Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Tài liệu - Hồi ký Việt Nam => Tác giả chủ đề:: macbupda trong 10 Tháng Ba, 2019, 06:44:48 am



Tiêu đề: Đường chiến đấu
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Ba, 2019, 06:44:48 am
Tên sách: Đường chiến đấu
Tác giả: Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Nhà xuất bản: Quân đội nhân dân
Năm xuất bản: 2003
Số hóa: macbupda

“Đường chiến đấu”
ở dạng bản thảo đã được giải thưởng:
- Giải nhất, do Hội Văn học Nghệ thuật Tỉnh Bình Thuận trao
- Tặng tưởng VĂN HỌC NGHỆ THUẬT NĂM 2002 của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp của Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam (ngày 23 tháng 12 năm 2002).

Tôi chân thành cám ơn Hội Văn nghệ Bình Thuận, Ban Khoa học lịch sử Bộ Chỉ huy Quân sự Bình Thận, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Bình Thuận cùng bạn bè, đồng chí đã giúp đỡ tư liệu và góp nhiều ý kiến bổ ích để tôi hoàn thành tập hồi ký này.

PHẠM HOÀI CHƯƠNG

(https://www.quansuvn.net/index.php?action=dlattach;topic=31677.0;attach=23182;image)


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Ba, 2019, 06:45:59 am
PHẦN MỘT

TRỞ THÀNH CHIẾN SĨ
Kháng chiến chống Pháp

1. Đến trường.

Tôi nhớ mãi ngày đầu tiên đến trường làng Xuân Hội học lớp tư (lớp 2 ngày nay). Vào trường so với các bạn cùng lớp thì tôi nhỏ tuổi và nhỏ con nhất nên thầy xếp ngồi ở dãy bàn đầu. Ngồi bàn đầu gần thầy, phải nghiêm chỉnh, không được trò chuyện hoặc nghịch ngợm chút đỉnh như một số học trò ngồi các bàn sau nhưng điều đó lại làm cho mình có một nếp sinh hoạt tốt trong trường ngay từ buổi đầu. Tôi cũng nhớ mãi bài tập đọc đầu tên: “Năm nay tôi lên bảy, đã lớn, tôi đi học, không chơi bời lêu lổng như mấy năm còn bé…”. Đặc biệt, những bài học về luân lý đã ăn sâu vào tâm khảm và cùng đi với tôi suốt cả cuộc đời

“Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con…”



“Muốn sang thì bắc cầu kiều
Muốn con hay chữ thì yêu kính thầy…”

Và bài học lịch sử: “Hai mươi lăm triệu đồng bào con Hồng cháu Lạc, cha Rồng mẹ Tiên. Vua Lạc Long Quân lấy bà Âu Cơ – một bầu trăm trứng trăm con. Mười tám đời Hùng Vương dựng nước và giữ nước Văn Lang…

Nhìn những khẩu hiệu trên tường viết rất đẹp: “Tiên học lễ, hậu học văn – Nhất tự vi sư, bán tự vi sư – Trật tự, kỷ luật, sạch sẽ…”; các bản hình vẽ hoặc in về các môn học Cách trí, Sử ký, Địa dư làm tôi rất vui thích và thấy sự hiểu biết rộng mở hơn nhiều. Trường tôi có hai lớp: lớp năm (Đồng Ấu) và lớp tư (Dự bị). Qua những ngày cùng học, tôi có nhiều bạn bè, ngày ngày cắp sách đến trường vui đùa, chuyện trò, cùng nhau học tập, ngày càng yêu mến, gắn bó với trường.

Cha tôi trước cũng là một thầy giáo trường làng, khi tôi lớn thì ông đã nghỉ dạy. Cha con tôi rất thân mật, ông thường dặn dò chuyện học hành, lòng kính trọng thầy, tình cảm đối với bạn bè. Khi tôi lớn hơn, ông nói cả truyện đời, đôi khi còn luận bàn về thời cuộc. Mẹ tôi làm nội trợ, bà học đến sơ học yếu lược nên thường nhắc nhở giờ giấc học tập, kiểm tra bài vở của tôi, do vậy một phần lớn cũng làm cho tôi siêng năng chăm chỉ, không thể lười biếng được.

Năm đầu, mới quen trường quen lớp, cuối năm tôi chỉ đứng thứ 5 trên 36 sĩ số, nhưng vì là học sinh nhỏ nhất lớp nên nhận được một phần thưởng khuyến khích gồm một giấy khen, năm tập vở trắng, và một hộp bút chì màu. Tôi còn ở trường Xuân Hội một năm lớp tư nữa vì chưa đủ tuổi lên lớp 3 (sơ đẳng). Năm này tôi đứng nhất lớp, cứ sau mỗi kỳ thi tấn ích (kỳ thi ba tháng một lần) thì tôi nhận được một bằng khen; mẹ tôi đóng khung treo trên tường, đó là một vinh dự, tôi càng cố gắng để luôn giữ vị trí cho đến cuối năm học.

Sau nghỉ hè, tôi chuyển lên lớp ba ở trường Phan Lý. Là trường huyện nhưng từ trước cho đến năm tôi học vẫn chỉ có ba lớp. Hết học thầy Thê, tôi vẫn luôn thăm thầy, nhất là trong các dịp nghỉ hè và Tết. Kháng chiến, tôi đi chiến đấu xa, thầy ở trong vùng tạm bị chiếm; sau ngày giải phóng, tôi lại tiếp tục thăm viếng, mừng thọ cho đến khi thầy qua đời. Tôi rất kính trọng thầy và thầy vẫn thương yêu tôi như ngày nào còn nhỏ, các sáng chủ nhật thường đến nhà giúp thầy cộng điểm của lớp trong tuần.

Cuối năm thi yếu lược, tôi đỗ đầu toàn huyện. May mắn làm sao, vừa lúc nhà nước cho trường Phan Lý mở thêm lớp nhì nhỏ, chúng tôi khỏi đi học trường huyện Hòa Đa có sáu lớp nhưng xa hơn bảy cây số. Gia đình tôi không có xe đạp, nếu học ở Hòa Đa phải tìm nhà trọ, tốn kém, nhà nghèo không kham nổi. Thầy Vấn (dạy tôi) trong chống Pháp là cán bộ Ty Giáo dục Bình Thuận, nhưng không đi tập kết, nghe nói sau đó thầy đưa gia đình vào Sài Gòn rồi tìm cách ra được Khu 4 ở quê hương giải phóng. Đến nay, tôi vẫn không biết thầy cô và gia đình như thế nào.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Ba, 2019, 06:46:49 am
Lên lớp nhì lớn, một lần nữa trường tôi lại được mở thêm lớp vào năm sau có tiếp lớp nhất. Khi khai giảng lớp nhì lớn, trường làm lễ khánh thành có thượng thư Bộ Quốc dân Giáo dục Phạm Quỳnh, công sứ Pháp và tuần vũ Bình Thuận về dự. Có một nghịch lý là tuy còn nhỏ nhưng chúng tôi vẫn có thể thấy là: khi thầy trò lớp tôi chụp ảnh kỳ niệm có ba vị quan lớn thì viên công sứ Pháp đầu tỉnh lại ngồi chễm chệ ở ghế giữa, còn thượng thư và tuần vũ Nam triều thì ngồi ghế hai bên. Rõ ràng Công sứ Đại pháp oai vệ hơn thượng thư và tuần vũ Nam triều. Thầy lớp nhì lớn tên là Lê Võ Thám, người Quảng Nam, chưa vợ, mạnh khỏe, khôi ngô, thường mặc âu phục, chơi ten nít giỏi. Thầy có lối dạy rất sắc sảo, luôn được Huấn đạo, Kiểm học nhận xét tốt về sư phạm. Cách mạng tháng Tám, tôi nghe nói thầy ở Bộ chỉ huy mặt trận Nha Trang, sau công tác ở vùng tự do Liên khu 5. Trong chống Pháp, tôi không ra học ở Liên khu 5 nên không có điều kiện để tìm thăm thầy. Sau năm học, các thầy Tích, Thám, Phú đều đổi đi dạy ở nơi khác.

Tuy chỉ học mỗi thầy một năm, nhưng tình thầy trò rất đậm đà, thân thiết. Tôi ghi nhớ mãi công ơn các thầy đã dạy dỗ, dìu dắt tôi những bước đầu trên đường học hỏi kiến thức và xây dựng nhân cách ở đời; dù từ khởi đầu tuổi học trò cho đến khi rời ghế nhà trường tôi cũng chỉ mới tuổi 13 nhưng nhờ sự bồi dưỡng giáo dục về hiếu thảo với ông bà cha mẹ, biết ơn tổ tiên nòi giống, biết tôn sư trọng đạo, nhân nghĩa lễ trí tín trong đối nhân xử thế; từ đó lòng yêu nước thương nòi tuy chưa sâu sắc nhưng cũng đã hình thành và qua năm tháng đã được nâng lên. Từ năm lên lớp nhì nhỏ tôi được học bổng, thời đó với học bổng ít ỏi này cũng đủ mua sách vở, giấy bút, quần áo mặc trong năm, đỡ một phần cho gia đình. Học bổng thời ấy là số tiền nhà nước giúp cho những học sinh nghèo học giỏi, sau này lớn lên ra đời làm việc thì phải hoàn lại bằng cách trừ tiền lương hàng tháng cho đến hết số tiền được cấp. Tôi chỉ nhận học bổng ba năm, sau đậu tiểu học thì ở nhà giúp việc gia đình. Cách mạng tháng Tám, tôi khỏi phải trả món nợ học bổng cho “nhà nước Đại Pháp”.

Năm tôi học lớp nhất, Bảo Long lên ngôi Hoàng thái tử, mỗi trường huyện chọn một học sinh nhận giải thưởng của Bảo Long. Tôi may mắn nhận được giải thưởng này gồm một bức ảnh Bảo Long, mặc long bào, đội mũ mang hia và một quyển từ điển tiếng Pháp (La Rousse). Ảnh Bảo Long xem chơi nhưng quyền từ điển thì có ích cho học vấn. Cũng là một kỷ niệm đẹp thời học sinh.

Là học sinh giỏi ở trường Phan Lý, nhưng năm 1940 vào Phan Thiết thi tiểu học (nay là trường tiểu học Đức Thắng I), tôi không khỏi lo lắng “học tài thi phận”. Không may cho tôi, đầu tiên gặp bài chính tả tiếng Pháp là bài Leriz, tôi không nhớ cụm từ Leriz est le don du ciel (hạt gạo là của trời cho). Thầy đọc giọng mũi điệu như giọng đầm rất khó nghe, tôi không phân biệt đây là một hay ba từ. Liếc sang thí sinh bên cạnh thấy anh ta viết ba chữ. Hỏi nhỏ như anh ta sợ liên lụy, không đáp mà còn che kín bài viết, tôi đành viết đại là dounbuissiel thật là ẩu vì không có nghĩa gì cả.

Ở nhà đã biết bài chính tả tiếng Pháp là quan trọng quyết định, nên bị hột gà thì cả 5 còn lại: toán tiếng Pháp, văn tiếng Pháp, văn tiếng Việt, tập viết, tập vẽ đều bị loại, không chấm nữa. Mà rớt thi viết, không được vào thi vấn đáp tức rớt luôn. Bài chính tả chỉ được phạm hai lỗi, còn lại là đề phòng cho dấu phẩy, chấm phẩy, xuống hàng, gạch nối v.v… Các dấu thầy không đọc, tự mình phải xử lý. Sau ngày thi viết, tôi rất buồn vì đã phạm ba lỗi một lúc, vậy các bài khác có giỏi cũng bằng thừa. Hai ngày chờ đợi kết quả thi viết, tôi thẫn thờ ăn ngủ không ngon, đi chơi cũng chẳng thích thú gì. May mắn làm sao lúc xướng danh số 270 thí sinh đủ điểm vào thi miệng có tên tôi. Tôi không tin vào tai mình nữa, lúc đó chỉ sơ tuyển số đủ điểm vào thi miệng nên chỉ công bố tên theo thứ tự A, B, C chứ không theo điểm cao thấp. Tên tôi vần C nên dò cũng nhanh. Đây rồi, có tên Phạm Hoài Chương, không có tên Chương nào nữa. Tôi mừng không thể tả, có qua được bước này mới hy vọng ở bước sau, tôi như mở cờ trong bụng. Ngày thi miệng khá trót lọt. Bài thi dịch tiếng Việt sang tiếng Pháp là bài Làng tôi. Tôi mới dịch được độ một phần ba bài, thầy cho tôi. Liếc theo quản bút, tôi thấy con số 9. Đến bài sử ký Pháp thì rắc rối, bài Napoléon, tôi chỉ nhớ Napoléon sinh ở đảo Coóc mà không nhớ làng nào nên bỏ qua điểm này. Thầy chặn lại hỏi Napoléon sinh ở làng nào? Tôi bí. Thầy cười. Phần sau nói khá đầy đủ. Lúc thầy cho thôi, tôi nhìn thấy con số 7. Tiếc ơi là tiếc, chỉ quên cái tên làng sinh của Napoléon mà không được điểm cao, nhưng tại sao phải biết Napoléon sinh ở làng nào mới được nhỉ? Cha tôi ngoài hành lang theo dõi các bài thi vấn đáp của tôi với vẻ hài lòng. Cuối này, ông vui vẻ nói: chắc con đậu.

Những buổi học cuối năm thật thong thả, thoải mái. Chúng tôi lưu luyến từ giã những người thầy đã hết lòng dạy dỗ mình trong những bước đi đầu tiên để vào đời. Từ biết trường Phan Lý thân yêu sau bốn năm miệt mài học tập, tôi và nhiều bạn cùng lớp biết rằng từ đây phải rời ghế nhà trường vì nhà nghèo không thể thi vào ban thành chung được. Thời ấy chỉ ở Sài Gòn, Hà Nội mới có nhiều trường công, tư ở bậc thành chung. Ở Huế cũng chỉ có trường Đồng Khánh cho nữ và trường Khải Định cho nam mà thôi. Cho nên phải học giỏi nhưng cũng phải là con nhà khá giả mới có thể học lên bậc cao hơn được.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Ba, 2019, 06:48:14 am
2. Lao động.

Khi lớn hơn một chút, tôi được bà nội và mẹ cho biết ông nội tôi là người Hà Tĩnh, khi triều đình Huế bỏ các khoa thi chữ Hán thì ông học chữ quốc ngữ và các nghề thuốc bắc, thợ may. Có lẽ vì sinh kế, ông đi lần vào phía nam, đến ở xóm Tằm, làng Xuân Hội và gặp bà tôi. Ông làm thầy giáo ở trường làng ở Liêm Công, sau nghỉ dạy, ông làm thợ may và làm ruộng. Bà tôi nuôi tằm kéo kén thành tơ và làm nội trợ. Khi già, ông tôi thường bị bệnh, cuộc sống khó khăn hơn. Cha tôi vừa học chữ Hán vừa học chữ quốc ngữ, làm thầy giáo trường làng ở Thái An; khi tôi đến tuổi đi học thì cha tôi đã hết dạy từ lâu.

Mẹ tôi làm gạo hàng xáo, tráng bánh tráng, đi nhổ cỏ thuê, mót lúa ngày mùa. Khi tôi đi học thì nhà đã nghèo, nếu không ai đau bệnh thì cũng đủ sống. Hết học, tôi thường theo cha đi rập cu cườm và đánh cá.

Ở nông thôn, có mảnh bằng tiểu học cũng được coi trọng nhưng để bước vao đời thì cũng không dễ dàng. Chỉ một số ít con nhà khá giả, có thân thế thì mới chạy được làm giáo viên trường làng, không dễ như thời ông và cha tôi đâu. Tôi có người chú họ tên là Nguyễn Như Hương có anh bà con làm xếp ga ở Thủ Đức nên được làm nhân viên nhà ga. Cách mạng tháng Tám, chú vào thanh niên tiền phong, chiến đấu, hy sinh ở mặt trận Cầu Bông – Thị Nghè. Một người anh em bà con khác được học y tá ở nhà thương Phan Thiết. Tôi biết hoàn cảnh mình không được như vậy, thôi thì cứ lao động chân tay theo kiểu con nhà nghèo. Cha mẹ muốn tôi chọn lọc một trong các nghề thợ may, cắt tóc, thợ kim hoàn để khỏi nắng mưa vất vả nhưng tôi lại không muốn làm các nghề suốt ngày đứng ngồi một chỗ ấy mà chỉ muốn lao động làm thuê như các bạn cùng lứa. Năm 1941, cha mẹ cho tôi đi Sài Gòn học nghề sắp chữ in (typo graphe). Chủ nhà in tên là Trần Công Định ở 92 Pellerin, có quen biết cha tôi nên gia đình gửi tôi làm học nghề ăn cơm không, khỏi tốn tiền học việc, sau đó tôi có nghề để nuôi sống và giúp đỡ gia đình chút ít. Được đi đây đó, biết Sài Gòn cũng thích, tôi đồng ý. Học đến Tết, tôi đã có thể bước đầu kiếm một đồng/ngày; công nhân lành nghề một đồng rưỡi trở lên. Tôi định sau Tết sẽ xin đi làm ở nhà máy in Albert Portail lớn, có thể phát triển nghề nghiệp. Ở đó, tôi có một số bạn bè; vả lại, tay nghề mức đó mà chỉ làm ăn cơm không thì không tương ứng với sức lao động của tôi làm cho chủ. Trong thời gian học nghề, tôi còn làm thêm việc một lon ton.

Gần một năm học nghề ở Sài Gòn, tuy còn nhỏ tuổi, sau này tôi cũng nghiệm ra đó là một bước ngoặt của cuộc đời. Ở đó, đặc biệt có anh Toàn, một thợ sắp chữ, lớn hơn tôi chừng bảy, tám tuổi, tánh tình hiền hậu, điềm đạm, tuy không nói gì về cách mạng với tôi – vì tôi còn nhỏ - nhưng chính anh đã bí mật cho tôi mượn các “sách cấm” như sách viết về vua Hàm Nghi, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Trấn Ba Đình (Đinh Công Tráng). Anh còn hứa sau Tết sẽ cho tôi mượn đọc nhiều “sách quý hơn nữa để có những hiểu biết mới về người ta”. Cũng mãi sau Cách mạng tháng Tám, tôi mới biết năm 1940, không lâu sau khi tôi vào Sài Gòn, Nam Kỳ Khởi nghĩa long trời lở đất đã nổ ra và bị địch dìm trong bể máu mà nào tôi có hay biết chút gì. Đế quốc Pháp đàn áp đẫm máu mà bưng bít thật tài nên số đông đồng bào Sài Gòn chẳng biết được sự kiện này. Dù sao cũng có một việc địch không thể giấu, đó là Mỹ ném bom ở Xóm Chiểu làm chết hàng trăm lính nhật, đồng bào ta cũng có một số bị vạ lây. Cũng vì việc này mà sau Tết, cha mẹ không cho tôi vào Sài Gòn nữa vì “không biết rồi sẽ ra sao, lỡ có bề nào, gia đình chỉ có một mình mày là trai”. Tôi lại trở về với cảnh đồng quê yên ả giữa xóm làng. Tôi vui vẻ, hăng hái đi làm. Mùa cày gieo, tôi làm thuê cho các nhà nông thiếu lao động nên tôi sớm biết cày bừa, cả bên tá, bên dí đều thạo. Còn nhỏ nên người ta không cho gieo lúa vì gieo phải có kỹ thuật cao hơn.

Mùa nào việc ấy, tôi còn đi cuốc cỏ bắp, cỏ bông, nhổ mạ, cấy… Lớn chút nữa, đến mùa lúa chín, tôi đi gặt và ăn công đồng như mọi người. Các ông bầu gặt làng tôi có tinh thần đoàn kết tương trợ “trâu béo kéo trâu gầy”; không như bạn gặt Phan Rang vào, họ chia công nhứt, nhì, ba, tư rất sòng phẳng. Nếu vậy thì tôi mới chỉ đạt công nhì. Tôi rất thích gặt lúa vì đây cũng là một nghệ thuật, vừa phải dùng sức mạnh cơ bắp trong từng xác hái, vừa phải lùa lúa nhanh, nhiều, đều, không sót, chét không bị đứt gié lúa, đầu rạ bằng như thái.

Sức còn yếu mà lao động gặt quá nặng nên cứ gần trưa là tôi bị chảy máu cam, phải ngửa mặt lên hít mạnh, nhét trầu vào mũi rồi lại tiếp tục gặt. Đồng tiền làm ra từ lao động cật lực và đổ biết bao mồ hôi công sức mà lao động gặt là nặng nề nhất, đổ sức từng xác hái. Cơ thể cũng biết tự điều chỉnh, độ năm bảy ngày thì quen không chảy máu cam nữa. Ra sức suốt ngày, tối về nằm ê ẩm cả người, có điều ăn khỏe, ngủ ngon, qua mùa gặt lớn và rắn chắc hơn. Mùa gặt kéo dài hơn tháng, đây là làm khoán, đổ hết sức, ông bầu có nhiều kinh nghiệm nên giá trị ngày công khá cao, thường gắp hai ba lần làm công nhật. Ngoài tiền còn một phần lúa tương đương với tiền, lợi ích kinh tế cao. Cộng lúa hai cha con tôi gặt cùng số lúa của mẹ và hai em tôi mót thì ra Tết gia đình tôi có lúa cho nửa năm ăn.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Ba, 2019, 06:49:18 am
Năm 1943, cha mẹ tôi thường bị bệnh, bà nội tôi sau nhiều năm bị đau đầu đông, đã bị mù, các em gái nhỏ, em trai út mẹ tôi vừa sanh còn quá bé, đời sống gia đình tôi sa sút, lo chạy bữa ăn hàng ngày cũng là gánh nặng. Lúa trong cà tăng vơi đi nhanh chóng vì cả cái ăn và thuốc thang. Năm 1944, cha mẹ khỏe lại, gia đình đi phát miếng rẫy hơn một héc ta ở Sông Sỏi, bắc Sông Mao vài cây số, trồng bông cho Nhật, mỗi hộ được ứng trước hai mươi đồng để canh tác, đến thu hoạch phải bán hết cho Nhật, đáp ứng yêu cầu chiến tranh của chúng. Miệt mài lao động chăm sóc, cây bông lên đều, tốt. Tròng xen với bắp; thu hoạch bắp, cả nhà ăn bắp tươi luộc trừ cơm ăn hơn một tháng, ngon bổ, ai cũng mập mạp, hồng hào. Sắp đến mùa bông, hy vọng đời sống dễ chịu hơn. Cha con tôi ở chòi giữ rẫy chờ ngày bông nở. Bỗng một đêm tối, một đoàn vài chục người, gánh giỏ to, trang bị côn rựa, phản mác, đến vây chòi, lớn tiếng dọa:

- Ở yên trong chòi thì không việc gì, la lối chống cự thì chết. Bọn tao chỉ hái lứa đầu thôi, chủ nhà ăn lứa hai, lứa ba là được rồi, đừng dại chết uổng mạng, không ai tới cứu được đâu.

Nghe giọng nói biết đâu là số dân tỉnh ngoài đến ở xung quanh ga Sông Mao. Tiếng đồn họ võ nghệ cao cường và rất hung dữ; họ ăn cướp công khai, côn đồ chứ không lén lút. Tức chết mà không làm gì được vì thế cô sức yếu. Sáng ra xem lại thì trái đã nở và trái già bị lặt sạch, nghe đâu họ chở ghe bầu lùi ra Quảng bán rất được giá. Đến lứa thứ hai, một lần nữa họ lại đến cướp sạch. Có nhà xót của xông ra chặn bị họ đánh gần chết, của mất tật mang. Chỉ còn một vài lứa chót, may mà vừa đủ nạp trừ tiền ứng trước đầu mùa cho Nhật. Công sức mấy tháng trời đổ sông đổ biển. Gia đình tôi lại gồng gánh trở về làng cũ làm thuê như trước.

Sau khi ở Sài Gòn về, tôi hơi lớn, đọc các “sách cấm” về vua Hàm Nghi, Phan Đình Phùng… tôi càng ngưỡng mộ các bậc anh hùng hào kiệt, đã có những suy ngẫm của mình, dù chưa có hiểu biết gì về cách mạng, về chống Pháp, cứu nước. Tôi cũng khâm phục ông Cao Hành, một thủ lãnh nghĩa quân Cần Vương người làng tôi, đã lập chiến khu đánh Pháp một thời gian ở ngay khu rừng dưới xóm Sủng. Ôi! các cụ ngày trước có gan, có chí đánh Pháp cứu nước nhưng việc đánh giặc sao mà quá đơn giản. Học sử ký có trường thầy cũng có giảng là nghĩa quân thấy lính Pháp đi ôpa (đi đều) cho là chúng không có đầu gối bèn hái ổi non phơi khô đem rải trên đường rồi phục kích, chờ giặc đi qua giẫm lên trượt té không đứng dậy được mà xung phong tiêu diệt; thế là bị thất bại. Cha tôi cũng có kể lại việc này của nghĩa quân Cao Hành, tôi hỏi:

- Anh nói cho cha biết về ông Cao Hành?

- Ông nội.

- Dân làng mình có đi lính cho ông Cao Hành không?

- Có. Lính ông Cao Hành có một cơ, khoảng trăm rưỡi người.

- Ông nội có tham gia lính ông Cao Hành không?

- Không biết, ông nội không nói. Sau thất bại, giặc giết nhiều lắm, nếu ông nội có tham gia thì cũng đã trốn được, bởi nếu lộ thì đã bị họ chém đầu rồi.

- Cha biết chỗ đóng quân của ông Cao Hành không?

- Biết, ở đám rừng xuống xóm trường làng Xuân An.

- Sao chiến khu lại ở gần thành Bình Thuận dữ vậy?

- Hồi đó rừng còn rậm rạp lắm. Nghĩa quân canh gác ngày đêm, đánh trống mõ tùng tùng, cắc cắc rất nghiêm.

- Ông Cao Hành có bị chém đầu không?

- Ông chạy thoát được, về sau không nghe nói nữa. (Sự thật là sau đó ông cũng bị giặc Pháp bắt và hành hình ở Phan Thiết rất dã man).

- Số bị chém nhiều không?

- Ở Xuân Hội, Xuân An bị chém 12 người, bêu đầu ở Bến Tượng, đầu cầu Xóm Lụa.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Ba, 2019, 06:51:38 am
Trong tâm trí non trẻ của tôi hiện ra những tưởng tượng về ông Cao Hành, tuy không thấy sử sách ghi lại như Phan Đình Phùng, Đề Thám, Đinh Công Tráng nhưng quê tôi cũng có phong trào Cần Vương cứu nước, tôi thật sung sướng trong lòng. Tôi rủ cha tôi dẫn đi xem khu vực đóng quân ngày xưa của ông Cao Hành. Chiều con, ông dẫn tôi đi xem. Bây giờ ở đây còn một con đường mòn đi từ sau nhà ông Hào Liệu qua một đám gai chùm lé chứ không còn là rừng nữa, đường trổ ra xóm trường, ở miễu Xuân An. Phía sau lưng và bên hông xóm hiện cũng chỉ là một khu gò mả trống với một ít bụi gai góc lưa thưa. Sau ngày giải phóng, tỉnh Bình Thuận viết lịch sử truyền thống có nhắc đến tên ông Cao Hành trong phong trào Cần Vương ở Bình Thuận. Trong cuốn sử Nam Trung Bộ kháng chiến cũng có tên ông Cao Hành. Giờ đây, làng Xuân Hội đặt tên con đường chính của làng, đi từ quốc lộ 1 qua giữa xóm đến xóm Sủng là đường Cao Hành.

Trong xóm có nhà anh Cao Đàm, một người anh họ nhà giàu. Cách mạng tháng Tám, Cao Đàm là lý trường đương nhiệm, giao chính quyền Xuân Hội cho Cách mạng xong, anh tham gia công tác Việt Minh luôn cho đến sau giải phóng, nghỉ hưu. Điều đặc biệt tôi muốn nói là anh Đàm có một tủ sách rất nhiều loại mà tôi được mượn đọc tùy thích. Sách hay có, dở có, chính trị có, tiểu thuyết có. Thời đó tôi đã biết gì về chính trị, thích thì mượn đọc, tôi rất thích đọc sách nên đọc gần như hết tủ sách. Mà cũng lạ, anh mua được nhiều sách hay, như Đông Kinh nghĩa thục, Vợ ba Đề Thám, Tôi trốn sang Tàu, Phan Bội Châu, Nguyễn Trường Tộ… các sách này bổ sung thêm kiến thức cho tôi sau các sách cấm tôi được đọc ở Sài Gòn, làm tôi càng ngưỡng mộ các hào kiệt chí sĩ ấy. Sau Cách mạng tháng Tám, tôi biết Quốc dân đảng là phản động, còn lúc đó thì tôi vẫn trân trọng người nữ đảng viên Quốc dân đảng dám vượt gian khổ, hiểm nguy xuất ngoại mưu đồ giành độc lập. Tôi cũng được nhiều sách, tiểu thuyết của Tự Lực Văn Đoàn, tiểu thuyết thứ bảy như Dưới bóng tre xanh, Đoạn tuyệt, Hồn bướm mơ tiên, Lá ngọc cành vàng, Gánh hàng hoa, v.v… một loại sách mà tôi cũng mê say đọc là Trung Nhật chiến tranh, Nhật Nga chiến kỷ, Trung Nhật yếu nhân, nên tôi biết nhiều chính khách, võ tướng Anh, Mỹ, Nga, Tàu, Pháp, Đức, Ý, Nhật v.v… Cuốn “Nhật Bản 30 năm Duy Tân” cho tôi biết Minh Trị Thiên Hoàng là người bỏ chính sách bế quan tỏa cảng, thực hành cải cách kinh tế, đưa nước Nhật thành một đế quốc hùng cường. Trong khi đó thì vua Tự Đức bỏ ngoài tai những bản điều trần tuyệt vời của Nguyễn Trường Tộ về cải cách kinh tế, xã hội nước ta.

Với số kiến thức tuy lộn xộn nhưng dù sao nó cũng mở mang tầm hiểu biết của một thiếu niên trẻ tuổi như tôi hồi ấy, cũng gạn lọc, hình thành dần trong tôi lòng ngưỡng mộ các nhà cách mạng yêu nước của ta. Những bậc siêu quần xuất chúng của thế giới. Tôi rất muốn noi gương các bậc tiền hiền thời ấy dù đâu biết phải làm gì.

Về Bác Hồ, nghe phong thanh là có một thanh niên Việt Nam yêu nước, cách mạng, tài nghệ siêu quần, đang hoạt động ở hải ngoại, lo việc giành độc lập cho Tổ quốc, tên là Nguyễn Ái Quốc, cái tên đẹp và cao quý làm sao! Có lúc lại nghe đồn Nguyễn Ái Quốc đang ở Nhật, sẽ đưa quân về đánh đuổi đế quốc Pháp nên cũng chỉ hy vọng, mong đợi vậy thôi, bởi có sách báo nào viết rõ, có ai giải thích đâu.

Ông nội mất lúc tôi mới lên ba, để lại một số sách quý, ngoài các sách học bậc cơ sở, toán pháp, cách trí, địa chí Trần Văn Thông, còn có các sách Tam tự kinh, Tam thiên tự, Ấu học Hán tự tân thư, Đại Nam quốc sử diễn ca, Chinh phụ ngâm, Kim Vân Kiều, Nam Hải dị nhân liệt truyện, Hưng Đạo Đại Vương truyện… Sự giáo dục của nhà trường, gia đình, việc đọc được một số sách hay đã nhen nhóm vun đắp cho tôi từ ấy lòng yêu nước thương nòi và có lẽ cả lòng ham thích quân sự cũng manh nha từ các sách về chiến tranh, từ những trận đánh giặc giả thời học trò chăng?

Từ cuối năm 1944, máy bay Mỹ thường bay dọc theo đường sắt, ném bom cầu sắt Nha Môn bắc ga Sông Mao, ném bom cầu xóm Lụa trên quốc lộ 1, chỉ cách nhà tôi mấy trăm mét. Có lần thấy máy bay Mỹ đuổi máy bay Nhật chạy tới bời. Có một trận đánh lớn giữa Mỹ và Nhật trên vùng biển Bình Thuận, không xa bờ lắm, dân ven biển Phan Rí Cửa, Duồng, La Gàn, Long Hương,… đều thấy rõ. Hàng đàn phi cơ Mỹ oanh tạc một đoàn tàu chiến lớn của Nhật chạy từ hướng nam ra, đội hình kéo dài đâu từ Vũng Tàu đến tận Mũi Dinh. Cao xạ Nhật bắn trả cũng dữ nhưng không thấy hạ được chiếc máy bay Mỹ nào, cũng không thấy máy bay Nhật tham chiến. Lính Nhật chết, bị thương, sống sót bơi và trôi tấp vào bờ rất nhiều. Dân không dám ăn các loại cá lớn vì trong thịt cá có nhiều sâu như là múi bưởi, người ta nói đó là do ăn xác lính Nhật. Có điều là dân biển vớ bẩm, ngư dân vớt được rất nhiều của trôi, các loại cờ rếp vàng rất đẹp bán cho thợ giầy đóng đế xăng đan, đế giày bán rất đắt. Dầu tàu thủy thì nhiều vô kể. Thời chiến tranh rất khan hiếm hàng hóa, phải thắp sáng bằng dầu cá, lơ mờ, hôi hám, nay thắp dầu xăng thì thật tiện lợi nhưng hay phựt ngọn, rất hao. Ai đó đã có sáng kiến rất hay, cứ bỏ vài hột muối vào mỗi lít dầu thì thắp sáng bình thường như dầu lửa, không hao, không phựt, giá lại rất rẻ.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Ba, 2019, 06:53:37 am
Tôi có một người bà con tên là Trần Quang Lý làm thầy giáo, khi nghỉ dậy thì làm thầy thuốc bắc và bán cao đơn hoàn tán.

Năm 1948 anh Trần Quang Lý là bí thư huyện ủy Hòa Đa đầu tiên và đã mất vài chục năm nay.

Cha tôi có mua vài tháng nhật báo Sài Gòn. Lúc này ở phía nam có hai tờ báo hàng ngày là Sài Gòn và Điện Tín. Dù bị giặc Pháp kiểm duyệt gắt gao, tờ báo vẫn nói được một phần sự thật về thế chiến thứ hai. Tôi còn nhớ một bài báo có tựa đề là “Gấu Ó tranh hùng hay cuộc chiến tranh Nga – Đức” có đoạn viết: quân Đức hùng mạnh chỉ một thời gian ngắn đã chiếm gần hết châu Âu, đang cố gắng thôn tính Liên Xô, nhưng càng vào sâu nước Nga càng gặp nhiều bí ẩn khôn lường. Mùa đông giá rét kinh khủng đã gây nhiều khó khăn cho cuộc tiến công. Trận Xít-ta-lingờ-rát kéo dài nhiều tháng, quân Nga vẫn cầm chân quân Đức tại chỗ. Hai bên đánh nhau ác liệt, giành giật từng căn nhà, góc phố. Đức đã bị sa lầy ở mặt trận này của Nga Xô.

Ngày 8 tháng 3 năm 1945, Nhật lật Pháp, nắm quyền cai trị Đông Dương, trao độc lập cho Nam triều. Chánh phủ Trần Trọng Kim ra đời. Lý hương vẫn làm việc, vẫn đóng thuế thân, thuế chợ, cuộc sống không có gì khác trước, chỉ có người Nhật thì chuyên quyền. Một số ít người Nhật trước đây không thấy, không nghe nói đến, nay xuất hiện ở Hòa Đa, Tuy Phong, cũng đội mũ mềm kiểu Nhật, mang kiếm dài, đi giầy ống, nói vài tiếng Nhật, dù cũng không thấy họ làm gì.

Tôi vừa tuổi 18, bị làng bắt vào thanh niên phòng vệ; ai cũng phải vào, cả trai, gái, mặc đồng phục áo sơ mi trắng, quần sọc nâu, nón lá buông vành to bốn múi kiểu hướng đạo, trang bị một gậy dài 1,6 mét và một khoanh dây. Hàng ngày tập quân sự cơ bản, tập mótxơ, xêmapho, do các huynh trưởng huấn luyện. Để khi có việc, thanh niên phòng vệ phối hợp quân Nhật bảo vệ độc lập nước nhà (!). Tập quân sự, học mótxơ lúc đầu mới lạ cũng thích nhưng sau thì chán vì không thấy lợi ích gì, lại mất công việc làm ăn nên dần dần cũng nguội lạnh rồi tịt luôn. Nhưng có một phong trào khác lại thu hút số đông tuổi trẻ, đó là “Truyền bá quốc ngữ” dạy cho các em nghèo không được đến trường, dạy chữ cho bà con lớn tuổi còn mù chữ. Chúng tôi tham gia hăng hái vì đây là việc có ích mà mình có thể giúp bà con được. Lớp học dùng đình làng, các nhà rộng cũng vui lòng cho mượn. Các em học ban ngày, người lớn học buổi tối. Lần đầu tiên chúng tôi biết một phương pháp dạy học mới vừa vui, hay, dễ nhớ:

i tờ giống móc cả hai
i ngắn có chấm, tờ dài có ngang, i tờ, tờ i ti…

… O tròn như quả trứng gà
Ô thì đội mũ, ơ thì mang râu…

Nhiều người lớn, em nhỏ thông minh, mới một tháng đã biết đọc, biết viết.

Máy bay Mỹ đánh phá giao thông ngày càng nhiều, xóm làng được lệnh tổ chức “phòng không thụ động”, nhà nhà đào hầm ẩn nấp, các nơi công cộng cũng có hầm, một số được huấn luyện cứu thương, cứu sập. Một hôm, tôi cùng một số người đang đi trên cầu Xóm Lụa, nghe tiếng máy bay, chạy hụt hơi chưa khỏi cầu thì máy bay đã ở trên đầu, may sao nó đi thẳng, chẳng thấy đội Thần Phong đâu cả! Thời gian này có hàng đoàn người từ bắc kéo vào tìm việc làm, xin ăn, có người bán hoặc cho con nhỏ thật tội nghiệp. Đó là nạn đói khủng khiếp ở Bắc Bộ mà hồi ấy mọi người chưa biết là tội ác do giặc Nhật gây ra cho đồng bào ta. Bắt đầu có phong trào quyên góp và chở gạo ra Bắc giúp đồng bào bị nạn đói rất sôi nổi. Các thầy nhì Nguyễn Đình Huề, thầy nhất Thái Đức Cư đóng kịch rất hay, thường biểu diễn ở rạp hát Chợ Lầu, thu được bộn tiền mua gạo ủng hộ đồng bào ngoài Bắc.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Ba, 2019, 06:55:18 am
3. Tham gia Cách mạng.

Một chiều cuối tháng 8 năm 1945, tôi và một số bạn bè được anh Nguyễn Xuân Thăng bảo đến nhà anh giáo Ích để bàn việc quan trọng. Việc gì nhỉ? Anh Bẩy Thăng không phải là huynh trưởng thanh niên phòng vệ nhưng chính là người đã nói Trần Trọng Kim là bù nhìn của Nhật và đôn đốc chúng tôi tham gia truyền bá quốc ngữ. Tin anh, tôi đến họp, có khá đông người dự, nhìn qua tôi biết là người tốt. Anh Bảy tuyên bố mình là đại diện Việt Minh huyện phụ trách việc cướp chính quyền ở đây. Việt Minh đã giành chính quyền ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn và nhiều tỉnh. Hôm kia, Việt Minh tỉnh cũng đã cướp chính quyền ở Phan Thiết xong. Anh cho xem cờ Việt Minh đỏ tươi có sao vàng năm cách trên góc và giải thích ngắn gọn chương trình Việt Minh. Thật bất ngờ và mới lạ biết bao. Trước đây ở xóm tôi chưa ai biết gì về Việt Minh và cướp chính quyền cả. Anh cũng có nói chuyện với tôi về thời cuộc nhưng cũng chỉ nói chung chung là rồi đây sẽ có thay cũ đổi mới. Hồi Cách mạng tháng Tám, học chính trị thường định nghĩa Cách mạng là thay cũ đổi mới, kinh tế là kinh bang tế thế v.v…. Anh cũng không giao làm việc cụ thể gì nên tôi đâu biết anh là cán bộ Việt Minh, có lẽ trước đây anh chỉ coi tôi là một quần chúng tốt thôi. Anh dặn ngày mai tập trung mang theo cây, dây, giáo, mác cho thêm sức mạnh của quần chúng vũ trang đi cướp chính quyền làng Xuân Hội. Đêm ấy tôi không sao ngủ được, đầu óc miên man nhớ đến các cuộc khởi nghĩa Cần Vương và bao nhiều cuộc cách mạng khác đều không thành, nay Việt Minh lãnh đạo cách mạng thành công khắp nước, ngày mai làng Xuân Hội cũng giành chính quyền, đánh đổ đế quốc, phong kiến, đem lại độc lập thực sự cho toàn dân. Rồi đêm cũng qua, tôi vội xách cây, dây ra đi. Trên trăm người hàng ngũ chỉnh tề, đi đầu là anh Bảy Thăng rồi đến một thanh niên giương cao cờ đỏ sao vàng. Đoàn người rầm rập kéo vào đình làng Xuân Hội. Ngũ hương đang làm việc, bất ngờ, ngơ ngác. Anh Bảy Thăng nói dõng dạc:

- Hôm nay Việt Minh cướp chính quyền làng Xuân Hội. Hãy đầu hàng Việt Minh và bàn giao chính quyền ngay!

Cũng người quen và anh em họ hàng trong xóm cả thôi nên không có gì gay go, náo động cả. Anh Hội nói tiếp:

- Việt Minh đã cướp chính quyền ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn. Ở Phan Thiết, tỉnh trưởng Huỳnh Dư đầu hàng Việt Minh ngày 24 tháng 8 rồi.

Lý trưởng Cao Đàm phục tùng ngay. Anh Bảy Thăng đại diện Việt Minh cùng lý trưởng Cao Đàm ký biên bản bàn giao chính quyền êm thấm và nhanh chóng. Tiếp đó hạ cờ quẻ ly, làm lễ kéo cờ đỏ sao vàng lên đỉnh cột cờ của đình làng. Mọi người nghiêm trang, chào cờ theo kiểu mới của Việt Minh và hô to các khẩu hiệu cách mạng:

- Việt Minh độc lập muôn năm!

- Mặt trận Việt Minh muôn năm!

- Đả đảo phát xít Nhật – Pháp!

Chúng tôi hát vang bài ca Lên đàng, Thanh niên hành khúc, Bắc Nam Trung, Bạch Đằng Giang thật sau sưa, hào hùng. Lúc ấy chưa biết các bài Tiến quân ca, Chiến sĩ Việt Nam, Diệt phát xít.

Sáng hôm sau, xóm tôi lại đi cướp chính quyền huyện Phan Lý. Gậy gộc, giáo mác tua tủa, khí thế hùng dũng lạ thường, ra đường quốc lộ nhập đám với đoàn các làng Thương Thủy, Tịnh Mỹ, Xuân Quang, v.v… Có lẽ huyện biết trước nên khi đoàn người kéo đến huyện nha, đã thấy tri huyện Phạm Ngọc Cẩn cùng các đề lại, thừa phái khăn áo chỉnh tề đón sẵn tại cửa huyện đường và nói ngay: “Chúng tôi đầu hàng và xin theo Việt Minh”. Các anh Nguyễn Xuân Thăng, Lê Thượng Ích, Nguyễn Em cùng tri huyện ký biên bản, thu con dấu, chìa khóa kho và súng của lính lệ. Sau khi anh Bảy Thăng tuyên bố xóa bỏ chính quyền cũ và làm lễ chào cờ đỏ sao vàng, tất cả mọi người tuyên thệ trung thành với cách mạng.

Hai hôm sau, toàn thể làng Xuân Hội từ 18 tuổi trở lên đi bầu cử Ủy ban Nhân dân Cách mạng lâm thời làng Xuân Hội, lần đầu tiên hưởng quyền dân chủ chính trị trực tiếp lựa chọn người thay mặt cho mình nắm chính quyền. Hồi đó chưa quy định người ứng cử phải 21 tuổi. Tôi được giới thiệu và trúng cử chức danh Ủy trưởng tuyên truyền. Chủ tịch là ông Lê Văn Vui; Ủy trưởng tư pháp là anh Huỳnh Mai, Ủy trưởng quân sự là anh Nguyễn Phê, v.v… Ủy ban bắt đầu nhận công văn, chỉ thị của huyện. Các báo Cứu Quốc, Quyết Thắng rất quan trọng trong việc nâng cao nhận thức ban đầu. Rồi chúng tôi cũng biết về Chính phủ Cách mạng lâm thời của nước ta, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sự phổ biến miệng: Cụ Hồ là lãnh tụ vĩ đại chính là Nguyễn Ái Quốc càng làm chúng tôi vô cùng ngưỡng mộ, khâm phục và kính yêu Bác. Các làng phía nam huyện Hòa Đa từ Tăng Long đến Lương Sơn thành một cấp chính quyền gọi là Nam Bộ Hòa Đa. Việt Minh và các đoàn thể cứu quốc các làng xã được nhanh chóng tổ chức. tôi còn phụ trách đoàn trưởng thiếu niên nhi đồng Xuân Hội và trưởng Đoàn Tuyên truyền xung phong Xuân Hội. Phan Nên và Nguyễn Ca, hai bạn, thời tiểu học với tôi là ủy viên trong ban tuyên truyền. Nên còn là đoàn phó thiếu niên nhi đồng và đoàn phó tuyên truyền xung phong. Chúng tôi cùng nhau làm việc hăng say, đầy nhiệt huyết của tuổi trẻ. Sinh hoạt đoàn thể nhanh chóng xây dựng cho các em có tính đoàn kết, kỷ luật, lễ phép, ham học tập, tiến bộ rõ nên cha mẹ các em tin tưởng đoàn thể, thiếu niên nhi đồng cứu quốc.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Ba, 2019, 06:56:37 am
Chiều ngày 2 tháng 9 năm 1945, các làng của Nam Bộ Hòa Đa tập trung tại sân vận động trường Phan Lý làm mít tinh chào mừng, biểu thị lòng trung thành và ủng hộ Chính phủ Cụ Hồ. Nhìn cả rừng cờ đỏ sao vàng cùng vô số băng rôn, với các khẩu hiệu cách mạng, mọi người tràn ngập vui sướng và xúc động. Khi chào cờ, ai cũng rưng rưng nước mắt tự hào về nền độc lập thật sự của Tổ quốc do Cách mạng tháng Tám đem lại. Tất cả hô vang trời các khẩu hiệu mới:

- “Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa muôn năm!”

- “Nhiệt liệt ủng hộ Chính phủ Hồ Chí Minh!”

- “Hồ Chủ tịch muôn năm!”

Hơn tháng đã qua, một chuyển biến mới hết sức kỳ diệu, mọi người sống một cuộc sống cách mạng vô cùng sôi nổi, hào hứng, đoàn kết thương yêu nhau, chan hòa tình nghĩa, các thói hư, tật xấu hình như biến mất. Sáng tinh sương, nhiều người lớn cùng thanh thiếu niên chạy tập thể dục khắp đường làng. Một số được anh Hai Phê điều khiển luyện tập võ nghệ để tăng sức mạnh phục vụ đất nước. Hoạt động của đoàn tuyên truyền xung phong nhằm vào các nhiệm vụ chính trị một cách tích cực và có hiệu quả: Ủng hộ Nam Bộ kháng chiến, tăng gia sản xuất tiết kiệm, cứu đói miền Bắc, Tuần lễ Vàng, chuẩn bị bầu cử Quốc hội, v.v…. Noi gương Bác Hồ mỗi tuần nhịn ăn một bữa bỏ vào hũ gạo cứu quốc. Bản thân tôi làm rất nghiêm túc và bàn gia đình cùng làm. Truyền bá quốc ngữ nay thành Bình dân học vụ để diệt giặc dốt. Địa phương cũng bắt đầu chuẩn bị chống xâm lược bởi giặc Pháp đang mở rộng chiến tranh ra ngoài phạm vi Sài Gòn – Gia Định. Đoàn tuyên truyền xung phong Xuân Hội thường tổ chức các đêm lửa trại. Đồng bào rất hài lòng thấy con em mình hoạt bát dễ thương, biết ca múa, đóng kịch thể hiện các nhiệm vụ cách mạng một cách sinh động. Một hôm, đoàn đang cắm trại tại sân vận động Tịnh Mỹ thì có một ô tô con từ phía nam ra, thấy trại thiếu nhi bèn ghé vào. Đây là xe đồng chí Nguyễn Nhơn, Chủ tịch tỉnh ra công tác các huyện phía bắc, vào thăm nói chuyện với các em, điều đó khích lệ các em rất nhiều.

Tuy hăng say công tác, tôi vẫn đi làm kiếm sống vì cán bộ xã thôn phải tự túc. Mùa thu hoạch năm đó, bạn gặt Xuân Hội ra gặt tận Tuy Phong, Phan Rang đến tháng chạp mới về. Bấy giờ xe lửa là của ta, chúng tôi ngồi trên xe hát vang, lòng vui phơi phới và một sức sống mạnh mẽ dâng trào. Hành khách lạ, quen đều chan hòa ấm cúng như bà con một nhà, gọi nhau bằng đồng chí thật trìu mến, thân mật. Các bài Bắc Nam Trung, Thanh niên hành khúc, Lên đàng, Diệt phát xít, Chiến sĩ Việt Nam, Biết ơn Cụ Hồ được hát đi hát lại nhiều nhất và hăng say nhất

Dạo này có một trung đội Giải phóng quân đóng ở miễu làng Đa Phước. Hàng ngày, thanh niên đến thăm bộ đội và tập quân sự rất vui. Trung đội trưởng là Phạm Xuân Ngó, đồng chí tiểu đội phó Nguyễn Cang đang huấn luyện. Xem hay nhất là động tác bịt mắt tháo lắp súng đạn, đồng chí làm mẫu thật thuần thục, đẹp mắt. Bộ đội cho mượn súng trường anh đô-si-noa và mút-cơ-tông để tập nên rất ham, chủ yếu chúng tôi tập bắn súng để biết sử dụng khi cần thiết. Có một điều kích thích chúng tôi rất mạnh là đơn vị có một số nữ giải phóng quân rất trẻ, làm cứu thương mặt trận, đây là điều khiến thanh niên chúng tôi chạnh lòng. Phụ nữ dám xông pha chiến đấu nơi tiền tuyến, sao con trai mình không làm được việc đó. Điều băn khoăn này thường trở lại với tôi mỗi khi nhớ việc đi tập quân sự hôm ấy.

Giặc Pháp đã chiếm rộng cả Nam Bộ. Đồng bào Nam Bộ vùng lên chống giặc kiên cường. Phong trào ủng hộ Nam Bộ kháng chiến rất cao. Tỉnh tổ chức một đơn vị vào Nam Bộ tham gia chiến đấu ở mặt trận Cầu Bông – Thì Nghè. Không khí chuẩn bị chiến đấu ở địa phương rất sôi sục. ta vừa mới đuổi giặc Nhật khỏi Phan Thiết nhưng phải tích cực chuẩn bị đánh Pháp khi chúng đến, chưa biết lúc nào nhưng chắc không còn xa mấy nữa. Lệnh phá đường, đào hầm, ngã cây ở quốc lộ 1 được thi hành rất triệt để. Đoạn quốc lộ 1 từ Phan Rí đến Tuân Giáo hai hàng me bên lề đường đều bị đốn ngã chắn ngang cùng với hầm chữ chi xen kẽ dày đặc. Đường quốc lộ từ Phan Thiết đi Xuân Lộc cũng bị phá hoại nặng, chỉ các cầu cống là chưa phá. Tiếc rằng công tác phá hoại lớn, thế mà anh Nguyễn Thế Lâm chỉ huy mặt trận Nha Trang không biết, nên lúc ra Bắc, khi Bác Hồ hỏi ở Cực Nam có phá hoại giao thông không thì anh không trả lời được cho Bác vui lòng.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Ba, 2019, 06:58:11 am
Một hôm, tôi sang làm việc ở trụ sở thì nghe tin báo có quân Pháp nhảy dù xuống Bình Nhơn. Anh Hai Phê tập hợp hơn 100 thanh niên đi bắt giặc Pháp. Khí thế hừng hực, không ai tính toán giặc có súng còn ta chỉ có gậy gộc giáo mác, đánh nhau sẽ có hy sinh, mà chỉ chung một ý nghĩ, một hành động là phải nhanh chóng đi bắt giặc mà thôi. Tôi cùng Ca, Nên xếp ngay công việc, có mặt trong hàng ngũ lên đường. Đi trên chục cây số thì thấy mấy đoàn các làng đi trước quay về vì máy bay Pháp chỉ quần đảo chứ không đổ quân. Chúng tôi quay lại, tuy mệt nhưng rất vui, coi đây là cuộc tập dượt để sắp tới đánh Pháp.

Ban tuyên truyền tập trung vận động đồng bào bầu cử Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bình Thuận bầu hai đại biểu Quốc hội mà số ứng cử đến mười mấy người. Có người tôi biết như thầy nhì Nguyễn Đình Trà ở làng Phan Lý trước đây nhưng nhiều người chưa hiểu gì. Ông Nguyễn Tương được Việt Minh tỉnh giới thiệu là một cán bộ cách mạng từng bị đế quốc bắt tù đày, ông đã lãnh đạo giành chính quyền ở tỉnh nhà, chắc là được ủng hộ cao.

Ngày bầu cử mùng 6 tháng 1 năm 1946 là một ngày hội lớn. Tất cả bà con đi bầu nhanh chóng, đầy đủ đúng theo hướng dẫn. Chưa biết mấy về các ứng cử viên nên cũng khó lựa chọn; chỉ ông Nguyễn Tương được tất cả dân Xuân Hội bầu còn đại biểu thứ hai thì phân tán. Kết quả do tỉnh công bố, chỉ có ông Nguyễn Tương đắc cử. Vậy thì phải bầu lần thứ hai. Lần này, tỉnh giới thiệu bác sĩ Huỳnh Tấn Đối và ông đã trúng cử.

Sáng 29 Tết Bính Tuất, tôi định đi chợ một chút thì bỗng có một số thanh niên ở gần đường số 1 chạy hớt hải vào xóm báo có đoàn xe tăng chở giặc Pháp đang kéo qua cầu Xóm Lụa. Tiếp theo có một số người gánh gồng lỉnh kỉnh, có người chỉ kịp xách một cái túi đổ xô vào xóm Tằm. Thế là già trẻ, giá trai làng Xuân Hội cũng bung chạy xuống bến Ông Đình lội sang Lò Ngòi để rút vào Ngọc Sơn. Một lúc sau lại có tin tiếp là đoàn xe giặc đã kéo hết vào phía nam rồi. Tất cả trở về làng trong tâm trạng băn khoăn, lo lắng. Sự việc diễn ra bất ngờ, nhanh chóng quá, không thể hiểu hết nổi. Chiến tranh rồi sao? Chẳng thấy trên thông báo gì cả. Là một cán bộ, tôi cũng có nhiều suy nghĩ, tính toán: bây giờ Ủy ban Xuân Hội sẽ làm gì? Rõ ràng là không có Tết hòa bình nữa đâu, phải kháng chiến như Nam Bộ thôi. Ăn uống qua quít, chuẩn bị gồng gánh sẵn sàng khi có lệnh thì đi tản cư theo kế hoạch.

Sau khi chiếm huyện lỵ Hòa Đa, giặc để lại một đại đội Âu Phi đóng tại trụ sở Ủy ban huyện rồi tiến vào Phan Thiết. Huyện đã kịp rút về Ngọc Sơn, chỉ thị các xóm làng ven quốc lộ 1 phải làm vườn không nhà trống và tản cư sâu vào thôn quê, tổ chức ăn ở, canh gác chu đáo, không để địch đánh bất ngờ.

Việc làm vườn không nhà trống không được gì vì phải lo tản cư, công sức đâu mà đập phá nhả cửa. Đó là một thực tế. Sau này tôi chỉ thấy ở Thái An và Bầu Trắng là vùng sâu nên có làm nhà không vườn trống Một số bà con Xuân Hội chạy sang Khánh Tài, Lò Ngói cho gần, chiều tối có thể về coi nhà cửa, tài sản. Số khác chạy xa vào Ngọc Sơn cách quốc lộ 1 hơn ba cây số. Gia đình tôi ban đầu ở Lò Ngói. Tại đây có con đường đất rộng chạy lên giáp cầu Xóm Lụa chỉ hơn cây số. Sau đó tôi mới thấy mình không quàn sợ chút nào. Ngồi trong nhà ở Lò Ngói thấy rất rõ cầu Xóm Lụa và các đoàn xe địch chạy qua lại. Nếu xe địch theo đường này thì chỉ vài phút là đến xóm. Sau lưng xóm là đồng trống kéo dài đến bìa động Ngọc Sơn, địch ập đến thì không sao chạy thoát được. Quả nhiên mấy tháng sau, có một lần địch càn Lò Ngói, bắn chết bảy người.

Tản cư nhưng không sao đem hết tải sản, lương thực đi được, một số thanh niên cứu quốc Xuân Hội chúng tôi phải bám xóm làng trông coi của cải cho đồng bào. Bà con rất đồng ý. Cũng chỉ làm theo ý nghĩ của mình vì thấy là cần thiết. Đã ở lại xóm thì tất nhiên phải tổ chức nắm địch để bảo vệ mình, chúng tôi lập các tổ Mai Ca Nên, Chương Me nhỏ, Dung, Thuận, Huấn, v.v…. để bảo vệ dân và nắm địch. Từ đó mới nảy sinh việc ghi chép thống kê hành động hàng ngày của địch. Hơn mười ngày sau, địch Hòa Đa đưa một tiểu đội đến đóng đồn tại bờ bắc cầu Xóm Lụa để giữ cầu, đường và kiểm soát các làng xung quanh. Giặc Pháp gọi Phan Thanh Cần (một đề lại già của huyện Hòa Đa trước đây) ra làm huyện trường. Phan Thanh Giác người Chăm, chủ tịch huyện Phan Lý bị địch bắt trong một trận càn cũng đã nhận làm huyện trưởng Phan Lý Chăm, tiếp tay cho người Pháp nắm người Chăm. Lính Pháp ở đồn cầu Xóm Lụa (gọi là đồn cầu số 4) thường sục vào các làng lân cận tìm các lý trưởng cũ gọi ra làm tề. Cũng có người chịu ra làm xã trường như Đoàn Kế Nga ở Xuân An.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Ba, 2019, 02:49:37 pm
Chúng tôi nhờ thạo địa hình, biết tổ chức nắm địch, biết rõ chúng đi ngày nào, sáng chiều, quân số, trang bị, hành động, v.v… ghi chép đầy đủ cả xe cộ vận chuyển trên cầu như kiểu nhật ký nắm tình hình địch. Giá lúc đó có một đơn vị bộ đội liên lạc với chúng tôi để nắm địch tác chiến thì hay biết bao nhiêu! Trái lại, việc làm đó chẳng những vô bổ, lại sinh rắc rối, suýt mang họa. Huyện hỏi thanh niên Xuân Hội sao không tản cư mà ở lại xóm? Ai cho phép nắm địch, nắm để làm gì? Thật là một tin sét đánh. Hồi ấy, khi có điều gì nghi ngờ thường bị quy chụp là Việt gian và xử tử không phải là không có. Chúng tôi vội giải tán, đi theo gia đình tản cư, chưa đến mùa màng nên chỉ ăn chơi, trốn địch chứ chẳng làm được gì có ích cho kháng chiến và cho gia đình.

Thật ra thanh niên Xuân Hội cũng có tự động tìm cách đánh giặc theo cách của mình. Hai anh Nguyễn Nhỏ, Nguyên Me vốn là lính bảo an tỉnh ở Phan Thiết. Cách mạng tháng Tám trở thành Giải phóng quân, giặc đến, đánh mấy trận, đơn vị cho tạm về nhà. Là lính, các anh có kỹ năng quân sự và dạn dĩ. Một đêm hai người mò vào đồn Xóm Lụa quan sát địch. Đêm khuya yên lặng, vào sân đồn thấy mở cửa, bèn mò vào luôn, định tranh thủ chộp vài khẩu súng (!). Bỗng đụng chiếc cà mèn phát ra tiếng động, một tên Pháp đâu đó trong bóng tối hỏi: Cái gì? (quesque), cả hai vội bung chạy ra, tưởng mèo chuột khuya, nó chỉ bắn một phát pháo sáng rồi in luôn. Anh Nhỏ sau Hiệp định sơ bộ mùng 6 tháng 3, trên đường về đơn vị, đến Tăng Phú bị địch đi càn bắt về Hòa Đa, biết là Giải phóng quân, địch dụ dỗ không được đã bắn anh. Tấm gương trung thành với Tổ quốc, thà chết không theo giặc đã gây xúc động lớn trong đồng bào Hòa Đa. Nghe huyện có ý định đặt tên huyện Hòa Đa là huyện Nguyễn Nhỏ. Có lẽ do bận kháng chiến liên tục nên rồi không ai nhắc đến chuyện đó nữa.

Mò được vào tận đồn địch mà không lấy được súng tiếc quá! Ca, Nên và tôi bàn làm lại thử xem sao. Đêm ấy, ba chúng tôi ra hướng đồn, đi luồn từ nhà này sang nhà khác; đên lò rèn ông Kiểm Xồm cách đồn độ trăm mét chợt thấy trong căn nhà trống để ống bễ có nhiều người nằm ở sân gạch, quan sát kỹ thì đúng là địch ngủ, thấy đầu nó có súng. Một ý nghĩ lóe trong đầu, mỗi đứa cuỗm một khẩu súng. Chưa kịp chui vào thì một tên lính không biết từ đâu xuất hiện đi vòng quanh sân, tay lăm lăm khẩu súng. Hoảng hồn, cả bọn vội lui ra, bỏ mồi! Vừa tiếc, vừa ức, giá mỗi người có một quả lựu đạn thì tuyệt. Cho hay, dù là đi ăn trộm súng bí mật mà tay không thì cũng chẳng dễ ăn!

Anh em phát hiện: ban đêm có vài chục tên lính ngủ trên lòng cầu Xóm Lua; thanh niên xóm tôi lại bàn việc đánh bọn này theo tinh thần xáp chiến kiểu Cao Thắng. Cầu có tám nhịp, giữa hai mố là bảy trụ cầu, buộc dây vào năm chân giữa, dùng năm cặp để tấn công. Nối nhau leo lên mặt cầu, bất ngờ xông vào diệt bọn lính ngủ, cướp súng, theo dây tụt xuống nước bơi vền lên bến Xóm Tằm là xong. Kế hoạch rất táo bạo, rất hay, ai cũng hào hứng tham gia đội cảm tử. Nói thì hay, làm được thì lại càng tuyệt vời; song đánh giặc thật không phải như đánh giặc giả thời học trò. Cho một cặp leo lên mép thành cầu quan sát mới thấy bao nhiêu là cái khó. Đánh hai cặp thì nhanh nhưng không gọn, đánh nhiều thì khó giữ bí mật và làm sao tấn công nhất loạt? Nhưng khó nhất là không sao giải quyết được gọn gác lưu động chứ không phải bọn lính ngủ. Tính mãi không xong, cả những người hăng hái nhất cũng không gỡ được đành xếp lại. Chẳng lẽ thanh niên Xuân Hội không làm được việc gì sao? Anh Hai Phê lại đi xem địa thế trong làng. Có một đoạn đường có thể phục kích được. Bên nhà ông Bộ Thiện là hàng rào thuốc dấu rất dày, rậm rạp. Đối diện bên vườn ổi anh Giáo Lý là hàng trụ long cao, có thể khoét lỗ ngồi ém dưới chân rào. Địch thường đi một tiểu đội, ta sẽ dùng 12 cặp, mỗi cặp phụ trách một tên giặc. Khi cặp đầu xông ra ôm tên đi đầu, hô xung phong thì tất cả đồng loạt ào ra nhằm tên phụ trách mà hành động. Vũ khí là mác, phản, rựa cụt cán là gọn nhất. Quyết ăn cho được cú này. Nhưng… lại cũng như! Cao Thắng đánh ở rừng núi thành công rực rỡ, sử sách đã ghi chép, còn ở đây là xóm làng xem két kỹ thấy cũng không ổn. Khoét thử mấy lỗ thấy chỗ kín chỗ trống không sao giữ bí mật cho cả 24 người, nó phát hiện nổ súng trước thì nguy to, chắc chắn bị thất bại. Tính đi tính lại, chỉ huy Hai Phê cũng lắc đầu:

- Chưa được, để tính thêm, nhưng không bỏ đâu!

Nói thì chắc như vậy, nhưng sau đó có tin huyện hỏi thanh niên Xuân Hội không đi tản cư, ở lại xóm định làm gì. Thế là rã đám. Chỉ với tay không, chẳng súng, chẳng lựu đạn, không được giúp đỡ, khuyến khích mà nguy cơ đến tính mạng lơ lửng trên đầu. Thanh niên Xuân Hội muốn đánh địch một trận để có lợi cho kháng chiến mà không làm được. Trong khi đó ở Hòa Đa lại có một chuyện tay không lấy súng giặc thật tuyệt vời. Trường tiểu học Hòa Đa sát đường số 1 bỏ trống vì chạy giặc, các đoàn xe Pháp thường vào nghỉ trưa rồi đi. Một hôm, có đoàn xe ghé trường, lính ăn xong lăn ra ngủ mê mệt, súng ống bỏ ngổn ngang trong phòng. Anh cai trường vào phòng, địch chẳng biết gì, nhìn đống súng thèm quá, anh nảy ý định lấy một khẩu. Súng máy thì dài, nặng, khó giấu, súng trường thì không ngon, đã liều phải cho đáng giá. Thấy một khẩu vừa, gọn, anh lấy đút vào kệ dưới bàn thầy giáo. Địch vội vã hành quân, lộn xộn thế nào mà quên khẩu súng, anh liền xách súng nạp cho xã. Mừng quá mà không ai biết súng gì. Khẩu súng được đưa về huyện trang bị cho bộ đội địa phương. Đây là khẩu tôm xông, chiến lợi phẩm đầu tiên của tỉnh Bình Thuận trong kháng chiến chống Pháp. Khi trung đoàn rút một trung đội địa phương huyện thì khẩu tôm xông này về với đại đội Trần Quốc Tuấn. Trong một trận chống càn ở Ô Rô, nó đã nổ một loạt xâu táo hạ ba tên Pháp. Trường tiểu đội có mượn nó về giản bài binh khí học nên tôi biết rõ lai lịch khẩu súng này. Nhân dân ta thật anh hùng, khi có thời cơ thì tay không cũng làm nên việc lớn. Hồi đó không ai quan tâm khen thưởng chiến công này. Sau ngày giải phóng huyện Bắc Bình viết lịch sử truyền thống thì không tìm ra được anh cai trường này nữa!


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Ba, 2019, 02:50:34 pm
Tôi vào Ngọc Sơn với gia đình. Một đêm, có anh Tạ Viết Quý, trung đội trưởng Đại đội 1 chi đội 1 đi công tác ghé xóm, tôi ngỏ ý xin theo anh đi bộ đội, anh nhận lời báo chờ ba hôm nữa anh quay lại dẫn đi. Tôi chờ mãi không thấy, vậy là lỡ một cơ may tòng quân.

Một hôm, anh Bảy Thăng nhắn tôi đến nhà làng Khánh Tài họp bàn công tác kháng chiến. Từ ngày giặc chiếm quê tôi cho đến lúc đó, Ủy ban và Việt Minh Xuân Hội ngừng hoạt động, ngay được gọi đi họp, tôi mừng vô hạn. Tại cuộc họp có các ông Trương Đình Nga, Lê Văn Vui, Nguyễn Hoàng và Văn Thảo. Anh Bảy Thăng động viên mọi người ra sức góp phần vào sự nghiệp kháng chiến. Huyện đã chia thành mười khu (như xá sau này), các làng Hòa Thuận, Đa Phước, Xuân An, Xuân Hội là khu 6. Anh chỉ định ông Nga làm chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chính khu 6, ông Vui phó chủ tịch, Nguyễn Hoàng thư ký, Văn Thảo chủ nhiệm Việt Minh khu, tôi phó chủ nhiệm. Trước mắt là vận động toàn dân chống địch lập tề, đồng thời tích cực xây dựng lại các đoàn thể cứu quốc. Phương thức hoạt động là bí mật, bất hợp pháp, giữ gìn lực lượng. Công việc ban đầu là rải truyền đơn, dán biểu ngữ, treo băng cờ, làm cho nhân dân tin tưởng kháng chiến.

Anh Bảy Thăng là ủy viên Việt minh huyện và là bí thư Thanh niên Cứu quốc huyện nên còn bàn thêm công tác thanh niên và bổ sung tôi vào Ban Chấp hành thanh niên huyện phụ trách thanh niên khu 6. Mọi người nghiêm trang tuyên thệ dưới quốc kỳ và ảnh Bác Hồ, nguyện trung thành với chính phủ, nỗ lực thực hiện nhiệm vụ, đẩy phong trào địa phương lên, góp phần với huyện, tỉnh và cả nước. Ra về, lòng tôi tràn đầy sung sướng vì có sự chỉ đạo của trên, không lơ lửng như thời gian qua phí công vô ích. Rủi thay, chỉ một tuần sau, Văn Thảo hy sinh trên đường công tác ở Thương Thủy. Tôi thay thế nhiệm vụ Thảo. Tôi gặp Trường Cần, em bà con, cũng là bạn học của tôi; Cần là một thanh niên đầy nhiệt huyết, vui lòng nhận ngay nhiệm vụ bí thư Thanh niên khu 6. Cần tập hợp thêm hai bạn Trác, Lý thành một bộ ba rất hăng say, năng nổ. Về Phụ nữ cứu quốc, tôi vận động Trương Thị Kim Cúc làm bí thư Phụ nữ khu 6. Tôi cũng liên lạc với anh Lương Tri, một cán bộ nông dân ở Liêm Công để phụ trách đoàn thể nông dân. Chỉ một thời gian ngắn, Việt Minh khu 6 đã hình thành lại hệ thống các hội cứu quốc, khôi phục sinh hoạt, phát triển lực lượng, trước hết là củng cố lòng trung thành với Chính phủ Cụ Hồ, chống các chủ trương của địch. Phong trào khu 6 khá mạnh và được giữ vững lâu dài.

Ai cũng biết hoạt động là rất nguy hiểm, có thể bị tù đày, hy sinh nhưng công tác cách mạng rất quan trọng, vẻ vang, có tích cực hoạt động mới là thực sự kháng chiến, trung thành với Tổ quốc, với Bác Hồ. Mỗi lần sinh hoạt mừng công tác có kết quả, lòng vui khấp khởi, càng ra sức phát triển phong trào. Tôi vẫn nắm tổ chức thanh niên Xuân Hội; cùng Ca, Nên giáo dục lãnh đạo sinh hoạt và hoạt động; các em đã làm được nhiều việc, bám nắm địch, rải truyền đơn, treo băng cờ, đặc biệt là canh gác bảo vệ các cuộc họp.

Bấy giờ đã có số đông bà con về xóm sống hợp pháp làm ăn, kháng chiến trong vùng địch kiểm soát nên chúng tôi bám xóm làng hoạt động là có nhiệm vụ hẳn hoi, không phải tự động như trước. Là học sinh, anh em viết băng rôn, trình bày truyền đơn biểu ngữ với các loại chữ lớn nhỏ rất đẹp. Ca viết chữ hoa, chữ in, chữ rông, chữ gô tích không chê vào đâu được. Phông nền của các biểu ngữ áp phích đều rẩy mực tạo thành nền trời xanh có cờ đỏ sao vàng. Địch thì gỡ phá còn đồng bào thì trầm trồ khen ngợi. Có khi chỉ một ngày đã quần với địch vài ba lần. Truyền đơn, khẩu hiệu xuất hiện buổi sáng, địch lượm, gỡ hết thì trưa đã có số khác nhiều hơn, đẹp hơn. Chúng lại thu nhặt, la lối hăm dọa dân, chiều vẫn có tiếp. Việt Minh ở cạnh đây thôi, địch mệt đừ với các em thiếu niên cứu quốc dũng cảm này.

Đối đầu như vậy có lần cũng suýt bị nguy hiểm. Chợ Lầu là chợ làng Xuân Hội, các làng lân cận đến họp chợ hàng ngày rất đông đúc. Đầu chợ có một cái lầu nhỏ, có lẽ do vậy nên gọi là chợ Lầu. Địch dùng nhà lầu này làm nhà tuyên truyền, trình bày tranh ảnh khoe khoang sức mạnh của hải, lục, không quân Pháp hòng bắt đồng bào ta khuất phục, hợp tác với chúng. Tôi trà trộn vào xem và thấy nó rất nguy hiểm vì một số người xem cũng trầm trồ thán phục. Chúng tôi quyết phá phòng tuyên truyền. Chuẩn bị đầy đủ cờ, khẩu hiệu, áp phích, truyền đơn nói về cuộc kháng chiến chính nghĩa của ta nhất định thắng lợi, kêu gọi quân viễn chinh Pháp chống lại cuộc xâm lược phi nghĩa của thực dân Pháp. Viết bằng hai chữ tiếng Việt – Pháp, trình bày công phu, đẹp. Đêm đó, tôi cùng Ca, Nên xuống chợ Lầu, bố trí canh gác rồi cả ba leo lên mái lầu, xuống chợ Lầu, bố trí canh gác rồi cả ba leo lên mái lầu, nảy vào bên trong, bên ngoài cửa vẫn khóa. Xé gỡ hết hình ảnh trưng bày của địch, treo cờ, dán áp phích lên vách, để đầy truyền đơn ta lên bàn. Có ám hiệu báo địch. Tắt đèn ngồi im, nếu chúng mở khóa thì không đường nào thoát vì nhà chỉ có một cửa vào, chúng tôi lại không có vũ khí gì cả. Tiếng giày đinh rầm rập, tiếng nói ồn ào xung quanh càng uy hiếp chúng tôi dữ dội. Có tên còn lúc lắc khóa để kiểm tra. Mỗi giây phút trôi qua là cái chết như sắp đổ xuống đầu. Một chập, chúng kéo đi. Hú vía! Xong việc, leo lên nóc chui ra nhảy xuống, sung sướng ra về. Chắc chắn ngày mai địch bị một vố đau. 8 giờ, địch ở đồn Cầu Xóm Lụa xuống chợ, vào phòng tuyên truyền, chúng sửng sốt rồi ra chợ truy hỏi nhưng chẳng ai thấy Việt Minh đâu cả. Chúng giận dữ bắn bậy một ồi, dọa lần sau còn xảy ra sẽ bắn hết cả chợ. Tất nhiên, chúng tôi cũng biết tin này và chẳng dại gì làm một lần nữa để địch giết hại đồng bào.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Ba, 2019, 02:51:44 pm
Hiệp định sơ bộ 6 tháng 3 đến thật bất ngờ, vui mừng không thể tả. Thắng lợi rồi! Nam Bộ kháng chiến gần nửa năm, tỉnh ta mới hơn một tháng! Trong lịch sử đánh quân Nguyên đời Trần lần thứ nhất cũng chỉ 21 ngày. Lúc này, chúng tôi mới có lòng trung thành, sự tin tưởng tuyệt đối Chính phủ và Bác Hồ, chứ trình độ chính trị thì còn non yếu nên vẫn thắc mắc: tại sao nước ta chỉ là một quốc gia tự do, lại còn ở trong khối Liên hiệp Pháp? Tại sao Bác Hồ và Chính phủ lại cho địch lên miền Bắc với 15 ngàn quân và 5 năm mới rút hết?

Mấy hôm sau nghe một số người đi qua trước đồn Xóm Lụa cũng không sao, có tên lính ngụy còn nói là đã có hiệp định, hết chiến tranh rồi, dân cứ đi lại làm ăn bình thường. Để biết thực tế, chúng tôi bàn đi trực tiếp quan sát. Tôi Ca, Nên và anh Nguyễn Ngọc Cẩn, người Xóm Tằm, đang học ban tú bài, về ăn Tết bị kẹt không ra Hà Nội được, còn ở xóm tản cư với chúng tôi. Ba giờ chiều, khi đã thấy cầu và tên gác rõ mồn một thì chột dạ cũng không lui lại được nữa. Qua cầu, đến cổng đồn một lính Pháp cùng hai lính ngụy ra hiệu chúng tôi dừng lại:

- Đi đâu?

- Đi tản cư về.

- Về đâu.

- Về Xóm Tằm.

Tôi chỉ vào hướng Xóm Tằm. Một tên ngụy nhìn chúng tôi chòng chọc rất ác cảm. Tên Pháp hỏi, tên ngụy thông ngôn lại bằng tiếng bồi:

- Bốn anh bạn này đi từ nơi trốn về nhà (quatre camarades parti de la fuite à la masion).

Tên Pháp gật đầu không nói gì. Chúng tôi bình tĩnh đi qua đồn. Tên ngụy kia nói với theo:

- Bắt lại giam, đánh chết mẹ nó đi, nó nói láo đó.

- Người ta về lại xóm là tốt, bắt làm gì?

Vừa khuất bóng giặc, chúng tôi bươn bả vào xóm làng chưa hết sợ, nếu chúng trở mặt gọi lại thì nguy. Về nghĩ lại thấy việc qua đồn cũng khá liều lĩnh, vẫn có tên có thái độ rất hằn học mà mình đều là thanh niên, dù anh Cẩn giỏi tiếng Pháp cũng chưa chắc gì đã yên. Sau đó anh Cẩn ra Nha Trang, nhờ giỏi tiếng Pháp nên được chúng cho đi ra khu 5, khu tư và lên Việt Bắc đậu kiến trúc sư, phó tiến sĩ. Ngày giải phóng, anh là phó giáo sư, phó tiến sĩ, Vụ trưởng vụ Kế hoạch, Bộ giao thông vận tải.

Giặc Pháp ngày càng phá hoại hiệp định sơ bộ. Hội nghị Đà Lạt không kết quả. Hội nghị Phông-ten-nờ-blô cũng khó khăn. Ở địa phương không có dấu hiệu gì địch muốn thi hành tạm ước 19 tháng 4, phải chiến đấu thôi. Huyện giải thể các khu, lập các xã. Khu 6 thành xã Thuận Thành; chủ tịch xã là ông Lê Vui, phó chủ tịch là Nguyễn Hoàng, tôi làm thư ký kiêm chủ nhiệm Việt Minh xã. Địch đẩy mạnh chiến tranh, tôi càng muốn đi bộ đội. Theo Hiến pháp 1946, thanh niên phải làm nghĩa vụ quân sự 3 năm, giá hồi đầu năm, anh Tạ Viết Quý trở lại Ngọc Sơn như đã hẹn thì tôi đã đi bộ đội rồi, nay phải xin phép, rắc rối quá. Bạn bè và các anh ở xã đều ủng hộ, riêng anh Bảy Thăng dứt khoát không cho.

- Để anh em khác đi cũng được, cậu đang có nhiệm vụ, phải ở lại hoạt động cho địa phương.

Tôi biết bộ đội tỉnh ta đã có hoạt động, trận Hòn Nghề ở Bình Thiện cuối tháng 5 ta diệt một trung đội Pháp, thu nhiều súng, có hai trung liên. Chiến thắng được truyền nhanh rộng, trong địch hậu cũng rất phấn khởi. Một đêm cuối tháng 7, tôi đang ngủ, giật mình choàng dậy vì súng máy đồn Xóm Lụa nổ dồn dập dữ đội, đường đạn bay trên mái nhà thật khiếp. Cả giờ trôi qua, tiếng súng thưa dần rồi tắt hẳn, đêm vắng lặng. Sáng rõ, một số ở gần đồn kéo ùa vào mới biết khi đêm bộ đội đánh diệt đồn, lấy súng, thiêu hủy hết đồn rồi. Địch xây đồn mới, lực lượng tăng thêm một trung đội. Tiếc là đánh xong, bộ đội ở thu dọn lâu mà không cho nổ sập cầu Xóm Lụa.

Giặc Pháp không thi hành tạm ước 19 tháng 4, càng thúc giục tôi nôn nóng nhập ngũ để làm tròn nghĩa vụ người trai “xếp bút nghiên”. Là cán bộ Việt Minh và Ủy ban xã, tôi phải được sự đồng tình ủng hộ của các đồng chí lãnh đạo. Thời đó dù đi bộ đội mà không được tổ chức đồng ý vẫn bị xem là đào ngũ. Tôi đã quyết nên mỗi khi họp là tôi kiên trì vận động. Cuối cùng anh Bảy Thăng cũng xiêu lòng:

- Nó muốn đi qua mình cũng không nỡ cản. Vậy là mất một cán bộ thanh niên rồi!


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Ba, 2019, 02:57:10 pm
4. Nhập ngũ.

Dịp may đã đến. Đầu tháng 10 năm 1946, các anh Ba Cường và Bảy Sách, chiến sĩ Đại đội Quang Trung về làng vận động nhập ngũ. Bảy anh em Xuân Hội tòng quân. Tôi ở tuổi thanh niên nhưng nhỏ con, ốm yếu, Công và Khánh mới 16 tuổi, là ba người nhỏ con nhất. Ai cũng nói chắc tôi bị loại thôi, ốm yếu như vậy làm sao đánh giặc nổi. Hơi buồn nhưng tôi cứ quyết đi. Có người trốn cả cha mẹ, vợ con để đi, tội nghiệp. Tôi thì không, khi xin phép bà nội và mẹ không cản nhưng ý chứng không muốn tôi đi vì tôi là con trai lớn. Cha tôi nói nhẹ nhàng:

- Con đi là đúng. Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách. Cha đã già rồi, nếu còn trẻ cha cũng đi.

Tôi cảm động không nói nên lời, nắm chặt tay ông và lòng biết ơn vô hạn. Cha tôi đã động viên, chắp cánh cho tôi. Mẹ cho hai chục đồng bạc Việt Nam và dặn:

- Con phải ráng sao cho bằng anh bằng em.

Tạm biệt gia đình ruột thịt, xóm làng, bạn bè thân yêu ra đi vì nước, thỏa chí tang bồng, mai này đất nước độc lập, thanh bình, nếu còn sống, ta sẽ về lại mái nhà từng gắn bó từ ngày thơ ấu, sống lại cuộc đời vui tươi nơi thôn đã yên lành. Mẹ tôi đi tiễn một đoạn đường. Bà bưng một rổ lớn nói là đi Thái An hái dâu tằm nhưng tôi biết ý định của mẹ là đi trước “trinh sát” bảo vệ cho chúng tôi vì bà dặn khi nào giở nón lá là có địch, ở sau phải lách tránh. Từ Thái An, đoàn đi vào đường xe bò xuống Bàu Trắng. Mẹ đứng nhìn đến khi chúng tôi khuất xa mới rẽ vào xóm. Đến Dốc Găng ghé vào một chòi rẫy nghỉ. Chủ nhà hỏi:

- Đi đâu mà toàn thanh niên vậy?

- Chúng tôi đi bộ đội. Xin bác một ít nước để ăn trưa rồi đi tiếp.

Nước ở Khu Lê rất khó, nhưng chủ nhà còn vui vẻ bưng ra một rổ khoai lang luộc mời khách. Khoai đất cát rất ngon, củ nào cũng tròn lẳn, mới thấy đã thèm. Chúng tôi ăn sạch cả rổ khoai rồi để hết cơm nắm biếu lại chủ nhà. Ở rẫy thường ăn cơm độn khoai đậu, nay có vắt trắng thì tuyệt rồi. Bốn giờ chiều, anh Cường vào đơn vị báo cáo. Ba mươi phút sau có hai người ra gặp. Một chỉ huy to cao đẹp trai, đầu đội bê rê bát, đính sao có vành vàng, quân phục xanh dương, nịt xanh tuya rông, một bên đeo xắc cốt, một bên đeo súng ngắn hơi trễ xuống, giầy da cao cổ rất oai. Một người đeo xác cốt, mặt xita xám, ca lô xám có sao vành chỉ bạc. Đại đội trưởng nhìn kỹ từng người, tự nhiên tôi thấy hồi hộp như sắp trải qua một cuộc sát hạch. Bỗng ông hỏi tôi:

- Tên gì?

- Dạ, Phạm Hoài Chương.

- Bao nhiêu tuổi? (có lẽ ông thấy tôi nhỏ con).

- Dạ, mười tám.

- Văn hóa đến đâu?

- Dạ, cơ thủy. (không biết sao tôi không nói tiểu học. Hồi đó có lúc người ta cũng nói tiểu học là cơ thủy).

- Cơ thủy là gì? Primaire, Diplôome hay Bachelier? (tiểu học, thành chung, tú tài)

Chà, hách quá. Tôi lúng túng nhưng rồi cũng giữ được bình tĩnh.

- Dạ. Primaire.

- Chịu được gian khổ, hy sinh không?

Tôi phấn chấn hẳn lên:

- Dạ được!

- Chắc không?

- Dạ chắc.

Bây giờ đại đội trưởng mới mỉm cười:

- Thế thì tốt.

Tôi nhẹ cả người, vậy là đã qua sát hạch thắng lợi. Có lẽ ông thấy tôi ốm, nhỏ con nên chỉ hỏi một mình tôi. Như thế cả ba người nhỏ nhất đều được nhận, bốn người kia tất nhiên rồi, vì đều khỏe mạnh, rắn chắc. Sáng hôm sau, y tá trưởng Liễn ra khám từng người, cũng sơ sơ thôi, đo chiều cao bằng đứng dựa vào cột chòi. Nghe tim, phổi, gõ đầu gối, không đo huyết áp, không cân ký, may quá!

- Được hết!

Tôi và Công về trung đội 2. Trung đội trưởng trung đội 2 tên Nguyễn Uẩn, người Huế, bố trí cả hai làm liên lạc trung đội. Tôi xin được ở tiểu đội chiến đấu và đã toại nguyện. Tôi về tiểu đội 2, tiểu đội trưởng tên Kiểm (người Bắc), trong đoàn quân Nam tiến vào tháng 10 năm 1945. Từ đây tôi là chiến sĩ Đại đội Quang Trung, Trung đoàn 82 – Bình Thuận.

Vào bộ đội, tôi và nhiều bạn đều mong sao qua được 3 năm quân ngũ để làm tròn nghĩa vụ quân sự của người thanh niên theo Hiến pháp quy định. Sau đó lâu thêm bao nhiêu càng tốt. Nào ngờ chống Pháp 9 năm, và chống Mỹ 21 năm nữa!


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Ba, 2019, 02:58:10 pm
*
*   *

Mấy ngày đầu trong đại đội, tôi vừa vui vừa thoáng buồn. Vui vì đã thành người chiến sĩ trong đại gia đình quân đội cách mạng; có buồn đôi chút vi đây là lần đầu xa gia đình, làng xóm, bạn bè đã gắn bó từ thuở ấu thơ. Nhưng trước mắt là nhiệm vụ cao cả của người chiến sĩ tiền phương, tôi lại nhớ đến gương các anh hùng hào kiệt được học ở trường, được xem trong “sách cấm” ngày nào, nhớ đến lời dặn dò của cha mẹ, tôi hăng hái phấn chấn hẳn lên, nhanh chóng hòa vào cuộc sống của đơn vị. Trung đội trưởng bố trí tôi làm cấp dưỡng một thời gian để rèn luyện thử thách. Anh em trong tiểu đội động viên:

- Ai cũng phải qua bước này cả, đậu thì ở lại chiến đấu, rớt thì cho về. Cậu là học trò chắc hiểu biết điều đó. Bọn mình thi đầu hết mới được mang súng đấy.

Không biết các anh ấy có thi không nhưng tôi cũng cười, nói chắc nịch:

- Tôi đậu thôi, sau thời gian thử thách, tôi sẽ lại về lại tiểu đội thôi mà!

Tôi thầm nghĩ chắc mọi người cho tôi là học trò ở nhà sung sướng chứ biết đâu tôi đã lao động dạn dày, việc thử thách này không có gì làm tôi phải lo lắng. Cùng đến quản lý đại đội nhận việc còn có một số tân binh khác. Bác quản lý già thấy tôi nhỏ con tỏ vẻ thông cảm:

- Ráng lên đừng lùi bước, hết thời gian quy định lại về trung đội mang súng thôi!

- Cám ơn bác, người khác làm được thì tôi cũng làm được.

Hôm sau đại đội hành quân chiến đấu. Mười anh em đi phục vụ nuôi quân có tôi. Đường hành quân qua động cát Bàu Tráng ra Tăng Phú. Đại đội đóng quân ở Tăng Phú rồi đi phục kích bên Phan Rí Cửa. Chúng tôi kiếm củi nấu ăn, vắt cơm cho đơn vị về lấy. nặng nhọc nhất là lúc hành quân qua động cát, tôi cùng một tân binh khác khiêng bao gạo bằng một cây đòn sò đo. Dù được anh giúp đỡ, để tôi khiêng đầu trước và đoạn tôi hơi dài nhưng tôi thấp, trọng lượng lại dồn về phía tôi nhiều hơn thành ra càng vất vả. Khi đổi vai, tôi lại phải dừng lại, chùn chân lấy sức, hai tay nâng đòn qua đầu, có lần nặng quá nâng không nổi bị đòn gánh đánh lên đầu đau điếng, cát lún, chân đi xếu xáo, bao gạo như nặng hơn; chẳng có đoạn nào đất cứng cho đỡ một chút, toàn là cát, mồ hôi đầu đìa đầu tóc, mặt mày quần áo. Gần hai giờ khuya đến nơi, thở phào nhẹ nhõm. Việc nặng nhất đã qua, các việc khác bây giờ chỉ cần siêng năng là được. Cơm nước thì bác quản lý ưu đãi, ăn thoải mái, khỏi chia phần. Thời gian rồi cũng qua, tôi về tiểu đội với cái nhìn vui vẻ của mọi người.

- Được rồi, giờ lo huấn luyện để đi đánh giặc, mà đánh giặc mới là thử thách quyết liệt nhất.

- Tôi cũng đậu nữa thôi!

Tiểu đội trưởng và các chiến sĩ cũ đều hết lòng giúp đỡ chỉ bảo nhưng lại giao cho tôi mang một khẩu súng trường Nhật dài đẫm đễnh, súng không có dây quai, tôi phải vào rừng lột mẩu bện thành dây; làm sao êm bằng dây bờ-rờ-ren? Súng quá dài, mũi súng cao hơn đầu tôi cả tấc, đế súng thòng quá gối vài tấc! Găng nhất là cái nắp sắt đậy cơ bấm, mỗi lần lên đạn kêu rổn rảng thật đáng ghét mà cũng đáng sợ. Quân Nhật đánh chính quy cả binh đoàn không cần bí mật, ta đánh du kích thì bất lợi vô cùng. Mọi người an ủi:

- Súng Nhật bắn rất êm. Người cậu yếu, bắt mút-cờ-tông giật mạnh không chịu nổi. Đạn Nhật bắn đâu nổ đó, hạ giặc ngon ơ, không lép như đạn đam (đạn Pháp), nhiều lúc mất ăn, tức chết được.

Tôi mang khẩu súng cả trung đội trưởng, trung đội phó thấy cũng cười nhưng cũng không bảo đổi khẩu khác. Về sau, tôi bắn mút-cờ-tông thì không phải tất cả đạn đều lép và cũng không giật mạnh lắm, tôi chịu dư sức. Thì ra, lính cũ cũng đùn cho lính mới thứ súng dài thườn thượt, không thích mà thôi.

Tôi tập bắn, ném lựu đạn ngoài thao trường các buổi sáng, chiều. Trưa thì ngắm điểm chạm tại doanh trại, tối sinh hoạt, hát tập thể. Mấy ngày sau có lệnh đẽo kiếm gỗ để võ sư Phi Hùng (cũng lính đại đội) dạy bốn đường kiếm chém, đâm, đỡ, gạt cả bốn cửa trước, sau, phải, trái. Đại đội trưởng động viên:

- Ngày xưa, binh sĩ Tây Sơn ra trận xông lên như gió lốc, chém rụng đầu giặc như sung, quân địch bạt vía kinh hồn. Bây giờ, quân Pháp cũng rất sợ ta dùng bạch binh đánh giáp lá cà, phải cố tập cho giỏi.

Ở đại đội, tôi thấy có nhiều mã tấu thật. Một hôm, tôi đang tập đứng bắn, chính trị viên Phạm Hương từ sau đến nắm lấy đầu súng đẩy mạnh ra sau làm tôi suýt ngã.

- Anh ni là dở nhất!

Tôi ngượng quá, từ đó hết sức cảnh giác khi thấy cán bộ đến gần. Nhờ bị chê mà tôi tập môn xạ kích không đến nỗi nào. Ba bạn Cần, Lý, Trác cũng vừa mới nhập ngũ, tôi có thêm bạn thân càng vui. Cần, Lý to con, khỏe mạnh, tập tiến bộ nhanh. Trác bị cận nặng phải mang mắt kính có quai ra sau ót, chỉ sợ khi tác chiến mà rớt, hoặc bể kính thì nguy; tuy vậy cho đến tập kết, Trác mang kính cận đằng đẳng tám năm vẫn không hề gì.

Đại đội hành quân lên Thái An phục kích tại mé rừng hướng ra ruộng. Tôi ở tổ xung lực cạnh trung liên phát lệnh của trung đội 2. Tôi hy vọng cùng đồng đội lập công trận này. Phục ba ngày không địch, lòng nhủ lòng chờ dịp khác. Ở Thái An mấy tháng trước, trong dịp kỷ niệm Cách mạng tháng Tám vá Quốc khánh 2 tháng 9 đã diễn ra một trận đánh của đại đội, ta thu một trung liên đầu bạc, mà mất lại một trung liên đầu đen, xem như hòa, nhưng giặc Pháp cũng nể Quang Trung và sợ Thái An không dám đi càn thường xuyên như trước. Mấy ngày phục kích cũng làm cho tôi quen với việc chọn địa hình vừa che khuất vừa che đỡ, để quan sát, có lợi thế xạ kích, bổ ích cho các trận đánh sau này.

Ngày 19 tháng 12 năm 1946, cả nước theo lời kêu gọi của Bác Hồ đứng lên toàn quốc kháng chiến. Trước lúc xuất quân, Đại đội Quang Trung tổ chức mít tinh ở xóm Bình Thiện, nhân dân các làng xung quanh đến dự rất đông. Đại đội trưởng Đinh Ngọc Hằng đăng đàn diễn thuyết, ông nói rất hùng hồn, hấp dẫn, khi dứt lời, tất cả vỗ tay như sấm dậy và hô khẩu hiệu vang động cả khu rừng, thể hiện ý chí muôn người như một, tin tưởng Chính phủ Cụ Hồ, quyết tâm kháng chiến cho đến ngày thắng lợi. Sau mít tinh là một đêm lửa trại theo kiểu hướng đạo. Xung quanh đống lừa hồng rực sáng, các tiết mục cây nhà lá vườn nhưng không kém phần đặc sắc, đủ cả đơn ca, đồng ca, hề độc diễn. Vở kích ngắn tả lại trận Bình Thiện, địch đang lùa trâu bò xuống huyện, bị đội đội nổ súng, chúng bò lê bò càng làm mọi người cười lăn cả ra. Liên hoan đoàn kết quân dân đậm tình cá nước là cuộc động viên chính trị đặc sắc mà đơn vị thực hiện rất thành công. Trong thời kỳ đầu chống Pháp, Đại đội Quang Trung với những chiến công rực rõ và công tác quần chúng xuất sắc đã tạo được niền thương mến, tin yêu không bao giờ phai nhạt trong đồng bào các huyện Hòa Đa, Phan Lý, Tuy Phong.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Ba, 2019, 03:03:15 pm
5. Rèn luyện.

Đại đội đánh đồn Thượng Chánh – Phan Rí Cửa, do một tiểu đội địch đóng giữ. Một bộ phận bí mật áp sát đồn chờ địch tập hợp chào cờ sáng thì nổ súng. Một bộ phận phục kích tại chợ Phan Rí Cửa, cách đồn vài trăm mét chặn viện Hòa Đa. Trung đội 2 đảm nhận đánh viện cũng chia hai bộ phận. Hai tiểu đội có trung liên bố trí tại chợ sẽ diệt hai đến ba xe. Một tiểu đội xung lực bố trí trên các lầu cách chợ 100 mét đánh chặn các xe sau. Tôi nằm trong tiểu đội ở trên lầu. Nhiệm vụ tiểu đội tôi vừa nhẹ vừa nặng: địch viện ít thì chỉ đủ cho trung đội diệt, không còn phần chúng tôi; địch nhiều thì nhiều mấy cũng diệt cho bằng được, như vậy sẽ rất nặng và phải đánh ác liệt để bạn hoàn thành nhiệm vụ. Quân Âu Phi cơ động Hòa Đa có tới 3 đại đội, nhất định chúng sẽ đi nhiều, chúng tôi không sợ chỉ ngồi xem bạn đánh.

Đêm Phan Rí Cửa về khuya im lìm lặng lẽ. Bà con thấy bộ đội đến bố trí rất sợ, ta động viên chủ nhà cứ bình tĩnh núp kín tránh đạn, họ không nói gì, còn đem quà bánh ra ủng hộ. Hồi đó, một tiểu đội có 12 người chia thành 2 bán đội. Bán đội tôi có tiểu đội phó Thiên bố trí trên lầu hai nhà. Lần đầu tham gia đánh địch trong vùng sâu, dân cư đông đúc, nhưng nhà cửa san sát, có thể che đỡ tốt nên tôi cũng bình tĩnh cùng anh em chờ giờ nổ súng.

Một loạt trung liên rền vang, tiếp theo tiếng lựu đạn, súng trường dồn dập. Đánh rồi! Có tiếng ôtô.

- Địch viện nhanh thế? Mấy chiếc?

- Một.

- Sao ít thế?

- Nào ai biết vì sao?

Mấy tên lính Pháp ngồi trong thùng xe to đùng. Xe đến chợ, khẩu trung liên của trung đội khạc rất giòn. Trên lầu, tôi thấy anh em tràn ra đường. Anh Uẩn đứng rạng chân, miệng thổi còi liên tục. Chiếc xe bốc cháy rừng rực. Có liên lạc đến cho biết: đây là chiếc xe mang máy điện thoại xuống đồn, nó ra khỏi Hòa Đa, ta mới nổi súng nên chưa phải là quân viện, ta diệt sáu tên, thu sáu súng trường Anh, một số máy và dây điện thoại. Trung đội tiếp tục phục đánh quân viện cho đồn. Trung đội đánh thắng đã làm khí thế đơn vị lên rất cao.

Hơn 15 phút mà súng ở đồn vẫn còn nổ, tiếng trung liên bắn qua lại không dứt, xen kẽ tiếng súng trường, lựu đạn ầm ầm. Kiểu này là chưa dứt điểm, sẽ đánh viện to. Bỗng có lệnh: Đại đội cho trung đội 2 lui, xuống đò qua Hà Bớ. Dưới bến đã có nhiều thuyền dân chở bộ đội. Lên đất Hà Bớ, tôi thấy bóng dáng cao lớn của đại đội trưởng và chính trị viên Trần Quốc Thái phía trước. Đang trên đường ra Tân Phú thì nghe tiếng xe ầm ĩ bên chợ, tiếp đó thấy khói lửa ngút trời. địch đã sang sông đốt làng Hà Bớ ở sát biển, hàng trăm nhà lá san sát nên cháy sạch cả. Quân viện không bị đánh, không dám đuổi bộ đội mà quay ra hại dân, tội ác giặc Pháp thật chồng chất. Về Tăng Phú được biết do ban ngày quá trống, ta không áp sát được sân đồn, địch tập hợp chào cờ nhưng xa, mấy loạt trung liên đầu không diệt hết địch, tên xếp và tên xạ thủ trung liên còn sống sót xách được khẩu trung liên chạy vào đồn bắn trả quyết liệt. Không chiếm được đồn, kéo dài sẽ bị kẹt không sang sông được nên đại đội cho lui. Bọn viện đến nghe dân hù là bộ đội đông lắm nên chỉ đốt nhà dân trả thù. Thương đồng bào Hà Bớ bị tai họa, may là không ai bị giết. Ta chỉ thương nhẹ vài đồng chí khi đánh đồn. Đồng chí Trương Cần đánh trận rất dũng cảm, được đại đội biểu dương. Tôi xiết chặt tay mừng bạn lập được thành tích.

Đại đội hành quân ra Tuy Phong, đóng trong rừng không xa đồn ga Sông Lòng Sông mấy, các tham mưu con đoán chắc sẽ đánh đồn tiếp. Quả là hôm sau đại đội phổ biến kế hoạch đánh ga Sông Lòng Sông. Trung đội 2 phụ trách đánh dãy nhà lính của đồn. Trung đội chia thành 3 mũi vào sát sân rào cách vách đồn trên 30 mét. Đồng chí Văn (tân binh) phụ trách tiểu đội phó đi kiểm tra đội hình, thấy tôi nằm trong một hố trũng hơi chệch không đúng hình chữ V như học ở nhà, liền bảo tôi phải dịch lại cho đúng, tôi không cãi nhưng ra trận điều quan trọng là phải biết lợi dụng địa hình địa vật cho có lợi khi tác chiến, xê dịch chút ít chả sao, việc gì phải đúng chữ V, chữ A!


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Ba, 2019, 03:04:44 pm
Súng máy trung đội một nổ giòn giã, tiếng súng trường lựu đạn liên hồi. Địch bắn trả như vãi đạn. Chúng tôi tập trung bắn vào những nơi có ánh lửa tóe ra. Tôi ném một quả lựu đạn vọt qua rào, lăn lông lốc vào phía vách đồn, nổ dữ dội nhưng vì ngoài vách nên chẳng ăn thua gì. Trung đội trưởng cho đưa trung liên và một số xung lực vượt rào. Anh Kiểm leo rào, chạy vọt qua sân vào trong được một lựu đạn thì trúng đạn hy sinh. Trung liên chưa vào được, pháo sáng rọi thấy nhau rõ mồn một, địch bắn rát, trung đội trưởng thấy bộ đội bị chặn ngoài rào, nếu dây dưa, thương vong càng nhiều, nên cho lui. Anh Kiểm hy sinh, không đem về được.

Xuất quân đánh hai trận không kết quả nhưng tất cả vẫn quyết tâm chiến đấu lập công. Chiều 18 tháng 01 năm 1947, đơn vị ra quốc lộ 1 phục đánh giao thông đêm tại dốc Bàu Đá – xã Chí Công. Tiểu đội tôi nằm lề bắc đường chỉ cách mé lộ vài mét, ban đêm càng sát địch đánh càng dễ. Một xác ô tô con nằm cạnh đường được đẩy ra chắn ngay giữa lộ. Tiểu đội trưởng của tôi là anh Hồ Thế Sanh (quê Duồng, học sinh trung học, hiền, dễ mến) dặn tất cả đánh trận phải làm động tác bắt chước cho nhanh, bắn bao nhiêu đạn phải lượm hết vỏ về nạp. Tôi biết anh muốn kiểm tra chiến sĩ báo cáo bắn mấy viên thì phải có đủ số vỏ đạn nạp lại. Tiểu đội trưởng dẫu không dặn là không được ngủ quên thì tôi vẫn không chợp mắt được, bụng cứ nôn nao đợi giờ xe đến! Có lẽ hơn 3 giờ, chùm sao Bắc Đẩu đã chênh ngang tây. Có tiếng động cơ, tôi lên đạn, nhô đầu quan sát mặt đường. Ánh đèn pha sáng lóa trước mắt. Bị vật cản, chiếc xe đầu dừng lại. Các hỏa lực hốt-kít, bờ-ren đồng loạt trút đạn vào xe địch. Tiếng súng toàn trận nổ giòn giã. Tôi nhằm số lính trên xe đầu bắn liền ba phát thì anh Sanh xung phong, tôi nhảy vọt lên theo anh ra đường. Đêm lại tối như mực, đang dò tìm xác địch dưới đường để thu súng thì nghe một tiếng nổ lớn, lửa bốc cháy rừng rực cùng tiếng đạn nổ lớn, lửa bốc cháy rừng rực cùng tiếng đạn nổ như bắp rang trên xe, mùi khói súng, mùi thịt người khét lẹt tởm lợm. Một đồng chí nào đó đã vội vã ném chai cháy vào thùng xe, không ai dám lên xe thu súng. Chiếc xe thứ hai phía sau cũng cháy nhổ như vậy nên mọi người chỉ còn sục sạo hai bên đường. Có lệnh rút, tôi sực nhớ, vội quay lại hầm mò lấy đủ ba vỏ đạn. Về Thuận Long được phổ biến: kết quả ta đã diệt, thiêu hủy hai xe, bắn bị thương một xe, chiếc này chưa lọt vào ổ phục kích vội quay lại, bị bắn xép lốp sau, thương vong một số trên xe, nó vẫn cố lết về Duồng. Gần hết một đại đội Âu Phi cơ động của chi khu Hòa Đa đã bị diệt, nhưng ta chỉ thu được hơn chục súng trường Anh và mấy tiểu liên vì số lớn vũ khí bị cháy rụi cùng số lính chết trên hai xe. Địch ném một quả lựu đạn chày trúng hầm hốc-kít làm ba hy sinh (trong đó có đồng chí Phan Nhân Cương, trung đội trưởng trung đội 3, đồng chí xạ thủ hốc-kit và ba bị thương. Bọn này là lính lê dương thiện chiến nên cũng có tên kịp chống trả, gây cho ta tổn thất. Dù vậy, đây vẫn là một chiến thắng lớn, giòn giã của đại đội. Calvet, đại úy chi khu trưởng Hòa Đa, từng khoác lác sẽ bóp chết Đại đội Quang Trung trong một tháng; nhưng lâm trận đã tháo chạy thục mạng, bỏ mặc lính bị tiêu diệt. Quá trưa, địch mới đến trận địa, bắt dân xung quanh thu dọn xác chết, lượm lại súng đạn của bọn lính chết. Nếu đại đội để gần sáng mới rút hoặc để lại một số trinh sát sẽ thu thêm khá nhiều súng, có cả trung liên và mọt-ta. Âu cũng là thời kỳ đầu chiến tranh, chỉ huy và chiến sĩ chưa có mấy kinh nghiệm trong tác chiến và xử lý tình huống. Tôi được đại đội trưởng biểu dương không phải vì diệt địch thu súng mà vì đã nộp đủ ba vỏ đạn. Có lẽ không ai trong đại đội làm như vậy nên đại đội đánh giá cao để nêu gương. Thời ấy, mỗi súng chỉ có 10 – 15 viên đạn, phải nộp lại vỏ đạn như cho binh công xưởng rờ sạt thì mới có phát tiếp. Chiến thắng Bàu Đá có ý nghĩa và tác động lớn đối với phong trào địa phương.

Rừng chiến khu Thuận Phong –Nha Mé hôm nay tươi đẹp làm sao, gió sớm mát lành, cành lá xanh tươi mơn mởn, những cành mai vàng càng tô điểm thêm cho cảnh sắc ngày xuân. Tết đến với chiến sĩ! Vừa lập được chiến công để hưởng ứng lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Bác Hồ, Đại đội Quang Trung như tươi trẻ hẳn lên, vui vẻ phấn chấn lạ thường. Mới hôm kia về đây còn âm thầm lặng lẽ với cảnh rừng không mông quạnh, chả có gi đặc biệt, có lẽ vì đang ém quân, nhưng hôm nay lại thấy nó xôn xao sôi động, tươi tắn lạ thường. Người vui cảnh cũng vui theo! Kế hoạch mấy ngày xuân của đại đội thật hấp dẫn. Chiều 29 và sáng 30 ăn Tết nội bộ; chiều 30 đi La Gàn ăn Tết đoàn kết quân dân; sau đó đi Duồng, Long Hương. Được đi thăm viếng và ăn Tết với đồng bào mấy bữa đầu năm thì thật là thú vị. Chiều 29, đại đội ăn Tết sớm. Chờ quản lý dọn các món, quản ca đại đội bắt nhịp bài Ra đi vì nước, rồi từng trung đội thi nhau hát các bài tù của mình.

- Đây mới là bữa ăn Tết sớm. – Quản lý Lương Văn Nghĩa nghiêng mình rất điệu nghê: - Trưa mai 30 ăn Tết chính thức lớn hơn.

- Có ngon không ạ? – Một chiến sĩ nào đó lém lỉnh chen vào.

- Chắc chắn là ngon rồi. – Anh Nghĩa tươi cười tiếp: - Chiều 30 xuống La Gàn. Đại đội cùng địa phương lo chu đáo rồi!


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Ba, 2019, 03:08:56 pm
Một tràng vỗ tay tán thưởng rầm rộ. Nói là sơ bộ nhưng tôi thấy nào là thịt dồi cà chua, cá thu kho với thịt heo và tôm sú ăn cùng bánh tét, bún với thịt hầm, thịt xào chua, bánh tráng nướng, toàn là những món ăn ngày Tết chính cống. Vài mòn bánh ít, bánh nậm tráng miệng không chê vào đâu được. Sơ bộ mà thế này thì quá thần tiên, còn hơn ở nhà nhiều. Bữa Tết kháng chiến này thật là sang! Mấy ông quản lý thật giỏi và nhờ có sự ủng hộ chí tình của bà con Phan Rí Cửa, Duồng, La Gàn, Long Hương mới được vậy. Sau thời gian hành quân chiến đấu, nay về chiến khu ăn Tết vui Xuân thật phấn khởi. Ai cũng náo nức sẽ đi thăm viếng và ăn Tết với đồng bào cho thỏa tình quân dân cá nước rồi lại tiếp tục hành trình kháng chiến, giành thêm nhiều chiến thắng cho rạng danh Đại đội Quang Trung, góp phần tích cực vào công cuộc chống Pháp, cứu nước.

Cái vui nhất trong sinh hoạt tập thể vẫn là thi thố tài năng ca hát của từng trung đội hoặc đơn ca, song ca đối với những người có giọng hát hay. Anh Hồ Thế Xuân Sanh là cây đơn ca hay nhất đại đội. Anh có giọng ca ấm áp mượt mà; những bài Chiến sĩ trong đêm Xuân, Đàn chim Việt, Nhớ chiến khu, anh hát nghe như gần, như xa, lúc sâu lắng, khi dâng trào, thánh thót như rót vào lòng người, nhất là bài Thiên thai anh hát sao mà ngọt ngào say mê quyến rũ đến thế! Mãi bây giờ tôi vẫn còn nhớ một câu của bài Chiến sĩ trong đêm xuân:… “Kìa lác đác rơi bông hoa mai trắng, chống kiếm bên đường vắng, xuân sang chiến sĩ chờ”… Lời hát có phần mộng mơ, lãng mạn nhưng thật là hay và hát trong đêm xuân thì cũng thật thích hợp. Hồi ấy chúng tôi cũng chẳng thấy ảnh hưởng gì đến tinh thần giết giặc, ngược lại còn thúc giục mạnh mẽ hơn là khác. Ngay bài Chiến sĩ Việt Nam của Văn Cao, câu đầu cũng là; Bao chiến sĩ anh hùng lạnh lùng vung gươm ra sa trường! Anh Sanh không chỉ hát hay các bài trữ tình mà còn hát rất hay các bài hùng tráng như Thanh niên hành khúc, Không quân Việt Nam (Văn Cao), Bạch Đằng Giang… Trung đội 2 chúng tôi được chấm nhất bài Bắc Sơn. Trung đội 1 thì lúc nào cũng Ra đi vì nước thật hùng tráng, dồn dập. Trung đội 3 thì nổi tiếng với các bài ruột mà nay tôi chỉ nhớ là khi trung đội hát đến đoạn “Dấn bước lên đường, tiến tới chiến trường, nơi sa trường phủ lớp màn sương… thì cả trung đội như nhổm hết lên, ca gõ muốn bể và người hát cũng muốn đứt cả cổ! Đêm ấy tất cả ngủ một giấc thật yên ả ngon lành.

Sáng 30 Tết trời trong xanh, nắng vàng rực rỡ, gió ban mai mát lành. Tạm gác chuyện chiến đấu đã qua, trước mắt rạo rực chờ chiều nay xuống La Gàn. Tôi tính sẽ mặc chiếc áo sơ mi trắng may để mừng Tết độc lập nhưng rồi kháng chiến cất mãi, nay vẫn còn mới toanh. Áo này mặc với chiếc quần âu màu xanh dương chắc là rất nổi. Đi thăm đồng bào ngày Tết làm dáng một chút vậy mà.

Liên lạc đại đội đến thông báo có một cánh địch lớn đang tiến về hướng đại đội. Các trung đội lập tức kéo lên đồi phía sau, cách khoảng trăm mét. Ba dãy động cao, động sau cao hơn động trước, từ dãy cuối đổ xuống là rừng già kéo đến quốc lộ 1. Đại đội bố trí trên đồi thứ nhất. Đồng chí Thiên (tiểu đội phó) và tôi gác dưới chân đồi. Ban chỉ huy đại đội đi qua trước mặt, tôi hỏi đại đội phó Phạm Xuân Ngô:

- Địch đến, chúng tôi được bắn không hay chỉ bí mật lên báo cáo?

Đại đội phó không trả lời chỉ làm điệu bộ lên cu-lát rồi cùng đại đội trưởng, chính trị viên lên đồi. Tổ tôi nấp trong một lùm kín đợi địch, đến thật gần. Những tên Pháp cao to, mặc kaki vàng, đội calô, miệng hò hét a-lát-xô, vừa bắn vừa chạy đến chân động để lên chiếm đỉnh đồi. Nghe tiếng nổ trên đầu, nhìn lên thấy khẩu bờ-ren của trung đội đang nhả đạn. địch quá gần, tổ tôi hạ hai tên, chúng bắn như vãi đạn. Thiên gọi:

- Chạy!

- Chưa có lệnh sao dám lui?

- Anh em trên động lui hết rồi. Chạy nhanh theo trung đội kẻo bị kẹt.

Gặp anh Sanh mừng quá, anh bảo:

- Địch rất đông, bắn nhanh đi Chương!


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Ba, 2019, 03:11:12 pm
Hai anh em bắn từng phát. Anh Sanh súng trường Anh, tôi mút-cơ-tông,cứ nhằm mấy thằng chạy đầu mà nện, nó to dềnh dàng, nheo ngon lắm.

- Mình hạ được ba tên rồi!

- Tôi cũng bắn gục hai đứa, thấy bụng nó xịt khói rõ ràng.

Tôi bắn được năm viên, đang thay gắp đạn thì Thiên chạy đến gọi:

- Anh Sanh rút mau, đại đội lui rồi.

- Sao không thấy lệnh anh Uẩn.

- Không biết, anh em đi hết, tiểu đội mình cũng phải lui thôi.

Bên trái không còn trung liên bắn chặn nữa, cả tiểu đội vượt qua khoảng trống cuối cùng lên đồi ba. Ở đây là tuyến chiến đấu cuối cùng trên cao, nếu bỏ đồi tụt xuống rừng ở dưới thấp thì rất bất lợi. Nhìn xa xa bên trái, tôi thấy đại đội trưởng đứng cạnh khẩu hốc-kít đang khạc đạn, miệng nhai nhai một vạt áo, thói quen của anh khi đánh trận. Có lẽ phía trung đội 1 mé bên trái, địch đã lên đồi ba rồi nên có đạn bắn xuyên hông chúng tôi. Và kìa, cả ban chỉ huy đại đội đang tụt xuống rừng. trung đội 2 cũng yểm hộ nhau rút xuống. Mất điểm cao nhưng biết làm sao được, thế trận đã vỡ, bạn đã lui, có muốn giữ cũng không được. Địch thì nhí nhố vang trên đồi và quét từng loạt dài trung liên xuống rừng. Vào sâu mấy trăm mét, đại đội dừng lại bố trí chặn địch đuổi theo. Có lẽ bị thương vong nhiều nên chúng chẳng dám đuổi theo nữa, chỉ chiếm điểm cao rồi càn sục vào khu vực đóng quân của đại đội thôi.

Trời về trưa nóng ghê gớm. Dưới thấp bị đồi che khuất, không gió càng oi bức dữ, nước bình toong đã hết từ bao giò, cơn khát cháy cổ, dày vò hơn đói. Chiều tối về lại vị trí, một cảnh tượng đau lòng diễn ra trước mắt: tất cả đồ đạc cất giấu đều bị xáo tung đốt sạch, các thùng son thịt cá, các bao bánh Tết đều bị đâm thủng, dẫm nát. Càng mệt, đói, càng căm tức bọn giặc dã man độc ác. Đây là tiểu đoàn Âu Phi cơ động từ Phan Thiết ra phản ứng trận Bàu Đá vừa rồi. Ta hy sinh sáu (có đồng chí Tuy trung đội trưởng, Nguyễn Thanh Châu tiểu đội trưởng trung đội 1, quản ca đại đội và bác quản lý già), bị thương năm. Cũng may là đại đội chỉ đóng quân trong rừng, nếu cắt đường xuống La Gàn thì sẽ lọt ổ phục kích của một tiểu đoàn lê dương khác đang đón lõng vì chúng biết Quang Trung có kết hoạch xuống La Gàn ăn Tết. đêm ấy, tất cả ngủ tại công sự. Ngày mai địch càn tiếp thì trụ đánh tại chỗ. Tuổi trẻ nên việc ăn ngủ cũng dễ dàng, chỉ một giấc ngủ sâu là hồi phục sức khỏe. Bây giờ không ai nhắc việc đi La Gàn ăn Tết nữa.

Mờ sáng có một tiểu đoàn Âu Phi đang tiến vào hướng đại đội. Tứ bề yên lặng, chờ nổ súng rất căng thẳng. Nếu địch vào gặp ta đánh, tất nhiên chúng sẽ chiếm đồi, ta sẽ ở thế rất bất lợi. Mấy tiếng qua, có lẽ địch đã ra hết quốc lộ 1. Trưa đó có một cánh quân khác từ La Gàn lên hợp điểm ở quốc lộ 1 rồi cùng về hướng Hòa Đa. Hôm nay, đại đội trụ tại chỗ mà không có tác chiến. Địch chắc nể hoặc đoán sai là Quang Trung đã thoát vây đi xa rồi. Bà con Duồng, Phan Rí Cửa, Chợ Mới, Long Hương, La Gàn, Chợ Lầu vội gửi bánh trái, thịt cá cho đơn vị ăn Tết muộn và quần áo cho cả đại đội đủ mặc. Lòng dân như biển cả, nhờ vậy anh em cũng ấm lòng trong mấy ngày Xuân kháng chiến thoạt vui sướng, thoạt khổ ải này. Từ đó, các địa phương trên nổi tiếng là “vú sữa” của Đại đội Quang Trung.

Hôm sau đại đội cho một tổ gồm đồng chí Thiên, Tâm và tối đưa thương binh về bệnh viện trung đoàn ở Hố Đất. Cả tổ tôi đều xin ở lại chiến đấu nhưng các anh Uẩn, Sanh động viên chúng tôi nhanh chóng đưa thương binh rời khỏi vòng chiến. Chúng tôi lên đường khi ta, địch còn quần nhau, đường đi xa xôi dịu vợi, qua nhiều ngày đêm vất vả, thật không dễ dàng gì.

Tổ tôi về chiến khu ít hôm thì đại đội cũng về. Anh Uẩn về ban tham mưu trung đoàn; anh Lâm Bình Phước thay. Trung đội phó Bùi Xuân Diễn sang làm trung đội trưởng trung đội 1, anh Nguyễn Thân trung đội trưởng trung đội 3. Tôi được bầu làm chiến sĩ chính trị tiểu đội 2, công việc gần giống như chính trị viên trung đội; người chiến sĩ chính trị chỉ là chiến sĩ, không phải cán bộ chỉ huy như tiểu đội trưởng, tiểu đội phó, phải tích cực, gương mẫu trong học tập, công tác, chiến đấu và phải được anh em tín nhiệm. Nhiệm vụ vừa nặng nề vừa phải rất tế nhị, tránh đụng chạm với cán bộ tiểu đội và cả với chiến sĩ. Anh Lâm Bình Phước rất trẻ, chỉ hơn tôi một tuổi, có học vấn cao, hiền hậu, đẹp trai, anh em trung đội thường nói: Cô gái nào thấy anh cũng “cảm” ngay! Là một cán bộ quân sự, chính trị song toàn, nay làm trung đội trưởng nhưng chỉ ít lâu đã là chính trị viên đại đội, đại đội trưởng, tiểu đoàn phó. Tiếc là anh hy sinh quá sớm, vào giữa năm 1950 đang độ tài năng phát triển thật sung mãn, để lại niềm thương tiếc vô hạn cho gia đình và đồng đội. Tôi được anh Phước tuyên truyền, giác ngộ về chủ nghĩa Cộng sản Đông Dương, về Bác Hồ, lãnh tụ vĩ đại của Đảng và dân tộc, tôi càng ra sức phấn đấu để được trở thành đảng viên, suốt đời chiến đấu thực hiện mục tiêu, lý tưởng của Đảng và cũng là của mình.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Ba, 2019, 03:14:12 pm
Đại đội hành quân, đánh một trận rất táo bạo, độc đáo, tiếc thay, không thành công. Đồng chí Tâm (chiến sĩ Nam Tiến) lái một xe ôtô chở một quả bom 500 ký có Chiêu liên lạc (người địa phương) dẫn đường. Xe dừng trước cổng đồn Lương Sơn, Hạ đốt dây cháy chậm rồi cả ba phóng nhanh xuống bực hầm bến nước Lương Sơn. Một tiếng nổ long trời, tên lính trên chòi gác và tên lính ra xét xe đều bị bay mất xác. Binh lính trong đồn lịm đi đến mấy phút. Do bom nổ ngoài cổng còn xa vách đồn nên sức phá hoại không ghê gớm như ta tưởng, ta lại phục quá xa vì cũng sợ sức ép của bom. Sau tiếng nỏ, tưởng địch chết cả rồi, nhưng khi chạy đến gần, địch hoàn hồn bắn ra như mưa; may mà không gây sát thương ai. Điều nghiên không kỹ, trận đánh nổ ra đúng kế hoạch mà không ăn, tiếc công lao và tức anh ách!

Đầu tháng 4 năm 1947, tôi và các bạn Cần, Lý, Trác, Khuyến, Dũng đi học lớp “Quân chính tiểu đội” của trung đoàn mở tại Ô Rô. Một hôm, trung đoàn phó Nguyễn Đức Tuyến lệnh cho trường đi bảo vệ cơ quan trung đoàn bộ dời sang Lệ Nghi – Bá Ghe bên núi vì địch càn lớn các vùng Ô Rô – Hố Đất. Tạm nghỉ học, chỉ làm cảnh vệ, hàng ngày ngoài việc canh gác tuần tra còn giúp việc cho nhà bếp. Ở đây măng nhiều vô kể và tắm suối cả ngày, đặc biệt món thịt heo hầm măng ngon tuyệt, ở đồng bằng khó có. Hơn một tuần lễ ở lại Ô Rô. Có lần cả lớp đi thực địa ở Bàu Thiêu để thực hành bài tập: “Đánh một đại đội đi càn đóng quân dã ngoại ở Bàu Thiêu”. Trong cuộc càn vừa rồi có một đại đội địch đóng ở gần Bàu Thiêu thật. Là học sinh lớp tiểu đội mà ai cũng dùng một đại đội để tấn công, mỗi người đánh một kiểu mà bài nào đại đội ta cũng diệt gọn đại đội địch (!). Riêng anh Ngọ (học sinh của cơ quan trung đoàn) có cánh đánh đặc biệt nhất: anh sử dụng một tiểu đoàn vây kín, dồn địch xuống Bàu Diều diệt sạch không sót một tên. Xem bài đánh của Ngọ, ai cũng cười:

- Đánh như ông thì dễ ăn quá, chẳng cần kỹ thuật, chiến thuật gì ráo trọi.

Ngọ tỉnh bơ:

- Tôi dùng quân gấp ba lần địch thì ăn chắc là nhất định rồi. Tại sao chỉ dùng lực lượng ngang địch như các ông mới được?

Anh ta cũng có lý, trường “cho” địch một đại đội và có hạn chế sử dụng quân đâu! Còn cách đánh thì mỗi người một vẻ, bất tất ai phải giống ai. Hồi đó chúng tôi chưa học phòng ngự thì một đánh ba, còn tấn công thì ba đánh một. Ông Nguyễn Tương (chỉ huy tự vệ chiến đấu tỉnh) đến thăm trường cũng tham gia ý kiến. Theo ông, địch càn căn cứ thì ít nhất cũng một đại đội trở lên, nhưng anh chỉ dùng vài tổ quấy rối tiêu hao, rồi dùng nhiều tổ phục đánh nhiều nơi khi địch rút thì vừa sức ta mà địch bao nhiêu, đi mấy đường đều đánh cả. Cũng là ý hay nhưng anh là du kích nên có cách đánh của du kích. Chúng tôi, những chỉ huy tương lai của chủ lực thì lại thích cách đánh tiêu diệt, chính quy! Trường chỉ ra bài tập vậy thôi, không có chấm điểm, còn các học viên thì coi là mình đậu tất.

Tham mưu trưởng trung đoàn Phan Hạo cũng đến thăm trường và chỉ thị lớp học tham gia lễ kỷ niệm “Đệ nhất chu niên Trung đoàn 82” ngày 25 tháng 6 năm 1947. Học sinh quân là một khối diễu binh, mặc đồng phục vải ta trắng, đội ca lô trắng có sao vàng nền đỏ, mang súng mút-cờ-tông. Trong lễ, đội hình học sinh quân nổi bật nhất trong các khoa mục cơ bản biểu diễn cũng như lúc diễu binh, được hoan nghênh nhiệt liệt. Có cả 3 đại đội (Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Quang Trung) diễu binh. Mỗi đại đội có một vẻ riêng nhưng Hoàng Hoa Thám trội nhất vì cái gì cũng thống nhất 100 phần trăm. Ban chỉ huy đại đội cưỡi ngựa, mặc kaki vàng, đeo xắc-cốt và súng ngắn có dây bờ-rờ-ten chéo, đội bêrê có sao vàng. Các trung đội trưởng cũng cưỡi ngựa, quân phục kaki xanh dương, mang kiếm dài. Đội hình đều tăm tắp, đẹp hết ý. Tiểu đội trưởng mặc kaki ăng lê xanh nhạt, mang tiểu liên, ca lô cùng màu. Chiến sĩ âu phục, vải đen mới, quần rút ống, xanh tuya-rông, có hai bao đạn, mang toàn súng trường mát 36 (chiến lợi phẩm). Ai cũng khen Hoàng Hoa Thám giàu, khéo tổ chức. Đại đội Phan Đình Phùng ăn mặc giản dị hơn, đặc biệt là toàn đại đội đều đội mũ tôn gò tròn như mũ sắt, mang súng trường mút-cờ-tông khá ngộ. Quang Trung thì chỉ huy, chiến sĩ đều mặc kaki vàng mới nguyên nhưng súng thì đủ loại (nhiều nhất là súng trường Anh), khẩu đại liên hốc-kít chân thấp cũng rất hiên ngang.

Sân lễ thật hoành tráng, rực rỡ. Buổi sáng sau lễ kỷ niệm chính thức là biểu diễn quân sự, diễu binh, tiếp theo là điền kinh. Các vận động viên Minh Quốc, Nguyễn Suất của Hoàng Hoa Thám chạy cự ly ngắn nước rút rất cừ nhưng đến 800 và 1.500 mét thì phải nhường cho Lê Văn Nhật (Quang Trung). Nhảy cao nhất 1,60 mét là Đỗ Hoàng Sửu (của Hoàng Hoa Thám). Còn nhảy dài nhất cũng lại là Lê Văn Nhật. Buổi chiều là bóng chuyền, bóng đá vô cùng sôi nổi. Buổi tối, đoàn văn công Sao Vàng của trung đoàn biểu diễn văn nghệ hay hết ý. Các diễn viên thật tài nghệ không kém gì các đoàn hát chuyên nghiệp. Không ai ngờ là buổi tối toàn sân rực rỡ trong ánh điện nào khác gì ở Phan Thiết. Lễ kỷ niệm gây ấn tượng thật sâu sắc cả với bộ đội và hàng ngàn đồng bào Khu Lê, Tam Giác, Bắc Bình, Phan Thiết; ai cũng khâm phục. Tất nhiên, họ càng tin tưởng kháng chiến lớn mạnh, nhất định thắng lợi.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Ba, 2019, 04:56:23 pm
Xong lớp, sáu anh em Quang Trung chúng tôi về đơn vị đều giữ chức vụ tiểu đội phó. Tôi vẫn ở trung đội 2. Tiểu đội trưởng lúc này là Phan Văn Võ, một học sinh trung học người Huế. Trong một trận đánh càn ở cầu Ông Soạn – Thái An, đại đội đã đuổi giặc ra quốc lộ 1 chạy về Hòa Đa. Anh Nhật bị thương phải đi bệnh viện, tôi thay làm tiểu đội trưởng. Anh Thiệt (xạ thủ trung liên của tiểu đội) người cao to, nhanh nhẹn, vác trung liên nhẹ như khẩu súng tường, hành quân đến nơi chỉ vài tiếng anh đã đào xong công sự đủ cho anh, tôi và đồng chí tiếp đạn. Anh Thiệt bắn súng máy rất điệu nghệ, khi thật cần lắm mới bắn loạt, còn chỉ điểm xạ vài viên một, rất chẩn xác, lợi hại.

(https://lh3.googleusercontent.com/Svbfo9Tq0rlAyMx8HKmvWPI_dW7wrN9u6w02pvTmgEqycuiY4aQvw4164puW0OCFMPi08rw3HZzwLitW-yWQ4sECwkMneTE0ytme0lzpFbmNY5D9gMuBUmDFipprfSBKwmcfD54n6vE-_rGwN6H5it4yEp6q2wFJRI0WOsPYA5VVT71FO0uY3J8ONA12qxWcdzbxCvVQ2R8oyY8YzU-3gUnKsptouSdCVg07yAS5XBEBj605u6Q0awNdITmaNb1ch7a92rBzIwx6yPpz089TsJEhWLhE2wl0jx6YHs3i-akHdgllmHrXpIwLqnIjuT0asqv7ugi9aOiAJagi9wipoH4g8sAZJtA-CCjd6zXrwe52gSCBY3SVHwRGR6teZt45_6aP2m-rjNTI5UkEqLJUPuHJww2wnoq9g0rbsbQg86KvcRhgpiJrOCqReHKZ0SqkkYki_tmoPYE0oRQ-mc9sfjX8o-hJ3Y2cm9Nhl3hv8RfUND-TERF9Mg7Y2PWk0GWqFgESUuTP1AOVOi0-oe1ONQkq0EeXvgJRrc4fFdQRLfS2w2WUonH5v13k8q6lDhYhx5LpGqls2QSwjWYwxUa0sBmKn7xMvjoTfy39o4Z2WwNglJUITFyB7Xbw6BDAlMd5IxCL-cyzvkm-mmwKSsIdJzvxij_wG4Q=w800-h532-no)

Khẩu trung liên do đồng chí Thiệt là xạ thủ đã bắn và diệt trên 100 tên địch

Mấy tháng sau, tôi đi học Lớp Chính trị Huỳnh Thúc Kháng của tỉnh mở tại Ô Rô cho cán bộ chính trị, quân sự các cơ quan tỉnh, huyện. Thầy dạy chính trị là đồng chí Nguyễn Côn, Bí thư khu ủy khu 6. Được một cán bộ cao cấp lên lớp, chúng tôi nghe rất say sưa, hứng thú, tiếp hu nhiều điều mới mẻ, sâu sắc. Ban đêm, học viện phải gác từ 24 giờ đến sáng. Tôi còn nhỏ, ham ăn ngủ, một khi đã ngủ phải có người đánh thức lúc đến phiên gác. Tôi nhận phiên gác lúc 24 giờ, nhưng yêu cầu các bạn cho tôi gác phiên kế tiếp hoạch gác hai phiên để bù cho người gọi tôi. Anh em thông cảm, nhưng anh Bảy Vĩnh (huyện đội trưởng Hòa Đa) dứt khoát không chịu, bảo tôi phải khắc phục, không ai làm hộ cả. Đêm ấy tôi phải cố thức đến 24 giờ, gác xong phiên rồi mới đi ngủ. Sáng ngày, anh Bảy Vĩnh nhìn tôi cười, nửa như khen nửa như mỉa:

- Có vậy mới tự lực được, nếu không cứ ỷ lại người khác mãi thôi!

Tôi không vui nhưng cũng chịu là phải và cũng là dịp rèn luyện mình. Nhớ lại hồi mấy tháng đầu nhập ngũ, có một chiến sĩ cùng tiểu đội tên Nhơn, một hôm hành quân đến Lương Sơn đã hơn 2 giờ sáng; ác thay Nhơn trúng phiên gác đầu; tuổi trẻ, quá mệt. Nhơn ngủ gục tại vọng gác. Chiến sĩ Choi (trung đội 10 đi đổi gác thấy, chạy vào bao cáo tiểu đội trưởng đi kiểm tra, biết rõ sự việc. Sáng, đại đội ra lệnh xử bắn Nhơn vì tội ngủ gác tại mặt trận. Ai cũng biết tội nặng nhưng hoàn cảnh cũng đáng thương, các trung đội trưởng cùng đến đại đội xin tha để Nhơn lập công chuộc tội nhưng đại đội không chấp nhận. Ôi, kỷ luật chiến trường phải nghiêm, nhưng sao mà nghiệt ngã đến thế! Từ đó, anh em nhắc nhở nhau thà hy sinh vì chiến đấu cho oanh liệt, đừng để chết vì xử tử thì nhục vô cùng!

Một đêm khác, tôi đi đổi gác cho Bá, một chiến sĩ lớn tuổi trong tiểu đội, quê Tuy Phong. Thấy Bá đứng ngủ, súng dựng một bên, tôi rất lạ: tại sao người ta đứng ngủ được? Không tựa vào đâu thì phải ngã chứ, hay anh ta đùa tôi? Không phải, vụ án Nhơn ai cũng còn lạnh gáy cơ mà! Tôi đến bên, Bá không hề hay biết, anh ta ngủ thật. Tôi lấy khẩu súng, vỗ vai gọi khẽ:

- Anh Bá, dậy đổi gác.

Bá giật mình thấy mất súng hoảng hồn, ôm chầm lấy tôi, nói nhỏ:

- Đừng báo cho tiểu đội trưởng biết nghen!

- Anh quá mệt nên lỡ ngủ, tôi không báo đâu, nhưng nhớ đừng tái phạm, gặp người như Choi thì nguy hiểm.

Mấy ngày qua, Bá thấy cũng là tôi không báo trên, anh rất mừng và cảm động. Tôi còn có những bạn tốt như Lê Quang Đẩu (quê xã Tân Hải – Hàm Tân), nhập ngũ trước tôi mấy tháng. Đẩu được cấp phát hai bộ quần áo xita, một đôi giày da cao cổ, một ca lô xita (quân trang của Liên khu 5 đưa vào bằng đường biển, Đại đội chỉ nhận được một lần, sau đó ghe không vào được nữa). Đẩu thấy tôi thường đi tiên binh dẫm gai góc nên cho tôi một đội giày cùng một bộ ka-ke, bê-rê, còn Đẩu thì mặc xita và đội ca lô lệch “mốt” hơn. Nhờ vậy, tôi có quần áo thay và đội chân thật dễ chịu. Sau Đẩu chuyển về binh công xưởng ở Hàm Tân; năm 1954 không đi tập kết. Sau giải phóng 1975, thỉnh thoảng chúng tôi vẫn gặp thăm nhau, tình bạn vẫn như 50 năm trước.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Ba, 2019, 04:56:52 pm
Ở chiến khu, chiến sĩ gác mỗi đêm một giờ; tiểu đội trưởng đốc gác nửa đêm, tiểu đội phó nửa đêm. Một đêm, tôi gác phiên lúc 2 giờ; gác mãi mà không thấy ai ra đổi gác, không thể bỏ vọng gác vào hỏi, buồn ngủ quá, mệt và giận hết sức, chắc tiểu đội phó ngủ quên rồi. Khi đổi gác, tôi vào thì đã 4 giờ rưỡi. Bực quá, tôi hỏi hơi sẵng:

- Anh Hùng, sao để tôi gác lâu quá vậy?

