Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Tài liệu - Hồi ký Việt Nam => Tác giả chủ đề:: saoden trong 29 Tháng Sáu, 2023, 07:07:20 am



Tiêu đề: Tổng kết lịch sử công tác An ninh vũ trang của lực lượng An ninh miền Nam
Gửi bởi: saoden trong 29 Tháng Sáu, 2023, 07:07:20 am
- Tên sách: Tổng kết lịch sử công tác An ninh vũ trang của lực lượng An ninh miền Nam - Thời kỳ Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975
- Tác giả:
- Nhà xuất bản: Công an Nhân dân
- Năm xuất bản: 2017
- Người số hóa: macbupda, saoden


TRƯỞNG BAN CHỈ ĐẠO TỔNG KẾT LỊCH SỬ BỘ CÔNG

   THƯỢNG TƯỞNG BÙI QUANG BỂN
   Uỷ viên Trung ương Đảng - Thứ trưởng Bộ Công an


TRƯỞNG BAN NGHIÊN CỨU TỔNG KẾT

   THIẾU TƯỚNG. PGS. TS NGUYỄN BÌNH BAN
   Viện trưởng Viện Lịch sử Công an


BAN NGHIÊN CỨU TỔNG KẾT

   THIẾU TƯỚNG, PGS. TS NGUYỄN BÌNH BAN

   ĐẠI TÁ, TS PHẠM THANH HẢI

   THƯỢNG TÁ NGUYỄN BÁ THU

   THƯỢNG TÁ LÊ VĂN VẤN

   TRUNG TÁ, ThS LƯU THỊ BÍCH NGỌC


Tiêu đề: Tổng kết lịch sử công tác An ninh vũ trang của lực lượng An ninh miền Nam
Gửi bởi: saoden trong 29 Tháng Sáu, 2023, 07:08:05 am
LỜI NÓI ĐẦU


Trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam (1954-1975), đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn lần lượt triển khai 4 chiến lược chiến tranh vô cùng thâm độc và xảo quyệt ở miền Nam Việt Nam. Chúng huy động các lực lượng, sử dụng nhiều biện pháp và các phương tiện chiến tranh hiện đại nhất hòng tiêu diệt phong trào cách mạng miền Nam, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ hòng đẩy lùi phong trào giải phóng dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở khu vực Đông Nam Á, đồng thời bao vây, uy hiếp các nước xã hội chủ nghĩa khác.


Thực hiện mục tiêu giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta đã kiên quyết đứng lên, đoàn kết một lòng, "đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào", giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.


Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đánh dấu bước ngoặt lịch sử vĩ đại của dân tộc ta, đưa cách mạng nước ta bước vào kỷ nguyên độc lập, tự do cả nước cùng tiến lên chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi này là kết quả của sự lãnh đạo tài tình của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, của khát vọng hòa bình và ý chí quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược của toàn quân và dân ta, trong đó có đóng góp quan trọng của lực lượng Công an nhân dân nói chung và An ninh vũ trang miền Nam nói riêng.


Trong cuộc chiến đấu quyết liệt này, lực lượng An ninh vũ trang là một bộ phận quan trọng của lực lượng An ninh miền Nam, phát triển từ không đến có và trở thành lực lượng chủ lực, nòng cốt trong công tác bảo vệ cơ quan đầu não Trung ương cục, các khu ủy, tỉnh ủy và cán bộ lãnh đạo các cấp; xây dựng và bảo vệ căn cứ cách mạng; bảo vệ an ninh, trật tự vùng giải phóng; đồng thời luồn sâu vào lòng địch, trừ diệt những tên tay sai, gián điệp của các cơ quan tình báo, cảnh sát địch; phối hợp chặt chẽ với lực lượng quân giải phóng và nhân dân chống càn quét, đẩy lùi các cuộc tấn công vũ trang quy mô lớn của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, bảo vệ vững chắc căn cứ đầu não kháng chiến. Những thành tích xuất sắc, những chiến công chói lọi của lực lượng An ninh vũ trang miền Nam đã đóng góp to lớn vào sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và để lại cho hôm nay nhiều bài học quý giá.


Sau 37 năm kết thúc chiến tranh, nhiều công trình nghiên cứu lịch sử trong Công an nhân dân đã được tiến hành, nhưng chưa có công trình nào đề cập tới lịch sử hình thành và phát triển củng như công tác và hoạt động của lực lượng An ninh vũ trang miền Nam. Vì vậy, việc nghiên cứu tổng kết, đánh giá toàn diện và có hệ thống để rút ra những bài học kinh nghiệm về công tác an ninh vũ trang của lực lượng An ninh miền Nam thời kỳ chống Mỹ, cứu nước là việc làm cần thiết, vừa có ý nghĩa lý luận, thực tiễn, vừa mang tính nhân văn, giáo dục rất sâu sắc.


Thực hiện Kế hoạch số 58/KH-BCĐ ngày 23-3-2012 của Ban Chỉ đạo Tổng kết lịch sử Bộ Công an và Quyết định số 3422/QĐ-BCA ngày 27-7-2012 của Bộ trưởng Bộ Công an về việc thành lập Ban Chỉ đạo, Ban Nghiên cứu Tổng kết lịch sử công tác an ninh vũ trang của lực lượng An ninh miền Nam thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), Ban Nghiên cứu Tổng kết đã triển khai nghiên cứu và hoàn thành đề tài này vào năm 2015, góp phần vào thành công của đề tài chính "Tổng kết lịch sử Công an nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975)".


Để góp phần tuyên truyền phổ biến và vận dụng kết quả nghiên cứu đề tài vào thực tiễn, đóng góp thêm luận cứ khoa học cho việc bổ sung, phát triển lý luận về công tác an ninh vũ trang và công tác khoa học công an nói chung, lãnh đạo Bộ chỉ đạo Viện Lịch sử Công an biên tập và cho xuất bản thành cuốn sách tham khảo.


Cuốn sách gồm 3 phần:

- Phần thứ nhất: Quá trình hình thành, phát triển và hoạt động của lực lượng An ninh vũ trang miền Nam thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975);

- Phần thứ hai: Những bài học kinh nghiệm chủ yếu;

- Phần thủ ba: Một số tư liệu lịch sử;

Nhân dịp xuất bản cuốn sách, Viện Lịch sử Công an trân trọng cảm ơn và ghi nhận sự giúp đỡ, phối hợp và đóng góp những ý kiến quý báu của các đồng chỉ trong Ban Chỉ đạo tổng kết lịch sử Bộ Công an, các đồng chí Công an lão thành, các nhân chứng lịch sử của Đoàn 180, Bộ Tư lệnh cảnh vệ, Công an một số đơn vị, địa phương, các nhà khoa học lịch sử trong và ngoài lực lượng CAND. Trong quá trình nghiên cứu, Ban Biên soạn đã rất cố gắng và cầu thị khoa học, nhưng dù khó khăn về nguồn sử liệu và trình độ tổng kết nên chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong các đồng chí và độc giả tiếp tục góp ý xây dựng để lần tái bản được hoàn chỉnh hơn.

VIỆN LỊCH SỬ CÔNG AN


Tiêu đề: Tổng kết lịch sử công tác An ninh vũ trang của lực lượng An ninh miền Nam
Gửi bởi: saoden trong 29 Tháng Sáu, 2023, 07:09:35 am
PHẦN THỨ NHẤT
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA
LỰC LƯỢNG AN NINH VŨ TRANG MIỀN NAM
THỜI KỲ KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC
(1954-1975)


Sau Hiệp định Giơnevơ, miền Bắc Việt Nam được hoàn toàn giải phóng, từng bước khôi phục kinh tế, phát triển văn hóa-xã hội, tiến lên chủ nghĩa xã hội (CNXH). Ở miền Nam, Mỹ thay chân Pháp, ảm mưu biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ. Âm mưu cơ bản của Mỹ nhằm chia cắt lâu dài Việt Nam, ngăn chặn sự phát triển của phong trào dân tộc, dân chủ và CNXH ở khu vực Đông Nam Á. Đất nước ta tạm thời chia làm 2 miền với hai nhiệm vụ khác nhau nhưng cùng chung nhiệm vụ chiến lược là đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, tiến tới thống nhất đất nước.


Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, lực lượng An ninh vũ trang miền Nam là một bộ phận quan trọng của lực lượng An ninh mỉền Nam, gắn liền với sự phát triển của cách mạng miền Nam. Lực lượng An ninh vũ trang miền Nam thực hiện nhiệm vụ bảo vệ cán bộ Đảng và các cơ quan của Đảng. Khi cuộc kháng chiến bước vào giai đoạn quyết liệt, lực lượng An ninh vũ trang miền Nam làm nhiệm vụ bảo vệ cơ quan đầu não của Đảng, mặt trận, chính phủ lâm thời, căn cứ địa và chính quyền cách mạng vùng giải phóng. Những thành tích, chiến công của lực lượng An ninh vũ trang miền Nam đã góp phần quan trọng vào thắng lợi chung của cách mạng Việt Nam thời kỳ 1954-1975.


I- GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 1954 ĐẾN ĐẦU NĂM 1960

Sau khi ký Hiệp định Giơnevơ, thực dân Pháp phải rút quân về nước, công nhận chủ quyền, độc lập dân tộc ba nước Đông Dương. Cuộc kháng chiến của nhân dân ta chống thực dân Pháp xâm lược kết thúc thắng lợi.


Tuy nhiên, theo quy định của Hiệp định, vĩ tuyến 17 được lấy làm giới tuyến quân sự tạm thời, phân chia hai miền Nam - Bắc, sau 2 năm sẽ tổ chức tổng tuyển cử, thống nhất đất nước. Từ đây, cách mạng Việt Nam bước vào một thời kỳ mối trong điều kiện đất nước tạm thời chia làm 2 miền với 2 chế độ chính trị khác nhau. Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, đi lên chủ nghĩa xã hội; miền Nam tạm thời dưới sự thống trị của Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Cuộc đấu tranh của nhân dân ta để giải phóng hoàn toàn miền Nam, tiến tới thống nhất nước nhà phải tiếp tục trong một thời gian dài, hết sức gay go và quyết liệt.


Ở miền Bắc, sau khi quân đội Pháp rút vào Nam, nhân dân ta phải tập trung hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế, ổn định cuộc sống, củng cố xây dựng miền Bắc thành hậu phương chiến lược của cả nước, làm cơ sở cho cuộc đấu tranh thực hiện một nước Việt Nam hòa bỉnh, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Trước mắt, miền Bắc phải đối mặt với những khó khăn do hậu quả của gần một thế kỷ thuộc địa và 9 năm kháng chiến chống thực dân pháp; nhiều tàn dư của chế độ cũ để lại và các thế lực phản động thân Pháp tiếp tục chống phá cách mạng. Khi có Hiệp định đình chiến, địch cưỡng ép đồng bào miền Bắc di cư vào Nam; đồng thời cài lại nhiều toán gián điệp, các tổ chức phản động để nắm tình hình, gày rối, phá hoại sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.


Miền Nam tạm thời thuộc quyền kiểm soát của địch; lực lượng cách mạng ở miền Nam phải tập kết ra Bắc. Tình hình đó có tác động mạnh tới tâm tư, tình cảm của đồng bào, đồng chí miền Nam và đặt ra cho cách mạng Việt Nam những nhiệm vụ mới vô cùng khó khăn, phức tạp.


Từ lâu, Mỹ đã âm mưu thay chân Pháp độc chiếm Đông Dương. Nhân cơ hội Pháp bại trận, Mỹ sử dụng sức mạnh quân sự và đồng đôla để hất cẳng Pháp. Âm mưu cơ bản của Mỹ là chia cắt lâu dài đất nước ta, thôn tính miền Nam, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ, ngăn chặn phong trào cộng sản ở khu vực Đông Nam Á; đồng thời lấy miền Nam làm căn cứ tiến công miền Bắc Việt Nam, uy hiếp phe xã hội chủ nghĩa và phong trào cách mạng thế giới.


Thực hiện âm mưu chiến lược này, Mỹ đã thỏa thuận với Pháp, dựng lên một chính quyền tay sai thân Mỹ ở miền Nam. Ngày 16-6-1954, Mỹ ép Pháp và Bảo Đại huộc Thủ tướng Bửu Lộc từ chức, đưa Ngô Đình Diệm lên thay. Ngày 7-7-1954, nội các bù nhìn mớỉ thân Mỹ thành lập do Ngô Đình Diệm làm Thủ tướng kiêm Tổng trưởng quốc phòng. Đến tháng 6-1955, chính quyền Sài Gòn đã xây dựng được một lực lượng quân sự gồm 10 sư đoàn bộ binh, hàng chục trung đoàn độc lập với một Bộ Tổng tham mưu hoàn toàn thân Mỹ. Cố vấn Mỹ được cài cắm sâu trong Phủ Tổng thõng, Bộ Tổng tham mưu, Nha Cảnh sát, các bộ thuộc chính quyền Sài Gòn và cả đơn vị quân đội, chính quyền ngụy từ vĩ tuyến 17 trở vào. Hệ thống cơ quan tình báo Mỹ - ngụy phát triển, gồm nhiều tổ chức công khai và trá hình. Cụ thể là: Cục Tình báo Trung ương Mỹ (CIA), chỉ huy mọi hoạt động tình báo ở Việt Nam 1954-1975; Cục Tình báo Bộ Quốc phòng Mỹ (DIA) là cơ quan tình báo quân sự Mỹ, chỉ đạo toàn bộ hoạt động quân sự ở miền Nam Việt Nam; Phái đoàn Quân sự Mỹ tại Sài Gòn (SMM) làm nhiệm vụ cố vấn, tổ chức, huấn luyện tình báo cho quân đội, an ninh, cảnh sát của chính quyền Sài Gòn; Phái đoàn cố vấn tổ chức huấn luyện (ATOM) do CIA chỉ đạo là cơ quan đặc trách viện trợ của Mỹ cho quân đội và an ninh, cảnh sát của chính quyền Sài Gòn; Phái đoàn cố vấn viện trợ quân sự Mỹ tại Việt Nam (MAAG-VN), chuyên theo dõi tình hình chiến sự miền Nam Việt Nam; Bộ Chỉ huy viện trợ quân sự Mỹ tại Việt Nam (MACV) thuộc Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ, thực hiện nhiệm vụ viện trợ và huấn luyện lực lượng vũ trang ngụy Sài Gòn; các cơ quan Tình báo lục quân Mỹ (AI), cơ quan Tỉnh báo không quản Mỹ (AFI), cơ quan Tình báo hải quân Mỹ (NI) chỉ đạo hoạt động tình báo lục - hải - không quân Mỹ và chính quyền Sài Gòn ở miền Nam Việt Nam.


Tháng 6-1954, Đại tá tình báo Mỹ Lansdale đến Sài Gòn để tổ chức mạng lưới tình báo, nắm tình hình và tìm biện pháp lập chính quyền thân Mỹ ở miền Nam Việt Nam. Để đàn áp, tiêu diệt phong trào cách mạng và tận diệt các cơ sở Cộng sản ở miền Nam Việt Nam, dưới sự chỉ đạo của Mỹ, chính quyền Sài Gòn đã lập một hệ thống tình báo dày đặc từ trung ương đến địa phương. Cụ thể là các tổ chức: Phủ Đặc ủy Trung ương tình báo thuộc Tổng thống Phủ do Ngô Đình Nhu phụ trách; 3 tổ chức tình báo trá hình mang tên Sở Nghiên cứu Chính trị xã hội do Trần Kim Tuyến làm Giám đốc, Sở Liên lạc do Lê Quang Tung chỉ huy, Liên đội Biệt động1 (Còn gọi là Liên đội Quan sát I) chuyên huấn luyện gián điệp biệt kích. Các cơ quan an ninh quân đội, an ninh, cảnh sát địch hoạt động trên tất cả các lĩnh vực, ở mọi địa bàn, kể cả hoạt động chống phá miền Bắc Việt Nam. Sau này còn có các tổ chức trá hình như Bộ Chiêu hồi, Ủy ban Phượng Hoàng v.v...


Tiêu đề: Tổng kết lịch sử công tác An ninh vũ trang của lực lượng An ninh miền Nam
Gửi bởi: saoden trong 29 Tháng Sáu, 2023, 07:11:04 am
Cùng với quá trình xây dựng chính quyền Sài Gòn, Mỹ tăng cường xây dựng bộ máy đàn áp phong trào yêu nước và cách mạng. Chúng tổ chức mạng lưới kìm kẹp nhân dân và đàn áp các cơ sở cách mạng và lực lượng cách mạng đến tận cấp xã, phường, khóm, ấp; hoạt động khủng bố, bắt bớ, giam cầm, tra tấn những người kháng chiến cũ tràn lan, rộng khắp. Mỹ và chính quyền Sài Gòn còn liên tục mở các chiến dịch dẹp các giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo và Bình Xuyên. Từ tháng 5-1955, địch đã mở các đợt "tố Cộng, diệt Cộng" với phương châm "giết nhầm còn hơn bỏ sót". Chúng đã gây ra hàng trăm vụ thảm sát đẫm máu ở Quảng Nam, Bến Tre, Sài Gòn - Gia Định và nhiều nơi khác1 (Chỉ tính trong 7 tháng (từ tháng 7-1955 đến tháng 2-1956), địch đã giết hại, giam cầm 93.362 cán bộ, đảng viên và những ngưòỉ yêu nước ở miền Nam Việt Nam).


Cùng với các chiến dịch "tố Cộng, diệt Cộng", Mỹ và chính quyền Sài Gòn còn ra thông cáo bắt cán bộ ta ra trình diện, phân loại nhân dân, làm tờ khai gia đình, tổ chức các mạng lưới tề điệp, dân vệ, mật vụ ở cấp xã và tổng đoàn dân vệ, đại đội bảo an ỏ cấp huyện nhằm đàn áp phong trào quần chúng đòi hiệp thương tổng tuyển cử, đòi dân sinh, dân chủ, hòa bình. Mỹ và chính quyền Sài Gòn còn dùng chính sách chiêu hàng, mua chuộc cán bộ và các cơ sở cách mạng của ta. Trong những năm 1955-1957, tổ chức và cơ sở Đảng của ta ở miền Nam bị tổn thất nghiêm trọng.


Nhận định về âm mưu của Mỹ, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 6, ngày 15-7-1954, xác định rõ: "Đế quốc Mỹ là kẻ thù chính của nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới, và đang trở thành kẻ thù chính trực tiếp của nhân dân Đông Dương"2 (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 15, Nxb Chính trị Quốc gia, HN, 2001, tr.225). Trên cơ sở đó, Ban chấp hành Trung ương lần thứ 6 xác định phương hướng của cách mạng nước ta là: "Tranh thủ củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất và hoàn thành độc lập dân tộc, dân chủ trong toàn quốc, tăng cường xây dựng lực lượng quân sự, xây dựng một quân đội nhân dân hùng mạnh, thích hợp với yêu cầu của tình hình mới"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 15, Nxb Chính trị Quốc gia, HN, 2001, tr 225).


Từ xác định đúng kẻ thù chính và những diễn biến mới của tình hình cách mạng, Trung ương Đảng đã từng bước xác định quan điểm, đường lối, bước đi của cách mạng và cụ thể hóa bằng những chỉ thị, nghị quyết. Đây là định hướng hết sức đúng đắn nhằm lãnh đạo toàn quân, toàn dân tích cực chuẩn bị bước vào cuộc chiến đấu mới chống đế quốc Mỹ xâm lược.


Để chủ động đối phó với âm mưu và hoạt động của Mỹ, ngày 5-9-1954, Bộ Chính trị ra Nghị quyết về "Tình hình mới, nhiệm vụ mới và chính sách mới của Đảng". Nghị quyết đã chỉ rõ 5 đặc điểm của nước ta sau khi có Hiệp định Giơnevơ, trong đó nhấn mạnh 2 đặc điểm nổi bật, chi phối nhiệm vụ chiến lược và chính sách của Đảng là: từ chiến tranh chuyển sang hòa bình; đất nước tạm thời chia cắt làm 2 miền với 2 chế độ chính trị khác nhau. Bộ Chính trị xác định: Nhiệm vụ đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta chưa phải đã hoàn thành, cuộc đấu tranh ái quốc không vì đình chiến mà kết thúc; cuộc đấu tranh cần phải thay đổi. Chúng ta cần phải hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc trong hình thức đấu tranh mới. Đối với cách mạng miền Nam, Bộ Chính trị xác định nhiệm vụ trước mắt là đấu tranh đòi đối phương thi hành đầy đủ Hiệp định Giơnevơ, củng cố hóa bình, thực hiện tự do dân chủ, cải thiện dân sinh. Bộ Chính trị quyết định giải thể Trung ương cục miền Nam, thành lập Xứ ủy Nam Bộ và Liên khu ủy 5 (riêng Quảng Trị và Thừa Thiên - Huế tạm giao cho Liên khu ủy IV phụ trách) để lãnh đạo trực tiếp cách mạng miền Nam; chỉ đạo Xứ ủy lập "Ban Nghiên cứu Xứ ủy" để nắm tình hình địch với 3 nhiệm vụ chủ yếu: thu thập tin tức tình báo chiến lược, quân báo, bảo vệ Đảng và phong trào cách mạng.


Để tiếp tục nắm tình hình địch và lãnh đạo cách mạng miền Nam, Trung ương Đảng đã bố trí những cán bộ có kinh nghiệm, am hiểu chiến trường ở lại miền Nam; một số cán bộ miền Bắc cũng được bô trí, tăng cường cho cách mạng miền Nam. Năm 1955, các đồng chí Trần Lương, Võ Chí Công được cử vào giữ chức Bí thư, Phó bí thư Đảng bộ Liên khu 5.


Thực hiện sự chỉ đạo của Trung ương Đảng mà trực tiếp là Xứ ủy Nam Bộ, nhân dân miền Nam ở khắp các tỉnh, từ nông thôn đến thành thị đã dấy lên phong trào đấu tranh chính trị. Những cuộc biểu tình rầm rộ, có tính chất biểu dương lực lượng, với những khẩu hiệu vì hòa bình, ủng hộ Hiệp định và đòi thi hành các điều khoản của Hiệp định diễn ra từ thành thị đến nông thôn. Lo sợ trước làn sóng đấu tranh của nhân dân ta, Mỹ và chính quyền Sài Gòn tìm mọi cách đàn áp phong trào, khủng bố gắt gao đảng viên và những người kháng chiến cũ.


Mùa thu năm 1956, đồng chí Lê Duẩn soạn thảo "Đề cương cách mạng miền Nam". Đề cương xác định rõ: "Nhiệm vụ cua cách mạng miền Nam là đánh đổ chính quyền độc tài phát xit Ngô Đinh Diệm, tay sai của Mỹ, giải phóng nhân dân miền Nam khỏi ách đế quốc, phong kiến, thiết lập ở miền Nam một chính quyền liên hiệp có tính chất dân tộc, dân chủ để cùng với miền Bắc thực hiện một nước Việt Nam hòa bình thống nhất, độc lập và dân chủ nhân dân"1 (Lê Duẩn, Tuyển tập, tập I, Nxb Chính trị Quốc gia, HN, 2007, tr. 100). Thực hiện Nghị quyết của Trung ương Đảng và Đề cương cách mạng miền Nam, Xứ ủy Nam Bộ tổ chức Hội nghị đánh giá tình hình, đề ra phương hướng và nhiệm vụ trước mắt là "tích cực xây dựng lực lượng vũ trang tuyên truyền, lập các đội vũ trang bí mật, xây dựng căn cứ ở rừng núi". Tại Khu 5, Hội nghị Liên khu ủy 5 đã đề ra phương châm đấu tranh là: "Dùng vũ trang chính trị nhằm tiêu diệt bọn Mỹ, để khởi động tinh thần dân tộc và phong trào chống Mỹ"2 (Bộ Công an, Lịch sử Công an Liên khu V, Nxb Công an nhân dân, HN, 2008, tr. 53).


Trong thời gian này, Xứ ủy thành lập Ban Bảo vệ Xứ ủy Nam Bộ và chỉ đạo các cấp ủy Đảng thành lập ban bảo vệ do đồng chí bí thư hoặc phó bí thư phụ trách, có cán bộ chuyên trách công tác bảo vệ. Đến đầu năm 1955, Ban Bảo vệ Xứ ủy Nam Bộ và sau đó ban địch tình các khu, tỉnh cũng lần lượt được thành lập và đi vào hoạt động. Riêng các tỉnh thuộc Liên khu ủy Nam Trung Bộ lập ban cán sự Đảng, không có ban địch tình, mà mỗi cán bộ, đảng viên ở lại đều làm công tác địch tình và vận động quần chúng đấu tranh với địch, bảo vệ phong trào cách mạng.


Để phục vụ cho cuộc đấu tranh trước mắt và lâu dài, trong thời gian này, Trung ương Đảng chủ trương tập trung các hoạt động điệp báo cho chiến trường miền Nam, đồng thời chỉ đạo cho các Đảng bộ ở miền Nam bố trí cán bộ và cơ sở điệp báo của Công an và quân báo ở lại chuyển hướng hoạt động cho phù hợp với tình hình mới. Riêng công tác công an ở các tỉnh Khu 5 do Bộ Công an trực tiếp chỉ đạo.


Tiêu đề: Tổng kết lịch sử công tác An ninh vũ trang của lực lượng An ninh miền Nam
Gửi bởi: saoden trong 29 Tháng Sáu, 2023, 07:12:23 am
Thực hiện chủ trương của Đảng, ngay từ tháng 9-1954 đồng chí Bộ trưởng Bộ Công an Trần Quốc Hoàn đã cử đồng chí Trần Viễn Chi, phụ trách công tác phái khiển của Bộ Công an vào miền Nam truyền đạt chủ trương của lãnh đạo Bộ về công tác phái khiển. Sau khi truyền đạt nội dung nhiệm vụ công tác phái khiển, đồng chí Trần Viễn Chi còn trao đổi với các đồng chí phụ trách Công an Nam Bộ về quy ước thông tin liên lạc giữa Bộ Công an với Công an Nam Bộ. Từ năm 1955 đồng chí Bộ trưởng Trần Quốc Hoàn đã quyết định thành lập Tổ Cán bộ miền Nam trong Phòng tổ chức cán bộ, trực thuộc Bộ trưởng; năm 1957, đổi thành Bộ phận cán bộ miền Nam để nắm tình hình miền Nam, tuyển dụng cán bộ tăng cường cho công tác công an ở miền Nam.


Sau khi thành lập Liên khu 5, trong 2 ngày 27 và 28-7-1954, Liên khu ủy 5 đã họp Hội nghị mở rộng đến các bí thư tỉnh ủy để quán triệt Nghị quyết Trung ương 6. Hội nghị đề ra 3 công việc cấp bách phải làm ngay: Mở đợt tuyên truyền và giáo dục sâu rộng cho tất cả cán bộ đảng viên, quần chúng về tình hình nhiệm vụ mới, về phương châm đấu tranh; tổ chức lại bộ máy lãnh đạo của Đảng và các tổ chức quần chúng; tổ chức và biên chế lực lượng vũ trang phù hợp với tình hình. Ngày 19-11-1954, Liên khu ủy 5 đã ra Chỉ thị số 106-PV/3 xác định rõ nhiệm vụ chung của toàn Đảng, toàn dân Liên khu V trong giai đoạn mới. Về công tác công an, chỉ thị nêu rỏ: "Đề cao cảnh giác trong cán bộ, nhân dân, đặc biệt tàng cường công tác bảo vệ chính trị và bảo vệ trị an". Nhiệm vụ cụ thể là khôi phục lại phong trào phòng gian bảo mật, củng cố công tác bảo vệ cơ quan, tích cực đối phó với bọn do thám gián điệp, bài trừ lưu manh, ngăn ngừa và đập tan âm mưu phá hoại của bọn phản cách mạng, bảo vệ an toàn việc chuyển quân tập kết ra Bắc và tài sản quốc gia, bảo vệ nhân dân, nâng cao uy thế của chính quyền cách mạng. Để phục vụ cho cuộc đấu tranh trước mắt và lâu dài, Liên khu ủy 5 chủ trương chọn một số cán bộ có sức khỏe, có kinh nghiệm công tác, thông thạo địa bàn ở lại hoạt động hợp pháp, bất hợp pháp hoặc bí mật. Các cấp ủy Đảng chuyển vào hoạt động bí mật, nhất là các Đảng bộ có 300-500 đảng viên.


Thực hiện chủ trương này, hầu hết cán bộ Công an Liên khu 5 tập kết ra Bắc; số được lựa chọn ở lại thực hiện đổi chỗ, chuyển vùng, xã hội hóa, hoạt động trong các tổ chức biến tướng của quần chúng như: Hội hướng đạo, đoàn hát bộ, tổ văn công, đoàn tuần sương, tuần đinh để bảo vệ Đảng và cơ sở cách mạng.


Tháng 6-1956, trước tình hình diễn biến ngày càng phức tạp của cách mạng miền Nam, Bộ Chính trị họp và ra Nghị quyết về tình hình, nhiệm vụ và công tác miền Nam. Nghị quyết xác định: "tính chất cuộc vận động cách mạng của ta ở miền Nam là dân tộc và dân chủ; nhiệm vụ cách mạng của ta ở miền Bắc là phản đế và phản phong kiến"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng, Toàn tập. Sđd, Tr. 17). "Hình thức đấu tranh của ta trong toàn quốc hiện nay là đấu tranh chính trị, không phải là đấu tranh vũ trang. Nói như thế không có nghĩa là tuyệt đối không dùng vũ trang tự vệ trong những hoàn cảnh nhất định hoặc không tận dụng những lực lượng vũ trang của các giáo phái chống Diệm"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng, Toàn tập. Sđd, Tr. 224). Bộ Chính trị chủ trương: "Tổ chức tự vệ trong quần chúng nhằm bảo vệ các cuộc đấu tranh của quần chúng và giải thoát cán bộ khi cần thiết"2 (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng, Toàn tập. Sđd, Tr. 225); "cần củng cố các lực lượng vũ trang và bán vũ trang hiện có và xây dựng căn cứ làm chỗ dựa. Đồng thời xây dựng cơ sở quần chúng vững mạnh làm điều kiện căn bản để duy trì và phát triển lực lượng vũ trang"3 (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng, Toàn tập. Sđd, Tr. 228).


Sau Nghị quyết này, Bộ Chính trị tăng cường chỉ đạo cách mạng miền Nam, trong đó vấn đề quan trọng nhất là xây dựng và bảo vệ lực lượng cách mạng và căn cứ cách mạng. Đây thực sự là bước chuyển hướng đường lối quan trọng của cách mạng miền Nam.


Thực hiện Nghị quyết của Trung ương Đảng, giữa năm 1958, Khu ủy khu 5 ra Nghị quyết về xây dựng căn cứ Tây Nguyên và miền Tây; các tỉnh Trung Nam Bộ củng cố hậu cần và bước đầu xây dựng lực lượng bán vũ trang và một số đơn vị vũ trang tập trung. Khu ủy cũng chỉ thị cho các địa phương tổ chức các đội tự vệ ở các buôn, làng, thôn, xã để bảo vệ cơ sở, hỗ trợ cho các cuộc đấu tranh của quần chúng, giải thoát cho cán bộ bị địch bắt, trừ diệt số ác ôn ngoan cố.


Ngay sau khi Hiệp định Giơnevơ có hiệu lực, Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã trắng trợn phá hoại Hiệp định, tiến hành khủng bố, trả thù cán bộ, đảng viên và những người kháng chiến. Để đối phó với địch, Xứ ủy Nam Bộ chủ trương đưa các tổ chức Đảng ở miền Nam rút vào hoạt động bí mật. Một bộ phận cán bộ chiến sĩ Công an được phân công ở lại tiếp tục bám địa bàn, nắm tình hình địch, sẵn sàng đấu tranh chống khủng bố, bắt bớ. Đồng thời, Xứ ủy thành lập Trung đội Quốc vệ đội do đồng chí Ba Dũng làm Trung Đội trưởng1 (Lực lượng bảo vệ Xứ ủy rút xuống một cấp: B trưởng làm A trưởng, A trưởng làm chiến sĩ. Đây là tổ chức tiền thân của lực lượng An ninh vũ trang miền Nam). Nhiệm vụ chính của Trung đội Quốc vệ đội là bảo vệ Xứ ủy, bảo vệ căn cứ. Tháng 10-1954, Xứ ủy chủ trương thành lập Ban Bảo vệ Xứ ủy và ban bảo vệ ở các cấp ủy Đảng. Ban Bảo vệ Xứ ủy do đồng chí Văn Viên, Xứ ủy viên phụ trách; các đồng chí Cao Đăng Chiếm (nguyên Phó Giám đốc Sở Công an Nam Bộ), Hoàng Minh Đạo (nguyên Trưởng Phòng quân báo Nam Bộ) làm Phó trưởng ban. Ban Bảo vệ có nhiệm vụ: nắm tình hình địch; xây dựng căn cứ; bảo vệ cán bộ. Tổ chức Ban Bảo vệ gồm 3 bộ phận: Bộ phận địch tình, Bộ phận bảo vệ và Bộ phận thông tin liên lạc. Ban Bảo vệ các cấp ủy Đảng ở miền Nam do đồng chí bí thư hoặc phó bí thư phụ trách, có cán bộ Công an ở lại chuyên trách với nhiệm vụ: vận động phòng gian bảo mật, chống khủng bố, giải thoát cán bộ bị địch bắt; tổ chức nắm tình hình địch; xây dựng, bảo vệ hệ thống giao thông liên lạc; chuẩn bị căn cứ dự bị, đảm bảo an toàn các cơ quan lãnh đạo của Đảng. Các ban bảo vệ của Đảng chính là những tổ chức tiền thân đầu tiên của lực lượng An ninh vũ trang miền Nam sau này.


Được ban bảo vệ các cấp hướng dẫn và làm nòng cốt, nhân dân miền Nam đã đấu tranh quyết liệt với bọn công an, cảnh sát địch để bảo vệ Đảng, bảo vệ lực lượng cách mạng. Trong thời gian này, ở các vùng nông thôn đồng bằng Nam Bộ và vùng rừng núi Trung Bộ đã xuất hiện phong trào đấu tranh chính trị có vũ trang tự vệ. Nhiều đội vũ trang tập trung, vũ trang tuyên truyền ra đời. Ở Liên khu 5 đã xuất hiện các đội trừ gian. Dưới sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, ban địch tình các cấp ở An Giang, Sóc Trăng, Long An, Tây Ninh, Thủ Dầu Một, Bến Tre đã hình thành nhiều tổ "Dân cảnh" ở các xã, ấp. Những thanh niên tích cực được tổ chức lại, hoạt động trên danh nghĩa tuần tra, canh gác, chống trộm cướp, nhưng thực chất là chống địch khủng bố nhân dân, bắt bớ cán bộ. Ở Long An và Tây Ninh, nhiều đội dân cảnh bắt bọn do thám, gián điệp ban đêm đi rình mò, tri hô là cướp, buộc tề xã phải xử lý. Đây là những hình thức "đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang" đầu tiên của lực lượng An ninh miền Nam.


Tiêu đề: Tổng kết lịch sử công tác An ninh vũ trang của lực lượng An ninh miền Nam
Gửi bởi: saoden trong 29 Tháng Sáu, 2023, 07:13:35 am
Xuất phát từ yêu cầu của cách mạng miền Nam, ngày 18-10-1956, tại ấp Xóm Mới, xã Thạch Bình, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, Xứ ủy thành lập Đại đội vũ trang đầu tiên, lấy phiên hiệu là C801 (Là đơn vị tiền thân của Đoàn 180 (An ninh vũ trang miền Nam)), do các đồng chí Nguyễn Văn Thuận (Ba Thu), Lâm Quốc Đăng và Lê Thanh (Tám Lẽ Thanh) chỉ huy.


Quân số lúc đầu gồm 120 đồng chí, thành phần là những cán bộ đã được tuyển chọn trong số cán bộ được Đảng phân công ở lại miền Nam và một số thanh niên tuyển chọn từ cơ sở. Nhiệm vụ của Đại đội C80 là: xây dựng căn cứ, bảo vệ các đồng chí Xứ ủy và các cơ quan trực thuộc Xứ ủy. Đến đầu năm 1957, Xứ ủy thành lập các đơn vị C40, C50, C60, C70, C200, C300; trong đó, C60 trực tiếp bảo vệ Xứ ủy và căn cứ, do đồng chí Sáu Huấn chỉ huy; C70 do đồng chí Sáu Tùng chỉ huy; C80 do đồng chí Mười Kỉnh chỉ huy; quân số mỗi đơn vị khoảng 100 đồng chí.


Tại Khu 5, ngày 21-8-1954, đơn vị 32 được thành lập gồm có 9 đồng chí, làm nhiệm vụ bảo vệ tiếp cận Thường vụ Khu ủy, đồng thời làm nhiệm vụ cơ yếu, điện đài, giao liên, phát động quần chúng bảo vệ trị an, xây dựng lực lượng dân quân du kích, tiếp tế, hậu cần và sản xuất. Đơn vị 32 là tiền thân của Tiểu đoàn 10 An ninh vũ trang miền Nam1 (Sau ngày giải phóng miền Nam, đơn vị được Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu "Đơn vị anh hùng Lực lượng với trang nhân dân"). Đến năm 1959, đơn vị có 19 đồng chí, lấy mật hiệu là B40, do đồng chí Thuần, đồng chí Lũy phụ trách, ở các tỉnh thuộc Khu 5, các tiểu ban bảo vệ, tổ bảo vệ của cấp ủy được thành lập làm nhiệm vụ bảo vệ căn cứ, các đồng chí lãnh đạo, các cuộc họp của cấp ủy, tổ chức quần chúng tham gia chống địch càn quét, bảo vệ Đảng, bảo vệ cơ sở và lực lượng cách mạng, trừ diệt những tên tay sai của địch.


Sau khi được thành lập, tháng 11-1956, lực lượng bảo vệ Xứ ủy đã tổ chức, tham gia cùng các lực lượng vũ trang của Xứ ủy đánh địch tại đầm Vĩnh Cửu (Đồng Nai), diệt 1 trung đội địch, chiếm toàn bộ khu vực Bến Củi, tác động mạnh đến phong trào của quần chúng nhân dân. Tháng 11-1957, lực lượng bảo vệ Xứ ủy đã chủ động tấn công đồn Minh Thạnh (chỉ khu Phước Thành), diệt gọn một dại đội dân vệ địch. Trước đó, tháng 2-1957, lực lượng bảo vệ Xứ ủy được giao nhiệm vụ bảo vệ đồng chí Lê Duẩn ra Bắc nhận nhiệm vụ mới1 (Đồng chí Lê Duẩn được Trung ương điều động ra Bắc và đến năm 1960 được Đại hội Đảng lần thứ III bầu làm Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam). Lộ trình chuyến đi của đồng chí được bố trí theo đường dây bí mật, từ chiến khu qua Campuchia, đi Hồng Kông, về Hà Nội và lực lượng bảo vệ đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.


Đầu năm 1958, ở Nam Bộ đã hình thành 2 căn cứ cách mạng: căn cứ ở Đông Bắc gọi là chiến khu Đ (thuộc Mã Đà), căn cứ ở Tây Bắc gọi là chiến khu C - Dương Minh Châu (thuộc tỉnh Tây Ninh và một phần tỉnh Long An). Để bảo vệ căn cứ, Xứ ủy chủ trương đánh địch để mở rộng căn cứ và phát triển lực lượng. Thực hiện chủ trương của Xứ ủy, rạng sáng ngày 11-8-1958, lực lượng bảo vệ Xứ ủy đánh địch tại chi khu quân sự Dầu Tiếng, diệt gọn 1 tiểu đoàn thuộc Sư đoàn 13 của địch, thu hàng trăm súng.


Trong những năm 1957-1958, địch tăng cường các chiến dịch "tố Cộng, diệt Cộng", "dồn dân lập ấp", xây dựng căn cứ quân sự làm cho phong trào cách mạng miền Nam gặp nhiều khó khăn, thiệt hại. Luật 10/59 của chính quyền Sài Gòn đã gây cho cách mạng miền Nam nhiều tổn thất nghiêm trọng. Nhân dân miền Nam không có con đường nào khác phải đứng lên chống Mỹ và chính quyền Sài Gòn thân Mỹ.


Trước tình hình đó, Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị lần thứ 15 (mở rộng), để ra nhiệm vụ chính của cách mạng Việt Nam lúc này là phải: "Tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh để giữ vững hòa bình, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 20, Sđd, tr. 62). Hội nghị đề ra phương hướng của cách mạng miền Nam là: Khởi nghĩa giành chính quyền, dựng lên chính quyền cách mạng của nhân dân. "Tuy nhiên, khi sử dụng lực lượng vũ trang tự vệ và vũ trang tuyên truyền, cần phải thấu suốt nguyên tắc phục vụ cho đấu tranh chính trị và phục vụ lợi ích của đấu tranh chính trị"2 (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 20, Sđd, Tr. 84).


Nghị quyết 15 (tháng 1-1959) của Trung ương đã thổi bùng lên ngọn lửa đấu tranh vũ trang ở miền Nam. Khí thế đấu tranh của quần chúng sục sôi, hoạt động vũ trang phát triển rộng khắp đã hỗ trợ tích cực cho phong trào đấu tranh chính trị. Nhân dân khắp các tỉnh từ Khu 5 trở vào đến Sóc Trăng Cà Mau đều đứng lên đấu tranh với chính quyền địch, diệt trừ bọn tề điệp, cảnh sát, ác ôn ở cơ sở. Ngày 17-1-1960, phong trào Đồng khởi nổ ra ở huyện Mỏ Cày (tỉnh Bến Tre), mở đầu cho phong trào Đồng khởi toàn miền Nam. Từ đây, cách mạng miền Nam chuyển sang giai đoạn đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang3 (Sau này thêm hình thức đấu tranh ngoại giao; tức là ba mũi giáp cóng: chính trị, quân sự, ngoại giao).


Trước sự lớn mạnh của phong trào đấu tranh vũ trang, Xứ ủy Nam Bộ chủ trương đánh tiêu diệt hoàn toàn cứ điểm Tua Hai của địch nằm trên quốc lộ 22 (cách thị xã Tây Ninh 7 km) nhằm mở rộng và phát triển căn cứ cách mạng, đẩy địch ra xa, tạo vành đai an toàn cho cơ quan đầu não của Xứ ủy, đồng thời hỗ trợ cho phong trào Đồng khởi ở Bến Tre. Lực lượng bảo vệ căn cứ do đồng chí Lê Thanh, Tám Xuyến, Mai Chí Thọ chỉ huy đã phối hợp với các lực lượng vũ trang của Xứ ủy và địa phương đánh địch. Trong trận này, lực lượng bảo vệ Xứ ủy làm chủ công, nòng cốt, đã tiêu diệt và bắt sống gần 1.000 tên địch, thu hơn 1.500 súng và nhiều quân trang, quân dụng khác. Sau chiến thắng Tua Hai (1-1960), đơn vị đã hỗ trợ cho quần chúng nhân dân giải phóng 2/3 số xã thuộc Bắc Tây Ninh, mở rộng và phát triển khu căn cứ, tạo khí thế mới cho phong trào Đồng khởi ở miền Nam.


Cách mạng càng phát triển, yêu cầu của công tác bảo vệ Đảng và đánh địch đặt ra càng cấp thiết. Tháng 3-1960, sau khi C80, một trong 3 đơn vị (C60, C70, C80) bảo vệ Xứ ủy, bảo vệ căn cứ bị địch phát hiện và ráo riết theo dõi, các đồng chí Mười Kỉnh (C Trưởng) và đồng chí Tám Lai (Chính trị viên) đã đề nghị và được Xứ ủy chấp thuận cho thay đổi phiên hiệu thành C1801 (C180 sau này thành Trung đoàn 180 An ninh vũ trang miền Nam - Đơn vị Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân (nay là Đoàn 180 thuộc Bộ Tư lệnh Cảnh vệ)) (Đại đội 180). Trong thời gian này, Thường vụ Khu ủy 5 quyết định thành lập Ban Bảo vệ căn cứ, do đồng chí Ba Vi từ Quảng Nam về phụ trách.


Tiêu đề: Tổng kết lịch sử công tác An ninh vũ trang của lực lượng An ninh miền Nam
Gửi bởi: saoden trong 29 Tháng Sáu, 2023, 07:14:13 am
Tháng 7-1960, Xứ ủy Nam Bộ ra Chỉ thị số 01 thành lập Ban Bảo vệ An ninh Xứ ủy (C93B), do đồng chí Phạm Thái Bường (Xứ ủy viên) phụ trách, đồng chí Cao Đăng Chiếm làm Phó trưởng ban. Sau đó, các tỉnh, thành phố và nhiều huyện ở miền Nam đều thành lập các ban bảo vệ an ninh các cấp. Đây là lực lượng nòng cốt của lực lượng An ninh mỉền Nam sau này, trong đó có lực lượng An ninh vũ trang miền Nam.


Do tình hình cách mạng miền Nam có nhiều biến chuyên mới, tháng 10-1960, Xứ ủy Nam Bộ chuyên căn cứ từ chiến khu Đ về căn cứ Dương Minh Châu. Để bảo vệ căn cứ Dương Minh Châu, Xứ ủy quyết định thành lập Ban An toàn khu trực thuộc Xứ ủy; lực lượng gồm Công an và Quân đội, được bố trí thành 1 đại dội trinh sát và 3 đại đội bộ binh.


Từ năm 1960, phong trào vũ trang cách mạng phát triển khắp miền Nam. Nhiệm vụ của lực lượng Bảo vệ Xứ ủy nặng nể hơn, vừa bảo vệ các đồng chí cấp ủy đi công tác, vừa tham gia chiến đấu bảo vệ, xây dựng và mở rộng căn cứ, đồng thời tuyển quân xây dựng lực lượng bổ sung cho bộ đội chủ lực.


Từ tháng 11-1960, Mỹ và chính quyền Sài Gòn tiến hành phá rừng, làm đường để chia cắt lực lượng ta, đồng thời đưa lực lượng địch áp sát căn cứ. Chúng đã lập các đồn, bốt tại Kà Tùm, Sa Mát, Bổ Túc, Cần Đăng, dọc các tuyến đường Kà Tum - Sa Mát, Kà Tum - Bổ Túc - Tống Lê Chân, Đồng Phan Cần Đăng thuộc Tây Ninh. Để bảo vệ an toàn cho căn cứ, lực lượng Bảo vệ Xứ ủy đã chủ động đánh địch, cản trở hoạt động phá rùng, mở đường của địch.


Ở Liên khu 5, cùng với các cuộc càn quét, đánh phá vào các căn cứ của ta trong rừng, Mỹ và chính quyền Sài Gòn còn ráo riết bao vây căn cứ, kiểm soát các ngả đường, ngăn cấm nhân dân tiếp tế cho cách mạng. Tuy bị địch khủng bố, đánh phá rất ác liệt, nhưng phong trào cách mạng ở Liên khu 5 vẫn phát triển, hoạt động vũ trang tuyên truyền vẫn phục vụ tốt cho phong trào đấu tranh chính trị.


Từ năm 1960, phong trào cách mạng ở miền Nam đã chuyển sang khởi nghĩa từng phần, căn cứ địa của các khu và tỉnh được hình thành; công tác bảo vệ phong trào cách mạng, bảo vệ căn cứ đặt ra rất cấp bách. Trước tình hình đó, Bộ Công an đã tuyển chọn 36 cán bộ miền Nam tập kết, đào tạo nghiệp vụ rồi đưa về miền Nam công tác, trực tiếp bảo vệ lãnh đạo và các căn cứ địa. Ban bảo vệ Liên khu ủy 5 và các tổ bảo vệ cấp ủy Đảng đã làm tốt công tác tham mưu trong công tác bảo vệ Đảng, nắm tình hình địch, diệt ác trừ gian, chống địch càn quét vào căn cứ.


Ngày 20-12-1960, Ban Bảo vệ Xứ ủy đã bảo vệ tuyệt đối an toàn Hội nghị thành lập "Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam" tại xã Tân Lập, huyện Châu Thành (nay là huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh). Từ đây, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam là đại diện chân chính, trực tiếp lãnh đạo nhân dân miền Nam đứng lên chống đế quốc Mỹ xâm lược và chính quyền Sài Gòn thân Mỹ.


Trong những năm 1954-1960, cách mạng miền Nam phải đương đầu với muôn vàn khó khăn, thử thách hết sức nghiêm trọng. Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng đã chỉ đạo kịp thời, đưa cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ ở miền Nam tiến lên một giai đoạn phát triển mớỉ.


Để đáp ứng yêu cầu tình hình và nhiệm vụ mới, dưới sự lãnh đạo của Xứ ủy và Bộ Công an, lực lượng An ninh miền Nam đã nhanh chóng chuyển hướng tổ chức và hoạt động, chuyển từ hoạt động công khai sang hoạt động bí mật, thực hiện nhiệm vụ nắm tình địch, lãnh đạo phong trào, bảo vệ căn cứ của Đảng; kiên cường bám đất, bám dân để bảo vệ tổ chức đảng, giữ gìn lực lượng cách mạng, vận động quần chúng đấu tranh đòi hiệp thương tổng tuyển cử, chống địch "tố Cộng, diệt Cộng". Trong cuộc đấu tranh đầy cam go, quyết liệt này, lực lượng bảo vệ căn cứ, bảo vệ cấp ủy Đảng - tiền thân của lực lượng An ninh vũ trang miền Nam sau này đã luôn nêu cao tư tưởng tiến công địch, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ Đảng, bảo vệ cơ sở cách mạng, bảo vệ căn cứ, hỗ trợ phong trào quần chúng, tiến lên khởi nghĩa từng phần, chuyển thế thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công địch.


Thành tích chiến đấu của cán bộ chiến sĩ bảo vệ căn cứ và các cấp ủy Đảng có ý nghĩa vô cùng quan trọng, góp phần bảo vệ an, toàn các cơ quan của Xứ ủy, các khu ủy, tỉnh ủy. Quá trình làm nhiệm vụ bảo vệ cán bộ lãnh đạo, bảo vệ cơ quan, lực lượng bảo vệ còn tích cực tăng gia sản xuất, xây dựng hầm hào, nhà ở và làm việc, đồng thời đảm bảo yêu cầu thông tin liên lạc an toàn, bí mật của Xứ ủy với Trung ương và Bộ Công an.


Cùng với thắng lợi trên mặt trận đấu tranh với địch, lực lượng bảo vệ từng bước được xây dựng lực lượng vững mạnh về mọi mặt, hình thành nề nếp, quy trình công tác chặt chẽ, nghiêm chỉnh chấp hành các chỉ thị, nghị quyết cũng như tuân thủ sự lãnh đạo của Xứ ủy và khu ủy, gắn bó chặt chẽ và dựa chắc vào nhân dân, phát huy vai trò của quần chúng nhân dân trong công tác bảo vệ; phối kết hợp với các lực lượng khác nhất là các lực lượng vũ trang của Xứ ủy, khu ủy, tỉnh ủy trong xây dựng lực lượng và chiến đấu.


Tiêu đề: Tổng kết lịch sử công tác An ninh vũ trang của lực lượng An ninh miền Nam
Gửi bởi: saoden trong 17 Tháng Tám, 2023, 08:37:13 am
II- GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 1961 ĐẾN NĂM 1964

Phong trào Đồng khởi của nhân dân miền Nam thắng lợi đã giải phóng một vùng nông thôn rộng lớn, uy hiếp các đô thị lớn, đe dọa sự sụp đổ của chính quyền Sài Gòn. Mỹ buộc phải chuyển sang chiến lược chiến tranh đặc biệt để đối phó với phong trào cách mạng miền Nam. Đây cuộc chiến tranh bằng vũ khí Mỹ và lực lượng quân đội ngụy; biện pháp chính là dồn dân lập ấp chiến lược kết hợp với các cuộc hành quân càn quét để tiêu diệt lực lượng kháng chiến. Thực hiện chiến lược này, Mỹ tăng cường củng cố quân đội Sài Gòn và bộ máy đàn áp, tình báo, cảnh sát, tăng viện trợ, tăng cường trang bị các phương tiện chiến tranh hiện đại. Trong chiến lược này, Mỹ đã triển khai hai kế hoạch lớn: Kế hoạch Xtalây Tay lơ, Kế hoạch Giônxơn - Mácnamara.


Trước âm mưu mới của Mỹ, cách mạng nước ta và nhất là phong trào cách mạng ở miền Nam đứng trước những thử thách rất quyết liệt. Tháng 9-1960, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III họp tại Hà Nội. Đây là "Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miến Bắc và đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 21, Nxb Chính trị quốc gia, HN, 2002, tr. 486). Đại hội đã xác định rõ nhiệm vụ chung của cả nước và nhiệm vụ riêng cho hai miền Nam - Bắc.


Để tăng cường cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, ngày 23-1-1961, Ban chấp hành Trung ương quyết định thành lập Trung ương cục miền Nam đế thay Trung ương lãnh đạo cách mạng miền Nam. Nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam là ra sức xây dựng lực lượng chính trị, phát triển lực lượng vũ trang, tiếp tục đấu tranh vũ trang, tiến tới đánh đổ hoàn toàn chính quyền địch.


Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, tháng 10-1961, Trung ương cục miền Nam tổ chức Hội nghị lần thứ Nhất, tại Chiến khu Đ. Hội nghị xác định phương hướng của cách mạng miền Nam phải tiến hành bằng biện pháp vũ trang khởi nghĩa. Hội nghị cũng quyết định đổi tên Ban Bảo vệ An ninh Xứ ủy thành Ban Bảo vệ An ninh Trung ương cục miền Nam.


