô tìm gặp các đồng chí lãnh đạo đã quen biết trước kia. Bác nhờ các đồng chí ủng hộ để vận động trung ương đảng cộng sản Trung Quốc và Liên Xô giúp đỡ về mọi mặt quân sự, chính trị, và quan trọng nhất là xin yểm trợ vũ khí nặng các loại để tăng cường sức chiến đấu của quân đội. Nước bạn đã nhiệt tình giúp đỡ và cũng chấp thuận để Nguyễn Sơn sang Trung Quốc làm đặc phái viên đối ngoại giữa hai nước. Khi được tin, tướng Sơn lại chuẩn bị sang Trung Quốc lần nữa, bạn bè hỏi ông:

- Ở Việt Nam chiến đấu không được hay sao, lại phải qua tận Trung Quốc chiến đấu!

Nguyễn Sơn cười và nói oang oang:

- Chúng ta là chiến sĩ cộng sản quốc tế, ở đâu có đế quốc có quân thực dân xâm lược chúng ta có quyền đánh cần gì phải ở Việt Nam mới chiến đấu được.

Quan niệm của Nguyễn Sơn rõ ràng. Lập trường kiên định phục vụ vô điều kiện cho giai cấp vô sản đã đưa ông lên địa vị cao cả là đại biểu quốc hội, ủy viên trung ương đảng cộng sản Trung Quốc hai khóa liên tiếp.

Chủ tịch nước Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh vào tháng 7 năm 1950 thuyên chuyển thiếu tướng Nguyễn Sơn tức Hồng Thủy sang công cán tại Bắc Kinh tùy theo sự bố trí công tác của nước bạn.

Buổi tiễn đưa tướng Nguyễn Sơn tại Quân khu 4 diễn ra đầy tình cảm chan chứa. Ngoài khu ủy có các vị chỉ huy Trung đoàn, Tiểu đoàn, giới văn nghệ sĩ tham dự không sót người nào.

Đồng chí Đào Chính Nam thay mặt quân khu phát biểu:

- Tư lệnh Nguyễn Sơn đến Liên khu 4 với chúng ta chỉ với 2 bàn tay trắng. Trước sự thất thủ của mặt trận Bình Trị Thiên, đa số cán bộ chiến sĩ bị mất tinh thần. Ông lập nhiều trạm thu dung để thâu nhặt số chiến sĩ bị thương và lạc đơn vị. Lúc ấy ông là người thầy thuốc hiền từ cho các bệnh nhân ăn cháo từ từ và dần dần phục hồi tinh thần của chiến sĩ. Tư lệnh đã thấy rõ nguồn gốc của sự thất bại. Lòng ông độ lượng, vị tha kể cả tư lệnh mặt trận được ông cần uốn nắn hơn là trừng phạt.

Thời gian qua chúng ta đã thấy tình hình quân sự trong liên khu lần lần khởi sắc. Ông đã sử dụng sinh viên trường Võ bị II xuống 6 tỉnh để tiếp tay bồi dưỡng quân sự cho cán bộ sơ cấp, chiến sĩ và dân quân cùng góp ý về phương án tác chiến tại các địa phương. Qua cuối năm 1948 ta đã thấy nhiều mặt đều được tiến lên. Các tỉnh đều có trung đoàn chủ lực, các huyện đều có đại đội độc lập các xã đều có trung đội dân quân thường trực. Hoạt động toàn quân khu được chia thành 4 mặt trận. Mặt trận ven biển đã chống lại 20 lần bọn biệt kích lên đốt phá, thăm dò lực lượng ta. Các tàu chiến của ta đã kịp thời ngăn chặn. Mặt trận Trung - Lào tại biên giới Thanh Hoá, Nghệ An ta diệt những đồn lẻ và ngăn chặn sự lấn chiếm của quân Pháp. Ta phá tan âm mưu của chúng lập các khu “Mường tự trị”, “Thái tự trị”. Tư lệnh cho thiết lập đường chiến lược trên 200 cây số xẻ Trường Sơn nối Nghệ Tĩnh, Quảng Trị cho mặt trận đường 9 hoạt động và tiếp tế Bình Trị Thiên dễ dàng. Mặt trận Bình Trị Thiên đã phát huy du kích chiến cao độ đã tiêu diệt hàng ngàn tên giặc. Các tỉnh đã thực hiện triệt để du kích và đang chuyển qua đánh vận động chiến và công kiên chiến. Binh công xưởng các tỉnh trên 20 cơ xưởng được tổ chức thành 4 loại, đã cung cấp đầy đủ súng đạn cho toàn quân khu. Ta đã sản xuất nhiều loại ba zô ka, thuỷ lôi, bom bay áp dụng các trận công kiên làm địch hoảng loạn, một số đã đầu hàng theo ta. Đầu năm 1948 ta đã tiếp tế gạo thóc cho Liên khu 5 và họ cũng đã ủng hộ ta 500 bộ quần áo. Hiện nay các tỉnh đều có xưởng dệt đủ cung cấp vải cho quân đội, dân chúng. Bộ Tư lệnh chuyển chủ lực ra Thanh Hoá đã giải quyết nhẹ về lương thực của xứ Nghệ nghèo nàn. Khu bộ đã quản lý 6 đại đội tăng gia sản xuất. Không những các tỉnh dư lúa ăn mà còn yểm trợ cho Đà Nẵng và muối cho Liên khu 3. Mỗi trung đoàn mỗi huyện đều có công trường làm đạn, lựu đạn.

Tư lệnh là vị tướng rất nghiêm khắc với quân sĩ nhưng lại độ lượng với những phần tử lầm đường lạc lối. Ông đã giảm thiểu đề nghị tử hình của tòa án binh quân khu. Ông khuyến khích trại cải hối không được hành hạ tội nhân, nên lấy giáo dục là chính. Ông nói: Họ không hiểu họ mới làm bậy, phải giáo dục để họ theo cùng làm cách mạng. Đấy cũng là thể hiện tình người của Tư lệnh.

Chúng ta học của Tư lệnh ý chí quyết thắng địch, cho nên các làng kiểu mẫu như Cự Nẫm, Cảnh Dương, Ba Lồng, Nam Đông đã tự lực chống giặc, làm giặc không xâm chiếm nổi. Các điển hình này đã được nhân lên ở các xã đều có làng chiến đấu tương tự. Tư lệnh rất chú ý về đào tạo cán bộ, binh sĩ. Ngoài trường Võ bị trên 300 sinh viên, còn có khóa đào tạo cán bộ, tiểu đoàn, trung đoàn, các khoá thiếu sinh quân, tương lai của đất nước, các lớp bồi dưỡng tỉnh ủy viên, huyện ủy viên, các trường phổ thông cấp 1, 2, 3 và các trường dạy văn hoá cao cấp cho các giáo viên không những của liên khu 4 mà liên khu 3 cũng tham dự.

Các văn nghệ sĩ liên khu đều hân hạnh được đi làm cách mạng cùng với Nguyễn Sơn, vị tướng tri thức có những tư tưởng đi trước đã nâng các bộ môn ca, vũ, nhạc kịch của liên khu được nhiều tác phẩm sáng giá trong việc phục vụ nhân dân và quân đội.

Khu phó Đào Chính Nam đã nói đầy 5 trang giấy nhưng ở đây chỉ nêu vài nét thành đạt của một quân khu yếu đuối mọi mặt đã trở nên hùng mạnh trong kháng chiến chống Pháp.

Tư lệnh đã biến “Đại hội tập” thành ngọn hải đăng soi sáng việc rèn cán chỉnh quân của liên khu và cũng là của toàn quốc. Ông đã chia tay với chúng ta để lên đường đi kháng Mỹ, viện Triều nhưng tinh thần Nguyễn Sơn, cung cách Nguyễn Sơn, văn nghệ Nguyễn Sơn vẫn còn mãi trong chúng ta.

Bí thư khu ủy Hồ Tùng Mậu chúc mừng thành công của tướng Nguyễn Sơn và tỏ cảm tình trong buổi chia tay. Các giáo viên và văn nghệ sĩ chúc mừng. Riêng khi Nguyễn Sơn bắt đầu lời từ giã mọi người thì đội trưởng Vũ Đình Liên1 chỉ huy dàn nhạc quân khu đã oà lên khóc nức nở làm một số người cùng khóc theo...

Cuộc chia tay kèm theo tiếng khóc đầy vẻ bi ai. Nếu những ai ở trong địa vị của người đang khóc họ sẽ nghĩ đây là tiếng khóc của tình anh em, tình “chị ngã em nâng”, tình thắm thiết của một người đã được người kia vạch ra cho mình một con đường sống, sống thênh thang, sống đàng hoàng, sống hiên ngang và người đó đã tạo cho mình một giá trị của một con người yêu nước, yêu đồng loại, bạn bè, yêu quê hương, yêu chủ nghĩa xã hội...

Ôi tiếng khóc! Tiếng khóc đã nói lên tình người, nói lên sự thân thiết cao quý nhất sẽ không còn trong tay họ. Tướng Nguyễn Sơn lên đường đã mang theo những hình ảnh, những tiếng khóc mà nó vẫn còn như đang nghẹn ngào trong tim ông. Nhưng rồi thời gian... thời gian sẽ làm dịu cơn nuối tiếc và đi vào sâu lắng.
__________________________________
1. Vũ Đình Liên là nhạc trưởng đội quân nhạc Bảo An binh Hà Nội thời vua Bảo Đại. Ông đã được tướng Sơn mời về thành lập ban nhạc Liên khu 4.


Tiêu đề: Re: Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc
Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Mười Hai, 2009, 07:51:45 pm

65

Khi tướng Nguyễn Sơn lên đường sang Trung Quốc, bà Huân đang mang thai. Vài hôm sau bà đã rời Quân khu 4 ra Bắc ở nhà khách Bộ Tổng tham mưu chờ đẻ xong bà sẽ sang sau.

Chị Lê Thanh Các, con cả của Nguyễn Sơn nghe tin vội bế con từ Thanh Hoá ra thăm bà Huân và em Thanh Hà. Chị xin ở gần để giúp đỡ bà khi “vượt cạn”. Chị bồng em Thanh Hà và nói với bà Huân:

- Bà còn nhớ bố tôi vừa bế em Hà vừa làm thơ nhân dịp liên hoan toàn quân khu ăn mừng chiến thắng Bình Trị Thiên, tôi xin đọc lại bà nghe

Bế bé Hà xinh xinh
Đúc lại khối chung tình
Hình bé nguồn hạnh phúc
Tình bé vòm trời xanh...

Lúc ấy tôi thấy hoạ sĩ Sỹ Ngọc vẽ cho bé Hà một chân dung rất đẹp1

Chị Thanh Các còn tâm sự với các em: “Bà Huân đối với tôi cũng như đối với các con của bố tôi rất hòa nhã, chân thật, thương yêu, đùm bọc nuôi nấng dạy dỗ các con của chồng và khi chúng lớn cho đi học, bà dựng vợ gả chồng như con đẻ của bà.

Bà đã kể lại lời dặn dò của bố tôi:

“Trong thâm tâm tôi còn day dứt một điều mà tôi chưa có dịp làm vì tôi đi gấp quá. Con gái lớn của tôi mới sinh một cháu gái (sau nó tên là Nguyễn Thanh Mai) đây là đứa cháu đầu tiên nên phải đến thăm nó nhưng đường xa, thời gian đi Bắc Kinh đã đến nên không thể thực hiện việc thăm cháu. Sau này có dịp em nên chú ý giúp đỡ hoặc an ủi nó”.

Chị Các nhớ lại sau đám cưới của bà. Chị và bà chuyện trò rất tâm đắc. Bà đưa cho chị Các sợi dây chuyền đã tháo mặt:

- Tôi cho chị cái dây, khi nào gặp khó khăn chị bán để nuôi con.

Chị Các từ chối bảo là còn khỏe, chị nhất định không lấy. Dì nhét vào túi chị và bảo: Tôi có nhiều bạn bè của Nguyễn Sơn giúp đỡ, còn chị chỉ có một mình, nên cầm lấy! 2

(Mấy năm ở Trung Quốc hai dì cháu thường viết thư cho nhau. Tháng 9/1956 khi bà trở về nước bà đem Mai Lâm cho ăn học, dựng vợ gả chồng cho các con chồng)


Từ khi biết tướng Sơn đi Trung Quốc lần thứ 3 bà đã tiên đoán thế nào ông cũng gặp người vợ Kiếm Qua của ông. Vì hai người tâm đầu ý hợp cùng đồng cam cộng khổ suốt sáu năm với biết bao kỷ niệm trong tình đồng chí. Nguyễn Sơn không thể nào không gặp lại nếu bà ấy và con còn sống. Cuộc đời sẽ diễn biến như thế nào? Có thể người đàn bà sẽ mềm yếu trước sự năn nỉ của đàn ông!

Không! Bà không thể ở chung với Kiếm Qua theo kiểu hai vợ một chồng. Để bảo vệ uy tín của chồng trước các vị lãnh đạo trung ương đảng Trung Quốc bà sẽ tình nguyện đem con trở về nước một cách êm thấm, vì thâm tâm bà muốn không bao giờ ông buồn và mất mặt vì bà.

Đầu tháng 7 năm 1950, trung ương tổ chức buổi tiễn đưa Nguyễn Sơn sang công cán tại Trung Quốc. Hôm đó, Đại tướng Võ Nguyên Giáp chủ trì buổi lễ. Có mặt các thiếu tướng Hoàng Văn Thái, Văn Tiến Dũng, Chu Văn Tấn... Nhân dịp này Đại sứ La Quý Ba cũng đi theo đoàn trở về nước và ông Ba cũng được mời tham dự liên hoan. Trung đoàn trưởng Nguyễn Hiểu An phụ trách đội bảo vệ đưa ông tới biên giới Hoa Việt.

Khi tướng Nguyễn Sơn từ giã tất cả bạn bè, tướng lĩnh, Đại tướng còn ôm hôn và nói to:

- Hoan hô Thiếu tướng Nguyễn Sơn, chiến sĩ cộng sản quốc tế. Ngày mai anh sẽ “đem chuông đi đánh xứ người”. Tôi ước mong sự xung phong đi chiến đấu trong công cuộc kháng Mỹ viện Triều anh sẽ đạt được những chiến công to lớn làm vẻ vang cho cả 2 nước và tình hữu nghị Việt - Trung càng ngày càng bền vững.

Bữa tiệc hôm ấy Nguyễn Sơn cảm thấy phấn khởi khi lên đường. Trên tàu hỏa Nguyễn Sơn châm lửa hút thuốc liên miên. Con tàu vẫn chạy trong bóng đêm mờ ảo của núi rừng, trong lòng ông vẫn thấy bồn chồn day dứt.

Tin Kiếm Qua cùng con đã chết vì bom địch có thật không? Nếu như không thật thì sao? Và hậu quả như thế nào? Ông hiểu con người Kiếm Qua ngay thẳng, kiên cường đầy nghị lực. Khi biết ông đã có vợ, nàng có tha thứ cho ông không? Rồi các con ông thế nào! Nó sẽ nghĩ gì về ông! Con người tình cảm như ông lại gặp điều éo le khó xử. Ông chỉ còn hai con đường dành cho ông nhưng con đường nào cũng quanh co, khúc khuỷu. Ông nhớ những lần ở Quân khu 4, thỉnh thoảng ông vẫn nhớ đến cái vẫy tay của Kiếm Qua và Tiểu Việt trong giấc ngủ.

Tiếng máy tàu hoả xình xịch, đều đều càng làm cho lòng ông thêm nặng trĩu ưu phiền.
______________________________________
1. Năm 1981 bé Hà 33 tuổi là Đại uý kỹ sư điện tử, Bộ Tư lệnh thông tin. Năm 1990 bé Thanh Hà là Trung tá Giám đốc công ty TNHH Hồng Đạt có liên lạc mật thiết với Trung Quốc và một số tỉnh có chi nhánh trong nước và nước ngoài.
2. Tháng 9/1956



Tiêu đề: Re: Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc
Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Mười Hai, 2009, 07:53:04 pm

66

Sau khi tiễn Thiếu tướng Nguyễn Sơn lên đường sang Trung Quốc những cán bộ và nhân dân nhất là văn nghệ sĩ Liên khu tư đã có cảm giác như từ đây họ đã mất đi vĩnh viễn một người thầy, một người anh, một người bạn thân thương. Họ khắc khoải lo âu cho những ngày sắp tới có được như xưa không.

Rồi cơ cấu tổ chức thay đổi, rồi tổng thư ký tòa soạn báo Chiến đấu xin từ chức1 trong khi Đặng Thái Mai lại ốm nặng. Rồi tất cả những cái gọi là khuôn vàng thước ngọc đều được đảo lộn. Nhà thơ Lưu Trọng Lư từ Việt Bắc về như một luồng gió Lào2: đã dời trụ sở hội văn nghệ trở về Hà Tĩnh với chủ trương văn nghệ phải thiết thực như củ khoai và phục vụ những tiểu phẩm có tính cách “mì ăn liền”. Giới văn nghệ sĩ cảm thấy lạc lõng. Rồi những chuyến đi của Phạm Duy, Phạm Đình Chương, Châu Kỳ, Thái Thanh, Thái Hằng,... không biết con đường ấy đã về đâu...

Hai năm sau kiểm điểm lại là không còn những tác phẩm sáng giá để đời cho hậu thế. Thời vàng son của một sự nghiệp “văn nghệ Nguyễn Sơn” đã đi dần vào quên lãng... Lúc ấy người ta mới sực tỉnh để nhớ lại tư tưởng văn nghệ đi trước của tướng Nguyễn Sơn với chiều sâu thấm vào tâm hồn dân chúng xưa kia. Đúng là “đi xem văn nghệ Nguyễn Sơn...”

Ông đi xa nhưng đã để lại những kỷ niệm sâu sắc, những ấn tượng khó quên của một nền văn nghệ đích thực gần gũi với quần chúng.




67

Khi tàu hỏa đến đất Trung Quốc, Nguyễn Sơn được một số tướng lĩnh đón tiếp trọng thể. Ban tổ chức Trung ương đã đưa ông về nơi nghỉ với tất cả tiện nghi đối với sĩ quan cao cấp. Mọi sự đều chu đáo đối với ông vì ông cũng là một trong 72 công thần của nước Trung Quốc.

Trong thời gian đầu ông đã thực hiện mệnh lệnh của Bác Hồ về công tác tại nước ngoài. Nguyễn Sơn luôn đến viếng thăm Chu Tổng tư lệnh hơn nữa vì nhà ông lại ở gần nhà Chu Đức. Sau đó ông lui tới nhà các tướng Trần Canh, Bành Đức Hoài. Và không quên đến nguyên soái Diệp Kiếm Anh là vị tướng rất có cảm tình và rất tin cậy trong mọi công tác trước đây đã giao cho ông.

Công việc vận chuyển xe cộ, các loại vũ khí, khí tài từ Liên Xô về Việt Nam, các lãnh đạo Trung Quốc đã giành mọi sự dễ dàng ưu tiên cho ông. Một điều làm ông rất phấn khởi là ông đã nhận được sự yểm trợ rất nhiều súng đạn vũ khí kể cả các đoàn cố vấn Trung Quốc qua Việt Nam. Đây chứng tỏ tinh thần quốc tế cao độ của nước bạn và cũng là một kỳ công của ông mà sau này chiến thắng Điện Biên Phủ đã được thừa hưởng với một số lượng súng lớn to tát gấp ba hỏa lực địch.


