Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Tài liệu - Hồi ký Việt Nam => Tác giả chủ đề:: macbupda trong 03 Tháng Tư, 2021, 02:42:13 pm



Tiêu đề: Lịch sử Cứu quốc quân
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Tư, 2021, 02:42:13 pm
Tên sách: Lịch sử Cứu quốc quân
Nhà xuất bản: Việt Bắc
Năm xuất bản: 1975

LỜI NHÀ XUẤT BẢN

Thực hiện chỉ thị của Ban thường vụ Khu ủy khu tự trị Việt Bắc về kỷ niệm lần thứ 30 Ngày thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Nhà xuất bản Việt Bắc xuất bản cuốn LỊCH SỬ CỨU QUỐC QUÂN để làm tài liệu nghiên cứu đối với cán bộ, đảng viên và nhân dân ta về một trong những lực lượng vũ trang đầu tiên của Đảng, tiền thân của quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng.

Cuốn sách này do Ban nghiên cứu lịch sử Đảng trực thuộc Khu ủy khu tự trị Việt Bắc biên soạn.

Chúng tôi trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc và mong nhận được ý kiến phê bình đóng góp của các bạn.


Tháng 3 năm 1975
                                                                                                                                                   
NHÀ XUẤT BẢN VIỆT BẮC

LỜI GIỚI THIỆU

Đội Cứu quốc quân là một trong những đội vũ trang đầu tiên do Đảng ta tổ chức và lãnh đạo, cùng với đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân thống nhất thành Việt Nam giải phóng quân mà ngày nay là Quân đội nhân dân Việt Nam.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, được đồng bào các dân tộc hết lòng giúp đỡ, đội Cứu quốc quân đã nhanh chóng trưởng thành. Trong quá trình chuẩn bị khởi nghĩa và khởi nghĩa giành chính quyền ở chiến khu Hoàng Hoa Thám (thuộc các tỉnh Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang), Cứu quốc quân đã giành được nhiều thành tích to lớn, góp phần xây dựng nên Khu giải phóng - căn cứ địa chủ yếu của Cách mạng tháng Tám năm 1945.

Tài liệu ghi chép về những hoạt động của Cứu quốc quân đến nay còn lại rất ít. Do đó, chúng tôi dựa vào hồi ký của các đồng chí cán bộ, chiến sĩ Cứu quốc quân và nhân dân ở những địa phương thuộc chiến khu Hoàng Hoa Thám trước đây đã được xác minh qua các hội nghị tọa đàm, đem đối chiếu với những chỉ thị, nghị quyết của Đảng trong thời kỳ đó, để nghiên cứu, biên soạn cuốn sách này.

Chúng tôi biên soạn cuốn lịch sử Cứu quốc quân nhằm ghi lại những thành tích vẻ vang, rút ra một số kết luận có ý nghĩa như là kinh nghiệm trên các mặt xây dựng lực lượng và đấu tranh vũ trang của Cứu quốc quân, để góp phần cho công tác giáo dục và phát huy truyền thống cách mạng. Đồng thời, biên soạn cuốn sách này, chúng tôi còn hi vọng giới thiệu với bọn đọc một số tài để tìm hiểu về vận động Cách mạng tháng Tám năm 1945, về căn cứ địa Việt Bắc và về việc xây dựng lực lượng vũ trang đầu tiên của Đảng ở địa bàn miền núi.

Trong quá trình nghiên cứu và biên soạn, chúng tôi được sự giúp đỡ tận tình của các đồng chí cán bộ và chiến sĩ Cứu quốc quân, cóc đồng chí cán bộ, đảng viên và đồng bào các dân tộc đã hoạt động ở địa phương trong thời kỳ đó; của các cấp ủy Đảng ở những nơi trước đây Cứu quốc quân hoạt động. Đồng thời chúng tôi còn được sự giúp đỡ, cộng tác của Ban nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương và các tỉnh Bắc Thái, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Cao Bằng; của các đồng chí cán bộ nghiên cứu ở Ban nghiên cứu lịch sử quân đội; Viện khoa học quân sự và trường Đại học tổng hợp Hà Nội. Nhân dịp, xuất bản tập sách này, chúng tôi chân thành cám ơn tất cả các cơ quan và các đồng chí.

Khả năng của chúng tôi có hạn. chắc rằng cuốn sách này còn có nhược điểm và thiếu sót. Chúng tôi rất mong nhận được ý kiến xây dựng của bạn đọc.


Tháng 2 năm 1975
                                                                                                                                              
BAN NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ ĐẢNG
KHU TỰ TRỊ VIỆT BẮC


Tiêu đề: Lịch sử Cứu quốc quân
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Tư, 2021, 02:45:11 pm
PHẦN THỨ NHẤT

SỰ RA ĐỜI CỦA ĐỘI CỨU QUỐC QUÂN

Nơi ra đời của đội Cứu quốc quân là vùng Bắc Sơn — Võ Nhai. Bắc Sơn là một châu thuộc tỉnh Lạng Sơn. Võ Nhai là một châu thuộc tỉnh Thái Nguyên. Tuy ở hai tỉnh, nhưng là hai châu kề sát nhau, có mối quan hệ khăng khít với nhau từ lâu đời. Đời Lý, đời Trần, Bắc Sơn và Võ Nhai cùng nằm trong một châu gọi là châu Vạn Nhai. Đến đời Lê gọi là châu Vũ Lễ. Sang đời Hậu Lê mới gọi là châu Võ Nhai. Đến năm 1804, thực dân Pháp tách một phần đất đai châu Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên, để lập ra châu Bắc Sơn thuộc tỉnh Lạng Sơn.

Bắc Sơn, Võ Nhai là hai châu miền núi. Nơi đây rừng già, núi đất, núi đá vôi hiểm trở, đi lại khó khăn, đã từng là một trong những địa bàn hoạt động chống Pháp của nghĩa quân Hoàng Hoa Thám, Hoàng Đình Kinh. Núi đất, rừng già cây cối um tùm, rậm rạp. Núi đá cao ngất có những vách đá tai mèo dựng đứng và nhiều hang động to rộng. Đó là những phòng tuyến thiên nhiên kiên cố ngăn cản bước tiến của kẻ địch. Nhưng đối với cách mạng, đây lại là địa bàn tương đối thuận lợi để xây dựng, che giấu và bảo toàn lực lượng.

Vùng Bắc Sơn — Võ Nhai nằm ở vị trí rất cơ động. Từ Bắc Sơn — Võ Nhai có thể nhanh chóng liên lạc ra vùng biên giới Việt — Trung, nhanh chóng tiến về đồng bằng và trung du theo hai hướng: xuống Phú Bình, Đồng Hỷ (tỉnh Thái Nguyên), và xuống Hữu Lũng, Yên Thế (tỉnh Bắc Giang). Do đó, trong những năm ba mươi của thế kỷ này, Đảng cộng sản Đông Dương đã xây dựng nơi đây thành một đầu mối giao thông quan trọng giữa bộ phận ở trong nước với bộ phận ở ngoài nước.

Bắc Sơn và Võ Nhai là địa bàn sinh sống từ lâu đời của đồng bào các dân tộc anh em Tày, Nùng, Dao Kinh. Sinh sống trên mảnh đất giàu đẹp nhưng điều kiện thiên nhiên lại có phần khắc nghiệt này, đồng bào các dân tộc đã được rèn luyện các đức tính cần cù, thông minh và dũng cảm. Đồng bào các dân tộc ở đây còn có truyền thống đoàn kết, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau trong lao động sản xuất, khi gặp thiên tai, hoạn nạn. Những đức tính quý báu và truyền thống tốt đẹp đó đủ bảo đảm cho đồng bào các dân tộc Bắc Sơn, Võ Nhai có được cuộc sống ấm no, hạnh phúc, Nhưng dưới ách áp bức và bóc lột của thực dân Pháp cùng bè lũ tay sai của chùng, đời sống của đồng bào các dân tộc Bắc Sơn, Võ Nhai vô cùng cực khổ, tối tăm. Đời sống vật chất của đồng bào thì cùng quẫn và đói khát bởi biết bao thứ thuế bất công phi lý của thực dân Pháp; bởi sự ăn bớt, ăn chặn, ức hiếp mọi bề của bọn hào lý tay sai. Đời sống tinh thần của đồng bào thì tối tăm, lạc hậu vì chính sách kìm hãm, nô dịch và đầu độc của thực dân Pháp bằng việc khuyến khích các tệ nạn mê tín, dị đoan, rượu chè, cờ bạc, hút xách... Thâm độc hơn, thực dân Pháp còn triệt để thi hành chính sách chia rẽ dân tộc để dễ bề cai trị và bóc lột nhân dân ta. Hết thảy các dân tộc Bắc Sơn, Võ Nhai đều căm ghét thực dân Pháp cùng bè lũ tay sai của chúng.

Với tình hình và đặc điểm trên đây, Bắc Sơn và Võ Nhai là mảnh đất tốt để gieo hạt giống cách mạng. Trong những năm 1935, 1936, 1937, Đảng ta đã cử cán bộ đến Bắc Sơn, Võ Nhai xây dựng cơ sở Đảng và các tổ chức quần chúng của Đảng. Đến năm 1940, ở các xã Vũ Lăng, Hữu Vĩnh, Bắc Sơn, Hưng Vũ, Chiêu Vũ, Vũ Lễ, Vĩnh Yên, Vũ Địch (châu Bắc Sơn), và ở các xã Phú Thượng, Lâu Thượng, Tràng Xá, La Hiên (châu Võ Nhai) đã xây dựng được các cơ sở Đảng và các tổ chức quần chúng của Đảng.

Có áp bức là có đấu tranh, đó là một quy luật. Nhân dân các dân tộc Bắc Sơn, Võ Nhai đã nhiều lần đấu tranh chống các chính sách và thủ đoạn áp bức, bóc lột của thực dân Pháp xâm lược và bè lũ tay sai của chúng. Từ ngày có Đảng cộng sản Đông Dương (tức là Đảng lao động Việt Nam ngày nay) ra đời và cử cán bộ đến tuyên truyền và giác ngộ, phong trào đấu tranh của đồng bào các dân tộc Bắc Sơn và Võ Nhai càng sôi nổi, liên lục. Mục tiêu đấu tranh là chống chính sách bắt phu, thu thuế, chống áp bức bóc lột của thực dân Pháp và bè lũ tay sai, đòi các quyền tự do, dân chủ. Hình thức đấu tranh là đưa yêu sách cho bọn hào lý địa phương, cho chánh sứ, tuần phủ, phủ thống sứ... Cao hơn là trừng trị bọn hào lý tay sai. Phong trào đó đã nổi lên các cuộc đấu tranh tiêu biểu. Năm 1936, nhân dân Gia Hòa (châu Bắc Sơn) kiện lý trưởng Lao Văn Pháp ức hiếp nhân dân, buộc quan trên pbảỉ cách chức y. Cùng năm đó, nhân dân xã Bắc Sơn (châu Bắc Sơn) kiện lý trưởng Lường Đình Văn ăn quịt tiền, buộc y phải hoàn trả lại 30 đồng cho nhân dân. Cũng năm 1936, nhân dân bị bắt đi làm đường ở Mỏ Gà (châu Võ Nhai) đấu tranh chống bọn cai ký đánh đập phu và ăn quịt tiền công. Trong những năm 1937, 1938, thực dân Pháp tăng cường bắt phu làm con đường từ Bình Gia sang Bắc Sơn, xuống Võ Nhai. Những đảng viên cộng sản ở Bắc Sơn và Võ Nhai đã tổ chức và lãnh đạo nhân dân các dân tộc đấu tranh chống bắt đi phu trong ngày mùa. Phong trào đó đã lôi cuốn nhiều tầng lớp nhân dân lao động tham gia. Cuộc đấu tranh chống đi phu của nhân dân Võ Nhai làm cho tên tri châu Đèo Văn Long phải đổi đi nơi khác. Nhân dân Bắc Sơn họp thành đoàn biểu tình kéo lên châu đấu tranh. Cao hơn, nhân dân bị bắt đi phu còn trừng trị những tên cai, đội coi phu hống hách, như tên đội Nháy. Các cuộc đấu tranh với các mục tiêu chính trị cũng đã được tổ chức. Tháng 10 năm 1938, khoảng 100 người ở châu Võ Nhai cùng ký tên vào một bản yêu sách đòi thả chính trị phạm. Tháng 9 năm 1939, khoảng hơn 70 người ở Võ Nhai lại cùng ký tên vào một bản yêu sách chống việc quay trở lại Hiệp ước 1884. Cuộc vận động hưởng ứng phong trào «Đông Dương đại hội» cũng diễn ra sôi nổi ở Bắc Sơn và Võ Nhai.

Trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ, những đảng viên cộng sản ở Bắc Sơn và Võ Nhai còn rải truyền đơn, treo cờ đỏ nhân những ngày kỷ niệm lịch sử như Quốc tế lao động, Cách mạng tháng Mười Nga, xô-viết Nghệ-Tĩnh... Trong thời kỳ này, các sách báo của Đảng như báo «Tin tức», «Đời nay»... được lưu hành tương đối rộng rãi ở Bắc Sơn và Võ Nhai.

Mặc dầu có những cuộc đấu tranh tự phát và dưới những khẩu hiệu kinh tế, nhưng phong trào đấu tranh đó đều có ý nghĩa chính trị sâu sắc, bao gồm đấu tranh chính trị và bạo lực của quần chúng. Nó có tác dụng giáo dục, rèn luyện và tổ chức nhân dân Bắc Sơn, Võ Nhai tiến lên con đường đấu tranh cách mạng. Truyền đơn, cờ đỏ và sách báo của Đảng đã góp phần làm cho ảnh hưởng của cách mạng ngày càng sâu rộng trong nhân dân các dân tộc Bắc Sơn, Võ Nhai. Các tổ chức cơ sở Đảng và các tổ chức quần chúng của Đảng được xây dựng trong thời kỳ 1935 —1939 cùng với truyền thống bất khuất của nhân dân các dân tộc Bắc Sơn, Võ Nhai là điều kiện rất thuận lợi để phát triển phong trào cách mạng một cách sôi nổi trong thời kỳ chiến tranh thế giới lần thứ hai (1939 —1945). Với tình hình và đặc điểm trên đây; trong trào lưu chung của phong trào cách mạng và dưới sự lãnh đạo của Đảng, phong trào cách mạng ở Bắc Sơn, Võ Nhai đã sản sinh ra đội Cứu quốc quân.


Tiêu đề: Lịch sử Cứu quốc quân
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Tư, 2021, 02:48:16 pm
PHẦN THỨ HAI

QUÁ TRÌNH TRƯỞNG THÀNH CỦA CỨU QUỐC QUÂN

I —SỰ CHUYỂN HƯỚNG CHỈ ĐẠO CHIẾN LƯỢC CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG.
CUỘC KHỞI NGHĨA BẮC SƠN VÀ ĐỘI DU KÍCH BẮC SƠN

Tháng 9 năm 1939, cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra đã chấm dứt thời kỳ vận động dân chủ rộng lớn của nhân dân ta do Đảng ta lãnh đạo. Một thời kỳ đấu tranh mới của cách mạng Việt Nam bắt đầu. Đó là thời kỳ «Đổi đế quốc chiến tranh ra nội chiến, đổi chiến tranh cướp bóc ra chiến tranh cách mạng, đánh đổ đế quốc chủ nghĩa, dựng chính quyền cách mạng, tuyên bố ra khỏi đế quốc chiến tranh»(1).

Ngày 3 tháng 9 năm 1939, tức là hai ngày sau khi phát-xít Đức tấn công Ba Lan, đế quốc Anh và Pháp tuyên chiến với phát-xít Đức. Ngay sau khi xông vào vòng chiến, đế quốc Pháp liền thẳng tay đàn áp Đảng cộng sản Pháp và phong trào dân chủ, tiến bộ ở Pháp cũng như ở các thuộc địa của Pháp.

Ở Đông Dương, thực dân Pháp thi hành chính sách phát-xít vô cùng tàn bạo. Về chính trị, chúng ra sức đàn áp và khủng bố Đảng cộng sản Đông Dương và các tổ chức cách mạng của nhân dân Đông Dương. Về quân sự, chúng tăng cường bất lính, xây thêm sân bay, pháo đài, lập xưởng đúc đạn, thực hiện cái gọi là «tăng cường phòng thủ Đông Dương». Về kinh tế, chúng tăng sưu thuế, trưng thu, trưng dụng, mở quốc trái, lạc quyên... thực hành chính sách «kinh tế chỉ huy». Tất cả những chính sách trên đây của thực dân Pháp là nhằm tiêu diệt phong trào cách mạng Đông Dương, để giữ lấy thuộc địa Đông Dương, và để bóc lột nhân dân ta đến tận xương tủy phục vụ cho chiến tranh. Các giai cấp và tầng lớp trong xã hội Việt Nam lúc đó đều chịu ảnh hưởng tai hại của chính sách kinh tế chiến tranh của thực dân Pháp. Do đó nhiều cuộc đấu tranh đòi duy trì mức sinh hoạt của công nhân đã giành được trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ, các cuộc đấu tranh chống sưu cao, thuế nặng, chống bắt phu và bắt lính của nông dân và các tầng lớp khác, đã nổ ra ở nhiều nơi trong cả nước.

Đứng trước những chuyển biến mới của tình hình thế giới và trong nước, tháng 11 năm 1939 Trung ương Đảng cộng sản Đông dương đã họp hội nghị lần thứ sáu để quyết định những chủ trương, chính sách mới cho phù hợp. Hội nghị nhấn mạnh giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Đông Dương, quyết định mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất lấy tên là Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương để tập trung lực lượng chống đế quốc xâm lược và bè tũ tay sai của chúng. Hội nghị đã xác định trách nhiệm của Đảng là «Dự bị những điều kiện bước tới bạo động làm cách mệnh giải phóng dân tộc»(2), và quyết định phát triển đội tự vệ thật đông đảo và rộng khắp để tiến tới xây dựng «Quốc dân cách mệnh quân»(3).

Hội nghị lần thứ sáu của Trung ương Đảng cộng sản Đông Dương đã thấy rõ mâu thuẫn giữa nhân dân Đông Dương với đế quốc xâm lược là mâu thuẫn chủ yếu. Từ đó Hội nghị quyết nghị phải kiên quyết giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, tập trung ngọn lửa cách mạng Đông Dương vào đế quốc xâm lược. Quyết nghị của Hội nghị lần thứ sáu của Trung ương Đảng đánh dấu bước chuyển hướng đúng đắn về chỉ đạo chiến lược cách mạng và mở ra một thời kỳ đấu tranh mới của cách mạng Việt Nam.

Chiến tranh giữa các tập đoàn đế quốc ngày càng lan rộng và ác liệt. Ngày 10 tháng 5 năm 1940 quân đội phát xít Đức mở cuộc tiến công vào Pháp. Chỉ trong vòng một tháng, đế quốc Pháp đã phải đầu hàng, một chính phủ bù nhìn tay sai Đức được thành lập ở Vi-si do tên thống chế Pê-tanh phản bội dân tộc Pháp cầm đầu. Nhân cơ hội đế quốc Pháp thua phát xít Đức tháng 9 năm 1940, phát xít Nhật nhảy vào xâm chiếm Đông Dương, miếng mồi béo bở mà chúng đã dòm ngó từ lâu. Thực dân Pháp vội vã đầu hàng, dâng Đông Dương cho phát xít Nhật. Nhưng, nhân dân Việt Nam bất khuất đã nổi dậy chống cả Nhật lẫn Pháp. Tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (tháng 9 năm 1940), Nam-kỳ (tháng 11 năm 1940) và cuộc binh biến ở Chợ Rạng, Đô Lương (tháng 1 năm 1941).

Ngày 22 tháng 9 năm 1940, phát xít Nhật đem quân tiến vào Lạng Sơn, mở đầu cho sự xâm lược Đông Dương của phát xít Nhật, nhằm biến Đông Dương thành một bàn đạp để mở rộng cuộc chiến tranh ở Thái-bình-dương, chiếm đoạt các thuộc địa của các đế quốc Anh, Pháp, Mỹ. Khi quân Nhật đánh vào Lạng Sơn, quân Pháp ở đây đã nhanh chóng tan rã. Chỉ trong vòng hai ngày, quân Nhật đã phá tan những hệ thống phòng thủ kiên cố của Pháp ở Đồng Đăng, Na Sầm và thị xã Lạng Sơn. Tướng May-nơ-ra kéo quân xuống Đồng Mỏ, nhưng đến ngày 25 tháng 9 năm 1940 đã phải trương cờ trắng đầu hàng quân Nhật. Tàn quân Pháp bị Nhật đánh bại tháo chạy theo đường Điềm He — Bình Gia — Bắc Sơn để về Thái Nguyên. Trên đường tháo chạy, chúng vứt súng đạn dọc đường cải trang thành dân thường để che mắt quân Nhật và vào làng xin ăn. Đồng bào ở nhiều địa phương đã tự động đi thu nhặt súng đạn, có nơi còn đón đường tước vũ khí của tàn binh Pháp, Tri châu Thoát Lãng bị nhân dân địa phương nổi dậy trừng trị. Tri phủ Tràng Định và tri châu Điềm He một phần sợ Nhật và một phần sợ quần chúng đã bỏ công đường chạy trốn. Các đồn, nha ở Điềm He, Bình Gia bị nhân dân triệt phá. Chính quyền tay sai của thực dân Pháp ở nhiều nơi quân Pháp chạy qua lụng lay, tan rã; nhân dân tự đứng ra tổ chức trật tự, trị an ở làng xóm của mình.


(1) Văn kiện Đảng (1939—1945), Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội, 1963, trang 110.
(2) Văn kiện Đảng (1939—1945), Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội 1963, tr—73.
(3) Văn kiện Đảng (1939—1945), Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội 1963, tr—63.


Tiêu đề: Lịch sử Cứu quốc quân
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Tư, 2021, 02:51:03 pm
Nắm được cơ hội trên đây, sáng ngày 25 tháng 9 năm 1940, một số đồng chí đảng viên vừa thoát khỏi nhà tù Lạng Sơn chạy về địa phương như đồng chí Nông Văn Cún, Hoàng Đình Ruệ... đã họp với một số đồng chí đảng viên ở chi bộ Hưng Vũ, Bắc Sơn như đồng chí Dương Công Bình, Hoàng Văn Hán... tại làng Nông Lục (xã Hưng Vũ). Cuộc họp quyết định lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa, đánh đồn Mỏ Nhài, chiếm lấy châu lỵ Bắc Sơn. Cuộc họp đã phân công các đồng chí đi về các xã Hưng Vũ, Chiêu Vũ, Bắc Sơn, Trấn Yên… vận động và tập hợp nhân dân thành lực lượng có tổ chức, có vũ trang để tiến hành khởi nghĩa.

Tám giờ tối ngày 27 tháng 9 năm 1940, khoảng 600 người trong đó có cả tổng đoàn, xã đoàn, lính và dõng, trang bị bằng các loại vũ khí như súng trường, súng kíp, giáo mác, gậy gộc... chia thành ba mũi tiến đánh đồn Mỏ Nhài. Trước sức tiến công của cách mạng, quân địch đã hoang mang lại thêm hoang mang, nên đã nhanh chóng tan rã. Tri châu Hoàng Văn Sĩ cùng binh lính ở đồn Mỏ Nhài trốn chạy qua đèo Canh Dàn sang Bằng Mạc. Quân khởi nghĩa hoàn toàn làm chủ chân lỵ. Rạng ngày 28 tháng 9, các đồng chí lãnh đạo khởi nghĩa đã tổ chức một cuộc mít tinh quần chúng ngay tại châu lỵ, tuyên bố chính quyền đế quốc không còn nữa, nhân dân tự tổ chức lấy trật tự trị an ở làng bản của mình. Sau cuộc mít tinh mọi người giải tán ra về trong niềm hân hoan, phấn khởi. Cùng ngày hôm đó, nhân dân Hưng Vũ, Chiêu Vũ đuổi đánh và tước vũ khí bọn lính bại trận ở Dập Dị và Nà Ti, diệt hai tên lính Pháp và thu vũ khí; nhân dân Nam Nhi và Tràng Sơn thì phục kích tàn binh Pháp ở đèo Canh Tiếm, Thâm Thông, diệt một tên đội người Việt và hai tên lính Pháp.

Cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn đã giành được thắng lợi đầu tiên rất có ý nghĩa là đã đập tan chính quyền địch ở châu lỵ. Nhưng do hoàn cảnh và điều kiện lịch sử lúc đó, các đồng chí lãnh đạo khởi nghĩa không biết tiếp tục đưa phong trào cách mạng tiến lên. Sau khi làm chủ được châu lỵ các đồng chí lãnh đạo khởi nghĩa cử đồng chí Nông Văn Cún xuống Võ Nhai gặp đồng chí Chu Văn Tấn để đồng chí Chu Văn Tấn báo cáo về Xứ ủy Bắc—Kỳ xin chỉ thị.

Sau khi Pháp đã chấp thuận những yêu sách và đồng thời thấy lật đổ hoàn toàn ngay Pháp chưa có lợi, phát xít Nhật đã bắt tay với Pháp, dùng Pháp làm tên tay sai đắc lực đàn áp cách mạng Việt Nam. Do vậy, đế quốc Pháp đã nhanh chóng đưa binh lính quay trở lại Bắc Sơn đàn áp cuộc khởi nghĩa. Ngày 1 tháng 10 năm 1940, tên phó sứ tỉnh Lạng Sơn Bôn-phít cùng hai tên võ quan là Boóc-đi-ô (đồn trưởng đồn Đình Cả) và Lơ-gay (đại lý đồn Bình Gia), chỉ huy khoảng một trung đội lính khố xanh từ Đình Cả (châu Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên) tiến lên chiếm lại đồn Mỏ Nhài, tổ chức lại bộ máy cai trị của chúng tại Bắc Sơn. Thấy Pháp trở lại, những tên tổng lý, kỳ hào phản động, tham tiền và hiếu danh lại quay ra ôm chân chủ, làm mật thám chỉ điểm cho Pháp, tiến hành đàn áp phong trào cách mạng của nhân dân Bắc Sơn.

Thực dân Pháp cùng bè lũ tay sai phản động đã đàn áp, khủng bố nhân dân Bắc Sơn rất dã man. Chúng bắt bớ, bắn giết, tra tấn, tù đầy, đốt phá xóm làng, ruộng vườn những người tham gia khởi nghĩa, hòng dập tắt phong trào cách mạng Bắc Sơn trong một thời gian ngắn, có những tên tay sai đắc lực như xã đoàn Niên (Nguyên Văn Niên), chánh Hương (Nguyễn Văn Hương), lý Chẩn... chỉ lối, đưa đường, quân địch đã đốt phá một loạt nhà cửa, ruộng vườn ở Minh Đán, Nông Lục (xã Hưng Vũ), Mỏ Tát, Nam Nhi, Tràng Sơn (xã Vũ Lăng)(1), và chúng đã bắt được một số người tham gia khởi nghĩa. Địch đã bắt đầu thiết lập lại được chính quyền tay sai ở các địa phương. Chúng đem tổng đoàn Phú và tổng đoàn Vĩnh là những người tham gia cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn ra xử bắn ở Mỏ Nhài, để khủng bố quần chúng, đồng thời cũng là để trấn an bọn tay sai. Cuộc khủng bố của địch đã phần nào gây nên sự hoang mang trong một số quần chúng. Vấn đề cấp thiết lúc này là những người lãnh đạo phải bám chắc quần chúng để giữ vững và tiếp tục đưa phong trào tiến lên.

Nhận thức rõ tầm quan trọng của cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, khi được báo cáo, Xứ ủy Bắc-kỳ đã cử hai xứ ủy viên lên Bắc Sơn tham gia lãnh đạo phong trào. Đầu tháng 10 năm 1940 đồng chí Trần Đăng Ninh và Nguyễn Thành Diên(2) đã lên đến Nam Nhi (xã Vũ Lăng). Qua kiểm tra và nắm tình hình, ngày 14 tháng 10 năm 1940, đồng chí Trần Đăng Ninh đã triệu tập một cuộc họp các đảng viên địa phương ở Sa Khao (xã Vũ Lăng) để phổ biến chỉ thị của Xứ ủy. Qua thảo luận, cuộc họp đã nhất trí quyết nghị:

a) Tập trung đảng viên và một số quần chúng tích cực, vận động nhân dân thu thập vũ khí để thành lập đội du kích Bắc Sơn. Xây dựng khu vực Nà Tấu (xã Ngư Viễn), Sa Khao, Mỏ Tát, Bản Me, Nam Nhi (xã Vũ Lăng) thành căn cứ của đội du kích.

b) Giải tán chính quyền địch, thu bằng triện của bọn kỳ hào, tiêu diệt bọn mật thám, tịch thu tài sản của bọn tay sai phản động đem chia cho nhân dân.

c) Tích trữ lương thực để chiến đấu lâu dài, tổ chức mit tinh diễn thuyết kêu gọi nhân dân ủng hộ cách mạng.

đ) Thành lập ban chỉ huy đội du kích gồm có các đồng chí Trần Đăng Ninh, Chu Văn Tấn...


(1) Tiêu biểu là làng Minh Đán có 29 nóc nhà hoàn toàn bị địch đốt trụi, hàng trăm dân chúng không có nhà ở.
(2) Nguyễn Thành Diên là xứ ủy viên xứ ủy Bắc-kỳ sau này bị bắt, đã phản bội.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Cứu quốc quân
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Tư, 2021, 02:52:17 pm
Thực hiện quyết định của cuộc họp Sa Khao, ngày 16 tháng 10 năm 1940, ban chỉ huy Đội du kích đã tổ chức một cuộc mít tinh diễn thuyết tại Làng Đon Úy (xã Vũ Lăng). Thay mặt ban chỉ huy, đồng chí Trần Đăng Ninh tuyên bố Đội du kích Bắc Sơn đã được thành lập và kêu gọi nhân dân tích cực ủng hộ Đội du kích, tiếp tục đẩy mạnh cuộc khởi nghĩa. Đây là đội du kích đầu tiên do Đảng ta chỉ huy. Quyết định của cuộc họp Sa Khao được đảng viên, Đội du kích và đông đảo quần chúng tích cực thực hiện. Được nhân dân ủng hộ, Đội du kích liên tiếp trừng trị những tên tay sai đầu sỏ, bảo vệ cơ sở và thúc đẩy phong trào cách mạng tiến lên. Ngày 15 tháng 10 năm 1940, du kích đã giết tên xã đoàn Niên ở Nà Tấu (xã Ngư Viễn). Ngày 20 tháng 10 tên chánh Hương dẫn lính vào đốt nhà ở Mỏ Tát, Bản Me đã bị du kích bắn trọng thương ở suối Ràng Hoài (Tràng Sơn, Vũ Lăng). Ngày 23 tháng 10, một tiểu đội du kích lại đột nhập vào nhà chánh Hương ở Vũ Lăng, tịch thu tài sản đem chia cho dân nghèo. Ngày 24 tháng 10, Đội du kích tiến công toán lính dõng do châu đoàn Trịnh Văn Nghiêm chỉ huy và chiếm lấy trường Vũ Lăng.

Những hoạt động liên tiếp cùng những thắng lợi đã giành được của Đội du kích đã cổ vũ nhân dân hăng hái ủng hộ và tham gia du kích. Phong trào thu nhặt vũ khi, quyên góp sủng kíp, giáo, mác, thóc, gạo... ủng hộ du kích đã được đông đảo nhân dân tích cực tham gia. Phong trào đó diễn ra sôi nổi ở các xã Hữu Vĩnh, Ngư Viễn, Vũ Lăng, Vũ Lễ, Hưng Vũ, Chiêu Vũ, Bắc Sơn, Trấn Yên, Gia Hòa... Phong trào này còn lôi kéo cả một số anh em binh lính, xã đoàn... tham gia. Ở Vũ Lăng, nơi có sự chỉ đạo trực tiếp của Ban chỉ huy Đội du kích, các hoạt động của quần chúng diễn ra sôi nổi. Ở đây chính quyền địch bị xóa bỏ, bằng triện của tổng lý bị tịch thu. Khế ước, sổ sách, giấy tờ của chúng bị đốt. Chỉ sau một thời gian tương đối ngắn, phong trào cách mạng ở Bắc Sơn lại phát triển mạnh. Đến cuối tháng 10 năm 1940, lực lượng vũ trang của quần chúng cách mạng đã phát triển tới hai, ba trăm người. Trong đó Đội du kích là lực lượng vũ trang thoát ly cũng được bổ sung thêm nhiều đội viên dũng cảm.

Phát huy khí thế của phong trào, Ban chỉ huy Đội du kích quyết định đánh đồn Mỏ Nhài, chiếm lại châu lỵ Bắc Sơn. Để động viên quần chúng hưởng ứng, bảo đảm giành thắng lợi trong trận đánh, Ban chỉ huy Đội du kích quyết định tổ chức một cuộc mít tinh lớn tại nhà trường Vũ Lăng. Ngày 28 tháng 10 năm 1940, nhân dân các xã Hữu Vĩnh, Ngư Viễn. Vũ Lăng, Vũ Lễ, Hưng Vũ, Chiêu Vũ, Bắc Sơn, Gia Hòa, Trấn Yên cùng Đội du kích Bắc Sơn họp thành đoàn tuần hành gồm hàng nghìn người kéo từ Nam Nhi đến trường Vũ Lăng họp mít tinh. Ban chỉ huy Đội du kích phân công một số tiểu đội canh gác ở Kéo Coi, Kéo Gàn, Canh Tiến bảo vệ cuộc mít tinh. Thay mặt Ban chỉ huy Đội du kích, đồng chí Trần Đăng Ninh đã lên diễn thuyết trước cuộc mit tinh. Đồng chí vạch trần tội ác của đế quốc Pháp, Nhật, động viên nhân dân tích cực ủng hộ cách mạng, tiêu diệt kẻ thù, giành độc lập, tự do. Do ta mất cảnh giác để bọn phản động địa phương đến dự mít tinh, bọn này đã mật báo cho tên Bóoc-đi-ê. Tên Bóoc-đi-ê đem quân từ đồn Mỏ Nhài xuyên rừng tập kích cuộc mít tinh. Bị đánh bất ngờ, nhưng quần chúng cách mạng và quân du kích đều là người địa phương đã nhanh chóng phân tán, theo đường rừng rút lui an toàn.