Phong trào Đồng khỏỉ phát triển khắp miền Nam đã mở ra nhiều vùng giải phóng do ta làm chủ; nhiều căn cứ cách mạng được hình thành để chỉ đạo kháng chiến ở các khu, tỉnh, huyện; phong trào du kích chiến phát triển đều khắp hỗ trợ cho cuộc đấu tranh chính trị đã tiêu hao nhiều sinh lực địch. Tuy nhiên, phong trào vũ trang chưa phát triển kịp phong trào đấu tranh chính trị; du kích chưa đủ mạnh để bảo vệ xã ấp, bảo vệ nhân dân và chính quyền cơ sở ta; chưa thật sự đi vào quần chúng và phát huy sức mạnh của quần chúng trong cuộc đấu tranh với địch; chưa thật coi trọng công tác bảo vệ tổ chức, nội bộ, cán bộ lãnh đạo và vùng giải phóng. Yêu cầu bảo vệ tổ chức, lãnh đạo, bảo vệ vùng giải phóng và căn cứ đặt ra ngày càng cấp thiết. Lực lượng An ninh được xác định là lực lượng nòng cốt thực hiện nhiệm vụ này. Nhiệm vụ chính của lực lượng An ninh là bảo vệ căn cứ, bảo vệ các đồng chí lãnh đạo của Trung ương cục và Mặt trận, bảo vệ tổ chức Đảng, chính quyền và nhân dân vùng giải phóng. Cùng với công tác bảo vệ, nhiệm vụ của lực lượng An ninh là đấu tranh chống mọi hoạt động phản cách mạng từ bên trong, bọn do thám, gián điệp và chống địch đánh phá từ bên ngoài.


Để thực hiện nhiệm vụ đó, lực lượng An ninh phải củng cố tổ chức và lực lượng, phát động phong trào quần chúng đấu tranh chống do thám, gián điệp. Từ năm 1960, một số khu đã hình thành bộ phận vũ trang cấp trung đội hoặc đại đội; từ năm 1961, hầu hết các khu đều có lực lượng vũ trang làm nhiệm vụ bảo vệ và đánh địch.


Thực hiện sự chỉ đạo của Trung ương cục, lực lượng An ninh miền Nam cùng quân và nhân dân miền Nam kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, phát triển lực lượng vũ trang.

Vùng giải phóng được mở rộng, yêu cầu vũ trang bảo vệ đặt ra rất cấp thiết, nhiệm vụ vũ trang bảo vệ đặt ra trên cả ba vùng chiến lược: nông thôn, đô thị, miền núi, ở mỗi địa bàn, công tác vũ trang có những đặc thù, yêu cầu bảo vệ khác nhau, phương châm công tác khác nhau. Trong công tác xây dựng và bảo vệ căn cứ ở vùng rừng núi, lực lượng An ninh phải chọn những địa bàn có ưu thế về chính trị, kinh tế, thuận về thiên thời, địa lợi và lòng dân để làm chỗ dựa vững chắc cho cách mạng; phương châm bảo vệ phải đẩy mạnh hoạt động vũ trang, dùng vũ trang để bảo vệ, kết hợp đấu tranh vũ trang với chính trị của phong trào quần chúng. Ở nông thôn, phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng phải có lực lượng vũ trang hỗ trợ; dân quân du kích tập trung vào công tác đánh địch từ bên ngoài; lực lượng An ninh thực hiện nhiệm vụ bảo vệ tổ chức, bảo vệ lực lượng, chống do thám, gián điệp xâm nhập, ở các đô thị bị địch tạm chiếm, hoạt động an ninh chủ yếu tập trung vào nhiệm vụ vũ trang tuyên truyền, bí mật hỗ trợ cho các phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng. Hoạt động của lực lượng An ninh ở ba vùng có vị trí, vai trò, trách nhiệm và những phương châm riêng, nhưng đều quan trọng và hỗ trợ cho nhau, tạo thành phong trào bảo vệ rộng khắp trên tất cả các vùng, các mặt trận, các hình thức đấu tranh đánh địch.


Những thắng lợi bước đầu của lực lượng An ninh miền Nam là: Hình thành được hệ thống tổ chức An ninh đến cơ sở, đẩy mạnh phong trào đấu tranh vũ trang, phát động phong trào quần chúng nhân dân phá thế kìm kẹp của địch, xây dựng khối đoàn kết toàn dân, xây dựng và bảo vệ an toàn các căn cứ, tổ chức và các đồng chí lãnh đạo, bảo vệ an ninh, trật tự vùng giải phóng, chống các hoạt động do thám, gián điệp của địch.


Từ thực tiễn công tác, lực lượng An ninh miền Nam đã xác định những nhiệm vụ công tác trọng tâm là: Tăng cường công tác vũ trang để thúc đẩy cuộc đấu tranh chính trị của quần chúng nhân dân; đẩy mạnh phong trào du kích chiến với 3 thứ quân; đẩy mạnh công tác binh vận; đẩy mạnh công tác mặt trận, củng cố liên minh, phát triển lực lượng chính trị; xây dựng căn cứ và các lõm căn cứ; tăng cường công tác phòng gian, bảo mật, chống do thám gián điệp; giữ gìn trật tự, an ninh nông thôn; đẩy mạnh phong trào sản xuất, tiết kiệm; tăng cường công tác đô thị, phát triển cơ sở; chia cắt lực lượng địch; tăng cường tuyên truyền chủ trương của Đảng; tăng cường công tác chính trị tư tưởng trong nội bộ và nhân dân. Phương pháp công tác là: Thường xuyên tổ chức hội nghị chuyên đề để rút kinh nghiệm; nắm vững và thực hiện tốt biện pháp quần chúng; phát động quần chúng thực hiện 5 mục tiêu đấu tranh chính trị, giết giặc lấy súng, binh vận địch, tăng gia sản xuất, học tập chính trị và văn hóa; đi sát cơ sở; nắm vững đường lối, phương châm, nhiệm vụ, yêu cầu công tác trước mắt và lâu dài.


Tiêu đề: Tổng kết lịch sử công tác An ninh vũ trang của lực lượng An ninh miền Nam
Gửi bởi: saoden trong 17 Tháng Tám, 2023, 08:41:26 am
Dưới sự lãnh đạo của Trung ương cục miền Nam, từ cuối năm 1961, Ban Bảo vệ An ninh Trung ương cục dần dần được kiện toàn, trở thành "Bộ chỉ huy tối cao" của lực lượng An ninh miền Nam trong suốt thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Nhiệm vụ chính lúc đầu là bảo vệ cơ quan, bảo vệ khu căn cứ và các đồng chí lãnh đạo. Lực lượng chủ yếu từ số cán bộ công an và quân đội chưa tập kết, một số cán bộ các ngành được tuyển dụng sang. Lực lượng cấp tỉnh, huyện, xã cũng tuyển chọn số cán bộ cốt cán, trung kiên, có kinh nghiệm, lập trường vững; những thanh niên mới tuyển dụng đều được chọn lọc, qua lớp huấn luyện tân binh về chính trị và chuyên môn; có nơi buộc tân binh phải qua thử thách mối bố trí vào tổ chức và giao nhiệm vụ bảo vệ.


Trong năm 1961, Ban bảo vệ An ninh các khu Trung Nam Bộ (T2), Tây Nam Bộ (T3), Sài Gòn - Gia Định (T4) và Khu 10 (tỉnh Bình Long, Phước Long, Quảng Đức) được thành lập. Trong thời gian đầu, tổ chức ban bảo vệ An ninh các khu có các bộ phận: bảo vệ chính trị, bảo vệ cơ quan và đội bảo vệ vũ trang. Riêng Ban An ninh khu Sài Gòn - Gia Định có 2 bộ phận, bộ phận vũ trang mang tên Tiểu đoàn Vinh Quang có nhiệm vụ bảo vệ cán bộ khu ủy, bảo vệ cơ quan và bảo vệ căn cứ; một bộ phận khác chuyên trách công tác an ninh đô thị và vùng địch kiểm soát.


Tháng 8-1962, Trung ương cục miền Nam chỉ định đồng chí Phan Văn Đáng (Phó Bí thư Trung ương cục) làm Trưởng Ban Bảo vệ An ninh Trung ương cục, đồng chí Cao Đăng Chiếm làm Phó trưởng ban và 4 ủy viên. Về tổ chức bộ máy, Ban Bảo vệ An ninh Trung ương cục có: Văn phòng (B1) và các tiểu ban Bảo vệ chính trị (B2), Điệp báo (B3), Bảo vệ Nội bộ, Cảnh vệ (B4), Trung đội Bảo vệ vũ trang, Bộ phận sản xuất, Tổ Cơ yếu, Tổ Điện đài. Trung ương cục còn chỉ thị cho các cấp ủy xây dựng và tổ chức lực lượng An ninh các khu, tỉnh, huyện.


Sau khi Trung ương cục miền Nam được thành lập, lực lượng bảo vệ được bổ sung quân số và phát triển từ Đại đội C260 thành các Đại đội C260.1 do đồng chí Lâm làm C trưởng, C260.2 do đồng chí Mười Thái làm C trưởng, C260.3 do đồng chí Thanh Sơn làm C trưởng; bảo vệ tiếp cận các đồng chí Thường vụ Trung ương cục là Trung đội B1, do đồng chí Tư Bực làm B trưởng, đồng chí Ba Lưu, Hai Trung làm B phó. Ngoài ra các cơ quan dân chính Đảng đều tiến hành xây dựng lực lượng tự vệ, mỗi cơ quan có từ 1A đến 1C. Năm 1963, sáp nhập ba đơn vị bảo vệ căn cứ (C260.1, C260.2, C260.3) thành J120 tương đương cấp tiểu đoàn, do đồng chí Đào Tiến Thưởng (Năm Ngọc) làm Chỉ huy trưởng. Cũng trong thời gian này, Trung ương cục miền Nam còn giao cho Ban Bảo vệ An ninh Trung ương cục nhiệm vụ bảo vệ cơ quan Trung ương Đảng cách mạng Campuchia (đóng gần Suối Mây, Tân Biên, Tây Ninh) lấy bí số là C60, do đồng chí Năm Luông, Ba Hải, Hai Bê phụ trách.


Năm 1962, phong trào cách mạng miền Nam ngày càng phát triển và giành được nhiều thắng lợi lớn. Mỹ ngày càng can thiệp sâu vào miền Nam Việt Nam. Chúng thành lập Bộ Tư lệnh Harkins và một chi nhánh CIA dưới vỏ bọc "Phòng Thông tin Hoa Kỳ" tại Sài Gòn. Tháng 4-1962, cựu Giám đốc cơ quan tình báo Mỹ Allnanlles đến Sài Gòn để nắm tình hình. Mỹ đưa thêm vào miền Nam 200 chuyên viên gián điệp, 600 chuyên viên biệt kích để mở các trường huấn luyện ở Ô Cấp, Long Hải, Rạch Dừa, Nha Trang. Hệ thống cơ quan gián điệp của Pháp, Anh, Nhật, Đài Loan, Philippin, Malaixia cũng được tăng cường, mở rộng mạng lưới hoạt động. Chính quyền Sài Gòn được tăng cường viện trợ quân sự cũng ra sức củng cố lực lượng, đẩy mạnh hoạt động do thám, gián điệp, đàn áp dã man phong trào cách mạng. Những cơ quan do thám, gián điệp chính của địch là: Sở Nghiên cứu chính trị xã hội, Cục Cảnh sát Quốc gia, Cơ quan tình báo quân đội, Nha An ninh quân đội, Sở Liên lạc, Liên đoàn 77. Mỹ còn chi cho Cảnh sát Quốc gia Sài Gòn khoảng 70.000-90.000 triệu đồng Đông Dương cho các hoạt động; chi 300 triệu đồng Đông Dương để tổ chức việc mua chuộc người Thượng ở Tây Nguyên v.v...


Âm mưu hoạt động do thám, gián điệp địch nhằm: Bao vây, khủng bố quần chúng, truy bắt cán bộ, đánh phá phong trào cách mạng, thực hiện kế hoạch lập ấp chiến lược; đồng thời điều tra tình hình các vùng giải phóng và căn cứ của ta; phá hoại khối đoàn kết dân tộc, lung lạc tinh thần cách mạng của quần chúng nhân dân; phá rã nội bộ ta. Hoạt động của địch cũng gảy cho ta một số tổn thất cả ở vùng tạm chiếm và vùng giải phóng như: Cài được một số cơ sở vào lực lượng của ta ở thôn xã, chi bộ, chi đoàn; thu thập được một số tin tức về hoạt động của ta phục vụ cho hoạt động dồn dân, lập ấp chiến lược của địch, đánh phá một số căn cứ của ta v.v...


Tháng 2-1962, Ban An ninh Trung ương cục miền Nam tổ chức Hội nghị chuyên để lần thứ Nhất, tại căn cứ Tây Ninh. Hội nghị đã thống nhất: lực lượng An ninh miền Nam cần tăng cường công tác bảo vệ, chống do thám gián điệp kết hợp với phong trào đấu tranh chính trị và vũ trang toàn dân.


Trong công tác bảo vệ nội bộ, lực lượng An ninh miền Nam thường xuyên giáo dục cho cán bộ chiến sĩ thực hiện nội quy bảo vệ cơ quan; việc ăn ở, đi lại, phát ngôn, bảo mật thông tin theo nguyên tắc đơn tuyến, bí mật. Giáo dục cho cán bộ chiến sĩ hiểu rõ âm mưu, phương thức hoạt động của do thám, gián điệp đánh vào nội bộ ta, đồng thời động viên ý thức cảnh giác cách mạng, phát hiện những nghi vấn, báo cáo kịp thời và khẩn trương xác minh làm rõ đối tượng hiểm nghi. Trong công tác bảo vệ cán bộ, nhất là bảo vệ các đồng chí lãnh đạo của Đảng đâm bảo an toàn; việc cất giấu tài liệu, vũ khí và các trang bị khác đảm bảo bí mật, gọn gàng, thuận lợi cho việc sử dụng khi cần thiết. Trong công tác tổ chức, công tác quản lý cán bộ dần đi vào nề nếp, chống các hoạt động thám nhập của địch vào nội bộ ta. Về phương châm bảo vệ cơ quan, thực hiện nghiêm nguyên tắc "Thủ trưởng chịu trách nhiệm, Chỉ bộ lãnh đạo, quần chúng thực hiện, đơn vị chuyên môn hướng dẫn về nghiệp vụ". Thông qua đó, đã nâng cao tỉnh thần cảnh giác chính trị trong nội bộ và nhân dân, thu thập được nhiều tin tức có giá trị phục vụ công tác bảo vệ nội bộ và đánh địch; phát hiện nhiều tên tay sai, cơ sở bí mật của địch. Những công tác đó đã góp phần ngăn chặn hạn chế rất nhiều các hoạt động phá hoại của địch, đẩy mạnh phong trào đấu tranh của quần chúng.


Trong công tác bảo vệ căn cứ Trung ương cục, các khu tỉnh ủy, do đặc điểm căn cứ của ta thường ở miền núi nên có nhiều khó khăn về địa hình cũng như công tác vận động quần chúng. Vì vậy, lực lượng An ninh vũ trang đã kiên trì bám trụ, lập hệ thống đồ bản, lập kế hoạch bảo vệ ở những điểm chốt đường mòn; đồng thời tăng cường công tác quần chúng, thực hiện chính sách dân tộc thường xuyên, bền bỉ. Việc đi lại của nhân dân, ra vào các buôn, xã và quản lý đối tượng phức tạp về chính trị được tăng cường. Thực hiện chính sách đấu tranh trấn áp phản cách mạng, lực lượng An ninh vũ trang vừa thực hiện nhiệm vụ bảo vệ, vừa thực hỉện chính sách trán áp đối tượng phán cách mạng. Đã tăng cường công tác xác minh những đối tượng hiềm nghi; chủ động đấu tranh với những đối tượng là tay sai, do thám, gián điệp của địch; đưa những đối tượng nguy hiểm vào trại giam; nghiêm trị những đối tượng ngoan cố.


Tiêu đề: Tổng kết lịch sử công tác An ninh vũ trang của lực lượng An ninh miền Nam
Gửi bởi: saoden trong 17 Tháng Tám, 2023, 08:51:18 am
Trong công tác điều tra nghiên cứu, lực lượng An ninh vũ trang đã phối hợp với cơ quan, đoàn thể các cấp, các tổ chức Đảng, chính quyền cơ sở lên danh sách những đối tượng phản cách mạng, phân loại đối tượng; tập trung vào những địa bàn trọng điếm, khu vực căn cứ, hành lang vận chuyển của ta, những nơi địch tập trung đánh phá, lập ấp chiến lược. Những tài liệu khai thác từ đối tượng được báo cáo kịp thời lên cấp trên để có biện pháp xử lý phục vụ công tác bảo vệ và đánh địch. Công tác sưu tra, xác minh hiềm nghi được tiến hành thường xuyên; nhiều chuyên án đã phát huy tác dụng trong công tác phản gián, đưa được cơ sở ta vào nội bộ địch.


Về tổ chức bộ máy an ninh bảo vệ, sau khi thành lập vào giữa năm 1962, Ban An ninh các cấp (J, O, B, H, X)1 (J: Thuộc Trung ương cục; O: cấp khu; B: cấp tỉnh; H: cấp huyện; X: cấp xã) giao cho một đồng chí Thường vụ phụ trách; hệ thống tổ chức từ trên xuống dưới, sử dụng cán bộ địa phương sau khi được huấn luyện phát huy tác dụng tốt; trang bị vũ trang ở cơ sở là những vũ khí thô sơ, tự tạo và lấy được của địch. Lực lượng An ninh vũ trang thực hiện nhiệm vụ chủ yếu là chống hoạt động vũ trang của địch, nhưng trong hoạt động luôn đảm bảo bí mật, bất ngờ, chuẩn bị kỹ những phương án đánh địch, làm trong sạch địa bàn.


Đánh giá về công tác an ninh vũ trang năm 1962, Ban An ninh Trung ương cục nhận thấy: Địch ngày càng ra sức tấn công ta trên nhiều mặt, hoạt động do thám, gián điệp tăng cường trên tất cả các vùng. Do thám gián điệp địch không những tích cực thực hiện âm mưu thu thập tin tức phục vụ cho hoạt động càn quét, lấn chiếm, lập ấp chiến lược, mà còn thực hiện âm mưu chia rẽ, ly gián, phá hoại nội bộ ta, tăng cường vũ trang đánh vào vùng giải phóng, vùng căn cứ. Địch đánh ta trên nhiều mặt, buộc ta phải đối phó trên nhiều mặt. Tuy nhiên, địch đang gặp phải nhiều khó khăn không thể khắc phục được khi ngày càng lộ rõ bản chất độc tài, tay sai bán nước; phong trào cách mạng của nhân dân ngày càng lên cao; Mặt trận dân tộc giải phóng ngày càng thu hút được các tầng lớp nhân dân tham gia. Vì vậy, công tác an ninh nói chung và công tác an ninh vũ trang nói riêng có điều kiện phát triển thuận lợi, cuộc đấu tranh chống do thám gián điệp và bọn phản cách mạng ngày càng được nhân dân nhiệt tình ủng hộ.


Để đối phó với hoạt động vũ trang của địch, lực lượng An ninh vũ trang đã kiện toàn một bước quan trọng để bảo vệ căn cứ, bảo vệ các đồng chí lãnh đạo và vùng giải phóng, góp phần tấn công địch bảo vệ lực lượng ta.


Quán triệt sâu sắc tinh thần nội dung công tác bảo vệ trong Nghị quyết Hội nghị của Trung ương cục tháng 10-1962, lực lượng An ninh vũ trang đã biên soạn tài liệu về tình hình, nhiệm vụ và phương châm công tác bảo vệ để các cấp nghiên cứu, học tập, phổ biến. Trung ương cục đã tổ chức cho 427 cán bộ học tập; các khu phổ biến cho cán bộ cốt cán, chi bộ, cán bộ trực tiếp làm nhiệm vụ an ninh. Những tài liệu nghiệp vụ đã góp phán nâng cao nhận thức cảnh giác về công tác bảo vệ, bảo vệ vũ trang cho cán bộ; việc thực hiện nội quy công tác và công tác bảo vệ nội bộ được nâng lên một bước; các kế hoạch, phương án bảo vệ căn cứ và lãnh đạo được điều chỉnh cho phù hợp với tình hình.


Cuối năm 1962, địch cho trên 500 quân nhảy dù xuống Hồ Ba Mặt để đánh thẳng vào trung tâm chỉ đạo kháng chiến, bắt luật sư Nguyễn Hữu Thọ. Nhưng lực lượng An ninh vũ trang của ta đã đón đánh, buộc địch phải chạy vào rừng, phải co cụm ở Hồ Ba Mặt và rút chạy. Tháng 6-1962, một tổ công tác bảo vệ (sau này là Tiểu đoàn 1 thuộc Đoàn 180) do đồng chí Tư Lùng chỉ huy có nhiệm vụ bảo vệ đồng chí Nguyễn Văn Linh, Bí thư Trung ương cục đi công tác, giữa đường bất ngờ bị 4 máy bay địch oanh tạc dữ dội, tổ bảo vệ đã nhanh chóng đưa đồng chí vào nấp bên một gò mối và ngồi vây quanh che đạn cho đồng chí được an toàn.


Trước tình hình địch ngày càng đàn áp dã man phong trào cách mạng, đánh phá ác liệt căn cứ kháng chiến của ta, Ban An ninh xác định rõ nhiệm vụ của lực lượng An ninh năm 1963 là: Tăng cường nâng cao cảnh giác trong nội bộ và trong nhân dân; tích cực bảo vệ cơ quan, bảo vệ căn cứ, hành lang, bảo vệ các chủ trương, chính sách của Đảng; tích cực phòng chống mọi hoạt động của địch; đẩy mạnh công tác điều tra nghiên cứu trên mọi địa bàn, trên mọi lĩnh vực; phát hiện cho được mọi âm mưu, thủ đoạn hoạt động của do thám gián điệp; kiên quyết trừng trị những tên chống phá ngoan cố, nguy hiểm; tranh thủ giáo dục, cải tạo những phần tử tề ngụy cần cải tạo; tich cực đi sâu vào nội bộ địch; đồng thời tiến hành xây dựng lực lượng an ninh các cấp, chú trọng an ninh xã thôn.


Văn bản chỉ đạo cũng xác định rõ những nguyên tắc và phương châm thực hiện là: Quán triệt nguyên tắc "Tích cực bảo vệ mình, chủ động tiêu diệt địch" trong công tác an ninh; quán triệt phương châm đánh địch "Nâng cao cảnh giác không để lọt kẻ địch, đề phòng lệch lạc, không để oan một người ngay"; quán triệt chính sách của Đảng trong công tác trấn áp phản cách mạng "Trấn áp kết hợp với khoan hồng, trừng trị kết hợp với giáo dục cải tạo", "nghiêm trị bọn cầm đầu, chủ mưu, thủ ác, ngoan cố chống lại cách mạng, khoan hồng với những người thật thà hối cải, với những kẻ bị ép buộc, lầm đường, bị mua chuộc, giảm hay miễn tội cho kẻ lập được công, thưởng cho kẻ lập được công lớn" và quan điểm "Dựa vào dân, phát huy tính tích cực của nhân dân trong công tác đánh địch".


Trên cơ sở đó, nhiệm vụ cụ thể của công tác bảo vệ là: Tăng cường công tác bảo vệ nội bộ; củng cố tổ chức vững chăc; xây dựng chế độ, nội quy công tác chặt chẽ; bảo vệ vững chắc căn cứ, vùng giải phóng; tăng cường công tác điều tra nghiên cứu; tiếp tục cải tạo tề ngụy; tăng cường công tác phòng gian bảo mật trong nhân dân; đẩy mạnh công tác đánh địch, công tác điệp báo; xây dựng an ninh xã. Riêng về xây dựng bộ máy an ninh, phải xây dựng bộ máy an ninh từ Trung ương cục đến khu, tỉnh, huyện, xã; xây dựng các bộ môn nghiệp vụ cần thiết cấp Trung ương cục và tỉnh về văn thư - nghiên cứu, bảo vệ chính trị, điệp báo; tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng và chuyên môn nghiệp vụ; xây dựng nê nếp làm việc theo tinh thần khẩn trương, gọn gàng, bí mật.


Cuối năm 1962, địch tăng cường hoạt động do thám gián điệp để phục vụ các hoạt động quân sự, giành lại thế chủ động ở một số vùng. Vì vậy, nhiệm vụ của lực lượng An ninh phải tăng cường công tác đấu tranh chống do thám gián điệp, bảo vệ nội bộ, căn cứ và vùng giải phóng. Đây là cuộc chiến đấu không phân tuyến chia vùng, âm thầm nhưng quyết liệt, bằng biện pháp chính trị và vũ trang. Hầu hết cán bộ, chiến sĩ An ninh vũ trang đều quán triệt sâu sắc đường lối, phương châm, nguyên tắc, biện pháp, chính sách đấu tranh chống phản cách mạng. Chính vì vậy, từ đầu năm 1963, trong cuộc đấu tranh chống do thám, gián điệp và hoạt động vũ trang của địch hiệu quả tăng lên rõ rệt mà thiệt hại của ta giảm hẳn.


Tiêu đề: Tổng kết lịch sử công tác An ninh vũ trang của lực lượng An ninh miền Nam
Gửi bởi: saoden trong 17 Tháng Tám, 2023, 08:52:17 am
Tháng 1-1963, địch phát hiện được khu vực căn cứ của Trung ương cục miền Nam. Chúng cho tiểu đoàn dù số 7 nhảy dù xuống Trảng Ba Mặt và Trảng An Khắc, cách Văn phòng Trung ương cục 500m. C260 là đơn vị An ninh vũ trang bảo vệ Trung ương cục đã tổ chức đánh địch tại Trảng Ba Mặt. Đơn vị cận vệ làm nhiệm vụ bảo vệ các đồng chí lãnh đạo Trung ương cục tổ chức đánh địch tại Suối Mây. Trận chiến đấu diễn ra ác liệt, các đơn vị đã anh dũng chiến đấu, tiêu diệt một trung đội địch, làm bị thương nhiều tên khác, buộc địch phải tháo chạy.


Từ năm 1963, địch đẩy mạnh chiến lược chiến tranh đặc biệt, mở hàng loạt cuộc dồn dân lập ấp chiến lược. Trong các khu ấp chiến lược, địch ra sức tổ chức và củng cố bộ máy tề điệp, đảng phái, hội đoàn phản động, đồng thời tăng cường các hoạt động do thám, gián điệp để theo dõi và chống phá các tổ chức cách mạng. Biện pháp chính của địch là xây dựng hệ thống cảnh sát xã và mạng lưới tay chân bí mật; thực hiện biện pháp quản lý công khai như lên danh sách, kê khai lý lịch nhân dân, quy định chế độ khai báo tạm trú, tạm vắng; tận dụng các tổ chức tề ngụy, đảng phái, phản động trong các đảng phái, tôn giáo để nắm tình hình; thực hiện chính sách chiêu hồi, chiêu hàng để khai thác tình hình ta.


Trước tình hình đó, các địa phương đã coi trọng công tác đấu tranh chống do thám, gián điệp, phục vụ tốt công tác đấu tranh phá thế kìm kẹp của địch, phá bộ máy tề ngụy trong các ấp chiến lược. Tuy nhiên, một số nơi còn chủ quan, mất cảnh giác, hoạt động lộ liễu, thiếu ý thức bảo vệ bí mật lực lượng và cơ sở quần chúng, chưa thật tích cực phát hiện và trấn áp bọn tề điệp, phản động. Vì vậy, Ban An ninh Trung ương cục miền Nam ra Kế hoạch sở 8/HA về phục vụ công tác phá ấp chiến lược của địch và tổ chức công tác đánh địch.


Sau Hội nghị An ninh toàn miền lần thứ Nhất (tháng 1- 1963), lực lượng An ninh miền Nam nói chung và công tác an ninh với trang nói riêng phát triển cả về tổ chức, lực lượng và chuyên môn nghiệp vụ. Công tác sưu tra được tăng cường đã bổ sung vào danh sách sưu tra nhiều đối tượng mới, có sự phân loại rõ ràng; đối tượng hiểm nghi được khẩn trương xác minh; cơ sở bí mật và mật hộ viên được xây dựng có chọn lọc, rộng khắp các vùng; công tác phát động quần chúng phòng gian, bảo mật được đẩy mạnh; công tác cải tạo ngày càng vào nề nếp. Trong công tác bảo vệ cơ quan, căn cứ, hành lang, lực lượng An ninh vũ trang đã xác định rõ là nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên và lâu dài. Lực lượng An ninh các tỉnh đã tăng cường xây dựng lực lượng An ninh vũ trang, giao cho một đồng chí trong cấp ủy phụ trách, tập trung bảo vệ căn cứ, cơ quan và các đồng chí lãnh đạo. Nhiều khu, tỉnh có nội quy bảo vệ cơ quan, quy định về công tác bảo mật, quy chế hoạt động vũ trang, chế độ thông tin báo cáo. Trong công tác bảo vệ căn cứ và hành lang vận chuyển, lực lượng An ninh vũ trang đã bám chắc địa bàn, tăng cường công tác nắm tình hình địch, phát động quần chúng phòng gian bảo mật, bố phòng chặt chẽ các yếu điểm, có phương án chiến đấu và bảo vệ lãnh đạo khỉ địch đánh vào. Trong công tác bảo vệ vùng giải phóng, lực lượng An ninh vũ trang dưới sự chỉ đạo của cấp ủy đã thực hiện bố phòng nghiêm ngặt, bảo vệ chính quyền và nhân dân, sẵn sàng đối phó với hoạt động quân sự của địch. Riêng ở khu vực giáp ranh, lực lượng An ninh vũ trang phối hợp chặt chẽ với lực lượng quân sự, du kích bảo vệ chính quyền ta, chống hoạt động đánh phá của địch.


Ngày 22-5-1963, Trung ương cục miền Nam ra Chỉ thị số 69/CTR xác định những vấn đề cơ bản về đường lối, phương châm, nguyên tắc, chính sách cũng như nội dung, biện pháp cụ thể để đẩy mạnh cuộc đấu tranh của ta. Trung ương cục miền Nam yêu cầu ban bảo vệ an ninh các cấp khẩn trương củng cố, kiện toàn tổ chức bộ phận an ninh vũ trang. Ngoài nhiệm vụ đảm bảo an toàn cho cán bộ và cơ quan lãnh đạo các cấp, Ban an ninh Miền còn quy định thêm nhiệm vụ của an ninh vũ trang là bảo vệ biên giới, hải phận, các địa bàn và mục tiêu trọng điểm. Căn cứ vào thực tiễn hoạt động, từ năm 1963, theo gợi ý của Bộ Công an và đề xuất của Ban An ninh Miền, hầu hết các khu ủy ở miền Nam đều thành lập một lực lượng chiến đấu mới với tên gọi là "Tiểu ban An ninh vũ trang".


Thực hiện Chỉ thị số 69/CTR và Kế hoạch số 8/HA, lực lượng An ninh miền Nam đã quán triệt yêu cầu công tác và triển khai những nhiệm vụ cụ thể trong công tác đánh địch. Yêu cầu công tác là: "Đẩy mạnh công tác đấu tranh chống gián điệp, phản động trong khu ấp chiến lược; ra sức bảo vệ lực lượng cách mạng và phục vụ tốt yêu cầu phá bộ máy kim kẹp tiến tới phá ấp chiến lược; góp phần tích cực bảo vệ vùng giải phóng. Cụ thể là: Điều tra nghiên cứu nắm vững tổ chức và hoạt động của bọn gián điệp, phản động; làm tốt công tác tranh thủ phân hóa nội bộ địch, trấn áp bọn ác ôn ngoan cố. Bảo vệ tốt cơ sở Đảng, cơ sở quần chúng và cơ sở vũ trang trong khu ấp chiến lược. Điều tra phát hiện đầu mối gián điệp từ ấp chiến lược đánh ra vùng uy hiếp và vùng giải phóng"1 (Kế hoạch công tác an ninh phục vụ phá khu ấp chiến lược, tr. 1). Nhiệm vụ cụ thể tập trung vào công tác điều tra nghiên cứu nắm vững tổ chức và hoạt động của gián điệp, tề, ngụy, đảng phái, hội đoàn phản động trong khu ấp chiến lược; tăng cường công tác giáo dục, vận động quần chúng tham gia chống do thám gián điệp; tích cực tranh thủ phân hóa nội bộ bọn gián điệp, phản động, tề, ngụy, đồng thời kiên quyết trấn áp những tên ác ôn ngoan cố; tích cực bảo vệ cơ sở Đảng, cơ sở quần chúng, cơ sở vũ trang trong khu ấp chiến lược; xây dựng tổ chức an ninh xã.


Trong công tác bảo vệ cơ sở Đảng, cơ sở quần chúng trong ấp chiến lược, lực lượng An ninh miền Nam thực hiện nguyên tắc ngăn cách, bí mật, gọn nhẹ, trọng chất lượng, tính toán lâu dài. Giáo dục cho những cơ sở thấy rõ âm mưu và hoạt động của tề điệp, kiên định lập trường cách mạng, phương pháp hoạt động bí mật, đề cao cảnh giác ở các ấp đã giành quyền làm chủ. Về xây dựng lực lượng An ninh, tăng cường công tác an ninh vũ trang cấp khu, tỉnh; chú trọng phát triển lực lượng An ninh vũ trang huyện, xã; tăng cường chỉ đạo lực lượng An ninh, trực tiếp theo dõi công tác an ninh, từng bước vũ trang cho lực lượng về vũ khí và các phương tiện hoạt động khác. Những xã đã bị địch dồn dân lập ấp chiến lược, xã ủy phải tăng cường theo dõi tình hình do thám, gián điệp, tề ngụy, đảng phái phản động; thực hiện chế độ thông tin kịp thòi, bí mật.


Sau cuộc đảo chính ngày 30-1-1964, nội bộ địch thêm rối ren, khí thế cách mạng càng lên cao. Trước tình hình đó, địch tăng cường hoạt động quân sự để trấn áp phong trào cách mạng; hoạt động gián điệp cũng được tăng cường để mở đường cho hoạt động quân sự. Hệ thống tình báo và an ninh quản đội, công an cảnh sát, tình báo an ninh, dân vệ, mật vụ địch hoạt động rất ráo riết; tập trung vào nhiệm vụ thu thập tin tức tình hình, nội bộ ta; thực hiện chính sách chiêu hồi, chiêu hàng.


Tiêu đề: Tổng kết lịch sử công tác An ninh vũ trang của lực lượng An ninh miền Nam
Gửi bởi: saoden trong 17 Tháng Tám, 2023, 08:55:11 am
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị An ninh toàn Miền và Chỉ thị số 113/AN (ngày 3-6-1964) về công tác an ninh, lực lượng An ninh vũ trang đã nghiên cứu và đề ra biện pháp công tác phù hợp với tình hình mới. Nhiệm vụ tập trung vào công tác bảo vệ căn cứ, vùng giải phóng, hành lang vận chuyển, cửa khẩu, vùng giáp ranh; bảo vệ các đồng chí lãnh đạo; bảo vệ nội bộ.


Để tăng cường công tác bảo vệ an toàn khu và khu căn cứ, ngày 29-7-1964, Trung ương Cục miền Nam triệu tập hội nghị gồm đại diện của quân sự, an ninh và ATK"1 (ATK: Mật hiệu của "An toàn khu"). Thường vụ thống nhất thành lập Ban An ninh vũ trang chuyên trách công tác bảo vệ ATK.


Ban An ninh vũ trang và các lực lượng bảo vệ ATK có nhiệm vụ:

Chống mọi hình thức hoạt động của địch ở ATK và vùng căn cứ của ta như do thám, biệt kích, càn quét, tổ chức kiểm soát đường ra, vào các cửa khẩu, ATK, căn cứ địa, bảo vệ lực lượng cách mạng; xây dựng chế độ nội quy bảo vệ ATK, căn cứ địa và hướng dẫn xây dựng nhiệm vụ chuyên trách, bảo vệ cơ quan, đơn vị, trường lớp, doanh trại trong căn cứ địa; xây dựng phương án tổ chức sẵn sàng chiến đấu; điều tra nghiên cứu xây dựng cơ sở mọi mặt để bảo vệ ATK, căn cứ địa dự bị, chủ động di chuyển cơ quan khi cần thiết, đảm bảo an toàn và hoạt động liên tục của các cơ quan đầu não. Ban An ninh vũ trang đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Thường vụ Trung ương cục miền Nam.


Trước tình hình cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam ngày càng quyết liệt, ngày 4-10-1964, Trung ương cục miền Nam ra Chỉ thị số 10/LL về việc xây dựng lực lượng An ninh vũ trang bảo vệ căn cứ với nhiệm vụ "chiến đấu bằng mọi hình thức chính trị, vũ trang, nghiệp vụ để tiêu diệt do thám, biệt kích, chống càn quét và phi pháo của địch, trấn áp phản cách mạng, bảo vệ tuyệt đối an toàn cán bộ, cơ quan, lãnh đạo; đảm bảo cho cơ quan, lãnh đạo hoạt động thường xuyên, liên tục trong mọi tình hình, lúc bình thường cũng như lúc biến động". Về biên chế, Chỉ thị quy định: Cấp huyện tổ chức một trung đội An ninh vũ trang, quân số 33 người; cấp tỉnh tổ chức một đại đội, quân số 120 người; cấp khu tổ chức một tiểu đoàn, quân số 480 người. Trong quá trình xây dựng tổ chức, cần coi trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao nhận thức cho cán bộ, chiến sĩ an ninh về tình hình, nhiệm vụ mới, xây dựng ý chí quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, chống mọi biểu hiện cầu an, dao động, sợ Mỹ, ngại khó khăn, gian khổ, sợ hy sinh.


Ngày 6-12-1964, Trung ương cục miền Nam ra Chỉ thị số 65/CT về việc thành lập lực lượng An ninh vũ trang. Chỉ thị xác định: Lực lượng An ninh vũ trang có nhiệm vụ chiến đấu bằng mọi hình thức chính trị, vũ trang, nghiệp vụ để tiêu diệt bọn do thám, biệt kích, chống phi pháo và càn quét của địch, trấn áp bọn phản cách mạng, bảo vệ tuyệt đối an toàn cho cán bộ, cơ quan lãnh đạo hoạt động thường xuyên liên tục bình thường cũng như khi biến động và bảo vệ biên giới chống gián điệp xâm nhập và phá hoại; lực lượng An ninh vũ trang phải khẩn trương xây dựng nghiệp vụ an ninh và vũ trang, tuyệt đối trung thành với Đảng, đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ của Đảng giao trước mắt và lâu dài; lực lượng An ninh vũ trang củng như giải phóng quân là lực lượng vũ trang cách mạng của Đảng, do nhiệm vụ và công tác an ninh vũ trang có nhiều mối quan hệ chặt chẽ với an ninh nên giao cho cơ quan an ninh địa phương xây dựng và sử dụng theo nhiệm vụ chiến đấu và bảo vệ đã quy định. Các ban quân sự cũng có trách nhỉệm phối hợp với ban an ninh các cấp xây dựng lực lượng An ninh vũ trang; về chế độ cấp phát, An ninh vũ trang được cấp phát theo chế độ của quân giải phóng.


Đến lúc này, lực lượng An ninh miền Nam đã được kiện toàn về mọi mặt, cả về hệ thống tổ chức, biên chế, trang bị vũ trang và thực hiện chức năng nhiệm vụ quan trọng đặc biệt của mình, cùng với lực lượng An ninh miền Nam và các lực lượng vũ trang khác vừa tích cực bảo vệ mình, vừa chủ động tiêu diệt địch trên mọi mặt trận.


Quá trình chiến đấu và bảo vệ của lực lượng An ninh miền Nam trong những năm 1961-1964 đã khẳng định rõ vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của lực lượng là phù hợp với tình hình, yêu cầu thực tiễn của cuộc đấu tranh cách mạng ở miền Nam. Sự chuyên biến từ chức năng bảo vệ Đảng thêm những chức năng bảo vệ chính quyền và nhân dân, khu vực căn cứ và vùng giải phóng; từ biện pháp đấu tranh bí mật của cơ quan an ninh đã lập ra lực lượng An ninh vũ trang và thực hiện biện pháp vũ trang để đáp ứng yêu cầu của tình hình cách mạng miền Nam lúc bấy giờ.


Những thành tích, chiến công tiêu biểu của lực lượng An ninh bằng biện pháp đấu tranh vũ trang thời kỳ này là: Bảo vệ an toàn các cấp ủy Đảng và chính quyền, căn cứ và vùng giải phóng trong hoàn cảnh khó khăn, phức tạp nhất; thúc đẩy phong trào quần chúng, phát huy vai trò tích cực của nhân dân trong cuộc đấu tranh chống do thám, gián điệp, biệt kích địch; góp phần đấu tranh làm thất bại kế hoạch gom dân lập ấp chiến lược của địch; xây dựng tổ chức và lực lượng An ninh vũ trang để chuẩn bị cho cuộc đấu tranh chống chiến lược chiến tranh cục bộ của Mỹ trong giai đoạn 1965-1973.


Tiêu đề: Tổng kết lịch sử công tác An ninh vũ trang của lực lượng An ninh miền Nam
Gửi bởi: saoden trong 17 Tháng Tám, 2023, 09:21:19 am
III- GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 1965 ĐẾN NĂM 1973

Sự phát triển lớn mạnh của phong trào cách mạng miền Nam đã đẩy chính quyền Sài Gòn vào nguy cơ thất bại. Để cứu vãn tình thế, Mỹ chuyển sang thực hiện chiến lược chiến tranh cục bộ, ồ ạt đưa quân viễn chinh cùng với vũ khí, phương tiện chiến tranh vào miền Nam và mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc Việt Nam bằng không quân và hải quân. Chiến tranh cục bộ là một trong ba loại hình chiến tranh xâm lược trong chiến lược quân sự toàn cầu của Mỹ. Nội dung của chiến lược này là: Sử dụng sức mạnh quân sự Mỹ và viện trợ Mỹ, phương án tác chiến chính là "tìm diệt và bình định".


Thực hiện kế hoạch "tìm diệt và bình định", Mỹ dự định tiến hành 2 cuộc phản công chiến lược vào mùa khô 1965-1966 và 1966-1967; hướng đánh phá chủ yếu tập trung vào những vùng căn cứ kháng chiến, những nơi đứng chân của cơ quan lãnh đạo và bộ đội chủ lực của ta ở Tây Nguyên, đồng bằng khu V và Đông Nam Bộ. Lực lượng quân đội Sài Gòn tiếp tục đẩy mạnh hoạt động bình định nông thôn để "tát nước bắt cá"; miền Đông Nam Bộ là chiến trường chủ yếu.


Để phục vụ cho các hoạt động quân sự, Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã tăng cường chiến tranh gián điệp, chiến tranh tâm lý, chiêu hồi, chiêu hàng; tăng cường lực lượng cảnh sát, nhất là cảnh sát đặc biệt; củng cố hệ thống chính quyền, lôi kéo các đảng phái phản động chống phá cách mạng, ở các vùng tranh chấp, vùng căn cứ, và vùng giải phóng, địch tăng cường xây dựng cơ sở mật báo, chỉ điểm, dùng gián điệp hoạt động theo phương thức "con thoi", thực hiện phương thức tình báo đại chúng, khai thác bọn đầu hàng, đầu thú, gảy chiến tranh tâm lý và tăng cường các hoạt động biệt kích, thám báo.


Ngay sau khi Mỹ đưa quân ồ ạt vào miền Nam, quân Mỹ được điều lên địa bàn chiến lược Tây Ninh, tiến hành xây dựng các căn cứ quân sự và sân bay ở Trâm Vang (Gò Dầu), Thiện Ngôn (Tân Biên), Trảng Lớn (Châu Thành), chốt sâu vào các vùng Xa Mát, Đồng Pan, Kà Tum, Bổ Túc, Suối Bà Chiêm nhằm bao vây, tiêu diệt căn cứ địa kháng chiến của ta. Chúng liên tục mở các cuộc hành quân, đánh phá ác liệt các khu vực trọng điểm của ta ở Củ Chi (Sài Gòn), Bời Lời, Bà Nhã, Bầu Đốn (huyện Trảng Bàng, Tây Ninh); đánh phá các tỉnh An Giang, Vĩnh Long, Gò Công, Định Tường, Kiến Tường, Sóc Trăng, Cần Thơ; càn quét huyện Bến Cầu và một phần huyện Trảng Bàng (Tây Ninh).


Trong kế hoạch mùa khô 1965-1966, địch sử dụng tổng hợp các lực lượng của Phủ Đặc ủy Trung ương tình báo, Sở Liên lạc, Biệt đội sưu tầm, gián điệp con thoi, biệt kích, thám báo điều tra nơi đóng quân, cơ quan, hành lang vận chuyển để chỉ điểm cho lực lượng quân sự càn quét, cho máy bay, phi pháo bắn phá.


Để thực hiện nhiệm vụ được giao, lực lượng An ninh vũ trang đã phát động quần chúng phòng gian, bảo mật, thực hiện quy ước nông thôn; bảo vệ nội bộ, chính quyền và nhân dân, giữ gìn an ninh, trật tự vùng giải phóng; chống hoạt động do thám của tể điệp; chống lực lượng vũ trang địch đánh vào từ bên ngoài.


Trong công tác vận động quần chúng, lực lượng An ninh vũ trang đã tăng cường công tác giáo dục chính trị, nâng cao cảnh giác trước âm mưu và hoạt động của địch; nhận thức rõ đường lối, phương châm của ta trong đấu tranh chống phản cách mạng; chống địch chiêu hồi, chiêu hàng; nâng cao tinh thần đoàn kết dân tộc, tôn giáo và các tầng lớp xã hội dưới ngọn cờ của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam; tích cực tham gia phong trào bảo vệ trị an, bảo vệ Đảng, chính quyền và xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng. Trong công tác cải tạo những phần tử phức tạp mà địch dễ lợi dụng, đã lên danh sách những đối tượng hiềm nghi, có phương án đấu tranh với từng loại đối tượng, kết hợp gia đình và tổ chức quần chúng để cải tạo, thực hiện biện pháp giáo dục chính trị tại chỗ là chính, mạnh dạn sử dụng những người tiến bộ làm cơ sở bí mật, điệp báo. Trong công tác bảo vệ nội bộ, đã tranh thủ cấp ủy Đảng để mở những lớp tập huấn ngắn ngày về ý thức cảnh giác cách mạng, tinh thần trách nhiệm trong công tác, biện pháp bảo vệ, cách phát hiện hiềm nghi, nguyên tắc xử lý những vụ việc liên quan đến công tác bảo vệ nội bộ. Trong công tác bảo vệ lực lượng vũ trang, đã phối hợp với chính quyền thực hiện tuyển dụng tân binh đủ tiêu chuẩn chính trị, phối hợp với du kích phát triển lực lượng vũ trang ở cơ sở, làm trong sạch địa bàn đóng quân, hành quân, tích trữ kho hàng quân sự. Trong công tác bảo vệ căn cứ, là lực lượng vũ trang chính chống địch càn quét, tập kích, phá hoại, do thám, lực lượng An ninh vũ trang phối hợp với du kích làm trong sạch địa bàn, tổ chức bảo vệ trị an, bố phòng chặt chẽ, kiểm soát nghiêm ngặt các cửa ngỏ ra vào, thực hiện các quy định về bảo vệ an toàn căn cứ và các đồng chí lãnh đạo. Trong công tác bảo vệ hành lang, đã chủ động nắm chắc tình hình địch, quan hệ chặt chẽ với giao liên, có phương án bảo vệ thích hợp trên từng địa bàn, xây dựng lực lượng vũ trang bí mật để đánh địch khi có tình huống xấu xảy ra. Trong công tác điều tra nghiên cứu, đã mở các lớp tập huấn chuyên đề nghiệp vụ, tổ chức nghiên cứu về tình hình, tổ chức địch, tập trung về tổ chức do thám gián điệp địch, các kế hoạch của địch đánh phá căn cứ và vùng giải phóng; nghiên cứu về tình hình phản động trong các đảng phái, tôn giáo, dân tộc; các vụ án lớn trong vùng giải phóng.


Ở vùng tranh chấp giữa ta và địch luôn trong tình trạng đấu tranh ác liệt, diễn biến phức tạp nhiều mặt, lực lượng An ninh vũ trang đã tăng cường công tác vận động quần chúng, nắm tình hình địch, tăng cường công tác đấu tranh chống do thám gián điệp, tăng cường lực lượng và trang bị vũ trang, phối hợp chặt chẽ với du kích lên kế hoạch bố phòng, sẵn sàng tác chiến khi địch tấn công. Riêng vùng địch kiểm soát, yêu cầu chung của cách mạng là xây dựng lực lượng chính trị, phát triển vũ trang, lãnh đạo quần chúng đứng lên đấu tranh dưới mọi hình thức, phá thế kìm kẹp của địch, làm mất ổn định hậu phương địch, tiến tới giải phóng từng vùng khi có điều kiện. Lực lượng An ninh vũ trang đã xác định vùng tạm chiếm nông thôn phạm vi rộng, chính quyền địch lỏng lẻo, công tác đánh địch thuận lợi hơn. Nhiệm vụ chính là phải khẩn trương điều tra nghiên cứu tình hình địch, đối tượng phản cách mạng, xây dựng lực lượng bí mật, có kế hoạch trừ diệt số đối tượng nguy hiểm ngoan cố, chủ động quản lý và bảo vệ địa bàn sau khi giành quyền làm chủ. Đối với những đô thị do địch kiểm soát gồm thị xã, thị trấn, lực lượng An ninh vũ trang tăng cường công tác nắm tình hình, lập thẻ đối tượng phản cách mạng, xin ý kiến cấp ủy trừ diệt những tên nguy hiểm, có nợ máu; xây dựng cơ sở điệp báo trong các tổ chức do thám gián điệp của địch1 (Các tổ chức tình báo của CIA, cảnh sát ngụy (công an dã chiến, công an chiến đấu, mật vụ)); xây dựng lực lượng bí mật theo tỷ lệ 500 dân/01 an ninh bí mật; xây dựng lực lượng trinh sát vũ trang từ số quần chúng tích cực, gan dạ để tiêu diệt số ác ôn nguy hiểm.


Tiêu đề: Tổng kết lịch sử công tác An ninh vũ trang của lực lượng An ninh miền Nam
Gửi bởi: saoden trong 17 Tháng Tám, 2023, 09:22:01 am
Trong công tác xây dựng lực lượng, do tình hình phát triển mạnh, chủ trương của Trung ương cục phát triển lực lượng các ngành; các khu ủy, quân ủy cũng tăng cường lực lượng vũ trang. Do đó, lực lượng An ninh vũ trang tăng cường công tác xây dựng lực lượng vũ trang các cấp. Ở cấp Trung ương cục, Trung đoàn U70 được thành lập, do đồng chí Thành làm Trung đoàn trưởng, gồm D1, D2, D3; sau rút đi D1 và D2, còn D3 ở lại làm cơ động, ở cấp xã, lực lượng An ninh vũ trang tăng cường lực lượng An ninh thường trực, lực lượng bảo vệ trị an, lực lượng bí mật, lực lượng điệp báo, trinh sát vũ trang, an ninh đô thị.


Đầu năm 1965, cách mạng miền Nam giành được nhiều thắng lợi to lớn; lực lượng vũ trang cách mạng ngày càng lớn mạnh; phong trào đấu tranh cách mạng ngày càng phát triển từ nông thôn đến thành thị và cả miền núi; vùng giải phóng được mở rộng; căn cứ cách mạng ngày càng vững chắc. Trong khi đó, ba chỗ dựa chủ yếu của Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược là quân đội, chính quyền Sài Gòn và hệ thống ấp chiến lược đều bị rệu rã. Mặt khác, các chiến lược quân sự và cuộc chiến tranh gián điệp cũng bị thất bại nặng nề khiến cho Kế hoạch Mắc Namara lâm vào tình thế bị thất bại hoàn toàn.


Nhưng Mỹ và chính quyền Sài Gòn tiếp tục thực hiện những âm mưu mới. Chúng tăng cường hoạt động do thám, gián điệp để nắm tình hình; lập các chi nhánh CIA ỏ tất cả các tỉnh, thành; phát triển lực lượng biệt chính, biệt kích, cảnh sát; xây dựng cơ sở bí mật trong các thôn, xã, ấp; đầu tư tài chính để chiêu hồi, chiêu hàng, thưởng cho cơ sở thu thập được những tin tức có giá trị. Phương thức hoạt động chính nhằm thu thập tin tức nội bộ ta, vùng giải phóng, căn cứ kháng chiến.


Trong khi đó, Mặt trận dân tộc giải phóng ngày càng thu hút được nhiều tầng lớp tham gia; vùng giải phóng ngày càng được mở rộng; uy tín với phong trào cách mạng thế giới ngày một cao. Chính vì vậy, ngày càng nhiều các đoàn phóng viên, báo chí, làm phim từ Liên Xô, Trung Quốc, Cu Ba, Triều Tiên, Úc, Pháp... vào thăm vùng giải phóng, khu căn cứ Củ Chi, Long An, Tây Ninh. Ban An ninh Trung ương cục giao nhiệm vụ cho lực lượng Cảnh vệ An ninh vũ trang và an ninh các địa phương bảo vệ an toàn cho các đoàn.


Trong công tác vận động quần chúng, lực lượng An ninh vũ trang đã đi sáu, đi sát quần chúng, giáo dục quần chúng ý thức cảnh giác cách mạng, âm mưu và thủ đoạn hoạt động của địch, cách thức đấu tranh với từng loại đối tượng do thám, gián điệp, tề ngụy, phản động; đấu tranh với những hoạt động của địch trong thu thập tin tức, chia rẽ đoàn kết, chiêu hồi, chiêu hàng; đấu tranh chống những phần tử phức tạp phát ngôn bừa bãi, làm lộ bí mật, gây mất trật tự trị an. Đối với những thân nhân của đối tượng theo địch, cán bộ An ninh vũ trang đã tìm mọi cách để tranh thủ, cảm hóa, giáo dục, tạo điều kiện cho con em họ trở về với cách mạng, ở nhiều thôn xã đã xây dựng được nội quy, quy định về công tác an ninh, góp phần đưa sinh hoạt của nhân dân vào nề nếp, đấu tranh có hiệu quả với các đối tượng do thám, gián điệp của địch.