Lúc đầu Nguyễn Sơn làm tổ trưởng tổ Việt Nam trong mặt trận thống nhất trung ương và là chuyên viên cho ban chấp hành đảng cộng sản Trung Quốc về vấn đề Việt Nam vừa là giảng viên lớp đào tạo cán bộ sang giúp Việt Nam.

Tháng 1/1951 ông được chuyển về ban đối ngoại trung ương, phụ trách tuyên giáo ông lại được vào học tại Học viện quân sự cao cấp Nam Kinh. Ông vừa học lại vừa là làm giảng viên về sử đảng Trung Quốc của nhà trường.

Căn cứ vào thành tích cách mạng và trình độ văn hoá của Hồng Thủy3, Ban giám hiệu ủy nhiệm ông lên lớp đặc biệt về truyền thống cách mạng, về cuộc đời chiến đấu của ông tại đơn vị vì biết ông có tài về thuyết trình, nói năng rành mạch và biết một số giọng nói của các tỉnh4. Nhà trường muốn giới thiệu quá trình chiến đấu của ông biểu hiện điển hình của phong cách chiến sĩ Hồng quân Trung Hoa cũng là một gương sáng để toàn quân đội noi theo.

Đối tượng nghe ông nói chuyện không những chỉ là học sinh, cán bộ các cơ quan mà còn có một số cán bộ cấp trung ương tham dự. Ai cũng khen ông nói chuyện lưu loát dẫn chứng rõ ràng, hấp dẫn người nghe.

Theo thói quen, giọng ông vẫn ấm áp và vang vang, cả những lúc không có loa phát thanh, thính giả vẫn nghe rõ từng câu từng chữ. Diễn tả qua một đoạn dài ông lại hỏi những người ngồi cuối lớp: “Các đồng chí nghe rõ không?”

Những người ở cuối lớp đều đáp:

- Rõ ạ!
_______________________________________
1. Nhà thơ Hữu Loan đã từ chối không tiếp tục làm việc vì không muốn bị ép buộc nói đen là trắng. Ông cam chịu về địa phương suốt 10 năm gánh đá để làm kế sinh nhai tại núi Nưa.
2. Ngọn gió Lào nếu từ bên thổi sớm qua miền Trung lúc lúa ngậm hạt thì các bông lúa sẽ lép và sẽ mất mùa.
3. Qua Trung Quốc Nguyễn Sơn là Hồng Thuỷ. Tên này đã dùng suốt 23 năm tại Trung Quốc.
4. Tướng Sơn biết tiếng Pháp, tiếng Liên Xô, tiếng quan thoại và một số tiếng các tỉnh địa phương.



Tiêu đề: Re: Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc
Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Mười Hai, 2009, 07:54:21 pm

68

Những nhà học giả Tây phương thường hay nói “Casier napoléonnien” để chỉ trí thông minh của Napôlêông1. Cũng có thể nói các vấn đề về văn hoá, chính trị, quân sự đều nằm trong “ngăn óc” của ông. Nguyễn Sơn không cần thảo sẵn ra giấy, cũng không cần chuẩn bị, cứ thế ông tuôn ra như sóng biển dâng trào, cứ cuồn cuộn đi tới nhưng vẫn có lớp lang, thứ tự của vấn đề. Quả là một nhà hùng biện đầy kiến thức, phân tích nhanh chóng và ứng phó kịp thời trong mọi câu hỏi hóc búa của học viên.

Một số báo ở Nam Kinh như Dương Tử buổi chiều đã ca tụng Nguyễn Sơn một vị tướng quân Việt Nam oai phong lẫm liệt đã chiến đấu vì sự nghiệp cách mạng Trung Quốc trên 20 năm trải bao gian khổ, quyết chiến kiên cường, luôn xung phong lên hàng đầu đánh quân thù cho đến thắng lợi cuối cùng để cùng xây dựng đất nước Trung Hoa vĩ đại.

Trong lớp học, khi ông thuyết trình, ông có nghệ thuật hấp dẫn người nghe suốt trong 4 tiếng đồng hồ không biết mỏi. Người nghe cũng sung sướng tiếp thu bài học của ông. Họ luôn nhớ những chuyện dí dỏm ông đã trình bày để làm sáng tỏ lý thuyết.

Mãn khóa học, ông tốt nghiệp hạng ưu và được chuyển về làm cục phó Cục Điều Lệnh một cục quan trọng của Bộ Tổng tham mưu. Ông lại được nhận thêm chức Tổng biên tập tạp chí huấn luyện “Chiến đấu”. Ông còn giúp sửa bài viết của các sĩ quan và viết bài thêm cho tạp chí Bát Nhất của Tổng cục chính trị với nội dung: “Tiến tới xây dựng quân đội hùng mạnh đi lên chính quy hiện đại”.




69

Tại Hoài Nam Đường, Trung Nam Hải, Chủ tịch Mao Trạch Đông đã chủ trì lễ tấn phong cho các sĩ quan cao cấp với 20 nguyên soái, 10 đại tướng, 57 thượng tướng, 177 trung tướng và 800 thiếu tướng. Ông là người Việt Nam duy nhất được phong Thiếu tướng với 3 Huân chương đều hạng nhất (Huân chương Bát Nhất, huân chương Giải phóng, Huân chương Độc lập) vì sự cống hiến lớn lao của ông qua các thời kỳ cách mạng Trung Quốc.

Lễ Quốc khánh ngày 1/10/1955 do quân đội tổ chức Nguyễn Sơn được dự đại tiệc chung với các nguyên soái và tướng lĩnh Trung Quốc. Tại lễ đài Thiên An Môn rực rỡ huy hoàng dưới vòm mái nguy nga, cờ xí tung bay phất phới, pháo nổ đì đùng. Nơi đây các vị lãnh tụ cao cấp của đảng đã có mặt. Mao Trạch Đông mặc bộ đồ đại cán uy nghi màu xám. Sau phần nghi lễ diễn ra tuần tự Chủ tịch Mao Trạch Đông đã tiến lại chỗ Hồng Thủy ngồi ở khán đài. Hồng Thủy vội đứng lên chào. Bàn tay to lớn của ông nắm trọn tay Hồng Thủy. Với giọng ấm áp thân mật ông hỏi thăm sức khỏe và công tác:

- Hồng Thủy được xếp cấp gì!

Hồng Thủy trả lời:

- Thưa Chủ tịch cấp sư đoàn.

Mao chủ tịch nói:

- Như vậy không công bằng, Hồng Thủy tham gia quân đội từ thời đầu tiên có trường Hoàng Phố với biết bao gian khổ, lập bao công lao. Có thể lên cấp quân đoàn, các đồng chí xem lại có được không?

Tổng Cục chính trị đứng sau lưng thấy Mao Chủ tịch nhận xét đúng nên đã về chỉnh lại quyết định. Hồng Thủy được phong tướng cấp quân đoàn. Trong bản nhận xét để phong quân hàm Thiếu tướng cho Hồng Thủy có viết:

“Sau đại cách mạng thất bại, Hồng Thủy gia nhập đảng trong thời kỳ khủng bố trắng, đối với đảng, với nhân dân, trung thành, trong sáng, ý chí cách mạng kiên định. Trong những hoàn cảnh tàn khốc nhất, khó khăn nhất như bạo động Quảng Châu, và trải qua cuộc vạn lý trường chinh trước, sau vẫn hăng hái tích cực chiến đấu, luôn luôn đứng vững trên lập trường, đường lối chính sách của Đảng để công tác. Trong khi ở Phương diện quân 4 đã luôn kiên định đường lối của trung ương. Trong chiến tranh kháng Nhật ở Tấn Đông Bắc đã có khả năng độc lập tổ chức quần chúng thành lập đảng, chính quyền và lực lượng vũ trang. Khi trở về Việt Nam đã lãnh đạo đúng đắn cuộc kháng chiến chống Pháp ở các chiến khu 5, 6, 4 củng cố căn cứ địa ở các chiến khu đứng vững suốt hơn 7 năm đấu tranh, cuối cùng giành thắng lợi. Trong đấu tranh chống địch và đấu tranh xử lý nội bộ luôn kiên trì và giữ vững nguyên tắc. Đối với sự phân công của đảng giao cho đều phục tùng và chấp hành nghiêm chỉnh chưa bao giờ có hành động chống quyết định của Đảng, không phục tùng tổ chức. Trong các cuộc đấu tranh trong nội bộ đảng (chỉnh phong thẩm cán, tam phản, chỉnh đảng vv...) đều tích cực tham gia, dũng cảm bộc lộ những sai lầm của mình của người khác và luôn luôn tích cực học tập”.

Đó là lời bình xét công bằng và chính xác nhất của Hội đồng các tướng lĩnh Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc khi xét phong quân hàm Thiếu tướng cho Hồng Thuỷ.


Tại Bắc Kinh một số bài báo đã ca ngợi vị tướng tài ba lỗi lạc, đã chiến đấu dũng cảm cho nước Trung Hoa. Bài báo viết:

Trong lịch sử nước cộng hòa nhân dân Trung Quốc và quân giải phóng nhân dân Trung Quốc, đây là lần đầu tiên đảng và chính quyền đã phong hàm và tặng huân chương cao quý cho người nước ngoài để tỏ lòng biết ơn và kính trọng sự cống hiến vô tư của những chiến sĩ Quốc tế đã góp phần xây dựng một nước Trung Hoa hùng mạnh. Nhân dân Trung Quốc đời đời ghi nhớ công ơn của một vị tướng Việt Nam cũng là tướng của Trung Quốc.

Danh từ Lưỡng quốc tướng quân bắt đầu có từ đây.
__________________________________________
1. Vua Nã Phá Luân đánh giỏi. Ông lại rất thông minh - ông có thể đọc 3 nội dung thơ cho 3 thư ký đánh cùng 1 lần.


Tiêu đề: Re: Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc
Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Mười Hai, 2009, 07:54:51 pm

70

Hàn Thủ Văn người thư ký cũ của Nguyễn Sơn đã đến chúc mừng ông. Ông nhờ Hàn liên lạc với Kiếm Qua. Ông muốn gặp hai mẹ con cô. Hôm sau Hàn Thủ Văn về nói, Kiếm Qua không muốn gặp ông. Nguyễn Sơn rất buồn bã. Không thể nào đừng được ông đi thẳng lại trường mầm non gặp Diêu Thục Bình, Phó giám đốc trường. Cô Bình đã trình bày tất cả những gian truân khổ cực mà Kiếm Qua đã gánh chịu sau khi ông về Việt Nam.

Tưởng Giới Thạch đã tập trung đại quân tấn công biên khu Tấn Ký Sát. Theo lệnh trên các cơ quan và nhà trẻ phải dời về căn cứ địa Diên An. Trên chặng đường dài 1500 cây số. Các giảng viên đi bộ, các cháu được ở trong cũi gỗ đặt trên lưng lừa. Lúc đầu đi ban ngày nhưng máy bay địch bắn phá nên phải nghỉ ban ngày để chờ đêm tối mới hành quân.

Hồng Thủy đã từng trải qua những cái khổ ấy, ông vội dơ tay ngăn và nói: Tôi biết, tôi biết! Tội nghiệp Kiếm Qua và hai con tôi. Tôi đến đây nhờ chị Bình giải thích cho Kiếm Qua biết, khi khu ủy khu 4 nghe tin vợ con tôi bị máy bay bắn chết nên đã tìm người khác an ủi tôi vì thấy tôi luôn buồn rầu. Mong chị hiểu không phải tôi quên tình cũ mà đi kết hôn với người khác. Bây giờ tôi đã kết hôn với người do khu ủy chủ trương hôn lễ. Nay cô ấy đã có 2 con với tôi, nhưng tôi sẵn sàng ly dị vợ để về với Kiếm Qua. Cô Bình rất cảm động trước sự cương quyết của con người chung thủy này. Cô hứa sẽ thuyết phục viện trưởng Kiếm Qua nên xem xét lại và nối lại tình xưa nghĩa cũ.

Một tuần sau cô Bình liên lạc với Hồng Thủy và cho ông biết Kiếm Qua đã bằng lòng để ông gặp vợ con. Nguyễn Sơn vội lái xe đến viện. Khi bước vào cửa ông chào, cô vẫn ngồi lặng thinh. Hai đứa con đứng gần bên mẹ nó. Cô đẩy con lại phía Hồng Thủy. Lúc đầu chúng còn e dè chưa quen.

Cô bảo:

Bố con đấy! Bố đi công tác xa mới về. Lần lần chúng quen và lại ôm chân ông líu lo nói, cười.

Vài bữa sau, Nguyễn Sơn mặc đồ chính quy dẫn hai con đi chụp ảnh. Sau đó ông mời Kiếm Qua và hai con đến Trung Nam Hải ăn cơm. Kiếm Qua đồng ý. Bữa cơm hôm ấy rất vui vẻ vì các con ông được nô đùa với bố mà chúng đã ao ước gặp từ lâu. Cảnh đầm ấm này đã làm cô vui lây.

Sau khi ăn cơm xong, Hồng Thủy nói với Kiếm Qua:

- Đưa con về, em nhớ quay lại với anh nhé!

Kiếm Qua không nói gì nhưng tối hôm ấy cô không quay trở lại với ông vì cô biết cô sẽ yếu đuối trước tình cảm sâu đậm của ông, có thể cô sẽ không làm chủ được lòng mình.


Ở dưới quê Đông Dã, bố Kiếm Qua hay tin con rể đã từ Việt Nam sang. Ông đã lên gặp Kiếm Qua và cũng là dịp quan sát tình cảm giữa con gái và rể có tốt đẹp không. Kiếm Qua không muốn cho bố buồn vì sự rạn nút giữa hai người. Cô tổ chức một bữa cơm mời Hồng Thủy lại cùng ăn với bố và các con. Bữa cơm gia đình cố gắng diễn ra vui vẻ. Hôm sau Viện có tổ chức đưa các cháu mẫu giáo đi chơi lên Bắc Đới Hà 2 ngày. Cô mời bố và ông cùng đi để thưởng thức phong cảnh biển cả. Mục đích Kiếm Qua muốn che giấu không cho bố cô biết sự chia tay của cô và Nguyễn Sơn. Những ngày này cô phải tranh đấu nội tâm để các con nô đùa cùng bố và ông ngoại được vui vẻ.

Suốt 2 ngày, gia đình đều vui chơi và ăn tôm, ăn cá biển thoả thích. Nhìn ông và bố cùng tắm biển, hoặc đánh cờ trên bãi cát, các con cô tung tăng đuổi theo những đợt sóng, cô quay mặt đi chỗ khác. Hai dòng lệ bỗng tuôn trào, tình yêu của ta có thể mất được chăng? Phải thế nào đây? Cô đau đớn nghĩ đến quyết định dứt tình của mình. Quả sự dứt tình là sự mất mát to lớn.

Sau những ngày vui vẻ ấy, bố cô đã về quê. Cô cương quyết không cho Hồng Thủy gặp mặt hai mẹ con cô nữa!


Tiêu đề: Re: Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc
Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Mười Hai, 2009, 07:55:35 pm

71

Sự dứt khoát của Kiếm Qua càng làm cô thêm đau khổ. Đêm đêm cô trằn trọc, thao thức, lăn lộn. Cô biết cô đã bỏ người chồng tuyệt diệu đã chung sống với cô, đầu ấp tay gối trong sáu năm trời. “Tôi không thể trách anh Sơn bất cứ điểm nào. Có được người chồng như anh Sơn quả là vô vàn hạnh phúc: Một người chồng trí thức, tràn đầy sức sống và nghị lực. Cô nghĩ trên đời này làm gì có người thứ hai để cô ngâm nga những câu của thi hào Vương Bột”.

Có đêm cô vùng dậy đi bộ đến Trung Nam Hải. Cô muốn nhận lắng mối tình mình trong lòng nước sâu. Cô nhìn vào ngôi nhà ông đang ở. Cô lầm bầm: Hồng Thủy ơi! Còn gì khổ hơn thế này! Nếu em nghe lời anh nối lại duyên xưa thì cô Huân sẽ như thế nào? Huân cũng sẽ khổ không hơn gì em. Khi em tỏ thái độ dứt khoát với anh lại là lúc em quặn đau vô kể.

Trên trời Trung Nam Hải, vài vì sao lác đác mờ mờ. Làn gió hiu hiu đưa cô vào giấc ngủ. Kiếm Qua thấy mặt Nguyễn Sơn bơ phờ đang ngồi trước bàn, ông lặng lẽ nhả từng làn khói thuốc. Mắt ông long lanh hàng lệ. Cô cảm động nắm tay ông sờ đầu ông. Cô bỗng giật mình vì tiếng lá cuối thu xào xạc. “Có lẽ đã khuya lắm”. Cô uể oải trở về nhà trong im ắng của màn đêm.

Tới nhà, cô nằm xoài trên giường bật lên một tiếng nấc...

- Hồng Thủy ơi! Có biết em đang đau khổ vì anh đến mức nào không! Em biết em đã xa rời một người chồng rất quý giá. Trên cõi đời này chẳng có ai bằng anh cả. Thật là đau xót cho em khi em phải xa anh một cách bất đắc dĩ…

Hồng Thủy cũng biết Kiếm Qua quyết hy sinh để ông có hạnh phúc bên người vợ trẻ nhưng cô đâu có biết mối tình ông đối với cô cũng sâu nặng cỡ nào. Từ đấy ông không thăm con và cũng từ đấy ông bị day dứt, buồn rầu vô hạn. Nguyễn Sơn cứ ngồi hút thuốc liên miên. Cơn phiền não đang làm thương tổn tinh thần ông.


Tại Hội Liên hiệp Phụ nữ Trung Quốc, bà Huân đã tranh thủ học tiếng và chữ Trung. Khi bà được chuyển qua ban đối ngoại, bà đã dịch được những sách do ông Sơn viết bằng chữ Trung Quốc.

Tại cơ quan, bà chăm chỉ làm việc, khi về nhà bà tập trung hết thì giờ để chăm sóc ông từ miếng ăn, nước uống. Các con bà giao hết cho cô vú em trông nom đôn đốc học hành và việc ăn ngủ đúng giờ.

Thấy Nguyễn Sơn hay buồn, bà hỏi Hàn Thủ Văn vì bà có linh tính ông Sơn đã gặp Kiếm Qua rồi. Văn nói thật với bà “Bà Qua đã dứt tình chia tay với ông Sơn, vì bà không muốn cả hai người cùng khổ”. Bà Huân thầm phục sự hy sinh của bà Qua. Có lẽ vì thế mà Nguyễn Sơn càng ngày càng rầu rĩ. Bà Huân quyết đền đáp sự hy sinh của Kiếm Qua, bà luôn túc trực bên cạnh ông để nấu những món ăn ngon. Bà cố gắng chăm sóc ông và tán chuyện vui kể cho ông nghe để ông được khuây khỏa.




