Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Tài liệu - Hồi ký Việt Nam => Tác giả chủ đề:: dungnuocgiunuoc trong 10 Tháng Mười Một, 2022, 07:39:45 pm



Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 10 Tháng Mười Một, 2022, 07:39:45 pm
- Tên sách: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
- Nhà xuất bản: Hải Phòng
- Năm xuất bản: 1998
- Số hoá: ptlinh, dungnuocgiunuoc


* Chỉ đạo nội dung biên soạn:
   VÕ AN ĐÔNG       ĐT: 031.701040
   ĐÀO NGỌC QUẾ       ĐT: 031.838558
   NGUYỄN HUY TRƯỜNG    ĐT: 031.876862

* Cộng tác viên:
   ĐẶNG ĐỨC          ĐT: 031.673368
   NGUYỄN ĐỨC NHIẾP    ĐT: 031.731635
   ĐÀM MINH          ĐT: 031.737322
   MAI THỊ PHÚC       ĐT: 031.610536
   TRỌNG CỪ          ĐT: 031.829184

* Đại diện ở Hà Nội:
   VŨ XUÂN HÒA       ĐT: 049.760332   

* Đại diện ở Hải Dương:
   NGUYỄN ĐÌNH MẬU    ĐT: 0320.853883
   DOÃN THẾ LÂN       ĐT: 0320.841294
   VŨ NHƯ BÃO       ĐT: 0320.859173

* Đại diện ở Hưng Yên:
   PHẠM QUANG MINH    ĐT: 0321.864721


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 10 Tháng Mười Một, 2022, 07:41:09 pm
Phần I
KỶ NIỆM 60 NĂM NGÀY HẢI PHÒN6 KHÁNG CHIẾN
CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (20/11/1946 - 20/11/2006
)

HẢI PHÒNG - ĐIỂM ĐÁNH ĐẦU TIÊN CỦA BẮC BỘ SAU NAM BỘ
VÀ DẤU HIỆU CHO KHÁNG CHIẾN TOÀN QUỐC

Thượng tướng - Giáo sư
HOÀNG MINH THẢO


Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nhân dân ta bước vào thực hiện công cuộc khôi phục đất nước, làm người tự do. Lúc đó, kẻ thù trong và ngoài nước tìm mọi cách phá hoại thành quả cách mạng. Trước tình hình vô cùng phức tạp và khó khăn, toàn dân ta đều tin tưởng vào Hồ Chủ tịch và đại đoàn kết một lòng xây dựng đất nước. Sau khi 20 vạn quân Tưởng rút khỏi miền Bắc nước ta, âm mưu của Pháp là chiếm lại Việt Nam một lần nữa. Biết rõ âm mưu đó, nhân dân ta quyết tâm chiến đấu để giữ vững nền tự do, độc lập mới giành được. Các tỉnh trong cả nước đều chuẩn bị vũ khí để sẵn sàng chiến đấu, tập trung cả ba thứ quân và đưa các đội quân Nam tiến vào chiến đấu ở miền Nam. Hải Phòng là nơi diễn ra phong trào cách mạng dồn dập nhất. Ở đó, nhân dân Hải Phòng lấy được các loại vũ khí cũ của Pháp, Nhật, Tàu Tưởng nhiều nhất. Nhân dân bán đạn như bán ốc đựng trong các rổ ở ngoài chợ.


Ở Hải Phòng, quân Pháp có bàn đạp của tàn quân Pháp ở vịnh Hạ Long giúp sức, đã có hành động đổ bộ vào Hải Phòng qua Cửa Cấm. Quân ta có sự giúp sức của một số sĩ quan Nhật mà trước đó đã bị Tàu tước vũ khí và có cảm tình với ta, đã cùng ta đánh bại cuộc đổ bộ của quân Pháp định vào sông Cửa Cấm. Quân Pháp ngày càng lộ rõ hành động muốn xâm lược nước ta. Trong tháng 11-1946, chúng càng thể hiện dã tâm đó. Chúng đã cướp phá, bắt bớ, chém giết đồng bào ta ở Hải Phòng. Nhiều cuộc thương lượng có phái đoàn ta ở Hà Nội xuống cùng, chỉ được mấy ngày tạm thời êm ả. Sau đó, chúng vẫn tiếp tục hành động cướp phá, đánh chiếm đồn hải quan và quyết định Hải quan Hải Phòng thuộc về chúng.


Ngày 20-11-1946, cuộc chiến ở Hải Phòng bắt đầu diễn ra. Bộ đội, dân quân tự vệ và công an xung phong bất đầu chiến đấu. Địch có không quân và hải quân, bộ binh thì có xe tăng, thiết giáp, tưởng rằng chỉ giải quyết vài ngày là xong. Quân đội và nhân dân ta đã chiến đấu ngoan cường để tiêu diệt địch và giữ vững thành phố. Bộ đội, dân quân tự vệ và công an vũ trang cùng nhân dân các khu phố đều tích cực chiến đấu. Quân dân Hải Phòng đã chiến đấu, giữ vững các khu phố. Đặc biệt, ta chủ trương quyết giữ vững khu Trại Cau để bảo đảm cho Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng và các ban, sở của thành phố cùng nhân dân được an toàn. Bộ Chỉ huy Quân sự Hải Phòng chỉ huy chiến đấu và bảo đảm một hành lang an toàn để cho các cơ quan và nhân dân Hải Phòng có thể khi cần thiết thì rút lui an toàn sang Kiến An theo đường Cầu Niệm. Muốn bảo đảm cho Trại Cau được an toàn, ta quyết giữ vững khu bảo an binh (nay là Bộ Chỉ huy Quân sự thành phố) và khu vực gần chợ An Dương. Cuộc chiến đấu diễn ra quyết liệt. Dân quân tự vệ các khu phố chiến đấu tại chỗ rất anh dũng, mưu trí giữ từng nhà, từng khu phố, từng ngã ba, ngã tư và đục xuyên tường từ nhà này sang nhà khác. Đó cũng là kinh nghiệm cho Hà Nội sau này.


Địch có hải quân từ khu vực Bến Bính đánh vào Hải Phòng. Ta cho pháo 75 ly cướp được của địch, đặt ở Núi Đèo bắn vào tàu chiến của địch, cũng hạn chế được phần nào hỏa lực pháo hạm của chúng, giúp cho cuộc chiến đấu được kéo dài. Công an vũ trang chiến đấu rất anh dũng, mưu trí dưới sự chỉ huy tài năng của đồng chí Trần Thành Ngọ. Đặc biệt, cuộc chiến đấu vô cùng anh dùng của Đội tuyên truyền vũ trang Chiến khu 3 đang ở Nhà hát thành phố Hải Phòng. Cuộc chiến đấu rất anh dũng và mưu trí dưới sự chỉ huy của đồng chí đoàn trưởng Đạo, Đội vũ trang nhân dân ở từng phòng dưới nhà và trên gác suốt cả ngày chiến đấu với quân Pháp có xe tăng và xe bọc thép. Đó là một biểu tượng anh hùng của quân dân Hải Phòng trong cuộc chiến đấu bảy ngày đêm cuối tháng 11 năm 1946.


Cuộc chiến đấu mở màn ở miền Bắc Việt Nam của quân dân Hải Phòng đã tỏ rõ ý chí quyết tâm và tinh thần đoàn kết quân dân đế bảo vệ nền tự do độc lập của Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng và Hồ Chủ tịch. Cuộc chiến đấu đó báo hiệu cuộc chiến tranh chống xâm lược Pháp sẽ diễn ra nhất định thắng lợi.

Hà Nội 3-1-2006


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 10 Tháng Mười Một, 2022, 07:42:46 pm
Từ sự kiện Hải Phòng ngày 20-11-1946

TRÊN ĐƯỜNG 5, HUYỆN YÊN MỸ, TỈNH HƯNG YÊN
RÁO RIẾT CHUYỂN SANG THỜI CHIẾN

VÕ AN ĐÔNG


Hồi đó, tôi đang làm Chủ tịch Ủy ban hành chính huyện Yên Mỹ, thuộc tỉnh Hưng Yên (cách Hải Phòng 80 km) đã sớm nhận được chỉ thị cấp trẽn phải nhanh chóng, chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến toàn quốc.

1- Động viên toàn dân, mọi tầng lớp, mọi giai cấp, mọi tôn giáo, mọi già trẻ, gái trai hiểu rõ là thực dân Pháp mới được trở ra miền Bác, theo hiệp ước ký ngày 6-3-1946 đã thực sự có âm mưu xâm lược lần thứ 2 đất nước Việt Nam. Sự kiện Hải Phòng đang xảy ra sẽ là bước tiếp theo tất yếu của âm mưu đó.

Để đối phó lại, ta phải nhất tề đứng dậy chống thực dân Pháp xâm lược, ta phải tiến hành cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện và lâu dài chống thực dân Pháp cho đến thắng lợi cuối cùng. Cuộc kháng chiến sẽ chia làm 3 giai đoạn: phòng ngự, cầm cự và phản công.

2- Thiết lập Ủy ban bảo vệ các cấp từ tỉnh, thành phố, huyện và khu phố, tới cấp xã, tức là cơ quan kháng chiến tại các địa phương, chuyên lo đảm bảo các mặt kháng chiến về chỉ đạo quân sự, chính trị, kinh tế, xã hội chống lại thực dân Pháp. Hải Phòng, bắt đầu từ ngày 20-11-1946, ngày mở đầu kháng chiến chống thực dân Pháp, đã xuất hiện Ủy ban bảo vệ thành phố Hải Phòng do đồng chí Đinh Thịnh làm chủ tịch. Ủy ban bảo vệ thành phố tồn tại song hành với Ủy ban hành chính thành phố lúc đó do đồng chí Vũ Quốc Uy làm Chủ tịch. 3 tháng sau khi kháng chiến bùng nổ 19-12-1946, Ủy ban bảo vệ lại được tổ chức hợp nhất với Ủy ban hành chính gọi là Ủy ban kháng chiến kiêm hành chính tỉnh, huyện, xã, về sau lại bỏ chữ kiêm, gọi là Ủy ban kháng chiến - hành chính tỉnh (huyện, xã...), ở giữa chữ kháng chiến và hành chính có gạch ngang giữa. Ủy ban kháng chiến - hành chính sẽ tồn tại trong suốt quá trình kháng chiến chống thực dân Pháp. Đây là một cơ quan quyền lực của Nhà nước, vừa đảm bảo tính nguyện vọng của toàn dân muốn đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng, vừa đảm bảo tính pháp lý, phản ánh quyền lực mọi mặt về chính trị, xã hội đối với toàn dân.

Ủy ban bảo vệ huyện Yên Mỹ phải thực hiện gấp rút một số việc sau đây:

a) Đưa mọi hoạt động của huyện từ thời bình sang thời chiến, đưa các hoạt động của toàn dân, cái nào xét ra không có lợi cho kháng chiến thì kiên quyết phế bỏ, không thương tiếc.

b) Nhanh chóng, gấp rút xây dựng lực lượng vũ trang của huyện và xã. Hồi đó, ở cấp huyện không tổ chức lực lượng vũ trang, chì có 6 đến 10 chiến sĩ được gọi là cảnh vệ, được tổ chức ra để bảo vệ doanh trại, trụ sở của Ủy ban hành chính huyện hoặc phải về các xã làm mọi công việc của huyện, thì nay được điều về tỉnh để xây dựng các đơn vị võ trang của tỉnh sau này được mệnh danh là đại đội Hoàng Văn Thụ (C22 hoặc C92), đại đội Thanh Bình (C14), đại đội Lâm Kim Lương (C20), đại đội Vũ Hổ (C27). Do đó, với ý nghĩa cấp huyện cần phải tự xây dựng lực lượng vũ trang của mình để bảo vệ cấp huyện và cấp xã, nên lại tổ chức một đơn vị nhỏ gọi là trung đội tự vệ tập trung huyện, kinh phí không do nhà nước cấp phát, mà do huyện tự lo phân bổ về các xã vận động nhân dân tự nguyện tham gia đóng góp. Sau khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ, vào tháng 3-1947, Chính phủ và Bộ Quốc phòng mới quyết định chính thức đường lối xây dựng lực lượng vũ trang cả nước. Đó là toàn dân đánh giặc lấy lực lượng vũ trang làm nòng cốt, gồm 3 thứ quân là bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích, và mới có thể chế bộ đội địa phương; lúc đó lực lượng du kích tập trung lại thành lập bộ đội địa phương cấp huyện. Tại huyện Yên Mỹ, khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ, hồi đầu năm 1947, giặc Pháp triển khai đánh chiếm đường số 5 để nối thành phố Hải Phòng với Hà Nội, huyện chỉ có trung đội du kích tập trung nhưng đã lên chiến đấu ở cầu Gềnh (Như Quỳnh) bảo vệ đường số 5. Sau đó mới chuyển phiên hiệu là bộ đội địa phương và Đại đội 110 (Đại đội Bãi Sậy) chiến đấu gian khổ, kiên trì bám trụ trên địa bàn huyện cho đến khi kết thúc chiến tranh.


Xây dựng lực lượng vũ trang xã lấy tến là lực lượng tự vệ ở xã, thôn (danh từ dân quân du kích chỉ mới xuất hiện và được chính thức sử dụng từ tháng 3-1947, sau mấy tháng toàn quốc kháng chiến). Mỗi xã có từ một tiểu đội đến trung đôi trang bị rất nghèo nàn, anh em chỉ được rèn các loại ma tấu giáo mác, dao găm, họa hoằn xã có phái người xuống Hải Phòng mua một vài khẩu súng trường do Tàu Tưởng rút ở trong kho dự trữ hoặc tước được của quân Nhật mà có. Nhưng đến khi xảy ra “sự kiện Hải Phòng" ngày 20-11-1946 thì nguồn đó không còn nữa nên chỉ còn cách là đi thu nhặt các quả bom mìn bị thối đem về chế tạo các loại mìn tự tạo hoặc nhồi kíp các vỏ đạn cũ thành những, đạn mới cho súng; trường đang rất thiếu đạn. Nhưng, thực tế các loại bom mìn, đạn tự tạo tuy còn có tác dụng nhưng hiệu quả rất kém.


Cán bộ xã, lực lượng vũ trang lại được chỉ thị và hướng dẫn làm hầm bí mật để đảm bảo việc bám dân, bám đất, bám cơ sở, thực hiện kháng chiến lâu dài. Việc đào hầm bí mật đã được phổ biến cho các xã thực hiện thành phong trào, không làm theo một mẫu hình duy nhất mà theo từng xã, thôn, theo địa hình cự thể từng nơi xây dựng nên. Kết quả hầm bí mật có tác dụng duy trì được tiềm lực kháng chiến cho đến khi kết thúc chiến tranh. Nhưng cũng không tránh khỏi một số nơi lực lượng ta bị tổn thất về cán bộ kháng chiến và lực lượng bộ đội, du kích do địch đã càn vào làng, tiến hành móc hầm hoặc do có chỉ điểm, mật thám, làm thiệt hại lực lượng chiến đấu của ta.

c) Ta đã động viên toàn dân trong huyện tiến hành phá hoại triệt để các cầu cống, đường xá như cầu Như Quỳnh, cầu Lực Điền v.v..., và đường số 5, đường 39 đi qua huyện. Con đê như đê sông 199 đã tiến hành đắp ụ trên đê với mục đích ngăn chặn xe cơ giới và quân bộ binh địch không thể lợi dụng đi qua. Về nhà cửa thì bất cứ có nhà xây hai tầng trở lên đều vận động phá cho hết.

Ngoài ra, vận động dân ở đô thị Hà Nội và thị trấn Bần Yên Nhân, thị trấn huyện, v.v... thực hiện “vườn không nhà trống” triệt để đi tản cư hết, đại bộ phận dân cư đi tản cư về khu Việt Bắc và khu 4.

Đường lối xuất phát từ thực tế lực lượng 2 bên, về phía địch thì rất mạnh cả về binh lực, cả về vũ khí, trang thiết bị lẫn kinh nghiệm cai trị dân ta; còn về phía ta thì rất yếu cả về trang bị và ấu trĩ trong điều hành đất nước, nhưng sau đó diễn biến chiến tranh sẽ đi ngược lại, ta nhất định sẽ thắng, mà địch rồi sẽ bị thua.

Đường lối chiến tranh là: Kháng chiến lâu dài, tự lực cánh sinh, nhất định thắng lợi.

Tính chất cuộc chiến tranh là: Toàn dân, toàn diện, lâu dài cả về các mặt chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, quân sự, binh vận đấu tranh giành dân, giữ dân.

Đường lối xây dựng lực lượng vũ trang là: Toàn dân đánh giặc, lấy 3 thứ quân làm nòng cốt. Toàn dân là không kể già, trẻ, gái, trai, thành phần, giai cấp, dân tộc, tôn giáo. Ba thứ quân là bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích, mỗi thứ quân đều có vị trí chiến lược kết hợp giữa lực lượng tại chỗ và cơ động.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 10 Tháng Mười Một, 2022, 07:44:08 pm
HẢI PHÒNG ĐI TRƯỚC (20-11-1946), VỀ SAU (13-5-1955) TRONG SỰ NGHIỆP CHỐNG PHÁP

VÕ AN ĐÔNG


Ngày 20-11-1946 bắt nguồn từ sự kiện Pháp muốn kiểm soát ngành thuế quan, tranh chấp với người Việt, đã nổ súng vào quân Việt ở phía sông Tam Bạc, gây ra chiến sự. Sự kiện Hải Phòng bắt đầu từ ngày 20-11-1946.


Cuộc chiến đã xảy ra rất ác liệt trong phạm vi 7 ngày cho tới ngày 26-11-1946 theo lệnh của ủy ban bảo vệ thành phố (thực chất là Ủy ban kháng chiến thành phố), lực lượng của ta rút sang Kiến An. Trong 7 ngày chiến đấu ác liệt, có 1 ngày tạm ngừng bắn (ngày 22-11) do có phái đoàn của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đại diện là ông Hoàng Hữu Nam, Thứ trưởng Bộ Nội vụ, can thiệp và điều đình với bên Pháp là tướng La-mi, nhưng do bên Pháp giữ nguyên lập trường của mình là cố tình gây ra trận chiến, cho nên cuộc điều đình đó không thành. Ngày hôm sau (23-11-1946) súng lại nổ. Cuộc chiến đấu lại tiếp tục. Sau khi rút khỏi nội thành, quân ta lại hợp thành mặt trận A, B, C bao vây quân Pháp.


Lực lượng bố trí ở phía tây nam cầu Rào, cầu Niệm. Ở phía tây cầu xe lửa, ta cầm cự tới ngày 25-4-1947 thì Pháp đánh chiếm thị xã Kiến An. Ta đã sáp nhập thành phố Hải Phòng với tỉnh Kiến An thành tỉnh Hải Kiến. Hải Phòng đã bị địch chiếm đóng hoàn toàn, ta đã chuyển sang đấu tranh chính trị là chính, còn Kiến An thì có vùng là địch hậu như vùng An Lão, vùng Kiến Thụy nhưng có vùng là “xôi đỗ” giữa địch và ta, quân ta có thể hoạt động du kích.


Ở Hải Phòng, khi chưa chuyển sang đấu tranh chính trị, từ ngày 20-11-1946 đến ngày 26-11-1946, trong 7 ngày đêm tác chiến ác liệt dưới sự chỉ đạo của Trung ương, kết hợp với sự sáng tạo của địa phương, quân dân ta đã lập những trận đánh lịch sử như tại Nhà hát lớn thành phố, tại Bưu điện thành phố, tại nhà Ga, đánh chiếm sân bay Cát Bi lần thứ nhất (21- 23/11/1946). Quân dân Hải Phòng đã tạo được hình ảnh nhân dân chiến tranh, du kích chiến tranh rất độc đáo, áp dụng cho toàn thể quân dân Việt Nam trong suốt cuộc chiến tranh trường kỳ gian khổ chống Pháp (1946-1954). Hình ảnh đó thể hiện đường lối chiến tranh chống thực dân Pháp. Đó là:

1) Kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh nhưng nhất định thắng lợi.

2) Toàn dân đánh giặc lấy 3 thứ quân làm nòng cốt (3 thứ quân đó là bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích). Đó là đường lối xây dựng lực lượng vũ trang của ta.

3) Phân vùng đấu tranh trong địch hậu (có vùng địch tạm chiếm, vùng tranh chấp, vùng du kích) và vùng tự do, môi vùng có phương châm hoạt động riêng.

Ở Kiến An, đã chia vùng ra, có phương châm hoạt động rộng rãi như: huyện An Lão, Kiến Thụy thì hoạt động theo vùng địch hậu; huyện Tiên Lãng, Vĩnh Bảo có nhiều xã đẩy mạnh hoạt động du kích như trong hồi ký của đồng chí Nguyễn Sĩ Đó (theo tập 3, Đường 5 anh dũng quật khởi).

- Trận tiêu diệt địch bằng nội ứng vị trí Trung Lăng (Tiên Lãng) ngày 2-6-1952.

- Đánh vị trí địch chiếm đóng. Sau khi học kinh nghiệm đánh vị trí địch ở tỉnh Hưng Yên, Kiến An đã mở ra đánh một loạt vị trí như Tiên Cầu, Thạch Lựu, Sái Nghi, Kim Sơn, phá thủng phòng tuyến sông Văn Úc.

- Đánh chìm tàu chiến và 4 ca nô địch ngày 14-1-1954, diệt gọn số quân đi trên tàu. Và theo hồi ký của Đỗ Tất Yến (tập 4, Đường 5 anh dũng quật khởi), ngày 7-3-1954 Kiến An có trận đánh sân bay Cát Bi là một trận đánh độc lập, ở sâu trong địch hậu, phối hợp chặt chẽ với chiến dịch Điện Biên Phủ, đã phá hủy nhiều máy bay địch. Bác Hồ đã khen quân dân Kiến An và tặng các chiến sĩ đánh sàn bay danh hiệu “Đoàn dũng sĩ Cát Bi”.


Như vậy, trải qua 8 năm kháng chiến chống Pháp, đến năm 1954, toàn tỉnh Kiến An với chiến thắng Cát Bi lẫy lừng, đã chuyển sang hoạt động du kích chiến tranh lên cao chưa từng có. Cùng với các tỉnh hoạt động trên đường 5, là Hải Dương và Hưng Yên mở mật trận “công kích trên đường 5” bằng các hoạt động như: đánh địa lỏi lật nhiều tàu hỏa trên đường xe lửa, đánh địch trên đường bộ, phục kích phá hoại đường số 5, mở rộng và củng cố chính quyền cách mạng, đẩy mạnh công tác địch, ngụy vận, làm tan rã hàng ngũ địch v.v... Ta đang thực sự uy hiếp, cất đứt đường 5, thì ngày 20- 7-1954, thực hiện ký kết hiệp định đình chiến ở Đông Dưang ta đã chuyên đấu tranh chính trị là chính buộc đối phương thực hiện đúng hiệp định Giơnevơ, đảm bảo cho ta giải phóng hoàn toàn một nửa đất nước từ vĩ tuyến 17 trở ra. Nội dung đấu tranh của ta bao gồm chống địch di chuyển máy móc và chống cưỡng ép dân di cư vào miền Nam.


Theo hiệp định đình chiến giữa ta và Pháp, địch ra lệnh rút quân và ta tiến hành tiếp quản các vùng như sau:

+ Hà Nội: sau khi ký kết hiệp định, Pháp sẽ rút quân 80 ngày và liền đó ta tiếp quản thành phố.

+ Hải Dương; sau 100 ngày ký kết hiệp định Giơnevơ ta tiếp quản Hải Dương.

+ Hải Phòng và vùng phụ cận: Pháp rút quân sau 300 ngày và ta tiếp quản, giải phóng Hải Phòng và vùng phụ cận.

Đối với vùng 300 ngày, hai bên thỏa thuận lịch rút quân Pháp, ấn định như sau: Pháp sẽ rút quân bắt đầu từ Cẩm Phả ngày 22-4-1955, Hòn Gai ngày 24-4-1955, Quảng Yên ngày 25-4-1955, Kim Thành, Kinh Môn ngày 28-4-1955, rồi đến thị xã Kiến An ngày 10-5-1955, huyện An Dương ngày 12-5-1955, thành phố Hải Phòng, vùng Núi Đèo, Cát Hải ngày 13- 5-1955 và Đổ Sơn ngày 15-5-1955. Ngày 16-5-1955, Pháp rút quân khỏi vịnh Hạ Long, vịnh Lan Hạ, kết thúc toàn bộ việc rút quân Pháp khỏi khu 300 ngày. Nhìn chung, việc rút quân Pháp và bên ta tiếp quản các nơi diễn ra được thuận lợi, đúng kế hoạch, không xảy ra sự cố nghiêm trọng, tuy có việc dân ta chống địch cưỡng ép một số dân vào Nam và chống địch di chuyển một số máy móc?


Như vậy, trong 8, 9 năm chiến đấu gay go, ác liệt và lâu dài chống thực dân Pháp, ta đã giành thắng lợi hoàn toàn ở nửa nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Đứng trên tiến trình lịch sử, từ năm 1873 đến năm 1955: từ ngày 13-5-1955 quân dân ta đã quét sạch chế độ thực dân Pháp từ vĩ tuyến 17 trở ra và từ sau 30-4-1975, đất nước Việt Nam được độc lập và thống nhất hoàn toàn.


Ngày 15-5-1955, những tên lính Pháp cuối cùng xuống tàu tại Bến Nghiêng (Đồ Sơn) chấm dứt vĩnh viễn chế độ thực dân Pháp ở miền Bắc Việt Nam


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 10 Tháng Mười Một, 2022, 07:44:47 pm
ĐỀ NGHỊ SỬA LẠI NỘI DUNG BIA DỰNG Ở BẾN NGHIÊNG (ĐỒ SƠN)


Quân dân Hải Phòng đã phải sống tủi nhục dưới ách đô hộ của thực dân Pháp từ năm 1873 và sống chiến đấu, gay go ác liệt và lâu dài từ 19-12-1946 đến 16-5-1955, trong 8, 9 năm (không kể thời gian ở Nam Bộ phải đấu tranh chống thực dân Pháp giành lại độc lập trước đó) và đã thực sự đuổi sạch quân đội Pháp khỏi đất liền ở Hải Phòng và ở miền Bắc nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ 16-5-1955. Đó là niềm tự hào, kiêu hãnh của toàn dân tộc Việt Nam và dân tộc Việt Nam nguyện sẽ đem sức lực và trí tuệ làm tốt 2 nhiệm vụ chiến lược mà Đại hội Đảng lần thứ 4 và nay là Đại hội Đảng 10 đã đề ra. Vì vậy, với cương vị là hội viên Hội Khoa học lịch sử thành phố Hải Phòng, tôi xin đề nghị đổi lại nội dung bia dựng ở Bến Nghiêng (Đồ Sơn) đúng với tính chất và yêu cầu lịch sử như sau: “Tại đây, tên lính Pháp cuối cùng đã rút khỏi Hải Phòng đồng thời chấm dứt chế độ của thực dân Pháp trong 83 năm (1873-1955) ở Hải Phòng - Miền Bắc Việt Nam”.


Với đề nghị trên, xin trân trọng gửi lên Bảo tàng thành phố và Sở Văn hóa - Thông tin nghiên cứu, thẩm định và xây dựng phương án sửa chữa tại Bến Nghiêng (Đồ Sơn) và đệ trình lên Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng sớm xét duyệt và thực hiện.

VÕ AN ĐÔNG


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 10 Tháng Mười Một, 2022, 07:48:09 pm
Lời BBT: Ngày 10-9-1997, Bộ Tư lệnh Quán khu 3 có Quyết định số 852/BTL công nhận ngày truyền thống Lực lượng vũ trang thành phố Hải Phòng do Thiếu tướng Lê Trung Thành, Phó Tư lệnh Quân khu 3 ký. Đồng chí Võ An Đông, Chủ tịch Chi hội khoa học lịch sử quân sự, giải thích lý do lấy ngày 20-11 làm ngày truyền thống.


NGÀY 20/11 - NGÀY TRUYỀN THỐNG CỦA LỰC LƯỢNG
VŨ TRANG HẢI PHÒNG

VÕ AN ĐÔNG
(Chủ tịch Chi hội khoa học
lịch sử quân sự Hải Phòng)


Muốn xác định ngày truyền thống của lực lượng vũ trang Hải Phòng, thì cần phải xem xét, nghiên cứu, cân nhắc đầy đủ các mặt gồm yếu tố lịch sử, quá trình xây dựng tổ chức và chiến đấu của lực lượng vũ trang Hải Phòng và gồm yếu tố đặc trưng của lực lượng vũ trang, của Đảng bộ và nhân dân Hải Phòng về địa lý, chính trị, xã hội...


Trước hết về yếu tố lịch sử. Truyền thống yêu nước đánh giặc của Hải Phòng đã có gốc rễ từ xa xưa. Năm 40, ta có bà Lê Chân, một nữ tướng của Hai Bà Trưng; năm 938, ta có chiến thắng Bạch Đằng lần thứ nhất, mở đầu kỷ nguyên độc lập của nước ta; năm 981, chiến thắng của Lê Hoàn lần thứ hai; đặc biệt năm 1288, chiến thắng lẫy lừng vang dội núi sông của Trần Hưng Đạo cũng ở Bạch Đằng.


Thời Pháp thuộc có cuộc khởi nghĩa của Đốc Tít (1885 - 1888) ở vùng Thủy Nguyên. Từ khi có Đảng, đồng thời với Xô Viết Nghệ Tĩnh, Đảng bộ Hải Phòng đã sớm có chủ trương xây dựng đội Xích vệ trong các nhà máy Xi măng, Carông, Cảng Hải Phòng (4-1931). Năm 1940, Thành ủy Hải Phòng lại cử đồng chí Trần Kiên (tức Đặng Văn Minh) tổ chức tự vệ. Tiếc rằng những tổ chức này được tổ chức ra không rõ ngày tháng cụ thể, lại thiếu những dấu ấn thành tích đáng ghi nhớ cho đời sau.


Từ sau đảo chính Nhật - Pháp đã dấy lên phong trào nhân dân và tự vệ sôi nổi khắp các huyện ngoại thành, có những chiến công quân sự nổi danh thời đó. Tự vệ xã Phục Lễ diệt đồn Cát Hải(tháng 3-1945); Thủy Nguyên diệt đồn Trịnh Xá (6-1945); Kiến Thụy diệt đồn Bàng La (7-1945); An Lão đột nhập và tước khí giới của Bảo an binh tỉnh Kiến An (21/8/1945). Các huyện lần lượt thành lập chính quyền cách mạng đều có sự hậu thuẫn của tự vệ. Cuối cùng ngày 23-8-1945 diễn ra cuộc khởi nghĩa ở Hải Phòng có sự tham gia của lực lượng chiến khu Trần Hung Đạo và tự vệ khắp nơi.


Ngày 20-11-1946 nổ ra “Sự kiện Hải Phòng” được coi là khúc nhạc dạo đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự chỉ huy quân sự của Bộ Chỉ huy chiến khu 3, Hải Phòng đã trải qua 7 ngày đêm chiến đấu oanh liệt đầy gian khổ hy sinh với sự tham gia của toàn dân mà nòng cốt là Trung đoàn 41 (sau đổi là E42), công an, cảnh sát xung phong, tự vệ toàn thành, tiếp đó chiến sự lan sang tỉnh Kiến An. Từ năm 1965, Hải Phòng thực sự bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ. Ngày 21-6-1965 hợp nhất Sư đoàn 350 với Thành đội Hải Phòng, trở thành Bộ Tư lệnh 350 có nhiệm vụ phòng thủ, bảo vệ Hải Phòng, phối hợp với các binh quân chủng đóng trên địa bàn, chống phong tỏa đường biển, tổ chức bắn máy bay, tổ chức phòng không nhân dân, chi viện cho miền Nam hàng vạn chiến sĩ và hàng triệu tấn hàng.


Ngày 30-10-1978, lực lượng vũ trang Hải Phòng vinh dự được Nhà nước tặng danh hiệu cao qúy: “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”.

Ngày 1-1-1980, tách Sư đoàn 350, thành lập Bộ Chỉ huy Quân sự Hải Phòng cho tới ngày nay. Tuy tến gọi có khác nhau, nhưng cơ cấu tổ chức vẫn giống nhau, nghĩa là có bộ đội thường trực, có dân quân tự vệ, dưới sự lãnh đạo của Thành ủy và sự chỉ huy về quân sự của Quân khu 3.


Về yếu tố đặc trưng của Hải Phòng, đầu tiên phải kể đến việc Hải Phòng phát triển như ngày nay là gồm đất của bốn tỉnh hợp lại: Đó là thành phố nhượng địa của Pháp xưa, toàn bộ tỉnh Kiến An, huyện Vĩnh Bảo trước thuộc tỉnh Hải Dương, huyện Thủy Nguyên và Cát Hải trước thuộc tỉnh Quảng Ninh (Hồng Quảng).


Nội thành (thành phố nhượng địa xưa) về đất đai tuy hẹp, nhưng là trung tâm hành chính, kinh tế và văn hóa, rất nhạy cảm, mỗi sự việc xảy ra ở nội thành đều tác động sâu sắc tới vùng lân cận.

Do yêu cầu phát triển về kinh tế, Hải Phòng ngày càng phát triển, về cơ cấu dân số, có nhiều người ở các tỉnh khác nhau về định cư sinh sống đã góp phần xây dựng Hải Phòng ngày nay.

Đảng bộ Hải Phòng có từ rất sớm, bắt đầu từ nội thành, là địa bàn hoạt động của nhiều lãnh tụ Đảng như Lương Khánh Thiện, Nguyễn Đức Cảnh, Tô Hiệu, Nguyễn Lương Bằng v.v... Nhưng Đảng bộ thường bị địch khủng bố, cơ sở bị tan vỡ, rồi lại củng cố nhiều lần trải qua bao thăng trầm.


Tổng hợp phân tích các yếu tố trên cho ta mấy nhận định:

1) Hải Phòng (nội thành) là một trung tâm hành chính, kinh tế, xã hội, quân sự từ xưa và cho đến ngày nay, mọi sự kiện quan trọng xảy ra ở nội thành đều ảnh hưởng tới các vùng lân cận. Cho nên, nên chọn ngày truyền thống vào một sự kiện lịch sử nào xảy ra ở nội thành mà có ý nghĩa nhất.

2) Hải Phòng có một vị trí trọng yếu đối với cả nước. Kinh nghiệm 2 cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ, cơ cấu tổ chức quân sự của ta phải là toàn dân đánh giặc, nòng cốt là lực lượng vũ trang bao gồm không chỉ đơn thuần chỉ có dân quân, tự vệ là lực lượng vừa sản xuất, vừa chiến đấu, mà còn phải có bộ đội thường trực. Việc chọn ngày truyền thống phải làm sao thỏa mãn nguyện vọng của cả 3 thứ quân.

3) Đảng bộ Hải Phòng tuy đã có từ rất sớm, trải qua nhiều thăng trầm, lúc thì được củng cố, lúc thì bị sộc sệch. Lực lượng vũ trang Hải Phòng được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng về mọi mặt và tuyệt đối. Cho nên, việc chọn ngày truyền thống nên hướng về một sự kiện lịch sử nào mà sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang được rõ nét.

4) Lực lượng vũ trang Hải Phòng có một bề dầy lịch sử rất vẻ vang, có sự đóng góp của nhiều người, trong đó có chủ lực được điều tới, được các tầng lớp dân cư từ nhiều tỉnh hợp lại. Cho nên, lựa chọn ngày truyền thống không thể đứng trên quan điểm cục bộ, địa phương, mà phải nhìn toàn cục, toàn diện để thỏa mãn nguyện vọng của cơ cấu dân cư các địa phương hợp thành.


Qua sự phân tích cẩn trọng trên, phương án lựa chọn ngày truyền thống lực lượng vũ trang thành phố Hải Phòng một cách hợp với lịch sử nhất, thích hợp với đặc thù của Hải Phòng nhất nên xác định ngày 20-11-1946 vì mấy lý do sau:

1/ Ngày 20-11-1946 mở đầu “Sự kiện Hải Phòng”, xảy ra ở ngay trung tâm thành phố, có nhiều ý nghĩa đối với toàn quốc chống Pháp và cả đối với quốc tế, rất nhiều các chính khách và các nhà sử học cho tới bây giờ vẫn đang nghiên cứu, phân tích.

2/ Ngày 20-11-1946 không chỉ là một trận đánh riêng lẻ, mà đã mở đầu cho nhiều trận đánh, một chuỗi hoạt động vũ trang trong suốt 7 ngày đêm và cả những ngày tiếp theo.

3/ Những trận đánh từ 20-11-1946 đều đã được sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng bộ, Thành ủy Hải Phòng, lại được sự chỉ huy chiến đấu của Chiến khu 3 (tiền thân của Quân khu 3 ngày nay).

4/ Sự kiện Hải Phòng không chỉ có bộ đội, tự vệ, nhân dân ở nội thành tham gia chiến đấu mà có cả xương máu của quân, dân tỉnh Kiến An (cũ), huyện Thủy Nguyên và Vĩnh Bảo, do đó sẽ thỏa mãn được tâm tư, nguyện vọng của cả 3 thứ quân và của các địa phương hợp thành thành phố Hải Phòng ngày nay.


Chi hội lịch sử quân sự theo sự gợi ý của Bộ Chỉ huy Quân sự Hải Phòng, đã nghiêm túc triển khai cho toàn thể hội viên của mình, thảo luận sói nổi, tranh luận nhiều ý kiến khác nhau, cuối cùng đã thống nhất phương án chọn ngày truyền thống như trên và xây dựng một luận điểm của chi hội, vừa có tính khoa học, vừa có tính thuyết phục, đã được báo cáo tại buổi hội thảo về vấn đề này của thành phố.


Nay cấp trên đã quyết định chính thức lấy ngày truyền thống của lực lượng vũ trang Hải Phòng phù hợp với mình. Chi hội lịch sử quân sự rất lấy làm vinh dự, tự thấy chi hội đã làm tròn trách nhiệm đối với Bộ Chỉ huy Quân sự và lực lượng vũ trang thành phố.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 10 Tháng Mười Một, 2022, 07:51:48 pm
Phần II
VỀ THỰC HIỆN N6HỊ QUYẾT SỐ 32-NQ/TW
CỦA BỘ CHÍNH TRỊ

ĐẢNG BỘ, CHÍNH QUYỀN, QUÂN VÀ DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG QUYẾT TÂM THỰC HIỆN THẮNG LỢI NGHỊ QUYẾT 32-NQ/TW (KHÓA IX) CỦA BỘ CHÍNH TRỊ VỀ XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG TRONG THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC

TRỊNH QUANG SỬ
(Phó Bí thư Thành ủy,
Chủ tịch UBND thành phố HP)


Ngày 05-8-2003, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 32-NQ/TW về "Xây dựng và phát triển thành phố Hải Phòng trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước". Đây là Nghị quyết có ý nghĩa rất quan trọng, ghi nhận sự phấn đáu của Đảng bộ, quân và dân thành phố, đồng thời Bộ Chính trị đề ra phương hướng, nhiệm vụ to lớn và nặng nề xây dựng và phát triển thành phố Hải Phòng đến năm 2020 là: “Thành phố Cảng công nghiệp hiện đại, đô thị loại I trung tâm cấp quốc gia, đầu môi giao thông quan trọng và cửa chính ra biển của các tỉnh phía Bắc; cố cảng nước sâu; một cực tăng trưởng quan trọng của vùng kinh tể động lực: Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh; một trọng điểm kinh tế biển; một trong những trung tâm dịch vụ, du lịch, thủy sản, văn hóa, giáo dục, y tế và khoa học kỹ thuật của vùng Duyên hải Bắc bộ; một pháo đài bất khả xâm phạm về quốc phòng, an ninh: có tổ chức Đảng và hệ thống chính trị không ngừng lớn mạnh, đời sống nhân dân ngày một nâng cao. Phấn đấu Hải Phòng là một trong những địa phương đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đợi hóa và cơ bản trở thành thành phố công nghiệp, văn minh trước năm 2020”.


Với quyết tâm cao, bằng nhiều giải pháp tích cực, sau hơn 2 năm triển khai thực hiện Nghị quyết 32-NQ/TW, Đảng bộ, chính quyền, quân và dân thành phố đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Đó là:

Kinh tế hơn 2 năm qua tăng trưởng khá nhanh, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) năm sau cao hơn năm trước, hiệu quả được nâng lên rõ rệt (bình quân năm 2001-2003 tăng 10,55%, năm 2004 tăng 11,85% và năm 2005 tăng 12,25%). Cơ cấu kinh tế chuyến dịch theo hướng tích cực công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tăng dần tỷ trọng GDP của các nhóm ngành công nghiệp - xây dựng và dịch vụ.


Công nghiệp tiếp tục phát triển khá. Các ngành công nghiệp nặng có tiềm năng, lợi thế tăng trưởng rất nhanh. Ngành đóng tàu tăng bình quân 56,7%/năm, đến nay đã và đang đóng tàu có tải trọng lớn 53.000 tấn xuất khẩu. Cán thép tăng trưởng 9,4%/năm, đạt công suất 1,2 triệu tấn; đang tích cực đầu tư sản xuất phôi thép với tổng công suất gần 1 triệu tấn/năm. Công nghiệp hóa chất, giấy tăng với quy mô lớn với việc đưa vào sản xuất nhà máy giấy Kraft, đang khẩn trương xây dựng nhà máy DAP. Sản xuất xi- măng được đầu tư khá hiện đại với các nhà máy xi-măng Chinfon, xi-măng Hải Phòng mới, nâng tổng công suất lên gần 5 triệu tấn/năm. Các khu, cụm công nghiệp được quan tâm phát triển; việc thu hút các dự án vào khu công nghiệp chuyển biến tốt hơn; đến nay, khu công nghiệp Nomura đã nâng mức lấp đầy trên 80% diện tích.


Kinh tế nông nghiệp, nông thôn chuyên dịch nhanh hơn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tùng bước nâng cao chất lượng, hiệu quả. Cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn thay đổi đáng kể, các chương trình cấp điện, giao thông, kiên cố hóa kênh mương, nước sạch... được quan tâm thực hiện. Đến nay, đã có 100% tuyến đường huyện được rải nhựa, đạt tiêu chuẩn cấp V đồng bằng; 90% đường liên xã được trải nhựa hoặc bê tông, 94% đường thôn xóm là đường bê tông; 65% số dân nông thôn được dùng nước hợp vệ sinh; 100% số xã có nhà văn hóa và điểm bưu điện văn hóa.


Kinh tế dịch vụ có bước phát triển đáng kể và đa dạng, nhất là những ngành có nhiều lợi thế. GDP dịch vụ có tốc độ tăng trưởng liên tục và dần cao hơn tốc độ tăng trưởng chung của kinh tế thành phố, năm 2003 tăng 10,7%, năm 2005 tăng 12,93%. Trong đó, dịch vụ cảng duy trì tốc độ khá cao, tổng lượng hàng thông qua các cảng trên địa bàn năm 2003 đạt 11,85 triệu tấn, đến năm 2005 đạt 15,28 triệu tấn. Đội tàu biển đạt tổng trọng tải trên 50 vạn tấn, chiếm tỷ trọng gần 50% về phương tiện và 40% về khối lượng hàng hóa vận tải biển cả nước. Du lịch có nhiều khởi sắc, tổng lượt khách tăng bình quân 18,5 %/năm, đạt 2,43 triệu lượt người năm 2005.


Huy động vốn đầu tư, nhất là nguồn vốn ngoài ngân sách Nhà nước tăng mạnh. Năm 2003 tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội đạt 8.850 tỷ đồng, đến năm 2005 đạt 12.302 tỷ đồng. Vốn đầu tư của doanh nghiệp ngoài quốc doanh và đầu tư trực tiếp nước ngoài tâng khá. Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có bước tăng vượt bậc, năm 2005 đạt trên 300 triệu USD, lần đầu tiên tổng vốn đầu tư FDI vượt ngưỡng 2 tỷ USD (các năm 2001-2003 chỉ đạt bình quân trên 100 triệu USD).


Thu ngân sách trên địa bàn đạt khá, năm 2003 đạt 6.616,4 tỷ đồng, năm 2005 đạt 9.236 tỷ đồng. Thu nội địa tăng nhanh, năm 2003 đạt 1.752,5 tỷ đồng, năm 2005 đạt 2.505 tỷ đồng.

Kinh tế đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế đạt được những bước tiến quan trọng. Xuất khẩu phát triển khá toàn diện cả về quy mô, tốc độ, sản phẩm và thị trường. Kim ngạch xuất khẩu năm 2003 đạt 591 triệu USD, đến năm 2005 đã đạt 839,1 triệu USD. Công tác quy hoạch được quan tâm, ưu tiên, triển khai tương đối đồng bộ cả quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội và quy hoạch không gian đô thị. Thành phố đang xây dựng, thực hiện đề án rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội thành phố Hải Phòng đến năm 2020 theo tinh thần Nghị quyết số 32-NQ/TW, nghiên cứu quy hoạch tổng thể xây dụng vùng Duyên hải Bắc bộ. Các đề án quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của 12/14 quận, huyện, thị xã đã hoàn thành trong năm 2005. Công tác quy hoạch xây dựng, quản lý quy hoạch, quản lý đô thị được quan tâm, đạt một số kết quả tích cực. Nhiều chương trình, dự án lớn được tập trung đầu tư hoàn thành đưa vào sử dụng, đã góp phần giúp diên mạo đô thị đổi mới, khởi sắc.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 10 Tháng Mười Một, 2022, 07:52:54 pm
Kinh tế Nhà nước, nhất là các cơ sở kinh tế Trung ương trên địa bàn được đầu tư, củng cố; hiệu quả hoạt động được nâng lên, tiếp tục giữ vững vai trò chủ đạo, mức tăng bình quân tổng sản phẩm trong nước đạt 11,5%/năm. Phương án tổng thể sắp xếp doanh nghiệp Nhà nước của thành phố được Chính phủ phê duyệt, đến tháng 6/2005 đã cơ bản hoàn thành. Các doanh nghiệp cổ phần hóa được xử lý lành mạnh về tài chính và lao động, bộ máy gọn nhẹ, năng động. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn điều lệ của các doanh nghiệp cổ phần tăng nhanh.


Kinh tế tập thể tiếp tục được củng cố, từng bước phát triển, đã xuất hiện mô hình, nhân tố mới có tính liên kết, hợp tác, hiệu quả kinh tế-xã hội được nâng lên một cách rõ rệt. Đến nay, toàn thành phố có hơn 400 hợp tác xã, trong đó có khoảng 180 hợp tác xã sản xuất nông nghiệp.


Kinh tế tư nhân phát triển nhanh cả về số lượng, quy mô, cơ cấu ngành nghề, tham gia vào hầu hết các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, đóng góp ngày càng lớn vào tổng sản phẩm trong nước (GDP), giá trị sản xuất, nộp ngân sách và giải quyết việc làm của thành phố. Đến năm 2005 toàn thành phố đã có trên 5.000 doanh nghiệp. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng trưởng khá, có nhiều đóng góp tăng năng lực sản xuất của thành phố, thể hiện rõ trong một số ngành, sản phẩm quan trọng, như thép, cơ khí, vật liệu xây dựng, cáp điện, robot, vải giả da, phụ tùng ô tô...


Hơn hai năm thực hiện Nghị quyết 32-NQ/TW, thành phố đã coi trọng thực hiện nhiệm vụ nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, gắn phát triển kinh tế với tiến bộ xã hội và công bằng xã hội, giải quyết tốt các vấn đề xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Giáo dục đào tạo phát triển khá toàn diện. Hoàn thành phổ cập tiểu học và trung học cơ sở triển khai trên diện rộng thực hiện phổ cập giáo dục bậc trung học và nghề, hết năm 2005 cơ bản hoàn thành phổ cập giáo dục bậc trung học và nghề trên địa bàn 4 quận Hồng Bàng, Ngô Quyền, Lê Chân, Kiến An và thị xã Đổ Sơn. Cơ sở vật chất, thiết bị trường học được tăng cường. Đã hoàn chỉnh chiến lược phát triển khoa học và công nghệ đến năm 2010, tầm nhìn 2020 theo tinh thần Nghị quyết 32-NQ/TW. Công tác y tế chăm sóc sức khỏe nhân dân được cải thiện.


Việc thực hiện các chính sách xã hội, giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc được đẩy mạnh. Giải quyết việc làm bình quân 3,76 vạn lao động/năm. Tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh, còn 3% (theo chuẩn cũ) vào năm 2005, vượt xa so với kế hoạch đề ra. Đã xóa hơn 6.500 ngôi nhà tranh vách đất cho các hộ nghèo và các gia đình thuộc diện chính sách, cơ bản hoàn thành chương trình xóa nhà tranh vách đất trước ngày 13/5/2005.


Các dự án đầu tư phát triển khu hậu cần nghề cá đảo Bạch Long Vỹ, khu du lịch Cát Bà bằng nguồn vốn chương trình biển Đông, hải đảo và hạ tầng trọng điểm du lịch quốc gia... được ưu tiên, phát huy tác dụng tốt; đời sống nhân dân hai huyện đảo có chuyển biến, được cải thiện rõ. Quá trình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội của thành phố luôn gắn liền với củng cố quốc phòng-an ninh, xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc, giữ vững chủ quvền quốc gia, giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội. Theo tinh thần Nghị quyêt 32-NQ/TW, Ban Thường vụ Thành ủy đã thông qua Đề án xây dựng tiềm lực quốc phòng, an ninh kết hợp phát triển kinh tế; xây dựng quân cảng, xây dựng Hải Phòng trở thành pháo đài bất khả xâm phạm về quốc phòng, an ninh. Thường xuyên chủ dộng đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu hoạt động phá hoại của các thế lực thù địch. Thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, xây dựng khu vực phòng thủ, nhất là những khu vực then chốt được củng cố vừng chắc. Công tác phòng chống tội phạm, đặc biệt là tội phạm có tổ chức, tội phạm nguy hiểm, tội phạm ma túy đạt nhiều kết quả tốt. Bằng nhiều biện pháp đồng bộ, quyết liệt đã xóa phá nhiều tụ điểm mua bán, tàng trữ ma túy đã tồn tại nhiều năm, đặc biệt là khu vực đường tàu, Chùa Hàng (trên địa bàn quận Lê Chân), xây dựng mới, củng cố đưa vào hoạt động có hiệu quả Trung tâm giáo dục lao động xã hội Gia Minh (Thủy Nguyên), đã bước đầu tiếp nhận 1200 học viên vào học tập, cai nghiện, đang tiến hành xây dựng trung tâm giáo dục lao động xã hội số 2 tại Đại Thắng (Tiên Lãng) để tiếp nhận 1.700 học viên vào học tập, cai nghiện tại đây. An ninh kinh tế, an ninh nông thôn, đô thị và an ninh văn hóa, tư tưởng được củng cố, giữ vững. Bằng nhiều biện pháp đồng bộ và sự chỉ đạo quyết liệt, kết hợp tuyên truyền vận động thuyết phục, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, xử lý cán bộ vi phạm, xử lý những kẻ cầm đầu quá khích, đã giải quyết được nhiều điểm nóng, khiếu kiện kéo dài tồn tại nhiều năm, ổn định tình hình các địa phương Đồ Sơn, Nam Hải, Tràng Cát... Trật tự công cộng, an toàn giao thông được quan tâm giải quyết, có chuyển biến tích cực.


Công tác đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiêu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước, xây dựng chính quyền các cấp trong sạch, vững mạnh cũng là nhiệm vụ được thành phố quan tâm thực hiện. Thành phố đã triển khai đồng bộ chương trình tổng thể cải cách hành chính Nhà nước giai đoạn 2001 - 2010. Tiếp tục hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ của các Cơ quan hành chính các cấp. Việc phân cấp quản lý được thực hiện khá mạnh, bước đầu có hiệu quả rõ trên một số lĩnh vực như quản lý đô thị, cấp phép xây dựng, thu chi ngân sách, phê duyệt dự án đầu tư; thu thuế. Ban hành nhiều quy chế, cơ chế chính sách góp phần vào cải cách thể chế; quan tâm chỉ đạo triển khai thực hiện cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế "một cửa" ở cả 3 cấp, đạt kết quả khá, đã xuất hiện một sô mô hình tốt. Năm 2006, thành phố chọn chủ đề "Năm cải cách hành chính", cải cách hành chính được xác định là khâu đột phá nhằm tạo điều kiện thuận lợi huy động mọi nguồn lực vật chất và tinh thần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển...


Công tác xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở Đảng và hệ thống chính trị cơ sở được thường xuyên chăm lo, tăng cường. Công tác cán bộ được chú trọng, có tiến bộ. Cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết TW6 (lần 2 khóa IX) và kết luận Hội nghị TW4 (khóa IX) tiếp tục được thực hiện, kết quả tốt; góp phần bảo vệ chính trị nội bộ, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức Đảng và của đảng viên.


Phương thức lãnh đạo của cấp ủy Đảng từng bước đổi mới theo hướng cụ thể, sát thực tế, coi trọng hiệu quả; xây dựng chương trình hành động thực hiện các nghị quyết bảo đảm thiết thực, khả thi; xác định rõ trọng tâm, khâu yếu và chủ đề tư tưởng của từng năm để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo. Công tác xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện Nghị quyết có đổi mới.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 10 Tháng Mười Một, 2022, 07:54:18 pm
Như vậy, mặc dù mới qua hơn 2 năm thực hiện Nghị quyết 32-NQ/TW, song dược sự quan tâm lãnh đạo, chí đạo của Trung ương, Chính phù và sự giúp đỡ của các ban, bộ, ngành Trung ương, cùng với sự nỗ lực phấn đấu của Đảng bộ, chính quyền, quân và dân Hải Phòng, kinh tế - xã hội thành phố có bước phát triển mới. Nghị quyết đã từng bước đi vào cuộc sống, góp phần nâng cao nhận thức, lòng tự hào, tinh thần quyết tàm, tính chủ động và tạo thêm động lực mới cho toàn Đảng bộ, chính quyền, quân và dân thành phố phấn đấu hoàn thành tốt các mục tiêu, nhiệm vụ Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ XII đề ra. Nhiều nội dung, nhất là những nội dung cơ bản, trọng yếu của Nghị quyết đã được triển khai tích cực, đạt kết quả bước đầu, tạo đà quan trọng cho sự phát triển trong thời gian tới.


Tuy nhiên, quá trình thực hiện Nghị quyết 32-NQ/TW của thành phố cũng bộc lộ một số hạn chế, vướng mắc, đó là:

Phát triển kinh tế vẫn chưa ngang tầm với vị trí, vai trò của thành phố; quy mô, tiềm lực nền kinh tế thành phố còn nhỏ, yếu; chất lượng, hiệu quả tăng trưởng chưa bền vững; chuyển dịch cơ cấu kinh tế chưa thật mạnh; sức cạnh tranh chưa cao; môi trường đầu tư còn thiếu hấp dẫn. Huy động các nguồn lực đầu tư phát triển còn khó khăn. Tổng đầu tư ngân sách Nhà nước chưa tương xứng với vai trò, vị trí, yêu cầu của thành phố. Cơ sở hạ tầng còn yếu kém, chưa đồng bộ. Công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch còn yếu, việc thực hiện chủ trương thuê chuyên gia, tư vấn nước ngoài chậm được triển khai. Các khu đô thị mới phát triển chậm. Việc xây dựng khu đô thị mới Bắc sông Cấm theo tiêu chí văn minh, hiện đại còn nhiều lúng túng, khó khăn. Lĩnh vực du lịch có nhiều tiềm năng, lợi thế nhưng phát triển không tương xứng với yêu cầu.


Chất lượng đào tạo nguồn nhân lực còn thấp. Đời sống của nhân dân một số vùng, khu vực nông thôn, miền núi, hải đảo chưa được cải thiện rõ rệt; một số vấn đề xã hội bức xúc được quan tâm giải quyết, song hiệu quả thấp, chuyển biến chưa cơ bản, giải quyết việc làm cho nông dân còn hạn chế.


Cải cách hành chính còn chậm, hiệu quả chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu; công tác xây dựng Đảng và củng cố hệ thốne chính trị chưa thực sự ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ. Thực hiện tự phê bình và phê bình còn chưa rõ trách nhiệm cá nhân.


Việc tổ chức triển khai thực hiện Nghị quyết 32-NQ/TW giai đoạn 2006-2010 có ý nghĩa rất quan trọng, nhằm tạo cơ sở, nền tảng vững chắc cho việc hoàn thành các mục tiêu nhiệm vụ đã được xác định trong Nghị quyết. Các nội dung của Nghị quyết đã được thể hiện thành mục tiêu, nhiệm vụ giải pháp cụ thể trong Báo cáo Chính trị trình Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ XIII. Theo đó, trong thời gian tới, Hải Phòng sẽ tập trung thực hiện các giải pháp chủ yếu sau:


Về quán triệt, triển khai nghị quyết:

Hải Phòng sẽ chủ động, tiếp tục triển khai công tác tuyên truyền với quy mô sâu rộng thường xuyên, bằng nhiều hình thức phong phú để đưa nghị quyết vào cuộc sống. Phối hợp tốt hơn nữa với các bộ, ban, ngành, các địa phương bạn và các cơ quan báo chí, thông tin đại chúng, mạng Internet để tuyên truyền về Nghị quyết 32-NQ/TW; tạo nhận thức sâu sắc về vai trò, vị thế quan trọng của Hải Phòng đối với vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ và đối với quá trình chủ động hội nhập kinh tế của cả nước.


Về hoàn thiện, sửa đổi, bổ sung cơ chế chính sách:

Ban Thường vụ Thành ủy tiếp tục tập trung chỉ đạo hoàn chỉnh nội dung các chuyên đề thực hiện Nghị quyết 32- NQ/TW. Tiếp tục rà soát, điều chỉnh, bổ sung các quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch ngành, quy hoạch tổng thể, quy hoạch chi tiết phát triển không gian đô thị phù hợp với tinh thần Nghị quyết 32-NQ/TW. Tăng cường phối hợp trong việc xây dựng quy hoạch của địa phương với xây dựng quy hoạch phát triển của ngành và của vùng. Chủ động phối hợp, đề xuất với các bộ, ngành Trung ương đưa các nội dung Nghị quyẽt vào các quy hoạch phát triển ngành và xây dựng các cơ chế, chính sách cần thiết để thực hiện quy hoạch trên địa bàn thành phố.


Căn cứ chủ trương của Trung ương, thành phố sẽ cùng với các bộ, ngành chức năng liên quan xác định các tiêu chí, lộ trình đẽ xây dựng Hải Phòng cơ bản trở thành thành phố công nghiệp văn minh, hiện đại trước năm 2020 từ 3 đến 5 năm; chiến lược phát triển các ngành công nghiệp chủ lực, trọng điểm trên địa bàn thành phố; cơ chế, chính sách phát triển các khu, cụm công nghiệp; cơ chế, chính sánh thực hiện cóng nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; cơ chế, chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư phát triển các ngành kinh tế dịch vụ chất lượng cao, dịch vụ có hàm lượng chất xám lớn như: xây dựng chương trình phát triển ngành công nghiệp công nghệ thống tin, xây dựng công nghệ thống tin truyền thông trong Chính phủ điện tử, thương mại điện tử.... Xác định rõ các ngành, các sản phẩm mũi nhọn, đột phá của thành phố. Thành phố sẽ nghiên cứu, xây dựng các cơ chế, chính sách có tính đột phá và đề xuất các cơ chế mới.


Rà soát, điều chỉnh để các quy định của thành phố liên quan đến các lĩnh vực đầu tư, sản xuất kinh doanh được thực sự thôna thóang, minh bạch, bình đẳng; hạn chế tối đa nhũng nhiễu, phiền hà; tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tiếp cận với các nguồn lực như mặt bằng, hạ tầng, vốn, thống tin... để phát triển.


Đẩy mạnh việc xây dựng và điều chính các cơ chế tài chính và đầu tư, cụ thể hóa các cơ chế, giải pháp thực hiện Quyết định số 54/2004/QĐ-TTg và các cơ chế huy động nguồn lực khác cho đầu tư phát triển. Thành lập quỹ đầu tư phát triển đỏ thị, quỹ bảo lãnh tín dụng, phát hành trái phiếu đầu tư đế tạo lập công cụ tài chính cho thành phố huy động thêm các nguồn vốn trên thị trường. Khẩn trương lập và trình duyệt các công trình, dự án trọng điểm có tầm cỡ tương xứng với nhiệm vụ do Nghị quyết số 32-NQ/TW đề ra theo thứ tự ưu tiên để sử dụng nguồn vốn hỗ trợ có mục tiêu của Chính phủ và các nguồn vốn khác; lập danh mục đầu tư theo thứ tư - ưu tiên đề nghị bố trí trong kế hoạch vốn đầu tư giai đoạn 5 năm 2006-2010. Xây dựng cơ chế, chính sách đầu tư phát triển theo hướng, tập trung, ưu tiên cho các dự án trong điểm dự án có tầm ảnh hưởng rộng, có khả năng hoàn vốn. Hoàn thiện cơ chế quản lý ngân sách, tạo điều kiện đẩy nhanh và mở rộng quá trình xã hội hóa các hoạt động thuộc lĩnh vực văn hóa - xã hội.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 10 Tháng Mười Một, 2022, 07:55:01 pm
Phối hợp với các bộ, ngành Trung ương tiếp tục nghiên cứu các cơ chế, chính sách nhằm tạo lập và phát triển các loai thị trường như: thị trường tiền tệ, vốn, chứng khoán, bất động sản, lao động, thị trường khoa học công nghệ... nhằm đa dạng hóa và phát triển mạnh các loại hình dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Tiếp tục tạo điều kiện để các doanh nghiệp hội nhập kinh tế quốc tế, tham gia thị trường chứng khoán, phát huy cao vai trò hợp tác kinh tế quốc tế của Hải Phòng. Tiếp tục đẩy mạnh việc sắp xếp, cổ phần hóa, phát triển, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Nhà nước.


Xây dựng cơ chế, chính sách thu hút, đãi ngộ và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; phát triển công nghệ thông tin, công nghệ sinh học; chuyển giao khoa học công nghệ trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội.


Phối hợp nghiên cứu, đề xuất các cơ chế, chính sách phát triển liên vùng trong thu hút đầu tư, phát triển các ngành kinh tế, giải quyết các vấn đề môi trường trên cơ sở phát huy lợi thế của mỗi địa phương, nhằm phát huy mạnh mẽ vai trò cực tăng trưởng quan trọng của vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc; nhất là đối với Trung Quốc, vùng Đông Bắc Á.


Về các cơ chế chính sách khác, như tổ chức bộ máy, công tác cán bộ... phù hợp với đô thị loại I - Trung tâm cấp quốc gia cần được tiếp tục nghiên cứu và triển khai thực hiện nhằm tạo điểu kiện cho thành phố phát triển theo đúng mục tiêu, định hướng mà Nghị quyết đã đề ra.


Về công tác chỉ đạo, điền hành, phối kết hợp:

Ban Thường vụ Thành ủy sẽ chỉ đạo thường xuyên, quyết liệt hơn nữa để đẩy nhanh thực hiện nghị quyết, có chế độ động viên khen thưởng thỏa đáng, kịp thời; đồng thời nghiêm túc kiểm điểm các tập thể, cá nhân không hoàn thành nhiệm vụ. Các cơ quan của thành phố phải nêu cao tinh thần trách nhiệm, chủ động, tích cực hơn trong thực hiện Nghị quyết. Củng cố và kiện toàn Ban chỉ đạo các chuyên đề; xây dựng chương trình, kế hoạch thực hiện trình Ban Thường vụ Thành ủy thông qua để thực hiện. Định kỳ thường xuyên, Ban Thường vụ Thành ủy kiểm tra, bổ khuyết chỉ đạo thực hiện Nghị quyết; đặc biệt là các nội dung trọng tâm, trọng điểm, các chương trình, đề án lớn đã được xác định. Phối hợp với các bộ, ngành liên quan để đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án trọng điểm như: dự án cầu ra đảo Cát Hải, cảng quân sự Nam Đồ Sơn, cảng cửa ngõ Lạch Huyện, đường 5 cao tốc, điện khí hóa đường sắt Hà Nội - Hải Phòng, có kế hoạch mời tư vấn nước ngoài tham gia lập quy hoạch xây dựng khu đô thị mới Bắc sông Cấm...


Tiếp tục chủ động, tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của các bộ, ban, ngành Trung ương trong việc triển khai thực hiện Nghị quyết. Tập trung vào việc xây dựng các quy hoạch, kế hoạch, các cơ chế, chính sách, các chương trình, dự án thực hiện Nghị quyết; trước hết tập trung cho việc thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu do Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ xui đề ra và kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế-xã hội 2006- 2010 của thành phố. Phối hợp với các tỉnh, thành phố trong cả nước, đặc biệt là với các địa phương trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ và vùng đồng bằng sông Hồng trên một số lĩnh vực quan trọng, phát huy lợi thế từng địa phương, khai thác, sử dụng có hiệu quả hệ thống cảng Hải Phòng, phát triển du lịch và các trung tâm hậu cần nghề cá. Tập trung giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội bức xúc, tăng cường đảm bảo ổn định xã hội.


Với những tiềm năng lợi thế to lớn, phát huy truyền thống Trung dũng, Quyết thắng, năng động, sáng tạo và những thành quả to lớn đạt được qua 20 năm đổi mới, với quyết tâm cao, tin rằng Đảng bộ, chính quyền, quân và dân thành phố Hải Phòng sẽ thực hiện thắng lợi Nghị quyết 32- NQ/TNV của Bộ Chính trị, đưa thành phố vươn lên những tầm cao mới trong tương lai.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 14 Tháng Mười Một, 2022, 08:59:57 pm
CẢNG HẢI PHÒNG TRONG QUA TRÌNH HỢP TÁC VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ


NGÔ BẮC HÀ
(Tổng giám đốc Cảng Hải Phòng)


Từ hơn một thế kỷ nay, Cảng Hải Phòng là "cửa ngõ của thành phố Hải Phòng”. Qua 130 năm xây dựng và phát triển, Cảng luôn giữ vai trò là cảng lớn nhất miền Bắc, đầu mối giao thông, kinh tế, đối ngoại và quốc phòng của khu tam giác kinh tế trọng điểm: Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh.


Việc đầu tư hiện đại hóa cơ sở vật chất và trang thiết bị hiện đại, chủ động cạnh tranh và hội nhập với các cảng biển trong khu vực và quốc tế đã là yếu tố quyết định thu hút lượng hàng hóa qua Cảng Hải Phòng ngày một tăng cao. 5 năm trở lại đây, Cảng đầu tư trên 500 tỷ đồng bằng nguồn vốn tự có, trang bị thêm các xe xúc gạt, công cụ làm hàng rời, xe vận tải chuyên dùng và xe nâng hàng phục vụ việc đóng rút ruột Container, lắp đặt 4 cần trục SOKOL hiện đại tại cầu cảng chính, hoàn thành đầu tư giai đoạn I của dự án công nghệ thống tin (MIS). Đồng thời, Cảng hoàn thiện cải tạo hệ thống cầu cảng dài trên 3.000 mét và hàng trăm nghìn mét vuông bãi chứa hàng, sửa chữa nâng cấp hàng chục nghìn mét vuông kho chứa hàng thành kho tiêu chuẩn, đáp ứng kịp thời sự tăng trưởng của việc lưu thông hàng hóa qua cảng và đón nhữns tàu có trọng tải trên 15.000 DWT.