Ngày 20 tháng 10 năm 1940, đồng chí Trần Đăng Ninh thay mặt Ban chỉ huy đã triệu tập một cuộc họp gồm các đồng chí đảng viên trung kiên ở Nà Pán (xã Vũ Lăng). Qua thảo luận, đánh giá tình hình, cuộc họp quyết định:

a) Rút toàn bộ cán bộ, đảng viên đã bị lộ cùng quân du kích vào rừng sâu để tiến hành hoạt động bí mật.

b) Đối với những cán bộ, đảng viên chưa bị lộ thi kiên trì bám chắc lấy quần chúng để củng cố và giữ vững cơ sở cách mạng ở các xã.

c) Gấp rút chuẩn bị để chống cuộc khủng bố lớn của địch.

Sau cuộc họp này, đồng chí Trần Đăng Ninh về xuôi báo cáo, xin chỉ thị của Trung ương và Xứ ủy. Đến đây, cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn chấm dứt, để chuyển sang một giai đoạn đấu tranh mới.

Ưu điểm căn bản của cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn là, lúc đầu đã chớp đúng thời cơ Nhật đánh Pháp, quân Pháp thua chạy, hệ thống chính quyền tay sai ở những nơi tàn quân Pháp chạy qua lung lay tan rã. Những đảng viên cộng sản đã kiên quyết lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa. Quân khởi nghĩa thì quyết tâm và anh dũng chiến đấu. Do đó cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn đã nhanh chóng giành được thắng lợi đầu tiên là chiếm lấy đồn, đập tan chính quyền tay sai ở châu lỵ. Cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn đã không giành được thắng lợi quyết định vì đã không biết chớp lấy thời cơ thuận lợi đó để tiến công liên tục, đập tan hoàn toàn bộ máy chính quyền tay sai của thực dân Pháp ở các địa phương, tiến lên xây dựng chính quyền cách mạng và tổ chức lực lượng vũ trang để bảo vệ lấy nó. Hơn nữa, thời cơ của cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn là thời cơ cục bộ, địa phương, nó qua đi rất nhanh, toàn quốc chưa có điều kiện để hưởng ứng, do đó, đã bị thực dân Pháp đàn áp khốc liệt và liên tục. Mặc dù vậy, cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn có ý nghĩa lịch sử rất lớn. Nó có tác dụng thức tỉnh quần chúng, động viên phong trào cách mạng toàn quốc, và mở đầu thời kỳ đấu tranh mới của cách mạng Việt Nam, như Hội nghị lần thứ bảy của Trung ương Đảng đã đánh giá «Đó là những tiếng súng báo hiệu cho cuộc khởi nghĩa toàn quốc, là bước đầu đấu tranh bằng võ lực của các dân tộc Đông Dương»(1).

Cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn chưa giành được thắng lợi quyết định. Nhưng nó đã rèn luyện quân khởi nghĩa và tập hợp quân khởi nghĩa thành Đội du kích Bắc Sơn là đội du kích đầu tiên của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong quá trình chiến đấu, khu căn cứ của Đội du kích Bắc Sơn cũng đã hình thành. Đó là cơ sở thuận lợi, là điều kiện trực tiếp của sự xuất hiện căn cứ Bắc Sơn — Võ Nhai và sự ra đời đội Cứu quốc quân.


(1) Văn kiện Đảng (1939—1945), Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội 1963, tr—189.


Tiêu đề: Lịch sử Cứu quốc quân
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Tư, 2021, 02:53:41 pm
II - CUỘC ĐẤU TRANH CHỐNG ĐỊCH KHỦNG BỐ
VÀ THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT HỘI NGHỊ LẦN THỨ BẢY
CỦA TRUNG ƯƠNG ĐẢNG, ĐỘI CỨU QUỐC QUÂN RA ĐỜI

Xuất phát từ tình hình mới do sự xâm lược Đông Dương của phát-xít Nhật và do cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn đưa tới, tháng 11 năm 1940, Trung ương Đảng cộng sản Đông Dương đã họp hội nghị lần thứ bảy. Hội nghị khẳng định chủ trương chuyển hướng về chỉ đạo chiến lược cách mạng của Hội nghị lần thứ sáu là đúng. Hội nghị thấy rằng sự xâm lược Đông Dương của phát xít Nhật và sự đầu hàng của thực dân Pháp làm cho nhân dân Đông Dương lâm vào tình trạng «một cổ hai tròng», do dó kẻ thù của cách mạng Việt Nam lúc đó là phát-xít Nhật, Pháp. Vì vậy, Hội nghị quyết định đổi mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương thành Mặt trận dân tộc thống nhất chống phát-xít Pháp — Nhật ở Đông Dương.

Thành công lớn của Hội nghị lần thứ bảy của Trung ương Đảng là đã đặt hẳn vấn đề khởi nghĩa vũ trang vào chương trình nghị sự của cuộc cách mạng Đông Dương. Hội nghị đã quyết định duy trì và phát triển Đội du kích Bắc Sơn và căn cứ của Đội du kích để tiến tới xây dựng căn cứ địa cách mạng, lấy vùng Bắc Sơn — Võ Nhai làm trung tâm. Hội nghị còn vạch ra phương hướng hoạt động của Đội du kích Bắc Sơn là dùng hình thức vũ trang công tác, khi cần thì chiến đấu chống địch khủng bố để bảo vệ tính mệnh và tài sản của nhân dân, phát triển thật sâu rộng các cơ sở cách mạng để củng cố và mở rộng căn cứ cứ Đội du kích. Hội nghị đã phân công đồng chí Hoàng Văn Thụ trực tiếp chỉ đạo thực hiện nghị quyết này.

Sau Hội nghị lần thứ bảy, Trung ương Đảng lại ra liên tiếp hai thông báo gửi các cấp bộ Đảng, kêu gọi tích cực ủng hộ cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, cuộc khởi nghĩa Nam-kỳ. Xứ ủy Bắc-kỳ cũng cấp tốc mở hai lớp huấn luyện quân sự ngắn ngày ở Đức Thắng (Bắc Giang). Sau đó các lớp huấn luyện quân sự như vậy chuyển lên Bắc Sơn (Lạng Sơn).

Trong lúc phong trào cách mạng ở Bắc Sơn đang gặp nhiều khó khăn thì được sự ủng hộ tích cực của phong trào cách mạng ở Võ Nhai. Từ đầu tháng 11 năm 1940, đồng chí Chu Văn Tấn đã tổ chức đưa một số đảng viên và quần chúng tích cực ở Lâu Thượng, Phú Thượng, Tràng Xá lên Bắc Sơn tham gia Đội du kích. Đồng thời, trước những khó khăn của phong trào cách mạng ở Bắc Sơn, Xứ Ủy Bắc-kỳ và Trung ương đã liên tiếp điều lên Bắc Sơn một số cán bộ có năng lực để tăng cường hạt nhân lãnh đạo. Từ tháng 12 năm 1940 và những tháng đầu năm 1941, các đồng chí Lương Văn Chi, Nguyễn Cao Đàm, Hoàng Văn Thái, Bùi Sinh, Bình Tiến, Bùn, Thống, Ái... đã lần lượt lên đến Bắc Sơn Võ Nhai. Đồng chí Lương Văn Chi, thường vụ Xử ủy Bắc-kỳ, là một cán bộ quân sự của Đảng lên Bắc Sơn phụ trách chung, mở các lớp huấn luyện quân sự cho Đội du kích.

Sau khi đánh phá cuộc mít tinh ở trường Vù Lăng, thực dân Pháp đẩy mạnh khủng bố phong trào cách mạng Bắc Sơn. Tên Bóoc-đi-ê được những tên tay sai đắc lực như chánh Hương chỉ lối, đưa đường, hàng ngày dẫn lính, dõng đi sục sạo khắp các xã Vũ Lăng, Vũ Lễ, Chiêu Vũ, Ngư Viễn... để lùng bắt cán bộ, khủng bố nhân dân và tiêu diệt Đội du kích.

Hành động điên cuồng của kẻ địch có gây cho phong trào cách mạng Bắc Sơn nhiều khó khăn, nhưng chúng không thể dập tắt được phong trào cách mạng. Dưới ánh sáng nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy của Trung ương Đảng, được sự quan tâm lãnh đạo của Trung ương và Xứ ủy Bắc-kỳ, với sự cổ vũ của phong trào cách mạng toàn quốc, phong trào cách mạng Bắc Sơn đã từng bước vượt lên những thử thách gay go. Đầu tháng 12 năm 1940, Đội du kích Bắc Sơn được củng cố lại, có khoảng 20 đội viên, trang bị đầy đủ bằng súng trường, súng kíp. Sau khi được củng cố, Đội du kích Bắc Sơn đã tích cực chiến đấu và công tác để giữ vững và phát triển cơ sở quần chúng. Ngày 26 tháng 1 năm 1941, Đội du kích đã phục kích bắn hai tên tay sai của thực dân Pháp ở Tam Hoa (xã Hưng Vũ) để cảnh cáo bọn chó săn, chim mồi. Tên phó Thưởng chết tại trận. Tên lý Tốn thi bị thương nặng. Số cán bộ ở xuôi lên tăng cường cùng những cán bộ, đảng viên trung kiên ở địa phương tích cực chắp nối lại đường liên lạc với các cơ sở Đảng ở các xã. Từ đó, nhiều cơ sở Đảng và các cơ sở quần chúng ở các địa phương được củng cố lại. Sang đầu tháng 2 năm 1941, phong trào cách mạng Bắc Sơn đã hồi phục, có sự liên hệ chặt chẽ với phong trào cách mạng Võ Nhai và được phong trào cách mạng ở Võ Nhai tích cực hỗ trợ.

Cuối tháng 2 năm 1941, đoàn đại biểu đi họp Hội nghị lần thứ tám của Trung ương Đảng ở Pác Bó (tỉnh Cao Bằng) lên đến Khuổi Nọi (xã Vũ Lễ, châu Bắc Sơn). Trong thời gian dừng chân ở Bắc Sơn, các đồng chí Trung ương đã họp với Ban chỉ huy Đội du kích và gặp Đội du kích để nắm tình hình và chỉ thị những chủ trương, biện pháp công tác cần kíp, Tại cuộc họp ở Khuổi Nọi (xã Vũ Lễ) vào ngày 23 tháng 2 năm 1941, đồng chí Hoàng Văn Thụ thay mặt Trung ương Đảng đã nói về tình hình và nhiệm vụ cách mạng, chủ trương phát triển Đội du kích Bắc Sơn thành Cứu quốc quân làm lực lượng nòng cốt xây dựng căn cứ địa Bắc Sơn — Võ Nhai, và đồng thời làm vốn xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng của Đảng. Về nhiệm vụ của Đội Cứu quốc quân, đồng chí Hoàng Văn Thụ đã chỉ rõ là tích cực dùng hình thức vũ trang công tác, củng cố và mở rộng căn cứ của đội du kích Bắc Sơn, nhanh chóng phát triển lực lượng của mình về mọi mặt để kịp khi thời cơ đến thì tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền. Sau đó, đồng chí Hoàng Văn Thụ đã trao cho đội Cứu quốc quân lá cờ đỏ sao năm cánh do Hội phụ nữ phản đế Hà Nội thêu. Đồng chí Lương Văn Chi thay mặt cho đội Cứu quốc quân lên hứa với Trung ương Đảng quyết tâm hoàn thành mọi nhiệm vụ cách mạng và đọc năm lời thề danh dự của đội:

1 — Không phản Đảng.

2 — Tuyệt đối trung thành với Đảng.

3 — Kiên quyết phấn đấu và trả thù cho những đồng chí đã hi sinh.

4 — Không hàng giặc

5 — Không hại dân.


Tiêu đề: Lịch sử Cứu quốc quân
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Tư, 2021, 02:54:13 pm
Trung ương chỉ định đồng chí Lương Văn Chi làm chỉ huy trưởng và đồng chí Chu Văn Tấn làm chỉ huy phó đội Cứu quốc quân. Cũng tại cuộc họp trên, đồng chí Hoàng Văn Thụ đã trực tiếp giao nhiệm vụ cho đồng chí Chu Văn Tấn tổ chức và chỉ huy một tổ Cứu quốc quân làm nhiệm vụ đưa đường và bảo vệ đoàn cán bộ đi họp Hội nghị lần thứ tám của Trung ương ở Pác Bó (châu Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng). Đồng thời, đồng chí Hoàng Văn Thụ giao cho đồng chí Lương Văn Chi nhiệm vụ phát triển mạnh mẽ các tổ chức quần chúng và lực lượng tự vệ, mở rộng địa bàn hoạt động của Cứu quốc quân, chuẩn bị điều kiện để đến ngày 1 tháng 5 năm 1941 khi Trung ương trở về sẽ làm lễ ra mắt đội Cứu quốc quân trước đông đảo quần chúng cách mạng. Đồng chí Hoàng Văn Thụ còn căn dặn thêm, nếu Trung ương chưa về thì đến ngày đó vẫn cứ tổ chức lễ ra mắt đội Cứu quốc quân.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Đội du kích Bắc Sơn ra đời từ cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn và căn cứ của Đội du kích đã không ngừng lớn lên. Trên cơ sở Đội du kích Bắc Sơn đã được rèn luyện, trưởng thách trong đấu tranh, Trung ương Đẳng đã quyết định phát triển nó thành đội Cứu quốc quân để làm vốn xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng của Đảng, và làm lực lượng nòng cốt xây dựng căn cứ địa Bắc Sơn — Võ Nhai. Đội Cứu quốc quân ra đời là kết quả to lớn của phong trào cách mạng Bắc Sơn, Võ Nhai dưới sự lãnh đạo của Đảng, và sự cổ vũ của phong trào cách mạng toàn quốc. Đội Cứu quốc quân thành lập là nguồn động viên, cổ vũ nhân dân các dân tộc Bắc Sơn và Võ Nhai hăng hái tham gia cách mạng, ra sức xây dựng vùng Bắc Sơn — Võ Nhai sớm trở thành một căn cứ địa cách mạng vững mạnh.

Chấp hành chỉ thị của Trung ương, đội Cứu quốc quân do đồng chí Lương Văn Chi chỉ huy ra sức củng cố và mở rộng khu du kích Bắc Sơn. Có sự lãnh đạo chặt chẽ, Cứu quốc quân tăng cường liên hệ mật thiết với quần chúng, làm cho mối quan hệ đó ngày càng bền chặt, tạo điều kiện thuận lợi để Cứu quốc quân hoạt động. Được đồng bào các dân tộc hết lòng giúp đỡ và bảo vệ, Cứu quốc quân tích cực trừ gian, diệt phản động đầu sỏ, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động và tổ chức quần chúng. Ngày 13 tháng 4 năm 1941, Cứu quốc quân diệt xã đoàn Hưởng ở Chiêu Vũ để cảnh cáo bọn tay sai phản động, ngăn chặn những hoạt động chỉ điểm của chúng. Đồng thời, Cứu quốc quân còn tích cực tập luyện quân sự ở Bản Ít (xã Vũ Lễ, châu Bắc Sơn). Để chuẩn bị đón Trung ương về, Cứu quốc quân còn tích cực vận động nhân dân Nùng ở Bản ít, nhân dân Dao ở Khuôn Khát cùng tham gia đẵn gỗ, xây dựng cơ quan bí mật ở Khuổi Nọi (xã Vũ Lễ, châu Bắc Sơn), vận động đồng bào Tày ở Mỏ Pja cùng làm cơ quan bí mật ở Lân Táy (xã Hữu Vĩnh, châu Bắc Sơn), Nhân dân Bản Ít, Khuôn Khát (xã Vũ Lễ, châu Bắc Sơn), Lâu Thượng, Phú Thượng, Tràng Xá (châu Võ Nhai)... đã hăng hái đóng góp lương thực, thực phẩm để xây dựng cơ quan bí mật ở Khuổi Nọi (xã Vũ Lễ, châu Bắc Sơn).

Đến tháng 4 năm 1941, phong trào cách mạng ở Bắc Sơn, Võ Nhai đã phát triển khá rộng. Đặc biệt vùng rừng núi hiểm trở thuộc các xã Vũ Lễ, Vũ Lăng, Hữu Vĩnh, Ngư Viễn (châu Bắc Sơn), Lâu Thượng, Phú Thượng, Tràng Xá (châu Võ Nhai) địa thế nối liền nhau, đã trở thành khu trung tâm của căn cứ địa Bắc Sơn — Võ Nhai, trong đó vùng Khuổi Nọi (thuộc xã Vũ Lễ) là trung tâm chính. Vùng Khuổi Nọi được Cứu quốc quân cùng lực lượng tự vệ tổ chức canh phòng, bảo vệ chặt chẽ. Trên các ngả đường vào khu vực này đều có canh gác. Người lạ mặt ra vào phải có giấy của ban lãnh đạo. Người mang súng phải có giấy phép của cách mạng. Ở khu trung tâm của căn cứ địa, phong trào cách mạng của quần chúng rất sôi nổi. Các cuộc mít tinh kỷ niệm những ngày lịch sử, hội họp, các tổ chức quần chúng được tổ chức công khai. Trật tự, trị an ở các làng bản được bảo đảm. Mọi tầng lớp nhân dân, mọi dân tộc ở đây đều hăng hái ủng hộ cách mạng. Các lớp huấn luyện quân sự và chính trị của Xứ ủy Bắc-kỳ được tổ chức ở Khuổi Nọi, không những đã đào tạo được nhiều cán bộ cho căn cứ Bắc Sơn — Võ Nhai, mà còn đào tạo được một số cán bộ cho các tỉnh Lạng Sơn, Thái Nguyên, Bắc Giang.

Để phát huy khí thế cách mạng lên cao hơn nữa, các đồng chí lãnh đạo quyết định tổ chức một cuộc mít tinh lớn nhân ngày Quốc tế lao động, đồng thời làm lễ ra mắt đội Cứu quốc quân theo chỉ thị của Trung ương. Ngày 1 tháng 5 năm 1941, cuộc mít tinh này đã được tổ chức trọng thể ở Khuổi Nọi (xã Vũ lễ, châu Bắc Sơn). Cuộc mít tinh có đông đảo quần chúng cách mạng các dân tộc tới dự. Đồng chí Lương Văn Chi, chỉ huy trưởng Cứu quốc quân đã phát biểu trước cuộc mít tinh, tuyên bố quyết định thành lập đội Cứu quốc quân của Trung ương Đảng. Cuộc mít tinh tràn đầy không khí phấn khởi, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng. Quần chúng cách mạng dự mít tinh hân hoan chào đón sự ra đời của đội Cứu quốc quân, vì nó là đội quân cách mạng của Đảng và của nhân dân, gồm con em các dân tộc Tày, Nùng, Dao, Kinh, ra đời và chiến đấu ngay ở quê hương của mình. Tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và tiền đồ tươi sáng của Cứu quốc quân, quần chúng cách mạng ở Bắc Sơn, Võ Nhai và nhiều nơi khác, đã gửi đến cho Cứu quốc quân nhiều vật phẩm thắm tình quân dân ruột thịt. Cán bộ và chiến sĩ đội Cứu quốc quân là đội viên Đội du kích Bắc Sơn trước đây và đội viên trung kiên của các đội tự vệ ở các xã, đã được rèn luyện trong cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, trong cuộc đấu tranh chống địch khủng bố, rất cảm động trước sự quan tâm chăm sóc của Đảng và của nhân dân. Đồng chí Lương Văn Chi thay mặt cho toàn thể cán bộ và chiến sĩ, đọc năm lời thề của đội Cứu quốc quân đối với Đảng và đối với nhân dân, hứa quyết tâm hoàn thành mọi nhiệm vụ cách mạng mà Đảng và nhân dân giao phó.

Tổ Cứu quốc quân làm nhiệm vụ đưa đường và bảo vệ đoàn đại biểu đi họp Hội nghị lần thứ tám của Trung ương Đảng do đồng chí Chu Văn Tấn chỉ huy và đồng chí Hoàng Tài làm liên lạc, đã vượt qua mọi khó khăn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Từ Khuổi Nọi đoàn đi qua Bình Gia, Văn Mịch, Tràng Định ra Long Châu (Quảng Tây, Trung Quốc) và tháng 4 năm 1941 đã vào đến Pác Bó (châu Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng), an toàn. Sau Hội nghị, tổ Cứu quốc quân này lại đưa đường và bảo vệ các đồng chí trở về căn cứ Bắc Sơn — Võ Nhai. Từ Pác Bó về Long Châu (Trung Quốc), đoàn đi theo hai đường. Một đường qua đất Trung Quốc dọc biên giới Việt — Trung theo con đường lúc đi. Một đường từ Pác Bó (Hà Quảng) xuống Hòa An, Thạch An, về Tràng Định rồi ra Bó Cục (Long Châu, Trung Quốc) Hai đoàn cùng gặp nhau tại đây, rồi từ đó vào Tràng Định qua Bình Gia đến Bắc Sơn, Võ Nhai vào đầu tháng 7 năm 1941 an toàn. Đây là một thành tích to lớn của tổ Cứu quốc quân này.


Tiêu đề: Lịch sử Cứu quốc quân
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Tư, 2021, 02:57:21 pm
III — TÁM THÁNG ĐẤU TRANH CHỐNG ĐỊCH KHỦNG BỐ
CỦA CỨU QUỐC QUÂN

Trước những biến chuyển mau lẹ của tình hình thế giới và trong nước, đầu tháng 2 năm 1941, Hồ Chủ tịch về nước để trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Tháng 5 năm 1941 với tư cách là đại biểu của Quốc tế cộng sản, Hồ Chủ tịch đã triệu tập Hội nghị lần thứ tám của Trung ương Đảng ở Pác Bó. Dưới sự chủ tọa của Hồ Chủ tịch, Hội nghị lần thứ tám của Trung ương Đảng đã hoàn chỉnh sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng của Đảng, chủ trương và chính sách mới của Đảng được phát triển về mọi mặt.

Về nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam, qua phân tích sâu sắc các mâu thuẫn trong xã hội Việt Nam lúc đó, Hội nghị lần thứ tám của Trung ương Đảng nhất trí tán thành các nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu và lần thứ bảy. Đồng thời, Hội nghị lần thứ tám đã đề ra nhiều chủ trương và chính sách cụ thể, nhằm giương cao hơn nữa ngọn cờ giải phóng dân tộc, động viên mọi tầng lớp nhân dân có lòng yêu nước tiến lên mặt trận đấu tranh cách mạng giành lại độc lập, tự do. Để tập hợp đông đảo hơn nữa các lực lượng, các tầng lớp nhân dân chống kẻ thù chủ yếu của dân tộc là phát xít Pháp, Nhật và bè lũ tay sai của chúng, Hội nghị lần thứ tám của Trung ương Đảng quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là Việt Minh, các tổ chức quần chúng yêu nước chống đế quốc gọi là Hội cứu quốc.

Về phương pháp cách mạng để giành lại độc lập và chủ quyền của đất nước, Hội nghị lần thứ tám của Trung ương Đảng khẳng định «Cuộc cách mạng Đông Dương, kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang»(1). Vì vậy, Hội nghị đề ra: «Chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của Đảng ta và dân ta trong giai đoạn hiện tại»(2).

Để thiết thực chuẩn bị khởi nghĩa, «Hội nghị Trung ương lần thứ tám đã quyết định lấy miền rừng núi Việt Bắc để xây dựng căn cứ vũ trang»(3), trước hết là căn cứ Cao Bằng và căn cứ Bắc Sơn — Võ Nhai. Căn cứ Cao Bằng do Hồ Chủ tịch và các đồng chí Vũ Anh, Hoàng Văn Hoan, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp phụ trách. Căn cứ Bắc Sơn — Võ Nhai do Ban thường vụ Trung ương Đảng trực tiếp chỉ đạo. Hội nghị lần thứ tám của Trung ương còn quyết định tăng cường cho căn cứ Bắc Sơn — Võ Nhai thêm một số cán bộ như các đồng chí Phùng Chí Kiên, Bế Sơn Cương, Mã Thành Kính, Đặng Văn Cáp, Trần Văn Phấn... Đồng chí Phùng Chí Kiên là ủy viên Trung ương Đảng, đồng thời là một cán bộ quân sự của Đảng, đã từng là chỉ huy Hồng quân Trung Quốc đánh Nhật, được cử về Bắc Sơn — Võ Nhai làm chỉ huy trưởng.

Đầu tháng 7 năm 1941, các đồng chí Thường vụ Trung ương Đảng cùng số cán bộ mà Trung ương tăng cường cho căn cứ Bắc Sơn — Võ Nhai về đến Bắc Sơn. Khi về đến Binh Gia đoàn đã thấy dấu hiệu của một cuộc khủng bố lớn. Khắp các ngả đường từ Bình Gia vào Bắc Sơn đều thấy có lính dõng, mật thám đi tuần và canh gác. Sở dĩ kẻ địch biết được cuộc hành trình của đoàn là do tên Công đi họp Hội nghị lần thứ tám, đi bằng con đường công khai về Hà Nội đã cung cấp tin tức cho địch. Do đó, ngày 30 tháng 6 năm 1941, sở mật thám Bắc-kỳ đã đưa một chi nhánh lên Đình Gả (châu Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên) để đón đường các đồng chí Thường vụ Trung ương về xuôi. Đến Đình Cả chúng lập phòng tra tấn tại chỗ để đàn áp, khủng bố nhân dân địa phương. Sở mật thám Bắc-kỳ còn chỉ thị cho các chi nhánh mật thám Thái Nguyên, Lạng Sơn, Bắc Giang tăng cường mạng lưới mật thám, thường xuyên liên hệ chặt chẽ với nhau để chặn đường hòng tóm gọn các đồng chí Thường vụ Trung ương Đảng. Tên trùm mật thám Lạng Sơn Đăng-vít (Denkwick) tức tốc đi lên Bắc Sơn đóng chốt ở xã Vũ Lễ. Đồng thời, thực dân Pháp tập trung binh lính dưới sự chỉ huy của những tên thực dân khét tiếng gian ác như Ba-rôn, Bút-kê, Bê-ra-da... tiến công căn cứ Bắc Sơn — Võ Nhai tử ba mặt. Một mặt từ Bắc Giang và một mặt từ Thái Nguyên tiến lên Võ Nhai. Một mặt khác từ Lạng Sơn tiến vào Bắc Sơn. Ngoài ra, thực dân Pháp còn tăng cường lực lượng đàn áp, khủng bố tại chỗ, đó là bọn dõng và mật thám ở các làng, xã. Với lực lượng như vậy, thực dân Pháp hi vọng rằng sẽ bắt gọn các đồng chí Thường vụ Trung ương Đảng, tiêu diệt hoàn toàn Cứu quốc quân và dập tắt phong trào cách mạng ở Bắc Sơn, Võ Nhai trong một thời gian ngắn. Trọng tâm cuộc khủng bố của địch lúc đầu là Bắc Sơn, sau đó chuyền dần xuống Võ Nhai. Từ đó, cuộc đấu tranh bền bỉ và anh dũng bảo vệ Trung ương và phong trào cách mạng của Cứu quốc quân và nhân dân Bắc Sơn, Võ Nhai cũng bắt đầu.


(1) Văn kiện Đảng (1939 — 1945), Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội, 1963, tr-211.
(2) Như trên, tr-393.
(3) Võ Nguyên Giáp Từ nhân dân mà ra, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1969, tr-84


Tiêu đề: Lịch sử Cứu quốc quân
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Tư, 2021, 02:58:06 pm
Ngày 6 tháng 7 năm 1941, các đồng chí Thường vụ trung ương về đến xã Quỳnh Sơn (châu Bắc Sơn) thì gặp tụi mật thám chặn đường. Với tinh thần cảnh giác, được tổ Cứu quốc quân đi theo dẫn đường và nhân dân địa phương giúp đỡ, các đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt đã an toàn rút vào cơ quan bí mật ở Lân Táy (xã Hữu Vĩnh). Tức tối vì chẳng bắt được ai, kẻ địch khủng bố nhân dân. Chúng bắt nhân dân địa phương nộp năm đồng tiền «phạt vạ» mỗi xuất đinh. Không nao núng tinh thần, nhân dân các bản Lân Táy, Mỏ Pja, Lân Pán... vẫn bí mật tiếp tế lương thực, thực phẩm và tổ chức bảo vệ các đồng chí Trung ương ở cơ quan Lân Táy. Bắt đầu từ đó, hàng ngày thực dân Pháp tung những đơn vị lính, dõng do bọn mật thám địa phương thông thuộc địa hình dẫn đường, lùng sục vào các làng bản, khu rừng, khe suối, hang đá ở Mỏ Pja, Mỏ Ruệ, Lũng Rào, Bản Ít, Khuôn Khát... để truy bắt cán bộ cách mạng. Chúng đi tới đâu thì bắt người, cướp của, đốt phá nhà cửa, ruộng vườn của đồng bào tới đó, để uy hiếp tinh thần của nhân dân.

Mặc dù địch mở cuộc khủng bố lớn, trong thời gian dừng chân ở Bắc Sơn, các đồng chí Thường vụ Trung ương Đảng đã tranh thủ truyền đạt nghị quyết Hội nghị lần thứ tám của Trung ương cho cán bộ địa phương, huấn luyện và đào tạo cán bộ. Tại cơ quan Lân Táy, các đồng chí Thường vụ Trung ương đã được trực tiếp nghe đồng chí Lương Văn Chi báo cáo tình hình phong trào cách mạng Bắc Sơn, Võ Nhai. Ban thường vụ Trung ương Đảng đã chỉ định Ban lãnh đạo mới của căn cứ địa Bắc Sơn — Võ Nhai đồng thời là ban chỉ huy đội Cứu quốc quân. Ban này gồm có các đồng chí Phùng Chí Kiên, Lương Văn Chi và Chu Văn Tấn, do đồng chí Phùng Chí Kiên là ủy viên Trung ương Đảng làm chỉ huy trưởng. Ban thường vụ Trung ương Đảng đã chỉ rõ nhiệm vụ của Cứu quốc quân là tích cực đấu tranh chống địch khủng bố, bảo vệ Trung ương và cơ sở cách mạng. Ban chỉ huy Cứu quốc quân chuyển đến vùng Khuổi Nọi, họp bàn và phân công thực hiện chỉ thị của Trung ương. Đồng chí Phùng Chí Kiên và đồng chí Lương Văn Chi ở Bắc Sơn lãnh đạo nhân dân và chỉ huy Cứu quốc quân đấu tranh chống địch khủng bố, bảo vệ Trung ương. Đồng chí Chu Văn Tấn về Võ Nhai để cùng các đồng chí cán bộ nòng cốt ở địa phương lãnh đạo nhân dân và Cứu quốc quân đấu tranh, chuẩn bị cơ quan bí mật để Trung ương rút xuống đây, tổ chức đường liên lạc để đưa các đồng chí Trung ương về xuôi an toàn.

Kẻ địch săn lùng ráo riết. Được Cứu quốc quân và quần chúng cách mạng bảo vệ, giúp đỡ, ngày 21 tháng 7 năm 1941, các đồng chí Thường vụ Trung ương rút khỏi Lân Táy đi qua Lân Riều, Lân Nặm, Lân Đẩy, Lân Rào đến Sa Khao, Khuổi Nọi, và đầu tháng 8 xuống đến cơ quan bí mật do Cứu quốc quân xây dựng ở Núi Lều (xã Tràng Xá, châu Võ Nhai). Ngày 25 tháng 7 năm 1941, khi được tin các đồng chí Thường vụ Trung ương đến Mỏ Pja, kẻ địch liền huy động lực lượng tiến công vào đây. Lực lượng của chúng có khoảng một trung đội lính khố xanh do tụi mật thám địa phương dẫn đường. Chúng tiến công vào Mỏ Pja theo 4 hướng. Từ Nà Yêu, Kéo Cuởm, Nà Nâm và từ Vĩnh Yên vượt đèo Canh Tung cùng tiến thẳng vào Mỏ Pja. Nhưng lúc này các đồng chí Trung ương đã rút đi xa. Chẳng bắt được người, chúng tiến hành khủng bố nhân dân vùng này.

Đã gần một tháng càn quét, nhưng chẳng bắt được các đồng chí Trung ương và cũng không tiêu diệt được Cứu quốc quân, thực dân Pháp cùng bè lũ tay sai tăng cường đàn áp và khủng bố. Già, trẻ, gái, trai của những gia đình có người tham gia cách mạng, chúng bắt về giam ở Đàng Lang (xã Quỳnh Sơn). Chúng dỡ nhà, cướp của, dồn dân các bản Lân Pán, Nà Yêu, Khuổi Cưởm, Mỏ Pja... ra tập trung ở bản Pác Mỏ (xã Hữu Vĩnh). Chúng liên tiếp hành quân càn quét vào vùng Khuổi Nọi (xã Vũ Lễ) là trung tâm căn cứ của Cứu quốc quân. Trong những cuộc càn quét đó, kẻ địch đã triệt hạ hoàn toàn bản Khuôn Khát, một bản gồm 16 nóc nhà của đồng bào Dao. Cả bản chỉ còn lại một người trốn thoát. Đây là một tội ác tầy trời của thực dân Pháp và bè lũ tay sai. Cũng trong các cuộc càn quét đó, kẻ địch đã bắt phần lớn đồng bào các bản Nà Cái, Bản Ít đem về giam giữ ở trại giam Đàng Lang (xã Quỳnh Sơn)

Cứu quốc quân đã dũng cảm chặn từng bước các cuộc tiến công của địch để bảo vệ phong trào cách mạng. Có trận, Cứu quốc quân đã phá tan cuộc càn quét của kẻ địch như ở Giá Huần (xã Vũ Lễ). Nhưng kẻ địch tăng cường khủng bố, tình hình ngày càng khó khăn. Vùng trung tâm căn cứ liên tục bị tiến công. Cơ sở quần chúng ở một vài nơi bị vỡ. Sinh hoạt của cán bộ và Cứu quốc quân ở trong rừng ngày càng gặp khăn. Phạm vi hoạt động của Cứu quốc quân ở Bắc Sơn dần dần bị thu hẹp. Đứng trước tình hình đó, các đồng chí Phùng Chí Kiên, Lương Văn Chi quyết định rút đại bộ phận Cứu quốc quân ra khỏi Bắc Sơn lên Cao Bằng và vùng biên giới Việt-Trung, chỉ để lại Bắc Sơn một tiểu đội để giữ vững cơ sở quần chúng.