72

Trước sự lo lắng chu đáo của bà, Nguyễn Sơn rất xúc động. Trong lòng ông nảy ra sự so sánh giữa các bà vợ. Chỉ có Hoằng Huân là người có thời gian dài luôn gần gũi ông trong tình cảm mặn nồng và trân trọng của vợ chồng. Bà là một bà vợ thuỳ mị, thương chồng, luôn chiều theo những thói quen của chồng từ ăn uống đến chơi đùa và làm việc tại nhà. Bà để ý cả trang phục của ông luôn nghiêm chỉnh khi ra đường. Giờ đây ông cũng tự hào có được một người vợ trẻ đẹp, duyên dáng, đảm đang nội trợ, tư cách đĩnh đạc. Ông xem như bà có tầm cỡ của một mẫu nghi thiên hạ.

Xưa kia những cơn đau về thể xác ông cố chịu đựng được nhưng giờ đây cơn đau về tinh thần đã làm ông nhức nhối. Nguyễn Sơn cảm thấy sức khỏe của ông dần kém đi. Nhiều khi ông nghĩ đến Hàn Phong, Tiểu Việt ông lại càng thương tâm và ông nghĩ sau này chúng sẽ nhìn ông bằng con mắt như thế nào.

Thường thường đến chủ nhật, theo thói quen các con ông lại chờ ông để được ông dẫn đi chơi nhưng qua vài kỳ không thấy ông quay lại, chúng hỏi mẹ.

- Sao không thấy bố lại chở chúng con đi Trung Nam Hải chơi.

Cô ưng rưng lệ. Cô cắn răng trả lời cho xong chuyện:

- Con ngoan của mẹ! Bố con phải đi kháng Mỹ viện Triều ở phương bắc xa lắm. Khi nào bố con đuổi Mỹ xong thì bố con lại về với các con.

Các con đã tin lời cô. Khi Hàn Thủ Văn lại, cô dặn Hàn nói cho Hồng Thủy đừng đến nữa, sợ các con biết hai người đã chia tay làm ảnh hưởng đến tinh thần của các con vì cô nói bố chúng đi Triều Tiên chiến đấu.


Tiêu đề: Re: Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc
Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Mười Hai, 2009, 07:56:20 pm

73

Quả thật, khi Nguyên soái Diệp Kiếm Anh lên đường đi Triều Tiên ông đã giao cho Hồng Thuỷ phụ trách Tham mưu, thu thập tình hình và đề ra kế hoạch chiến đấu vì Nguyên Soái biết Hồng Thủy thừa sức trong nhiệm vụ tham mưu này. Qua cuộc tập trận chống quân Mỹ đổ bộ ở Liêu Đông đã chứng tỏ năng lực bố trí, điều động, phối hợp các binh chủng do Hồng Thủy phụ trách đã tiến hành hoàn hảo. Nguyên soái Diệp Kiếm Anh rất hài lòng và xem tướng Hồng Thủy như cánh tay mặt của mình.

Ở thời điểm ấy đã có tin về Việt Nam, Tham mưu trưởng quân đội Trung Triều Nguyễn Sơn đã đánh một trận lớn xua quân Mỹ chạy dạt hết xuống biển đông.


Qua đợt ấy, Hồng Thủy ốm và trở về Trung Quốc. Ông lại ở Trung Nam Hải. Cũng vì không được gặp Kiếm Qua và 2 con, nên bắt đầu từ đấy tinh thần ông suy sụp. Cuối cùng ông lâm bệnh.

Hàn Thủ Văn, giờ đây thành mối dây liên lạc tình cảm giữa Kiếm Qua và Hồng Thủy. Hàn cảm thấy đau xót cho cả 2 người.

Nghe tin Hồng Thủy ốm, Nguyên soái Diệp Kiếm Anh đã lại thăm. Ông thấy thân hình tiều tụy của Hồng Thủy, ông lại nghe Hồng Thủy ho liên tiếp. Ông ra lệnh phái một bác sĩ luôn túc trực chăm sóc cho Hồng Thủy. Vài ngày sau, bác sĩ quyết định phải đưa Hồng Thủy vào nằm bệnh viện 309 của quân giải phóng Trung Hoa.

Khi biết Hồng Thủy có khối u ở ngực, bệnh viện huy động các giáo sư giỏi như: Trương Đại Vi và giáo sư Ngô Anh Khải trực tiếp giải phẫu cho Hồng Thủy. Khi mổ ra các bác sĩ thấy một khối u to bằng quả trứng sần sùi ở gần tim. Bác sĩ vội cho Nguyên soái Diệp hay khối u không có cách nào cắt được. Họ đã khâu ngực lại và đề nghị đưa Hồng Thủy sang Liên Xô chữa.

Tuy bác sĩ không nói rõ bệnh tình nhưng khi nghe tin Hồng Thủy được đưa sang Liên Xô điều trị bằng phóng xạ cô ban, Hồng Thủy suy nghĩ chữa trị bằng phóng xạ cô ban chỉ thu nhỏ lại chứ không thể hết, Hồng Thủy đề nghị không nên phí tiền Nhà nước, hơn nữa giữa Liên Xô và Trung Quốc đã có sự rạn nứt về chính trị, ông khước từ không đi.


Ông cảm thấy suy yếu nhiều. Hồng Thủy đề nghị xin về nước để chữa trị. Nguyên soái Diệp đã báo cáo lên Mao Chủ Tịch. Vấn đề cho ông về nước được trung ương đảng bàn đi bàn lại. Các cán bộ cao cấp rất đắn đo và nghiên cứu kỹ khi cho Hồng Thủy về nước. Chính phủ Việt Nam sẽ nghĩ gì? Thật khó xử nhưng cuối cùng đứng trước căn bệnh nan y của Hồng Thủy, các bác sĩ đều bó tay, Mao Chủ Tịch buộc phải liên lạc với Bác Hồ. Ông báo cho Bác biết tình trạng khó trị của Hồng Thủy tại Trung Quốc nhưng Hồng Thủy không chịu qua dưỡng bệnh tại Liên Xô... Bác Hồ đã vui lòng đón nhận Hồng Thủy về nước để chữa bệnh. Chu thủ tướng đã cấp cho ông 35 vạn nhân dân tệ để ông về trị bệnh. Đây là số tiền quá to lớn Hồng Thủy không nhận nhưng Chu Thủ tướng bắt buộc ông phải nhận. Sau này ông đã giao gần hết số tiền cho Nhà nước Việt Nam. Ông chỉ giữ 2 vạn để chi trong thời gian nằm viện, điều này chứng tỏ ông hiến thân cho cách mạng Trung Hoa vô tư, không vụ lợi.

Kiếm Qua hay tin Hồng Thủy lâm bệnh nặng, cô sợ đến thăm ông thì ông xúc động có thể nặng hơn.

Cô đã nhờ Diêu Thục Bình đem đến cho ông một bó hoa hồng với ước mong nhìn hoa ông sẽ vợi bớt đau buồn và cuộc đời sẽ trở lên tươi thắm. Thục Bình đã đặt bó hoa vào lọ để trên bàn gần giường ông nằm. Bên lọ hoa có tờ báo Bát Nhất. Hồng Thủy ngồi dậy, ông ôm ngực ho liên tiếp. Ông liếc nhìn những đoá hồng xinh đẹp không ngờ Kiếm Qua vẫn còn nhớ đến ông. Hồng Thủy cầm bông hồng đưa lên môi... Ông vẫn biết bề ngoài cô có vẻ cứng rắn nhưng bên trong lại giành cho ông những tình cảm nồng cháy thuở ban đầu hiện vẫn đang âm ỉ trong lòng cô. Khi Hồng Thủy đề nghị cô kết hôn nữa, cô giận dữ “bộ anh muốn con anh có người cha ghẻ sao”. Lời nói ấy đã làm Hồng Thủy đau lòng và cũng khẳng định mối tình giữa ông và cô là duy nhất, là không còn bóng người thứ hai trong lòng cô.


Tiêu đề: Re: Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc
Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Mười Hai, 2009, 07:57:19 pm

74

Việc chuẩn bị đưa Hồng Thủy lên đường được Mao chủ tịch đích thân sắp xếp. Ông truyền cho sĩ quan cận vệ dành đặc biệt một toa tàu của cấp lãnh đạo và giao một bác sĩ lo đủ thuốc men đi theo ông suốt hành trình về Việt Nam.

Theo lời Hồng Thủy dặn, Hàn Thủ Văn đã gom tất cả sách vở, tài liệu cho vào 4 hòm sắt để đưa về Việt Nam. Quần áo của ông, của vợ ông để lại cho các đồng chí cùng cơ quan sử dụng. Ông chỉ đem theo một bộ quân phục. Hồng Thủy gửi cho cô Bình chuyển cho Kiếm Qua những ảnh ông đã chụp hai người và ảnh các con cùng những ảnh ông đã chụp tại miền Nam, tại Liên khu 4 và tại Hà Nội để Kiếm Qua lưu niệm.

Chiều hôm ấy, Hồng Thủy lại thăm nhà Chu Tổng tư lệnh. Trước đây Chu Đức hay lại nhà ông chơi vì hai nhà gần nhau. Chu Đức ôm ông và nói: Hồng Thủy cố gắng chữa bệnh mau lành. Nhân dân Trung Quốc đang chờ cậu đấy. Mối tình của Chu với Hồng Thủy sâu xa từ lâu ông không thể không đến thăm được.

Nguyễn Sơn nhớ lại khi ông phụ trách tờ báo Kháng Địch ông có đến thăm Chu tổng tư lệnh. Chu Đức ngồi uống nước trà và dặn dò ông cặn kẽ:

- Tờ “Kháng Địch” là cơ quan ngôn luận tối cao của đảng Cộng Sản và quân đội. Hồng Thủy phải thận trọng cân nhắc và đưa những vấn đề có tính cách chỉ đạo của Đảng và Quân đội về mọi mặt làm sao cho dân chúng càng hiểu sự sáng suốt đứng đắn trong việc lãnh đạo của đảng. Chu Đức lại còn đem giấy bút ra mài mực và viết chữ Kháng Địch tên của tờ báo với nét bút khoẻ, đẹp.

Những kỷ niệm thân thương giữa Chu tổng tư lệnh và ông đã làm ông nhớ mãi. Cũng nhờ Chu Đức mà nhiệm vụ to lớn nặng nề do Bác Hồ giao phó cho ông trong việc viện trợ chiến trường Việt Nam ông đã hoàn thành xuất sắc. Người Việt Nam cũng thầm hiểu nếu pháo binh của ta do Trung Quốc viện trợ phải nhiều gấp ba lần của địch thì mới đem lại chiến thắng Điện Biên Phủ tương đối dễ dàng.

Sáng ngày 27/9/1956 trời còn mờ sương, Hồng Thủy trong bộ quân phục bằng nỉ xanh đậm, ngực đầy huy chương. Ông đã đến sân ga Tiền Môn. Trong lòng ông không muốn đeo huân chương nhưng nghĩ lại những huân chương này thể hiện sự công bình trong sáng của cấp lãnh đạo dành cho ông, nên ông phải đeo xem như đây là một cử chỉ lịch sự. Tại đây ông đã thấy một số sĩ quan sắp hàng ngang nhìn vào toa xe. Xe Nguyên soái Diệp Kiếm Anh chở Bành Đức Hoài, Chu Đức, Hoàng Khắc Thành cũng vừa tới.

Diệp Kiếm Anh lại trước mặt Hồng Thủy ông giơ tay chào. Hồng Thủy vội đứng nghiêm đỡ huân chương theo nghi thức quân đội. Nguyên soái Diệp ôm Hồng Thủy khuyên cố gắng về dưỡng bệnh. Tướng Bành Đức Hoài vẫy Hàn Thủ Văn lại và nói:

- Đảng và quân đội Trung Quốc giao đồng chí đưa tướng quân Hồng Thủy về Việt Nam. Đồng chí nhớ chăm sóc tốt Hồng Thủy trên đường đi cho đến Hà Nội. Khi gặp Bác Hồ nhớ nói với Bác: Hồng Thủy có cống hiến lớn với cách mạng Trung Quốc do chiến đấu quá vất vả nên sinh bệnh - Toàn đảng và toàn dân Trung Quốc luôn ghi nhớ công của Nguyễn Sơn.

Tiếp theo đó các tướng lĩnh và bạn bè lại bắt tay từ giã - Có đồng chí vừa ôm hôn từ giã, vừa khóc.

Một hồi còi tầu rú lên như xé ruột gan ông. Hàn Thủ Văn dìu ông bước từng bậc lên xe lửa. Hồng Thủy đứng bên cửa xe nhìn các vị lãnh đạo và bạn bè với dáng vẻ vẫn còn uy nghi. Ông giơ tay hô to: “Từ biệt các đồng chí! Tình hữu nghị Việt Nam - Trung Quốc muôn năm” - Tất cả dưới sân vẫy tay hô theo.

Hồng Thủy cố tìm bóng dáng con ông Tiểu Việt và Hàn Phong, chúng đang đứng ở đâu nhưng ông tìm thấy mặt chúng trên sân ga. Xe lửa vẫn từ từ lướt tới Hồng Thủy vẫn cố ngoái cổ nhìn lại...

Bà Huân thấy ông có vẻ mệt, bà ôm ngang lưng ông và dìu vào giường để ông nằm nghỉ. Khi tàu kéo còi báo hiệu đến một ga nào, ông lại nhổm dậy để tiếp các đồng chí cao cấp ở địa phương lên viếng thăm. Có người đem cam, đem sữa và đem nước ngọt hoặc rượu bổ. Từ Thiên Môn đi Quế Lâm, Liễu Châu tới Nam Ninh. Hồng Thủy hân hoan ra mặt khi tiếp đón các phái đoàn. Thức ăn đồ uống của các địa phương đem lên tặng ông mỗi đoàn một ít cũng đã chứa đầy bàn.

Hồng Thủy choàng tay ngang vai Hoằng Huân kéo bà sát vào người, ông nói:

- Suốt mấy chục năm anh chưa từng được hưởng những phút giây hạnh phúc đầy ắp tình đồng chí như hôm nay.

Hồng Thủy nhìn các con ông ở riêng cuối toa đang quỳ bên song cửa nhìn ra ngoài để xem phong cảnh. Bà cố ý sắp xếp cho chúng xa bố để ông được nghỉ ngơi yên tĩnh.


Tiêu đề: Re: Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc
Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Mười Hai, 2009, 08:00:23 pm

75

Đến một ga nào, ông cũng nghe cán bộ và dân chúng hô to: Hoan hô Thiếu tướng Hồng Thủy! Tình đoàn kết giữa Trung - Việt muôn năm!

Cuộc đón tiếp tại các ga đều do trung ương đảng bạn tổ chức trước 2 ngày nhưng rất long trọng và hoàn hảo.


Không mấy chốc đã tới ga Bằng Tường, dưới sân ga phái đoàn Việt Nam đã sắp hàng ngang đón đoàn. Thay mặt Chính phủ Việt Nam đồng chí Hoàng Minh Thi đặc phái viên Bộ tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam, Trưởng phòng Ngoại vụ Bộ Quốc phòng cùng một số sĩ quan đã đến đón ông. Đồng chí Thi hô “nghiêm” và giơ tay chào ông theo nghi thức quân đội. Ông cũng giơ tay chào và bắt tay từng người. Đồng chí Thi mời ông và gia đình vào nghỉ tạm nhà khách để còn chuyển đồ đạc qua ô tô chuẩn bị tiếp tục cuộc hành trình. Gặp lại Hoàng Minh Thi, Nguyễn Sơn rất mừng vì trước kia ông đã công tác chung với Hoàng Minh Thi. Vẫy Phương lại gần ông nói:

- Chốc nữa lên đường khi gần đến ranh giới giữa hai nước Trung - Việt, Thi cho dừng xe lại để mình chiêm ngưỡng lần cuối hình ảnh đất nước Trung Quốc trong 15 phút. Nhớ nhé!

- Dạ, em nghe rõ!

Thi bố trí xe đầu dành cho tiểu đội cảnh vệ, xe thứ hai Thi và Hàn Thủ Văn ngồi trước, ghế sau là bà Huân và Hồng Thủy, xe thứ 3 là các con, xe thứ tư chở đồ đạc và tài liệu. Trước khi khởi hành, trưởng xếp ga Bằng Tường đã huy động các nhân viên xếp hàng tiễn đưa. Họ đồng thanh hô chúc mừng Thiếu tướng Hồng Thủy thượng lộ bình an. Tình hữu nghị Trung Quốc - Việt Nam muôn năm. Hồng Thủy hân hoan giơ nắm tay chào lại.


Xe được lệnh dừng lại sau khi qua Hữu Nghị Quan. Đội cảnh vệ nhảy xuống canh gác xung quanh. Hoàng Minh Thi nói:

- Các đồng chí nghỉ 15 phút.

Hàn Thủ Văn dìu ông xuống xe và lại ngồi trên một hòn đá gần đấy.

Hoàng Minh Thi muốn dành cho Hồng Thủy một chút yên tĩnh thoải mái nên dẫn bà Huân và các cháu lại con suối nhỏ cách đó 30m. Chỉ còn Hàn Thủ Văn ngồi gần ông - Lúc này Hồng Thủy không còn hút thuốc được ông nhìn xung quanh. Những ngọn núi xanh mờ trước mắt ông. Xa xa dưới thung lũng có một mái nhà như ẩn như hiện trong sương chiều. Chính nơi đây theo lệnh Bác Hồ, đồng chí Nguyễn Công Thụ đã đưa ông và Hồng Tú theo đường rừng vượt núi đến Quảng Châu. Tại đường Văn Minh ông được học khoá II lớp huấn luyện Chính trị đồng thời ông bắt đầu học chữ và tiếng Trung Quốc. Thấy Hồng Thủy thông minh nhanh nhẹn Bác Hồ đã giao ông làm liên lạc với các giáo sư như Chu Ân Lai, Lưu Thiếu Kỳ, Bành Bái, Lý Phú Xuân. Bác Hồ đã đặt tên ông là Lý Anh Tự và đã dạy ông về khoa học xã hội, lịch sử, dạy công tác vận động quần chúng vũ trang. Từ đó ông được nhập vào tổ chức Thanh niên Cách mạng đồng chí hội.

Ông lại nhớ đến chị Thái Xương, một phụ nữ nhanh nhẹn có đôi mắt đen láy, vóc người thanh mảnh, chị rất mến ông và coi ông như em. Nhân danh hội liên hiệp phụ nữ trung ương chị giới thiệu Hồng Thủy vào học trường quân sự Hoàng Phố! Chị bây giờ ở đâu? Lúc ra đi ông đã không gặp chị.

Mây trắng vẫn im lìm bao quanh đỉnh núi trước mặt. Ông còn nhớ những câu chị đã nói: “Nhà cách mạng Tôn Trung Sơn lãnh đạo Quốc dân Đảng Trung Quốc chủ trương liên Nga, liên Cộng giúp Công nông làm cách mạng”. Lúc đầu do chủ trương của đảng cộng sản đã đưa ông và một số học viên tham gia trong hàng ngũ Quốc dân Đảng, nhưng sau đó chúng âm mưu tiêu diệt phe cộng sản. Chúng thẳng tay tàn sát cán bộ Cộng sản và nhân sĩ trí thức, Nguyễn Sơn căm ghét hành động khủng bố tàn bạo của chúng. Ông ra khỏi hàng ngũ Quốc dân Đảng.

