Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Tài liệu - Hồi ký Việt Nam => Tác giả chủ đề:: chuongxedap trong 07 Tháng Tư, 2016, 10:00:34 am



Tiêu đề: Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 07 Tháng Tư, 2016, 10:00:34 am
Tên sách: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Tác giả: Nhiều tác giả
Nhà xuất bản: Quân đội Nhân dân
Năm xuất bản: 2007
Số hoá: ptlinh, chuongxedap



Sưu tầm tuyển chọn:
- Trung tướng VŨ CAO
- Nhà giáo VÕ BÍCH HÀ
- Đại tá VŨ THANG
- Đại tá TRẦN VĂN SANG
- Kỹ sư TRẦN CHÍ LINH





Lời giới thiệu


Thiếu tướng Trần Văn Trân (1927 - 1997), tên thường gọi thân mật là Ba Trân, người con của mảnh đất Thừa Thiên - Huế, nguyên Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Mặt trận 719, Phó Giám đốc Học viện Lục quân, Phó Tư lệnh Quân đoàn 4.

Sinh trưởng trong một gia đình giàu truyền thống cách mạng, từ một thanh niên yêu nước sớm được giác ngộ, ngay sau ngày Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, ông hăng hái gia nhập Giải phóng quân tại thành phố Huế, trực tiếp cầm súng chiến đấu trong đội hình Trung đoàn Trần Cao Vân - 101.

Trải qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, khói lửa chiến tranh đã trui rèn nên phẩm chất can trường, chịu đựng gian khổ hy sinh, quyết đánh và quyết thắng của Thiếu tướng Trần Văn Trân. Tên tuổi của ông gắn liền với nhiều chiến công vang dội của các sư đoàn chủ lực, và được định vị trong Từ điển Bách khoa Quân sự Việt Nam.

Đặc biệt, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, ông tham gia chiến đấu tại chiến trường Tây Nguyên, miền Tây và miền Đông Nam Bộ trên cương vị Sư đoàn trưởng. Đầu năm 1970, trong một lần đi chuẩn bị chiến trường ở An Giang, ông bị thương và bị sa vào tay giặc. Với sự thương yêu đùm bọc của đồng chí đồng đội, ông đã khôn khéo che giấu được tung tích của mình, giữ vững khí tiết của người chiến sĩ cách mạng, một lòng một dạ trung thành với Đảng, với Tổ quốc. Sau Hiệp định Pa-ri, ông được đối phương trao trả tại Quảng Trị, ông trở về trong tư thế của người chiến thắng. Chuyện kể về quãng thời gian sống trong các nhà tù của Mỹ ngụy từ Cần Thơ đến Hố Nai (Biên Hòa) của người Sư đoàn trưởng Quân giải phóng trong vai “thượng sĩ đông y” đã trở thành huyền thoại.

Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, ông là Sư đoàn trưởng Sư đoàn 341 (Sông Lam) đảm nhiệm đột kích hướng Xuân Lộc, mở toang “cánh cửa thép” của địch, đưa đại quân ta tiến vào giải phóng Sài Gòn, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước Xuân 1975.

Thiếu tướng Trần Văn Trân, ngoài sự dũng lược và tài trí sáng tạo trong chiến đấu, ông còn là một người chỉ huy có tấm lòng đôn hậu, đại lượng, bao dung; luôn gần gũi, thủy chung, để lại những dấu ấn sâu đậm với đồng chí, đồng đội.

Kỷ niệm 10 năm ngày ông đi xa, tưởng nhớ đến ông, nhiều tướng lĩnh, đồng chí, đồng đội, bạn bè và người thân trong gia đình đã phối hợp cùng Nhà xuất bản Quân đội nhân dân tổ chức sưu tầm, tập hợp và biên soạn cuốn sách “Thiếu tướng Trần Văn Trân, chuyện bây giờ mới kể”.

Với tình cảm chân thành, với lối viết giản dị và trong sáng của những người trong cuộc, cuốn sách đã góp phần khắc họa sống động chân dung cố Thiếu tướng Trần Văn Trân, đồng thời góp phần làm sáng tỏ nhiều sự kiện, nhiều chi tiết mới lạ, hấp dẫn.

Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc!


NHÀ XUẤT BẢN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 07 Tháng Tư, 2016, 10:02:26 am

THƯƠNG TIẾC ĐỒNG CHÍ THIẾU TƯỚNG TRẦN VĂN TRÂN

Đại tướng Võ Nguyên Giáp


Trong hàng ngũ tướng lĩnh quân đội nhân dân Việt Nam, đồng chí Thiếu tướng Trần Văn Trân là một cán bộ dày dạn trong chiến đấu, trưởng thành từ chiến sĩ lên cán bộ chỉ huy Sư đoàn, Quân đoàn.

Suốt cuộc chiến tranh 30 năm giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, đồng chí đã có mặt trên các chiến trường nóng bỏng, từ Trị - Thiên đến Tây Nguyên, miền Đông, miền Tây Nam Bộ và biên giới Tây Nam. Đồng chí là một đảng viên trung kiên mẫu mực, một cán bộ có đức độ và tài năng, dũng cảm mưu trí, năng động sáng tạo, không quản khó khăn gian khổ ác liệt, gần gũi thương yêu chiến sĩ, gắn bó với nhân dân, nên trong chiến đấu cũng như trong xây dựng đã lập được nhiều chiến công và thành tích xuất sắc.

Không chỉ ngoài mặt trận mà trong ngục tù Mỹ ngụy, khi đi chuẩn bị chiến trường không may sa vào tay giặc, trên cương vị Sư đoàn trưởng, đồng chí đã tỏ rõ lòng trung thành tuyệt đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của nhân dân, khôn khéo giữ bí mật ẩn mình trong sự bảo vệ và che chở của đồng đội để đấu tranh với địch và trở về với cách mạng.

Đồng chí Thiếu tướng Trần Văn Trân không còn nữa, nhưng phẩm chất và tài năng, nghĩa tình của đồng chí với đồng đội và đồng bào mãi mãi là tấm gương sáng cho các thế hệ cán bộ và chiến sĩ Quân đội ta.

Hà Nội, ngày 9 tháng 6 năm 2007.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 07 Tháng Tư, 2016, 10:05:32 am

ĐỒNG CHÍ TRẦN VĂN TRÂN VỊ TƯỚNG “MỘT SAO” KHIÊM NHƯỜNG, NGƯỜI CHỈ HUY HUYỀN THOẠI
Võ Văn Kiệt
Nguyên Thủ tướng Chính phủ


Đồng chí Trần Văn Trân là một người con ưu tú của xứ Huế. Tôi được nghe ngay sau ngày Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, anh hăng hái gia nhập Giải phóng quân và trực tiếp chiến đấu trong đội hình Trung đoàn Trần Cao Vân - 101 oai hùng. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, anh trưởng thành từ chiến sĩ lên đến cán bộ trung đoàn. Tài năng đánh giặc của anh gắn liền với những chiến công vang dội của các sư đoàn chủ lực, rất đáng tự hào. Có thể nói anh Trân là một chiến binh được trui rèn ngay nơi chiến trường ác liệt thời chống Pháp, qua những địa danh như "Bình Trị Thiên khói lửa", ''Chiến khu Dương Hòa", đất thép nơi có "những bà mẹ Gio Linh anh hùng" (nơi mà tôi đã đi qua đầu năm 1952, lúc từ Chiến khu Việt Bắc trở về).

Trong kháng chiến chống Mỹ, anh Trân và đơn vị anh cũng là những người đầu tiên đi B về chiến trường cũ từ rất sớm. Vào khoảng đầu năm 1965, anh đã có mặt chiến đấu ở chiến trường Tây Nguyên ác liệt.

Sau Mậu Thân, địch phản kích dữ dội, chúng tiến hành bình định cấp tốc, bình định đặc biệt. Ở Đồng bằng sông Cửu Long, tôi còn nhớ rõ Sư đoàn 1 của anh Trần Văn Trân được Bộ Chỉ huy Miền quyết định tăng cường chi viện cho chiến trường Tây Nam Bộ. Anh là Phó bí thư Tiền phương, Tư lệnh Mặt trận An Giang. Khoảng đầu năm 1970, trong một lần đi nghiên cứu chiến trường vào ban đêm, khi đến khu vực kênh Vĩnh Tế (An Giang) thì anh Trân cùng một số anh em khác bị rơi vào ổ phục kích của địch. Chúng tôi được báo cáo: Sư trưởng Trần Văn Trân và một số chiến sĩ hy sinh không tìm được xác. Tin nhận được khiến ai cũng đau đớn, bàng hoàng. Sau đó, sư đoàn làm lễ truy điệu, thông báo đến gia đình. Ở ngoài Bắc, chị Hà và các cháu để tang cho anh, coi như vĩnh viễn mất anh.

Cho tới lúc ấy, tôi vẫn chưa được gặp anh lần nào, nhưng được nghe anh em trong quân đội nói nhiều về anh và rất thương tiếc một Tư lệnh sư đoàn đánh địch có tầm cỡ, qua nhiều chiến trường ác liệt và là một cán bộ chỉ huy bản lĩnh, đức độ. Anh em chúng tôi trong Quân khu 9 vô cùng thương tiếc anh.

Đến năm 1973, sau Hiệp định Pa-ri, trong số anh em được trao trả bất ngờ có đồng chí Trần Văn Trân. Anh Trân còn sống! Tin vui làm sững sờ tất cả, bởi không ai dám nghĩ còn gặp được anh. Hóa ra, anh và một số chiến sĩ ta bị địch bắt, nhưng bằng trí thông minh, quả cảm của mình, anh khôn khéo xây dựng anh em và che giấu được tên tuổi của mình. Đây là một tin vui rất "huyền thoại". Chị Hà và gia đình cũng như đơn vị được xả tang anh.

Sau đó, Đại tướng Võ Nguyên Giáp có ý định cho anh Trân đi nghỉ dưỡng ở nước ngoài nhưng anh từ chối và xin nhận ngay nhiệm vụ Sư đoàn trưởng Sư đoàn 341. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh, Sư đoàn 341 của anh Trân đột phá thị xã Xuân Lộc, Trảng Bom, khai thông cánh cửa cho đại quân ta tiến vào giải phóng Sài Gòn. Tôi biết nhiều về anh Trân và gia đình anh từ đó.

Sau ngày đất nước thống nhất, anh Trần Văn Trân được đề bạt Phó Tư lệnh Quân đoàn 4, Phó Giám đốc Học viện Lục quân (Đà Lạt), Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Mặt trận 719 (quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia), suốt nhiều năm đối mặt với bọn diệt chủng Pôn Pốt, góp phần giúp nhân dân nước bạn hồi sinh.

Tôi nhớ mãi một sự kiện khi tuổi quân của anh Trần Văn Trân đã đến lúc được nghỉ ngơi. Lúc bấy giờ, tĩnh hình cách mạng Apganistan đang diễn biến hết sức phức tạp, thủ đô Kabul liên tục bị phe Taliban uy hiếp. Anh Trần Văn Trân được lựa chọn và đề cử làm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của ta tại Apganistan. Tôi tiếp anh Trân ở Hà Nội trước khi anh lên đường nhận nhiệm vụ mới. Hai anh em tâm sự khá nhiều về chuyện chiến trường, chuyện đời thường. Tôi đoán biết là không ai tình nguyện nhận chức vụ quan trọng này, giành phần "danh dự" cho vị Tướng một sao "chết rồi, sống lại". Có thể nói hầu như cả cuộc đời binh nghiệp của mình, anh Trân thuộc nằm lòng mấy chữ "chấp hành mệnh lệnh", không thuộc chữ "từ chối". Duy nhất chỉ có một lần, khi Đại tướng Võ Nguyên Giáp cho phép anh đi nghỉ dưỡng ở Liên Xô sau khi vừa ra khỏi ngục tù của địch, anh đã từ chối. Giờ đây, anh lại tiếp tục sẵn sàng dấn thân vào tuyến lửa đi nhận nhiệm vụ của một sứ giả hoà bình.

Tuy nhiên, cũng may cho riêng anh Trân và cho gia đình anh, đó là cái chức "Đại sứ hụt" bởi tình hình Apganistan thay đổi quá nhanh chóng. Nhờ vậy mà anh giành được một ít thời gian còn lại của cuộc đời cho vợ, cho con trước khi đi xa.

Vài dòng ngắn ngủi thay cho nén nhang tưởng nhớ đến vị tướng, người chỉ huy huyền thoại, đồng chí Trần Văn Trân.
V.V.K


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 07 Tháng Tư, 2016, 10:08:31 am

THƯƠNG NHỚ ANH TRẦN VĂN TRÂN
Thượng tướng GS Hoàng Minh Thảo1


Anh Trần Văn Trân là một  người chỉ huy mưu trí, dũng cảm, lập được nhiều chiến công hiển hách.

Anh đã chỉ huy sư đoàn lập được nhiều chiến thắng vẻ vang, chiến đấu ngày càng phát triển. Anh là người chỉ huy kiên cường mẫu mực, không ngại hy sinh gian khổ; có ý thức tổ chức, kỷ luật tốt. Việc gì trên giao là anh khắc phục mọi khó khăn hoàn thành tốt nhiệm vụ. Trong chỉ huy anh là người kiên quyết, quyết đoán. Trong quan hệ anh có tình cảm với anh em, có tác phong quần chúng, thương yêu mọi người. Đối với anh em cán bộ chiến sĩ, anh quan hệ như bạn bè, thương yêu chiến sĩ; đoàn kết, có tác phong quần chúng, dân chủ. Cuộc sống của anh giản dị, dễ gần gũi. Anh em ai cũng ủng hộ anh, chấp hành mọi ý kiến mệnh lệnh của anh, để cùng hoàn thành nhiệm vụ. Mọi nhiệm vụ anh đều hoàn thành tốt, từ chiến trường Tây Nguyên đến Nam Bộ. Anh là người chồng, người cha tốt của gia đình.

Anh mất đi là một tổn thất    lớn của Đảng và quân đội cùng gia đình. Mấy dòng hồi ký này là để thắp một nén nhang để biết ơn anh. Mong anh an nghỉ giấc ngàn   thu.
Hà Nội, 22-11-2006

H.M.T
_________________________________________
1. Nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược Quân sự - Bộ Quốc phòng


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 07 Tháng Tư, 2016, 10:12:21 am

ANH ĐÃ ĐI RỒI, NHƯNG HÌNH ẢNH ANH VẪN CÒN ĐỌNG MÃI
Trung tướng Nguyễn Quốc Thước1

Một ngày cuối tháng 3 năm 1997, sau khi có quyết định nghỉ hưu, vợ chồng tôi từ Quân khu 4 vào Thành phố Hồ Chí Minh để thăm vợ chồng anh Trần Văn Trân và các cháu. Lâu ngày gặp lại ôn nhiều chuyện cũ, chuyện chiến đấu, chuyện bạn bè, chuyện hậu phương gia đình trở lại những ngày sôi sục trước âm mưu “Bắc tiến” của Ngô Đình Diệm trên địa bàn nam Quân khu 4, nơi mà Sư đoàn 325 của chúng tôi do anh làm Sư đoàn trưởng với bao cảm xúc về tình đồng chí, đồng đội, tình anh em. Tuy hơn anh một tuổi nhưng tôi vẫn luôn gọi bằng anh và anh thường gọi tôi bằng cậu hoặc gọi theo tên. Ngồi thăm anh chị suốt một buổi, anh bảo lâu ngày hai vợ chồng ở lại ăn cơm với gia đình để có thêm thời gian trò chuyện tâm tình. Lúc này anh mới qua một cơn tai biến não, đi lại không được hoạt bát như trước, nhưng nói năng hành động vẫn sôi nổi như xưa. Vì không còn thời gian, vợ chồng tôi nói lần này vội, đến thăm anh chị, nay được nghỉ rồi xin để lần sau, năm tháng còn dài, lo gì chuyện ăn uống, chỉ sợ anh chị không đủ sức bao bọn này thôi, cũng tưởng sẽ còn nhiều lần có thể gặp nhau. Nào ngờ vừa ra đến Hà Nội được mấy hôm, vào buổi đêm 29 tháng 3 năm 1997 chị Bích Hà, vợ anh điện cho tôi báo tin anh đã từ trần. Tin như sét đánh, tôi bàng hoàng và không tin vì mới mấy ngày trước đây anh chưa có hiện tượng gì suy sụp nhanh được. Tin dữ đến với tôi, bao nhiêu kỷ niệm những ngày cùng sống, công tác, chiến đấu bên nhau, chuyện đơn vị, chuyện bạn bè, chuyện gia đình, đặc biệt là những kỷ niệm với tình cảm sâu nặng giữa anh và tôi, giữa hai gia đình lại hiển hiện lên trong đầu óc tôi như những hình ảnh của mới ngày hôm qua…

Những năm tháng sôi sục trên mảnh đất Quảng Bình - nam Quân khu 4

Năm 1957, tôi đang làm Trưởng ban Tác huấn Trung đoàn 101 thì được điều động về làm trợ lý tác chiến Sư đoàn 325 tại Thuận Lý, tây thị xã Đồng Hới, sau là Phó phòng rồi Trưởng phòng Tác chiến Sư đoàn. Lúc bấy giờ anh Trân là Tham mưu trưởng, anh Lê Đình Sum là Sư đoàn trưởng. Một thời gian ngắn anh Sum đi nhận công tác mới, anh Trân đảm nhiệm quyền Sư đoàn trưởng rồi Sư đoàn trưởng, mãi đến cuối năm 1964 Sư đoàn 325 được tổ chức thành hai sư đoàn: 325A và 325B. Sư đoàn 325A do đồng chí Nguyễn Hữu An được Bộ điều về làm Sư đoàn trưởng, vào chiến trường B cuối năm 1964. Anh Trân được giao nhiệm vụ, tiếp tục tổ chức xây dựng Sư đoàn 325B, đảm nhiệm sẵn sàng chiến đấu bảo vệ giới tuyến và phía nam Quân khu, đồng thời khẩn trương chuẩn bị đi tiếp vào Nam chiến đấu. Sau gần một năm xây dựng, huấn luyện đồng thời đảm nhận nhiệm vụ chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu, vào giữa năm 1965, sư đoàn được lệnh lần lượt lên đường vào Tây Nguyên. Trước ngày xuất phát, cấp trên quyết định đồng chí Vương Tuấn Kiệt về làm Sư đoàn trưởng, anh Trân làm Sư đoàn phó Sư đoàn 1, kiêm Tham mưu trưởng, tôi làm Trưởng ban Tác chiến sư đoàn. Đây là thời điểm đã để lại trong tôi nhiều kỷ niệm sâu sắc về những hoạt động của sư đoàn và cá nhân anh với tư cách là người đứng đầu sư đoàn trong một thời gian dài. Nhưng nói đến thành tích của hai Sư đoàn 325A và 325B khi vào chiến trường chiến đấu không thể không nhắc đến công lao của anh trong tập thể Bộ chỉ huy sư đoàn mà anh là người chủ trì cùng với anh Hoàng Văn Thái - Chính ủy, sau là anh Quách Sỹ Kha, đã kiến tạo nên. Trong một thời gian dài, sau khi anh Lê Đình Sum đi nhận công tác mới, anh đã cùng Bộ Tư lệnh Sư đoàn và ba cơ quan xây dựng 2 sư đoàn thành đơn vị mạnh, một quả đấm thép cùng với Trung đoàn 270 bảo vệ vững chắc vùng giới tuyến nam Quân khu 4 cùng với thành tích các sư đoàn trên các chiến trường Tây Nguyên - Khu 5 và Nam Bộ trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Là một cán bộ trưởng thành rất sớm từ những ngày đầu kháng chiến chống Pháp với các cương vị chỉ huy từ cấp phân đội đến cấp tiểu đoàn, trung đoàn, luôn ở tuyến đầu của trận mạc, nên anh Trân đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm thực tế để đưa vào vận dụng một cách sáng tạo trong huấn luyện và chiến đấu. Ở anh không có nhiều về lý luận. Tôi cảm nhận ở anh từ kinh nghiệm thực tế của bản thân và đơn vị trên chiến trường mà rút ra những vấn đề có tính lý luận để áp dụng trong huấn luyện đơn vị cả về năng lực chỉ huy, cả về hành động của chiến sĩ và phân đội nhỏ, đi kiểm tra huấn luyện anh rất say sưa với những hành động sáng tạo của cán bộ cơ sở và chiến sĩ trên thao trường. Ở anh, con người chỉ huy hành động nhiều hơn là một cán bộ lý luận. Anh không nói nhiều mà thường diễn đạt bằng hành động thực tế. Thường những cuộc hội nghị tổng kết về xây dựng và huấn luyện, anh rất quan tâm nghe những trình bày của cán bộ cấp dưới, nhất là những điểm mới trong vận dụng chiến thuật, kỹ thuật, từ đó anh khái quát lên thành những vấn đề có tính lý luận - thực tiễn để mọi người tiếp thu. Với tác phong quần chúng - dân dã, dân chủ nên anh đã khơi dậy được tính độc lập tự tin của cán bộ cấp dưới khi trình bày một vấn đề gì, từ đó mà mạnh dạn bộc lộ hết suy nghĩ, tư duy của mình. Nhiều lần thông qua kế hoạch và phương án huấn luyện hoặc tác chiến của một trung đoàn, sau khi đồng chí Trung đoàn trưởng báo cáo xong, anh bảo tôi với tư cách là cơ quan Tham mưu có ý kiến nhận xét đánh giá của mình, và khi mọi người đã phát biểu hết ý kiến anh chỉ tóm tắt một cách ngắn gọn nêu lên những vấn đề có tính khái quát và cơ bản nhất, làm sáng tỏ nội dung của vấn đề. Tuy là một cán bộ quân sự, nhưng khi giao nhiệm vụ cho đơn vị, anh Trân luôn gắn với công tác động viên, công tác tư tưởng nên dễ truyền cảm được ý định quyết tâm của người chỉ huy, vì vậy mà trong quá trình chấp hành nhiệm vụ, với ý thức tự giác và tư tưởng thông suốt nên đã phát huy được tính chủ động sáng tạo của cấp dưới...
________________________________
1. Nguyên ủy viên Trung ương Đảng, Tư lệnh Quân khu 4.


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 07 Tháng Tư, 2016, 10:12:57 am

Trong những ngày nóng bỏng sôi sục trước âm mưu “Bắc tiến” của Ngô Đình Diệm ra vùng bắc giới tuyến nam Quân khu 4 với những hoạt động tổ chức biệt kích xâm nhập bằng đường biển, đường bộ và đường không, nhằm móc nối với bọn phản động nội địa, điều tra và phá hoại các cơ sở quân sự chính trị, làm mất ổn định tình hình tại tuyến đầu hậu phương miền Bắc. Với sự nhạy cảm về chính trị, ý thức cảnh giác cao, anh đã đưa sư đoàn vào tình trạng sẵn sàng chiến đấu cao một cách khẩn trương ở trình độ cao. Ban ngày tranh thủ huấn luyện, chuẩn bị cho nhiệm vụ vào Nam, ban đêm tổ chức các lực lượng phối hợp với lực lượng dân quân du kích và bộ đội địa phương truy lùng bọn biệt kích nhái từ biển vào, bọn sơn cước từ máy bay thả xuống vùng rừng núi tây Quảng Bình, nên hễ toán nào vừa xâm nhập đã bị ta tóm gọn. Phán đoán ý đồ địch sẽ tìm cách tập kích vào thị xã Đồng Hới và khu vực Sư đoàn bộ, anh Trân chỉ đạo chúng tôi tổ chức một cuộc tập kích không báo trước để nâng cao ý thức cảnh giác, sẵn sàng chủ động đối phó khi tình huống xảy ra. Sau khi thống nhất phương án và bí mật chuẩn bị, một đêm tối trăng anh và một bộ phận cán bộ tác chiến, trinh sát bất ngờ dùng bộc phá tập kích vào cơ quan Sư đoàn bộ và Trung tâm thông tin. Mọi người hoàn toàn bất ngờ, tưởng là địch tập kích thật, nhưng vì đã được luyện tập trước theo phương án khác nhau nên khi xảy ra mọi người đều hành động một cách nhanh chóng, theo phương án dự kiến không hề lúng túng bối rối và mọi người vào đúng vị trí, thực hiện nhiệm vụ theo phương án đã phân công. Kết thúc cuộc diễn tập, mọi người mới biết đây là cuộc kiểm tra của đồng chí Sư đoàn trưởng và Cơ quan Tác chiến đối với Cơ quan sở chỉ huy. Quả nhiên mấy ngày sau, một toán biệt kích nhái bí mật xâm nhập vào khu bãi biển vắng người ở bắc Bàu Tró, bố trí hỏa tiễn hẹn giờ nhằm tập kích vào thị xã Đồng Hới rồi bí mật rút lui, nhưng do hốt hoảng dàn hỏa tiễn của chúng chỉ nổ được một quả nhưng lại chệch hướng qua phía ruộng, và khi phát hiện ra tiếng nổ dân quân biển đã được tập luyện trước nên đã kịp thời bủa vây bắt gọn khi chúng tháo chạy ra ngoài biển. Âm mưu tung biệt kích ra phá hoại bị thất bại, đế quốc Mỹ đẩy mạnh đánh phá miền Bắc. Tinh thần sẵn sàng chiến đấu của đơn vị và địa phương hết sức cao. Cuộc tập kích bằng không quân ngày 5 tháng 8 năm 1964, tiếp đó là các cuộc oanh kích liên tục trong những ngày đầu tháng 2 năm 1965 vào khu vực Đồng Hới và sư đoàn, đơn vị hoàn toàn không bị bất ngờ, sẵn sàng đánh trả các đợt oanh kích của địch. Tại sở chỉ huy dã chiến của sư đoàn, anh Trân thường trực theo dõi qua đài quan sát các hướng xuất kích của máy bay địch, kịp thời ra lệnh cho cơ quan tác chiến và pháo binh phòng không chuyển lệnh cho các đơn vị cao xạ, các hỏa lực phòng không và bộ binh kịp thời đánh trả và bảo toàn lực lượng cho toàn đơn vị. Toàn đơn vị cũng như nhân dân hết sức bình tĩnh bước vào cuộc chiến, không nao núng và lúng túng. Sau ngày oanh kích đầu tiên, theo phương án đã chuẩn bị trước, anh lệnh cho toàn sư đoàn nhanh chóng rời khỏi doanh trại ngay trong đêm, đề phòng địch tiếp tục oanh kích ngày hôm sau. Mọi việc diễn ra trong trật tự nhưng rất khẩn trương. Anh cùng một bộ phận của các cơ quan tham mưu, chính trị lần lượt xuống kiểm tra việc di chuyển của các đơn vị. Những hành động đó đã tạo cho đơn vị ý thức về cuộc chiến đấu thực sự, một tác phong chiến đấu khẩn trương không để xảy ra bị động bất ngờ.

Một sự kiện đáng nhớ nhất đối với anh, ngày 1 tháng 2 năm 1965 khi địch tập trung oanh kích vào khu vực các mục tiêu quân sự của sư đoàn lúc này đã bị bỏ trống, với thế trận phòng không đã chuẩn bị sẵn, các đơn vị phòng không của sư đoàn đã cùng với bộ đội địa phương, dân quân du kích chủ động đánh trả quyết liệt, bắn rơi 3 máy bay, bắn bị thương một số khác trong đó có 1 chiếc F8A bị rơi tại chỗ. Lực lượng địa phương và dân quân tóm được tên phi công vũ trụ thiếu tá Su-mêch-cơ. Lập tức anh điện cho Tỉnh đội cho giải về sở chỉ huy dã chiến của sư đoàn và sư đoàn đã kịp thời khai thác nắm chặt kế hoạch của địch để kịp thời triển khai đối phó. Ban đầu tên phi công này rất ngạo mạn, hắn yêu cầu ta phải đối xử theo luật quốc tế về tù hàng binh, và yêu cầu đưa về cơ quan chỉ huy tối cao. Anh Trân nổi nóng quát tháo, qua phiên dịch (đồng chí phiên dịch cũng chỉ hiểu “trọ trẹ” được phần nào thôi). Anh nói: mày là lũ giặc đến giết hại đồng bào tao, mày không đủ tư cách là một tù hàng binh, người chỉ huy tối cao là tao đây! Thái độ với kẻ thù vừa giết hại đồng đội và đồng bào đã cổ vũ tinh thần khí thế của cán bộ chiến sĩ toàn sư đoàn, động viên mọi người tăng cường cảnh giác sẵn sàng chiến đấu, quyết bắt bọn giặc phải đền nợ máu. Vì điều kiện ngôn ngữ hạn chế anh quyết định ngay trong đêm cho giải tên giặc lái ra Quân khu để có điều kiện khai thác, nắm được ý đồ, kế hoạch của địch, chủ động đối phó về mặt chiến lược...

Những năm tháng với tư cách là một cán bộ chủ chốt của cơ quan tham mưu tác chiến, làm việc với anh tôi thấy vừa dễ, nhưng lại vừa rất khó. Dễ bởi vì anh là người chỉ huy rất dân chủ, luôn tôn trọng và lắng nghe ý kiến của cấp dưới dù đó là ý kiến khác với mình, không bao giờ anh cắt ngang ý kiến của cấp dưới khi ý kiến đó khác ý kiến của anh. Do đó khi phát biểu không phải rào đón, có gì trong óc được tự do bộc lộ hết, chính phong cách đó làm cho cấp dưới mạnh dạn nói hết suy nghĩ của mình được tranh luận và được anh phân tích, cân nhắc và kết luận, tạo được sự nhất trí cao trên dưới và khi thực hiện thì đồng lòng đồng sức cùng nhau quyết tâm vượt qua mọi khó khăn để thực hiện đến cùng. Cái khó ở đây là người chỉ huy cho mình được quyền nói hết suy nghĩ, ý kiến của mình, thì bản thân phải làm sao có những ý kiến, những đóng góp có chất lượng, trên tôn trọng dưới thì dưới lại càng phải tôn trọng cấp trên từ đó mà phải vắt óc suy nghĩ, không thể bạ đâu nói đấy, được chăng hay chớ, thiếu trách nhiệm. Chính vượt qua được cái đó, có những ý kiến sai đúng nên đã nâng mình lên một tầng cao mới, đáp ứng được yêu cầu của một cán bộ tham mưu có chất lượng. Làm việc với anh Trân, vừa dễ dàng vừa nghiêm túc và trách nhiệm. Học tập phong cách làm việc đó, sau này ở các cương vị chỉ huy khác nhau tôi tự xác định cho mình ý thức luôn luôn chịu khó lắng nghe, khêu gợi cho dưới phát huy hết ý kiến dân chủ nhất là chịu khó lắng nghe những ý kiến khác với mình để có cơ sở đối chứng, suy nghĩ, phân tích làm rõ đúng sai có kết luận chính xác. Phong cách đó đã tạo được một sự đoàn kết thống nhất thực sự giữa người chỉ huy và cơ quan, giữa cấp trên và cấp dưới. Qua thực tiễn trong chiến đấu, cán bộ các cấp trong hai Sư đoàn 325A và 325B khi vào chiến trường đều là những đơn vị đã luôn hoàn thành nhiệm vụ xuất sắc. Tôi được biết Sư đoàn 341 được vào chiến đấu trong giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến do anh và tập thể Ban chỉ huy sư đoàn xây dựng trong một thời gian ngắn đã thể hiện là một sư đoàn tiêu biểu trong chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975, đơn vị tuổi đời rất trẻ nhưng đã hai lần được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân với những thành tích đặc biệt xuất sắc trong chống Mỹ và trong chiến tranh biên giới Tây Nam...