Bộ phận rút khỏi Bắc Sơn theo hai hướng. Một hướng lên biên giới Việt — Trung về phía Lạng Sơn. Một hướng lên căn cứ Cao Bằng. Ngày 8 tháng 8 năm 1941, bộ phận thứ nhất rút khỏi Khuổi Nọi. Bộ phận này gồm các đồng chí Đặng Văn Cáp. Hoàng Văn Thái, Dương Công Bình, Hoàng Văn Hán, Ý, Sơn... Đến ngày 15 tháng 8 thì sang tới vùng biên giới Việt — Trung. Ngày 10 tháng 8 bộ phận thứ hai cũng rút khỏi Khuổi Nọi. Bộ phận này gồm các đồng chí Phùng Chí Kiên, Lương Văn Chi, Hà Khai Lạc, Bế Sơn Cương, Mã Thành Kính, Thành, Lâm... Khi đến làng Văn Học (châu Nà Rì) thì gặp địch xét hỏi. Các đồng chí đã chủ động đánh địch đề tiếp tục hành quân. Một tên lính dõng bị chết. Tên chánh Thượng bị thương. Kẻ địch huy động lực lượng lính, dõng các địa phương truy kích, phục kích, chặn đường. Ngày 22 tháng 8 năm 1941, bộ phận này hành quân tới làng Khau Pàn (xã Bằng Đức, châu Ngân Sơn, tỉnh Bắc Cạn) thì lọt vào ổ phục kích của địch. Bị bất ngờ, địa hình không quen thuộc, sau nhiều ngày hành quân trong rừng đã mệt, kẻ địch lại đông hơn ta gấp bội, do đó bộ phận này đã bị tổn thất nặng. Đồng chí Phùng Chí Kiên bị hi sinh tại trận. Đồng chí Lương Văn Chi bị ốm, không đi được, đến ngày 28 tháng 8 thì bị địch bắt đem về giam ở nhà tù Cao Bằng, và ngày 20 tháng 9 thì hi sinh ở nhà tù. Số còn lại rút lên căn cứ Cao Bằng an toàn.


Tiêu đề: Lịch sử Cứu quốc quân
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Tư, 2021, 02:59:11 pm
Bộ phận ở lại Bắc Sơn gồm có các đồng chí Nguyễn Cao Đàm, Dương Quốc Vinh, Dương Thần Tần, Hoàng Đình Ruệ, Hoàng Doãn Hoàng, Hoàng Văn Thằng, Đường Quảng Long, Đường Văn Thức. Mã Viết Thốn, Mã Viết Vinh. Bộ phận này chia thành từng tổ công tác ở các xã Vũ Lăng, Vũ Lễ, Hưng Vũ, Chiêu Vũ, Hữu Vĩnh, Bắc Sơn... để giữ vững cơ sở quần chúng. Địch truy lùng ráo riết, đến cuối tháng 8 năm 1941, thì chúng bắt được 6 chiến sĩ Cứu quốc quân. Ngày 20 tháng 9 năm 1941, địch đem xử bắn và đem bêu đầu ở châu lỵ để uy hiếp tinh thần nhân dân. Đó là các liệt sĩ Hoàng Đình Ruệ, Dương Thần Tần. Hoàng Doãn Hoàng, Hoàng Văn Thằng, Mã Viết Thốn, Mã Viết Vinh. Còn lại bốn đồng chí là Nguyễn Cao Đàm, Dương Quốc Vinh, Đường Văn Thức và Đường Quảng Long rút xuống Võ Nhai cùng bộ phận Cứu quốc quân ở đây đấu tranh chống địch khủng bố.

Máu của cán bộ và chiến sĩ Cứu quốc quân đã đổ xuống. Nhưng quân thù không thể tiêu diệt được đội Cứu quốc quân và dập tắt phong trào cách mạng của nhân dân Bắc Sơn, Võ Nhai. Các liệt sĩ Cứu quốc quân đã nêu một tấm gương chiểu đấu anh dũng, không phản Đảng, không hại dân, không khuất phục kẻ thù. Tấm gương hi sinh cao cả vì sự nghiệp cách mạng của Đảng, của nhân dân của các liệt sĩ ấy như là lời kêu gọi đội Cứu quốc quân, đồng bào Bắc Sơn, Võ Nhai hăng hái và bền bỉ đấu tranh, tiếp tục đưa phong trào cách mạng tiến lên không ngừng.

Mất mục tiêu chủ yếu của cuộc khủng bố ở châu Bắc Sơn, từ đầu tháng 9 năm 1941, thực dân Pháp chuyển trọng tâm của cuộc khủng bố xuống châu Võ Nhai. Song, không phải đến lúc này kẻ địch mới khủng bố phong trào cách mạng Võ Nhai, và cũng không có nghĩa là cuộc khủng bố ở Bắc Sơn của chúng đã kém phần khốc liệt.

Sang tháng 9 năm 1941, cuộc khủng bố của kẻ địch ở châu Bắc Sơn vẫn được tiếp tục đẩy mạnh nhằm triệt phá hoàn toàn phong trào cách mạng ở đây. Một mặt, chúng tăng cường lực lượng mật thám, tay sai và kích thích bọn này ráo riết hoạt động. Mặt khác, chúng tăng thêm lính, dõng, xây thêm bốt gác. Các đồn Mỏ Nhài, Nam Nhi, Quang Thái, Đàng Lang, Bác Bãi đều được bổ sung thêm lính. Với lực lượng được tăng cường, kẻ địch liên tiếp hành quân càn quét, khủng bố nhân dân. Chúng tiến hành hàng loạt vụ bắt người, cướp của. Hàng trăm quần chúng và đảng viên ở các xã Hữu Vĩnh, Vu Lăng, Vũ Lễ, Hưng Vũ, Chiêu Vũ, Bắc Sơn... bị chúng bắt đem đi giam cầm ở nhà tù Lạng Sơn, Hỏa lò (Hà Nội), Chợ Chu (Thái Nguyên), Nghĩa Lộ, Sơn La, Côn Đảo. Chúng đẩy mạnh chính sách dồn làng, tập trung dân để «tát nước, bắt cá», kìm kẹp chặt chẽ nhân dân. Ở xã Vũ Lăng, địch dồn dân ở các bản Cốc Bó, Nà Pán, Tát Hương, Nà Kheo... lên cạnh đồn Nam Nhi để dễ kiểm soát. Ở xã Chiêu Vũ, chúng dồn dân bản Lân Nghiến sang bản Tân Kỳ, Lân Khinh sang Áng Nộc. Chúng lùng bắt người của những gia đình cách mạng và có cảm tình với cách mạng ở các xã Vũ Lễ, Vũ Lăng, Ngư Viễn, Hưng Vũ, Chiêu Vũ, Hữu Vĩnh... về trại tập trung Đàng Lang, Chiêu Vũ. Ngoài ra, kẻ địch còn hạn chế việc bán muối để o ép nhân dân. Đồng thời với chính sách đàn áp và khủng bố, kẻ địch còn tiến hành mua chuộc, dụ dỗ nhân dân và trụy lạc thanh niên. Chúng đặt thưởng rất hậu cho những người bắt được cán bộ cách mạng đem nộp cho chúng. Chúng tuyên bố sẽ tha bổng hoàn toàn cho những ngườí ra đầu thú. Chủng tổ chức những ngày hội thi sắc đẹp, các trò chơi có tính chất miệt thị dân tộc như leo cột mỡ, bịt mắt liếm chảo có thưởng... để đầu độc thanh niên.

Sự khủng bố, đàn áp, cướp phá của thực dân Pháp và bè lũ tay sai làm cho đời sống của đồng bào rất cực khổ, nhất là đồng bào sống trong các trại lập trung và khu dồn dân. Ở đó đồng bào phải sống chen chúc trong những căn nhà chật hẹp ẩm thấp. Do đó nạn ốm đau, bệnh tật hoành hành trong hoàn cảnh không thuốc thang, đói rét. Hàng ngày chúng còn bắt nhân dân đi cuốc đất, đường Chiêu Vũ đi Mỏ Nhài và xây đồn Nam Nhi. Trong khi phải lao động vất vả, đồng bào lại còn bị đánh đập, chửi mắng. Xung quanh khu dồn dân, trại tập trung là hàng rào bằng tre vót nhọn bao quanh, có hệ thống chòi canh, bốt gác kiểm soát nghiêm ngặt mọi người ra vào. Cứ tối đến là chúng lại điểm mặt từng người. Đi làm, đi chợ đều có lính, có mật thám đi kèm. Kẻ địch còn gài bọn mật thám tay sai vào các khu tập trung để theo dõi mọi cử chỉ, lời nói của nhân dân. Cuộc sống của đồng bào bị o ép đến cùng cực.

Đến tháng 9 năm 1941, phong trào cách mạng Bắc Sơn gặp nhiều khó khăn, tạm thời lắng xuống. Lúc này lực lượng Cứu quốc quân là nòng cốt của cuộc đấu tranh chống địch khủng bố đã rút ra Bắc Sơn để bảo toàn lực lượng. Đồng thời cán bộ, đảng viên địa phương cũng bị cuộc khủng bố của địch tách khỏi phong trào. Một số thì bị bắt. Một số thì phải chạy vào rừng sâu hoạt động bí mật. Trong khi đó, cuộc đấu tranh chống địch khủng bố ở châu Võ Nhai của đồng bào các dân tộc và bộ phận Cứu quốc quân ở đây vẫn tiếp diễn và ngày càng sôi nổi.

Khi thực dân Pháp cùng bè lũ tay sai tập trung lực lượng tiến công phong trào cách mạng Bắc Sơn thì chúng cũng bắt đầu khủng bố phong trào cách mạng Võ Nhai. Chúng điều các chi nhánh mật thám lên đóng chốt ở Đình Công, Đình Cả, Làng Giữa để chỉ huy bọn tay chân, chặn đường các đồng chí thường vụ Trung ương về xuôi, đàn áp và khủng bố nhân dân, tiêu diệt Cứu quốc quân. Kẻ địch đã tiến hành hàng loạt vụ bắt người, đốt phá nhà cửa và ruộng vườn ở các xã Lâu Thượng, Phú Thượng, Tràng Xá... để uy hiếp tinh thần của nhân dân. Các Làng Cao, Làng Phật, Làng Lầm bị địch đốt phá. Hành động đó của chúng càng làm cho ngọn lửa căm thù của nhân dân thêm bốc cao.


Tiêu đề: Lịch sử Cứu quốc quân
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Tư, 2021, 02:59:48 pm
Đến khi các đồng chí Thường vụ Trung ương rút xuống Võ Nhai, kẻ địch lại càng đẩy mạnh việc đàn áp và khủng bố. Ngày 13 tháng 8 năm 1941, các lực lượng binh lính, cảnh sát dưới sự chỉ huy của tên thanh tra mật thám Ba-ra-da và hai tên giám binh là Ba-rôn và Bút-kê, lùng sục vào Làng Cao (xã Phú Thượng). Cứu quốc quân đã dũng cảm chặn đánh. Nhưng lực lượng địch đông, hỏa lực mạnh, ta phải rút lui. Địch vào được tới Làng Cao, nhưng chúng chẳng bắt được ai.

Cũng như ở Bắc Sơn, nhân dân các dân tộc Võ Nhai và bộ phận Cứu quốc quân ở đây đã bảo vệ an toàn các đồng chí Thường vụ Trung ương. Ở Võ Nhai, các đồng chí Thường vụ Trung ương tiếp tục mở các lớp huấn luyện tại Váng Bàn, Núi Lều (xã Tràng Xá). Nội dung các lớp này là phổ biến nghị quyết Hội nghị lần thứ tám của Trung ương Đảng, huấn luyện và đào tạo cán bộ. Sau đó đồng chí Trường Chinh và đồng chí Hoàng Văn Thụ tiếp tục cuộc hành trình về xuôi. Còn đồng chí Hoàng Quốc Việt ở lại thêm một thời gian để chỉ đạo phong trào cách mạng Võ Nhai và chỉ đạo hoạt động Cứu quốc quân. Đồng chí Hoàng Văn Thụ về nước rồi cử liên lạc lên báo cáo tình hình. Sau đó đồng chí Trường Chinh — Tổng bí thư của Đảng tiếp tục lên đường về xuôi. Cứu quốc quân đã tổ chức đường giao thông, trạm liên lạc và bảo vệ cho các đồng chí về xuôi an toàn.

Không còn mục tiêu chính của cuộc khủng bố ở Bắc Sơn, sang tháng 9 năm 1941, thực dân Pháp chuyển trọng tâm của cuộc khủng bố xuống Võ Nhai là nơi còn có bộ phận Cứu quốc quân do đồng chí Chu Văn Tấn chỉ huy, đang hoạt động. Để tiêu diệt Cứu quốc quân và dập tắt phong trào cách mạng Võ Nhai, trước hết kẻ địch tăng cường lực lượng để đàn áp và khủng bố. Chúng củng cố đồn cũ, lập thêm đồn lính và bốt gác mới. Ở Bắc Sơn, hệ thống đồn binh, bốt gác của địch từ Vũ Lăng qua Vũ Lễ đến Gia Hòa, Nhất Thể. Ở Võ Nhai, chủng xây đồn, lập bốt từ Bình Long qua La Thế, Làng Nác, Làng Giang, Làng Giữa đến Lâu Thượng, Phú Thượng, La Hiên. Phía Đồng Hỷ, chúng đóng đồn ở Trại Cau, Trại Cả. Phía Hữu Lũng, Yên Thế (tỉnh Bắc Giang cũ), chúng cũng lập thêm một số đồn, bốt mới. Với hệ thống đồn binh, bốt gác này, kẻ địch vừa tạo thành thế bao vây Võ Nhai từ các mặt, đồng thời vừa nhanh chóng triển khai lực lượng để đàn áp phong trào cách mạng. Ngoài hệ thống đồn binh, bốt gác này thực dân Pháp còn tăng cường lực lượng mật thám tại các địa phương, đến tận các bản làng hẻo lánh.

Với lực lượng lính, dõng và mật thám tăng cường kẻ địch ngày đêm đi lùng sục bắt người, cướp của, đàn áp nhân dân. Đêm cũng như ngày, bọn mật thám tay sai đi dò xét tình hình. Bọn này trèo lên cây cao, leo lên đỉnh núi để quan sát từng làn khói, nghe ngóng từng tiếng động trong rừng. Chúng còn lấy vôi hoặc tro bếp đánh dấu dọc những con đường mòn, cửa rừng, cửa hang, khe suối để phát hiện dấu vết đi lại. Đêm đến chúng len lỏi đến ẩn nấp trong các bụi rậm quanh nhà, dọc đường đi để theo dõi người qua lại, chuyện trò. Hễ thấy có gì khả nghi thì lập lức đi dẫn lính đồn, dõng đến vây bắt, càn quét, cướp phá.

Song song với hành động đàn áp, khủng bố liên tiếp, kẻ địch còn mở rộng chiến dịch tuyên truyền xuyên tạc, nói xấu cách mạng. Chúng bú mớm cho các hạng tay sai sống trà trộn cùng nhân dân hàng ngày phao tin đồn nhảm, nào cộng sản là «cộng vợ, cộng chồng», là «bọn giặc», người này, người nọ đã ra đầu thú... Thủ đoạn này là nhằm gây tâm lý hoang mang, hoài nghi trong nhăn dàn, chia rẽ nhân dân với cán bộ và Cứu quốc quân, phá vỡ tổ chức cách mạng của ta, làm cho cán bộ và Cứu quốc quân mất chỗ dựa.

Cuộc khủng bố của đế quốc Pháp cùng bè lũ tay sai tuy có gây cho ta nhiều khó khăn, nhưng chúng không thể ngăn cản được bước tiến của cách mạng. Cứu quốc quân phải sống trong rừng sâu, nhưng nhờ có quần chúng làm tai mắt mà Cứu quốc quân vẫn biết được tình hình địch. Những quần chúng cách mạng hàng ngày theo dõi, bám sát mọi hoạt động của địch để tìm cách báo cho Cứu quốc quân. Ngoài ra, quần chúng cách mạng còn bí mật chuyển lương thực, quần áo, thuốc men cho cán bộ và Cứu quốc quân sống và chiến đấu. Còn Cứu quốc quân và những cán bộ, đảng viên địa phương thì kiên quyết bám lấy cơ sở quần chúng để tổ chức và lãnh đạo nhân dân đấu tranh, quyết xứng đáng với tình thương yêu của nhân dân. Nhờ vậy Cứu quốc quân không bị tiêu diệt, cơ sở cách mạng ở các địa phương nhìn chung vẫn được giữ vững.

Với những thủ đoạn trên đây không đạt được kết quả mong muốn, thực dân Pháp lại tiến công phong trào cách mạng Võ Nhai, bằng việc đẩy mạnh chính sách dồn làng, tập trung dân như ở Bắc Sơn chúng đã làm và gây nhiều khó khăn cho phong trào cách mạng. Để làm việc đó, chúng tiến hành hàng loạt vụ đốt nhà, cướp của dồn dân vào sống tập trung ở một chỗ để chúng dễ bề kiểm soát và kìm kẹp. Các khu tập trung dân kiểu phát-xít ở Nà Pheo, Đình Cả, Làng Giữa, Đồng Ẻn chật ních người, gồm cả già, trẻ, đàn ông, đàn bà. Mỗi khu tập trung đều có hàng rào bằng tre vót nhọn bao quanh. Chúng chỉ để một hoặc hai cổng ra vào. Ngày đêm đều có lính, dõng thay nhau canh gác, tuần phòng nghiêm ngặt. Hàng ngày cứ tối đến chúng lại điểm mặt từng người. Kẻ địch còn gài bọn mật thám cùng sống trà trộn với nhân dân ở các khu tập trung để theo dõi, rình mò. Đời sống của nhân dân ở các khu tập trung rất cực khổ. Đã phải sống chen chúc, chật chội, đói rét, bệnh tật không thuốc thang, lại còn bị o ép, đánh đập, chửi mắng.

Ngoài ra, để đánh vào tình cảm gia đình thân thiết của Cứu quốc quân, của cán bộ, đảng viên địa phương, kẻ địch còn lùng bắt bố mẹ, vợ con, chị em của họ đem đi cầm tù ở trại giam Chợ Chu (phủ Định Hóa, Thái Nguyên).


Tiêu đề: Lịch sử Cứu quốc quân
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Tư, 2021, 03:01:16 pm
Thủ đoạn dồn làng, tập trung dân của địch tuy có gây cho ta nhiều khó khăn, nhưng không thể ngăn nổi bước tiến của cách mạng. Mặc dù bị kẻ địch kiểm soát và kìm kẹp gắt gao, nhưng nhân dân sống ở trong các khu tập trung vẫn tìm cách lợi dụng những sơ hở của địch để liên lạc, tiếp tế cho Cứu quốc quân, cán bộ và đảng viên sống ở trong rừng sâu. Vì vậy, Cứu quốc quân cũng như cán bộ và đảng viên vẫn có đủ lương ăn, vẫn nắm được tình hình địch. Ban ngày thì sống trong rừng sâu học tập chính trị và huấn luyện quân sự. Ban đêm thì chia thành các tổ công tác, bí mật trở về các bản, các khu tập trung liên lạc với quần chúng, hướng dẫn đồng bào đấu tranh. Đồng bào các dân tộc thấy cán bộ, đảng viên và Cứu quốc quân vẫn thường xuyên liên lạc với cơ sở thì lại càng tin tưởng, hăng hái ủng hộ và giúp đỡ cách mạng.

Cứu quốc quân cùng cán bộ, đảng viên kiên trì bám sát cơ sở, và quần chúng tích cực ủng hộ và giúp đỡ, cho nên phong trào cách mạng ở Võ Nhai không bị phá vỡ. Trong cuộc đấu tranh chống địch khủng bố, cơ sở quần chúng và lực lượng tự vệ nhìn chung vẫn có sự phát triển. Các đội tự vệ tiếp tục được bổ sung thêm nhiều đội viên là những phần tử trung kiên của các Hội cứu quốc. Trên cơ sở đó, ngày 15 tháng 9 năm 1941, Đệ nhị trung đội Cứu quốc quân đã được thành lập tại rừng Khuôn Méng (xã Tràng Xá, châu Võ Nhai)(1). Tại buổi lễ thành lập, đồng chí Hoàng Quốc Việt, Ủy viên Ban thường vụ Trung ương Đảng, đã giao nhiệm vụ Cứu quốc cho đội. Đồng chí chỉ rõ nhiệm vụ trước mắt của Đệ nhị trung đội Cứu quốc quân là tích cực đấu tranh chống địch khủng bố, trừ gian, diệt phản động đầu sỏ, bảo vệ cơ sở cách mạng; không ngừng củng cố và phát triển các đội tự vệ làm nguồn bổ sung cho Cứu quốc quân; củng cố và mở rộng địa bàn hoạt động ra các hướng; duy trì tiếng súng đấu tranh để cổ vũ phong trào cách mạng toàn quốc và thiết thực ủng hộ Liên xô kháng chiến. Trong buổi lễ thành lập, mọi người đã bùi ngùi, xúc động làm lễ truy điệu những đồng chí Đệ nhất trung đội Cứu quốc quân đã hy sinh; tiếp đó là làm lễ kết nạp một số quần chúng tích cực đã được rèn luyện và thử thách vào Đảng; rồi đến lễ tuyên thệ của Đệ nhị trung đội Cứu quốc quân. Trong phần lễ tuyên thệ, đồng chí Hoàng Quốc Việt thay mặt Trung ương Đảng đã trao lá cờ đỏ sao vàng cho Đệ nhị trung đội Cứu quốc quân.

Đệ nhị trung đội Cứu quốc quân có hơn 40 người. Lúc đầu, trung đội có một nữ chiến sĩ là chị Đường Thị Sông. Sau đó có thêm hai chị tham gia là Hoàng Thị Ngoan và Hoàng Thị Môn. Ban chỉ huy trung đội do đồng chí Hoàng Quốc Việt cử ra gồm có 3 đồng chí. Đồng chí Chu Văn Tấn là chỉ huy trưởng. Đồng chí Nguyễn Cao Đàm là chính trị chỉ đạo viên. Đồng chí Trần Văn Phấn là chỉ huy phó. Đệ nhị trung đội Cứu quốc quân được phiên chế thành 5 tiểu đội. Tiểu đội trưởng các tiền đội lúc đầu gồm các đồng chí Lê Dục Tôn, Chu Quốc Hưng, Hứa Văn Chì, Từ Văn Thoòng và Hà Văn Loi(2).

Đệ nhị trung đội Cứu quốc quân thành lập là kết quả to lớn của cuộc đấu tranh chống địch khủng bố. Kết quả đó tăng cường thêm lực lượng nòng cốt của cuộc đấu tranh chống địch khủng bố ở Võ Nhai. Đồng thời, kết quả đó nói lên rằng, dù kẻ địch có quỷ quyệt và tàn bạo đến đâu cũng không thể dập tắt được phong trào cách mạng, khi mà nhân dân ta đã được Đảng tuyên truyền và giác ngộ; dù trong hoàn cảnh địch khủng bố liên tục nhưng nếu đi đúng đường lối của Đảng, dựa chắc vào dân, bí mật hoạt động thì vẫn giữ vững được cơ sở quần chúng, và lực lượng vũ trang nhân dân chẳng những không bị tiêu diệt mà còn có điều kiện phát triển.

Ngay sau khi thành lập, Ban chỉ huy Cứu quốc quân đã phân công các đơn vị đi đến các địa phương đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống địch khủng bố. Đồng thời, Ban chỉ huy Cứu quốc quân đã cử một tổ Cứu quốc quân đưa đường bảo vệ vệ đồng chí Hoàng Quốc Việt về Trung ương. Ngày 19 tháng 9 năm 1941, đồng chí Hoàng Quốc Việt đã an toàn rút khỏi Võ Nhai để về xuôi. Đến đây Cứu quốc quân và đồng bào các dân tộc Bắc Sơn, Võ Nhai đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Đảng trong thời gian công tác ở địa phương. Thực dân Pháp cùng bè lũ tay sai đã huy động một lực lượng khá lớn binh lính, mật thám, thi hành một loạt thủ đoạn đàn áp, khủng bố khốc liệt, tiến công liên tục căn cứ Bắc Sơn—Võ Nhai để vây bắt các đồng chí Thường vụ Trung ương, nhưng chúng đã hoàn toàn thất bại. Đây là một thành tích to lớn của Cứu quốc quân và đồng bào các dân tộc Bắc Sơn Võ Nhai kiên cường, mưu trí.


(1) Khi đơn vị này thành lập thì tự xưng là Đệ nhị trung đội Cứu quốc quân và suy tôn đội thành lập ở Khuổi Nọi tháng 2 năm 1941 là Đệ nhất trung đội Cứu quốc quân. B.T.
(2) Do sự phát triển của phong trào đòi hỏi, những đồng chí phụ trách các tiểu đội luôn luôn có sự thay đổi. Ban chỉ huy Cứu quốc quân điều động đồng chí cũ đi công tác, lại cử đồng chí khác thay.


Tiêu đề: Lịch sử Cứu quốc quân
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Tư, 2021, 03:01:48 pm
Từ cuối tháng 9 năm 1941 trở đi, khi mà các đồng chí Thường vụ Trung ương Đảng đã về xuôi an toàn, và cuộc tiến công căn cứ Bắc Sơn — Võ Nhai của thực dân Pháp đã chuyển trọng tâm xuống Võ Nhai, liên tiếp hành quân tìm diệt Cứu quốc quân và khủng bố nhân dân, thì cuộc đấu tranh vũ trang chống địch khủng bố bằng chiến thuật du kích của Cứu quốc quân mới thực sự sôi nổi. Mục tiêu chiến đấu của Cứu quốc quân là tiêu diệt những tên mật thám đầu sỏ, phá tan các cuộc hành quân càn quét của địch. Ngày 16 tháng 9 năm 1941, tên Gác-ni-ê (Garnier) chỉ huy hai trung đội lính bao vây một đơn vị tự vệ khoảng hai mươi người ở Tràng Xá. Đơn vị tự vệ này đã mưu trí vượt vây an toàn. Ngày hôm sau, địch lại cho hai trung đội lính khố xanh càn quét vào Khuôn Kẹn (Tràng Xá), lại bị Cứu quốc quân phục kích bắn chết một tên, những tên khác bỏ chạy. Cùng ngày hôm đó, chúng cho một toán khác khoảng 100 tên tiến công vào Khuôn Đã (xã Tràng Xá), là nơi có cơ quan bí mật của ta. Một tiểu đội Cứu quốc quân đi công tác trên đường trở về cơ quan đã gặp địch. Trong trận tao ngộ chiến này, lực lượng của ta rất mỏng so với địch, kể cả về số lượng và vũ khí. Nhưng toàn tiểu đội đã dũng cảm chiến đấu vừa nghi binh, vừa đánh, vừa làm công tác địch vận. Địch ỷ vào lực lượng đông, hỏa lực mạnh xông lên, Cứu quốc quân không run sợ, dựa vào lợi thế địa hình, kiên quyết chiến đấu. Trận đánh kéo dài từ 3 giờ đến 5 giờ chiều thì chấm dứt. Ta không bị hy sinh người nào. Kẻ địch chết khoảng 10 tên. Ngày 30 tháng 10 năm 1941, Cứu quốc quân tiêu diệt tên nho Thuận là tên mật thám đắc lực của thực dân Pháp.

Sau khi đồng chí Hoàng Quốc Việt về xuôi, Trung ương lại cử cán bộ lên Võ Nhai. Khoảng trung tuần tháng 10 năm 1941, đồng chí Đào Văn Trường là thường vụ Xứ ủy Bắc-kỳ lên đến Võ Nhai để truyền đạt chỉ thị của Trung ương và tham gia lãnh đạo phong trào. Lãnh đạo căn cứ địa Bắc Sơn — Võ Nhai lúc này là Ủy ban quân sự, chính trị Bắc Sơn, Võ Nhai do Trung ương cử ra. Ủy ban này gồm có các đồng chí Đào Văn Trường, Chu Văn Tấn, Nguyễn Cao Đàm, do đồng chí Đào Văn Trường làm chủ nhiệm. Trung ương chỉ thị cho Ủy ban quân sự, chính trị Bắc Sơn, Võ Nhai phải nhanh chóng kiện toàn Cứu quốc quân để đánh du kích chống địch khủng bố, bảo vệ cơ sở cách mạng, lấy súng địch trang bị cho mình; bám sát lấy dân, củng cố và phát triển các Hội cứu quốc, mở rộng địa bàn hoạt động, khôi phục lại phong trào Bắc Sơn.

Chấp hành chỉ thị của Trung ương, Ủy ban quân sự, chính trị Bắc Sơn, Võ Nhai đã họp hội nghị cán bộ để thảo luận kế hoạch thực hiện. Cuối tháng 10 năm 1941, Cứu quốc quân rút vào rừng sâu chấn chỉnh đội ngũ. Toàn đội có khoảng 60 người, phiên chế thành 7 tiểu đội. Ban chỉ huy Cứu quốc quân gồm có một chỉ huy trưởng là đồng chí Đào Văn Trường, ba chỉ huy phó là các đồng chí Chu Văn Tấn, Lê Dục Tôn, Trần Văn Phấn và một chính trị, chỉ đạo viên là đồng chí Nguyễn Cao Đàm. Toàn đội có một chi bộ Đảng. Ở mỗi tiểu đội có một tổ Đảng.

Sau khi phiên chế lại, toàn đội bước vào học tập chính trị và huấn luyện quân sự. Nội dung học chính trị là đường lối, chính sách của Đảng, chương trình và điều lệ Việt Minh, cách tổ chức các Hội cứu quốc. Nội dung huấn luyện quân sự là học chiến thuật du kích, những động tác quân sự cơ bản từ cá nhân chiến đấu đến tiểu đội và trung đội chiến đấu. Những đảng viên thì học thêm phần về Đảng như tài liệu «cộng sản sơ giải», nghị quyết hội nghị lần thứ tám của Trung ương Đảng. Ngoài ra, cán bộ và chiến sĩ còn học tập 10 điều kỷ luật(1) và 5 lời thề của đội. Việc học tập văn hóa, ra tờ báo «Bắc Sơn», viết nhật ký, ca hát... cũng rất sôi nổi, hào hứng.

Qua học tập chính trị, huấn luyện quân sự và củng cố tổ chức, sức mạnh chiến đấu và năng lực công tác của Cứu quốc quân được nâng cao thêm một bước. Tình đồng chí, tình bạn chiến đấu, quan hệ đồng đội và với dân càng thêm gắn bó. Trình độ chính trị, tư tưởng và đạo đức, tác phong của người chiến sĩ cách mạng được nâng cao thêm. Qua học tập, cán bộ và chiến sĩ Cứu quốc quân nắm vững thêm đường lối và chính sách của Đảng, cách tuyên truyền và vận động quần chúng; càng hiểu rõ thêm nhiệm vu vinh quang của mình vừa là người chiến sĩ cách mạng, vừa là người cán bộ tuyên truyền.

Trên cơ sở lực lượng đã được củng cố thêm một bước, Ban chỉ huy Cứu quốc quân phân chia lực lượng thành các tổ công tác về các địa phương lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống địch khủng bố, củng cố và mở rộng địa bàn hoạt động của Cứu quốc quân. Một tổ do đồng chí Phúc Quyền và đồng chí Phương Cương phụ trách, tháng 11 năm 1941 sang Đại Từ, Định Hóa mở ra địa bàn hoạt động. Một tổ do đồng chí Nông Văn Cún và đồng chí Chu Quốc Hưng phụ trách, lấy Phú Thượng (Võ Nhai) làm bàn đạp, có nhiệm vụ khôi phục lại phong trào Bắc Sơn. Cùng thời gian này, một tổ công tác do đồng chí Hà Văn Châm phụ trách đi về Bắc Yên Thế, Hữu Lũng (tỉnh Bắc Giang cũ) xây dựng cơ sở quần chúng. Còn đại bộ phận lực lượng Cứu quốc quân thì hoạt động ở Tràng Xá, Lâu Thượng, Phú Thượng (Võ Nhai) tiến hành cuộc đấu tranh chống địch khủng bố, bảo vệ cơ sở cách mạng.


(1) Mười điều kỷ luật đã có từ hai lớp huấn luyện quân sự đầu tiên của Đảng ở Đức Thắng (tỉnh Bắc Giang) vào cuối năm 1940. Mười điều kỷ luật đó là:
1 — Tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh cấp trên.
2 — Không lấy cái kim, sợi chỉ của dân.
3 — Mua bán của dân phải cho công bằng.
4 — Tuyệt đối không đem của công làm của tư.
5 — Nói năng phải lễ phép.
6 — Ở đâu phải giữ gìn sạch sẽ nhà, vườn của dân.
7 — Bắt được của rơi phải trả.
8 — Làm hỏng cái gì phải đền.
9 — Không tắm rửa trước phụ nữ.
10 — Không rượu chè, cờ bạc, hút thuốc phiện,


Tiêu đề: Lịch sử Cứu quốc quân
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Tư, 2021, 03:04:34 pm
Đến cuối tháng 11 năm 1941, bộ phận đi mở rộng địa bàn hoạt động đã thu được những thành tích bước đầu. Các tổ công tác của Cứu quốc quân bắt mối liên lạc với cán bộ, đảng viên và cơ sở quần chúng ở các địa phương rồi từ đó phát triển thêm những cơ sở mới. Kết quả là, địa bàn hoạt động của Cứu quốc quân đã bước đầu có sự mở rộng ra các hướng. Ở Thái Nguyên, Cứu quốc quân đã bắt được liên lạc với cơ sở cũ và phát triển thêm một số cơ sở mới ở Cây Thị, Mỏ Sắt (Đồng Hỷ), La Bằng (Đại Từ), Làng Cam, Phấn Sức (Phú Lương). Ở Tuyên Quang, Cứu quốc quân đã xây dựng được một số cơ sở quần chúng ở Phượng Liễn (Sơn Dương) và vùng đồng bào người Dao xung quanh Núi Hồng thuộc Đại Từ, Sơn Dương và Yên Sơn. Ở phía Bắc Giang, Cứu quốc quân cũng đã xây dựng được một số cơ sở quần chúng ở Đồng Vương, Khuôn Đổng (Yên Thế).