Chợt ông nhớ đến căn nhà lá lụp xụp nằm dựa vách núi, dưới tàn cây lớn tại ngoại ô Quảng Châu. Bên ngọn nến leo lét, đồng chí Trần Nhất Dân giới thiệu Hồng Thủy vào đảng, ông đã dõng dạc thề trước lá cờ búa liềm:

- Xin sống vì đảng, chết vì đảng!

Trong cuộc khởi nghĩa vũ trang tại Quảng Châu do Diệp Kiếm Anh, Nhiếp Vĩnh Trân lãnh đạo, ông cùng các học sinh chiến đấu dũng cảm diệt giặc Tưởng. Vụ Quảng Châu thất bại. Ông bị lộ, chúng truy lùng ông. Bác Hồ phải cho người đưa ông qua Thái Lan, tránh địch khủng bố.


Qua những đêm trăng mờ, trên dòng sông Mê Kông con thuyền độc mộc chở ông vẫn băng băng, khi lên thác, lúc xuống ghềnh đã đưa ông đến Ouđon một tỉnh xa lạ, đầy nóc chùa chiền vàng chói. Ông đã bắt liên lạc và ở chung với ông Hoàng Văn Hoan, ông Sô, chi nhánh hội Việt kiều yêu nước cơ sở của Đảng cộng sản Việt Nam tại đất Thái.

Hồng Thủy lại nhớ những cô gái Thái gọn ghẽ trong chiếc “Chầm pu” 1 thân hình nở nang, đang đội thúng hoa quả, thúng gạo lên chùa. Ông bắt đầu học tiếng Thái và chữ Thái, ông e rằng sẽ phải hoạt động chung với các đồng chí Sô và Hoàng Văn Hoan2 tại đất nước này.

Nhưng rồi một tháng sau Hồng Thủy lại nhận được lệnh trở lên Quảng Châu, Bác Hồ phân công ông về Hồng Kông hoạt động trong Công Hội thủy thủ Hồng Kông. Được vài tháng sau Hồng quân rút ông về tăng cường cho Quân đoàn 4 hoạt động tại tỉnh Quảng Đông. Ông làm Chính trị viên đại đội, Trung đoàn 46. Ông đã chỉ huy những trận đánh ác liệt tại Nga Phú, Xích Thành, Hoàng Sa. Đó là do lòng căm thù bọn giặc Tưởng tàn ác, nên ông quyết tử với chúng.

Sau này khi kiểm điểm về thành phần giai cấp ông đã nhận là do căm thù bọn Tàu Tưởng nên ông vào Đảng. Hình ảnh những năm cũ lần lần hiện ra như một cuốn phim đang chiếu chậm. Nắng chiều vàng nhạt trên vòm cây cao, đàn chim ríu rít bay về tổ.
______________________________________
1. Chầm Pu: váy phụ nữ Thái vắt vào giữa háng dắt sau lưng.
2. Trích cuốn sử “Hoạt động tình nguyện quân Việt Nam, Campuchia” (1945 - 1954) do Đại tá Trần Gia Đằng (4 Cam) chủ biên.



Tiêu đề: Re: Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc
Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Mười Hai, 2009, 08:23:27 pm

76

Hồng Thủy đã chiến đấu anh dũng trong hàng ngũ Hồng quân Trung Hoa được 23 năm. Trận đánh đáng nhớ nhất là trận tấn công Đại Phố Hổ, huyện Mai Lâm và Láng Cương huyện Vĩnh Phong tỉnh Giang Tây. Hồng quân gồm các quân đoàn 2, 4, 12 đã chiến thắng lữ đoàn 51, 52, và sư đoàn 18 của bọn Quốc dân Đảng. Suốt hơn 14 ngày chiến đấu ác liệt ta đã đẩy lui địch nhiều đợt. Chiến thương hai bên nằm xếp từng đống hai bên đường thị trấn. Dân chúng chạy toán loạn. Khi ta tiếp thu thị trấn thì chỉ gặp những nhà hoang tàn, xơ xác, lính địch chết đầy đường.

Trận Mai Lâm, Hồng Thủy đã bị thương ở cánh tay trái. Không có y tá ông phải xé khăn choàng để tự băng bó. Trong những đợt tấn công như vũ bão, tiếng ông la hét khắp nơi động viên các đồng chí. Hình ảnh oai hùng của ông đã làm cho Nguyên soái Nhiếp Vĩnh Trân thích thú và tự hào có một thuộc tướng dũng cảm. Cũng vì vết thương tay giữa mùa đông làm tê buốt ông đã lấy tên con cô Nội là Mai Lâm để kỷ niệm chiến công oanh liệt của ông tiêu diệt lữ đoàn 51 và sư đoàn 18 của địch vào ngày 30/10/1930.

Trận cuối cùng khi địch đem 50 vạn quân bao vây khu Xô Viết chúng chiếm Quảng Xương, Hưng Quốc, Ninh Đô, Thạch Thành. Khu Xô Viết bị thu hẹp, tình thế bắt buộc phải di chuyển từ tháng 7 năm 1934. Đây là cuộc rút lui chiến lược về phương Bắc.

Ông quay lại nói với Hàn: Chú cũng biết tôi, từ cán bộ đại đội lên đến cán bộ sư đoàn phải trải qua biết bao nhiêu chiến trận. Trận cuối cùng chúng đánh Trung đoàn tôi tan nát hết chỉ còn mình tôi lần dò về căn cứ. Tôi thu nhặt thi thể các chiến sĩ hy sinh đem về chôn cất. Tôi đã rơi nước mắt vì thương xót đồng đội đã hy sinh nhiều quá.

Khi qua Trung Quốc lần thứ 3, công việc chính của tôi là dạy các môn lịch sử, quân sự, chính trị... Nổi bật nhất là khi tôi làm trưởng đoàn kịch Công Nông trong gần hai năm. Tôi vừa biên soạn kịch vừa đóng kịch, vở kịch “Ngọn lửa Thượng Hải” đi đến địa phương nào cũng được hoan nghênh nhiệt liệt. Tôi đã đóng vai chính trong vở đó và vô hình tôi thành kịch sĩ chuyên nghiệp.


Lần đầu tiên Mao Trạch Đông và các tướng đã đến rạp xem một số vở kịch. Hồng Thủy rất vừa lòng vì các vở đều có một nội dung có hướng vươn lên. Khi diễn xong vở “Ngọn lửa Thượng Hải”, Mao Chủ tịch đã lên sân khấu bắt tay Hồng Thủy và nói với các khán giả. Các kịch sĩ trong đoàn còn nhớ mãi:

- “Đây là lần đầu trên đất nước Trung Hoa, đã có một đoàn kịch Công Nông ra đời. Tôi rất xúc động trước cảnh một chiến sĩ căm ghét bọn phản động Quốc dân đảng dã man tàn bạo. Hồng Thủy đã lột trần được những tinh hoa của chiến sĩ Hồng quân mà anh lại là người Việt Nam. Tôi thành thực chúc mừng sự thành công của anh và các diễn viên trong đoàn kịch”.

Khắp hội trường nổi lên những tiếng hoan hô ầm ĩ.

Từ đấy các cán bộ cao cấp đều biết Hồng Thủy. Nhờ vậy sau này ông được nâng đỡ, che chở nhiều. Ngoài đoàn kịch Công Nông, tờ “Kháng địch” do ông phụ trách đã đem đến cho toàn quân đội học hỏi thêm và tạo sự vui vẻ trong chiến đấu.

Ngưng một lúc ông nói:

- Tháng 01 năm 1934 tôi là đại biểu Đại hội toàn quốc lần thứ 3. Tôi được bầu là ủy viên ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Trung Hoa.

Trải qua năm lần bị bọn Tàu Tưởng bao vây để tiêu diệt, tôi cùng Hồng quân vừa chiến đấu vừa rút về Ngũ Đài Sơn vào 28 tháng 8 năm 1937. Sau đó tôi lại được lệnh vượt Hồng Hà đến tỉnh Sơn Tây tổ chức quần chúng đánh du kích, xây dựng căn cứ địa, xây dựng chính quyền1. - Đấy! Hàn thấy rất nhiều khó khăn, gian khổ tôi đã trải qua.

Hồng Thủy im lặng.

Hàn Thủ Văn cũng lặng nghe và biết ông còn nhiều tâm tư muốn giãi bày.

Tất cả những hình ảnh hiện ra tuần tự nhưng lại mờ dần, mờ dần. Đất nước Trung Hoa phía xa kia chăng! Chung quanh ông chẳng còn gì! Hoạ chăng chỉ còn những cánh huân chương lấp lánh trên ngực. Ông từ từ cởi ra hết và đưa cho Hàn giao cho bà Huân. Ông sợ khi về nước, bạn bè sẽ xem ông như kẻ thích phô trương.

Hơi sương chiều lạnh làm ông lại nổi ho từng hồi. Hàn rót nước và đưa cho Nguyễn Sơn uống thuốc. Lúc ấy đám bà Huân đã trở lại xe.
_______________________________________
1. Sơn Tây một tỉnh của nước Trung Hoa rộng gần bằng cả nước Việt Nam. Một địa bàn rất rộng. Vừa xây dựng đoàn thể, quân đội để đánh giặc vừa lập chính quyền các cấp với địa phương độc mã, quả là chiến công phi thường.


Tiêu đề: Re: Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc
Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Mười Hai, 2009, 08:24:31 pm

77

Hồng Thủy giơ tay ngăn Minh Thi khoan lên xe. Ông nói:

- Bắt đầu từ đây đã tới nước Việt Nam yêu cầu các đồng chí đừng gọi tôi là Hồng Thủy mà gọi tôi là Nguyễn Sơn1.

Tại đất nước Việt Nam, không còn Hồng Thủy nữa mà chỉ còn Nguyễn Sơn một vị tướng của nhân dân.

Tất cả tiếp tục lên xe, sau một giờ đoàn đã về tới Lạng Sơn, Hoàng Minh Thi đưa ông vào phòng khách. Trên bàn đã để đầy hoa quả và nước giải khát. Nguyễn Sơn bảo Hàn Thủ Văn:

- Nói với bà Huân cho các cháu tắm rửa! Đồng chí cũng vậy, bụi đất bám đầy quần áo đấy!

- Thủ trưởng không tắm?

- Tôi sợ lạnh lắm! Mọi người đi hết còn Hoàng Minh Thi lại ngồi với ông, Phương hỏi:

- Thủ trưởng còn nhớ trận đánh nào gây ấn tượng nhiều.

Ông trả lời:

- Trận đánh tại tỉnh Giang Tây kéo dài cả 2 tháng, ta đã tiêu diệt 2 vạn quân địch...

Hoàng Minh Thi muốn nói gọi là có chuyện để ông được vui nhưng lúc ấy khí lạnh của núi rừng ùa vào bao vây ông. Ông ôm ngực ho liên tiếp. Bà Huân và Hàn Thủ Văn đến sau lưng ông. Bà đưa ông viên thuốc và cốc nước để ông uống thêm. Bà nắn 2 vai ông và vuốt lưng cho ông dịu cơn ho.

- Em à! Vừa rồi anh đã nhớ lại những bước chân đầu tiên anh qua Trung Quốc, anh đã hiến dâng trọn vẹn cho cách mạng Trung Quốc. Những huân chương anh đeo hôm nay là có phần góp mồ hôi tim óc của anh mà phần nhiều là của đồng bào, đồng chí đã cùng anh phấn đấu và một số lớn đã gục ngã tại chiến trường. Đối với Trung Quốc anh đã cống hiến quá nhiều so với chiến trường miền Nam anh đã phụ trách do đó tình cảm của anh cũng nghiêng nhiều về nước bạn. Giờ anh vẫn nghe tiếng nói êm ấm của Mao Chủ tịch văng vẳng bên tai, những cái bắt tay nóng hổi của tướng Chu Đức, của Nguyên soái Diệp Kiếm Anh. Những hình ảnh thân thương vẫn hiện rõ. Có thể đây là lần cuối cùng hình ảnh hoạt động tại nước bạn không biết còn vương vấn trong anh nữa không!

Lúc ấy bà Huân và các con đã quây quần quanh bàn. Bà đã bóc cam cho các con ăn. Ông nói với bà Huân:

- Hôm nay anh thấy trái cam vàng ối anh lại nhớ trong cuộc Vạn lý Trường chinh khi đi qua thảo nguyên suốt bảy ngày trên đầm lầy hoặc chết khát, có người chết luôn khi hụt chân xuống lầy. Thật là đủ mọi gian lao, vất vả. Nếu được một quả cam như ngày hôm nay, lúc đó chỉ cắn từng tí và còn để giành khi thấy thật khát mới cắn thêm một tý nữa thì sung sướng biết bao. Khổ cực trong đói khát nó là thế đấy!

Ông quay sang Thi nói chậm rãi:

- Giờ đây về Tổ quốc lại quên hết những khó khăn nguy hiểm của những năm qua tại nước bạn. Nguyễn Sơn ngưng một vài phút và nói thêm:

- Cậu Thi thử định nghĩa Tổ quốc là gì nhỉ?

Thi lúng túng: Ông suy nghĩ tổ quốc không chỉ là vùng đồng bằng hay vùng gò đồi, bóng dáng nhà thờ, quê hương hoặc những bài ru trầm trầm. Tổ quốc đó là những gì đẹp làm chúng ta rung động trái tim, đó là sự thống nhất đất nước huy hoàng, đó là nền độc lập tuyệt đối đó là vinh quang không thể xóa mờ của ông cha, trong đó có sự tự do là quan trọng. Tổ quốc là màu xanh trên bầu trời hiền dịu, soi sáng chúng ta, những rừng xanh toả bóng, những thửa đất màu mỡ trải dài dưới chân ta... 2 Nghĩ như thế nhưng mà ông không dám nói vì ông biết trình độ của tướng Nguyễn Sơn cao quá.

Thi cười và nói nhỏ:

- Dạ em chịu... thủ trưởng có thể cho em biết cao kiến của thủ trưởng được không ạ.

Nguyễn Sơn cười xoà: Cao kiến gì! Đơn giản thôi!

Ông bèn nói một hơi dài:

- Nói ra thì có vẻ to tát nhưng theo tôi nó không có vẻ trừu tượng mà là cụ thể gắn liền với bao kỷ niệm thời thơ ấu và thanh xuân của một con người. Đối với tớ tổ quốc là phố Yên Ninh, là Hàng Bún, là hồ Gươm Hà Nội, là tô phở tái nạm ở gầm cầu Long Biên, là bát bún riêu có mùi mắm tôm, là đĩa bánh cuốn với bát nước chấm có hương vị cà cuống, là một số bạn thân mà bao năm xa nước xa nhà, tớ không thể nào có được. Càng sống lâu ở quê người lại càng nhớ nước... Nguyễn Sơn nói nửa chừng ông lại ho luôn một hồi liên tục. Ông nói thêm: Khi về Hà Nội Phương nhớ đãi tôi nhé3.
___________________________________
1. Nguyễn Sơn: Ông muốn bắt chước Nguyễn Huệ (vua Quang Trung) đã đánh đuổi Tôn Sĩ Nghị chạy về Tàu, Nguyễn Huệ chỉ huy quân Tây Sơn đã chiếm thành Thăng Long - nên chữ Sơn có nghĩa là Tây Sơn.
2. Trích nhà văn Pháp Cornénin. Do Vũ Đình Quý dịch. Nhà xuất bản Văn hoá dân tộc, Hà Nội 1998.
3. Đoạn này trích cuốn “Nguyễn Sơn vị tướng huyền thoại”: tới Hà Nội Hoàng Minh Phương đã nhớ mua cho ông ăn bún riêu, bánh cuốn...



Tiêu đề: Re: Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc
Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Mười Hai, 2009, 08:29:21 pm

78

Cả đoàn lại lên ô tô. Lần này đi thẳng về Hà Nội đúng ngày 30 tháng 9 năm 1956. Bộ Tổng tham mưu đã dành cho ông một căn nhà hai tầng tại đầu đường Lý Nam Đế. Qua cuộc hành trình mệt nhọc ông nằm sải tay trên giường. Buổi trưa ông không ăn gì, cho đến buổi tối ông uống một ly sữa và miếng bánh mì vuông.

Sáng ngày 31/9, Nguyễn Sơn và Hàn Thủ Văn vào trình diện Bác Hồ. Bác Hồ thương cảm khi nhìn thấy ông gầy yếu. Bác ôm Nguyễn Sơn và nói thầm:

- Cậu bé liên lạc nhanh nhẩu, khỏe mạnh xưa kia, hồi này sao hình hài xơ xác thế này. Bác khuyên cố gắng giữ sức khoẻ. Bác đưa 2 gói kẹo lớn:

- Cậu về đưa cho vợ con.

Buổi chiều hai vợ chồng Nguyễn Sơn và các con được ăn cơm tại nhà tướng Võ Nguyên Giáp. Khi gặp tướng Giáp ông nói:

- Tôi ở Triều Tiên có nghe Đại tướng đã đập tan những đoàn quân tinh nhuệ Pháp tại Điện Biên Phủ. Lòng tôi nôn nao muốn chấp cánh bay về nước liền để chúc mừng anh! Đây quả là một chiến thắng vang dội toàn cầu. Một chiến thắng đưa nước Việt Nam lên đài vinh quang và đi vào lịch sử. Khi nâng cốc Nguyễn Sơn ráng hô “Xin chúc mừng người anh hùng vĩ đại của Quân đội việt Nam với những chiến công to lớn đã viết lên trang sử hào hùng, đã làm đế quốc thực dân khiếp hãi và làm nhân dân cả thế giới khâm phục”. Trước khi từ giã Đại tướng Võ Nguyên Giáp, ông ngập ngừng nói:

- Anh Giáp à! Tôi cảm thấy yếu quá. Ông nói tiếp:

- Không biết chừng nào tôi được đãi anh một bữa cơm như ngày hôm nay.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp đáp:

- Đừng lo chi cho mệt.

Ông Giáp nói một câu tiếng Pháp:

- Tôi luôn ở bên anh!

Ngày 1/10 là ngày sinh của Nguyễn Sơn ngày này Kiếm Qua đã đồng tình lấy ngày sinh của ông là ngày sinh của cô. Ông nghe văng vẳng câu: Tôi đã khổ rồi, anh lại còn muốn làm cho anh khổ để làm gì. Nguyễn Sơn còn nhớ câu ông than thở với Diêu Thục Bình: “Tôi đã không phụ lòng 600 triệu nhân dân Trung Quốc nhưng giờ đây lại phụ một phụ nữ Trung Quốc. Còn gì đau đớn hơn cho tôi”. Ông ôm đầu ngồi phịch xuống ghế với vẻ mệt mỏi.

Đại biểu hội Phụ nữ Thành phố Hà Nội đã đem đến một mâm bánh crem hai tầng để mừng sinh nhật ông. Bà Huân đập vai ông và nói nhỏ:

- Có khách anh Sơn! Ông ngơ ngác nhìn lên toàn là người quen cả. Ông cười:

- Tôi đi theo cách mạng từ khi 17 tuổi, những thủ tục lễ nghi của đời thường tôi không biết hoặc không chú ý đến. Được ăn mừng sinh nhật lần 48 này đúng là lần đầu tiên trong đời tôi đã hưởng một lễ sinh nhật long trọng như thế này. Tôi xin nghiêng mình cảm ơn quý bạn đã cho tôi những phút giây sung sướng trong ngày hôm nay. Tất cả đều vỗ tay.