Năm 2002, Cảng Hải Phòng đưa vào khai thác có hiệu quả dự án cải tạo nâng cấp Cảng Hải Phòng giai đoạn 1 - dự án ODA Nhật Bản đầu tiên trong lĩnh vực cảng biển và triển khai thực hiện giai đoạn 2. Dự án cải tạo nâng cấp Cảng Hải Phòng được xếp hạng A trong danh mục các dự án xây dựng cơ bản của Nhà nước, có tầm quan trọng và ý nghĩa rất to lớn đối với tương lai phát triển của Cảng và thành phố Hải Phòng. Căn cứ báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định 124/TTg phê duyệt tổng mức đầu tư của dự án là 40,029 triệu USD. Tháng 7/1996, dự án bắt đầu triển khai thực hiện. Giai đoạn khẩn cấp có 3 gói thầu đều thực hiện theo phương thức đấu thầu quốc tế. Gói 1: đóng mới 3 tàu lai và 2 xuồng cao tốc do Liên doanh Sahaisant (Thái Lan) và Nhà máy đóng tàu Tam Bạc thực hiện. Gói 2: cải tạo và xây dựng mở rộng bến Container Chùa Vẽ gồm hệ thống kho CFS, bãi xếp hàng Container, cầu tàu mới theo tiêu chuẩn quốc tế. Gói 3: thiết bị xếp dỡ và hệ thống quản lý bến Container bằng vi tính. Đay là gói thầu mang tính chất chuyển giao công nghệ cao, cung cấp thiết bị chuyên dùng xếp dỡ Container và hàng nặng tiên tiến hiện đại nhất do nhà thầu Nhật Bản Mitsui Engineering & Shipbuiding cung cấp. Toàn bộ thiết bị trên được sản xuất và lắp ráp tại Nhật Bản, gồm 2 cần trục giàn tuyến cầu tàu và 4 cần trục giàn tuyến hậu phương có sức nâng 41 tấn, có khẩu độ xếp hàng 1 + 6 (6 hàng Container) và cao độ tới 5 Container, rất thích hợp cho việc bốc xếp container và hàng nặng từ tàu lên bãi và ngược lại... Hiện nay toàn bộ cơ sở vật chât và trang thiêt bị thuộc dự án nâng cấp cải tạo Cảng giai đoạn khàn cấp đã được tiếp nhận đưa vào sử dụng, bước đầu quản lý và khai thác một bên càng container hiện đại, theo tiêu chuẩn quốc tế. Do được đầu tư đúng hướng và kịp thời nên sản lượng hàng hóa mỗi năm tăng trên 1 triệu tấn, trong đó sản lượng Container đã tăng gấp 2 lần so với 5 năm trước đây, hàng container qua Cảng tăng nhanh đã đáp ứng xu thế phát triển của loại hình xếp dỡ vận chuyển tiên tiến của các cảng biển trên thế giới hiện nay, và qua đó tạo nguồn thu lớn chiếm tới hơn 40% doanh thu của Cảng.


Cùng với việc đổi mới cải cách thủ tục hành chính, tạo môi trường thông thoáng “bến hiền, thuyền đậu”, Cảng Hải Phòng đang triển khai tiếp giai đoạn II, sử dụng vốn vay hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) Nhật Bản. Đây là giai đoạn có tính quyết định cho sự phát triển lâu dài của Cảng Hải Phòng với tổng mức đầu tư của dự án là 1.772 tỷ đồng, tương đương 126 triệu USD. Đó là xây dựng luồng tàu mới với độ sâu - 7,2 mét, hoàn thiện 5 bến container Chùa Vẽ. Hiện nay, Cản 2 Hải Phòng đã triển khai thực hiện gói thầu 1 trị giá khoảng 64 triệu USD: Cải tạo luồng vào Cảng và xây dựng 02 cầu tàu container Chùa Vẽ. Theo tiến độ đề ra, sau năm 2005 sẽ tiếp nhận và đưa vào sử dụng toàn bộ kết quả dự án giai đoạn 2, tạo tiền đề đưa công suất của Cảng lên 15-18 triệu tấn đến năm 2010. Cảng Chùa Vẽ sẽ thành khu vực xếp dỡ container hiện đại và lớn nhất khu vực phía Bắc, có công suất xếp dỡ 500.000 Teus container/năm. Ngoài ra, Cảng Hải Phòng đã triển khai dự án giai đoạn I xây dựng Cảng Đình Vũ. Trên tổng diện tích 80 ha cạnh Khu công nghiệp Đình Vũ, dự án xây dựng Cảng Đình Vũ gồm 7 cầu tàu dài 1400 mét cho tàu 20.000 DWT ra vào đang được khẩn trương thực hiện. Hai cầu tàu đầu tiên đã khánh thành vào dịp kỷ niệm 50 năm Hải Phòng giải phóng (13/5/2005). Bên cạnh đó, với mục tiêu tăng cường nguồn hàng vào Cảng, khắc phục luồng cạn, Cảng Hải Phòng còn đầu tư khu vực chuyển tải cho các loại tàu trên 30 nghìn DWT, mở khu chuyển tải Bạch Đằng, Lan Hạ... trị giá 25 tỷ đồng. Cảng Hải Phòng đã cùng các ban ngành của thành phố, Bộ Giao thông vận tải đề xuất việc xây dựng cảng đầu mối Lạch Huyện đón tàu có trọng tải 30.000 - 40.000 DWT. Là doanh nghiệp đầu tiên của ngành Hàng hải Việt Nam thực hiện cổ phần hóa cảng biển, đến nay Cảng đã cổ phần hóa 05 xí nghiệp thành viên thành công ty cổ phần, hiện các công ty đều phát triển tốt.


Tiếp tục đầu tư công nghệ hiện đại, hấp dẫn khách hàng vào Cảng Hải Phòng, giải phóng hàng tốt nhất, nhanh nhất, lịch sự nhất, văn minh nhất - đây cũng là một trong những mục tiêu phấn đấu của Cảng thời gian tới. Ngày nay, trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa nền kinh tế của thế giới, hệ thống cảng biển Việt Nam chính là cầu nối trong việc thông thương hàng hóa, góp phần phát triển và đẩy nhanh tiến độ hội nhập và phát triển của nước nhà. Bằng việc đầu tư xây dựng và hiện đại hóa Cảng Hải Phòng, sử dụng có hiệu quả nguồn vốn vay ưu đãi của ODA, Cảng Hải Phòng đang góp phần đa hệ thống cảng biển Việt Nam lớn mạnh, đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế của đất nước ngang tầm khu vực.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 14 Tháng Mười Một, 2022, 09:04:30 pm
Phần III
KỶ NIỆM LẦN THỨ 420 NGÀY MẤT CỦA
TRẠNG TRÌNH NGUYỄN BỈNH KHIÊM
         
PHÁT HUY TRUYỀN THỐNG, XÂY DỰNG QUÊ HƯƠNG NGÀY CÀNG GIẦU ĐẸP

NGUYỄN ĐỨC MAI
(Chủ tịch UBND huyện Vĩnh Bảo)

   “Mừng hôm nay:
   Trời Vĩnh Bảo bốn mặt treo cờ
   Đất Lý Học một ngày mở hội
   Xóm làng nhộn nhịp trống chiêng
   Đền miếu uy nghi hương khói... ”



Mỗi lần đến dịp kỷ niệm ngày mất Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, Vĩnh Bảo lại tưng bừng mở hội, thôn xóm rực rỡ cờ hoa. Khắp các nẻo đường, dòng người nhộn nhịp khách thập phương. Từ lâu, lễ hội kỷ niệm ngày mất Trạng Trình đã trở thành hoạt động văn hóa lớn của thành phố Hải Phòng, niềm tự hào của người dân địa phương.


Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh năm Tân Hợi (1491), mất năm 1585. Trạng sinh ra trong gia đình nho sĩ bình dân ở làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại, nay là làng Trung Am, huyện Vĩnh Bảo. Cha là Nguyễn Văn Định, đỗ hương cống triều Lê nhưng không ra làm quan, ở nhà dạy học. Mẹ là Nhữ Thị Thục, con gái tiến sĩ Nhữ Văn Lan, người làng Yên Tử Hạ, Tiên Minh, xã Kiến Thiết, huyện Tiên Lãng.


Nguyễn Bỉnh Khiêm đỗ Trạng Nguyên khoa thi Đình năm Ất Mùi (1535), được bổ nhiệm chức Hiệu thư ở Viện Hàn lâm, sau đó chuyển sang chức Đại học sĩ Tòa Đông Các, sau thăng Tả thị lang Bộ Hình, rồi Tả thị lang Bộ Lại. Thân thế và sự nghiệp Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là tấm gương lớn về tài năng và đức độ, trí tuệ uyên bác. "Trên thông thiên văn, dưới tường địa lý", thông tỏ lẽ đời xử thế. Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm được đánh giá danh nhân văn hóa lớn của đất nước ta. Đó cũng là niềm tự hào của người dân Vĩnh Bảo nói liêng, thành phố Hải Phòng nói chung.


Những năm qua, phát huy truyền thống con cháu Trạng Trình, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân huyện Vĩnh Bảo luôn nêu cao truyền thống hiếu học, chú trọng công tác giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ, đào tạo nhân tài cho đất nước. Huyện luôn đề cao vai trò của giáo dục đối với sự nghiệp phát triển địa phương. Các cấp, ngành, các gia đình, dòng họ đều thấm nhuần tinh thần "Học để tàm người, học để xây dựng quê hương, đất nước". Công tác phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng giáo dục được quan tâm đúng mức, các cấp học ngày càng ổn định, phát triển về số lượng và chất lượng, nhiều trường học đạt chuẩn quốc gia. Các cấp chính quyền, đoàn thể quán triệt sâu sắc tinh thần phát huy truyền thống giáo dục. Mỗi gia đình, mỗi người dân Vĩnh Bảo đều xác định rõ hướng đi cho mình: không ngừng học tập, rèn luyện là con đường ngắn nhất, vinh quang nhất để đi lên. Các xã, thị trấn có quỹ khuyến học, các dòng họ xây dựng quỹ khuyến học để động viên, khen thưởng con cháu đạt thành tích cao trong học tập và rèn luyện. Khắp các vùng quê, thôn xóm, tinh thần tự hào truyền thống con cháu Trạng Trình luôn là niềm động viên, khích lệ để các thế hệ người dân Vĩnh Bảo nỗ lực vươt lên mọi khó khăn của vùng đất nông nghiệp đồng chua nước mặn. Nhờ đó, nhiều năm liền, Vĩnh Bảo luôn là địa phương dẫn đầu khối ngoại thành về số học sinh giỏi, nhiều con cháu Vĩnh Báo thành đạt khắp các phương trời đất nước... Danh xưng Nguyễn Bỉnh Khiêm đã trở thành niềm tự hào của nhân dân Vĩnh Bảo, với những cái tên: Trường trung học cơ sờ Nguyễn Bỉnh Khiêm, Trường trung học phổ thông Nguyền Bỉnh Khiêm, giải thưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm, câu lạc hộ Nguyễn Bỉnh Khiêm... Vĩnh Bảo từ lâu đã được tôn là "đất Trạng", "đất học". Trong thực hiện phát triển kinh tế-xã hội, các cấp chính quyền huyện Vĩnh Bảo luôn khắc ghi những lời chỉ dạy cho muôn đời sau: "Cổ lai quốc dĩ dàn vi bản, Đắc quốc ưng tri tại đắc dân (Xưa nay việc nước lấy dân làm gốc. Được lòng dân là được đất nước)” - chú trọng phát huy quy chế dân chủ ở cơ sở, huy động sức mạnh tổng hợp của toàn dân, hoàn thành tốt các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, đưa Vĩnh Bảo trở thành trọng điểm nông nghiệp của thành phố Hải Phòng, nhiều năm liên tục dẫn đầu thành phố về năng suất lúa.


Để giữ gìn tốt hơn những di sản văn hóa Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, huyện Vĩnh Bảo luôn tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của các cấp, ngành, huy động các nguồn vốn đầu tư để từng bước tu bổ, trùng tu, bảo vệ các di sản văn hóa liên quan đến thân thế và sự nghiệp Trạng Trình. Nhất là từ năm 2000 đến nay, thành phố đầu tư hàng chục tỷ đồng tôn tạo khu di tích Trạng Trình. Hướng tới lễ kỷ niệm lần thứ 420 ngày mất Trạng Trình, hệ thống giao thông, cầu cống được mở rộng, nâng cấp. Đền chính, chùa Song Mai, quán Trung Tân, nâng cao đồi đất, Bạch Vân am, quảng trường, hồ bán nguyệt... liên tiếp được đầu tư. Khu di tích đền Trạng hôm nay đã dần hoàn thiện, trở thành điểm văn hóa, du lịch lớn của thành phố, xứng đáng với tầm vóc văn hóa Trạng Trình, lòng tôn kính của nhân dân. Đây là điều kiện thuận lợi để huyện Vĩnh Bảo có thể khai thác tốt tiềm năng du lịch, đưa du lịch văn hóa trở thành thê mạnh kinh tế của địa phương.


Lễ hội kỷ niệm lần thứ 420 ngày mất Trạng Trình Nguyên Bỉnh Khiêm được tổ chức với quy mô cấp thành phố. Hơn bao giờ hết, các cấp, ngành thành phố, người dân Vĩnh Bảo dành nhiều tâm sức chuẩn bị để lễ hội diễn ra tốt đẹp. Nhân ngày khai mạc lễ hội, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Vĩnh Bảo cảm ơn cấc cấp, các ngành trung ương và thành phố đã tạo điều kiện, tập trung đầu tư để Vĩnh Bảo tôn tạo và mở rộng quần thể khu di tích ở thôn Trung Am, xã Lý Học, xứng với tầm vóc văn hóa Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, đồng thời tôn tạo nhiều công trình điểm văn hóa truyền thống như chạm khắc Đồng Minh, rối nước Nhân Hòa... Các thế hệ người dân Vĩnh Bảo hôm nay luôn mang trong lòng niềm tự hào con cháu Trạng Trình. Trong thời gian tới, huyện Vĩnh Bảo mong muốn tiếp tục nhận được sự quan tâm, giúp đỡ của thành phố, các tổ chức, cá nhân để đẩy nhanh công tác quy hoạch khu di tích, tạo điều kiện để địa phương thực hiện tốt hơn nhiệm vụ bảo vệ, giữ gìn di sản văn hóa Trạng Trình, phát triển du lịch, góp phần xây dựng Vĩnh Bảo trở thành địa phương giầu truyền thống văn hóa, phát triển kinh tế, đóng góp quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và phát triển thành phố Hải Phòng.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 14 Tháng Mười Một, 2022, 09:05:32 pm
Phần IV
TỪ ĐƯỜNG HỌ TRỊNH KHU PHƯƠN6 LƯU 2
PHƯỜNG ĐÔNG HẢI, QUẬN HAI AN

Hà Nội, ngày 26 tháng 11 năm 2005

THƯ GỬI BAN QUẢN LÝ TỪ ĐƯỜNG HỌ TRỊNH


Từ đường họ Trịnh khu Phương Lưu 2 - phường Đông Hải, quận Hải An, thành phố Hải Phòng. Nơi đây trong kháng chiến chống Pháp, gia đình cụ Trịnh Văn Nghệ và cụ bà Trần Thị Xúc, cơ sở nuôi, giấu cán bộ kháng chiến và đây cũng là nơi Chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên được thành lập của địa phương này (10-10-1949).


Ngày nay, Từ đường họ Trịnh khu Phương Lưu 2 thường xuyên được các đoàn thể, nhân dân tổ chức các cuộc sinh hoạt chính trị, giáo dục truyền thống, họp bàn việc xây dựng phát triển kinh tế, văn hóa, khoa học, xã hội của quê hương.


Nhân dân phường Đông Hải mãi mãi tự hào về cơ sở cách mạng anh hùng của quê hương mình.

Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng quyết định xếp hạng Từ đường họ Trịnh khu Phương Lưu 2 là Di tích lịch sư kháng chiến đã đáp ứng nguyện vọng chính đáng của nhân dân.

Nhân dịp này, tôi xin chúc Đảng ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và nhân dân phường Đông Hải cùng Ban chủ nhiệm Hợp tác xã Bạch Đằng, Ban quản lý khu di tích Từ đường họ Trịnh đoàn kết, cùng nhau giữ gìn, phát huy truyền thống, ra sức thi đua xây dựng quê hương tiến bộ toàn diện, xứng đáng một cơ sở cách mạng Anh hùng, mãi mãi phát triển và ngời sáng.

LÊ KHẢ PHIÊU
Nguyên Tổng Bí thư BCH TW
Đảng Cộng sản Việt Nam


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 14 Tháng Mười Một, 2022, 09:06:40 pm
TỪ ĐƯỜNG HỌ TRỊNH –
DI TÍCH LỊCH SỬ KHÁNG CHIẾN CỦA
PHƯỜNG ĐÔNG HẢI, QUẬN HẢI AN
(Bài phát biểu tại Lễ đón Bằng di tích lịch sử kháng chiến
Từ đường họ Trịnh ngày 26/11/2005)


NGUYỄN HỮU NGHI
(Phó giám đốc
Bảo tàng thành phố Hải Phòng)


Từ đường họ Trịnh thuộc khu Phương Lưu 2, phường Đông Hải, quận Hải An, thành phố Hải Phòng được ủy ban nhân dân thành phố quyết định công nhận là Di tích lịch sử trong hệ thống di tích cách mạng kháng chiến. Từ đường họ Trịnh tại Phương Lưu 2 với diện tích khiêm nhường trong khuôn viên gọn gàng ngăn nắp song chứa đựng một nội dung phong phú. Ở đó, thông tin cho chúng ta hiểu về một thời quá khứ rất hào hừng oanh liệt của thế hệ đi trước trên con đường cách mạng, đấu tranh giải phóng dân tộc.


Vào những năm 1949-1954, những năm gay go nhất dưới thời thuộc Pháp, ngôi từ đường đã che chở, bảo vệ cán bộ, cất giấu tài liệu, là nơi hội họp bí mật của chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam xã Đông Hải chỉ đạo phong trào chống Pháp.


Với lòng yêu nước hướng về cách mạng, hướng về kháng chiến, chủ nhân ngôi từ đường là cụ ông Trịnh Văn Nghệ và cụ bà Trần Thị Xúc xây dựng, là nơi thờ cúng tổ tông, nhưng với lòng yêu nước và được giác ngộ cách mạng, hai cụ đã đào dưới khám thờ một căn hầm bí mật. Hầm bí mật đó đã trở thành nơi làm việc của các đồng chí cán bộ Việt Minh. Ngày 10 tháng 10 năm 1949, từ đường dòng họ Trịnh đã là một di tích minh chứng một không khí trang nghiêm, giản dị nhưng đầy ý nghĩa chính trị của địa phương, đó là sự ra đời chi bộ Đàng Cộng sàn Việt Nam đầu tiên của xã Đông Hải, huyện An Hải xưa, nay là phường Đông Hải, quận Hải An. Gồm 4 đồng chí đảng viên: Lê Danh Nhân, Bí thư chi bộ; Ngô Văn Cốt, đảng viên: Trịnh Chiến Xa, đảng viên; Phạm Thị Ghi, đảng viên.


Chi bộ được thành lập là mốc son trong trang sử ghi dấu ấn chuyển biến từ đấu tranh tự phát sang đấu tranh tự giác, đồng thời khẳng định từ nay quần chúng đã có một tổ chức chi bộ Đảng địa phương lãnh đạo. Từ khi chi bộ Đảng ra đời thì nhiều cuộc đấu tranh của quần chúng xã Đông Hải, huyện Hải An đã dần dần lớn mạnh làm cho thực dân Pháp và chính quyền tay sai lo sợ, vì vậy chúng ra sức khủng bố, chà xát, vây ráp hòng làm khiếp nhược tinh thần đấu tranh cách mạng của quần chúng.


Căn hầm bí mật lúc này trở thành nơi đi về của các đồng chí cán bộ Việt Minh, nơi ẩn náu của những người tù chính trị vượt ngục từ Căng Máy Chai, Căng Đoạn Xá trở về với tổ chức, với phong trào. Chính căn hầm nhỏ dưới khám thờ là nơi che giấu cán bộ và đánh lạc hướng sự lùng sục của thực dân Pháp.


Chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên của huyện Hải An sau khi thành lập đã xây dựng phong trào quần chúng đấu tranh của huyện nhà, kết hợp với các huyện lân cận tổ chức nhiều cuộc đấu tranh chống sưu thuế, chống đi phu, chống bắt lính, chống càn quét, thực hiện phá hoại kinh tế trong lòng địch và tiêu hao sinh lực địch.


Trong suốt thời gian những năm kháng chiến tại địa phương, lực lượng vũ trang, lực lượng tuyên truyền, lực lượng binh vận, lực lượng quân báo, lực lượng tình báo của ta đã dựa vào dân, được dân che chở đùm bọc đã lập nên nhiều chiến công oanh liệt, thành tích vẻ vang.


Để có những thành tích đó, phải kể đến những cơ sờ quần chúng trung kiên là chỗ dựa vững chắc của cách mạng. Căn hầm bí mật của bà Đặng Thị Sáu tại phường Dư Hàng Kênh, quận Lê Chân - cơ sở cách mạng nám 1936- 1939 được Nhà nước xếp hạng Di tích cấp quốc gia, và hôm nay, chúng ta lại chứng kiến một căn hầm nữa, căn hầm bí mật đã từng bảo vệ cán bộ cách mạng trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp của dòng tộc họ Trịnh.


Từ trong lòng những căn hầm tối đó đã chứng minh một quan điểm về đường lối đấu tranh cách mạng của Đảng ta: "Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng".

Ngôi từ đường tọa lạc trên mảnh đất tổng diện tích khoảng 400m2 được trùng tu tôn tạo để thờ phụng tiên tổ, với kiến trúc ngôi nhà gỗ 3 gian, tường hồi bít đốc theo kiêu nhà cũ, nếp xưa với đồ thờ tự rất gần gũi, gắn bó với dòng tộc gợi lại một khung cảnh nghiêm trang và thanh bình.


Đằng sau sự dung dị của ngôi nhà đó là một trang sử ngời sáng, phản ánh sự quyết tâm của nhân dân ta theo Đảng, phản ánh một tinh thần yêu nước. Chính xuất phát từ tấm lòng và công trạng của chủ nhân ngôi từ đường, hai cụ Trịnh Vãn Nghệ và cụ bà Trần Thị Xúc đã được Đảng và Nhà nước trao tặng Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, và được các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước cùng nhiều đồng chí lãnh đạo cao cấp của quân đội, các cơ quan đoàn thể như nguyên Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Lê Khả Phiêu, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Đại tướng Nguyền Quyết, Thượng tướng Hoàng Minh Thảo tới tham quan, tưởng niệm.


Hôm nay (ngày 26/11/2005), trong không khí trang nghiêm long trọng này, chúng ta tổ chức lễ đón nhận Bằng xếp hạng cho Di tích Từ đường dòng họ Trịnh, khu Phương Lưu 2, phường Đông Hái, quận Hải An, thành phố Hải Phòng là di tích cách mạng kháng chiến. Chúng ta vui mừng sau khi ngôi từ đường dòng họ Trịnh dược Nhà nước xếp hạng là tích lịch sử thì đó đã trở thành một địa chỉ đỏ, đó là niềm tự hào và từ nay chúng ta có bổn phận giữ gìn, bào dưỡng di tích này là nơi giáo dục truyền thống yêu nước và bồi đắp tình cảm cách mạng cho thế hệ trẻ.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 14 Tháng Mười Một, 2022, 09:08:00 pm
NÉT ĐẸP TRUYỀN THỐNG CỦA CHI TỘC HỌ TRỊNH Ở HẢI PHÒNG

TRỊNH TRỌNG GIỮ


Đất nước Việt Nam ta có hàng nghìn chi họ Trịnh. Từ xa xưa, họ Trịnh được sử sách ghi lại một thời trị vì đất nước. Với 12 đời Chúa Trịnh thay nhau nắm giữ nsôi Chúa suốt 243 năm là một triều đại nắm giữ quyền trị vì dài nhất trong lịch sử Việt Nam.


Ở Hải Phòng cũng có nhiều địa danh là “địa linh nhân kiệt” mang dấu ấn lịch sử của các Chi họ Trịnh, nằm trên miền đất Nữ tướng Lê Chân khai phá. Đó là Chi họ Trịnh Xá nằm cạnh dãy núi cổ Thủy Nguyên. Cũng tại đây, làng Rực Liễn lại có đình Rực Liễn thờ 3 vị tướng tài họ Trịnh, đó là Trịnh Hồng Thao, Trịnh Hồng Thám và Trịnh Hồng Mon. Tương truyền, thời vua Hùng Duệ Vương thứ 18 xuất hiện 3 anh em họ Trịnh nói trên đã có công đứng lên dẹp giặc cứu nước, cứu dân độ thế, khi mất được các đời vua cho lập đền thờ và sắc phong thần Hoàng. Đình Rực Liễn có sự tích đó được ghi vào sử sách. Năm 2004, đình Rực Liễn được Nhà nước công nhận là “Di tích lịch sử văn hóa”, chính là khu di tích Chi họ Trịnh xuất hiện năm xưa.


Ở Đổ Sơn có đền thờ Bà Đế (Trịnh Chúa phu nhân). Tục truyền rằng: Vào thế kỷ 18, Chúa Trịnh Doanh đi thị sát trận địa, đến Đồ Sơn gặp được thôn nữ làng chài Đào Thị Hương đem lòng thương mến rồi kết duyên. Chúa Trịnh về kinh đô vì bận công việc chưa kịp làm lễ cưới, nàng thiếu nữ mang thai. Theo lệ làng, thiếu nữ bất hạnh chịu hình phạt cạo đầu, bôi vôi, đeo đá dìm xuống biển. Nỗi oan ức thấu trời chưa được gặp lại Chúa Trịnh, linh hồn thiếu nữ đã hiển linh trên sông biển cứu giúp dân lành thoát hiểm. Nhân dân Đồ Sơn đã lập đền thờ Bà dưới chân núi Độc gọi là Đền Bà Đế. Hằng năm, cứ vào dịp đầu xuân, đền Bà Đế đón hàng vạn du khách thập phương đến thăm và cầu mong cho sự yên bình, tạo cho khu du lịch Đồ Sơn thêm sầm uất.


Còn ở phía Đông Bắc nội thành Hải Phòng có phường Đông Hải (xưa là xã Đông Hải) cũng là miền đất “địa linh nhân kiệt” có nhiều chùa chiền, miếu mạo ghi lại các sự tích cổ xưa của nhiều triều đại. Ở đây có từ đường họ Trịnh - Phương Lưu, được chi tộc họ Trịnh - Phương Lưu xây dựng vào mùa thu năm 1939 do hai cụ Trịnh Văn Nghệ và cụ bà Trần Thị Xúc góp công, góp của tạo dựng từ đường để ghi nhớ công đức tổ tông và làm nơi thờ cúng tổ tiên của chi tộc họ Trịnh - Phương Lưu. Đồng thời cũng là nơi hội tụ cháu con dòng họ Trịnh về đây thực hiện đạo lý:

“Tổ tông công đức thiên niên thịnh
Tử quý, tôn hiền vạn đại vinh”


Với đạo lý cao đẹp ấy, với tấm lòng yêu nước, trong cuộc kháng chiến chống Pháp, các cụ đã đào hầm bí mật trong ngôi từ đường trang nghiêm của chi họ Trịnh - Phương Lưu để nuôi giấu cán bộ cách mạng. Và tại đây ngày 10/10/1949, Chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên của xã Đông Hải được công bố quyết định thành lập. Đó là dấu ấn lịch sử đem lại vinh dự cho chi tộc họ Trịnh - Phương Lưu. Phấn khởi hơn nữa, ngày 24/10/2005, từ đường họ Trịnh - Phương Lưu lại được Nhà nước công nhận là "Di tích lịch sử kháng chiến”. Cùng với niềm tự hào của dân tộc, họ Trịnh ở Hải Phòng còn có hàng trăm từ đường họ Trịnh năm rải rác ở làng, xã, phường, là nơi hội tụ của các thế hệ con cháu dòng họ Trịnh. Hằng năm, cứ vào đầu xuân, các chi họ Trịnh lại chức tế lễ nhằm ôn lại truyền thống của tổ tiên và dâng hương báo công với tổ tiên về thành quả của một năm lao động, học tập mà con cháu các chi họ Trịnh đạt được. Đây là nét đẹp quý báu, niềm tự hào của một dòng họ trong lịch sử nước nhà.


Tiếp bước tổ tiên, giữ gìn truyền thống lịch sử, các thế hệ chi tộc họ Trịnh - Hải Phòng trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ đã có hàng vạn con em tình nguyện lên đường bảo vệ Tổ quốc. Nhiều người đã trở thành cán bộ cấp cao trong quân đội và nhiều con em họ Trịnh đã vì nước quên thân, hy sinh anh dũng, nhiều người đã bỏ lại một phần xương máu tại chiến trường trở thành thương binh. Với những công lao ấy, con cháu họ Trịnh - Hải Phòng đã được Nhà nước tặng thưởng nhiều huân chương, huy chương cao qúy, làm rạng danh dòng họ Trịnh.


Trong kháng chiến chống xâm lược là vậy, còn trong hòa bình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, con cháu họ Trịnh tiếp tục phát huy tài năng, trí tuệ để sản xuất kinh doanh dịch vụ nhằm đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu. Đến nay trên địa bàn Hải Phòng đã có trên 100 doanh nghiệp của con cháu họ Trịnh - Hải Phòng tạo lập, thu hút hàng vạn lao động hằng năm có doanh thu hàng ngàn tỷ đồng, tạo ra nhiều sản phẩm phục vụ xã hội. Nhiều doanh nghiệp của dòng họ Trịnh đã có thành tích sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả, trở thành những doanh nghiệp tiên tiến được Nhà nước tặng nhiều Huân chương Lao động hạng nhất, hạng nhì, hạng ba và nhiều bằng khen, cờ thi đua xuất sắc của các cấp thành phố.


Trong các thế hệ con cháu họ Trịnh, nhiều người đã phấn đấu học tập trở thành tiến sĩ, thạc sĩ, giáo sư và hàng trăm kỹ sư, cử nhân kinh tế, nhiều người đã trở thành cán bộ lãnh đạo thành phố, lãnh đạo các ngành và lãnh đạo cơ sở thuộc các ngành nghề đang tiếp bước tổ tiên làm rạng danh các chi tộc họ Trịnh trên quê hương Hải Phòng.


Với những nét đẹp truyền thống, hằng năm cứ vào đầu xuân, các thế hệ con cháu các chi tộc họ Trịnh lại họp mặt ôn lại truyền thống tốt đẹp của tổ tiên, ông cha và tổ chức dâng hương báo công với tổ tiên về thành tích làm được sau một năm lao động, nhắc nhở nhau tiếp tục hoàn thành nhiệm vụ mới.


Bước sang năm 2006 - năm đầu của kế hoạch 5 năm lần thứ hai của thiên niên kỷ mới, các chi tộc họ Trịnh - Hải Phòng đã tổ chức họp mặt vào ngày 12/3/2006 tại Cung Văn hóa lao động Hữu nghị Việt Tiệp, cùng nhau báo công với tổ tiên và chúc thọ người cao tuổi, phát thưởng cho học sinh giỏi, đỗ đạt cao cho con cháu dòng họ, đồng thời tuyên dương khen thưởng những cá nhân lao động giỏi ở các cơ sở doanh nghiệp của họ Trịnh trên đất Hải Phòng. Đây là một hoạt động cao đẹp đầy ý nghĩa, mang tính nhân văn mà các chi tộc họ Trịnh đã phát huy nét đẹp đó trên tầm cao mới đáng được khích lệ.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 14 Tháng Mười Một, 2022, 09:08:52 pm
SỨC BẬT MỚI Ở TẬP ĐOÀN KINH TẾ ĐÔNG HẢI


TRỊNH TRỌNG GIỮ


Trước yêu cầu chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và đáp ứng đòi hỏi của sản xuất, kinh doanh thương mại và dịch vụ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa thành phố và đất nước, Tập đoàn kinh tế công nghiệp Đông Hải được thành lập với 14 thành viên là các công ty sản xuất kinh doanh, thương mại và dịch vụ nhiều ngành nghề, nhiều lĩnh vực. Đó là Hợp tác xã Bạch Đằng, Công ty Kiến Phát, Công ty 359, Công ty Đông Thủy, Công ty Long Phượng, Công ty TNHH thương mại Tân Hồng, Công ty thương mại Thuận Thắng, Công ty cổ phần Hải Đà, Công ty Thuận Thành, Công ty Cường Minh, Công ty Lương Mạnh Chiến, Công ty Việt Thắng, Công ty Chính Nghĩa và Công ty Hoàng Phát. Đây là một tập đoàn kinh tế tuy mới thành lập năm 2005 nhưng khá mạnh về vốn, cơ sở hạ tầng kỹ thuật, được đầu từ đầy đủ các phương tiện sàn xuất và có đông đảo đội ngũ công nhân lành nghề, cán bộ quản lý có nhiều kinh nghiệm trong sản xuất kinh doanh, đáp ứng mọi yêu cầu của các đối tác.


Tập đoàn kinh tế Đông Hải vững mạnh như hiện nay là nhờ sự kế thừa từ ba năm trước: năm 2003 đã ra đời cụm kinh tế công nghiệp Đông Hải trên cơ sở sự lớn mạnh của Hợp tác xã Bạch Đằng phát triển thành 7 đơn vị kinh tế, hạch toán độc lập với các ngành nghề đa dạng từ khai thác nguyên vật liêu xây dựng, san lấp mật bằng, xây dựng cơ bản, đóng mới sửa chữa các phương tiện thủy từ trọng tải 300 tấn đến 1000 tấn, nuôi trồng chế biến thủy sản, kinh doanh thương mại và dịch vụ... Sau 2 năm đi vào hoạt động, cụm kinh tế công nghiệp Đông Hải đã phát huy cao độ năng lực sản xuất kinh doanh đạt được những thành tích đáng khích lệ, đó là lực lượng sản xuất phát triển, nhiều sản phẩm mới ra đời, quan hệ sản xuất được mở rộng. Nhờ đó các đơn vị thành viên cụm kinh tế Đông Hải đã từng bước đầu tư mới nhiều thiết bị, máy móc, mở lộng mặt bằng nhà xưởng, tăng cường đào tạo công nhân và bồi dưỡng nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ quản lý đáp ứng các yêu cầu nhiệm vụ. Tuy nhiên, trước sự đòi hỏi trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, cuối năm 2005, Cụm kinh tế công nghiệp Đông Hải tập hợp thêm đơn vị mới cùng ngành nghề sản xuất kinh doanh đa năng thành Tập đoàn kinh tế Đông Hải với thành viên. Đây là tập đoàn kinh tế ngoài quốc doanh đủ mạnh đế đảm đương được những dự án lớn trên các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, đồng thời Tập đoàn kinh tế Đông Hải cũng đú các điều kiện liên doanh liên kết với các công ty lớn trong nước và ngoài nước đáp ứng các dự án của đối tác. Có được sức mạnh tổng hợp đó là nhờ sự điều hành hợp lý của lãnh đạo tập đoàn, biết phát huy khá năng, sở trường của từng thành viên, cùng nhau hợp tác chặt chẽ; cùng chung sức, chung lòng xây dựng Tập đoàn kinh tế Đông Hải - một mô hình sản xuất mới trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Gần nửa năm đi vào hoạt động, Tập đoàn kinh tế Đông Hải đảm bảo đủ công ăn việc làm cho cán bộ công nhân của 14 đơn vị thành viên với mức thu nhập ổn định. Điều đáng nói là Tập đoàn kinh tế Đông Hải không chỉ chú trọng về sản xuất kinh doanh - dịch vụ mà còn có cả một hệ thống tổ chức chính trị vững vàng, đó là Chi bộ Đảng đã phát triển được 09 đảng viên, có Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Cựu chiến binh, Hội phụ nữ. Tập đoàn kinh tế Đông Hải vận dụng các cơ chế cho phép của luật pháp Nhà nước đưa ra những quy định cụ thế thiết thực trong quản lý sản xuất và kinh doanh thương mại. Mọi công việc đều thực hiện theo quy chế dân chủ họp bàn công khai trong việc thưc hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh, dịch vu.


Người đứng đầu mỗi đơn vị thành viên tự chịu trách nhiệm trước pháp luật, chịu sự chỉ đạo của tập thể Hội đồng quản trị tập đoàn về kết quả sản xuất kinh doanh. Mọi cán bộ công nhân viên trong tập đoàn đều được hưởng quyền lợi BHXH, BHYT, người có năng lực đủ trình độ được cử đi học bồi dưỡng nâng cao về chuyên môn nghiệp vụ. Các phong trào văn hóa, thể thao cũng như mọi sinh hoạt của các tổ chức chính trị ở tập đoàn sinh hoạt có nền nếp. Phải nói rằng Tập đoàn kinh tế Đòng Hải chẳng khác nào như mô hình một tổng công ty của Nhà nước.


Với sự hợp tác trong sản xuất kinh doanh, có sự chỉ huy thống nhất của Hội đồng quản trị tập đoàn tới các đơn vị thành viên, từ đầu năm 2006 đến nay Tập đoàn kinh tế Đông Hải đã nhận được những gói thầu lớn, những dự án khó khăn phức tạp đều thực hiện đúng kế họach. Nhờ vậy quý I/2006 cả 14 đơn vị thành viên đều hoàn thành vượt mức kế hoạch, cả tập đoàn vượt các chỉ tiêu đề ra. Bước sang quý II/2006, nhất là trong tháng 4 thi đua lập thành tích chào mừng Đại hội Đàng toàn quốc lần thứ X. Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ XIII Tập đoàn kinh tế Đông Hải phát động thi đua với mục tiêu “Năng suất cao, Chất lượng tốt, hạ giá thành" được cán bộ công nhân viên của tập đoàn hưởng ứng, tạo cho Tập đoàn kinh tế công nghiệp Đông Hải có sức bật mới đạt những kết quả cao hơn.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 14 Tháng Mười Một, 2022, 09:10:05 pm
LÀNG VĂN HÓA PHƯƠNG LƯU XỨNG ĐÁNG VỚI BỀ DÀY TRUYỀN THỐNG LỊCH SỬ


TRỊNH TRỌNG GIỮ


Năm 1997, làng Phương Lưu được UBND huyện An Hải công nhận là Làng văn hóa cấp huyện đầu tiên của xã Đông Hải. Ba năm sau, vào năm 2000, Làng văn hóa cấp huyện Phương Lưu lại được UBND thành phố Hải Phòng công nhân là Làng văn hóa cấp thành phố. Niềm vui nối tiếp niềm vui không chỉ là niềm tự hào của cán bộ và nhân dân làng Phương Lưu mà còn là sự ghi nhận của các cấp chính quyền về sự phát triển liên tục góp phần giữ gìn bản sắc vắn hóa dân tộc" của người Việt Nam trong thời kỳ giữ nước và xây dựng đất nước.


Ngược dòng lịch sử về trước: Làng Phương Lưu hình thành khoảng năm 1120 của thế kỷ XII trên miền đất Đông Bắc thành phố Hải Phòng được những cồn cát và phù sa của sông Bạch Đằng và cửa Nam Triệu bồi đắp. Thời đó, các cư dân ở nhiều nơi đến đây khai hoang lập nghiệp hình thành làng Phương Lưu. Thời gian đầu làng Phương Lưu có tên gọi làng Vĩnh Lưu - thời nhà Nguyễn đời vua Duy Tân (hiệu là Vĩnh San). Vì phạm tên húy "Vĩnh” của nhà vua nên năm 1907, Vĩnh Lưu đổi thành làng Phương Lưu. Trải qua chín đời vua trong lịch sử nhà nước phong kiến Việt Nam, làng Phương Lưu được cấp 16 sắc phong, trong đó có sắc phong của vua Lê Duy Phương, niên hiệu Vĩnh Khánh vào năm 1730 cho miếu Phương Lưu thờ đức Ngô Vương Quyền.


Làng Phương Lưu xưa có diện tích khoảng 400 ha, dân số trên 4000 người, có nhiều dòng họ chung sống như: họ Trịnh, Nguyễn, Trần, Đào, Lê, Phạm... Dân cư được phân bố rất thuận lợi cho việc sinh hoạt, sản xuất, buôn bán. Có đường đi qua giữa làng hình thành hai xóm: xóm trên và xóm dưới. Giữa làng là con đường cắt ngang chia làm hai xóm: xóm trong và xóm ngoài. Những cái tên: trên - dưới - trong - ngoài giản đơn chân chất như củ khoai, củ sắn nhưng nó bao hàm rộng lớn một ý nghĩa thân thương, gần gũi, gắn bó bao nhiêu người khác quê với nhau như câu ca:

"Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn"


Sự gắn kết của người cùng "máu đỏ, da vàng" là truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam nói chung và của người Phương Lưu nói riêng. Làng Phương Lưu có nhiều đền, chùa, miếu mạo mang đậm dấu ấn "uống nước nhớ nguồn", nhớ về nguồn cội... Đầu làng là đền Thiện thờ Đức phật Thích Ca mâu ni, Ngọc Hoàng thượng đế; Nam Tào, Bắc Đẩu, Đức Thánh Trần và thờ Mẫu. Đền làng Phương Lưu được nhân dân xây dựng với lòng mong đợi thần linh cứu dân độ thế, mong trời mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an. Theo truyền thuyết, mỗi khi dân làng cúng cầu đều được các vị thần linh cứu ứng nên làng đặt tên là Đền Thiện. Từ ý nghĩa đó, mọi người đến lễ chỉ cầu mong, ước nguyện làm nhiều việc thiện cho người và cho đời. Phía sau đền là ngôi nhà thờ nhỏ gọi là từ. Ngôi từ thờ Thổ Công, Thổ Địa cúng cầu cho dân làng bình an, thịnh vượng. Giữa làng có đình thờ Thành Hoàng làng. Tục truyền vào năm 1288, một tướng tài của Trần Hưng Đạo đánh đuổi quân Nguyên không may bị thương mất một cánh tay được dân làng trông nom, cứu chữa, nhưng vì vết thương quá nặng ngài đã từ trần tại đây. Dân làng xót thương tôn sùng là Thành Hoàng làng và xây đình để thờ vị tướng nhà Trần nói trên. Tiếp đình làng là miếu. Miếu Phương Lưu được các dòng họ xây dựng thờ Đức Ngô Vương Quyền. Có sắc phong của vua Lê Duy Phương và ngày nay miếu Phương Lưu được Nhà nước công, nhận "Di tích lịch sử cấp quốc gia" vào tháng 12 năm 2001. Cuối làng có chùa Vĩnh Khánh được xây vào năm 1720. Chùa xây theo kiến trúc cổ: tiền chùa hậu tổ với nhiều tượng Phật cổ kính, mang giá trị nghệ thuật thời tiền sử. Qua nhiều năm, chùa xuống cấp, nay được sư thầy Thích Diệu Hoàn trụ trì xây lại với quy mô bề thế khang trang. Chùa là nơi sinh hoạt tín ngưỡng của dân làng. Mỗi người đến đây tự do thờ cúng, tụng kinh, cầu nguyện gặp nhiều may mắn. Cùng với các đình, chùa, miếu mạo kể trên làng Phương Lưu còn có hai ngôi lầu là lầu cụ Phỏng và lầu cụ Đoàn Đình. Ngoài ra, mỗi dòng họ lại có nhà thờ tổ cũng được xây dựng rất cổ kính mang đậm nét văn hóa độc đáo của dân tộc. Trong các từ đường dòng họ, từ đường họ Trịnh đã được UBND thành phố Hải Phòng công nhận là di tích lịch sử kháng chiến vào năm 2005. Hiện nay chùa Phương Lưu và đền Thiện - Phương Lưu đang được khôi phục với quy mô bề thế giữ đúng bản sắc cổ xưa của dân tộc và đang đề nghị cấp có thẩm quyền công nhận di tích lịch sử văn hóa.


Với một bề dầy lịch sử thể hiện qua các đinh, chùa, miếu mạo, các di tích lịch sử đã được xếp hạng, làng Phương Lưu hằng năm mở hội vào rằm tháng giêng. Hội được tổ chức tế lễ, dâng hương và rước long đình, bát biểu từ đình về miếu, từ miếu về đình. Theo truyền thuyết: năm nào lễ hội long đinh quay tròn (bay) năm đó dân làng làm ăn thịnh vượng, tài lộc sinh sôi nảy nở. Cùng với tế lễ là nhiều cuộc vui chơi giải trí như: chọi gà, đánh vật, cờ tướng, cầu thùm bắt vịt, đi kheo, múa hát... Đặc biệt là tục thi làm cỗ của các mẹ, các chị trong làng nhằm khuyên khích tài năng nội trợ của người phụ nữ.


Trải qua hàng chục thế kỷ, đến nay đất và người Phương Lưu vẫn giữ gìn và phát huy truyền thống của ngàn năm văn hiến, giữ được nét độc đáo của miền đất "địa linh nhân kiệt". Trong kháng chiến chống Pháp, Phương Lưu là cái nôi của cách mạng. Chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên của xã Đông Hải được thành lập tại ngôi từ đường họ Trịnh - Phương Lưu. Dân Phương Lưu đã che chở, nuôi dưỡng cán bộ, bộ đội hoạt động ngay trong lòng địch. Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, người dân Phương Lưu động viên hàng trăm con em lên đường bảo vệ Tổ quốc. Người ở nhà làm tốt công tác hậu phương quân đội góp phần cùng toàn dán đánh thắng hai cuộc xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Ngày nay, trong công cuộc xây dựng đất nước, nhiều gia đình làng văn hóa Phương Lưu không những tích cực tham gia xây dựng đời sống mới ở khu dân cư mà còn quyết tâm vượt qua nghèo đói bằng sức lực, trí tuệ của mình. Nhiều người đã thành lập công ty TNHH, công ty cổ phần thương mại, dịch vụ..., thu hút hàng trăm lao động vào làm việc để có thu nhập ổn định, góp phần làm giảm tỷ lệ thất nghiệp, tệ nạn xã hội trong cộng đồng. Từ quyết tâm làm giầu đó, làng Phương Lưu có nhiều nhà xây mái ngói kiểu vi la, biệt thự trên khắp đường làng ngõ xóm tạo thành những dãy phố buôn bán sầm uất. Nhiều ngành nghề truyền thống được khơi dậy như: nghề thợ sắt đã từng tham gia xây dựng cầu Long Biên, nhà máy bia, rượu Hà Nội, cầu Hàm Rồng (Thanh Hóa). Thợ sắt Phương Lưu là chủ lực đóng mới tàu có trọng tải 1.000 tấn đầu tiên của Việt Nam ở Nhà máy đóng tàu Bạch Đằng - Hải Phòng trong lúc ngành đóng, tàu Việt Nam còn non trẻ. Riêng phong trào "vượt khó học giỏi" của con em Phương Lưu vẫn giữ được nền nếp hiếu học thành tài của cha ông khi xưa. Năm 1650 cụ tổ Trịnh Xuân An đỗ tiến sĩ làm quan trong triều đại phong kiến và nhiều tiến sĩ, thi sĩ, họa sĩ tài năng đã làm vang cho các dòng họ, cho làng văn hóa Phương Lưu. Thế hệ ngày nay có gia đình bác Trịnh Văn Cương có 4 con đều là kỹ sư, bản thân bác Cương cũng là kỹ sư. Còn gia đình bác Lê Văn Giá quê ở Nghệ An đến Phương Lưu sinh sống có 4 con trai, hai con gái đều là kỹ sư, bác sĩ. Bản thân bác Giá là đại tá trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Bác Giá coi Phương Lưu như quê hương thứ hai của mình, đã đóng góp nhiều công sức xây dựng khu dân cư văn hóa Phương Lưu.


Với bề dầy lịch sử, bằng những việc làm "ích nước lợi nhà”, làng văn hóa Phương Lưu, đặc biệt nhà thờ họ Trịnh đã được đón các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các chính khách có tên tuổi về thăm, trồng cây lưu niệm, ghi sổ vàng truyền thống, trong đó có đồng chí Lê Khả Phiêu, nguyên Tổng Bí thư BCH TW Đảng Cộng sản Việt Nam thăm noày 13/9/2002; Đại tướng Nguyễn Quyết, nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thăm ngày 22/3/2003; Đại tướng Võ Nguyên Giáp thăm ngày 24/7/2003; Thượng tướng - Giáo sư - Nhà giáo nhân dân Hoàng Minh Thảo thăm ngày 14/12/2003 và rất nhiều, rất nhiều các chính khách trong nước và nước ngoài đến ghi sổ vàng, trồng cây lưu niệm.


Làng văn hóa Phương Lưu đã góp sức lực làm rạng danh mảnh đất "địa linh nhân kiệt", xứng đáng với xã Đông Hải (nay là phường Đông Hải), được Nhà nước phong tặng danh hiệu Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 14 Tháng Mười Một, 2022, 09:13:48 pm
Phần V
ĐƠN VỊ ANH HÙNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN

CHẶNG ĐƯỜNG CÁCH MẠNG HÀO HÙNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN XÃ LIÊU XÁ - ĐƠN VỊ ANH HÙNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN
(Trích báo cáo tại Lễ đón nhận danh hiệu Anh hùng LLVTND
xã Liêu Xá ngày 9-12-2005)

LƯU ĐÌNH THỜI
(Chủ tịch UBND xã Liêu Xá)


Rất vinh dự, tự hào cho Đảng bộ, nhân dân và LLVT xã Liêu Xá được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam phong tặng danh hiệu cao qúy “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân” thời kỳ chống Pháp. Được phép của Ban Thường vụ Đảng ủy xã, tôi xin thay mặt cho Đảng bộ, quân và dân xã nhà xin được báo cáo chặng đường cách mạng hào hùng qua 60 năm chiến đấu, xây dựng, trưởng thành cùng những thành tích to lớn đặc biệt xuất sắc của quân và dân xã Liêu Xá trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.


1) Đất và người Liêu Xá

Đất và người Liêu Xá có lịch sử hình thành và phát triển tương đối sớm, nằm ở phía Bắc huyện Yên Mỹ, cách phố Nối 1 km, có quốc lộ 39A chạy qua. Phía Bắc giáp xã Nghĩa Hiệp; phía Tây giáp xã Ngọc Long; phía Nam giáp xã Tân Lập; phía Đông giáp cánh đồng xã Dị Sử. Xã có diện tích tự nhiên 561,29 ha, dân số hơn 8000 khẩu sống ở 4 thôn: Liêu Xá, Liêu Thượng, Liêu Trung và Ông Hảo. Đảng bộ có 230 đảng viên sinh hoạt tại 8 chi bộ.


Trải qua quá trình chinh phục thiên nhiên, khai khẩn đã hoang phát quang lau sậy, nhân dân Liêu Xá đoàn kết đấu tranh chống kẻ thù xâm lược, cùng nhau xây dựng phát triển và bảo vệ quê hương. Nơi đây đã thay đổi nhiều lần về hành chính tên làng, tên xã. Trước Cách mạng Tháng Tám là tổng Liêu Xá, trong cuộc kháng chiến chống Pháp xã có tên Hoàng Hữu Nam gồm 2 xã Tân Lập và Liêu Xá ngày nay. Đến tháng 2 năm 1974, xã chính thức mang tên Liêu Xá


2) Quân và dân Liêu Xá trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược 1945 - 1954

Mảnh đất Liêu Xá từng diễn ra những trận đánh ác liệt là vùng đứng chân để bộ đội ta đánh phá đường 39, đường 5 và bốt Bần, là vùng đệm giành giật quyết liệt giữa du kích bô đội ta và giặc Pháp. Quân và dân Liêu Xá đã góp phần tích cực cùng với quân và dân các huyện Mỹ Hào, Yên Mỹ Văn Lâm một thời oanh liệt làm nên truyền thống “Đường 5 sấm dậy - đường sắt kiên cường”.


Vốn có bề dầy truyền thống lịch sử, truyền thống yêu nước Liêu Xá còn có truyền thống văn hiến hiếu học, là quê hương của Đại danh y Hải Thượng Lãn Ông - Lê Hữu Trác. Những tên làng, tên xóm Liêu Xá đều gắn với phong trào Cần Vương, phong trào khởi nghĩa Bãi Sậy, nhiều thanh niên ưu tú của xã gia nhập nghĩa quân của tướng quân Nguyễn Thiện Thuật.


Ngay sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (3-2-1930), nhân dân Liêu Xá đã sớm được ảnh hưởng, tiếp thu các phong trào cách mạng. Cuối năm 1939, chùa Văn trở thành cơ sở hoạt động bí mật của các đồng chí Hoàng Quốc Việt, Lê Quang Đạo, Trần Tử Bình... Năm 1940, tổ Phụ nữ phản đế xã Liêu Xá được thành lập cũng tại chùa Văn. Năm 1943. Mặt trận Việt Minh của xã được thành lập do các đồng chí Lê Thị Hòa, Lê Hữu Quát trực tiếp xây dựng. Tiếp sau đó là các tổ chức thanh niên, phụ nữ ái quốc lần lượt ra đời. Chùa Văn cũng chính là cơ sở, địa điểm đặt in tờ báo “Bãi Sậy”, tờ báo tuyên truyền đấu tranh cách mạng đầu tiên của Đảng bộ tỉnh Hưng Yên. Năm 1944, đầu năm 1945, phong trào cách mạng lan rộng phát triển khắp xã. Các thôn đã tổ chức thành lập các đội tự vệ nhân dân, mua sắm vũ khí, may cờ đỏ sao vàng, tích cực luyện tập chuẩn bị tổng khởi nghĩa.


Ngày 19-8-1945, hơn 60 du kích của 4 thôn trong xã cùng hàng ngàn quần chúng nhân dân tham gia biểu tình giành chính quyền, cắm cờ đỏ sao vàng tại nóc nhà huyện đường, chiếm huyện lỵ Yên Mỹ, sau đó cùng lực lượng tự vệ các xã bạn diễu hành dọc đường 39 tham gia giành chính quyền tỉnh vào ngày 22-8-1945. Ủy ban cách mạng lâm thời của xã được thành lập từ đây. Đây cũng là ngày có ý nghĩa lịch sử trọng đại cực kỳ to lớn, sâu sắc của cả dân tộc ta nói chung và quân dân xã Liêu Xá nói riêng.


Cách mạng Tháng Tám thành công chưa được bao lâu, chính quyền cách mạng còn non trẻ, cùng với đó là bao khó khăn thiếu thốn cần tập trung giải quyết. Song thực dân Pháp với bản chất hiếu chiến, quyết tâm quay lại xâm lược nước ta một lần nữa. Quân và dân Liêu Xá dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Huyện ủy Yên Mỹ, tất cả đều đồng lòng, chung sức, tích cực chuẩn bị cho cuộc chiến đấu mới. Các thôn nhanh chóng thành lập các tổ du kích, tiến tới trung đội du kích. Xã thành lập đại đội dân quân dư kích cơ động, lực lượng lên đến 185 người, do đồng chí Luyện làm đại đội trưởng. Thực hiện chú trương “Tiêu thổ kháng chiến”, quân dân Liêu Xá tập trung xẻ rãnh, đóng cọc, đắp ụ quanh làng và trên đường 39, thực hiện “Vườn không nhà trống”.


Ngày 16-1-1947, giặc Pháp từ ngã tư Phố Nối theo đường 39 càn vào địa bàn xã. Lực lượng du kích xã phối hợp với bộ đội huyện chặn đánh quyết liệt, tiêu hao lực lượng địch, buộc chúng phải tổ chức nhiều lần tấn công mới vào sâu được địa bàn của xã. Trận chống càn này, du kích xã đã tiêu diệt được 16 tên, trong đó có 6 lính Âu Phi. Tháng 4-1947 Chi bộ Đảng của xã được thành lập gồm 5 đảng viên do đồng chí Lê Thị Hòa (tức Dậu) làm bí thư chi bộ. Đến cuối năm 1948, chi bộ phát triển thêm 36 đồng chí. Các thôn đều có tổ Đảng. Từ tháng 2-1947 đến cuối năm 1953, giặc Pháp tổ chức nhiều trận càn vào địa bàn xã. Đặc biệt là trận càn ngày 27-2 1947, chúng đã bắn chết gần 100 người, chủ yếu là người già phụ nữ và trẻ em, đốt cháy 50 nóc nhà, phá hủy, đánh sập nhiều đình chùa, gây ra những tội ác tày trời cho nhân dân thôn Liêu Thượng, Liêu Xá. Ngày 27-2 (tức ngày 6-1 âm lịch), nhân dân thôn Liêu Thượng lấy làm ngày giỗ trân chung hằng năm. Trận càn này du kích xã phối hợp với bộ đội huyện đánh trả quyết liệt, chiến đấu kiên cường, tiêu diệt 73 tên, trong đó có 39 tên Âu Phi, 2 quan ba và 1 quan 4 thu nhiều vũ khí các loại.


Cũng trong thời gian từ 1947 đến 1954, du kích xã còn phối hợp với bộ đội huyện tổ chức nhiều trận phục kích giât mìn trên đường 39, tập kích bốt Nho Lâm... Tiêu biểu như:

- Trận phục kích ngày 17-10-1951 trên đường 39 giật mìn làm cháy 1 xe tải, tiêu diệt 14 tên, thu 1 súng đại liên 4 súng trường, 15 lựu đạn.

- Trận ngày 23-2-1952, phối hợp với bộ đội huyện cải trang, tập kích bọn địch đang hành quân trên đường 39 tại địa điểm thôn Liêu Thượng, đốt cháy 2 xe ô tô, diệt 19 tên, bằt sống 1 tên sĩ quan Pháp, 3 lính ngụy tề.

- Trận đánh độn thổ ngày 30-3-1953 tại Cầu Treo phối hợp với bộ đội huyện do đồng chí Lưu Đình Tư (Huyện đội phó) chỉ huy, tiêu diệt địch tại bốt Trai Trang, diệt gọn 2 tiểu đội địch, thu 6 súng trường, 2 tiểu liên Tôm-xơn.

- Trận đánh ngày 20-4-1954, du kích xã do đồng chí Phái chỉ huy phối hợp với bộ đội 206 và bộ đội huyện Yên Mỹ phục kích chặn đánh một đoàn xe ô-tô 6 chiếc tại địa điểm thôn Liêu Thượng trên đường 39. Kết quả đốt cháy gọn 6 xe, tiêu diệt 75 tên, bắt sống 6 lính Pháp. Du kích xã thu rất nhiều súng đạn các loại.


Cũng trong khoảng thời gian 1953 - 1954, trung đội nữ du kích Hoàng Ngân xã do đồng chí Lưu Thị Thịnh - xã đội phó chỉ huy, thường xuyên làm nhiệm vụ vận chuyển, tiếp đạn, tuyên truyền, phục vụ chiến đấu. Kết quả trong hai năm 1953 - 1954 đã vận động được hàng trăm binh lính ngụy mang súng trở về với cách mạng. Đặc biệt là trung đội nữ du kích Hoàng Ngân xã tổ chức trận đánh phục kích ngày 19-7-1953 giật mìn đốt cháy 1 xe zép, diệt 3 tên Pháp, thu 2 súng ngắn, 1 súng trường.


Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, qua gần 9 năm kháng chiến trường kỳ, anh dũng, kiên cường, quân và dân Liêu Xá đã phối hợp vói bộ đội huyện tham gia chiến đấu hàng trâm trận. Lực lượng du kích xã đã tiêu diệt và bắt sống gần 500 tên, thu hơn 300 súng các loại, phá hủy, đánh hỏng, đốt cháy 14 xe ô tô, xe bọc thép, phá 2 bốt, 2 làng tề, 4 tháp canh, giải tán, làm tan rã 2 trung đội hương dũng. Vận động được hàng trăm lính tề, ngụy mang súng trở về với cách mạng. Đào hơn chục km hào giao thông, hơn 900 hầm, hố công sự chiến đấu, 2 địa đạo, đóng góp 9.420 kg thóc, 2.112 kg thực phẩm cho kháng chiến.


Xã có một đại đội du kích mạnh, 4 thôn có trung đội du kích chiến đấu tại chỗ với tổng số gần 500 dân quân du kích, đạt tỷ lệ xấp xỉ 18% dân số của xã. Xã có 180 nam, nữ đi dân công hỏa tuyến, 152 thanh niên tham gia bộ đội.


Giặc Pháp và bọn phản động gây ra nhiều tội ác đối với quân và dân Liêu Xá: Giết chết 496 người, bắt tra tấn và bỏ tù 950 người, hãm hiếp hàng trăm phụ nữ, đốt phá 150 ngôi nhà và 4 đình chùa, cướp gần 200 tấn thóc, bát và cướp đi hơn 2 trăm con gia súc, gia cầm, lập vành đai trắng hơn 90% diện tích của xã, làm hàng trăm mẫu ruộng trở thành hoang dại.


Xã có 47 liệt sĩ, 65 thương binh.

Quân và dân Liêu Xá đã được Hồ Chủ tịch và Chính phủ tặng thưởng về thành tích phục vụ chiến đấu: 1 Huân chương Chiến công hạng Nhì, 1 Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, 1 Huy chương Kháng chiến hạng Nhì; 186 cá nhân được tặng; thưởng Huân, Huy chương kháng chiến các loại; 7 gia đình được cấp Bằng có công với nước.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 14 Tháng Mười Một, 2022, 09:16:47 pm
3) Quân và dân Liêu Xá trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, địa bàn xã Liêu Xá là hướng lượn vòng bắn phá của máy bay Mỹ vào thủ đô Hà Nội, cũng là nơi tập kết sơ tán của một số cơ quan trung ương, của tỉnh và của huyện. Nhiệm vụ hàng đầu lúc này là chống chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ, phát động nhân dân đào hầm hố cá nhân, hào giao thông, củng cố phát triển lực lượng dân quân du kích và động viên thanh niên lên đường đánh Mỹ. Liên tục từ năm 1965 - 1975, xã đều vượt chỉ tiêu giao quân. Dân quân tự vệ từ các thôn đến xã thường xuyên luyện tập, phối hợp chặt chẽ với công an và các đơn vị bộ đội ngày đêm tuần tra canh gác, bảo vệ an toàn các cơ quan, đơn vị về sơ tán. Đảng bộ xã lãnh đạo nhân dân và lực lượng vũ trang xã vừa sản xuất vừa phục vụ chiến đấu và trực tiếp tham gia bắn máy bay Mỹ. Xây dựng 5 tổ bắn máy bay thấp, thành lập 2 đại đội xung kích bảo vệ đường 39 và ngã tư Phố Nối, 2 đại đội phòng không 12 ly 7. Huy động hàng chục ngàn ngày công cùng bộ đội phòng không đào đắp hơn 29.400m giao thông hào, xây dựng công sự trận địa, đào hàng chục ngàn hầm, hố cá nhân. Đóng góp hơn 10 ngàn tân lương thực, gần 5 ngàn kg thực phẩm; tiễn đưa 680 thanh niên nhập ngũ, 350 thanh niên xung phong.


Lực lượng vũ trang xã liên tục từ 1965 - 1975 đạt danh hiệu đơn vị quyết thắng, chính quyền giỏi toàn diện, Đảng bộ đạt 4 tốt, Phụ nữ ba đảm đang, Đoàn thanh niên 4 tốt. Hàng chục gia đình có 2 đến 3 thế hệ cùng đánh Mỹ, hàng chục gia đình có từ 2 - 3 con đi bộ đội. Kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, xã có 105 liệt sĩ, 78 thương binh, 24 bệnh binh, 5 Mẹ Việt Nam anh hùng.


Xã được Đảng và Nhà nước tặng thưởng: 1 Huân chương Kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng Nhì, 1 Huân chương Lao động hạng Nhì, 350 cá nhân được tặng thường huân, huy chương các loại.


4) Quân và dân Liêu Xá từ năm 1976 đến nay

Năm 1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, cả nước thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội. Đảng bộ, nhân dân và lực lượna vũ trang Liêu Xá một lần nữa lại cùng nhau đoàn kết, chung sức, đồng lòng, tiếp tục phát huy truyền thống quê hương văn hiến, cách mạng, không ngừng đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, từng bước nâng cao đời sống nhân dân; quốc phòng - an ninh được củng cố, tăng cường vững chắc. Đặc biệt qua 20 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Huyện ủy, HĐND, UBND huyện Yên Mỹ, xã đã đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, sớm hoàn thành việc dồn điền, đổi thửa, phát triển mạnh kinh tế trang trại, gắn với cây trồng vật nuôi; duy trì và phát triển mạnh kinh tế làng nghề truyền thống như: thuộc da trâu bò, thuốc bắc, đóng thùng bệ ô tô. Cùng với đó là tạo điều kiện tối đa cho các doanh nghiệp cả trong và ngoài nước vào đầu tư tại địa bàn xã, tạo công ăn việc làm ổn định cho hàng trăm con em trong xã. Hiện tại xã không còn hộ đói, hộ nghèo dưới 3%; không còn nhà tranh vách đất, số hộ giàu và khá hơn 75%; 70% nhà dân xây mới kiên cố, 100% sử dụng nước sạch. Cơ bản hoàn thành 5 mục tiêu: điện - đường trường - trạm - nước. Thu nhập bình quân đầu người đạt trên 5,2 triệu đồng/người/năm. Từ năm 2000 đến nay, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 13,3%/năm. Riêng năm 2004 tổng 18,6%. Có 3/4 làng đạt tiêu chuẩn làng Văn hóa, trên 70% số gia đình đạt gia đình văn hóa. Thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội và phong trào đền ơn đáp nghĩa, tặng mấy chục sổ tiết kiệm tình nghĩa trị giá mỗi sổ từ 200 - 300 ngàn đồng. Hằng năm chi cho công tác đền ơn đáp nghĩa và chinh sách xã hội từ 20 - 30 triệu đồng. Sự nghiệp y tế, giáo dục được xã hết sức quan tâm coi trọng, 100% trẻ em được đến trường đúng độ tuổi. Tỷ lệ các cháu thi đỗ tốt nghiệp trung học cơ sở và tiểu học đạt 100%, tốt nghiệp trung học phổ thông hơn 85%. Phong trào thể dục thể thao, văn hóa, văn nghệ phát triển mạnh như: bóng chuyền, cầu lông, thể dục dưỡng sinh, thơ ca, cờ tướng, v.v... Công tác chăm sóc y tế sức khỏe cộng đồng thường xuyên được quan tâm: Trạm y tế đạt chuẩn quốc gia, 100% trẻ em dưới 5 tuổi được tiêm đủ 5 liều vắc-xin phòng bệnh, 4/4 thôn đều có đội ngũ y tế thôn.


Nhiệm vụ quốc phòng, an ninh thường xuyên được tăng cường. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội giữ vững. Hằng năm hoàn thành 100% chỉ tiêu giao quân, chất lượng quân tốt.

Chặng đường 60 năm lịch sử vẻ vang xây dựng, chiến đấu, trưởng thành để lại cho Đảng bộ, nhân dân và lực lượno vũ trang xã Liêu Xá những kinh nghiệm và bài học quý trog° lãnh đạo phong trào cách mạng, trong tổ chức xây dựng lực lượng. Đặc biệt là kinh nghiệm phải thường xuyên gần gũi với nhân dân, bám sát nhân dân, tôn trọng và lắng nghe mọi ý kiến và nguyện vọng của nhân dân. Tất cả mọi chủ trương, đường lối, mọi cống việc đều phải xuất phát từ quyền lợi và lợi ích của nhân dân. Đây chính là một trong những nguyên nhân hết sức quan trọng để quân và dân xã Liêu Xá có được danh hiệu cao qúy hôm nay "Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”.