Bộ phận ở Võ Nhai tích cực đấu tranh chống địch khủng bố, bảo vệ cơ sở cách mạng. Cuộc đấu tranh này nổi bật là cuộc đấu tranh vũ trang bằng chiến thuật du kích, có kết hợp với công tác binh vận và địch vận, phát động quần chúng đấu tranh chính trị với địch. Đối với bọn mật thám tay sai thì kiên quyết trừng trị những tên đầu sỏ, cảnh cáo bọn a tòng, phân hóa và cô lập cao độ bọn chúng. Ngày 25 tháng 11 năm 1941, Cứu quốc quân phục kích bắn chết một tên, phá tan cuộc càn quét vào Tràng Xá của một toán lính dõng. Ngày 12 tháng 12, một tiểu đội Cứu quốc quân trên đường đi công tác đã chạm trán bất ngờ với một đại đội lính khố xanh đi càn ở Mỏ Mủng. Cứu quốc quân đã kịp thời chủ động tiến công, buộc chúng phải rút chạy. Ngày 14 tháng 12, Cứu quốc quân phục kích bắn chết một tên mật thám dẫn lính vào Tràng Xá để đi càn quét. Đêm 31 tháng 12 rạng mồng 1 tháng giêng năm 1942, Cứu quốc quân quấy rối đồn Tràng Xá, bắn bị thương 7 tên. Ngày 11 tháng 1 năm 1942, Cứu quốc quân bắn chết tên «Đội béo» trong trận phục kích ở Suối Bù.

Trong chiến đấu, Cứu quốc quân vừa kiên quyết tiến công quân sự, vừa làm công tác binh vận. Trong trận «tao ngộ chiến» ở Khuôn Đã, Cứu quốc quân vừa nổ súng, vừa kêu gọi binh lính địch đầu hàng. Cứu quốc quân còn viết truyền đơn bằng tiếng Việt, tiếng Pháp để tuyên truyền binh lính địch. Những truyền đơn đó được Cứu quốc quân, tự vệ và nhân dân, có cả chị em phụ nữ như chị Dính, bà Cò, Muối Phan, Muối Báo... đem rải ở chợ ở dọc đường đi, thậm chí nhồi cả vào túi lính khi chúng chòng ghẹo chị em. Cứu quốc còn gài người của ta như anh Đặng Lâm, Đặng Đức Chấn... vào hàng ngũ binh lính để tuyên truyền lôi kéo. Đối với binh lính người Việt thì khêu gợi tinh thần yêu nước, kêu gọi họ quay súng bắn vào bọn chỉ huy, trở về với gia đình vợ con, hay chạy sang với cách mạng. Đối với lính Âu — Phi, lính Pháp, thì kêu gọi họ chạy sang hàng ngũ cách mạng cùng chiến đấu chống phát-xít Pháp, Nhật.

Công tác binh vận khôn khéo và sắc bén của Cứu quốc quân đã thu được nhiều kết quả, làm cho kẻ địch hoảng sợ. Thực dân Pháp buộc phải luôn luôn thay đổi lính. Cứ độ hai hoặc ba tuần là chúng lại đem lính ở nơi khác đến thay, sợ để lâu sẽ bị tuyên truyền lôi kéo. Trong một số cuộc càn quét, binh lính địch, có cả lính Âu — Phi, lính Pháp, bắn chỉ thiên, cố ý làm lộ cuộc hành quân, có người còn bí mật liên lạc báo tin tức cho Cứu quốc quân kịp thời đối phó.

Trong cuộc đấu tranh chống địch khủng bố, Cứu quốc quân còn tổ chức và lãnh đạo quần chúng đấu tranh chính trị với địch. Với những mục tiêu cụ thể, thiết thực như chống đàn áp, chống khủng bố, đòi hủy bỏ chính sách dồn làng, tập trung dân, đòi thả những người bị bắt giam... các cuộc đấu tranh chính trị với địch đã tập hợp đông đảo đồng bào các dân tộc tham gia. Những cuộc đấu tranh này tuy quy mô còn nhỏ, chưa nhiều và không liên tục, nhưng cũng đã gây cho đích nhiều khó khăn, lúng túng, tạo điều kiện thuận lợi để Cứu quốc quân chiến đấu và xây dựng lực lượng.

Mặc dù sống trong hoàn cảnh rất khó khăn, thiếu thốn mọi bề, chiến đấu liên tục, nhưng sinh hoạt văn hóa, văn nghệ của Cứu quốc quân rất sôi nổi. Toàn đội thi đua học văn hỏa, học hát, làm thơ, viết báo và viết nhật ký. Ban chỉ huy Cứu quốc quân có một cuốn nhật ký chiến đấu(1) ghi rõ công việc làm, thành tích chiến đấu và công tác của Cứu quốc quân. Những bài hát «Hoàng phố», «Tuốt gươm trường ba thước», «Nào ta đi Hồng binh»... với lời ca mộc mạc, dễ thuộc, dễ nhớ nhưng có sức truyền cảm mạnh mẽ, thúc giục lòng người, mọi chiến sĩ Cứu quốc quân đều thuộc. Có cả những bài theo điệu dân ca Tày, Nùng, động viên chị em phụ nữ tham gia cách mạng. Trong chiến đấu gian khổ và anh dũng, người chiến sĩ Cứu quốc quân còn làm thơ ghi lại những tấm lòng yêu nước của nhân dân, tinh thần chiến đấu hăng say của đội quân cách mạng. Việc học văn hóa của Cứu quốc quân cũng rất sôi nổi, đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu được của người chiến sĩ cách mạng. Người biết chữ dạy người chưa biết. Người biết nhiều dạy người biết ít. Do đó trình độ văn hóa của đội Cứu quốc quân dần dần được nâng cao, tạo điều kiện thuận đi tiếp thu nhanh chóng đường lối, chính sách của Đảng.


(1) Về cuốn nhật ký chiến đấu của Cứu quốc quân hiện nay chưa tìm thấy bản gốc, chỉ có bản sao lại của nhà văn Tô Hoài. Nội dung cuốn nhật ký ghi tiểu sử Đệ nhị trung đội Cứu quốc quân và những hoạt động của nó từ ngày 15 tháng 11 năm 1941 đến ngày 22 tháng 2 năm 1942. Nhật ký còn chép lại những truyền đơn địch vận và những bài thơ do Cứu quốc quân viết.


Tiêu đề: Lịch sử Cứu quốc quân
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Tư, 2021, 03:06:33 pm
Việc khen thưởng và kỷ luật của Cứu quốc quân cũng đã được tiến hành kịp thời, nghiêm minh để động viên và giáo dục mọi người. Sau mỗi đợt công tác, mỗi trận chiến đấu, đơn vị họp lại để rút kinh nghiệm, nhận xét ưu điểm, khuyết điểm và thành tích của từng người. Những ai mắc khuyết điểm, nhẹ thì phê bình, nặng thì hạ tầng công tác. Những ai có thành tích thì biểu dương, khen thưởng. Hình thức là họp toàn đội để biểu dương tặng «bội tinh» cho những người có công trạng. «Bội tinh» có hai hạng, hạng nhất là một ngôi sao bằng bạc, đường kính chừng 6 phân. Hạng nhì là một ngôi sao bằng bạc, đường kính độ 2 phân.

Bị kẻ địch liên tục tìm diệt, nhưng Cứu quốc quân vẫn duy trì được cuộc chiến đấu là nhờ sự giúp đỡ nhiệt tình của đồng bào các dân tộc Tày, Nùng, Dao ở các địa phương. Hễ thấy địch sắp càn đến làng xóm của mình thì bà con nhắn Cứu quốc quân đến nhà hoặc đến nương rẫy để lấy thóc gạo, để khỏi lọt vào tay kẻ địch, hoặc bị chúng đốt phá đi. Nếu Cứu quốc quân không kịp đến lấy thì bà con thu hoạch đem giấu vào hang, vào rừng sâu, rồi báo cho Cứu quốc quân cứ đến đó lấy đem dùng. Kẻ địch biết điều đó, cho lính đi đốt phá nương rẫy của bà con. Cứu quốc quân phục kích đánh địch đi đốt phá để bảo vệ nguồn sống của mình. Đêm đến phân công nhau đi canh gác, gặt đem về xây dựng thành những kho dự trữ ở trong rừng sâu. Bà con sống trong các khu tập trung cũng tích cực giúp đỡ Cứu quốc quân. Chị em đi lấy củi, đi làm nương lân la trò chuyện với tụi lính đi kèm. Dần dần bọn này tin, để chị em đi vào rừng một mình. Thế là chị em bỏ thư vào gốc cây, hang đá là những trạm liên lạc bí mật với Cứu quốc quân. Qua đó, Cứu quốc quân biết được âm mưu của địch, của cải, thóc gạo của dân cất giấu, cứ việc đến đó lấy ăn. Ngoài lương thực, bà con còn mua diêm, thuốc men, giấy, mực... để bí mật chuyển cho Cứu quốc quân. Nhờ đó mà Cứu quốc quân có gạo ăn để chiến đấu, có thuốc dùng khi ốm đau, biết âm mưu của địch để đặt kế hoạch đối phó.

Hơn nửa năm tập trung binh lính và mật thám tiến công căn cứ Bắc Sơn —Võ Nhai, nhưng thực dân Pháp không tiêu diệt được Cứu quốc quân và dập tắt phong trào cách mạng ở đây. Bước sang năm 1942, thực dân Pháp dấn thêm một bước mới, hòng thực hiện cho kỳ được mục tiêu của cuộc khủng bố. Chúng huy động thêm lính Pháp, lính Âu — Phi, lính Tây Nguyên, lính khố xanh, mật thám để tiến công liên tục, hành quân càn quét sâu vào các khu rừng. Chúng đẩy mạnh việc bắt bớ, dồn làng, tập trung dân để triệt nguồn tiếp tế và liên lạc của Cứu quốc quân. Chúng đẩy mạnh chiến dịch tuyên truyền nói xấu cách mạng. Chúng đào mả tổ cán bộ và chiến sĩ Cứu quốc quân, đánh vào tín ngưỡng của đồng bào các dân tộc. Sau trận Cứu quốc quân quấy rối đồn Tràng Xá, thực dân Pháp ra yết thị, hễ bắn chết một người của nó thì chúng sẽ đem 4 người là thân nhân của Cứu quốc quân ở các trại tập trung ra xử bắn.

Tình hình lúc này trở nên rất căng thẳng. Thủ đoạn đàn áp và khủng bố của kẻ địch tàn khốc đến cực điểm. Nhân dân bị o ép gắt gao và bị kìm kẹp nặng nề trong các khu tập trung, đã bắt đầu có một số bà con hoang mang. Lương thực dự trữ của Cứu quốc quân đã gần cạn. Địch kéo dài cuộc khủng bố trong khi vụ làm mùa của nhân dân đã đến. Ở Bắc Sơn, Võ Nhai lúc này cũng chưa phát động được phong trào đấu tranh chính trị mạnh mẽ và liên tục của quần chúng. Phong trào ủng bộ Bắc Sơn, Võ Nhai của nhân dân cả nước do Trung ương Đảng phát động cũng chưa có điều kiện phát triển mạnh mẽ để hỗ trợ.

Đứng trước tình hình cấp bách đó, Ủy ban quân sự, chính trị Bắc Sơn, Võ Nhai quyết định tạm rút Cứu quốc quân ra khỏi căn cứ. Đồng chí Đào Văn Trường về xuôi báo cáo và xin chỉ thị Trung ương. Đại bộ phận lực lượng Cứu quốc quân rút xuống vùng đồng bào Dao ở Bù Cu, Đá Trắng (Đồng Hỷ) chờ lệnh. Tháng 2 năm 1943, đồng chí Đào Văn Trường trên đường về báo cáo Trung ương bị sa lưới địch. Thế là đường liên lạc với Trung ương bị tắc hoàn toàn. Ban chỉ huy Cứu quốc quân thấy rằng cần phải chủ động giải quyết khó khăn, thực hành «hóa chỉnh vi linh», đưa đại bộ phận lực lượng rút lên biên giới Việt — Trung, để lại căn cứ Bắc Sơn — Võ Nhai một số đồng chí bám sát cơ sở. Bộ phận ở Đại Từ, Định Hóa (Thái Nguyên) và Bắc Yên Thế, Hữu Lũng (Bắc Giang cũ) tiếp tục xây dựng và phát triển cơ sở quần chúng, để sau này mở rộng địa bàn hoạt động. Nhiệm vụ của bộ phận rút ra biên giới Việt — Trung là củng cố lực lượng, sắm vũ khí và xây dựng vùng Tràng Định, Thoát Lãng (Lạng Sơn) thành một bàn đạp mở đường trở về mở rộng căn cứ Bắc Sơn - Võ Nhai.

Công việc chuẩn bị rút khỏi căn cứ được tiến hành chu đáo và khẩn trương. Bộ phận thì chuẩn bị lương ăn. Số thì điều tra, trinh sát, tổ chức đường đi. Bộ phận thì lo ổn định tư tưởng nhân dân. Sau một tháng chuẩn bị, tháng 3 năm 1942, đại bộ phận lực lượng Cứu quốc quân do đồng chí Chu Văn Tấn chỉ huy, làm cuộc trường chinh lên biên giới Việt-Trung. Hơn mười ngày ròng rã, vượt qua các chòi canh, bốt gác, đồn lính của địch, bất chấp mọi khó khăn gian khổ, tin tưởng ngày trở về, Cứu quốc quân đã an toàn lên đến biên giới Việt-Trung.


Tiêu đề: Lịch sử Cứu quốc quân
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Tư, 2021, 03:09:42 pm
Thế là mọi cố gắng của thực dân Pháp trong gần một năm mở cuộc tiến công quy mô lớn và khốc liệt vào căn cứ Bắc Sơn — Võ Nhai đã hoàn toàn thất bại. Những mục tiêu chủ yếu của cuộc khủng bố của thực dân Pháp là bắt gọn Ban thường vụ Trung ương Đảng, tiêu diệt Cứu quốc quân và dập tắt phong trào cách mạng Bắc Sơn, Võ Nhai đều không thực hiện được. Trong suốt tám tháng (từ tháng 7 năm 1941 đến tháng 2 năm 1942) đấu tranh liên tục chống địch khủng bố trong những điều kiện vô cùng khó khăn bằng cuộc chiến đấu với chiến thuật du kích là chủ yếu, kết hợp với công tác binh vận và địch vận, đội Cứu quốc quân đã giành được thắng lợi to lớn. Tuy mới ra đời, lực lượng còn non trẻ, vũ khí thô sơ, nhưng có Đảng lãnh đạo, có nhân dân ủng hộ và che chở, nên Cứu quốc quân không bị kẻ địch tiêu diệt. Tám tháng đấu tranh du kích chống địch khủng bố, Cứu quốc quân đã giữ vững và bồi dưỡng lực lượng của mình về mọi mặt, tiêu hao lực lượng địch và bảo vệ được các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Đảng cũng như cơ sở cách mạng ở địa phương. Thắng lợi đó tạo mọi điều kiện cho bước phát triển mạnh mẽ trong những năm về sau. Cuộc đấu tranh chống địch khủng bố ở Bắc Sơn, Võ Nhai nói lên sức sống mãnh liệt của đường lối, chính sách của Đảng, nói lên đoàn kết dân tộc và đoàn kết quân dân là sức mạnh vô địch, nói lên khả năng tiềm tàng cách mạng lo lớn của đồng bào các dân tộc. Bản thân cuộc đấu tranh cùng những thắng lợi mà cuộc đấu tranh đó đã giành được là nguồn động viên và cổ vũ phong trào cách mạng toàn quốc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, lần đầu tiên cuộc chiến đấu du kích đã xuất hiện ở Bắc Sơn, Võ Nhai. Cầm khí giới chống phát-xít Pháp, Nhật «Đội quân du kích Bắc Sơn, Đình Cả đã thực tế ủng hộ Liên Xô kháng chiến»(1). Từ tám tháng đấu tranh du kích chống địch khủng bố ở căn cứ Bắc Sơn — Võ Nhai, Hội nghị Ban thường vụ Trung ương Đảng tháng 2 năm 1943 đã rút ra kết luận: «Ta muốn thắng:

a — Phải làm cho cuộc chiến tranh du kích sinh sôi nảy nở thành cuộc khởi nghĩa của nhân dân toàn xứ.

b — Phải luôn luôn tiến công quân địch và giữ thế chủ động.

c — Phải phối hợp với dân chúng quấy rối sau lưng địch không để cho chúng bao vây về kinh tế cũng như về quân sự»(2).

Tám tháng đấu tranh chống địch khủng bố ở Bắc Sơn — Võ Nhai có nhược điểm là chưa phát động và tổ chức được phong trào đấu tranh chính trị mạnh mẽ của quần chúng, việc trừ gian và diệt phản động đầu sỏ làm chưa nhanh, gọn. Song cuộc chiến đấu chống địch khủng bố của Cứu quốc quân đã nêu một tấm gương sáng ngời về tinh thần kiên cường, bất khuất, sẵn sàng hi sinh vì sự nghiệp cách mạng, luôn luôn chủ động, sáng tạo, tự lực cánh sinh, vượt mọi khó khăn, gian khổ để hoàn thành nhiệm vụ. Đó là phẩm chất cách mạng cao đẹp của Cứu quốc quân.

Cuộc đấu tranh chống địch khủng bố ở căn cứ Bắc Sơn — Võ Nhai cho ta thấy:

1 — Dưới ách thống trị của phát-xít Pháp, Nhật, Đảng ta hoàn toàn có thể dựa vào đồng bào các dân tộc ở miền rừng núi để phát động cuộc đấu tranh chính trị và vũ trang, tiến tới xây dựng căn cứ địa cách mạng.

2 — Muốn thắng kẻ địch có ưu thế hơn ta về số lượng và trang bị thì, lực lượng vũ trang cách mạng phải có tinh thần triệt để cách mạng, chiến đấu anh dũng, mưu trí và dẻo dai theo đường lối chính trị đúng đắn của Đảng; phải có phong trào đấu tranh chính trị, có cơ sở quần chúng rộng rãi và vững mạnh để hoạt động và phát triển lực lượng, để chi viện cho bộ đội vũ trang, để cung cấp lương thực, liên lạc đưa tin tức cho bộ đội vũ trang đánh địch; phải khéo kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, đánh địch với tuyên truyền và tổ chức quần chúng, trừ gian, diệt phản động đầu sỏ, làm công tác binh vận và địch vận, phân hóa cao độ kẻ địch, làm giảm sút ý chí của chúng.

3 — Quy luật của chiến đấu du kích là dựa vào dân, vừa đánh vừa củng cố và phát triển lực lượng, cách đánh phải linh hoạt, tập kích, phục kích, «tao ngộ chiến», binh vận, địch vận, cơ động biến hóa không cùng, khi tập trung, lúc phân tán, luôn luôn làm sinh sôi nảy nở, luôn luôn quấy rối, chủ động tiến công.

Đến khi mất mục tiêu khủng bố về quân sự, từ tháng 3 năm 1942, thực dân Pháp dần dần rút một phần lớn binh lính ra khỏi căn cứ Bắc Sơn —Võ Nhai. Chúng chỉ còn để lại một số lính cần thiết đóng trong các đồn bốt, và gài bọn mật thám tay sai ở các địa phương. Cuộc khủng bố của địch lắng dịu dần. Chúng tiến hành một chiến   tuyên truyền cho những «thắng lợi» hão huyền của chúng, nhằm phỉnh phờ và lừa gạt nhân dân. Ngoài những câu chuyện hoang đường như «cộng sản đã bị tiêu diệt, bị chết đói, chết khát ở trong rừng...», chúng còn giở giọng dụ dỗ nhân dân «từ đây sẽ được sống sung sướng dưới sự bảo hộ của chính phủ»(!). Song đồng bào các dân tộc Bắc Sơn, Võ Nhai không mắc lừa chúng, luôn luôn cảnh giác với địch, tin tưởng ở cách mạng, ở Cứu quốc quân. Các chiến sĩ Cứu quốc quân được phân công ở lại đã theo sát lãnh đạo nhân dân để duy trì và củng cố các cơ sở quần chúng. Các cuộc đấu tranh với những mục tiêu cụ thể: đòi tự do đi lại, họp chợ bình thường, đòi thả những người bị bắt giam, giải tán các khu tập trung dân, lại liên tiếp nổ ra. Đồng bào tập trung kéo lên đồn, nha, vào nhà lý trưởng, chánh tổng đấu tranh, đưa yêu sách. Có cuộc đấu tranh đã thu hút hàng trăm quần chúng các xã Lâu Thượng, Phú Thượng, Tràng Xá, La Hiên kéo lên tỉnh đấu tranh, buộc địch phải thả 71 người là bà con của Cứu quốc quân bị giam ở Chợ Chu (phủ Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên) và trại tập trung Đình Cả (Võ Nhai), trở về làng xóm làm ăn sinh sống.


(1) Văn kiện Đảng (1939—1945) Nhà xuất bản Sự Thật Hà Nội, 1963 — tr. 383
(2) Văn kiện Đảng (1939—1945) Nhà xuất bản Sự Thật Hà Nội, 1963 — tr. 383


Tiêu đề: Lịch sử Cứu quốc quân
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Tư, 2021, 03:34:53 pm
Đến cuối năm 1942, bộ phận Cứu quốc quân công tác ở bên hữu ngạn sông Cầu cũng đã thu được nhiều kết quả. Bắt mối liên lạc với cán bộ, đảng viên ở địa phương, dựa vào các cơ sở cũ, bộ phận này đã nhanh chóng xây dựng và phát triển các Hội cứu quốc ở Đại Từ, Phú Lương, Đồng Hỷ, Định Hóa (tỉnh Thái Nguyên), Sơn Dương, Yên Sơn (tỉnh Tuyên Quang), Nam Chợ Đồn (tỉnh Bắc Cạn cũ). Bộ phận Cứu quốc quân công tác ở Bắc Yên Thế, Hữu Lũng (tỉnh Bắc Giang cũ) cũng đã xây dựng được các Hội cứu quốc ở Mỏ Sắt, Canh Nậu, Đồng Vương. Cơ sở quần chúng mở rộng, đòi hỏi phải có thêm cán bộ để củng cố và phát triển kịp thời. Do đó, khoảng tháng 11 năm 1942, bộ phận ở lại trong nước đã cử cán bộ đi liên lạc với bộ phận chủ lực của Cứu quốc quân ở biên giới Việt — Trung. Đồng chí Phúc Quyền đi sang Bắc Sơn, Bình Gia xuống Hữu Lũng, Yên Thế để liên lạc với bộ phận Cứu quốc quân ở đây. Đồng chí Nhất Quí và đồng chí Phương Cương ra biên giới Việt — Trung để báo cáo với Ban chỉ huy Cứu quốc quân. Do đó Ban chỉ huy nắm được hoạt động của Cứu quốc quân ở trong nước.

Những kết quả trên đây của bộ phận ở lại tạo điều kiện rất thuận lợi để mở rộng địa bàn hoạt động của Cứu quốc quân một cách nhanh chóng và mạnh mẽ khi bộ phận ở biên giới trở về căn cứ. Kết quả đó cho thấy, đứng trước những thử thách gay go và quyết liệt, nếu ta biết dựa chắc vào quần chúng, phân tán lực lượng, bí mật mở rộng địa bàn hoạt động, tạo ra nhiều cơ sở để hỗ trợ lẫn nhau thì lực lượng vũ trang cách mạng không những không bị tiêu diệt, mà còn tạo ra được những nhân tố thuận lợi để xây dựng và phát triển lực lượng của mình về mọi mặt.

Bộ phận rút sang biên giới Việt — Trung được sự giúp đỡ của nhân dân và những đảng viên Đảng cộng sản Trung Quốc ở vùng Bó Cục, Bản Nhiếc, Hạ Đống... đã nhanh chóng chấn chỉnh tổ chức, ổn định sinh hoạt. Từng nhóm hai, ba người phân tán, dựa vào nhân dân địa phương, những gia đình có quan hệ họ bàng với anh em Cứu quốc quân để sống và công tác, cùng tham gia lao động sản xuất với bà con. Cứu quốc quân đã tích cực liên hệ với chính quyền địa phương của Tưởng Giới Thạch, cùng các chiến sĩ cách mạng Việt Nam ở đây như Bùi Ngọc Thành, Hồ Đức Thành, vận động thành lập cơ quan ngoại giao với chính quyền địa phương của Tưởng Giới Thạch. Với sách lược mềm dẻo và khôn khéo, đến cuối năm 1942, cơ quan «Biện sự xứ»(1) đã được thành lập tại Long Châu (Trung Quốc). Nhờ đó mà Cứu quốc quân có điều kiện thuận lợi đi lại, mua sắm vũ khí, học tập chính trị và huấn luyện quân sự, để sau này trở về nước mở rộng địa bàn hoạt động. Phát huy phẩm chất của một đội quân cách mạng, và với tinh thần quốc tế vô sản, bộ phận Cứu quốc quân ở biên giới Việt — Trung đã cùng với nhân dân địa phương tiễu phỉ, trừ gian, bảo vệ tính mệnh và tài sản của nhân dân. Do đó, được nhân dân địa phương tin yêu và tích cực giúp đỡ Cứu quốc quân, và đã thiết thực bồi đắp thêm tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước Trung -Việt.

Đến khoảng tháng 6 năm 1942, khi đã chấn chỉnh xong đội ngũ, Ban chỉ huy Cứu quốc quân liền cử các tổ công tác vào Tràng Định, Thoát Lãng, Văn Uyên (tỉnh Lạng Sơn) là các huyện kề sát biên giới Việt — Trung, để bắt liên lạc với các cơ sở cũ, phát triển thêm các cơ sở mới, xây dựng vùng này thành nơi có phong trào cách mạng phát triển, có cơ sở quần chúng rộng rãi, làm bàn đạp mở đường trở về trong nước mở rộng địa bàn hoạt động. Đồng thời sau đó, Ban chỉ huy Cứu quốc quân cũng đã cử cán bộ về liên lạc với bộ phận ở trong nước để nắm tình hình.

Đến cuối năm 1942, qua sự liên lạc giữa bộ phận ở trong nước và bộ phận ở biên giới Việt — Trung, Ban chỉ huy Cứu quốc quân thấy cần phải nhanh chóng đưa toàn bộ Cứu quốc quân ở biên giới Việt — Trung trở về trong nước hoạt động. Tháng 10 năm 1942, đơn vị đầu tiên của Cứu quốc quân rời biên giới Việt — Trung trở về căn cứ Bắc Sơn — Võ Nhai. Sang tháng 11 năm 1942, đơn vị thứ hai lên đường trở về căn cứ. Trên đường về, khi đi qua các địa phương thuộc Tràng Định, Thoát Lãng, Bình Gia (tỉnh Lạng Sơn), các đơn vị Cứu quốc quân đã tranh thủ củng cố các Hội cứu quốc, đồng thời phát triển thêm các cơ sở quần chúng, xây dựng thành mạng lưới liên lạc quần chúng vững chắc để bộ phận còn lại ở biên giới an toàn trở về căn cứ hoạt động.

Về đến xã Phú Thượng (châu Võ Nhai), đồng chí Lê Dục Tôn thay mặt Ban chỉ huy đã triệu tập một cuộc họp cán bộ của bộ phận mới về và bộ phận ở lại xây dựng cơ sở quần chúng. Cuộc họp được triệu lập để bàn kế hoạch công tác, phân công các tổ Cứu quốc quân về các địa phương. Cuộc họp đã quyết định nội dung công tác cấp bách của các tổ Cứu quốc quân là phát triển mạnh mẽ các Hội cứu quốc, giữ vững con đường liên lạc quần chúng với bộ phận còn lại ở biên giới Việt — Trung; khẩn trương bắt liên lạc với phong trào cách mạng ở trung du để tìm bắt liên lạc với Ban thường vụ Trung ương Đảng. Cuộc họp còn nhấn mạnh phải tích cực, khẩn trương tìm bắt liên lạc với Ban thường vụ Trung ương Đảng, vì đó là một công tác cần kíp để nắm vững chủ trương, đường lối cách mạng của Đảng.


(1) Tên gọi lúc đó là «Việt Nam dân tộc giải phóng đồng minh hội hải ngoại Đệ nhất Biện sự xứ» B-T


Tiêu đề: Lịch sử Cứu quốc quân
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Tư, 2021, 02:52:22 pm
IV — CỨU QUỐC QUÂN MỞ RỘNG ĐỊA BÀN HOẠT ĐỘNG,
TÍCH CỰC CHUẨN BỊ KHỞI NGHĨA GIÀNH CHÍNH QUYỀN

Bước sang năm 1043, tình hình thế giới và trong nước có những biến chuyển mau lẹ. Do đó, Ban thường vụ Trung ương Đảng đã họp hội nghị ở Võng La từ ngày 25 đến ngày 28 tháng 2 năm 1943. Hội nghị đã phản tích, đánh giá sâu sắc tình hình và nhận định rằng: «Phong trào cách mạng Đông Dương có thể bỗng chốc tiến lên bằng những bước nhảy cao»(1). Xuất phát từ nhận định đó, Hội nghị đã quyết nghị và vạch ra một kế hoạch toàn diện nhằm chuẩn bị đầy đủ về tinh thần và vật chất cho cuộc khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền sắp tới. Hội nghị đặc biệt nhấn mạnh công tác xây dựng căn cứ địa cách mạng ở nông thôn rừng núi, xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang cách mạng.

Dưới ánh sáng nghị quyết Hội nghị Ban thường vụ Trung ương Đảng (tháng 2 năm 1943), công cuộc chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền của Đảng và nhân dân ta được đưa lên một bước mới cả ở miền núi và miền xuôi, cả ở nông thôn và thành thị.

Cũng vào tháng 2 năm 1943, tại Lũng Hoài (Hòa An, Cao Bằng) đã có cuộc gặp gỡ giữa các đồng chí lãnh đạo căn cứ địa Cao Bằng với các đồng chí chỉ huy Cứu quốc quân. Cuối tháng giêng năm 1943, đồng chí Chu Văn Tấn cùng đồng chí Hà Khai Lạc vào Pác Bó để gặp Hồ Chủ tịch và liên lạc với Trung ương. Vào đến Pác Bó thì được biết Hồ Chủ tịch đã đi công tác xa. Đồng chí Lê Quảng Ba cho liên lạc đưa đồng chí Chu Văn Tấn đến Lũng Hoài (một thung lũng nhỏ trong dãy núi Lam Sơn) gặp các đồng chí Vũ Anh, Hoàng Văn Hoan, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp và Hoàng Văn Lã, là những đồng chí lãnh đạo căn cứ Cao Bằng. Tại đây, đã có cuộc họp trao đổi kinh nghiệm xây dựng lực lượng và đấu tranh chống địch khủng bố. Đồng thời, cuộc họp Lũng Hoài đã bàn bạc kế hoạch phối hợp mở thông con đường liên lạc «Nam tiến» theo chỉ thị của Hồ Chủ tịch, để nối liền hai trung tâm căn cứ với nhau, mở đường về xuôi kết hợp với phong trào cách mạng toàn quốc và liên lạc thường xuyên với Ban thường vụ Trung ương Bảng. Trong niềm phấn khởi và tin tưởng, cuộc họp Lũng Hoài đã quyết định:

1 — Giữ vững cơ sở vùng biên giới Việt-Trung, đánh thông đường từ đó về Bình Gia, Bắc Sơn, Võ Nhai.

2 — Xây dựng cơ sở mới ở Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, củng cố các cơ sở cũ, nối liền các đường liên lạc với nhau.

3 — Xúc tiến việc thành lập các đội xung phong Nam tiến do đồng chí Văn (tức đồng chí Võ Nguyên Giáp) trực tiếp chỉ huy. Cứu quốc quân sẽ cử một tiểu đội lên Cao Bằng để cùng các đội xung phong Nam tiến đánh thông đường về xuôi. Đồng thời Cứu quốc quân cũng sẽ mở bốn con đường lên đón các mũi Nam tiến từ Cao Bằng thọc xuống là:

a) Từ Tràng Định (Lạng Sơn) lên Đông Khê (Cao Bằng).

b) Từ Hội Hoan (Thoát Lãng) và Văn Mịch (Bình Gia) (tỉnh Lạng Sơn) lên Nà Rì (tỉnh Bắc Cạn).

c) Từ Võ Nhai qua Thượng Nung, Cúc Đường (Thái Nguyên) lên Nà Rì (Bắc Cạn).

d) Từ Bịnh Hỏa (Thái Nguyên) lên Chợ Đồn (Bắc Cạn).

4 — Tìm bắt liên lạc với Ban thường vụ Trung ương Đảng ở dưới xuôi(2).

Những quyết định của cuộc họp Lũng Hoài có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự hình thành khu căn cứ địa cách mạng ở Việt Bắc, vì nó phù hợp với nghị quyết về xây dựng căn cứ địa cách mạng của Hội nghị Ban thường vụ Trung ương Đảng tháng 2 năm 1943.