Ông cùng bà Huân thổi nến cắm trên bánh. Ngọn nến lung linh làm mặt ông rạng rỡ và khuôn mặt bà Huân tươi đẹp hẳn lên. Con bà Huân và mấy bạn trẻ cùng cất tiếng hát mừng sinh nhật bằng tiếng Anh: Happy Brithday to you.. Happy.... Happy1

Suốt 3 ngày sau ngày sinh nhật bạn bè văn nghệ sĩ đến thăm nườm nượp. Ngày thứ 4 ông cảm thấy mệt nhoài. Ông nằm suốt ngày và ho liên tiếp. Hàn Thủ Văn luôn thường trực chăm sóc ông. Thấy Nguyễn Sơn càng ngày càng suy nhược nên Hàn Thủ Văn đã báo cáo tình trạng sức khoẻ cho đồng chí Hoàng Minh Phương rõ.

Hoàng Minh Thi trình lên tướng Giáp, ông Sơn được cấp tốc đưa vào bệnh viện Hữu nghị Việt Xô.
_______________________________________
1. Chúc mừng sinh nhật


Tiêu đề: Re: Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc
Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Mười Hai, 2009, 08:29:53 pm

79

Ngày 8/10 Hàn Thủ Văn đến chào Nguyễn Sơn để trở về Trung Quốc. Hàn ghé vào tai ông nói nhỏ: Ông có nhắn gì không? Ông biết ý Hàn muốn nói gì, Nguyễn Sơn cố gắng nói rõ ràng: Nói hộ tôi xin lỗi cô ấy. Nếu cuộc sống có gì khó khăn cô cứ đến ban tổ chức trung ương nhờ giúp đỡ. Nói với Kiếm Qua, Hàn Phong, Tiểu Việt luôn củng cố tình hữu nghị giữa hai nước như cha chúng đã làm. Hy vọng chúng sẽ có dịp gặp gỡ các chị em cùng cha khác mẹ ở Việt Nam để cùng đoàn tụ.

Hàn Thủ Văn đã hiểu mối thâm tình của ông. Nguyễn Sơn đâu phải là người có mới nới cũ. Kiếm Qua cũng rất cảm thông tính khẳng khái cương trực của ông. Nhưng tình huống éo le đã làm ông khó xử. Những tin thất thiệt đã làm cho cả hai đều đau khổ. Ông biết rất rõ lòng cô: Ông đã chờ cô quyết định sống trở lại với ông và bà Huân sẽ ở lại Việt Nam. Nhưng quyết định thế nào! Khi đã biết chuyện “ván đã đóng thuyền” cô phải tập trung nhiều can đảm để tuyên bố đoạn tình. Cô biết cô sẽ đau khổ nhưng để hy sinh cho chồng được trọn nghĩa với cô Huân tất nhiên sự hy sinh đối với cô rất đúng với sự tự nguyện của cô. Thật là một hành động cao cả của bậc đàn chị.

Sau khi bắt tay Hàn Thủ Văn, Nguyễn Sơn chỉ nói vắn tắt:

- Văn à! Anh luôn nhớ em và biết ơn em. Hàn Thủ Văn quay đi. Văn đã khóc. Văn nghĩ rằng cả một cuộc đời chiến binh của mình chưa có một thủ trưởng nào ân cần, săn sóc, chỉ bảo công việc từng ly từng tý như tướng Nguyễn Sơn. Người thủ trưởng ấy đã chia sẻ ngọt bùi với Văn, đồng cam cộng khổ với Văn và xem Văn như người em kết nghĩa. Hàn Thủ Văn nhớ lại khi ông nằm viện Quân y bên Trung Quốc mỗi ngày Văn đều đến túc trực xem ông có giao cho việc gì hoặc thư từ gửi đi. Mỗi lần Văn đến ông lại sắp bàn cờ mời Văn cùng đánh. Văn biết đây là cớ để ông tỏ bầy tâm sự kể cả cuộc đời ra đi làm cách mạng như thế nào! Qua Trung Quốc đã làm được gì, trở về việt Nam làm được gì. Ông đều nói rõ cho Văn và cũng mong Văn chuyển cho Kiếm Qua hiểu lòng một người cộng sản Quốc tế với tình cảm tràn đầy vẫn luôn chung thuỷ đối với Kiếm Qua.

Văn cũng hiểu ông không muốn con ông ở trong nhà nói chuyện bằng tiếng Trung Quốc. Nguyễn Sơn dậy thêm cho chúng tiếng Việt kể cả bài hát “Đêm nay Bác không ngủ”. Những kỷ niệm sâu xa giữa Văn và ông, muốn kể cũng không thể kể xiết được.


Sau khi Hàn Thủ Văn trở về Trung Quốc. Nguyễn Sơn càng ngày càng ốm yếu. Mấy ngày sau cùng ông không ăn được cơm. Ông được truyền dịch và uống sữa hay nước cam. Tiếng nói của ông thều thào, không được rõ.

Nguyễn Sơn nắm tay bà Huân và dặn dò:

- Anh biết anh yếu lắm. Trước kia dù đau đớn đến thế nào, vết thương hành làm đau đớn anh đều chịu được Nhưng bây giờ anh nghĩ chẳng còn lâu nữa phải xa em. Bà Huân ứa nước mắt! Cầm hai tay ông lắc lắc rồi bà nghẹn ngào.

- Cố lên nữa anh Sơn! Em biết anh là người dũng cảm, ý chí của anh còn hơn sắt thép. Anh cứ tin là em sẽ hết lòng săn sóc cho anh khỏi bệnh. Và anh cũng sẽ khỏi bệnh.

Nguyễn Sơn lắc đầu, nước mắt trào. Ông ôm lưng bà nói nhỏ:

- Anh biết rõ về anh, em ạ!

Ông lặng im trong một phút và nói tiếp.

- Anh đã không giúp gì được em nhiều, số tiền 30 vạn nhân dân tệ em trích ra một ít để trả tiền thuốc cho bệnh viện. Chúng ta chiến đấu không phải để nhận số tiền đó, dứt khoát là không. Chỉ có một điều quan trọng cố gắng chịu đựng nuôi con trong mọi hoàn cảnh gian khổ sắp tới…


Tiêu đề: Re: Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc
Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Mười Hai, 2009, 08:30:32 pm

80

Đêm hôm đó Bà Huân đã cho Nguyễn Sơn uống 2 viên thuốc ho và 2 viên thuốc ngủ. Tám giờ tối ông đã nhíp mắt và đi vào giấc ngủ. Bà bóp bàn tay ông nhưng ông vẫn ngủ mê mệt cho tới 11 giờ trưa hôm sau. Bà Huân vào đến cửa, bà định rót nước cho ông súc miệng nhưng ông ngăn lại và vẫy bà lại gần. Ông nói giọng nhỏ: Đêm qua thật kỳ lạ! Anh thấy anh đang ngồi hút thuốc trên nhà sàn người Thượng, bên cạnh anh là con Mai Lâm đang so dây đàn, Việt Hồng ngồi chăm chú nhìn cây đàn, Thanh Các ngồi dưới nhà sàn đang phân công: Thanh Hà gọt khoai tây, Nguyễn Việt Hằng thái hành, Nguyễn Cương băm thịt bò, Hàn Phong múc nước giếng đổ đầy 2 lu, Tiểu Việt bổ củi, Vân Khởi nấu nước. Anh hỏi Thanh Các:

- Con phân công tám đứa nấu nướng gì thế? Thanh Các trả lời:

- Hôm nay ngày sinh nhật của bố, con biết bố thích ăn món thịt “ra gu” nấu đậu, và thịt bò “lúc lắc” nên con nhờ các em phụ để con nấu món này. Anh quay vào trong nhà sàn nhìn bà Kiếm Qua, bà Nội, bà Diệm, kể cả em đang rót nước, anh nói:

- Các bà thấy không! Các con chiều tôi ghê không?

Các bà vỗ tay. Lúc ấy văng vẳng tiếng đàn vang lên bài “Râu bác Sơn” do chú Xuyên sáng tác.


Suốt một tuần qua, bà để chị Thanh Các (con đầu ông Nguyễn Sơn) trông nom ông ban ngày, bà chỉ đến vào giữa bữa cơm sáng và chiều, thì giờ còn lại bà lăn ra ngủ để đến đêm có sức săn sóc cho chồng.

Đến 12 giờ đêm bà mệt quá ngủ gục bên vai ông. Ông thở khò khè nghe rất chậm và yếu. Bác sĩ trực chăm sóc lúc nửa đêm đã vào bệnh viện để theo dõi bệnh tình của ông. Ngoài trời vẫn mưa dầm dề nhưng đến sáng lại tạnh ráo.





81

Những đêm trước Nguyễn Sơn luôn nằm mơ khi ông thấy mình đang nấp trong lùm cây nhìn vào sân Viện nuôi dạy trẻ, theo dõi Hàn Phong, Tiểu Việt đang nô đùa. Trong đầu óc ông như có sương, có khói bao phủ. Khi thì ông ôm bé Hà ngâm thơ hay hát nghêu ngao giữa buổi liên hoan và đưa bé Hà cho nhà thơ Hữu Loan bế, khi thì ông thấy ông đang đứng trên tàu hỏa chào các đồng chí đang hô khẩu hiệu và vẫy tay chúc mừng ông dưới sân ga, khi thì ông đứng bên bờ Trung Nam Hải với Kiếm Qua, khi thì ông từ giã Kiếm Qua tại gian hầm bên bờ sông Diệu Thủy cũng là nơi ông tá túc từ bao lâu nay.

Đầu óc ông như những đám mây vần vũ lúc cuốn trôi lúc tụ lại với những hình ảnh khi tỏ khi mờ.

Lại có lúc ông gặp Đặng Thác thay ông làm chủ nhiệm nhật báo Tấn - Sát - Ký. Đặng Thác không những là nhà báo còn là một học giả lịch sử nổi tiếng. Nguyễn Sơn nhớ lại bài thơ Đặng Thác đã kính phục tinh thần chiến đấu oanh liệt của ông, bài thơ viết:

Hồi thủ Hồng Hà sáng thống thâm
Nhân gian tòng thử, nhiệm phù trầm
Bắc lai tráng trí long tiền vận.
Nam quốc thi tình thiên hạn tâm
Thập tải phong ba tam vạn lý
Thiên thu huyết lệ nhất sinh ngâm
Đông phương vọng nhãn lăng triều cấp
Mạc đạo phiêu phùng trực đáo kín.


Tạm dịch:

Vết thương sông Hồng đau buốt thân
Cuộc đời từ đó, trải thăng trầm
Chí trai phương Bắc thời đương vận
Lai láng hồn thơ nhớ nước Nam
Ba vạn lý dài đầy sóng gió.
Ngàn năm huyết lệ một đời ngâm
Phương Đông đã nổi, triều dâng sóng
Lênh đênh đời vẫn nhuốm phong trần



Tiêu đề: Re: Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc
Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Mười Hai, 2009, 08:32:34 pm

82

Có đêm trong khi trời còn mờ hơi sương ông đạp xe cuốc1 của mình từ trường về quê nhà. Xe ông đi bon bon trên cầu Long Biên. Lúc ấy ông chỉ gặp toàn những người đi xe đạp thồ rau hoa quả từ Gia Lâm qua các chợ ở Hà Nội. Xe đạp qua những đường làng quen thuộc, qua những mảnh ruộng xanh rờn ắp nước. Làng ông có một cổng gạch cũ kỹ, hai bên có luỹ tre xanh dầy. Ông không hiểu ai đặt tên cho làng ông là Kiêu Kỵ. Một làng ở giữa vùng đất Gia Lâm xanh biếc. Khi về gần đến nhà ông buông 2 tay cho các cháu vỗ tay reo hò khen “chú Bác đạp xe giỏi quá”. Tuy tuổi gần tráng niên nhưng ông cùng tham gia đá cầu, đá bóng với các em. Một lần ông đánh cờ tướng với em bé Vũ Lưu con ông Năm. Em đã được ông một ván cờ, ông khoái chí cười lớn “Hậu sinh khả uý”. Thằng bé thế mà khá đấy!

Cũng có lần ông mơ thấy gặp anh Vũ Đình Bảo, con ông cả. Anh là Tiểu đoàn trưởng, đang đứng nhìn xác các chiến binh hy sinh tại Nghĩa Lộ. Anh Bảo quay lại nhìn ông rồi ôm mặt quay bước đi. Ông đi theo sau, ông bị thụt chân xuống hố, tỉnh giấc mới biết mình nằm mơ gặp người đã hy sinh. Ông cũng đã gặp anh Vũ Kỳ Lân, nhập ngũ từ đầu kháng chiến tại chiến tuyến Quảng Trị. Khi ông là Tư lệnh quân khu 4. Anh Lân là Chính ủy khu Vĩnh Linh, sống gần 10 năm dưới địa đạo. Sau đó đã đẻ ra tác phẩm ký sự “Miền đất lửa” nổi tiếng.

Những ngày cuối cuộc đời trong mơ ông đã nhìn thấy ông lúc ông còn là học sinh. Ông nhớ lại những lần cùng học sinh trường Bưởi đánh nhau với lũ con Tây và cả con theo dân Tây của trường Lyceé Albert Sarrant. Ông sung sướng khi thấy chúng bầm mặt và đổ máu mũi. Ông lại nhớ đến những người bạn thân thiết của ông phần nhiều là học sinh nghèo. Nguyễn Sơn nhớ cả lần đầu tiên khi đi Trung Quốc với Nguyễn Công Thụ ông đã nhìn thấy bố vợ đang bồng và ru con ông. Các hình ảnh khác lại hiện ra dần dần...

Khuôn mặt tươi đẹp của bà Diệm đang chăm chú nhìn ông, ông sung sướng ngả đầu bên vai bà Diệm nhìn những cánh buồm trắng xa xa nằm im trên Hồ Tây. Ông hãnh diện cưới được người đẹp của đường Quán Thánh. Rồi hình ảnh đoàn văn công Trung Quốc sang biểu diễn tại Hà Nội nhân ngày lễ Quốc khánh của Việt Nam. Sau những lần trình diễn họ được ta đưa đi tham quan một số nơi tại Bắc Ninh, Tam Đảo, Sa Pa... Trước khi về nước họ đã đi ra Hồ Tây thuê thuyền. Họ chèo ra giữa hồ.

Bất ngờ hôm ấy trời nổi dông gió lớn làm thuyền lật. Có hai diễn viên không biết bơi nên chết đuối. Khi nghe tin ấy về bên Trung Quốc ông đã viết một bức thư dài cho cháu Tuấn đang dạy trường trung học tại Việt Nam. Ông nói, sự rủi ro này chúng ta phải coi đây như là sự cống hiến thân xác cho sự nghiệp cộng sản quốc tế trong khi các chiến sĩ này công tác tại Việt Nam. Chúng ta phải trân trọng sự đau thương mất mát này và xem như là sự hy sinh vì Việt Nam, vì tình hữu nghị hai nước Trung Việt.

Những kỷ niệm đầu tiên êm đềm lại hiện trước mắt ông. Ông đang đứng bên bà Nội tại chùa Thiên Mụ... rồi ánh trăng đang lên sau núi Mê, ông ngồi dựa vai bà Huân thì thầm để chọn tên cho con bà đang trong bụng mẹ. Trong ánh sáng lung linh ông lại thấy dáng dấp xinh đẹp của bà Nội tại Phu Vân Lâu... Đầu óc ông luôn xao động, quay cuồng khi thế này khi thế khác.

Khi thì ông ôm đầu bà Huân, ông thủ thỉ: Em là người vợ tuyệt vời đã lo lắng cho anh từng li, từng tí, từng miếng cơm đến áo mặc. Tội nghiệp cho người vợ trẻ của tôi từ đây phải một mình nuôi bốn đứa con. Ông nhìn thấy ngọn lửa bà Huân đang đốt những biên nhận tiền bà đã giao cho Kho bạc Nhà nước. Ôi! em thật là quả cảm, trong sáng không kém Kiếm Qua. Khi thì ông thấy Kiếm Qua bên kia sông biên giới Lạng Sơn và bên này sông có Hoằng Huân. Hai bà đang tết một cái gì trăng trắng giống như cái cầu để bắc ngang sông biên giới. Ông chợt hiểu, các bà đang dựng một cầu hữu nghị thông thương giữa hai nước để tình Hữu nghị Trung - Việt càng bền vững muôn đời.




83

Đêm gần cuối cuộc đời, ông đã đi lạc vào một vườn với đủ loại hoa, nào hoa Kèn, hoa Huệ, hoa Hồng, Păn Xê. Các màu vàng đỏ, tím xanh bên bờ hồ sáng bừng lên. Những con Thiên Nga đang vui đùa giữa nước trời mây in trên mặt hồ. Hàn Phong, Tiểu Việt đang đá bóng, Thanh Hà ngồi ôm búp bê hát nghêu ngao, Mai Lâm đang đuổi bắt bướm. Ông thấy bên phải ông các bà đang ngồi trên ghế bàn màu trắng. Các bà cùng mặc toàn màu trắng. Bà Diệm đang đứng giơ cốc mời Kiếm Qua, bà Nội, bà Huân cùng nâng cốc. Ở nơi xa ông không biết là bia hay rượu vang. Chợt Thanh Các đem đĩa bánh đi ngang gọi ông:

- Hôm nay các mẹ đã đưa các con về đây hội họp đầy đủ, con mời bố lại chung vui với các mẹ con trong dịp lễ Thanh Minh này. Ông giật mình nhìn Các, khi quay lại chỗ các bà, ông chỉ còn thấy một màu trắng đục như sương khói đang bốc lên.

Ông bồi hồi nhớ đến mẹ ông là người rất tiến bộ và dịu dàng. Khi ông 9 tuổi mẹ ông đã kể cho ông nghe những chuyện cách mạng về “Đông Kinh Nghĩa Thục”, về “Hà Thành đầu độc”. Giờ đây phút cuối cùng của cuộc đời, ông còn nghe văng vẳng tiếng ngâm thơ của mẹ “Quốc thù vị phục dầu tiên bảo, kỷ độ long tuyền đái nguyệt ma!” Mẹ ơi! Giờ mẹ ở đâu? Sao đời con lại khổ thế!

Khi tỉnh giấc ông lại ho liên miên nhưng không ra tiếng. Bà Huân giật mình đưa tay vuốt ngực ông.

Ánh sáng ban mai vừa hừng lên ngoài cửa sổ

- Huân ạ!

Nguyễn Sơn lại ho vài cái, ông ôm ngực kể lại giấc mơ ông đã gặp các bà vợ.

Ông uống thuốc xong, lại ngủ mê mệt đến trưa. Khi Nguyễn Sơn tỉnh ngủ đã thấy bà Hồ Ngọc Lãm ngồi gần bên giường ông, bà cười:

- Sao! Chú khoẻ chứ!

Ông gắng gượng thều thào:

- Ngủ được một giấc, cũng đỡ đỡ.