Anh vừa ngáp vừa nói:

- Bậy quá, mình lỡ ngủ quên may mà trung đội không kiểm tra, nếu có kiểm tra thì mình cũng chết, thôi bỏ qua đừng giận nghen!

Tôi cũng hết giận, lại thấy thương anh thức từ 24 giờ, ai mà không có lúc vấp váp. Chúng tôi xiết tay nhau thông cảm, tình đồng đội trong chiến đấu gian khổ hy sinh là cao hơn những chuyện nhỏ bình thường.

Ở doanh trại, chiến sĩ có nhiều việc như luân phiên trực nhật trung đội, sáng đánh thức toàn trung đội tập thể dục. Kháng chiến không có đánh kẻng. Trung đội ăn xong tập trung xoong, thau, ca, muỗng gánh xuống bàu rửa, v.v… Một chiều, tôi gánh một gánh đang xuống dốc bàu thì gặp các chị Khánh Thu, Hồng Anh, Ánh Hồng cán bộ cán bộ phụ nữ Hòa Đa đi học tỉnh. Thấy tôi gánh một gánh lổn cổn, lảng cảng, các chỉ cười:

- Đời chiến sĩ vất vả qua anh Chương hỉ!

Hồi ở nhà là cán bộ cùng hoạt động, thân tình gặp thế này tôi cũng mắc cỡ, hơi ngỡ ngàng, lúng túng nhưng tôi kịp trở lại bình thản, tự nhiên:

- Làm chiến sĩ tất nhiên phải gian khổ, hy sinh chứ sao!

Tất cả cười vang. Qua câu chuyện trên đường, tôi biết gia đình vẫn mạnh khỏe, phong trào làng Xuân Hội vẫn vững vàng. Tôi cũng biết một số mất mát ở quê nhà: các anh Bảy Thăng, Đãi, Giáo Em đã hy sinh khi đi công tác. Người anh em bà con dẫn dắt tôi từ những ngày đầu cách mạng tháng Tám, một cán bộ lãnh đạo nhiệt tình, đầy uy tín không còn nữa. Ông Lê Vui (cha của Công), anh Năm Hoàng cũng mới hy sinh vì địch tập kích vào cơ quan xã. Các anh là lớp liệt sĩ đầu tiên của huyện Hòa Đa. Các chị chia tay lên đường, tôi thong thả xuống bàu, lòng bùi ngùi nhớ đến những người thân thiết ở quê hương đã vĩnh viễn ra đi.

Một chiều tháng 10 năm 1947, các đại đội Quang Trung, Phan Đình Phùng tập hợp sau làng Thái An để thành lập Tiểu đoàn 89. Tiểu đoàn 86 đã thành lập trước đó mấy tháng ở Tam Minh – Hàm Tân. Tiểu đoàn 89 có hai đại đội, nhưng tôi cũng biết trung đoàn đang xây dựng thêm đại đội Lý Thường Kiệt (sẽ là đại đội ba của tiểu đoàn). Tiểu đoàn trưởng là Đoàn Tứ Bảy, chính trị viên là Trần Quốc Thái, tiểu đoàn phó là Lâm Bình Phước. Đại đội trưởng Quang Trung này là Nguyễn Minh Khương, chính trị viên Nguyễn Bá Di, đại đội phó Nguyễn Cang. Tôi vẫn là tiểu đội trưởng ở trung đội 2, Quang Trung. Ngày 22 tháng 12 năm 1947, tôi và đồng chí Ngô Thiên Tạo được kết nạp vào Đảng. Tôi chân thành biết ơn đồng chí Lâm Bình Phước, người trung đội trưởng kính mến đã giáo dục, giác ngộ để tôi có bước trưởng thành này. Tiếp đó, các bạn Cần, Trác, Lý cũng được đứng trong hàng ngũ của Đảng tiền phong. Lúc này, Cần là trung đội phó trung đội 1, Trác về ban chính trị, Lý về ban quân báo trung đoàn.

Tôi đi học lớp chính trị viên trung đội khóa 1 mở tại Triền. Chính ủy trung đoàn Lâm Hồng Phấn trực tiếp giảng các bài chính. Tất cả học viên là Đảng viên nên đều cố gắng học tập để đạt kết quả cao nhất. Anh Phấn là cán bộ Đảng từ trước tổng khởi nghĩa, người Huế, nhanh nhẹn hoạt bát, rất hiền từ, gần gũi cấp dưới cũng như học viên trẻ chúng tôi. Anh nói năng rất lưu loát, giảng các bài khó đối với trình độ chúng tôi như công tác chính trị, tư tưởng trong bộ đội, công tác xây dựng Đảng, công tác chính trị trong chiến đấu, nhiệm vụ người chính trị viên v.v…. rất mạch lạc, hấp dẫn, dễ tiếp thu; chúng tôi rất mến phục người Chính ủy đáng kính này. Ăn uống không bằng lúc đại đội ở trong dân, tuy vậy vì là lớp chính trị viên đầu tiên, cấp trên quan tâm nhiều nên không đến nỗi khổ, ăn gạo chứ không trộn khoai đậu như cơ quan; thức ăn thường xuyên là cá, thỉnh thoảng có ít thịt, chứ không canh toàn quốc, nước chấm đại dương.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Ba, 2019, 04:57:25 pm
Có báo động địch càn ở Rẫy Thơm, Dân Thạnh, lớp học tản cư ra Suối Nước gần Rạng, học sinh thành một trung đội trang đội trang bị đầy đủ súng để chiến đấu tự bảo vệ và bảo vệ đồng bào quanh vùng. Mai Hữu Lý, học viên của Phan Đình Phùng làm trung đội trưởng, Nguyễn Thành Công ở Phạm Hồng Thái 86 làm trung đội phó và tôi, chính trị viên. Gần một tuần, địch rút. Cuộc tản cư của lớp được nhà trường đánh giá tốt cả về ý thức tổ chức kỷ luật, sẵn sàng tác chiến; lớp học của các chính trị viên tương lai mà! Tôi rất phấn khởi đạt thủ khoa, về tôi được bổ nhiệm Chính trị viên trung đội 3, cùng trung đội trưởng Ngô Thiên Tạo chăm lo xây dựng trung đội vững về chính trị và chiến đấu khá.

Đại đội hành quân đi đánh phục kích giao thông ở Dốc Tơ Hồng gần núi Nạn – Tuy Phong. Trận địa gói được ba đến bốn xe. Trung đội 2 chặn đầu bắn mìn, đánh xe đầu; trung đội 1 ở giữa; trung đội 3 phía sau; trung đội Phan Đình Phùng tăng cường làm khóa đuôi và chặn địch ngoài trận địa. Địa hình mé nam cao hơn mặt đường 1,50 – 2 mét, nên anh Tạo đặt hai trung liên. Lề bắc thấp, bố trí tiểu đội xung lực. Tôi đi với xung lực do tiểu đội trưởng Bành Khai Đức chỉ huy. Sát đường là rừng tâm lang có dây tơ hồng bao phủ xanh mịt kín đáo. Sáng ngày dân đi lại trên đường chuyện trò rôm rả. Có cô gái sà vào bên đường tiểu tiện, tưởng không ai, nào ngờ lính ta ẩn kín dưới hầm sát cạnh mà không biết, cứ thoải mái giải quyết. Cô đi khỏi một đỗi, anh em bùng cười giòn tan, ghẹo cậu lính suýt bị tè vào đầu! Dù sao cũng là hiếm có, không biết là may hay rủi cho cậu rai tơ trong trận này? Chắc là may, nữ tử vi hảo mà!

Đã nghe tiếng xe từ xa. Chúng tôi ở dưới thấp sát đường, chẳng thấy xe lính gì cả, chỉ chờ súng nổi mới xông lên. Hình như tiếng xe đầu mà đã quá xa mà không nghe mìn và trung liên chặn đầu nổ. Chiếc thứ 2, 3 qua, trận địa vẫn im lặng. Bống chiếc xe thứ tư đến quá trung đội tôi thì dừng lại. Lính trên xe nhảy xuống, giày chông trên đường đá rõ mồn một. Có lẽ hết xe rồi, chỉ có bốn chiếc ngon quá mà vì sao không đánh? Mất ăn rồi chăng? Vừa nghe tên Pháp nói một câu khá rõ: Ồ, tại sao ở đây có nhiều vết chân không thế này? (Oh, pourquoi ici ilya beaucoup des traces piednue). Mấy loạt súng máy nổ vang, tôi nhảy lên hầm, cùng Đức dẫn tiểu đội vọt lên mặt đường. Trên thùng xe, tên lính bắn trung liên cúi đầu chĩa họng súng lên cao nổ một loạt dài. Thì ra, lính Tây cũng có đứa nhát như thỏ đế! Trung đội phó Nguyễn Văn Lộc chỉ huy tiểu đội mã tấu “quyết tử” đánh thốc vào, hai tiểu đội giáp nhau tại chiếc xe, trung liên địch im bặt. Chiến sĩ quyết tử Võ Tương và chiến sĩ Nguyễn Hữu Lai của tiểu đội Đức nhảy lên xe lấy khẩu bờ-ren. Lai nắm trúng nòng súng nóng bỏng rụt tay lại. Tương nắm trúng bá vác nhảy xuống reo to:

- Lấy được bờ-ren đầu bạc rồi!

Trung đội phó trung đội 1 Giồng Tố vừa chạy đến vội tống vào xe một chai cháy, lửa bốc lên rừng rực, tiếng đạn, lựu đạn trên xe nỏ dữ dội. Toàn bộ lính chết, bị thương và vũ khí, quân trang quân dụng trên xe cháy rụi. May mà lấy được khẩu trung liên, chậm một chút nó cũng mất tiêu! Hơn chục tên Pháp chết gục bên đường, đứa bị đạn, đứa bị mã tấu chém chẻ đầu, xả vai nằm cả đống to như con lợn ta. Kết quả, trong vài phút, ta đã diệt gọn và thiêu hủy chiếc xe cùng một trung đội địch; nhưng chỉ thu được 13 súng (có một trung, một tiểu liên, một súng ngắn). Ta vô sự. Từ dốc Bàu Đá, một đoàn xe dài hơn ki-lô-mét đang đổ đến trận địa. Khóa đuôi nổ súng đánh kịch liệt. Chúng đến nơi thì chỉ còn chiếc xe đã cháy rụi. Đây là đoàn xe 34 chiếc từ Sài Gòn ra, chiếc thứ tư dừng trước trận địa nên bị đánh và ta chỉ diệt gọn chiếc ấy thôi. Địch cũng chẳng hiểu vì sao chỉ bị diệt chiếc thứ tư? Về ta, một số anh em khi xông ra là vội vã ném chai cháy. Sau trận Bàu Đá đã rút kinh nghiệm, thế mà trận này cũng chính đồng chí ấy lặp lại khuyết điểm nên chỉ ăn non. Vì sao cả ba chiếc chạy trước đều không bị đánh? Nếu đại đội diệt gọn ba chiếc, khóa đuôi diệt luôn chiếc thứ tư thì chiến thắng lớn hơn nhiều! Lý do là quả mìn phát lệnh do chiến sĩ Cang giật bị lép. Đại đội lại không có lệnh rõ cho trung đội 1 là trung liên cũng phải nổ cùng lúc với mìn. Còn một điều nữa, nếu chặn đầu vì lý do gì đó không nổ, các trung đội kế tiếp cứ đánh xe mình phụ trách thì cũng ăn được ba xe. Hôm ấy chiếc thứ tư không dừng lại thì chắc cả đoàn xe qua đều không bị đánh. Kế hoạch tác chiến của đại đội không tính được nhiều tình huống nên chỉ một sự cố nhỏ là trận đánh không được như kế hoạch. Các anh Khương, Di, Kiến đều biết tiếng Pháp, nghe tên chuẩn úy nói có nhiều dấu chân nên cho đánh, nhờ đó vớt vát được.

Trận dốc Tơ Hồng tuy có trục trặc nhưng cũng là một trận đánh hay, độc đáo, ta vô sự là điều mừng nhất của chỉ huy cũng như chiến sĩ sau mỗi trận đánh. Địch rất lạ lùng, cả đoàn xe lớn mà bị bộ đội Việt Minh diệt một chiếc trong nháy mắt, chỉ huy cả đoàn xe đành thúc thủ. Chúng rất sợ bị đại đao chém bay đầu, bứt hông, chết không kịp ngáp, lính Âu Phi kinh hồn kiểu chết chém hơn là chết đạn. Bọn Âu Phi ở Hòa Đa – Phan Thiết kháo nhau: gặp Đại đội Quang Trung phải tẩu thoát nhanh, đừng để bị chết kiểu đó khủng khiếp lắm!


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Ba, 2019, 04:58:20 pm
Một tuần sau, đại đội lại phục kích một lần nữa ở nam dốc Tơ Hồng vài ki-lô-mét, chắc chắn kỳ này sẽ không để mất ăn to. Đại đội sẽ diệt năm đến sáu chiếc xe, xe ra vào đều đánh, chặn đầu đánh khóa đuôi, mìn và trung liên nổ nhất loạt. Trung đội tôi ở giữa đội hình, tôi vẫn ở xung lực nằm giữa láng trống lề nam đường. Nhưng oái oăm thay, tình huống lại cứ xảy ra ngoài dự kiến. Đoàn xe địch 12 chiếc, có ba bọc thép đi trước, chưa đến chặn đầu, còn ở giữa, ngay trung đội tôi thì dừng hết lại, mấy chiếc bọc thép đứng ngay trước mặt anh Khương, con chó nằm cạnh hực lên, anh Di vỗ đầu, nó biết ý chủ nín lặng. Toàn mặt trận im phăng phắc. Bọn lính mà nhảy xuống xe là thấy tiểu đội tôi ngay vì hầm trống không nắp. Địch nói om sòm và mấy phút sau dường như tên chỉ huy thấy đội hình đến đủ, cách dốc Tơ Hồng khá xa, “an toàn rồi” nên ra lệnh avancer (tiến lên), cả đoàn xe ầm ầm lao qua mặt đại đội an toàn một cách thật. Chúng tôi lên hầm, bên kia đại đội trưởng và chính trị viên cũng đứng ở lề đường, con chó ngoe ngoảy đuôi ngơ ngác. Anh Khương cười gòn:

- Bỏ mẹ, lại mất ăn rồi!

Anh Di tiếp:

- Lại cũng cứ bị bất ngờ, lần này thì mất ăn thật.

Địch đến đây chờ nhau, chẳng đề phòng, nhưng đại đội trưởng cũng bất ngờ, chưa kịp xử lý tình huống thì xe đã chạy hết. Chặn đầu không thấy đại đội nổ vào bọn lính trước mặt, không hiểu tại sao nên khi xe qua cũng im. Thế là về không, chờ dịp khác. Anh Khương không cho đánh cũng phải thôi, hôm ấy mà chặn đầu nổ thì sẽ phức tạp, bầm dập, địch nhiều gấp hai lần dự kiến, lại có bọc thép mà ta không có súng đánh tăng. Về lại nơi đóng quân, không vui cũng không buồn, trận nào không giống trận nào và đều không suôn sẻ, hụt ăn luôn cũng tiếc, nhưng thôi, đường dài chiến đấu còn nhiều dịp.

Đã gần Xuân, đại đội về Thái An ăn Tết, đêm hành quân qua đông ruộng Trường Thịnh xuống gần Hòa Đa. Trung đội tôi đi đầu, nghỉ gần xóm nên cấm hút thuốc. Tôi đang ngồi trên bờ ruộng, đại đội trưởng từ sau lên đầu đội hình, vỗ vai tôi:

- Ngồi xuống ruộng – dường như anh nghĩ gì đó nên nói tiếp nho nhỏ - Tôi đi chỉ một mình, các đồng chí cả hàng dài ngồi trên bờ cao dễ lộ lắm, Chương nhắc anh em nhé!

- Vâng! – Tôi mỉm cười trong bóng tối. Đại đội trưởng cảnh giác thật. Nói vậy, anh cũng lom khom đi trở lại phía sau.

Có tiếng chạy thình thịch và tiếng anh Tạo gọi trung liên bắn, tức thì khẩu ép-em-đót-nốp-xăng-keng “thùng thùng” một loạt dài. Khẩu bà già của Pháp ra đời từ thế chiến thứ nhất, về đại đội qua bao trận, thành tích cũng không nhỏ. Có lẽ địch đi tuần cũng chạy xa rồi, qua nhanh thôi, tránh tác chiến tao ngộ đêm là hơn.

Gần sáng tới bìa ruộng, các lò đường đang ép mía. Đường tỉn Thái An ăn khá ngon, đường non dẻo như kẹo mạch nha. Ghé nghỉ, chủ lò múc từng tô mời cả đại đội một cách nhiệt tình, anh em sẵn sàng nhận không chút khách sáo. Đường non quết lên bánh tráng nướng thì tuyệt. Được bồi dưỡng đúng lúc, khỏe lại ngay. Mía cả đám, lò đường nấu hàng chục chảo đụn nên tha hồ. Về vị trí đóng quân, ở lại các nhà quen thuộc thân thiết như gia đình. Tối liên hoan lửa trại ngay. Vở kịch ngắn kể lại chiến thắng Dốc Tơ Hồng do trung đội 1 sáng tác thật hấp dẫn. Vui nhất là lúc Tương và Lai cùng nắm khẩu bờ ren; Tương có thời cơ thu được súng, Lai cười thẹn thùng đã không thu được súng lại bị phỏng tay. Tương cười hể hả thật đắc ý. Bà con trầm trò khen ngợi tiểu đội Quyết tử. Luân tiểu trưởng Quyết tử nở mũi làm lại động tác vung mã tấu chém giặc rất oai phong, đó là kết quả huấn luyện của võ sư Phi Hùng từ năm trước.

Một kỷ niệm không quên của tôi là thời chiến sĩ luôn hành quân ở tổ tiên binh, tiểu đội phó đi đầu trên đường mòn, hai chiến sĩ đi tiếp có tôi, rộng hai bên thành hình chữ A. Hồi ấy chưa có dép cao su, một ít chỉ huy mới có giầy chiến lợi phẩm. Đi chân không thì đạp sỏi đá, gai góc vừa đau vừa bị chảy máu, vẫn phải dẫm bừa lên đất cát dơ bẩn vì mắt phải quan sát đảm bảo cho đội hình đi sau. Dẫm gai cổ sầu thì đau nhức phát khóc được, biết làm sao, không ai thay nhiệm vụ cho mình cả, may mà không ai bị uốn ván. Lúc làm cán bộ, hết đi tiên binh dẫm bừa gai góc đau điếng càng thương đồng đội còn phải làm việc đó. Từ năm 1950, dép cao su bốn quai ra đời chấm dứt việc đi chân không của tiên binh.

Có lúc đang đi sau thì có lệnh chuyển lui thì thầm: Dừng lại tản khai, tiên binh ngửi thấy mùi bơ! Nằm tại chỗ giương súng sẵn sàng, hồi hộp căng thẳng, một lát rồi phía trước đứng lên tiếp tục đi. Tiến tới một chút quả có mùi thơm thoang thoảng như mùi bánh bơ (bích quy), đó là một loại cỏ bông có mùi thơm na ná bánh bơ. Mọi người bật cười, ở cái xứ động cát này lại có mùi cỏ bông giống mùi bơ kể cũng ngộ.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Ba, 2019, 04:59:40 pm
“Cọp Khánh Hòa, ma Bình Thuận” câu đó có từ ngày xưa, ở quê tôi ai cũng biết. Bây giờ ma đâu có thấy, còn cọp thì cả ở núi và động đều rất nhiều nên lại có câu “Thái An chiến khu cọp”. Cọp rất dữ, vọng gác phải đứng hai người đâu lưng vào nhau để chống cọp vồ từ sau tới. Anh Hồ Thế Xuân Sanh lúc này là trưởng đoàn ăn công Tiểu đoàn 89 bị bệnh điều trị ở bệnh xá, đêm ngủ bị cọp chụp tha chạy ra rừng, anh em đuổi theo giành lại được thì anh đã chết! Bộ đội hành quân đêm bỗng có người kêu “cọp!” thế là cả hành quân dậm chân thình thích vang cả rừng khuya, không sợ Tây nữa mà chỉ sợ cọp. Ngủ đêm từng trung đội thành vòng trong, trung liên đặt giữa có cọp là nổ ngay. Sau trận đánh, Tây bỏ xác lại thì cọp ra thu dọn hết, đó là điều có thật ở rừng Thái An này. Kiến cũng thật ê ẩm, loại kiến mối đầu đen bóng, càng to, đêm cũng hành quân cả đoàn dài dằng dặc. Bộ đội đi chân đất, dẫm phải đội hình chúng thì chúng xúm lại cắn chân, kẹp không thả, đau khiếp, chỉ giết nó rồi mới gỡ càng được. “Kiến, kiến”! Có nhiều tiếng xuýt xoa. Vậy là cả đoàn quân dậm chân thình thịch vang động cả đêm khuya, chạy khỏi đám kiến rồi mới tiếp tục đi. Thật buồn cười, Tây không sợ mà sợ cọp, sợ kiến. Chỉ huy cũng đành chịu, không có phép nào hữu hiệu hơn để giữ bí mật. Chuyện này cũng là kỷ niệm sâu sắc trong đời bộ đội, nó không phải súng nổ đạn bay, đầu rơi máu chảy hãi hùng mà cho đến nay nói đến cọp, đến kiến mối cũng còn rờn rợn.

Trong chống Pháp ở Bắc Bình không ai không biết danh “Tiếng mõ Thái An”, việc báo động dây chuyền bằng tiếng mõ rất tài và hiệu quả. Từ Ngọc Sơn đến Thái An, lên An Hòa, Thanh Sơn, mỗi nơi đều có tín hiệu tiếng mõ báo động hễ nghe là biết địch đã tiến lui đến đâu mà đối phó rất kịp thời. Địch rất sợ mà cũng rất ghét tiếng mõ. Một đêm, chúng đột kích vọng gác mõ Thái An, bắt được anh dân quân Chung Ngọ giết ngay, nhưng một dân quân khác chạy thoát và tiếng mõ báo động lại vang lên gióng giả, truyền đi khắp chốn. Địch hết sức dã man, có lần bắt được người đánh mõ, chúng kê đầu người ấy lên mõ, dùng dao chặt đầu. Địch tưởng rằng sự tàn ác của chúng làm dân quân nhụt chí không dám gác mõ nữa nhưng địch đi đến đâu, tiếng mõ vang lên đến đấy, truyền xa, báo cho nhân dân kịp thời tránh lánh hoặc cứ yên tâm sản xuất; dân quân du kích, bộ đội chủ động bố trí tác chiến. “Tiếng mõ Thái An”, tiếng mõ của lòng dũng cảm và trí thông minh, tiếng mõ bảo vệ nhân dân, tiếng mõ của chiến tranh du kích đánh giặc giữ làng. Năm tháng trôi qua, “Tiếng mõ Thái An” như còn vang vọng mãi mãi.

Từ đầu năm 1948 ở địa phương nhà, địch cũng giảm các cuộc càn quét đánh phá vùng giải phóng, lo củng cố vùng tạm chiếm, giữ đồn bốt, trục giao thông. Tiểu đoàn 89 đóng ở nhà dân xóm Thái An, một trong bốn xóm của xã Minh Hưng huyện Hòa Đa (Ngọc Sơn, Thái An, An Hòa, Thanh Sơn) đều nằm dọc động cát từ đông sang tây, cách quốc lộ 1A hướng bắc 3 ki-lô-mét, trước mặt là đồng ruộng, sau lưng là rừng thưa, rừng già kéo dài đến tận Bình Nhơn, Bình Thiện sát biển. Xóm lúc đó có 500 dân, là làng kháng chiến, cơ quan xã, huyện, bộ đội có chiến khu trong rừng già. Thái An càng bị giặc đốt phá, người dân càng chống giặc kiên cường. Dạo cuối năm 1946, Thái An đã tiêu thổ kháng chiến. Nhà ở chỉ che tạm thành túp lều tránh nhỏ gọn vừa đủ tránh nắng mưa; có báo động, mọi của cái thu gọn trong gùi, gánh, mang chạy vào rừng; khi yên trở về làm ăn sản xuất. Đời sống kháng chiến có gian lao nhưng lại tự do, vui vẻ, nhất là khi có bộ đội đóng quân. Trung đội tôi đóng trong nhà ông Bộ Chí, một nhà tự bằng gạch, lớn, vách đã đập trống, chỉ còn cái khung gỗ rất chắc, mái ngói trước dỡ hết nay lợp sơ lại để bộ đội che nắng mưa. Gia đình ở nhà tranh nhỏ phía sau, đơn vị ở trong nhà, trải chiếu nốp dưới gạch để sinh hoạt, nghỉ ngơi. Ông Bộ trước là một nhà giàu, nay không còn gì ngoài một đàn trâu bò và một đám ruộng ngoài Đồng Mới. Ông có con trai tên Quế, y tá cơ quan huyện đội Hàm Tân. Là gia đình bộ đội nên đối xử với bộ đội rất tốt. Khi biết cha tôi vối là người quen, trước có dạy học ở Thái An thì tình cảm của ông với tôi và đơn vị càng thêm thân mật; ông thường xuyên chuyện trò với tôi về thời cuộc, về chuyện chiến đấu của đại đội và trung đoàn, càng củng cố thêm niềm tin vào Chính phủ và Bác Hồ, vào thắng lợi của kháng chiến.

Đóng ở Thái An hơn tháng, ăn Tết với đồng bào thật vui vẻ. Bà con rất thương yêu Đại đội Quang Trung. Phan Đình Phùng mới ở Hàm Tân về Hòa Đa lúc thành lập tiểu đoàn nhưng do công tác dân vận giỏi nên cũng quen biết, cảm tình nhiều.

Tết này, tiểu đoàn say sưa bài hát “Trung đoàn 82 quân hành khúc” do hai tác giả Mỹ Đức – Vân Kha mới sáng tác. Mỹ Đức là Dương Minh Đẩu, Vân Kha là Vương Gia Khương, cả hai là nhạc sĩ, cũng là cán bộ chỉ huy lãnh đạo của trung đoàn. Anh Đẩu rất trẻ, chiến đấu từ những ngày đầu Nam Bộ kháng chiến ở Sài Gòn, ra Bình Thuận cuối 1945, là chính trị viên Đại đội Phan Đình Phùng. Anh Khương là cán bộ cách mạng trước 1945, đã bị giặc Pháp bỏ tù; trong tù anh học giỏi cả chính trị, quân sự, văn hóa. Là trưởng ban cán bộ trung đoàn, anh rất gần gũi mọi người, được anh em kính mến. Bài “Trung đoàn 82 quân hành khúc” đã nhanh chóng đi vào lòng người, giục giã chiến đấu, đem lại niềm vinh dự, tự hào của người chiến sĩ Cực Nam Trung Bộ; bài hát tươi vui, hùng tráng, càng hát càng say mê, hào hứng lạ thường.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 15 Tháng Ba, 2019, 10:08:00 am
Trong chống Pháp ở Bắc Bình không ai không biết danh “Tiếng mõ Thái An”, việc báo động dây chuyền bằng tiếng mõ rất tài và hiệu quả. Từ Ngọc Sơn đến Thái An, lên An Hòa, Thanh Sơn, mỗi nơi đều có tín hiệu tiếng mõ báo động hễ nghe là biết địch đã tiến lui đến đâu mà đối phó rất kịp thời. Địch rất sợ mà cũng rất ghét tiếng mõ. Một đêm, chúng đột kích vọng gác mõ Thái An, bắt được anh dân quân Chung Ngọ giết ngay, nhưng một dân quân khác chạy thoát và tiếng mõ báo động lại vang lên gióng giả, truyền đi khắp chốn. Địch hết sức dã man, có lần bắt được người đánh mõ, chúng kê đầu người ấy lên mõ, dùng dao chặt đầu. Địch tưởng rằng sự tàn ác của chúng làm dân quân nhụt chí không dám gác mõ nữa nhưng địch đi đến đâu, tiếng mõ vang lên đến đấy, truyền xa, báo cho nhân dân kịp thời tránh lánh hoặc cứ yên tâm sản xuất; dân quân du kích, bộ đội chủ động bố trí tác chiến. “Tiếng mõ Thái An”, tiếng mõ của lòng dũng cảm và trí thông minh, tiếng mõ bảo vệ nhân dân, tiếng mõ của chiến tranh du kích đánh giặc giữ làng. Năm tháng trôi qua, “Tiếng mõ Thái An” như còn vang vọng mãi mãi.

Từ đầu năm 1948 ở địa phương nhà, địch cũng giảm các cuộc càn quét đánh phá vùng giải phóng, lo củng cố vùng tạm chiếm, giữ đồn bốt, trục giao thông. Tiểu đoàn 89 đóng ở nhà dân xóm Thái An, một trong bốn xóm của xã Minh Hưng huyện Hòa Đa (Ngọc Sơn, Thái An, An Hòa, Thanh Sơn) đều nằm dọc động cát từ đông sang tây, cách quốc lộ 1A hướng bắc 3 ki-lô-mét, trước mặt là đồng ruộng, sau lưng là rừng thưa, rừng già kéo dài đến tận Bình Nhơn, Bình Thiện sát biển. Xóm lúc đó có 500 dân, là làng kháng chiến, cơ quan xã, huyện, bộ đội có chiến khu trong rừng già. Thái An càng bị giặc đốt phá, người dân càng chống giặc kiên cường. Dạo cuối năm 1946, Thái An đã tiêu thổ kháng chiến. Nhà ở chỉ che tạm thành túp lều tránh nhỏ gọn vừa đủ tránh nắng mưa; có báo động, mọi của cái thu gọn trong gùi, gánh, mang chạy vào rừng; khi yên trở về làm ăn sản xuất. Đời sống kháng chiến có gian lao nhưng lại tự do, vui vẻ, nhất là khi có bộ đội đóng quân. Trung đội tôi đóng trong nhà ông Bộ Chí, một nhà tự bằng gạch, lớn, vách đã đập trống, chỉ còn cái khung gỗ rất chắc, mái ngói trước dỡ hết nay lợp sơ lại để bộ đội che nắng mưa. Gia đình ở nhà tranh nhỏ phía sau, đơn vị ở trong nhà, trải chiếu nốp dưới gạch để sinh hoạt, nghỉ ngơi. Ông Bộ trước là một nhà giàu, nay không còn gì ngoài một đàn trâu bò và một đám ruộng ngoài Đồng Mới. Ông có con trai tên Quế, y tá cơ quan huyện đội Hàm Tân. Là gia đình bộ đội nên đối xử với bộ đội rất tốt. Khi biết cha tôi vối là người quen, trước có dạy học ở Thái An thì tình cảm của ông với tôi và đơn vị càng thêm thân mật; ông thường xuyên chuyện trò với tôi về thời cuộc, về chuyện chiến đấu của đại đội và trung đoàn, càng củng cố thêm niềm tin vào Chính phủ và Bác Hồ, vào thắng lợi của kháng chiến.

Đóng ở Thái An hơn tháng, ăn Tết với đồng bào thật vui vẻ. Bà con rất thương yêu Đại đội Quang Trung. Phan Đình Phùng mới ở Hàm Tân về Hòa Đa lúc thành lập tiểu đoàn nhưng do công tác dân vận giỏi nên cũng quen biết, cảm tình nhiều.

Tết này, tiểu đoàn say sưa bài hát “Trung đoàn 82 quân hành khúc” do hai tác giả Mỹ Đức – Vân Kha mới sáng tác. Mỹ Đức là Dương Minh Đẩu, Vân Kha là Vương Gia Khương, cả hai là nhạc sĩ, cũng là cán bộ chỉ huy lãnh đạo của trung đoàn. Anh Đẩu rất trẻ, chiến đấu từ những ngày đầu Nam Bộ kháng chiến ở Sài Gòn, ra Bình Thuận cuối 1945, là chính trị viên Đại đội Phan Đình Phùng. Anh Khương là cán bộ cách mạng trước 1945, đã bị giặc Pháp bỏ tù; trong tù anh học giỏi cả chính trị, quân sự, văn hóa. Là trưởng ban cán bộ trung đoàn, anh rất gần gũi mọi người, được anh em kính mến. Bài “Trung đoàn 82 quân hành khúc” đã nhanh chóng đi vào lòng người, giục giã chiến đấu, đem lại niềm vinh dự, tự hào của người chiến sĩ Cực Nam Trung Bộ; bài hát tươi vui, hùng tráng, càng hát càng say mê, hào hứng lạ thường.

Sáng ngày 15 tháng 03 năm 1948, một tiểu đoàn Âu Phi đang tiến vào Thái An. Tất cả ra sau rừng bố trí theo kế hoạch. Tiếng mõ Thái An gióng giả, rộng ràng. Trung đội 1 Quang Trung đến miếu Thái An hỗ trợ lớp huấn luyện tân binh của tiểu đoàn vừa rút vào rừng xong thì đụng một toán giặc Pháp ập tới cổng miếu. Trung đội trưởng Lương Văn Nghĩa thét xung phong, bắn một phát súng ngắn, tên giặc ngã gục nhưng anh cũng bị đạn, hy sinh. Trận chiến ác liệt ngay từ đầu. Trung đội 3 bố trí vừa xong, bên phải là trung đội 2, tiếp theo là Phan Đình Phùng. Tôi ngồi bên một mô cát; cạnh tôi là tiểu đoàn phó Lâm Bình Phước, chếch trái một chút là một chiến sĩ trong tư thế nằm bắn. Anh Khương và Tạo đi kiểm tra đội hình vừa khuất thì địch nổ súng vào trung đội, anh em bắn trả dữ dội; đánh cả bọn trước mặt và bên hông. Chúng rất đông, định xé đội hình ta ra thành tửng mảnh nhưng đã vấp phải sức chống trả kiên cường, mãnh liệt. Tiếng súng rền vang khắp trận địa Quang Trung, ta địch sát nhau trong gang tấc, giành nhau từng lùm cây, mô cát vô cùng quyết liệt. Trung đội 1 lui vào, nhanh chóng hình thành một mũi vu hồi lợi hại, phối hợp kịp thời với chúng tôi đánh bật cánh địch này ra hướng ruộng. Một cánh địch từ Ngọc Sơn tiến lên gặp Phan Đình Phùng chặn đánh; tiếng súng nổ giòn không ngớt. Một cánh thứ ba từ ruộng vào tiếp tục đột phá vào Quang Trung nhưng bị hỏa lực ta ghìm tại chỗ và vu hồi tạt vào sườn địch. Trận đánh kéo dài đến trưa, địch xung phong, ta phản xung phong, toàn tiểu đoàn đọ súng quyết liệt với bọn lê dương Âu Phi. Khẩu a-via-xông của Phan Đình Phùng bắn như xé gió; các khẩu bờ-ren, vanh-cách vang rền; đại liên hốc-kít nổ từng tràng đĩnh đạc, oai hồng áp đảo bắn địch; từng lúc xen lẫn tiếng hô xung phong đánh giáp lá cà của các chiến sĩ tiểu đoàn với tiếng a-lát-xô ồm ồm của bọn Âu Phi. Những nhát mã tấu hiểm hóc, nhanh như chớp lại lần nữa làm cho lính Âu Phi kinh hồn, bạt vía. Chịu không nổi sức tấn công mãnh liệt của tiểu đoàn, địch núng thế dần, phải kết thúc trận chiến. Tiểu đoàn cũng không truy kích, lo giải quyết thương vong rồi về xóm tính chuyện ngày mai.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 15 Tháng Ba, 2019, 10:09:44 am
Đây là trận đánh lớn và ác liệt nhất của tiểu đoàn từ ngày thành lập. Tiểu đoàn đã đủ sức đánh lui một đơn vị nhà nghề thiện chiến, gây cho chúng tổn thất nặng nề. Quang Trung hy sinh tám, bị thương chín; Phan Đình Phùng hy sinh hai, bị thương năm. Trung đội tôi bị thương hai, hy sinh sáu (có anh Tạo và Khánh, đồng đội cùng nhập ngũ một ngày với tôi). Dù bọn Âu Phi hôm nay bị nặng thì chúng vẫn còn ba đại đội lê dương cơ động của Hòa Đa, ngày mai địch sẽ còn vào tiếp. Tiểu đoàn cho vào sâu 1 ki-lô-mét, lấy đường xe bò từ Bàu Trắng làm chuẩn, hướng ra ruộng; Quang Trung bên trái phía tây đường, Phan Đình Phùng phía đông bên phải đường, sở chỉ huy tiểu đoàn ở giữa; cấu trúc xong công sự, đêm ngủ tại trận địa.

Ngày 16 tháng 3, tôi thay chỉ huy trung đội, bố trí bên trái ngoài cùng của đại đội, rút kinh nghiệm ngày qua, tôi cho hai tiểu đội hỏa lực ở phía trong, liên lạc trung đội 2, tiểu đội hỏa lực ở ngoài nhưng thành góc thước thợ bảo vệ sườn, vừa vu hồi khi cần. Tôi và anh Thiệt có một hầm trung liên đứng bắn khá thong thả. Đúng dự kiến, địch tiến vào rừng bằng hai mũi theo hai bên đường xe bò. Một toán đã đến đầu trung liên của Thiệt, cách 20 mét; tôi vỗ vai anh, khẩu bờ-ren vang lên mở đầu một trận đánh sáng nay. Toàn trung đội phát dương hỏa lực, nhiều tên Âu Phi gục trước trận địa. Hốc-kít trung đội 2 cũng nổ dữ dội, địch bị chặn đúng. Tiếc là lúc đầu ham đánh loạn xạ, tôi chưa cho các tổ xung lực xuất kích nên địch đã kéo hết thương tử, tất nhiên là súng bọn này cũng không còn. Trời Thái An sáng nay lại vang rền tiếng súng của hai bên một cách đáng sợ. Với con nhà lính quen trận mạc thì hôm nay quả là ta đánh thong thả hơn nhiều, chẳng hiểu tại sao địch chỉ tấn công chính diện vào cả tiểu đoàn mà không có mũi vu hồi nào nên ta dễ dàng bẻ gẫy hết đợt đột kích này đến đợt đột kích khác; ở trong công sự, tha hồ sát thương địch khi chúng vào tầm bắn. Ỷ đông, chúng đánh dai dẳng đến trưa. Tôi bảo Thiệt:

- Anh đưa trung liên tôi bắn vài loạt, Tây còn mò vào kia kìa!

- Bắn tiết kiệm nghen, chỉ điểm xạ, bắn loạt dài nó không sợ đâu.

Tôi nhấp cò, từng loạt ngắn vài ba viên rời nòng găm vào những tên địch lom khom trước mặt. Tôi đã học xạ kích trung liên ở lớp tiểu đội nên cũng không đến nỗi tồi.

- Khá lắm! Ngã mấy thằng rồi, thôi đưa súng lại cho tôi.

Tiểu đội trưởng Vạn cũng giục:

- Anh đừng ham bắn nữa, lo quan sát để chỉ huy!

Cũng lạ, sao hôm nay bọn này chỉ xông lên chính diện để ăn đạn. Có lẽ đại đội còn chờ địch sứt đầu mẻ trán nặng rồi mới cho toàn thể xuất kích tiêu diệt chăng? Tiếng súng thưa dần rồi im hẳn. Cái nắng trưa như thiếu đốt này bọn Tây không chịu nổi nên phải chấm dứt cuộc chiến và bỏ cuộc luôn. Ngày 17 tháng 3, toàn bộ lính Âu Phi cơ động về Phan Thiết. Cuộc càn lớn dài ngày vào Thái An để tiêu diệt Tiểu đoàn 89 và các cơ quan huyện Hòa Đa đã thất bại thảm hai. Trong hai ngày đọ sức, Tiểu đoàn 89 đã diệt 80, làm bị thương 50 tên lê dương Âu Phi; ta hy sinh 10, bị thương 19. Hôm nay, trung đội tôi không thương vong ai, tiếc là tôi đã bỏ mất một thời cơ xuất kích ngắn thu súng lúc đầu. Quân dân Hòa Đa, Thái An rất vui mừng, căn cứ được bảo vệ, đồng bào, cơ quan an toàn, càng thêm tin tưởng tiểu đoàn, nhất là Đại đội Quang Trung, đơn vị từ lâu gắn bó thân thiết với bà con. Liên hoan lửa trại được tổ chức rất đông vui. Bà con cho biết địch: đưa thương tử về Hòa Đa rất nhiều và chúng rất buồn bã. Địch buồn thì ta vui! Bọn chỉ huy Pháp lắc đầu, cho Thái An là “đất máu” (terre rouge) làm bọn ngụy quân càng khiếp đảm. Từ đó danh hiệu “Thái An đất máu” và “mặt trận 15 – 16” tháng 3 nổi tiếng khắp Bắc Bình

Ở vùng rừng này còn có nhiều trận đánh của Quang Trung và Phan Đình Phùng, có hai trận của Phan Đình Phùng do đại đội trưởng Dương Minh Đẩu chỉ huy; anh càng tỏ rõ tài năng của một chỉ huy quân sự, anh em đơn vị rất tin tưởng. tiếc rằng trong trận Dốc Cám – Bàu Trắng, anh bị thương nặng ở ống chân phải về công tác ở cơ quan, là một chủ nhiệm chính trị trung đoàn xuất sắc. (Sau giải phóng, anh Đẩu làm Giám đốc Điện ảnh Quân đội rồi Giám đốc Trung tâm nghe nhìn Việt Nam, cùng với con trai là thượng tá Dương Minh Đức đều là nghệ sĩ ưu tú. Hiếm có hai cả hai cha con được phong tặng danh hiệu vẻ vang này cùng một ngày). Đại đội Quang Trung cũng đánh mấy trận ở Đồn Găng do đại đội trưởng Bùi Xuân Diễn chỉ huy. Anh Diễn là một trí thức, một chỉ huy quân sự tài năng. Trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Thái An là nỗi kinh hoàng của quân xâm lược; là niềm tự hào của quân dân địa phương. Sau ngày giải phóng, Thái An vinh dự là một thôn của xã Hồng Thái anh hùng.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 15 Tháng Ba, 2019, 10:12:33 am
Giữa tháng 4 năm 1948, Tiểu đoàn 89 hành quân vào rừng Điều tập kết cùng 86, làm cuộc hội quân lớn nhất trước nay của trung đoàn. Hai tiểu đoàn có năm đại đội: Quang Trung, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Trần Quốc Tuấn, Phạm Hồng Thái. Trung đoàn bộ có tham mưu, chính trị, hậu cần, một đại đội hỏa lực và đại đội bộ binh Lý Thường Kiệt. Chỉ huy là trung đoàn trưởng Nguyễn Đức Tuyến và trung đoàn phó tham mưu trưởng Nguyễn Minh Châu. Lúc tập họp toàn trung đoàn, chúng tôi vô cùng phấn khởi, tự hào với lực lượng hùng mạnh, mỗi động tác đều răm rắp, mạnh mẽ. Tất cả đều vinh dự được đứng trong hàng ngũ trung đoàn chiến đấu hy sinh cho Tổ quốc, cho Trung đoàn như lời ca: Thân nam nhi nào tiếc hiến cho Trung đoàn 82. Hồi ấy chưa sửa lời: Thân nam nhi nào tiếc tiến theo Trung đoàn 812.

Trung đoàn phục kích đánh giao thông lớn trên quốc lộ 1, đoạn cua Bàu Sen, Bắc Phan Thiết 30ki-lô-mét. Phía bắc, 89 chặn đầu và một phần chủ yếu; 86 có đại đội hỏa lực phụ trách chủ yếu, khóa đuôi. Trung đoàn nắm dự bị Lý Thường Kiệt. Dự kiến diệt gọn 10 – 15 xe. Đánh giao thông là sở tường của 86 – 89 nên ai cũng tin tưởng. Điều thú vị là hệ thống thông tin liên lạc làm bằng bồ cạp tre, giật báo chuyền theo tín hiệu quy định: tập thử rõ ràng là rất đơn giản, bí mật như dân giật bồ cạp đuổi thú. Đài quan sát nắm địch xa đặt trên đỉnh núi Tà Đôn, cách trận địa hơn chục ki-lô-mét, khi có một đoàn xe địch dưới 10 chiếc thì đốt một đống khói báo hiệu, trên 10 chiếc đốt hai đống khói. Sau đó có đoàn xe thứ hai thì đốt khói lần thứ hai. Trước trận địa về phía bắc quốc lộ 1A và đường sắt có núi Tà Dôn, phất cơ báo cho mặt trận. tôi phụ trách một tổ ba người lên núi Ách để đánh tín hiệu cho sở chỉ huy. Khẩu hiệu xung phong là toàn bộ lực lượng xông ra mặt đường hô to: “Hồ Chí Minh muôn năm”.

Trước 5 giờ ngày 15 tháng 4 năm 1948, trận địa đã sẵn sàng. Tôi ngồi trên đỉnh núi Ách quan sát đỉnh Tà Dôn và mặt trận rõ mồn một. 7 giờ, trên đỉnh Tà Dôn có hai ngọn khói. Vậy là có đoàn xe hơn 10 chiếc. Chiến sĩ Hạ phất cờ, sở chỉ huy nhận đủ. Có thêm hai ngọn khói nữa. Báo tiếp xong, chúng tôi xếp cờ ngồi chờ xem nổ súng. Đã nghe thấy tiếng động cơ, có lẽ đoàn xe tới cầu Bằng Lăng chỉ còn cách mấy cây số. Nhưng khá lâu mà chưa thấy xe đến trận địa. Chúng tôi trên núi còn sốt ruột thì ở trận địa càng nóng nảy biết bao! Chờ mãi, bất ngờ, từ khu vực chân núi Rễ, mé nam đường, ở khoảng vị trí Phan Đình Phùng tiếng súng đột nhiên rộ lên dữ dội, tiếng súng từ sau đánh tới chứ không phải ở mặt đường. Không có mìn nổ, xe cháy, không có tiếng hô Hồ Chí Minh muôn năm. Nhưng rõ là tiếng súng đánh nhau ở khu vực Phan Đình Phùng chứ không diễn ra trên toàn trận địa. Phía 86 thì im lặng hoàn toàn. Tôi thấy rõ từng tốp người đổ ra quốc lộ, vượt qua đường sắt và tiếng súng hai bên đánh nhau vẫn nổ giòn, ác liệt. Ở phía Quang Trung, các hỏa lực hốc-kít, bờ-ren, vanh-cách cũng nổ hàng loạt dài. Mọt-ta, trôm-lông, VB câu liên tục. Cả tiếng rồi mà cường độ trận đánh không hề giảm. Một chiến sĩ nói nhỏ: Có lính đi dưới chân núi rất đông! Quản thật, có một hàng lính rất dài, có lẽ cả tiểu đoàn đi bộ từ hướng nam ra, tiến về phía tiếng súng nổ. Chắc chắn đây là quân của đoàn xe thứ hai ra chi viện. Chúng tôi vội tụt xuống chân núi Ách sườn phía bắc, đi về hướng đông vài ki-lô-mét, vượt sang nam đường, chờ. Quá trưa tiếng súng mới im. Đợi về chiều tổ tôi đến sau trận địa thì gặp anh Trần Quốc Thái:

- Ở nhà lo cho các cậu quá.. Khi súng nổ, các cậu ở đâu?

Tôi báo cáo vắn tắt và anh nói:

- Chắc có lộ sao đó nên ở trận địa nghe tiếng xe rất lâu mà không thấy đến. Đang nóng lòng chờ đợi thì địch xuất hiện từ chân núi Rễ thọc ra đánh sau lưng Phan Đình Phùng. Anh em chống trả quyết liệt, nhưng rồi cũng bị bạt qua đường 1, khi bám đường ắt mới trụ lại cùng Quang Trung chặn đứng chúng, tạo được thế chuyển sang phản kích. Tiểu đoàn đề nghị trung đoàn cho 86 vận động lên cùng bao vây diệt bọn này, nhưng trung đoàn cho là tác chiến bị động nên ra lệnh lui. Thấy bỏ thời cơ uổng quá, bọn mình đề nghị lần thứ hai bằng giấy thì cũng được lệnh lui bằng giấy lần thứ hai.

- Như vậy thì từ đầu đến cuối, 86 đều không đánh?

- 86 đã lên liên lạc với Quang Trung thì có lệnh rút. Anh An Duy Vĩ, tiểu đoàn trưởng 86 cũng bị thương đấy!

- Tôi thấy có một cánh quân địch lớn đi từ chân núi Ách đến trận địa.

- Có, cánh đó đến phối hợp với bọn trước nên phải đánh lâu. Bây giờ ta đang đưa anh em hy sinh về rừng Điều mai táng.

- Ta thương vong bao nhiêu?

- Hy sinh 22, bị thương 30. Anh Khương, Thu huy sinh rồi. Mình và anh Bảy lúc ác chiến với chúng nó tưởng cũng không còn. Mình bắn cả ổ đạn, hạ mấy đứa.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 15 Tháng Ba, 2019, 10:14:40 am
Tôi nắm chặt bàn tay anh, mừng các chỉ huy an toàn nhưng cũng bùi ngùi thương tiếc anh Khương, Thu và những đồng đội không còn. Anh Khương, người đại đội trưởng Quang Trung dũng cảm, ngoan cường được đơn vị rất tin yếu mới chuyển về Phan Đình Phùng sau trận 15 – 16 tháng 3. Anh Thu, một trung đội trưởng xuất sắc vừa lên đại đội phó nay cũng đã ra đi. Giá 86 lên thì đã làm nên chuyện. Sau đó tôi nghe: có lẽ do hậu cần mượn nhiều cảo đụn của dân nên bị lộ. Theo tin quân báo, địch chết, bị thương 125 tên, chở xác về Dân Thạnh bằng xe bò để xe quân sự từ Phan Thiết lên đưa về. Chúng ta cũng phái cả 89 tập trung khiêng thương binh về bệnh xá tiểu đoàn ở Trủng Tây và bệnh viện trung đoàn ở Bình Thiện. Trung đoàn đã bổ sung cả đại đội Lý Thường Kiệt cho Phan Đình Phùng và Quang Trung. Trung đoàn đánh giá đây là một trận đánh ác liệt nhất của trung đoàn trong chống Pháp, là một trận “không thắng không thua”.

Gần 40 năm sau, trong cuộc hội thảo thông qua “Lịch sử cuộc kháng chiến chống Pháp của tỉnh Thuận Hải” ở Phan Thiết có anh Nguyễn Đức Tuyến về dự. Nói về trận đánh này, anh đã phát biểu rất chân thành. Lúc đó tôi cho rằng đã bị động thì không nên đánh nên tôi kiên quyết cho lui. Không ngờ Phan Đình Phùng bị thiệt hại nặng và 89 đã tạo được thế tốt. Nếu tôi đồng ý đề nghị của 89 thì chắc chắn sẽ có lợi cho ta. Anh tỏ ý tiếc là mình có khuyết điểm trong trận đó. Như vậy cũng tốt. Đúng là trận ác liệt không thắng không thua, nhưng cán bộ chiến sĩ 89 tỏ ra rất thiện chiến, dũng cảm, ngoan cường. Năm 1963, trong chống Mỹ, cũng tại đây lại diễn ra một trận phục kích độn thổ của hai đại đội 486, 489 Bình Thuận; diệt gọn ba xe địch, giết 110, bắt 30, thu 100 súng có 10 trung liên, một đại liên, một cối 60, lấy hai xe GMC chở toàn bộ chiến lợi phẩm về căn cứ xã Hồng Liêm, lập thành tích xuất sắc trong phong trào thi đua Ấp Bắc giết giặc lập công. Tháng 8 năm 1948, 89 đánh một trận nhỏ tại Thuận Long, diệt gọn một trung đội Âu Phi thu toàn bộ vũ khí. Sau trận này tôi nhận chính trị viên Đại đội Quang Trung, bí thư chi bộ. Cuối năm thì làm trưởng tiểu ban cán sự 89 và được bổ sung vào Đảng ủy 89. Tháng 10 năm 1948, 89 tập trung về một địa điểm gần Dốc Cám làm lễ kỷ niệm “Đề nhất Chu niên tiểu đoàn”. Sân lễ tại một láng lớn, đông nam là Bàu Trắng nước trong xanh, vườn tược hai bờ sầm uất; phía đông là Dốc Cám cao cao, xen kẽ rừng xanh và động cát vàng nối nhau gần chục ki-lô-mét đến tận Hưng Long giáp biển; phía bắc là rừng già liên đến Dốc Găng, Thái An. Khẩu hiệu, băng cờ, hoa lá làm cho sân khấu, khán đài hết sức rực rỡ. Có cả sân vận động lớn để diễu binh, bóng đá, điền kinh. Xung quanh hàng quán đông đảo, chưa đến lễ mà đã nhộn nhịp đông vui. Nhân dân căn cứ và vùng sau lưng địch nô nức kéo ra thăm bộ đội, dự lễ đến mấy ngàn người. Bộ đội hết lòng bảo vệ và giúp dân trong ăn ở, sinh hoạt. Cơ quan trung đoàn, huyện Hòa Đa - Phan Lý và cá xã Bình Nhơn, Thái An có mặt đông đủ càng thêm long trọng vui vẻ. Các thiếu nữ Chăm xinh đẹp, duyên dáng đến thăm bộ đội, biểu diễn các bài múa uyển chuyển,dịu dàng, hấp dẫn làm cho các chàng trai trẻ tiểu đoàn nao lòng, tìm cảm da diết chẳng muốn rời.

Có một điều cả các chỉ huy quân sự dày dạn cũng không tính đến địa thế trống trải, sân lễ lồng lộng như vậy, có máy bay bắn phá thì làm sao bảo vệ cho hàng ngàn con người? Đứng trên Dốc Cám mắt thường cũng thấy toàn bộ sân lễ, có đầm già quần đảo thì làm sao che giấu được? Trước lễ một hôm, người đã đông nghịt, quán xá nhộn nhịp vui vẻ lạ thường. Đêm đến ánh điện sáng rực cả vùng, cảnh tượng không không khác gì một thị tứ. một ngày yên ổn, mong sao ngày mai cuộc lễ cũng thành công trọn vẹn như lễ Đệ nhất chu niên Trung đoàn năm rồi, cũng tại sân banh Quang Trung cách đây không xa.

8 giờ ngày 10 tháng 10, có tiếng máy bay và tiếng bom xa xa ở Hưng Long, Trung Lòng Mang rồi gần hơn, ở sân bay Quang Trung đầu Bàu Trắng. Tất cả đổ xô về mé rừng nhưng sân lễ, khán đài, quán xã thì không dời đi đâu được, cũng chẳng làm sao ngụy trang. Có lẽ khi máy bay phát hiện sân lễ thì đã hết bom nên cả hai chiếc kít-bít-phay chỉ lượn một vòng lấy đích sà xuống bắn hai loạt dài dọc mé rừng rồi đi thẳng. Tôi đang nằm ở mé rừng, thấy ánh lửa lóe sáng, một tràng đạn ca-nông-vanh xả xuống, cát bụi tung tóe, mù mịt, khét lẹt. Người đàn ông nằm cạnh tôi trúng đạn vào đầu! Tiểu đoàn lệnh bộ đội hướng dẫn, bảo vệ đồng bào rút vào rừng sâu. Tôi gọi ban cứu thương đến giải quyết người bị nạn và lấy mấy tổ đưa số bà con rất đông lên hướng Dốc Găng.

Vài giờ sau, hai chiếc oanh tạc đến thẳng sân lễ ném bom, bắn phá dữ dội cho đến hết sạch bom đạn mới chuồn. Hồi ấy chưa học kỹ thuật bắn máy bay, nên bắn nhiều mà không có kết quả. Số đông đã sơ tán, số ít còn lại đủ hầm nấp nên không bị thiệt hại về người. Dần về tối, bà con trở lại sân lễ lo ăn uống, hàng quán lo dọn dẹp. Bộ đội tổ chức đưa đồng bào về các hướng chu đáo. Cuộc lễ không thành nhưng mừng nhất là chỉ có một người bị đạn máy bay lần đầu thôi. Tôi may mắn không bị trúng đạn, chỉ thương người nằm cạnh tôi rủi ro.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 15 Tháng Ba, 2019, 10:15:54 am
Năm 1949, tình hình trong tỉnh khá hơn nhiều, các hình thức tấn công địch mạnh và phong phú. Công tác địch vận thu được nhiều kết quả. Chị Nở, cán bộ địch vận huyện Hòa Đa đã vận động được hai binh sĩ ở chi khu Hòa Đa mang ra hai trung liên bờ-ren, một súng trường Anh, rồi ở luôn vùng giải phóng tham gia kháng chiến. Tôi đã gặp hai người này, một hạ sĩ tên Ngọc Chiến, một lính tên Hắc Hổ khi họ được đưa đến Tiểu đoàn 89. Anh Bảy Khanh, cán bộ Việt Minh xã Phan Rĩ Cửa cũng giác ngộ được sáu bảo an của bót Lò Vô mang súng về với cách mạng. Có lẽ việc hai binh sĩ mang hai súng máy ra Chiến khu thì ở Bình Thuận trong kháng chiến chống Pháp chỉ có một. Sau ngày giải phóng, chị Nở là bác sĩ cùng chồng là trung tá Hồng Sơn nghỉ hưu ở thị xã Phan Rang, Ninh Thuận.

Các năm 1948-1949, đại đội Quang Trung đóng quân ở các xã giải phóng của Hòa Đa – Tuy Phong, đêm thường về làm công tác vũ trang tuyên truyền ở các vùng địch hậu. Ở Duồng chỉ cần một vọng gác đồn là đơn vị có thể yên ổn làm mít tinh, vào nhà thăm viếng bà con. Có lần công tác về Duồng, tôi vẫn ở trong nhà ban ngày, có báo động địch sang Hà Thủy mới váo vách đôi khá an toàn. Anh Lâm Bình Phước cũng đã cải trang thành một thanh niên quần áo bảnh bao, đi ban ngày vào Phan Rí Cửa, ở cả tuần tại nhà ba vợ để điều nghiên đồn Cầu Bà Bốn.

Một chiều tối năm 1948, Quang Trung hành quân vào Duồng để đi Tăng Phú về Hưng Long. Duồng và Tăng Phú đều ở ven biển mà Phan Rí Cửa lại ở giữa hai nơi này, không rõ đại đội đi bằng đường nào mà chỉ đêm ấy về đến Hưng Long? Các má chiến sĩ và địa phương đã chiêu đãi đơn vị một bữa thật thịnh soạn. 22 giờ, khi cả đại đội xuống hết sáu chiếc thuyền lớn thì chúng tôi mới vỡ lẽ đây là một cuộc hành quân trên biển khá mạo hiểm nhưng cũng rất thú vị. Các trung liên và khẩu hốc-kít được buộc dây vào thuyền. Đề phòng vậy thôi, còn người và công trường, tiểu liên thì sao? Đâu phải ai cũng bơi năm bảy cây số như thủy thủ con nhà biển! Tôi mà rớt xuống thì chẳng mấy lúc sẽ ba chìm bảy nổi sáu lênh đênh thôi! Hành quân theo đội hình nấc thang để hỗ trợ lẫn nhau và tiện xạ kích khi tác chiến; ven biển Phan Rí Cửa thường có ca nô của đồn tuần tiễu đêm.

Qua khỏi Phan Rí Cửa một lúc thì trời lặng gió, thuyền gần như đứng một chỗ. Còn cách Tăng Phú không xa nhưng phải đến trước sáng, ban ngày lênh đênh trên biển thì thật nguy hiểm. Bây giờ chẳng còn nấc thang gì nữa, thuyền đi đầu tụt lại sau, thuyền sau lại lên trước, thuyền đi lộng thấy bờ mờ mờ, thuyền đi khơi chỉ thấy biển cả mênh mông. Thuyền tôi đi đường như chỉ có một mình trên biển, trước sau, phải trái đều chẳng thấy thuyền bạn nào. Một số người say sóng nôn nằm liệt, có tình huống thì chẳng đánh đấm gì được. Nhưng khoảng 4 giờ sáng đã thấy bờ, rồi cũng đến mép nước. Lên bãi cát, tôi bống thấy nôn nao, lảo đảo và ngã nằm xuống cát rất lâu. Khi khỏe lại, nhìn bên thấy Thi, thư ký đại đội cũng nằm cạnh. Nhiều người đều như thế, gọi là “say sóng bờ”. Dần dần các thuyền cũng cập bến đủ. Đại đội đóng quân ở Hưng Long, còn gọi là vườn Đá Hang, nơi đây bao đời là vườn trầu, cau, chuối, đu đủ… Suối nước chảy trong vườn quanh nằm trong vắt nhưng nước rễ cau rất độc, vườn rậm rạp thiếu ánh nắng mặt trời, muỗi nhiều nên đa số dân bị sốt rét, bụng ỏng đít eo, da vàng mắt bét. Người ta tin Hưng Long ở ngay miệng rồng, sinh con, rồng ăn hết, khó nuôi. Bàu Trắng là bụng rồng nên đẻ con nuôi, đầy đàn, to lớn mạnh khỏe!

Tôi còn có lần đi thuyền từ Phan Rí ra Cửa Duồng. Trời trăng, gió thuận, thuyền đi vun vút, xa xa đèn thuyền câu mực sáng như thành phố. Những người ngồi ganh thật tài, họ ngồi vắt vẻo trên ganh thật dễ sợ mà cứ như không, theo điều khiển của tài công, họ ra xa, vào gần be thuyền để thuyền thăng bằng lướt nhanh trên sóng, sơ xuất một tý là rơi xuống biển ngay. Có người cũng bị rớt nhưng họ bơi giỏi, thuyền quay lại và họ lại lên thuyền ngồi ganh cho đến hết lộ trình.

Thời gian công tác tại cơ quan tiểu đoàn ở chiến khu rừng Thái An, công việc đi vào nền nếp không như lúc ở đơn vị cơ động chiến đấu, việc gì cũng khẩn trương cập rập. Giờ rảnh, tôi tập đàn măng-đô-lin, chiều chiều chơi bóng bàn, bóng chuyền; tôi chơi rất xoàng; hồi nhỏ nhà nghèo đâu biết chơi thứ gì ngoài việc chạy, nhảy, leo dây, xà đơn… Thỉnh thoảng đi công tác các đại đội, đi liên hệ các huyện, xã, tiếp xúc đồng bào vùng căn cứ, nhờ đó khi ra lại đơn vị có thêm kinh nghiệm công tác dân vận.

Từ năm 1949, trung đoàn tổ chức đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung, phía nam có bộ đội A rồi đổi thành bộ đội B ở Hàm Thuận, ngoài Hòa Đa, Tuy Phong có bộ đội C nhưng chỉ thời gian ngắn thì chuyển lại thành Tiểu đoàn 86 tập trung tỉnh. Các đại đội độc lập ra đời 216 ở phía nam, 214 ở phía bắc. Đại đội độc lập duy trì cho đến 1954 mới tập trung về lại Trung đoàn 812 đi tập kết.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 15 Tháng Ba, 2019, 10:25:14 am
*
*   *

Liên trung đoàn 81 – 82 ra đời từ đầu năm 1949 với sự sáp nhập Hai trung đoàn 81 Ninh Thuận và Trung đoàn 82 Bình Thuận phụ trách bốn tỉnh Cực Nam Trung Bộ: Lâm Viên, Đồng Nai Thượng, Ninh Thuận và Bình Thuận. Lực lượng tập trung của liên trung đoàn là Tiểu đoàn 86, do điều kiện thực tế, thường đóng chân và hoạt động ở Hàm Thuận, Bình Thuận nhiều hơn. Các tỉnh đều có đại đội độc lập: 210, 212 ở Ninh Thuận; 200 và các đội võ trang công tác ở Lâm Viên và Đồng Nai Thượng. Bình Thuận còn có bộ đội địa phương huyên và dân quân du kích hoạt động ngày càng mạnh, phục vụ tốt phong trào địa phương.

Đầu tháng 5 năm 1949 tôi cùng các đồng chí Bửu Bá, Tạ Viết Quý đi nhận công tác ở Tiểu đoàn 86 đang luyện quân ở Thắng Bình Hàm Tân, giáp Xuyên Mộc của Bà Rịa. Từ Thái An, chúng tôi vào Ô Rô theo giao liên tỉnh đi Hàm Tân. Đồng chí giao liên độ 25 tuổi, nhỏ nhắn, hiền ít nói, mang công văn tài liệu khá nặng. Đoàn qua quán Ông Ẹ xuống Trại Mấu đến Dân Thạnh. Đây là lần thứ hai tôi đến Dân Thạnh. Lần trước đầu 1947, Quang Trung vào hội quân với Hoàng Hoa Thám để cùng đánh một trận giao thông ở đường 1, đoạn chân núi Tà Dôn. Tại Tân Thạnh, hai đại đội tập họp để chào trung đoàn trưởng Nguyễn Văn Giáo chỉ huy trận này, ông độ 30 tuổi, trắng trẻo, có vẻ như một nhà giáo, bộ bà ba lụa mỡ gà càng tôn thêm vẻ sang trọng. Đêm bộ đội đi phục kích, địa thế rất tốt nhưng đất đá sạn cứng kinh khủng, đào hầm tóe lửa. Phục đến hơn 9 giờ sáng không có địch, trung đoàn trưởng cho rút. Không ngờ, đến 11 giờ có một đoàn xe chở lính Pháp rất đông lên đổ quân ngay khu vực trận địa, lùng sục bắn phá lung tung một lúc rồi về Phan Thiết. Bây giờ, cuộc kháng chiến đã khác; Dân Thạnh là vùng giải phóng nối dài đến Ô Rô, Thái An. Tuy chỉ cách Phan Thiết hơn 20 ki-lô-mét mà ở đây rất yên ổn, tự do. Tại Dầu Bà Én có chợ kháng chiến đông vui, buôn bán sầm uất.

Các anh Bá, Quý trông rõ là cán bộ. Anh Bá mặc quân phục xita mới, đi giày da cao cổ, mang xắc cốt da. Anh Quý mặc kaki xanh, cũng giày xắc cốt. Hai anh có hai công vụ. Còn tôi nhỏ con, mặc bà ba đen cũ, quần gút ống, mang dép cao su xe kéo, ba lô và túi dết đều bằng vải cũ. Ngó tôi lèng xèng nên anh giao liên tưởng tôi là liên lạc phục vụ hai cán bộ chỉ huy kia. Dọc đường, thấy gì lạ tôi cũng hỏi, anh vui vẻ trả lời thành thạo, tôi hỏi luôn miệng để đi đường xa đỡ mệt. Thấy anh mang nặng, tôi mang hộ anh một gói hàng, anh cám ơn, có vẻ cảm tình với tôi. Đến đầu xóm Dân Thạnh, ghé một quán bên đường nghỉ chân. Anh Bá mua mấy nải chuối. Tôi còn rửa lâu ở ao, anh Quý cho gọi tôi vào ăn chuối, uống nước trà, anh giao liên hơi ngờ ngợ. Đến trạm nghỉ ăn trưa, anh giao liên hỏi nhỏ đồng chí Hổ, công vụ anh Bá:

- Anh Chương làm gì mà mấy anh chỉ huy mời ăn chuối uống nước vậy?

Hổ cười trả lời hóm hỉnh:

- À, anh Chương là chính trị viên đại đội đó!

14 giờ lên đường, tôi đón gói hàng để mang giúp nhưng anh nhất quyết từ cuối, tôi không biết vì sao. Qua Tam Giác rồi qua đường sắt Mương Mán – Phan Thiết, qua quốc lộ 1 đoạn cây số 12 để vào vùng giải phóng Kim Bình. Tôi đi kề khi anh mệt thì giúp. Chúng tôi chuyện trò rôm rả suốt chiều hôm đó. Có điều là không bao giờ anh chịu nhờ tôi mang giúp nữa. Qua Tam Giác ban ngày gần đồn Tân Minh địch mới rút, còn rõ dấu vết đồn địch đổ nát. Một vùng Tam Giác rộng cả trăm ki-lô-mét vuông không còn đồn địch, nhân dân làm ăn sinh sống dễ chịu hơn nhiều dù rằng ba bên bốn bề còn không ít địch, ở Phan Thiết chúng lên đây không xa xôi gì. 16 giờ đến Đá Dựng nghỉ giải lao dưới một bóng cây to và một quán nhỏ bên đường. Quán này có tên là quán “Ba Cô” vì có ba cô gái trẻ, xinh, chưa chồng. Cô lớn nhất tên Sương sau này làm dâu bộ đội, là vợ đồng chí Ngô Đồng Hiệp, trung đội trưởng ở Đại đội A. Qua đường sắt đoạn Giò Gà Suối Dầu, nơi đây giữa năm 1947 có một trận đánh xe lửa của Hoàng Hoa Thám, bây giờ vẫn còn ngổn ngang những sườn toa xe bị đốt cháy. 21 giờ đến rẫy Kim Bình mới dừng ăn tối. Đường đi thật dài, trời đem oi bức, một cơn mưa thoáng qua. Anh giao liên đưa đến một chòi rẫy trống, vào ngủ, sáng đi. Rũ sạch chiếc nốp, nằm chuyện trò đôi chút. Tôi nói ở rẫy đất cát đầu mùa mưa, đêm rắn thường vào các chòi nằm cho khô ráo, có khi dưới nốp mình nằm có rắn cũng nên, rắt đụt nưa nhỏ nhưng rất độc, cắn là vô phương cứu chữa. Anh em vội lẫy đèn pin soi chung quanh nốp, chung quanh chòi không thấy gì. Sáng rõ, xếp chiếc nốp, mọi người giật mình: một con rắn đụt nưa to bằng ngón tay, màu đỏ hồng, đã chết bẹp dưới lưng chúng tôi. Khi đêm tưởng chuyện nói chơi thôi, sáng ra đúng là có con rắn độc dưới nốp! nếu rủi ro một người nào đó bị rắn cắn chết thì thật là tai họa.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 15 Tháng Ba, 2019, 10:27:47 am
Từ bưng Cò Ke trở đi là vùng giải phóng, cụm núi Ba Hòn nổi lên đều đặn trên dãy động cát bằng phẳng thật ngộ nghĩnh. Có một khu vực tên “Cát Mốc” màu xám, không trắng, đỏ, cũng không vàng, khoai lang lá nhỏ nhiều chia, củ không lớn nhưng rất nhiều, vỏ trắng, ruột hơi vàng, ăn ngon tuyệt, hơn cả khoai Trại Mấu, Ô Rô vốn rất nổi tiếng. Ở đây có một loại khoai củ to, giống khoai mỡ, khoai bi, tên là “khoai ngọt” vì nó còn ngọt hơn cả khoai trồng già. Bà con tin là qua ba mùa thu hoạch phải bỏ giống, nếu không nó sẽ thành quỷ, do đó giống khoai này ngày càng ít, sau ngày giải phóng không còn nữa. Một hủ tục đã làm mất một giống khoai đặc biệt quý.

Đến Thắng Bình, anh Hữu Bá nhận chức chính trị viên tiểu đoàn, anh Tạ Viết Quý làm đại đội trưởng Đại đội B, tôi làm chính trị viên Đại đội A. Tiểu đoàn có ba đại đội bộ binh, một đại đội trợ chiến. Đại đội Bộ binh 3 là đại đội xung kích, tức Quang Trung cũ nhưng còn ở Ninh Thuận. Tôi làm quen với đại đội trưởng Nguyễn Cang, anh chính là người huấn luyện quân sự cho thanh niên ở miễu Đa Phước năm xưa, từng là đại đội phó Quang Trung, đại đội trưởng Lý Thường Kiệt và chỉ huy trưởng bộ đội B. Tôi xem anh là người anh lớn tuổi, đi trước, có nhiều thành tích chiến đấu và kinh nghiệm xây dựng mà tôi phải học hỏi. Các trung đội trưởng Thái Văn Mao, Trần Văn Hỷ, Nguyễn Long Ẩn đều dũng cảm, nhiệt tình, quyết tâm đưa đơn vị trưởng thành nhanh. Thắng Bình là vùng giải phóng sớm, ở đây lúa gạo, trái cây rất nhiều, ngon và rẻ. Gần biển, gạo cá nước đầy đủ, sinh hoạt được cải thiện, qua ba tháng luyện quân, anh em mạnh khỏe hẳn lên. Nằm cuối cùng đất Hàm Tân, xa địch, thật lâu mới có oanh tạc đến “thăm qua” một lần. Tuy vậy, tôi cũng thấy có nhiều cái hay, ở nhiều láng trống cắm nhiều cọc chống nhảy dù. Nhìn từng bãi cộc cao tua tủa lên trời, cắm rất công phu chắc chắn, tôi nghĩ đây cũng là cái mới trong tỉnh, tăng thêm tin tưởng cho đồng bào, còn tác dụng thực tế thì phải chờ xem bởi còn không thiếu gì nơi địch nhảy dù được mà chưa cắm cọc hoặc không sao cắm hết nổi, vậy địch dại gì nhằm bái có cọc mà nhảy dù.

Nước mắm Hàm Tân thì tôi chịu, không ăn nổi! Tôi là dân gần biển đã ăn nhiều loại nước mắm, nước mắm cá cơm, nước mắm ruốc ngon hết ý. Còn đây là nước bồi bỏ thêm muối, dang nắng một thời gian rồi đem kho nấu hoặc ăn sống. Bà con địa phương chỉ dùng nó vì đã quen. Thật ra, ở đây muối và các loại cá làm nước nắm không thiếu, rất nhiều nữa kia. Các loại cá ngon như đỏ dạ, ướp giấy, cá bẹ, rựa, chim, thu, nhiều vô kể, cá rựa bình thiên to béo, mắm bẹ thật hấp dẫn, có lẽ chúng nó bù lại cho nước mắm “ngoại lệ” của Hàm Tân.

Kết thúc mùa huấn luyện, tiểu đoàn tổ chức một cuộc đi thăm Xuyên Mộc, huyện giải phóng rất sớm, có cuộc sống sung túc, phong trào kháng chiến mạnh, nhân dân rất tin tưởng Chính phủ Cụ Hồ, đã cung cấp nhiều nhân tài vật lực cho cách mạng. Mít Xuyên Mộc dẫy đầy, chở hàng đoàn xe bò đầy ắp đi bán ở các chợ kháng chiến và các chợ vùng địch. Các loại cây trái ngon khác cũng thật nhiều. tiếc là thời gian 86 vào gặp lúc có dịch thổ tả nên mít rất ngon, đồng bào mời ăn tự do mà quân y chỉ cho ăn chút ít về đêm nên không được thỏa mãn lắm. Nhân dân và địa phương đón 86 rât niềm nở, thân tình; là vùng căn cứ nên ở trong nhà dân, bà con cũng coi 86 như con em trong nhà, giúp đỡ, ủng hộ nhiều lương thực thực phẩm chẳng khác ở quê nhà. Trước lúc về Hàm Tân, 86 ra mắt một đêm lửa trại đoàn kết quân dân, bà con dự rất đông, cổ vũ nhiệt tình. Đơn vị trổ hết tài năng phục vụ, vừa gây thiện cảm vừa để tiếng tốt lâu dài. Tôi mới về tiểu đoàn không lâu, chưa hiểu hết tài năng của chiến sĩ trẻ đơn vị nên chính tôi cũng không ngờ đêm văn nghệ cây nhà lá vườn lại thành công đến thế! Các chàng trai 86 không quên ngắm nhìn các cô thanh nữ Nam Bộ xinh tươi duyên dáng. Các cô cũng tỏ nhiều cảm tình với những chiến sĩ phương xa mới thoáng hiện ở quê mình. Các má chiến sĩ, các chị Hội Phụ nữ cứu quốc quyến luyến không muốn chia tay, quà bánh, trái cây la liệt. Tình cảm quân dân thì ở đâu cũng vô cùng quý mến thân thương. Tạm biệt lên đường, hẹn ngày gặp lại, chuyến viếng thăm đã để lại một kỷ niệm đẹp về bộ đội Bình Thuận hiền vui vẻ, trẻ trung, dễ thương, văn nghệ giỏi. Bộ đội Cụ Hồ ở đâu, nơi nào cũng đều được dân tin dân yêu. Tiểu đoàn còn đi thăm một số nơi của Xuyên Mộc, Phước Bửu là một thị trấn giải phóng lớn, phố xá đông vui, buôn bán nhộn nhịp, hàng hóa nhiều, giá cả rẻ, thấy mà mê.

Tiểu đoàn ra lại Hàm Tân để vào đợt lập công mới. tôi dự cuộc họp rút kinh nghiệm trận đánh giao thông thắng lợi trên đường Suối Kiết – Tánh Linh của tiểu đoàn hồi tháng tư và nhận thây tiểu đoàn trưởng Sơn Diệp là một chỉ huy tài giỏi; anh em tin tưởng nhiều vào tiểu đoàn trưởng của mình, rất có lợi cho các hoạt động tới, bởi anh Sơn Diệp cũng mới về 86 đầu 1949 này thôi. Tôi chuyển sang làm chính trị viên Đại đội B. Để kỷ niệm Cách mạng tháng Tám, Quốc khánh 2 tháng 9, một ngày ngày kháng chiến và lập công mới sau luyện quân, 86 phối hợp huyện Tánh Linh tấn công tiêu diệt đồn ga Sông Dinh, một đồn giữ đường sắt GVF (grade voie ferrée) đồng thời là điểm xuất phát đánh vùng căn cứ miền Đông Tánh Linh. Đồn có một đại đội lính Thượng, chỉ huy là một sĩ quan Pháp, hạ sĩ quan là người Kinh. Đội công tác miền Tây Tánh Linh do chủ tịch huyện Lê Văn Triều trực tiếp chỉ đạo xây dựng được một tổ nội tuyến trong đại đội này. Có nội tuyến đưa bộ đội vào đồn, bất ngờ tấn công thì thật tuyệt. Nhưng đề phòng tình huống đột biến, tiểu đoàn vẫn có phương án 2: cường tập.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 15 Tháng Ba, 2019, 10:30:48 am
Đại đội B hôm ấy chỉ có đồng chí đại đội phó Võ Khắc Kế và tôi chỉ huy là chủ công, cùng đội công tác bắt liên lạc với nội tuyến vào lấy đồn hoặc thực hiện phương án 2. Đại đội A tiếp chiến, đại đội Xung kích dự bị. Chỉ huy là Sơn Diệp và Phan Văn Hược chính trị viên tiểu đoàn mới thay anh Bửu Bá. Trực tiếp có liên trung đoàn phó Nguyễn Minh Châu quyết định tối hậu. 0 giờ 26 tháng 8 năm 1949, B đã cùng đội công tác liên lạc với nội tuyến bốn đến năm lần mà không thấy trả lời. Đồn địch vẫn im lìm. Cả đại đội áp sát rào mà không thấy động tĩnh gì. Tuy không liên lạc được với cơ sở nhưng không có dấu hiệu lộ, phải chuyển sang phương án 2 thôi. B triển khai đội hình xong, trong khi chờ G, đội công tác vào xóm đồng bào Thượng gần đó gặp được anh hạ sĩ tổ trưởng cơ sở nội tuyến, đưa ra gặp anh Năm Châu, mọi người mới vỡ lẽ, thở phào nhẹ nhõm. Do cơ sở quán phấn khởi mới chắc ăn nên nảy ra một sáng kiến – cũng thật là chết người – là trong đêm N này, cơ sở tổ chức cho lính cả đồn nhậu say be bét, nào ngờ lính say mèm thì cơ sở cũng say mèm, nào có nhớ việc bố trí phiên gác đón bộ đội nữa! Sếp đồn thấy lính say rượu li bì, hỏi ra biết anh hạ sĩ bày trò, mắng anh một trận, đánh mấy tát tai và đuổi ra khỏi đồn nên mới gặp đội công tác. Vì sự cố đó mà tên lính gác không phải cơ sở nhưng cũng say, ngủ gục trong bót gác, không thấy ám hiêu. Kế hoạch tiếp tục, chúng tôi cùng anh hạ sĩ đến gọi tên gác mở cổng, ập vào chiếm đồn, nếu trở ngại, thực hiện phương án 2 luôn.

Nghe anh hạ sĩ gọi, tên gác không mở cổng nhưng vì quen nhau, cùng người Thượng nên nó cũng không bắn, anh kéo cự mãi sang bên và gọi sếp đồn xin cho vào ngủ. Có tiếng tên Pháp làu bàu rồi cũng ra mở cổng, ta bắn một loạt gục tại chỗ, anh em trào vào đồn chiếm các ụ súng cối, trung liên, mi-ra-đô và đại liên, kêu gọi binh lính đầu hàng. Bọn hạ sĩ quan người Kinh xé rào chạy bạt mạng trong đêm; lính Thượng choảng dậy răm rắp nằm tại chỗ. Ung dung làm chủ, thu dọn chiến lợi phẩm đến sáng mới lui quân. Cơ sở và hàng binh theo đội công tác về huyện. Đánh đồn có nội ứng thật là dễ dàng. Ở Bình Thuận trong chống Pháp duy nhất có trận này. Tuy có trục trặc suýt bị bể vỡ nhưng rồi cũng toàn thắng. ta vô sự, thu trên 100 súng các loại, có một đại liên Dờ-rốt-nin, một cối 60, 10 trung liên và một VĐT 1 oát. Có rất nhiều thịt, cá hộp, ra-xông 24 giờ (ration 24 heures). Tiểu đoàn về Phong Điền, Hàm Tân nghỉ mấy hôm. Ngon tuyệt là thịt hộp nấu rau cải, nước dừa bù đắp những ngày hành quân gian khổ.

Trong tập san Lịch sử Quân sự số 5, năm 1993 của Viện Lịch sử Quân sự Bộ Quốc phòng có viết trận Sông Dinh ngày 26 tháng 8 năm 1949 ở Bình Thuận là một trong bốn trận tiêu biểu của Quân đội nhân dân Việt Nam năm 1949 (Hố Mít, Bông Lau – Lũng Phầy, Đại Bục và Sông Dinh).

(https://lh3.googleusercontent.com/DDdKxCVGMueglEs1DJTISQswDLRZMOwPFNBA657-CJ8QY-28VEoepKPIL79lsa4kXnZ6fzXjBHa194j2sG8zPfRYOI2lN1bZgFb-yqBrFaqtl2vRQh4ffvnPS5d4laqv_q55xsBN0EkE6DAJ3UB3TKgtNnYZ6UuRr_MPrif74QvjT12FZnj1HVKnLF13MEcQYxsh9Tu-t39OliqEL1pELmm6NhslnXJrksz2wj-vJJPGlZnCIOsiXnF3oIdGIylLEwi8y_poYJ4M-6V4K9slCJyOYiE2pAAAY38MHnKSVizQnGU6D0UAIh3vbLQM267S2DXuBJO3eSI9oPxNm0mUypbuCV_L0lSMFiSTrxL2_Z7RPUo8I2cpUsZjTjBCA-akXq0WrfJVJiqOeW3b2vQ7PTXE9R_My3O0w8xAF4DD6QP2WCQ5YSQpvK2GaQEeJ4ei4RGp1ORzJfjbatAR_3zoCszeSlLX9rru_9IdGoxH0szswPLdFfrC4O-icTw9a9xWThZHvvuyopsRQsVgi0f_AA6mHYU3g0oIibw6dBG6AD_V6xaU2Eb7Ah1KzRwZmC64MF5HDZG32-Ofl3lIjSsuixuuxsJxCuR9-7lsoOyQ_R43D9-oK63sRxTT4X084ElN5edI0D0hL0DiKBLevb4by-hbAKON2DQ=w990-h600-no)


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 15 Tháng Ba, 2019, 10:32:12 am
86 liên tục chống càn bảo vệ dân, giữ vùng giải phóng. Tam Giác tuy không còn đồn địch trong lòng nữa nhưng ba góc Ma Lâm – Mương Mán – Phan Thiết đều có nhiều địch, dễ dàng xuất quân đánh vào Tam Giác rất nhanh. Do vậy, đóng quân ở đây phải luôn có sẵn kế hoạch tác chiến. Các vọng “bù” Tam Giác cũng nổi tiếng như mõ Thái An, địch đi hướng nào đều có tín hiệu báo động kịp thời để tránh lánh hoặc bố trí tác chiến. Dân quân du kích thường xuyên cọ xát địch, có bộ đội kèm cặp phối hợp, trưởng thành nhanh, đánh địch rất keo. Khi có bộ đội cũng như lúc đánh giặc một mình, họ đều chiến đấu rất dũng cảm ngoan cường. Tiếng còi của tiểu đội trưởng dân quân Tô Phụ địch rất nể. Năm 1953, Tô Phụ là chiến sĩ thi đua tỉnh Bình Thuận và Liên khu 5. Tiểu đoàn chống càn ở Tam Giác trận nào cũng đánh lui và tiêu hao nhiều địch bảo vệ được tính mạng tài sản nhân dân nên bà con rất tin tưởng. Nhân dân Tam Giác rất nghèo, mấy năm liền bị địch đốt nhà, cướp tài sản nhưng đồng bào kháng chiến rất kiên cường, hết lòng chăm sóc, ủng hộ lương thực thực phẩm cho bộ đội, đường sữa thuốc men cho thương, bệnh binh thật cảm động, tình đoàn kết quân dân rất đậm đà, thân thiết.

Tiểu đoàn chủ trương đánh một trận cải trang kỳ tập chiếm đồn Trinh Tường ngay bìa nội ô Phan Thiết vào chập tối là lúc địch có nhiều sơ hở. Trung đội phó Ngọc Ánh cảm tử đội nội thành sẽ cùng cơ sở đưa một xe Jeep trong Phan Thiết ra gặp tiểu đoàn tại bắc đồn Trinh Tường không xa, đón 2 chiến sĩ quốc tế người Đức là Lê và Xít-phếch đóng vai sĩ quan Pháp cùng hai cán bộ của 86 đóng sĩ quan ngụy, cho xe chạy đến cổng đồn, bất ngờ nổ súng chiếm bót và mi-ra-đô. Một tiểu đội cải trang lính ngụy đi bộ sau xe Jeep xông vào chiếm đồn. Xung kích là tiếp hiến, tảo trừ, thu dọn, B làm dự bị, A chặn viện Phan thiết. Với 86 thì trận sát gần Phan Thiết này hoàn toàn tin tưởng thắng lợi, sẽ có ảnh hưởng chính trị to lớn đối với phong trào nội thành và xung quanh. Anh Năm Châu trực tiếp chỉ huy trận đánh.

Chúng tôi hồi hộp chờ đợi từ khi tiểu đội cải trang cùng các “sĩ quan Tây, ta” đi công khai trên đường 8 xuống Trinh Tường. Đã khá lâu, nếu có xe Jeep ra thì trận đánh đã nổ rồi. Tình hình bình thường nhưng cũng phân vân lo ngại quá. Rất lâu sau đó mới thấy tiểu đội và các sĩ qaan quay lại có cả Ngọc Ánh, anh ta cho biết là kế hoạch bị lộ nên không cho xe ra được, nếu tác chiến bị động, dù quả cảm mấy cũng khó khăn mà vô cùng nguy hiểm Ai cũng tiếc nhưng ra về êm thấm là tốt. Đâu ngờ về sau mới biết kế hoạch đánh Trinh Tường là “kế hoạch ma” của Ngọc Ánh, cũng không biết tại sao y đặt kế hoạch dối tra như thế mà lúc đó ai cũng tin! Ngọc Ánh là một cảm tử đội sa đọa hư hỏng, biến chất, đã vi phạm kỷ luật dân vận trong nội thành rất nặng, năm 1953 y bị Tòa án Quân sự Cực Nam Trung Bộ xử tử hình vì các tội ác y đã gây ra trong thời gian hoạt động độc lập trong nội thị.

Cuối năm, tiểu đoàn về đóng ở Dân Thạnh (xã Hồng Sơn sau này) tiến hành rèn cán chỉnh quân. Lần này chính là rèn cán để đủ sức hoàn thành nhiệm vụ trong giai đoạn mới của cuộc kháng chiến. Đội ngũ cán bộ tiểu đoàn, đại đội thi đua phục tập chương trình rèn cán do liên trung đoàn chủ trì. Khi có địch càn, tạm dừng; đánh đuổi giặc xong lại lao vào học tập, rèn luyện.

Đầu tháng 1 năm 1950, tiểu đoàn hành quân lên đường 8 đánh một trận phục kích giao thông ở đoạn giữa Gia Bát - Di Linh để kỷ niệm ngày thành lập Đảng. Hành quân đường dài giữa núi cao rừng thẳm, thật gian lao nhưng cũng đầy thú vị, nhiều lúc tưởng như đi mây cưỡi gió, từng đám, từng đám mây chập chờ, sà sà ngang mặt đường và cả bên dưới chân. Mấy làn gió mát thoảng qua, những cánh chim trời bay lượn; dưới đồng bằng làm sao có được cảnh này! Cùng hành quân có liên trung đoàn trưởng Nguyễn Văn Giáo và liên trung đoàn phó Nguyễn Minh Châu. Đi đánh giặc mà có cả cấp cao thật là tuyệt. Trời cao nguyên vẫn còn mưa rả rích suốt ngày. Chiều 5 tháng 1 vừa bố trí xong chưa lâu, tôi bỗng thấy một vệt lửa xanh bay từ mỏm đồi xuống mặt đường, một tiếng nổ vang cùng một bựng khói đen nghịt. Một chiến sĩ gác vô ý làm bật cần lựu đạn, may mà giữa núi rừng sâu, xa dân, xa địch. Ở đây khố nhất là chỗ ngủ. đất dốc không nơi nào bằng phẳng, lại thêm sỏi đá lởm chởm phải lót lá, lập thế chỏi chân vào gốc le mà ngủ. Các y tá có võng cứu thương treo nằm thần tiên quá! Địa thế phục hết ý, trên cao chọi lựu đạn và bắn găm vào thùng xe thì quá ngon, nhưng nhảy xuống đường thì hơi khó, lôi thôi là trẹo giò. Bên kia đường là vực thẳng, địch không chạy đường nào được.

8 giờ ngày 6 tháng 1, có tiếng xe ô tô từ xa. Một xe vừa đến, trung liên lựu đạn của Xung Kích rền vang. A, B tràn ra nhưng trước trận địa chẳng có một xe nào nữa, toàn tiểu đoàn chỉ đánh có một xe! Ngó xuống mé dưới đường sâu hun hút mà địch cứ nhào đầu chẳng kể hố vực gì cả. Xung Kích chỉ kịp bắn chết bảy tên, thu một trung liên, sáu súng trường. Lùng sục một lúc bắt thêm một tên Pháp chỉ huy xe, lấy một mi. Đây là chiếc xe tiếp tế định kỳ cho đồn Gia Bát; thảo nào toàn là lương thực vặt vãnh đầy xe; cả tiểu đoàn mang khẳm. Ngoài một ít súng đạn thì không có gì đánh giá nhưng đã đánh thì phải thu cho bằng hết chứ biết sao! Tên Pháp rất sợ bị bắn, ta giải thích: bộ đội cách mạng không bắn tù binh đã đầu hàng, nó cám ơn ríu rít. Dừng nghỉ ăn trưa tại một con suối, cơm vắt với thịt hộp chiến lợi phẩm thì thật tuyệt. Sẵn nước trong mát không chờ sôi cứ uống phẳng rốn, ngon lành. Chiến thắng dù nhỏ nhưng cũng là chiến thắng nên tất cả đều vui. Được cấp gạo trắng, thịt hộp, cả một ít rượu; bây giờ là ngủ đêm, thoải mái một chút cũng được. Lại có nhiều rau tàu bay, rau rịa và chuối, mít rẫy cũ đồng bào đã bỏ, chịu khó hái nấu canh với thịt hộp thì ngon cực kỳ. Số hơi lớn tuổi nhấm nháp vài hớp rượu, câu chuyện càng rôm rả, vui như Tết; quá nửa đêm mới chịu an giấc.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 15 Tháng Ba, 2019, 10:33:07 am
Năm nay tiểu đoàn ăn Tết ở Dân Thạnh. Quản lý đã phân phối tiêu chuẩn Tết. Riêng phần B cũng tự chuẩn bị bổ sung thêm để anh em ăn ba bữa cho ra vẻ. tôi không uống rượu nhưng để đơn vị vui chút ít ngày Xuân, hôm đánh đường 8, tôi đã dặn quản lý bí mật cất mấy chai anít, nay tặng mỗi trung đội một chai, pha ra cũng đủ mỗi người một cốc, anh em rất hoan nghênh đại đội tâm lý. Sáng mồng Một, một phong pháo mừng Xuân. Hồi ấy chưa cấm đốt pháo và cũng không có việc đốt quá mức như sau này. Đồng chí Bình, trung đội trưởng trung đội 3 đề nghị cho bắn một loạt tiểu liên mừng năm mới, tôi khuyên phải tiết kiệm đạn để đánh giặc. Khổ nỗi, đại đội trưởng thì ủng hộ và thuyết phục lại tôi:

- Chí bắn một loạt ngắn thôi, cho khí thế, đồng ý anh nhé!

Đầu năm đầu tháng không lẽ làm phật ý nhau và để anh em cụt hứng, tôi đành cười trừ. Thế là khi nghe ở tiểu đoàn bộ nổ pháo, đại đội cũng nổ một phong, kèm theo một loạt tiểu liên xẹt lên trời, anh em vỗ tay vang dội. Từng trung đội liên hoan Tết với đồng bào nhà đóng quân. Cán bộ các trung đội lên chúc Tết; ban chỉ huy mời mỗi người một ly lơ-bông-gu, anh em cho là phù hợp với ngày Xuân. Tạm gọi là thanh bình trong ba ngày Tết, có lẽ tiểu đoàn bảo mật tốt, địch không biết nên không đến “thăm xã giao”.

Chiều mồng hai có lệnh hành quân sang Tam Giác. Thực phẩm Tết dù dồi dào cũng chỉ đến trưa là sạch. Trời cồn nắng chang chang, cả 86 đã qua đường 1, sang xóm Đồng, Xoài, Quỳ, đường 8. Dạo này, Tam Giác đồng khô cỏ cháy, gió bụi mịt mù nhưng hành quân ngày cũng thích thú, bất ngờ, nhanh chóng mà lại an toàn. Đơn vị đóng khu vực cũ ở Láng Quý – Rẫy Nổ; đại đội bộ ở nhà chú Hai Dương, giám đốc Công binh xưởng Hàm Thuận. Có một điều nhớ mãi: quản lý tưởng là trong dịp Tết, đến nơi cũng dễ xoay xở thực phẩm, nào ngờ nông thôn xa chợ búa, loay hoay thế nào mà đến 12 giờ trưa mồng ba mới có cơm và muối trắng mang lên. Phần Tết đã làm gọn trước lúc lên đường, đến đây ai cũng ngó nhau cười, không sao nuốt nổi. Sáng kiến nấu ấm nước chan cơm ăn với muối thế mà cũng hết tiêu chuẩn vì quá đói rồi. Tuy chưa đến nỗi chờ nấu mầm đá như chuyện Tràng Quỳnh gạt vua ngày xưa.

15 giờ, tiểu đoàn hành quân xuống Xuân Phong, Đại Nẫm, Phú Hội. Mỗi đại đội giương cao một lá cờ lớn đi thành một hàng dọc song song băng đồng ruộng khô, gián cách vài trăm mét. Cả đơn vị lớn hành quân ban ngày giữa lòng Tam Giác trông hùng dũng biết bao! Ngay mình trong hàng ngũ cũng thích thú, tự hào, huống hồ đồng bào. Đại đội B về xóm Đại Nẫm, vừa đến đã có địa phương đón niềm nở, thanh niên vác đến cả đống củi lớn để tối đốt lửa trại. Sau khi thăm các gia đình là tập trung ăn cơm liên hoan tết. Nói là liên hoan nhưng chỉ có bộ đội ăn còn địa phương, các má các chị thì chỉ lo dọn và chiêu đãi. Tuy gần địch, đường sắt Phan Thiết – Mương Mán chạy qua giữa các xóm nhưng phong trào kháng chiến ở đây khá mạnh, đời sống cao hơn trên Tam Giác nhiều, nhà nào cũng có vườn cây trái và rau đủ loại. Nhớ lại đúng 10 năm trước, tôi vào Phan Thiết thi tiểu học, đi xe lửa ngang qua Phú Hội, Đại Nẫm, Xuân Phong, từng chùm xoài lòng thòng đứng trên xe lửa có thể với tay hái được, thấy mà mê! Buổi chiều mồng ba Tết này quả là một bữa ăn Tết muộn thật thịnh soạn. Quà bánh dẫy đầy, ăn uống no nê rồi mà còn gánh tới bổ sung liên tục. Anh em cám ơn không nhận nhưng các má nhất định không nghe:

- Các con ráng mang về, trên đó khó hơn dưới này, lâu ngày mới về thăm bà con, lại ngày tư ngày Tết, đừng mắc cỡ khách sáo gì hết, nghe chưa?

Thật chân tình cởi mở, cảm động biết chừng nào. Quản lý “đành” rất vui lòng nhận. Hành quân về, đại đội nào cũng gánh theo kĩu kịt.

Vừa tối, đồng bào đến đông đúc vòng trong vòng ngoài. Ruộng khô, rạ cắt sát gốc cũng sạch sẽ. Cờ đỏ sao vàng bay phần phật trong gió Xuân dưới ánh lửa hồng càng rực rỡ. Sau mít tinh chính thức là văn nghệ mừng Xuân. Các tiết mục ca múa, tấu hài làm bà con cười lăn ra; các nghệ sĩ không chuyên này cũng khá tài ba, diễn xuất thật điệu nghệ, vui hay từ đầu đến cuối. Các cô chú bé cứ cười giòn tan, vỗ tay hoan hô các anh bộ đội không ngớt. Vui mấy rồi cũng phải kết thúc, cảnh chia tay thật quyến luyến, nhiều người đưa tiễn cả cây số, nhìn bộ phận quản lý gánh gồng lỉnh kỉnh thấy cũng vui, càng cảm kích tình nghĩa quân dân. Nhờ vậy mấy bữa tiếp theo cũng tươi. Anh em nói đùa: đúng là lên voi xuống chó! Mới ba mươi mồng một ê hề, trưa mồng ba đã muối trắng rồi chiều mồng ba sang hết cỡ. Chắc rồi mồng sáu, mồng bảy sẽ không khác trưa mồng ba! Đó là “chuyện thường ngày” của bộ đội kháng chiến, nhưng bộ đội những ngày chưa tác chiến là cứ “vui như tết”. Dạo này Dân Thạnh địch ít càn. Chúng phải dồn sức cho chiến trường chính Bắc Bộ nên ở mình cũng thong thả hơn. Nghe ban tổ chức Đại hội Tập của trung đoàn đang chuẩn bị rất quy mô, khản trương ở rừng Điểu, đơn vị háo hức mong đến ngày đại hội để thi tài. Dù sao, một chừng mực nào đó, mấy tháng huấn luyện vừa qua cũng hạn chế tác chiến diệt địch.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Ba, 2019, 10:18:10 am
Tôi vốn nhỏ con, đã 22 tuổi mà nhiều người cứ tưởng 18-19; tôi lại thường ăn mặc xuềnh xoàng. Thời ấy bộ đội còn khổ lắm, có gì mặc nấy, thường là bà ba đen, vải xấu, hầu hết đi chân đất. Khi đánh trận, cố kiếm một đôi giầy chông, chiếc xanh tuya rông, bình toong Ăng-lê mang cũng thích. Nhưng cái chính là tiện lợi hơn trong sinh hoạt cũng như tác chiến. Một lần, đến đóng ở xóm Bàu Hạt; đại đội bộ ở một nhà gần sân banh. Nhà tranh kháng chiến không rộng rãi gì, chỉ có một chiếc máy may và bộ ván gõ là đáng giá. Anh Quý thường ăn mặc đàng hoàng, giày, mũ tươm tất; chủ nhà biết là chỉ huy pha trà mới uống. Tôi vào chào chủ nhà rồi cầm tách trà uống một ngụm. Tôi bỗng để ý thấy anh chủ nhà nhìn tôi không nói gì nhưng vẻ không bằng lòng. Một chập, các trung đội trưởng lên báo cáo việc đóng quân và nhận chỉ thị sinh hoạt. Anh chủ nhà thấy các trung đội trưởng đều chào tôi thì rất ngạc nhiên. Trung đội trưởng Bình ăn mặc khá đẹp, cô lô lệch có sao, giày da cao cổ nom thật có dáng. Sau đó, Vân thư ký đại đội cho tôi biết chủ nhà đã hỏi:

- Anh đó còn nhỏ mà sao mấy anh kia chào?

Vân tủm tỉm:

- Chính trị viên đại đội tôi đó!

Chủ nhà cười sởi lời:

- Vậy à? Tôi tưởng liên lạc chớ!

Hai vợ chồng thân thiện với tôi hơn. Đôi lúc đi công tác vè, tôi cũng ghé lại thăm. Thì ra, dáng vẻ bên ngoài cũng quan trọng.

Một lần khác, khi tôi đang rửa mặt ở sân thì có hai người đến. Nhìn quân phục xi-ta xám, quần ống tuýp, tóc cắt cao, ba lô vải xi-ta vuông vức, dép cao su cắt rất đẹp, tôi biết đây là cán bộ khu 5 mới vào Cực Nam đến đơn vị nhận công tác.

- Này đồng chí, ban chỉ huy đại đội ở đâu?

- Ở trong nhà!

Đại đội trưởng, đại đội phó tiếp và bảo chờ chính trị viên. Tôi vào, các anh giới thiệu tôi và bảo đây là hai cán bộ trung đội bổ sung về đại đội. Sau này, khi đã thân thiết, các đồng chí mới nói:

- Hôm gặp anh ở sân, nói thật chúng tôi cứ tưởng anh là liên lạc thôi, ai ngờ chính trị viên đại đội mà nhỏ quá vậy.

- Vì các ông nghĩ các ông là trẻ nhất rồi, còn cán bộ đại đội phải già chứ gì!

- Khi thấy đại đội trưởng giới thiệu, bọn tôi rất ngạc nhiên, cán bộ đại đội mà còn trẻ hơn chúng tôi nữa!

- Mình không trẻ đâu, anh Dương Minh Đẩu, chủ nhiệm chính trị liên trung đoàn làm chính trị viên đại đội Phan Đình Phùng từ năm 1945, lúc mới mười bảy tuổi cơ. Tôi là cán bộ đại đội mới vài năm nay thôi.

- Anh bao nhiêu tuổi rồi, nhập ngũ năm nào?

- Mình nhập ngũ năm 46, hai mươi hai tuổi rồi.

- Trời ơi! Tưởng anh chừng mười tám, mười chín tuổi thôi, ai ngờ là lính cựu, bọn tôi mới tân binh.

- Mình đánh cũng chưa nhiều lắm đâu. Đại đội trưởng của chúng ta mới là người đánh dư trăm trận, từ hồi còn là giải phóng quân. Mình cũng mới qua các lớp tiểu đội, trung đội chứ chưa qua lớp đại đội.

- Cũng là quá cơ bản rồi!

Tuổi trẻ chúng tôi cũng dễ chan hòa với nhau. Các cán bộ trung đội ở Liên khu vào đã phát huy tác dụng rất tốt cả trong huấn luyện và chiến đấu. Trẻ, khỏe, thông minh, năng động, họ đã đoàn kết cùng đưa đơn vị tiến bộ nhanh trong “Rèn cán chỉnh quân” và chiến đấu sau này.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Ba, 2019, 10:18:59 am
Đồng chí Nguyễn Lịnh, chính ủy trung đoàn mới ở Liên khu 5 vào Cực Nam nhận chức, nghe tiếng là một người rất sắc sảo, nghiêm nghị, sắp xuống làm việc với Tiểu đoàn 86. Tất nhiên, chính ủy sẽ xuống các đại đội. Nghe nói chính ủy nhận xét, đánh giá cả quân sự, chính trị đều rất chặt chẽ, thái độ khá găng, thật tình tôi cũng hơi ngại và có cảm giác không giống như đối với chính ủy Lâm Hồng Phấn. Nhưng tôi nghĩ mình cứ làm nhiệm vụ chu đáo là được, không có gì phải lo. Sáng nay, đại đội trưởng tập hợp đơn vị; chính ủy đến, toàn đại đội bồng súng chào. Thời đó, tập hợp từ trung đội trở lên để chỉ huy họa khoa mục huấn luyện hoặc chỉ thị công tác, đơn vị đều bồng súng chào, nghiêm lắm. Chính ủy đáp lễ rồi đi thong thả một lượt quanh hàng quân. Đến trước đội hình, đồng chí cho nghỉ và khen đội ngũ tốt, động tác mạnh, đều. Thế là anh em vui hẳn lên, sự e ngại, cách biệt đối trên giảm hẳn. Đang nói chuyện về tỉnh hình chung, đột nhiên anh hỏi đơn vị:

- Các đồng chí biết năm 1949 là năm gì của cuộc kháng chiến không?

Im lặng. Chẳng lẽ cả đại đội không ai trả lời được câu hỏi của chính ủy sao? Không lẽ đại đội trưởng, đại đội phó phải trả lời một câu hỏi chính trị (thì cũng được thôi) tôi lên tiếng:

- Thưa chính ủy, năm 1949 là năm cầm cự, chuẩn bị tổng phản công.

- Đúng, nhưng nói cho đầy đủ thì năm 1949 là năm tích cực cầm cự, chuẩn bị tổng phản công – Rồi đồng chí nói tiếp: - để cho năm 1950 này là năm chuyển mạnh sang tổng phản công. Các đồng chí có phấn khởi không?

- Có – Cả đại đội đồng thanh trả lời, đều, mạnh, kéo chân đánh rụp theo tư thế nghiêm. Tôi thấy rõ đại đội trưởng, đại đội phó hài lòng động tác đội ngũ thuần thục của chiến sĩ mình. Chính ủy đến đại đội bộ làm việc. Sự gần gũi, mến phục ban đầu của chúng tôi đã nảy nở và ngày càng phát triển suốt những năm cùng sống chiến đấu, công tác sau này. Tôi học tập nhiều về tác phong sâu sát, cụ thể, tỉ mỉ của anh. Tuy thời gian ngắn cũng thấy rõ sự thông minh, nhạy bén của một con người từng trải dạn dày, một chiến sĩ cách mạng từ thời Du kích Ba-tơ. Đôi mắt anh rất sắc, chắc khó qua anh được điều gì. Liên trung đoàn 81-82 được đổi lại thành Trung đoàn 812, vẫn phụ trách 4 tỉnh Cực Nam Trung Bộ. Toàn quân thực hiện chế độ “Chính ủy tối hậu quyết định”, anh là chính ủy 812 và đại diện của Bộ Tư lệnh Liên khu 5 ở Cực Nam. Anh cũng cho biết: Ban cán sự Cực Nam và trung đoàn đã quyết định không tiến hành Đại hội tập mà sẽ mở một chiến dịch để phục vụ phong trào thiết thực hơn. Sau đó, sẽ mở một cuộc hội nghị tấp huấn cho cán bộ từ đại đội trở lên toàn trung đoàn và các tỉnh Cực Nam, bồi dưỡng nâng cao trình độ cán bộ trong tình hình mới. Như vậy sau “Rèn cán chinh quân” là hoạt động ngay.

Đầu tháng 5 năm 1950, tiểu đoàn được quán triệt về Chiến dịch Hè ở Bắc Bình Thuận, có mật danh là chiến dịch BTN. Cũng không hiểu sao mật danh chiến dịch lại như vậy: BT là Bình Thuận, N là Nord, BTN tức là Bình Thuận Bắc. Vậy thì có gì đáng gọi là mật danh? Thế mà chiến dịch vẫn giữ được bí mật địa bàn, mục tiêu cho đến ngày N, giờ G và giành thắng lợi. Giữa tháng 5, Đại đội B được phái ra hoạt động trước ở Bắc Bình, vừa để nghi binh, vừa cùng địa phương phát triển du kích chiến tranh, hỗ trợ cho hậu cần chiến dịch chuẩn bị vật chất. Được về quê hoạt động thì phẩn khởi quá, có dịp thăm viếng gia đình, làng xóm bạn bè. Đơn vị thường cử một số tổ phối hợp với du kích đột nhập các ấp ũõ trang tuyên truyền, thế mà lại xảy ra cho gia đình tôi một chuyện phiền toái. Nhà tôi ở đầu mối đường, từ bến Lò Ngói lên thẳng nhà rất dễ dàng. Khi tổ công tác được lệnh vào xóm bắt tề thì du kích dẫn đường cứ thẳng tới gõ cửa, gọi người nhà ra trói dẫn đi, không kể trúng trật, dù cha mẹ tôi bảo có con tên Chương là cán bộ bộ đội, anh em đó cũng chẳng cần biết, cứ dọa bắn và vội trói dẫn đi vì sợ ở lâu, địch đồn Cầu Xóm Lụa truy đuổi nguy hiểm. Không nói gì được, mẹ tôi dắt hai em nhỏ theo cha tôi ra căn cứ để mong được giải oan. Lội sông nước tới ngực, té lên té xuống, cha tôi còn bị nộ nạt đòi bắn, các em tôi khóc sướt mướt, suýt bị nước cuốn trôi. Trên đầu, đạn địch bắn chéo chéo, gian khổ và nguy hiểm hết cỡ. Lên đến Ngọc Sơn, họ nói là đã bắt được Việt gian. Khi anh Hược thấy cha mẹ tôi mới chưng hửng. Hỏi thì anh em nói không biết, tưởng là tề, việt gian thì bắt thôi. Mẹ và các em tôi khóc như ri, khi mở trói thì cánh khuỷu cha tôi đã bầm tím. Anh Hược xin lỗi và an ủi. Anh em bộ đội chả biết ất giáp gì, địa phương đêm tối không dặn kỹ, du kích quá sợ địch, không dám vào sâu trong xóm, đến từng nhà tề mà vội vã bắt bừa bất kể ai, làm sai chính sách. Cha tôi cũng thông cảm, mẹ tôi mãi sau ngày giải phóng vẫn buồn rầu nhắc lại chuyện này, bà nói lúc đó khó mà biết sống chết ra sao. Đêm ấy tôi không đi khu vực đó, cũng mừng tai qua nạn khỏi bởi chuyện không đâu. Thời đó không ít chuyện như vậy, có lúc còn xảy ra điều đau lòng.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Ba, 2019, 10:26:16 am
Đại đội B đứng tại mặt trận ngày 15-16 tháng 3 ở Thái An, thường xuyên ăn ở ngay tại công sự dưới bóng sò đo mát mẻ. Ban chỉ huy trong một nhà tranh trong bìa rừng già gần trăm mét để tiện làm việc với địa phương và ban chỉ huy Chiến dịch.

Phía đông vài trăm mét là đại đội độc lập 214. Ban chỉ huy 214 có một doanh trại trong rừng già, sâu hơn nữa là bệnh xá huyện. Do hoạt động quá nhộn nhịp của kinh tài huyện, hậu cần chiến dịch và quán xá của một số bà con nên địch nắm được khu vực đóng quân của ta. Tiểu khu Bình Thuận đưa một tiểu đoàn lê dương Âu Phi ra tập kích đại đội B. Thế mà cả quân báo, trinh sát chiến dịch chẳng biết gì. Sáng sớm ngày 2 tháng 6 năm 1950, đại đội đang tập thể dục tại bờ công sự bỗng có hai tiếng súng chát chúa, tiếp theo hàng tràng trung liên cùng súng tường lựu đạn nổ dữ dội tại trận địa B. Địch đánh vào đơn vị rồi! Tôi quăng xắc cốt, cùng anh Quý chạy ra ngay chỗ tiếng súng nổ. Anh Kế vừa chạy đến, tôi khoát tay:

- Tôi và anh Quý ra trung đội 2, anh đến trung đội 1 liên lạc ngay với 214.

Chạy gần đến trung đội 2, địch từ chính diện và hông trái đột kích vào nên luồng đạn xả vào chúng tôi rát rạt. Một cú xốc mạnh, tôi ngã chúi, nhìn lại thấy máu tuôn từ đùi trái đỏ cả quần. Tôi cố nhổm lên mà không được. Biết đùi đã bị gãy, đành nằm tại chỗ. Tôi không gọi, sợ anh Quý biết sẽ nhùng nhẳng lại giúp tôi thì thế nào cũng bị vướng tiếp vì làn đạn dày đặc, cứ để ảnh ra trung đội 2. Tôi rất mừng vì tiếp đó nghe tiếng còi của anh thổi vang chỉ huy bộ đội. Đồng chí Lẹ, liên lạc đại đội chạy đến:

- Anh bị thương à?

- Ừ.

- Lẹ cúi xuống định dìu tôi nhưng lại nói:

- Em đang đi chuyển mệnh lệnh anh à!

- Thôi, em đi chuyện lệnh nhanh đi, cứ dể anh nằm đây!

Đạn chíu chít xung quanh, may mà cậu ấy không hề gì. Châu, liên lạc thường đi với tôi vừa chạy tới, xốc tôi lên, cõng được mấy bước cũng nói:

- Em bị thương rồi anh à!

- Ở đâu?

- Ở bắp vế.

- Đi được không?

Châu nhắc chân lên, một dòng máu đỏ tươi, nhưng Châu nói:

- Đi được.

- Em đi nhanh về ngay.

Tôi nằm ngó ra trước. rừng sò đo kín trên trống dưới thấy rõ bọn Pháp mặc kaki vàng đang chạy về hướng tôi, vừa bắn vừa la a-lát-xô ỏm tỏi. Tôi chỉ thấy chúng từ chân đến bụng; còn tôi nằm mà chúng chỉ ngó thẳng nên chưa thấy tôi. Tôi nghĩ bụng: Tao nhằm mắt nằm đây, bọn mày tới làm gì thì làm, tao chả sợ. Đạn vẫn nổ dữ dội xung quanh, trong lúc muôn phần nguy cấp thì đồng chí Lai trước cùng là chiến sĩ ở Đại đội Quang Trung, nay này trung đội phó Xung Kích, không rõ vì sao lại đến đúng lúc. Lai vội xốc tôi cõng chạy. Tôi bảo:

- Ông cứ để tôi nằm đây, lo mà đi chiến đấu đi!

 - Tôi đi công tác về, không có nhiệm vụ gì, địch sát rồi kìa.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Ba, 2019, 10:27:30 am
Lại cõng tôi bằng qua làn đạn vèo vèo trên, dưới, phải, trái chằng chịt. AT nổ làm cành lá đứt gãy rơi tơi tả. Tôi chợt nghĩ: Nếu có một viên đạn nào đó xuyên qua thì cả hai đi đời. Thế mà lạ, không viên đạn, mảnh đạn nào thăm chúng tôi nữa. Người ta nói bị thương mà không chết thì không bao giờ bị thương lần thứ hai trong một trận cả. Có lẽ đúng vậy chăng? Qua khỏi làn đạn, từ xa xôi tôi thấy anh Phan Thân, đại đội phó 214 cũng bị thương, ống quần và bàn chân bê bết máu nhưng còn cố đi cà nhắc, không có ai dìu. Lai là em vợ anh Thân nhưng vì phải cõng tôi nên không giúp anh Thân được. Vào rừng già ít chục mét thì có ba đến bốn thương binh được cáng vào nằm đây, y tá đang băng cho từng người. Lai để tôi nằm xuống, hỏi:

- Anh em khiêng thương binh đâu rồi?

- Họ đã ra chiến đấu lại.

Chiến sĩ ta thật quý, vừa đưa đồng đội ra khỏi chỗ hiểm nguy xong, đã vội trở lại chiến đấu khi trận địa vẫn còn giặc. Y tá đang băng tạm để cầm máu, vẫn không nhúc nhích được chân, tôi buồn thầm, thế là bị loại ra ngoài vòng chiến đấu rồi. Có tiếng chân người rầm rập và tiếng chặt cây không xa lắm, Lai nói nhỏ:

- Chắc anh em đưa thương binh vào, để tôi ra xem sao.

- Chưa nên ra đâu, nếu lỡ gặp địch, ông phải nổ súng, chúng rượt theo vào đây thì số thương binh này nguy mất!

- Anh Chương nói đúng, đừng ra anh Lai, - Một anh em nói tiếp:

Lai im lặng nghe ngóng. Lúc sau không còn tiếng động, Lai xách tiểu liên ra, một chặp quay vào, đúng là địch, dấu giày cả đại đội. Nó chặt cây khiêng thương, bỏ lại bông băng nhiều lắm. Thấy dấu nó kéo về Ngọc Sơn.

Kể ra thì chúng cũng sợ, không dám theo dấu vào rừng nên chúng tôi thoát hiểm. Mặt trận đã im lặng tiếng súng. Lai vào bệnh xá gọi người đưa thương về. Y tá Đặng Trung Thơ bảo:

- Máu đã ngừng chảy, anh cứ nằm im nghỉ, đừng ráng cử động, chân máu ra lại, chiều tôi sẽ khám kỹ, anh cứ yên tâm.

Tôi biết thầy thuốc an ủi thương binh thôi. Vết thương tôi chắc nặng, chân không cục cựa được. Tất nhiên phải nằm in chứ có cách nào hơn. Trưa các anh Quý, Kế và một số anh em vào thăm cho biết tổ tuần tra của ta gặp địch bắn trước, chúng xung phong vào đội tuần tra. Đồng chí Hùng xạ thủ trung liên nhảy xuống hầm bắn một loạt thì hy sinh. Tiểu đội trưởng Huỳnh Kim Bưu diệt được mấy tên rồi cũng hy sinh. Trong tích tắc đó, số khác nhảy kịp xuống công sự bắn trả mãnh liệt, chặn được địch. Địch chết nhiều nhưng ta cũng mất một Đờ-ren, một mi. Anh Quý đến thổi kèn vang cả mặt trận; cán bộ, chiến sĩ đánh trả kiên cường, bẻ gãy mũi đột kích vào trung đội 2. 214 kịp thời liên lạc với B, đánh địch quyết liệt. Anh Kế nắm trung đội 3 vu hồi địch, xung phong lấy một trung liên vanh cách, buộc địch rút lui, vậy là huề. Mặt trận kết thúc lúc 10 giờ. Đại đội có một số tổn thất nhưng đánh tan cuộc tấn công của bọn lê dương Âu Phi nên anh em rất phấn chấn, sẵn sàng chiến đấu nếu ngày mai địch còn đánh ta như trận 15-16 tháng 3 năm nọ.

Quá trưa, máy bay đến đánh đúng vào bệnh xá. Thương binh nhẹ xuống hầm, tôi vẫn nằm lại giường. Đạn ca-nông-vanh rào rào, cái giường không bên cạnh gãy sập, mấy con gà hoảng sợ chạy vào núp dưới giường túng đạn chết queo. Sau đó nghe một tiếng nổ khá gần, không biết việc gì, nhưng chắc không phải xe tăng địch đến bắn pháo. Một lúc sau, 214 khiêng tiếp một số thương binh vào, có đồng chí Lê Quang Dự (đại đội trưởng) băng ở đầu; Lê Văn Bé (chính trị viên) băng gần kín mặt. Sau trận, một tổ trinh sát 214 kiểm tra mặt trận, lượm vỏ đạn và đạn lép đầy một nón lá. Về đại đội bộ, mọi người đang tập trung nói chuyện, trinh sát đổ nón vỏ đạn xuống. Có một viên AT vàng đã rút chốt an toàn, anh em không đề phòng nên khi đổ chạm đất phát nổ làm hy sinh cả ba trinh sát, hai trung đội trưởng Dương và Thân mới đánh về, bị thương bốn (có anh Dự, Bé).


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Ba, 2019, 10:28:16 am
Buổi chiều, y sĩ Thơ khám vết thương của tôi có các y sĩ Quế Săng, Tương của đội phẫu thuật chiến dịch sang dự. Họ cho cây xông dò vết thương đi giữa đùi xuyên ra mông ở phần xương sụn. Đạn bắn gần, may là không phải đạn đum đum nên miệng vết thương nhỏ. Lúc dò xông, tôi toát mồ hôi hột, đau muốn ngất xỉu. Gần cả ngày vết thương ê ẩm, tôi gần như bị mê hẳn. Tôi nhắm mắt nhưng trí óc còn nhận biết. Thơ cần châm tôi gập lại, duỗi ra vài lần, có người nào đó đứng cạnh hỏi nhỏ:

- Có trúng xương đùi không?

- Đạn đi ngay giữa đùi mà làm sao không trúng được.

- Có gãy chân không?

- Gập chân vào, duỗi ra nghe có tiếng rục rạo như xiết lược, chắc có mẻ, dập xương. Vì quá gần háng nên khó biết có gãy hẳn không. Từ khi bị đạn, chân bị liệt ngay không cục cựa được.

Có tiếng chép miệng thở dài nhe; sau đó tôi không nghe gì nữa hoặc có nói mà tôi mê rồi nên không nghe. Khi tỉnh lại, tôi thấy buồn vì nếu gãy chân thì chắc “tiêu tùng”. Vết thương ở đây làm sao cưa hoặc tháo khớp, có còn cùng hết sài, đâu trở lại chiến đấu được nữa. Dù thế nào cũng đành chịu thôi, biết làm sao được, cũng chẳng nên than thở làm gì. Tôi lại thiếp đi. Tối, cứu thương gọi dậy uống sữa. Tôi tỉnh hẳn, bắt đầu suy nghĩ sự việc ban ngày. Nếu tiên lượng xấu thì hết số. Thôi, mặc cho số phận, vì chiến tranh, cũng như bao đồng chí khác thôi, có điều là phải chịu nhiều đau đớn hơn, hy sinh trong chiến đấu, làm tròn nhiệm vụ đối với Tổ quốc, xứng đáng với gia đình. Tuy vậy, tôi vẫn chứa chan niềm hy vọng vết thương sẽ lành và trở lại chiến đấu. Qua một ngày, tôi có bị mê một lúc nhưng nay đã tỉnh táo hẳn, vết thương chỉ ê ẩm chứ không đau nhức.

Đêm đó khi chưa ngủ, tôi nhớ lại từng chi tiết, từ khi nghe tiếng súng đầu tiên rồi nổ giòn giã dữ dội, tôi bị thương ngã chúi nhủi xuống đất, tôi không gọi anh Quý để anh ấy nhanh chóng vượt qua làn đạn dày đặc, không bị suông đạn như tôi, ra kịp đơn vị và đã chỉ huy thẳng lợi trận đánh, đem lại niềm tin của anh em đối với người chỉ huy, niềm tin của đồng bào và địa phương đối với đơn vị. Khi tôi nằm liệt tại chỗ, muôn phần nguy hiểm, tôi đã bảo Lẹ cứ đi chuyển lệnh, không bỏ nhiệm vụ để cõng tôi ra ngoài. Tôi cũng bảo Châu đi ra xa mặt trận ngay khi thấy cậu ấy bị thương nhưng còn đi được, không cần bận bịu vì tôi. Nằm lại một mình, thấy giặc tràn về phía mình ào ạt, vừa bắn vừa dương lê xốc tới, miệng hô a-lát-xô chát tai, tôi vẫn bình tĩnh nghĩ bụng, tao cứ nhắm mắt nằm đây, bọn bay muốn làm gì thì làm. Khi Lai đến cõng tôi băng qua lửa đạn, tôi còn nghĩ là nếu có một viên hoặc một mảnh đạn nào xuyên qua thì chắc cả hai đều hy sinh và tôi thấy thương quý Lai lạ thường. Vì tình đồng đội, Lai cố đưa tôi ra khỏi khu chiến đấu dù lúc đó cận kề địch, nghe rõ tiếng xung phong hung hãn sát bên. Tôi thấy hài lòng về các xử trí tức thời của mình mà giờ đây nghĩ kỹ tôi vẫn cho là đúng đắn và cần thiết, hợp đạo lý. Có lúc tôi cũng sợ chết, đó là lức nằm trong bìa rừng già, nghe tiếng động, Lai định ra liên lạc, tôi đã găn lại vì sợ gặp địch, chúng tràn vào thì cả tôi và số thương binh nằm đây rơi vào tay giặc, như vậy thì ân hận biết bao. Khi máy bay bắn bệnh xá, tôi không tự xuống giường được, phải nằm tại chỗ chịu trận, cũng là thập tử nhứt sinh, giường trống bênh cạnh gãy nát, nhỏ như con gà còn suông đạn huống gì to lớn như mình. Cũng sợ hết sẩy, qua cơn rồi mới mừng. Cho hay, con người ai cũng có lúc sợ chết, nhưng người cách mạng thì phải có thái độ và cách xư xử sao cho phù hợp, phải lẽ trong các tình huống.

Sau mấy hôm, tôi được chuyển xuống bệnh xá Tiểu đoàn 89 ở Trũng Tây gần Bàu Trắng. Chân tôi vẫn chưa cử động được chút nào. Thầy thuốc chăm sóc chu đáo nhưng mỗi lần thay băng, xuyên “mét” để rửa mủ là đau tái cả mặt mũi, mồ hôi vã như tắm, tôi cố chịu, không hề rên; tôi là thanh niên phải giữ ý tứ với chị em, không để họ xem thường chiến sĩ. Các cô khen nhưng ai mà không đau, đau ghê gớm, chết người nhưng quyết thì chịu được. gần nửa tháng, một hôm máy bay quần đảo trên vùng trời bệnh xá, mọi người chạy ra hầm. Theo bản năng, tôi cũng tụt xuống giường, bỗng thấy đau điếng, nhớ mình thị thương nặng, chưa cử động được nên tôi khựng lại,. Nằm im một chập, tôi nhủ thầm: cố thử xem sao, tôi nhấc chân từ từ, đã bớt đau, tuy chưa đi được nhưng không liệt như lúc đầu nữa. tôi mừng và sung sướng vô hạn, chân đã cử động được. Tôi biết phải giữ gìn cẩn thận, vết thương đang hồi phục, không được để bị gãy lại. Vậy là tôi không bị loại khỏi vòng chiến đấu! Còn mừng vui nào hơn! Hơn tháng, tôi đi lại được nhưng còn yếu. Ra viện tôi còn nghỉ thêm vài tháng nữa, ở tại nhà cô tôi tại vùng giải phóng Lương Sơn.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Ba, 2019, 10:30:59 am
Giữa tháng 7 năm 1950, trung đoàn và chiến dịch làm lễ xuất quân tại sân banh Quang Trung cũ. Sau lễ chào cờ và lệnh động viên của chính ủy 812, các đơn vị tham gia chiến dịch diễu hành quanh sân lễ trước hàng ngàn đồng bào căn cứ đến tiễn đưa chiến sĩ, con em mình lên đường giết giặc, lập công. Hôm ấy tôi chưa ra viện nhưng cũng hăm hở cùng anh chị em bệnh xá đến dự lễ, tôi ngắm cảnh ra quân uy nghiêm đầy xúc động, xiết chặt tay các bạn chiến đấu, mong đợi đơn vị mang chiến công về.

(https://lh3.googleusercontent.com/yi1fkita4XnOsVx1NrrZkG9xWYKrow0wZuCLnMtcr6XNjwyvGtQkGaBoLg9SIleL77oIJvPLCthfQjsQuzygqWUExDNO9lTkoyHR8M4aCI7GBamuGzB_S3yNQ-pzIEAuXxjCqWIZLwX_OVHvjBNYSUYad6vVjsrhDLw2uxz6vo2kcr6OIfelYDY4Hj3h4_A_8R3f9atqb9W6j2wa4ndvV9qqQ9YJ8jw49AGptO2BLpuGh398XvWrm7s9465P27wYhYMi5kNacSgcpAx4jtRxZlrM3qkce_q9MslDPf5GaGidcptl5qif3-GJC4awZJiCY6muAzXWg_nFqc01teuABVsEw4D4G5xLsm_LWKJAn9W3QZbI4WCdKoCAoRk5CnFk7fZMRv9rCsWGQlKASFkGeC-TLebtS2NTrqZOeM5FR4_OeSosI1r4gom6FID6j_qhITPROvWuI9E-ofSGZUcC5hPGwmQJSnRHwaIB20ALnLK2FaaQ7kFPzBjDHFglFQvLoQqcKtJNByNMPh6M7Yyx7StCX7nPNr2ur_0pE5SWID3XSzRGDIlGGBUKrhOal4RMhGexPqi8ghxsoHNt43m7H4tAd02xahqKPosGaGHVVhHetWMsOR_RtzOSP2Vv_MTqtEH90rduOTRAledVR3-Ez3mNRQyqP9U=w800-h500-no)

Cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 812 tại Chiến khu Lê Hồng Phong - năm 1950. Đồng chí Phạm Hoài Chương là người có dấu X.

Tin chiến thắng đã về nhanh căn cứ; sáng 25 tháng 7 năm 1950, 13 xung kích do trung đội trưởng Trần Bích Cam chỉ huy, cải trang thành phụ nữ kỳ tập diệt gọn đồn quận vụ duồng (cấp trung đội), thu toàn bộ vũ khí, chiến lợi phẩm. ta hoàn toàn vô sự. Tiếp đó, đại đội A diệt luôn đồn bang tá duồng (cấp đại đội) bằng cường tập. Chỉ mấy ngày, hai chiến thắng liên tiếp làm nức lòng quân dân cả tỉnh. Ta còn đánh một trận giao thông trên đường Long Hương – Sông Lòng Sông, diệt và thiêu hủy hai xe quân sự, thu toàn bộ vũ khí, bắt một tù binh Pháp. Bức ảnh tên tù binh đưa cao hai tay đầu hàng được trưng bày ở Nhà Truyền thống các lực lượng vũ trang Bình Thuận, nhà Bảo tàng Quân khu 5 và Bảo tàng Quân đội ở Hà Nội. Chiến dịch kết thúc, 86 về lại Hàm Thuận, địa phương khuếch trương chiến quả phát triển phong trào. Chiến dịch BTN thắng lợi gấp đôi chỉ tiêu đề ra (theo đánh giác lúc đó). Tuy nhiên, nếu xét kỹ thì chiến dịch chuẩn bị thời gian dài, huy động lực lượng và của cải vật chất lớn mà chỉ diễn ra trong một thời gian ngắn, kết thúc vì không còn mục tiêu, thì rõ ràng kết quả không tương ứng với công sức bỏ ra và cũng chưa hỗ trợ được nhiều cho phong trào chính trị Bắc Bình.

Tỉnh chủ trương mở tiếp đợt hoạt động thu ngắn ở khu vực thị trấn Phú Long. Lúc này, địch đã thực hiện chiến thuật Đờ-la-tua, xây dựng hệ thống tháp canh cao dọc các trục lộ và xung quanh các chi khu, yếu khu, thị trấn. Ở đường 8, cứ 1 ki-lô-mét có một tháp canh, quan sát khống chế việc qua lại đường ban ngày của ta; đêm chúng dùng đèn pha cũng gây khó khăn. Nam Bộ có cách đánh tháp canh bằng Ép-tê-on (FT1 tức là phá tôn kiểu số 1) gồm một cần tre cao bằng tháp canh, đầu buộc một ba-dô-min, hai chiến sĩ khiêng cần tre bí mật đến sát tháp canh, đặt ép vào vách, ngang tầng trên, nơi lính ngồi gác, bấm điện phá sập tôn gác, diệt gọn địch, chúng rất sợ. Ở ta mới được phổ biến cũng đã có FT1 cho hoạt động Thu. Mở màn, tiêu đoàn đánh đồn Phú Long, cấp trung đội bằng sức mạnh và diệt tháp canh xung quanh thị trấn bằng FT1. Trận đánh khá ác liệt nhưng diệt gọn đồn, thu vũ khí, bắt tù binh, san bằng hết tháp canh ở Phú Long. Thắng lợi Thu giòn giã, có tiếng vang lớn; 86 về chiến trường là địch ăn đòn đau ngay. Hoạt động Thu cũng chỉ chừng ấy. Địch rút kinh nghiệm đối phó FT1 ngay, chúng rào kẽm gai chung quanh chân tháp canh, FT1 nặng, cồng kềnh, không thể từ xa đặt áp vao được, không phát huy được tác dụng nữa.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Ba, 2019, 10:33:45 am
Tôi cũng không tham gia hoạt động Thu, nay về tiểu đoàn làm chính trị viên trợ chiến, có một trung đội súng máy (hai tiểu đội, một súng máy cao xạ 12 ly 7 và hai đại liên bờ-rốt-nin vừa bắn máy bay vừa bắn bộ binh, một trung đội 2 khẩu cối 81 kiểm Nam Bộ sản xuất, đế nhẹ có một hình sao năm cánh và một trung đội ba dô ca, ở Tam Giác chống càn một tháng, chúng tôi đi dự Hội nghị Tập huấn cán bộ của trung đoàn tại rừng Bình Thiện. Đã nghe khu vực hội nghị được xây cất lớn, công phu, đẹp nhưng đến nơi mới thấy hết qui mô đồ sộ cả nó. Cổng vào to lớn, sừng sửng, kiểu cách đặc biệt, dáng vẻ uy ghi là cho đoàn cán bộ 86, những người thường gối đất nằm sương phải ngạc nhiên trầm trồ khen ngợi. Đây là những đường ngang dọc, rộng rãi, thẳng tắp với bản ghi tên như ở thành phố, đại lộ Trần Hưng Đạo, đại lộ Hồng Bàng, đường Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Quang Trung, tên các đại đội đầu tiên của trung đoàn, đường Láng Chai, đường Bình Thiện, v.v…. tỏa ngang dọc các khu hội trường, chỉ huy, văn phòng, cảnh vệ, khu đại biểu, nhà ăn v.v…. Nhiều khẩu hiệu đẹp kiểu chữ hoa, chữ rông, chữ gô tích, nổi bật là khẩu hiệu “chuẩn bị Chiến dịch Đông Xuân 1950, năm chuyển mạnh sang tổng phản công. Lúc đó đã quá thu, sang đông nhưng khẩu hiệu này vẫn thúc giục lòng người lạ thường. Tranh, biểu đồ thể hiện các thành tích diệt địch, thu súng, giành dân, xây dựng lực lượng, tranh phong cảnh, sinh hoạt, chiến đấu của các họa sỹ có tiếng của trung đoàn như Nghĩa “Cá mòi”, Võ Nguyên… rực rỡ uy nghi nhất là hội trường với bức ảnh Bác Hồ thêu lớn. Ảnh các lãnh tụ quốc tế, các đồng chí Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, thêu, vẽ đều rất đẹp, nhìn mê luôn. Trong nhà ăn, một tranh vui vẽ một khâu mặt anh bộ đội tròn như trăng rằm đang cười thích thú với hai chữ “Bèn ăn!; nơi phòng ở, một ảnh bộ đội đang ngáp dài với hai chữ: Bèn ngủ! làm ai cũng bật cười sảng khoái. Có đủ sân bóng chuyền, bóng bàn, xà đơn, xà kép, tạ cho các đại biểu trẻ thích thể dục, thể thảo. Một hệ thống hầm nấp máy bay vừa đủ bảo đảm an toàn cho đại biểu. Ban đêm đèn điện sáng trưng, trong chiến khu như thế thật tuyệt vời. Những đầu bếp giỏi nhất tỉnh nấu các món ăn mà người khó tính đến mấy cũng không chê vào đâu được. Tỉnh đã chi một khoản tiền lớn, cấp nhiều trâu bò trong quỹ tổng phản công cho hội nghị. Trong các đêm trình diễn văn nghệ, mọi người được thưởng thức các tài hoa nổi bật của trung đoàn. Nghe anh Ngô Quang Tham (người Hải Phòng) với các bài hát vui: Buồn cười cho thằng Tây, đi qua mũi giặc, Mẹ tôi sai tôi đi chợ mua đầu ăn… thì ai cũng cười bò ra, chảy cả nước mắt, cười muốn bể bung. Các anh Vương Gia Khương, Dương Minh Đẩu, cán bộ lãnh đạo của trung đoàn vừa là nhạc sĩ, ca sĩ tài năng, đàn hay, hát giỏi, sáng tác cừ, cả bóng đá, bóng chuyền, bóng bàn đều tài ra phết. Những bài hát của các nhạc sĩ trẻ Minh quốc, Huy Sô, Vi Bình trình diễn rất thành công, mỗi người một vẻ. Bài “Đồng chí của Minh Quốc xúc động lòng người. Bài “Nhắn anh trong đồn” được giải sáng tác về địch vận. Huy Sô còn được chính ủy 812 tặng một chiếc măngđôlin. Bài “Vó ngựa phi” của Vị Bình như trùng trùng đàn ngựa chiến diễu qua trước mắt. Văn nghệ có sức hấp dẫn lạ thường.