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 07 Tháng Tư, 2016, 10:13:40 am

Năm 1969, anh Trân đưa Sư đoàn 1 vào chiến đấu ở Nam Bộ, tôi không có điều kiện theo dõi tình hình mà chỉ được biết trong một lần đi chuẩn bị chiến trường đoàn cán bộ bị địch phục kích, anh bị sa vào tay giặc. Đầu năm 1973, anh được trao trả tại Thạch Hãn. Mãi đến năm 1974 khi anh làm Sư trưởng Sư đoàn 341, tôi từ Tây Nguyên ra Hà Nội, thay mặt Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên B3 nhận nhiệm vụ chiến dịch giải phóng Tây Nguyên 1975, qua khu vực nam Quảng Bình, tôi cố tìm đến Sư đoàn 341 để thăm anh. Hai anh em gặp nhau được một đêm, cùng nhau tâm sự mãi đến sáng mà câu chuyện chưa kết thúc. Bao nhiêu chuyện cũ, chuyện đơn vị, chuyện chiến đấu, chuyện riêng tư và gia đình... Đến mờ sáng, anh chiêu đãi tôi một bữa cháo gà, món ăn mà mười năm trên chiến trường Tây Nguyên ít khi dám nghĩ tới. Tạm biệt anh để ra gặp Bộ Tư lệnh nhận nhiệm vụ, mãi sau giải phóng miền Nam 30 tháng 4 năm 1975, trong buổi kỷ niệm ngày truyền thống của Sư đoàn 325 tại căn cứ Nước Trong, những cán bộ cũ của Sư đoàn 325 mới hội tụ về đây trong niềm vui sướng và tình cảm dạt dào của những người còn sống để báo cáo với Bác Hồ kính yêu là các thế hệ của Sư đoàn 325 con đẻ của Bình Trị Thiên - Quân khu 4 đã hoàn thành nhiệm vụ vẻ vang, góp phần giải phóng miền Nam thống nhất đất nước theo đúng nguyện vọng của Bác...

Lại nhớ tới những ngày cuối năm 1969, sau khi có quyết định của Bộ Chính trị về việc mở tuyến cơ giới để rút ngắn thời gian đưa lực lượng và vật chất vào miền Nam, Sư đoàn 325 được giao nhiệm vụ phối hợp với đường dây 559 mở đường cơ giới trên đoạn tây Quảng Bình vào làng Ho - Vítthùlù - cao điểm 1001 - Cù Bai, giáp ngọn nguồn sông Hiền Lương. Để giữ bí mật, bộ phận mở đường chỉ được phổ biến là để tiếp tế cho hai đồn biên phòng Cù Bai và Tàrua, chỉ có các đồng chí trong Bộ Tư lệnh và một vài đồng chí chủ chốt trong cơ quan tham mưu và chính trị biết rõ ý định này. Với tâm niệm và nguyện vọng được nhanh chóng tham gia tiếp ứng cho miền Nam trong đó có quê hương Thừa Thiên của anh. Anh Trân giao cho tôi chuẩn bị một bộ phận cán bộ tác chiến, trinh sát, công binh, thông tin được tuyển chọn kỹ càng để cùng anh chuẩn bị lên đường, khảo sát mở tuyến. Đi trong đoàn này có đồng chí Song Nguyên - Chủ nhiệm trinh sát, đồng chí Lưu Xuân Sỹ - Chủ nhiệm công binh. Ba chúng tôi là cánh tay đắc lực cho anh trong nhiệm vụ trọng đại này. Lúc này đã vào mùa mưa dầm gió bấc, rét lạnh. Anh cùng chúng tôi vượt qua đèo cao, suối thẳm, chui rúc để tìm tuyến, phát tuyến, đánh dấu đường để sau này đưa bộ đội vào mở đường. Đói rét, sên vắt, mệt mỏi nhưng mọi người đều hăng say. Những lúc mệt nhọc anh thường động viên chúng tôi bằng những câu chuyện tiếu lâm vui nhộn. Mấy chục ngày lặn lội nơi núi cao, suối sâu, rừng rậm chúng tôi đã xác định xong tuyến đường. Từ đó một công trường thủ công mở đường cơ giới được hình thành và sau hơn hai tháng với tinh thần “mỗi người làm việc bằng hai, bằng ba” không kể đêm ngày, anh trực tiếp thường xuyên trên tuyến để cùng anh em hoàn thành vượt mức thời gian mà Bộ Chính trị giao. Tuyến vận chuyển rút ngắn được nhiều ngày. Bộ đội và đồng bào miền Nam sớm nhận được “dòng máu” của bộ đội và đồng bào miền Bắc để cùng quyết tâm giải phóng miền Nam. Nhiệm vụ đặc biệt này của sư đoàn được Quân ủy và Bộ Tài chính khen. Qua nhiệm vụ này mà cán bộ chiến sĩ Sư đoàn 325 được tiếp cận với nhiệm vụ chi viện miền Nam, nên đã tạo được sự khát vọng sớm được vào Nam chiến đấu bên cạnh đồng bào, đồng chí miền Nam “đi trước về sau”...

Tuyến đường cơ giới vừa thông, sư đoàn lại được lệnh tổ chức cho Trung đoàn 101 sang phối hợp với bạn Lào tiêu diệt đồn Tà Khống - Sê Pôn, mở rộng vùng giải phóng trên trục đường 9 để tạo thêm căn cứ giải phóng cho bạn, đồng thời để chuẩn bị mở tuyến cơ giới tây Trường Sơn vào miền Nam. Một lần nữa anh Trân lại cùng đoàn cán bộ cơ quan sư đoàn cùng với đồng chí Trung đoàn trưởng Võ Huy, đồng chí Chính ủy Thái Bá Nhiệm cùng vượt biên giới đi chuẩn bị chiến trường. Việc chuẩn bị rất khẩn trương, nhưng lại vào mùa mưa, nước sông Sê Băng Hiêng chảy xiết, thuyền bè không có, nhưng bằng mọi cách phải vượt qua để tiếp cận mục tiêu, với yêu cầu tuyệt đối giữ bí mật và với đồng bào nước bạn nên mọi người đều ăn mặc theo trang phục bộ đội Pathét Lào từ đầu đến chân. Sau một thời gian chuẩn bị chu đáo, anh trực tiếp thông qua phương án tại thực địa, Trung đoàn 101 được lệnh bí mật vượt sông Sê Băng Hiêng, tiếp cận mục tiêu. Với hình thức tập hợp bí mật và cường tập, đơn vị nhanh chóng tiêu diệt đồn Tà Khống, phát triển và giải phóng thị trấn Sê Pôn, Mường Phin, giải phóng một vùng rộng lớn từ Kaki giáp Lao Bảo, Quảng Trị đến đồn Pha Lan. Vùng giải phóng đường 9 được mở rộng, hành lang tây Trường Sơn có điều kiện mở tuyến cơ giới vào phía tây tỉnh Thừa Thiên đến ngã ba La Hạp, đồng thời ta nhanh chóng khôi phục sân bay Tà Khống để dùng máy bay từ sân bay Đồng Hới chuyển hàng tiếp tế cho ta và bạn lập căn cứ hậu cần để chi viện cho miền Nam. Đến lúc này tuyến tiếp tế đã được rút ngắn hàng chục ngày, sợi dây nối liền Nam Bắc ngày một ngắn dần. Những kỷ niệm đó dù đã đi qua mấy chục năm, nhưng không bao giờ phai mờ trong trí nhớ chúng tôi. Những kỷ niệm tốt đẹp về đồng đội, về đơn vị, về anh Trần Văn Trân, người chỉ huy mẫu mực mà chúng tôi hết sức quý mến. Nhớ những ngày đi mở tuyến, những ngày chuẩn bị chiến trường, ngày chui lủi, chui rúc, dầm mình trong nước lạnh, vượt sông, cùng những lúc vượt đỉnh Trường Sơn dốc đứng, phải chặt cây làm thang, người sau đỡ người trước, người trước kéo người sau để vượt lên, tuy vô cùng vất vả nhưng mọi người đều vui. Những đêm về bên cạnh đống lửa giữa núi rừng bạt ngàn chưa từng có dấu chân người, mọi người ôm nhau nằm quanh cho đỡ lạnh, nhưng lại thương anh em vệ binh, trinh sát vẫn phải thức canh gác đề phòng thú rừng hoặc bọn biệt kích thám báo. Nhiều đêm thấy anh em chiến sĩ vất vả, anh Trân bảo cho tôi gác đỡ anh em một phần và đêm anh cũng tự phân cho mình nhận một phiên gác như mọi người, là một người chỉ huy trưởng thành từ chiến sĩ lên nên mọi động tác chiến đấu, tháo súng đạn anh sử dụng rất thành thạo. Đi hành quân, anh luôn trang bị cho mình một khẩu cacbin. Có những hôm gần địch, không được đun nấu, mỗi người một bát gạo rang với nước sôi cho qua bữa, nhưng không ai kêu ca phàn nàn. Những lúc đó với năng khiếu “nói trạng” anh đã làm cho anh em quên mệt nhọc và lấy lại niềm vui. Cuộc sống những lúc này không có khoảng cách giữa cán bộ với chiến sĩ mà thực sự như anh em ruột thịt trong nhà. Khi làm nhiệm vụ chiến đấu thì như vậy, còn khi huấn luyện, rèn luyện tại hậu phương, những ngày chủ nhật anh không hề nghỉ ngơi mà thường rủ chúng tôi đi săn tìm mấy con chim về cải thiện. Anh bắn súng thể thao rất giỏi xác xuất đạt 80 - 90 phần trăm, cứ 10 viên đạn ăn chắc 8-9 con, chúng tôi khá lắm chỉ được 6-7 con, riêng đồng chí Sỹ chủ nhiệm công binh mở đường thì giỏi nhưng may lắm 10 phát chỉ được 3-4 con. Được chim rồi về nhà anh bảo chúng tôi vặt lông làm sạch, còn việc nấu nướng chỉ có anh được đặc cách, không ai được tham gia. Quê anh ở Huế, cái nôi của kỹ thuật nấu ăn miền Trung nên anh thao tác như một đầu bếp thực thụ. Chuẩn bị xong mọi người ngồi vào “chén chú chén anh” như trong một gia đình. Tôi nghĩ, và cũng như những anh em đã từng sống với anh, tình cấp trên cấp dưới, tình cán bộ chiến sĩ như vậy đã là nhân tô gắn kết với nhau, sống chết cùng có nhau, bảo vệ nhau, không ai nỡ thoái thác nhiệm vụ, thậm chí càng không thể phản bội nhau. Việc anh cùng cán bộ chiến sĩ Sư đoàn 1 bị địch bắt nhưng vẫn giữ được bí mật, bảo vệ anh, chính xuất phát từ chỗ đó, cộng với tinh thần kiên cường “không bao giờ phản bội xưng khai” của anh bộ đội Cụ Hồ...


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 07 Tháng Tư, 2016, 10:14:45 am

Một câu chuyện mà tôi không bao giờ quên. Năm 1974, khi tôi được thay mặt Bộ Tư lệnh Tây Nguyên - B3 ra Hà Nội nhận nhiệm vụ chiến dịch Tây Nguyên, trên đường ghé qua nhà được vợ tôi kể lại câu chuyện về tình đồng chí, đồng đội, bên cạnh đại đa số chí cốt với nhau, đối với gia đình của nhau, thì cũng có những người đáng chê trách, nói hay làm dở, làm hoen ố phần nào tình đồng đội về lời thề “giúp đỡ nhau lúc thường cũng như lúc ra trận”. Sau khi được trao trả trên đường ra Hà Nội trình diện với Quân ủy Trung ương, việc đầu tiên anh tìm đến thăm gia đình các đồng chí vào Nam chiến đấu với anh. Tại Quảng Bình, anh tìm đến nông trường Lệ Ninh thăm gia đình đồng chí Hồ Trọng Tuyến, chủ nhiệm thông tin sư đoàn. Đến Vinh anh tìm đến thăm gia đình đồng chí Trần Duy Uynh, chủ nhiệm trinh sát của sư đoàn, động viên an ủi gia đình và chia buồn cùng gia đình về sự hy sinh của đồng chí Uynh tại chiến trường, gia đình hết sức xúc động và cũng vơi đi phần nào nỗi đau trước tình đồng đội từ chốn tù đày ra đã tìm đến thăm. Tiếp theo anh tìm đến gia đình tôi tại xí nghiệp may Việt - Đức. Nghe vợ tôi kể lại tuy đã hơn 8 năm xa cách, nhìn đám đông trong chị em, anh nhận ra nhà tôi ngay. Anh bảo sao em gầy và xanh xao thế? Mọi người liền nói “gánh nặng một mẹ hai con, đi sơ tán khắp nơi, đói rét bệnh tật không gầy ốm sao được”. Anh xúc động lắm và mọi người trong xí nghiệp cũng xúc động. Và anh liền hỏi: thằng cu khi mới sanh được 3-4 tiếng, bố nó về nhìn mặt con, biền biệt đến bây giờ, nay ra sao rồi? Mọi người không ngờ anh vẫn còn nhớ những chi tiết nhỏ đó và liền nói: nó lớn rồi và nghịch lắm. Nhà tôi nói thêm: “Cha nào con nấy thôi, sau này lớn lên gửi cho anh vào bộ đội”. Anh hỏi chuyện làm ăn, chuyện học hành của con và gửi gắm nhờ chị em giúp đỡ. Lúc anh hỏi đến việc thăm hỏi của cơ quan Quân khu đối với gia đình, nhà tôi liền nói: mọi năm trước Tết, cơ quan Tỉnh đội cho một cán bộ đến trao quà, còn lương phụ cấp thì hằng tháng đến trạm tỉnh đội nhận. Mấy năm liền không thấy ai đến hỏi han, trừ một lần anh Phạm Lê Đoài, chủ nhiệm pháo binh sư đoàn trước đây, không đi B đến thăm mà thôi. Nghe nhà tôi nói  đến đây, anh thay đổi sắc mặt, lộ một nét buồn rồi anh động viên vợ tôi cố gắng nuôi con chờ tôi về. Thực ra lúc này anh cũng không biết tôi còn hay mất, sau mấy năm xa nhau không tin tức. Nhà tôi nói có tin tôi đã hy sinh rồi, anh động viên và đả thông cho vợ tôi. Năm 1974, tôi ra Bắc nhận nhiệm vụ, nghe vợ tôi kể lại chuyện đó, tôi thực sự quá xúc động, nhớ những ngày sống, công tác và chiến đấu bên nhau, nay càng thể hiện đầy đủ bản chất của anh, của người đảng viên “bộ đội Cụ Hồ” thực sự coi nhau như ruột thịt. Nghe chuyện anh về thăm gia đình, người duy nhất không phải là những người của đơn vị cũ không đi B, công tác tại Quân khu ngay tại Nam Đàn, mà là người đã từng chiến đấu trên chiến trường, bị tù đày vừa được trao trả, càng quý mến anh tôi lại càng trách, giận những người khi chúng tôi đi B thì động viên chúng tôi yên tâm chiến đấu ở nhà đã có “chúng tôi” lo. Những người đó ngót 10 năm nay không thấy đoái hoài! Tôi thực sự tức giận về những con người đó, nói một đằng làm một nẻo, hứa mà không làm, những người đó đã làm hoen ố tình đồng đội của anh bộ đội Cụ Hồ. Bài học đó trước hết là bài học bổ ích cho tôi về trách nhiệm và tình thương đồng chí đồng đội, tình nghĩa trước sau như một của một người đảng viên, một quân nhân cách mạng...

Chuẩn bị cho Sư đoàn đi B - trên chiến trường cho đến ngày tạm xa nhau.

Sư đoàn 325 là đơn vị cấp sư đoàn đầu tiên được vào Nam chiến đấu... Năm 1963, sư đoàn được lệnh khẩn trương xây dựng, huấn luyện để sẵn sàng làm nhiệm vụ. Lúc này trừ một số cán bộ chủ chốt của sư đoàn, còn mọi người chỉ biết có vậy. Đơn vị đang phối hợp tác chiến với bạn Lào trên chiến trường Lào, nên mọi người cứ nghĩ là sẽ tiếp tục đi chiến đấu ở Lào. Bấy giờ đã có các đoàn cán bộ chiến sĩ đi lẻ ở cấp tiểu đoàn lần lượt lên đường vào Nam. Nhiệm vụ của sư đoàn lúc này hết sức nặng nề: sẵn sàng chiến đấu - chiến đấu bảo vệ miền Bắc, phối hợp chiến đấu mở rộng khu căn cứ cách mạng của bạn Lào, đồng thời khẩn trương xây dựng sẵn sàng có lệnh lên đường vào Nam bất cứ lúc nào. Việc giáo dục chính trị, quán triệt nhiệm vụ, việc huấn luyện diễn tập chiến thuật, kỹ thuật, hành quân xa mang vác nặng, luyện tập leo núi, vượt sông được tiến hành hết sức khẩn trương dồn dập. Mọi người không nói ra nhưng cũng đoán biết là nhiệm vụ chiến đấu rất nặng nề. Những cuộc diễn tập thực binh với các hình thức chiến thuật, đánh vận động, đánh công kiên, đánh phục kích, tập kích, đánh giao thông được tiến hành rất ráo riết. Những trận đánh diễn ra như thật trên vùng trung du và núi cao tại Quảng Bình. Tại bất kỳ cuộc diễn tập nào từ cấp đại đội, tiểu đoàn đến trung đoàn, với cương vị là người chỉ huy cao nhất của sư đoàn, anh Trân đều có mặt để theo dõi, chỉ huy, nhất là các đơn vị đột phá, đơn vị điểm của sư đoàn. Theo dõi diễn tập có lúc cán bộ chiến sĩ xử trí sai anh trực tiếp khêu gợi, hướng dẫn, thậm chí có lúc tự mình trực tiếp xử trí để cán bộ dưới rút kinh nghiệm. Hành quân mang vác nặng đường dài là mục gian khổ nhất. Mỗi người với chiếc ba lô bỏ đầy gạch đá, lúc đầu nhẹ là 20 cân chưa kể súng đạn, người trung bình là 27 - 30 cân, chiến sĩ trợ chiến phải 25 – 27 cân và từ chỉ tiêu tối thiểu đó mà nâng dần lên mức tối thiểu là 30 cân thì mới đạt yêu cầu, và đó là tiêu chuẩn để được tuyển chọn vào trong đội hình. Trong các cuộc hành quân, anh thường xuyên đi tập cùng bộ đội và mang vác như chiến sĩ. Những buổi đầu có chiến sĩ trẻ không theo kịp, anh còn mang giùm vũ khí để mọi người không phải bỏ cuộc. Nhiều chiến sĩ bảo nhau: sư trưởng làm được thì chúng mình phải cố lên. Tấm gương anh khích lệ mọi người gian lao khổ hạnh nhưng lại đầy niềm vui và tự hào. Lúc này nếu một ai bị loại ra vì bất kỳ lý do nào cũng là một sự hổ thẹn nên ai cũng ráng sức tập luyện. Sau những năm tháng rèn luyện dưới sự lãnh đạo chỉ huy của Bộ Tư lệnh sư đoàn, trực tiếp là anh Trân, hai Sư đoàn 325A, 325B đã “đi đến nơi - về đến chốn” với bao nhiêu chiến công lẫy lừng trên các chiến trường miền Nam. Thành tích đó không thể không nhắc đến công lao của anh Trần Văn Trân, đến bây giờ những người còn sống đều khẳng định như vậy...

Một câu chuyện đáng nhớ về Sư đoàn 325B vào Tây Nguyên. Theo lệnh của Bộ, trên đường vào Tây Nguyên, sư đoàn có nhiệm vụ tổ chức tiêu diệt căn cứ biệt kích ác ôn hỗn hợp Mỹ - ngụy tại thung lũng A Sầu - tây Thừa Thiên, để bảo đảm an toàn hành lang chiến lược - đường mòn Hồ Chí Minh. Anh trực tiếp chỉ huy bộ phận cán bộ đi chuẩn bị chiến trường, lúc này biệt kích Mỹ - ngụy lùng sục ráo riết để đánh phá hành lang chiến lược của ta. Việc nghiên cứu, chuẩn bị chiến trường hết sức khó khăn. Nếu lộ bí mật, địch tăng cường bố phòng thì trận đánh sẽ khó khăn. Vốn là địa bàn quê hương của anh, nơi anh đã từng hoạt động trước đây trong kháng chiến chống Pháp, quen thuộc thung thổ, anh đã bắt được liên lạc với cán bộ nằm vùng, với du kích người dân tộc Pacô và Vân Kiều nên việc dẫn đường, tránh địch để tiếp cận mục tiêu cũng được thuận lợi hơn.


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 07 Tháng Tư, 2016, 10:15:33 am

Một thời gian khẩn trương chuẩn bị, mọi việc đã hoàn thành. Đêm giao thừa đầu năm 1966, sau khi chuẩn bị xong, toàn bộ về tập kết tại một đầu ngọn suối chảy ra sông A Sáp bên kia biên giới Việt Lào để đảm bảo an toàn, chờ bộ đội vào triển khai chiến đấu. Chẳng may đêm đó mưa rào lũ quét mọi người không kịp chạy, toàn bộ quân trang lương thực cơ bản bị trôi hết, may chạy được người và vũ khí, không ai bị cuốn trôi. Nhưng sáng 30 Tết, toàn bộ trắng tay, may mà thoát chết. Anh Trân chỉ còn lại chiếc quần đùi duy nhất trong người. Sáng mồng 1 Tết, mọi người đều “treo niêu” tạm hái rau rừng để đón xuân vậy. Sau chiến thắng sẽ tính sau. Hoàn cảnh cơ cực đó không làm mọi người nản lòng. Với khoa nói trạng vốn có, anh động viên anh em: Thôi, trời không thương ta, ta cố chịu, mấy hôm nữa, tiêu diệt xong đồn ta sẽ lấy của địch trang bị lại cho ta, cố gắng chịu đói vài hôm nữa, anh em đơn vị sẽ vào đến nơi, ta sẽ truy lĩnh Tết sau. Mọi người vui vẻ... Và đúng ngày giờ quy định cuộc tấn công vào căn cứ A sầu bắt đầu. Đêm đầu do căn cứ quá kiên cố, lực lượng lại đông ta chỉ chiếm được một phần căn cứ, địch chống cự quyết liệt, ta phải tạm dừng trụ bám, chuẩn bị tổ chức lại tiếp tục tấn công đợt 2. Lúc này anh Vũ Lăng - Tư lệnh phó Quân khu vào trực tiếp chỉ huy, giao cho anh Trân tổ chức cơ quan lên nắm tình hình và giúp Trung đoàn 95 nắm lại lực lượng, xốc lại đội hình, tổ chức lại các trận địa hỏa lực chi viện để dứt điểm vào đợt 2. Tôi được phân công xuống đơn vị để cùng anh Lê Khắc Cần - Trung đoàn trưởng nắm lại tình hình, bố trí lại lực lượng, tổ chức hiệp đồng chặt chẽ để về báo cáo Bộ Tư lệnh hạ quyết tâm tiến công đợt 2.

Theo đúng chỉ thị của anh Trân, sau khi củng cố xong, anh Cần thống nhất tôi về Sở chỉ huy báo cáo với Bộ Tư lệnh xin được công kích dứt điểm trong đợt 2. Do tâm trạng bức xúc vì trận chiến đấu không dứt điểm mà ta lại bị thương vong nên vừa thấy tôi trở về, anh Vũ Lăng liền quát tháo: Sao chưa dứt điểm cậu lại trở về? Cậu sợ chết à?

Câu nói xúc phạm đến danh dự của tôi, tôi nổi nóng liền cãi lại, cuộc đấu khẩu diễn ra gay gắt, mọi người trong Sở Chỉ huy không ai nói một lời, vì mọi người biết anh Vũ Lăng rất nóng tính. Tôi liền nói rõ là trước khi đi anh Trân bảo tổ chức củng cố xong đội hình, hiệp đồng lại với hỏa lực, xong mọi việc về báo cáo để Bộ Tư lệnh hạ lệnh tấn công đợt 2. Lúc này anh Vũ Lăng không nói thêm nữa. Anh Trân liền lên tiếng nói rõ ý định của anh để Bộ Tư lệnh nắm chắc tình hình, cân nhắc cẩn thận để hạ quyết tâm cho chính xác, nên tôi đã phải về báo cáo đã. Vấn đề đã rõ và mọi người lúc này tập trung theo dõi cuộc tấn công đợt 2. Đúng lúc này anh Lê Khắc Cần điện báo cáo trong căn cứ địch có hiện tượng nhốn nháo, khả năng chúng chuẩn bị tháo chạy. Lệnh tấn công bắt đầu. 30 phút sau, sau đợt tấn công dồn dập của pháo binh, bộ đội xung phong lần lượt đánh chiếm hoàn toàn căn cứ địch. Trận chiến đấu kết thúc thắng lợi, cánh cửa an toàn hành lang chiến lược được mở rộng, tuy nhiên do trận đầu chưa có kinh nghiệm, căn cứ địch lại rộng lớn, đối tượng là bọn ác ôn Mỹ ngụy khét tiếng nên thương vong ta còn cao. Qua câu chuyện trước áp lực nặng nề của người chỉ huy cả Bộ Tư lệnh và cơ quan không ai nói một lời, nhưng anh đã thẳng thắn nói rõ chính kiến của mình. Sau này có lần tôi nói đùa với anh, hôm đó nếu anh không lên tiếng như mọi người thì chắc tôi đã bị... nặng rồi, mặc dù tôi không sai. Anh cười và nói: sợ thua địch chứ thua cấp trên thì cũng chẳng sao, mọi vấn đề đều có chân lý của nó...

Vào Tây Nguyên, Sư đoàn 325B giải thể, chuyển các trung đoàn thành các đơn vị độc lập phân tán đi hoạt động các hướng. Tôi trở về cơ quan tham mưu mặt trận. Sau đó anh Trân được giao nhiệm vụ tổ chức lại Sư đoàn 1 do anh làm Sư trưởng để vào tăng cường cho chiến trường Nam Bộ. Vào một ngày đầu năm 1969 chúng tôi tạm chia tay nhau, anh vào Nam Bộ, tôi ở lại Tây Nguyên, hứa với nhau dù ở đâu cũng quyết tâm phát huy truyền thống của Bình Trị Thiên của Sư đoàn 325, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, hẹn gặp lại một ngày không xa. Ngày ấy chính là ngày kỷ niệm Sư đoàn 325 vào cuối năm 1975 tại căn cứ Nước Trong sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng. Tiếp đó, thỉnh thoảng chúng tôi lại có dịp gặp nhau tại chiến trường biên giới Tây Nam năm 1978, lúc này anh là Phó Tư lệnh Quân đoàn 4, tôi là Phó Tư lệnh Quân đoàn 3. Lần gặp anh năm 1997 cũng là lần cuối cùng để từ đấy không bao giờ còn gặp nhau nữa.

Vào một ngày hạ tuần tháng 3 năm 1997 tôi nhận được tin dữ về anh Trân qua điện thoại của chị Hà và từ đây chỉ còn gặp nhau trong ký ức với những hình ảnh đẹp đẽ của anh, đậm tình đồng chí, đồng đội, tình anh em.

Tháng 3 /1997 – 12/2006
N.Q.T



Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 08 Tháng Tư, 2016, 09:41:16 pm

THƯƠNG MẾN ANH BA TRÂN
Trung tướng Lê Nam Phong1


Anh Ba Trân là một đồng đội thân quý, một người bạn chí thân đã từng sống cùng tôi tràn đầy tình nghĩa. Chúng tôi đã từng chỉ huy chiến đấu, tham gia nhiều trận đánh, nhiều chiến dịch trên các chiến trường cùng nhau.

Anh để lại trong lòng tôi những ấn tượng tốt đẹp và nhiều kỷ niệm sâu sắc.

Anh là một cán bộ chỉ huy, một vị tướng dày dạn trận mạc, một vị tướng sống thẳng thắn, giản dị, nồng nhiệt với đồng đội, đồng chí, vui vẻ trong giao tiếp, thân mật hòa đồng với mỗi cán bộ chiến sĩ dưới quyền mình.

Lần đầu tôi gặp anh ở Đồng Hới cách đây đã mấy chục năm. Đó là quãng thời gian 1961 - 1962, khi anh ở Sư đoàn 325.

Lúc bấy giờ tôi công tác ở Cục Tác chiến, được phân công theo dõi hướng Liên khu 4. Là phái viên của Bộ Quốc phòng, tôi vào chuẩn bị những công việc cho đoàn Phương Đông 1 do đồng chí Trần Văn Quang làm trưởng đoàn chuẩn bị đi B.

Tôi thường xuyên đi kiểm tra Sư đoàn 325 nhiều lần phát lệnh báo động! Anh Ba Trân bấy giờ là Tham mưu trưởng, bực lắm.

Có lần tôi vào, anh đuổi - không cho ăn cơm! Tôi ra Đồng Hới ăn cơm xong, quay trở về lại báo động tiếp! Chuyện này sau mấy chục năm tôi và anh Ba Trân vẫn nhắc lại nhiều lần, xem đó là “kỷ niệm khó quên!”

Anh là một chiến sĩ quân đội cách mạng kiên trung và dũng cảm. Những năm tháng bị địch giam giữ, tù đày anh vẫn giữ vững lòng trung thành với Đảng với dân, giữ vững khí tiết trong sạch của người chiến sĩ cộng sản.

Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, tôi và anh đều là Sư đoàn trưởng (Sư đoàn 7 và Sư đoàn 341) tham gia chỉ huy chiến đấu trên mặt trận Xuân Lộc tháng 4 năm 1975.

Về sau cả hai chúng tôi cùng làm nhiệm vụ quân quản thành phố Sài Gòn, cùng làm việc trong Bộ Tư lệnh Quân đoàn 4. Tôi và anh Ba Trân đã trở thành đôi bạn gắn kết thân thiết, tin cậy lẫn nhau, cùng đoàn kết chia sẻ mọi nỗi niềm buồn vui, động viên nhau rất nhiều!

Những năm tháng ở Bộ Tư lệnh tiền phương (Mặt trận 719) từ 1983 - 1987, tôi lại cùng với anh được kề cận trong Bộ Tham mưu Mặt trận của quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia.

Ngoài tình đồng chí, đồng đội, hai gia đình chúng tôi có cơ duyên sống gần nhau trong làng Đại học Thủ Đức. Nhờ vậy mà hai gia đình chúng tôi được kề cận, gần gũi có điều kiện vun đắp thêm mối tình thâm giao hữu hảo giữa tất cả các thành viên gồm cả con cháu!

Giờ đây, anh Ba Trân không còn nữa. Nhưng trong lòng tôi vẫn không thể nào quên hình bóng của người đồng đội, đồng chí thân quý ấy.

Ôn lại bao nhiêu kỷ niệm về công tác tham mưu chiến trường, chiến dịch, về chỉ huy chiến đấu, tôi càng nhớ anh. Nhớ những lúc chúng tôi cùng nhau tranh luận sôi nổi, nhớ những sớm chiều dạo bước bên nhau trên các con đường vắng lặng ở làng Đại học...