Đảng bộ, chính quyền, nhân dân và lực lượng vũ trang xã Liêu Xá xin hứa với “anh linh” của các anh hùng liệt sĩ, những người con của quê hương Liêu Xá anh hùng đã hiến dâng trọn đời mình vì nền độc lập của dân tộc sẽ luôn tiếp tục giữ vững và phát huy tốt truyền thống quê hương anh hùng, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, quyết tâm xây dựng quê hương Liêu Xá giầu về kinh tế, vững về chính trị, mạnh về quốc phòng an ninh.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 14 Tháng Mười Một, 2022, 09:18:24 pm
ĐẢNG BỘ, NHÂN DÂN VÀ LỰC LƯỢNG VŨ TRANG XÃ ĐÔNG NINH
60 NĂM CHIẾN ĐẤU, XÂY DỰNG VÀ TRƯỞNG THÀNH


PHẠM NGỌC THƠI
(Phó Bí thư Đảng bộ,
Chủ tịch UBND xã Đông Ninh)


Đông Ninh nằm ven sông Hồng thuộc phía tây huyện Khoái Châu, cách trung tâm huyện 7km, có diện tích tự nhiên 431,81 ha với dân số 4850 người, 1260 hộ. Đảng bộ có 261 đảng viên được sinh hoạt ở 8 chi bộ. Xã có 5 thôn: Nội Doanh, Duyên Linh, Tử Lý, Nhân Lý và Phú Mỹ, là địa phương có truyền thống đấu tranh cách mạng và tinh thần đoàn kết thống nhất cao trong suốt thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và trong sự nghiệp đổi mới. Trước cách mạng Tháng Tám năm 1945, cơ sở cách mạng được xây dựng sớm, phong trào Việt Minh phát triển mạnh, cả 5/5 thôn đều có cơ sở hoạt động cách mạng. Dưới sự lãnh đạo của Việt Minh, quần chúng nhân dân đã đấu tranh chống đi phu, đi lính, chống nhổ ngô trồng đay, trồng thầu dầu và kéo về Bần Yên Nhân phá kho thóc của Nhật... Ngày 20/8/1945, chính quyền cách mạng lâm thời được thành lập.   ’


Kháng chiến chống Pháp bùng nổ, xã Đông Ninh có vị trí quan trọng, nằm ở trung tâm đồng bằng Bắc Bộ, có hệ thống giao thông thủy, bộ, đặc biệt là giao thông thủy trên sông Hồng rất thuận lợi, dễ dàng liên lạc giữa các xã, huyện trong tỉnh và giao lưu với các thành phố, thị xã, các địa phương vùng châu thổ sông Hồng. Do đó, Đông Ninh cũng là mũi tiến công quan trọng bằng đường sông của địch. Với tinh thần yêu nước nồng nàn, quyết tâm đánh đuổi giặc Pháp của quân và dân Đông Ninh, tháng 6/1947, chi bộ Đảng của xã được thành lập bốn đồng chí (đồng chí Phạm Hữu Tình, đồng chí Nguyễn Vă Nhương, đồng chí Đỗ Văn Vy và đồng chí Phạm Duy Phổ) do đồng chí Nguyên Văn Nhương làm Bí thư chi bộ. Dưới sự lãnh đạo của chi bộ Đảng, lực lượng vũ trang nhân dân được củng cố, xây dựng mạnh mẽ, tuần tra, canh gác, rào làng chiến đấu tạo thành thế trận chiến tranh nhân dân. Bằng nhiều cách đánh mưu trí, dũng cảm, lực lượng vũ trang xã đã phối hợp với lực lượng vũ trang các xã phía tây và bộ đội chủ lực tác chiến nhiều trận, tiến công các đồn hương dũng Ninh Tập, Mạn Trù Châu, bao vây phá bốt Vân Trì, Phương Trù, Nghi Xuyên, Vua Bơi, v.v... tiêu diệt, gọi hàng và bắt sống hàng trăm tên địch thu nhiều vũ khí, trang bị... làm cho địch thiệt hại nặng nề hoang mang lo sợ. Với dã tâm xâm lược, địch tăng cường càn quét, đốt phá hàng trăm ngôi nhà, đàn áp, tra tấn man rợ, bắn giết du kích, Việt Minh, tàn sát dân thường... Nhưng chúng đã vấp phải ý chí quật cường, tinh thần chiến đấu dũng cảm của quân và dân Đông Ninh. Nhiều đồng chí bị địch bắt, không chịu khuất phục trước kẻ thù và đã anh dũng hy sinh, không một lời phản bội xưng khai. Chính nơi đây, nhân dân đã tạc hai bia căm thù để ghi sâu tội ác của giặc...


Cùng với những thành tích chiến đấu và phục vụ chiến đấu, nhân dân và lực lượng vũ trang xã Đông Ninh đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giữ vững đường dây liên lạc, đưa đón, bảo vệ, che giấu cán bộ, nuôi dưỡng hàng nghìn lượt thương binh, trong đó có nhiều cán bộ của Trung ương, Quân khu Tả ngạn, cán bộ của tỉnh Hưng Yên và huyện Khoái Châu... vượt sông Hồng về nội địa hoạt động. Nhân dân Đông Ninh đã đóng góp hơn 5000 cây tre, 300 kg dây thép, hàng trăm nhân công làm bè trên sông Hồng cản sức cơ động của tàu địch, đưa hơn 300 lượt người đi phá đường 39A cản sức cơ động của địch về thị xã Hưng Yên, đào hơn 1000 hầm bí mật, 5 km đường giao thông hào làm giao liên đưa đón, bảo vệ cán bộ, thương binh.


Trong những năm 1964 - 1972, giặc Mỹ leo thang chiến tranh ra miền Bắc bằng không quân nhằm ngăn chặn bước tiến của quân và dân ta giải phóng miền Nam. Xã Đông Ninh là vành đai ngoài của Thủ đô Hà Nội, là trận địa dã chiến của bộ đội tên lửa, là nơi cất giấu máy bay của không quân ta. Lực lượng vũ trang xã được biên chế thành 6 trung đội dân quân và 1 trung đội dân quân thường trực, được trang bị súng 12,7 ly, đại liên và tiểu liên, phối hợp với bộ đội chủ lực, pháo cao xạ chiến đấu đẩy máy bay địch lên cao tạo điều kiện cho bộ đội tên lửa tiêu diệt, bảo vệ trận địa tên lửa Bình Kiều, tuyến đê sông Hồng, kè Nghi Xuyên và khu vực Cảng, nhà máy đường Vạn Điểm. Vừa chiến đấu, vừa lao động sản xuất, Đông Ninh luôn đảm bảo “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người” chi viện cho chiến trường, giúp đỡ bộ đội đóng quân ở địa phương và nhân dân về sơ tán.


Trong thời kỳ này, Đảng bộ và nhân dân Đông Ninh đã tiễn đưa 950 người con quê hương đi bộ đội, 32 thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến... Tổng kết hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Đông Ninh có 154 liệt sĩ, 45 thương binh, 26 bệnh binh, 7 Bà mẹ Việt Nam anh hùng, 22 cán bộ bị địch bắt tù đày, 1 cán bộ tiền khởi nghĩa, 833 đồng chí được tặng thưởng Huân, Huy chương các loại, hơn 400 người có công với cách mạng. Đảng bộ, nhân dân và lực lượng vũ trang xã được Đảng, Nhà nước tặng thường nhiều Huân, Huy chương kháng chiến...   


Đại thắng mùa Xuân 1975, Tổ quốc thống nhất cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội và bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng bộ Đông Ninh luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ, nhiều năm liền đạt “Đảng bộ trong sạch vững mạnh”, “Chính quyền vững mạnh” toàn diện, các đoàn thể đạt “tiên tiến xuất sắc”. Có 1009 hộ sử dụng điện lưới quốc gia, 80% số hộ dùng nước sạch, hệ thống trường học được xây dựng kiên cố cao tầng khang trang, đã hoàn thành chương trình phổ cập giáo dục. Hệ thống đường giao thông liên thôn, liên xã được bê tông hóa, trạm y tế có bác sĩ và trang bị phương tiện khám chữa bệnh đáp ứng nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân. Tích cực chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, phát triển tiểu thủ công nghiệp, giải quyết việc làm cho lao động địa phương có thu nhập ổn định, cải thiện và nâng cao đời sống. Số hộ giầu khá tăng nhanh, giảm hộ nghèo xuống dưới 5%, không còn hộ đói, xóa nhà tranh vách đất. Tỷ lệ máy điện thoại: 7 máy/100 người dân. Bình quân thu nhập đầu người đạt 5 - 7 triệu đồng/người/năm. Đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt, có 3/5 làng được công nhận là "Làng văn hóa". Công tác chính sách hậu phương quân đội thường xuyên được chăm lo, thể hiện trách nhiệm của Đảng bộ và nhân dân trong xã đối với các gia đình chính sách và người có công. Quốc phòng an ninh được đảm bảo, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được giữ vững, ổn định.


Với những thành tích đặc biệt xuất sắc trên, ngày 24/6/2005, Chủ tịch nước đã phong tặng danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân" thời kỳ chống Pháp cho nhân dân Đông Ninh: Đây là phần thường cao quý, là tài sản vô giá của Đảng và Nhà nước đối với Đảng bộ, nhân dân và lực lượng vũ trang địa phương. Đảng bộ nhân dân và lực lượng vũ trang xã Đông Ninh nguyện phát huy Truyền thống cách mạng, đoàn kết một lòng, quyết tâm phấn đấu thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội, xây dựng quê hương Đông Ninh giàu mạnh, cùng cả nước thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới của Đảng, xứng đáng với danh hiệu cao quý: đơn vị “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân".


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 21 Tháng Mười Một, 2022, 07:48:54 pm
NHƯ CON MỘT NHÀ


PHẠM SĨ CẢO

Tôi tuy ở tỉnh Thái Bình
Nhưng coi Ngoại Bối, Đông Ninh... quê mình
Quân y địch hậu, thương binh
Được dân đùm bọc trong tình yêu thương.
Sống ngâm thịt, chết ngâm xương
Quanh năm đồng bãi, bữa thường cà, tương
Chắt chiu cơm gạo, dân nhường
Rút ngắn ngày chữa vết thương kéo dài.
Địch càn vây kín trong ngoài
Thương binh, y - tá tìm hoài chẳng ra
Kể từ chiến thắng về ta
Năm chục năm trước, như là hôm nay
Bây giờ gặp lại nhau đây
Nhớ ngày chia sẻ đắng cay, ngọt bùi
Nhớ người đỡ khuất, ngậm ngùi
Cầu khấn về hưởng niềm vui đời đời
Không còn nghèo khổ nữa rồi
Xã anh hùng đất đâm chồi nở hoa!
Xin chúc Ngoại Bối quê ta
Thêm nhiều thành tích tiếp đà vươn cao
Giữ vững truyền thống, phong trào
Xây đời hạnh phúc, vui nào vui hơn
Chúng tôi ghi nhớ công ơn
Nguyện cùng dân bãi như con một nhà!


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 21 Tháng Mười Một, 2022, 07:49:57 pm
CHIẾN CÔNG CỦA NGƯỜI ANH HÙNG Ở XÃ LIÊN MẠC, HUYỆN THANH HÀ


ĐẶNG VĂN TƯ
(Nguyên Trưởng công an xã Liên Mạc
nguyên Trưởng công an huyện Thanh Hà)


Từ năm 1950, xã Liên Mạc, huyện Thanh Hà, Hải Dương đã lọt vào giữa vòng vây đồn địch ở đường số 5, Đại Điền, Cổ Chẩm và bốt Liên hiệp Pháp Đò Hương. Các bốt này cách xã chỉ khoảng 3-4 km. Đặc biệt giặc Pháp đưa quân về chiếm đóng thôn Văn Mạc, trang bị vũ khí cho một số tên phản động, tổ chức tề binh, xây bốt chiếm đóng.


Văn Mạc là một trong 4 thôn của xã Liên Mạc (Mạc Thủ, Tiêu Xá, Mạc Đông và Văn Mạc). Khi bọn phản động về lập bốt ở thôn này thì hầu hết cán bộ, du kích Văn Mạc đều phải chạy sang Mạc Thủ. Những tên phàn động ở đây thường đưa bọn lính ở bốt Cổ Chẩm về Văn Mạc để càn quét các thôn trong xã, vây bắt cán bộ du kích, cướp lương thực, trâu bò, lợn gà..., tìm cách dụ dỗ lôi kéo một số người đứng ra lập tề theo chúng nhưng không thành.


Năm 1950, nhân dân xã Liên Mạc ở vào thế chống đỡ, gặp nhiều khó khăn, gian nan nguy hiểm. Bọn phản động ở Văn Mạc phối hợp với bốt Cổ Chẩm tổ chức nhiều toán biệt kích vây ráp, lúc đưa quân bao vây từ tờ mờ sáng, lúc chia từng toán nhỏ đóng giả người đi làm đồng từ Văn Mạc tràn sang (vì Văn Mạc cách Mạc Thủ chỉ một cánh đồng), lúc giả làm người đi chợ gánh hàng rồi bất ngờ rẽ vào xóm quây bắt. Ban đêm chúng đột nhập vào Mạc Thủ, Tiêu Xá bắt du kích, thanh niên... Thời gian đầu, địch đã bắt được 9 người dân đem cắt cổ, mổ bụng rồi treo xác lên cây đa Quán Rọc hòng uy hiếp tinh thần kháng chiến của dân trong xã.


Chi ủy và xã đội xã Liên Mạc (thời gian này đồng chí Nguyễn Quang Tỵ còn làm bí thư chi bộ) đã họp bàn rút kinh nghiệm, củng cố phát triển lực lượng du kích, bổ sung thêm kế hoạch tuần tra canh gác, báo động liên hoàn, coi trọng địch từ phía Văn Mạc, phân tán nhỏ thành từng tổ du kích để hoạt động. Ban đêm phải ngủ phân tán từng xóm. Nhiều gia đình ngủ tập trung vào một nhà để bảo vệ lẫn nhau. Địch đến thì đấu tranh kêu la ầm ĩ. Mọi người phải đào thêm hầm bí mật, hầm tránh phi pháo, cất giấu thóc lúa. Cán bộ du kích phải nằm gần hầm bí mật, phải thay đổi địa điểm ngủ để tránh địch đột kích bất ngờ. Nam nữ thanh niên thì tìm cách tránh ra cánh đồng, bãi... Xã giao cho đồng chí Nguyễn Đức Tụng, xã đội phó, đôn đốc thực hiện, kiểm tra. Tụng là cán bộ đảng viên trẻ khỏe, gan dạ xông pha, được du kích và nhân dân tin tưởng. Xã Liên Mạc thời kỳ đó có xã đội trưởng Ngô Bá Kiệt, xã đội phó Nguyền Đức Tụng là trụ cột của du kích. Bọn phản động ở Văn Mạc rất kiềng hai anh, bọn chúng luôn tìm cách bắt hoặc triệt hạ các anh.   


Nhờ có kế hoạch chiến đấu, bảo vệ dân làng, nên một năm trời (1950-1951), địch ở bốt Cổ Chẩm và Văn Mạc tổ chức nhiều cuộc biệt kích đều thất bại. Nhưng chúng lại thành công trong việc mua chuộc lôi kéo được một du kích người Văn Mạc làm tay sai, đó la tên Mạc Văn C làm liên lạc cho xã đội mấy năm liền, c được xã đội tin dùng, hấn đi theo xã đội phó Nguyễn Đức Tụng, từng đào hầm ngủ chung với Đức Tụng, vì vậy C biết được kế hoạch chiến đấu, nơi ngủ sơ tán của anh em du kích, địa điểm ẩn nấp cán bộ xã...   Sẩm tối ngày 14-2-1951, Mạc Văn C vào nhà đồn Tụng hỏi cụ Nguyễn Đức Thiết (bố đồng chí Tụng) để xem “Tối hôm nay anh Tụng có công việc gì nhắn hẹn lại không?”. Vốn đã biết C nên cụ bảo: "Nó đi ăn cỗ ở bên bố vợ, có lẽ tối về muộn”. C ra về... Đêm đó, lính Cổ Chẩm và lính Văn Mạc được tên C đưa đi phục bắt đồng chí Tụng đầu ngõ, sau đó C lại tiếp tục đưa đi sục tìm đúng nơi nơi ngủ của Tiêu Công Năng, Phạm Văn Lạc (tiểu đội trưởng, tiểu đội phó du kích) ở khu vực nhà bà Nguyền Thị Chất (xóm Quang Trung). Địch đưa cả ba đồng chí vào sân nhà bà Lắm, dùng dây thừng trói chặt Đức Tụng, Năng và Lạc vào cây mít. Sau đó, C lại đi lùng sục bắt thêm được 3 ông: Nguyễn Đức Cáy, Tiêu Công Hán, Mạc Văn Nở giam vào gian nhà bà Lắm. Một tiểu đội lính ngụy, Tây đen, Tây trắng canh gác. C đưa số lính khác đi phục ở ngõ ngoài.


Trời đã khuya, tối đen như mực. Gió bấc thổi vào vườn ngô mé nhà bà Lắm. Lợi dụng đêm tối, Nguyễn Đức Tụng thì thào nói với Năng và Lạc: “Chúng mình bị tên C chỉ điểm rồi, nó trói ở đây thì sống ít chết nhiều, phải tìm cách thoát ra để báo cho các anh và dân làng biết mà tránh ngay kẻo nó bắt hết. Tôi bị nó trói nhiều vòng ở tay vào cây mít xem chừng khó mà thoát. Tôi sẽ tìm cách cởi dây thừng để 2 anh thoát trước. Còn tôi có chết thì chúng nó cũng phải chết theo chứ không chịu để chúng nó đưa về bốt”. Nói xong, anh đem hết sức mình còn lại sử dụng đôi tay sưng lần tìm từng mối dây cởi dần. Anh còn dùng răng cắn đứt dây thừng trói 2 anh, nhờ đó Năng và Lạc đã tụt người xuống, nhoài ra khỏi vòng dây thừng, lẩn mình vào bóng tối dầy đặc.


Cũng tôi hôm đó, một tiểu đội bộ đội Bắc Hà từ khu Hà Đông vượt sông sang Mạc Thủ do đồng chí Phạm Kim Bạo, trung đội trưởng phụ trách. Đồng chí Ngô Bá Kiệt, xã đội trưởng và tôi (Đặng Văn Tư) - trưởng Công an xã bàn kế hoạch phân tán thành 3 nhóm ở xóm dưới Mạc Thủ và Tiêu Xá, anh Bạo và 1 nhóm ở khu vực nhà ông Dương Văn Tôn. Sau đó, anh Nguyễn Quang Huy, phó bí thư chi bộ và tôi về chuồng lợn nhà ông Dương Văn Nguyên gần hầm và sát cạnh nhà tôi, xã đội trưởng Ngô Bá Kiệt đi ngủ ở cơ sở của mình.


Khoảng 2 giờ sáng ngày 15-2-1951, tôi giật mình tỉnh dậy vì tiếng nói của vợ tôi và bà Hìu bên nhà vọng sang: “Tây... Tây đến...”. Anh Huy và tôi dậy ngay. Ngó theo mé vách nhìn sang sân nhà, thấy một người tầm thước đứng sát vào hè, quần áo ướt dính chặt vào mình, 2 tay bị trói quặt ra sau đang cất tiếng gọi khe khẽ: “Chị Tư! Mở cửa! Tôi đây! Năng đây mà". Biết là có chuyện rồi, hai chúng tôi vội vàng xuống sân, thấy anh Tiêu Công Năng bị trói tay, quần áo bê bết bùn, vợ tôi và bà Hìu lấy liềm cứa mãi mới đứt dây. Vừa xong thì anh Phạm Văn Lạc cũng lần được về. Chúng tôi cởi trói cho anh. Hai anh em kể vắn tắt về việc bị Mạc Văn C phản bội đưa quân địch về bắt anh Tụng và 2 anh. Anh Tụng đã cởi dây trói ngoài cho Năng, Lạc trốn được về đây. Tôi tìm ngay anh Phạm Kim Bạo về hội ý, đề nghị anh Bạo đưa tiểu đội Bắc Hà cùng du kích sang xóm Quang Trung đánh tháo cho đồng chí Nguyễn Đức Tụng. Anh Bạo nhất trí tìm cách giải quyết ngay, nhưng đề nghị xã đội cử cho 2 du kích đi nắm tình hình trước. Anh Huy - phó bí thư Chi bộ và tôi nhất trí cử 2 đồng chí Nguyễn Đức Thập và Nguyễn Đình Chiên (I, ngay. Một lúc sau đó, tiếng súng tiểu liên của địch ở khu nhà bà Lắm nổ mấy loạt... Việc tổ chức giài thoát cho đóng Tụng không thành.


Mờ sáng ngày 15-2-1951, thêm một toán lính từ Cổ Chẩm, Văn Mạc kéo vào xóm Quang Trung đến thẳng nhà bà Lắm do một tên Tây trắng chỉ huy đem theo dụng cụ tra tấn. Chúng có ý đồ tra tấn và khai thác Đức Tụng chỉ hầm bắt cán bộ, du kích. Trời đã sáng rõ, trong xóm ngoài làng vắng lặng vì nhân dân biết tin đã rút sang xóm Bãi, địch chỉ lùng sục mấy nhà gần xóm Quang Trung rồi rút về canh gác.


Mấy chục tên lính ngụy và Âu Phi lăm lăm súng trong tay vây quanh nhà bà Lắm và gốc mít mà Đức Tụng đang bị trói, giữa sân là dụng cụ tra tấn với thằng Tây trắng và tên chỉ điểm Mạc Văn C. Thằng Tây ra lệnh cởi trói cho đồng chí Tụng. Thấy tến C mấy hôm trước còn là đồng đội, nay đã là kẻ thù không đội trời chung, Tụng loé lên một hành động táo bạo “sống còn với địch”. Anh liếc nhìn thấy một con dao găm trong bao đeo bên sườn thằng Tây trắng. Anh nghe theo bon chúng, từ từ cởi quần áo vứt xuống đất và nhanh như cắt anh rút ngay con dao găm đeo bên hông tên Pháp, dồn hết sức đâm một nhát xuyên vào bụng thằng Tây, rồi quay ngược tay dao đâm vào mỏ ác tên Mạc Văn C. Thấy địch quây tròn quanh sân, anh cầm con dao găm còn đẫm máu xông thẳng vào mấy tến lính da đen. Một tràng tiểu liên nổ đanh, anh để rơi dao và từ từ ngã xuống vẫn còn hô: “Đảng Cộng sản muôn năm!”, “Hồ Chủ tịch muôn năm!”.


Gần 9 giờ sáng, tổ du kích tiền tiêu báo “Địch đã rút hết về Văn Mạc”. Chúng tôi tức tốc về xóm Quang Trung vào nhà bà Lăm. Thấy chúng tôi đến, bà Chắt, bà Lắm và mấy bà khóc kể lại cho chúng tôi nghe toàn bộ diễn biến về trận chiến đấu giữa đồng chí Tụng và bọn địch.


Hành động chiến đấu phi thường của xã đội phó Nguyễn Đức Tụng là một chiến công tuyệt vời.

Từ ngày diệt trừ được tên đầu hàng chỉ điểm Mạc Văn C, tên Tây trắng đồn trưởng tàn bạo ở bốt cổ Chẩm (tên này bị đồng chí Tụng đâm vào bụng, địch cáng về giữa đường thì chết), quân địch ở Cô Chẩm và bọn phản động ở Văn Mạc cũng khiếp vía kinh hồn, chấm dứt những đợt biệt kích vào Mạc Thủ, Tiêu Xá.


Hơn 50 năm qua đi, kể từ những cuộc chiến đấu chống xâm lược Pháp và hành động chiến đấu quả cảm phi thường của xã đội phó Nguyễn Đức Tụng, xã Liên Mạc đã có nhiều thay đổi.

Tôi, Đặng Văn Tư, ở tuổi “bát tuần” cùng với anh Nguyễn Quang Tỵ, Bí thư Chi bộ đầu tiên của xã, cùng nhau ôn lại chuyện cũ và ghi ra đây một trong nhiều trận chiến đấu chống kẻ thù đánh vào xã Liên Mạc mà nổi bật là hành động chiến đấu anh hùng của đồng chí Nguyễn Đức Tụng. Với chiến công đặc biệt xuất sắc đó, ngày mồng 10 tháng 4 năm 2001, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã truy tặng Nguyễn Đức Tụng danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 21 Tháng Mười Một, 2022, 07:51:27 pm
Phần IV
MỘT SỐ HỒI KÝ THỜI CHỐNG PHÁP VÀ CHỐNG MỸ

ĐỒNG CHÍ NGUYỄN NGỌC XUÂN VÀ QUẢ MÌN LÕM ĐẦU TIÊN PHÁ THÁP CANH, HƯƠNG ĐỒN NỔI TIẾNG HƯNG YÊN


Hồi năm 1950, Tỉnh đội Hưng Yên rất muốn phá mưu mở rộng kế hoạch “tháp canh hương đồn” của đế quốc Pháp nhằm đàn áp triệt để cơ sở kháng chiến của ta ở thôn xã. Địch đã lợi dụng xây dựng bốt hương dũng vũ trang một số súng cho bọn này, thường xuyên đi càn quét giết hại bắt bớ cán bộ và du kích, đốt phá nhà cửa, hòng đánh bật lực lượng kháng chiến của ta còn bám ở xã, thôn, bắt ép nhân dan phải lập tề, ngụy, xây bốt. Tình hình phong trào lúc đó rất đen tối, nguy hiểm.


Chúng tôi nghiên cứu thấy chỉ có cách phá kỳ đươc các bốt canh, hương đồn thì mới có cơ hội để phát triển cơ sở kháng chiến, mới thực tế phá được tề, ngụy. Nhưng muốn phá được âm mưu mở rộng các bốt Hương dũng có kết quả trong phạm vi toàn tỉnh thì phải phá cho kỳ được 2 cái mạnh tương đối của bọn chúng. Đó là phải phá cho được lô cốt của chúng và chặn được chi viện của các bốt xung quanh đến giúp sức. Bản thân bọn hương dũng thì rất yếu, nhưng ban đêm nếu bị bộ đội đến đánh, khi thấy động, bọn chúng chui vào lô cốt để cố thủ, để đợi đến sáng, chờ cho viện binh ở các bốt xung quanh đến ứng cứu. Về phía ta, chỉ có thể làm chủ được ban đêm, không làm chủ được ban ngày. Năm 1950, ta đã được Bộ Quốc phòng tăng cường trang bị nên lớn mạnh rất nhiều, nhưng chỉ được trang bị những vũ khí bộ binh, không có vũ khí công đồn.


Cuối năm 1950, tôi được dự hội nghị tổng kết chiến dịch Biên giới. Ngoài việc học tập kinh nghiệm chiến đấu của chiến dịch, tôi cố ý tìm gặp đồng chí Nguyễn Ngọc Xuân, vốn quê ở Hưng Yên (huyện Mỹ Hào), lúc đó là Cục phó Cục Quân giới. Tôi đã lấy tình nghĩa người cùng quê hương Hưng Yên, trình bày với đồng chí khó khăn hiện nay của phong trào Hưng Yên và trình bày nguyện vọng thiết tha của Tỉnh đội Hưng Yên muốn được Bộ trang bị cho vài khẩu SKZ mà Bộ mới sản xuất được. Loại SKZ (súng không giật) này vừa là vũ khí chống được xe tăng, đồng thời cũng là vũ khí công đồn rất có hiệu quả.


Đồng chí Xuân đã nói với tôi rằng: "Là người quê ở Hưng Yên, tôi rất thông cảm với đồng chí. Nhưng hiện nay Bộ và Cục Quân giới chỉ mới sản xuất được ít, nếu đồng chí có xin và đợi cho Bộ xét duyệt, thì phải mất thời gian. Vì vậy, hiện nay Cục Quân giới đã có loại mìn lõm có thể vừa chống tăng và phá lô cốt được. Nếu đồng chí cần thì ngay lập tức Cục Quân giới sẽ trang bị cho Hưng Yên Rồi đồng chí giải thích mìn lõm là loại mìn có lõm một đầu, sức xuyên rất mạnh vào thành của lô cốt, nhưng đòi hỏi người chiến sĩ phải dũng cảm đặt mìn sát vào lô cốt thì mới có hiệu quả. Sau này khi Cục Quân giới đã sản xuất được nhiều súng SKZ thì đồng chí Xuân sẽ đề nghị với Bộ và Cục trang bị SKZ cho Hưng Yên.


Nghe đồng chí Xuân giải thích như vậy, trong lòng tôi vẫn muốn xin loại vũ khí công đồn như SKZ, nhưng nghe thấy loại mìn lõm cũng có tác dụng phá được lô cốt mà chỉ cần có chiến sĩ dũng cảm đặt mìn thì tôi rất phấn khởi và xin ngay Bộ và Cục Quân giới trang bị cho loại mìn lõm này. Sau hội nghị, được giấy giới thiệu của đồng chí Xuân, tôi cho người đến ngay kho để lĩnh. Tôi đã cùng với một số anh em trực tiếp mang về Hưng Yên. Đường đi phải trải qua vùng địch hậu tỉnh Bắc Giang và Hải Dương. Tôi đã giao tổ quân giới của tỉnh nghiên cứu và sản xuất đúng theo kiểu của Cục Quân giới vừa trang bị. Tổ quân giới của tỉnh cho biết có thể sản xuất các loại mìn lõm như vậy, cỡ từ 5 kg, 10 kg đến 20 kg theo ý muốn của cách đánh. Để giữ bí mật, chúng tôi đã đặt mật danh cho mìn lõm là VKM (vũ khí mới). Thế mà bọn địch cũng phát hiện ra mật danh đã thông báo cho cấp dưới của chúng để đề phòng, nhưng không rõ loại VKM đó là lo gì, cấu tạo và tác dụng ra sao thì chúng hoàn toàn không biết.


Đêm 31-3-1951, mở đầu cho chiến dịch “phá tháp canh hương đồn của địch”, chúng tôi đã tiêu diệt bốt Hương dũng có vũ trang rất phản động ở làng Thọ Lão (huyện Phù Cừ - Hưng Yên) bằng loại mìn lõm, phá tan 2 lô cốt cố thủ của chúng xây ngay bức Tường của nhà thờ. Sau đó, cùng với D664 (C42) chặn viện, diệt và bắt sống một số tên đi cứu viện cho địch ở Thọ Lão. Tiếp theo mẫu hình của trận Thọ Lão diệt bọn hương dũng, bằng mìn lõm, tỉnh Hưng Yên lại tiếp tục phá một loạt tháp canh, hương đồn của địch, mở các khu du kích rộng lớn tại các huyện Tiên Lữ, Ân Thi, Kim Động, Khoái Châu, tồn tại và phát triển cho tới khi kết thúc chiến tranh chống Pháp.


Tháng 11 năm 1951, Tỉnh đội Hưng Yên lại được Bộ, Cục Quân giới trang bị thêm một khẩu SKZ. Tôi hiểu rõ đó chính là đồng chí Nguyễn Ngọc Xuân đã giữ lời hứa với tôi trong hội nghị tổng kết chiến dịch Biên giới hồi tháng 10 năm 1950. Chúng tôi đã dùng khẩu SKZ này để tiêu diệt bốt Dương Trạch (phía Bắc huyện Khoái Châu). Việc này đã làm rung chuyển, suy sụp tinh thần chiến đấu của bọn địch khắp vùng Khoái Châu, Tây Yên Mỹ, toàn huyện Văn Giang. Tất cả các bốt Từ Hồ, Thiết Trụ, Công Luận, Đa Ngưu, Cửu Cao, v.v... đều hoảng sợ trước uy danh của bộ đội, chỉ nghe thấy bộ đội tiến gần đã vội tháo chạy hoặc xin hàng, tạo cho quân dân các huyện thuộc miền Bắc tỉnh Hưng Yên mở được nhiều khu du kích, giành được đại đa số dân, thiết lập được nhiều chính quyền cách mạng, và sau đó bộ đội tỉnh đã có nhiều cơ hội thắng lớn bằng các hình thức tác chiến khác.


Sự nghiệp “phá tháp canh, hương đồn” địch năm 1951 được tổng kết là rất vinh quang, Bác Hồ kính yêu đã tặng cho quân dân Hưng Yên mấy chữ vàng: "Đoàn kết nhân dân, đánh thắng giặc Pháp ” (tháng 5 năm 1952).


Theo tôi nghĩ, vinh quang ấy trước hết thuộc về đồng chí Nguyễn Ngọc Xuân. Nhưng đồng chí Nguyễn Ngọc Xuân rất khiêm tốn, không bao giờ kể về sự đóng góp của mình cho nhiều người biết là chính nhờ những quả mìn lõm rất có hiệu quả để phá hệ thống tháp canh, hương đồn ở tỉnh Hưng Yên và chính nhờ khẩu SKZ mà Bộ và bản thân đồng chí Nguyễn Ngọc Xuân đã trang bị cho Hưng Yên.


Lời BBT - Qua bài báo của Đại tá Trần Tiệu, quân dân đường 5 và quân dân tỉnh Hưng Yên mới được biết thêm, đồng chí Nguyễn Ngọc Xuân đã từng là chính trị phạm, bị Pháp bắt đày ở Côn Đảo. Khi chiến tranh thế giới lần thứ 2, đồng chí lại bị bắt ở Hỏa lò, căng Vụ Bản (Hòa Bình), rồi bị quản thúc ở quê huyện Mỹ Hào. Đồng chí còn là Bộ trưởng không bộ trong Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.


Qua hồi ký của đồng chí Vân* (Đồng chí Vân - bí danh là Chương, là ủy viên Thưởng vụ Tỉnh ủy Hưng Yên, đã về hưu, hiện trú tại thị xã Hưng Yên.), em ruột đồng chí Nguyễn Ngọc Xuân, thì đồng chí Xuân đã chơi rất thân với ông Nguyễn Bình (sau này là Trung tướng đầu tiên của nước ta). Anh Vân đã cùng ông Nguyễn Bình đóng giả sĩ quan Nhật, bất thình lình tập kích và tước đoạt vũ khí đồn Bần Yên Nhân (Hưng Yên) trên đường số 5 vào đêm 12-3-1945. Trước đó, ngày 10-3-1945, tại nhà đồng chí Nguyễn Ngọc Xuân, 2 người đã cùng bàn kế hoạch đánh đồn Bần, được sự đồng tình và phê duyệt của Xứ ủy Bắc Kỳ). Qua ông Vân, chúng tôi lại được biết, đồng chí Nguyễn Ngọc Xuân đã từ trần năm 1981 (ngày 9 tháng 2 âm lịch).


Nay đồng chí Nguyễn Ngọc Xuân không còn nữa. Xin thay mặt Ban chỉ huy Tỉnh đội Hưng Yên năm xưa, kính cẩn thắp một nén nhang trước linh hồn đồng chí Nguyễn Ngọc Xuân và mãi mãi tỏ lòng biết ơn đồng chí đối với phong trào kháng chiến đầy gian khổ của tỉnh Hưng Yên vì đồng chí đã tự thân trang bị cho Hưng Yên quả mìn lõm và khẩu súng SKZ rất có hiệu quả và kịp thời lúc đó.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 21 Tháng Mười Một, 2022, 07:53:00 pm
NGUYÊN VĂN XUÂN HAY NGUYỄN NGỌC XUÂN?
   

HỒNG ANH


Vừa qua, tạp chí Xưa và Nay nhận được thư của Đại tá Trần Tiệu, nguyên Chủ nhiệm Bộ môn, Viện Lịch sử Quân sự - Bộ Quốc phòng, cho biết rằng: Trong danh sách Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa ra mắt chiều 2/9/1945 có Bộ trưởng không giữ bộ nào: Nguyễn Văn Xuân.


Trong danh sách Chính phủ liên hiệp lâm thời ngày 1/1/1946 cũng có Bộ trưởng không giữ bộ nào: Nguyễn Văn Xuân.

Vậy Nguyễn Văn Xuân là ai? Theo Đại tá Trần Tiệu thì Nguyễn Văn Xuân chính là Nguyền Ngọc Xuân, nhà hoạt động cách mạng quê Mỹ Hào, Hưng Yên tham gia cách mạng bị Pháp bắt đày Côn Đảo, Hỏa Lò, căng Vụ Bản (Hòa Bình) rồi bị quản thúc ở quê...


Năm 1944 phụ trách xưởng vũ khí làng Chè. Ngày 15/9/1945 Bác Hồ quyết định thành lập phòng Quân giới thuộc Bộ Quốc phòng, cử đồng chí Nguyễn Ngọc Xuân là Chánh văn phòng và sau đó là Cục phó Quân giới (Cục trưởng là Trần Đại Nghĩa). Trong giấy ủy nhiệm do Hồ Chí Minh ký và Võ Nguyên Giáp ký đều ghi rõ tên Nguyễn Ngọc Xuân.


Nhiều người đọc sách lịch sử không hiểu, thắc mắc Nguyễn Văn Xuân là nhân vật nào?

Cuối cùng ông đề nghị Tòa soạn góp ý với bộ phận biên soạn cuốn Lịch sử Chính phủ (do GS Lê Mậu Hãn chủ biên) nên thay Nguyễn Văn Xuân hoặc mở ngoặc bên cạnh (tức Nguyễn Ngọc Xuân)...

Để làm rõ vấn đề trên, chúng tôi đã cử người đến gia đình tại số 5 Lý Nam Đế, Hà Nội gặp ông Nguyễn Ngọc Duẩn năm nay tuổi 80 là con trai cụ Nguyễn Ngọc Xuân để tìm hiểu thêm. Ông cho biết: “Tên lót “Ngọc” là tên khai sinh đi học của cụ từ xưa, ở mọi cơ quan nơi cụ công tác đều mang tên như vậy. Chỉ trong danh sách Chính phủ hồi đó là có tên lót là Văn”.


Trong tài liệu gia đình còn giữ lại có những tấm bằng ghi rõ họ tên cụ Nguyễn Ngọc Xuân, vì vậy chúng tôi xin đóng góp thêm tư liệu để những đơn vị phát hành tài liệu có liên quan đến sự việc này nên ghi rõ thêm Nguyễn Văn Xuân tức Nguyễn Ngọc Xuân để tránh sự nhầm lẫn về tên người trong lịch sử. (Vì còn có một nhân vật chính trị khác là Nguyễn Văn Xuân tham gia chính phủ bù nhìn do thực dân Pháp dựng nên năm 1945 ở Sài Gòn).


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 21 Tháng Mười Một, 2022, 07:53:59 pm
MỘT ĐẢNG VIÊN TRUNG THÀNH, DŨNG CẢM


LÊ CHI


Mồ côi mẹ từ lúc dưới 5 tuổi, cậu bé Lê Văn Chuối được bác ruột (chị của mẹ) đón về nuôi dưỡng dạy dỗ. Đến khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 công, anh đã 20 tuổi. Bác mất, anh sống cùng người con trai của bác. Hai anh em đều tham gia hoạt động cách mang, anh trai vào tự vệ chiến đấu, sau là du kích.


Sau ngày toàn quốc kháng chiến, tháng 3-1947 giặc Pháp càn quét đến quê hương anh (xã Xuân Quan, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên) rồi chúng chiếm đóng, lập tề, xây bốt tại địa phương. Ngày 14-10-1948, bọn hội tề đưa quân Pháp về vây làng, chỉ điểm cho địch bắt 15 cán bộ, đảng viên, du kích đem đi sát hại (các đồng chí này đều đã được công nhận liệt sĩ).


Lực lượng kháng chiến còn lại (trong đó có anh Chuối bị bật ra ngoài, đến đêm lần mò về gây lại cơ sở. Hoạt động kháng chiến trong điều kiện rất khó khăn gian khổ phải tự túc hoàn toàn; một tập thể hơn 70 con người phải phân công cụ thể từng bộ phận công tác: một bộ phận chuyên về gây cơ sở, một bộ phận chuyên làm kinh tế cày thuê, gặt mướn chợ búa nuôi nhau để hoạt động kháng chiến. Anh Chuối đươc giao nhiệm vụ đi buôn nước mắm, từ đất Khoái Châu (Hưng Yên) sang chợ Đại, Cống Thần (Hà Đông) mua hàng gánh bộ về đi bán rong các làng. Tháng 3-1949, anh được chi bộ kết nạp vào Đảng Cộng sản, lấy bí danh là Lê Đình Thực.


Cuối năm 1949, giặc Pháp đánh chiếm địa bàn tỉnh Hưng Yên. Cán bộ, du kích xã phải lánh qua Thái Bình sang Hà Nam, ban đêm lại vượt qua đồn bốt giặc các huyện Phú Xuyên, Thường Tín, Thanh Trì... về cơ sở nắm dân. Đồng chí Thực cùng bộ phận làm kinh tế được phân công gánh muối từ Hà Nam lên Việt Bắc bán, qua Hà Đông đến Thái Nguyên. Khi trở về đến Ba Thá (Hà Đông), đồng chí đã bị sốt rét rừng hành hạ. Cả đoàn dìu dắt nhau về đến nơi ở thì cũng là lúc giặc Pháp bắt đầu tấn công Hà Nam Ninh.


Theo quyết định của Huyện ủy, chi bộ phải bố trí một bộ phận về địa phương sống hợp pháp để nắm dân, gây cơ sở. Đồng chí Thực và 2 đảng viên cùng 7 người là cán bộ du kích được chi bộ giao nhiệm vụ này. Đồng chí Thực được phân công chuyển thư, báo cáo đến hộp thư bí mật của huyện và nhận công văn, chỉ thị của huyện về cho đồng chí Điện (Bí thư) nằm bí mật trong xã. Đồng chí thường phải đi đêm, tìm cách tránh giặc phục kích, bảo vệ được tài liệu đến đích an toàn.


Tháng 12-1952, ta giải phóng gần hết huyện Văn Giang. Vành đai phía đông nam Hà Nội đứng trước nguy cơ bị uy hiếp nên bọn địch đã điều động đại đội Bảo chính đoàn lưu động số 16 do thiếu úy Đinh Văn Lực chỉ huy (tên phản bội cách mạng này rất tàn ác) về đóng quân tại xã Xuân Quan, xây bốt lập vị trí tiền tiêu phòng chống sự tấn công của quân ta. Thời gian này, ngày nào đồng chí Thực cũng phải chuyển báo cáo mật lén huyện. Ngày 26-12-1952, đồng chí đang đi làm nhiệm vụ, đã bị bọn lính bắt dẫn về bốt. Đồng chí nghĩ kế ngồi xuống vờ đi giải và vùi tài liệu dưới đống gạch ngổn ngang đang để xây bốt. Lính dẫn đồng chí vào bốt trình tên Lực, y ra lệnh khám người. Không thấy gì, bọn lính nghi ngờ hành động ngồi đi giải của đồng chí nên chúng kéo nhau ra bới đống gạch tìm kiếm, thấy ống tài liệu đem vào nộp tên Lực. Bọn ác ôn thay nhau tra tấn đồng chí rất dã man song không lấy được một lời khai nào. Đến tối, vì bốt đang xây không có chỗ giam, tên Lực đã giao cho đồn binh Pháp ở Giang Cao giam giữ và tiếp tục tra tấn khai thác hòng moi tin tức.


Ngày hôm sau, bọn Phòng nhì tra tấn cực kỳ dã man. Đồng chí Thực cắn răng chịu đựng, không khai báo gì. Đêm nằm đau rên, đồng chí nghĩ nó tra tấn mãi cũng chết, nên chết vì Đảng vì dân cho xứng đáng là một đảng viên. Đồng chí nghĩ ra một kế. Sáng hôm sau, bắt đầu cuộc tra tấn. Tên Phòng nhì hỏi:

- Mày đã biết thế nào là đòn tra chưa?

- Tôi đau lắm!

- Tại sao mày không chịu khai báo?

- Hôm nay tôi sẽ khai.

- Cho mày khai đi.

- Tôi có một quả lựu đạn... giấu ở xóm Soi dưới!

- Mày dẫn tao đi lấy.

Thế là chúng tổ chức một tiểu đội lính dẫn giải đồng chí đi lấy lựu đạn. Đến nơi chúng hỏi:

- Mày để đâu?

- Tôi bị tra đánh đau quá nên nói thế chứ tôi không có lựu đạn.

Bọn lính lại xúm vào đánh đồng chí một trận ác liệt. Hai tay bị trói quặt ra đằng sau lại bị bọn lính đi hai hàng áp giải kèm chặt nên đồng chí không có cơ hội chạy trốn. Cả ngày thứ hai đồng chí bị địch tra tấn hơn ngày trước. Rồi ngày thứ ba chúng tiếp tục tra tấn dã man, đồng chí vẫn cắn răng chịu đựng không khai báo lời nào. Đêm đến, đồng chí nghĩ cách thực hiện kế đã định, tìm cách tự cởi trói. Thử nghiêng đầu lách lọt qua lỗ châu mai thấy được, đồng chí bèn cởi quần áo ngoài, sấp người luồn 2 chân giơ thắng 2 tay lách người luồn ra. Địch rào dây thép gai nhiều tầng, trên treo ống bơ, dưới đất gài mìn. Đồng chí lần theo rìa bờ rào trong cùng ra đến cổng. Vọng gác ở phía trong cổng độ 10 m, đêm tối tên gác không phát hiện được. Gặp thời cơ thuận lợi, đồng chí đã trườn qua cổng thoát ra ngoài rồi tiếp tục bò nhanh xuống khu ruộng trũng vượt qua mặt đê...


Đồng chí Thực trở về mình đầy thương tích. Anh em đồng chí trong xã tìm mọi cách thuốc thang cứu chữa hồi phục sức khỏe cho đồng chí. Ít lâu sau đồng chí bình phục lại, được điều động làm nhân viên bưu điện huyện, rồi về xã làm công tác cơ sở.


Tên Lực lùng bắt cán bộ, phá vỡ cơ sở của Xuân Quan. Cán bộ, đảng viên phải tạm lánh ra ngoài đứng nhờ địa bàn xã Tân Tiến và Liên Nghĩa. Thời gian này, đêm nào đồng chí Thực cũng thường xuyên lăn lộn về tổ chức cơ sở.


Địa bàn huyện Văn Giang là cửa ngõ phía Đông Nam Hà Nội và sân bay quân sự Gia Lâm. Năm 1953, địch luôn tổ chức các cuộc càn quét lớn tấn công vào đất Văn Giang. Các cuộc càn quét lớn, nhỏ của địch đều vấp phải sự đánh trả quyết liệt của quân ta. Ngày 17-1-1954, địch huy động hàng binh đoàn càn quét lớn vào xã Tân Tiến. Bộ đội huyện và du kích tập hợp tại ấp Bá Khê để thực hiện kế hoạch vào đánh tập kích quân địch. Đồng chí Phạm Ninh, Huyện đội trưởng, yêu cầu người dẫn đường cho bộ đội vào đánh địch. Đồng chí Thực đã xung phong dẫn đường và nói: “Tôi đã làm bưu điện đóng ở xã Tân Tiến nên tôi thuộc đường lắm”. Đồng chí chỉ huy chấp nhận và ra lệnh cho đơn vị tiến quán. Trong trận chiến đấu này, đồng chí Thực bị trúng đạn của địch và hy sinh, được đồng đội đưa về làm lễ mai táng tại ấp Bá Khê.


Đồng chí, đồng đội, nhân dân xã Xuân Quan và toàn huyện cảm phục ca ngợi đồng chí Lê Đình Thực - một đảng viên hết lòng trung thành với Đảng, kiên cường bất khuất trước sự tra tấn dã man của kẻ thù, dũng cảm chiến đấu với quân địch.


Sau ngày kháng chiến chống Pháp thắng lợi, đồng chí được Chính phủ quyết định công nhận là liệt sĩ, tặng bằng Tổ quốc ghi công. Cụ Phan Thị Thành, mẹ liệt sĩ Lê Đình Thực đã được Chủ tịch nước truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 21 Tháng Mười Một, 2022, 07:55:07 pm
LIỆT SĨ ĐỖ MINH HIỆP - NGƯỜI CON THÂN YÊU
CỦA THÔN QUAN XUYÊN


Đại tá ĐÀO NGỌC QUẾ


Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, xã Nguyễn Huệ1 (Xã Nguyễn Huệ nay được chia thành 2 xã là Nguyễn Huệ và Thành Công thuộc huyện Khoái Châu), huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên có hàng trăm người con hăng hái tham gia các lực lượng vũ trang, trong đó có hơn 100 người tham gia quân đội. Chi riêng thôn Quan Xuyên2 (Thôn Quan Xuyên nay thuộc xã Thành Công) có tới gần ba chục người tham gia quân đội và mấy chục thanh niên nam nữ vào dân quân du kích. Một trong những gương chiến đấu mưu trí, dũng cảm tiêu biểu của xã Nguyễn Huệ lúc ấy, đến tận bây giờ nhiều người ở đây còn nhớ rõ: Đó là đồng chí Đỗ Minh Hiệp, người thôn Quan Xuyên, một đảng viên Cộng sản trung kiên, một cán bộ mẫu mực, chiến đấu gan dạ, sáng tạo.


Đỗ Minh Hiệp tham gia hoạt động cách mạng ở thôn Quan Xuyên từ những ngày đầu cuộc chiến. Khi đội du kích huyện Khoái Châu (sau này là bộ đội địa phương) được thành lập, anh đã tình nguyện gia nhập. Anh được điều về làm công tác quân báo của Huyện đội Khoái Châu. Lúc này, ở huyện Khoái Châu địch mới đóng 2 bốt ở Thiết Trụ và Đông Tảo. Chúng cho quân càn quét, cướp bóc, lập hội tề ở các vùng chung quanh. Đồng thời, nhiều lần chúng hội quân các bốt đi càn quét sâu xuống các xã khu Trung và khu Nam trong huyện. Nhận nhiệm vụ, Đỗ Minh Hiệp cùng đồng đội bám sát, nắm chắc tình hình địch, kịp thời báo cáo về Huyện đội Khoái Châu và Tỉnh đội Hưng Yên. Nhờ vậy, ta chủ động có kế hoạch đối phó với địch, và hạn chế được âm mưu phá hoại của chúng, vừa bảo vệ được tính mạng và tài sản của nhân dân. Với thành tích ấy, Đỗ Minh Hiệp nhiều lần được tuyên dương công trạng và được kết nạp vào Đảng.


Đầu năm 1950, giặc Pháp mở chiến dịch lớn DIABOLO (Con lăn) càn quét, đánh phá ác liệt vào hầu hết các vùng tự do còn lại của ta ở Hưng Yên và Hải Dương. Trong số 360 đồn bốt chúng mới lập ở Hưng Yên thì huyện Khoái Châu có tới 80 đồn bốt; trong đó thôn Quan Xuyên được chúng xác định là một trọng điểm. Bộ máy ngụy quyền được thiết lập đồng thời với các tổ chức quận dũng, tổng dũng, hương dũng, bảo an ở hầu hết các làng xa trong huyện, do bọn tay sai người Việt chỉ huy. Ngoài lực lượng chiếm đóng, địch còn bố trí các binh đoàn cơ động (GM) sẵn sàng tăng viện, phối hợp trong các trận càn lớn khác. Một số tên phản động lợi dụng thời cơ nổi lên làm tay sai cho giặc, chỉ điểm phá cơ sở cách mạng. Tình trạng bắt lính, bắt phu xây bốt, làm đường diễn ra thường xuyên.


Ngoài việc xây bốt ở ngay bến đò trên sông Hồng thuộc địa bàn thôn Quan Xuyên (đặt tên là bốt Nghi Xuyên), ở các làng xung quanh chúng đã thiết lập cả một hệ thống đồn bốt phản động liên hoàn như Sài Quất, Chợ Giàn, Hậu Đền, Nhuế Dương, Cốc Phong... do các tên tay sai gian ác chỉ huy. Một bộ phận dân chúng bị địch o ép vào hội tề. Ngay cả một số chị em phụ nữ cũng bị chúng bắt lấy lính bốt. Nhiều cán bộ cơ sở của Quan Xuyên phải lánh ra vùng tự do chờ dịp trở lại hoạt động. Nhân dân bị giặc o ép khủng bố đói khổ mong chờ bộ đội về diệt bốt giải phóng cho dân làng.


Trước những diễn biến phức tạp ở xã Nguyễn Huệ nói chung và thôn Quan Xuyên nói riêng, lãnh đạo huyện Khoái Châu quyết định điều động Đỗ Minh Hiệp - lúc này đang làm cán bộ quân báo - về tăng cường cho địa phương. Biết anh là một cán bộ trẻ có năng lực, xông xáo, lại là người thôn Quan Xuyên rất thông thuộc địa bàn, cư dân, lãnh đạo xã Nguyễn Huệ phân công Đỗ Minh Hiệp về phụ trách Quan Xuyên để củng cố tổ chức, gây dựng lại cơ sở đã bị địch phá. Biết là có nhiều khó khăn, phức tạp, song nhận thức được tầm quan trọng của vùng đất Quan Xuyên, anh quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ.


Hoạt động trong hoàn cảnh không thuận lợi, Đỗ Minh Hiệp khôn khéo, bí mật gặp gỡ các cán bộ chủ chốt còn trụ lại cùng những quần chúng tốt để chắp nối lại cơ sở ở Quan Xuyên. Khơi dậy được lòng yêu nước và ý chí căm thù giặc của quần chúng, anh được che chở và vượt qua mọi tai mắt của kẻ thù. Một thời gian sau, đội du kích thôn Quan Xuyên được tổ chức lại với hàng chục đội viên. Các đoàn thể phụ nữ thanh niên, dân quân... được khối phục, hoạt động có hiêu quả. Đỗ Minh Hiệp được bổ sung vào cấp ủy, nhận nhiệm vu xã đội trưởng, đồng thời trực tiếp phụ trách thôn Quan Xuyên Một số người trước đây bị địch o ép phải làm việc cho chúng nay được anh Hiệp bí mật bố trí giao nhiệm vụ. Địch đánh hơi, điên cuồng bắt một số người đánh đập, tra tấn dã man hòng truy tìm tổ chức của ta. Chúng giết bà Tâm - Chi hội phụ nữ, ông Cừ - cán bộ cơ sở, thiêu sống cụ ông Nguyễn Văn Tấm, bắt bà Toan - em gái bà Tâm, uy hiếp dân làng. Chúng còn bắn pháo vào làng, giết chết cụ bà Quỹ Tuân, bà Thào, làm bị thương và phá hủy tài sản của nhiều người khác.


Địch biết Đỗ Minh Hiệp là người chỉ huy các lực lượng kháng chiến ở Quan Xuyên, chúng liền treo giải thưởng cho ai bắt hoặc chỉ điểm nơi ở của anh. Thế nhưng Đỗ Minh Hiệp vẫn an toàn hoạt động. Việc anh tổ chức đội du kích cải trang đánh bọn lính ngụy ngay trong chợ Bốt càng làm cho địch hoang mang, lo sợ.


Năm 1951, bộ đội ta về tiêu diệt một số lớn đồn bốt địch trong toàn tỉnh, buộc chúng phải co cụm lại. Các bốt xung quanh Quan Xuyên nổi tiếng hung ác như Sài Quất, Chợ Giàn, Hậu Đền, Lạc Thủy... lần lượt bị tiêu diệt. Đội du kích xã Nguyễn Huệ và thôn Quan Xuyên cũng trưởng thành nhanh chóng, từng phôi hợp với bộ đội huyện đánh địch ở bốt vào càn quét thôn Uyển, Nhuệ Dương và Quan Xuyên giành thắng lợi, diệt tên sếp bốt. Một lần, địch ngoan cố lại cho quân tiến công vào thôn Uyển và Quan Xuyên. Đội du kích do Đỗ Minh Hiệp chỉ huy đã phối hợp với bộ đội chặn đứng nhiều đợt tiến công của địch vào thôn Quan Xuyên, buộc chúng phải rút chạy bỏ lại trâu bò cùng nhiều tài sản cướp của dân. Sau trận này, đội du kích thôn Quan Xuyên do Đỗ Minh Hiệp tổ chức chỉ huy đã có nhiều gương dũng cảm, như bà Ngội, bà Bích bị địch bắt tra tấn dã man nhưng vẫn bảo vệ khí tiết trở về với đồng đội. Bà Kiên đã cùng một tiểu đội du kích nữ Hoàng Ngân ra tận đường 39 dùng đòn gánh diệt một tiểu đội địch, cướp vũ khí. Bà Kiên được tặng thưởng một khẩu súng chiến lợi phẩm đem về bổ sung vào số vũ khí của đơn vị.


Ngày 26 tháng 3 năm 1954, Tiểu đoàn 54 thuộc Tỉnh đội Hưng Yên về đánh diệt hoàn toàn bốt Nghi Xuyên. Đội du kích Quan Xuyên số đông là chị em nữ Hoàng Ngân đã tích cực phục vụ trận đánh. Các chị em hăng hái bắt tù binh, cứu thương, mang vác chiến lợi phấm. Riêng bà Ngội được đội trinh sát sử dụng để vẽ sơ đồ, đắp sa bàn dẫn đường cho bộ đội (bởi bà đã có thời gian bị địch bắt ở trong bốt, thông thạo địa hình), bà đã được Ban chỉ huy trận đánh khen thưởng.


Đầu năm 1954, ta mở chiến dịch tổng công kích đường 5, đánh phá toàn tuyến đường bộ và đường sắt từ Hải Phòng đi Hà Nội. Tỉnh đội Hưng Yên quyết định điều động Đỗ Minh Hiệp giữ chức chính trị viên Trung đội thuộc Đại đội 5 (là đại đội độc lập chuyên về đánh bom mìn trên đường 5 và đường sắt). Đồng chí Mai Phương, đại đội trưởng và đồng chí Quyết, đại đội phó là những người trực tiếp chỉ huy đơn vị lúc đó, cho biết: Đồng chí Đỗ Minh Hiệp là một cán bộ gương mẫu, tận tụy. Tuy đồng chí ở đơn vị chưa lâu nhưng thường xuyên tổ chức và chỉ huy các chiến sĩ bám sát trận địa. Ngày thì trinh sát địch, đêm lại chỉ huy đánh bom mìn phá đường sắt, cắt dây điện thoại... tiêu diệt được nhiều đoàn tàu giặc. Sau một lần đánh địch, đơn vị của Đỗ Minh Hiệp về trú quân tại thôn Thư Đôi (làng Cồi) thuộc huyện Thuận Thành - Bắc Ninh, thì bị 3 máy bay Đa-cô-ta của Pháp đến thả bom. Đồng chí Đỗ Minh Hiệp bị trúng bom và hy sinh. Cả đơn Đại đội 5 vô cùng thương tiếc anh, một cán bộ dũng cảm, kiên cường. Đơn vị cùng địa phương tổ chức truy điệu và chôn cất anh ngay trên mảnh đất anh ngã xuống.


Được tin Đỗ Minh Hiệp hy sinh khi anh tròn 24 tuổi cán bộ và nhân dân xã Nguyên Huệ và thôn Quan Xuyên - quê hương thân yêu của anh vô cùng thương tiếc, đã tổ chức trọng thể lễ truy điệu, đưa tiễn anh. Nhà nước cũng đã truy tặng Đo Minh Hiệp danh hiệu liệt sĩ và bằng Tổ quốc ghi công.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 21 Tháng Mười Một, 2022, 07:55:50 pm
ĐẠI ĐỘI 25 LIÊN TIÊP LẬP CÔNG


Đại tá NGUYỄN VĂN HẢI
(Nguyên Viện trưởng VKSQS Quân khu 3)


Bước vào Đồng Xuân năm 1952-1953, Đại đội 25 thuộc Tiểu đoàn 58 Tỉnh đội Hưng Yên được cấp trên giao nhiệm vụ lên hoạt động bám trụ ở phía bắc huyện Khoái Châu và 2 huyện Văn Giang - Yên Mỹ để làm nhiệm vụ xây dựng cơ sở, giữ vững căn cứ du kích vùng mới giải phóng, đồng thời nghiên cứu, tố chức diệt các đồn bốt địch ở các khu vực địa bàn khu căn cứ uy hiếp đường số 5A.


Chấp hành nhiệm vụ, đồng chí Phạm Du, đại đội trưởng giao nhiệm vụ cho các đồng chí Uy, Lai, Chất - trinh sát viên dưới sự chỉ huy của đồng chí Lê Văn Ca - Tiểu đội trưởng - Trung đội 1 đi trinh sát các bốt địch để tìm đường luồn sâu vào trung tâm căn cứ địch theo phương thức đánh “Mật tập” diệt đồn nhanh gọn quân ta ít bị thương vong mà Đại đội 25 đã từng thành công giành thắng lợi vẻ vang, tiêu diệt một số đồn như: Đào Viên, Văn Trì...


Sau một thời gian, tổ trinh sát đã tiến hành trinh sát thực địa có kết quả về báo cáo với đại đội. Sáng ngày 8-10-1953, đại đội trưởng Phạm Du gọi tôi (Nguyễn Văn Hải) thư ký tác chiến đại đội nói rõ nhiệm vụ: Tối nay đi cùng đại đội trưởng theo tổ trinh sát dẫn đường đến thực địa xem cụ thể bốt Cống Ao Sầu. Khoảng 23 giờ chúng tôi nối đuôi nhau bò vào hết hàng rào dây thép gai thứ 3 rất thuận lợi và an toàn.


Sáng hôm sau, đại đội trưởng giao cho tôi và tổ trinh sát đắp sa bàn, nghiên cứu để giao nhiệm vụ cho các trung đội đi trinh sát, nghiên cứu thực địa thật cụ thể, thận trọng...

Ngày 10-10-1953, mũi trinh sát của các trung đội tập trung trên sa bàn để bổ sung những tình tiết mới phát hiện. Đồng chí đại đội trưởng kết luận, đồng thời giao nhiệm vụ cho các trung đội về tổ chức cho bộ đội luyện tập phương thức tác chiến đánh “Mật tập” ở các hướng đã được phân công nhiệm vụ. Thời gian này, đồng chí Mai Dương, Tiểu đoàn phó D58 trực tiếp xuống theo dõi chỉ đạo Đại đội 25. Theo kế hoạch, tối ngày 14-10-1953, Đại đội 25 tấn công diệt đồn cống Ao Sầu. Đúng 20 giờ đơn vị xuất phát hành quân từ thôn Đức Nhuận Thượng, đến 23h30 đại đội đã tỏa ra tiến sát hàng rào thép gai ngoài cùng. Đường dây điện thoại các mũi báo về thông suốt. Tổ trinh sát mũi chính báo ra đã gỡ hết mìn và cắt xong hàng rào thứ 3, mở đường áp sát sở chỉ huy địch. Các mũi gọi điện về đều đã áp sát lô cốt địch. Đồng chí Phạm Du ra lệnh các mũi tiếp tục tiến vào. Đúng 23 giờ 50, lệnh đại đội trưởng phát hỏa tiến công. Ngay lập tức mũi trung đội 1 xông lên diệt gọn chỉ huy sở địch và 2 lô cốt trung tâm. Mũi trung đội 3 diệt gọn 2 lô côt phía bắc. Tất cả địch đều bị tiêu diệt gọn. Còn mũi thứ 3 do Trung đội Nguyễn Văn Định chỉ huy bị vướng hàng rào quanh lô cuối cùng không vào được nên phải bí mật rút ra và bị hy sinh một đồng chí.


Trận đánh diễn ra trong vòng 30 phút, ta tiêu diệt gọn, chỉ huy và 4 lô cốt, boong ke; thu được 4 khẩu đại liên Mas, 1 trung liên và một số súng trường. Còn sót 2 lô cốt phía nam không diệt được nên trung đội ở mũi này phải kiểm điểm rút kinh nghiệm.


Sau trận diệt đồn Cống Ao Sầu ngày 18-11-1953, đại đội 25 lại “Mật tập” tiêu diệt đồn Vĩnh An huyện Văn Giang. Ta diệt 16 tên, bắt sống 74 tên, thu toàn bộ vũ khí. Điều nổi bật trận này là ta đã đánh trúng, diệt và bắt gọn hầu hết ca tên phản động, ác ôn có nhiều tội ác chống phá cách mạng huyện Văn Giang. Trong trận này ta chỉ bị thương 3 đồng chí.


Để tiếp tục chỉ huy đơn vị chiến đấu, cấp trên đã bổ nhiệm đồng chí đại đội phó Hà Huy Doanh lên giữ chức đại đội trưởng. Đại đội 25 lại nhận được lệnh của Tỉnh đội giao tiếp nhiệm vụ tổ chức trinh sát, tìm mọi cách diệt bằng được đồn Kênh Cầu thuộc huyện Yên Mỹ, cách đường số 5 hơn 2km. Sau một thời gian trinh sát, tổ trinh sát đã tìm được lối vào. Riêng đồng chí Lai, trinh sát viên, đã mò vào hẳn trung tâm chỉ huy của đồn mà bọn địch không hay biết, lúc ra còn vào bếp lấy ra 3 kg thịt và bọc bún mang về. Tuy vậy đai đội thấy việc làm manh động của đồng chí Lai là rất nguy hiểm nên đã kịp thời chấn chỉnh. Đồng chí đại đội trưởng gọi tôi (Nguyễn Văn Hải) thư ký tác chiến lên đi cùng đại đội trưởng theo tổ trinh sát đến thực địa nghiên cứu theo dõi qua 3 ngày, đại đội báo cáo về tiểu đoàn và lên Tỉnh đội. Đồng chí Lê Đức Thịnh, Chính trị viên Tỉnh đội và đồng chí Nguyễn Văn Chiện, Tiểu đoàn trưởng D58 xuống kiểm tra nắm tình hình và trực tiếp chỉ huy trận đánh này... Đúng 5 giờ ngày 18-01-1954, Đại đội 25 lại lập công xuất sắc, tiêu diệt gọn bốt Kênh Cầu, thu toàn bộ vũ khí, quân trang, quân dụng. Bộ đội ta hoàn toàn vô sự. Thắng lợi diệt dược đồn Kênh Cầu và Vĩnh An, bọn địch không còn khả năng chiếm đóng lại nên tuyên đường số 5A dài khoảng 8 km từ Bần Yên Nhân đến Cầu Ghềnh bọn địch đành bỏ ngỏ. Thời cơ này đã tạo điều kiện cho các lực lượng chủ lực, dân quân du kích của ta kéo lên áp sát đường 5A, ngăn chặn con đường tiếp tế chiến lược của địch từ Cảng Hải Phòng lên Hà Nội và đánh tiêu diệt lớn đối với đội quân viễn chinh Pháp đang bị sa sút, khốn đốn trên đoạn đường này cho đến khi hiệp định Giơnevơ được ký kết.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 21 Tháng Mười Một, 2022, 07:56:47 pm
LA TIẾN MỘT THỜI ĐAU THƯƠNG VÀ CHIẾN THẮNG


PHẠM QUANG MINH


La Tiến thuộc xã Nguyễn Hòa, huyện Phù Cừ, ở tận cùng phía đông nam tỉnh Hưng Yên. Sống dưới chế độ thực dân Pháp, nhân dân ta bị bọn thực dân đế quốc đàn áp bóc lột nặng nề, dẫn đến nạn đói khủng khiếp tháng ba năm Ất Dậu 1945. La Tiến cùng nằm trong thảm cảnh đó. Xã Nguyễn Hòa bị chết đói 544 người (bằng 1/4 dân số xã), riêng La Tiến chết đói 112 người.


Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi. Nhân dân La Tiến đi theo Việt Minh vùng lên giành lại chính quyền. Cuộc mít tinh lớn tổ chức tại sân đình ngày 24-8-1945 biểu thị ý chí cách mạng của nhân dân, quyết tâm xây dựng cuộc sống mới dưới chế độ Dân chủ cộng hòa. Lá cờ đỏ sao vàng được cấm trên ngọn cây đa cao. Làng quê bừng lên khí thế cách mạng mới, thanh niên, thiếu nhi phấn khởi múa hát những bài ca cách mạng dưới bóng cây đa. Giải phóng quân về huyện tập “đánh trận giả” tại bờ sông khu vực bến đò. Xã tổ chức cuộc thi bơi vượt sông Luộc, dân làng đứng kín quanh gốc cây đa reo hò cổ vũ, càng tăng thêm không khí tưng bừng của cách mạng mùa thu.   Thực dân Pháp dã tâm xâm lược nước ta lần nữa. Ngày 23-9-1945 chúng gây hấn ở Nam Bộ. Đáp lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, người thanh niên đầu tiên của La Tiến là Đặng Đồng - vừa đoạt giải nhất cuộc thi bơi - đã xung phong gia nhập đoàn quân Nam tiến. Ngày 19-12-1946, kháng chiến toàn quốc bùng nổ. La Tiến còn ở xa mặt trận, nhưng không khí chuẩn bị chiến đấu đã sôi động hơn. Hàng chục thanh niên tiếp tục tình nguyện nhập ngũ ra tiền tuyến. Bến đò La Tiến nhộn nhịp, ngày đêm từng đoàn bộ đội hành quân qua lại, ngồi nghỉ chân bên sốc đa, nhân dân mang nước chè xanh ủng hộ.


Chiến tranh ngày càng lan rộng. Ngày 4-1-1947, giặc Pháp đánh vào địa bàn Hưng Yên, đóng bốt cầu Ghềnh, Như Quỳnh, từng bước mở rộng chiếm đường 5, đường sắt và 4 huyện phía bắc tỉnh. Nhân dân La Tiến vẫn tích cực chuẩn bị mọi mặt cho kháng chiến. Dân quân, thanh niên hăng hái luyện tập quân sự, mua sắm vũ khí, đào hầm hố phòng tránh bom đạn, phá hoại đường, đắp ụ trên đê sông Luộc; rào làng đắp lũy xây dựng “thôn kháng chiến”; tổ chức đưa du kích và các cụ “bạch đầu quân’' lên khu đường 5.


Ngày 22-12-1949, địch mở chiến dịch Diabolo đánh phá càn quét địa bàn 10 huyện tự do phía nam 2 tỉnh Hưng Yên Hải Dương. Từ ngày đó, địch đóng bốt La Tiến, xây dựng thành vị trí then chốt trong tuyến phòng thủ bắc sông Luộc. La địa hình quan trọng về quân sự và giao thông thủy bộ, những trận càn lớn của địch ở Hưng Yên trong những năm kháng chiến như Diabolo (Con Quay 22-12-1949). Citron (Trái Chanh 25-9-1951). Dromadaire (Lạc Đà 23-4-1952), và trận càn lớn cuối cùng An-giê-ri (7-1-1954) đánh vào các huyện Phù Cừ, Tiên Lữ, và 2 huyện Thanh Miện, Ninh Giang (Hải Dương), quân cơ động địch đều có lực lượng kín tập kết ở La Tiến, làm bàn đạp tấn công càn quét trong vùng. Bốt La Tiến trở thành nơi địch giam cầm, tra tấn, tàn sát đồng bào, cán bộ và chiến sĩ ta bằng cả những hình thức giết người man rợ. Trong số hơn một ngàn người bị địch giết hại ở đây, có nữ anh hùng liệt sĩ Trần Thị Khang lúc đó là Huyện ủy viên. Bí thư Phụ nữ cứu quốc huyện, chỉ huy đội nữ du kích Hoàng Ngân huyện Phù Cừ. Ngày 8-6-1950, chị về công tác tại thôn Phù Oanh xã Minh Tiến, không may địch quây càn bắt được dưới hầm bí mật. Chúng đưa chị về bốt La Tiến tra tấn hết sức dã man, treo ngược lên cành cây đa đấm đá đến khi ngất lịm, máu chảy đầm đìa; tra điện giật bắn tung người, dùng kìm rút hết móng tay... Lúc tỉnh dậy, địch lại giở trò dụ dỗ khai báo, đầu hàng, nhưng chị không hề khuất phục. Qua 5 ngày đối mặt với quân thù, chị luôn giữ vững ý chí, kiên trung bất khuất. Địch đã treo chị lên cành cây đa, dùng dao cắt cổ rồi hất xác xuống sông Luộc. (Ngày 8-11-2000, chị được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân).