Hội nghị dài cả tháng với nhiều nội dung rất quan trọng: Lý luận chiến dịch, Tổng kết chiến dịch hè, Nhiệm vụ quân sự và chiến dịch Đông – Xuân 1950, 1951, Công tác Đảng, công tác chính trị… Ban cán sự Cực Nam, Tỉnh ủy Bình Thuận cũng đến trình bày nhiều vấn đề địa phương. Cán bộ trưởng thành một bước rõ.

Sau hội nghị, trung đoàn trưởng Nguyễn Văn Giáo, tham mưu trưởng Đoàn Tứ Bảy, quyền chính ủy Vương Gia Khương, quyền chính ủy Trần Quốc Thái ra Khu 5 công tác. Chúng tôi ráo riết chuẩn bị chiến dịch Đông – Xuân với một tinh thần mới, phấn chấn lạ thường. Địch ở Bình Thuận co về phòng thủ, giữ vùng tạm chiếm, đề phòng ta mở tiếp chiến dịch tiến công. Tôi được biết chiến dịch sẽ mở ở Ninh Thuận, nơi phong trào khó khăn hơn Bình Thuận nhiều, địch kiểm soát chặt hầu hết đồng bằng, dồn dân vào các khu tập trung; hoạt động của ta rất khó khăn hạn chế, cần được hỗ trợ tích cực để mở phong trào. Phải đấm mạnh cho địch bung ra; trách nhiệm này không ai khác hơn là Tiểu đoàn 86 đảm nhiệm. Hậu cần tại chỗ không bảo đảm nổi cho lực lượng lớn hoạt động. Bình Thuận phải chi viện cả vũ khí đạn dược, lương thực, thực phẩm, thuốc men cho chiến dịch. Cả ngàn dân công Hàm Thuận, Tam Giác, Khu Lê phục vụ tiền tuyến dài ngày. Đường xa tít tắp, dốc núi trập trùng, người người lớp lớp. Quyết tâm lãnh đạo rất lớn, tinh thần nhân dân rất ca; tất cả vì “chuyển mạnh sang tổng phản công” mà tập trung sức người sức của cho tiền tuyến Ninh Thuận, cần gì có nấy, cần mấy có nấy. Nam nữ thanh niên nô nức lên đường phục vụ và luôn được bổ sung nhiều đợt. Địch có nống ra thăm dò hòng phát hiện chiến dịch để phá chuẩn bị của ta, nhưng ta chấp nhận khó khăn gian khổ, dân công chuyển hàng đi trên núi cao, tốn thời gian, công sức nhưng an toàn. Đường chiến dịch nhộn nhịp, sôi nổi. Bộ đội và dân công, những lúc dừng chân tạm nghỉ, ngủ cạnh bờ sông, bờ suối thật vô cùng vui vẻ. gặp dân công địa phương thì hỏi thăm gia đình hàng xóm, mặc sức hàn huyên. Có vợ bộ đội gặp chồng, những cặp tình yêu gặp nhau trên đường chiến dịch thật bất ngờ, thú vị và hạnh phúc biết bao! Cũng có cặp mới gặp quen nhau rồi thành vợ thành chồng nhờ cùng đi một đường chiến dịch. Núi rừng hùng vĩ, non xanh nước biếc, cảnh dẹp nên thơ, rau rừng trái núi, ở đồng bằng không sao có được, mà số lượng không ít, có thể cải thiện bữa ăn ngon lành. Chuẩn bị lưỡi câu, lưới bén, chiều chiều, đêm đêm, dưới sông, suối, kiên trì chịu khó, nhiều anh có tài ra phết, bắt được cả xâu, cả mớ nướng, kho, nấy canh, nấu chua, càng thêm ngon miệng, tăng sức hành quân đường dài. Đôi khi gặp cả đàn voi, có con to như cái nhà, có lệnh cấm bắn nhưng thấy người đông cũng nể phần ai nấy đi; có lúc voi cũng dọa người, rống vang rừng, chạy đùng đùng phát khiếp.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Ba, 2019, 10:35:16 am
Dù giữ kỹ đến mấy, dần dần địch cũng đánh hơi, vài lần đụng độ, ta cũng có ít thương vong, mất ít gạo, muối, nhưng địch cũng không dủ sức, làm sao ngăn nổi dòng chảy cuồn cuộn ra tiền tuyến được. Rồi đến ngày, chiến dịch cũng nổ ra. Đại đội trợ chiến hành quân với tiểu đoàn bộ và các cơ quan chiến dịch đã đến trú quân ở vùng núi cao Xê-ka-xết Nam Ninh Thuận. Chỉ huy trưởng chiến dịch là Nguyễn Minh Châu, chính ủy Nguyễn Chí Điềm; tham gia lãnh đạo còn có một số cán bộ Ninh Thuận. Chiến dịch này quyết thắng to gấp mấy chiến dịch Hè vì đã được chuẩn bị công phu với biết bao công sức, vì phải mở được phong trào Ninh Thuận. Dù Ninh Thuận hết sức gian khổ thì sắp vào chiến dịch, bộ đội càng được tăng cường tiêu chuẩn ăn uống. Ở núi cao xa địch, nước non đầy đủ, khí hậu trong lành, sinh hoạt ca hát thoải mái, được đánh cá, bắn thịt, vật chất khá, sức khỏe tăng, ai cũng phơi phới tươi tắn.

Hôm ấy, toàn tiểu đoàn và một bộ phận dân công Bình Thuận tập họp đón lãnh đạo tỉnh Ninh Thuận đến thăm. Tôi còn nhớ anh Võ Dân, bí thư tỉnh ủy người cao lớn, mặc âu phục đen, mũ rộng vành bốn múi kiểu hướng đạo nói chuyện tâm tình rất cảm động. Đến nay tôi vẫn không quên câu: “Các đồng chí ra đây đánh địch phá kèm, mở phong trào, cứu Ninh Thuận đau thương. Ninh Thuận rất tin tưởng và chờ đợi chiến công của các đồng chí!”. Mở màn, đánh yếu khu Phú Quý, một đồn đại đội tăng cường kiên cố. Đại đội B chủ công. Đại đội A dự bị. Xung Kích chưa ra quân trận đầu. Trợ chiến phối hợp hỏa lực 12 ly 7 và ba dô ca. Chỉ huy B là đại đội trưởng Võ Khắc Kế, chính trị viên là Trương Văn Tung. Tôi xiết chặt tay hai bạn, chúc chiến thắng. Tình đồng chí đồng đội trước khi ra trận thật xúc động. Chiến sĩ liên lạc Nguyễn Hồi, khi tôi ở B thường đi với tôi, tôi thương như em ruột, cậu ta lùn, mập, lanh lợi, băng qua làn đạn nhanh như sóc. Nhìn cái nơ đỏ ở ngực, tôi biết Hồi đã đăng ký cảm tử cho chiến thắng.

Nơi trú quân rất xa địa điểm tác chiến nên không nghe tiếng súng. Nói chuyện mãi cũng mệt, tôi chợp mắt lúc nào không biết. Khoảng 8 giờ anh em về.

- Trận đánh ra sao? – Tôi hồi hộp hỏi, mong sao B dứt điểm gọn gàng như Xung Kích ở trận Duồng. Trận này thắng thì mở một mảng lớn ở Nam Ninh Thuận.

- Không gọn!

Tôi sửng sốt, không gọn là không ăn rồi. Nhìn dáng mệt mỏi của Lợi, Ích, hai trung đội trưởng 12 ly 7 và ba-dô-ca, tôi và anh Nguyên biết có điều gì chưa ổn. Cả hai ngồi bệt cạnh võng. Tôi đưa hai ca trà nóng, hai người kể:

- Đường quá xa nên nổ súng chậm. dường như địch có biết và đề phòng, khi ta nổ súng, chúng chống trả rất quyết liệt, trận đánh kéo dài lắm.

- A có vào không?

- Có A vào tăng sức, ta chiếm hơn nửa đồn, thu một trung liên, một số súng trường, bắt cả chục tù binh, nhưng địch vẫn trụ giữ, gần sáng phải rút.

- Trợ chiến mình đánh thế nào?

- 12 ly 7 và ba-dô-ca nổ giòn lắm; nhưng đồn nhiều ngõ ngách phức tạp, cũng chỉ đánh được vậy thôi.

- Thương vong ta thế nào?

- Ít thôi, đem về hết rồi. Ban chỉ huy B không việc gì. Trợ chiến mình không sao.

Trận đánh đạt một số kết quả nhưng không thắng, địa phương chắc không phấn khởi lắm.

Hai hôm sau đánh đồn Mông Đức, cấp trung đội. A là chủ công. Vì A thiếu đại đội trưởng nên anh Kế sang cùng chính trị viên Nguyễn Vinh Quang chỉ huy.

- Một mình làm hai đồn sướng quá nhỉ, chúc thắng lợi!


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Ba, 2019, 10:38:14 am
Kế xiết chặt tay tôi, mắt nhấp nháy gợi chút suy tư:

- Sướng thì sướng thật nhưng cũng lo nhiều, còn nhiều vấn đề, không dễ ăn đâu.

Được trên tín nhiệm, anh mừng mà cũng lo. Tôi rất thông cảm với bạn, mong trận này gọn để chiến dịch rôm rả lên. Thật tình, đối với cán bộ quân sự chúng tôi, trận mở màn ở “Ninh Thuận đau thương” như vậy là sượng. Và lần này cũng chỉ đánh “thiệt hại nặng”, sượng nữa rồi! Chiến dịch đâm khó khăn, có lẽ phải dùng cách đánh sở trường mới ăn. Địch báo động đề phòng gắt gao. Đúng như anh Kế nói, không dễ ăn đâu!

Vào buổi trưa, tiểu đội đánh kỳ tập đang chuẩn bị đi đánh đồn Ma Ram, bỗng một tiếng nổ vang trời, khói trùm mờ mịt. Một cảnh tượng thật đau lòng, cả tiểu đội tương vong chẳng còn ai. Đồng chí Cang công binh đặt quả mình trong gùi, ém độn rau xung quanh, kíp bị cấn phát nổ. Gải quyết hậu quả xong, chiến dịch vẫn thực hiện. Trận đánh thành công, diệt gọn đồn. Bộ đội, cơ quan, nhân dân phấn khởi. tuy nhiên, mới là chiến thắng đầu và cũng nhỏ thôi. Cần nhiều quả đấm mạnh mới mở được phong trào. Mấy hôm sau đánh tôn Lý Nhã, cấp trung đội, toàn lính ác ôn, từng thách thức bộ đội ta có giỏi “xin mời” chúng sẵn sàng tiếp đón và “ăn thịt”. Lý Nhã là lý trưởng thời Pháp thuộc, nay làm tay sai đắc lực cho Pháp đánh phá phong trào, có nhiều nợ máu với nhân dân. Ở Ninh Thuận có hai tên việt gian khét tiếng là Tổng Chồn nay là tỉnh trưởng Ninh Thuận và tên Lý Nhã này. Tập trung hết cả đạn ba-dô-ca và 12 ly 7 của trợ chiến mà cũng không bắn sập tôn Lý Nhã, chúng càng khoác lác, củng cố tinh thần sau thất bại Ma Ram.

Chiến dịch tạm ngừng trong thời gian ngắn, thay cách đánh, gài thế phục kích, vũ trang diệt ác, phá ấp, gây cơ sở; khi chuẩn bị tốt sẽ đánh vài trận thối động. Đại đội trợ chiến được lệnh trở về Bình Thuận. Chúng tôi từ giã Ninh thuận khi chiến dịch còn tiếp tục. Đành vậy! Trên đường về, ghé các địa phương phải tuyên truyền chiến thắng Đông – Xuân. Ở Lệ Nghi, Lương Sơn, Dân Thạnh, đơn vị làm mít tinh báo cáo kết quả chiến đấu. Theo chỉ đạo: tôi phải nói cả ba trận Phú Quý, Mông Đức, Ma Ram đều thắng lợi hết, chiến dịch còn tiếp tục sẽ có nhiều thắng lợi mới. Ai cũng nhiệt liệt hoan nghênh. Riêng thâm tâm tôi vẫn thấy gượng gạo làm sao, giá cứ nói hai trận đầu chỉ đánh thiệt hại, trận thứ ba thắng hoàn toàn, ta sẽ còn nhiều trận thắng tiếp thì tâm trạng nhẹ nhõm hơn, dù nói như thế thì hưng phấn của bà con không cao nhưng đó là sự thật. về Tam Giác mấy hôm, được tin Đại đội A phục kích táo bạo ở vùng sau An Xuân, cũng chỉ diệt, thu súng một trung đội. Dù sao tin chiến dịch cũng có phần sôi động hơn.

Lãnh đạo sáng suốt cho đơn vị tôi về Tam Giác kịp thời. Thời gian 86 vắng, địch đánh mạnh Tam Giác, gây thiệt hại nặng tài sản của đồng bào; xóm làng nào cũng bị đánh, nhà nào cũng bị đốt vài ba lần; bị đốt cái này cất lại cái khác, chỉ che tạm một mái tránh nắng sương. Nhìn cuộc sống vất vả của đồng bào mà thương không xiết. Nhưng nhân dân Tam Giác vẫn kiên cường bám trụ vừa sản xuất, vừa đánh giặc. Có bộ đội về, bà con rất vui mừng, tình đoàn kết của quân dân càng khăng khít đậm đà hơn. Sức ít, vũ khí nặng, anh em phân tán nhiều tổ kèm cặp du kích quần bám tiêu hao địch. Cứ mỗi tổ diệt vài ba tên, mỗi trận càn địch mất vài ba chục, nhiều trận thì số lượng không thể xem thường. Không có đánh lớn như khi có cả tiểu đoàn nhưng tiếng súng bụp xẹt khắp nơi, địch rất căng thẳng, thương vong không ít. Dân thích thú, yên tâm. Có trợ chiến về, tình hình thay đổi khác ngay; địch thưa càn hẳn; nhân dân tin tưởng giữ được vùng giải phóng. Tam Giác lại vui vẻ như trước, không còn lo âu như khi vắng bộ đội. Lúc địch đánh liên tục cũng có một ít bà con bung chạy lên bắc đường sắt, tạm lánh trên sườn núi Bành, núi Kinh, mới đẻ ra tên xã Hàm Sườn, nay đều đã về lại thôn xóm cùng nhau đánh giặc, giữ làng. Vậy mà có một chàng y tá tên Khuê làm bài nhạc “Tam Giác điêu tàn” nói lên cảnh giặc Pháp gây đau thương, điêu tàn cho dân Tam Giác; tuy anh ta không phải loại chạy dài, nhưng cũng bị phê phán là phi chính trị.

Chiến dịch kết thúc, 86 về để đại đội A ở lại một thời gian. Chiến dịch Đông – Xuân huy động rất nhiều công sức, của cải nhưng kết quả không bao nhiêu, đòn quân sự chưa làm bung được địch. Sau chiến dịch, tình hình Ninh Thuận chưa cải thiện được mấy. Ta bị tiêu hao vũ khí đạn dược, nhưng cái chính là không phục vụ được phong trào địa phương như mong muốn. Về Bình Thuận, trang bị của tiểu đoàn sút hẳn, mỗi khẩu súng trường chỉ còn năm đến sáu viên đạn, mỗi trung liên, tiểu liên vài ba băng, lựu đạn gần hết; bộ đội lại xuất hiện tầm vông vạt nhọn. Chỉ huy phải có lệnh: khi đánh trận, súng trường chỉ bắn một đến hai viên, trung tiểu liên bắn một đến hai loạt ngắn, còn phải để giữ súng, phải nhặt vỏ đạn gửi về binh công xưởng rờ sạt như các năm 1946, 1947. Đây là thời kỳ khó khăn nhất về súng đạn của 86.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 07 Tháng Tư, 2019, 04:16:17 pm
6. Trưởng thành.

Phát huy cách đánh phân tán hiệu quả của trợ chiến, xung kích cũng tiêu hao khá nhiều địch trong chống càn. Tiểu đội biệt kích ngựa của tên “Tây cặt bò”, trước đó thường rượt bắn, bắt du kích, cán bộ. Bộ đội cứ vào ngựa, lính sa xuống đất bị diệt tiếp, bắn chết luôn tên Tây cặt bò; tiểu đội biệt kích ngựa bị xóa sổ.

Suốt mùa mưa 1951, 86 chủ yếu là chống càn giữ Tam Giác giải phóng. Tình hình đông vui như trước, du kích chiến tranh phát triển mạnh, dân quân du kích kề vai sát cánh với bộ đội bố phòng, hoạt động kết quả hơn xưa. Vấn đề bức xúc là phải có những trận diệt gọn, thu nhiều súng để tăng cường trang bị.

Địch ở Căng Ê-xê-pít thường đưa tân binh đi bắn đạn thật tại trường bắn cách Căng vài ki-lô-mét. Tiểu đoàn dùng một đại đội tăng cường có hỏa lực mạnh phục kích độn thổ gần trường bắn. Yêu cầu là phải thu gọn súng đạn, rút nhanh vì đồn Căng lồng lộng, có cả đại bác 75 ly. Chỉ huy trận đánh là tiểu đoàn phó Quách Tự Hấp và tôi. Địa hình quá trống trải, toàn cát trắng nên tuy độn thổ cũng phải ở mé chồi thưa cách hơn 200 mét. 7 giờ ngày 10 tháng 12 năm 1951, một tiểu đội địch tuần tra đến gần nhưng không phát hiện ta. Nửa giờ sau, một xe Jeep chở mấy tên chỉ huy Pháp và một trung đội tân binh ra sân, giá súng rồi tập hợp, tên chỉ huy bắn hạ khoa mục. Toàn bộ hỏa lực của ta đồng loạt nhả đạn, địch hoảng hồn bung chạy thục mạng về Căng. Chỉ mấy loạt đạn, ta xung phong. Khi đến sân bắn, địch chạy cũng đã xa. Thu ngay ba trung liên bờ-ren, 30 súng trường Anh, một thùng lựu đạn, một thùng đạn mới. Mừng hết lớn, bởi trong trận này vẫn còn một số xung phong với gậy tầm vông! Lúc bắn trông địch rõ mồn một, vậy mà một đại liên, sáu trung liên nhả đạn như bắp rang lại không có một tên địch nào bỏ xác tại chỗ cả. Bắn dở hay ước lượng cự ly sai? Có lẽ cả hai. Bây giờ là nhanh chóng lui đến rừng kín mới an toàn. Một ngẫu nhiên lý thú là hôm ấy ở Căng địch đang học bài binh khí pháo 75, cả hai khẩu đều tháo rời để lên lớp. Bọn chỉ huy Pháp lên lầu dùng ống nhòm xem ta di chuyển cho đến khuất dạng, lắc đầu ngao ngán. Trận đánh không lớn nhưng thật đúng lúc, giải quyết kịp thời bức xúc về trang bị cho tiểu đoàn, tuy chưa nhiều. Sau trận này, hết cảnh dùng tầm vông và cũng không còn lệnh bắn khắt khe nữa, dù vẫn phải hết sức tiết kiệm đạn.

Chưa đầy nửa tháng sau, trung đoàn phó Nguyễn Minh Châu phổ biến kế hoạch đánh Căng Ê-xê-pít, ai cũng tròn mắt ngạc nhiên. Chúng tôi chưa biết gì về Căng. Tiểu đoàn đánh đồn một đại đội còn khó, huống hồ đối với Căng to lớn, gần Phan Thiết như vậy. Nhưng vốn có lòng tin mạnh mẽ về tài quân sự của người chỉ huy từng lập nhiều chiến công oanh liệt, chúng tôi chăm chú nghe và suy nghĩ về khả năng đánh trận này. Quả thật, quyết tâm của anh rất sắc sảo, khoa học và sáng tạo, anh nắm thời cơ rất nhanh, kịp thời, có một khả năng nào đó mới lóe ra, anh đã phát hiện và không bao giờ để tuột tầm tay. Tiểu đội trưởng 214 tên là Ngô Lợi bị địch bắt giam ở Phan Thiết, hàng ngày lên làm lao công ở Căng, biết rõ địa hình, những nơi địch sơ hở, biết lực lượng, quy luật tuần tra canh gác, v.v. Gặp may, Lợi trốn thoát, được đưa đến gặp anh Năm Châu. Biết khá đầy đủ tình hình, anh kết luận có thể đánh diệt được Căng dù địch có lực lượng tổng hợp hơn cả tiểu đoàn, trong đó có một đại đội Âu Phi. Nghe anh phân tích tình hình mọi mặt, khả năng diệt được Căng, ai cũng rõ, nhất trí hoàn toàn. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của anh, tất cả lao vào chuẩn bị cho trận đánh. Chỉ huy quân sự đi thực địa, nghiên cứu mục tiêu; cán bộ chính trị tiến hành động viên tư tưởng quyết tâm cho đơn vị. Kế hoạch thật táo bạo mà đầy hấp dẫn. Sáng hôm sau, tôi đến Xung Kích gặp Võ Tương, đội trưởng Quyết Tử vừa đi chuẩn bị chiến trường về. Thấy bộ tịch anh buồn xo, tôi không khỏi lo âu.

- Kết quả tốt chứ?

Im một lúc, Tương mới nói cụt ngủn.

- Được rồi.

Chúng tôi nắm chặt tay nhau, lòng phấn khởi. Hội nghị quân chính tiểu đoàn nhất trí hoàn toàn kết hoạch; chỉ đề nghị khắc phục thiếu tiểu liên, đạn, lựu đạn bằng dùng mã tấu, dao găm, búa tạ. Cán bộ, chiến sĩ nhiệt tình, nhất trí cao, dù ai cũng biết đây là trận lớn nhất, quan trọng nhất. Kế hoạch thật độc đáo, mới lạ, ít ai nghĩ tới: dự kiến dùng hai pháo 75 bắn diệt đại đội Âu Phi ở khu GI; xong sẽ bắn vài trăm viên ô-buýt không ngòi nổ lên Tam Giác để lấy đầu đạn làm mìn đánh cơ giới; tiếp đó kéo ra đầu đường bắn trực xạ vào đoàn xe viện từ Cổng Chữ Y lên; sau cùng là năm cặp trâu sẽ kéo hai “con voi” này về căn cứ. Mới nghe đã sướng mê rồi. Chiến thắng Căng sẽ đến trong vài hôm nữa thôi. Địch không thể nào lường được cách đánh của ta và chúng cũng không bao giờ cho là bộ đội Bình Thuận dám đánh Căng trong lúc ấy. Bộ phận tác chiến anh Tư Nhe làm một mô hình Căng Ê-xê-pít bằng bìa các tông thật đẹp để phóng hỏa trước hàng quân sau mệnh lệnh xuất phát gây thêm khí thế hào hùng, cũng là một công tác chính trị chiến đấu đầy ấn tượng. Hồi ấy, đơn vị thường hát bài “Mùa nổ súng”; tôi bỗng nảy ra ý viết một khẩu hiệu trên tấm băng rôn dài, treo dọc đường hành quân, đó là câu: “Ra đi xung phong diệt đồn, diệt quân thù”. Tuy tự mình đề ra nhưng khi hành quân qua, đọc câu khẩu hiệu, trong tôi cũng tưng bừng sục sôi chiến đấu, phấn chấn xúc động vô cùng. Sau trận, nhiều anh em cũng nói có cảm tưởng như vậy, nhìn khẩu hiệu bỗng nhiên rơm rớm nước mắt, nó cứ theo mãi anh em cho tới giờ nổ súng vào Căng.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 07 Tháng Tư, 2019, 04:17:55 pm
Tôi đi với tiếp chiến cùng anh Quách Tử Hấp. Hai chúng tôi vừa chỉ huy vừa là người thay thế cho tiểu đoàn trưởng và chính trị viên. Quyết định cao nhất là anh Năm Châu. Tiếp chiến đi đường ruộng, đến hàng rào Căng phía bắc, khi Xung Kích nổ súng vào nhà lầu Căng thì đạp rào rào vào trận nội. Đại đội A và bộ đội thị xã chặn viện Phan Thiết tại Bia Đài. Xung Kích đi dọc theo mé biển đến khu vực dốc đứng, vượt năm sườn đồi đầy gai ma dương đến đỉnh là vào sân Căng; nơi đây không có hàng rào vì địch cho là không ai đột nhập vào chỗ đó được, hàng ngày chúng vất vỏ đồ hộp, chai ngổn ngang, động vào là lăn xuống lông lốc, phát hiện động. Cũng là một cách bố phòng lợi dụng chướng ngại vật tự nhiên rất lợi hai. Ta lại chọn lối này để vào Căng nhưng có cách khắc phục hiệu quả là dùng thang mê đè lên đầu gai mà lên, hết sườn này lên sườn khác và khéo léo gạt chai lon ra hai bên. Đội trưởng Quyết Tử là Võ Tương, tiếp theo là Xung Kích 1 do trần Hữu Điệp và Nguyễn Ngọc Châu chỉ huy. Toàn bộ Xung Kích còn lại do Đại đội trưởng Trương Văn Ly và chính trị viên Đức Hữu đảm nhận chặn đại đội lê dương ở khu GI, đảm bảo cho đội Quyết Tử, tiếp chiên diệt toàn bộ Căng. Khi có lệnh, xung kích đánh diệt luôn đại đội lê dương Âu Phi.

(Sơ đồ trận tập kích bí mật Căng E-sê-píc của Tiểu đoàn 86 Bình Thuận và lực lượng thị xã Phan Thiết, ngày 28-12-1951).

Đã gần G, chúng tôi ngồi sát rào, căng mắt nhìn ngôi nhà lầu trắng mờ mờ trong đêm, toàn bộ khu vực im phăng phắc. Bỗng từ nhà lầu đỏ rực ánh lửa chớp sáng liên tục cùng tiếng nổ giòn giã không ngớt. Mặc rào tre, rào kẽm gai rất chắc, tất cả chúng tôi ra sức lắc, nhổ, đạp bất kể có mìn, lựu đạn gài.

- Anh Hấp, anh Chương cố nhanh lên, Xung Kích đánh rồi thấy không? – Anh Năm Châu luôn miệng giục.

Rào bẹp dí, bộ đội tràn vào như nước.

- Đồng, vào chiếm pháo sử dụng nhanh lên!

Anh Hấp và tôi không quên việc quan trọng này. Mai Hữu Đồng là trung đội trưởng hỏa lực, biết bắn pháo 75. Tôi cùng anh Hấp lao vào mục tiêu, thoáng thấy bóng anh Sơn Diệp cùng một số băng tới nhà lầu. Tiếng lựu đạn của ta, của địch nổ chát chúa, bóng người lố nhố, lộn xộn. Một số địch từ lan can lầu ném lựu đạn dọn đường và mền gối rồi nhảy đại xuống sân, chạy tán loạn. Tiếp chiến ùa vào các nhà trệt xung quanh, tống lựu đạn rồi xông vào quét tiểu liên. Tôi thấy trên bàn có một vỏ đạn 75 cắm hoa, biết là nhà tên chỉ huy pháo, từ bên trong chúng ném ra một loạt lựu đạn. Bỗng dưới chân phải như bị cháy nóng bỏng, tôi trờ xuống thấy quần rách và một dòng nước nóng ướt dẫm. Bị thương rồi nhưng còn đi được, vậy là không nặng, còn chiến đấu tốt. Nhiều tên địch chết gục trên vũng máu. Đánh một chặp, vết thương bắt đầu ê ẩm, chân nặng trĩu, tôi phải đi cà nhắc, chậm chạp. Anh Hấp nói:

- Anh Chương bị thương à?

- Bị nhẹ thôi.

- Ở đâu?

- Ở khuỷu trong, dưới đầu gối thì phải.

- Lựu đạn rồi, lúc mình xông vào nhà, từ trong nó tống ra nhiều lựu đạn.

- Tôi bị mảnh lúc đó.

- Ở đây xong rồi, đã có tôi; anh ráng đi ra chỗ pháo 75, bảo y tá băng ngay, đừng để lâu nguy hiểm. Anh nhắc Đồng sử dụng pháo đúng theo kế hoạch nhé!

Tôi đến trận địa pháo thì không đi được nữa, ngồi dựa vào vách hầm pháo sâu gần một mét. Đã thấy anh Sơn Diệp bị thương khá nặng nằm gần đó, chắc bị lựu đạn bọn trên lầu ném xuống. Thấy Đồng hí hoáy mãi, tôi hỏi:

- Sao chưa bắt, Đồng? Bắn được không?

- Bắn được nhưng ô buýt không có ngòi nổ.

- Cho người vào nhà tên chỉ huy pháo kia mà lấy. Không bao giờ nó để ngòi nổ tại trận địa pháo. Bây giờ cứ bắn đi, bọn lê dương bên GI cũng khiếp đảm thôi.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 07 Tháng Tư, 2019, 04:18:50 pm
Trong khi còn tìm ngòi nổ, Đồng đã bắn hai phát đạn không ngòi nổ sang khu GI. Pháo bây giờ là của ta, nó gầm lên sao mà sung sướng đến thế! Tuy nó không có sức phá hoại như có ngòi nổ nhưng bọn Âu Phi cũng kinh hồn, nằm im tại chỗ, không nhúc nhích.

Bỗng có Đức Hữu đến lệnh cho Đồng đừng bắn nữa. Tôi ngạc nhiên hỏi:

- Pháo ta bắn theo kế hoạch tại sao lại đừng?

- Pháo nổ gần dữ dội quá, sợ anh em mình cũng bị mảnh.

Anh em vừa bưng ra một thùng ngòi nổ, cùng đi có anh Hấp, nghe đề nghị của ban chỉ huy Xung Kích, anh Hấp cũng đồng ý cho thôi bắn. Xung Kích đang nằm phục chặn bọn Âu Phi để dân công vào thu chiến lợi phẩm. Xung Kích chẳng có ai bị mảnh pháo. Tôi im lặng vì anh Hấp là người thay thế anh Diệp, anh Hấp mới dặn tôi nhắc Đồng bây giờ lại thay đổi ý kiến. Như vậy pháo đã có ngòi nổ nhưng không bắn tiếp vào khu GI, cũng không bắn ô buýt không ngòi lên Tam Giác. Kế hoạch thì rất hay, khi thực hiện thì không được gì, đành vậy sao? Tôi bị thương nên không đi tìm anh Năm Châu để xin ý kiến được. Việc đưa pháo ra đầu đường bắn bọn viện lên không được vì tưởng pháo đặt trên mặt đất, bây giờ pháo ở dưới hầm, ta không có máy nâng nên không nhắc nổi hai khẩu pháo nặng hàng tấn lên được; giá biết trước, tập trung 500 dân công cũng khiêng lên được nhưng dân công đã lo thu chiến lợi phẩm rồi. Do vậy cũng không có việc dùng trâu kéo pháo về căn cứ như trận Tầm Vu, Nam Bộ, dù trâu, xe đã có sẵn. Rút quân phải phá hủy pháo thôi. Sau này mới biết đại đội Âu Phi vô cùng sợ hãi nằm im chờ đầu hàng; còn Xung Kích cũng cứ nằm chờ cho đến khi có lệnh lui. Thắng lớn quá nên chỉ huy cũng không nhớ việc tiêu diệt nốt đại đội Âu Phi. Dân công vào ra khuân vác nườm nượp, chiến lợi phẩm nhiều vô kể; nhưng còn biết bao thứ mà bộ đội, dân công, xe trân không mang xuể; địch lại viện lớn gần tới rồi, phải phá hủy thôi. Còn hầm đạn pháo thì đành “cho” lại giặc Pháp vì làm sao dám phá nổ.

Tiếng mìn, tiếng súng không ngớt ở Bia Đài, chặn viện đã đánh trả, trung đoàn phó cho lui. Tải thương khiêng tôi qua đường đã thấy đèn pha xe rọi lên sáng chói. Lúc này mà có pháo ta lên tiếng thì tuyệt vời. Rút theo đường ruộng trời còn tối, lại đâm hay vì địch lên tới nơi tưởng ta theo đường rừng nên nã pháo theo dồn dập.

Sáng rõ, mặt trời lên dần. Tới Ba Hòn tưởng đã an toàn, tải thương để tôi nằm nghỉ tạm tại một chòi rẫy. Khiêng tôi có bốn dân công, cùng đi có Thành liên lạc, Đãi thư ký đại đội trợ chiến và một y tá. Đãi vừa đưa ca sữa, tôi hớp vài ngụm thì một quả pháo nổ cạnh chòi, tiếp theo hàng loạt pháo cấp tập, đạn nổ xung quanh khói bụi mù mịt. Rất cảm động là anh em không rơi tôi, ghé võng đến giường kéo tôi xuống khiêng chạy, pháo nổ thì quỳ xuống tránh, nổ xong lại khiêng chạy. Mảnh đạn vù vù. Tôi nằm co trong võng, vừa sợ vừa thương anh em. Đến chỗ tạm nghỉ, xem lại quần áo ai cũng bị xám xịt khói đạn, lủng rách lỗ chỗ và rất lạ là không có mảnh nào ghim vào da thịt. Đã nghe tiếng xe tăng rất rõ nhưng nhờ cỏ tranh cao, địch không thấy chúng tôi, chỉ bắn lung tung loạn xạ. Đãi nói:

- Em bị thương rồi!

- Ở đâu?

- Ở đùi. – Đãi đưa chân lên, một dòng máu nhỏ ri ri.

- Đi được không?

- Được.

- Ráng qua khỏi bưng Cò Ke mới yên. Thật trớ trêu, một mảnh nhỏ như hạt gạo, xuyên qua dương vật, theo đường tiểu ra ngoài, khi rửa vết thương ai cũng cười ngặt nghẽo vì vết thương quái ác, lạ đời. Qua tiếp bưng Giồng Xây, đến bệnh xá trung đoàn, thế là tôi cũng thoát được nguy hiểm. Hú vía, đúng là không bao giờ bị thương lần thứ hai trong một trận. Đêm sau, tôi được khiêng về Giếng Chanh – Dân Thạnh. Vết thương không nặng lắm, tôi được y tá tiểu đoàn cho điều trị ở nhà dân. Rất may là lựu đạn nổ gần, thấp nhưng không trúng khuỷu, nên khỏi liệt chân; nếu lên cao một chút thì bể gối cũng hết xài, hoặc thấp một chút đứt bắp chân, rứt bứt động mạch, chắc gì tôi chịu nổi cả đêm đánh và thời gian khiêng về bệnh xá. Anh em nói vui: rủi bị thương, nhưng may không nguy hiểm, mạng anh to đấy! Dù sao, hai lần thoát chết trong gang tấc, bây giờ nhớ lại cũng còn ớn! Ai biết được ra sao trong chiến tranh.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 07 Tháng Tư, 2019, 04:21:19 pm
Trong trận này khi lên gần đỉnh dốc thứ hai, ai đó đụng làm rơi một chiếc vỏ đồ hộp, kéo một số vỏ rơi theo. Địch trên Căng bắn xuống như vãi, đạn chíu chíu quanh người. Anh em nằm ép xuống gai chịu trận. Một chặp, có lẽ chúng nó cho là thú chạy động nên thôi bắn. Nhiều người lo lắng hướng đột nhập đã lộ, hết bất ngờ, một số ngập ngừng do dự. Anh Trương Văn Ly nói; “Đêm nay chỉ có đánh chứ không lui – Tiến lên!”

Như được sức mạnh mới, đội hình lại nhích lên tới đỉnh bằng, lọt vào sân. Cột cờ kia rồi. Một tên địch ở đâu đó hỏi: “Ai? đi đâu?”, “Ba Trui” – Võ Tương nhanh trí trả lời, cả đôi đi thẳng vào mục tiêu. Trận đánh toàn thắng, làm chủ chiến trường, thu chiến lợi phẩm, lui an toàn. Chặn viện diệt ba xe nhưng chúng trên 30 xe nên cùng đến Căng, một số truy theo đến bưng Cò Ke mới quay lại. Có điều là ta không sử dụng pháo theo kế hoạch, bỏ đại đội Âu Phi đang nằm chờ đầu hàng, không thu được hai pháo 75. Thật là tiếc! Dù vậy, chiến thắng Căng Ê-xê-pít đêm 20 tháng 12 năm 1951 là lớn nhất từ trước đến lúc đó, vượt ra ngoài sức tưởng tượng của nhiều người, cả ta và địch. Chỉ có một tiểu đoàn bộ binh 86, hỏa lực không mạnh, đã đánh diệt một căn cứ lớn, quân đông, pháo to, rất gần Phan Thiết. Một vinh dự rất lớn là sau đó trung đoàn thông báo: Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp gửi điện khen. Tỉnh ủy Bình Thuận đã in một tấm thiếp đẹp có dòng chữ; “kỷ niệm chiến thắng Căng Ê-xê-pít đêm 28 tháng 12 năm 1951 – Thành tích vĩ đại – Kính dâng Hồ Chủ tịch – Chào mừng Đảng Lao Động Việt Nam”. Góc trái trên có ảnh Bác Hồ và Tổng bí thư Trường Chinh. Bên dưới có câu: “Mến tặng đồng chí… đã có công diệt địch”. Đến nay, nhiều đồng chí còn giữ được tấm thiếp này. Bốn người được tặng Huân chương Chiến công là Trương Văn Ly, Võ Tương, Nguyễn Hữu Phương và tôi. Tôi nghĩ là các đồng chí Trần Hữu Điệp, Nguyễn Ngọc Châu, Mai Hữu Đồng, Quách Tử Hấp, Sơn Diệp, Phan Văn Hược đều xứng đáng được huân chương, còn một số nữa như các đồng chí trong đội quyết tử. Còn một đồng chí rất đáng khen thưởng cao hơn như đồng chí Nguyễn Minh Châu, có công đầu lớn nhất. Lúc tiểu đoàn xét khen thưởng trận này, tôi còn nghỉ chữa vết thương, vắng mặt. Hơn tháng sau, tôi lại về tiểu đoàn.

(https://lh3.googleusercontent.com/iHE6hv22KLdku070ZvylhD5cS_Vo-2rrr6PHkpGvgOKnI0Hmla2fjv-pAnBCmjhcEGE855E_r0rTVwih5Fb2OrxCxR3zo_FR76qu8brBsJu1hBZrS6dwc9-L9qsDvtc0abP8tDWWLfB4wT6aJikmDHIdMXoi2RkuxSAOHXV1kbZU19v2YE-s_Vo-4h0AKZvEVo9m6NDrEphoR9FpEAvk-vBDmpAq7P13zJrV2wSn0DbZ_aK-QSiJObwv81l-BQAx8G8ztspyxL5lAmUh5-CQImFOQSlu_8UgZBwAPvGANNOqm-h7NhQ_ogxZKqbDnT9O2I0yCTcQu5zZR0oQsUROx_xveTduWgPqx1m1ZASMNbCUJGS1-8R7e_qwmAq0TURMdyCcifW_M1-fn2AQKynXKUIou_qy8sjZr1Rmb3Zq7GYoXfZrvFOluhKBJlLA7ok2NsXiz5gH9KKe9RMFpxf8hbWaFQvV-Bwc7oLYl9-uXGXeEHd-N0XM2AEUI4bvU_U15AN6DlwPS6saHpMDRr1YP8z5kvOUlH0JNcEvRezMpR1p3SEHN3fimGpVqOLtElKZLRLmFlbLfuruhaSWRZpuA0tjL_rW-KEqPttn9r0UHdBoxNWRUrRNFxZmVELnC4rN1bIBZ3eDGZD5vvphg1j7riI8NtDN7as=w1200-h686-no)

DIỄN BIẾN TRẬN TẬP KÍCH BÍ MẬT CĂNG ÉSÉPIC
CỦA D.86 BÌNH THUẬN VÀ LỰC LƯỢNG THỊ XÃ PHAN THIẾT
(ngày 28 tháng 12 năm 1951)

Đầu 1952, anh Ưu Đạo, chủ nhiệm chính trị trung đoàn, xuống 86 phổ biến quyết định của trên giải thể Trung đoàn 812; một số cán bộ tăng cường cho tỉnh đội, huyện đội. Anh Nguyễn Nguyễn Minh Châu tỉnh đội phó, Nguyễn Lịnh chính trị viên và Đại diện Bộ Tư lệnh Quân khu 5 ở Cực Nam; anh Hược, huyện đội trưởng Hàm Thuận; anh Kế, huyện đội trưởng Bắc Bình, v.v… Tiểu đoàn 86 chỉ còn một đại đội tăng cường, là chủ lực của tỉnh, lấy tên Bộ đội Xung Kích, thực chất gần như như một tiểu đoàn thiếu, có ba trung đội bộ binh, ba trung đội hỏa lực (đại liên, cối 81, SKZ), một trung đội công binh, một trung đội trinh sát, một trung đội thông tin liên lạc và đại đội bộ. Anh Quách Tử Hấp, đại đội trưởng, Nguyễn Phương đại đội phó, tôi chính trị viên, Đức Hữu chính trị viên phó, sau thay Nguyễn Ngọc Châu. Ổn định tổ chức xong, đại đội học tập chính trị và huấn luyện quân sự. Thời gian này tiếp thu tư tưởng quân sự Trung Quốc: tam đại chiến thuật, ngũ đại kỹ thuật, chiến thuật tam tam chế, v.v….


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 07 Tháng Tư, 2019, 04:22:57 pm
Trận đầu ra quân của “Bộ đội Xung Kích” là trận phục kích độn thổ trên đường 8, nam Bình Lâm, đánh bọn đi rà mìn, mở đường. Mùa khô đồng trống, phục nhiều ngày, và phải giữ bí mật cả ngày ở nơi trống trải, bót giặc hai đầu lồng lộng, trên đường nhân dân đi lại thường xuyên. Phục khá xa đường, khi có địch, vận động nhanh ra bao vây diệt. Xung Kích hoàn toàn có thể tiêu diệt một trung đội hoặc một đại đội địch, miễn là giữ được bí mật. Anh Điềm đến thông qua phương án chỉ nói một câu: “Vườn rộng rào thưa khó bắt gà!”, rồi anh cười bắt tay chúng tôi chúc chiến thắng.

Ngày đầu địch không đi. Đến quá trưa, các em chăn bò đốt ra cháy luôn rạ ngụy trang hầm, nóng quá anh em nhô lên bị các em thấy. Giáo dục, các em hứa không nói lộ. Nêu phục tiếp hay rút? Thiếu niên Tam Giác rất tốt, phải cảnh giác nhưng phục tiếp được.

Hôm sau, 15 tháng 3 năm 1952, địch đi sớm, trận đánh nhanh gọn, diệt và bắn bị thương 45, bắt sáu có tên Đuy-phua (Dufour) đồn phó Bình Lâm, thu 21 súng, có một trung liên, hai máy rà mìn mới trang bị cho đồn. Công binh đánh viện diệt hai xe và nhiều tên địch, nhưng ta cũng bị bắt hai vì chạy ngoài đồng trống xa mà thiếu yểm hộ. Trong trận, ta hy sinh bốn, bị thương tám do các bót trên đường 8 bắn. Chiến thắng tuy không lớn nhưng ta thử nghiệm cách đánh mới có kết quả. Lấy được máy rà mìn mới, mọi người rất thích thú. Bà con Tam Giác càng khen Xung Kích ở đâu cũng thắng, đánh kiểu gì, ngày đêm cũng thắng.

Địch càn lớn, dài ngày vào căn cứ Hàm Trí. Địa hình ở đây rất phức tạp: tây đường 8 là các thớt ruộng trống, có mương, cây to, bụi rậm che khuất; đông đường rất gần là sông Quao vực thẳm, bưng sâu chạy cặp theo đường một đoạn dài, ép được địch ra bờ sông là chúng lâm vào tử địa; hai lề đường là hai hàng me lớn và con đường cao cũng là địa thế phòng ngự có lợi cho địch. Với đội hình bậc thang, địch chống được phục kích gần, lực lượng đông triển khai rộng, kiểm soát cả khu vực lớn thì du kích khó bám đánh lẻ, bộ đội cấp đại đội cũng không gói gọn nổi. đơn vị vận dụng lối đánh vận động phục kích, từ xa bôn tập nhanh, dồn gói địch, quyết diệt một đại đội, đánh thiệt hại một số khác là có khả năng thực tế. Đội hình ta sẽ giấu quân tây đường, trong ba thớt ruộng. Đài quan sát đặt trên một cây cao, sẽ phát hiện địch xa, đủ thời gian vận động chặn đầu. Phương án được anh Năm Châu phê chuẩn và Xung Kích từ Tam Giác lên Hàm Trí thực hiện trận đánh ở ki-lô-mét 21 đường 8 – An Lâm – Hàm Trí.

Ngày 20 tháng 5 năm 1952, vừa triển khai xong đội hình, lúc gần 7 giờ, do sáng sớm có nhiều sương mù nên khi đài quan sát thấy thì địch đã đến gần trận địa. Anh Phương dẫn bộ phận chận đầu có hỏa lực đại trung liên chạy một mạch chiếm được đường. Để hỗ trợ cho chặn đầu, cối 81 rót liên tục vào đội hình địch, buộc chúng phải dừng tản khai dọc lộ 9. Chặn đầu nã đại liên xả vào địch, một tiểu đội có trung liên vượt sang đông đường hình thành rào chắn ngang chắc chắn. Đại đội lê dương Bắc phi thấy ta tràn ra bèn dừng lại dàn đội hình nghênh chiến, bắn mãnh liệt, ỉ đông không lui. Toàn bộ bộ phận khóa đuôi vận động ra đánh bật một đại đội ngụy đang đi nấc thang bảo vệ sườn trái cho bọn Bắc Phi trên đường. Địch không qua nổi chốt, chỉ bám đường 8 chống trả, nhưng chưa bị uy hiếp nặng vì ta cũng chỉ mới dồn đại đội ngụy ra đường, chúng cụm lại thành hình con nhím khá mạnh. Địch có lao công chiến trường khuân theo nhiều đạn nên bắn như mưa nhưng không hiệu quả vì ta có địa hình che khuất, che đỡ. Hơn 2 giờ chiến đấu, chủ yếu chỉ còn cách địch một thớt ruộng trống trên trăm mét. Bây giờ là lúc cần phát dương mạnh hỏa lực hỏa lực tập trung đột phá chính diện và thọc sườn để giải quyết trận chiến. Tuy địch con đông nhưng chúng chỉ lo chống dỡ, còn ta thì đã hình thành thế bao vây. Khóa đuôi sang nốt đông đường là đã vây chặt không cho địch tháo lui được nữa. Tôi bàn với anh Hấp:

- Thế ta rất lợi, anh cho hỏa lực bắn mạnh để chủ yếu đột phá diệt cụm địch. Nhưng anh Hấp lại bảo:

- Trưa rồi, đạn dược tiêu hao nhiều, tôi đề nghị kết thúc chiến đấu, cho lui được rồi.

- Phải tổ chức đột phá dứt điểm chứ sao lui?

- Anh em đã mệt, thương vong một số, địch còn bắn mạnh lắm, xung phong qua thớt ruộng trống sẽ thương vong nhiều nữa. bây giờ nên lui và vừa.

- Ý anh Phương sao? - Tôi hơi ngỡ ngàng quay sang hỏi đại đội phó.

- Ta chưa khóa được đuôi nên địch chưa rối đội hình, còn chống cự mạnh, ý tôi thấy cũng nên lui.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 07 Tháng Tư, 2019, 04:23:30 pm
Địch còn bắn loạn xạ thật, băng qua ruộng trống cũng khó khăn, tất nhiên phải tổ chức chu đáo. Tôi thấy ta thương vong chưa nhiều nhưng đại đội trưởng, đại đội phó đề nghị lui thì đành bỏ dở chiến đấu, dù ta đang ở thế thượng phong, biết làm sao được! Thế là anh Hấp lệnh cho các bộ phận mở vây lui dần. Vừa ra hơn trăm mét thì trung đội trưởng Đào chỉ huy khóa đuôi chạy vội đến:

- Trời ơi! Sao các anh không cho xung phong mà lại lui? Chúng tôi đã qua đông đường chiếm chùm mã vôi nhốt chặt địch rồi và xung phong lấy được một trung liên vanh cách, bảy súng trường. Đồng loạt xung phong là ăn thôi!

Ngó xuống chân Đào, tôi thấy anh đã mang một đội giày bát-két chân chó mới tinh. Đào bị cụt một ngón chân út nên đánh trận thường cố gắng lấy giầy chiến lợi phẩm để dự trữ; lúc nào Đào cũng mang giày.

- Thế là mất thời cơ dứt điểm, mất ăn rồi! – Tôi thở dài.

Thấy tôi có vẻ buồn, anh Hấp nói nhẹ nhàng:

- Ta đã ra một đoạn đường rồi, không vào lại được đâu.

Về vị trí tập kết, ta chỉ bị thương sáu, toàn là trung và khinh tương. Tiếc hết biết!

Chiều tối về Tam Giác. Vừa gặp, anh Năm Châu hỏi ngay:

- Nghe súng nổ cả buổi, đánh kéo dài chắc nướng quân nhiều lắm hả?

- Báo cáo anh, không hy sinh ai, chỉ bị thương sáu mà không có ca nào nặng. Địch có một đại đội Bắc Phi và một đại đội ngụy. Ta diệt nhiều lính Bắc Phi, thu một trung liên, bảy súng trường, giải phóng mấy chục lao công chiến trường. Số tù đều là cán bộ và dân vùng giải phóng, vui mừng trở về với gia đình và cuộc sống kháng chiến.

- Tốt, thôi về nghỉ. Sinh hoạt kiểm điểm kỹ, sút kinh nghiệm, báo cáo đầy đủ sau.

Thấy anh vui, chúng tôi cũng mừng. Anh cho 5.000 đồng để bồi dưỡng. Tôi bàn để 2.000 đồng mua cuốc rựa sản xuất, 1.000 làm quỹ, bồi dưỡng 2.000 đồng là vừa. Kiểm tra trận đị thấy đạn ta ghim và các gốc me như tổ ong, địch phần lớn bị bể đầu, bể ngực. Quân báo cho biết: một đại đội Bắc Phi bị xóa sổ, hai đại đội ngụy bị thiệt hại. Lính Arập ở Phan Thiết đi đưa tang bạn khóc như ri, náo động cả thị xã. Đồng bào bàn tán xôn xao: chưa thấy lần nào địch đưa xác lính Âu Phi về nhiều và lính Tây khóc lóc ầm ĩ như vậy. Có điều thú vị là: một số lính hoảng hồn đâm bổ xuống sông Quao chết đuối. Bà con lặn vớt được một tiểu liên, năm súng trưởng ủng hộ du kích. Trận đánh có ảnh hưởng lớn ở đô thị, địch càng nể Xung Kích thiện chiến.

Ở Tam Giác gần tháng được mệnh lệnh hành quân lên Hàm Thạnh; cùng đi có anh Năm Châu. Các tham mưu con lại dự đoán: có xuất tướng chắc đánh lớn. Không đánh điểm cũng giao thông, đánh gì cũng dính đến đường sắt; nếu đánh đòn, nhất định là ga Mương Mán thôi. Các tham mưu con cũng có kinh nghiệm nên đoán trúng phóc. Đúng là đánh lớn. Mương Mán là một yếu khu quân sự mạnh, có đồn GVF và đồn Bang Tá với hai đại đội đóng giữ, nhiều công an cảnh sát và tề điệp. Mỗi đồn có bốn lô cốt và còn thêm mười lô cốt lẻ bao quanh khu vực; công sự kiên cố, trang bị mạnh, có cả một pháo 75. Lợi dụng quy luật tuần tra của địch và lúc chập tối ga rất lộn xộn, lính tráng đông đúc phức tạp, ta cải trang lính địch đi tuần về, tiến thẳng vào hai đồn, bất ngờ đánh chiếm đầu cầu, tiếp chiếm xông vào cửa mở đánh trận nội. Chỉ còn một vấn đề là khi đánh xe lửa một (raphanô) tại ga thì phức tạp. Tình huống đó chúng tôi không lo vì có anh Năm quyết định. Cải trang đi đầu gồm hai tiểu đội vào hai đồn, có anh Phương đi đánh đồn GVF. Chỉ huy tiếp chiến và chỉ huy chung là anh Hấp và tôi. Đi đầu là ba chiến sĩ quốc tế (Xít Bếch người Đức đóng quan ba, Lê cũng người Đức quan hai và Ca Ri Dông người Tây Ban Nha thượng sĩ). 17 giờ ngày 23 tháng 6 năm 1952, toàn đội hình đã ém quân tại sông Cái cách 300 mét. Tình hình bình thường, tại ga binh lính lộn xộn, có xe lửa một bọc thép đứng trước ga. Anh Năm cho lệnh xuất phát. Trong ga điện vừa bật sáng. Nhìn bóng dáng Xít Bếch, Lê, Ca Ri Dông cùng anh em ta vào chiến trận, lòng tôi rộn lên một tình cảm thương mến: tinh thần quốc tế, sự hy sinh chiến đấu của họ cho Tổ quốc ta quý giá biết chừng nào! Mong sao họ bình an trở về. Bên cạnh anh Phương cũng cao to, đĩnh đạc. Chỉ có những “lính ngụy” khác thì thấp bé, nhất là Ngư, Thước; các trung đội trưởng trẻ đẹp trai, nhỏ con nhưng gọn gàng, nhanh nhẹn. Tôi và anh Hấp vừa đi tiếp thì có tiếng anh Năm nho nhỏ:

- Các anh chiếm trận nội là có tôi vào ngay.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 07 Tháng Tư, 2019, 04:24:15 pm
Rồi anh xiết chặt tay chúng tôi ngầm tiễn và chúc chiến thắng. Chúng tôi cảm động biết bao với tình cảm của người chỉ huy luôn luôn đi sát cấp dưới trong nhiều trận chiến đấu, Sông Dinh, Căng. Trận này cũng vậy, không bao giờ anh vắng mặt. Đến trước sân ga trống trải, tiếp chiến dừng lại nấp dưới một hố sâu lớn, tối. Chiếc xe lửa một án ngay trước mặt, chiếc đầu máy vẫn nổ xình xịch đều đều. Chúng tôi nín thở theo dõi. Đoàn lính cải trang bình thản vòng sau đuôi xe lửa một rồi quay lại đồn. Một chiến sĩ vướng dây súng kẹt mấy mấy giây, bị đứt quãng, số đi sau phải chạy theo cho kịp. Bọn lính trên xe lửa một gọi lớn:

- Lính đi tuần về tới đồn mà chạy làm gì?

Toán lính chơi trên sân ga nghe vậy nhìn nhau cười, chúng chẳng biết gì cả.

Đến cổng đồn GVF, tên lính ngụy đứng gác thấy quan tây vội bồng súng chào. Quan Tây phớt lờ đi thẳng vào đồn. Viên thiếu úy đồn trưởng thấy cấp trên bèn đứng dậy chào. Quan hai đi kề nổ một phát súng ngắn, hắn đổ gục. Trận chiến bắt đầu, tất cả tràn vào chiếm các lô cốt, ụ súng. Tiếng tiểu liên, lựu đạn vang rền, lính trong đồn hoàn toàn bất ngờ, huyên náo nhưng vì quân đông nên quần nhau với ta quyết liệt, đánh giáp lá cà, ôm vật, đâm lê, dao găm. Lính Xung Kích khỏe mạnh, thiện chiến, diệt nhiều địch, chiếm lĩnh nhiều mục tiêu quan trọng trong trận nội. Bộ phận đánh đồn Bang Tá cũng xông vào đánh vài phút. Ngư gặp đồng chí Nhi bèn nói:

- Anh Nhi, đồn Bang Tá bên kia kìa!

Biết lạc mục tiêu, trung đội trưởng Nhi vội dẫn đội hình mình quay sang đồn Bang Tá thì địch ở đây đã sẵn sàng chặn ta. Nhi bị thương nặng ở cổng đồn Bang Tá (Sau này đồng chí Nhi cho là mình không đi lạc và 5 phút sau mới bị thương trong đồn Bang Tá). Lính địch ngoài sân ga nghe súng nổ bất thần chạy tán loạn. Xe lửa một chưa phân biệt được gì, bắn tứ tung ra ngoài, quét đại liên dọc đường sắt. Ngư từ trong đồn cho bắn AT vào xe một, toa cuối bốc cháy ngùn ngụt, nổ dữ dội. Xe một bỏ chạy về hướng Phan Thiết, đến suối Dầu dừng lại chữa cháy. Xe một vừa chạy khỏi, tiếp chiến vượt ngay đường sắt vào đồn GVF, tôi gặp anh Phương tại cổng. Tiểu đội trưởng Hồ Hồng đặt khẩu bờ-ren án ngữ trên nóc bằng lô cốt cổng đồn. Có tiếp chiến vào tăng thêm sức diệt địch, tảo trừ, làm chủ đồn trong 30 phút. Bên dồn Bang Tá, tiếng súng vẫn nổ dữ dội. Anh Hấp và Phương sang đó chỉ huy, tôi ở lại đồn GVF chờ liên lạc anh Năm Châu và cho đưa dân công vào thu chiến lợi phẩm trong lúc tiếng súng trong khu vực còn vang rền. Dân công Tam Giác thật dũng cảm, SKZ bắn hai phát diệt xong lô cốt chính. Anh em phá cổng đồn Bang Tá xông vào trận nội, thêm vài chục phút nữa ở đây cũng giải quyết xong. Dân công đưa ra hàng trăm thùng đạn chất đống tại sân ga để chuyển dần đi. Mấy quả cối 81 của xe lửa một bắn rơi trúng đội hình dân công làm hy sinh hai, bị thương bảy, một số bung chạy lạc, cũng mất thêm một số chiến lợi phẩm.

Anh Năm Châu, anh Hược đến cổng đồn, nghiên cứu câu trúc công sự, tổ chức phòng thủ và bố trí chướng ngại vật. Đây là điều anh Năm rất quan tâm trong mỗi trận đánh điểm. Khẩu pháo 75 trong ụ súng đen sì, nước thép còn bóng, súng ghếch cao. Sướng quá, lại có thêm một đại bác nhưng rồi cũng đành phá hủy. Làm chủ khá lâu, chiến lợi phẩm nhiều vô kể. Ngoài thu súng ống, đạn dược thì không còn sức đâu mà thu cho hết mọi thứ, thấy im tiếng súng, xe một biết ta đã chiếm đồn nên bắn cối phá hoại và sát thương ta. Anh Năm cho lui quân. Đồng chí nhật trung đội trưởng công binh dùng chất nổ, vật liệu cháy phá hủy toàn bộ hai đồn, cả khẩu pháo 75. Ra khá xa, tôi vẫn thấy ngọn lửa cháy dữ dội cùng các phát cối “phối hợp” điên cuồng của xe một. Thế là xong đời yếu khu Mương Mán. Kết quả đã diệt, làm bị thương trên 300 địch, bắt 12 tù binh (có tên Chút phó mật thá thị trấn Mương Mán), thu trên 200 súng (có hai cối 81, hai đại liên bờ-rốt-nin và vích-ke, nhiều trung, tiểu liên). Ở đây có 25 tiểu liên PM (pistolet mas) đạn 6,57 và sáu súng ngắn colt 12, vích-ke, hẹt-tan-ben-gích mới toanh. Đạn nhọn, đạn cối, lựu đạn còn nhiều hơn trận Căng. Bộ đội bị thương năm, không hy sinh ai. Đơn vị rất phấn khởi. Chiến thắng lớn liên tục, phục vụ tốt phong trào, nhân dân vui mừng, hết lòng ủng hộ bộ đội.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 07 Tháng Tư, 2019, 04:29:54 pm
Về Tam Giác một hôm, do chiều hành quân chiến đấu bị một trận mưa to ướt đẫm, vất vả ngày đêm, tôi bị cảm sốt nặng phải đưa về Triền gửi ở nhà dân, bệnh càng nặng phải đưa đi bệnh viện trung đoàn ở Bình Thuận. Mẹ tôi được tin tôi bệnh nặng, từ Ô Rô xuống Triền rồi theo luôn đi bệnh viện chăm sóc tôi. Thời gian nằm bệnh viên ở hậu phương thật yên bình. Gần tháng, tôi ra viện. Thời gian tôi đi viện, đồng chí Lê Văn Khuê, trưởng ban tổ chức ở tỉnh đội về thay tôi; còn tôi, sau khỏi bệnh về cơ quan làm trưởng ban tổ chức cán bộ.

Nhớ lại năm 1951, tiểu đoàn tổ chức đánh một trận xe lửa khá “độc đáo”. Kế hoạch là một tổ công tác đột nhập Mương Mán vào chập tối, chiếm một đầu máy xe lửa đang làm ma nơ, móc mấy toa hàng quân sự kéo chạy ra rừng cho tiểu đoàn diệt. Đồng chí Thăng Long, quân báo trung đoàn trước Cách mạng tháng Tám đã làm việc ở Mương Mán, biết lái tàu, biết quy luật tàu chạy và làm ma nơ tại ga. Thăng Long sẽ chiếm đầu máy móc một số toa xe kéo vào phái nam ga Suối Vận, dừng tại chỗ tiểu đoàn phục sẵn, ta sẽ cho nổ ba-dô-min từ trên xuống nóc xe, diệt địch, thu chiến lợi phẩm. Đều kỳ lạ là đánh mìn từ trên xuống. Xưa nay thường chôn mìn dưới đất gọi là đánh địa lôi, nay anh em gọi vui là đánh “thiên lôi”. Nghe rất hay mà rất khoa học, chắc ăn.

Chiều hôm ấy, tiểu đoàn hành quân đến vị trí phục chờ xe. Chiến đấu thế này thì vô cùng hấp dẫn. Nhưng đến 21 giờ vẫn chẳng thấy tăm hơi. Có sự cố gì chăng? Nếu đúng thì 20 giờ thôi, xe lửa ngày nào không chạy theo giờ? 22 giờ có liên lạc đến thông báo lệnh anh Năm Châu cho ngụy trang trận địa, về vị trí. Thì ra do nắm tình hình không chắc; khi Thăng Long nhảy lên đầu máy thì ngoài lái tàu còn có một tên lính Pháp có vũ khí ngồi cùng. Thăng Long vội nhảy xuống và báo cáo lại với anh Năm, không cách nào giải quyết êm thấm tên lính Pháp được phải dừng kế hoạch. Cũng may chưa lộ. Trận đánh không thành. Chúng tôi chờ xem một thời gian có làm lại không vì nó hết sức lạ lùng, thú vị, như trong tiểu thuyết, khen thay ai nghĩ ra cách đánh độc đáo ngộ nghĩnh này, thời gian trôi qua, hết hoạt động này đến hoạt động khác, kế hoạch này rơi vào quên lãng. Hơn 10 năm sau, có lẽ nhờ sáng kiến đó mà bộ đội Bình Thuận lại áp dụng lối đánh thiên lôi, diệt gọn đoàn xe lửa ngày 30 tháng 10 năm 1963, cũng tại đoạn Suối Vận này. Cách đánh thiên lôi thành công nhưng cũng chỉ diễn ra độc nhất một lần trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Năm 1953, gạo trong căn cứ rất thiếu. Cơ quan phải ăn gạo lức độn thêm khoai đậu; thức ăn rất đạm bạc. Khoai lang Khu Lê nhiều và ngon, củ nào cũng tròn lăn, bột ăn nghẹn cổ nhưng rất ngọt. Sản xuất tự túc rất nhiều nên anh nuôi cho ăn không hạn chế. Cứ mỗi bàn dài mấy chục người ăn thì hai đầu là hai thúng khoai lang luộc, giữa một thúng cơm. Ai cũng ăn cơm trước, sau mới đến vài ba củ khoai. Tôi thì ăn khoai mấy cũng không ngán, cứ chọn các củ tròn mập; ăn khoai thật đã, xem lại còn cơm thì bới một chén, hết cũng chẳng sao. Ăn khoai mau đói hơn ăn cơm, nhưng cũng khỏe mạnh bình thường, lại nhuận trường. Đi công tác được đồng bào cho ăn cơm gạo trắng vẫn nhớ khoai; về cơ quan ăn khoai rất thích thú. Tôi thường đi công tác mỗi đợt nửa tháng hoặc một tháng; đi các địa phương Hàm Thuận, Hàm Tân, chủ yếu là các xã giải phóng, căn cứ, giúp địa phương làm vũ khí thô sơ, đẩy mạnh bố phòng, chống càn quét, biệt kích, phát triển du kích chiến tranh, nắm tình hình cho tỉnh tổng kết. Tôi còn làm công tác vận động thanh niên tòng quân; đã bổ sung cho Xung Kích mấy đợt tân binh. Tôi thường cùng giao liên đi đêm qua đường 8, đường sắt, đường 1. Qua đường sắt ở Suối Dầu, Giò Gà, qua đường 1 nam Ngã Hai, nhiều đoạn bị địch phục đánh tổn thất, qua lại rất căng thẳng, nguy hiểm. Đi quen rồi cũng thạo đường ngang, lối tắt, có lúc tôi chỉ đi một mình cũng an toàn. Ở Tam Giác, bọn biệt kích thường thọc sâu bất ngờ đánh vào cơ quan xã huyện, các nơi dân cư ở tập trung. Bộ đội địa phương A, B từng trung đội đóng độc lập; cán bộ trung đội về đại đội họp có khi bị bắn hy sinh như đồng chí Xuân, trung đội trưởng A, cô Hải dân quân gương mẫu Bà Chơn, v.v. Nhưng Tam Giác lại là nơi phong trào mạnh, có du kích nhiều, cả dân quân gương mẫu cũng đánh giặc giỏi, bố phòng dày. Dân và du kích lên đường sắt lấy dây sắt về chặt, đập làm chông suốt ngày, thi đua bố trí dày đặc chông sắt, chông tre. Địch rất sợ nên hạn chế nhiều việc lùng sục của bọn biệt kích, bọn càn. Có trường hợp đóng chông sắt vào gốc cây cạnh bờ suối, bờ mương. Địch đi nắng mệt, gặp bóng cây mát có nước trong, sà vào rửa ráy, uống nước, nghỉ ngơi, đạp chông không rút ra được, bị du kích bắn; hoảng quá, có lần chúng chặt bàn chân của tên bị chông bỏ lại mà khiêng chạy cho nhanh. Bố phòng chông rất có lợi. Tuy nhiên làm quá nhiều, quản không xiết, nơi nào cũng có người đạp chông. Tỉnh đội đã tổng kết rút kinh nghiệm cho các nơi phát huy tác dụng chống địch nhưng cũng đừng để ta bị chông ta. Phong trào bố phòng ở Hàm Tân không rộng mạnh bằng Hàm Thuận, có lẽ một phần vì Hàm Tân giải phóng lâu, là căn cứ xa địch, chúng không đủ sức càn quét nhiều như Tam Giác. Ở Hàm Tân cuộc sống bình yên, thoải mái, sản xuất, sinh hoạt tiện lợi, dễ dàng


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 07 Tháng Tư, 2019, 04:36:41 pm
Dù sao thì cũng chỉ ở Khu Lê Hồng Phong mới là “thủ đô kháng chiến” của tỉnh. Từ năm 1946 – 1947 trở đi, Khu Lê là nơi đứng lâu dài vững chắc của Tỉnh ủy, Ủy ban Kháng chiến Hành chính tỉnh, Cực Nam, trung đoàn, tỉnh đội, Bệnh viện 812, Trường Trung học bình dân, binh công xưởng, các ty, ban, ngành tỉnh và huyện Hòa Đa. Ở dây còn có một số cơ quan, đơn vị của Ninh Thuận, Lâm Đồng đứng an dưỡng, huấn luyện. Đồng bào một lòng một dạ kháng chiến, trung thành với Chính phủ Cụ Hồ, hy sinh gian khổ mấy cũng vững tin kháng chiến thắng lợi. Từ năm 1951, vùng đất này được phát động xây dựng thành căn cứ địa của tỉnh, chính thức có tên Khu Lê Hồng Phong là đơn vị cấp huyện. Các xã đều lấy tên Hồng như Hồng Sơn, Hồng Liêm, Hồng Lâm, Hồng Chính, Hồng Thắng, Hồng Tân… Tỉnh đội đóng ở Triền, Tỉnh ủy, Ủy ban, Cực Nam đóng ở ÔRô, Bàu Thiêu, Bệnh viện ở Bình Thiện, 86 ở Hồng Sơn, Giếng Chanh, Giếng Đé. Trong rừng ÔRô điểu còn có điện đài, giao bưu, binh công xưởng đều đứng yên ổn cho đến tập kết. Cuộc sống từ 1949 trở đi cũng yên như Hàm Tân, nhưng sinh hoạt kháng chiến sôi động, nhộn nhịp hơn nhiều vì có đông bộ đội và cơ quan Dân, Chính, Đảng. Chợ kháng chiến ở Dầu Bà Én Hồng Sơn, ở Cây Xây râm tre Hàm Nhơn thật đông vui, tấp nập, đã cung cấp nhiều nhu cầu cho căn cứ và giao lưu kinh tế với vùng tạm chiếm.

Tháng 7 năm 1952, tỉnh đội tổ chức huấn luyện đặc công do 3 đồng chí Nguyễn Hữu Liêm, Nguyễn Đôi và Nguyễn Thắng Nê, trên đường từ Nam Bộ ra Việt Bắc được đồng chí Lê Duẩn để lại một thời gian giúp Bình Thuận xây dựng bộ đội đặc công với kỹ thuật và cách đánh đồn bót rất mới lạ, hiệu quả. Tôi không còn ở Xung Kích, không trực tiếp việc này, nhưng khoảng cuối tháng 8 có dịp đến Xung Kích công tác nên cũng quen các đồng chí Liêm, Đôi, Nê. Liêm có tài bắn súng ngắn tuyệt vời, bách phát bách trúng mà không cần ngắm lâu, đưa lên đúng tầm là nổ. Bách văn bất như nhất kiến, từng nghe tài nhiều đơn vị Nam Bộ bắn súng tuyệt chiêu, nay mới thấy tận mắt. Kiêm chỉ cho tôi một cành khô nhỏ, lắt lẻ trên ngọn cây dầu một gò mối, cách hơn chục mét, nói; “Tôi sẽ bắn nó gãy đôi rơi xuống nè!” Một tiếng nổ, cành khô bé nhỏ không còn nữa, nó bứt thành hai mẫu nằm dưới chân gò mối, ai cũng lắc đầu, lè lưỡi phục sát đất. Liêm cười:

- Bắn vào miệng chai đặt trên bờ tường hoặc liệng trái chanh lên, bắn đón lúc nó rớt xuống chỉ là chuyện thường thôi!

Định đãi Liêm và hai bạn một bữa cháo gà, chúng tôi hỏi chịu chủ nhà mua vài con gà trống tơ, chị lắc đầu nguầy nguậy:

- Ban ngày làm sao bắt được mà bán?

- Chị cứ rải lúa cho gà xúm lại ăn, chị bán con nào tôi bắn con đó thôi. Liêm cười nói.

- Đâu được, tôi bán con này anh bắn con kia rồi sao?

- Tôi chỉ bắn con nào chị đồng ý bán thôi, đừng sợ.

Chúng tôi đốc thêm, chị chủ nhà cũng xiêu lòng, cú gà rải lúa cho ăn. Mấy chục con trống mái, lớn nhỏ xúm xít qua lại rối cả mắt, thế mà Liêm cười, hỏi:

- Chị bán con nào?

Chủ nhà chỉ một con trống tơ nhưng dáng xấu. Liêm bảo chúng tôi:

- Tôi bắn què giò nó thôi, bắn bể đầu cũng uổng, bắn què giò không mất gì hết. Khẩu vít-ke nòng dài chĩa vào con gà nổ, bầy gà bay nhay kêu quang quác. Con gà trống nằm tại chỗ vùng vẫy, bắt lên đúng là nó chỉ bể nát đầu gối thôi. Không sai chút nào. Mua con thứ hai, chị chủ tin rồi, nhưng phải đuổi theo và Liêm trổ tài một lần nữa, con gà xấu số bị què giò y chang! Tiếng đồn tài bắn súng như thần của các cha Nam Bộ thật không ngoa, tài đến thế là cùng. Sau khi huấn luyện và đưa đi thực tập xong cho đặc công Bình Thuận, tổ Liêm ra Liên khu 5.

(https://lh3.googleusercontent.com/Q1267VqNeUm-GO4P0NzpPjI0WnAqL6YLX5ZTLzq98_C0xLdbORS07_SombQeQM3ofRy99dIeWrT13DJEdkjtBidgLV4IM6uCETJjtVJIhi0qMO9r54YThETURZoo7tZmdMCzRRjkDS_G6YCXOoviPPJ7AZ4Uy8RNL-EdOrn8N8VBzvA_hUgPbonOpV3nKqOqmB9JcWyW35t4U4_eWlxQ4F9CJ5QDRoCjLu_5nnPRogFc3ZZ72JRgjmY2BA5hPtzMEwoXXvZdiBUC9RiRsPIE-ZEnSa15XUfYzE1KaeZLMJI5LtE1YA4ZgAMwCCK9YSfk44N3diza91Ywr_cRuHSMiK78tR_7JGUXVpnA37IEMcfezkPgfjTpcIkgiWykQ93hbBrbam9fJwjntMLLZACPS1xSIOcuXmIqS2S1xv9MQ9thWqZ2zELJZNVo_ByscsfXyr-npOL-_XKuVUMTNq8t_AMTqRdSDwBSSDdHZUi01WKaBUSmWgg1R7xL2fj99nu2eu7e-_RtnXaDT95wzk3SRJuCKZVM3MoGduSoGX7_37QMGDF_M5jYagXrWl28c4___dqZxzen9fVoXM7POBZ06UT-JgRoQWRJ6Xuy1VSGJDYRj2hukKnv6hVepjLCf-BkI-Zo9imbhExWDxMPipmdnY7xeHm1Hzs=w448-h630-no)

Đồng chí Trần Thắng Nê và Nguyễn Hữu Đôi (trái) trong tổ đặc công
do đồng chí Lê Duẩn để lại huấn luyện đặc công cho LLVT Bình Thuận tháng 7 năm 1952


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 07 Tháng Tư, 2019, 04:37:48 pm
Tôi đi công tác Hàm Tân, do vậy chỉ biết chiến thắng Ngã Hai ngày 18 tháng 9 năm 1952 như mọi người. Nhưng tôi còn biết đây là chiến thắng của kỹ chiến thuật mới và cách đánh đặc công đã thành công ở Bình Thuận. Tiếp theo chiến thắng sông Quao cũng bằng đặc công, bộ đội càng tin tưởng và nắm được cách đánh độc đáo, hiệu quả to lớn này. Trận đánh đặc công trúng ngay vào sở chỉ huy quân Pháp trong cuộc nhảy dù càn lớn ở Hồng Sơn càng làm cho giặc Pháp kinh hoàng, bẻ gẫy lập tức cuộc càn dự định đánh dài ngày vào căn cứ. Chỉ cách Phan Thiết 30 ki-lô-mét, có quốc lộ 1 chạy qua mà giặc Pháp phải huy động hàng chục chiếc đa-cô-ta chở quân đến nhảy xuống bất ngờ chiếm đóng Hồng Sơn, từ đó đánh rộng ra, hội quân với cánh bộ từ đơn vị, cơ quan đầu não kháng chiến của Bình Thuận. Lúc Xung Kích đang đánh quyết liệt cánh quân bộ Phan Thiết lên và chặn đứng tại Xa Ra thì ở Hồng Sơn, đặc công đang đóng quân tại bìa xóm, thấy máy bay thả dù vội chạy ra xem, lại còn khen: Nó thả cái gì tròn tròn đẹp quá. Do chạm đất, địch bắn xối xả mới bắn trả loạn xạ rồi rút ra rừng. Nhưng chỉ đến đêm, các trinh sát đặc công này đã nện đúng chỉ huy sở dù một đòn đau, diệt 40 tên có nhiều sĩ quan úy, tá, thu 30 chiếc dù bông. Vì đòn tập kích này mà địch phải rút chạy ngay sáng hôm sau. Quân dù đã chuồn thì quân bộ cũng chẳng lên Hồng Sơn làm gì. Cuộc càn lớn dài ngày theo dự kiến đã chấm dứt không kèn không trống. Trận đặc công đánh sở chỉ huy cuộc càn quan trọng biết chừng nào! Chỉ đặc công mới làm được nhanh chóng, đúng lúc, kết quả như vậy.

Gặp anh em đánh Ngã Hai mới biết thêm nhiều điều thú vị. Dù là những chiến sĩ dạn dày trận mạc, đã qua kỳ tập, cường tập đánh đồn, mà khi tiếp thu kỹ thuật đặc công, đi chuẩn bị chiến trường, luồn sâu ém sát vào bên trong mục tiêu, ngồi dưới mũi súng địch, đèn pin, đèn pha quét trên đầu, vào trong đồn lúc nấp ở cửa, địch đi ra đi vào, khi nằm dưới gầm giường địch ngáy bên trên, cũng phát run!

Đêm nằm ngoài rào trời khuya lạnh lẽo, mưa gió, muỗi mồng, lúc người giữa các lớp rào cạnh lỗ châu mai, sát nòng đại trung liên địch, về tâm lý cơ thể, tự nhiên muốn bật ho, đánh rắm, tè, ị. Cố gắng chịu, gay go nhất là lúc này, giữa cái sống và cái chết, giữa diệt địch và bảo vệ mình, giữa thất bại và chiến thắng… Một số ít không giữ được, cái ho nó muốn tuôn ra hàng tràng, lộ bí mật là chết cả đám, đành phải ra để anh em khác hoàn thành nhiệm vụ, phần lớn vượt qua được, vài lần chịu đựng cũng quen. Có lúc còn đùa nghịch, khi đánh Ngã Hai, đã ém mục tiêu, sẵn sàng chờ G nổ, lạnh quá, không nín được, phải tè nhè nhẹ, lại nghịch ngợm lấy tay hứng đưa lên mũi bạn giật mình suýt bật ngửa; nghịch trước mũi súng địch đến thế thật hết chỗ nói. Ngã Hai là trận đầu đánh đặc công, để chắc ăn 100 phần trăm, đã dùng chất nổ nhiều hơn quy định nê lô cốt, nhà lính sập ná thành đồng gạch vụn, chôn vùi cả giặc và vũ khí, tuy thu toàn bộ chiến lợi phẩm nhưng vũ khi thì không nhiều. Thành công lớn là trận đánh đặc công đầu đã thắng lợi hoàn toàn. Rút kinh nghiệm, các trận sau chỉ dùng chất nổ đủ diệt địch để còn thu súng đạn. Cũng nhờ đặc công mà trận Thạch Long – Mũi Né ngày 14 tháng 4 năm 1953 thắng rất lớn. Đặc công diệt đồn chính Thạch Long, thu một pháo 94, đưa pháo sang bắn bức hàng tiếp đồn Bang Tá, làm chủ Mũi Né 10 ngày.

Thời gian này tôi không ở Xung Kích nên chưa trực tiếp học kỹ chiến thuật đặc công. Đầu 1954, tỉnh chủ trương xây dựng đặc công ở các đơn vị bộ binh; khi công tác ở đại đội A tôi mới có dịp tập luyện kỹ thuật đặc công với số đặc công của A. Trước chiến dịch miền Tây tháng 4 năm 1954, làm chính trị viên đại đội 225, tôi càng luyện tập thực sự để sắp đến cùng đơn vị đánh La Giày. Được các đặc công kỳ cựu giúp đỡ, tôi có thể cùng đánh với đặc công được nhưng chỉ mới loại hai nghĩa là chưa độc lập chuẩn bị chiến trường nổi. Điều quan trọng đối với một cán bộ chỉ huy là khi đã nắm được kỹ thuật đặc công thì có thể cùng đi với anh em kiểm tra kết quả chuẩn bị, có khả năng đánh giá tình hình để hạ quyết tâm, chọn hướng, mũi chủ yếu, thứ yếu, sử dụng lực lượng, kết hợp đặc công mở cửa với bộ binh tiếp chiến đánh trận nội…

Công tác ở phạm vi nghiên cứu rộng lớn, thường xuyên làm việc với chỉ huy lãnh đạo, được học tập, nâng cao trình độ. Thường xuyên quan hệ phối hợp với các ngành Dân, Chính, Đảng nên nắm biết tình hình toàn diện hơn lúc ở đơn vị chiến đấu. Tết năm 1954, cơ quan Tỉnh đội đón một cái tết rất vui vẻ, yên lành ở chiến khu, càng thấy rõ kháng chiến thắng lợi ngày một gần. Đã chỉnh huấn Hiệu triệu của Hồ Chủ tịch về trường kỳ kháng chiến tự lực cánh sinh nhất định thắng lợi, chỉnh huấn Quân đội nhân dân. Tuy không ai đoán định còn bao nhiêu năm nữa, nhưng “Kháng chiến nhứt quyết thành công” thì đã chắc như đinh đóng cột. Thu đông 1953 ở Bình Thuận, một số cuộc càn Na Va – Nà Sản quy mô hơn chục tiểu đoàn cơ động Âu Phi bừa Tam Giác, cũng gây cho A và du kích một số tổn thất, căng thẳng. Cuối cùng, quân Ru Lăng đó cũng cuốn xéo, địa phương lại đẩy mạnh hoạt động. Chiến trường chính thắng to ở Tây Bắc, cùng bạn thắng lớn ở Thượng Trung Hạ Lào, mở Đông Bắc Cam-pu-chia, đang gấp rút chuẩn bị chiến dịch Điện Biên Phủ. Đối với tôi, Tết này ở cơ quan cũng là cái tết đáng ghi nhớ từ ngày nhập ngũ. Tình hình năm 1953 đã khác trước xa, căn cứ địa Lê Hồng Phong đông vui, yên ổn lạ thường. Cơ quan tỉnh đội chuẩn bị một cái Tết chiến khu khá lớn cả tinh thần lẫn vật chất. Chăn nuôi có sẵn mấy con heo béo, cả trăm gà vịt mà món tiết canh thì nhiều người ưa thích. Đồng chí Hải, quân khí viên là một chàng trai có tài săn bắn lại rất tích cực, mấy ngày giáp tết đã đem về một heo rừng lớn, mấy con đỏ chà, vậy cũng đã quá đầy đủ. Cơ quan còn cho đi Bào Tàn, Mũi Né mua hải đặc sản tôm sú, cá thu, mực, phía Phú Hài – Phan Thiết là trà sữa, thuốc bịch, cà phê, ca cao, rượu mùi, thật đúng tết. Việc gói bánh tét, đóng cốm hộc, tráng bánh tráng, làm mứt kẹo thì các cô gái cơ quan thừa sức. Ban chính trị vẽ một bản đồ hình thái chiến trường Thu đông 1953 thật đẹp cùng bản tin chiến thắng kèm theo, đó là một tài liệu lý tưởng cho giới chính trị dùng trong nội vận, dân vận mấy ngày Tết. Các buổi nói chuyện thời sự ở cơ quan mình, cơ quan bạn, địa phương đều được hoan nghênh nhiệt liệt vì chiến thắng lớn quá, càng làm hào hứng thêm ngày xuân. Chương trình liên hoan văn nghệ, thể dục thể thao giữa các cơ quan quanh vùng, các cuộc thăm chúc Tết địa phương và nhân dân diễn ra thường xuyên. Có thể nói: Tết đầu năm 1954 này cũng là một cái Tết chiến thắng, là Tết đầy đủ nhất, thong dong nhất trong kháng chiến chống Pháp. Suốt mấy ngày, dường như địch cũng quá mệt mỏi nên không càn, không đột, không oanh kích.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 07 Tháng Tư, 2019, 04:41:08 pm
Rồi cũng qua mấy ngày nghỉ ngơi vui Tết, lại bắt đầu các công việc nặng nề quan trọng phục vụ chỉ đạo, phục vụ phong trào. Ở cơ quan chỉ huy, tôi biết xuân này ta cũng có hoạt động quân sự lớn. Đặc công đang chuẩn bị chiến trường nhiều mục tiêu. Ngày 11 tháng 2 năm 1954, ta đã diệt gọn đồn Sông Cạn cấp đại đội, sát nách chi khu Hòa Đa. Tiếc là đồng chí Lê Văn Luyến, đồng hương Xuân Hội và đồng đội, nhập ngũ một ngày vào Đại đội Quang Trung năm 1946, nay là đại đội phó đặc công tỉnh không còn nữa.

Cuối tháng 3 năm 1954, anh Linh cử tôi đi báo cáo với Ban Cán sự Cực Nam và Thường vụ Tỉnh ủy Bình Thuận về kế hoạch hoạt động tháng 4 năm 1954 để mở vùng giải phóng phía tây Tỉnh và phối hợp với Điện Biên Phủ. Từ giữa tháng 3, ta đã nhận được tin chiến thắng lớn ban đầu: Him Lam, Độc Lập. Say sưa theo dõi diễn tiến của chiến dịch, chúng tôi cũng trông ngày nổ súng phối hợp của tỉnh nhà. Kỳ này tỉnh ra quân rất lớn, trong một đêm cùng đánh 3 điểm: 1 chi khu, 2 yếu khu mà lực lượng địch đông mạnh, phòng thủ kiên cố. Điều đó trước đây không làm nổi; nay ta đã lớn mạnh hơn nhiều, có đặc công tinh nhiều thì chắc chắn làm được. Nghe tôi báo cáo xong, anh Nguyễn Côn – bí thư và các đồng chí thường vụ đều hải lòng, các đồng chí rất quan tâm việc bộ đội phải phối hợp địa phương tranh thủ mở phong trào, phát triển du kích chiến tranh vùng mới giải phóng.

Cực Nam và tỉnh ủy đã phê chuẩn phương án tác chiến, chỉ định lãnh dạo chỉ huy mặt trận ở các hướng. Nghe báo cáo xong, anh Lịnh nhìn tôi, nói:

- Cậu lâu nay thường có nguyện vọng muốn ra đơn vị chiến đấu nhưng làm việc gì cũng cần cả - anh cười nhìn tôi ý nhị - thời gian cậu công tác ở cơ quan cũng tốt đấy, có khác gì chiến đấu ở đơn vị đâu?

Chưa biết anh định nói gì tiếp nên tôi chỉ im lặng.

- Còn bây giờ, cần cậu đi chiến đấu, được không?

- Thưa, được.

- Vậy cậu đến 225 làm chính trị viên thay Đức Hữu, cùng anh Mì chuẩn bị tham gia chiến dịch. Phải diệt La Giày rồi nhanh chóng lên đường 20, mở phong trào Nam Tây Nguyên. Thời gian không còn nhiều, thăm anh em cơ quan rồi về đơn vị sớm.

Tôi rất mừng, cám ơn người chỉ huy mà tôi đã công tác gần gũi suốt hai năm nay, vừa phục vụ vừa được sự chỉ bảo ân cần. Tôi nhớ ngày đầu gặp anh cũng có hơi ngại người chính ủy nổi tiếng sắc sảo và nghiêm nghị, nhưng rồi ngày càng kính trọng, quý mến anh. Trong Đại hội Thui đua Tỉnh năm 1953, tôi đã hết lòng giúp anh mọi việc, góp một phần vào sự thành công của Đại hội. Lần này, anh đã nhắc nhở tôi rất ân cần, tôi nhủ lòng sẽ cố hoàn thành nhiệm vụ.

Đại đội 225 mới về Hàm Thuận về Giếng Đế. Ở đây có rừng mát, bãi trống để xây dựng mô hình cứ điểm địch; lại có nhiều nước, không xa chợ Dầu Bà Én nên việc ăn ở sinh hoạt đều thuận lợi. Khí hậu Khu Lê mát mẻ, trong lành rất lý tưởng khi về đây nghỉ ngơi, luyện tập. Tôi đến 225 thay Đức Hữu nghỉ phép về thăm vợ ở Hàm Tân. Chị Quý sắp sinh nên rất cần sự giúp đỡ của anh vì gia đình chị ở trong thành. Đức Hữu xiết tay tôi chúc chiến thắng. Chúng tôi là bạn thân từ 1950, khi anh mới từ khu 5 vào Cực Nam công tác ở Ban Chính trị Trung đoàn, sau về Xung Kích làm phó chính trị viên với tôi một thời gian. Anh không tham gia đợt này, tôi cũng rất tiếc cho bạn. Anh tâm sự:

- Vợ chồng mình không có ai thân thuộc ở Hàm Tân cả; một mình Quý khó khăn trong thời kỳ sinh nở mẹ yếu con thơ. Chắc cũng chưa kết thúc kháng chiến ngay trong đợt này đâu, phải không Chương?

Tôi thông cảm bạn, chúc anh lên đường an toàn, chúc Quý mẹ tròn con vuông, cháu khỏe và xinh đẹp. Đức Hữu cười rất vui, chia tay lên đường. Tôi nghiệp, anh không về được với chị, lúc qua đường 1 ở ki-lô-mét 12 nam Phan Thiết, Đức Hữu đã bị địch bắn hy sinh.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 07 Tháng Tư, 2019, 04:43:22 pm
Tôi chuẩn bị một tập Báo Quân đội nhân dân Liên khu 5, có nhiều chuyện chiến đấu dũng cảm, ngoan cường rất cảm động; có gương sáng của Phan Đình Giót, Tô Vĩnh Diện, của các chiến sĩ Quân đội nhân dân Triều Tiên, chí nguyện quân Trung Quốc; có gương các chiến sĩ Liên khu 5, có chuyện đại đội trưởng M thắng lợi ở Sơn Hà hiện là đại đội trưởng 225. Đem các gương chiến đấu đó động viên đơn vị trước khi vào chiến dịch là rất thích hợp, đã làm cho huấn luyện quân sự thêm hào hứng. Tôi cho anh em biết đại đội trưởng M là anh Mì đại đội trưởng 225 bây giờ càng làm anh em thích thú, tin tưởng người chỉ huy trong chiến đấu tới. Tất nhiên là tôi cũng ra sức luyện tập kỹ thuật đặc công để cùng anh em hoàn thành nhiệm vụ. Mỗi tối đi tập về, có bữa được bồi dưỡng cháo gà đậu xanh hoặc chè đậu. Tiêu chuẩn bốn người một kí đường, nửa kí đậu (công thức hai đường một đậu). Nhân dân nhớ chuyện Võ Tương ăn ngọt. Tương cũng nói tiếng về ăn béo nhưng thua anh Cang; anh Cang ăn một lần 2 ký thịt mỡ, Tương chỉ làm nổi 1 ký. Còn ăn ngọt, Tương ăn một hơi 2 ký đường tán, anh Cang chỉ 1 ký thôi. Một hôm, đơn vị ăn chè, Tương bận nên anh nuôi để phần. Cứ 6 người 1 thau chè mà phần lớn ăn không hết, chỉ hai phần ba tiêu chuẩn là giỏi. Ăn béo, ăn ngọt khi đã ngán thì có ráng một ít cũng không vô nổi, “ớn tới óc”. Biết Tương ăn chè khỏe, anh nuôi để phần anh một thau. Ăn hết thau chè, Tương cười:

- Chưa nhét kẽ răng, còn không?

- Còn.

Tương bợ hai thau nữa làm sạch luôn?

- Cũng chưa thấm thía gì, còn nữa không?

- Còn một thau, giỏi thì ăn hết luôn đi!

Tương ăn hết thau thứ tư (24 phần), vẫn bảo: “Nếu còn, mình ăn vài thau nữa như chơi”. Anh nuôi trố mắt ngạc nhiên nhưng cũng múc hết số chè còn trong thùng được hơn nửa thau. Anh chàng ăn hết tuốt rồi vỗ bụng:

- Chà, chè hết rồi, còn đâu mà ăn nữa!

Súc miệng xong, Tương cười hề hề: “Còn nữa ăn nữa”. Thấy anh em phục sát đất, Tương tiếp:

- Nói chơi thôi, đã rồi, còn cũng không ăn nữa.

Rồi đi ngủ, sáng dậy vẫn mạnh khỏe, làm việc bình thường. Trong chống Mỹ, tôi còn thấy Tương ăn một hơi 80 cái bánh xèo (một mủng lớn) ở nhà ông Mười Chút – cha cô Chín ở Hàm Thạnh. Không hiểu bụng ở đâu mà chã hết chừng ấy chè, chừng ấy bánh! Ngày xưa, ông Lê Như Hổ ăn một lần bằng 30 người, có lần ăn một con lợn béo, hai mâm xôi. Tương cũng thuộc lớp người đặc biệt, như vậy. Nhưng cũng chỉ là trổ tài thôi; ngày thường, Tương ăn uống cũng như mọi người, không có gì khác.

Đơn vị hành quân qua Hàm Phú, đến suối Khánh Hành trong núi Tiên Sơn thì có hai du kích Ara-Xalôn tên Tiên, Viên đón dẫn đi tiếp một đêm nữa. Đi đêm trong rừng núi được đốt đuốc lồ ô sáng rực cũng đỡ phần vất vả. Nhưng ngán nhất là đi lội theo suối, cứ một đoạn đi trên bờ lại một đoạn lội dưới suối, đi cả đêm, lặp đi lặp lại không biết bao nhiêu lần. Người chiến sĩ đồng bằng không quen như bà con dân tộc, họ đi chân không mà vững vàng nhanh nhẹn làm sao. Mình mang dép đi trên đá bị nước bào mòn trơn lẩn, dù chỏi gậy mỏi cả tay, súng ống, không bị trật tay, gãy chân là may. Thấy lên bờ đã mừng, nào ngờ lát sau lại xuống suối, chán hết sức, càng mỏi mệt thêm. Cuối cùng, 4 giờ sáng cũng đến địa điểm tạm dừng. Bẻ lá trải dưới đất nằm, các y tá có võng cứu thương, ai có võng dù, võng vải treo nằm sướng như tiên. Chỉ chốc lát mọi người đã đánh giấc say sưa. Thương anh nuôi hành quân mang nặng, cồng kềnh, vừa đến đã lo ngay nấu nước, để ngủ dậy mọi người có cơm sốt canh nóng no lòng.

15 giờ nghe bộ phận chuẩn bị chiến trường báo cáo kết quả chuẩn bị rất tốt, các mục tiêu đều đến nơi, chắc ăn rồi. Trước đây, mỗi đồn thường chuẩn bị 3 đến 4 tháng, nay mới bắt đầu đêm tháng trước, đêm tháng này đã đánh được rồi, đặc công giỏi thật. Chiều qua sông La Ngà, mùa khô nước cạn lội được, dù khá vất vả. 22 giờ đêm tạm dừng cách đồn 300 mét, chờ đặc công tiềm nhập. Đêm khuya cao sù sụ, người đám rấm, người tách khỏi hàng để tè, ị. 24 giờ đến sát chân rào ngoài, rào tre rất cao, kiểu con nhím và đan miếng chả, rào này chỉ chặn vượt rào chứ làm sao quan sát bên ngoài? Các lớp rào trở thành vật che khuất của ta. Đặc công đang luồn ép mục tiêu, SKZ đã sẵn sàng nhả đạn khi đến G hoặc lúc bất trắc. Tiếp chiến triển khai dọc bìa rào. Tôi và anh Mì, y tá Bùi Minh, trợ lý tác chiến Tư Nhe ngồi ngay cửa mở. Đánh giặc mà y hệt tập ở nhà, thật lý tưởng. Trời đất! Một số anh em không nín nổi, úp miệng xuống đất mà ho, chúng tôi đứng cả tim. Biết làm thế nào được, đây là sống chết ai cũng rõ, đành chịu. Nhờ đồn nằm trên đỉnh đồi cao, tứ bề trống trải, gió thổi ù ù, địch không sao nghe được.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 07 Tháng Tư, 2019, 04:47:18 pm
Gần G ưu tiên, phải để Tánh Linh nổ trước, dù cả Tánh Linh, Gia Bát đều rất xa không ai nghe tiếng súng ai. Tùng, Thanh ra gặp chúng tôi báo cáo đã ép mục tiêu xong, anh Mì cho lệnh nổ. Nhìn bóng đặc công chui vào lại rào, tôi thấy lòng trào dâng một tình cảm yêu thương rất mực, có họ chiến đấu thì thuận lợi, chắc ăn biết bao! Từng đánh đồn từ thời chiến sĩ, tôi hiểu thế nào là mở cửa vào trận nội, bây giờ có đặc công mở cửa bí mật, tiết kiệm xương máu và tin tưởng vô cùng. Khu đồn chìm trong vắng lặng, chỉ có gió rít từng hồi. Một ánh chớp sáng lòa cùng tiếng nổ vang trời, tiếp theo cả loạt bộc phá hổ, tiểu liên, thủ pháo, xít-mốc chát chúa. Bỗng hai tiếng nổ lớn, khói đen mù mịt trùm hết cả đồn, mọi người ho sặc sụa. Tôi mới vừa nói: SKZ nổ rồi, khói độc ghê hà! Thì anh Mì đã lệnh:

- Tiếp chiến vào!

Hồng trung đội trưởng SKZ muốn chắc ăn bắn luôn hai phát kể cũng uổng. Các lô cốt đều bị diệt, địch trong các nhà lính, sỹ quan bị khói SKZ không thấy gì càng hoảng loạn. Tiếp chiến tung hoành trong tung thâm. Bị bất ngờ, địch chịu chết. Thiếu ủy đồn trưởng La Giày chết ngay tại nhà chỉ huy, số chui rúc các xó xỉnh đều bị tảo trừ, bắt sạch. Một chiến sĩ nào đó dại dột ném một quả xít-môc vào lô cốt 3 đã bị diệt, làm bùng cháy dữ dội, mất hết chiến lợi phẩm. Sau 30 phút ta làm chủ đồn La Giày. Ta chỉ bị thương nhẹ 1. Hừng sáng, nhanh chóng làm mấy việc:

1. Giao Huyện Di Linh giữ khu vực đồn, tận thu chiến lợi phẩm, giải quyết thương tử địch và tù hàng binh; họ đều là con em bà con dân tộc các xóm xung quanh.

2. Phát động nhân dân bố phòng, đánh du kích chống càn quét tái chiếm La Giày, bảo vệ vùng mới giải phóng.

3. Đại đội phó Lê Thượng Cầu đưa khẩu đội SKZ và các chiến lợi phẩm: cối, đại liên, trung liên, đạn cối, chất nổ, VTĐ 15 oát và đồng chí thương binh về tỉnh.

Đơn vị bổ sung trang bị rồi cấp tốc hành quân lên đường 20 mở Nam Tây Nguyên. Anh Võ Dân, ủy viên Ban Cán sự Cực Nam cùng đi với chúng tôi. Tuy rất mệt nhọc nhưng vô cùng phấn chấn, bắt tay các đồng chí huyện mừng thắng lợi rồi vội vã lên đường khi sương mù cao nguyên còn dày đặc, sương đêm còn ướt đẫm cỏ cây, đi khá xa mà chưa có tia nắng nào trên đường. Phải chạy đua không để địch ở Di Linh kịp trở tay đối phó, đôi chân chiến sĩ bước dồn, khỏi cần động viên. Buổi sáng Tây Nguyên mát lạnh, không khí trong lành, cảnh đẹp núi rừng bên đường cũng làm chiến sĩ đồng bằng vơi đi một phần vất vả. Ở đây xa địch, khỏi cắt rừng lội suối, có cán bộ địa phương thạo đường, đêm nay đánh kịp Lút Xe (Loussetr) trên đường 20 là lý tưởng. Năm 1949, anh Mì đã đánh diệt Lút Xe một lần nhưng hồi đó chỉ là đồn tiểu đội. Nay đơn vị mù tịt tình hình Lút Xe, cứ lên đường 20 sẽ tính. Nhưng địa phương tính toán không chính xác, đi đường cái nhanh vậy mà hơn 16 giờ mới được nửa đường đành dừng nghỉ đêm khi còn xa địch cho an toàn, lấy sức cho ngày đêm mai. Rừng già, suối trong, nhiều rau rừng, anh nuôi thật cừ, đã mang theo nhiều thịt heo tươi mổ vội ở đồn La Giày, bộ đội mới có món canh thịt nấu rau rịa ngon tuyệt. Một đêm ngủ đẫy giấc vơi bao mệt nhọc, lại câp tốc hành quân, tốc độ gấp rưỡi hôm qua mà 18 giờ mới đến xóm Con Cá là xóm nằm sâu hơn cả nam đường 20. Phải đột vào xóm hỏi dân nắm tình hình, nhờ họ dẫn đến đồn điền trà Lút Xe. Một tổ 225 cùng cán bộ Thép, vào xóm. Một người đàn ông đứng tuổi, đội bêrê đen, áo vét tông, mang giầy nhưng đóng khố, cầm xà gạt bước ra sân; thấy người lạ, anh giơ xà gạc địch chém nhưng thấy bộ đội cầm súng, phải hạ xà gạt. Thép nói tiếng K’ho một hòi. Anh ta tên Rú, là cặp rằng ở sở Lút Xe vừa về nhà. Rú bằng lòng dẫn bộ đội đến Lút Xe. Có người tại chỗ dẫn, đơn vị mới qua được các bưng sình bằng các cầu nhỏ xíu, nếu không thì chẳng thể nào qua được. Bây giờ mới biết trên đường 20 có nhiều sở trà chứ đâu phải có một sở Lút Xe như 5 – 6 năm về trước. 22 giờ đến bìa đồn điền; anh Rú lại dẫn đặc công vào trinh sát đồn. Chờ rất lâu, sốt ruột cũng phải đợi, biết làm sao, dù đã gần 2 giờ sáng rồi, nó là đồn trung đội thì đâu nhanh được. 2 giờ 30, Trịnh ra báo cáo có lực lượng lớn đóng dày đặc trong sở, tại đồn cũng nhiều lính, không phải một trung đội, chắc ngày mai bọn này xuống tái chiếm La Giày. Như vậy không thể diệt đồn Lút Xe nhưng đây lại là thời cơ đánh địch từ xa, chống tái chiếm, bảo vệ vùng mới giải phóng La Giày có hiệu quả nhất. Dù cả tiểu đoàn cũng phải đánh, diệt càng nhiều địch càng tốt, đó là yêu cầu chính trị nổi bật lúc này. Chúng tôi quyết định đặc công đánh đồn, bộ binh đánh các cụm địch khác. Anh Võ Dân hoàn toàn đồng ý quyết tâm của chúng tôi. Hơn 4 giờ, bộc phá đánh đồn Lút Xe mới lên tiếng và tiếng súng cũng đồng loạt rộ lên khắp nơi. Sau này, ta biết trong đồn có một đại đội; tất cả có đến một tiểu đoàn., đó là tiểu đoàn ngự lâm quân Hoàng Triều Cương Thổ của Bảo Đại. Khi tiểu khu Di Linh biết mất La Giày, xin viện, chúng từ Đà Lạt đến Lút Xe tối nên anh Rú không biết, nếu không bị đánh, sáng chúng xuống La Giày. Tiếng súng vang rền trong đêm khuya cao nguyên, địch bắn đại liên, trung liên, súng cối 60, 81 ra xung quanh nhiều vô kể. Sức ta có hạn chỉ đánh đồn và ba cụm khác mà súng địch nổ rất nhiều nơi; hơn 5 giờ sáng vẫn nổ ác liệt, không ngớt. Thấy gần sáng, chúng cố giữ chờ viện tiếp, 6 giờ, chỉ huy sở và trung đội 1 ra điểm hẹn thì không có bộ phận nào ra về. Đánh hăng quá, anh em quên mất thời gian chăng? Sương mù dày đặc, cách 4 – 5 mét không thấy gì cả. Sợ anh em ra lạc, anh Mì định cho đi tìm thì họ lần lượt ra đủ. Chiến sĩ dạn dày trận mạc nên khá tinh khôn, thừa biết địch bị đánh mạnh, thế nào cũng rát, đâu dám truy theo; sương mù mờ mịt làm sao truy được nên cứ từ từ đợi gom nhau. Sáng rõ từ lâu mà sương mù vẫn chưa tan, nhờ có Rú nên vòng ra rất nhanh. Khi vào ban đêm nào thấy gì cứ bám người đi trước, giờ ra ban ngày, ôi đường là đường, sao nhiều đường đến thế, đường nào cũng lớn, thẳng tắp, y chang nhau, mới đi một lần không tài nào phân biệt nổi. Tiếng súng nổ giòn sau lưng nhưng xa dần. Thật may, đánh nhiều, đánh dữ như vậy – mới được bổ sung nhiều đạn từ La Giày – mà chỉ bị thương ba có một phải khiêng. Diệt địch nhiều nhưng không cụ thể là bao nhiêu, cũng chẳng thu được súng. Địch thiệt hại nặng chỉ giải quyết hậu quả rồi rút về. La Giày yên ổn. Anh Võ Dân mừng trận đánh thật đúng lúc, dù không diệt được đồn, thu súng được nhưng giá trị rất to lớn: đã phá tan âm mưu địch tái chiếm La Giày. Nếu tiểu đoàn này đến La Giày thì vùng mới giải phóng gặp phải khó khăn không nhỏ.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 07 Tháng Tư, 2019, 04:48:34 pm
Về chiến khu huyện nghỉ hai ngày. Huyện bán cho một con nai lớn, cá sông La Ngà nhiều, ngon cùng vô số rau rừng, mít, thơm, đu đủ. Theo điện của tỉnh, anh Mì cùng một bộ phận về ngay chuẩn bị cho đợt tiếp; tôi và một trung đội 225 ở lại cùng huyện vũ trang tuyên truyền phát động quần chúng xây dựng du kích chiến tranh các tổng Cà Dòn, Tố La, Đinh Trang Hạ, Nộp và Bao Tuân là vùng tạm chiếm lâu ngày. Được tin ở Tánh Linh và Gia Bát cùng đêm với La Giày đều nổ súng và thắng lợi cả. Như vậy, mở màn đã giải phóng một vùng rất rộng nên anh Võ Dân quyết định chúng tôi phải ở một tháng. Thời gian ấy, số đặc công của Trịnh chuẩn bị lại đồn Lút Xe và đồn cầu Đại Nga bắc Bảo Lộc; các mục tiêu xa xôi này đầy hứa hẹn, có Rú tình nguyện theo luôn bộ đội nên rất thuận lợi.

Bộ đội đến từng xóm làm mít tinh, vận động dân làm bố phòng, cất giấu tài sản vào rừng; cán bộ huyện xây dựng cơ sở chính trị và du kích, đưa lên đánh địch, chống giặc giữ làng vì trước đây là vùng trắng chưa có phong trào. Cùng đi có các cán bộ huyện: Nguyễn Xuân Du, Trần Đình Mai, Hà Tấn Linh (người Kinh), Lam Sơn, Thép (người Thượng). Cán bộ Kinh cũng nghe và nói giỏi tiếng Thượng, làm phiên dịch cho chúng tôi và lo việc bắt rễ xâu chuỗi, xây dựng cốt cán, tranh thủ già làng… Họ tiếp xúc, nói chuyện dễ dàng với đồng bào và dễ thân ngay; tuy vậy, có bộ đội họ mới phát huy được tác dụng. Tôi là đại diện bộ đội, nói chuyện với đồng bào trong các cuộc mít tinh. Cán bộ huyện dịch từng câu vì bà già, phụ nữ, trẻ em chưa biết tiếng Kinh. Bà con đã biết bộ đội đánh ở La Giày, nay nói thêm các chiến thắng Tánh Linh, Gia Bát, Suối Kết. Tin chiến thắng thì rất hấp dẫn, dù bà con trước nay chưa hiểu biết nhiều về cách mạng, họ cũng chăm chú nghe và cũng hiểu được các công việc cách mạng mà họ sẽ phải làm. Khi được mời dự mít tinh thì cả làng từ ông bà già, người lớn tuổi, thanh thiếu niên, phụ nữ cũng địu con, tay dắt em bé đi hét xóm, chẳng cần để ai giữ nhà; chúng tổi rất phấn khởi. Nghe từng câu, họ đều vỗ tay vang dội làm không khí luôn sôi động, hào hứng. Nói chuyện xong, bộ đội hát một số bài hát rất hay! Ở đâu cũng vậy, sau mít tinh, bà con đều mời bộ đội ăn cơm đoàn kết với dân và họ đã chuẩn bị từ trước mít tinh. Bộ đội đã được phổ biến kỹ việc tôn trọng phong tục, tập quán của đồng bào, từ việc ăn uống, nói năng, lúc lên sàn vào nhà, v.v. sao cho dân vui lòng, đừng để họ phật ý, nhất là khi mới tiếp xúc ban đầu. Anh em đã làm đúng nên gây được tình cảm ngay. Các món ăn của bà con đơn giản mà khá ngon. Các má, các chị nấu cơm gạo dẻo ngon không chê vào đâu được; nướng khoai, sắn, chuối rất tuyệt. Canh tổng hợp bí, mướp, bắp, rau rừng rất lạ miệng và ngon. Cá nướng chấm muối ớt – muối giã với cà chua, ớt hiểm, sả, é – thật hấp dẫn, cay, chua, thơm, mặn ngon lạ lùng. Bộ đội ăn thực sự, vừa no vừa được lòng dân. Cứ mấy hôm thì có một tối liên hoan văn nghệ đoàn kết quân dân cho một khu vực năm ba xóm. Văn nghệ thì ở đâu cũng lôi cuốn, dễ cảm tình, thêm thân thiết. Mấy cuộc mít tinh đầu được anh Dân và huyện đánh giá cao, rất có lợi cho phong trào, rút kinh nghiệm công tác càng có kết quả hơn. Một điều quan trọng là phải được các già làng ủng hộ vì họ là người đứng đầu dẫn dắt bà con; tiếng nói việc làm của họ rất cần thiết để thúc đẩy mọi người. Cũng phải nắm số Tổng lý vì họ có thế lực; trước đây từng khống chế o ép quần chúng, nay cách mạng lên mạnh, quần chúng đứng lên làm cách mạng, trước mắt họ cũng phải theo, phải làm cho họ tán thành và làm theo các chủ trương của cách mạng, không chống đối, phá hoại ngầm; họ tích cực làm các việc bố phòng, cất giấu tài sản, v.v. thì đồng bào mới yên tâm, mọi việc thuận lợi. Mặt khác, điều chủ yếu là cán bộ phải đi sâu xây dựng cốt cán lãnh đạo tại chỗ. Chúng tôi đã mở rộng khắp các xóm Đặng Sôn, Đăng Min, Con Rum, Hàng Bọt qua Tố La lên Đinh Trang Trang Hạ, sang Nộp, Bao Tuân… Công tác liên tục không nghỉ, càng làm được nhiều cho phong trào càng phấn khởi, say mê, càng có kinh nghiệm mới, càng được đồng bào tiếp đón nồng nhiệt. Phong trào phát triển cả bề rộng và bề sâu. Trước đây chưa có lần nào bộ đội làm công tác quần chúng dài ngày, kết quả như vậy nên huyện rất vui lòng. Tất nhiên, đơn vị cũng sẵng sàng chiến đấu đề phòng địch phản kích. Nhờ thế lực cách mạng cả nước lên mạnh, kháng chiến thắng to khắp nơi, địch suy yếu rõ rệt nên nửa tháng công tác trên một địa bàn rộng lớn vẫn yên ổn.

Khi làm vũ trang tuyên truyền ở Cà Dòn, đơn vị đóng tại xóm Đăng Min bên bờ sông La Ngà, mùa khô nước cạn rất tiện cơ động. Sang bên kia sông là các xóm Hàng Bọt, La Gung của Tố La, xuống nam là Đăng Sách, Ba Diu, Ra Pú, lên bắc còn Com Rum, Con Cá, Con Xip, Con Gàng… Đăng Min là xóm loại vừa, trên trăm khẩu, nhà nào cũng sạch sẽ, lúa bắp đầy kho, nhiều heo, dê, gà, đời sống no đủ. Đăng Min là một xóm tích cực đi đầu thực hiện công tác cách mạng theo giáo dục của cán bộ. Anh em cũng giúp đồng bào bố phòng, mang tài sản lương thực vào căn cứ bí mật, v.v… Lần đầu mang xà bớ (gùi lớn) đầy lúa, đi chệnh choạng muốn té ngửa, rồi cũng quen. Xà bớ mang được nhiều không thua một gánh ở đồng bằng, phải hơi chúi người về trước lấy thăng bằng mới vững bước; Bà con thấy bộ đội chịu thương chịu khó cùng ăn cùng làm với dân nên càng thương yêu. Trong xóm có hai chị em vừa lớn, rất mặn mà nhất là cô em, da trắng hồng, thân hình thon thả cân đối, mặt mũi, chân tay đều xinh xắn, duyên dáng, đúng là gái đẹp. Theo phong tục, họ ở trần tự nhiên, không e thẹn gì khi các chàng trai thỉnh thoảng ngắm nhìn các cô. Đơn vị tôi hầu hết là trẻ, có cậu Thông người La Gàn, điển trai, vui vẻ, là dân miền biển. Thông bơi lội rất giỏi, khi đơn vị được phép ném quả lựu đạn xuống búng sâu để cải thiện, ngoài số ít cả nổi lên ngay, còn phải lặn xuống búng mới bắt được nhiều cá lớn ngắc ngư còn chìm; nếu không lặn bắt hết, khi cá chết nổi lên thì đã ươn. Thông lặn sâu, dài hơi, bắt được nhiều cá to, có ăn và biếu đồng bào ăn đoàn kết. Bà mẹ hai cô gái rất thương, muốn bắt cậu ta làm rể, hỏi Thông muốn cô em hay chị thì mẹ gả, Thông mắc cỡ bỏ chạy không dám vô nhà chơi như trước. Hai cô thường ngồi chơi ở cầu thang sân nhà, hát nghêu ngao, tươi cười nhìn bộ đội qua lại. Bộ đội ta cũng tìm cách lại qua để ngắm nhìn hai đóa hoa rừng xinh đẹp. Các cô trong xóm thường giã lúa; thế là bộ đội xúm vào giã giúp; cứ một cô một cậu giã một cối, các cô giã thật ung dung duyên dáng, còn anh em thì lúng ta lúng túng, mỗi lần giã chệch vào thành cối, gạo văng tứ tung, các cô cười rũ rượi, càng dễ thương ra phết. Các cô gằn gạo bằng nia trái tim, đơn giản, thoải mái mà hay hết cỡ, gạo một bên, lúa một bên, anh em cố bắt chước mà không sao gằn được, lắc lia lịa mà lúa gạo cứ chạy lung tung không hề nhóm lại, làm các cô càng cười giòn tan, tình cảm càng thêm đậm đà, thân mật. Cũng chỉ ở mức đó, không đi quá xa, không có điều gì phiền lòng đồng bào. Đơn vị được nhận xét là dân vận tốt. Hoạt động vùng cao xa lạ, mới lần đầu mà gần gũi thân thương làm sao. Tình dân quân cá nước, bất cứ ở đâu, miền xuôi hay miền ngược, làm đúng 123 điều kỷ luật dân vận thì được dân tin, dân yêu, rất có lợi cho việc vận động cách mạng, đặc biệt là vùng giải phóng. Đợt này, huyện chọn xây dựng đưa lên khá nhiều làm cán bộ ở mỗi xóm. Đồng bào một bụng chung sức kháng chiến đánh Tây, tôi cũng quen nhiều người tốt. Ở Đăng Min thăm gia đình ông Cây, ở Đăng Sôn gia đình ông Giây, ở Quao gia đình anh Hào, còn ở Con Rum gia đình ông Pịu, v.v… đều là cốt cán của phong trào.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 07 Tháng Tư, 2019, 04:49:50 pm
Tỉnh gọi bộ phận tôi cùng số đặc công về Khu Lê gấp. Chúng tôi vội vã lên đường sau khi kiểm điểm đợt công tác dân vận vừa qua. Huyện rất vui vì sự đóng góp của 225 cho phong trào địa phương. Đơn vị đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Huyện đề nghị tỉnh khen thưởng cho 225 về thành tích dân vận vùng dân tộc. Theo yêu cầu của huyện, tôi để lại sáu chiến sĩ giúp huyện mở tiếp phong trào ở đông đường 8, nối ra Ru Săng – Tà Mau và Oan Tà Líp – Bắc Bình. Hơn tháng sau, số này mới trở về đơn vị. Lưu luyến chia tay Huyện ủy Di Linh, cũng rất nhớ đồng bào K’ho mà mình đã vận động cách mạng nhưng về lại đồng bằng với nhiệm vụ mới vẫn đầy sức cuốn hút. Đến vị trí đóng quân thì anh Mì đã nhận nhiệm vụ mới rồi. Tình hình chuyển biến rất nhanh, đợt hoạt động tháng 4 ở miền Tây thắng lợi rất lớn, chỉ mấy ngày đã diệt một chi khu, ba yếu khu và một số vị trí khác, đưa hoạt động lên tận đường 20, Đồng Nai Thượng, mở một vùng giải phóng rộng 5 ngàn ki-lô-mét vuông với hơn một vạn dân, thu trên 400 súng (có một đại bác 94) và rất nhiều chiến lợi phẩm. Đặc biệt đây là vùng đồng bào dân tộc, trước chưa có phong trào, là vùng giáp ranh ba tỉnh Bình Thuận, Đồng Nai Thượng, Biên Hòa; làm cho căn cứ tỉnh mở động, bắc giáp Ninh Thuận, tây giáp miền Đông Nam Bộ, nam liền dải với Hàm Tân, Khu Lê. Tình hình thật sáng sủa, đầy triển vọng.

Lại chuẩn bị ngày đêm cho đợt mở mảng ở bắc tỉnh đầu tháng 5 phối hợp tích cực với đợt cuối của Điện Biên Phủ. 225 làm dự bị cho Xung Kích đánh yếu khu Lương Sơn rồi cùng phát triển ra Tuy Phong. Cùng đêm, 216 cũng đánh yếu khu Duồng. Thế lực mới cho phép tác chiến phạm vi rộng, nhiều mục tiêu. Trời chưa thực sự sang mùa mưa nên có nhiều thuận lợi trong hành, trú quân, tác chiến. Tuy đã ra phía bắc nhưng còn trong đất Khu Lê. Yếu khu Lương Sơn là một đồn lớn, độc lập, xa Chi khu Hòa Đa hơn 20 ki-lô-mét, vừa xây dựng mới rất kiên cố, lô cốt thấp, nhà hầm âm, giao thông hào nối khắp tung thâm, rào kẽm gai đủ loại, nhều lớp, là thử thách lớn đối với đặc công mở cửa và bộ binh đánh trận nội. Anh em vượt mọi khó khăn, chuẩn bị yêu cầu ở mức cưỡng hành thì cũng đánh được.

Đêm 6 tháng 5, toàn lực lượng tiếp cận đồn. Chúng tôi ở trên động cát cao, đồn Lương Sơn nằm dưới thung lũng thấp, đêm càng khuya, không khí giờ G lúc nào cũng nôn nao, căng thẳng. Là dự bị nên chúng tôi sẵn sàng xung trận khi cần thiết. Bỗng có tiếng mìn và tiếng nổ vang, pháo sáng vụt lên liên tục, chưa đến G, vậy lộ rồi sao? Chỉ có tiếng mìn nổ ngoài rào và tiếng súng từ trong đồn bắn ra, chưa phải tiếng súng bắn nhau. Độ 10 phút tiếng súng im, đêm khuya lại vắng lặng. Thế có nghĩa là địch nghi ngờ gì đó bắn bậy thôi. Dù sao lòng vẫn thương vô hạn số đặc công nằm giữa rào, dưới ánh đèn và mũi súng địch bất kể hiểm nguy và địch đã báo động rồi!

Nổ rồi! Bây giờ mới là đánh thật sự; bộc phá, thủ phá, lựu đạn, tiểu liên nổ liên hồi. Quen nhiều chiến trận, chúng tôi biết rõ từng quả bộc phá nổ ở từng hướng, biết rõ tiếng súng ta trong trận nội, tiếp chiến đã vào tung thâm là ăn thôi. Khoảng nửa tiếng, đặc công và Xung Kích đã làm chủ hoàn toàn yếu khu Lương Sơn; dự bị chưa cần xuất chiến. Theo báo cáo ban đầu thì ta đã diệt 60, bắt 120 (có trung úy Ngân yếu khu trưởng), thu toàn bộ chiến lợi phẩm. Từ cối 60, 81, đại, trung liên, tôm-xông, các-bin, ga-răng đều toàn súng mới trang bị gần đây. Mọi người xiết chặt tay nhau mừng vui hết cỡ vì đối với người chiến sĩ có sung sướng nào bằng niềm vui chiến thắng! Tội nghiệp Tùng, một trung đội phó đặc công cừ khôi, trên 20 tuổi mà tưởng như học sinh 18, cùng đánh La Giày với chúng tôi, đã anh dũng ngã xuống khi đang dẫn đầu một mũi xông vào trận nội.

Anh Mì cùng 225 (thiếu) hành quân tiếp với Xung Kích ra phía bắc. Tôi và một trung đội, được phối thuộc một trung đội 218, bộ đội địa phương Khu Lê đảm nhiệm vùng giải phóng, hỗ trợ địa phương phá khu tập trung đưa 2000 đồng bào vào Bằng Xe Lương tổ chức xã Lương Sơn căn cứ. Tôi còn có sáu đặc công để chuẩn bị đánh yếu khu Sông Lũy cách Lương Sơn 7 ki-lô-mét.

Xung Kích đi ngay từ sáng sớm. Tôi cho lực lượng ở ngay trong đồn, lợi dụng công sự địch, bảo vệ địa phương tiếp tục thu dọn chiến lợi phẩm, có cả xe GMC, súng ống, đạn dược nhất là đạn cối 60, cối 81 đúp, chất nổ,… lương thực thực phẩm, quân trang quân dụng đầy ắp các kho, cần đưa ra nhanh, phòng địch ném bom hủy diệt. Quá 8 giờ, một L19 quần đảo từ xa đến gần, có lẽ nó hướng dẫn cho bộ binh ra tái chiếm Lương Sơn. Lúc nó lượn vòng trên khu vực đồn, tất cả các cỡ súng bắn dữ dội. Với khí thế vừa chiến thắng, sẵn đạn lu bù, anh em nổ tha hồ. Chưa được huấn luyện bắn máy bay, nào biết ước lượng cự ly và cách bắn đón, cứ đặt đại trung liên lên nóc lô cốt, gác súng trường lên cọc rào, nhằm thẳng máy bay mà nện. Vì vậy bắn đỏ trời mà chẳng trúng. Tôi cũng gác một khẩu ga-răng lên rào, nổ hết gắp đạn này đến gắp đạn khác. Bị bắn dữ quá, chiếc đầm già cũng sợ vọt lên cao rồi chuồn thẳng. Đề phòng địch oanh tạc vì chúng biết còn nhiều lực lượng ở trong đồn, chúng tôi nhanh chóng ra bìa rừng, chỉ để trinh sát bám địch. Một đoàn xe địch từ Phan Thiết ra, công binh nổ mìn diệt từ xa hai chiếc; nhưng đoàn xe vẫn đến nơi, vào đồn quan sát cảnh tượng đổ nát hoang tàn, chỉ độ nửa giờ đã vội quay về Phan Thiết. Dự đoán địch ra đông ở lại tái chiếm Lương Sơn; nếu chúng vào rừng sẽ có chúng tôi “tiếp đón”; nếu chúng chỉ co cụm trong đồn thì đến đêm chúng tôi sẽ tập kích và đánh liên tục khi chúng ở nhiều ngày. Nào ngờ chúng rút nhanh quá, thật đáng tiếc. Cả ngày 7 tháng 5 thật yên tĩnh, thu dọn chiến lợi phẩm cả ngày đêm. Đồng bào khu tập trung về căn cứ thuận lợi. Lúc đó chúng tôi đâu biết trận Lương Sơn đã phối hợp tuyệt đẹp với Điện Biên Phủ!


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 07 Tháng Tư, 2019, 04:50:24 pm
Khuya 6 tháng 5 ở Duồng 216 cũng chiếm đồn Quân Vụ và đồn Bang Tá mà địch gọi là Ma Thiên Lãnh bất khả chiến bại. Ở đây còn lấy được một đại bác 37 ly. Hơn 5000 đồng bào Duồng nổi tiếng đông dân nhiều của, có truyền thống cách mạng từ đầu kháng chiến đã được giải phóng.

Sông Lũy chỉ có một khu mấy trăm dân cạnh đồn mà vì là một ga quan trọng, các đoàn tàu lửa thường dừng lại để lấy củi nước, móc thêm hoặc thay toa nên địch cũng tổ chức thành yếu khu quân sự đường ắt với một đại đội đóng giữ thuộc sắc lính GVF, có một số lo cốt quanh đồn vào ử Cầu Mống, công sự chưa kiên cố, lâu nay chưa bị đòn nên còn nhiều sơ hở. Biết Lương Sơn thất thủ, thấy bị quá cô lập, lại không phải lính chiến nên hoang mang dao động tợn. Dù sức chừng đó nhưng đây là thời cơ, mạnh dạn thì làm nên chuyện và cũng phải thi đua với Xung Kích. Đêm 10 tháng 5, đặc công nổ quả bộc phá tấn công Sông Lũy, tiếp chiến tràn vào quét địch, tảo trừ rất nhanh; địch không ít nhưng đã quá rệu rã nên đánh cũng dễ dàng, ta làm chủ chiến trường và vô sự. Sáng 11 tháng 5, toàn cảnh ga Sông Lũy bày ra trước mắt thật thú vị: nhà ga, đồn lính, lô cốt, tháp nước, nhà cửa kho tàng, đường sắt ngang dọc, đầu máy toa xe sừng sững im lìm, xa xa phái bắc là chiếc Cầu Mống đồ sộ đen ngòm. Các đống gỗ, nhiên liệu của xe lửa, xếp thẳng hàng dài mấy trăm mét, trông thật thích mắt. Phải phá hoại kỳ hết cơ sở vật chất này của địch. Bà con khu tập trung, phần lớn là công nhân đường sắt cho biết địch rất sợ nên bộ đội vừa nổ súng là bung chạy cả. Chắc trong số này cũng có lính nên mới rõ như vậy. Họ xin cho đi các nơi làm ăn, ở đây bây giờ không có việc gì làm. Bắt tay phá mới thấy khó, trừ số gỗ cho một mồi lửa là xong, còn lại là bê tông, sắt thép, phá thế nào đây? Có sáng kiến: lấy gỗ đun đầy lô cốt, chất ngập quanh chân tháp nước, đốt suốt ngày đêm, dùng búa tạ đập vỡ nhẹ nhàng, không tóe lửa, phòng tay nữa. Phá Cầu Mống thì gay go, gom hết chất nổ, ghép vào các thanh cầu, cho nổ tất cả các thanh, đà lớn nhưng nó quá nhiều, chẳng chịt, cắt đứt ba phần tư rồi mà không trúc sập xuống sông được, nó cứ đung đưa, lơ lửng, mặc gió rung, cầu quằn. Công binh lại có cách mới, lấy các viên đạn cối 81 đúp buộc từng chùm vào tất cả các thanh, đà cầu còn lại, cho nổ đồng loạt; khói tan, chiếc cầu sập xuống sông Lũy to lớn, nước chảy ào ào. Có một điều thú vị: phá cầu mà được rất nhiều cá, cá nổi lên trắng cả khúc sông, đủ loại cá lớn và ngon cho bộ đội cải thiện. Đồn địch còn có nhiều heo, dê, thỏ, gà, bồ câu, đơn vị có thêm nguồn thực phẩm dồi dào bồi dưỡng suốt thời gian làm chủ ở đây. Suốt mấy ngày đêm, ta phá tan tành cơ đồ địch tạo dừng từ bao năm. Tỉnh lại khen 225 về thành tích bảo vệ Lương Sơn, diệt sông Lũy và nhất là công tác phá hoại ở sông Lũy. Trên suốt đường sắt qua Bình Thuận, duy nhất chỉ có chiếc cầu sắt sông Lũy là bị đánh trúc xuống sông. Sau này địch tốn khá nhiều công sức mới khôi phục lại được chiếc cầu. Ở cả tuần tại Lương Sơn – sông Lũy bình yên, mặc sức thu tất cả những gì có thể thu được, phá sạch những gì cần và có thể phá; khu vực đồn Lương Sơn – sông Lũy đã thành bình địa.

Ba hôm sau, Xung Kích đánh chi khu Long Hương không thành công. Việc đánh giá địch chưa đúng và quyết tâm không chính xác. Đặc công dù có ý chí cao nhưng muốn đánh thắng thì phải có chuẩn bị. Long Hương là chi khu có quân đông, đồn bốt kiên cố, địch đang đối phó ta tấn công mà ta đánh kiểu trong hành tiến thì không ăn là đương nhiên. Giá đừng nôn nóng để chậm ít ngày, đặc công có chuẩn bị nhất định, địch chưa phải hoang mang nặng, chưa bỏ Long Hương chạy đi đâu cả, chắc ăn hơn. Trong đợt cũng có một trận tốt: một đại đội khinh quân đi càn về đang ngủ ở sân ga Sông Lòng Sông đã bị đặc công và Xung kích diệt gọn. Kết thúc đợt, Xung Kích về Hàm Thuận. Sau này lại biết ta cũng bỏ mất thời cơ “ăn” một trận lớn đã ở trong tầm tay, khi triển khai tấn công yếu khu Ma Lâm. Thấy có xe lửa một đứng tại ga (nhưng sau đó nó đã chạy đi) chỉ huy đã cho lui quân. Giá có anh Năm Châu thì sự thể đã khác. Trong tháng 6, đặc công tỉnh và Hàm Thuận đã đánh trận Bàu Già rất hay, diệt một đại đội địch trong công sự mới rất kiên cố. Nhưng vào thời điểm đó, chiến trường cả nước thắng như chẻ tre, kháng chiến chống Pháp gần kết thúc thì đây cũng chỉ là một trận thắng nhỏ lẻ mà thôi. Trận Sông Dinh đêm 31 tháng 7 là trận tranh thủ cuối cùng trước giờ ngừng bắn có hiệu lực.

Tôi được lệnh trả trung đội 218 cho Khu Lê; 225 về Triển còn tôi về Hố Đất dự lớp chính Đảng của Liên khu 5 mở cho các tỉnh Cực Nam Trung Bộ. Khi sắp xong khóa học thì Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết. Chưa được học kỹ Hiệp định nên cũng có lắm điều băn khoăn nhưng đây là kháng chiến thắng lợi, kết thúc chiến tranh, lập lại hòa bình. Tôi về cơ quan tỉnh đội, tất cả đang chuẩn bị tập kết thật rộn rịp. Tôi là cán bộ quân sự, chắc chắn đi tập kết thôi. Tôi được lệnh đi làm chính trị viên phó Tiểu đoàn 86 mới lập lại; đồng chi Lê Thành Công tiểu đoàn trưởng, Lê Bình chính trị viên và Quách Tử Hấp tiểu đoàn phó. Tôi nhận hai bộ quân phục xi ta xám mới, võng, tăng, balô, dép râu, thắt lưng da và một khẩu súng ngắn. Tôi đã có vài bình toong Mỹ và chiếc ca-nốc rất đẹp. Với trang bị mới, trông tôi cũng ra dáng chính quy lắm.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Tư, 2019, 07:06:02 pm
7. Trước giờ tập kết

Tôi được đề bạt tiểu đoàn trưởng thì cũng vừa nhận một thơ riêng của anh Phan Bình (anh Phan Bình là ủy viên Ban Cán sự Cực Nam, sang làm chính trị viên thay anh Lịnh). Anh mới bổ nhiệm tôi về Tiểu đoàn 86, nay có việc gì mà gửi thư riêng cho tôi? Tôi không đề đoán biết việc gì trong lúc mọi sự đang tất bật thế này. Đọc xong thư, lòng tôi rộn lên một tình cảm riêng chung thật đặc biệt, khó tả, vừa ngạc nhiên đến sửng sốt, vừa buồn vui lẫn lộn. Thư cũng ngắn thôi mà tôi đọc đi đọc lại nhiều lần:

Chương thân mến,

Tôi báo để Chương biết: Tỉnh ủy đã chọn và giao nhiệm vụ Chương ở lại miền Nam cũng đồng bào đấu tranh chính trị cho Hiệp thương Tổng tuyển cử thống nhất nước nhà. Tất nhiên, Chương là bộ đội, trước nay trực tiếp chiến đấu giết giặc ở chiến trường nay làm nhiệm vụ mới không khỏi bỡ ngỡ, khó khăn, song bỏ xuống nước khắc biết bơi. Cứ yên tâm tin tưởng, có Đảng, có đồng bào cùng chung vai sát cánh, chắc chắn chúng ta sẽ giành thắng lợi cuối cùng.


Thân mến,
Phan Bình.

Tôi biết đây là anh giao nhiệm vụ không theo kiểu mệnh lệnh mà chỉ tâm tình động viên, cho tôi được suy nghĩ rồi tự giác hạ quyết tâm với Đảng. Anh đặt niềm tinh với tôi, bảo tôi suy nghĩ kỹ rồi trả lời cho anh. Tuy vậy, đây cũng là một mệnh lệnh mà tôi cho là bước ngoặt trong đời mình. Như vậy là tôi không đi tập kết với đơn vị, tôi sẽ ở lại miền Nam cùng đồng bào đấu tranh buộc địch thi hành Hiệp định và Hiệp thương Tổng tuyển cử. Tôi sẽ không được ở trên miền Bắc hoàn toàn giải phóng, cùng toàn quân tiến lên chính qui, hiện đại, góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội; và tôi cũng chưa có điều kiện gặp Bác Hồ, lãnh tụ vĩ đại muôn vàn kính yếu của dân tộc, người Cha thân yêu của các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam. Được gặp Bác Hồ là nguyện ước sâu xa lớn nhất trong đời chiến đấu của mỗi người chiến sĩ cách mạng, mỗi anh Bộ đội Cụ Hồ. Tôi cũng thấy tiếc, cũng muốn đi tập kết để được gặp Bác Hồ. Đọc đi đọc lại, suy nghĩ kỹ, tôi thấy bức thư nói lên biết bao ý nghĩ lớn lao, nhiệm vụ trọng đại, sự tin tưởng thẳng thắng lợi và sự tin cậy của Đảng đối với tôi. Còn nửa nước chưa được giải phóng thì tất nhiên còn phải chiến đấu cho cả nước được giải phóng, như thế phải có người ở lại miền Nam làm nhiệm vụ, chắc chắn là không chỉ có mình tôi. Đảng đã có quyết sách rồi. Điều chủ yếu là tôi phải suy nghĩ kỹ rồi về tỉnh đội trả lời anh. Tôi chắc là việc này phải bí mật, không công khai rộng rãi nên anh mới viết thư riêng và bảo tôi trả lời. Bảo trả lời là để suy nghĩ và hạ quyết tâm chấp hành, là đòi hỏi sự tự giác, không gượng ép nhưng không phải muốn sao cũng được vì đây cũng là một mệnh lệnh. Suy nghĩ kỹ, tôi cũng xác định đây là một nhiệm vụ cách mạng rất rõ ràng và cần thiết. Gần đây tin tức dồn dập cho thấy địch rất ngoan cố, quyết phá hoại Hiệp định, chúng đã khủng bố nhân dân, đánh phá phong trào ngay từ những ngày đầu hòa bình. Một số đồng bào, đồng chí đã bị bắt bớ, hy sinh. Vậy thì nhiệm vụ rất nặng nề, có cả gian khổ, hy sinh nhưng cũng vô cùng vẻ vang, vinh dự. Sắp đến, tôi sẽ phải đối mặt với kẻ thù hung bạo sau khi chính quyền quân đội ta đã đi tập kết. Đảng chọn một số đảng viên, quân đội chọn một số chiến sĩ ở lại là vô cùng đúng đắn và sáng suốt. Tôi cũng không hình dung cuộc đấu tranh cụ thể sắp tới ra sao nhưng “Quân lệnh như sơn” như Bác Hồ đã dạy, việc chấp hành là tuyệt đối, không có tính toán gì hết. Đảng đã “chọn mặt gửi vàng”, đã tin tưởng chọn mình ở lại, vinh dự tự hào biết bao! Ý thức được như vậy, lòng tôi thanh thản, sung sướng. Tôi nguyện một lòng một dạ vâng theo lời kêu gọi của Bác Hồ gửi đồng bào miền Nam, dù khó khăn gian khổ đến mấy cũng chẳng từ nan, dù hy sinh tính mạng cũng không sởn chí, xứng đáng là đảng viên trung kiên, là anh Bộ đội Cụ Hồ. sau này vào giữa năm 1957, lúc phong trào tỉnh nhà hết sức khó khăn, tỉnh ủy bố trí một số đồng chí ra Bắc, khi tổ chức hỏi tôi có muốn ra miền Bắc công tác, học tập không? Tôi đã dứt khoát trả lời là trước đây tôi đã tự nguyện ở lại miền Nam đấu tranh cho sự nghiệp thống nhất nước nhà, nay dù khó khăn, nguy hiểm đến mấy tôi cũng quyết ở lại cùng đồng bào, đồng chí chiến đấu đến cùng. Và tôi vẫn ở lại cho đến Nghị quyết 15, về lại lực lượng vũ trang cầm súng cho đến ngày giải phóng miền Nam.