Trong công tác bảo vệ nội bộ, lực lượng An ninh vũ trang đã phối hợp với Ban An ninh các cấp củng cố ban bảo vệ cơ quan, ban hành nội quy bảo mật phòng gian, quy định về việc tuyển nhân viên, bố trí cán bộ, củng cố tổ chức. Công tác bảo vệ cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo và tài liệu dần đi vào nề nếp; các vụ việc mất tài liệu, số vụ địch đánh trúng cơ quan, nơi trú quân của quân giải phóng ngày càng giảm. Trong công tác giáo dục cải tạo những cơ sở xã hội phức tạp có nhiều tiến bộ; đã làm cho nhiều đối tượng nhận thức được xu hướng tất yếu của cách mạng, yên tâm làm ăn, giảm thiểu chống phá, hạn chế bị địch lợi dụng.


Trước yêu cầu bảo vệ an ninh vùng giải phóng và mở rộng hoạt động an ninh trong vùng địch, ban An ninh các cấp dần được củng cố và phát triển về tổ chức và lực lượng. Biên chế An ninh khu khoảng 10 cán bộ; biên chế An ninh tỉnh dưới 10 cán bộ; biên chế An ninh huyện khoảng 3-4 cán bộ; biên chế An nính xã 1-2 cán bộ.


Trước sự lớn mạnh của các khu căn cứ địa cách mạng tháng 2-1965, Trung ương cục quyết định đổi tên đơn vị U25 (bảo vệ khu căn cứ) trực thuộc Ban Bảo vệ An ninh Trung ương cục miền Nam thành U70 và thành lập Trung đoàn bảo vệ E70, do đồng chí Lê Thanh (Tám Lê Thanh) làm Trung đoàn trưởng, đồng chí Đào Tiến Thưởng (Năm Ngọc) làm Tham mưu trưởng, đồng chí Sáu Bình làm Chính trị viên. Tổ chức E70 gồm 03 tiểu đoàn: Tiểu đoàn 1 (Từ đơn vị J120 của U25 cũ chuyển sang) là tiểu đoàn cơ động chiến đấu do đồng chí Triệu chỉ huy; Tiểu đoàn 2 bảo vệ khu Quản ủy miền Nam do đồng chí Thuần chỉ huy; Tiểu đoàn 3 bảo vệ khu dân chính do đồng chí Tư Thục chỉ huy. B1 bảo vệ trực tiếp Thường vụ Trung ương cục do đồng chí Trung Ngàn chỉ huy.


Đến giữa năm 1965, được sự quan tâm của Trung ương cục, lực lượng An ninh miền Nam đã kiện toàn một bước; hình thành bộ máy thống nhất, hệ thống từ Trung ương cục, đến các khu, tỉnh, huyện, xã; một số thôn, ấp cũng có cán bộ làm công tác an ninh; lực lượng An ninh vũ trang cũng được tăng cường thêm sức mạnh, góp phần cùng các lực lượng An ninh miền Nam trong công tác bảo vệ chính quyền ta, phá chính quyền địch. Trong cuộc đấu tranh với địch, lực lượng An ninh vũ trang miền Nam phối hợp với An ninh Bình Long, Phước Long và quân chủ lực miền tấn công căn cứ Phước Long, chi khu Phước Bình, Bù Đăng, Bù Đốp và nhiều ấp chiến lược, tiêu diệt hàng nghìn tên địch, trong đó có nhiều tên gián điệp, biệt kích, mật vụ, thu nhiều vũ khí và tài liệu quan trọng. Tại Thu Dầu Một, từ giữa năm 1965, các đội An ninh vũ trang và Trinh sát vũ trang liên tục tấn công vào các địa điểm đóng quân dã chiến của Mỹ ở Nhà Đỏ, Bông Trang, Bầu Bàng, Bến Cát; diệt gọn một tiểu đoàn địch.


Quán triệt tư tưởng chỉ đạo của Trung ương Đảng, tháng 3-1966, Trung ương cục họp Hội nghị lần thứ 4, xác định "quyết tám đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất kỳ tình huống nào". Về nhiệm vụ công tác an ninh, Trung ương cục chỉ đạo: "nâng cao cảnh giác, tăng cường bảo mật phòng gian, tích cực và chủ động trừ gian, trấn áp do thám gián điệp và phản động, đảm bảo trong sạch vùng căn cứ, giải phóng; tranh thủ diệt ác, trừ gian, phản động trong vùng địch kiểm soát, ra sức xây dựng lực lượng An ninh nhân dân trên quan điểm dựa vào quần chúng, tăng cường đội ngũ cán bộ chuyên môn, kiện toàn bộ máy và chấn chỉnh lề lối làm việc của an ninh các cấp để đảm bảo cho sự trấn áp và chuyên chính với kẻ thù". Nhiệm vụ cụ thể của lực lượng An ninh vũ trang miền Nam là thực hiện công tác bảo vệ các đồng chí lãnh đạo của Đảng, cán bộ Trung ương cục miền Nam, các đồng chí lãnh đạo các địa phương trong cơ quan tỉnh ủy, thành ủy, huyện ủy; bảo vệ căn cứ, vùng giải phóng của ta; trực tiếp diệt ác, phá kìm, trấn áp tiêu diệt bọn tình báo, gián điệp, bọn mật báo, bọn tể ngụy, ác ôn.


Tiêu đề: Tổng kết lịch sử công tác An ninh vũ trang của lực lượng An ninh miền Nam
Gửi bởi: saoden trong 17 Tháng Tám, 2023, 09:22:57 am
Cuối tháng 3-1966, Trung ương cục điều động đồng chí Cao Đăng Chiếm, Trưởng ban An ninh Sài Gòn - Gia Định (T4) về Ban An ninh Trung ương cục làm Phó trưởng Ban An ninh Trung ương cục, trực tiếp chỉ đạo công tác an ninh vũ trang. Dưới sự lãnh đạo của Trung ương cục và Ban Bảo vệ An ninh Trung ương cục, tháng 6-1966, Ban Bảo vệ căn cứ thuộc Ban Bảo vệ An ninh Trung ương cục được thành lập (phiên hiệu C66), do đồng chí Hai Chiến làm Trưởng ban, các đồng chí Sáu Thanh, Đào Tiến Thưởng (Năm Ngọc), Mười Kỉnh và Tám Lai làm Phó trưởng ban. Về tổ chức: D3 của U70 cũ chuyển thành D1 của C66 làm nhiệm vụ cơ động chiến đấu. D2 vẫn giữ nguyên tên cũ và làm nhiệm vụ bảo vệ khu dân chính; B1 trực tiếp bảo vệ Thường vụ Trung ương cục.


Do chủ động nắm được kế hoạch của địch, lực lượng An ninh vũ trang Sài Gòn - Gia Định đã phối hợp với quân giải phóng chiến đấu dũng cảm, đánh trả quyết liệt, kìm chân địch không để chúng tiến sâu vào khu vực căn cứ của Khu ủy tại phố Bò, Phú Hiệp, Củ Chi. Đội An ninh vũ trang bảo vệ Khu ủy do đồng chí Lê Văn Lên chỉ huy mưu trí, chia lực lượng làm 2 cánh: một cánh cùng du kích và bộ đội quân khu chiến đấu kìm chân địch; một cánh quân phá vòng vây đưa các đồng chí lãnh đạo Khu ủy về căn cứ dự bị. Trong 3 ngày chiến đấu, Đội An ninh vũ trang bảo vệ Khu ủy và bộ đội đặc khu đã bắn rơi 10 máy bay các loại, tiêu diệt hàng trăm tên địch, bẻ gãy hàng chục đợt tấn công của chúng. Riêng đồng chí Lê Văn Lên với 15 viên đạn tiêu diệt 15 tên Mỹ. Bị thất bại, địch dùng máy bay B52 rải thảm, trút hàng nghìn tấn bom đạn xuống khu vực căn cứ nhưng không đạt được ý đồ tiêu diệt cơ quan đầu não của ta.


Trong điều kiện chiến tranh ác liệt, các cơ quan đơn vị phải thường xuyên di chuyển, nơi ở và làm việc phân tán, lực lượng An ninh vũ trang và bảo vệ căn cứ phải vượt qua nhiều khó khăn, gian khổ bám sát các mục tiêu bảo vệ, xây dựng hàng chục căn cứ liên hoàn vững chắc. Đặc biệt, Ban An ninh khu 5, khu miền Đông Nam Bộ, Đặc khu Sài Gòn - Gia Định đã xây dựng được những căn cứ liên hoàn ở Hố Bò, Phú Hiệp (Củ Chỉ); Bời Lời, Bà Nhã (Tây Ninh); An Thành, Lạch Kiến, Thanh An, Phú An (Bình Dương); Bù Đốp (Lộc Ninh); Tiên Phước (Quảng Nam), ở mỗi căn cứ, lực lượng An ninh vũ trang phải đào đắp hàng chục hầm làm việc, hầm hội họp; hàng tràm hầm bí mật, công sự chiến đấu, hàng nghìn mét thông hào, địa đạo để đối phó với phi pháo và các cuộc càn quét của địch. Riêng Đội An ninh vũ trang bảo vệ Khu ủy Sài Gòn - Gia Định, trong 2 năm (1965-1966) đã đào 2.800 m địa đạo, 300 hầm bí mật. Từ cuối năm 1966, lực lượng An ninh vũ trang toàn miền đẩy mạnh các hoạt động diệt ác trừ gian, phá kế hoạch "bình định" của địch.


Trong chiến dịch mùa khô 1966-1967, Mỹ tiếp tục tăng quân vào miền Nam đồng thời chuẩn bị mở cuộc phản công chiến lược đánh vào miền Đông Nam Bộ; mục tiêu trọng điểm là tỉnh Tây Ninh nhằm tìm diệt cơ quan lãnh đạo Trung ương cục, Bộ Chỉ huy Miền, Mặt trận dân tộc giải phóng và các đơn vị chủ lực của ta. Ngày 14-9-1966, địch huy động 30.000 quân mở cuộc hành quân Attơnborơ đánh vào chiến khu Dương Minh Châu (Tây Ninh). Phối hợp với các đơn vị chủ lực quân giải phóng và các lực lượng vũ trang địa phương, lực lượng An ninh vũ trang chiến đấu vô cùng dũng cảm, đánh bật nhiều đợt tấn công của địch. Điển hình là lực lượng An ninh vũ trang bảo vệ căn cứ phối hợp với Trung đoàn 16 chủ lực đánh bật 12 đợt tấn công của địch, diệt 2 tiếu đoàn Mỹ, làm thiệt hại 2 tiểu đoàn ngụy, bắn rơi 7 máy bay địch, bảo vệ an toàn cho cán bộ và cơ quan lãnh đạo. Trong 72 ngày đêm chiến đấu kiên cường, các lực lượng vũ trang cùng quân và dân Đông Nam Bộ loại khỏi vòng chiến đấu 1.700 tên Mỹ, 2.800 tên ngụy, bắn và phá hủy 65 máy bay, bắn cháy 500 xe tăng và xe bọc thép của địch.


Thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị quyết tâm đánh bại cuộc phản công mùa khô lần thứ 2 của địch, dưới sự lãnh đạo của Trung ương cục và Bộ chỉ huy các lực lượng vũ trang giải phóng, công tác bảo vệ khu căn cứ đã được vũ trang hóa viên các cơ quan đóng trong căn cứ. Lực lượng An ninh vũ trang bảo vệ căn cứ Trung ương cục C66 là đơn vị nòng cốt, cùng các lực lượng khác vừa nắm tình hình địch, vừa trực tiếp đánh địch.


Từ ngày 3 đến 26-1-1967, địch tiếp tục tập trung lực lượng, mở cuộc hành quân Xêđaphôn đánh vào vùng "tam giác sắt" gồm khu vực Bến Cát (tỉnh Thủ Dầu Một), Củ Chi (Sài Gòn) và Trảng Bàng (Tây Ninh). Phối hợp với các lực lượng vũ trang quân khu và du kích địa phương, lực lượng An ninh vũ trang bố trí lực lượng vừa làm nhiệm vụ bảo vệ cơ quan, bảo vệ các đồng chí lãnh đạo, vừa làm nhiệm vụ trực tiếp chiến đấu tiêu diệt địch. Bộ phận An ninh vũ trang đã bảo vệ đưa các đồng chí lãnh đạo vượt vòng vây của địch đến nơi an toàn. Bộ phận trực tiếp chiến đấu kiên cường bám trụ suốt 6 ngày đêm, đánh lui hàng chục đợt tấn công của địch; diệt 15 tên, bắn rơi 1 máy bay lên thẳng.


Cùng với lực lượng vũ trang quân khu và du kích Củ Chi, tiểu đoàn An ninh vũ trang Vinh Quang (Sài Gòn - Gia Định) do đồng chí Võ Văn Vân chỉ huy vừa làm nhiệm vụ bảo vệ văn phòng Khu ủy vừa phối hợp với các lực lượng khác chống càn, góp phần tiêu diệt 500 tên địch, bắn cháy 18 xe bọc thép. Phát hiện được nơi làm việc của Khu ủy, địch tập trung hỏa lực bắn phá dữ dội và tổ chức nhiều đợt tấn công liên tiếp hòng tiêu diệt cơ quan đầu não của ta. Các chiến sĩ An ninh vũ trang T4 phối hợp với du kích đánh bật 15 đợt tấn công của địch, diệt 90 tên, bắn rơi 1 máy bay HU1A. Địch tổ chức lực lượng chặn đường rút quân của ta qua sông Sài Gòn, các chiến sĩ đã bình tĩnh, mưu trí đưa cán bộ Khu ủy theo đường địa đạo xuống phía Nam Củ Chỉ, vượt khỏi vòng vây của địch. Trong đợt chống càn đã xuất hiện nhiều tấm gương mưu trí, dũng cảm, tiêu biểu là đồng chí Võ Văn Vân, ngoài việc chỉ huy đơn vị chiến đấu diệt nhiều tên địch còn có sáng kiến dùng đạn pháo lép của địch chế thành mìn, diệt 3 xe tăng địch. Sau 18 ngày đêm chiến đấu dũng cảm, lực lượng An ninh vũ trang Đông Nam Bộ cùng với quân và dân địa phương đã tiêu diệt 4.500 tên địch, trong đó có 2.500 tên Mỹ, bắn rơi 6 máy bay, bắn cháy 150 xe quân sự, dồn địch vào thế bị động, lúng túng trên chiến trường.


Sau thất bại liên tiếp của hai cuộc hành quân lớn, ngày 1-2-1967, địch tiếp tục mở cuộc hành quân Big Spinh đánh vào chiến khu D và mở cuộc hành quân Túc Xon đánh vào căn cứ Long Nguyên (Thủ Dầu Một). Từ ngày 14-2 đến 18-2, chúng mở cuộc hành quân Garden đánh vào Lò Gò, Cần Đăng, Thiện Ngôn và Trảng Tà Xỉa (Tây Ninh). Đặc biệt, ngày 22-2-1967, địch mở cuộc hành quân Gianxơnxity đánh vào chiến khu Dương Minh Châu. Chúng đã huy động lực lượng lớn về quân sự gồm 45.000 quân, hàng trăm xe tăng, xe bọc thép và máy bay, đồng thời tăng cường sử dụng bọn tình báo, gián điệp, biệt kích, cảnh sát đặc biệt, sử dụng các phương tiện kỹ thuật hiện đại để điều tra, thu thập tin tức tình báo phát hiện cán bộ, cơ sở và lực lượng ta phục vụ cho cuộc càn quét.


Tiêu đề: Tổng kết lịch sử công tác An ninh vũ trang của lực lượng An ninh miền Nam
Gửi bởi: saoden trong 17 Tháng Tám, 2023, 09:24:01 am
Nắm được âm mưu của địch, Ban An ninh Trung ương cục giao nhiệm vụ cho Đoàn An ninh vũ trang 180 và bộ phận An ninh vũ trang bảo vệ căn cứ phối hợp với các lực lượng khác triển khai kế hoạch chống càn. Lực lượng An ninh đã chia làm hai bộ phận: một bộ phận làm nhiệm vụ bảo vệ các đồng chí lãnh đạo Trung ương cục và cán bộ di chuyển sang biên giới Việt Nam - Campuchia, một bộ phận ở lại bám trụ chiến đấu. Qua 50 ngày đêm chiến đấu quyết liệt, lực lượng An ninh vũ trang và Trinh sát vũ trang phối hợp chặt chẽ cùng các đơn vị chủ lực, dân quân du kích và nhân dân địa phương bẻ gãy các mũi tấn công của địch vào khu căn cứ, loại khỏi vòng chiến đấu 14.000 tên địch, bắn rơi và phá hủy 160 máy bay, 992 xe quân sự.


Trong chiến công chung đánh bại cuộc hành quân Gianxơnxity của địch, các chiến sĩ An ninh vũ trang đã chiến dấu kiên cường với tinh thần "sống anh dũng, chết vẻ vang", một số chiến sĩ An ninh vũ trang đã anh dũng hy sinh để bảo vệ căn cứ và các đồng chí lãnh đạo.


Thực hiện sự chỉ đạo của Ban An ninh Trung ương cục, lực lượng An ninh vũ trang các khu, tỉnh miền Đông và miền Tây Nam Bộ được củng cố và phát triển. Tuy biên chế quân số chưa theo kịp yêu cầu nhiệm vụ, nhưng các chiến sĩ An ninh vũ trang đã phát động phong trào quần chúng, phối hợp với các lực lượng An ninh khác nắm tình hình địch, bám trụ kiên cường, dũng cảm chiến đấu với địch.


Ở Khu 6, từ tháng 1-1967 đến tháng 3-1967, địch càn quét ồ ạt, liên tục, ác liệt, có tới 20 cuộc càn lớn vào căn cứ giáp ranh hai tỉnh Lâm Đồng - Bình Thuận. Khi lực lượng ta chuyển về Cà Tót, địch tiếp tục tổ chức nhiều đợt càn quét dài ngày, đánh phá ác liệt. Tháng 4-1967, địch thả bom trúng nơi đóng quân của Đội An ninh vũ trang khu (C15) do đồng chí Đinh Chuông phụ trách, có trên 30 cán bộ chiến sĩ, nhưng không gây ra tổn thất gì đáng kể. Tháng 12-1967, C15 phối hợp với lực lượng quân sự địa phương đối phó với 18 tiểu đoàn quân Mỹ bao vây Khu ủy, đã đánh lui 6 đợt tấn công của 4 tiểu đoàn địch; riêng tiểu đội của đồng chí Đinh Chuông chặn đánh 1 tiểu đoàn địch, không cho địch vượt qua cây cầu dài chưa đầy 10 mét, diệt 35 tên1 (Cùng với nhiều thành tích xuất sắc khác, C15 - Đội An ninh vũ trang, Ban An ninh Khu 6 được Chính phủ Cách mạng làm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tặng danh hiệu đơn vị Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, ngày 24-1-1975).


Trên chiến trường Khu 5, địch huy động 27 tiểu đoàn quân Mỹ, 21 tiểu đoàn quân Nam Triều Tiên mở các cuộc hành quân đánh vào căn cứ Khu ủy và các đơn vị chủ lực của ta ở địa bàn Phú Yên, Khánh Hòa, Quảng Đà. Lực lượng An ninh vũ trang Khu 5 phối hợp với các lực lượng khác chiến đấu dũng cảm, bẻ gẫy nhiều đợt tấn công của địch, bảo vệ an toàn căn cứ và cán bộ Khu ủy. 05 cán bộ chiến sĩ An ninh vũ trang Phú Yên chiến đấu liên tục 3 ngày đêm với 2 tiểu đoàn chủ lực địch có không quân và pháo binh yểm trợ, đẩy lùi hàng chục đợt tấn công của địch, diệt 52 tên, bảo vệ an toàn cơ quan và các đồng chí lãnh đạo. Đội An ninh vũ trang Bình Định bảo vệ căn cứ, anh dũng chiến đấu bẻ gẫy nhiều đợt tấn công của địch. Trong cuộc chiến đấu ác liệt này đã xuất hiện nhiều tấm gương tiêu biểu như đồng chí Đinh Nhua, một mình diệt 18 tên Mỹ, bắn rơi 01 máy bay trực thăng; đồng chí Đinh Troi làm nhiệm vụ bảo vệ kho bạc, độc lập tác chiến, diệt 15 tên Mỹ, bắn rơi 01 máy bay trực thăng địch; đồng chí Bùi Văn Lai lấy thân mình che cho đồng chí cán bộ lãnh đạo Khu ủy khi bị địch ném bom.


Tại chiến trường miền Tây Nam Bộ (Khu 9), để chủ động chống phá các cuộc càn quét của địch, bảo vệ an toàn căn cứ, lực lượng An ninh tham mưu giúp Khu ủy xây dựng hai loại hình căn cứ là "căn cứ" và "căn cứ đứng chân"; tăng cường lực lượng Cảnh vệ đảm nhiệm công tác bảo vệ căn cứ theo mô hình "vòng trong" và "vòng ngoài". Rạch Giá là địa bàn trọng điểm của Khu 9, lực lượng An ninh vũ trang phối hợp với bộ đội binh vận, tuyên truyền vũ trang, làm rã ngủ gần 300 tên địch; hỗ trợ quần chúng vùng lên phá kìm, bức rút, bứt hàng 150 đồn bốt, giải phóng 20 xã, ấp.


Sau mùa khô 1966-1967, cục diện chiến trường miền Nam chuyển sang hướng có lợi cho ta, quân và dân ta hoàn toàn chủ động về chiến lược. Tuy nhiên, Mỹ vẫn tiếp tục tăng cường chiến tranh, ráo riết chuẩn bị cho cuộc phản công chiến lược trong mùa khô 1967-1968. Được sự chi viện của Bộ Công an, Thường vụ Trung ương cục bổ sung đồng chí Trần Quốc Hương (Mười Hương) và đồng chí Hồ Văn Đại (Sáu Đại) làm Ủy viên Ban An ninh Trung ương cục.


Từ căn cứ diễn biến thực tế trên chiến trường miền Nam, Bộ Chính trị họp (từ ngày 20 đến 24-10-1967) chủ trương "Tổng công kích, tổng khởi nghĩa" vào dịp Tết Mậu Thân 1968. Thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị, ngày 15-12-1967, Thường vụ Trung ương cục miền Nam ra Chỉ thị số 32/CT-NT về nhiệm vụ, phương hướng công tác an ninh trong thời gian tới; nêu rõ 6 vấn đề cơ bản, trong đó đề cập đến công tác xây dựng bộ máy an ninh đến cơ sở, tăng cường các bộ phận nghiệp vụ để đánh địch, truy kích địch. Tháng 12-1967, Ban An ninh Trung ương cục ra nghị quyết về việc củng cố và xây dựng lực lượng An ninh vũ trang, Tiểu đoàn 2 (Đoàn 180 An ninh vũ trang) được thành lập, có nhiệm vụ bảo vệ vòng ngoài, đánh địch đổ bộ, biệt kích để bảo vệ căn cứ Trung ương cục và các cơ quan lãnh đạo cách mạng miền Nam. Ở các khu, lực lượng An ninh vũ trang được xây dựng đến cấp tiểu đoàn; ở các tỉnh biên chế cấp đại đội.


Thực hiện chủ trương của Đảng về Tổng tiến cõng và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, ngay từ tháng 10-1967, Thường vụ Trung ương cục quyết định thành lập Khu trọng điểm bao gồm Sài Gòn - Gia Định và một phần đất thuộc các tỉnh lân cận do đồng chí Nguyễn Văn Linh (Phó Bí thư Trung ương cục) trực tiếp làm Bí thư, đồng chí Võ Văn Kiệt (Ủy viên Trung ương cục, Bí thư Khu ủy Sài Gòn - Gia Định) làm Phó Bí thư; Ban An ninh Trung ương cục tổ chức 6 đoàn cán bộ1 (Mỗi đoàn có 1 trưởng đoàn gồm các đồng chí: Chín Nghĩa, Sáu Thanh, Năm Trà, Tư Ngãi, Tư Thông, Hướng Anh) tăng cường cho 6 cánh quân của an ninh 6 phân khu. Đảng ủy tiền phương Khu trọng điểm được thành lập do đồng chí Trần Văn Trà (Phó Tư lệnh quân giải phóng miền Nam) và đồng chí Võ Văn Kiệt phụ trách. Trung ương cục quyết định thành lập 2 phân ban Đảng ủy và Bộ Tư lệnh tiền phương: Bộ Tư lệnh tiền phương I (cánh Bắc) gồm các đồng chí Trần Văn Trà, Lê Đức Anh và Mai Chí Thọ; Bộ Tư lệnh tiền phương II (cánh Nam) có đồng chí Võ Văn Kiệt, Trần Bạch Đằng.


Tiêu đề: Tổng kết lịch sử công tác An ninh vũ trang của lực lượng An ninh miền Nam
Gửi bởi: saoden trong 17 Tháng Tám, 2023, 09:24:33 am
Đồng chí Phan Văn Đáng, Phó Bí thư Trung ương cục, Trưởng ban An ninh Trung ương cục được cử về miền Tây Nam Bộ (T3) để chỉ đạo công tác chuẩn bị tổng tiến công; đồng chí Phạm Thái Bường (Ba Bình), thường trực Trung ương cục được điều về phụ trách Ban An ninh Trung ương cục. Trung ương cục chủ trương giải thể Ban An ninh miền Đông Nam Bộ (T1), điều động đồng chí Nguyễn Văn Còn (Mười Thạnh) và một số đồng chí khác về Ban An ninh Trung ương cục, rút Đội bảo vệ Chính trị và Ban căn cứ 105 về Ban An ninh Trung ương cục, số khác bổ sung cho tỉnh Tây Ninh; thành lập Đại đội An ninh vũ trang do các đồng chí Chín Dũng và Tám Kế chỉ huy. Khu ủy, Ban An ninh các phân khu, các ban ngành đều có 2 bộ phận chỉ đạo; một bộ phận hoạt động nội thành, một bộ phận ở lại bảo vệ căn cứ. Ban lãnh đạo An ninh Khu trọng điểm cử một tổ tiền trạm do đồng chí Huỳnh Văn Cang cùng đồng chí Minh và Dân phụ trách xuống địa bàn để xây dựng căn cứ cho Bộ Tư lệnh tiền phương. Lực lượng An ninh vũ trang, bảo vệ căn cứ, bảo vệ lãnh đạo khu ủy được bổ sung thêm quân số, phát triển thành đại đội, các đơn vị khác được phiên chế thành tiểu đội, trung đội tập trung tại Ba Thu (cách Sài Gòn 60 km về phía Nam), chuẩn bị tiến công vào nội thành. Ngoài ra, Ban An ninh Khu Sài Gòn - Gia Định quyết định thành lập đơn vị An ninh vũ trang với nhiệm vụ đánh vào các mục tiêu Tổng nha Cảnh sát và Nha Cảnh sát đô thành.


Các khu đều tích cực chuẩn bị cho tổng tấn công và nổi dậy. Tại Khu 5, Khu ủy chỉ thị cho lực lượng An ninh tăng cường công tác nắm tình hình địch, nhất là bọn gián điệp, phản động, chủ yếu là Việt Nam Quốc dân đảng ở Đà Nẵng. Lực lượng An ninh vũ trang xâm nhập vào nội thành xây dựng cơ sở, đào hầm bí mật, ém quân chờ lệnh. Tại Khu Trị Thiên - Huế, từ tháng 12-1967, Khu ủy Trị Thiên - Huế lập kế hoạch chia lực lượng thành 2 bộ phận: một bộ phận phụ trách tuyến giáp ranh và bảo vệ căn cứ do đồng chí Quỳnh (Sơn) phụ trách; bộ phận tiền tiêu do đồng chí Nguyễn Thành Khiêm (Bảy Khiêm) phụ trách, ở Khu 6, lực lượng An ninh được phân công đi thị sát 2 mặt trận chính để chỉ đạo công tác chiến đấu, các ban an ninh đều bố trí tăng cường xuống địa bàn, xây dựng cơ sở và nắm tình hình địch để phục vụ tổng tiến công. Tại Khu 9, lực lượng An ninh được bổ sung cán bộ và phân công lãnh đạo chỉ đạo từng mũi tiến công. Tại Khu 10, lực lượng An ninh có kế hoạch cụ thể hướng dẫn an ninh các tỉnh chuẩn bị phục vụ tổng tiến công và nổi dậy; in 20 vạn tờ truyền đơn và các loại thư từ kêu gọi binh lính, cảnh sát, công chức địch ra hàng.


Trước giờ nổ súng, quân chủ lực và lực lượng An ninh vũ trang địa phương đánh một số trận ở Lộc Ninh, Đắc Tô, Tuy Phước, Hậu Nghĩa, Khe Sanh nhằm kéo giãn lực lượng và đánh lạc hướng địch. Đêm 30 rạng 31-1-1968 (đêm giao thừa Tết Mậu Thân), cuộc tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân ta ở miền Nam bắt đầu. Các lực lượng vũ trang ta đồng loạt nổ súng tiến công địch trên khắp các chiến trường, đánh thẳng vào các thành phố, thị xã, căn cứ, kho tàng, sân bay, sở chỉ huy của Mỹ và chính quyền Sài Gòn.


Tại khu trọng điểm Sài Gòn - Gia Định, lực lượng An ninh vũ trang được giao nhiệm vụ bảo vệ và dẫn đường cho các mũi tấn công địch. Ngày 29-1-1968, các lực lượng bắt đầu xuất phát từ Ba Thu (Long An) hành quân đến địa điểm tập kết tại Long Cang (Long An), chia làm 3 mũi tiến vào thành phố. Mũi thứ nhất gồm 12 chiến sĩ An ninh vũ trang do đồng chí Phạm Minh Trung và Lê Văn Tăng chỉ huy có nhiệm vụ bảo vệ, dẫn đường Bộ Tư lệnh tiền phương II bí mật vào thành phố, đến trường đua Phú Thọ Hòa. Vừa đến nơi thì bị địch phát hiện, 12 chiến sĩ An ninh vũ trang chốt lại Chợ Thiếc (trường đua Phú Thọ Hòa) chiến đấu kìm chân địch 5 ngày đêm, diệt 120 tên địch, bắn cháy 11 xe (1 xe tăng và 5 xe bọc thép). Ta lần lượt hy sinh 10 đồng chí, chỉ còn 2 đồng chí Trung và Tăng bị địch bắt và đưa đi thủ tiêu.


Hai Đội An ninh vũ trang mới thành lập ngày 15-12-1967 được giao nhiệm vụ đánh vào Tổng nha Cảnh sát và Nha Cảnh sát đô thành. Đội 1 gồm 15 cán bộ, chiến sĩ do đồng chí Tám Hợi chỉ huy cùng 1 bộ phận của Bộ Tư lệnh tiền phương II xuất phát từ ngày 26-1-1968. Ngày 4-2-1968, đội vào đến đường Hậu Giang (quận 6) thì gặp địch. Đơn vị đã triển khai đội hình chiến đấu, diệt 37 tên cảnh sát. Phân đội tiếp tục chiến đấu, diệt 28 tên, làm bị thương nhiều tên khác. Về phía đơn vị, 7 đồng chí hy sinh, 4 đồng chí khác bị thương. Phân đội 2, đội 1 An ninh vũ trang Khu trọng điểm do đồng chí Ba Anh chỉ huy có nhiệm vụ bảo vệ dẫn đường đưa Bộ Tư lệnh tiền phương I vào nội thành và chiếm lĩnh Nha Cảnh sát đô thành. Sau 10 ngày hành quân, phân đội đưa đoàn cán bộ vượt qua nhiều đồn bốt, trận địa của địch vào đến khu vực Phú Thọ Hòa gặp ổ phục kích của địch. Phân đội phối hợp với lực lượng vũ trang tại chỗ đánh địch, diệt 25 tên. Sau khỉ bố trí một bộ phận đưa đoàn cán bộ đến nơi an toàn, bộ phận còn lại của phân đội phối hợp với Đoàn 10 tổ chức chống càn, tiêu diệt 1 đại đội địch, bắn cháy 8 xe M113, bắn rơi 2 trực thăng. Ngày 28-2-1968, trên đường rút về căn cứ, đến Mỹ Hạnh, Đức Hòa (Long An), đơn vị bị địch phục kích, dũng cảm chiến đấu, diệt 10 tên biệt kích. Cùng lúc đó, Đội An ninh vũ trang thuộc Phân khu 2 phối hợp với bộ đội địa phương diệt và bắn bị thương hàng chục tên địch.


Tại khu 8 (Trung Nam Bộ), chấp hành lệnh Tổng tiến công, quân và dân miền Trung Nam Bộ đã đồng loạt nổi dậy, đánh thẳng vào các cơ quan đầu não, hậu cứ, kho tàng của địch. Lực lượng An ninh vũ trang các tỉnh làm nhiệm vụ bảo vệ các đồng chí lãnh đạo, dẫn đường cho các lực lượng tiến công vào các trụ sỏ chính quyền tỉnh, các ty cảnh sát, cơ quan tình báo, bình định, chiến tranh tâm lý, chiêu hồi, bảo an và bộ máy kìm kẹp của địch ở cơ sở.


Tại khu 9 (Tày Nam Bộ), trước khi Tổng tiến công và nổi dậy, lực lượng An ninh khu đã tăng cường lực lượng cho An ninh các tỉnh. Khi Tổng tiến công, lực lượng An ninh vũ trang Vĩnh Long phối hợp với các lực lượng khác tấn công tòa hành chính, dinh tỉnh trưởng, cơ quan tình báo CIA, đài truyền tin, ty cảnh sát, đánh sân bay, phá hủy 60 trực thăng, bắn rơi 6 chiếc khác, diệt và làm tan rã 1.200 cảnh sát, tiêu diệt 1 đại đội biệt kích, phá trại giam giải thoát cho 500 tù nhân, bắt giữ 9 tên ác ôn, gọi hàng 138 tên tề điệp, truy bắt 185 tên cảnh sát, nhân viên chiêu hồi. Lực lượng An ninh vũ trang Rạch Giá tiến công vào các mục tiêu ty cảnh sát, dinh tỉnh trưởng, kho bạc, phá trại giam giải thoát cho cán bộ và nhân dân bị địch giam giữ. Tại Cà Mau, lực lượng An ninh vũ trang đã đánh chiếm các phường 9,12, đánh sập tòa hành chính, ty cảnh binh, ngân hàng, đánh sân bay, tiêu diệt 17 tên cảnh sát.


Tiêu đề: Tổng kết lịch sử công tác An ninh vũ trang của lực lượng An ninh miền Nam
Gửi bởi: saoden trong 22 Tháng Tám, 2023, 08:16:19 am
Trên chiến trường Tây Nguyên, các lực lượng An ninh vũ trang, Trinh sát vũ trang phối hợp chặt chẽ với bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và nhân dân đồng loạt nổi dậy tấn công vào các thị xã, thị trấn như Pleiku, Kon Tum, Đắc Lắc, Buôn Ma Thuột, Đà Lạt. Đặc biệt, lực lượng An ninh vũ trang Đắc Lắc tiến công vào thị xã Buôn Ma Thuột, diệt nhiều tên cảnh sát dã chiến, bắt tên đại tá, trưởng đoàn USOM Mỹ và một số tên chỉ huy FULRO.


Tại khu Trị Thiên - Huế, 2 giờ sáng ngày 31-1, quân ta đồng loạt nổ súng vào 40 mục tiêu của địch ở nội ngoại thành. Lực lượng An ninh tấn công 17 cơ quan quan trọng của địch như cơ quan CIA, bình định nông thôn, sắc tộc, tòa hành chính, chiến tranh tâm lý, ty cảnh sát, cơ quan sưu tầm vùng I. Sang ngày thứ ba, ta hoàn toàn làm chủ thành phố Huế. Khi tình hình tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân ta trên tất cả các chiến trường miền Nam đã lắng xuống, nhưng quân và dân ta ở Huế vẫn kiên cường bám trụ, chiến đấu ác liệt. Ngày 5-2-1968, địch bắt đầu bao vây thành phố, phản công dữ dội; dùng máy bay và phi pháo đánh phá thành nội. Những chiến sĩ An ninh vũ trang tiếp tục chiến đấu, giành giật với địch từng đường phố, cửa ô, giữ vững những vị trí trọng điểm. Lực lượng An ninh vũ trang khu đã phối hợp với lực lượng Trinh sát vũ trang tổ chức đón một số nhân sĩ, trí thức lên chiến khu.


Ở mặt trận Tây Ninh và khu căn cứ Trung ương cục, cuộc chiến đấu của lực lượng An ninh vũ trang để bảo vệ căn cứ diễn ra vô cùng quyết liệt

Ngày 11-1-1968, ta phát hiện 1 đoàn xe bọc thép của địch hành quân từ Thiện Ngôn theo quốc lộ 22 xuống cầu Cần Đăng. Được sự chỉ đạo của Ban An ninh Trung ương cục, Đại đội 1, Tiểu đoàn 3, Đoàn 180 An ninh vũ trang do đồng chí Nguyễn Văn Cứu (Ba Cứu) làm Đại đội trưởng và đồng chí Nguyễn Hồng Châu (Tư Châu nhỏ) chỉ huy đã bắn cháy 13 xe M113, 2 xe GCM, diệt 50 tên địch, bắt sống 1 tên Mỹ.


Ngày 18-1-1968, Tiểu đoàn 3 An ninh vũ trang được lệnh phối hợp với Tỉnh đội Tây Ninh đánh vào Chi khu quân sự ấp chiến lược Cao Xá (Tây Ninh); trận đánh do đồng chí Nguyễn Văn Cứu (Ba Cứu) và Lê Hoàng Hiệp (Chín Hiệp) chỉ huy. Trong trận này, các chiến sĩ An ninh vũ trang phá lô cốt địch, diệt 30 tên. Cuối năm 1968, Tiểu đoàn 3 An ninh vũ trang sáp nhập vào đội hình chiến đấu của Tỉnh đội Tây Ninh, tham gia nhiều trận đánh, bắn cháy nhiều xe tăng, diệt nhiều tên địch.


Cuộc tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân ta năm 1968 làm lung lay ý chí xâm lược của Mỹ, phá tan kế hoạch "tìm diệt và bình định" của địch, buộc Mỹ phải ngồi vào đàm phán với ta tạỉ Hội nghị Paris.


Tháng 3-1968, để tăng cường công tác bảo vệ cơ quan đầu não, Ban An ninh Trung ương cục ra nghị quyết về việc xây dựng lực lượng vũ trang miền Nam. Trung ương cục điều động đồng chí Lâm Văn Thê (Ba Hương) - Ủy viên Trung ương Cục, Trưởng ban An ninh T3; đồng chí Thứ trưởng Nguyễn Quang Việt vừa được Bộ Công an tăng cường vào làm Phó ban An ninh Trung ương cục; đồng chí Nguyễn Hoàn (Hai An) được cử làm Ủy viên Ban An ninh Trung ương cục, trực tiếp phụ trách lực lượng An ninh vũ trang. Ngày 26-4-1968, Thường vụ Ban An ninh Trung ương cục miền Nam tổ chức hội nghị thảo luận về việc xây dựng lực lượng An ninh vũ trang trên cơ sở Nghị quyết tháng 3-1968.


Ngày 27-4-1968, một đại đội biệt kích địch từ căn cứ Thiện Ngôn càn quét vào khu căn cứ. Đại đội 1 (Đoàn 180) bảo vệ căn cứ nhanh chóng triển khai đội hình, phục kích, diệt hàng trăm tên, thu nhiều vũ khí và phương tiện khác. Cũng trong tháng 4, Đại đội 3 (Đoàn 180) tiêu diệt 1 đại đội địch, đánh thiệt hại 1 đại đội khác của tiểu đoàn biệt kích xâm nhập vào khu căn cứ.


Sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1968, lực lượng An ninh miền Nam trong đó có lực lượng An ninh vũ trang bị tổn thất, hy sinh nhiều, vùng giải phóng và vùng căn cứ của ta bị địch lấn chiếm, càn quét ác liệt. Để tiếp tục tấn công địch, làm phá sản kế hoạch bình định của chúng, Ban An ninh Trung ương cục chủ trương: Các ban an ninh khu, tỉnh, thành phố, quận, huyện, xã kiện toàn về tổ chức, bổ sung lục lượng, nhất là các bộ phận nghiệp vụ như bảo vệ chính trị, bảo vệ nội bộ, cảnh vệ, an ninh vũ trang.


Ngày 9-6-1968, Thường vụ Trung ương cục ra Chỉ thị số 17/CTNT về việc xây dựng lực lượng An ninh vũ trang. Về phương hướng, chỉ thị xác định: "Dựa trên phương châm tích cực, khẩn trương, kịp thời, gọn nhẹ, sắc bén, chú trọng cả về số lượng và chất lượng vì có nơi chưa xây dựng hay có cũng rất ít, xây dựng đến đâu, tổ chức chiến đấu đến đó, vừa chiến đấu, vừa xây dựng, tiến lên một cách vững chắc, từ ít đến nhiều, từ đơn giản đến hoàn chỉnh".


Về tổ chức: Lực lượng An ninh vũ trang miền Nam được tổ chức thành hệ thống hoàn chỉnh, bao gồm các đơn vị An ninh vũ trang tập trung, các đội cảnh vệ, cận vệ, các đội trinh sát vũ trang. Các đơn vị này được biên chế từ tiểu đội, trung đội, đại đội đến tiểu đoàn. Về nhiệm vụ: Các đơn vị An ninh vũ trang tập trung có nhiệm vụ bảo vệ vòng ngoài căn cứ, tổ chức tuần tra cảnh giới, thường trực canh gác; sẵn sàng chiến đấu, chuẩn bị đầy đủ kế hoạch, biện pháp một cách chủ động, đảm bảo an toàn cho các địa bàn hoạt động của các cấp ủy, các cơ quan chính quyền trong mọi tình huống. Các đơn vị cảnh vệ và cận vệ có nhiệm vụ bảo vệ tiếp cận, bảo đảm an toàn mục tiêu và các đồng chí lãnh đạo cao cấp; canh gác trại giam, quản chế tội phạm, bố phòng chiến đấu chống phi pháo, chống địch đánh phá. Về nguyên tắc lãnh đạo chỉ đạo lực lượng An ninh vũ trang: Lực lượng An ninh vũ trang ở cấp nào phải chịu sự lãnh đạo tuyệt đối của cấp ủy cấp đó; chịu trách nhiệm xây dựng huấn luyện, quản lý sử dụng lực lượng An ninh vũ trang theo sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đó.


Chỉ thị số 17 của Thường vụ Trung ương cục có tác dụng thúc đẩy việc xây dựng lực lượng An ninh vũ trang phát triển lên một bước mới, hoàn thiện hệ thống tổ chức và khẳng định vị trí, chức năng nhiệm vụ của An ninh vũ trang trong sự phát triển chung cùng các lực lượng vũ trang khác. Thường vụ Trung ương cục giao cho ba đồng chí Lâm Văn Thê, Nguyễn Quang Việt, Nguyễn Hoàn thay mặt Ban An ninh miền Nam trực tiếp chỉ huy, chỉ đạo mọi mặt về công tác an ninh vũ trang.


Tiêu đề: Tổng kết lịch sử công tác An ninh vũ trang của lực lượng An ninh miền Nam
Gửi bởi: saoden trong 22 Tháng Tám, 2023, 08:18:44 am
Thực hiện quyết định của Trung ương cục, Ban An ninh giải thể C66, thành lập những đơn vị bảo vệ mới trực thuộc Ban An ninh Trung ương cục miền Nam là Đoàn I và Đoàn 180 An ninh vũ trang1 (Một tài liệu khác ghi: Năm 1969, Ban An ninh Trung ương Cục đã quyết định thành lập Tiểu ban Bảo vệ nội bộ và Cảnh vệ. Tiểu ban này do đồng chí Hồ Văn Đại (Sáu Đại) làm Trưởng tiểu ban đồng chí Sáu Tùng làm Phó trưởng tiểu ban. Tiểu ban có 2 bộ phận một bộ phận có chức năng làm công tác bảo vệ nội bộ, một bộ phận làm công tác cảnh vệ. Bộ phận cảnh vệ gồm có Đoàn I và Đoàn 180 An ninh vũ trang. Các đơn vị thuộc Đoàn I làm nhiệm vụ bảo vệ cấp ủy (các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Trung ương cục) và các cơ quan khác như Mặt trận I, Mặt trận II, Chính phủ cách mạng lâm thời. Các đơn vị Đoàn 180 làm nhiệm vụ bảo vệ vòng ngoài và cơ động chiến đấu chống địch càn quét vào căn cứ). Đoàn I có nhiệm vụ bảo vệ trực tiếp Thường vụ Trung ương cục và các cơ quan Văn phòng Trung ương cục. Chỉ huy Đoàn I là đồng chí Đào Tiến Thưởng (Năm Ngọc), Chính trị viên là đồng chí Trần Văn Hiền (Năm Hiền), Đoàn phó gồm 02 đồng chí Phan Văn Khỉ (Tư Châu lớn) và Mười Thái. Chính trị viên phó gồm 02 đồng chí Nguyễn Thanh Sơn (Năm Sơn) và đồng chí Nguyễn Hồng Châu (Tư Châu nhỏ). Tổ chức có 1 tiểu đoàn (D1) và cơ quan đoàn bộ với tổng số 200 cán bộ chiến sĩ. Đoàn 180 gồm có Tiểu đoàn 2 (D2) cũ của C66 và một số đơn vị trực thuộc. Nhiệm vụ của Đoàn 180 là vũ trang bảo vệ vòng ngoài khu căn cứ Trung ương cục, quản lý biên giới, cửa khẩu, đồng thời khỉ cần thiết thì đánh chặn địch từ xa. Tháng 4-1968, Đoàn 180 được nâng cấp thành Trung đoàn 180 An ninh vũ trang, do đồng chí Sáu Huấn chỉ huy. B1 trước đây làm nhiệm vụ bảo vệ tiếp cận Thường vụ Trung ương cục được bổ sung thêm quân và nâng cấp thành Đại đội 1 (C1). Tiếp đó thành lập hai đại đội C2 và C3 làm nhiệm vụ bảo vệ khu vực làm việc và ăn ở của Văn phòng Trung ương cục; quân số mỗi đại đội khoảng 50-60 người.


Để bảo vệ Đại hội thành lập Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam (ngày 6-6-1969), Ban An ninh Trung ương cục đã thành lập Tiểu ban Bảo vệ Đại hội, do đồng chí Hai An (Nguyễn Hoàn) làm Trưởng Tiểu ban; các đồng chí Tám Lai (Chỉ huy phó Đoàn 180) và Phạm Cứu (phụ trách công tác cảnh vệ thuộc Tiểu ban Bảo vệ Nội bộ và Cảnh vệ thuộc Ban Bảo vệ An ninh Trung ương cục) làm Ủy viên.


Tháng 7-1969, thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 về công tác an ninh, Ban Bảo vệ An ninh Trung ương cục củng cố lại tổ chức, gồm 11 đơn vị: 1/Văn phòng do đồng chí Ngô Quang Nghĩa làm Chánh Văn phòng, các đồng chí Bùi Thiện Ngộ, Nguyễn An Khương (Bảy Tiến), Lê Văn Bê (Hai Bê) làm Phó Văn phòng; 2/Tiểu ban Bảo vệ Chính trị, do đồng chí Lâm Văn Thê (Ba Hương), Phó trưởng Ban kiêm Trưởng Tiểu ban, đồng chí Hai Tiền, Phó Tiểu ban; 3/Tỉểu ban Bảo vệ Nội bộ và Cảnh vệ, do đồng chí Bắc Hồng làm Trưởng Tiểu ban, đồng chí Mười Long làm Phó Tiếu ban; 4/Tiểu ban An ninh vũ trang, do các đồng chí Nguyễn Quang Việt, Phó ban An ninh Trung ương cục làm Trưởng Tiểu ban, giúp việc có các đồng chí Thông, Nga, Thụy, Biên, Sơn; đồng chí Phi Hổ phụ trách Trường An ninh vũ trang.


Cùng với nhiệm vụ đẩy mạnh công tác xây dựng và củng cố lực lượng, các đơn vị An ninh vũ trang đã triển khai công tác đánh địch trên các mặt trận. Ngày 3-9-1968, Đoàn 180 phối hợp với Sư đoàn 9 quân chủ lực miền Đông Nam Bộ dùng chiến thuật "bao vây, khuấy nhão, rút củi" đánh căn cứ biệt kích Thiện Ngôn. Các đơn vị C1, C2, C3, B5 bao vây đánh địch xung quanh căn cứ Thiện Ngôn từ ngày 3 đến 9-9-1968. Các đơn vị luân phiên bám rào, đào công sự, bắn máy bay, dùng súng B40, cối 82 ly bắn vào cứ điểm; diệt 50 tên, bắn cháy 5 máy bay địch.


Ngày 11-10-1968, 1 tiểu đoàn ngụy đổ bộ xuống Trảng Bò (Tây Ninh). Sư đoàn 9 quân chủ lực miền Đông bao vây, chặn đánh quyết liệt. Địch phải dùng nhiều máy bay trực thăng, khu trục, phản lực đến ném bom bắn phá hỗ trợ cho quân rút vào Trảng Xa Mát. Phát hiện hướng rút quân của địch, tổ B5 trinh sát gồm 6 đồng chí do đồng chí Nguyễn Phước Tấn (Ba Tấn) chỉ huy nhanh chóng triển khai đội hình chiến đấu; diệt 35 tên, bắn cháy 4 máy bay địch.


Ngày 15-12-1968, sau nhiều trận giao chiến bị thất bại, địch dùng trực thăng đổ 1 tiểu đoàn thủy quân lục chiến xuống Trảng Ba Chân, bám theo đường mòn vào căn cứ địa của ta. Trung đội 3, Đại đội 1, Đoàn 180 do đồng chí Nguyễn Thanh Bình (Bình Thẹo) và Nguyễn Văn Liệt (Sáu Liệt) chỉ huy đã chiến đấu anh dũng, đẩy lùi 9 đợt tấn công của địch; Trung đội 3 do đồng chí Nguyễn Phong Giang chỉ huy đang tuần tra cũng phối hợp đánh địch; diệt 45 tên.


Đến cuối năm 1968, tổ chức An ninh vũ trang phát triển thành một lực lượng mạnh, đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ ở chiến trường miền Nam. Lực lượng An ninh vũ trang được củng cố tổ chức, phát triển lực lượng. Các đơn vị ATK có tới 482 đồng chí; đơn vị bảo vệ Trung ương cục có 150 đồng chí; 7 chốt biên phòng có 85 đồng chí; các đại đội canh gác trại giam có 90 đồng chí; bảo vệ MT11 (MT1: Mục tiêu 1) có 27 đồng chí, bảo vệ MT22 (MT2: Mục tiêu 2) có 35 đồng chí.


Do nhu cầu chiến đấu, bảo vệ, Ban An ninh Trung ương cục miền Nam thành lập thêm 2 tiểu đoàn cảnh vệ dự bị, gồm 200 đồng chí; 3 tiểu đoàn An ninh vũ trang có 1.000 đồng chí, 50 chiến sĩ lái xe. Mặt khác, Ban An ninh còn kiến nghị bổ sung cho lực lượng An ninh vũ trang 10 cán bộ huyện ủy, 5 cán bộ tỉnh ủy để phụ trách các công tác Đảng, tham mưu, chính trị, cảnh vệ. Trong năm 1968, Bộ Tư lệnh Công an vũ trang đã bổ sung 373 cán bộ, chiến sĩ cho lực lượng An ninh vũ trang miền Nam.


Năm 1969, Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp ra nghị quyết "Về tình hình và nhiệm vụ trước mắt của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta", chủ trương "tiếp tục đẩy mạnh tổng công kích, tổng khởi nghĩa". Quán triệt chủ trương của Đảng, đầu năm 1969, Ban An ninh Trung ương cục ra Chỉ thị số 06/CT yêu cầu lực lượng An ninh "phải chủ dộng nắm toàn diện, cụ thể, chính xác về tổ chức, âm mưu, thủ đoạn hoạt động của gián điệp Mỹ - ngụy, các tổ chức trá hình, các cơ quan đàn áp, bình định", đồng thời đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống kế hoạch Phượng Hoàng của địch.


Tiêu đề: Tổng kết lịch sử công tác An ninh vũ trang của lực lượng An ninh miền Nam
Gửi bởi: saoden trong 22 Tháng Tám, 2023, 08:19:38 am
Nắm vững phương châm "đánh sâu, đánh mạnh, đánh trúng đối tượng", lực lượng An ninh vũ trang miền Nam đã chủ động nắm tình hình, tiến công vào tận hang ổ của địch. Đối với các khu căn cứ, công tác bảo vệ căn cứ Trung ương cục và các khu ủy được chú ý và tăng cường. Các đơn vị An ninh vũ trang khắc phục mọi khó khăn, gian khổ để bảo vệ an toàn cho cán bộ lãnh đạo. Tiêu biểu là Tiểu đoàn 1 An ninh vũ trang bảo vệ Trung ương cục, Đại đội 32 thuộc Tiểu đoàn 10 An ninh vũ trang bảo vệ Khu ủy khu 5, các đội An ninh vũ trang bảo vệ Khu ủy khu Trị Thiên - Huế, Khu ủy khu 6, Khu ủy khu Đông Nam Bộ, Khu ủy khu 8, Khu ủy khu 9.