Nhân dân La Tiến hai lần bị địch dồn đi khỏi làng, bỏ lại “vườn không nhà trống”; ba lần địch đốt phá, san bình địa thành “vành đai trắng”. Gần ba trăm nóc nhà, toàn bộ công trình kiến trúc cổ kính: đình, chùa, đền, miếu... thành đống tro tàn, hơn 100 người bị chết... Nhưng người dân La Tiến không hề theo giặc, vẫn một lòng một dạ hướng về Đảng, Bác Hồ, tin tưởng vào kháng chiến.


Đáp lại sự mong đợi của nhân dân trong vùng, rạng sáng ngày 31-1-1954 (tức 23 tháng chạp năm Quý Tỵ), bộ đội Trung đoàn 42 gồm Tiểu đoàn 664 và Đại đội 24 Phù Cừ phối hợp, cường tập tiêu diệt vị trí La Tiến trong vòng 20 phút, mở ra vùng căn cứ du kích rộng lớn khu tiếp giáp 3 tỉnh Hưng Yên - Hải Dương - Thái Bình.


Nhân dân La Tiến thoát khỏi vòng kìm kẹp khủng bố của quân thù, nhanh chóng trở về phục hồi sản xuất, dựng tạm nhà cửa trên nền đất cũ. 4 năm sống trong vùng địch tạm chiếm căng thẳng, giờ đây được sống tự do. Không bao lâu, chợ La lại họp đông vui trên nền chợ cũ - nơi bốt địch vừa bị quân ta tiêu diệt. Con đò ngang lại sớm tối đưa khách qua sông. Nhân dân thu dọn sạch sẽ, cải tạo địa hình không còn một dấu tích quân giặc chiếm đóng. “Bia căm thù” được xây dựng bên gốc đa để ghi sâu tội ác của bọn xâm lược, và nêu gương hy sinh bất khuất, chiến thắng vẻ vang của quân dân ta.


Hơn nửa thế kỷ qua, từ khi không còn bốt giặc, người dân La Tiến trở về làng xây dựng lại cuộc sống. Hàng chục nhà xây cao tầng liên tiếp mọc lên. Nhân khẩu gần gấp đôi thời chống Pháp (1700 người) nhưng không còn hộ đói, không còn nhà tranh tre, nứa lá. Đường lối đổi mới của Đảng đã mở ra phương hướng phát triển xây dựng đi lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, “dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.


Mọi sự vật đổi thay theo năm tháng. Nhưng còn đó “cây đa La Tiến”, nhiều người gọi là “cây đa căm thù”, bởi nó là “hiện vật” ghi lại tội ác của bọn đế quốc xâm lược. Trải qua bao mưa nắng, cây đa to lớn nhanh đến lạ kỳ, gấp ba bốn lần lúc quân địch chiếm đóng. Thân cây tròn dăm người giang tay ôm không kín, cành lá sum suê che khuất một khoảng trời, soi bóng xuống dòng sông.


Cây đa La Tiến trên bờ sông Luộc bên cạnh “Bia căm thù” là di tích về một thời máu lửa đau thương. Những gia đình có người thân bị địch giết hại nơi gốc đa này, mỗi lần về thăm viếng đứng trước “Bia căm thù” đọc dòng chữ:... “nơi đây giặc Pháp và tay sai đã giết hại 1145 đồng bào, cán bộ, chiến sĩ ta...”, ai nấy đều lặng lẽ thắp nén hương thơm tưởng niệm người đã khuất. Hàng trăm hài cốt còn ở nơi đâu? Chắc là đã theo dòng sông trôi ra biển cả, hoặc chìm vào lòng đất... nhưng linh hồn vẫn ở lại quẩn quanh cùng quê hương, đất nước, quần tụ quanh gốc đa này - một di tích căm thù không thể nào quên.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 21 Tháng Mười Một, 2022, 08:00:54 pm
VÀI NÉT VỀ PHONG TRÀO THANH NIÊN HƯNG YÊN
THỜI KỲ CHỐNG PHÁP


ĐOÀN VĂN LIỆU
(8 1996)


Tôi viết lại đây một vài mẩu chuyện và những gian khổ oanh liệt của Đoàn Thanh niên cứu quốc nói riêng và phong trào thanh niên nói chung thời kỳ chống Pháp của tỉnh Hưng Yên để thanh niên sau này hiểu được, và cũng để con cháu tôi thấy được ông cha nó có góp phần.


Tôi tạm sơ qua vài điểm người thật việc thật trong những năm cuối 1946 đầu 1947 diễn ra những mưu trí của ta chống ngoại xâm, giữa một dân tộc lạc hậu đánh nhau với một cường quốc có hạng trên thế giới.


Tôi được đồng chí Trần Phương là Tỉnh ủy viên Hưng Yên lúc đó điều lên huyện công tác, phụ trách Bí thư Thanh niên cứu quốc đầu tiên ở huyện Tiên Lữ.

Tôi, Đoàn Văn Liệu, chính quán làng Đặng Cầu, nhưng lại được giác ngộ cách mạng ở thành phố Nam Định từ 1944, hoạt động trong Nhà máy sợi Nam Định. Khi Nhật đảo chính Pháp, tôi bị Nhật bắt tra tấn, đánh đập và giam tù ở nhà lao Nam Định.


Nhật đầu hàng Đồng minh. Ngày 17/8/1945, ta điều đình Nhật thả chúng tôi ra và 19/8/1945 tôi tham gia cướp chính quyền ở Nam Định. Đồng chí Đặng Châu Tuệ được bầu Chủ tịch ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Nam Định. Tôi được phân công phụ trách Phó ban trinh sát và công tác theo sự phân công của tổ chức cho đến tháng 11/1946, chúng tôi hoàn thành cuộc đình công Nhà máy sợi để chống Cao ủy Pháp, và là lúc sửa soạn kháng chiến toàn quốc.


Các đồng chí Đặng Xuân Thiều, Phương, Tỉnh là những người phụ trách chúng tôi lúc bây giờ, thông báo cho chúng tôi biết là phải cho gia đình tản cư rời khỏi thành phố ngay, vì ta đã toàn quốc kháng chiến. Các đồng chí cho biết: nếu tản cư về địa phương nào hoặc quê quán mình mà mất liên lạc với tổ chức, thì cứ ở địa phương ấy xin công tác mà hoạt động. Vì thế khi tôi đưa gia đình vợ con về quê làng Đặng Cầu (Tiên Lữ, Hưng Yên) xong, khi trở lại Nam Định để nhận công tác thì Pháp đã chiếm toàn thành phố nên mất liên lạc.


Tôi quay lại quê hương, gặp đồng chí Hiến là Chủ tịch Ủy ban kháng chiến xã xin công tác. Tôi được giao công tác làm Chủ tịch Ủy ban tản cư, rồi Chỉ huy trưởng đội dân quân du kích và Thường vụ Việt Minh xã. Mọi nhiệm vụ tôi hoàn thành tốt, và công tác rất nhiệt tình. Đồng chí Trần Phương là Tỉnh ủy viên phụ trách khu vực thấy năng lực và nhiệt tình của tôi, mới điều tôi làm công tác ở trên huyện Tiên Lữ. Khoảng đầu năm 1947, tôi làm Bí thư Thanh niên cứu quốc huyện Tiên Lữ đầu tiên, đồng thời là Thường vụ Việt Minh huyện. Lúc này, hầu hết các thôn xã trong toàn huyện chưa có phân đoàn, xã đoàn thanh niên nào, cho nên tôi phải gấp rút thành lập Ban chấp hành thanh niên huyện, rồi phân công các đồng chí chấp hành về các thôn, xã thành lập phân đoàn xã đoàn. Nơi nào khó khăn, tôi phải trực tiếp xuống nằm ở đó để tổ chức cho bằng được. Đến khi toàn huyện có đầy đủ các phân đoàn, xã đoàn, tôi tiến hành tổ chức đại biểu hội nghị để bầu ra Ban chấp hành chính thức. Dĩ nhiên tôi trúng cử Bí thư Thanh niên cứu quốc huyện cộng với 8 ủy viên chấp hành được hội nghị bầu ra. Sau đó ít lâu, hội nghị lại bầu tôi là Huyện đoàn trưởng Thanh niên Việt Nam.


Huyện ủy cử tôi là Bí thư Đảng đoàn thanh niên huyện. Sau khi ổn định tổ chức thanh niên trong toàn huyện mới vận động thanh niên tòng quân, vào dân quân du kích, tham gia mọi mặt trong công tác kháng chiến chống Pháp. Huyện đoàn Tiên Lữ còn làm được mấy việc rầm rộ để sốc phong trào lên lúc đó. Khoang cuối 1947, tôi đã tổ chức ngày Đại hội khỏe của thanh niên toàn huyện ngay ở huyện lỵ Tiên Lữ, được đồng chí Đào Quốc Bảo là Tỉnh đoàn trưởng Thanh niên Việt Nam về chứng kiến.


Huyện đoàn Thanh niên Tiên Lữ ra được 3 số báo in tipô lấy tên là “Thanh niên mới”. Huyện đoàn chúng tôi ra được tờ báo in đó là vì có một ông chủ nhà in tên là Nhẫn ở Hà Nội tản cư về Nễ Châu có mang theo mấy cái máy in dận chân và vật liệu in. Chúng tôi vận động ông ta in báo xong thu tiền về. Còn bài vở thì chúng tôi cử ra ban biên tập, ban ấn loát hẳn hoi, còn đề tài là kháng chiến chống Pháp... Tờ báo mới ra 3 số, mỗi số hơn 1.000 tờ, thì đình bản.


Chúng tôi không chỉ nắm được quần chúng là thanh niên mà còn đa phần nhân dân, nhất là giới phụ lão. Vì thế, Tỉnh đoàn đặt vấn đề nhờ tôi vận động nhân dân địa phương ủng hộ để triệu tập cuộc họp Đại biểu hội nghị Tỉnh đoàn. Hội nghị của Tỉnh đoàn được tổ chức trong 3 ngày ở làng Triều Dương huyện Tiên Lữ.


Cuộc bầu cử Tỉnh đoàn ngay sau đó, anh em bầu tôi vào Ban chấp hành. Thế là khoảng 1948 tôi lên công tác tại Tỉnh đoàn Thanh niên cứu quốc Hưng Yên, và được Tỉnh ủy cử đi học lớp lý luận trung cao cấp của trường Trần Phú do Liên khu ủy 3 mở. Khi mãn khóa, tôi về thì giặc Pháp đã chiếm đóng toàn tỉnh. Lúc đó tôi được phân công Phó bí thư Thanh niên cứu quốc tỉnh, đồng thời là Phó bí thư Đảng đoàn thanh vận tỉnh Hưng Yên, hoạt động địch hậu. Tỉnh ủy lại thành lập Đảng đoàn Dân vận do đồng chí Hân phụ trách. Tôi là Đảng đoàn thanh vận tỉnh. Lúc này công tác Đoàn phải kết hợp với dân vận nói chung nên tôi được Tỉnh Đảng bộ Hưng Yên giao công tác 4 huyện miền Nam là Kim Động, Ân Thi, Tiên Lữ, Phù Cừ.


Đã 1 năm Pháp chiếm đóng toàn tỉnh, chúng lập tề, xây bốt, mỗi xã có 1 tháp canh, tỉnh Hưng Yên có 500 xã thì có 500 cái tháp canh. Song, chúng ta có du kích chiến tranh và nhân dân chiến tranh chống lại, vì thế ở một vài huyện có những vùng dằng co giữa ta và địch và có những khoảnh tự do hoàn toàn.


Toàn tỉnh, phong trào thanh niên bị xẹp xuống (nói chung cả các ngành, các giới). Cho nên, một số anh em trong Ban chấp hành bàn nhau và chia nhau đi các nơi trực tiếp triệu tập một số cán bộ Huyện đoàn còn lại và một sộ cán bộ Xã đoàn còn bám đất tới họp hội nghị cán bộ. Tỉnh đoàn mời đại diện các ngành, các giới của tỉnh đến dự họp. Địa điểm họp hội nghị Tỉnh đoàn là đình làng Mão Xuyên, huyện Ân Thi. Đây là địa điểm tương đối tự do, xung quanh có bốt địch nhưng ở cách làng này tương đối xa, chúng tôi có cho cảnh giới cẩn thận. Tuy ở trong lòng địch nhưng chúngg vẫn quyết định họp hội nghị Tỉnh đoàn, để củng cố tinh thần cho các Huyện đoàn và Xã đoàn toàn tỉnh.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 21 Tháng Mười Một, 2022, 08:01:32 pm
Trong cuộc hội nghị này, do ấu trĩ của thanh niên lúc đó mà khiến một số đại biểu các ngành, các giới ở tỉnh đến dự họp đã bi thương vì một trò chơi dại dột lúc đó.

Khoảng 7 giờ tối khai mạc hội nghị. Sau khi tuyên bố lý do, giới thiệu đại biểu, rồi báo cáo tình hình, tinh thần khá căng thẳng. Một cán bộ phát biểu buổi họp thanh niên gì ngột ngạt thế, vui nhộn lên chứ. Một lúc sau thì thấy hai bên cánh cửa đình mở, lố nhố một số mang súng, mặt nhọ nhem đầu đội mũ sắt, mồm liến thóang: “ố là là, bố cu Việt Minh bố cu Việt Minh”. Trời ơi, một cuộc hỗn loạn nhốn nháo nhảy qua tường, vượt cả lên người nhau mà chạy. Có đồng chí toạc đầu, sái chân. Ông Nhường, Trưởng ty Giáo dục tỉnh bi thương nặng, còn số anh em khác bị đau. Thì ra đó là trò chơi, mà người bày ra trò chơi là đồng chí Tuấn “cà chua”. Sau cuộc họp này, chúng tôi phải chấp nhận mọi sự phê phán vì thanh niên tếu làm một việc vô ý thức.


Và cũng sau cuộc họp này, Ban chấp hành Tỉnh đoàn chúng tôi phân công nhau xuống nằm ở các huyện, còn một số đồng chí thì được điều đi nơi khác. Đồng chí Tuấn “cà chua” điều về văn phòng Thanh niên Liên khu 3, đồng chí Đào Quốc Bảo điều đi công tác tại Tỉnh đoàn Hòa Binh, tôi và em Hiền văn phòng Tỉnh đoàn thì về huyện Tiên Lữ, khi ấy tôi kết hợp công tác cơ quan Dân vận Tỉnh ủy đóng ở Tam Nông. (Tôi nhớ em Hiền cán bộ văn phòng Tỉnh đoàn bị bắn chết ở Muội Sảng, tôi đề nghị những người còn sống nên có trách nhiệm đối với em Hiền lúc đó).


Tỉnh đoàn Thanh niên thời đó cũng đề ra nhiều công tác phối hợp phá tề trừ gian, kết hợp với các thôn xã chống bắt phu bắt lính. Tỉnh đoàn còn ra những bức thư ngỏ gửi anh em thanh niên trong hàng ngũ địch, mà bản thảo hiện nay tôi còn giữ được nguyên văn. Tỉnh đoàn Hưng Yên luôn làm theo sự hướng dẫn của Đảng để chỉ dẫn động viên thanh niên tỉnh Hưng Yên chống Pháp một cách dũng cảm.


Năm 1951, Liên khu ủy in điều tôi đi khỏi Hưng Yên ra công tác tại Tỉnh đoàn Ninh Bình. Cũng thời gian này, tôi nghe tin đồng chí Miên (tức Đặng), cùng ở trong Đảng đoàn tỉnh với tôi đã bị địch bắt đánh đập dã man, lôi đi hết nhà tù nọ đến nhà tù kia, sau rồi tôi không rõ. Tôi công tác ở Ninh Bình được ít lâu thi Khu lại điều về Thanh vận Liên khu in và đi tham gia công tác Thanh niên xung phong hỏa tuyến ở chiến dịch Quang Trung, Hà Nam Ninh.


Tóm lại: Phong trào chống Pháp của Đoàn thanh niên tỉnh Hưng Yên là vô cùng dũng cảm, oanh liệt, đã kích động và khơi dậy cả một trào lưu thanh niên của tỉnh Hưng Yên tham gia sôi nổi, rộng khắp. Đó là chính sách dân vận đúng đắn của Đảng, nhất là thanh vận, lúc đó Đảng đã đào tạo được một số cán bộ thanh vận đắc lực.


Giặc Pháp sử dụng chiến tranh ở Hưng Yên là tàn bạo vô cùng. Phải khẳng định rằng, vùng địch Hưng Yên những năm từ 1949 đến 1951 là đen tối vô cùng - có thể so sánh với những vùng đen tối nhất của toàn quốc.


Viết bài này là vì một vài chiến hữu trong Ban liên lạc hưu trí Tỉnh đoàn Thanh niên cũ giục tôi. Tôi nghĩ viết một vài mẩu cuộc đời hoạt động của phong trào thanh niên huyện Tiên Lữ và thanh niên tỉnh Hưng Yên đã dũng cảm chiến đấu chống Pháp xâm lược là như thế đấy, để tỏ rõ thanh niên thế hệ Hồ Chí Minh, để thanh niên thế hệ sau nghiên cứu và cũng để cho con cháu tôi sau này biết được ông cha cũng đã góp phần. (Đồng chí Đoàn Văn Liệu đã mất đã 10 năm nay, đây là tài liệu của gia đình giữ lại).


CHỨNG NHẬN

Tôi, Hoàng Văn Đỉnh (tức Phí Tất Đại) khi làm Bí thư Đoàn thanh niên Liên khu 3 (1949-1951), nguyên Thứ trưởng Bộ Cơ khí - luyện kim, hiện là ủy viên Thường Vụ Hội khoa học công nghệ mỏ Việt Nam, chứng nhận: Đồng chí Đoàn Văn Liệu là Bí thư Huyện đoàn Tiên Lữ và sau là ủy viên Thường vụ Tỉnh đoàn thanh niên Hưng Yên vào thời kỳ 1949-1951.

Đồng chí Liệu có ý thức với lịch sử trong việc viết bài này. Nhưng theo tôi còn nhớ rất rõ vào khoảng thời gian đó Hưng Yên và các tỉnh Tả ngạn sông Hồng là nơi diễn ra chiến sự ác liệt nhất trong cuộc chiến tranh chống Pháp, là nơi bộc lộ cao nhất khí phách anh hùng của thanh niên và nhân dân ta. Cần có nhiều cán bộ thanh niên thời đó viết và gửi đến Tỉnh đoàn thanh niên Hải Hưng hiện nay.

Ngày 22-8-1996
HOÀNG VĂN ĐỈNH


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 29 Tháng Mười Một, 2022, 07:11:56 pm
PHÁ VÂY

ĐÀM ĐẮC ĐỘ C trưởng C176
và Đại tá DOÃN THẾ LÂN


Tháng 4/1950 Bác Hồ gửi thư riêng, dặn cán bộ và nhân dân Hưng Yên: “Các chú phải khéo đánh giặc nhưng cũng phải khéo tránh giặc...”1 (Tập 1 Đường 5 anh dũng quật khởi - trang 11, dòng 22).


A- Trận chiến không cân sức

C176 - D352 chúng tôi hành quân về làng Xuân Nguyên, xã Quang Trung (Bắc Ân Thi - Hưng Yên) đêm 4/10/1952. Đây là một làng có bốt tề, ta mới giải phóng được vài tháng, lũy tre gai um tùm dầy đặc có chỗ tới 2m, cổng làng xây chắc, công sự cũ ở hai bên cổng, lô cốt, hào giao thông dân còn chưa phá hết.


Nhân dân đón bộ đội về làng, mừng mừng tủi tủi như người thân lâu ngày gặp lại, phân chia về ở các gia đình. Nhà nào cũng nhường chỗ ngủ tốt nhất cho bộ đội và mời ăn xôi chè, lúc ấy chúng tôi mới biết là đêm rằm tháng 8. Đây là vùng lõm khu du kích mới, sâu trong địch hậu, nên đơn vị lập tức đào công sự quanh làng, cùng dân quân du kích tận dụng cả công sự cũ của địch còn lại, rào làng, cổng... để sẵn sàng chiến đấu.


Sáng 5/10/1952, có khoảng 200 quân địch cả Pháp và ngụy tử Kẻ Sặt và Lực Điền hợp quân ở đê Cống Tranh - Cống Tráng theo đường 200 hướng về quận lỵ An Thi (có lẽ để đổi quân cho bốt Đởm và Đa Lộc đã bị cô lập lâu ngày trong khu du kích). C176 đã cử hai tiểu đội của B15 do đồng chí Khoan - B phó chỉ huy, tổ chức “đánh chim sẻ” chia làm 4 tổ ẩn nấp ở các ruộng lúa ven hai bên đường 200, bám đánh địch liên tục suốt ngày, gây cho địch một số thương vong. Cả ngày chúng chỉ tiến được vài ba km, phải lui quân. Ta chỉ bị thương nhẹ hai đồng chí, trong đó có đồng chí Khoan.


Đêm đó nghe trên đường 5, đường 39 và sông Lực Điền đi Kẻ Sặt, tiếng xe cơ giới, tàu trên sông nổ rền rĩ liên tục. Ban chỉ huy phán đoán địch chuyển quân ZEM chủ lực về và sẽ có trận quyết chiến ác liệt, lệnh cho toàn đơn vị tăng cường công sự vững chắc, sốc lại đội hình, gọn gàng vũ khí, quân tư trang, bông băng, nấu cơm sớm và có cơm nắm dự phòng, cùng cán bộ địa phương tổ chức cho nhân dân chôn giấu tài sản và sơ tán triệt để. Chỉ còn lại dân quân, du kích xen kẽ chiến đấu với bộ đội và một số cáng thương. Lúc ấy C176 là đại đội mạnh, có tới 7 trung liên, mỗi A có 4 tiểu liên, A hỏa lực có một cối 82, hai cối 60, một đại liên.


Sáng 6/10/1952, địch rải xe tăng dọc đường 39, đường 200, đê Lực Điền và một số từ Trương Xá đến Ân Thi, vây Xuân Nguyên cả 4 phía. Lúc 6h30, 3 trận địa pháo từ Sặt, Như Quỳnh bắn cấp tập phá hoại Xuân Nguyên. Địch tiến quán 3 mũi: từ Kẻ Sặt vào, Lực Điền xuống, Ân Thi - Trương Xá lên, bám sát đường từ chợ Triền lên Xuân Nguyên hội quân. Khi hỏa pháo dứt, chúng theo đường vào cổng làng, hò hét xông lên. Quân ta im lặng chờ chúng tới gần 15-20m mới nổ súng đồng loạt, mãnh liệt. Địch bất ngờ vì hỏa lực ta quá mạnh nên thương vong nhiều, vội quay đầu tháo chạy kéo theo số bị thương, bỏ lại xác Tây đen, Tây trắng ngổn ngang gần công sự ta. Trận địa im tiếng súng, ít phút sau 9 máy bay B26 và ĐACOTA chia làm 3 tốp dàn hàng ngang sát cánh nhau bay rất thấp thả bom tọa độ mấy chục quả một lần, mặt đất chao đảo, rung lên, khắp làng đổ nát. Rồi pháo lại bắn cấp tập, các chiến sĩ và dân quân du kích lao đi cứu sập, rồi ẩn nấp an toàn trong những công sự vững chắc. Khi pháo ngừng lại kịp thời nhô lên công sự quan sát, sẵn sàng đánh cận chiến tiếp 3 đợt xung phong của địch. Lúc 11 giờ trưa, có một tên quan hai da trắng chết, địch cho trực thăng xuống một gò cao giữa đồng đưa xác lên. Địch ở các mũi cập rập đưa cáng những rên bị thương đến xúm xít quanh gò. Lập tức cối 82 và 50 cùng đại liên của ta bắn cấp tập vào gò. Trực thăng vội vàng cất cánh, mặc bọn quân nằm, ngồi làm mồi cho đạn cối, xác chết chồng chất lên nhau. Bọn sống sót bỏ nhau chạy tán loạn. Quân ta reo hò đầy khí thế.


Đầu buổi chiều, địch lại cho 3 tốp 9 máy bay thả bom tọa độ dọc làng cùng bom napan. Khắp làng lửa cháy ngút trời, khói đen cuồn cuộn. Pháo bắn dứt là giặc dàn hàng ngang, lội tắt ruộng lúa xông lên hung hãn. Chúng lợi dụng hổ bom đã phá tre và công sự ở ria làng phía Đông một đoạn dài, chúng tràn vào chọc qua tuyến phòng ngự. Đại đội huy động hỏa lực đại liên, súng cối bắn mãnh liệt vào, cửa mở, chiến sĩ ta áp sát quãng lựu đạn, xả tiểu liên xuống các hố bom. Chiến sĩ Bàn, quê Ân Thi, đã ôm trung liên trèo lên chạc cây sung lớn đã cụt ngọn vì bom pháo - xả đạn tới tấp xuống hố bom làm địch không ngóc đầu lên được. Quân ta reo hò xuất kích truy đuổi. Địch bị đánh bật ra cánh đồng, chúng đi giày cao cổ lội ruộng thụt bùn sâu, di chuyển chậm bị quân ta truy sát bắn sau lưng, số chết và bị thương nằm khắp ruộng. Quân ta quay về củng cố lại công sự, chuẩn bị đón đánh các đợt tấn công tiếp của địch. Đợt thứ 8 trong ngày, trời gần tối, địch đột nhiên bắn pháo cấp tập vào giữa làng cùng đạn cối và đại liên. Lần này, từng tốp địch buộc túm lúa lên đầu lội dưới ruộng để nhặt xác chết và các tên bị thương đưa ra đường 200 chở về Kẻ Sặt và Lực Điền. Chiến trường im súng. Ta hy sinh và bị thương 30 cán bộ, chiến sĩ.


Quá nửa đêm 06/10, vũ khí ta đã cạn, địch lại rải xe tăng trên cả 4 mặt: đường 39, đường 200, đê Lực Điền và đường Trương Xá đi Ân Thi, bao vây chặt Xuân Nguyên để hôm sau tấn công tiếp. Ta giải quyết xong thương binh, tử sĩ. Ban chỉ huy đại đội quyết định phá vây. Đồng chí Duyên, trung đội trưởng, trực tiếp cấp trung liên nổ súng cũng là lệnh phá vây.


Khoảng 1 giờ ngày 07/10/1952, quân ta chia làm 4 mũi men theo bờ lúa bí mật áp sát đội hình địch, bất ngờ nổ trung liên dữ dội, tới tấp quăng lựu đạn, thủ pháo vào ổ chỉ huy và nơi đông quân địch nhất. Hàng chục pháo sáng phụt lên sáng lòa, cả 4 mũi quân ta đồng loạt xông lên đánh giáp lá cà. Quân địch đang nửa thức nửa ngủ hoảng hốt bắn loạn xạ, số chết, số bị thương nằm ngổn ngang trên bờ, dưới ruộng, rồi vỡ trận tháo chạy tán loạn về hai phía: Nam chạy về bốt Đởm, Bắc chạy về đê Cống Tráng, Lực Điền.


Các mũi quân ta vượt cánh đồng phía Đông sát nhà thờ Phú Cốc về Đỗ Thượng (Đọ), Đỗ Hạ (Đá) xã Quang Vinh, được nhân dân hồ hởi đón tiếp, mời ăn uống nghỉ ngơi và giúp đỡ phân tán từng tốp nhỏ rút về khu du kích Nam An Thi an toàn. Chuyện lạ là chiến sĩ Trần Đăng tiếp đạn đại liên nhảy lên trận địa đã im tiếng súng thấy một tên lính ngụy sau cùng, đeo súng đang chạy theo bọn Âu Phi về phía bốt quận, Đăng chạy theo đập hòm đạn sắt nặng vào vai, hắn khuỵ xuống, liên tước súng bắt hắn đeo hòm đạn lội tắt bờ lúa về Đỗ Hạ tập kết với đại đội. Thế là ta phá vòng vây, còn bắt được tù binh, thu vũ khí. Sau này chiến sĩ Trần Đăng được đi báo cáo trước các đại đội về trận đánh và là chiến sĩ thi đua của tỉnh.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 29 Tháng Mười Một, 2022, 07:12:43 pm
B- Dắt trâu qua lỗ kim

Hầu hết thương binh đi về hướng Tây làng Xuân Nguyên ra giữa cánh đồng thôn Tượng Cước và xã Nghĩa Dân huyện Kim Động (gần các thôn Đỗ Xá, Hồng Vân). Có đồng chí Tiến, chính trị viên, bị đạn xuyên cạnh cổ, đồng chí Dũng, chính trị viên phó, gãy chân, anh em dùng cáng tự tạo, cõng nhau, dìu nhau, một số tự đi, phân tán tốp nhỏ tại các bờ lúa tốt lút đầu người. Nhân dân các thôn Hồng Vân, Đỗ Xá tề hai mang, cảm phục, thương yêu bộ đội ta, đã nô nức, đua nhau đem cơm nắm, nước uống, thuốc kháng sinh, bông băng cho vào gầu, dậm, cua... giá đi làm đem ra đồng tiếp tế cho 40 thương binh. Khoảng 10h đêm 7/10/1952, bà con có đủ 30 cáng, võng cùng 60 du kích, dân công ra cánh đồng để vận chuyển thương binh vượt đường 39. Các cụ trong làng cùng nữ du kích Hoàng Ngân dụ bọn lính xe tăng ở đường 39 vào làng đánh bài, uống rượu say mềm rồi cho cáng thương đi qua lúc 1h đêm an toàn.


Khi qua sông Đào Viên, tải thương phải đội cao đòn cáng lên đầu cho khỏi ướt thương binh, vượt tắt sang thôn Ngọc Nha, xã Phùng Hưng về đến kênh Khê Thượng là tảng sáng. Trạm đón tiếp thương binh do Trưởng ban quân y tỉnh Phạm Sĩ Cảo phụ trách, cùng các y tá thành thạo tay nghề như các chị Đào Thanh Mậu, Nguyễn Thị Nghi, Nguyễn Thị Ngọc, Dương Thị Vinh, đã sẵn sàng khẩn trương tiêm kháng sinh, phòng uốn ván, thay băng... rồi phân loại chọn lọc đưa thương binh nhẹ về cơ sở điều trị. Số cần mổ ngay thì sau hồi sức, đưa xuống thuyền cụ Khởi chở sang đình Phù Xa Thượng, có y sĩ Cát - Phó ban Quân y tỉnh điều khiển hai bàn mổ, cùng hai kíp y tá Nội, Lập, Yên, Tụng, An... Mọi người phấn khởi tự hào, đau cũng cố chịu đựng chẳng rên la và số nhẹ chỉ hơn tuần lễ đã đòi về đơn vị.


Gần 40 thương binh, 30 cáng võng, hơn 60 dân công, nửa đêm đi qua mũi một đoàn xe tăng địch, phục kích trên đường nhựa 39 một cách an toàn, thật đúng là “dắt trâu chui qua lỗ kim”, chỉ có Đảng, có chiến tranh nhân dân mới làm nên mọi chuyện tưởng như thần kỳ đó.


Tổng kết trận đánh, ta hy sinh 20, bị thương 50. Địch chở về Kẻ Sặt, Lực Điền hơn trăm xác chết và nhiều tên bị thương. Đơn vị đã luồn vây thành công (Lịch sử kháng chiến chống Pháp và đế quốc Mỹ 1945 - 1975 của Đảng ủy và Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Hưng Yên - trang 264 in tháng 12/2002).


Lịch sử Đảng bộ xã Xuân Trúc (trước là xã Quang Trung) huyện Ân Thi in ngày 8/7/1999 trang 91-96 ghi “số địch chết và bị thương là 416 tên, có một quan hai, trong số 5 tiểu đoàn địch có phi pháo phối hợp đánh vào Xuân Nguyên, đây là một trận phòng ngự lớn nhãt từ trước đến nay ở Bắc Ân Thi: 1 chọi 5 - chọi 10, thể hiện ý chí kiên cường, dũng cảm của quân dân Hưng Yên, một chiến công đáng tự hào - kiêu hãnh trong vùng địch hậu”.


Đồng chí Phạm Thân, chính trị viên Trung đội 15 (đg từ trần năm 2000) có bài ca ngợi chiến thắng Xuân Nguyên lưu truyền trong đơn vị, tôi chỉ nhớ được 8 câu:

   “Vừa rồi trong trận Xuân Nguyên
   Chúng ta chiến đấu liên miên suối ngày.
   Vang trời: đại bác, tàu bay
   Napan, bom tạ, bom giây, bom chùm
   Chờ cho quân giặc sát gần
   Bất ngờ nổ súng đội hình giặc tan
   Tám lần giặc Pháp xông lên
   Tám lần bỏ xác giặc liền lùi xa...”.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 29 Tháng Mười Một, 2022, 07:13:37 pm
BÀI CA KHÔNG QUÊN


Đại tá DOÃN THẾ LÂN
(Thầy thuốc ưu tú)


Bà là Lưu Thị Huệ, 74 tuổi, quê Ngô Xá, xã Quảng Lãng, Ân Thi, chiến sĩ giao liên Đại đội 17/D352 Hưng Yên, bị thương vỡ xương gò má và thái dương bên phải trong trận phá vây Xuân Nguyên đêm 6/10/1952. Quân y đơn vị cõng ra khỏi trận địa rồi được nhân dân Quang Trung - Nghĩa Dân cáng về quân y xá Tỉnh đội. Tháng sau khỏi, về giao liên Tỉnh đội Hưng Yên. Phục viên về Cảnh Lâm (quê chồng) xã Tân Việt - Yên Mỹ. Bà còn là xã đội phó nữ du kích Hoàng Ngân 5 năm liền, được nhân dân tín nhiệm.

Gặp em, em đã lên bà
Còn anh thì cũng đã là cụ ông
Hỏi em: còn nhớ hay không
Đã hơn năm chục mùa đông qua rồi!
Nửa đêm, pháo sáng rực trời
Xuân Nguyên dậy đất - vang lời xung phong!
Lưỡi lê, lựu đạn, tiểu liên
Hướng đông áp sát trận tiền phá vây
Thương binh vòng lại hướng Tây
Về quân y xá vào ngày hôm sau
Tình dân, nghĩa Đảng, ơn sâu
Cáng võng, cơm nắm, qua đâu xe tăng.
Quân dân thắng trận Xuân Nguyên1 (Nay là xã Xuân Trúc, Ân Thi)
Hơn trăm xác giặc, chở lên Lực Điền2 (Tên một đồn lớn của giậc Pháp trên đường 39)
Ngụy - Tây khiếp đảm kinh hồn
Bắc Ân Thi rộn tiếng đồn chiến công.

1/2006


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 29 Tháng Mười Một, 2022, 07:14:14 pm
ANH ĐỘ ĐỘI


HÀ MINH CƯỜNG
Kính tặng các đồng chí cựu chiến binh
đã tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ


   Người chiến sĩ nguyện hết mình vì nước
   Luôn sẵn sàng khi Tổ quốc điểm danh
   Cuộc đời anh vang mãi khúc quân hành
   Dưới cờ Đảng, trên đầu thù, vững bước...
   Thề quyết chiến, trận mở màn lịch sử
   Đòn phủ đầu giội lửa, pháo gầm lên
   Đồi: Độc Lập, rồi Hồng Cúm, Him Lam
   Người đại thắng, giẫm lên hầm Đờ Cát.
   Như Phù Đổng trưởng thành trong chiến đấu
   Chiến tích này là huyền thoại của Việt Nam
   Điện Biên Phủ chấn động khắp thế gian
   Và anh đã tôn danh người nước Viêt
   Từ hủy diệt đã lập công oanh liệt
   Nào Napan, nào chất độc da cam
   Trong hòa bình, triệt tận gốc hung tàn
   Xuân đoàn tụ miền Nam vui giải phóng.
    Ấn tượng quá ngời ánh sao trên mũ
   Hành trang ư, khẩu súng chiếc ba lô?
   Máu anh pha, đầy kiêu hãnh sắc cờ
   Giặc khiếp đảm trước tấm lòng kiên định
   Giữa thời bình, nghiêm tác phong người lính
   Vượt hiểm nguy thường trực giữ biển trời
   Phóng tầm mắt anh bao quát muôn nơi
   Giăng sấm sét, nếu quân thù xâm phạm!
    Rất năng động luôn là người nhạy cảm
   Vì nhân dân anh xóa đói giám nghèo
   Mang hanh phúc đến bản làng treo leo
   Sáng tên anh ấm ngôi nhà tình nghĩa
   Đàn em nhỏ theo anh vào trang sách
   Trong mỗi người anh là một vần thơ
   Vinh quang thay anh bộ đội Cụ Hồ
   Anh trẻ mãi với màu xanh xứ sở.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 29 Tháng Mười Một, 2022, 07:15:21 pm
KIM ĐỘNG MỞ ĐƯỜNG THẮNG LỢI


NGUYỄN ĐÌNH MẬU
(Nguyên Chính trị viên
Đại đội Quang Trung C28-C20)


Cuối năm 1949, địch tấn công chiếm đóng miền Nam Hưng Yên. Như vậy, chỉ trừ có thôn Tam Nông xã Hưng Đạo huyện Tiên Lữ là chúng chưa lập được tề, còn chúng đã lập tề toàn bộ các làng xã trong cả tỉnh.


Đồn bốt, hương đồn, tháp canh mọc lên như nấm. Trên các trục đường giao thông, các tụ điểm dân cư thì các đồn binh Pháp chiếm đóng. Còn mỗi xã có 4 hoặc 5 hương đồn tháp canh do lực lượng bảo an canh giữ.


Nhiệm vụ của quân và dân Hưng Yên chuyển sang thời kỳ mới: “Chiến đấu trong lòng địch”.

Vào một ngày đầu năm 1950, âm lịch, vào ngày giáp Tết nguyên đán Canh Dần, tôi và anh Đoàn Ngọc Cảo đi công tác cơ sở về. Anh Cảo là Huyện ủy viên, Chỉ huy trưởng mặt trận Kim Động. Tôi về cơ sở thôn Theo (Tạ Xá hạ) xã Chính Nghĩa do chị Thanh ngụy trang hầm bí mật cho tôi (chị Thanh là vợ anh Trần Tạ - Huyện trưởng Công an Kim Động lúc đó). Còn anh Cảo về thôn Đồng Lý. Trước khi chia tay anh Cảo nói: “Tối mai ở nhà Mậu chuẩn bị tài liệu để tối ngày kia chúng mình lên mấy xã khu Bắc (Việt Hòa - Quảng Lãng) để giải quyết mấy tến tề ngoan cố”.


Thời gian này, tất cả cán bộ, bộ đội về địch hậu mọi hoạt động đều phải làm về đêm, đến khoảng 3-4 giờ sáng lại đâu về đấy. Mỗi người nắm cơm, chai nước, đèn pin, súng, dao găm xuống hầm bí mật đến 7-8 giờ mới được lên.


Tối hôm sau, tôi đang in tài liệu thì anh Cảo đến. Anh nói ngay: “Mậu tranh thủ in xong tài liệu rồi giao lại cho mình cả tài liệu và con dấu. Còn Mậu phải về xã Thống Nhất để làm nhiệm vụ mới. Thời gian rất khẩn trương, Mậu phải đi ngay đêm hôm nay, trên đường về qua xã Hùng An gặp anh Tứ (anh Tứ là cán sự Huyện ủy), Huyện ủy giao cho anh Tứ và Mậu về Thống Nhất để thuyết phục xã ủy Đạo ở Đức Chiêm. Việc diệt phá tề Đức Chiêm, Đức Ninh, Hạnh Lâm ta thừa sức làm được. Nhưng nếu thuyết phục được Đạo theo ta thì có lợi hơn và khi Đạo đã theo ta thì tề Đức Ninh, Hạnh Lâm sẽ phải đến đầu hàng theo ta ngay”. Anh Cảo nói tiếp: “Tỉnh ủy yêu cầu Huyện ủy Kim Động phải khẩn trương mở thông suốt đường giao liên từ vùng địch hậu nối liền với vùng tự do, đảm bảo việc giao thông liên lạc giữa tỉnh với Trung ương và không những chỉ riêng tỉnh ta mà cho cả các tỉnh khu vực Tả Ngạn sông Hồng đang bị địch chiếm đóng”.


Tỉnh thành lập 2 phòng giao thông. Một phòng chịu trách nhiệm đường giao liên Hưng Yên đi Hà Đông, Hòa Bình rồi đi Tây Bắc - Việt Bắc gọi là phòng giao thông Đông Hưng. Một phòng đảm nhiệm đường giao liên Hưng Yên đi Hà Nam rồi vào Thanh Hóa gọi là Phòng giao thông Nam Hưng.


Việc đặt điểm nút giao thông cho cả hai đường giao liên ở xã Thống Nhất là thuận lợi nhất, vì có khu dân cư rộng lớn giáp sông Hồng. Nhân dân tuy nghèo nhưng rất hăng hái nhiệt tình tham gia cách mạng. Về địa lý thì từ xã Thống Nhất sang qua sông Hồng là đúng điểm giáp ranh của hai tỉnh Hà Đông và Hà Nam nên việc đưa cán bộ, bộ đội ở địch hậu ra vùng tự do hoặc đón cán bộ, bộ đội ở vùng tự do về vùng địch hậu đều thuận lợi. Nên Huyện ủy quyết định lấy xã Thống Nhất là khu căn cứ cho cả hai đường giao liên Đông Hưng và Nam Hưng làm điểm xuất phát nối liền vùng địch hậu Tả Ngạn sông Hồng với Trung ương, với các vùng tự do. Vì thế nên Huyện ủy phân công cho đồng chí Tứ và đồng chí Mậu về gấp xã Thống Nhất để giải quyết ba làng tề Đức Chiêm, Đức Ninh, Hạnh Lâm. Tôi vừa in tài liệu vừa nói chuyện với anh Cảo thì anh Lễ - Bí thư Huyện ủy đến bàn công việc với anh Cảo. Sau khi hai anh trao đổi công việc với nhau, anh Cảo nói với anh Lễ: “Tôi đã giao nhiệm vụ cho Mậu về xã Thống nhất. Giao nhiệm vụ này cho Mậu tôi thấy yên tâm vì những năm trước đây tôi phụ trách xã Thống Nhất, tôi ở nhà Mậu, tôi biết, nhà có 5 anh em trai, trừ chú út còn nhỏ, còn 4 anh em đều là đảng viên, anh cả của Mậu là đồng chí Tích - Bí thư xã Thống Nhất vừa bị địch bắt giam ở Hỏa lò Hà Nội. Bà cụ, chị Tích và gia đình rất vững vàng mọi người đều hăng hái nhiệt tình tham gia cách mạng nên tôi tin là sẽ được gia đình tạo mọi điều kiện cho Mậu hoàn thành nhiệm vụ”.


Khoảng 12h đêm, tôi chia tay với anh Cảo lên đường. Tôi về thôn Ninh Phúc gặp đồng chí Bang, Bí thư xã Hùng An đề nghị cho người đưa đến chỗ anh Tứ. Tôi và anh Tứ bàn việc bố trí ngày và địa điểm gặp xã ủy Đức Chiêm. Lúc nay đã là 30 Tết Canh Dần, thời gian rất khẩn trương nên phải bố trí cuộc gặp vào tối mồng 4 tết. Để đảm bảo an toàn cho đồng chí Tứ, chỉ còn cách phải bố trí địa điểm tại nhà tôi. Tôi nói với bà cụ và chị Tích mời Đạo sang ăn cơm để nói việc bố trí đưa chị Tích lên Hỏa lò Hà Nội thăm anh Tích trong dịp tết này. Còn anh Hợi (anh thứ 2 tôi) là đảng viên bố trí việc bảo vệ. Như vậy cả nhà tôi phải vào cuộc.


Đúng như kế hoạch, tối mồng 4 tết, Đạo đã nhận lời sang nhà tôi chơi ăn bữa cơm sau tết. Tuy sang một mình nhưng Đạo vẫn mang theo một khẩu súng trường. Đạo ngồi chơi nói chuyện với bà cụ tôi trong nhà. Tôi và anh Tứ ngồi ngoài vườn theo dõi mọi diễn biến. Thấy tình hình tiếp cận được, tôi và anh Tứ đi vào. Thấy có anh Tứ là người lạ, Đạo hơi sửng sốt quay khẩu súng về phía chúng tôi. Tôi nói ngay: “Chú bình tĩnh, không phải phòng thủ gì cả!”. Tôi ngồi ngay cạnh Đạo và gạt khẩu súng vào sát tường. Anh Tứ ngồi đối diện với Đạo. Tôi nói luôn: “Giới thiệu với chú, anh Tứ là ủy viên UBKCHC huyện. Mình và anh Tứ về đây gặp chú để bàn một số việc trên tinh thần tình nghĩa anh em”.


Anh Tứ nói: “Đúng như đồng chí Mậu nói. Tôi thay mặt UBKCHC huyện gặp ông để bàn một số việc". Qua cách nói cởi mở của anh Tứ, Đạo đã trở lại bình tĩnh, vui vẻ. Anh Tứ nói tiếp: "Trong thời gian qua, ông đã được nhân dân tín nhiệm, lãnh đạo địa phương tin tường cử ông làm Chủ tịch Ủy ban vận động đời sống mới. Nay ông tiếp tục gánh thêm trách nhiệm xã ủy tề để che mắt địch, bảo vệ nhân dân, bảo vệ cơ sở kháng chiến, ông yên tâm. Đằng sau ông có nhân dân, có chúng tôi, địch không làm gì được chúng ta đâu”.


Anh Tứ trao đổi tiếp với Đạo như một sự cam kết giữa đôi bên. Tôi, anh Tứ, anh Hợi và Đạo ăn cơm rất vui vẻ, thoải mái. Ăn xong, Đạo xin phép về ngay. Chúng tôi hội ý thống nhất một số việc, rồi cử người đưa anh Tứ sang Hùng An.


Sáng hôm sau, Đạo tìm gặp bà mẹ tôi và nói: "Tối qua con về suy nghĩ cả đêm, con thấy Việt Minh không thể thắng Pháp được. Con mà làm tề hai mang nó sẽ giết sạch, đốt sạch. Bác bảo anh Mậu về làm việc với con là tốt nhất".


Bà mẹ tôi nói: "Sao tối hôm qua tôi thấy các anh bàn bạc với nhau vui vẻ thế. Vậy mà bây giờ lại thay đổi. Tôi là mẹ thật, nhưng bảo nó bỏ cơ quan đơn vị về làm việc với chú thì tôi chắc không bao giờ nó nghe. Theo tôi, chú nên suy nghĩ kỹ, có gì khó khăn thì bàn lại với Mậu và anh Tứ” (Đạo là cháu họ gọi mẹ tôi bằng bác).


Đạo nói: “Con nghĩ kỹ rồi...”.

Tôi báo cáo tình hình với anh Cảo. Anh Cảo bảo tôi gặp lại Đạo lần nữa, giải thích cho hắn hiểu, nhưng Đạo vẫn không nghe. Tôi về gặp anh Cảo để xin chủ trương. Anh Cảo nói: “Hắn ngoan cố như vậy ta phải cho bộ đội về phá tề thôi”. Đồng thời anh Cảo giao luôn nhiệm vụ cho tôi chuẩn bị kế hoạch đón hai tiểu đội của C28 về. Diệt tề Đức Chiêm xong, tề Đức Ninh, Hạnh Lâm không đầu hàng thì ta cho đánh luôn. Tôi lo nhất việc đón hai tiểu đội của C28 ở bên Hà Đông về. Nếu không chu đáo thì hỏng hết việc. Tôi tính toán mãi đành phải nói anh Hợi đi đón bộ đội vì anh Hợi vừa là đảng viên lại vừa là anh ruột tôi nên không thể làm nhỡ mình được.


Theo đúng kế hoạch, vào một tối tháng 6-1950, anh nhận mật khẩu, ám hiệu ra sông Hồng đón được hai tiểu đội về địa điểm tập kết.

Tôi lấy sơ đồ hướng dẫn kế hoạch tác chiến cho bộ đội. Rất thuận lợi là hai đồng chí tiểu đội trưởng Nguyền Ngọc Tuyên và Đặng Phi Hùng đều là người ở xã Thống Nhất nên rất thuộc đường đi lối lại, địa hình chiến đấu.   Trận đánh phá tề thực hiện đúng kế hoạch, ta bắt sống được tên xã ủy và 1 tên phòng nhì chỉ điểm. Phá tề tối hôm trước, ngay tối hôm sau đồng chí Nguyễn Quyền, Trưởng phòng Đông Hưng và đồng chí Nguyễn Họa, Trưởng Nam Hưng đã đưa đại bản doanh của tổ chức đường giao liên Đông Hưng và Nam Hưng về đóng tại xóm Sòi. Bộ phận lãnh đạo chỉ huy của hai phòng ở khu nhà cụ Sử Được, ông Nhung, ông Y, ông Huế, ông Sen, ông Mẫn, ông Tuân, ông Yến, ông Hợp v.v... Còn cơ sở dự phòng cho cán bộ, bộ đội đi hoặc về thì tập trung ở 2 xã Thống Nhất và Phú Thịnh, điểm nút cua hai đường giao liên. Cửa ngõ ra vùng tự do, hoặc từ vùng tự do về vùng địch hậu là xã Thống Nhất được Đảng bộ và nhân dân Kim Động đảm bảo thông suốt, an toàn.


Sau khi phá tề Đức Chiêm xong, Ủy ban kháng chiến hành chính xã đã giao cho ông Nguyễn Lùng làm xã ủy. Còn tề Đức Ninh và Hạnh Lâm ngay tối hôm sau đã mang sổ sách con dấu đến nộp xin đầu hàng. Nhưng, Ủy ban kháng chiến hành chính xã đả thông, giao nhiệm vụ cho ông Học và ông Nhạn tiếp tục làm xã ủy Đức Ninh và Hạnh Lâm, mọi hoạt động phải tuân theo sự chỉ đạo của UBKCHC, bảo vệ nhân dân, bảo vệ các cơ sở kháng chiến. Việc 3 làng tề đã giải quyết xong, như vậy cả 5 ban tề thuộc xã Thống Nhất ta đã nắm được cả, đã khai thông được điểm nút giao thông cho các đường giao liên và còn mở rộng cơ sở cả khu ngoại đê sông Hồng của huyện Kim Động. Cán bộ, bộ đội, các cơ quan tỉnh, huyện về xã Thống Nhất rất đông. Tập trung nhiều nhất ở xóm Nhà Thờ như: đồng chí Lê Đức Thịnh, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chính trị viên Tỉnh đội ở nhà đồng chí Hợi. Đồng chí Nguyễn Trường Xuân, Bí thư Huyện ủy ở nhà đồng chí Tích, đồng chí Mậu v.v… Trường huấn luyện Hồng Hà của Tỉnh đội về Đình Soi. Xưởng quân khí của Tỉnh đội về ở nhà đồng chí Duyên, đồng chí Xuyên và nhiều cơ quan khác.


Năm 1950-1951, đồn bốt, tháp canh, hương đồn địch còn dầy đặc trên khắp các địa bàn tỉnh Hưng Yên. Vậy mà giao thông liên lạc vẫn thông suốt giữa vùng bị tạm chiếm với trung ương. Những bước đi vô cùng khó khăn gian khổ, cực kỳ nguy nan, đã nhiều lần nhân dân Kim Động phải đổ máu để bảo vệ con đường này. Nhưng Kim Động vẫn không ngừng mở đường tiến lên phía trước, đã góp phần làm nên sự nghiệp “kháng chiến thành công", “Kim Động - đơn vị anh hùng    lực lượng vũ trang nhân dân”, tô thêm trang sử vàng chói lọi.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 29 Tháng Mười Một, 2022, 07:16:00 pm
HOÀN LONG QUẬT KHỎI


HÀ VĂN CẢO
(Hoàn Long, Yên Mỹ, Hưng Yên)


   Thời chống Pháp, Hoàn Long quật khởi
   Chiến công đầu vang dội khắp nơi
   Tấm gương rạng rỡ, sáng ngời
   Toàn dân đánh giặc, người người thi đua.
   Thực dân Pháp phải thua nhiều trận
   Người kiên trung căm giận diệt thù
   Ban ngày, đánh giữa chợ Từ
   Vỏ chai hòn gạch giặc nhừ đòn đau.
   Chôn mìn đánh xe, tàu của giặc
   Làm bao lần bế tắc chuyển quân
   Trên đường Hà Nội - Văn Lâm
   Trúng mìn xe đổ nhiều lần đắng cay.
   Cột điện thoại, đường dây ta cắt
   Chiến lợi phẩm cung cấp cho ta
   Hoàng Ngân du kích xông pha
   Thu nhiều dây điện đây là chiến cônq.
   Dù ngày, đêm đều không quản ngại
   Cải, hóa trang trai gái ra quân
   Ngang nhiên trên đoạn đường 5
   Bắn chặn xe giặc nhiều thằng thương vong.
   Du kích phối hợp cùng bộ đội
   Trận phục này vang dội chiến công
   Ngụy trang nằm giữa cánh đồng
   Pháp - ngụy bại trận chúng không đường về.
   Nhân dân khắp vùng quê phấn khởi
   Mừng quân ta thắng lợi vẻ vang
   Bộ đội du kích sẵn sàng
   Phối hợp chiến đấu hiên ngang diệt thù.
   Nhiều trận càn giặc thua du kích
   Quân Hoàn Long đánh địch kiên cường
   Kết hợp giải phóng địa phương
   San bằng đồn, bốt, diệt phường sói lang.
    Thời đánh Mỹ kiên cường bất khuất
   Sẵn sàng vì tất cả tiền phương
   Hoàn Long trai gái lên đường
   Góp công, góp của diệt phường xâm lâng.
   Khi đất nước hòa bình thống nhất
   Dân Hoàn Long sức bật vươn lên
   Phát triển kinh tế vững bền
   Phong trào mọi mặt thường xuyên vững vàng.
   Điểm thành tích quá trình đạt được
   Xét chiến công Nhà nước ghi công
   Vinh dự cho xã Hoàn Long
   Được tặng danh hiệu Anh hùng vũ trang.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 29 Tháng Mười Một, 2022, 07:17:12 pm
ĐẠI ĐỘI BÃI SẬY VÀ NHỮNG CHIẾN CÔNG


Đại tá NGUYỄN HỮU BÍNH (LÊ KIM)
(Nguyên Trung đội trưởng
Đại đội Bãi Sậy)


Ngày 03/02/1949, tại làng Mát, phía nam huyện Ân Thi, bộ đội địa phương huyện Yên Mỹ ra đời, nòng cốt là trung đội du kích huyện.

Cán bộ chỉ huy được bổ nhiệm như sau:

- Đại đội trưởng: Đồng chí Lê Gia Du quê ở Thoại Nam. Tháng 5/1949, đồng chí Du bị địch bắt. Đồng chí Phạm Bạt Tụy lên thay làm đại đội trưởng.

- Đại đội phó: Đồng chí Nguyễn Tán, quê Giai Phạm

- Chính trị viên: Đồng chí Phạm Bạt Tụy quê Bắc Khu (nguyên Bí thư xã Minh Châu).

- Các trung đội:

* Trung đội 1: Đồng chí Cường làm trung đội trưởng tháng 6/1949 đồng chí Cường được điều lên tỉnh, đồng chí Lê Kim làm trung đội trưởng lên thay.

Đồng chí Toán quê Từ Tây làm chính trị viên.

* Trung đội 2: Đồng chí Thảo quê Liêu Xá, trung đội trưởng.

Đồng chí Lợi quê Bình Phú làm chính trị viên.

Đồng chí Hèo làm trung đội phó.

* Trung đội 3: Đồng chí Giao quê Hoàng Hữu Nam làm trung đội trưởng.

Đồng chí Thận quê Khóa Nhu, đồng chí Nguyền Thụy Sũ quê Đạo Khê làm trung đội phó.

Đại đội Bãi Sậy có 3 chiến công khi về địa bàn Yên Mỹ như sau:


* Chiến công đầu tiên: Trận tiêu diệt đồn Nho Lâm (19/8/1949)

Nho Lâm là một tiền đồn của giặc Pháp bảo vệ tuyến đường 5 chiến lược nằm trên trục đường 39 cách Phố Nối (đường 5) 4km.

Nho Lâm, một cái ung nhọt của giặc nằm giữa lòng huyện Yên Mỹ, quân số 30 tên. Khi chúng rút từ chùa Son - Đạo Khê về chiếm đóng tháng 10/1947 thì toàn là lính Pháp cả. Năm 1949, chúng thay toàn lính ngụy, chỉ có tên chỉ huy là người Pháp. Hằng ngày chúng lùng sục các làng mạc trong vùng bắt bớ cán bộ, đảng viên ta. Đây còn là nơi chứa chấp, là hang ổ của những tên phản bội chỉ điểm cho giặc đàn áp nhân dân ta, điển hình là tên Báu, nguyên xã đội phó xã Hoàng Hữu Nam đã tác oai tác quái gây bao nợ máu cho nhân dân trong vùng. Nó không dám về ngủ ở nhà mà ngủ ở trong bốt giặc vì sợ nhân dân hỏi tội.


Thời gian này, anh Thi Ảnh người làng Thư Thị, xã Hoàng Hữu Nam, được điều động lên công tác ở cơ quan Huyện đội. Anh cho biết ở làng Thư Thị có người lính ngụy con em một gia đình tốt, có khả năng thuyết phục, làm người giúp việc cho ta. Anh Tụy, chính trị viên kiêm đại đội trưởng, liên tiếp tiếp cận đôi tượng này và tiến hành binh vận.


Sau một số lần tiếp xúc, giáo dục, người lính ngụy muốn lập công chuộc tội với nhiệm vụ được giao là đến giờ gác thì mở cổng cho bộ đội ta vào.

2 giờ sáng ngày 19/8/1949, theo đúng mật hiệu, người lính ngụy đã mở cổng sau bốt phía bờ sông. Anh Tụy dẫn đầu theo sát, tổ xung kích do Trung đội trưởng Lê Kim cùng một số chiến sĩ ập vào buồng tên sếp bốt người Pháp. Anh Tụy bắn mấy phát súng ngắn. Tên Pháp chưa chết hẳn, nó chồm dậy nhưng đã bị một băng tiểu liên Sít-ten của đồng chí Lê Kim quật ngã. Đồng chí Định, chiến sĩ liên lạc (nay là Trung tá nghỉ hưu) bồi thêm mấy nhát dao găm vào mạng sườn cho nó chết hẳn. Binh lính địch hoảng loạn, chui cả xuống gầm sạp, gầm giường hòng thoát chết nhưng không thoát bởi khẩu tiểu liên Thom-xơn của chiến sĩ Thông. Những tên cố chạy ra góc nhà, xó tủ thì bị mã tấu chém gẫy cổ.


Trong khi đó, để đề phòng bất trắc, đại đội đã bố trí trung đội 3 do đồng chí Thảo, Trung đội trưởng, chỉ huy nằm chốt ở thôn Liêu Thượng đề phòng địch ở S/S Bần Yên Nhân kéo xuống chi viện thì giật nổ mấy quả mìn muỗi ngoài đường 39 để chặn địch.


Cuộc chiến đấu chỉ diễn ra có 15 phút, ta thu toàn bộ vũ khí và không ai bị thương vong. Khi ta rút đến cánh đồng làng Thượng Bùi (xã Cộng Hòa) thì thấy phía bốt địch có phát pháo sáng bắn lên trời.

Sáng sớm hôm sau, 2 xe Ca-mi-ông chở đầy lính lê dương từ S/S Bần Yên Nhân xuống ứng cứu, chúng chỉ có thấy xác đồng bọn nằm kín gầm sạp, gầm giường và la liệt 1 góc nhà, ngoài sân. Đến gần trưa, chúng cho 2 xe khác xuống thu dọn và chở về Bần Yên Nhân.


Bốt giặc Nho Lâm đã bị tiêu diệt hoàn toàn, thỏa lòng mong đợi của nhân dân Yên Mỹ sau bao năm bị o ép kìm kẹp thỏa nỗi bức xúc của bộ đội Yên Mỹ là không sao diệt được đồn Nho Lâm bằng hỏa lực (công đồn) vì ta còn thiếu vũ khí hạng nặng trong điều kiện địch đã có công sự vững chắc.


Chiến thắng Nho Lâm mở ra một cách đánh mới cho bộ đội ta là sử dụng binh vận rất phù hợp với trình độ bộ đội cấp huyện.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 29 Tháng Mười Một, 2022, 07:18:04 pm
* Chiến công thứ 2: Tiêu diệt đồn Nhân Lý. Nhân Lý là một làng thuộc xã Thanh Long, cách bốt Đỗ Xá (bốt quân hành chính Yên Mỹ) 500m đường chim bay và bốt Lực Điền 3km. Bọn cường hào ác bá cũ âm mưu ngóc đầu dậy chống phá kháng chiến, chúng khống chế cưỡng bức phản động hóa một số thanh niên trong làng rồi xin vũ khí của Pháp về lập bốt quân số có 25 tên, hầu hết là người làng. Tuy không ác ôn hung hãn như bọn vệ sĩ Cảnh Lâm nhưng chúng cũng gây cho phong trào kháng chiến của địa phương vô vàn khó khăn. Ngày đêm, bọn chúng đi rình mò lùng sục bắt bớ cán bộ, đảng viên ta. Cấp trên quyết định phải nhổ tận gốc đồn bốt này.

Đồn Nhân Lý là một căn nhà gác 2 tầng nằm giữa khu dân cư trong làng, chưa hình thành đồn bốt có công sự riêng biệt. Cách đánh của chúng tôi là sử dụng lực lượng tinh nhuệ (trung đội chủ công của đại đội) bí mật đột nhập vào bắt sống tên chỉ huy, ra lệnh cho binh lính của nó phải đầu hàng.


Lợi dụng ngày tết Táo quân 23 tháng Chạp (khoảng cuối tháng 1/1950), lính ngụy uống rượu say như chết, anh Đảo, xã đội trưởng Thanh Long và 3 du kích đón chúng tôi tại rặng tre bìa làng. Trời rét như cắt, chúng tôi phải rất khó khăn để vượt mấy cái ao sâu đến thắt lưng, rộng hàng sào, xung quanh có bụi tre rậm rạp - nơi cư trú hàng trăm con cò vạc kêu quang quác. Ánh đèn pha ở bốt quận Đỗ Xá thỉnh thoáng lập loè. Đại đội trưởng và tôi bò được lên tầng gác nơi ngủ của tên sếp bót mà binh lính của chúng vẫn ngủ say như chết. Trong khi đại đội trưởng Tụy và tôi bắt tên sếp bốt kêu gọi binh lính của nó phải nằm im không được kháng cự thì ở tầng dưới, bộ đội ta đã trói ghì tất cả bọn chúng theo kiểu rồng rắn, đứa nọ ôm đứa kia.


Thời gian này, địch chiếm đóng hết toàn tỉnh (từ 23/12/1949). Đại đội Bãi Sậy không còn hậu cứ ở Ân Thi nữa nên cũng không còn địa điểm để giam giữ tù binh. Anh Tụy giao nhiệm vụ cho tôi chỉ dẫn giải và xử lý tên ác ôn đồn trưởng có nhiều nợ máu với nhân dân ta, còn tất cả binh lính của chúng thì tập trung ở sân đồn nghe anh Tụy nói chuyện giải thích chính sách, lệnh khoan hồng, nhắc nhở họ đừng cầm súng theo giặc gây tội ác với nhân dân, rồi tha cho họ về với gia đình.


Sau đó, du kích xã Thanh Long chất rơm, đổ xăng đốt cháy toàn bộ khu bốt Nhân Lý. Chúng tôi đã vượt qua cánh đồng Thái Nội, qua đường 39, qua sông Yên Lịch, đến giữa cánh đồng Tam Thiên Mẫu cách 3 km mà vẫn thấy lửa bốc cháy.


Hơn mười năm sau (kết thúc chiến tranh chống Pháp), có người lính ngụy được tha chết ngày đó nhân dịp tết đã tìm đến nhà đại đội trưởng Phạm Bạt Tụy cảm ơn cứu mạng đã tha không giết ngày đó.


* Chiến công thứ 3: Độn thổ phục kích tiêu diệt bọn lính Nho Lâm tuần tiễu trên đường 39.

Năm 1950, địch đã chiếm đóng hết các huyện phía nam của tỉnh, Đại đội Bãi Sậy không còn hậu cứ để tập kết lực lượng mỗi khi hoàn thành một nhiệm vụ ở nội địa về. Nhiệm vụ bây giờ phải là bám đất bám dân, nhưng tình hình địch lúc này không thể đưa cả đại đội hàng trăm con người vào nội địa được. Phải tinh giảm quân số. Một trung đội (đồng chí Giao, Sĩ, Hòa, Hòe) bổ sung cho bộ đội chủ lực của Khu; một trung đội (đồng chí Tân, đại đội phó trực tiếp phụ trách) hành lên lên Trùng Khánh - Cao Bằng tiếp nhận và vận chuyển vũ khí; một trung đội tăng cường (quân số 50 người) do đồng chí Lê Kim, Trung đội trưởng phụ trách, làm nhiệm vụ bám đất, bám dân, sống phân tán trong nhân dân, tuyên truyền chủ chính sách của Đảng, tích cực ủng hộ kháng chiến, trước mắt tìm gia đình đón nhận bộ đội, làm hầm bí mật, nuôi ăn và bảo vệ bộ đội như những người thân thiêt của mình.


Cho đến tháng 8/1950, đại đội trưởng phổ biến chỉ thị của trên là bộ đội đường 5 phải đẩy mạnh hoạt động để phối hợp với chiến trường chính và nêu chủ trương sẽ diệt bọn địch buổi sáng hằng ngày đi tuần từ bốt Nho Lâm lên Phố Nối và diệt chúng khi chúng quay trở về.


Đêm 10/8/1950, đại đội trưởng và tôi đi khảo sát địa hình cụ thể đoạn đường 39 tiếp giáp hai làng Lưu Thượng và Lưu Trung và hạ quyết tâm tổ chức trận đánh tại km 2 - đường 39 cách Phố Nối 2 km. Khó khăn là địa hình trống trải không dân cư, không có vật gì che chắn ẩn nấp, tất cả chỉ la mặt đường nhựa. Muốn đánh được địch chỗ này thì phải làm hầm bí mật giấu quân ở ngay mép đường, khi địch lọt vào khu phục kích của ta, có hiệu lệnh của người chỉ huy bộ đội thì đội nắp hầm lên đánh giáp lá cà. Đại đội trưởng trao cho tôi tổ chức và chỉ huy trận đánh này.


Trận đánh huy động 14 chiến sĩ tương ứng với lực lượng tuần tra của giặc. Phải đào 7 hầm trên lề cỏ mặt đường mỗi hầm ẩn hai người. Hố chỉ huy thì lợi dụng nơi ẩn nấp lộ thiên dưới cây ké ở góc ruộng bậc thang cách mép đường 20m. Vũ khí của ta chủ yếu là mã tấu, duy nhất có một khẩu tiểu liên Sít-ten do chỉ huy trận đánh giữ.


9 giờ tối ngày 12/8/1950, anh em phân tán từ các cơ sở về tập kết tại đầu làng Ngọc Tỉnh. Làng này đã có một tổ 3 người làm nhiệm vụ xin tre về đan 7 cái phên (0,8 x 1,2m) và mượn các dụng cụ đào và vận chuyển đất.


3 giờ sáng ngày 13/8/1950, các hầm bí mật giấu quân đã ổn định, anh em chúng tôi ngồi chờ địch đi tuần về. 8 giờ sáng, bọn giặc đã hoàn toàn lọt vào trận địa phục kích của ta trên đoạn đường dài 20m (7 hầm). Một băng tiểu liên Sít-ten xả vào đội hình giặc cùng là hiệu lệnh để các chiến sĩ ta bật dậy đội nắp hầm xồng lên. Bọn địch bất ngờ, chúng vội vất súng bỏ chạy, một số lớn bị diệt ngay tại chỗ, một số chạy xuống cánh đồng lúa phía đông đường 39. Anh em ta truy đuổi quyết không cho chúng thoát...