Tôi nói cấp trên muốn số ở lại phải tự giác chứ không gượng ép vì trong số đặc công ở lại với tôi có trường hợp đồng chí Triều, gần đến lúc hành quân tập kết đã xin đi để về thăm gia đình ở miền Bắc thì tỉnh đã đồng ý để Triều đi. Sau Nghị quyết 15, Triệu lại cùng bao đồng đội xẻ dọc Trường Sơn vào Nam. Tôi đã gặp Triều và một thời gian sau, Triều anh dũng hy sinh trong một chuyến công tác.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Tư, 2019, 07:06:30 pm
Hôm sau, tôi về tỉnh đội bao cáo quyết tân, anh Phan Bình hơi ngạc nhiên.

- Chương đã suy nghĩ thật kỹ chưa? Thôi cứ về suy nghĩ thêm ba ngày nữa rồi trả lời cũng được.

- Tôi đã suy nghĩ kỹ rồi, tôi đã sẵn sàng nhận nhiệm vụ, không băn khoăn, do dự gì dâu.

- Tốt lắm, chắc cậu cũng có nhiều điều muốn biết như rồi đây ăn ở, sinh hoạt ra sao, công tác cụ thể thế nào… Tôi cũng không biết rõ những điều đó nên không nói gì thêm với cậu được. Tình hình còn diễn biến nhiều, cậu đã học Hiệp định, dần dần sẽ rõ hơn. Trước mắt phải tuyệt đối giữ bí mật, không để đơn vị, gia đình biết, cậu sẽ hành quân với 86 vào Hàm Tân bình thường. Vào đấy, ta sẽ tổ chức lại Trung đoàn 812 để đi tập kết. Lúc ấy sẽ có công việc và có cả cách giữ bí mật cho cậu nữa. Bây giờ cậu về thăm gia đình ba hôm rồi trở lại 86; tôi sẽ báo 86 về việc đi vắng của câu.

Tạm chia tay, anh tặng tôi huy hiệu Bác Hồ và một súng ngắn Et-tan-ben-gich rồi ôm chặt tôi trong tình thương yêu tràn ngập. Tôi biết anh đi tập kết.

Tôi nghỉ chơi ở nhà người em tôi tại Bàu Thiêu. Cha mẹ tôi đang ở Hàm Tân vào đó có dịp thì thăm, không thì thôi, cũng có nhiều người đi tập kết, đâu có được về thăm chia tay cha mẹ vợ con. Bàu Thiêu hòa bình thực sự đông vui nhộn nhịp khác thường. Ban ngày không có trinh sát oanh tạc, tha hồ đi lại làm ăn. Cuộc sống khác hẳn ngày còn kháng chiến. Ban đêm, đèn đuốc sáng sủa, lời ca, tiếng hát vang lên rộn rã. Biết tin địch đàn áp đẫm máu cuộc biểu tình mừng hòa bình của đồng bào Hàm Thuận, bà con bắt đầu lo ngại; khi chính quyền, bộ đội đi tập kết hết, sẽ ăn ở dưới sự quản lý của địch như thế nào? Tuy vậy, đồng bào đi dự lễ mừng hào bình do tỉnh tổ chức ở Triền rất đông vui. Biết đoàn đại diện Liên khu 5 do Pháp chở máy bay từ ngoài khu vào Phan Thiết, bộ đội ta đón phái đoàn ở Phú Long rất trọng thể, đồng bào Khu Lê rất hả lòng hả dạ. Học Hiệp định, các gia đình có người đi tập kết đều vinh dự, tự hào, lo chuẩn bị chút đỉnh cho người thân lên đường và nhắc nhủ, hẹn họ ngày tái ngộ.

Mấy ngày còn ở Khu Lê, anh Nguyễn Gia Tú (phó bí thư tỉnh ủy) gọi tôi đến làm một việc mà tôi rất ngạc nhiên nhưng vô cùng thích thú là cùng anh đem chôn giấu trong rừng Ô Rô một thùng vũ khí gồm 30 súng ngắn, 20 tiểu liên tuyn và PM. Chỉ hiểu ngầm, anh không nói, tôi cũng không hỏi, chỉ cười cười là đủ. Qua đó tôi biết anh cũng ở lại. Còn những ai nữa, có bộ đội không? Nguyên tắc bí mật không cho phép tôi tò mò tìm hiểu thêm làm gì nhưng chắc là không phải chỉ có anh Sáu Tú và tôi.

86 tập trung ở Giếng Xô với đầy đủ trang bị, lên xe GMC của Pháp chở ra cầu Bằng Lăng, dừng bên ga Long Thạnh, chờ chuyên tàu lửa chở quân ta từ Phan Rang vào để cùng đi Hàm Tân. Xe lửa kia rồi, ai cũng thấy hay hay, trước đây đánh nhau chí chết, nay chính họ lại phải đem xe đến chở ta. Vẫn biết là họ cũng muốn yên bình để ta tập kết ra Bắc, sau đó họ quản lý miền Nam, thực hiện mưu đồ. Dù sao cũng đỡ vất vả hơn là đi bộ hoặc đi thuyền vào Hàm Tân, nếu thế thì không sao đem được các khẩu đại bác chiến lợi phẩm ra Bắc; không đem đi được tất phải hủy, công lao xương máu mới có chứ dễ dàng gì. Sau này tôi biết hai khẩu đại bác 94 lấy ở Mũi Né và Gia Bát đã ra miền Bắc cùng Trung đoàn 812 và một khẩu đã được trưng bày ở Viện Bảo tàng Quân đội. Đoàn tàu dừng, Ban Liên hợp đình chiến lên kiểm tra rồi cho tất cả lên tàu. Trên xe đã có cả ngàn cán bộ, bộ đội Khánh Hòa, Ninh Thuận. Lúc đầu không phải không có người ngại đi xe địch. Khi tôi đến truyền đạt ý kiến của Ban Cán sự Cực Nam và tỉnh mời gia đình bác sĩ Chí đi tập kết thì bác sĩ chỉ muốn đi thuyền hoặc đi ngựa vào Hàm Tân. Nay chắc bác sĩ hết lo ngại rồi.

Xe chuyển bánh, khi đi qua đồn bót nào – mà các ga đều có đồn – lực lượng Pháp, ngụy phải rút ra xa một khoảng cách để tránh va chạm. Xe chạy chậm để đồng bào và cán bộ, bộ đội tập kết chào tạm biết nhau. Xe qua Ma Lâm, Mương Mán, đồng bào hai bên phố và ruộng chạy ra sát bên đường sắt vẫy nón, vẫy tay chào thật nồng nhiệt. Có ai đó đưa hai ngón tay ra hiệu hẹn hai năm sau gặp lại, thế là cả rừng hai ngón tay trên xe và dưới đường vẫy mãi không thôi. Cảnh quân dân cá nước chia tay nhau thật cảm động dù chỉ trong phút chốc. Đồng bào hầu hết ở vùng tạm chiếm nhưng thật gần gũi thân thương và tình cảm biết bao! Tôi biết mình không xa đồng bào, nay mai rồi sẽ cùng chung lưng đấu cật trong cuộc tranh đấu mới, cùng chia sẻ buồn vui, gian khổ; nhưng trước cảnh tượng xúc động này, tôi cũng rưng rưng hai hàng lệ.

Qua khỏi Mương Mán, vào các cánh rừng, xe lao vun vút, chẳng mấy chốc đã đến sông Phan, tất cả xuống tàu ra đường 1, từ cây số 46 đi bộ ngược ra cây số 30, rẽ xuống Phong Điền Hiệp Nghĩa chờ ngày xuống tàu tại cửa biển Hòn Bà – La Gi. Do tàu Ki-lanh-ki Ba Lan chưa đến kịp, phía Pháp làm khó dễ nên sau đó tất cả phải hành quân bộ vào Vũng Tàu rất vất vả.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Tư, 2019, 07:07:56 pm
Khi tổ chức lại Trung đoàn 812, bạn bè không thấy tôi ở vị trí nào nên cũng có người hỏi. Trên trả lời: tôi là bí thư của Ban Chỉ huy trung đoàn, còn bận công tác ở Ban Liên hợp đình chiến, sẽ tập kết chuyến cuối. Thế là ổn. tại Hàm Tân, lực lượng tập kết được học tập kỹ Hiệp định một lần nữa. tôi có dự và còn nhớ anh Thái trong Ban Đại diện Bộ Tư lệnh Liên khu 5 phụ trách việc học Hiệp định cho trung đoàn 812 đã giải đáp: Nhất định ta sẽ buộc địch phải thực hiện Hiệp thương Tổng tuyển cử. Sau hai năm, ta xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc lên cao bằng trời. Miền Bắc có 17 triệu dân, miền Nam có 15 triệu mà hầu hết đồng bào miền Nam đều tin tưởng Chính phủ Bác Hồ, bỏ phiếu cho Bác Hồ thì không thắng sao được! Đồng bào miền Nam kính yêu tin tưởng Bác Hồ là rất đúng! Nghe một cán bộ quân sự cao cấp giải thích chắc như đinh đóng cột, lớp học ai cũng phấn khởi vỗ tay vang dội.

Thời gian ở Hàm Tân, tôi làm hai việc. Một là cùng với anh Sáu Tú và một số bộ đội bí mật đưa vào rừng Râm Kiểng chôn giấu vũ khí đủ trang bị cho một đại đội tăng cường; làm vào đêm khuya, chôn thật sâu đề phòng địch rà mìn. Gặp trời mưa to dầm dề nên rất vất vả; dù vậy cũng hoàn thành êm đẹp. Thật ra, việc này không phải giữa các đồng chí lãnh đạo đều nhất trí cao. Có người nói: bộ đội chỉ đi hai năm rồi về, nước nhà hòa bình, thống nhất chứ có chiến tranh đâu, cần gì phải để lại súng đạn, không sợ lộ thì vi phạm Hiệp định sao? Tôi cũng phụ trách đưa một số vũ khí nữa, đủ cho một đại đội, lên Tánh Linh cùng anh Lê Văn Triều (bí thư huyện ủy Tánh Linh) cất giấu trên núi Ông. Có điều vui là có lẽ do quá gấp, binh công xưởng đóng thùng tôn hàn không kỹ, anh em công khiêng thấy quá nặng, đoán già đoán non, cho là súng đạn mới nặng như vậy. Rủi có một thùng bị gãy làm đôi, thấy rõ súng trường, súng máy, anh em cười vang. Vậy là lộ bí mật, nhưng số này đi tập kết hết, đặc công thuộc loại tin tưởng, anh em cũng biết phải giữ bí mật cho Đảng, cho cấp trên. Nói thêm một chút về số vũ khí này: Năm 1957, tôi và anh Sáu Tú đã đem thùng chôn ở Khu Lê về trang bị cho lãnh đạo tỉnh, huyện và các cơ quan huyện. Số súng ở Râm Kiểng thì bị mất, do vài năm sau địch ủi sạch hết khu rừng Râm Kiểng xây dựng khu tập trung Hiệp Nghĩa trên đó. Địch cũng không biết gì về số vũ khí này. Số súng ở núi Ông, nằm 1959 đã lấy hết về trang bị cho đơn vị 2-9 tỉnh. Súng và chất nổ còn tốt, nhưng đạn, lựu đạn kíp nổ, dây cháy chậm thì 10 phần lép hết 9.

Hai là khi tôi đến trình diện với anh Trần Lê (bí thư liên tỉnh ba kiêm bí thư Bình Thuận), anh hỏi tôi:

- Cậu có yên tâm không? – Rồi như để tôi thêm tin tưởng, anh nói tiếp: - Mình cũng ở lại. Làm sao Đảng đi hết, không lãnh đạo đồng bào đấu tranh với Mỹ - Diệm được? Cậu đến gặp anh Điềm (trung đoàn trưởng 812) chọn rút 30 đặc công cùng ở lại. Cậu quen biết, hiểu anh em, chọn người cụ thể. Thấy tôi ngạc nhiên, anh lại cười:

- Đó là tay thước để khi tình huống bắt buộc, ta mới chủ động được.

Tôi đến gặp anh Điềm đưa danh sách số chọn ở lại; tất nhiên tôi chọn toàn lại “số dách”. Anh xem qua nhíu mày có vẻ không hài lòng lắm nhưng vẫn tươi cười xiết tay tôi:

- Thế này thì số đặc công tập kết hết nòng cốt, làm sao xây dựng phát triển binh chủng được. Cậu chờ tôi bàn thêm với anh Trần Lê đã!

Sau đó tôi được 14 nhưng đồng chí Triều đi nên còn 13. Đây là số anh em quyết cùng nhau hoàn thành bất cứ nhiệm vụ gì Đảng giao, không ai tính toán riêng tư vướng mắc gì, đã đoàn kết một khối từ đấy cho đến ngày thắng lợi hoàn toàn. Dù sau này kẻ còn người mất, sự phát triển của mỗi người cũng khác nhau, nhưng tất cả đều giữ tròn lời hứa với Đảng như từ lúc ban đầu. 14 đồng chí đó là:

1. Phạm Hoài Chương, tiểu đoàn trưởng

2. Nguyễn Ánh (Hội), đại đội phó

3. Trần Nhật Thanh, trung đội trưởng

4. Nguyễn Lơ, trung đội trưởng

5. Trần Tấn Lộc, trung đội trưởng

6. Phan An, trung đội trưởng

7. Nguyễn Công Đức, trung đội phó

8. Lê Văn Bảng, trung đội phó

9. Nguyễn Công, trung đội phó

10. Ngô Lợi, trung đội phó

11. Vũ Điểu, tiểu đội trưởng

12. Đào Ngọc Trác, tiểu đội trưởng

13. Nguyễn Trung, tiểu đội trưởng

14. Nguyễn Chính, tiểu đội trưởng

Tôi biết trong cơ quan tỉnh ủy cũng còn một số bộ đội như Nguyễn Lương (y tá trưởng đại đội), Hảo, Liễu (công vụ). Điện đài có Súy, Chuyên, Táng, Lưu, Sơn, Thông. Cơ yếu có Đông, Chanh, Bưởi đều là cán bộ từ tiểu đoàn phó trở xuống. Một số cán bộ tiểu đoàn hoạt động hợp pháp trong thị xã, thành phố như Minh Quốc, Tô Văn, Mai, Trường. Như vậy, số tôi mới biết chừng đó cũng đã không ít.

Bây giờ chúng tôi sẽ đi tiếp cuộc chiến đấu mới, tất cả đều còn ở phía trước nhưng trong tôi đã có một niềm tin vững chắc là có Đảng, có Bác Hồ, có dân, cùng đồng chí, đồng đội hết lòng đoàn kết đấu tranh thì nhất định sẽ thắng lợi hoàn toàn.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Tư, 2019, 07:11:08 pm
PHẦN HAI

ĐỤNG ĐẦU LỊCH SỬ
Chống Mỹ, cứu nước

1. Đấu tranh chính trị.

Các lực lượng tập kết rời khỏi Hàm Tân thì chúng tôi cùng cơ quan tỉnh ủy cũng bí mật hành quân lên núi Ông miền Đông Tánh Linh, một căn cứ cách mạng vững chắc của tỉnh trong kháng chiến chống Pháp. Tôi bị sốt khá nặng do vất vả quá sức trong công việc vừa qua, phải nằm lại giữa rừng với đồng chí Lương y tá. Mấy ngày sau có người khiêng về ở tạm tại chiến khu cũ của huyện Tánh Linh. Cùng nằm bệnh với tôi có đồng chí Trần Tích, chánh văn phòng Huyện ủy Tánh Linh cũng là cán bộ ở lại. Thời gian nằm ở đây thật yên tĩnh, nhàn hạ. Rừng vắng, xa dân, chỉ có gió thổi rì rào, suối chảy róc rách, từng đàn cá nhởn nhơ bơi lội giữa dòng, tiếng chim rừng thánh thót giữa trưa… Chúng tôi trò chuyện về cuộc chiến đấu vừa qua, luận bàn thời cuộc đến. Đêm căng màn tuyn trắng tinh, trải giường tấm võng xi-mi-li mới lãnh, đắp dù hoa vừa mát mẻ vừa ấm áp; chưa biết sau này khó khăn gian khổ đến thế nào, còn bây giờ thật là yên ổn, có phần sang trọng hơn lúc chiến tranh.

Một tuần sau, Nguyễn Hội đi liên lạc thôn Định ghé đón tôi về cơ quan ở rừng Thôn Lập. Đồng bào mới làm giúp cơ quan những căn nhà tranh thoáng mát, kín đáo, có địa thế bảo vệ thuận lợi. Ở thôn Quang kế bên là lớp chính trị của tỉnh đang nghiên cứu thắng lợi của Hiệp định Giơ-ne-vơ, tỉnh hình, nhiệm vụ cách mạng, phương châm, phương thức hoạt động, đấu tranh thời kỳ mới, đạo đức, khí tiết cách mạng… Học viên là các bí thư thường vụ huyện ủy toàn tỉnh, những người lãnh đạo chủ chốt đấu tranh chính trị sắp đến. Không khí học tập thật khẩn trương, sôi nổi nhưng rất nguyên tắc, bí mật, khác nhiều hồi kháng chiến. Tỉnh đang chuẩn bị hành trang cho các chiến sĩ của cuộc chiến đấu mới.

Số đặc công được chia thành hai bộ phận: bảy người gồm Hội, Thanh, Trung, Điểu, Đức, An do tôi là đội trưởng làm cảnh vệ cơ quan; bảy còn lại được rải làm giao liên chuyên trách ở các trạm huyện. Lương làm y tá cơ quan. Chúng tôi còn lo tìm thêm các căn cứ dự bị. Anh Sáu Mi, dân tộc Rai, phó chủ tịch huyện Tánh Linh, nay là huyện ủy viên ở lại, rất thông thạo rừng núi, đã giúp chúng tôi nên công việc khá thuận lợi. Những ngày dạo sâu trong núi, anh bắn gà lôi, cheo, bắn dọc bằng tên rất giỏi, nên bữa ăn được cải thiện. Lần đầu tôi được biết ăn thịt dọc ướp nướng hoặc hầm có lá bép ngon cực kỳ. Ngoài việc tuần tra canh gác bảo vệ an toàn cho cơ quan, cảnh vệ còn kiêm nhiệm vụ giao liên, hàng ngày chuyển công văn tài liệu, đưa đón cán bộ từ văn phòng cơ quan ra trạm đầu mối của tỉnh ra thôn Định và ngược lại. Cảnh vệ còn trực tiếp đưa cán bộ lãnh đạo đi thẳng đến nơi công tác không cần theo chuyến, qua trạm; có khi còn đưa lãnh đạo đi công tác xa, dài ngày ra tỉnh ngoài, v.v…. Vì cảnh vệ là đặc công, đủ khả năng và tin tưởng để làm nhiệm vụ đó.

Các anh Trần Lê và Sáu Tú thường đi công tác các địa phương. Thời gian đầu địch còn lo củng cố nội bộ, sắp xếp bộ máy cai trị vùng mới tiếp quản nên việc qua lại các nơi còn dễ dàng, có thể đi ngày, ăn ở trong nhà cơ sở. Bà con thấy cán bộ xuất hiện rất mừng, chăm sóc ân cần, bảo vệ chu đáo, tin tưởng hơn trong đấu tranh. Tỉnh ủy ra từ báo “Hòa bình – Thống nhất – Độc lập – Dân chủ” để tuyên truyền, giáo dục nội bộ và quần chúng. Báo in rô-nê-ô mỗi tháng một kỳ; ngoài tin thế giới, trong nước, trong tỉnh còn hướng dẫn công tác xây dựng lực lượng, phương pháp đấu tranh chính trị theo pháp lý Hiệp định Giơ-ne-vơ và Báo phát hành đến chi bộ, phổ biến đến cơ sở và quần chúng tốt, đây là tiếng nói đầu tiên của Đảng bô Bình Thuận trong đấu tranh chính trị.

Tất cả phải thay tên để giữ bí mật với địch và cả với những người quen thuộc cũ. Mỗi người có thể tự tìm đặt cho mình một cái tên theo kỷ niệm riêng. Tôi lấy tên là Hương; Ánh cười nói: anh tên Hương thì tôi là Hội vậy! Thế là mỗi chúng tôi đều có một tên mới: Thanh là Thu, Lơ là Nghị, Lộc là Cao Ly, An Đức, Trung, Điểu là Bảo, Vệ, Hòa, Bình, v.v. Các đồng chí Súy, Lưu, Tăng, Chuyên, Trân, Thông ở điện đài là Gia, Đình, Chiến, Sĩ, Sơn, Lâm. Bên cơ yếu là Cam, Chanh, Bưởi, mấy đồng chí văn phòng là Ngọc, Ngân, Nga. Anh Trần Lê là Năm A, anh Nguyễn Gia Tú là Tánh, nhưng anh em thường gọi là anh Sáu Già vì anh lớn tuổi nhất trong cơ quan. Anh em bên Hành lang lại lấy tên các nhân vật trong cải lương Nam Bộ (Máu Thấm Đồng Nọc Nạn): Tư Tại, Năm Nhẫn, Tám Luông, Ba Nhỏ… Các đồng chí Phan Thiết thì lấy tên theo các loại cây: Lê, Mấu, Sầm, Thằn Lằn, Song Mã nghe cũng ngộ nghĩnh. Thấy anh em vui vẻ, tôi hỏi đùa:

- Gia Đình Chiến Sĩ nghe thật ấm tình đồng đội cũng là kỷ niệm đẹp nhưng chẳng lẽ các vị tính ở rừng núi mãi hay sao mà còn thêm Sơn Lâm?

- Chúng tôi không nghĩ như vậy nhưng trước mắt rõ ràng chẳng phải ta đang ở núi rừng Tánh Linh này sao?


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Tư, 2019, 07:13:01 pm
Tất cả cùng cười vang và những cái tên này đã đi cùng chúng tôi suốt những năm dài chống Mỹ. Năm 1957, sau khi tên Võ Xuân V. đào ngũ đầu hàng địch, tôi cùng một số đồng chí lại phải đổi tên lần nữa và tên Sáu Nam đã đi cùng tôi đến ngày nay. Để phù hợp với công việc, anh em còn phải cải trang thay đổi một số nếp sống thời kháng chiến như bỏ dép đi chân không, đi đường thường bịt khăn đầu, quấn khăn cổ, đội nón lá, mang kính râm, vạc rựa, xách túi, gánh gồng v.v. Thấy bóng người quen từ xa phải nhanh chóng lách tránh. Cán bộ cơ sở ở thôn xóm, giao liên hàng ngày đi hợp pháp phải lấy thẻ kiểm tra của địch. Còn phải tập nói vài thứ giọng, giọng Nam Bộ, giọng Quảng, tập cắt tóc, may máy, đan lát, nhiều người rất khéo tay và điều đó cũng khá thuận lợi, được việc. Thời gian đầu đi lại công khai tuy dễ cũng phải chuẩn bị tình huống đối phó. Một lần anh Bảy Tâm (trưởng ban giao liên huyện Hàm Thuận) cùng tôi sang miền A ban ngày; anh gánh một gánh báo Hòa bình – Thống nhất và công văn, trên xếp kín thuốc lá, chuối nải; tôi đi kế như người phụ gánh; qua chợ Cây Trôm đường 8 lúc 3 giờ chiều; chợ đang họp đông đúc, ồn ào, chẳng ai để ý đến mình, tôi cười thầm: Mỹ - Diệm cố tìm bắt Việt cộng mà Việt cộng đi trước mặt, tài liệu quan trọng lù lù, chúng chẳng hề hay biết! Chưa đi thì sợ, sợ gặp người quen gọi tên mình bất chợ, sợ địch nghi ngờ xét hỏi phức tạp. Đi rồi thì quen thấy cũng bình thường lại nhanh chóng thuận lợi hơn đi đêm. Tuy vậy, đi nhiều lần có lúc cũng gặp rắc rối. Một hôm, Nghị đi ngày từ thị xã về tỉnh, gánh hai bao lác to thuốc tây, tài liệu và một triệu bạc. Đến xóm Ruộng Vỡ, vừa qua một khúc cua thì đụng hai tên lính, một tên nắm đầu gánh giật giật:

- Đi đâu?

- Đi cho quà nhà sui gia.

- Cái gì trong này kêu rột rột vậy?

- Đường tây.

Tên kia lại hỏi xen vào: “Đường tây là đường gì?”. Bực mình vì bạn dốt quá, tên khác tự trả lời: “Đường tây là đường cát viên bỏ trong hộp chớ gì mà cũng hỏi”. Rồi chúng bỏ đi. Nếu nó kiểm tra cũng lôi thôi; nhưng Nghị đã sẵn sàng, chỉ có hai tên thì đánh gục chúng để thoát cũng không khó.

Đồng chí Báo đưa anh Võ Dân, Liên tỉnh ủy viên ra Ninh Thuận, đến vùng Xê-ca-xết (CK7) lọt vào khu vực đóng quân dã ngoại của một tiểu đoàn bảo an của đại úy Hoàng Phúc Hải. Vốn quê Ninh Thuận – Phương Cựu, thông thạo địa hình, Bảo đã bình tĩnh cắt đường tránh hết địch, đưa anh Dân đến cơ quan tỉnh ủy Ninh Thuận an toàn. Một lần, tôi đưa anh Sáu Tú và anh Mười Kiên (Nguyễn Đình Huề) trưởng ban tuyên huấn liên tỉnh đi Hàm Thuận, vừa xuống chân núi thấy dấu giày độ một trung đội địch mới đi qua, chỗ đất in còn nổi ngấn nước; tôi vội trao gùi công văn cho anh Sáu Tú, tôi đi trước một khoảng khi phát hiện địch sẽ ra hiệu, nếu bị rượt bắt hoặc đuổi bắn, lúc đố tôi chưa được trang bị vũ khí, tôi sẽ chạy hướng khác nghi binh cho các anh ở sau rút an toàn. Rủi tôi bị bắt hoặc hy sinh thì cũng bảo vệ được cán bộ và tài liệu của Đảng và tôi đã cắt đường đưa các anh đến Hàm Thuận yên ổn. Lần khác, Nghị đưa anh Tế Nhị bí thư Phan Thiết về tỉnh họp, đến mé rừng Thôn Định vừa tối thì gặp một toán địch, chúng hô dừng lại để bắt, Nghị nói lớn:

- Tôi đi thăm bà con về, có giấy tờ đàng hoàng, xét thì tôi trình, làm gì dữ vậy?

Nghị cố kéo dài để anh Năm Nhị lui. Tên đi đầu xông tới chụp Nghị; nhanh như cắt Nghị giáng một cú móc từ dưới lên chấn thủy, nó hự một tiếng bật ngửa, bọn phía sau bắn vang rừng. Cả hai thoát hiểm.

Ngày tháng qua, anh em đã quen phương thức hoạt động lúc công khai, khi bí mật, tác phong quần chúng. Nhờ công tác dân vận tốt, là anh Bộ đội Cụ Hồ nên ở đâu, làm gì anh em cũng được dân mến dân thương, hết lòng giúp đỡ bảo vệ nên công tác đều trôi chảy, kết quả, chưa hề bị sai sót, tổn hại. Tình hình ngày một khó khăn, địch đánh phá, truy lùng gắt gao; dù đi ban đêm ở đồng bằng hoặc đi ngày trong rừng sâu đều phải đi cắt, không được đi đường mòn để khỏi đụng địch hoặc bị phục kích. Sinh hoạt rất cẩn thận, chặt chẽ, giữ gì dấu vết, tiếng động, nói năng thì thầm; từ đó ra đời việc “đi không dấu, nấu không khói, nói không tiếng”, mới có chuyện đi một mình, ở một mình, ngủ một mình trong rừng sâu núi thẳm. Ở Khu Lê Hồng Phong còn có chuyện “hy sinh vì nước” do những nơi có nước địch thường phục kích, có lúc cũng bị thương vong vì đi mang nước tắm giặt.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Tư, 2019, 07:13:35 pm
Để chỉ đạo phong trào thuận lợi hơn, anh Năm A quyết đình dời cơ quan sang Di Linh. Tôi đi gặp anh Tám Cảnh (bí thư huyện ủy Di Linh) để chuẩn bị chỗ ở mới. Tôi và anh Tám Cảnh quen nhau từ hồi đánh La Giày tháng 4 năm 1954, cùng đi vũ trang tuyên truyền phát động du kích chiến tranh các vùng Cà Dòn, Tố La, Nộp. Anh đã giúp tôi tìm được địa điểm đóng cơ quan tốt. Tháng 12 năm 1954, cơ quan tỉnh hủy chuyển sang đóng trong khu vực rừng núi Ara. Trong chống Pháp, các xóm Ara, Xa Lôn, Quao, Prang, Con Hai, Đạch, Tân Bưởi là hai xã căn cứ cách mạng. Chỉ Lai, Măng Yệu, đồng bào rất trung thành với Đảng và Bác Hồ, tin tưởng yêu thương hết lòng ủng hộ bảo vệ cán bộ. Ở đây, nhân dân đại thể đều tốt như bên miền Đông Tánh Linh, xuống đồng bằng Hàm Thuận, Khu Lê, ra Bắc Bình, vào thị xã nhanh và dễ dàng hơn. Từ Ra Pú, Da Diu mở phong trào lên đường 20, Nam Tây Nguyên cũng thuận lợi. Lúc đầu Bình Thuận chịu trách nhiệm cả Lâm Đồng nên còn có tên gọi là tỉnh Bình Đồng. Đường đi từ miền Đông Tánh Linh sang Di Linh đều trên rừng núi, cũng thoái mái, an toàn; ngày đi đêm nghỉ; chiều đóng bên bờ suối mắc võng xung quanh chiếc máy thu thanh Philip 90 vôn, nghe Đài tiếng nói Việt Nam, đài Mạc Tư Khoa, đài Bắc Kinh càng thêm phấn khởi rạo rực. Một sáng đi bên bờ sông Do, nhìn đoàn người mang gùi chống gậy vượt các gộp đá ngược theo dòng suối, hai bên núi rừng trùng điệp một màu xanh thẫm ngút ngàn, phong cảnh đẹp đẽ nên thơ, gợi lên trong tôi một cảm xúc dào dạt: quê hương đất nước ta thật đẹp, yêu mến biết bao, nhưng miền Nam giờ đây còn tạm thời nằm trong quản lý của giặc; chỉ mới mấy tháng thi hành hiệp định đã thấy rõ dã tâm của quân cướp nước và bán nước Mỹ-Diệm; sắp đến cuộc đấu tranh chắc chắn ngày càng gay go, quyết liệt hơn nhiều. Song ta có miền Bắc giải phóng đang xây dựng chủ nghĩa xã hội, có Đảng và Bác Hồ lãnh đạo sáng suốt tài tỉnh; đồng bào miền Nam kiên cường bất khuất, cán bộ đảng viên một lòng một dạ trung thành vô hạn, đoàn kết keo sơn sẵn sàng phấn đấu hy sinh thì nhất định miền Nam sẽ được hoàn toàn giải phóng, Nam-Bắc sum họp một nhà. Với cảm xúc mãnh liệt và niềm tin sắt đá ấy, tôi sáng tác bài hát “Chiến đấu cho hòa bình thống nhất” sau này đổi lại là “Cho ngày thống nhất” gọn hơn. Lời bài hát đơn sơ, mộc mạc nhưng tình cảnh thắm thiệt chân thành, xác định ý chí vững chắc, gửi gắm niềm tin vững vàng. Anh em cũng thường hát trong các buổi sinh hoạt, động viên nhau chiến đấu hăng say. Sau ngày giải phóng, xem lại lời bài hát, tất nhiên “vững một niềm tin rồi đây Nam Bắc chung một nhà, rồi đây non nước ca khải hoàn” là đúng quá rồi; nhưng không hiểu sao lúc đó mới là cuối 1954 mà tôi đã có lời “giải phóng quê nhà, giành lại cơm áo tự do” – “Giải phóng quê nhà” tức là giải phóng miền Nam, quả thật lúc đó dùng từ “giải phóng” có lẽ là hơi sớm.

Đã gần Tết Ất Mũi 1955, Tết hòa bình đầu tiên sau 9 năm chống Pháp thắng lợi, chắc là miền Bắc ăn Tết lớn và vui lắm. Miền Nam chưa có niềm vui lớn đó; dù sao tỉnh ủy cũng tổ chức một cái Tết hòa bình tuy còn bí mật trong rừng những cũng cần làm cho anh em vui vẻ, phấn khởi, nghỉ ngơi thong thả thoải mái ba ngày xuân, thêm thắm tình đồng chí, đồng đội, càng xác định trách nhiệm, quyết tâm đấu tranh cho một ngày xuân thắng lợi của toàn dân tộc. Anh Năm A chỉ thị tìm một địa điểm ăn Tết gần đồng bằng, bí mật, có thể nghe đài, ca hát, vui chơi, nghỉ ngơi trong một tuần. Tôi và anh Tám Cảnh chọn được một khe suối khô ở sườn núi Ba Cụm còn một vũng nước trong lớn đủ dùng mười ngày, kín đáo an toàn. Ở đây đi Phú Sơn, Hàm Tân liên lạc cơ sở mua sắm Tết cũng gần. Đồng bào Cà Dòn ủng hộ gạo mẹ, nếp than, gà vịt, heo khá đầy đủ. Các bộ phận giao liên, tiếp tế, điện đài, nhà in ngày thường ở riêng, chỉ liên lạc theo chuyến tại điểm hẹn, nay tập trung hết về đây ăn Tết. Ban tổ chức Tết đã lo chu đáo cả vật chất, tinh thần. Tết ấy chúng tôi mừng Xuân hòa bình thật đầy đủ, ngon lành, đầm ấm, cùng đón giao thừa với miền Bắc, được nghe tiếng chúc Tết thiêng liêng, ấm áp, đầy tình thương yêu của Bác Hồ, nghe lời ca, tiếng hát cách mạng trong sáng, tự do sôi nổi của miền Bắc hòa bình, độc lập. Tôi vô cùng thích thú bài hát “Tết năm nay là Tết trong hòa bình” phát nhiều lần trên Đài Tiếng nói Việt Nam mấy ngày Xuân ấy. Khi miền Nam đồng khởi thắng lợi, tỉnh nhà đưa phong trào lên một bước mạnh mẽ, chúng tôi lại ăn một cái Tết 1961 có nhiều thắng lợi mới đầy phấn khởi. Tôi sáng tác bài hát “Tết thắng lợi” câu đầu tôi phỏng theo lời bài hát này: “Tết năm nay là Tết trong tưng bừng, ta đón mừng Xuân mới đầy chiến thắng…”. Nhiều năm sau, chỗ này vẫn là nơi nghỉ chân trên đường công tác, làm điểm hẹn liên lạc của nhiều đơn vị, cơ quan; anh em đặt tên là “Căn cứ Ba Cụm” để ghi nhớ một kỷ niệm sâu sắc trong đợt hoạt động cách mạng chống Mỹ.

Ngoài nhiệm vụ chính là cảnh vệ và giao liên, chúng tôi còn làm nhiều việc cần thiết khác của cơ quan, không kém phần gian nan, vất vả như tiếp tế, cấp dưỡng… Việc gì cũng làm hết sức mình, có hiệu quả. Cơ quan ở trên núi cao, tiếp tế tại chỗ không đủ, phải đi xuống đồng bằng. Thường phải đi đêm cắt rừng, qua ruộng rẫy xóm làng, đường 1, đường 8, không xa trụ sở, điểm đóng quân của địch mấy, phải lách, đánh bọn tuần tiễu, phục kích. Đường xa mang nặng đi thẳng, không theo trạm giao liên, chẳng có vũ khí phòng thân, có sự cố phải tự xoay xở giải quyết, nếu bị bắt thì đã khắc ghi chữ khí tiết, bền gan, trung thành, cùng lắm là “hy sinh” cũng yên lòng vì cách mạng. Việc cấp dưỡng khá nặng nhọc, thức khuya, dậy sớm, cần mẫn, chu đáo; lo sao có com ngon canh ngọt theo hoàn cảnh điều kiện bất hợp pháp mà phải đúng quy định bảo mật rất chặt chẽ. Thời “nấu không khói”, sáng sớm phải nấu nước xong, ăn rồi còn phần trưa, của ai nấy giữ, người làm bếp cất giấu nồi niêu soong chảo, thực phẩm. Đồ đạc cá nhân gọn ghẽ trong gùi, bồng, sẵn sàng di chuyển khi có động. Xế chiều chuẩn bị trước, vừa tắt mặt trời là nhóm lửa nấu ăn, lại nấu ăn, lại trồ tài phục vụ, không được quá chậm, anh em đói lỡ dỡ nghe đài. Ở rừng lồ ô thì nấu củi tre, nhưng đâu phải như câu người đời thường nói: “Củi tre dễ nấu, chồng xấu dễ sai”; củi tre cháy đượm nhưng không có than, chỉ tro là tro, nấu ăn cho cả cơ quan cả ba chục người bằng củi tre, phải nấu thế nào cho cơm chín đều, dẻo ngon, không nhão, không khét là cả một nghệ thuật. Hữu y tá có lắm tài đàn giỏi, hát hay, thổi ác-mô-ni-ca, đánh bát ục ục thật điệu, viết tốc ký 150 chữ/phút, nhưng nấu cơm củi tre thì “chịu”. Hữu phải nhờ tôi đổ lượng nước sao cho vừa mức, ghế sao cho chín đều. Ở núi thiếu me, canh, khế, nhưng có trái gùi, xoài mút, khéo chế biến thì canh chua cũng ngon. Hội, Nga và tôi làm bếp không tồi, chẳng kém anh nuôi chuyên nghiệp mấy. Anh em nói vui: mai ngày thống nhất, làm nghề này cũng kiếm ăn được. Cho hay hoàn cảnh cũng tạo cho con người đảm đương được nhiều việc, khó khổ đến đâu cũng làm tốt, miễn là có ích cho cách mạng.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Tư, 2019, 07:14:12 pm
Sau Tết, tôi phụ trách một tổ gồm Bảo, Bình, Quý, Diễn, Sanh đi xây dựng căn cứ cho cơ quan, đồng thời góp phần xây dựng phong trào xã Nhơn Thiện. Qua Tam Giác ban đêm, ngang xóm Đồng thấy có một rạp lớn, đèn măng sông sáng rực, người đông, chắc đám giỗ, đám cưới gì đó. Bỗng có tiếng đồng ca Trung đoàn 812 quân hành khúc vang lên rộn rã, lanh lảnh trong đêm thanh làm chúng tôi vô cùng xúc động, càng nhớ da diết những cuộc hành quân chiến đấu, những tối lửa trại đoàn kết quân dân. Đến Khu Lê gặp anh Lê Thanh Hải (Mười Râu) bí thư huyện ủy giới thiệu một số cơ sở ở Hố Đất làm chỗ dựa. Chúng tôi đứng trên địa bàn, độc lập với huyện về công tác của mình nhưng huyện có trách nhiệm thông báo tình hình, giúp đỡ chúng tôi các mặt để công tác có kết quả nhanh.

Hố Đất là một thôn của xã Nhơn Thiện (trong giấy tờ viết là thôn Nhơn Đức) nối liền rừng Chai thông qua Gò Cà Bình Thiện sát mé biển, sau lưng là rừng già tiếp với Ô Rô, Đá Bàn, Điểu, có thể xoay trở tiến lui, thuận tiện cho việc xây dựng căn cứ của cơ quan lãnh đạo tỉnh. Xóm ở tập trung tại rẫy cạnh bìa rừng, nhà cửa mơi cất sau đình chiến, bằng tranh lá, nhưng rộng rãi, mát mẻ. Nhân dân một lòng hướng theo cách mạng. Cả xóm đều là bà con dòng họ nên việc cưu mang, đùm bọc che chở nhau là lẽ tất nhiên. Nếu không có người lạ thì chúng tôi có thể ăn ở trong xóm bình thường. Hố Đất có thôn ủy và ba chi bộ. Ông Bảy Chuyện bí thư thôn ủy là tổ trưởng cơ sở của tôi. Ở các thôn Bình Nhơn (Nhơn Hòa – Bàu Trắng), Bình Thiện chúng tôi cũng có một số cơ sở như anh Mai, ông già Tà Bo, gia đình anh Hai Biền Xiềng… Tất cả đều là “cơ sở ruột” chí cốt, sống chết với cách mạng. Ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số có tục cắt máu ăn thề một lòng một dạ với nhau; còn ở đây chúng tôi và cơ sở cũng có giao ước là quyết trung thành với Đảng với Bác Hồ, tích cực công tác, sẵn sàng hy sinh cho sự nghiệp thống nhất nước nhà, một lòng bảo vệ cán bộ, bảo vệ tổ chức, dù khó khăn nguy hiểm mấy cũng không dao động bỏ việc; rủi bị địch bắt thì không đầu hàng khai báo, không phản bội cách mạng. Nếu chúng tôi đụng địch trong nhà cơ sở thì tìm cách thoát thân, cơ sở tự nguyện chịu đựng hậu quả. Chúng tôi bị địch bắt bên ngoài, nơi khác cũng nhất quyết không khai báo làm vỡ cơ sở, nếu bị địch bắt trong nhà thì cùng chịu với nhau. Và nói chung cả hai bên đều giữ vững cam kết đó. Đối với chúng tôi, chưa lần nào xảy ra trường hợp đáng tiếc, năm 1959, đồng chí Sanh bị địch bắt ở Lương Sơn lúc đang đi công tác, bị khảo tra tù đầy, mất tích mà không cơ sở nào ở Nhơn Thiện bị bể vỡ.

Các cơ sở và gia đình giúp đỡ, phục vụ rất tận tình nên chỉ một thời gian ngắn chúng tôi đã đem được nhiều phương tiện vào rừng chôn giấu, chứa đầy nước, gạo, thực phẩm, thuốc men, văn phòng phẩm đủ cho cơ quan dùng khi xuống đây làm việc. Chúng tôi còn mang vào rừng rất nhiều gạch, dự tính sẽ xây các hầm xi-téc lớn để hứng nước mưa dự trữ số lượng đủ dùng cho cả mùa khô. Nước ở Khu Lê là một vấn đề rất lớn, đặc biệt là khi địch càn quét phong tỏa khắp nơi thì cần có nước dài ngày. Lao động cật lực, hai tháng sau cơ quan có thể dời xuống được. Từ đó chúng tôi chuyển sang xây dựng, phát triển cơ sở và góp phần củng cố địa phương. Các thôn Hố Đất, Bình Nhơn, Bình Thiện phong trào khá vững, đã đấu tranh mạnh, tích cực trong đợt đòi Mỹ-Diệm hiệp thương với miền Bắc cuối năm 1955. Hệ thống cơ sở chúng tôi mở ộng cả ở Bình Nhơn, Bình Thiện, rừng Ngang Cốc Chua, Đá Bàn, Điểu. Cơ sở chúng tôi rất vững, các đợt địch bao vây thôn xóm, truy quét cơ sở cách mạng, lùng sục rẫy bái, tìm bắt cán bộ, anh chị em vẫn tìm cách ra rẫy báo tin cho chúng tôi đề phòng, gia đình vẫn mua hàng hóa tiếp tế cho cơ quan dù việc đó rất nguy hiểm. Năm 1956, thôn Hố Đất bị dồn hết về đầu Bàu Trắng (Bình Nhơn) nên nhiều lúc phải đột vào xóm bàn công việc, nhận tiếp tế. một lần, tôi hẹn với gia đình ông Bảy là sẽ đột vào bàn việc đào hầm bí mật. Lúc ấy địch đang tố cộng gắt gao, thôn xóm rất căng thẳng, bảo an, dân vệ lùng sục, phục kích khắp nơi; người người nơm nớp lo sợ, gia đình cho là tôi nói vậy để thử thách tinh thần thôi, chứ gan trời mà dám về! Đường vào xóm cát trắng trống trải, nhà ông ở sâu gần cây số, xóm cất thành nhiều dãy nhà ở triền bàu từ thấp lên cao, đường đi là bìa bàu nước, vào đây là tử lộ, gặp địch không đường thoát. Đúng hẹn, vừa tối, thấy chiếc nón lá úp trên mái nhà bếp, tức tín hiệu an toàn tốt, liền đột vào nhà, thẳng vô buồng trong luôn. Cả nhà sửng sốt nhưng rất mừng, các em thiếu niên Chuyển, Ngư tỏa ra hai đầu đường chơi để gác. Bỗng có tên ấp trưởng đến nhà, chúng tôi ngồi im trong buồng. Để cho tự nhiên, cô Mịch con gái ông Bảy ra, vào buồng làm việc này việc nọ, khua động bình thường. Ông Bảy vồn vã mời trà, tiếp chuyện thân mật; y nói linh tinh cả giờ mà ông Bảy chưa đuổi khéo y được. Ngoài đường, lính đi tuần, đi chơi qua lại. Ngồi mãi cũng chán, y ra về. Trao đổi công chuyện xong, bồng đã xếp đầy hàng, tôi và Quý, Bảo lưu luyến tạm biệt gia đình, nhẹ nhàng, nhanh chóng biến vào bóng đêm. Địch tố cộng ở Nhơn Thiện rất dữ, buộc nhân dân học tập khai báo. Ông Bảy và các cơ sở đều là cán bộ đảng viên, gia đình cách mạng, có người thân tập kết… nên bị o ép, khống chế, tra khảo quyết liệt, nhưng tất cả đều vượt qua, phong trào địa phương vẫn giữ vững.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Tư, 2019, 07:14:49 pm
Tháng 7 năm 1955, cơ quan chuyển xuống đóng sâu trong rừng Ô Rô, ở trong một khu vực hẹp, thực hiện nghiêm ngặt “đi không dấu, nấu không khói, nói không tiếng”. Đường qua lại hàng ngày trong cơ quan phải ngụy trang, không để có lối mòn. Một hôm, anh Tiên (tỉnh ủy viên, chánh văn phòng) buổi trưa nghe xong Đài Tiếng nói Việt Nam, trở về chỗ nghỉ nhưng đi mãi không tới, anh cắt ngang cắt dọ đến tối, không gặp ai đành ngủ rừng, đi cả ngày hôm sau cũng không gặp cơ quan tối dọn chỗ ngủ thì lại chính là chỗ ngủ đêm qua. Đi ngày này, sang ngày khác, đụng đường lớn thì thụt vào đi tiếp; anh chỉ mang theo một hộp thuốc lá và một tiểu liên PM nhưng không dám bắn, cũng chẳng có hú, gõ cây, đói thì ăn trái cam đường, khát thì cởi áo hứng nước mưa để uống. Cơ quan cho người đi tìm, bí mật báo cho cơ sở quanh vùng để đón nhưng đều biệt vô tín. Chắc anh đã chết đói trong rừng rồi. Ngày thứ 8, anh đã kiệt sức bò lê. May thay, chiều đó Hội và Hỏa đi qua, anh vừa gọi thì ngã gục. Gặp được anh, cả hai mừng quá, vội đưa về, phải mất mươi ngày sau anh mới bình phục. Bộ đội chúng tôi không đến nỗi thế nhưng không ít người cũng bị lạc, phải chui vào bụi rậm hoặc leo lên cảnh cao mắc võng ngủ đói qua đêm. Để giữ bí mật, anh em đặt ám hiệu gọi nhau bằng tiếng cọp gầm, khoét lỗ dưới cát, úp miệng “à um” giả tiếng cọp cũng khá giống. Anh em nói đùa: dạo này rừng Khu Lê nhiều cọp quá! Gặp rắn lớn nhỏ thì nhiều không kể xiết. Rắn Khu Lê rất độc, thường đi lại một mình nên mỗi người đều có một túi đậu nọc, hái ở rừng Ara Hàm Cầu, phòng khi rắn cắn thì có chữa kịp thời. Một hôm, tôi đến liên lạc nhà ông bà Tà Bo, người xóm Tà Bo – Nha Mé – Bắc Bình vào ở Bình Thiện từ thời chống Pháp. Chị Hai (dâu của ba) trái rẫy bị rắn cắn, cả mình sưng vù đau nhức, cả nhà buồn bã sợ không sống nổi. Tôi vội lấy bột đậu nọc ấn vào miệng rắn cắn, nó bít cứng. Tôi an ủi gia đình:

- Thuốc này hay lắm, cứ giữ im, khi nó hút hết nọc rắn và rớt ra thì chi Hai khỏi thôi.

Tôi biếu gia đình mươi hột đậu học để bà con xung quanh có ai bị rắn độc cắn thì chữa giúp. Một tháng sau tôi đến, chị Hai vui mừng cho biết, bột đậu hít cứng cả ngày đêm, khi nó rớt ra thì cũng hết sưng nhức. Chị đá thoát khỏi tử thần, lại đi làm rẫy bình thường. Bà con rất phấn khởi vì có thuốc trị rắn cắn rất hay, đúng là vật khinh hình trọng.

Một chiều, tôi mang một bồng hàng nặng đi từ láng dầu Gò Cà về Hố Đất. Bỗng nghe tiếng giò ào ào nhưng nhìn ngọn cây lại im phăng phắc. Chợt nhìn xuống, một sống lưng rắn đen láng to như cột đình làng lướt qua trước mặt, đầu rắn đã khuất mà đuôi rắn chưa hết; chân phải tôi suýt đạp xuống lưng nó, rủi dẫm trúng, nó lại mổ một phát thì chắc chết ngay giữa rừng vắng! Theo bản năng, tôi giật mạnh chân lại, mang nặng quá đà tôi té ngửa ra sau, tim đập như muốn vỡ tung lồng ngực. Thật hú vía. Đi trong rừng gặp rắn to bằng bắp tay bắp chân, dài vài mét là thường nhưng chưa bao giờ gặp con rắn ghê gớm như vậy, nó đi mà phát ra tiếng ào ào như một trận gió to.

Một lần, tôi về đến trạm đầu mỗi giữa trưa, nhận công văn xong, Chín Quý bẫy được con gà lôi, xé đưa tôi nửa con về cơ quan cải thiện. Cắt rừng hơn một giờ không gặp cơ quan, mệt quá tôi quay lại khu vực chôn hàng bí mật, khui mái nước uống một bụng, lấy đầy bình toong, cầm chiếc gậy phong thần cùng nửa con gà, lại nhắm hướng vừa đi vừa canh đồng hồ. Quá xa rồi mà vẫn không gặp lối quen, dáng đất càng lạ, tôi đâm lo vì trời đã về chiều, không khéo ngủ đói giữa rừng. Làm cọp gầm cũng không ai trả lời, tôi bèn leo cây cao để quan sát tìm đích, vẫn không phân định được nơi nào. Đoán cơ quan cũng gần đâu đây thôi, giờ này người làm rừng về hết rồi, tôi bèn gõ cây ba tiếng một lần. Ô kia, Hội đang lom khom dáo dác nhìn quanh quật. Lúc leo lên tới ngọn cũng dễ thôi, bây giờ xuống thì gai trắc dây bít, cào xước da và rách cả áo quần, chiếc gậy và con gà đã bỏ quên nơi nào đó mất rồi!

Sau đợt đấu tranh đòi hiệp thương tháng 10 năm 1955, địch càng đánh phá mạnh gây cho ta nhiều tổn thất, hoạt động của chúng tôi hoàn toàn bất hợp pháp, cơ sở của tôi ở Nhơn Thiện vẫn giữ vững và duy trì hoạt động tốt. Trước cuộc sống rất căng thẳng, cơ quan, tỉnh ủy về lại vùng núi Di Linh, ở một quả núi có tên ngộ nghĩnh: núi “Con cọp ba trăm” nói theo kiểu đồng bào Thượng. Tôi vẫn ở lại Khu Lê giữ căn cứ, xây dựng phong trào. Một hôm, tôi và Bảo từ Ô Rô đến chỗ đứng tại Gò Cà gần cạnh đường đi lại của dân, chỉ cách xóm non nửa cây số. Sanh ở cùng Tư Ngư có nhiều cơ sở, theo đường đi lối lại, thường đi đêm một mình. Đêm đó, Sanh đi cơ sở về, đợi mãi không thấy Tư Ngư về. Cảnh giác, Sanh chôn giấu hàng hóa, ngụy trang chỗ. Sáng sớm nghe động, Sanh thoát êm ra xa. Một toán địch ập vào chỗ ở, lục soát, lấy hết của cải chôn giấu của chúng tôi. Tư Ngư đêm đó vào nhà cơ sở tên Lê Thị Quý; thị phản biến, biết Tư Ngư là thương binh sức yếu, thị chụp la to cho bọn dân vệ bên cạnh đến bắt Tư Ngư. Qua đòn tra phủ đầu, Ngư đã dẫn bọn địch đến nơi ở, chúng thấy chỗ ngụy trang, biết người đã thoát nên chỉ sục lấy hàng hóa rồi về. Đồng bào lè lưỡi phục sự táo bạo của cán bộ. Nếu Tư Ngư không khai thì địch không tài nào phát hiện một chỗ ở bất ngờ đến thế. Chúng tôi đến hộp thư không thấy dấu báo động nên cứ vào, vì đã trưa, địch không còn. Đến địa điểm khác thấy Sanh nằm vắt vẻo trên sông. Tư Ngư chưa khai nhiều; địch còn dụ dỗ nên chưa lùng rộng. Vội thông tin ngừng liên lạc cho cơ sở Bình Thiện, chúng tôi về Ô Rô. Nhờ thực hiện nghiêm túc chế độ ngăn cắt nên hoạt động lâu trên một địa bàn, Ngư không biết cơ sở của tôi. Trái lại, vì là bạn bầu, cùng ăn ở, chúng tôi biết khá nhiều cơ sở của Ngư. Sau đó tôi móc nối lại một số, xây dựng sử dụng tốt. Không biết Ngư có khai báo về tôi không, nếu có cũng chỉ biết tôi tên là Sáu Nam chứ cũng chẳng biết lý lịch của tôi được.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Tư, 2019, 07:15:42 pm
Quý, Diễn, Bình đã chuyển hàng về núi mươi ngày nữa mới về. Sanh bám lại Gò Cà. Bảo cùng đã đi ơ sở ba bốn hôm. Tôi bỗng bị sốt nặng, nóng hầm hập suốt ngày đầu đau như búa bổ, khổ nhất là nôn, nôn tới mật xanh mật vàng. Nằm dưới miếng nilông trưa nắng oi bức càng bực bội, khó chịu. Tôi thấy ngày dài dằng dặc, xung quanh chỉ tiếng chim rằng, tiếng gió xào xạ, lại sợ dân đi làm rừng, địch đi lùng sục, ngày nào cũng nghe tiếng hú, tiếng súng xa xa. Đành phó mặc! Cơn sốt kéo dài liên miên, không có một viên thuốc, không ăn uống, không ngủ được. Tôi suy nghĩ miên man, nhớ cơ quan, gia đình, nghĩ đến đồng đội ở miền Bắc, đến việc chưa được gặp Bác Hồ, có lúc cũng nghĩ đến có thể chết bệnh tại góc rừng này, cũng thấy sợ chết, chết thế này thì vô vị quá, thà đi đột ấp có bị hy sinh còn hơn. Rồi cũng tự an ủi, dù có chết bệnh cũng là vì cách mạng, đã xác định sẵn sàng chiến đấu hy sinh thì hoàn cảnh nào cũng phải vững vàng kiên định. Tôi lấy gương anh Núp, gương các chiến sĩ vượt Côn Đảo, gương Chu Văn Mùi một mình vượt hiểm nguy ở Điện Biên Phủ, v.v… để động viên mình. Dù tôi bị bệnh nặng thì cũng đâu phải là cuộc chiến đấu sinh tử như các anh hùng chiến sĩ ấy. Các cuốn sách Thép đã tôi, Đất nước đứng lên, vượt Côn Đảo tự tay tôi ngày đêm chép lại để anh em cùng học tập nay càng có tác dụng đối với đối với mình. Tôi thấy nhẹ nhàng, thanh thản hơn. Kể cũng lạ, không thuốc men, ăn uống mà rồi cũng đến vượt qua. Tôi thấy thêm một miếng nước, cố bò tới bồng múc một ao nhấp từng ngụm, mát mà không nôn nữa, mừng vô hạn. Về đêm, nằm dưới cát mát, tôi ngủ thiếp được một giấc. Sáng thức dậy tỉnh táo hơn một chút. Trưa ngày thứ tư Bảo về săn sóc, tôi dần khỏe lại, ăn uống được chút đỉnh. Khu Lê có con dông, nấu chua với lá me non, ăn cơm nóng với canh dông hoặc dông nướng trộn đọt bành ngạnh thật ngon lành. Qua cơn bệnh cũng có thể gọi là nhớ đời.

Ở trong rừng sâu vẫn hết sức đề phòng địch tập kích. Chỗ ở một tổ chỉ rộng độ chục mét vuông, đủ mắc võng và nhóm bếp, cứ sáng sớm chôn giấu đồ đạc, ngụy trang, sẵn sàng dời ngay khi có động, ổn thì về lại sinh hoạt bình thường. Nhờ vậy khi hẹn gặp, cơ sở tưởng chúng tôi ở hầm bí mật đâu đó nên mới đúng hẹn như vậy. Kỹ đến thế vẫn có sơ xuất, xen lẫn trong lá ủ vẫn có một vài miếng bông dính thuốc đó, một dấu dây võng siết vào thân cây, một dấu khó đèn ám vào cành lá; có một điều, thức ăn thừa đào hố chôn kỹ nhưng chồn, sóc moi lên, thế là địch phát hiện, lùng sục cả thời gian dài. Tất nhiên chúng tôi đã dời xa, khi nào yên mới quay trở lại. Đi đêm cắt qua láng trống, tránh sao khỏi lột một vài dấu dép. Ban ngày bọn chỉ điểm gặp, về báo kéo nhau đến xem, khu vực đó bị khoanh vùng, càn đi quét lại, phục kích cả tháng, đi lại vô cùng căng thẳng, nguy hiểm. Có lúc cũng bị tổn thất. Mùa mưa năm 1956, có một nhóm cán bộ xã Hồng Sơn trụ ở trại Mấu, đêm mưa hứng được nhiều bồ ni-lô- nước; sáng rửa mặt vô ý khua ca nhôm, địch đi lùng gần đó nghe, mò vào nổ súng, hy sinh mấy người (có đồng chí Mười Lò bí thư xã). Cũng ở Khu Lê, đầu năm 1957, địch theo dấu, tập kích cơ quan huyện ủy miền A, các đồng chí Hà bí thư, Hậu phó bí thư huyện hy sinh. Đó là tổn thất nặng của Đảng bộ Bình Thuận trong đấu tranh chính trị. Địch lùng sục, đánh phá, truy bắt liên miên, cán bộ hợp pháp trong thôn xóm chạy dạt ra rừng nhiều, cuộc sống và hoạt động càng phức tạp, căng thẳng, không lối thoát. Theo chủ trương trên, tỉnh bố trí một số đông cán bộ, đảng viên đổi vùng, ra công khai, bước đầu tìm cách làm ăn sinh sống tạo vỏ bọc hợp pháp lâu dài trong vùng địch, tổ chức sẽ liên lạc sau. Song vì ra ồ ạt, địch biết theo dõi gắt gao. Cán bộ ta xa tổ chức vẫn mong mỏi được liên lạc với Đảng để công tác, gặp nhau ở đất khách quê người thì hân hoan chi xiết, tùy tiện móc nối rộng rãi, sinh hoạt, hội họp có nhiều sơ hở; địch dò lần ra đầu mối, bắt bớ tra tấn. Nhiều người kiên cường, nhưng cũng có số ít khai báo mình bể vỡ dây chuyền, mất nhiều cán bộ. Đó là tổn thất không nhỏ về việc đưa cán bộ ra hợp pháp của tỉnh.

Cơ quan đóng trong rừng lô ô. Trưa nắng lồ ô nổ mắt, phát tiếng động khá to. Anh Năm A bảo cảnh vệ đi xem tiếng động gì. Anh Tám Triều, bí thư Tánh Linh có mặt lúc đó, là người sống lâu ở núi rừng, nhiều kinh nghiệm, nhanh nhảu lên tiếng:

- Lồ ô nổ anh ạ!

Anh Năm A không nói gì nhưng có vẻ không bằng lòng. Bộp! Anh Năm A lại gọi:

- Sáu Nam, ra xem cái gì?

- Khỉ chuyền gẫy cây! – Lại anh Tám Triều trả lời.

- Khỉ chuyền gẫy cây hay Mỹ-Diệm đi đạp gẫy cây? – Anh Năm thực sự nổi nóng, gắt hơi lớn. Anh Tám nín thinh. Tôi im lặng mang súng đi xung quanh một chặp rồi vào báo cáo không có gì. Anh Tám Triều còn kể nhiều chuyện vui ở núi rừng, rắn mà biết móc đầu và quấn đuôi vào hai gốc cây đưa võng tát nước để bắt cá ăn; trăn ăn no xong thì nằm ì lâu một chỗ đến nỗi măng mọc xuyên qua bụng! Hồi chống Pháp ở chiến khu huyện, anh em móc khẩu tiểu liên xit-ten lên một chạc cây; sắp mưa, trời gầm một tiếng lớn gây chấn động mạnh, chạc cây đã mục nên gẫy rớt xuống, khẩu tiểu liên nổ một loạt dài, cả cơ quan được một phen hoảng vía. Trưa nắng nóng, lồ ô nổ chát chúa, khỉ chuyền làm rơi nhành khô lộp bộp là chuyện bình thường. Từ đó anh em có câu:

Rắn khôn tát nước bắt cá
Trăn dại nằm đó măng xuyên
Trời gầm mà nổ tiểu liên
Nắng trưa tre nổ, khi chuyền gẫy cây.

Vậy mà việc tre nổ, khỉ chuyền cùng với tính mau miệng đã làm anh Tám Triều một phen bị cạo, sau anh em thường đọc câu đó để đùa anh Tám.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Tư, 2019, 07:16:25 pm
Cơ quan ở trên núi cao Di Linh, cách đồng bằng bao dãy núi trùng điệp nhưng lãnh đạo vẫn giáo dục mọi người luôn cảnh giác để tránh tổn thất. Khuya nấu ăn xong, dọn dẹp gọn gàng trước sáng. Chiều, sau mặt trời lặn mới nổi lửa. Một chiều còn hơi sớm nhưng mây mù, cấp dưỡng cho là không dai còn thấy khói nữa nhen nhóm bếp. Nghe mùi khét, anh Dư đi kiểm tra thấy lửa đã nhen bèn quở trách và bắt dập tắt. Lại cũng có anh Tám Triều lúc ấy, thấy có vẻ quá đáng, anh nói một câu:

- Chẳng lẽ giờ nay mà Ai-xen-hao bên Hoa-thịnh-đốn cũng thấy luồng khói này sao?

- Anh Tám ăn nói vậy hả? – Anh gắt lớn, anh Tám nín thinh vuốt mạt. Chúng tôi chả ai dám bùng cười. sau cứ thỉnh thoảng nhắc vui, coi chừng Ai-xen-hao bên Mỹ thấy khói nấu ăn của cơ quan trên núi Di Linh đấy!

Trong cuộc chiến đấu một mất một còn này đã xuất hiện những gương sáng chói về khí tiết cách mạng. Đồng chí Lẽo, đảng viên ở Nhơn Thiện, bị địch tra tấn dã man, tha chết nhất định không khai. Anh Châu, cán bộ ở Tuy Hòa, trong tổ cộng kiên quyết chống ly khai, không xé cờ Đảng, còn vạch tội bọn bán nước trước quần chúng nhân dân. Anh Săng, một đoàn viên người Thượng ở thôn Định – Tánh Linh bị địch tra tấn, đánh đập tàn nhẫn, anh cầm lưỡi mác tự rạch bụng mình và bảo kẻ thù: Cộng sản ở trong trái tim tao đây! Rồi hy sinh vô cùng anh dũng. Đồng bào hết sức thương tiếc, địch rất nể sợ. Nguyễn Thị Thanh, đoàn viên 15 tuổi ở Bình Lâm – Hàm Thuận bị đốt cháy hai gan bàn chân vẫn không một lời khai báo. Trong anh em chúng tôi cũng có gương khí tiết như Sanh, dù bị bắt bớ, tù đày vẫn giữ vững niềm tin cách mạng, bảo vệ cơ sở và hy sinh anh dũng khi làm nhiệm vụ.

Bộ phận công tác của tôi tiếp tục góp phần xây dựng phong trào Nhơn Thiện, giữ căn cứ ÔRô của tỉnh cho đến năm 1959 mới rút hết về núi. Thời gian các năm này có thể nói là cuộc sống gian khổ nhất, đi xa mang nặng, đề phòng địch đuổi bắt phải vứt đồ nặng thoát thân; nhưng phải giữ những thứ tối cần thiết: túi đựng võng, túi thuốc cá nhân, đèn pin có bao vải bọc, đèn ló thụt, chiếc dao găm mang đầy bên thắt lưng. Quần áo đi cắt rừng bị cây móc, gai cào rách tả tơi. Đi ngang qua rẫy đồng bào, thấy số quần áo treo làm nộm đuổi chim, có cái còn chắc, tôi bèn lấy một số mảnh còn lành lặn, vuông vức, giặt sạch, vá lại dùng cũng khá lâu. Nhìn thấy tấm áo quần có hàng chục mảnh vá lớn nhỏ, chi chít từ trên vai xuống lưng, từ vế xuống ống quyển, đủ màu, dù vá khéo cũng không ai nhịn được cười. Anh Hồ Phú Diên ở Ban Tuyên giáo tỉnh khi mới về Bình Thuận, gặp tôi mặc quàn áo vá chằng vá đụp như vậy, anh đã không cầm được nước mắt. Đồng chí Ngân, trưởng nhà in tỉnh là người rất khéo tay, với một cái bao bột, Ngân đã may tay cho tội một bộ bà ba, may đột từng mũi đều và thẳng tắp. Nhờ cơ sở giặt hộ, tôi nói đây là anh em may tay, chị em không tin, may tay không thể khéo đến mức như vậy. Ngân khéo tay nhiều việc, từ cất nhà ở, làm bàn ghế, giường sạp đều đẹp không chê vào đâu được. Trong chống Pháp, Ngân viết chữ trái lên bảng đá in li tô vừa đẹp vừa đều, báo in li tô của Bình Thuận nổi tiếng khắp toàn quốc.

Giữa năm 1955, anh Năm A gọi tôi về cơ quan phụ trách công tác binh địch vận của tỉnh ủy. Cần có một bản đánh giá tổng hợp tình hình sĩ quan, binh lính ngụy trong tỉnh giúp tỉnh ủy chỉ đạo công tác này mà theo anh Năm là rất quan trọng. Ở Nam Bộ, các đồng chí bám nắm được các đơn vị lớn của quân chủ lực ngụy, hình thành một hệ thống nội tuyến để sử dụng khi có thời cơ mới. Trong chống Pháp, tôi chủ yếu chiến đấu ở các đơn vị tập trung, cũng có làm chút ít công tác địch vận trong tác chiến nhưng chưa với tới tầm có chỉ đạo cấp tỉnh. Được sự chỉ đạo trực tiếp của anh Năm, tôi cũng thấy thích thú với công việc mới mẻ này. Tôi nghiên cứu báo cáo của huyện, của các ngành công tác mật từ trong vùng địch gửi ra, đi các huyện truyền đạt chỉ thị công tác binh vận thời kỳ mới kết hợp nắm tình hình cụ thể. Đối với Hàm Thuận, tôi xây dựng thí điểm để rút kinh nghiệm, hiểu biết sâu hơn. Tôi cũng đã đến tận rẫy Tiến Lợi sát Căng Ê-xê-pít gặp các đồng chí Mai Mấu (thường vụ thị ủy) và đồng chí Phấn (thị ủy viên binh vận) bàn công tác; nhưng ở đây tôi không gặp một nội tuyến nào của thị vì địa phương thường chỉ đạo theo kiểu cần câu qua cơ sở mối bên ngoài. Tôi quay về Xuân Phong, Đại Nẫm, đến Đại Tài sát bến đò Văn Thánh, ở cả ngày đêm tại nhà cơ sở, tiếp xúc đầu mối nhưng cũng chưa được bao nhiêu. Tôi trở lại Hàm Thắng – Lại An Hạ cả tuần, ban ngày ẩn trong buồng nhà cơ sở. Đây là vùng sâu, cơ sở thật vững vàng tin cậy lắm mới dám bảo bọc cán bộ, lộ thì không có đường thoát. Đêm đến, tôi cùng đồng chí Hưng Nhơn (huyện ủy viên binh vận của Hàm Thuận), thọc sâu vào bìa nội thị, trú trong một nhà cơ sở tại Cầu Ké (nay thuộc phường Thanh Hải) gặp một nội tuyến là hạn sĩ đồn Kim Ngọc. Chỉ gặp được mấy giờ nhưng khá thú vị, khai thác được nhiều điều. Tuy vậy cũng còn hạn chế vì nội tuyến chỉ là một hạ sĩ quan, lại ở bên ngoài thị xã. Muốn hiểu sâu địch ở Bình Thuận, tốt nhất là phải vào trong Phan Thiết một thời gian. Trước lúc tập kết, tôi có gặp Trường là bạn cũng được bố trí ở lại, làm công tác nắm địch trong thị xã có bí danh là năm bới tóc, phải nhờ Trường giúp thôi! Tôi liên lạc nhờ bạn giúp tôi về Phan Thiết. Tôi biết lúc ấy các đồng chí lãnh đạo thị như Nguyễn Tế Nhị, Nguyễn Quý Đôn vào ra nội thị cũng dễ dàng. Trường chuẩn bị cho tôi chu đáo, bố trí cơ ở đạp xích lô, ra cầu số năm đón tôi đưa vào nội thị. Tôi hăm hở chờ ngày hẹn để vào Phan Thiết một chuyến, tin chắc sẽ làm được nhiều việc. Nhưng nghĩ kỹ về nguyên tắc, càn phải có sự duyệt y của tổ chức thì mới yên tâm làm nhiệm vụ, tôi bèn về căn cứ báo cáo với anh Năm, tin tưởng anh sẽ đồng ý thôi.

- Sao cậu biết Năm hớt tóc?


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Tư, 2019, 07:17:03 pm
Tôi hơi chợn trước câu hỏi bất ngờ, cụt ngủn của anh Năm.

- Trường là bạn cùng học lớp chính trị viên trung đội hồi cuối 1947, thường gặp khi Trường ra chiến khu báo cáo cong tác với trung đoàn. Trường đã gặp tôi ở Hàm Tân.

Anh nghiêm mặt, không nói gì. Tôi thấy không ổn. Một chặp, anh nói tiếp:

- Mình là cán bộ chính trị, đi công tác rủi bị địch bắt, vấn đề chỉ là khí tiết cách mạng.

Anh cười, tôi bớt lo một phần, anh là thầy dạy lớp chỉnh Đảng hồi tháng 5 năm 1954, bài khí tiết là bài quan trọng và hay nhất đối với mỗi cán bộ cách mạng khi đối đầu trực diện với địch mà anh đã giảng trong lớp ấy.

- Còn cậu là cán bộ quân sự, địch ở đây biết rõ, vào thị xã mà lỡ bị bắt, địch biết có bộ đội ở lại thì khó, địch sẽ tố cáo ta vi phạm Hiệp định.

Tôi cố chống chế, bảo vệ việc mình vào Phan Thiết.

- Trường, Minh Quốc, Tô Vân, Mai đều là cán bộ tiểu đoàn cả mà anh!

- Anh em đó có việc của họ nhưng nếu bị bắt cũng rất bất lợi. Thôi, tốt nhất là cậu không vào thị xã, chỉ đi các huyện thôi.

Anh ném cho tôi một nụ cười mỉm. Tôi biết anh không bằng lòng nhưng cũng đồng ý việc tôi về báo cáo xin phép chứ không tự động. Tôi đang ở chiến trường nếu cứ làm trót lọt rồi về, ai biết? Nhưng hồi ấy vấn đề giữ nguyên tắc công tác là đòi hỏi rất nghiêm ngặt đối với mỗi cán bộ. Tôi không phạm lỗi lầm nghiêm trọng nên sau đó anh cũng không bao giờ nhắc lại chuyện này. Tôi về Hàm Tân, ra Bắc Bình. Sau đợt công tác, tôi đã làm được một bản đề án về công tác binh vận tương đối, được anh Năm duyệt, gửi đi các địa phương thực hiện.

Một lần, đồng chí Thắng đưa tôi sang Khu Lê. Cùng đi có một cán bộ Liên tỉnh còn trẻ, nhanh nhẹn, hoạt bát; đó là anh Tám Hiền về họp Liên tỉnh ở Rừng Lớn – Cốc Chua. Tại hội nghị này, anh Tám Hiền đã trao đổi, giúp tôi nhiều kinh nghiệm về công tác binh vận. Anh đã đi công tác hợp pháp nhiều thành phố, thị xã, hiểu biết địch rất nhiều cũng như hiểu phong trào chính trị ở cả nông thôn và đô thị.

Đầu 1956, anh Năm A trực tiếp nắm, chỉ đạo công tác binh vận. Tôi lại về Khu Lê nắm bộ phận công tác tiếp tục xây dựng căn cứ và phong trào địa phương cho đến đầu 1958 thì giao lại cho Sanh, tôi về văn phòng, cùng anh Hoàng Từ lo cho tờ Hòa Bình – Thống Nhất một thời gian.

Sau tháng 7 năm 1956, địch không thực hiện Hiệp thương tổng tuyển cử. Ngô Đình Diệm tự tôn làm tổng thống, lập quốc hội phi pháp ở miền Nam, tuyên bố biên giới Hòa Kỳ kéo dài đến vĩ tuyến 17, hò hét lấp sông Bến Hải, Bắc tiến để thống nhất Bắc Nam. Chúng ra sức bắt lính, đôn quân, dòn dân, tố cộng, đánh phá phong trào khốc liệt. Tỉnh ủy dốc sức củng cố giữ phong trào, tổ chức học chính trị cho cán bộ, đảng viên nâng cao quan điểm, lập trường, bồi dưỡng ý chí chiến đấu, giữ vững khí tiết cách mạng, quyết một mất một còn với kẻ thù, xác định đấu tranh cho thống nhất nước nhà là một cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài gian khổ, đầy quyết liệt, hy sinh nhưng cuối cùng nhất định thắng lợi, củng cố lòng trung thành với Đảng và Bác Hồ. Học tập đã tiếp thêm sức mạnh cho mọi người, tăng cường đoàn kết gắn bó, bền gan chiến đấu đến cùng, giải quyết được băn khoăn thắc mắc qua hai năm vẫn không có Hiệp thương tổng tuyển cử.

Giữa năm 1957 và đầu 1958, tỉnh chủ trương cho một số cán bộ, đảng viên ra miền Bắc chữa bệnh, học tập và công tác như các đồng chí Minh Quốc, Tiểu Oai Nghị, Trần Văn Đống, Nguyễn Văn Diễn… Số cảnh vệ, giao liên có Bảng, Cao Ly, Vệ, Điếu. Anh Dư và anh Sáu Tú hỏi tôi:

- Sáu Nam có muốn ra Bắc không?

- Muốn thì cũng muốn, ra Bắc được học tập, xây dựng trong hòa bình, nhưng tôi vẫn xin ở lại, cùng đồng bào, đồng chí tiếp tục đấu tranh đến cùng cho sự nghiệp thống nhất, dù gian khổ, hy sinh cũng một lòng một dạ với miền Nam.

- Nếu phải đi hợp pháp thì cậu có thể đi đâu, làm gì để sống bước đầu?

- Tôi không thể vào Phan Thiết, ta và địch nhiều người biết tôi, vào Sài Gòn cũng không tiện, ở dấy đông đảo, mấy năm rồi anh em ra hợp pháp nhiều, dễ bị lộ. Tôi nên đi nơi hẻo lánh như Mũi Né hoặc như miền Tây Nam Bộ. Tôi có nghề sắp chữ in (typographe), biết cày bừa, cấy gặt; làm lao động kiếm sống đối với tôi không khó.

- Vậy thì được, khi cần thiết sẽ bố trí phù hợp.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Tư, 2019, 07:17:42 pm
Tôi, Hội, Bảo, Chín Quý, Sanh vui lòng ở lại chiến đấu đến cùng, sẵn sàng làm bất cứ việc gì như từ buổi ban đầu ở lại và chúng tôi đã về lực lượng vũ trang tỉnh sau Nghị quyết 15. Phong trào dù hết sức khó khăn nhưng cũng có nhiều điều phấn khởi. Miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội đạt nhiều thắng lợi, đường dây liên lạc Bắc Nam thông suốt, sách báo miền Bắc vẫn vào đến tỉnh. Tỉnh ủy vẫn liên lạc với Xuyên Mộc – Bà Rịa, nhờ đó hiểu hơn tình hình đấu tranh của các tỉnh phía trong tiến bộ nhiều, không đến nỗi như ở ta. Rồi cũng qua được các thắc mắc lo lắng ban đầu về sai lầm cải cách ruộng đất, về bạo động phản cách mạng ở Pô-dơ-nan, ở Bu-đa-pét, về chống sùng bái cá nhân Stalin của Khơ-rút-sốp. Cơ quan nhận được báo Cứu Quốc, báo Thống Nhất, họa báo của ta, Liên Xô, Trung Quốc, tiểu thuyết Thép đã tôi thế dấy, Đất nước đứng lên, Vượt Côn Đảo, Thượng Cam Lĩnh. Thị ủy cũng gửi ra một số báo chí xuất bản trong vùng địch để nghiên cứu rút ra những vấn đề cần thiết chỉ đạo đấu tranh. Sách báo miền Bắc rất quý, là những bài học về niềm tin và ý chí cho nộ bộ, cho bản thân mỗi người, là tài liệu tuyên truyền giáo dục rất bổ ích để củng cố phong trào vận động quần chúng đấu tranh. Do sách quá ít, tôi đa bền bỉ hết ngày này qua ngày khác, chép tay Thép đã tôi thế đấy, Đất nước đứng lên, Vượt Côn Đảo, Thượng Cam Lĩnh, chuyền tay nhau đọc rất say sưa, được giữ gìn cẩn thận.

Song đặc biệt và thôi thúc hơn cả là những tin tức diệt ác, hỗ trợ quần chúng đấu tranh ở Nam Bộ làm phấn chấn lòng người; đó là hy vọng, niềm tin và biện pháp cách mạng mới. Nhiều cán bộ muốn học tập vận dụng ở ta, nhất là chúng tôi, những anh bộ đội ở lại miền Nam trong những ngày dài đấu tranh chính trị bằng phương pháp hòa bình, gắn bó với phong trào, trước cảnh dầu sôi lửa bỏng, có súng trong tay mà không diệt ác để hỗ trợ phong trào như ở Nam Bộ. Lúc này, anh Năm A đã tách ra đưa cơ quan Liên tỉnh ba ra Khánh Hòa từ giữa năm 1956, đem theo bốn đặc công Thu, Chín, Hòa, Đáng. Ở Bình Thuận, bí thư là anh Dư, phó bí thư là anh Sáu Tú. Tôi và Hội, Bảo đã mạnh dạn đề nghị với lãnh đạo Bình Thuận, nhưng đề nghị diệt ác của chúng tôi không được chấp nhận lại còn kiểm thảo về tư tưởng vũ trang phiêu lưu manh động, trái với đường lối hòa bình của ta và Liên Xô cùng phe xã hội chủ nghĩa. Nào chúng tôi đã đề nghị phát động chiến tranh, đấu tranh vũ trang gì đâu mà chỉ muốn ở ta cũng có diệt ác phục vụ phong trào như ở Nam Bộ mà thôi. Khi vào Xuyên Mộc liên lạc với Bà Rịa, các đồng chí huyện ủy Xuyên Mộc có nói với anh Tiên tỉnh ủy viên, là Bình Thuận diệt ác thì phong trào lên ngay, trong này Thường vụ huyện ủy đã có quyền quyết định diệt ác rồi. Là những cán bộ quân sự, chúng tôi thiết tha muốn được làm như Nam Bộ, ngặt nỗi lãnh đạo tỉnh cho là Nam Bộ khác, ta khác, vẫn không chủ trương thì biết làm sao được! Cán bộ cơ sở và quần chúng không phải không có ý kiến đề bạt cấp trên cho diệt ác, một đôi nơi như Bàu Thiêu, Tiến Lợi bức xúc quá đã bí mật thủ tiêu rồi giấu nhẹm, huyện, tỉnh nào có hay biết gì. Cũng chỉ đỡ một chút thôi rồi đâu lại vào đấy vì hành động tự phát, đơn lẻ, hiếm hoi đó không thể gây chuyển biến phong trào được. Được báo Thời luận xuất bản trong vùng địch, thấy có bài viết của Nghiêm Thiện tỏ ra rất sợ việc diệt ác của ta như bài “Làm sao bảo vệ tính mạng của nhân viên chính quyền ở hương thôn”. Rõ ràng là Nam Bộ diệt ác có tác động mạnh đến địch, ảnh hưởng tốt cho phong trào cách mạng. Tôi lại lần nữa đề nghị cho diệt ác thì anh Sáu Tú hỏi lại tôi:

- Ai bảo anh là Đảng ta chủ trương diệt ác?

- Thì báo Thời luận đã nói rõ đó!

- Đó chỉ là các giáo phái ở Nam Bộ mâu thuẫn sát hại lẫn nhau thôi. Ta không thù oán gì cá nhân chúng, không khủng bố cá nhân chúng, chỉ đấu tranh lật đổ cả chế độ nó mà thôi.

Tôi đành chẳng có lý do gì để đề nghị nữa. Đấu tranh chính trị lật đổ chế độ nó từ 1954 đến 1957 là không được rồi, còn lật đổ nó bằng cách nào thì các anh cũng chẳng biết gì hơn là đấu tranh chính trị theo đường lối hòa bình mà thôi. Ta không thù oán cá nhân nó nhưng còn thù chung của cả dân tộc thì sao? Ở đây quan điểm của lãnh đạo là chỉ đấu tranh chính trị hợp pháp đơn thuần, hữu khuynh thúc thủ thì tất nhiên phong trào bị tổn thất và ngày càng khó khăn. Có tên ác ôn ở Hàm Tân là Giáo Thử, chủ tịch xã Tân Thuận, chi hủy viên trong chống Pháp; ta vừa tập kết, hắn đã phản bội đầu hàng địch ngay, làm chủ tịch phong trào cách mạng quốc gia xã Tân Thuận; hắn là rẻ Hộ Cang, địa chủ phản động. Tên Thử đánh phá phong trào ác liệt. Hắn đã nói với đồng bọn là: “Việt cộng ở Bình Thuận không dám giết cán bộ quốc gia như ở Nam Bộ đâu, nên phải tranh thủ chặt đầu Việt cộng càng nhiều càng tốt”. Trong một cuộc mít tinh tố cộng, hắn kêu gào diệt cộng, hô khẩu hiệu: “Chặt đầu Việt Cộng”, nhưng bà con không ai thèm hô, hắn bẽ mặt, lui mất. Đồng bào bị kềm kẹp ghê gớm vẫn có cách chống địch, vậy mà ta thì không có hành động hữu hiệu nào để hỗ trợ đồng bào cả. Giữa năm 1957, Võ Xuân V. Thường vụ tỉnh ủy Bình Thuận dao động sợ chết, đào ngũ đầu hàng địch, ăn cắp súng và nhiều tiền vàng của tỉnh. Nó vừa chạy, tôi đề nghị anh Sáu Tú cho tôi dẫn một tổ đặc công theo về nhà y bắt đem về cho tỉnh xử tôi. Anh đồng ý nhưng lại bảo chúng tôi phải cặp kè đưa êm nó ra như kiểu anh em bạn cặp tay nhau đi chơi ban đêm trong xóm.

- Nó có súng, lại có võ nghệ, anh em mình chỉ biết vài miếng phòng thân, có tài nghệ cao cường như anh đâu (anh Sáu Tú có thể đánh gục vài chục người), nếu nó chống cự, không bắt êm được thì cho chúng tôi xử nó tại chỗ được không?

- Không được, như vậy sẽ kích động địch gây rắc rối, không bắt êm được thì không đi nữa.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Tư, 2019, 07:18:26 pm
Thế là chúng tôi không đi bắt tên V nữa. Sau đó, tên V cùng với tên Hồng Đ nghe nói cũng là một tên phản Đảng ở Bình Định chạy vào đây làm trưởng ban tố cộng của ngụy quyền Bình Thuận, đánh phá phong trào gây biết bao tội ác với nhân dân gây tổn thất lớn cho cách mạng ở Hàm Thuận, Bắc Bình. Cán bộ, đồng bào vô cùng căm phẫn; họ hỏi tại sao tỉnh cứ để cho tên V và bọn ác ôn lộng hành mà không có làm gì nó cả. Nhiều cán bộ, anh em quân sự chúng tôi rất đau lòng về việc này. Khi đã chiến đấu vũ trang, tôi có hỏi anh Sáu Tú:

- Vì sao hồi đó anh không cho diệt ác như Nam Bộ, lại nói giáo phái giết nhau, Nam Bộ khác, ta khác là sao?

- Mình cũng muốn lắm, nhưng trên không có chủ trương, phải chịu như vậy chứ biết sao!

Thì ra, không phải các anh dửng dưng với việc diệt ác; nhưng các anh giữ nguyên tắc và chấp hành một các cứng ngắc đến lạnh lùng, không dám chịu trách nhiệm với trên, không dám mạnh dạn như Nam Bộ, cũng không đề đạt lên trên nguyện vọng của cán bộ, nhân dân chỉ nắm chặt đấu tranh chính trị hợp pháp một chiều nên phong trào khó khăn kéo dài, bị nhiều tổn thất.

Đầu năm 1958, Tỉnh ủy Bình Thuận nhận được bản: “Đề cương đường lối cách mạng miền Nam” của đồng chí Lê Duẩn viết từ tháng 7 năm 1956, do Tỉnh ủy Bà Rịa gửi ra. Tỉnh ủy in rô-nê-ô văn kiện đó và tổ chức cho cán bộ, đảng viên trong Đảng bộ học tập để củng cố niềm tin. Song tiếc thay, anh Dư lại tự tiện cắt bỏ khả năng ba trong bản đề cương, tức là khả năng khởi nghĩa giành chính quyền như Tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945. Vấn đề cốt lỗi của đề cương là thời kỳ đấu tranh chính trị hợp pháp đơn thuần đã qua, bấy giờ là lúc cách mạng miền Nam phải dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng của Mỹ - Diệm để giải phóng mình. Đề cương đề ra ba khả năng giành chính quyền, anh Dư lại chia ra hai khả năng đấu tranh thành ba thì chung quy cũng chỉ là xây dựng lực lượng, đấu tranh chính trị chuyển hóa quốc hội ngụy và tranh thủ một bộ phận ngụy quân ngụy quyền ngã về phía nhân dân để giành chính quyền mà thôi. Nếu không có khả năng ba, thì chỉ với hai khả năng kia làm sao lật đổ chúng? Học xong, anh Mười Râu, bí thư Khu Lê phát biểu: “Phấn khởi nhưng luôn buồn!”. Đó là chuyện có thật. Tôi được anh hoàng Tứ đưa cho dọc bản gốc khi mới nhận về văn phòng nên tôi biết rõ nội dung bản đề cương chính có ba khả nặng, có khả năng tổng khởi nghĩa như Cách mạng tháng Tám. Trong học tập ở cơ quan, tôi hỏi anh Dư:

- Vì sao tài liệu ta học đây không có khả năng ba của đề cương, đồng chí Lê Duẩn viết?

- Sao anh biết?

- Tôi được anh Từ cho mượn xem bản gốc ở Bà Rịa gửi ra.

- Nam Bộ khác, ta khác – Anh Dư lại cũng nói như vậy.

- Sao cùng chung một Đảng lãnh đạo mà Nam Bộ khác ta khác?

- Thì tôi nói như vậy đó!

Tôi không nói gì được nữa và tôi biết anh Hoàng Từ đã bị kiểm thảo vì cho tôi mượn đọc nên tôi biết các anh ấy sửa tài liệu mới hỏi như vậy. Anh Dư bị bệnh mất hồi tháng 5 năm 1958 nên khi vũ trang đánh Mỹ - Diệm, tôi không hỏi được anh ấy vì sao lúc bầy giờ anh có chủ trương động trời như vậy vì các anh thừa biết đồng chí Lê Duẩn là Thường vụ Trung ương Đảng, bí thư Xứ ủy Nam Bộ. Dù có bị kiểm thảo tư tưởng vũ trang, chúng tôi cũng không hề bi quan, dao động mất niềm tin, vẫn một lòng chờ đợi và tin chắc sớm muộn gì cũng có sự chuyển biến như ở Nam Bộ thôi. Trong thời gian đó cũng có một số ít người tiếu tin cách mạng thắng lợi, sinh tiêu cực bỏ việc, khi bị địch bắt không giữ vững khí tiết, đã đầu hàng khai báo như M (Ba răng vàng), bí thư Hàm Thuận, thậm chí có kẻ phản bội, đánh mất danh hiệu đảng viên cao quý, làm tay sai địch gây tổn thất cho cách mạng như Võ Xuân V.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Tư, 2019, 07:18:54 pm
Tôi còn bị một trận đau nặng vào giữa năm 1957, thật đặc biệt nên không bao giờ quên, cũng là một kỷ niệm sâu sắc trong đời chiến đấu của mình. Hôm ấy, tôi đi công tác ra huyện Phan Lý, đến trạm Bá Ghe đặt trên một đỉnh núi cao do đồng chí Dương Thế Thọ làm trạm trưởng. Nói là trạm nhưng chỉ có một mình Thọ ở đây đưa đón cán bộ, nhận chuyển công văn, tài liệu, đi móc nối xây dựng cơ sở, giải quyết tiếp tế, v.v… Thọ tự nấu ăn, may vá, cắt tóc, chỉ có một chiếc gương nhỏ và một cái kéo Thọ tự cắt tóc cho mình, tuy việc nhỏ nhưng mấy ai làm được. Hơn hai năm một mình phụ trách đường dây thông suốt, cán mẫn, lúc rảnh hát nghêu ngao hoặc chia bài tú lơ khơ ngồi đánh một mình. Có biết bao chuyện lý thúc, đặc biệt về Thọ, kể không xiết, có thể viết một quyển sách dày… Chiều vừa đến trạm thì tối tôi ngã bệnh, người nóng như lửa đốt, nằm li bì, ăn uống chút gì đều bị nôn sạch, đầu đau như búa bổ, cả đêm không chợp mắt được. Sáng ngày Thọ mang bồng đến cạnh nói tỉnh khô:

- Tôi đi mười ngày, nếu không về, anh tự quyết. Tôi gửi anh lại gốc cây này nhé! Có sẵn gạo và một bồng nước đó.

Tôi bần thần trong người, nếu chuyến Thọ phải đi, may rủi ai biết được, Thọ cho biết hàng ngày dưới chân núi có lính Nùng sư đoàn 5 đi chặt gỗ và săn bắn, lúc nào cũng nghe tiếng súng đì đùng. Ở một mình lại bị sốt nặng lỡ nó lên đây sẽ rao sao?

- Tôi bệnh thình lình không đi nổi. Thọ chờ tôi vài ngày được không?

- Chuyến liên lạc Ninh thuận có một ngày dự bị, thôi thì tôi chờ anh một ngày.

Hôm sau còn sốt cao, đầu nặng trĩu, mắt hoa, người ê ẩm rã rời nhưng cũng phải cố đi hôi. Càng đi càng mệt lả, mồ hôi ướt đẫm, trời lại mưa không ngớt, lội suối leo đèo vô cùng vất vả, có lúc đi gần xóm Thọ nói có địch, căn lắm, không sao dừng lại nghỉ, phải gắng qua nhanh, dù sao có choàng nilông mà người vẫn ướt như tắm, có lẽ do người quá nóng nên không bị nhiễm lạnh chăng? Mỏi mệt cơ hồ muốn gục ngã nhưng rồi cũng có vượt qua. Hai giờ khuya lên một đồi thông mắc võng ngủ, đồi cao gió lộng mát mẻ, tôi thiếp đi lúc nào không biết. Thật kỳ lạ, sáng tỉnh dậy người bớt nóng, đầu óc nhẹ nhàng, tỉnh táo. Gần trưa, Thọ chia tay, tôi rẽ vào cơ quan huyện, anh Đặng Chế Hoa, bí thư Phan Lý Hải đãi một bữa bắp tươi đầu mùa, nướng và luộc, ngọt thơm ngon hết biết, tôi như khỏe ra, khỏi bệnh hẳn.

Mấy hôm sau tôi và anh Tám Triều thường vụ tỉnh ủy trở lại trạm Núi Đá Ba-bắc Hàm Trí; ở trạm chỉ còn một mình đồng chí Ba trạm trưởng. Địch đang càn, cơ quan dời, chúng tôi phải ở trạm chờ có người đến đón mới về được. Ăn cháo hai ngày thì hết sạch gạo phải ăn măng tươi luộc không muối, tôi và anh Tám đành nhịn đói uống nước cầm hơi. Ba là thanh niên mà ăn kiểu đó cũng bị Tào Tháo đuổi suốt ngày. Núi Đa Già là núi đá trọc, không có rau trái gì cả, để chúng tôi nhịn đói không đành, chưa đến chuyến, Ba cũng đi đột cơ sở.

- Quá 3 giờ mà em không về thì các anh tự lo liệu lấy.

Đêm trời đổ mưa dồn dập, lúc xối xả, khi lai rai, gió lùa qua vách đá lạnh buốt tận xương. Không ngủ được, chúng tôi vừa chuyện trò vừa thấp thỏm đợi cờ. Anh Tám lúc trẻ đọc rất nhiều truyện tàu, từ Tam Hoàng Ngũ Đế đến Hán Đường Tống Nguyên Minh Thanh, nay đã già, anh vẫn nhớ làu làu, kể lại thật mạch lạc hấp dẫn. Tôi cũng từng đọc Tống Địch Thanh, Tiết Nhơn quý Chinh Đông, Tiết Đinh San Chinh Tây, mà nghe anh kể cũng rất thích thú say mê, vừa đỡ sốt ruột. Quá 3 giờ, rồi 4 giờ mà Ba vẫn chưa về, càng lâu càng lo âu căng thẳng. Đói run chân, mắt hoa tai ù, nhưng cảnh giác cách mạng phải đề phòng. Cơ quan chưa biết đến đón biết về đâu? Mà ở trạm bây giờ là báo động rồi. Ba là giao liên người địa phương, thông thạo đường đi lối lại, nhanh nhẹn tháo vát, đi đêm rất giỏi, nhất định không phải lạc đường, biết đâu cậu ta gặp chuyện không may. Núi Đá Gia có hang hố chứa được cả trung đoàn nhưng bồng không hạt gạo, nếu có địch, ở đây lâu sao được! Dù sao cũng phải cố leo lên đầu núi trước sáng để quan sát chuẩn bị đối phó tình huống xấu nhất. Chúng tôi lần dò từng bước theo đường hành lang trong hang đá mò mẫm xuống bếp, bốn bề im lặng, thỉnh thoảng có vài tiếng khua động. Đêm còn tối mờ mờ, bạo gan đến gần bếp, thì ra Ba đang lúi húi nấu ăn. Chúng tôi ôm Ba mừng đến rơi nước mắt.

- Em vừa đến nhà má Sếp (cở một của trạm), má mừng quá, biết mình khó khăn mới đi đột xuất, má vội xếp các thứ đầy bồng, dặn đi nhanh và thật cẩn thận, địch lùng sục liên tục, mới vừa kéo ngang qua đây. Ra bìa rừng thì đụng địch, chúng bắn loạn xạ, hò hét truy bắt, may mà em thoát được. Về đến nhà hơn 4 giờ, tính nấu cơm nước xong sẽ báo các anh xuống ăn luôn.

Thế là tai nạn khỏi. Bữa cơm nóng với cá mắm nướng thật mặn mòi, cùng bình trà, điếu thuốc, bánh ngọt sao mà ngon đến thế! Trưa có Phấn giao liên bên Khu Lê sang. Hội trên cơ quan xuống, bày bàn cờ tướng giải trí, đời lại tươi vui ấm cúng lạ thường.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Tư, 2019, 07:19:30 pm
Từ giữa 1958, chỉ thị của liên tỉnh đã có nhiều điểm mới:

1. Xây dựng lực lượng vũ trang tỉnh, huyện

2. Diệt ác hỗ trợ quần chúng đấu tranh

3. Miền núi tích cực phá đồn, đưa dân về lại xóm làng cũ xây dựng căn cứ địa vững mạnh làm bàn đạp phát triển lên Nam Tây Nguyên và mở phong trào đồng bằng.

Ngày 20 tháng 7 năm 1958, tại suối Kháng Hành trên núi Tiên Sơn – Hàm Phú, anh Sáu Tú (bí thư Bình Thuận) làm lễ thành lập đội vũ trang tự vệ của tỉnh trong chống Mỹ gồm bốn người: Nghị, Lựu, Thắng và tôi làm đội trưởng, bí thư chi bộ. Anh căn dặn:

- Nhiệm vụ chính của đội là diệt ác, hỗ trợ quần chúng đấu tranh. Trước mắt đội phải xây dựng cơ sở chính trị, chuẩn bị vật chất (lúc này lương thực thực phẩm dù chỉ cho một bộ phận mấy người cũng rất khó khăn) tạo bàn đạp vững chắc để hoạt động ở Hàm Thận, lâu dài là ở toàn tỉnh. Phải nắm vững đây chỉ là biện pháp của chỉ đạo chứ không phải phương pháp đấu tranh mới. Phương châm chung vẫn là đấu tranh chính trị bằng phương pháp hòa bình nên hoạt động phải bí mật, thận trọng, không để lộ là ta diệt ác mà phải làm sao cho địch tưởng lầm là nội bộ chung mâu thuẫn trừ khử lẫn nhau. Khi cần diệt ác tên nào phải do tôi (tức anh Sáu Tú) xét duyệt mới được thi hành.

Dù còn nhiều điều chưa được giải thích thông suốt, lực lượng đội lúc đầu quá ít, số đặc công hiện nay chỉ còn sáu mà anh vẫn còn giữ Bảo, Hội ở cơ quan, tuy vậy chúng tôi vô cùng phấn khởi, xúc động, cùng đưa tay tuyên thệ dưới cờ và ảnh Bác Hồ, hứa kiên quyết hoàn thành nhiệm vụ được giao. Thành lập ngày 20 tháng 7 nhắc nhở chúng ôi gắng sức đấu tranh cho sự nghiệp thống nhất trong hoàn cảnh mới đang sục sôi nóng bỏng.

Khẩn trương ôn tập nghiệp vụ, dự trữ lương thực, xác định mục tiêu để có thể hoạt động sớm. Tôi bồi dưỡng anh em kinh nghiệm xây dựng cơ sở chính trị, cách bắt rễ xâu chuỗi, lo tạo thế dựa vững chắc lâu dài. Hàm Thuận là nơi phong trào mạnh nhất tỉnh cũng là nơi địch đánh phá ác liệt nhất, khó khăn vô chừng. Ác ôn thì nhiều, tên nào cũng cần diệt nhưng động đến thì rất khó vì những ràng buộc ngặt nghèo. Làm sao diệt mà phải như nội bộ nó trừ nhau? Thấy bí quá, anh em phải thốt: Kiểu này thì Tết mới diệt được ác! Và quả vật, đã hơn tháng trời chúng tôi chẳng tìm ra cách nào để diệt ác như ý kiến của lãnh đạo, các huyện trong tỉnh cũng chẳng ai diệt được tên ác nào theo kiểu đó cả. Mây năm ở Khu Lê, tôi xây dựng cơ sở trong khi địch dồn dân, tố cộng, đánh phá dữ dội nhưng cơ sở rất vững chắc, hoạt động khôn khéo, không bể vỡ một ai. Tuy vậy, đó là hoạt động hoàn toàn bí mật, ngăn cắt, bây giờ khác rồi, diệt ác làm sao không động đến địch, đến phong trào? Chúng sẽ đối phó quyết liệt hơn. Mới vài tháng chưa diệt được tên ác ôn nào mà đội liên tiếp bị tổn thất. Trác bị cơ sở phản bắt, mất một tiểu liên, bị tù đầy một tháng và bị thủ tiêu. Thắng trên đường công tác đụng địch bắn bị thương và bị bắt, mất một súng ngắn. Mười hôm sau tôi và Nghi đột cơ sở ở Hàm Thạnh. Vừa tối, chúng tôi quan sát thấy bếp có lửa và tiếng cô Liễu, con gái chị năm Đường. Nghị nói nhỏ:

- Ổn rồi, hai anh em cùng vào giây lát rồi ra anh nhé!

Lâu ngày ở rừng, nay đến xóm làng cũng muốn vào chơi thăm hỏi bà con chút đỉnh cho vui, nhưng giữ nguyên tắc không để cho cơ sở biết nhiều người, chị Năm chỉ biết Nghị, tôi bảo:

- Thôi, nên giữ bí mật, Nghị vào một mình, làm việc xong ra ngay, choàng dù lên, đi cẩn thận, mình chở ở đây, có động đón nhau ở điểm dự bị.

Bóng Nghị khuất dần trong màn đêm yên tĩnh. Bỗng một loạt tiểu liên vang lên, tiếp theo là nhiều tiếng súng trường và la lớn:

- Bắt lấy nó!

Tiếng súng im, tôi linh cảm có điều gì xảy ra, bị lộ rồi sao? Khẩu các bin đã lên nòng, chỉ cần bấm cò là nổ. Tôi suy nghĩ lại, bắn thì dễ nhưng không biết tình hình thế nào, mình ở ngoài bắn vào nhà, tên bay đạn lạc, rủi trúng nhầm cơ sở thì ân hận biết bao! Còn Nghị nữa, tôi thấy nóng ruột quá, lại một loạt súng rộ lên rồi im bặt. Tôi hy vọng địch sẽ không đuổi kịp Nghị, cậu ấy có thể chạy thoát nhờ màn đêm nên tôi đến điểm hẹn. Chờ lâu vẫn không thấy Nghị, trăng đã lên cao, tôi cảm thấy buồn vô cùng và thương Nghị quá, một mình lui về chân núi ngủ qua đêm, nằm mà tôi cứ trông trời sáng. Tinh mơ tôi vội đến trạm giao liên anh Năm Nhẫn nhờ anh nắm tình hình, được biết địch nghi gì đó nên bắt cơ sở tra khảo, dù chị không khai gì chúng vẫn phục liên tiếp bốn ngày thì gặp chúng tôi. Nghị vào nhà, đến sát bọn chúng mới thấy bóng, bắn loạn xạ; Nghị nằm im, chúng tưởng đã chết, khi đến kiểm tra, Nghị bung chạy và lần này suông đạn hy sinh.

Tôi được lệnh chuyển về Đội Vũ trang Miền Núi có chín anh em, là người Thượng tôi làm đội trưởng, bí thư chi bộ. Hội đội phó, bí thư chi đoàn. Đội có năm đảng viên, bốn đoàn viên. Anh em về chính trị rất tốt nhưng khả năng hạn chế, ở căn cứ chưa có việc gì cần thiết nên chúng tôi chỉ lo xây dựng nâng cao trình độ cho anh em. Mãi về sau tôi vẫn băn khoăn: đã tổ chức đội vũ trang có nhiệm vụ diệt ác nhưng tại sao chỉ là biện pháp của chỉ đạo chứ không phải phương châm đấu tranh cách mạng? Ném đá giấu tay thì diệt ác có tác dụng gì? Chúng tôi lại chỉ đơn độc một mình, không được lên hệ với địa phương, lại còn phải xây dựng cơ sở trong khi anh em không phải là cán bộ chính trị, là đội công tác phong trào. Sau này tôi không hỏi lại lãnh đạo nữa vì sự việc cũng đã qua lâu. Về diệt ác, tỉnh và Hàm Thuận có chủ trương diệt tên Văn Công Cần tức Cửu Xe, xã tưởng Tân Phú Xuân, một ác ôn khét tiếng và có nhiều nợ máu với nhân dân, đồng bào rất căm phẫn. Tiếc thay phương pháp diệt ác vẫn là ném đá giấu tay. Hai anh Năm Nhẫn và Bảy Tâm huyện ủy viên Hàm Thuận thực hiện nhiệm vụ này. Tuy anh Năm Nhẫn có mang một tiểu liên tuyn, anh Bảy Tâm có một khẩu súng ngắn ru-lô xanh ê-chiên nhưng lại chỉ được diệt ác bằng chém rựa. Hai anh đóng vai người đi nhắp cá ở ruộng, vác cần câu, mang vịt, vác rựa đột vào nhà, nó đang nằm trên giường, vừa nhổm dậy thì anh Bảy Tâm đã chém một nhát vào đầu nó né trúng vai, rựa kẹt xương quai xanh không dứt ra chém tiếp được, chùng nhùng nhằng thì các con nó nhào ra hô hoán, một đứa có võ judo khóa cổ tay anh Bảy Tâm để bắt, một đứa ẩu đả với anh Năm Nhẫn, đánh rớt khẩu mi-kẹt-cát không bắn được, trung đội dân vệ gần đó nghe động ùa đến vây bắt hai người. Anh Năm Nhẫn có sức mạnh đã dũng cảm đánh gục đứa con Cửu Xe thoát ra ngoài. Anh Bảy Tâm bị khóa nghẹt cổ; nhanh trí, anh rút khẩu ru-lô ở thắt lưng, đưa ra sau dí mũi súng vào cổ tên này bóp có; rất may súng nổ tên ấy ngã gục chết, anh cũng kịp chạy ra. Nhờ thạo địa hình, hai anh thọc sâu xuống đồi Lại An Hạ rồi mới vòng lên, về núi thoát nạn. Bọn dân vệ tuy đông nhưng lạc lối, chỉ truy lùng lên hướng bắn nên mất mồi. Cái rựa bị kẹt trong vai Cửu Xe, chúng gỡ ra biết là của người rong xóm, cả cái cần câu và cái vịt cũng vậy, ở xóm quen biết nhau biết ngay là của ai, chúng bắt đánh đập tàn nhẫn[343] và bỏ tù cơ sở. Tất nhiên cơ sở rất kiên cường không khai gì, nhưng đó là một khuyết điểm lớn của kế hoạch gây hại cơ sở, ảnh hưởng phong trào. Cửu Xe không chết, nó càng điên cuồng chống phá cách mạng. Ác ôn các nơi biết ta bắt đầu diệt ác, ra sức đề phòng, mặt khác càng đánh phá phong trào dữ dội hơn. Có chủ trương diệt ác nhưng thực hiện không ra sao, ác ôn vẫn chưa chùn tay. Tại sao các anh Năm Nhẫn, Bảy Tâm được trang bị súng lại không được nổ ngay mấy phát diệt gọn nó mà chỉ chém, cuối cùng thì cũng phải nổ súng mới thoát được, nếu không đã chẳng diệt được ác, lại mất hai huyện ủy viên, cơ sở bị bắt, đau biết chừng nào! Từ đó đến tháng 7 năm 1960 toàn tỉnh không có vụ diệt ác nào nữa.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 13 Tháng Tư, 2019, 02:41:06 pm
2. Chiến thắng Hoài Đức – Bắc Ruộng.

Tháng 7 năm 1959, tôi dự hội nghị tỉnh ủy mở rộng; nội dung đã có tinh thần Nghị quyết 15. Trong hội nghị có bàn một số vấn đề rất mới lạ và vô cùng hứng thú. Cấp trên tham khảo ý kiến các tỉnh về tổ chức Mặt trận ở Miền Nam sắp đến nên lấy tên là gì? Cờ của Mặt trận nên như thế nào? Tổ chức và hoạt động của các lực lượng vũ trang ra sao để đẩy mạnh phong trào lên một bước mới?... Hội nghị thảo luận rất sôi nổi. Nhiều ý kiến đề ghị đủ các loại tên, cũng có ý kiến cho là cứ để tên là Mặt trận Tổ quốc như ở miền Bắc cho thống nhất Bắc Nam là hay và có ý nghĩa nhất, sao lại phải đặt tên khác làm gì. Về cờ, đa số đều muốn giữ nguyên cờ đỏ sao vàng. Anh Tám Kiên (LâmVĩnh Minh) bí thư Hàm Thuận đã bảo vệ đến cùng lập luận của mình:

- Cờ đỏ sao vàng là cờ duy nhất của Tổ quốc, Bác Hồ đã đưa từ Việt Nam ra quốc tế, ai cũng biết và ngưỡng mộ, tại sao ở miền Nam lại thay? Không ai có quyền được thay đổi cả. Nhân dân miền Nam không bao giờ chấp nhận một lá cờ khác!

Tuy vậy, cũng có ý kiến cho rằng đây là trên tham khảo ý kiến cấp dưới, trong một giai đoạn cách mạng nhất định, theo một yêu cầu nhất định cũng cân có các hình thức tổ chức linh hoạt phù hợp với tình hình. Tôi cũng có suy nghĩ và phát biểu ý kiến của mình:

- Theo tôi, tên của mặt trận đề nghị là Mặt trận giải phóng dân tộc hoặc Mặt trận nhân dân thống nhất, như vậy cũng phù hợp với nhiệm vụ giải phóng miền Nam hiện nay. Về cờ thì đây cũng là cờ của Mặt trận ở miền Nam mà thôi. Lúc hòa bình 1954, ta cũng có cờ hòa bình màu xanh da trời và chim bồ câu trắng, nay nên chăng lá cờ vẫn giữ sao vàng ở giữa còn nền thì nửa đỏ trên, nửa xanh ở dưới cũng được chứ sao? Một số cũng đồng tình ý kiến của tôi, tất nhiên đây mới chỉ là thảo luận trong hội nghị để góp ý cho trên thôi. Riêng vấn đề tổ chức và hoạt động của lực lượng vũ trang thì tất cả đều rất phấn khởi nhưng ai đi sâu cụ thể nổi được? Gay go nhất là trong tình hình bấy giờ, làm sao rút được thanh niên đủ để xây dựng cho tỉnh trước mắt có một trung đội, huyện có một tiểu đội. Biên chế hiện của các huyện ủy đều rất thiếu, không thể rút ra bớt người nào góp cho tỉnh, còn ở phong trào thì không huyện nào rút được một người bổ sung cho cơ quan, nói gì đến việc rút để lập bộ đội. Tôi suy nghĩ là số cơ sở của tôi ở xã Nhơn Thiện, vẫn còn nguyên đó, họ còn có liên hệ với một số quần chúng tốt, có thể vận động thoát ly. Tôi đề nghị và được thường vụ tỉnh ủy đồng ý, giao tôi phụ trách việc ấy. Sau hội nghị, tôi về Khu Lê liên lạc với đồng chí Tạo (em rể anh Hai Xiềng) là giao liên đường thủy của Liên tỉnh, đang sống hợp pháp tại Bình Nhơn, cùng lo việc rút người. Khó khăn lớn nhất là làm sao rút được một số lượng lớn mà chỉ trong một xã, vừa bí mật, vừa đảm bảo cho gia đình họ trong lúc địch đang rêu rao luật 10/59, o ép, khống chế chặt từng gia đình! Tôi dựa vào tổ công tác hiện còn Sanh, Quý để rút người. Đợt đầu chỉ lấy bốn làm thí điểm rút kinh nghiệm, đợt sau chuẩn bị thật kỹ, lấy một loạt nhanh gọn để địch bất ngờ không kịp đối phó. Bốn thanh niên cơ sở Anh, Xuân, Hùng, Thơ đã đặt kế hoạch vắng mặt hợp pháp dài hạn ra êm, rồi số này trực tiếp móc ráp rút số đông tiếp theo. Vốn giàu lòng yêu nước, đầy nhiệt tình cách mạng và lòng hăng hái của tuổi trẻ, chỉ thời gian ngắn tôi đã có đủ số lượng theo yêu cầu nhưng khi đi thì gặp một số vấp váp suýt đổ vỡ kế hoạch và tổn thất. Số là, đáng lẽ phải bố trí ra đi phân tán từng nhóm nhỏ, đến điểm hẹn ở Hố Đất mới tập trung, thì Tạo thấy tình hình ổn nên tập họp một đoàn tại xóm cùng ra một lần cho tiện. Mới ra đến đầu xóm, bất ngờ gặp địch đi tuần, chúng hỏi, anh em bung chạy, địch bắn lung tung, trong xóm đánh trống mõ báo động liên hồi làm náo động cả đêm khuya. Chưa biết gì địch vẫn lùng sục suốt đêm. Sáng ra, biết có một số đông thanh niên trốn đi, chúng càng truy lùng, khống chế chặt các gia đình này. Đang chờ ở Hố Đất, tôi nghe nhiều tiếng súng, tiếng trống mõ văng vẳng kéo dài, biết có sự cố, lòng bần thần lo sợ bị hỏng kế hoạch, lại khó khăn cho địa phương. Mấy giờ sau, anh em lần lượt tập trung đầy đủ, chỉ thiếu vài người bí mật lộn trở về nhà, dịp khác lại ra. Tạo cũng có cách quay về trước sáng. Như vậy tôi cũng có gần đủ số đưa về núi an toàn. Địch rất cay cú vì bất thình lình bị Việt cộng nẫng một lúc mấy chục thanh niên, nhưng sợ làm quyết liệt sẽ náo động lớn gây phản tác dụng nên lờ đi. Anh em biết gia đình không việc gì, nên yên tâm làm nhiệm vụ. Nhơn Thiện từ lâu là cái gai nhọn trước mắt địch nên chúng không bao giờ để yên. Anh Mười Râu thỉnh thoảng gặp tôi, trách:

- Ông Sáu Nam hại tôi quá!

- Thì có trục trặc chút đỉnh, nhưng tỉnh được bộ đội, anh được phong trào qua thử thách càng vững là tốt quá rồi, còn gì mà trách cứ nhau!


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 13 Tháng Tư, 2019, 02:41:54 pm
Sau thời gian giáo dục, động viên, anh em xác định quyết tâm tốt, ngày 2 tháng 9 năm 1959, anh Sáu Tú làm lễ công bố quyết định thành lập đơn vị 2-9, tôi là chỉ huy trưởng kiêm chính trị viên, bí thư chi bộ kiêm y tá, Nguyễn Hội chỉ huy phó, bí thư chi đoàn phụ trách hậu cần. 2-9 có ba tiểu đoàn, hai tiểu đội người Kinh là số thanh niên Nhơn Thiện, một tiểu đội người Thượng; năm đảng viên, năm đoàn viên. Trong lễ thành lập, các anh Sáu Tú, Tám Triều, Tiên, Hoàng Từ, Tám Cảnh thay mặt tỉnh và huyện Di Linh thăm hỏi, động viên từng chiến sĩ. Vô cùng xúc động trước sự chăm sóc của lãnh đạo, cùng với niềm vinh dự tự hào đơn vị được mang tên ngày Quốc khánh, là anh Bộ đội Cụ Hồ trong chống Mỹ, cứu nước, tất cả nguyện trung với Đảng, hiếu với dân, quyết tâm vượt mọi khó khăn, đánh thắng địch, hoàn thành nhiệm vụ. Đơn vị đóng trong rừng A Ra – Xa Lôn, hoàn toàn bí mật với cơ quan và dân. Địa phương chỉ hai đồng chí Văn Giang và Dèm, bí thư Xa Lôn và Ara được tiếp xúc với chúng tôi để thông báo tình hình địch và tiếp tế một phần. Còn thì đồng chí Bảy Hân, trưởng ban tiếp tế tỉnh lo tất cả nhu cầu cho đơn vị. Anh Tám Triều và tôi đi lấy số vũ khí giấu ở núi Ông năm trước về trang bị cho đơn vị đầy đủ trung liên, tiểu liên, súng trường, lựu đạn, chất nổ. Chúng tôi huấn luyện cho đơn vị có trình độ cơ bản, sẵn sàng chiến đấu, đáp ứng được yêu cầu khi lãnh đạo có chỉ thị, nhiệm vụ. Cà Dòn vẫn giữ được thế hợp pháp, là một xã thuộc quận Hoài Đức bên kia sông La Ngà rất xa, thỉnh thoảng địch mới đi tuần tra một lần, thực hiện chính sách có mặt, đi đường lớn, ăn uống nhậu nhẹt rồi về. Tề là cơ sở nên nhìn chung thôn xóm yên ổn, chúng tôi luôn có thông tin về địch để đề phòng. Các chiến sĩ Kinh người đồng bằng, lần đầu trong đời thấy căn cứ núi rừng trùng điệp bao la, vật chất không bằng ở gia đình, song không đến nỗi kham khổ lắm, khí hậu trong lành nước non thừa thãi, sinh hoạt thoải mái, ca hát vui vẻ rộn ràng nên rất hăng say học tập, tiến bộ nhanh. Ăn cơm gạo mẹ, xôi nếp than, canh rau rịa, cá lơ sông La Ngà, cả đọt mây đắng rồi cũng quen và ghiền nữa là khác. Trưa trưa đi chặt đọt, nướng chấm muối ngon cực kỳ nào thua gì thịt cá. Thường xuyên tập thể dục thể thao, chơi xà đơn xà kép, chạy bộ, dai sức nhảy cao, nhày dài, sức khỏe tốt, tươi tắn hồng hào. Tỉnh đến thăm cũng vui lòng.

Đầu 1960, khi vào truyền đạt Nghị quyết 15 của tỉnh, anh Năm A cười nói với anh Sáu Tú và tôi: Mấy cha làm ăn dở quá, rút thanh niên không ra làm sao cả! Tuy vậy, anh cũng thông cảm khó khăn của tỉnh, dù sao Bình Thuận cũng có một trung đội khá sớm. Thật ra, sau này có thể xác định Bình Thuận còn chưa thoát ra khỏi dấu ấn quá đậm của đấu tranh chính trị hợp pháp đơn thuần. (Ngô Minh Thưởng, thường vụ tỉnh ủy trong tham luận đọc tại hội thảo khoa học Chiến thắng Hoài Đức – Bắc Ruộng năm 1993 (tham luận có anh Hoàng Từ tham gia viết) có nói: “Trong quá trình lãnh đạo, tỉnh ủy có phạm sai lầm, khuyết điểm là trong giai đoạn đầu tư tưởng nặng về dựa vào pháp lý Hiệp định Giơ-ne-vơ, đấu tranh chính trị đơn thuần, sợ đấu tranh võ trang vi phạm Hiệp định, phê phán hành động bạo lực của quần chúng và sử dụng vũ trang của cán bộ. Do tư tưởng hữu khuynh đó dẫn đến tác hại là đại bộ phận dân vùng du kích bị dồn, cơ sở bị bắt, bị hy sinh nhiều, phong trào khó khăn kéo dài và cũng từ đó mà chậm đề ra kết hợp vũ trang với chính trị nên việc xây dựng lực lượng vũ trang và bán vũ trang chậm…”. Thế là rõ.

Chiều ngày 31 tháng 12 năm 1959, tôi được tỉnh bảo cho một tổ 2-9 đến Đèo Nam – Xa Lôn để trưa ngày 1 tháng 1 năm 1960 đón khách đưa về đơn vị. Khách nào mà về đơn vị tôi? Lâu nay ngoài các đồng chí nói trên thì không ai biết và được đến đơn vị tôi cả. Tỉnh không nói khách nào, tôi chịu không đoán ra. Chiều hôm ấy một đoàn 11 khác về, vừa gặp mặt, chúng tôi cùng reo lên, ôm nhau mừng vui khôn xiết: đó là 11 cán bộ quân sự, bạn chiến đấu ở Trung đoàn 812 tập kết năm 1954 sau những năm tháng xây dựng chính quy, hiện đại trên miên Bắc xã hội chủ nghĩa, nay được Đảng, Bác Hồ đưa về tăng cường cho cách mạng miền Nam, cho tỉnh nhà. Đó là thượng úy Nguyễn Văn Lâu, các trung úy Nguyễn Minh Quyết, Hồ Kim Việt, Phạm Đức Chánh, thiếu úy Nghê Hùng Dũng, các chuẩn úy Trần Linh Giang, Nguyễn Quý, Nguyễn Thông, Nguyễn Hồi, Nguyễn Văn Tâm và thượng sĩ Trần Văn Thành. Gần nửa năm trời, các đồng chí đã vượt bao gian nguy, bênh tật, xẻ dọc Trường Sơn về đây. Chúng tôi cũng biết có nhiều đoàn đã vào khu 5, Liên tỉnh, vào Miền và còn tiếp tục về. Vô cùng vui sướng, chúng tôi hàn huyên không dứt, còn các chiến sĩ 2-9, họ trầm trồ, lạ lẫm với số khách đặc biệt này. Tuy vật chất không lấy gì đầy đủ, bữa ăn đầu tiên mừng khách quý cũng có cá đồng um, thịt rừng nướng, chuối già hương đậm đà hương vị quê nhà. Sau đó đại úy Nguyễn Thanh Đức, các thượng úy Nguyễn Hữu Ích, Hồ Hồng, các trung úy Lê Ngọc Quang, Võ Thanh Phong, Trần Kim Tuyển, thiếu úy Nguyễn Lâm cùng về đến đơn vị.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 13 Tháng Tư, 2019, 02:42:48 pm
Cuối tháng 1 năm 1960, tôi đi dự Hội nghị tỉnh ủy mở rộng, anh Năm A đi họp trung ương về, vào quán triệt Nghị quyết 15 cho Bình Thuận. Cho đến nay, tôi vẫn nhớ khá đầy đủ những nội dung cơ bản làm nức lòng người. Được Nghị quyết 15 soi sáng, với sự chỉ đạo trực tiếp của Liên tỉnh, về nhiệm vụ quân sự đến, tỉnh ủy xác định 2-9 là lực lượng tập trung cơ động tỉnh; nhưng trước mắt, để phù hợp tình hình thực tế còn quá khó khăn và phục vụ trực tiếp xây dựng căn cứ địa Miền Núi, đơn vị được bổ sung cán bộ mới về, điều chỉnh lại thành một trung đội thiếu gồm hai tiểu đội Kinh, tiểu đội Thượng thì đưa về lại Di Linh, Tánh Linh làm nòng cốt để thành lập bộ đội huyện. Ban chỉ huy 2-9 bốn người; Nguyễn Thanh Đức (Tư Thanh) chỉ huy trưởng, Nguyễn Văn Lâu (Mười Lang) chính trị viên, Nguyễn Minh Quyết (Tư Quyết) và Nguyễn Hội chỉ huy phó. Cán bộ tiểu đội gồm Nghê Hùng Dũng (Vinh), Nguyễn Thông (Sơn), Nguyễn Hồi (Phi), Nguyễn Văn Tâm (Tâm), Trần Văn Thành (Công Hải); chiến sĩ là số tân binh Nhơn Thiện. Số cán bộ khác làm chỉ huy quân sự các huyện và thị xã Phan Thiết. Tôi về cơ quan tỉnh ủy làm chỉ huy trưởng quân sự tỉnh. 2-9 trước mắt phân tán từng tiểu đội làm công tác dân vận ở Cà Dòn, Tố La, mỗi tổ phụ trách vài ba xóm, giúp dân bố phòng, lập căn cứ bí mật, cất giấu tài sản, xây dựng lực lượng du kích, sẵn sàng đưa lên du kích chiến tranh khi cần thiết. Nhưng hiện tại Cà Dòn, Tố La còn sống hợp pháp nên chỉ bố phòng ở rẫy xem như giữ thú. Bộ đội giấu súng làm cán bộ chính trị, khi có địch chỉ tránh lánh, chưa có lệnh Liên tỉnh thì chưa được nổ súng. Tuy vậy, nào có qua mắt được dân, bà con cũng thấy xuất hiện ở thôn xóm nhiều cán bộ trẻ, ăn nói dễ thương, tâm tình hiền hậu, vui vẻ lễ phép, kính già yêu trẻ, đứng đắn với phụ nữ, đoàn kết với thanh niên, cần mẫu giúp dân việc nhà việc rẫy, “nói lời Đảng rất hay”, ăn ở rất vui bụng bà con; dù không thấy súng nhưng cán bộ huyện Kinh, Thượng lâu này có những ai đều biết rõ từng người, bà con tinh ý hiểu ngầm nhưng cũng không hỏi, cứ làm công việc theo hướng dẫn, thương yêu anh em như con trong nhà, giữ gìn bí mật và bảo vệ anh em. Bà con Thượng khi đã tin tưởng thì từ người già đến em bé đều một “bụng” với nhau, thật hay, thật quý.

Là người phụ trách quân sự, học Nghị quyết 15 rồi, khi bàn nhiệm vụ cụ thể tôi hỏi anh Năm A về hoạt động quân sự sắp đến của 2-9; anh chỉ cười, nói:

- Phương châm chính trị vũ trang, hiện nay là như vậy. Cụ thể trước mắt cứ làm như đã bàn, khi tình hình phát triển, trên có chỉ thị mới, Liên tỉnh sẽ phổ biến thêm dần. Điều quan trọng là bội đội phải tích cực củng cố phong trào chính trị. Cà Dòn, Tố La cần duy trì thế hợp pháp lâu dài, do vậy 2-9 chưa cần có hoạt động gì lúc này. Tuy chưa được nổ súng, nhưng bộ đội thì dù phân tán làm dân vận cũng phải có thời gian tập trung nhất định để xây dựng huấn luyện, không được lề mề, lỏng lẻo kỷ luật. Không nâng cao trình độ quân sự, không sẵn sàng chiến đấu thì sẽ không làm tròn nhiệm vụ khi cần có đột phá để chuyển tình thế.

Anh Năm đã là chủ nhiệm chính trị Liên khu 5 từ 1950 nên ý kiến chỉ thị thật toàn diện, chặt chẽ sâu sắc, tôi yên tâm là nhiệm vụ về hoạt động để phục vụ phong trào đắc lực hơn. Lúc ấy, trừ Cà Dòn, Tố La ở miền núi, còn đồng bằng vẫn chưa ra khỏi thời kỳ thoái trào đen tối. Tuy vậy, tôi vẫn chưa nghĩ được là nên mạnh dạn đưa lên đấu tranh vũ trang ở miền núi vì miền núi đấu tranh vũ trang là chủ yếu, đồng bằng nông thôn là kết hợp, còn đô thị mới đấu tranh chính trị là chủ yếu. Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân, chính trị trọng hơn quân sự, song vừa ra đời đã đánh Phay Khắt, Nà Ngần, tạo chuyển biến lớn phong trào Việt Bắc ngay. Tất nhiên là hồi ấy tôi cũng chưa biết ở Nam Bộ đã có hoạt động quân sự rất lớn như trận Gò Quảng Cung – Giồng Thị Đam và sát đó là trận Tua Hai tác động rất lớn đối với phong trào. Có lẽ ở Bình Thuận nhờ có vùng căn cứ miền núi Cà Dòn, Tố La khá vững vàng, thoải mái nên còn vương vấn mãi cái thế chính trị hợp pháp chăng? Lúc đó cũng chưa ai nhận ra là thế hợp pháp này cũng mỏng manh thôi, trước sau gì địch cũng phá bỏ (quả là thế hợp pháp này chỉ tồn tại được hai tháng nữa mà thôi). Tại sao ta không chủ động trước như ở Nam Bộ mà anh Năm A nói là Trung ương khen Nam Bộ dũng cảm phụ trách, dám nghĩ dám làm. Hai tháng 3 và 4 năm 1960, 2-9 làm dân vận thuận lợi, yên ổn nhưng không ai dự kiến được tình hình đột biến, vì vậy không có sự đối phó sẵn sàng với diễn biến thì bị động, lúng túng khó khăn nhất là vì cái quy định “chưa có lệnh thì không được nổ súng” mà Liên tỉnh thì ở xa.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 13 Tháng Tư, 2019, 02:43:25 pm
Từ đầu năm 1957, địch thành lập tỉnh Bình Tuy trên cơ sở tách hai huyện Hàm Tân và Tánh Linh, của Bình Thuận, chia Tánh Linh thành hai huyện Hoài Đức và Tánh Linh, đưa xã La Gi thành xã Châu Thành và là tỉnh lỵ tỉnh Bình Tuy, Cà Dòn, Tố La thuộc tỉnh Đồng Nai Thượng, nay thành hai xã của huyện Hoài Đức. Đến 1959, địch dồn xong ba xã giải phóng miền Đông Tánh Linh là Bình Hòa, Mỹ Hòa, Thạnh Hòa và ba xã giải phóng miền Bắc Tánh Linh là La Dạ, La Ngâu, Mãng Tố. Đưa một số lớn dân Quảng Nam, Quảng Ngãi vào các khu tập trung, địa điểm dinh điền ở Hoài Đức, Tánh Linh. Cả một vùng căn cứ rừng núi rộng lớn không còn xóm làng. Ở miền Đông Tánh Linh chỉ còn mấy xóm nhỏ dân sống lẻ tẻ bí mật quanh chân núi Ông. Ở miền Bắc Tánh Linh chỉ còn vài gia đình ở vàm sông Tà Mỹ, xã La Ngâu có gia đình vợ chồng anh Bái bí thư Tánh Linh và mấy gia đình ở Ca Rì – Ca Liêng – La Dạ ven sông La Ngà. Riêng xã Cà Dòn có 1.700 dân, 14 xóm, xã Tố La trên 2000 dân nối liền các Tổng Nộp, Bà Xa, Đinh Trang Hạ, còn sống hợp pháp nhưng ở xa quận Hoài Đức, địch khó kiểm soát. Chúng cũng biết rõ ở đây có các cơ quan huyện ủy Di Linh, Tánh Linh và Tỉnh ủy Bình Thuận đứng xây dựng căn cứ, nắm đồng bào rất chặt. trong một tài liệu của trung tướng Mỹ Mác-ga mà ta lấy được, chúng có vẽ hai điểm son ở Bình Thuận, ghi chú là hai mật khu quan trọng vững chắc của Việt cộng mà chính phủ quốc gia không kiểm soát được, đó là mật khu Lê Hồng Phong ở đồng bằng và mật khu A Ra – Xa Lôn (Cà Dòn) ở miền núi. Cho đến đầu 1960, địch chưa dồn Cà Dòn, Tố La cũng là một ngoại lệ; chắc là địch không thể buông lỏng nơi này lâu dài. Ta cũng muốn duy trì lợi thế này mà không tính được việc địch sẽ dồn dân Cà Dòn, Tố La một ngày không xa nữa cũng là một điều bất cập.

Sáng sớm 6 tháng 5 năm 1960, đồng bào Cà Dòn đang làm mùa thì một tiểu đoàn lính cộng hòa cùng nhiều đơn vị bảo an, dân vệ, bình định nông thôn của quận Hoài Đức ập đến bao vây các xóm, đốt nhà, dí súng vào quần chúng dồn 9000 dân về địa điểm dinh điền Bắc Ruộng. Tiếp ngày 8 tháng 5 cũng lực lượng này dồn 1.800 dân Tố La về Bắc Ruộng. Tố La vì chưa cất giấu tài sản lương thực vào rừng như Cà Dòn nên bị đốt trụi hết tại xóm. Cà Dòn nhờ một số đi rẫy, rừng nên còn được 700 có hai xóm Đạch, Tân Bưởi đã chạy sống bất hợp pháp trước đó. Tố La còn khoảng 300 là ba xóm núi Nhùm, Tố Nỏ, Teng Làng cũng đã sống bất hợp pháp trước địch dồn. Cộng với số dân bị dồn từ trước, dân số dinh điền Bắc Ruộng lên tới 5000 người. Đồng bào bị dồn bất thần, không có lãnh đạo trước của cán bộ huyện, xã, 2-9 chỉ tránh lánh, bà con đành gạt nước mắt theo địch về khu tập trung. Anh Tư Thanh đang ở xóm Đăng Xôn vội cắt rừng về tỉnh báo cáo về việc địch dồn dân. Đáng lẽ chỉ đi nửa ngày nhưng bị lạc nên phải mất bốn ngày rưỡi, nhịn đói, nhịn khát, khi đến nơi thì tỉnh đã biết từ lâu. Anh em bèn dặt thêm một cái tên là Tư Lạc để kỷ niệm chuyến đau khổ này.

Chiều 6 tháng 5, tỉnh biết dân Cà Dòn bị dồn, đoán thế nào địch cũng dồn Tố La nhưng không sao báo tin kịp. Thật ra, Tố La có ba xóm, Cà Dòn hai xóm, không bị dồn đều có lý do. Đạch, Tân Bưởi tự rút vào rừng, huyện vận động về lại xóm, bà con không chịu, tự lo bố phòng đánh địch. Sau này kiểm tra lại, có trên 30 dấu vết máu, bông băng địch bỏ lại quanh khu vực hai xóm này. Lòng dân đã quyết thì họ có cách đánh địch, bảo vệ mình. Ở Tố La, các xóm Tố Nỏ, Teng Làng, Núi Nhùm cũng dứt khoát không ở xóm hợp pháp. Họ nói đúng, nếu ở xóm, địch tới dí súng bắt đi, làm sao chống lại, sao bằng vào rừng cho yên thân trước. Cán bộ chiều theo ý dân, hướng dẫn bố phòng, do vậy còn nguyên ba xóm không bị địch dồn. Cho hay, người dân có khi còn nhạy cảm và xử lý đúng hơn cán bộ! Sau bị dồn Tố La, Cà Dòn, cả một vùng căn cứ rộng lớn giữ được từ bao năm nay không còn bao nhiêu người, trở thành vùng trắng, địch cho các toán biệt kích nhỏ liên tiếp đột sâu vào chỗ ở bí mật của số dân Cà Dòn còn lại quyết dồn cho bằng hết. Ở Cà Dòn, dân còn khoảng 700 nhưng xóm nào, gia đình nào cũng có người bị dồn nên không khí lo âu, buồn bã, căng thẳng kéo dài.

Để bảo vệ số dân còn lại, tỉnh cho đưa hết vào rừng, tổ chức bố phòng, canh gác. Cơ quan tỉnh ủy, huyện ủy, Ban Cán sự miền Tây, 2-9 được bố trí thành các nhóm công tác, cùng ăn ở với các xóm, ổn định sinh hoạt, củng cố tinh thần, đẩy mạnh bố phòng, tiếp tục sản xuất. 2-9 dĩ nhiên không giấu súng nữa, nhưng Liên tỉnh chưa có lệnh nổ súng nên tỉnh chưa phát động đánh du kích chống càn, chống đột mà chỉ đào hầm, cắm chông và hướng dẫn tránh lánh. Các anh Tám Triều, Hoàng Từ, tôi, Tư Thanh, Mười Lang cùng một tiểu đội 2-9 phụ trách Cà Dòn, cũng gần cơ quan để lo việc chung của cả tỉnh. Các xóm Tố La do Ban Cán sự miền Tây phụ trách. Có cán bộ, bộ đội ở trong xóm, bà con rất tin tưởng. Chẳng mấy chốc đã có một hệ thống canh gác, bố phòng chặt chẽ, rẫy hái được chăm sóc, lúa bắp lên xanh. Tố La khó khăn hơn vì ba xóm còn lại chẳng bao nhiêu người.