Nhớ những lúc tôi cùng anh vui say đón tiếp đồng đội, bạn bè gần xa.

Bây giờ anh đã đi xa nhưng hình bóng và tình cảm của anh còn lại mãi trong tâm khảm và ký ức đời tôi.
L.N.P
___________________________________
1. Nguyên Hiệu trưởng Trường Sĩ quan Lục quân 2.


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 08 Tháng Tư, 2016, 09:44:27 pm

NHỚ THIẾU TƯỚNG TRẦN VĂN TRÂN
Trung tướng Vũ Cao1


Mới ngày nào vậy mà đã mười năm anh Trân ra đi theo Bác Hồ vĩ đại. Mười năm với đời người đã dài, anh ra đi nhưng tình cảm, việc làm của anh với đơn vị, tập thể, bạn bè hiện còn rất sâu nặng trong tình người...

Cùng công tác với Thiếu tướng Trần Văn Trân, tôi hiểu anh và thấy trong anh một con người hành động sôi nổi, hăm hở với nhiệm vụ chính trị của bản thân và đơn vị.

Ba năm, anh bị bắt làm tù binh của Mỹ - ngụy trong điều kiện bất lợi với cương vị “y tá đại đội” của quân giải phóng miền Nam...

Anh được đối phương trao trả sau khi Hiệp định Pa-ri được ký kết năm 1973. Những năm tháng chiến đấu ở chiến trường và ba năm trong nhà tù Mỹ- ngụy, chặng đường dài đấu tranh gian khổ, quyết liệt giữa “cái sống, cái chết” giữ trọn niềm tin vào sự nghiệp cách mạng, tình cảm gia đình, vợ, con... ba năm “trong bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn".

Tháng 2 năm 1973, trở về với tình thương của đồng chí, đồng đội, đơn vị, gia đình, vợ con. Chưa bao lâu, trước yêu cầu của tình hình và sự tin tưởng của tổ chức, tháng 11 năm 1973, anh được điều động đi nhận nhiệm vụ Sư đoàn trưởng Sư đoàn 341, có nhiệm vụ nhanh chóng xây dựng sư đoàn để nhận nhiệm vụ chiến đấu. Gác lại tình cảm riêng tư, anh vui vẻ lên đường về đơn vị.

Về đơn vị, bắt tay vào công việc với khí thế “tiến công”, sau khi nghe cơ quan báo cáo tình hình các đơn vị, anh tìm phương pháp bằng việc đi cơ sở tìm hiểu thực tế, gặp cán bộ, chiến sĩ, xem xét việc làm, huấn luyện xây dựng của đơn vị. Với tác phong thực tế, cởi mở, gần gũi chân tình, anh được cán bộ, chiến sĩ tiếp đón vui vẻ thân mật, kính trọng và tin tưởng. Họ bộc lộ hết tâm tư, nguyện vọng, nỗi lo lắng và lòng mong muốn với Sư đoàn trưởng. Tình cảm của cán bộ chiến sĩ cũng động viên anh nên chỉ trong thời gian ngắn giúp anh nhanh chóng nắm được tình hình sư đoàn và anh đã có báo cáo tổng hợp đánh giá tình hình đơn vị trước Đảng ủy và Hội nghị Quân chính của Sư đoàn. Những việc làm được, việc chưa làm được, ưu khuyết điểm và thiếu sót khá cụ thể, anh đề ra kế hoạch, những biện pháp cụ thể khắc phục từng việc... Những nội dung anh trình bày đầy sức thuyết phục, vì đó là kinh nghiệm chiến trường - những kinh nghiệm bằng máu được tập thể Đảng ủy, cán bộ sư đoàn hoan nghênh, tiếp nhận tự giác quyết tâm làm, khắc phục những hạn chế để đưa sư đoàn hoàn thành nhiệm vụ trước mắt và sau này.

Với bạn bè, anh có nét riêng chân thành, tốt bụng với bạn bè sẵn sàng giúp đỡ mọi người, đã giúp - giúp đến nơi đến cùng, giúp bằng được; trong lúc giúp đỡ bạn bè thái độ trung thực, không thớ lợ, không sợ liên lụy, không lên mặt đứng trên mọi người...

Đồng chí Thiếu tướng Trần Văn Trân xứng đáng với lớp đảng viên, cán bộ được Đảng - Bác Hồ đào tạo trong lớp Cách mạng tháng Tám năm 1945: trung thành - kiên định, suốt đời với cách mạng với nhân dân, với độc lập - tự do của dân tộc.
V.C.
__________________________________
1. Nguyên Phó Tư lệnh - Tham mưu trưởng Quân đoàn 4.


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 08 Tháng Tư, 2016, 09:48:07 pm

MỘT CHỈ HUY QUÂN SỰ XÔNG XÁO, DŨNG CẢM!
MỘT NGƯỜI BẠN CHÂN TÌNH, CỞI MỞ, GẦN GŨI CHIẾN SĨ

Trung tướng Hoàng Nghĩa Khánh1



Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, tôi làm tiểu đoàn trưởng chiến đấu ở Quảng Ninh, Lệ Thủy tỉnh Quảng Bình, được biết tiếng và tên anh Trần Văn Trân (tuy chưa gặp mặt) với những chiến công và đức tính tốt, qua những cán bộ ở Trị Thiên đi ra Quân khu 4, ghé nghỉ ở tiểu đoàn bộ gặp nhau nói chuyện.

Hòa bình ở miền Bắc được lập lại, tôi công tác ở Bộ Tổng Tham mưu được nghe kể chuyện chiến đấu, anh em thường nhắc tới những cán bộ chiến đấu dũng cảm ở mặt trận “Bình Trị Thiên khói lửa!”, như các anh Bá Vận, Dương Bá Nuôi, Trần Văn Trân, v.v...

Lần đầu tiên tôi được gặp mặt anh, là hồi năm 1960 lúc đó tôi làm Trưởng phòng Tác chiến của Cục Tác chiến Bộ Tổng Tham mưu, đi công tác ở Quân khu 4, vào Lữ đoàn 341 ở giới tuyến Vĩnh Linh (thời kỳ này gọi là Lữ đoàn, chưa có Sư đoàn), ghé qua làm việc và nghỉ đêm ở Quảng Bình (Sư đoàn bộ 325 do đồng chí Trần Văn Trân làm Sư đoàn trưởng, đồng chí Quách Sỹ Kha làm Chính ủy).

Trong một đêm trực tiếp trò chuyện, gặp nhau lần đầu tiên tôi thấy có cảm tình ngay. Anh kể lại những kinh nghiệm chiến đấu thời kháng chiến chống Pháp ở mặt trận Bình Trị Thiên và công tác xây dựng sư đoàn sẵn sàng chiến đấu, trong kế hoạch cùng Lữ đoàn 341 bảo vệ nam Quân khu 4, nơi trực tiếp với quân thù ở nam vĩ tuyến 17 đang hò hét “lấp sông Bến Hải, Bắc tiến!”

Ở cơ quan Bộ Tổng Tham mưu, đồng chí Trần Quý Hai - Tổng Tham mưu phó (trong kháng chiến chống Pháp là Đại đoàn trưởng 325) nói chuyện với cán bộ Bộ Tổng Tham mưu, thường nhắc tới đồng chí Trần Văn Trân, một cán bộ trẻ tuổi, dũng cảm, đầy triển vọng của đại đoàn. Khi nghe tin đồng chí Trần Văn Trân - Sư đoàn trưởng Sư đoàn 1 bị địch bắt ở Nam Bộ, đồng chí Hai rất buồn, rất thương. Khi nghe tin đồng chí Trần Văn Trân được thả tự do (theo Hiệp định Pa-ri), đồng chí Trần Quý Hai rất vui mừng, cử ngay cán bộ vào Vĩnh Linh đón tiếp, và đưa ngay ra nhà đồng chí, gặp gỡ thân tình, hỏi han tình hình sức khỏe và những ngày gian khổ bị tra tấn trong nhà tù đế quốc.

Thời gian gặp gỡ và sống cùng nhau lâu ngày nhất là những năm tháng cùng công tác ở Quân đoàn 4. Khoảng tháng giêng năm 1975, theo lệnh đồng chí Hoàng Cầm, Tư lệnh Quân đoàn 4, tôi và một số cán bộ ra đón Sư đoàn 341, từ Quân khu 4 mới được Bộ điều động vào tăng cường cho Quân đoàn 4. Chúng tôi hướng dẫn các đơn vị của sư đoàn vào chỗ đóng quân ở vùng Lộc Ninh mà Quân đoàn đã chuẩn bị. Tôi gặp đồng chí Trần Văn Trân là Sư đoàn trưởng, đồng chí Trần Nguyên Độ là Chính ủy. Đã lâu ngày gặp lại nhau “tay bắt, mặt mừng”, từ khi anh Ba Trân chiến đấu ở Nam Bộ ra miền Bắc, còn anh Trần Nguyên Độ từ khi làm Chủ nhiệm chính trị Quân khu 3 (Thiếu tướng Hoàng Sâm làm Tư lệnh), mà tôi thường xuyên công tác ở Quân khu.

Cả hai anh, một chỉ huy quân sự “trận mạc”, “từng vào sống ra chết”, dày dạn kinh nghiệm chiến đấu, và một chính ủy lãnh đạo chính trị “kỳ cựu” trong thời gian ngắn đã xây dựng lại một sư đoàn hùng hậu, với quân số đầy đủ, trang bị tối tân, đưa đến quân đoàn một sức mạnh mới, một khí thế mới!

Sau khi tôi báo cáo tình hình B2 với Bộ Tư lệnh sư đoàn và nhiệm vụ của Quân đoàn trong giai đoạn lịch sử mới, mặc dù “chân ướt, chân ráo” qua một cuộc hành quân cơ giới, cấp tốc vượt Trường Sơn dài ngày gian khổ, tới nơi chưa ổn định chỗ ăn ở, nhưng hai đồng chí tư lệnh và chính ủy đã khẩn trương lệnh cán bộ các trung đoàn và sư đoàn bộ, tập trung ngay để nghe tôi phổ biến tình hình. Tôi báo cáo với các cán bộ sư đoàn (cả hai đồng chí dự nghe) về tình hình mới của địch, ta ở miền Đông Nam Bộ, kinh nghiệm chiến đấu của Sư đoàn 7, Sư đoàn 9 trong chiến dịch giải phóng tỉnh Phước Long.
____________________________________
1. Nguyên Tham mưu trưởng Quân đoàn 4, nguyên Cục trưởng Cục Tác chiến Bộ Tổng Tham mưu.


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 08 Tháng Tư, 2016, 09:48:41 pm

Vào đội hình Quân đoàn 4, Sư đoàn 341 nhận ngay nhiệm vụ vào chiến đấu cùng Sư đoàn 9, giải phóng đường 13. Sau đó Sư đoàn 9 chuyển sang phía Tây Nam Bộ cùng Sư đoàn 5 thuộc Binh đoàn 232, thì Sư đoàn 341 lật cánh sang đường 20 cùng Sư đoàn 7 và Sư đoàn 6 (Quân khu 7), hiệp đồng chiến đấu trong một chiến dịch ác liệt, giải phóng Xuân Lộc, mở toang “cánh cửa thép” đông bắc Sài Gòn, để cùng các đơn vị của quân đoàn tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.

Trong cuộc chiến đấu giằng co vô cùng ác liệt ở Xuân Lộc, Sư đoàn trưởng Trần Văn Trân cùng Chính ủy Trần Nguyên Độ đã đi sâu sát xuống đơn vị phía trước, chỉ huy và động viên chiến sĩ, lấn chiếm bám giữ trận địa chiến đấu, dưới làn bom mưa đạn, cả những đợt dội bom tấn (CBU) của Mỹ ngụy.

Trong chiến dịch Hồ Chí Minh, đồng chí Trân đã đi đầu với một đơn vị của Sư đoàn 341, trên một cánh quân của Quân đoàn 4. Với tinh thần tốc chiến quyết thắng, xông xáo hăng hái đã cùng đơn vị lao vào chiến đấu, chiếm các mục tiêu trọng yếu, qua 4 ngày đêm giải phóng Sài Gòn, hoàn thành nhiệm vụ giải phóng miền Nam Việt Nam.

Sau ngày toàn thắng, Quân đoàn 4 làm nhiệm vụ quân quản thành phố, Sư đoàn 341 là đơn vị cuối cùng rút về tập trung ở quân đoàn vùng Sông Bé, Đồng Nai.

Làm nhiệm vụ quân quản, đồng chí Ba Trân không chỉ là một người chỉ huy quân sự giỏi, mà còn là một cán bộ chính trị biết làm công tác dân vận, xây dựng cơ sở cách mạng ở vùng mới giải phóng, đảm bảo đơn vị giữ nghiêm kỷ luật, ổn định tình hình. Khi Đại tướng Võ Nguyên Giáp đến thăm Sư đoàn 341 làm nhiệm vụ quân quản, đồng chí đã khen ngợi sư đoàn: “Vào thành, vững như thành”.

Khi đơn vị rút ra về vị trí mới, đồng chí Ba Trân được đề bạt làm Tư lệnh phó Quân đoàn 4. Đồng chí đã cùng Bộ Tư lệnh đoàn kết xây dựng, huấn luyện quân đoàn tiến lên chính quy hiện đại.

Đặc biệt, là một cán bộ chỉ huy quân sự có nhiều kinh nghiệm chiến đấu, huấn luyện cán bộ nên sau đó đồng chí được điều động lên làm Phó Giám đốc Học viện Lục quân Đà Lạt, để xây dựng nhà trường, đào tạo lớp cán bộ trung cao cấp đầu tiên ở Nam Bộ.

Chiến tranh biên giới Tây Nam nổ ra! Là một người dày dạn kinh nghiệm trên chiến trường cũ, đồng chí Trân lại được điều động lên làm chỉ huy chiến đấu ở biên giới Tây Nam và sang Campuchia giúp bạn thoát khỏi nạn diệt chủng. Sau đó lại tiếp tục giúp bạn trong nhiều năm, chiến đấu và xây dựng lực lượng vũ trang cho bạn.

Với cương vị là tham mưu phó, rồi làm tham mưu trưởng trong Bộ Tư lệnh 719 (quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia), đồng chí luôn đi sát xuống đơn vị quân tình nguyện Việt Nam và quân cách mạng Campuchia. Đồng chí đã từng lên tận biên giới Campuchia - Thái Lan, lặn lội trong đường hào bùn lầy, nước đọng, vào ra trong các lùm cây dọc biên giới đầy chông gai, mìn cạm bẫy để giúp nhân dân Campuchia xây dựng tuyến phòng thủ K5, ngăn chặn tàn quân Pôn Pôt từ Thái Lan len lỏi về phá hoại nhân dân Campuchia trong cuộc hồi sinh đất nước.

Về nghỉ hưu, với thái độ vui vẻ thân thiết, anh thường qua lại thăm hỏi gia đình bạn bè, đồng đội cũ và cả nhà tôi. Anh đã sống chan hòa với bà con khu phố, quan hệ tốt với cán bộ địa phương.

Anh ra đi đột ngột! Để lại niềm thương tiếc vô hạn với gia đình vợ con.

Bạn bè, đồng đội vô cùng thương nhớ anh, một cán bộ, một đảng viên gương mẫu, suốt đời trung thành phục vụ cách mạng, quân đội. Với tính cách chan hòa cởi mở, trực tính, thẳng thắn nhưng vô tư, không thành kiến ai, anh không để lại điều gì khúc mắc trong bụng dạ, tâm trí.

Anh đã sống một cuộc đời khiêm tốn, giản dị, trong sáng, thân mật, chân thành với mọi người!

Mới đó mà đến nay đã mười năm rồi! Hình ảnh của anh đã in đậm trong lòng chúng tôi. Chúng tôi mãi mãi không bao giờ quên anh!
H.N.K


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 08 Tháng Tư, 2016, 09:52:55 pm

ANH BA TRÂN, NGƯỜI BẠN CHÍ TÌNH, NGƯỜI ĐỒNG CHÍ MẪU MỰC
Thiếu tướng Lê Chí Thuần1 kể


Tôi và anh Trần Văn Trân (Ba Trân) là đôi bạn chí thân, gắn bó với nhau từ thuở đầu xanh tuổi trẻ cho đến hầu hết những chặng đường cầm súng chiến đấu vì độc lập tự do của Tổ quốc trong quân ngũ, từ chiến trường Bình Trị Thiên khói lửa thời 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp oanh liệt, cho đến những năm tháng oai hùng thời đánh Mỹ, rồi thời kỳ làm nghĩa vụ quốc tế giúp bạn Campuchia... Mối thâm tình giữa hai anh em chúng tôi có lẽ còn sâu nặng hơn cả tình ruột thịt, bởi sự đồng cảm sẻ chia với nhau từng kỷ niệm nhỏ và cùng chí hướng trên đường đời nhiều gian nan, trắc trở. Có thể nói, cách mạng đã giáo dục, đào luyện anh em chúng tôi từ những người lính dũng cảm trở thành những tướng lĩnh của Quân đội nhân dân Việt Nam, xứng danh bộ đội Cụ Hồ.

Anh Trần Văn Trân quê ở gần chợ Cống, nay là đường Nguyễn Công Trứ, phường Phú Hội, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Thuở nhỏ, tôi được cha mẹ đặt tên là Lê Văn Nẹt. Quê tôi ở làng Niêm Phò, (cùng làng với Đại tướng Nguyễn Chí Thanh) nay là xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, thuộc tỉnh Thừa Thiên - Huế. Tôi và anh Ba Trân đều là con nhà nghèo, từ tấm bé chúng tôi đã phải vất vả lam lũ kiếm sống. Tuy phải đi chăn trâu, cắt cỏ nhưng cũng giống như nhiều bạn bè cùng trang lứa khác, thấu hiểu được nỗi nhục mất nước, do vậy anh em chúng tôi hầu hết đều sớm có ý chí tự lập và luôn hướng lòng mình về những điều mới mẻ, tốt đẹp. Anh Ba Trân vào đời khá sớm. Từ một người thợ làm công cho chủ, anh biết nghề lái xe và rất thành thạo kỹ thuật sửa chữa ô tô. Nhờ những vốn liếng từng trải như vậy cho nên về sau trong quãng đời quân ngũ khi đã là một cán bộ chỉ huy có tiếng tăm, mỗi lần hành quân thấy xe pháo của đơn vị gặp sự cố trục trặc, anh Ba Trân đều không ngần ngại xắn tay áo “chẩn bệnh” cho xe và tìm mọi cách khắc phục bằng được khiến cho cánh lái xe vô cùng cảm phục.

Như vậy, tôi với anh Ba Trân vừa là bạn bè tri kỷ, vừa “nặng tình đồng chí lại đồng hương”. Có điều, nếu tôi nhỏ con và có phần nóng nảy, bộc trực thì anh Ba Trân lại là một chàng trai có vóc dáng cao lớn, khỏe mạnh, tính tình cởi mở chân thật và đặc biệt thương người. Sự trái ngược bề ngoài ấy không hề cản trở tình thân giữa hai anh em chúng tôi mà dường như đó là sự bổ sung khá hoàn hảo, làm nên một tình bạn keo sơn gắn bó suốt cả cuộc đời cầm súng.

Hẳn mọi người đều biết, Huế là đất “thần kinh”, vốn là nơi sản sinh ra rất nhiều anh hùng và nghệ sĩ cùng những tướng lĩnh tài ba mà tên tuổi của họ đã được lưu danh cùng sông núi. Từ giữa năm 1944, anh Ba Trân đã được giác ngộ cách mạng. Anh hăng hái tham gia hoạt động trong tổ chức Việt Minh Nguyễn Tri Phương của thành phố Huế. Tại đây, cùng với đông đảo những thanh niên giàu nhiệt huyết khác, anh lao vào tham gia công tác chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Huế. Những ngày tháng Tám năm 1945, không khí cách mạng hừng hực như triều dâng, như nước cuốn. Tuổi trẻ chúng tôi như được chắp cánh bay lên trong niềm háo hức, mê say.

Ngay sau ngày cách mạng tháng Tám thành công, theo chỉ thị của Trung ương và được sự lãnh đạo trực tiếp của Tỉnh ủy Thừa Thiên - Huế, đầu tháng 9 năm 1945, Chi đội Trần Cao Vân chính thức được thành lập, đáp ứng nguyện vọng của đông đảo quần chúng nhân dân. Chi đội tập hợp những người con ưu tú của xứ Huế trong mọi giai tầng xã hội, tự nguyện đứng trong hàng ngũ lực lượng vũ trang cách mạng, cầm súng bảo vệ chính quyền dân chủ nhân dân còn hết sức non trẻ. Không đầy nửa năm sau, Chi đội này đã phát triển vượt bậc trở thành Trung đoàn Trần Cao Vân danh tiếng, làm nức lòng phấn khởi của đồng bào đồng chí trên dải đất Bình Trị Thiên đau thương mà anh dũng.
_________________________________
1. Nguyên Phó Tư lệnh Mặt trận 479.


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 08 Tháng Tư, 2016, 09:53:42 pm

Đều là lính của Chi đội Trần Cao Vân, tôi và anh Ba Trân gặp nhau ở đồn Mang Cá. Chúng tôi tâm đầu ý hợp nên ngoài giờ luyện tập, hai anh em thường quấn quýt với nhau như hình với bóng. Câu thơ của nhà thơ Tố Hữu trong bài “Lượm ơi!” đã nói hộ tâm tư của những người trẻ tuổi đi theo cách mạng thời bấy giờ: “Ở đồn Mang Cá thích hơn ở nhà”. Ban đầu ở Chi đội Trần Cao Vân, quân số đông mà vũ khí trang bị hầu như chưa có gì, chủ yếu là một số súng ống tước được của Nhật, Pháp với rất ít đạn dược. Từ cái ăn, cái mặc, tất cả đều do nhân dân tự nguyện đóng góp, giúp đỡ. Cực khổ, thiếu thốn đủ thứ nhưng được cái vui ngất trời. Đâu đâu cũng nghe những bài ca cách mạng, vang vọng khắp phố phường, ngõ chợ, tạo nên những luồng sinh khí mới. “Chừ đây Huế, Huế ơi! Xiềng gông xưa đã gãy. Hãy bay lên sông núi của ta rồi!”.

Trên khắp các bãi tập của đơn vị ở Ngự Bình, Nam Giao, hay Thành Nội, một khí thế tập luyện say sưa và có sức cuốn hút kỳ lạ. Tôi để ý thấy có nhiều bạn thanh niên chưa được nhập ngũ cứ tần ngần bám theo mọi hoạt động của đơn vị với lòng khao khát, tiếc nuối. Thêm vào đó, tôi nghĩ là cơ duyên mà Chi đội Trần Cao Vân và về sau là Trung đoàn Trần Cao Vân có được những người chỉ huy mà với bất kỳ ai thoạt mới nghe tên đã thấy trong lòng trào dâng niềm tự hào, kính trọng. Đó là các anh Hà Văn Lâu, Hoàng Lưu, Trần Gia Hội, Phùng Đông... những người chỉ huy học rộng, vừa có tâm vừa có tài, thường xuyên sâu sát lính, chăm sóc động viên, chỉ vẽ cho chúng tôi từng ly từng tý, thân thiết như những người anh người chị trong gia đình. Từ cái lò luyện ấy mà anh em chúng tôi nhanh chóng trưởng thành, đi khắp đất nước. Anh Ba Trân đóng ở bắc sông Hương, còn tôi ở nam sông Hương. Những khi rảnh rỗi, anh em chúng tôi vẫn hẹn gặp nhau trước cửa Thượng Tứ, cùng ăn miếng kẹo mè xửng và tâm sự với nhau đủ thứ chuyện trên trời dưới đất.

Tuy nhiên, những ngày vui thanh bình ấy trôi vèo qua rất nhanh. Lúc bấy giờ tình hình rất nóng bỏng. Vận nước đang ở vào thế ngàn cân treo sợi tóc. Thực dân Pháp vẫn chưa chịu từ bỏ dã tâm xâm lược đất nước ta một lần nữa. Ngày 23 tháng 9 năm 1945, bọn chúng núp sau lưng quân Anh - Ấn gây hấn và nổ súng tấn công Sài Gòn, mở rộng chiến tranh ra toàn Nam Bộ và nam Trung Bộ, đồng thời chúng chuẩn bị kế hoạch đánh chiếm rộng ra toàn cõi Đông Dương. Từ Trung Lào, bọn tàn binh Pháp được hà hơi tiếp sức cũng ngóc đầu dậy. Chúng hùng hổ tràn xuống đánh vào tây Quảng Trị, gây ra nhiều tội ác đối với đồng bào ta.

Được lệnh của cấp trên, để hỗ trợ chiến đấu chặn địch, Chi đội Trần Cao Vân đã cử ngay một số phân đội (trung đội) làm nhiệm vụ Tây tiến và Nam tiến. Anh Ba Trân thuộc phân đội Tây tiến. Anh dự trận Sêpôn và bị thương nhẹ ở chân phải. Từ đây, thỉnh thoảng anh em chúng tôi mới có dịp gặp nhau, thường là rất ngắn và hết sức vội. Chỉ cần nhìn thấy mặt nhau dù chỉ một thoáng, được nắm tay nhau, nghe giọng nói đặc sệt âm hưởng Huế của nhau là vui sướng, là ấm lòng rồi.

Trung đoàn Trần Cao Vân được thành lập trên cơ sở Chi đội Trần Cao Vân, đánh dấu bước phát triển mạnh mẽ của lực lượng vũ trang cách mạng đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng.


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 08 Tháng Tư, 2016, 09:54:16 pm

Hòa cùng tiếng súng của toàn quốc kháng chiến, đêm 19 tháng 12 năm 1946, nghe theo lời hiệu triệu của Bác Hồ, cán bộ chiến sĩ Trung đoàn Trần Cao Vân đã nhất tề xung phong, đánh chiếm các mục tiêu quy định trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên - Huế. Trung đoàn đã phá sập cầu Trường Tiền, tập kích vào một số nới có quân Pháp chiếm đóng, diệt nhiều tên địch, thu vũ khí và làm chủ một số nơi. Tuy nhiên, do trang bị kém, đặc biệt là do thiếu kinh nghiệm trận mạc, nên nhiều trận đánh đã diễn ra trong thế giằng co, bộ đội bị thương vong. Trước tình thế hiểm nghèo, Trung đoàn chuyển sang bao vây địch vòng ngoài, đồng thời táo bạo tổ chức đột nhập vào những nơi địch có nhiều sơ hở, tiêu hao sinh lực. Tiêu biểu có thể kể đến những trận đột nhập như: nhà Mác Bớp, miếu Đại Càn, khu nhà đèn, v.v... Qua hơn 50 ngày đêm vây hãm giam chân và tấn công địch, được sự hỗ trợ hết lòng của nhân dân, Trung đoàn đã phối hợp với các đơn vị bạn tiêu diệt gần 2.000 tên địch.

Cuộc chiến đấu không cân sức đã tôi luyện phẩm chất gan dạ, mưu trí, dũng cảm của những người lính Trung đoàn Trần Cao Vân. Từ một người lính xông xáo, dũng cảm, anh Ba Trân được đề bạt lên cán bộ trung đội, đại đội. Khi vỡ Mặt trận Huế, anh Ba Trân về làm đại đội trưởng một đại đội độc lập đóng ở nam Huế. Rồi anh cũng đã kinh qua các chức vụ như: Tiểu đoàn trưởng và Chính trị viên tiểu đoàn, vì vậy, với cấp dưới, bao giờ anh cũng sâu sát, ân cần. Gần cuối cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, anh Ba Trân đã là Trung đoàn phó Trung đoàn 95 nổi tiếng của Sư đoàn 325 (Đại đoàn Bình Trị Thiên trước đây).

Có một chuyện trong kháng chiến khiến tôi nhớ mãi không thể nào quên cái đức độ của con người anh Ba Trân. Một lần, sau lễ thành lập Tiểu đoàn trên động cát ở Phong Chương, Phong Điền, chúng tôi lại có dịp sát cánh bên nhau. Anh Ba Trân nắm đại đội 117, tôi ở một đại đội do các anh Tống Hồ Trinh và Võ Bá Hạp phụ trách. Trong một trận đánh quyết định, ở đơn vị anh Ba Trân có một anh tên là Tr. chưa thấy Tây bao giờ, thành thử lúc xung trận anh ta sợ bổ vía không dám lên, làm ảnh hưởng nhất định đến tinh thần của anh em. Biết vậy, nhưng anh Ba Trân vẫn không la rầy hay mắng mỏ gì cả, anh lệnh cho người này lui về tuyến sau để củng cố tinh thần, về sau tìm hiểu kỹ mới biết anh chàng này khi còn ở nhà vốn làm nghề cắt tóc, trói gà không chặt, cầm súng đánh giặc là cả một việc lớn, một khi người ta đã không đủ can đảm thì không thể ép. Anh Ba Trân bàn với các anh trong Ban chỉ huy để cho Tr. được làm công việc phía sau, và quyết định sắm luôn một bộ tông-đơ để anh này chuyên cắt tóc cho cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị. Được sử dụng đúng sở trường, sở đoản, người lính này đã trở nên hữu ích và được anh em quý trọng. Đại để cái cách dùng người của anh Ba Trân là vậy, luôn tôn trọng con người và có tấm lòng bao dung, đại lượng, thực hiện đúng lời cổ nhân đã dạy: “Dụng nhân như dụng mộc”.

Đầu tháng 2 năm 1947, sau khi tổ chức đánh chặn địch từ Đà Nẵng bằng cả đường bộ và đường biển tấn công về Huế, giải tỏa cho quân Pháp đang bị vây hãm tại đây, Trung đoàn Trần Cao Vân được lệnh rời Huế, rút về vùng núi để củng cố lực lượng, chuẩn bị chiến đấu lâu dài. Chúng tôi ra đi mà lòng không khỏi bịn rịn, lưu luyến bởi tình quân dân đã ngấm sâu vào máu thịt. Thêm vào đó là những tội ác của quân xâm lược gây ra với đồng bào, đồng chí, càng thêm thôi thúc những người lính trung đoàn siết chặt tay súng trừng trị kẻ thù. Mặc cho bọn thực dân Pháp rêu rao, huênh hoang rằng “đã tiêu diệt hoàn toàn quân Việt Minh”, đêm 24 tháng 3 năm 1947, Đội cảm tử của Trung đoàn đã đột nhập vào nội thành Huế diệt 20 tên địch, xé bỏ cờ tam tài, treo cờ đỏ sao vàng lên cột cờ và rải truyền đơn rồi rút ra an toàn. Đó là sự trả lời đanh thép, nhắc cho bọn địch biết rằng chúng sẽ không bao giờ được yên, đồng thời ngầm báo tin cho người dân biết bộ đội ta vẫn còn đó, cổ vũ tinh thần kháng chiến của mọi người. Tiếp đó, ngày 29 tháng 3 năm 1947, bộ đội ta đã lập thêm một chiến công mới, tiêu diệt đồn Đất Đỏ, giải tỏa sự khống chế của giặc Pháp đối với chiến khu Hòa Mỹ, mở rộng đất đai, khai thông các trục đường đi lại và tiếp tế của ta từ đồng bằng Phong Quảng lên chiến khu. Đây là trận đánh “nội công ngoại kích” giữa Trung đoàn với các đơn vị có mặt ở chiến khu lúc đó và ta đã giành được thắng lợi lớn. Kẻ địch bị bất ngờ không kịp trở tay.