Những đơn vị này đã có những trận đánh điển hình như: Ngày 20-3-1969, địch ném bom, bắn phá dữ dội và cho một đại đội biệt kích đánh vào căn cứ Trung ương cục. Đoàn 180 An ninh vũ trang do đồng chí Trần Văn Nhiều và Dương Ngọc Lâm chỉ huy đã kịp thời bảo vệ các đồng chí lãnh đạo di chuyển đến căn cứ dự bị an toàn; diệt 15 tên biệt kích, bắn rơi 2 trực thăng địch. Ngày 12-4-1969, một đại đội biệt kích từ căn cứ Thiện Ngôn bí mật xâm nhập vào khu vực căn cứ ta, Đại đội 3 do đồng chí Hồ Bi và Sáu Hớn chỉ huy đã tổ chức đón đánh ở bắc Trảng Tràm (Tây Ninh); diệt 35 tên, bắt 2 tên, thu 9 súng. Ngày 1-6-1969, một trung đội thám báo địch tập kích vào căn cứ, Đại đội 2 An ninh vũ trang (Đoàn 180) chủ động tấn công; diệt hàng chục tên. Đêm 16 rạng sáng 17-8-1969, một tổ trinh sát của ta đã đột nhập vào căn cứ biệt kích Thiện Ngôn, đặt mìn định hướng chờ sáng 18-8 địch tập trung quân đi càn thì cho mìn nổ; diệt 20 tên, phá hủy 2 xe quân sự, bẻ gãy cuộc hành quân của chúng. Ngày 21-9-1969, địch cho một tiểu đoàn biệt kích đổ bộ xuống Trảng Bảy Bàu để đánh vào căn cứ Trung ương cục. Ngay khi quân địch tiếp đất, một phân đội của C2 thuộc D2, Đoàn 180 An ninh vũ trang đã tiến công địch, diệt 30 tên; đơn vị trính sát của tiểu đoàn cùng C1 diệt toàn bộ ban chỉ huy của địch, diệt và làm bị thương 82 tên, thu 7 súng; các chiến sĩ C2 tiếp tục đón lõng, diệt thêm 40 tên, thu 02 súng, bắn rơi 1 máy bay địch1 (Với chiến công này, Đoàn 180 được Bộ Chỉ huy Miền tặng Huân chương Chiến công hạng Hai và Huân chương Chiến công hạng Ba; C1 và B5 trinh sát vũ trang được tặng giấy khen). Ngày 17-10-1969, địch cho tiểu đoàn biệt kích Xuyên Sơn từ cứ điểm Thiện Ngôn xâm nhập vào khu vực bắc Tây Ninh; Trung đội 9, Đại đội 3 do đồng chí Nguyễn Văn Hớn chỉ huy đón đánh, diệt 38 tên; Đại đội 2, Tiểu đoàn 2 An ninh vũ trang do đồng chí Nguyễn Tự Cường, Nguyễn Văn Lạc (Mười Lạc) chỉ huy đã tổ chức truy tìm, diệt tiếp 49 tên.


Phát huy những thắng lợi đã đạt được, lực lượng An ninh vũ trang miền Nam tăng cường công tác phát động phong trào phòng gian, bảo mật sâu rộng trong nội bộ Đảng, các tổ chức cách mạng, trong quần chúng, đánh bại âm mưu và hoạt động do thám, gián điệp, nội gián, chiến tranh tâm lý chiêu hàng của địch; tích cực bảo vệ nội bộ Đảng, chính quyền và đoàn thể cách mạng, giữ gìn trật tự an ninh cho nhân dân; bảo vệ hành lang vận chuyển phục vụ cho chiến đấu của quân đội và đấu tranh chính trị của quần chúng, góp phần tích cực đánh đổ hệ thống ngụy quyền, đồng thời ra sức chuẩn bị lực lượng và điều kiện tiến lên đập tan mọi âm mưu, hành động chống phá cách mạng lâu dài của địch.


Trong lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đang diễn ra rất gay go, ác liệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu từ trần. Tại Khu căn cứ kháng chiến, Trung ương cục miền Nam đã tổ chức lễ truy điệu Chủ tịch Hồ Chí Minh, lực lượng An ninh vũ trang đã bảo vệ an toàn tuyệt đối lễ truy điệu.


Tháng 3-1970, Mỹ câu kết với chính quyền Lonnon (Campuchia) mở chiến dịch hai gọng kìm hòng tiêu diệt căn cứ của Trung ương cục miền Nam đóng trên đất Campuchia và các cơ quan của Chính phủ cách mạng đóng sát biên giới Campuchia.


Thực hiện mệnh lệnh của Thường vụ Trung ương cục, từ cuối tháng 3-1970, Đoàn 180 An ninh vũ trang đã phối hợp với các lực lượng vũ trang tiến công cứ điểm Krết, theo quốc lộ 7 lên Xuông và Tonlêbết, đánh địch ở khu vực Tà Súa, Tà Rao và chiếm phà Niếc Lương. Cùng lúc đó, Tiểu đoàn 1 của Cảnh vệ phối hợp với quân chủ lực tiến công Mimốt lên Srêcốc và cứ điểm địch ở Rùm Chiếc, mở đường đưa các đồng chí lãnh đạo Trung ương cục, văn phòng và các đoàn thể về căn cứ dự bị của ta tại Công Pông Chàm (Campuchia).


Lực lượng An ninh vũ trang và Cảnh vệ của Trung ương cục vừa chiến đấu chống địch trên đất ta, vừa phối hợp với lực  lượng vũ trang của ta và bạn đánh địch, giúp cách mạng Campuchia giải phóng một vùng rộng lớn, bảo vệ an toàn Trung ương cục và các cơ quan trực thuộc, làm thất bại cuộc hành quân càn quét của địch. Riêng Tiểu đoàn 2, Đoàn 180 An ninh vũ trang đã chiến đấu hàng chục trận, phá hủy 27 xe cơ giới, diệt hàng trăm tên địch.


Tại Khu 8, giữa năm 1970, địch tổ chức nhiều cuộc hành quân càn quét đánh vào căn cứ. Khu ủy quyết định rời căn cứ sang đất Campuchia giáp với tỉnh An Giang. Tiểu đoàn 29 An ninh vũ trang bảo vệ Khu ủy tổ chức bảo vệ, dẫn đường, đưa gần 1.000 cán bộ tới căn cứ mới an toàn. Lực lượng An ninh vũ trang của ta còn phối hợp với lực lượng quân sự của bạn đánh địch, giải phóng hoàn toàn 5 tỉnh và phần lớn 6 tỉnh Đông Bắc Campuchia. Ở vùng mới giải phóng, lực lượng An ninh vũ trang giúp bạn củng cố lượng chính trị, phát triển lực lượng vũ trang, xây dựng chính quyền cách mạng. Theo yêu cầu của bạn, Ban An ninh Trung ương cục và ban an ninh một số khu đã cử cán bộ sang giúp bạn xây dựng lực lượng an ninh. Ban an ninh Trung ương cục cử đồng chí Phạm Cứu (Toàn Thắng) mở các lớp đào tạo cán bộ an ninh cho bạn; đồng chí Tám Lai và Huỳnh Song sang giúp bạn xây dựng lực lượng an ninh vũ trang.


Ở các khu, lực lượng An ninh vũ trang bảo vệ đã phát huy vai trò nòng cốt trong công tác bảo vệ Đảng, căn cứ và nhân dân vùng giải phóng. An ninh vũ trang Khu ủy 9 bám trụ kiên cường, vừa tổ chức các phân đội hoạt động phân tán, luồn sâu tập kích sau lưng địch khi chúng tập trung lực lượng càn quét, diệt nhiều tên địch, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của địch, bảo vệ an toàn cho lãnh đạo dl chuyến vào căn cứ mới sâu trong rừng U Minh. Tại Khu 6, tháng 5-1972, địch cho một tiểu đoàn càn quét vào căn cứ trong khỉ Khu ủy 6 đang họp. Sáu chiến sĩ An ninh vũ trang bảo vệ căn cứ do đồng chí Lê Hồng Nhị chỉ huy đã chiến đấu dũng cảm, tạo điều kiện thời gian cho lãnh đạo Khu ủy rút lui an toàn. Trong cuộc chiến đấu không cân sức, cả 6 đồng chí đã hy sinh anh dũng.


Tiêu đề: Tổng kết lịch sử công tác An ninh vũ trang của lực lượng An ninh miền Nam
Gửi bởi: saoden trong 22 Tháng Tám, 2023, 08:20:51 am
Ngày 1-8-1970, Hội đồng Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Vỉệt Nam ra Nghị định số 112/CP về nhiệm vụ và tổ chức bộ máy Nha An ninh thuộc Bộ Nội vụ; đồng chí Huỳnh Việt Thắng, Ủy viên Ban An ninh Trung ương cục được cử làm Giám đốc, đồng chí Hồ Văn Đại, Ủy viên Ban An ninh Trung ương cục được cử làm Phó Giám đốc Nha An ninh. Nha An ninh có 3 nhiệm vụ chính, trong đó có nhiệm vụ xây dựng hệ thống tổ chức an ninh các cấp, bồi dưỡng nghiệp vụ và đào tạo cán bộ an ninh. Bộ máy Nha An ninh gồm có: Cục Bảo vệ trật tự, an ninh; Cục Bảo vệ Cơ quan và Cảnh vệ; Cục An ninh nhân dân vũ trang; Văn phòng Nha An ninh. Việc thành lập Nha An ninh miền Nam trực thuộc Bộ Nội vụ của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đánh dấu sự phát triển của cách mạng miền Nam. Tuy nhiên, Nha An ninh vẫn do Ban An ninh Trung ương cục trực tiếp chỉ đạo, điều hành.


Tuy bị thất bại nặng nề trong những cuộc hành quân, đánh chiếm, nhưng địch vẫn tăng cường mở các cuộc hành quân càn quét đánh vào căn cứ của ta diễn ra với cường độ ngày càng tăng. Để bảo vệ tuyệt đối an toàn cho lãnh đạo Trung ương cục, Tiểu đoàn 2 (Đoàn 180) rút một số cán bộ, chiến sĩ để thành lập thêm một khung tiểu đoàn mới gồm 3 đại đội. Tháng 9-1971, Ban An ninh Trung ương cục miền Nam thành lập Ban Bảo vệ Đảng gồm Trung đoàn 180 làm nhiệm vụ bảo vệ vòng ngoài căn cứ, lực lượng Cảnh vệ (B24) bảo vệ trong căn cứ.


Để hoàn thành nhiệm vụ được giao, trong năm 1971, các đơn vị thuộc Ban bảo vệ Đảng đã tổ chức thực hiện 1.658 lần tuần tra bảo vệ; tổ chức 96 lần phục kích đánh địch xâm nhập; xây dựng 8 đài quan sát, 45 trận địa, 395 hầm nghỉ, hầm làm việc và hệ thống giao thông hào chiến đấu. Các đơn vị trực thuộc còn tổ chức đánh 8 trận, tiêu diệt trên 100 tên địch. Trung đoàn 180 tham gia vận chuyển hàng nghìn tấn phương tiện phục vụ công tác và chiến đấu. Lực lượng Cảnh vệ bảo vệ an toàn cho 5 hội nghị lớn của Trung ương cục và triển khai 16 lần bảo vệ các đồng chí lãnh đạo đi công tác đường dài an toàn.


Ban bảo vệ Đảng đã phát động "phong trào phòng gian bảo mật" trong khu vực căn cứ địa; cùng các ban, ngành xây dựng nội quy bảo vệ cơ quan, đơn vị an toàn; tăng cường công tác điều tra canh gác bảo vệ mục tiêu, cửa khẩu; xây dựng thế trận bảo vệ căn cứ; kiếm tra bổ sung các phương án bảo vệ và bảo vệ nghiêm mật các hoạt động và sinh hoạt trong căn cứ.


Ngày 18-1-1972, Ban An ninh Trung ương cục ra Chỉ thị số 08/CTAN-CV về những vấn đề cơ bản trong công tác xây dựng lực lượng cảnh vệ, cận vệ. Chỉ thị xác định rõ nhiệm vụ của lực lượng cảnh vệ, cận vệ là: bảo vệ tiếp cận, bảo vệ địa điểm, bảo vệ an toàn tuyệt đối cho cán bộ lãnh đạo, các cơ quan Đảng, chính phủ, mặt trận các cấp, những tài liệu tuyệt mật, tài sản quan trọng của Đảng mà mục tiêu số một là cấp ủy Đảng. Về đối tượng chiến đấu của lực lượng cảnh vệ, cận vệ là: "đối tượng chung của ngành", chủ yếu là lực lượng bí mật của địch; đồng thời phảỉ chiến đấu với quân đội và lực lượng vũ trang của các loại tình báo, gián điệp địch.


Trong điều kiện căn cứ thường xuyên phải di chuyển, yêu cầu bảo vệ tuyệt đối an toàn cơ quan Thường vụ Trung ương cục và các cơ quan ban, ngành của Đảng đặt ra ngày càng cấp thiết. Dưới sự chỉ đạo của Trung ương cục, lực lượng An ninh vũ trang đã bảo vệ an toàn nhiều lần di chuyển căn cứ. Cuối năm 1960, bảo vệ việc di chuyển căn cứ từ Mã Đà về khu rừng Tràng Riệc (huyện Tân Biên, Tây Ninh). Cuối năm 1968, bảo vệ an toàn việc di chuyển căn cứ từ Tràng Riệc về Trảng Dầu, Xa Mát (Tây Ninh). Cuối năm 1969, bảo vệ di chuyển căn cứ về Đập Đá, Trảng Tầm Phô (gần Xa Mát). Tháng 6-1970, bảo vệ công tác di chuyển căn cứ từ Trảng Tà Đạt (Tân Phú) về Rừng Com Prơ (huyện Đầm Be, tỉnh Công Pông Chàm, Campuchia). Từ năm 1973, bảo vệ việc di chuyển căn cứ về Trảng Bảy Bàu (xã Tân Lập, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh).


Đối với lực lượng An ninh miền Nam, Bộ Công an thường xuyên quan tâm chỉ đạo về nghiệp vụ và chi viện lực lượng, vũ khí từ miền Bắc vào. Từ năm 1960, Trung ương Đảng giao Đảng đoàn Bộ Công an và trực tiếp là Bộ Tư lệnh Công an nhân dân vũ trang nghiên cứu, đề xuất về tổ chức, nhiệm vụ, hoạt động của lực lượng An ninh vũ trang miền Nam và trực tiếp chỉ đạo công tác chi viện cho An ninh vũ trang miền Nam. Ngày 26-3-1961, Bộ Tư lệnh Công an nhân dân vũ trang xây dựng Kế hoạch số 35/NC về công tác chuẩn bị chi viện cho An ninh vũ trang miền Nam. Từ năm 1964 đến năm 1968, ngoài các lực lượng Công an khác chi viện cho An ninh vũ trang miền Nam, riêng Công an nhân dân vũ trang miền Bắc đã chi viện 5 đợt, tổng số 1.052 đồng chí"1 (Cụ thể: năm 1964, chi viện 224 đồng chí; năm 1965, chi viện 381 đồng chí; năm 1966, chi viện 68 đồng chí; năm 1967, chi viện 6 đồng chí; năm 1968, chi viện 373 đồng chí).


Trong những năm 1969-1972, lực lượng An ninh vũ trang phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng, nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu công tác trên ba vùng chiến lược. Do vậy, Đảng đoàn Bộ Công an đã chỉ đạo tăng cường chi viện thêm 3.410 đồng chí cho lực lượng An ninh miền Nam. Trước đó, chi viện cho lực lượng An ninh vũ trang Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế 850 đồng chí (Quảng Trị 400, Thừa Thiên - Huế 450); An ninh vũ trang Sài Gòn - Chợ Lớn 350 đồng chí; An ninh vũ trang Kon Tum 50 đồng chí; An ninh vũ trang 12 tỉnh thuộc Khu 5 và Khu 6 là 1.200 đồng chí2 (Kế hoạch số 13/BTL, ngày 7-4-1972, lưu trữ tại Bộ Tư lệnh Biên phòng).


Thắng lợi của cách mạng miền Nam trên ba vùng chiến lược và thắng lợi của quân dân miền Bắc trong "trận Điện Biên Phủ trên không" tháng 12-1972 đã buộc Mỹ phải ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Cách mạng miền Nam nói chung và lực lượng An ninh vũ trang miền Nam nói riêng chuyển sang giai đoạn mới - Giai đoạn đánh cho ngụy nhào".


Trong những năm 1965-1973, lực lượng An ninh vũ trang cùng quân và dân miền Nam trải qua những năm tháng cực kỳ gay go, gian khổ, ác liệt để đối phó với hai chiến lược "chiến tranh cục bộ", "Việt Nam hóa chiến tranh" của địch. Đây là giai đoạn khó khăn nhất của chiến trường miền Nam.


Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của các cấp ủy Đảng, trực tiếp là Ban An ninh Trung ương cục miền Nam, lực lượng An ninh vũ trang miền Nam với truyền thống kiên cường, bất khuất, bền bỉ chịu đựng mọi gian khổ, hy sinh, khắc phục mọi khó khăn, dũng cảm, mưu trí, sáng tạo trong chiến đấu quyết tâm bám đất, bám dân, tổ chức đánh địch, bảo vệ an toàn các cơ quan đầu não, bảo vệ và giữ được dân vùng căn cứ, giải phóng và xây dựng nhiều căn cứ dự phòng trực thuộc các khu ủy, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.


Quá trình công tác và chiến đấu cũng là quá trình lực lượng An ninh vũ trang miền Nam vừa đánh địch vừa xây dựng, củng cố lực lượng, từ những đội vũ trang nhỏ lẻ đã hình thành các tiểu đội ở cấp xã, trung đội ở cấp huyện, đại đội ở cấp tỉnh, tiểu đoàn ở cấp khu, trung đoàn ở cấp miền và đã trở thành lực lượng vũ trang mạnh, có trình độ nghiệp vụ sắc bén, là nòng cốt trong công tác bảo vệ Đảng, bảo vệ phong trào cách mạng ở miền Nam.


Tiêu đề: Tổng kết lịch sử công tác An ninh vũ trang của lực lượng An ninh miền Nam
Gửi bởi: saoden trong 01 Tháng Chín, 2023, 09:25:05 am
IV- GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 1973 ĐẾN NĂM 1975

Hiệp định Paris được ký kết (1-1973) đã mở ra một thời kỳ mới của cách mạng Việt Nam. Tuy ký Hiệp định, nhưng Mỹ vẫn tiếp tục âm mưu duy trì chế độ thực dân mới ở miền Nam, chia cắt lâu dài đất nước ta và tiếp tục thực hiện chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh", dùng người Việt đánh người Việt.


Trước khi ký Hiệp định, Mỹ tranh thủ thời gian củng cố lại chính quyền Sài Gòn và lực lượng quân sự của chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Chúng đã cài 600 tên CIA trong các tôn giáo, đảng phái chính trị phản động, gần 700 tên trong học sinh, sinh viên, khống chế sử dụng hàng trăm cán bộ, bộ đội ta làm nội gián. Mặt khác, Mỹ đã ồ ạt viện trợ cho chính quyền Sài Gòn 700 máy bay các loại, 500 khẩu pháo, 400 xe tăng, xe bọc thép và rất nhiều tàu chiến, tăng dự trữ vật tư chiến tranh lên gần 2 triệu tấn cùng với những viện trợ khác trị giá 750 triệu đôla. Năm 1973, Mỹ tiếp tục viện trợ cho chính quyền Sài Gòn 90 máy bay, 100 khẩu pháo và một khối lượng lớn phương tiện chiến tranh. Ngoài ra, Mỹ còn duy trì một lực lượng quân sự lớn ở Đông Nam Á như để hạm đội 7 ở Biển Đông, duy trì căn cứ quân sự ở Thái Lan để uy hiếp phong trào cách mạng trong khu vực.


Để tiếp tục chỉ huy và điều hành cuộc chiến tranh, Mỹ đổi tên Bộ chỉ huy Viện trợ quân sự Mỹ tại Việt Nam (MACV) thành Tùy viên Quốc phòng (DAO), các cố vấn quân sự Mỹ đều khoác áo dân sự do sứ quán Mỹ điều khiển. Tổ chức và nhân viên tình báo CIA hoạt động dưới danh nghĩa trợ lý đặc biệt của đại sứ; các chi nhánh CIA ở 4 vùng chiến thuật Đà Nẵng, Nha Trang, Biên Hòa, Cần Thơ vẫn được duy trì, trực tiếp chỉ huy các cơ quan tình báo, cảnh sát đặc biệt, an ninh quân đội.
   

Theo Hiệp định, Mỹ chỉ để lại 50 tùy viên quân sự, 195 lính thủy đánh bộ canh gác sứ quán, lãnh sự quán, 150 nhân viên tham gia tìm kiếm hài cốt và người mất tích. Nhưng thực tế, Mỹ để lại 24.000 người dưới danh nghĩa cố vấn kinh tế, quân sự, hành chính hoạt động trong các cơ quan đầu não của chính quyền, quân đội, cảnh sát, tình báo, gián điệp. Cuối tháng 3 năm 1973, quân viễn chinh Mỹ và các nước chư hầu rút hết về nước. Ngày 29-3-1973, Bộ Chỉ huy Quân sự Mỹ ở Sài Gòn làm lễ cuốn cờ; tướng Uâyen Tổng chỉ huy và Bộ tham mưu Quân viễn chinh Mỹ cùng 2.051 lính Mỹ cuối cùng rút khỏi miền Nam Việt Nam. Ngày 30-3-1973, Mỹ cử Graham Matin làm Đại sứ tại Sài Gòn.


Nhận được viện trợ của Mỹ, chính quyền Sài Gòn tiếp tục hiện đại hóa quân đội trong 6 năm (1974-1979) để trở thành một đội quân mạnh nhất của Mỹ. Chính vì vậy, Hiệp định ký chưa ráo mực, Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã tuyên bố "không có hòa hợp", "chỉ có tiêu diệt Cộng sản" và "trả lời bằng súng". Địch tiếp tục thực hiện "kế hoạch bình định ba năm 1973-1975" nhằm tiêu diệt lực lượng cách mạng, xóa bỏ tình trạng hai chính quyền, hai quân đội và ba lực lượng.


Để thực hiện âm mưu đó, chính quyền Sài Gòn đã ráo riết đôn quân, bắt lính. Đến cuối năm 1973, đã có 710.000 quân chính quy, 130.000 cảnh sát đặc biệt, 1.500.000 bảo an, dân vệ ở cơ sở. Chúng sử dụng lực lượng này lấn chiếm vùng giải phóng, tăng cường hoạt động do thám gián điệp, đẩy mạnh chiến tranh tâm lý, vu cáo lực lượng cách mạng vi phạm Hiệp định, gây tâm lý hoài nghi Hiệp định, tiếp tục mở các cuộc hành quân bình định nông thôn, đàn áp phong trào cách mạng của quần chúng.


Để xóa "thế da báo", địch mở các chiến dịch "tràn ngập lãnh thổ", đưa 60% quân chủ lực vào các cuộc hành quân lấn chiếm vùng giải phóng. Ngay trong đêm 27-1-1973, địch đánh chiếm cảng Cửa Việt (Quảng Trị). Trong tháng 2 và tháng 3, đánh chiếm cảng Sa Huỳnh và một số vùng giải phóng dọc đường 1, đường 14, 19, 21 (Tây Nguyên), tam giác Bình Thuận, đường 20 (Nam Trung Bộ), đường 1, 13, 22 (Đông Nam Bộ), Nam Bắc đường 4 (Trung Nam Bộ), Chương Thiện, Bảy Núi (Tây Nam Bộ) và khu vực vành đai Sài Gòn. Trong năm 1973, địch mở 325.255 cuộc hành quân càn quét, chiếm lại hầu hết các vùng ta mới giải phóng và một số vùng giải phóng từ trước, ở khu Đông Nam Bộ, địch đã mở rộng vùng lấn chiếm, nhất là các vùng ven thị xã, thị trấn và các trục đường giao thông quan trọng.


Trong vùng địch, chính quyền Sài Gòn ra lệnh giải tán 26 đảng phái và các tổ chức chính trị không ăn cánh; ra lệnh bắn bỏ những người kêu gọi nhân dân biểu tình, gây mất trật tự, tuyên truyền chủ nghĩa Cộng sản; bắt giam những người trung lập, những người đòi thi hành Hiệp định và những binh sĩ đảo ngũ...


Trước tình hình âm mưu và hoạt động mới của địch, ngày 28-1-1973, Ban chấp hành Trung ương Đảng và chính phủ ta ra lời kêu gọi quân dân cả nước "tăng cường đoàn kết, luôn luôn đề cao cảnh giác, củng cố những thắng lợi đã giành được, giữ vững hòa bình lâu dài, hoàn thành độc lập dân chủ ở miền Nam, tiến tới hòa bình, thống nhất Tổ quốc"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị Quốc gia, HN, 2004, tr 13). Ngay trong tháng 1-1973, Bộ Chính trị thông qua Nghị quyết của Quân ủy Trung ương về dự kiến tình hình và xác định nhiệm vụ của lực lượng vũ trang trong việc đối phó với các cuộc tiến công của địch.


Cũng trong thời gian này, Bộ Chính trị gửi nghị quyết cho Trung ương cục và các khu ủy ở miền Nam, xác định rõ: Không thể có ảo tưởng địch sẽ thi hành Hiệp định một cách nghiêm chỉnh vì kẻ địch rất lo ngại trước nguy cơ sụp đổ hoàn toàn. Nhiệm vụ của ta lúc này phải phát huy thắng lợi đã giành được, tăng cường thực lực về mọi mặt, tranh thủ thuận lợi mới để đưa cách mạng tiến lên, sẵn sàng giáng trả đích đáng những gây hấn của địch. Ngay trong tháng 1-1973, Trung ương cục miền Nam đã quán triệt tư tưởng chỉ đạo của Trung ương Đảng đến các ban, ngành, đoàn thể, các khu, quân khu. Tư tưởng chỉ đạo chính là đề cao cảnh giác cách mạng, chống tư tưởng hòa bình, nghỉ ngơi, lợi dụng tình hình mới để củng cố tổ chức và lực lượng, sẵn sàng đối phó với hoạt động của địch phá hoại Hiệp định. Trong tháng 2-1973, Thường vụ Khu ủy miền Tây Nam Bộ và nhiều khu ủy khác đã họp quán triệt tư tưởng chỉ đạo của Đảng và nhận định âm mưu cơ bản của địch về bình định, lấn chiếm, phá hoại Hiệp định; đồng thời xác định nhiệm vụ của ta lúc này là kiên quyết đánh trả địch, đồng thời đẩy mạnh đấu tranh chính trị, tăng cường công tác binh vận, giữ vững thành quả cách mạng, đưa phong trào tiếp tục tiến lên.


Tiêu đề: Tổng kết lịch sử công tác An ninh vũ trang của lực lượng An ninh miền Nam
Gửi bởi: saoden trong 01 Tháng Chín, 2023, 09:25:52 am
Quán triệt tư tưởng chỉ đạo của Trung ương Đảng, tháng 1-1973, Ban An ninh Trung ương cục miền Nam ra quyết định thành lập Tiểu ban Cảnh vệ và Bảo vệ nội bộ gồm Đoàn I An ninh vũ trang và các đơn vị làm công tác bảo vệ nội bộ cơ quan; tách Đoàn 180 ra khỏi tiểu ban, đưa về trực thuộc Ban An ninh Trung ương cục miền Nam. Sau khi xem xét lại vấn đề tổ chức của các đơn vị, tháng 9-1973, Ban An ninh Trung ương cục miền Nam quyết định: tách bộ phận Bảo vệ Nội bộ cơ quan ra khỏi Tiểu ban Bảo vệ Nội bộ, đưa Bộ phận Bảo vệ Nội bộ về trực thuộc Ban An ninh Trung ương cục miền Nam. Đồng thời nhập Đoàn I (gồm Tiểu đoàn I và các đội cảnh vệ trực thuộc) và Đoàn 180 thành Tiểu ban An ninh vũ trang, do đồng chí Mười Thạnh (Uỷ viên Ban An ninh Trung ương cục miền Nam) làm Trưởng Tiểu ban1 (Đến tháng 9-1974, đồng chí Tám Lê Thanh thay đồng chí Mười Thạnh); các đồng chí Sáu Tùng, Sáu Huấn làm Phó trưởng Tiểu ban.


Tiểu ban có hệ thống tổ chức xuống các khu, tỉnh, làm nhiệm vụ giữ gìn trị an, bảo vệ khu căn cứ, vùng giải phóng. Cùng với việc kiện toàn tổ chức, Ban An ninh Trung ương cục miền Nam còn sắp xếp bổ sung một số cán bộ lãnh đạo cho một số tiểu ban. Đồng chí Bùi Thiện Ngộ (Phó Văn phòng), đồng chí Ngoo Quang Hớn (Phó trưởng Ban An ninh khu 9), đồng chí Nguyễn Duy Hạc được cử làm Phó Tiểu ban Bảo vệ Chính trị; đồng chí Nguyễn Tân (Hai Tân) được cử làm Phó Văn phòng, phụ trách nghiên cứu tổng hợp; đồng chí Ba Bên từ Long Châu Hà được điều động về làm Phó Tiểu ban An ninh vũ trang. Đầu năm 1974, Thường vụ Trung ương cục điểu động đồng chí Lê Thanh Vân từ Bộ chỉ huy các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam sang làm Ủy viên Ban An ninh Trung ương cục miền Nam, phụ trách Tiểu ban An ninh vũ trang. Cũng trong thời gian này, thực hiện Nghị quyết liên tịch của Ban An ninh Trung ương cục miền Nam, Quân ủy Miền, Ban Liên lạc và đại diện 2 tỉnh Tây Ninh, Bình Phước họp bàn về tăng cường công tác giữ gìn an ninh trật tự ở khu căn cứ và vùng giải phóng. Ban An ninh Trung ương cục miền Nam thành lập Ban Căn cứ, do đồng chí Nguyễn An Khương phụ trách. Tiếp đó, Tiểu ban Bảo vệ Chính trị, Tiểu ban An ninh vũ trang từng bước được kiện toàn để bảo vệ an ninh trật tự khu căn cứ, vùng giải phóng ở Tây Ninh và Bình Phước.


Như vậy, đến năm 1973, tổ chức bảo vệ lực lượng Cảnh vệ miền Nam đã đi vào ổn định về tổ chức và lực lượng, đảm bảo cho công tác bảo vệ an toàn tuyệt đối cho các đồng chí lãnh đạo Trung ương cục và căn cứ kháng chiến.


Thực hiện chủ trương về công tác bảo vệ nội bộ, lực lượng An ninh vũ trang các tỉnh miền Tây Nam Bộ đã tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục cho cán bộ chiến sĩ và nhân dân tinh thần cảnh giác, ý thức cách mạng, kiên trì đấu tranh chống địch do thám, càn quét, lấn chiếm. Tại khu vực Long Mỹ, sau khi ta bẻ gãy cuộc hành quân lấn chiếm của sư đoàn 21, địch tổ chức phản kích nhằm giành lại địa bàn quan trọng này. Ngày 28-1-1973, lực lượng An ninh vũ trang phối hợp với Trung đoàn 10 An ninh vũ trang đánh địch ở Đông Nam và Tây Bắc Long Mỹ, diệt 170 tên, bảo vệ an toàn sở chỉ huy Quân khu và các đồng chí Võ Văn Kiệt, Bí thư Khu ủy, Lê Đức Anh, Tư lệnh Quân khu.


Tại khu 5, sau khi Hiệp định Paris có hiệu lực, địch dồn lực lượng xuống cơ sở, thực hiện kế hoạch "tràn ngập lãnh thổ" hòng giành đất, giành dân, mở rộng vùng kiểm soát. Để chủ động bảo vệ lực lượng kháng chiến, lực lượng An ninh khu và các tỉnh tiến hành củng cố lực lượng và tăng cường công tác nghiệp vụ. Ở cơ sở, đẩy mạnh công tác lập hồ sơ chính trị xã, xác định địa bàn phản gián, tiến hành công tác sưu tra ở những nơi có điều kiện, đẩy mạnh công tác nắm tình hình. Tháng 5-1973, dưới sự chỉ đạo của Khu ủy, lực lượng An ninh vũ trang đã đánh hàng chục trận vào khu vực Xuân Sơn, Suối Tre, Củng Sơn (Phú Yên), tiêu diệt nhiều thám báo, biệt kích địch, làm rã chính quyền địch. Giữa năm 1973, một tổ An ninh vũ trang gồm 4 đồng chí được lệnh đánh cứ điểm Xuân Sơn, diệt số biệt kích ở đây. Sau 20 phút chiến đấu, phần lớn bọn biệt kích bị tiêu diệt, số còn lại phải tháo chạy khỏi căn cứ. Trận đánh đã khai thông cửa khẩu Xuân Sơn, nối liền đường hành lang từ khu căn cứ đến các huyện trong tỉnh Phú Yên.


Ở khu vực biên giới Việt Nam - Campuchia, dưới sự chỉ đạo của Trung ương cục và Ban An ninh Trung ương cục miền Nam, các đơn vị An ninh vũ trang khẩn trương tổ chức lực lượng, bảo vệ biên giới. Ngày 27-1-1973, hai đồn biên phòng Xa Mát và Lò Gò được thành lập và triển khai làm nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia. Đây là hai đồn biên phòng đầu tiên được thành lập tại vùng mới giải phóng trên biên giới Việt Nam - Campuchia thuộc tỉnh Tây Ninh.


Trước sự phát triển của cách mạng miền Nam và chuẩn bị cho Hội nghị lần thứ 21 của Trung ương Đảng, ngày 3-4-1973 một số đồng chí lãnh đạo các chiến trường từ Nam Bộ đến khu 5 và Trị - Thiên được triệu tập về Hà Nội để xác định phương hướng công tác. Hội nghị lần thứ 21 Ban chấp hành Trung ương Đảng họp tại Hà Nội (từ ngày 19-6 đến 6-7-1973) khẳng định: Mỹ tiếp tục dính líu quân sự vào miền Nam Việt Nam, dùng chính quyền Sài Gòn làm công cụ thực hiện chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam Việt Nam. Ở miền Nam vẫn chưa có ngừng bắn, chưa có hòa bình thực sự. Vì vậy, nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam trong giai đoạn mới là phải: Tập trung mũi nhọn vào đế quốc Mỹ và tập đoàn thống trị tư sản mại bản, quan liêu quân phiệt, phát xít tay sai đắc lực của Mỹ; đẩy lùi và thắng địch từng bước, đi đến xóa bỏ chính quyền tay sai, xóa bỏ chế độ thực dân mới; thiết lập một chính quyền dân tộc dân chủ thực sự; tiến tới thống nhất nước nhà.


Quán triệt Nghị quyết 21 của Trung ương, tháng 9-1973, Trung ương cục miền Nam tổ chức Hội nghị lần thứ 12 xác định nhiệm vụ, phương hướng công tác trong giai đoạn mới. Hội nghị đã thông qua các đề án quản lý nông thôn, thu hồi đô thị, xây dựng vùng giải phóng và vùng căn cứ địa cách mạng, công tác quân sự, tư tưởng và tổ chức.


Đầu tháng 10, Trung ương cục miền Nam triệu tập Hội nghị Quán chính toàn Miền để quán triệt chủ trương các hội nghị vào chiến dịch mùa khô 1973-1974. Tư tưởng chiến lược của toàn miền lúc này là: Bạo lực cách mạng miền Nam dựa trên lực lượng chính trị và lực lượng quân sự, thực hiện bằng hình thức đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị.


Đầu năm 1974, Ban An ninh Trung ương cục, Quân ủy miền Nam ra nghị quyết về việc tăng cường giữ gìn an ninh, trật tự vùng căn cứ và vùng giải phóng. Từ ngày 2 đến ngày 16-4-1974, Ban An ninh Trung ương cục miền Nam tổ chức Hội nghị An ninh toàn miền Nam lần 2 để tổng kết công tác và đề ra nhiệm vụ của lực lượng An ninh trong giai đoạn mới.


Tiêu đề: Tổng kết lịch sử công tác An ninh vũ trang của lực lượng An ninh miền Nam
Gửi bởi: saoden trong 01 Tháng Chín, 2023, 09:26:30 am
Được sự chỉ đạo từ bên ngoài và sẵn có những vũ khí hiện đại, chính quyền Sài Gòn tiếp tục phá hoại Hiệp định, mở nhiều cuộc hàng quân càn quét, lấn chiếm vùng giải phóng, tiếp tục tìm diệt cơ quan đầu não kháng chiến. Trước tình hình mới, yêu cầu vũ trang bảo vệ càng phải được củng cố, kiên quyết đánh địch để bảo vệ Đảng, chính quyền ta và nhân dân vùng giải phóng. Ngày 26-4-1974, lực lượng An ninh vũ trang bảo vệ bờ biển Kiên Giang tiến công ba tàu thuộc Đội Hải Thuyền và Giang Cảnh của địch, bảo vệ đường vận chuyển của ta trên tuyến biển. Tháng 5- 1974, thông qua công tác nắm tình hình, được quần chúng nhân dân cung cấp tin tức ở xã Hiệp Hòa, Tân Biên, Tây Ninh có tổ chức phản động người Việt và người Khơme hoạt động. Được sự chỉ đạo của Ban An ninh Trung ương cục, cán bộ Đoàn 180 tập trung xác minh làm rõ tổ chức phản động mang tên "Đầu trắng", do CIA chỉ huy. Chúng đã đưa người vào chính quyền địa phương, lập ra đội du kích, gây ra nhiều vụ giết người, cướp của, cướp tài liệu, phương tiện, tiền bạc của các cán bộ và nhân dân vùng biên giới. Được sự chỉ đạo của cấp trên, ngày 13-5-1974, C1, C3, C4, B5 Đoàn 180 An ninh vũ trang dưới sự chỉ huy của đồng chí Nguyễn Văn Bên, Đặng Văn Thu, Nguyễn Văn Đũa đã bí mật bắt gọn 5 tên chỉ huy và 56 tên khác, thu 2 máy vô tuyến điện, 21 khẩu súng và một số tài liệu quan trọng.


Từ 30-9 đến 8-10-1974, Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp, quyết định mở cuộc tổng công kích, tổng khởi nghĩa giải phóng hoàn toàn miền Nam. Bộ Chính trị nêu ra nhiệm vụ chính trước mắt của nhân dân cả nước ta là: Động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ở cả hai miền, mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy cuối cùng, đưa chiến tranh cách mạng phát triển đến mức cao nhất, tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ quân địch, đánh chiếm Sài Gòn, sào huyệt trung tâm của địch cũng như tất cả các thành thị khác, đánh đổ ngụy quyền ở trung ương và các cấp, giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân, giải phóng hoàn toàn miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới thống nhất nước nhà. Hội nghị quyết định giải phóng miền Nam trong hai năm 1975-1976.


Trong các trận Phước Long và các chiến dịch Tây Nguyên, Huế - Đà Nẵng, lực lượng An ninh vũ trang khu 5 và Khu 6 đã cùng lực lượng quân sự và nhân dân đồng loạt nổi dậy đồng loạt tấn công, tạo lên khí thế cách mạng dồn dập trên mọi chiến trường.


Ngày 17-2-1975, Bộ Tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên bàn kế hoạch đánh chiếm thị xã Buôn Ma Thuột. Từ ngày 1 đến ngày 10 tháng 3, lực lượng vũ trang và nhân dân các dân tộc ở Tây Nguyên triển khai lực lượng, đánh chiếm thị xã Buôn Ma Thuột. Trong trận đánh này, lực lượng An ninh đã góp phần đảm bảo bí mật đến giờ phút nổ súng, đồng thời bố trí cán bộ bám sát các mục tiêu trọng điểm, tập trung xây dựng cơ sở, đẩy mạnh hoạt động nội tuyến. Được ông Phạm Văn Ngọc (Tám Ngọc) cung cấp cho ta bản đồ thị xã, giúp ta xác định hệ thống bố phòng, những mục tiêu quan trọng của địch trong thị xã giúp cho Bộ Chỉ huy mặt trận bổ sung phương án tấn công địch.


Chuẩn bị cho trận đánh, một đội công tác của Ban An ninh do đồng chí Y Ny, Y Ngoan, Lê Tiến Tiếu phụ trách đã bí mật vào thị xã, phát động quần chúng nổi dậy diệt ác, phá kìm. Ngày 10-3, quản ta từ bốn hướng bất ngờ đánh thẳng vào thị xã Buôn Ma Thuột. Lực lượng An ninh vũ trang dẫn đường cho các mũi tấn công quân sự; tiến đánh những mục tiêu là cơ quan đàn áp và nhà tù của địch. Chỉ trong thời gian ngắn ta đã chiếm lĩnh hoàn toàn các cơ quan tình báo CIA, ty cảnh sát, nhà giam, và nhiều đồn cảnh sát của địch, đập tan bộ máy chính quyền địch.


Sau 5 ngày chiến đấu, các lực lượng An ninh cùng toàn quân, toàn dân Đắc Lắc tiêu diệt và làm tan rã hoàn toàn lực lượng địch, bắt sống hai tên Đại tá Nguyễn Trọng Luật, Tiểu khu trưởng Đắc Lắc và Vũ Thế Quang, Sư đoàn phó Sư đoàn 23, giải phóng hoàn toàn thị xã Buôn Ma Thuột.


Chiến thắng của ta ở Buôn Ma Thuột làm cho Mỹ và chính quyền Sài Gòn bị động, phải rút toàn bộ quân ở Kon Tum và Pleiku về đồng bằng. Ngày 17-3, đồng chí Võ Chí Công, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Khu ủy 5, Chính ủy Quân khu 5 đã vào thị xã Kon Tum và Pleiku kiểm tra tình hình, chỉ đạo cấp ủy ở địa phương và lực lượng vũ trang truy quét địch, ổn định an ninh trật tự, xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng.


Từ đầu tháng 3-1975, phối hợp với chiến trường Tây Nguyên, các lực lượng vũ trang và nhân dân Trị Thiên - Huế, khu 5 đẩy mạnh công tác nắm tình hình, tấn công tiêu diệt địch, chuẩn bị tiến lên tổng công kích, tổng khởi nghĩa.


Bị ta tiến công trên nhiều hướng, đêm 18-3-1975, địch rút bỏ Quảng Trị chạy về Huế và Đà Nẵng. Chớp thời cơ, quân ta nhanh chóng chuyên sang tiến công truy kích địch. Chiều 19-3, Quảng Trị hoàn toàn giải phóng, ở Thừa Thiên - Huế, các đơn vị chủ lực, an ninh và bộ đội địa phương tiến xuống vùng giáp ranh và đồng bằng, tạo thế uy hiếp thành phố Huế.


Ngày 20-3, Bộ Chính trị chỉ thị cho Quân khu Trị Thiên - Huế tập trung hỏa lực đánh địch, chia cắt lực lượng địch, phát động chiến tranh nhân dân và bao vây thành phố Huế. Ở Huế, lực lượng An ninh đi trước một bước, đưa cán bộ chiến sĩ vào nội đô phát triển cơ sở, nắm tình hình, theo dõi biến động của địch, nhất là sở cảnh sát, tình báo, bọn phản động nguy hiểm, tích cực vận động quần chúng đấu tranh diệt ác, phá kiềm giành quyền làm chủ, mở đường cho quân chủ lực về giải phóng thành phố. Đêm 24- 3, các lực lượng vũ trang ta từ các hướng Bắc, Tây, Nam đồng loạt đánh chiếm các mục tiêu trong thành phố. Ngày 25-3, quân ta giải phóng thành phố Huế, bắt giữ gần 10.000 tù binh, trong đó có nhiều sĩ quan cảnh sát, tình báo, an ninh quân đội địch.


Trước sức tiến công mạnh mẽ của ta, tàn binh địch từ các mặt trận phía Bắc và phía Nam dồn về Đà Nẵng, tình hình hết sức hỗn loạn, nhưng Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu vẫn kêu gọi "tử thủ Đà Nẵng bằng mọi giá".


Tình hình Bắc miền Trung có lợi cho ta, Trung ương Đảng và Bộ Chỉ huy chiến dịch chỉ thị tập trung lực lượng từ Trị Thiên - Huế đánh vào và từ Quảng Ngãi đánh ra, nhanh chóng tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng thành phố Đà Nẵng. An ninh vũ trang Quảng Đà đã điều 181 cán bộ chiến sĩ lên đường vào Đà Nẵng; đồng chí Hoàng Văn Lai, Trưởng Ban An ninh trực tiếp chỉ huy lực lượng An ninh Quảng Đà tham gia tấn công địch. Ba đại đội An ninh vũ trang C110, C111, C114 làm nhiệm vụ bảo vệ Tỉnh ủy, chính quyền cách mạng, phối hợp với lực lượng Trinh sát vũ trang truy quét tàn binh địch, giữ gìn trật tự thành phố.


Tiêu đề: Tổng kết lịch sử công tác An ninh vũ trang của lực lượng An ninh miền Nam
Gửi bởi: saoden trong 01 Tháng Chín, 2023, 09:27:13 am
Trước sự áp đảo của lực lượng cách mạng, ngày 28-3, tướng Ngô Quang Trưởng, tỉnh trưởng Đà Nẵng chạy về Sài Gòn. Tranh thủ thời cơ, các lực lượng An ninh áp sát mục tiêu, tiến công chiếm lĩnh những cơ quan trọng yếu và 21 điểm của cảnh sát ngụy, giải phóng Đà Nẵng ngày 29-3-1975.


Đến cuối tháng 3-1975, quân địch đã mất sức chiến đấu, chính quyền Sài Gòn bị lung lay đến tận gốc, nguy cơ thất bại đã rõ ràng. Hội nghị Trung ương cục miền Nam lần thứ 15 (ngày 29-3-1975), xác định rõ nhiệm vụ trực tiếp khẩn cấp của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân miền Nam là: vùng lên tổng công kích, tổng khởi nghĩa, đánh sập chính quyền địch, giành chính quyền về tay nhân dân.


Trước tình hình hết sức khẩn trương, ngày 31-3-1975, Bộ Chính trị nhận định: Thời cơ giải phóng Sài Gòn đã chín muồi; ngày 3-4-1975, Bộ Chính trị ra quyết định thành lập Bộ Tư lệnh và Đảng ủy mặt trận; ngày 14-4-1975, Bộ Chính trị quyết định đặt tên chiến dịch Tổng công kích giải phóng Sài Gòn - Gia Định là Chiến dịch Hồ Chí Minh.


Nhận được sự chỉ đạo của Đảng, lực lượng An ninh vũ trang tham gia vào cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mang tên Chiến dịch Hồ Chí Minh, đánh thẳng vào trung tâm sào huyệt của chính quyền Sài Gòn.


Thực hiện phương châm "An ninh đi trước một bước", lực lượng An ninh các khu, tỉnh, thành phố đã nhanh chóng triển khai lực lượng nắm tình hình địch, chủ động tấn công, mở đường cho quân giải phóng đánh chiếm các thành phố, thị xã các mục tiêu quan trọng của địch. Cùng với công tác tấn công địch, lực lượng An ninh vũ trang vẫn chú trọng các mặt công tác bảo vệ căn cứ, vùng giải phóng. Nhiều khu, tỉnh đã tăng cường công tác bảo mật phòng gian, đẩy mạnh công tác tuần tra, bảo vệ các mục tiêu trọng điểm.


Chuẩn bị cho chiến dịch giải phóng thành phố Sài Gòn - Gia Định, từ tháng 3-1975, Ban An ninh Trung ương cục miền Nam và Đặc khu Sài Gòn - Gia Định đã điều động 1.500 cán bộ chiến sĩ an ninh và khoảng 1.000 cơ sở hoạt động tại nội thành sẵn sàng làm nhiệm vụ phối hợp với lực lượng quân sự và quần chúng tấn công địch, chiếm lĩnh các mục tiêu được phân công, bảo vệ hồ sơ tài liệu địch để lại, ổn định an ninh trật tự và sinh hoạt của nhân dân.


Theo sự phân công của Trung ương, đồng chí Cao Đăng Chiếm được cử làm Phó Chủ tịch Ủy ban Quân quản, phụ trách công tác an ninh nội chính. Tiểu ban An ninh Nội chính được thành lập do đồng chí Nguyễn Hoàng làm Trưởng Tiểu ban, các đồng chí Bùi Thiện Ngộ, Ngô Quang Nghĩa, Cao Đức Hoàn, Phan Văn Huấn được cử làm Phó Tiểu ban. Từ ngày 12-4-1975, Ban An ninh Trung ương cục và Tiểu ban An ninh Nội chính đã tổ chức nhiều cuộc họp về kế hoạch chiếm lĩnh cơ quan địch và công tác quản lý vùng giải phóng.


Phục vụ cho chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng Sài Gòn - Gia Định, Ban An ninh Trung ương cục chia làm 2 bộ phận: Bộ phận ở lại bảo vệ căn cứ do đồng chí Lâm Văn Thê, Phó trưởng Ban An ninh Trung ương cục miền Nam phụ trách; Bộ phận tiền phương gồm cán bộ, chiến sĩ An ninh do đồng chí Cao Đăng Chiếm, Phó trưởng Ban An ninh trực tiếp chỉ đạo.


Để tạo điều kiện cho các lực lượng ở Trung ương cục tiến về giải phóng Sài Gòn - Gia Định, 4 giờ 20 phút sáng ngày 23-3-1975, Tiểu đoàn 2 Đoàn 180 An ninh vũ trang do đồng chí Đặng Văn Thu (Tiểu đoàn trưởng) chỉ huy cùng lực lượng D2 Trinh sát vũ trang của Tiểu đoàn Bảo vệ Chính trị và lực lượng quân sự Tân Biên do đồng chí Nguyễn Văn Ngữ, đồng chí Nguyễn Văn Đũa (Phó Huyện đội) nổ súng chiếm vị trí đầu cầu, rồi đánh chiếm vị trí trung tâm. Được sự chi viện kịp thời của đội cối 82 ly và 60 ly, ta đã đánh chiếm toàn bộ Chi khu quân sự Mỏ Công; diệt 26 tên địch, bắt sống 38 tên, thu 1 trọng liên 12 ly 7, 1 cối 81 ly, 2 cối 60 ly, 3 đại liên, 120 súng các loại, 15 máy PRC25, 5 tấn đạn và nhiều hồ sơ tài liệu quan trọng; giải phóng hơn 10.000 dân; làm chủ đoạn đường 22 dàỉ hơn 10 km. Trong trận đánh này, hàng chục chiến sĩ An ninh vũ trang đã anh dũng hy sinh; đồng chí Phạm Thành Lượng mặc dù đã bị thương đến 4 lần vẫn dũng cảm chiến đấu đến hơi thở cuối cùng1 (Tháng 9-1976, đồng chí Phạm Thành Lượng được truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân).


Ngày 26-4-1975, được lệnh của Ban An ninh Trung ương cục miền Nam, Tiểu đoàn 2 và Trung đoàn 180 An ninh vũ trang chia làm 3 mũi tiến về Sài Gòn. Mũi của Đại đội 2 (C2) do đồng chí Chín Hùng và Năm Đũa chỉ huy gặp Sư đoàn 25 ngụy đóng ở Đồng Dù (Củ Chi) đã chiến đấu ác liệt; diệt 30 tên, chọc thủng phòng tuyến địch, về vị trí tập kết đúng kế hoạch. Tiểu đoàn 1 (D4) nhận nhiệm vụ xây dựng gấp căn cứ tiền phương tại Bến Cát (Bắc Sài Gòn) để Trung ương cục chuyên về chỉ đạo chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Chỉ trong 8 ngày, đơn vị đã làm xong 8 nhà ở, 1 hội trường, 1 nhà ăn và một số công trình phụ khác. Đến ngày 30-4, D2 đã vào thành phố Sài Gòn dưới sự chỉ huy của đồng chí Sáu Huấn, Ba Bên, chiếm lĩnh các mục tiêu đã được phân công như trụ sở Cảnh sát dã chiến, Khám Chí Hòa, Đài Viễn thông...


Đoàn 1 do đồng chí Phan Văn Khi chỉ huy nhận nhiệm vụ đưa toàn bộ Trung ương cục miền Nam và các đồng chí lãnh đạo từ căn cứ Dương Minh Châu về Sài Gòn. Khi công việc di chuyển xong, các cơ quan đóng ổn định ở địa bàn thành phố, một số đồng chí chỉ huy D1 được cử đi bảo vệ trực tiếp các đồng chí lãnh đạo. Đồng chí Tư Châu phụ trách tổ bảo vệ Bộ chỉ huy tiền phương trực tiếp bảo vệ các đồng chí Phạm Hùng, Lê Đức Thọ, Văn Tiến Dũng; đồng chí Phan Văn Khi phụ trách tổ bảo vệ đồng chí Trần Nam Trung; đồng chí Mười Thái được cử về công tác tại Cục Hậu cần Bộ Tư lệnh Công an vũ trang; đồng chí Nguyễn Thanh Sơn được giao chỉ huy D1.


Tại Sài Gòn - Gia Định, ngày 12-4-1975, Thường vụ Thành ủy họp và ra chỉ thị hướng dẫn những nhiệm vụ cần làm ngay trước, trong và ngay sau khi thành phố được giải phóng. Lực lượng chia thành hai cánh: Cánh A do đồng chí Mai Chí Thọ (Bí thư Thành ủy) trực tiếp phụ trách có nhiệm vụ phát động quần chúng nổi dậy ở các quận nội thành và hai huyện Bình Chánh, Nhà Bè; cánh B do đồng chí Nguyễn Thành Thơ (Phó Bí thư Thành ủy) phụ trách có nhiệm vụ chỉ đạo giải phóng các huyện ngoại thành và chiếm thị xã Gia Định. Thành ủy giao lực lượng An ninh T4 nhiệm vụ: bảo vệ tuyệt đối an toàn các đồng chí lãnh đạo Thành ủy; chiếm lĩnh và bảo vệ các tài liệu hồ sơ của Bộ tư lệnh Cảnh sát Quốc gia và Bộ chỉ huy Cảnh sát Đô thành; phối hợp với các ban ngành đoàn thể, chiếm lĩnh các ty cảnh sát, một số cơ sở quan trọng của địch; bảo đảm trật tự xã hội, trật tự giao thông sau khi tiếp quản.


Tại các tỉnh miền Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long, lực lượng An ninh vũ trang tích cực chủ động tham gia tiến công kìm chân địch, không để địch ứng cứu cho Sài Gòn; đồng thời vận động quần chúng nổi dậy diệt ác, phá kìm, chiếm lĩnh các cơ quan, công sở của địch.