Một hôm, tôi và Đẽo (liên lạc người Thượng) lên Con Rum Nhỏ. Đến gần xóm biết có hầm chông nhưng không sao phát hiện, sau cơn mưa, lá ngụy trang bằng phẳng chỗ nào cũng như chỗ này. Gần ngã rẽ vào xóm, tôi sụp hầm, chân phải bị một mũi chông xuyên thủng dép tới gót may không sâu lắm, chân trái bị một mũi xốc vào bắp chân khá sâu. Đẽo kéo tôi lên hầm, tôi rút mũi chông ra, băng vết thương, ngụy trang lại hầm, xóa vết máu rồi ráng vào xóm. Tối hôm đó dù rất đau nhức, tôi vẫn cố chuyện trò, bàn việc bình thường với mọi người; bởi nếu lộ, bà con cho mình bị chông của mình tức “ông bà” không cho làm, họ sẽ phá bỏ hết thì uổng công bao ngày vận động, lại ảnh hưởng xấu đến các xóm khác. Sáng hôm sau, nhân lúc bà con đi làm rẫy vắng, người cơ quan đến khiêng tôi về. Thế là ổn. Nhờ bố phòng rộng khắp, các toán biệt kích cũng bị xốc chông, sụp hầm. Anh Nộp, du kích xóm Đăng Min đã dũng cảm chém chết một tên lính ngụy, quẳng xác xuống sông La Ngà mà địch không biết. Biệt kích đột liên tục, chỉ phòng thủ thụ động như vậy thì rồi cũng bị tổn thất. Ngày 22 tháng 5 năm 1960, một toán đã đột trúng xóm Quao. Chị Hát đã dẫn gia đình và một số bà con băng qua làn đạn địch chạy thoát. Không may còn sáu người già và trẻ em trúng đạn. Bọn giặc rất dã man, đốt trụi và ném hết người chết, bị thương vào lửa. Nghe súng nổ, chiến sĩ Tụ của 2-9 ở xóm Tà Giang vội cắt rừng chạy đến thì chúng đã rút. Nhìn cảnh tượng đau lòng, căm thù bốc cao, Tụ vừa theo dấu địch vừa suy nghĩ có nên nổ súng không vì chưa có lệnh, nếu nổ thì mình bị kỷ luật nhưng trả thù được cho đồng bào; xác định quyết tâm rồi, khi đến một chòi rẫy, thấy chúng đang làm thịt heo, Tụ nhắm tên chỉ huy đang nằm trên võng, nện một phát, nó rú lên và lăn kềnh xuống đất. Bọn khác bắn bậy mấy phát rồi khiêng tên bị thương chạy thẳng. Tạ thu một dao găm, một tấm bông sô, một băng gô, một số đạn tôm-xông rồi về căn cứ báo cho đồng chí An, cán bộ huyện Di linh phụ trách khu vực này. Tụ nổ súng khi chưa có lệnh, nhưng chúng tôi rất vui lòng, chiến sĩ ta đã dám trừng trị địch; tuy nhiên hồi ấy đâu đã dám khen thưởng Tụ. Sự việc không dừng lại ở đó, trước tình hình bọn biệt kích lộng hành, đánh phá căn cứ như vào chỗ không người, thế nào cũng có lúc đồng bào bị tai họa, tôi đã đề nghị với các anh Tám Triều, Hoàng Từ, anh Tiên cho dùng 2-9 đánh biệt kích. Anh Sáu Tú đi công tác Nam Bộ chưa về, anh Tám Triều đồng ý. Tôi gọi Tư Thanh giao nhiệm vụ tổ chức phục kích đánh diệt bọn biệt kích trên đường về với yêu cầu chắc, gọn, bí mật vì cho đến lúc ấy Liên tỉnh vẫn chưa cho lệnh nổ súng. Ngẫu nhiên cũng hôm ấy, anh Tám Cảnh đi Bắc Ruộng liên lạc với đồng bào Cà Dòn bị dồn trở về, ghé 2-9 cùng bàn với Đồng việc đánh biệt kích. Đồng đưa tiểu đội đi phục ở dốc rẫy La Hon đêm 22 thì sáng 23 toán biệt kích bị Tụ bắn hôm qua khiêng tên bị thương về lọt vào ổ phục kích, ta nổ súng, bắt bốn tên thu bốn tôm-xông tháo bá. Khai thác tù binh biết còn một toán nữa đi sau. Đồng bèn dẫn quân đi phục kích cách một đoạn để đánh tiếp. Một mình Linh Giang ở lại giữ tù binh khai thác thêm. Đã không trói tù binh, Linh Giang còn ngồi trên võng hỏi cung. Là lính, thấy đối phương ít lại sơ hở, chúng bung chạy, Giang bắn theo một loạt tiểu liên. Toán biệt kích đi sau nghe súng nổ phía trước cắt đi ngã khác. Từ đó địch không dám cho biệt kích lên đánh căn cứ nữa. Trận La Hon đã bẻ gẫy chiến thuật biệt kích nhỏ của địch, bảo vệ được dân.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 13 Tháng Tư, 2019, 02:44:13 pm
Trận La Hon và cách giải quyết tù binh của Đồng vừa đúng vừa sai cũng thật độc đáo. 2-9 đưa hai tù binh về gần chỗ ở để tiện giữ chờ xin chỉ thị tỉnh, không sao tránh khỏi sơ hở, tù binh biết lực lượng ta không nhiều. Trận đánh không đạt yêu cầu chỉ đạo, địch chỉ sáu, có một bị thương, phải khiêng thế mà mất bốn, lại để sẩy hai tên (có tên bị thương), tiếp để chạy hai, chỉ còn hai, rõ ràng xạ kích kém, không chết bị thương tên nào dù có diệt hai tù binh thì cũng không sao giữ được bí mật. Tỉnh cũng lúng túng, chỉ trách cứ anh Tám Cảnh mà không nhanh chóng giải quyết tù binh cho anh em. Đồng chờ lâu bèn tự động là một việc khá lạ lùng. Đồng cho rằng giáo dục chính sách rồi thả tù binh là có lợi. Được Tư Thanh báo cáo trận đánh, tôi vừa vui vừa buồn, vừa mừng vừa lo vì trận đánh thắng lợi nhưng không đúng ý đồ chỉ đạo, không gọn nên không giữ được bí mật. Còn việc thả hay không thì không thuộc thẩm quyền của tôi. Tôi xin ý kiến anh Tám Triều thường vụ, các anh cũng cân nhắc dù gì thì trận đánh không gọn, bọn chạy thoát về thì địch cũng biết ta đánh rồi, nhưng thường vụ chưa kịp trả lời thì Đồng báo cáo la đã thả. Đồng mở một phiên tòa quân sự có khẩu hiệu cách mạng và cờ đỏ sao vàng. Đồng làm chánh án, vừa làm công tố việc buộc tội vừa quyết định án. Đồng cho đào hai hầm, giải hai tù binh ra đứng bên miệng hầm, hai tù binh này một Kinh tên Nguyễn Thiếp quê Hàm Tân, một Thượng tên Mang Dỏ ở Hoài Đức; cả hai thấy ra tòa và có hầm sợ kinh khiếp muốn ngất xỉu. Chánh án luận tội và tuyên bố xử tử hình, hai tù binh run cầm cập. Nhưng tiếp đó, Đồng tuyên bố cách mạng có chính sách khoan hồng, nay tha tội chết, nhưng về không được đi lính chống cách mạng, lần sau trừng trị không tha. Chúng tạ ơn, hứa về sẽ bỏ ngũ làm ăn lương thiện. Khi về Hoài Đức, cả hai tên đều nói tốt cách mạng, bốn tên chạy thoát, dẫn một đại đội lên khảo sát trận địa, lượm lại một tôm-xông, chúng kết luận đây chỉ là một toán du kích nhỏ.

Xét về mặt quân sự, trận La Hon có nhiều khuyết điểm về tổ chức chiến đấu và xạ kích, về xử lý các tình huống, cũng không nhất thiết phải mở tòa án, nếu tù binh biết chút ít về luật sẽ thây ta làm không đúng quy cách gì thì cũng không hay, chỉ cần giáo dục rồi thả là được, tốt nhất là chờ ý kiến của tỉnh thì hơn. Nhưng về mặt chính trị, trận đánh đã bẻ gẫy chiến thuật biệt kích nhỏ vào căn cứ rất nguy hiểm. Còn lo lắng về trận La Hon thì anh Sáu Tú về, có đồng chí Nguyễn Cảnh (Bảy Thành) một cán bộ quân sự của Quân khu miền Đông Nam Bộ cử ra giúp liên tỉnh ba và Bình Thuận về xây dựng và hoạt động của các lực lượng vũ trang. Có lẽ biết Nam Bộ đã đánh nhiều rồi nên khi nghe tôi báo cáo trận La Hon, anh chỉ cười nói: “Chà anh em lấy được tôn-xông ngon quá hà!”. Rồi không nói gì nữa không khen cũng không quở trách. Chúng tôi thở phào sung sướng, cho qua luôn cả việc Tụ nổ súng ở Quao. Dân Cà Dòn – Tố La mới bị dồn và tất cả số trong dinh điền Bắc Ruộng nghe tin bộ đội đánh biệt kích ở La Hon hết sức vui mừng, mong sao bộ đội về đánh để bà con về lại xóm làng, rừng núi ông bà.

Anh Sáu Tú mang về nhiều tài liệu, có một bản “tin chiến sự” thu hút tôi lạ thường. Đó là bản tin chiến thắng Tua Hai đêm 26 rạng 27 tháng 1 năm 1960. Lực lượng vũ trang nhân dân miền Đông Nam Bộ đã tấn công tiêu diệt căn cứ trung đoàn 32 sư đoàn 5 ngụy ở Trảng Sụp cách thị xã Tây Ninh 7 ki-lô-mét, diệt bắt trên 1000 địch, thu 1700 súng các loại. Tiếp đó là thống kê các loại vũ khí thu được cả trang dài: ĐK 57, ĐK75, đại liên bờ-rốt-nin, trung liên, cối 81, cối 60, tôm-xông, các bin, súng ngắn, súng trường, máy VTĐ 15 oát, xe GMC, đạn dược, quân trang, quân dụng, v.v… thật sướng cả bụng! Chiến thắng vô cùng to lớn, nhân dân vô cùng phấn khởi, kẻ địch kinh hồn, bạt vía. Là bộ đội, tôi biết giá trị quý báu của trận Tua Hai trong tình hình cách mạng miền Nam sau Nghị quyết 15. Lòng hết sức khâm phục. Tất nhiên tôi cũng biết trận đánh sử dụng lớn cỡ tiểu đoàn hoặc hơn của cấp quân khu, có dùng đặc công kết hợp nội tuyến nên đạt kết quả lớn đến mức như vậy. Tôi cũng mong địa phương mình có hoạt động phục vụ phong trào dù với sức ta thì “mèo nhỏ bắt chuột con”. Có điều tôi cũng băn khoăn là mong tin chiến thắng về rồi cất chứ không tuyên truyền gì và cũng chẳng đề cập việc học tập vận dụng ra sao. Anh Bảy Thành cũng có trao đổi về diệt ác ở Nam Bộ là rộng, mạnh khắp các tỉnh nên phong trào không đến nỗi khó khăn như ở Bình Thuận, để bọn ác ôn còn lộng hành, đòi chặt đầu Việt cộng.

Biết chiến thắng Tua Hai, tôi nghĩ ngay đến việc đánh dinh điền Bắc Ruộng, phá đồn, đưa dân về để xây dựng căn cứ địa như chỉ thị của Liên tỉnh từ cuối 1958. Ở miền núi, phương châm đấu tranh vũ trang là chủ yếu, có bố phòng, xây dựng du kích, bộ đội, nhưng cũng phải có đánh địch giành lại dân thì mới xây dựng được căn cứ. Đất trống người thưa thế này thì làm sao xây dựng căn cứ địa? Có thể còn phải chống càn lớn mà vẫn không nổ súng thì làm sao giữ được số ít ỏi dân còn lại ở Tố La, Cà Dòn? Đánh như thế nào, đó là vấn đề phải tính kỹ. Ở cơ quan nay có anh Bảy Thành rất phù hợp nhau khi bàn chuyện đánh đá. Anh Bảy Thành người Củ Chi, cao lớn phốp pháp, nói năng rổn rảng, vui vẻ, cởi mở, là đại đội trưởng khi ở lại, được Đảng bố trí vào làm tư lệnh giáo phái Bình Xuyên, đã làm tổng tư lệnh Thiên Cao Bình Hòa chống Diệm với danh xưng trung tá Huỳnh Long. Lực lượng Thiên Chúa, Cao Đài, Hòa Hảo này rất phức tạp, một thời gian chúng rã đám hết. Anh đưa lực lượng Bình Xuyên do ta nắm xây dựng lâu nay về lại căn cứ miền Đông. Anh có tham gia trận Tua Hai. Có anh ủng hộ, tôi mạnh dạn đề nghị thường vụ tỉnh ủy cho đánh Bắc Ruộng đưa dân về. Nay đã đầu tháng 6, mùa mưa lâu rồi; để lâu mưa lụt càng khó khăn. Địch ở quận Hoài Đức có đại đội bảo an 512 đóng ở đồn chi khu, công an cảnh sát ở quận lỵ, dân vệ và thanh niên cộng hòa ở dinh điền Bắc Ruộng cách quận lỵ chỉ mấy trăm mét. Kế hoạch của tôi là phải sử dụng 2-9 lấy đặc công đánh đồn bảo an chi khu, bộ binh đánh quận lỵ và dinh điền để đưa dân về. Tuy kế hoạch có táo bạo, tương quan ta – địch cách biệt, nhưng nếu có chuẩn bị chiến trường kỹ, tranh thủ địch sơ hở, bất ngờ chủ động, xuất kỳ bất ý, công kỳ vô bị, thì nhất định thắng. Ý kiến của tôi là nếu không tranh thủ đánh trước lúc này, để đến lúc địch càn căn cứ, ta phải bị động đánh càn sẽ không có điều kiện đánh sâu hậu phương địch nữa, tất nhiên cũng không sao phá đồn đưa dân về được. Lý lẽ thì như thế, nhưng khi đề nghị, dù có anh Bảy Thành hết sức ủng hộ, tỉnh ủy cũng đặt ra biết bao vấn đề rắc rối phải giải đáp cho được. Đánh nhau là thành bại, thắng thua, xương máu nên phải thật chắc chắn, thận trọng là đúng; nhưng vấn đề đặt ra thật hóc búa mà không giải quyết được thì cũng không sao đánh được. Các vấn đề đó là : Liệu tôi và 2-9 có bảo đảm đánh nổi chi khu quận lỵ Hoài Đức và dinh điền Bắc Ruộng đưa dân về mà địch thì đông gấp mười ta? Hoặc chỉ nên, theo ý kiến anh Sáu Tú, là dùng một nửa 2-9 (tức một tiểu đội) vây đồn bảo an chi khu, nửa còn lại hỗ trợ Tánh Linh phát động quần chúng nổi dậy đưa dân về? Hoặc một cách khác là dùng 2-9 diệt các tên ác ôn đầu sỏ: quận trưởng, chi khu trưởng, chi trưởng công an và địa điểm trưởng dinh điền Bắc Ruộng để hạ uy thế địch, còn Tánh Linh thì phá dinh điền đưa dân về. Như vậy khỏi đánh lớn, không sợ sai phương châm. Việc đưa dân về cũng có hai ý kiến: một là, chỉ đưa về trước một số nòng cốt, nhiều nhất cũng chừng 1000 (trong số 5000 dân ở dinh điền), đưa về hết không giải quyết được nạn đói; hai là, đưa hết về vì để sau thì không biết đến bao giờ mới đánh lại được.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 13 Tháng Tư, 2019, 02:50:15 pm
Tôi khẳng định: nếu chuẩn bị chiến trường tốt thì chắc chắn đánh được; có đánh diệt được chi khu quận lỵ thì mới phá được dinh điền, đưa dân về; nếu không, bọn bảo an và công an cảnh sát không để cho ta đưa hàng ngàn dân ra khỏi dinh điền. Chủ động, bất ngờ tấn công thì 2-9 diệt được chi khu quận lỵ nhưng một tiểu đồi 2-9 thì dứt khoát không vây được đồn bảo an một đại đội, chưa nói đến vây cả quận lỵ và chi công an. Càng không thể nào diệt được bốn tên ác ôn đầu sỏ cùng lúc để huyện đưa dân về. Tóm lại, các phương án này đều không thực tế và đều không làm được. Chỉ có anh Tám Triều và anh Tiên đồng ý phương án của tôi đề nghị. Anh Sáu Tú và Hoàng Từ thì sợ đánh lớn sai phương châm, phải chịu trách nhiệm với Đảng, với cấp trên; hơn nữa ta chưa có phong trào mạnh như Nam Bộ, địch phản ứng mạnh càng khó khăn hơn. Thảo luận kéo dài đến giữa tháng 7, anh Bảy Thành nêu một ý kiến: “Theo kinh nghiệm Nam Bộ muốn bắt chủ nhà phải giết chó, không diệt được bọn bảo an, cảnh sát thì không đưa dân về được đâu!”. Cuối cùng, anh Sáu Tú đồng ý và tỉnh ủy nhất trí phải đánh diệt chi khu để đưa dân về. Hồi đó nguyên tắc cứng lắm. còn hai tỉnh ủy viên là Ba Đôn bí thư thị xã và Mười Râu bí thư Khu Lê không về bàn được vì phải lo phong trào, không thể vắng địa phương lâu. Các đồng chí bí thư Di Linh, Tánh Linh chưa phải tỉnh ủy viên, cả các chỉ huy 2-9 cũng đều không tham gia bàn bạc quyết định đại sự này.

Anh Sáu Tú vẫn hỏi tôi lần cuối:

- Anh Sáu Nam có bảo đảm chắc chắn là đánh diệt được chi khu quận lỵ và đưa được dân về không?

Xem như phải làm cam đoan miệng với bí thư, tôi kiên quyết trả lời:

- Chắc chắn được, nhưng phải cho tôi trực tiếp đi chuẩn bị chiến trường.

Thế là đại sự đã được giải quyết. Anh Sáu Tú xiết chặt tay tôi chúc thắng lợi. Tôi cũng cần nói thêm là tuy có sự chần chừ do dự rất lâu, suýt mất thời cơ, nhưng dù có chậm, tỉnh ủy cũng đã có quyết tâm, có chủ trương đánh, nếu không thì không có trận Hoài Đức – Bắc Ruộng, dù đây cũng là trận đánh chui vì tỉnh không dám báo cáo xin ý kiến Liên tỉnh. Khi đã chuẩn y thì tỉnh cũng tạo mọi thuận lợi cho tôi thực hiện. Đã là giữa tháng 7 năm 1960; tính thời gian thì cố gắng chuẩn bị chiến trường xong, tôi về cơ quan báo cáo phương án cho tỉnh ủy thông qua rồi mới đưa quân đi chiến đấu thì không thể nào kịp cuối tháng được, mà để sang tháng 8 thì lũ lụt lớn không sao đánh được nữa. Anh Sáu Tú bèn cử ngay một Đảng ủy và Ban Chỉ huy trận đánh do tôi làm chỉ huy trưởng, anh Tám Triều chính ủy bí thư Đảng ủy, các chỉ huy phó là Bảy Thành, Tư Thanh, đảng ủy viên thêm anh Bái, Ba Thành ở Tánh Linh lo việc đưa dân về, anh Tám Cảnh phụ trách dân công tải thương, chiến lợi phẩm và đưa dân Cà Dòn về. Tôi sẽ truyền đạt cho Tánh Linh. Khi tôi đi chuẩn bị chiến trường, tỉnh lo huy động dân công, 2-9 huấn luyện theo yêu cầu tác chiến. Để nghi binh lừa địch, cùng với việc cho anh em tập nói giọng Nam Bộ, tỉnh in truyền đơn rô-nê-ô với danh xưng “Lực lượng vũ trang tự vệ của nhân dân miền Đông Nam Bộ” như trận Tua Hai. Nếu 26 tháng 7, tôi không về tức chuẩn bị chiến trường có kết quả, toàn lực lượng hành quân đến Đội công tác Bắc Ruộng, Đảng ủy, Ban chỉ huy sẽ thông qua phương án tại đó. Tôi biết trách nhiệm mình rất nặng vì chính tôi đề xuất, nay được giao nhiệm vụ trực tiếp đi đánh trận này, nhưng tôi rất phấn khởi, yên tâm và tin tưởng sẽ hoàn thành nhiệm vụ.

Được lời như cởi tấm lòng, tôi gọi Tư Thanh cùng ba đặc công giỏi là Linh Giang, Sơn và Phi cùng tôi đi công tác gấp. Tiếc là Hội bị xốc chông bắp chân sưng vù, chưa chắc sắp đến đi đánh được. Bảo thì anh Sáu Tú đã bố trí đi miền Đông Nam Bộ nhận một số vũ khí không biết có về kịp không. Bảo và Hội là hai đặc công kỳ cựu và loại giỏi nhất mà vắng khi chuẩn bị và đánh cũng là một thiệt thòi; đành vậy thôi.

(https://lh3.googleusercontent.com/7MH5rWvJ9gifDxUAu7mQAGPtgOZ-SQnPYdoa1HjM8TFmn72uYfqA1cLFEOXKyMUuVxmyJ1_QDyjM1K_dqSebUiBuO3J6ABPpRMdLBAiWIvyqbd65XpOoQ2yKFfgUiu5x1a9fGiX4tZAkE501QOUnIWTZVklyEDKC1g9xoOvLRr4vXBKtE0Wa2cZ8m5yldmkObb0KvNF4SYZ8qKwT8gNUqGheWHIjsTs7eA8ht1BdDKr33KveyJhoMf0_wUwA0BdaLj1g_U2Sr9wDzr9L3Z7XeCEKjyINp7xb4ifH9vF5eRh2b_mEOy6g9BpLjkt1VP6SoLnlUvLT5LDc43BReAvUuPj0bPpt9bfurg3oYlMed2m_-MzqA2j1LSKwYalwA8FAIdk9jqjdpTJfyELN2SBHAu098JFYsrwV5WsYJ8bAeamHwYqU7D72MrfbR4wyS4RX30_eABlk5eMND6C8jw9GLWfq_kf0W1YhLLKl8eGhYIw_eJwR94II6Sl1Cr0-zb4YoyYSCKWY1ZcZ70sC31LikAwQlZvTMVxACwI6cF1cnEdovOrCY_0Ks4PglBLYUawIdHnuAILu0tMWJfG-gL6OUX1e5YQG9qo9sCYRmqOzqkuQrRYpE9NL_Qt4JGYJVxu74qSXp2GSH80A0dJB7x7zI0Bwg95RRg8=w800-h466-no)

Đảng ủy và Ban Chỉ huy trận đánh Bắc Ruộng. Trong ảnh - từ trái sang, các đồng chí:
Nguyễn Thanh Đức, Nguyễn Xuân Du, Nguyễn Gia Tú, Phạm Hoài Chương, Lê Khắc Thành.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 13 Tháng Tư, 2019, 02:51:18 pm
“Chuẩn bị chiến trường” là một thuật ngữ quân sự vắng bặt từ lâu, nay xuất hiện trở lại, khởi dậy một niềm rạo rực hăng say khó tả. Đã bắt đầu chiến đấu vũ trang thực sự rồi. Trận này phải thắng lớn để phục vụ đắc lực yêu cầu của chính trị - mục đích chính trận này là đưa dân về, trước lúc đi, anh Sáu Tú còn căn dặn tôi như thế - đồng thời xây dựng truyền thống đánh thắng lớn trận đầu cho 2-9, đơn vị kế thừa truyền thống vẻ vang của Trung đoàn 812.

Qua sông La Ngà nước ngấp nghé trên bờ, dòng xoáy cuồn cuộn bằng một thuyền con độc đáo, một khung sườn tre nhận chìm dưới nước, dưới chân một bụi tre lớn, kéo lên bọc ni lon nhanh gọn. Thuyền chở được ba người, một lái và hai khách. Anh Sáu Ốm trưởng Ban hành lang Tánh Linh điều khiển thật khéo léo điệu nghệ. Dòng sông rộng mênh mông, rều rác rất nhiều, không giỏi lách tránh, chỉ một nhành gai vướng vào làm lủng ni lon thì cả chủ và khách đều về hạ lưu tắp đâu đó làm mồi cho cá! Đặt chiếc ba lô ở mũi ghe, chông tiểu liên sẵn sàng nhả đạn nếu bờ bên kia có địch, nhưng ba chuyến đều an toàn. Bắt tay cảm ơn anh Sáu, anh nhìn theo đầy tình cảm, rất ngạc nhiên bởi đây là lần đầu tiên trong đấu tranh chính trị có một đoàn chiến sỹ đầy đủ súng ống, đi công tác đặc biệt. Trên đường ra trận, phong cảnh núi rừng hùng vĩ, cây lá xanh tươi, nắng vàng rực rỡ, thiên nhiên cảnh vật như cùng vui mừng chào đón người chiến sĩ ra chiến trường.

Các anh huyện ủy Tánh Linh hoàn toàn bất ngờ, mừng vui đến trào nước mắt, không ai có thể nghĩ là có một chủ trương lớn, táo bạo, vượt ngoài trí tưởng tượng như thế trong khi ở đây còn âm thầm móc nối cơ sở, ăn ở sinh hoạt chưa qua thời “đi không dấu, nấu không khói, nói không tiếng”.

Bắc Ruộng được Ngô Đình Diệm xây dựng thành một dinh điền kiểu mẫu, đích thân Diệm – Nhu và Trần Lệ Xuân đến đây trực tiếp đôn đốc nhiều lần, đưa quan thầy Mỹ và các đồng minh Anh, Úc, Phi, Mã Lai, Thái Lan đến tham quan, khoe khoang thắng lợi chính sách thượng du vận của Diệm. Dân số lên đến trên 5000, cuộc sống người dân dinh điền không khác một trại tập trung, một nhà tù lớn như mọi nơi khắc miền Nam. Bà con luôn hướng về cách mạng, nghe tin bộ đội đánh ở La Hon, họ rất mong bộ đội về giải phóng mình; đánh thắng thì dân sẽ về núi hết, việc đưa dân về là thuận lợi.

Rõ ràng địch có nhiều sơ hở. Trong hai đêm, cả ba mũi đều chọn được hướng đột nhập, vào đến bờ thành đồn bảo an chi khu. Thắng lợi bước đầu này rất quan trọng, tôi mừng vô hạn. Trước đó, một cơ sở bảo an gửi ra cho anh Bái một sơ đồ chi khu, tuy đơn sơ nguệch ngoạc nhưng cũng hình dung được đồn, hỗ trợ thêm cho đặc công (có điều là cả sơ đồ cơ sở vẽ và xác định ban đầu của đặc công (ban đêm) đều là đồn bốn góc, bốn lô cốt, nhưng khi đánh lại là đồn ba góc, ba lô cốt thôi). Đêm sau, tôi và Tư Thanh đi kiểm tra, tiếp cận các đồn ở hướng chủ yếu. Cách đồn hơn trăm mét, tư Thanh bị ho nhiều, là bộ binh, đêm khuya ở trần vào sát địch, tâm sinh lý thường bị vậy, tôi phải để Tư Thanh ở ngoài, tôi và Giang vào gần lô cốt cạnh cửa sau đồn mà trong phương án tôi đặt tên là lô cốt 1. Đêm ấy, lính trong đồn đóng dày đặc, các khu vực quận lỵ cũng phải đến cả tiểu đoàn, chắc là lính cộng hòa tiểu khu Bình Tuy đến để đi càn căn cứ. Tôi quan sát rõ rào, bờ thành lô cốt, cạnh cửa sau có một lính gác. Lô cốt vuông cao hai tầng, đầy lính. Giang đến bờ thành phía trái tôi để vào bên trong. Phía trái tôi giữa hai lớp rào có một nhà, có đèn và lính gác, chắt là một chốt gì đó mà kế hoạch tác chiến phải tính đến, sau đánh biết đó là trại tù. Mấy tiếng sau, Giang quay lại cùng tôi ra gặp Tư Thanh rồi quay lại ngụy trang cỏ lối ra vào vì Giang cho tôi chưa phải đặc công nòi, chắc còn để lại dấu vết e mai địch phát hiện. Đặc công là chu đáo, tỉ mỉ như vậy. Nước suối Đạ Cọp sau đồn chỉ tới ống quyển.

Khi đêm Giang và Sơn đều nằm trên mặt bờ thành bằng gỗ đất rộng 0,6 mét nhưng vì sấm chớp liên tục, trong đồn lại quá nhiều lính nên cả hai đều không dám vào. Nhưng đạt được mức đó thì cũng bảo đảm đánh được để tôi hạ quyết tâm. Đồn bảo an xem như xong. Ở quận lỵ, Phi vào đến nhà quận trưởng và chi công an (sau đánh biết là quận lỵ còn có trụ sở dân vệ quận cả trung đội). Vì quá ít người và thời gian nên không đi điều nghiên dinh điền; ở đây chỉ có một trung dân vệ và một số thanh niên cộng hòa, khi đánh có đội công tác dẫn đường là được. (Và cũng sau đánh mới rõ là đồn 3 góc và 3 lô cốt thế mà cả cơ sở trong đồn đặc công đều nắm sai! Cơ sở tên là Kờ Nghĩa, hôm đánh không liên lạc được, sau trận mấy ngày, mới thoát về căn cứ, gia nhập bộ đội địa phương Tánh Linh, hy sinh năm 1967 lúc đó là trung đội trưởng. Tôi không có dịp gặp Kờ Nghĩa nên không hỏi được vì sao anh ta ở trong đồn mà cũng vẽ sai).


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 13 Tháng Tư, 2019, 02:52:24 pm
Chiều 28 tháng 7 năm 1960, 2-9 và 170 dân công đã đến. Đêm 29 tháng 7, cho dẫn các mũi đánh nhà quận trưởng, chi công an đi trinh sát thực địa, đã tiếp cận được mục tiêu. 2-9 đi tác chiến 21, Tánh Linh tham gia bốn,  tỉnh đội có tôi, Bảy Thành và Bảo, tất cả 28 tay súng trực tiếp chiến đấu. Tôi sử dụng bảy đặc công đánh đồn bảo an và lô cốt độc lập. Hội tuy chân còn sưng cũng có mặt vì cho là không thể thiếu trong trận đánh lịch sử này. Bảo vừa về kịp nên tôi có thêm một trung liên, một tôm-xông, một súng trường, một thùng đạn và một thùng lựu đạn Tua Hai còn mới nguyên rất quý vì đạn và lựu đạn của chúng tôi lép nhiều quá. Nếu đêm đánh, địch có cả tiểu đoàn như hôm tôi đi kiểm tra thì cũng quyết đánh; càng nhiều địch, ta diệt sinh lực chúng càng nhiều, chiến thắng càng lớn. Vì lực lượng quá ít nên tôi vừa chỉ huy chung vừa trực tiếp đảm nhiệm một mũi, cùng Vinh đánh lô cốt 1 để đặt Sở Chỉ huy tại đây. Chiếm xong đồn, tôi sẽ dời Sở Chỉ huy đến cột cờ giữa đồn (Nói là Sở Chỉ huy thật ra chỉ có tôi, không trợ lý, y tá, liên lạc gì cả). Diệt lô cốt 1 rồi thì Vinh là bảo vệ cho Sở Chỉ huy. Phương án được nhất trí hoàn toàn; tính tỷ lệ: ta một địch hơn 10 nhưng không ai lo lắng gì cả, phấn khởi, quyết tâm cao.

Mới trưa 30 mà trời đất tối sầm, mây giăng đen nghịt, gió giật ào ào, sấm chớp đinh tai, mưa tuôn xối xả, các khe rãnh nước cuồn cuộn chảy, các láng trống ngập đầy ắp nước. Bộ đội, dân công đội mưa tập hợp giương cao một lá cờ đỏ sao vàng. Chính ủy Tám Triều vừa đọc động viên lệnh vừa vuốt mặt. Tôi hạ đạt mệnh lệnh hành quân và tất cả lên đường dưới trời mưa tầm tã, đoàn quân bì bõm trong nước. Trời đã tối mà vẫn còn trong rừng sâu, mỗi người lấy một mảnh vỏ cây mục có lân tinh dắt vào lưng bám nhau. 21 giờ mới ra khỏi bìa rừng, tạnh mưa nên đi khá nhanh. Đã thấy ánh đèn pin của các lô cốt, của bọn lính tuần, vài tiếng chó sủa xa xa. Nước suối Đạ Cọp lên quá ngực, chảy xiết, bước xuống bị xô tróc ngay, phải đội quần áo, súng đạn, bíu chặt thành một hàng nhích từng bước, nước réo ào ào nghe đến khiếp, có địch đi gần chắc lộ ngay, hồi hộp, nín thở, căng thẳng quên cả lạnh.

Tôi và Vinh đi sau mũi Hội, chui qua hai lớp rào thì có ánh đèn pin sáng lóa lướt qua đầu tôi rồi dừng lại, tên lính gác cửa sau nghi gì đó, một lúc không thấy gì, nó tắt đèn. Tôi vượt nhanh qua rào cuối, bóng tổ Hội đang tiến đến bờ thành. Lô cốt 1 đêm nay không có địch. Nằm sát đồn trống trải chờ G, xung quanh lặng lẽ, các mũi khác vào mục tiêu cả rồi. O giờ, một ánh chớp sáng lòa bừng lên trong đêm cùng một tiếng nổ như sét đánh phát ra từ trong chi khu, tiếp theo lựu đạn nổ dồn dập. Vinh áp sát tên lính, tôi vọt ngay vào lô cốt, lên nóc nhà thổi còi liên tục và quay tròn đèn pin các hướng báo hiệu tiến công. Phía nhà quận trưởng, lô cốt độc lập, chi khu đều có tiếng súng. Khẩu trung liên ba của Anh nã vang rền giòn giã đĩnh đạc. Hướng dinh điền cũng có tiếng nổ. Toàn mặt trận đều đã tấn công.

- Anh Sáu, anh Sáu! – Có tiếng Vinh gọi gấp gáp, tôi tụt ngay xuống. Vinh và tên lính đang giằng co nhau. Vinh dí súng vào bụng tên lính bóp cò nhưng đạn lép, nguy hiểm quá. Lập tức tôi dí khẩu côn-đu vào chấn thủy tên lính nổ một phát, tên lính đổ gục. Tôi nhặt khẩu trường mát 36 sung sướng khoác vào vai, đây là khẩu súng chiến lợi phẩm đầu tiên của trận đánh. Mới 5 phút, Hội đến báo cáo:

- Xung trận nội rồi anh!

Tôi xiết tay Hội, mừng khấp khởi:

- Tốt lắm, tảo trừ thật kỹ, tìm và chiếm ngay kho vũ khí.

Hội quay đi, ánh đèn pin loang loáng trong đồn cùng tiếng nói giọng Nam Bộ: “Rọi đèn binh vô đây lẹ lên, tụi nó núp kia cà!”. Vài chục phút sau, Hội trở lại: Tảo trừ hết rồi, tù hàng binh rất đông. Mở được kho vũ khí rồi, súng đạn nhiều lắm.

Cùng lúc Bảy Thành bên quận lỵ sang, giải theo lúc nhúc tù binh.

- Anh Bảy cho dồn hết tù binh vào góc đồn, giáo dục cho tới khi nào đánh xong mới tha. Còn Hội ra đưa anh Tám vào cột cờ và cho dân công vào thu chiến lợi phẩm ngay.

Hội vừa ra đến cửa trước, bỗng ngồi thụp xuống quát to:

- Nằm xuống, bỏ súng, đưa 2 tay lên!


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 13 Tháng Tư, 2019, 02:53:31 pm
Bọn lính nằm răm rắp, cố đưa tay lên trông thật buồn cười. Một tiểu đội địch đi tuần về, thấy trong đồn im tiếng súng bèn kéo vào. Hội đã nhanh trí bắt gọn. Dân công vào ra mang vác chiến lợi phẩm nườm nượp. Tư Thanh cũng đến cho biết khi diệt tên lính gác, anh em trong nhà kêu lên cho biết đây là trại tù, mở cửa ùa ra, ôm nhau mừng rỡ, hơn 40 cán bộ và cơ sở người Thượng các xã trong dinh điền bị bắt nay được giải phóng mừng quá, nhập ngay vào đoàn dân công thu chiến lợi phẩm. Anh em nói là Y Tài, thiếu úy chi khu trưởng, đêm nào cũng về trại gái với vợ. Tôi lấy mấy người biết mặt Y Tài cùng tôi sang trại gái, gặp Y Tài đang ở trần, lẫn lộn trong số vợ con lính, thu một súng ngắn đạn đã lên nòng. Nhà tên quận trưởng trung úy Vương Văn Hòa là một nhà sàn cao, có bao cát xung quanh, chúng cố thủ bắn trung liên chống trả dữ dội, ném lựu đạn liên tục xuống xung quanh nhà. Là bộ binh, phải ưu tiên cho chi khu nên không tiếp cận được. Tôi cử Tư Thanh và Tám Hội sang giúp Mười Lang giải quyết. Đã hơn 3 giờ sáng mà vẫn chưa xong. Phải đánh hỏa công thôi, anh Tám Triều lấy một thùng dầu lửa để anh em đốt nhà quận tưởng. Thấy dân công đã thu hết chiến lợi phẩm trong đồn, tôi bèn qua đốt trại gái và nhà tù để hỗ trợ cho Mười Lang và Việt ở dinh điền nhanh chóng dứt điểm. Tôi dặn anh em phải cho vợ con lính đem hết tài sản họ ra sân rồi mới đốt nhà. Ngọn lửa bốc cao sáng rực một góc trời. Biết đã mất chi khu, bọn ở nhà quận trưởng hoảng hồn nhảy đại xuống đất lủi trốn. Ở dinh điền, từ khi nổ súng, Việt gọi hàng nhưng dân vệ cộng hòa đầy đủ súng nên chúng bắn trả, không hàng. Thấy quá lâu ở hướng đồn vẫn có tiếng trung liên lựu đạn kéo dài, Việt và anh Bái tưởng ta không dứt điểm đã lui rồi, cũng tính muốn rút, sợ đến sáng mà vẫn còn giữa đồng nước mênh mông thì khó thoát. Vừa thấy ở đồn cháy sáng rực, mừng vô kể, Phi cũng kịp đến báo tin, Việt kêu gọi, tất cả dân vệ, thanh niên cộng hòa đều nộp súng. Anh Bái kêu gọi bà con trong dinh điền:

- “Cách mạng về giải phóng rồi (cụm từ này không có tiếng Thượng phải dùng tiếng Kinh). O mi me pạp lọt hơi hơl ri tờ bol ri pờ nom” (đồng bào mau đi về xóm làng núi rừng).

Bà con đã théo dõi trận đánh, thấy lửa cháy lại nghe tiếng anh Bái kêu gọi tức thì mọi người bung ra, mang đồ đạc của cải, dắt theo chó, ngựa, heo, dê theo đội công tác về núi. Có người đốt nhà cháy lên, vậy là tất cả đểu châm lửa, khu dinh điền bốc cháy ngùn ngụt.

Đánh xong, giờ phải lo chặn viện, bảo vệ cho dân về đến căn cứ an toàn, đường còn rất xa lại qua nhiều núi cao, sông sâu trong mùa mưa lũ. Giáo dục tù hàng binh và phóng thích xong, tán phát truyền đơn, thiêu hủy toàn bộ đồn bót, doanh trại địch rồi lui quân, 2-9 cử một bộ phận bám khu vực đồn, còn lại đi bảo vệ đoạn hậu. Hàng người ùa ra khỏi dinh điền ồn ào náo nhiệt như ong vỡ tổ. Tôi cùng anh Tám Triều, Bảy Thành đến chỗ đoàn người qua suối Đạ Cọp, nước rất lớn, bà con mang nặng, cả người già, người bệnh, trẻ em qua suối rất vất vả, chậm chạp. Chúng tôi tìm một sợi thừng to buộc giăng ngang suối; từ đó tất cả bám dây qua vững và nhanh hơn nhiều. Mặt trời càng lên cao, chúng tôi càng lo lắng, địch viện lớn đến nổ súng thì dân tan tác, làm sao bảo vệ? Kế hoạch tước đó là đánh trận xong, huyện và đội công tác đưa dân vệ, 2-9 chia hai bộ phận, lấy xe của quận phát triển hai đầu, đánh Huy Khiêm, Tề Lễ để phân tán đối phó của địch; nhưng đánh rồi, mấy ngàn người đông và phức tạp không tưởng tượng nổi, chúng tôi không phát triển tấn công nữa, chỉ tập trung bảo vệ dân. Đánh vừa rồi không thương vong ai là rất quý, đi đánh nữa có thương vong thì khó khăn nhiều; vấn đề cấp bách hiện nay là đưa hết dân vào núi càng xa càng tốt. Mãi quá trưa, tốp dân cuối cùng qua hết suối. Địch chưa viện đến, 2-9 đi sau dân một quãng. Dân Cà Dòn, đoàn chiến lợi phẩm, anh Tám Cảnh đi đầu; Tư Thanh nắm một tổ có trung liên làm tiền vệ. Anh Bái, Ba Thành đi với dân các xã La Dạ, La Ngân, Măng Tố, Bắc Ruộng, Tố La. Tôi cùng anh Tám Triều, Bảy Thành vượt nhanh lên đoạn giữa để điều khiển chung. Đã xế chiều mà dân vào núi mới mấy cây số. Bà con đi chậm kinh khủng, gặp rau, mưng, đọt mây là hái, bẻ, chặt, nhóm bếp nấu ăn dọc đường, họ tin tưởng đã có bộ đội thì không sợ gì nữa, còn chúng tôi đánh xong bây giờ mới là bắt đầu công việc đưa dân nặng nề. 17 giờ, có nhiều tiếng súng nổ phía sau xa xa, quân viện đã đến.

Dừng giữa rừng ngủ qua đêm, trời vẫn mưa, bà con làm thum, ướt át thật thương cảm. Sơn về, cho biết địch đến khoảng 16 giờ, xét hỏi tù binh, kiểm tra trận địa, xem truyền đơn rồi đuổi theo độ một đại đội; tổ Sơn đánh một số lần, diệt mấy tên, tối nên chúng lui ra đồn. Vậy địch còn tại quận, chắc chắn ngày mai còn đuổi theo. Biết có địch ở sau, hôm sau đi nhanh một chút, nhưng đường núi, các trận mưa lớn cùng hàng ngàn người xéo dẫm làm đường nhão nhoẹt, to như đường voi đi, dù có mù cũng không lạc lối. Mong sao hôm nay qua khỏi sông Đạ Là Ngào để Măng Tố, Tố La tách về căn cứ; tiếp đó là La Dạ, La Ngâu cũng rẽ nốt; chỉ còn Cà Dòn qua Tạ Mỹ và Là Ngà nữa là xong. Nhưng từ trưa, 2-9 đã đánh địch liên tục cho tới chiều. Rõ là đêm đó địch và ta đều ở trong rừng sâu, phải là lực lực lượng lớn mới truy đuổi ráo riết như vậy. Trăm phần nguy hiểm, dân chưa về đến nơi, nhiệm vụ chưa tròn; nỗi lo còn nặng hai vai. Về chiều, dân từ trên đầu núi đổ xuống bờ sông Đạ Là Ngào đông đặc, nước sông tràn đầy, sóng xô cuộn réo, không sao qua được, phải dừng ngủ chờ nước rút và bắc cầu. Lúc này mà địch từ trên đầu núi đánh xuống thì thật là thảm họa, chiến thắng quân sự không còn mà tổn thất chính trị thì không sao lường hết, trách nhiệm với dân với Đảng biết tính sao đây? Những người Cà Dòn nhiều kinh nghiệm ra sức đốn cây to đổ ngang làm cầu qua sông trong đêm mới yên lòng. Nhưng vừa ngã xuống là dòng nước cuốn phăng đi mất. Đã gần sáng, hạ nhiều cây rồi mà chưa có cầu, nước vẫn to. Đầu óc thật căng thẳng, lòng như lửa đốt, niềm vui chiến thắng đã nhường cho nỗi lo âu tràn ngập. Tôi bèn cho Mười Lang đưa cả 2-9 quay lại bên kia núi vài cây số phục, tập trung hỏa lực đánh một trận cho ra trò, đuổi địch lui thì dân đi mới yên, chỉ đánh du kích như vừa rồi nó không sợ. Sáng rõ, đồng bào càng dồn xuống đông nghịt, thật nguy hiểm nhưng nõ nào ngăn lòng ham muốn được qua sông của bà con! May mắn làm sao, một cây to vừa đổ xuống mắc vào một tảng đá lớn thành một chiếc cầu nhưng còn một đoạn hơn 5 mét chìm dưới nước. Một đường mây to được buộc nối vào bờ, lập tức đoàn người qua sông cuồn cuộn, gần trưa thì qua hết Đạ Là ngào. Có tiếng súng nổ dữ dội, cả cối, đại liên vang rền. 2-9 đánh lớn rồi. Mấy tiếng sau, 2-9 về đến bờ, sang sông rồi chặt cầu cho trôi theo dòng nước. địch không theo nữa. Hai ngày bị đánh du kích nhỏ, chúng xem thường, hôm nay cậy đông đi ồ ạt không đề phòng, sáu trung liên ta đồng loạt quét mãnh liệt, lựu đạn từ trên cao dội xuống dồn dập; bất ngờ bị quá nặng, địch đổ gục hàng loạt, chạy tan tác; đêm đó phải bắn pháo sáng cả đêm để gom nhau. Sáng sau giải quyết hậu quả rồi quay về, bỏ cuộc. Qua khỏi Đạ Là Ngào, đêm nay chúng tôi ngủ yên lành bên kia sông Tà Mỹ. Còn một số lớn dân Cà Dòn, dân công tải chiến lợi phẩm, 2-9, hơn ngàn người phải qua sông Là Ngà lớn nhất, hung dữ nhất thì mới hoàn thành việc đưa quân về.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 13 Tháng Tư, 2019, 02:54:09 pm
Tinh thần thư thới hơn nhưng nỗ lo chưa dứt vì lúc 9 giờ qua đường La Dạ thấy dấu độ một tiểu đoàn địch lên trước rồi. Dừng bên bờ sông La Ngà cách đường không xa lắm, sông đầy ắp, nước xoáy cuồn cuộn, qua bằng cách nào? Đóng vài trăm bè cũng mất cả ngày, nước lũ hung dữ, bè đi ngang vô cùng nguy hiểm, dễ bị lật, không thể liều lĩnh được, chỉ có cách làm cầu treo thôi. Giữa trưa, cả ngàn người nấu nướng lửa khói xông lên ngùn ngụt một vùng trời, thời đó chưa có máy bay, mấy năm sau mà như vậy thì có mà chết! Các cụ già Cà Dòn đầy kinh nghiệm đã đưa được một đường trục bện sáu đường mây to bằng bắp tay qua sông, chúng tôi đu dây qua được để cảnh giới và liên lạc nhà. Làm cật lực suốt đêm, đến 8 giờ sáng đã có một chiếc cầu treo vững chắc qua được dòng nước đang ngấp nghé tràn bờ. Xóm nào qua cầu là có sẵn cán bộ xóm ấy đón ngay về căn cứ. Đến đây mới thực sự hoàn thành nhiệm vụ. Chúng tôi ngủ bên bờ sông La Ngà một đêm thoải mái, yên lành, trút bỏ bao nỗi lo âu căng thẳng từ lúc đội mưa xuất quân chiều 30 tháng 7, đến chiều 4 tháng 8 này mới nhẹ nhàng khoan khoái với niềm vui trọn vẹn.

Về cơ quan thấy có anh Lê Tự Nhiên, Liên tỉnh ủy viên đi công tác Nam Bộ, biết Bình Thuận đánh Hoài Đức bèn chờ xem kết quả. Anh rất ngạc nhiên với chủ trương táo bạo, bất ngờ này của Bình Thuận, vì Liên tỉnh nào có biết gì. Thời đó nguyên tắc ghê gớm, anh hỏi có vẻ khiển trách:

- Một chủ trương lớn như vậy, sao tỉnh không xin ý kiến trước?

Anh Sáu Tú cũng trình bày là Cà Dòn, Tố La bị dồn từ đầu tháng 5 đến nay chưa thây chỉ thị của Liên tỉnh, nay không làm thì mưa lũ sẽ không làm được nữa. Vừa có tin dân về, ai cũng mừng vui. Tôi báo cáo vắn tắt diễn biến trận đánh, cùng năm ngày đưa dân về, vừa đánh viện vừa vượt mưa gió, sông suối lũ lụt. Anh Tám Triều, Bảy Thành bổ sung các chi tiết lý thú và nghẹt thở suốt 5 ngày qua, những lo âu phiền muộn, mất ăn ngủ, mưa to gió lớn, phía trước sông nước tràn đầy, phía sau địch truy sát gót, tình trạng hàng ngàn người trong cảnh nguy ngập khôn lường, chỉ sợ dân tổn thất thì chiến thắng không còn mà không biết chúng tôi còn để về chịu tội với Đảng và cấp trên không? Nhờ bộ đội chiến đấu ngoan cường, cán bộ, đồng bào nỗ lực vô biên, mọi việc đều trót lọt yên lành, đạt yêu cầu cả quân sự chính trị, 2-9 xây dựng được truyền thống “đánh thắng trận đầu”. Anh Lê Tự Nhiên, các anh ở nhà đều thông cảm những điều đó và rất vui mừng về kết quả đạt được. Về mặt diệt địch, bồi dưỡng ta, trận đánh đã diệt, bắt trên 300 bảo an, dân vệ, công an cảnh sát, thanh niên cộng hòa có vũ trang (30 súng/180 thanh niên cộng hòa) toàn bộ bộ máy cai trị quận Hoài Đức và Bắc Ruộng, gồm đại đội bảo an 513 chi khu, một đại đội dân vệ quận, một trung đội công an chiến đấu có thiếu úy chi khu trưởng Y Tài, địa điểm trưởng dinh điền Phan Văn Khôi, chi trưởng công an Trung úy quận trưởng Vương Văn Hòa bị thương nặng. Thu trên 250 súng các loại (có 12 trung liên, 10 tiểu liên, chín súng ngắn), nhiều đạn dược, quân trang quân dụng, thiêu hủy toàn bộ đồn bót, doanh trại và nhiều cơ sở vật chất của địch. Chưa tính số ta diệt trong đánh viện từ 1 đến 3 tháng 8, ta không hy sinh ai, chỉ bị thương ba (một trong đánh đồn, hai trong đánh viện). Số dân đưa về lúc đầu, chúng tôi báo cáo cho Liên tỉnh là hơn 4.000. Sau khi căn cứ ổn định, kiểm tra đầy đủ, huyện báo cáo cho tỉnh là hơn 5.000 (Trước Hội thảo Hoài Đức – Bắc Ruộng tháng 7 năm 1993, chúng tôi đi Tánh Linh và các xã Đông Giang, La Ngâu, Măng Tố, Bắc Ruộng cũng xác định lúc phá đồn đưa về là 5.200 (Tố La 1.800, La Dạ 1.200, Cà Dòn 900, Măng Tố 800, La Ngâu 400 và Bắc Ruộng 100).

Tiểu đoàn địch mà chúng tôi thấy dấu ở đường La Dạ đã đến Cà Dòn trước chúng tôi, nhằm đánh bắt lại số dân đã thoát về và số dân còn lại; nhưng vì bố phòng dày, có đánh du kích bụp xẹt tiêu hao chút đỉnh, rất sợ vũ khí thô sơ, chúng không dám bung rộng, có 2-9 về đánh sát thương thêm, ấy ngày sau chúng rút luôn.

Anh Lê Tự Nhiên đã nhận xét như sau:

- “Chiến thắng Bắc Ruộng mở ra nhiều vấn đề mới, lần đầu tiên lực lượng vũ trang còn nhỏ của tỉnh đã diệt gọn một chi khu quận lỵ, phá tan một dinh điền, gây cho địch tổn thất nặng nề về quân sự, chính trị, lực lượng và của cải vật chất, ngụy quân – ngụy quyền bị một đòn đau choáng váng. Chiến thắng đã bồi dưỡng lớn vũ khí trang bị, tạo thuận lợi xây dựng phát triển lực lượng vũ trang tỉnh nhà, gây niềm tin tưởng phấn khởi trong nội bộ. Ý nghĩa quan trọng lớn là đã đưa tất cả số dân Thượng bị dồn từ trước và gần đây về lại xóm làng có sản xuất, bố phòng, phát triển du kích chiến tranh, mở rộng căn cứ miền núi cả ngàn ki-lô-mét vuông (bắc tới Đinh trang Hạ đường 20, đông đến Bao Tuân đường 8, tây giáp Bắc Ruộng, nam nối Hàm Thuận), có một khối nhân vật lực lớn để xây dựng căn cứ vững mạnh, thực hiện xuất sắc chỉ thị của Liên tỉnh và phá đồn, đưa dân về núi. Chiến thắng cũng tạo khí thế cho quần chúng đấu tranh, làm cho đấu tranh vũ trang phát triển và hỗ trợ đắc lực cho đấu tranh chính trị…”.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 13 Tháng Tư, 2019, 02:56:07 pm
Sau này, ta biết khi nghe báo cáo chi khu Hoài Đức bị diệt, 5.000 dân Thượng phá dinh điền Bắc Ruộng kéo hết về núi, Ngô Đình Diệm nổi khùng lệnh cho tướng Thái Quang Hoàng đem cả sư đoàn 5 đuổi theo với chỉ thị là “mất súng không cần nhưng mất dân Thượng là không được, phải bắt lại hết”. Hoàng xem xét trận địa, xem truyền đơn, khai thác số tù binh ta thả, cho là lực lượng Nam Bộ ra đánh nhưng cũng chỉ một đại đội, bèn cho hai trung đoàn truy kích hướng Võ Đắc Nam Bộ, một trung đoàn đuổi theo bắt dân lại. Thế là Hoàng đuổi theo bóng ma, còn số truy bắt lại dân cũng không thực hiện được cái mệnh lệnh kỳ quặc đó của Ngô Đình Diệm.

Đánh Hoài Đức – Bắc Ruộng đưa dân về là đúng, anh Lê Tự Nhiên đã nhận xét tốt nhưng tỉnh cũng chưa hết nỗi lo, còn chờ ý kiến của bí thư Liên tỉnh nữa. Mấy hôm sau được báo cáo, anh Năm A điện trả lời, không quở trách, không khen mà có chỉ thị: “Phải kiên quyết chống càn, giữ cho được số dân mới giành về, không để địch tái dồn; gấp rút phát triển, củng cố lực lượng chính trị và du kích, giải quyết đời sống cho dân. Nhanh chóng mở lên Nam Tây Nguyên và xuống đồng bằng. Lãnh đạo phải có quyết tâm cao, chỉ đạo kịp thời”. Chúng tôi thở phào nhẹ nhõm. Vậy là đánh đúng. Không khen cũng được, nhưng có chỉ đạo cụ thể là chỗ dựa vững chắc để yên tâm thực hiện. Cũng còn một chuyện lạ lùng, đánh Hoài Đức – Bắc Ruộng xong, năm ngày sau dân mới về đến nơi, tỉnh ủy mới biết, địch truy kích lên căn cứ một tuần. Tin tức Hoài Đức – Bắc Ruộng đã bay xa khắp nơi, dân ở đồng bằng trong tỉnh cũng biết, cơ sở đã báo cho cán bộ Hàm Thuận trước khi tỉnh thông báo xuống. Tôn Thất Đính – tư lệnh quân khu 3 ngụy thú nhận: “Sau Tua Hai – Tây Ninh thì Bắc Ruộng – Bình Tuy là thất bại chua cay của quân lực Việt Nam cộng hòa…”. Tỉnh cấp cho mỗi huyện vài chục súng trang bị cho bộ đội huyện, nhưng lại bảo các huyện là có ai nói về trận Hoài Đức – Bắc Ruộng thì nói là Nam Bộ ra đánh để địch khỏi phản ứng gây khó khăn phong trào, còn căn dặn ở đồng bằng chưa nên nổ súng đánh địch mà chỉ tự vệ khi cần thiết… (tham luận của đồng chí Nguyễn Văn Bổn, nguyên bí thư Hàm Thuận trong Hội thảo chiến thắng Hoài Đức – Bắc Ruộng). Địch bị ta nghi binh chỉ mắc lừa lúc đầu thôi, nó đâu có dại chỉ cho là Nam Bộ ra đánh mà không phản ứng gì đối với Bình Thuận. Đồng bào cũng biết, đã thông tin cho nhau; rất mừng là tỉnh ta cũng có bộ đội đánh giặc, còn tỉnh thì im lặng không tuyên truyền phát huy gi, vì sợ địch phản ứng. Biết làm sao được!

Phải 33 năm sau, trong hội thảo khoa học về chiến thắng Hoài Đức - Bắc Ruộng do tỉnh tổ chức vào các ngày 28-29 tháng 7 năm 1993 tại Phan Thiết và lễ kỷ niệm dúng ngày 31 tháng 7 tại địa điểm dinh điền Bắc Ruộng ngày xưa thì mới có sự đánh giá đầy đủ và đúng tầm vóc của chiến thắng lịch sử nỳ. 40 bài phát biểu của các đồng chí lãnh đạo các cấp, các tướng lĩnh, sĩ quan, các nhà khoa học, giáo sư ở thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Quân khu 5, Quân khu 7, Bình Thuần đã phân tích ý nghĩa sâu sắc và giá trị to lớn của chiến thắng Hoài Đức – Bắc Ruộng, rút ra bài học kinh nghiệm quý báu cho ngày nay và mai sau. (Xem phần phụ lục: Một số ý kiến trong hội thảo khoa học về chiến thắng Hoài Đức – Bắc Ruộng).

(https://lh3.googleusercontent.com/HiQ9ThNxmNMGTog1ygXoe0cI1qP48TNVeC-eIhEMRJtKfiK0UJGegYmXdx8eHIS1PrJQYZpD7G66a7r4QUekN-xLrxyRYRLKtv0VytxVkK84RgvOgVscUWQm94OD2XRotnNHpskreqUVvrssddbJVXL0IzhHWdzCIY2ADuBRd-AKbFiaVpvtKqwnmOZMS9c-EByA-DEJf86HzF--pyP1IEzFdPwE8ZpiEzEaFS9Xv9yqRc5dLo8phiMqBpWAoc1dn1i3HUBQYXFYVJjGELpE2Dg7U08ThuMD8emjxrbQtlQ3ganz_Ml1kEdFNd_rRBJXIXK2ZmwLg6YW8cXup2mc-UY99k4c9fXI55YwgNQ4ik_VubfhaEbBtNvlKV4p5sYtRWfFEgM-5GCVWFDgUYkDpRyhyByCasivhEZo0i3MI4zpvJYILv890pLZEjpJRYNB11txCL2ib9btUw1uTcF_dXKBSD7jKs2IGrsT-rfsy40Pr-kxjOrHFYKXQQhq1-UV26HbwgINH1pPBxAw2HQ1oyO3mpko0e24Ugu_52biXxiZqeuITGdVFZK7PP6oHE37NKf0ZBIb859VkGG4kP2moHcaLdtfv8eRnM973tt-F5-qaFK95EY1cS6KUg2vjTA55YVwVOi9ZsO5HiV9YOvLMHHrHLZaejs=w1200-h765-no)


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 13 Tháng Tư, 2019, 02:57:03 pm
Sau trận Hoài Đức – Bắc Ruộng mấy năm, tôi có hỏi anh Trần Lê:

- Đi đánh về, báo cáo Liên tỉnh, được điện trả lời, thấy anh không quở trách thì rất mừng, nhất là được sự chỉ đạo cụ thể của anh về những việc phải làm ngay sau trận đánh để xây dựng căn cứ và mở phong trào, nhưng hồi ấy ý kiến của anh về trận Hoài Đức – Bắc Ruộng như thế nào?

- Thật ra mình cũng lo vì chưa thấy trên chỉ đạo gì mới thêm. Khi Liên tỉnh đánh Tà Lú – Ma Ty giải phóng 5000 dân Bác Ái, bao cáo lên Liên khu, các ảnh điện xuống biểu dương Liên tỉnh 3 và chỉ thị các Liên tỉnh khác đẩy mạnh hoạt động vũ trang hỗ trợ mở phong trào thì mình mới mừng.

Thì ra, cả Liên tỉnh cũng còn sợ đánh không đúng phương châm nữa là!

Địch không cam chịu mất dân cay đắng như thế bèn tổ chức càn quét lớn liên tục vào căn cứ như Tố La, La Dạ, Con Sỏ, Bô Cao, v.v. để tái dồn dân. Ngoài việc bố phòng vũ khí thô sơ và đánh du kích của từng thôn xóm, 2-9 cũng phải đánh cho được địch, bẻ gẫy càn để bảo vệ dân. Tại Con Sỏ, địch dùng cả tiểu đoàn lính và bọn học sinh hạ sĩ quan ở Lâm Đồng xuống càn quét cả tháng, đến đâu cũng đốt xóm, đốt kho, bắn hết trâu, heo. Lúa đang trổ đòng, đỏ đuôi sắp thu hoạch mà lính dàn hàng ngang cả trăm tên quất phá, cốt cho dân đói phải chạy về vùng địch. Phải bảo vệ mùa màng, có giữ được lúa mới giữ được dân. Cũng vẫn còn một điều ràng buộc, anh Sáu Tú hỏi tôi và anh Tám Cảnh:

- Có đúng địch phá lúa không? Nếu địch không phá lúa thì không đánh vì bây giờ vẫn chưa phải là chiến tranh.

- Nếu địch không phá lúa thì tôi xin chịu chặt đầu! – Anh Tám Cảnh lại phải “cam đoan miệng” với bí thư tỉnh ủy.

Lúc này, Mười Lang, Tám Hội đã cùng một bộ phận 2-9 đi hoạt động mở phong trào đồng bằng ở Hàm Thuận. Huy động thêm một tiểu đội bộ đội địa phương Di Linh thì tôi cũng có một trung đội. Sáng 20 tháng 10 năm 1960, địch không vào trận địa phục kích mà đi dưới thủng lũng, dàn hàng ngang quất phá lúa. 2-9 vận động ra chặn đầu từ trên sườn đồi cao đánh mạnh xuống, dồn địch vào ruộng lúa lầy lội mà diệt. Tuy bị đánh áp đảo nhưng chúng ỷ đông, dùng đại liên, cối kiềm chế ta. Sau 30 phút chiến đấu quyết liệt, ta diệt và làm bị thương trên 60 địch, thu ba các-bin và rút lui an toàn. Tôi bắn hơn một băng đạn các-bin diệt sáu tên. Hồi ấy chưa có chỉ tiêu thi đua, diệt năm tên lính ngụy thì được danh hiệu “Dũng sĩ quyết thắng” như sau này. Ta hy sinh hai là Nghê Hùng Dũng và Trần Văn Chuyển. Địch giải quyết hậu quả, hôm sau lui quân, chấm dứt càn. Bà con Cà Dòn rất phấn khởi vì bộ đội đã đánh lui cả tiểu đoàn địch, giữ được nương rẫy thôn xóm nhưng ai cũng tiếc thương hai đồng chí bộ đội đã nằm lại trên vùng núi cao Con Sỏ này.

Cùng lúc 2-9 đánh địch ở Con Sỏ thì ở La Dạ cách khá xa cũng có một cánh địch lớn đang càn, nghe tiếng súng vang rền dữ dội ở hướng Con Sỏ, sợ không khỏi bị đòn trừng phạt, chúng vội rút quân về Hoài Đức. Suốt 2 năm địch không bén mảng vào căn cứ nữa, đồng bào yên vui sản xuất, bố phòng. Vừa chống càn, ta cũng chống địch tái dồn có kết quả. Địch vẫn dùng mọi thủ đoạn lôi kéo dân về lại khu tập trung, đã bố trí hai tốp dân vệ lẻn vào căn cứ hù dọa, mua chuộc kéo dân về lại Hoài Đức. Trong lúc đói cơm, lạt muối, ốm đau, cũng có một số ít đao động nghe lời địch. Ở La Dạ có 60 người dự tính bồng bế theo chúng về khu tập trung; cốt cán đã kịp thời báo cho tiểu đội 2-9 đang ở đây, anh em bắn chết tên Đêm, bắn bị thương một tên, giữ lại số dân này. Ở Tố La cũng bắn được một tên, thế là trừ được thủ đoạn bí mật lôi kéo dân của địch.

Đang trong mùa mưa không đốt được rẫy thì kéo bổi dồn lại lòi ra các khoảng trống trỉa bắp, trồng mì, trồng lang. Tiểu đội 37 bộ đội địa phương Tánh Linh dùng cách đó đã trồng được 5000 gốc mì, hàng trăm gốc lang ở vàm sông Tà Mỹ. Mấy tháng sau có ăn còn giúp cứu đói được đồng bào La Ngâu. Một số lớn đi nưng ở Nộp, Con Rum, Đinh Trang Hạ vay mượn đổi chác gạo, lúa, muối. Bà con ở đó hết lòng giúp nhau khi hoạn nạn. Một số lên núi cao Bà Xa chặt cây xà bu làm bột chống đói. Hái rau rừng, đào củ chụp, đánh cá, bẫy thú…. Cứ một khoảng mì lên xanh, một vồng khoai trải ngọn, một vạt bắp trổ cờ là cái no bụng càng đến gần. Sự trung thành với Đảng, với Bác Hồ, tin tưởng cách mạng, nghe lời cán bộ, tinh thần cần cù, nhẫn nại đã giúp đồng bào vượt qua đói khát hiểm nghèo, chiến thắng mưu ma chước quỷ của kẻ thù. Sau đó Tố La Thuộc Lâm Đồng còn Cà Dòn vẫn thuộc Tánh Linh, Bình Thuận. Từ Com Rum, đội công tác Miền do anh Tám Cảnh làm đội trưởng phát triển mở vùng lên sát đường 20 lập hai huyện K3 và K4 nam đường 20, vượt lên bắc đường tới tận Kìn Đạ.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 18 Tháng Tư, 2019, 03:11:41 pm
3. Mở phong trào.

Sau trận Con Sỏ, anh Bảy Thành chia tay chúng tôi ra Liên tỉnh; Tư Thanh và Năm Hưng nắm một tổ của 2-9 ra Bắc Bình phối hợp với đội công tác anh Sáu Định, bí thư Ban Cán sự Bắc Sơn đánh địch ở Xuân Quang, Bá Ghe, Cà Lon, Vĩnh Hảo, diệt ác phá kềm, phát triển cơ sở, thu 30 súng, mở phong trào, đưa đường hành lang từ trên núi cao xuống gần đồng bằng hơn.

Mười Lang, Tám Hội đưa một bộ phận 2-9 xuống Tam Giác vũ trang tuyên truyền diệt ác phá kềm các xã Bình Mỹ Thuận, Tân Phú Xuân, phối hợp Hàm Thuận diệt tên Chấn ác ôn khét tiếng. Hội 1959, anh Bảy Tâm và Năm Nhẫn diệt hụt tên Cửu Xe, nay 2-9 nện một loạt tôm-xông trừ tên này, bà con rất phấn khởi, càng đấu tranh mạnh với địch. Anh Năm Nhẫn đã tranh thủ thời cơ dùng lực lượng nhỏ của mình, táo bạo phá kềm các ấp Bàu Muống, Ruộng Vỡ, Cà Gằng, Suối Thị, có 2-9 hỗ trợ, đã đưa lên thành xã Hàm Thạnh giải phóng đầu tiên của tỉnh. Tiếp tục phát triển vào phía nam, 2-9 phối hợp với thị xã giải phóng xã Tiến Lợi rồi giải phóng tiếp xã Kim Bình nam Hàm Thuận. Vào Hàm Tân vũ trang tuyên truyền các xã Vân Mỹ, Tân Thuận. Các hoạt động sâu rộng liên tục đó làm cho các xã Hàm Thạnh, Tiến Lợi, Kim Bình có thế liên hoàn, có điều kiện xay dựng bảo vệ vùng mới giải phóng.

Tôi và Tư Quyết đưa toàn bộ 2-9 còn lại xuống Khu Lê hỗ trợ các xã Nhơn Thiện, Thiện Nghiệp phá kềm. Khu Lê Hồng Phong, nơi đã in sâu trong tâm trí tôi và chiến sĩ 2-9 nhiều kỷ nhiệm không bao giờ phai nhạt. Khu Lê là “đất đứng chân” của lãnh đạo Bình Thuận và Cực Nam trong chống Pháp, sang chống Mỹ, trong đấu tranh chính trị có phong trào đòi Hiệp thương tổng tuyển cử mạnh nhất tỉnh cuối 1955, đã có biết bao cán bộ đã hy sinh vô cùng anh dũng; đặc biệt năm 1959, lúc Mỹ - Diệm rêu rao luật 10/59, chỉ một xã Nhơn Thiện đã cung cấp cho tỉnh gần một trung đội.

Đến Hố Đất, gặp anh Mười Râu và Sáu Ninh bàn kế hoạch hoạt động. Các anh rất tin tưởng hoạt động sắp đến ở địa phương sẽ tạo chuyển biến địa bàn còn khó khăn này. Mục tiêu được chọn là đồn bảo an Nha Thiện Phú một trung đội, kềm kẹp một khu vực rộng lớn gồm ba xã Nhơn Thiện, Thiện Nghiệp, Long Phú, và trụ sở Hội Đồng Hương Chính xã Nhơn Thiện. 2-9 sẽ đánh một trận kỳ tập để gây tác động lớn tới phong trào.

Ngày 9 tháng 12 năm 1960, chúng tôi cùng cán bộ, nhân viên cơ quan hai huyện Hòa Đa – Thuận Phong ém ở bằng Xe Lương, cách Nhơn Thiện hơn chục cây số về phía bắc. 14 giờ chặn hai xe hành khách từ Lương Sơn xuống, đưa hành khách vào mé rừng làm mít tinh rồi giữ lại, bộ đội cải trang lính bảo an lên xe chạy thẳng xuống Bàu. Xe đi trước đánh đồn có tôi, Hồ Hồng; xe đi sau đánh trụ sở có Tư Quyết, Mười Râu, Sáu Ninh. Dọc đường gặp một tên bảo an đi săn, bắt lên xe khai thác biết hom ấy bọn đồn Thiện Phú đi càn ngoài rừng một tiểu đội, bọn tề xã ấp đang họp đầy đủ tại trụ sở xã. Một chặp, có một tiểu đội bảo an đặt súng máy ngồi nghỉ cạnh đường. Đánh, bắt thì không gọn và lộ, tôi cho xe chạy qua, chúng cũng chẳng biết gì. Đến vọng gác đầu xóm, đồng chí Trần Kim Tuyến nhảy xuống dỡ cây ba-rie, xe chạy thẳng vào xóm. Đến vọng gác gần trụ sở, Đồng nhảy xuống dỡ cổng, xe qua nhanh. Còn cách đồn hơn trăm mét, tôi nghe tiếng súng phía sau nổ giòn, quay lại thấy Tư Quyết đang quét trung liên vào trụ sở xã. Chà, Tư Quyết không chờ xe đầu đến đồn nổ súng, lại bắn trước thì phức tạp đấy! Hồng nhanh chóng nổ trung liên mãnh liệt vào hướng đồn bảo an. Mấy tên lính trong đồn nghe súng nổ rền ở phía trụ sở xã, chạy ra quan sát thì bị trung liên ta bắn đến vội tháo chạy vào đồn. Xe đến trước cửa đồn, toàn bộ xông vào, trận đánh diễn ra rất nhanh, kết thúc gọn ghẽ. Cờ đỏ sao vàng được kéo ngay lên đỉnh cột cờ báo tin chiến thắng cho nhân dân quanh vùng. Tại trụ sở, ta bắn chết tên thiếu úy Tơ trưởng Nha Thiện Phú, bắn bị thương nặng tên trung sĩ Cán an ninh nha; bắt toàn bộ 30 tề xã ấp, làm chủ, thu chiến lợi phẩm đầy hai xe ô tô rồi phóng hỏa đốt đồn. Tiểu đội đi càn nghe súng nổ, thấy lửa khói rực trời, biết đồn bị đánh vội cắt rừng chạy về Phan Rí Cửa ngay trong đêm.

19 giờ, hàng ngàn đồng bào tập trung tại một đám cát rộng dự mít tinh mừng chiến thắng. Anh Mười Râu nói chuyện về tình hình, nhiệm vụ cách mạng, kêu gọi đồng bào đoàn kết đấu tranh bảo vệ xóm làng. Dưới ánh đèn măng sông sáng rực, bà con nhận rõ những chiến sĩ Trung đoàn 812 năm trước và con em họ. Mọi người xúc động phấn khởi lạ thường. Xong mít tinh mà chẳng ai muốn về, họ xúm xít chuyện trò rôm rả mời bộ đội vào nhà chơi. Nhiều người vui vẻ nói:

- Bây giờ khác rồi, bộ đội cách mạng đã đánh giặc, nhất định sẽ giành được thống nhất thôi!

- Hôm nay chiến thắng sướng quá, sắp tới chắc càng thắng to hơn!

Hơn 30 thanh niên Nhơn Thiệu hăng hái nhập ngũ vào 2-9 để cùng lớp đàn anh chiến đấu giải phóng quê hương.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 18 Tháng Tư, 2019, 03:12:21 pm
2 giờ khuya, từ giã đồng bào, đem hai xe chiến lợi phẩm vào rừng Hố Đất rồi cho xe lên bằng Xe Lương trả cho chủ đưa đồng bào về Lương Sơn. Rất phấn khởi, bà con ủng hộ bộ đội mấy tấn gạo. Lòng dân ở đâu, lúc nào cũng yêu thương bộ đội, hết lòng giúp đỡ cách mạng.

Địch rút ngay Nha Thiện Phú vào ở Bàu Thiêu. Các xã Nhơn Thiện, Thiện Nghiệp không còn địch kềm kẹp nữa.

Mấy ngày sau, 2-9 về lại căn cứ miền núi, đã có bộ phận Mười Lang và đồng chí Tâm huyện đội trưởng cùng một tiểu đội bộ đội địa phương Di Linh đón. 2-9 diệt tiếp đồn Cỏ Mồm, đưa đồng bào khu tập trung về xóm làng cũ, xã Hàm Cần giải phóng ra đời. Tiếp theo, 2-9 vũ trang tuyên truyền phá lỏng, rã hai xã Hàm Phú, Hàm Trí, sau đó đưa lên cùng Hàm Thạnh thành vùng giải phóng liên hoàn ba xã ở miền Tây Hàm Thuận. Chỉ một thời gian ngắn hoạt động vũ trang đã hỗ trợ đắc lực đấu tranh chính trị, dấy lên đồng khởi liên tục phá ấp, phá kềm tỏa nên các căn cứ lõm ở đồng bằng, nối liền, hỗ trợ nhau giữa miền núi và đồng bằng, mở rộng ảnh hưởng khắp nông thôn, đến cả thị trấn thị xã; các huyện rút được thanh niên bổ sung cơ quan và xây dựng bộ đội địa phương huyện, mỗi nơi từ hai tổ đến 1 tiểu đội; Hàm Thuận được một trung đội; 2-9 phát triển thành một đại đội thiếu; đặc công một trung đội thiếu.

Tết năm 1961, chúng tôi đã ăn một cái Tết chiến khu khá khá. Vui với anh em, tôi sáng tác một ca khúc ngắn “Tết thắng lợi” nói lên sự phấn khởi, hào hứng của lực lượng vũ trang tỉnh đã lớn lên nhiều, phục vụ tốt phong trào, khẳng định niềm tin tất thắn của cách mạng miền Nam. Anh em thường hát mỗi khi sinh hoạt tập thể. Năm 1962, đoàn văn công tỉnh lấy bài này xây dựng một tiết mục múa cũng lấy tên là “Tết thắng lợi”, đã biểu diễn nhiều nơi, đến nay nhiều người còn nhớ.

Sau tết, tôi và Tư Thanh đi dự Hội nghị Quân sự Liên tỉnh 3 gồm các tỉnh Bình Thuận, Ninh Thuận, Khánh Hòa, Lâm Đồng, Tuyên Đức và chủ lực Liên tỉnh. Hội nghị tiến hành ở hội trường Xóm Cỏ, huyện Khánh Sơn, Khánh Hòa. Tôi vui mừng gặp lại anh Hược, người thủ trưởng hồi ở Tiểu đoàn 86, nay là trưởng Ban Quân sự Liên tỉnh với tên mới là Mười Trung. Tại Hội nghị, tôi đã báo cáo điển hình hai trận đánh của Bình Thuận là trận đánh điểm Hoài Đức – Bắc Ruộng và trận đánh càn Con Sỏ. Liên tỉnh đã công bố thành lập Ban Quân sự các tỉnh, ở khu 5 không gọi Ban Chỉ huy tỉnh đội, huyện đội như ở Nam Bộ. Đồng chí Võ Cứ là trưởng Ban Quân sự Khánh Hòa; Lê Bình trưởng Ban Quân sự Ninh Thuận; tôi là trưởng Ban Quân sự Bình Thuận. Các tỉnh Lâm Đồng, Tuyên Đức chỉ có một chỉ huy quân sự tỉnh vì phong trào mới bắt đầu. Trên đường về, tôi tham quan bố phòng vũ khí thô sơ ở Mai Nai – Đầu Suối của huyện Bác Ái, Ninh Thuận. Ngoài các loại chông cỏ, chông hầm, băng cung, còn có chông treo và bẫy đá vô cùng lợi hại, là sự khủng khiếp của địch khi lọt vào trận địa bố phòng này; đúng là có đi không về.

Chúng tôi về đến cơ quan thì đã có điện Liên tỉnh gửi về tỉnh ủy bổ nhiệm tội làm trưởng Ban Quân sự Bình Thuận kiêm chính trị; Nguyễn Thanh Đức ủy viên tham mưu; Nguyễn Hữu Ích ủy viên hậu cần. Đồng thời Liên tỉnh bổ sung tôi vào Tỉnh ủy Bình Thuận. Lúc này là tháng 3 năm 1961. Phiên hiệu của cơ quan Quân sự Bình Thuận là 500. Do vậy 2-9 là 529; đặc công là 531. Ban Quân sự chúng tôi vẫn ở chung trong cơ quan tỉnh ủy. Tỉnh triển khai ngay khung trường tiểu đội để đào tạo cán bộ tiểu đội cho các đơn vị tỉnh, huyện, cán bộ xã, thôn đội cho các huyện căn cứ miền núi Di Linh, Tánh Linh, Hoài Đức và cho các xã giải phóng ở đồng bằng. Tổ sửa chữa vũ khí cũng được thành lập với nhiệm vụ sửa chữa vũ khí bộ binh cho các đơn vị, rờ sạc đạn, đạp lôi, thủ pháo, mìn mũi, rồi tiến lên sản xuất các loại ba-dô-min, ĐH5, ĐH10; không lâu, tổ này đã trở thành Binh Công xưởng Cao Thắng của tỉnh.

Để mở rộng căn cứ lên hướng Tây Bắc, hỗ trợ mạnh hơn cho đội công tác miền Tây, lần đầu hoạt động quân sự phối hợp chiến trường toàn liên tỉnh, mừng sinh nhật Bác Hồ ngày 19 tháng 5 đến, Thường vụ Tỉnh ủy và Ban quân sự quyết định mở một loạt hoạt động trên đường 20. Mở màn sẽ đánh chi khu quận lỵ Di Linh vào ngày 15 tháng 5 năm 1961. Chỉ hơn một tháng chuẩn bị chiến trường cho hoạt động ở một vùng hoàn toàn xa lạ với bộ đội Bình Thuận là một khó khăn tưởng chừng không thể nào khắc phục nổi. Tôi lại phái các đặc công kỳ cựu Bảo, Hội, Giang, Sơn, Phi thêm mấy anh em mới về Bình, Bảng, Cao Ly. Như vậy cũng đã gấp ba lần hồi chuẩn bị Hoài Đức – Bắc Ruộng. Di Linh trước đây là tiểu khu, tỉnh lỵ Lâm Đồng, nay địch dời tỉnh lỵ về Bảo Lộc, Di Linh thành chi khu quân sự nhưng dân cư đông đúc, nhà cửa san sát, nhiều công sở, bệnh viện lớn, đất đai màu mỡ, cây trái sum suê. Từ sau Cách mạng Tháng 8 năm 1945 đến nay còn là vùng trắng. Đánh chiếm làm chủ thị trấn Di Linh một đêm là một yêu cầu chính trị quan trọng để gây tiếng vang lớn khắp Nam Tây Nguyên, tạo thuận lợi cho Đội công tác anh Tám Cảnh xây dựng, phát triển phong trào. Đặc công Bình Thuận quyết tâm tự mình xoi vào vùng trắng đó mà nắm địch. Đánh một chi khu quận lỵ tất nhiên mục tiêu nhiều. Ở đây còn phải tiêu diệt lô cốt ngã ba Di Linh đường 20 và đường 8 để có đường ra dễ dàng khi đánh xong. Anh Tám Cảnh phái một cán bộ người Thượng trà trộn với bà con đi chợ, vào thị trấn ban ngày nắm các mục tiêu giúp đặc công đối chiếu thực địa. Anh em đặc công lên núi Prang, trèo lên một cây cao, dùng ống nhòm quan sát toàn cảnh và định hướng các nơi rồi đêm đến tự xoi đường đột nhập thị trấn, tìm mục tiêu. Để kịp thời gian, lần nào cũng cập rập. Thường vụ Tỉnh ủy lại chỉ định một Đảng ủy và Ban Chỉ huy trận đánh có quyền quyết định phương án, xử lý mọi tình huống tại chiến trường. Tôi lại được vinh dự làm chỉ huy trưởng; chính trị viên là Hoàng Từ tỉnh ủy viên; các phó là Tư Thành, Mười Lang. Đảng ủy thì anh Hoàng Từ là bí thư; các ủy viên có tôi, Tư Thanh, Mười Lang và Tám Cảnh. Phụ trách trên 200 dân công căn cứ lo tiếp tế, tải thương, chiến lợi phẩm là anh Năm Lương trưởng Ban Hành lang tỉnh. Dù rất lạ chiến trường, không được như ở Tánh Linh, anh em đội công tác Bắc Ruộng dẫn đến từng mục tiêu, ở đây đội công tác chỉ dẫn đến gần thị trấn rồi đặc công tự mình tìm tòi xoi vào. May mắn tiếp tục đến với anh em, chỉ trong ba đêm đột nhập đã vào đến mức đánh được các mục tiêu quan trọng để làm chủ thị trấn.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 18 Tháng Tư, 2019, 03:12:52 pm
Chiều 15 tháng 5, toàn lực lượng tập kết tại rầy Xê Rê Pô, chỗ đứng của Đội công tác, cách đường 20 3 giờ đi bộ. Hành quân lên Tây Nguyên lần này, lực lượng ta lớn mạnh hơn nhiều so với đánh Hoài Đức – Bắc Ruộng: quân số bộ binh gấp ba lần, đặc công gấp hai, sở chỉ huy còn có trợ lý quân báo, tác chiến, liên lạc, đội phẫu. Vì thế, tuy đi đánh giặc xa, vào sâu địch hậu nhưng bộ đội yên tâm. Dù vậy, đánh vào thị trấn Di Linh thì lực lượng ta cũng chẳng thấm vào đâu. Điều phấn chấn nhất là đêm nay tiếng súng cách mạng sẽ vang rền trên thị trấn cao nguyên xa xôi lâu nay yên ắng này. Cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam tung bay, truyền đơn cách mạng đến tay người dân, tin chiến thắng sẽ nhanh chóng truyền lên Đà Lạt, Buôn Ma Thuột, xuống Bảo Lộc, Nha Trang, vào tận Sài Gòn… Ôi, sung sướng biết chừng nào, những chiến sĩ Bình Thuận, từ chiến trường cao nguyên này sẽ ghi thêm một chiến công vào sổ vàng dân tộc. Sau bao năm đấu tranh chính trị đầy gian khổ hy sinh, lần đầu tiên chúng tôi được dâng lên sinh nhật Bác Hồ một chiến công đầy ý nghĩa; nhiều người chưa một lần được gặp Bác đều muốn thể hiện tình cảm kính yêu của mình đối với Bác bằng hành động cụ thể trong chiến đấu đêm nay.

Phi, một đặc công trẻ, là liên lạc của tôi hồi ở Đại đội B, Tiểu đoàn 86, tập kết ra Bắc học tập, rèn luyện trưởng thành, nay trở về Nam là một sĩ quan đặc công, trận này là mũi trưởng đánh chi cảnh sát quận. Trước giờ xuất phát, Phi đưa chiếc nhẫn vàng và đồng hồ đeo tay gửi tôi, giọng đầy xúc động:

- Anh cất giúp em, nếu em có bề gì thì anh giữ làm kỷ niệm nhớ mãi đứa em thân yêu của anh.

- Em cứ để dùng vì nó rất cần cho việc hiệp đồng chiến đấu đêm nay.

Nói vậy mà tôi thấy thương Phi khôn xiết, nào ai biết sẽ ra sao, chiến tranh mà! Trận này Phi không việc gì.

Đồng chí Bảo mũi trưởng đặc công trận nội đồn bảo an chi khu dẫn chúng tôi xuyên qua một đám bưng dài hơn 200 mét, đội hình bám nhau chui rúc trong gai góc sình lầy. Tôi có cảm giác đêm đen kéo dài vô tận. Thầm khen tài năng mở đường của Bảo, chỉ mấy đêm chuẩn bị đã thuộc, nếu lỡ đi lạc đường thì bao giờ trận đánh mới bắt đầu. Tôi càng yêu mến các đặc công đã lặn lội gian nan để làm nên chiến thắng, không có họ sẽ khó khăn biết chừng nào. Rút chân ra khỏi đám bưng sình, ngửa mặt nhìn bầu trời đầy sao lấp lánh, tôi thở phào khoan khoái như trút được gánh nặng ngàn cân. Bước vào một nương chè đã bị chặt trụi, còn trơ lại những gốc nhọn bén như mũi mác, phải len chân từng bước thật căng thẳng. Đêm cao nguyên về khuya mát lạnh mà lưng tôi vẫn ướt dẫm mồ hôi. Đang dò lần từng bước thì Hội quay lại ghé tôi thì thầm:

- Đồn bảo an chi khu trước mắt anh chừng 50 mét đó!

Định thần nhìn kỹ, quả đã thấy bóng dáng những mái nhà lờ mờ trong bóng đêm. Bộ binh và Chỉ huy sở đến rào kẽm gai thì đặc công đã khai thông cửa mở. Tô lặng lẽ nắm tay, tiễn từng anh em vào trận nội. Tất cả âm thầm nhẹ nhàng lướt qua. 15 phút sau liên lạc của Hội quay ra gặp tôi:

- Báo cáo, các mũi đã áp sát mục tiêu.

- Vào báo Tám Hội: G là 1 giờ 30 phút, ưu tiên 15 phút cho bên thị trấn. Trận nội phát lệnh bằng bộc phá.

Kim đồng hồ dạ quang trên tay tôi nhích dần, vừa chỉ đến giờ quy định thì một chi khu vọt lên một ánh chớp sáng lòa, tiếp theo một tiếng nổ lớn làm rung chuyển cả không gian yên tĩnh. Tiếng trung liên, tiểu liên, thủ pháo, lựu đạn dồn dập. Bên thị trấn cũng vang lên hàng loạt tiếng súng, lửa cháy sáng một góc trời. Qua ánh lửa, nhân dân thị trấn nhìn thấy bộ đội giải phóng tung hoành khắp nơi, truy đánh địch tan tác. Tôi hỏi Bùi Văn Tiêm, trợ lí tác chiến bên cạnh:

- Có nghe tiếng bộc phá ở lô cốt ngã ba Di Linh không?

- Có, nghe rất rõ bộc phá và tiểu liên nổ giòn, bây giờ ở đó đã im, chắc Linh Giang đã chiếm xong rồi.

- Tốt, Linh Giang có chiếm được thì đánh xong ta mới có đường ra dễ dàng, nhanh chóng.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 18 Tháng Tư, 2019, 03:13:52 pm
Đã làm chủ đồn, thu vũ khí chiến lợi phẩm nhưng không sao kiểm soát hết được cả một chi khu quá rộng. Nó vốn là tiểu khu, nhà cửa dãy ngang dãy dọc sâu tối hun hút, một số lính còn sót lẩn trốn không tảo trừ, lùng bắt hết được. Còn một nhà ở góc đồn đánh mấy lần bộc phá đều không nổ, khi quả cuối cùng nổ thì Tâm trung đội phó cũng hy sinh. Trong trận nội, ta thu được một trung liên, một số tôm-xông, tuyn, các-bin, ga-răng, súng ngắn trên 30 khẩu của nhà lính; còn kho vũ khí thì không tìm được. Mười Lang đưa tôi vào quan sát đồn quả là nó rất rộng lớn, đặc công, bộ binh vào lọt thỏm chả biết đâu là đâu. Anh Năm Lương đưa dân công vào đồn thu chiến lợi phẩm. Ngoài súng đạn còn trên 500 bộ quần áo kaki vàng, loại của lính khố đỏ thời Pháp thuộc, nút đồng, dài lòng thòng; về vị trí mấy anh em mặc thử trông thật buồn cười. Ở thị trấn, phạm vi tác chiến càng quá rộng, mỗi mũi chỉ sáu đến bảy người, địch bị đánh tan tác chứ không diệt được bao nhiêu; thu được một số súng chủ yếu là tiểu liên PM, các-bin và súng ngắn; nhưng lấy được nhiều thuốc men và một bộ trung phẫu của bệnh viện Di Linh. Ngoài ra còn có mấy tấn gạo cùng một số thực phẩm, rất cần cho thời gian hoạt động tại chiến trường này. Ở vùng địch hậu xa xôi, lương thực cho cả trăm con người là không đơn giản chút nào, nên cả bộ đội và dân công đều ráng mang thực khẳm. Đội công tác cũng choáng ngợp với cái thị trấn đông đúc này, hàng ngàn truyền đơn thoáng chốc đã phát tán sạch. Sáng rõ lâu rồi ta mới treo cờ Mặt trận rồi thu quân. Bộ đội, dân công kéo đi rầm rập trên đường 20 hân hoan với niềm vui chiến thắng. Sương mù còn dày nhưng bà con hai bên phố cũng nhìn đã mắt những chiến sĩ giải phóng mũ tai bèo, dép cao su; nhiều người vẫy tay chào thân thiện.

Về rẫy Xê-rê-pô dừng nghỉ chân, đồng bào cả xóm đã có mặt đón mừng bộ đội đánh thắng trở về. Mãi quá trưa, quân viện tiểu khu Bảo Lộc mới hùng hổ kéo đến. Nhìn nhà cửa, công sự đổ nát, chúng đi loanh quanh thị trấn, thu một số truyền đơn, giải quyết hậu quả rồi quay về Bảo Lộc chứ không dại gì theo dấu vào rừng cho mệt và dễ bị ăn đòn. Về ta, trận này hy sinh 2, là Tâm trung đội phó đặc công và Bính trung đội trưởng bộ binh; không bị thương ai. Thiếu sót là không đưa được Tâm về, còn Bính thì đồng bào Xêrêpô đã chôn cất tử tế và gìn giữ chu đáo mộ phần.

Đúng là chiến thắng Di Linh có tiếng vang rất lớn. Hồi ấy, đài BBC có đưa tin: “Đêm 15 tháng 5 năm 1961, quân giải phóng miền Nam đã tấn công làm chủ suốt đêm quận lỵ Di Linh thuộc tỉnh Lâm Đồng”. Sau đó viết thêm: khi trao đổi tình hình với các sĩ quan tham mưu biệt bộ, Ngô Đình Nhu đã thú nhận là thất bại ở Di Linh và Bù Răng (bị bộ đội Liên tỉnh diệt cùng đêm) là rất đau đối với kế hoạch phòng thủ Tây Nguyên của chúng. 529 và 531 còn phối hợp đội công tác Vũ trang tuyên truyền sở trà Lút Xe và một loạt đồn điền khác dọc đường 20, cơ sở trong công nhân được móc nối xây dựng khá nhanh, phong trào phát triển một bước quan trọng.

Ba tháng sau, chúng tôi lại đánh diệt đồn Gia Bát trên đường 8, phá khu tập trung Gia Bát. Như vậy, sau trận Hoài Đức – Bắc Ruộng một năm, các lực lượng vũ trang Bình Thuận đã lớn mạnh hơn nhiều, lập thành tích xuất sắc, diệt hai chi khu Hoài Đức và Di Linh, các đồn Thiện Phú, Cỏ Mồm, Gia Bát, vũ trang tuyên truyền mở phong trào nhiều nơi, nhất là ở Nam Tây Nguyên; tuy mới bước đầu nhưng rất quan trọng, tạo đà vững chắc tiến lên giành nhiều thắng lợi mới.

Giữa năm 1961, hai khung đại đội từ miền Bắc về tăng cường cho tỉnh, cùng với phong trào phát triển, thanh niên thoát ly nhiều, hai nơi đông nhất là Hàm Thuận và Khu Lê, có đợt cả trăm người, đủ xây dựng mỗi huyện một trung đội còn bổ sung cho tỉnh đủ quân số tổ chức thành hai đại đội bộ binh. Lúc này, phiên hiệu mới của tỉnh là 400 nên các đơn vị trực thuộc của tỉnh đều có phiên hiệu số 4 đứng đầy. 529 nay là 486 có tên Hoành Sơn, là một đại đội đủ; Đại đội 489 thiếu tên là Hồng Phong; 531 nay là 481 với tên Đại Dương, 486 hoạt động phía nam tỉnh, thường đứng ở Hàm Thạnh chống càn, bảo vệ xã giải phóng ngọn cờ đầu của tỉnh, 489 hoạt động ở phía bắc tỉnh, đứng ở Khu Lê, có hậu cứ ở Hàm Trí.

Sau đánh Di Linh, các cơ quan bị đói, phải chặt đọt, hái rau, đi tận núi Bà Xa làm bột Xà bu. Tôi và Tư Thanh ở cơ quan tỉnh tại Bộ Cao ăn bốn người/lon gạo/ một ngày, phải nấu thật nhiều rau rịa ăn độn qua ngày. Các đơn vị chiến đấu ở chiến trường tiếp tế dễ hơn.

Tháng 6 năm 1961, anh Lê Văn Hiền khu ủy viên khu 6 vào làm bí thư Bình Thuận đã bàn đưa các cơ quan của tỉnh xuống khu vực Mắc Cỡ đóng thành một thế liên hoàn với các đơn vị, bố phòng bảo vệ thuận lợi, đi về đồng bằng gần hơn trước nhiều. Lực lượng phá triển nhanh, địch đối phó gắt gao, tiếp tế lương thực khó khăn; một phong trào sản xuất tự túc được phát động rầm rộ, cơ quan đơn vị tích cực phát rẫy trỉa bắp, trồng mì, trồng lang. Vụ bắp năm 1961 trúng lớn, sản xuất có kết quả, tiêu chuẩn khá cao: 24 trái bắp/người/ngày, muốn ăn nướng, luộc, rang tùy ý; lãnh về trại làm thêm phần vui vẻ nhộn nhịp. Tiêu chuẩn mì, lang cũng rộng rãi, không chi li lắm. Đầu 1963, tôi lên Quân khu họp Hội nghị Quân chính, nghe tôi báo cáo tiêu chuẩn ăn của Bình Thuận, các anh Trần Lê (bí thư khu ủy), Tư Khiêm (phó bí thư, chính ủy quân khu) cười, nói: Bình Thuận thế là nhất rồi!


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 18 Tháng Tư, 2019, 03:16:39 pm
Để phục vụ đồng bào căn cứ, từ giữa 1961, tỉnh đội thành lập một đội văn công gồm 20 thiếu niên thiếu nữ người K’ho do đồng chí Nguyễn Thành Phúc, một cán bộ đại đội phụ trách. Rất ngộ là các em chưa biết tiếng Kinh, đồng chí Phúc không biết tiếng Thượng, vậy mà Phúc đã tập các em hát các bài hát tiếng Việt khá đều và hay như Quốc ca, Hồ Chí Minh muôn năm, Chiến sĩ Việt Nam, Kết Đoàn, Giải phóng miền Nam, v.v. ai cũng khen. Chỉ bằng các tiếng gõ đũa làm nhịp mà các em biểu diễn các động tác múa rất nhịp nhàng, đẹp mắt. Rồi dần dần các em mới thạo tiếng Kinh. Giữa năm 1962, đội được bổ sung nhiều thiếu niên nam nữ Kinh; Phúc đi làm chính trị Huyện đội huyện Thuận Phong, Trần Hoa Phấn thay làm đoàn trưởng, chinh trị viên Lê Trường Ngọc, phó đoàn Ngô Thanh Tâm. Tâm đã là diễn viên Đoàn Cải lương Đồng Ấu Hòa Bình của Nam Bộ trước Cách mạng tháng Tám. Đoàn có tên mới là Đoàn Văn công Thống nhất tỉnh Bình Thuận và được chuyển về Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy quản lý. Đoàn thường xuyên phục vụ đồng bào miền núi, đồng bằng, có lúc vào sát ấp chiến lược, tận vùng ven thị xã biểu diễn các vở ca múa kịch cách mạng được đồng bào khen ngợi, yêu mến và bảo vệ chu đáo. Đoàn còn phục vụ bộ đội và làm dân công chiến trường.

Khu vực Mắc Cỡ đông vui, sản xuất giỏi, bố phòng tốt, đánh giặc cũng cừ. Cơ quan quân sự bắt đầu tách riêng, hình thành các bộ phận tham mưu, chính trị, hậu cần. Có cơ quan, đơn vị ở gần, đồng bào các thôn Thuận, thôn Hải, thôn Nghĩa, thôn Phú rất phấn khởi, được hướng dẫn bố phòng, huấn luyện du kích, kèm cặp tác chiến. 481, 486, Trường Bạch Đằng, Cao Thắng, cơ quan 400 công tác dân vận giỏi, được nhân dân thương mến; đoàn kết quân dân càng gắn bó, thân thiết.

Trên đường khoảng giữa đèo Sông De và rẫy Mắc Cỡ, có một thân cây lớn đổ ngang đường vừa tầm ngồi nghỉ chân. Có ai đó khắc lên thân cây một khẩu hiệu “Đả đảo Mỹ - Diệm” nên ai cũng gọi là chỗ cây đả đảo Mỹ - Diệm, lâu thành quen. Có lúc địch càn đến đây, thấy khẩu hiệu này nó cũng không phá.

Hàm Thuận là chiến trường sôi động nhất, đặc biệt là ở Hàm Thạnh và Tam Giác. Ngày 4 tháng 3 năm 1961, địch tiến hành bầu cử Quốc hội bù nhìn. Huyện chủ trương phá cuộc bầu cử bịp bợm này, phối hợp 529 và đội công tác vũ trang tuyên truyền, phát động quần chúng tẩy chay trò hề bầu cử đi đôi với đánh diệt gọn bảo an, biệt kích, hỗ trợ quần chúng phá bầu cử. Chiều ngày 1 tháng 3, được cơ sở báo tin, 529 phục kích tại Cầu Liêm đường 8, hai xe lam chở bọn biệt kích chạy đến trận địa nhưng thấy người trên xe mặc đồ đen, đội nón lá, con phân vân sợ đánh nhầm dân thì xe đã vượt qua. Cơ sở phóng đến hỏi:

- Đúng là biệt kích, sao không đánh?

Biết đã lỡ rồi đành an ủi cho cơ sở khỏi buồn:

- Thôi, để nó sống thêm đêm nay, mai sẽ tính, không muộn gì!

Đêm đó, 529 chia hai bộ phận cùng đội công tác đột hai ấp Bình An và Tầm Hưng, dân vệ bung chạy tán loạn, trốn biệt. Ta làm chủ ấp, giải thích chủ trương phá bầu cử của địch rồi đốt trụi trụ sở hai ấp. Sáng, một toán biệt kích bất ngờ xuất hiện trước đơn vị. Suốt đêm lùng rừng, sáng về ấp, chúng chủ quan, không đề phòng. Bị đánh bất ngờ, mấy tên chết tại chỗ, bọn còn lại bung chạy không đánh trả phát nào. Tư Quyết cho truy theo, diệt thêm mấy tên, quay về cười ha hả:

- Bọn biệt kích chạy giỏi quá!

Bà con khu 1 kéo đến thăm bộ đội rất đông. Quà bánh, gạo, cá, gà vịt mang tới ủng hộ rất nhiều. Bên suối hóng mát, bao nhiêu câu chuyện tâm tình từ những năm xa cách, tình cảm quân dân thật đầm ấm, thân thương. Gần 12 giờ, nắng tháng 3 thật gay gắt; Tam Giác tháng này đồng khô cỏ cháy, gió bụi mù trời. Bỗng có địch đến gần, nên đánh hay rút? Phải đánh thôi, rút không ổn cho dân. Đã rất gần, địch vẫn không phát hiện ta, chúng hò hét ùa qua suối: Coi chừng Việt cộng!

Mười Lang cầm ngay khẩu trung liên của xạ thủ bên cạnh, đứng lên quét cả loạt dài, đơn vị đồng loạt nổ súng. Tối đi đầu đổ gục gần hết. Ỷ đông, bọn sau nằm trên đồng bắn trả dữ dội. Năm Hưng, Tư Quyết dẫn hai mũi lao lên thọc sườn và vòng sau đánh tới. đội hình địch bị chia cắt từng mảnh. Một quả AT rót trúng, khẩu đại liên địch hất tung lên câm bặt. Chúng tan rã tháo chạy. Tiếng xung phong vang vang, nhiều tên giặc chui vào đống rơm, đống củi, chuồng heo lẩn trốn, giấu, vứt súng lung tung. Ta làm chủ chiến trường, kiểm soát trận địa, bắt một tù binh, 60 tên bỏ xác tại trận địa. Ta vô sự; thu 20 súng (có một trung liên). Trận tiêu diệt đại đội bảo an 442 và toán biệt kích của tiểu khu Bình Thuận tại khu 1 Bình Lâm của 529 và Đội công tác là trận đánh xuất sắc đầu năm 1961, phá hậu cứ địch ở Tam Giác, ảnh hưởng lớn khắp vùng, nhân dân càng tin tưởng bộ đội lớn mạnh, thắng to. Đây là trận đầu trong chống Mỹ, một đại đội thiếu của ta cùng Đội công tác nhỏ bé đã diệt một đại đội bảo an, một toán biệt kích ban ngày giữa đồng trống, cách Phan Thiết chỉ 9 ki-lô-mét. Quần chúng tận mắt chứng kiến một trận đánh hay, thắng đậm của bộ đội, càng kiên cường chống địch. Tên tù binh bị thương được ta băng bó chu đáo, giáo dục và thả ngay tại chiến trường đã có tác dụng tốt. Tuy vậy, do đánh ngày ở đồng bằng trống trải, gần thị xã, đơn vị cũng chưa kiểm soát kỹ trận địa, thoát ly chiến trường nhanh nên còn bỏ sót nhiều súng địch giấu, vứt lại, có cả đại liên, trung liên. Đó là khuyết điểm cần khắc phục.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 18 Tháng Tư, 2019, 03:17:58 pm
Vừa về đến chiến trường, thượng úy Võ Tương “Chiến sĩ giết giặc số 1 của Nam Trung Bộ” trong chống Pháp, nay là đại đội trưởng 486, thượng úy Hà Văn Tuy, đại đội trưởng 489 đã chỉ huy những trận đánh thắng giòn giã, góp phần tích cực phá ấp, phá kềm, giải phóng một số xã đồng bằng Hàm Thuận, Khu Lê. Đây là trận vũ trang tuyên truyền ấp Long Hoa – xã Long Phú và phục kích trên đường 1 gần ấp Tà Nung. Đêm 27 tháng 9 năm 1961, Võ Tương (tên mới là Tiến) đã chỉ huy đánh diệt hai xe quân sự và một trung đội thủy quân lục chiến, thu hơn chục súng có hai trung liên. Tiếp ngày 9 tháng 10 năm 1961, 486, 489 và 481 đánh một tiểu đoàn thủy quân lục chiến càn lớn vào Bến Ngạch – Khu Lê, diệt 100 tên, buộc tiểu đoàn này phải lui về Phan Thiết ngay chiều đó. Đồn Nha Thiện Phú ở Bàu Thiêu hoảng sợ rút chạy về Mũi Né, Khu Lê từ đó không còn bóng địch. Các xã Nhơn Thiện, Thiện Nghiệp từ Bàu Trắng, Rừng Lớn, Cốc Chua đến Bàu Thiêu, Ô Rô, Giếng Đé, Giếng Triền, Bàu Tàng, Bàu Me đã được giải phóng thành một khu căn cứ lớn và vững chắc ở đồng bằng Bình Thuận.

486, 489 chống càn liên tục, giữ vững vùng mới giải phóng. Ngày 17 tháng 10, 486 chống càn ở Cà Gằng – Hàm Thạnh gây cho địch nhiều thiệt hại. Ngày 30 tháng 10, 480 đánh gẫy cuộc càn ở Hàm Trí. Ngày 6 tháng 12, 486 đánh thiệt hại nặng cuộc càn lớn vào Cà Gằng. Sáng ấy, tôi vừa đến 486 thì có báo động. Trong nháy mắt, Tiến đã gọn gàng với vòng lá ngụy trang, áo trật một cánh tay, cười bảo tôi:

- Anh vào hậu cứ Suối Hàng Cau với đại đội bộ đi!

- Không, mình cùng đi tác chiến với các cậu chứ!

Tiến cười:

- Chạy vận động với anh em nổi không?

- Được thôi!

- Thì đi!

Trận này, đơn vị diệt 54 tên, bắn bị thương nhiều tên khác, địch phải rút, đồng bào Cà Gằng thu hoạch mùa yên ổn. Cùng ngày 17 tháng 12, một trung đội 489 phối hợp với bộ đội địa phương 430 Hàm Thuận truy đuổi bọn biệt kích Chăm, giành lại từng bó lúa cho dân ở Hàm Trí. 489 còn có nhiều trận chống càn bảo vệ vùng mới giải phóng Khu Lê. Ngày 19 tháng 12 đánh càn ở Giếng Triền, diệt hàng chục tên. Ngày 22 tháng 12 dùng xe tập kích ngày vào Lương Sơn diệt gọn một trung đội dân vệ, thu toàn bộ vũ khí. Từ 4 đến 9 tháng 1 năm 1962 liên tục đánh càn ở Khu Lê; nhờ đó mà các xã giải phóng Khu Lê, Tây Hàm Thuận được giữ vững. Tam Giác vẫn là nơi tranh chấp quyết liệt, hoạt động vũ trang, chính trị luôn sôi động. “Khu Lê bất khuất, Tam Giác kiên cường” càng nổi tiếng suốt cuộc chống Mỹ.

Cuối tháng 7 năm 1961, tôi và anh Tám Hiền (Lê Văn Hiền) đi một chuyến công tác vào Nam Bộ, thật ra cũng đến Bà Rịa và Quân khu miền Đông mà thôi. Đến Hàm Thạnh, cắt qua đường Suối Kiết – Tánh Linh, sang Bà Tá, Bà Giêng, vào địa phận Bà Rịa ở ki-lô-mét 67 (quốc lộ 1, địa đầu Nam Bộ. Vậy là vùng căn cứ miền núi của ta khá rộng, giáp vùng giải phóng Bà Rịa rồi. Nhưng đồng bằng thì đồng khởi chưa rộng mạnh, cần học tập kinh nghiệm Nam Bộ nên có chuyến đi này. Vào cơ quan Quân khu 7, gặp anh Tám Kiến Quốc (tức Nguyễn Hữu Xuyến) Tư lệnh Quân khu, anh Hai Lực chính ủy, Tư Việt Hồng chủ nhiệm chính trị đều là cán bộ trụ lại từ Hiệp định Giơ-ne-vơ. Các anh: Hai Hồng Lâm (tham mưu trưởng), Ba Thành (phó chủ nhiệm chính trị) thì mới về cuối 1959. Các anh làm việc rất thân tình, giúp nhiều kinh nghiệm xây dựng hoạt động của các lực lượng vũ trang tỉnh huyện, đồng khởi và đấu tranh chính trị hợp pháp của các xã giải phóng đồng bằng, xây dựng làng chiến đấu. Bây giờ mới được nghe say sưa về chiến thắng Tua Hai, chiến thắng lớn tác động mạnh đến phong trào cách mang miền Nam và miền Đông Nam Bộ. Khi anh Tám Hiền giới thiệu tôi là trưởng Ban Quân sự Bình Thuận (Nam Bộ vẫn gọi là tỉnh đội trưởng như thời chống Pháp) thì anh Tám Kiến Quốc, Hai Lực xiết chặt tay tôi khen tỉnh đội trưởng Bình Thuận trẻ quá (thật ra năm 1961 tôi đã 33 tuổi rồi, có lẽ vì nhỏ con, hơi trắng trẻo nên các anh cho là còn trẻ đó thôi). Nhìn các ăn ở, làm việc của cơ quan rất có nền nếp, nhà cửa khăn trang, thoáng mát; bấy giờ tôi mới biết ở đây lợp nhà bằng lá trung quân, sạch, bền, đẹp lại không bị cháy như tranh, lá buông trong mùa khô. Đời sống khá hơn Khu 6 nhiều. Hồi ấy Bình Thuận chưa ăn ngày ba bữa như Nam Bộ, chỉ ăn trưa, chiều không phù hợp hoàn cảnh thời chiến. Sau chuyến đi này, ở ta cũng ăn ba bữa. Địa hình miền Đông tương đối giống Bình Thuận nhưng có cái hay là vừa có làng xã chiến đấu đánh địch lại vừa giữ được thế đấu tranh chính trị hợp pháp là điều khác hẳn với ta. Các anh tặng một số tài liệu tổng kết của các xã đồng khởi đưa lên giải phóng điển hình ở Bến Tre, Mỹ Tho, Long An. Đến Bà Rịa, anh Ba Ngọc (bí thư tỉnh ủy) giới thiệu thêm kinh nghiệm đồng khởi của Bà Rịa và đấu tranh chính trị, vũ trang ở đây. Vào thời điểm này, ở Nam Bộ, tỉnh thường có tiểu đoàn, huyện có một, hai đại đội, xã có một, hai trung đội du kích tập trung. Du kích không thoát ly và dân quân thì rộng khắp. Bố phòng vũ khí thí thô sơ không hơn ta nhưng chất nổ (mìn, đạp lôi) thì hơn ta nhiều. Anh Tám Hiền đặt liên lạc giữa Quân khu 6 với Quân khu 7, Bình Thuận với Bà Rịa và kết thúc chuyến thăm học kinh nghiệm bạn. Về hệ thống chỉ huy, lãnh đạo lực lượng vũ trang, Nam Bộ đã thống nhất, ổn định từ khu đến xã. Khu 6 lúc này vẫn còn Ban Quân sự trực thuộc Tỉnh ủy, làm tham mưu cho cấp ủy về quân sự; tiếp đó thực hiện cơ chế bí thư cấp ủy kiêm trưởng ban quân sự, đồng chí chỉ huy quân sự làm phó ban, thực tế này khác hơn Nam Bộ và kéo dài đến 1963 mới tổ chức tỉnh, huyện đội thống nhất cả miền Nam.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 18 Tháng Tư, 2019, 03:19:33 pm
Vận dụng kinh nghiệm bạn, anh Tám Hiền chỉ đạo đẩy phong trào đồng khởi rộng mạnh hơn nhiều, xây dựng đều làng chiến đấu ở các các xã giải phóng Khu Lê, tây và nam Hàm Thuận, xã Tiến Lợi ven Phan Thiết, duy trì sức chiến đấu lâu dài. Đến cuối 1961, Bình Thuận có 20 xã giải phóng và căn cứ với hơn hai vạn tư dân; đó là niềm phấn khởi tự hào của tỉnh nhà; nhưng do đặc thù địa phương, xã giải phóng đồng bằng của ta không thể nào đấu tranh chính trị hợp pháp ở như ở Nam Bộ.

Thực hiện phương châm đẩy mạnh tác chiến khắp ba vùng chiến lược, tỉnh chủ trương đưa hoạt động sâu vào thị xã, hỗ trợ tích cực phong trào nội thị, không để hậu phương địch an toàn, tôi bàn với thị đội tổ chức một số đội hoạt động vũ trang tuyên truyền diệt ác trong nội thị và đánh địch ở vùng ven, gây ảnh hưởng, tạo thuận lợi xây dựng phát triển cơ sở, đẩy mạnh đấu tranh ở Phan Thiết. Trận đánh đầu tiên vào thị xã nhằm vào chi khu Hàm Thuận lúc đó đóng ở phường Phú Trinh, được giao cho 481, 486 và đồng chí Linh chỉ huy quân sự Hàm Thuận phụ trách. Đồng chí Linh vốn là một đặc công, đã ẩn trong cống nước sát chi khu trong đêm 15 và cả ngày 16 tháng 10 để quan sát. Nắm xong mục tiêu, đêm ra căn cứ tổ chức chiến đấu, lực lượng gọn nhẹ gồm hai tổ đặc công 481 do Hội và Linh chỉ huy đánh chi khu, một tổ bộ binh do Trường Sơn trung đội trưởng 486 chỉ huy đánh khu hành chánh quận. Sau 5 phút chiến đấu mãnh liệt áp đảo hoàn toàn địch, đã diệt, làm bị thương 30 địch (có nhiều sĩ quan và một quận phó). Địch không đối phó được gì nhưng vì chỉ cách tiểu khu Bình Thuận mấy trăm mét, ta có đồng chí Phi trung đội phó 481 tử thương nên phải rút nhanh, không thu chiến lợi phẩm. Trận đánh chi khu Hàm Thuận đêm 17 tháng 10 là một trận táo bạo, kết quả lớn, tiếc là ém được trong lòng thị xã sát địch rất lợi hại nhưng thời gian quá ít, không nắm được hết các mục tiêu quan trọng. Thường vụ Tỉnh ủy lại có chỉ thị đánh nhanh, buộc địch phải rút ngay quân đang càn lớn căn cứ để đối phó. Nếu lui thêm vài ngày, nắm địch đầy đủ hơn, dùng lực lượng nhiều hơn thì có thể đây là trận diệt chi khu thứ ba trong 2 năm của Bình Thuận.

Thị đội trưởng Hồ Ngọc Lầu quê Phan Thiết, cùng cán bộ, chiến sĩ 480 bộ đội địa phương Thị đều rất thông thạo đường đi nước bước ra vào nội ô, hiếu khá đầy đủ quy luật hoạt động của địch trong thị xã. Đêm 12 tháng 11 năm 1962, Lầu chỉ huy 12 người, cải trang thành lính cộng hòa, đột nhập thị. Điện đường vừa bật sáng, toàn đội đã ung dung chia thành bốn tổ tiếp cận các mục tiêu. Lầu và tổ 1 đến nhà tên Quế Ẹ (nó nói trọ trẹ, bà con gọi vậy), là cảnh sát của ty phụ trách phường Đức Long khét tiếng gian ác. Lầu gõ cửa: Bác Quế ơi! Cửa đóng chặt không ai trả lời.

- Bác Quế, bác hẹn tôi 6 giờ đến gặp, sao gọi mãi không mở cửa?

- Ai hẹn mày mà tới kêu?

Đang canh bạc mà có người phá đám, nó tức lắm, vừa nói vừa ra mở cửa. Hai phát súng ngắn đã kết liễu đời tên ác ôn. Một tên cảnh sát từ trong chạy ra bị đồng chí Dự đâm một nhát lên đùi, lủi mất. Tổ 2 áp sát nhà Lê Thị Quý, năm 1957 thị là cơ sở ở Bình Thiện, đã phản bội bắt Tư Ngư là cán bộ, bị nhân dân oán ghét cô lập, vợ chồng thị chạy vào Phan Thiết tiếp tục làm tay sai cho địch. Nghe tổ 1 nổ súng, đồng chí Đức đạp cửa xông vào nổ một loạt tiểu liên, đặt bản án lên người thị, rồi bước ra đường phố bình thường. Cùng lúc, tổ 3 xông vào nhà tên Có mật vụ, hắn đang nằm trên giường với vợ, Đệ chĩa súng bắt, mụ vợ liều mạng ôm chặt nó, lợi dụng lúc Đệ gỡ tay mụ đàn bà, hắn vọt qua cửa sổ lủi vào ngõ hẻm. Tại trụ sở phường Đức Long, tổ 4 thu một máy đánh chữ, nhiều tài liệu rồi đốt trụ sở, lửa cháy ngùn ngut. Một tên cảnh sát gần bên chạy đến gặp Vinh bước ra, hắn hỏi: Việt cộng ở đâu mày? Thấy Lầu đang đến gần, Vinh lửa địch:

- Việt cộng đang chạy dưới kia kìa!

Tên cảnh sát lao theo hướng Vinh chỉ, nhưng Lầu đã nổ một phát P38, y ngã gục, ta thu một súng ngắn. Toàn bộ rút an toàn. Nghe tiếng súng nổ nhiều nơi, địch hoảng hốt chạy tán loạn trên đường phố, hò hét, huýt còi, bắn lung tung làm náo động cả thị xã. Khi chúng mò đến thì trụ sở Đức Long cháy rừng rực, truyền đơn trắng xóa trên đường. Xem dòng chữ “Đội võ trang tự vệ của nhân dân thị xã Phan Thiết” trên hai bản án tử hình tên Quế Ẹ và thị Quý cùng truyền đơn, nhiều tên ác ôn bắt đầu ớn lạnh. Bà con Phan Thiết bàn tán xôn xao: Các ông giải phóng giỏi thiệt, cứ như trên trời nhảy xuống, diệt mấy ác ôn rồi biến đi mất!


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 18 Tháng Tư, 2019, 03:35:55 pm
Một buổi sáng trời quang nắng đẹp, rừng cây bừng dậy sau mấy ngày mưa gió, tôi đi công tác vừa đến cây đả đảo Mỹ - Diệm thì gặp anh Bảy Khanh (phó ban Binh vận tỉnh), Đặng và Bình Danh (cán bộ địch vận và bảo vệ tỉnh đội). Có một tên Mỹ da nâu, tay bị trói cũng đang ngồi nghỉ tại đó. Thấy tôi nhìn tên Mỹ hơi ngạc nhiên, các anh kể: Thị đội Phan Thiết mới giảo tỉnh tên tù binh Mỹ này, hắn tên là Rốc-ma-ta-gu-lay (Rock Matagulay) dân tộc thiểu số ở bang Ca-li-phọc-ni-a, sang Việt Nam 1961, làm cố vấn huấn luyện bảo an Bình Thuận, đang huấn luyện các lớp dân vệ ở Căng Ê-xê-pít. Rốc thường cùng một tên Mỹ khác đi xe Jeep ra láng Chổi Chà cách Căng vài cây số để đôn đốc việc thành lập vành đai ấp chiến lược Đất Đỏ và đi săn. Hồ Ngọc Lâu cùng bốn chiến sĩ đã ém phục sẵn, 14 giờ ngày 2 tháng 7 năm 1962, một xe Jeep từ trong ấp chạy ra cách chỗ phục 100 mét thì dừng xe rồi quay lại. Sợ mất thời cơ Lầu nổ súng xung phong, một tên Mỹ và lái xe bỏ chạy thục mạng về ấp, tên thông ngôn nằm bẹp trên xe. Rốc nằm tại chỗ bị ta tóm cổ cùng tên thông ngôn. Lầu cho toàn đội và hai tù binh lên xe, chiến sĩ Vinh lái về căn cứ. 17 giờ, đại đội bảo an truy tìm tên Mỹ bị tổ phục đánh diệt 9 tên, phải tháo lui. Hôm sau, một tiểu đoàn địch càn xuống xóm Xẩm ven biển bị 460 Hàm Tân đánh diệt 35 tên, phải quay về Phan Thiết. Rốc được giải vào trại tù binh tỉnh. Thấy tôi nhìn đôi tay của Rốc, anh Bình Danh hiểu ý, bảo anh em cởi trói cho Rốc vì đã vào sâu căn cứ rồi. Rốc cảm ơn rối rít.

Chia tay, đoàn anh Bình Danh lên Đèo Nam, tôi bỗng nghe một giọng hát ồ ồ lơ lớ, quay lại thây Rốc hát bài Hành quân xa của anh em ta; thì ra hắn đã nghe và học thuộc bài hát này trên đường đi. Ở trại giam, Rốc chấp hành tốt nội quy trại. Rốc cũng tích cực lượm củi bẻ măng và rất thích ăn măng le xào dầu cải chiến lợi phẩm. Hỏi vì sao anh chấp hành kỷ luật trại tốt như vậy, Rốc trả lời bằng tiếng Việt: “Tôi hiểu chính sách Mặt trận khoan hồng nên chấp hành nghiêm để được sớm trở về với vợ con”.

Năm ấy, Miền chưa có lệnh giải tù binh Mỹ về R, 3 tháng sau tỉnh tha Rốc. Anh Bảy Khanh đến Cà Gằng tổ chức phóng thích, đồng bào vùng giải phóng đến xem rất đông. Rốc xin mặc một bồ bà ba đen mới, đội mũ tai bèo, đi dép cao su, mang bồng, lưng đeo một ca làm bằng ống bom bi và một đèn ló thụt để làm kỉ niệm. Trong buổi lễ, anh Bảy Khanh đọc lệnh phóng thích của Mặt trận Dân tộc Giải phóng tỉnh, chúc Rốc lên đường khỏe mạnh, gửi lời thăm vợ con Rốc và cám ơn nhân dân tiến bộ Mỹ đã đấu tranh ủng hộ cuộc chiến đấu chính nghĩa của nhân dân Việt Nam chống đế quốc xâm lược Mỹ. Rốc phát biểu cảm tưởng rất xúc động, ngoài những lời cám ơn chính sách nhân đạo của Mặt trận, sự giáo dục và đối xử tử tế của Ban chỉ huy và nhân viên trại, Rốc khẳng định: “Mỹ - Diệm thường xuyên tạc Việt cộng là những người khủng bố và xấu nhưng sự thật không phải như vậy. Việt cộng là những người yêu nước, văn minh, dũng cảm, nhất định Mặt trận Dân tộc Giải phóng sẽ giành được thắng lợi. Về Mỹ, tôi sẽ nói lên sự thật đó với nhân dân Mỹ”. Rồi Rốc hô to: “Đả đảo Mỹ - Diệm! Đả đảo Mỹ - Diệm!”.

Đến Mương Mán, Rốc đi nhanh các quán xá, luôn miệng hô Đả đảo Mỹ - Diệm! Ở Phan Thiết, Rốc cũng làm như vậy. Thấy bất lợi, địch đưa Rốc vào Sài Gòn. Về Mỹ, Rốc có viết báo ca ngợi tinh thần chiến đấu anh dũng của Quân Giải phóng miền Nam và trở thành hạt nhân trong phong trào phản chiến của nhân dân tiến bộ Mỹ.

Thực hiện chỉ thị của tỉnh đội đánh địch ở vùng ven là thị xã, thị đội đánh liền mấy trận trong nội thị và ven đô gây ảnh hưởng lớn, phục vụ tốt phong trào. Ngày 26 tháng 4 năm 1964, thị đội trưởng Nguyễn Minh Thành chỉ huy 480 đánh sập nát lô cốt cổng chữ Y, diệt gọn địch, thu toàn bộ vũ khí. Địch xây lại cụm lô cốt mới lớn, củng cố công sự, chướng ngại, đề phòng cẩn mật. Ngày 7 tháng 7 năm 1965, đặc công thị lại tấn công cụm lô cốt, diệt hết trung đội đóng giữ, diệt 36, bắt 3, thu 18 súng các loại. Trước đó ngày 10 tháng 3 năm 1965, 480 tập kích ấp chiến lược Đất Đỏ, diệt một đại đội bảo an, thu nhiều súng (có trung liên, cối 60, M70), phá rã ấp. Một thời gian dài địch không dám bén mảng đến. Đêm 16 tháng 2 năm 1966, đồng chí Thành lại đưa 480 đào hầm bí mật ém phục trên quốc lộ 1 gần cầu số 5 giữa Phan Thiết và Ngã Hai, đánh tơi bời đại đội bảo an 127 đi mở đường, diệt 57, bắn bị thương nhiều tên, thu 1 trung liên, hàng chục tiểu liên, súng trường, rút về căn cứ an toàn. Địch hết sức hoang mang vì chúng đã huênh hoang cho rằng nơi đây Quân Giải phóng không lọt vào được, nếu có vào sẽ không có ra! Hơn hai năm đưa tác chiến vào vùng sâu, nội thị, lực lượng vũ trang Phan Thiết đã hỗ trợ đắc lực phá kềm, phát triển cơ sở.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 18 Tháng Tư, 2019, 03:36:46 pm
Đầu năm 1962, tỉnh chủ trương phá ấp chiến lược, giải phóng Văn Mỹ, nối liền các xã giải phóng Kim Bình, Tiến Lợi, Hàm Thạnh mở rộng địa bàn Hàm Tân. Hồi ấy chưa có lệ ngừng bắn Tết; kế hoạch là đêm 30 Tết tập kích diệt tiểu đội bảo an biệt kích ở đây, kéo viện chi khu Hàm Tân và tiểu khu Bình Tuy đến đánh lớn; tiếp đó phát triển phá một loạt ấp Tân Thuận, Tân Hải, v.v. của Hàm Tân. Lực lượng gồm 486, 489, 460 và tôi chỉ huy đợt hoạt động này.

Gần Tết, đồng bào sửa soạn đón năm mới và cúng tổ tiên. Mấy hôm rồi tên trung sĩ Phú ác ôn buộc mỗi gia đình phải nộp một vác cây để rào ấp chiến lược và dọa Tết này sẽ diệt đội công tác anh Hai Nghị, truy bắt sạch cơ sở trong ấp. Càng gần Tết, nó càng lùng sục dữ, các má rất lo lắng, tìm cách liên lạc báo tin cho đội công tác đề phòng và gửi quà Tết cho anh em. Quyết diệt được tiểu đội biệt kích ác ôn này để dân yên vui trong dịp Tết, đồng chí Kỉnh tiểu đội trưởng 486 quê Hàm Tân, cùng Minh Hú trung đội trưởng đặc công 481 dẫn một bộ phận tinh gọn lùng sục địch gặp đâu đánh đó vì tuy hăng, tên Phú cũng sợ bị đánh nên thường dời chỗ ngủ. Đã mấy giờ tìm kiếm vẫn chưa gặp, khi vào điếm canh của ấp thấy có người ngủ nhưng không có giày, ngại là thanh niên bị địch bắt ngủ tập trung gác nên không dám đánh. 2 giờ khuya rồi, không khéo sáng mất! Kỉnh bảo nhỏ Liễu, một du kích dẫn đường: Đến nhà bà Tằng. Nhà bà đã thức, xung quanh không có gì, Kỉnh vào hỏi nhỏ nhẹ:

- Bác ơi! Có anh em ông trung sĩ Phú đến đây không bác?

Nhà bầu có mấy cô con gái xinh xắn, bọn chúng thường đến tán tỉnh. Sau vài giây xem xét, bà trả lời:

- Không có. Nghe nói đêm nay ông trung sĩ ở đàng chỗ điếm canh.

Đúng bọn chúng rồi, quay lại nhanh kẻo nó thức di chuyển mất. Gần đến, thấy có ánh lửa hút thuốc, Minh Hú cho toàn bộ đi nhanh vào như kiểu lính trên quận xuống.

- Ai?

Tên lính gác hỏi và chụp khẩu garăng nhưng cả bọn đã bị ăn đạn tới tấp. Tên Phú chết ngay. Chỉ mấy phút, ta đã diệt sạch, thu vũ khí có (một trung liên bar và hai tôm-xông). Bọn tổng đoàn dân vệ ở gần đó nghe súng nổ chạy trốn mất hết.

Trời hừng sáng, Đội Công tác phát loa báo tin chiến thắng diệt gọn tiểu đội tên Phú và mời đồng bào họp mít tinh. Bà con vô cùng phấn khởi kéo đến thăm bộ đội và Đội Công tác. Gần hết xóm là bà con dòng tộc anh Hai Nghị, chú bác cô dì, anh, chị, em, mừng rỡ ríu rít nói cười. Bánh tét, cốm, chuối đủ thứ quà Tết chất đầy bàn, gà vịt, quần dừa để ngỏn ngang dưới đất.

Bộ phận Tư Thanh phục kích tại Cầu Xéo, cách quận lỵ Hàm Tân 4 cây số về phía bắc. 7 giờ có tiếng xe, một chiếc lăng-lơ-vơ trắng, mui kín xuất hiện, không phải xe quân sự, chắc đồng bào không biết ta đánh ấp nên đi thăm Tết sáng mồng một.

Tư Thanh bảo nhỏ xạ thủ trung liên:

- Không bắn, giữ bí mật đừng để dân thấy ta!

Xe qua khỏi cầu 200 mét, bị lầy dừng lại, người trên xe đổ xuống hì hục đẩy. Chết rồi, lính thật! Tư Thanh hô to:

- Lính viện, bắn nhanh!

Trung liên nổ hàng loạt dài, địch chạy tán loạn vào rừng, không kịp chống trả. Bộ đội xung phong lên đường không có tên nào chết, bị thương vì quá xa, lính viện một trung đội không đi xe quân sự mà dùng xe chở khác, chúng vội hay nghi binh? Và ta đã bị lầm. Ở khu Mã Tảo, lực lượng lớn phục kích đánh viện tiểu khu nghe súng nổ mừng quá, Tư Thanh ăn rồi, chuẩn bị đánh viện lớn tiếp thôi. Tư Thanh về báo lại sự việc, thế là phải thay đổi, không đánh viện tiểu khu đến vì chúng đã đề phòng hoặc chúng đi đường khác. Nếu đến không bi đánh chúng cho lực lượng ta chỉ có vậy, đã rút rồi, đường về sẽ chủ quan chắc ăn hơn. 11 giờ, quân Bình Tuy viện rất đông, có một chi đội bọc thép, hơn chục GMC, kéo theo hai pháo 105 để thị uy, bắn cối 81 lung tung. Chúng tôi vận động nhanh ra địa điểm phục giữa nắng trưa gay gắt, cát nóng bỏng. Nào ngờ địch đến ấp xem qua loa rồi quay về ngay. Đơn vị mới đến rừng tràm còn cách đường khá xa thì đoàn xe đã chạy qua mất hút trước mắt. Mất ăn cả viện quận, viện tỉnh do phán đoán không chính xác, diễn biến ngoài dự kiến, ức thật nhưng biết làm sao được! Về lại ấp đã chiều, bà con mời bộ đội một bữa cơm Tết kháng chiến đậm tình quân dân cá nước. Không đạt kế hoạch không vui lắm, nhưng dù sao ngày đầu năm Nhâm Dần 1962 này cũng diệt được một tiểu đội biệt kích ác ôn, đồng bào rất hả dạ, đã phá ấp, kéo vào căn cứ; xã Văn Mỹ giải phóng ra đời trong ngày Tết này.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 18 Tháng Tư, 2019, 03:37:39 pm
Các “tham mưu con” bàn tán không biết năm nay làm chi khu nào? Chắc là ở đồng bằng, đến phiên chi khu Hàm Tân thôi, thế mà đúng! Đầu tháng 8, tỉnh quyết định đánh diệt chi khu quận lỵ Hàm Tân, giáng một đòn mạnh vào công sự vững chắc, làm địch hoang mang, đưa phong trào đồng bằng ven biển phía nam tỉnh phát triển. Đánh thắng chi khu Hàm Tân sẽ mở ra triển vọng mới về đánh cấp chi khu trong vùng sâu thị trấn, thị xã. Do vậy, đồng chí Lê Văn Hiền, trưởng Ban Quân sự tỉnh trực tiếp làm chỉ huy trưởng trận đánh.

Hành quân suốt buổi chiều và một đêm, qua đường sắt đường một trong mưa gió, bùn sình. Đồng chí Nương, cán bộ Hàm Tân dẫn đường bị nước ăn chân nặng phải khiêng, ngồi trên võng chỉ hướng cho tân binh. Trung Nhẽo vệ binh tỉnh đội phải nhờ người cõng, tôi cũng bó giẻ chân ráng theo đội hình. Tuy vậy không ai bị rớt, trời sáng càng tăng tốc nhanh chóng vào chỗ giấu quân, đề phòng gặp dân, gặp địch. Các đồng chí Cửu Long, Ba Bình (Thường vụ Hàm Tân), Năm Ly (Đội Công tác) tay bắt mặt mừng vô cùng phấn khởi. 486, 481 hoàn tất mọi chuẩn bị cuối cùng để đến đêm tập kích. Địa điểm này lực lượng lớn không thể trú quân lâu. Công sự chướng ngại không phải bất khả xâm phạm đối với 481 nhưng mỗi chi khu đều có một khó khăn dường như không khắc phục được. Chi khu Hàm Tân có điện ban đêm, chỉ tắt 1 giờ cho máy nghỉ từ 23 đến 24 giờ. Liệu trong 1 giở cả đặc công và bộ binh có vượt hết chướng ngại đến vị trí xuất phát xung phong không? Lại còn các chốt vệ tinh án ngữ vòng ngoài mà đụng bọn này thì phải về không, chờ dịp khác. Cưỡng hành đòi hỏi quyết tâm rất cao, hành động chớp nhoáng nhưng vô cùng chuẩn xác; nếu không, hỏa lực địch và chướng ngại vật sẽ chặn đứng các mũi tấn công. Bộc phá không đưa đúng lỗ châu mai, nổ rồi thì không sao có quả thứ hai để đánh tiếp tức khắc. Dũng cảm vô song, nhanh nhẹn tuyệt trần, chính xác cao độ là yêu cầu tài nghệ và bản lĩnh của các mũi đặc công trong trận đánh chi khu thứ tư từ ngày đấu tranh vũ trang chống Mỹ.

Đêm 4 tháng 8 năm 1962, trời vần vũ, gió nhiều, lúc mưa to, khi lất phất; đây là thời tiết thuận lợi cho đặc công đánh đồn bót. Đã thấy rõ một vùng sáng, chi khu Hàm Tân đang đắm mình trong ánh điện ngời ngời. Các chiến sĩ bình tĩnh, thận trọng tiến vào vùng chiến. Đôi lần phía trước báo động, hồi hộp căng thẳng nhưng rồi lại im lặng tiếp tục tiến lên. Phải đến vị trí trước giờ điện tắt. Yêu cầu nghiêm ngặt là không được đến muộn, cũng không sớm, cả hai đều nguy hiểm, dễ dẫn đến không thành công. Trong chi khu yên lặng như tờ, thỉnh thoảng vang lên tiếng kẻng cầm canh. Điện tắt, chi khu chìm trong bóng tối; thời cơ ngắn ngủi đã đến, các mũi nhanh chóng tiềm nhập mục tiêu. Mọi hoạt động khẩn trương, âm thầm thật kỳ diệu. G phải sát trước giờ điện sáng lại.

0 giờ 15 phút, vừa hết G ưu tiên, Cao Ly mũi trưởng chủ yếu nổ bộc phá mở màn trận đánh, mở cửa vào trận nội. Lập tức bộc phá, thủ pháo, tiểu liên nổ mãnh liệt vào các mục tiêu. Ngọc, cơ sở nội tuyến kịp thời phối hợp, dội lựu đạn liên tiếp vào nhà lính. Địch hoàn toàn tê liệt. Phía trụ sở đồn dân vệ Tân Thuận, 460 cũng hiệp đồng chiến đấu nhịp nhàng. Gần 30 phút, ta đã làm chủ trận nội, sở chỉ huy vào đồn. Dân công đi lạc đường, bộ đội phải vừa giải quyết thương vong (hy sinh bốn, bị thương ba), vừa cố chiến lợi phẩm tất cả trên trăm súng có nhiều đại, trung liên, cối, một VTĐ 15 oát, hai ra-gô-nô và sáu máy bộ đàm PRC 10, diệt 136 địch, bắt 5 tù binh.

Phá hủy đồn bót xong, lui quân, ém lại trong chi khu một trung đội. Mờ sáng, đại đội biệt kích Tâm Bô đêm đi lùng ngoài, tưởng bộ đội rút hết, mò vào bị diệt thêm khá nhiều. Địch ở Bình Tuy hoảng sợ, xin Phan Thiết chi viện, một tiểu đoàn kéo vào đến xóm Trạm bị 460 chặn đánh, diệt một số. Phát hiện lực lượng lớn của ta đang vận động đến, chúng vội rút về Phan Thiết để giữ thị xã. Ta tiếp tục phá kềm ở Tân Thuận, Tân Hải, tề diệp co lại, địa phương xây dựng phát triển cơ sở, mở rộng tranh chấp, lỏng kềm. Chiến thắng này đã hỗ trợ phá banh 36 ấp chiến lược trong năm 1962.