Trở về biên giới, đồng chí Chu Văn Tấn họp bộ phận Cứu quốc quân còn đang công tác ở đây để phổ biến và tổ chức thực hiện nghị quyết cuộc họp Lũng Hoài. Ngay sau đó, một tiểu đội gồm 7 đồng chí(1) đã được phái vào Cao Bằng phối hợp công tác với các đội xung phong Nam tiến cuối tháng 2 năm 1943, tiểu đội này đã vào tới Nguyên Bình (tỉnh Cao Bằng). Từ đầu tháng năm 1943, đại bộ phận Cứu quốc quân ở biên giới Việt — Trung đã trở về căn cứ an toàn, chỉ còn lại vài ba đồng chí ở lại cơ quan «Biện sự xứ». Trên đường trở về qua Tràng Định, Thoát Lãng, Bình Gia, các đồng chí chỉ huy Cứu quốc quân đã tranh thủ mở các lớp huấn luyện ngắn ngày cho các đội tự vệ, cán bộ và đảng viên. Nội dung các lớp huấn luyện đó là chương trình, điều lệ Việt Minh, phương pháp vận động và tổ chức quần chúng. Đồng thời, các đồng chí chỉ huy đã phân công các tổ Cứu quốc quân công tác ở Tràng Định, Thoát Lãng, xây dựng vùng này thành nơi có phong trào cách mạng vững mạnh.


(1) Văn kiện Đảng (1939—1945) Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội 1963 — tr. 385
(2) Xem Hồi ký Kỷ niệm Cứu quốc quân của đồng chí Chu Văn Tấn, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1971.
(3) Bảy đồng chí đó là các đồng chí Hoàng Thịnh, Vi Văn Từ, Lê Văn Hiền, Hà Khai Lạc, Bế Chấn Hưng, Thơ, Thức.


Tiêu đề: Lịch sử Cứu quốc quân
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Tư, 2021, 02:54:04 pm
Về đến căn cứ, Ban chỉ huy Cứu quốc quân liền phân công các tổ công tác của Cứu quốc quân tỏa về các địa phương củng cố và phát triển các Hội Cứu quốc, các đội tự vệ. Dựa vào những cơ sở cũ do cán bộ, đảng viên ở địa phương và do bộ phận ở lại xây dựng, các tổ công tác của Cứu quốc cùng phối hợp với cán bộ địa phương nhanh chóng phát triển phong trào Việt Minh, phong trào tự vệ thành làn sóng mạnh mẽ ở Đại Từ, Định Hóa, Phú Lương, Đồng Hỷ (Thái Nguyên), Sơn Dương, Yên Sơn (Tuyên Quang), Bắc Sơn, Bình Gia, Tràng Định, Thoát Lãng (Lạng Sơn), Bắc Yên Thế và Hữu Lũng (Bắc Giang cũ), Từ Sơn Dương, Yên Sơn, Cứu quốc quân đã bắt đầu gây dựng phong trào lên Chiêm Hóa (Tuyên Quang). Theo hướng Bắc tiến, lừ Định Hóa và Phú Lương, Cứu quốc quân đã mở rộng phong trào Việt Minh lên Nghĩa Tá, Chợ Đồn và Bạch Thông (Bắc Cạn). Vùng Đại Từ — Định Hóa — Sơn Dương… dần dần trở thành một trung tâm căn cứ mới của Cứu quốc quân.

Tại Bắc Sơn, Võ Nhai, nơi mà phong trào bị thực dân Pháp khủng bố khốc liệt cũng được Cứu quốc quân nhanh chóng khôi phục. Các Hội Cứu quốc ở các xã Chiêu Vũ, Hưng Vũ, Vũ Lăng, Vũ Lễ, Ngư Viễn, Trấn Yên, Quỳnh Sơn, Bắc Sơn... (châu Bắc Sơn) lại tích cực hoạt động. Phong trào Việt Minh ở châu Bắc Sơn bắt đầu có sự liên hệ khăng khít với phong trào Việt Minh ở Bình Gia. Ở Võ Nhai, phong trào Việt Minh cũng đã được Cứu quốc quân mở rộng thêm ra Phương Giao, Phương Bá, La Hiên, Làng Mười và sang Cây Thị (Đồng Hỷ). Các xã Lâu Thượng, Phú Thượng, Tràng Xá đã tổ chức được Ban chấp hành Việt Minh xã.

Đến cuối năm 1943, công tác Bắc tiến của Cứu quốc quân cũng đã thu được kết quả tốt đẹp. Từ Định Hóa (Thái Nguyên) Cứu quốc quân phát triển theo hai hướng lên Bắc Cạn để đón các mũi Nam tiến. Một hướng tiến lên Chợ Đồn, Chợ Rã. Một hướng liến dọc theo quốc lộ số 3 lên Bạch Thông. Từ Võ Nhai, Cứu quốc quân phát triển cơ sở quần chúng qua Thượng Nung, Cúc Đường, Nà Rì (Bắc Cạn). Từ Tràng Định (Lạng Sơn), Cứu quốc quân phát triển các Hội Cứu quốc lên Đông Khê (Cao Bằng). Tất cả các đội Bắc tiến của Cứu quốc quân đã vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, lặn lội tới các làng xóm hẻo lánh để xây dựng và phát triển các Hội Cứu quốc từ địa phương này đến địa phương khác. Tới cuối mùa hạ năm 1943, con đường Bắc tiến qua vùng cao, nơi cư trú của đồng bào Dao, đã phát triển tới vùng núi Phja Bjooc (hướng Định Hóa — Chợ Đồn) và vùng cao các xã Bác Ái, Khánh Long, Vĩnh Tiến (hướng Tràng Định — Đông Khê). Đồng thời cũng trên hai hướng đó, các đội xung phong Nam tiến cũng đã tiến xuống Nam Chợ Đồn và phía Nam Đông Khê. Khoảng trung tuần tháng 10 năm 1943, đội xung phong Nam tiến mang tên Trần Phú, do đồng chí Nông Văn Quang phụ trách, đã gặp đội Bắc tiến của Cứu quốc quân do đồng chí Hoàng Thượng phụ trách, tại Bản Bẳng (Nghĩa Tá, Chợ Đồn). Tiếp đó. tháng 11 năm 1943, mũi Nam tiến do đồng chí Nguyễn Bằng Giang phụ trách, cũng đã gặp mũi Bắc tiến của Cứu quốc quân do đồng chí Hà Khai Lạc phụ trách, ở Phi Mỹ (Tràng Định). Cũng vào tháng 11 năm 1943, đồng chí Chu Văn Tấn và đồng chí Võ Nguyên Giáp đã gặp nhau tại Khuổi Tà (Phúc Lâm, Yên Sơn, Tuyên Quang), bàn kế hoạch tổng kết đợt một và triển khai đợt hai công tác Nam tiến và Bắc tiến, nhằm củng cố và mở rộng con đường liên lạc quần chúng này. Để kỷ niệm việc nối liền hai trung tâm căn cứ với nhau, các đồng chí quyết định đổi tên xã Khuổi Tà, nơi hai đoàn cán bộ Nam tiến và Bắc tiến gặp nhau là xã Thắng Lợi. Thắng lợi của phong trào Nam tiến và Bắc tiến là một cái mốc đánh dấu một bước ngoặt của sự hình thành khu căn cứ địa Việt Bắc, tạo ra những nhân tố thuận lợi cho sự ra đời khu giải phóng sau ngày Nhật đảo chính Pháp.

Công tác bắt liên lạc với Ban thường vụ Trung ương Đảng cũng được Cứu quốc quân xúc tiến khẩn trương. Ban chỉ huy Cứu quốc quân tổ chức nhiều mạng lưới liên lạc qua cơ sở quần chúng, qua nhà tù đế quốc... theo nhiều hướng. Đến tháng 8 năm 1943, Cứu quốc quân đã bắt được liên lạc với Ban thường vụ Trung ương Đảng qua chi bộ Đảng ở «căng»(1) Bá Vân (Đồng Hỷ). Tiếp đó, tổ Cứu quốc quân công tác ở Yên Thế (Bắc Giang) qua cơ sở Việt Minh ở Đèo Ảnh, và tổ công tác của Cứu quốc quân ở Định Hóa, qua chi bộ Đảng ở nhà tù Chợ Chu, cũng đã bắt được liên lạc với Ban thường vụ Trung ương Đảng ở dưới xuôi. Từ đây sự liên lạc giữa Cứu quốc quân với Trung ương Đảng luôn luôn thông suốt. Đày là một kết quả to lớn và có ý nghĩa quan trọng đối với sự trưởng thành về mọi mặt của Cứu quốc quân. Việc bắt được liên lạc với Ban thường vụ Trung ương Đảng đã đem đến cho Cứu quốc quân thêm nguồn sinh lực dồi dào, làm cho những chỉ thị, nghị quyết của Đảng được chuyển tới Cứu quốc quân kịp thời và nhanh chóng. Đó là kết quả của tinh thần tích cực, chủ động, không ngại gian khổ, nguy hiểm, phấn đấu trong một thời gian dài (từ tháng 5 đến tháng 8 năm 1943) của Cứu quốc quân để bắt liên lạc với Trung ương.


(1) Căng (Camp) là trại tập trung tù chính trị của thực dân Pháp


Tiêu đề: Lịch sử Cứu quốc quân
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Tư, 2021, 02:57:14 pm
Sau khi nhận được báo cáo của Cứu quốc quân, Trung ương đã chỉ thị cho Cứu quốc quân là phải kết hợp chặt chẽ công tác chuẩn bị khởi nghĩa theo nghị quyết của Hội nghị Ban thường vụ Trung ương Đảng (tháng 2 năm 1943), với việc thực hiện nghị quyết của cuộc họp Lũng Hoài. Đến tháng 2 năm 1944 đồng chí Hoàng Quốc Việt lên chiến khu kiểm tra tình hình và chỉ đạo hoạt động của Cứu quốc quân. Sau khi nghe báo cáo và qua kiểm tra thực tế, đồng chí Hoàng Quốc Việt đã triệu tập một cuộc họp cán bộ tại Khuổi Kịch (Sơn Dương Tuyên Quang). Đồng chí Hoàng Quốc Việt đã trực tiếp truyền đạt nghị quyết Hội nghị Ban thường vụ Trung ương Đảng tháng 2 năm 1943. Đồng chí nói, Trung ương coi nghị quyết về công tác xây dựng căn cứ địa, củng cố và phát triển lực lượng vũ trang cách mạng là một công tác quan trọng và cần kíp lúc này của toàn Đảng.

Nhận thấy phong trào cách mạng trên địa bàn hoạt động của Cứu quốc quân (lúc này gọi là chiến khu Hoàng Hoa Thám) đã mở rộng, cuộc họp quyết định thành lập Đệ tam trung đội Cứu quốc quân để có đủ lực lượng nòng cốt kịp thời và phát triển phong trào cách mạng mạnh mẽ hơn nữa. Đồng thời, cuộc họp quyết định chia chiến khu Hoàng Hoa Thám thành hai phân khu, lấy Sông Cầu làm ranh giới, để việc chỉ đạo được kịp thời và sâu sát. Phân khu A gọi là phân khu Quang Trung, gồm Võ Nhai, Đồng Hỷ (phía tả ngạn sông Cầu) (Thái Nguyên), Bắc Sơn, Bình Gia, Tràng Định, Thoát Lãng (Lạng Sơn) Bắc Yên Thế và Hữu Lũng (Bắc Giang), là địa bàn hoạt động của Đệ nhị trung đội Cứu quốc quân. Phân khu B gọi là phân khu Nguyễn Huệ, gồm Đại Từ, Định Hóa, Phú Lương, Đồng Hỷ (phần hữu ngạn sông Cầu) (Thái Nguyên), Sơn Dương, Yên Sơn, Chiêm Hóa (Tuyên Quang), Nam Chợ Đồn (Bắc Cạn), là địa bàn hoạt động của Đệ tam trung đội Cứu quốc quân. Đồng chí Chu Văn Tấn là ủy viên ủy ban quân chính Bắc — kỳ được Trung ương chỉ định làm chỉ huy trưởng chiến khu Hoàng Hoa Thám.

Theo quyết định trên, ngày 25 tháng 2 năm 1944, lễ thành lập Đệ tam trung đội Cứu quốc quân đã được tổ chức trọng thể tại rừng Khuồỉ Kịch. Trung đội này gồm có số cán bộ và chiến sĩ của trung đội hai mở rộng địa bàn hoạt động sang đây; số cán bộ và đội viên đội xung phong Nam tiến mang tên Trần Phú do địch khủng bố, không liên lạc được với Ban xung phong Nam tiến, còn đang công tác ở vùng này; và những cán bộ, đội viên trung kiên của các đơn vị tự vệ ở Đại Từ, Định Hóa, Sơn Dương... Tất cả có khoảng 30 người, được tổ chức thành Đệ tam trung đội Cứu quốc quân. Ban chỉ huy Đệ tam trung đội Cứu quốc quân gồm đồng chí Triệu Khánh Phương, đồng chí Chu Phóng, đồng chí Phương Cương, do đồng chí Triệu Khánh Phương là một cán bộ dũng cảm, người Dao, làm trung đội trưởng. Tại buổi lễ thành lập, thay mặt Trung ương Đảng, đồng chí Hoàng Quốc Việt đã nói về tình hình và triển vọng của phong trào cách mạng nước ta phong trào cách mạng thế giới và những nhiệm vụ cần kíp của Đảng ta trong giai đoạn trước mắt. Đồng chí chỉ thị và động viên toàn thể cán bộ và chiến sĩ Đệ tam trung đội Cứu quốc quân hay phát huy truyền thống anh dũng của Đệ nhất và Đệ nhị trung đội Cứu quốc quân, ra sức củng cố và mở rộng địa bàn hoạt động, tích cực chuẩn bị về mọi mặt để tiến lên khởi nghĩa giành chính quyền. Buổi lễ tràn ngập trong bầu không khí hân hoan, phấn khởi, tin tưởng vào sự nghiệp cách mạng của Đảng. Khi đồng chí Hoàng Quốc Việt nói đến tin đồng chí Hoàng Văn Thụ, ủy viên Ban thường vụ trung ương Đảng, người đã đi sát, theo dõi và chăm sóc từng bước đi lên của Cứu quốc quân, bị đế quốc Pháp bắt và khí phách hiên ngang của anh, thì mọi người đều căm uất, nghẹn ngào. Tất cả đều chung một ý nghĩ sẽ noi gương anh, phấn đấu hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ cách mạng mà Đảng và nhân dân giao phó. Sau khi nói chuyện và giao nhiệm vụ, đồng chí Hoàng Quốc Việt đã trao lá cờ đỏ sao vàng cho Đệ tam trung đội cứu quốc quân.

Đệ tam trung đội Cứu quốc quân thành lập là một cái mốc đánh dấu sự phát triển của Cứu quốc quân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Từ một trung đội lúc mới thành lập và địa bàn hoạt động nhỏ hẹp, đến nay đội Cứu quốc quân đã phát triển thành hai trung đội với hàng trăm cán bộ, chiến sĩ, địa bàn hoạt động đã mở rộng thành chiến khu Hoàng Hoa Thám rộng lớn. Kết quả đó nói lên khẩu hiệu chuẩn bị để tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền của Đảng là hoàn hoàn đúng đắn, cấp thiết và đáp ứng đúng nguyện vọng của nhân dân ta. Đồng thời, kết quả đó còn nói lên, dựa vào quần chúng để mở rộng địa bàn hoạt động, tạo ra nhiều cơ sở hỗ trợ lẫn nhau là phương hướng đúng đắn để tiến lên xây dựng và phát triển lực lượng của Cứu quốc quân một cách nhanh chóng và mạnh mẽ.


Tiêu đề: Lịch sử Cứu quốc quân
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Tư, 2021, 03:00:18 pm
Thực hiện chỉ thị «Phải kịp củng cố Đảng về mọi phương diện»(1) của Hội nghị Ban thường vụ Trung ương (tháng 2 năm 1943), để đẩy mạnh các mặt công tác của Cứu quốc quân, công tác xây dựng Đảng trong đội Cứu quốc quân được chú ý. Các buổi sinh hoạt tổ Đảng, chi bộ tuy gặp rất nhiều khó khăn do hoạt động bí mật và phân tán, nhưng vẫn tổ chức thường xuyên để kịp thời rút kinh nghiệm công tác, tăng cường bồi dưỡng và giáo dục giác ngộ cách mạng cho cán bộ và đảng viên. Cho nên, sự giác ngộ về quyền lợi giai cấp và dân tộc, ý thức tổ chức và kỷ luật, lý tưởng cách mạng và tinh thần quốc tế vô sản... ngày càng được nâng cao. Đồng thời, các buổi học tập chỉ thị nghị quyết để nắm vững chủ trương, đường lối cách mạng, chính sách dân tộc của Đảng, cũng được chú ý tổ chức. Do đó, nội bộ luôn luôn đoàn kết, năng lực vận động và tổ chức quần chúng không ngừng được nâng cao, tinh thần và ý chí chiến đấu của Cứu quốc quân ngày càng sắc bén.

Quán triệt chỉ thị của Đảng về gấp rút chuẩn bị khởi nghĩa, các tổ công tác của Cứu quốc quân nhanh chóng được kiện toàn. Mỗi tổ công tác của Cứu quốc quân đều có tổ Đảng lãnh đạo. Việc liên lạc giữa các tổ công tác với Ban chỉ huy Cứu quốc quân và chiến khu cũng như giữa hai phân khu với nhau, đã được tổ chức thành mạng lưới gồm nhiều trạm, nhiều đường liên lạc. Các tổ công tác của Cứu quốc quân hòa mình trong phong trào quần chúng, thực hiện cùng ăn, cùng ở, cùng lao động sản xuất với bà con các dân tộc để củng cố và phát triển các Hội cứu quốc, các đội tự vệ. Những buổi triển lãm bằng tranh ảnh, tổ chức mít tinh diễn thuyết về tội ác của phát-xít Pháp, Nhật, về những tấm gương hi sinh dũng cảm của các chiến sĩ cách mạng, được Cứu quốc quân tổ chức ở nhiều địa phương, làm cho đồng bào các dân tộc căm thù địch sâu sắc và hăng hái thi đua ủng hộ cách mạng. Sau khi đã tập hợp được lực lượng, Cứu quốc quân liền tiến hành lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống phu, chống thuế, chống áp bức bóc lột, để tập dượt quần chúng đấu tranh, mở rộng sự tuyên truyền và tổ chức, xây dựng lực lượng cách mạng ngày càng vững mạnh. Kết quả, đến tháng 9 năm 1944, phong trào cách mạng trên cả hai phân khu của chiến khu Hoàng Hoa Thám đều phát triển mạnh. Địa bàn hoạt động của Cứu quốc quân được mở rộng xuống phía Nam châu Sơn Dương (Tuyên Quang) giáp Lập Thạch (Vĩnh Yên), lên Hàm Yên, Nà Hang (Tuyên Quang). Ban chấp hành Việt Minh các cấp được thành lập ở nhiều địa phương, chiếm được lòng tin của đông đảo đồng bào các dân tộc, làm chức năng như chính quyền cách mạng.

Công tác xây dựng và phát triển lực lượng tự vệ ở các địa phương cũng được Cứu quốc quân đấy mạnh. Đến cuối năm 1944, ở hầu hết các xã thuộc địa bàn hoạt động của Cứu quốc quân, đều đã tổ chức được các trung đội, tiểu đội tự vệ. Lực lượng tự vệ này cũng đã được Cứu quốc quân huấn luyện về chính trị và quân sự để làm giao thông liên lạc, bảo vệ cơ sở và cán bộ cách mạng, làm công tác tuyên truyền đường lối cách mạng của Đảng, trừng trị bọn tay sai phản động, tổ chức quần chúng vào các Hội cứu quốc. Đây là nguồn bổ sung lực lượng rộng lớn của Cứu quốc quân. Để có đầy đủ vũ khí chiến đấu, Cứu quốc quân đã phát động phong trào tự mua sắm sôi nổi trong các đơn vị tự vệ. Do đó, lò rèn sửa chữa vũ khí, rèn dao găm, mã tấu... xuất hiện ở nhiều địa phương. Phong trào này còn lôi cuốn đông đảo quần chúng tham gia. Đồng bào các dân tộc trong các Hội cứu quốc hăng hái góp tiền của để mua sắm vũ khí ủng hộ các đội tự vệ.

Cứu quốc quân cũng rất chú ý công tác vận động binh lính và tầng lớp lý dịch tay sai của thực dân Pháp. Các tổ công tác của Cứu quốc quân lấy đường lối, chính sách của Đảng, của Việt Minh để tuyên truyền, giác ngộ, lôi kéo họ về với cách mạng, cô lập cao độ bọn đầu sỏ. Kết quả đã có một số anh em binh lính đào ngũ trở về với gia đình hoặc tham gia cách mạng, một số tồng đoàn, xã, lý trưởng... ở Đại Từ, Định Hóa, Sơn Dương... không cộng tác với địch, có người còn đứng hẳn về phía nhân dân, tham gia các Hội cứu quốc.

Phong trào cách mạng phát triển mạnh, uy tín của Mặt trận Việt Minh ngày càng có ảnh hưởng sâu rộng trong quần chúng các dân tộc, làm cho các thế lực phản động càng điên cuồng. Chúng câu kết với bọn phỉ nhũng nhiễu nhân dân ta, đánh phá phong trào cách mạng. Với phương châm kiên quyết trừng trị bọn đầu sỏ, thuyết phục, lôi kéo những tên a tòng, công tác tiễu phỉ, trừ gian của Cứu quốc quân và các đội tự vệ đã thu được nhiều kết quả. Bọn phỉ cùng những tên phản động địa phương câu kết với nhau hoạt động ở vùng biên giới Việt-Trung, vùng núi tiếp giáp Thái Nguyên — Bắc Giang, Lạng Sơn — Bắc Tuyên Quang — Vĩnh Yên... đã bị tan rã trước sức mạnh chiến đấu của Cứu quốc quân và lực lượng tự vệ. Cuộc đấu tranh này có lúc, có nơi diễn ra rất gay go, quyết liệt như ở vùng Nam châu Sơn Dương, Chiêm Hóa, Hàm Yên (Tuyên Quang). Lập Thạch (Vĩnh Yên). Song dù có gian ngoan, quỷ quyệt đến đâu, chúng cũng đã bị thất bại. Tính mệnh và tài sản của nhân dân cung như cơ sở cách mạng ở những nơi đó được bảo vệ an toàn.


(1) Văn kiện Đảng (1939—1945) Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội, 1963, tr. 400


Tiêu đề: Lịch sử Cứu quốc quân
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Tư, 2021, 03:01:55 pm
Con đường liên lạc Nam tiến và Bắc tiến bị gián đoạn do địch khủng bố mạnh ở Cao Bằng, Bắc Cạn, được Cứu quốc quân cũng như Ban xung phong Nam tiến khẩn trương tổ chức lại. Với phương châm: phát triển đi liền với củng cố, các đội Bắc tiến của Cứu quốc quân dựa chắc vào các cơ sở cũ để phát triển thêm nhiều cơ sở mới, tạo thành một mạng lưới giao thông liên lạc rộng lớn và vững chắc từ địa phương này sang địa phương khác. Đến tháng 9 năm 1944, việc liên lạc với căn cứ Cao Bằng đã được nối lại ở Tràng Định — Đông Khê. Đến tháng 11 năm 1944 thì được nối lại ở hướng Định Hóa — Chợ Đồn. Đồng thời, mạng lưới giao thông liên lạc giữa các địa phương trong chiến khu Hoàng Hoa Thám cũng đuợc củng cố và mở rộng.

Chiến khu Hoàng Hoa Thám đã mở rộng, đòi hỏi phải được tăng cường thêm cán bộ để củng cổ kịp thời. Bồng thời, chuyến biến của tỉnh hình ngày càng dồn dập. Do đó, Trung ương chỉ thị cho Cứu quốc quân tổ chức vượt ngục, đưa các đồng chí cán bộ, đảng viên bị địch cầm tù trong các trại giam ở Thái Nguyên ra chiến khu hoạt động. Đây là một nhiệm vụ nặng nề và khó khăn. Nhưng với tinh thần chấp hành triệt để chỉ thị Trung ương, với lòng dũng cảm và mưu trí, đến ngày 11 tháng 10 năm 1944, Cứu quốc quân đã tổ chức cuộc vượt ngục thành công, đưa 12 đồng chí cán bộ, đảng viên bị địch giam cầm ở trại giam Chợ Chu (Định Hóa) ra ngoài tham gia Cứu quốc quân(1). Đồng chí Song Hào được Trung ương chỉ định cùng đồng chí Chu Văn Tấn lãnh đạo chiến khu Hoàng Hoa Thám, phụ trách phân khu B. Trước đó, đêm 21 rạng 22 tháng 8 năm 1944, Ban cán sự an toàn khu dự bị (Hiệp Hòa — Phú Bình — Phổ Yên) của Trung ương, đã tổ chức thành công cuộc vượt ngục, đưa 8 đồng chí ở «căng» Bá Vân (Đồng Hỷ) ra chiến khu hoạt động.

Chấp hành chỉ thị «Sửa soạn khởi nghĩa» ra ngày 7 tháng 5 năm 1944 của Tổng bộ Việt Minh, và lời kêu gọi «Sắm vũ khí đuổi thù chung» ra ngày 10 tháng 8 năm 1944 của Trung ương Đảng, sau khi được tăng cường thêm cán bộ, Ban chỉ huy Cứu quốc quân quyết định phân công, và giao nhiệm vụ cụ thể cho các tổ công tác của Cứu quốc quân ở các địa phương, đẩy mạnh công tác chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền.

Ở phân khu B, các tổ công tác được phân công công tác ở các vùng sau đây:

a) Vùng Định Hóa, Chợ Đồn do một đơn vị phụ trách, có nhiệm vụ phát triển phong trào lên Bắc Chợ Đồn, Chợ Rã, giữ vững con đường liên lạc quần chúng với căn cứ Cao Bằng — Bắc Cạn.

b) Đơn vị Cứu quốc quân công tác ở Sơn Dương có nhiệm vụ phát triển cơ sở quần chúng ra xung quanh thị xã Tuyên Quang, xuống phía Nam Sơn Dương (Tuyên Quang), Lập Thạch (Vĩnh Yên), Phù Ninh, Đoan Hùng (Phú Thọ).

c) Đơn vị Cứu quốc quân công tác ở Đại Từ có nhiệm vụ mở rộng cơ sở quần chúng xuống Nam Đồng Hỷ, Phổ Yên.

d) Đơn vị Cứu quốc quân công tác ở khu vực Yên Sơn, Chiêm Hóa, thì phát triển phong trào cách mạng lên Hàm Yên, Nà Hang (Tuyên Quang).

e) Đơn vị Cứu quốc quân công tác ở Phú Lương có nhiệm vụ phát triển cơ sở quần chúng theo dọc quốc lộ số 3 lên Chợ Mới, Bạch Thông (Bắc Cạn), đồng thời củng cố con đường liên lạc sang Võ Nhai với phân khu A.

g) Một đơn vị Cứu quốc quân hoạt động chủ yếu ở trung tâm Sơn Dương, bảo vệ cơ quan bí mật, kho lương thực, làm báo, in truyền đơn, sửa chữa vũ khí.

Kết quả, đến đầu năm 1945, phong trào cách mạng trên phân khu B đã phát triển mạnh. Cơ sở Việt Minh ở Sơn Dương, Yên Sơn, Chiêm Hóa, Nà Yên (Tuyên Quang) Chợ Đồn, Chợ Mới (Bắc Cạn), Đại Từ, Định Hóa, Phú Lương, Đồng Hỷ (Thái Nguyên) đã được Cứu quốc quân phát triển và củng cố sâu rộng. Các Hội cứu quốc ở trong và vùng xung quanh thị xã Tuyên Quang ngày càng đông đảo hội viên. Một vùng rộng lớn từ Đồn Cóc (Sơn Dương) lên vùng Cây Si, Cây Duối, Nà Phù, dọc theo quốc lộ số 2 từ cày số 31 đi Hà Giang lên đến Thanh Mai, Cánh Vân, Đào Lâm (Hàm Yên), từ Yên Linh lên giáp giới địa phận Hà Giang, đều đã trở thành địa bàn hoạt động thuận lợi của Cứu quốc quân, ở đó đông đảo đồng bào các dân tộc Tày, Nùng, Dao, Kinh, Cao Lan... đã hăng hái tham gia các đoàn thể cứu quốc, tích cực ủng hộ và giúp đỡ Cứu quốc quân. Phong trào Việt Minh ở phân khu B đang được Cứu quốc quân phát triển mạnh theo hướng Bắc và Tây-Bắc. Ở hướng Nam qua phân khu B, Cứu quốc quân cũng đã mở rộng địa bàn hoạt động xuống giáp vùng trung du. Tháng 3 năm 1945, đơn vị cứu quốc quân do đồng chí Lê Dục Tôn chỉ huy hoạt động ở Nam Sơn Dương, đã bắt được liên lạc với đơn vị công tác võ trang tuyên truyền của Trung ương do đồng chí Hoàng Bắc Dũng phụ trách, từ Vĩnh Yên phát triển lên Thiện Kế. Hai bèn cùng phối hợp công tác, đẩy mạnh xây dựng cơ sở Việt Minh ở Tam Dương, Lập Thạch (Vĩnh Yên).


(1) Đó là các đồng chí: Song Hào, Lê Hiến Mai, Tạ Xuân Thu, Lê Trung Đình, đồng chí Chì, đồng chí Phong, đồng chí Nhị Quý, đồng chí Kháng, đồng chí Môn, đồng chí Sơn, đồng chí Chu Nhữ, đồng chí Tùng.


Tiêu đề: Lịch sử Cứu quốc quân
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Tư, 2021, 03:02:50 pm
Ở phân khu A, Đệ nhị trung đội Cứu quốc quân cũng chia thành nhiều tổ công tác, đẩy mạnh việc xây dựng và củng cố các Hội cứu quốc và các đội tự vệ ở các địa phương. Do đó, Mặt trận Việt Minh ở các huyện Tràng Định, Thoát Lãng, Bình Gia, Bắc Sơn (Lạng Sơn) Võ Nhai, Đồng Hỷ (Thái Nguyên), Bắc Yên Thế và Hữu Lũng (Bắc Giang) đã tập hợp được đông đảo đồng bào các dân tộc Tày, Nùng, Dao, Kinh... Các đội tự vệ ở đó cũng ngày càng phát triển. Đặc biệt, phong trào cách mạng ở Bắc Sơn, Võ Nhai đã vượt qua những khó khăn sau thời kỳ địch khủng bố, nay lại phát triển mạnh.

Ở Bắc Sơn, phong trào Việt Minh phát triển rộng, đặc biệt sôi nổi là các xã Hưng Vũ, Chiêu Vũ, Bắc Sơn... Từ giữa năm 1944, Cứu quốc quân đã liên tục tổ chức các lớp huấn luyện tự vệ ở Búp Húi (Hưng Vũ), Lân Hoài, Lân Lắc (Bắc Sơn), Lân Khinh, Lân Nghiến (Chiêu Vũ). Các đội viên tự vệ được học về các khoa học quân sự như bắn súng, ném lựu đạn, đâm lê, chiến thuật du kích. Đồng thời còn được học cả về phương pháp hoạt động và tổ chức quần chúng, làm công tác binh vận.

Ở Võ Nhai, các Hội cứu quốc và các đội tự vệ cũng được củng cố và phát triển nhanh chóng. Bên cạnh việc đẩy mạnh công tác tổ chức quần chúng, Cứu quốc quân còn chú ý công tác học tập chính trị và huấn luyện quân sự. Đặc biệt phong trào học văn hóa rất sôi nổi. Phong trào đã thu hút nhiều người theo học, nhất là nam, nữ thanh niên, góp phần thúc đẩy phong trào cách mạng phát triển sâu rộng. Đến giữa năm 1944, ở các xã Lâu Thượng, Phú Thượng, Tràng Xá... lực lượng tự vệ đã được Cứu quốc quân huấn luyện về nhiệm vụ của đội tự vệ và những động tác quân sự cơ bản. Phong trào tự sắm, tự trang bị vũ khí sôi nổi đã bảo đảm mỗi đội viên có một vũ khí chiến đấu. Các cuộc mít tinh kỷ niệm khởi nghĩa Bắc Sơn, khởi nghĩa Nam-kỳ, xô-viết Nghệ — Tĩnh, Quốc tế lao động, Cách mạng tháng Mười Nga... được tổ chức gần như công khai, đã có sức cổ vũ mạnh mẽ phong trào cách mạng phát triển.

Cùng với công tác củng cố và phát triển phong trào cách mạng, các tổ công tác của Cứu quốc quân ở phân khu A còn chú ý công tác bảo đảm giao thông liên lạc giữa các địa phương. Đường liên lạc và trạm giao thông giữa các địa phương trong Phân khu, con đường liên lạc Bắc tiến lên Đông Khê với căn cứ Cao Bằng, xuống Phú Bình, Phổ Yên và sang phân khu B, được Cứu quốc quân phát triển thành mạng lưới gồm nhiều trạm, nhiều đường để việc giao thông liên lạc luôn luôn thông suốt giúp cho lãnh đạo nắm chắc được tình hình ở các địa phương.

Những hoạt động tích cực của Cứu quốc quân ở phân khu A đã thu được nhiều kết quả tốt đẹp Phong trào cách mạng ở Làng Mười, Tràng Xá, Lâu Thượng, Phú Thượng (Võ Nhai) và Cây Thị (Đồng Hỷ) xuống Bắc Yên Thế và Hữu Lũng có sự liên hệ chặt chẽ với nhau. Tổ công tác của Cứu quốc quân ở vùng Tràng Định — Bình Gia đã phát triển phong trào Việt Minh ở Hội Hoan (Thoát Lãng), Văn Mịch (Bình Gia), và lên vùng cao các xã Chi Lăng, Bác Ái, Vĩnh Tiến, Khánh Long (Tràng Định).

Tổ công tác của Cứu quốc quân ở Nà Hình, Hội Hoan còn tiến hành tiễu phỉ bảo vệ tính mệnh và tài sản của nhân dân. Ở Bắc Yên Thế và Hữu Lũng tổ công tác của Cứu quốc quân đã mở rộng phong trào Việt Minh ở vùng Mỏ Sắt, Canh Nậu, Đồng Vương, Khuôn Đổng, Khuôn Cát.