Trận đánh diễn ra chỉ trong 10 phút, ta tiêu diệt hoàn toàn bọn địch và không bị thương vong người nào. Qua trận này, đã mở ra một cách đánh mới là trong điều kiện địa hình quá trống trải không nơi ẩn nấp thì phải làm hầm bí mật giấu quân, hay gọi một cách hình ảnh là độn thổ phục kích. Chỉ cần ta có chí quyết tâm diệt địch cao thì sẽ hoàn toàn thắng lợi.


Cuối tháng 10/1950 (sau chiến thắng Biên giới), tình hình biên chế tổ chức thay đổi. Đại đội Bãi Sậy với tư cách là đơn vị trực thuộc Huyện đội không còn nữa. Huyện đội mang phiên hiệu C110 vừa quản lý trực tiếp bộ đội vừa quản lý dân quân.


Thế là Đại đội Bãi Sậy đã tồn tại được ngót hai năm trên mảnh đất Yên Mỹ đau thương và bất khuất. Huyện có 80 làng (thôn) thì 33 làng bị địch đóng bốt ở 43 vị trí và cụm vị trí với đầy đủ các sắc lính. Đại đội Bãi Sậy vẫn bám đất, bám dân, làm tốt công tác dân vận, tuyên truyền lòng tin "Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi" và chiến đấu dũng cảm. Cán bộ, chiến sĩ Đại đội Bãi Sậy vô cùng biết ơn nhân dân Yên Mỹ đã nuôi nấng, đùm bọc, che chở như những người con thân thương của mình để đại đội nắm chắc tay súng, chiến đấu bảo vệ quê hương, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 29 Tháng Mười Một, 2022, 07:19:36 pm
B - HẢI DƯƠNG

TRUNG ĐOÀN 568 HẢI HƯNG THAM GIA CHIẾN DỊCH TẾT MẬU THÂN NĂM 1968


NGUYỄN THÀNH NGỌ
(Nguyên Chủ nhiệm chính trị
Trung đoàn Hải Hưng)


Trung đoàn 568 được thành lập từ những năm 1966-1967 vốn nằm trong đội hình Sư đoàn 330 - Quân khu 3 - cùng với hai trung đoàn 46 và 556. Trung đoàn 568 được giao nhiệm vụ chuyên huấn luyện quân tăng cường bổ sung cho các đơn vị và chi viện chiến trường. Đang thực hiện nhiệm vụ đó trên đất Lương Sơn - Hòa Bình, Trung đoàn được rút ra giao cho Hải Hưng gấp rút xây dựng, kiện toàn về mọi mặt để kịp chi viện cả đơn vị lớn. Lễ công bố thành lập Trung đoàn do Tỉnh ủy, Ủy ban hành chính và Tỉnh đội tổ chức từ khu rừng bạch đàn thuộc xã Cổ Thành, huyện Chí Linh, chính thức mang phiên hiệu Trung đoàn Hải Hưng.


Ban đầu, cán bộ chỉ huy Trung đoàn gồm: Trung đoàn trưởng - Thiếu tá Nguyễn Hồng Chương; Trung đoàn phó - Thiếu tá Nguyễn Hồng; Chính ủy - Thiếu tá Lê Cần; Phó Chính ủy - Thiếu tá Hồ Đức, nguyên Phó chính trị viên Tỉnh đội được cử đi B. Khi hành quân thì đồng chí Lê Cần ở lại, đồng chí Hồ Đức thay làm Chính ủy; Tham mưu trưởng trung đoàn - Thiếu tá Đinh Hữu Trúc; Chủ nhiệm chính trị - Thiếu tá Nguyễn Thành Ngọ; Phó chủ nhiệm chính trị - Đại úy Nguyễn Trung Nên; Chủ nhiệm hậu cần - Đại úy Nguyễn Xuân Phong.    Trung đoàn liên tục hành quân dã ngoại để huấn luyện với khẩu hiệu “Thao trường đổ mồ hôi để chiến trường bớt đổ máu”. Gian khổ vất vả nhất là hành quân mang vác nặng - tất cả trên vai người lính - thấp nhất là 35-37 cân/người, cao là 40- 42 cân/người. Công tác hậu cần nuôi quân chăm sóc sức khỏe được đặc biệt quan tâm để bảo đảm quân số huấn luyên cao.


Trước khi tạm biệt quê hương lên đường chiến đấu, thay mặt Thường vụ Tỉnh ủy, đồng chí Phạm Quang Vinh và đồng chí Tỉnh đội trưởng Lê Thừa Giao gặp mặt dặn dò, động viên các cán bộ chủ chốt của trung đoàn. Các đồng chí còn gửi theo cho bộ đội 10 kg thuốc lào Vĩnh Bảo...


Quá trình hành quân, cấp ủy, chỉ huy trung đoàn đặc biệt quan tâm chăm lo xây dựng ý chí quyết tâm chiến đấu cho bộ đội, trọng tâm là đối tượng cán bộ, đảng viên; động viên mọi người vững vàng kiên định, dũng cảm, ngoan cường và sáng tạo hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.


Một sự kiện xảy ra ngoài ý muốn: Khi trung đoàn dừng chân ở đất Thanh Hóa, Chi bộ Đại đội 6 - Tiểu đoàn 2 có 34 đảng viên, 3/4 trung đội trưởng là đảng viên chính thức đang tỏ ra bất phục đại đội trưởng và chính trị viên đến mức không chấp hành mọi chỉ lệnh của đại đội, thậm chí đại đội trưởng không thể tập hợp kiểm tra bộ đội được với 3 trung đội này. Chi ủy - chi bộ và chỉ huy đại đội rất lúng túng, cầu cứu tiểu đoàn, tiểu đoàn cũng không gỡ được mà nhiệm vụ thì khẩn trương không chờ đợi.


Thường vụ và chỉ huy Trung đoàn nhận định: Tình hình chính trị, tư tưởng, mất đoàn kết, kèn cựa cá nhân ở chi bộ Đại đội 6 nếu không kịp thời giải quyết, tất yếu ảnh hưởng đến việc hoàn thành nhiệm vụ chung của Trung đoàn. Thường vụ Trung đoàn ủy chủ trương: Điều tra nắm chắc nguyên nhân, các biểu hiện và tác hại cụ thể vừa qua, áp dụng phương pháp kiểm tra tư cách đảng viên, đồng thời xác định từng chi bộ và Đảng bộ phải xứng đáng là hạt nhân đoàn kết mới lãnh đạo toàn Trung đoàn làm tròn nhiệm vụ sắp tới. Trung đoàn mở đợt sinh hoạt chính trị gọn trong 3 ngày, lấy Đại đội 6 chỉ đạo điểm. Qua bước tìm hiểu sơ bộ, trung đoàn ủy quyết định họp chi bộ Đại đội 6 xác đinh sự lãnh đạo của chi bộ Đảng có vị trí quyết định thắng - bại trong mọi nhiệm vụ chiến đấu ở đại đội. Nhiệm vụ tới của Trung đoàn là cuộc thử thách nghiêm khắc, thắng - thua phụ thuộc vào việc hoàn thành nhiệm vụ của từng đơn vị thành viên. Đảng, đất nước yêu cầu Trung đoàn phải nhất trí quyết tâm cao, chung sức chung lòng thì ra trận mới mong chiến thắng. Từng người nghĩ rồi trình bày trước tổ, lấy ý kiến phê bình góp ý của 7 bộ chiến sĩ ở từng tiểu đội với từng đảng viên.


Trưởng ban kiểm tra của Trung đoàn bố trí lần lượt gặp từng đối tượng trọng điểm. Vấn đề cứ thế dần dần sáng tỏ.

Tình cờ tôi mở cuốn "Tác phẩm mới” trên đầu giường giở đúng trang sách có bài viết về câu chuyện Bộ trưởng Cù Huy Cận gặp Cụ Hồ xin không dám nhận chức Bộ trưởng Nông nghiệp. Đại ý: Cù Huy Cận thưa với Bác là “Cháu chưa làm Bộ trưởng bao giờ, xin Bác thứ cho, chỉ làm công việc chuyên môn thôi ạ! Bác cười hiền từ vui vẻ, ân cần nói: "Chú Cận này, Bác cũng chưa làm Chủ tịch nước bao giờ, nay quốc dân ủy thác, Bác phải làm, có điều là: Chương trình rõ rệt một nhóm trung tâm, vừa làm vừa học, đoàn kết giúp nhau cùng tiến bộ”. Cù Huy Cận xin vâng không dám từ chối nữa


Tôi bật dậy tự nhủ mình: “Lời giải đây rồi, Bác đã mách bảo, gợi cho một bí quyết khi gặp phải khó khăn. Đúng! Mục tiêu (chương trình) là nhiệm vụ chiến đấu thì đã rõ, một nhóm trung tâm - vấn đề cốt lõi, thật chí lý. Trong các trận chiến đấu đã trải, trong đột phá tiền duyên phải có cốt cán, trung kiên mở khẩu? Trong tập thể một đại đội phải có nhóm trung tâm đó là chi bộ Đảng - lực lượng cốt cán, nếu nhóm trung tâm ấy trục trặc, rời rạc, thì quần chúng dù rất tốt sẽ không thành sức mạnh khiến quân thù phải khuất phục.


Tôi đã hoàn chỉnh được ý kiến kết luận cho buổi kết thúc sinh hoạt chính trị chiều hôm đó. Một buổi sinh hoạt rất tình cảm, chan hòa không khí vui vẻ, đầm ấm mà trong cuộc đời làm công tác chính trị - quân sự khó quên. Cuộc sinh hoạt ngoài đông đủ chi bộ điểm, còn có bí thư các tiểu đoàn, Đảng ũy cơ quan Trung đoàn và bí thư các đại đội toàn Đảng bộ cùng được mời tham dự rút kinh nghiệm để về tự triển khai cho đơn vị mình.


Sau báo cáo ngắn gọn đã được Thường vụ Trung đoàn cho ý kiến đánh giá là cuộc sinh hoạt tự phê bình và phê bình về tư cách đảng viên Đại đội 6 đạt được kết quả theo yêu cầu. Mừng nhất là các đồng chí có thiếu sót, khuyết điểm đều thành khẩn tự giác nhận lỗi, quyết tâm sửa để hoàn thành nhiệm vụ được giao. Các trung đội trưởng đều đứng dậy bắt tay từng chỉ huy đại đội, hứa trước cấp trên, với các cán bộ đơn vị bạn tới dự sinh hoạt - từ nay sẽ đoàn kết nhất trí, trên dưới một lòng, thành một nhóm trung tâm vừa làm vừa học, đoàn kết giúp nhau cùng tiến bộ theo lời Bác Hồ dạy.


Thường vụ Trung đoàn ủy chủ trương không kỷ luật đồng chí nào cả, rất mừng là ý chí chiến đấu không đồng chí nào bị suy giảm.

Phát huy kết quả, Thường vụ và chỉ huy Trung đoàn chỉ thị triển khai sinh hoạt tự phê bình và phê bình về tư cách đảng viên trong toàn Đảng bộ nhằm chấn chỉnh đội ngũ, vai trò tiên phong lãnh đạo của mọi đảng viên, cán bộ trước khi tiếp tục cuộc hành quân ra trận.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 29 Tháng Mười Một, 2022, 07:20:14 pm
Một chủ trương cần thiết kịp thời đã đem lại hiệu quả thiết thực góp phần không nhỏ vào việc nâng cao chất lượng lãnh đạo, chất lượng chính trị và sức chiến đấu của bộ đội chi viện chiến trường, mà thành tích chiến đấu sau này đã chứng minh không phụ lòng tin cậy của cấp ủy, chính quyền, chỉ huy Tỉnh đội và không phụ truyền thống đấu tranh anh dũng, kiên cường của quân dân Hải Hưng.


Đúng sáng ngày 30 tháng 12 âm lịch Tết Mậu Thân (tức ngày 28-1-1968), Trung đoàn vượt sông Bến Hải vào tham gia chiến đấu tại chiến trường Trị - Thiên thay chân Trung đoàn 27 của Quân khu 4 vào sâu hơn. Đoàn cán bộ đi trước chuẩn bị may mắn được gặp Đại tá Phó tư lệnh B5 - Cao Văn Khánh tiếp. Đồng chí dặn dò, giúp củng cố thêm niềm tin đối với những cán bộ chân ướt chân ráo mới bước vào chiến trường mà từ địa hình, địch tình còn rất bỡ ngỡ.


Qua Đài tiếng nói Việt Nam, dần dần đơn vị mới biết chủ trương của trên mở chiến dịch tập kích chiến lược Tết Mậu Thân - 1968 vào tất cả các thành phố lớn, những vị trí quan trọng của Mỹ-ngụy trên toàn chiến trường miền Nam. Bài thơ chúc Tết của Bác Hồ: “Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua / Thắng trận tin vui khắp nước nhà / Nam - Bắc thi đua đánh giặc Mỹ / Tiến lên! Toàn thắng ắt về ta”, được loan truyền liên tục suốt ngày qua đài bán dẫn của các đại đội trên đường hành quân như tiếng gọi non sông, động viên bộ đội vượt khó nhanh chân tới đích. Đêm ngày 1 rạng ngày 2 Tết (tức đêm 29 rạng ngày 30-1-1968) mở đầu cuộc tổng tấn công và nổi dậy khắp miền Nam, Tây Nguyên hùng vĩ được vinh dự nổ phát súng đầu tiên vào các thị xã Buôn Mê Thuột, Plây-cu, Kon-tum. Tiếp đó, những đòn sấm sét liên tục giáng xuống đầu Mỹ-ngụy khắp miền Nam, đánh thẳng vào trung tâm đầu não địch ở Sài Gòn và các thành phố lớn... Trung đoàn đã thông báo nhanh mọi tin tức chiến thắng ban đầu đến từng đơn vị, động viên cán bộ, chiến sĩ sẵn sàng, có lệnh là đánh, đánh phải thắng để phối hợp với đồng bào, đồng đội của mình trên các mặt trận. Trung đoàn cũng báo cáo với Tỉnh ủy, Ủy ban, Tỉnh đội và nhân dân một số chiến công chính như sau: Từ tháng 6 năm 1972 đến khi ký hiệp định Pa-ri về Việt Nam, địch tập trung lực lượng với mức độ bom đạn ác liệt chưa từng có. Trung đoàn đã dũng cảm, kiên cường đánh trả diệt 3.918 tên, bắt 57 tù binh, thu 177 khẩu súng các loại, bắn cháy 78 xe tăng, xe bọc thép, bắn rơi 20 máy bay. Đặc biệt trong trận đánh 4 ngày, từ 28 đến 31 tháng 1 năm 1973, địch vi phạm hiệp định Pa-ri đã ký, lấn chiếm Cửa Việt-Quảng Trị. Được Sư đoàn 320 tăng viện một số đơn vị binh chủng kỹ thuật, Trung đoàn phản kích quyết liệt, tiêu diệt Lữ đoàn đặc nhiệm tinh nhuệ của địch, diệt 1.384 tên, bắt 178 tù binh, bắn cháy 117 xe tăng, thiết giáp, bắt sống 14 chiếc, bắn rơi 2 máy bay, thu 140 súng các loại, 21 vô tuyến điện và thu nhiều dụng cụ, phương tiện chiến tranh, đập tan âm mưu hành quân lấn chiếm vùng giải phóng, ta giải phóng hoàn toàn Cửa Việt. Trung đoàn đã được tặng thưởng 2 Huân chương Quán công hạng Ba, tập thể các tiểu đoàn, đại đội được tặng thưởng 35 Huân chương Chiến công các loại, 96 cán bộ, chiến sĩ được tặng thưởng Huân chương Chiến công các hạng, 182 cán bộ, chiến sĩ được tặng danh hiệu “Chiến sĩ quyết thắng”, “Chiến sĩ thi đua” và “Dũng sĩ” các loại, nhiều anh em được cấp bằng khen, giấy khen...


Trong chiến tranh, Trung đoàn đã làm tốt nhiệm vụ, lập nhiều thành tích. Trong nhiệm vụ củng cố hòa bình, Trung đoàn tiếp tục rèn luyện bảo vệ vững chắc toàn vẹn vùng giải phóng đồng bằng tỉnh Quảng Trị.


Trên 35 năm tính từ năm thành lập tham gia chiến dịch Mậu Thân năm 1968, lớp lớp cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn Hải Hưng một thời đồng cam cộng khổ, nguy nan cùng vượt, hy sinh chẳng quản, đã lập nhiều chiến công, xứng dáng niềm tự hào và tin cậy của nhân dân. Cho tới nay, Trung đoàn 568 Hải Hưng đã có biết bao biến đổi. Cán bộ, chiến sĩ đã thay nhau mấy thế hệ, ai còn, ai mất, ai trở lại hậu phương hay chuyển ngành, đang làm gì trên các lĩnh vực khắp mọi miền đất nước? Nhưng vững tin, dù làm gì ở đâu thì cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 568 Hải Hưng vẫn giữ gìn và phát huy được phẩm chất cao đẹp của người lính Bác Hồ, nối tiếp truyền thống của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, không phụ lòng tin cậy của Đảng, chính quyền và nhân dân Hải Hưng có đường 5 anh dũng nổi tiếng và Bãi Sậy bất khuất, kiên cường.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 01 Tháng Mười Hai, 2022, 07:48:43 pm
KIM ANH - MẢNH ĐẤT KIÊN CƯỜNG


NGUYỄN HUY TRƯỜNG


Dưới chế độ cũ, xã Kim Anh1 (Xã Kim Anh thuộc huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương gồm 3 làng Bất Nạo, Lễ Độ và thôn Đồng Mỹ) do chính sách bóc lột tàn bạo của thực dân phong kiến, đã làm cho nhưng người dân lao động nơi đây phải sống canh lầm than cực khổ. Toàn xã có 801 mẫu đất canh tác thì 5% số người là địa chủ, phú nông đã chiếm giữ 75%, trong khi đó 95% là nông dân, tá điền chỉ có chưa đầy 30% ruộng đất!


Ruộng đất ít lại phải chịu sưu cao thuế nặng nên người dân Kim Anh phải vất vả chạy vạy kiếm sống, nhiều người phải tha phương cầu thực, đi làm phu đồn điền, phu mỏ than Hòn Gai, Uông Bí; đi làm thuê ở thành phố; có người vào tận Nam kỳ, Lục tỉnh... Nền kinh tế trì trệ, chỉ dựa vào độc canh cây lúa nên đời sống của nhân dân lao động vô cùng khó khăn. Trẻ em phần lớn thất học; ốm đau luôn đeo đuổi những người nghèo khó lam lũ; nhà cửa lụp xụp ẩm thấp, mái rạ vách đất là chủ yếu; đường sá lầy lội mất vệ sinh... Tệ nạn cờ bạc, rượu chè, nghiện hút tràn lan làm cho bao gia đình lâm vào cảnh cùng quẫn khốn đốn.


Đặc biệt là từ khi phát xít Nhật vào Đông Dương, nhân dân ta phải chịu cảnh “một cổ hai tròng” áp bức bóc lột, dẫn đến nạn đói năm 1945. Trong số hơn 2 triệu người dân Việt Nam bị chết đói, Kim Anh đã có 713 người, chiếm 1/4 dân số xã. Trong bối cảnh ấy, tệ cường hào lại nổi lên hình thành những phe phái tranh giành nhau, những dòng họ tranh quyền đoạt lợi luôn diễn ra làm đảo lộn đời sống của người dân Kim Anh vốn đã khó khăn lại khó khăn thêm!


CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945 ĐÃ ĐEM LẠI SỨC SỐNG MỚI CHO KIM ANH

Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) và Mặt trận Việt Minh, nhân dân ta đã tiến hành thắng lợi cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Trong khí thế sục sôi cách mạng ấy, chỉ trong 3 ngày từ 15 đến 18/8/1945, nhân dân Kim Anh đã vùng lên lật đổ chế độ phong kiến và ách thống trị của Pháp - Nhật, giành chính quyền về tay nhân dân.


Chính quyền cách mạng lâm thời và non trẻ của Kim Anh lúc bấy giờ gồm có: Ông Nguyễn Thượng Trình làm Chủ tịch, các ông Trần Văn Rụ, Nguyễn Văn Lam, Nguyễn Văn Thà... làm ủy viên, đã bắt tay ngay vào việc thực hiện nhiệm vụ khẩn cấp của cách mạng đặt ra: xây dựng, củng cố chính Quyền, cùng Mặt trận Việt Minh tổ chức các đoàn thể nhân dân, xây dựng lực lượng vũ trang cơ sở, đồng thời tổ chức thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ do Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra là “Diệt giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm”.


Chính quyền và Mặt trận Việt Minh đã khẩn cấp khắc phục nạn đói, phát động phong trào “lá lành đùm lá rách” vận động các nhà giàu có, khá giả giúp các gia đình thiếu đói để có bữa rau cháo, phục hồi sức lao động, đồng thời vận động trông cây lương thực ngắn ngày, đẩy mạnh tăng gia sản xuất để có nhiều lương thực, rau màu cho vụ tới. Do những biện pháp tích cực ấy, đến cuối năm 1945 nạn đói ở Kim Anh cơ bản được đẩy lùi.


Nhiệm vu “diệt giặc dốt” cũng được triển khai rộng khắp, hàng chục lớp “bình dân học vụ” được tổ chức ở từng thôn xóm. Nhân dân sôi nổi đi học theo tinh thần người biết chữ dạy người không biết chữ, dạy và học đều tự nguyện. Đến tháng 6/1946, toàn xã đã có 70% số người mù chữ biết đọc biết viết chữ quốc ngữ.


Nhân dân Kim Anh đã làm theo lời kêu gọi của chính quyền, Mặt trận, đi vào xây dựng cuộc sống mới, động viên nhau ăn sạch, uống sạch, giữ vệ sinh chung, tu sửa đường đi lối lại, các gia đình thi đua với nhau làm cho xóm ngõ sạch đẹp. Phong trào học hát, học múa, diễn kịch cũng được đẩy mạnh, tạo ra một không khí mới, phấn khởi, vui tươi, cuốn hút mọi người vào việc thực hiện các nhiệm vụ do Chính phủ cách mạng lâm thời đề ra. Khắp các thôn xóm, đâu đâu cũng nêu cao khẩu hiệu: “Việt Nam độc lập muôn năm!", “Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn năm!’’, “Tinh thần Cách mạng Tháng Tám bất diệt!”, “Kiên quyết bảo vệ cách mạng, bảo vệ chính quyền nhân dân!”, “Toàn dân nêu cao quyết tâm diệt giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm!”, v.v... Kim Anh đã phấn đấu vượt qua những thử thách, khó khăn to lớn để đứng vững và phát triển về mọi mặt.


CÙNG CẢ NƯỚC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC

Ngay sau Cách mạng Tháng Tám, thực dân Pháp lại thực hiện âm mưu xâm lược nước ta một lần nữa. Trước tình thế ấy, nhân dân Kim Anh dưới sự lãnh đạo của Đảng và Mặt trận Việt Minh đã đi vào cuộc kháng chiến 9 năm với quyết tâm cùng cả nước đánh thắng giặc Pháp xâm lược.


Kim Anh là một trong những xã của huyện Kim Thành nằm sát đường số 5 - con đường chiến lược quan trọng ở chiến trường Bắc Bộ.

Ngày 20/12/1946, từ Hải Phòng quân Pháp từng bươc đánh chiếm đường số 5. Sau khi chiếm được ga Phú Thái chúng tràn vào Kim Anh bắn phá, đốt nhà, cướp của - cả xã và vùng lân cận chìm trong khói lửa của chiến tranh.


Hưởng ứng lời kêu gọi “Toàn dân kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Kim Anh cùng cả nước đứng lên chiến đâu bằng mọi thứ vũ khí có trong tay với tinh thần “Tất cả để đánh thắng giặc Pháp xâm lược”.


Trong những năm chiến tranh, quân Pháp đã xây dựng trên đất Kim Anh một trại lính, 14 lô cốt, 2 bốt dõng với hệ thống rào thép gai và mìn dầy đặc, lập vành đai trắng, chia cắt địa bàn xã thành 2 khu vực Tây - Bắc và Đông - Nam đường 188. Quân địch thường xuyên vây ráp, tìm diệt cán bộ kháng chiến. Một số cán bộ chú chốt của xã như các đồng chí Trần Đình Dự, Trần Đình Tiêm, Nguyễn Văn Thi... đã bị địch bắn chết, một số khác bị địch bắt tù đày. Có đêm bọn biệt kích sục vào làng bắt được 6 du kích đem ra bắn chết ngay tại cánh đồng cửa Đền Thiện. Bọn địch muốn tiêu diệt sạch, tiêu diệt tận gốc lực lượng kháng chiến của ta ở Kim Anh. Nhưng “Vỏ quýt dày, có móng tay nhọn”, Chi bộ Đảng xã Kim Anh ra đời ngày 15/10/1947, đã giương cao ngọn cờ lãnh đạo kháng chiến, cùng nhân dân bám đất, bám làng; vừa chiến đấu vừa sản xuất, vừa huy động sức người, sức của chi viện cho bộ đội chủ lực, đi dân công hỏa tuyến, đào hầm nuôi giấu cán bộ, bộ đội. Đặc biệt, trước âm mưu tìm diệt tàn bạo của kẻ thù, cán bộ, đảng viên ở Kim Anh vẫn kiên cường bám đất, bám dân, cùng nhân dân xây dựng cơ sở, tiếp tục đấu tranh đến ngày thắng lợi.


Tổng kết kháng chiến chống Pháp, quân dân Kim Anh đã đánh 37 trận lớn nhỏ, tiêu diệt, bắt sống, gọi hàng 657 tên địch, thu 414 súng các loại, 8 tấn dây thông tin, phá hủy 1 đầu máy và một số toa xe lửa, 4 xe quân sự, góp phần xứng đáng cùng quân dân huyện Kim Thành làm nên “Tiếng sấm đường 5 quật khởi”! Toàn xã có 694 người tham gia hoạt động, có công với kháng chiến, 308 người tham gia bộ đội tình nguyện, 37 người đi dân công hóa tuyến, 72 liệt sĩ, có 2 mẹ được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu “Mẹ Việt Nam anh hùng” và có 1 người con của làng Bất Nạo là bộ đội Kim Thành được Hồ Chủ tịch tặng danh hiệu “Chiến sĩ thi đua toàn quốc” năm 1952.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 01 Tháng Mười Hai, 2022, 07:49:25 pm
KIM ANH CÙNG CẢ NƯỚC ĐÁNH THẮNG GIẶC MỸ XÂM LƯỢC

Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, thực dân Pháp buộc phải ký kết hiệp định Giơ-ne-vơ, miền Bắc nước ta hoàn toàn giải phóng. Đất nước ta tạm thời chia làm hai miền. Đảng ta đề ra hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam. Nhân dân Kim Anh lại cùng nhân dân miền Bắc thực hiện nhiệm vụ của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn miền Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược.


Đế quốc Mỹ đã dùng không quân, hải quân tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại ra miền Bắc. Từ ngày 15/11/1965 đến hết tháng 12/1972, máy bay Mỹ liên tiếp đánh phá các khu vực ga Phú Thái, bến đò Thái, đoàn 400. Dã man nhất là đêm 31/10/1967, Mỹ đã ném bom vào khu dân cư Văn Minh (Bất Nạo) phá hủy trường trung học cơ sở, thiêu cháy 40 ngôi nhà, 1 cửa hàng bách hóa, làm chết 13 người, bị thương 28 người. Chiến tranh ngày càng ác liệt, tội ác của đế quốc Mỹ ngày càng chồng chất, lòng căm thù giặc, ý chí chiến đấu của nhân dân Kim Anh ngày càng dâng cao. Lớp lớp thanh niên lên đường nhập ngũ, chiến đấu ở các chiến trường A, B, c, K... Số còn lại lập thành các đội trực chiến, cứu hộ sập hầm, lấy lá ngụy trang các trận địa phòng không, đào hầm hố tránh bom đạn và tham gia trực chiến bảo vệ cầu Lai Vu...


Đảng bộ và nhân dân Kim Anh vừa bám trụ chiến đấu vừa đẩy mạnh sản xuất, chi viện sức người, sức của cho tiền tuyên. Phong trào “Thanh niên ba sẵn sàng" "Phụ nữ ba đảm đang" được dấy lên sôi nổi. Với quyết tâm: “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, Đảng bộ đã lãnh đạo nhân dân “Tay cày, tay súng”. Vụ chiêm xuân năm 1967, lần đầu tiên đất Kim Anh đạt năng suất lúa 5 tấn/ha, được Chủ tịch nước thưởng Huân chương Lao động hạng Ba. Bác Hồ gửi thư khen và tặng Huy hiệu của Người cho đảng viên, đội trưởng sản xuất Nguyễn Thị Thuốc. Lực lượng dân quân đã ngày đêm phối hợp với các trận địa tên lửa đặt tại địa bàn xã. Tháng 12/1967, dân quân xã phối hợp với lực lượng phòng không bắn rơi 01 máy bay F4H, bắt sống giặc lái Mỹ.


Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, xã Kim Anh có trên 1000 người tham gia hoạt động, có công với kháng chiến, có 415 người tham gia quân đội, 40 người đi thanh niên xung phong, 100 liệt sĩ, 52 thương binh, có 3 mẹ được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu “Mẹ Việt Nam anh hùng”. Nhiều người con của Kim Anh lập công xuất sắc như dũng sĩ lái xe Trường Sơn Trần Ngọc Thế, dũng sĩ lái xe tăng Trần Xuân Nhị... Cán bộ và nhân dân Kim Anh được thưởng 1 Huân chương Chiến công hạng Ba về thành tích chiến đấu, phục vụ chiến đấu, chi viện chiến trường, làm tốt công tác hậu phương quán đội và 2 Huân chương Lao động hạng Nhì, hạng Ba về thành tích vừa chiến đấu vừa sản xuất giỏi.
 

KIM ANH VƯƠN LÊN XÂY DỰNG CUỘC SỐNG MỚI

Sau những năm kháng chiến thắng lợi, tình hình kinh tế - xã hội ở Kim Anh gặp rất nhiều khó khăn. Trước tình hình đó, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân xã đã tập trung khắc phục hậu quả chiến tranh, tổ chức lại sản xuất, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, từng bước nâng cao đời sống nhân dân. Đặc biệt là sau 20 năm thực hiện đường lối đổi mới mở cửa của Đảng, nhân dân Kim Anh dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ đã sớm thích nghi với cơ chế thị trường, thực hiện khoán 10 (04/1988), thực hiện giao đất lâu dài cho hộ nông dân (1992), thực hiện Nghị quyết 03 của Tỉnh ủy Hải Dương về đổi mới quản lý hợp tác xã theo mô hình dịch vụ (1993). Đảng bộ Kim Anh đã có chủ trương, biện pháp thực hiện chương trình xóa đói, giảm nghèo, thâm canh tăng vụ, chuyển đổi cây trồng, cải tạo vườn tạp, đưa các giống cây, con có năng suất, giá trị kinh tế cao vào sản xuất, chăn nuôi, tập trung đầu tư vào chương trình phát triển kinh tế hệ gia đình. Chính vì vậy, tình hình kinh tế - xã hội của Kim Anh ngày nay đã có những bước thay đổi chưa từng có. Chỉ tính 5 năm 2001 - 2005, so với 5 năm trước đó, tổng thu về sản xuất nông nghiệp tăng 8,3%; giá trị sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tăng 242%; doanh thu về kinh doanh dịch vụ tăng 39,12%; tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm qua đạt 11,9% năm.


Từ một nền kinh tế nông nghiệp trì trệ, dựa vào độc canh cây lúa là chủ yếu, đến nay Kim Anh đã hình thành nền kinh tế có cơ cấu đa dạng: Nông nghiệp 52,6%; tiểu thủ công nghiệp 24,2%; kinh doanh dịch vụ 23,2%; hoàn thành cơ bản các mục tiêu xây dựng điện, đường, trường, trạm... với tổng mức đầu tư 5 năm 2001 - 2005 đã lên tới 8.684 triệu đồng, trong đó nhân dân đóng góp 2.729 triệu đồng. Sự nghiệp giáo dục không ngừng phát triển, trẻ em đến tuổi đi học đều được đến trường; đầu tư hàng tỷ đồng để xây dựng cơ sở vật chất cho các trường theo hướng hiện đại hóa, xã hội hóa và chuẩn hóa cấp quốc gia. Cả ba cấp học đều đạt tiên tiến và tiên tiến xuất sắc. 10 năm liền Kim Anh đạt xã “tiên tiến về giáo dục”. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo. Các mặt công tác văn hóa, y tế, chăm sóc sức khỏe cộng đồng, thực hiện các chính sách xã hội đều được tổ chức thực hiện có kết quả. Đời sống nhân dân không ngừng được nâng cao. Toàn xã đã cơ bản xóa xong nhà tranh tre vách đất. Có 41% số hộ có nhà xây mái bằng, 50,4% số hộ có nhà xây cấp 4; có 15,5% số hộ giầu, 38,6% số hộ khá, 42,1% số hộ có mức sống trung bình, không có hộ đói, số hộ nghèo theo tiêu chí cũ còn 3,8%. Tính bình quân cứ 9 người có 1 xe máy, 14 người có 1 máy điện thoại. Các mật công tác xây dựng Đảng, chính quyền, các đoàn thể thường xuyên được quan tâm, hàng năm đều đạt từ tiên tiến đến xuất sắc. Từ một Đảng bộ, chính quyền yếu kém ở thập kỷ 90, Kim Anh đã vươn lên đạt danh hiệu “Đảng bộ, chính quyền trong sạch, vững mạnh cấp tỉnh” 4 năm liền.


Kim Anh - mảnh đất kiên cường đã và đang vươn lên xây dựng cuộc sống mới, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu “Dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,văn minh”!


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 01 Tháng Mười Hai, 2022, 07:50:22 pm
CÔNG TÁC BINH VẬN VỚI TRẬN ĐÁNH CĂNG PHƯƠNG ĐIẾM
ĐÊM 18/12/1951


NGUYỄN THỊ CHẮT
(Nguyên cán bộ địch vận Huyện đội Gia Lộc,
Chiến sĩ thi đua toàn quốc năm 1952)


Cuối năm 1947, tôi được đi học một lớp đào tạo cán bộ địch vận, sau đó huyện điều tôi về xây dựng cơ sở ở khu vực Phúc Duyên, rồi sang công tác tại xã Thạch Khôi thuộc huyện Gia Lộc. Các thôn xã này nằm sát thị xã Hải Dương, nên hồi đó tất cả đều nằm trong vùng kiểm soát của địch. Đặc biệt là ở Thạch Khối, bọn phản động chống phá kháng chiến rất quyết liệt, luôn tìm diệt cán bộ và cơ sở của ta.


Được sự phối hợp và giúp đỡ tận tình của các đồng chí lãnh đạo địa phương, bằng các biện pháp nghiệp vụ đã được huấn luyện, đến tháng 6/1949, tôi đã gây dựng được 10 nhân mối trong binh lính và hương dũng ở Thạch Khôi. Đến nay tôi chỉ còn nhớ được tên các anh Thanh, Đáng, An, Quất, Thi...


Mùa thu năm 1949, tôi được Huyện đội điều về công tác tại thị trấn Gia Lộc. Cuối năm 1949, thực dân Pháp chiếm đóng khu vực này, chúng xây dựng chi khu quân sự Phương Điếm, căng Phương Điếm và ráo riết xây dựng chính quyền tay sai ở các thôn xã trong vùng. Đến giữa năm 1950, khu vực huyện lỵ (cũ), phố Cuối, chợ Cuối đã dần dần trở lại làm ăn bình thường, binh lính địch ở chi khu quân sự và căng Phương Điếm qua lại ngày càng nhiều.


Trước diễn biến trên đây, tôi thấy cần phải đẩy mạnh công tác vận động binh lính địch. Nhưng làm công tác này không chỉ dựa vào cán bộ chuyên trách mà cần phải có nhiều người cùng tham gia thì mới có kết quả. Vì vậy tôi đã đề nghị lãnh đạo huyện mở một lớp học về công tác binh vận. Được sự nhất trí của Huyện ủy, Huyện đội Gia Lộc, lớp học ngắn ngày được khai mạc tại thôn Ba Đông Hạ do đồng chí Bùi Quang Thu, Thường vụ Huyện ủy, phụ trách. Tôi đã vận động được một số người ở xã Nghĩa Hưng đi dự lớp học này. Kết thúc lớp học, tôi có thêm một số “chân rết” làm công tác binh vận. Cũng từ đó, công tác binh vận do tôi phụ trách ở khu vực này không ngừng được đẩy mạnh theo bài bản đã được huấn luyện.


Được sự giúp đỡ của đồng chí Nguyễn Hữu Tỳ, chi ủy viên, trưởng ban địch vận xã Nghĩa Hưng, đêm đêm chúng tôi cùng với xã tổ chức gọi loa tuyên truyền vào chi khu quân sự và căng Phương Điếm, rải truyền đơn ở cổng bốt, ở phố, chợ, cổng căng. Truyền đơn có in cả chữ tiếng Pháp, tiếng Việt. Bọn địch ở đây phản ứng mạnh, ngầm mua chuộc một số người theo chúng làm chỉ điểm, tung bọn do thám trà trộn vào phố, chợ, bắt nhiều người chúng nghi ngờ đem về căng tra tấn, mua chuộc. Thôn Đại Liêu (Bung Đại) là trọng điểm săn lùng, có ngày chúng vây láp tới 6, 7 lần.


Tôi sống và làm việc nửa bí mật, nửa công khai, nhờ xã tổ chức được lực lượng truyền tin báo tin nên hễ ở căng, ở bốt có sự việc gì là sớm hôm sau tôi đã biết để đối phó.

Thời gian tôi ở Phúc Duyên, Thạch Khôi gần thị xã Hải Dương tuy khó khăn gian khổ nhưng ít nguy hiểm hơn là ở thị trấn Gia Lộc. Địch tổ chức càn quét vây ráp liên tục đêm ngày, nếu sơ hở là sa vào tay chúng, ở Hội Xuyên, Phương Điêm, Đại Liêu, chúng đều cài được bọn chỉ điểm, nhưng ít lâu sau Công an Việt Hùng đã trừ được chúng. Du kích xã Nghĩa Hưng, do đồng chí Nguyễn Hữu Bịch, xã đội phó phụ trách đã cải trang phục kích bắt sống 1 tên Tây trắng và 2 lính ngụy trên đường đi Thượng Cốc (sát sau huyện lỵ cũ). Từ đó trở đi, bọn ngụy chỉ điểm không còn dám xuống các thôn nữa.


Đầu năm 1951, chúng tôi tổ chức được mấy đợt đưa các bà, các chị lên đồn Phương Điếm gửi đơn xin cho chồng con hết hạn đi lính được trở về nhà làm ăn sinh sống. Vào các ngày lễ hoặc những ngày binh lính ở đồn, ở căng đi càn về mà có những tên bị thương là chúng tôi tổ chức các bà lên đồn thăm hỏi, khóc lóc, kể lể thảm thương, ở phố và chợ Cuối có tổ chị Nở, chị Liên; ở Phương Điếm có tổ cô Xoan, cô Thiều; ở làng Ngà tổ chị Mây, chị Mười; ở Chằm là tổ bà Bẩy. Ngoài ra còn có các anh Huấn, Mai, Man... Các anh, các chị vừa là người vận động tổ chức nhân dân, vừa là người cùng nhân dân thăm dò tin tức, làm quen với cai, đội lính trong đồn, trong căng để công tác địch vận khu vực thị trấn Gia Lộc đạt được kết quả.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 01 Tháng Mười Hai, 2022, 07:51:31 pm
ĐÁNH THẮNG MỘT ĐẠI ĐỘI ĐỊCH Ở CẢNG PHƯƠNG ĐIẾM ĐÊM 18/12/1951

Sau bức tường xây cao 3 mét trên bờ rào dây thép gai về phía Tây nam Chi khu quân sự Phương Điếm, giặc Pháp xây dựng một khu nhà gọi là Căng. Bề dài Căng theo bề dài bức tường với 2 dẫy nhà xây cao lợp ngói, ngăn thành từng buồng rộng, hẹp khác nhau, xung quanh có 2 hàng rào thép gai và hào sâu bảo vệ vững chắc. Gọi là Căng nhưng co thời gian nhân dân quanh vùng gọi là Trại con gái vì có lúc địch đưa gái điếm, gái nhảy về, nay lại có vợ con gia đình binh lính ở.


Căng Phương Điếm có nhiệm vụ cung cấp binh lính cùng với lính Âu Phi ở chi khu đi vây ráp càn quét quanh vùng. Mỗi khi bắt được cán bộ du kích hay người chúng tình nghi thì chúng tra khảo, đánh đập dã man... Nhiều gia đình quanh vùng đã nhờ người quen với cai binh đem tiền, đem lễ vật vào đút lót trong Căng để được tha về. Căng còn là nơi hội họp các xã ủy, hội tề; nhận trình diện về tề; cấp giấy đi lại trong huyện, trong tỉnh, Căng cũng là nơi trú ngụ của một số tên phản động, hội tề “sợ Việt Minh” trốn lên đây.


Căng Phương Điếm do một tên quan hai Pháp chỉ huy, tên sếp nhất Mạc Đăng Dung có vợ người Hoa ở một gian rộng 2 buồng, một gian để sếp Lịch hỏi cung tra tấn, Cai Hạnh trông nom gian giam giữ tù; với một đại đội lính ngụy, được tuyển lựa kỹ. Hai dãy nhà tạm giam để chờ xét xử hoặc dẫn giải lên trên. Căng có một cổng ra vào chính, 2 bốt gác ở 2 đầu. Vũ khí trong Căng có 3 trung liên, 6 tiểu liên và nhiều súng trường, lựu đạn. Trước cổng là con đường to rải đá rộng hơn 10 mét đi về phía tây gặp đường 192 xuống Đò Thưa, đi về phía đông là đường 17 vào phố Cuối, chợ Cuối... Bên kia đường là nhà của nhân dân bán hàng tạp hóa, hàng ăn uống, nhà trọ. Khu vực nhà dân đã tạo điều kiện cho hoạt động địch vận của chúng tôi. Gia đình các đồng chí Mai, Huấn, Man, Thiêu... ở đây làm nhiệm vụ dò la tin tức, làm quen với cai đội binh lính ra uống rượu, ăn quà. Anh Huấn đã làm quen thân được với Đội Đồng khi hắn ra ăn sáng, uống rượu nhà cô Duyên. Đội Đồng đã bộc lộ tâm tư của mình qua nhiều lần trò chuyện, ăn uống, tỏ thái độ hối lỗi khi mình buộc phải đăng lính... Sau khi nghe mọi người báo cáo, tôi quyết định gặp Đội Đồng ở một cơ sở do Huấn bố trí.


Đội Đồng tên là Hoàng Kim Đồng, quê ở Thanh Lâm, sát huyện lỵ Nam Sách (cũ) là gia đình nghèo, bị địch bắt từ năm 1948, đưa vào lính lên Cao Bằng. Sau chiến dịch biên giới, địch đưa về Đại đội Căng Phương Điếm. Do mắt thấy tai nghe cuộc chiến tranh phi nghĩa của Pháp và cảnh bắn giết đồng bào vô tội, Đội Đồng muốn trở về với kháng chiến, lập công chuộc tội. Đội Đồng đã làm quen với cô Duyên và xin cưới cô làm vợ.


Tôi giải thích cho Đồng về tính chất chính nghĩa cuộc kháng chiến của nhân dân ta, về chính sách khoan hồng của Chính phủ kháng chiến đối với những người trong hàng ngũ địch lập công chuộc tội trở về với nhân dân. Đồng tỏ ra ăn năn hối lỗi, xin làm theo lời chỉ dẫn của tôi. Tôi hướng dẫn kỹ cách tuyên truyền, thuyết phục anh em binh lính trong Căng giác ngộ trở về với kháng chiến. Đội Đồng hứa sẽ quyết tâm thực hiện. Tôi bố trí mỗi tuần gặp Đồng một lần để nghe báo cáo và hướng dẫn Đồng làm công tác vận động binh lính... Cho đến tháng 9/1951, tôi đã lần lượt gặp gỡ, giao việc thử thách để công nhận thêm 5 nhân mối nữa với Đồng là 6 người, gồm: Đồng, Thanh, An, Đoan, Dũng, Cửa.


Cuối năm 1951, Tiểu đoàn Quốc Tuấn, Tỉnh đội Hải Dương tiêu diệt cụm tề phản động Xuân Nẻo - Ô Mễ, huyện Gia Lộc tiến hành một đợt chiến đấu và địch vận, tổng phá tề, bức hàng và giải tán từng mảng bốt tề binh... Chiến dịch Hòa Bình của ta thắng lợi, một tiếng vang lớn làm cho binh lính khu vực Phương Điếm và một số nơi hoang mang dao động. Nhân đà chiến thắng này, Huyện ủy và Huyện đội Gia Lộc chủ trương tiêu diệt Căng Phương Điếm.


Cuối tháng 11/1951, tôi được Thường vụ Huyện ủy Gia Lộc báo về họp. Dự họp có các đồng chí Bùi Quang Thu, Bí thư Huyện ủy; Mậu Tàn, Phó Bí thư Huyện ủy, Chính trị viên Huyện đội; Nguyễn Văn Trược, Ủy viên Thường vụ, Huyện đội trưởng; Nguyễn Văn Phác, Tỉnh đội trưởng và mấy anh ở Tỉnh đội cùng về dự... Đồng chí Bùi Quang Thu giới thiệu tôi báo cáo tình hình địch và nhân mối trong Căng. Hội nghị nêu lên hai phương án chiến đấu để thảo luận:

1/ Dùng lực lượng quân sự cắt hàng rào rồi đánh thẳng vào các buồng ngủ của những tên chỉ huy, nhân mối hướng dẫn, buộc binh lính đầu hàng.   

2/ Đánh Căng bằng lực lượng nhân mối: Nhân mối có nhiệm vụ đưa bộ đội ta vào trong, trừ khử những tên chỉ huy trước, bức binh lính đầu hàng không phải nổ súng.

Đồng chí Phác, Tỉnh đội trưởng, nhất trí sử dụng cách; đánh thứ hai và nêu ý kiến phải hành động thật bí mật, mau lẹ, không để bên chi khu Phương Điếm biết đánh trả lại ta...

Hội nghị thảo luận đi đến nhất trí, trao cho tôi về gặp nhân mối để lên kế hoạch thật cụ thể. Sau đó Thường vụ Huyện ủy giao cho đồng chí Nguyễn Văn Trược, Huyện đội trưởng, cùng với tôi bố trí bộ đội Tây Sơn của Gia Lộc để sẵn sàng làm nhiệm vụ.


Tôi trở về Đại Liêu sau hai lần gặp Đội Đồng để thông báo chủ trương của ta và bàn với Đồng kế hoạch cụ thể để thực hiện cách đánh. Đội Đồng phấn khởi hứa quyết tâm thực hiện và nhất trí với tôi cách đánh Căng vào đêm 18/12/1951.


Tôi bàn bạc và giao nhiệm vụ cụ thể cho Đội Đồng rồi cùng anh Trược, Huyện đội trưởng, về huyện thông qua kế hoạch xin đánh Căng vào đêm 18/12/1951.

10 giờ tối ngày 18/12/1951, Đại đội Tây Sơn tập kết ở Đại Liêu. 12 giờ đêm, các bộ phận xuất phát. Chúng tôi không sử dụng du kích mà chỉ có các đồng chí Huấn, Mai, Man đi với tôi, do anh Huấn dẫn đường tiến về phía cãng. Đêm về khuya, trời trở rét, đèn điện ở trên tường bốt gác vẫn sáng. Bọn lính gác trên lô cốt Chi khu thỉnh thoảng vẫn lia đèn pha soi mói. Nhưng chúng tôi vẫn vào cổng chính theo ám hiệu của nhân mối... Đội Đồng cho biết tên Pháp chỉ huy đi Hải Dương chưa về, các tổ bộ đội theo từng nhân mối vào các vị trí chiến đấu của mình... Tiếng Đội Đồng vừa gọi vừa đập cửa buồng: “Ông Dung ơi! Dậy đi! Bên đồn có lệnh điểm quân! Ông Liêu! Ông Hạnh ơi! dậy! dậy đi! Bên đồn có lệnh báo. Mời các ông dậy mau cho”. Tiếng gọi của Đội Đồng nhỏ nhưng rõ ràng, không làm ồn ào. Tôi và Huấn, Man, Mai, đi theo Đồng sang dãy nhà lính: “Tất cả anh em dậy mau! Tập hợp để nhận lệnh bên đồn!”. “Gần 100 người gồm binh lính và số gia đình vợ con họ ra sân thì bộ đội Tây Sơn đã quây kín. Họ ngơ ngác, còn binh lính không tên nào dám phản ứng. Vợ chồng sếp Dung, đội Lịch, cai Hạnh cũng đã bị anh em giải ra sân rồi. Đội Đồng nói cho binh lính và mọi người biết bộ đội Cụ Hồ đã đột nhập vào Căng, tất cả anh em hãy trở về với kháng chiến, với gia đình vợ con, trước mắt hãy bình tĩnh đi theo bộ đội ra vùng tự do, không ai được gây tiếng động, ồn ào, nếu ai manh động sẽ dẫn thân vào tội ác... Gần 100 người lặng lẽ ra khỏi Căng đi theo bộ đội ra vùng kháng chiến.


Toàn bộ vũ khí, đạn dược trong Căng ta thu hết. Các đồng chí Huấn, Mai, Man tìm được 3 đôi quang gánh, thu toàn bộ các giấy tờ sổ sách và một số đồ dùng văn phòng của sếp Dung, đội Liêu gánh hết ra vùng tự do...


Trận đánh Căng Phương Điếm của quân ta diễn ra rất êm. Mãi sáng hôm sau (19/12) bọn Pháp ở chi khu quân sự Phương Điếm mới biết bọn quân quan của chúng ở Căng đã bị Việt Minh đánh bại.

Anh em nhân mối ở Căng Phương Điếm được chính quyền huyện Gia Lộc cấp giấy chứng nhận trở về quê cũ. Vợ chồng Đội Đồng làm ăn buôn bán ở Bùi Hòa - Ninh Giang một thời gian, sau đó xin vào bộ đội Tây Sơn. Hòa bình lập lại ở miền Bấc thì phục viên về quê làm ăn (gia đình Đội Đồng ở khu Hoàng Hanh, thị trấn Nam Sách - Hải Dương).


Năm 1952, tôi được Tỉnh đội Hải Dương cử đi dự Đại hội chiến sĩ thi đua toàn quân. Từ đại hội này, tôi được bầu đi dự Đại hội chiến sĩ thi đua toàn quốc lần thứ nhất họp ở chiến khu Việt Bắc, được Hồ Chủ tịch tặng danh hiệu “Chiến sĩ thi đua toàn quốc”, được thường Huân chương Chiến công hạng Nhất.


Sau đại hội, tôi được điều về làm công tác địch vận ở khu vực Đông Triều rồi chuyển về Tỉnh đội Quảng Yên. Năm 1956, tôi được chuyển ngành về nhà máy cá hộp Hải Phòng công tác cho đến khi về hưu. Hiện nay, tôi sinh sống với gia đình, chồng con, các cháu ở khu tập thể Hải quân, thành phố Hồ Chí Minh.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 01 Tháng Mười Hai, 2022, 07:52:36 pm
NGƯỜI CON GÁI QUANG VINH


NGUYỄN VĂN CẤP
(Nguyên Chi ủy viên,
xã đội phó xã Nam Tân)


Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, ở xã Nam Tân huyện Nam Sách đã xuất hiện gương chiến đấu bền bỉ kiên cường của một nữ du kích người thôn Long Động. Đó là đồng chí Mạc Thị Bưởi.

Mạc Thi Bưởi sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh gia đình túng bấn, làm thuê làm mướn. Cha mất sớm, mẹ Chanh dìu dắt Bưởi mò cua bắt ốc sống qua ngày và đã được Cách mạng Tháng Tám đổi đời. Bưởi hoạt động trong giới phụ nữ, vào du kích, làm liên lạc cho xã... Trong những ngày đầu của cuộc chiến đấu, bà Chanh và cô Bưởi đêm đêm lần mò đặt cơm tiếp tế, đặt giây báo tin ở nhiều địa điểm bí mật cho xã, cho anh em du kích. Lúc đầu sống công khai hợp pháp, Bưởi tổ chức đường dây báo động từ xóm ngõ, từng cánh đồng, đường đi do các bà làm đồng, các gia đình ven đường thực hiện nên đã giúp cho cán bộ thoát nhiều cuộc vây ráp của địch. Được đứng trong hàng ngũ của Đảng, Mạc Thi Bưởi đã phát huy mọi khả năng sẵn có của mình mà hoạt động. Vốn hoạt bát, chị đã làm quen với nhiều vợ con binh lính ở Trung Hà, Linh Xá để lấy tin, phá nhiều đợt vây ráp của địch. Bưởi đi mò cua bắt cá đưa vào bán rẻ ở khu gia binh nên nhiều tin càn quét quanh vùng đã được mật báo... Bưởi tổ chức được đường dây mang rải truyền đơn ở Linh Xá, Trung Hà, Bến Bình gây dư luận xôn xao, hoang mang trong binh lính địch. Năm 1949 - 1950, không rõ hoạt động của Mạc Thị Bưởi đã có tác động thế nào mà ở Trung Hà có cụ Lệ nghèo khó chỉ đơm đó bắt cua, cá sinh nhai quanh khu đê bối, ao, ruộng, từ Trung Hà sang Long Động... tối mịt một mình đi đặt đó, đặt đơm, gà gáy lại lần mò đi nhấc đó, miệng nói lầm rầm điều gì đó. Bọn địch biết cụ đi đơm đó nên không để ý, nhưng đã nhiều lần cụ lầm rầm to nhỏ để người gặp biết ngay: “Chúng nó càn đấy... Chúng nó càn đấy!” mà nhiều lần địch vây ráp, ta đều tránh được là nhờ đường dây báo động của Bưởi, kể cả số lần địch vây ráp ban đêm... Năm 1950, địch khủng bố vây ráp mạnh đến nỗi Trần Văn Khỏa, bí thư thanh niên, đã chạy vào Linh Xá rồi đưa quân về chỉ hầm đồng chí San, xã đội trưởng; sau đó chỉ hầm của đồng chí Trần Văn Nhiễm. Nhiễm đội nắp hầm lên dùng dao găm đâm chết tên lính Trung Hà và chạy thoát. Tên Khỏa đã khai báo ra Mạc Thị Bưởi nên tên Cầu, đồn trưởng Trung Ha, mấy lần váy ráp mà không bất được Bưởi.


Đầu năm 1951, chiến dịch đường 18 (Chí Linh - Quảng Yên) bắt đầu. Mạc Thị Bưởi cùng Ban chấp hành Phụ nữ xã vận động nhân dân quyên góp đường sữa gửi ra chiến trường, tổ chức đưa thanh niên dân công lên dường phục vụ chiến dịch. Tối 18 tháng 4 năm 1951, sau khi tổ chức hướng dẫn đoàn dân công lên đường phục vụ, Mạc Thị Bưởi về nhà bà cụ Mẫn, một cơ sở của ủy ban, xã đội để cùng các đồng chí Tương, Tung chuẩn bị lên đường sang Chí Linh dự lớp học đào tạo Huyện ủy Viên do Tỉnh ủy Quảng Yên triệu tập, thì địch bất ngờ đến quây ráp. Ba người cùng lẩn tránh khỏi nhà để ẩn hầm. Các đồng chí Tương, Tung ẩn hầm nhà ông Viên, Bưởi không thể chạy để ẩn hầm khác, đành quay trở lại ẩn hầm ở giữa 2 đống rạ ngoài vườn do bà cụ Mẫn phụ trách. Địch lùng sục nhà ông Viên không tìm được hầm. Không may tối hôm đó tên Khỏa dẫn đường, khi sang nhà cụ Mẫn, nó đã chỉ đúng hầm giữa 2 đống rạ. Tên Câu đồn trưởng Trung Hà reo to mừng rỡ: “Bắt được Việt Minh đầu sỏ”. Chúng lập tức xông vào đánh đập túi bụi bắt Bưởi chỉ hầm, khai báo nơi cất giấu vũ khí. Tên Câu khét tiếng gian ác thấy Bưởi đẹp người, lòng lang dạ thú của Câu nổi dậy, y ngon ngọt dỗ dành: “Tội gì khổ cả đời người! Anh sẽ nhận em làm vợ, cứ khai ra, mọi việc anh gánh vác! Em sẽ có cuộc đời sung sướng”. Mạc Thị Bưởi đã nhổ nước bọt vào mặt y... Câu nổi khùng bắt bọn lính trói Mạc Thị Bưởi ngồi trên hè, đưa hòm điện đến tra tấn rất dã man... nhưng chúng cũng không moi được tin tức gì. 10 giờ đêm chúng dẫn Mạc Thị Bưởi về bốt Trung Hà. Mấy ngày sau, chúng tung tin là Mạc Thị Bưởi đã khai báo các cơ sở Nam Tân, sẽ đưa lính về chỉ bắt. Mấy ngày đó, Chi ủy, xã đội Nam Tân họp bàn cách đối phó, cách thay đổi chỗ ở, giải thích để nhân dân yên lòng là “Mạc Thị Bưởi không phản lại nhân dân”.


Thực ra từ tối ngày 18-4-1951, địch đưa chị về Trung Hà giam giữ, chúng dùng mọi thủ đoạn dụ dỗ phỉnh phờ để khuất phục, nhưng đều thất bại. Chúng mời ăn uống cao sang, tìm cách thay nhau hãm hiếp dã man chị Bưởi, rồi tiếp tục cực hình tra tấn làm chị chết đi, sống lại. Mạc Thị Bưởi biết rõ luận điệu xảo quyệt của địch, đồng thời biết mình khó sống với đòn tra tấn dã man của chúng. Để vạch trần thủ đoạn gian ác của đội Câu và để yên lòng đồng chí, đồng đội và nhân dân xã Nam Tân thân thương, Mạc Thị Bưởi đánh lừa địch đưa về thôn Đột Trên nhà bà cụ Mẫn vào một buổi trưa se lạnh tháng 3 âm lịch. Hơn 30 lính ngụy súng ống đầy người do tên Câu dẫn đầu, dìu cô Bưởi bước đi từng bước. Đến ngã ba đầu cầu ao nhà bà cụ Mẫn, chúng dừng lại. Dân làng biết tin, một số các bà, các ông kéo đến. Cô Bưởi, mặt mũi sưng húp tím bầm, chỉ còn đôi mắt đen sáng. Tên Câu quát hỏi: “Mày bảo súng vất ở ao đâu?”. Bưởi hất hàm: “Vất đấy!”. Hồi ấy ao trước nhà bà cụ Mẫn cạn nước, Câu cho 10 tên lính lôi ông Chuyên, ông Tân (lúc này 2 ông 50 tuổi, nay đã mất) cởi quần áo xuống mò. Gần tiếng đồng hồ sau, ông Chuyên, ông Tân quá rét, môi đã thâm, phải nhảy lên bờ: “Chúng tôi không thấy gì cả, để các ông lính mò”, rồi vơ quần áo chạy vào nhà. Một lúc sau, 10 tên lính cùng nhảy lên bờ. Tên Câu bẽ mặt trước dân làng, nó nổi khùng xông vào trước mặt Bưởi quát: “Mày có chỉ hầm Việt Minh không?”. - “Tao đã nói rồi”! - Tên Câu túm tóc Bưởi lôi đến mé cầu ao, hầm hầm ra lệnh: “Xin tiết!...”. Nó lồng lộn lên, bắt mấy tến lính sang nhà bà Dự lấy cái xanh đồng có quai đem về mé cầu ao... Lúc này dân làng chạy hết. Bà Trung kể rằng vì mắc con mọn nên bế cháu chạy sang nhà bà Dự, thấy tên Câu quát nạt, nghe tiếng chị Bưởi chửi lại tên Câu, tiếng vật lộn huỳnh huỵch rồi tiếng hô ngắt quãng: “Đảng... muôn năm..., Bác Hồ muôn năm...” rồi tắt lịm, Được một lúc chúng châm lửa đốt mấy khu nhà bà cụ Mẫn, nhà cô Trung, nhà ông Hồ, nhà anh Giới... lửa bốc ngút trời. Tên Câu đưa, quân rút khỏi Đột Trên, để lại tội ác tầy trời trên bờ ao bà cụ Mẫn. Mạc Thị Bưởi đã đi vào cõi vĩnh hằng!


Bọn giặc vừa ra khỏi Đột Trên, những người còn ở lại đổ xô nhau đến cứu chữa đám cháy nhưng chẳng còn gì. Các ông Bùi Văn Đán, Bùi Văn Tẳng lội xuống mé bờ ao đang loang máu vớt xác Mạc Thị Bưởi lên bờ. Nhân dân đã mang vải trắng để quấn vết thương cứa gần đứt cổ, chải tóc cho Bưởi, bọc Bưởi trong một tấm chăn mới đặt trên tấm chiếu mới ngay cạnh bờ ao nền gạch bên bụi tre. Một bát cơm quả trứng, đôi đũa tre mới vót đã được trịnh trọng đặt bên bát hương khói bay nghi ngút. Suốt đêm hôm đó, trời quang mây tạnh, khói hương không tắt trước linh hồn người con gái quang vinh của dân làng. Sáng hôm sau, gia đình đồng chí Mạc Thị Bưởi và bà con ở Long Động lên Đột Trên võng Bưởi về an táng.


Sau khi đồng chí Mạc Thị Bưởi bị tên Khỏa chỉ điểm cho tên Câu đồn trưởng Trung Hà bắt và giết, một làn sóng căm thù quân bán nước lan tràn khắp xóm thôn. Ai ai cũng tiếc thương Mạc Thị Bưởi, ai ai cũng mong muốn được trả thù cho cô. Lòng mong muốn của nhân dân Nam Tân đã được đáp ứng. Vào ngày rầm tháng 8 âm lịch năm 1951, tên chỉ điểm Khỏa đã bị bắt và bị tiêu diệt ở chùa thôn Đột Dưới. Đầu năm 1953, một trận phục kích ở vùng Linh Xá, bộ đội ta đã bắt sống tên Câu và buộc y phải đền tội ác...


Sự việc diễn ra đã được 50 năm. Tôi ở tuổi ngoài 80, là lớp người chiến đấu cùng thời với Mạc Thị Bưởi, cùng người Long Động xã Nam Tân, ghi lại những dòng kỷ niệm trên đây.

Tôi nghiệm ra rằng: Trong những năm tháng chống quân xâm lược Pháp ở giai đoạn gay go ác liệt nhất, lại càng thấy rõ nhất tinh thần dũng cảm, đức tính hy sinh, hành động anh hùng của cán bộ, đảng viên, của nhân dân mình trước khó khăn nguy hiểm, trước mun mô xảo quyệt, trước súng đạn, trước đòn thù tra tấn dã man của địch.


Mạc Thị Bưởi, người con gái quang vinh của Chi bộ và nhân dân xã Nam Tân, đã thể hiện đầy đủ nhất những đức tính cao cả của người đảng viên trong thời kỳ đó.

Ngay sau khi miền Bắc hoàn toàn giải phóng, cảm khái trước gương chiến đấu của nữ liệt sĩ Mạc Thị Bưởi, Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, đã viết bài thơ ca ngợi chị với bút danh là C.B. đăng trên báo Nhân dân số ra ngày 21 tháng 4 năm 1955, sau đó được in trong Hồ Chí Minh toàn tập (tập vn, trang 221) do Nhà xuất bản Sự Thật ấn hành.


Ngày 2-9-1955, người đảng viên quang vinh Mạc Thị Bưởi của xã Nam Tân đã được Hội đồng Chính phủ truy tặng danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân” và Huân chương Quân công hạng Nhì. Một tượng đài Nữ anh hùng liệt sĩ Mạc Thị Bưởi đã được dựng lên tại Quảng trường huyện Nam Thanh (Nam Sách, Thanh Hà) cạnh đường số 5 - con đường anh hùng lộng gió.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 01 Tháng Mười Hai, 2022, 07:53:05 pm
BÀI THƠ CA NGỢI NỮ ANH HÙNG MẠC THỊ BƯỞI


C.B.

   Người Long Động, tỉnh Quảng Yên1 (Thời gian đó Nam Sách thuộc tỉnh Quảng Yên)
   Hai mươi bốn tuổi, tính hiền và ngoan
   Từ ngày giặc đánh vào làng
   Chị đánh du kích, to gan anh hùng
   Việc gì chị cũng xung phong
   Khiến cho đồng đội cũng hăng thêm nhiều
   Chiến tranh càng khó bao nhiêu
   Tinh thẩn càng vững, càng nhiều chiến công
   Khi đánh giặc, khi giao thông
   Tuyên truyền, tổ chức, chị không ngại nề
   Một hôm, khai hội ra về
   Chẳng may địch bắt, không hề khai ra
   Chúng dùng đủ cách khảo tra
   Rồi cho lính hiếp suốt ba, bốn tuần
   Chém cha lũ giặc bất nhân
   Chúng toan bắn chị ở chân ngôi đình
   Nghĩ mình tuy chết đã đành
   Còn tài liệu Đảng giấu quanh mái nhà
   Chị bèn một chước, bước ra
   Xin về lấy súng đặng mà báo tin
   Đến làng, gặp một người quen
   Thừa cơ chị đã đưa tin rõ ràng
   Rồi quay mặt lại đường hoàng
   Chửi vào mặt giặc, giặc càng căm gan
   Chúng bèn đạp chị ngã lăn
   Đứa dao khoét vú, đứa chân dẫm đầu
   Đứa thì tay đỡ chậu thau
   Đứa thì mổ chị từ đầu đến chân
   Chị luôn giữ vững tinh thần
   Hô to khẩu hiệu, chửi quân bạo tàn
   Vì lòng yêu nước nồng nàn
   Nêu gương oanh liệt muôn vàn đời sau...


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 01 Tháng Mười Hai, 2022, 07:53:46 pm
TIỂU ĐỘI HIỆP SƠN TRÊN TRẬN ĐỊA ĐÒ NỐNG


LÊ ĐỈNH VƯƠNG


Những ngày đầu kháng chiến chống Pháp, huyện Kinh Môn được giao nhiệm vụ tổ chức đánh địch hành quân bằng đường thủy trên sông Kinh Môn, phá vỡ âm mưu của quân đội Pháp tập trung lực lượng lớn ở Hải Phòng, thần tốc giải tỏa thị xã Hải Dương tiến về Hà Nội.


Phòng tuyến chiến đấu của huyện Kinh Môn dài khoảng 10 km từ Đò Nống đến Tuần Mây. Lực lượng tham gia chiến đấu gồm Hải đội Ký Con, một Đại đội Vệ quốc đoàn hai đại đội địa phương (một của tỉnh, một của huyện).


Đò Nống cách phủ lỵ Kinh Môn chừng 3 km và cách thành phố Hải Phòng 17 km. Địa hình ở đây trống trải, xa làng mạc, mục tiêu dễ bị phát hiện, đường rút quân không thuận lợi. Khi đó, Đò Nống vừa là trận địa đầu cầu, vừa là vị trí tiền tiêu ở phía đông phòng tuyến. Do đó, đơn vị tham gia chiến đấu tại Đò Nống phải có ý chí và khả năng tác chiến rất cao. Sau khi cân nhắc, Huyện ủy Kinh Môn nhất trí với đề xuất của ban chỉ huy Huyện đội, điều tiểu đội tự vệ xã Hiệp Sơn về đây làm nhiệm vụ.


Tiểu đội tự vệ Hiệp Sơn là đơn vị mạnh được tổ chức chặt chẽ, huấn luyện chu đáo và được trang bị vũ khí tương đối tốt. Cán bộ, chiến sĩ đều là những thanh niên hăng hái, xuất thân từ lao động, căm thù bọn thực dân, phong kiến. Tuy mỗi người có hoàn cảnh khác nhau, song tất cả đều chung chí hướng, mong ngày giết giặc lập công, đáp lại lời kêu gọi thiêng liêng của Hồ Chủ tịch.


Dưới sự chỉ huy của tiểu đội trưởng Vũ Văn Tóa, tiểu đội phó Phạm Văn Soi, chiến sĩ nai nịt gọn gàng, hành quân cấp tốc về vị trí. Họ chưa hình dung nổi cuộc chiến đấu sẽ ra sao cách đánh địch thế nào, nhưng trong đôi mắt họ ánh lên niềm tin sắt đá.