Đài Tiếng nói Việt Nam đã đưa tin diệt chi khu Hàm Tân; đồng thời nắc lại tin của BBC nhận xét về “cái chi khu quân sự của chính quyền miền Nam ở vùng ven biển Nam Trung Bộ này, cùng sáu chiếc máy thông tin hiện đại của Mỹ mới trang bị cho đồn để báo động khi bị tấn công, đã không cánh mà bay mất trong một đêm mưa gió…”. Đài BBC còn bình luận thêm: “Chắc nó (các máy PRC10) lại sẽ giúp cho Quân Giải phóng trong việc tấn công nhiều chi khu khác dễ dàng hơn”. Các lực lượng vũ trang giải phóng Bình Thuận đã được Bộ Chỉ Giải phóng miền Nam tặng thưởng Huân chương Quân công giải phóng hạng ba cho chiến thắng này.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 18 Tháng Tư, 2019, 03:38:17 pm
Diệt xong chi khu Hàm Tân, tôi và 481 về trước; đến căn cứ thì gặp ngay cuộc càn lớn Sơn Dương I của địch đánh vào xã Hàm Thạnh và khu vực Mắc Cỡ. Cuộc càn bắt đầu từ ngày 6 tháng 8 năm 1962, huy động trung đoàn 44, một tiểu đoàn thủ quân lục chiến, nhiều đại đội bảo an, nhiều phi pháo đánh trên Búng Tròn, đèo Quan Hân, đèo Sông Đe, Mắc Cỡ. 486, 489 còn ở chiến trường. Căn cứ chỉ có các cơ quan, các bộ phận sản xuất; có 481 về cùng 430 và dân quân du kích tích cực chống càn, bảo vệ dân. Kết hợp hầm chông, chất nổ, bám rẫy, đường đi, mé rừng, bờ suối, anh em liên tục tiêu hao bộ binh, bắn máy bay khá kết quả. Từ 6 đến 20 tháng 8, các lực lượng trên đã đánh hàng chục trận, diệt và làm bị thương trên 100 địch; riêng 481 diệt 30, bắn rơi một trực thăng gần rẫy đơn vị. Hơn nửa tháng càn, không gây thiệt hại gì lại bị tiêu hao không ít, địch phải rút quân. Không lâu sau đó chúng lại mở cuộc hành binh Sơn Dương II đánh rộng cả miền núi, đồng bằng, Hàm Tân và Khu Lê gần 1 tháng.

Địch đang càn Sơn Dương I thì Quân khu triệu tập tôi đi dự Hội nghị Chính trị toàn Miền lần thứ nhất. Cùng đi với tôi có Sơn (chính trị viên 489) và Phong (trưởng Ban Quân sự Hàm Thuận). Khi đoàn lên bắc đường 20 thì gặp đoàn Quân khu có đồng chí phó chủ nhiệm chính trị Quân khu, trưởng Ban Tổ chức, chính ủy Trường Quân chính Quân khu. Vượt chặng đường gần 1 tháng, qua sông Đồng Nai, sông Sài Gòn, chiến khu Dương Minh Châu, ngày đêm chịu đựng mưa lũ, qua lộ căng thẳng, qua trảng mút mắt, giữa tháng 9 thì đến vùng giải phóng Tây Ninh. Điều lạ lùng, thích thú đối với cán bộ khu 6 mà phong trào còn lắm khó khăn gian khổ thì thì vùng giải phóng Nam Bộ quả là thần tiên. Ban đêm, giao liên đưa đoàn qua xóm giải phóng, nhà cửa tre lá tuy nhỏ nhưng đèn măng-xông sáng rực, có máy may, đặc biệt nhà nào cũng vang lên tiếng Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam, đi ngang nhà nghe lớn, qua xa một chút nghe nhỏ, tiếp đến nhà khác lại lớn lên, cứ thế qua hết xóm thì nghe đủ một bản tin! Đến nơi dừng nghỉ qua đêm, lại là ở trong xóm nhà đông đúc, vườn tược tươi tốt; đoàn ở trong các nhà dân. Không thấy phổ biến nấu cơm ăn, cơm dỡ ngày mai, hỏi thì giao liên bảo không cần, mai sẽ nấu sau.

- Nấu ăn ban ngày không sợ máy bay sao?

- Ồ, đây là vùng giải phóng hợp pháp, khi có địch càn, đồng bào đấu tranh hợp pháp, không việc gì đâu!

Trời, sướng vậy à? Mới lạ, khác xa Khu 6. Ngủ thẳng giấc, khỏi dậy khuya nấu cơm ăn, cơm vắt như đi trong rừng. Sáng, giao liên lại bảo:

- Các chú vào quán làm chút đỉnh lót bụng, chừng 9 giờ đi gần thôi.

Chà, lại có chuyện vào quán kéo ghế, cứ thử xem sao! Vào một quán bên đường gọi tô phở, cốc cà phê, thêm đĩa bánh ngọt, bình trà thật thú vị, mà cũng rẻ thôi. Bỗng nghe tiếng leng keng, ngó ta thì là xe ngựa chở khách, kiểu xe thổ mộ ở Sài Gòn – Thủ Đức hồi trước Cách mạng tháng Tám. 9 gờ lên đường, một tiếng sau đến trạm đón tiếp của R. Đây là xóm Tờ-băng-rơ-bol giải phóng, vùng Lò Gò, nghe nói không xa biên giới Cam-pu-chia mấy.

Hội nghị trong rừng già, có hầm phòng không. Hội trường, nhà ở lớp lá trung quân, kín đáo nhưng rộng rãi, thoáng mát. Cuộc sống ở Hội nghị khá thư thả. Gặp các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy Miền: anh Mười Út (Nguyễn Văn Linh) bí thư Trung ương Cục, chính ủy Miền, anh Hai Hậu (Trần Lương) chủ nhiệm chính trị và nhiều cán bộ lãnh đạo Cục Chính trị. Có một điều tôi rất cảm động là khi giảng bài tình hình nhiệm vụ mới, nhắc lại thời kỳ đấu tranh chính trị hợp pháp một chiều đã qua, khi còn là bí thư Khu ủy khu 5, anh Hai Hậu nói: “Hồi đó địch tố cộng, diệt cộng, đánh phá phong trào ác liệt, gây nhiều tổn thất cho cách mạng, quần chúng nhiều lần kiến nghị phải có sử dụng bạo lực, diệt ác, có đấu tranh vũ trang hỗ trợ cho đấu tranh chính trị hay biết bao nhiêu, mà mình cứ sợ trật phương châm, bảo thủ, máy móc duy trì đấu tranh chính trị hợp pháp đơn thuần, không đề đạt kịp thời lên Trung ương; trong khi đó Nam Bộ vận dụng phương châm đấu tranh rất sáng tạo, hạn chế được tổn thất, giữ và phát triển được phong trào…”. Tuy đã lâu rồi, nhưng sự tự phê bình chân thành, cơi mở của một cán bộ cao cấp cũng làm mọi người thực sự cảm động.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 18 Tháng Tư, 2019, 03:41:50 pm
Dự Hội nghị gần một tháng, tiếp thu được biết bao nhiêu điều mới mẻ về tình hình nhiệm vụ cách mạng, công tác Đảng, công tác chính trị trong lực lượng vũ trang, hệ thống tổ chức lực lượng vũ trang giải phóng các cấp trong toàn Miền, hệ thống tổ chức Đảng, lãnh đạo trong Quân đội và nhiều vấn đề quan trọng khác. Sau hội nghị chính trị, đoàn Bình Thuận được triệu tập dự tiếp Hội nghị Du kích chiến tranh toàn Miền lần thứ nhất do đồng chí Trần Văn Quang (Bảy Tiến), tham mưu trưởng Miền chủ trì. Đã có mặt đồng chí Hồ Hồng, trưởng Ban Dân quân Bình Thuận. Tại hội nghị, chúng tôi tìm hiểu kinh nghiệm của các tỉnh bạn Nam Bộ, những nơi có nhiều thành tích về phong trào du kích chiến tranh, xây dựng làng xã chiến đấu ở đồng bằng như Mỹ Tho, Long An, Bến Tre, v.v. Tuy nhiên, hoàn cảnh, điều kiện mỗi nơi một khác, bạn lại khá giả hơn mình, đông dân nhiều của, tiềm lực lớn, học vận dụng thế nào thì còn phải nghiên cứu sâu hơn. Bình Thuận được Bộ Chỉ huy Miền tặng thưởng Huân chương Quân công giải phóng hạng ba về thành tích phong trào du kích chiến tranh. Sau hội nghị chung, khi làm việc riêng với một số tỉnh, anh Bảy Tiến có hỏi tôi một vấn đề mà tôi rất khó trả lời suôn sẻ:

- Vì sao đồng bằng giải phóng Bình Thuận không có thế đấu tranh hợp pháp như ở Nam Bộ mà không mất dân? Ở Nam Bộ, giải phóng rồi phải giữ được đấu tranh chính trị vì không tương quan địch – ta hiện nay, không thể chỉ dùng đấu tranh vũ trang mà tồn tại vùng giải phóng được. Liệu vùng giải phóng của các đồng chí có tồn tại lâu dài được không?

Suy nghĩ kỹ, tôi đã trình bày với anh là ở Bình Thuận với xóm làng thưa thớt, dân cư ít ỏi, nên đấu tranh chính trị hợp pháp, địch sẽ dùng lưỡi lê, báng súng dồn hết dân. Bộ đội, du kích, đồng bào đều phải chống càn quyết liệt, phải đánh bại các cuộc càn thì mới giữ được các xã giải phóng ở Hàm Thuận, Khu Lê. Sở dĩ các xã Hàm Thạnh, Hàm Phú, Hàm Trí, Tiến Lợi, Kim Bình, Văn Mỹ, Nhơn Thiện, Thiện Nghiệp còn giữ được có lẽ còn nhờ có địa thế núi rừng đồng bằng xen kẽ nối tiếp, dân có chỗ dựa tốt để xây dựng làng xã chiến đấu, hình thành các căn cứ lớn liên hoàn hỗ trợ nhau nên mới đánh được địch, giữ được dân từ hai năm nay. Còn lâu dài có giữ được không như anh hỏi thì tôi chưa nói chắc trước được, nhưng dù sao cũng phải giữ vững lợi thế này đến cùng.

Anh Bảy Tiến cười, cho có lẽ đó là đặc thù của Bình Thuận về miền Trung rất quan trọng nhưng anh cũng e khó giữ được lâu dài. Thực tế nhiều năm về sau, các xã giải phóng đồng bằng Bình Thuận vẫn tồn tại với du kích chiến tranh, làng xã chiến đấu, dù vô cùng quyết liệt, hy sinh, không có việc tản cư ngược để địch đối phó bị động như ở Nam Bộ. Có lúc mỗi xã chỉ còn vài ba trăm dân, thậm chí xã Hồng Liêm chỉ có mấy chục. Riêng xã Tiến Lợi đến chiến tranh cục bộ chỉ còn ba gia đình, chỉ cách căng Ê-xê-pít hơn ki-lô-mét nên dù có chông, chất nổ, chiến hào lớp lớp, chiến đấu dũng cảm, ngoan cường nhưng đến năm 1970 cũng không trụ nổi với bọn Mỹ tàn ác.

Dự hai hội nghị ở Miền về, Khu 6, Bình Thuận vẫn giữ Ban Quân sự tỉnh, huyện; bí thư cấp ủy kiêm trưởng Ban Quân sự; nhưng Đảng ủy Quân sự tỉnh, huyện thì đã chuyển thành Ban Cán sự Quân sự như toàn Miền. Lúc này, tôi vẫn là phó Ban Quân sự, phó bí thư Ban Cán sự Quân sự tỉnh. Đồng chí Năm Hưng chuyển đi làm bí thư huyện Phan Lý nên Tư Thanh làm chủ nhiệm hậu cần; các đồng chí Nguyễn Cang (Đảng), Nguyễn Ngọc Châu (Nguyễn) mới ở A về làm tham mưu trưởng và trưởng Ban chính trị; cơ quan Quân sự được củng cố một bước. 486 thành một đại đội bộ binh mạnh với ba trung đội bộ binh, ba trung đội hỏa lực (đại liên, cối, ĐK); 489 đủ ba trung bộ binh, một trung hỏa lực; 481 thành một trung đội đầy đủ; trường tiểu đội (Bạch Đằng), Công binh, Cao Thắng đều được bổ sung quân số, tăng cường cán bộ. Các huyện đều có đủ cán bô quân sự chỉ huy, lực lượng cũng mạnh hơn; mỗi huyện đều có trung đội; Hàm Thuận, Hòa Đa (Khu Lê) có đại đội. Dân quân du kích rộng và đều khắp. Vụ mùa 1961, 1962 đều trúng, bảo vệ mùa màng là một nhiệm vụ quan trọng của bộ đội. Đi đôi với sản xuất tự túc một phần, chỉ vụ mùa 1961 riêng ở các xã Hàm Thạnh, Hàm Phú, Hàm Trí tỉnh đã thu và vận động ủng hộ được 1.700 xe lúa; nhờ đó bảo đảm đủ lương thực cho bộ đội, cơ quan và có dự trữ một phần.

Đầu tháng 3 năm 1963, tôi đi dự Hội nghị Quân chính Quân khu 6. Hơn 1 tháng theo đường giao liên, vượt qua thung lũng Đầm Ròn (Tây Bắc Đà Lạt) mới đến nơi. Gặp lúc địch càn lớn dài ngày, hội nghị có lúc phải di chuyển tránh càn và tiếp tục họp. Sinh hoạt đời sống cơ quan Quân khu căng thẳng, thiếu gạo, lạt muối, phải xuống Phú Yên, Khánh Hòa mang muối đi về hai tháng hết sức vất vả, nguy hiểm. Tại đây, quân khu quán triệt hưởng ứng phong trào “Thi đua Ấp Bắc, giết giặc lập công” của Miền phát động trong toàn Quân Giải phóng miền Nam, sau trở thành phong trào Thi đua Quyết thắng cho đến nay. Cũng tại Hội nghị, tôi được tin ở nhà vừa đánh thắng một trận khá lớn mở đầu thi đua Ấp Bắc của tỉnh.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 18 Tháng Tư, 2019, 03:42:52 pm
Đánh giao thông là sở trường của bộ đội Bình Thuận từ trong chống Pháp, còn ghi dấu son rực rỡ. đánh giao thông thường thắng to, diệt nhiều sinh lực địch, bồi dưỡng lớn mà ít tổn thất hơn đánh đồn, chống càn. Mấy năm đầu thập kỷ 60 này, ngoài số súng các đoàn mang từ Bắc về thì quân khu chưa trang bị cho địa phương, chủ yếu là thu súng chiến lợi phẩm Đầu 1961 Liên tỉnh còn điều của Bình Thuận ba chiến sĩ và ba tôm-xông; năm 1962, quân khu điều một trung đội tân binh; năm 1965 điều một đại đội có vũ khí. Vì thế, trong tác chiến có một yêu cầu quan trọng là phải tận thu chiến lợi phẩm, cả vũ khí, đạn dược, quân trang quân dụng, lương thực, thuốc men. Bình Thuận đã tự lực trang bị vào loại khá nhất của quân khu, đặc biệt là vũ khí đạn dược. Đánh giao thông đường sắt còn thu nhiều lương thực với số lượng lớn.

Trên quốc lộ 1, xe cộ qua lại suốt ngày nườm nượp, địch cũng thường chuyển quân bằng cơ giới. Ta chọn được đường gần núi Rễ thuộc xã Hồng Liêm, bắc Phan Thiết 30 ki-lô-mét làm trận địa phục kích độn thổ đánh này. Mùa khô, đồng trống cỏ cháy, đất cứng, chỉ có đào hầm ngụy trang thì mới bí mật bất ngờ. Trận địa có thể gói gọn năm đến sáu xe. Lực lượng đánh gồm 486, 489 và 450 Thuận Phong, du kích Hồng Liêm do các anh Đảng, Tư Thanh chỉ huy. Hành quân từ Hàm Trí qua, phải mang cây làm hầm, chông bố phòng, nặng nề, lỉnh kỉnh, nhưng tất cả đều nỗ lực hoàn tành trong đêm. Trưa ngày 29 tháng 3 năm 1963, trời nắng chói chang, nóng như thiêu đốt, ngồi dưới hầm ngột ngạt, khát cháy cổ, nước bình toong cạn sạch mà vẫn cố dốc từng giọt. Một sự chịu đựng vô cùng căng thẳng. Có tín hiệu của đài quan sát xa: Trâu ra – Trâu gì? Tại sao có câu hỏi tiếp: Trâu gì trên bộ đàm? Chưa biết ai nói nhưng rõ ràng là có địch rồi!

Một tiếng mìn vang trời, chiếc xe đầu có rơ-moóc chở đầy ắp lính không lật nhưng bị đẩy sát tổ chặn đầu. Anh em tung hầm, kẹp súng lia dồn dập vào xe, địch đổ gục chống chất lên nhau. Hai xe sau cũng ăn đạn dữ dội. Kèn xung phong vang vang. Cả đoàn ba xe địch bị diệt gọn trong vòng 20 phút, diệt 110 tên, bắt 30 tù binh, thu 150 súng (có 1 đại liên, 1 cối 60, 10 trung liên), một số bộ đàm PRC10. Xe hành khách dồn lại đông đặc, đồng bào kẻ nằm người nép tránh đạn. Khi thấy bộ đội xung phong khí thế ngất trời thì đứng hẳn lên xem; có người còn leo lên nóc xe nhìn cho đã; nhiều người vỗ tay hoan hô Quân giải phóng. Ta làm chủ chiến trường, lấy hai xe GMC còn tốt chở hết chiến lợi phẩm vào bìa động. 500 dân công có sẵn chuyển tiếp vào căn cứ. Bộ đội phân phát truyền đơn cách mạng rồi lưu luyến vẫy tay đồng bào. 15 giờ, Phan Thiết viện đến giải quyết hậu quả; hai máy bay oanh tạc gầm rú nhào lộn dội bom bắn phá xung quanh trận địa không người. Hôm sau, địch càn lớn vào Hồng Liêm, bị 450 và du kích đánh diệt nhiều tên, buộc chúng rút ngay.

Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, địch khôi phục và sử dụng tối đa đường sắt xuyên Việt vào mục đích quân sự. Ở Bình Thuận đã có mấy lần đánh xe lửa. Ngày 10 tháng 12 năm 1961, 486 đánh một tàu lửa ở nam ga Mương Mán, diệt một tiểu đội áp tải, thu hết súng và một số hàng hóa, phá hủy đầu máy. Ngày 17 tháng 1 năm 1962, đánh một tàu, thu một số thuốc tây và vài tấn bột mì. Đầu tháng 2 năm 1962, đánh tiếp một trận tại Râm Tối, nam Mương Mán, diệt 1 trung đội bảo an đường sắt, bắt 16 tù binh, thu 30 súng các loại, nhiều lương thực, thực phẩm. Từ đó, xe lửa không dám chạy đêm; ban ngày thì có tuần tra đường sắt và hộ tống các đoàn tàu bằng “xe nồi đồng”, còn gọi là “bù lu Mã Lai” – đó là xe bọc thép Vích-kham do nước Anh sản xuất, dùng chống lại du kích Mã Lai, nay Mỹ trang bị cho quân ngụy. Xe được thay bánh sắt, chạy trên đường ray nhanh và êm, tiến lui dễ dàng. Mỗi xe có sáu tên, trang bị một đại liên, một trung liên, còn lại súng trường, súng ngắn, tiểu liên, lựu đạn đầy đủ. Hỏa lực mạnh, cơ động nhanh, mỗi tốp ba chiếc, cự ly 100 mét/chiếc, tốp xe nồi đồng quả là rất lợi hại. Việc hành quân qua lại đường sắt ban ngày là khá nguy hiểm vì xe xuất hiện rất nhanh, bất ngờ. Chưa nghe chiến trường nào đánh xe nồi đồng để học kinh nghiệm, nhưng nếu không đánh diệt nó thì không còn đánh được các đoàn tàu nữa, hành lang giữa miền núi và đồng bằng dễ bị đứt. Tuy nhiên, xe nồi đồng cũng có nhược điểm, khi đường sắt bị cắt thì không còn cơ động được. Chúng tôi quyết đánh xe nồi đồng, đập tan chiến thuật này của địch.

(https://images.kienthuc.net.vn/zoomh/500/uploaded/tuananh/2018_03_20/7/saigon-1969-cc-toa-bc-thp-trn-sn-ga-si-gn6184693628o_PCXR.jpg)

(https://bienxua.files.wordpress.com/2019/02/91795-1.2ba2ba2ba2bb25c325a0i2bm25e125bb259bi2bxe2bl25e125bb25afa2b4.jpg?w=1000)


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 18 Tháng Tư, 2019, 03:44:52 pm
Ngày 29 tháng 3 năm 1962, nổ súng tại đường mồi Giếng Cỏ, khoảng giữa Ma Lâm – Mương Mán, chỉ diệt được một chiếc. Trận thứ hai ngày 4 tháng 6 năm 1962, diệt được chiếc đi đầu, bắn bị thương chiếc thứ hai nhưng cả hai chiếc đều chạy thoát. Ta thu toàn bộ chiến lợi phẩm chiếc xe đầu. Chưa thành công nhưng cũng đã có một số kinh nghiệm. Địch cho ta không đủ sức đánh diệt cả tốp nên không có đối phó gì. Ta quyết diệt gọn cả tốp và chiếm luôn đoàn tàu hàng chạy tiếp sau. Lần này tập trung cả 486, 489, 481, Cao Thắng cùng 500 dân công cơ quan và xã Hàm Thạnh. Tất cả lên đường với khí thế Ấp Bắc và niềm tin thắng lợi.

Ngày 22 tháng 6 năm 1963, đài quan sát báo địch đi đúng kế hoạch. Đồng chí Tự (chính trị viên Cao Thắng) chuẩn bị đánh mìn chiếc đi đầu, khẩu ĐK57 – hỏa lực đánh tăng, bọc thép duy nhất mà chúng tôi có lúc bấy giờ, cũng ngắm vật chuẩn, sẵn sàng nhả đạn. Trận địa trước giờ nổ súng im ắng lạ thường, đó đây tiếng chim rừng thánh thót, phút chờ đợi thường nôn nao khó tả. 8 giờ, một chấm đen xuất hiện; chỉ khoảnh khắc chiếc nồi đồng đã ở ngay trước mặt. Một bựng khói lửa trùm hết chiếc xe cùng một tiếng nổ vang trời; hàng tràng súng máy vang lên giòn dã phá tan bầu không khí vắng lặng buổi ban mai. Chiếc xe tiếp tục lao về phía trước, mìn nổ chệch rồi sao? Không phải, chiếc xe đã bị diệt, nó chỉ chạy theo quán tính một chút rồi dừng lại ngay chỗ chặn đầu. Anh em xung phong chiếm xe, thu ngay khẩu đại liên còn chĩa nòng về trước. Chiếc thứ hai lao lên, các hỏa lực ta đã ghìm đầu nó xuống. ĐK57 bắn hai phát diệt luôn. Chiếc thứ ba không dám tiến lên cũng không lui được vì đường sắt phía sau đã bị cắt rồi, nó dừng tại chỗ bắn trả dữ dội. ĐK vận động đến nện hai phát xuyên hông diệt nốt. Cả tốp xe nồi đồng đã bị hạ, không một tên nào sống sót. Chiếc tàu hàng phía sau đã đứng im tại chỗ. Bộ đội, dân công ùa ra mặt đường thu chiến lợi phẩm. Ta vô sự, thu ba đại liên, ba trung liên, ba tôm-xông, ba súng ngắn, chín súng trường, ba thùng đạn và trên 40.000 viên đạn. ta đi xem từng chiếc nòi đồng, ĐK đã xé toạc một lỗ lớn bên hông; địch thấy chắc cũng khiếp vía! Đoàn tàu hàng chở đầy gạo, nếp, bột mì, nhiều bột sữa, bắp bột, đậu cô ve, dầu xà lách (thùng 3,75 lít), thuốc men, bông băng, v.v. có lẽ đến mấy chục tấn, nhiều nhất là gạo và nếp. Ngoài ra còn có hai toa tràn đầy bia và nước ngọt, tha hồ bồi dưỡng để khuân vác suốt ngày. Hậu cần cho liên lạc hỏa tốc về xã Hàm Thạnh huy động thêm hàng chục xe trâu bò ra trận địa chở chiến lợi phẩm. Thu cả ngày, đêm mà gạo nếp, bia, nước ngọt còn vô số. Sáng hôm sau địch đưa một lực lượng lớn đến lấy lại khá nhiều số nếp, gạo còn lại. Trận đánh thắng lợi lớn cả về quân sự và kinh tế. Số gạo, nếp, bột mỉ chiến lợi phẩm đủ cho bộ đội và các cơ quan tỉnh dùng hơn ba tháng. Địch bỏ chạy, không dám dùng xe nồi đồng Vích-kham đi hộ tống các đoàn tàu nữa.

Cuối cuộc chống Pháp, địch cho ra đời một lại xe lửa bọc thép gọi là xe Ra-pha-nô (tên người đẻ ra nó) làm nhiệm vụ tuần tiễu đường sắt. Xe ngắn, chỉ có bốn toa nên bộ đội ta đặt tên là “xe lửa một”. Ngoài số lính chiến đấu của các toa bọc thép (vagon escorte), trên xe còn có một trung đội bộ binh để đổ quân phục kích các đường mòn qua lại. Chiến thuật này đã gây tổn thất một số cán bộ, bộ đội, du kích, đồng bảo đi lẻ qua lại đường sắt, bà con vừa sợ vừa căm thù, gọi nó là tên hung thần ác quỷ trên đường sắt. Nay xe nổi đồng đã tỏ ra vô hiệu thì địch dùng lại xe lửa một để hộ tống các đoàn tàu hàng. Cũng chưa nghe ở đâu đã đánh xe lửa một. ĐK 57 chưa đủ sức bắn vỡ công sự toa bọc thép, mìn cũng chưa lật đổ nổi đoàn tàu thì xe lửa một là bất khả xâm phạm. Hỏa lực nó rất mạnh, bốn toa bọc thép có tám đại liên, nhiều trung liên, cối 60, cối 81, có lúc còn có cả 12 ly 7 và ca-nông bô-pho 40; có động là nó bắn mù trời mù đất không sao tiếp cận nổi. Quân số là một đại đội giao thông thiết lộ. Mỗi toa bọc thép thực sự là một ổ đề kháng mạnh, có thể độc lập tác chiến, chống trả, ngăn chặn đối phương đến gần, đẩy lùi các đợt xung phong, đồng thời phối hợp chi viện đắc lực cho nhau, hai đầu máy, một trước kéo, một sau đẩy rất mạnh và tiện lợi. Ngoài ra, còn có các toa tàu trần xen kẽ chở đầy tà vẹt, đường ray, đát lát đường, dụng cụ công binh, v.v. để sửa chữa các nơi bị phá hoại, cũng để làm trọng lượng xe siêu nặng, mìn không hất tung nổi. Rõ ràng đọ sức với nó gay go hơn xe nồi đồng. Phải đánh bằng cách nào để hạ gục khối sắt thép khổng lồ này? Sau một thời gian điều nghiên, thấy nó cũng có những nhược điểm. yếu nhất là nóc toa xe, vỏ thép mỏng không co bê tông cốt thép, địch chắc cũng không nghĩ ra là có ai lại đánh từ trên trời xuống. Trên đường sắt nhiều nơi có ta luy cao và dài, xe chạy vào ta luy như chạy trong hầm, không phát huy được hỏa lực cực mạnh của nó nữa. Như vậy, có thể đánh bằng “thiên lôi”, tức đánh mìn từ trên nóc toa xuống; đồng thời phải nhốt xe trong ta luy để vô hiệu hóa hỏa lực địch. Và một phương án “Hoa Đào” độc đáo ra đời. Không biết sao các trợ lý tác chiến đặt tên vậy mà ai cũng mặc nhiên thích thú đồng tình.

(http://www.railwaysinvietnam.com/le_raf10.jpg)

(http://www.railwaysinvietnam.com/images.jpeg)


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 18 Tháng Tư, 2019, 03:46:41 pm
Chúng tôi lại đi đánh trận này. Lực lượng cũng đủ 486, 489, 481, Cao Thắng. Trước lúc xuất quân, tôi đã động viên đơn vị: “… Lần này ta sẽ diệt xe lửa một như 4 tháng trước ta đã diệt tốp xe nồi đồng, loại nó khỏi vòng chiến đấu ở chiến trường tỉnh nhà, không để xe lửa một gây tội ác. Địch cho là ta không dám đụng đến xe lửa một, nhưng chúng đã lầm, không có gì có thể ngăn được chúng ta làm nên chiến thắng. Với cách đánh sáng tạo, độc đáo và thú vị này, ta đã diệt được xe lửa một, trừ bỏ tại họa qua đường sắt cho mọi người. Ta sẽ là người đầu tiên xóa sổ con quỷ dữ xe lửa một trên mảnh đất Bình Thuận thân yêu của chúng ta…”.

Đêm hành quân trời không gợn mây; trăng vàng gió nhẹ; về khuya cảnh vật tĩnh mịch, hai đường ray song song mút mắt, chúng tôi thong thả bước quan sát kỹ địa thế hai bên đường, nơi ngày mai diễn trận ác chiến quyết định. Để anh em nghỉ ngơi thoải mái trước giờ nổ súng, đơn vị tập kết sâu sau trận địa 500 mét, khi xe lửa một hộ tống tàu hàng ra Mương Mán, lực lượng mới ra phục đánh xe lửa một chạy về Sài Gòn vào buổi chiều, không còn lo đối phó với máy bay hoặc quân viện nào khác.

Ngày 30 tháng 10 năm 1963, có bốn đoàn tàu hàng và hành khách chạy từ Sài Gòn ra. Sau cùng là đoàn tàu có xe lửa một hộ tống; trên trời còn có một “đầm già” và hai khu trục. Đoàn tàu vừa qua, lập tức các đơn vị ra chiếm lĩnh trận địa. 15 giờ có tiếng xình xịch từ phía bắc vọng lại, xe lửa một đã vào ta luy. Ầm, ầm! Hai tiếng nổ vang lên cắt luôn đường sắt trước, sau và phát lệnh cho toàn trận đánh. Xe lửa một đã đứng vừa vặn trong ta luy cao tới nóc, bị nhốt cứng trong hầm đất đúng như kế hoạch. Vô cùng hoảng hốt, chúng bắn ra loạn xị, khói bụi mịt mù nhưng tất cả đạn găm vào vách đất của ta luy nghe ùng ục như cơm sôi. Mìn vừa nổ, tức thì Minh Hú dẫn một tổ “thiên lôi” với chiếc cần tre dài, đầu buộc một quả badômin lật úp, xông ra sát mép ta luy đặt đúng vào giữa nóc toa bọc thép thứ nhất dí điện. Một tiếng nổ như sét đánh, những mảnh sắt, gỗ vụn bắn tung tóe tứ phía. Các tổ “thiên lôi” 2, 3, 4 đều kịp thời đánh các toa còn lại, khói lửa mịt mù, tiếng nổ đinh tai nhức óc, toa thứ hai bùng cháy dữ dội một chặp khá lâu. Các tổ thang mê xông ra bắc thang mê từ thành ta luy sang nó toa; xung kích ào ào chạy qua thang mê dội thủ pháo, lựu đạn, quét tiểu liên xuống lòng toa, hỏa lực địch câm họng. Chúng chẳng biết vì sao cái chết từ trên trời trút xuống, đành bó tay chịu trận. Kèn xung trận vang lên rộn rã, thúc giục. Tiếp chiến tảo trừ diệt nốt số ít còn chống trả lẻ tẻ, yếu ớt. Một số nhảy đại xuống đường, chui rúc dưới gầm xe cũng bị diệt, bắt không sót một tên. Sau 27 phút chiến đấu dũng mãnh, quyết liệt, ta đã diệt gọn đại đội giao thông thiết lộ, lính lái tàu, lính công binh gồm 80 tên và sáu tù binh.

Mấy trăm dân công, có các em Đoàn Văn công Thống nhất tỉnh tràn lên “tham quan xe lửa một” và ra sức thu chiến lợi phẩm. Chỉ một trận này đã thu được tám đại liên bờ-rốt-nin, ba trung liên bar, một cối 60, một cối 81, một VTĐ 15 oát, nhiều bộ đàm PRC10; cả tiểu liên, súng trường, các-bin, súng ngắn là 80 khẩu; rất nhiều đạn dược, chất nổ, đồ nghề công binh đường sắt, quan trang quân dụng, đặc biệt có đến 200 đạn cối. Tiếc là hôm nay trên xe không có 12 ly 7 và ca-nông bô-pho. Bộ đội, dân công không sao mang hết chiến lợi phẩm, đành phải phá hủy cùng với hai đầu máy. Ta chỉ bị thương ba, đều do bị mảnh vụ sắt, gỗ. Trận đánh kết thúc, chúng tôi lên nóc toa cuối giương cao cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng chụp ảnh kỷ niệm. Tiếc thay, trợ lý tác chiến kiêm phó nháy Bùi Văn Tiêm do sơ suất hay chưa thạo nghề mà khi về rửa cả cuốn phim đều hỏng nên không có ảnh chiến thắng xe lửa một để lưu lại về sau. Có ai đó thốt lên: “Thế là xong đời xe lửa một!”.

Về đến cơ quan, chưa kịp kiểm điểm rút kinh nghiệm trận đánh đặc biệt thú vị này thì được tin anh em Diệm – Nhu bị đảo chánh. Ngay trong đêm, chúng tôi được lệnh xuống chiến trường trong thời cơ mới.

Địch bỏ xe lửa một và bỏ luôn đoạn đường sắt qua Bình Thuận từ Trảng Táo – Long Khánh đến Hòa Trinh – Ninh Thuận. Dân quân du kích, đồng bào đã phá hoại triệt để đường sắt. Cho đến ngày miền Nam giải phóng, ta mới sửa chữa lại để nối thông tàu thống nhất xuyên Việt Bắc – Nam.

(https://i62.servimg.com/u/f62/16/01/15/26/20180110.jpg)

Bofors (40mm)


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 18 Tháng Tư, 2019, 03:47:49 pm
Cuối năm 1963, nhân dân Cà Dòn, miền Đông Tánh Linh, các xã miền núi Hàm Thuận, các cơ quan tỉnh, các huyện Di Linh, Tánh Linh, các đơn vị căn cứ bị lạt muối nặng. Địch bao vây kinh tế gắt gao, không sao bảo đảm được muối ăn. Tình hình đói muối ở căn cứ ngày càng hết sức nghiêm trọng. Các đơn vị hoạt động ở đồng bằng còn xoay xở được nhưng cơ quan, đơn vị và đồng bào căn cứ thì bí. Anh Sáu Tú đi công tác Hàm Tân đến xã giải phóng Văn Mỹ bàn với bà con lấy nước biển nấu thành muối để tiếp tế cho miền núi. Xã Văn Mỹ ở sát biển mà cũng gần rừng, củi đốt không thiếu nhưng mỗi gia đình nấu cật lực cũng chỉ được một lượng muối quá it ỏi, thế là kế hoạch nấu nước biển thành muối phải bỏ.

Hồi năm 1955, tôi đã có dịp đi qua đồng muối ngoại ô Phan Thiết. Tôi nghĩ rằng ta có thể đi lấy muối ở đây thì mơi có số lượng lớn, mới giải quyết được vấn đề quá lớn lao này, tôi đề nghị và được anh Sáu Tú đồng ý, giao cho tôi cùng 486 đặt kế hoạch thực hiện. Đồng chí Mười Lang cho đơn vị đi trinh sát thì quả là ở khu vực cầu Sở Muối có nhiều đồng muối lớn, ban đêm không có người giữ, có thể đến lấy thuận lợi. Tổ chức đi lấy muối rất công phu, 486 lo việc trinh sát, dẫn đường vào bảo vệ khi đi lấy về. Không thể liên hệ bàn trước với chủ muối, lại phải bảo đảm an toàn cho lực lượng đi lấy nên ta cứ bí mật thẳng đến, gặp đống muối nào gần nhất thì lấy thôi. Huy động cả bà con ở căn cứ, các cơ quan đơn vị phía sau, lần đầu đi trên 800 người, chiều qua đường sắt, xuống Tam Giác, qua đường 8, vừa vượt khỏi đường 1 là gặp ngay một đống lớn. Lần lấy thứ nhất thành công tốt đẹp. 486 tiếp tục nắm tình hình, cứ thế cho đến đầu 1964 ta lấy được bốn chuyến, chuyến đông nhất trên 1.000, ít cũng 700 – 800 người, mang cật lực, kết quả mỹ mãn, ước tính được trên 100 tấn muối. Có một lượng lớn đến vậy mới đáp ứng được nạn lạt muối của căn cứ, và còn có dự trữ dùng nhiều năm về sau.

Để giữ uy tín của cách mạng, lại phải tạo điều kiện cho các gia đình chủ muối có cớ đấu tranh với địch, tôi bảo đồng chí Đồng (chính trị viên 486) cứ mỗi lần lấy muối xong, phải cắm bảng tại đồng muối có dán tờ giấy viết dòng chữ “Cách mạng mượn muối này của ông bà. Đến ngày kháng chiến thắng lợi, Mặt trận sẽ trả tiền đầy đủ cho ông bà. Ký tên: Mặt trận Dân tộc Giải phóng tỉnh Bình Thuận”. (Sau ngày giải phóng, mới biết tất cả bốn chuyến ta lấy đó đều là muối của ông bà Đinh Ngọc Quang, diêm dân ở Phan Thiết. Ông cho biết: cứ mỗi lần ta lấy muối thì địch lại bắt bớ khảo tra, hành hạ gia đình khổ sở trăm bề. Năm 1995, tôi đã xác nhận việc lấy số muối này của gia đình ông để ông yêu cầu Ủy ban Nhân dân tỉnh hoàn trả số tiền muối cho gia đình ông như Mặt trận Dân tộc Giải phóng tỉnh đã hứa trước đây). Rõ ràng việc lấy muối lúc đó là một sự kiện lớn, rất đặc biệt của tỉnh. Hàng ngàn cán bộ, nhân viên, chiến sĩ các cơ quan tỉnh, huyện và đồng bào căn cứ ở huyện Di Linh, miền Đông Tánh Linh đều tham gia đi lấy (đến nay hầu hết đều còn sống). Nhờ số muối lấy được đã không còn nạn đói muối gay gắt của hàng ngàn gia đình. Khi lấy muối, ta không báo trước nên gia đình không biết nhưng đây cũng là công của gia đình ông Đinh Ngọc Quang đóng góp cho cách mạng giải quyết một khó khăn lớn trong đời sống kháng chiến của đồng bào, cơ quan, đơn vị ở căn cứ thời gian đó. Tỉnh nên có giấy khen thưởng thích đáng cho ông Quang ngoài việc trả lại số tiền muối đã lấy. Bởi vì: nếu không có số muối này thì tỉnh làm sao để đồng bào khỏi bị đói muối?

Huy động cả ngàn người đi lấy bốn chuyến đều có kết quả, an toàn, địch không năn chặn, đối phó được. Đó cũng là công tác to lớn của đơn vị 486. Tiếc là sau thời điểm đó tôi đi học ở Miền cả năm nên sự việc rồi cũng qua đi, không ai chú ý việc khen thưởng thành tích đó cho 486 cả.

Trên đường đi lấy muối khá xa, đồng bào vui vẻ lạ thường, cũng có lắm điều thú vị đi ngang đồng trống Tam Giác, bỗng thây một con thỏ từ đâu đâm bổ vào đoàn người, thế là vòng vây xiết chặt, hò hét vang trời, con thỏ khiếp vía và hết đường chạy đành nạp mạng. Khi về, qua đường sắt ban ngày, một số bà con Cà Dòn, người nào cũng mang đầy xà bố, mỗi xà bố có lẽ cũng phải trên 50 ký, thật là một số nỗ lực kinh khủng, khó tưởng tượng lúc bình thường có thể mang nhiều đến thế. Mệt quá, các vị chống “tó” đứng nghỉ ngay giữa đường sắt, không hề nghĩ là có “xe lửa một” xuất hiện thì làm sao thoát được?

- O mi ơi (anh em ơi), phải chạy mau qua đường sắt, xe lửa tới thì mất mạng đó.

- Không sao đâu, mạng muối lớn hơn mạng mình mà! Nặng lắm, phải nghỉ một lát rồi mới đi nổi mà.

Nói vậy nhưng thấy mọi người đều chạy, các vị cũng nhổ tó ráng chạy theo, vừa qua thoắt một đoạn thì có tiếng xe lửa chạy qua ầm ầm. Thật hú vía!

Mấy chục năm đã qua, mỗi khi nhắc lại chuyện lấy muối năm đó, ai cũng cho là một kỳ công, nó đã giải quyết được một việc vô cùng lớn, đó là việc đói muối của hàng ngàn con người ở một cùng căn cứ cách mạng rộng lớn. Thời buổi này đâu có thể ăn cỏ tranh thế muối như làng “Công Hoa” của anh hùng Núp trong “Đất nước đứng lên” thời chống Pháp!


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 18 Tháng Tư, 2019, 03:50:07 pm
Năm 1964, tôi được Tỉnh ủy cử đi học một Lớp Trung cao Chính trị ở Miền. Đoàn học viên Bình Thuận có bảy người gồm đồng chí Nguyễn Quí Đôn (thường vụ tỉnh ủy), tôi và các đồng chí Nguyễn Đăng Kỳ, Trần Mai Lý, Nguyễn Sô (đều là các bí thư, thường vụ các huyện, thị ủy). Lần thứ hai tôi đi R. Cũng qua đường 20, sông Đồng Nai, Mã Đà, chiến khu Dương Minh Châu, sông Sài Gòn đến Lò Gò, Tây Ninh. Thời gian một năm, học có hệ thống chủ nghĩa Mác – Lê-nin, triết học duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, kinh tế - chính trị học, chủ nghĩa xã hội khoa học, lịch sử Đảng, xây dựng Đảng, tình hình nhiệm vụ, v.v. Trong khóa còn có đồng chí Nguyễn Đức Thuận (thường vụ Xứ ủy Nam Bộ) đến nói chuyện về khí tiết cách mạng của người cộng sản trong nhà tù đế quốc, một lòng trung thành với Đảng, với Bác Hồ, kiên cường, anh dũng đâu tranh trực diện với kẻ địch vô cùng hung ác, dã man, vượt qua mọi cực hình tra tấn, biệt gian, anh hùng đến mức địch cũng phải nể sợ, quỳ gối kính phục. Sau này, các chuyện được nhà văn Lý Văn Sâm viết thành tác phẩm văn học “Bất khuất” rất có giá trị. Nổi bật là năm đồng chí Nguyễn Đức Thuận, Phan Trọng Bình, Phạm Quốc Sắc, Nguyễn Văn Minh (Nguyễn Văn Minh là xã đội trưởng xã Hàm Phong, Hàm Thuận, Bình Thuận), được đồng chí, đồng bào Côn Đảo tôn vinh là năm ngôi sao sáng trong tù chính trị Côn Đảo.

Tại lớp học này, tôi cũng có một kỷ niệm nhỏ nhưng khá sâu sắc, đó là việc bỏ hút thuốc. Trong chống Pháp, tôi không hút thuốc, uống trà; sang chống Mỹ, đấu tranh chính trị mấy năm đầu, ban ngày ở nơi an toàn, nghỉ ngơi, chơi tu-lơ-khơ, cờ tướng; chiều tối đi đột ấp xây dựng cơ sở hoặc lo tiếp tế, v.v. Anh em thường rủ rê (nhất là anh Hoàng Từ): ở núi rừng xa gia đình, cha mẹ, vợ con, chỉ có chén trà, điếu thuốc làm vui, hút với anh em một điếu có hề gì. Anh Sáu Tú còn bỏ vào túi tôi một bóp vải nhỏ đựng thuốc, giấy và bật lửa, để lúc nào muốn hút có ngay, khỏi hỏi ai! Nhiều ngày rồi cũng xiêu lòng và khi đã hút thì cũng nhanh chóng thành thạo chẳng kém ai từ lúc nào không biết, nhưng tôi chưa đến nỗi lượm tàn. Thế là tôi hút từ năm 1957. Ở tỉnh có nhiều bạn bè, bà con quen thân giúp đỡ nên tôi có thuốc lá hút thường xuyên. Nay đi học, tỉnh cho đoàn 3.500 đồng để bồi dưỡng chút ít dọc đường, lúc mua thêm cá mắm, khi ăn bữa chè, tới Lò Gò là vừa hết. Trường có chế độ phụ cấp tiêu vặt tháng, anh em gọi vui là “lương”. Các khu được cấp 40 đồng/người/tháng. Khu 6 và khu Sài Gòn – Gia Đình gian khổ được ưu tiên 60 đồng/người. Lúc đó, giá một lon sữa 10 đồng, một ký đường, gói thuốc thơm Ara, bút bi cũng 10 đồng, một rê thuốc 5 đồng, 1 xấp giấy quyển 5 hào. Vào đây, tôi không có nguồn tiếp tế nào ngoài “lương”, chỉ hút thuốc rê một tháng cũng mất 150 đồng và 15 đồng tiền giấy, lương không đủ hút nói chi đến uống trà, ăn bánh chút ít, còn kem bót, xà phòng v.v. cũng không thể thiếu. Các bạn học Nam Bộ thường hút thuốc thơm, vui vẻ rộng rãi, mua bao thuốc thơm bỏ ra bàn mời anh em, hết mua bao khác, có người xin một điếu hút, điếu dắt mang tai là chuyện thường ngày. Uống trà, hút thuốc rất thảo lảo thật tình, nhưng không lẽ cứ lấy thuốc của bạn hút mãi, lớp học cả năm, nào phải hội nghị năm mười ngày. Tôi bèn quyến tâm bỏ thuốc. Lãnh phụ cấp, tôi mua lon sữa, ký đường, gói trà, cây kem, bánh xà phòng cho hết tiền luôn. Bỏ hút không dễ dàng, lên môi trường cả trăm người hút thơm phức khêu gợi quá chừng, ngồi thảo luận tổ cả ngày, mọi người hút liên tay, thèm ghê gớm; trước khi ngủ, sau thức dậy làm một điếu thú vị biết bao. Ăn rồi tanh miệng hút một điếu đã thành thói quen, nay từ bỏ cũng gay go. Ngồi học, bạn bỏ gói thuốc trước mặt, cứ ân cần, muốn lấy một điếu vô cùng nhưng đấu tranh giữ tay lại. Khổ sở nhất là ba ngày đầu, một tuần thấy dễ chịu. Lúc đầu không ai chú ý, sau cũng có người hỏi:

- Sao không hút thuốc, Sáu Nam?

- Tôi muốn cảm cúm, hút nóng rát cổ chịu không nổi!

Sau một tháng thì không còn thèm thuốc chút nào. Tôi hút thử một điếu xem thế nào chứ không phải muốn hút lại. Hút vài hơi, tôi vứt ngay, nó đắng nghét, chẳng ngon lành gì cả; không biết trước đây tại sao mình lại hút. Cắt đứt chuyện hút thuốc được rồi. Biết tôi bỏ thuốc, có người khen ủng hộ; có người cười nói trước sau gì nó cũng hút lại thôi, thứ này không bỏ được đâu, nhiều người bỏ mà đâu có bỏ được, mà bỏ làm gì chứ? Tôi chỉ cười, không trả lời bạn. Bụng bảo dạ ta thắng rồi! Năm 1965, khi tôi làm phó chính ủy Trung đoàn Bắc Sơn Quân khu 6, đóng gần cửa khẩu Đắc Uýt, nhu yếu phẩm dồi dào, thỉnh thoảng có liên hoan nhẹ, nhiều người mời hút một điếu với anh em cho vui, có gì mà ngại, nể lời tôi cầm một điếu, rồi thấy cũng hơi thích, tôi vội bảo mình: đã không hút thì không được đụng tới kẻo rồi bị thất bại. Đến nay, tôi đã bỏ thuốc 36 năm rồi. Đến ngày “Quốc tế không hút thuốc lá”, tôi cũng viết một bài tuyên truyền không hút thuốc nhưng xem chừng không kết quả mấy. Có mấy người bạn bỏ rồi hút lại, mà hút luôn miệng, không nói tới việc bỏ hút nữa. Tôi nghĩ là không có gì khó không làm được, chỉ cần có nghị lực thôi.

Hết lớp học viên toàn khóa được dự Hội nghị Trung ương Cục mở rộng; đây là hội nghị quan trọng cuối chiến tranh đặc biệt, Trung ương Cục quyết định giành thắng lợi quyết định, buộc địch phải chịu thua trong chiến tranh đặc biệt hoặc phải chuyển sang chiến tranh cục bộ. Ở hội nghị, tôi được gặp và nghe đại tướng Nguyễn Chí Thanh mới vào chiến trường, là bí thư Quân ủy và chính ủy Quân Giải phóng miền Nam nói chuyện. Anh phân tích địch – ta, chỉ rõ xu thế phát triển của tình hình sắp đến hay vô kể; nghe cứ như anh đã cầm chắc địch trong tay rồi vậy. Trường còn được đón đồng chí Bớc-sét, Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Ố-xtray-lia và nữ đồng chí Ma-đờ-len Ríp-phô đại diện Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Pháp đang thăm miền Nam nước ta, đến thăm trường, nói chuyện rất hay, rất tình cảm, các đồng chí đều khâm phục Đảng, Bác Hồ, nhân dân ta anh dũng chống Mỹ, cứu nước và tin tưởng nhất định chúng ta sẽ giành thắng lợi cuối cùng.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Tư, 2019, 10:43:09 am
6. Cánh 2 vào Phan Thiết.

Từ khi quân chiến đấu Mỹ đến Phan Thiết ngày 27 tháng 8 năm 1966 đến hết năm 1967 là thời kỳ Bình Thuận đánh Mỹ sôi sục quyết liệt. Quân dân Bình Thuận đã vượt qua biết bao khó khăn, thử thách ban đầu, vươn lên góp phần cùng toàn Miền tích cực chuẩn bị đi vào mùa Xuân 68 lịch sử. Ngày đầu xuân năm ấy, Bác Hồ kính yêu đã chúc Tết đồng bào cả nước:

            Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua
            Thắng trận tin vui khắp nước nhà
            Nam – Bắc thi đua đánh giặc Mỹ
            Tiến lên, toàn thắng ắt về ta!


Đó là hịch truyền, là mệnh lệnh thôi thúc toàn quân toàn dân thi đua đánh giặc Mỹ để tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Vừa ra sức đánh Mỹ khắp tỉnh, chúng tôi vừa ra sức xây dựng, phát triển mạnh lực lượng đặc công, tích cực chuẩn bị vật chất, chuẩn bị chiến trường với một qui mô đến choáng ngợp nhưng vô cùng hào hứng. Các đoàn vận tải quân sự ngày đêm vào núi Bể, núi Mây Tào Bà Rịa mang vũ khí, đạn dược của R cấp cho tỉnh, toàn súng đạn xã hội chủ nghĩa. Đến lúc này, tỉnh mới có AK, RPĐ, cối 60, 82 Liên Xô, pháo dù, mìn đánh tăng, B40. Tháng 10 năm 1967, từ một Đại đội 481 đặc công đã thành bốn đại đội đặc công đủ; Đại đội 1/481, Đại đội 2/481, Đại đội 3/481 và Đại đội 5 đặc công; ba đại đội 481 được giao cho Thị đội: Đại đội 2/481 bố trí đứng ở Râm Bàu Heo – Cửa khẩu Tam Giác, các chốt Mỹ Hố Chùa, Nồng Cà Tang, Bà Gò đều đã nằm ở sau lưng; Đại đội 1/481 đóng ở Bưng Cò Ke – tây nam Phan Thiết, khá gần Căng Ê-sê-pít lúc đó là căn cứ hỗn hợp lớn của lữ đoàn 506 Mỹ; Đại đội 3/481 đóng ở Râm Tre Hàm Nhơn – Khu Lê, không xa các chốt Mỹ ở Tà Dôn, Lầu Ông Hoàng bao nhiêu. Đội hình rẻ quạt này ôm lấy Phan Thiết ba phía trừ biển, nói lên hoạt động tập trung vào Phan Thiết không còn xa. Tỉnh còn đưa một số lượng lớn đạn dược, gạo muối chôn giấu sẵn ở Tam Giác. Đại đội 2/481 đứng được ở Tam Giác là một sự cố gắng khắc phục gian khổ, nguy hiểm phi thường vì ba bên bốn bề Mỹ - ngụy nhung nhúc, tiếng súng pháo kề cạnh, ngày ở hầm bí mật, đêm mới lên mặt đất sinh hoạt, nghỉ ngơi; căng thẳng đến mức đại đội trưởng Lê Văn Bảng cũng buột miệng:

- Chà, căng thẳng ghê quá!

Chính trị viên đại đội Hoàng Phương Đông hỏi đùa:

- Anh là anh hùng mà cũng căng thẳng nữa sao?

Cả hai cười xòa thoải mái rồi vội tụt xuống hầm ngụy trang.

Đến cuối tháng 12 năm 1967, toàn tỉnh đã đánh 1.000 trận lớn nhỏ, diệt hơn 6.000 tên địch, bắn rơi, bắn cháy 105 máy bay, diệt hơn 100 tăng, bọc thép. Đặc công đứng chân xong là tập trung chuẩn bị chiến trường, toàn bộ là các mục tiêu trong nội thị. Lần đầu tiên tỉnh với tay vào tận sào huyệt địch với một khối lượng mục tiêu vượt xa sức mình nhưng đây là mệnh lệnh, phải động viên mọi nỗ lực cao nhất, khẩn trương nhất để hoàn thành nhiệm vụ. Anh Ba Lê (tỉnh đội trưởng) và tôi trực cơ quan, chỉ đạo Đại đội 2/481 chuẩn bị Trinh Tường, Đinh Công Tráng, biệt khu Bình Lâm đều là cứ điểm cấp trên đại đội; Đại đội 3/481 chuẩn bị tiểu khu, tỉnh đoàn bảo an, ty công an cảnh sát. Anh Đảng (tỉnh đội phó) xuống Thị đội trực tiếp phụ trách Đại đội 1/481 chuẩn bị Căng Ê-sê-pít và cổng chữ Y, tranh thủ các đêm tối trời tháng 12 năm 1967 và đầu tháng 1 năm 1968 nhất là dịp Tết Nguyên đán Mậu Thân. Trước đây, mỗi mục tiêu, 481 chuẩn bị cũng phải 3 tháng, nay thì bỏ lệ thông thường đó rồi.

Có một việc xảy ra ngoài dự kiến, chúng tôi không biết mà có ảnh hưởng không nhỏ đến tổng công kích vào thị xã sau đó. Vào đầu tháng 1 năm 1968, Tư lệnh Quân khu do đồng chí Võ Văn Đẩu, chủ nhiệm đặc công Quân khu xuống thẳng Thị đội truyền lệnh trực tiếp của Tư lệnh cho anh Đảng và Thị đội tập trung cả Đại đội 1, Đại đội 2/481, 480 cùng mọi khả năng của Thị đội chuẩn bị Căng Ê-sê-pít để sau ngừng bắn Tết có thể đánh được Căng ngay. Tư lệnh cũng chỉ định đồng chí Đảng làm chỉ huy trưởng, Vũ Văn Đẩu và Nguyễn Anh Dũng (Thị đội trưởng) làm chỉ huy phó trận đánh này. Ngày N Quân khu có lệnh sau. Việc này Quân khu ra lệnh vượt cấp cho anh Đảng và Thị đội nên chúng tôi chẳng biết gì, cứ nghĩ là Đại đội 2/481 đang chuẩn bị Trinh Tường. Đại đội 3/481 suốt thời gian qui định mới xoi đường vào gần, thấy được mục tiêu tiểu khu chứ chưa vào rào nào. Như vậy, đến Tết chưa có mục tiêu nào trong nội thị được chuẩn bị. Tại sao vậy? Vì tư lệnh Quân khu cho rằng phải sau ngừng bắn Tết một thời gian mới có ngày N của Miền, do đó ý định của ông là vừa hết ngày ngừng bắn Tết, ông sẽ đánh phủ đầu quân Mỹ ở Căng một đòn nặng cho nó quỵ, mất sức chiến đấu, sau đó thong thả vào Phan Thiết. Đối với quân ngụy, ông cũng không đưa Đại đội 5 đặc công của 840 cùng Đại đội 3/481 chuẩn bị khu vực tiểu khu mà lệnh cho đồng chí Lê Du tiểu đoàn trưởng 840 tập trung Đại đội 5 cùng cán bộ của 840 chuẩn bị yếu khu Sông Lũy ở Bắc Bình. Cùng lúc anh Đảng đánh Căng thì Lê Du cũng diệt yếu khu Sông Lũy, rút kinh nghiệm để sau đó cùng 482 vào Phan Thiết. Tất nhiên việc điều 840 ở Râm Tre – Hàm Nhơn ra Bắc Bình chúng tôi cũng không được thông báo. Do vậy, khi Miền ra lệnh vào N, ta đánh tiểu khu, Trinh Tường, cổng chữ Y đều không có chuẩn bị trước, 840 bỏ Sông Lũy, tức tốc hành quân về Râm Tre – Hàm Nhơn tổ chức chiến đấu rồi vào Phan Thiết trễ ba ngày. Đợt 1 tổng tấn công Phan Thiết bị giã gạo cả ở cấp Quân khu, vì ngày N lại là trong dịp Tết nghĩa là còn trong thời gian ngừng bắn.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Tư, 2019, 10:44:05 am
Gần Tết, Tỉnh đội được lệnh Miền cho mở đài canh 24/24 giờ để sẵn sàng nhận lệnh mới. Đoán biết có chuyện lớn, anh Ba Lê và tôi yên tâm với cách bố trí từ trước, chắc chắn mỗi đơn vị cũng chuản bị được một mục tiêu cho nhiệm vụ đến, chúng tôi cho cơ quan và 482 ăn Tết sớm để chủ động trong mọi tình huống. Từ cuối 1967, Quân khu đã cho học tập tình hình nhiệm vụ mới, tự nguyện gác bỏ mọi riêng tư, sẵn sàng xả thân vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, triệt để chấp hành mệnh lệnh, đánh theo yêu cầu không theo khả năng, bàn vô không bàn ra, chỉ tiến không lùi. Có điều là vào giờ phút khẩn trương này, là cấp tỉnh, chúng tôi tất nhiên không được phép biết sớm ngày N. Sau Mậu Thân, tôi băn khoăn mãi một việc là bản thân chúng tôi, những người trực tiếp chiến đấu thực hiện đánh chiếm Phan Thiết mà chỉ biết trước có hai ngày thì có thể làm được bao nhiêu cho nhiệm vụ? Trong khi Quân khu biết trước 21 ngày, dĩ nhiên chỉ yêu cầu biết nhiệm vụ đánh chiếm Phan Thiết thôi chứ không yêu cầu biết trước ngày N. Giá như cấp tỉnh chúng tôi được biết nhiệm vụ trước năm đến bảy ngày thì tốt biết chừng nào! Mọi năm ngừng bắn Tết ba ngày, năm nay bảy ngày, đó là thuận lợi lớn cho đặc công chuẩn bị mục tiêu, trong dịp Tết địch có nhiều chủ quan sơ hở, chúng tôi mừng vô hạn nhưng đâu có ngờ…

Đêm 28 tháng Chạp âm lịch, anh Tám Hiền đang họp ở Khu điện về cơ quan Tỉnh đội triệu tập tất cả các ủy viên Thường vụ, tỉnh ủy viên, Ban Chỉ huy Tỉnh đội, trưởng phó ban ngành Tỉnh ủy có mặt sẵn trong đêm chờ anh về phổ biến mệnh lệnh khẩn cấp. Chờ quá nửa đêm chưa thấy anh về, mọi người đi ngủ với một tâm trạng hồi hộp khó tả. 4 giờ ngày 29 anh vừa về tới là cuộc họp bắt đầu tại cơ quan trên đỉnh núi Nhà Lầu. Dưới ánh sáng lờ mờ của các ngọn đèn dầu ló thụt, tất cả nghiêm trang đón nhận mệnh lệnh. Đây là giờ phút thiêng liêng trong đời chiến đấu của mỗi người từ khi Đảng động viên sẵn sàng cho thời cơ mới. Sau khi phân tích tình hình, thời cơ, nhiệm vụ chung, vô cùng phấn khởi, anh nhấn mạnh:

- Đây là nhiệm vụ lịch sử, thời cơ lịch sử của dân tộc đòi hỏi một quyết tâm vô cùng lớn lao, ý chí thiết tha giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà. Quyết tâm của Đảng là toàn Miền sẽ nhất tề đồng loạt, trong một ngày một giờ xông thẳng vào sào huyệt địch đánh chiếm, phát động quần chúng nổi dậy làm chủ các thành phố, thị xã, tiếp đó giải phóng cả nông thôn, thành lập Chính phủ Cách mạng miền Nam và chính quyền các cấp, hoàn thành giải phóng miền Nam. Đây là cuộc Tổng công kích, tổng khởi nghĩa lịch sử trong thời cơ lịch sử vô cùng đặc biệt, vô cùng thuận lợi mà chúng ta tự hào, vinh dự được góp phần xứng đáng.

Chúng tôi xúc động lặng đi giây phút rồi chăm chú theo dõi nhiệm vụ cụ thể của địa phương và mỗi người:

- Khu 6 vào Tổng công kích, tổng khởi nghĩa có 2 trọng điểm phải đánh chiếm làm chủ phối hợp toàn Miền: trọng điểm 1 là thị xã Phan Thiết, trọng điểm 2 là thành phố Đà Lạt. Các nơi khác là diện phối hợp, Bộ chỉ huy Mặt trận Phan Thiết do anh Năm Ngà lam Tư lệnh, anh Tám Hiền làm chính ủy. Lực lượng đánh Phan Thiết được tổ chức thành 3 cánh: Cánh 1 chủ yếu, gồm Tiểu đoàn 840, Đại đội 3/481, 405, các đội công tác và lực lượng chính trị tả ngạn do anh Ba Lê làm chỉ huy trưởng, anh Phan Văn Hược (chủ nhiệm chính trị Quân khu) làm chính ủy, sẽ đánh diệt tiểu khu và tòa hành chín Bình Thuận, tỉnh đoàn bảo an, ty cảnh sát và các mục tiêu xung quanh. Cánh 2 thứ yếu, gồm Tiểu đoàn 482, Đại đội 2/481, Đại đội 5 đặc công tỉnh, Đại đội 487, Đại đội trợ chiến Quân khu, Đội công tác và lực lượng chính trị, do anh Sáu Nam làm chỉ huy trưởng, anh Bốn (bí thư Thị) làm chính ủy, anh Đảng chỉ huy phó, đánh diệt Trinh Tường, trại Đinh Công Tráng, biệt khu Bình Lâm, các mục tiêu xung quanh khu vực, cùng cánh 1 làm chủ tả ngạn. Cánh 3 gồm Đại đội 1/481, 480, Đại đội công binh tỉnh, đội công tác, lực lượng chính trị do đồng chí Nguyễn Hội làm chỉ huy trưởng, Nguyễn Như (phó bí thư Thị) làm chính ủy, dùng một bộ phận đặc công đánh Căng Ê-sê-pít, tiêu hao, kiềm chế quân Mỹ, lực lượng còn lại đánh cổng chữ Y và các mục tiêu xung quanh, làm chủ hữu ngạn, cùng cánh 1, cánh 2 làm chủ thị xã và đánh phản kích Mỹ, trung đoàn 44. Các đồng chí chính ủy còn phải phối hợp Thị ủy phát động quần chúng tổng khởi nghĩa, phá ấp, phá kềm, lập chính quyền cách mạng, quản lý thị xã. Các huyện Hàm Thuận, Thuận Phong ngoài việc đánh chiếm các mục tiêu ở địa phương còn có nhiệm vụ phục vụ trực tiếp cho Phan Thiết. Các huyện Hàm Tân, Tánh Linh, Hoài Đức tích cực hoạt động phối hợp trọng điểm. Di Linh giữ căn cứ, sẵn sàng huy động phục vụ phía trước. Anh Sáu Nam có nhiệm vụ truyền đạt nhiệm vụ cho cánh 3 và các đồng chí Hội, Như để kịp thời tổ chức chiến đấu. Sở chỉ huy Mặt trận lúc đầu ở Bàu Tròn Tam Giác, tiếp đó xuống Đại Nẫm rồi vào Phan Thiết.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Tư, 2019, 10:45:08 am
Các đồng chí Thường vụ, tỉnh ủy viên, các ban ngành cũng đều có công việc cụ thể cả ở phía trước và phía sau. N là đêm 31 tháng 1 rạng 1 tháng 2 năm 1968 tức đêm mồng một Tết Nguyên đán. G là 24 giờ.

Anh Tám Hiền cũng cho biết ở Đà Lạt Tổng công kích, tổng khởi nghĩa với các Tiểu đoàn 186/Quân khu, 130 trợ chiến quân khu, đặc công, bộ binh tỉnh Tuyên Đức và thành phố Đà Lạt; Tư lệnh Mặt trận Đà Lạt là Lê Thành Công (phó tư lệnh Quân khu 6), chính ủy là Ba Ưng (bí thư Thuyên Đức). Anh cũng nói một số việc có thể phổ biến được để mọi người phấn khởi. Chiếm xong Sài Gòn, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam sẽ ra tuyên bố với cả nước và thế giới, ra mặt Chính phủ Cộng hòa miền Nam Việt Nam với cờ của Chính phủ Cách mạng, phát hành tiền của Ngân hàng Quốc gia Cộng hòa miền Nam, công bố quan hệ bình thường Nam – Bắc, thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước, v.v. Với tư cách người lãnh đạo, chỉ huy cao nhất ở trọng điểm 1, anh cũng dự kiến các mặt thuận lợi, khó khăn ác liệt, đòi hỏi phải xả thân xông lên, sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp cách mạng để giành toàn thắng theo lời kêu kêu gọi của Bác.

Chúng tôi vô cùng phấn chấn, hoàn toàn nhất trí với nhiệm vụ, hứa với Đảng sẽ dốc hết sức mình, dù phải hy sinh để góp phần hoàn thành sứ mệnh lịch sử vẻ vang trọng đại này. Vẫn biết nhiệm vụ là quá sức song trong thời cơ phối hợp toàn Miền, dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng và Bác Hồ, kiên cường chiến đấu, vị quốc vong thận thì nhất định thắng lợi. Với niềm tin tưởng vững chắc, chúng tôi bắt tay ngay vào nhiệm vụ, thời gian sát rồi, anh Ba Lê tập trung sang Khu Lê, thương anh phải đi suốt ngày và đêm nay, qua đường 8, đường 1, để sáng mai làm công tác tổ chức với 840 rồi tối vào thị xã. Chúng tôi xiết tay chúc chiến thắng, hẹn gặp nhau ở Phan Thiết. Với tôi, còn có một kỷ niệm sâu sắc, đồng chí Lê Thị Hoa, vợ tôi là cán bộ phụ nữ tỉnh được phân công đi với cánh 1 cùng địa phương lo việc tổng khởi nghĩa ở tả ngạn; như vậy cả hai chúng tôi đều ra trận, có mặt ở chiến trường trong thời điểm sục sôi nóng bỏng này, đây sự kiện hiếm có trong đời chiến đấu cách mạng của vợ chồng tôi. Cánh 2 có thuận lợi hơn một chút: trưa nay tôi sẽ có mặt ở 482 triển khai nhiệm vụ và truyền đạt cho cánh 3 được rồi. Tụt xuống dốc núi, tới ngã ba, tôi rẽ về Hàm Thạnh, còn anh Ba Lê và vợ tôi sang Khu Lê. Tôi nắm chặt tay Hoa, nhìn nhau âu yếm trong chốc lát, nỗi yêu thương da diết dâng trào… rồi chia tay hối hả lên đường.

Đến 482, Hòa (tiểu đoàn trưởng), Nguyễn (chính trị viên) cùng anh em ban chỉ huy tiểu đoàn nắm tay tôi:

- Có nhiệm vụ mới rồi phải không anh?

Tôi cười gật đầu, vội bảo 482 cho liên lạc hỏa tổc đến Núi Đền mời các anh Bốn, Hội sang gặp tôi ngay để nhận lệnh chiến đấu khẩn cấp, đi tìm Đại đội 2/481 đang chuẩn bị chiến trường, chắc giờ này đang ỏ đâu đó tại Tam Giác về gấp. 1 giờ, vừa triển khai công việc với 482 xong thì các anh thị xã tới. Truyền đạt xong, các anh quay về ngay để đêm nay Hội qua bên Cát, sáng ngày tổ chức cánh 3 kịp đêm mai vào trận. Anh Bốn cũng về lại cơ quan bàn công tác phát động quần chúng nội thành khởi nghĩa, phân công Thị ủy rồi mới quay lại nhận chức. Khổ thay, đến giờ hành quân vẫn không có Đại đội 2/481 trở về, thế là cánh hai thiếu mũi nhọn chiến đấu trong đêm N. Đại đội 2/481 đi đâu? Chắc đang trụ bí mật tại bàn đạp để tranh thủ các đêm ngừng bắn, biết tìm nơi nào? Không khéo khi nổ súng, Đại đội 2/481 đã vào trước 482, quân ta choảng lại quân mình thì khốn!

Ở Phan Thiết, ngoài bảo an, dân vệ như cũ, còn có 2 tiểu đoàn của trung đoàn 433, 1 chi đoàn thiết giáp, 1 trung đội pháo 105, 1 đại đội hải thuyền; quân Mỹ thì có lữ 101, 1 chiến đoàn thiết kỵ, 2 đại đội pháo 105, 155, 1 phi đoàn trực thăng vũ trang, 1 đoàn cố vấn quân sự, tất cả trên 2.000 tên. Địch có ưu thế tuyệt đối về quân số và binh khí kỹ thuật. Song với tinh thần tổng công kích, tổng khởi nghĩa, chủ động bất ngờ, chúng tôi quyết cùng toàn Miền xốc tới giành thắng lợi.

Ngày 30 và sáng mồng một Tết, đất trời yên tĩnh lạ thường, không một tiếng bom, tiếng pháo, địch cũng xả hơi ăn Tết chăng? Các chốt Mỹ ở Hố Chùa, Nổng Cà Tang, Bà Gò cũng im bặt. Trưa mồng một có tiếng L19 quần đảo xa xa. Trinh sát lượm về một số truyền đơn có ảnh trung tá Nguyễn Khắc Tuân, tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng Bình Thuận, cười có vẻ mời chào, đề nghị cán binh 482 về Phan Thiết ăn Tết ngừng bắn thì rất hoan nghênh và đón tiếp chu đáo. Chà! Bọn này cũng làm địch vận nhưng chúng có ngờ đâu không đợi mời, đêm nay 482 cũng sẽ vào Phan Thiết ăn Tết! Chiều 31 tháng 1 năm 1968, mùng một Tết Mậu Thân, toàn cánh 2 ra quân với khí thế hào hùng tin tưởng. Từ khi Mỹ đến chiến trường này, đây là lần đầu một lực lượng lớn hành quân ban ngày qua đường sắt xuống Tam Giác. Nắng chiều rực rỡ, gió xuân đưa nhẹ những cành mai vàng tươi thắm, bầu trời trong xanh, tiếng chim rừng thánh thót âm điệu “bắt cô trói cột” mà lại rõ thành “khó khăn khắc phục” thật lý thú. Giữa đường gặp bộ phận Sở Chỉ huy mặt trận nhập vào cùng tiến bước. Còn sớm, tôi cho dừng nghỉ giải lao. Bỗng anh Nguyễn cầm chiếc đài bán dẫn vẫy vẫy gọi tôi lại, đã có mấy anh em xúm xít xung quanh nghe chăm chú. Phát thanh viên đài Giải phóng đang sôi nổi báo tin quân ta đánh lớn thắng to đêm qua ở các tỉnh Trị Thiên, Quân khu 5 và Tây Nguyên, làm chủ hoàn toàn thành phố Huế, đang tiếp tục tấn công và thắng dồn dập ở Đà Nẵng, Đắc Tô, Tân Cảnh, v.v. Vô cùng phấn khởi, nhưng tôi cùng rất ngạc nhiên tại sao ngoài ấy đánh trước, không chờ cùng nhau đêm nay đồng loạt nổ súng? Thảo nào sáng nay có máy bay trinh sát quần đảo chắc là thăm dò ở trong này. Tôi và Nguyễn cầm đài lên báo tin chiến thắn sốt dẻo cho anh Năm Nà và Tám Hiền, các anh chưa biết. Tôi hỏi:

- Tại sao lạ vậy anh? Anh Tám phổ biến là đêm nay toàn thể mới nổ súng! Ngoài ấy đánh trước, địch đã đề phòng, đêm nay ta mất yếu tố bất ngờ rồi!


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Tư, 2019, 10:49:55 am
Anh Tám Hiền nói thong thả:

- Không sao, địch không kịp đối phó đâu. Cứ giữ vững quyết tâm giành chiến thắng.

Tất nhiên là trong tình hình này càng phải giữ quyết tâm thật cao. Với cương vị chính ủy, anh phải động viên như vậy, tôi cũng như vậy thôi, phải dốc sức thực hiện sứ mệnh lịch sử, đó là hịch truyền của Tổ quốc của Bác Hồ. Mặt trời đã khuất sau dãy núi Đăng Gia, chốt Mỹ Hố Chùa mờ dần trong hoàng hôn. Tôi cho trinh sát đi nhanh tới Phú Bình, Phú Thọ may ra gặp Đại đội 2/481. Đêm Tam Giác đang yên tĩnh, đột nhiên có tiếng trực thăng ầm ầm từ Căng bay lên. Ngay trên đầu đội hình có ba trực thăng vũ trang rà thật thấp, thả pháo sáng tìm kiếm soi mói. Sợ anh em vội bắn máy bay khi chưa lộ, tôi lệnh tất cả ẩn nấp kỹ, dù địch có bắn vu vơ trúng vào đội hình, mà chưa có lệnh tôi thì không ai được bắn. Địch dò xem đêm nay có lực lượng ta xuống Phan Thiết không? Hơn nửa giờ, không có gì đáng nghi, chúng quay về Căng, trời đêm lại yên lặng. Đang tiếp tục hành quân, thì phía trước có bóng người chạy ngược đến tôi. Chúng tôi ôm nhau vô cùng sung sướng. Đại đội 2/481 đã về với cánh 2 rồi! Đang ở bên chỗ Đại đội 1/481, được Tám Hiền phổ biến, Đại đội 2/481 vội cùng Thành (thị đội phó) vượt đường 1, đường sắt ban ngày, lên Tam Giác vừa gặp đơn vị. tôi phổ biến ngay nhiệm vụ đêm nay của cánh và của Đại đội 2/481 cho Bảng, Đông rồi giao Đại đội 2/481 cho Hòa, Nguyễn. Sở Chỉ huy Mặt trận đã rẽ đi Bàu Tròn, đội hình chúng tôi tiến sâu vào thị xã. Đến nhà ông Giáo Tá ở Xuân Phong, cách Trinh Tường 300 mét, tôi đặt Sở chỉ huy cánh. Đại đội 2/481 và 482 có Trường, Thiện, Tự tiếp cận Trinh Tường. Liên lạc về báo địch đã báo động đề phòng rất cẩn mật. Gần 2 giờ ngày 1 tháng 2 năm 1968 mà vẫn chưa thấy cánh 1, cánh 3 tấn công, nếu hai nơi ấy nổ trước thì ở đây có khó khăn; tuy vậy ưu tiên cho chủ yến là cần thiết. Thời gian trôi qua chậm chạp, chờ đợi G hồi hộp, căng thẳng. 2 giờ 15 phút, quả bộc phá của cánh 2 mở màn tấn công Phan Thiết. Sở chỉ huy mở máy bộ đàm theo dõi, cối 82 của Sơn Cỏ đại đội trưởng 487 dội cấp tập vào tiểu khu, tòa hành chính tỉnh hỗ trợ cho cánh 1 vì chưa thấy nổ súng ở đây. Phía nam có tiếng súng, cánh 3 đán rồi. Nhưng bên cánh 1 sao mãi mà chưa thấy tiếng súng, có lẽ do đường xa chưa đến kịp G, bạn sẽ khó khăn, tôi thấy thương và lo cho bạn quá, nhưng chiến đấu trước mắt thu hút tâm trí tôi, không còn để ý đến nơi nào khác. Nổ súng rồi thì thời gian trôi qua lại rất nhanh, chiến đấu càng lúc càng quyết liệt. Gần sáng mà Đại đội 2/481 chưa vào được tung thâm. Quyết tâm là đánh chiếm Phan Thiết không chỉ đêm nay mà cho đến khi làm chủ toàn thị xã nên dù rất sốt ruột, tôi vẫn chưa đưa Đại đội 5 vào trận mà chỉ động viên Đại đội 2/481, 482 nỗ lực hoàn thành nhiệm vụ vì 482 vẫn chưa nổ phát súng nào. Hừng sáng, một mũi của 2/481 đã chiếm được đầu cầu, đang phát triển vào trận nội. Trời sáng rõ, súng càng nổ dồn. lần đầu đánh địch ngay trong nội thị, anh em vẫn đĩnh đạc tấn công, không lui ra như trước. 9 giờ chiếm được một phần ba đồn. Địch thấy ban ngày mà đối phương không lui, càng cố giữ kêu tiểu khu chi viện. Hai bên thấy rõ nhau, giành giật quyết liệt từng công sự, từng đoạn hào. Tuy các tiểu đoàn của trung đoàn 44 về Sông Mao ăn Tết chưa vào lại nhưng lực lượng bảo an tại chỗ còn nhiều, địch bắt đầu điều binh khiển tướng, huy động lực lượng đối phó cánh 2 ở Trinh Tường. Thiếu tá tỉnh phó nội an Trần Văn Chà chỉ huy đại đội bảo àn 208 tiến theo đường Nguyễn Hoàng (nay là đường Lê Hồng Phong) đánh tạt sang để giải tỏa cho Trinh Tường, bị 482 chặn đánh phải nằm lại tại chỗ. Cùng lúc, trung úy Tứ Tây Tựu đưa hai xe GMC đầy lính theo đường Lương Ngọc Quyến (nay là đường Nguyễn Hội), lên phản kích, đến trung tâm thẩm vấn bị 482 đánh diệt nhiều tên và đẩy lùi. 12 giờ, 482 vẫn chặn đứng địch, bảo đảm cho Đại đội 2/481 tiếp tục tấn công, lúc ấy đã chiếm được một phần hai đồn. Địch biết tiểu khu có viện nên càng cố gắng chống trả, tốc độ tấn công của ta có chậm do chiến đấu liên tục từ đêm., Bảng bị thương nặng. Đại đội 2/481 đã có một số thương vong. Đồn Trinh Tường rất rộng, bên trong có giao thông hào và rào ngăn cắt từng khu vực nên việc đánh phát triển trong trận nội không dễ dàng. Tuy vậy, Đại đội 2/481 còn sức chiến đấu mạnh; 482 đập gẫy cả hai mũi phản kích của địch, hỗ trợ đắc lực cho Đại đội 2/481. Từ sáng đến trưa bầu trời yên lặng, không có máy bay xuất hiện, chắc Căng bị đòn nặng, máy bay bị tê liệt. Các sân bay Thành Sơn, Biên Hòa cũng bị đánh phá không hoạt động được, pháo địch cũng im tiếng, ta cứ vững vàng đánh diệt bộ binh thôi. Lực lượng dự bị của cánh chỉ có Đại đội 5 đặc công, đang làm nhiệm vụ bảo vệ Chỉ huy sở. Mục tiêu còn rất nhiều, chưa thể sử dụng sớm lực lượng dự bị. Một cánh địch độ một đại đội xuất hiện từ hướng Phú Hội đang tiến về phía Chỉ huy sở, Đại đội 5 sẵn sàng chiến đấu tại chỗ. 14 giờ 30 phút, Đại đội 2/481 đã chiếm được hai phần ba đồn, đang cố gắng dứt điểm. 482 cũng đánh bật cả sáu đợt phản kích của địch. Cánh địch hướng Phú Hội đã tạt sang một nơi nào khác. Lúc này sử dụng lực lượng dự bị được rồi, tôi cho Đại đội 5 vượt cánh đồng trống vào tiếp sức cho Đại đội 2/481 dứt điểm. Là cứ điểm lớn án ngữ cửa ngõ bắc Phan Thiết, Trinh Tường có 1 đại đội bảo an và 1 trung đội pháo 105 đóng giữ nhưng qua 12 giờ chiến đấu vô cùng quyết liệt dữ dội, giờ làm chủ đồn Trinh Tường sắp điểm rồi! Khi Đại đội 5 vừa đến với Đại đội 2 chưa được bao nhiêu thì thình lình có tiếng máy bay vang rền, từng tốp phản lực từ biển lao vào gầm rú, nhào lộn trút bom xuống Trinh Tường. Tiếng bom nổ như sét đánh, đinh tai nhức óc, từng cột khói lửa bốc lên cuồn cuộn mù mịt, nhà cửa, công sự, cây cối sập nát, sắt thép, gạch đá tung tóe ngổn ngang. Chiến sĩ ta mới lần đầu đánh ngày trong nôi thị giữa đồn địch, đội bom đạn chiến đấu. Qua mấy đợt bom, chúng tôi thấy từng tốp chiến sĩ từ trong Trinh tường tràn ra ruộng bất kể oanh tạc đang bổ nhào dội bom bắn phá. Đồng chí Trung Nhẽo Đại đội 5 một tay bị thương treo băng trắng qua cổ, một tay kẹp tiểu liên, mặt mày xạm khói, quần áo tả tơi chạy ra vừa thở vừa nói:

- Địch biết ta sắp dứt điểm nên thả bom hủy diệt, nhiều quả trúng ngay giữa đồn, cả ta và địch đều bị thương vong, số còn lại bung chạy ra hết.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Tư, 2019, 10:50:51 am
Máy bay liên tục bắn phá Trinh Tường. Thế là công sức đánh từ đêm đến giờ không còn gì. Bây giờ thì không thể nào đưa anh em vào lại được nữa, tôi cho Sở chỉ huy ra đầu cầu Xuân Phong đó tập trung anh em, giải quyết thương vong, củng cố lực lượng để tiếp tục nhiệm vụ. Máy bay vẫn gầm rú oanh tạc kho vực Trinh Tường hết đợt này tới đượt khác đến gần 17 giờ mới dứt.

17 giờ 30, các anh Năm Ngà, Tám Hiền đều gặp tôi nắm tình hình rồi chỉ thị tôi phải nhanh chóng tổ chức chiến đấu, đêm nay phải dứt điểm Trinh Tường, vì biết địch đã cho quân chiếm lại Trinh Tường. Các anh quay về Bàu Tròn, chỉ thị cơ quan bổ sung quân số, vũ khí cho cánh 2 tiếp tục chiến đấu, nhưng trước sự hao hụt quân số đặc công và các vũ khí cần cho đánh điểm thì trên không đáp ứng cho tôi được, chỉ cấp một số đạn dược, lựu đạn, thủ pháo còn chiến sĩ thì rút từ các cơ quan phía sau, không có kỹ năng đánh công sự vững chắc trong thành phố dù anh em giác ngộ cao, tinh thần vững vàng. Phải tự lo liệu thôi, tôi cho gom số kềm cộng lực, bộc phá, thủ pháo, chất nổ có bao nhiêu dùng hết cho trận chiến đêm nay, xốc lại Đại đội 2/481 và Đại đội 5 làm mũi nhọn tấn công, lấy 482 làm tiếp chiến, đưa các đồng chí Hòa, Nguyễn vào trận. Qua một đêm ngày tác chiến liên tục, chưa được nghỉ ngơi, lực lượng bị hao một số, sức chiến đấu của Đại đội 2/481 có giảm, nay tiếp tục xông lên vì nhiệm vụ ban đầu chưa đạt, nhưng tất cả đều giữ quyết tâm sắt đá, đánh theo yêu cầu nhiệm vụ lịch sử với toàn bộ ý chí, sức lực để giành thắng lợi.

Sau này, nghĩ lại tôi thấy tuy việc chưa đưa Đại đội 5 vào sớm là đúng nhưng cũng không sao biết đến xế chiều có máy bay từ hạm đội vào oanh kích ta, nhưng khuyết điểm của tôi là không sử dụng một đại đội của 482 làm tiếp chiến tăng sức cho Đại đội 2/481 từ sáng sớm khi Đại đội 2/481 vừa chiếm được đầu cầu, 482 vẫn còn sức mạnh của một tiểu đoàn thiếu, đủ sức đánh phản kích bên ngoài. Như vậy có thể đến trưa là đứt điểm được Trinh Tường, mặc dù sau đó địch oanh tạc hủy diệt ta bật ra và tối phải đánh lại lần hai thì cũng là cánh hai đã dứt điểm Trinh Tường một lần.

Đêm mồng hai Tết, cánh 2 đánh tiếp Trinh Tường trong khi cánh 1 vẫn chưa đến, cánh 3 không dứt điểm cổng chữ Y, từ sáng đã rút vùng ven Phú Khánh đánh Mỹ từ Căng xuống phản kích, diệt nhiều Mỹ, bắn rơi mấy trực thăng nhưng cũng bị tổn thất nặng, đã rút ra Bưng Cò Ke, không vào lại kịp trong đêm.

Hơn 2 giờ sáng ngày 2 tháng 2 năm 1968, các loại súng đã nổ dữ dội và đồn, địch cũng chống trả quyết liệt. 4 giờ rồi 5 giờ vẫn chưa mũi nào mở được cửa vào trận nội. Thiếu bộc phá ống để phá cửa mở, anh Nguyễn cho lấy tăng, võng rải lên rào kẽm gai để tràn vào nhưng không sao vượt qua được. Sáng ngày địch ở tiểu khu phản kích có bộ binh, pháo binh, cơ giới dồn dập. Hai tiểu đoàn của Trung đoàn 44 do thiếu tá Võ Khâm trung đoàn trưởng đã vào khu vực giải tỏa. 482 chặn đánh dữ dội tại chợ Phường. Áp lực địch rất mạnh, mức độ ác liệt càng lúc càng tăng, thương vong cũng nhiều hơn. Lúc 8 giờ, Hòa và Nguyễn cho Đại đội 2, Đại đội 5 lui về Xuân Phong. Ra đến giữa ruộng, Nguyễn bị một loạt pháo hy sinh, 482 có Trường, Thiện vẫn trụ lại nội thành, liên tục đánh địch từ Trinh Tường đến chợ Phường, đập tan các đợt phản kích, diệt nhiều địch, làm chủ cả ngày một khu vực rộng ở phường Phú Trinh. Việc 482 trụ đánh suốt ngày trong nội thị mở ra một khả năng mới là có thể đứng chân một đơn vị lớn trong nội ô, mở rộng tác chiến, diệt nhiều sinh lực địch, tấn công nhiều mục tiêu, uy hiếp nặng địch ngay trong hang ổ chúng. Tôi đề nghị Bộ Chỉ huy Mặt trận cho cánh 2 đến đêm và Phú Trinh và được đồng ý ngay. Chờ giải quyết thương vong, tiếp tế ăn uống và bổ sung quân số, súng đạn xong thì đã quá muộn, tôi phải để đơn vị đóng lại Xuân Phong trong ngày thứ 3 chờ tối mới vào nội ô tiếp.

Thấy áp lực của ta còn nặng, nguy cơ đối với Phan Thiết chưa giảm, đại tá Trương Quang Ân (sư trưởng sư 23) tự thân đốc chiến. Trung đoàn 44 từ trong đánh ra; quân Mỹ dùng một tiểu đoàn thiết kỵ đổ quân ngoài cánh đồng nam Phú Thọ, vượt vòng đại liên hoàn Phú Hội – Phong Nẫm từ ngoài đánh vào, hòng kẹp 482 vào giữa để tiêu diệt, giải tỏa hoàn toàn sức ép đối với Phan Thiết. Tuy rút ra đóng tạm một hôm ở Xuân Phong, nhưng cánh 2 còn hai mục tiêu lớn ở địa bàn phụ trách là yếu khu Châu Thành (trại Đinh Công Tráng) và biệt khu Bình Lâm chưa đụng tới; địch có cả Trung đoàn 44 tại Phan Thiết, quân Mỹ ở Căng. Tôi biết rõ bọn tiểu khu Bình Thuận, Trương Quang Ân và Mỹ không để tôi ngủ yên dù chỉ một ngày nên đã bố trí ngay trong đêm một trận địa chiến đấu liên hoàn, có công sự đầy đủ, sẵn sàng đánh trả những nơi địch có thể đổ quân tấn công vào đội hình. Cánh 2 có một số tổn thất qua hai ngày tác chiến nhưng cũng vừa được bổ sung một số chiến sĩ cơ quan và một trung đội thiếu sinh quân. Chiến sĩ cơ quan chưa có kỹ năng chiến đấu đồn bót nhưng tinh thần tư tưởng vững vàng cũng tin tưởng trong đánh phản kích. Các thiếu sinh quân 15 – 17 tuổi rất hăng hái, nhiệt tình, được học tập quân sự cơ bản ở trường, có thể yên tâm cho cánh 2, anh Năm Ngà có dặn, cực chẳng đã vì sự nghiệp giải phóng miền Nam mà phải làm như vậy, do đó phải bảo vệ các cháu, đáng ra phải để các cháu tiếp tục học mới phải nhưng vì yêu cầu cách mạng mà phải đưa ra chiến trường. Chà, khó thật, dù sao cũng phải chấp hành mệnh lệnh bảo vệ các cháu. Càng thương các cháu, tôi quyết định chỉ bố trí chiến đấu cho các cháu 16 – 17 tuổi (còn số 14 – 15 tuổi thì giữ lại đưa về sau học tập, công tác như Canh, Nhân, Chính, v.v) đã được chuyển sang Ban Hành lang công tác rất tích cực dũng cảm, một thời gian tỉnh cho ra miền Bắc đào tạo cơ bản. sau này trưởng thành đã làm giám đốc, phó giám đốc, trưởng phòng của các Sở Bưu điện Ninh Thuận, Bình Thuận đầy năng lực, triển vọng. tôi cho trung đội thiếu sinh quân nằm trong Đại đội 1 là đại đội mạnh của tiểu đoàn, qui định phải để ở giữa đơn vị, có hỏa lực bắn chéo yểm hộ không để địch đột phá vào đội hình thiếu sinh quân.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Tư, 2019, 10:53:28 am
Với 482, Đại đội 2/481, Đại đội 5, đại đội trợ chiến Quân khu dày dạn chiến đấu, sức trẻ sung mãn, chỉ một giấc ngủ ngon là đã phục hồi sức lực sẵn sàng chiến đấu tốt ngay. Trời hừng sáng đã có tiếng trực thăng rền rĩ, khi những tốp lính Mỹ chạm đất, lũ lượt tiến vào trận địa thì những nòng AK, RPđ, bờ rốt-nin, M79 đã nhắm thẳng vào chúng, đồng loạt trút sự căm thù, cả một sự sảng khoái của người chủ động bóp cò trước, xả đạn mãnh liệt vào đám lính Mỹ đội mũ nhựa, đồng phục rằn ri, đều răm rắp như những người máy biết đi và tất nhiên phần thẳng phải thuộc về những chiến sĩ cánh 2. Bọn lính chính qui Mỹ nhất hạng này đổ gục hàng loạt. Bọn sau bắn trả giữ xác. Một số mò lên kéo xác về sau, rồi lại tiếp tục vào, tiếp tục ăn đạn đổ gục, cứ thế lặp đi lặp lại. Các thiếu sinh quân nhanh nhẹn, lần đầu đánh trận đụng ngay lính Mỹ nhưng chính các chiến sĩ nhí này, khi có lệnh xung phong lại là những người đầu tiên vọt lên công sự trước các anh, thu ngay 20 trong số 30 súng chiến lợi phẩm của trận này, có đủ đại liên, trung liên, AR15, M79, M72 cùng mây chiếc bộ đàm PRC10. Qua máy thông tin, tôi bảo Văn Minh Trường:

- Cố bắt vài tù binh Mỹ giải về Tam Giác để đồng bào thấy tù binh Mỹ như thế nào.

- Lính Mỹ toàn chết, bị thương nên tôi không bắt tên nào cả.

- Bắt một tên bị thương cũng được, cho dân công khiêng về Tam Giác cho đồng bào hả lòng hả dạ.

- Toàn bọn bị thương nặng cả, còn đánh cả ngày, bắt tù binh giữ khổ lắm anh ạ!

Trường sợ có tù binh Mỹ về vướng, khó khăn nhiều trong tác chiến, nên đề nghị không bắt. Bọn Mỹ cũng giữ xác ghê gớm, cố bắt e bị thêm thương vong. Thôi vậy, nhưng tiếc quá, có được mấy dịp như thế này!

Đánh sát nhau, Mỹ không phân tuyến được nên không bị phi pháo cũng ung dung. Bọn trung đoàn 44 biết quân Mỹ ăn đòn đau, khi vừa ra khỏi Đại Tài, bị Đại đội 2/481 bắn cháy hai thiết giáp, diệt một số bộ binh thì dừng nằm tại chỗ, không dại gì lên cùng ăn đạn với Mỹ. Trận đánh kết thúc lúc 16 giờ. Anh Năm Ngà vừa đến, tôi báo cáo vắn tắt diễn biến và kết quả, diệt trên một trăm tên Mỹ, một số quân ngụy, thu 30 súng, bắn cháy hai bọc thép, bắn bị thương một số trực thăng, các em thiếu sinh quân đánh khá lắm.

- Tôi không cần anh diệt nhiều Mỹ ở đây. Anh đã mắc mưu địch kéo anh ra đánh nhau bên ngoài thị xã rồi. Mục tiêu của anh là trung tâm Phan Thiết kia! Anh báo cáo kế hoạch tác chiến tối nay để tôi thông qua rồi triển khai ngay cho kịp.

Tôi cụt hứng. Trận đầu đơn vị diệt nhiều Mỹ ngay sát bìa thị xã, đánh suốt ngày, thu nhiều súng, thật phấn khởi, ta thương vong rất ít, mừng quá dỗi; đã không được động viên mà bị cự một trận vì không đáp ứng yêu cầu của trên! Mà tôi dừng ở đây, Mỹ đến phản kích, tôi đánh chứ Mỹ có kéo tôi từ nội ô ra đây để đánh nhau đâu! Vừa đánh trong ngày, tôi cũng đã chuẩn bị sẵn kế hoạch tác chiến đêm nay, rồi nên mời ngay tư lệnh xuống hầm, trải sơ đồ, trình bày kế hoạch và nêu một số yêu cầu trên đáp ứng để đánh trại Đinh Công Tráng tối nay. Tư lệnh cho thêm một số ý kiến và phê chuẩn kế hoạch. Có lẽ cũng thông cảm với cấp dưới, anh nói dịu dàng:

- Sáu Nam cho đơn vị nhanh chóng dời lên Đại Nẫm phía trên cầu Chang Chang mà ăn uống và làm công tác tổ chức. Ngày hôm nay các cậu diệt nhiều Mỹ, còn xác ở trận địa, nó sẽ oanh tạc hủy diệt khu vực này dấy! Tôi sẽ bổ sung quân số, vũ khí nhưng chắc không đủ yêu cầu của cậu đâu! Cố gắng nổ súng sớm, chúc thắng lợi.

Rồi anh xiết tay tôi, choàng tấm dù bông, cùng cán bộ cơ quan tiền phương quay về Bàu Tròn. Tôi vội chuyển quân lên Đại Nẫm. Địch thả đèn liên tục, mặt đất không lúc nào tối, bóng cây cối, nhà cửa chao đảo xoay tròn, dù vậy đi lại dưới ánh hỏa châu cũng dễ dàng, thuận tiện hơn. Các má, các chị gánh cơm vắt, thịt cá, bám cốm Tết theo bộ đội dưới làn pháo địch. Anh Hảo trưởng Ban Hậu cần Mặt trận bắt tay mừng cánh 2 đánh một trận thắng lớn, diệt nhiều Mỹ, chuyển đến tôi súng đạn, chất nổ, lính bổ sung. Đánh nhau căng thẳng suốt ngày, bây giờ vừa ăn vừa chuẩn bị trận tiếp, bận rộn tíu tít, không chút thì giờ chợp mắt nhưng niềm vui thắng Mỹ trong ngày và sự hăng say nhiệm vụ đã giúp chúng tôi vượt qua tất cả. Sau này, có lúc nghĩ lại không hiểu sao lúc đó mình và anh em lại có sức chịu đựng đến như vậy.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Tư, 2019, 10:55:53 am
Địch sợ bị tấn công nên thả đèn dù, bắn pháo lung tung suốt đêm. Đơn vị đi vòng qua mương nước Phú Hội, vào Đại Tài đến trước mặt đồn Đinh Công Tráng, khi đến sát đồn thì đã hơn 2 giờ sáng. Nhìn một hàng người kẻ quỳ người ngồi mờ mờ bên vòng tường sân vận động Phan Thiết, không biết sao tôi lại ngỡ là một đám thiên nga sắp sửa vào vũ điệu. Đặt xong Sở Chỉ huy tại một góc ruộng trước mặt yếu khu, tôi bàn anh Đảng, Bốn trực ở Sở Chỉ huy còn tôi đi cùng mũi chủ yếu với Thiện, Đại đội 2/482 và Châu trung đội trưởng Đại đội 2/481; khi đã vào trận nội, tôi sẽ cho đưa Sở Chỉ huy vào đồn. Cùng đi với tôi có Thành thị đội phó, Hồng Minh cán bộ quân báo Quân khu. Gần 3 giờ, Tiến đại đội trưởng Đại đội 2/482 cho nổ bộc phá phá rào. Trở ngại chính vẫn là thiếu kềm cộng lực để bí mật cắt các lớp rào ngoài và bộc phá ống để mở các lớp rào trong, thiếu pháo dù có uy lực mạnh diệt hảo điểm để cưỡng hành vào tung thâm. Chi viện của trên hiếm khi nào đáp ứng yêu cầu chiến đấu của cấp dưới để tạo thuận lợi ban đầu, tiết kiệm xương máu chiến sĩ. Phải dùng B40, B41, trung liên chế áp hỏa lực địch cho bộ binh xông lên vượt rào. Tôi đứng cạnh góc nhà, cách rào đốn độ chục mét, quan sát hỏa điểm địch đang bắn ra, gọi Châu:

- Cho B41 diệt ngay ổ trung liên kia đi!

Một ánh chớp lóe sáng cùng một tiếng nổ lớn; trung liên địch im tiếng, mấy chiến sĩ lao lên vượt rào nhưng sao lại có hỏa lực khác nổ giòn chặn lại. Vài chiến sĩ bị thương, một số dán mình sát chân hàng rào không tiến được. Địch cũng có kinh nghiệm qua mấy ngày chiến đấu, biết ta đánh luôn đêm ngày, đã đào hào ngang dọc bên trong để vận động chi viện cho nơi nào bị sức ép năng nhất. Ba lần B41 nổ, ba lần hỏa điểm địch tắt rồi lại phục hồi. Châu phải chuyển để khỏi lộ mục tiêu. Tôi tiến lên, nép vào một trụ rào bê tông, cố tìm cách để diệt hỏa điểm địch. Bỗng một loạt tôm-xông nổ tóe lửa trước mặt; tôi nghe một cú chạm mạnh vào đầu và có nước nong nóng chảy xuống má; đưa ta sở thấy mảng tóc phía trên trán ướt đẫm. Tôi vội lui vào góc nhà, nhìn qua thấy Thiện đang quỳ, sát bên là Tiến nằm với khẩu trung liên. Thành và Hồng Minh ngồi dựa vách phía trong. Nhìn lên trời, đèn dù sáng vàng rực nhưng rung rung mờ ảo; ngó xuống các bóng dáng đồng đội chao đảo qua lại nhưng tôi còn phân biệt từng người, như thế mình còn tỉnh táo, còn chiến đấu được. Tôi mừng thầm, lấy băng cá nhân bảo Hồng Minh băng giúp. Xong, tôi ngồi dựa vào tưởng nghỉ, lấy lại sức. Thiện gọi y tá đưa tôi ra ngoài.

- Không đâu, mình bị nhẹ thôi, còn chiến đấu tốt!

Y tá ngàn ngại một chút rồi cũng lui. Bên sân vận động trước mặt đồn, tôi nghe ĐK75, cối 82 cùng các loại hỏa lực bắn rất mạnh và được tin các mũi diệt khá nhiều địch, có Nguyễn Hữu Chí đại úy chỉ huy trưởng yếu khu, địch còn gọi tên và bảo lính cố kéo xác y vào trong đồn. Trung đoàn 44 cho xe tăng đến húc đổ tường trào vào sân bóng nhưng bị B40 diệt mấy chiếc cùng một số bộ binh phải tháo lui. Tên trung úy Lâm chi đoàn trưởng thiết xa vận 4/8 bị thương nặng. Các mũi 2, 3 bên Trường, Hòa, Diệm cũng chưa vào được trận nội. Ở hữu ngạn, cánh 3 vượt sông Cà Ty đánh chiếm Cuộc cảnh sát xã Châu Thành, lữ quán Anh Đào ở Đức Nghĩa. Đêm nay tôi đã nghe súng nổ rền vang dữ dội ở phía tiểu khu. Mừng quá, cánh 1 đã vào rồi, có thêm sức mạnh hiệp đồng chiến đấu, cùng đánh chiếm các mục tiêu qui định. Tôi thông báo đông viên anh em cố vượt chướng ngại vật vào tung thâm. Càng gần sáng, địch dựa vào công sự, hỏa lực, quân đông, chi viện mạnh, ngoan cường chống trả quyết liệt, kêu viện binh rối rít. Tôi quan sát hướng Sở Chỉ huy khói lửa mịt mù, do cho các anh Bốn, Đảng quá vì không liên lạc máy được. Kiểu này phải đánh luôn ngày thôi. Một số chiến sĩ thấy trời sáng, sợ phi pháo địch đã bỏ vị trí lui ra ngoài, tính chạy về đại Nẫm, cán bộ không sao giữ lại. T. trợ lý tác chiến 482 đang chạy lướt qua mặt tôi:

- T.! Dừng lại!

Anh ta ngỡ ngàng, ngó qua ngó lại rồi thoát vụt qua đám khói dày đặc. Mất thêm một cán bộ! Tôi vội gọi to để mọi người cùng nghe:

- Thiện, nói với tất cả anh em, ai là đảng viên, đoàn viên thì ở lại, đánh cả ban ngày như chúng ta đã hứa với Đảng.

Mấy anh em đang lui ra nghe được dừng lại, tản ra xung quanh chúng tôi. Thiện nói tiếp:

- Anh em đừng ra, có anh Sáu và tôi, tất cả anh em mình tiếp tục chiến đấu!


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Tư, 2019, 10:56:32 am
Lời kêu gọi kịp thời, có kết quả, tất cả đã ở lại. Sáng rõ rồi, khói tan dần, không vào được trận nội, ở mãi đây rất bất lợi. Tôi cho chuyển khu vực bên cạnh vào nhà Bác Xi là một nhà gạch lớn, có tường bao bọc. Ở đây không có rào kẽm gai khu vực và mỗi nhà ở ở phố 30 căn, có thể chiến đấu và cơ động thuận lợi. Tôi cho liên lạc Sở Chỉ huy nhưng các anh đã lui rồi. Cho trung đội Châu án ngữ phía trước, còn tất cả vào nhà, lo cứu thương binh, có Minh Út đại đội phó bị bị thương gãy chân khá nặng. Chủ nhà đã sơ tán nhưng còn rất nhiều thứ: măng hầm, cá thu kho thịt, bánh tráng, bánh tét, cốm kẹo, hoa quả Tết… Tôi cho tất cả ăn no có sức chiến đấu rồi viết giấy để lại cảm ơn gia đình. Địch bắn pháo lung tung, đầm già L19 quần đảo tìm kiếm khắp nơi.

Ngày ngày, cả 3 cánh đều ở trong thị xã cùng đánh, cùng chia lửa với nhau, chuộc chiến dù rất ác liệt vẫn ung dung đĩnh đạc, đánh phản kích diệt nhiều địch. Cánh 2 trụ đánh 1 ngày bên ngoài Đinh Công Tráng có bị một số tổn thất. Đồng chí Tự chính trị viên phó 482 hy sinh anh dũng trước mặt đồn. Đến tối, chúng tôi ra nhà làng Đại Tài nhận tiếp tế, giao thương binh, tử sĩ cho hậu cần, liên lạc Sở Chỉ huy nhận nhiệm vụ mới. Ra đây, tôi biết cánh 1 cũng không chiếm được tiểu khu, ty cảnh sát, sau một ngày đánh phản kích ác liệt đã ra vùng ven. Cánh 3 đánh địch suốt ngày ở hữu ngạn, cũng đã lui về căn cứ bên Cát.

Tôi đinh ninh cánh 2 sẽ vào lại tả ngạn hoặc hữu ngạn, nhưng khi gặp tư lệnh và chính ủy thì được lệnh ra đứng ở Xuân Phong, Đại Nẫm đánh phản kích ở vùng ven, làm suy yếu địch thêm một bước. Tại Phong Nẫm, cánh 2 đánh phản kích Mỹ - ngụy bốn ngày liền, bom đạn tơi bời từ sáng đến chiều. Dù sao thì ở vùng ven, chủ yếu đánh địch bung dùi ở địa thê xóm làng vườn tược cũng dễ chịu hơn nhiều so với mấy ngày nằm trong nội thị. Cánh 2 đã diệt hàng trăm địch, bắn cháy ba xe tăng, bắn rơi một máy bay, bắn bị thương một số chiếc khác, ngày nào cũng đánh bật địch vào lại thị xã. Ngày 10 tháng 2, được lệnh rút lên Phú Thọ, Phú Bình rồi lên Xóm Mía, kết thúc đợt một tổng tiến công.

Nghỉ củng cố, chuẩn bị một tuần ở Tam Giác thì tiếp tục đợt 2 vào Phan Thiết. Mấy ngày nghỉ lấy lại sức khá nhanh. Địch chưa dám nống lên xa nên ở đây yên ổn, không khí hòa bình, không có bom pháo gì cả. Kể cũng lạ, nào phải Mỹ đã hết bom đạn? Bà con cho ăn Tết muộn rất ngon lành. Lúc đánh nhau bom rơi đạn nổ đâu có thiết gì ăn uống. Lần này, các hướng chủ yếu, thứ yếu, ba cánh tấn công cũng như đợt một thôi, có thay đổi chút ít. Cánh 1 được tăng cường Đại đội 3/482. Tôi được phối thuộc Đại đội 1/430 Hàm Thuận. Cánh 3 thêm Đại đội 489 ở Bắc Bình mới điều về. Về chỉ huy, ở cánh 3 Nguyễn Hội sau một ngày đánh ở Phú Khánh bị ôm về sau nghỉ. Nguyễn Anh Dũng thị đội trưởng làm chỉ huy trưởng, đồng chí Bốn sang làm chính ủy. Ở cánh 2, tôi làm chỉ huy trưởng kiêm chính ủy, Nguyễn Như phó chính ủy, đồng chí Đảng ốm nghỉ, Nguyễn Hòa tiểu đoàn trưởng 482 làm chỉ huy phó. Đợt này cánh 1 vẫn đánh chiếm tiểu khu; cánh 2 thọc thẳng vào biệt khu Bình Lâm; cánh 3 vẫn diệt cổng chữ Y, làm chủ hữu ngạn. Trước lúc lên đường, anh Hược xiết chặt tay tôi hẹn ai làm chủ mục tiêu trước thì cắm cờ lên lầu nước Phan Thiết.

Đêm 17 tháng 2 năm 1968, trăng sáng vằng vặc. Sông Cà Ty nước triều tràn đầy; kiểu này không biết cánh 3 có vượt được sông vào hữu ngạn hiệp đồng 3 cánh nhịp nhàng cho đẹp không? Cánh 1 không phải vắt giò lên cổ chạy từ Núi Lá vào, chắc không trễ khi nỏ súng. Chúng tôi qua Phú Hội, vào Phú Tài, tiến dưới mái hiên các dãy phố rất kín đáo. Nếu gặp các trung đội vệ binh án ngữ đường tiến thì phải khu trục mà vào, G sẽ khó khăn, phức tạp bởi phải đột sâu vào chợ Gò và trường Nữ mới triển khai đội hình. Trên Căng có tiếng động cơ trực thăm ầm ĩ. Nhìn lên thấy rõ ra-đa Căng đang hướng về chúng tôi. Phút chốc một tốp ba trực thăng vũ trang ầm ầm quần đảo trên đầu. Mặc kệ, anh em ta dưới mái hiên nhà làm sao chúng phát hiện được. Trực thăng rà đi đảo lại sát mái nhà định uy hiếp tinh thần chúng tôi chăng? Nửa giờ sau nó lại quay đầu về Căng, đêm lại yên lặng. Phía trước báo có một trung đội dân vệ đang rút vào nội thị. Thì ra bọn này nhác thấy lực lượng lớn, không dám nổ súng, im lặng rút về đồn bót cố thủ là chắc ăn nhất. Đến chợ Gò, Chỉ huy sở đóng trong một nhà cạnh chợ, theo dõi việc tiếp cận của Đại đội 2/481 và 482 triển khai đội hình. Chủ nhà vui vẻ cho mượn cuốc xẻng, cho gỗ ván làm hầm, còn mời trà bánh, cùng hút thuốc lá trò chuyện thời sự. Bà con ta trong chiến tranh cũng tỉnh táo lạ thường.

1 giờ 18 tháng 2, các cánh 1, 2 đồng loạt nổ súng. Đại đội 2/481 mới áp sát chưa cắt được rào, địch đề phòng rất cần mất. Đến G phải dùng sức mạnh cưỡng hành. 487 cấp tập cối 82 vào Trinh Tường và Đinh Công Tráng. Đại đội 2/481 tấn công biệt khu Bình Lâm thì 482 cũng nhanh chóng đánh chiếm ty y tế, ty lao động, trụ sở bọn y tế Đài Loan, làm chủ một khu vực rộng ở Phú Trinh, tạo thế cùng 840 cánh 1 hợp vây địch ở tây tiểu khu. Từ Văn Tư, trung đội trưởng Đại đội 2/481 chỉ huy một mũi áp sát rào. Tổ bộc phá mở xong lớp rào ngoài thì hy sinh bốn, bị thương hai, mũi bị tà. Tư vác B41 xông vào lại bị xe tăng, diệt sáu tên Mỹ. Bị thương gẫy cả hai chân Tư vẫn không lui, tiếp tục chỉ huy chiến đấu, động viên anh em: “Hãy quay đầu về hướng giặc…”. Noi gương trung đội trưởng, toàn mũi đập tan đợt phản kích, địch phải lui vào đồn cố thủ, cuộc chiến tiếp diễn ác liệt.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Tư, 2019, 10:57:09 am
Bà con đề nghị cho tản cư. Chúng tôi đồng ý để đồng bào sơ tán ra ngoại ô tránh phi pháo.

Cánh 3 không vượt được sông, đào công sự trụ tại bến đò Văn Thánh; do vậy địch lấy hữu ngạn làm bàn đạp, huy động lực lượng lớn Mỹ - ngụy chi viện cho biệt khu Bình Lâm và tiểu khu. Qua tiếng súng, tôi biết cánh 1 cũng đang đánh phản kích dữ dội. Suốt ngày 18 tháng 2, cuộc chiến vô cùng ác liệt ở Bình Hưng – Hưng Long cánh 1 ở đường Hải Thượng Lãn Ông, khu phố 3 căn, chợ Gò cánh 2. Trưa 18. Tại Sở Chỉ huy cánh 2, vừa nghe tiếng phản lực thì một loạt bom rơi ngay khu vực. Một quả nổ giữa ba lần của tôi, anh Như và Thành. Tôi đang ngồi tại cửa hầm vừa thấy ánh lửa sáng rực thì mắt tôi tối sầm, tuôn nước mắt xối xả không mở ra được một lúc rất lâu. Hầm sập nhưng không ai việc gì. Tôi nhô lên miệng hầm gọi to:

- Anh Như ơi! Thành ơi!

Không ai trả lời. Chắc họ trúng bom hy sinh cả rồi! Xế chiều, hết đợt bom, trận địa im ắng, tôi chui lên hầm sang xem thử hai hầm kia ra sao. Thì ra, sau bom nổ, ai cũng có gọi nhau nhưng vì tai điếc đặc, không ai nghe tiếng gọi, cứ tưởng bạn không còn. Ba hầm đầu sập, không ai chết, bị thương nhưng mặt mày lem luốc, áo quần nám đen mà không hiểu sao chỉ bị rách nhiều chỗ? Quả bom đào một hố lớn, may nhờ đất cát và cũng thật ngộ, nó rơi ngay chính giữa ba hầm; nếu đất thịt cứng thì tiêu đời hết rồi. Tôi và cậu vi liên lạc tinh nghịch đo thử từ miệng hố bom đến hầm nào gần nhất. Hầm tôi và và Vi cách 2 cùi chỏ, tức 0,8 mét, hầm anh Như 1,2 mét, còn hầm của Thành chỉ có 1 cùi chỏ! Nó nhích gần hầm nào một chút thì hầm đó không còn! Một sự may mắn kỳ lạ trong chiến tranh! Đến tối, chị Đặng Thị Hồng cán bộ Phụ nữ Thi đi cùng cánh 2 để phát động quần chúng nổi dậy khởi nghĩa, lên hầm cùng mấy cô liên lạc hợp pháp cũng mặt mày lem luốc, quần áo tả tơi, hỏi tôi giọng khàn khàn yếu ớt:

- Bây giờ tôi phải làm gì đây, anh Sáu?

- Quần chúng sơ tán hết rồi, giờ chỉ có hai bên đánh nhau, không còn ai để chỉ phát động nổi dậy khởi nghĩa, chặp nữa bên ngoài vào tiếp tế tải thương thì chị và các cô ra luôn, ở đây không có việc gì làm nữa cả, phải không anh Như?

- Đúng, tôi cũng nhất trí như vậy!

Ngày 19, cánh 1, 2 tiếp tục đánh phản kích lớn. Địch huy động cả trung đoàn 44, lữ đoàn 3/506 Mỹ, tiểu đoàn biệt kích Mỹ có xe tăng nặng an-tốt với pháo sáu nòng. Phản lực từ Thành Sơn và hạm đội vào oanh tạc dữ dội vào trận địa ta. Tại cánh 2 có Tiểu đoàn 3/44, tiểu đoàn biệt kích Mỹ, tiểu đoàn thiết kỵ cùng xe tăng, pháo đánh mạnh vào chợ Gò, trường Nữ, đường Hải Thượng Lãn Ông suốt ngày hòng đánh bật lực lượng tấn công biệt khu Bình Lâm ra Phú Tài nhưng đều bị đẩy lùi. Tổ đặc công Hoàng Phương Đông bắn cháy hai xe tăng, diệt nhiều lính Mỹ, chúng phải lùi về vườn bông, án ngữ quanh tiểu khu. Đêm 19, cánh 1 có nhiều thương vong, thiếu tiếp tế, không liên lạc được Sở Chỉ huy Mặt trận đã rút về Râm Tre Hàm Nhơn. Trưa ngày 19, tôi được điện bộ đàm của anh Năm Ngà:

- Có Sáu Nam đó không?

- Có!

- Anh có biết địch ở biệt khu Bình Lâm bị diệt gần hết không? Hiện chúng chỉ còn một tên xạ thủ với một khẩu đại liên thôi!

- Rõ!

- Vậy anh còn đợi gì mà không xung phong dứt điểm đi!

Có tình hình đó thật, nhưng khi nguy ngập, địch đã gọi tiểu khu và Căng bắn pháo cấp tập vào đội hình ta và đưa ngay một đại đội khác từ hữu ngạn qua cầu, trám ngay lỗ hổng ấy liền. Dứt đợt bom pháo, anh em xông lên thì tình hình đã khác, không còn chuyện chỉ có một xạ thủ với một đại liên nữa. Khi xung phong, đại đội trưởng Võ Hữu đã bị hy sinh. có lẽ Mặt trận cũng biết vậy nên từ đó đến cuối ngày không thấy Tư lệnh nhắc việc ấy nữa. Đêm 19, phát hiện quân Mỹ và Nam Triều Tiên đang tập trung đóng tại vườn bông Phan Thiết để sáng tập kích vào chợ Gò, chúng biết cánh 1 đã ra, duy nhất chỉ còn cánh 2 trong nội thị nên kiên quyết tiêu diệt hoặc đẩy chúng tôi ra luôn. Tôi hỏi trợ lý tác chiến:

- Khi hôm được tiếp tế 80 đạn cối 82 phải không?

- Vâng.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Tư, 2019, 10:57:35 am
Tôi cho Hai Lãnh, đại đội trưởng 487 lấy phần tử xạ kích rồi dùng hai cối 82 cấp tập vào vườn bông 40 quả, còn lại dành cho đánh phản kích ngày mai, bởi dù có bắn hết cũng không chặn được cuộc phản kích ngày mai. Cối 82 rót chính xác, diệt rất nhiều địch, chúng phải giải quyết hậu quả suốt đêm, 9 giờ ngày 20 mới bắt đầu đánh vào chợ Gò. Có lẽ trong Tổng tấn công Mậu Thân, tôi chỉ được Tư lệnh khen một lần này mà thôi! Đêm 19, Trường và Đại đội 3/482 cũng về đến cánh, lực lượng tôi được tăng cường mạnh hơn, đồng thời tôi biết cánh 2 đơn thương độc mã cũng sẽ quyết liệt hơn nhiều. Tập trung tối đa phi pháo, cả ngày 20 Mỹ - ngụy dồn sức phản kích cánh 2, nhưng 5 đợt tấn công đều bị bẻ gẫy; 16 giờ, địch chia 2 mũi đột phá lần cuối vào Sở Chỉ huy chúng tôi. Anh em kiên cường đánh trả, diệt hết tốp này đến tốp khác. Cả chỉ huy, cảnh vệ, thông tin, Đại đội 5 đều anh dũng đánh bật địch ra khỏi các chốt cuối cùng.

Tối 20, đồng chí Ẩn đội trưởng thông tin liên lạc của Mặt trận vào chợ Gò đưa tôi ra Đại Nẫm gặp chính ủy nhận nhiệm vụ mới. Giao Hòa điều hành tác chiến trong đêm, tôi cùng Ẩn ra vùng ven. Đường đi khá hiểm nguy, vất vả, pháo địch bắn liên tục khắp trận địa, qua trước đồn Đinh Công Tráng thật căng thẳng, khẩu đại liên địch nhằm sẵn vật chuẩn là cái cổng trước đồn, cứ bắn loạt ngắn loạt dài kiểm soát cái cống. Chúng tôi nằm dưới lề đường, chờ đại liên quét dứt một tràng. Ẩn vọt qua cống rồi nằm ép bên lề. Mất mồi, khẩu đại liên xả một loạt dài cay cú. Có lẽ nó dừng để thay băng, tôi cũng vọt qua, nó lại tức tối quét đuổi. Ra khỏi Phú Tài là ổn, chỉ còn các quả pháo vu vơ đây đó và những tràng đại liên của máy bay C47 xã xuống lung tung. Tôi đi thong thả, hít thở không khí không còn ngột ngạt của ngoại ô, thoải mái như vừa ra khỏi cuộc chiến tranh. Anh Tám Hiền đã đợi tôi từ lâu. Tuy biết anh anh đã theo dõi cánh 2 suốt, tôi vẫn phải báo cáo két quả tác chiến trong ngày và kế hoạch đánh đêm nay, ngày mai. Nghe xong, anh ra chỉ thị một cách hết sức nghiêm:

- Từ ngày mai, anh không được nằm im trong công sự ban ngày để hứng bom pháo địch, thụ động đánh phản kích mà phải biết thoát lys công sự, vận động tác chiến trên mặt đất, mở rộng diện làm chủ ở tả ngạn, đồng thời ra sức dứt điểm biệt khu Bình Lâm.

Tôi biết lúc này mà có ý kiến khác với cấp trên là không lợi chút nào vì đây không phải lúc thảo luận quân sự dân chủ, đây là mệnh lệnh phải chấp hành, nếu không sẽ bị kỷ luật, bị cách chức ở chiến trường. Cấp trên rất nóng ruột vì cho đến nay cánh 2 vẫn chưa làm xong cái biệt khu Bình Lâm quỷ quái này. Tôi chỉ yêu cầu Mặt trận cấp thêm kềm cắt rào, bộc phá ống, bộc phá khối, pháo dù và đạn cối loại xuyên phá – đó là những thứ cần thiết để chúng tôi ăn thua với biệt khu Bình Lâm. Từ sau Trinh Tường đến nay rất thiếu các thứ đó. Anh hứa đáp ứng yêu cầu, bắt tay tôi, quay về Bàu Tròn.

Tôi trở về chợ Gò với kiểu cách như lúc ra. Khi bắt tay anh em ở nhà, tôi mới thấy đỡ căng đầu óc một chút. Suy nghĩ về lệnh vận động đánh ngày rộng ra của anh Tám Hiền, tôi biết các chỉ huy sợ tôi chỉ ngồi im trong công sự không dám bung ra hoạt động. Trên Bàu Tròn nhìn xuống bầu trời Phan Thiết rõ như kề bên, địch dội bom bắn pháo từ sáng đến chiều không biết bao nhiêu đợt, khói lửa cuồn cuộn mịt mù. Dường như ở Phan Thiết, ngoài các chốt địch thì không còn sự sống nữa. Các anh sợ chúng tôi thương vong nhiều do ở một chỗ hứng bom pháo. Tuy nhiên, các anh không có ở ban ngày trong nội thị như chúng tôi, từ đầu đợt 2 đến nay, riêng ở Phú Trinh, ngoài các chốt địch thì hầu như không còn nhà cửa nguyên vẹn nữa, các đóng gạch ngói, sắt thép ngổn ngang trống rỗng, L19 vè vè suốt ngày trên đầu để chỉ điểm cho oanh tạc, làm sao đội hình cả cánh vận động trên mặt đất nham nhở gò đống thế này mà không hứng bom pháo hủy diệt của địch nhiều hơn ở trong công sự đánh phản kích? Làm sao chúng tôi vận động vòng qua tiểu khu để sang đánh rộng ra các khu vực Bình Hưng, Hưng Long? Làm sao vượt qua cầu hoặc vượt sông sang hữu ngạn? Chẳng lẽ lại lui ra lò heo, lò tỉn, chợ Phường để làm chủ, vì ở chợ Gò, trường Nữ đã là rất sâu rồi, là ở phía trước rồi, nào có xa tiểu khu bao nhiêu. Vả lại, anh Tám chì chỉ thị ra sức dứt điểm biệt khu Bình Lâm thì lẽ nào chúng tôi lại di chuyển rời xa biệt khu Bình Lâm khi chưa dứt điểm nó. Chịu trách nhiệm với trên phải chiến đấu và giành chiến thắng; đồng thời cũng có trách nhiệm trong sử dụng lực lượng, trách nhiệm đối với sinh mạng cán bộ, chiến sĩ, thuộc quyền sao cho không bị thương vong nhiều do sai lầm hoặc đơn giản trong chỉ huy của mình.

Tôi đang ở đây, ngày đêm đối đầu với địch, phải có cách đánh thích hợp và hiệu quả để tác chiến thắng lợi mà thương vong thấp nhất. Đêm nay đơn vị đánh rộng hơn ở đường Hải Thượng Lãn Ông, chiếm thêm ty thẩm vấn, ngã ba nhà thương và một số chốt khác; nhưng ở biệt khu Bình Lâm thì chưa. Biệt khu Bình Lâm nằm trên điểm cao, ta bên ngoài thấp, xung quanh không còn nhà để lợi dụng sân thượng, nóc nhà đưa ĐK, B41 lên bắn góc độ 90 hoặc bắn góc tà âm vào đồn. Ngày mai còn phải đánh phản kích ác liệt hơn vì nhất định chúng phải giải tỏa cho biệt khu Bình Lâm mà từ ngày 20 chỉ còn một mình cánh 2 nằm trong Phan Thiết. Đầu não địch không bị cánh 1 uy hiếp nữa, hữu ngạn cũng trống, Đại đội 1/481 không còn sức khống chế Căng, chắc chắn địch sẽ tập trung cả trung đoàn 44, các đơn vị Mỹ cùng bom pháo tối đa để sống mái với ta. Qui luật là: đầu tiên dùng bom pháo giã nát trận địa ta rồi bộ binh, cơ giới tiến vào nhiều hướng nhiều mũi, bị đánh bật đợt này lại tấn công đợt khác theo bài bản đó cho đến chiều thì kết thúc chiến đấu trong ngày. Ngày mai lại như thế nếu đối phương vẫn còn trong nội thị. Cánh 2 còn đánh dài ngày trong Phan Thiết, không bám công sự và có thế trận vững chắc thì làm thế nào đập gẫy các đợt công kích liên tục, diệt địch, bảo vệ mình? Dứt khoát là không thể thoát ly công sự để vận động đánh địch ban ngày trên mặt đất, dưới hỏa lực bom pháo của địch rồi. chỉ có di chuyển ban đêm qua khu vực khác thì mới tương đối an toàn nhưng còn nhiệm vụ dứt điểm biệt khu Bình Lâm thì sao? Tôi bèn cho điều chỉnh rộng vị trí, củng cố công sự, hoàn thiện thế trận liên hoàn rồi cho anh em nghỉ ngơi vài tiếng để sáng mai đánh phản kích cái đã.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Tư, 2019, 10:58:08 am
Mới rạng sáng chưa có tia nắng mai nào thì đã có tiếng đầm già trên đầu. Cậu Vi bẻ đưa tôi một miếng cốm:

- Tranh thủ ăn chút đỉnh anh Sáu, một lát nữa không có thì giờ mà ăn đâu!

- Chà! Đâu đến nỗi căng dữ vậy, anh em mình còn phải đi kiểm tra công sự các đại đội một chút rồi về ăn cũng được.

Nói vậy, nhưng tôi cũng lấy miếng cốm và thấy thương Vi quá. Quả nhiên, vừa nghe tiếng oanh tạc thì một tiếng nổ như sét đánh ngang đầu, chiếc hầm rung lên và bép dí, lấp hết cửa. Đã có kinh nghiệm cứu sập, dưới mỗi hầm đều có rựa, cuốc xẻng, thau bạc, phải nhanh chóng moi một lỗ cho khỏi bị chết ngạt, ra sức đào bới rồi cũng khoét được một lỗ đủ chui người lên. Hôm nay dưới hầm có tôi, anh Như, Hòa và Vi. Hòa chui lên trước, Vi sau cùng, em bị thương do một mảnh bom xuyên nắp hầm, may là nhẹ. Con đầm già chết tiệt cứ nghiêng cánh soi mói, đợt nó vòng xa mới men tới hầm bên cạnh, nó quay lại thì nép vào đống gạch đá, trời chưa sáng rõ nó cũng khó phát hiện. Mất 15 phút mới đến được hầm của Thiện chỉ cách hơn chục mét mà khó tìm làm sao; địa hình thay đổi lạ thường. May mắn là cả ngày không bị sập hầm lần nữa. Khu chợ Gò, trường Nữ trống rỗng, còn bức tường nào thì bom lại đánh sập nốt, không tha. Nhô lên ngó qua sông bên Đức Nghĩa, ở dãy nhà sách Vui Vui và nhà thuốc Phạm Tư Tề, thấy rõ bọn ngụy mang các-bin đi qua lại trên sân thượng, chỉ chỏ sang bên này. Những đóng gạch đá giờ lại trở thành chướng ngại vật cản xe tăng địch, trừ được một mối nguy, địa hình lồi lõm cũng làm địch khó phát hiện ta. Cứ sau mỗi đợt bom pháo tơi bời, chúng cho là Việt cộng đã bị nghiền nát, chỉ còn một việc là vào đếm xác, thu súng. Nhưng không, khi địch vào thật gần, AK, RPĐ, M79, lựu đạn, thủ pháo đồng loạt hạ gục nhiều tên địch. Kéo hết xác, lui ra xa, đợt bom pháo khác dữ dội hơn. Lần này thì nhất định Việt cộng không còn, lại vào, lại bị chết hàng loạt. Ngày 21, mới 14 giờ, Mỹ đã ngừng chiến nhưng bom pháo thì không ngừng. Cứ yên trí bắn máy bay vì bộ binh địch không còn vào nữa. Mặt trời khuất dạng, con đầm già vòng xa, Thiện nhô đầu lên thì “chảng - ầm”! Một quả rốc két nổ ngay trên nóc hầm. Tức quá, Thiện chửi đổng:

- Quân chó chết, tới chừng này mà còn chưa chịu thôi!

Oanh tạc tới nữa rồi! Thành nhìn tôi, giọng e ngại:

- Nên chuyển qua chỗ khác đi anh!

- Không được! Bom trúng hầm thì lãnh đủ, nhưng không chắc gì nó ném trúng điểm đâu. Bây giờ lên hầm đông người, gò đống thế này không thể chạy nhanh được, một loạt bom sẽ ăn nhiều người đấy!

Tất cả ngồi bên nhau căng thẳng đợi đợt bom cuối ngày. Bom rơi cách hầm chúng tôi vài chục mét. Hầm bên cạnh, cậu Mai trợ lý tuyên huấn thấy trái mù điểm quá gần, hốt qua vọt lên chạy cho xa, anh em giữ lại không kịp, Mai đã vướng mảnh bom, hy sinh. Tôi kiểm ta lại, hôm nay bị bom sập hai hầm mà tổn thất khá nặng, Hai Lãnh đại đội trưởng 487 hy sinh cùng một y tá. Hầm Đào Công Nhỉ chính trị viên và Trúc liên lạc bị chôn vùi, anh em bới không ra tưởng đã hy sinh; hôm sau bị địch bắt đày đi Côn Đảo, sau Hiệp định Pari cả hai được trao trả ở Lộc Ninh. Chiến đấu hôm nay đúng là vô cùng ác liệt, cả Sở Chỉ huy có lúc phải dùng cả lựu đạn, thủ pháo, súng ngắn đánh địch. Chiều, cậu “Nam điếc” trinh sát thấy địch quá gần hoảng hồn chạy ra sau bảo với Tra thông tin là: “Anh Sáu Nam chết rồi! Sở Chỉ huy không còn ai nữa đâu! Ác liệt đến thế là cùng!”.

Đêm, tôi cho cối 82 bắn áp chế biệt khu Bình Lâm để Đại đội 2/481 tiếp tục tấn công. Đã trụ gần mấy ngày, nắm chắc cự ly nên bắn rất chính xác vào đồn. May sao có một viên đạn khoan, đã xuyên thủng lớp bao cát và ghi sắt chắn trên trần nhà, lọt vào trong nổ làm chết một số địch. Qua bộ đàm nghe chúng kêu la ỏm tỏi, hoang mang dữ. Tiếc là chỉ có 1 trong 20 quả đã bắn là đạn khoan, ức biết chừng nào. Giá có năm đến bảy quả đạn khoan thì đã làm nên chuyện.

Mặt trận điều cánh 2 ra Đại Tài nhận lệnh mới. Chưa biết vào lại tả ngạn hay sang hữu ngạn, đó là việc sau, bây giờ thu quân đưa ra an toàn là quan trọng nhất. Hôm nay, cả bị bom và đánh bộ binh Mỹ có năm hy sinh và bị vùi dập, cùng hai bị thương. Trên đường ra, tôi thấy bên một bức tường có một tấm tôn che, một bà cụ ngồi trong đêm nhìn bộ đội. Cảm động quá, bom đạn ác liệt thế này mà vãn có một cụ già ngồi ở đây. Không dừng lại thăm mẹ được lâu, tôi chỉ nắm tay nói mấy câu an ủi rồi chào tạm biệt mẹ. Mấy trăm con người đi dưới đạn pháo khá nhiều mà không ai bị vướng mảnh, thật mừng và cũng thật lạ.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Tư, 2019, 10:58:56 am
Về đứng ở Đại Nẫm đánh phản kích cả tuần, địch thấy ta ra cũng nống theo, cố đẩy ta lên Tam Giác rồi lên núi bởi vì 482 còn ở Phong Nẫm thì Phan Thiết chưa hết bị uy hiếp. Đánh phản kích quyết liệt, lúc ở Xuân Phong, khi ở Đại Nẫm. Quần nhau với giặc, bom pháo dày đặc, không một nhà nào không bị bom sập, không một vườn nào không có hố bom đìa sâu hoắm. Tuy nhiên, ở đây vườn tược xum xuê, bom pháo không sao san bằng hét nhà cửa cây cối như ở Phú Trinh. Đơn vị diệt nhiều sinh lực, phương tiện chiến tranh của Mỹ - ngụy, đứng vững ở vùng ven này. Cánh 3 đánh Mỹ quyết liệt suốt ngày 18 ở ven sông Cà Ty, diệt rất nhiều Mỹ, bắn rơi máy bay nhưng bị bom, đặc biệt là na-pan, Tân Sửu bị thương nặng. Đại đội công binh gần như bị xóa sổ; đêm phải rút về Bưng Cò Ke để củng cố cho đến khi cánh 2 ra Phong Nẫm thì sáp nhập vào cánh 2. Anh Bốn lại làm chính ủy, anh Như về Thị ủy lo phong trào.

Đêm 27 tháng 2, liên tục Mặt trận mang lệnh của Bộ Chỉ huy chỉ thị cánh 2 đánh các ấp Kim Hải, Đức Long ngay trong đêm. Nhận lệnh lúc hơn 24 giờ, bộ đội chiến đấu cả ngày đang ngủ mê mệt, vũ khí, đạn dược chưa được bổ sung; tính toán thời gian thấy không tài nào tổ chức chiến đấu và hành quân kịp đến địa điểm đánh; bây giờ không trụ đánh ngày như vừa rồi, đánh xong phải về vị trí kịp trước sáng. Tôi gửi thư đề nghị Mặt trận cho lui lại đêm sau, đinh ninh thế nào trên cũng đồng ý Chờ mãi đến 4 giờ 28 tháng 2, không thấy trả lời, biết trên không chuẩn y mà đến lúc đó thì càng không sao đi đánh được nữa. Chúng tôi rất lo âu. Đến 4 giờ 30, Ẩn đến gọi tôi, anh Bốn, Trường, Thiện về Sở Chỉ huy gặp tư lệnh và chính ủy. Dọc đường, Ẩn cho biết khi đêm liên lạc mang thư đề nghị của tôi về đến nơi thấy anh Năm Ngà, Tám Hiền đã ngủ nên không đưa thư. Đến gần 4 giờ, các anh thức thấy hướng tôi không nổ súng bèn gọi về, chắc lần này bị kỷ luật nặng vì không cùng đếm cánh 1 đánh Phú Long, cánh 2 chúng tôi phải chia lửa. đành chịu vậy vì chúng tôi không biết việc phối hợp này và thư đề nghị lui lại của chúng tôi lại không đến chỉ huy; giá biết, có chết cũng làm chứ lẽ nào không?

Đến nơi gặp Trần Dương, bí thư Bộ Tư lệnh, tôi hỏi dò:

- Cánh 1 đánh kết quả ra sao?

- Chưa được báo cáo nhưng không nghe nổ súng, chắc không đánh kịp đã hoãn lại rồi!

Nếu khi đêm cánh 1 đánh, có bề gì, tôi là chỉ huy trưởng cánh 2, chắc phải “đứt đầu”. Những ngày qua, đại úy Tô Hào, trưởng ban quân lực Mặt trận, không bổ sung kịp quân số, vũ khí cho các đơn vị theo chỉ thị đã bị tư lệnh cho đứt đầu nhiều lần! Quả nhiên vừa gặp, anh Năm Ngà dần cho một trận nhừ tử về ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần khắc phục khó khăn hiệp đồng tác chiến, về chấp hành vô điều kiện mệnh lệnh cấp trên, v.v.

Tôi biết thủ trưởng đang giận nên chỉ yên lặng ngồi nghe, không trình bày việc tôi không biết phải hiệp đồng tác chiến với cánh 1, việc tôi đề nghị trên cho lui lại một đêm mà không được trả lời. Hơn một tiếng phê phán gay gắt, anh quay sang chính ủy ngồi võng kề bên:

- Anh Tám có ý kiến gì thêm không?

Có lẽ thấy cạo như vậy cũng khá nhiều rồi nên anh chỉ nói gọn:

- Thôi.