Trận này ta tiêu diệt một trung đội lính Pháp, thu 2 đại liên Browning, 5 cối 60 ly, 3 tiểu liên Thompson, 11 súng trường Garange, 6 súng ngắn cùng nhiều đạn và lựu đạn, giải thoát cho nhiều đồng bào bị địch bắt giam. Sau trận này, đơn vị được thưởng Huân chương Chiến công hạng Ba.


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 08 Tháng Tư, 2016, 09:54:44 pm

Đại đội 117 của anh Ba Trân được giao nhiệm vụ đánh trận Hộ Thành. Quân ta phục kích bất ngờ. Khí thế đang lên, anh em ôm súng trung liên đứng giữa đường bắn mãnh liệt khiến bọn địch kinh hoàng khiếp sợ. Nhiều tên lính Pháp hốt hoảng chạy dạt xuống đồng và bị quân ta bắt sống. Đơn vị anh Ba Trân thắng to, bắt được nhiều tù binh và thu vũ khí. Ở một trận khác, trận Như Sơn, Bến Đá, (giữa ga Phò Trạch và ga Quảng Trị) anh Ba Trân trực tiếp chỉ huy đánh chặn một đoàn tàu quân sự của địch, thu được nhiều súng đạn, gây được tiếng vang lớn trên chiến trường. Đặc biệt, anh em đã mưu trí cắt toa cuối và thu được nguyên vẹn một khẩu canông Bôpho 40 ly. Anh em tìm mọi cách khiêng về được. Vừa nhìn thấy tôi, anh Ba Trân reo to: “Sướng quá, Nẹt ơi! Từ nay đã có pháo bắn thẳng rồi!”. Trong trận ấy có một chiến sĩ ta hy sinh. Trước tình thế phải nhanh chóng lui quân để bảo toàn lực lượng, anh Ba Trân vẫn kiên quyết đưa cho bằng được thi hài liệt sĩ vượt sông Khe Mương về đơn vị lo mai táng chu toàn. Có thể nói, bất kỳ ở đâu, anh cũng là người quan tâm đến cấp dưới, lo cho anh em chiến sĩ từng ly, từng tý.

Từ sau các trận Hộ Thành, Đất Đỏ, Trung đoàn 101 còn tiến công đánh địch ở Võ Xá, Cầu Vực, Mỹ Chánh, Ưu Điềm v.v... Tiêu biểu là trận kỳ tập đồn Câu Nhi, trận diệt đồn Hà Thanh, khiến cho kẻ địch vô cùng khiếp sợ. Tiếp theo trận Hói Mít, Trung đoàn đã lập được những chiến công làm nức lòng người. Nổi lên là trận đánh phá vỡ hệ thống phòng thủ của địch dọc tuyến Phú Ốc - Sịa, diệt đồn Phổ Lại. Đây là trận công kiên thắng lợi đầu tiên của Trung đoàn do Tiểu đoàn 436 thực hiện. Đặc biệt, sau khi chuyển quân xuống phía nam ngày 26 tháng 7 năm 1951, Trung đoàn đánh thắng trận Thanh Lam Bồ thuộc huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên - Huế, diệt gọn một tiểu đoàn lính Âu Phi, đánh thiệt hại nặng binh đoàn Sốc-kên.

Không thể liệt kê hết ra đây những chiến công oai hùng của Trung đoàn Trần Cao Vân - 101 trong suốt chặng đường 9 năm kháng chiến trường kỳ. Mỗi trận đánh thắng lợi đều là kết tinh của công sức, mồ hôi và cả xương máu của biết bao đồng chí, đồng đội, trong đó có phần đóng góp của anh Ba Trân.

Trong ký ức của tôi còn đọng mãi những kỷ niệm về anh Ba Trân, nhớ mãi những biệt tài của anh. Năm 1950 là thời kỳ đầy khó khăn. Ôi chao, cái lạnh và cái đói hoành hành ghê gớm, có lúc tưởng chừng như không thể nào vượt qua nổi. Tôi gặp anh Ba Trân dẫn bộ đội đi mót củ mì trên đám rẫy của đồng bào người dân tộc thiểu số. Anh em gặp nhau, mặt xanh như tàu lá, nhưng vẫn lạc quan. Dường như trong mọi hoàn cảnh, anh Ba Trân là người không chịu bó tay, ở đâu và lúc nào dù khó khăn đến mấy anh cũng tìm được lối ra. Không chỉ đào mót được gần 10 gánh củ mì, anh Ba Trân còn trổ tài “ngoại giao” xin được Huyện ủy cả một con trâu đem về mổ thịt. Nhờ vậy mà anh em có thêm chút thực phẩm bồi dưỡng sức khoẻ. Một miếng khi đói bằng cả gói khi no. Thật quý hơn vàng!


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 08 Tháng Tư, 2016, 09:55:22 pm

*
*  *

Hoà bình lập lại, anh Ba Trân là Trung đoàn trưởng Trung đoàn 101. Thời gian anh Ba Trân ra Bắc học tập, anh đã gặp được chị Võ Bích Hà, con gái vị thủ trưởng cũ của anh và là một người đồng hương. Từ mối lương duyên ấy, về sau chị Hà trở thành người bạn đời chung thủy của anh. Học xong, anh về lại Sư đoàn 325. Trên địa bàn Quảng Bình, sư đoàn tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ được Bộ Quốc phòng và Quân khu 4 giao. Anh Ba Trân say sưa lao vào chỉ đạo công tác huấn luyện của đơn vị với một nhiệt tình trách nhiệm hiếm thấy. Cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn tham gia mở đường chiến lược từ Quảng Bình lên Làng Ho, Vítthùlù, 1001, thiết lập đường dây tiếp tế qua phía tây Trường Sơn. Ngoài ra, Trung đoàn 101 đã nghiêm túc chấp hành mệnh lệnh cấp trên, phối hợp với bạn Lào quét sạch quân địch trên hành lang Đường 9 từ Lao Bảo đến đông Pha Lan, với chiều dài 140 ki-lô-mét. Tại Đại hội Đảng bộ Quân khu 4, anh Ba Trân được tín nhiệm bầu vào Ban chấp hành Đảng bộ (Quân khu ủy).

Đầu năm 1964, toàn Sư đoàn 325 được lệnh sẵn sàng vào miền Nam chiến đấu. Bấy giờ tôi là Trung đoàn trưởng Trung đoàn 18. Cả tôi và anh Ba Trân đều được cấp trên điều động ra Quân khu. Khi Sư đoàn 325 B được thành lập anh Ba Trân đi B với cương vị là Sư đoàn phó. Từ Mặt trận Tây Nguyên, anh xuống miền Trung, rồi sau đó thọc sâu vào tận chiến trường Nam Bộ.

Tết Mậu Thân 1968, tôi chỉ huy Trung đoàn 95A, Trung đoàn 18B lên B3 để bổ sung vũ khí, trang bị. Thật bất ngờ, tôi được gặp lại anh Ba Trân. Thoạt đầu hai mũi trinh sát của hai đơn vị đụng nhau, anh em tính nổ súng. Nhưng nghe tiếng nói, tôi linh cảm thấy đây là người đằng mình nên gọi to: “B3 đây!”. Thế là hai bên oà lên, nhận ra nhau. Quá bất ngờ! Giữa một chiến trường rộng lớn, hai anh em chúng tôi lại có cuộc hội ngộ. Quả là trái đất tròn. Anh Ba Trân ôm chầm lấy tôi, mừng đến bật khóc. Đoạn anh lùi ra ngắm nhìn tôi, anh xót xa hỏi tôi: “Nẹt! Răng mi lại gầy như rứa?”. Tôi kể cho anh nỗi đoạn trường khi phải chiến đấu trong điều kiện cực kỳ gian nan và thiếu thốn ghê người. “Ruồi vằng, muỗi bạc, vắt kim cương” là câu cửa miệng mà anh em chúng tôi vẫn truyền tụng. Nghe vậy, anh Ba Trân dồn tất cả những thứ gì đơn vị anh có được, dốc hết cho chúng tôi.

Từ bấy, hai anh em chúng tôi tạm chia xa, mỗi người đảm đương một nhiệm vụ khác nhau. Tuy sống xa nhau, nhưng có thể nói lúc nào chúng tôi cũng hướng về nhau, dõi theo từng bước tiến của nhau trên con đường binh nghiệp. Cho đến một ngày đầu năm 1970, tôi sững sờ khi nghe tin anh Ba Trân bị địch bắt. Không thể nào tin nổi, dù đó là sự thật mười mươi. Tôi uất nghẹn vì thương anh. Trải qua các nhà tù với nhiều cực hình tàn bạo của Mỹ ngụy từ Cần Thơ đến Hố Nai, Biên Hoà, dưới cái vỏ bọc là “Thượng sĩ Đông y Nguyễn Văn Thương”, anh Ba Trân đã chiến thắng kẻ thù. Đầu năm 1973, sau khi Hiệp định Pa-ri được ký kết, tôi vô cùng sung sướng khi được biết trong đoàn quân chiến thắng được trở về từ bờ bắc sông Thạch Hãn có anh Ba Trân. Kẻ địch đã bị hố to, chúng lồng lộn điên cuồng, nhưng không thể làm gì được ngoài việc trơ mắt ếch ra nhìn.


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 08 Tháng Tư, 2016, 09:56:00 pm

Cuối năm 1973, anh Ba Trân trở lại chiến trường với cương vị Sư đoàn trưởng Sư đoàn 341 lừng danh. Đầu năm 1975, sau khi giải phóng xong Đà Nẵng, Chu Lai và phía nam Quảng Ngãi, chúng tôi được lệnh hành quân “thần tốc” vào tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Tôi cho anh em xếp đạn vô thùng và lên xe của hãng Phi Long cơ động. Dọc đường đi, tôi nghe tin anh Ba Trân đang chỉ huy đơn vị tấn công Xuân Lộc, trước cửa ngõ Sài Gòn. Sư đoàn của anh đang phát triển đánh chiếm Hố Nai, Biên Hoà và thọc sâu về Sài Gòn. Mừng thôi là mừng. Tuy nhiên, giữa hoàn cảnh chiến trường ác liệt, sục sôi bom đạn, không có thì giờ để thể hiện tình cảm. Tôi mừng cho anh và khấp khởi tự hào, bởi hướng mũi khốc liệt ấy đã có một người chỉ huy tài ba, dạn dày kinh nghiệm trận mạc, là bạn mình. Vậy là dù có khó đến đâu rồi cũng sẽ chắc thắng. Ngày 30 tháng 4 năm 1975, cả hai anh em ehúng tôi đều có mặt ở Sài Gòn, trong niềm vui hân hoan mừng chiến thắng. Không thể tả nổi cảm xúc của những người lính vừa đi qua một chặng đường dài đầy trận mạc.

Đầu năm 1976, anh Ba Trân là Tư lệnh phó Quân đoàn 4. Sau đó, anh đi học ở Học viện Quân sự cấp cao (nay là Học viện Quốc phòng) rồi trở về giữ chức Viện phó Học viện Lục quân Đà Lạt. Thời gian này, đơn vị tôi chuyển sang làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế. Chúng tôi gặp lại nhau khi cùng thực hiện nghĩa vụ quốc tế ở Campuchia, khi ấy, anh Ba Trân là Tham mưu trưởng Mặt trận 719. Anh Trần Văn Trân được Nhà nước phong quân hàm Thiếu tướng năm 1985.

Có thể nói suốt cuộc đời trai trẻ, quãng đời đẹp nhất của một con người, anh em chúng tôi đã hiến dâng cho cách mạng. Không chỉ lúc đang làm việc, ngay cả khi đã trở về với cuộc sống đời thường, anh Ba Trân vẫn luôn quan tâm đến đồng chí, đồng đội, những người đã một thời vào sinh ra tử. Việc gì anh đã nói, đã hứa là anh quyết làm cho bằng được. Câu chuyện anh đi tìm và phát hiện ra đồng chí Huy, một đồng đội cũ và là cấp dưới của anh bị thương hỏng mắt trong chiến đấu đang sống rất khó khăn ở Đà Lạt mà chưa được hưởng bất cứ một chế độ gì, khiến tôi vô cùng cảm phục. Anh Ba Trân chủ động làm giấy tờ và bảo với tôi: Hai tướng ta cùng ký vào rồi gửi cho bên Thương binh - Xã hội tỉnh Thừa Thiên - Huế đề nghị họ giải quyết cho anh em đỡ thiệt thòi. Sự nhiệt tâm và tận tình của anh cuối cùng cũng được đền đáp. Đồng chí Huy đã được hưởng các tiêu chuẩn chế độ của một thương binh.

Một ngày cuối tháng 3 năm 1997, tôi bàng hoàng như sét đánh ngang tai khi hay tin anh Ba Trân đột ngột từ trần. Từ bệnh viện Thống Nhất tôi chạy về, lòng đau như cắt. Nhìn anh nằm thanh thản như người ngủ say, tôi không sao cầm được nước mắt. Những ngày đau thương ấy, tôi và anh Trần Chí Cường, vừa là đồng chí, đồng đội, lại là đồng hương xứ Huế, hai Thiếu tướng đứng túc trực bên linh cữu anh Ba Trân. Cả hai chúng tôi vô cùng kinh ngạc khi chứng kiến đôi mắt của anh như vừa chợt hé mở rồi khép lại. Về sau tôi cho rằng dường như anh Ba Trân đang muốn dặn lại chúng tôi điều gì đó mà anh chưa làm xong. Thương nhớ anh vô cùng, anh Ba Trân ơi!

Khi tôi kể lại những dòng này, anh Ba Trân đã đi xa vừa chẵn mười năm, vậy mà trong tâm tưởng của tôi, dường như anh vừa mới đi đâu đó trong chốc lát. Tôi vẫn nghe văng vẳng đâu đây giọng nói ấm áp và phảng phất nhìn thấy nụ cười đôn hậu của anh. Tôi tin rằng: Một con người ngay thẳng, trung thực, suốt đời kiên trung với sự nghiệp cách mạng của Đảng; một người chỉ huy nhất mực yêu thương chiến sĩ, sống chan hòa với anh em, đồng đội, con người ấy sẽ còn sống mãi!

Nhà văn Nguyễn Minh Ngọc
(ghi)


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 08 Tháng Tư, 2016, 09:58:42 pm

NHỚ ANH TRÂN!
Thiếu tướng Trần Chí Cường1


Thiếu tướng Trần Văn Trân ra đi vào cõi vĩnh hằng đến nay đã 10 năm (1997 - 2007).

Nhớ anh, tôi nhớ về người bạn vừa đồng chí, vừa đồng hương; người bạn xông pha trận mạc, anh dũng trên các chiến trường đánh Pháp, đánh Mỹ, vững vàng khi địch bắt làm tù binh, bị giam trong các nhà lao Mỹ ngụy.

Nhớ lại lần đầu vào năm 1948, gặp anh trên mảnh đất quê hương Phú Lộc - Thừa Thiên đang bị giặc Pháp tạm chiếm. Ngày ấy tôi công tác ở cơ quan Đảng và chính quyền địa phương. Tôi rất mừng đón tiếp Đại đội 117 được cấp trên điều về tăng cường cho huyện, làm nhiệm vụ đại đội độc lập phối hợp với địa phương xây dựng lực lượng kháng chiến, phát triển chiến tranh du kích.

Tôi gặp anh Trần Văn Trân trong nhiều lần làm việc. Anh là người Đại đội trưởng - người chỉ huy trẻ với 21 tuổi đời - anh hoạt động tích cực, xông xáo có nhiều sáng kiến trong công tác, đi sát quần chúng nhân dân. Anh được đơn vị cũng như địa phương tin yêu. Một thời gian ngắn, Đại đội 117 có nhiều thành tích trong xây dựng, chiến đấu phát triển phong trào kháng chiến địa phương. Tôi quen thân anh từ dạo đó.

Những năm tiếp sau, tên tuổi anh gắn liền với Tiểu đoàn 227, đơn vị chủ lực của Trung đoàn 95, Trung đoàn 101 có nhiều chiến công trên chiến trường Bình Trị Thiên.

Năm 1951 tôi được vào quân đội, công tác ở các cơ quan hậu cần, chính trị của Sư đoàn 325 - Mặt trận Bình Trị Thiên và Trung Lào. Thế là có dịp gặp lại anh. Cuối năm 1955 cấp trên điều tôi ra Hà Nội, công tác ở miền Bắc. Anh ở lại với Trung đoàn 101 rồi Sư đoàn 325 ở Quảng Bình - Quân khu 4. Khi thành lập Sư đoàn 325B, anh cùng Bộ chỉ huy đưa sư đoàn vào Nam chiến đấu ở Mặt trận Tây Nguyên rồi miền Đông Nam Bộ. Từ đó nhiều khó khăn, xa cách, ít biết tin tức về nhau. Cuối tháng giêng đến cuối tháng 3 năm 1973, 60 ngày tôi được trên cử làm Trưởng đoàn quân sự Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong Ban liên hiệp quân sự bốn bên khư vực I (Quân khu Trị - Thiên) để thi hành Hiệp định Pa-ri. Chúng tôi và đại diện Đoàn quân sự bốn bên Trung ương ở Sài Gòn cùng với Ủy ban quốc tế thường có mặt ở bờ nam sông Thạch Hãn (Quảng Trị) giám sát việc trao trả tù binh giữa hai bên. Thật bất ngờ là anh có mặt trong đoàn tù binh mà địch không hề biết. Với sự che chở của tổ chức và nhân dân, anh khôn khéo giấu được tung tích của mình nên mới có tên anh trong danh sách tù binh địch trao trả cho ta. Chúng đưa anh từ Nam Bộ ra sân bay Đồng Lâm thuộc huyện Phong Điền Thừa Thiên rồi chuyển tiếp bằng ô tô đến bờ nam sông Thạch Hãn để qua đò sang bờ bắc bàn giao cho phía ta. Khi đò ra giữa sông, tất cả đồng chí ta cởi quần áo tù binh vứt xuống sông. Mỗi người chỉ mặc một quần đùi tất cả hô vang khẩu hiệu: “Việt Nam thống nhất muôn năm!”. Tại bờ bắc sông, một đơn vị của Sư đoàn 320 đón tiếp. Bất ngờ và hạnh phúc làm sao! Anh công khai tiếp xúc với bộ đội, với đồng bào đón các anh. Anh Trân đã trở về với Đảng, quân đội, nhân dân, với Tổ quốc. Rồi anh được tổ chức báo về Tổng cục Chính trị, nói chuyện với gia đình qua điện thoại. Xe của Quân khu Trị Thiên đưa anh về Hà Nội để gặp cấp trên và về với gia đình. Tôi bàng hoàng và cảm động khi được tin anh trở về.

Một thời gian sau anh Trân lại ra tiền tuyến, là Sư đoàn trưởng Sư đoàn 341 chiến đấu trong đội hình Quân đoàn 4 tham gia vào chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng Sài Gòn và là một trong những đơn vị làm nhiệm vụ quân quản thành phố Sài Gòn - Gia Định. Trong cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam, anh là Tham mưu trưởng Mặt trận 719 tham gia giúp bạn Campuchia giành độc lập, thoát nạn diệt chủng.

Năm 1995 anh mới được nghỉ hưu. Thời gian nghỉ hưu tôi và anh có nhiều dịp gặp nhau. Anh và tôi cùng các bạn chiến đấu cũ tham gia vào Ban liên lạc truyền thống Mặt trận Bình Trị Thiên, Sư đoàn 325. Tiếc làm sao thời gian ngắn ngủi! Sau hai năm bị bệnh, anh nhiều lần vào điều trị ở Bệnh viện Thống Nhất. Tôi đến thăm anh, trò chuyện với anh nhiều. Khi anh bệnh quá nặng, tôi đến bên giường bệnh ôm lấy anh, không ngờ dó là lần cuối cùng được sống với anh trong tình bạn yêu thương quý trọng.

Đau đớn thay! Anh đã ra đi, đi mãi để lại bao tiếc thương cho gia đình, cho bạn bè và đồng chí quen thân.

Tôi được thay mặt Ban liên lạc Sư đoàn 325 - Mặt trận Bình Trị Thiên và bà con đồng hương Thừa Thiên Huế tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia Ban lễ tang tổ chức viếng và đưa anh đến nghĩa trang Thành phố Hồ Chí Minh - nơi an nghỉ cuối cùng. Thiếu tướng Trần Văn Trân đã đi xa nhưng tên tuổi và sự nghiệp của anh để lại cho quân đội, cho quê hương, cho Tổ quốc là to lớn. Tên anh được đưa vào Từ điển Bách khoa Quân sự Việt Nam.

10 năm đã qua, đối với tôi, hình ảnh anh, tình cảm với bao kỷ niệm với anh mãi mãi đọng lại trong tâm trí tôi, một người bạn thân tình của anh.

Nhớ anh mãi, anh Trân ơi!
TP. Hồ Chí Minh, tháng 3-2007
T.C.C
___________________________________
1. Nguyên Phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần.


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 08 Tháng Tư, 2016, 10:05:10 pm

KÝ ỨC VỀ MỘT NGƯỜI ANH
Thiếu tướng Trần Đối1


Nhân ngày giỗ của anh Ba Trân tại căn nhà mà anh đã ra đi, tôi gặp lại chị Hà cùng các cháu: Thủy, Linh, Trung. Trước vong linh anh, lòng tôi bỗng dâng lên nỗi niềm thương nhớ, những kỷ niệm sống dậy về một thời bom đạn ác liệt gian khổ, đói no, đau ốm, bệnh tật, sống chết có nhau; về tình anh em, tình đồng chí, đồng đội. Anh Trần Văn Trân, Thiếu tướng Tư lệnh của tôi! Người lính Cụ Hồ.

Đầu năm 1967, tôi là Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 5 của Trung đoàn 320 thuộc Sư đoàn 1 chiến trường Tây Nguyên (B3), anh Trân là Sư đoàn phó. Tôi được sống và chiến đấu trên chiến trường với anh từ ngày ấy. Một hôm Tiểu đoàn 5 chuẩn bị xuất quân sang đông sông Sa Thầy (công trường Đất Đỏ), anh Trân thay mặt Đảng ủy và Bộ Tư lệnh sư đoàn đến giao nhiệm vụ và dự cuộc họp quân chính của Tiểu đoàn 5. Tôi báo cáo quyết tâm và kế hoạch tác chiến của Tiểu đoàn 5, anh ngồi theo dõi và ghi vào sổ tay. Khi tôi báo cáo xong anh hỏi: Có làm được và chắc thắng không? Tôi ngập ngừng một chút rồi trả lời: Các đơn vị khác đánh thắng được thì Tiểu đoàn 5 cũng đánh thắng được. Anh đứng thẳng người bắt tay tôi thật chặt và nhìn vào cuộc họp hỏi tiếp: “Còn các đồng chí thế nào?”. Một câu trả lời đồng loạt: Tiểu đoàn 4, Tiểu đoàn 6 và các tiểu đoàn trong sư đoàn đánh được, lập công được thì chúng em cũng đánh được, lập công được ạ!

Tôi thật bất ngờ, cả Tiểu đoàn 5 “tâm đồng, ý hợp” một khí thế xuất quân như vậy! Tôi càng mến phục cách phát động thi đua giết giặc lập công của anh Trân! Trước khi cuộc họp kết thúc, anh nhắc lại nhiệm vụ của đơn vị trong trận đánh này. Anh nhấn mạnh: Tiểu đoàn 5 có dám hứa với cấp trên bắt sống được tù binh Mỹ không? Đồng chí Nghịch - Chính trị viên tiểu đoàn đứng nghiêm nói dõng dạc: Tiểu đoàn 5 xin hứa với Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Sư đoàn sẽ bắt sống tù binh Mỹ! Cả hội nghị đều giơ tay biểu thị quyết tâm. Không khí trở lại vui vẻ, phấn khởi lạ thường. Riêng tôi có chút lo lo, vì chưa được nghe nói bắt sống lính Mỹ tại trận bao giờ.

Tối hôm đó anh Trân ở lại với anh em để sáng hôm sau Tiểu đoàn 5 ra trận. Bấy giờ, Ban chỉ huy chúng tôi có 5 người, tối ngủ chung một chiếc hầm vuông không có nắp, đầu quay ra chân chụm vào giữa hầm, an toàn hơn mắc võng ngủ trên mặt đất. Để bảo vệ anh, đồng chí Mãn - Tham mưu trưởng tiểu đoàn tự nguyện xin ngủ trên hầm nhường phần của mình cho Phó Tư lệnh sư đoàn, nhưng anh Trân không chịu, anh nói: Người cần được bảo vệ an toàn lúc này là các đồng chí vì các đồng chí là người trực tiếp đảm nhiệm chỉ huy trận đánh, không ai thay được!

Anh mắc võng ngủ trên miệng hầm. Theo tập quán chỉ huy của quân Mỹ, ban đêm thường là các loại bom B52 bom tọa độ và các loại pháo lớn tập trung cao độ 24/24 những khu vực nghi ngờ có lực lượng ta. Rất may tối hôm đó chúng tôi không ai hề hấn gì.

Trận vận động tấn công ở Hang Đá tây bắc căn cứ hành quân của Mỹ (gọi là Đất Đỏ vì Mỹ ủi thành bờ tường toàn đất đỏ) nay thuộc xã Mô Rây, huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum vào ngày 21 tháng 3 năm 1967. Tiểu đoàn 5 tiêu diệt đại đội A,    đánh thiệt hại nặng đại đội c thuộc tiểu đoàn 2, lữ đoàn 3 sư đoàn 25 “tia chớp nhiệt đới” của Mỹ, loại khỏi vòng chiến 150 tên, thu 30 súng các loại, bắn rơi 1 máy bay trực thăng, bắt sống được 1 tên lính Mỹ da đen. Trên đường áp giải về phía sau, lợi dụng thời cơ lực lượng áp tải lo tránh pháo, tên Mỳ lủi mất (không biết nó có sống được không?). Trận này, Tiểu đoàn 5 được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Nhất và một số cán bộ chiến sĩ cũng được tặng thưởng huân chương các loại.

Trong chiến công đầu của Tiểu đoàn 5 có công lao của đồng chí Trần Văn Trân - Phó Tư lệnh sư đoàn.
_____________________________________
1. Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, nguyên Phó Tư lệnh Mặt trận 479.


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 08 Tháng Tư, 2016, 10:05:51 pm

Sau trận Hang Đá, tôi được điều về giữ chức Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 4 (Trung đoàn 320), tiểu đoàn mà trước đây tôi đã nhiều năm gắn bó. Ngày 16 tháng 5 năm 1967, Tiểu đoàn 4 trên đường hành quân đến vị trí tập kết (vị trí xuất phát tấn công) thì gặp địch, đại đội B và đại đội c tiểu đoàn 1 lữ đoàn 1 sư đoàn bộ binh 4 của Mỹ dưới chân núi Chư Yam (nay thuộc huyện Chư Pả tỉnh Gia Lai). Trận tao ngộ chiến (nay gọi là đánh gặp địch) diễn ra từ 10 giờ 30 đến 17 giờ 30 mới kết thúc. 7 tiếng đồng hồ, hai bên quần nhau bom đạn đủ loại, đều chịu ác liệt ngang nhau, không bên nào có được 15 phút để ăn cơm uống nước.

Sở chỉ huy Trung đoàn 320 không nắm được tình hình của trận đánh để báo cáo với sư đoàn. Anh Trân được Tư lệnh Nguyễn Hữu An cử xuống để giúp Ban chỉ huy trung đoàn. Tôi đang báo cáo tình hình cho Trung đoàn trưởng Nguyễn Hữu Hành, thấy trung đoàn trưởng hỏi tôi nhiều mục, nhiều vấn đề tốn thời gian quá, anh liền góp ý: Ưu tiên thời giờ để cho cấp dưới chỉ huy vì cấp dưới trực tiếp đối mặt với địch sẽ bận rộn nhiều hơn ở ta.

Trận đánh diễn ra khá gay go phức tạp. Ban chỉ huy tiểu đoàn chúng tôi đều lao xuống các hướng, các mũi để kịp xử trí các tình huống khó khăn ác liệt. Riêng tôi (tiểu đoàn trưởng) có lúc phải xuống đến tuyến tản binh nên các chiến sĩ thông tin đảm bảo liên lạc không kịp thời. Vì nếu đưa dây máy đến nơi thì tôi đã qua chỗ khác. Anh Ba Trân cũng nóng ruột, anh cùng anh Huỳnh Nghĩ (nay là Thiếu tướng, giáo sư, tiến sĩ) cán bộ tham mưu của trung đoàn xách một hăng gô xôi và hai con gà luộc (tiêu chuẩn bồi dưỡng của Phó tư lệnh) xuống Tiểu đoàn 4 đang nổ súng. Cũng vừa lúc kết thúc  trận đánh. Gặp tôi, anh Trân nhắc nhở ngay: đề phòng địch phản kích, tổ chức thu dọn chiến trường nhanh, nhất là thương binh tử sĩ, để trời tối rừng già không biết đâu mà đưa anh em về, bộ phận nào xong trước thì cho rời trận địa trước, sơ tán đội hình đề phòng địch hủy diệt trận địa..

Anh bảo:

- Thấy mày còn khỏe mạnh tau mừng rồi. Triển khai xong công việc mày báo cáo cho trung đoàn, tau và Huỳnh Nghĩ ngồi đây nghe luôn thể. Không cần báo cáo lại cho tau.

Anh Huỳnh Nghĩ bày mẹo cho tôi: Trước mỗi việc phải báo cáo, lời đầu tiên là nói câu: “mới nắm được” hoặc “đang nắm”.

Thấy tôi báo cáo với Trung đoàn trưởng Nguyễn Hữu Hành hơi lâu, anh liền giành tổ hợp nói với anh Hành:

- Tụi nó cả ngày chưa ăn cơm, còn vấn đề gì đó ăn xong rồi báo cáo tiếp cũng được chứ.

Đồng chí điện thoại viên báo lại với tôi là trung đoàn bảo ăn cơm xong báo cáo tiếp. Bấy giờ, anh Huỳnh Nghĩ mới đưa cái hăng gô ra! Cả hai anh đều không ăn, nhường cho tôi và nói: đây là để phần cho mày. Anh Huỳnh Nghĩ chỉ yêu cầu trả công xách hăng gô bằng cho anh mảnh bản đồ mà tôi vừa thu được đang lật ra báo cáo trước mặt các anh.

Hồi ấy, tôi ăn khỏe lắm, nửa hăng gô xôi và nửa con gà tôi chén hết sạch. Anh Trân ngồi nhìn tôi với đôi mắt thương cảm nhưng nét mặt rất vui tươi. Anh hỏi: anh nuôi của tiểu đoàn đã đem cơm tôi ra cho bộ đội chưa? Tôi trả lời: anh em đang ăn. Một chiến sĩ trinh sát tiểu đoàn đưa đến cho tôi một hộp xuất ăn của lính Mỹ (cứ mỗi lần sau trận đánh là tôi được ưu ái như vậy) tôi nhường lại cho anh em. Anh Trân nhìn tôi và chỉ thị: cho phép Tiểu đoàn 4 trong trận này được sử dụng thức ăn hộp của Mỹ, nhưng phải cẩn thận, trong đó có xà phòng bột và chất cồn dẻo bỏ đi nếu ăn là trúng độc đấy! Từ khi vào chiến trường gần 5 năm, tôi mới thấy một vị chỉ huy cho phép cấp dưới được sử dụng đồ hộp chiến lợi phẩm tại trận địa...