Tiêu đề: Tổng kết lịch sử công tác An ninh vũ trang của lực lượng An ninh miền Nam
Gửi bởi: saoden trong 01 Tháng Chín, 2023, 09:27:56 am
Sáng ngày 30-4-1975, quân ta từ các hướng đồng loạt tiến công vào nội thành Sài Gòn. Trên các mũi tiến công vào sào huyệt cuối cùng của địch, lực lượng An ninh vũ trang T4 tham gia tích cực trong nhiệm vụ dẫn đường, mở lối cho lực lượng quân sự đánh địch, chiếm lĩnh những cơ quan, công sở của chính quyền Sài Gòn. Mặt khác, lực lượng An ninh vũ trang còn tổ chức cho quần chúng nhân dân đứng lên uy hiếp chính quyền địch, áp đảo lực lượng vũ trang địch, kêu gọi binh sĩ địch hạ vũ khí trở về với nhân dân. Đồng thời, các chiến sĩ An ninh T4 còn nắm bắt tình hình di biến động của số ngụy quyền cao cấp, những đối tượng nguy hiểm cần xử lý sau giải phóng; chuẩn bị thực hiện những kế hoạch đấu tranh chống phản cách mạng sau này.


Theo sự phân công của An ninh khu, An ninh vũ trang Sài Gòn - Gia Định hình thành 4 nhóm xung kích làm nhiệm vụ chiếm lĩnh những cơ quan đàn áp của địch. Nhóm 1 do đồng chí Thái Doãn Mẫn chỉ huy đánh chiếm Bộ Tư lệnh Cảng sát Quốc gia; nhóm 2 do đồng chí Lê Thanh Vân chỉ huy đánh chiếm Bộ chỉ huy Cảnh sát Đô thành; nhóm 3 do đồng chí Bùi Quang Hảo chỉ huy đánh chiếm Ty Cảnh sát Gia Định; nhóm 4 gồm những đồng chí đã ém sẵn trong nội thành có nhiệm vụ kêu gọi và hỗ trợ phong trào quần chúng nổi dậy giành quyền làm chủ ở các cơ quan, công sở địch ở các quận. Những cơ sở An ninh, An ninh vũ trang, Trinh sát vũ trang ở nội và ngoại thành đều nổi dậy, cùng lực lượng vũ trang và nhân dân tấn công, tiêu diệt địch.


11h 30 phút ngày 30 tháng 4 năm 1975, cờ của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tung bay trên Dinh Độc Lập, kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta, mở ra một thời kỳ mới cho cách mạng Việt Nam - Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.


Sài Gòn được giải phóng, Sở Chỉ huy Trung đoàn 180 An ninh vũ trang chuyên về đóng tại Cống Quỳnh, Sài Gòn, do đồng chí Nguyễn Văn Đũa làm chỉ huy trưởng; các đơn vị trực thuộc tiếp tục thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Đảng, chính quyền cách mạng, nhân dân và một số mục tiêu quan trọng đặc biệt.


Trong những năm 1973-1975, lực lượng An ninh vũ trang miền Nam tiếp tục phải đương đầu với bộ máy tình báo gián điệp khổng lồ của địch được trang bị các phương tiện khoa học kỹ thuật hiện đại, thủ đoạn hoạt động rất tinh vỉ, xảo quyệt.


Dưới sự lãnh đạo của trực tiếp của Thường vụ Ban An ninh Trung ương cục miền Nam và các cấp ủy Đảng, lực lượng An ninh vũ trang miền Nam không ngừng được củng cố về tổ chức, lực lượng và biện pháp công tác. Trong cuộc đấu tranh quyết liệt này, lực lượng An ninh vũ trang tiếp tục phát huy truyền thống kiên cường, bất khuất, vượt qua mọi gian khổ, hy sinh, khắc phục mọi khó khăn, dũng cảm, mưu trí, sáng tạo trong chiến đấu và công tác để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Những thành tích cơ bản của lực lượng An ninh vũ trang miền Nam trong giai đoạn này là: Phối hợp với các lực lượng khác đánh tiêu hao sinh lực địch; diệt ác, phá kìm, chiến đấu chống địch càn quét, lấn chiếm vùng giải phóng; chống do thám, gián điệp, biệt kích; trấn áp các bọn phản cách mạng để bảo vệ căn cứ, bảo vệ cơ quan, bảo vệ biên giới; xây dựng căn cứ, phát động phong trào quần chúng nhân dân đấu tranh với địch; bảo vệ tuyệt đối an toàn các cấp ủy Đảng, bảo vệ cán bộ các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể; xây dựng lực lượng đáp ứng được yêu cầu công tác thường xuyên và đột xuất. Đặc biệt, trong 55 ngày đêm chiến đấu thần tốc, táo bạo, bất ngờ, hơn 13.000 cán bộ, chiến sĩ An ninh miền Nam đã tham gia tổng công kích, tổng khởi nghĩa, góp phần đánh đổ chính quyền Sài Gòn, hoàn thành nhiệm vụ "đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào", tạo nên một Đại thắng mùa xuân năm 1975 lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, tiến tới thống nhất nước nhà.


Trong cuộc chiến đấu ác liệt này, lực lượng An ninh vũ trang miền Nam đã phải vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ, chấp nhận nhiều mất mát, hy sinh; trong đó có nhiều đồng chí đã hy sinh anh dũng trong khi làm nhiệm vụ, trong lao tù dã man của địch. Sau này, nhiều tập thể, cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng An ninh vũ trang miền Nam được Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Đó là sự ghi nhận xứng đáng những thành tích xuất sắc cũng như sự hy sinh to lớn của lực lượng này trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975).


Từ đặc điểm và tính chất của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, sự ra đời và hoạt động của lực lượng An ninh vũ trang miền Nam là một tất yếu lịch sử. Đây cũng là sự thể hiện tính chất của cuộc chiến tranh cách mạng giải phóng dân tộc hết sức gay go, phức tạp, quyết liệt, "một mất một còn" giữa ta và địch.


Thắng lợi của công tác An ninh vũ trang miền Nam có tầm quan trọng đặc biệt, góp phần vào thắng lợi chung của dân tộc. Đó là kết quả của những cố gắng, phấn đấu, hy sinh to lớn của lực lượng An ninh vũ trang miền Nam, cụ thể là:


Lực lượng An ninh vũ trang miền Nam không ngừng phát triển, từ nhỏ lẻ đến tập trung và phát triển thành một lực lượng vũ trang cách mạng rộng khắp, chính quy, tinh nhuệ. Lực lượng An ninh vũ trang đã chú trọng xây dựng hệ thống tổ chức đến các khu, tỉnh, huyện, xã; không ngừng phát triển lực lượng chinh quy các cấp trung đoàn, tiểu đoàn, đại đội, trung đội, tiểu đội; đồng thòi quan tâm xây dựng lực lượng bán chuyên trách ở cơ sở xã, ấp và phát động phong trào quần chúng vũ trang tự vệ.


Lực lượng An ninh vũ trang miền Nam đã bảo vệ tuyệt đối an toàn căn cứ, cơ quan đầu não kháng chiến; bảo vệ an toàn tuyệt đối các đồng chí lãnh đạo các cấp Trung ương, khu, tỉnh, huyện; bảo vệ an ninh trật tự vùng giải phóng. Lực lượng An ninh vũ trang xác định rõ mục tiêu, biện pháp bảo vệ; thực hiện tốt phương châm "tích cực bảo vệ mình, chủ động tiêu diệt địch". Lực lượng An ninh vũ trang được trang bị vũ trang để thực hiện phương án bảo vệ bằng biện pháp vũ trang và sẵn sàng sử dụng biện pháp vũ trang đế đối đầu trực diện với lực lượng vũ trang địch.


Công tác an ninh vũ trang đã góp phần cùng quân và dân miền Nam lần lượt đánh thắng các chiến lược chiến tranh xâm lược của Mỹ và chính quyền Sài Gòn; đánh bại các kế hoạch tình báo, gián điệp của địch trên chiến trường miền Nam. Lực lượng An ninh vũ trang đã phối hợp với các lực lượng khác, đặc biệt là lực lượng quân sự địa phương để bảo vệ các căn cứ. Đối tượng đấu tranh chủ yếu của An ninh miền Nam là các hoạt động của các đối tượng tình báo, gián điệp, cảnh sát, an ninh, phản động xâm nhập vào khu căn cứ, vùng giải phóng; đồng thời chủ động đánh địch, chống càn quét, tiêu hao sinh lực địch, đập tan các kế hoạch lớn của địch hòng vây bắt, tiêu diệt cơ quan đầu não của ta, phá hoại căn cứ ta.


Về vai trò của lực lượng An ninh vũ trang miền Nam, thực tế đã khẳng định:

Lực lượng An ninh vũ trang miền Nam đã làm tốt công tác tham mưu cho các cấp ủy Đảng về công tác bảo vệ căn cứ, bảo vệ cơ quan, đặc biệt là bảo vệ căn cứ địa Trung ương cục căn cứ của các khu, tỉnh. Củng cố, bảo vệ căn cứ kết hợp với xây dựng căn cứ dự phòng đảm bảo an toàn.

Trực tiếp bảo vệ các đồng chí lãnh đạo, khu căn cứ và vùng giải phóng bằng bỉện pháp vũ trang. Trong các cuộc đối đầu với địch, lực lượng An ninh vũ trang sẵn sàng chiến đấu, chiến đàu anh dùng, góp phần quan trọng đánh bạỉ các kế hoạch chiến tranh bình định, càn quét quy mô lớn của địch bao vệ vững chăc căn cứ kháng chiến, vùng giải phóng.

Lực lượng An ninh vũ trang là lực lượng vũ trang sắc bén tin cậy của Đảng, chiến đấu mưu trí, dũng cảm, vượt mọi khó khăn, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao trong bất kỳ tình huống nào.

Đánh giá về những đóng góp to lớn và sự hy sinh anh dũng của các thế hệ cán bộ An ninh vũ trang miền Nam, Đảng và Nhà nước ta đã phong tặng cho lực lượng An ninh vũ trang miền Nam nhiều phần thưởng cao quý, trong đó có: 12 Huân chương Độc lập hạng Nhất, Nhì, Ba; nhiều tập thể và cá nhân được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, danh hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ, Dũng sĩ diệt xe cơ giới, Dũng sĩ diệt máy bay và Bằng khen, Giấy khen của Ban An ninh Trung ương cục miền Nam và các khu, tỉnh.


Tiêu đề: Tổng kết lịch sử công tác An ninh vũ trang của lực lượng An ninh miền Nam
Gửi bởi: saoden trong 01 Tháng Chín, 2023, 09:35:53 am
PHẦN THỨ HAI
NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHỦ YẾU

Thực tiễn chiến đấu và xây dựng lực lượng của lực lượng An ninh vũ trang miền Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã để lại cho hôm nay và mai sau nhiều bài học kinh nghiệm; trong đó có 5 bài học kinh nghiệm quý sau:
   

Bài học kinh nghiệm thứ nhất

THƯỜNG XUYÊN QUAN TÂM XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG AN NINH VŨ TRANG VỮNG VỀ CHÍNH TRỊ, TUYỆT ĐỐI TRUNG THÀNH VỚI ĐẢNG, TỔ QUỐC VÀ NHÂN DÂN, TRỞ THÀNH LỰC LƯỢNG VŨ TRANG CÁCH MẠNG SẮC BÉN CỦA ĐẢNG


Công an nhân dân Việt Nam nói chung và lực lượng An ninh vũ trang miền Nam nói riêng được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện. Quá trình xây dựng, chiến đấu dưới sự lãnh đạo của Đảng mà trực tiếp là của Xứ ủy Nam Bộ, Trung ương cục miền Nam và các cấp ủy Đảng, lực lượng An ninh vũ trang miền Nam đã không ngừng lớn mạnh và trưởng thành về mọi mặt; lập được nhiều thành tích đặc biệt xuất sắc trong công tác và tạo nên truyền thống tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân.


Phẩm chất và truyền thống ấy vừa là nguyên tắc và trách nhiệm chính trị, vừa là lý trí, tình cảm sâu nặng của lực lượng CAND nói chung, của An ninh vũ trang miền Nam nói riêng đối với Đảng, Tổ quốc và nhân dân. Đây là chuẩn mực thuộc về bản chất của lực lượng CAND, một lực lượng vũ trang cách mạng được Đảng tổ chức và lãnh đạo, được nhân dân nhiệt tình ủng hộ và nuôi dưỡng.


Để có được lực lượng An ninh vũ trang tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân, ngay từ những ngày đầu của cách mạng miền Nam, các cấp ủy Đảng đã chú trọng công tác bảo vệ mình, bảo vệ các căn cứ cách mạng, đã tiến hành chọn lựa lực lượng An ninh vũ trang từ những cán bộ công an ở lại miền Nam, chọn lựa những thanh niên trung kiên được cơ sở giới thiệu, tiếp đó là công tác giáo dục tư tưởng, công tác giác ngộ cách mạng, rồi công tác đào tạo bổi dưỡng cho những con người "chỉ biết còn Đảng thì còn mình" để từ đó họ trở thành những cán bộ trung thành với Đảng, hoàn thành tốt nhiệm vụ, từ công tác tiếp cận cán bộ lãnh đạo, đến công tác bảo vệ an toàn căn cứ, bất chấp hiểm nguy, chiến đấu gan dạ, kiên cường trong mọi tình huống.


Khi tình hình cách mạng phát triển, yêu cầu mở rộng căn cứ ngày càng lớn, lực lượng bảo vệ ngày càng được tăng cường. Đảng đã chọn lựa lực lượng An ninh vũ trang từ lực lượng Công an miền Bắc chi viện cho miền Nam, từ những thanh niên tiêu biểu trong phong trào cách mạng để bổ sung biên chế cho lực lượng. Trong công tác giáo dục, bồi dưỡng cho lực lượng An ninh vũ trang, Đảng đặc biệt chú trọng bồi dưỡng phẩm chất đạo đức và lý tưởng cách mạng, bồi dưỡng nghiệp vụ công tác bảo vệ, cảnh vệ. Chính vì vậy mà Đảng đã có một lực lượng bảo vệ tuyệt đối trung thành với lý tưởng cách mạng trong suốt chặng đường 21 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.


Đáp lại tình cảm và trách nhiệm đối với Đảng, Tổ quốc và nhân dân, lực lượng An ninh vũ trang miền Nam đã không ngừng phấn đấu và rèn luyện, ngày một trưởng thành và đã thực sự trở thành lực lượng tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân. Sự trung thành tuyệt đối của lực lượng An ninh vũ trang miền Nam đã được minh chứng bằng những thành tích công tác, chiến đấu trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và đã thể hiện bằng các hành động, việc làm hàng ngày gắn với nhiệm vụ được các cấp ủy Đảng giao phó.


Trước hết, đó là lòng trung thành với mục tiêu lý tưởng của Đảng, với sự nghiệp cách mạng của Đảng. Mọi cán bộ, chiến sĩ thuộc lực lượng An ninh vũ trang miền Nam dù ỏ bất kỳ cương vị nào, hoàn cảnh nào đều trung thành tuyệt đối với lý tưởng của Đảng, với sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ. Lòng trung thành đó được cụ thể hóa bằng sự tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, vào thắng lợi tất yếu của phong trào cách mạng do Đảng lãnh đạo. Vì vậy, cán bộ, chiến sĩ An ninh vũ trang sẵn sàng xả thân hy sinh để bảo vệ căn cứ, bảo vệ các đồng chí lãnh đạo Đảng, Chính phủ và những mục tiêu được phân công bảo vệ.


Mục tiêu lý tưởng của Đảng, của giai cấp công nhân và nhân dân ta là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, lòng trung thành tuyệt đối với Đảng, Tổ quốc và nhân dân của cán bộ, chiến sĩ An ninh vũ trang miền Nam thể hiện trong suốt quá trình công tác với tinh thần tận tụy, hy sinh, phấn đấu vì lý tưởng, mục tiêu của Đảng, của cách mạng. Đây là phẩm chất chính trị, là đạo đức cách mạng; đồng thời thể hiện sự giác ngộ về chính trị, quan điểm lập trường giai cấp của chiến sĩ An ninh vũ trang.


Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, chiến trường miền Nam vô cùng ác liệt và gian khổ, nhưng cán bộ chiến sĩ An ninh vũ trang luôn kiên định lập trường giai cấp, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng mà trực tiếp là Xứ ủy Nam Bộ, Liên khu ủy 5 và sau này là Trung ương cục miền Nam. Cán bộ, chiến sĩ nhận thức và hành động trách nhiệm vì Đảng, vì nhân dân miền Nam thân yêu và vì miền Bắc XHCN. Trong cuộc chiến đấu gian khổ và ác liệt, đội ngũ cán bộ, chiến sĩ An ninh vũ trang miền Nam càng kiên trung, bất khuất, không đồng chí nào đầu hàng, phản bội, đào ngủ, đào nhiệm.


Lòng trung thành tuyệt đối với Đảng, Tổ quốc và nhân dân của lực lượng An ninh vũ trang miền Nam được bắt nguồn từ tính chất, đặc điểm và tầm quan trọng đặc biệt của nhiệm vụ an ninh vũ trang. Mỗi cán bộ, chiến sĩ An ninh vũ trang miền Nam luôn nhận thức sâu sắc nhiệm vụ thiêng liêng, vô cùng vinh dự, tự hào, nhưng cũng không kém phần gian khổ, hy sinh. Đó là nhiệm vụ bảo vệ tuyệt đối an toàn các đồng chí lãnh đạo khu ủy, xứ ủy, Trung ương cục, các cấp ủy Đảng cũng như các căn cứ cách mạng miền Nam, đồng thời hỗ trợ cùng các lực lượng vũ trang khác chiến đấu chống địch càn quét, đánh phá. Bảo vệ các đồng chí lãnh đạo cốt cán các cấp và các căn cứ cách mạng miền Nam là bảo vệ nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng miền Nam. Vì vậy, lực lượng An ninh vũ trang phải luôn mài sắc tinh thần cảnh giác, nhận thức rõ âm mưu, bản chất của kẻ địch cùng với những thủ đoạn chống phá tinh vỉ, xảo quyệt, ác liệt của chúng, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ tới cùng, kể cả phải hy sinh tính mạng cũng quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ.


Tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân là yêu cầu hàng đầu của cán bộ, chiến sĩ thuộc lực lượng An ninh vũ trang miền Nam.

Khi đưa ra 6 điều dạy Công an nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra nội dung: "Đối với Chính phủ phải tuyệt đối trung thành", vì chỉ có tuyệt đối trung thành thì người cán bộ công an mới hết tâm, hết sức làm tròn được nhiệm vụ bảo vệ của mình. Lòng trung thành ở đây phải được thể hiện ở bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào củng phải tận tụy, hy sinh, dũng cảm, mưu trí, sáng tạo, sẵn sàng vượt qua mọi thử thách, khó khăn, kể cả trong tình huống chiến đấu gay go, ác liệt "một mất, một còn" với đich.


Suốt 21 năm thực hiện nhiệm vụ bảo vệ, lực lượng An ninh vũ trang miền Nam đã trải qua biết bao hy sinh gian khổ; riêng Trung đoàn 180 đã hy sinh hơn bốn trăm cán bộ chiến sĩ. Song chính trong điều kiện khỏ khăn, thiếu thốn từ cuộc sống, sinh hoạt đến phương tiện, vũ khí, trang bị đó đã tạo cho cán bộ chiến sĩ An ninh vũ trang miền Nam ý chí phấn đấu vươn lên, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ và ác liệt của cuộc chiến để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.


Trong công tác bảo vệ, lực lượng An ninh vũ trang miền Nam đã mưu trí, dũng cảm, lấy yếu tố bí mật, bất ngờ làm chính, tiến hành hóa trang, cải trang để che mắt địch. Để xây dựng căn cứ địa, bố trí nơi làm việc, nơi ăn nghỉ của các đồng chí lãnh đạo, lực lượng An ninh vũ trang phải tìm địa điểm dựng các lán ngụy trang, xóa dấu vết để giữ bí mật. Trong điều kiện chiến tranh ác liệt, phải thường xuyên đối đầu với kẻ thù, sự hy sinh, sống còn trong gang tấc càng tôi luyện cho các chiến sĩ An ninh vũ trang bản lỉnh chính trị vững vàng; đoàn kết một lòng với đồng chí, đồng đội; anh dũng, kiên cường trong chiến đấu; hiên ngang, bất khuất trong lao tù của địch; dựa chặt vào nhân dân, phát huy lòng yêu nước, cách mạng của nhân dân trong cuộc đấu tranh với địch.


Trong quá trình bảo vệ Đảng, chính phủ và các ban ngành, đoàn thể, lực lượng An ninh vũ trang miền Nam đã xây dựng 46 căn cứ, hàng trăm căn nhà, hầm kiên cố để bảo vệ an toàn các đồng chí lãnh đạo Đảng, Mặt trận và Chính phủ lâm thời; bảo vệ 33 lần di chuyển căn cứ và cơ quan Trung ương Cục, 1.277 lần bảo vệ lãnh đạo Trung ương cục đi công tác và nhiều phiên họp, làm việc đặc biệt. Bên cạnh nhiệm vụ bảo vệ, lực lượng An ninh vũ trang đã cùng các lực lượng vũ trang khác chiến đấu, bảo vệ căn cứ, tham gia 413 trận đánh lớn nhỏ, góp phần tiêu diệt và làm bị thương hàng ngàn tên địch, bắn rơi hàng chục máy bay, xe tăng, xe quân sự. Những chiến công của lực lượng An ninh vũ trang miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thật sự là bản anh hùng ca sáng ngời về lòng trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân.


Tiêu đề: Tổng kết lịch sử công tác An ninh vũ trang của lực lượng An ninh miền Nam
Gửi bởi: saoden trong 01 Tháng Chín, 2023, 09:37:09 am
Để bảo vệ tuyệt đối an toàn lãnh đạo các cấp, lực lượng An ninh vũ trang miền Nam đã nêu cao tinh thần trách nhiệm bằng việc làm thiết thực và hiệu quả trong công tác điều tra tình hình địch, xây dựng các kế hoạch, phương án bảo vệ thích hợp trong từng hoàn cảnh cụ thể, trên từng địa bàn cụ thể. Lực lượng tiếp cận của An ninh vũ trang trong mọi hoàn cảnh vừa là chiến sĩ trinh sát, vừa là cán bộ bảo vệ, vừa là người phục vụ sinh hoạt và công tác cho các đồng chí lãnh đạo. Lực lượng bảo vệ vòng ngoài, vừa là lực lượng chiến đấu lại vừa là những người sản xuất chăn nuôi giỏi để đáp ứng yêu cầu tự túc lương thực, thực phẩm cho căn cứ.


Để đảm bảo an toàn cho các đồng chỉ lãnh đạo ỏ căn cứ hay trên đường đi công tác, cán bộ chiến sĩ An ninh vũ trang miền Nam đều phải chuẩn bị rất chu đáo về kế hoạch công tác, phương án bảo vệ, điều kiện đảm bảo, sẵn sàng xử lý những tình huống bất thường xảy ra. Chính vì vậy, hầu hết các chuyến đi công tác của các đồng chí lãnh đạo đều được đảm bảo an toàn.


Với lực lượng An ninh vũ trang miền Nam, lòng trung thành tuyệt đối với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân phải được kết hợp với đức tính tận tụy, hy sinh trong công tác và tỉnh thần hy sinh, bất khuất trong lao tù của địch.


Từ những ngày đầu của cách mạng miền Nam, khi tình hình cách mạng miền Nam gặp muôn vàn khó khăn, gian khổ, Đảng rất chú trọng vấn đề chính trị tư tưởng, thường xuyên chăm lo công tác giáo dục chính trị tư tưởng, bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cách mạng và ý thức bảo vệ Đảng. Để có được đức tính tận tụy, hy sinh quên mỉnh vì nhiệm vụ, lực lượng An ninh vũ trang phải trải qua quá trình rèn luyện, phấn đấu kiên trì, bền bỉ. Người cán bộ, chiến sĩ An ninh vũ trang phải biết hy sinh vì nhiệm vụ, phải xuất phát từ nhận thức về tầm quan trọng của đối tượng cần bảo vệ.


Nhìn lại chặng đường 21 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của lực lượng An ninh vũ trang miền Nam, biết bao tấm gương hy sinh, tận tụy phục vụ nhiệm vụ bảo vệ các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước đã minh chứng cho vấn đề này. Tháng 6-1962, một tổ công tác bảo vệ (sau này là Trung đoàn 1 thuộc Đoàn 180) do đồng chí Tư Lùng chỉ huy có nhiệm vụ bảo vệ đồng chí Nguyễn Văn Linh, Bí thư Trung ương cục đi công tác. Giữa đường bất ngờ bị 4 máy bay địch oanh tạc dữ dội, tổ bảo vệ đã nhanh chóng đưa đồng chí vào nấp bên một gò mối và ngồi vây quanh che đạn cho đồng chí được an toàn; tháng 12-1965, máy bay B52 của địch bất ngờ ném bom rải thảm trúng ngay căn cứ Trung ương cục, trong đó đồng chí Phan Văn Đáng, Phó Bí thư Trung ương cục đang bị bệnh không kịp ra hầm trú ẩn. Giữa làn bom đạn địch, đồng chí Trung Ngần, Đại đội trưởng Đại đội 1 đã dũng cảm lao vào cõng đồng chí Phan Văn Đáng đưa ra khỏi khu vực địch đánh phá.


Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy lực lượng CAND: "Đối với địch phải cương quyết, khôn khéo" và muốn bảo vệ tốt "phải có kỹ thuật". Sự khéo léo, trong công tác bảo vệ chính là sự mưu trí, sáng tạo trong phương pháp, biện pháp đánh địch; vận động linh hoạt "lai vô bóng, khứ vô hình", "bên ngoài bình thường, bên trong chặt chẽ". Và cùng với sự khôn khéo phải có kỹ thuật hỗ trợ là các phương tiện hoạt động, gồm vũ khí, điện đài và các công cụ hỗ trợ khác. Sự kết hợp giữa trí tuệ và kỹ thuật sẽ góp phần quan trọng trong công tác bảo vệ, ngăn chặn được mọi mưu đồ tấn công, phá hoại của kẻ địch, đảm bảo an toàn cho lãnh đạo, cho căn cứ.


Lòng trung thành với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân còn được thể hiện trong mọi hoàn cảnh, cán bộ chiến sĩ của lực lượng An ninh vũ trang miền Nam cũng không ngại khó khăn, gian khổ, hy sinh để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.


Từ buổi đầu là các ban bảo vệ, tổ bảo vệ dần trưởng thành lực lượng An ninh vũ trang miền Nam có tổ chức chính quy, với lực lượng hùng hậu là cả một quá trình khắc phục mọi khó khăn, gian khổ, hy sinh cả tình cảm gia đình, quê hương để đến chiến trường, đối mặt với những hiểm nguy không lường hết được. Nhưng trong quá trình công tác và chiến đấu, các chiến sĩ An ninh vũ trang miền Nam càng được rèn luyện, tôi luyện cho mình phẩm chất đạo đức cách mạng, ý thức kỷ luật cao và tình đoàn kết, giúp đỡ nhau trong mọi hoàn cảnh để cùng hoàn thành nhiệm vụ. Trong cuộc sống khó khăn gian khổ đó, cán bộ, chiến sĩ An ninh vũ trang với lối sống cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư luôn đoàn kết một lòng, chia ngọt sẻ bùi, cùng phấn đấu vươn lên. Đó là những phẩm chất cực kỳ quý báu của cán bộ, chiến sĩ An ninh vũ trang miền Nam. Điều đó đã tạo nên sức mạnh để mỗi cá nhân và tập thể An ninh vũ trang miền Nam vượt qua mọi khó khăn thử thách, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.


Là lực lượng vũ trang nhân dân, với tổ chức và kỷ luật chặt chẽ, lực lượng An ninh vũ trang miền Nam xác định ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm là nguồn gốc tạo nên sức mạnh; trong đó việc chấp hành nghiêm chỉ thị, mệnh lệnh cấp trên các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, của lực lượng An ninh vũ trang là điều kiện tiên quyết, là nội dung phấn đấu của mỗi cán bộ, chiến sĩ. Ý thức tổ chức kỷ luật, nhất là kỷ luật trong chiến đấu, kỷ luật trong bảo mật, kỷ luật trong công tác là một yếu tố quan trọng để nâng cao sức chiến đấu giành thắng lợi trong công tác bảo vệ và xây dựng đơn vị. Yêu cầu kỷ luật của người cán bộ chiến sĩ An ninh vũ trang phải mang tính tự giác cao, ở mọi nơi, mọi lúc và trong mọi công tác. Vì vậy, khi công tác trong đội ngũ tập thể hay độc lập, khi ở căn cứ hay trên đường đi công tác, làm việc với cơ sở hay trong quan hệ với các đơn vị và quần chúng nhân dân đều phải giữ vững kỷ luật của một lực lượng vũ trang cách mạng. Mọi biểu hiện lơi lỏng ý thức tổ chức kỷ luật hoặc tha hóa về đạo đức, lối sống đều ảnh hưởng rất lớn đến uy tín, phẩm chất của người chiến sĩ An ninh vũ trang thậm chí ảnh hưỏng đến cả uy tín của lãnh đạo Đảng, Nhà nước. Vì vậy, sự đoàn kết thống nhất về ý chí và hành động cùng với việc chấp hành nghiêm ý thức tổ chức kỷ luật đã tạo nên sức mạnh to lớn, giúp cán bộ chiến sĩ lực lượng An ninh vũ trang miền Nam hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ trong các giai đoạn của cách mạng.


Ngày nay, chiến tranh đã lùi xa, nhưng các thế lực thù địch và bọn tội phạm quốc tế vẫn tiếp tục chống phá cách mạng nước ta dưới nhiều hình thức, thủ đoạn tinh vi xảo quyệt mới. Vì vậy, để phát huy truyền thống tốt đẹp của lực lượng An ninh vũ trang miền Nam trong thời kỳ kháng chiến chong My, cứu nước, lực lượng Công an nhân dân hôm nay cần quán triệt sâu sắc bài học kinh nghiệm trung thành tuyệt đối với Đảng, Tổ quốc và nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ an ninh trật tự. Mỗi cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân làm nhiệm vụ bảo vệ cán bộ, bảo vệ Đảng phải không ngừng nâng cao cảnh giác cách mạng; nắm vững đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; rèn luyện sức khỏe; không ngừng học tập để nâng cao trình độ chính trị nghiệp vụ; nắm chắc mọi âm mưu, phương thức, thủ đoạn hoạt động phá hoại, khủng bố của các thế lực thù địch và bọn tội phạm; chủ động phòng ngừa, tích cực đấu tranh ngăn chặn mọi hoạt động của địch.


Đây là bài học quý trong công tác giáo dục truyền thống về công tác bảo vệ lãnh đạo Đảng và Nhà nước, bảo vệ nội bộ và khách quốc tế hiện nay.


Tiêu đề: Tổng kết lịch sử công tác An ninh vũ trang của lực lượng An ninh miền Nam
Gửi bởi: saoden trong 01 Tháng Chín, 2023, 09:41:21 am
Bài học kinh nghiệm thứ hai

PHÁT HUY CAO ĐỘ LÒNG YÊU NƯỚC VÀ VAI TRÒ QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN TRONG CÔNG TÁC AN NINH VŨ TRANG

Trong lịch sử cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, nhân dân ta thường phải đối đầu với những thế lực ngoại bang, thực dân, đế quốc mạnh hơn ta gấp nhiều lần về tiềm lực kinh tế, quân sự và có nhiều kinh nghiệm, thủ đoạn, hoạt động trong chiến tranh xâm lược. Vì vậy, một dân tộc nhỏ bé như Việt Nam khi phải đối đầu với những đế quốc lớn thì chắc chắn sẽ gặp phải những khó khăn to lớn và rất dễ bị đánh bại.


Lịch sử dân tộc Việt Nam cho thấy: Những cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc chỉ dùng sức mạnh quân sự để chống kẻ thù xâm lược đã dẫn đến thất bại nặng nề; những cuộc đấu tranh, khởi nghĩa được nhân dân ủng hộ thì giành được thắng lợi to lớn. Điều đó đã cho nhân dân ta một bài học kinh nghiệm về vai trò, sức mạnh của nhân dân trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc cũng như xây dựng đất nước. Nguyễn Trãi đã chỉ ra "Lật thuyền mới biết dân như nước"; chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định "sự nghiệp cách mạng là của quần chúng"; Chủ tịch Hồ Chí Minh thấy rõ "Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong"; Đảng và Chính phủ ta biết dựa vào dân để giành chính quyền và xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân đã liên tục thắng lợi.


Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), tư tưởng nhân dân được Đảng và Chính phủ ta thấu suốt trong quá trình tổ chức, lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Tư tưởng ấy là một nguồn sức mạnh to lớn trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc cũng như trong sự nghiệp đấu tranh để giải phóng miền Nam, tiến tới thống nhất nước nhà. Ở miền Nam, trong cuộc đấu tranh quyết liệt, không cân sức giữa ta và địch càng đòi hỏi lực lượng cách mạng nói chung và lực lượng An ninh, An ninh vũ trang phải biết dựa vào dân, phát huy sức mạnh của nhân dân trong công tác đánh địch, bảo vệ mình.
   

Trong cuộc đấu tranh chống phản cách mạng, bảo vệ nội bộ ta, Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã sử dụng nhiều lực lượng, thực hiện nhiều âm mưu, thủ đoạn, phương thức hoạt động rất thâm độc, tinh vi, xảo quyệt và tàn bạo để tiêu diệt lực lượng ta. Chính sự tàn bạo của địch đã tạo ra mâu thuẫn gay gắt giữa chính quyền tay sai, độc tài với nhân dân miền Nam, thổi bùng lên phong trào Đồng khởi nãm 1960 và buộc nhân dân miền Nam phải đứng lên chống Mỹ và chính quyền tay sai thân Mỹ. Trước tình hình đó, yêu cầu của cách mạng miền Nam phải quán triệt tư tưởng nhân dân; tức là dựa dân, phát huy sức mạnh của nhân dân để đánh địch và thúc đẩy cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam.


Quán triệt tư tưởng chỉ đạo của Trung ương cục miền Nam, của Ban An ninh Trung ương cục, lực lượng An ninh vũ trang miền Nam đã dựa vào dân, phát huy sức mạnh của nhân dân trong công tác.

Trong những năm 1954-1956, trong điều kiện phải hoạt động hoàn toàn bí mật, những cán bộ bảo vệ Xứ ủy và các cấp ủy Đảng ở miền Nam đã phải xã hội hóa, dựa vào nhân dân để hoạt động. Toàn bộ cuộc sống, sinh hoạt, ăn ở hòa vào nhân dân, được nhân dân che chở, nuôi dưỡng, đùm bọc, tạo điều kiện cho công tác bảo vệ được an toàn. Khi Mỹ và chính quyền Sài Gòn thực hiện Luật 10/59, nhiều cơ sở cách mạng và cán bộ bảo vệ bị bắt, tra tấn, tù đày, nhưng tất cả đều một lòng kiên trung, bất khuất, trung thành với Đảng, giữ vững khí tiết cách mạng trước kẻ thù. Sự che chở của nhân dân đã góp phần bảo vệ được Đảng và cơ sở Đảng trong những năm tháng khó khăn, khắc nghiệt nhất ở miền Nam.


Sau phong trào Đồng khởi 1960, nhân dân toàn miền Nam dứng lên chống Mỹ và chính quyền Sài Gòn, lực lượng An ninh, An ninh vũ trang miền Nam ra đời. Đó là điều kiện thuận lợi của cách mạng miền Nam. Từ đây, nhân dân miền Nam trở thành chỗ dựa vững chắc cho cách mạng, trở thành nguồn nhân lực, cung cấp vật lực cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.


Quán triệt tư tưởng nhân dân của Đảng, lực lượng An ninh vũ trang miền Nam đã dựa vào dân, phát huy vai trò của quần chúng của nhân dân trong công tác xây dựng lực lượng trong công tác đánh địch, trong công tác bảo vệ căn cứ, vùng giải phóng và bảo vệ cán bộ lãnh đạo các cấp.


Trong công tác xây dựng lực lượng, An ninh vũ trang miền Nam đã quán triệt sâu sắc tư tưởng "từ nhân dân mà ra", thường xuyên tuyển chọn tân binh từ cơ sở, tuyển chọn những thanh niên khỏe mạnh, tích cực, có giác ngộ chính trị và tinh thần chiến đấu cao. Những khu vực có quần chúng nhân dân giác ngộ cao, phong trào đấu tranh của quần chúng mạnh là nơi cung cấp cho lực lượng An ninh vũ trang nhiều tân binh tốt; những gia đình có truyền thống cách mạng cũng thường bô’ sung cho lực lượng An ninh vũ trang những con em tích cực. Những ngày đầu mới thành lập, lực lượng An ninh vũ trang cấp huyện, xã phần lớn được tuyển dụng từ phong trào quần chúng; nhiều đồng chí đã trưởng thành trong chiến đấu; cũng nhiêu đồng chí đã hy sinh anh dũng, vì dân, vì nước, vì sự nghiệp cách mạng.


Những lúc gian khó nhất của cách mạng như trước năm 1960 và những năm 1968-1969, nhân dân trở thành nguồn cung cấp sức người, sức của cho lực lượng An ninh vũ trang. Nhiêu gia đình đã đào hầm che giấu cán bộ, đã cung cấp lương thực, thực phẩm, thuốc men vào tận căn cứ trong rừng sâu cho cán bộ; nhiều phong trào quần chúng đã cung cấp lương thực, vũ khí thô sơ tự tạo trang bị cho lực lượng An ninh vũ trang miền Nam. Trong nhiều cuộc càn quét ác liệt của địch, và đặc biệt trong Tổng tấn công và nổi dậy 1968, lực lượng An ninh vũ trang đã phát huy vai trò, sức mạnh của quần chúng nhân dần, tạo nên sức mạnh tổng hợp, làm tan rã hệ thống chính quyền địch.


Trong nhiều hoàn cảnh cụ thể khác, khỉ quần chúng nhân dân được phát huy sức mạnh đã đóng góp tích cực, không tiếc sức người, sức của và cả tính mạng để bảo vệ cách mạng. Lực lượng An ninh vũ trang luôn nhỏ bé trước sức mạnh quân sự của kẻ thù, nhưng nhờ có quần chúng hỗ trợ mọi nơi, mọi lúc, lực lượng An ninh vũ trang miền Nam ngày càng trưởng thành, có sức mạnh to lớn trong công tác bảo vệ mình, tấn công địch. Nhiều trận càn lớn của địch bị thất bại do lực lượng ta được sự giúp đỡ của quần chúng. Tam giác sắt Củ Chi cách trung tâm Sài Gòn chưa tới 30 km, địch chà đi xát lại nhiều lần, bằng nhiều biện pháp rất quyết liệt, nhưng nhờ có sự ủng hộ của nhân dân mà lực lượng An ninh vũ trang Sài Gòn - Gia Định luôn bám trụ vững vàng, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đến ngày Đại thắng mùa xuân năm 1975 lịch sử.


Tiêu đề: Tổng kết lịch sử công tác An ninh vũ trang của lực lượng An ninh miền Nam
Gửi bởi: saoden trong 01 Tháng Chín, 2023, 09:42:57 am
Dọc các hành lang vận chuyển và đường giao liên quan trọng, nhân dân đã trở thành tai mắt, chân tay, hỗ trợ cho hoạt động của lực lượng An ninh vũ trang. Đúng như Chủ tịch Hồ Chi Minh dạy lực lượng Công an nhân dân: "Phải làm sao có hàng chục triệu đôi bàn tay, hàng chục triệu cặp mắt và đôi tai mới được. Muốn như vậy phải dựa vào dân, không được xa rời dân. Nếu không thế, thì thất bại. Khi nhân dân giúp đỡ ta nhiều thì thành công nhiều, giúp đỡ ta ít thì thành công ít, giúp đỡ ta hoàn toàn thì thắng lợi hoàn toàn"1 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, HN, 2011, tr. 270).


Trong công tác đánh địch, lực lượng An ninh vũ trang luôn chú trọng biện pháp quần chúng, dựa vào dân, phát huy vai trò quần chúng nhân dân để đấu tranh với các loại đối tượng. Trước tình hình bọn do thám, gián điệp và các đối tượng hoạt động bí mật với nhiều thủ đoạn rất tinh vi, phát huy được vai trò quần chúng là tạo thành mạng lưới thiên la địa võng trong các khâu phát hiện, đấu tranh và làm thất bại âm mưu, hoạt động của địch. Thực tế cho thấy: Những nơi, những khi phong trào quần chúng phát triển, mọi hoạt động dù nhỏ nhất của các đối tượng phản cách mạng đểu bị quần chúng phát hiện, trực tiếp đấu tranh hoặc báo cho lực lượng An ninh vũ trang xử lý. Những đối tượng do thám gián điệp, biệt kích, chỉ điểm, tề điệp xâm nhập vào vùng ta không qua khỏi sự giám sát của nhân dân. Một số trận càn quét, tập kích của địch vào vùng giải phóng, căn cứ, hành lang do quần chúng phát hiện trước rồi báo cho chính quyền và lực lượng vũ trang ta. Trong nhiều trận chiến đấu ác liệt với quân địch, quần chúng nhân dân trở thành lực lượng hỗ trợ trực tiếp cho các hoạt động của lực lượng An ninh vũ trang.


Trong công tác bảo vệ căn cứ, vùng giải phóng, lực lượng du kích và An ninh vũ trang ta luôn phải đối phó với lực quân sự mạnh của địch. Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã dùng mọi lực lượng, mọi biện pháp để tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến miền Nam và các khu, tỉnh, huyện; đồng thời mở rộng vùng chiếm đóng trên khắp các chiến trường. Nhưng chúng luôn vấp phải sự chống trả quyết liệt của lực lượng vũ trang cách mạng, luôn bị thất bại trước sự chống trả quyết liệt của lực lượng quân đội, An ninh vũ trang, du kích địa phương và lực lượng quần chúng nhân dân. Nhân dân Khu 5 trung kiên, bất khuất; nhân dân miền Đông Nam Bộ anh dũng, kiên cường; nhân dân Tây Nam Bộ hiên ngang, quả cảm. Những khí chất ấy đã tạo lên sức mạnh quần chúng to lớn hỗ trợ cho phong trào cách mạng nói chung và lực lượng An ninh vũ trang nói riêng. Có những trận đánh, lực lượng An ninh vũ trang phải rút lui thì nhân dân trở thành lực lượng cản quân địch, bảo vệ lực lượng ta, làm cho địch mất phương hướng truy lùng.


Thực tiễn đã khẳng định vai trò vô cùng to lớn của quần chúng trong công tác an ninh vũ trang ở miền Nam thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975). Sở dĩ quần chúng nhân dân miền Nam phát huy được sức mạnh, hỗ trợ tích cực cho công tác an ninh vũ trang là do: Lực lượng An ninh vũ trang đã quán triệt sâu sắc tư tưởng chỉ đạo của Đảng về công tác quần chúng; lực lượng An ninh vũ trang đã công tác và chiến đấu vì lợi ích của nhân dân; lực lượng An ninh vũ trang đã biết kết hợp tính tích cực của quần chúng với biện pháp chuyên môn nghiệp vụ.


Trong quá trình quán triệt tư tưởng chỉ đạo của Đảng về công tác quần chúng, lãnh đạo lực lượng An ninh vũ trang luôn giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ hiểu rõ vai trò, sức mạnh của quần chúng nhân dân. Sức mạnh của quần chúng nhân dân vừa thể hiện ở lực lượng đông đảo, vừa thể hiện của sức mạnh chính nghĩa. Khi đã được tổ chức, giáo dục, gỉác ngộ quần chúng nhân dân sẽ có sức mạnh vô địch trong cuộc đấu tranh với địch. Đó là lực lượng, là nguồn cung cấp sức người, sức của to lớn của cách mạng nói chung và lực lượng An ninh vũ trang nói riêng. Các chỉ thị, kế hoạch công tác bao giờ cũng đề cập tới công tác quần chúng, "phong trào phòng gian, bảo mật", trách nhiệm của tổ chức với quần chúng nhân dân về an ninh, trật tự.


Đi đúng đường lối quần chúng, dựa vào quần chúng, phát huy vai trò của quần chúng là quan điểm chính trị, là tư tưởng chỉ đạo, là biện pháp nghiệp vụ cơ bản của công tác an ninh. Phương hướng tổ chức và vận động quần chúng phải đặt dưới sự chỉ đạo của Đảng để quần chúng đi đúng đường lối, phục vụ thiết thực cho sự nghiệp cách mạng. Như trong thời kỳ đấu tranh chính trị, quần chúng là lực lượng chính trong các cuộc đình công, biểu tình theo những khẩu hiệu do Đảng đề ra; trong thời kỳ đấu tranh chính trị kết hợp với biện pháp vũ trang, quần chúng được các lực lượng bán vũ trang hỗ trợ đấu tranh trong các cuộc đấu tranh với chính quyền địch; sau phong trào Đồng khởi thì lực lượng quần chúng trở thành lực lượng to lớn hỗ trợ cho chính quyền bảo vệ an ninh, trật tự vùng giải phóng, căn cứ và những hành lang vận chuyển của ta. Những nội dung, khẩu hiệu hành động của phong trào quần chúng luôn gắn liền với tư tưởng chỉ đạo của Đảng ở từng thời điểm nhất định, ở từng vùng cụ thể, gắn chặt với chủ trương chung của Đảng.


Quần chúng nhân dân gồm nhiều tầng lớp xã hội với những cơ sở kinh tế, chính trị, văn hóa khác nhau. Do đó, vấn đề tổ chức, xây dựng khối đoàn kết toàn dân theo chủ trương của Đảng phải là một quá trình kiên trì, sáng tạo. Đặc biệt, trong hoàn cảnh cuộc đấu tranh địch ta rất quyết liệt, cùng giành đất, giành dân, thì công tác vận động và phát huy vai trò của quần chúng càng khó khăn, phức tạp. Trên lĩnh vực an ninh vũ trang, cả hai tính chất an ninh và vũ trang đều đòi hỏi nguyên tắc cao. Vì vậy, công tác vận động quần chúng phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng thì mới dựa được vào dân, phát huy vai trò của nhân dân trong công tác.


Trong quá trình vận động quần chúng, nội dung và hình thức vận động phải phù hợp với tình hình cụ thể, yêu cầu của cách mạng và gắn với lợi ích của nhân dân. Trong những tình hình, hoàn cảnh khác nhau phải có nội dung và hình thức khác nhau. Trong vùng địch, nội dung vận động quần chúng chủ yếu vạch rõ âm mưu của địch, xu thế thắng lợi của cách mạng; hình thức thông qua những nhân tố quần chúng tích cực, tổ chức vũ trang tuyên truyền công khai hoặc bán công khai, ở vùng giải phóng, công tác vận động quần chúng thông qua các tổ chức chính quyền, hội, đoàn, thanh niên; nội dung chủ yếu gắn với phong trào phòng gian, bảo mật, chống do thám, gián điệp, bảo vệ an ninh, trật tự, cải thiện dân sinh, chống địch càn quét, chiêu hồi, chiêu hàng, ở khu vực căn cứ, nội dung công tác vận động quần chúng gắn với công tác bảo vệ Đảng, tổ chức, các đồng chí lãnh đạo, chống do thám, gián điệp, biệt kích. Dọc các hành lang vận chuyển và giao liên, nội dung của phong trào quần chúng là chống do thám gián điệp, bảo vệ bí mật thông tin, cán bộ.


Tiêu đề: Tổng kết lịch sử công tác An ninh vũ trang của lực lượng An ninh miền Nam
Gửi bởi: saoden trong 01 Tháng Chín, 2023, 09:43:32 am
Nội dung công tác quần chúng phải gắn chặt với lợi ích của nhân dân trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, an ninh trật tự. Về kinh tế là quan tâm đến đời sống chung và cả những gia đình có hoàn cảnh đặc biệt; về chính trị là mở rộng đối tượng khoan hồng; về an ninh trật tự phải làm cho quần chúng hiểu và ủng hộ cuộc đấu tranh địch ta gắn liền với cuộc sống bình yên của nhân dân. Thực tế đã cho thấy: Lực lượng An ninh vũ trang miền Nam làm tốt công tác quần chúng, đã dựa được vào dân, phát huy vai trò của quần chúng nhân dân trong công tác bảo vệ căn cứ, vùng giải phóng và bảo vệ an toàn các đồng chí lãnh đạo các cấp.


Trong quá trình dựa vào dân và phát huy vai trò của nhân dân phải kết hợp chặt chẽ tính tích cực của quần chúng nhân dân với nghiệp vụ chuyên môn. Tính tích cực của quần chúng nhân dân trong công tác bảo vệ an ninh, trật tự cần có sự hướng dẫn của cơ quan an ninh. Nội dung định hướng cho phong trào quần chúng về chuyên môn là: Nhận thức rõ âm mưu, phương thức, thủ đoạn hoạt động của các đối tượng do thám, gián điệp, tề ngụy, phản động lợi dụng yếu tố tôn giáo, dân tộc ở từng địa bàn cụ thể; làm cho quần chúng nêu cao tinh thần cảnh giác, không để địch thu thập tin tức, lôi kéo, chiêu hồi, chiêu hàng, mua chuộc, khống chế sử dụng; cách thức phát hiện những đối tượng địch xâm nhập vào địa bàn, nội bộ ta; phối hợp với lực lượng An ninh vũ trang đấu tranh ngăn chặn âm mưu và hoạt động của địch. Đấu tranh với những đối tượng cải tạo tại chỗ, phong trào quần chúng có tác dụng rất lớn, làm cho đối tượng cải tạo về tư tưởng, trở lại với gia đình và cộng đồng.


Dựa vào quần chúng nhân dân là dựa vào một lực lượng đông đảo, mạnh mẽ nhất trong xã hội; phát huy vai trò của quần chúng nhân dân là phát huy tiềm lực về sức người, sức của, ý thức cách mạng của quần chúng nhân dân trong công tác đấu tranh với địch, bảo vệ ta. Lực lượng An ninh vũ trang đã trang bị cho quần chúng những kiến thức cơ bản về công tác vũ trang. Cụ thể là: Đã giáo dục cho quần chúng nhân dân hiểu rõ âm mưu và hoạt động vũ trang của địch; hoạt động do thám gián điệp của địch luôn hỗ trợ cho hoạt động vũ trang, đánh phá tổ chức và vùng giải phóng của ta; nhiệm vụ của lực lượng du kích và An ninh vũ trang trong việc bảo vệ căn cứ, vùng giải phóng và nhân dân; nhiệm vụ của quần chúng nhân dân phải hỗ trợ cho hoạt động vũ trang của ta lúc bình thường cũng như khi bị địch đánh phá; vũ trang tự vệ cho quần chúng bằng những vũ khí thô sơ, tự tạo; làm cho nhân dân nắm được phương án tác chiến cơ bản để có kế hoạch phối hợp khỉ có tình huống xảy ra. Nhờ đó mà lực lượng An ninh vũ trang được quần chúng ủng hộ, phối hợp, tạo thành sức mạnh to lớn trong công tác đánh địch, ơ nhiều nơi, quần chúng đã tích cực tham gia chống địch càn quét, diệt trừ số ác ôn ngoan cố, bảo vệ các đồng chỉ lãnh đạo trên đường đi công tác. Nhiều quần chúng tích cực ở Tây Nguyên và Tây Nam Bộ đã sáng chế ra nhiều vũ khí tự tạo để đánh địch.


Thực tế cho thấy, khi nhân dân đã giác ngộ chính trị và được hướng dẫn về nghiệp vụ chuyên môn thì càng phát huy cao độ tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong cuộc đấu tranh với địch. Trong 21 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nhân dân dã phát hiện rất nhiều do thám, gián điệp địch xâm nhập vào căn cứ, vùng giải phóng, thậm chí thâm nhập vào nội bộ ta; đã cùng lực lượng An ninh vũ trang đánh trả hàng ngàn trận càn quét của địch trên khắp các vùng chiến lược; đã cùng lực lượng An ninh vũ trang giáo dục hàng ngàn đối tượng cải tạo tại chỗ và trừ diệt nhiều tên ác ôn ngoan cố; ngăn chặn và làm thất bại âm mưu "tình báo hóa nhân dân" của địch; góp phần bảo vệ căn cứ, vùng giải phóng và những cán bộ cốt cán của ta.


Sau khi có Hiệp định Paris năm 1973, lực lượng An ninh vũ trang không mắc vào tư tưởng hòa bình, nghỉ ngơi; tiếp tục nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, củng cố lực lượng, trang bị vũ trang; vận động quần chúng nhân dân củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, tập trung mũi nhọn vào chính quyền tay sai thân Mỹ, chống địch lấn chiếm vùng giải phóng. Khi nhân dân được giác ngộ, thấy rõ xu hướng phát triển của cách mạng càng ra sức ủng hộ chính quyền ta, càng hỗ trợ tích cực cho công tác bảo vệ an ninh nói chung và an ninh vũ trang nói riêng.


Trong thời gian này, nội dung và hình thức vận động quần chúng rất đa dạng, phong phú. Lực lượng An ninh vũ trang vẫn tiếp tục vận động quần chúng thực hiện "phong trào phòng gian, bảo mật", có nơi phát triển thành "phong trào bảo vệ trị an". Các tổ chức quần chúng tích cực được trang bị vũ trang bằng những vũ khí thô sơ, tự tạo như súng kíp, cung nỏ, mã tấu, gậy tầm vông. Nhiều trận càn quét lấn chiếm của địch vấp phải sự chống trả quyết liệt của nhân dân đã thất bại thảm hại; nhiều tên tay sai địch phải đền tội; nhiều đốn bốt lẻ của địch bị cô lập phải rút chạy.


Ở các khu căn cứ của Trung ương cục, khu, tỉnh, lực lượng An ninh vũ trang vẫn tiếp tục vận động quần chúng, phát huy vai trò của nhân dân trong công tác bảo vệ căn cứ. Chính vì vậy, địch nhiều lần âm mưu dùng biệt kích tập kích vào căn cứ một số khu, tỉnh nhưng đều bị thất bại.