- Các anh đã ăn uống gì chưa? Ra ăn sáng, tắm rửa, nghỉ ngơi, chiều về, tối nay không đánh là chết đó nghe! – Anh hơi mỉm cười, nguôi giận rồi! – Đêm nay Sáu Nam và Thiện đứng ở nam Phú Tài; Hòa, Trường, Bốn vào Kim Hải. Rõ chưa?

- Rõ.

Lui ra ngoài, nhìn nhau cười. Được thủ trưởng chỉnh một trận tới nơi, chính ủy thấy cũng thương nên không bồi thêm. Bây giờ ngủ là tốt nhất, mắt díp lại rồi, không cần ăn, tắm gì cả. Anh Ba Lê vừa đến, đã biết khi đêm anh cũng không đánh, thế thì chỉ bị cạo thôi, không ai chết cả. Khi đêm, anh đánh mà tôi không hoặc ngược lại thì sẽ có một người “chết”. Tôi bắt chặt tay anh cười thông cảm: “Tôi lâm trận rồi, giờ đến anh!” Từ trên này nhìn xuống Phong Nẫm thấy từng cuộn khói bom xông lên cao ngất sau mỗi vòng liệng bổ nhào của oanh tạc cùng tiếng rền văng vẳng xa xa. Ở dưới đó là chiến tranh, còn trên này là hòa bình, được hưởng cả ngày bình yên thông thả càng thấy thương anh em chiến đấu ở nhà. Mỹ không thiếu bom đạn, nhưng nó cũng biết dồn vào nơi cần hủy diệt; rộng ra nó chưa làm. Ở đây cũng giữ bí mật tốt nên yên ổn. Ăn Tết muộn cũng khá. 15 giờ chúng tôi về, vừa chạy vào nép bờ ruộng, mỗi khi con đầm già đảo qua đầu. Đêm đó cánh 2 nổ súng vào Đức Long, Kim Hải, tất nhiên đánh không có chuẩn bị gì thì kết quả không cao như mong muốn. Mờ sáng rút quân, 489 không nhận được lệnh, trụ ngày ở Đức Long, một mình đánh phản kích ba bên bốn bề ác liệt. Đến xế chỉ còn Ba (đại đội phó) cùng sáu chiến sĩ xé được đường về Đại Nẫm. Em trai tôi, Phạm Hoài Châu (trung đội trưởng) hy sinh. Số ở Kim Hải lui quân rất vất vả. Đến cầu 40, anh Bốn lọt ổ phục kích địch, bị bắt. Hòa chém vè ở sông Hưng Nhơn, đêm mới về. Cánh 1 đánh Phú long không dứt điểm. Cùng đêm, 487 pháo kích Căng làm nổ tung một kho đạn pháo trên 300 tấn, cháy một kho xăng 1 triệu lít; đạn dược, xăng dầu cháy nổ cả đêm làm cảnh tượng trận tấn công thật hùng tráng.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Tư, 2019, 11:00:22 am
Đêm 11 tháng 3 năm 1968, lúc này cánh 1 và cánh 2 đã thành một lực lượng chung do anh Ba Lê làm chỉ huy trưởng, tôi chính ủy, chỉ huy 840 đánh tiêu diệt yếu khu Phó Long, làm chủ, phá sập cầu Phú Long, thu toàn bộ chiến lời phẩm chở về căn cứ bảy xe tải và xe lam; 482 chặn viện Phan Thiết lên tại Kim Ngọc, đánh thiệt hại nặng một tiểu đoàn cộng hòa, một đại đội bảo an, một số trung đội dân vệ, một chi đoàn bọc thép, thu một số súng, địch lùi về Phan Thiết, không tái chiếm được Phú Long, ta làm chủ hơn một tuần lễ. Sau hoạt động này, 482 về đóng ở Lò Thổi Tam Giác, Đại đội 3/481 về Râm Tre Hàm Nhơn nghỉ ngơi củng cố. Ta đánh địch nống lên Tam Giác, bắc đường sắt. Cuối tháng 3, tôi và anh Ba Lê về lại Tỉnh đội. Sở Chỉ huy Mặt trận cũng về lại Quân khu, kết thúc 45 ngày đêm tổng tấn công vào Phan Thiết. Khi về núi, ai cũng lưu luyến nhìn tháp nước Phan Thiết, vẫy chào hẹn sẽ còn gặp lại. Trong khi 840, 482, đặc công tấn công Phan Thiết, các huyện Hàm Thuận, Thuận Phong, Hàm Tân, Tánh Linh, Hoài Đức và các thị trấn, chi khu, quận lỵ, phá kềm, giải phóng một số ấp ở nông thôn. Hàm Thuận, Thuận Phong còn huy động nhiều công của phục vụ chiến trường trọng điểm rất đắc lực; nhất là việc tiếp tế, tài đạn, tải thương, nuôi dưỡng thương bệnh binh.

Qua 45 ngày đêm tấn công Phan Thiết phối hợp với toàn Miền, các lực lượng khu, tỉnh, huyện, xã đã đánh hàng trăm trận lớn nhỏ, diệt và làm bị thương 4.800 địch, bắt 108; làm tan rã hàng ngàn dân vệ, phòng vệ dân sự; diệt 2 tiểu đoàn cộng hòa, 10 đại đội (có sáu đại đội Mỹ), 22 trung đội, đánh thiệt hại nặng một tiểu đoàn, 10 đại đội; thu gần 800 súng các loại, phá hủy 30 xe quân sự có 20 xe tăng, diệt hai chi đoàn bọc thép, bắn rơi 34 máy bay; giải phóng 700 cán bộ, chiến sĩ, đồng bào bị địch giam giữ ở Lao xá Phan Thiết, phá hủy nhiều cơ sở vật chất khác của địch, gây cho chúng tổn thất nặng nề. Địch phải thú nhận Phan Thiết là 1 trong 11 thành phố, thị xã ở miền Nam mà chúng bị thiệt hại rất nặng về người và vật chất trong Xuân Mậu Thân 68. Về phong trào, ta đã giải phóng thêm 30 ấp với 45.000 dân, tạo đà cho bước phát triển tiếp theo.

Cuộc Tổng tấn công Xuân Mậu Thân 68 của quân – dân Bình Thuận mà đỉnh cao là việc đánh thẳng vào Phan Thiết và vùng ven liên tục 45 ngày đêm đã góp phần cùng toàn Miền và cả nước đánh bại chiến lược chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ ở miền Nam, buộc đế quốc Mỹ phải chấm dứt cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân ở miền Bắc, phải chuyển sang chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh ở miền Nam, rút dần quân Mỹ về nước, phải ngồi vào bàn đàm phá với ta ở Pari, dẫn đến Hiệp định Pari năm 1973 Mỹ cút để đến tháng 4 năm 1975 ngụy nhào, kết thúc thắng lợi cuộc chống Mỹ 21 năm, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

(https://lh3.googleusercontent.com/X6fl3iSupttBmhvyUpfClsoPgVFp7FvhKWy6RD_cVxfrPyoNQiLHSki5hYA41U9qMqtLgc0NxDO-TyUhH0JwF8fGYlju_qAAK6KAKmUhWPEA2weE_bUKMumAjaAwNS94AIoOeuYZFE3TG0XKn_Paw7IO89aH6K61dYJNYMQBUzZ_ur1FKCtV94wxH0yOv_vOC8vhRHS3s2brJb70-FsoTB7MYVotkZgHXtPwE4Nx5mUsGPEkVIvr4khAUVRMp7Ey47xkLNe025YXajo7bi0qYI9NUewL_0EmZVFtAIZdog_uhCYuIBxwXZ5CFohKBsiaVN4V0uH3mpf5o8vYMRJ-Cb6VIsU_1shzXusLbCjNo_OxQPAR4UJVQxMglMikbWjot9nJDae1zSOfxLil6HT8Xuf9snFynqnlSanPx1P7XHra3BTbBoEf0iAJY0rJ7PsWr50-QIKqQz0Pg1aYWFON9FSeFMVaS-rE9MvjTCcuVx0k5mPhzH4JGlko9Cl5e1iWLf3JW5lhPmp2H1zJUz3qhrh8e2q2K1R9hZiDz6-6Jgtgn0pMU7GvawA7L-bPydCC0KMJQW4r0EqW3BcioQA4sHcjZwGsc_9tzSAez4MCSi4Eh3q8PcYIogyMZZuleldya_ODtP4X9hCs8QH0z_2KvEcZ_p8QsZE=w1087-h768-no)


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 24 Tháng Tư, 2019, 09:44:02 am
Chiến tranh đã lùi xa 25 năm, có đủ điều kiện xem xét khách quan và đầy đủ hơn về sự kiện lịch sử ấy, rút ra bài học kinh nghiệm cho ngày nay và mai sau.

Là người trực tiếp tham gia suốt cả đợt, tôi cũng thấy rõ những mặt được và chưa được của đợt hoạt động này. Rõ ràng cuộc tổng tấn công vào Phan Thiết chưa thực hiện được quyết tâm đã định là chiếm lĩnh, làm chủ thị xã Phan Thiết. Cán bộ, chiến sĩ và lực lượng chính trị ở cả ba cánh đều chiến đấu anh dũng ngoan cường, sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà, có quyết tâm rất cao, đánh theo yêu cầu không theo khả năng, triệt để chấp hành mệnh lệnh cấp trên. Biết bao gương chiến đấu và phục vụ chiến đấu của chiến sĩ, đồng bào rất hào hùng oanh liệt. Cả ba đợt đều tập trung lực lượng cao độ, rút cơ quan đơn vị phía sau, huy động thiếu sinh quân nhưng những cố gắng hết mình đó không mang lại kết quả mong muốn. Vì sao? Năm 1997, trong cuộc Hội thảo lịch sử Đảng bộ Bình Thuận, tôi có hỏi anh Tám Hiền, lúc đó là Thường vụ Khu ủy, bí thư Bình Thuận, chính ủy trọng điểm 1 Phan Thiết trong Xuân 68:

- Tại sao Quân khu biết trước nhiệm vụ vào Phan Thiết 22 ngày mà chỉ phổ biến cho chúng tôi, những người trực tiếp vào Phan Thiết chiến đấu có hai ngày thì chúng tôi làm được bao nhiêu cho chiến thắng? Tất nhiên ngày N thì khi nào Miền phổ biến mới biết, nhưng với cấp tỉnh sao không được biết nhiệm vụ vào Phan Thiết trước độ 1 tuần? Tại sao Quân khu không triển khai gì cho sự kiện lịch sử đó mà Sở Chỉ huy trọng điểm Phan Thiết cũng chỉ xuống chiến trường cùng lúc với cánh 2. Cũng chẳng thấy Quân khu thông qua phương án tác chiến của các cánh mà chỉ ra lệnh rồi đi đánh mà thôi?

Anh Tám Hiền đã cho biết một số điều mà hồi đó chúng tôi không hề được biết:

- Miền lệnh trực đài 24/24 giờ, khi được mệnh lệnh và ngày N thì anh Trần Lê đi công tác Tuyên Đức chưa về (anh về sau đợt 1), anh Năm Ngà xuống 840 ở Núi Lá Bắc Bình thông qua phương án đánh Sông Lũy vừa mới về cơ quan. Do vậy, anh Năm Ngà chỉ triệu tập anh Tám Hiền lên Quân khu và chỉ có hai người quyết định mọi việc và ra lệnh cho các tỉnh rồi hành quân ngay. Vì thế Khu ủy, Quân khu ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu không có họp để ra Nghị quyết về cuộc Tổng tấn công này. Tất nhiên như thế thì không có sự chỉ đạo cụ thể cho dưới được, kể cả việc thông qua phương ánh đánh Phan Thiết mà chỉ ra lệnh mà thôi. Việc anh Năm Ngà chỉ thị tập trung chuẩn bị đánh Căng và đánh yếu khu Sông Lũy, không chuẩn bị các mục tiêu trong Phan Thiết thì anh Tám Hiền cũng không biết.

Vậy là rõ, Quân khu cũng bị động, cập rập biết chừng nào dù biết trước nhiệm vụ khá lâu. Theo tôi, không đánh chiếm làm chủ được Phan Thiết có nhiều nguyên hân, nhưng phải chăng do các vấn đề cụ thể sau đây:

1. Đánh không có chuẩn bị chiến trường tối thiểu. Dù trong thời cơ lịch sử, địch hoàn toàn bất ngờ nhưng vì Huế có chuẩn bị chiến trường rất kỹ, trước đó nhiều tháng nên đã làm chủ hoàn toàn thành phố đến 26 ngày. Ở Phan Thiết, các mục tiêu then chốt như tiểu khu, tỉnh đoàn bảo an, ty cảnh sát, Trinh Tường, cổng chữ Y đều không được tập trung hoặc không có chuẩn bị. Do vậy, cả 2 đợt đều không dứt điểm là điều dễ hiểu.

2. Đánh không hiệp đồng chặt chẽ giữa các cánh. Tình trạng đánh giã gạo ở Phan Thiết kéo dài suốt cả 2 đợt. Đánh thẳng vào đầu não địch và các vị trí xung yếu nhất, nhưng giữa các cánh lại cũng có sự trục trặc. Vào giờ G, cánh 1 vì ở tận Bắc Bình kéo về không kịp, bị trễ mất 3 hôm; Thế là tiểu khu – đầu não địch không bị đánh, chúng yên ổn điều binh khiển tướng, tập trung đối phó cánh 2. Cánh 3 tuy có nổ súng đúng qui định nhưng khi không dứt điểm cổng chữ Y sợ vào hữu ngạn sẽ bị kẹt nên kéo ra vùng ven, đứng ở Phú Khánh gần Căng, bị quân Mỹ phản kích, đánh suốt ngày 1 tháng 2 rồi lui về căn cứ Bưng Cò Ke.

Tình hình này tất nhiên ảnh hưởng nhiều đến cánh 2 và đợt 1. Cả 3 cánh đều không hoàn thành nhiệm vụ đánh chiếm, làm chủ Phan Thiết. Sang đợt 2 lại cũng bị giã gạo nốt. Đêm 17 tháng 2, cả cánh 1 và 2 đều không chiếm được tiểu khu và biệt khu Bình Lâm. Do cánh 3 không vào được hữu ngạn, nên hữu ngạn bị bỏ trống, địch dùng hữu ngạn làm bàn đạp phản kích quyết liệt cánh 1 và 2. Đêm 19 tháng 2, cánh 1 cũng lui nốt về Râm Tre Hàm Nhơn. Như vậy trong nội ô chỉ còn cánh 2 đánh phản kích cả Mỹ lẫn ngụy, cũng không dứt điểm biệt khu Bình Lâm như yêu cầu đề ra của Mặt trận. Dù không được chuẩn bị, nhưng nếu vào N, cả 3 cánh đều đồng loạt tấn công ngay từ đầu thì có thể kết quả sẽ khác.

3. Về mặt chỉ huy, thật ra Sở Chỉ huy chỉ nắm chặt được cánh 2, còn đối với cánh 1 thì cả 2 đợt đều không nắm được. Không giải quyết được khó khăn cho cánh nên cả 2 đợt, cánh 1 đều phải rút ra ngoài khi chưa có lệnh của Sở Chỉ huy. Với cánh 3 cũng vậy, khi bị khó khăn, tổn thất, cánh 3 cũng phải tự rút về căn cứ mà thôi.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 24 Tháng Tư, 2019, 09:44:32 am
4. Hậu cần Mặt trận không bảo đảm được các yêu cầu chiến đấu của các cánh vốn rất nặng nề. Cánh 1 có đến 700 – 800 quân, trong đợt 1 chiến đấu hai ngày liên tục, bị thương vong nhiều, thiếu thốn vũ khí, đạn dược, tuy có sử dụng một số vũ khí chiến lợi phẩm nhưng cũng chẳng là bao, không thể nào đáp ứng được nhu cầu của cả cánh quân. Đồng bào có ủng hộ lương thực thực phẩm, nhưng việc ăn uống của chừng ấy người thật không dễ dàng. Thương vong tại trận địa nhiều mà hậu cần không đến chuyển về sau được như đã làm ở cánh 2; những điều đó làm cho cánh 1 không thể duy trì chiến đấu được mà phải tự động lui về Râm Tre Hàm Nhơn dù chưa có lệnh của Sở Chỉ huy; trong đợt 2, sự việc cũng không khắc phục được nên lặp lại một lần nữa.

Trong đánh điểm, đặc công rất cần các thứ: kềm cộng lực, bộc phá ống, bộc phá khối để cắt rào, mở cửa, đánh công sự, diệt hỏa điểm, v.v. Việc bảo đảm kịp thời, đầy đủ của hậu cần là rất quan trọng cho việc hoàn thành nhiệm vụ của các đơn vị. Nói chung, suốt cả 2 đợt, hậu cần mặt trận tuy rất cố gắng nhưng đều không đáp ứng được các yêu cầu đó. Ở cánh 2, trong trận đánh biệt khu Bình Lâm, cứ điểm địch ở trên cao, ta ở bên ngoài thấp, nhà cửa xung quanh không còn để chiếm thế cao, dùng hỏa lực bắn vào đồn cho có hiệu quả. Trong tình hình hình như vậy, tất nhiên phải sử dụng hỏa lực cầu vồng với đạn khoan, nhưng khốn nỗi trong tay chỉ có đạn nổ tức thì. Chỉ một viên đạn khoan đã xuyên phá thủng lớp công sự (bao cát và ghi sắt) trên mái nhà, lọt vào trong đồn, sát thương nhiều địch đã làm chúng rối loạn hoang mang. Giá có độ 10 viên đại cối 82 xuyên phá thì có khả năng ăn được cái biệt khu Bình Lâm rồi! Nói chung, các trận đánh điểm của cánh 2 đều thiếu các vũ khí cần thiết, đánh Trinh Tường lần 2, đồng chí Nguyễn đã phải dùng tăng võng vắt qua rào gai cho bộ binh xông vào, nhưng làm sao mở cửa bằng cách ấy được.

5. Tôi vẫn còn một băn khoăn mãi về việc giã gạo ở cấp chiến lược. tại sao Trị Thiên, Khu 5, Tây Nguyên đánh trước các quân khu, tỉnh phía nam một ngày? Tất nhiên việc ấy làm mất yếu tố bất ngờ ban đầu cho phía nam, không có sự thuận lợi như ở phía bắc, khi chúng tôi nổ súng thì rõ ràng địch ở Phan Thiết đã báo động và đề phòng rất cẩn mật. Trừ số binh lính đi phép xa, còn số ở Phan Thiết và xung quanh thì địch đã gọi về sẵ sàng chiến đấu trong đêm 31 tháng 1 năm 1968. Đã không có sự chuẩn bị, bị đánh trong tình hình địch đã đề phòng cẩn mật thì khó khăn rõ ràng là nhiều, lại thêm giã gạo giữa các cánh ở Phan Thiết nên chiến đấu càng vất vả, bầm dập.

Tôi chưa thấy sử sách viết về vấn đề này nhưng đây là điều có thật và đã ảnh hưởng không nhỏ đến N ngày ấy. Không biết sao một vấn đề lịch sử trọng đại như vậy của đất nước, có liên quan trực tiếp đến hàng chục vạn con người chiến đấu mà cấp cao nhất không tính toán kỹ, để đến nỗi chỉ vì một ngày Tết khác nhau giữa hai miền Nam Bắc mà sinh ra tình trạng đó. Nếu toàn Miền đều đánh đồng loạt một ngày thì thuận lợi hơn biết bao nhiêu!

Tóm lại, mấy vấn đề trên đây làm cho chiến đấu càng khó khăn, phức tạp hơn mà chỉ huy trực tiếp các đơn vị không thể khắc phục được, hậu quả là không dứt điểm được các mục tiêu then chốt như tiểu khu, tỉnh đoàn bảo an, ty công an cảnh sát, Trinh Tường, biệt khu Bình Lâm; dĩ nhiên là cũng không làm chủ được Phan Thiết, cho dù các cánh đã chiến đấu vô cùng dũng cảm ngoan cường, xông lên theo yêu cầu, sẵn sàng chịu dựng gian khổ hy sinh và đã diệt rất nhiều sinh lực, phương tiện chiến tranh của địch; tất nhiên ta cũng tổn thất rất nặng nề.

Trong 45 ngày tấn công Phan Thiết, cánh 1 cũng diệt được lao xá, giải phóng 700 tù chính trị. Tuy đây chỉ là một nhà tù với 1 đại đội thiếu canh giữ thôi, nhưng đây là một thắng lợi rất lớn về chính trị, diệt được yếu khu Phú Long ở nông thôn; cánh 3 cũng đánh được cuộc cảnh sát Châu Thành; cánh 2 thì không diệt được mục tiêu nào. Ở Trinh Tường sáng ngày 1 tháng 2 năm 1968 nếu tôi kịp thời cho bộ binh 482 làm tiếp chiến tăng sức cho Đại đội 2/481 khi vừa mới cửa thì cũng có thể giải quyết xong, mặc dù trong tình thế lúc đó thì địch cũng dùng phi pháo hủy diệt và chiếm lại mà thôi.

Trong Hội thảo về “Lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường Quân khu 6” năm 1993 ở Đà Lạt, khi nói về cuộc Tổng tấn công Xuân Mậu Thân 1968 ở Phan Thiết và Đà Lạt, anh Trần Lê có ý kiến như sau: “Cán bộ, chiến sĩ ta chiến đấu anh dũng ngoan cường như thế, địch bị tổn thất nặng nề như thế, nếu lãnh đạo, chỉ huy của ta tốt hơn thì cũng có thể đã làm nên chuyện lớn”. Tôi cho rằng đánh giá nhận xét như trên quả thật là chí lý! Với tương quan địch – ta năm 1968 thì Huế làm chủ gần một tháng cũng phải ra. Dù sao, nếu chiếm, làm chủ được Phan Thiết một tuần thì cũng thật huy hoàng, oanh liệt. Và dù sao quân dân Bình Thuận, Phan Thiết cũng tự hào đã góp phần xứng đáng vào thắng lợi chiến lược của cuộc Tổng tấn công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 68 với toàn Miền.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 24 Tháng Tư, 2019, 09:44:57 am
Hội nghị Tỉnh ủy Bình Thuận mở rộng tháng 4 năm 1968 đã đề ra nhiệm vụ hoạt động hè là: Thường xuyên đánh mạnh vào thị xã, thị trấn, các căn cứ, sân bay và kho tàng của địch, tạo điều kiện tiến tới dứt điểm, nhất là thị xã Phan Thiết và một số thị trấn, giải phóng từ 30.000 đến 35.000 dân, nhất là giải phóng cho được vùng nông thôn trọng điểm như Hàm Thuận, Thuận Phong; triệt phá các đường giao thông, nhất là quốc lộ 1, liên tỉnh lộ 8, làm gián đoạn và tiến tới cắt đứt hoàn toàn; khẩn trương xây dựng lực lượng để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới.

Thật ra, như trên đã nói, tổng tấn công nổi dậy đợt 1 không dứt điểm Phan Thiết mà bị tổn thất nặng nề. Về chiến lược thì đã góp phần cùng toàn Miền đánh bại chiến lược chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ, nhưng vào đợt hè sức ta chưa hồi phục như trước Xuân 68 nên cũng chỉ hoạt động ở nông thôn chứ không vào lại Phan Thiết như ở Miền vào Sài Gòn tháng 5 năm 1968. Vì thế nhiệm vụ hoạt động hè của Tỉnh ủy Bình Thuận đề ra không thực hiện được bao nhiêu, chẳng những không dứt điểm được Phan Thiết mà cũng không dứt điểm thị trấn nào, cũng không làm gián đoạn hoặc cắt đứt được lộ 1, lộ 8.

Tháng 5 năm 1968 vào đợt hè, Bình Thuận hoạt động ở nông thôn với yêu cầu giành quyền làm chủ một số mảng quan trọng. Ở thị xã và vùng ven dùng đặc công biệt động Phan Thiết tấn công liên tục, đánh phá tiêu hao kiềm chế địch. 840, 482 đánh những trận tập trung thối động ở Tam Giác – Hàm Thuận. Đợt này không còn 3 cánh nữa mà các lực lượng 840, 482 đều do anh Ba Lê và tôi chỉ huy trực tiếp.

Mở màn, ngày 16 tháng 5, 482 đánh ấp Tân An, trụ đánh phản kích; 840 đứng ngoài động nam suối Bà Đình, tây đường 8. Sở chỉ huy chúng tôi đặt tại suối Bà Đình. 8 giờ, một tốp tăng M41, M48 từ Trinh Tường lên khỏi ấp Tân An nã pháo vào phía cầu Bà Nhuần, tiến đến chốt chặn tại cây số 4, bị tổ đánh tăng bắn bị thương chiếc đầu, chúng từ từ lui về Trinh Tường rồi không lên nữa. 9 giờ, 1 đại đội đều bị 82 và 840 diệt gọn thu súng. Hơn 10 giờ, 1 tiểu đoàn cộng hòa chia 2 cánh tiếp tục vào vị trí 482, 840. Vừa bị đánh, chúng đã bỏ chạy tán loạn. Từ đó đến chiều, bộ binh không lên nữa, mà chỉ dùng phi pháo hủy diệt 482 trong ấp Tân An và Gò Cút. 840 yên vì ở ngoài đồng chúng không phát hiện được mục tiêu. Từ suối Bà Đình cách mấy trăm mét nhìn rõ một một bom pháo tàn phá ấp Tân An, khói lửa mịt mù cuồn cuộn không lúc nào tan. Khi đội bom đạn tại chỗ ở Phan Thiết thì cũng không thấy, không hình dung hết mức độ ác liệt mà mình chịu đựng; còn bây giờ ở xa xa một chút, quan sát trực tiếp, tôi lại nghĩ rằng 482 bị tổn thất nặng, trong ấp Tân An và Gò Cút cơ hồ như không còn sự sống nữa! Nhưng anh em ta rất gan ruột, thông minh, không yêu cầu trụ suốt ngày và nhiều ngày như ở Phan Thiết nên ngay giữa trưa, lợi dụng khói lửa che phủ mịt mù, từng tốp, từng tốp ra khỏi ấp, băng qua đường 8, vượt đồng trống theo suối lên Tam Giác an toàn. Thấy Sơn Ánh, đại đội trưởng Đại đội 5 đặc công chạy qua trước mặt, tôi gọi lớn:

- Sơn Ánh, lại đây!

Anh chàng nghe gọi thình hình, dừng lại ngơ ngác một chút rồi vọt chạy nhanh qua khuất mất! Tôi và anh Ba Lê cùng cười, chắc cậu ta bùng tai không nghe rõ. Chiều kiểm tra lại chẳng có ai bị thương lúc đánh trận hồi 9 giờ. Có một điều thú vị là do cháy khắp nơi trong ấp, thỉnh thoảng có tiếng nổ mắt tre hoặc vật gì đó làm máy bay tưởng là bộ đội còn trong ấp nên cứ dội bom bắn pháo liên tục cho đến chiều. Đồng bào thì đã sơ tán hết khi bộ đội đánh ấp và trụ ngày.

Trận đánh kết quả khá nhưng không đạt yêu cầu cao, địch không phản kích nhiều đợt trong ngày như ở Phan Thiết, chủ yếu chỉ dùng phi pháo. 482 chưa bắn diệt được tăng M41 – M48, có chừng nào gờm loại tăng nặng này, cho là B40, B41 chỉ diệt được M113 – M118 thôi!

Ngày 26 tháng 6, tiểu đoàn 4 trung đoàn 44 và chi đoàn tăng 4/8 Mỹ theo đường đất lên Phú Bình; 10 giờ 30 phút, đại đội đi đầu chạm trận địa đại đội 3/840, trung đội trưởng trung đội 3 Nguyễn Trọng Nghĩa dùng B40 diệt tại chỗ hai tăng M41. Tăng Mỹ chết, bộ binh ngụy rối loạn. Đại đội 3 xuất kích đánh thiệt hại nặng cánh quân này. Địch mở đợt đột kích mới nhưng tăng không dám lên, bộ binh cứ thậm thò thậm thụt. 840 xuất kích, tính chung diệt 100 tên, bắn bị thương 50, số còn lại tháo chạy về Trinh Tường. Trận bàu Cây Bông này của 840 thắng lớn, đã gây niềm tin cho 482 là B40 vẫn diệt được tăng nặng M41. Chúng tôi tiếp tục cài thế câu đánh địch ở đồng trống Tam Giác, kiên trì phục 4 ngày, địch không nống ra nữa. Đợt hè này bị sượng.

Trong khi đó đợt 2 Tổng tấn công và nổi dậy của Miền diễn ra hết sức hào hùng quyết liệt, gây phấn khởi cao độ. Các đơn vị chủ lực đánh vào nội ô Sài Gòn, diệt địch lớn ở vùng ven. Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam kêu gọi nhân dân thành phố đào hào đắp lũy, phối hợp bộ đội chiến đấu, nổi dậy đánh đổ ngụy quyền, lập chính quyền cách mạng. Bọn đầu não ngụy hoang mang, địch chạy ra Vũng Tàu để dễ bề xuống biển. Tuy vậy, quân Mỹ còn đông, phi pháo dữ dội trùm cả nội thành, sức ta cũng chỉ tới đó. Nhưng đây là thắng lợi chiến lược lịch sử, rất rực rỡ oai hùng. Đợt này ở Bình Thuận không được bao nhiêu, một phần do địch ở địa phương còn co, lo phòng thủ nội thị, sợ ta lại tấn công Phan Thiết. Về ta, chiến thắng ở nông thôn không nhiều, đợt vừa qua bị tổn thất cũng nặng, chưa dễ hồi phục trong thời gian ngắn. Chiến thuật trụ kiềng ba chân ở đồng trống để diệt nhiều địch đã đưa đến đại đội 3/482 gần như bị xóa sổ ở Bình Lâm, chỉ còn 3 người; tiểu đoàn phó Lưu Khứ, chiến sĩ thông tin Trần Bình Sơn và một nữ y tá Yến đều bị thương. Các má ở Tam Giác đã nói: “Các con đánh như vậy các má đẻ không kịp!”. Đó là thực tế trong hè 68, nó ảnh hưởng đến cường độ tấn công, dĩ nhiên không mãnh liệt như lúc vào N hôm Tết. Diệt địch thì không nhiều nhưng cũng mở nông thôn rộng hơn; trên 500 thanh niên thoát ly nhập ngũ bổ sung được một phần hao hụt quân số. địch ra sức củng cố lực lượng, tăng cường công sự, chướng ngại chuẩn bị đối phó ta tấn công lại Phan Thiết. Nguyễn Khắc Tuân bị đổi đi, Hồ Thiện Ngôn đến hò hét, thách thức đối phương tấn công Phan Thiết. Binh lính xì xào, bàn tán về một đường hầm bí mật từ tòa tỉnh trưởng ra bờ sông để phòng khi bất trắc. Thật ra, chúng quá sợ đồn đãi như vậy. Tại dinh tỉnh trưởng chỉ có một hầm bê tông sâu, rộng để trốn pháo kích H12, ĐKB thôi; (Ngày 19 tháng 4 năm 1975 vào Phan Thiết thấy có nhiều vết thủng lỗ chỗ trên nóc và mặt gạch của tỉnh đường, H12, ĐKB có vào tận đây thật).

Tỉnh tổ chức một đoàn vận tải quân sự lên tận Đắc Uýt biên giới Cam-pu-chia chuyển hàng về cho chiến trường. Hàng trăm thanh niên xung phong nam nữ được lập thành đoàn Trung Sơn của tỉnh và góp phần cho Quân khu lập đoàn vận tải quân sự H50, hoạt động liên tục cho đến ngày giải phóng miền Nam. Nam thanh niên phải huy động tối đa bổ sung cho các đơn vị chiến đấu. Tỉnh lập các đơn vị nữ như trung đội nữ thông tin liên lạc, trung đội nữ 483 cối 60, cối 82 của tỉnh đội để đảm đương một số công việc. Chị em công tác, chiến đấu tích cực, dũng cảm; 483 đã phối hợp tốt với 482 trong nhiều trận đánh lớn, có lúc làm dân công hỏa tuyến rất đắc lực. Tỉnh còn cung cấp một số cán bộ, chiến sĩ gái để Quân khu lập đại đội nữ 115. Các huyện cũng tổ chức các đơn vị nữ từ tiểu đội đến trung đội, vừa khắc phục thiếu quân số, vừa phát huy đúng mức khá năng quân sự của chị em. Các đơn vị nữ đã lập được nhiều thành tích xuất sắc. Trung đội 434 nữ công binh của Hoài Đức đánh mìn diệt hàng chục xe tăng Mỹ, phối hợp đội công tác đột ấp, phá kềm liên tục. Huynh Thị Khá, tiểu đội trưởng của trung đội 68 nữ Hòa Đa, 19 tuổi đời, 1 tuổi quân, đánh trên 30 trận lớn nhỏ rất dũng cảm, ngoan cường, hy sinh oanh liệt, được Đảng, Nhà nước truy tặng Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 24 Tháng Tư, 2019, 09:47:03 am
7. Duy trì chiến cuộc.

Quân khu chủ trương đẩy mạnh tiêu diệt sinh lực, phương tiện chiến tranh địch, đưa phong trào Bình Thuận lên mạnh, vững chác, tổ chức Sỏ Chỉ huy tiền phương để chỉ huy các lực lượng Khu, tỉnh chiến đấu. Anh Năm Ngà về Miền làm tham mưu trưởng; anh Tám Hiền làm phó chính ủy một của quân khu; anh Ba Lê tham mưu trưởng Quân khu; anh Mười Trung phó chính ủy Quân khu; anh Nguyễn Trọng Xuyên (Sáu Phúc) tư lệnh Quân khu kiêm chỉ huy trưởng tiền phương; anh Lê Thứ (Mười Bắc) khu ủy viên, bí thư Bình Thuận, chính ủy; Trần Thọ tỉnh đội trưởng Bình Thuận chỉ huy phó và tôi chính trị viên viên tỉnh đội là phó chính ủy. Lúc này, Lê Văn Nhặt tỉnh đội phó tham mưu trưởng; Văn Minh Trường tỉnh đội phó kiêm tiểu đoàn trưởng 482; Vũ Ngọc Đài chính trị viên phó tỉnh đội; Nguyễn Hội chính trị viên phó tỉnh đội, trưởng ban chính trị. Lực lượng Quân khu tại đây có các Tiểu đoàn 840, 186, 240 và Tiểu đoàn 200C đặc công. Bình Thuận lập thêm Tiểu đoàn 490 đặc công (thiếu).

Từ đây trên chiến trường Bình Thuận có các trận đánh lớn như trận diệt chi khu Hòa Đa của 200C và 440, các trận hậu cứ như ở Sông Mao, các trận đánh hậu cứ lữ đoàn 506 Mỹ ở Căng Ê-xê-pít, đánh căn cứ thiết giáp Mỹ Tà Dôn, nhiều trận phục kích giao thông với lực lượng tiểu đoàn, nhiều tiểu đoàn trên đường quốc lộ 1A. Về tổ chức chính trị, từ tháng 8 năm 1968, Khu rút K67 (tương đương huyện) về lại Tuyên Đức, giải thể tỉnh Bắc Bình, giao các huyện Hòa Đa, Phan Lý, Tuy Phong về lại Bình Thuận, nhưng cắt Tánh Linh, Hoài Đức, Hàm Tân thành lập tỉnh Bình Tuy.

Từ cuối 1968, địch triển khai chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh. Vào hoạt động Đông Xuân 1968 – 1969 ở Bình Thuận có trận đánh Sông Mao ngày 24 tháng 11 nam 1968; cả khu hậu cứ địch chìm trong ánh chớp, tiếng nổ và các đám cháy rực sáng một góc trời; địch hoàn toàn bị tê liệt. Kết quả cả đánh điểm và đánh viện thật lớn, trên 1.000 địch có nhiều cố vấn Mỹ chết và bị thương, tân binh tan rã, một chi đoàn thiết vận xa, một trận địa pháo 105 bị bắn phá hủy hoàn toàn. Trận đánh kỳ diệu này được nhà văn Nam Hà miêu tả rất sống động cho là trận thắng 1.000/0 vì ta không hy sinh một ai cả.

Trước đó, ngày 25 tháng 9 năm 1968, tiểu đoàn đặc công 200C của Bộ tăng cường cho Khu 6, vừa ở miền Bắc vào chiến trường Bình Thuận do đồng chí Nguyễn Văn Bổng tiểu đoàn trưởng, Nguyễn Văn Lạng chính trị viên chỉ huy đã tiêu diệt chi khu Hòa Đa, diệt 130 địch, bắt 12, thu nhiều vũ khí. Đây là trận đánh đặc công thắng lớn sau Mậu Thân 68 vì được chuẩn bị bài bàn theo cách đánh của binh chủng; có tác động lớn đến phong trào các huyện phía bắc tỉnh. Sau trận Sông Mao, ta lại đánh Căng Ê-xê-pít, diệt 600 tên, buộc quân Mỹ đang phản ứng trận Sông Mao phải lập tức quay về giữ Căng. Các tiểu đoàn 186, 240 diệt gọn 1 tiểu đoàn của trung đoàn 44 và 1 chi đoàn thiết xa vận trên quốc lộ 1A. Cùng thời gian này, d130 pháo kích H12, ĐKB vào các đồn Mỹ ở Tân Nông, Bà Gò, Nổng Cà Tang gây cho địch thiệt hại nặng nề. Đông Xuân 68 – 69, ta không vào Phan Thiết như hồi Tết Mậu Thân nhưng nhờ có lực lượng lớn của Quân khu tăng viện nên hoạt động sôi nổi, giòn giã, đánh lớn thắng to, diệt nhiều sinh lực, phương tiện địch, hỗ trợ tốt cho địa phương đánh phá bình định, đưa phong trào lên một bước mới.

Một sáng tháng 8 năm 1969, tôi đang ở cơ quan trên núi Ba Cụm, khoảng 7 giờ, nghe hàng loạt tiếng nổ lớn kéo dài như sấm rền, tiếp theo có tiếng máy bay, biết là B52 rải thảm, tuy chưa trúng cơ quan nhưng không xa lắm, chắc còn nhiều tốp nữa. Vừa báo động xuống hầm thì sấm giăng chớp giật trời long đất lở ở ngay trên đầu, bên mình. Hai tốp rải tiếp, có một tốp rải trùm lên cơ quan Tỉnh ủy, chỉ chệch Tỉnh đội một chút. Sau đợt B52, tôi đề nghị Tỉnh ủy cho dời ngay về Ara-Xalôn tránh bị đánh tiếp. Cơ quan Tỉnh đội cũng lập tức di chuyển. Đi khỏi một lúc thì địch rải thảm tiếp ở Ba Cụm làm chết một nữ nhân viên công an tỉnh, bị thương một thiếu niên liên lạc cơ quan Tỉnh ủy. Đêm chúng cắt bom B57 trúng ngay hầm tôi nấp ban sáng.

Tại đây, chúng tôi được tin vô cùng đau đớn: Bác Hồ muôn vàn kính yếu qua đời; hồi ấy Trung ương báo tin Bác mất ngày 3 tháng 9 năm 1969. Tất cả khóc nức nở, đau xót,tiếc thương người Cha thân yêu của các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam lãnh tụ vĩ đại, tối cao của Đảng và dân tộc. Cơ quan Tỉnh đội làm lễ để tang Bác vô cùng trang nghiêm, xúc động; phát động học tập Di chúc Bác, biến đau thương thành hành động cách mạng, lập công đền ơn Bác. Ngay sau lễ để tang, Tiểu đoàn 490 đặc công Tỉnh lập công xuất sắc, tiêu diệt đồn bảo an tại cây số 18 quốc lộ 1A nam Phan Thiết, gần núi Đất mà trên đỉnh núi có một đồn mang tên “Gió ngàn phương”. Tiểu đoàn trưởng 490 Lê Thanh Sởi mưu trí dùng tên tù binh sử dụng máy thông tin lừa địch trên đồn núi Đất, gọi chúng bắn pháo vào hướng không người, thử pháo sáng cho ta rút qua đường sắt về căn cứ an toàn. Trận này, diệt và bắt hết đại đội bảo an giữ đồn (có thiếu úy Tịnh đồn trưởng), thu 30 súng các loại có (một đại liên, ba trung liên), một cối 60, một cối 81, nhiều M79 và máy bộ đàm PRC25. Tiếc là trong lúc nhiều việc, có phần lúng túng, tôi không huy động nhiều dân công giúp cho tiểu đoàn, nên đánh xong đơn vị vừa phải tự giải quyết thương vong (hy sinh ba, bị thương ba) vừa thu vũ khí; được vậy cũng đã là một cố gắng rất lớn. Không sao thu hết chiến lợi phẩm của cả một đồn địch, đành phải phá hủy.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 24 Tháng Tư, 2019, 09:48:09 am
Tiếp đó các đơn vị đẩy mạnh hoạt động liên tục đều khắp, diệt 12 đồn bót, phá nhiều ấp chiến lược, tập kích, pháo kích dồn dập vào Căng, tiểu khu và nhiều chi khu, yếu khu khác. Từ khi Bác ra đi đến cuối năm 1969, nỗ lực lập công đền ơn Bác, các lực lượng vũ trang Bình Thuận đã đánh 1.180 trận, diệt 6.000 địch có 415 tên Mỹ, bắt 59 tù binh, làm rã 960; vậy là đã loại khỏi vòng chiến đấu trên 7.000 địch, bắn rơi 98 máy bay, bắn cháy, phá hủy 216 xe tăng, bọc thép, thu hàng trăm súng các loại. Bọn Mỹ cũng dùng biệt kích đột sâu vào vùng giáp ranh và căn cứ ta, phục kích đánh mìn gây một số tổn thất. Đồng chí Qui cán bộ tác chiến Tỉnh đội đi công tác về cách cơ quan non buổi đường bị biệt kích Mỹ bắn chết. Y sĩ Nghĩa, chính trị viên Bệnh xã 1 đi họp tỉnh về bị thiệt hại Mỹ đánh mìn hy sinh. Một hôm, tôi và anh Năm Nhẫn (bí thư Hàm Thuận) từ xã Hàm Trí về núi; đoàn có sáu người, hai bộ đội địa phương 430 bảo vệ đi cuối. Qua một trảng trống đến láng dầu sắp lên núi, đang từng bước lên dốc thì thấy ánh lửa lóe sáng, khói đen mù mịt trước mắt cùng tiếng nổ chát chúa của mìn cờ-laymo, tiếng AR15, đại liên rít liên hồi, một loạt mìn nổi tiếp. Bị Mỹ phục kích rồi, tôi thoáng nghĩ vậy thì thấy Sửu chạy ngược lại, một bên tay còn thòng lòng chiếc bồng, tay kia buông xuôi máu đỏ thẫm. Chúng tôi chạy lùi lại non trăm mét, tạt xuống suối khô, băng tạm cho Sửu rồi cùng trở lại Hàm Trí. Ta hy sinh đồng chí đi đầu, đồng chí thứ hai bắn AK gây cho địch một số thương vong rồi cũng bị thương và bị bắt. Một lúc, có trực thăng hồng thập tự lên chở số thương vong Mỹ và đồng chí bị thương của ta về Phan Thiết. Lần khác, một tiểu đội biệt kích Mỹ thọc trúng cơ quan tiền phương chúng tôi ở “công sự hai giếng” chân núi; chúng nổ một loạt AR15; cảnh vệ bắn trả, rất may làm trúng chết tên Mỹ mang bộ đàm; nhờ vậy chúng tôi di chuyển yên ổn, không bị phi pháo, đổ cóc quấy rầy.

Nhằm đánh phá căn cứ hậu phương Mỹ, diệt nhiều sinh lực, phương tiện chiến tranh, hạn chế kế hoạch đánh phá vòng ngoài của quân Mỹ, Tiền phương quyết định tập kích Căng Ê-xê-pít lần hai. Lúc này, Căng là hậu cứ hỗn hợp của lữ đoàn 506 Mỹ với quân số khoảng 3..000 tên; hơn 50 máy bay trực thăng; hàng trăm xe tăng, bọc thép và xe quân sự; hai trận địa pháo 105, 155 và cối 106,7 ở Căng, Giồng Tào; gồm tiểu đoàn bộ binh 5/27, tiểu đoàn pháo 5/30, tiểu đoàn cơ giới 5/22, tiểu đoàn công binh 19, tiểu đoàn trực thăng 19, tiểu đoàn thiết kỵ 315, tiểu đoàn bảo dưỡng sửa chữa, các đơn vị thông tin, hậu cần, quân y, sở chỉ huy hậu cứ, nhiều kho tàng nhiên liệu, đạn dược, v.v… Căn cứ được bố phòng hết sức cẩn mật, có nhiều phương tiện hỗ trợ hiện đại, tuần tra canh gác dày đặc, có chó béc-giê, hơn chục lớp rào kẽm gai, bùng nhùng, xen kẽ đủ loại mìn nổ, mìn cờ-laymo, mìn sáng, mìn cóc, mìn gíp. Bên trong bờ tường bao bọc là 13 lô cốt lớn, nhiều lô cốt nhỏ, giao thông hào, ụ chiến đấu chi chít, nhà cửa, kho tàng san sát. Đang mùa nắng, cỏ rác đốt cháy trụi, đất cát chỉ còn trơ lại một màu xám. Địch cho là một con kỳ nhông cũng không lọt qua hệ thống phòng thủ của chúng được.

Chuẩn bị chiến trường 3 tháng rồi. Với một số đặc công kỳ cựu so hai đồng chí Sởi (lúc này là tiểu đoàn phó 840) và Hùng (chính trị viên Đại đội 5 đặc công tỉnh) phụ trách, anh em đã vào gần bờ thành, có nghĩa là đánh cưỡng hành được, nhưng thật kỳ cục là Sởi chỉ xin đánh với một tổ, Hùng thì chỉ xin đi đánh một mình! Đồng chí Trần Thọ hỏi:

- Chuẩn bị chiến trường được như vậy mà chỉ đi đánh mấy người thì kết quả được bao nhiêu?

- Địa thế vô cùng trống trải, địch tuần tra hết sức nghiêm ngặt, đi nhiều sẽ lộ, bị thương vong, hỏng kế hoạch nên không đi nhiều hơn được.

Tôi lựa lời động viên:

- Các đồng chí đã chuẩn bị rất tốt, khi đánh kềm cặp, hướng dẫn nhau thì chắc anh em cũng vào được thôi. Còn phải hỗ trợ nhau lúc tác chiến, khi ra, cả khi rủi ro bị thương vong nữa. Đêm mai Sởi đưa một mũi, Hùng đưa một mũi xem sao rồi ta tính thêm cho chu đáo.

Cả hai ngẫm nghĩ hồi lâu rồi đồng ý. Đêm sau về, nhìn nét mặt tươi tắn của hai cậu, tôi biết kết quả tốt rồi. Phía Sởi đã bám được bờ thành, bên Hùng cả mũi vào sâu đến sân trực thăng, sờ từng chiếc rất thích thú. Kế hoạch sử dụng đặc công của 840, 240, 490, Đại đội 5, một số hỏa lực cối 60 đi cùng, cối 82, thượng liên phòng không của 482, 840, trung đội nữ 483 phụ trách tải thương hỏa tuyến, đại đội 1/481 và 480 Thị đánh diệt lô cốt Phú Khánh, án ngữ bảo đảm đường ra cho đơn vị đánh Căng. Lực lượng trực tiếp đánh Căng gồm 5 mũi 122 đặc công, phục vụ chiến đấu, phòng không và chỉ huy có 82, tất cả là 204; với lực lượng chừng đó cũng chỉ đánh non một nửa căn cứ Mỹ mà thôi. Đồng chí Trần Thọ ốm nên tôi cùng Tư Quyết tham mưu trưởng tiền phương đi chỉ huy trận đánh.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 24 Tháng Tư, 2019, 09:49:12 am
0 giờ 15 phút ngày 3 tháng 5 năm 1970, các mũi 5, 2, 1 đã lọt vào hậu cứ địch, từng giây căng thẳng trôi qua; 0 giờ 40 phút, mũi 5 của Hùng ém trong sân trực thăng chờ hết G ưu tiên (0 giờ 45 phút) quá lâu, sợ lộ nên nổ súng mở màn. Mũi 3 mới cắt được ba rào nên lui, mũi 4 qua được năm rào, nghe nổ súng mũi trưởng ra lệnh đánh, mũi phó sợ vượt rào không nổi ngăn lại, dùng dằng, giảm quyết tâm rồi cũng lui. Đột nhập cứ điểm Mỹ vô cùng khó khăn nguy hiểm; mũi 3 kỹ thuật không cao thì không vào nổi, ngược lại không có quyết tâm như mũi 4 thì cũng bỏ nhiệm vụ; đó là bài học kinh nghiệm về chn bố trí cán bộ chỉ huy. Mũi 5 vào sớm, đặt được thủ pháo vào từng máy bay, khi đánh giật nụ xòe nổ tung từng chiếc, lửa bốc cháy ngùn ngụt, sáng rực cả khu vực. Cả mũi đánh sang khu vực bảo dưỡng sửa chữa, giết nhiều giặc lái, nhân viên kỹ thuật, treo một cờ Mặt trận. Các mũi 1, 2 vượt thành vào trong nhanh chóng thọc sâu, phát triển rộng trong tung thâm, diệt nhiều cơ giới, lô cốt, nhà lính, bắn cháy một L19 đang nằm trên đường băng, treo một cờ Mặt trận tại đầu san bay. Cối 60 đi cùng, cối 82 bên ngoài cấp tập vào khu trung tâm chỉ huy, thông tin, hậu cần, phá hủy nhiều nhà cửa, kho tàng đạn dược, xăng dầu cháy nổ dữ dội. Các khu Giồng Táo, ngã Hai, cầu số 5 cũng bị pháo ta chế áp mãnh liệt nằm im đến sáng. Những phút đầu địch hoảng loạn, tê liệt; chiến sĩ ta tung hoành trong lòng căn cứ địch. Nhưng căn cứ rất rộng lớn, quân đông mà ta chỉ đánh được ba khu vực nhỏ nên sau vài chục phút hồi phục chúng huy động bộ binh, xe tăng phản kích, đánh bịt cửa mở để diệt ta trong trận nội. Đã có kế hoạch giữ cửa mở nên sau hơn 30 phút chiến đấu quyết liệt, đánh rất nhiều mục tiêu, diệt nhiều sinh lực phương tiện địch, cả ba mũi đều ra hết, diệt thêm hai xe tăng và một số lính Mỹ tại cửa mở. Trong trận nội không thương vong bao nhiêu nhưng ra cửa mở hy sinh một, bị thương năm. Trực thăng trong căn cứ một số lớn bị diệt, số còn lại cũng tê liệt không cất cánh được. Hơn 45 phút sau mới có trực thăng phóng pháo từ biển vào bắn cách rào một cây số trở ra nên phòng không bố trí gần không bắn được. Một khuyết điểm của trận này là Đại đội 1/481 và 480 chỉ diệt lô cốt Phú Khánh rồi lui, không án ngữ kềm chế địch theo qui định nên khi anh em ra bị địch ở Phú Khánh bắn; hy sinh thêm một, bị thương bốn.

Đánh trận rất dũng mãnh, quyết liệt nhưng quân số ta quá ít 204/3000, trong hạ đạt mệnh lệnh, tôi có trao cờ và dây dù, động viên các mũi treo cờ Mặt trận trong căn cứ Mỹ và bắt tù binh Mỹ đem về để giải lên Miền theo qui định thi đua của R nhưng chỉ có hai mũi 5 và 2 treo cờ, còn không mũi nào bắt tù binh, làm việc đó không dễ, có thể gây thêm thương vong. Chỉ có ba mũi đánh nên kết quả không nhiều. Tuy vậy, cũng gây tổn thất nặng cho địch; diệt trên 400 tên Mỹ thuộc loại sinh lực cao cấp, giặc lái, sĩ quan chỉ huy, lính kỹ thuật, lính chiến đấu cùng nhiều phương tiện chiến tranh: 25 trực thăng, một L19, 37 xe tăng, bọc thép và xe quân sự, hai trận địa pháo 105, 155, một trận địa cối 106,7 ba kho đạn, năm kho xăng dầu, hai nhà lính, bảy lô cốt lớn, nhiều ụ chiến đấu, máy móc phương tiện khác. Ta hy sinh năm, bị thương 14. Khi ra ngoài do mạnh ai nấy chạy, thiếu kiểm tra, bảo vệ nhau nên bỏ sót lại một. Đây là một trận thắng to, đánh một hậu cứ lớn của Mỹ được phòng bị kiên cố, cẩn mật, gây thối động lớn đối với Mỹ - ngụy tại địa phương; rút được kinh nghiệm về đánh giá địch, về kỹ thuật đặc công, cách đánh phối hợp đặc công và hỏa lực đi cùng, hỏa lực bên ngoài khi đánh một căn cứ lớn mà riêng đặc công không đủ sức đánh hết các mục tiêu, các khu vực sâu; nâng thêm một bước trình độ chỉ huy tác chiến.

Giữa năm 1970, Bình Thuận tiến hành Đại hội Đảng bộ Tỉnh. Đoàn đại biểu Quân sự tham dự với tinh thần hào hứng, phấn khởi cao. Đại hội họp ở rừng Xa-lôn lúc quân Mỹ đang càn lớn vào căn cứ, có lúc khá gần địa điểm Đại hội, bộ đội chống càn bảo vệ an toàn Đại hội. Nhiệm kỳ này tôi được bầu lại vào Tỉnh ủy và Thường vụ. Sau đó cơ quan Tỉnh ủy, Tỉnh đội dời ra đóng vùng giáp ranh Bắc Bình, yên ổn khá lâu, mọi việc chỉ đạo hoạt động xây dựng đều thuận lợi.

Năm 1971, tình hình trong tỉnh vẫn còn nhiều khó khăn, lực lượng bị tiêu hao không được bổ sung phải thu gọn, ba đại đội đặc công Thị chỉ còn hai đại đội thiếu gọi là đội 1, đội 2; tiểu đoàn 490 tỉnh và tiểu đoàn 240 Khu không còn. Các tiểu đoàn Khu và 482 quân số giảm nhiều. Địch ráo riết bắt lính đôn quân, lập các tiểu đoàn bảo an đảm nhiệm bình định. Trung đoàn 44 bung ra hoạt động mạnh hơn, thường dũi lên tận núi Ga-lăng, bắc Sông Mao cả chục cây số. Sở Chỉ huy Tiền phương chúng tôi đóng trên núi Ga-lăng vẫn bị huy hiếp, lúc này anh Sáu Phúc đã về lại Quân khu, anh Ba Lê thay chỉ huy trưởng Tiền phương. Quân Mỹ trước mỗi đợt rút về nước đều càn quét, đánh phá dữ dội dài ngày, căn cứ luôn căng thẳng. Thực hiện chỉ thị 01 của Trung ương Cục miền Nam, tỉnh tập trung xây dựng cơ sở xã ấp và chống phá bình định. Trung đội nữ thông tin bổ sung tăng cường cho Ban Hành lang tỉnh để giữ vững mạch máu giao thông liên lạc. Trung đội nữ 483 cũng phân tán bổ sung cho các đội công tác, làm cán bộ dân vận, trực tiếp móc nối xây dựng cơ sở, phát triển phong trào. Chị em làm nhiệm vụ rất tích cực, nhiệt tình, một số đã hy sinh rất anh dũng. Hoạt động quân sự phần lớn nhằm vào đánh diệt các đối tượng kềm kẹp, làm lỏng rã chân rết của địch ở xã ấp, tạo thêm thuận lội cho việc củng cố cơ sở, phát triển lực lượng tại chỗ một cách vững chắc. Hoạt động quân sự lớn có bị hạn chế, một số trận đánh bị sượng, tổn thất. nhưng tình hình chung toàn miền Nam thì lại rất phấn khởi. Tin chiến thắng lớn, dồn dập ở đường 9 Nam Lào và Đông Bắc Cam-pu-chia, tiêu diệt rất nhiều sinh lực địch, thu một số lượng rất lớn vũ khí, phương tiện; đập tan cuộc hành quân Lam Sơn 19 của Hoàng Xuân Lãm; bắn rơi máy bay diệt tên Đỗ Cao Trí, đánh bại các cuộc hành quân Chenla 1, Chenla 2 của Lon Non; giúp bạn giải phóng một loạt tỉnh Đông Bắc; tạo thế cho cách mạng Cam-pu-chia tiến lên nhanh chóng, vững chắc. Một buổi sáng nghe đài Hà Nội phát bài “Tiến quân vào bản Đông” hùng tráng thúc giục lạ thường, khác nào bài “Tiến về về Sài Gòn” hồi Mậu Thân 68. Tình hình chung đó ảnh hưởng rất lớn đến phong trào Bình Thuận.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 24 Tháng Tư, 2019, 09:50:31 am
Giữa 1971, Thường vụ Tỉnh ủy định phân công tôi đi làm bí thư Huyện ủy Hòa Đa Nam, mãng Khu Lê một thời gian, chưa biết mấy tháng nhưng chắc phải khá dài. Tổ chức giao nhiệm vụ thì phải làm, đó là ý thức chấp hành của tôi trước nay, nhưng suy nghĩ kỹ, tôi trao đổi thẳng thắn với các anh Mười Bắc bí thư và Ba Đôn phó bí thư việc tôi đi làm bí thư huyện, phụ trách toàn diện cả chính trị, quân sự, hoạt động, xây dựng phong trào, khôi phục phát triển cơ sở trong địch hậu để đưa phong trào lên thì tôi cũng cố gắng được thôi, nhưng tôi là Chính trị viên Tỉnh đội, trực tiếp phụ trách công tác đảng, công tác chính trị lực lượng vũ trang; cùng Tỉnh đội trưởng chịu trách nhiệm với Miền, Quân khu và tỉnh về quân sự; nếu là đi công tác thời gian dài, chắc có ảnh hưởng đến chức trách của tôi. Bản thân tôi không thể cùng lúc chịu trách nhiệm cả hai việc quân sự của tỉnh và phong trào của huyện. Có thể tôi đi giúp chỉ đạo Hòa Đa Nam một thời gian thì hợp hơn. Các anh đã đồng ý tôi chỉ đi công tác với tư cách là một Thường vụ phụ trách, giúp Hòa Đa Nam nhanh chóng đưa phong trào các mặt lên. Sau khi Nguyễn Thị H, ủy viên Tỉnh Đoàn thanh niên Bình Thuận vào công tác hợp pháp ở Phan Rí Cửa bị địch bắt, đã đầu hàng khai báo làm bể vỡ nhiều cơ sở, tình hình rất khó khăn, Hòa Đa Nam rất cần sự giúp đỡ trực tiếp của tỉnh. Phía bắc tỉnh là quê hương của tôi, sẽ gặp lại bạn bè, người quen nhiều, cùng ra sức xây dựng, củng cố khôi phục phong trào cũng thuận lợi.

Thời gian này địch đang tiến hành một chiến dịch qui mô lớn, ủi phá rừng Khu Lê. Hàng ngày có đến 200 xe tăng, xe ủi, dàn hàng ngang ủi phá hàng mảng rừng, truy tróc các nơi bám trụ của huyện, xã; đi đôi dùng gáo xoáy đánh phá liên tục. Hầm nấp máy bay bây giờ không đắp nắp dày cao như trước mà phải âm bằng mặt đất, ngụy trang thật kí đáo. Đứng trên núi từ Hòa Đa Bắc nhìn xuống rừng Khu Lê thấy rõ từng thớt, từng thớt rừng xám đen, úa vàng, nhiều mảng không còn màu xanh. Tất nhiên, địch không thể ủi phá hết rừng Khu Lê được, nhưng quả thật chúng chia ô ủi phá rất rộng đã gây khó khăn không nhỏ cho việc bám trụ địa bàn liên tục vào thôn ấp của ta. Tôi đã nhiều lần vượt qua các mảng rừng bị ủi dẹp này, phải tập trung lắng nghe tiếng máy bay, nhất là tàu gáo để kịp thời chui ẩn dưới các lùm cây khô, tránh tàu báo và cả chi đoàn tăng M113 kéo qua; nếu lộ thì không sao chạy đâu cho kịp.

Tôi ở cơ quan Huyện ủy, không xa bàn đạp vào địch hậu nên khá căng thẳng trong sinh hoạt hàng ngày, luôn đề phòng tàu gáo và M113, thường từ 15 giờ đến đêm mới thong thả yên ổn hơn. Ban đêm, đội công tác đi đột ấp nắm địch, làm công tác quần chúng và lo tiếp tế. Nói là cơ quan Huyện ủy, thật ra chỉ có một khu vực nhỏ dưới mấy lùm tâm lang kín, có bốn hầm: một của tôi và cậu Dũng liên lạc; một của Bảy Bá phụ trách Hòa Đa Nam và liên lạc; một của thư ký văn phòng và bảo vệ; một của quản lý, cấp dưỡng. Cách mấy trăm mét là Đội công tác Chợ Lầu, đội trưởng là Túc, Huyện ủy viên, cũng chỉ có năm người. Xa hơn một chút là cơ quan Huyện đội và Đội công tác Liêm Bình. Sáng sớm đã gọn gàng, sẵn sàng đối phó địch càn, xe tăng, tàu gáo. Chiều tối nào không đi đột ấp thì thăm nhau, nghe đài, chuyện trò vui vẻ. Ở đội Chợ Lâu, tôi có hai cháu gái là Công gọi tôi bằng Cậu, và Liên gọi ông. Ở đội Liêm Bình có Mô đội phó, chính trị viên xã đội, đã về tỉnh dự hội nghị Du kích chiến tranh và Đại hội thi đua nên tôi có quen thân, xem như em gái. Mô dịu dàng, hiền hậu, có kỹ thuật tiềm hành giỏi, dũng cảm, đột ấp thường đi đầu, rà gỡ, vô hiệu hóa mìn rất cừ, trinh sát đặc công của 840 cũng nể thực sự cô gái này. Một lần đi đột ấp bị phục kích, ông Bảy Cặn đội trưởng hy sinh, Mô bị thương nặng về bị bắt, bị đày đi Côn Đảo; sau Hiệp định Pari, Mô được trao trả ở Lộc Ninh. Sau giải phóng là Huyện ủy viên, phó chủ tịch kiêm trưởng Phòng Thương nghiệp Bắc Bình. Hơn chục năm sau, rủi thay Mô bị ung thư, từ trần khi tuổi còn khá trẻ.

Cứ vài tháng, tôi sang Cà Lon bên núi họp với Tiền phương hoặc về bàn việc với Ban Chỉ huy Tỉnh đội rồi trở lại Hòa Đa Nam. Gần cuối năm, phong trào phát triển khá hơn rõ rệt. Anh Mười Bắc điện gọi tôi về gấp. Đêm qua Sông Lũy tại bến Thanh Tu, cắt ngang quốc lộ 1 đoạn giữa ấp Liêm Công và Thanh Hiếu, mỗi đầu chỉ cách ấp vài trăm mét. Cả đoàn đông đi trên bờ ruộng một quãng dài an toàn, nhưng tôi rất lo lắng hôm sau địch phát hiện dấu vết thì khó khăn cho giao liên vì đây là con đường duy nhất, mỗi tuần có hai chuyến qua lại, nối giữa Hòa Đa Nam và Hòa Đa Bắc về tỉnh. Thương anh em quá, nếu phải bỏ đường này, vòng lên qua đường gần ấp cầu Quẹo xa gấp đôi mà nguy hiểm hơn nhiều. Sáng lên núi Ga lăng, ghé cơ quan huyện ủy Hòa Đa Bắc nghỉ một hôm chờ chuyến; Bí thư Hòa Đa Bắc là Tám Luông, bạn thân từ chống Pháp, cùng ở lại đấu tranh chính trị, công tác tại Ban Hành lang tỉnh, tên cúng cơm là Đặng Bá Sang; còn Tám Luông, Tư Tại, Năm Nhẫn, Ba Nhỏ là tên đặt theo vở cải lương “Máu thắm đồng Nọc Nạn”. Về cơ quan Tỉnh ủy, anh Mười Bắc cười nói một câu xanh rờn:

- May không chút nữa thì ông có vợ mới rồi!

Tôi chưng hững chưa kịp nói gì thì anh tiếp:

- Nhưng không được đâu, nói vậy chớ bà Hòa còn nguyên đó thôi! Về thăm một chút đi!

Biết anh nói đùa, khi sang Ban Dân vận tôi mới vỡ lẽ: cách đây mấy hôm vợ tôi bị sốt rét ác tính, nguy kịch tới mức y sĩ tiêm thuộc mà tay run bần bật. Anh Bảy Khanh trưởng cơ quan, luống cuống hỏi:

- Có chuyện gì báo tin cho ai?

- Báo cho anh Sáu Nam chớ còn ai!

Tỉnh vẫn ra sức củng cố cơ sở, đánh bình định, đẩy mạnh du kích chiến tranh, kể cả ảnh hưởng từ Mậu Thân đến nay cũng còn nặng. Chiến đấu liên tục, hao hụt khó bổ sung, nòng cốt ngày càng hao mòn, đại đội có lúc chỉ còn tám đến mười người, không thành tiểu đội, trung đội nữa; bộ đội huyện còn năm đến bảy người phải rút cơ quan bổ sung. Đánh lớn chỉ còn các tiểu đoàn Khu tăng cường và đặc công. Nguyễn Thanh Hùng đánh Căng oanh liệt thế, nhưng khi đánh đồn dân vệ Kim Bình – Hàm Thắng chỉ cấp trung đội mà rủi ro hy sinh. Lê Thành Yên đại đội trưởng Đại đội 2/481 vào ra Phan Thiết như thảo giới, đánh mấy trận xuất quả nhập thần, lính địch run sợ không biết bị đồn lúc nào; một chiều hành quân bị địch phục, hy sinh tại bàn đạp, có cả Đặng Văn Lãnh, Thị ủy viên, đội trưởng đội công tác tả ngạn. Bộ đội tỉnh, huyện bị teo; 482 rút gọn còn một đại đội gọi là Đại đội 70. Đánh lớn có giảm nhưng dân quân, du kích vẫn hoạt động đều, mạnh, tiêu hao nhiều địch; chống càn, đánh cơ giới, bắn máy bay rất tốt; tàu gão bây giờ không phải là cái gì đánh sợ nữa. Địch cũng co hẳn lại không hung hăng như trước. Đúng là hoạt động đúng cách theo chỉ thị 01 và nhờ phong trào chung mạnh mà địa phương cũng dễ chịu hơn.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 24 Tháng Tư, 2019, 09:52:28 am
8. Đi học quân sự Miền.

Cuối năm 1971, tôi được chỉ thị của Quân khu đi học một lớp quân sự trung cấp tại Học viện H14 của Miền. Chuyến đi học này chắc là lâu, phải sang tận Cam-pu-chia; học xong có về lại tỉnh hay không chưa biết được. Chia tay anh, chị em cơ quan đã gắn bó từ Đồng Khởi đến giờ trải qua biết bao gian khổ hy sinh, đặc biệt trong Mậu Thân 68 tưởng không còn vì xông lên ác liệt chưa từng có. Với tôi dù là nhiệm vụ và học tập cũng là trên hết, tôi ghé lại Bệnh xá 1 thăm ít ngày. Vợ tôi cũng buồn đôi chút, nếu có tôi ở gần, một chừng nào cũng có sự săn sóc an ủi; nhưng là cán bộ đảng viên, vợ tôi cũng yên tâm chúc tôi lên đường bình an, thường gởi thư về. Đến Quân khu, biết địa điểm liên lạc qua sông Mê Kông là Bến Kết hoặc bến Bưng Dồn. Hơn tháng đi đường, kỳ này gian khổ, hiểm nguy hơn dạo 64-65 nhiều nhưng cũng có nhiều mới lạ, thú vị. Từ vùng giải phóng Tây Ninh tôi được đi nhờ xe ô tô, vận tải quân sự của Miền, chỉ một đêm đã qua biên giới yên ổn, nhanh chóng ở trên đường 7 thuộc đất bạn rồi. Quá nửa đêm đến thị xã Cra-chi-ê bờ đông sông Mê Kông, ở trong nhà là Việt kiều. Bà con rất niềm nở nhưng ban ngày không được đi dạo phố xa; đi quanh khu vực cũng biết được sinh hoạt vùng mới giải phóng của bạn khá vui vẻ nhộn nhịp. Bà con Việt kiều rõ rà rất sung sường vì trước khi Cra-chi-ê giải phóng, Việt kiều bị hoạnh họe đủ điều, nay bọn Lon Non bị đuổi đi xa rồi, bà con làm ăn sinh sống yên ổn hơn, phần lớn làm nghề đánh cá trên sông Mê Kông và buôn bán nhỏ. Bà con luôn hướng về đất Mẹ, mong muốn ta sớm giành thắng lợi như Cam-pu-chia để có thể trở về cố hương. Lúc đó ở ta chưa có tỉnh nào hoàn toàn giải phóng, còn ở đây giải phóng một loạt bốn, năm tỉnh. Chiều tối, xuống thuyền máy của Hậu cần Miền xuôi dòng Mê Kông đến tỉnh Công-pông-Chàm. Thuyền trưởng cho biết ở Công-pông-Chàm bạn đối với ta không được như ở Cra-chi-ê. Khi đến bến giáp ranh tỉnh Công-pông-Chàm phải lên trình giấy cho một đồn kiểm soát của bạn, người chỉ huy ở đồn này rất thích súng AK và súng ngắn K59, vì muốn lấy thứ súng này mà thường bắt giữ người lại làm khó khăn, có khi thủ tiêu luôn! Tôi có K59, cậu Sơn liên lạ tôi có AK nằm trong ham thích của họ rồi, đành phó mặc cho may rủi vậy. Đêm trên sông vùng giải phóng Cra-chi-ê nhân dân đánh cá thuyền qua lại đông đúc vui vẻ, đến gần Công-pông-Chầm thì thưa dần. Nghe có lần thuyền ta vô ý xuôi luôn đến gần vùng tạm chiếm, bị địch bắn mới vội tháo lui. Đi rất lâu, xem cảnh đêm chán rồi nằm nghỉ, nhưng cũng không sao ngủ được, còn lo qua trạm gác “số phận”, anh em đi, về gọi đùa như thế. Đến rồi, thuyền dừng bên bờ, thuyền trưởng cầm giấy chạy lên đồn, lát sau anh trở xuống mừng rỡ:

- Đồn trưởng ngủ, lính xem giấy rồi cho đi. Đi mau kẻo họ gọi lại thì lôi thôi.

Thuyền nổ máy, mừng hết lớn. Hơn một giờ sau tới bến dừng, cũng được gởi vào một nhà Việt kiều. Ở huyện Cốt-sơ-ma này cũng khó hơn, chỉ ở yên trong nhà, đề phòng lính bạn đến kiểm tra gây sự mà ta thì không có ai bảo vệ cả.

Chiều ra bờ sông, bến Bưng Dồn là đây, thì ra bờ tây bên kia là bến Kết. Ở đây chiều và đêm máy bay Mỹ thường rà dọc theo sông, bắn các thuyền sang ngang. Sông thật lớn, rộng mút tầm mắt, không thấy bờ bên kia. Giữa dòng sông nhấp nhô, người đông nếu không bình tĩnh, ca nô dễ bị lật chìm thì đi đời vì không có ai cứu hộ. Ca nô có trang bị trung liên để bắn máy bay cũng hay hay, có gì thì khẩu AK cậu Sơn cũng góp phần được. Ra giữa sông sóng bềnh bồng, đi ngang cũng nguy hiểm, hơn nửa tiếng hồi hộp, lo lắng rồi cũng yên ổn qua được sông. Chuyến mình đi vậy là yên, cũng thấy lo cho các đoàn đi chuyến khác. Lên bờ vào xóm nghỉ một chặp, tôi bỗng thấy có một chị trung niên đang đổ bột bán bánh căn. Lạ nhỉ! Ở đất nước này cũng có bánh căn như bên mình. Chị này là người Bình Thuận chăng? Hỏi thì biết chị quê ở Hàm Tân, cả gia đình sang đây lâu rồi, thảo nào, dân Hàm Tân nên bán bánh căn.

- Bán có khá không?

- Cũng đủ ăn thôi, ổng và xấp nhỏ đi đánh cá khá hơn.

Cá sông Mê Kông thì khỏi nói, nhưng ở đây hối lộ kinh khủng. Lính nói: ông quan lớn hối lộ thì bọn tui cũng phải hối lộ mới sống được chớ! Khiếp thật, mới được giải phóng nên chưa xóa được cái tệ nạn của chế độ Lon Non. Đi sâu thêm vào nội địa phía tây sông, đến đóng tại một xóm trong đồn điền cao su Suông Chúp, (đồn điền cao su này còn lớn hơn đồn điều Dầu Tiếng bên ta); tên xóm là Phum Cà-nhang, cũng ở trong một nhà Việt kiều, người Bắc, sang đây làm phu cao su từ trước Cách mạng tháng Tám; hai vợ chồng đã lớn tuổi, nhiều con, mấy chục năm trên đất khách quê người rồi còn gì. Mùa khô, cao su rụng hết lá, mặt đất khô ráo sạch sẽ, chẳng có máy bay nên sinh hoạt cũng thong thả tự do. Tôi còn ở đây ăn Tết với bà con cả tuần mới đến chuyến liên lạc. Gia đình rất vui vẻ, đối với người cùng nước thật tử tế. Chuối, thơm, mãng cầu…, nhiều vô kể mà rất rẻ, dường như bên mình có cây quả gì thì bên này cũng đều có cây quả đó nhưng rất nhiều. Ngon và thích nhất là thứ rượu nếp dưỡng tửu bằng trái cây tổng hợp, cứ một lớp cơm lên men, thì một lớp mứt men, lại một lớp xôi men, một lớp chuối men, muốn thứ gì làm thứ ấy. Cơm rượu và nước dưỡng tửu ngọt thơm, đủ mùi vị, ngon hết ý nhưng uống quá chén thì say đậm, chủ nhà nói nó ngon nhưng khi say thì cả ngày đêm mới tỉnh. Khi về bên mình làm cơm rượu kiểu này thì tuyệt, thú vị biết bao! Nghĩ vậy mà giải phóng quá lâu rồi cũng chưa làm lần nào để thưởng thức, không biết vì sao?


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 24 Tháng Tư, 2019, 09:54:47 am
Công-pông-Thơm cũng là tỉnh giải phóng, còn đi mấy ngày nữa mới đến trường, cạnh một suối nước lớn, trong xanh, tắm giặt thoải mái, đôi đoạn nước chảy lờ đờ, cát có bùn nên có con trai; rảnh mò bắt nấu canh, nấu cháo khá ngon; nơi nước trong, cát mịn thì hến cũng nhiều. Không biết vì sao suối nước quanh quanh năm, trong lành mà lại có tên là suối Chết. Hồi đó chỉ là tỉnh Công-pông-Thơm, sau này chia hai tỉnh, khu vực trường ở giáp ranh Công-pông-Thơm và Prết-vi-hia. Tiếc là nếu tôi đến học trước đây mấy tháng thì được đi xem Ăngco Thơm, Ăngco Vát (Đế Thiên, Đế Thích), nay thì cấm vì tình hình chiến sự không ổn. Tôi đến trường muộn nửa khóa nên học phần hai, đi ngay vào nội dung quân sự là trung đoàn phòng ngự và tấn công, chính trị là nghiệp vụ công tác đảng, công tác chính trị. Phần đầu tôi sẽ ở lại học với lớp tiếp sau. Học viên có cả thiếu tá và đại úy. Giáo việc là thầy dạy ở Học viện Quân sự cấp cao Hà Nội điều vào, có nhiều kinh nghiệm giảng dạy. Hiệu trưởng là Đại tá Lê Xuân Lựu, một nhà lý luận có tên tuổi của Quân đội, lên lớp các bài chính và giải đáp toàn bộ cả quân sự - chính trị; đồng chí được anh em rất kính mến vì trí thức uyên bác, tác phong giản dị, gần gũi mọi người. Đồng chí hay nói: “Vô cùng quan trọng” nên anh em thường gọi là “ông vô cùng quan trọng!” Trong số thầy dạy quân sự có trung tá Lê Hòa, quê Khánh Hòa, sau giải phóng là chủ tịch tỉnh Khánh Hòa, đại biểu Quốc hội khóa 8, tôi cũng thường gặp; tiếc thay anh bị tan nạn giao thông, chết lúc đang làm Chủ tịch Khánh Hòa, tài năng đang ở độ phát triển rất sung mãn.

Lớp tôi học vừa bế mạc thì học viên lớp tiến đã đông đủ nên khỏi phải chờ đợi. Gặp số anh em mới sang, tôi rất phấn khởi được biết tình hình Quân khu và Bình Thuận phát triển khá, bè bạn, gia đình đều bình thường. Tôi lại học phần chính trị cơ bản: triết học, chính rị, kinh tế - chính trị học, chủ nghĩa xã hội khoa học, lịch sử Đảng và xây dựng Đảng. Các môn này tôi đã được học một lần ở lớp chính trị trung cao R năm 1964 nên tiếp thu cũng thuận lợi, được nâng cao. Cả hai phần đều có kiểm tra, tôi đều đạt loại A. Lúc này chưa chấm điểm 5 hoặc 10 như sau này, trường chỉ chấm và đánh giá xếp loại: A là giỏi, B khá, C đạt yêu cầu. Ai không đạt yêu cầu sẽ được bồi dưỡng và phải thi lại. Lính chiến đấu nhưng khi về trường cũng có nhiều cố gắng và học tốt, không ai phải thi lại.

Giữa khóa học có thiếu tướng Đồng Văn Cống, Phó tư lệnh Miền đến thăm nói chuyện tình hình nhiệm vụ, quan hệ bạn (Cam-pu-chia) và ta (cả mấy sư đoàn bộ binh, pháo, phòng không, đặc công, tăng thiết giáp, cơ quan Miền… đều ở bên đất bạn) và nói về chiến dịch Nguyễn Huệ 1972. Chúng tôi vừa học vừa theo dõi diễn biến chiến dịch, thắng rất lớn ở Trị Thiên, Tây Nguyên và miền Đông Nam Bộ. Trong này đã giải phóng huyện Lộc Ninh, căn cứ của Miền rộng thêm và càng vững chắc. Một hôm, nghe tin đài Hà Nội thông báo quân ta đã chiếm làm chủ thị xã An Lộc, giải phóng toàn tỉnh Bình Long, thật là mừng vui cao độ; nhưng sau đó nghe lại là chưa phải, địch vẫn giữ được thị xã, thành ra tin đưa bị sịa, không chính xác. Nhưng chiến công chốt chặn đường 13 của Sư đoàn 7 chủ lực Miền thì thật oanh liệt, oai hùng.

Học xong tưởng sẽ lên đường về nước như mọi người, nhưng tôi lại được lệnh đến nhận công tác ở Cục Chính trị Miền, làm trợ lý ở Phòng Tuyên Huấn. Trưởng phòng là trung tá Ngô Thế Kỷ. Ở Phòng Tuyên huấn còn có một số cán bộ cấp tá ở Quân khu 7, Quân khu Sài Gòn – Gia Định mới điều về. Là cán bộ nghiên cứu, chúng tôi được dự giao ban Cục hàng ngày, nắm được nhiều tình hình cả Miền, nâng thêm trình độ một bước. Cũng có lúc đi công tác các sư đoàn, binh chủng. Thủ trưởng Cục lúc đó là Đại tá Trần Văn Phác (Tám Trần). Thời gian ở trên đất Cam-pu-chia, tôi cũng gặp một số trận B52 nhưng chỉ xa xa, đến gần chứ không sát bên đầu như lúc ở trung đoàn Bắc Sơn hành quân về Sư đoàn 7.

Ở Sơ-lông gần biên giới Tây Ninh, cơ quan, đơn vị đông đảo, đi lại nườm nượp, xe đạp, Hon-đa 50, 90, xe gíp, xe com-măng-ca, xe vận tải quân sự chạy qua lại tới lui như mắc cửi, nhưng không thấy oanh tạc, cũng không có B52 thăm. Cơ quan có nhiều xe, tôi bèn tập đi xe đạp. Từ nhỏ tới giờ chưa biết đi xe đạp. Đi xe đạp khá thú vị và cũng chỉ ở đây mới có chuyện đi xe đạp chứ ở khu 6 và Bình Thuận thì không thể có.

Hiệp định Pari được ký kết, lời kêu gọi của Bác Hồ kính yêu Xuân Kỷ Dậu 1969 đã thành sự thật: Mỹ cút. Tất cả vô cùng hân hoan bàn bạc đủ điều về công chuyện sắp đến để làm cho ngụy nhào. Tất nhiên, đó cũng chỉ mới là thời sự sốt dẻo bên lề. Tôi được cùng cơ quan Cục Chính trị học về Hiệp định Pari và nhiệm vụ trước mắt do Trung ương Cục và Quân ủy Miền tổ chức cho cán bộ trung, sư đoàn trở lên ở cơ quan Bộ Chỉ huy Miền và các đơn vị chủ lực. Anh Hoàng Văn Thái giải đáp về Hiệp định và nhiệm vụ tới rất có lý lẽ, thỏa mãn nhiều đối với vô vàn thắc mắc của học viên cán bộ lúc bấy giờ.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 24 Tháng Tư, 2019, 09:58:26 am
Trước ngừng bắn có hiệu lực mấy ngày, một trợ lý tá chiến của Bộ Tham mưu Miền đào ngũ (tôi không nhớ tên) mang theo bản đồ tác nghiệp đầy đủ địa điểm đóng quân của các đơn vị, cơ quan của Miền. Gay go quá, lực lượng đứng dày đặc không thể di chuyển đi đâu nên chỉ bám công sự chịu trận vì ở miền Nam ta chưa có khả năng bắn hạ B52. Đúng như vậy, còn hai hôm tới thời điểm ngừng bắn có hiệu lực, vừa tối, một loạt B52 rải thảm trong khu vực, còn khá xa Cục Chính trị, nhưng trước sau gì nó cũng đến thăm thôi. Hơn tiếng sau, đợt B52 tiếp rất gần và đợt 3 thì trùm lên khu vực Cục Chính trị. Anh lửa chớp sáng xuống cả hầm nấp, tiếng bom nổ thật kinh khủng nhưng ở trong hầm kèo chắc chắn cũng yên tâm. Đồng bào Nam Bộ gọi B52 là “bê quăng sai”, là “B52 cỏ ỉa miệng chai”, nói thế có nghĩa là bê quăng sai, cò ỉa miệng chai thì dễ gì đã trúng hầm! Nó rải thảm cũng ghê quá, chụp đi chụp lại, bừa tới bừa lui suốt đêm không ngớt, biết đâu rủi ro? Bom rơi, tiếng nổ thật thần sầu quỷ khóc. Giữa hai đợt bom, các cây to bị chém gần đứt, cứ thi nhau ngả đổ rầm rầm làm cho không khí thêm ngột ngạt, căng thẳng. Mặc kệ chúng bay buốn làm gì thì làm, ta cứ ở yên trong hầm, chả sợ. Nhờ rừng dày, lại ở dưới hầm nên sức ép của bom bầy cũng không nặng lắm.

Suốt đêm căng mắt không ngủ được, sáng ngày ai cũng đờ đẫn phờ phạc. Nhưng nào có yên, từ 8 giờ đến chiều lại liên tục rải thảm, hàng chục đợt tới tấp lúc xa lúc gần. Tiếp cả đêm thứ hai căng thẳng, mệt đừ, muốn kiệt sức, đến gần sáng đợt bom cuối cùng lại rơi ngay Cục Chính trị đinh tai nhức óc, tôi cứ tưởng mình theo ông bà ông vải thôi. Đến sáng, thời điểm ngừng bắn có hiệu lực đến thì cũng dứt B52. Cảnh vật thật hoang tàn, địa hình thay đổi lạ hẳn, đường sá bị xóa lấp, cây cối chồng chất ngổn ngang. Ở Cục Chính trị, một quả bom đìa làm sập một góc kèo hầm của anh Sáu Tòng Cục phó nhưng không sao, bới đầu hầm bị lấp cứu được đồng chí công vụ. Một tổ bom đìa khác sát cạnh hầm đồng chí Dương Hiển Ký, trợ lý phòng địch vận, thế cũng thoát hiểm. Đúng là bê quăng sai, cò ỉa miệng chai, ai cũng nói vậy; thật ra hầm kèo đã bảo vệ sinh mạng mọi người, nếu hầm thường chắc sập hết, thương vong sẽ không ít. Trong khu vực có đến mấy vạn người, thế nhưng chỉ có một chị nuôi ở Bộ Tham mưu tên Thúy hy sinh và một cô văn công, lúc B52 thả còn tắm giặt dưới suối. Nhìn chung, cũng có thể gọi là đại phúc vậy.

Cơ quan Bộ Tư lệnh Miền tất bật lo việc hình thành Ban Liên hiệp Quân sự của Chính phủ Cộng hòa miền Nam Việt Nam để vào Tân Sơn Nhất. Lúc đầu, trưởng đoàn là đại tá Trần Văn Danh (tức Ba Trần), phó tham mưu trưởng Miền; Chính ủy là đại tá Ba Thành, phó chính ủy hậu cần Miền; phó trưởng đoàn là đại tá Hoàng Anh Tuấn, thứ trưởng Ngoại giao Chính phủ Cộng hòa miền Nam. Sau đó mơi thay Thượng tướng Trần Văn Trà làm trưởng đoàn kiêm Chính ủy. Đoàn có nhiều bộ phận, trong đó có bộ phận thông tấn báo chí do trung tá Ngô Thế Kỷ phụ trách, tôi là một trong số các trợ lý thông tấn báo chí. Thấy nhiệm vụ quá mới mẻ và nặng nề, e khó làm tốt nhiệm vụ, tôi đề nghị với trưởng phòng cán bộ Cục Chính trị:

- Đề nghị anh có thể bố trí cho tôi làm công tác chính trị nội bộ Đoàn thì hợp hơn, làm thông tấn báo chi tôi không có khả năng, khó hoàn thành nhiệm vụ.

- Có sự lãnh đạo của Đảng ủy và Ban Chỉ huy Đoàn, có anh em giúp nhau, cứ yên tâm công tác đi!

Nói vậy, nhưng sau đó tôi lại nhận được quyết định của Miền bổ nhiệm làm phó chủ nhiệm Chính trị Quân khu 6, trước mắt làm phó trưởng đoàn Liên hiệp Quân sự của bên Cộng hòa miền Nam Việt Nam khu vực 4, công tác tại Căng Ê-sê-pít, Phan Thiết, Bình Thuận. Trưởng đoàn là thượng tá Nguyễn Trọng Xuyên (Sáu Phúc), Tư lệnh Quân khu 6. Thế là tôi lại về chiến trường quê hương nhưng vẫn làm công tác đấu tranh ngoại giao, không vào Tân Sơn Nhất thì vào Căng Ê-xê-pít vậy. Tôi lại có ý kiến lần nữa với trưởng phòng cán bộ:

- Anh bố trí cho tôi về khu 6 bằng đường hợp pháp thì tôi mới kịp vô Căng Ê-xê-pít.

- Ồ không được đâu, chưa biết thế nào, nếu lỡ mất đồng chí thì tiếc lắm, chịu khó đi đường giao liên bất hợp pháp thôi, chắc vẫn kịp, bọn Mỹ thủ tục lề mề, rinh rang lắm.

Tôi muốn đi đường hợp pháp cho mau, thấy Miền có cho một số cán bộ đi công tác bằng đường hợp pháp, tất nhiên Miền có biện pháp bảo đảm an toàn thôi. Trưởng Phòng Cán bộ vẫn giữ ý định, bảo đó là lệnh của Miền, đành vậy. Tôi đi chẳng đầu đến Sơnun bằng hon đa rồi chuyển sang đi ô tô quân sự, đến Cát Tiên – Lâm Đồng, đi thuyền máy trên sông Đồng Nai, đến bắc đường 20 thì đi bộ theo đường vận tải H50. Về đến cơ quan Quân khu đúng là đã trễ. Đồng chí trung tá Đinh Sĩ Uẩn, Chủ nhiệm chính trị Quân khu thay làm phó đoàn, đã vào Căng trước đó một tuần. Tôi ở lại Cục Chính trị Quân khu làm nhiệm vụ mới. Tiếp đó được đề bạt trung tá và bổ sung vào Quân khu ủy.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 24 Tháng Tư, 2019, 09:59:40 am
Gặp anh Mười Bắc, anh kền rền:

- Không cho cán bộ đi học thì mang tiếng cục bộ bản vị địa phương, không cho cán bộ tiến bộ; cho đi học thì đi luôn không về, mất cán bộ; lần sau tôi đếch cho đi!

Tôi cười thân thiện:

- Cho đi rồi lại kền rền thì cũng bản vị cục bộ địa phương chứ không à?

Anh cười xòa.

Từ Hiệp định Pari, toàn Miền thực hiện đợt “Chồm lên” để giành thắng lợi to lớn. Trước giờ ngừng bắn có hiệu lực, lực lượng ta xông vào các ấp, mở rộng vùng tranh chấp, làm chủ, áp sát cứ điểm địch, uy hiếp nặng vùng địch. Nguyễn Văn Thiệu hò hét tiếp tục chiến tranh, tràn ngập lãnh thổ, hòng đẩy bật tra các vùng mới chiếm lĩnh. Việc giành dân, giữ đất diễn ra quyết liệt trên khắp miền Nam cũng như ở chiến trường Bình Thuận. Một số nơi giữ được vị trí nhưng cũng không ít địa phương bị địch lấn chiếm trở lại sau đợt chồm lên vô cùng ác liệt. Lực lượng ta phải lui ra khỏi ấp, giữ vững vùng ven, giáp ranh. Căng thẳng và quyết liệt nhất cũng vẫn là chiến trường Tam Giác, đường 8, đường 1. Các Tiểu đoàn 840, 15 Quân khu, 482, Đại đội 5 đặc công Bình Thuận, Đại đội 3/430 Hàm Thuận cùng lực lượng các huyện ngày đêm trụ giữ địa bàn, đánh lui địch bung ra gỡ cờ, lấn đất.

Cơ quan Quân khu đóng ở Núi Nhọn chỉ cách Hàm Thạnh vài giờ đi bộ. Các cơ quan tỉnh Bình Thuận xuống Hàm Trí, sát chiến trường. Địch ra sức tràn ngập lãnh thổ, phá hoại Hiệp định trắng trợn, cố bung dũi lấn chiếm vùng ta. Bộ đội lúc đầu có chập chững nhưng trên kịp thời chỉ đạo, đã kiên quyết trừng trị bọn vi phạm Hiệp định, đẩy mạnh hoạt động quân sự, củng cố, phát triển thắng lợi đã giành được trong đợt chồm lên, lấy thắng lợi ở chiến trường phối hợp với đấu tranh chính trị, ngoại giao của Phái đoàn Liên hiệp Quân sự khu vực 4.

Nguyễn Thanh Phong, người thiếu sinh quân hồi Mậu Thân 86 cùng đánh Mỹ với tôi ở Xuân Phong ngày mùng bốn Tết ấy, nay là đại đội trưởng Đại đội 5 đặc công tỉnh, đã đánh lui tất cả các đợt bung dũi lấn chiếm của địch ở đường 1, đoạn Tà Nung, Gộp; địch rất nể người đại đội trưởng trẻ măng này, thường gọi là đại úy Phong rất trân trọng. Tại Tam Giác, vùng giải phóng của ta, ngày 10 tháng 3 năm 1973, 840 đã diệt gọn một đại đội, đánh thiệt hại nặng 2 đại đội khác của tiểu đoàn bảo an 202 xâm phạm vùng giải phóng Xóm Bàu, đuổi địch chạy về Phan Thiết. Trên bàn hội nghị 4 bên ở Căng Ê-xê-pít, anh Sáu Phúc nắm lấy thắng lợi này đập tan luận điệu vu khống ta vi phạm Hiệp định và nghiêm khắc cảnh cáo chúng. Trong giờ giải lao cùng ngồi uống nước, viên đại tá trưởng đoàn ngụy giả lả nói với anh:

- Đại tá hiếu chiến quá (thượng tá của ta cũng như đại tá của chúng), mình đàm phán để hòa hợp dân tộc mà đại tá cứ đòi tiêu diệt chúng tôi mãi!

- Tôi phải nghiêm khắc cảnh cáo để các vị dẹp những trò nguy hiểm đó đi, để đàm phán đạt được kết quả.

Viên đại tá ngụy im lặng.

Tôi cùng Trần Thọ nay là Trưởng phòng Quân huấn Quân khu đi công tác các tỉnh Lâm Đồng, Tuyên Đức, Ninh Thuận, Bình Thuận, truyền đạt tinh thần chung, giúp các tỉnh đẩy mạnh hoạt động. Đến Lâm Đồng, cơ quan tỉnh ở bắc đường 20 không xa, chỉ non buổi đường mà sinh hoạt rất thoải mái, tuy vẫn cảnh giác cao, tổ chức bố phòng chu đáo, đường đi lối lại trong cơ phát rộng, thẳng tắp, các đầu đường có đặt hầm súng máy và công sự chiến đấu, đôi lần địch vào, bị đánh hoặc chưa bị đánh nhưng thấy đường sá như vậy cũng lạnh xương sống, vội tháo lui. Khi lên Tuyên Đức thì khác hẳn, việc ăn ở đi lại sinh hoạt hết sức bí mật, chặt chẽ mà cũng rất căng thẳng. Tỉnh ủy, Tỉnh đội ở trong núi Tà Đùng cách Tiền phương và các Đội công tác bảy ngày đường, vẫn bố phòng rất kỹ, ban ngày làm việc đồ đạc gọn gàng, ba lô bên cạnh, có động sẵn sàng di chuyển. Tỉnh đội cách Tỉnh ủy độ mươi lăm phút mà khi sang làm việc vẫn phải mang theo ba lô như đi công tác xa. Trong rừng sâu núi thẳm mà chỉ đi cắt, không để nhánh, lá bị gẫy, bị dẫm, trước khi liên lạc nhau phải có thông báo ám tín hiệu bằng bộ đàm thật hiện đại nhưng kiểu cách không khác thời đi không dấu, nấu không khói, nói không tiếng là bao. Thấy anh em căng thẳng, kham khổ quá như vậy mà thương. Bấy giờ đã là sau Hiệp định Pari, Mỹ rút rồi, đâu phải thời kỳ đấu tranh chính trị bằng phương pháp hòa bình! Anh em Tuyên Đức nói, ở đâu giải phóng thì cứ giải phóng trước, còn Tuyên Đức xin nhận sau cùng. Thật ra thì sau này chính Tuyên Đức lại là một trong hai tỉnh giải phóng đầu tiên của khu 6, có lẽ đó là hết còn bỉ cực tới hồi thái lai vậy. Địch cũng có càn đột đến khu vực sản xuất cách cơ quan vài chục phút nhưng không phải thường xuyên ngày nào cũng có. Tôi và Trần Thọ ở cơ quan Tỉnh đội, sáng ngày không cuốn võng, cứ để vậy nằm ngồi thoải mái; khi sang Tỉnh ủy làm việc chỉ mang xắc cốt và súng ngắn; anh em rất ngạc nhiên hỏi:

- Không sợ có địch mất ba lô sao?

- Không sao, anh em cứ tin là ngày nay không có địch! Không mất ba lô đâu!

Mấy hôm liền như vậy anh em quen dần, không còn “sẵn sàng chiến đấu cao” liên tục nữa. Chúng tôi ra Tiền phương gặp đồng chí Thanh, tỉnh đội trưởng; phải đi năm ngày, đó là đi nhanh, giảm bớt động tác liên lạc bộ đàm. Đồng chí Tựu, chính trị viên Tỉnh đội phải chuẩn bị cho mỗi chúng tôi một ruột tượng gạo và lương khô đủ ăn đến nơi vì dọc đường không vào xóm ấp, chỉ ngủ rừng. Ở đây không có vùng giải phóng như các nơi, căn cứ chỉ là cơ quan ở trong núi cao. Qua đường Phi Liêng, đường đất trong rừng to xe chạy được, rất vắng vẻ mà phải gác hai đầu thật đảm bảo mới qua, đề phòng cảnh giác không khác qua đường 1, đường 20 ở Bình Thuận, Lâm Đồng. Ở Tiền phương đến bàn đạp vào thành phố Đà Lạt thì lại rất gần, chỉ hơn buổi, sáng đi trưa tới Đội công tác, tối đột nhập thành phố, khuya ra, cũng như các địa phương khác thôi, thế mà ở tỉnh rất xa thì lại luôn căng thẳng. Chúng tôi muốn đến Đội công tác, vào Đà Lạt một lần nhưng địa phương không cho vì không cần thiết. Tôi biết các đồng chí sợ lỡ chúng tôi bị rủi ro tội nghiệp thôi! Sau này có một chuyện vui, thật mà như bịa: khi địch đã rút chạy bỏ Đà Lạt, bộ đội vào tiếp quản rồi, mãi mấy ngày sau, cán bộ cơ quan Tỉnh đội mới ra đến đường cái lớn tráng nhựa mà vẫn còn cảnh giác cao, choàng dù ngụy trang thật là ngộ.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 24 Tháng Tư, 2019, 10:02:39 am
Về Bình Thuận, tôi rất vui mừng vì phong trào tỉnh nhà đã có chuyển biến mạnh. Cơ quan Tỉnh ủy, Tỉnh đội đã chuyển về gần ki-lô-mét 34 đông đường 8; ở đây đi Bắc Bình đều thuận tiện; cuộc sống chiến khu khá ung dung, thong thả. Ở Ninh Thuận tuy còn nhiều khó khăn nhưng cũng đã có bước tiến mới. Đến các huyện Thuận Nam, Ninh Phước thấy anh em đều bám sát địa bàn, có một điều ngộ nghĩnh là ở đây có nhiều chiến sĩ miền Bắc (tân binh A) vào trước hoặc sau Mậu Thân, nay lại đang là du kích của Đội công tác, rất thông thạo chiến trường, dẫn đường đột ấp thật tích cực, nhanh nhẹn, rất là hay; anh em đã địa phương hóa thực sự rồi. Bộ đội tỉnh đã hạ sơn, xuống đứng ở chân núi Xê-ca-xết (CK7) cũng có đánh địch càn, nhưng vẫn đứng vững tại đó; sinh hoạt tuy chưa tự do thoải mái như trên núi cao, nhưng đi ấp xây dựng phong trào, lấy tiếp tế gần và dễ dàng hơn trước, Tỉnh ủy, Tỉnh đội thì còn ở trên núi Thiên Thai; tôi đề nghị anh Tấn bí thư Tỉnh ủy và các đồng chí Tỉnh đội nên dời xuống thấp hơn, các đồng chí đều nhất trí.

Đánh địch vi phạm Hiệp định ở Tam Giác không những giữ vững vùng giải phóng mà còn tạo thế vào vùng sâu, phát huy thắng lợi. 482, Tiểu đoàn 15 khu đứng vững ở Tam Giác Hàm Thuận; 840, 186 chuyển hoạt động vào mảng đường 1 Bình Tuy. Địch di dân hàng chục ngàn đến nam Căng Ê-xê-pít lấn chiếm lập khu tập trung mới, bị ta trừng trị đích đáng, hỗ trợ tích cực cho số đồng bào này đấu tranh phá khu tập trung, kéo hết về nơi cũ thắng lợi. Các đơn vị liên tục chống càn, đánh địch ở Sông Dinh, Sông Phan, Suối Kiết, Trà Tân; trận phục kích ở đường 1 gần ngã ba 46 ngày 4 tháng 7 năm 1973, 186 diệt 100 địch, tiếp tục ép căn cứ 6; thấy có nguy cơ bị tiêu diệt, đồn Hột Xoài gần ngã ba 46 vội rút chạy. Đợt hoạt động Hè Thu 73 kết quả rất tốt, được Bộ Tư lệnh Miền điện biểu dương. Chiến trường Khu 6 thực sự sôi động, Tuyên Đức cũng đã tấn công mạnh hơn, đang đánh phá dữ dội khu di dân mới Nam Ban của địch (nay là vùng kinh tế mới Lâm Hà), buộc địch phải bỏ dở chương trình ủi phá địa hình, không đưa được dân đến.

Xuân 1974, tôi làm trưởng Đoàn đại biểu Anh hùng, chiến sĩ thi đua Quân khu 6 đi dự Đại hội liên hoan Anh hùng, chiến sĩ thi đua toàn Miền. Đường đi lúc ấy đã khá thuận lợi, nhanh, hầu hết là đi thuyền máy trên sông, đi ô tô trên bộ. Khu 6 cũng đã có ô tô chạy từ bến sông Đồng Nai đến Bù Gia Mập. Gần đến khu vực đại hội thì đi commăngca. Ở đại đội, chúng tôi gặp gỡ, quen biết các đoàn Trị Thiên Huế, Tây Nguyên, Khu 5, Nam Bộ, đoàn Quân khu Sài Gòn – Gia Định, học tập được nhiều kinh nghiệm phong phú. Tôi đã quen đồng chí Lê Ba trưởng đoàn Trị Thiên, (sau ngày giải phóng gặp lại nhau khi tỉnh Thuận Hải trực thuộc Quân khu 5 mà đồng chí là chủ nhiệm chính trị Quân khu), quen nữ anh hùng Nguyễn Thị Phúc quê Bình Định…

(https://lh3.googleusercontent.com/tSw0_cL3bfHw9hremo9O13q-RnEVIn87BQvb0xCelRIhiaH8s6fGKVGilb0ZbSBByKqMzcvkCusm-62QHVbitoBZWHj1_z3YGbpOcI2tZzFEplmR3KQc7M54ewXkNEQyqaLr6JbV08CFY8Ygd6wg5x8o_xvKRdSGWdTEL9fTnL7HVX9tngdl77EscuPNEhWoZQLsbNNSEGP-bY2jwVyv3g6XVTVN3rtodREM2C7TvegGCLjoCTOjsT9DPU2tZ3AIzHQaAysCgjT1D9CI9WDEF1S09N_biGfHFxNwHde1ied2-6ZKFBLthEqg541-mIKhAzROJqsJFqqWVf1fYHzacebCy21ZOFuFYYWDMz-lh8MhdZTLdOVsbP27ILm7ANcePr2TX-JZ4ukgtUWJkHcgR_PbDf-FUvI6Oie-u1RRiEjaTgX8-0M74nTix5KEW2lqlwBAe7R-MS5JXkdo_4iG8cou6KAvSCL5oR0kv2eEnk5VIPLc_0G_cQmrvut7GQfcenEsy7MSef7tB-JE8apUlkAGi__dWpGtmWxkJoavs-WI84H9m19tDRMZp2y5cxMhcPCPdv1N7SFuZ0QsVhbphCw0n5ljJoU5tiELfjPJR8uLnk70z3Jv34-kUQwpIXtYnyYxnElCL8vSnwyELeHIjBmHiRfAloQ=w800-h514-no)

Đồng chí Phạm Hoài Chương – thứ nhất, bên phải, hàng trên, Trường đoàn Đại biểu Anh hùng, Chiến sĩ thi đua Nam Trung Bộ
tại Đại hội năm 1974

Những ngày liên hoan trao đổi học tập trong đại hội thật bổ ích, các đoàn được Bộ Tư lệnh Miền thăm hỉ, động viên rất cảm động. Đoàn Khu 6 có các chiến sĩ thi đua người dân tộc thiểu số Chamlalé Châu, sau này cũng là Anh hùng lực lượng vũ trang, có chiến sĩ thi đua nữ Nguyễn Thị Hương dũng sĩ quyết thắng của Đoàn vận tải quân sự H50, chiến sĩ thi đua Quân khu (Đoàn H50 sau này cũng được phong tặng Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam), v.v. tiếc là các Anh hùng Pinăng Tắc, Pinăng Thạnh không đi dự đại hội. Đoàn Khu 6 cũng rất được trân trọng, mến mộ. Ở Khu 6, Bình Thuận cũng có phim, văn công nhưng ở đây được xem rất nhiều phim mới từ miền Bắc đưa vào, được thưởng thức nghệ thuật của đoàn Văn công Giải phóng miền Nam của Miền, thật hay, đẹp, hấp dẫn. Đại biểu Khu 6 thật hài lòng, mãn nguyện.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Tư, 2019, 09:50:44 am
9. Chiến dịch Hoài Đức – Tánh Linh.

Về chiến trường, tôi tham gia ngay việc chuẩn bị Thu Đông 1974 – 1975 với một quyết tâm rất lớn. Học Nghị quyết Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương về tình hình nhiệm vụ mới càng hăng hái phấn khởi, tích cực sẵn sàng bước vào thời cơ lớn sắp đến. Quân khu tập trung chuẩn bị chiến trường mảng Hoài Đức – Tánh Linh, khu vực có tầm quan trọng đặc biệt nhưng phong trào còn yếu và nhiều khó khăn, lực lượng chính trị, quân sự của địa phương rất mỏng. Miền đã cho bộ phận đặc công ra kèm cặp, giúp đỡ đặc công Khu 6 điều nghiên mấy tháng đạt kết quả rất tốt. Những mục tiêu quan trọng mà đặc công 200C của Quân khu 6 không xoi nổi thì anh em đều vào được và đã bàn giao lại cho 200C các mục tiêu Chi khu Tánh Linh, cao điểm Lồ Ồ, Đồi Giang.

Mọi công tác chuẩn bị đang khẩn trương sôi nổi thì tôi được quân khu cử đi cùng anh Bùi Văn Mỳ, phó Tư lệnh Quân khu 6 vào Bộ Tư lệnh Miền báo cáo tình hình chuẩn bị và nhận nhiệm vụ mới. Sau những ngày hối hả hành quân, chúng tôi đã đến nơi, làm việc với Quân ủy, Bộ Tư lệnh Miền. Đồng thời Trần Văn Trà, Tư lệnh cùng các đồng chí Hoàng Cầm (phó Tư lệnh), Lê Chân (phó Chính ủy), Nguyễn Minh Châu (Năm Ngà – tham mưu trưởng Miền) trực tiếp nghe anh Mỳ báo cáo vắn tắt mọi mặt. Thật ra thì các anh cũng đã nắm khá chặt tình hình địa phương, rồi chỉ thị nhiệm vụ đến cho Quân khu 6. Chúng tôi vô cùng phấn khởi được biết Miền sẽ tăng viện lực lượng Sư đoàn 6/Quân khu 7 cho khu 6 mở chiến dịch Hoài Đức - Tánh Linh, giải phóng 6 vạn dân, phối hợp với hoạt động lớn của Miền. Khu 6 còn được Miền bổ sung 800 tân binh A, hơi ít so với khu khác (tôi biết Khu 7 được 7.000, khu 8 được 8.000, khu 9 được 10.0000); dù sao đây cũng là lần đầu tiên Khu 6 nhận hàng trăm tân binh A để bổ sung lực lượng rất thiếu thốn của mình. Miền cũng cấp nhiều vũ khí, đạn dược, chất nổ, thuốc men, một số xe vận tải quân sự, commăngca, u oát. Đây là lần chi viện lớn nhất trước nay đối với Quân khu 6. Vận chuyển cơ giới mới bắt đầu đã bớt nhiều sức lao động mang vác nặng nhọc từ biên giới về đến chiến trường rừng núi xa xôi này.

Ngày 19 tháng 5 năm 1974, Trung đoàn 812 được thành lập, là nắm đấm của chủ lực Quân khu, đáp ứng yêu cầu chính trị địa phương. Cơ quan Quân khu quán triệt tình hình nhiệm vụ cho cán bộ trung, cao cấp và tập huấn quân sự cho cán bộ tiểu đoàn, Trung đoàn 812 về tác chiến hiệp đồng binh chủng qui mô cấp trung đoàn,. Trần Thọ và tôi phụ trách lớp tập huấn. Tôi đem những học hỏi được ở H14 về tổ chức chiến đấu trung đoàn ta tập kích tiểu đoàn, chiến đoàn địch, tấn công chi khu quân sự địch. Học viên tiếp thu tốt các vấn đề cơ bản, cần thiết cho chiến đấu đến. Điều thú vị là dù có thay đổi tên gọi trong các giả định của tập bài, nhưng ai mà không đoán được “chi khu Suối Vàng” là chi khu Tánh Linh, một trong hai chi khu ở địa bàn trọng điểm. Bảo đảm kỷ luật bảo mật, tất cả cứ coi chi khu Suối Vàng là một chi khu nào đó trong hay ngoài Quân khu là được!

Ở Miền về, anh Ba Mỳ báo cáo cho Khu ủy, Quân khu ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 6, cán bộ đầu ngành của Khu ủy và Quân khu chỉ thị của Miền đối với khu 6 trong hoạt động Đông Xuân đến, có sư đoàn 6/Quân khu 7 tăng viện mở chiến dịch đánh diệt hai chi khu Hoài Đức, Tánh Linh, diệt khoảng 1.000 địch, giải phóng hoàn toàn hai huyện với 6 vạn dân trong một tháng. Ai cũng phấn khởi lần đầu ở Khu 6 đề ra nhiệm vụ diệt hai chi khu, giải phóng làm chủ 2 huyện, giữ đất, giữ dân. Tuy vậy, không phải ai cũng thông suốt vì khu 6 là chiến trường du kích, phong trào yếu, gian khổ nhất thì toàn Miền; với thực tế hiện nay, dù Miền có chi viện lực lượng lớn trong một thời gian thì diệt địch thu súng chắc chắn làm được, còn việc giải phóng làm chủ giữ đất, giữ dân e khó đạt. Từ Mậu Thân đến “chồm lên” có bao giờ làm được việc giữ đất, giữ dân đâu, nay đề yêu cầu giải phóng làm chủ hai huyện, sáu vạn dân thì quả là rất lớn. Các cán bộ chính trị của Khu ủy nghiên cứu sâu, còn vướng mắc nhiều chỗ này. Các đồng chí bên quân sự thì đơn giản hơn, tin tưởng trong tương quan ta – địch và thời cơ mới, giải phóng thì giữ được, dù trong toàn Miền còn ít nhưng cũng có ở Thượng Đức, Minh Long, Giá Vụt, Lộc Ninh. Ai cũng có lý của mình nhưng tóm lại là nhận thức thường không theo kịp với thực tế khách quan, tại sao không có đột biến quan trọng trong thời cơ mới?

Để đánh lạc hướng địch, trong khi vẫn khẩn trương chuẩn bị ở trọng điểm, Quân khu bố trí trung đoàn trưởng 812 Phạm Ty làm tỉnh đội phó tỉnh đội Bình Thuận; chính ủy 812 Võ Đức Nhi làm phó chính trị viên Tỉnh đội và bổ sung vào Tỉnh đội Bình Thuận. Cụ thể trong hoạt động tháng 9 năm 1974, 812 sẽ đánh khu lấn chiếm mới của địch ở Nghĩa Thuận Sông Lũy, đưa hết 5.000 dân về vùng giải phóng Hàm Trí, diệt một số đồn bót cấp trung đội, đại đội, đánh viện trên đường 1. Sắp nổ súng thì tên Huỳnh Văn Ba, tiểu đoàn trưởng 200C đặc công là anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, sa sút ý chí và đạo đức phẩm chất, bị gái lôi kéo, đã đào ngũ đầu hàng địch ở Mương Mán, khai báo kế hoạch hoạt động. Địch ra sức đối phó ngăn chặn; song ta vẫn nổ súng đúng N. Từ 10 đến 20 tháng 9 năm 1974, 812 tấn công khu định cư Thuận Nghĩa, diệt cao điểm 131 cấp trung đội, vây ép yếu khu sông Lũy, đánh viện diệt 3 đại đội bảo an, một đoàn bình định, bức rút một số chốt tập trung đội, diệt và làm bị thương 250 địch. Kết quả rất thấp so với yêu cầu diệt địch bồi dưỡng ta, về chính trị cũng không đạt, chỉ đưa ra Hàm Trí có 10 người dân. Có lẽ kết quả nghèo nàn này cũng làm địch yên tâm, thấy sức ta không mạnh, chưa có khả năng uy hiếp nặng Bình Thuận, Thiện Giáo; do đó ta vẫn giữ được bí mật hướng trọng điểm.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Tư, 2019, 09:51:55 am
Miền tổ chức Bộ Chỉ huy chiến dịch Hoài Đức – Tánh Linh gồm Đặng Văn Sĩ (sư trưởng Sư đoàn 6), làm chỉ huy trưởng; Bùi Văn Mỳ làm chỉ huy phó; Lê Văn Hiền chính ủy; Nguyễn Hữu Mai (chính ủy sư 6) làm phó chính ủy. Đảng ủy chiến dịch có Lê Văn Hiền bí thư, các ủy viên là Hai Sĩ, Ba Mỳ, Bảy Mai, Nguyễn Chước (tham mưu trưởng sư 6) và Lê Khắc bí thư, Nguyễn Thanh Đức tỉnh đội trưởng Bình Tuy. Thiếu tướng Nguyễn Minh Châu trực tiếp chỉ đạo chiến dịch. Tham gia lãnh đạo còn có thiếu tướng Dương Cự Tẩm (Năm Thanh) chính ủy Quân khu 7, theo dõi lực lượng Quân khu 7. Tôi là phái viên chiến dịch theo dõi lực lượng Quân khu 6. Lực lượng tham gia chiến dịch gồm Sư đoàn 6 (thiếu)/Quân khu 7 với hai trung đoàn bộ binh 4 và 33, ba tiểu đoàn đặc công (18, 19, 20/Quân khu 7), Tiểu đoàn 24 cao xạ, Tiểu đoàn 22 pháo mặt đất (ĐK 75, cối 120, H12, ĐKB) và một đại đội pháo 85 nòng dài, đủ công binh, thông tin, trinh sát, quân y, vận tải và cơ quan trực thuộc sư đoàn. Quân khu 6 có Trung đoàn 812 bộ binh, Tiểu đoàn 200C đặc công, Tiểu đoàn pháo 130/Quân khu cùng các lực lượng hậu cần Quân khu 6 phục vụ chiến dịch, các lực lượng quân sự, chính trị của tỉnh Bình Tuy và hai huyện Hoài Đức – Tánh Linh nhưng không bao nhiêu.

Nhiệm vụ chiến địch là diệt hai chi khu, giải phóng hai huyện, phối hợp với chiến dịch đường 14 – Phước Long của Miền, căng kềm một lực lượng chủ lực địch ở đây. Thời gian chiến dịch là 1 tháng, sau đó địa phương đảm nhiệm xây dựng củng cố vùng mới giải phóng. Sư đoàn 6 chuyển hoạt động vào Xuân Lộc – Long Khánh, 812 lên mở đường 20. Miền qui đinh N là đêm 5 rạng ngày 6 tháng 12 năm 1974 Hoài Đức là hướng chủ yếu, Tánh Linh thứ yếu, lộ 3 là hướng phối hợp, diệt viện căng kềm địch.

Anh Tám Hiền, Ba Mỳ và tôi lại vào Long Khánh gặp anh Năm Ngà và Bộ Tư lệnh Sư đoàn 6 bàn kế hoạch đưa Sư đoàn 6 ra Bình Tuy cùng các yêu cầu bảo đảm cho Sư đoàn 6 hoạt động. Lúc này, đặc công Sư đoàn 6 và 200C đã hoàn thành chuẩn bị các mục tiêu cả ở chủ yếu và thứ yếu. Kế hoạch chiến dịch là đêm N, Sư đoàn 6 tấn công tiêu diệt chi khu Hoài Đức, các cao điểm núi Bảo Đại, núi Dinh, đồi Su, làm chủ quận lỵ, tiếp đó giải phóng toàn bộ nông thôn Hoài Đức, chốt chặn lộ 3, đánh viện, tiêu diệt lớn sinh lực, phương tiện chiến tranh của địch, kềm sư 18 chủ lực ngụy tại đây, chia lửa với Phước Long. Đêm N 812, 200C cũng tiêu diệt chi khu Tánh Linh, các cao điểm Lồ Ồ, Đồi Giang, tiếp đó mở nông thôn Tánh Linh.

Đảng ủy, Bộ Chỉ huy chiến dịch đang tích cực triển khai vào N thì xảy ra hai việc: đồng chí Thuyết tiểu đoàn trưởng của Trung đoàn 33/Sư đoàn 6 đi thực địa mang theo số công tác cho ghi kế hoạch chiến dịch bị địch bắn bị thương nặng và bắt tên M tiểu đội phó 200C dao động chạy đầu hàng địch, khai báo. Địch biết kế hoạch chiến dịch cả ở hai hướng, chỉ chưa biết ngày N. Chúng tăng cường phòng thủ đối phó, điều hai tiểu đoàn bảo an 334 và 335 ở Nam Bộ ra tăng viện cho hai chi khu, bố trí liên đoàn 7 biệt động quân, chi đoàn tăng ba phần năm, hai trung đội phó 105 trên lộ 3 nam cầu Gia Huynh sẵn sàng ứng cứu khi hai chi khu bị tấn công; chiến đoàn 46/sư đoàn 18 đứng ở ngã ba Ông Đồn để chi viện khi cần. Chúng ráo riết tung biệt kích vào các địa bàn ngăn chặn hành lang ta, bắn pháo và ném bom vào các nơi nghi có lực lượng ta đứng chân, v.v… Đề phòng tích cực như vậy, địch hy vọng ngăn chặn không cho chiến dịch mở màn.

Trước tình hình đó Miền đồng ý cho lui N vào đêm 9 rạng 10 tháng 12 năm 1974. Phương án cơ bản vẫn giữ, có điều chỉnh chút ít, ở Hoài Đức nếu N không dứt điểm chi khu thì vây ép, chuyển cả Trung đoàn 4 và Trung đoàn 33 gài thế đánh viện lớn ở lộ 3, diệt nhiều tiểu đoàn, đánh quỵ chiến đoàn, mở nông thôn; sau đó quay lại diệt chi khu, hoàn thành nhiệm vụ. Ở Tánh Linh, trong N, 200C có tăng cường một đại đội bộ binh của 812 diệt cao điểm Lồ Ồ; Đại đội 5 đặc công 812 diệt Đồi Giang, chốt giữ vây ép để tiến tới đứt điểm chi khu; 812 mở nông thôn, sau đó tập trung cùng 200C diệt chi khu Tánh Linh, kết thúc chiến dịch.

Do địch đối phó ráo riết như vậy, đến N, cả hai hướng đều chủ động tấn công rất các mục tiêu qui định. Nhưng một số trục trặc đã làm lỡ kế hoạch.

Ở hướng chủ yếu có anh Hai Sỹ, Bảy Mai trực tiếp chỉ huy và anh Năm Ngà, Năm Thạnh. Ở thứ yếu có anh Ba Mỳ, Tám Hiền. Tôi cũng có tại Sở chỉ huy, đang theo dõi 200C tiềm nhập cao điểm Lồ Ồ. Đêm mùa khô trời trong, sao sáng. Nơi chiến trận sắp xảy ra thì đồi dựng đứng, dốc cao vời vợi, rừng cây gai góc rậm rạp, khe sâu, đá nhọn, dốc đứng cheo leo, phải chui vào chân núi rồi mới ngược dốc lần lên cao điểm. rừng tối mịt mùng rất khó định hướng chính xác. Gần G rồi mà chưa mũi nào báo cáo đã đến rào. Lúc này mà chủ yếu nổ thì khó khăn rất lớn. Liệu có bị lạc lối không? Tuy là đặc công dày dạn nhưng chiến trường xa lạ, rủi may biết đâu? Đó là băn khoăn lo lắng lớn của người chỉ huy. Máy thông tin vang lên tiếng anh Hai Sỹ:

- Anh Ba Mỳ đâu?

- Có, tôi đây!

- Bên anh xong chưa?

- Đang tiến vào.

- Gần G rồi, bên này xong cả, tôi cho chờ thêm 15 phút nữa đấy!

- Chúng tôi cố gắng.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Tư, 2019, 09:53:08 am
Anh Ba Mỳ quệt trán, mồ hôi lấm tấm trên vầng trán kiên nghị. Tôi biết anh lo lắm, tâm trạng tôi cũng vậy thôi. Mong sao anh em đừng lạ, đến kịp để hợp đồng tốt. Anh Hai Sỹ kéo thêm thời gian dù rất ít cũng quý biết bao nhiêu. Các mũi báo cáo đã đến nơi. Trong Lồ Ồ yên tĩnh. Mọi người thở phào nhẹ nhõm. Máy thông tin lại gọi gấp:

- Anh Ba đâu?

- Có!

- Anh nghe bên này nổ không? Đánh rồi, giòn lắm.

- Có nghe

- Bên anh thế nào?

- Sắp nổ, các mũi đến nơi rồi.

- Tốt lắm, nhớ báo cáo thường xuyên.

200C báo cáo là khi bên Hoài Đức nổ, địch ở Lồ Ồ nhảy lên bờ thành đứng xem, gọi nhau í ới: “Việt cộng đánh Hoài Đức rồi!”. Nó không biết ở đây ta cũng sắp cho nó ăn đòn.

- Chúng tôi sắp nổ, các thủ trưởng yên tâm. – Phước, tiểu đoàn trưởng 200C báo cáo thế.

Bây giờ đến lúc anh Ba Mỳ, Tám Hiền cũng nói:

- Tốt lắm!

Cao điểm Lồ Ồ nổ rồi. Bộc phá, thủ pháo, lựu đạn, các loại súng nổ liên hồi, dồn dập. Ở Đồi Giang, Đại đội 5 cũng đã nổ, 186, 88 đánh ấp cũng có tiếng súng, toàn hướng thứ yếu đã phối hợp tốt. Sở chỉ huy cuốn hút vào trận đánh, chuông điện thoại đổ liên hồi. PRC25 gọi liên tục, không khí thật sôi động. Công phu chuẩn bị hơn nửa năm, bây giờ mới thực sự vào giờ phút quyết định. Các mũi đã vào tung thâm, đang phát triển tấn công.

- A lô, Phước đâu, chiếm được pháo chưa?

- Đang giải quyết, địch rất ngoan cố, chống cự quyết liệt.

- Cố gắng chiếm cho kỳ được. Anh Ba Mỳ sốt ruột.

- Rõ!

Phước đang tổ chức thọc sâu, đánh thẳng vào trận địa pháo 105.

Cối 82 bắn mạnh kiềm chế chi khu Tánh Linh. Phước báo cáo chiếm xong hai pháo 105 còn nguyên vẹn, làm chủ toàn bộ Lồ Ồ rồi, cả 2 đại úy chỉ huy đồn Lồ Ồ và chỉ huy pháo đều chết trong hầm bê tông. Đồi Giang báo cáo về cũng đã chiếm xong, trận mở màn ở thứ yếu, cả hai cao điểm cấp đại đội và đại đội tăng cường đều dứt điểm. Sở Chỉ huy chỉ thị 812 đưa gấp Đại đội 2/Tiểu đoàn 15 lên nhận trận địa thay 200C giữ chốt, 200C lui về vị trí tập kết. Trận này đặc công Quân khu 6 đã thành công trong tư tưởng đánh chiếm, giữ nhiều giờ, chờ bộ binh lên bàn giao xong mới ra, không đánh lướt, đánh bỏ như trước. Hỏa lực của tiểu đoàn 130 đã hợp đồng chặt chẽ, hỗ trợ đắc lực cho 200C dứt điểm nhanh gọn chặt chẽ, hỗ trợ đắc lực cho 200C dứt điểm nhanh gọn một cao điểm khá cứng, đạt yêu cầu. Cùng lúc với Lồ Ồ, Đồi Giang, 186, 88 bộ binh tỉnh, 432 bộ đội huyện tấn công Xã Dú, Huy Lễ, Hiếu Tín, Lạc Tánh, Đồng Kho. Đến sáng, nhiều nơi đã chiếm xong, trụ lại truy bắt tề điệp, phá ấp, giữ dân giữ đất, vây ép các đồn bót còn lại. Đồng bào tưởng bộ đội chỉ đánh đêm, sáng rút, ban ngày địch kềm lại cũng đâu vào đấy thôi. Nay thấy khác, bộ đội, cán bộ ở lại ngày, bảo đảm chiến đấu, bộ tính ở lại lâu dài chắc? Được giải thích, bà con mừng rỡ, tích cực giúp bộ đội mọi mặt, và cũng tính chuyện đào công sự để ẩn nấp tránh phi pháo. Có điều đáng tiếc là Đại đội 5 đặc công diệt xong đại đội 37 bảo an và đài tiếp vận chi khu, thu nhiều chiến lợi phẩm nhưng vì không có bộ binh giữ chốt như ở Lồ Ồ nên gần sáng Đại đội 5 cũng lui, địch cho đại đội khác lên chiếm lại dễ dàng. Giá có chốt giữ thì Đồi Giang, Lồ Ồ cùng bắn phá uy hiếp chi khu tốt biết chừng nào, lại còn chia lửa cho nhau. Đây là khuyết điểm của chiến dịch không có kế hoạch trước. Tại sao hồi ấy chỉ huy không ai nghĩ ra điều này nhỉ? Về phần Đại đội 5, anh em tự rút không có lệnh cấp trên tất nhiên cũng không đúng.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Tư, 2019, 09:54:09 am
Anh Ba Mỳ báo cáo diệt xong Lồ Ồ, Đồi Giang rồi hỏi tình hình Hoài Đức:

- Không rõ vì sao anh em đánh rất giòn dã, dữ dội trong 20 phút rồi im lặng đến giờ vẫn chưa thấy các d18, 20 báo cáo. Đợi có tin rõ sẽ cho các anh biết sau.

Không lẽ lấy chi khu Hoài Đức chỉ trong 20 phút quá dễ dàng như vậy nhưng lại im ắng cả đêm. Sở Chỉ huy không được báo cáo của các Tiểu đoàn đặc công và cả Trung đoàn 4 là thế nào? Khó hiểu quá nhưng biết sao mà đoán được. Thì ra, tình hình đêm N ở Võ Đắc rất tốt, địch chẳng biết gì cả, mỗi tiểu đoàn 18, 20 có hai mũi đều bí mật cắt rào ém sẵn chỉ chờ G là xông vào trận nội, nhưng… chỉ vì cái nhưng không lường trước mà hỏng cả trận đánh. Vì chiến dịch không bố trí bộ binh Trung đoàn 4 làm tiếp chiến, nối theo đặc công đánh vào tung thâm mà chỉ lệnh cho họ diệt xong chi khu phải chiếm giữ chờ Tiểu đoàn 4/Trung đoàn 5 vào nhận bàn giao xong mới được ra. Đặc công Nam Bộ chuẩn bị chiến trường rất cừ, mục tiêu hóc búa mấy cũng vào được, hơn hẳn đặc công Khu 6. Nhưng anh em chỉ đánh lướt, đánh bỏ; việc tiếp theo, phát triển trong trận nội, tảo trừ, chiếm giữ, làm chủ, v.v. là của bộ binh. Việc đánh chiếm, giữ trận địa chờ bộ binh vào bàn giao xong mới ra, chưa được xây dựng trong tư tưởng cho họ thông suốt, nhất trí. Do vậy, họ không chịu đánh, đơn giản vậy thôi; cũng gan thật, bất chấp yêu cầu chính trị, bất chấp kỷ luật chiến trường. Có điều là việc đó Đảng ủy Bộ Chỉ huy chiến dịch không biết.

Đưa các mũi vào chiếm lĩnh hoàn toàn bí mật, cắt rào mở cửa xong, tiểu đoàn trưởng 20 đến gặp tiểu đoàn trưởng 18:

- Đến G ông có đánh không? Chẳng có bộ binh theo biết làm sao đây?

- Không, mình không đánh. Không có bộ binh theo, đánh xong biết bao giờ họ mới vào nhận mà chờ! Đặc công không có chuyện đánh chiếm, đánh giữ.

- Ông không sợ kỷ luật à?

- Chẳng sợ, không đánh thì không đánh!

- Tùy ông, mình phải đánh, nhưng đánh lướt rồi ra thôi.

Thực tế đã diễn ra như vậy. Đến G, Tiểu đoàn 18 kéo về, Tiểu đoàn 20 đánh 20 phút rất giòn giã, địch tê liệt hoàn toàn nhưng rồi Tiểu đoàn 20 cũng ra, tất cả về vị trí tập kết trong căn cứ, đến sáng mới báo cáo. Vì vậy trong đêm chiến dịch, Sở Chỉ huy không nắm được tình hình. Địch không bị thiệt hại mấy, chỉ nằm im trong công sự. Tiểu đoàn 19 đặc công diệt xong trung đội bảo an đóng giữ núi Bảo Đại, thu vũ khí, chiến lợi phẩm rồi cũng rút. Sáng địch đưa một đại đội lên chốt lại dễ dàng; đồi Bảo Đại là một cao điểm khống chế một khu vực rộng xung quanh rất lợi hại mà ta cũng bỏ luôn! Đại đội 21 trinh sát Sư đoàn diệt tiểu đội bảo an trên đỉnh núi Dinh xong cũng bỏ về. Núi Dinh cách Chi khu Hoài Đức năm cây số, địch không kịp lên chiếm lại, Sở Chỉ huy lệnh Đại đội 21 lên chiếm lại được, giữ đến ngày Sư đoàn 6 về lại miền Đông Nam Bộ mới giao lại cho đại đội trinh sát Trung đoàn 812. Chi khu Hoài Đức, đồi Bảo Đại, thị trấn Võ Đắc không bị uy hiếp gì, thế trận không khác trước tấn công, vậy là xóa bàn làm lại.

Sau đó Đại đội 18 đặc công chỉ vài đêm chuẩn bị đã tập kích đánh thiệt hại nặng trung đoàn 5 thiết giáp ngụy ở núi Chứa Chan (cũng đánh bỏ) buộc trung đoàn 5 thiết giáp phải kéo về Nước Trong bỏ nhiệm vụ phối hợp với liên đoàn 7 biệt động quân và chiến đoàn 1B/sư đoàn 18 giải tỏa lộ 3. Đặc công Nam Bộ chuẩn bị chiến trường thì giỏi tuyệt nhưng thói quen vẫn là đánh lướt, đánh bỏ.

Năm 1993, Đức Linh viết lịch sử về trận đánh chi khu Hoài Đức có mời các anh Hai Sỹ, Thành trung đoàn trưởng Trung đoàn 4, Thảng trung đoàn phó Trung đoàn 33, Tám Đậm, trưởng Ban Trinh sát Sư đoàn 6… Anh Ba Mỳ, tôi và Được (trưởng Ban Khoa học quân sự Bình Thuận) có dự. Gặp anh Hai Sỹ, tôi hỏi vui:

- Anh là một Tư lệnh đặc công kỳ cựu của Miền, đánh dư trăm trận, kinh nghiệm đầy mình, sao hồi đó anh không bố trí bộ binh Trung đoàn 4 tiếp chiến nên anh em không đánh, mất ăn chi khu Hoài Đức trong đêm N, sinh rắc rối kéo dài thật đáng tiếc!

Anh Hai Sỹ cười:

- Mình có lạ gì cách đánh kết hợp bộ binh với đặc công, nhưng lúc đó các anh trên không có ý kiến gì về việc đó, đành chịu thôi!


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Tư, 2019, 09:55:19 am
Thật ra lúc đó chỉ tính đến trường hợp đêm N không ăn chi khu thì quay ra ăn viện lớn và gỡ nông thôn rồi trở lại ăn chi khu sau cũng được. Nặng viện, nhẹ điểm, hội nghị Đảng ủy sơ kết 10 ngày đầu chiến dịch đã công nhận như vậy rồi. Trước tình hình kế hoạch bị lộ, địch đối phó gắt gao, chỉ huy, lãnh đạo chiến dịch cũng nghĩ là không dễ ăn Hoài Đức trong đêm N. Thì ra cũng có lý do của nó.

Ở Tánh Linh ta chốt chặt Lồ Ồ, đập tan tất cả các cuộc phản kích tái chiếm ngày đêm của địch (địch mà cũng biết đánh đêm là ở đây); liên tục bắn phá chi khu Tánh Linh, sát thương nhiều địch, bắn cháy một máy bay A37, một trực thăng HU1A, bắn cháy tiếp một trực thăng tải thương tiếp tế tại sân bay Tánh Linh. Địch không dám dùng trực thăng tả thương, bổ sung quân cho chi khu nữa, binh lính thương vong ngày càng nhiều, địch trong chi khu vô cùng khốn đốn, bị ĐK75, cối 82, 12 ly 7 của ta trên Lồ Ồ nã xuống ngày đêm. Thiếu tá Tiễn (quận trưởng kiêm chi khu trưởng Tánh Linh) xin tiểu khu Bình Tuy nếu không chi viện được thì cho tùy nghi di tản. Kêu cho thảm thiết vậy thôi, chứ cả trong, ngoài y còn cả ngàn quân, đâu đến nỗi phải rút chạy. Lồ Ồ ở trên cao, cách chi khu Tánh Linh 800 mét đường chim bay, nhìn rõ lồng lộng. Rất tiếc là sau khi chiếm Lồ Ồ, tôi đề nghị anh Ba Mỳ cho dùng hai pháo 105 trên Lồ Ồ bắn xuống chi khu vài chục phát để diệt và bức hàng địch thì anh Ba Mỳ đã lệnh 200C phá hủy hai pháo rồi. Tôi sửng sốt hỏi:

- Ta chốt giữ Lồ Ồ, tại sao không giữ pháo để sử dụng và sau này thu chiếm lợi phẩm mà lại phải phá pháo?

- Cứ phá cho chắc chuyện, địch phản kích lấy lại thì khó khăn lắm!

Sau diệt chi khu Tánh Linh, tôi lên Lồ Ồ xem, rõ ràng là từ đây bắn 105 thẳng xuống chi khu thì chỉ chục phát Tánh Linh sẽ kéo cờ trắng nếu không muốn bị tiêu diệt sạch. Ở Lồ Ồ, ta cũng có thể bắn pháo sát thương tiểu đoàn bảo an 335 đóng dã ngoại ngoài ruộng cách đông Chi khu 1 cây số, có thể bắn Đồi Giang, Xá Dú, v.v. tác dụng càng to lớn. Hồi “chồm lên”, 186 trụ ở Hiếu Tín, chính hai khẩu pháo này đã làm anh em ta chịu không nổi phải bật ra ngoài ấp, dù lúc đó ta ở trong xóm ấp, địch khó phát hiện mục tiêu cụ thể. Còn lúc này, địch ở trong chi khu trống trải, thấy rõ ràng. Trong chống Pháp, đánh yếu khu Múi Né (1953) chiếm xong đồn Thạch Long, ta đã kéo khẩu pháo 94 vừa lấy trong đồn Thạch Long, bắn thẳng trực tiếp vào đồn Bang Tá. Chỉ một phát, sạt một góc đồn thì cờ trắng xuất hiện tức khắc. Đại bác mà bắn gần, bắn thẳng thì không công sự nào chịu nổi. Thực tế anh em giữ vững Lồ Ồ 14 ngày, cho đến đánh diệt chi khu Tánh Linh mà chỉ huy vẫn tính tới tình huống địch có thể phản kích chiếm lại Lồ Ồ cho nên phá pháo cho chắc ăn. Sau này nghĩ lại tiếc vô kể. Giá như – mà giá như tức là đã không xảy ra – giá như đêm N 9 tháng 12 năm 1974, ở Võ Đắc có bộ binh đi cùng đặc công, Tiểu đoàn 18, Tiểu đoàn 20 chịu đánh thì ăn chi khu Hoài Đức là cái chắc. Ở Lồ Ồ sáng 10 tháng 12, đừng phá pháo mà sử dụng pháo bắn chi khu thì cũng có thể ăn luôn chi khu Tánh Linh, hoàn thành chiếm hai chi khu trong một đêm, một ngày, oanh liệt và xuất sắc biết bao, việc giải phóng nông thôn không khó. Tiếp đó chỉ là tập trung cả Sư đoàn 6 và 812 để ăn viện lớn, diệt nhiều tiểu đoàn, đánh quị chiến đoàn như ý định chiến dịch cũng trong tầm tay. Nhưng sự việc không diễn ra như vậy. Đó là hai điều không tốt trong ngày đầu chiến dịch, dẫn đến chiến dịch kéo dài đến ba tháng rưỡi, tốn nhiều công sức và xương máu.