Theo thông báo của Bộ chỉ huy mặt trận, ngày 19-12-1946 ở thị xã Hải Dương tất cả các vị trí của địch đều bị tấn công. Ta làm chủ cầu Phú Lương, uy hiếp, bao vây sở chỉ huy địch ở Nhà máy Chai. Quân Pháp ở Hải Phòng đang gấp rút viện binh bằng cả đường bộ, đường thủy, đường không cho Hải Dương, Hà Nội. Bộ chỉ huy mặt trận Hải Dương ra mệnh lệnh cho tất cả các lực lượng tham gia chiến đấu dọc tuyến đường 5 sẵn sàng tiêu diệt địch.


Rạng sáng ngày 21-12. Dòng sông hoang vắng. Trời rét đậm, gió ù ù thổi. Bỗng mọi người nghe rõ tiếng động cơ. Từ phía hạ lưu, 2 chiếc ca nô và một chiếc tàu chiến từ từ xuất hiện, mỗi chiếc cách nhau chừng 100 m dẫn xác vào trận tuyến. Chiếc tàu chiến đi sau lừng lững như một con quái vật. Khẩu đại bác trên boong dữ tợn. Lần đầu tiên đối mặt với tàu chiến giặc, nhưng cán bộ, chiến sĩ ta chẳng ai sợ hãi. Chiêc ca nô thứ nhât đến gần, mấy anh em sốt ruột đòi nổ súng. Tiểu đội trưởng Vũ Văn Tóa yêu cầu chấp hành nghiêm mệnh lệnh, để chúng vào sâu, cùng các đơn vị bạn thực hiện dướị đánh lên, trên đánh xuống. Bất ngờ bọn lính trên tàu nổ súng vào trận địa ta. Lập tức tiểu đội trưởng Vũ Văn Tóa hạ lệnh bắn trả. Đạn bay vun vút, đập vào mạn tàu chát chúa. Mấy thằng lố nhố trên khoang chạy ào tránh đạn. Ta không ngớt bắn về phía địch. Nhưng phát hiện thấy lực lượng ta nhỏ bé lại chỉ có vũ khí thông thường, bọn chỉ huy ra lệnh cho 2 chiếc ca nô quay trở lại đánh vào sườn bên phải đội hình tiểu đội. Cuộc chiến đấu vô cùng ác liệt. Lợi dụng ưu thế tuyệt đối về hỏa lực, địch bắn như vãi đạn. Một số đồng chí bị thương nặng. Tưởng chừng nuốt sống ăn tươi, bọn địch cho 2 chiếc ca nô áp sát bờ thực hiện âm mưu đổ bộ. Lòng căm thù giặc sôi lên, tất cả tiểu đội thề chiến đấu đến cùng, nhất định không đầu hàng địch. Trước sự đánh trả quyết liệt của ta, bọn chúng hoảng sợ không dám xông lên.


Chiến sĩ Phan Văn Đứng chạy như bay về sở chỉ huy xin ý kiến. Đồng chí Huyện đội trưởng hạ lệnh cho số anh em còn lại bí mật rút lui bảo toàn lực lượng.

Noi gương chiến đấu của tiểu đội Hiệp Sơn, tiêu biểu là các đồng chí Vũ Văn Tóa, Phạm Văn Soi, Trần Văn Tống, Nguyễn Văn Chúng, Phạm Văn Chuẩn, Nguyễn Văn Chúc các trận địa Mỹ Động, Ngự Uyên, Thượng Quân, Tuần Mây, các đơn vị bộ đội, dân quân, tự vệ dũng mãnh tấn công, ngăn cản bước tiến, bắn bị thương tàu chiến giặc, nhiều binh lính sĩ quan Pháp phải đền mạng. Đoàn tàu chiến, ca nô của chúng mãi chiều 23-12 mới vượt được chặng đường hơn 40 km về tới thị xã Hải Dương. Đó là thành tích của quân và dân huyện Kinh Môn, quân và dân tỉnh Hải Dương từ những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 01 Tháng Mười Hai, 2022, 07:55:12 pm
C - QUẢNG NINH

TIỂU ĐOÀN BẠCH ĐẰNG TIẾN QUÂN VÀO VÙNG ĐỊCH HẬU


TRỊNH NGUYÊN
(Nguyên Bí thư Tỉnh ủy,
Chính trị viên Tỉnh đội Quảng Yên)


Tháng 4 năm 1951, sau chiến dịch đường 18, giặc Pháp lo ngại cho phòng tuyến bảo vệ thành phố Hải Phòng và đường 5 nên tăng cường lực lượng, liên tục càn quét bình định các huyện tạm bị chiếm của tỉnh Quảng Yên (cũ) trọng tâm là Nam Sách, Kinh Môn, Chí Linh và Đông Triều – địa bàn nằm giữa hai con đường chiến lược số 5 và số 18.


Chúng xây dựng, củng cố đồn bốt, lập vành đai trắng, dồn dân, chia cắt vùng căn cứ rìmg núi với đồng bằng, ven biển của tỉnh hòng cỏ lập vùng bị tạm chiếm; khủng bố dã man nhân dân để bắt lính, bắt phu, vơ vét của cải, hãm hiếp phụ nữ, tiêu diệt cơ sở kháng chiến. Trong tình thế lúc bấy giờ, phong trào nhiều nơi hầu như tan rã; lực lượng quân sự và cán bộ cơ sở phải bật ra vùng tự do và ở các khu căn cứ du kích.


Tháng 6 năm 1951, Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Yên lần thứ tư họp tại Bãi Đá (Sơn Động) nêu quyết tâm đẩy mạnh chiến tranh nhân dân, giành thế chủ động trên chiến trường. Những vấn đề cấp bách được đề ra: về tư tường, xác định rõ ''chịu đựng gian khổ kháng chiến lâu dài”, đảng viên gương mẫu đi đầu về cơ sở địch hậu "bám đất bám dân"', lấy hoạt động quân sự trước hết và trên hết làm hậu thuẫn bảo vệ cơ sở và phát triển lực lượng. Tiểu đoàn Bạch Đằng chủ lực của tỉnh có kế hoạch vào vùng tạm chiêm hoạt động làm chỗ dựa cho phong trào dân quân du kích, phát động cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện. Các đảng viên ở xã, 100% phải là dân quân du kích. Các bí thư chi bộ xã, huyện nhất thiết phải là các chính trị viên xã đội, huyện đội, tỉnh đội. Xây dựng hệ thống công tác địch vận từ xã đến tỉnh. Các phong trào quần chúng của các đoàn thể thanh niên, phụ nữ, thiếu niên, nông dân, phụ lão hướng vào mục tiêu ”Tất cả cho tiền tuyến, tất cả cho chiến thắng”. Phát động thi đua "giết giặc lập công" trong tỉnh, hình thành thế trận “chiến tranh nhân dân" rộng khắp. Những cuộc họp "Quân dân chính Đảng" ở các địa phương, các cấp bày mưu, hiến kế “đánh giặc, lập công". Công tác địch vận trở thành phong trào của quần chúng gây nhân bắt mối ở các đồn bốt địch. Tỉnh mở các đợt hoạt động quân sự phá âm mưu địch giành thế chủ động chiến trường như: "Chặt đường 18" - phá vòng vây địch - "thông đường liên lạc giữa vùng tự do và vùng tạm chiếm" - xây dựng khu căn cứ Nhị Chiểu (Kinh Môn) đồng thời mở rộng các khu du kích trong lòng địch. Xây dựng lực lượng dự bị để bộ đội, du kích luôn đảm bảo quân số, liên tục chiến đấu và trưởng thành.


Cuối năm 1951, lợi dụng thời gian địch tiến đánh tỉnh Hòa Bình, để sơ hở chiến trường đồng bằng, ta đẩy mạnh chiến tranh du kích ở các huyện.

Bộ tư lệnh Quân khu Việt Bắc chỉ thị cho Quảng Yên đưa tiểu đoàn chủ lực tỉnh vào hoạt động sâu trong các huyện địch hậu Nam Sách, Kinh Môn uy hiếp đường số 5. Nhiệm vụ trên giao là sự cổ vũ cho Tiểu đoàn Bạch Đằng và tinh thần chiến đấu chung của quân dân Quảng Yên lúc bấy giờ, nhất là đại đội địa phương Nam Sách. Tuy nhiên, cũng là mối lo lắng, quan tâm của Tỉnh đội vì Nam Sách bị chiếm đóng ngay từ ngày đầu kháng chiến, bốn bề bao bọc bởi sông to và đường 5. Muốn đỡ thiệt hại, cần có một kế hoạch cho tiểu đoàn kết hợp chặt chẽ với lực lượng huyện tác chiến linh hoạt, kết hợp giữa phân tán và tập trung, đánh nhanh rút nhanh, dựa vào dân, bảo toàn lực lượng.


Ngày 2/2/1952, trong lúc nhân dân đang chuẩn bị đón Tết Nguyên đán Nhâm Thìn, hai Đại đội 910 và 908 của Tiểu đoàn Bạch Đằng được lệnh rời vùng du kích Kinh Mồn, Đông Triều, Chí Linh vượt sông Kinh Thầy tiến vào Nam Sách. Tỉnh đội cử đồng chí Nguyễn Hữu, Tham mưu phó, đi với tiểu đoàn và trực tiếp chỉ huy Đại đội 908 cùng với chính trị viên đại đội Vũ Bằng. Các đơn vị được liên lạc địa phương dẫn đường áp sát các cứ điểm địch, chờ lệnh đồng loạt nổ súng. Bộ đội ta dũng mãnh tiến công trong tiếng bộc phá ầm vang, kết hợp tiếng loa địch vận... Trong một đêm, ta tiêu diệt một số đồn bảo an và 10 tháp canh; lực lượng nhân dân nổi dậy phá 20 tháp canh khác. Bọn địch ở các vị trí hoang mang không dám đối phó. Và chỉ ít ngày sau, gần 50 tháp canh ở Nam Sách đã bị phá trụi1 (Tổng kết lịch sử chiến tranh của tỉnh Quảng Yên cũ, xuất bản năm 1964, trang 158), ở Kinh Môn thì không còn một tháp canh nào nối liền với khu Nhị Chiểu2 (Tổng kết lịch sử chiến tranh của tỉnh Quảng Yên cũ, xuất bản năm 1964, trang 158).


Ngày 3/2/1952, Đại đội 910 rút về bên sông, còn Đại đội 908 tiếp tục ở lại hoạt động. Địch tăng cường quân cơ động đến càn thôn Tạ Xá (nơi ta đóng quân). Trước lực lượng địch đông, mạnh hơn gấp bội về quân số và hỏa lực, Đại đội 908 chiến đấu dũng cảm suốt ngày, giữ vững trận địa. Địch phải lui quân và dùng pháo binh bắn vào trận địa ta rất ác liệt. Một số cán bộ, chiến sĩ ta trúng đạn hy sinh, trong đó có tham mưu phó Nguyễn Hữu và chính trị viên Vũ Bằng. (Chính trị viên Vũ Bằng quê ở Đông Triều có người yêu là cô Tiến cùng quê, là một nữ du kích, gia đình đôi bên đã chuẩn bị đám cưới cho hai người. Tôi đã bàn xin gia đình để lui lại tổ chức đám cưới sau. Nào ngờ, sau một trận chiến đấu ác liệt, một loạt đạn pháo vô tình đã vĩnh viễn cướp đi hai đồng chí Nguyễn Hữu và Vũ Bằng,để lại nỗi đau không gì bù đắp cho hai người phụ nữ ngóng chờ người yêu không ngày trở lại).


Đại đội 908 sau này do đại đội trưởng Nguyền Thanh Toàn và quyền Chính trị viên Trần Minh Thái chỉ huy chuyển quân sang đóng ở thôn Đột Lĩnh. Ngày 4/2/1952, địch đưa hàng nghìn quân đến bao vây, cuộc chiến chống càn ác liêt tiếp diễn suốt một ngày. Thế trận chiến tranh nhân dân trước quân xâm lược diễn ra ác liệt, hào hùng. Dưới làn hom đạn của phi pháo địch, dân công phục vụ chiến trường, các mẹ, các chị chăm sóc thương binh, tiếp tế cơm nước kết hợp với tiếng loa địch vận... Địch xung phong nhiều đợt không vào được làng, chiều tối chúng phải rút quân đi với hơn 100 tên chết và bị thương. Đại đội 908 đã mở đầu truyền thống chiến đấu chống càn quét của địch ở đồng bằng vùng tạm bị chiếm huyện Nam Sách, Quảng Yên.


Từ đó, Tiểu đoàn Bạch Đằng và các đại đội huyện cùng dân quân du kích liên tiếp chống càn thắng lợi, mở rộng các khư du kích thành vùng du kích liên hoàn, xây dựng hành lang giao thông để các lực lượng trong tỉnh từ vùng căn cứ qua lại đường 18 vào vùng tạm bị chiếm, đẩy mạnh phong trào đấu tranh chống địch đồng thời tạo điều kiện tiêu diệt sinh lực địch. Căn cứ trung tâm trong địch hậu là khu Nhị Chiểu đồng thời là đầu não kháng chiến của huyện Kinh Môn được củng cố, làm bàn đạp đánh rộng ra khu ngoài vượt qua dãy núi An Phụ cùng với huyện Nam Sách hoạt động sát đường 5.


Tháng 2 năm 1952, Tiểu đoàn Bạch Đằng cùng Đại đội 921 tiêu diệt bốt Vạn Tải Thiên Khê trên đường số 5B; các xã Minh Tân, Thượng Đạt và các xã vùng Tây Nam Sách tổng phá tề... Địch phản ứng điên cuồng, đưa hàng tiểu đoàn quân cơ động có cả xe tăng rải trên đê sông Thái Bình từ Ngã ba bến Hàn đến xã Minh Tân. Nhưng chúng đã bị tiểu đoàn chủ lực tỉnh và Đại đội 921 Nam Sách phục kích đánh ở thôn Đoàn Kết (vốn là đồn điền Đờ Mông Ba Da cũ), tiêu diệt nhiều tên, bắt sống 30 tên, số còn lại ta đánh đuổi lên cánh đồng Mạc Xá, Uông Hạ và bị bọn trên đê sông Thái Bình bắn lầm nằm chết nhiều ở cánh đồng. Du kích Mạc Xá đón đánh diệt 10 tên, thu 1 trung liên, 6 súng trường, bắn chết một tên quan ba người Pháp. Ngày hôm sau địch đem quân về thu nhặt binh lính bị chết, bị thương và hòng tìm xác tên quan ba. Cho đến ngày thứ ba, khi xã đội Minh Tân đóng bè chuối đưa xác tên quan ba trôi theo dòng sông Thái Bình đến cầu Phú Lương địch mới chấm dứt càn quét.


Ngày 2/7/1952, địch huy động 2 tiểu đoàn quân cơ động, một tàu chiến, 4 canô, 10 xe lội nước càn vào thôn An Dật gần sông Thái Bình. Tiểu đoàn Bạch Đằng phối hợp với du kích địa phương đón đánh. Trận chiến diễn ra suốt ngày, ta và địch giành nhau từng xóm nhỏ, từng căn nhà. Địch đã đốt hàng trăm nóc nhà, chùa An Dật cũng bị đốt cháy. Chiều tối, địch vào được trong làng. Ta bí mật vượt vây. Địch vừa chết Vưa bị thương tới 100 tên... Bốn chiến sĩ ta hy sinh, trong đó có một xã đội phó...


Qua 1 năm thực hiện Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ Quảng Yên lần thứ IV và Chỉ thị của Bộ tư lệnh Liên khu Việt Bắc, Tỉnh đội Quảng Yên đã vượt qua mọi gian khổ hy sinh đầy mạnh phong trào thi đua "Giết giặc lập công" của quân dân địch hậu lên rất cao. Có thể nói, từ khi Tiểu đoàn Bạch Đằng tiến sâu vào vùng Nam Sách - Kinh Môn là một bước ngoặt lịch sử của chiến tranh nhân dân tỉnh Quảng Yên. Nhiều trận chiến đấu rất oanh liệt đã diễn ra, một vùng du kích được mở rộng sát đường 5, ven sông Thái Bình và gần ngay thị xã Hải Dương. Nhiều gương mặt anh hùng, chiến sĩ thi đua trong lực lượng bộ đội, dân quân du kích, kể cả các tầng lớp "Nam, phụ, lão, ấu” xuất hiện trong chiến dịch chống địch, trong công tác địch vận, chăm sóc thương binh, phục vụ chiến trường.


Một năm sau, tháng 4/1953, Tiểu đoàn Bạch Đằng và bộ đội du kích Nam Sách mở rộng địa   bàn chiến đấu, liên tiếp tấn công vào các vị trí địch, trong đó có đồn Ngô Đồng hai lần bị diệt. Đặc biệt trận đánh lần thứ hai của Đại đội 908 phối hợp với du kích địa phương, trong đó có nữ du kích Trần Thị Trì trước đây ở tổ du kích bí mật của chị Mạc Thị Bưởi (về thành tích chiến đấu của nữ anh hùng Mạc Thị Bưởi, xin đọc bài “Người con gái quang vinh" của Nguyễn Văn Cấp) đã san phẳng đồn, bắt sống tên đồn trưởng Câu đưa về căn cứ xử tội.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 01 Tháng Mười Hai, 2022, 07:55:54 pm
Ngày 28/2/1952, giặc Pháp tổ chức một cuộc hành binh lớn gọi là chiến dịch Bô-lê-rô (Bolero) nhằm tiêu diệt các lực lượng vũ trang ta ở 4 huyện Kinh Môn, Đông Triều, Chí Linh, Nam Sách hòng bình định trở lại địa bàn Quảng Yên và khu vực ven đường 18, đường số 5 hồi trước chiến dịch Hòa Bình năm 1951. Trọng điểm đánh phá của địch là khu căn cứ du kích Nhị Chiểu (Kinh Môn). Những ngày đầu chiến dịch, địch tiến công xã An Sinh, thăm dò lực lượng của ta, cắt đường liên lạc giữa khu ngoài với căn cứ Nhị Chiểu, đồng thời đánh vào các khu du kích Chí Linh, Đông Triều, Nam Sách.


Ngày 3/7/1952, địch chiếm được Nhị Chiểu, chúng dồn số dân còn lại của 4 xã (Duy Tân, Tân Dân, Phú Thứ và Minh Tân) về các xã vùng tạm chiếm, biến các xã trên thành khu không người. Tình hình Kinh Môn trở nên nghiêm trọng, một số cán bộ và nhân dân sơ tán vào rừng. Trước tình hình đó, Tỉnh ủy Quảng Yên quyết định đưa bộ đội bằng mọi cách vào Kinh Môn đánh địch, bảo vệ cơ sở, bảo vệ nhân dân; cán bộ lãnh đạo huyện, xã phải trở về "bám đất, bám dân" phục hồi phong trào. Các huyện bạn tích cực chủ động phối hợp tác chiến cùng Kinh Môn phân tán lực lượng, phá càn quét của địch. Các cán bộ lãnh đạo tỉnh vào Kinh Môn trực tiếp chỉ đạo kiểm tra việc thực hiện.


Trước ngày 21/7/1952, đồng chí Vũ Hiền, Thường vụ Tỉnh ủy cũng được phân công về khu ngoài kiểm tra tình hình cùng Huyện ủy lãnh đạo chống càn quét của địch.

Tháng 8/1952, Đại đội 908 cùng hơn 200 đồng bào rút khỏi hang đá Nhị Chiểu về căn cứ. Đại đội 910, chủ công của tiểu đoàn vào thay phiên chiến đấu ở khu hang đá Nhị Chiểu.

Trong thời gian này, bộ đội và đồng bào ở lại trong các hang đá đã nêu cao tinh thần bất khuất, chiến đấu đến cùng trong hoàn cảnh thiếu thốn mọi thứ, phải chia nhau từng nắm cơm, lon nước, ngày thì túc trực chiến đấu đánh lui những đợt tiến công của địch, đêm thì len lỏi về thôn làng đã bị thiêu hủy tìm thức ăn, cùng nhau cầm hơi đánh giặc. Hàng tháng trời sống và chiến đấu như vậy nhưng tinh thần được động viên giữ vững trước quyết tâm của Tinh ủy dồn sức lãnh đạo chống phá bằng được trận càn ác liệt. Trong tình hình ấy, bài hát “Kinh Môn vùng lên" do Nguyễn Phú Đạt, cán bộ của Tiểu đoàn Bạch Đằng sáng tác ngay trong trận địa hang đá vang lên và nhanh chóng truyền đi, gây một luồng không khí động viên chiến đấu ở các đơn vị và nhân dân toàn huyện. Tôi cũng ca hát với cán bộ chiến sĩ và ngày nay vẫn còn nhớ:

   "Kinh Môn, Kinh Môn...
   Này đây thung xanh còn tanh máu giặc...
   Đây hang Ma, chiến thắng oai hùng.
   ... Lòng đoàn quân Kinh Môn, vì tình dân Kinh Môn
   ... Trong hang tối vẫn sáng ngời vững lời thề chung
   Kinh Môn vùng lên, Kinh Môn vùng lên!..."


Sau 148 ngày đêm, dưới sự lãnh đạo tập trung kiên quyết của Tỉnh ủy, sự phối hợp chiến đấu của huyện bạn, tinh thần dũng cảm ngoan cường của tiểu đoàn chủ lực tỉnh, quân dân Kinh Môn đã đoàn kết, hy sinh chiến đấu buộc địch phải rút hết lực lượng cơ động, chấm dứt chiến dịch Bỏlêrô. Ngày 5/2/1953, địch phải bỏ vị trí Hạ Chiểu (thuộc xã Minh Tân). Khu căn cứ du kích Nhị Chiểu - Kinh Môn trở thành khu căn cứ tự do trong lòng địch.


Sang năm 1953, chiến tranh nhân dân tiên lên một bước mới. Lực lượng của ta đã phát triển lớn mạnh, đồng đều, nhân dân có kinh nghiệm chiến đấu và đấu tranh phong phú. Tiểu Bạch Đằng và các đại đội địa phương chủ động "tìm địch mà đánh" ngay cả vùng bị chiếm đóng sâu nhất như Yên Hưng và Nam Thủy Nguyên. Địch không còn tự do càn quét, trái lại còn lo sợ bị bộ đội, du kích ta tấn công tiêu diệt. Hiện tượng đảo ngũ, đầu hàng trong binh lính địch phát triển.


Ở khu vực Nam Sách, một bộ phận của bộ đội chủ lực tỉnh cùng Đại đội 921 mở rộng khu vực hoạt động của mình, cùng với huyện trang bị thêm vũ khí cho du kích các xã Thanh Quang, Hợp Tiến, Nam Chính.

Trận chống càn ở Thanh Quang ta đã diệt 20 lính Âu Phi, cả tiểu đoàn địch phải rút lui. Sau đó, bộ đội và du kích Thanh Quang - Hợp Tiến - Nam Chính phục kích ở đê La bắt gọn đội vệ sĩ Kim Bịch, thu 20 súng trường (6/1/1953).


Trận Thái Tân tháng 2/1953, bộ đội tỉnh cùng Đại đội 921 và du kích chống càn bắt sống tên quan hai Pháp và 12 lính Âu Phi; sau đó ta tổ chức chặn viện binh diệt 86 tên cùng nhiều tên khác bị thương. Trận đánh càn của Đại đội 921 và du kích An Lâm diệt tên quan hai Các Đa và 17 tên khác. Nổi bật là bộ đội chủ lực tỉnh, bộ đội 921 cùng du kích xã Nam Đồng và khu vực Vối Đụn đã diệt 90 tên, phá hủy 2 xe lội nước (tháng 8/1953). Tiếp đó, ta tiêu diệt bốt Ngô Đồng, Linh Khuê và trừ khử một số Việt gian phản động, nhân dân trong vùng vô cùng phấn khởi. Khu du kích của huyện Nam Sách được mở rộng tới các xã Quốc Tuấn, Hợp Tiến, Nam Hưng, Hiệp Cát, Thái Tân, Đồng Lạc, Phú Điền, Cộng Hòa...


Bước vào năm 1954, bộ đội chủ lực tỉnh và các đại đội huyện Chí Linh, Kinh Môn, Nam Sách tiếp tục phát huy khí thế tiến công, đánh thắng địch nhiều trận; đã phối hợp với quân và dân tỉnh Hải Dương thực hiện nhiệm vụ của ''Chiến dịch tổng công kích đường số 5" phối hợp với chiến trường Điện Biên Phủ giành thắng lợi hoàn toàn...


Trong đợt thi đua giành cờ Quyết chiến quyết thăn2: của Hồ Chủ tịch và cờ Tiểu đoàn gương mẫu của “Liên khu Việt Bắc", Tiểu đoàn Bạch Đằng đã đánh tới 23 trận, diệt 766 tên, bắt sống 324 tên (1/4 trong số đó là lính Âu Phi), thu 532 súng các loại, mở rộng và giữ vững đường dây liên lạc giao thông từ Khu Việt Bắc và Liên khu III, đồng bằng sông Hồng...


Tôi sinh ra và lớn lên ở huyện Kim Môn - tỉnh Hải Dương nhưng công tác và chiến đấu ở Quảng Yên; là Bí thư Tỉnh ủy kiêm Chính trị viên Tỉnh đội. Tồi có điều kiện dành thời gian xuống cơ sở, đơn vị như họp mặt cán bộ, động viên các chiến sĩ trước khi tiến quân vào địch hậu, khi mừng công, khi chuẩn bị chiến đấu... Tuy nhiên, tôi không thể đi được nhiều cơ sở nên hồi ký có phần hạn chế. Dù sao cũng là những kỷ niệm sâu sắc về cuộc sống chiến đấu trong vùng địch hậu, góp phần tô đậm thêm truyền thống vẻ vang của bộ đội tỉnh Quảng Yên, của quân và dân 3 huyện Nam Sách - Kinh Môn - Chí Linh đã được Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu "Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân".


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 01 Tháng Mười Hai, 2022, 07:56:49 pm
D - HẢI PHÒNG

CHIẾN ĐẤU BẢO VỆ KHU CĂN CỨ ĐÈO VOI

NGUYỄN ĐỨC NHIẾP
(Chỉ hội lịch sử quân sự Hải Phòng)


Trong cuộc kháng chiến chống giặc Pháp xâm lược, thành phố Hải Phòng là vùng sâu địch hậu. Cơ quan nào chỉ đạo cuộc kháng chiến là Thành ủy, Ủy ban kháng chiến thành phố Hải Phòng phải đóng ở vùng núi huyện Thủy Nguyên, sau lại chuyển đến khu vực Đèo Voi thuộc huyện Đông Triều (tỉnh Quảng Ninh) tiếp giáp với huyện Sơn Động (tỉnh Bắc Giang). Vì những nơi này địa bàn hiểm trở, đảm bảo được bí mật và bảo vệ được an toàn.


Lực lượng bảo vệ khu căn cứ Đèo Voi được giao cho Đại đội 1911 của Thành đội Hải Phòng, do các đồng chí Lê Thảo (đại đội trưởng), Phạm Vinh và Bùi Mạnh sĩ (đại đội phó), Nguyễn Quang Triển (chính trị viên) cùng các cán bộ chỉ huy trung, tiểu đội là Nguyễn Minh Tâm, Phan Thọ, Tuấn Hải, Tuấn Thành, Minh Giang, Trần Doãn Trân, Thanh Luận...


Từ khi quân địch phát hiện ra khu căn cứ kháng chiến Đèo Voi, chúng luôn cho máy bay thám thính và nã pháo vào phòng tuyến Bãi Bằng, rồi hành quân tấn công tiêu diệt. Trong những năm 1950 đã có tới 11 lần quân Pháp mở các cuộc hành binh dữ dội, nhưng đều bị quân ta chặn đánh quyết liệt, nhiều tên phải đền tội ác và chịu thua. Nhưng đến ngày 26-11-1950 chúng mở cuộc hành binh thứ 12. Theo quân báo đưa tin là địch tập trung một trung đoàn bộ binh cơ giới tiến quân bao vây và kiên quyết tiêu diệt căn cứ Đèo Voi. Theo lệnh của Ban chỉ huy Thành đội Hải Phòng, Đại đội 1911 sau khi được phổ biến phương án tác chiến cụ thể, có thêm lực lượng dân quân du kích các xã trên địa bàn phối hợp tác chiến, đơn vị được tăng cường một khẩu đội súng cối 81 ly và một trọng liên 12 ly 7. Trận địa của đơn vị được bố trí 3 mũi phòng thủ ở hai bên triền núi đá cao, đồi rừng ở cửa Ngăn sẵn sàng tiếp địch.


Vào hồi 8 giờ sáng ngày 26-11-1950, một lực lượng bộ binh địch đông đảo, có máy bay “Bà già” chỉ điểm, dẫn đường cho hàng loạt pháo cỡ lớn bắn cấp tập vào trận địa ta. Tiếp theo là các tốp lính Âu Phi hung hăng hành quân vào sâu trận địa ta. Đúng như phương án tác chiến của đại đội, chúng đã vấp phải sự đánh trả quyết liệt của lực lượng ta tại các chốt phòng thủ. Hỏa lực của ta ở ba hướng đều phát huy giòn giã ngay từ đầu khiến nhiều tên địch phải gục ngã. Số còn lại vẫn tiến quân nhưng chậm chạp hơn và phân tán lẻ, tỏa ra nhiểu mũi luồn lách vào những cánh rừng sâu. Nhưng đi đâu cũng không thoát vì các đơn vị dân quân du kích đã bố trí ken dầy những bãi mìn và hố chông trên những nẻo đường mòn mà dự đoán quân địch sẽ đi qua. Quả nhiên khi những tên lính đội mũ nồi đỏ còn đang lò dò nhòm ngó thì hàng loạt tiếng mìn nổ rầm trời, bụi khói bốc cao từ nhiều phía, binh lính địch hoảng loạn, kẻ gục ngã, kẻ tháo chạy lại chịu tiếp những loạt súng bắn tỉa của quân ta từ các vách núi. Tên chỉ huy hung hãn cho thổi kèn hội quân xốc lại đội hình tiến men theo bờ rừng, theo đường vào phía chân núi Đá Chồng và Ngọa Vân. Đồng thời gọi hai máy bay chiến đấu bắn như vãi đạn xuống khu vực quân ta. Lực lượng pháo binh từ Đông Triều, Mạo Khê cũng được huy động chi viện.


Trước hỏa lực của không quân và pháo binh địch, để bảo toàn lực lượng, đơn vị được lệnh rời trận địa từ tuyến I về tuyến II phối hợp với lực lượng dân quân du kích địa phương đánh tiêu hao sinh lực địch. Trận chiến đấu diễn ra quyết liệt và dai dẳng đến 11 giờ thì kết thúc. Đoàn quân Âu Phi bại trận phải rút lui đem theo các xe xác chết và những cáng thương, để lại núi rừng những vũng máu đỏ ngòm và xác một máy bay “Bà già” bị cháy dở do hỏa lực của ta bắn đuổi đã đâm đầu vào núi. Đơn vị 1911 bị hy sinh đồng chí Vũ Đức Hiệp cùng một chiến sĩ trong trường hợp bắn súng cối 81 ly thì quả đạn đầu tiên nổ tại chỗ. Các đồng chí Nguyễn Minh Tâm, trung đội trưởng và Phan Thọ, khẩu đội trưởng khẩu đội súng cối 81 ly, cùng một số chiến sĩ khác bị thương. Từ đó giặc Pháp không dám bén mảng đến “thánh địa Đèo Voi” để nộp mạng.


Sau chiến thắng này, đồng chí Minh Giang đã sáng tác bài thơ “Giặc tiến vào Đèo Voi":

   Giặc tiến vào “thánh địa Đèo Voi ”
   Định xóa sổ cơ quan đầu não Hải Phòng
   Tưởng ngon xơi, nhưng nuốt phải mìn, chông
   Vào hùng hổ, khi rút ra thảm hại
   Quân thì nhiều, đạn bắn như mưa vãi
   Chỉ thu về một con số không
   Rừng oai nghiêm Tân Mộc, Đá Chồng
   Năm Mẫu, Khe Châm, Suối Vàng, Suối Bạc
   Hổ Lao, Cái Hàm, ngã ba Chòi Đắc
   Dốc Sọt, Đồng Vành, rừng núi bủa vây
   Phòng tuyến Bãi Bằng quân ta chặn lại
   Máy bay bà già nhòm ngó dò la
   Súng bộ binh từ vách núi bắn ra
   Máy bay lao đầu vào núi rừng tan xác
   Cuộc tiến quân 12 ngày đêm lầm lạc
   Bao xác thù bỏ lại núi rừng xanh
   Khu căn cứ Đèo Voi “thánh địa của Hải Phòng”.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 05 Tháng Mười Hai, 2022, 07:22:51 pm
TỰ VỆ HẢI AN ĐÁNH SÂN BAY BANG TÊN LỬA TỰ TẠO


NGUYỄN ĐỨC NHIẾP
(Chi hội lịch sử quân sự Hải Phòng)


Tháng 7-1945, theo chỉ thị của Huyện bộ Việt Minh Hải An (Hải Phòng), lực lượng tụ vệ chiến đấu Hải An phải đột nhập đánh chiếm sân bay Cát Bi do quân đội Nhật đóng giữ để lấy vũ khí và lương thực, thực phẩm chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa giành chính quyền cách mạng ở địa phương.


Một khó khăn lớn đặt ra là lực lượng quân đội Nhật ở đây có một trung đội với các ụ súng lớn bảo vệ sân bay, có xe tăng cùng nhiều hỏa lực mạnh. Trong khi đó, vũ khí của ta chỉ có 1 khẩu trung liên Brơnô với những súng trường, lựu đạn. Bằng cách nào để giành được thắng lợi? Hơn 20 anh em trong đơn vị hàng tháng trời phải vắt óc suy nghĩ, bàn cách đánh và cố tìm ra một thứ vũ khí tự tạo nào đặc biệt để có thể uy hiếp địch. Anh Ngô Hùng, người chỉ huy (sau là Thiếu tướng, Cục trưởng Cục Huấn luyện tác chiến, đã từ trần) chịu khó đọc sách binh thư đã đưa ra nhiều thứ vũ khí tự tạo từ đời các vua chúa, tổ tiên ta xưa đánh giặc, nhưng đều không áp dụng được. Chợt một hôm anh nảy ra ý nghĩ là bò vào bãi chứa xăng dầu của địch lấy một thùng phuy chỉ còn lại một ít xăng đem về để thử nghiệm chế tạo “tên lửa”- bằng cách quấn giẻ có tẩm xăng vào đầu ngọn giáo châm lửa rồi mở nắp thùng phuy xăng đút vào trong để tạo ra tiếng nổ và bốc cháy. Quả nhiên là diệu kế vì khi tiếng nổ rầm trời phát ra, thùng phuy bùng cháy có kèm theo những tia sáng xanh lè bay vút lên không trung.


Để chuẩn bị cho trận đánh, ban đêm anh em phải bò vào xăng dầu tìm những thùng phuy nhẹ đã gần hết xăng lăn ra hai điểm đầu bãi và cuối bãi.

Một giờ đêm ngày 22-7-1945, đoàn quân xuất kích chia làm 2 mũi đột nhập sân bay. Sau phát súng lệnh báo hiệu tấn của chỉ huy trưởng, từ 2 địa điểm phục kích phát huy hỏa lực bắn thẳng vào sở chỉ huy địch. Từ các ụ súng phòng vệ quân Nhật cũng bắn ra như vãi đạn chống trả. Tiếp đó là tên lửa tự tạo của quân ta từ hai phía nổ rầm trời, bùng cháy sáng trưng hai góc trời kèm theo nhưng tia sáng xanh lè trông rất ghê rợn. Có lẽ đó là thứ vũ khí đặc biệt mà quân đội Nhật chưa hề được mục kích.


Trận chiến đấu tiếp diễn quyết liệt, quân ta hô xung phong tiến thẳng vào Sở chỉ huy sân bay. Tiếng súng chống trả của quân Nhật từ các ụ phòng vệ và trong doanh trại đã thưa dần và im bặt, chỉ còn lại tiếng động cơ của xe tăng chạy về nội thành Hải Phòng mỗi lúc một xa dần.


Quân ta đã chiếm lĩnh và làm chủ sân bay, vứt cờ “mặt trời mọc” của phát xít Nhật xuống. Cờ đỏ sao vàng tung bay trên nóc Sở chỉ huy. Ta tiếp tục phá các kho tàng, thu hồi chiến lợi phẩm và đóng giữ sân bay qua ngày khởi nghĩa giành chính quyền cách mạng ở địa phương, đến ngày 13-9-1945 thì bàn giao cho một đơn vị quân Tàu ô tiếp quản, để giải giáp quân Nhật theo lệnh của cấp trên.


Trận chiến đấu đã giành thắng lợi hoàn toàn vì sáng chế ra tên lửa tự tạo. Mặc dù đạn giặc bắn ra dữ dội nhưng cả đơn vị đều an toàn, không ai bị thương vong.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 05 Tháng Mười Hai, 2022, 07:25:46 pm
LÀNG HOA ĐẰNG HẢI TỎA HƯƠNG SẮC NƠI NƠI...


NGUYỄN LÊ TÂM


Đất Đằng Hải trồng hoa đã hàng trăm năm nay. Người Đằng Hải trồng hoa đời tiếp đời, cha truyền con nối. Nhiều du khách trong nước và nước ngoài tới thăm quan du lịch đều nói rằng: "Đằng Hải là thủ phủ của Vương quốc Hoa và cây cảnh ở Hải Phòng. Một làng hoa cổ truyền”!


Thật vậy, từ vườn hoa Đằng Hải sinh sôi ra khắp nơi nơi và xuất khẩu ra nước ngoài.

Làng hoa Đằng Hải không những tỏa hương sắc làm đẹp cho đời mà còn là một miền đất cổ có bề dầy về truyền thống lịch sử. Cách đây hơn 2.000 năm người Việt cổ đã đến đây sinh sống, nhưng đến năm 1813 trong sử sách của triều đình nhà Nguyễn mới ghi chép: “Các làng Hạ Lũng, Lũng Bắc, Lương Xâm, Xám Bồ, Xâm Đông thuộc tổng Lương Xâm, huyện An Dương, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương”. Năm 1924, huyện Hải An được thành lập, tiếp đến cuộc Cách mạng tháng 8/1945, chính quyền dân chủ nhân dân ra đời. Từ tổng Lương Xâm đổi thành xã Đằng Hải thuộc huyện Hải An, tỉnh Kiến An, nay là phường Đằng Hải, quận Hải An, thành phố Hải Phòng, gồm 3 khu dân cư là Hạ Lũng, Lũng Bắc và Lũng Đồng. Các thôn Lương Xâm, Xâm Bổ, Xâm Đông được tách ra thành lập xã Nam Hải, thôn Lương Khê thuộc xã Tràng Cát từ năm 1956.


Phường Đằng Hải có diện tích tự nhiên là 314,6 hécta, dân số 8.026 người. Địa bàn Đằng Hải nằm giữa vùng đất giầu truyền thống lịch sử, văn hóa, nơi tập trung nhiểu công trình kiến trúc nghệ thuật.

Nghề trồng hoa của làng hoa Đằng Hải phát triển gấn liền với quá trình hình thành đô thị hóa thành phố Hải Phòng.

Vào đầu thế kỷ XX, Hải Phòng trở thành cảng biển, trung tâm công nghiệp và đầu mối giao thông quan trọng của roiền Bắc Việt Nam. Nơi đây tập trung dân cư đông đúc. Nhằm đáp ứng các nhu cầu về lễ hội, thỏa mãn các nhu cầu tiêu dùng của người dân đô thị, hoa Đằng Hải có thị trường tiêu thụ. Hoa được trang trí trong các cơ quan, công sở, nhà hàng, khách sạn. Hoa là tặng phẩm trong các ngày lễ, tết, ngày sinh nhật, cưới hỏi, cầu hôn. Hoa dâng nơi thờ tự đình chùa, miếu điện. Hoa trở thành một nhu cầu trong lối sống của nhân dân thành phố và cả ở thôn quê.


Hiện nay, Đằng Hải có diện tích đất canh tác khoảng 66 hécta, trong đó có khoáng 110 hécta ruộng đồng, còn lại là đất vườn của 1.706 gia đình.

Từ năm 1993, thực hiện chủ trương chuyển đổi cơ cấu cây trồng, Đằng Hải đã đầu tư hàng tỷ đồng để cải tạo các vườn tạp, nâng cấp ruộng trồng lúa năng suất thấp để làm vườn trồng hoa. Đảng ủy, UBND phường chủ động đưa ra nhiều chính sách khuyến khích nhân dân trồng hoa, du nhập các giống hoa mới, hoặc trồng các loại rau cao cấp có giá trị kinh tế cao, và sản xuất theo hướng tập trung, chuyên canh. Đến nay rất có hiệu quả, vì các giống hoa mới có giá trị kinh tế cao phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng. Bà con nông dân đã trồng và bước đầu hình thành các vùng hoa chuyên canh. Trong ba khu dân cư ở ba thôn có sự trồng hoa chuyên canh riêng như: hoa hồng (Ý, Pháp, Trung Quốc) ở Lũng Bắc; hoa lay-ơn (trắng, đỏ, hồng...) ở Lũng Đông; hoa cúc (Nhật, Hà Lan, Inđỏnêxia) ở Hạ Lũng... Toàn phường hiện có 48 hécta hoa hồng, 52 hécta hoa các loại, 56 hécta hoa lay-ơn và gần 10 hécta trồng các loại hoa truyền thống như: thược dược, huệ, loa kèn... Chỉ riêng hoa cúc ở Đằng Hải đã có tới trên 60 loài. Thu nhập bình quân trên một diện tích canh tác sau khi chuyên đổi cây trồng cao gấp 10 - 12 lần so với cây lúa. Từ năm 1995 đến nay, tổng thu nhập của Đằng Hải đạt từ 21 - 29,5 tỷ đồng/năm, trong đó 70% thu nhập từ nghề trổng hoa. Mỗi hécta trồng hoa cho doanh thu khoảng từ 80 - 100 triệu đồng. Thu nhập bình quân đầu người từ 4 - 5 triệu đồng/năm.


Đảng bộ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân phường Đằng Hải đang tích cực phối hợp với các cơ quan chức năng của quận và thành phố, các cơ quan khoa học kỹ thuật ở Trung ương và địa phương đề ra các phương án quy hoạch, bảo tồn và phát triển làng hoa và nghề trồng hoa, cây cảnh.


Tính đến nay, cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ nghề trồng hoa theo hướng chuyên canh, công nghiệp của Đằng Hải ngày càng được hoàn thiện:

- Hệ thống mương máng tưới tiêu dài 7 km được bê tông hóa 100%.

- Hoàn thiện hai trạm bơm nước ở các khu Lũng Đông, Lũng Bắc với kinh phí đầu tư hơn 200 triệu đồng.

- Xây dựng 3 trạm biến thế điện với tổng công suất 820 KW.

- Mua sắm 15 máy cày Bông Sen đủ đáp ứng khâu làm đất và 800 máy bơm điện tưới tiêu.

Trong lao động sản xuất và quyết chí nối tiếp truyền thống canh tác của ông cha, ở Đằng Hải đã xuất hiện những cá nhân có đầu óc sáng tạo, mạnh dạn ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất, ông Nguyễn Văn Hoan (khu Lũng Đông) đầu tư xây dựng 280m2 nhà lưới chống côn trùng, nhập 5.000 cây hoa hồng giống Hà Lan các loại, ông Lê Hữu Chừng đầu tư xây dựng 250m2 nhà lưới cấp n, tiếp nhận 25.000 cây giống cúc đại đóa. Ngoài ra còn có gia đình ông Lê Quốc Uy, gia đình ông Dương Xuân Thạch chuyên trồng hoa hồng; gia đình ông Phạm Văn Hải chuyên trồng hoa lay-ơn.


Những năm qua, nghề trồng hoa ở Đằng Hải có bước phát triển vượt bậc cả về diện tích gieo trồng lẫn chất lượng hoa. Thương phẩm hoa Đằng Hải hiện tại không chỉ là “thương hiệu” có uy tín trên thị trường hoa Hải Phòng, mà còn là thương hiệu khá nổi tiếng trong các chợ hoa ở Hà Nội, Hải Dương, Thanh - Nghệ - Tĩnh, Thái Bình, Thái Nguyên, Lào Cai... Hoa Đằng Hải trở thành mặt hàng xuất khẩu sang Trung Quốc đang được giới thương mại quan tâm. Hoa Đằng Hải đến với mọi miền đất nước và xuất khẩu sang một số nước trên thế giới.


Trên thực tế nhu cầu ấy, Đảng ủy, UBND phường Đằng Hải đang khẩn trương hoàn thiện và trình các cấp có thẩm phê duyệt dự án “Quy hoạch xây dụng khu đô thị vườn Đằng Hải” để có đủ cơ sở hạ tầng (hệ thống cấp điện, nước, đường giao thông) theo tiêu chuẩn đô thị loại 1 cấp quốc gia. Nhà nước có chính sách hỗ trợ và động viên nhân dân địa phương huy động nguồn vốn xây dựng các biệt thự cao từ 2 ÷ 4 tầng theo tiêu chuẩn hiện đại, nhằm đảm bảo yêu cầu hài hòa với tổng thể không gian kiến trúc của đô thị quận Hải An mới, phù hợp với xu thế phát triển của đô thị sinh thái Hải Phòng trong tương lai, dự kiến mỗi biệt thự vườn có tổng diện tích xấp xỉ 300 ÷ 400 m2, trong đó diện tích xây dựng chiếm khoảng 50 ÷ 60 m2, còn lại là diện tích để trồng hoa thâm canh theo hướng công nghiệp cho năng suất cao, chất lượng , tốt, đảm bảo điều kiện vệ sinh môi trường đô thị. Làng hoa Đằng Hải sẽ tồn tại song hành trong quá trình đồ thị hóa.

Tháng 5-2006


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 05 Tháng Mười Hai, 2022, 07:27:03 pm
KHI NGƯỜI LÍNH THẮNG TRẬN TRỞ VỀ


TRẦN THANH THẢO
(Phó giám đốc Công ty
cổ phần thương mại Hải Đà)


Công ty cổ phần thương mại Hải Đà (tiền thân là xí nghiệp Hải Đà) được thành lập tháng 10/1998. Cán bộ công nhân viên công ty phần lớn là cán bộ chiến sĩ và con em của những người lính thuộc Tiểu đoàn Hải Đà (tiểu đoàn mang tên hai thành phố là Hải Phòng và Quảng Nam - Đà Nằng kết nghĩa), trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Nhiều đồng chí từng vào sinh ra tử, chiến đấu trên 10 năm tại chiến trường miển Nam, có đồng chí là thương binh, bệnh binh, có đồng chí được nhận huy hiệu 40 năm, 50 năm tuổi Đảng.


Sáng kiến thành lập công ty của những cựu chiến binh này với mong muốn quy tụ cán bộ chiến sĩ, đồng đội và con em họ, giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, tự cứu lấy mình để vươn lên làm giầu chính đáng.


Thời gian qua, mặc dù thị trường trong nước và thế giới, cũng như khu vực có nhiều biến động, giá nguyên liệu tăng cao, dịch cúm gia cầm có diễn biến phức tạp, gây ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất kinh doanh của công ty. Nhưng cán bộ, đảng viên, công nhân viên công ty đã quyết tâm vượt khó, bám sát tình hình thực tế duy trì sản xuất kinh doanh đa ngành, thực hành tiết kiệm... đặc biệt là giữ gìn uy tín với khách hàng nên năm 2004 công ty đã hoàn thành kế hoạch trước 1 tháng. Đến 30/11/2004, tổng doanh thu của công ty đạt trên 50 tỷ đồng, nộp ngân sách trên 650 triệu đồng và nhận thêm kế hoạch tháng 12 là 3 tỷ đồng. Với thành tích này, công ty được Ủy ban Nhân dân thành phố Hải Phòng tặng bằng khen. Bí thư Thành ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân thành phố Nguyễn Văn Thuận về thăm và chúc Tết xuân Ất Dậu 2005.


Sản xuất kinh doanh phát triển, công ty có điều kiện chăm lo đời sống cho người lao động và tái đầu tư vào sản xuất. Trong năm, công ty đã hoàn thành 3 công trình chào mừng 1 năm ngày thành lập quận mới Hải An (10/5/2003 - 10/5/2004). Đó là mô hình tàu "Rồng biển 20" cùng một số hình ảnh tham dự Hội chợ triển lãm Hội nhập phát triển Hải Phòng năm 2004. Công trình đường thanh niên (dài 200m) và công trình nhà xưởng mộc (với tổng trị giá hàng trăm triệu đồng…) và mới đây đã đầu tư xây mới trụ sở hai tầng đưa vào sử dụng… Ngoài ra, công ty rất quan tâm đến các hoạt động nhân đạo từ thiện. Trong năm đã vận động quyên góp trong cán bộ, công nhân viên, người lao động và trích từ quỹ phúc hàng tràm triệu đồng cho các hoạt động này. Hiện nay công ty đang nhận trợ cấp nuôi dưỡng 6 cụ già cô đơn không nơi nương tựa, trẻ em tàn tật, chất độc da cam.


Công tác xây dựng Đảng được công ty rất chú trọng. Chi bộ Đảng công ty được thành lập chủ yếu gồm các đồng chí đã có nhiều năm tuổi Đảng từ Tiểu đoàn Hải Đà trước đây. Ngay từ khi mới thành lập, Chi bộ đã bám sát Nghị quyết của Quận ủy Hải An và tình hình thực tế của doanh nghiệp, nhằm thực hiện quyết định 100/QĐ-TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng "về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của chi bộ doanh nghiệp... Đã chỉ đạo đơn vị tăng cường sản xuất kinh doanh, đúng hướng, đúng pháp luật, trên tinh thần đoàn kết thống nhất và tính dân chủ cao. Chi bộ thường xuyên duy trì chế độ sinh hoạt học tập chính trị, bồi dưỡng cán bộ, phát triển đảng viên, đồng thời làm tốt công tác kiểm tra đảng viên chấp hành điều lệ và nhiệm vụ phân công, đảm bảo không có đảng viên vi phạm pháp luật. Trong năm, Chi bộ đã gửi 24 đoàn viên ưu tú đi học lớp bồi dưỡng cảm tình Đảng do Quận ủy Hải An mở và đã làm thủ tục, giáo dục, rèn luyện thử thách, đủ điều kiện, được Quận ủy chuẩn y tổ chức kết nạp được 6 đồng chí đảng viên lớp Hồ Chí Minh. Chi bộ đã chỉ đạo xây dựng các tổ chức chính trị vững mạnh như: Hội Cựu chiến binh, Đoàn Thanh niên, Công đoàn. Kết quả bình xét phân loại đảng viên 2004 - 100% đủ tư cách hoàn thành tốt nhiệm vụ, có 30% đảng viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, được khen thưởng Chi bộ trong sạch vững mạnh tiêu biểu của quận.


Phát huy thành tích đã đạt được và nhất là phát huy bản chất truyền thống anh bộ đội Cụ Hồ, thời gian tới những người lính Hải Đà năm xưa đang tiếp tục phấn đấu xây dựng công ty trở thành điểm sáng "cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ của thương binh và người tàn tật...", tạo điều kiện cho con em thương binh, gia đình chính sách có thêm việc làm, ổn định cuộc sống, xóa đói giảm nghèo.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 05 Tháng Mười Hai, 2022, 07:27:38 pm
GÓP SỨC CHUNG TAY


NGUYỄN VĂN HOA
(Hội Cựu chiến binh
xã Hùng Thắng, Tiên Lãng)


   Bình minh nắng rực tháng hè
   Lúa đang con gái ấp e thẹn thùng
   Vì ai mang tấm đòng đòng
   Hẹn mùa vụ tới gặt bông lúa vàng
   Đường làng sạch đẹp, thênh thang
   Lung linh ánh điện như ngàn sao sa
   Đi về xao xuyến lòng ta
   Đây là hiện thực phải là đâu mơ?
   Đời xưa chưa có bao giờ
   Ngày thêm hạnh phúc, ưu tư bớt nhiều.
   Quê ta biết mấy thương yêu
   Đất ông cha đã có nhiều giấc mơ
   Đã bao đời có đâu ngờ
   Cháu con làm những ước mơ diệu kỳ.
   Ta về, ta ở, ta đi
   Ta phải làm gì góp sức chung tay
   Làm điều kỳ diệu hôm nay
   Để cùng con cháu dựng xây quê nhà,
   Để cùng hát khúc dân ca,
   Hát về Hùng Thắng quê ta hỡi mình.
   Hát câu nghiêng nón trông đình
   Đình bao nhiêu ngói nặng tình đất quê...


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 05 Tháng Mười Hai, 2022, 07:29:01 pm
NGƯỜI CỰU CHIẾN BINH -   NHÀ DOANH NGHIỆP NĂNG ĐỘNG


Nhà báo TRỌNG CỪ


Năm 1979, sau khi xuất ngũ trở về quê, bác Đỗ Văn Chi ở xã Mỹ Đức, huyện An Lão gặp nhiều khó khăn: nhà 7 miệng ăn chỉ trông chờ vào hai vụ lúa. Lao động, lao động cật lực gia đình bác cùng chỉ đủ ăn. Hết mùa là đói. Từ khi có cơ chế khoán sản phẩm đến người lao động, kinh tế nhiều thành phần, bác mạnh dạn nhận thầu những đầm sâu, ruộng trũng, bãi lăn lác để cải tạo đưa vào sản xuất. Theo bác Chi: thầu những khu vực ấy là "dễ ăn" nhất vì sản lượng thấp và thường là diện tích lớn, dễ cải tạo để phát triển thành những trang trại, gia trại, quản lý gọn, chỉ cần đầu tư chút ít là có thu nhập.


Bên cạnh 2 mẫu lúa để "lấy ngắn nuôi dài” và một sào vườn để bổ sung cho bữa ăn hàng ngày, gia đình bác nhận với hợp tác xã nông nghiệp thầu 2 sào ao để nuôi cá giống; 3 ha mặt nước bên bờ sông Văn Úc để nuôi cá thịt. Những ngày đầu vốn ít, bác sử dụng lao động trong nhà. Với phương châm tự lực cánh sinh, bác lấy công làm lãi, lấy lợi nhuận để xây dựng cơ sở vật chất. Từ dự án sản xuất tổng hợp theo công thức: vườn, ao, chuồng, bác kết hợp với sản xuất, sửa chữa cơ khí phục vụ gia đình và khu vực. Từ vốn của gia đinh cộng với vốn vay 80 triệu đồng của quỹ tín dụng, bác thuê thợ đào đắp xây dựng 50m2 nhà ở, 60m2 chuồng trại chăn nuôi và 500m2 nhà xường sản xuất cơ khí..., mua một máy cưa gỗ, hai máy khác để pha chế gỗ; đồng thời xây dựng riêng một trạm hạ thế điện 100KVA phục vụ cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ của gia đình và dịch vụ điện cho một số cơ sở sản xuất gần đó.


Thấy việc xay xát chế biến thóc gạo trong khu vực đang cần, bác liền mua thêm một máy xay xát đời mới; hai máy nghiền thức ăn gia súc đều có công suất 1 tấn/giờ. Cơ sở của bác Chi trở thành một tổ hợp sản xuất, dịch vụ, kinh doanh phục vụ cho nhiều gia đình trong khu vực, đồng thời thu hút hàng chục lao động hợp đồng thường xuyên và thời vụ, công việc. Nhiều người làm việc với bác Chi đã bớt được đói nghèo, còn mỗi năm, trừ chi phí bác Chi thu về gần 80 triệu đồng.


Là cựu chiến binh và là Phó Giám đốc Công ty cổ phần thương mại 359 thuộc Tập đoàn kinh tế công nghiệp Đông Hải, bác Chi không quên làm công tác từ thiện, ân nghĩa. Bác cho 6 hộ nghèo vay vốn với tiền triệu mà không hề tính lãi; nuôi dạy một cháu mồ côi từ nhỏ đến nay đã trưởng thành. Bác còn ủng hộ tài trợ các quỹ "nạn nhân bị chất độc da cam", quỹ "ân nghĩa", quỹ "tình thương", quỹ "khuyến học"... cùng nhân dân phương xây dựng cuộc sống mới. Bác được bầu là hội viên Hội Nông dân sản xuất giỏi cấp thành phố, hội viên Hội Cựu chiến binh xuất sắc, và nhiều phần thưởng khác.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 05 Tháng Mười Hai, 2022, 07:29:43 pm
NHỮNG NGƯỜI CON CỦA HẢI PHÒNG TRONG MÙA XUÂN ĐẠI THẮNG


MINH NGỌC


Trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975, ở mặt trận phía Tây Bắc Sài Gòn, một đơn vị quân giải phóng có nhiều cán bộ chiến sĩ quê ở Hải Phòng tham chiến đấu và lặp công xuất sắc. Một số chiến sĩ của đơn vị đã anh dũng hy sinh trên đường tiến về Sài Gòn, trước ngày toàn thắng. Đó là Đại đội 2, Tiểu đoàn 49 trinh sát thuộc Cục tham mưu Miền.


Những ngày cuối tháng 4 năm 1975, trong khí thế thần tốc, táo bạo, quyết thắng của chiến dịch Hồ Chí Minh, các quân đoàn chủ lực của ta từ 5 hướng đã hình thành thế bao vây tiến công vào hang ổ cuối cùng của Mỹ, Ngụy. Hướng Tây Bắc, Quân đoàn 3 đã cắt đứt đường số 1, đường số 22, chặn sư đoàn 5 ngụy từ Tây Ninh co về bảo vệ Sài Gòn. Trong bối cảnh đó, Tiểu đoàn 49 được lệnh bí mật thọc sâu vào sau lưng địch, áp sát trại huấn luyện Quang Trung, cắt con đường liên tỉnh số 15, chặn quân địch rút chạy theo hướng Bắc Củ Chi về Gò Vấp, sân bay Tân Sơn Nhất, tạo điều kiện thuận lợi cho quân ta tiến công tiêu diệt địch ở những mục tiêu quan trọng.


Chiều ngày 25/4, tiểu đoàn nhận vũ khí, trang bị gọn nhẹ, cơm nắm, gạo rang hành quân xuống chiến trường. Lặng lẽ luồn lách giữa các đồn bốt dầy đặc của địch, đêm đi, ngày ém quân trong các khóm dừa nước hai bên kênh rạch, giữa đồng bưng. Đến 11 giờ đêm ngày 27/4, đơn vị vượt qua lạch Láng The, sang xã Trung An, quận Củ Chi. Đại đội 2, mũi chủ công của tiểu đoàn đột nhập vào Ấp Đồn, chốt chặt hai bên lộ 15, phía nam cầu sắt Trung An, bắc qua lạch Láng The. Chỉ huy tiểu đoàn đi trực tiếp với Đại đội 2 là Tiểu đoàn phó Phạm Xuân Chạnh, quê ở xã Chiến Thắng, huyện An Lão. Chính trị viên đại đội, Bí thư Chi bộ Đảng Đoàn Xuân Thiềng, quê ở xã Hiệp Hòa, huyện Vĩnh Bảo. Được nhân dân trong ấp che chở, giúp đỡ, toàn đơn vị đã hoàn thành đào công sự, xây dựng trận địa ngay trong đêm. Nhiều cô bác còn nấu cơm nếp, hái dừa mang ra tận công sự động viên chiến sĩ. Bọn địch ở các đồn bốt xung quanh thấy động đã liên tục bắn súng cối M79 vào trận địa của ta làm một chiến sĩ hy sinh. Toàn đại đội vẫn bí mật, kiên trì chờ địch, sẵn sàng chiến đấu.


Sáng ngày 27/4, Quân đoàn 3 tiến công và đến 14h cùng ngày làm chủ căn cứ Trảng Bàng, căn cứ Đồng Dù, nằm trên quốc lộ 1, nơi đặt Sở chỉ huy của sư đoàn 25 Ngụy, bắt sống tên chuẩn tướng Lý Bá Tòng, sư đoàn trưởng. Mất Đồng Dù, địch hoang mang dao động. Lực lượng địch án ngữ phía Tây Bắc không có đường rút về Sài Gòn, chúng tháo chạy theo con đường tỉnh lộ 15 mỗi lúc một đông. Cuộc chiến đấu ngăn chặn, tiêu diệt địch không cho chúng co cụm về phía sau của Đại đội 2 diễn ra hết sức gay go, ác liệt suốt ngày và đêm 29/4. Trung đội 2 chốt giữ cầu sắt Trung An, đã đánh lui hàng chục đợt phản công của quân địch từ hướng Bình Dương, Củ Chi về, xác địch chết nằm ngổn ngang sát chân cầu. 9 chiến sĩ của trung đội đã hy sinh, trong đó có đồng chí Trung đội trưởng Nguyễn An Khóat quê ở xã Việt Tiến huyện Vĩnh Bảo chỉ huy, đánh địch chi viện từ căn cứ Quang Trung, Hóc Môn lên, đã bắn đến những viên đại cối 60, B41 cuối cùng, ở cả hai hướng, quân địch vẫn không vào được ấp. Đại đội 2 vẫn giữ vững trận địa.


Đúng 9h30 phút ngày 30/4/1975, các cánh quân của ta đã áp sát cửa ngõ Sài Gòn. Quân đoàn 3 đã đánh vào sân bay Tân Sơn Nhất, các xe tăng ta đã vượt qua cầu trên sông Sài Gòn. Dương Văn Minh, Tổng thống ngụy lên đài phát thanh, đề nghị “ngừng bắn" hòng ngăn chặn bước tiến quân của ta đến toàn thắng. Được lệnh của trên, Tiểu đoàn 49 rời trận địa, nhanh chóng tiến đánh những mục tiêu quy định. Chính trị viên Đoàn Xuân Thiềng giao nhiệm vụ cho một bộ phận ở lại giải quyết thương binh, liệt sĩ. Các cô bác và cơ sở địa phương đã tận tình đơn vị khâm liệm, chôn cất những chiến sĩ hy sinh. Lúc này, địch ở trung tâm huấn luyện Quang Trung đã bỏ chạy. Vũ khí quân trang, quân dụng... bọn chúng bỏ lại ngổn ngang, ngập tràn mặt đất. Đại đội 2 thu được một số xe quân sự của địch, sử dụng đưa đại đội tiến vào Sài Gòn, đánh chiếm căn cứ của Tiểu đoàn 5 quân cảnh Ngụy ở Ngã Bảy. Dọc đường tiến quân nhân dân từ các xóm ấp đổ ra đường chào đón đoàn quân giải phóng. Khắp nơi vang dậy tiếng reo hò "Chiến thắng rồi! Sài Gòn giải phóng rồi!". Những lá cờ đỏ sao vàng, cờ của Mặt trận giải phóng miền Nam xuất hiện khắp nơi, trên các ngôi nhà, các phương tiện giao thông, trên tay mọi người, mỗi lúc một nhiều. Không khí chiến thắng rung động lòng người, tràn ngập khắp các phố phường Sài Gòn. Đó cũng là lúc cờ quyết chiến quyết thắng của quân đội ta tung bay trên nóc Dinh Độc lập - phủ "Tổng thống” Ngụy quyền Sài Gòn, vào hồi 11 giờ 30 phút ngày 30/4/1975.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 05 Tháng Mười Hai, 2022, 07:32:13 pm
CHÂN DUNG NGƯỜI LÍNH CỤ HỒ


LÊ DUY VĂN
(Cựu chiến binh xã Thủy Sơn)


Đồng chí Đặng Đức là người xã Quảng Thanh, huyện Thủy Nguyên. Từ những ngày đầu kháng chiến chống Pháp (1947), đồng chí là một thanh niên đã tình nguyện lên đường bảo vệ Tổ quốc, trong đoàn quân được mang tên người anh hùng dân tộc "Lê Lợi", một đại đội chủ lực của huyện Thủy Nguyên. Từ một chiến sĩ, được sự giáo dục của Đảng và đào tạo của quân đội, đồng chí từng bước trở thành người chỉ huy trưởng cơ quan quân sự huyện Thủy Nguyên (Huyện đội dân quân), chiến đấu suốt cả hai thời kỳ chống Pháp và chống Mỹ.


Trong kháng chiến chống Pháp, đồng chí đã chiến đấu, tổ chức huấn luyện, phát động chiến tranh nhân dân, đào hầm hào, rào làng chiến đấu, đánh du kích, chông mìn cạm bẫy, phục kích, chống càn, giữ bí mật bảo vệ cơ sở, tài sản của nhân dân. Đồng chí là một cán bộ mưu trí, dũng cảm trong mọi tình huống, làm tốt công tác dân vận, được dân mến yêu, che chở giúp đỡ đã xây dựng đơn vị ngày một trưởng thành.


Trong kháng chiến chống Mỹ, Thủy Nguyên là một huyện ở phía đông bắc của thành phố có nhiều trận địa bảo vệ Hải Phòng. Mỹ leo thang hủy diệt miền Bắc. Hải Phòng là trọng điểm của không quân Mỹ ném bom bắn phá các mục tiêu cảng, nhà máy, điện, xi măng, sở dầu, thông tin, giao thông...


Với cương vị người chỉ huy trưởng quân sự của huyện Thủy Nguyên, đồng chí Đặng Đức đã triển khai nhiệm vụ bảo đam chi viện nhân tài vật lực cho miền Nam, đồng thời tổ chức lực lượng dân quân đánh trả máy bay tầm thấp của đế quốc Mỹ, hạn chế được nhiều thiệt hại do địch gây ra. Đồng chí đã cùng các đồng chí trong cơ quan quân sự huyện tổ chưc được một đơn vị trung đội dân quân gái Bạch Đằng, trang bị vũ khí, huấn luyện cho chị em kỹ thuật, chiến thuật máy bay tầm thấp; phối hợp với các đơn vị pháo phòng không của chủ lực và các trận địa tên lửa, đã bắn rơi 3 máy bay Mỹ và bắt sống giặc lái.


Cơ quan quân sự huyện Thủy Nguyên cũng tổ chức một ng đội công binh mang tên Lê Lợi làm nhiệm vụ rà phá, tháo gỡ làm vô hiệu hóa các loại bom từ trường, bom hẹn giờ, kể cả thủy lôi địch phong tỏa dưới sông, đường bộ, cầu cống, phà, đảm bảo giao thông thông suốt phục vụ chiến đấu lợi. Cả hai trung đội gái Bạch Đằng và công binh Lê Lợi đã dũng cảm chiến đấu không, sợ hy sinh gian khổ, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ, được các cấp khen thưởng và đã được vào lịch sử kháng chiến của huyện Thúy Nguyên anh hùng.


Nay đồng chí Đặng Đức đã nghỉ hưu về với đời thường, ở tuổi gần 80, bác vẫn mạnh khỏe, hăng hái tận tình tham gia nhiều công tác ở địa phương, gần gũi, góp nhiều ý kiến với các đồng chí lãnh đạo xã về tổ chức và xây dưng mọi phong trào, xây dựng làng văn hóa, tuyên truyền xây dựng quỹ khuyến học, khuyến tài trong họ. Bác đã tự nguỵện ủng hộ tiền thương tật hàng tháng của mình vào quỹ khuyên học của dòng họ. Bác là tấm gương sáng của Hội người cao tuổi xã Quảng Thanh. Bác là một trong những đồng chí tích cực quy tụ cán bộ chiến sĩ trong lực lượng vũ trang thuộc Huyện đội quản lý đã hoàn thành nhiệm vụ về hưu thành lập Ban liên lạc truyền thống Lực lượng vũ trang nhân dân của huyện Thủy Nguyên. Bác được bầu là trưởng ban liên lạc phụ trách 15 cụm và gần 340 hội viên trong toàn huyện; tổ chức sinh hoạt, thăm hỏi, mừng thọ, động viên nhau gương mẫu chấp hành mọi chủ trương chính sách của Đảng và Chính phủ, gìn giữ phẩm chất anh bộ đội Cụ Hồ.


Bác Đặng Đức thực sự là một đảng viên tận trung với Đảng, tận hiếu với dân, trọn tình, trọn nghĩa với đồng chí, đồng đội.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 05 Tháng Mười Hai, 2022, 07:34:04 pm
BƯU ĐIỆN HUYỆN THỦY NGUYÊN PHÁT HUY TRUYỀN THỐNG
MƯU TRÍ, DŨNG CẢM, SÁNG TẠO,
GIỮ VỮNG MẠCH MÁU THÔNG TIN LIÊN LẠC THÔNG SUỐT


ĐỖ VĂN NĂNG
(Giám đốc Bưu điện Thủy Nguyên)


Thủy Nguyên là một huyện rộng lớn của Hải Phòng, nằm ở phía Bắc thành phố, tiếp giáp huyện Yên Hưng - Đông Triều - Quảng Ninh, Kinh Môn - Hải Dương, phía Đông và Nam giáp nội thành, quận Hải An, huyện An Dương. Diện tích 242,7km2, dân số gần 30 vạn dân, có 37 xã, 2 thị trấn (Núi Đèo và Minh Đức). Có 4 sông lớn bao quanh huyện, phía Đông là sông Bạch Đằng, phía Nam là sông Cấm, phía Tây và Bắc là sông Đá Bạc và sông Kinh Thầy. Huyện có vị trí an ninh, quốc phòng hết sức quan trọng.