Từ khi bà Lãm trao bé Mai Lâm cho Nguyễn Sơn hôm nay bà mới có dịp vào thăm ông (vì trước kia cô Nội đi vào nam, bà đã nhận nuôi con cô)

- Nguyễn Sơn à! Chú có biết Mai Lâm cũng thông minh như chú! Hồi trước nguyên soái Diệp Kiếm Anh sang Việt Nam có ghé nhà tôi. Diệp Kiếm Anh nghe nói cháu là con gái Nguyễn Sơn, liền sai cận vệ đem đến cho Mai Lâm một cây đàn Organ. Không mấy chốc mà Mai Lâm đã đàn khá chỉ phải tội cháu ít nói, mặt thường có vẻ buồn. Nguyễn Sơn chép miệng nhưng ông hiểu rằng: Mai Lâm đã thiếu tình thương của ông và của mẹ nó từ hồi nhỏ.

Bà Lãm cố kiếm một vài chuyện vui của cháu Lâm để kể cho ông khuây khỏa, nhưng đang vui, ông bị cú sốc ông nghẹn không nói được. Mồ hôi đổ ra đầy mặt bác sĩ túc trực vội huy động các bác sĩ lại cứu chữa. Qua hai mươi phút sau ông đã ra đi và ra đi mãi mãi.
___________________________________
1. Xe cuốc (tiếng Pháp: course là xe đạp đua).


Tiêu đề: Re: Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc
Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Mười Hai, 2009, 08:36:59 pm

84

Đầu tháng 10 tôi được đi công tác ra miền Bắc. Tôi đã đi nhờ thuyền chở vũ khí của anh Tư Mao neo tại cửa Bồ Đề và sắp quay ra Bắc. Sau thời gian lênh đênh trên mặt bể, chúng tôi đã cập bến an toàn. Sau khi làm việc với Bộ Quốc phòng tôi nghỉ ngơi tại nhà chú tôi 4 ngày để chờ chuyến vào Nam. Đứng trên ban công nhìn chung quanh, cảnh vật có thể thay đổi chút ít. Tôi nhớ đến thầy Hoàng Đạo Thuý khi dạy chúng tôi tại trường Piere Pasqnier. Tôi nhớ đến Quang con ông xã trưởng, tôi nhớ đến Liên bạn học cùng chung một đội bóng. Mỗi buổi chiều ngày xưa khi đá bóng xong chúng tôi lại bơi ra gò có cây đa lớn trước hồ Giám (Văn Miếu) để cùng đu vào mấy cái rễ cây lòng thòng trên mặt hồ. Cảnh vật cũng không thay đổi bao nhiêu. Còn 4 ngày nữa tôi phải trở về Nam thì đột nhiên tôi đã nghe một tin như sét đánh ngang tai. Chiều hôm nay đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam loan tin: Đồng chí Nguyễn Sơn Thiếu tướng của Quân đội cộng hoà nhân dân Trung Hoa và cũng là Thiếu tướng của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà về Việt Nam thăm gia đình, bị bệnh nặng nay đã từ trần vào hồi 15 giờ 30 phút ngày 21 tháng 10 năm 1956, linh cữu được quàn tại lễ đường Quân đội, đường Hoàng Diệu, thành phố Hà Nội.

Khi nghe tin Nguyễn Sơn mất, cả buổi chiều tôi thảng thốt và không thiết ăn uống. Nhìn mâm cơm trước mặt có món thịt bò nấu đậu, mọi khi tôi rất thích nhưng chiều nay tôi chẳng còn ăn được miếng nào. Ngực tôi như tức, như nghẹn. Có thể nào Nguyễn Sơn người thầy, của các sinh viên Võ bị Quảng Ngãi chúng tôi đã bỏ chúng tôi đi về nơi xa lạ. Những hình ảnh xưa bỗng hiện lên, khi Thầy đứng giữa cửa sổ lầu 2 để nhìn những tán dừa xanh mướt tại Bồng Sơn. Khi Thầy ký giấy cho tôi.

Chữ ký đầy vẻ nghệ sĩ. Ở chữ Nguyễn dấu e và dấu ê biến thành hai vòng khói cuộn bay đến chữ Sơn. Thầy không ký tên vào thẻ sinh viên của trường nên đến bây giờ đa số các bạn đều không biết chữ ký của thầy như thế nào.

Âu cũng là một kỷ niệm đặc sắc của thầy để lại cho tôi.




85

Tin tướng Nguyễn Sơn qua đời đã làm tôi bàng hoàng ngơ ngẩn. Tôi đã không được gặp thầy nữa. Tôi phải làm gì đây! Ôi người thầy yêu quí! Một vị tướng oai hùng mà tôi cứ tưởng như là một người anh hiền hậu rất gần gũi, thân thiết. Tôi đậy mâm cơm và bước lại bàn viết, tôi ngồi thẫn thờ nhưng rồi tôi quyết chuẩn bị cho một điếu văn ngày mai. Tôi sẽ nói hết công lao của thầy khi ở Việt Nam, tại Liên khu 6, Liên khu 5, Liên khu 4, Liên khu 15... Thầy đã cống hiến cho cách mạng Trung Quốc trên 20 năm, tham gia Vạn Lý Trường Chinh vượt thảo nguyên, vượt núi tuyết hiểm trở gian nan đói khổ 3 lần. Thầy đã tổ chức quần chúng đánh Nhật đánh Quốc dân Đảng và lập chính quyền Xô Viết tại tỉnh Sơn Tây. Những trận đánh quyết liệt với Tàu Tưởng đã đưa thầy từ cấp đại đội lên cấp sư đoàn lúc ấy thầy mới 28 tuổi. Nhà nước cộng hoà nhân dân Trung Hoa đã tặng thầy 3 Huân chương cao quý hạng nhất, và nâng cao địa vị thầy vào Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc trong 2 nhiệm kỳ. Đối với Trung Quốc thầy là một chiến sĩ cộng sản Quốc tế xuất sắc. Nhà nước Trung Quốc cho 30 vạn nhân dân tệ thầy không lấy. Thuốc mê đắt tiền thầy cũng không dùng và nhường cho đồng đội bị thương. Vinh hạnh tột đỉnh của đời thầy là được ăn tiệc với Mao Chủ tịch, với Tổng tư lệnh Chu Đức và các vị Nguyên soái Nhà nước Trung Hoa tại Thiên An Môn cũng như thầy đã được ăn cơm với Hồ Chủ tịch và Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Đoàn kịch Công Nông đầu tiên của Hồng Quân do thầy cầm đầu đã có tiếng vang to lớn ở khắp nước Trung Hoa. Thầy là người Việt lại là Giáo sư dạy chính trị, lịch sử trong quân đội Trung Quốc. Thầy là thiên tài chỉ với 2 tháng đã học viết và học tiếng Trung để học trường Hoàng Phố và để chỉ huy người Trung Quốc.

Tại Việt Nam, trong thời gian ngắn thầy đã củng cố các mặt trận Khánh Hoà, Buôn Ma Thuột không cho giặc Pháp lấn chiếm. Thầy đã tổ chức nhiều trận đánh điển hình như Vạn Giã, đồn Tróc, đèo Hải Vân vv… Suốt 9 năm chống Pháp, các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên đã hoàn toàn độc lập, tự do... Chỉ trong vòng 2 năm thầy đã biến Bình Trị Thiên thành một chiến lũy vững chắc ngăn ngừa sự lấn chiếm của bọn thực dân Pháp. Quân đội từ yếu ớt, qua “Đại hội Tập” đã trưởng thành và Liên khu 4 đã hãnh diện có đại đoàn 325 anh hùng và các tỉnh đều có trung đoàn chủ lực. Năm 1947, 1948 có thể nói Liên khu 4 là một liên khu mạnh không những về mặt quân sự mà cả về Văn hoá nghệ thuật và đào luyện cán bộ cũng đã có những kết quả thiết thực có tiếng vang trong toàn quốc. Học viên của thầy sau này có người làm Bộ trưởng, Ủy viên Trung ương từ trường Thiếu sinh quân từ các trường Võ bị với quân hàm Trung tướng, Thiếu tướng và rất nhiều Đại tá.

Đội ngũ sinh viên chúng tôi đã học được của thầy nhiều điều bổ ích để làm người chỉ huy quân đội từ phép cầm quân, chiến thuật nào, rồi nuôi quân, dưỡng quân ra sao! Vận động quần chúng đánh du kích, tổ chức làng chiến đấu kiện toàn đội ngũ dân quân vừa sản xuất vừa chiến đấu, biến thành hậu phương vững mạnh yểm trợ quân đội mọi mặt. Thầy là gương sáng về tự học, tự rèn luyện bản thân, khắc phục mọi khó khăn để cầu tiến!

Về Việt Nam cuối năm 1945. Thầy đặt tên là Nguyễn Sơn với mong muốn thầy phải học bằng đượccách cầm quân của Nguyễn Huệ1 “tốc chiến, tốc thắng!” kể cả cách dùng người đã thu phục những người tài giỏi như Nguyễn Thiếp (La Sơn Phụ Tử, Ngô Thì Nhậm, Phạm Công Tự) 2 .

Chúng tôi đã học ở thầy cách dùng người, cảm hoá và giáo dục quần chúng làm cách mạng kể cả những người thuộc chính quyền cũ và những người Việt Nam mới.

Người ta bảo: Thầy đa tình, có nhiều vợ. Nhà thơ Pháp Malherme có câu: “Tôi thà phụ tình với một cô nhưng được tiếng chung tình với mọi cô”. Tôi không nghĩ thầy là mẫu người ấy. Thầy có phụ tình ai đâu. Nguyễn Sơn rất chung tình và trân trọng vợ vì bản chất của thầy là sĩ quan quân đội, luôn mang trong mình một quân phong, quân kỷ nghiêm chỉnh. Thầy đọc nhiều nhớ lâu! Điều đáng quý là lập trường vô sản kiên định, thầy tự coi mình là chiến sĩ cộng sản quốc tế nhưng thầy cũng không bao giờ quên quốc gia. Thời gian ở nước bạn thầy đã sưu tầm nhiều tư liệu và kinh nghiệm trong chiến đấu. Thầy đã viết thành sách bằng chữ Trung, chữ Pháp chữ Việt để đem về làm giàu cho sự nghiệp xây dựng nền Văn hoá Việt Nam kể các tài liệu quân sự, chính trị.

Quan niệm về văn học nghệ thuật của thầy rất rộng rãi. Thầy muốn các tác phẩm nghệ thuật phải thấm sâu vào lòng dân chúng. Thầy đã chăm lo đến đời sống của văn nghệ sĩ. Họ có điều kiện để thâm nhập vào quần chúng, vào chiến trường để có những tác phẩm sống động. Các lớp nghệ thuật, các triển lãm họa phẩm và sơn mài luôn được công chúng hoan nghênh. Chỉ trong vòng 4 năm những ngày đầu kháng chiến, văn hoá nghệ thuật Liên khu 4 thời Nguyễn Sơn đã sôi nổi, đa dạng với những tác phẩm có tầm cỡ dư âm đến ngày nay.
_______________________________________
1. Nguyễn Huệ lên ngôi là vua Quang Trung
2. Trích “Tài dùng người của Nguyễn Huệ” trong Tạp chí thế giới mói số 311, trang 27, 28, 29



Tiêu đề: Re: Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc
Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Mười Hai, 2009, 08:42:44 pm

86

Nguyễn Sơn quả là một tướng văn võ song toàn với nhiều chiến công hiển hách! Cả đêm hôm ấy tôi cứ xoá bỏ lại thêm lại bớt. Điếu văn đã đầy 5 trang giấy mà tôi vẫn thấy chưa đầy đủ so với công lao của thầy đối với Đảng và Nhà nước Việt Nam. Kể cả nhà nước Trung Hoa. Đấy cũng là tấm gương điển hình của người cộng sản quốc tế hy sinh vô tư cho chủ nghĩa cộng sản. Riêng tôi nghĩ rằng công lớn nhất của thầy là vận động các lãnh tụ cao cấp Trung Quốc, Liên Xô yểm trợ tối đa về vũ khí khí tài cho chiến trường Việt Nam, kể cả các đoàn cố vấn cao cấp sang giúp chiến trường Việt Nam...

Mệt mỏi quá tôi gục đầu xuống bàn. Tôi đã gặp thầy trong mơ. Thầy bảo đừng viết nữa. Thầy bảo những ước nguyện của thầy còn nhiều nhưng thời gian lại quá ngắn ngủi. Tôi thấy mắt thầy ứa ra những giọt lệ. Tôi nghe thầy ngâm kiều se sẽ:

“Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
Trải qua một cuộc biển dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”
1

Sáu giờ sáng ngày 20/10 Hồ Chủ tịch cùng một phái đoàn gồm Tổng bí thư Trường Chinh, Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Bộ trưởng Phan Kế Toại, Đại tướng Võ Nguyên Giáp và các đại biểu cao cấp của quân dân chính đảng. Có cả Đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam La Quí Ba đã đến thăm viếng đầu tiên. Bà Lê Hoằng Huân và các con cháu đón Bác vào trước linh sàng. Thắp 3 nén hương cắm lên bát hương. Bác đứng im lặng một hồi. Bác vái và rơm rớm nước mắt.

Trước khi ra về Bác an ủi bà Huân không nên bi luỵ. Ráng giữ gìn sức khỏe để nuôi các con. Tiếp theo đó là Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Tổng bí thư Trường Chinh, Bộ trưởng Nội Vụ Phan Kế Toại, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, các vị cao cấp trong chính phủ và các sĩ quan Liên khu 4, Liên khu 5, trường Thiếu sinh quân tới viếng, Đại sứ Trung Quốc tại việt Nam cũng có mặt.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp thay mặt chính phủ truy tặng Nguyễn Sơn Huân chương quân công hạng nhất đồng thời chủ trì lễ truy điệu. Đồng chí Hoàng Anh thay mặt quân ủy đọc điếu văn khen ngợi công trạng của tướng Nguyễn Sơn đã cống hiến vô tư tại 2 nước. Đến lượt thiếu tướng Lê Thiết Hùng bạn cùng học trường Hoàng Phố với ông, chia buồn cùng gia đình. Nhà thơ Hằng Phương, chị vợ của Nguyễn Sơn tỏ lời thương tiếc một nhân tài còn trẻ đã ra đi sớm. Rồi nhà thơ Hữu Loan đã đọc bài thơ này với tựa đề: Hữu Loan Khóc Nguyễn Sơn

Nguyễn Sơn như con tàu biển khổng lồ
Mang giông tố đại dương đi đến đâu
    Không
        cho
            sóng
                ngủ
Nguyễn Sơn như núi lửa mọc ở đâu
Là gây những đám cháy
vòng quanh
Từ Vạn Lý Trường Chinh
Nguyễn Sơn về Liên khu Tư
Những năm đầu kháng chiến
Liên khu Tư của Nghệ Tĩnh lầm lỳ


Và nước Liên khu Tư
Đã biết thế nào là giông bão
Và rừng Liên khu Tư
Đã biết thế nào là cháy rừng
Phải vì đất nhưng vì giường hẹp
Nằm thừa đầu
    thừa
        chân
Phải vì giường không đầu
Một bước đi vạn lý
Nguyễn Sơn ra đi
    không
        ai
            ngờ
Những thằng đại xu nịnh ngày xưa
trở mặt
Nhưng lịch sử và thời gian
    không
        bao
            giờ
                phản trắc
Còn vang dội mãi rừng núi Nưa
Tiếng Nguyễn Sơn
    một
        lần
            truyền
                hịch
Còn vang dội mãi những tâm hồn
Những o gái Liên khu Tư
Mắt xanh màu Trường Sơn
Mang trong mắt hình ảnh người
Râu hùm hàm én
Gần thì sợ ghê
Nhưng xa thì nói không bao giờ hết chuyện.
Những gánh trống chèo
những kèn đồng gươm gỗ


Lỉnh kỉnh
gánh gồng khiêng vác
Những nghệ nhân toàn gia
dìu dắt bế bồng
Không chỗ nào là không tụng ca
Người mê xem văn nghệ
Nguyễn Sơn
Nhưng ngày 21 tháng 10 đọc báo
nhân dân thấy đăng cáo phó
… Thiếu tướng Nguyễn Sơn đã từ trần!
Thiếu tướng Nguyễn Sơn nào?
Làm gì có mấy Nguyễn Sơn
Đành rằng sống chết con người tại số
Nhưng hình như có bàn tay
    định
        mệnh
            khốc
                liệt
                    nào
Đặt lên cung kiếp Nguyễn Sơn
Một cuộc đời ngắn ngủi
Bao nhiêu là bất thường
Bất thường đến
bất thường đi
về bất thường
Chết lại càng
không đúng lúc!
Văn nghệ sĩ bao người đã khóc
Khi đọc báo Nhân dân thấy “cáo phó Nguyễn Sơn”
Và ngày 22 tháng 10 trên khắp nẻo đường thủ đô
Một đám tang đã diễu hành
Một đám tang cờ đỏ liệm quan tài
Nấc lên màu huyết
Một đám tang đi
    không
        bao
            giờ
                tới
                    huyệt!

_________________________________________
1. Truyện Kiều của Nguyễn Du


Tiêu đề: Re: Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc
Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Mười Hai, 2009, 08:45:40 pm

87

Ban tổ chức gọi đến tên tôi. Tôi ra linh cữu giở điếu văn ra đọc:

Thưa thầy thân yêu!

Tôi là sinh viên số 229 trong tổng số 450 sinh viên của trường Lục quân trung học Quảng Ngãi năm 1946.

Lúc ấy có nhiều tiếng khóc nức nở. Tim tôi như thắt lại. Nỗi xúc động từng lớp cứ ùn ùn trào dâng.... Tôi nói lắp bắp: Tôi... tôi.... Kính... Kính... và tôi ho sặc sụa từng cơn, cổ họng tôi dường như tắc nghẹn. Tôi không thể nào đọc bài điếu văn... Tôi đưa ban tổ chức - Tôi cúi đầu chắp tay vái linh cữu rồi vội vã quay lại đứng cùng các anh em đang nức nở. Tôi lấy khăn lau nước mắt và cúi nhìn xuống đất thổn thức cho đến khi tiếng trống, tiếng kèn kêu vang dậy đưa linh cữu thầy lên xe tang.

Dòng người đã lần lần bước theo sau xe... Tôi lững thững theo sau. Đi được một đoạn đường, tôi không muốn thấy người ta chôn vùi thầy dưới 3 tấc đất. Tôi dừng lại bên lề đường. Khi bóng dáng đoàn người khuất trên ngã ba đường Hoàng Diệu, tôi mới thất thểu bước đi.

Tôi đi trên vỉa hè. Tôi vẫn đi thất thểu và không biết đã đi qua những đường nào trong thành phố! Lần lần tôi đi ra đến hồ Hoàn Kiếm mà tôi không biết. Tôi chọn một chiếc ghế đá không có ai ngồi, tôi ngồi xuống.