Trận đánh được Bộ Tư lệnh B3 và Sư đoàn 1 đánh giá hoàn thành nhiệm vụ xuất sắc, trong đó nổi bật là bắt sống được 1 lính Mỹ tại trận địa đưa về đến căn cứ của B3 và về sau đưa ra miền Bắc. Đây cũng là tiểu đoàn bắt được tù binh Mỹ đầu tiên của chiến trường B3. Đồng chí Chu Huy Mân - Chính ủy Mặt trận đang họp ở Hà Nội điện vào Hậu cần B3 thưởng cho Tiểu đoàn 4 ăn một tháng bồi dưỡng bằng gạo không tính tiêu chuẩn, ăn no được bao nhiêu thì cấp bấy nhiêu chỉ không được lãng phí và một con trâu. Cả tiểu đoàn càng phấn khởi, tự hào hơn khi nghe công bố quyết định tặng thưởng huân chương các hạng.


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 08 Tháng Tư, 2016, 10:06:55 pm

*
* *

Tôi không bao giờ quên được anh Ba Trân - một người chỉ huy mà từ việc lớn đến việc nhỏ, lúc chiến đấu cũng như lúc bình thường, luôn nghĩ đến chiến sĩ đến cấp dưới - một vị chỉ huy dày dạn kinh nghiệm trận mạc, một tác phong chỉ huy không phải ai cũng có được.

Anh Ba Trân là vị tướng cách mạng, giỏi cả về quân sự, chính trị và hậu cần.

Trận đánh tập kích chiến lược Mậu Thân năm 1968 là những kỷ niệm trận mạc chiến trường lần cuối giữa hai chúng tôi.

Bấy giờ, tôi được bổ nhiệm giữ chức Trung đoàn trưởng Trung đoàn 66, anh Trân là Tư lệnh sư đoàn (Sư đoàn trưởng). Sư đoàn 1 lúc bấy giờ gồm: Trung đoàn 66, Trung đoàn 209, Trung đoàn 2. Anh Toàn (Toàn vẩu, cua-rơ Đông Dương) Trung đoàn trưởng Trung đoàn 209, Trần Ngọc Trai (Tám Trai) Trung đoàn trưởng Trung đoàn 2.

Trong số ba trung đoàn trưởng thì chỉ có tôi khỏe và trẻ hơn. Anh Tám Trai mắt cận thị, đi rừng vướng cây là rơi mất kính, có lúc xúm nhau đi tìm mất cả nửa giờ đồng hồ. Anh Toàn vẩu mắc bệnh quáng gà, cứ chạng vạng tối là phải có người dắt mới đi được. Đi trinh sát thực địa mục tiêu là đánh công sự vững chắc mà không thấy được cái gì trong cứ điểm thì đành chào thua.

Ngày đó Sư đoàn 1 chuyển vào Buôn Ma Thuột đảm nhiệm tiêu diệt 3 cứ điểm: Đức Lập do Trung đoàn 2 đảm nhiệm, Đất Xấc do Trung đoàn 66 đảm nhiệm, Quảng Nhiêu do Trung đoàn 209 đảm nhiệm. Hai vị trung đoàn trưởng của Trung đoàn 209 và Trung đoàn 2 không đến được mục tiêu. Anh Trân tâm sự với tôi: hai vị này trời đã hại mù lòa rồi mà còn vào chiến trường. Tau với mày còn hạnh phúc hơn chúng nó, có lẽ mày phải gánh vác thêm nhiệm vụ.

Chưa biết Tư lệnh sư đoàn giao cho Trung đoàn 66 thêm mục tiêu nào nhưng tôi phấn khởi nói, chính anh là người lúc nào cũng nhắc nhở chúng tôi: “nhường thuận lợi cho bạn, giành khó về mình” kia mà. Anh ôm chặt lấy tôi. Trung đoàn 66 được giao nhiệm vụ tổ chức chỉ huy Tiểu đoàn 8 của Trung đoàn 209 tiêu diệt cứ điểm Quảng Nhiêu. Anh Trân cho tăng cường các đồng chí tham mưu trưởng, chủ nhiệm chính trị sư đoàn cùng trung đoàn phó để giúp Đảng ủy và Bộ chỉ huy Trung đoàn 66 thực hiện nhiệm vụ.

Anh thường quán triệt cho các cơ quan sư đoàn: cấp dưới, nhất là các phân đội chiến thuật (thường là tiểu đoàn, đại đội) trực tiếp với bom đạn ác liệt, lại nhiều tình huống khó khăn phức tạp; còn chúng ta (cấp sư đoàn) yên tĩnh hơn, có điều kiện hơn, ta phải lo giúp đỡ cấp dưới không nên chê trách hoặc quy tội cho anh em. Một quan điểm, một phong cách thật chí tình chí lý. Sau này chúng tôi có dịp gặp nhau đều nhắc: “Được chiến đấu dưới sự chỉ huy của Bộ Tư lệnh Sư đoàn 1 (anh Ân, anh Dân, anh Trân, anh Viên, anh Đức Cụt, anh Định) thì dù có phải hy sinh cũng không có gì hối tiếc”.

Đợt 3 Tết Mậu Thân năm 1968 tiếp tục. Sư đoàn 1 mới giải quyết xong cứ điểm Đất Xấc và đánh vận động một số trận nhỏ lẻ chưa thấm tháp gì thì được lệnh nhanh chóng cùng sư đoàn hành quân cấp tốc vào B2 (R) còn có tên gọi “Miền”. Trung đoàn 66 được xếp đội hình hành quân cuối cùng. Anh Trân điện cho tôi vượt đội hình lên đầu để cùng Trung đoàn trưởng 209 và Trung đoàn 2 với anh đi nhanh vào Miền trước để tìm hiểu nhiệm vụ và tình hình chiến trường mới. Chúng tôi đang trao đổi những gì cần khi đến chiến trường mới để chuẩn bị thì được lệnh Trung đoàn 66 và đồng chí Đức - Tư lệnh phó, Châu (Lã Ngọc Châu) - Chủ nhiệm chính trị hành quân quay trở lại B3 để thành lập Lữ đoàn bộ binh 66. Ở chiến trường B3 (Tây Nguyên) tôi được biết tư lệnh và chính ủy (anh Viên) và cả Sư đoàn 1 ai cũng muốn Trung đoàn 66 đi cùng Sư đoàn 1, nên lúc chia tay tình cảm thật chân thành, quyến luyến. Trong đó có sự kiện mà cán bộ chiến sĩ Trung đoàn 66 đến nay ai cũng nhớ. Đó là việc anh Trân chỉ thị cho cơ quan Sư đoàn 1 bàn giao cho Trung đoàn 66 hầu hết lương thực, thực phẩm, thuốc men trong kho của sư đoàn, kế cả vũ khí và khí tài.

Cuộc tập kích chiến lược Mậu Thân năm 1968 kéo dài đến thời điểm đó thì toàn chiến trường đều thiếu thốn mọi thứ. Anh Trân biết Trung đoàn 66 có một số cán bộ ở các tỉnh Nam Bộ như đồng chí Dương Đôi - Tham mưu trưởng trung đoàn quê Thủ Dầu Một, đồng chí Lê Ba - Đại đội trưởng quê Bến Tre (cháu chị Ba Định)... Tổng số 12 đồng chí. Anh Trân bảo tôi tổ chức một đội gồm 12 đồng chí đó, biên chế về cho Ban cán bộ sư đoàn quản lý tổ chức hành quân theo sư đoàn. Tôi rất hiểu ý định của anh, nên bàn với Ban chỉ huy trung đoàn thực hiện, mặc dù bấy giờ Trung đoàn 66 qua ba đợt chiến đấu cán bộ đang thiếu trầm trọng.

Nhớ lại những kỷ niệm chiến đấu cuối cùng với anh Ba Trân, tôi càng thấy anh là vị chỉ huy toàn diện. Tôi lưu luyến mến thương anh hoài. Mãi đến năm 1978, tôi mới gặp lại anh trong một lớp tập huấn chiến thuật tại Long Bình, Biên Hòa. Bấy giờ anh là Phó Giám đốc Học viện Lục quân phụ trách lớp tập huấn...

Có dịp, tôi sẽ viết tiếp những điều còn sâu lắng trong lòng về anh. Qua chị Hà và các cháu, tôi gửi đến anh Ba Trân nén hương lòng, mãi mãi nhớ anh!
TP. Hồ Chí Minh, ngày 10-4-2007

T.Đ



Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 08 Tháng Tư, 2016, 10:09:32 pm

MẨU CHUYỆN NHỎ THỜI KHÁNG CHIẾN
Nguyễn Phước1


Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, có lần anh Trần Văn Trân và tôi vào một cơ sở gần đồn La Chữ, huyện Hương Trà nắm tình hình địch, chuẩn bị trận đánh. Tháng giêng, trời hay mưa phùn, gió bấc. Hai đứa tôi mang tơi đội nón, súng kẹp nách. Trân trước tôi sau, đi vào xóm.

Vừa qua khỏi một khúc quẹo, Trân quay lại huơ tay bảo:

- Tây, Tây, chạy lui.

Trân và tôi là bạn trèo me trèo sấu. Tính Trân rất nhộn, hay bịa chuyện hù dọa tôi chạy bán sống bán chết. Lần này tôi cũng tưởng là Trân đùa nên cứ sấn sổ bước tới. Vừa đi được mươi bước chạm trán ngay một thằng Tây cao to. Nó cũng cải trang làm dân thường mang tơi đội nón đi đón lõng cán bộ về hoạt động.

Quá bất ngờ nên cả hai bên đều đứng khựng lại. Tôi chĩa mũi súng ra ngoài tơi bóp cò. Súng không nổ. Trong lúc bối rối, tôi quên mở khóa an toàn. Cái chết đã cầm chắc trong tay. Tôi thét to: Hồ Chí Minh muôn năm!

Thằng Tây trợn trừng mắt nhìn tôi rồi quay ngoắt người chạy thục mạng. Tôi cũng chạy lui văng cả tơi nón.

Khi ra giữa cánh đồng, tôi kể lại sự cố cho Trân nghe, có thêm “mắm” thêm “muối” làm như ta đây dũng cảm lắm nên thằng Tây nó sợ quá bỏ chạy lui.

Trân cười ngất bảo tôi:

- Thôi đừng có “Lấy vải thưa che mắt thánh”, mình cam đoan rằng lúc đó cậu đã “đứng tim rồi”. Thằng Tây bỏ chạy là vì nó sợ uy linh của Hồ Chủ tịch chứ nó sợ cóc gì cậu.

Tôi phải công nhận là Trân nói đúng.

Trong truyện Tam Quốc có giai thoại Trương Phi bất ngờ thét lên xưng danh, làm cho một viên tướng của Tào Tháo sợ quá, vỡ mật ngã ngựa chết tươi, nên chuyện thằng Tây bỏ chạy lui cũng dễ hiểu thôi.

Điều thú vị là nếu nó biết được lúc đó đồng bào và bộ đội ta có “phong tục” mới trước lúc hy sinh đều hô to: “Hồ Chủ tịch muôn năm” để tỏ lòng trung thành với Tổ quốc, quyết không khuất phục kẻ thù thì chắc là tôi đã được đi “du lịch” sang bên kia thế giới rồi.

Năm 1995, kỷ niệm 50 năm ngày thành lập Trung đoàn Cao Vân - 101, tôi gặp lại Thiếu tướng Trần Văn Trân - nguyên Phó Tư lệnh Quân đoàn 4, Phó Giám đốc Học viện Lục quân. Tôi đưa cho anh Trân xem bài viết, anh thay ba từ “són ra quần” mà tôi dùng bằng cụm từ “đứng tim rồi”.

Nhớ anh Ba Trân, tôi ghi lại một chuyện nhỏ đầy kỷ niệm trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trên mảnh đất Bình Trị Thiên đau thương mà anh dũng.
N.P.
______________________________________
1. Nguyên Chính trị viên đại đội thời kỳ đầu chống Pháp.


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 08 Tháng Tư, 2016, 10:12:05 pm

MẤY KỶ NIỆM VỚI ANH BA TRÂN
Thiếu tướng Vũ Văn Thược1


Trên đường Trường Sơn  hành quân vào Nam chiến đấu, đến bản Mùi bắc thị xã Kon Tum, chúng tôi được lệnh dừng lại tăng cường Trung đoàn 88 cho Sư đoàn bộ binh chỉ huy chiến đấu. Tôi cho trung đoàn dừng lại vào gặp Bộ chỉ huy Sư đoàn bộ binh 1.

Người đầu tiên tôi gặp có hai con mắt tròn, to, nước da trắng, giọng nói nhẹ nhàng dễ nghe, dễ gần.

Anh tự giới thiệu mình tên là Trần Văn Trân, anh em thường gọi là Ba Trân. Sau đó anh giao nhiệm vụ cho tôi: về cho trung đoàn vào vị trí đóng quân và nhanh chóng chuẩn bị phương án tác chiến đánh quân Mỹ đổ quân xuống cắt đường tiếp tế từ Bắc vào Nam cho quân giải phóng.

Ngày 12 tháng 11 năm 1966, Mỹ đổ quân ở bản Mùi, đúng ý định tác chiến của Sư đoàn bộ binh 1 đề ra.

Anh Trân ra lệnh: Trung đoàn 88 nhanh chóng tổ chức tập kích không cho địch đứng chân ổn định. Trung đoàn chấp hành mệnh lệnh của anh Ba, dũng cảm chiến đấu làm cho địch bị thiệt hại nặng, nhưng không dứt điểm được. Ngày hôm sau địch tiếp tục đổ thêm quân xuống giải quyết hậu quả. Anh Ba ra lệnh đánh bồi, đánh nhồi cho lữ đoàn hành quân Mỹ một đòn nữa, sư đoàn tăng cường hỏa lực pháo binh và dùng toàn bộ pháo cối của trung đoàn, tập kích hỏa lực mãnh liệt vào quân Mỹ. Qua hai trận đánh của trung đoàn đã tiêu diệt 678 tên Mỹ, phá hủy 6 pháo 105 ly, 2 cối 106 ly. Lữ đoàn 2 thuộc T4 Mỹ phải bỏ cuộc hành quân, rút về phía sau. Kết thúc chiến dịch bắc sông Sa Thầy của Sư đoàn 1. Tôi được lệnh tiếp tục hành quân vào miền Đông Nam Bộ (B2). Thế là xa anh Ba Trân dễ thương, dễ nhớ! Tôi hy vọng sẽ có ngày gặp lại anh.

Mậu Thân năm 1968, theo yêu cầu của chiến trường trọng điểm (B2) Sư đoàn bộ binh 1 lại có mặt ở chiến trường miền Đông “gian lao mà anh dũng”.

Tôi được Bộ chỉ huy Miền điều động về làm Tham mưu phó của Sư đoàn 1. Thế là tôi lại về với Sư đoàn. Tôi trình quyết định cho anh Ba Trân, anh ôm chặt lấy tôi.

Tôi đi cùng anh Ba chỉ huy sư đoàn tập kích cụm quân Mỹ đóng tại ngã ba Lộ Ủi, suối Bà Chiêm thuộc tỉnh Tây Ninh, rồi liên tiếp tấn công cụm quân Mỹ đóng tại sân bay Đồng Ban, Tây Ninh. Qua hai trận đánh sư đoàn 25 Mỹ phải co về căn cứ Đồng Dù, Củ Chi.

Không để cho quân địch nghỉ ngơi, anh tiếp tục chỉ huy sư đoàn đi đánh giao thông, chặn tiếp tế của địch từ phía sau lên Bình Long trên quốc lộ 13, phá hủy hơn 150 xe quân sự của Mỹ, ngụy Sài Gòn.

Chiến trường miền Tây kêu gọi! Thế là anh Ba lại lên đường đi tiếp. Sư đoàn được lệnh các khung cơ quan sư đoàn lấy bộ phận nhỏ đi trước còn phần lớn để lại đi sau. Tôi không được đi cùng anh Ba. Anh được gọi về Bộ Tư lệnh Miền nhận nhiệm vụ mới.

Từ tháng 11 năm 1966 đến tháng 8 năm 1969, tôi được sống và chiến đấu cùng anh Ba Trân. Anh là người rất gần gũi cấp dưới, cởi mở, sống có nghĩa có tình rất sâu đậm. Anh là người chỉ huy vững vàng, dũng cảm tài ba. Anh còn là người có “tay nghề” đầu bếp giỏi. Món ăn anh nấu rất ngon, nhất là các món ăn Huế. Tôi rút ra một số nét sống và làm việc của anh Ba, con người hiền hậu, dễ gần, tác phong chiến đấu. Sâu sát cũng là bài học tôi đã được học ở anh Ba.
Ngày 26-12-2006
V.V.T
___________________________
1. Nguyên Tư lệnh Quân đoàn 4.


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 09 Tháng Tư, 2016, 11:02:43 pm

ANH TRẦN VĂN TRÂN,
NGƯỜI CHỈ HUY CÓ TẤM LÒNG ĐÔN HẬU
Thiếu tướng, GS-TS Huỳnh Nghi1


Sau chiến dịch Plaay Me, tháng 12 năm 1965 mặt trận Tây Nguyên quyết định thành lập 2 sư đoàn bộ binh: 1 và 6. Sư đoàn 1 gồm 3 trung đoàn bộ binh: 320, 66, 33, một số đơn vị hỏa lực và bảo đảm. Anh Trần Văn Trân từ Sư đoàn 325 về nhận nhiệm vụ Sư đoàn phó Sư đoàn 1.

Cuối năm 1966, Mỹ tiếp tục thực hiện “chiến lược chiến tranh cục bộ”, để chuẩn bị mở cuộc phản công chiến lược lần thứ hai vào mùa khô 1966-1967. Để chuẩn bị cho cuộc phản công, quân Mỹ đã đưa sư đoàn 4 bộ binh cơ giới lên Tây Nguyên, nâng tổng số quân Mỹ ở Tây Nguyên lên xấp xỉ hai sư đoàn. Trong cuộc phản công chiến lược lần này, quân địch tiến hành các cuộc hành quân liên miên như cuộc hành quân Frances Marion, Sam Houston, Paul Rever... Vào các vùng tây Gia Lai, bắc Đắc Lắc, nhất là vùng tây sông Pô Cô và tây sông Sa Thầy, nhằm đẩy quân chủ lực Tây Nguyên ra khỏi vùng biên giới. Tây Nguyên do vậy trở thành một trong những chiến trường ác liệt, gian khổ mà anh em chiến sĩ thường gửi gắm câu ca dao:

Tây Nguyên đi dễ khó về,
Thiếu gạo, thiếu muối, tái tê lòng người...
Tây Nguyên thiếu muối, thiếu rau,
Ốm đau thiếu thuốc, thương nhau làm gì?


Trong năm 1966 - 1967, Mỹ tiếp tục chiến lược chiến tranh cục bộ, leo thang chiến tranh xâm lược, quân Mỹ và quân chư hầu được tăng cường ồ ạt đánh phá khốc liệt miền Nam; đồng thời tăng cường chiến tranh phá hoại ra miền Bắc. Quyết tâm chống giặc Mỹ, ngày 17 tháng 7 năm 1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi quân và dân cả nước quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.

Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phối hợp với các chiến trường bạn nhằm đánh bại cuộc phản công chiến lược lần thứ hai của địch, đồng thời giữ vững quyền chủ động chiến trường, Bộ Tư lệnh Tây Nguyên quyết định mở chiến dịch tiến công Sa Thầy (18/10/1966 - 6/12/1966), nhằm tiêu diệt một bộ phận quân Mỹ, thu hút quân Mỹ lên chiến trường rừng núi, tạo điều kiện cho chiến trường đồng bằng Khu 5 đánh phá bình định.

Bước vào chiến dịch, Trung đoàn 320 chúng tôi cùng các đơn vị bạn trong Sư đoàn 1 chuẩn bị hết sức khẩn trương. Hôm nhận nhiệm vụ tác chiến ở Sở chỉ huy trung đoàn, tôi may mắn gặp lại anh Trần Văn Trân. Anh vẫn khỏe mạnh, lạc quan. Lần này anh đến giao nhiệm vụ cho trung đoàn chúng tôi tham gia chiến dịch. Trong chiến dịch này, Trung đoàn 320 có nhiệm vụ tác chiến ở khu vực trung gian chiến dịch, nằm trên giải đất hẹp giữa sông Pô Cô và sông Sa Thầy, đánh địch, lôi kéo quân Mỹ vượt sông sang sông Sa Thầy và lừa chúng rơi vào thế trận khu vực quyết chiến ở đồi C1 mà ta đã chuẩn bị sẵn.

Buổi làm việc diễn ra khá căng thẳng, nhưng anh Trân thân mật và vui vẻ, bàn bạc dân chủ với chúng tôi tỉ mỉ kế hoạch tác chiến. Làm việc xong, anh chia tay ra về thì trời mưa nhẹ hạt. Chúng tôi mời anh ở lại, nhưng vì bận việc gấp anh phải về ngay, choàng tấm nilông lên người anh ra đi trong mưa, nhưng vẫn dí dỏm đọc câu ca dao:

Trời mưa lâm thâm ướt dầm lá hẹ.

Câu thơ mộc mạc của anh làm cho mọi người trong Sở chỉ huy vui hẳn lên, làm dịu bớt không khí căng thẳng trong buổi họp.

Tiến hành cuộc phản công chiến lược lần thứ hai, quân Mỹ sử dụng bom đạn đánh phá cực kỳ ác liệt. Những hôm đầu mới đến, các khu rừng còn kín đáo hoang sơ. Nhưng chiến dịch mới trải qua có vài tuần mà cảnh quan đã thay đổi hẳn, máy bay B52 dội bom suốt ngày đêm đánh phá xơ xác rừng núi, cây cối đổ ngổn ngang, tất cả đều biến dạng.

Theo kế hoạch chiến dịch, trung đoàn chúng tôi vượt sang đông sông Sa Thầy. Anh Trân đi với Sở chỉ huy tiền phương sư đoàn, cùng vượt sông với chúng tôi. Dựa theo kinh nghiệm của chiến dịch Plây Me, trong chiến dịch này kế hoạch tác chiến chủ yếu của chúng tôi là chuẩn bị đánh quân Mỹ đổ bộ bằng trực thăng. Nhưng sư đoàn 4 Mỹ hoạt động khác hẳn sư đoàn kỵ binh không vận số 1, chúng hành quân bộ xuyên rừng là chính, vì thế chúng tôi phải điều chỉnh lại kế hoạch tác chiến.
________________________________
1. Nguyên Phó Giám đốc Học viện Lục quân.


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 09 Tháng Tư, 2016, 11:03:30 pm

Một buổi sáng sau trận chiến đấu tập kích một cụm quân Mỹ, chúng tôi hành quân về đóng quân trên một triền đồi, thì B52 đến ném bom đánh trúng Sở chỉ huy Trung đoàn 320. Cả Trung đoàn trưởng Vũ Bào và Chính ủy Đặng Hồng Thanh đều bị bom đánh sập hầm. Chúng tôi moi hầm đem các anh lên, cả hai đều ngất xỉu. Sở chỉ huy tiền phương của sư đoàn cùng nằm trong dãy đồi. Tôi lên gặp anh Trân và anh Nam Khánh báo cáo lại tình hình và xin ý kiến chỉ đạo. Các anh dặn dò tôi về ổn định tình hình, tư tưởng cho bộ đội và nhanh chóng chuyển anh Thanh và anh Bào về hậu phương.

Chiến dịch càng về sau càng gay go ác liệt. Máy bay địch đánh phá đứt cầu phao nên việc chuyển đạn dược lên phía trước và thương binh về phía sau ngày càng phức tạp. Thấy trung đoàn chúng tôi quá khó khăn, anh Trân ra lệnh chúng tôi chuyển về phía tây sông Sa Thầy.

Phát hiện chúng tôi về phía tây sông, quân Mỹ cũng sang sông. Chúng vừa đóng quân bên bờ sông vào buổi chiều thì tối hôm đó đã bị ta tập kích ngay. Trong trận tập kích này, quân ta diệt gần hai đại đội quân Mỹ, nhưng bộ đội ta cũng bị thương vong khá nặng vì trận địa pháo ở “Công trường đất đỏ” từ phía đông sông đánh trả dữ dội. Sáng hôm đó, gặp tôi anh Trân nói trong thổn thức: “Chiến tranh tàn nhẫn quá cậu. Số chiến sĩ mới bổ sung vào chiều qua, má còn măng tơ, chỉ bằng tuổi con mình. Đáng lẽ các cháu phải được tiếp tục học hành, nhưng chiến tranh đã đẩy các cháu ra mặt trận, thật đau xót!” Và mắt anh nhìn về cõi xa xăm, có lẽ anh đang nhớ số anh em vừa hy sinh trong trận đánh đêm qua và liên tưởng đến các con của mình.

Sau hai cuộc phản công mùa khô thất bại nặng nề trên chiến trường Việt Nam và bị dư luận ngày càng phản đối quyết liệt hành động xâm lược của quân Mỹ; đặc biệt phong trào chống chiến tranh ngày càng phát triển rộng lớn trong lòng nước Mỹ. Giới cầm quyền Mỹ bắt đầu dao động, lúng túng, nhưng vẫn ngoan cố tiếp tục tăng quân, chuẩn bị mở cuộc phản công chiến lược lần thứ ba vào mùa khô 1967 - 1968 với dự tính sẽ sử dụng 120 vạn quân, trong đó có 50 vạn quân Mỹ. Nhưng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 của ta đã giáng “một đòn sét đánh” vào hầu hết các thành phố và đô thị miền Nam, đặc biệt là đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn, làm choáng váng cả nước Mỹ và chấn động dư luận thế giới, khiến kế hoạch phản công lần thứ ba của chúng bị phá sản.

Thắng lợi mùa xuân 1968 trên chiến trường Tây Nguyên đã góp phần quan trọng vào thắng lợi chung trên toàn Miền, tạo ra bước ngoặt mới của cuộc chiến tranh giải phóng. Tiếp tục cuộc Tổng tiến công trong đợt 2, Sư đoàn 1 được lệnh hành quân vào Đắc Lắc. Lúc này anh Trân là Sư đoàn trưởng Sư đoàn 1. Tôi cũng được biệt phái về cơ quan tác chiến của sư đoàn. Đường từ Gia Lai vào Đắc Lắc khá xa, phải hành quân trên 10 ngày. Tôi cùng đi với bộ phận tiền trạm do anh Trân dẫn đầu. Đường đi phần lớn là rừng khộp, mùa khô nguồn nước dọc đường rất khan hiếm. Những con suối chỉ còn từng vũng nước đọng. Các cung đường phụ thuộc vào các con suối dọc đường. Suốt ngày hành quân dưới nắng chang chang, chiều đến trạm là treo võng nằm nghỉ và tán chuyện. Anh Trân có thể nói là một kho chuyện tiếu lâm, nên giờ nghỉ chúng tôi thường quây quần bên cạnh để nghe anh kể chuyện. Trong đoàn có đồng chí Tần - trợ lý thông tin cũng là một cây chuyện tiếu lâm. Tôi giới thiệu đồng chí Tần với anh Trân. Đến trạm nghỉ, anh Trân nài nỉ đồng chí Tần kể chuyện, nhưng đồng chí Tần cứ mỉm cười và tìm cách thoái thác. Anh Trân bèn tìm cách trao đổi, anh nói: “Bây giờ mình kể một chuyện, cậu kể một chuyện. Thế là công bằng nhé!”. Đồng chí Tần vui vẻ nhận lời. Thế là hai người thi nhau kể chuyện tiếu lâm, còn bọn chúng tôi bò lăn ra cười. Sau buổi hôm đó, anh Trân khen đồng chí Tân nhiều chuyện thật. Cũng có hôm anh Trân tâm sự với chúng tôi về thời trai trẻ. Anh kể rằng lúc còn nhỏ nhà anh quá nghèo, “ăn mắm mút dòi”, nên anh phải đi lang bạt để kiếm sống. Anh đã từng đi làm thuê tại hồ Lắc, Buôn Ma Thuột... Vì thế chuyện anh sớm tham gia vào quân đội là lẽ đương nhiên.


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 09 Tháng Tư, 2016, 11:04:27 pm

Một buổi trưa, chúng tôi dừng chân bên bờ một con suối cạn chỉ còn mấy vũng nước. Bỗng một đồng chí vệ binh phát hiện một con ba ba rất to đang nấp dưới suối, nhưng không làm sao bắt được. Nghe anh em nói, anh Trân đi đến và anh nhảy xuống suối, hai tay rất thành thạo anh lôi con ba ba lên, nó nặng 10kg.

Đoàn chúng tôi vào Đắc Lắc lần này với nhiệm vụ phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương nghiên cứu cách đánh vào thị xã Buôn Ma Thuột. Theo hướng dẫn của địa phương, chúng tôi chuẩn bị vượt sông Sêrêpôc để vào hướng thị xã. Trời đã hoàng hôn, chúng tôi ra sát bờ sông chờ đêm tối để vượt sông. Bỗng từ trong rừng một con voi to đi về hướng chúng tôi. Không kịp tránh nữa, chúng tôi đành nấp sau các thân cây. Trên lưng voi có một ông cụ già và một đứa bé con. Chờ ông đến gần, tôi ra gặp ông. Nhìn thấy chúng tôi, ông cụ hốt hoảng, nhưng cũng không tránh kịp nữa.

- Chào cụ.

Tôi cố làm cho ông cụ yên lòng, nên không cầm súng. Thấy tôi hỏi thăm nhà, ông cụ trả lời:

- Thưa anh, nhà tôi ở buôn Đôn - Vừa nói cụ vừa chỉ ngôi làng phía bên kia sông - Dạ, hôm nay tôi đi làm về muộn.

Sau khi thăm hỏi tình hình, tôi dặn cụ:

- Cụ về bên đó đừng nói với ai là chiều nay đã gặp chúng tôi nhé!

Ông cụ hứa sẽ không bao giờ nói lại với ai và chỉ lên bành voi, nơi đứa con trai bé nhỏ đang ngồi.

- Tôi chỉ có một đứa con trai, xin lấy tính mạng con tôi bảo đảm cho lời hứa của tôi.

Đứa con trai đối với người buôn Đôn còn quý hơn vàng. Ở Tây Nguyên nhiều năm tôi rất tin vào lời hứa của đồng bào dân tộc.

Chào chúng tôi, hai cha con ông cụ cưỡi voi vượt qua sông Sêrêpôc về lại buôn làng. Mấy hôm sau cơ sở của ta ở trong làng báo ra là ông cụ giữ đúng lời hứa không nói lại với ai về việc gặp chúng tôi. Tôi thầm nghĩ đó là tấm lòng chung thủy sắt son của nhân dân các dân tộc Tây Nguyên đối với bộ đội Cụ Hồ. Nhờ tấm lòng thủy chung của nhân dân mà chúng tôi đã được chở che vượt qua muôn vàn thử thách để sống và chiến đấu hàng chục năm ở Tây Nguyên.