Nhìn chung đến đầu năm 1945, phong trào cách mạng trên cả hai phân khu A và B đã phát triển khá rầm rộ. Kết quả đó đã mở rộng thêm địa bàn hoạt động của Cứu quốc quân. Đồng thời, phong trào cách mạng ở chiến khu Hoàng Hoa Thám cũng bộc lộ một số nhược điểm. Phong trào cách mạng phát triển nhanh, rộng, nhưng việc củng cố không kịp thời và toàn diện. Việc đào tạo cán bộ các cấp, bồi dưỡng và phát triển đội ngũ đảng viên mới làm còn ít, không đáp ứng kịp thời sự đòi hỏi của phong trào cách mạng. Công tác giữ gìn bí mật không triệt để. Nhiều địa phương tổ chức mít tinh, tập luyện tự vệ gần như công khai. Phong trào ở các vùng phát triển không đồng đều, Khi gặp địch khủng bố, phong trào khó khăn, thì thiếu cán bộ vững vàng lãnh đạo. Những nhược điểm đó đã có ảnh hưởng nhất định tới sự phát triển của phong trào cách mạng.

Ngày 16 tháng 9 năm 1944, kẻ địch bắt được đồng chí cán bộ lãnh đạo phân khu A Hà Châu (Phú Bình, Thái Nguyên). Đến ngày 11 tháng 10 năm 1944, ta tiêu diệt tên đội khố xanh gian ác ở Phú Bình. Thời gian này ở Võ Nhai tổ chức các cuộc mít tinh kỷ niệm một cách công khai. Do những sự kiện nói trên, thực dân Pháp biết được những hoạt động của Cứu quốc quân. Cho nên, bắt đầu từ cuối tháng 10 năm 1944, một lần nữa, thực dân Pháp lại mở một cuộc khủng bố quy mô lớn vào Võ Nhai.

Từ Phú Bình, địch dắt dây khủng bố lên Cây Thị (Đồng Hỷ) Làng Mười, Tràng Xá (Võ Nhai). Ngày 5 tháng 11 năm 1944, địch bắt toàn bộ Ban chấp hành Việt Minh xã Tràng Xá. Từ Tràng Xá, kẻ địch khủng bố lan rộng ra các xã Lâu Thượng, Phú Thượng. Lúc này lúa ngoài đồng đang chín rộ, nhân dân mới chỉ gặt được quá nửa. Địch không bắt được người ban đêm, chúng đi bắt ban ngày. Những cán bộ cơ sở phải chạy vào rừng hoạt động bí mật, tham gia Cứu quốc quân. Cũng đã có một số gia đình chạy vào rừng sâu tránh địch khủng bố. Tình hình rất căng thẳng.


Tiêu đề: Lịch sử Cứu quốc quân
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Tư, 2021, 03:08:41 pm
Đứng trước cuộc khủng bố lan tràn của địch, các đồng chí lãnh đạo phân khu A đã họp liên tiếp để tìm cách chống địch khủng bố. Ngày 6 tháng 11, các đồng chí lãnh đạo họp ở Ma Hin (Phú Thượng). Ngày 10 tháng 11 lại họp ở Đồng Mỏ (Phú Thượng). Ngày tháng 11 lại họp ở Chùa Đon (Phủ Thượng). Tại cuộc họp ở Nghè Đồng Mỏ ngày 10 tháng 11 năm 1944, các đồng chí lãnh đạo phân khu A đã nhất trí quyết định:

a) Cho tự vệ chiến đấu và những thanh niên trung kiên thoát ly vào rừng tham gia Cứu quốc quân.

b) Triệt để trừng trị những tên tay sai đắc lực của thực dân Pháp.

c) Cất giấu lương thực lên núi, vào hang để chuẩn bị chiến đấu.

d) Đấu tranh vũ trang chống khủng thành lập các ban chuyên môn như ban ám sát, ban phá hoại, ban trinh sát, ban vườn không nhà trống... làm các nhiệm vụ diệt mật thám tay sai đầu sỏ, phá cầu, đắp ụ cản giao thông, đánh địch hành quân đi càn quét.

Sang cuộc họp ngày 12 tháng 11 năm 1944 ở Chùa Đon, các đồng chí lãnh đạo phân khu A lại nhất trí quyết định thêm là, thực hiện vườn không nhà trống triệt để, đưa nhân dân lên hang núi, tiến đánh Đình Cả, Tràng Xá, La Hiên. Cuộc họp còn quyết định chỉ thị cho Cứu quốc quân ở Bắc Sơn phối hợp, phá cầu, chặn đường tiến công của địch từ Lạng Sơn kéo vào Bắc Sơn xuống Võ Nhai.

Đầy lòng căm thù giặc Pháp, lại có kinh nghiệm đánh du kích trong tám tháng chống khủng bố trước đây, Cứu quốc quân, tự vệ cùng đồng bào các dân tộc đã nhiệt tình hưởng ứng quyết định của ban lãnh đạo phân khu A. Ngày 8 tháng 11 Cứu quốc quân tiêu diệt phó tổng Tý, tổng đoàn Thiện. Ngày 11 tháng 11, Cứu quốc quân phá cầu Trúc Mai (ở cây số 25, trên đường Thái Nguyên đi Đình cả) cắt đứt liên lạc của địch từ Thái Nguyên đi Đình Cả. Sáu lần địch cho liên lạc về Thái Nguyên để xin chi viện đều bị ta bắt. Liên tiếp sau đó, Cứu quốc quân cùng tự vệ đánh đồn Quang Thái, đồn Đình Cả, tịch thu súng dõng, bắt 10 tên mật thám ở Lâu Thượng. Quân địch vô cùng tức tối. Một mặt chúng tích cực sửa chữa ngay cầu đường. Mặt khác, chúng tăng binh lính đi đàn áp lên tới hàng nghìn tên, gồm lính lê dương, lính khố đỏ, có cả máy bay và sơn pháo, từ ba mặt Thái Nguyên, Bắc Giang, Lạng Sơn hùng hổ tiến vào Võ Nhai. Chúng đến đâu thì nhà cửa, ruộng vườn bị đốt phá tới đó, nhất là ở dọc con đường Thái Nguyên lên Đình Cả. Tình cảnh rất tàn khốc. Đồng bào phải bồng bế con cái lên hang núi. Theo quyết định của cuộc họp Chùa Đon, đồng bào các dân tộc ở Lâu Thượng, Phú Thượng, Tràng Xá cùng ban phá hoại đã tự tay đốt nhà, kéo vào sống ở Lân Hang, Lân Cùng, Mỏ Gà, Cây Hồng. Đêm ngày 12 tháng 11, thực dân Pháp cho khoảng 700 tên lính khố đỏ, tiến từ Thái Nguyên lên Võ Nhai, vừa hành quân vừa sửa chữa cầu đường, để tiếp sức cho đồn Tràng Xá đang bị Cứu quốc quân và tự vệ bao vây. Ngày 13 tháng 11, đơn vị Cứu quốc quân phục kích ở gốc đa La Hóa bắn chết 10 tên và thu vũ khí. Ngày 15 tháng 11 tên quan một đồn Đình Cả đi về Thái Nguyên xin chi viện, bị Cứu quốc quân chặn đánh. Y hoảng hốt bỏ ô tô chạy trốn. Ta cướp được ô-tô đem đốt. Ngày 17 tháng 11, thực dân Pháp lại cho khoảng 300 tên lính từ Thái Nguyên tiến lên Võ Nhai, có cả máy bay yểm trợ. Lực lượng của ta chỉ có 20 Cứu quốc quân với 15 khẩu súng trường, đã anh dũng chặn địch ở dốc Đất Đỏ. Ta diệt được một số tên địch, thu 3 khẩu súng. Sau đó, Cứu quốc quân rút về Làng Hang (Lâu Thượng) an toàn. Ngày 18 tháng 11, tên tuần Phủ Thái Nguyên Cung Đình Vận đi lên Đình Cả xem xét tình hình, bị Cứu quốc quân phục kích bắn bị thương.

Sang cuối tháng 11, thực dân Pháp tiếp tục tăng cường cuộc khủng bố. Ngày 26 tháng 11, địch tiến vào Làng Hang, bắt 120 dân sơ tán ở đây về trại tập trung Hang Bụt (La Hiên). Ngày 27 tháng 11, thực dân Pháp lại huy động một lực lượng khá lớn binh lính từ ba mặt Lạng Sơn, Bắc Giang, Thái Nguyên tiến vào Võ Nhai. Chúng tiến công lên hàng Mỏ Gà, nơi có hàng nghìn quần chúng sơ tán vào đấy. Cứu quốc quân cùng tự vệ đã anh dũng chiến đấu chặn địch, bảo vệ dân. Sau hai ngày tiến công, quân địch mới tiến lên hang được, nhưng chúng đã bị thất bại. Chúng chỉ bắt được một số người già yếu, còn phần lớn đồng bào đã an toàn rút sang Đồng Toong, Làng Phật. Ngày 20 tháng 11 năm 1944, quân địch lại tiến vào Lân Han (xã Lâu Thượng). Lần này, chúng huy động cả lính Âu — Phi. Đêm đến, lợi dụng trời tối, Cứu quốc quân cùng bà con sơ tán ở đây đã bí mật rút sang đập Cây Hồng.

Sau gần một tháng đấu tranh chống địch khủng bố bằng cuộc đấu tranh vũ trang đánh đồn, phục kích địch hành quân, chặn địch tiến công, phá cầu đường, cắt giao thông, diệt mật thám tay sai, bảo vệ nhân dân, lực lượng Cứu quốc quân vừa phát triển, vừa thu được những thắng lợi nhất định. Nhưng cuộc đấu tranh đó cũng ngày càng gặp nhiều khó khăn. Nhân dân một số bị kìm kẹp trong các trại tập trung, đời sống rất cực khổ, một số phải ẩn náu ở trong rừng sâu, trong hang đá. Cứu quốc quân vừa lo chiến đấu, lại vừa lo bảo vệ dân. Trong khi đó đường liên với các nơi bị cắt đứt, Cứu quốc quân phải chiến đấu cô độc trong vòng vây của địch. Ban chỉ huy chiến khu Hoàng Hoa Thám khi nhận được báo cáo đã trực tiếp sang, nhưng mấy lần đi đều không lọt, liền báo cáo với Trung ương và Xứ ủy. Bắt được thư của Ban chỉ huy chiến khu Hoàng Hoa Thám, Trung ương Đảng đã cử đồng chí Ngô Thế Sơn là ủy viên thường trực Ủy ban quân chính Bắc-kỳ theo đường giao thông quân sự lên Võ Nhai, để truyền đạt chỉ thị ngừng tiếng súng của Trung ương Đảng. Ngày 7 tháng 12 năm 1944, đồng chí Ngô Thế Sơn đã triệu tập cuộc họp các đồng chí lãnh đạo phân khu A bàn kế hoạch thực hiện chỉ thị của Trung ương Đảng, ngừng tiếng súng, chuyển sang đấu tranh chống địch khủng bố bằng những hình thức thông thường, đưa dân trở về làng cũ làm ăn sinh sống.

Ban thường vụ Trung ương Đảng đã biểu dương tinh thần bất khuất của Cứu quốc quân và đồng bào các dân tộc Võ Nhai. Đồng thời, Ban thường vụ Trung ương cũng đã nghiêm khắc phê phán chủ trương chống địch khủng bố của các đồng chí lãnh đạo phân khu A, coi đó là hành động tiểu tư sản, bộc lộ lực lượng quá sớm. Trong bài «Chúng ta học tập được những gì trong cuộc đấu tranh võ trang ở Thái Nguyên», đồng chí Trường Chinh — Tổng bí thư của Đảng, đã nêu ba ưu điểm, hai khuyết điểm và viết: «Các đồng chí Võ Nhai coi thường bạo động. Đáng lẽ chỉ vận động quần chúng đấu tranh chống dồn làng và bắt người, chống khủng bố theo những hình thức thông thường, thì các đồng chí ấy đã căn cứ vào một hai tin không chắc chắn... mà phát động du kích một cách cô độc. Các đồng chí Võ Nhai tưởng có thể tiến thẳng lên khởi nghĩa, nên đã hạ lệnh cho quần chúng thực hành «đồng không, nhà vắng» đến triệt để, đưa một số dân chúng không thể chiến đấu lên núi và do đó tự đeo thêm quả tạ vào chân bộ đội du kích»(1).

Chấp hành chỉ thị của Trung ương Đảng, các đồng chí lãnh đạo phân khu A đã nhanh chóng lãnh đạo Cứu quốc quân và quần chúng chuyển hướng đấu tranh. Cứu quốc quân ở Võ Nhai được phân chia thành hai bộ phận. Một bộ phận chuyển sang phân khu B công tác. Đại bộ phận lực lượng Cứu quốc quân chuyển xuống vùng Bắc Yên Thế và Hữu Lũng (Bắc Giang cũ) để củng cố. Còn bộ phận ở Võ Nhai thì chia thành các tổ công tác ở Phú Thượng, Lâu Thượng, Tràng Xá, La Hiên lãnh đạo nhân dân chống bắt người, cướp của, tổ chức đưa dân chúng trở về làng cũ làm ăn.

Bộ phận rút xuống Bắc Yên Thế và Hữu Lững gặp nhiều khó khăn, các đồng chí lãnh đạo cử liên lạc đi báo cáo Ban lãnh đạo chiến khu và Ban thường vụ Trung ương Đảng, xin tạm rút lên biên giới Việt — Trung. Khi cán bộ liên lạc về tới Phú Bình thì nhận được chỉ thị «Nhật, Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta!» của Ban thường vụ Trung ương Đảng, liền quay về báo cáo với các đồng chí lãnh đạo phân khu A.

Do Trung ương Đảng kịp thời chỉ thị uốn nắn, cho nên cơ sở cách mạng ở Võ Nhai vẫn được giữ vững. Kết quả đó tạo điều kiện rất thuận lợi cho cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Võ Nhai. Sau ngày Nhật đảo chính lật đổ Pháp, Võ Nhai là một châu giành được chính quyền tương đối sớm của tỉnh Thái Nguyên.


(1) Cờ giải phóng, Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội, 1956, tr 116


Tiêu đề: Lịch sử Cứu quốc quân
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Tư, 2021, 03:10:00 pm
V — CỨU QUỐC QUÂN KHỞI NGHĨA GIÀNH CHÍNH QUYỀN VÀ
THỐNG NHẤT VỚI ĐỘI VIỆT NAM TUYÊN TRUYỀN GIẢI PHÓNG QUÂN
THÀNH VIỆT NAM GIẢI PHÓNG QUÂN

Đúng như dự đoán của Trung ương Bảng, đêm mồng 9 tháng 3 năm 1945, phát-xít Nhật nổ súng lật đổ Pháp cùng một lúc trên toàn cõi Đông Đương Cuộc đảo chính đã kết thúc nhanh chóng bằng sự sụp đổ thảm hại của chính quyền thực dân Pháp. Cuộc đảo chính lật đổ Pháp độc chiếm lấy Đông Dương của phát-xít Nhật là thời cơ thuận lợi để Đảng ta phát động cao trào chống Nhật, cứu nước tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền.

Bắt mạch được tình hình Nhật chuẩn bị lật đổ Pháp, ngày 9 tháng 3 năm 1945, Ban thường vụ Trung ương Đảng đã họp hội nghị mở rộng ở Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh). Trong khi đang họp thì cuộc đảo chính Nhật, Pháp đã nổ ra. Hội nghị chủ trương đem khẩu hiệu «đánh đuổi phát-xít Nhật» thay cho khẩu hiệu «đánh đuổi Pháp, Nhật» trước đây, phát động cao trào chống Nhật cứu nước mạnh mẽ để tiến tới tổng khởi nghĩa. Toàn bộ những quyết định sáng suốt của Hội nghị đã được ghi rõ trong bản chỉ thị lịch sử «Nhật, Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta!» ra ngày 12 tháng 3 năm 1945 của Ban thường vụ Trung ương Đảng.

Ngay trong khi Nhật, Pháp đang bắn nhau, các cấp đảng bộ căn cứ vào chủ trương, đường lối của Đảng đã vạch ra từ trước, liền chớp lấy cơ hội đó lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa. Đặc biệt bản chỉ thị của ban thường vụ Trung ương Đảng ra ngay 12 tháng 3 năm 1945 đã có tác dụng chỉ đạo rất kịp thời, phát huy được tinh thần độc lập, sáng tạo của các đảng bộ địa phương trong cao trào chống Nhật, cứu nước. Cao trào này đã diễn ra vô cùng sôi nổi, hào hứng ở khu căn cứ Việt Bắc.

Tại chiến khu Hoàng Hoa Thám, căn cứ vào những hành động của thực dân Pháp (như di chuyển binh lính, vũ khí bằng ô-tô trên đường Thái Nguyên — Tuyên Quang), căn cứ vào chỉ thị, nghị quyết của Đảng đã đề ra trước đây, Ban lãnh đạo chiến khu đã triệu tập một cuộc họp để phán đoán tình hình, dự định kế hoạch khởi nghĩa khi Nhật, Pháp đánh nhau. Sau cuộc họp này, Ban lãnh đạo chiến khu đã tổ chức một cuộc mít tinh quần chúng tại Khuôn Kẹn (Sơn Dương, Tuyên Quang) để tố cáo tội ác của phát-xít Nhật, Pháp, cổ vũ nhân dân sẵn sàng nổi dậy khởi nghĩa. Trong lúc đang họp mít tinh thì Ban lãnh đạo chiến khu nhận được tin tàn binh Pháp bị Nhật đánh bại, chạy ngược theo Sông Đáy lên Đồn Cóc, tìm đường ra biên giới Việt — Trung. Căn cứ vào chỉ thị «sửa soạn khởi nghĩa» của Tổng bộ Việt Minh, thấy rằng lực lượng cách mạng (Cứu quốc quân, tự vệ, các Hội cứu quốc) đã lớn mạnh, phân bố khá đồng đều ở các địa phương, hai kẻ thù của dân tộc đang cắn xé nhau chí tử, Ban lãnh đạo chiến khu Hoàng Hoa Thám quyết định ra lệnh cho các đơn vị Cứu quốc quân khởi nghĩa giành chính quyền. Kế hoạch khởi nghĩa của Ban lãnh đạo chiến khu Hoàng Hoa Thám gồm có mấy điểm sau đây:

a) Cứu quốc quân phối hợp cùng các đội tự vệ ở các địa phương phải nhanh chóng, kịp thời tước võ khí của địch đem trang bị cho lực lượng của ta, phối hợp với quần chúng khởi nghĩa giành chính quyền ở các địa phương.

b) Phá các kho thóc, gạo, muối... đem chia cho nhân dân nghèo đói, đem nuôi cán bộ cách mạng và lực lượng võ trang.

c) Ban chấp hành Việt Minh các cấp ở các địa phương phải tích cực, chủ động phối hợp với các đội võ trang làm công tác tuyên truyền, phát triển mạnh mẽ các Hội cứu quốc và tổ chức Ủy ban giải phóng dân tộc lâm thời các cấp các địa phương.

d) Đẩy mạnh công tác binh vận và địch vận, kêu gọi binh lính, ngụy quyền nhanh chóng bỏ hàng ngũ địch trở về với nhân dân, với cách mạng.


Tiêu đề: Lịch sử Cứu quốc quân
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Tư, 2021, 03:12:02 pm
Ở phân khu B:

Mặc dù phát-xít Nhật chưa đánh thị xã Thái Nguyên, nhưng bọn Pháp ở đây đã hoang mang tột độ. Chúng vội vã lên ô-tô chạy lên Tuyên Quang. Trên đường chạy trốn, quân Pháp còn bắt phu khuân vác đồ đạc, sục sạo vào các làng bản ven đường cướp lương thực, lợn gà... của nhân dân. Những hành động đó của chúng càng đốt cháy thêm ngọn lửa căm thù của nhân dân ta.

Thấy quân Pháp từ Thái Nguyên chạy theo quốc lộ số 2 lên Tuyên Quang, và nghe tiếng súng đại bác từ Việt Trì, (Phú Thọ) vọng sang, biết rằng Nhật, Pháp đã cắn xé nhau, tuy lúc này chưa có chỉ thị của Trung ương, nhưng căn cứ vào nhưng chỉ thị, nghị quyết đã đề ra. từ trước, đồng chí Chu Văn Tấn chỉ huy một đơn vị Cứu quốc quân phục kích đánh Pháp ở Đèo Khế, trên con đường quốc lộ số 2. Đây là một cái đèo nằm ở giữa địa giới hai tỉnh Thái Nguyên và Tuyên Quang, địa hình rất hiểm trở, dốc cao, vực sâu. Ngày 10 tháng 3 năm 1945, khi quân Pháp mò qua Đèo Khế, Cứu quốc quân liền nổ súng chặn đánh. Bị tiến công bất ngờ, quân Pháp hốt hoảng, rút chạy trở lại tỉnh lỵ Thái Nguyên, rồi sau đó kéo xuống Gia Sàng đầu hàng quân Nhật. Vũ khí và đồ dùng quân sự Cứu quốc quân đoạt được trong trận này đủ để trang bị cho hàng đại đội. Sau đó, Cứu quốc quân kéo xuống Đại Từ, Định Hóa tịch thu súng dõng, và sổ sách, giấy tờ của tổng lý, kỳ hào, giải phóng xóm làng.

Ở Định Hóa, ngày 26 tháng 3 năm 1945, Cứu quốc quân cùng tự vệ địa phương, tiến đánh Chợ Chu, giải phóng châu lỵ. Cứu quốc quân cùng tự vệ phá trại giam Chợ Chu, giải thoát hơn 30 tù chính trị. Đồng thời, Cứu quốc quân phá kho thóc đem chia cho dân nghèo, thành lập Ủy ban giải phóng dân tộc làm thời, phủ Định Hóa.

Ở Đại Từ, chiều ngày 29 tháng 3 năm 1945, Cứu quốc quân cùng tự vệ địa phương tiến về bao vây phủ lỵ. Quân ta nổ súng uy hiếp, kêu gọi ngụy quyền tay sai cùng binh lính địch ra hàng. Trước sức mạnh của quân cách mạng, quân địch bỏ súng đạn, tìm đường chạy trốn. Cứu quốc quân thu vũ khí, hoàn toàn làm chủ phủ ly Đại Từ. Sáng ngày 30 tháng 3 năm 1945, Cứu quốc quân tổ chức một cuộc mít tinh quần chúng ở phủ lỵ, tuyên bố chính quyền địch đã bị xóa bỏ, hiệu triệu mọi người góp công, góp sức ủng hộ cách mạng, xây dựng chính quyền mới. Ngay sau đó, Cứu quốc quân dẫn đầu đoàn người, kéo đi phá kho thóc Hùng Sơn và Yên Nhuận, đem chia cho nhân dân.

Những đơn vị Cứu quốc quân ở Tuyên Quang cũng nhanh chóng phối hợp với tự vệ và nhân dân các dân tộc ở các địa phương khởi nghĩa, giải phóng bản làng. Tối mồng 10 tháng 3 năm 1945, đơn vị Cứu quốc quân ở Sơn Dương giải phóng xã Thanh La, lập ra ủy ban giải phóng dân tộc lâm thời xã. Sau đó, Cứu quốc quân chọn những hội viên thanh niên cứu quốc khỏe mạnh, hăng hái, tổ chức một trung đội tự vệ của xã, để bảo vệ chính quyền nhân dân vừa được thành lập và cùng Cứu quốc quân giải phóng châu lỵ Sơn Dương. Sáng ngày 11 tháng 3 năm 1945, Cứu quốc quân tổ chức một cuộc tuần hành võ trang kéo từ Thanh La tiến đánh đồn Đăng Châu. Trên đường hành quân đi qua các xã, Cứu quốc quân đã tiến hành tịch thu súng dõng và sổ sách, bằng triện khế ước của bọn hào lý, tổ chức chính quyền cách mạng. Đồng thời, Cứu quốc quân cùng tự vệ còn chặn đánh tàn binh Pháp ở Lũng Cò (xã Minh Khai), Phượng Liễn (xã Bình Yên), diệt nhiều tên và thu nhiều vũ khi. Nhân dân các xã vừa được giải phóng lại hòa cùng đoàn tuần hành võ trang do Cứu quốc quân dẫn đầu tiến về giải phóng châu lỵ Sơn Dương. Ngày 12 tháng 3 năm 1945, Cứu quốc quân cùng tự vệ và nhân dân bao vây đồn Đăng Châu (châu lỵ Sơn Dương). Hoảng sợ trước khí thế sôi sục của cách mạng, quân Pháp và tên tri châu đã bỏ chạy từ chiều hôm trước, chỉ để lại 10 tên lính cơ giữ đồn. Quân ta tiến vào đồn, thu toàn bộ vũ khí, làm chủ châu lỵ Sơn Dương không tốn một viên đạn nào. Sau khi giải phóng châu lỵ Sơn Dương, Cứu quốc quân rút về xã Thanh La để kiểm điểm và rút kinh nghiệm những trận chiến đấu vừa rồi, kiện toàn và củng cố đội ngũ, chuẩn bị cho những trận chiến đấu mới.

Phát-xít Nhật sau khi lấy được thị xã Tuyên Quang từ tay Pháp, liền cho «bảo an binh» tiến về Sơn Dương, chiếm lại đồn Đăng Châu. Trước tình hình đó, Ban chỉ huy chiến khu Hoàng Hoa Thám quyết định tiêu diệt bọn «bảo an binh» đánh tan uy thế bọn tay sai của Nhật, củng cố lòng tin của nhân dân. Tối ngày 15 tháng 3 năm 1945, Cứu quốc quân cùng lực lượng tự vệ nổ súng đánh đồn Đăng Châu từ ba mặt. Trước khí thế tiến công dũng cảm của quân cách mạng, bọn «bảo an binh», bọn lính đánh thuê của phát-xít Nhật vừa được tổ chức, vô cùng khiếp sợ. Đại bộ phận lính bảo an không dám chống cự lại quân cách mạng. Chỉ có một số ít lính bảo an cùng những tên cầm đầu ngoan cố không chịu đầu hàng. Chúng giả vờ điều đình với ta để chờ quân tiếp viện tới cứu nguy. Biết rõ âm mưu đó của chúng, quân ta kiên quyết tiến công, vừa đánh vừa kêu gọi chúng đầu hàng. Sau khi tên quan ba «bảo an binh» phải đền tội, tên huyện trưởng Sơn Dương bị bắt sống, cùng nhiều tên lính bảo an bị thiệt mạng, bọn lính bảo an ở đồn Đăng Châu như rắn mất đầu, hoàn toàn tan rã. Châu ly Sơn Dương lại được giải phóng khỏi nanh vuốt của kẻ thù. Đây là một trận chiến đấu kết hợp giữa tiến công quân sự với công tác binh vận của Cứu quốc quân và lực lượng tự vệ địa phương. Sau khi giành được thắng lợi, Cứu quốc quân tổ chức một cuộc mít tinh quần chúng ở châu lỵ, tuyên bố xóa bỏ chính quyền địch thành lập Ủy ban giải phóng dân tộc lâm thời châu, gọi là châu Tự Do.

Trên đà thắng lợi đó, Ban chỉ huy chiến khu Hoàng Hoa Thám cử cán bộ mang vũ khí từ Sơn Dương (tỉnh Tuyên Quang) lên Chợ Đồn (tỉnh Bắc Cạn) tổ chức một trung đội tự vệ tại làng Nghĩa Tá. Đội viên của trung đội này chủ yếu là người Dao. Sau khi thành lập, trung đội tự vệ này đã cùng với Cứu quốc quân giải phóng hoàn toàn tổng Nghĩa Tá. Rồi sau đó phối hợp cùng đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân giải phóng châu lỵ Chợ Đồn. Đồng thời, Ban chỉ huy chiến khu Hoàng Hoa Thám chỉ thị cho Cứu quốc quân tiến lên phía Bắc tỉnh Tuyên Quang, khởi nghĩa giành chính quyền. Từ Định Hóa (tỉnh Thái Nguyên), Cứu quốc quân tiến lên Nam Chợ Đồn, sang giải phóng châu Chiêm Hóa. Ngày 30 tháng 3 năm 1945, Ủy ban dân tộc giải phóng lâm thời châu Chiêm Hóa (tỉnh Tuyên Quang) được thành lập, gọi là châu Khánh Thiện. Từ Sơn Dương, Cứu quốc quân vượt sông Lô tiến lên giải phóng châu Yên Sơn. Ngày 1 tháng 4 năm 1915, châu Yên Sơn được giải phóng, Ủy ban dân tộc giải phóng lâm thời châu được thành lập, gọi là châu Hồng Thái. Từ Chiêm Hóa, một bộ phận Cứu quốc quân tiến lên giải phóng châu Nà Hang, và một bộ phận tiến sang giải phóng châu Hàm Yên. Ngày 15 tháng 4 năm 1945, Cứu quốc quân phối hợp cùng một đơn vị của Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân giải phóng hoàn toàn châu Hàm Yên (tỉnh Tuyên Quang. Từ Hàm Yên, Cứu quốc quân tiến sang giải phóng Đồng Lạng, Ngọc Thị thuộc châu Yên Bình (tỉnh Yên Bái).

Trong tháng 4 và tháng 5 năm 1945, hoạt động của Cứu quốc quân ở vùng giáp trung du cũng rất sôi nổi. Ngày 2 tháng 4 năm 1945, Cứu quốc quân tiến đánh châu lỵ, giải phóng châu Phú Lương (tỉnh Thái Nguyên). Từ bắc Sơn Dương, Cứu quốc quân tiến xuống giải phóng Thiện Kế (nam Sơn Dương). Ngày 16 tháng 5 năm 1945, Ủy ban dân tộc giải phóng lâm thời châu Kháng Địch(1) được thành lập.


(1) Châu Kháng Địch gồm một sổ xã phía nam châu Sơn Dương (tỉnh Tuyên Quang) và phía Bắc châu Lập Thạch (tỉnh Vĩnh Yên).


Tiêu đề: Lịch sử Cứu quốc quân
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Tư, 2021, 03:12:46 pm
Ở phân khu A:

Ngày 13 tháng 3 năm 1945, Cứu quốc quân phối hợp cùng lực lượng tự vệ và nhân dân các dân tộc tiến vào phố Đình Cả (Võ Nhai) đánh tan một tiểu đội địch, phá kho thóc và kho muối ở đây đem chia cho nhân dân. Tối ngày 15 tháng 3, Cứu quốc quân và tự vệ lại phá kho thóc ở đồn điền Boóc-đi-ê ở xã Phú Thượng (Võ Nhai) đem chia cho nhân dân.

Trong lúc nhân dân ta đang bị nạn đói đe dọa, khẩu hiệu phá kho thóc, kho gạo đem chia cho nhân dân của Đảng ta có một nghĩa chính trị rất sâu sắc. Những lần phá kho thóc, kho gạo đem chia cho nhân dân, của Cứu quốc quân, đã tập hợp và đưa nhân dân các dân tộc tham gia cuộc khởi nghĩa giành chính quyền càng đông đảo và mạnh mẽ.

Tối ngày 17 tháng 3 năm 1945, một số Cứu quốc quân cùng tự vệ bao vây đồn Đình Cả, còn đại bộ phận lực lượng Cứu quốc quân và tự vệ cùng đông đảo nhân dân tiến về La Hiên, giải phóng châu lỵ Võ Nhai. Suốt mấy ngày đêm tiến công quân sự quyết liệt, kết hợp với công tác chính trị và binh vận sắc bén, phân hóa kẻ thù, trừng trị những tên ngoan cố, quân cách mạng đã buộc địch ở châu lỵ Võ Nhai phải đầu hàng. Đến sáng ngày 20 tháng 3 năm 1945 tên tri châu Võ Nhai đã đem toàn bộ vũ khí, tài sản, sổ sách nộp cho Cứu quốc quân. Ngày 21 tháng 3, hàng nghìn nhân dân cùng tự vệ và Cứu quốc quân thị uy võ trang, từ châu lỵ La Hiên đi bao vây đánh đồn Đình Cả. Cùng ngày hôm đó, một đơn vị Cứu quốc quân đánh đồn Tràng Xá. Sau khi hạ đồn, đơn vị này cùng nhân dân xã Tràng Xá cùng kéo ra đánh đồn Đình Cả. Quân và dân ta bao vây, vừa đánh vừa gọi hàng. Tên chỉ huy đồn giả vờ điều đình, ra gặp ta để thăm dò lực lượng. Thấy vũ khí ta ít ỏi, thô sơ, y tỏ ý khinh thường, dùng kế hoãn binh để chờ quân tiếp viện từ tỉnh lỵ lên giải vây. Trưa ngày 27 tháng 3, tên chỉ huy đồn trá hàng, mời cán bộ ta lên đồn để trao vũ khí. Do thiếu cảnh giác, đồng chí Thái Long (tức Nông Văn Cún) là một cán bộ dũng cảm của Cứu quốc quân, do tên cai lính cơ Nhật Tân vừa ra hàng dẫn đi lên đồn, đã bị địch ám hại. Hành động đê hèn đó của địch không làm cho chủng thoát khỏi số phận bị tiêu diệt. Quân cách mạng sôi sục căm thù, tiếp tục siết chặt vòng vây, liên tục nổ súng bắn tỉa. Cuối cùng, viện binh chẳng thấy tới cứu nguy, nguy cơ bị tiêu diệt ngày càng gần cho nên 3 giờ sáng ngày 10 tháng 4, chúng quyết định mở con đường máu, rút chạy về tỉnh lỵ Thái Nguyên. Nhưng chúng đã bị Cứu quốc quân truy kích và phục kích đánh thiệt hại. Trong trận phục kích ở Đèo Khế (Đồng Hỷ), Cứu quốc quân đã bắn chết 10 tên và nhiều tên khác bị thương. Số còn lại chạy tan tác vào rừng, tìm đường về tỉnh lỵ Thái Nguyên. Ta thu được 19 súng trường, 2 súng máy cùng nhiều đạn dược. Sau nhiều ngày chiến đấu, đến ngày 10 tháng 4 năm 1945, Cứu quốc quân cùng tự vệ các địa phương đã hoàn toàn giải phóng châu Võ Nhai, chính quyền cách mạng ở các xã, châu được thành lập.