Nhìn trời xanh thăm thẳm, áng mây lồng bóng nước. Xa xa những hàng cây xanh rì im lặng trong nắng mai. Bóng những cây liễu ủ rũ nằm trên mặt hồ. Tôi lẩn thẩn nghĩ: Cuộc đời thầy bất hạnh đến thế chăng? Thầy còn dư tim óc, sức lực để dựng lên những thành tích gấp bội lần Liên khu 4 này. Số thầy quả là mệnh bạc. Thầy thích Kiều, tôi xin đọc Kiều để thầy nghe:

“Kiếp hồng nhan có mong manh
Nửa chừng xuân đã gẫy cành thiên hương” 1

Cuộc đời thầy sao giống người đẹp Đạm Tiên đã mất giữa khi còn hương sắc.

Đêm qua tôi phải viết 5 tờ điếu văn nên tôi mệt mỏi quá. Tôi lim dim và nhắm mắt.


Gió dưới hồ nhè nhẹ đưa tôi vào giấc ngủ. Hình ảnh thầy Sơn hiện ra tại sân trường giữa buổi trưa nắng chang chang. Khi thầy từ mặt trận về. Giọng thầy oang oang đang nói chuyện với các sinh viên...

Thầy như pho tượng đồng đen giữa nắng chiều đỏ ối khi nghe báo cáo giữa núi đồi An Khê.

Tiếng thầy thét vang tại núi Nưa mở màn đại hội tập… Cánh tay thày đã vỗ vai an ủi tư lệnh Trần Công Khanh... Trong mơ tôi chợt thấy bà Trần Kiếm Qua dắt hai con xăm xăm bước tới. Tôi vội bảo:

- Bà đi mau lại phía kia cho kịp đám tang của tướng Sơn, bà thảng thốt nói:

- Nguyễn Sơn mới 48 tuổi đã chết thật sao!

Bà vội quay ngoắt và dắt cả con đi về hướng xe tang vừa đi vừa khóc2





88

Trời đột nhiên bừng sáng hồng lên giống như mầu trời ở núi rừng An Khê năm xưa. Tiếng của tướng Nguyễn Sơn bỗng lại vang vang khắp núi rừng:

- Tập hợp!

Tôi vội vã gọi

- Quảng, Huệ ơi! Ra xếp hàng mau lên!

Lúc ấy bộ đội cảnh vệ với ba lô và súng đạn đã chạy lại sẵn sàng - Ông cầm còi rúc một hơi dài. Tất cả đã vào hàng ngay ngắn.

- Chạy đều! chạy!...

Mà sao trong hàng của chúng tôi hôm nay lại có đội chèo mang kèn trống, đội tuyên truyền xung phong. Có cả Hồ Đệ, Lê Văn Kiên, Trần Đình Mai cùng các em Thiếu sinh quân và Văn nghệ sĩ có cả Sĩ Ngọc, Nguyễn Phan Chánh, Đặng Thái Mai, Hữu Loan, Nguyễn Tiến Lãng, Phạm Duy, Thái Thanh, Nguyễn Tuân, Chế Lan Viên, Hải Triều và nhiều nhà văn nổi tiếng khác. Tôi bước qua một bên nhìn đoàn người sáng nay sao lại dài dằng dặc suốt từ lưng đèo lên đỉnh đồi. Tôi hô lớn: Tư lệnh Nguyễn Sơn đang cùng chúng ta hành quân.


Tôi giật mình vì tiếng còi ô tô làm tôi tỉnh cơn mê. Đoàn xe vẫn vun vút qua trước mặt tôi. Hồ Gươm vẫn còn đó. Cột cờ Thăng Long thành còn đó với màu cờ đỏ phất phới đang vẫy gọi. Xa xa phải chăng là núi rừng Trung Quốc mờ nhạt như khói sương.

Ngàn năm mây vẫn bay
Ngàn năm nhiều biến thiên lịch sử
Tướng Nguyễn Sơn
vị tướng hào hùng, văn võ song toàn,
công thần của cả 2 nước Trung Việt
Ngàn năm thương nhớ khôn nguôi!!...


Viết xong tại thủ đô Hà Nội tháng 10 năm 2006
(Nhân ngày giỗ tướng Nguyễn Sơn 21/10/1956)
Hà Anh
__________________________________________
1. Trích trong Kim vân Kiều của Nguyễn Du.
2. Câu thơ tôi đọc thấy trong truyện Kiều khúc các tài tử hâm mộ tiếng tăm ca nữ Đạm Tiên khi đến nơi thì Đạm Tiên đã mất.



Tiêu đề: Re: Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc
Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Mười Hai, 2009, 08:50:12 pm

PHỤ TRANG

Nhận xét của:
•   Chủ tịch nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa: Mao Trạch Đông
•   Nhà văn Quân đội Lý Linh, Ban chấp hành Hội Nhà văn Trung Quốc
•   Đỗ Quang Hạnh - Báo Lao động Chủ nhật 01/1994
•   Lão tướng Tôn Nguyên Khởi, Đạo diễn cuốn phim nhiều tập “Bài ca tráng sĩ”.
•   Minh Quang viết cuốn “Nguyễn Sơn vị tướng hoàn thoại”
•   Trích báo Bắc Kinh - Trung Quốc.
•   Nhận xét của Nhà văn Chu Ngọc
•   “Sự rạn nứt trong hàng lãnh đạo Hồng Quân”.
•   Một số bài thơ của Hoàng Trung Thông
•   Bài thơ của Hữu Loan
•   Tài liệu tham khảo
•   Lời bình của nhà thơ Hữu Loan
•   Bài nhạc “Râu bác Sơn” của Trần Đình Xuyên
•   Bài nhạc “Sinh viên Lục quân ca” của Quốc Tài (Hà Anh)
•   Tiểu sử tác giả



TRÍCH ĐOẠN NHẬN XÉT
VỀ TƯỚNG NGUYỄN SƠN


* Mao Trạch Đông, Chủ tịch nước CH Nhân dân Trung Hoa

Khi nghe nhân dân Việt Nam đứng lên đánh bọn thực dân Pháp muốn xâm chiếm nước ta lần thứ II, Hồng Thủy xin Mao Chủ tịch để được trở về Việt Nam tham gia cứu nước.

Mao Chủ tịch cùng Thủ tướng Chu Ân Lai, Nguyên soái Diệp Kiếm Anh mời Hồng Thủy uống trà trên bàn đá trước nhà hàng bên dòng sông Dịch Thủy, Mao Chủ Tịch ngắm nhìn người chiến sĩ quốc tế, vị chỉ huy ưu tú đã vào sinh ra tử. Ông nói với giọng thân thiết “Tiểu Hồng, chúng tôi đều đồng ý để anh về Việt Nam nơi đó là Tổ quốc của anh, chúng tôi rất hiểu anh. Anh là cán bộ tốt của Hồng quân. Khi về đến Việt Nam anh phải hoà hợp và đoàn kết với cán bộ Việt Nam. Mao Chủ tịch lại còn nói đùa: “Tính cách của Hồng Thủy rất cứng rắn, trong sáng. Biết dùng những cán bộ như thế thì rất tốt như con tuấn mã tung hoành ngàn dặm, nhưng không cẩn thận sẽ bị con tuấn mã đá bằng chân sau”. Nghe Mao chủ tịch nói, các vị tướng lĩnh, các nhà lãnh đạo đều phá lên cười.

* Nhà văn quân đội Lý Linh, Ủy viên Ban chấp hành Hội nhà văn Trung Quốc đánh giá Nguyễn Sơn:

Hồng Thủy là một khối thép không han rỉ trong đói rét cực nhọc không run sợ trước mưa bom lửa đạn, không giận hờn bởi sự hiểu lầm hoặc sự xúc phạm: đanh thép như ngời lên một chân lý sâu xa trong lò luyện của những nghịch cảnh và chà xát, không loại sắt nào có thể tồn tại, còn gang thép vẫn là gang thép, rèn càng nhiều chất thép càng tinh.

* Đỗ Quang Hạnh, Báo Lao động Chủ nhật, tháng giêng năm 1994

Nguyễn Sơn là một vị tướng của hai quốc gia, hiệp sĩ hào hoa thời trận mạc. Mặc dù sinh ra và mất đi tại Hà Nội, nhưng cuộc đời của Nguyễn Sơn lại trải dài trên các nẻo đường Trung Hoa cùng cuộc Vạn Lý Trường Chinh và mặt trận Liên khu 4 thời kháng Pháp. Ngoài những thành tích quân sự Nguyễn Sơn còn được coi là vị tướng Văn hoá, yêu mến và am hiểu văn nghệ. Có lẽ ít ai có một quá khứ hào hùng đến vậy. Đặc biệt vinh dự trong cuốn sách “Những người bạn nước ngoài” của nhà xuất bản Bắc Kinh năm 1993. Nguyễn Sơn được dành riêng những trang trân trọng như M.M. Boradin (chiến sĩ ngoại quốc chiến đấu trong hàng ngũ Hồng quân).

* Lão tướng Tôn Nguyên Khôi đạo diễn cuốn phim nhiều tập “Bài ca tráng sĩ” đã có một tập dành riêng các chiến sĩ quốc tế như BETHUNE, COOCLIVA, Buttion, Hồng Thủy. Ông là bạn của Hồng Thủy nhưng lại tiếc rằng tư liệu về Hồng Thủy trong ống kính ít quá.

* Minh Quang viết cuốn Nguyễn Sơn vị tướng huyền thoại

Tôi sùng ông, coi ông như vị tướng huyền thoại, nên mặc dù ông đã mất đi trên 40 năm, nhưng đi đến đâu dù cán bộ cấp nào hay người dân bình thường ở nơi ông đã đi qua, khi nhắc tới ông đều nói những lời lẽ trân trọng, một niềm thương tiếc. Ông đúng là quân nhân từ nhân dân mà ra “Đi dân nhớ, ở dân thương”.

* Báo chí Bắc Kinh, Trung Quốc

“Trong lịch sử nước Cộng hoà nhân dân Trung Quốc và quân giải phóng nhân dân Trung Quốc, đây là lần đầu tiên Đảng và chính quyền đã phong hàm và tặng huân chương cho người nước ngoài để tỏ lòng biết ơn và kính trọng sự cống hiến vô tư của những chiến sĩ quốc tế đã góp phần cho một nước Trung Hoa hùng mạnh. Nhân dân Trung Quốc đời đời ghi nhớ công ơn của một vị tướng Việt Nam cũng là tướng của Trung Quốc”.


Tiêu đề: Re: Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc
Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Mười Hai, 2009, 08:50:57 pm

* Nhận xét của Nhà văn Chu Ngọc:

Trong thời gian công tác tại Hội văn nghệ Quân khu 4, ông đã có nhận xét:

Tôi đã hiểu ông Sơn. Tôi thấy nhiều cái thú vị chung đúc ở ông. Ông có cái gì thật rộng lượng về suy nghĩ tôi thấy như hơi hướng của Chủ tịch Mao, có một lúc tôi lại thấy anh hiền hậu, tế nhị như khi thường nghĩ về Bác Hồ. Thường thường tôi lại thấy anh là một nhân vật của Thủy Hử sống lại. Rồi trong lúc hành quân ở Liên khu 4 có đoàn văn nghệ râu ria xồm xoàm, gươm giáo lẻng kẻng đi len vào giữa những khẩu ba dô ca, tôi lại thấy anh là Từ Hải của Nguyễn Du.

Tôi thích thú thấy trong cuộc cách mạng của nước nhà có một vị tướng phóng khoáng như tướng Nguyễn Sơn. Cái tác phong quần chúng của ông giúp cho tôi suy nghĩ nhiều về con người cách mạng. Là một thiếu tướng Tư lệnh của một quân khu rộng lớn, đáng lẽ ông phải cảnh giác với địch. Tôi nghĩ là đi đâu cũng phải tiền hô hậu ủng nghĩa là phải bảo vệ như mắc vải che cánh cửa của chiếc ô tô hòm để đề phòng kẻ ám sát. Nhưng tướng Nguyễn Sơn thì bất cứ ở đâu cũng thấy: Đi chợ Rừng Thông, đi chợ Đô Lương, chiều vào bãi đá bóng, tối lửng thửng ở cầu 4, mặc quần đùi chạy thi với bộ đội, đánh cờ, uống cà phê, dự những buổi tập kịch rồi lại trịnh trọng lên lớp huấn luyện về các môn chính trị, quân sự, văn hoá v.v...

Tôi thấy ông xông xáo như thế, tôi thường lo: ngộ có kẻ ám sát ông thì sao? Nhưng cho đến nay ông không chết vì địch mà lại chết vì ung thư. Thế mới biết cái đức tin vào quần chúng, vào nhân dân của tướng Nguyễn Sơn quả là lớn và hiếm có. Người cán bộ quân sự ấy bảo vệ đất nước không phải chỉ thuần tuý ở mặt súng đạn. Ông đặc biệt chú trọng nâng cao tâm hồn của người Việt Nam để say sưa yêu nước, yêu con người, yêu ngôn ngữ, yêu giọng nói, điệu múa, yêu thơ, yêu họa. Ông đã cùng ông Đặng Thái Mai khơi lên một mùa văn nghệ sáng sủa của buổi đầu kháng chiến ở Liên khu 4. Ông đã giúp đỡ cuộc sống của văn nghệ sĩ và tạo điều kiện cho họ tham gia chiến dịch tìm cảm hứng và tư liệu để sáng tác. Khuyến khích mầm non văn nghệ như nhóm Lúa xanh. Xuất bản tác phẩm và thường xuyên triển lãm hội hoạ, khuyến khích làm tranh sơn mài. Những kịch bản có tiếng vang rộng rãi như “Cái đèn, Cái võng, Cái loa, Trên nớ, Người mẹ y tá Trung Hoa”...

Những cuộc tranh luận về văn nghệ thường xuyên tổ chức. Sau khi tướng Nguyễn Sơn công tác qua Trung Quốc, Triều Tiên. Ông Đặng Thái Mai nằm một chỗ vì đau ốm. Ông Lưu Trọng Lư đã ôm cái thủ đô văn nghệ của liên khu về Nghệ An. Ở đấy đã thực hiện đường lối văn nghệ của ông Tô Thư từ Việt Bắc đưa về với chủ trương vì lợi ích nhất thời, làm cho nhỏ cho nhanh, dễ dãi và sơ lược.

Vài năm sau phong trào văn nghệ đã đi xuống thảm hại. Khi điểm lại thành quả không đáng kể. Người ta mới thấy sự to lớn, sâu sắc cái đầu văn nghệ của Nguyễn Sơn đã tác động mạnh và đi sâu vào lòng dân chúng trong những năm kháng chiến chống Pháp như thế nào.

* Để hiểu rõ hơn về sự rạn nứt trong hàng lãnh đạo Hồng quân

Dưới đây, là trích đoạn đồng chí Minh Quang đã nói rõ trong cuốn: Nguyễn Sơn vị tướng huyền thoại (trang 32)

Tướng Lưu Bá Thừa: “Hy vọng phá tan cuộc vây quét lần thứ 5 cuối cùng đã bị tiêu tan”... chỉ còn lại con đường trường chinh (sau khi lực lượng Hồng quân đã bị quân Tưởng tiêu diệt hết phân nửa lực lượng). Lúc ấy Mao Trạch Đông bị vô hiệu hoá... Thực tế việc chỉ huy quân sự trong tay Lý Đức (Otto Brawn: người Đức)... Sau khi Hồng quân bị thất bại trong cuộc chiến đấu bảo vệ Quảng Xương địch bắt đầu mở cuộc tấn công toàn diện vào trung tâm khu Xô Viết tháng (8/1934). Bác Cổ gọi Lý Duy Hán tới chỉ vào bản đồ: Hồng quân phải di chuyển đến Hồng Giang, Tương Tây (Hồ Nam) xây dựng căn cứ địa mới.

Theo lệnh trên, Lý Duy Hán sắp xếp đội ngũ. Cơ quan trung ương biên chế thành 2 trung đội.

Trung đội 1 (sao đỏ có: quân đoàn) gồm cán bộ cao cấp Bác Cổ, Lạc Phủ Chu Ân Lai, Mao Trạch Đông, Chu Đức, Vương Gia Tường, Lý Đức.

Hạng Anh phụ trách “phân cục Trung ương” gồm Trần Nghị, Cù Thu Bạch...

Ngày 10 tháng 10 năm 1934 trung ương đảng và Bộ tư lệnh Hồng quân từ thủ đô đỏ Thuỵ Kim lên đường. (có 5 quân đoàn số 1, 3, 5, 8, 9 cùng 8 vạn quân từ Trương Đình Vinh bắc tỉnh Phúc Kiến và Thuỵ Kim, Vũ Đô).

Lúc đầu do đường lối “tả khuynh thành chủ nghĩa chạy trốn trong hành động quân sự”. Ngày 21 - 10 quân đoàn 1 tiêu diệt 1 trung đoàn, bắt sống 300 tên ở tuyến đầu. Địch phong toả tuyến 2 tại Quế Đông (Quảng Tây) ngày 2- 11 Hồng quân bao vây kỳ tập diệt gọn quân địch. Tuyến 3 của địch tại Huyện Sâm, Nghi Chương (nam Hồ Nam). Nhiếp Vĩnh Trân đã nhanh chóng tiêu diệt tuyến phong toả “gang thép của địch”.

Tuyến thứ 4 tại bờ sông Trường Giang (Quảng Tây) do chủ trương đánh bừa để gặp quân đoàn 2 và 6 nên đã thất bại nặng nề còn 3 vạn quân (mất phân nửa lực lượng 1 - 12). Trước nguy cơ bị vây, bị chặn, Mao Trạch Đông đã phân tích chủ trương của Bác Cổ gặp 2 quân đoàn 2 và 6 là sai, phải đổi hướng tiến về Quí Châu là nơi lực lượng địch mỏng và yếu để dành thế chủ động. Được một số ủng hộ, Hồng quân đã chiếm Lê Bình, Quí Châu. Ngày 15 tháng 12 họp tại Lê Bình quyết định lập căn cứ ở Xuyên Khâm. Từ 15 đến 17 tháng 1 năm 1939 đảng cộng sản Trung Quốc họp Bộ chính trị mở rộng ở Tuần Nghĩa - Sau khi Bác Cổ và Chu Ân Lai báo cáo về cuộc vây quét của địch lần 5, Mao Trạch Đông phê bình gay gắt những sai lầm về “phòng ngự tiêu cực” của chủ nghĩa “mạo hiểm tả khuynh” được mọi người ủng hộ.

Hội nghị Tuân Nghĩa đã đạt 2 kết quả:

1. Kiểm điểm cuộc chống vây quét lần 5 của địch chỉ rõ, đường lối quân sự của Bác Cổ, Lý Đức đã gây tổn thất to lớn, nên chấm dứt ngay đường lối này.

2. Cải tổ cơ cấu lãnh đạo trung ương bầu Mao Trạch Đông làm ủy viên thường trực Bộ chính trị, giao quyền chỉ huy quân sự cho Chu Đức và Chu Ân Lai. Mọi người thừa nhận “Mao Trạch Đông đã cứu Hồng quân”. Hội nghị Tuân Nghĩa được coi là “bước ngoặt sống còn của đảng cộng sản Trung Quốc”.

Hội nghị đã công nhận đảng cộng sản Trung Quốc thoát khỏi chủ nghĩa mạo hiểm tả khuynh chủ nghĩa giáo điều, bè phái đã từng gây nguy hại suốt 4 năm, ngoài ra còn thoát khỏi sự bị động do sự can dự của nước ngoài.