Tuy là một huyện đồng bằng nhưng về địa hình rất đặc biệt, phức tạp, có nhiều dãy núi đá vôi ở phía Bắc và Tây Bắc huyện; có quốc lộ 10, đường 353, đường 351 nối liền với đường 18 ra vùng mỏ Quảng Ninh với khu căn cứ địa cách mạng, Đệ tứ chiến khu Đông Triều xưa kia.


Do những đặc điểm như trên nên khi quân Pháp đánh chiếm Hải Phòng chúng đã lao vào củng cố áo giáp phía Bắc và Đông Bắc thành phố rất quyết liệt.

Từ ngày 20/11/1946, các lực lượng ta rút ra bên ngoài, nhằm bảo toàn lực lượng và ngăn chặn bước tiến của chúng, tạo mọi điều kiện cho nhân dân ta vừa tham gia chiến đấu, vừa tiêu thổ kháng chiến, chuẩn bị cho cuộc trường kỳ kháng chiến lâu dài gian khổ.


Từ cuối tháng 12/1947, đội giao thông, liên lạc đã hình thành đưa chuyển thư từ, công văn, dẫn cán bộ, bảo vệ cán bộ ở huyện đến xã. Đồng chí Cao Sinh Côn là người đầu tiên làm việc này, rồi đồng chí Phạm Văn Giá là nhân viên đưa đón đồng chí Thanh người Hợp Thành về làm phụ trách giao
thông liên lạc ở Huyện đội Thủy Nguyên.


Cuối năm 1949, đầu năm 1950, cơ quan Thành ủy, UBND thành phố chuyển từ Thái Bình về Đèo Voi, căn cứ địa cách mạng của thành phố Hải Phòng.

Lúc này, căn cứ vào yêu cầu phục vụ cho sự chỉ đạo của Thành ủy Hải Phòng, Thủy Nguyên phải củng cố và là cầu nối liền đưa đón cán bộ từ căn cứ địa cách mạng vào nội thành hoạt động. Huyện ủy Thủy Nguyên quyết định thành lập Phòng giao thông liên lạc do đồng chí Bùi Văn Cật làm Trưởng phòng giao thông huyện. Đồng chí Bùi Hữu Hới làm Phó trưởng phòng được một thời gian. Sau đồng chí Cật hy sinh, đồng chí Hới thay. Nhiệm vụ của Phòng giao thông là tổ chức đường dây từ Đèo Voi qua huyện Thủy Nguyên vào nội thành, sau được giao bắt liên lạc với Mặt trận đường 5.


Tình hình Thủy Nguyên lúc này: quân đội viễn chinh Pháp và bọn phản động ra sức củng cố, càn quét bắn giết nhân dân, “tát nước bắt cá”. Nhưng với tinh thần hy sinh, sáng tạo, gan dạ và hết mình vì nhiệm vụ được giao nên chỉ một thời gian rất ngắn, các đồng chí thuộc Phòng giao thông đã hoàn thành xuất sắc, thành lập được 3 đường dây liên lạc từ căn cứ Đèo Voi qua huyện Thủy Nguyên và từ huyện đến cơ sở. Đặc biệt thành lập một đường dây dành cho các đồng chí lãnh đạo Thành ủy vào cơ sở nội thành, cụ thể như sau:

Một đường dây đầu tiên hoàn thành: từ căn cứ Đèo Voi qua suối Tràng Bảng, vượt đường số 18 qua đò Mộ, sông Đá Bạc về tạm trú chân nhà chị Hà Thị Bách ở thôn Hoàng Thạch, xã Minh Tân, Kinh Môn (Hải Dương ngày nay). Đến tối ngày hôm sau, từ Hoàng Thạch qua sông Hàn Mấu về làng Trại Sơn, sau đó chuyển về làng Vũ Lao nhà ông Mạc Văn Cạo, rồi sang Thanh Lãng đến nhà ông Nguyễn Văn Xước, rồi đi Trà Sơn đến nhà bà Tiền.


Sau khi tổ chức và củng cố đường số 1 xong, tiếp tục đường số 2: từ khe Chân vượt đường 18 qua sông Đá Bạc, vào thôn Doãn Động trú chân. Song qua đò Nồi sang Hà Phú, Hà Luận vượt thẳng ra 6 phiên thôn xưa, nay là xã An Lư (đường này là một đường vào nội thành). Sau này, các đồng chí Hoàng Ngọc Mậu, Tô Duy, Nguyễn Văn Bút đều đi vào nội thành (và ngược trở lại). Đặc biệt có một lần dẫn đường đồng chí Đỗ Mười qua đường này. Mỗi lần đưa các đồng chí lãnh đạo thành phố và lãnh đạo Mặt trận đường 5, đều có cán bộ chiến sĩ đại đội Lê Lợi bảo vệ.


Đường thứ 3: Từ Đèo Voi qua Năm Mẫu, vượt Đèo Quang Hái qua đường số 18, vượt sông Đá Bạc, qua sông Giá sang Mỹ Giang về Trúc Sơn, vào nhà bà Từ thôn Trúc Sơn. Cũng từ đây tỏa đi các nơi khác như: Kiền Bái, Thiên Hương (nhà ông Thuộc) thôn Trinh Hưởng là trạm đón tiếp thường xuyên đi các nơi khác trong huyện, trong thành phố.


Trong các lần tổ chức củng cố cơ sở, đảm bảo bí mật từ đầu cho đến hòa bình lập lại năm 1954, việc đưa đón, chuyển thư từ đến cơ sở cũng còn một số bất trắc xảy ra, như vào đầu năm 1951, đồng chí Phạm Văn Giả và đồng chí Phạm Văn Tô mang theo tài liệu, công văn đưa một số đồng chí cán bộ xuống cơ sở. Trên đường từ Thái Lai qua xóm Cầu Vàng - Kiền Bái, Thủy Nguyên thì bị địch bắt. Các đồng chí đã nhanh chóng cất giữ được tài liệu nên địch chỉ bắt được người, chúng đưa các đồng chí về đình Kiền Bái tra tấn rất dã man. Đồng chí Phạm Văn Tô đã đứng dậy chỉ thẳng vào mặt chúng: "Chúng mày là kẻ bán nước, tao mới là cộng sản, cán bộ, nhân dân là những người không có tội, yêu cầu chúng mày thả nhân dân ra". Sau đó, đồng chí Tô hô vang: Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn năm!", "Đả đảo thực dân Pháp”.


Trận thứ 2 vào tháng 2/1954. Một tổ có 2 cán bộ và 2 đồng chí giao thông viên từ An Sơn qua bến 1 đến cánh đồng Việt Khê, qua sông Câu Tử đến cánh đồng xóm bãi Thanh Lãng thì gặp địch phục kích. Chúng bắt được hai đồng chí cán bộ, bắn đồng chí Côn bị thương vào chân, còn đồng chí Xước cầm tài liệu khéo léo chạy thoát. Đồng chí Côn bị địch bắt, sau hy sinh. Phải nói rằng, việc tổ chức hoàn thành được các tuyến giao thông liên lạc cho Đảng, chính quyển các cấp lúc này là sự mưu trí, gan dạ, dũng cảm giữ vững và phục vụ đắc lực cho sự chỉ đạo các cấp của các đồng chí ở phòng Giao thông - Bưu điện. Hòa bình lập lại, Thủy Nguyên nằm trong khu tập kết 300 ngày của địch. Nhiệm vụ của phòng Giao thông - Bưu điện này cũng hết sức nặng nề, phục vụ cho công tác chỉ đạo, tiếp quản 300 ngày và củng cố cơ sở vật chất cho đơn vị.


Trong suốt thời kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Bưu điện Thủy Nguyên được sự quan tâm chỉ đạo, lãnh đạo của Đáng, chính quyền các cấp. Tập thể cán bộ, công nhân viên luôn có tinh thần gan dạ, dũng cảm, mưu trí, năng động sáng tạo vượt lên trên nhiều khó khăn, gian khổ giữ vững mạch máu thông tin liên lạc, góp phần đắc lực vào công cuộc chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Trong công cuộc xây dựng CNXH, trong công cuộc đổi mới của Đảng và đang tiếp tục phát huy những thành tích đã đạt được bước vào hội nhập và cạnh tranh bền vững trong giai đoạn nền kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế, xứng đáng và phát huy thành tích đã đạt được, đưa mạng lưới bưu chính viễn thông ngang tầm nhiệm vụ mới.


Đến nay, để phù hợp với chức năng nhiệm vụ mới, phòng Giao thông - Bưu điện được đổi tên là Bưu điện huyện Thủy Nguyên. Thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Bưu điện huyện Thủy Nguyên không ngừng phát triển mạng lưới bưu chính viễn thông trên địa bàn huyện, thi đua nâng cao chất lượng, phục vụ, đa dịch vụ Toàn huyện hiện có 34 điểm Bưu điện văn hóa xã, hàng trăm đại lý, 9 bưu cực và kiốt, khai thác đa dịch vụ. Mạng viễn thông được hiện đại hóa, áp dụng điều khiển học, điện tử phát triển. Toàn huyện có 6 tổng đài vệ tinh, có hàng ngàn km cáp đồng, cáp quang được lấp đặt hết toàn huyện. Số máy điện thoại riêng ngành quản lý 23.000 chiếc, đạt 7,6 máy/100 dân, đáp ứng thỏa mãn về thông tin liên lạc phục vụ cho sự chỉ đạo của Đảng, chính quyền các cấp, thông tin kinh tế, xã hội, văn hóa, tình cảm của nhân dân.


Vinh dự và phát huy truyền thống Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân của huyện Thủy Nguyên và của Bưu điện thành phố, Bưu điện huyện Thủy Nguyên đã thi đua sôi nổi, luồn luôn hoàn thành nhiệm vụ chính trị trên giao, xứng đáng là đơn vị luôn dẫn đầu các đơn vị khối huyện, thị. Bưu điện huyện Thủy Nguyên vinh dự được Nhà nước tặng nhiều phần thưởng cao qúy: Huân chương Chiến công hạng Nhì vê thành tích chiến đấu và phục vụ chiến đấu; Huân chương Lao động hạng Ba thời kỳ đổi mới; nhiều năm nhận cờ của ngành Bưu chính Viễn thông Việt Nam, bằng khen, giấy khen của các ngành, các cấp từ Trung ương đến địa phương.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 05 Tháng Mười Hai, 2022, 07:35:44 pm
MỘT MẨU CHUYỆN QUÊ*
(“Một mẩu chuyện quê" là diễn ca của bà Chu Thị Mộc Thanh, nguyên xã đội phó Kỳ Sơn huyện Thủy Nguyên thời kỳ chống Pháp, nay sinh sống tại Hà Nội. Vì diện tích có hạn, chúng tôi trích đăng một số đoạn)

CHU THỊ MỘC THANH

   Mùa xuân nảy lộc sinh sôi
   Tuổi xuân đẹp nhất cuộc đời người ta.
   Có xuân là sẽ có hoa
   Trời đất giao hòa quê được "Lại Xuân".
   …
   Thủy Nguyên mảnh đất anh hùng
   Bao đời chống giặc sánh cùng nước non.
   Phù sa từ Bạch Đằng Giang
   Bao dung nâng bước, cháu con Tiên Rồng.
   …
   Nhà cao điện sáng lung linh
   Đóng tàu nhà máy Phà Rừng mênh mang.
   Xi măng nhà máy Chinh Phong
   Ngược xuôi trong nước, còn thăm nước ngoài.
   Cầu đường dài rộng khắp nơi
   Tàu thuyền tấp nập để khơi nguồn hàng.
   Nhân dân lao động chuyên cần
   Sống đời no ấm, vui xuân tưng bừng.
   Nhưng ngày xưa: Có nhiều lần
   Giặc Pháp chiếm đóng muôn phần gian nan.
   Bảo vệ cho tuyến đường năm (5)
   Và đường mười tám (18) chúng làm vành đai.
   Bốt đồn chiếm đóng núi cao
   Nghênh ngang chúng vào, bất kể ngày đêm.
   Bắt người cướp của liên miên
   Nhân dân vất vả ưu phiền cực thay.
    …
   Trong làng vắng bóng đàn ông
   Cửa nhà xơ xác, ruộng đồng bỏ hoang.
   Tây lính đầy khắp xóm làng
   Xăm xoi khắp nẻo để tìm "Việt Minh"
   Vài ngày bắt dân ra đình
   Ở nhà gà lợn chúng rình bắt luôn.
   Làng nào cũng bị chúng dồn
   Cây cối chặt hết không còn nơi nao.
   Từ ấy: các anh luôn về
   Hỏi han, hướng dẫn, thực thi việc làm.
   Địch vận gây mối trong đồn
   Đưa tin dẫn lối các thôn xã mình.
   Khi nào quân địch động binh
   Nhân mối trong bốt, tình hình chuyển
   Biết được sức địch, sức ta
   Cấp trên hạ lệnh cho ta diệt đồn.
   Học tập bộ đội Mạnh Hùng
   Đánh đoàn xe địch tan tành năm xưa.
   Đông Xuân chiến dịch thi đua
   Hai đồn cây Cọng ta bê đi liền.
   …
   Súng đạn thu hàng mấy thuyền
   Tù binh bắt được không tên nào còn.
   Thắng trận, dân ta vui mừng
   Trận này lại thắng vang vùng tự do.
   Trả thù trận đánh đêm qua
   Sáng nay địch bắt bà già trẻ em.
   Đem đến Núi Đèo để giam
   Khảo tra xét hỏi không làm được chi.
   Các mẹ, các chị rất nhiều
   Tám thôn kể hết bao nhiêu người hiền.
   Lực lượng nòng cốt đầu tiên
   Đấu tranh, phá giặc giữ yên xóm làng.
   Nuôi con kiếm sống giúp chồng
   Tham gia đánh giặc chiến công nào bằng.
   Dù đã có lệnh hòa bình
   Vẫn còn tranh đấu đòi tình mẹ con.
   Các mẹ, các chị Kỳ Sơn
   Phù Ninh, Thanh Lãng lên đồn đòi con.
   Phong trào mạnh mẽ dấy lên
   Làm cho giặc Pháp đảo điên hãi hùng.
   Quy định tiếp quản từng vùng
   Ba trăm ngày ấy: vô cùng gian nan
   Đấu tranh giữ lấy người mình
   Không bỏ gia đình theo giặc vào Nam.
   Khẩu hiệu vẫn được hô vang
   Giặc Pháp phải rút khỏi làng xóm ta.
   Có người nay đã đi xa
   Cháu con vẫn giữ nết nhà ngày xưa.
   Kính dâng các mẹ, các bà
   Những người dâàn tộc chúng ta tôn sùng.
   Ngày nay thống nhất non sông
   Dâng lên các mẹ anh hùng nén hương.
   Kính chúc đất mẹ anh hùng
   Địa linh nhân kiệt con Rồng cháu Tiên.
   Đi đâu vẫn nhớ Thủy Nguyên
   Núi sông trùng điệp thiên niên vững bền!

Hà Nội 3/2003


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 05 Tháng Mười Hai, 2022, 07:39:57 pm
Phần VII
VỀ CHIẾN THẮNG BẠCH ĐẰNG NĂM 938

BUỔI TỌA ĐÀM SINH HOẠT SỬ VỀ
“ĐỨC NGÔ QUYỀN VỚI CHIẾN THẮNG BẠCH ĐẰNG GIANG NĂM 938”

Tổng hợp của NGUYỄN ĐỨC NHIẾP
Chi hội lịch sử quân sự HP


Đầu xuân Bính Tuất 2006, để chuẩn bị kỷ niệm 60 năm ngày Hải Phòng kháng chiến chống Pháp (20/11/1946 - 20/11/2006). Chi hội Khoa học lịch sử quân sự Hải Phòng tổ chức buổi tọa đàm sinh hoạt sử với chủ đề “Đức Ngô Quyền với chiến thắng Bạch Đằng Giang năm 938”.


Tới dự có các đại biểu Hội sử học Hải Phòng, Bộ Tư lệnh Quân khu 3, Bộ Chỉ huy Quân sự thành phố Hải Phòng, Liên hiệp các Hội khoa học kỹ thuật Hải Phòng, Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn Hải Phòng, Ban biên tập sách “Đường 5 anh dũng quật khởi’' cùns toàn thể hội viên Chi hội Khoa học lịch sử quân sự Hải Phòng.


Hội nghị đã nghe bản khảo cứu, tham luận rất súc tích, bổ ích, đầy nhiệt huyết của Đại tá Võ An Đông, Chủ tịch Chi hội Khoa học lịch sử quân sự Hải Phòng, cùng những, tham luận của các đại biểu khác nói về thân thế, sự nghiệp Ngô Quyền với chiến thắng Bạch Đằng năm 938.


1- Hội nghị thống nhất nhận định của nhà sử học Lê Văn Hưu ở thế kỷ XIII đã viết như sau:

"Tiền Ngô Vương có thể huy động quân mới nhóm họp của đất Việt ta mà phá được trăm vạn quân của Lưu Hoằng Thao mở nước xưng vương làm cho người phương Bắc không dám sang nữa. Có thể bảo là một cơn giận mà được dân, mưu cũng giỏi, mà đánh cũng giỏi vậy. Tuy chỉ xưng vương chưa lên ngôi hoàng đế và đổi niên hiệu, nhưng chính thống của nước Việt đã nối dài được”.


Cho nên chiến thắng Bạch Đằng năm 938, chiến công của Ngô Quyền chống quân Nam Hán lần thứ nhất khẳng định nền độc lập hoàn toàn của nước ta từ ngày đó.


2- Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 có ý nghĩa quân sự rất to lớn. Ngô Quyền đã lợi dụng ảnh hưởng của nước triều lên xuống rất mạnh, huy động quân và dân lên rừng đẵn cây gỗ dài, đầu đẽo nhọn và bịt sắt, tổ chức một trận địa cọc ngầm dưới lòng sông có quân mai phục hai bên bờ. Ông dùng toàn thuyền nhẹ đánh nhử quân Nam Hán vượt qua hàng cọc ngầm mà không biết. Khi nước triều rút, Ngô Quyền dốc toàn lực ra đánh trở lại, từ phía thượng lưu đánh xuống, hai bèn bờ đánh tạt ngang làm quân Nam Hán rối loạn, thuyền xô vào bài cọc ngầm, quân địch bị giết rất nhiều, trong đó có tướng giặc là Lưu Hoằng Thao.


Về sau, dựa theo kinh nghiệm bãi cọc ngầm của chiến thăng 938 mà năm 981 (43 năm sau), Lê Hoàn đã đánh tan quân Tống xâm lược và Trần Hưng Đạo năm 1288 (tức 300 nam sau), đã chiến thắng rực rỡ đánh tan quân Nguyên Mông cũng trên sông Bạch Đằng, cũng dùng bãi cọc ngầm để giết giặc có nhiều hiệu quả.


3- Hội nghị cũng thống nhất nhận định của nhà chí sĩ yêu Phan Bội Châu ở đầu thế kỷ 20 coi Ngô Quyền là vị Tổ Trung hưng đầu tiên của dân tộc Việt Nam, bời vì Ngô Quyền có công lớn đánh đuổi quân Nam Hán ở thế kỷ 10 khẳng định độc lập tự chủ hoàn toàn của nước ta từ ngày đó.


Theo tiến trình lịch sử, sau chiến thắng 938 của Ngô Quyền, chỉ có lần thứ hai, đất nước ta vào thế kỷ 15 lại bị quân nhà Minh đô hộ trong 20 năm, nhưng rồi Lê Lợi nổi lên khởi nghĩa ở Lam Sơn đuổi sạch quân nhà Minh, giành lai độc lập cho nước nhà. Cho nên nhà chí sĩ Phan Bội Châu mới tôn vinh Lê Lợi (Lê Thái Tổ) là vị Tổ Trung hưng thứ 2 của dân tộc Việt Nam.


Cho tới giữa thế kỷ 19 sang giữa thế kỷ 20 (từ 1867 - 4/1975), trải qua hơn 100 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta đa đấu tranh bền bỉ và lâu dài, lần lượt giành thắng lợi từ Cách mạng Tháng Tám 1945 đến Đại thắng mùa Xuân năm 1975, giành được độc lập, thống nhất đất nước đến ngày nay.


Hội nghị nhận định: Kể từ vị Tổ Trung hưng thứ nhất là Ngô Quyền, đến vị Tổ Trung hưng thứ hai là Lê Thái Tổ, đây có phải là vị Tổ Trung hưng thứ ba của thời đại Hồ Chí Minh? Để đáp ứng yêu cầu đúng với thực tế lịch sử của đất nước và để xây dựng lòng tự hào dân tộc, hội nghị tha thiết đề nghị với các giới có thẩm quyền về lịch sử, với giới sử học toàn quốc nên ghi thêm sự tôn vinh đó là tôn vinh người Tổ Trung hưng thứ ba của dân tộc Việt Nam ở thế kỷ 19 và thế kỷ 20 của thời đại Hồ Chí Minh vì đã có công đánh đuổi thực dân cũ và mới, giành độc lập và thống nhất cho đất nước.


4- Hải Phòng chính là địa bàn đã diễn ra chiến công chói lọi trận Bạch Đằng năm 938. Từ chiến công này, nhân dân Hải Phòng tỏ lòng ngưỡng mộ và tôn vinh Ngô Quyền bằng cách xây dựng nhiều đình, đền, miếu thờ, bằng những truyền thuyết, thần tích, bia ký, câu đối thơ và bằng cách tổ chức lể hội của nhân dân.


Tại hội nghị, ông Nguyễn Đức Nhiếp, hội viên Hội khoa học lịch sử Hải Phòng và ông Nguyễn Thế Câu, cán bộ hưu trí tại quận Hải An, có đề xuất thay đổi tên đảo từ Đình Vũ (dấu huyền) thành tên gốc là Định Vũ (dấu nặng). Luận cứ của 2 ông là Ngô Quyền đi thị sát chiến trường để bố trí trận địa đóng cọc gỗ trên đảo. Sau chiến thắng, Ngô Quyền đã đặt tên cho đảo là Định Vũ với ý nghĩa là đã “Định Vũ” công tại đây. Hai ông đã dẫn chứng những cứ liệu lịch sử để khẳng định chính xác quan điểm về tên đảo, đồng thời đề nghị Hội sử học Hải Phòng, kiến nghị với thành phố thay lại các dấu ấn bảng biển, sửa lại các tài liệu, sách vở đã viết sai là Đình Vũ.


Hội nghị đồng ý để hai ông viết lại hồ sơ trình bày với Hội sử học thành phố và các ngành chức năng để nghiên cứu và làm tờ trình UBND thành phố quyết định việc định lại tên Định Vũ.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 12 Tháng Mười Hai, 2022, 08:57:28 pm
CHIẾN THẮNG BẠCH ĐẰNG NĂM 938 CỦA NGÔ QUYỀN


VÕ AN ĐÔNG

1- Mấy nét về lịch sử theo sách giáo khoa tập 6 và tập 7

Ngô Quyền (898 - 944) người Đường Lâm (Sơn Tây), cha là Ngô Môn. Ngô Quyền có sức khỏe, là tướng giỏi đã theo Dương Diên Nghệ chống quân Nam Hán lần 1, được Dương Diên Nghệ tin yêu và gả con gái cho, được phong làm Thứ sử, trấn giữ Ái Châu (Thanh Hóa). Năm 937, Dương Diên Nghệ bị một viên tướng của mình là Kiều Công Tiễn giết chết và đoạt ngôi. Được tin, Ngô Quyền kéo quân ra Bắc, Kiều Công Tiễn vội cho người sang cầu cứu nhà Nam Hán. Năm 938, vua Nam Hán nhân cớ đó, sai con là Lưu Hoằng Thao chỉ huy một đạo quân thủy sang đánh Việt Nam. Hoằng Thao đóng quân ở sát biên giới nước ta. Ngô Quyền tiến quân về Đại La (Hà Nội ngày nay) bắt giết Kiều Công Tiễn và chuẩn bị chống quân Nam Hán ở sông Bạch Đằng. Sông Bạch Đằng, tên Nôm là sông Rừng, vì hai bên sông toàn rừng rậm hải lưu thấp, độ dốc không cao, ảnh hưởng của nước triều lên xuống rất mạnh, lòng sông rộng mênh mông, ông đã huy động quân và dân lên rừng đẵn hàng ngàn cây gỗ dài đầu đẽo nhọn và bịt sắt, rồi đem đóng xuống lòng sông Bạch Đằng thành một trận địa cọc ngầm, có quân mai phục hai bên bờ.


2- Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 khẳng định nền độc lập hoàn toàn của đất nước ta từ ngày đó.

Vào cuối năm 938, đoàn thuyền nhẹ của Lưu Hoằng Thao kéo vào vùng biển nước ta. Ngô Quyền cho một toán thuyền nhẹ ra đánh nhử quân Nam Hán. Lúc nước triều đang lên, quân Lưu Hoàng Thao đuổi theo, vượt qua hàng cọc ngầm mà không biết. Khi nước triều rút, Ngô Quyền dốc toàn lực ra đánh trở lại, địch chống không nổi phải rút chạy ra biển. Quân ta từ phía thượng lưu đánh xuống, từ hai bên bờ đánh tạt ngang, quân Nam Hán rối loạn, thuyền xô vào bãi cọc nhọn, phần bị giết, phần bị chết đuối. Hoằng Thao bị giết tại trận. Vua Nam Hán được tin hốt hoảng vội hạ lệnh thu quân về nước. Trận Bạch Đằng của Ngô Quyền hoàn toàn thắng lợi. Sau chiến thắng Bạch Đằng năm 938, Ngô Quyền lên ngôi vua, đóng đô ở cổ Loa thiết lập bộ máy triều đình, xưng vương thay thế bộ máy cai trị cũ của họ Khúc trước đây. Năm 944, Ngô Quyền làm vua được 6 năm thì mất.


3- Chiến thắng Bạch Đằng năm 938, theo tư liệu lịch sử đã thu thập được:

a) Chính sử nước ta và Trung Quốc chép về sự kiện này quá sơ sài, quá gọn theo lối chép gộp sự kiện nên ngày nay các nhà sử học nước ta tuy đã xác nhận sự kiện chiến thắng Bạch Đằng là có thực trong lịch sử, đã ghi được những nội dung chính yếu của sự kiện, nhưng còn nhiều nghi vấn lịch sử cần tiếp tục làm sáng tỏ thêm như thời gian, địa điểm bãi cọc, cách bày binh bố trận, so sánh binh lực của địch và của ta v.v... vẫn chưa xác định dứt khoát.


b) Tuy nhiên, việc chép sử tuy còn sơ sài, gọn nhẹ, nhưng ngay thế kỷ thứ XIII, thời nhà Trần, nhà sử học nổi tiếng Lê Văn Hưu đã viết trong Đại Việt sử ký toàn thư gổm 30 quyển. Hiện nay không còn nguyên vẹn, còn lại 8 quyển.

   Nhà sử học Lê Văn Hưu đã viết như sau:

“Tiền Ngô Vương có thể lấy quân mới nhóm họp của đất Việt ta mà phá được trăm vạn quân của Lưu Hoằng Thao mở nước xưng vương làm cho người phương Bắc không dám sang nữa. Có thể bảo là một cơn giận mà yên được dân, mưa cũng giỏi mà danh cũng giỏi vậy. Tuy chỉ xưng vương chưa lên ngôi hoàng đế và đổi niên hiệu nhưng mà chính thống của nước Việt ngõ hầu đã nối lại được


c) Vào năm 938, lịch sử lại chứng kiến chiến thắng của anh hùng dân tộc Ngô Quyền trước quân xâm lược Nam Hán trên sông Bạch Đằng, xác lập nền tự chủ bằng một chiến công hên hách, chấm dứt một nghìn năm Bắc thuộc. Nhà yêu nước Phan Bội Châu ở đầu thế kỷ XX đã tôn vinh đức Ngô Quyền là vị Tổ Trung hưng của dân tộc Việt Nam.


Tiếp đó, hai thập kỷ đầu của thế kỷ thứ 15, nhà Minh lại đặt ách đô hộ lên đất nước Việt Nam. Một cuộc khởi nghĩa dấy lên từ đất Lam Sơn, đứng đầu là anh hùng dân tộc Lê Lợi và danh thần Nguyễn Trãi. Sau 10 năm chiến đấu, đất nước Đại Việt lại sạch bóng quân thù, mở ra một cuộc hưng thịnh mới cho nền tự chủ Đại Việt. Nhà yêu nước Phan Bội Châu lại tôn vinh đức Lê Thái Tổ là vị Tổ Trung hưng thứ hai của dân tộc Việt Nam.


Năm trăm năm sau, năm 1945, bằng Cách mạng Tháng Tám năm 1945, phải chăng ta đã mở ra một cuộc trung hưng mới - cuộc trung hưng thứ ba sau cuộc trung hưng thứ nhất do vị tổ trung hưng là Ngô Quyền và sau cuộc trung hưng thứ hai do Lê Lợi lãnh đạo (tên gọi là cuộc trung hưng dân tộc Việt Nam thứ ba tới nay chính sử chưa chính thức xác nhận mà do tạp chí “Xưa và Nay” đã gián tiếp xác nhận trên số 243 tháng 5-2005), thế mà những thành tựu và thử thách của 60 năm qua là bằng chứng về nguồn lực và những giá trị tinh thần của cuộc cách mạng gắn liền với tên sử dân tộc Việt Nam như của Ngô Quyền và Lê Thái Tổ trên hành trình dựng nước và giữ nước.


d) Kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Bộ Quốc phòng, Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh, Ban Văn hóa tư tưởng Trung ương đã tổ chức hội thảo khoa học: “Đại thắng mùa xuân năm 1975 - Bản tĩnh và trí tuệ Việt Nam Nhân dịp này, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã có bài viết về chủ đề này, đã gửi đăng trên tạp chí “Xưa và Nay”, có đoạn viết về Ngô Quyền như sau: “Một điều hiếm thấy trong lịch sử là các bộ tộc người Việt Nam cổ sinh sống trên mảnh đất này đã sớm có một triết lý sống, một nên văn hóa dân tộc mà hạt nhân là chủ nghĩa yêu nước, tinh thần đấu tranh bất khuất để làm chủ thiên nhiên, làm chủ xã hội, cố kết với nhau trong một quốc gia thống nhất chống lại thiên tai và giặc ngoại xâm. Chính nhờ sức mạnh ấy của nền văn hóa, mà dưới ách đô hộ hơn một nghìn năm của phong kiến phương Bắc, dân tộc ta không bị đồng hóa và đã vùng lên giành lại nền độc lập cho đến khi vị tổ trung hưng đầu tiên là anh hùng dân tộc Ngô Quyền đánh thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đẳng, kỷ nguyên một nghìn năm độc lập, tự chủ dần được mở ra. Suốt trong một nghìn năm ấy, dân tộc ta đã đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược lớn mạnh hơn nhiêu lần từ Tống, Nguyên, Minh, Thanh”.

Tiếp đó, Đại tướng Võ Nguyên Giáp lại phân tích:

“Trong thời đại Hồ Chí Minh, có sự phát triển mới về bản chất so với các thời kỳ trước là: Giải phóng dân tộc gắn hên với giải phóng xã hội... “Sự thay đổi về bản chất đó đã giải phóng sức mạnh tinh thần và vật chất vô cùng to lớn của nhân dân ta trong cách mạng và chiến tranh cách mạng”.

Tại đây, Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ nhắc đến Ngô Quyền là vị tổ trung hưng đầu tiên của dân tộc Việt Nam mà chưa thấy xác nhận Lê Lợi là vị tổ trung hưng thứ hai, hay thời đại Hồ Chí Minh là vị tổ trung hưng thứ ba của dân tộc Việt Nam. Nhưng qua phân tích bài báo ta cũng hiểu sứ mệnh lịch sử của Lê Lợi ở thế kỷ 15 và của Hồ Chí Minh ở thế kỷ 20, khi đã khỏi ách đô hộ 83 năm của thực dân Pháp và đã giành thắng lợi đánh Mỹ là những vị tổ trung hưng thứ hai và thứ ba vậy, nhưng không nên quên những chiến thắng của Lê Hoàn và Lý Thường Kiệt thời chống quân Tống, của Trần Hưng Đạo thời chống quân Nguyên Mông và chiến thắng của Quang Trung Nguyễn Huệ thời chống quân nhà Thanh. Những chiến thắng này rất là vĩ đại, được nhân dân ta hết lòng ngưỡng mộ và tôn thờ những chiến thắng đó nhưng chỉ mang tính chất giữ gìn dân tộc, bảo vệ độc lập, chưa mang tính chất đấu tranh giành lại độc lập, thoát khỏi ách đô hộ của ngoại bang.


e) Từ năm 1942, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết tác phẩm thuộc dạng văn vần rất xúc tích, dễ nhớ, dễ thuộc; tác phẩm gọi là Lịch sử nước ta. Với tác phẩm đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khởi nguồn cho dòng chảy lịch sử của dân tộc, Người đã chỉ ra cho chúng ta thấy rằng tinh thần yêu nước là truyền thống qúy báu của nhân dân ta và để thực hiện điều đó trước hết mỗi người dân phải hiểu rõ lịch sử đấu tranh anh dũng bất khuất của dân tộc trong lịch sử nước ta. Nói về Ngô Quyền, người chỉ có hai câu ngắn gọn nhưng đầy ý nghĩa sâu sắc, đó là:

Ngô Quyền quê ở Đường Lâm
Cứu dân ra khỏi cát lầm ngàn năm
.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 12 Tháng Mười Hai, 2022, 08:59:52 pm
4- Ý nghĩa lịch sử của chiến thắng Bạch Đằng năm 938

Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 do anh hùng dân tộc Ngo Quyền tổ chức và chỉ huy có nhiều ý nghĩa lịch sử:

a) Ở đầu thế kỷ 10, Khúc Thừa Dụ giành quyền tự chủ cho đất nước năm 906, nhà Đường buộc phải phong Khúc Thừa Dụ làm Tiết độ sứ An Nam đô hộ, tức là vẫn giữ chức vụ làm quan cho nhà Đường. Tiếp đó, Dương Đình Nghệ là tướng cũ của Khúc Hạo, con của Khúc Thừa Dụ, nổi lên chiếm được Tống Bình (Hà Nội) và đón đánh quân Nam Hán đến cứu viện. Quân Nam Hán lần thứ nhất bị đánh tan tác. Dương Đình Nghệ sau chiến thắng quân Nam Hán chỉ dám xưng là Tiết độ sứ.


Năm 938, kháng chiến chống quân Nam Hán lần thứ hai và chiến thắng Bạch Đằng lịch sử khẳng định nền độc lập của nước ta. Từ đó, chấm dứt 1000 năm Bắc thuộc. Do đó, nước ta có 1000 năm đấu tranh giành lại độc lập, tổ tiên đã để lại cho chúng ta:

- Lòng yêu nước.

- Tinh thần đấu tranh bền bỉ vì độc lập của đất nước.

- Ý thức vươn lên bảo vệ nền văn hóa dân tộc.

Chính từ sau chiến thắng Bạch Đằng năm 938 của Ngô Quyền, các thế hệ sau đã nêu cao lòng yêu nước, tinh thần đấu tranh vì độc lập của đất nước, ý thức vươn lên bảo vệ nền văn hóa dân tộc. Sau đó chúng ta đã có chiến công oanh liệt của Lê Hoàn năm 981 cũng ở sông Bạch Đằng sau 43 năm chiến thắng Bạch Đằng năm 938, đã chiến thắng rực rỡ trên sông Như Nguyệt (sông Cầu) năm 1077 của Lý Thường Kiệt chống quân Tống xâm lược, chúng ta đã 3 lần chống quân Nguyên Mông ở thế kỷ 13 của anh hùng dân tộc Trần Quốc Tuấn với chiến thắng rực rỡ trên sông Bạch Đằng lịch sử năm 1288 và cuối cùng với chiến thắng oanh liệt thần tốc Quang Trung năm 1789 so với chiến công Bạch Đằng của Ngô Quyền đã xảy ra sau hơn 800 năm (938 - 1789 đúng là sau 851 năm) Quang Trung đã đuổi sạch bóng quân Thanh xâm lược tại trận Đống Đa lịch sử.


Cho nên, những chiến công của Lê Hoàn, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Quang Trung chống quân xâm lược đáng được tôn vinh hết mức, nhưng những chiến công đó dù sao cũng bắt nguồn từ chiến thắng của Ngô Quyền.


b) Từ chiến công 938 trên sông Bạch Đằng của Ngô Quyền đã chấm dứt 1000 năm đô hộ chế độ Bắc thuộc. Trước đó có những cuộc khởi nghĩa giành thắng lợi như cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng năm 040 - 043, Bà Triệu năm 248, cuộc khởi nghĩa của Lý Bí (Lý Nam Đế) năm 542 - 602, rồi đến cuộc khởi nghĩa Phùng Hưng (Bố Cái Đại Vương) năm 786 - 791. Những cuộc khởi nghĩa này chỉ đảm bảo được thời sian ngắn, kết cuộc lại rơi vào công cuộc đô hộ Bắc thuộc.


Nhưng từ chiến thắng quân Nam Hán lần thứ hai trên sông Bạch Đằng năm 938, Ngô Quyền đã dám xưng vương, mở ra một kỷ nguyên mới, dân tộc độc quyển cho tới ngày nay đã trên 1000 năm rồi mà nước nhà vẫn giữ được độc lập với ngoại bang, giữ được nền tự chủ, xây dựng nển văn hóa đặc sắc của riêng nước Việt Nam.


Chính vì lẽ đó mà nhà chí sĩ ái quốc Phan Bội Châu (thế kỷ 20) đã suy tôn Ngô Quyền là vị Tổ Trung hưng đầu tiên của dân tộc Việt Nam, sau này được Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã nhắc lại suy tôn đó của Phan Bội Châu trên bài báo đã được đăng trên tạp chí “Xưa và Nay" số 234 - IV - 2005 trong hội thảo khoa học “Đại thắng mùa xuân năm 1975”, "Bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam ”, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã viết: "Cho đến khi vị tổ trung hưng đầu tiên là anh hùng dân tộc Ngô Quyền đánh thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng thì kỷ nguyên độc lập tự chủ đã được mở ra. Suốt trong một nghìn năm ấy dân tộc ta đã đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược lớn mạnh hơn nhiều lần từ Tống, Nguyên đến Minh, Thanh…”.


Trong kỷ nguyên độc lập tự chủ chỉ có hai lần nước ta lại bị đô hộ. Đó là ở thế kỷ thứ 15 quân nhà Minh lại đến xâm lược và hộ nước ta trong 20 năm, rồi bị khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi đề xướng và bị cuộc khởi nghĩa đó đánh đuổi về nước, giành lại độc lập cho đất nước. Phan Bội Châu đã mệnh danh Lê Lơi là vị Tổ Trung hưng thứ hai của dân tộc Việt Nam.


Còn lần thứ ba là vào năm 1945 - 1975. Cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và đại thắng mùa xuân năm 1975 đã chấm dứt chế độ thực dân trước là của Pháp, sau là của Mỹ, thời gian chiến đấu hy sinh gian khổ mất gần 100 năm. Hiện nay chính sử nước ta chưa đặt mệnh danh cho thời đại hào hùng đó và sẽ còn anh hùng mãi cho sự trường tồn của nước Việt Nam độc lập, tự chủ, cho nên cũng đủ cho ta có căn cứ vững chắc, xác định là thời đại Hồ Chí Minh là vị Tổ Trung hưng thứ ba của dân tộc Việt Nam.


Từ sau năm 1975, mỗi kỳ đại hội toàn quốc tới nay đều xác định hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam, nói lên quyết tâm và ý chí của toàn thể dân tộc Việt Nam đối với nền độc lập, tự chủ của Việt Nam.


c) Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 còn có ý nghĩa phát triển nghệ thuật quân sự to lớn. Ngô Quyền đón đánh quân Nam Hán khoảng trăm vạn quân của Lưu Hoằng Thao (dựa theo nhận định của nhà sử học Lê Văn Hưu - thế kỷ thứ 13) không cho chúng đổ bộ lên bờ, đánh tan tác chúng trong phạm vi một ngày, mưu cũng giỏi mà đánh cũng giỏi. Ngô Quyền đã lợi dụng thế sông Bạch Đằng, lợi dụng hai bên bờ sông toàn là rừng rậm, tiện cho bố trí quân ta mai phục, hạ lưu thấp, độ dốc không cao, mức nước sông lúc triều lên, xuống chênh lệch nhau đến 3m. Ông đã huy động quân và dân lên rừng đẵn hàng ngàn cây gỗ dài dầu đẽo nhọn và bịt sắt, rồi đem đóng xuống lòng sông Bạch Đằng ở những nơi hiểm yếu gần cửa biển xây dựng thành một trận địa cọc ngầm, quân mai phục hai bên bờ.


Xây dựng trận địa cọc ngầm rất độc đáo chỉ Việt Nam mới có. Nó không chỉ có tác dụng ngăn chặn thuyền chiến giặc mà còn có tác dụng làm cho thuyền chiến của giặc va vào cọc mà bị vỡ, làm cho quân giặc đi trên thuyền bị đắm và bị giết, bị bắt do quân ta mai phục hai bên bờ xông lên bắt, giết chúng. Từ đó quân Nam Hán vỡ chạy về nước, chúng không sang nước ta quấy phá nữa. Do vậy nước ta mới giành được một kỷ nguyên độc lập tự chủ. Về sau, trong các trận thủy chiến ông cha đã theo gương Ngô Quyền đã dựng các trận địa cọc ngầm để ngăn và diệt địch như trận Lê Hoàn dùng cọc ngầm để đánh quân thủy của giặc Tống năm 981 hoặc như trận diệt địch cũng trên sông Bạch Đằng năm 1288 của Trần Hưng Đạo bằng cọc ngầm.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 12 Tháng Mười Hai, 2022, 09:01:32 pm
5- Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 đã diễn ra trên đất Hải Phòng từ hon 1000 năm nay, được dân Hải Phòng ghi nhớ công đức, truyền tụng công lao tổ tiên cho tới ngày nay. Tên tuổi, địa danh như cọc trên sông Bạch Đằng - Cửa Nam Triệu, Ngô Quyền và các tướng lĩnh của ông đều được truyền tụng từ đời này sang đời khác, được ghi chép trên sử sách và sách giáo khoa.


a) Theo ông Ngô Đăng Lợi, Chủ tịch Hội sử học Hải Phòng, về vấn đề xảy ra trận đánh và trận địa cọc qua bài khảo cứu: “Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 qua nguồn tư liệu dân gian” thì thấy khu thổ cư và nền đình xã Nam Triệu hiện còn ở xã An Lư đối diện với xã Dương Quan (thuộc huyện Thủy Nguyên), địa danh Nam Triệu đã có từ đời Tiền Lê, đã có nói tới nạn đói 1945 dân làng Nam Triệu đã phải siêu tán ruộng đất của Nam Triệu cũ, nay phần lớn thuộc xã An Lư, một phần thuộc xã Dương Quan.


Về đền miếu thờ Ngô Quyền, ở Hải Phòng có đến 30, tập trung ở vùng ven biển huyện An Dương cũ, nơi gần mặt trận nhất. Các thần tích, truyền thuyết, bia ký v.v... đểu được ghi chép lại từ các đình làng Cấm, đình Gia Viên, đền An Trì còn gọi là đền Quang Đàm (huyện An Dương) và các đình làng Lương Xâm, Phú Xá (quận Hải An), đình làng Lạc Viên và đình làng Hàng Kênh, đình Dư Hàng thuộc nội thành Hải Phòng.


b) Gần đây, ông Nguyễn Đức Nhiếp, hội viên Chi hội khoa học lịch sử Hải Phòng có bài đăng trên tạp chí “Xưa và Nay” đề tài “Đảo Đình Vũ hay Định Vũ”, có nêu vấn đề lịch sử chiến thắng Ngô Quyền năm 938, việc đóng cọc gỗ trên các dải đất nổi lên ở cửa sông Cấm và sông Bạch Đằng, ông Nhiếp có viện dẫn trong đền thờ Ngô Quyền ở các đình làng Định Vũ, Trực Cát (phường Tràng Cát), Phú Xá (phường Đông Hải) đều treo câu đối:

   Đảng Hải dương uy, kinh ngạc, an binh Định Vũ
   Loa thành đinh đinh, cung tường, phú mỹ Vĩnh Lưu


Nội dung ý nghĩa câu đối trên đều treo đúng nơi ngôi vị thần tượng của từng chiến công nhà Ngô đã tạo lập trên sông Bạch Đằng mà trận địa là đảo Định Vũ.

Khi đã chiến thắng quân thù, lập được võ công, Ngô Vương đã đặt tên cho đảo này là Định (dấu nặng) Vũ với ý nghĩa là Định Vũ Công. Còn đảo ở phía trong là địa điểm tập kết yên binh khi võ công đã hoàn thành nên đặt tên cho đảo là Vũ Yên.


Cũng trong bài báo, để tôn vinh chiến thắng Bạch Đằng năm 938, tác giả lại kể thầy giáo Nguyễn Đình Hồng khi giảng bài học lịch sử cho học sinh về sự kiện Bạch Đằng trên bằng lời thơ của lịch sử diễn ca:

   Ầm ầm sấm dậy buổi đông trường
   Oanh liệt thay phò mã họ Dương
   Châu Ái dấy binh trừ phản nghịch
   Sông Đằng dẹp Hán trấn Nam bang
   Đảo quê ta mang tên Định Vũ
   Vinh quang thay chiến lũy kiên cường
   Đức Ngô Vương khai quốc huy hoàng
   Dân Đại Việt anh hùng bất khuất



c) Từ Cách mạng Tháng Tám năm 1945, để tưởng niệm vị anh hùng dân tộc đã khai sáng ra nền độc lập dân tộc ta, nên đã đặt một trong ba quận (Hồng Bàng, Lê Chân, Ngô Quyền) là một quận dọc Sông Cấm nơi diễn ra trận Bạch Đằng lịch sử. Một trường trung học duy nhất của thành phố Hải Phòng được đặt tên là trường Ngô Quyền (trên phố Mê Linh).


Nhiều nhà máy, hợp tác xã, câu lạc bộ như Công ty xây dựng Bạch Đằng, Nhà máy đóng tàu Bạch Đằng, Câu lạc bộ Bạch Đằng và nhiều cơ sở khác đều được mang danh hiệu là Bạch Đằng cũng đều tự hào và tôn vinh những chiến công oanh liệt của Ngô Quyền, Lê Hoàn, Trần Hưng Đạo.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 12 Tháng Mười Hai, 2022, 09:02:32 pm
6- Kết luận:

a/ Sự kiện chiến thắng Bạch Đằng năm 938 của Ngô Quyền đã có thực trong lịch sử của nước Việt Nam ta. Nó đã chứng minh trong lịch sử nước ta và Trung Quốc. Nó cũng được chứng minh trong các đình, miếu, đền đài, các ngày lễ hội nhất ta trên địa bàn thành phố Hải Phòng, nơi đã xảy ra chiến thắng Bạch Đằng trong sách, câu văn thơ, truyền thuyết còn sâu đậm trong trí óc của nhân dân ta từ hơn một ngàn năm nay.


Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 của Ngô Quyền đã chấm dứt 1000 năm Bắc thuộc, khởi nguồn cho hơn 1000 năm độc lập dân tộc. Chiến thắng của Ngô Quyền đã hun đúc cho chúng ta:

   - Lòng yêu nước nồng nàn
   - Xây dựng tinh thần đấu tranh bền bỉ vì độc lập của nước nhà.
   - Xây dựng ý chí vươn lên bảo vệ nền văn hóa dân tộc.

Chống ngoại xam, Ngô Quyền đã mưu trí tập hợp toàn dân đứng lên chống quân ngoại xam, biết vận dụng quy luật sông nước, quy luật nước triều lên xuống, cách đánh nhử địch diệt địch. Đặc biệt ông đã biết sử dụng bãi cọc ngầm để diệt địch, làm tan vỡ các loại thuyền chiến của địch. Chính từ kinh nghiệm sử dụng bãi cọc ngầm của Ngô Quyền mà về sau Lê Hoàn (50 năm sau), Trần Quốc Tuấn (3 thế kỷ sau) cũng xây dựng bãi cọc ngầm trên dòng sông Bạch Đằng này để đánh địch.


Trận đánh diễn ra chỉ trong nửa ngày mà diệt và đuổi được địch ra khỏi bờ cõi nước ta. Trong lịch sử nước ta có lẽ chỉ có trận Đống Đa lịch sử của Nguyễn Huệ mới thắng nhanh như vậy.


b/ Trong tiến trình lịch sử nước ta từ năm 938, tới nay chỉ có 3 lần nước ta đã phải sống dưới ách đô hộ của ngoại bang.

* Lần thứ nhất: Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 đã chấm dứt 1000 năm đô hộ Bắc thuộc, mở ra kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập tự chủ của nước ta.

* Lần thứ hai: Khởi nghĩa Lam Sơn của Lê Thái Tổ trong 20 năm chiến đấu với quân nhà Minh, giải phóng cho đất nước, giành độc lập cho nước nhà.

* Lần thứ ba: Sau gần 100 năm sống dưới ách đô hộ của Pháp, ta đã giành thắng lọi với Cách mạng Tháng Tám dưới thời đại của Hồ Chí Minh, và sau đó mất 30 năm chiến đấu gian khổ, mới giành được độc lập, thống nhất đất nước ngày 30-4-1975.

Trong ba lần lịch sử đó, lần thứ nhất đã được nhà sử học từ thế kỷ thứ 13 mô tả, sau đó tới thế kỷ 20 mới được nhà yêu nước Phan Bội Châu suy tôn Ngô Quyền là vị tổ trung hưng đầu tiên của dân tộc Việt Nam và tới lần thứ hai nhà ái quốc Phan Bội Châu đã mệnh danh Lê Lợi là vị tổ trung hưng thứ hai của dân tộc Việt Nam. Còn lần thứ ba: thời kỳ ta được độc lập tự do từ tay thực dân Pháp hiện nay vẫn chưa được sử nước ta, chưa ai mệnh danh cả. Duy chỉ có Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ có nhắc tới Ngô Quyền là vị tổ trung hưng đầu tiên của dân tộc Việt Nam, còn thời đại Hồ Chí Minh, Đại tướng đã kể nhiều thành tích vĩ đại mà dân tộc đã giành được, nhưng chưa đặt mệnh danh nào cả.


Vậy chúng ta là những người đã chiến đấu từ năm 1945 tới nay thấy rõ chiến thắng vĩ đại chống quân Pháp và quân Mỹ là kỳ tích, nên cũng mạnh dạn nêu lên là: Hồ Chí Minh là vị Tổ Trung hưng thứ ba của dân tộc Việt Nam. Quan điểm có đúng với tiến trình lịch sử của nước ta hay không, xin được tham khảo ý kiến.


c/ Hải Phòng chính là địa bàn diễn ra chiến thắng Bạch Đằng lịch sử năm 938 do đức Ngô Vương tổ chức và chỉ huy đã chấm dứt 1000 năm chế độ Bắc thuộc, đã thiết lập một kỷ nguyên độc lập tự chủ cho nước nhà tới nay đã được hơn một ngàn năm. Nhân dân Việt Nam và Hải Phòng được vinh dự và tự hào sống dưới chế độ độc lập tự do và xã hội chủ nghĩa. Xét về nguồn gốc là nhờ công ơn khai sáng của vị tổ trung hưng đầu tiên của dân tộc Việt Nam là Ngô Quyền.


Từ lâu, nhân dân Hải Phòng đã tỏ lòng ngưỡng mộ và tôn vinh Ngô Quyền - vị anh hùng dân tộc Việt Nam và tôn vinh các vị tướng sĩ của chiến thắng Bạch Đằng lịch sử năm 938 bằng cách xây dựng nhiều đình đền, miếu thờ bằng những truyền thuyết, thần tích, bia ký, càu đối thờ..., bằng cách hằng năm tổ chức lễ hội của nhân dân. Dưới chế độ dân chủ nhân dân và xã hội chủ nghĩa, nhân dân Hải Phòng đã tôn vinh Ngô Quyền bằng đặt tên Ngô Quyền là một quận của thành phố, là trường trung học Ngô Quyền, cùng nhiều cơ sở sản xuất như hợp tác xã, công ty, nhà máy hay câu lạc với tên Bạch Đằng lưu danh Ngô Quyền và chiến thắng Bạch Đằng.


Nhưng nhân dân Hải Phòng cũng cần góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề quan trọng như thời gian, địa điểm bãi cọc, cách bài binh bố trận, giá trị, ý nghĩa của trận Bạch Đằng năm 938.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 12 Tháng Mười Hai, 2022, 09:03:06 pm
NGHĨ VỀ LỄ HỘI VÀ TƯỞNG NHỚ CÁC ANH HÙNG DÂN TỘC


ANH THƠ


Sông Bạch Đằng dài 20 km, rộng gần 2 km, là ranh giới tự nhiên giữa Hải Phòng và Quảng Ninh. Nơi đây ghi dấu ấn chiến thắng lẫy lừng của dân tộc với kỳ tích ba lần đánh tan giặc ngoại xâm dưới thời Ngô Quyền (năm 938), Lê Hoàn (năm 981) và Trần Hưng Đạo (năm 1288).


Ghi nhớ công ơn của các vị anh hùng dân tộc trong Chiến thắng Bạch Đằng, nhiều nơi trên địa bàn Hải Phòng lập đến thờ cùng với các dạng thức tưởng niệm khác. Đến nay, Ngô Quyên được thờ cúng tại 13 cơ sở tín ngưỡng, tương ứng với 13 lễ hội tưởng nhớ. Riêng với Hưng Đạo Đại Vương Trân Quốc Tuấn, Hải Phòng có 20 nơi thờ, trong đó có 2 di tích từng được tổ chức với quy mô quốc lễ (vua tham gia tế) là đến Thụ Khê (xã Liên Khê, huyện Thủy Nguyên) và đền Phú Xá (phường Đông Hải, quận Hải An). Đền Phú Xá được lập tại nơi đóng quân cũ của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn khi ông qua đời. Đây cũng là nơi diễn ra lễ khao thưởng quân sĩ mừng chiến thắng Bạch Đằng trước khi kéo quân về căn cứ Vạn Kiếp. Trải qua bao thăng trầm, đền Phú Xá vẫn đứng uy nghiêm, xứng đáng là di tích lịch sử văn hóa quốc gia nổi tiếng với các hình thức, nội dung tưởng niệm công lao to lớn của nhân dân đối với vị thánh Vương Trần Hưng Đạo linh thiêng.


Cũng theo sử sách, Hải Phòng có bao nhiêu nơi thờ Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo thì có bấy nhiêu lễ hội tưởng nhớ. Mỗi lễ hội bám sát sự kiện lịch sử chiến thắng Bạch Đằng. Trước Cách mạng Tháng Tám, tại các xã vốn là “nghĩa binh thần tử của Ngô Quyền”, cứ 5 năm một lần mở lễ hội vào các dịp 16-1 và 22-2 âm lịch. Sớm nhất là ở Từ Lương Xâm, sau đó là các đền miếu khác như Đình Dư Hàng, Đình Hàng Kênh, Miếu Hai Xã... với các tục múa rối, múa cờ... diễn tả sở trường và khí thế giết giặc trên Bạch Đằng Giang. Lại cũng có trò diễn “Thủy chiến cửa đình” với các bè mảng kết từ cây chuối biểu tượng cho chiến thuyền và bù nhìn bằng rơm biểu thị xác giặc, mô phỏng trận đánh quân Nam Hán của quân sĩ Ngô Quyền. Lễ hội tưởng nhớ Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn gắn với chiến thắng trên sông Bạch Đàng cũng được tổ chức ở nhiều nơi. Đó là hội Chùa Vẽ như từng ghi trong cuốn “Lịch lễ hội” của Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin. Chùa Vẽ là nơi Trần Hưng Đạo đóng quân để nghiên cứu chiến trường sông Bạch Đằng. Lễ hội diễn ra trong 10 ngày, từ 10 đến 20 tháng 8 âm lịch, với lễ vật đặc biệt bánh đa vừng được gọi là “Trận đồ ăn no đánh giặc”. Đó còn là lễ hội ở "Thụ Khê linh từ” thuộc xã Liên Khê và các làng có sông Bạch Đằng chảy qua. Tuy nhiên, do nhiều lý do, các lễ hội tướng nhớ các vị anh hùng trong chiến thắng Bạch Đằng bị gián đoạn. Đến nay, phần lớn là thờ cúng ở các di tích, đền miếu. Một số ít duy trì hội như hội Đền Trần Quốc Bảo (Thủy Nguyên) ngày 6 tháng giêng, tưởng nhớ danh tướng Trần Quốc Bảo chống Ô Mã Nhi trong trận thủy chiến trên sông Bạch Đằng. Hội đền Phú Xá được tổ chức ngày 20-8 âm lịch, đặc biệt trang trọng với các nghi lễ tế, rước cùng bánh đa vừng do nhân dân khắp nơi mang đến, nhằm tưởng nhớ Trần Hưng Đạo và bà Bùi Thị Từ Nhiên - vợ ông Phạm Phúc Lương là người cùng làng coi giữ kho lương quân Đại Việt và có công xây dựng lại đền Phú Xá. Trong ngày hội còn có trò chơi tam cúc điếm, đi cầu thùm, chơi cờ tướng, chơi gà, bắt vít...


Nhìn chung, các lễ hội trên đều được duy trì và phát huy những nét đẹp của lễ hội cổ truyền. Song, so với yêu cầu nâng tầm lễ hội Bạch Đằng mà quan trọng nhất là lễ hội gắn liền với không gian lịch sử của sự kiện, Hải Phòng mới làm tốt việc duy trì giải bơi truyền thống vượt sông Bạch Đằng. Trong khi đó, từ năm 1988, nhân kỷ niệm 700 năm chiến thắng Bạch Đằng, tỉnh Quảng Ninh đã khôi phục lễ hội Bạch Đằng và duy trì từ đó đến nay với sự tranh thủ nguồn vốn Trung ương và địa phương sửa sang, xây dựng miếu Vua Bà và một số cơ sở tín ngưỡng khác, về vấn đề “Hải Phòng, có nên khôi phục lễ hội Bạch Đằng và nên bắt đầu từ đâu”, nhà sử học Ngô Đăng Lợi - Chủ tịch Hội Khoa học lịch sử thành phố cho rằng nên làm và nên bắt đầu từ nhận thức về vị trí chiến thắng Bạch Đằng trong lịch sử dân tộc. Cùng với việc đầu tư, nâng cấp các lễ hội đang có ở đền Phú Xá, Chùa Vẽ, đền Trần Quốc Bảo, ngành chức năng nên giúp địa phương khôi phục lễ hội đền Thụ Khê (Liên Khê) vốn là lễ hội nổi tiếng một thời tưởng nhố Đức Thánh Trần với các nghi thức tế, rước, các màn trình diễn múa cờ, quạt, động tác cắm cọc xuống lòng sông mô phỏng các dấu hiệu nghi binh và chiến thuật đánh giặc của quân sĩ Trần Hưng Đạo. Đồng thời, trong phần hội trên sông Bạch Đằng (trước mắt là tại cửa sông Bạch Đằng - nơi hợp lưu của sông Thải và sông Giá), nên khôi phục trò diễn thủy chiến để tăng dấu ấn lễ hội văn hóa trên dòng sông Bạch Đằng lịch sử. Một vài khía cạnh nêu trên về lễ hội Bạch Đằng có thể xem như là một sự gợi mở với các nhà quản lý, để tôn vinh công lao các vị anh hùng dân tộc và chiến thắng Bạch Đằng trong đời sống hôm nay.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 12 Tháng Mười Hai, 2022, 09:03:44 pm
ĐẠI THẮNG BẠCH ĐẰNG LẦN THỨ NHẤT - KẾT TINH SỨC SỐNG
MÃNH LIỆT CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM


NGÔ ĐĂNG LỢI


Do hoàn cảnh lịch sử và điều kiện địa lý - chính trị nên nước ta liên tục bị các triều đại phong kiến phương Bắc tìm mọi cách, với nhiều thủ đoạn nham hiểm xâm lược, đô hộ, đồng hóa dân ta, biến nước ta thành quận, huyện của nước Trung Hoa rộng lớn, dân đông, có nền văn hóa rực rỡ phát triển lâu đời. Chính vì thế mà các triều đại phong kiến Trung Hoa đã đặt và duy trì nền thống trị nước ta đến hơn 1000 năm, mặc dù liên tiếp bị nhân dân ta vùng lên chống ách đô hộ, đòi quyền độc lập, tự chủ, đòi quyền sống, quyết bảo vệ nền văn hóa dân tộc. Nhưng vì thời cơ chưa đến, vì thế và lực dân ta chưa đủ mạnh, tương quan so sánh lực lượng nghiêng về phía kẻ thù nên các cuộc khởi nghĩa của dân ta cuối cùng bị thất bại. Nhưng những cuộc khởi nghĩa thời Bắc thuộc đã phản ánh ý chí quật cường, tinh thần yêu nước, sức sống của nền văn hóa dân tộc ta và lưu lại những bai học quý giá cho thế hệ kế tiếp về sau để khi có thời, có thế, có cơ nhân dân đã vùng lên đánh đuổi ngoại xâm, giành non sông, cơ nghiệp của tiên tổ. Chiến thắng Bạch Đằng lần thứ nhất năm 938 do Ngô Quyền tổ chức, chỉ huy, chỉ một trận mà quét “sạch không kinh ngạc, tan tác chim muông”, “Chỉ một trận mà nên công đại định, nhục ngàn năm rửa sạch” mở đầu kỷ nguyên độc lập lâu dài cho đất nước.


Đại thắng Bạch Đằng lần thứ nhất kế thừa phát huy xa các cuộc khởi nghĩa của Bà Trưng, Bà Triệu, Mai Hắc Đế, Bố Cái Đại Vương..., gần là sự dấy nghiệp tự chủ của họ Khúc, họ Dương.

Uy phong, của trận Bạch Đằng khiến Lưu Cung, vua Nam Hán bị mất mật, gạt nước mắt mà rút đại binh về, từ bỏ hẳn mưu đồ xâm lăng nước ta. Đây cũng là bài học cho cả 2 bên tham gia chiến trận, là chứng tích ban đầu của bài học lịch sử sống động “Đằng Giang tự cổ huyết do hồng”. Vùng đất phên giậu xứ Đông có con sông Bạch Đằng lịch sử “ba lần giặc đến, ba lần giặc tan" là niềm tự hào, là sự nhắc nhở tinh thần cảnh giác của dân tộc ta; là lời cảnh cáo nghiêm khắc cho mọi thế lực ngoại xâm về nỗi nhục muôn đời không rửa nổi.


Sự nghiệp, công lao của anh hùng dân tộc Ngô Quyền được các thế hệ dân ta ghi nhớ tôn vinh, các sử gia đánh giá cao. Chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu cũng là một sử gia, một nhà văn hóa lớn tôn xưng là vị Tổ Trung hưng thứ nhất của dận tộc ta.


Địa bàn Hải Phòng, nơi diễn ra trận đại thắng lịch sử năm 938 còn lưu nhiều dấu tích vẻ vang thời nhà Ngô. Những đình, đền, từ, miếu: Lương Xâm, Gia Viên, Thượng Đoạn, Hạ Đoạn, Quang Đàm, Xâm Bồ, Hàng Kênh, Tiên Nga... ở nội thành xưa thuộc huyện An Dương, Tùng Động (Lâm Động) Thủy Nguyên và thành Vành Kiệu hiện còn dấu vết minh định sự đóng góp của dân Hải Phòng với chiến thắng Bạch Đằng, đồng thời cũng thể hiện lòng kính yêu mến phục Ngô Quyền. Mậc dù Ngài chỉ xưng vương, nhưng dân Hải Phòng đã vinh danh Ngài là Ngô Vương thiên tử, con trai Ngài là Thái tử. Văn tế, văn khấn ở các đền, đình, từ, miếu thờ Ngài, thờ con cả Ngài đều ghi như vậy, đều coi Ngài là Hoàng đế nước Nam.


Dưới chính thể mới, nhiều đình, đền, từ, miếu thờ Ngô Quyền ở Hải Phòng đã được Bộ Văn hóa - Thông tin, UBND thành phố xếp hạng di tích lịch sử văn hóa. Hội đồng nhân dân thành phố đã quyết định dựng tượng đài Ngài tại một địa điếm trang trọng ở nội thành. Các cơ quan chức năng và quận Ngô Quyền đang tích cực chuẩn bị thực hiện nghị quyết HĐND thành phố để sớm có tượng đài Ngô Vương thiên tử.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 12 Tháng Mười Hai, 2022, 09:06:34 pm
TÔN VINH TRUYỀN THỐNG ĐẤU TRANH GIÀNH ĐỘC LẬP


Đại tá TRẦN ĐÔN
(Phó chủ tịch chi hội KHLS
quân sự Hải Phòng)


Nhìn lại 1000 năm (sau công nguyên) đấu tranh giành độc lập, đã có nhiều triều đại đứng lên chống phương Bắc đô hộ như: Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Lý Bôn, Triệu Quang Phục, Phùng Hưng, Khúc Thừa Dụ, v.v... nhất là cuộc đấu tranh giành độc lập của Hai Bà Trưng (năm 40 - 43), Lý Nam Đế (544 - 548), Triệu Việt Vương (548 - 571), Lý Phật Tử (571 - 602) đều đã giải phóng dân tộc, không thay đổi triều chính độc lập tự chủ. Vì vậy, chỉ thời gian ngắn, cuối cùng lại bị phương Bắc đô hộ.


Năm 931, Dương Diên Nghệ là tướng cũ của Khúc Hạo, nổi lên tự xưng là Tiết độ sứ, được 6 năm thì Kiều Công Tiễn  giết và cướp quyền. Khi đó Ngô Quyền là con rể Dương Diên Nghệ đang cai trị ở Ái Châu (Thanh Hóa), đem quân ra đánh Kiều Công Tiễn. Kiều Công Tiễn cầu cứu Nam Hán. Nhà Nam Hán sai thái tử Lưu Hoằng Thao đem quân sang đánh Ngô Quyền. Ngô Quyền mưu lược bày thế trận, đánh thắng trận Bạch Đằng năm 938 giành độc lập cho dân tộc. Ngô Quyền xưng vương, thiết lập triều chính, bỏ chức tiết độ sứ của phong kiến phương Bắc, lập bộ máy nhà nước mới, độc lập tự chủ, trên có vua, dưới có quan văn, quan võ từ trung ương đến cơ sở và lấy Cổ Loa làm kinh đô. Từ đó chấm dứt 1000 năm đô hộ của phương Bắc. Sự kiện này đã được nhà yêu nước Phan Bội Châu suy tôn Ngô Quyền là "vị tổ trung hưng đầu tiên” của dân tộc Việt Nam.


Tiếp sau Lê Hoàn là Lý Thường Kiệt chống quân Tống, Trần Hưng Đạo chống quân Nguyên Mông cũng rất quyết liệt, thắng lợi được nhân dân ca ngợi, nhưng đều là chiến đấu bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc. Đến năm 1414, nhà Minh sang xâm lược đô hộ nước ta, đặt bộ máy cai trị rất hà khắc, nhân dân cùng cực. Trước tình hình đó, năm 1418 Lê Lợi và danh thần Nguyễn Trãi đã chiêu dụ hào kiệt, thu hút nhân tài, lập căn cứ chiến đấu, chiến thắng liên tiêp, nhất là thắng tướng Liễu Thăng ở Ải Chi Lăng - Lạng Sơn, buộc chúng phải tháo chạy. Năm 1428, nước ta lại giành độc lập và Lê Lợi lên làm vua thiết lập nhà nước độc lập tự chủ. Được nhà yêu nước Phan Bội Châu tôn vinh đức Lê Thái Tổ là vị trung hưng thứ 2.


Qua các triều đại nhà Mạc (1528 - 1592), Trịnh - Nguyễn phân tranh (1600 - 1771) đều tranh giành củng cố quyền lực (từ 1771 - 1802). Sau khi Quang Trung thống nhất Bắc triều, Lê Chiêu Thống chạy sang cầu cứu nhà Thanh. Vua Thanh cho Tôn Sĩ Nghị sang xâm lược nước ta. Quang Trung đã thần tốc, chiến thắng oanh liệt, quét sạch bóng quân xâm lược. Sau năm 1789, Quang Trung vào đàng trong dẹp Chúa Nguyễn (Nguyễn Ánh) để thống nhất nước nhà. Nguyễn Ánh cầu cứu quân Pháp chống lại và năm 1802 lợi dụng Quang Trung mất chiếm lại và thống nhất đất nước. Như vậy quá trình (1528 - 1802) liên tiếp có các cuộc đấu tranh bảo vệ Tổ quốc và giành quyền lực củng cố đất nước.