Ở mặt trận phối hợp lộ 3 (cầu Gia Huynh – Võ Đắc), đêm N, Trung đoàn 33 diệt ngay bót cầu Gia Huynh 1 trung đội, bố trí xong trận địa đánh viện. Ngày 10 tháng 12 sư trưởng sư đoàn 18 ngụy cùng tiểu khu trưởng Bình Tuy chỉ dùng máy bay khảo sát toàn khu vực Hoài Đức – Tánh Linh. Chi khu Hoài Đức không bị thiệt hại mấy, chưa bị uy hiếp bao nhiêu. Tánh Linh chỉ mất Lồ Ồ, đang phản kích tái chiếm, thế trận địch chưa đáng ngại. Ngày 11 tháng 12, địch mới khởi động bộ máy viện phản kích giải tỏa Võ Đắc vì Sư đoàn 6 còn trong khu vực. Không lấy được chi khu Hoài Đức, Chiến dịch chỉ để lại Tiểu đoàn 2/Trung đoàn 4 vây lỏng chi khu mà cũng không bắn ĐK75, cối 120, pháo 85, H12, ĐKB vào chi khu để sát thương địch, gây sứ ép nặng để buộc địch viện lớn, mà ăn to. Tiểu đoàn 2/Trung đoàn 4 lại chỉ nằm trong công sự cách chi khu 400 mét thì thực tế cũng chẳng vây ép gì, chính địch cũng không biết có một tiểu đoàn đối phương ở bên ngoài đồn, nên cũng không làm gì nó cả.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Tư, 2019, 09:56:41 am
Đưa Trung đoàn 4 (thiếu Tiểu đoàn 2) xuống lộ 3 nhưng cũng không tập trung cùng Trung đoàn 33 đánh viện mà đi gỡ đồn bót lẻ (đánh bót cầu Nín Thở đến 3 lần mới diệt được) và phá các ấp Trà Tân 1, 2, 3 cũng bầm dập, tốn nhiều thời gian. Trung đoàn 33 đánh viện rất ngoan cường, chặn đứng tất cả các lực lượng phản kích của liên đoàn 7 biệt động quân, chiến đoàn 48/sư đoàn 18, trung đoàn 5 thiết giáp trên trận địa nam cầu Gia Huynh, diệt nhiều địch, phá hủy nhiều xe, pháo (105). Chiều ngày 23 tháng 12, trong điện đàm với liên đoàn trưởng biệt động quân, chiến đoàn trưởng 48 nói: “Phần mày mày lo, phần tao tao lo” rồi tắt máy. Tuy nhiên, Trung đoàn 33 cũng chỉ đánh tiêu hao nặng chứ không diệt gọn được tiểu đoàn nào, và với sức chừng đó làm sao đánh quỵ chiến đoàn địch như phương án của chiến địch. Trung đoàn 4 (thiếu) cũng chỉ tiêu hao địch, gỡ nông thôn một cách chậm chạp. Cuối tháng 12 năm 1974, khi địch chuyển viện giải tỏa cho Hoài Đức lên đường 20, từ Trà Cổ, Phương Lâm đánh qua thì Trung đoàn 33 mới tập trung về cùng Trung đoàn 4 và 812, 200C tấn công chi khu Hoài Đức. Trung đoàn 33 cũng đã để lỡ một số cơ hội diệt địch, như để sở chỉ huy nhẹ liên đoàn 7 biệt động quân lên bắc cầu Gia Huynh; để lực lượng biệt động quân này rút về chi khu An Lộc lưu vong (nam cầu Gia Huynh) mà không bị đánh, tuy lúc đó Trung đoàn 33 cũng có lệnh và bắt đầu rút lên Võ Đắc. Dù vậy, Trung đoàn 33 đã thực hiện có kết quả nhiệm vụ cắt lộ 3, chặn viện, địch không giải tỏa được Võ Đắc, kềm chân một lực lượng lớn chủ lực địch tại đây, đúng theo yêu cầu R đề ra cho mặt trận này. Song, một mình Trung đoàn 33 tất nhiên không thể tạo nên trận then chốt và then chốt quyết định của chiến dịch tại lộ 3 được.

Lý luận cũng như thực tiễn, các chiến dịch trước nay đều không bao giờ bố trí trận tiêu diệt then chốt và then chốt quyết định ở mặt trận viện khi chưa diệt điểm lớn, chưa nện địch một đòn đau thì chúng đâu có viện lớn để ta làm trận then chốt quyết định trước ở ngoài công sự? Chiến dịch Biên giới 1950 phải diệt xong Đông Khê mới có tình huống tiêu diệt hai binh đoàn Lơ Pa và Sạt Tông giải phóng lộ 4, mở thông biên giới. Ở Buôn Ma Thuột tháng 3 năm 1975 cũng diệt tiêu khu Buôn Ma Thuột xong mới đánh trận phản đột kích then chốt Thanh An dẫn đến địch rút chạy khỏi Tây Nguyên, mở ra thế chiến lược mới. Ở Bù Prăng năm 1966, không diệt được cứ điểm Bù Prăng thì trung đoàn Bắc Sơn Quân khu 6 kiên trì phục kích nửa tháng cũng không có viện để đánh. Điều đó quá rõ.

Ở đây, địch chi viện thăm dò từ nhỏ đến lớn. Điều đáng tiếc là đã không ăn chi khu Hoài Đức, chiến dịch cũng không uy hiếp nặng chi khu, cũng không tập trung cả Trung đoàn 4, Trung đoàn 33 để có sức diệt tiểu đoàn và chiến đoàn địch. Sau khi mất chi khu Tánh Linh, địch sợ mất luôn chi khu Hoài Đức nên đã đưa lực lượng viện lên đến 1 liên đoàn 7 biệt động quân, một chiến đoàn 48/sư đoàn 18, một trung đoàn 5 thiết giáp mà ta cũng chỉ có một mình Trung đoàn 33 đương đầu; dù rất giỏi, oanh liệt, Trung đoàn 33 cũng không tạo được trận tiêu diệt lớn, vang dội được, chỉ diệt đại đội, đánh thiệt hại đại đội, tiểu đoàn địch mà thôi. Đợt 1 chiến dịch ở hướng chủ yếu và lộ 3 bị sượng nặng, lực lượng sử dụng phân tán, dù có gỡ gần hết nông thôn Hoài Đức thì sau khi Sư đoàn 6 rút về miền Đông, 812 cũng chỉ giữ được Tánh Linh, địch lại nối thông lộ 3 và khôi phục toàn bộ nông thôn Hoài Đức.

Trong Hội nghị Đảng ủy chiến địch kiểm điểm 10 ngày thực hiện nhiệm vụ có nói đến việc đánh giá địch cao, khi bị lộ kế hoạch, địch tăng cường lực lượng đối phó gắt gao thì chuyển sang nhẹ đánh điểm, nặng đánh viện; tất nhiên hồi ấy cũng có đề ra nhiệm vụ quyết tâm tiêu diệt chi khu Tánh Linh rồi tập trung lực lượng diệt luôn chi khu Hoài Đức để kết thúc chiến dịch nhưng cũng không có làm gì có thể gọi là nặng đánh viện.

(https://lh3.googleusercontent.com/Fo4GbektsTrz2QRo847dZdTPhYroqHAHsgjBYd8w_Vx0IGfR1nkDABXg45oetJmlfJsQxYdJ5zssDd0gFZPeP1SZWs6Ws0yFQgRZOsCjaZk7HjUihEd_SHTbzP2BJAqpA5wYHQ-gYKmi5A1H9e-7t6AdKfckScaJ3YkpoE0134KOFi5Mb7JSTvGDwLqIwoinN7jzvOSBm7w6J_vwwwlPDQhl--RyErrH_qY3LzpuZLVhk9Kh9T6giDApOm-VQoAlE1qnZS-cXru0uG0l8keCS-DDKJqAg7iUrEFqg6T06UIWRyeSV_i9bHkqTMZXd1ytz7DPoHKpz5HBeCeLXB2NWJHbrglVpNakK0ygYxJeZ_V4x91dgOe6yBAlgQB9YASmHDJvldvTX1hZbQX7z5cCIx3AHI2M5aFksJelhnhC6ghvSwFL-45Q5I3xk27C2wIua5-_e6cU5rVNlBIq20z8G27KoIYun6s-2vp-_5PU3H0AJZ5zPjuKNPMGNr9ifdgTZLjNlQHMMnSZeAywxgoMbyIykzC-VONLwe_jB8EYIHI4m06SEmJ3ws_O8udbkGBNAgd7D_NTuhXfL3MRFJzzYPI61BIc6niuWqKA3bAl1l_7DZtwyWeCu54JfCT7TuPz-yv7BXY8d2vWc3SO2501fZUXf_drNfM=w800-h524-no)

Hội nghị tổng kết chiến dịch Hoài Đức – Tánh Linh đợt 1, tháng 1 năm 1975


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Tư, 2019, 09:58:19 am
Ở Tánh Linh, do không chốt giữ Đồi Giang, địch chiếm lại, Đại đội 5 đánh lần hai không dứt điểm. Tuy vậy, nhờ giữ chốt Lồ Ồ, ta cũng bắn phá sát thương uy hiếp nặng chi khu. Nhưng ở đây, 812 cũng lại quay sang phá ấp mở nông thôn một thời gian dài gần nửa tháng. Đến 23 tháng 12 mới tập trung toàn lực 812 và 200C đánh dứt điểm chi khu. Ngày 24, diệt và làm tan rã hoàn toàn tiểu đoàn 335 bảo an và các chốt còn lại. Ngày 25, giải phóng toàn huyện với hơn 3 vạn dân. Tiểu đoàn 15 ở lại giữ vùng giải phóng Tánh Linh, Trung đoàn 812 thiếu và 200C tập trung sang Hoài Đức. Chỉ sau mất Tánh Linh một ngày, thấy nguy cơ mất Hoài Đức, từ 26 tháng 12, địch bỏ lộ 3, chuyển hướng giải tỏa, chi viện Hoài Đức lên đường 20, thay chiến đoàn 43/sư đoàn 18, tăng thêm cho Hoài Đức một tiểu đoàn bảo an 336, một đại đội trinh sát tiểu khu Bình Tuy, đổ quân xung quanh chi khu đông đặc, nâng số quân trong khu vực thị trấn lên trên 3.000 tên. Do vậy, khi 812 và 200C sang Hoài Đức, cả Sư đoàn 6 gồm Trung đoàn 4, Trung đoàn 33 cũng tập trung quyết dứt điểm chi khu Hoài Đức thì lực lượng hai bên xen kẽ nhau rất đông và phức tạp. Việc đánh hỏa lực vào chi khu cũng không hiệu quả. Cho đến lúc này, chiến dịch mới dùng pháo 85 nòng dài bắn trực tiếp vào chi khu, nhưng việc bố trí bắn không thích hợp lại thiếu bảo vệ, đại đội pháo 85 bị địch phản pháo thương vong nặng, đại đội trưởng hy sinh phải rút ra. Nói chung hỏa lực ta, cả ĐK75, cối 120 đều không áp chế được tiền duyên địch nên không hỗ trợ được cho đặc công và bộ binh mở cửa chiếm đầu cầu. Ngày 1 tháng 1 năm 1975 mới triển khai tấn công, các lực lượng ta vẫn còn cách rào đồn 400 đến 500 mét, phải bóc vỏ nhiều địch bên ngoài mới đột phá vào chi khu được. Do địch xen kẽ ta với lực lượng lớn, thường bắn chéo lướt sườn ngăn chặn nên sau hai lần đột phá không thành công, thương vong nhiều, bộ đội mỏi mệt, tiếp tế khó khăn, Miền kết thúc chiến dịch Hoài Đức – Tánh Linh, rút Sư đoàn 6 và miền Đông làm nhiệm vụ mới, giao Quân khu 6 đảm nhận tiếp tục giải quyết phần còn lại của chiến dịch là tiêu diệt chi khu và giải phóng toàn huyện Hoài Đức. Từ đây bắt đầu đợt 2 chiến dịch. Địch biết ta ngừng tấn công Hoài Đức, bung ra phản kích chiếm lại toàn bộ nông thôn Hoài Đức, giải tỏa lộ 3, củng cố lực lượng, tăng cường bố phòng giữ chi khu.

Kết quả, từ 10 tháng 12 năm 1974 đến 10 tháng 1 năm 1975: tác chiến 609 trận lớn nhỏ, diệt làm bị thương 1.489 tên, bắt 295, làm tan rã 380, thu 1.032 súng các loại có năm pháo 105 (nhưng đều phá hủy) thu một trọng liên 12 ly 7, một cối 81, 17 đại liên, 36 máy thông tin, 12 xe quân sự, rất nhiều chiến lợi phẩm khác, bắn rơi 13 máy bay, bắn bị thương 10 chiếc, phá hủy 37 xe quân sự có bốn xe tăng, phá hủy nhiều nhà cửa kho tàng, đạn dược, xăng dầu; diệt một chi khu; giải phóng toàn huyện Tánh Linh. Riêng 812, 200C và các lực lượng địa phương diệt 1.113 địch, bắt 280, thu 1.000 súng, 12 xe quân sự, bắn rơi tám máy bay, bắn bị thương bốn chiếc, phá hủy ba xe bọc thép, hai pháo 105. Đợt 1 chiến dịch đạt 50 phần trăm yêu cầu nhưng đã căng kềm được một bộ phận lớn chủ lực địch, phối hợp tốt với chiến dịch đường 14 – Phước Long của Miền.

Từ 1 tháng 1 năm 1975 đến 16 tháng 3 năm 1975, Quân khu 6 chuẩn bị đợt hai để hoàn thành chiến dịch. Đến giữa tháng 3, địch chiếm lại hết nông thôn Hoài Đức, có nơi giành đi giật lại mấy lần nhưng rồi địch cũng chiếm được như xã Võ Xu, cuối tháng 2 nối thông lộ 3. Nhưng sức địch cũng chỉ mức đó, chỉ giữ từ tây cầu Lăng Quăng đến cầu Gia Huy lộ 3 nối thông với Gia Ray – ngã ba Ông Đồn lộ 1. Đến tháng 3 năm 1975, lực lượng địch ở Hoài Đức gồm chiến đoàn 43/sư đoàn 18, tiểu đoàn 334 và 336 bảo an, các đại đội trinh sát của chiến đoàn 43 và tiểu khu Bình Tuy cùng các lực lượng bảo an dân vệ mới khôi phục lại, tất cả trên 2.500 tên (trừ phòng vệ dân sự). Sau khi Sư đoàn 6 rời địa bàn, cuộc chiến đấu giữ lộ 3 và chống tái chiếm nông thôn Hoài Đức của 812 và địa phương diễn ra rất quyết liệt. Đại đội 3 trinh sát 812 giữ núi Dinh hơn 2 tháng, ngoan cường đánh bại các đợt phản kích của địch quyết chiếm lại cao điểm. Mỗi mét vuông của đỉnh núi Dinh hứng chịu một quả bom, nhiều quả pháo; cây cối đất đá nát vụng tơi xốp đến cả mét nhưng thương vong của ta rất ít. Đại đội 5 cùng Đại đội 431 Hoài Đức hoàn thành xuất sắc việc giữ núi Dinh cho đến ngày 19 tháng 3 kết thúc thắng lợi chiến dịch.

Cuối tháng 1 năm 1975, 812 rút hết về căn cứ tây bắc Biển Lạc nghỉ ngơi, củng cố, chỉ để Tiểu đoàn 15 và một bộ phận hỏa lực của Tiểu đoàn 130 đứng ở Hiếu Tín, Xá Dú bảo vệ vùng giải phóng Tánh Linh. Cùng thời gian, khu 6 và tỉnh đã đưa hơn một vạn dân bị dồn trước đây về lại bắc sông khôi phục xóm làng, sản xuất bố phòng, ổn định cuộc sống.

Anh Tám Hiền đã về lại Bộ Tư lệnh Quân khu, anh Ba Mỳ và tôi ở lại chiến trường. Địch đã mất cả tỉnh Phước Long, chắc chắn không có khả năng tái chiếm. Núi Bà Đen Tây Ninh gần Miền địch cũng khó lòng giành lại. Tánh Linh tuy xa xôi nhưng có thể là nơi địch có thể gỡ gạc bằng đổ bộ đường không lớn cỡ lữ đoàn, bất ngờ nhảy xuống chiếm chi khu rồi nống ra tái chiếm toàn huyện, điều này rất có thể xảy ra. Nhận định như vậy, chúng tôi có kế hoạch chống tái chiếm Tánh Linh, nhanh chóng triển khai thế chiến đấu hiệp đồng hỏa lực giữa Tiểu đoàn 15 và 130 sẵn sàng đánh địch khi chúng đổ quân. Gần Tết Nguyên Đán, Quân khu gọi tôi về báo cáo tình hình và giao nhiệm vụ đợt chiến đấu mới. Ở Tánh Linh, ngày giáp Tết 29 âm lịch tức ngày 9 tháng 2 năm 1975, lúc 10 giờ, địch không oanh tạc trước như thường lệ, chỉ dùng L19 quần bắn rốc két bình thường rồi đột ngột có mấy tốp trực thăng đổ một đại đội biệt kích xuống gần chi khu Tánh Linh, tên đại đội trưởng dẫn một tiểu đội xông vào đồn, định kéo lá cờ ba que lên, đánh đòn tâm lý, báo hiệu đã chiếm được chi khu, gây hứng khởi cho bọn đổ tiếp sau. Nhưng tên đại đội trưởng bị bắn gục trên rào, cả tiểu đội biệt kích bị diệt sạch; hỏa lực ta trùm lên đại đội vừa đổ quân; bộ binh từ nhiều hướng đến đánh mạnh; cả đại đội địch bị xóa sổ, bốn trực thăng bị bắn rơi, mấy chiếc khác bị thương. Qua máy bộ đàm, ta nghe có tiếng một tên địch nào đó gọi hốt hoảng:

- Dừng lại ngay, không được đổ quân tiếp, số mới đổ bị diệt hết rồi!

Địch chịu mất một đại đội. Cuộc đổ bộ đường không lớn bất ngờ tái chiếm Tánh Linh thất bại. Vùng giải phóng được giữ vững, bà con ăn một cái Tết chiến thắng tự do đầy hân hoan, phấn khởi.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Tư, 2019, 10:00:11 am
Tôi trở lại 812 với quyết định mới của Quân khu về đợt 2. Đảng ủy và Bộ Chỉ huy chiến dịch bây giờ gồm: Anh Ba Mỳ chỉ huy trưởng; anh Ba Thành chính ủy, bí thư Đảng ủy; tôi phó chính ủy; các anh Tư Thanh, Võ Như Loan chỉ huy phó. Anh Sáu Phúc trực tiếp chỉ đạo đợt hoạt động. Đồng chí Văn Minh Trường (tỉnh đội phó Bình Thuận) thay Phạm Ty làm trung đoàn trưởng 812; Phạm Văn Tí chính ủy. Phương pháp tác chiến là vây, lấn, tấn, phá, triệt, diệt. Bắt đầu 16 tháng 3 đánh bóc vỏ, 19 tháng 3 đột phá dứt điểm chi khu, quét sạch địch bên ngoài, giải phóng xã ấp. Tất cả 1 tuần lễ. Với khí thế mới hào hứng, 812, 200C cùng địa phương quyết tâm hoàn thành thắng lợi đợt 2 chiến dịch đúng kế hoạch. Trong khi anh Ba Mỳ và các trợ lý xây dựng kế hoạch tác chiến thì anh Sáu Phúc và tôi xuống các tiểu đoàn quán triệt phương châm, thảo luận quân sự dân chủ. Anh Sáu Phúc còn đi quan sát thực địa xung quanh chi khu.

Bóc vỏ hai ngày khá tốt. Chiều 17 tháng 3, anh Ba Mỳ cử tôi cùng Văn Minh Trường sang phía tây Võ Đắc, không xa đồi Bảo Đại mấy và chỉ cách đồi Su mấy trăm mét để quan sát và điều khiển tiếp việc bóc vỏ mở phía này. Lúc ấy chúng tôi không biết ở đồi Su có tiểu đoàn 3/chiến đoàn 43 đóng dã ngoại, có hai pháo 105. Nếu biết, chắc không lý gì nằm ở vùng rẫy trống bất ngờ nhưng rất nguy hiểm đó. Giữa trưa, một trung đội địch xuất hiện, đang tiến về phía chúng tôi chỉ còn hơn trăm mét, các nòng AK, M79 sẵn sàng nhả đạn. Còn độ 50 mét, chúng lại quay về đồi Su. Thế là ổn. Nếu chỉ một trung đội địch đó thì chúng tôi cũng dư sức diệt, nhưng nào biết ở đồi Su có cả tiểu đoàn, súng nổ, một đại đội khác đến cũng thật nguy hiểm. Chiều có điện anh Ba Mỳ gọi tôi với Trường về để chuẩn bị công kích chi khu. Qua lộ 3, đi ngang trận địa chặn viện Trà Tân tại bắc cầu Nính Thở; lộ 3 lúc ấy im ắng chứ không súng nổ đạn bay như hồi đợt 1. Anh em cười vui nắm tay chúng tôi nói đầy khí thế:

- Khi nổ súng, nếu có 336 từ Trà Tân kéo về viện cho chi khu, các em sẽ lượm ngon thôi!

Anh Ba Mỳ và tôi sẽ trực tiếp chỉ huy cuộc tấn công này. Các anh Ba Thành, Tư Thanh, Võ Như Loan bận việc phong trào túi bụi. Anh Sáu Phúc thì 20 giờ ngày 19 tháng 3 lên Lâm Đồng để họp Khu ủy. Hết ngày 18, cơ bản bóc vỏ xong, đã áp sát chi khu đúng dự kiến. Thời gian này từ ngã ba Ông Đồn vào phía nam, Sư đoàn 6 và Quân đoàn 4 đánh địch dồn dập. Sư đoàn 7 đã chiếm Định Quán, đang tiến lên Blao, lực lượng ứng cứu lớn bên ngoài không còn, việc tấn công của chúng tôi rất thuận lợi. Trưa ngày 19, cối ta bắn trúng một kho đạn 105 trong chi khu phát nổ dữ dội đến 15 giờ, địch hoảng lợn, một số chui rúc dưới hầm, một số bung chạy ra thị trấn đến chiều tối mới lục tục kéo về. Có vụ nổ ban ngày, ta cũng không thể đột kích chi khu ngay sau dứt nổ, song nó cũng làm đội ngũ địch xộc xệch, ta càng trông mau đến tối đến giờ hành động. 20 giờ, trong Sở Chỉ huy có anh Ba Mỳ, tôi, đồng chí Bổng trung đoàn phó 812, trinh sát, thông tin liên lạc. Mọi người uống trà để thức suốt đêm nay. 24 giờ, pháo hỏa chuẩn bị trùm lên chi khu Hoài Đức. Nhà tên chi khu phó bị sập, một xe bọc thép cháy. Tiểu đoàn 15 đã chiếm phân khu cảnh sát và chợ Võ Đắc, đang phát triển mạnh. Bỗng có pháo bắn dữ dội quanh chi khu, sau lưng đội hình tấn công của 812, một số đạn pháo rơi gần cửa mở 200C và Tiểu đoàn 840/812. Có tiếng Văn Minh Trường trong máy:

- Cho gặp anh Ba Mỳ gấp.

- Tôi đây, có việc gì thế?

- Tại sao pháo ta bắn nhiều vào các cửa mở gây sát thương anh em. Đứt hết dây điện thoại từ các mũi trung đoàn rồi. Đề nghị chỉnh pháo lại, cứ “nhằm lưng ông mà nện” thì chết luôn đó anh Ba!

- Pháo đã dừng bắn lâu rồi, quan sát kỹ xem pháo từ đâu đến. Đồng chí Trường đi kiểm tra các mũi và báo cáo ngay!

Trường im nhưng chắc còn thắc mắc vì sao có việc bắn pháo này. Thì ra, pháo 105 của tiểu đoàn 3/43 địch ở đồi Su bắn chặn ta đột phá. Tuy vậy, bộ đội ta ở sát rào rồi nên bị căng thẳng chứ không có ai bị sát thương cả; hồi ấy cũng oan cho 130 “góc độ không không”, trong chiến đấu thường có những bất ngờ như vậy, cũng do không nắm chắc địch mà thôi.

Hơn 2 giờ ngày 20 tháng 3 mà chưa mũi nào mở xong đột phá khẩu, chưa ai vào được trận nội. Súng vẫn nổ liên hồi quyết liệt, địch chống cự khá mạnh. Trong Sở chỉ huy ngột ngạt căng thẳng quá, anh Ba Mỳ giao tôi trực, ra ngoài thư giãn một chút. Chuông điện thoại đổ từng hồi dài, đồng chí Bổng vội cầm máy. Đài trinh sát pháo trên núi Dinh báo cáo:

- Có một mũi đã vào trận nội, đang phát triển trong tung thâm; thấy rõ ánh lửa bộc phá, B40, thủ pháo lựu đạn, nghe cả tiếng AK nổ giòn trong đồn.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Tư, 2019, 10:02:21 am
Cả Sở chỉ huy nhộn nhịp hẳn lên. Tôi bảo Bổng hỏi lại và được khẳng định đúng như vậy. Sau đó 812 cũng báo cáo mũi 200C đã vào trận nội rồi, 840 mở cửa xong, đang phát triển. Địch còn đông (chúng không biết gì về Buôn Ma Thuột và việc địch chạy khỏi Tây Nguyên, chúng tôi cũng chỉ mới biết tin sốt dẻo đó từ điện của Quân Khu gửi đến khi trưa), ngoan cố bám công sự, lô cốt, hầm ngầm, cơ giới chống trả quyết liệt. Ta đã chiếm được khu thông tin, khu cảnh sát dã chiến, tiếp tục tấn công chi đội bọc thép 909 và trận địa pháo 105. Anh Ba Mỳ cho lực lượng dự bị vào chiến đấu, được tăng sức mạnh, các mũi nhanh chóng chia cắt địch, tảo trừ, diệt, bắt nốt số còn cố thủ trong các hầm ngầm, ụ súng. 6 giờ 40 ngày 20 tháng 3, 812 đã làm chủ chi khu, cờ Mặt trận phấp phới trên nóc nhà thông tin chi khu Hoài Đức. Khai thác tù binh biết tiểu đoàn 3/43 cùng bọn tàn binh 334, 336, bảo an dân vệ các nơi tập trung cụm tại trận địa dã chiến đồi Su, ta cho hai pháo 105 trong chi khu bắn gần trăm quả vào đồi Su, sát thương một số địch, chúng rất hoảng sợ nằm im trong công sự. hai ngày 20 và 21 tháng 3, địch oanh tạc 10 phi vụ vào chi khu và thị trấn Võ Đắc nhưng không gây thiệt hại gì về người. Các lực lượng địa phương tấn công giải phóng các xã Sùng Nhơn, Nghị Đức, Chính Đức. trong ngày 20 và 21 giải phóng nốt các xã Võ Xu, Trà Tân 1, 2, 3. 3 giờ ngày 22 tháng 3, 812 đánh diệt đồi Su, sau đợt pháo cấp tập, bộ binh xung phong vào đội hình địch, chúng chống trả yếu ớt, lớp chết, lớp hàng, tháo chạy tán loạn. 6 giờ ngày 22 chiếm xong đồi Su; tuy đóng dã chiến nhưng đã ở cả tháng, mùa khô đất cứng nên công sự xây đắp công phu mà tinh thần địch bạc nhược, 812 mới đánh chiếm nhanh chóng dễ dàng như vậy, ta chẳng thương vong gì. Trong ngày tổng truy quét tàn quân, bắt thêm 200 tù binh, thu thêm 200 súng có cả cối 81, đại liên. Số cắt rừng nhắm đường 1 tẩu thoát về Bình Tuy cũng bị các cơ quan trong căn cứ, cả nhân viên hộ lý, cấp dưỡng cũng bắt được tù binh, tất cả trên trăm tên, lấy được đại liên, cối, máy thông tin. Chiều 22 tháng 3, toàn huyện Hoài Đức không còn bóng địch. Cùng ngày, đại đội 3/840 phát triển xuống nam cầu Gia Huynh liên lạc được một đơn vị của Sư đoàn 6/Quân khu 7 cũng mới giải phóng thị trấn Gia Ray và chi khu An Lộc lưu vong trên lộ 3.

Đồng bào các xã cùng cán bộ, du kích nhất tề phá ấp, thiêu hủy đồn bót, treo băng cờ, khẩu hiệu cách mạng, truy bắt tàn quân, tề điệp, thu nhiều vũ khí, phương tiện của địch; riêng xã Võ Xu thu 300 súng và nhiều chiến lợi phẩm khác; các xã còn lại thu trên 500 súng. Tàn quân tại chỗ ra hàng nạp 600 súng cùng nhiều đạn dược quân trang quân dụng. Bộ máy kềm kẹp đồ sợ, tinh vi được Mỹ - ngụy ra sức xây dựng hàng chục năm đã sụp đổ hoàn toàn. Nhân dân thực sự làm chủ thôn xóm quê hương, bắt đầu xây dựng cuộc sống mới và tích cực đóng góp sức người sức của phục vụ chiến đấu tiếp theo. Trong tháng 4 năm 1975, huyện đã rút được 418 thanh niên thoát ly phục vụ cách mạng.

Kết quả đợt 2, trong thời điểm thuận lợi chung, với lực lượng ít hơn nhiều so với đợt 1, dù địch vẫn còn ngoan cố chống trả quyết liệt nhưng các đơn vị Quân khu và địa phương đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giải phóng huyện Hoài Đức trong 7 ngày, diệt, bắt, làm tan rã 2.500 địch, có tiểu đoàn 3/3/sư đoàn 18, các tiểu đoàn 334, 336 và đại đội 720 bảo an, hai trung đội pháo 105, hơn chục xe cơ giới thiết giáp, trên 1.000 súng các loại, chưa kể 1.400 súng thu thêm sau đó và tàn quân ra nạp. Mở ra một vùng giải phóng rộng lớn, kể cả Tánh Linh là hơn 6 vạn dân, đạt yêu cầu diệt địch, bồi dưỡng ta, giải phóng và giữ dân, giữ đất, kết thúc thắng lợi chiến dịch Hoài Đức – Tánh Linh. Góp phần xứng đáng vào cục diện mới, chia cắt Quân khu 2 và Quân khu 3 địch, tạo điều kiện cho các hướng áp sát tấn công Sài Gòn, huy động nhiều nhân tài vật lực phục vụ phía trước. Bộ đội Quân khu 6 nâng cao một bước trình độ tác chiến lớn trong thời cơ chiến lược mới.

Anh Ba Thanh triệu tập ngay một Hội nghị Cán bộ tỉnh, huyện và 812 tại xã Võ Xu sơ bộ đánh giá kết quả các mặt để báo cáo Quân khu và đề ra nhiệm vụ tiếp theo cho địa phương. Lần đầu tiên đồng bào Vũ Xu nhìn thấy một đoàn xe com-măng-ca, uoát, xe Jéep chiến lợi phẩm, xe máy chở đông đảo cán bộ vào xóm họp hội nghị ban ngày thật phấn khởi. Các má, các chị Hội phụ nữ Giải phóng lo lắng phục vụ hội nghị thật chu đáo, đầy đủ. Tình hình mới biến chuyển nhanh chóng khác xưa rồi.

Quân khu điều anh Ba Mỳ và 812 (thiếu) lên gấp đường 20 đánh chiếm Di Linh, Đức Trọng, tiến lên giải phóng Đà Lạt – Tuyên Đức vì Sư đoàn 7 giải phóng xong Lâm Đồng đã quy về Nam Bộ rồi. 200C về Bình Thuận. Tôi và Tiểu đoàn 15 được lệnh ở lại Hoài Đức cùng địa phương bảo vệ và giữ vùng mới giải phóng. Tin thắng lợi các nơi bay về dồn dập, càng thấy rõ ngày thắng lợi hoàn toàn không còn xa nữa.

Tôi biết sắp đến sẽ còn đánh đồn bót lớn nhỏ nhiều để vào các thị trấn, thị xã nên tranh thủ tổ chức cho cán bộ Tiểu đoàn 15 đi nghiên cứu kỹ lại cấu trúc công sự phòng thủ các đồn bót cấp trung đội, đại đội và hai chi khu Hoài Đức – Tánh Linh. Đó là việc cần thiết rất quan trọng để giành thắng lợi mà tiết kiệm xương máu bộ đội. Anh em rất hoan nghênh, thích thú và tiến hành khẩn trương, nghiêm túc. Mấy ngày ở thị trấn Võ Đắc giải phóng yên ổn thanh bình làm sao, không có một bóng dáng máy bay, một phi vụ oanh tạc nào, chiến đấu ác liệt đã vào nam và đi xa lên phía bắc rồi.

Tôi nghĩ rằng Tiểu đoàn 15 không cần nằm giữ vùng giải phóng này làm gì nữa, rõ ràng phía tây và bắc đường 20 từ Định Quán lên Blao đã giải phóng, 812 đang tiến lên Di Linh, Đức Trọng, Đà Lạt. Phía tây nam Sư đoàn 6/Quân khu 7 đã làm chủ từ Gia Ray đến ngã ba Ông Đồn, đang phát triển vào nam. Phía đông là một vùng căn cứ mênh mông nối liền đến tận Bắc Bình. Chỉ còn phía nam đường 1 là còn địch như ở đó chúng cũng đang bê bối, nơm nớp lo sợ, cố giữ chưa xong, còn địch ở đâu tới phản kích tái chiếm Hoài Đức nữa. Trong khi đó ở đường 1, tỉnh chỉ có một Đại đội 88 thiếu cùng các đội công tác Hàm Tân và thị xã La Gi. Nếu tỉnh được chi viện Tiểu đoàn 15 hùng mạnh để cắt đường 1, ở xuống lộ 2 thì tốt biết mấy. Tôi điện đề nghị anh Tám Hiền cho tôi và Tiểu đoàn 15 giúp Bình Tuy mở lộ 1, lộ 2. Anh Tám Hiền trả lời rất đồng ý và bảo thêm là phía đường 1 phong trào Bình Tuy còn yếu, nhiều khó khăn, tôi cần chuẩn bị chu đáo cho Tiểu đoàn 15 cả về nắm địch và lương thực thực phẩm để hoạt động được liên tục nhiều ngày, vài hôm nữa anh sẽ có chỉ thị cụ thể để hành quân. Nhưng, mấy hôm sau tôi lại được lệnh tổ chức Tiểu đoàn 15 lên gấp Đà Lạt tăng cường cho lực lượng tiếp quản thành phố Đà Lạt – Tuyên Đức sẽ được giải phóng, còn tôi thì về ngay Quân khu nhận nhiệm vụ mới. Tình hình phát triển nhanh quá, tôi chưa biết đầy đủ việc phải có thêm Tiểu đoàn 15 lên Đà Lạt, nhưng riêng ý tôi thì Tuyên Đức đã hết địch, ngoài địa phương còn có 812 rồi, đông – tây – nam – bắc Tuyên Đức đều đã giải phóng, tại sao phải đưa Tiểu đoàn 15 lên thêm mà không để Tiểu đoàn 15 hoạt động mở phong trào Hàm Tân cần hơn. Nhưng đây là mệnh lệnh nên tuy tiếc không được đưa Tiểu đoàn 15 đi hoạt động ở đường 1 giúp Bình Tuy, tôi cũng không đề nghị gì mà chỉ lo mọi thứ đầy đủ cho Tiểu đoàn 15 nhanh chóng hành quân mà thôi.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Tư, 2019, 09:45:36 am
10. Toàn thắng.

Tôi về Quân khu ngay sau khi Tiểu đoàn 15 lên đường. Anh Lê Cật, chủ nhiệm Hậu cần Quân khu cấp cho tôi một xe Đốt máy mạnh “để đi cho nhanh”. Mới đến Lạc Tánh thị xe hỏng, sửa suốt buổi chiều chưa được, giá nó hư ở Võ Xu thì còn có xe khác, ở đây phải chờ bác tài chọc quậy mà thôi. Mãi nửa buổi sáng hôm sau xe mới chạy được nhưng chỉ một quãng lại hỏng tiếp. Vậy là chậm không khác gì đi bộ. Chiều tối mới đến trạm sửa chữa quân giới Quân khu, trạm trưởng Quách Toàn Minh bảo ngủ lại chờ sửa. Ì ạch cả đêm không được, Minh lấy một xe Jéep máy tốt giao cho tôi. Đến Hàm Thạnh xe lại hư nốt. Hết kiên trì nổi, tôi và Cảnh liên lạc đi bộ, vài tiếng sau xe bắt kịp. Chiều 9 tháng 4, tôi bặp anh Tám Hiền báo cáo việc đi trục trặc, anh cười bảo:

- Anh về trễ rồi, tôi định gọi anh về đi tham gia giải phóng chi khu Thiện Giáo nhưng anh em mới báo về đã chiếm xong. Thế là đã nhổ một cái chốt quan trọng án ngữ bắc Phan Thiết, giờ phải nhanh chóng bóc gỡ đường 8, đường 1. Tiểu đoàn 15 vừa đến Đà Lạt thì Khu ủy cho 812 quay về Bình Thuận, chỉ để lại Tiểu đoàn 186. 812 về chiều 6 tháng 4 thì đêm 7 tháng 4 đánh Thiện Giáo. Ở Bình Thuận vừa qua, khi nghe Cam Ranh và Đà Lạt mất, Ngô Tuấn Nghĩa tỉnh trưởng hoang mang dẫn hết bộ hạ chạy ra Núi Cố để nếu đại quân ta đến thì xuống tàu chạy cho nhanh. Đến chiều 5 tháng 4 chưa thấy gì, chúng kéo nhau về lại Phan Thiết thì vừa bị ta đánh Thiện Giáo.

Quân khu lập ngay Bộ Chỉ huy giải phóng Bình Thuận do Đỗ Phú Đáp (tham mưu trưởng Quân khu) làm chỉ huy trưởng, Ba Đồn (bí thư Tỉnh ủy Bình Thuận) chính ủy, tôi phó chính ủy, Lê Văn Nhật tỉnh đội trưởng, Võ Ngọc Đài chính trị viên Tỉnh đội làm chỉ huy phó. Tôi xuống ngay Bình Thuận truyền đạt việc này và ý kiến chỉ đạo của Quân khu là nhanh chóng đánh chiếm đường 8, đường 1, ép địch dồn vào Phan Thiết, chuẩn bị tích cực cho việc tấn công thị xã, giải phóng Bình Thuận. Cục diện chung diễn biến rất nhanh chóng, nếu cứ hoạt động theo lối thông thường sẽ mất thời cơ quý báu. 812 bỏ địch, từ Gộp ra phía bắc, thọc thẳng qua đường 1, chiếm từ Xa Ra đến Phú Long và cầu Xóm Lụa; 200C và 482 quét đường 8, Tầm Hưng, Văn Giáo, An Phú dồn chúng xuống tân An, Trinh Tường, tạo bàn đạp vào Phan Thiết.

Tối 10 tháng 4, tôi gặp các anh Ba Đôn, Đỗ Phú Đáp ở suối Cá Trê, truyền đạt chỉ thị, mọi người rất nhất trí với sự chỉ đạo sáng suốt táo bạo này, quyết ra sức giải phóng đường 1, đường 8. Các tiểu đoàn 840, 15, Đại đội 35 đặc công tỉnh, 450 Thuận Phong cùng các đội công tác chỉ trong 3 ngày (từ 11 đến 13 tháng 4) đã làm chủ từ Gộp đến Phú Long, chiếm cầu Xóm Lụa, đuổi địch chạy sang Kim Ngọc. tại đây, cuộc chiến vô cùng ác liệt vì địch biết rằng nếu không đẩy lùi ta ra xa thì số phận tiểu khu Bình Thuận sẽ bị giải quyết trong ngày một ngày hai mà thôi, nên có ngày chúng tập trung sáu tiểu đoàn bảo an, hai tiểu đoàn biệt động quân, có phi pháo yểm trợ tối đa, phản kích quyết liệt; có lúc chúng cũng đánh bật 840 khỏi Phú Long, nhưng rồi 840 và 15 lại trục địch về bên kia Kim Ngọc, giữ vững cầu. Bên đường 8, 482, 200C cùng địa phương cũng nhanh chóng đánh chiếm Tầm Hưng, Văn giáo, An Phú, Bình Lâm, Bình An, Tân Điền. Địch chạy về Tân An đầy nhóc lính và xe pháo nhưng không sao lên lại được Tân Điền; 200C chốt chặn ở Cầu Đối cây số 4. Rủi thay đồng chí Phước, người chỉ huy đánh chiếm Lồ Ồ, bị trúng đạn hy sinh tại đây. Chiến sự ở vùng ven bắc Phan Thiết sôi động ngày đêm. Ta đã mở được một địa bàn rộng lớn, tạo ra một đầu cầu rất thuận lợi để mở cửa đánh vào Phan Thiết bằng nhiều mũi, cả ở đường 1, đường 8.

Chúng tôi cũng có đôi chút băn khoăn, không hiểu sao đại quân ta đánh như chẻ tre tới Cam Ranh bỗng dừng lại khá lâu, chưa tiến vào Phan Rang? Địch có thời gian tổ chức tuyến phòng ngự từ xa Phan Rang – Phan Thiết, đưa lực lượng lớn đến Ninh Thuận – Thành Sơn lập trận địa chống đỡ. Bọn trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, chuẩn tướng Ngô Tấn Nghĩa hò hét tử thù, lên dây cót tinh thần binh lính, rêu rao giữ đến mùa mưa thì Sài Gòn và đồng bằng sông Cửu Long sẽ còn, v.v. Tất nhiên, bọn chỉ huy la lối là một chuyện, binh lính còn đông, cơ giới phi pháo còn nhiều nhưng hàng ngày từng đám tàn binh địch ở Quân khu 1, Quân khu 2 lũ lượt kéo về nam cũng gây tâm trạng lo âu, hốt hoảng của quân ngụy tại địa phương Bình Thuận. Cao điểm Tà Dôn bắc thị xã ta chưa nhổ được, còn là cái gai gây khó khăn cho việc di chuyển hoạt động ban ngày của ta. Sáng 18 tháng 4, cao điểm Tà Dôn nhổ xong, đường vào Phan Thiết càng thuận lợi. Thương tiếc cho anh Đảng (phòng Quân huấn Quân khu) đã hy sinh khi tấn công cao điểm Tà Dôn; anh ngã xuống chỉ trước giải phóng Phan Thiết 1 ngày.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Tư, 2019, 09:46:35 am
Tin đại quân đánh chiếm Thành Sơn – Phan Rang đập tan lá chắn phòng ngự từ xa, niềm tin của Mỹ - ngụy sụp đổ, Phan Rang – Ninh Thuận giải phóng ngày 17 tháng 4, đại quân đang tiến vào Bình Thuận làm không khí tưng bừng, rộn rịp lạ thường. Thời cơ giải phóng Phan Thiết đã đến! Tất nhiên không có lực lượng trên thì sớm muộn gì Bình Thuận cũng tự giải phóng được, nhưng có đại quân thì nhanh hơn nhiều. Tiền phương chúng tôi đóng ở Tam Giác, nhưng các anh Ba Đôn, Nhật, Đài vẫn ở cơ quan tỉnh chỉ đạo trực tiếp các cơ sở. Anh Đáp được lệnh Quân khu ra Gộp cùng anh Ba Mỳ đón đại quân. Trước khi đi, anh Đáp dặn tôi:

- Anh cho 130 bắn mạnh 105, H12, ĐKB vào các mục tiêu quân sự địch ở Phan Thiết và xung quanh liên tục cho đến 16 giờ thì dừng để khỏi ảnh hưởng việc triển khai chiến đấu của lực lượng trên.

Tôi gọi Ruyến tiểu đoàn trưởng và Cù Thanh Sơn chính trị viên 130 bàn việc pháo kích trong ngày 18. Tôi biết đây là lần pháo kích cuối cùng của Phan Thiết nhưng rất quan trọng, cần bắn thật mạnh, tập trung, chính xác, sát thương thật nhiều địch, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh, gây náo động, rối loạn lớn, uy hiếp nặng đầu não địch, hỗ trợ đắc lực và tạo thuận lợi cho trên đột phá vào thị xã. Lúc đó ở Phan Thiết đang có rất nhiều lực lượng hỗn hợp rất phức tạp, lộn xộn; tuy vậy cũng cũng còn nhiều cụm pháo, nhiều cơ giới; cần đánh cho địch tê liệt; 130 phải củng cố công sự thật vững chắc để hạn chế thương vong do địch phản pháo. Tôi cho rằng địa quân vào từ xa đến, dù tổ chức chiến đấu nhanh mấy cũng phải đến 19 giờ mới pháo hỏa chuẩn bị được, không thể đột phá Phan Thiết lúc 18 giờ được, vậy ta phải bắn liên tục không để địch có thời gian củng cố lực lượng đối phó ta. Anh em rất nhất trí. Tôi cho lệnh bắn đến 18 giờ thì ngừng. Ngày pháo kích này của 130 có hiệu quả rất lớn, nhiều đám cháy, nổ kéo dài ở Căng, ở Lầu Ông Hoàng, pháo nổ ở các mục tiêu trong Phan Thiết rất dữ dội, chính xác, gây cho địch thiệt hại nặng, càng làm chúng hoang mang rối loạn dữ. Sáng 19, khi vào tòa hành chính tỉnh, tôi thấy dấu vết mảnh pháo, H12 bắn trúng hội trường của tỉnh đường, lỗ chỗ dưới gạch rất nhiều. địch phản pháo khá ác liệt nhưng nhờ có công sự đầy đủ, chắc chắn, có nhiều trận địa pháo dự bị nên thương vong không đáng kể. Đúng 20 giờ, Quân đoàn 2 mới đột phá vào Phan Thiết.

Quân đoàn 2 của Bộ tấn công Thành Sơn, Phan Rang, giải phóng Ninh Thuận thì ở miền Đông Nam Bộ, Quân đoàn 4 của Miền cũng tấn công Xuân Lộc, cửa ngõ đông Sài Gòn. Cuộc đại tấn công giải phóng hoàn toàn miền Nam sau 15 ngày tạm dừng đã bắt đầu. Chúng tôi, những chiến sĩ Bình Thuận vô cùng hân hoan phấn khởi, điều đó cũng dễ hiểu thôi. Bộ Chỉ huy giải phóng Bình Thuận từ đầu đã lệnh cho 812 bằng mọi giá phải làm chủ và giữ bằng được thị trấn và cầu Phú Long, đảm bảo cho lực lượng trên có thể đột phá xe tăng qua cầu Phú Long, xông thẳng vào thị xã nhanh chóng, thuận lợi. 812 đã hoàn thành được nhiệm vụ này để phối hợp đắc lực với đại quân, cửa ngõ bắc Phan Thiết đã rộng mở.

Trên đường vào Phan Thiết, đêm 17 và sáng ngày 18 tháng 4, khi đại quân vừa đến, địch ở Tuy Phong, Hòa Đa, Phan Lý tan rã tức khắc. Các ban khởi nghĩa địa phương chớp thời cơ huy động quần chúng truy quét tàn binh, tề điệp, tiếp quản xóm ấp ngay. Trưa 18, Quân đoàn 2 đã liên lạc được với các anh Ba Mỳ và Đỗ Phú Đáp tại Gộp. Biết địa phương đã áp sát vùng ven, dồn địch vào Phan Thiết, giữ được cầu Phú Long, binh đoàn khỏi mở cửa đánh chiếm đầu cầu rồi mới phát triển như thường lên, Quân đoàn quyết định tấn công Phan Thiết ngay chiều tối 18 tháng 4.

20 giờ, không cần pháo hỏa chuẩn bị, một mũi xe tăng của lữ đoàn xe tăng 203/Quân đoàn 2 có cán bộ 812 và tỉnh ngồi trên xe dẫn đường xuất kích, ầm ầm vượt cầu Phú long, sang Kim Ngọc, đột phá thẳng xuống cầu Bến Lội, cầu Sở Muối. Một mũi tăng khác đi trên đường bên trái Phú Long xuống ngã ba Phú Hải đánh diệt địch ở Lầu Ông Hoàng, chặn không cho chúng chạy dồn vào trung tâm thị xã. Địch ở Kim Ngọc tan vỡ ngay từ đầu khi thấy bóng xe tăng ta qua cầu. Pháo từ trong Phan Thiết bắn dữ dội hòng ngăn chặn đội hình ta đang tiến vào thị xã như vũ bão; chúng cũng đưa xe tăng, bộ binh ra phản kích nhưng bị diệt ngay mấy chiếc, chúng liền bỏ xe chạy thục mạng. Quân ta xông thẳng vào nội ô. Hai bên đường địch vứt bỏ súng ống, trang bị ngổn ngang, chạy trốn vào các ngõ ngách, hẻm phố. Hai chiếc trực thăng đã nổ máy sẵn sàng cất cánh ở trước cổng tỉnh đường nhưng Ngô Tấn Nghĩa vừa nghe tiếng xe tăng Quân giải phóng ầm ầm sát cạnh, không còn hồn vía nào để lên máy bay mà vội lủi nhanh ra bờ sông xuống chiếc thuyền con, lặng lẽ trốn ra biển, bỏ mặc đồng bọn tùy nghi di tản.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Tư, 2019, 09:47:54 am
22 giờ, lữ 203 chiếm xong tiểu khu, 23 giờ phát triển lên chiếm luôn Căng Ê-xê-pít. Ở Lầu Ông Hoàng ta cũng đã làm chủ hoàn toàn khu vực. Như vậy, Quân đoàn đã làm chủ thị xã Phan Thiết ngay trong đêm 18.

Phối hợp nhịp nhàng với lực lượng trên, chiều tối 16, các lực lượng thị xã từ Phong Nẫm thọc sâu vào nộ ô, đánh chiếm Trinh Tường, kho xăng Duy Tân và các chốt quanh khu vực, tảo trừ tàn binh, bắt nhiều tên, thu nhiều vũ khí. Các ban khởi nghĩa, các đội tự vệ mật nội thành cơ sở bên trong đã chuẩn bị sẵn sàng từ trước cờ, truyền đơn, khẩu hiệu cách mạng, nhanh chóng chiếm lĩnh trụ sở ấp, phường, các mục tiêu kinh tế - xã hội, truy quét tàn binh, tề điệp, giữ an ninh trật tự. Sáng 19 tháng 4, cờ đỏ sao vàng, cờ Mặt trận rữ rỡ khắp nơi. Thị xã Phan Thiết vẫn trật tự an toàn, bảo đảm điện, nước bình thường, đời sống nhân dân ổn định, không hề bị xáo trộn.

(https://lh3.googleusercontent.com/fg6TI_c8He_rBCCMvJSj6s_-R164CWCdeUkUfELPh7yYcUN6zTtUAwkJIX2YSl1-eX5o5IRWyYQcOMm8klpi-H1XdU7NNzsShmP1s5dqjUAT98p9YJE1bT0mXay8ae2s-wukwjyhLws9SSkKrEoSVQ2LlHW3fJTSus5eTlSsj-nRiwBuIyODXVhuJ1WWwEdlPpgbG1ov8N-rZTjTUXI3KnLPQ4N0jQyADITI78bupTtaC0wurW4x9RXiOhSyVra-nKz8r9jRTfH1rMe2m4Xr0Eh_-roBlC25gPPQbjvIxrgCG0o5QZXG57vYLbTrOUQ-3gRxjKtvj1lwZT6AAGUStM9aufJRIRAEsHzzmvIEx3YgffhqIIxdjiTtLzOEzYY59k48yuhGVGXiXA4t8IC4-yOb6hd5pTD8cAaKT3RCQV1FFLBbjm1zBqpSSApYK8kjsZRUaWZ2fJl7R_OE3HQZ95-abGYZuQI-pyNb_-gYlHySRHnxC7vO2u5sUH860MYoEjieMDWuXjzGimEJfZZVppj9eAvq0wDUCkLXxDd232SdNI8U8qc4301qWO89Hr3Phn0lQxJMcsi4tCN4AS9_Jl6avbwVM2qgaK2zv5k99ERY4t-eFXy764U7Jh1jWz8Ecp59g8cg8t8dnnxLNcvmiTfQEvZrtwY=w800-h501-no)

Quân Giải phóng tiến vào thị xã Phan Thiết, tháng 4 năm 1975

Anh Đáp và tôi định vào Phan Thiết trong đêm nhưng Quân đoàn 2 yêu cầu để các đơn vị kiểm soát thị xã cho thật bảo đảm, sáng 19, lãnh đạo, chỉ đạo địa phương hãy vào. 5 giờ 19 háng 4, anh Đáp, Trần Thọ và tôi cùng một số cảnh vệ đi xe Jeep vào thị xã, gặp đồng chí Bùi Tùng, chính ủy lữ 203 tăng ngay tại dinh tỉnh tưởng. Trên đường vào, bà con hai bên phố vừa ngạc nhiên vừa ngỡ ngàng thấy trên xe Jeep cắm cờ Mặt trận có bóng vài nữ Giải phóng quân đội nón tai bèo, mang súng AK không kém phần hiên ngang, oai hùng.

Là lực lượng địa phương thông thạo chiến trường, sáng sớm 19 tháng 4, 812 phái ngay các tiểu đoàn tiến nhanh ra Mũi Né và vào Ngã Hai tấn công giải phóng hai chi khu Hải Long và Hàm Thuận trong buổi sáng hôm đó. Như vậy, sáng 19 tháng 4, toàn tỉnh Bình Thuận đã được giải phóng. 8 giờ 19 tháng 4, Ủy ban Quân quản Bình Thuận và Phan Thiết bắt đầu thực hiện quyền lực; tàn quân lục tục trình diện, nạp vũ khí. Quân đoàn giao lại tỉnh quản lý thị xã mới giải phóng, rút ra ngoại ô bố trí bảo vệ địa phương. Cơ quan tỉnh, thị vào Phan Thiết trong ngày, triển khai nhiệm vụ mới. Các cơ quan khu 6 đóng ở Phú Tài, Phong Nẫm.

10 giờ, một tốp oanh tạc từ hướng nam bay ra ném một loạt bom làm sập mấy căn nhà ở đường Hải Thượng Lãn Ông, không có ai bị thương vong. Phòng không Quân đoàn bắn dữ dội, cả tốp vội chuồn về Sài Gòn. Từ đó về sau không có tốp nào dám đến Phan Thiết nữa. thị xã yên vui với khí thế chiến thắng.

Trở thành hậu phương, Bình Thuận huy động ngay sức người sức của phục vụ tiền tuyến giải phóng miền Nam. Ngày 20 tháng 4, đại tá Huỳnh Hữu Anh, phó tư lệnh Quân khu 5 đến Phan Thiết đề nghị Bình Thuận huy động gấp 200 xe ô tô vận tải các loại, cả xe hành khách để chỡ Lữ đoàn 52 Quân khu 5 vào Nam tập kết kịp thời gian qui định của trên và đã được đáp ứng đầy đủ theo yêu cầu.

Trưa ngày 20 tháng 4, Quân đoàn 2 chia thay Quân khu và Bình Thuận lên đường tiếp tục nhiệm vụ mới. Anh Ba Mỳ cùng chúng tôi thay mặt Quân khu cảm ơn và tiễn các đồng chí Bộ Tư lệnh Quân đoàn tại Trường tiểu học Hàm Mỹ, nam Phan Thiết, Các anh rất vui lòng khen ngợi 812 Quân khu 6 và địa phương Bình Thuận đã đánh địch tốt, mở bàn đạp áp sát Phan Thiết, tạo điều kiện và phối hợp đắc lực với Quân đoàn, nhờ đó Quân đoàn đã vượt chỉ tiêu thời gian giải phóng Bình Thuận Phan Thiết được 2 ngày so với kế hoạch Bộ giao. Thời gian là lực lượng, thần tốc, táo bạo, hai ngày trong thời điểm đó thật vô cùng quý giá. Các anh có ý kiến Bộ Tư lệnh Quân khu 6 nên đề nghị trên khen thưởng Huân chương Quân công cho 812 và các lực lượng vũ trang Bình Thuận. Ai cũng hân hoan nhưng công việc bộn bề trước mắt cuốn hút nên rồi sau đó chuyện này cũng qua đi.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Tư, 2019, 09:48:48 am
Đội ngũ Quân đoàn 2/Cánh quân Duyên Hải tiến về Nam trùng trùng điệp, đồng bào hai bên phố cũng như nông thôn trước nay chưa bao giờ được chiếm ngưỡng cảnh tượng xe pháo quân ta kéo dài nghìn nghịt, vô cùng hân hoan cảm động, vẫy tay hoan hô chào tiễn không mỏi. Quân khu cử anh Ba Mỳ, Đỗ Phú Đáp và tôi theo Quân đoàn vào gặp các anh Lê Trọng Tấn, Lê Quang Hòa, tư lệnh và chính ủy cánh quân Duyên Hải đề nghị chi viện lực lượng giúp Quân khu 6 giải quyết nốt thị xã La Gi – tiểu khu Bình Tuy. Đến Suối Cát – Long Khánh gặp anh Tấn, anh Hòa cùng Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 đang ngồi nghỉ mát vệ đường. Nghe đề nghị của Quân khu 6, anh Tấn cười:

- Các đồng chí muốn giải phóng trước chứ không đợi Sài Gòn à? Ta đang đánh Xuân Lộc và sắp đánh Bà Rịa, Vũng Tàu. Xong các nơi đó thì các đồng chí “bất chiến tự nhiên thành” thôi mà!

Chúng tôi im lặng, hơi buồn, nhưng anh đã vui vẻ tiếp:

- Cũng được, giúp khu 6 giải phóng luôn cho trọn vẹn.

Rồi anh quay sang anh Nguyễn Hữu An, tư lệnh Quân đoàn 2:

- Quân đoàn để lại một ít lực lượng chi viện cho Khu 6 đủ giải phóng Hàm Tân, xong về lại đội hình, nhưng phải thật khẩn trương đấy!

Các anh tươi cười bắt tay chúng tôi, lên xe tiến về Nam dưới nắng chiều vàng rực rỡ. Chúng tôi nhìn theo đoàn quân trùng trùng, điệp đệp như vô tận này mà lòng tràn đầy sung sướng, tin tưởng. Anh Hoàng Đan, phó tư lệnh Quân đoàn giao nhiệm vụ cho anh Bùi Công Ái (tham mưu trưởng Quân đoàn) lấy 1 trung đoàn bộ binh, một tiểu đoàn pháo 130 và một đại đội tăng T54 quay lại giúp Khu 6. Được thêm lực lượng lớn quá mong muốn, trậm đánh chiếm La Gi sẽ rất thuận lợi.

Thời gian chiến đấu giải phóng Phan Thiết, tại Bình Tuy cũng diễn ra các trận chiến giành từng khu vực, từng lõm rất sôi nổi. Ở đây, từ đầu tháng 4, tàn quân địch từ Tây Nguyên, khu 5, trên đường tháo chạy về Sài Gòn, có một số khá đông quân ô hợp dừng lại đóng trên trục lộ 2, quanh sây bay Láng Gòn và bắc La Gi, căng lều trại ở thành từng cụm, xe cộ súng ống ngổn nang, lộn xộn, binh lính chen chúc, giành giật, cướp bóc quấy nhiễu nhân dân, giết chóc lẫn nhau, tạo cảnh hỗn quân hỗn quan cực kỳ rối loạn và gây nhiều tai họa cho đồng bào địa phương. Đại đội 88 cùng các công tác chiến đấu quyết liệt, mạnh mẽ, đã dồn địch xuống sâu thị xã, pháo kích sân bay Láng Gòn làm cháy một máy bay C130 ngay tại đường băng. Địch ở Láng Gòn kéo chạy hết về La Gi.

Trước đó, khi thất thủ Buôn Nam Thuột rồi rút chạy khỏi Tây Nguyên, đến Huế, Đà Nẵng, các tỉnh miền Trung cũng bị mất nốt, tàn quân của quân đoàn 1, quân đoàn 2 ngụy đều tháo chạy vào Sài Gòn, qua các tỉnh Cực Nam Trung Bộ. Có một toán bị du kích địa phương chặn đánh ở cây số 28 đường 1 nam Phan Thiết, bèn rẽ chạy dọc theo bờ biển Kê Gà để xuôi về La Gi mà vào Sài Gòn. Bọn này là tàn quân vùng chiến thuật 1 và 2 gom nhau lại đến 200 tên do đại tá Quang, sư trưởng sư 1 cầm đầu, có tám xe tăng và thiết giấp. đến Khe Cá hỏng ba xe bỏ lại, đến động cát đèo Đá Dăm – Tân Thành hỏng bỏ luôn năm chiếc còn lại, rồi chúng chia thành hai tốp đi bộ cả đêm, đến bãi biển Kê Gà lúc 20 giờ ngày 9 tháng 4, bị du kích Tân Thành phất hiện đánh tốp đi đầu chạy tán loạn. Ta thu bảy AR15, hai súng ngắn. Bọn đi sau nghe tiếng súng nổ tấp vào động cát nghe nóng rồi ngủ lại để sáng đi tiếp. Xã đội trưởng Binh chỉ huy du kích lùng sục đến 2 giờ 30 phút ngày 10 tháng 4 vừa phát hiện địch liền đánh phủ đầu và gọi hàng, diệt ngay tên Quang. Cả toán đầu hàng có tám sĩ quan gồm hai trung tá, năm thiếu tá, một đại úy, tất cả 160 tên, thu 88 súng có một trọng liên 12 ly 7, một đại liên, hai cối 81; sau đó đi lấy tiếp năm tăng M113 ở đèo Đá Dăm. Trong những ngày lịch sử, khi có thời cơ xuất hiện, xã đội Tân Thành có quyết tâm cao, nắm bắt kịp thời cơ, đánh địch giành thắng lợi lớn chưa từng có trong suốt hai cuộc chống Pháp, chống Mỹ ở Tân Thành.

Giải phóng xong Bình Thuận, Khu thành lập Bộ Chỉ huy giải phóng Bình Tuy để giải quyết nốt các huyện Hàm Tân, thị xã La Gi, tiểu khu Bình Tuy, phần đất còn lại của tỉnh Bình Tuy. Đồng chí Đỗ Phú Đáp làm chỉ huy trưởng, Ba Thành chính ủy, tôi phó chính ủy, Nguyễn Thanh Đức, Võ Như Loan chỉ huy phó. Lực lượng sử dụng gồm 812 (thiếu), 200C, các lực lượng quân sự chính trị địa phương và số quân chi viện của Quân đoàn 2. Sở Chỉ huy đóng tại một xóm nhỏ cạnh lộ 2, gần chân núi Nhọn. Bộ binh và xe tăng của Quân đoàn đóng dưới chân núi Nhọn. Pháo của Quân đoàn có anh Ái trực tiếp, triển khai bắc cầu Láng Gòn, ngày 22 tháng 4 được tin Xuân Lộc đã chiếm xong, vô cùng phấn khởi, rạo rực chờ tối để tấn công.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Tư, 2019, 09:50:45 am
17 giờ, tiếng động cơ tăng, thiết giáp vang lên rộn rã. Từ trong chân núi từng chiếc xe có cắm cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt nam lướt qua Sở Chỉ huy tiến trên đường 2. Sau đội hình tăng là đoàn cơ giới chở bộ binh hùng dũng, nối đuôi dài dằng dặc. 20 giờ, pháo hỏa chuẩn bị ào ào chụp xuống tiểu khu Bình Tuy. Cầu Láng Gòn đã bị địch phá sập khi rút chạy về tiểu khu, nhưng mùa khô nước cạn, xe tăng vượt qua sông Dinh dễ dàng, xông thẳng vào trung tâm thị xã. Cũng như ở Phan Thiết, nghe pháo gầm, tăng rú, địch tan rã ngay; lực lượng ta tấn công diệt sở chỉ huy tiểu khu, trung tâm hành quân, tòa tỉnh trưởng thật nhanh gọn. Tại tỉnh đường, một bữa ăn thịnh soạn còn nguyên trên bàn mà đại tá Trần Bá Thành tỉnh trương kiêm tiểu khu trưởng cùng đồng bọn vội chạy thoát thân chưa kịp đụng đến. Sáng sớm 23 tháng 4, trên đường xe chúng tôi chạy vào tỉnh lỵ, xác lính ngụy nằm rải rác, súng ống, giày mũ vứt bỏ đầy đường.

Ở Hàm Tân, cách La Gi hơn 15 cây số, khi được tin hai huyện Tánh Linh – Hoài Đức được giải phóng, tiếp đến Phan Thiết, Bình Thuận cũng giải phóng, đã động viên cổ vũ phong trào địa phương rất lớn, thúc giục nhân dân xã Tân Hiệp – Hàm Tân có truyền thống cách mạng ngày đêm theo dõi địch để nắm bắt thời cơ nổi dậy khởi nghĩa giành chính quyền, giải phóng quê hương với tinh thần xã tự giải phóng xã, huyện tự giải phóng huyện. Xã Tân Hiệp gồm ba xã cũ Tân Hải, Văn Mỹ, Hiệp Nghĩa bị địch đột nhập lại, nằm ở đông bắc quận lỵ Hàm Tân, có 8 ấp. Ngoài tề xã, 8 trung đội dân vệ ấp, một tổng đoàn dân vệ xã trang bị mạnh, còn có một đại đội bảo an tang cường giữ xã, vũ khí có đủ đại trung liên, cối 60, M79, bộ đàm PRC25. Về ta, đến 20 tháng 4, chỉ có một bộ phận bộ đội địa phương huyện 460 gồm 10 đồng chí, một chi bộ mật và cơ sở bên rong các ấp, một số nội tuyến trong dân vệ và phòng vệ dân sự, đội công tác Tân Hiệp. Biết địch đang rất hoang mang, dao động, đồng chí Lại Hồng Tháo (bí thư Huyện ủy) cùng Lương Minh Kỉnh (huyện đội trưởng) quyết định huy động toàn lực tại chỗ tấn công giải phóng xã Tân Hiệp rồi thừa thắng giải phóng luôn huyện Hàm Tân vì chi khu, quận lỵ Hàm Tân cũng nằm tại địa bàn xã Tân Hiệp. Quân số địch trong chi khu khá đông, có hai pháo 105 nhưng tinh thần đã rệu rã, bạc nhược nặng. 18 giờ ngày 22 tháng 4, cơ sở lãnh đạo quần chúng bao vây, hù dọa tác động mạnh làm cho đại đội 878 phụ trách năm ấp đóng ở đông bắc chi khu vô cùng hoang mang, kéo chạy về chi khu tác động lớn đến binh lính trong chi khu. 19 giờ, một trung đội bảo an đóng ở Tà Cú cũng tháo chạy hỗn hoạn. Đồng chí Kinh ra lệnh nổ súng, địch vứt bỏ vũ khí, cởi bỏ quân phục lẩn trốn vào dân. Ta phát loa kêu gọi binh lính đầu hàng cách mạng để được khoan hồng, cả trăm binh lính nạp vũ khí. Ở chi khu, địch cũng rất lộn xộn, đang chuẩn bị chạy bỏ chi khu. Thời cơ giải phóng huyện đã đến. 20 giờ ta mở máy biết trung tá quận trưởng Trần Hữu Giao đang chuẩn bị chạy. Lập tức các mũi vận động nổ súng vào chi khu. Địch bắn trả mấy loạt rồi im bặt. 460 tảo trừ làm chủ chi khu lúc 21 giờ. Như vậy, chỉ trong ngày và đêm 22 tháng 4, địa phương đã giải phóng hoàn toàn hai xã Tân Hiệp, Văn Mỹ và chi khu, cũng là toàn huyện Hàm Tân. Đây là một sự hiệp đồng tự nhiên rất thú vị vì huyện không biết cùng đêm 22 tháng 4, tỉnh tấn công La Gi. Thế là sáng ngày 23 tháng 4, toàn tỉnh Bình Tuy đã được giải phóng.

Ở tại tiểu khu cũng có chuyện nực cười: vào khoảng 5 giờ sáng 23 tháng 4, lúc đó ta còn truy lùng địch quanh thị xã thì nghe trong máy bộ đàm có tiếng một tên xưng là trung tá tham mưu trưởng tiểu khu Bình Tuy gọi về bộ tổng tham mưu ngụy ở Sài Gòn (?) báo cáo Quân giải phóng đã chiếm thị xã La Gi, nhưng lực lượng không nhiều, chỉ có một đại đội tăng T54 và ít bộ binh thôi, hắn xin Sài Gòn chi viện năm phi vụ oanh kích để hắn phản kích tái chiếm lại tiểu khu và thị xã La Gi (!). Đoán bọn khoác lác này đang trốn tại khu vực Đồi Dương sát bờ biển, một lực lượng ra ngay đó lùng sục thì bắt được toàn bộ sậu của Trần Hữu Giao mới từ Hàm Tân chạy về; tưởng tiểu khu còn bình yên, nào ngờ khi đến biết tiểu khu đã bị mất, hết phương đào tẩu, cả bọn bị tóm gọn. Còn tên xưng là tham mưu trưởng Bình Tuy vừa chạy thoát, vừa khoác lác mấy câu cho vẻ khí phách một chút rồi cũng biết số phận, đã cao chạy xa bay nên tìm không ra. Riêng tại chi khu Hàm Tân, huyện thu trên 1.000 súng có hai pháo 105, cả chục tấn đạn dược, máy móc và rất nhiều chiến lợi phẩm khác.

Hoan nghênh huyện Hàm Tân và xã Tân Hiệp, với lực lượng ít ỏi của mình, trong thời cơ lịch sử đã kịp thời chủ động, anh dũng đánh địch, tự giải phóng xã, huyện. Có lẽ ở Bình Thuận và Bình Tuy (cũ) chỉ có nơi này làm được như vậy mà thôi.

Tiếc rằng ở Bình Thuận, do không nắm được địch bỏ trốn Phan Thiết 3 ngày 3, 4, 5 tháng 4 nên mất một thời cơ vàng tỉnh giải phóng tỉnh như Trung ương Cục đã kêu gọi các địa phương nỗ lực xông lên, nắm lấy thời cơ tỉnh, huyện, xã tự giải phóng mình. Thật ra lúc đó ở Tam Giác rất gần Phan Thiết, ta có các tiểu đoàn 200C, 482, Đại đội 5 đặc công, Đại đội 3/430 Hàm Thuận, các đơn vị đặc công thị và các lực lượng chính trị thị, nếu kịp vào Phan Thiết chiếm giữ vài ngày thì đã có Trung đoàn 812 về, càng thêm mạnh. Trong thời điểm đó, khi Đại đội 5 Trinh sát 812 đi trước lên đường 20, thấy địch bỏ trống chi khu Di Linh bèn vào chiếm giữ ngay. Địch có mấy tiểu đoàn lúc rút chạy, biết lực lượng ta chỉ có một đại đội bèn quay lại tái chiếm. Đại đội 5 dũng cảm chiến đấu giữ vững Di Linh, 812 liên tiếp đánh một trận lớn tại Đông Đô diệt hàng trăm tên, thu hàng trăm súng có cả hai pháo 105. Đại đội 5 trinh sát 812 cũng đã có quyết tâm cao làm nên một chuyện lớn hiếm có.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Tư, 2019, 09:51:48 am
Sáng ngày 23 tháng 4, anh Trần Lê (bí thư Khu ủy, Quân khu ủy, chính ủy Quân khu 6) có mặt ở Sở chỉ huy, cười vui vẻ:

- Thế là toàn bộ đất liền Khu 6 ta đã được giải phóng.

Cũng không lâu, đêm 26 tháng 4, lực lượng huyện Tuy Phong phối hợp với đoàn 382 Hải quân và đặc công Bộ đổ bộ lên đảo Phú Quí (cù lao Thu) đánh chiếm toàn bộ đảo trong 1 giờ. Địch ở đây không tên nào trốn thoát. 7 giờ ngày 27 tháng 4 nhân dân trên đảo tổ chức mít tinh trọng thể mừng chiến thắng giải phóng đảo. Chính quyền cách mạng Phú Quí được thành lập.

Chiều 28 tháng 4, tôi đang ở Phan Thiết thấy năm máy bay từ phía nam bay ra, nghiêng cánh vòng một vòng trên bầu trời thị xã. Nào biết máy bay ta đi oanh kích sân bay Tân Sơn Nhất về, cũng không được trên thông báo trước, cứ tưởng máy bay địch ở Sài Gòn ra sắp bắn phá thị xã, tất cả hỏa lực phòng không bảo vệ Phan Thiết từ trên các điểm cao, trên các sân thượng nhà tầng, cùng các loại súng dưới đất bắn lên dữ dội. Biết mặt đất lầm, tốp máy bay cất cao bay về hướng bắc. Thì ra, trên đường về bay ngang qua, tốp máy bay này nghiêng cánh chào thị xã giải phóng! Hú vía, may là bắn dở quá, nếu bắn giỏi lỡ rơi một chiếc thì ân hận biết bao!

Trưa 30 tháng 4, chúng tôi cùng đồng bào cả nước vô cùng mừng vui biết đại quân ta đã chiếm Dinh Độc Lập. Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng; miền Nam thành đồng Tổ quốc sau 30 năm, cùng cả nước chiến đấu bền bỉ kiên cường, nay đã giành thắng lợi hoàn toàn như Bác Hồ muôn vàn kính yêu đã khẳng định trong di chúc thiêng liêng của Người, càng nhớ đến Bác kính yêu và tưởng như có Bác trong ngày vui toàn thắng này.

Đất nước sang trang mới. Ngày 15 tháng 5, Phan Thiết, Bình Thuận cũng như khắp nơi làm lễ lớn mừng giải phóng miền Nam, Tổ quốc hoàn toàn độc lập – tự do, tiến tới Nam Bắc thống nhất một nhà.

Cơ quan Quân khu 6 và 812 chuyển lên đóng ở Đà Lạt. Tôi lại cùng đồng chí Phạm Ty đi truy quét Phun-rô một một thời gian ở quanh vùng rừng núi Lang Biang nam Di linh – Lâm Đồng. Quân khu 6 giải thể, các tỉnh thuộc Khu 6 trở thành tỉnh Thuận Lâm, tỉnh lỵ đóng tại thị xã Phan Rang – Tháp Chàm, Ninh Thuận. Các lực lượng vũ trang Quân khu 6 trực thuộc Quân khu 5. Một thời gian ngắn, tỉnh Thuận Lâm lại chia thành 2 tỉnh Thuận Hải, Lâm Đồng; tỉnh lỵ Thuận Hải về đóng ở Phan Thiết. Tôi được bổ nhiệm làm phó chính ủy Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Thuận Hải.

(https://lh3.googleusercontent.com/nUlfEaNPsdYunO9GINreZEf1I73DSe2CCNrVbSOhnnegIk8btLGNTYKF1-uErc4YDUX9qgsLk6fyR8pySfIj6ouWg1LFysDiC878Gbp0EWzFNf-wIPToZTXooRSGEeI_g4oy8pb74a6GP0VlMknws7UudDNsbRhh2WJ_UikPMQfHGF9SXxhoZB_4zpoPPrrRqsTDmyAApBHbRZmPdKphrq9nMQ_WvMZ_zk6M1rG__kvnaRJDDH9FL6490gWk4cs7rQ8fCeFwTqKPjLG3LXasoCwuxaQpglsy6rxZqt-riE_IGr4x_eaQffD8QFc94wE384KSQgngbNHLSrhnkfpAJTpWKTc_B1l_dn35aPKpkqtLgD9A0H-KAj6s_OGDNu4aJvqvb4J2MmeJaJ3GlAVh9SCtBXALTJX6AiGFGGNippNNtr690KHFB7Lzi1NXt4NilQusjMlilAD-3cl-s0LwNnBvNWROQI_AcEXVZBXThawEbcJDY24nEaWJWwnQ2sTLUVGSZa3MEtsGfu6y9r6E1voJi20QJMSe4fSV1lvOP1l8qKnLWEJNoQ6glc7rdxSlxXfwY8lQVGSqCaW9-WddMtToBwbgI4XVT_csWiexxc18WkLD6bGNMpnXcoP9beWWdDMCrGaMvAGvUL7iFlTmW-kP918qKbk=w1200-h758-no)


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Tư, 2019, 09:53:27 am
VÀI LỜI KẾT

Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh và Bác Hồ vĩ đại, cùng đồng bào, đồng chí, đồng đội, tôi đã đi qua chặng đường chiến đấu 30 năm, từ buổi đầu tham gia cướp chính quyền trong Cách mạng tháng Tám ở quê nhà rồi nhập ngũ cầm súng bảo vệ Tổ quốc trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, cứu nước cho đến ngày giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà, đem hết sức mình góp phần từng bước xây dựng Tổ quốc Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới, thực hiện điều mong muốn cuối cùng của Bác Hồ muôn vàn kính yêu trước lúc đi xa.

Sau tháng 4 năm 1975, tôi còn công tác trong Quân đội, đã kinh qua các nhiệm vụ phó chỉ huy trưởng về chính trị rồi chỉ huy trưởng Quân sự tỉnh, phó bí thư và bí thư Đảng ủy Quân sự tỉnh. Từ giữa năm 1986, tôi giữ chức vụ Chỉ huy trưởng Quân sự tỉnh. Tháng 4 năm 1989, tôi được phong quân hàm thiếu tướng. Tháng 7 năm 1992, nghỉ hưu. Tôi cũng đã tham gia một số công tác chính trị - xã hội ở địa phương: ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy, ủy viên Hội đồng nhân dân tỉnh, ủy viên Ủy ban nhân dân tỉnh, phó chủ tịch Mặt trận Tổ quốc tỉnh, đại biểu Quốc hội khóa 8, ủy viên Ban Chấp hành Hội Văn nghệ tỉnh, ủy viên Ban Chấp hành Chi hội Việt Xô hữu nghị tỉnh. Trong các năm 1976-1977 và 1979-1980, tôi được đi học lớp chính trị cao cấp ở Trường Nguyễn Ái Quốc – Cầu Giấy – Hà Nội và Học viện Quân sự cấp cao Hà Nội. Ngày 3 tháng 2 năm 1998, tôi đã nhận Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng.

Hiện nay, ngoài sinh hoạt Đảng ở chi bộ khu phố, tôi còn là hội viên Cựu chiến binh, hội viên Người cao tuổi ở khu phố, hội viên Hội Văn nghệ tỉnh.

Về với đời thường, tôi vẫn giữ vững bản chất “anh bộ đội Cụ Hồ”, bản chất người đảng viên Cộng sản, dù nay tuổi cao sức khỏe yếu (năm 1994 tôi bị tai biến não), tôi vẫn luôn phấn đấu rèn luyện, tiếp tục con đường cách mạng lâu dài trong giai đoạn mới, tiếp tục góp phần nhỏ bé theo sức mình vào sự nghiệp đổi mới của Đảng và nhân dân ta, đi đến mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Xin được kết thúc tập hồi ức này bằng mấy câu cảm tác:

Cuộc đời như thoáng bóng mây qua
Thấm thoát mà nay đã tuổi già
Đã sống phải cho nên lẽ sống
Quay nhìn vẫy thấy đẹp lòng ta!

Canh Thìn – 2000


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Tư, 2019, 09:57:00 am
PHỤ LỤC

MỘT SỐ Ý KIẾN TRONG HỘI THẢO KHOA HỌC
VỀ CHIẾN THẮNG HOÀI ĐỨC – BẮC RUỘNG

1. Đồng chí Nguyễn Văn Linh, nguyên Bí thư Trung ương Cục miền Nam, nguyên Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam:

“… Chiến thắng Hoài Đức – Bắc Rộng là thắng lợi của cuộc tấn công và nổi dậy, là một trong các chiến thắng mở đầu cho bước ngoặt của phong trào chống Mỹ - ngụy, cứu nước ở miền Nam. Hôm nay ta hội thảo chiến thắng Hoài Đức – Bắc Ruộng, theo tôi, ta phải nêu ý nghĩa lịch sử của nó là đã cùng với các chiến thắng khác như Tua Hai, Trà Bồng… mở ra bước ngoặt chiến lược và lịch sử, dồn đến những thắng lợi liên tục khác, dẫn đến chiến dịch Hồ Chí Minh vĩ đại giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc”.

(https://lh3.googleusercontent.com/C6R-xjh7NlhScoxamT9TSlWeTX2FMFSKtWSAj1gIhCIV_U11C7WnAePycqoASOvI1LO6ULC-1ZuHxduC_vEMwcDwD2LaELh6eUehDTXVr-lI7DYl2mwPu39vWVkqwYe4zIIVfpG7u087oWxxBRrEbprojeTSRYP3mImHNip7Drht-h7NCU9N0ajBmWq2cc6WvBFWIVvTGXEiWecY_--MxNZp6ARTJq7R3rrZ_2n6hRPZl1rVg7nDgpf0E7SFHAANF7A5Z5FC-C9YGtKTJeYa9k1JZRBgqasGMd1u1wN8LybfU1VgEHFNHJ8cX03_sSl6i0sSVMUsIuT2_BpQaSwzE9WX1xG1aD7En6WaD1N0mXQEWmYnkHZ37HISeQ5lMjdsGly14CG_M-6v3fMHhvPluuRWFxOpjMnbmmHBRMEC4y_wVI94ku8NYh2gPyvu9nETLO6gga_91TledyhMoyZiFQrW0i5zWX0nt0AmTwO6C9ImEljqzXbDKdahQg5O6qqql7McgrYNR5yW3RBemtUDd69T3MTgsLFSv0H5bQWDX7EuarSaEfS7KI_ravvxDVXK45uxjwFgu31guqKJqeZfMYt9t5Dx7rzHLVquldxbZKBUf06_cXEDIz1AXuWjHxhU0d-vI227znAhhuDdVOBVMWA_CtOeBLA=w573-h800-no)

Đồng chí Nguyễn Văn Linh - Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
tại Hội thảo "Chiến thắng Hoài Đức - Bắc Ruộng", ngày 31 tháng 7 năm 1993.

2. Thượng tướng Trần Văn Trà, nguyên Tư lệnh Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam:

“… Chiến thắng Hoài Đức – Bắc Ruộng diệt chi khu, giải phóng 5.000 dân là ngọn cờ đồng khởi của tỉnh Bình Thuận, đưa nhân dân nổi đậy phá kềm, làm chủ thôn xóm, phát triển lực lượng cách mạng của Liên tỉnh Cực Nam Trung Bộ. Đây là sự chấp hành một cách sáng tạo Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng… Lực lượng vũ trang của tỉnh không nhiều, chỉ không đầy một trung đội, trang bị yếu đã tiêu diệt hoàn toàn chi khu quân dự do một đại đội bảo an được trang bị mạnh đóng giữ, đồn bót có công sự tương đối kiên cố và còn đánh chặn một lực lượng địch lớn truy kích, bảo đảm an toàn cho đông đảo nhân dân về đến buôn làng. Điều đó chứng tỏ người chỉ huy hiểu rõ địch ta, dũng cảm hạ quyết tâm đầy tự tin và có trách nhiệm cao. Chiến thắng Hoài Đức – Bắc Ruộng là một sự kiện lịch sử mãi mãi đáng ghi nhớ trong thời kỳ đầu chống Mỹ oanh liệt của nhân dân miền Nam thành đồng Tổ quốc…”.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Tư, 2019, 09:58:14 am
3. Thượng tướng Nguyễn Minh Châu, nguyên Tư lệnh Quân khu 6:

“… Trận tấn công và nổi dậy khởi nghĩa tiêu diệt chi khu quân sự Hoài Đức và khu tập trung Bắc Ruộng đã từng là niềm tự hào có tầm bước ngoặt mở ra một cục diện mới trong cuộc kháng chiến chống Mỹ của tỉnh và của cả vùng Cực Nam Trung Bộ, góp phần xây dựng truyền thống đấu tranh cách mạng ở địa phương và góp phần vào việc viết lịch sử kháng chiến chung. Trong đặc điểm tình hình bối cảnh lịch sử vô cùng phức tạp của tỉnh Bình Thuận, với một lực lượng rất ít, bằng một phần mười so với địch, đã dám tấn công và nổi dậy khởi nghĩa ở một chi khu quân sự và khu dinh điền kiểu mẫu của địch, giành thắng lợi một cách trọn vẹn; điều đó có ý nghĩa rất lớn đáng tự hào, là một bước ngoặt mở đầu tạo ra bước phát triển nhảy vọt mang tính chất cách mạng ở Bình Thuận và Liên tỉnh 3, tạo ra bước nhảy vọt trong vận dụng phương châm phương thức đấu tranh vũ trang hỗ trợ cho đấu tranh chính trị của Nghị quyết 15, mở đầu tạo ra một mô hình mới đồng thời tấn công và nổi dậy khởi nghĩa được kết hợp một cách thành công trong cuộc chiến tranh giải phóng ở miền Nam. Kết hợp tấn công quân sự với nổi dậy khởi nghĩa của quần chúng, lấy tấn công quân sự của lực lượng vũ trang tập trung phá đồn bót, chi khu, phá kềm, tạo thuận lợi cho lực lượng chính trị, binh vận phát động quần chúng nổi dậy khởi nghĩa mà điển hình và cũng là lần đầu tiên đó là trận Hoài Đức – Bắc Ruộng. Ở Hoài Đức – Bắc Ruộng, địch bố trí kềm giữ dân bằng hệ thống chi khu đồn bót, ta muốn giành dân, đưa dân về không có cách nào khác là phải đánh diệt chi khu đồn bót, tạo điều kiện cho quần chúng nổi dậy. Việc kết hợp cùng một lúc giữa tấn công và nổi dậy khởi nghĩa thể hiện tính thực tiễn “địch thế nào, ta phải đánh như thế ấy”. Việc kết hợp này là sự vận dụng sáng tạo trong việc kế thừa và kết hợp giữa mô hình tấn công đơn thuần về mặt quân sự và mô hình khởi nghĩa của quần chúng có lực lượng vũ trang hỗ trợ đã có trong thực tiễn đồng thời việc kết hợp trên là sự vận dụng sáng tạo phương châm phương thức đấu tranh vũ trang hỗ trợ đấu tranh chính trị của Nghị quyết 15 ở mức cao; nó báo hiệu sự mở đầu trong việc vận dụng quy luật chiến tranh cách mạng góp phần vào việc chuyển giai đoạn chiến lược từ khởi nghĩa vũ trang từng phần tiến lên chiến tranh cách mạng ở miền Nam. Chiến thắng Hoài Đức – Bắc Ruộng đã tạo điều kiện thuận lợi cho Bình Thuận và Liên tỉnh 3 thực hiện nhiệm vụ xây dựng và mở rộng căn cứ, phát triển phong trào cách mạng, góp phần cùng với Trung ương bảo đảm đường hành lang chiến lược nối liền địa bàn Bắc Tây Nguyên thông qua Nam Tây Nguyên về đến miền Đông Nam Bộ, bước đầu tạo cơ sở và điều kiện để Trung ương quyết định thành lập Quân khu 6 vào năm 1961, một quân khu mà lúc đầu đấu tranh lo bảo đảm hành lang chiến lược vào Nam Bộ và xây dựng căn cứ địa chiến lược lâu dài cho cách mạng ở miền Nam, nơi đứng chân của Trung ương Cục chỉ đạo chung cho cuộc kháng chiến…”.

4. Nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng, nguyên Bí thư Khu ủy Sài Gòn – Gia Định:

“… Nếu nhìn lại thời điểm đó chắc ít ai thấy hai mươi mấy con người lại dám đánh cả một chi khu quân sự đông tới 300 người. Nếu ngồi mà phân tích một hồi thì đa số không dám đánh. Đó là một điểm rất lớn trong tư tưởng quân sự, trong tư tưởng cách mạng. Còn nếu không đánh thì không có gì cả và cũng không có khuyết điểm. Tôi nghĩ trong tương quan địch ta như thế mà đưa ra khỏi khu tập trung mấy nghìn con người thành công như thế, tiêu diệt sinh lực địch và thu một số lượng vũ khí lớn như thế thì thành công đó lớn lắm… Trong những năm đầu chống Mỹ, tình hình địa phương còn đen tối mà tạo nên được một chiến thắng như Hoài Đức – Bắc Ruộng là một sự kiện khá đặc biệt. Trong trường hợp này mà chần chừ do dự là rất dở, kết quả diễn ra có thể như thế này thế khác. Ở đây ý chí quyết tâm căn bản đã tạo ra cục diện mới, chẳng những có ý nghĩa lớn đối với hôm nay. Chúng ta hội thảo như thế này là để bồi đắp thêm cho Bình Thuận truyền thống cách mạng mà cũng là để ghi chiến công của những người dám làm nên thắng lợi của trận đánh, ghi nhớ công ơn của biết bao người đã hy sinh, chúng ta trả nợ đó một cách xứng đáng, công bằng…”


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Tư, 2019, 09:59:44 am
5. Trung tướng Phan Hoan, Tư lệnh Quân khu 5:

“… Như trong đặt vấn đề của Thường vụ Tỉnh ủy, Thường trực Ủy ban nhân dân và trong bản báo cáo trung tâm đã nêu lên toàn diện đối sách và diễn biến, kết quả. Tôi xin đi sâu 3 điểm:... Bình Thuận có vinh dự được mở đầu đợt hoạt động quân sự do Liên Khu ủy 5 và Liên tỉnh 3 phát động. Đơn vị 2-9 của tỉnh do đồng chí Phạm Hoài Chương (Sáu Nam), đồng chí Lê Văn Triều chỉ huy đánh đồn chi khu quận lỵ Hoài Đức của địch trong đêm rạng 31 tháng 7 năm 1960 có ý nghĩa quan trọng sau 4 năm Mỹ - Diệm không thực hiện tổng tuyển cử mà vẫn ngoan cố âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta. Kết quả trận đánh đã diệt và bắt hơn 300 tên, bắt nhiều tù binh, thu nhiều súng đạn, ta chỉ thương vong nhẹ ba đồng chí; đặc biệt đã đưa trở về an toàn 5.000 đồng bào các dân tộc bị kềm kẹp trở về làng cũ, trong khi nước lũ, phải tổ chức vượt sông dưới mọi điều kiện thiếu phương tiện và kẻ địch đang cố giành giật, đánh phá. Chiến công này biểu hiện sinh động tinh thần lấy nhỏ thắng to, lấy tinh thần vì dân và bảo vệ dân. Chiến thắng này là bước nhảy vọt làm chuyển biến tình hình ở Bình Thuận, đã lập nên khu căn cứ rộng hàng ngàn ki-lô-mét vuông. Liên tỉnh 3 đã vận dụng kinh nghiệm và tác động của chiến thắng Hoài Đức – Bắc Ruộng đã tạo ra, đã chỉ đạo lực lượng vũ trang đồng loạt tiến công đồn Tà Lú – Mã Ty, hỗ trợ cho hàng ngàn đồng bào dân tộc nổi dậy phá khu tập trung trở về làng cũ. Tính đến cuối năm 1960, đã đấu tranh mở ra vùng giải phóng với trên 30.000 dân thuộc 23 xã liên hoàn của hai huyện Khánh Sơn – Vĩnh Sơn ở Khánh Hòa, hai huyện Di Linh, Tánh Linh ở Bình Thuận. Từ đó đồng bào các dân tộc thực hiện phong trào “tự trị làm chủ núi rừng”.

Chiến thắng Hoài Đức – Bắc Ruộng cùng với chiến thắng giải phóng chi khu quân sự Tu-mơ-rông – Đắc Hà ở bắc Kon Tum và một số nơi khác đã tạo thế tấn công đều khắp trên toàn Miền, bước đầu làm cho địch mất một số vị trí quan trọng ở vùng giáp ranh, mở mảng lớn, tạo ra nguồn nhân tài, vật lực, tạo nên bước ngoặt lịch sử đối với phong trào cách mạng địa phương. Tác động của chiến thắng Hoài Đức – Bắc Ruộng đã mở ra hướng Lâm Đồng, Tây Nguyên, tiến xuống đồng bằng phá kềm. Thắng lợi của Hoài Đức – Bắc Ruộng mở đầu phong trào đồng khởi của tỉnh, phát triển nhanh lực lượng vũ tang địa phương, bước đầu làm thất bại âm mưu tập trung kềm kẹp đồng bào các dân tộc, đánh bại “quốc sách” và chính sách “thượng du vận” của địch. Đánh bại cái mà Ngô Đình Diệm đã chỉ thị cho trung tướng Thái Quang Hoàng “mất súng không cần nhưng mất dân Thượng khu dinh điền là không được”.

… Trận đánh Hoài Đức – Bắc Ruộng chỉ với 28 cán bộ, chiến sĩ của đơn vị 2-9 phối hợp với cấp ủy địa phương đã đánh một trận, tiêu diệt nhanh ghọn, bắt nhiều tù binh, thu nhiều vũ khí. Đánh lui một lực lượng gồm một trung đoàn của địch lên cứu viện nhằm đuổi theo bắt lại số dân ta giải phóng trên đường trở về làng cũ. Thực sự đây là một trận đánh không chỉ bằng quân sự mà bằng chính trị nhiều hơn, là kết quả của hàng loạt hoạt động phong phú. Trước hết nhằm giải phóng và đưa số dân bị kềm kẹp, trở về làng cũ núi rừng để xây dựng căn cứ địa, làm chỗ đứng chân và chỗ dựa cho cách mạng. Bởi vì không có dân thì không thể xây dựng căn cứ được, có dân là có tất cả.

Đơn vị 2-9 của tỉnh thực chất cũng là một đội quân tuyên truyền làm công tác dân vận tốt. Do được giáo dục kỹ, cán bộ và chiến sĩ của đơn vị biết chịu đựng gian khổ, thương yêu đồng bào, ăn ở với đồng bào, làm nhiều điều tốt với đồng bào và được đồng bào thương yêu, tin tưởng, đoàn kết, giúp đỡ. Với nội bộ 2-9 thường xuyên làm tốt công tác chính trị tư tưởng, thường xuyên giáo dục và phát động thi đua đánh thắng trận đầu để phục vụ phong trào địa phương và xây dựng truyền thống cho đơn vị. Được quán triệt quyết tâm “trong bất cứ tình huống nào cũng phải đưa được dân trở về an toàn”, do đó đơn vị đã có kế hoạch chu đáo trong việc đánh đồn, diệt viện và khắc phục khó khăn mưa gió, lũ lụt đưa đồng bào qua sông nhanh chóng. “Lấy ít địch nhiều” đánh lạc hướng và phân tán lực lượng địch, đơn vị biết khéo nghi binh lừa địch như rải truyền đơn, kể cả việc tập nói tiếng Nam Bộ để uy hếp địch, giữ bí mật, đánh bất ngờ. Nét nổi bật ở đây của 2-9 là biết khắc phục mọi điều kiện khó khăn, kiên quyết hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Thành quả này đạt được trước hết là 2-9 được giáo dục kỹ về động cơ, mục đích vì nhân dân mà chiến đấu, vì nhân dân mà phục vụ, đã đoàn kết, gắn bó với nhân dân, dựa vào dân. Nói như ngày nay là phải biết “lấy dân làm gốc”, xây dựng tinh thần quân với dân một ý chí.

Trận đánh Hoài Đức – Bắc Ruộng đã đi vào lịch sử nhưng âm vang của nó vẫn mãi mãi hào hùng và đã minh chứng cho tinh thần quật khởi của dân tộc ta, cho ý chí chiến đấu của quân và dân Bình Thuận. Ôn lại những kỷ niệm chiến đấu oanh liệt của dân tộc ta nói chung, của quân và dân Bình Thuận nõi riêng, nhắc nhở chúng ta phải quý trọng giá trị lịch sử, phải luôn luôn tôn trọng và phát huy sáng tạo truyền thống, nêu cao tinh thần ý chí tự chủ, tự lực, tự cường xây dựng quê hương, ngày càng giàu đẹp. Chính đây là chúng ta đã tôn trọng, giữ gìn xứng đáng với truyền thống chiến công oanh liệt của Hoài Đức – Bắc Ruộng”.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Tư, 2019, 10:00:54 am
6. Giáo sư Hồ Sỹ Khoách, Trưởng khoa Lịch sử Trường Đại học Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh:

“… Chiến thắng Hoài Đức – Bắc Ruộng theo chúng tôi có những nét nổi bật riêng của nó trong phong trào tiến công và nổi dậy những năm 1959-1960. Trước hết, đây là một trận đánh mà số quân của ta không lớn, diễn ra trong thời gian ngắn nhưng hiệu suất chiến đấu và kết quả rất cao. Tiêu diệt và làm chủ toàn bộ chi khu quân sự quận lỵ Hoài Đức và khu tập trung Bắc Ruộng, diệt và bắt trên 300 tên, thu trên 250 súng. Nếu so sánh tương quan lực lượng đơn thuần thì đã có một tỷ số 1 thắng 10. Tỷ số lại diễn ra trong thời kỳ đầu đấu tranh vũ trang của lực lượng vũ trang mới hình thành ở một sô địa phương miền Nam. So với chiến thắng Giồng Thị Đam – Gò Quản Cung và chiến thắng Tua Hai thì chiến thắng ở chi khu quân sự Hoài Đức có cái riêng của nó. Chiến thắng Hoài Đức – Bắc Ruộng đã bồi thêm một quả đấm trí mạng vào chính sách bình định của địch ở miền núi, các tỉnh đồng bằng Trung và Nam Trung Bộ, thúc đẩy cao trào nổi dậy đồng khởi năm 1960. Sau khi phá được khu tập trung Bắc Ruộng, ta đã đưa được toàn bộ số dân hơn 5.000 đồng bào Thượng trở về buôn làng cũ, có nơi xa 20 cây số, một cách an toàn trong hoàn cảnh địch truy đuổi và vào giữa mùa mưa ở vùng rừng núi. Chúng ta thử hình dung đây là một cuộc di chuyển của trên 1.000 gia đình với không biết bao nhiêu khó khăn phức tạp, người già, trẻ thơ, người bệnh phải khiêng, đồ đạc, gia súc không thể không mang đi theo. Cuối cùng những khó khăn thử thách nghiêm trọng đó đã được khắc phục, đã đưa được toàn bộ trở về an toàn và trọn vẹn, nguyện vọng thiết tha của hơn 500 đồng bào người Thượng đã được thỏa mãn, mục tiêu phá khu tập trung, giải phóng dân và được thực hiện một cách triệt để. Sau chiến thắng Hoài Đức – Bắc Ruộng, căn cứ địch ở miền núi Bình Thuận đã được mở rộng hàng ngàn cây số vuông. Đây là ngọn cờ, là chỗ dựa vững chắc cho bước chuyển thế của phong trào cách mạng toàn tỉnh, có điều kiện mở mảng xuống đồng bằng, vào đô thị, mở đầu cho phong trào đồng khởi của Bình Thuận và Liên tỉnh 3 Cực Nam Trung Bộ, cần được đánh giá và ghi nhận. Để giành được thắng lợi cho trận đánh trên cơ sở chuẩn bị chiến trường chu đáo, lãnh đạo và cấp chỉ huy bộ đội có kế hoạch tác chiến toàn diện, chính xác trong tiến công địch địch cũng như trong nhiệm vụ đưa dân về hết sức nặng nề. Thực hiện được trọn vẹn các mục tiêu của trận đánh, đó là những cán bộ chỉ huy dũng cảm, sáng tạo, sâu sát; đó là những chiến sĩ 2-9 đoàn kết gắn bó, biết yêu thương, phục vụ đồng bào các dân tộc vùng cao, chiến đấu ngoan cường, hoàn thành nhiệm vụ xuất sắc. Những nhân tố này được vun đắp và phát huy trong quá trình của cuộc kháng chiến. Kỷ niệm 33 năm ngày chiến thắng Hoài Đức - Bắc Ruộng, Đảng bộ, quân và dân Binh Thuận cùng cả nước tự hòa về chiến công đầu này, đã góp phần thúc đẩy mạnh mẽ cao trào đồng khởi năm 1960 trên toàn Miền. Chiến thắng này phải được đặt vào vị trí xứng đáng của nó trong lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta…”

7. Thiếu tướng, Phó giáo sư Bùi Công Ái, Phó viện trưởng Viện Lịch sử Quân sự Bộ Quốc phòng:

“… Cũng phải nói rằng, nếu tôi không nhầm thì đây là trận đánh giải phóng và đưa dân về xây dựng căn cứ kháng chiến ở vùng rừng núi vô cùng khó khăn, phức tạp nhưng thắng lợi trọn vẹn nhất, có một không hai trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta, Thắng lợi Hoài Đức – Bắc Ruộng đã phát huy truyền thống đánh giặc của ông cha ta, đã góp phần phát triển nền nghệ thuật quân sự Việt Nam, một nền quân sự độc đáo mang màu sắc dân tộc Việt Nam được cách mạng hóa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, một nền nghệ thuật quân sự ưu việt hơn nghệ thuật quân sự Hoa Kỳ, một quân đội có tiềm lực quân sự và đã huênh hoang là một quân đội chưa từng thua ai; ta đã đánh thắng chúng với quy luật chiến tranh mạnh thắng yếu. Với một trận đánh mà địch đông hơn ta, hiện đại hơn ta. Lấy ít địch nhiều, lấy nhỏ thắng lớn, lấy đoản chế trường, trận Hoài Đức – Bắc Ruộng đã phát huy truyền thống đánh giặc của ông cha ta, đã vận dụng một cách sáng tạo mưu kế thế thời, biến sức chiến đấu của ta ít mà hóa nhiều, yếu mà hóa mạnh; trái lại, địch đông mà hóa ít, mạnh mà hóa yếu. Ta thì phát huy sở trường mà địch thì không phát huy được cách đánh của chúng, buộc địch phải đối phó với cách đánh mà ta đã lựa chọn. Một vấn đề khá lý thú về nghệ thuật quân sự đánh Hoài Đức – Bắc Ruộng là giữ được bí mật, chọn thời điểm tấn công mà địch không ngờ đến, kết hợp với phương thức tác chiến sở trường của ta trong điều kiện lực lượng ta ít mà phải đánh lại một đối phương mạnh, đó là dùng chiến thuật đặc công luồn sâu ém sẵn các mục tiêu, vì vậy mà khi ta bắt đầu nổ súng, địch không kịp trở tay, đối phó lúng túng, thật đúng như Hoàng Lê nhất thống chí đã miêu tả cách đánh của Lê Lợi “Ẩn hiện như quỷ thần, tưởng như trên trời rơi xuống, quân như dưới đất chui lên”. Một nhân tố không kém phần quan trọng trong thắng lợi của trận Hoài Đức – Bắc Ruộng là mưu trí, sáng tạo, quyết đoán, tác phong chỉ huy sâu sát của cán bộ lãnh đạo, chỉ huy; bình tĩnh xử trí các tình huốn xảy ra đầy tính quyết đoán, sáng tạo và linh hoạt.

Có thể nói rằng chiến thắng Hoài Đức – Bắc Ruộng là một điểm son đầu tiên trong lịch sử chống My của quân và dân Bình Thuận, là bước ngoặt lịch sử trong việc chuyển từ đấu tranh chính trị sang kết hợp đấu tranh vũ trang, một trận đánh với hiệu suất chiến đấu rất cao, đã để lại cho chúng ta những bài học hết sức quý báu, vô giá, có ý nghĩa lịch sử rất lớn trong việc xây dựng an ninh quốc phòng trong tình hình mới hiện nay…”.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Tư, 2019, 10:02:26 am
8. Đại tá, Phó tiến sĩ Phan Minh Thảo, Hội Khoa học Lịch sử thành phố Hồ Chí Minh:

“… Thắng lợi quan trọng này cùng với chiến thắng Tua Hai ở miền Đông Nam Bộ đã làm rung chuyển hệ thống phòng thủ quân khu 3 và của bộ tư lệnh tối cao Mỹ ở Sài Gòn. Vũ khí và quân trang quân dụng đã góp phần to lớn vào việc phát triển lực lượng vũ trang còn nhỏ bé của tỉnh. “Một miếng khi đói bằng một gói khi no”, những cây súng đầu tiên lấy được của địch để đánh địch cũng là một tiền lệ để đề ra việc xây dựng hậu cần tại chỗ. Điều đó lại càng có ý nghĩa quan trọng trong những năm đầu chiến tranh chống Mỹ, khi mà tuyến đường 559 chưa vào đến vùng Nam Tây Nguyên. Thắng lợi quân sự giòn dã như vậy đã mở ra cho lực lượng vũ trang Bình Thuận một cách nhìn và cách suy nghĩ mới về việc đánh giá tương quan lực lượng giữa địch và ta, về vận dụng phương châm, về sử dụng lực lượng trong điều kiện mới của cuộc chiến tranh giải phóng. Chiến thắng Hoài Đức - Bắc Ruộng có ý nghĩa quân sự và chính trị to lớn vượt quá tầm vóc của nó, đã làm cho nhân dân Bình Thuận càng tin tưởng hơn vào sự lãnh đạo của Đảng, vào khả năng lực lượng vũ trang của tỉnh và cổ vũ họ tiếp tục đứng lên cùng với toàn Miền tấn công địch, thực sự mở dường cho Bình Thuận và Liên tỉnh 3 dũng cảm và đầy tự tin bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ mới. Chiến thắng Hoài Đức – Bắc Ruộng là một chiến thắng kép, nghĩa là ngoài ý nghĩa về quân sự còn đã đánh bại chính sách “thượng du vận” của địch. Sự nổi dậy phá tan tàn khu tập trung Bắc Ruộng và đưa được hơn 5.000 dân về với cách mạng là “cuộc bỏ phiếu bằng chân” biểu lộ sự chọn lựa sáng suốt của người dân Thượng đối với cách mạng. Sự thất bại đau đớn đó đã làm cho Ngô Đình Diệm nổi khủng ra lệnh tung ngay một sư đoàn chia làm hai cánh đuổi theo và chỉ thị rõ là “mất súng không cần nhưng mất dân Thượng là không được”. Vì sao lại có cái mệnh lệnh kỳ quặc đó? Vì Mỹ - Diệm lo sợ thất bại ở Hoài Đức – Bắc Ruộng có thể tạo nên tiền lệ làm hỏng quốc sách khu dinh điền ở vùng Tây Nguyên, mất khu dinh điền là mất luôn chiếc áo giáp bảo vệ hệ thống giao thông chiến lược và làm suy yếu hệ thống phòng thủ của chúng ở vùng rừng núi Bình Thuận và Nam Tây Nguyên. Ý nghĩa lớn lao của chiến thắng Hoài Đức – Bắc Ruộng còn ở chỗ nó còn cung cấp một mô hình mới trong cao trào đồng khởi lúc bấy giờ ở Bình Thuận khác với mô hình đồng khởi ở Bến Tre và đồng bằng sông Cửu Long, khác với các cuộc nổi dậy các nơi ở miền Tây, các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Ninh Thuận. Các mô hình ở các nơi nói trên tuy về cụ thể có khác nhau nhưng nhìn chung là đi từ sự nổi dậy của quần chúng cách mạng địa phương có sự hỗ trợ của một số it lực lượng vũ trang của xã, của huyện, sau đó chiến đấu du kích, giữ gìn, tích lũy lực lượng và phát triển dần từng bước lên chiến tranh cách mạng. Mô hình Bình Thuận tuy lúc đầu cũng có sự chuẩn bị cho lực lượng chính trị quần chúng và lực lượng vũ trang quần chúng tổ chức bí mật bố phòng buôn làng và sẵn sàng nổi dậy khởi nghĩa vũ trang kéo và rừng sống bất hợp pháp, nhưng điều đặc biệt là ngay từ đầu đã dám sử dụng lực lượng vũ trang của tỉnh đánh lớn, đánh tập trung, tấn công tiêu diệt lực lượng bảo an dân vệ không phải trong các cuộc càn vào căn cứ ta mà đánh ngay vào hang ổ, sào huyệt của chúng và còn đánh phá khu tập trung, giải phóng hàng ngàn người. Yếu tố tấn công của bộ đội chủ lực tỉnh giữ vai trò quyết định và xuất hiện như một yếu tố đòn bẩy tạo nên một cuộc nổi dậy của đồng bào đang bị kềm kẹp ở khu tập trung. Nếu trong thời kỳ đầu đồng khởi ở Bình Thuận có đi chậm hơn các vùng khác thì khi chuyển sang chiến tranh cách mạng, Bình Thuận lại có phần đi nhanh hơn so với một số vùng và chính điều này đã tạo nên những nét đặc thù của Bình Thuận. Mô hình Hoài Đức – Bắc Ruộng đã được Liên tỉnh 3 nhân rộng ra trên toàn Liên tỉnh. Với thắng lợi Hoài Đức – Bắc Ruộng, Bình Thuận mở màn khởi nghĩa vũ trang đấu tranh vũ trang lên song song với đấu tranh chính trị, tạo bước ngoặt lớn cho phong trào cách mạng ở Nam Trung Bộ, góp phần khắc phục tình trạng phát triển không đều giữa khu 5 và Nam Bộ. Sự sáng tạo của cách đánh đã làm cho địch bị bất ngờ hoàn toàn và cũng làm cho cả ta cũng bị “bất ngờ” nữa. Giữa năm 1960, ở một vùng rừng núi hẻo lánh mà bỗng xuất hiện một trận diệt chi khu quận lỵ thì thật là hy hữu. Chúng ta đều biết trong kháng chiến chống Pháp muốn diệt một căn cứ chi khu quận lỵ phải mất nhiều năm kể từ khi chiến tranh, thế mà ngay trận đánh đầu ta đã làm được chuyện khó tin đó. Nếu cứ làm như các nơi khác, nghĩa là nỏi lên đánh du kích, đánh nhỏ đánh lẻ, giành lại vài làng, vài trăm dân và cứ thế “tà tà đi lên” thì cũng chẳng ai chê trách các đồng chí vì lực lượng ban đầu chỉ có thế. Nhưng với tinh thần tấn công cách mạng, các đồng chí đã vươn lên quyết giành thắng lợi lớn nhất, làm được những việc mà trước đó nhiều nơi chưa làm được. Và cũng chính vì thế mới có cuộc hội thảo hôm nay.

Bài học tích cực, chủ động, sáng tạo, tự lực tự cường đi đúng đường lối quần chúng này ắt hẳn vẫn còn cần thiết cho hôm nay và mai sau. Phương thức tác chiến của trận Hoài Đức – Bắc Ruộng phải nói chủ yếu là dùng mưu trí sáng tạo để đánh địch, trong khi không thể không nhắc tới một sáng kiến nhỏ nhưng hiệu quả lại không nhỏ, đó là sáng kiến nghi binh trong chiến đấu. Nghệ thuật nghi binh bao giờ cũng hư hư thực thực với mục đích cuối cùng là đánh lạc sự phán đoán của địch. Vấn đề để cho đồng chí Thành và anh em 2-9 giả tiếng nói Nam Bộ khi hô khẩu lệnh trong chiến đấu, trong khi giải thích và phóng thích tù hàng binh sau trận chiến đấu không ngờ đã có tác dụng lớn. Sau khi bọn tù binh được phóng thích kể lại nghe anh em ta nói tiếng Nam Bộ, chúng cho là đơn vị đánh Tua Hai ra đánh Hoài Đức – Bắc Ruộng nên tung ngay hai trung đoàn về hướng Võ Đắc để truy kích chứ không bao giờ nghĩ rằng lực lượng vũ trang Bình Thuận lại có thể làm nên cái chuyện tày trời này. Nghe chuyện này ta cứ ngỡ là nghe chuyện Tam Quốc, Khổng Minh lừa Tào Tháo! Trong nghệ thuật quân sự, bản thân việc rút lui của một đơn vị chủ lực dưới sự truy đuổi của địch cũng là một khó khăn, huống gì lại còn phải hộ tống theo hàng ngàn con người trong một thời gian dài. Cũng may là hồi ấy quân Mỹ chưa vào, máy bay, pháo binh của quân ngụy chưa mạnh, nếu không, với số phi pháo mạnh, không biết anh em ta sẽ xoay sở như thế nào. Tất nhiên, cũng phải có cách nào đó nhưng khó khăn, thương vong sẽ nhiều hơn. Đưa được bộ đội và dân về an toàn và giữ được tổ chức kỷ luật, tinh thần khi rút lui là một thành công lớn về lãnh đạo và chỉ huy, đây cũng là trường hợp thành công hiếm có. Về vận dụng phương châm, chính trong quá trình hình thành quyết tâm đánh Hoài Đức – Bắc Ruộng, các đồng chí tỉnh ủy lúc bấy giờ cũng biết rằng đã dám làm một chuyện lớn, động trời, là đã vượt qua mức độ của Nghị quyết 15 cho phép, đã đưa đấu tranh vũ trang lên ngang hàng với đấu tranh chính trị, và trong tường hợp này đấu tranh vũ trang là chủ yếu, mức độ mà đến đầu năm 1961 Nghị quyết của Bộ Chính trị mới cho phép. Vì thế, lúc đầu không dám báo cáo quyết tâm với Liên tỉnh, sợ trên không cho đánh. Lúc ấy, đây là trận đánh chui và xé rào cho nên đánh xong cũng không được tuyên truyền, cổ vũ khuếch trương chiến thắng. Tuy nhiên, chân lý bao giờ cũng cụ thể. Tác dụng của chiến thắng Hoài Đức – Bắc Ruộng đã được thực tiễn chứng minh là đúng đắn, nó đã góp phần đưa phong trào Bình Thuận lên khá cao lúc bấy giờ. Nhận rõ tác dụng của chiến thắng Hoài Đức – Bắc Ruộng, Liên tỉnh đã nhân rộng mô hình Hoài Đức – Bắc Ruộng ra toàn liên tỉnh với những chiến thắng không kém phần vang dội ở Ninh Thuận và Khánh Hòa. Khi đánh Hoài Đức – Bắc Ruộng, các đồng chí Bình Thuận cũng không ngờ rằng mình đã cống hiến một mô hình mới từ khởi nghĩa vũ trang chuyển sang chiến tranh cách mạng. Nếu dùng cách so sánh lịch sử, chúng ta thấy mô hình của Bình Thuận khác rất nhiều so với các nơi khác trong đồng khởi. Trận Hoài Đức – Bắc Ruộng thực sự là một cái mốc chuyển hóa từ khởi nghĩa vũ trang gòm các yếu tố vừa tấn công vừa nổi dậy, vừa nổi dậy vừa tấn công bao gồm cả ba mũi giáp công một cách nhuần nhuyễn. Những phương thức chủ yếu của cuộc chiến tranh chống Mỹ cũng đã sớm xuất hiện ở Hoài Đức – Bắc Ruộng. Với tất cả những đặc điểm của mình, Hoài Đức – Bắc Ruộng thực sự đưa đấu tranh vũ trang lên ngang hàng với đấu tranh chính trị và giữ vai trò chủ yếu trong quá trình chiến đấu. Trận Hoài Đức – Bắc Ruộng với những kết quả thực tế của mình đã góp phần cung cấp cho cấp trên những sự kiện đầy thuyết phục rằng cuộc chiến tranh cách mạng đã thực sự bắt đầu, rằng tình hình thực tế đã vượt qua những gì mà Trung ương Đảng đã dự liệu trong Nghị quyết 15 và đòi hỏi một phương châm đấu tranh mới cho toàn Miền, không nên máy móc cứng nhắc. Chúng ta có trách nhiệm hoàn thiện các phương châm bằng những hành động cách mạng của mình. Cụ thể là chúng ta có trách nhiệm góp phần đẩy mạnh, đẩy nhanh cuộc chiến tranh đến ngày toàn thắng. Phương châm của Nghị quyết 15 là để cho thời kỳ đầu, thời kỳ chuyển hướng sang đồng khởi. Ngay bản thân Nghị quyết 15 cũng đã muộn so với tình hình cách mạng miền Nam lúc bấy giờ huống chi ta đã có cao trào đồng khởi ở Nam Bộ trong những tháng đầu năm 1960, trước đó cũng đã có Bác Ái, Trà Bồng, gần đây là có Tua Hai, v.v. Xứ ủy Nam Bộ đầu năm 1960 cũng đã có kiến nghị với Trung ương đưa đấu tranh vũ trang lên song song với đấu tranh chính trị rồi, tại sao ta lại cứ bó mình theo phương châm cũ khi mà thực tế cách mạng ở Bình Thuận đã cho phép ta vượt lên phía trước? Ở đây cũng có một biểu hiện thực tế là không có ranh giới giữa khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng. Chính tinh thần tấn công cách mạng, ý chí tiến công tiêu diệt địch đã giúp các đồng chí Bình Thuận vượt qua những hạn chế về thông tin, tính dè dặt lo sợ vi phạm phương châm chỉ đạo của Bộ Chính trị, nhìn rõ bàn chất và yêu cầu thực tế của tình hình nên đã có quyết tâm đúng. Với tình thế lúc bấy giờ, vận dụng đúng được phương châm là cần thiết, là bảnh lĩnh nhưng vận dụng để phát triển phương châm trong tình hình mới một cách sáng tạo là điều ít người dám làm vì một lẽ dễ hiểu là “thắng ở đây mà thua cũng ở đây” và dĩ nhiên hậu quả của nó là công ở đây mà tội cũng ở đây”. Các đồng chí Bình Thuận đã cung cấp cho chúng ta một tấm gương về tinh thần dũng cảm cách mạng của người lãnh đạo và chỉ huy dám làm, dám chịu và cả bản lĩnh trong việc vận dụng sáng tạo phương châm khi cần thiết.

Cách mạng phát triển cũng chủ yếu nhờ những đảng viên như Lê-nin khi đánh giá một nhân vật lịch sử có nói: “Đánh giá một con người không phải là xem anh ta đã làm được những gì mà chính là xem anh ta đã làm được những gì mà trước đó chưa ai làm được”. Vấn đề là không chỉ xem các đồng chí Bình Thuận đã làm được những gì ở Hoài Đức – Bắc Ruộng mà còn xem trước đó có ai đã làm được như vậy chưa. Chúng tôi thấy quả là hiếm có ai đã làm như vậy. Trừ ở Miền, lực lượng chủ lực đánh được Tua Hai, còn ở cấp tỉnh rất hiếm, ngay từ đầu đã dám đánh lớn, đánh ngay vào chi khu quận lỵ như vậy.

Sau hơn 30 năm, khi mà lịch sử đã tương đối lắng đọng, chúng ta đã có thời gian tạm đủ để nhìn lại trận Hoài Đức – Bắc Ruộng. Có thể khẳng định mà không sợ lầm lẫn rằng trận Hoài Đức – Bắc Ruộng trong thời kỳ chống Mỹ là một trong những cái mốc bằng vàng của lịch sử Bình Thuận. Hoài Đức - Bắc Ruộng mãi mãi là điểm son không phai mờ trong ký ức của người dân Bình Thuận và của chúng ta…”.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Tư, 2019, 10:03:45 am
9. Trần Ngọc Trác, nhà nghiên cứu lịch sử, nguyên Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Thuận Hải:

Giá trị của chiến thắng Hoài Đức – Bắc Ruộng ở chỗ nó có ý nghĩa chính trị rất lớn, nó không chỉ tạo điều kiện đưa dân về xây dựng căn cứ mà cơ bản là nó tạo điều kiện cho việc mở rộng phong trào giải phóng, phong trào kháng chiến, tạo điều kiện cho các Đội công tác Lâm Đồng vượt đường 20 lên Kìn Đạ bắt liên lạc với các mũi công tác từ miền Đông Nam Bộ, phía nam đường 20 đã hình thành hai huyện K3 và K4, đã hội đủ điều kiện tổ chức lại Tỉnh ủy Lâm Đồng vào cuối năm 1961. Nếu ta đánh giá đúng thắng lợi của chiến thắng Hoài Đức – Bắc Ruộng, đừng lừng khừng chậm chạp mà tranh thủ hơn nữa, khẩn trương hơn nữa thì ta có thể mở phong trào Bình Thuận sớm hơn. Vùng căn cứ địa miền núi Bình Thuận, Lâm Đồng được mở rộng và củng cố, chính đây là chỗ dựa của Khu ủy Khu 6, Quân khu 6 sau này, tiến hành chiến tranh chống Mỹ, cứu nước đi đến thắng lợi hoàn toàn…”.

10. Tố Quyên, nhà nghiên cứu lịch sử:

“… Từ ngữ Việt Nam ta rất phong phú, song cần chọn lựa cân nhắc một từ nào đó nói đúng được tính chất của sự kiện mà chúng ta có dịp xem xét, phân tích. Đối với chiến thắng Hoài Đức – Bắc Ruộng ở tỉnh nhà cách đây 33 năm (31-7-1960) vừa được nghe báo cáo tổng kết trong cuộc hội thảo này, tôi không ngần ngại cho đó là một chiến thắng thần kỳ. Dùng tính từ này kể cũng không có gì quá đáng, nếu nói theo định nghĩa của Từ điển tiếng Việt (trung tâm từ điển ngôn ngữ thuộc Viện Ngôn ngữ học xuất bản – Hà Nội 1992) thì thần kỳ là “tài tình một cách kỳ lạ với mức như không thể tưởng tượng nổi”. Quả đúng như vậy, làm sao có thể tưởng tượng nổi một đơn vị vũ trang ít ỏi của ta với chưa đầy 30 cán bộ, chiến sĩ lại dám mở một cuộc tấn công diệt và bắt hàng 300 tên địch được trang bị mạnh, lại đóng ở vị trí phòng thủ kiên cố, đến cuối trận bên ta không hề bị tổn thất một người nào! Làm sao có thể tưởng tượng nổi cũng với số người ấy ngoài việc bắt tù binh, thu vũ khí, đốt sạch doanh trại, đồn bót địch, còn tổ chức ngay việc đưa trên nửa vạn đồng bào bị dồn vào khu dinh điển trở về vùng căn cứ an toàn, một cuộc hành trình ròng rã năm ngày, vượt bao suối sâu lụt lội và từng lúc chiến sĩ ta còn phải chặn đánh quân địch truy lùng, bảo vệ đồng bào đi đến nơi đến chốn. Do đó cũng có thể nói một cách tự hào rằng 33 năm đã trôi qua song chiến thắng Hoài Đức - Bắc Ruộng mãi mãi là khúc khai tấu rộn ràng thiên anh hùng cả của các lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng Bình Thuận và Cực Nam Trung Bộ qua các thời kỳ kháng chiến chống Mỹ - ngụy, góp phần giành độc lập, thống nhất cho Tổ quốc.

Có một điều đáng nói là không hiểu tại sao mãi đến 33 năm sau, một chiến thắng thần kỳ như vậy mới được tổng kết và tổ chức kỷ niệm lần đầu. Phải thừa nhận sự quá ư chậm trễ này có ảnh hưởng nhất định, gây hạn chế cho công việc nghiên cứu khoa học cũng như đối với yêu cầu phát huy truyền thống đấu tranh cách mạng, cổ vũ, động viên quân dân tỉnh nhà làm tốt các nhiệm vụ nặng nề trong giai đoạn đổi mới hiện nay. May thay các nhân chứng sống của trận Hoài Đức – Bắc Ruộng đến bây giờ còn được khá nhiều người để giúp tìm hiểu, khai thác sâu thêm. Cuối cùng, chúng tôi thiết nghĩ rằng, chiến thắng Hoài Đức – Bắc Ruộng lẽ ra phải sớm dựng lại bằng các sơ đồ, sa bàn và cả tranh minh họa nữa, tất cả các thứ đó cần đặt vào một nơi xứng đáng trong Bảo tàng Cách mạng của tỉnh nhà. Và hơn thế nữa, ở nơi địa điểm cũ diễn ra chiến trận không thể không dựng lên trang trọng một tấm bia kỷ niệm lớn để mọi người được chia sẽ niềm tự hào chung…”.

Mở đầu tham luận của mình, đại tá Nguyễn Văn Bổng, phó chủ tịch Hội cựu Chiến binh Bình Thuận vết: “Đọc bản đề dẫn về chiến thắng chi khu quận lỵ Hoài Đức – Bắc Ruộng, tôi có cảm giác tác phẩm đã đưa ta tới một vườn hoa muôn hồng ngàn tía đầy hoa thơm, hoa nào cũng thơ, cũng có một vẻ đẹp riêng của nó…”.

Một số trích dẫn trên đây trong 45 bản tham luận tại Hội thảo khoa học và tại lễ kỷ niệm chiến thắng ở Bắc Ruộng ngày 31 tháng 7 năm 1993 giới thiệu một cách khái quát về ý nghĩa bước ngoặt lịch sử, bài học và sự đóng góp của chiến thắng Hoài Đức – Bắc Ruộng cho ngày nay và cho mai sau khá đầy đủ, sâu sắc và trân trọng.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Tư, 2019, 10:09:07 am
(https://lh3.googleusercontent.com/sgoQCyqzHZcwv0zijDYxSrDv1DHhB8Lstv03Dq6mh-GVNuIKijDh5vC8It66F1XlwzaX-FzB0OIsUWZkk7d0J6SxPT2JP0zV2ykkiPf7wCJMnAbUEK12r00NYNYvkYxzJzewDK8jCZG0jhdWTnsy7OyUuYz_X9yMw6XBO3B8CXAVDJpgy7Ij35JHnHSuQimzjyngVFpGUiT_oGBwPaDClH78P6W9DEnOGchMTEs3RsZ5dpkqXGUfBOuWAjYjoznzTo8sUS1pLBbTncEFcktjpLmBAVn0bfHGRD9CJ1833mrnrk1OaQ9sMdfcNA9gImU5n5fGB1qpbtYm6Cz_CdkitUrxP45JKvZTloew4r1aO_dbXwmO8WzwEFniSbUYvtKUxLD3_ygeU5-XvNzbI40rr86RkhL7DOAjNk9uxFycx-ZrcRzStHJnIOQPFS-Dz8rNG1E-jqaZ-OIC-edXOMytun2g3MRMZcBPqokKLNGQPg7NBb9eH9rdPdKU-8xflHAvZJNZrhWVQK-UnUs9yzTliH4cBA26hJTIJGxO3ruB7yFxxEpWCWUyKwdPEZxj7eAnRMhTjMigVJxQSs3e6LXOQ6os64lsQO4QXIspyxoQI0mx1xOrRwpvFUP-4Rfd_AtUAbM8X0lqJdNxO4fpsLJF1gn3YVh5-gY=w800-h555-no)

Hội thảo "Chiến thắng Hoài Đức - Bắc Ruộng (31 tháng 7 năm 1960)" tại thị xã Phan Thiết ngày 31 tháng 7 năm 1993.

(https://lh3.googleusercontent.com/ymkWvHcg5HLAXxUwzo0OtmlxXGOKSLVuaxxxoL4mNGwTBbiLsUVHw6huOF44sQAnT6WbJFBXO7tks7N4xUX7A7LD9iAqHREBKvggMn27O-g-AZpUgtPHgOeq4YxsLv0bmKn6Md5MGBb1trFkG6j9aw5r2fHdNebGmtIX6gwuywLRHEqCm_OSnpUkE3JoUxo0NX7U1EaC__6nrFc_8TA1VQrFopDtbI0IKYQ8--ETk-fQPvfn4PUBwGe1Aox5pNbbNeprOPiRS-BzgBTUPHA73QAkKqe8_N36fKyA2bsVjxXy0nbUDcd0RIBbxxs3PQ_aziSig9q9uH8O0-oAE2OKB7BV43GrOCAFtiDg979579dR8_J1Zi9sFI6SgBEvvdcF92hN9BDC4Zo2U4MEiY6KcQ45ijbjKk-jza4HRYGjOEebvOMTZoSfKvWQB_KaXOFNlMJAoyFQx6V5Gt5mFxCOX7SvqfTP-SieS_2904HDOtXAiwKPJVzjCELCwZZZ-iZmzot3Pfvmuyuw_z8lY5pzQFC2JWCqLRwoQb7CsTnqkj0Da3O9XVBh9U8-XZrJYJZmtEaaTOy7TLPQLpriM7p1NWdiCrzTgtgvuJh9WUhyiRUhOfdsolLas_osCG37Bt6BLQCL37mUasXL4Xfk3UkW6WrJ2iiedOc=w800-h499-no)

Một số đại biểu dự Hội thảo "Chiến thắng Hoài Đức - Bắc Ruộng"

(https://lh3.googleusercontent.com/zykX-QJb6FHPj3f6AH69kk7L__ECeyyfkYt1G4cdoEgwDU6GSlBz8C8wuvxaE6Ea4-P536Xdbj7-nwFV46JO4O1nzoDDmxz5bt7e1pzbTqzQ5j86X2gqxtDjuZBK0BtfzFU41JydPm8Gi4HNvVg2_VuEZiJRyeosCbzcE0twO61VTb6Wm-RpyqrjnC9tXpT4dZgxig4Z85lAgL-NowWNihGztZTdAF1ZBExGS6ER0ZDJN0xvj_pinZj2lTOU4ksi6gi3feP9YjA72E-K96lJDAQOtXHah8NWTjrAVeQtH39YvXHAFNBXo81N4N-Ic3T0jlpfsgfA0l2RnymC2idGmpkvo0OXj-uLsa_-m9WESEdCTxWT0_juN0FUT6UOH6Zsgtc_jz07ScshoBu8WswMsp5X3_nzcaVPVI_WZRqWeMvsYh8DxoWuzv18ee39G6sI5RiA_b7GgixAE8DwnsDXmeKUA99Mn9WwpyjqPc4zwEKOOahMtUfb2P2WJfRkBLm-l9qhL6lJQvJjTOfUi887346EXBPtoskKrkGDahLCMEIo8UnGkPAxdiVUOhFUO9U4hZH1YOWP_9u5p3G0adrG4ZTxHqoDoCWz0ix2ULM36LxnD9KVeJ4RauMGP3ib5jE2II_aOHoiGZ3u4M526rMSqkSY5PIIq3E=w800-h524-no)

Một số đại biểu cán bộ, chiến sĩ đơn vị 2-9 - những người trực tiếp làm nên
"Chiến thắng Hoài Đức - Bắc Ruông" , tham dự hội thảo.

(https://lh3.googleusercontent.com/SeOUKfu3Mfmj_O4xN2gxVjdPswXfs4aLDXYyZHQPH4A5sKConbaBgcA3sFj_kR-26sAyZOM-DFpsMoVf4ku9WObeR9DxJMuiFYH8nGlVvUoZqj2w3-kVsNpfIcdfOhQ-oiRRv6kYoJ31HJoKKtX1XS6maXLrSu-sbFLS9K4CyrzshG1G0OKzaZ7GE0ubONkU6fX1Prx4G5AJtBsBv0bWglfibwBBI6UNClJbnK2hy8imPgGZjDrxOMYRvNE62_n0alfsBASRNJq11qKgkdpfcMjG05ObELOUBJOcwSrVO2KZH-boBO5DrMVfkdDgwKGPJuAbqj1ONUrL68yO7vannL8_RmBtLaoB_obncWJQDKlzBvZKH69tCvFjfrATJ2y6mo8GZUqN6_7zMXvV6Vmnj6L0URmc42jeSpK7ok4SXi8ccqR33R-CkFeZm8Ue-OHaXLpRV4Fl3EQorE6s5q0Dpazmf0BnM8KTX8W5RvaGt0yhssINHEgbq8XiWrY726405FOY9u9i5mN0sRD7hT5JStL6b831vxNdhPKduTLJ4Wq1v5vNpcZwHeRrLlzng4faiLXFARQ66v9wKk1ff8KObTWIG6bEYf6e3SbAqS8flJxoQfz5G06D9obdAfSw3xHPcmMPhagjEo_CTRbwqMw2uB-gYqJ_8AI=w800-h545-no)

Đồng chí Phạm Hoài Chương cùng đồng chí Nguyễn Quang Kiệu - Bí thư Huyện ủy,
đồng chí Hồ Đức Hiền - Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy Quân sự huyện Tánh Linh... thăm lại chiến trường Bắc Ruộng.


Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Tư, 2019, 10:12:03 am
(https://lh3.googleusercontent.com/MNUvIsTKFVYhDsnDJ4YPAxgPG5IF-5rviqthDLoEzvBw1XgQCsgLpsg_OtuvJsLlfVknU9oWnOGm0QNERc71WugMsktTkG-Y1oDTxDHMt8lKfsejMOSuS1m5hpm2w6Lu-7rEMln7BmkD3-9WYET7jQM3zR--4LGsY5ve6TLwvqqkqrNGVd0kwQKaCEXQuBqkHu32pRhu9taBaSkxS_lVpBqzRa1-Q99L317fxt5zVem3-fNwteLeHz0RpcyxhBvV1HyLLdMgSg49OIpQfZ599LUH-gZ7nEXtF1u1K5VcTO_53wmH7vMB5fVRiSDRN1dSIChiNWLA-5g86MKYfh5SUhUmvoVsRrI-9kNSZfq_tNo49CHQEa86r_xp-AERzdAacv7rY8f2DQciFRdCvDYvp3GIdmH6Mj10sIfzQ0_LAy2i_HTl5MXkoI_6a40fmrqr-CuvAeLeTCnwpAvXx1ydTJAmMidJP0K9DkALE_nuuso2aDjZ_YVp4RKOXghoDxGAT4yxW-5Tklv0WbH-DADwUOjLmDJ52UxOgP7NBfsxXP_zuzqWXEIqFWhEL1EmX8CDbCw100kLTRU10A2gCc8n8iGUZDNwJdVAvYV5oyXau3skzRwT0UbU81dfDjGJvruENUOUtJ1t3BL54TKP2WilHEFaWjYSmZw=w526-h800-no)

(https://lh3.googleusercontent.com/KHlc_D3S4IVt-bLxBzCO_t7IYo0cOpJdocI1aFcnB3QQRNdWNdAfvqHRW7zIoDmeh0jYavKqqlV9yqCrwAKgZeqCkh-SMyqhJxKbQQ3QT-WMqSoaqbOv291oFDMqSfSIByei4NYtorNztMU2qG-1pLSyadjZ7qDhe_htpB2ndHwMtaitx70LnPyUvSwCriGbCsDdlPpSFrMNOL3fXGi5UDsaHT1tnRJztjs9mXzSUB1fDHlR-ZPU62yxVTtQ2DpjGGrbfv_dNfbtnekjs9DGucRH-n7Tn7ybhQCCGwrJlUQ10B4r_kp24HE0nMa30gWoNcN1uF_QpWKoKK7f2CbDxPNiEK587IkXJ-gjY5givRDAMrTB91ijlHeqcjQeGoGkgHLvxrdQn9shaLrJ7Ir2pSov8ygUixcsTWYJCUJgc4AVfSwPzBOm5rRyLd-TFIM2Qxjtu03EAp-dASeehSULVpy7tBBgs4ZVOSlhzJql8o_-0sqnEDx6_oRrBAuntVzPdKTGK9vOqjYMepDdytiCnmqxdWL0AbWwaAQW2zrcjK4t6f9kvRGk2uRnYJ5QZq4OoTnJFZ91g0TrL_bGZWxGaG5l2hJqZ90QAG4uL1pq4hQau50JzmTw92WcYXEGIv5ogEse6ydVBDYpct0yaHVb4NAFrhPp9Lw=w487-h800-no)

(https://lh3.googleusercontent.com/CcpnBjjF2QpSMWVR8YRaCElRNTTD7B0b0DF3bvgUyLe6BK3yUvvu9SrWHONzHS6x4hMZmIdIbSU8KTZto2lLkPAkBewbPG9eYd3dBf39Qdxl4rsd9fKhe551kNqVx8FPkH5dw1Yq2dHL75p6Ao0-6k_76I98J3PZMR0ZCSODB8C4HIcSdLic9ZABEwVbUGuhanDm972M86mAmTVLxcPNSr-iN7K2bhFY5kWhgl40d93A9kJ4bQAJsf0XFRuWub5pDWkseyzV_Q1apAk-qrCtZVR0kynOsFIBW5-lpPaRcYAWX5upcURJfg22uhp43RUaiYSjAgML0uYKlLC_XWi-qYhvO9uJ9Hrbqhb-n0L22fg_kAchTCVN5SQldtLxoiDKRPfBApkT8uZjz2B8i8q2vOK5xDFXTdMH8RfaWcw--hMLIHc7E0E5_Zkjj5CEO4Y3v_9EoQHqa_ivpvEoJW4GthOwIUcR-wVmPYAzM_abzNiYstigvCw0sXBn7QjlSlDj7dmGqam61WgptKOITO7j8_Q5TPXvztc_hvX0lEjIwDT7t4h7aWxVL5CQR7LgqtPPgiU9I2tB5kSQXCic25Nug13c00AK9ugpuAyqCKPuPXb8kIuLWQVqb9hhNI5zFk5YALOzVyfnDlqOe5vs54e8djOZRxDTBgU=w547-h800-no)