Từ lúc xảy ra câu chuyện gặp ông cụ già đến bây giờ, sợ nguy hiểm nên chúng tôi không muốn anh Trân xuất hiện, để anh ngồi yên theo dõi chúng tôi xử lý sự việc và anh rất hài lòng về cách xử lý đó. Đêm hôm đó chúng tôi vượt qua sông nước chảy xiết, bí mật vào hướng tây bắc thị xã Buôn Ma Thuột. Một anh du kích địa phương đưa chúng tôi đến dãy núi Chư Ebua nằm trên hướng tây bắc thị xã. Dưới chân núi, mấy chú voi nhà đang ăn lá tre. Chúng tôi lần lượt trèo lên núi để quan sát thị xã.

Trong ánh hoàng hôn, lần đầu tiên anh Trân và tôi quan sát rõ ràng toàn cảnh thị xã Buôn Ma Thuột, đẹp như bức tranh của họa sĩ Lêvitan. Giữa những đồi đất đỏ bazan, những rừng cà phê và cao su đan xen xanh mướt. Lấp ló sau rặng cây xanh, khu biệt điện Bảo Đại như cô gái ẩn mình sau bức rèm thưa, ở phía xa sân bay Buôn Ma Thuột nổi bật trên rặng cao su mỗi lần máy bay hạ cánh mà ta có cảm giác như máy bay vẫn treo lơ lửng giữa trời mây. Sau giây phút lãng mạn chiêm ngưỡng cảnh quan thị xã, chúng tôi trở về với nhiệm vụ. Giở tấm bản đồ thị xã Buôn Ma Thuột ra anh Trân cùng chúng tôi lần lượt xác định các mục tiêu trong thị xã, nhất là sở chỉ huy sư đoàn 23 ngụy. Thị xã rộng trên 24 ki-lô-mét vuông, quân địch trấn giữ thị xã ngót một sư đoàn. Tình hình đó cho thấy, một sư đoàn của chúng ta không đủ khả năng tiến công đánh chiếm các mục tiêu trong thị xã. Tuy vậy, tối hôm đó anh Trân vẫn phân công anh Uynh, tham mưu trưởng và anh Thông chủ nhiệm trinh sát sư đoàn đột nhập vào thị xã. Sau tổng tiến công đợt 1, giờ đây địch tổ chức phòng ngự thị xã rất chặt chẽ nên rất khó tìm ra đường để vào trinh sát trong thị xã.   

Sau khi nghe báo cáo tình hình, Bộ Tư lệnh mặt trận quyết định cho chúng tôi chuyển sang hoạt động ở khu vực Đức Lập (Đắc Mil). Lúc này Bộ Tư lệnh đã cử Bộ Tư lệnh tiền phương của mặt trận do anh Bùi San làm Chính ủy và anh Hồng Sơn làm Tư lệnh vào chỉ huy mặt trận Đức Lập. Về lực lượng, tăng thêm hai trung đoàn bộ binh.


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 09 Tháng Tư, 2016, 11:05:17 pm

Một buổi tối, Đảng ủy tiền phương thảo luận cách đánh mở màn đợt hoạt động ở Đức Lập. Tôi treo võng nằm chờ anh Trân đi họp về. Cuộc họp kéo dài đến tận khuya vì phải tranh luận giữa hai phương án, tiến công cứ điểm Đắc Xắc, là mục tiêu mở màn đợt hoạt động. Ý kiến của anh Trân là chỉ nên bao vây đồn Đắc Xắc, buộc quân địch ra ứng viện và tiêu diệt nó trong vận động. Nhưng ý kiến thứ hai cho rằng phải tổ chức đánh công kiên để tiêu diệt cứ điểm Đắc Xắc. Do chưa thống nhất về tư tưởng chiến thuật và cách đánh nên buổi họp phải kéo dài. Khoảng 12 giờ đêm, anh Trân đập võng gọi tôi dậy, chuẩn bị triển khai kế hoạch tiến công theo kết luận của Đảng ủy là đánh công kiên cứ điểm Đắc Xắc.

Với giọng buồn buồn, anh nói với tôi:

- Đơn vị mới vào chưa có kinh nghiệm tác chiến mà đánh công kiên sẽ khó thắng lắm cậu ơi. Nhưng phải triển khai kế hoạch ngay, nếu không khi có mệnh lệnh sẽ làm không kịp.

Tôi ôm tấm bản đồ về chuẩn bị kế hoạch thì bất ngờ đồng chí cơ yếu đưa cho tôi bức điện khẩn. Đọc lướt qua, tôi tưởng mình đọc nhầm. Tôi đọc kỹ lại. Cấp trên quyết định điều Trung đoàn 320 hành quân gấp vào Nam Bộ và sau đó là toàn bộ Sư đoàn 1 cũng vào tăng cường gấp cho Nam Bộ. Tôi đem bức điện đến cho anh Trân. Đọc xong tôi thấy nét mặt anh thẫn thờ, tâm trạng bâng khuâng.

Như vậy là sau bốn năm hoạt động trên khắp chiến trường Tây Nguyên, nằm gai nếm mật, sống chết với đồng bào các dân tộc, nay Trung đoàn 320 và Sư đoàn 1 sắp từ giã chiến trường Tây Nguyên, nơi có những bản trường ca Đam Sam, Xinh Nhã... bất hủ trong kho tàng sử thi nổi tiếng. Nơi mà sau những ngày mùa thắng lợi, lũ làng thường vây quanh ngọn lửa hồng trên sân nhà Rông lắng nghe những bản trường ca suốt thâu đêm. Nơi đêm đêm tiếng chày giã gạo từ các buôn làng quyện trong tiếng vang vọng xa xăm của núi rừng, ru ta mơ màng trong giấc ngủ. Dù đi đến chân trời nào cũng không làm sao quên được những khúc hát ân tình.

Trăng lên rồi
Đêm càng đẹp.
Lũ làng mừng giã gạo nuôi quân
Ơi anh giải phóng, cái chân không mỏi.
Lũ làng đây cái tay cũng không mỏi.
Anh diệt nhiều thù, cối gạo càng trắng thơm.
Đẹp lòng quân dân


Nghĩa tình cá nước. Thế là anh Trân đi vào Nam Bộ, còn tôi tiếp tục ở lại Tây Nguyên. Chia tay anh, lòng tôi thương nhớ anh, một người chỉ huy với tấm lòng đôn hậu bao la, hết sức tôn trọng và yêu thương cấp dưới và đồng đội.

Giờ đây anh đã đi xa, xin chúc anh yên giấc ngàn thu ở cõi vĩnh hằng.
TP. Hồ Chí Minh, tháng 2 - 2007
H.N


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 09 Tháng Tư, 2016, 11:08:15 pm

THƯƠNG TIẾC MỘT NGƯỜI ANH, THIẾU TƯỚNG TRẦN VĂN TRÂN
Giáo sư Trần Thanh Đạm1


Đáng lẽ viết về anh là các đồng chí, đồng đội của anh, những người cùng vào sống ra chết với anh trên các chiến trường gần 50 năm qua, hoặc chính bản thân anh với bao kinh nghiệm chiến đấu dày dạn của một người lính chân chính của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Tôi viết mấy dòng này với tư cách một người em của anh, với ý nghĩ rằng tôi được như tôi ngày hôm nay là vì trong cuộc đời tôi thường xuyên có hình ảnh anh, của những người như anh, bao giờ cũng như tiếng gọi phía trước. Cả ngày hôm nay nữa sau khi anh đã ra đi, đối với tôi, anh vẫn còn là tiếng gọi tha thiết và thiêng liêng ấy.

Anh rời quân ngũ với quân hàm Thiếu tướng năm 1995, song 50 năm trước anh gia nhập quân đội làm liên lạc kiêm cần vụ. Là con một bà mẹ nghèo ở xóm nghèo chợ Cống thành phố Huế, anh phải bỏ học sớm để đi làm thuê nuôi mẹ, nuôi em. Mười tám tuổi, anh tham gia khởi nghĩa ở Huế, rồi gia nhập quân đội ta từ ngày nó còn là những đơn vị giải phóng quân thô sơ mới được thành lập.

Anh thường nhắc những kỷ niệm về mẹ. Ngày ấy mẹ nghe các anh hát: “Đoàn giải phóng quân một lần ra đi”... mẹ khóc và bảo: sao chúng mày hát buồn quá. Quả thật bốn đứa con của mẹ ra đi ngày ấy, ngày chiến thắng có hai đứa trở về và đều không gặp mẹ. Mẹ mất năm 1973, suốt hai cuộc kháng chiến chưa lần nào gặp lại các con. Trong cuộc chiến đấu của chúng ta có những bà mẹ chờ con từ chiến trường không trở lại, lại cũng có những đứa con từ chiến trường trở về mà không còn mẹ ngày ra đi.

Tôi gặp anh lần đầu vào mùa mưa năm 1949 khi tôi rời thành phố Huế ra vùng kháng chiến. Lúc này anh là đại đội trưởng “đại đội độc lập” với nhiều trận đánh “xuất quỷ nhập thần” được đồng bào truyền tụng như huyền thoại. Anh là một trong những “Sa-pa-ép” của Việt Nam những ngày đầu kháng chiến chống Pháp. Anh trẻ, khôi ngô, nước da trắng hồng, với đôi mắt sáng, nụ cười tươi đầy vẻ hiên ngang hấp dẫn. Nếu không đi dạy học mà đi bộ đội thì ngày ấy tôi gia nhập đơn vị của anh. Chính anh đã khuyên tôi: “Em cố mà học, em đi dạy đi. Để các anh chiến đấu cho. Ngày xưa anh thất học, con em mình ngày nay phải được học hành đến nơi đến chốn, để sau này chiến thắng có người  xây dựng Tổ quốc”.

Ngôi trường của tôi ở cái thôn Mỹ Lộc giữa những vườn cây xanh mướt và lòng dân vô cùng nhân hậu. Đơn vị của anh thỉnh thoảng lại về đây nuôi quân, dưỡng sức sau những trận đánh. Anh thường ghé lại lớp học của tôi kể chuyện chiến đấu cho thầy trò nghe. Câu anh thường nói để kết thúc câu chuyện là: “Kháng chiến nhất định thắng lợi. Tổng phản công sắp đến nơi rồi”.

Thời gian tôi xa Bình Trị Thiên, tôi vẫn được nghe tin anh ở chiến trường với nhiều chiến công vang dội trong đó có trận thắng được ghi lại trong bài hát nổi tiếng của nhạc sĩ - liệt sĩ Nguyễn Hồng bài “Đồi 18”. Chúng tôi hát bài hát đó và nhớ anh rất nhiều.

Năm 1952 tôi gặp anh một lần ở Nghệ An, khi anh ra an dưỡng tại đó, trước khi trở lại chiến trường. Hồi ấy tôi ôm mộng viết văn, và tôi ước mong được nghe anh kể chuyện chiến đấu rồi viết lại các chuyện đó. Tại nhà một bà mẹ chiến sĩ ở Đô Lương, giữa những cơn sốt rét, anh kể chuyện đơn vị của anh, các chiến sĩ của anh, công việc nuôi quân, luyện quân, cầm quân của anh. Tôi cứ mơ màng giá chỉ ghi lại các câu chuyện đó của anh thôi cũng đã là văn chương rồi. Phải nhận rằng cho đến hôm nay với tư cách là một người cầm bút, tôi còn mắc nợ anh, mắc nợ các anh rất nhiều. Chúng tôi chưa thực hiện được lời hứa: viết về cuộc đời, về chiến công, về những gian khổ hy sinh của các anh.
___________________________________
1. Nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 09 Tháng Tư, 2016, 11:08:47 pm

Sau năm 1959, tôi gặp lại anh mang quân hàm trungtá mới toanh vừa được phong. Các anh sĩ quan mới về dự lớp huấn luyện, mở tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Anh vui mừng khi thấy tôi tiến bộ nhiều trong nghề dạy học, anh nhắc lại câu chuyện ngày xưa và lại khuyến khích tôi. Lúc này anh đã có vợ. Anh vốn trẻ trung, tính tình hay đùa nghịch. Tôi ước đoán ở đơn vị hẳn rằng các chiến sĩ gần gũi và yêu quý anh lắm với các tác phong như vậy của anh. Quả thực anh cho biết rằng một trong những nhân tố thành công của anh trong “binh nghiệp” là tác phong sâu sát, giản dị, thân thiết chia ngọt sẻ bùi, đồng sinh đồng tử với đồng đội. Tôi hỏi thăm chị Hà vợ anh. Anh bảo: “Vợ mình là con gái thủ trưởng ngày xưa của mình. Hồi mới vào bộ đội, mình làm liên lạc, giữ ngựa cho ông ấy. Từ giữ ngựa mình tiến lên giữ luôn con gái của ông ấy. Cô ấy cũng là nhà giáo như em”.

Hình như anh Trần Văn Trân sinh ra là để làm bộ đội, để đánh giặc, số phận của anh là ở chiến trường. Cuộc kháng chiến chống Mỹ bắt đầu, anh đã có mặt tại chiến trường Tây Nguyên lúc này với cương vị sư trưởng. Từ Tây Nguyên anh chuyển về miền Tây Nam Bộ với cương vị Phó bí thư Đảng ủy Tiền phương mặt trận An Giang. Mậu Thân năm 1968, anh cùng với người em ruột chung một chiến trường, một chiến hào Tây Nguyên. Nghe tin Giải phóng quân vào Huế cả hai anh em ứa nước mắt thương mẹ. Giá như được chiến đấu ở chiến trường Bình Trị Thiên hẳn có dịp về gặp mẹ. Sau này trở về quê hai anh em đều đau lòng nghe hàng xóm kể lại rằng, mẹ hàng ngày trông ngóng các anh, mẹ nói: Chúng nó bốn đứa ra đi sao không thấy đứa nào trở về hay nhắn tin về.

Chị Hà ở miền Bắc với các cháu chờ anh cho đến ngày tin anh hy sinh vào đầu những năm 1970. Chị đã lập bàn thờ cúng giỗ anh. Sự thật là anh vẫn còn sống. Trong một chuyến đi nghiên cứu chiến trường, anh đã bị phục kích bị thương và bị địch bắt. Đồng đội đi tìm tưởng anh đã hy sinh báo về cho đơn vị cho gia đình. Ba năm bị bắt làm tù binh trong nhà tù của địch, do mưu trí dũng cảm tìm cách che mắt địch, lại do tác phong bình dị, chất phác chẳng khác nào người lính thường, lại được đồng đội bao bọc che chở, dù giữ cương vị Bí thư Đảng ủy nhà tù, địch không phát hiện được anh là cán bộ cao cấp của quân đội ta. Anh trở về nhà thấy gia đình lập bàn thờ anh. Có lẽ số phận cũng có ý định trêu chọc con người hay trêu chọc người khác là anh.

Ở với gia đình, với địa phương chưa được bao lâu, anh đã trở lại chiến trường với cương vị đại tá sư đoàn trưởng, chiến đấu liên tục cho đến ngày tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh. Có lẽ niềm hạnh phúc lớn đối với tôi, với cương vị một trong các cán bộ giáo dục tham gia tiếp quản các trường đại học Sài Gòn, tôi được anh tiếp đón thân mật ở sở chỉ huy của anh trên cương vị Phó Tư lệnh Quân đoàn 4, một trong năm cánh quân tiến vào hợp điểm ở trung tâm Sài Gòn ngày 30 tháng 4 năm 1975. Tôi nhớ lần gặp gỡ ấy giữa hai anh em, cả hai đều bàng hoàng như trong giấc mơ. Điều có thể nói là lạ kỳ, là sau hơn một phần tư thế kỷ dù trải qua bao nhiêu gian lao, qua bao nhiêu chiến trường, anh vẫn trẻ như một chàng thanh niên. Có lẽ tại cái tính lạc quan, yêu đời “bất trị” của anh. Nghe tin anh sau đó được điều về Học viện Quân sự Đà Lạt. Tôi bỗng nghĩ: có lẽ anh về đây không hợp dù là Học viện cũng vậy. Quả nhiên năm 1980 cùng học với anh, một “chị” ở trường Đảng cao cấp Nguyễn Ái Quốc cho biết, anh tâm sự “mình muốn lên mặt trận biên giới hoặc đi K, đó mới là nơi thích hợp của mình”. Tôi trở về Thành phố Hồ Chí Minh năm 1983 thì nghe tin anh đã cùng đoàn quân tình nguyện làm nhiệm vụ quốc tế trên đất bạn mấy lần thoát chết vì mìn. Anh giữ cương vị Tham mưu phó rồi Tham mưu trưởng Mặt trận 719 quân tình nguyện Việt Nam cho đến ngày quân ta hoàn thành nhiệm vụ trở về nước.

Trở thành cựu chiến binh đầu năm 1995, anh được mời tham gia vào Ban liên lạc Cựu chiến binh Mặt trận Bình Trị Thiên và Sư đoàn 325 tại Thành phố Hồ Chí Minh. Rời chiến trường, rời quân ngũ mới được 2 năm, chưa được hưởng bao nhiêu chút yên vui của tuổi già anh đã đột ngột ra đi, lần này không bao giờ trở lại. Trước linh cữu của anh, đồng đội, đồng chí thương khóc anh. Đồng chí, đồng bào khắp mọi miền đất nước, ở nước bạn, ở mọi nơi anh cùng đơn vị đã đi qua đều thương tiếc anh. Tôi biết các bác sĩ, y tá chăm sóc anh những ngày cuối cùng ở bệnh viện cho biết anh luôn luôn bình tĩnh, vui vẻ trong chữa trị, không hề đòi hỏi một chút gì cho mình ngay cả lúc đau đớn nguy kịch nhất. Anh ở với đồng bào nơi khu phố của anh chưa được bao lâu mà bà con thương mến anh vô cùng. Tôi đọc sau bàn thờ anh ở câu đối của bà con viếng anh trên một bức trướng:“SỐNG ANH DŨNG, THÁC TRƯỜNG TỒN”.

Quả thực đời anh là vậy. Tôi nhớ hai câu Tố Hữu viết về anh Nguyễn Chí Thanh, có lẽ nó cũng hợp với anh Trân:

Ở đâu tiền tuyến kêu anh tới
Tay súng, tay cờ lại tiến công


Từ người liên lạc trở thành vị tướng, anh là hình ảnh tiêu biểu của anh bộ đội Cụ Hồ “Trung với Đảng hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nà cũng đánh thắng”.
T.T.Đ


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 09 Tháng Tư, 2016, 11:13:24 pm

"SƯ TRƯỞNG MỚI"
Trung tướng Vũ Cao

Ngày 23 tháng 11 năm 1973, Sư đoàn 341 nhận được lệnh điều động của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng: đồng chí Trần Văn Trân về Sư đoàn 341 nhận nhiệm vụ Tư lệnh sư đoàn thay đồng chí Bảo Cường, đồng chí Bảo Cường về Quân khu 4 nhận nhiệm vụ mới.

Sư đoàn trưởng Trần Văn Trân về Sư đoàn 341 đúng ngày kỷ niệm thành lập sư đoàn tròn một năm tuổi. Đây là thuận lợi đầu tiên của Sư đoàn trưởng để tìm hiểu nắm bắt tình hình. Đặc biệt, sư đoàn đang chuẩn bị quán triệt Nghị quyết Trung ương lần thứ 21 đánh giá tình hình miền Nam sau Hiệp định Pa-ri. Nghị quyết Trung ương lần thứ 21 là văn kiện lịch sử của cuộc kháng chiến chống Mỹ; văn kiện chỉ đạo cuộc chiến tranh cách mạng giành thắng lợi trong giai đoạn kết thúc chiến tranh. Nghị quyết Trung ương lần thứ 21 là lời hiệu triệu khí thế tiến công. Không khí hội nghị học tập Nghị quyết sôi sục, khí thế và cũng lo lắng về tình hình của sư đoàn; tổ chức chưa ổn định - huấn luyện - chiến kỹ thuật còn bất cập, nhất là ý kiến của đồng chí Sư đoàn trưởng qua thời gian đi kiểm tra đơn vị - luyện tập, huấn luyện diễn tập. Tư lệnh trao đổi với Bộ Tư lệnh sư đoàn và phát biểu trước hội nghị Đảng ủy: “Yêu cầu của chiến đấu với trình độ của đội ngũ cán bộ - chiến sĩ hiện nay của sư đoàn còn có khoảng cách rất lớn, ta phải rút ngắn khoảng cách này lại, càng ngắn, càng nhanh bao nhiêu càng tốt”. Một nhận định thực tế sắc sảo để sư đoàn có bước phát triển mới.

Ý kiến của Sư đoàn trưởng được đưa vào Nghị quyết của Đảng ủy và nhanh chóng tổ chức cho các đơn vị trung đoàn, sư đoàn học tập quán triệt nghị quyết có tính chất cấp bách của sư đoàn. Ngoài việc học tập quán triệt nghị quyết còn tiến hành một loạt các biện pháp tổ chức thực hiện như:

- Đưa bộ đội ra khỏi nhà dân ra doanh trại để xây dựng, chỉ một tháng trời bằng sức lực và bàn tay cần cù lao động của cán bộ chiến sĩ hơn 3.000 căn nhà tre, gỗ thống nhất toàn sư đoàn được dựng lên. Toàn sư đoàn ra khỏi nhà dân sinh hoạt, tập trung trong những khu doanh trại cao ráo trên đồi, khang trang đúng với xây dựng 11 chế độ sinh hoạt trong ngày của người lính, thuận tiện cho việc xây dựng nền nếp chính quy thống nhất; xung quanh doanh trại còn có vườn rau, ao cá, giếng nước, đời sống được cải thiện.

- Xây dựng hệ thống thao trường, kỹ thuật, chiến thuật để theo đúng phương châm: “hệ thống, cơ bản, toàn diện”; vừa huấn luyện phân đội vừa khẩn trương bồi dưỡng cán bộ. Trong ba tháng huấn luyện, sư đoàn đã tổ chức bồi dưỡng cho hơn 3.000 cán bộ về quân sự, chính trị, hậu cần, kỹ thuật và phương pháp quản lý huấn luyện, kinh nghiệm chiến đấu, chiến trường do đích thân đồng chí Sư đoàn trưởng trực tiếp bồi dưỡng cho cán bộ, chiến sĩ. Anh không chỉ giới thiệu nguyên tắc mà gắn với thực tế kinh nghiệm chiến trường Tây Nguyên, miền Đông, miền Tây Nam Bộ mà anh đã từng hoạt động.

Cơ quan của sư đoàn tổ chức 5 tổ cán bộ có trình độ để đi kiểm tra, hướng dẫn thực hiện nghị quyết của Đảng ủy sư đoàn ở các trung đoàn và các phân đội trực thuộc. Với phương châm thực tế, thực sự, sai đâu sửa đó từ sinh hoạt trong ngày đến nội dung kỹ chiến thuật, các tổ kiểm tra trước khi xuống đơn vị được Sư đoàn trưởng hướng dẫn thống nhất các nội dung...


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 09 Tháng Tư, 2016, 11:14:01 pm

Toàn sư đoàn thành một phong trào “tự học, tự rèn”, từ nhận thức biến thành hành động, cán bộ, đảng viên, đoàn viên thanh niên lao động Hồ Chí Minh với khí thế tiến công, quyết trong một thời gian ngắn đưa trình độ tác chiến của sư đoàn lên một trình độ mới, đáp ứng yêu cầu chiến trường.

“Tự học, tự rèn” trở thành phong trào quần chúng sâu rộng, các trung đoàn, tiểu đoàn, đại đội, cơ quan xuất hiện những phong trào thi đưa chấp hành điều lệnh, bình dạy, bình học, tham quan học tập lẫn nhau. Hội nghị trao đổi kinh nghiệm “đầu bờ”, giữ tốt dùng bền, ba xung kích, chai tay bắn giỏi, pháo thủ toàn năng...

Say sưa hòa cùng với các phong trào thi đua của đơn vị, khi tiếng kẻng báo thức vừa dứt, Sư đoàn trưởng Trần Văn Trân đã đứng ở nhà ngủ của Đại đội 2 Trung đoàn 1 (273) để kiểm tra công việc của chiến sĩ từ lúc dậy đến khi ra bãi tập. 11 giờ trưa, anh đã có mặt ở Đại đội 2 kiểm tra cán bộ quản lý chiến sĩ từ khi ở bãi tập về đến bữa ăn trưa; kiểm tra ngủ trưa của các chiến sĩ đến khi báo thức chuẩn bị ra thao trường... Một ngày kiểm tra, Sư đoàn trưởng đã thấy được cái yếu của cán bộ, chiến sĩ, anh triệu tập các tổ trưởng các tổ kiểm tra, cán bộ cơ quan của sư đoàn. Anh nêu từng vấn đề để mọi người nghe tham gia ý kiến, cần khắc phục điểm yếu để thống nhất toàn sư đoàn đồng đều tiến lên...

Điều mong mỏi trông chờ đã đến, ngày 20 tháng 1 năm 1975, một đoàn cán bộ của Sư đoàn 341 do Sư đoàn trưởng Trần Văn Trân dẫn đầu ra Hà Nội nhận nhiệm vụ theo điện triệu tập của Bộ.

Ngày 25 tháng 1 năm 1975, Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp thay mặt Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng giao nhiệm vụ:

- Sư đoàn 341 do Bộ trực tiếp trang bị.
- Tham gia vào chiến đấu ở chiến trường B2.
- Ngày 10 tháng 2, sư đoàn hoàn thành công tác chuẩn bị.
- Ngày 15 tháng 2, đơn vị đi đầu xuất phát.

Sau buổi nhận nhiệm vụ của Đại tướng Tổng Tư lệnh giao, đoàn được làm việc với Thượng tướng Hoàng Văn Thái - Thứ trưởng Bộ Quốc phòng; Thượng tướng Song Hào - Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị; Trung tướng Lê Trọng Tấn; Trung tướng Lê Quang Đạo; Thiếu tướng Cao Văn Khánh cũng có mặt trong buổi giao nhiệm vụ cho sư đoàn.

Sư đoàn trưởng Trần Văn Trân thay mặt cán bộ chiến sĩ Sư đoàn 341, hứa với Đại tướng và các đồng chí đại diện Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng Tham mưu: “Cán bộ, chiến sĩ toàn sư đoàn nghiêm chỉnh chấp hành mọi nhiệm vụ được giao. Trước mắt hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tổ chức hành quân, đi nhanh, đến đủ, tới đích trăm phần trăm quân số và sẵn sàng nhận nhiệm vụ ngay”!

... Từ Sư đoàn trưởng đến người chiến sĩ toàn sư đoàn sôi sục khí thế chuẩn bị lên đường ra trận, hàng ngàn lá thư quyết tâm xin đi chiến đấu gửi lên Bộ tư lệnh Sư đoàn, có hàng trăm lá thư viết bằng máu. Ai cũng muốn được góp phần mình vào sự nghiệp giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 09 Tháng Tư, 2016, 11:14:52 pm

Song song với công tác giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng, củng cố quyết tâm. Sư đoàn khẩn trương huấn luyện bổ sung cho chiến sĩ mới, tiếp nhận trang bị...

Không khí chuẩn bị thật khẩn trương thi đua giữa các đơn vị - cơ quan chuẩn bị mọi mặt tốt nhất, xứng đáng với lòng tin yêu của Đảng và nhân dân và lập thành tích kỷ niệm năm thứ 45 ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 3 tháng 2 năm 1975 và làm lễ xuất quân.

Thật vinh dự, sư đoàn tổ chức kỷ niệm ngày thành lập Đảng và làm lễ xuất quân. Đồng chí Lê Đức Thọ - Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng căn dặn và động viên cán bộ chiến sĩ toàn sư đoàn, đồng chí tặng sư đoàn bốn câu thơ:

Hôm nay tiễn bạn lên đường
Vượt Trường Sơn đến chiến trường phía Nam
Đánh tan quân giặc hung tàn
Ngày về thống nhất Bắc - Nam một nhà


Trong buổi lễ, Trung tướng Lê Quang Đạo thay mặt Quân ủy Trung ương; Thiếu tướng Đàm Quang Trung - Tư lệnh Quân khu 4 dự, căn dặn và tặng sư đoàn bức trướng thêu dòng chữ: “Trung thành vô hạn. Đoàn kết nhất trí. Quyết chiến quyết thắng”.

Sau buổi lễ kỷ niệm ngày thành lập Đảng 3 tháng 2 và lễ xuất quân, Tư lệnh sư đoàn cùng Thường vụ Đảng ủy tính toán thời gian và tình hình chuẩn bị. Quyết tâm tranh thủ thời gian tổ chức diễn tập chiến thuật tổng hợp, ở địa hình gần với chiến trường miền Đông Nam Bộ, trên địa hình từ Thanh Thủy, Lệ Thủy - tây đường quốc lộ 1 đến Thác Cóc trên đường 15 là địa hình trung du có đồi, bãi bằng, có sông, suối xen kẽ làng, xóm. Nội dung diễn tập chiến thuật từ tổ chức phòng ngự đánh quân địch tấn công; đánh bại ý định tấn công chuyển sang phản kích - phản công tiêu diệt địch. Ngược lại tập từ tấn công bị địch chặn đánh ta và phản kích lại. Ta chuyển sang phòng ngự - đánh bại phản kích của địch. Kết hợp tập chiến thuật với tập kỹ thuật đột phá mở cửa hàng rào; vượt sông bằng trang bị có...

Mười lăm ngày toàn sư đoàn diễn tập đạt được kết quả thật đáng mừng, từ chọn địa hình đến nội dung chiến kỹ thuật với tổ chức diễn tập liên tục, giúp cán bộ về công tác tổ chức, chỉ huy và rèn luyện sức dẻo dai chiến đấu liên tục. Tư lệnh sư đoàn rất hài lòng với kết quả diễn tập...

Mọi công tác tiếp nhận trang bị, huấn luyện bổ sung, diễn tập chiến thuật cơ bản hoàn thành, đơn vị hành quân đi trước đã hoàn thành chuẩn bị. Sư đoàn trưởng trực tiếp viết điện báo về cơ quan Bộ Tổng Tham mưu và Bộ Tư lệnh Quân khu 4, xin phép cho sư đoàn hành quân ngày 15 tháng 2 năm 1975. Sau đó sư đoàn nhận được điện của Bộ và Quân khu cho phép.

Cuộc hành quân Sư đoàn 341 bắt đầu với 500 xe trên 2.000 ki-lô-mét vượt Trường Sơn bắt đầu...

Ngày 30 tháng 2 năm 1975, cơ bản các phân đội của sư đoàn đã vào vị trí tập kết ở miền Đông Nam Bộ an toàn tuyệt đối, bảo đảm 100 phần trăm quân số. Thắng lợi đầu tiên đáng ghi nhớ, thực hiện đúng lời hứa của Sư đoàn trưởng với Bộ ngày đi nhận nhiệm vụ.