Sau khi giải phóng hoàn toàn châu Võ Nhai, Ban lãnh đạo phân khu A đem phần lớn lực lượng tiến lên Lạng Sơn và xuống Bắc Giang để cùng các tổ công tác của Cứu quốc quân ở đó khởi nghĩa giành chính quyền. Đồng thời cho một đơn vị tiến xuống Đồng Bẩm (Đồng Hỷ) gây dựng cơ sở quần chúng, chuẩn bị tiến về giải phóng tỉnh lỵ Thái Nguyên.

Ở phía Bắc Giang, ngày 15 tháng 4, Cứu quốc quân cùng tự vệ địa phương đột nhập vào phủ lỵ Yên Thế, thu 14 súng. Sau khi giải thích chính sách Việt Minh cho nhân dân ở phố Nhã Nam, Cứu quốc quân tiến lên châu lỵ Hữu Lũng. Tri châu đầu hàng, đem nộp 400 sủng kíp mà chúng đã cướp giật của nhân dân cho Cứu quốc quân để trả lại cho đồng bào. Ngày 18 tháng 4, Cứu quốc quân tiến vào xí nghiệp Mỏ Sắt thu vũ khí và chiếm lấy kho muối, Cùng ngày hôm đó, Cứu quốc quân phá kho thóc Cầu Mây (Phú Bình, Thái Nguyên) đem chia cho nhân dân. Cùng với việc đánh đồn giải phóng xóm làng, Cứu quốc quân còn cùng với tự vệ địa phương tiễu phỉ, trừ gian bảo vệ tính mệnh và tài sản của nhân dân. Những toán phỉ ở Phố Vị, Yên Nhuận, Bảo Đài... bị đánh tan. Trật tự, trị an ở những nơi này được ổn định. Thắng lợi liên tiếp của Cứu quốc quân làm cho bọn quan lại ở các châu, làng, xã hoang mang. Tri phủ Yên Thế chạy trốn về tỉnh để thoát thân. Tri phủ Hiệp Hòa thì tích cực liên lạc với cách mạng, để lập công chuộc tội.

Ở phía Lạng Sơn, ngày 15 tháng 4 năm 1945 Cứu quốc quân đánh tan bốt Tam Thái (Mỏ Gà). Ngày 10 tháng 4 đánh tan bốt Vũ Lễ. Ngày 17 tháng 4 đánh đồn Nam Nhi (Vũ Lăng), phá kho thóc ở đây đem chia cho nhân dân. Nghe tin ở Võ Nhai đã thuộc về cách mạng, tri châu Bắc Sơn và tên châu úy đồn Nam Nhi liền tập trung bọn tay sai tổng đoàn, xã đoàn, lính dõng các địa phương về giữ châu lỵ. Nhưng khi các bốt Tam Thái, Vũ Lễ và đồn Nam Nhi bị đánh tan, thì chúng hốt hoảng chạy sang Bằng Mạc. Ngày 18 tháng 4, từ Nam Nhi, Cứu quốc quân tiến đánh châu ly Bắc Sơn theo hai đường. Một đường đi qua các xã Hữu Vĩnh, Quỳnh Sơn, Bắc Sơn... thu súng dõng, lập Ủy ban giải phóng dân tộc lâm thời các xã. Một đường tiến thẳng đến châu lỵ Bắc Sơn. Khi quân ta tiến vào châu lỵ thì quân địch đã chạy trốn. Quân ta làm chủ châu lỵ, thu 20 súng trường, 30 súng khai hậu, 30 hòm đạn, 30 bao muối và một kho gạo. Ủy ban giải phóng dân tộc lâm thời và Ban chấp hành Việt Minh châu Bắc Sơn được thành lập. Đông đảo thanh niên trong các đội tự vệ ở Bắc Sơn tình nguyện tham gia Cứu quốc quân.


Tiêu đề: Lịch sử Cứu quốc quân
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Tư, 2021, 03:16:31 pm
Sau khi đã hoàn toàn làm chủ châu lỵ. Cứu quốc quân để lại một đơn vị làm lực lượng nòng cốt, cùng lực lượng tự vệ địa phương giải phóng và thành lập chính quyền cách mạng các xã ở châu Bắc Sơn. Còn lại bộ phận lực lượng thì tiến sang giải phóng Bình Gia, Bằng Mạc. Những tin tức từ Bắc Sơn dội sang làm cho tên đồn trưởng đồn Bình Gia Các-ben và tên tri châu Bình Gia lo sợ, giao quyền cho lên tri phủ đã về hưu trốn chạy xuống Đồng Mỏ (Châu Ôn). Khi Cứu quốc quân tiến sang Bình Gia, tên tri phủ về hưu cùng khoảng 40 lính khố xanh không dám chống cự. Quân cách mạng làm chủ châu lỵ, thu 20 súng trường, 30 súng khai hậu, 30 hòm đạn, 30 bao muối và một kho gạo. Ngày 19 tháng 4 năm 1945, Ủy ban giải phóng dân tộc lâm thời và Ban chấp hành Việt Minh châu Bình Gia được thành lập. Ngày 20 tháng 4, Cứu quốc quân từ Bình Gia tiến vào Văn Mịch, phối hợp với một đơn vị của Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân từ Tràng Định tiến sang, đánh đồn Văn Mịch. Tên bang tá đồn Văn Mịch đầu hàng, giao toàn bộ vũ khí và tài sản trong đồn cho quân cách mạng. Sau đó, ta tổ chức một cuộc mít tinh quần chúng tuyên bố xóa bỏ chính quyền địch.

Đơn vị Cứu quốc quân tiến sang Bằng Mạc sau khi đã hạ đồn Vạn Linh, thì ngày 2 tháng 5 năm 1945, tiến lên bao vây đồn và châu lỵ Bằng Mạc. Cứu quốc quân khép chặt vòng vây, viết thư thuyết phục tên tri châu đầu hàng. Hoảng sợ trước sức mạnh của quân cách mạng, tri châu xin đầu hàng quân cách mạng. Ta hoàn toàn làm chủ châu lỵ, thu một súng hiệu, một súng lục, một khẩu trung liên và 24 súng trường, một kho thóc và một kho gạo. Biết tin quân Nhật chuẩn bị từ Đồng Mỏ tiến lên chiếm Bằng Mạc, Cứu quốc quân rút về Bình Gia để tránh cuộc tập kích của một lực lượng lớn quân Nhật, sau khi đã giải thích chính sách Việt Minh cho bọn lục sự, thừa phái và binh lính.

Ở Tràng Định, Cứu quốc quân phối hợp cùng Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân từ Cao Bằng tiến xuống và tự vệ địa phương phá bốt, đánh đồn, giải phóng xóm làng. Ngày 1 tháng 5 năm 1945, quân cách mạng chiếm kho muối Bản Trại, đem chia cho nhân dân. Ngày 3 tháng 5, quân cách mạng đánh đồn Pò Mã, bắt được tên chánh tổng gian ác đem xử bắn. Số súng đoạt được đủ đem trang bị cho một trung đội tự vệ. Đối với phủ lỵ Thất Khê do quân Nhật đóng, có công sự phòng thủ kiên cố, quân ta chủ trương không đánh, mà tiến về giải phóng vùng nông thôn. Trong khoảng một thời gian ngắn, hầu hết các xã ở Tràng Định đã được giải phóng, chính quyền cách mạng được thành lập. Thanh niên các đội tự vệ xung phong tham gia quân cách mạng, số lượng khoảng hai đại đội.

Thế là đến trung tuần tháng 5 năm 1945, Cứu quốc quân cùng với lực lượng tự vệ và đồng bào các dân tộc đã giải phóng được một vùng rộng lớn và liền mảnh, ở phân khu 13, vùng giải phóng của ta kéo dài từ Đại Từ, Phú Lương, Định Hóa (tỉnh Thái Nguyên) lên tới Chợ Đồn (Bắc Cạn), và từ Sơn Dương (tỉnh Tuyên Quang) lên đến Yên Sơn, Hàm Yên, Chiêm Hóa, Nà Hang, sang giáp Yên Bình (tỉnh Yên Bái) và xuống Lập Thạch (tỉnh Vĩnh Yên). Ở phân khu A, vùng giải phóng của ta kéo dài từ Võ Nhai (tỉnh Thái Nguyên) lên Bắc Sơn, Bình Gia, Tràng Định (tỉnh Lạng Sơn), xuống Bắc Yên Thế và Hữu Lũng (tỉnh Bắc Giang) Ở vùng giải phóng của ta, bên cạnh lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang đông đảo, chính quyền cách mạng đã được thành lập. Đây là kết quả to lớn của cuộc khởi nghĩa giành chính quyền từng phần ở chiến khu Hoàng Hoa Thám sau ngày Nhật đảo chính Pháp. Thắng lợi đó xác định vai trò trụ cột của Cứu quốc quân trong cuộc khởi nghĩa giành chính quyền.

Cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở chiến khu Hoàng Hoa Thám đã diễn ra rất sôi nổi, kịp thời và mau lẹ. Nó được tiến hành bằng hai lực lượng: lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, và hai hình thức đấu tranh: đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị bằng mũi tiến công binh vận và địch vận sắc bén. Cuộc đấu tranh này có nơi diễn ra rất quyết liệt, như giải phóng đồn Đình Cả, giải phóng đồn Đăng Châu lần thứ hai. Nhưng cũng có nơi cách mạng đã giành được thắng lợi nhanh chóng và thuận lợi như ở Phú Lương, Bắc Sơn, Bình Gia. Nhìn chung cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở chiến khu Hoàng Hoa Thám là đánh đồn, chiếm châu lỵ rồi tỏa đi giải phóng các tổng xã. Cuộc khởi nghĩa đó giành được thắng lợi tương đối nhanh chóng. Thắng lợi đó là kết quả của cả một quá trình lâu dài chuẩn bị lực lượng dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhạy bén chớp lấy thời cơ, kiên quyết vùng dậy khởi nghĩa, góp phần cho sự ra đời của khu giải phóng.


Tiêu đề: Lịch sử Cứu quốc quân
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Tư, 2021, 03:18:44 pm
Sau khi hất cẳng Pháp, phát-xít Nhật, một mặt thực hành chính sách lừa gạt nhân dân ta, một mặt tìm cách phá hoại, tiêu diệt cách mạng nước ta. Ngay từ hạ tuần tháng 3 năm 1945, phát-xít Nhật đã cho binh lính từ các tỉnh lỵ Việt Bắc đột nhập vào nhiều châu, phủ. Lúc đầu chúng cho những đơn vị nhỏ đi do thám, thăm dò lực lượng ta, tuần tiễu từng địa phương một. Nhưng chúng đã bị quân cách mạng chặn đánh, gây nhiều thiệt hại cho chúng. Ngày 3 tháng 4 năm 1945, phát-xít Nhật cho quân từ tỉnh lỵ Thái Nguyên tiến lên Định Hóa, Đại Từ. Chúng đi tới đâu thì giở trò cướp bóc, đốt phả, hãm hiếp tới đó. Cánh quân tiến lên Định Hóa đã bị Cứu quốc quân đánh phục kích nhiều trận từ cây số 31 đến cầu Tà Ma (cách Định Hóa 2 cây số) trên con đường số 3b, gây cho chúng nhiều thiệt hại. Nhân dân ta thực hiện «vườn không nhà trống», cùng Cứu quốc quân bao vây kinh tế, phá hoại giao thông, làm cho quân Nhật gặp khó khăn chồng chất. Cánh quân tiến lên Đại Từ cũng bị Cứu quốc quân chặn đánh, diệt 4 tên sĩ quan Nhật cùng một số tên tay sai.

Cao trào chống Nhật, cứu nước của nhân dân ta phát triển một cách mạnh mẽ. «Tình thế đã đặt nhiệm vụ quân sự lên trên tất cả các nhiệm vụ quan trọng và cần kíp trong lúc này»(1).

Do đó, tháng 4 năm 1945, Ban thường vụ Trung ương Dàng đã triệu tập Hội nghị quân sự cách mạng Bắc-kỳ. Hội nghị quyết định phát triển mạnh mẽ các lực lượng vũ trang cách mạng, thống nhất hai lực lượng vũ trang Cứu quốc quân và Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân. Xuất phát từ nhận định «Chúng ta đang ở vào giai đoạn chiến lược phát động du kích»(2), Hội nghị quyết định thành lập 7 chiến khu trong cả nước, phát động chiến tranh du kích «để chuẩn bị phát động tổng khởi nghĩa»(3). Đồng thời, Hội nghị đã cử ra Ủy ban quân sự cách mạng Bắc-kỳ gồm có các đồng chí Võ Nguyên Giáp, Chu Văn Tấn, Văn Tiến Dũng, Lê Thanh Nghị, Trần Đăng Ninh... để «chỉ huy các chiến khu miền Bắc Đông Dương về mặt chính trị và quân sự, đồng thời có nhiệm vụ giúp đỡ cho toàn quốc về mặt quân sự»(4).

Chấp hành Nghị quyết của Hội nghị quân sự cách mạng Bắc-kỳ, ngày 15 tháng 5 năm 1945, đội Cứu quốc quân và đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã tổ chức lễ thống nhất thành Việt Nam giải phóng quân tại Định Biên Thượng (Định Hóa, Thái Nguyên). Buổi lễ có đông đảo cán bộ và chiến sĩ của hai đội tham dự, hết sức phấn khởi thấy đội ngũ của mình đã phát triển. Bộ đội chủ lực của Việt Nam giải phóng quân lên tới 13 đại đội. Ở một số tỉnh, huyện trong vùng giải phóng Việt Bắc cũng tổ chức nhiều trung đội, đại đội giải phóng quân khác. Hầu hết đội viên Cứu quốc quân và Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã trở thành cán bộ chỉ huy. Bộ tư lệnh đầu tiên của Việt Nam giải phóng quân gồm có các đồng chí Võ Nguyên Giáp, Chu Văn Tấn, và Trần Đăng Ninh. Từ đây, Cứu quốc quân và Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được mang danh hiệu vẻ vang là Việt Nam giải phóng quân, đi vào các trận chiến đấu chống Nhật bảo vệ vùng giải phóng, nhanh chóng xây dựng và phát triển lực lượng về mọi mặt để sẵn sàng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ là trụ cột của cuộc tổng khởi nghĩa khi thời cơ đến, với niềm tự hào và tin tưởng sâu sắc.

Sau lễ thống nhất, hai đơn vị giải phóng quân, một đơn vị do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy và một đơn vị do đồng chí Chu Văn Tấn chỉ huy, đi đón và bảo vệ Hồ Chủ tịch từ Cao Bằng xuống Bắc Cạn về Tân Trào (Sơn Dương, Tuyên Quang). Sau khi nghe báo cáo tình hình chung và nghị quyết Hội nghị quân sự Bắc-kỳ, Hồ Chủ tịch chỉ thị là, vùng giải phóng miền núi Bắc-bộ, địa thế nối liền nhau, thì thành lập một khu căn cứ kháng Nhật kiểu mẫu, lấy tên là khu giải phóng, không nên chia thành nhiều chiến khu như vậy. Chấp hành chỉ thị của Người, ngày 4 tháng 6 năm 1945, Tổng bộ Việt Minh đã triệu tập hội nghị cán bộ các tỉnh đã được giải phóng tuyên bố chính thức thành lập khu giải phóng gồm sáu tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang. Khu giải phóng đặt dưới sự lãnh đạo của Ủy ban chỉ huy lâm thời khu giải phóng, do Hồ Chủ tịch đứng đầu. Mười chính sách lớn của Việt Minh được đem thực hiện ngay trong khu giải phóng nhằm xây dựng khu giải phóng vững mạnh về mọi mặt chính trị, quân sự, kinh tế và văn hóa xã hội.


(1) Văn kiện Đảng (1939—1945) Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội, 1963, tr. 494
(2) Văn kiện Đảng (1939—1945) Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội, 1963, tr. 497
(3) Văn kiện Đảng (1939—1945) Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội, 1963, tr. 497
(4) Văn kiện Đảng (1939—1945) Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội, 1963, tr. 502


Tiêu đề: Lịch sử Cứu quốc quân
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Tư, 2021, 03:20:20 pm
Trước thanh thế của cách mạng ngày càng lên cao, và sau những trận đánh vào chiến khu bằng những đơn vị nhỏ không mang lại kết quả, trung tuần tháng 5 năm 19-15, phát-xít Nhật tổ chức một cuộc tiến công quy mô lớn vào khu căn cứ ở giữa sông Lô và quốc lộ số 3. Chúng huy động khoảng 2.000 tên lính tiến công vào khu vực Tân Trào-Núi Hồng là trung tâm của khu căn cứ địa Việt Bắc. Một mặt từ thị xã Bắc Cạn tiến lên Chợ Rã rồi vòng xuống Chợ Dồn, tiến công vào phía Bắc. Một mặt từ Vĩnh Yên, Thiện Kế tiến lên và từ thị xã Tuyên Quang tiến vào, hợp quân ở Thanh La để tiến công vào phía Tây-Nam. Từ Thái Nguyên, quân Nhật theo hai đường, tiến công vào phía Đông-Nam. Một cánh quân tiến lên Đại Từ, đánh dọc theo sườn phía Tây của Núi Hồng. Một cánh tiến lên Định Hóa, đánh dọc theo sườn phía Đông Núi Hồng. Tất cả các mũi tiến công của quân Nhật đều bị Giải phóng quân chặn đánh, gây nhiều thiệt hại, làm thất bại âm mưu của chúng. Cánh quân tiến lên Định Hóa bị Giải phóng quân phục kích từ cây số 31 đến cầu Tà Ma (cách Chợ Chu khoảng 2 km), đánh nhiều trận. Quân Nhật tiến vào được Chợ Chu, nhưng bị Giải phóng quân bao vây, cắt đường tiếp tế. Có khoảng một trung đội lính Nhật được tụi mật thám dẫn đường, tiến từ Chợ Chu xuống Quảng Nạp rẽ ra Na Mao (Đại Từ) để nhập vào cánh quân từ Thái Nguyên tiến lên Đại Từ. Ngày 25 tháng 5 năm 1945, chúng bị Giải phóng quân chặn đánh ở Na Mao, một tên chết và 8 tên bị thương. Cảnh quân tiến lên Đại Từ cũng bị Giải phóng quân chặn đánh ở Vai Cày, Phú Minh, Ký Phú, Làng Đèo, tiêu biểu là trận Hoàng Nông ngày 29 tháng 5 năm 1945. Trong trận này Giải phóng quân đã diệt được 9 tên Nhật. Mũi tiến công của quân Nhật vào phía Tây-Nam đã bị Giải phóng quân bẻ gãy trong trận Đèo Chắn gần Thanh La (Sơn Dương), ngày 27 tháng 5 năm 1945. Trong trận này lực lượng của ta chỉ có gần một đại đội kể cả tự vệ địa phương. Nhưng dựa vào lợi thế địa hình, dũng cảm chiến đấu, Giải phóng quân đã kiên quyết chặn đánh, kết quả ta diệt khoảng 60 tên địch, thu nhiều vũ khí, đánh bại cuộc tiến công của hơn 500 tên địch định tiến thẳng vào Tân Trào — thủ đô của khu giải phóng.

Trong tháng 5 và tháng 6 năm 1945, Giải phóng quân còn đánh phục kích quân Nhật ở Chợ Chu (Định Hóa, Thái Nguyên), Chiêm Hóa (Tuyên Quang), đèo Canh Tiếm và đèo Tam Canh (Bắc Sơn, Lạng Sơn), Sa Lung, Lịch Sơn (Võ Nhai, Thái Nguyên), Lục Nam (Hữu Lũng, Bắc Giang cũ), Phủ Thông (Bắc Cạn), Tĩnh Túc (Cao Bằng)... Ngoài ra. Giải phóng quân còn giải phóng thêm đất đai, lập chính quyền cách mạng ở vùng Đoan Hùng (Phú Thọ), Lục Ngạn (Bắc Giang) Lục Yên Châu (Yên Bái); và tiễu phỉ ở Nam Sơn Dương, Bắc Lập Thạch, vùng núi Tam Đảo... bảo vệ tính mệnh và tài sản của nhân dân. Giải phóng quân tiến công trại tù binh Tam Đảo, cứu thoát nhiều tù binh Pháp bị Nhật giam giữ. Việc này đã có ý nghĩa chính trị lớn, tranh thủ được cảm tình của người Pháp.

Đồng thời với việc chiến đấu chống Nhật bảo vệ khu giải phóng, Giải phóng quân cũng tích cực xây dựng lực lượng vững mạnh. Công tác xây dựng Đảng và công tác chính trị trong các đơn vị Giải phóng quân được chú trọng. Trang bị, vũ khí của Giải phóng quân cũng nhanh chóng được cải tiến và tăng cường. Công tác huấn luyện bộ đội, đào tạo cán bộ rất khẩn trương. Nhiều trường, lớp quân chính kháng Nhật ngắn ngày được tổ chức ở nhiều địa phương. Thực hiện nghị quyết của Hội nghị quân sự cách mạng Bắc-kỳ, để đáp ứng kịp thời yêu cầu phát triển nhanh chóng của Giải phóng quân, tháng 7 năm 1945, trường quân chính kháng Nhật được thành lập, do đồng chí Hoàng Văn Thái phụ trách.

Những hoạt động sôi nổi cùng những chiến thắng liên tiếp của Giải phóng quân vang dội khắp cả nước, làm cho thanh thế của cách mạng ngày càng to, làm cho bọn Nhật e sợ. Thanh niên miền xuôi tìm đường lên khu giải phóng tham gia Giải phóng quân ngày càng đông. Cao trào chống Nhật cứu nước của đồng bào các dân tộc ở chiến khu đã góp phần quan trọng thúc đẩy những điều kiện chủ quan của cuộc tổng khởi nghĩa phát triển mau chóng.

Mùa thu năm 1945, tình thể trực tiếp của cuộc cách mạng đã xuất hiện, cả điều kiện chủ quan lẫn khách quan đều đã chín muồi. Do đó, Trung ương Đảng đã triệu tập Hội nghị toàn quốc của Đảng tại Tân Trào (Tuyên Quang) từ ngày 13 đến ngày 15 tháng 8 năm 1945, để quyết định tổng khởi nghĩa. Ngay đêm 13 tháng 8 năm 1945, Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc do Tổng bộ Việt Minh thành lập(1) đã ra Quân lệnh số 1. Khi Hội nghị toàn quốc của Đảng bế mạc thì, ngày 16 tháng 8 năm 1945, «Quốc dân đại hội» cũng khai mạc tại Tân Trào. Quốc dân đại hội hoàn toàn tán thành chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng, cử ra Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam (tức Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa) do Chủ Tịch Hồ Chí Minh đứng đầu.

Theo lệnh tổng khởi nghĩa của Đảng, của Tổng bộ Việt Minh và Lời kêu gọi của Hồ Chủ Tịch, cả nước đã nhất tề nổi dậy. Ngày 15 tháng 8 năm 1945, một đơn vị Giải phóng quân giải phóng tỉnh lỵ Tuyên Quang. Ngày 16 tháng 8 năm 1945, đơn vị chủ lực của Giải phóng quân do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy, xuất phát từ Tân Trào tiến đánh thị xã Thái Nguyên, mở đường tiến về đồng bằng và thủ đô Hà Nội. Còn một số đơn vị Giải phóng quân khác thì nhanh chóng hạ các đồn binh của Nhật còn lại ở các châu lỵ, tỉnh lỵ trong khu giải phóng. Ngày 26 tháng 8 năm 1945, chi đội Giải phóng quân đầu tiên tiến vào Hà Nội trong niềm hân hoan, trìu mến của nhân dân thủ đô. Cùng ngày hôm đó, Hồ Chủ Tịch từ Tân Trào về đến Hà Nội. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, trước cuộc mít tinh lịch sử của 50 vạn nhân dân thủ đô chào mừng Chính phủ, Hồ Chủ Tịch đọc bản Tuyên ngôn độc lập, trịnh trọng tuyên bố:

«Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy»(2).


(1) Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc gồm có các đồng chí Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Chu Văn Tấn, Trần Đăng Ninh, Lê Thanh Nghị. Ủy ban này do đồng chí Trường Chinh, Tổng bí thư của Đảng, phụ trách.
(2) Hồ Chí Minh: Vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1970, tr, 55,


Tiêu đề: Lịch sử Cứu quốc quân
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Tư, 2021, 03:25:20 pm
PHẦN THỨ BA

HOÀN CẢNH VÀ ĐIỀU KIỆN RA ĐỜI,
NHỮNG KINH NGHIỆM CỦA CỨU QUỐC QUÂN

I - HOÀN CẢNH VÀ ĐIỀU KIỆN RA ĐỜI CỦA CỨU QUỐC QUÂN

Cứu quốc quân là một trong những đội vũ trang đầu tiên do Đảng ta tổ chức và lãnh đạo ở thời kỳ 1940 — 1945. Thật ra, ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta đã đặt vấn đề xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng. Hội nghị thành lập Đảng cộng sản Việt Nam ngày 3 tháng 2 năm 1930 đã thảo luận vấn đề tổ chức quân đội công nông. Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ nhất tháng 10 năm 1930 thông qua Luận cương chính trị với 10 nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng dân chủ tư sản Việt Nam, trong đó có nhiệm vụ «lập quân đội công nông»(1). Nghị quyết của Hội nghị còn chỉ rõ «giúp cho công nông hội tổ chức đội tự vệ»(2). Đại hội lần thứ nhất của Đảng tháng 3 năm 1935 đã đề ra chủ trương thực hành tổ chức đội tự vệ công nông, dưới ánh sáng của những nghị quyết đó, trong thời kỳ 1930 — 1935, các đội tự vệ công nông đã xuất hiện, như «Xích vệ đỏ» trong xô-viết Nghệ— Tĩnh, đội tự vệ của công nhân đồn điền Phú Riềng, hãng dầu Phú Mỹ và xí nghiệp dầu Sô-cô-ni (Sài Gòn). Sang thời kỳ 1936 —1939, Đảng ta tập hợp hàng triệu quần chúng trong Mặt trận Dân chủ Đông Dương chĩa mũi nhọn đấu tranh vào bọn phản động thuộc địa và bọn vua quan phản động, đòi quyền tự do, dân chủ, đòi cải thiện dân sinh và bảo vệ hòa bình thế giới.

Đến khi cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra (tháng 9 năm 1939), Đảng ta nhận định «hoàn cảnh Đông Dương sẽ tiến bước đến vấn đề dân tộc giải phóng»(3). Do đó, tháng 11 năm 1939, Trung ương Đảng cộng sản Đông Dương đã họp Hội nghị lần thứ sáu để quyết định những chủ trương, chính sách cho phù hợp. Hội nghị khẳng định rằng, trong điều kiện cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai đã nổ ra, bọn thống trị ở Đông Dương thi hành chế độ phát-xít vô cùng tàn bạo, phát-xít Nhật lăm le nhảy vào xâm chiếm Đông Dương, đời sống của toàn thể nhân dân Đông Dương bị chà đạp nghiêm trọng thì «bước đường sinh tồn của các dân tộc Đông Dương không có con đường nào khác là con đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm, vô luận da trắng hay da vàng, để tranh lấy giải phóng dân tộc»(4). Hội nghị đã đề ra: «Dự bị những điều kiện bước tới bạo động làm cách mệnh giải phóng dân tộc»(5) và chủ trương phát triển đội tự vệ thật đông đảo rộng khắp, tiến tới xây dựng «Quốc dân cách mệnh quân»(6).

Trong lúc nhân dân ta đang đấu tranh để thực hiện chủ trương, chính sách mới của Đảng thì tình hình trong nước và thế giới có những biến chuyển dồn dập. Chiến tranh giữa các tập đoàn đế quốc ngày càng lan rộng và ác liệt. Ngày 10 tháng 5 năm 1940, quân đội phát-xít Đức mở cuộc tiến công vào nước Pháp. Chỉ trong vòng một tháng đế quốc Pháp đã phải đầu hàng, một chính phủ bù nhìn tay sai Đức do tên thống chế Pê-tanh phản bội dân tộc Pháp cầm đầu được thành lập. Đế quốc phát-xít Nhật nhân cơ hội Pháp thua Đức, nhảy vào xâm chiếm Đông Dương, miếng mồi béo bở mà chúng đã nhòm ngó từ lâu, nhằm biến Đông Dương thành một bàn đạp mở rộng chiến tranh ở Thái—Bình Dương chiếm đoạt các thuộc địa của Anh, Pháp, Mỹ. Ngày 22 tháng 9 năm 1940, phát-xít Nhật đánh vào Lạng Sơn, đồng thời cho 6.000 quân đổ bộ lên Đồ Sơn gần Hải Phòng. Sau vài trận thử sức ở biên giới Việt — Trung, tên toàn quyền Đông Dương Đờ-cu theo gương đồng bọn ở Pháp vội vã đầu hàng, dâng Đông Dương cho phát-xít Nhật. Từ đây, nhân dân ta bị hai kẻ thù là phát-xít Nhật và Pháp thống trị, Nhưng dân ta quyết không sợ, đã đứng lên chống lại cả Pháp lẫn Nhật. Các cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (tháng 9 năm 1940), Nam-kỳ (tháng 11 năm 1940) và cuộc binh biến ở Chợ Rạng, Đô Lương (tháng 1 năm 1941) đã liên tiếp nổ ra và có tiếng vang lớn trong cả nước, báo hiệu sự quật khởi của nhân dân ta tiến lên giành lại độc lập và tự do.

Xuất phát từ tình hình mới do phát-xít Nhật xâm chiếm Đông Dương và do cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn đưa tới, tháng 11 năm 1940 Trung ương Đảng đã triệu tập Hội nghị lần thứ bảy. Hội nghị thấy rằng, dưới hai tầng áp bức Pháp, Nhật: «Một cao trào cách mạng nhất định sẽ nổi dậy»(7), và xác định trách nhiệm của toàn Đảng là: «Đảng phải chuẩn bị để gánh lấy cái sứ mệnh thiêng liêng lãnh đạo cho các dân tộc bị áp bức Đông Dương võ trang bạo động giành lấy quyền tự do, độc lập»(8). Hội nghị nhắc lại chủ trương: «Mở rộng các đội tự vệ»(9), thực hiện: «Võ trang cho dân chúng»(10) và tiến tới tổ chức «Nhân dân cách mạng quân»(11). Đồng thời, Hội nghị đã thảo luận và quyết nghị hai vấn đề cụ thể, đó là đề nghị khởi nghĩa của Xử ủy Nam-kỳ và phát triển ảnh hưởng của cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn.

Đối với vấn đề phát triển ảnh hưởng của cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn để cổ vũ phong trào cách mạng toàn quốc, Hội nghị lần thứ bảy của Trung ương Đảng đã nhất trí nghị quyết là, duy trì và phát triển Đội du kích Bắc Sơn để làm vốn xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng về sau này, dùng hình thức vũ trang công tác, khi cần thì chiến đấu chống khủng bố, bảo vệ tính mệnh và tài sản của nhân dân, phát triển sâu rộng các tổ chức cách mạng của quần chúng, tiến tới thành lập căn cứ địa cách mạng, lấy vùng Bắc Sơn — Võ Nhai làm trung tâm, do Trung ương trực tiếp chỉ đạo. Dưới ánh sáng nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy của Trung ương Đảng, Đội du kích Bắc Sơn không ngừng phát triển, và căn cứ của Đội du kích không ngừng mở rộng. Trên cơ sở đó, đội Cứu quốc quân đã được thành lập làm lực lượng nòng cốt xây dựng căn cứ địa Bắc Sơn — Võ Nhai, và làm vốn xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng của Đảng.

Tóm lại, sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng, hình thức đấu tranh và cách tiến hành chuẩn bị lực lượng cho cuộc khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền của Đảng ta; sự phát triển không ngừng của phong trào cách mạng Bắc Sơn, Võ Nhai và Đội du kích Bắc Sơn dưới sự lãnh đạo của Đảng, là điều kiện quyết định trực tiếp sự ra đời của đội Cứu quốc quân.


(1) Văn kiện Đảng (1929—1935) Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội, 1963, tr. 50
(2) Văn kiện Đảng (1929—1935) Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội, 1963, tr. 67
(3) Văn kiện Đảng (1939—1945) Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội, 1963, tr. 24
(4) Văn kiện Đảng (1939—1945) Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội, 1963, tr. 57
(5) Văn kiện Đảng (1939—1945) Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội, 1963, tr. 73
(6) Văn kiện Đảng (1939—1945) Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội, 1963, tr. 63
(7) Văn kiện Đảng (1939—1945) Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội, 1963, tr. 142
(8) Văn kiện Đảng (1939—1945) Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội, 1963, tr. 142
(9) Văn kiện Đảng (1939—1945) Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội, 1963, tr. 166
(10) Văn kiện Đảng (1939—1945) Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội, 1963, tr. 166
(11) Văn kiện Đảng (1939—1945) Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội, 1963, tr. 166


Tiêu đề: Lịch sử Cứu quốc quân
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Tư, 2021, 03:26:22 pm
II — MỘT SỐ KINH NGHIỆM CỦA LỊCH SỬ CỨU QUỐC QUÂN

Quá trình công tác và chiến đấu, quá trình xây dựng và phát triển lực lượng của đội Cứu quốc quân để lại cho Đảng ta nhiều kinh nghiệm quý báu về xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, về đấu tranh vũ trang và khởi nghĩa giành chính quyền. Những kinh nghiệm đó là:

1— Đảng phải không ngừng tăng cường và củng cố sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối và toàn diện của mình đối với lực lượng vũ trang.