Quá trình bị Pháp cai trị (1862 - 1945), các vua triều Nguyễn đều mất quyền tự chủ, làm theo sự cai trị của Pháp, dân tộc ta bị ba tầng áp bức bóc lột rất khổ cực gây ra nạn đói 1945 chết vài triệu người. Trong quá trình bị Pháp cai trị, từng giai đoạn đã có các nhà yêu nước nổi lên chiến đấu rất quyết liệt, phong trào Cần Vương ở khắp các địa phương nổi lên chiến đấu, phong trào Duy Tân, phong trào Đông Du... là quá trình liên tục đấu tranh. Đầu năm 1930, Đảng Cộng san Đông Dương thành lập và lãnh đạo giai cấp công nhân, nhân dân lao động đứng lên đấu tranh. Mãi đến tháng 5/1941, dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh, Hội nghị Trung ương họp ở Pác Bó ra nghị quyết thành lập Mật trận Việt Minh và quyết định đường lối giải phóng dân tộc, chuẩn bị khởi nghĩa. Đến tháng 8-1945, dưới sự chỉ đạo của Trung ương và Hồ Chủ tịch, nhân dân cả nước nhất tề đứng lên lật đổ chính quyền đế quốc - phong kiến, giành độc lập dân tộc, lập lên “nước Việt Nam dân chủ cộng hòa”.


Ngay từ những ngày đầu độc lập, đế quốc Pháp không từ bỏ dã tâm xâm lược, trở lại chiếm nước ta. Hồ Chủ tịch đã kêu gọi toàn quốc kháng chiến (19-12-1946). Toàn quân, toàn dân bước vào chiến đấu liên tục 9 năm, nhất là chiến thắng Điện Biên Phủ, buộc chúng phải rút khỏi nước ta. Một nửa đất nước hoàn toàn giải phóng: tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc; đồng thời tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Nhưng với âm mưu của đế quốc Mỹ hòng chiếm miền Nam, chúng dùng mọi thủ đoạn gian ác, quyết liệt nhất. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Hồ. Chủ tịch, nhân dân ta tiếp tục chiến đấu anh dũng kiên cường trên 20 năm liên tục và bằng chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã giành thắng lợi oanh liệt, kết thúc chiến tranh 30/4/1975, lại độc lập thống nhất nước nhà.


Như vậy, trải qua 30 năm liên tục chiến đấu, chúng ta đã giành độc lập dân tộc, xóa bỏ hệ thống chính quyền và chế độ cai trị của đế quốc Pháp - Mỹ, lập chế độ xã hội chủ nghĩa và bộ máy chính quyền nhân dân từ trung ương đến cơ sở, xây đất nước giầu mạnh, văn minh.


Qua hai thời kỳ nước ta bị nước ngoài đồ hộ, các lãnh kiệt xuất: Ngô Quyền, Lê Lợi đã lãnh đạo nhân dân đánh ngoại xâm, giành độc lập tự chủ cho dân tộc; được chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu tôn vinh Ngô Quyền là “vị tổ trung hưng thứ nhất” và Lê Lợi là “vị tổ trung hưng thứ hai” của dân tộc Việt Nam. Tôi nghĩ giai đoạn 1862 - 1975 nước ta bị đế quốc đô hộ (83 năm) và 30 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng và Hồ Chủ tịch (người lãnh đạo kiệt xuất) lãnh đạo quân dân chiến đấu chống ngoại xâm lâu dài nhất trong lịch sử nước ta, gian khổ ác liệt nhất đã giành thắng lợi oanh liệt, đem lại độc lập dân tộc và thiết lập chế độ mới, nhân dân làm chủ, xây dựng xã hội chủ nghĩa tiến lên công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, văn hóa xã hội văn minh, đời sống nhân dân ngày càng no ấm phát triển. Để công bằng lịch sử, theo tôi, đề nghị Nhà nước, Hội Khoa học lịch sử nghiên cứu tôn vinh Hồ Chí Minh là “vị tổ trung hưng thứ ba” của dân tôc Viêt Nam.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 12 Tháng Mười Hai, 2022, 09:11:00 pm
ĐẢO ĐỊNH VŨ HAY LÀ ĐÌNH VŨ?


NGUYỄN ĐỨC NHIẾP
(Hội khoa học lịch sử Hải Phòng)


Về vấn đề tên đảo Định Vũ hay Đình Vũ? Tôi đã viết bài báo: “Cần đính chính lại: Định Vũ hay là Đình Vũ” và đã được Tạp chí “Xưa và Nay” của Hội khoa học lịch sử Việt Nam đăng tải trong số báo 135 – tháng 3/2003. Sau đó, Chi hội khoa học lịch sử quân sự Hải Phòng đã tổ chức cuộc hội thảo về vấn đề này vào cuối năm 2003 với đông đảo các nhà nghiên cứu lịch sử ở Hải Phòng tham dự, đóng góp những ý kiến nhằm làm rõ tên đảo đích thực, đồng thời cũng là thực hiện chức năng giám định tư vấn khoa học lịch sử theo tinh thần chỉ thị số 45 tháng 11/1998 của Bộ Chính trị Trung ương Đảng và quyết định số 22/2002 QĐ-TTg ngày 31/1/2002 của Chính phủ ban hành đề thể chế hóa chức năng tư vấn, phản biện và giám định xã hội của Liên hiệp các Hội khoa học kỹ thuật mà Hội khoa học lịch sử là thành viên. Nhưng đến nay thời gian đã qua đi 2 năm mà vấn đề này chưa có sự thẩm định, kết luận và kết thúc.


Vì là một hải đảo có nhiều những sự kiện lịch sử ở ngay cửa biển Hải Phòng đã diễn ra từ cuối thế kỷ X, các thế kỷ sau đến thế kỷ XX của thiên niên kỷ trước, gần nhất là các cuộc kháng chiến chống giặc Pháp, giặc Mỹ xâm lược vừa qua. Hiện nay đảo Định Vũ lại là khu kinh tế mới và lớn của thành phố Hải Phòng. Hơn thế nữa, về vấn để bảo tồn và giáo dục truyền thống cho các thế hệ trẻ rất cần thiết phải dựng bia để ghi tạc những sự kiện lịch sử trên đảo từ xưa tới nay.


Vậy xin được trở lại vấn đề này từ đầu, có ghi chép cả những ý kiến tham gia cuộc hội thảo vào cuối năm 2003:

I- Nguồn gốc hình thành đảo Định Vũ

Định Vũ là một đảo đất bằng phẳng không có núi. Hiện nay đảo Định Vũ có diện tích là 4.325 hécta. Đảo Định Vũ được hình thành do phù sa của dòng sông Bạch Đằng, sông Cửa Cấm được bồi đắp từ thời kỳ tiền cổ. Những thời kỳ ấy nước triều lên phủ kín đảo, khi xuống mới lộ ra địa bàn của với những bãi sú vẹt, lau sậy. Phía bắc đảo là sông Bạch Đằng, phía nam là sông Cửa Cấm, phía tây là đảo Vũ Yên (qua con lạch), phía đông là cửa Nam Triệu.


Về tên gọi là đảo Định Vũ thì từ năm 1924 khi chính quyền bảo hộ Pháp thành lập huyện Hải An thuộc tỉnh Kiến thì Định Vũ là một xã có hơn 100 gia đình cư trú thuộc tổng Trực Cát, huyện Hải An, tỉnh Kiến An (nay là phường Tràng Cát, quận Hải An - Hải Phòng). Dân làng Định Vũ làm muối và đánh cá vẫn sinh sống trên đảo, đến năm 1950 thì giặc Pháp đã dồn dân làng Định Vũ lên đất liền ở địa bàn phường Tràng Cát ngày nay, vì thời kỳ ấy giặc Pháp biết được đảo Định Vũ là cơ sở chỉ đạo kháng chiến của xã Tràng Cát nên phải đuổi dân đi để kiểm soát và lùng bắt Việt Minh vào hoạt động.


Những sổ đinh, sổ điền, dấu đồng của chính quyền xã đều khắc ghi là Định Vũ. Có kèm theo chữ Hán. Các chức dịch Lý trưởng xã Định Vũ từ trước Cách mạng tháng 8/1945 như các cụ Lê Đức Toản, Nguyễn Thế Lâu, Tô Đức Vượng, Nguyễn Văn Xích..., cùng những dân làng Định Vũ đến nay vẫn khẳng định tên đảo, tên làng là Định Vũ chứ không phải Đình Vũ, như các ông Nguyễn Thế Câu, Đoàn Văn Khúc đã ngoài 70 tuổi ở làng Định Vũ.


II. Vậy đảo có tên gọi là Định Vũ từ bao giờ?

Hầu hết các già làng Định Vũ còn sống đến nay trên dưới 70 tuổi, có người thọ hơn 100 tuổi và những người có tâm huyết với lịch sử địa phương đểu nói rằng tổ tiên xưa đã truyền lại:

1- Mùa đông năm 938, khi Đức Ngô Quyền bố trí trận địa đóng cọc gỗ ở cửa sông Bạch Đằng đánh quân Nam Hán sang xâm lược. Vì lòng sông sâu 18 mét nước nên không thể đóng cọc. Người đã cho đóng cọc gỗ trên đảo và lợi dụng quy luật lên xuống của thủy triều để diệt đoàn thuyền chiến của giặc. Người hạ quyết tâm, quyết định lập một vũ công trên đảo này. Và khi chiến thắng, Đức Ngô Quyền đã đật tên cho đảo là đảo Định Vũ với ý nghĩa quyết định một vũ công “Định Vũ”.

2- Vào năm 1935, 1936, cụ Nguyễn Đình Hồng dạy học ở Trường sơ học Cát Bi đã viết một tập lịch sứ diễn ca bằng văn vần để học sinh dễ nhớ. Bài viết về chiến thắng năm 938 của Ngô Quyền với tên đảo Định Vũ là:

   “Ầm ầm sấm dậy buổi đông trường,
   Oanh liệt thay phò mã họ Dương.
   Châu Ái dấy binh trừ phản nghịch,
   Sông Đằng diệt Hán trấn Nam bang.
   Đảo quê ta mang tên Định Vũ,
   Vinh quang thay chiến lũy kiên cường.
   Đức Ngô Vương khai quốc huy hoàng
   Dân Đại Việt anh hùng bất khuất.”


Cùng thời điểm này, các bậc túc nho như các cụ Đỗ Bình, Đỗ Thượng Hộ, các cụ khóa sinh Phạm Đình Liễn, Bùi Như Lạc mở trường dạy chữ Hán cho các môn sinh cũng đàm thoại và truyền thụ sự tích này như vậy.


3- Tại đình làng Định Vũ, nơi thờ Đức Ngô Vương Quyền và bà Liễu Hoa (Phạm Hoàng Hậu) là người có công mở mang nghề làm muối cho diêm dân địa phương, được tôn vinh là Thành Hoàng vẫn còn đôi câu đối chữ Hán là:

   “Đằng Hải dương uy kình ngạc an bình Định Vũ.
   Loa thành định đỉnh cung tường phú mỹ Vĩnh Lưu.”

Đôi câu đối này hiện nay còn treo ở đền làng Hạ Đoạn, phường Đông Hải, quận Hải An - Hải Phòng.
 
(https://i.imgur.com/Gm31iSd.jpg)

III. Những sự kiện lịch sử diễn ra trẽn đảo Định Vũ

1- Chiến thắng trẽn sông Bạch Đằng mùa đông năm 938 Đức Ngô Quyền diệt quân Nam Hán trên trận địa cọc gỗ ở đảo Định Vũ.

2- Ngày 07/09/1930 tức ngày rằm tháng bảy năm Canh Ngọ, đồng chí Phạm Văn Duyệt, đảng viên Đảng Cộng sản đã lãnh đạo nhân dân Hải An biểu tình, tuần hành thị uy phá Nhà đoan muối ở đảo Định Vũ, lấy muối chia cho dân, đòi quyền dân chủ, dân sinh cho nhân dân. Bọn quan quân Nhà đoan của chính quyền bảo hộ Pháp khiếp sợ phải trốn chạy về đồn Ninh Tiếp ở đảo Cát Hải.

3- Ngày 25/02/1951, Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên của xã Tràng Cát thành lập tại đảo Định Vũ do đồng chí Phạm Bình Sinh làm bí thư để chỉ đạo cuộc kháng chiến chống Pháp ở xã Tràng Cát. (Đồng chí Phạm Bình Sinh nay đã hơn 80 tuổi, cán bộ hưu trí, hiện cư trú tại thôn Trực Cát, phường Vĩnh Niệm, quận Lê Chân, Hải Phòng).


4- Trong thời kỳ chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ, đảo Định Vũ là địa bàn phòng không tiền tiêu bảo vệ thành phố Hải Phòng. Lực lượng dân quân địa phương kết hợp với bộ đội lập trận địa phòng không bắn máy bay tầm thấp giặc Mỹ ra vào cửa biển Hải Phòng, đã góp phần bắn rơi nhiều máy bay Mỹ trên vùng trời Hải Phòng. Tiêu biểu là bà Phương là dân quân xã Tràng Cát đã cùng hai cha con cụ Nguyễn Văn Thưởng và anh Nguyễn Văn Tinh, ngư dân địa phương, kết hợp với các đồng chí Nguyễn Hữu Đoài và Phạm Như Giồng chỉ huy Đồn biên phòng 34 xung phong đi vớt thủy lôi vào hồi 10 giờ ngày 14/5/1972. Bằng trí thông minh và lòng dũng cảm, các đồng chí đã dùng các thân cây chuối làm bè, lợi dụng thủy triều lên để đẩy thủy lôi vào đảo. Từ thắng lợi này, các đồng chí đã tìm cách phá thủy lôi, bom từ trường bằng phương tiện thô sơ hiện có. Đồng thời nghiên cứu thiết kế khí tài mới phát hiện tính năng cấu tạo vũ khí của địch, phát huy phương tiện thô sơ phá thủy lôi, đã rà phá, tháo gỡ nhiều quả thủy lôi, khơi thông lạch, đảm bảo cho tàu thuyền qua lại được an toàn.
   

IV- Những ý kiến tham gia cuộc hội thảo về tên Đảo Định Vũ và nguyện vọng của nhân dân địa phương

Với những chứng cứ về tư liệu lịch sử trên, hầu hết các thành viên tham gia hội thảo khẳng định tên đảo là Định Vũ chứ không phải là Đình Vũ. Duy nhất có một ý kiến cho rằng chưa có tài liệu nào ghi chép là Đức Ngô Quyền đặt tên cho đảo là Định Vũ và bài diễn ca của cụ Nguyễn Đình Hồng.


Điều đó thiết tưởng không có gì đáng băn khoăn ngần ngại, vì đất nước ta đã trải qua nhiều biến cố chiến tranh, thiên tai..., việc bảo quản các tư liệu về lịch sử có thể bị thất thoát chưa sưa tầm được đầy đủ. Đặt giả thiết nếu như không có tư liệu trên viết thành văn, thì “trăm năm bia đá thì mòn, nghìn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ”. Do vậy những chứng cứ trên ta có thể khẳng định tên đảo là Định Vũ, chứ không phải là Đình Vũ. Đình Vũ chẳng qua là nói chệch đi như Các Bà nay là Cát Bà chẳng hạn và Đình Vũ chẳng có ý nghĩa gì.


Có một điều đặt ra trước mắt và rất cần thiết là nên dựng trên đảo một tấm bia khắc ghi các sự kiện lịch sử trên đảo Định Vũ, thì bia khắc tên đảo là gì? Định Vũ hay là Đình Vũ. Xin các nhà nghiên cứu về sử học địa phương trả lời cho câu hỏi này và sẽ tư vấn cho chính quyền thành phố cho thay lại tên đảo là Định Vũ mới đúng với ý nghĩa lịch sử của đảo. Và nguyện vọng của nhân dân đia phương rất mong muốn là tên đảo được trả lại là Định Vũ cho chính xác và đúng với ý nghĩa lịch sử của đảo. Còn tên đảo Yên Vũ là nơi khi đã “Định” được “Vũ Công” ở đảo Định Vũ thì tập kết yên binh ở đảo Vũ Yên, tức là đảo đã “yên việc vũ”. Đảo Vũ Yên hiện nay có diện tích 944 hécta.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 12 Tháng Mười Hai, 2022, 09:13:17 pm
Phần VIII
KỶ NIỆM CHƯƠNG VỀ BỘ SÁCH
“ĐƯỜNG 5 ANH DŨNG QUẬT KHỞI”

TẶNG KỶ NIỆM CHƯƠNG CHO NHỮNG NGƯỜI CÓ THÀNH TÍCH XUẤT SẮC THAM GIA LÀM BỘ SÁCH “ĐƯỜNG 5 ANH DŨNG QUẬT KHỞI”


Qua 10 năm (1996 - 2006) tổ chức vận động, sưu tầm, biên soạn, một số sĩ quan quân đội nghỉ hưu do Đại tá Võ An Đông, nguyên Tỉnh đội trưởng tỉnh Hưng Yên (thời kỳ chống Pháp), nguyên Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Quân sự thành phố Hải Phòng và Tư lệnh trưởng Sư đoàn 350 (thời kỳ chống Mỹ) chủ trì, đã cho ra đời bộ sách "Đường 5 anh dũng quật khởi” gồm 20 tập chính, 6 tập tổng hợp theo chuyên đề và vùng lãnh thổ của tỉnh Hải Dương, Hưng Yên và thành phố Hải Phòng đã phát hành trên 40 ngàn cuốn. Đây là bộ sách gồm hồi ký của các nhân chứng lịch sử đã chiến đấu, công tác ở mặt trận đường sô 5 và vùng phụ cận trong 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Bộ sách ra đời nhằm ghi chép lại những tư liệu lịch sử, góp phần vào việc hun đúc lòng tự hào dân tộc, vun đắp lòng yêu nước cho các thế hệ ngày nay và mai sau, nhất là thế hệ trẻ.


Đã có hàng chục bài viết, bài nói của một số đồng chí lãnh đạo và bạn đọc được đăng trên một số báo chí của trung ương, địa phương đánh giá về bộ sách và đều cho rằng: "Bộ sách Đường 5 anh dũng quật khởi có giá trị nói nên thành tích và kinh nghiệm thực tiễn chiến đâu phong phủ, sinh động của quân dân Đường 5” (Trích bài viết ngày 25/9/1998 của Đại tướng Võ Nguyên Giáp); “Bộ sách Đường 5 anh dũng quật khởi là một công trình có giá trị, một đóng góp lớn có ý nghĩa giáo dục sâu sắc tinh thần, trí tuệ và nghệ thuật tác chiến trong chiến tranh chống xâm lược” (Trích bài viết ngày 28/8/2001 của Thượng tướng - Giáo sư - Nhà giáo nhân dân Hoàng Minh Thảo, nguyên Chỉ huy trưởng Mặt trận đường 5 năm 1948); “Tuy còn một số tư liệu mới là những viên ngọc thô chưa có điều kiện để mài giũa, cần tiếp tục được hoàn thiện - nhưng những điều các anh đã sưu tầm, ghi chép, tái hiện lại thật sự là những tư liệu lịch sử hết sức quý giá” (Trích thư ngày 2/2/1999 của đồng chí Trần Hoàn, nguyên Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thông tin gửi Ban biên tập sách Đường 5 anh dũng quật khởi)...


Năm 2003, Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng đã tặng giải thưởng khuyến khích về khoa học công nghệ cho bộ sách “Đường 5 anh dũng quật khởi Bộ sách "Đường 5 anh dũng quật khởi " thật sự là một công trình tập thể của hàng trăm cán bộ, chiến sĩ đã từng chiến đấu, công tác ở Mặt trận đường 5 năm xưa và cả các tập thể, cá nhân có tấm lòng cao quý, đã tài trợ và làm "bà đỡ” góp phần làm nên bộ sách có giá trị trên.


Để ghi nhận và làm kỷ niệm về thành tích đóng góp của những người có công làm nên bộ sách, Ban biên tập sách Đường 5 anh dũng quật khởi" đã thống nhất làm "Kỷ niệm chương” để tặng cho những cá nhân có thành tích xuất sắc trong việc sưu tầm, biên soạn, phát hành và hỗ trợ bằng vật chất cho bộ sách ra đời với 20 tập trong suốt 10 năm qua.


Ban biên tập sách
“Đường 5 anh dũng quật khởi”


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 12 Tháng Mười Hai, 2022, 09:14:08 pm
VANG VỌNG GIẢI THƯỞNG VỀ KHOA HỌC
VÀ CÔNG NGHỆ HẢI PHÒNG 2003
DO UBND THÀNH PHố HẢI PHÒNG TẶNG


Để chào mừng Đại hội thi đua toàn quốc lần thứ 7 và Đại hội XIII Đảng bộ thành phố Hải Phòng, Đại hội thi đua thành phố lần thứ 6, Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng xuất bản cuốn “Những bông phượng đỏ" tập 4 nhằm giới thiệu những gương mặt điển hình tiên tiến của phong trào thi đua yêu nước thời kỳ đổi mới (2000 - 2005).


Tập sách có 60 gương sáng là 60 bông hoa phượng đỏ tiêu biểu của rừng hoa đẹp trong phong trào thi đua yêu nước của thành phố. Trong số 60 gương sáng đó có những người đã đoạt giải thưởng khoa học công nghệ Hải Phòng năm 2003.


Ban biên tập sách “Đường 5 anh dũng quật khởi” xin trân trọng giới thiệu hai nhà nghiên cứu khoa học và công tác xã hội là ông Ngô Đăng Lợi - Chủ tịch Hội sử học Hải Phòng đã được giải thưởng khoa học - công nghệ thành phố Hải Phòng 2003 và ông Võ An Đông - Tổ trưởng điều hành sách “Đường 5 anh dũng quật khởi ” và các cộng sự đã được giải khuyến khích giải thưởng khoa học - công nghệ Hải Phòng 2003. Cả 2 ông đã không tự giới thiệu về công trình của mình mà do nhà báo Tuyết Mai ở Đài phát thanh truyền hình Hải Phòng viết bài “Cánh chim không mỏi” kể về ông Ngô Đăng Lợi và do nhà báo Thanh Thủy ở báo Hải Phòng viết bài: “Vị đại tá về hưu với 17 tập sách Đường 5 anh dũng quật khởi” kể về ông Võ An Đông.


Các bài viết của tác giả Tuyết Mai và Thanh Thủy đều phản ánh đúng sự thực về đời hoạt động của 2 ông Ngô Đăng Lợi và Võ An Đông tuy có một vài điểm nhỏ cần bổ sung và đính chính.

Xin trân trọng giới thiệu với các bạn đọc.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 16 Tháng Mười Hai, 2022, 08:44:01 pm
CÁNH CHIM KHÔNG MỎI


TUYẾT MAI
(Đài PT-TH Hái Phòng)


Ông Ngô Đăng Lợi sinh năm 1932 tại xã Đoàn Xá, huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng. Dải đất Tú - Đại - Đoàn (Tú Sơn, Đại Hợp, Đoàn Xá) là một vùng quê thuần nông nghèo khó, cách một dòng sông bên kia là quê Mạc Đăng Dung. Ông thường lấy bút danh là Hải Đoan (người làng Đoan, Hải Phòng) hay Đoan Nhân (người làng Đoan). Tuy nghèo nhưng Tú - Đại - Đoàn lại có truyền thống hiếu học. Tuy không có ai đỗ cao, làm quan to nhưng cũng có hàng chục người đỗ tiến sĩ Hán học. Thời Nho học cuối cùng vẫn còn có người đỗ cử nhân, tú tài. Dòng họ Ngô Đăng là dòng họ lớn, có nền nếp gia phong, uy tín trong vùng. Hai cụ thân sinh ra ông làm ruộng nhưng rất muốn cho con học hành, đỗ đạt. Hồi nhỏ, ông được cha mời thầy chữ Hán về dạy. Năm 1941, sau khi tốt nghiệp Sơ học yếu luợc, ông được cha cho về phủ Kiến Thụy cách nhà hơn 10 cây số để học trường Trung học Kiêm Bi. Đến kỳ nghỉ hè, sợ con quên sách thánh hiền, cha ông lại mời thầy về dạy chữ Nho cho con. Và ông yêu thích môn lịch sử từ đấy. Ông bảo, học chữ Nho thì văn là chính, ngoài ra còn học Nam sử (sử nước Nam) và Bắc sử (sử Trung Quốc). Ông có trí nhớ kỳ lạ. Có lần đi thi, ông đọc thuộc lòng một đoạn dài trong bộ sử "Việt Nam sử lược" của Trần Trọng Kim nên được thưởng. Cuốn "Làn sóng đỏ" của Nhược Tông rất dầy nhưng ông vẫn nhớ như in nhiều đoạn trong cuốn sách. Thời ông học trung học, người Tây đưa chữ Hán xuống vị trí thấp trong số các môn học, một tuần chỉ học có một tiết vào thứ bảy. Nhiều học trò trèo tường trốn học bỏ đi chơi, riêng Ngô Đăng Lợi vẫn lẽo đẽo theo cụ giáo Trần Văn Thược để học Hán học. Ông còn hay la cà trước các cửa hiệu thuốc bắc để học tiếng Hán. Mỗi lần các cụ trong làng viết câu đối và luận bàn văn chương, ông chăm chú ngồi nghe và thuộc nhiều những câu đối hay, có triết lý sâu sắc.


Năm 1953, ông tình nguyện đi bộ đội nhưng không trúng tuyển vì mắt cận nặng. Ngô Đăng Lợi được vào học ở trường Đại học Nhân Dân ở Hà Nội. Tốt nghiệp đại học, ông về công tác ở trường Trung học Sư phạm Trung ương, rồi về Khu giáo dục Tả Ngạn ở tỉnh Kiến An (cũ). Những năm sau đó, ông công tác ở nhiều lĩnh vực: dạy học, bồi dưỡng giáo viên, tuyển sinh đại học, thư ký cho UBND thành phố. Công tác ở nhiều nơi, với những nhiệm vụ khác nhau, nhưng Ngô Đăng Lợi luôn nghiêm túc và say mê trong công việc, ông rất chịu khó học, học ở sách vở, ở thầy, ở bạn và hay đi thâm nhập thực tế. Có lẽ vì vậy mà vốn kiến thức văn học và lịch sử của ông khá rộng và sâu sắc. Thời kỳ dạy học ở Vĩnh Bảo, ông và học sinh thường đi xuống các địa phương để sưu tầm ca dao, truvện cổ trong dân gian. Lúc đó, ông một lòng muốn thực hiện nguyên lý giáo dục: học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn. Với tâm huyết của một nhà giáo, nhà nghiên cứu, ông cùng với ông Trịnh Hữu Chương biên soạn cuốn tài liệu dạy Văn - Sử đầu tiên của Hải Phòng. Năm 1984, thành phố xúc tiến biên soạn bộ địa chí và thông sử Hải Phòng, triển khai giám định hồ sơ xếp hạng các di tích lịch sử, ông được điều về Hội đồng Lịch sử thành phố để chuyên tâm sống với niềm đam mê máu thịt của ông. Chẳng ai đòi, ai bắt, không có tiền vẫn viết. Cho đến bây giờ, ông vẫn thường bỏ tiền ra để được đi lại nghiên cứu, tìm tài liệu ở các thư viện lớn. Bài nào ông viết cũng công phu và khoa học. Sau 20 năm chuyên tâm với công tác nghiên cứu, biên soạn lịch sử thành phố, ông vừa là chủ biên, vừa là đồng tác giả nhiều công trình có giá trị như: Lược khảo đường phố Hải Phòng, Địa chí Hải Phòng, Từ điển Bách khoa địa danh Hải Phòng, Những ông Nghè đất cảng, Nhân vật lịch sử Hải Phòng (2 tập). Hiện nay, ông đang tham gia viết "Thông sử Hải Phòng", "Địa chí Đồ Sơn" và sách giáo khoa lịch sử - địa lý Hải Phòng dành cho học sinh tiểu học và trung học cơ sở. Quan điểm viết sử của ông là "Khôn, dại chờ khi đậy ván thiên". Ông tự răn mình khi đánh giá một nhân vật lịch sử, cần phải có độ dài về thời gian, không hấp tấp, vội vàng. Ông viết về người đã khuất để rút ra bài học cho những người đang sống. Ai bị oan khuất, ai có công lênh, ông lăn xả vào viết với một thái độ tôn trọng sự thật lịch sử, không sợ thiệt thòi, chẳng quản khó khăn, vất vả, tất cả chỉ để làm rõ trắng, đen.


Sinh ra ở Hải Phòng, Ngô Đăng Lợi luôn đau đáu một niềm tin với quê hương. Có ai đó nói, hoặc viết về Hải Phòng chưa đúng, ông tranh luận đến cùng. Tranh luận bằng lý luận khoa học, bằng thực tiễn, bằng cái tâm trong sáng của một nhà nghiên cứu lich sử. Như cánh chim không mỏi, Ngô Đăng Lợi mải miết đọc, học và viết. Với ông học bao nhiêu cũng chưa đủ, phải học mãi, học suốt đời. Dẫu bước vào tuổi “xưa nay hiếm" ông vẫn muốn học thật nhiều để được cống hiên cho đời vốn tri thức đầy chất nhân văn.


Chuyện về ông, nhiều nhà hoạt động văn hóa xã hội ở Hải Phòng và cả nước đều rành rẽ: Không biết đi xe đạp, sống giản dị, đi, đọc, học và viết là lẽ sống. Sự giầu có của ông chẳng mấy người có được, đó là một gia tài đồ sộ sách kim cổ đông tây, trong đó có những cuốn nghe nói Thư viện Quốc gia cũng không có như: "Hải Dương toàn dư địa chí" bằng chữ Hán, hoặc chỉ có mỗi loại một cuốn như "Hoàng Việt dư địa chí" của Phan Huy Chú và cuốn "Việt Văn hợp tuyển" xuất bản năm 1925. Hiện ông đang lưu giữ cuốn "Truyện Kiều" bằng chữ Hán có cách đây hơn 100 năm.


Hạnh phúc khi được ngồi bên ông đàm đạo gốc gác của một từ, một chữ nào đó với một triết lý sống nhân văn.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 16 Tháng Mười Hai, 2022, 08:45:14 pm
VỊ ĐẠI TÁ VỀ HƯU VỚI 20 TẬP SÁCH
"ĐƯỜNG 5 ANH DŨNG QUẬT KHỎI”


THANH THỦY
(Báo Hải Phòng)


Tôi đến thăm nguyên Tư lệnh Bộ Tư lệnh 350 Hải Phòng, đại tá Võ An Đông vào một chiều đầu xuân tại nhà riêng của ông ở số 180 đường Chùa Hàng. Nhìn qua cánh cửa xếp cũ đã tróc hết sơn, tôi thấy ông đang ngồi bên bàn làm việc, cắm cúi viết, mái tóc bạc trắng như cước, cặp kính lão dầy cộp trễ xuống sống mũi, vai khóac tấm áo sĩ quan quân đội bạc màu chinh chiến. Sau khi nghe nói ý định tới gặp ông, với tác phong làm việc theo kiểu "nhà binh", cẩn thận nhưng khẩn trương, ông yêu cầu tôi trao đổi công việc thật ngắn gọn, cụ thể, cần cung cấp những thông tin gì, trong thời gian bao lâu... Đại tá Võ An Đông bất đầu câu chuyện về cuộc đời của mình bằng giọng trầm ấm, truyền cảm với trí nhớ minh mẫn, chính xác đến từng chi tiết, sự kiện với nhiều mốc thời gian khác nhau trong lịch sử...


Sinh năm 1921, ở quê lụa Hà Đông (Hà Tây), Võ An Đông tên thật là Hồ Văn Thỏa, khi tham gia cách mạng ông lấy tến là Hồ Qúy Thoa, sau này là Võ An Đống. Từ nhỏ ông được cha mẹ gửi lên Hà Nội học ở trường Bưởi, rồi trở thành sinh viên đại học. Trong không khí cách mạng sôi sục những năm 40, lòng yêu nước, yêu dân tộc đã thôi thúc cậu sinh viên 20 tuổi tham gia cách mạng với bầu nhiệt huyết căng tràn của tuối trẻ. Sau khi cướp chính quyền, ông làm Chủ tịch UBND cách mạng huyện Thanh Oai (Hà Đông). Năm 1946, ông sang làm Chủ tịch rồi Bí thư Huyện ủy Yên Mỹ. Tháng 3 năm 1949, ông được giao nhiệm vụ phụ trách quân sự tỉnh Hưng Yên. Tình hình cách mạng ở tỉnh Hưng Yên lúc bấy giờ gặp không ít khó khăn, nhiều cán bộ chủ chốt của tỉnh và huyện bị địch bắt đem thủ tiêu. Phong trào kháng chiến của Hưng Yên lâm vào tình trạng khủng hoảng. Tỉnh đội trưởng Võ An Đông trăn trở, đứng ngồi không yên, vắt óc suy nghĩ tìm kế sách tháo gỡ tình thế. Cho đến năm 1950, được đi dự tổng kết chiến dịch Biên giới Thư Đông, ông tìm ra chìa khóa để mở tung những suy tư lâu nay. Bằng việc đánh giá đúng đối tượng tác chiến, khả năng và trình độ chiến đấu của bộ đội tỉnh và huyện đề ra phương án chuẩn xác, ông đã chỉ huy các đơn vị lần lượt nhổ hết bốt Hương dũng này đến tháp canh, hương đồn khác thuộc tất cả 7 huyện phía nam Đường số 5, giải phóng hàng chục nghìn dân, mở thêm nhiều khu du kích, phát triển nhiều cơ sở kháng chiến. Nhờ những chiến thắng đó, ta đã chuyển từ thế bị địch bao vây, o ép sang thế chủ động tiến công, chia cắt, bao vây lại chúng, biến hậu phương của chúng thành tiền phương của ta. Càng đánh càng thắng, càng thắng càng trưởng thành, quân và dân Hưng Yên như có sinh lực mới có thể hoạt động vững vàng ở bất cứ chỗ nào trên địa bàn tỉnh. Từ đánh thắng bọn hương dũng, diệt quân ứng viện, tiến tới đánh thắng cả quân cơ động chiến lược của địch, phá tan nhiều cuộc hành quân càn quét quy mô lớn và vừa của chúng như trận càn "Trái chanh" (25/9/1951).


Trên đà của những chiến thắng liên tiếp, giòn giã đã thôi thúc ông lao vào trận chiến đấu mới đang diễn ra ngày càng gay cấn với quyết tâm và niềm tin mới. Bộ đội tỉnh Hưng Yên dưới sự chỉ huy của Tỉnh đội trưởng Võ An Đòng liên tiếp giành được thắng lợi cho đến ngày chiến tranh kết thúc vào tháng 7-1954. Hiểu rõ công lao của ông, tháng 12-1952, Bí Liên khu ủy Khu 3 Lê Thanh Nghị gửi thư khen ngợi. Năm 1953, Bộ Quốc phòng tặng Võ An Đông Huân chương Chiến công hạng Nhất.


Sau hiệp định Giơ-ne-vơ, tỉnh đội trưởng Võ An Đông chuyển vị trí công tác. Ông được cử làm Thành đội trưởng Hải Phòng, chỉ huy đoàn quân tiến về thành phố trực tiếp giao dịch với Pháp để tiếp nhận các cơ sở quân sự và các công trình ích lợi khác. Tháng 8-1972, ông được chỉ định làm Tư lệnh Bộ Tư lệnh 350 (Hải Phòng). Võ An Đồng chính là người trực tiếp chỉ huy bộ đội đánh trả cuộc rải bom đánh phá thành phố của giặc Mỹ ròng rã suốt 12 ngày đêm. Khi non sông liền một dải, ông có sáng kiến thành lập Câu lạc bộ "Trung dũng - Quyết thắng", câu lạc bộ đầu tiên của cả nước, tập hợp các sĩ quan về nghỉ hưu tại Hải Phòng, ông còn dành nhiều tâm trí vào việc xây dựng nếp sống quân sự trong nhà trường phổ thông và đại học. Đặc biệt ông là một trong những cán bộ lãnh đạo tổ chức thực hiện có hiệu quả chủ trương của Đảng bộ, chính quyền, quân và dân thành phố về xây dựng một số công trình kết hợp kinh tế với quốc phòng. Nổi bật nhất là công trình lấn biển Đường 14 (Hải Phòng - Đồ Sơn) và Đường xuyên đảo Đình Vũ... Trước kia đảo Đình Vũ cách đất liền 2 km, là nơi hoang vắng, thực dân Pháp vẫn thường đưa các chiến sĩ cách mạng đến đây hành hình rồi quẳng xác xuống biển. Dân ở đảo Đình Vũ vốn đã nghèo đói, lại có nhiều người mất tích bởi những đợt sóng lớn. Hiểu được lợi thế của đảo Đình Vũ, Bộ Tư lệnh Hải Phòng kiến nghị với thành phố chọn đảo hoang Đình Vũ xây dựng pháo đài, kiến tạo thành vùng kinh tế mới và khu du lịch "độc nhất vô nhị" của Hải Phòng. Dưới sự chỉ huy trực tiếp của Tư lệnh Võ An Đông, cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 666 và 667 đã lao động không quản ngày đêm, suốt mấy năm ròng rã, đã nối đảo Đình Vũ với thị trấn Cát Bà (huyện đảo Cát Hải) và trở thành khu phòng thủ vững chắc, với tiềm năng, triển vọng phát triển kinh tế và du lịch. Đại tá Võ An Đông bồi hồi nhớ lại buổi ngăn đập Đình Vũ. Chuẩn bị cho công việc ngăn đập, ông chỉ đạo các chiến sĩ Xí nghiệp cơ khí Trung Dũng thuộc Bộ Tư lệnh Hải Phòng cắt, hàn hàng trăm rọ sắt đựng đá ném xuống sông tạo thành con đập ra đảo Đình Vũ. Rọ sắt không đủ bị nước triều cuốn trôi. Rút kinh nghiệm, Võ An Đông trực tiếp chỉ huy chiến dịch sản xuất rọ sắt, vận chuyển đá với quy mô hàng nghìn m3 chờ thủy triều xuống thấp, huy động lực lượng của 2 Tiểu đoàn 666 và 667 đồng loạt thả rọ sắt chứa đầy đá xuống lòng sông Đình Vũ. Con đập được hình thành, dòng nước bị chặn lại tức giận gầm gừ tung bọt trắng xóa cuối cùng cũng chịu khuất phục trước bàn tay, khối óc và lòng dũng cảm của các chiến sĩ. Đường xuyên đảo Đình Vũ hình thành. Đảo hoang Đình Vũ bây giờ trở thành khu kinh tế mới trù phú, giầu tiềm năng đang trên đà thay da đổi thịt. Dưới tầm nhìn chiến lược của nhà quân sự mấy chục năm lăn lộn nơi chiến trường, Tư lệnh Võ An Đông kiêm Giám đốc Cảng Hải Phòng còn là "nhạc trưởng" trong nhiều công trình kinh tế quan trọng của thành phố như công trình lấn biển Đường 14 (bây giờ là Đường 353), Kênh đào Cái Tráp, khu sản xuất lò vôi Pháp cổ, Xí nghiệp cơ khí Trung Dũng...


Nghỉ hưu từ năm 1986 với quân hàm đại tá hưởng lương thiếu tướng nhưng Tư lệnh Võ An Đông không nghỉ, ông luôn bận rộn với nhiều công việc như tham gia Hội Khoa học lịch sử thành phố, các câu lạc bộ, ban liên lạc vũ trang Hải Phòng; ban liên lạc đồng đội Hải Dương - Hưng Yên và hằng ngày ông vẫn dành vài giờ để viết hồi ký. Mấy năm trước còn khỏe, ông rong ruổi trên chiếc xe đạp lọc cọc đến nhà từng đồng sự lấy tài liệu, ghi chép; sốt sắng, hăng hái, dẻo dai đi các tỉnh, thành phố tìm bạn chiến đấu cũ, lần lại những chặng đường lịch sử anh hùng để rồi khi trở về nhà lại cặm cụi bên những trang viết. 20 tập sách "Đường 5 anh dũng quật khởi" đã ra đời nhờ sự kiên trì, bền bỉ và tấm lòng đầy nhiệt huyết với cuộc sống của vị đại tá 84 tuổi và các cộng sự là đồng đội cũ.


Vị đại tá trở nên hào hứng, sôi nổi và say sưa khi ông nhắc lại những chặng đường đã qua với biết bao sự kiện, dấu ấn lịch sử cùng với những kỷ niệm không thế nào quên về những người đồng đội đã từng sông chiến đấu và hy sinh vì Tổ quốc. Trong mái đầu bạc trăng như cước vẫn còn ăm ắp những dự định cho những cuốn sách sắp ra đời với niềm lạc quan cách mạng mãnh liệt. Ông tâm sự: “Tôi đã già nhưng tâm hồn không bao giờ mệt mỏi, không tiếc sức lực, tiền của để cho ra đời những cuốn sách lịch sử chỉ với mong muốn duy nhất là hun đúc lòng yêu nước và niềm tự hào dân tộc mang tính trừu tượng nhưng rất thiết thực và cụ thể. Bởi lòng yêu nước và tự hào dân tộc luôn có giá trị vững bền và cần thiết trong mọi thời đại”. Với trách nhiệm đối với lịch sử dân tộc, vị đại tá về hưu vẫn cần mẫn thu thập tài liệu rồi miệt mài viết bởi ông biết thời gian dành cho mình không nhiều, phải tranh thủ từng giờ, từng phút để cống hiến những năm tháng còn lại của cuộc đời mình bằng những trang sách lịch sử đầy tâm huyết.


Chia tay ông khi trời đã xâm xẩm tối. Quay lại nhìn ngôi nhà bình yên, vị đại tá già vẫn ngồi bên chồng tài liệu, mái tóc bạc trắng cúi xuống, có lẽ ông lại đang viết: "Đường 5 anh dũng quật khởi". Hình ảnh đó mãi còn in dấu trong tâm trí tôi.


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 16 Tháng Mười Hai, 2022, 08:46:01 pm
LỜI CẢM ƠN ĐẶC BIỆT ĐỐI VỚI BÁC VÕ AN ĐỒNG,
NGUYÊN TỈNH ĐỘI TRƯỞNG HƯNG YÊN (1949-1954)


Đồng chí Phạm Văn Phúc trưởng thành và lớn lên từ Huyện đội Khoái Châu (Hưng Yên) trong kháng chiến chống Pháp, nay vui mừng được họp mặt gặp về việc lập hội “Bộ đội tình nguyện kháng chiến chống Pháp Huyện đội Khoái Châu”. Với đồng chí Võ An Đông, nguyên Tỉnh đội trưởng Hưng Yên, đồng chí Phạm Văn Phúc gửi lời chân thành tốt đẹp nhất. Đồng chí đã viết mấy dòng sau:

"Bác Võ An Đông, nguyên Tỉnh đội trưởng Hưng Yên, với đạo đức Hồ Chí Minh, lý luận, văn chương và ý chí cách mạng đến cùng, tài giỏi, thao lược, chỉ huy quyết chiến quyết thắng. Kháng chiến chống Pháp, thực tiễn sát thực với chiến trường đồng bằng Bắc bộ Việt Nam, đã giải phóng tỉnh Hưng Yên nói chung, giải phóng huyện Khoái Châu nói riêng.

Ngày nay, bác Võ An Đông đã khai sáng mở ra chỉ đạo lập hội “Đồng đội bộ đội tình nguyện trong kháng chiến chống Pháp Huyện đội Khoái Châu” có ý nghĩa quan trọng vêề tình cảm cách mạng tuyệt vời. Trong kháng chiến và ngày nay, bác Võ An Đông đã truyền những tình cảm to lớn của Đảng, của cách mạng, của quân đội, của nhân dân đến với bộ đội tình nguyên kháng chiến chống Pháp huyện Khoái Châu, liên lạc tình nghĩa với nhau, gặp mặt nhau, ý chí tình cảm thiêng liêng ấy. Bút sách, văn chương nào ghi tả lên hết được tình cảm cách mạng, sống còn, quyết liệt to lớn tuyến lửa đã chiến thắng đánh Pháp thắng lợi. Bác Võ An Đông là anh cả của lực lượng vũ trang tỉnh Hưng Yên.

Bộ đội tình nguyện chống Pháp Huyện đội Khoái Châu với tất cả tâm lòng biết ơn sâu sắc nhất với Đảng, Chính quyền và nhân dân huyện Khoái Châu. Xin chân thành cảm ơn bác Võ An Đông, nguyên Tỉnh đội trưởng Hưng Yên.


PHẠM VĂN PHÚC


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 16 Tháng Mười Hai, 2022, 08:46:35 pm
CÁM ƠN CÁC ANH!


VŨ KHANG
Kính tặng Ban biên tập sách
"Đường 5 anh dũng quật khởi”


   Ồ! Đã mười năm rồi nhỉ
   Các anh - những người viết sử
   Về Đường 5 anh dũng một thời
   Mười năm:
   Hai mươi bông hoa
   Hương sắc tuyệt vời
   Mười triệu trang in
   Muôn lời tâm huyết
   Trăm trận đánh hay
   Nghìn gương người tốt
   Để đời sau
   Đọc mãi sách Đường 5
   Xin cám ơn
   Cám ơn các anh
   Những người lính già
   Đã viết sách Đường 5!

Tháng 1 năm 2006


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 16 Tháng Mười Hai, 2022, 08:47:18 pm
CẢM XÚC VỀ NHỮNG NGƯỜI ĐI “ĐÃI CÁT TÌM VÀNG”


NGUYỄN THỊ DINH
(Đài phát thanh-truyền hình Hải Phòng)


Tôi yêu thích môn lịch sử từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Khi trở thành một sinh viên lịch sử trên giảng đường đại học, tôi được tiếp cận với nhiều phương diện của lịch sử. Đó có thể là lịch sử của mỗi ngành khoa học hoặc lịch sử của các châu lục. Cũng có khi đó là những lát cắt lịch sử từ sơ khai nguyên thủy đến hiện đại ngày nay. Thế nhưng thế hệ chúng tôi lại ít được tiếp cận với những chuyện kể, với những sự kiện đã từng diễn ra ngay chính trên quê hương mình. Bởi vậy, khi tham gia nghiên cứu khoa học dành cho sinh viên chuyên ngành, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài địa phương về cuộc chiến đấu du kích của quân dân khu vực ven đường 5. Đường 5, con đường đã từng là huyết mạch nối liền Hà Nội vói Hải Phòng. Con đường đã gắn liền với chiến công của những ông “vua mìn”, những thành tích phá tàu địch nổi danh khắp cả nước. Nhưng để sâu chuỗi, phản ánh đầy đủ các sự kiện ấy mà không sa đà, chi tiết, với một sinh viên trẻ như tôi điều ấy quả thật không phải điều đơn giản.


May mắn thay, khi đó tôi tình cờ được bạn bè giới thiệu về bộ sách “Đường 5 anh dũng quật khởi”. Theo địa chỉ trong sách, tôi lần lượt tìm gặp các ông, các bác trong ban biên tập và những người biên soạn bộ sách. Họ đều là những cán bộ ngày trước đã từng tham gia kháng chiến nay đã về hưu. Tuy tuổi cao sức yếu nhưng các ông, các bác đều hết sức quan tâm, chỉ bảo tận tình, cung cấp các vấn đề và giúp tôi hệ thống hóa các sự kiện ấy.


Chiến tranh du kích khu vực ven Đường 5 có liên quan đến các tỉnh Hải Phòng, Hưng Yên, Hải Dương, Hà Nội và trong suốt một thời gian dài như vậy hàng trăm, hàng nghìn trận đánh đã diễn ra có lúc dường như tôi bị lạc giữa cái mênh mông, bể sở ấy. Nhưng mỗi khi nói chuyện với các bác, các ông, nghe họ kể lại say sưa mỗi trận đánh tôi lại tự nhủ phải cố gắng để tìm thấy nhiệt huyết trong công việc.


Sau khoảng thời gian dài nỗ lực, tôi đã hoàn thành xuất sắc đề tài của mình. Từ duyên cớ ấy, tôi trở thành một người bạn nhỏ của Ban biên tập bộ sách “Đường 5 anh dũng quật khởi”, may mắn được cùng tham gia một số hội thảo và tọa đàm của Hôi tổ chức. Từ đó tôi hiểu thêm đươc nhiều di tích kháng chiến, nhiều cơ sở hoạt động cách mạng, cũng như biết thêm nhiều chiến sĩ vô danh - những người đã thầm lặng hy sinh cho bình yên Tổ quốc cũng như thành phố Cảng thân yêu.


Tất cả điều đó giúp tôi có thêm tự tin, mạnh dạn để phát triển tiếp đề tài “Chiến tranh du kích khu vực ven Đường 5 (1945-1954)” thành luận văn tốt nghiệp. Suốt quá trình dài từ phác thảo đề cương đến hoàn chỉnh luận văn, tôi đã nhận được sự động viên, quan tâm rất lớn của các ông, các bác. Tôi được tiếp cận và học hỏi được nhiều từ phong cách làm việc khoa học và rất hiệu quả của Hội. Và còn cảm động, trân trọng hơn khi có những cụ trên 80 tuổi vẫn miệt mài đạp xe thu thập tài liệu. Có người còn say sưa viết lách ngay cả khi đang nằm bên giường bệnh. Bởi có lẽ họ lo sợ khi nay, khi mai không còn đủ sức để kể tiếp cho con, cho cháu những trang sử oai hùng một thủa.


Suốt thời gian dài hơn 10 năm bền bỉ, 20 tập sách Đựờng 5 đã được xuất bản. Có lẽ đó cũng là những cố gắng, nỗ lực vượt bậc của những người trong Ban biên tập. Trước những người lính già, mái đầu đã bạc vì chiến tranh và năm tháng, nhưng họ vẫn miệt mài nghiên bút, tôi thấy mình thật bé nhỏ. Và càng đáng trân trọng hơn khi họ không quản nắng mưa, và sức khỏe, tuổi tác, vẫn nguyện đi tìm những chất tinh quặng qúy, lưu lại cho muôn đời sau!


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 16 Tháng Mười Hai, 2022, 08:52:17 pm
Vô cùng thương tiếc đồng chí
VÕ AN ĐÔNG

Người khởi xướng và là linh hồn của bộ sách “Đường 5 anh dũng quật khởi”


(https://i.imgur.com/2z0LvIN.jpg)

Đại tá VÕ AN ĐÔNG
(1922 -2006)


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 16 Tháng Mười Hai, 2022, 08:53:20 pm
LỜI BAN BIÊN TẬP BỘ SÁCH
“ĐƯỜNG 5 ANH DŨNG QUẬT KHỞI”


Ngay từ những ngày đầu Xuân 2006, mặc dù nhiều lúc đau yếu do tuổi cao, bệnh trọng, đồng chí Võ An Đông nằm trên giường bệnh nhưng hầu như lúc nào cũng suy nghĩ việc tổ chức nội dung cho tập thứ 20 của bộ sách "Đường 5 anh dũng quật khởi”. Tháng 4, đồng chí đã cùng Ban biên tập họp bàn và thông qua đề cương tập thứ 20, đồng thời dồn sức giải quyết một số vấn đề về tài chính cho khâu xuất bản và trao tặng Kỷ niệm chương cho các cộng tác viên xuất sắc ở Hà Nội, Hưng Yên, Hải Dương, Hải Phòng... Tháng 5, đồng chí tập trung chỉ đạo khâu biên tập để hoàn tất nội dung tập thứ 20 bộ sách ‘‘Đường 5 anh dũng quật khởi” vào đúng dịp kỷ niệm lần thứ 116 ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại (19-5-1890/19-5-2006). Đồng chí Võ An Đông thân mật nói với anh em trong Ban biên tập: “Chúng ta cố gắng hoàn thành thật tốt việc biên tập tập thứ 20 này để chuyển bản thảo sang Nhà xuất bản Hải Phòng vào sáng thứ sáu 19-5...


Chỉ còn hai ngày nữa là đến hẹn cùng đồng chí Võ An Đông đem bản thảo sang làm việc với Nhà xuất bản Hải Phòng. Vậy mà 6 giờ sáng thứ năm 18-5-2006, anh em trong Ban biên tập chúng tôi nhận được tin báo qua điện thoại: Đồng chí Võ An Đông đã qua đời lúc 3 giờ 15 phút ngày 18-5-2006! Thật vô cùng đột ngột và vô cùng đau thương trước mất mát này!


Là người khởi xướng và là linh hồn của bộ sách "Đường 5 anh dũng quật khởi ”, 10 năm qua (1996-2006), những đóng góp, cống hiến của đồng chí Võ An Đông về tổ chức lực lượng viết bài, biên soạn, xuất bản, v.v.. là vô cùng to lớn. Nếu tính cả tập thứ 20 này, “Đường 5 anh dũng quật khởi ” đã âm thầm lặng lẽ ra mắt bạn đọc với một khối lượng đáng kinh ngạc: Hơn 1.300 bài viết của gần 800 tác giả với 46.100 cuốn và 12.320.450 trang in, tổng kinh phí đầu tư xuất hản 713.100.000 đ. Tất cả phản ánh những bài học kinh nghiệm chiến đấu sâu sắc, những gương điển hình tiên tiến, những nghệ thuật quân sự của quân dân Đường 5 dưới sự lãnh đạo của Đảng qua cuộc chiến tranh nhân dân chống Pháp và chống Mỹ xâm lược.


Đồng chí Võ An Đông mất đi là một tổn thất lớn đối với chúng ta. Thành ủy, HĐND, UBND, Ủy ban MTTQ Việt Nam thành phố đã quyết định thành lập Ban lễ tang, tổ chức trọng thể Lễ truy điệu tại Nhà tang lễ Quân khu 3, đồng thời đưa linh cữu đồng chí Võ An Đông về nơi an nghỉ cuối cùng. Trong dịp này, đã có gần 150 đoàn đại biểu các tỉnh, thành phố, cơ quan, đơn vị, địa phương và trung ương đến viếng, tiễn đưa đồng chí Võ An Đông về coi vĩnh hằng.

Xin vĩnh biệt đồng chí.

Ban biên tập


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 16 Tháng Mười Hai, 2022, 08:55:52 pm
TIN BUỒN


Thành ủy, HĐND, UBND, Ủy ban MTTQ Việt Nam, Bộ Chỉ huy Quân sự thành phố Hải Phòng và gia đình vô cùng thương tiếc báo tin:

Đồng chí Đại tá VÕ AN ĐÔNG sinh ngày 22-3-1922 tại xã Viên Hồ, huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà Tây. Trú tại số nhà 180 Chùa Hàng, phường Hồ Nam, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng.

Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, nguyên ủy viên Ban Thường vụ Thành ủy Hải Phòng, Ủy viên Thường vụ Tinh ủy Hưng Yên, Tỉnh đội trưởng tỉnh Hưng Yên, đảng ủy viên Đảng ủy Quân khu 3, Tư lệnh Bộ Tư lệnh 350 Hải Phòng, Phó Cục trưởng Cục Dân quân tự vệ - Bộ Tổng tham mưu - Bộ Quốc phòng, Giám đốc Cảng Hải Phòng. Đã nghỉ hưu.

Khen thưởng: Huân chương Quân công hạng Nhì; Huân chương Chiến thắng hạng Nhất; Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất; Huân chương Chiến công hạng Nhất, hạng Nhì; Huân chương Giải phóng hạng Ba; Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng Nhất, hạng Nhì, hạng Ba; Huy chương Quân kỳ quyết thắng; huy hiệu 60 năm tuổi Đảng.

Đồng chí đã từ trần hồi 03 giờ 15 phút, ngày 18 tháng 5 năm 2006.

- Lễ viếng từ 14 giờ 30 phút, ngày 19 tháng 5 năm 2006.

- Lễ truy điệu vào hồi 8 giờ 30 phút, ngày 20 tháng 5 năm 2006 tại Nhà tang lễ Quân khu 3 (số 01 Bến Bính, quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng); an táng cùng ngày tại nghĩa trang Ninh Hải - thành phố Hải Phòng.

BAN TỔ CHỨC LỄ TANG


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 16 Tháng Mười Hai, 2022, 08:58:28 pm
LỜI VĨNH BIỆT
ĐỒNG CHÍ ĐẠI TÁ VÕ AN ĐÔNG,
NGUYÊN ỦY VIÊN BAN THƯỜNG VỤ THÀNH ỦY HẢI PHÒNG

(Do đồng chí Dương Anh Điền, UVTVTU, Phó Chủ tịch thường trực
Ủy ban nhân dân thành phố đọc tại Lễ truy điệu ngày 20/5/2006)


Thưa các đồng chí đại biểu!

Thưa gia quyến đồng chí Võ An Đông!


Hôm nay, trong niềm tiếc thương sâu sắc, Ban tổ chức tang lễ cùng gia đình và toàn thể các đồng chí, đồng đội tổ chức trọng thể Lễ truy điệu và tiễn đưa đồng chí Đại tá Võ An Đông - người đồng chí kiên trung, người chỉ huy quân sự xuất sắc, người bạn chiến đấu thân thiết của chúng ta; người chồng, người cha, người ông yêu qúy thân thương của gia đình - về nơi yên nghỉ cuối cùng.


Đồng chí Đại tá Võ An Đông (tên thật là Hồ Văn Thỏa) sinh ngày 22 tháng 3 năm 1922 tại xã Viên Nội, huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà Tây. Thường trú tại 180 Chùa Hàng, phường Hồ Nam, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng. Nguyên ủy viên Ban Thường vụ Thành ủy, Tư lệnh Bộ Tư lệnh 350 Hải Phòng; nguyên Quân khu ủy viên Quân khu 3; nguyên Phó Cục trưởng Cục Dân quân tự vệ Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam; nguyên Giám đốc Cảng Hải Phòng.


Do tuổi cao sức yếu, bệnh nặng, mặc dù được Đảng, chính quyền, quân đội, các bác sĩ Bệnh viện hữu nghị Việt - Tiệp Hải Phòng và gia đình tận tình chăm sóc cứu chữa, song không qua khỏi. Đồng chí đã từ trần hồi 3 giờ 15 phút, ngày 18 tháng 5 năm 2006 tại Bệnh viện hữu nghị Việt - Tiệp.


Đồng chí Đại tá Võ An Đông sinh ra và lớn lên trên quê hương xã Viên Nội, huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà Tây giầu truyền thống cách mạng. Thuở thiếu thời, đồng chí đã chứng kiến cảnh đói khổ lầm than của nhân dân dưới ách thống trị của thực dân, phong kiến. Theo lý tưởng của Đảng, đồng chí đã sớm giác ngộ cách mạng.


Tháng 3 năm 1945, đồng chí tham gia Việt Minh và hoạt động bí mật tại địa phương.

Tháng 8 năm 1945, đồng chí được cử làm Chủ tịch UBND cách mạng huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông.

Tháng 2 năm 1946 đến tháng 9 năm 1948, đồng chí giữ các chức vụ Chủ tịch UBND huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên; tham gia Huyện ủy viên, Thường vụ Huyện ủy, Bí thư Huyện ủy huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên.


Từ tháng 3 năm 1949 đến tháng 5 năm 1954, đồng chí được giữ các cương vị: Chính trị viên - Tỉnh đội trưởng Tỉnh đội Hưng Yên; tham gia Ban Thường vụ Tỉnh ủy.

Tháng 6 năm 1954, đồng chí được bổ nhiệm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 137, Quân khu Tả Ngạn.

Từ tháng 8 năm 1954 đến tháng 9 năm 1955, đồng chí giữ chức Thành đội trưởng - thành phố Hải Phòng; tham gia Ủy viên ủy ban liên hiệp đình chiến Bắc Bộ - Ban tiếp quản Hải Phòng.

Từ tháng 10 năm 1955 đến tháng 4 năm 1960, đồng chí được cử giữ các cương vị: Tham mưu phó Trung đoàn 139, Sư đoàn 328; Tham mưu trưởng, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 42, Quân khu Đông Bắc.

Tháng 5 năm 1960 đến tháng 7 năm 1964, đồng chí được cử đi học tại Liên Xô. Từ tháng 8 năm 1964 đến tháng 5 năm 1966, đồng chí được cử là Tham mưu trưởng Sư đoàn 350, Quân khu 3.

Từ tháng 6 năm 1966, đồng chí được cử vào Nam chiến đấu, giữ chức vụ Phó Sư đoàn trưởng Sư đoàn 2, Quân khu 5; Phó Tham mưu trưởng Mặt trận 4, Quân khu 5. Từ tháng 8 năm 1969 đến tháng 8 năm 1972, đồng chí là Hiệu phó Trường Sĩ quan lục quân.


Từ tháng 9 năm 1972 đến tháng 4 năm 1983, đồng chí được cử giữ chức Tư lệnh Bộ Tư lệnh 350 Hải Phòng, Bí thư Đảng ủy Quân sự Hải Phòng; được bầu vào Ban chấp hành Đảng bộ thành phố và tham gia Ban Thường vụ Thành ủy; là Quân khu ủy viên Quân khu 3. Năm 1979 - 1980, đồng chí giữ chức Giám đốc Cảng Hải Phòng.


Từ tháng 5 năm 1983, đồng chí được bổ nhiệm giữ chức vụ Phó Cục trưởng Cục Dân quân tự vệ, Bộ Tổng tham mưu, Bộ Quốc phòng. Đến tháng 11 năm 1986, đồng chí nghỉ hưu, tại số 180 Chùa Hàng, phường Hồ Nam, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng.

Thưa toàn thế các đồng chí!

Qua nhiều tháng năm gian khổ, trưởng thành từ người chiến sĩ đến cán bộ cao cấp trong quân đội, với các cương vị được giao, đồng chí Võ An Đông luôn quán triệt sâu sắc, nắm vững và kiên định đường lối chính trị, đường lối quân sự của Đảng. Đồng chí luôn thấm nhuần sâu sắc tư tưởng của Bác Hồ, trung thành tuyệt đối với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân.


Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, đồng chí là một chiến sĩ kiên cường, là người chỉ huy quả cảm, sáng tạo, cùng với đồng đội của mình lập nên những chiến công vang dội ở mặt trận Đường 5. Sau hiệp định Giơ-ne-vơ, với cương vị là ủy viên Ủy ban Liên hiệp đình chiến Bắc Bộ - Ban tiếp quản Hải Phòng, đồng chí có nhiều đóng góp tích cực trong cuộc đấu tranh tại khu tập kết 300 ngày, cho đến khi Hải Phòng hoàn toàn giải phóng.


Trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, với cương vị là Tư lệnh Bộ Tư lệnh 350 Hải Phòng, đồng chí đã cùng lãnh đạo thành phố chỉ huy thống nhất các lực lượng vũ trang trên địa bàn đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại ác liệt bằng không quân và hải quân của giặc Mỹ, đặc biệt là trận Điện Biên Phủ trên không tháng 12 năm 1972, góp phần cùng cả nước làm nên Đại thắng mùa Xuân năm 1975 lịch sử.


Sau ngày đất nước thống nhất, đồng chí đã cùng với tập thể lãnh đạo Bộ Tư lệnh 350, Bộ Chỉ huy Quân sự thành phố tham mưu cho Thành ủy, UBND thành phố triển khai các chương trình trọng điểm kết hợp kinh tế với quốc phòng. Những công trình như Đường 14, đường xuyên đảo Cát Bà, đảo kênh Cái Tráp, lấn biển tại xã Vinh Quang - huyện Tiên Lãng... còn in mãi hình ảnh người cán bộ tận tụy, giầu sáng tạo, với tinh thần trách nhiệm cao, ngày đêm cùng chiến sĩ lao động quên mình, tất cả vì thành phố giấu mạnh.


Sau khi hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình trong quân đội, đồng chí được nghỉ hưu trở về cuộc sống đời thường. Mặc dù tuổi cao, song với trí tuệ và lòng nhiệt huyêt của Bộ đội Cụ Hồ, cùng với những kinh nghiệm quý báu trong cuộc đời birih nghiệp, với cương vị là Chủ tịch Chi hội lịch sử quân sự thành phố, đồng chí đã tích cực nghiên cứu, tổng kết kinh nghiệm biên soạn lịch sử quân sự. Nhiều tác phẩm của đồng chí có giá trị khoa học lịch sử cao, đặc biệt là nghệ thuật quân sự chiến tranh du kích trong kháng chiến chống Pháp, được thể hiện trong các tập Đường 5 anh dũng quật khởi.


Trải qua 60 năm liên tục chiến đấu và công tác cho đến khi từ trần, trên bất cứ cương vị nào, dù đảm nhiệm bất cứ nhiệm vụ gì, đồng chí đều hoàn thành xuất sắc. Đồng chí Võ An Đông luôn đoàn kết, trung thực và gương mẫu trong mọi công việc, dũng cảm mưu trí, gan dạ trong chiến đấu; nhiệt tình, hăng say, tâm huyết trong công tác, thủy chung với bạn bè đồng chí; gần gũi thương yêu cán bộ, chiến sĩ dưới quyền; luôn giữ vững phẩm chất cao qúy của người đảng viên cộng sản, là người cán bộ cách mạng có lối sống giản dị, mẫu mực về phẩm chất đạo đức, có tác phong công tác sâu sát, tỉ mỉ, bình tĩnh, chín chắn, thận trọng, được cán bộ, chiến sĩ kính trọng, tin yêu.


Trong gia đình, đồng chí là người chồng, người cha, người ông mẫu mực, thủy chung, hết lòng thương yêu con cháu, những người thân trong họ tộc, bà con lối xóm. Noi gương đồng chí, những người con của đồng chí đã trưởng thành, là những công dân tốt, hai trong số bốn người con của đồng chí tham gia xây dựng quân đội, một người đã anh dũng hy sinh vì sự nghiệp giải phóng đất nước.


Do những cống hiến xuất sắc trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng chí Võ An Đông được Đảng, Nhà nước tặng thưởng:

- Huân chương Quân công hạng Nhì,

- Huân chương Chiến thắng hạng Nhất,

- Huân chương Kháng chiến chông Mỹ hạng Nhất,

- Huân chương Chiến công hạng Nhất, hạng Nhì;

- Huân chương Giải phóng hạng Ba,

- Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng Nhất, Nhì, Ba;

- Huy chương Quân kỳ Quyết thắng,

- Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng và nhiều huân, huy chương cao qúy khác.

Đồng chí Võ An Đông kính mến!

Vĩnh biệt đồng chí, chúng tôi nguyện hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao cho. Đồng chí không còn nữa, song những đóng góp xuất sắc của đồng chí trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, và tình cảm thân thương của đồng chí sẽ còn mãi mãi trong tâm trí chúng tôi và những người thân yêu của đồng chí.


Trong giờ phút đau buồn này, thay mặt Thành ủy, HĐND, UBND, UBMT Tổ quốc Việt Nam thành phố và cán bộ, chiến sĩ LLVT thành phố, xin gửi đến gia đình, thân quyến đồng chí Võ An Đông lời chia buồn và sự cảm thông sâu sắc. Vĩnh biệt đồng chí Đại tá Võ An Đông, chúng ta dành một phút mặc niệm và tiễn đưa đồng chí về nơi an nghỉ cuối cùng.

Phút mặc niệm bắt đầu!

Xin vĩnh biệt đồng chí!


Tiêu đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 16 Tháng Mười Hai, 2022, 08:59:18 pm
THƯƠNG TIẾC ĐẠI TÁ VÕ AN ĐÔNG


TRỊNH TRỌNG GIỮ

   Tôi làm việc với ông
   Qua từng trang sách viết
   Ông ân cần thân thiết
   Hỏi cặn kẽ từng câu
   Rồi cúi xuống lâu lâu
   Lật lật từng trang viết...
   Ông làm việc mải miết
   Ít thời gian nghỉ ngơi
   Bởi muốn góp cho đời
   Những trang tư liệu mới
   Khẳng định một lần cuối
   Từ bài viết của ông...
   Bỗng tin đến - xé lòng!
   Ông đã về cõi Phật.
   Tôi vội vàng, lật đật
   Chạy đến chịu tang ông
   Bởi hôm trước - vừa xong
   Ông còn cười, hăm hở
   Phải viết đừng bỏ dở
   Cho trọn tập hai mươi
   "Đường 5 anh dũng" ấy...
   Cuộc đời sao bạc vậy!
   Tôi khóc gọi tên ông
   Thương tiếc đến vô cùng
   Nhà lão thành cách mạng.

Hải Phòng, 18/5/2006