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 09 Tháng Tư, 2016, 11:15:24 pm

Chiến trường mới lạ, nhưng lại là chiến trường thuận lợi nhất của sư đoàn. Chiến trường miền Đông và miền Tây Nam Bộ là chiến trường Sư đoàn trưởng Trần Văn Trân đã hoạt động, chiến đấu với cương vị Sư đoàn trưởng. Anh hiểu địch, biết địch, đã từng đụng đầu với các đơn vị của địch, thông thạo địa hình và hiểu phong tục tập quán của nhân dân Nam Bộ. Hơn một năm qua anh đã phổ biến cho cán bộ chiến sĩ của Sư đoàn 341 đã giúp cho toàn sư đoàn rút ngắn khoảng cách xa lạ chiến trường, nhanh chóng nhập cuộc thực tiễn chiến trường. Ngày 4 tháng 3 năm 1975 Trung đoàn 273 được lệnh tách đội hình sang hướng bắc trên đường 13 Bàu Bàng, đến Châu Thành thay Trung đoàn 1 Sư đoàn 9 Quân đoàn 4 bảo vệ thị trấn Dầu Tiếng vừa mới giải phóng. Lực lượng địch ở đây gồm có liên đoàn 31, 32 ở Châu Thành. Chiến đoàn 7 và 8 của sư đoàn 5, chi đoàn xe tăng 182 và lực lượng bảo an. Ngày 7 tháng 3 năm 1975, địch dùng pháo binh bắn phá trận địa phòng ngự của Trung đoàn 273. Quân ta đánh trả quyết liệt gây cho địch thương vong lớn, ta giữ vững trận địa. Đặc biệt là địch tổ chức lực lượng lớn gồm 2 chiến đoàn của sư đoàn 5 được xe tăng, pháo binh chi viện, chúng tổ chức tấn công từ sáng sớm ngày 3 tháng 4 năm 1975 với nhiều đợt tấn công đều bị quân ta tiêu hao, tiêu diệt từng tiểu đoàn địch. Đến 17 giờ cùng ngày, địch phải dừng tiến công và tháo chạy về Bầu Bàng - Châu Thành, bỏ lại hàng trăm xác chết. Ta bắt sống 23 tên.

Trung đoàn 273 phòng ngự vững chắc kết hợp hỏa lực và phản kích tiến công địch, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

Trong chiến dịch tiến công bao vây Long Khánh - Xuân Lộc là tuyến phòng ngự chủ yếu của địch bảo vệ Sài Gòn bị bao vây, ta đánh tiêu diệt buộc chúng phải tháo chạy... Ta tiến công khu Trảng Bom tiêu diệt sư đoàn 18 và các chiến đoàn của quân khu 3 ngụy ở phòng tuyến này hòng ngăn chặn quân ta đánh chiếm Biên Hòa và Sài Gòn, mở cửa ở hướng đông trong chiến dịch Hồ Chí Minh. 8 giờ 30 ngày 27 tháng 4 năm 1975, Sư đoàn hoàn thành nhiệm vụ tiến công Trảng Bom, mở toang “cánh cửa thép phía đông”. Quân đoàn tăng cường cho một tiểu đoàn xe tăng với nhiệm vụ tiến công quân khu 3 và đánh chiếm sân bay Biên Hòa…

Thường vụ Bộ Tư lệnh Sư đoàn nhanh chóng hội ý quán triệt lời kêu gọi của Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp: “Thời gian là sức mạnh, là thời cơ, cần suy nghĩ táo bạo, hành động táo bạo, thần tốc hơn nữa. Dùng sức mạnh hỏa lực, đánh diệt lớn, vỡ lớn tan lớn!”.

Sư đoàn trưởng đề xuất quyết tâm và được Thường vụ Đảng ủy sư đoàn nhất trí:

- Dùng tiểu đoàn 4 và hỏa lực kiềm chế địch ở Hố Nai.
- Trung đoàn 273 nhanh chóng đánh chiếm sân bay Biên Hòa.
- Trung đoàn 270 vòng lên phía bắc đường số 1 đánh chiếm trận địa pháo binh Hốc Bà Thức phát triển qua sân bay phối hợp với Trung đoàn 273.
- Trung đoàn 266 được pháo binh sư đoàn chi viện đánh chiếm căn cứ sở chỉ huy quân khu 3 ngụy sau đó phát triển qua Hố Nai đánh chiếm tổng kho Long Bình.

Hoàn thành nhiệm vụ tiêu diệt lực lượng quân khu 3 ngụy, nhanh chóng củng cố lực lượng sẵn sàng chờ lệnh phát triển tấn công vào Sài Gòn - Gia Định. Thành lập sở chỉ huy phía trước để nắm chắc tình hình và trực tiếp chỉ huy do một sư đoàn phó đảm nhiệm.

6 giờ sáng ngày 29 tháng 4 hỏa lực của sư đoàn và hỏa lực đi cùng của các trung đoàn đồng loạt nổ súng đánh chiếm các mục tiêu quân khu 3, sân bay, trận địa pháo ở Hốc Bà Thức.

10 giờ ngày 29 tháng 4 năm 1975, ta đánh chiếm, làm chủ các mục tiêu căn cứ sở chỉ huy quân khu 3, sân bay Biên Hòa. Trận địa pháo binh Hốc Bà Thức và truy kích quân địch tháo chạy về Thủ Đức.

6 giờ sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, pháo binh Quân đoàn và sư đoàn chế áp các trận địa pháo binh địch ở cầu Rạch Chiếc, Thị Nghè chi viện cho quân ta phát triển tấn công. Trong ngày 30 tháng 4, lực lượng của sư đoàn được pháo binh và xe tăng chi viện: Trung đoàn 266 đánh chiếm khu Bộ tư lệnh cảnh sát quốc gia. Trung đoàn 273 và tiểu đoàn xe tăng, đánh chiếm khu Tân Cảng, Sài Gòn lúc 17 giờ. Trung đoàn 270 chiếm khu căn cứ Thủ Đức. Một bộ phận trực thuộc của sư đoàn chiếm đóng khu kho quân nhu Nguyễn Tri Phương. Trung đoàn pháo binh chiếm đóng khu trận địa pháo binh Hố Nai...

Ngày 30 tháng 4 năm 1975 là mốc son lịch sử chói lọi của dân tộc và đất nước, của Đảng và Bác Hồ. Sư đoàn 341 (Đoàn Sông Lam) đã góp phần nhỏ bé, trong đó có đóng góp trí tuệ, tài năng của Sư đoàn trưởng Trần Văn Trân.
V.C.


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 09 Tháng Tư, 2016, 11:18:42 pm

HỒI ỨC VỀ ĐỒNG CHÍ TRẦN VĂN TRÂN
Thiếu tướng Lê Đình Cúc1


Nói đến trung đoàn Trần Cao Vân - Trung đoàn 101A, ai ai cũng thừa nhận đồng chí Trần Văn Trân là trụ cột trong Ban chỉ huy trung đoàn, đã cùng với các thế hệ cán bộ chỉ huy, lãnh đạo xây đắp nên những chiến công rực rỡ của trung đoàn, được Đảng, Nhà nước tặng thưởng nhiều huân chương, huy chương cao quý, được tuyên dương danh hiệu Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

Tôi công tác, chiến đấu tại Trung đoàn Trần Cao Vân từ ngày thành lập đến tháng 4 năm 1948. Đồng chí Trân nhập ngũ trước tôi khoảng ba, bốn tháng.

Trong những ngày đầu chống thực dân Pháp tại cố đô Huế (có thể tôi không nhớ kỹ) đồng chí Trân chiến đấu trong khu vực trường Đồng Khánh, trường Quốc Học, bệnh viện Huế, trường Thiên Hựu, miếu Đại Càn. Tôi chiến đấu ở góc nam nhà hàng Morin, dọc đường gần Trung Bộ Phủ. Qua hiểu biết, nhất là lời kể của đồng đội, khi còn là cán bộ chỉ huy sơ cấp đồng chí Trân đã tỏ rõ là người chỉ huy dũng cảm, linh hoạt, quyền biến thận trọng, ân nghĩa. Những việc mà đồng chí Trân thường làm tôi coi như những bài học quý đối với bộ đội.

Về chuẩn bị chiến đấu và chiến đấu:

Sau khi nhận nhiệm vụ và trước khi đi trinh sát thực địa, đồng chí hội ý trong ban chỉ huy trung đoàn dự kiến có những vấn đề gì sẽ xảy ra để cùng suy nghĩ cách giải quyết. Đề xuất với các đồng chí ở nhà đôn đốc đơn vị tinh luyện những động tác chiến kỹ thuật có liên quan, chuẩn bị súng đạn, v.v.

Đi trinh sát thực địa, đồng chí Trân thường đi với một đồng chí dẫn đường, một công vụ hay thông tin liên lạc. Đi ít người dễ giữ bí mật, có thể dễ tiếp cận mục tiêu quan sát, đặc biệt là những địa điểm khó tiếp cận, có hỏa lực mạnh của địch.

Trinh sát về, tùy thời gian cho phép. Đồng chí trình bày lại với tập thể, ban chỉ huy và cơ quan trên sa bàn hoặc bản vẽ. Nêu phương án tác chiến, thời gian xuất phát, thời gian triển khai lực lượng, thời cơ nổ súng (nếu đánh trong hiệp đồng với các đơn vị bạn thì thời gian do cấp trên quy định). Tiếp đó họp toàn thể đơn vị cho anh em góp thêm ý kiến, đồng chí tiếp thu vui vẻ những ý kiến khác mình.

Trước giờ nổ súng, đồng chí kiểm tra đội hình lần cuối động viên các đảng viên nêu cao gương mẫu.

Phá được hàng rào chướng ngại, đồng chí Trân dẫn đầu đơn vị xung phong, hướng dẫn các tổ chiến đấu phát triển theo hướng thuận lợi.

Trường hợp gặp những trận không hoàn thành nhiệm vụ, đồng chí bình tĩnh cho đơn vị rút lui bí mật, trật tự. Đồng chí Trân ở lại với một tổ để ngăn chặn quân địch nếu chúng truy kích. Chiến lợi phẩm, ngoài những thứ nộp lên cấp trên, đồng chí không tơ hào bất cứ thứ gì.

Trong xây dựng đơn vị: đồng chí Trần Văn Trân rất coi trọng công tác chính trị, tư tưởng và huấn luyện kỹ thuật, chiến thuật. Đồng chí phân đều các chiến sĩ hăng hái, đảng viên có mặt ở các bộ phận. Có khi đồng chí để những người cùng quê hương hoặc có quen biết nhau từ trước ở với nhau để phát huy tình cảm giúp đỡ nhau.

Nắng cũng như mưa, đồng chí Trân thường có mặt ở thao trường, theo dõi cả buổi tập, sửa chữa cho anh em từng động tác nhỏ, làm đi làm lại đến mức tinh luyện. Có những hôm đã hết giờ tập, đồng chí cho đơn vị chạy thêm vài ba ki-lô-mét để từng bước nâng cao thể lực. Trong sinh hoạt, đồng chí Trần Văn Trân là con người trẻ trung, vui tính, cởi mở, chân tình. Đến đâu chưa thấy bóng người đã nghe tiếng cười, tiếng nói oang oang. Tới giờ ăn cơm, đồng chí thường xuống bếp kiểm tra anh nuôi. Những bữa ăn tuy đạm bạc nhưng đồng chí thường nói chuyện tiếu lâm để làm vui anh em. Đồng chí có tài nói chuyện vui, dí dỏm. Những đêm ít việc, đồng chí xuống đơn vị nghe anh em đọc báo, và tranh thủ kể những trang sử hào hùng của dân tộc, kể những gương anh hùng liệt sĩ. Đồng chí kể cả những chuyện sứ thần ta chơi xỏ quan quân “Thiên triều”. Trong thời gian công tác tại Học viện Quân sự Đà Lạt đồng chí nhiều lần mời cán bộ hưu trí lên an dưỡng.

Đạo đức cách mạng, tinh thần chiến đấu, tác phong sinh hoạt của đồng chí Trần Văn Trân, không bao giờ tôi quên. Bản thân tôi lấy đó để giáo dục hai con tôi hiện đang phục vụ trong quân đội.
________________________________________
1. Nguyên Chánh văn phòng Bộ Tổng Tham mưu.


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 09 Tháng Tư, 2016, 11:21:33 pm

NHỚ MÃI ANH BA TRÂN
Đại tá Nguyễn Tấn Miên1


Sau khi kết thúc chiến dịch mùa khô năm 1972 - 1973 ở Trung Lào, tiểu đoàn đặc công chúng tôi được lệnh rút về xã Sơn Kim, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, tổng kết rút kinh nghiệm, thì tôi nhận được điện của Quân khu 4, bàn giao tiểu đoàn về Quân khu nhận nhiệm vụ mới, thanh toán tài chính, sinh hoạt, công tác phí đến Vĩnh Linh, cầm bức điện lòng tôi bao bâng khuâng suy nghĩ. Vào Vĩnh Linh nhận nhiệm vụ gì trong đó, cái buồn nhất với tôi là phải xa cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn đặc công gần tám năm trời chung sống, vui buồn, chiến đấu chết sống có nhau.

Tôi về Quân khu gặp gỡ được nhiều anh em, bạn bè tập trung về đây học nghị quyết Trung ương lần thứ 21, nội dung bàn về giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Thấy tôi, anh Trần Ngọc Hà nguyên là Chính trị viên Tiểu đoàn đặc công nay là Trung đoàn trưởng Trung đoàn 270, Sư đoàn 341 reo lên:

- Cậu về làm Chính ủy Trung đoàn 266 Sư đoàn 341 do anh Ba Trân làm Sư đoàn trưởng.

Tôi chưa biết và gặp anh Ba Trân lần nào, nhưng được nghe anh em bàn tán, kể nhiều về anh Ba Trân - Sư đoàn trưởng Sư đoàn 341 mới thành lập của Quân khu. Anh mới được địch trao trả ở bờ sông Thạch Hãn - Quảng Trị thì có một chiếc xe com-măng-ca vào đón anh. Địch trông thấy hoảng hốt nuối tiếc để sẩy mất một con cá lớn nằm trong tay chúng bao nhiêu năm mà không phát hiện được. Nhiều đồng chí chung sống với anh kể lại: anh trưởng thành từ Trung đoàn 101, Sư đoàn 325 lên đến sư đoàn trưởng. Anh là Sư đoàn trưởng Sư đoàn 1 chiến đấu ở mặt trận B3, sau đó vào B2 miền Đông Nam Bộ. Anh em ca ngợi anh là một cán bộ chỉ huy xông xáo, đánh giặc dũng cảm, sâu sát, thương anh em cán bộ, chiến sĩ. Tôi ngồi lặng thinh nghe, ước gì được chiến đấu dưới tài chỉ huy của anh.

Sau khi học nghị quyết xong, tôi vinh dự vào gặp đồng chí Thiếu tướng Chính ủy Quân khu Lê Quang Hòa để nhận nhiệm vụ. Tôi được giao nhiệm vụ về làm Chính ủy Trung đoàn 266 Sư đoàn 341 Quân khu 4. Tôi có đề nghị trên cho tôi đi học vì từ trước đến nay tôi quen chiến đấu với binh chủng đặc công, đánh nhỏ lẻ, quân số ít, bây giờ về bộ binh đánh hiệp đồng binh chủng, đánh lớn, quân số đông. Chính ủy Quân khu chấp nhận, bảo tôi về đơn vị nhận nhiệm vụ, khi nào có điện thì đi học sau.
______________________________________
1. Nguyên Chính ủy Trung đoàn 266 - Sư đoàn 341 Quân đoàn 4, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 09 Tháng Tư, 2016, 11:22:26 pm

Tôi về sư đoàn nhận nhiệm vụ. Bấy giờ, Sư đoàn 341 đóng quân ở xã Dương Thủy, Lệ Thủy, Quảng Bình. Lần đầu tiên gặp anh Trân tại chỉ huy sở sư đoàn. Tôi đứng nghiêm báo cáo:

- Báo cáo Tư lệnh sư đoàn, tôi thượng úy chính trị viên Tiểu đoàn đặc công 31 về sư đoàn nhận công tác!

Anh vui vẻ bắt tay tôi, mời tôi uống trà.

- Cậu ở chiến trường về có tranh thủ về thăm nhà chưa?
- Dạ có!
- Cậu được mấy cháu?
- Dạ, tôi mới được một cháu trai ba tuổi ở với ông bà ngoại.
- Cậu đặc công đánh nhau, quen chiến trường nào?
- Chiến trường B5, đường 9 - Quảng Trị, rồi Thượng Lào, Trung Lào, đánh Mỹ ngụy, Nam Triều Tiên rồi phỉ Vàng Pao,... kẻ thù nào cũng đánh tuốt.

Anh cười, mình cũng mới về sư đoàn. Qua cán bộ báo cáo, được biết hầu hết cán bộ từ đại đội đến trung đoàn đều đã kinh qua chiến đấu, mình rất mừng. Anh tâm sự:

- Mình sống nhiều với anh em trinh sát đặc công, mình rất quý và biết ơn họ. Anh em chiến đấu rất dũng cảm, sẵn sàng hy sinh để bảo vệ cán bộ, nên mình mới còn sống đến ngày hôm nay.

- Cậu về sư đoàn nhận nhiệm vụ có gì khó khăn không?

- Thưa Tư lệnh! Tôi chiến đấu quen với binh chủng đặc công, nay về bộ binh quân số đông, chiến đấu hiệp đồng binh chủng, tôi chưa được học hành và cũng chưa có kinh nghiệm gì.

Anh cười và nói: đặc công cũng là bộ binh đấy!

Anh trao đổi với tôi về tình hình sư đoàn, trung đoàn, nhiệm vụ huấn luyện của trung đoàn sắp tới và giao nhiệm vụ tôi về làm chính ủy trung đoàn cùng với Trung đoàn trưởng Hồ Đình Quý, nguyên là tiểu đoàn trưởng đặc công, anh em cùng chiến đấu gian khổ, chết sống có nhau, chiến đấu ở chiến trường đường 9, Quảng Trị. Tôi rất mừng, anh em lại được sống bên nhau.

Tôi mang ba lô về trung đoàn đóng quân ở miền tây Quảng Bình. Đây là nơi “khỉ ho cò gáy”, nơi trước kia vua Hàm Nghi lập căn cứ chống Pháp. Đất đỏ, đồi trọc mênh mông, mùa khô gió Lào tràn về, nóng ơi là nóng. Tôi về cùng anh em lên rừng chặt gỗ, cắt tranh, xây dựng nhà ở, hội trường để khẩn trương bước vào huấn luyện.

Ở đơn vị một thời gian ngắn, theo điện của Quân khu, tôi được cử đi học. Bàn giao cho anh Hà Xuân Hải, chính trị hiệp lý viên cơ quan Quân khu về thay tôi làm chính ủy trung đoàn.


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 09 Tháng Tư, 2016, 11:23:34 pm

Tôi mang ba lô ra Hà Nội vào học tại Học viện Quân sự - Chính trị, thời gian hơn một năm. Tôi rất mừng và cũng rất lo, xác định được nhiệm vụ, phải cố gắng học tập để mà về đơn vị lãnh đạo, chỉ huy chiến đấu sau này.

Học gần xong, thì nhận được điện của Tổng cục Chính trị bảo về đơn vị, đi chiến đấu. Học viện lo giấy tờ thanh toán tài chính, đưa xe chở tôi ra ga Hàng Cỏ, mua vé tàu về Vinh, về đến Quân khu, qua làm việc với phòng cán bộ, Phòng tổ chức Quân khu, được biết đơn vị đang khẩn trương chuẩn bị lên đường vào B2 chiến đấu. Về lại sư đoàn, trong không khí chuẩn bị khẩn trương, sôi nổi, nhiều khẩu hiệu giăng lên: “Đi lâu, đi sâu, đi đến ngày toàn thắng!”. Tôi nhận bàn giao, anh Hà Xuân Hải ở lại Quân khu, anh Hồ Đình Quý lên làm Tham mưu phó sư đoàn, anh Nguyễn Quang Thuật về làm Trung đoàn trưởng. Tình hình trung đoàn biết bao thay đổi qua hai năm huấn luyện.

Ngày 3 tháng 2 năm 1975, Sư đoàn 341 tổ chức kỷ niệm 45 năm ngày thành lập Đảng và làm lễ xuất quân. Đồng chí Trung tướng Lê Quang Đạo - Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị thay mặt Quân ủy Trung ương phát biểu và tiễn đưa sư đoàn: "... Quân ủy Trung ương và Bộ Tư lệnh tin tưởng ở quyết tâm, khả năng chiến đấu của sư đoàn và đón chờ tin thắng trận của các đồng chí!...”

Đồng chí Lê Đức Thọ gửi tặng cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn mấy câu thơ nhắn nhủ:

"... Hôm nay tiễn bạn lên đường
Vượt Trường Sơn đến chiến trường phía Nam
Đánh tan quân giặc hung tàn
Ngày về thống nhất, Bắc Nam một nhà..”


Ra đi trong cảnh mùa xuân năm 1975 lịch sử. Cán bộ, chiến sĩ Sư Đoàn Sông Lam (Sư đoàn 341) vẫy chào tạm biệt hậu phương lớn miền Bắc thân yêu; tạm biệt Quảng Bình, nhân dân khu Bốn anh hùng.

Đoàn xe 500 chiếc của Đoàn 571 vận tải chở chúng tôi đi, vượt sông Bến Hải, theo đường 9, qua đèo Lao Bảo, vượt Trường Sơn tiến vào Nam. Sư đoàn hành quân cấp tốc bằng xe cơ giới. Con đường bụi đất mịt mù xe chạy ban ngày phải bật đèn pha, bóp còi inh ỏi. Suốt gần một tháng trời hành quân vất vả, vượt gần 2.000 ki-lô-mét đến Nam Bộ an toàn. Sư đoàn được vinh dư chiến đấu trong đội hình Quân đoàn 4, một Quân đoàn chủ lực dày dạn trong khói lửa của cuộc chiến tranh. Sư đoàn đến nơi thì được Quân đoàn giao nhiệm vụ ngay:

- Trung đoàn 1 do Tham mưu trưởng Vũ Thang chỉ huy, thay thế Trung đoàn 1 Sư đoàn 9 chuẩn bị đánh Chơn Thành.

Anh Ba Trân trực tiếp chỉ huy cùng cơ quan, anh Hồ Đình Quý cùng các Trung đoàn 270, 266, 55 đi chuẩn bị hướng đường 20, Xuân Lộc, Long Khánh.


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 09 Tháng Tư, 2016, 11:25:24 pm

Trong những ngày chuẩn bị chiến trường ăn uống kham khổ, anh Ba Trân đi tiểu ra máu. Chúng tôi rất lo nhưng anh vẫn xông xáo, hăng hái cùng đi trinh sát với anh em. Tôi nhắc các anh em quân y chăm lo, săn sóc anh Ba. Tôi nói với anh:

- Anh đi với trung đoàn, trung đoàn còn thì anh còn, không để cho anh bị bắt lần thứ hai đâu.

Anh cười. Những đêm nằm trên võng giữa rừng cao miền Đông, bên cạnh cán bộ trung đoàn, anh kể nhiều chuyện tâm tình, buồn vui lúc ở nhà tù của địch, anh mang tên là Ba Thương thượng sĩ nấu cao, đến lúc địch trao trả ngày về gặp lại chị Bích Hà (vợ anh) và các con sau tám năm xa cách. Anh có tài kể chuyện pha tiếu lâm, nào là tìm X, tìm Y những ngày sống chung với vợ. Chúng tôi nghe, cười bò lăn ra. Tôi nói với anh:

- Anh Ba nhé! Sau chiến thắng trở về gặp lại chị Bích Hà tôi mách lại với chị hết.

Anh cười khà khà.

Trận Xuân Lộc, Trung đoàn 266 của chúng tôi được tăng cường Tiểu đoàn 5 của Trung đoàn 270 cùng pháo cao xạ 37, pháo 75, cối 120 của Trung đoàn 55 của anh Ba Cúc. Trung đoàn đảm nhận hướng chủ yếu của sư đoàn, đánh từ hướng bắc xuống, tấn công vào dinh Tỉnh trưởng Xuân Lộc, khu cố vấn Mỹ.

0 giờ 30 phút, ngày 9 tháng 4 năm 1975, lệnh nổ súng bắt đầu. Cuộc chiến đấu diễn ra suốt 10 ngày đêm liên tục. Ta với địch đánh nhau ác liệt, giành giật nhau từng căn nhà, từng ngõ phố. Địch tăng cường đổ quân, xe tăng, pháo binh, máy bay thả bom quyết chiến không để mất. Còn ta thì quyết tâm giải phóng Xuân Lộc. Do đó, cuộc chiến đấu diễn ra gay go, ác liệt kéo dài. Sau này nhờ thay đổi cách đánh của Quân đoàn, Sư đoàn lệnh cho Tiểu đoàn 5, 6, 9 ra đánh vòng ngoài, chỉ riêng Tiểu đoàn 7 tiếp tục chốt giữ các mục tiêu đã chiếm trong thị xã.

Ta tập trung bao vây đánh vòng ngoài chặn viện, thị xã Xuân Lộc bị cô lập cắt khỏi Biên Hòa, Sài Gòn.

Tướng Lê Minh Đảo ra lệnh cho Tỉnh trưởng Nguyễn Văn Phúc lập một vòng phòng thủ để bảo vệ Xuân Lộc, còn sư đoàn 18 (quân ngụy) bí mật rút chạy.

17 giờ, ngày 20 tháng 4 năm 1975, thị xã Xuân Lộc hoàn toàn giải phóng. “Cánh cửa thép” Xuân Lộc phía đông bắc Sài Gòn bị đập tan. Riêng Sư đoàn 341 có 1.500 cán bộ, chiến sĩ hy sinh để giải phóng Xuân Lộc.

Trong những giờ phút chiến đấu ác liệt và trong những lúc khó khăn, bên tai tôi luôn nghe những giọng nói của anh Ba Trân, anh Trần Nguyên Độ, có lúc chỉ thị, ra lệnh, có lúc nhắc nhở, cổ vũ động viên chúng tôi, giúp chúng tôi vững vàng tin tưởng hơn. Có lúc anh Ba nghe tôi báo cáo tình hình chiến đấu và thương vong của anh em, anh hỏi tình hình tư tưởng của bộ đội ra sao? Tôi báo cáo:

- Bộ Tư lệnh an tâm, anh em chốt giữ ở thị xã Xuân Lộc, chiến đấu rất dũng cảm, kết hợp với bộ đội địa phương, dân quân du kích chiến đấu kiên cường. Chúng tôi sẵn sàng chiến đấu hy sinh để giải phóng Xuân Lộc, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Nghe xong anh xúc động lặng người.


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 09 Tháng Tư, 2016, 11:26:33 pm

Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, đơn vị khẩn trương bước vào làm nhiệm vụ quân quản ở thành phố Sài Gòn - Gia Định. Trung đoàn tôi được sư đoàn phân công phụ trách quận Bình Hòa (nay là quận Bình Thạnh). Nhiệm vụ mới mẻ, sư đoàn xác định nhiệm vụ quân quản là làm chức năng của đội quân công tác. Trong cuộc họp quân chính sư đoàn, anh Ba nói: phải tập trung xây dựng đơn vị vững mạnh mới làm nhiệm vụ quân quản tốt. Sư đoàn bắt tay vào huấn luyện quân sự, huấn luyện điều lệnh đội ngũ, chăm lo đời sống của bộ đội, ra Dầu Giây khai hoang, sản xuất chăn nuôi. Trong huấn luyện chú ý lễ tiết tác phong quân nhân và kỷ luật tự giác khi tiếp xúc với nhân dân, nhất là nhân dân Sài Gòn - Gia Định trong những ngày đầu giải phóng với khẩu hiệu: “Làm theo truyền thống, sống có kỷ luật”.

Suốt hơn 2 năm sống trong thành phố Sài Gòn - Gia Định, hơn một nửa số đại đội không hề vi phạm kỷ luật. Đi ra đường phố từ một người đến tập thể, anh em đều ăn mặc chỉnh tề, nghiêm trang chào hỏi, giữ nghiêm kỷ luật, để lại cho người dân nhiều ấn tượng tốt đẹp về bộ đội Cụ Hồ.

Anh Ba thường xuyên cùng cơ quan tổ chức kiểm tra, sơ tổng kết, biểu dương khen thưởng kịp thời các cá nhân và các đơn vị chấp hành tốt. Tôi nhớ mãi ngày đầu anh xuống kiểm tra trung đoàn. Lúc đó trung đoàn đóng quân ở đường Nhất Linh (nay là đường Nguyễn Huy Tưởng) phường 6, quận Bình Thạnh. Thấy trung đoàn dùng bom câm làm kẻng, mỗi lần đánh lên tiếng vang to điếc óc cả một khu vực khiến dân không ai ngủ được. Tuy nhiên, bà con vùng mới giải phóng không ai dám có ý kiến gì. Anh Ba nhắc: bây giờ chúng ta vào thành phố rồi, dùng bom làm kẻng là không phù hợp. Ngày mai, trung đoàn cử 2 đồng chí về sư đoàn đi học thổi kèn. Từ đó, trung đoàn tôi dùng kèn làm hiệu lệnh.

Tiếng kèn thổi vang lên nghe sao rộn rã như thúc giục mọi người. Đơn vị và người dân nghe đều vui, không còn cảnh điếc tai nhức óc nữa.

Mỗi lần anh Ba đi kiểm tra là giúp đơn vị chúng tôi và nhất là cán bộ chỉ huy lãnh đạo chúng tôi nhiều bài học sâu sắc.

Anh xuống kiểm tra không chỉ ở cơ quan mà còn xuống tận đơn vị, nơi ăn ở, huấn luyện, sinh hoạt của đơn vị. Khi anh đến kiểm tra Tiểu đoàn 8, thấy một chiến sĩ bị phạt theo điều lệnh, giữ tại trại kiểm điểm, lý do vì thèm kem không có tiền mua rút cọc rào sắt ra đổi kem, bị vệ binh bắt. Anh móc túi lấy tiền bảo anh em ra mua 10 cây kem cho chiến sĩ ăn, nhưng cậu chiến sĩ nghĩ sao chỉ ăn 2 cây kem rồi thôi không ăn nữa. Anh Ba bảo tiểu đoàn tha cho anh em về đơn vị. Sau kiểm tra, anh nêu những mặt ưu khuyết điểm, rồi anh nhắc nhở: cán bộ chúng ta là những người thay mặt tổ chức và gia đình, là người cha, người anh, ở nhà con em chúng ta gia đình lúc khó khăn, có lúc thèm khát ăn vụng, chúng ta là cán bộ ngoài trách nhiệm, phải có lòng khoan dung thương yêu chiến sĩ. Anh nhắc nhở nhẹ nhàng, ngồi nghe chúng tôi vô cùng thấm thía.


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 09 Tháng Tư, 2016, 11:27:01 pm

Anh Ba ở sư đoàn không lâu. Tháng 4 năm 1976, anh được bổ nhiệm làm Phó Tư lệnh Quân đoàn 4. Sau đó, anh về làm Viện phó Học viện Quân sự Đà Lạt. Tháng 9 năm 1977, xảy ra cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam. Sư đoàn 341 lên đường chiến đấu, từ Bến Cầu - Tây Ninh về An Giang, Châu Đốc, Hà Tiên, Đồng Tháp, tham gia giải phóng Pnôm Pênh giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi hoạ diệt chủng Pôn Pôt. Tháng 1 năm 1979, sau khi giải phóng Pnôm Pênh, tôi từ giã sư đoàn về làm Chính ủy Lữ đoàn công binh Quân đoàn, làm đường 56 ra biên giới Thái Lan, rồi về Sư đoàn 9 Quân đoàn 4, ít gặp anh. Một lần nghe chuông điện thoại reo, trên báo anh Ba Trân đi kiểm tra trên đường bị phục kích, tôi cùng tiểu đoàn dẫn quân ra chi viện tiếp cứu. Gặp lại tôi, anh rất mừng, ôm chầm lấy tôi. Tôi hỏi:

- Anh đi đâu mà không báo để chúng tôi tuần tra bảo vệ anh.