Dựa vào dân, phát huy vai trò của quần chúng nhân dân đã trở thành một nhiệm vụ quan trọng, một phương hướng công tác thường xuyên của lực lượng An ninh vũ trang. Đó là nhân tố tạo lên sức mạnh to lớn của công tác an ninh nói chung và an ninh vũ trang nói riêng. Chính vì vậy, lực lượng An ninh vũ trang đi đến đâu cũng được quần chúng nhân dân ủng hộ, nhiệt tình tham gia công tác bảo vệ an ninh, trật tự, hỗ trợ tích cực cho hoạt động vũ trang của ta.


Những năm 1973-1975, lực lượng An ninh vũ trang đã không ngừng phát triển, gây dựng được phong trào quần chúng mạnh mẽ khắp miền Nam, trang bị cho nhân dân ý thức cảnh giác cách mạng và những kiến thức cơ bản về phòng chống địch. Chính vì vậy, lực lượng cách mạng ngày càng trưởng thành về tổ chức và lực lượng, đồng thời có sự hỗ trợ to lớn của nhân dân miền Nam.


Trên cơ sở đánh giá tương quan lực lượng ta và địch, kể cả lực lượng quần chúng, Trung ương Đảng đã quyết định Tổng tấn công và nổi dậy giải phóng hoàn toàn miền Nam. Nhờ có sự ủng hộ của nhân dân, lực lượng vũ trang cách mạng đã nhanh chóng giải phóng Táy Nguyên, khu 5 và mỏ Chiến dịch Hồ Chi Minh lịch sử, giành Đại thắng Mùa xuân năm 1975.


Thực tiễn hoạt động của lực lượng An ninh vũ trang miền Nam về vấn đề dựa vào dân, phát huy vai trò của quần chúng nhân dân đã khẳng định: Lực lượng An ninh vũ trang đã quán triệt sâu sắc sự lãnh đạo của Đảng về công tác quần chúng, phát huy vai trò của quần chúng trong công tác đấu tranh với địch để bảo vệ mình; nội dung, biện pháp, hình thức vận động quần chúng tùy nơi, tùy lúc khác nhau nhưng đều tập trung thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng về công tác bảo vệ an ninh, trật tự; phong trào quần chúng được lực lượng nòng cốt định hướng đúng đắn đã phát huy cao độ tiềm lực của nhân dân; góp phần đấu tranh có hiệu quả với những đối tượng nguy hiểm, những hoạt động đánh phá ác liệt của địch.


Kết quả của công tác vận động quần chúng trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước còn có ý nghĩa, tác dụng to lớn trong công cuộc ổn định tình hình an ninh, trật tự ở miền Nam sau ngày giải phóng.


Tiêu đề: Tổng kết lịch sử công tác An ninh vũ trang của lực lượng An ninh miền Nam
Gửi bởi: saoden trong 14 Tháng Chín, 2023, 08:27:24 am
Bài học kinh nghiệm thứ ba

XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG AN NINH VŨ TRANG PHÁT TRIỂN VÀ TRƯỞNG THÀNH KHÔNG NGỪNG VỂ TỔ CHỨC, LỰC LƯỢNG VÀ CHÍNH TRỊ TƯ TƯỞNG


Xuất phát từ vai trò và tầm quan trọng của công tác bảo vệ các đồng chí lãnh đạo cao cấp, bảo vệ cơ quan đầu não của Đảng và các căn cứ cách mạng, ngay từ khi ra đời, lực lượng An ninh vũ trang miền Nam được Đảng giao trọng trách là lực lượng nòng cốt thực hiện nhiệm vụ bảo vệ các đồng chí lãnh đạo Trung ương cục, lãnh đạo các khu ủy, tỉnh ủy và các căn cứ, vùng giải phóng; trực tiếp diệt ác, phá kìm, bảo vệ Đảng, bảo vệ phong trào cách mạng và bảo vệ nhân dân.


21 năm chiến đấu và trưởng thành, lực lượng An ninh vũ trang miền Nam đã hoàn thành xuất sắc sứ mệnh lịch sử được Đảng giao phó. Có được kết quả đó bởi các thế hệ cán bộ, chiến sĩ An ninh vũ trang miền Nam có lòng tin vào sự lãnh đạo của Đảng, một lòng một dạ theo Đảng, trọn đời chiến đấu vì lý tưởng của Đảng, vì hạnh phúc của nhân dân.


Là một bộ phận của An ninh miền Nam, lực lượng An ninh vũ trang miền Nam ra đời, chiến đấu trong hoàn cảnh có những đặc thù riêng, với mục tiêu, nhiệm vụ đặc biệt, với vị trí, vai trò cực kỳ quan trọng liên quan đến sự sống còn của Đảng, sự thành bại trong cuộc chiến tranh cách mạng. Trên chiến trường miền Nam, sự khốc liệt của chiến tranh, nơi đối đầu trực diện với sự hy sinh, mất mát, nhưng lực lượng An ninh vũ trang luôn nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ cơ quan lãnh đạo của Đảng, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, chính quyền cách mạng các cấp và xây dựng lực lượng trưởng thành về mọi mặt, góp phần cùng quân và dân miền Nam đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn.


Từ yêu cầu của cách mạng miền Nam, Trung ương Đảng đã sớm quán triệt đường lối chính trị và tổ chức của Đảng trong việc xây dựng lực lượng An ninh vũ trang thành lực lượng trọng yếu, tuyệt đối trung thành với Đảng, Nhà nước và nhân dân. Đây là lực lượng phải vững mạnh về mọi mặt, mang bản chất cách mạng triệt để của giai cấp công nhân trong mục tiêu chiến đấu, cơ cấu tổ chức và cơ chế lãnh đạo.


Nắm vững những quan điểm và tư tưởng của Trung ương Đảng và Trung ương cục, Ban An ninh Trung ương cục miền Nam đã xác định xây dựng lực lượng An ninh vũ trang miền Nam thành lực lượng tuyệt đối trung thành với Đảng, có liên hệ mật thiết với quần chúng, có tính chất vũ trang, sức chiến đấu cao, có tổ chức chặt chẽ, thông thạo về nghiệp vụ, được trang bị vũ khí và phương tiện thích hợp.


Trong những năm 1954-1960, về tổ chức tuy chưa có một hệ thống thống nhất giữa các vùng, miền nhưng lực lượng cánh vệ, cận vệ làm nhiệm vụ bảo vệ Đảng, bảo vệ cơ quan có đơn vị tríển khai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ khu căn cứ mới được hình thành. Củng trong thời gian này, nơi nào những cơ sơ Đảng, cán bộ của Đảng bám trụ đều có cơ sở quần chúng tổ chức bảo vệ. Đó chính là lực lượng nòng cốt xây dựng và phát triển lực lượng An ninh vũ trang. Lực lượng này do Xứ ủy Nam Bộ tuyển chọn, xây dựng. Từ năm 1960, phong trào Đồng khởi miền Nam đã thúc đẩy các tổ chức Đảng và các tổ chức cách mạng khác được hình thành và phát triển thì yêu cầu bảo vệ thành quả cách mạng càng đặt ra cấp thiết. Chính vì vậy lực lượng An ninh miền Nam ra đời, trong đó có lực lượng an ninh bảo vệ Đảng, căn cứ và vùng giải phóng được trang bị vũ trang; được gọi với các tên khác như đội phòng thủ, đội cơ động, đội cảnh vệ, đội trinh sát, đội ATK. Nhiệm vụ chính của lực lượng này là: bảo vệ các đồng chí lãnh đạo Đảng và chính quyền ta; bảo vệ căn cứ, vùng giải phóng; diệt ác, phá kìm để mở rộng căn cứ, vùng giải phóng.


Trươc yêu cầu củng cố và bảo vệ căn cứ cách mạng đặt ra ngay càng cấp bách, đòi hỏi lực lượng An ninh vũ trang phải được phát triển và củng cố vững mạnh, ngày 4-8-1961, Xứ ủy Nam Bộ ra Chỉ thị số 06/CT về việc "Đấu tranh chống gián điệp và xây dựng tổ chức an ninh bảo vệ của ta" và xác định xây dựng tổ chức "Ban An ninh bảo vệ" từ Trung ương đến cơ sở, trong đó chú trọng việc xây dựng lực lượng an ninh cơ sở do cấp ủy Đảng lãnh đạo.


Ngày 22-5-1963, Thường vụ Trung ương cục ra Chỉ thị số 69/CTR đã đặt ra những vấn đề cơ bản về đường lối, phương châm, nguyên tắc, biện pháp, chính sách cũng như nội dung đẩy mạnh cuộc đấu tranh của ta. Ban bảo vệ An ninh các cấp khẩn trương củng cố, kiện toàn tổ chức bộ phận an ninh vũ trang. Từ năm 1963, hầu hết các khu ủy ở miền Nam đều thành lập tiểu ban An ninh vũ trang.


Trước tình hình địch ngày càng leo thang chiến tranh, nhiệm vụ đặt ra cho lực lượng An ninh vũ trang toàn miền Nam có hệ thống tổ chức tập trung, thống nhất, đảm bảo sự chỉ đạo hiệu quả cao. Ngày 4-10-1964, Thường vụ Trung ương cục miền Nam ra Chỉ thị số 10/LL về việc xây dựng lực lượng An ninh vũ trang để bảo vệ tuyệt đối an toàn cán bộ, cơ quan lãnh đạo, đảm bảo cho cơ quan lãnh đạo hoạt động thưòng xuyên, liên tục, lúc bình thường cũng như lúc biến động. Về tổ chức, lực lượng An ninh vũ trang phải đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của cấp ủy cùng cấp; cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng phải được tuyển chọn theo đúng tiêu chuẩn quy định, đảm bảo tuyệt đối trung thành với Đảng và cách mạng; phải thông thạo về quân sự và nghiệp vụ, đủ sức hoàn thành nhiệm vụ được giao. Dựa trên sự chỉ đạo đó, các khu ủy, tỉnh ủy đã gấp rút xây dựng lực lượng An ninh vũ trang; ở cấp khu tổ chức một tiểu đoàn với quân số khoảng 480 người, ở cấp tỉnh tổ chức một đại đội, quân số khoảng 120 người, cấp huyện tổ chức một trung đội, quân số khoảng 33 người.


Sau Tổng tấn công và nổi dậy tết Mậu Thân 1968, trước tình hình lực lượng An ninh vũ trang miền Nam bị tổn thất nghiêm trọng, Ban An ninh Trung ương cục miền Nam ra Chỉ thị số 17/CT-NT (ngày 9-8-1968) về đẩy mạnh tốc độ triển khai xây dựng lực lượng An ninh vũ trang miền Nam thành hệ thống hoàn chỉnh, bao gồm các lực lượng An ninh vũ trang tập trung, các đội cảnh vệ, cận vệ, các đội trinh sát vũ trang với nhiệm vụ hết sức cụ thể. Chỉ thị nhấn mạnh: Để đảm bảo cho lực lượng An ninh vũ trang vững mạnh về chính trị, tư tưởng, giỏi về quân sự và nghiệp vụ an ninh, phương hướng xây dựng lực lượng An ninh vũ trang là "tích cực khẩn trương, kịp thời gọn nhẹ, sắc bén, chú trọng cả chất lượng và số lượng, xây dựng đến đâu tổ chức đến đó, vừa chiến đấu, vừa xây dựng tiến lên một cách vững chắc, từ ít đến nhiều, từ đơn giản đến hoàn chỉnh".


Quá trình hình thành, xây dựng và phát triển tổ chức An ninh vũ trang miền Nam gắn liền với giai đoạn lịch sử của cách mạng. Tuy ra đời muộn nhưng các tổ chức tiền thân lại có từ rất sớm, điều đó có ý nghĩa hết sức quan trọng, cho thấy lực lượng An ninh vũ trang miền Nam đã xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ chính trị của Đảng, của cách mạng để từng bước xây dựng, củng cố. Tổ chức An ninh vũ trang được xây dựng hợp lý, toàn diện theo hướng chuyên sâu sẽ chủ động bố trí lực lượng, thực hiện các kế hoạch, phương án, biện pháp nghiệp vụ bảo vệ tuyệt đối an toàn cho cán bộ cấp cao của Đảng, đảm bảo quán xuyến bảo vệ chặt chẽ căn cứ an toàn trên mọi địa bàn. Nhiều tổ công tác của lực lượng An ninh vũ trang miền Nam đã chủ động lên kế hoạch, phương án bảo vệ an toàn các đồng chí Nguyễn Văn Linh, Võ Văn Kiệt đi lại hoạt động từ căn cứ đến các vùng xung yếu để chỉ đạo công tác, hay bảo vệ an toàn các đồng chí Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Phạm Hùng vào chiến trường miền Nam chỉ đạo những công tác lớn, mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.


Là một trong những lực lượng vũ trang trọng yếu, tin cậy của Đảng, lực lượng An ninh vũ trang miền Nam ngay từ khi ra đời luôn được đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, tập trung, thống nhất của Bộ Công an và Ban An ninh Trung ương cục miền Nam. Đó là yếu tố hàng đầu, quyết định đảm bảo cho lực lượng An ninh vũ trang hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị. Mặt khác, đặc thù của công tác an ninh vũ trang và tính chất của lực lượng vũ trang đòi hỏi phải đảm bảo sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung thống nhất của Đảng, Trung ương cục miền Nam, mà trực tiếp là Ban An ninh Trung ương cục miền Nam. Thực tiễn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, lực lượng An ninh vũ trang luôn luôn được sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, thống nhất nên đã tạo ra sự đoàn kết, nhất trí cao về ý chí và hành động, kỷ luật nghiêm minh, sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, hy sinh đế hoàn thành nhiệm vụ.


Tiêu đề: Tổng kết lịch sử công tác An ninh vũ trang của lực lượng An ninh miền Nam
Gửi bởi: saoden trong 14 Tháng Chín, 2023, 08:28:21 am
Trong thời kỳ 1954-1975, quán triệt các chỉ thị, nghị quyết và tư tưởng chỉ đạo của cấp trên, lực lượng An ninh vũ trang miền Nam đã bám sát yêu cầu, nhiệm vụ chính trị được giao để xây dựng, cúng cố tổ chức và lực lượng, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ tuyệt đối an toàn các đồng chí cán bộ lãnh đạo, bảo vệ các khu căn cứ.


Chủ tịch Hồ Chí Minh từng dạy "muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém"1 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5 (1947-1948), Nxb Chính trị quốc gia, HN, 2011, tr. 280). Đồng chí Lê Duẩn cũng chỉ rõ: "Đảng lựa chọn Công an trong những người trung thành nhất với Đảng, những người chỉ biết sống chết với Đảng chỉ biết còn Đảng thì còn mình"2 (Bộ Công an, Hệ thống hóa văn bản các Hội nghị Công an toàn quốc (1955-1964), Bài phát biểu của đồng chí Lê Duẩn tại Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ 13 (tháng 1-1959), lưu trữ tại X25, tr. 279). Vì vậy, lực lượng An ninh vũ trang các cấp phải thực hiện đúng đường lối giai cấp, tiêu chuẩn cán bộ về lý lịch, về phẩm chất chính trị, văn hóa, thể lực, theo phương châm "trọng chất hơn lượng".


Thực tiễn lịch sử trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã chứng minh việc lựa chọn những người ưu tú nhất trong giai cấp công nhân, nông dân và lực lượng trí thức đã được rèn luyện thử thách trong chiến đấu và công tác để bổ sung cho lực lượng An ninh vũ trang miền Nam là hoàn toàn đúng đắn và có hiệu quả cao.


Trong công tác bảo vệ tiếp cận, bảo vệ căn cứ đòi hỏi cán bộ, chiến sĩ An ninh vũ trang những phẩm chất trung thành khôn khéo, nhẫn nại và kiên quyết, có nghiệp vụ giỏi có ý thức trách nhiệm cao, đạo đức cách mạng tốt và được rèn luyện, thử thách trong chiến đấu, có khả năng và ý chí kiên định trước mọi hoàn cảnh.


Được thử thách, tôi luyện trong chiến đấu, lực lượng An ninh vũ trang miền Nam không ngừng trưởng thành. Nhân tố quyết định sự trưởng thành ấy là mọi cán bộ, chiến sĩ đều nêu cao tinh thần tiến công cách mạng, đồng thời có sự lãnh đạo chặt chẽ của Trung ương cục miền Nam và Ban An ninh Trung ương cục miền Nam.


Sự trưởng thành của lực lượng An ninh vũ trang miền Nam là sự trưởng thành về chính trị tư tưởng, tổ chức, lực lượng và kinh nghiệm công tác.

Từ thực tiễn cuộc chiến tranh ác liệt, yêu cầu đặt ra đối với lực lượng An ninh vũ trang miền Nam lúc này là: làm tròn chức năng chuyên chính của Đảng, của chính quyền cách mạng, trở thành mũi nhọn tấn công sắc bén và bảo vệ vững chắc căn cứ, sự an toàn tính mạng của các đồng chí lãnh đạo. Thực tế đã chứng minh, cán bộ chiến sĩ An ninh vũ trang miền Nam đã luôn tỏ rõ lập trường quan điểm vũ trang cách mạng, tuyệt đối trung thành với Đảng và nhân dân; dũng cảm, kiên cường, bất khuất chiến đấu, khắc phục mọi khó khăn gian khổ để hoàn thành nhiệm vụ được giao.


Qua thực tiễn, đã cho chúng ta thấy rõ rằng, sự trưởng thành về chính trị là động lực thúc đẩy nghiệp vụ phát triển. Nghiệp vụ phát triển trên cơ sở chính trị là sự đảm bảo chắc chắn nhất, làm cho hoạt động của lực lượng An ninh vũ trang không đi chệch hướng, chệch mục tiêu, không phạm sai lầm về chính trị, đồng thời cũng là đảm bảo chắc chắn nhất để đánh trúng, đánh mạnh vào đối tượng. Sự trưởng thành về chính trị còn làm cho lực lượng An ninh vũ trang nhạy bén trong đấu tranh, vững vàng trước mọi thử thách.


Để đối phó với âm mưu, thủ đoạn hoạt động của địch cán bộ, chiến sĩ An ninh vũ trang miền Nam đã thực hiện tốt vai trò vừa chiến đấu, vừa bảo vệ, bảo vệ ta phải gắn liền với tấn công địch. Đồng thời biết dựa vào quần chúng phát huy khả năng sáng tạo và tính tích cực của quần chúng trong phong trào "phòng gian bảo mật", "toàn dân làm công tác an ninh". Trong cuộc đấu tranh sinh tử với kẻ thù, lực lượng An ninh vũ trang càng được tôi luyện về ý chí và hành động, về nghiệp vụ và kinh nghiệm đánh địch, góp phần xây dựng lý luận cách mạng của ngành Công an nhân dân Việt Nam.


Nghiệp vụ của công an thực chất là nghiệp vụ chính trị, đấu tranh chống phản cách mạng thực chất là cuộc đấu tranh chính trị. Vì vậy, sự trưởng thành về chính trị, tư tưởng, các biện pháp nghiệp vụ luôn đồng hành trong quá trình tiến tới sự hoàn thiện lực lượng. Thực tiễn cho thấy: Một trong những nhân tố tạo thành sự lớn mạnh của lực lượng An ninh vũ trang miền Nam, ngoài việc quán triệt tư tưởng cách mạng bạo lực, tư tưởng cách mạng tiến công, còn phải có sự kết hợp chặt chẽ yếu tố chính trị và nghiệp vụ, trong đó nghiệp vụ phải phục vụ chính trị; nghiệp vụ phát triển trên cơ sở nhận thức chính trị phát triển tương ứng.


Từ tính chất ấy, trong quá trình xây dựng lực lượng, lực lượng An ninh vũ trang miền Nam đã lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng, đường lối, chính sách của Đảng để nâng cao lập trường giai cấp; lấy mục tiêu phấn đấu "Vì an ninh Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân, vì độc lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc".


Về tổ chức, lực lượng An ninh vũ trang miền Nam luôn đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối của Trung ương cục miền Nam, mà trực tiếp là Thường vụ Ban An ninh Trung ương cục miền Nam, có một lực lượng chiến đấu vững mạnh, có tính chất vũ trang, có tổ chức kỹ luật chặt chẽ và thông thạo về nghiệp vụ.


Về thành phần, đảm bảo chặt chẽ tiêu chuẩn tuyển chọn, thành phần công nông là cốt cán, công tác giáo dục chính trị tư tưởng đóng vai trò quan trọng quyết định. Và luôn luôn xác định: quá trình xây dựng lực lượng An ninh vũ trang miền Nam cũng là quá trình xây dựng đội ngũ cán bộ, chiến sĩ an ninh ngày càng vững mạnh. Sự hình thành ấy trong điều kiện cụ thể của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã mở rộng đội ngũ cán bộ, chiến sĩ ngoài thành phần công nông còn có những trí thức đã được rèn luyện, thử thách, giác ngộ.


Trong quá trình đấu tranh và trưởng thành, lực lượng An ninh vũ trang miền Nam rất đáng tự hào là một lực lượng vũ trang tuyệt đối trung thành với Đảng, được Đảng tin cậy; trung dũng, kiên cường, mưu trí, nhạy bén, tận tụy, hy sinh, trên dưới một lòng hoàn thành sứ mệnh lịch sử mà Đảng và nhân dân giao phó. Sự đóng góp xứng đáng của lực lượng này trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã được Đảng, Nhà nước và nhân dân ghi nhận sâu sắc.


Ngày nay, đất nước thống nhất, non sông thu về một mối, một bộ phận lực lượng An ninh vũ trang miền Nam trở thành những cán bộ, chiến sĩ cảnh vệ, cận vệ trong lực lượng Công an nhân dân đang làm nhiệm vụ bảo vệ sự an toàn tuyệt đối của các đồng chí lãnh đạo cấp cao, các mục tiêu quan trọng của Đảng và Nhà nước; một bộ phận trở về trong đội ngũ Công an nhân dân vũ trang làm nhiệm vụ bảo vệ biên giới, bờ biển hải đảo; nhiều chiến sĩ An ninh vũ trang năm xưa đã được nghỉ theo chế độ, nhưng sự hy sinh và những chiến công hiển hách trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã để lại cho hôm nay một truyền thống tốt đẹp và bài học quý này.


Tiêu đề: Tổng kết lịch sử công tác An ninh vũ trang của lực lượng An ninh miền Nam
Gửi bởi: saoden trong 14 Tháng Chín, 2023, 08:29:29 am
Bài học kinh nghiệm thứ tư

LUÔN CHỦ ĐỘNG NẮM CHẮC TÌNH HÌNH ĐỊCH VÀ SỬ DỤNG ĐỒNG BỘ CÁC BIỆN PHÁP NGHIỆP VỤ TRONG CÔNG TÁC AN NINH VŨ TRANG



Về phép dụng binh, Tôn Tử (514-496 TCN) đã đưa ra triết lý rất sâu sắc "tri bỉ, tri kỷ, bách trận chiến, bách trận thắng" (biết địch, biết ta, trăm trận chiến, trăm trận thắng), vì vậy, trong cuộc đấu tranh địch ta, công tác nắm tình hình địch rất quan trọng, có tính chất quyết định thắng lợi trong cuộc chiến. Nắm tình hình địch để thấy chỗ mạnh, chỗ yếu của địch để có biện pháp, kế hoạch đánh địch thích hợp. Trong quá trình dựng nước và giữ nước, dân tộc ta thường phải đương đầu với nhiều kẻ thù mạnh hơn ta gấp nhiều lần, ông cha ta đã đúc rút ra nghệ thuật quân sự "lấy yếu chống mạnh", "dùng ít địch nhiều", "lấy chí nhân thay cường bạo"... Để thực hiện thành công nghệ thuật quân sự này, yêu cầu công tác nắm tình hình địch phải rất sâu sắc, cụ thể, tỉ mỉ, chính xác. Trên cơ sở đó mà tìm ra chỗ mạnh của địch để tránh, nhằm vào điểm yêu của địch để đánh, làm cho kẻ địch suy yếu dần, dẫn đến thất bại. Từ việc phân tích tình hình địch ta, đồng chí Lê Duẩn đã đưa ra phương châm của cách mạng miền Nam là: "đánh lui từng bước, đánh đổ từng bộ phận, tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn"1 (Lê Duẩn, Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập, tự do, vì chủ nghĩa xả hội, tiến lên giành thắng lợi mới, Nxb Sự thật, HN, 1972).


Thực tế cho thấy: Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đế quốc Mỹ và các nước đồng minh đã huy động nhiều lực lượng, thực hiện nhiều chiến lược chiến tranh nguy hiểm, sử dụng nhiều phương tiện chiến tranh hiện đại, hòng tiêu diệt phong trào cách mạng, biến miền Nam nước ta thành thuộc địa kiểu mới của chúng. Để chiến thắng địch trong cuộc chiến tranh ác liệt này, công tác chủ động điều tra nắm chắc tình hình địch, đánh giá đúng về địch để xác định đường lối, phương châm, nguyên tắc, biện pháp đánh địch có hiệu quả là vấn đề có ý nghĩa quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến. Để đối phó với những âm mưu, phương thức thủ đoạn, hoạt động của địch, Trung ương Đảng rất coi trọng công tác nắm tình hình địch nên đã bố trí nhiều lực lượng với nhiều biện pháp để tìm hiểu địch trên mọi phương diện. Các cơ quan tình báo chiến lược, tình báo quản đội, tình báo phản gián của Đảng, Quân đội, Công an đều tham gia công tác nắm tình hình địch trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao, nắm tổ chức, lực lượng, âm mưu, phương thức, thủ đoạn hoạt động, kế hoạch đánh phá của địch. Nhờ công tác nắm tình hình địch sâu và rộng nên mọi hoạt động của địch ta đều nắm chắc và đây là những luận cứ quan trọng để đề ra những chủ trương, đối sách và biện pháp đấu tranh thích hợp.


Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, lực lượng quân sự Mỹ và chính quyền Sài Gòn đả thực hiện nhiều kế hoạch để đàn áp phong trào cách mạng. Chúng đánh phá căn cứ cách mạng hòng tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến, thực hiện nhiều kế hoạch đánh chiếm vùng giải phóng để "giành đất, giành dân, giành thế chủ động", sử dụng nhiều do thám, tình báo, gián điệp, biệt kích để nắm tình hình ta, phá nội bộ ta, tiêu diệt lực lượng cách mạng và chính quyền ta.


Vì vậy, cuộc đấu tranh địch ta trên mặt trận tình báo, gián điệp diễn ra hết sức phức tạp, quyết liệt, tác động lớn đến sự thành bại trong cuộc chiến.

Lực lượng An ninh vũ trang được Đảng, Nhà nước giao vụ, trong đó bảo vệ căn cứ và các đồng chí lãnh đạo là nhiệm vụ chủ yếu. Để hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ, lực lượng An ninh vũ trang phải nắm chắc tình hình địch làm cơ sở tham mưu cho các cấp ủy Đảng đề ra chủ trương, đối sách, biện pháp bảo vệ thích hợp.


Yêu cầu nắm chắc tình hình địch đối với công tác công an nói chung và của lực lượng An ninh vũ trang nói riêng là tất yếu khách quan, rất cần thiết và được xác định là biện pháp công tác có vị trí hết sức quan trọng. Trên cơ sở nắm tình hình địch, nắm tình hình an ninh trật tự trong khu căn cứ, vùng giải phóng và tình hình có liên quan để chủ động xây dựng các kế hoạch, phương án bảo vệ phù hợp.


Trong quá trình xâm lược Việt Nam, Mỹ và chính quyền Sài Gòn thường xuyên thay đổi phương thức, thủ đoạn hoạt động, ngày càng tinh vi, xảo quyệt. Chính vì vậy, lực lượng An ninh vũ trang phải liên tục điều tra, nắm tình hình địch sâu sát, toàn diện, cụ thế, phải tìm ra cái mới trong âm mưu hoạt động của địch để định ra đối sách kịp thời, thích hợp. Khi địch thay đổi âm mưu, phương thức, thủ đoạn hoạt động thì công tác bảo vệ cũng phải thay đổi để sẵn sàng, chủ động đối phó với hoạt động mới của địch.


Nắm tình hình địch trong công tác an ninh vũ trang tập trung thu thập thông tin về tình hình có liên quan đến an ninh trật tự về âm mưu, phương thức thủ đoạn hoạt động của địch đối với vùng căn cứ; dự báo những khả năng về hoạt động của địch đánh phá bằng không quân, thám báo, biệt kích, càn quét căn cứ. Mặt khác, nắm tình hình địch còn phục vụ công tác phản gián, phát hiện kịp thời việc địch cài cắm người vào nội bộ ta; nắm các tổ chức, cơ quan do thám, gián điệp, công an, cảnh sát, biệt kích, các cơ quan đàn áp, bộ máy hành chính của địch gần căn cứ và vùng giải phóng. Đồng thời phải nắm chắc đặc điểm của từng đối tượng địch, nhất là số chỉ huy, ác ôn, có nhiều nợ máu với cách mạng. Đồng thời, phải nắm được tình hình hoạt động của các đối tượng chính trị, hình sự trong địa bàn bảo vệ và khu vực xung quanh căn cứ và dọc hành lang bảo vệ.


Trong công tác bảo vệ chính trị nội bộ các cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể tập trung nắm tình hình, biến động bất thường trong nội bộ. Đặc biệt là những cán bộ ở những khâu công tác trọng yếu, tiếp cận lãnh đạo, mới đến công tác. Nắm rõ lý lịch, quá trình công tác, quan hệ xã hội, tư tưởng chính trị và cá tính của họ.


Khi các đồng chí lãnh đạo đi công tác, cần có kế hoạch bảo vệ chu đáo trên đường đi, nơi ăn nghỉ, làm việc và những vấn để khác liên quan đến công tác bảo vệ, kể cả các phương án xử lý tình huống đột xuất, bất ngờ nhất.


Trong công tác bảo vệ căn cứ, do tầm quan trọng đặc biệt của căn cứ địa cách mạng nên kẻ địch dùng mọi âm mưu, phương thức thủ đoạn tinh vi, thâm độc xảo quyệt để chống phá, dùng mọi lực lượng để đánh phá quyết liệt. Một trong những thủ đoạn kẻ địch thường sử dụng là dùng do thám, gián điệp, chỉ điểm, biệt kích xâm nhập vùng căn cứ để nắm tình hình vị trí, địa điểm căn cứ của ta, tìm hiểu lực lượng và cách bố phòng của ta, nắm tình hình về các đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng và địa điểm nơi làm việc, sinh hoạt hàng ngày. Từ đó địch có kế hoạch, phương án sử dụng lực lượng thích hợp để tấn công, tập kích, đánh phá căn cứ, tiêu diệt lực lượng ta hoặc chỉ điểm cho máy bay địch oanh tạc hoặc ám sát, bắt cóc, sát hạỉ các đồng chí lãnh đạo.


Vì vậy, nhiệm vụ của lực lượng An ninh vũ trang là phải bảo vệ bí mật căn cứ, chống các hoạt động do thám, gián điệp, biệt kích của địch, nắm chắc tình hình hoạt động của địch, bảo vệ nội bộ các cơ quan Đảng, đoàn thể đóng trong căn cứ, ngăn ngừa không để kẻ địch xâm nhập và có biện pháp đấu tranh với địch có hiệu quả.


Về công tác bảo vệ căn cứ, lực lượng An ninh vũ trang phải thông qua công tác nắm tình hình để lựa chọn những địa bàn có tình hình an ninh chính trị tốt, đảm bảo yêu cầu bí mật, nhưng tiến lui thuận tiện, thông tin nhanh chóng, hậu cần đảm bảo. Quy định bảo mật phải cụ thể hóa thành nội quy công tác và sinh hoạt. Các cơ quan Đảng, chính quyền đoàn thể nằm trong căn cứ đều phải quán triệt nội quy, quy chế hoạt động để đảm bảo bí mật và sẵn sàng chống địch tập kích, đánh phá, càn quét.


Đối với các đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng ỏ Trung ương cục và các khu, lực lượng An ninh vũ trang đếu bố trí lực lượng bảo vệ tiếp cận và đều có phương án bảo vệ khi cần thiết.


Tiêu đề: Tổng kết lịch sử công tác An ninh vũ trang của lực lượng An ninh miền Nam
Gửi bởi: saoden trong 14 Tháng Chín, 2023, 08:30:38 am
Về công tác chống địch thu thập tin tức về căn cứ, lực lượng An ninh vũ trang xác định hành lang bảo vệ rồi lập các trạm kiểm soát, dựng các chòi canh, bố trí lực lượng cảnh giới để kịp thời phát hiện người lạ xâm nhập khu căn cứ bằng đường không, đường bộ, đường thủy. Đồng thời, thường xuyên tổ chức các đội tuần tra để phát hiện những dấu hiệu nghi vấn. Trong khu vực căn cứ, lực lượng An ninh vũ trang phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, đoàn thể làm tốt công tác bảo vệ nội bộ, làm trong sạch địa bàn. Cùng với các đội du kích, bảo vệ cơ quan, lực lượng An ninh vũ trang xây dựng các phương án tác chiến, củng cố hệ thống hầm hào chiến đấu, chống các hoạt động do thám, chiêu hồi, chiêu hàng, chiến tranh tâm lý của địch; đồng thời phát động quần chúng nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, đẩy mạnh phong trào "phòng gian, bảo mật" trong căn cứ và vùng lân cận.


Để tăng cường công tác nắm tình hình địch, lực lượng An ninh vũ trang phối hợp chặt chẽ, thường xuyên với các lực lượng nghiệp vụ khác như chấp pháp, trại giam, thông qua công tác xét hỏi đối tượng địch bị ta bắt giữ để nắm tình hình địch và tình hình ta; đồng thời qua đó sử dụng người của địch đánh vào hàng ngũ địch để nắm tình hình địch phục vụ cho công tác bảo vệ.


Trong quá trình bảo vệ vùng giải phóng, công tác nắm tình hình địch càng hết sức cán thiết để kịp thời đấu tranh với âm mưu và hoạt động của địch hòng "giành đất, gỉành dân", phá chính quyền ta. Từ sau phong trào Đồng khởi 1960, vùng giải phóng hình thành và dần được mở rộng ở nông thôn, đồng bằng và miền núi, tạo điều kiện cho ta về nhân lực, vật lực và thế chủ động tấn công tiêu diệt địch.


Vì thế, địch liên tục mở các chiến dịch quân sự, càn quét đánh chiếm hòng "giành đất, giành dân" với ta, các chiến dịch này kéo dài kể cả sau khi Hiệp định Pari năm 1973 được ký kết. Chúng tung nhiều toán gián điệp, biệt kích, thám báo, chi điểm vào vùng giải phóng để nắm tình hình lực lượng, bố phòng, tiềm lực quân sự để đánh chiếm, càn quét, lập lại chính quyền địch.


Để chiến thắng địch trong cuộc đấu tranh này, lực lượng An ninh vũ trang đã cùng với quần chúng nhân dân và các lực lượng khác tập trung nắm tình hình địch bằng nhiều hình thức, phát động nhân dân "phòng gian, bảo mật", củng cố chính quyền, tổ chức canh gác, kiểm soát người qua lại giữa hai vùng, cùng các lực lượng quân đội, dân quân du kích xây dựng kế hoạch sẵn sàng đánh địch khi địch lấn chiếm, bảo vệ chính quyền ta và tính mạng, tài sản của dân.


Do nắm chắc tình hình địch và có sự chuẩn bị các phương án phối hợp đánh địch trong mọi tình huống, lực lượng An ninh vũ trang bảo vệ vùng giải phóng đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, góp phần đánh bại các cuộc hành quân lấn chiếm của địch, bảo vệ vững chắc vùng giải phóng. Công tác nắm tình hình địch giúp cho lực lượng An ninh vũ trang chủ động đề ra chủ trương, phương án và kế hoạch bảo vệ thích hợp, chặt chẽ để đấu tranh ngăn chặn kịp thời với mọi âm mưu, hoạt động của địch.


Công tác điều tra nắm tình hình của lực lượng An ninh vũ trang phải được tiến hành một cách khoa học, tỉ mỉ, khách quan, toàn diện và chính xác, công tác này tiến hành bằng biện pháp công khai, bí mật và bằng các biện pháp nghiệp vụ khác. Chỉ trên cơ sở làm tốt công tác nắm tình hình mới nhận định đúng đối tượng đấu tranh trong từng giai đoạn cách mạng, điều tra nắm tình hình đúng, chính xác sẽ là cơ sở khoa học phục vụ nghiên cứu xây dựng kế hoạch, phương án bảo vệ và bố trí lực lượng, phương tiện kỹ thuật, biện pháp bảo vệ an toàn.


Những công tác trên có mối quan hệ mật thiết với nhau. Có nắm tình hình tốt mới đánh giá đúng đối tượng để xây dựng kế hoạch đúng sát, có kế hoạch tổ chức tốt và đấu tranh có hiệu quả cao.

Trong thực tế từ cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ đến thời kỳ xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, do nắm vững âm mưu ý đồ của Pháp, Mỹ và các thế lực phản động từ bên ngoài, Đảng đã xác định rõ đối tượng đấu tranh chính để đề ra chủ trương đường lối, chính sách, phương pháp đấu tranh thích hợp, linh hoạt và sáng tạo. Nhờ đó mà cách mạng nước ta vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách để từng bước tiến lên, giành từ thắng lợi này đến thắng lợi khác và giành thắng lợi hoàn toàn.


Nắm chắc tình hình địch và xây dựng kế hoạch, phương án bảo vệ ta là hai mặt công tác có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ tác động lẫn nhau. Thực tiễn trong công tác An ninh vũ trang cho thấy: Khi đã nắm được đầy đủ thông tin về tình hình địch, tình hình khu vực, địa bàn bảo vệ là những cơ sở khoa học để xây dựng phương án bảo vệ và áp dụng các biện pháp bảo vệ phù hợp với từng mục tiêu, địa bàn, đối tượng bảo vệ. Trong công tác An ninh vũ trang, đối tượng bảo vệ là cơ quan và các đồng chí lãnh đạo các cấp ủy Đảng các cơ quan trọng yếu của Trung ương, khu ủy, tỉnh ủy. Mục đích cao nhất của công tác bảo vệ là phải đảm bảo an toàn tuyệt đối cho các đối tượng bảo vệ trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào, đặc biệt là các phương án bảo vệ trong những tình huống phức tạp có thể xảy ra. Kế hoạch và phương án bảo vệ phải được cấp trên phê duyệt để đáp ứng yêu cầu và tình hình bảo vệ cụ thể.


Để bảo vệ tuyệt đối an toàn cho các mục tiêu, lực lượng An ninh vũ trang đã làm tốt công tác nắm tình hình, xây dựng kế hoạch, phương án bảo vệ, phối hợp với nhiều lực lượng và sử dụng các biện pháp nghiệp vụ công an nói chung và nghiệp vụ bảo vệ nói riêng để phát huy sức mạnh tổng hợp trong công tác bảo vệ.


Sự phối hợp hiệp đồng trong công tác An ninh vũ trang là sự phối hợp giữa các lực lượng tham gia bảo vệ các cấp, các ngành, chính quyền địa phương, từ Trung ương tới cơ sở. Đây là mối quan hệ mật thiết, khăng khít, cùng bổ sung hỗ trợ cho nhau, tạo nên sức mạnh tổng hợp "phòng ngừa, ngăn chặn từ trước, từ xa", bịt kín mọi sơ hở, thiếu sót trong công tác bảo vệ. Bên cạnh sự phối hợp chặt chẽ với các ngành, các cấp, với lực lượng An ninh các đơn vị, địa phương, với lực lượng Quân đội nhân dân rất quan trọng.


Trong suốt thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, để bảo vệ tuyệt đối an toàn căn cứ địa, các cơ quan đầu não và lãnh đạo Trung ương cục và các khu, tỉnh, cán bộ chiến sĩ An ninh vũ trang đã thường xuyên phối hợp chặt chẽ với các đơn vị quân giải phóng miền Nam, quần chúng nhân dân và lực lượng dân quân tự vệ, chiến đấu dũng cảm chống địch càn quét, chống bọn biệt kích, thám báo, bảo vệ căn cứ địa và vùng giải phóng. Đoàn 180 An ninh vũ trang đã chủ động phối hợp với các đơn vị bộ đội chủ lực, dân quân du kích, tự vệ cơ quan và nhân dân tổ chức chặn đánh nhiều đợt tấn công, càn quét của địch vào căn cứ.


Trong trận càn Junction City mùa khô năm 1967 của địch, do nắm chắc tình hình và có biện pháp bảo vệ thích hợp, lực lượng An ninh vũ trang đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Trong trận càn này, địch tập trung 45.000 quân và hàng ngàn xe tăng, xe bọc thép, sử dụng cả máy bay B52, trọng pháo yểm trợ tấn công vào khu căn cứ. Để đảm bảo an toàn tuyệt đối cho Trung ương cục, Đoàn 180 đã chủ động đưa các đồng chí lãnh đạo đến căn cứ dự phòng và phối hợp với Sư đoàn 9 quân giải phóng, du kích, tự vệ địa phương chiến đấu, đập tan cuộc hành quân của địch. Với chiến công này nhiều cán bộ chiến sĩ đoàn 180 đã trở thành dũng sĩ diệt Mỹ, dùng sĩ diệt xe cơ giới. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng Sài Gòn, thực hiện sự chỉ đạo của Đảng, rạng sáng ngày 23-3- 1975, cán bộ chiến sĩ Đoàn 180 đã phối hợp với bộ đội địa phương tấn công tiêu diệt chỉ khu quân sự Mỏ Công (Tây Ninh), giải phóng 10.000 dân và làm chủ 10 km trục lộ 22 dài 10 km.


Vừa bảo vệ, vừa tham gia chiến đấu đập tan các cuộc hành quân càn quét của địch với tỉnh thần quả cảm, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh, cán bộ chiến sĩ Đoàn 180 trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã tham gia 400 trận đánh, tiêu diệt và làm bị thương 4.700 tên địch, bắn rơi gần 30 máy bay lên thẳng, 1 máy bay AD 6, bắn cháy và phá hủy gần 80 xe tăng xe bọc thép và nhiều xe quân sự khác, thu hơn 2.300 khẩu súng các loại cùng 15 tấn đạn dược, 70 máy vô tuyến điện và nhiều đồ dùng quân sự của địch.


Để chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động phá hoại, bắt cóc sát hại với các đối tượng bảo vệ, lực lượng An ninh vũ trang đã sử dụng nhiều biện pháp của ngành Công an như: biện pháp phát động quần chúng, biện pháp trinh sát đặc tình, biện pháp điều tra xét hỏi, biện pháp khoa học kỹ thuật, biện pháp vũ trang và các biện pháp bảo vệ chuyên ngành như vũ trang chiến đấu chống địch càn quét đào hầm trú ẩn tránh pháo kích máy bay địch oanh tạc, bảo vệ tiếp cận các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các đoàn khách quốc tế... Mỗi biện pháp nghiệp vụ có vị trí, tác dụng khác nhau nhưng có mối quan hệ thống nhất, hỗ trợ, bổ sung cho nhau, trong đó biện pháp phát động quần chúng là biện pháp cơ bản chiến lược, là cơ sở để phát huy tác dụng các biện pháp khác.


Trong quá trình sử dụng các biện pháp công tác, lực lượng An ninh vũ trang đã vận dụng một cách sáng tạo vào điều kiện cụ thể, có sự phối hợp các biện pháp đó với nhau để phát huy tác dụng tổng hợp của các biện pháp trong công tác đánh địch. Trong việc phối hợp các lực lượng và biện pháp đấu tranh phải khắc phục tình trạng chổng chéo, cục bộ làm ảnh hưởng đến hiệu quả của công tác.


Trải qua 21 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, lực lượng An ninh vũ trang luôn quan tâm và đặt lên hàng đầu công tác điều tra nắm tình hình địch, nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, giữ gìn bí mật, xây dựng và thực hiện các phương án, kế hoạch bảo vệ thích hợp. Đây là bài học quý rút ra từ những thành công to lớn của lực lượng An ninh vũ trang miền Nam.


Tiêu đề: Tổng kết lịch sử công tác An ninh vũ trang của lực lượng An ninh miền Nam
Gửi bởi: saoden trong 14 Tháng Chín, 2023, 08:31:38 am
Bài học kinh nghiệm thứ năm

QUAN HỆ HỢP TÁC VÀ PHỐI HỢP CHẶT CHẼ VỚI LỰC LƯỢNG VŨ TRANG CÁCH MẠNG VÀ NHÂN DÂN LÀO, CAMPUCHIA ĐỂ HOÀN THÀNH NHIỆM VỤ ĐƯỢC GIAO


Ngay sau khi có Hiệp định Giơnevơ, tháng 7-1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng ta đã xác định rõ: Mỹ đang trở thành kẻ thù chính của nhân dân Việt Nam, Campuchia và Lào.

Trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, Mỹ không chỉ âm mưu biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ, mà còn là một căn cứ quân sự để đàn áp phong trào yêu nước và cách mạng trong khu vực, chống phá sự phát triển của chủ nghĩa cộng sản và sự lớn mạnh của các nước XHCN khác. Mỹ đã áp dụng chiến lược toàn cầu phản cách mạng vào cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Mỹ đã cấu kết chặt chẽ, sử dụng lực lượng của nước đồng minh và các căn cứ quân sự trong khu vưc Đông Nam Á để chống phá cách mạng Việt Nam, Lào, Campuchia.


Trước tình hình đó, Trung ương Đảng ta xác định rõ: Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta mang tính thời đại rất sâu sắc; sự ủng hộ của các nước XHCN giữ vai trò quan trọng và sự phối hợp chiến đấu trên chiến trường ba nước Việt Nam - Campuchia - Lào rất cần thiết. Trên cơ sở quan điểm tư tưởng đó, Trung ương Đảng và các cấp, các ngành, các lực lượng quán triệt trong công tác cụ thể.


Quan hệ Việt Nam - Lào - Campuchia có truyền thống tốt đẹp trong quá trình đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược, giành độc lập dân tộc. Trước yêu cầu phải đấu tranh với một kẻ thù chung, chiến đấu trên một chiến trường chung, vì một lý tường chung, sự ra đời của Đảng cộng sản Đông Dương năm 1930 là một tất yếu lịch sử. Đây là thể hiện sâu sắc nhất nhu cầu giải phóng dân tộc của nhân dân ba nước, là thể hiện cao nhất về yêu cầu đoàn kết, hợp tác gắn bó trong cuộc đấu tranh giành độc lập cho mỗi dân tộc, là sự thể hiện cao nhất về liên minh chiến đấu của ba dân tộc anh em. Thắng lợi của Hiệp định Giơnevơ cũng trở thành thắng lợi chung của nhân ba nước trên bán đảo Đông Dương. Đó là nền tảng vững chắc cho liên minh chiến đấu của nhân dân ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia trong cuộc kháng chiến chống Mỹ và chính quyền tay tay sai thân Mỹ.


Quán triệt tư tưởng chỉ đạo của Đảng và dựa trên nền tảng quan hệ truyền thống lâu đời của nhân dân ba nước trên bán đáo Đông Dương, lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam đã tăng cường hợp tác chiến đấu cùng nhân dân, cách mạng Lào và Campuchia chống đế quốc Mỹ xâm lược. Lực lượng An ninh Miền nam nói chung và lực lượng An ninh vũ trang miền Nam nói riêng cũng đã quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng về sự phối hợp chiến đấu cùng nhân dân cách mạng Campuchia và Lào chống kẻ thù chung.


Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ và yêu cầu công tác, lực lượng An ninh vũ trang miền Nam đã không ngừng tăng cường quan hệ hợp tác chiến đấu cùng nhân dân và lực lượng vũ trang bạn; đặc biệt ở khu vực biên giới Việt Nam - Campuchia, Việt Nam - Lào.


Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, công tác an ninh vũ trang phối hợp, hợp tác với bạn chủ yếu trên các mặt nắm tình hình địch; xây dựng căn cứ địa; củng cố chính quyền và phát động phong trào quần chúng bảo vệ an ninh trật tự; chống do thám gián điệp của địch; bảo vệ các đồng chí lãnh đạo, căn cứ và vùng giải phóng; chống các hoạt động đánh phá của địch dưới mọi hình thức. Đó là sự phối hợp, hợp tác vì sự phát triển của cách mạng nhân dân ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia.


Về phối hợp trong công tác nắm tình hình địch, lực lượng An ninh vũ trang miền Nam không chỉ nắm tình địch trong nước mà còn phối hợp với lực lượng cách mạng Campuchia và Lào nắm tình hình địch trên đất bạn, nhất là khu vực lân cận, khu vực biên giới hai nước. Đặc biệt, các đơn vị An ninh vũ trang thuộc Trung ương cục, các đơn vị vũ trang từ khu VI trở vào đã tăng cường công tác nắm tình hình địch trên đất Campuchia; chú trọng khu vực biên giới giữa hai nước. Mục tiêu công tác nắm tình hình ở khu vực biên giới nhằm xây dựng căn cứ địa của Trung ương cục dự bị và các khu, khi cần thiết có thể rút sang nước bạn; đồng thời tạo điều kiện cho căn cứ cách mạng Campuchia thêm vững chắc, có thể rút sang bên ta khi cần thiết. Do căn cứ cách mạng hai nước dựa vào nhau, tạo được sự liên thông nên công tác nắm tình hình địch hỗ trợ cho nhau rất nhiều; công tác đấu tranh chống địch thu thập tin tức, càn quét, đột kích, tập kích đạt kết quả cao.


Từ năm 1965, Mỹ đổ quân vào miền Nam Việt Nam, Hoàng thân Norodom Shihanuk công khai chống Mỹ và tạo điều kiện cho miền Bắc Việt Nam mượn đường chi viện cho cách mạng miền Nam thi sự phối hợp trong công tác nắm tình hình địch càng thuận lợi và ngày càng đi vào chiều sâu. Nội dung công tác nắm tình hình địch tập trung vào vấn đề tổ chức, bố phòng lực lượng quân sự địch; bộ máy do thám gián điệp và âm mưu, phương thức hoạt động của chúng; tình hình và hoạt động của số đối tượng phản cách mạng mà địch dễ lợi dụng; những kế hoạch của địch đánh phá căn cứ, vùng giải phóng của ta. Trên cơ sở đó, lực lượng An ninh vũ trang miền Nam có phương án bảo vệ an toàn cho các đồng chí lãnh đạo, căn cứ và vùng giải phóng.


Do sự phối hợp trong công tác nắm tình hình tốt nên trong nhiều tình huống phức tạp, lực lượng An ninh miền Nam có biện pháp đối phó tích cực, chủ động. Để đối phó với nhiều trận càn quét lớn của địch, lực lượng An ninh vũ trang đã chủ động đưa các đồng chí lãnh đạo Trung ương cục và Mặt trận sang đất Campuchia ở những địa điểm đã được chuẩn bị từ trước, đảm bảo tuyệt đối an toàn.


Về công tác xây dựng căn cứ, lực lượng An ninh vũ trang miền Nam đã cùng bạn khảo sát địa hình, địa vật, tình hình địch, tình hình nhân dân khu vực biên giới để xác định những khu vực an toàn, những địa điểm xây dựng căn cứ cho Trung ương cục, các khu, tỉnh, huyện giáp biên giới hai nước. Những địa điểm thuận lợi cho công tác xây dựng căn cứ dọc biên giới tạo điều kiện cho căn cứ hai nước dựa vào nhau, hỗ trợ cho nhau trong công tác bảo vệ, đánh địch hoặc di chuyển khi cần thiết.


Trong điều kiện lúc bấy giờ, lực lượng An ninh vũ trang miền Nam phải chủ động trong công tác xây dựng căn cứ cho cách mạng hai nước; bạn tạo điều kiện thuận lợi cho ta trong công tác khảo sát địa bàn, xây dựng cơ sở vật chất, bố phòng và các phương án phối hợp, hỗ trợ, đánh địch khi cần thiết. Trong thời gian căn cứ Trung ương cục và các ngành phải rút sang Campuchia, sự phối hợp, giúp đồ của các chiến sĩ cách mạng và nhân dân Campuchia đà tạo thuận lợi cho công tác bảo vệ rất nhiều; đảm bảo an toàn tuyệt đối cho cơ quan đầu não kháng chiến của ta.


Tiêu đề: Tổng kết lịch sử công tác An ninh vũ trang của lực lượng An ninh miền Nam
Gửi bởi: saoden trong 14 Tháng Chín, 2023, 08:32:15 am
Về phối hợp trong công tác phát động quần chúng, lực lượng An ninh vũ trang miền Nam đã cùng lực lượng yêu nước Campuchia và Lào vận động quần chúng nhân dân khu vực biên giới nêu cao tinh thần cảnh giác, chống mọi hoạt động phản tuyên truyền, chia rẽ, xuyên tạc, vu khống của địch, tham gia bảo vệ tích cực an ninh trật tự vùng giải phóng, ở các khu vực căn cứ của hai nước, nội dung phát động quần chúng gắn liền với công tác "phòng gian, bảo mật", nắm tình hình địch, giữ gìn an ninh trật tự, giáo dục những đối tượng mà địch dễ lợi dụng, cùng lực lượng vũ trang bảo vệ căn cứ, chống địch tập kích, đánh phá. Dọc đường mòn Hồ Chí Minh có đoạn bên ta, có đoạn bên bạn, công tác vận động quần chúng là tăng cường "bảo mật, phòng gian", ngụy trang kho tàng, đường vận chuyển của ta, cùng lực lượng vũ trang bảo vệ lực lượng và phương tiện chi viện vào chiến trường miền Nam. Lực lượng yêu nước cùng nhân dân hai nước Campuchia và Lào đã phối hợp củng lực lượng An ninh vũ trang các khu, tỉnh, huyện giáp biên giới bảo vệ chính quyền ta, chống các hoạt động thu thập tin tức tình báo của địch. Nhiều đồng bào người dân tộc đã phát huy tinh thần sáng tạo trong sản xuất vũ khí phục vụ công tác chiến đấu; nhiều làng bản dân tộc đã cung cấp lương thực và giúp đỡ lực lượng vũ trang ta. Trong những hoàn cảnh khó khăn đặc biệt như sau Tổng tấn công và nổi dậy Mậu thán 1968, nhân dân Campuchia và Lào đã giúp đỡ, che chở nhiều đơn vị, cán bộ ta thuộc Khu 5, Khu 6, Khu 7 ẩn náu trên đất bạn.