Từ những ngày đầu lực lượng còn non trẻ đến khi đã có lực lượng đông đảo và tích lũy được nhiều kinh nghiệm trong công tác và đấu tranh, lúc thuận lợi cũng như khi gặp nhiều khó khăn, Cứu quốc quân luôn luôn được Trung ương Bảng và Xử ủy Bắc-kỳ quan tâm chăm sóc. Khi cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn nổ ra, Xứ ủy Bắc-kỳ và Trung ương Đảng cử ngay cán bộ lên Bắc Sơn cùng cán bộ, đảng viên địa phương lãnh đạo phong trào cách mạng, xây dựng, phát triển Đội du kích Bắc Sơn và căn cứ du kích Bắc Sơn. Trong lúc phong trào Bắc Sơn đang gặp khó khăn, Ban lãnh đạo khu du kích Bắc Sơn đang lúng túng thì Hội nghị lần thứ bảy của Trung ương Đảng họp và đã vạch ra phương hướng tiến lên của phong trào cách mạng Bắc Sơn và Đội du kích Bắc Sơn. Hội nghị đã phân công đồng chí Hoàng Văn Thụ trực tiếp chỉ đạo phong trào cách mạng Bắc Sơn, Võ Nhai. Sau đó, Trung ương Đảng phát động phong trào «ủng hộ Bắc Sơn khởi nghĩa» trong toàn quốc, đồng thời cử thêm nhiều cán bộ quân sự và chính trị lên Bắc Sơn huấn luyện quân sự, học tập chính trị, đào tạo cán bộ địa phương. Trên đường về xuôi sau Hội nghị lần thứ tám, mặc dù kẻ địch mở cuộc khủng bố khốc liệt vùng Bắc Sơn, Võ Nhai, nhưng các đồng chí Thường vụ Trung ương vẫn tranh thủ thời gian truyền đạt nghị quyết Hội nghị lần thứ tám của Trung ương, huấn luyện và đào tạo cán bộ cho đội Cứu quốc quân. Hội nghị lần thứ tám của Trung ương Đảng quyết định tăng cường thêm cho Cứu quốc quân và căn cứ Bắc Sơn —Võ Nhai thêm một số cán bộ, trong đó có đồng chí Phùng Chỉ Kiên là ủy viên Trung ương Đảng, đặt Cứu quốc quân và căn cứ Bắc Sơn — Võ Nhai dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Ban thường vụ Trung ương Đảng. Đến năm 1944, khi chiến khu Hoàng Hoa Thám đã hình thành, tình hình ngày càng khẩn trương, Trung ương lại cử đồng chí Hoàng Quốc Việt là ủy viên Ban thường vụ Trung ương Đảng lên chiến khu trực tiếp chỉ đạo hoạt động của Cứu quốc quân, đồng thời tăng cường thêm cho Cứu quốc quân số cán bộ, đảng viên vượt ngục đế quốc ra chiến khu. Khi cuộc đấu tranh chống địch khủng bố mang tính chất của một cuộc khởi nghĩa nổ ra ở Võ Nhai tháng 11 năm 1944, Trung ương Đảng đã kịp thời cử cán bộ lên uốn nắn, nên lực lượng Cứu quốc quân ở đây được bảo toàn.

Trung ương Đảng và Xứ ủy Bắc-kỳ không những chỉ vạch ra đường lối, chủ trương, phương châm hoạt động cho Cứu quốc quân và cử cán bộ có năng lực lãnh đạo Cứu quốc quân, mà còn chăm lo đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, xây dựng tổ chức Đảng trong đội Cứu quốc quân ngày càng vững mạnh. Bằng việc rèn luyện trong thực tế công tác và bồi dưỡng trong các lớp huấn luyện ngắn ngày, đội ngũ cán bộ của Cứu quốc quân ngày càng trưởng thành, mà ngày nay có nhiều đồng chí là cán bộ lãnh đạo xuất sắc của Đảng, của quân đội. Cứu quốc quân là đội quân cách mạng gồm con em các dân tộc, cho nên việc đào tạo cán bộ dân tộc thiểu số cũng được chú ý và đạt nhiều kết quả.

Dưới sự lãnh đạo của Trung ương và Xứ ủy, tổ chức Đảng trong các đơn vị Cứu quốc quân cũng đã mau chóng trưởng thành, hoàn thành vai trò lãnh đạo của mình trong các đơn vị Cứu quốc quân. Ở mỗi tiểu đội, tổ công tác của Cứu quốc quân đều có chi bộ, tổ đảng hoặc đảng viên lãnh đạo. Với tinh thần dân chủ bàn bạc, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tự phê bình và phê bình... các tổ đảng, chi bộ đảng tăng cường được sự lãnh đạo của mình trong các đơn vị. Việc tăng cường sinh hoạt, tích cực học tập đường lối, chính sách của Đảng đã giúp cho cán bộ, đảng viên giữ vững được phẩm chất cách mạng và hoàn thành tốt đẹp nhiệm vụ của mình. Phẩm chất đó là trung thành vô hạn với Đảng, sẵn sàng hi sinh vì Tổ quốc, vì nhân dân; tận tụy, độc lập, chủ động, tự giác trong công tác; khiêm tốn, giản dị trong sinh hoạt, có tình, có lý trong quan hệ đồng chí, đồng đội và với nhân dân. Tóm lại, sự lãnh đạo của Đảng đối với Cứu quốc quân là trực tiếp, tuyệt đối và hoàn diện. Đó là nhân tố quyết định nhất mọi thắng lợi trong quá trình xây dựng và phát triển lực lượng, quá trình chiến đấu và công tác của Cứu quốc quân. Đảng đã trực tiếp tổ chức và rèn luyện Cứu quốc quân vì nó là một công cụ sắc bén của Đảng để tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng bằng hình thức vũ trang, vì nó giữ vai trò là trụ cột của khởi nghĩa toàn dân và bảo vệ thành quả của cuộc đấu tranh cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Chỉ có dưới sự lãnh đạo của Đảng thì Cứu quốc quân mới có bản chất tốt đẹp của đội quân cách mạng, vì Đảng ta là đội tiền phong của giai cấp và của dân tộc. Chỉ có dưới sự lãnh đạo của Đảng thì Cứu quốc quân mới trưởng thành mau chóng, vì Đảng ta có đường lối cách mạng đúng đắn, có nghệ thuật lãnh đạo cách mạng tài giỏi. Chỉ có dưới sự lãnh đạo của Đảng thì Cứu quốc quân mới đủ sức mạnh để chiến thắng kẻ thù, vì Đảng ta đem đường lối tổ chức của Đảng, đem truyền thống bất khuất của dân tộc, lấy nhiệm vụ chính trị của Đảng, lấy chủ nghĩa Mác — Lê-nin và tinh thần quốc tế vô sản để rèn luyện và giáo dục Cứu quốc quân có lòng yêu nước nồng nàn, chí căm thù giặc sâu sắc, có ý thức tổ chức và kỷ luật cao, có tinh thần chiến đấu dũng cảm và mưu trí. Bây chẳng những là bài học kinh nghiệm của Cứu quốc quân, mà nó còn là nguyên tắc xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng của Đảng ta về sau này.


Tiêu đề: Lịch sử Cứu quốc quân
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Tư, 2021, 03:26:53 pm
2 — Không ngừng xây dựng và phát triển mạnh các tổ chức chính trị của quần chúng làm cơ sở vững chắc để phát triển lực lượng vũ trang cách mạng về mọi mặt.

Tất cả cán bộ và chiến sĩ các trung đội Cứu quốc quân đều là cán bộ và đảng viên, cán bộ và đội viên các đội tự vệ, cán bộ và hội viên các Hội cứu quốc ở địa phương hoặc ở dưới xuôi lên tăng cường. Được Đảng tuyên truyền và giác ngộ, họ là những người con của các dân tộc đã gia nhập Đảng cộng sản hoặc các tổ chức cách mạng của Đảng, Trong các cuộc đấu tranh chống sưu cao, thuế nặng, đòi các quyền tự do, dân chủ, họ là những người hăng hái, dũng cảm đấu tranh. Rèn luyện trong các tổ chức cách mạng và trong phong trào đấu tranh của quần chúng, họ được tuyển lựa vào các đội tự vệ, bổ sung cho Cứu quốc quân. Cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn và cuộc đấu tranh chống địch khủng bố sau đó đã dẫn đến sự ra đời của Đội du kích Bắc Sơn — tiền thân của Đệ nhất trung đội Cứu quốc quân. Kết quả của phong trào cách mạng ở Bắc Sơn, Võ Nhai dưới ánh sáng của Hội nghị lần thứ bảy của Trung ương Đảng là đã củng cố và không ngừng phát triển Đội du kích Bắc Sơn cũng như phong trào cách mạng Bắc Sơn, Võ Nhai, tạo ra những điều kiện thuận lợi để thành lập Đệ nhất trung đội Cứu quốc quân. Thắng lợi của tám tháng đấu tranh du kích chống địch khủng bố là đã bảo vệ được cán bộ lãnh đạo của Đảng, phát triển không ngừng các Hội cứu quốc và các đội tự vệ, dẫn tới sự ra đời của Đệ nhị trung đội Cứu quốc quân. Sự phát triển mạnh mẽ các Hội cứu quốc, các đội tự vệ ở Đại Từ, Định Hóa, Phú Lương, Sơn Dương, Yên Sơn... đã thúc đẩy và tạo điều kiện thành lập Đệ tam trung đội Cứu quốc quân. Phong trào cách mạng sôi nổi và rộng khắp ở chiến khu Hoàng Hoa Thám trước và trong cuộc khởi nghĩa giành chính quyền từng phần làm cho lực lượng Cứu quốc quân phát triển rất nhanh chóng.

Lực lượng chính trị và lực lượng tự vệ đông đảo cũng như phong trào cách mạng phát triển là những điều kiện rất cơ bản để phát triển lực lượng Cứu quốc quân. Các huyện Bắc Sơn, Thoát Lãng, Tràng Định (Lạng Sơn), Võ Nhai, Đại Từ, Định Hóa, Phú Lương (Thái Nguyên), Sơn Dương, Yên Sơn (Tuyên Quang)... có phong trào cách mạng sâu rộng, là những nơi đóng góp cho Cứu quốc quân nhiều cán bộ và chiến sĩ. Không có đông đảo nhân dân các dân tộc được Đảng giác ngộ và tập hợp vào các Hội cứu quốc, các đội tự vệ thì Cứu quốc quân không thể trưởng thành mau chóng và giành được những thắng lợi to lớn. Luôn luôn bị kẻ địch khủng bố tìm diệt, nhưng được đồng bào các dân tộc giàu lòng yêu nước hết lòng giúp đỡ và bảo vệ từ miếng cơm, manh áo, viên thuốc, đấu gạo, bơ muối, cho đến việc che giấu, liên lạc đưa tin tức..., Cứu quốc quân đã vượt qua mọi thử thách gay, go. Hơn thế nữa, đồng bào các dân tộc còn đấu tranh chính trị với địch như chống đàn áp, khủng bố, chống chính sách dồn làng, tập trung dân, làm công tác binh vận, địch vận, giám sát hoạt động của bọn mật thám tay sai..., tạo điều kiện cho Cứu quốc quân xây dựng và phát triển lực lượng. Chính dựa vào lực lượng chính trị rộng lớn của quần chúng để xây dựng và phát triển đội ngũ của mình, cho nên Cứu quốc quân có bản chất cách mạng tốt đẹp, có tinh thần chiến đấu dũng cảm, gan dạ và mưu trí. Là con em đồng bào các dân tộc bị áp bức, cho nên cán bộ và chiến sĩ Cứu quốc quân thấu hiểu nỗi thống khổ của đồng bào, tiếp thu được những tinh hoa thật thà, chất phác, dũng cảm, thông minh của các dân tộc. Từ nhân dân mà ra, được Đảng giáo dục và rèn luyện, cán bộ và chiến sĩ Cứu quốc quân luôn luôn trung thành với Đảng, với nhân dân, sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp cách mạng của Đảng và của nhân dân.

Do vị trí rất quan trọng của lực lượng chính trị, trong quá trình xây dựng và phát triển lực lượng, các đơn vị Cứu quốc quân đã chủ động phối hợp với cán bộ và đảng viên ở các địa phương, ra sức xây dựng và phát triển các Hội cứu quốc, các đội tự vệ. Trên cơ sở quán triệt đường lối cách mạng và chính sách dân tộc, cũng như nắm vững tâm lý và nguyện vọng của các dân tộc, Cứu quốc quân đã thu được nhiều thành tích to lớn trong công tác tổ chức quần chúng. Bằng những phương pháp và hình thức tuyên truyền phong phú, với phương châm vừa phát triển vừa củng cố, Cứu quốc quân đã xây dựng nên chiến khu Hoàng Hoa Thám rộng lớn, có lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang đông đảo.

Tóm lại, lực lượng chính trị là lực lượng có tổ chức của nhân dân lao động các dân tộc bị áp bức. Lực lượng đó là cơ sở rất vững chắc để xây dựng Cứu quốc quân vững mạnh về mọi mặt. Trên ý nghĩa «lòng dân là căn cứ», có dân là có trang bị, vũ khí, lương ăn, là lực lượng tiến công kẻ địch bằng bạo lực chính trị, các đơn vị Cứu quốc quân đã tích cực xây dựng và phát triển các Hội cứu quốc, tập hợp thành lực lượng chính trị vững mạnh về mọi mặt.


Tiêu đề: Lịch sử Cứu quốc quân
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Tư, 2021, 03:27:50 pm
3 — Không ngừng củng cố và mở rộng căn cứ địa cách mạng để làm chỗ dựa xây dựng và phát triển lực lượng và làm bàn đạp tiến công kẻ địch khi thời cơ đã đến.

Quá trình trưởng thành của Cứu quốc quân gắn liền với quá trình lớn mạnh của căn cứ địa cách mạng. Khi Đội du kích Bắc Sơn và căn cứ của đội du kích được củng cố và phát triển thì Đệ nhất trung đội Cứu quốc quân thành lập. Đến lúc trung tâm căn cứ địa Bắc Sơn—Võ Nhai xuất hiện, thì Đệ nhị trung đội Cứu quốc quân ra đời. Sự hình thành chiến khu Hoàng Hoa Thám rộng lớn đã tạo điều kiện để tổ chức Đệ tam trung đội Cứu quốc quân. Đến khi khu giải phóng thành lập, thì lực lượng Cứu quốc quân đã khá đông đảo và thống nhất với Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân thành Việt Nam giải phóng quân. Dựa vào căn cứ địa, Cứu quốc quân có thể tiến hành đánh du kích lâu dài chống địch khủng bố để bảo toàn và phát triển lực lượng. Dựa vào căn cứ địa, Cứu quốc quân đã nhanh chóng giành được thắng lợi trong cuộc khởi nghĩa giành chính quyền từng phần và trong cuộc đấu tranh chống Nhật bảo vệ vùng giải phóng.

Sở dĩ căn cứ địa Bắc Sơn — Võ Nhai, Đại Từ — Định Hóa — Sơn Dương… có tác dụng rất lo lớn đối với quá trình trưởng thành của Cứu quốc quân vì, nó có lực lượng cách mạng và phong trào cách mạng mạnh mẽ; có nền kinh tế tự cấp, tự túc phong phú về nhiều mặt, đủ khả năng đáp ứng những nhu cầu cần thiết về đời sống và trang bị của Cứu quốc quân; nó là một vị trí chiến lược cơ động, tạo điều kiện cho Cứu quốc quân tiến có thể đánh thắng địch và lui có thể bảo toàn lực lượng. Những điều kiện trên đây đều có ý nghĩa rất quan trọng. Song, sự lớn mạnh của lực lượng cách mạng và phong trào đấu tranh cách mạng là điều kiện quan trọng bậc nhất đối với sự trưởng thành của Cứu quốc quân.

Trong quá trình xây dựng và phát triển lực lượng, Cứu quốc quân đã tích cực mở rộng địa bàn hoạt động, củng cố căn cứ địa vững mạnh. Việc xây dựng căn cứ địa của Cứu quốc quân là một quá trình, đi từ xây dựng lực lượng chính trị tiến lên xây dựng lực lượng vũ trang, từ từng căn cứ nhỏ còn bị chia cắt tiến lên nối liền các căn cứ đó với nhau thành một khu căn cứ rộng lớn, từ chưa hoàn chỉnh đến ngày càng hoàn chỉnh. Phương châm xây dựng của Cứu quốc quân là vừa chiến đấu để bảo vệ căn cứ vừa mở rộng, vừa phát triển, vừa củng cố.

Tóm lại, lịch sử Cứu quốc quân cho thấy, việc xây dựng căn cứ địa cách mạng vững mạnh có ý nghĩa rất quan trọng. Căn cứ địa cách mạng không những chỉ là chỗ dựa để xây dựng lực lượng vũ trang nói riêng và lực lượng cách mạng nói chung mà còn là bàn đạp tiến công kẻ địch bằng cuộc đấu tranh chính trị và vũ trang, thực hành phương châm đánh lùi từng bước, đánh đổ từng bộ phận tiến lên đập tan hoàn toàn ách thống trị của đế quốc xâm lược và bè lũ tay sai. Với ý nghĩa đó căn cứ địa cách mạng là mối uy hiếp thường xuyên đối với kẻ địch, và cũng là mục tiêu đánh phá thường xuyên, ác liệt của kẻ địch. Do vậy, trong quá trình xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang cách mạng phải không ngừng củng cố và mở rộng căn cứ địa cách mạng, tích cực công tác và chiến đấu để xây dựng căn cứ địa cách mạng.

4 — Tăng cường giáo dục chính trị và tư tường là vấn đề căn bản nhất trong quá trình rèn luyện Cứu quốc quân để có đủ sức mạnh chiến thắng kẻ thù và đủ năng lực hoàn thành mọi nhiệm vụ cách mạng.

Tuy lực lượng còn non trẻ, trang bị còn nghèo nàn và thô sơ, nhưng Cứu quốc quân đã thu được nhiều thắng lợi trong nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ lực lượng, cán bộ cách mạng, bảo vệ căn cứ địa, trong khởi nghĩa giành chính quyền. Tiêu biểu là thắng lợi của tám tháng đánh du kích ở Bắc Sơn, Võ Nhai. Trong hoàn cảnh bí mật, khó khăn, gian khổ, thiếu thốn mọi bề, nhưng Cứu quốc quân đã thu được nhiều thành tích trong nhiệm vụ công tác mở rộng địa bàn hoạt động, xây dựng và củng cố căn cứ địa cách mạng, có được những kết quả to lớn đó là do Trung ương, Xử ủy, chi bộ và tổ đảng ở các đơn vị đã làm tốt công tác giáo dục, nâng cao trình độ chính trị và tư tưởng của Cứu quốc quân.

Trong quá trình xây dựng lực lượng, Cứu quốc quân luôn luôn được học tập đường lối chính sách của Đảng như chương trình và điều lệ Việt Minh, nghị quyết Hội nghị lần thứ tám của Trung ương Đảng, nghị quyết Hội nghị Ban thường vụ Trung ương Đảng tháng 2 năm 1943... Các buổi sinh hoạt đơn vị, chi bộ, tổ Đảng để kiểm điểm, rút kinh nghiệm công tác và chiến đấu cũng được chú ý tổ chức. Công tác khen thưởng, kỷ luật cũng kịp thời và nghiêm minh.

Với nội dung cụ thể, thiết thực và với hình thức phong phú, công tác giáo dục và rèn luyện để nâng cao trình độ chính trị và tư tưởng của Cứu quốc quân đã tạo nên sức mạnh để chiến thắng kẻ thù, có năng lực tổ chức và lãnh đạo quần chúng. Tất cả cán bộ và chiến sĩ Cứu quốc quân nắm được mục đích tối cao của cách mạng, thấy rõ vai trò và trách nhiệm vinh quang của mình: trung thành tuyệt đối với Đảng, vì Tổ quốc hi sinh, vì nhân dân phục vụ. Tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, với lòng yêu nước thiết tha và nghĩa đồng bào sâu sắc, cán bộ cũng như chiến sĩ Cứu quốc quân đã nêu cao tinh thần khắc phục khó khăn, chiến đấu anh dũng để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ cách mạng mà Đảng và nhân dân giao phó. Ý thức tổ chức và kỷ luật, tinh thần trách nhiệm và tự giác, đề cao vũ khí tự phê bình và phê bình, đã đoàn kết Cứu quốc quân thành một khối sắt thép, không một sức mạnh nào có thể tiêu diệt được. Cùng là con em nhân dân lao động các dân tộc, cùng một mục đích và lý tưởng chiến đấu dưới lá cờ của Đảng, cán bộ và chiến sĩ Cứu quốc quân gắn bó với nhau bằng tình thương yêu giai cấp nồng nàn, tình đồng chí trong sáng, gian khổ cùng chịu đựng, khó khăn cùng khắc phục, tất cả cùng một quyết tâm chiến đấu diệt địch, giành lại độc lập và tự do cho dân tộc.

Tóm lại, lịch sử Cứu quốc quân nói lên rằng không thể chiến thắng kẻ địch có ưu thế hơn ta về số lượng và trang bị nếu như không trang bị cho lực lượng vũ trang cách mạng lòng tin và tinh thần quyết tâm diệt địch, không mưu trí và dũng cảm, không thể hoàn thành nhiệm vụ công tác nếu như không quan tâm tổ chức học tập để nắm vững đường lối, chính sách của Đảng. Để có được ý chí chiến đấu cao và năng lực công tác dồi dào, thì phải thường xuyên chăm lo giáo dục và rèn luyện, nâng cao trình độ chính trị và tư tưởng cho lực lượng vũ trang cách mạng.


Tiêu đề: Lịch sử Cứu quốc quân
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Tư, 2021, 03:28:22 pm
5 — Quán triệt đường lối và nhiệm vụ cách mạng của Đảng trong từng thời kỳ để đề ra phương châm công tác đúng đắn và hình thức đấu tranh thích hợp.

Trong quá trình tổ chức và rèn luyện Cứu quốc quân, Đảng đã chăm lo giáo dục và bồi dưỡng Cứu quốc quân nắm vững đường lối và chính sách của Đảng cũng như chiến thuật, chiến lược và sách lược cách mạng. Chính vì vậy Cứu quốc quân đa thu được nhiều thành tích trong công tác và chiến đấu.

Cứu quốc quân được tổ chức và rèn luyện xuất phát từ đường lối chính trị và phục tùng đường lối chính trị của Đảng. Trước ngày Nhật đảo chính Pháp thì nhiệm vụ chính trị hàng đầu của toàn Đảng là gấp rút chuẩn bị lực lượng để tiến lên khởi nghĩa giành chính quyền. Quán triệt mục tiêu đó, dưới sự lãnh đạo của Trung ương và Xứ ủy, Cứu quốc quân tích cực xây dựng lực lượng, mở rộng căn cứ địa. Kết quả là, đến đầu năm 1945, lực lượng của Cứu quốc quân, đã có 3 trung đội, địa bàn hoạt động của Cứu quốc quân đã mở rộng thành chiến khu Hoàng Hoa Thám gắn liền với căn cứ Cao Bằng và với phong trào cách mạng trung du và đồng bằng. Trong thời kỳ này, Cứu quốc quân cũng đã phát động các cuộc đấu tranh chính trị và vũ trang, chống địch khủng bố, bảo vệ lực lượng và căn cứ địa cách mạng, như tám tháng đấu tranh du kích chống địch khủng bố ở Bắc Sơn, Võ Nhai, như cuộc đấu tranh chống địch khủng bố tháng 11 năm 1944 ở Võ Nhai. Thành công to lớn nhất của tám tháng đấu tranh du kích chống địch khủng bố ở căn cứ Bắc Sơn —Võ Nhai là Cứu quốc quân đã biết vận dụng linh hoạt chiến thuật du kích, vừa đánh vừa củng cố và phát triển lực lượng, nên đã bảo toàn được lực lượng của mình. Song cuộc đấu tranh này cũng có nhược điểm là, chưa phát động và tổ chức được các cuộc đấu tranh chính trị mạnh mẽ và liên tục của quần chúng để hỗ trợ cho hoạt động du kích của Cứu quốc quân, nhanh chóng đập tan những thủ đoạn đàn áp và thủng bố của kẻ địch. Cuộc đấu tranh chống địch khủng bố ở Võ Nhai tháng 11 năm 1944, Cứu quốc quân và nhân dân đã tung ra những nghị lực phi thường, nhưng do ban lãnh đạo chưa vận dụng đúng đắn chủ trương, đường lối cách mạng của Đảng trong thời kỳ chuẩn bị khởi nghĩa, không nắm được tình hình, nên đã gặp nhiều khó khăn, nếu không được Trung ương kịp thời uốn nắn thì chắc rằng không tránh khỏi bị tổn thất.

Coi việc xây dựng lực lượng là nhiệm vụ chủ yếu trong thời kỳ chuẩn bị khởi nghĩa không có nghĩa là coi nhẹ mặt đấu tranh, kìm hãm phong trào. Phát động các cuộc đấu tranh chính trị và vũ trang trong thời kỳ này là, nhằm củng cố và phát huy những kết quả của nhiệm vụ vũ trang công tác chứ không phải là để khởi nghĩa đánh đổ ách thống trị của địch, tiêu diệt lực lượng của chúng, như cuộc đấu tranh chống địch khủng bố tháng 11 năm 1944 ở Võ Nhai đã làm. Các cuộc đấu tranh đó phải bảo đảm nguyên tắc tránh bộc lộ lực lượng dẫn tới sẽ bị thủ tiêu, mà phải củng cố và phát triển được lực lượng. Đồng thời các cuộc đấu tranh đó phải biết kết hợp giữa đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, đánh địch với việc tuyên truyền và tổ chức quần chúng, làm công tác binh vận và địch vận, diệt bọn mật thám đầu sỏ.

Cuộc đảo chính lật Pháp độc chiếm lấy Đông Dương của phát-xít Nhật tạo điều kiện cho Đảng ta phát động cao trào chống Nhật cứu nước mạnh mẽ và khởi nghĩa giành chính quyền từng phần. Cách mạng Việt Nam chuyển sang một giai đoạn mới. Tuy chưa nhận được chỉ thị của Trung ương, nhưng do quán triệt được chỉ thị, nghị quyết của Đảng đã đề ra từ trước về thời cơ và điều kiện khởi nghĩa, Cứu quốc quân đã nhạy bén, kịp thời chớp lấy thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền.

Đồng thời với việc đẩy mạnh hoạt động quân sự, lấy đó làm nhiệm vụ hàng đầu trong giai đoạn khởi nghĩa, Cứu quốc quân cũng rất coi trọng công tác xây dựng và phát triển lực lượng chính trị và tự vệ một cách sâu rộng, chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa, củng cố và bảo vệ thành quả đã giành được. Thực tế khi cuộc khởi nghĩa từng phần diễn ra sôi nổi thì, chính là lúc các Hội cứu quốc của Mặt trận Việt Minh, các đội tự vệ phát triển nhanh nhất, đồng thời số lượng cũng như chất lượng của Cứu quốc quân phát triển một cách nhảy vọt. Lúc này, Cứu quốc quân hướng mọi hoạt động của mình theo phương châm: vừa đánh vừa xây dựng và phát triển lực lượng, chiến đấu để đẩy mạnh công tác xây dựng và phát triển lực lượng. Lực lượng chính trị và tự vệ phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ khởi nghĩa đã tạo điều kiện cho Cứu quốc quân càng đánh lực lượng càng phát triển và càng giành thắng lợi to lớn.

Ở thời kỳ khởi nghĩa giành chính quyền từng phần và đấu tranh chống Nhật bảo vệ vùng giải phóng, Cứu quốc quân kiên quyết tiến công và liên tục tiến công bằng chính trị và vũ trang, bằng mọi thứ vũ khí có trong tay. Phát huy chỗ mạnh tuyệt đối về chính trị và tinh thần, Cứu quốc quân đã đánh nhiều trận phục kích, công đồn giành thắng lợi to lớn. Dưa vào địa hình rừng núi, đèo cao, rừng sâu để tổ chức phục kích, truy kích Cứu quốc quân đã tạo được những yếu tố bí mật bất ngờ, phát huy chỗ mạnh của mình, hạn chế chỗ mạnh của địch, bảo đảm đánh chắc thắng.

Những cuộc đấu tranh vũ trang của Cứu quốc quân trong thời kỳ chuẩn bị lực lượng cũng như trong thời kỳ khởi nghĩa giành chính quyền cho chúng ta thấy rằng:

a) Trước hết phải nắm vững chủ trương và đường lối cách mạng của Đảng, phải nắm vững thời cơ và điều kiện khởi nghĩa thì cuộc đấu tranh vũ trang và khởi nghĩa mới giành được thắng lợi.

b) Mặc dù kẻ địch có ưu thế hơn ta về mọi mặt, nhưng nếu biết dựa chắc vào dân và địa hình rừng núi, biết vận dụng linh hoạt chiến thuật du kích, thiên biến vạn hóa, mưu trí, dũng cảm, kiên quyết, mau lẹ và kịp thời thì, ta vẫn có đủ khả năng đánh thắng kẻ địch.


Tiêu đề: Lịch sử Cứu quốc quân
Gửi bởi: macbupda trong 04 Tháng Tư, 2021, 03:29:53 pm
MỘT SỐ KẾT LUẬN

Dưới sự lãnh đạo của Trung ương và Xứ ủy, đội Cứu quốc quân đã trưởng thành mau chóng trong công cuộc chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền của Đảng. Sự trưởng thành mau chóng của Cứu quốc quân gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng, sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng của quần chúng ở chiến khu Hoàng Hoa Thám, ở khu căn cứ địa Việt Bắc và sự cổ vũ của phong trào cách mạng toàn quốc. Thắng lợi đã giành được của Cứu quốc quân là rất to lớn. Thắng lợi đó bắt nguồn từ sự lãnh đạo của Đảng, từ sự thương yêu, đùm bọc của đồng bào các dân tộc. Đồng thời, đó là thắng lợi của lòng yêu nước nồng nàn và chí căm thù địch sâu sắc; của nhiệt tình cách mạng và ý chí chiến đấu vì độc lập, tự do của dân tộc; của lòng trung thành tuyệt đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và của nhân dân: của óc thông minh, sáng tạo của toàn thế cán bộ và chiến sĩ đội Cứu quốc quân. Thắng lợi đó là đã xây dựng nên chiến khu Hoàng Hoa Thám có lực lượng chính trị và lực lượng tự vệ đông đảo, góp phần đưa đến sự ra đời của khu giải phóng, căn cứ địa chủ yếu của Cách mạng tháng Tám 1945. Đánh giá về các đội vũ trang đầu tiên của Đảng, đồng chí Lê Duẩn viết: «Sinh ra và lớn dần lên trong phong trào cách mạng rộng lớn của quần chúng, các đội quân Cứu quốc và giải phóng mà thanh thế vượt xa số quân cũng như quy mô những trận chiến đấu của nó, đã góp phần rất quan trọng tạo ra cao trào cứu nước của quần chúng từ 1941 đến 1945»(1).

Sự trưởng thành mau chóng cùng những thắng lợi to lớn mà Cứu quốc quân đã giành được chứng tỏ rằng, đường lối cách mạng và sự chỉ đạo xây dựng lực lượng vũ trang cũng như đấu tranh võ trang của Đảng là hoàn toàn đúng đắn. Những kinh nghiệm của Cứu quốc quân để lại rất phong phú, góp phần xây dựng nên truyền thống tốt đẹp của quân đội ta, góp phần vào sự hình thành và phát triển đường lối quân sự cũng như nghệ thuật quân sự của Đảng ta,

Kế tục và phát huy những truyền thống tốt đẹp của Cứu quốc quân, quân và dân các dân tộc thuộc chiến khu Hoàng Hoa Thám trước đây, đã không tiếc công, tiếc của, sẵn sàng hi sinh xương máu của mình, góp phần xây dựng Việt Bắc thành căn cứ địa thần thánh của cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta lần thứ hai. Trong sự nghiệp xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa và chống Mỹ, cứu nước, quân và dân các dân tộc Việt Bắc đã tích cực xây dựng Việt Bắc vững mạnh về mọi mặt để cùng cả nước đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ, để chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam, cho Tây Nguyên kết nghĩa anh em đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược. Truyền thống của cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, của Cứu quốc quân, của Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, của Cách mạng tháng Tám 1945 và kháng chiến chống Pháp đã được phát huy, nhất định ngày càng được nhân dân các dân tộc Việt Bắc phát huy một cách mạnh mẽ trong sự nghiệp xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở khu ta, góp phần cùng nhân dân cả nước xây dựng thành công xã hội xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ ở miền Nam, tiến tới thống nhất nước nhà.

Từ «cái hạt giống bé nhỏ... nẩy nở thành cái rừng to lớn»(2), ngày nay Đảng ta và nhân dân ta đã xây dựng được một đội quân cách mạng hùng hậu với các quân chủng, binh chủng hiện đại, đã đập tan mọi bước phiêu lưu quân sự của đế quốc Mỹ, tên sen đầm quốc tế, kẻ thù số một của nhân loại tiến bộ. Hơn ba mươi năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng vinh quang, lực lượng vũ trang cách mạng cùng với nhân dân ta đã «đánh thắng hai đế quốc to — là Pháp và Mỹ»(3). Chúng ta tự hào về lực lượng vũ trang hùng mạnh ngày nay bao nhiêu thì chúng ta lại càng tự hào về những đội vũ trang đầu tiên bấy nhiêu vì nó đã góp phần quan trọng đánh bại đế quốc Pháp, Nhật, đưa đến sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á mở ra kỷ nguyên mới của dân tộc Việt Nam — kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội.

Lịch sử Cứu quốc quân mãi mãi là nguồn động viên, cổ vũ quân và dân các dân tộc Việt Bắc trong sự nghiệp xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ ở miền Nam.


(1) Lê Duẩn: Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập, tự do, vì chủ nghĩa xã hội tiến lên giành những thắng lợi mới, Nhà Xuất bản Sự Thật, Hà Nội, 1970, tr. 48.
(2) Hồ Chí Minh, Vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội, Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội, 1970, tr. 74.
(3) Hồ Chí Minh, Vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội, Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội, 1970, tr. 330.