Cũng tại hội nghị này Bộ chính trị quyết định tiếp tục tiến lên phía bắc thành lập căn cứ địa mới ở Thiển Tây Cam Túc với những thuận tiện về quân sự và kinh tế.


Tiêu đề: Re: Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc
Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Mười Hai, 2009, 08:53:13 pm

Tướng Sơn rất yêu mến và hay hôn các cháu, râu bác rậm các cháu sợ nhưng lại thích được bác hôn.

Râu Bác Sơn
(Nhạc và lời: Trần Đình Xuyên)

Râu Bác Sơn, râu Bác Sơn
Râu kia cọ buồn ghê
Râ u Bác Sơn, râu Bác Sơn
Cọ vào má rát ghê.
Còn gì bằng được Bác đến gần
Còn gì bằng được Bác hôn nhiều
Ôi! Râu nhiều sợ ghê.



Lục quân trung học hành khúc
Nhạc và lời: Hoàng Anh
(SV. Quốc Tài, Đại đội 3)

Cùng nhau sinh viên ta mau bước lên.
Kìa chim hót trên cành đem bao phút vui mừng.
Lục quân ta mong tương lai sáng trong hồng.
Chung sức ta cùng bền chí bước lên đường.
Còn đâu thu qua với ngày tàn phai
Nào cùng hát cùng nhau vang hát rền khắp phương trời Nam.
Ngày mai lục quân bước theo Bác Hồ lập chiến công

Dù cho mưa rơi hay khi nắng kinh hồn.
Ta quyết chuyên cần đèn sách khắc ghi lòng.
Thầy ta luôn cho ta bao tháng năm học
Ta quyết theo thầy vùng vẫy sắp xa trường
Là trang nam nhi mong ngày thành công
Nào cùng hát cùng nhau vang hát rền khắp phương trời Nam.
Ngày mai lục quân bước theo Bác Hồ lập chiến công




CÁC SÁCH THAM KHẢO

1. Hoàng Hà nhớ, Hồng Hà thương của Trần Kiếm Qua, Nhà xuất bản Văn học, nộp lưu chiểu quý I/2004.
2. Nguyễn Sơn, vị tướng huyền thoại của Minh Quang. Nhà xuất bản trẻ. Nộp lưu chiểu tháng 10 năm 2001.
3. Luận chính trị quân sự - Thiếu tướng Nguyễn Sơn. Nhà xuất bản Lao động. Nộp lưu chiểu quý IV năm 2004.
4. Tư liệu Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Thành phố Hồ Chí Minh
5. Tư liệu Ban nghiên cứu lịch sử đảng Cần Thơ
6. Tư liệu Ban nghiên cứu lịch sử đảng Kiên Giang
7. Tư liệu Khu 5 - 30 năm chiến tranh Giải phóng (Bộ Tư lệnh Quân khu 5, 1986).
8. Tư liệu Ban nghiên cứu lịch sử đảng Quảng Ngãi.
9. Những người vợ tướng Nguyễn Sơn - bài viết Nguyễn Quang Thân trên tập san.
10. Tướng Giáp qua 2 cuộc chiến tranh Đông Dương của Ô. Peter Macdonald. Nhà xuất bản Quân đội nhân dân - năm 2004. Fax: 04. 7471106.
11. Tam Quốc Chí - La Quán Trung
12. Lịch sử tình nguyện quân Việt Nam - Campuchia ( 1945 - 1954)
13. Trăm năm một thuở - của Đoàn Minh Tuấn. NXB Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh
14. Phong trào đấu tranh của Đảng và Nhân dân thị xã Buôn Ma Thuột.
15. Lịch sử Đảng và Nhân dân chống Pháp, chống Mỹ tỉnh Đắc Lắc tập 2 - 1992
16. Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân. NXB Đồng Nai năm 2000
17. Tuyển tập thơ Hoàng Trung Thông. NXB 1992
18. Văn kiện quân sự của Đảng 1945 - 1950
19. Tư liệu do Vũ Khắc Bồng trưởng ban ngoại vụ TP HCM cung cấp
20. Đồng chí Nguyễn Văn Thắng, cán bộ hưu trí ở Cửa Nam, thành phố Vinh
21. Đồng chí Nguyễn Hữu Bài, Đại đội trưởng cận vệ tướng Nguyễn Sơn ở Nghĩa Đàn - Hà Tĩnh.
22. Đồng chí Trần Đình Mai, Tổng cục mỏ địa chất
23. Hồ Đệ, Thiếu tướng Tham mưu trưởng Quân đoàn 3.
24. Nhà văn, Đại tá Nguyễn Trần Thiết, Đại đội trưởng Trung đoàn Nam Long, Liên khu 4
25. Thiếu tá Nguyễn Cương, Nam Đồng - Hà Nội
26. Kỷ yếu của trường LQTHQN qua 50 năm do nhà văn Thái Vũ biên soạn
27. Lê Thiên Tào, nhà doanh nghiệp, sinh viên Đại đội I trường LQTHQN
28. Đại tá, thương binh Tống Sĩ Uyên, sinh viên Đại đội I
29. Nhà thơ Hữu Loan, tổng biên tập báo Chiến sĩ QK4.
30. Bà Sờn, TNXP tại Hà Trung - Thanh Hoá.
31. Lịch sử đảng cộng sản Việt Nam. Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương, Tập 1, 1920 - 1954 NXB ST, 1984
32. Lịch sử Viện Lục quân (1946 - 1993). Học viện LQXB
33. Lịch sử Quân đội Nhân dân. NXB Quân đội Nhân dân
34. Lịch sử Bộ Tổng tham mưu trong kháng chiến chống Pháp 45 - 54 (BTTM 1991 )
35. Lịch sử trường Sĩ quan Lục quân Trần Quốc Tuấn (QĐND VN)
36. Từ điển Bách khoa Quân sự Việt Nam (NXB QĐND VN 1985)
37. Lịch sử Đảng CSVN - NXB ST 1984
38. Tư liệu của Đại tá Nguyễn Trại, Thanh Xuân - Hà Nội
39. Tư liệu của Trung tá Võ Ban, đường Nam Kỳ khởi nghĩa, sinh viên LQQN
40. Tạp chí Thế giới mới, số 311 trang 27, 28, 29.
41. Truyện hay của Pháp. Vũ Đình Quý dịch. Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc. 1998.
42. Quân khu 4. Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. (1945- 1954). Nhà xuất bản Quân đội nhân dân. 1/1990.


Tiêu đề: Re: Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc
Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Mười Hai, 2009, 08:56:54 pm

MỘT SỐ TÁC PHẨM DƯỚI THỜI TƯỚNG NGUYỄN SƠN

Trong đội ngũ Văn hoá Nghệ thuật Liên khu 4 phải kể đến các tác phẩm của Hoàng Trung Thông, mà các nhà thơ nổi tiếng thời ấy đánh giá cao như Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư v. v... Tôi xin giới thiệu vài bài của nhà thơ khi ở Liên khu 4.

Bài ca vỡ đất của Hoàng Trung Thông

Chúng ta đoàn áo vải
Sống cuộc đời rừng núi bấy nay
Đồng xanh ta thiếu đất cày
Nghe rừng lắm đất lên đây với rừng
Từng ngày ta góp sức chung
Vun từng luống đất, cuốc từng gốc cây.


Đường xa ta tới đây
Ta gieo sự sống
Trên tầng đất khô
Bàn tay cần cù
Mặc dù nắng cháy
Khoai tây thắm rẫy
Lúa cấy xanh rừng
Hết khoai ta lại gieo vừng
Không cho đất nghỉ, không ngừng tay ta.


Suốt chảy quanh ta
Tiếng suối ngân nga
Hoà theo gió núi
Ta đào nương mở suối
Tuổi ta là những tuổi đấu tranh
Cho dù bạc áo nông binh
Vẫn còn vỡ đất, cây xanh núi đèo


Chim reo trong lá
Hòn đá cheo leo
Chúng ta một lớp người nghèo
Giữa chiều nắng gió
Đào cây cuốc cỏ
Tỉa đỗ trồng khoai
Cuốc càng khoẻ
Càng dễ cày sâu
Hát lên! Ta cuốc cho mau
Như tay ta cuốc ta đào đất lên


Bàn tay ta làm nên tất cả
Có sức người sỏi đá cũng thành cơm
Ta vui mùa lúa thơm
Ta mừng ngày quả chín
Gửi ra người tiền tuyến
Diệt quân thù, gối đất nằm sương


Máu ai nhuộm thắm sao vàng
Mồ hôi ta đổ xuống hàng rau tươi
Rừng xanh xanh cả máu người
Còn mùa lúa tới, còn tươi áo chàm



Tiêu đề: Re: Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc
Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Mười Hai, 2009, 08:57:29 pm

Bao giờ trở lại

Các anh đi
Ngày ấy đã lâu rồi
Xóm làng tôi còn nhớ mãi
Các anh đi
Bao giờ trở lại
Xóm làng tôi trai gái vẫn chờ mong


Làng tôi nghèo
Nho nhỏ bên sông
Gió bấc lạnh lùng
Thổi vào mái rạ
Làng tôi nghèo
Gió mưa tơi tả
Trai gái trong làng vất vả ngược xuôi
Các anh về mái ấm nhà vui
Tiếng hát câu cười
Rộn ràng xóm nhỏ
Các anh về tưng bừng trước ngõ
Lớp lớp đàn em hớn hở theo sau
Mẹ già bịn rịn áo nâu
Vui đàn con nhỏ rừng sâu mới về


Từ lưng đèo
Dốc núi mà cho
Các anh về
Xôn xao làng tôi bé nhỏ
Nhà lá đơn sơ
Tiếng lòng rộng mở
Nồi cơm nấu dở
Bát nước chè xanh


Anh giờ đánh giặc nơi đâu
Chiềng Vang, Vụ Bản hay vào Trị Thiên?
Làng tôi thắng lợi mùa chiêm
Lúa thêm xanh ngọn, khoai thêm thắm vồng
Giảm tô hai vụ vừa xong
Đêm đêm ánh đuốc dân công rực đường
Dẫu rằng núi gió, đèo sương
So anh máu nhuộm chiến trường sá chi
Bấm tay tính buổi anh đi
Mẹ thường vẫn nhắc biết khi nào về
Lúa xanh xanh ngắt chân đê
Anh đi là để giữ quê hương mình
Cây đa, bến nước, sân đình.
Lời thề nhớ buổi mít tinh lên đường
Hoa cau thơm ngát đầu mương
Anh đi là giữ tình thương dạt dào


Các anh đi
Khi nào trở lại
Xóm làng tôi
Trai gái vẫn chờ mong...!



Tiêu đề: Re: Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc
Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Mười Hai, 2009, 08:59:54 pm

Một bài thơ khác của một tác giả khuyết danh gửi tặng người anh cả Nguyễn Sơn

Một ngày mộ xuân
Vị tướng lĩnh áo bạc phong trần
Đến với một nụ cười khô, lạnh
Trên nét mặt còn vương khổ hạnh
Của những ngày xưa
Mấy mươi năm bôn tẩu giang hồ


Có đêm vui thân mật
Người kể chuyện tâm tình
Ngoài muôn dặm chén nồng cũng lạt
Nước mắt, còn vui gì tuổi xanh...
Lần lửa tháng năm cằn mái tóc
Mộng vàng dệt mãi vẫn chưa thành
Đêm đêm nặng trĩu sầu chinh khách
Nằm vọng quê nhà mái tranh
Bâng khuâng: “Biết đến bao giờ nhỉ...”
Có thể đem về vạn chiến binh
Thế mà, tay trắng hoàn tay trắng
Cũng dám về đây gặp các anh


Độ ấy, miền nam đương kháng chiến
Lửa binh ngời đỏ một phương trời
Số người buộc chặt vòng chinh biến
Lận đận như khi ở nước ngoài...
Cơm rau, sông giữa ngàn quân lính,
Nhục nước cùng chia nỗi hận dài
Bao lần chiến địa nồng hơi súng.
Người Việt miền Nam hể hả cười:
Quân địch nhiều vũ khí
Nhiều đại bác, chiến xa
Nhưng cũng hoang mang chiều Vạn Giả
1
Máu, xương, một buổi chật quan hà


Người đi lên
Quân đội gửi niềm tin
Súng lắp sẵn để chờ nghe hiệu lệnh
Quân với tướng hợp chung nguồn sức mạnh
Cờ hân hoan nghe ca hát vang lừng
Theo anh! Theo anh! Vị tướng anh đời Trần
Theo anh! Theo anh! Và quyết thắng!

__________________________________
1. Một chiến công oanh liệt của Vệ quốc miền Nam tài tình, Khánh Hoà (Trung Bộ) ngày 13/5/1946.


Tiêu đề: Re: Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc
Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Mười Hai, 2009, 09:01:40 pm

“Màu tím hoa sim” Bài thơ của Hữu Loan, được phổ nhạc rất phổ biến trong bộ đội và dân chúng toàn quốc.

Nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng,
Có em chưa biết nói.
Khi tóc nàng xanh xanh
Tôi người Vệ quốc quân
Xa gia đình
Yêu nàng như tình yêu em gái
Ngày hợp hôn
Nàng không đòi may áo mới
Tôi mặc đồ quân nhân
Đôi giầy đinh
Bết toàn đất hành quân
Nàng cười xinh xinh
Bên anh chồng độc đáo
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi
Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến binh
Mấy người đi trở lại
Lỡ khi mình không về
thì thương
người vợ chờ
bé bỏng chiều quê
Nhưng không chết
Người trai khói lửa
Mà chết
Người gái nhỏ hậu phương
Tôi về
Không gặp nàng
Mà tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
thành bình hương
tàn lạnh vây quanh


Tóc nàng xanh xanh
Ngắn chưa đầy búi
Em ơi, giây phút cuối
Không được nghe nhau nói
Không được trông nhau một lần


Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
Áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa
đèn khuya
bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo
ngày xưa...
Một chiều rừng mưa
Ba người anh từ chiến trường
Đông Bắc
Biết tin em gái mất
Trước tin em lấy chồng
Gió sớm thu về rờn rợn nước sông
Đứa em nhỏ lớn lên
Ngỡ ngàng trông ảnh chị
Khi gió sớm thu về cỏ vàng chân mộ chị

Chiều hành quân
Qua những đồi sim
những đồi sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
Tím chiều hoang biền biệt
Nhìn áo rách vai
Tôi hát
“Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh đã mất, mẹ già chưa khâu?”

19481
__________________________________________
1. Trích 40 bài thơ tình chọn lọc. Nhà xuất bản Hà Nội, năm 2001


Tiêu đề: Re: Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc
Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Mười Hai, 2009, 09:08:28 pm

CẢM NGHĨ VỀ TƯỚNG NGUYỄN SƠN

Kiêu kỵ, kiêu hùng tướng Nguyễn Sơn
Dẫu rằng đời những lắm người hơn
Vẫn là tướng lãnh hai đất nước
1
Không khác âm vang một tiếng đồn
Trận mạc hoà đồng câu chính khí
Nhân văn thuần khiết tấm lòng son
Thế gian hồ dễ bao người nhỉ
Kiêu kỵ tự hào một Nguyễn Sơn


Kiêu kỵ tự hào có Nguyễn Sơn
Có Kiêu, có Kỵ, có vuông tròn
Tứ viễn tâm tê
2 in sâu nét
Bản đại hành phương hiện rõ khuôn
Vạn lý trường chinh mòn đá núi
Trường kỳ kháng chiến vẹt đường thôn
Mày râu đất Việt trai kiêu kỵ
Kiên định lòng son với nước non


Nguyễn Báu
Chiến sĩ dưới quyền tướng Nguyễn Sơn




Ông đi còn để lại

(tặng Thanh Hà, con tướng Nguyễn Sơn)

Ông là tướng, ông cũng là nghệ sĩ
Bạn trai đông, bạn gái cũng nhiều
Cũng như sắt mà cũng mềm như lụa
Sách binh thư xếp lẫn truyện Kiều
Ông ngang dọc một thời binh lửa
Lên Bắc về Nam không chùn vó ngựa
Dáng phong trần chẳng mất nét hào hoa
Một đời ông đâu có tuổi già
Đang tranh cãi câu Kiều bên bếp lửa
Bắp ngô nướng ăn nửa chừng bỏ dở
Nhìn sóng quê ngỡ sóng Tiền Đường
Đến thăm người con gái của ông
Tôi bắt gặp trang nhân từ rắn rỏi
Và ánh mắt ông còn để lại
Như câu Kiều xanh mãi giữa nhân gian.


Hà Nội, 1994
Hồ Minh Hà
______________________________________
1. Trung Quốc và Việt Nam.
2. Những lời rút trong danh thiếp của Bác Hồ đề tặng Nguyễn Sơn.



Tiêu đề: Re: Chỉ có một Nguyễn Sơn vị lưỡng tướng quốc
Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Mười Hai, 2009, 09:09:24 pm

TIỂU SỬ

Nhà văn Hà Anh (Tư báo) viết truyện ngắn tên: Mai Anh, Anh Vũ.
Tên thật: Nguyền Quốc Tài. Sinh 1929 tại Lai Châu
Chánh quán: Lấp Vò, Đồng Tháp. Nam Bộ
Trình độ văn hoá: Đại học Văn (có dự lớp văn nghệ 3 tháng cùng Phan Vui, Đoàn Giỏi, Sơn Nam, Nguyễn Bính... tại TW cục miền Nam.
1946 học Võ bị I Quảng Ngãi sau ra tiểu đoàn Ba Dương
1947 học lớp tình báo ĐB miền Nam (phụ tá Phạm Ngọc Thảo mở đường đưa cán bộ TW, vàng, tài liệu vào Nam.
1948 Ban Huấn luyện trường lục quân Nam Bộ
1949 FT TB trung đoàn 131 mở chiến dịch giải toả biên giới Kampuchia
1954 Hoạt động thành SG - CL cùng Phạm Ngọc Thảo
1975 Họa sĩ và phóng viên báo giải phóng báo Cần Thơ
Sau đó 15 năm giúp viết sử đảng cho tỉnh Minh Hải, Hậu Giang, Kiên Giang, Bến Tre. HC Đồng bằng sông Cửu Long.
VỀ VĂN: có 3 truyện.
1. Cuộc phiêu lưu của chú Phi
2. Phan Thị Ràng, cô gái đất Hòn
3. Chỉ một Nguyễn Sơn, lưỡng tướng quốc
VỀ NHẠC: đã phổ biến:
1946 Sinh viên lục quân hành khúc
1947 Tiếng rừng
1948 Mạnh tay chèo
1956 Tay cuốc tay cày
1984 Khen ai hay bằng cô Hoan
1992 Dưỡng sinh ca
1995 Viện trưởng y tế Vĩ Thanh
VỀ HỌA: là họa sĩ cắt hình
Địa chỉ liên lạc: Di động: 090789429
Cần Thơ: 90/3 Phạm Ngũ Lão Thành phố Cần Thơ
Hà Nội: B4 - P412 Huỳnh Thúc Kháng: Di động 04 7760673
Tham gia các câu lạc bộ:
* Văn học thi ca Minh Kiều
* Người yêu
* Fracophone Quảng Ninh & Hà Nội

Hết!