Về công tác chống hoạt động do thám, gián điệp, biệt kích của địch, lực lượng cách mạng hai nước luôn xác định là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên ở khu vực biên giới. Chống do thám, gián điệp của địch nhằm bảo vệ an toàn các đồng chí lãnh đạo căn cứ, lực lượng vũ trang bảo vệ. Lực lượng An ninh vũ trang đã phối hợp với lực lượng vũ ừang cách mạng của bạn phát động phong ừào quần chúng "phòng gian, bảo mật", giáo dục quần chúng nêu cao tinh thần cảnh giác, cách phát hiện những đối tượng lạ xâm nhập vào căn cứ. Ở vòng ngoài căn cứ, lập các trạm kiểm tra, canh gác; kiểm soát chặt sự đi lại trên các ngả đường vào căn cứ; phát giấy thông hành cho nhân dân hai nước sinh sống trong khu vực căn cứ. Những hiện tượng bất thường, sự xuất hiện của những đối tượng nghi vấn được quần chúng báo cho chính quyền và lực lượng vũ trang ta. Những đối tượng do thám địch bị phát hiện, lực lượng vũ trang hai nước phối hợp khai thác, giam giữ và xử lý.


Thực tế cho thấy: Sự phối hợp của lực lượng An ninh vũ trang với bạn trong công tác chống do thám đã hạn chế được nhiều hoạt động của địch thu thập tin tức, tình hình căn cứ và nội bộ ta hạn chế được hoạt động đánh phá của địch vào cơ quan đầu não Trung ương cục, các khu, tỉnh, huyện giáp biên giới.


Về công tác bảo vệ các đồng chí lãnh đạo, căn cứ và vùng giải phóng, lực lượng An ninh vũ trang đã phối hợp với lực lượng vũ trang cách mạng bạn thực hiện nhiệm vụ bảo vệ bên trong. Trong công tác bảo vệ các đồng chí lãnh đạo cốt cán, phối hợp trong công tác bảo vệ thường xuyên, trên đường đi công tác hoặc khi bị địch đánh phá, phải di chuyển đến địa điểm mới. Trong công tác bảo vệ căn cứ, vùng giải phóng là sự phối hợp trong công tác chống do thám, gián điệp địch thu thập tin tức; chống các hoạt động đánh phá, càn quét, lấn chiếm của địch.


Khi địch mở các cuộc càn quét đánh phá vào căn cứ, vùng giải phóng ác liệt, lực lượng An ninh vũ trang đã phối hợp với lực lượng cách mạng bạn bảo vệ từ xa, có phương án chủ động di chuyển đến địa điểm mới an toàn; hoặc chuyên căn cứ của ta sang đất bạn, hoặc chuyển căn cứ của bạn sang đất ta.


Về công tác chống địch đánh phá, lực lượng An ninh vũ trang miền Nam làm nòng cốt trong công tác chống địch càn quét, đánh chiếm; lực lượng vũ trang bạn luôn hỗ trợ công tác vận chuyển và dẫn đường trên đất bạn. Mỗi khi có tình huống bất thường, các lực lượng ta và bạn đều cùng nhau thực hiện nhiệm vụ đánh địch, bảo vệ căn cứ. Trong chiến dịch hai gọng kìm của địch đánh vào căn cứ Trung ương cục, lực lượng An ninh vũ trang niền Nam cùng lực lượng vũ trang bạn vừa đánh tiêu hao sinh lực địch, vừa bảo vệ an toàn các đồng chí lãnh đạo Trung ương cục và Mặt trận. Khi Shihanouk bị lật đổ, chính phủ Lonnol lộ mặt làm tay sai cho Mỹ, lực lượng An ninh vũ trang miền Nam đã giúp cách mạng Campuchia xây dựng căn cứ cách mạng ở khu vực giáp biên, chống địch càn quét, đánh phá. Riêng chống địch đánh phá vùng giải phóng thuộc khu vực biên giới, hai lực lượng cùng chiến đấu, hỗ trợ cho nhau, bảo vệ an toàn các đồng chí lãnh đạo cấp Trung ương, khu, tỉnh, huyện.


Sự phối hợp giữa lực lượng An ninh vũ trang miền Nam và lực lượng cách mạng hai nước Campuchia và Lào đã tạo ra sức mạnh của lực lượng cách mạng ở khu vực biên giới, bảo vệ an toàn các căn cứ của cách mạng mỗi nước, vùng giải phóng của ta và bảo vệ sự chi viện của miền Bắc cho cách mạng miền Nam.


Quan hệ hợp tác quốc tế giữa cách mạng ba nước nói chung, trên lĩnh vực an ninh nói riêng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã thể hiện sâu sắc tình đoàn kết truyền thống trong đấu tranh chống kẻ thù chung, vì lợi ích chung của nhân dân ba nước, góp phần vào thắng lợi chung của nhân dân ba nước.


Sau năm 1975, sự phối hợp lực lượng vũ trang nói chung và trên lĩnh vực an ninh vũ trang nói riêng vẫn được duy trì và phát triển. Cuộc đấu tranh chống quân Polpot xâm lược ở khu vực biên giới Tây Nam và giải phóng Campuchia là kết quả của tình đoàn kết chiến đấu trong sáng chống kẻ thù chung, vì hòa bình, độc lập, phồn vinh của nhân dân mỗi dân tộc.


Thực tiễn công tác an ninh vũ trang ở miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã khẳng định rõ: Trong cuộc chiến đấu với kẻ thù xâm lược, địch luôn sử dụng mọi âm mưu, phương thức thủ đoạn hoạt động rất tinh vi, xảo quyệt và vô cùng nham hiểm để tiêu diệt lực lượng vũ trang ta, tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến của ta, tiêu diệt phong trào yêu nước cách mạng của nhân dân ta. Để đối phó với âm mưu và hoạt động của địch, cách mạng phải sử dụng lực lượng vũ trang cách mạng gồm lực lượng quân đội và An ninh vũ trang. Lực lượng quân sự chính quy (quán giải phóng) trực tiếp đương đầu với quân chủ lực của địch, tấn công đẩy lùi địch trên chiến trường; lực lượng An ninh vũ trang chống các hoạt động do thám, gián điệp, biệt kích của địch, bảo vệ các đồng chí lãnh đạo, căn cứ và vùng giải phóng; phối hợp với quân giải phóng tổ chức chống càn, tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch.


Quá trình hoạt động của lực lượng An ninh vũ trang miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ đã để lại cho hôm nay nhiều bài học quý về công tác bảo vệ ta và đánh địch trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt. Nhiều biện pháp nghiệp vụ trong chiến tranh vẫn là những bài học có giá trị trong cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm; đấu tranh với các thế lực phản cách mạng và tội phạm khủng bố hiện nay.


Tiêu đề: Tổng kết lịch sử công tác An ninh vũ trang của lực lượng An ninh miền Nam
Gửi bởi: saoden trong 14 Tháng Chín, 2023, 08:33:15 am
LỜI KẾT


Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nhân dân Việt Nam phải đối đầu với một cường quốc hùng mạnh, "tên sen đầm quốc tế" có sức mạnh vượt trội hơn ta gấp nhiều lần về cả tiềm lực kinh tê và khoa học kỹ thuật quân sự, an ninh, có âm mưu và kinh nghiệm chiến tranh xâm lược hết sức thâm độc. Nhưng, nhân dân Việt Nam đã đoàn kết một lòng, quyết tâm đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Trung ương cục miền Nam và Ban An ninh Trung ương cục miền Nam, lực lượng An ninh vũ trang miền Nam đã không ngừng củng cố về tổ chức và lực lượng thực hiện thành công biện pháp vũ trang trong công tác bảo vệ Đảng, bảo vệ lãnh đạo, bảo vệ căn cứ và vùng giải phóng theo chức năng, nhiệm vụ được phân công.


Thực tiễn công tác an ninh vũ trang của lực lượng An ninh vũ trang miền Nam thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã khẳng định 9 vấn đề sau:

1. Trong cuộc đấu tranh địch - ta rất quyết liệt, vấn đề bảo vệ an toàn cơ quan đầu não kháng chiến, căn cứ và vùng giải phóng là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, phải được đặt ra thưòng xuyên, cẩn trọng, chu đáo và mang tính quyết định sự thành bại của cách mạng.

2. Công tác bảo vệ lực lượng kháng chiến trong chiến tranh tất yêu phải sử dụng lực lượng vũ trang và biện pháp vũ trang; và chỉ có lực lượng vũ trang và biện pháp vũ trang mới có thể đánh bại hoạt động vũ trang của địch; làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn xảo quyệt, thám độc của kẻ thù.

3. Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ chính của lực lượng An ninh vũ trang trong kháng chiến là bảo vệ căn cứ, lãnh đạo, vùng giải phóng bằng biện pháp vũ trang; đánh địch bằng biện pháp vũ trang cũng nhằm mục tiêu bảo vệ căn cứ, lãnh đạo, vùng giải phóng.

4. Công tác an ninh vũ trang bao gồm xây dựng tổ chức bộ máy vũ trang mang tính cách mạng, đội ngũ cán bộ chiến sĩ có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với lý tưởng cách mạng của Đảng, được trang bị những vũ khí cần thiết phục vụ công tác bảo vệ, phải có tổ chức chặt chẽ, có kế hoạch bảo vệ lực lượng ta và đánh địch bằng biện pháp vũ trang trong mọi tình huống.

5. Lực lượng An ninh vũ trang phải đặt dưới sự lãnh đạo chặt chẽ, thường xuyên, trực tiếp của các cấp ủy Đảng, có sự phối hợp chặt chẽ với các lực lượng vũ trang khác như quân giải phóng, du kích, quân sự địa phương và các tổ chức quần chúng ở cơ sở, nhất là trên khu vực địa bàn đóng quân.

6. Công tác an ninh vũ trang không thể tách rời sự ủng hộ, giúp đỡ của quần chúng nhân dân, phải dựa vào sức mạnh chính trị của quần chúng, phát huy tinh thần yêu nước, ý chí cách mạng của quần chúng nhân dân, dựa vào dân để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.

7. Lực lượng An ninh vũ trang miền Nam đã đóng vai trò xứng đáng và có những đóng góp to lớn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, góp phần tô thắm thêm truyền thống Công an nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp hảo vệ an ninh Tổ quốc.

8. Thắng lợi của công tác An ninh vũ trang miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước bắt nguồn từ sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh về quan điểm xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng; quán triệt và thực hiện nghiêm túc sự chỉ đạo của các cấp ủy Đảng; biết dựa vào dân; phối hợp chặt chẽ với lực lượng Quân đội nhân dân và các lực lượng khác; chủ động đánh địch, tích cực bảo vệ mình; xây dựng lực lượng chính quy, trong sạch và được trang bị vũ khí, phương tiện chiến đấu ngang tầm với yêu cầu, nhiệm vụ trong từng thời kỳ.

9. Công tác an ninh vũ trang của lực lượng An ninh miền Nam đã để lại cho hôm nay nhiêu bài học kinh nghiệm quý về công tác vũ trang đánh địch, bảo vệ mình. Đó là những bài học về xây dựng lực lượng An ninh vũ trang vững về chính trị, phát huy được vai trò của quần chúng nhân dân, có những trang bị vũ trang cần thiết, nắm chắc tình hình địch, hợp tác quốc tế chặt chẽ với lực lượng vũ trang cách mạng và nhân dân Lào, Campuchia.


Sau Đại thắng mùa xuân năm 1975, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước kết thúc thắng lợi, đất nước hoàn toàn độc lập, thống nhất, cùng đi lên CNXH. Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước ta, lực lượng An ninh vũ trang miền Nam chuyên một bộ phận sang Bộ Quốc phòng, thành Bộ đội biên phòng; một bộ phận ở lại Bộ Công an sáp nhập vào Cục Cảnh vệ, tiếp tục công tác bảo vệ lãnh tụ và các mục tiêu trọng yếu của Đảng và Nhà nước. Dù ở cương vị nào, các chiến sĩ An ninh vũ trang miền Nam năm xưa cũng đều phát huy tốt truyền thống anh hùng, trung thành với Đảng, dũng cảm trước địch, vì nước quên thân, vì dân phục vụ.


Tiêu đề: Tổng kết lịch sử công tác An ninh vũ trang của lực lượng An ninh miền Nam
Gửi bởi: saoden trong 14 Tháng Chín, 2023, 08:35:23 am
PHẦN THỨ BA
MỘT SỐ TƯ LIỆU LỊCH SỬ


I- MỘT SỐ VĂN BẢN VỀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA TRUNG ƯƠNG ĐẢNG, TRUNG ƯƠNG CỤC MIỀN NAM, NHÀ NƯỚC, BỘ CÔNG AN, BAN AN NINH TRUNG ƯƠNG CỤC MIỀN NAM VỀ CÔNG TÁC AN NINH VŨ TRANG Ở MIỀN NAM

1. NGHỊ QUYẾT CỦA HỘI NGHI BAN CHẤP HÀNH TRƯNG ƯƠNG LẦN THỨ VI MỞ RỘNG (Họp từ ngày 15 đến ngày 17-7-1954)

Đế quốc Mỹ là một trở lực chính ngăn cản việc lập lại hòa bình ở Đông Dương. Chúng đang ráo riết xúc tiến việc thành lập khối xâm lược Đông Nam Á, dùng Đông Dương làm bàn đạp để mở rộng chiến tranh xâm lược. Chúng cố giữ tình hình quốc tế căng thẳng để lợi dụng bán vũ khí kiếm lời, ráo riết chuẩn bị chiến tranh, uy hiếp hòa bình thế giới. Vì vậy đế quốc Mỹ là kẻ thù chính của nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới và hiện đang trở thành kẻ thù chính trực tiếp của nhân Đông Dương. [...].


Hội nghị quyết định về phương châm sách lược đấu tranh của ta trong giai đoạn mới là chĩa mũi nhọn đấu tranh vào đế quốc Mỹ và hiếu chiến Pháp, dựa trên cơ sở những thắng lợi đã đạt được mà phấn đấu để thực hỉện hòa bỉnh ở Đông Dương, phá tan âm mưu của đế quốc Mỹ kéo dài và mở rộng chiến tranh Đông Dương củng cố hòa bình và thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ trong toàn quốc. [...].


Nhiệm vụ và công tác trước mắt của toàn Đảng và toàn dân ta là:

1. Tranh thủ và củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất hoàn thành độc lập, dân chủ trong toàn quốc.

2. Tăng cường lực lượng quân sự, xây dựng một quân đội nhân dân hùng mạnh, thích hợp với yêu cầu của tình hình mới.

3. Tiếp tục thực hiện người cày có ruộng, ra sức phục hồi sản xuất, chuẩn bị điều kiện kiến thiết nước nhà.

(Tài liệu lưu trữ tại Cục Lưu trữ, Văn phòng Trung ương Đảng)


2. CHỈ THỊ CỦA BỘ CHÍNH TRỊ

Về tình hình mới và nhiệm vụ công tác mới của miền Nam (Ngày 6 tháng 9 nảm 1954)

Kẻ thù cụ thể trước mắt ta: đế quốc Mỹ, hiếu chiến Pháp và tay sai của chúng (cụ thể là chính phủ Ngô Đình Diệm). [...].

Nhiệm vụ chung của miền Nam là: củng cố hòa bình đòi tự do dân chủ và cải thiện dân sinh, tiến tới thực hiện thống nhất và hoàn thành độc lập, dân chủ trong toàn quốc. [...]. Nhiệm vụ trước mắt của miền Nam Có ba loại:

1. Thi hành triệt để Hiệp định ngừng chiến (tập kết Quàn đội, rút quân ra Bắc, v.v...). Đấu tranh đòi Pháp phải thi hành đúng Hiệp định (đòi thả hết tù binh, tù chính trị và thường dân bị bắt; chống tuyển mộ thêm Ngụy binh; chống đàn áp, bắt bớ những người kháng chiến; chống phá hoại cơ sở của ta, w...). Cần dựa vào những điều khoản của Hiệp định Giơnevơ và những điểu thỏa thuận ở Trung Giã mà đấu tranh với Pháp và lôi kéo dư luận.

2. Chuyển hướng công tác thích hợp với điều kiện hòa bình: học tập nhiệm vụ, phương châm, chính sách mới của Trung ương; sắp xếp cán bộ, bố trí lực lượng; đảm bảo vừa che giấu được lực lượng vừa lợi dụng những khả năng thuận lợi mới mà hoạt động để thực hiện chủ trương chính sách và khẩu hiệu mới của Đảng.

3. Đoàn kết rộng rãi, tập hợp mọi lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình, đấu tranh để đánh đổ chính phủ Ngô Đình Diệm thân Mỹ, vận động lập nên một chính phủ:

- Không thân Mỹ, phản đối khối xâm lược Đông Nam Á của Mỹ

- Tán thành đình chiến và hòa bình

- Thừa nhận quyền tự do dân chủ của nhân dân. Tán thành thống nhất bằng Tổng tuyển cử

- Cải thiện dân sinh

- Tán thành thương lượng với chính phủ ta.

Trong 6 điều trên đây, 4 điều trên là cần thiết nhất. [...].

1. Tổ chức và lãnh đạo của các Đảng bộ ở miền Nam

- Tổ chức Đảng phải bí mật. Dù có khả năng để một bộ phận công khai cũng phải lấy bộ phận bí mật làm chính. Song phải cho tranh thủ cho Đảng có địa vị công khai, hợp pháp.

- Tổ chức Đảng cần trong sạch, nghiêm mật, vững mạnh tuyệt đối không để cho bọn gian tế, bọn hợp tác với Pháp, bọn tay sai của Mỹ, bọn bóc lột chui vào.

- Những chi bộ xí nghiệp và nông thôn đều được chú ý.

- Các cơ quan lãnh đạo phải vững chắc, gọn gàng, bí mật.

- Bỏ Cục Trung ương miền Nam, thành lập Xứ ủy Nam Bộ và các Khu ủy.

- Ở Liên khu V, giữ Khu ủy và thành lập ba Liên tỉnh ủy.

- Thừa Thiên, Quảng Trị (bộ phận Pháp tạm đóng quân) tạm thời giao cho Khu ủy V phụ trách; nhưng sau này giao thông liên lạc trở lại bình thường thì sẽ giao cho Khu ủy V trực tiếp lãnh đạo.

Trung ương sẽ thành lập một bộ phận giúp Trung ương chỉ đạo miền Nam, bộ phận này do một đồng chí trong Bộ Chính Trị phụ trách.

(Tài liệu lưu trữ tại Cục Lưu trữ, Văn phòng Trung ương Đảng)


Tiêu đề: Tổng kết lịch sử công tác An ninh vũ trang của lực lượng An ninh miền Nam
Gửi bởi: saoden trong 14 Tháng Chín, 2023, 08:36:35 am
3. NGHỊ QUYẾT CỦA BỘ CHÍNH TRỊ
Về tình hình mới, nhiệm vụ mới và chính sách mới của Đảng
   (Ngày 7 thảng 9 năm 1954)

Ngày nay đã đình chiến nhưng hòa bình chưa được củng cố, đất nước ta vẫn còn tạm thời phân chia làm hai vùng, miền Nam giới tuyến quân sự Pháp vẫn còn tạm đóng quân, chính quyền vẫn còn do bọn Bảo Đại nắm giữ. Vì vậy nhiệm vụ của Đảng ở miền Nam trong giai đoạn hiện tại là: lãnh đạo nhân dân miền Nam đấu tranh thực hiện Hiệp định đình chiến, củng cố hòa bình, thực hiện tự do dân chủ (tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do tổ chức, tự do đi lại, v.v...) cải thiện dân sinh, thực hiện thống nhất và tranh thủ độc lập. Đồng thời phải lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống những hành động khủng bố, đàn áp, phá cơ sở của ta, bắt bớ cán bộ ta và quần chúng cách mạng, chống những hành động tiến công của địch, Ngụy, giữ lấy quyền lợi quần chúng đã giành được trong thời kỳ kháng chiến nhất là ở những vùng căn cứ địa và vùng du kích của ta.

   
(Tài liệu lưu trữ tại Cục Lưu trữ, Văn phòng Trung ương Đảng)


4. NGHỊ QUYẾT HỘI NGHỊ TRUNG ƯƠNG LẦN THỨ 15 (mở rộng)

Về tăng cường đoàn kết, kiên quyết đấu tranh giữ vững hòa bình, thực hiện thống nhất nước nhà (Họp từ ngày 12 đến 22 tháng 1 năm 1959)

II. Nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam ở miền Nam:

1. Nhiệm vụ cơ bản là giải phóng miền Nam khỏi cách thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập dán chủ, giàu mạnh.

2. Nhiệm vụ trưòc mắt là đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và gây chiến, đánh đổ tập đoàn thống trị độc tài Ngô Đình Diệm, tay sai đế quốc Mỹ, thành lập một chính quyền liên hợp dân tộc dân chủ ở miền Nam, thực hiện độc lập dân tộc và các quyền tự do dân chủ cải thiện đời sống của nhân dân, giữ vững hòa bình, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, tích cực góp phần bảo vệ hòa bình ở Đông Nam Á và thế giớỉ.

3. Phương hướng phát triển của cách mạng ở miền Nam Cách mạng Việt Nam ở miền Nam nói chung không thể đi ra ngoài quy luật chung của cách mạng ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa từ trước tới nay cho nên con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở Việt Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Theo tinh thần cụ thể và yêu cầu hiện nay của cách mạng thi con đường đó là lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ quyền thống trị của đế quốc và phong kiến dựng lên chính quyền cách mạng của nhân dân. Đó là mục tiêu phấn đấu của toàn dân miền Nam hiện nay.

(Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng, toàn tập, tập20, Nxb Chính trị quốc gia, HN,2002, tr 57, 92)


5. NGHỊ QUYẾT CỦA ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ III CỦA ĐẢNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM VỀ NHIÊM VỤ VÀ ĐƯỜNG LỐI CỦA ĐẢNG TRONG GIAI ĐOẠN MỚI
   (Ngày 10 tháng 9 năm 1960)

Cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện tại có hai nhiệm vụ chiến lược:

Một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.

Hai là, giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước.

Hai nhiệm vụ chiến lược ấy có quan hệ mật thiết với nhau và có tác dụng thúc đẩy lẫn nhau.

- Nhiệm vụ chung của cách mạng Việt Nam hiện nay là: tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hòa bình, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, thiết thực góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa và bảo vệ hòa bình ở Đông Nam Á và thế giới.

- Nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam là: đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và gây chiến, đánh đổ tập đoàn thống trị độc tài Ngô Đình Diệm tay sai của đế quốc Mỹ, thành lập một chính quyền liên hợp dân tộc dân chủ ở miền Nam, thực hiện độc lập dân tộc, các quyền tự do dân chủ, cải thiện đời sống nhân dân, giữ vững hòa bình, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, tích cực góp phần bảo vệ hòa bình ở Đông Nam Á và thế giới.

(Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng, toàn tập, tập 21, Nxb Chính trị quốc gia, HN, 2002, tr 913)


Tiêu đề: Tổng kết lịch sử công tác An ninh vũ trang của lực lượng An ninh miền Nam
Gửi bởi: saoden trong 29 Tháng Chín, 2023, 08:38:40 am
6. CHỈ THỊ SỐ 32/CT, NGÀY 15-12 1967 VỀ NHIỆM VỤ PHƯƠNG HƯỚNG CÔNG TÁC AN NINH TRONG THỜI GIAN SẮP TỚI

II. Nhiệm vụ sắp tới của cơ quan an ninh

Cần nhận rõ cơ quan an ninh là công cụ sắc bén của Đảng, có nhiệm vụ trấn áp phản cách mạng, giữ gìn trật tự an ninh cho nhân dân, bảo vệ và giữ vững chính quyền cách mạng. Đối tượng đấu tranh của an ninh là các loại công an, gián điệp và bọn phản động phá hoại cách mạng. Nhiệm vụ cách mạng giải phóng dân tộc đang đòi hỏi công tác an ninh tập trung sức tấn công vào các loại công an, tình báo Mỹ, Ngụy, các cơ quan đầu não của địch và các đảng phái phản động. Càng thanh toán triệt để các đối tượng thù địch nguy hiểm thì càng tạo ra những điều kiện thuận lợi để làm tan rã hàng ngũ địch, để giành và giữ chính quyền vững chắc.


Nhiệm vụ sắp tới của an ninh để phục vụ cho quyết tâm chiến lược của Đảng là:

Phải hướng vào các đô thị, thị xã, thị trấn và các vùng yếu kết hợp với lực lượng vũ trang, chính trị của quần chúng để đẩy mạnh trừ gian diệt ác ôn đánh rã bộ máy kềm kẹp, hạ uy thế địch, tạo thế cho phong trào cách mạng của quần chúng nổi dậy tiến lên tiêu diệt các cơ quan đầu não, các tổ chức công an, tình báo của Mỹ - ngụy, các đảng phái phản động, đánh tan các cơ sở phản động của địch một cách triệt để, góp phần đánh sập Ngụy quyền từ trung ương tới tận cơ sở, giành chính quyền về tay nhân dân; tích cực nắm vững tình hình địch, tích cực chuẩn bị lực lượng chuyên môn để triệt, để truy kích địch, bảo vệ chính quyền cách mạng sau này.


Song song với nhiệm vụ trên đây an ninh phải đẩy mạnh các mặt công tác nhằm bảo vệ tốt các vùng giải phóng (cũ và mới), phát động quần chúng phòng gian bảo mật, xây dựng mạng lưới an ninh nhân dân, tiến hành trấn áp đúng đối tượng, đúng chính sách, quét sạch bọn chỉ điểm, mật báo, biến vùng giải phóng thành hậu phương vững chắc của cách mạng sẵn sàng trấn áp bọn gián điệp, phản động do địch cài lại và bọn tay sai từ các đô thị chạy vào!


III. Phương châm hành động

Để đảm bảo thực hiện nhiệm vụ trên, cần quán triệt và nắm vững phương châm sau đây:

- Kiên quyết, triệt để, nhạy bén đối với bọn đế quốc Mỹ và bọn đầu sỏ phản cách mạng, đập tan các tổ chức phản động, đồng thời có phân hóa, cải tạo, khoan hồng với kẻ lầm lạc tranh thủ số quần chúng lạc hậu.

- Cảnh giác cao độ, đánh đúng đối tượng, nhưng toàn diện không đánh tràn lan, không bị khiêu khích, không lầm lẫn đánh vào nội bộ nhân dân.

- Chuyên môn an ninh phải nâng cao kỹ thuật nghiệp vụ, phục tùng chính trị và phục vụ cho nhiệm vụ chính trị.

- Dựa vào chỉ bộ Đảng lãnh đạo, nhân dân làm tai mắt, bủa lưới phòng gian bảo mật.


Tiêu đề: Tổng kết lịch sử công tác An ninh vũ trang của lực lượng An ninh miền Nam
Gửi bởi: saoden trong 29 Tháng Chín, 2023, 08:39:48 am
IV. Nhiệm vụ và công tác cụ thể của an ninh ở các vùng

A. Vùng đô thị, thị xã, thị trấn.

Các đô thị, thị xã, thị trấn, nhất là đô thị lớn, là nơi tập trung các cơ quan đầu não của ngụy quân, ngụy quyền, các cơ quan đàn áp công an, tình báo Mỹ - ngụy, các đảng phái phản động; là nơi cuối cùng địch tập trung chống lại ta, cũng là nơi trong tình thế thất bại, địch chủ động cài gián điệp, bố trí phương tiện và vũ khí, cho tay sai chạy vào các vùng dân tộc tôn giáo để tiếp tục phá hoại cách mạng.


Về phía ta, đây củng là nơi mà toàn Đảng, toàn quân toàn dân phải tập trung mọi khả năng, mọi lực lượng để đập tan bộ máy ngụy quyền, giành lấy chính quyền về tay nhân dân, xây dựng chính quyền cách mạng.


1. Vì vậy nhiệm vụ cụ thể của an ninh ở đô thị, thị xã, thị trấn là:

- Nhanh chóng điều tra nắm vững tình hình địch, phân loại các đối tượng, mục tiêu; an ninh cùng các lực lượng vũ trang, lực lượng chính trị đẩy mạnh trừ gian, diệt bọn phản động bên trên, đánh tan bọn hạ tầng cơ sở nhất là bọn công an, tình báo bí mật tạo điều kiện cho phong trào nổi dậy của quần chúng, mở rộng bàn đạp quanh đô thị, tạo lõm căn cứ trong đô thị.

- Khẩn trương xây dựng lực lượng an ninh đủ sức để kết hợp với lực lượng vũ trang, lực lượng quần chúng để: đập tan bộ máy ngụy quân, ngụy quyền, công an, tình báo, các đảng phái phản động một cách triệt để, giành chính quyền về tay nhân dân.

- Cùng lực lượng vũ trang và lực lượng chính trị của quần chúng phá khám giải thoát cho tù chính trị, đánh chiếm và bảo vệ các cơ quan, đài phát thanh, điện, nước, bưu điện, kho bạc, các công trình khoa học, văn học, nghệ thuật, y tế, các kho tài liệu hồ sơ của các ngành bản thân an ninh phải có đủ lực lượng để chiếm, giữ cho được kho tài liệu hồ sơ của công an, tình báo, an ninh quân đội các cấp.

- Nhanh chóng ổn định trật tự trị an trong thành phố, khôi phục lại sinh hoạt bình thường của nhân dân; bước đầu tiến hành một số biện pháp đơn giản để quản lý thành phố.

- Khẩn trương xây dựng bộ máy an ninh từ trên xuống tận cơ sở phố, phường, phát triển các bộ phận nghiệp vụ cần thiết để tiếp tục đánh địch, truy kích trong tình hình mới, trong hoàn cảnh địch đang rút vào hoạt động bí mật.


2. Một số công tác cụ thể: (tỉnh, thành có chỉ thị riêng).

An ninh các cấp cần khẩn trương tiến hành các công tác:

a. Công tác điều tra nghiên cứu nắm chắc tình hình địch:

- Muốn đánh địch có hiệu quả và triệt để thì phải làm tốt công tác nắm tình hình địch. Đối với an ninh, đánh kẻ thù bí mật thì công tác này lại càng hết sức quan trọng. Đó là công tác hàng đầu của an ninh, rất gian khổ khó khăn và phức tạp, do đó phải được tiến hành thường xuyên, liên tục.

- Yêu cầu của công tác nắm tình hình là phải nắm thật chắc các mục tiêu, đối tượng cần điều tra, đánh, chiếm. Công tác điều tra nghiên cứu là phải biết thu thập tài liệu rộng rãi, liên tục, biết tích lũy, tổng hợp, phân tích trong suốt cả thời gian trước, trong và sau khi đập tan bộ máy chính quyền địch.


Nói chung nắm tình hình gồm các đối tượng:

- Về cơ quan địch: phải nắm vững các cơ quan, tổ chức, trụ sở công khai và bí mật, các kho cất giấu tài liệu (nhất là bọn công an, cảnh sát, tình báo, an ninh quân đội Mỹ, Ngụy các cấp) cơ quan đặc vụ Tưởng, các đảng phái phản động (Đại Việt, Việt Nam Quốc dân đảng, Cần lao nhân vị).

- Về cá nhân: Phải nắm cho thật chắc danh sách, nhận dạng, lý lịch, chỗ ở công khai, bí mật của các bọn cầm đầu, ác ôn trong ngụy quyền, bọn chỉ huy cấp tá, cấp tướng, bọn chỉ huy và cán bộ tình báo, an ninh quân đội Mỹ - ngụy, công an cảnh sát (chú ý bọn cảnh sát đặc biệt) bọn chiêu hồi bình định chiến tranh tâm lý, bọn chỉ huy trong các trung tâm cải huấn, đặc vụ Tưởng và các tên gián điệp trong các tổ chức trá hình của Mỹ, bọn lãnh tụ các đảng phái phản động.

Đối với bọn tình báo Pháp, Anh, Nhật cũng cần nắm để Đảng có đối sách.

- Để cho công tác nắm tình hình địch được nhanh chóng, chính xác, đầy đủ, cần giải quyết mấy vấn đề:

- Các cấp ủy phải kiểm tra kết quả công tác nắm tình hình từ trước đến nay để bổ sung những điểm còn thiếu sót, đồng thời chỉ thị cho các bộ phận địch tình, quân báo, binh vận, các ngành, các giới có nhiệm vụ nắm tình hình địch báo cáo kịp thời cho cấp ủy.

- An ninh phải khẩn trương hoàn thành hồ sơ các mục tiêu, đối tượng trong thời gian ngắn nhất để cấp ủy xét duyệt.

- Hàng tháng (an ninh chủ trì) cùng các cơ quan binh vận, tình báo, quân báo, bảo vệ quân đội tổ chức trao đổi về địch tình để báo cáo cho cấp ủy.


Tiêu đề: Tổng kết lịch sử công tác An ninh vũ trang của lực lượng An ninh miền Nam
Gửi bởi: saoden trong 29 Tháng Chín, 2023, 08:40:56 am
b. Xây dựng thực lực:

Lực lượng hành động là vấn đề quyết định trong việc tiêu diệt địch, nhưng lực lượng hành động của an ninh vừa thiếu vừa yếu. Đó là một trở ngại rất lớn; cần nhận rõ hiện nay phong trào cách mạng đang lên cao đó là điều kiện thuận lợi cho ta nhanh chóng phát triển lực lượng.

- Yêu cầu của xây dựng thực lực là phải đảm bảo cho nhiệm vụ trước mắt đồng thời đảm bảo nhiệm vụ bảo vệ chính quyền cách mạng sau này. Do đó, công tác xây dựng thực lực phải tiến hành liên tục suốt cả quá trình công kích, khởi nghĩa giành chính quyền cho đến giai đoạn xây dựng, củng cố và bảo vệ chính quyền cách mạng. Xây dựng đến đâu là bung ra hoạt động đến đó; quá trình hoạt động là quá trình không ngừng xây dựng rèn luyện bồi dưỡng làm cho lực lượng càng đánh càng tinh nhuệ, càng vững chắc.

+ Để đảm bảo nhiệm vụ trước mắt và sau này, các cấp ủy đảng và an ninh cần khẩn trương giải quyết mấy vấn đề trong xây dựng lực lượng an ninh.

- Trong việc xây dựng củng cố, tăng cường bộ máy an ninh thành phố, thị xã, thị trấn, các cấp ủy cần kiểm điểm và nắm chặt lại các lực lượng của an ninh; căn cứ vào sự cần thiết trước mắt và cho những bước tới mà khẩn trương tăng cường bộ máy bổ sung cán bộ cho các bộ môn điệp báo, an ninh bí mật, trinh sát vũ trang; song song theo đó gấp rút chuẩn bị xây dựng các lực lượng cần thiết cho bước sau như trinh sát ngoại tuyến, trinh sát kỹ thuật, giao cảnh v.v...

- Về điệp báo thì tích cực phát triển cơ sở vào những đối tượng mục tiêu chủ yếu của an ninh, trước mắt là chú trọng vào cơ quan tình báo, công an cảnh sát, an ninh quân đội Mỹ, Ngụy, các đảng phái phản động (nếu ở đây ta chưa có cơ sở). Cần rà lại tình hình cơ sở của các ngành trong lòng địch như binh vận, các ngành các giới và cũng có thể một số cơ sở của quân báo để có kế hoạch điều chỉnh cơ sở có tác dụng trong điệp báo, chuyển cho an ninh sử dụng.

- Về an ninh bí mật thì nhanh chóng xây dựng để có lực lượng cần thiết đảm bảo điều tra trấn áp các mục tiêu đối tượng, địa bàn chính và bảo vệ các mục tiêu chủ yếu. Trong lúc xây dựng phải đảm bảo chất lượng trong sạch. Trước mắt khi sử dụng lực lượng này phải có sự tính toán, cân nhắc kỹ; để bảo toàn lực lượng và bảo đảm tồn tại có tác dụng cho các bước sau.

Các chi bộ trong nội thành căn cứ một chỉ ủy vỉên trực tiếp chuyên làm công tác an ninh với nhiệm vụ: nắm tình hình địch, xây dựng lực lượng để tấn công địch và chuẩn bị sẵn sàng, nhanh chóng hình thành bộ máy an ninh ở cơ sở phố phường để tiếp tục truy kích địch và bảo vệ chính quyền cơ sở.

+ Về trinh sát vũ trang: cần gấp rút xây dựng lực lượng vào các mục tiêu, đối tượng đã được phân công cho các cấp. Đối với những đối tượng chủ yếu thì phải xây dựng trước và hành động ngay; nếu bước một chưa bắt diệt được thì bước hai phải thanh toán cho kỳ được không để trốn thoát và chuyên vùng. Cần chú ý rèn luyện cho trinh sát vũ trang về lập trường tư tưởng vững vàng, hiểu biết về kỹ thuật, chiến thuật đánh trong thành phố; trang bị vũ khí, phương tiện chiến đấu cho thích hợp với trình độ, khả năng của cán bộ, cơ sở, thích hợp với điều kiện đánh trong vùng địch còn kiểm soát,

c. Tiến hành trấn áp phản cách mạng:

Yêu cầu của trấn áp phản cách mạng là đánh đúng đối tượng, đúng mục tiêu, đúng bọn đầu sỏ, bọn chỉ huy, bọn nguy hiểm, bọn ngoan cố; đảm bảo đúng chính sách. Đối với bên trên, đầu sỏ và ác ôn phải đánh triệt để, toàn bộ, cố gắng làm trước và làm cho được; đối với bọn tay sai tránh tình trạng đánh tràn lan. Quá trình trừ gian diệt ác ôn là quá trình đánh liên tục, đánh diệt, đánh điểm, làm cho địch hối động, từ chỗ làm nhão làm rã tỉnh thần và tổ chức địch đến chỗ đập tan toàn bộ bộ máy ngụy quyền, trong đó có phần an ninh chủ yếu là tập trung vào bọn công an cảnh sát, tình báo, an ninh quân đội Mỹ - ngụy, bọn đảng phái phản động. Các lực lượng phản cách mạng khác thì kết hợp chặt chẽ với lực lượng vũ trang, lực lượng vũ trang của quần chúng và các ngành và đánh.


d. Góp phần xây dựng và cùng cố chính quyền cách mạng: Sau khi đập tan bộ máy chính quyền địch, an ninh cùng các lực lượng quân sự, chính trị, các ngành các giới: gấp rút xây dựng, củng cố và bảo vệ chính quyền cách mạng. Phần an ninh xây dựng và phát triển bộ máy an ninh vững mạnh, sắc bén để đủ sức tiếp tục điều tra, truy kích, trấn áp phản cách mạng, bảo vệ chính quyền cách mạng.

- Ổn định nhanh chóng sinh hoạt bình thường của quần chúng đảm bảo trật tự trị an trong thành phố.

- Nghiên cứu đề xuất với cấp ủy những chính sách, thể lệ có liên quan đến trật tự trị an.


B. Vùng nông thôn

1. Nhiệm vụ:

Nhiệm vụ, yêu cầu của an ninh trong vùng nông thôn (tạm chiếm và giải phóng) là:

* Kết hợp với lực lượng vũ trang, lực lượng chính trị của quần chúng mà đẩy mạnh trừ gian, diệt ác òn, đánh nhão, đánh sập bộ máy kềm kẹp, đánh rã mạng lưới gián điệp ở cơ sở phục vụ cho mở rộng vùng giải phóng và giải phóng toàn bộ nông thôn, chống chiến tranh tâm lý chiêu hồi chiêu hàng tung tin thất thiệt; gieo rắc hoang mang trong quần chúng kịp thời phát hiện trấn áp bọn mật báo chỉ điểm, bọn gián điệp do địch cài lại và bọn từ trong các đô thị chạy ra, đảm bảo làm trong sạch vùng giải phóng giữ gìn trật tự trị an trong xã ấp, giữ vững quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ chính quyền cách mạng, củng cố toàn bộ nông thôn thành hậu phương vững chắc để phục vụ đắc lực cho tiền tuyến.

- Nhanh chóng xây dựng bộ máy an ninh và rộng khắp nhất là vùng nông thôn mới giải phóng, sẵn sàng đập tan bọn phản động ngóc đầu trở lại.

2. Các công tác cụ thể

Để thực hiện nhiệm vụ trên, an ninh cần tiến hành các công tác sau đây:

Ở vùng nông thôn tạm chiếm

+ Khẩn trương tiến hành điều tra nghiên cứu nắm tình hình địch.

+ Kết hợp với lực lượng vũ trang, phong trào nổi dậy của quần chúng đẩy mạnh trừ gian diệt ác, đánh bọn ác ôn nguy hiểm, bọn có nhiều tội ác với nhân dân và bí mật; tiến hành cải tạo số người bị lầm lạc.

+ Xây dựng an ninh xã ấp vững mạnh, xây dựng lực lượng an ninh bí mật để tiếp tục điều tra đánh địch đề phòng phản kích trở lại. Xây dựng và chọn người trong phong trào cung cấp cho trên đưa vào đô thị làm công tác an ninh bí mật trinh sát vũ trang hoặc điệp báo. Tạo căn cứ cho các lực lượng làm bàn đạp tấn công vào đô thị.

+ Đẩy mạnh phong trào quần chúng phòng gian bảo mật, hình thành mạng lưới an ninh nhân dân chống bọn gián điệp do địch cài lại và bọn từ đô thị chạy về.

Ở vùng nông thôn giải phóng

+ Các cấp an ninh cần quán triệt tình hình, quán triệt đường lối chính sách của Đảng, nhận rõ nội dung, biện pháp của từng mặt công tác chuyên môn để tiến hành công tác được tốt hơn.

+ Nâng cao trình độ chuyên môn cho an ninh xã biết nắm tình hình địch và có khả năng bám được nhiệm vụ an ninh xã không làm công tác sưu tập như trước.

+ Trong khi vận dụng chính sách trấn áp phản cách mạng, đảm bảo thực hiện đúng nguyên tắc đã quy định về việc bắt người, giam giữ, quản chế, xử lý vv... chấm dứt tình trạng dùng hình thức cải tạo đối với quần chúng lạc hậu, cải tạo tình nghi, tề ngụy cũ không còn làm tay sai cho địch nữa.

+ Tiếp tục phát động thành phong trào quần chúng thường xuyên, liên tục để đấu tranh chống phản cách mạng một cách rộng khắp; đồng thời phải đẩy mạnh và biết kết hợp khéo léo sử dụng các công tác nghiệp vụ thích hợp để đánh địch sâu sắc hơn, triệt để hơn.

+ Tăng cường công tác bảo vệ cơ quan, cùng với cơ quan, đơn vị xây dựng cơ quan, đơn vị vững chắc về chính trị, tổ chức, đảm bảo an toàn cho cơ quan, đơn vị bộ đội, thực hiện tốt nội quy phòng gian bảo mật, bảo vệ tài liệu (chú ý khâu bảo vệ tài liệu). Nghiêm cấm an ninh tiến hành công tác trinh sát trong cơ quan, đơn vị bộ đội.


Tiêu đề: Tổng kết lịch sử công tác An ninh vũ trang của lực lượng An ninh miền Nam
Gửi bởi: saoden trong 29 Tháng Chín, 2023, 08:45:50 am
V. Tăng cường bộ máy an ninh các cấp

1. Đảng lãnh đạo công tác an ninh

- Các cấp ủy đảng cần nhận rõ an ninh là công cụ chuyên chính của Đảng, của chính quyền cách mạng để trấn áp bọn phản cách mạng, bảo vệ Đảng, bảo vệ nhân dân, bảo vệ chính quyền cách mạng. Do đó các cấp ủy phải quan tâm đúng mức lãnh đạo an ninh đảm bảo nội dung sau đây:

+ Lãnh đạo ngành an ninh quán triệt nhiệm vụ chính trị của Đảng, tin tưởng và chấp hành đúng đường lối chính sách của Đảng, nâng cao tư tưởng tích cực kiên quyết tấn công địch.

+ Lãnh đạo ngành an ninh quán triệt phương châm hai chân, ba mũi để kết hợp với lực lượng vũ trang, lực lượng chính trị, binh vận tấn công đánh địch trên khắp ba vùng phục vụ nhiệm vụ chính trị của Đảng.

+ Lãnh đạo ngành an ninh thông suốt nhiệm vụ đường lối phương châm, chính sách của ngành an ninh và vận dụng cho sát đúng tình hình từng nơi từng lúc, khắc phục những khuynh hướng máy móc chuyên môn đơn thuần, xây dựng lập trường tư tưởng, tác phong tư cách đạo đức của cán bộ và chiến sỹ an ninh.

+ Từng thời gian đề ra chủ trương, phương hướng công tác cho an ninh; động viên toàn đảng, toàn quân, toàn dân cùng an ninh thực hiện nhiệm vụ đấu tranh chống gián điệp, phản động và bảo vệ cách mạng.

+ Thường xuyên theo dõi tình hình, kiểm tra công tác, các mặt công tác của an ninh để kịp thời có chủ trương uốn nắn những sai phạm, thực thực giúp đỡ, bồi dưỡng cho an ninh hoàn thành tốt nhiệm vụ.

1. An ninh đối với cấp ủy Đảng

- An ninh các cấp chịu sự lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối, trực tiếp đối với cấp ủy Đảng, có trách nhiệm thường xuyên báo cáo một cách trung thực, toàn dỉện, cụ thể, đầy đủ về tình hình địch, về các mặt công tác, những thành tích, những thiếu sót để cấp ủy cho chủ trương, đối sách.

- Nghiên cứu để xuất chủ trương, kế hoạch công tác từng thời gian để cấp ủy duyệt và cho chỉ thị để thi hành.

- Thi hành những việc cụ thể, trực tiếp do cấp ủy giao trong việc điều tra, đánh địch, giam giữ, điều tra can phạm.

2. Về quan hệ giữa an ninh các cấp

- An ninh cấp trên căn cứ vào nhiệm vụ yêu cầu chính trị của Đảng kịp thời đề ra nhiệm vụ, yêu cầu công tác từng thời gian để an ninh cấp dưới căn cứ vào tình hình cụ thể của địa phương mà có kế hoạch thực hiện.

- An ninh cấp trên phải nắm tình hình, kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn về công tác, bồi dưỡng về nghiệp vụ chuyên môn để cho an ninh cấp dưới có đủ năng lực hoàn thành nhiệm vụ.

- An ninh cấp dưới nghiêm chỉnh chấp hành chế độ báo cáo thỉnh thị một cách kịp thời, trung thực cụ thể từng mặt công tác cho an ninh cấp trên, đề nghị những ý kiến giải quyết.

Cấp ủy Khu và an ninh Khu cần tổ chức nghiên cửu kỷ chỉ thị này và trên cơ sở quán triệt sâu sắc nhiệm vụ, yêu cầu nội dung cơ bản của công tác an ninh mà tích cực khẩn trương để ra kế hoạch chỉ đạo thực hiện và thường xuyên báo cáo kết quả về Thường vụ Năm Trường.

An ninh Năm Trường căn cứ vào tỉnh thần chỉ thị này có kế hoạch hướng dẫn chung và cụ thể cho từng vùng để an ninh Khu thi hành.

Ngày 15 tháng 12 năm 1967
Thường vụ Năm Trường
Bảy Hồng (đã ký)


Tiêu đề: Tổng kết lịch sử công tác An ninh vũ trang của lực lượng An ninh miền Nam
Gửi bởi: saoden trong 29 Tháng Chín, 2023, 08:47:08 am
7. CHỈ THỊ SỐ 12CTNT, NGÀY 03-05-1968, VỀ VIỆC TRIỂN KHAI NGHỊ QUYẾT NGÀY 07-04-1968 CỦA THƯỜNG VỤ NĂM TRƯỜNG VÀ HƯỚNG DẪN THÊM MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG CHỈ THỊ SỐ 32 NGÀY 15-12-1967 (Chỉ lưu hành đến Tỉnh ủy và An ninh Tỉnh)

II. Chủ trương công tác

Cần nhận rõ: Do bản chất đế quốc Mỹ rất ngoan cố xảo quyệt, thâm độc, nên tuy bị thất bại toàn diện trên các mặt quân sự, chính trị, kinh tế; tuy cả thế và lực đang trên đà xuống dốc nhưng chúng càng lồng lộn phản ứng gay gắt gắt chống lại ta nhất là càng thất bại về quân sự thì càng tăng cường chiến tranh gián điệp. Do đó, tính chất ác liệt không chỉ thể hiện trên mặt trận quân sự, chính trị mà còn thể hiện trên mặt trận gián điệp nữa. Trước những thắng lợi của ta, trước nguy cơ bị bị đánh bại, bọn công an gián điệp, đảng phái phản động đã chuyển vào hoạt động bí mật. Một mặt, chúng tăng cường hoạt động gián điệp phục vụ cho địch phản kích ta bảo vệ đố thị, thị xã, thị trấn, đánh xỉa ra vùng ven, các đường giao thông chiến lược phá rối hậu phương ta, nhằm ngăn ngừa hạn chế sức tấn công của ta; mặt khác, chúng tích cực chuẩn bị lực lượng gián điệp phản động để tiếp tục phá hoại cách mạng sau này. Do đó, đấu tranh và chống gián điệp chẳng những là một nhiệm vụ chính trị quan trọng trước mắt mà còn là nhiệm vụ chính trị, một cuộc đấu tranh gay go ác liệt và lâu dài nhằm bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền cách mạng, bảo vệ nhân dân, bảo vệ quân đội, bảo vệ thành quả cách mạng tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.


Để cho an ninh đủ sức hoàn thành nhiệm vụ của Đảng giao phó, góp phần tích cực trong việc đánh đổ ngụy quyền giành chính quyền về tay nhân dân, khẩn trương xây dựng lực lượng chuẩn bị sẵn sàng mở rộng triển khai công tac an ninh trong tình hình mới, Thường vụ Năm Trường chủ trương:

1. Các cấp ủy tổ chức tập thể nghiên cứu học tập chủ trương, đường lối, phương châm công tác, chính sách trấn áp phản cách mạng và các chỉ thị của Đảng về công tác an ninh, lấy chỉ thị số 32 và chỉ thị này làm cơ sở, với yêu cầu là:

- Làm cho toàn Đảng quán triệt quan điểm chuyên chính vô sản của Đảng, nâng cao lập trường giai cấp, khắc phục thái độ mơ hồ quân thù, trên cơ sở đó mà lãnh đạo tốt hơn nữa công tác an ninh.

- Nhận thức đầy đủ vị trí, vai trò, nhiệm vụ, chức năng của ngành an ninh là công cụ chuyên chính của Đảng, là một lực lượng chiến đấu một mũi nhọn tấn công trấn áp bọn phản cách mạng bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền cách mạng, bảo vệ nhân dân, bảo vệ quân đội để ra sức xây dựng cho ngành an ninh các cấp ngày càng vững mạnh, đáp ứng kịp thời với yêu cầu của tình hình đang phát triển.

- Cần phải đánh giá đúng quân thù, thấy rõ sự ngoan cố, xảo quyệt, thâm độc của chúng, đồng thời cũng thấy rõ sự suy yếu, những nhược điểm cơ bản của chúng để nâng cao ý thức cảnh giác có quan điểm chuyên môn đúng đắn kiên quyết dựa vào quần chúng mà phát huy tác dụng của ngành an ninh để đánh bại địch, khắc phục mọi tư tưởng hữu khuynh cố thủ, cầu an, sợ ác liệt, ảo tưởng hòa bình xây dựng một tinh thần triệt để cách mạng, liên tục tấn công địch thể hiện các mặt công tác đánh địch bảo vệ mình trên ba vùng trong mọi tình huống.


2. Về nội dung yêu cầu công tác trên ba vùng đã có chỉ thị số 08/CTNT của Thường vụ TWC và chỉ thị hướng dẫn số 155 của an ninh Năm Trường. Nhưng cần đặc biệt chú ý là:

Hiện nay địch đã chuyên vào hoạt động bí mật bọn công khai thì đã thay đổi chỗ ở, bọn bí mật thì càng cài sâu núp kín hơn. Do đó an ninh các cấp cần phải khẩn trương liên tục điều tra nghiên cứu phân tích nắm vững tình hình kẻ địch để thấy đúng đối tượng, đúng phương hướng tấn công để có kế hoạch tiêu diệt chúng.


3. Tăng cường bộ máy an ninh các cấp:

Trên cơ sở nhận thức đúng đắn vị trí, nhiệm vụ chức năng của ngành an ninh là công cụ chuyên chính của Đảng, là lực lượng chiến đấu, mũi nhọn tấn công trấn áp bọn công an, gián điệp, bọn phản động, bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền cách mạng, xây dựng ngành an ninh vững mạnh đủ sức hoàn thành nhiệm vụ trước mắt, đồng thời chuẩn bị các lực lượng, điều kiện cần thiết để mở rộng hoạt động khi tình hình phát triển.

a. Yêu cầu chung trong việc xây dựng cơ quan an ninh các cấp là:

Củng cố và phát triển các bộ môn và lực lượng chiến đấu cần thiết phục vụ cho yêu cầu nhiệm vụ chính trị trước mắt đồng thời từng bước vững chắc có kế hoạch hoàn chỉnh theo sự phát triển của tình hình. Trong khi xây dựng cần phải lấy chất lượng là chính (chính trị tư tưởng và chuyên môn) đồng thời coi trọng số lượng.

(Về cơ cấu tổ chức sẽ có chỉ thị riêng).

b. Phương châm, phương hướng xây dựng:

Trong việc củng cố và phát triển ngành an ninh, cần phải nắm rõ khâu quan trọng có tính chất chiến lược là an ninh các cấp tỉnh và cấp xã, phố phường. Còn an ninh các cấp huyện là báo cáo trực tiếp chỉ đạo và chiến đấu.

Tình hình hiện nay các cấp an ninh đều yếu nên:

- Về cấp, thì trước hết phải tăng cường củng cố an ninh tỉnh và an ninh xã, an ninh phố phường ở đô thị.

- Về củng cố phát triển các bộ môn trước hết là ban lãnh đạo các cấp khu, tỉnh, huyện và xã, kế đó từ huyện trở lên thì tăng cường các tiểu ban chuyên môn trực tiếp chiến đấu như: an ninh đô thị (điệp báo, trinh sát vũ trang, an ninh bí mật), bảo vệ chính trị, chấp pháp, trại giam, an ninh vũ trang, NTTH.

c. Đào tạo, bồi dưỡng, quản lý cán bộ:

Do yêu cầu xây dựng ngành an ninh vững mạnh về chính trị, tư tưởng và chuyên môn, TV Năm Trường quyết định:

Tăng cường cán bộ an ninh các cấp theo phương hướng:

+ An ninh các cấp điều chỉnh cán bộ trong địa phương thích hợp với khả năng chuyên môn của cán bộ, theo yêu cầu công tác.

+ Các cấp ủy Đảng bổ sung cho cán bộ an ninh trực thuộc theo yêu cầu nhiệm vụ.

An ninh Năm Trường có thể điều động một số cán hộ cấn thiết cho bộ máy an ninh nhưng không làm yếu cấp dưới.

Đào tạo bồi dường cán bộ:

+ Để đáp ứng yêu cầu to lớn về cán bộ an ninh của các cấp an ninh Nàm Trường, khu, tỉnh cần có trường huấn luyện đào tạo cán bộ.

Phương châm đào tạo là: cần gì học nấy, cần gì đào tạo nấy, học ngắn ngày, từng bước bổ túc. Tăng cường tập huấn hội nghị rút kinh nghiệm, học tập tại chức kết hợp mở lớp.

Quản lý cán bộ:

Để đảm bảo sự chỉ đạo về nghiệp vụ, đảm bảo cho an ninh có một đội ngũ cán bộ tốt được rèn luyện về chính trị, tư tường và nghiệp vụ theo tỉnh thần chỉ thị số 32 ngày 15-12-1967, an ninh các cấp cần chấp hành chế độ quản lý cán bộ như sau:

+ An ninh Năm Trường quản lý cán bộ cao và trung cấp trong toàn ngành.

+ An ninh khu quản lý cán bộ sơ cấp trong địa phương.

+ An ninh tỉnh quản lý cán bộ cơ sở trong địa phương.

d. Củng cố tăng cường hệ thống giao thông giữa an ninh các cấp.

Để đảm bảo chỉ đạo về chuyên môn, an ninh các cấp cần phải có hệ thống giao thông liên lạc thông suốt từ trên xuống dưới. Đối với các tỉnh xa khu có thể đặt điện đài để liên lạc giữa an ninh khu và an ninh tỉnh.

đ. Trang bị vũ khí cho an ninh các cấp:

Nói chung an ninh các cấp phải được trang bị để chiến đấu, trước nhất là ANVT, TSVT, các đơn vị canh giữ trại giam giam, giao thông liên lạc BVCT, các trưởng phó an ninh và các trường phó tiểu ban các cấp; an ninh xã cũng được trang bị, trước hết là trưởng phó ban xã. Nguồn trang bị vũ khí: một là do Đảng cáp phát, mặt khác phải lấy súng địch trang bị ta, trang bị đến đâu phải tổ chức quản lý, bảo quản chặt chẽ.

Ban an ninh tỉnh, khu làm kế hoạch trang bị thông qua cấp ủy địa phương, cấp ủy khu chịu trách nhiệm cấp phát cho an ninh trong khu.

Từ nay trong báo cáo đợt công tác, hàng tháng, ba tháng, một năm các cấp ủy và an ninh các cấp đều phải báo cáo tình hình công tác an ninh cho cấp ủy trên đúng theo nội quy và thời gian đã quy định.

Nhận được chỉ thị này, các cấp ủy và an ninh các cấp cần nghiên cứu kỹ và khẩn trương triển khai chấp hành tốt. Thực hiện đến đâu và báo cáo thường xuyên về An ninh Năm Trường biết.

Ngày 03 tháng 5 năm 1968
TMTV Năm Trường
Ủy viên thường trực Ba Bình (Đã ký)


Tiêu đề: Tổng kết lịch sử công tác An ninh vũ trang của lực lượng An ninh miền Nam
Gửi bởi: saoden trong 29 Tháng Chín, 2023, 08:48:55 am
8. CHỈ THỊ SỐ 17/CTNT, NGÀY 09-6-1968, VỀ VIỆC XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG AN NINH VŨ TRANG

I- XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG AN NINH VŨ TRANG LÀ YÊU CẦU CẤP THIẾT TRƯỚC MẮT VÀ TRONG THỜI GIAN SẮP TỚI

1. Từ khi thay chân thực dân Pháp đến nay, đế quốc Mỹ đang "tiếp tục thực hiện dã tâm xâm lược miền Nam Việt Nam, hòng chia cắt lâu dài nước ta, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của chúng". Dựa vào giai cấp địa chủ phong kiến quan liêu, tư sản mại bản các đảng phái chính trị phản động (Đại Việt, Việt Nam quốc dân đảng, Cần lao nhân vị) và những phần tử phản động khác chui vào các tôn giáo dân tộc ít người, chúng đã xây dựng lên một chính quyền tay sai độc tài phát xít với một quân đội đông người được trang bị bằng phương tiện, vũ khí tối tân và một bộ máy công an cảnh sát, tình báo ác ôn đều khắp, để liên tục đàn áp, đánh phá phong trào cách mạng miền Nam, hòng bắt nhân dân miền Nam khuất phục và chấp nhặn chế độ thực dân kiểu mới của chúng.


Nhưng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, dân và quân ta vốn căm thù sâu sắc địch luôn luôn anh dũng kiên cường bất khuất lại có kinh nghiệm chống, đánh địch, nên từ những năm Đồng Khời năm 59-60 đã liên tục nổi dậy, liên tục tấn công liên tục giành chiến thắng, đẩy lùi địch từng bước, giành thắng lợi từng phần và đến nay đã bước sang giai đoạn Tổng công kích, Tổng khởi nghĩa.


Trước những "thắng lợi to lớn chưa từng có "lần đầu tiên ta đã chủ động đưa cuộc tấn công và đánh nhau với địch rất ác liệt trong thế trận xen kẽ, cài răng lược, lộn ẩu để tiến lên" đánh đổ hoàn toàn ngụy quyền tay sai, đánh bại hoàn toàn chiến tranh xâm lược cục bộ của đế quốc Mỹ, giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân". Đặc điểm diễn biến của thế trận này đã bày ra hai khả năng:


Một là: vì tiếp cận sát địch, đứng về phía công tác an ninh, ta có điều kiện nắm tình hình, hiểu địch hơn, do đó mà có nhiều khả năng tiêu hao, tiêu diệt được nhiều sinh lực địch hơn, đánh đúng đối tượng, gỡ được nhiều màng lưới bí mật của bọn công an, tình báo, gián điệp hơn.


Hai là: trái lại, vì tiếp cận sát địch, nếu ta không liên tục tấn công chúng, không liên tục đánh bại mọi âm mưu về quân sự và gián điệp của chúng, không đập tan được bộ máy chính quyền công cụ đàn áp của chúng, nếu ta chủ quan, lơ là, mất cảnh giác, không tích cực bảo vệ ta chu đáo địch cũng có khả năng lợi dụng sơ hở để đánh phá ta gây nhiều khó khăn và thậm chí sẽ gây thiệt hại đáng kể cho ta.


Tấn công địch bảo vệ ta là hai mặt của một vấn đề, có mối quan hệ hữu cơ, tác động qua lại rất khăng khít. Bảo vệ một cách đơn thuần, xem nhẹ tấn công hoặc chỉ lo tấn công buông lơi bảo vệ đều là sai lầm cần gấp rút khắc phục.


Từ khi chế độ Ngô Đình Diệm bị sụp đổ, chiến tranh đặc biệt bị phá sản, chiến tranh cục bộ tiếp tục thất bại, hai lần phản công chiến lược mùa khô bị bẻ gãy, nhất là từ khi ta chuyển sang giai đoạn tổng công kích, tổng khởi nghĩa đến nay, tuy bị thất bại liên tục, thảm hại, nhưng do bản chất ngoan cố và xảo quyệt, đế quốc Mỹ vẫn chưa chịu từ bỏ ý đồ đen tối của chúng. Càng thất bại trong chiến tranh công khai về quân sự, chính trị bao nhiêu, chúng càng chuyển sang đẩy mạnh chiến tranh gián điệp, bí mật bấy nhiêu.


Với lực lượng hiện có, một mặt đi đôi với việc cố gắng mở nhiều đợt phản kích, tìm mọi cách thọc sâu vào căn cứ, hậu phương ta nhằm tìm diệt cơ quan đầu não, lực lượng vũ trang ta, đánh phá các hành lang kho tàng, đường tiếp vận xung yếu của ta, ra sức vơ vét tăng cường quân số, trang bị vũ khí cho bọn công an, cảnh sát dã chiến tiến hành lùng sục, vây ráp khủng bố, chống trả các lực lượng tấn công ta, hòng đẩy lùi ta khỏi nội ô, vùng ven đô, thị trấn. Mặt khác, chúng cũng đã ra sức tập hợp lại lực lượng phản động, củng cố lại cơ sở, mạng lướỉ bí mật, trang bị và giấu sẵn phương tiện vũ khí, tạo điều kiện cho bọn tay sai phản động bí mật cài sâu núp kín vào các vùng tôn giáo, biên giới, dân tộc ít người để phục vụ cho âm mưu quân sự trước mắt và chuẩn bị khi chính quyền hoàn toàn về ta; sẽ tiếp tục phá hoại thành quả cách mạng của ta về kinh tế, chính trị, xã hội, chia rẽ đoàn kết dân tộc, gây phỉ, gây bạo loạn, làm mất trật tự an ninh hòng lật đổ chính quyền ta.


Rõ ràng suốt 13 năm qua, đế quốc Mỹ đã nắm chặt bạo lực vũ trang phản cách mạng để không ngừng bảo vệ, củng cố chính quyền độc tài phát xít của chúng, không ngừng tiến hành đánh phá phong trào cách mạng miền Nam, không những có âm mưu trước mắt mà còn chuẩn bị cho thời gian sắp tới.


Do đó, để tấn công địch, bảo vệ ta, đập tan mọi ý đồ xâm lược và mọi bạo lực phản cách mạng của địch.

Căn cứ Chỉ thị số 32/CT ngày 15-12-1967.

Tất cả tình hình trên đây đặt ra cho cấp ủy các cấp cần gấp rút củng cố, xây dựng Ban an ninh các cấp và để cho Ban an ninh đủ sức mạnh làm tròn chức năng công cụ chuyên chính của Đảng, của chính quyền cách mạng, yêu cầu cấp thiết trước mắt sắp tới là phải tích cực, khẩn trương xây dựng lực lượng An ninh vũ trang thành mũi nhọn tấn công sắc bén và bảo vệ vững chắc để hoàn thành nhiệm vụ của Đảng giao phó trong bất kỳ tình huống nào.


II. TÍNH CHẤT, NHIỆM VỤ, PHƯƠNG HƯỚNG XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG AN NINH VŨ TRANG

A. TÍNH CHẤT

Vấn đề cơ bản của cách mạng là chính quyền. Từ cách mạng Tháng Tám đến nay, lịch sử đã chứng minh: muốn đánh đổ chính quyền địch giành chính quyền về ta, không còn con đường nào khác là dùng bạo lực cách mạng đế đánh đố bạo lực phản cách mạng của địch. "Bạo lực là bà đỡ" của bất kỳ cuộc cách mạng nào.

- Xuất phát từ nhiệm vụ chính trị của Đảng ở miền Nam, xuất phát từ bản chất ngoan cố và âm mưu thủ đoạn xảo quyệt của đế quốc Mỹ và tay sai, xuất phát từ tính chất, vai trò nhiệm vụ của ngành An ninh được Đảng xác nhận trong Chỉ thị số 32 CT.

- Để "liên tục tấn công tiêu diệt địch, bảo vệ ta vững chắc" lực lượng An ninh vũ trang phải thể hiện đầy đủ tính chiến đấu cao bằng vũ trang và tính nghiệp vụ chuyên môn của công tác an ninh. Do đó, đảm bảo sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng đối với ngành an ninh và với lực lượng vũ trang là vấn đề cơ bản có tính nguyên tắc. Không nắm chắc công cụ chuyên chính và bạo lực vũ trang, buông lơi quyền lãnh đạo của Đảng đối với ngành An ninh là Ban nghiên cứu đơn thuần về nghiệp vụ, không quan tâm củng cố, xây dựng lực lượng an ninh vũ trang ngày càng vững mạnh là sai lầm hữu khuynh, là làm cho công cụ bạo lực bằng vũ trang của Đảng bị suy yếu, là làm cho sức chiến đấu và tinh thần tấn công địch bảo vệ ta bị giảm sút.


B. NHIỆM VỤ

Thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng, nhằm phát huy đắc lực vai trò, chức năng công cụ chuyên chính của Đảng, của chính quyền cách mạng, yêu cầu và nhiệm vụ cơ bản trước mắt và lâu dài của lực lượng An ninh vũ trang là:

"Không ngừng củng cố, xây dựng, phát triển lực lượng An ninh vũ trang đủ sức mạnh đáp ứng kịp thời với yêu cầu của tình hình trước mắt và đang phát triển nhằm: trấn áp bọn phản cách mạng, đánh diệt đúng đối tượng do an ninh phụ trách, chủ động đập tan mọi âm mưu hoạt động công khai và bí mật của bọn tình báo, gián điệp, cảnh sát, của bọn phản động chống phá cách mạng dưới mọi hình thức trong mọi tình huống, đồng thời đi đôi với tấn công địch mà tích cực bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền cách mạng, bảo vệ nhân dân, bảo vệ biên giới, hải phận, bảo vệ các địa bàn và mục tiêu do Đảng quy định. Kết hợp với lực lượng phòng gian bảo mật rộng khắp của nhân dân của các cơ quan đoàn thể thì sức mạnh của an ninh và lực lượng vũ trang của an ninh hoàn toàn có đầy đủ khả năng đánh bại mọi âm mưu gián điệp và phá hoại của địch".
   

PHƯƠNG HƯỚNG XÂY DỰNG

Dựa trên phương châm: "tích cực, khẩn trương, kịp thời, gọn nhẹ, sắc bén, chú trọng cả chất lượng và số lượng" vì có nơi chưa xây dựng hay có cũng có rất ít, "xây dựng đến đâu tổ chức chiến đấu đến đó, vừa chiến đấu vừa xây dựng, tiến lên một cách vững chắc, từ ít đến nhiều, từ đơn giản đến hoàn chỉnh, hướng xây dựng lực lượng An ninh vũ trang cần chú trọng:

"Lấy giáo dục chính trị làm gốc, lãnh đạo tư tưởng thành công tác hàng đầu, lấy xây dựng Đảng làm nền tảng, đồng thời không ngừng nâng cao trình độ quân sự và nghiệp vụ an ninh".

Cụ thể là:

1. Ra sức củng cố, xây dựng, phát triển cơ sở Đảng trong lực lượng An ninh vũ trang, tăng cường giáo dục chủ trương đường lối chính sách của Đảng, của ngành an ninh, trong từng thời kỳ, rèn luyện xây dựng lập trường của giai cấp công nhân, không ngừng nâng cao quan điểm bạo lực, quan điểm cách mạng triệt để, tấn công địch liên tục, xây dựng lòng trung thành tuyệt đối với Đảng, với chính quyền cách mạng, luôn luôn dũng cảm kiên cường bất khuất chiến đấu, khắc phục mọi khó khăn gian khổ, dám quên mình hy sinh bảo vệ Đảng, trên cơ sở đó mà không ngừng rèn luyện đạo đức, phẩm chất của người cán bộ, chiến sĩ an ninh cách mạng.

2. Xây dựng ý thức và tính tổ chức kỷ luật cao, tự giác và tích cực chấp hành nghiêm các chủ trương, đường lối chính sách, điểu lệ, điều lệnh của ngành an ninh quy định dưới sự lãnh đạo của Đảng.

3. Giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ thấm nhuần quan điểm quần chúng của Đảng, thể hiện trên các mặt: tin dân, dựa vào dân, tôn trọng dân, chấp hành nghiêm chỉnh kỷ luật đối với quần chúng.

4. Giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ chấp hành tốt về lãnh đạo, lề lối làm việc đúng nguyên tắc dân chủ tập thế, luôn luôn phát huy tư tưởng dưới sự lãnh đạo của Đảng, luôn luôn để cao tinh thần trách nhiệm, tỉnh thần đoàn kết thương yêu giai cấp, thật thà, giúp đỡ tương trợ lẫn nhau để cùng tiến bộ.

5. Rèn luyện và không ngừng nâng cao về trình độ quân sự và nghiệp vụ an ninh cho cán bộ chiến sĩ phù hợp với tính chất và nhiệm vụ công tác của từng loại lực lượng.


Tiêu đề: Tổng kết lịch sử công tác An ninh vũ trang của lực lượng An ninh miền Nam
Gửi bởi: saoden trong 29 Tháng Chín, 2023, 08:50:05 am
III. TỔ CHỨC BIÊN CHẾ VÀ MỘT SỐ CHẾ ĐỘ CHÍNH SÁCH CẦN THIẾT

1. Lực lượng An ninh vũ trang bao gồm: các đơn vị an ninh vũ trang tập trung, các đội Cảnh vệ, Cận vệ, các đội Trinh sát vũ trang.

Trước mắt, các lực lượng này được biên chế từ Tiểu đội, Trung đội, Đại đội đến Tiểu đoàn theo sự quy định của Năm Trường cho từng địa phương và khu vực. Sắp tới tùy theo yêu cầu và tình hình phát triển, Thường vụ Năm Trường sẽ có quy định bổ sung thêm. Riêng đối với việc tổ chức biên chế từng khu, phân khu, tỉnh trực thuộc, quận, thị xã, thị trấn, Ban an ninh Năm Trường sẽ có kế hoạch hướng dẫn cụ thể.

2. Nhiệm vụ cụ thể của từng loại lực lượng An ninh vũ trang như sau:

a. Các đơn vị An ninh vũ trang tập trung:

- Bảo vệ vòng ngoài căn cứ, tổ chức tuần tra cảnh giới, thường trực canh gác.

- Sẵn sàng chiến đấu, chuẩn bị đầy đủ kế hoạch, biện pháp một cách chủ động đảm bảo an toàn cho các địa bàn hoạt động của các cấp ủy của các cơ quan chính quyền trong mọi tình huống.

Để đảm bảo công tác bảo vệ tốt, các đơn vị hoạt động ở vòng ngoài phải có kế hoạch phối hợp với địa phương quân, du kích xã, du kích cơ quan trong phạm vi căn cứ để xây dựng xã, ấp, cơ quan chiến đấu, phối hợp nhau trong công tác phòng gian bảo mật để đập tan mọi hoạt động gián điệp, các hoạt động tập kích, biệt kích bằng trực thăng hoặc bộ binh của địch. Trong khi thực hiện nhiệm vụ trước mắt trên đây cũng cần có sự tính toán chuẩn bị trước về kế hoạch lực lượng mở rộng phạm vi hoạt động khi tình hình phát triển.

b. Các đơn vị Cảnh vệ và Cận vệ:

- Bảo vệ tiếp cặn, bảo đảm an toàn mục tiêu và cá nhân do Đảng quy định.

- Canh gác trại giam, quản chế tội phạm, tiến hành bố phòng, chiến đấu chống phi pháo, chống địch đánh phá giải thoát tội phạm.

c. Các đội Trinh sát vũ trang:

- Địa bàn hoạt động của Trinh sát vũ trang là: thành phố, thị xã, thị trấn, các bàn đạp mà bọn công an, tình báo gián điệp dùng làm chỗ dựa để đánh phá vùng giải phóng của ta.

- Do đó, nhiệm vụ cụ thể của Trinh sát vũ trang là: diệt bọn đầu sỏ ngụy quyền, công an, tình báo, đảng phái phản động (bọn công khai và bí mật) các phần tử phản động chui vào các tôn giáo, dân tộc ít người, đánh chiếm các hồ sơ tài liệu mặt, các trung tâm và phương tiện kỹ thuật gián điệp của địch.

Để hoàn thành tốt nhiệm vụ trên, Trinh sát vũ trang cần phối hợp chặt chẽ với Trinh sát bảo vệ chính trị, Điệp báo, An ninh bí mật sử dụng phương thức chiến đấu cá nhân, từng tổ, tùng đội để đánh bất ngờ bằng đặc công, kỳ tập hoặc khi cần thiết, có thể phối hợp với Trinh sát vũ trang bên ngoài hay với các lực lượng vũ trang khác để giải quyết nhanh, gọn các đối tượng mục tiêu do an ninh phụ trách.

3. Xuất phát từ tính chất, nhiệm vụ, phương hướng xây dựng An ninh vũ trang, khi chọn lựa cán bộ, chiến sĩ của các đơn vị này, cần chú trọng đảm bảo được yêu cầu:

- Thành phần cơ bản, lý lịch rõ ràng, trong sạch.

- Có phẩm chất đạo đức cách mạng tốt, nhất là có tinh thần tấn công địch triệt để và đảm bảo sự trung thành tuyệt đối với Đảng, với cách mạng và với nhân dân.

Ít nhiều đã được rèn luyện, thử thách qua thực tế công tác và chiến đấu.

4. Nói chung, cán bộ, chiến sĩ của lực lượng An ninh vũ trang đều phải được trang bị vũ khí đầy đủ, sắc bén nhưng phải thích hợp với nhiệm vụ công tác và phương thức tác chiến của từng đơn vị, của từng địa bàn hoạt động, hướng trang bị cho lực lượng này là:

- Một mặt do Đảng cấp phát.

- Mặt khác, phải qua việc tích cực tấn công địch lấy súng địch để trang bị cho ta.

Về kế hoạch, thủ tục cấp phát vũ khí, nên chấp hành theo chỉ thị số... của TV NT đã quy định.

MỘT SỐ CHẾ ĐỘ CHÍNH SÁCH CẦN THIẾT

Căn cứ vào tính chất, nhiệm vụ công tác, Thường vụ NT xác nhận lực lượng An ninh vũ trang là một lực lượng vũ trang của Đảng, của chính quyền các mạng, được hưởng mọi quyền lợi chính trị, tinh thần (như học tập, đề bạt, khen thưởng, kỷ luật vv...). Về vật chất (như trang bị, cấp phát v.v...) như quân giải phóng.

Riêng về đề bạt, khen thưởng, thi hành kỷ luật đối với cán bộ chiến sĩ của lực lượng An ninh vũ trang, Ban an ninh NT và Ban an ninh các cấp được ủy nhiệm của TV NT và cấp ủy các cấp, chịu trách nhiệm nghiên cứu, theo dõi và giải quyết đúng theo nguyên tắc phân cấp quản lý đã quy định trong chỉ thị số 12/CTNT ngày 3/5/1968.


MẤY VẤN ĐỀ VỀ NGUYÊN TẮC LÃNH ĐẠO, CHỈ ĐẠO CỦA LỰC LƯỢNG AN NINH VŨ TRANG

Về nguyên tắc: lực lượng ANVT ở cấp nào phải chịu sự lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối của cấp ủy nơi đó. Nhưng, để cho sự lãnh đạo, chỉ đạo đối với lực lượng này được sâu sát, trực tiếp, TVNT chỉ thị cho cấp ủy các cấp ủy nhiệm cho Ban an ninh các cấp một số quyền hạn như sau:

Về nhiệm vụ chuyên môn:

- Ban an ninh ở cấp nào, thì chịu trách nhiệm xây dựng, huấn luyện, quản lý, sử dụng ANVT theo sự lãnh đạo và chỉ đạo của cấp ủy đó.

- Ban an ninh cấp trên có trách nhiệm hướng dẫn, phổ biến kinh nghiệm về tổ chức, xây dựng, đào tạo, rèn luyện giáo dục, quản lý sử dụng lực lượng ANVT cho Ban an ninh cấp dưới để đảm bảo sự lãnh đạo, chỉ đạo được thống nhất và chặt chẽ.

Về Đảng:

- Ban an ninh các cấp chịu trách nhiệm lãnh đạo tư tưởng, giáo dục chính trị, tổ chức và xây dựng Đảng trong lực lượng ANVT. Các cấp ủy Đảng cần chỉ định một số đồng chí trong ban lãnh đạo an ninh các cấp chuyên trách công tác Đảng trong lực lượng ANVT.

- Các đơn vị ANVT từ Trung đội độc lập, Đại đội, Tiểu đoàn đều có chi ủy, tiểu đoàn ủy và chịu trách nhiệm lãnh đạo toàn diện về mọi mặt trong đơn vị mình phụ trách và chịu hệ thống trực tiếp với Ban lãnh đạo an ninh do cấp ủy ủy nhiệm.

Trên đây chỉ là những điểm cơ bản thuộc về quan điểm và một số nguyên tắc lớn về xây dựng lực lượng ANVT. Ban an ninh NT căn cứ vào tinh thần và nguyên tắc cơ bản trên đây có hướng dẫn cụ thể cho Ban an ninh các cấp.

Các cấp ủy cần nghiên cứu kỹ chỉ thị này để chỉ đạo cho Ban an ninh các cấp khẩn trương xây dựng lực lượng An ninh vũ trang và báo cáo kết quả thực hiện về TVNT biết.

Ngày 9 tháng 6 năm 1968
TL/ Thường vụ Năm Trường
Uỷ viên Thường trực Ba Bình (Đã ký)


Tiêu đề: Tổng kết lịch sử công tác An ninh vũ trang của lực lượng An ninh miền Nam
Gửi bởi: saoden trong 29 Tháng Chín, 2023, 08:51:32 am
9. CHỈ THỊ SỐ 40/CT.T-69 Về việc tăng cường xây dựng và chỉ đạo, chỉ huy lực lượng "cảnh vệ" ở các cấp (Tuyệt mật)

Thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng nhằm phát huy đắc lực vai trò chức năng công cụ chuyên chính của Đảng, của chính quyền cách mạng yêu cầu và nhiệm vụ cơ bản trước mắt, và làu dài của lực lượng ANVT là không ngừng xây dựng, củng cố và phát triển lực lượng ANVT đủ sức mạnh, đáp ứng kịp thời với tình hình trước mắt và đang phát triển nhằm trấn áp bọn phản cách mạng đánh diệt đúng đối tượng do an ninh phụ trách, chủ động đập tan âm mưu hoạt động công khai và bí mật của bọn tình báo gián điệp, cảnh sát, của bọn phản động chống phá cách mạng dưới mọi hình thức, trong mọi tình huống, đồng thời đi đôi với tấn công địch mà tích cực bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền cách mạng bảo vệ nhân dân đến bảo vệ biên giới hải phận bảo vệ các địa bàn và bảo vệ mục tiêu do Đảng quy định kết hợp với lực lượng phòng gian bảo mật rộng khắp của nhân dân, của các cơ quan đoàn thể thì sức mạnh của AN và lực lượng vũ trang của AN hoàn toàn có đầy đủ khả năng đánh bại âm mưu gián điệp và phá hoại của địch.


B. Lực lượng ANVT là lực lượng vũ trang của Đảng, của chính quyền cách mạng bao gồm các đơn vị ANVT tập trung, các đội cảnh vệ cận vệ các đội TSVT được hưởng mọi quyền lợi chính trị, tinh thần (như: học tập, đề bạt, khen thưởng, kỷ luật, v.v...) như quân giải phóng, Ban AN ở cấp nào thì được sự ủy nhiệm của cấp ủy chịu trách nhiệm xây dựng huấn luyện, quản lý sử dụng lực lượng ANVT theo sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy nơi đó.

C. Việc đề bạt, khen thưởng, thi hành kỷ luật đối với cán bộ chiến sĩ của lực lượng ANVT, Ban AN TWC và Ban AN các cấp được sự ủy nhiệm của TWC và cấp ủy các cấp chịu trách nhiệm nghiên cửu theo dõi và giải quyết đúng theo nguyên tắc phân cấp quản lý đã quy định trong Chỉ thị số 12/CTNT ngày 3/5/1968.


2. Lực lượng cảnh vệ (kể cả vệ sĩ bảo vệ cán bộ) bao gồm: các dội vũ trang bảo vệ cấp ủy các cấp, các đội vũ trang bảo vệ cơ quan của ngành, giới các cấp và các vệ sĩ bảo vệ cán bộ các cấp, nay thống nhất là cảnh vệ thuộc hệ ANVT của Đảng (trừ các cơ quan quân sự các cấp thì do hệ quân sự phụ trách).

A. Nhiệm vụ của lực lượng cảnh vệ (kể cả vệ sĩ) được quy định như sau:

+ Bảo vệ tiếp cận nhằm: bảo vệ tuyệt đối an toàn cho được thường xuyên liên tục trong mọi tình huống. Đảm bảo an toàn cho các cơ quan, các mục tiêu và cá nhân do Đảng quy định. Phải ra sức ngăn ngừa đến mức tối đa những vấn đề có thể xảy ra không an toàn cho cấp ủy, cấp ủy viên cho cơ quan và cán bộ của Đảng.

+ Sẵn sàng làm công tác phục vụ cần thiết để đảm bảo đầy đủ nhiệm vụ bảo vệ.

+ Ra sức học tập chính trị, quân sự, nghiệp vụ, văn hóa để không ngừng nâng cao trình độ mọi mặt, củng cố quan diêm lập trường chiến đấu bảo vệ, kiên định, yên tâm phấn khởi công tác nhằm: đáp ứng yêu cầu công tác bảo vệ được tốt nhất trong tình hình hiện nay và sắp tới.


B. Về tổ chức, biên chế và chỉ đạo, chỉ huy lực lượng cảnh vệ.

+ Trước mắt, lực lượng cảnh vệ tổ chức, biên chế thành Đội hoặc Liên đội có Ban chỉ huy Liên đội (mỗi đội có thể tương đương 1A hoặc 1B) nếu trường hợp mục tiêu bảo vệ nhiều bộ phận cách xa hoặc cần phải ngăn cách giữ bí mật, hoặc số lượng nhiều không tiện sinh hoạt... nếu xét cần thiết tổ chức thành Liên đội gồm nhiều nơi (Ban an ninh nghiên cứu để xuất với cấp ủy nơi đó để giải quyết).

Hướng xây dựng trước mắt nhằm: xây dựng các đội cảnh vệ bảo vệ các cấp ủy, vệ sĩ bảo vệ cấp ủy viên và bảo vệ cán bộ cốt cán của Đảng, các đội bảo vệ các cơ quan, bộ phận quan trọng của Đảng (cơ yếu điện đài bảo vệ tài liệu bí mật v.v...).

+ Xây dựng lực lượng cảnh vệ gồm có:

Các đội cảnh vệ bảo vệ cấp ủy, các cấp ủy viên và các đội cảnh vệ bảo vệ các mục tiêu cần thiết do cấp ủy quy định (nếu có) như bảo vệ trường Đảng, bảo vệ chính quyền, mặt trận v.v... và AN chịu trách nhiệm xây dựng, quản lý, chỉ đạo, chỉ huy... thuộc về biên chế của AN phải biết đến các mục tiêu để bảo vệ. Thủ trưởng cơ quan đó sử dụng theo đúng chức năng nhiệm vụ của nó (giữa AN và các cơ quan đó phải có sự hợp đồng cụ thể, chặt chẽ nhằm sử dụng lực lượng bảo vệ được tốt nhất).


Các đội cảnh vệ riêng của các cơ quan, DCĐ do các cơ quan tự xây dựng (thuộc biên chế của cơ quan) thì do cơ quan quản lý chỉ đạo, chỉ huy sử dụng hằng theo chức năng nhiệm vụ của nó, cơ quan AN có trách nhiệm huấn luyện, bồi dưỡng về quân sự, nghiệp vụ trang bị... về phối hợp chặt chẽ với các cơ quan để thực hiện đúng chính sách do Đảng quy định.


+ Xuất phát từ tính chất, nhiệm vụ, hướng xây dựng lực lượng cảnh vệ khi chọn cán bộ và chiến sĩ của đội cảnh vệ cần đảm bảo đúng tiêu chuẩn:

Thành phần cơ bản, lý lịch rõ ràng, trong sạch.

Có phẩm chất, đạo đức cách mạng tốt nhất là có tinh thần tấn công địch triệt để và đảm bảo sự trung thành đối với Đảng, với cách mạng và với nhân dân.

Ít nhiều đã được rèn luyện, thử thách qua thực tế công tác và chiến đấu.

C. Sử dụng lực lượng cảnh vệ là lực lượng bảo vệ tiếp cận cấp ủy, cấp ủy viên, cơ quan cán bộ cốt cán của Đảng và các bộ phận quan trọng... nên biết rất nhiều vấn đề quan trọng tối mật của Đảng, biết cả đặc điểm đặc tính của từ cấp ủy viên và cán bộ cốt cán của Đảng mà kẻ địch đang ra sức khai thác và tìm hiểu; chiến tranh lại đang diễn ra ác liệt, mặt khác công tác bảo vệ cần không chỉ là trước mắt mà phải đảm bảo lâu dài, chẳng những phải vững vàng kiên định về lập trường chiến đấu với địch, sẵn sàng hy sinh bảo vệ Đảng mà còn đòi hỏi phải có trình độ nghiệp vụ, tức là: "bản thân phải có kinh nghiệm tích lũy trong quá trình làm công tác bảo vệ", do đó mà sử dụng các đội cảnh vệ phải đúng theo nguyên tắc.

- Bố trí phải được ổn định, không được điều động cán bộ, chiến sĩ cảnh vệ đi làm công tác khác, nhất là không được đưa cán bộ, chiến sĩ cảnh vệ ra các đơn vị chiến đấu ngoài tiền tuyến. Những chiến sĩ biết nhiều vấn đề quan trọng tối mật của Đảng, không nên phân công đi công tác lẻ, những vùng có nhiều nguy hiểm mà kiểm tra không được chặt chẽ và công việc không quan trọng cần thiết lắm.

- Sử dụng phải giữ tính chất tập trung, cơ động, có thể sử dụng phân tán tạm thời, có thời gian, không phân tán từ người, từ tổ trong một căn cứ lâu ngày, không có thời gian tập trung, làm cho đơn vị trở nên yếu không đủ sức đảm bảo được nhiệm vụ của nó. Sử dụng phải trưng nhiệm có chức năng, tránh sử dụng lung tung.

- Phải quan tâm đúng mức đến công tác giáo dục chính trị lãnh đạo tư tưởng, nâng cao quan điểm lập trường, quan tâm đời sống, sức khỏe v.v... tránh tình trạng chỉ sử dụng mà không chú ý đến học tập, rèn luyện, đời sống, sức khỏe anh em v.v...

3. Về công tác Đảng, công tác chính trị trong lực lượng ANVT

- Xây dựng lực lượng ANVT phải lấy "giáo dục chính trị làm gốc lãnh đạo tư tưởng" thành công tác hàng đầu, lấy xây dựng Đảng làm nền tảng, đồng thời không ngừng nâng cao trình độ quân sự và nghiệp vụ AN.

- Theo Chỉ thị 17 của TWC, cấp ủy các cấp ủy nhiệm cho Ban AN các cấp chịu trách nhiệm lãnh đạo tư tưởng, giáo dục chính trị, tổ chức và xây dựng Đảng trong lực lượng ANVT. Tỉnh ủy cần chỉ định một số đồng chí trong Ban lãnh đạo an ninh tỉnh (2 hoặc 3 đồng chí) chuyên trách công tác Đảng trong lực lượng ANVT.

Các đơn vị ANVT từ Trung đội (hoặc Đội) đã lập Đại đội (hoặc Liên đội) Tiểu đoàn đều có chỉ bộ, chi ủy viên, đoàn ủy... chịu trách nhiệm lãnh đạo toàn diện về mọi mặt trong đơn vị mình phụ trách trực tiếp với Ban lãnh đạo AN do cấp ủy ủy nhiệm.

Một số vấn đề cần chú ý trong công tác lãnh đạo ANVT.

+ Về nguyên tắc lực lượng ANVT ở cấp ủy nào thì phải chịu sự lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối của cấp ủy đó, do đó cấp ủy viên ngoài việc phải nắm vững những vấn đề cơ bản của các mặt công tác an ninh còn phải nghiên cứu, thảo luận Chỉ thị 17 của TWC và chủ trương của TV và xây dựng lực lượng ANVT của Đảng... nắm vững tính chất, chức năng, nhiệm vụ, phương châm xây dựng ANVT để lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng, sử dụng thực hiện chế độ, chính sách của Đảng cho đúng.

+ Phải được quan tâm đúng mức công tác Đảng, công tác chính trị tư tưởng trong lực lượng ANVT nhằm không ngừng nâng cao trình độ chính trị, củng cố quan điểm, lập trường chiến đấu bảo vệ một cách dứt khoát, kiên định.

+ Lãnh đạo chỉ đạo chặt chẽ AN có kế hoạch tở bưỏc nhưng khẩn trương cùng cố xây dựng lực lượng "cảnh vệ" theo đúng yêu cầu đúng hướng, sử dụng đúng chức năng nhiệm vụ, nhằm đảm bảo được tốt nhất yêu cầu bảo vệ hiện nay và tích cực chuẩn bị cho sau này.

Khi nhận được Chỉ thị, tỉnh ủy nghiên cứu trao đổi nắm vững tinh thần, nội dung và làm cho HU thông để chỉ đạo kiểm tra thực hiện được tốt.

Ban an ninh thảo luận thông suốt tinh thần Chỉ thị kết hợp với tình hình thực tế vạch kế hoạch cụ thể củng cố xây dựng lực lượng bảo vệ cấp mình và hướng dẫn cho dướỉ thực hiện được tốt.

Các đồng chí cấp ủy viên phụ trách an ninh chủ trì triệu tập cuộc họp các cơ quan ngành, giới để thảo luận và có kế hoạch triển khai cho tốt.

Thi hành đến đâu báo cáo kết quả về Thường vụ Ty biết.

Ngày 5 tháng 9 năm 1970
TM: TV-Ty
Bảy Thắng


Tiêu đề: Tổng kết lịch sử công tác An ninh vũ trang của lực lượng An ninh miền Nam
Gửi bởi: saoden trong 29 Tháng Chín, 2023, 08:52:00 am
10. NGHỊ QUYẾT HỘI NGHỊ TRUNG ƯƠNG LẦN THỨ 11
Về tình hình và nhiệm vụ trước mắt (Họp ngày 25, 26, 27 tháng 3 năm 1965)

Trước tình hình mới, nhiệm vụ cơ bản của ta là tích cực kiềm chế và thắng địch trong cuộc chiến tranh đặc biệt ở mức cao nhất ở miền Nam, ra sức tranh thủ thời cơ, tập trung lực lượng của cả nước giành thắng lợi quyết định ở miền Nam trong thời gian tương đối ngắn, đồng thời chuẩn bị sẵn sàng đối phó và quyết thắng cuộc chiến tranh cục bộ ở miền Nam nếu địch gây ra; tiếp tục xây dựng miền Bắc, kết hợp chặt chẽ xây dựng kinh tế và tăng cường quốc phòng, kiên quyết bảo vệ miền Bắc đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại và phong tỏa bằng không quân và hải quân của địch, chuẩn bị sẵn sàng để đánh bại địch trong trường hợp chúng đưa cuộc chiến tranh phá hoại hiện nay đến một trình độ ác liệt gấp bội, hoặc chuyển nó thành một cuộc chiến tranh cục bộ cả ở miền Nam lẫn miền Bắc, ra sức động viên lực lượng của miền Bắc chi viện cho miền Nam; ra sức giúp đỡ cách mạng Lào.

(Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng, toàn tập, tập 26, Nxb. Chính trị quốc gia, HN, 2003, tr. 107, 118)


Tiêu đề: Tổng kết lịch sử công tác An ninh vũ trang của lực lượng An ninh miền Nam
Gửi bởi: saoden trong 29 Tháng Chín, 2023, 08:52:33 am
11. NGHỊ QUYẾT HỘI NGHỊ LẦN THỨ 12 CỦA BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG
   Về tình hình và nhiệm vụ mới (Ngày 27 tháng 12 năm 1965)

Toàn dân ta nhất định đánh bại giặc Mỹ xâm lược để bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam. Chúng ta lại phải nhận rõ mối quan hệ khăng khít giữa hai nhiệm vụ đó trong hoàn cảnh mới hiện nay. Bảo vệ miền Bắc là nhiệm vụ cách mạng của cả nước ta, nhân dân ta, miền Bắc là căn cứ địa vững chắc của cách mạng Việt Nam trong cả nước. Hiện nay đế quốc Mỹ đang tiến hành chiến tranh xâm lược miền Nam nước ta, cho nên đánh bại đế quốc Mỹ trên chiến trường chính là miền Nam không những là nhằm giải phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, mà đồng thời là biện pháp tích cực nhất để bảo vệ miền Bắc, tiến tới thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà. Chính vì vậy mà nhiệm vụ của nhân dân ta ở miền Bắc là phát huy đến cao độ tác dụng hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn là miền Nam, động viên sức người, sức của, tích cực tham gia vào cuộc chiến tranh giải phóng trên chiến trường chính là miền Nam, đồng thời kiên quyết đánh bại chiến tranh phá hoại của Mỹ đối với miền Bắc và chuẩn bị sẵn sàng để chiến thắng địch, nếu chúng mở rộng chiến tranh cục bộ ra cả nước. Nhiệm vụ củạ nhân dân ta ở miền Nam là kiên quyết chiến đấu tiêu diệt bọn xâm lược Mỹ và tay sai để giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc.


Trong tình hình hiện nay, kiên trì phấn đấu theo phương hướng nói trên, tập trung lực lượng cả nước, kiên quyết đánh địch và thắng địch trên chiến trường chính là miền Nam cũng tức là kiên trì phương châm ra sức hạn chế cuộc chiến tranh xâm lược của địch và thắng địch trong cuộc chiến tranh hạn chế đó. Chúng ta động viên lực lượng cả nước đẩy mạnh cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam, gây cho địch nhiều tổn thất nặng nề, đẩy chúng ngày càng bị sa lầy và thất bại nghiêm trọng thì chúng ta nhất định có thể giành thắng lợi quyết định ở miền Nam.

(Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng, toàn tập, tập 26, Nxb Chính trị quốc gia, HN, 2003, tr.636-651)


Tiêu đề: Tổng kết lịch sử công tác An ninh vũ trang của lực lượng An ninh miền Nam
Gửi bởi: saoden trong 13 Tháng Mười, 2023, 09:30:20 pm
12. LỜI KÊU GỌI CỦA BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG VÀ CHÍNH PHỦ NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA

Về Hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bỉnh ở Việt Nam (Ngày 28 tháng 1 năm 1973)

Đồng bào và chiến sĩ thân mến,

Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thắng lợi mở ra một bước ngoặt mới của cách mạng Vỉệt Nam. Hỉệp định đã được ký kết là cơ sở chính trị và pháp lý đảm bảo các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân ta, đảm bảo quyền tự quyết thiêng liêng của đồng bào ta ở miền Nam. Thắng lợi này là cơ sở để nhân dân ta tiếp tục tiến lên giành những thắng lợi mới, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ trong cả nước.


Cuộc đấu tranh của nhân dân ta ở miền Nam còn phải vượt qua nhiều khó khăn trở ngại. Những thế lực quân phiệt, phát xít, công cụ của chủ nghĩa thực dân mới, đi ngược lại nguyện vọng của dân tộc ta, vẫn chưa từ bỏ những âm mưu phá hoại hòa bình, ngăn trở con đường độc lập, tự do của nhân dân ta.


Vì vậy, nhiệm vụ trước mắt của đồng bào ta ở cả hai miền là: Tăng cường đoàn kết, luôn luôn để cao cảnh giác, ra sức phấn đấu để củng cố những thắng lợi đã đạt được, giữ vững hòa bình lâu dài, hoàn thành độc lập, dân chủ ở miền Nam, tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc.


Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa long trọng tuyên bố sẽ thi hành nghiêm chỉnh và triệt để mọi điều khoản của Hiệp định Pari, và đòi hỏi các bên tham gia ký kết đều tôn trọng và thực hỉện đầy đủ Hiệp định ấy. Đây là cuộc đấu tranh rất quan trọng, đồng thời rất gian khổ và phức tạp mà mọi tầng lớp đồng bào ta, mọi người yêu nước ở miền Nam đều phải đóng góp phần tích cực của mình.


Cuộc chiến tranh xâm lược của các nước đế quốc kế tiếp nhau ròng rã hơn ba mươi năm trên đất nước ta đã để lại những hậu quả rất nặng nề. Đồng bào miền Nam nhất định sẽ cùng nhau đoàn kết, thương yêu nhau như con một nhà, xóa bỏ thù hằn nghi kỵ, không phân biệt giàu nghèo, chính kiến, tôn giáo, dân tộc, chung lòng chung sức đấu tranh giữ vững hòa bình, thực hiện độc lập thật sự, thực hiện các quyền tự do dân chủ và hòa hợp dân tộc, hàn gắn những vết thương chiến tranh, xây dựng lại đất nước, đem lại ấm no, hạnh phúc cho toàn dân.


Nước Việt Nam là một. Dân tộc Việt Nam là một. Thống nhất Tổ quốc là nguyện vọng thiêng liêng của nhân dân ta ở cả hai miền. Trên con đường đi tới đoàn tụ mọi người Việt Nam trong lòng Tổ quốc thân yêu, chúng ta hãy sớm cùng nhau xây dựng lại các quan hệ bình thường giữa hai miền, thỏa mãn những nguyện vọng thiết tha sum họp các gia đình, cùng nhau phấn đấu cho tương lai tươi sáng của dân tộc.

(Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 26, Nxb Chính trị quốc gia, HN, 2004, tr. 10, 16)


Tiêu đề: Tổng kết lịch sử công tác An ninh vũ trang của lực lượng An ninh miền Nam
Gửi bởi: saoden trong 13 Tháng Mười, 2023, 09:33:38 pm
13. NGHỊ QUYẾT HỘI NGHỊ LẦN THỨ 21 CỦA BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG

Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và nhiệm vụ của cách mạng miền Nam Việt Nam trong giai đoạn mới (Ngày 13 tháng 10 năm 1973)

Con đường của cách mạng miền Nam là con đường bạo lực cách mạng. Bất kể trong tình hình nào, ta cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công và chỉ đạo linh hoạt để đưa cách mạng miền Nam tiến lên. Hiện nay, phương hướng chủ động tích cực, có lợi nhất cho sự nghiệp cách mạng của cả nước là luôn luôn giương cao ngọn cờ hòa bình và chính nghĩa, đấu tranh chính trị, quân sự và ngoại giao, buộc địch phải thỉ hành Hiệp định để thắng địch.


Vấn đề giành dân, giành quyền làm chủ, phát triển thực lực của cách mạng là yêu cầu vừa bức thiết vừa cơ bản trong giai đoạn mới.

Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam trong giai đoạn mới là: tiếp tục thực hiện chiến lược cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đoàn kết nhân dân, đấu tranh chống đế quốc Mỹ, giai cấp tư sản mại bản và bọn địa chủ phong kiến, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tập trung mũi nhọn vào đế quốc Mỹ và tập đoàn thống trị tư sản mại bản, quan liêu, quân phiệt, phát xít, tay sai đắc lực của đế quốc Mỹ, đang thống trị trong vùng địch kiểm soát; đẩy lùi và thắng địch từng bước; đi đến xóa bỏ chính quyền tay sai của Mỹ, xóa bỏ chế độ thực dân kiểu mớỉ, thiết lập một chính quyền dân tộc dân chủ thực sự, thực hiện hòa hợp dân tộc, thoát li hẳn sự lệ thuộc vào Mỹ, thực hiện một miền Nam Việt Nam hòa bình, độc lập, dân chủ, trung lập, phồn vinh, tiến tới hòa bình thống nhất nước nhà.


Hoàn thành nhiệm vụ đó cũng là thực hiện chọn vẹn di chúc thiêng liêng của Hồ Chủ tịch: xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần vào cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.


Kẻ thù chính của cách mạng miền Nam trong giai đoạn mới là đế quốc Mỹ và tập đoàn thống trị tư sản mại bản, quan liêu, quân phiệt, phát xít, tay sai đắc lực của đế quốc Mỹ, đại biểu quyền lợi cho giai cấp tư sản mại bản và bọn địa chủ phong kiến thản Mỹ phản động nhất. Đế quốc Mỹ là kẻ chủ mưu và là chỗ dựa của bọn tay sai đang thống trị trong vùng chưa giải phóng ở miền Nam. Tập đoàn thống trị tư sản mại bản, quan liêu, quân phiệt, phát xít là công cụ đắc lực của Mỹ để thực hiện chủ nghĩa thực dân mớỉ. Chúng có đặc quyền đặc lợi, có ý thức giai cấp phản động sâu sắc, đang ra sức kìm kẹp, đàn áp, bóc lột quần chúng, điên cuồng chống lại nguyện vọng hòa bình, độc lập, dân chủ, cải thỉện dân sinh, hòa hợp dân tộc của toàn dân. Do đó, tập đoàn thống trị tư sản mại bản, quan liêu, quân phiệt, phát xít, tay sai Mỹ là kẻ thù trực tiếp mà cách mạng miền Nam phải nhằm vào để đánh đổ.


Nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam là:

Đoàn kết toàn dân, đấu tranh trên ba mặt trận chính trị, quân sự, ngoại giao một cách hết sức chủ động, linh hoạt tùy theo từng lúc, từng nơi mà kết hợp giữa các mặt trận đó cho thích hợp, để buộc địch phải thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Parỉ về Việt Nam, không ngừng giữ vững và phát triển lực lượng của cách mạng về mọi mặt, thắng địch từng bước và chủ động trong mọi tình huống, đưa cách mạng miền Nam tiến lên.


Phải lấy khẩu hiệu hòa bình, độc lập, dân chủ, cải thiện dân sinh, hòa hợp dân tộc, để tập hợp rộng rãi mọi lực lượng dân tộc, dân chủ. Chú trọng củng cố liên minh công nông, mở rộng Mặt trận Dân tộc thống nhất, đồng thời tích cực tranh thủ lực lượng thứ ba. Lấy khẩu hiệu hòa bình và hòa hợp dân tộc để phân hóa hàng ngũ địch, cô lập tập đoàn thống trị tư sản mại bản, quan liêu, quân phiệt, phát xít của Nguyễn Văn Thiệu.


Địch đang dùng hành động quân sự vi phạm Hiệp định một cách có hệ thống, ta phải kiên quyết phản công và tiến công địch, giữ vững và phát huy thế chủ động về mọi mặt của ta, đánh bại các cuộc hành quân của địch lấn chiếm vùng giải phóng hoặc bình định các vùng đồng bằng, vùng giáp ranh; phải phối hợp với ba thứ quân, ba mũi giáp công, giữa ba vùng, giữa các chiến trường để thực hiện phản công và tiến công địch, đánh địch những đòn thật đau, không để cho địch lấn chiếm vùng giải phóng của ta và bình định, mở rộng vùng kiểm soát của chúng; phải thu hồi những vùng đã bị địch lấn chiếm, thu hẹp vùng kiểm soát của địch; ở nơi có điều kiện thì mở rộng vùng giải phóng của ta.


Tăng cường chỉ đạo, đẩy mạnh phong trào đấu tranh chính trị, từng bước tiến lên thành cao trào cách mạng ở thành thị, kết hợp chặt chẽ với phong trào đấu tranh cách mạng mạnh mẽ ở các vùng nông thôn, đẩy mạnh giành dân và giành quyền làm chủ, đẩy lùi và làm thất bại mọi thủ đoạn quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa của địch. Vận động và lãnh đạo quần chúng nắm vững pháp lý của Hiệp định để đấu tranh đòi địch phải thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định, phải ngừng bắn; phải công nhận thực tế ở miền Nam có hai chính quyền, hai quân đội; hai vùng kiểm soát, và ba lực lượng chính trị; phải thả hết tù chính trị thi hành các quyền tự do dân chủ, chống chế độ kìm kẹp, khủng bố, thanh lọc và bóc lột, vơ vét.


Cuộc đấu tranh với địch trên mặt trận chính trị và mặt trận quân sự phải kết hợp chặt chẽ với cuộc đấu tranh trên mặt trận ngoại giao. Ta phải tận dụng hai diễn đàn đấu tranh ngoại giao hiện nay là diễn đàn Ban Liên hiệp quân sự hai bên và diễn đàn Hội nghị hiệp thương hai bên ở Pari, phát huy vai trò của Chính phủ Cách mạng lâm thời, đồng thời tận dụng vai trò của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đấu tranh một cách sắc bén với địch, nhằm phối hợp với đấu tranh chính trị, đấu tranh quân sự ở chiến trường, từng bước buộc địch phải thi hành các điều khoản của Hiệp định và tranh thủ dư luận trong nước cũng như ngoài nước ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta.


Cuộc đấu tranh trên ba mặt trận chính trị, quân sự và ngoại giao để thi hành Hiệp định Pari về Việt Nam có tác dụng tích cực đối với chiều hướng phát triển của tình hình miền Nam trong giai đoạn mới. Giữa ta và địch sẽ diễn ra một trạng thái giằng co rất quyết liệt và phức tạp. Ta phải rất cảnh giác, kiên quyết, bền bỉ, khôn khéo, nắm vững phương hướng chung là ta phải mạnh trên cả ba mặt trận để thắng địch, buộc địch phải thi hành Hiệp định, đồng thời chuẩn bị sẵn sàng cho trường hợp phải tiến hành chiến tranh cách mạng trên khắp chiến trường miền Nam để giành thắng lợi hoàn toàn.

(Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng, toàn tập, tập 34, Nxb Chính trị quốc gia, HN, 2004, tr.210,232-261)