Anh cười.

- Mình đi kiểm tra tuyến K5, tuyến phòng thủ biên giới Campuchia - Thái Lan.

Sau này, nhân họp mặt truyền thống Sư đoàn 341 tại Thành phố Hồ Chí Minh, gặp lại anh em chiến đấu cũ của sư đoàn, anh Ba rất mừng. Anh nói: chúng ta đời đời biết ơn các anh hùng, liệt sĩ đã ngã xuống cho cuộc sống của chúng ta hôm nay. Các đồng chí nhớ ngày lễ, nhất là ngày thương binh liệt sĩ, ngày Tết, chúng ta tổ chức đi viếng các nghĩa trang liệt sĩ, nhất là các nghĩa trang Xuân Lộc, Thống nhất, Đồng Nai, nơi đây hàng ngàn cán bộ, chiến sĩ sư đoàn đã ngã xuống...

Thực hiện lời căn dặn của anh Ba, hằng năm, ngày lễ, ngày Tết, Ban liên lạc truyền thống Cựu chiến binh Sư đoàn 341 tại Thành phố Hồ Chí Minh thường phân công nhau đi khắp các nghĩa trang từ Xuân Lộc, Thống Nhất, Đồng Nai, Chơn Thành, Tây Ninh đến Hà Tiên, Rạch Giá, Kiên Giang, thay mặt đơn vị, gia đình viếng mộ, đốt nhang tưởng nhớ đến các anh, các anh hùng liệt sĩ.

Chúng tôi không bao giờ quên đến nghĩa trang thành phố, nơi đây Bộ Tư lệnh Sư đoàn 341 đầu tiên, các Thiếu tướng Trần Văn Trân, Trần Nguyên Độ; các đại tá Phạm Thành Minh, Nguyễn Quế đang an nghỉ.

Đứng trước mộ các anh, đốt nén nhang với lòng thành kính bùi ngùi xúc động, thương tiếc, chúng tôi tưởng nhớ đến các anh, biết ơn các anh trong Bộ Tư lệnh đầu tiên của sư đoàn đã dày công xây dựng và chiến đấu để cho Sư đoàn 341 được hai lần tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Tháng 12-2006
N.T.M



Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Tư, 2016, 10:19:06 pm

VÌ SAO QUÂN NGỤY SÀI GÒN KHÔNG PHÁT HIỆN RA
NGƯỜI TÙ BINH LÀ SƯ ĐOÀN TRƯỞNG QUÂN GIẢI PHÓNG?
Thế Trường


Trong chiến tranh hai bên tham chiến bắt được tù binh là chuyện bình thường. Việc ông Ba Trân bị địch bắt cũng không ngoại lệ. Nhưng điều đáng nói ở đây là suốt ba năm giam giữ ông, bọn địch vẫn không phát hiện được ông là một sư đoàn trưởng của Quân giải phóng. Chúng đinh ninh ông là một y tá đông y “quèn” của Việt cộng.

Ông là Trần Văn Trân, sinh ngày 1 tháng 5 năm 1927 tại Thừa Thiên, tham gia quân đội từ tháng 8 năm 1945. Ông vào miền Nam chiến đấu từ thập niên 60, sau Tết Mậu Thân 1968, ông là Sư đoàn trưởng Sư đoàn bộ binh 1, chủ lực của Quân giải phóng miền Nam.

Đầu năm 1969, Bộ Tư lệnh Miền quyết định điều động Sư đoàn 1 do ông Ba Trân chỉ huy, tăng cường cho miền Tây Nam Bộ để bảo vệ vùng Bảy Núi, hỗ trợ cho phong trào chiến tranh du kích địa phương hồi phục và phát triển. Một trung đoàn của Sư đoàn 1 hành quân từ miền Đông xuống đã tập kết ở tỉnh Campôt của Campuchia, giáp với tỉnh Châu Đốc của Việt Nam, chuẩn bị vượt kênh Vĩnh Tế để vào Bảy Núi đất Châu Đốc làm nhiệm vụ.

Một đêm cuối tháng 2 năm 1970, Sư đoàn trưởng Ba Trân mặc quần xà lỏn, áo bà ba cộc tay, đi dép râu, dẫn đầu sở chỉ huy nhẹ của sư đoàn, gồm thông tin, trinh sát, vệ binh, tham mưu, tác chiến, tất cả khoảng ba chục người trang bị gọn nhẹ, lặng lẽ vượt kênh Vĩnh Tế. Khi cả đoàn đã bơi qua con kênh rộng 50 mét sang bờ phía đông nam thuộc đất Việt Nam thì lọt vào ổ phục kích của địch. Lực lượng của chúng có một tiểu đoàn bảo an, một giang đội hải thuyền gồm 4 chiếc tàu bo bo, hoạt động trên kênh Vĩnh Tế, một biên đội trực thăng vũ trang HU-1A soi đèn bắn phá quân ta. Trong trận chiến không cân sức này, chỉ có 5 người chạy thoát, còn phần lớn anh em đã bị địch bắt hoặc hy sinh. Sau khi đã bắn hết 2 băng đạn súng ngắn K.54, thấy đồng chí quân y sĩ nằm cạnh mình đã hy sinh, ông Ba vứt khẩu súng ngắn của mình ra xa, khoác vội túi thuốc quân y của đồng chí y sĩ vào người rồi cùng một số anh em còn lại chạy băng về phía Bảy Núi. Một toán lính ngụy đã đón lõng sẵn, bắt được 8 anh em của ta, trong đó có Sư đoàn trưởng Ba Trân.

Hôm sau, tại quận lỵ Tri Tôn, tên đại úy quận trưởng ngụy đích thân gặp số anh em của ta vừa bị bắt để thẩm vấn. Thấy ông Ba Trân lớn tuổi nhất, hắn hỏi họ tên, tuổi, quê quán, chức vụ, cấp bậc, đơn vị, ông Ba bình tĩnh nói to như để mọi người cùng nghe lời khai của mình, đại ý ông nói tên là Nguyễn Văn Thương, 42 tuổi, quê ở Thừa Thiên, làm y tá đông y của đại đội địa phương tỉnh đội Châu Đốc, là cán bộ tiểu đội bậc trưởng, tương đương thượng sĩ. Sau này khi được trở về với đơn vị, ông Ba Trân mới kể lại rằng sở dĩ ông khai vậy là vì trước khi tham gia cách mạng ông đã học lỏm được số ít bài thuốc nam do người chú họ làm nghề thầy lang chỉ dẫn cho. Bố ông cũng thường chữa bệnh cho vợ con bằng các thứ cây cỏ có sẵn trong vườn.

Nhìn người tù binh dáng cao, gầy, da ngăm đen, ăn mặc hệt một nông dân, không có dáng vẻ gì của một viên chỉ huy, và khi bị bắt trên vai còn đeo một túi thuốc quân y có hình chữ thập đỏ, tên quận trưởng bán tín bán nghi, quay sang thẩm vấn những tù binh khác. Tất cả anh em đều khai như vậy. Thẩm vấn xong, ông và một số anh em bị bắt được chuyển về nhà lao của tỉnh, một thời gian sau đó, chuyển về giam ở Cần Thơ... Đến đâu, khi bị thẩm vấn, ông Ba cũng chỉ nói vậy. Bọn quản lý trại giam cũng có lần nghi vấn về ông, một người đã lớn tuổi, sao chỉ là cấp tiểu đội? Chúng tra hỏi một số anh em bị bắt cùng ông đêm đó, nhưng cả bảy anh em này đều xác nhận lời khai của ông là đúng, mặc dù họ biết rất rõ lý lịch vị chỉ huy của mình.


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Tư, 2016, 10:19:37 pm

Khi ông Ba Trân bị mất tích, đơn vị không biết ông đã sa vào tay giặc mà tưởng ông đã hy sinh. Hai ngày sau khi xảy ra trận phục kích, đơn vị đã cử người cải trang đến đây để tìm thi hài của anh em đã hy sinh thì đồng bào trong vùng cho biết đã chôn cất các liệt sĩ chu đáo. Theo bà con kể lại, trong số liệt sĩ có một người dáng cao, gầy. Chắc người đó là ông Ba Trân. Do đơn vị báo cáo như vậy nên cấp trên đành xác nhận là ông đã hy sinh. Cho đến một hôm, vào hạ tuần tháng 2 năm 1970, ông Phạm Hùng - Bí thư Trung ương Cục miền Nam, Bí thư Quân ủy Miền, Chính ủy các lực lượng vũ trang giải phóng gọi ông Nguyễn Viên - Chính ủy Sư đoàn 1 lên gặp và nói: “Có lẽ Ba Trân còn sống, chỉ bị địch bắt. Qua đường dây mật của an ninh giải phóng, tôi vừa nhận được một lá thư hết sức ngắn gọn từ nhà lao Cần Thơ gửi ra cho biết, có người của ta tên là Thương, từng quen thân với anh Bảy Viên và anh Năm Uynh, đề nghị tìm cách gửi vào cho ít súng đạn và thuốc nổ để anh em ta phá nhà lao về với cách mạng. Tôi đoán chỉ có anh Ba Trân mới biết rõ tôi và anh Uynh (Huỳnh Uynh, Sư đoàn phó kiêm Tham mưu trưởng) như vậy”.

Sau khi xác minh là ông Ba Trân đã bị địch bắt, nhưng chưa bị lộ sư đoàn trưởng, lãnh đạo Miền và cơ quan bảo vệ quyết định cứ coi như ông đã hy sinh để đánh lạc hướng địch. Đơn vị đã tổ chức trọng thể lễ truy điệu Sư trưởng Trần Văn Trân, điện ra Bắc báo tử cho gia đình và gửi các di vật của liệt sĩ về cho thân nhân. Các thông tin này được cơ quan tình báo Mỹ ngụy hồi đó thâu nhận ngay. Đài, báo ở Sài Gòn lúc bấy giờ đều đưa tin về việc “Quân lực Việt Nam cộng hòa đã hạ sát được một vị chỉ huy cao cấp của Việt Cộng…”.

Khi Bộ Tư lệnh Miền, đứng đầu là ông Mười Khang (đồng chí Hoàng Văn Thái) đang nghiên cứu kế hoạch đưa vũ khí vào nhà tù Cần Thơ cho ông Ba Trân thì địch đã chuyển ông ra Hố Nai, Biên Hòa. Từ khi bị bắt, qua nhiều trại giam, mỗi lần chuyển đến một nơi mới ông Trân đã gặp không ít các đồng chí chỉ huy cấp dưới thuộc quyền, họ biết ông từ hồi còn ở Trị Thiên, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ... Nhưng vì ông sống có tình có nghĩa nên ai cũng quý mến, bảo vệ ông không để lộ cho địch biết. Sau này ông Ba Trân thổ lộ: “Chính những anh em này đã góp phần không nhỏ giúp tôi được sống trở về. Nếu không, tôi sẽ bị địch thẩm vấn, tra khảo và chắc chắn chúng sẽ thủ tiêu tôi chứ ít có khả năng được trao trả...”

Sau này khi trở về hàng ngũ, ông Ba Trân kể lại rằng, bọn ngụy Sài Gòn không phải đã tin ngay lời khai của ông cũng như những xác nhận của anh em cùng bị bắt. Chúng đã nhiều lần thử thách ông. Có lần, ở thị xã Long Xuyên, một tên trung sĩ bị đau thần kinh tọa, tiêm thuốc tây mãi không khỏi. Biết ông là y tá đông y, tên phụ trách trại giam gọi ông lên chữa giúp. Ông Ba Trân kê ngay cho tên trung sĩ này một toa thuốc đơn giản, chỉ có 4 vị thuốc nam: một đoạn thân cây dâu băm nhỏ, một nắm rễ cây xấu hổ, một nắm rễ lá lốt, một nắm cỏ xước, tất cả những thứ đó đem sao thật vàng rồi sắc lấy nước uống liên tục ba ngày. Quả nhiên tên này đã khỏi bệnh, đi lại bình thường.

Lần khác, vợ của một tên sĩ quan ngụy bị tắc sữa, đầu vú nhức nhối khó chịu. Tây y đành bó tay. Bọn ngụy cho gọi ông Ba Trân lên nhờ chữa bằng đông y. Ông nhớ 4 vị thuốc nam chuyên trị bệnh tắc sữa là cam thảo nam, hạt bông mã đề, ý dĩ và râu ngô mà mẹ ông có lần bị tắc sữa đã dùng. Thế là ông kê đơn và bảo tên sĩ quan ngụy ra chợ tìm mua ở các hàng thuốc nam đem về sao vàng sắc đặc lấy nước uống ba ngày liền. Thuốc của ông đã có hiệu nghiệm, sau ba hôm, vợ của tên sĩ quan nọ đã thông được đường sữa khi cho con bú... Quả nhiên, sau nhiều lần thử thách, bọn địch tạm tin ông là một y tá đông y thật.


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Tư, 2016, 10:20:12 pm

Một ngày cuối tháng 3 năm 1973, ông Ba Trân cùng hơn 300 anh em ta bị địch bắt đã được trao trả ở bờ nam sông Thạch Hãn thuộc tỉnh Quảng Trị để đổi lấy 27 phi công Mỹ và 500 tù binh ngụy. Trong danh sách mà chính quyền ngụy trao trả cho phía Cách mạng, Sư đoàn trưởng Trần Văn Trân được ghi một dòng trích ngang vắn tắt: “Nguyễn Văn Thương, 46 tuổi y tá đông y - bộ đội địa phương Châu Đốc - bị bắt ngày 17 tháng 2 năm 1970”.

Kính trọng và quý mến người chỉ huy sư đoàn bị địch bắt giam gần 4 năm vẫn một lòng một dạ trung thành với cách mạng, mưu trí, khôn khéo che giấu địch, không để lộ tung tích, Bộ Quốc phòng đã bố trí riêng một xe com-măng-ca để đón khi ông Trần Văn Trân vừa bước chân lên bờ bắc sông Thạch Hãn, đưa thẳng về Bộ Tư lệnh Quân khu 4. Thấy vậy tên trung tá ngụy Sài Gòn tức điên người, hắn chửi đổng: “Đ.mẹ, thế là lọt mất một tên Việt cộng cỡ bự rồi”.

Qua mấy tháng điều dưỡng nghỉ ngơi, ông Ba Trân lại được giao nhiệm vụ chỉ huy Sư đoàn bộ binh 341, trong đội hình của Quân đoàn 4 chủ lực Miền. Trong cuộc tổng tiến công mùa Xuân năm 1975, chính ông đã chỉ huy Sư đoàn 341 phối hợp với các đơn vị bạn chọc thủng phòng tuyến Xuân Lộc - cửa ngõ phía đông bắc Sài Gòn của địch, tiêu diệt và làm tan rã sư đoàn 18 ngụy, mở đường cho các binh đoàn chủ lực khác của ta ào ạt tiến đánh sào huyệt cuối cùng của địch. Trên đường tiến vào giải phóng Sài Gòn, chính sư đoàn của ông đã đánh vào Biên Hòa, giải phóng nhà lao Tam Hiệp, nơi địch đã giam giữ ông ba tháng trước khi được trao trả về với đồng chí, đồng đội.

Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, đại tá Trần Văn Trân đã được thăng quân hàm Thiếu tướng và được bổ nhiệm làm Phó Tư lệnh Quân đoàn 4, rồi Viện phó Học viện Lục quân Đà Lạt, nơi đào tạo và bổ túc các tiểu đoàn trưởng, trung đoàn trưởng binh chủng hợp thành của Quân dội nhân dân Việt Nam.
T.T
(Theo lời kể của đại tá Nguyễn Viên - nguyên Chính ủy Sư đoàn 1)


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Tư, 2016, 10:22:18 pm

ĐẠI TÁ SƯ ĐOÀN TRƯỞNG VÀ THƯỢNG SĨ ĐÔNG Y
Đại tá Đinh Như Ninh

Tháng 10 năm 1969, khi tôi ở sư đoàn 1 về cơ quan Cục Chính trị Quân giải phóng (B2) tôi được biết đài BBC đưa tin đại tá Ba Trân quân giải phóng đã bị quân lực Việt Nam cộng hòa phục kích bắn chết tại tỉnh Mỹ Tho, tôi đau đớn không cầm được nước mắt. Vài hôm sau có tin anh bị địch bắt, ít lâu sau lại được tin anh vẫn còn sống với tên gọi: Nguyễn Văn Thương, thượng sĩ đông y, tôi lo lắng hồi hộp...

Với tôi, anh Trần Văn Trân là thủ trưởng, là người thầy, vừa là người anh yêu quý. Tôi biết và sống cùng đơn vị của anh từ năm 1950 đến nay, tôi mới xa anh hôm đầu tháng 9 năm 1969. Anh luôn nêu gương về lòng dũng cảm, khắc phục khó khăn và lạc quan cách mạng. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, trong hòa bình 10 năm xây dựng quân đội trên miền Bắc cũng như trong cuộc chiến chống Mỹ những năm qua, anh luôn thể hiện tính giai cấp và tính tiên phong trong lời  nói và việc làm tích cực của người đảng viên, cán bộ với một lòng tin và tươi vui.

Tháng 3 năm 1975, tôi biết anh đang làm Sư đoàn trưởng Sư đoàn 341 tấn công căn cứ Xuân Lộc, tỉnh Long Khánh. Sau ngày toàn thắng 30 tháng 4 năm 1975, biết tin anh làm Phó Tư lệnh Quân đoàn 4 rồi Viện phó Học viện Quân sự Đà Lạt, tôi đã định đến thăm anh để nghe anh kể chuyện nhưng chưa có dịp. Tháng 4 năm 1986, anh là Thiếu tướng Tham mưu trưởng quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia. Lúc đó tôi là đại tá chỉ huy trưởng Đoàn 7708 bảo vệ thủ đô Pnôm Pênh. Tôi thu xếp một ngày chủ nhật đến thăm anh tại nhà công vụ của anh ở khu vực Chằmsamon nghe anh kể chuyện. Anh nói: “chỉ là những mẹo vặt, chẳng có gì nhiều đâu”. Anh kể thoải mái, tôi chăm chú lắng nghe và ngắm nhìn anh, lòng tràn đầy tự hào, khâm phục, thỉnh thoảng tôi hỏi lại có lúc chêm thêm... Hai anh em thân mật, vui vẻ. Anh kể:

“Tháng 2 năm 1970, mình cùng đơn vị rút gọn từ miền Đông hành quân xuông miền Tây Nam Bộ. Khi chuẩn bị vượt qua kênh Vĩnh Tế, Châu Đốc bằng xuồng máy, một xuồng máy đã chở sáu người đã qua trước chốt bến. Trong xuồng mình ngồi có cậu Yên là y sĩ quê Thanh Hóa. Yên bơi giỏi, khỏe mạnh. Để bảo đảm tài liệu không bị ướt, mình và Yên đổi xà cột cho nhau. Yên nói: “Thủ trưởng yên chí, nếu rủi có chìm xuồng em sẽ bơi đứng bằng một tay hai chân, bảo đảm cái xà cột của thủ trưởng không bị ướt”. Mình đeo cái túi cứu thương. Xuồng mình vừa chạy được một phần ba kênh Vĩnh Tế thì hai chiếc tàu địch từ hướng Mỹ Tho lao lên, đèn pha sáng trưng. Xuồng mình định vượt qua nhưng không kịp, súng địch đã nổ mấy loạt... một số hy sinh (trong đó có Yên), mình bị bắt. Bọn địch hỏi, họ, tên, chức vụ, mình nói: Nguyễn Văn Thương y tá. Đêm đầu tiên bị nhốt ở trại tù Mỹ Tho mình nhẩm đi nhẩm lại nhiều lần cái sơ yếu lý lịch mới.

Tại bàn thẩm vấn của trại tù binh, mình khai: tên họ Nguyễn Văn Thương 41 tuổi, cha chết, mẹ Nguyễn Thị Nuôi chết. Năm sinh: 1928. Cấp bậc: thượng sĩ, nghề nghiệp: y tá đông y.


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Tư, 2016, 10:22:46 pm

Chúng lùa mình vào trại tù binh nhốt các binh sĩ hạ sĩ quan. Mình nghe tụi lính kháo với nhau: hôm qua diệt được đại tá Ba Trân, lấy được tài liệu. Hơn một tuần sau chúng gọi mình lên, thẩm vấn kỹ hơn, căn vặn những điều nghi ngờ. Có thời giờ mình đã tự bổ sung lý lịch mình chi tiết hơn. Mình tỏ ra luộm thuộm nhếch nhác, mình cố tình kéo tóc xuống che phủ trán, tai, mình ít rửa ráy cho mặt mũi nhem nhuốc, áo quần lôi thôi như kẻ chán đời, thấy vật gì lạ mắt mình nhặt lên coi, lượm được cái vỏ đạn nhọn mình đưa lên môi thổi kêu u u rồi cho vào túi áo để dành chơi.

Người thẩm vấn hôm đó là một người nói giọng Bắc, hắn có vẻ là một sĩ quan từ đâu tới, trạc tuổi bốn mươi, nói ít và một thư ký giúp việc có vẻ nhanh nhẹn. Mình trả lời theo câu hỏi, thư ký ghi chép: “Họ và tên: Nguyễn Văn Thương, sinh năm 1928. Quê quán: bản A Túc, huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên. Nhập ngũ ngày 8 tháng 8 năm 1950, cấp bậc: thượng sĩ, chức vụ: y tá đông y, trình độ văn hóa: biết đọc biết viết. Họ tên cha dượng: Côn Thu sinh năm Tân Hợi, chết năm 1955, vì máy bay Mỹ ném bom. Anh chị em ruột không có. Ở quê hiện nay không có người thân.

Ông, bà nội ngoại: không biết họ tên, quê quán. Nghe mẹ kể cha mình tên là Thường chuyên nghề nấu cao hổ cốt, cao gạc nai tại miền núi huyện Phong Điền, để có người đem về dâng lên vua chúa trong Huế, ông chết lúc mình mới 4 tuổi. Mẹ dẫn mình đi ăn xin, lần hồi lên thấu bản A Túc, mẹ con nương thân ở đây, năm mình lên sáu tuổi, mẹ lấy ông Côn Thu làm chồng là người dân tộc Pakô. Ông thương mình như con đẻ, hàng ngày ông rủ mình lên nương rẫy chơi, dần dà ông bày cho cách làm rẫy, trỉa lúa, bắp, trồng sắn. Từ năm 1946 có người đến thuê nấu cao hà thủ ô, cao trăn, cao gạc nai, hố cốt. Dạo đó mình đã lớn, hai bố con làm có tiền nhưng không hiểu vì sao mẹ không sinh được em. Năm 1950 mình bị động viên vào bộ đội lúc đã 22 tuổi, mình quen lối sống của người Pakô, thích ở núi rừng, lại biết nghề nấu cao nên ít lâu sau họ đưa mình lên miền núi huyện Dương Hòa nấu cao để họ gỡi cho các ông lớn ở nhiều nơi. Mình kể chi tiết cách nấu cao và cách ngâm các loại rượu tắc kè, bìm bịp, rượu rắn, kể về tác dụng của các loại rượu bổ...

Người thẩm vấn ngồi nghe đã lâu đột ngột hỏi: “Ông anh đi lính đã lâu, sao cấp bậc chỉ mới là thượng sĩ? Họ không trọng dụng anh, anh có buồn không?”.

Mình nói bên các ông thế nào tôi không biết, bên bộ đội miền Bắc hễ vào ngạch chuyên nghiệp thì chỉ có đến thượng sĩ là cao nhất. Đời tôi cũng chẳng màng gì cấp chức, chỉ mong cho mau hết chiến tranh, tôi được giải ngũ về làm ruộng rẫy, lấy vợ may ra còn kiếm được chút con làm vốn”.

Người thẩm vấn thở dài, tỏ vẻ thông cảm.

Năm sau chúng chở mình về một trại giam ở Biên Hòa. Ở đây có tới hàng ngàn tù binh. Mình không dám đi lại nhiều. Ngán nhất là mấy thằng đầu hàng phản bội phát hiện chỉ mặt, lại cũng phải đề phòng gặp người quen “chào thủ trưởng” thì hỏng bét. Chúng vẫn giam mình trong trại các hạ sĩ quan binh sĩ. Năm 1971, một hôm người cai tù biểu mình đến gặp tay sĩ quan quản ngục. Tay này tỏ vẻ lịch sự mời mình ngồi rồi nói: Nhiều trại tù binh phía các ông bị ghẻ lở nhiều quá! Sắp tới tôi thấy bất tiện khi phải tiếp và dẫn khách nước ngoài đến thăm. Tôi muốn nhờ ông chỉ giùm cách chữa trị bằng thuốc đông y. Mình suy nghĩ: đây là việc làm có lợi cho anh em tù binh, mình chỉ dẫn cách chữa ghẻ bằng thuốc diêm sinh và nhấn mạnh: phải phát cho mỗi người hai bộ quần áo mới để thay đổi, phải tắm rửa sạch sẽ trước khi xức thuốc, phải trụng áo quần bằng nước sôi trước khi phơi khô. Sau mười ngày chữa trị bệnh ghẻ  lở đã lành, kịp cho các quan thầy Mỹ đến kiểm tra.


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Tư, 2016, 10:23:10 pm

Một lần khác vào mùa hè năm 1972, tên giám thị trại giam Tam Hiệp - Biên Hòa cho gọi mình đến phòng làm việc và cho biết vợ hắn bị thần kinh tọa đau đớn khổ sở lắm và khẩn khoản nhờ mình châm cứu? Mình nhìn túi áo ngực có thêu chữ trung tá Phong. Mình nghĩ: mình đâu có biết nghề châm cứu? Nhưng mình nói: “Tôi không cầm kim châm cứu đã lâu, hơn nữa nay đã có tuổi cầm kim không tốt bằng lớp trẻ, tôi sẽ giúp”. Mình về tìm một y sĩ châm cứu giỏi cũng là một bạn tù, hôm sau hai anh em cùng đến. Theo lời hẹn, mình chỉ ngồi hướng dẫn em này châm. Hôm đầu lần đặt kim thứ ba thì mình gật đầu châm đúng huyệt; hôm thứ hai lần đặt kim thứ hai thì mình gật đầu châm... cứ như thế mình ngồi cách bệnh nhân 1,5 mét và ra hiệu dịch qua phải, qua trái, dịch lên, dịch xuống... châm cứu một tuần thì vợ trung tá Phong khỏi bệnh. Tiếng tăm mình nổi như cồn.

Thi hành Hiệp định Pa-ri, theo điều khoản trao trả tù binh, mình mang tên Nguyễn Văn Thương, thượng sĩ, y tá đông y có tên trong danh sách trao trả đợt đầu tiên tại Quảng Trị. Thế là, xế trưa ngày 18 tháng 2 năm 1973, mình vừa đặt chân lên bờ bắc sông Thạch Hãn đã thấy anh Phạm Thái - Cục phó Cục Chính trị quân giải phóng, sau này là Đại tá Cục trưởng Cục Quân pháp Quân đội nhân dân Việt Nam đến bắt tay kéo vội mình lên chiếc xe com-măng-ca đang nổ máy chờ sẵn. Xe nhấn ga chạy về Hà Nội trước sự ngỡ ngàng của mọi người có mặt hôm đó.

Vậy là Đại tá Trần Văn Trân - Sư đoàn trưởng Sư đoàn 1 Quân giải phóng miền Nam (B2), một người cao lớn, có nước da trắng mịn, mũi dọc dừa, cái trán hơi dô với cái xoáy ở chân tóc phía phải trán đã trở về trong niềm vui của người chiến thắng. Một người đẹp trai dáng vẻ thanh tú, đã vào vai “thượng sĩ đông y” và qua mặt được bộ máy tình báo gián điệp đồ sộ của Mỹ ngụy từ tháng 2 năm 1970 đến tháng 3 năm 1973.

Sau chiến tranh, ta nghiên cứu các tài liệu thu được của dịch, thấy rõ địch đã sử dụng 31 tên tình báo chuyên nghiệp đi các trại giam, chúng lục trong hơn 40.000 tù binh để tìm những người không ưa thích chế độ cộng sản, người có tâm tư bất mãn, người thành khẩn khai báo, người tự nguyện hợp tác với chúng. Bọn địch chú trọng đến số sĩ quan, kỹ sư, bác sĩ, ... để tuyển chọn sử dụng. Nhưng không có một chữ nào nói về thượng sĩ đông y Nguyễn Văn Thương. Tôi cho rằng chúng yên chí Đại tá Trần Văn Trân đã bị bắn chết. Hơn nữa, các lời khai của anh không có một khe hở nào khiến chúng nghi ngờ. Dạo đó, tại Hà Nội, Cục Cán bộ - Bộ Quốc phòng cùng chính quyền địa phương đã tổ chức lễ truy điệu ngậm ngùi hồi tưởng lại cuộc đời anh và thực hiện chính sách gia đình liệt sĩ đối với vợ con anh. Thời gian ở trong tù, anh được tín nhiệm bầu vào Đảng ủy nhà lao Tam Hiệp, cũng có một số người biết rành rọt về anh nhưng nhờ có sự lãnh đạo của Đảng và họ yêu thương anh, quý trọng anh, bảo vệ anh, nên anh mới không bị lộ.
Đ.N.N


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Tư, 2016, 10:26:11 pm

ANH BA TRÂN NGƯỜI BẠN LỚN CỦA AN GIANG
Nguyễn Văn Danh1 kể

Hồi những năm 1968-1972 chiến trường miền Tây Nam Bộ nói chung và chiến trường An Giang nói riêng vô cùng ác liệt, do chính sách bình định cấp tốc của Mỹ ngụy. Thời kỳ đó, anh Năm Sương là Tỉnh đội trưởng Tỉnh đội An Giang (sau này là Thiếu tướng, Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy Quân sự An Giang).

Hồi đó tôi là chiến sĩ công tác tại văn phòng Tỉnh đội. Nghe mấy chú mấy anh nói có ông Ba Trân, Sư đoàn trưởng và ông Hai Viên, Chính ủy Sư đoàn 1 - bộ đội chủ lực của Bộ tăng cường vào chiến trường miền Tây Nam Bộ và chiến trường An Giang. Lúc đó Sư đoàn mới từ miền Bắc vào, chưa quen chiến trường sông nước đồng bằng sông Cửu Long nên gặp không ít khó khăn, anh em dựng nhà cửa, lán trại rất vất vả. Anh Năm Sương chỉ đạo nhường Sở chỉ huy Tỉnh đội lại cho Bộ Tư lệnh Sư đoàn.

Thời đó có hai chuyện mà tôi và anh em ở An Giang mãi sau này vẫn còn nhắc đến.

Lần đầu tiên tôi được thấy và tiếp xúc với anh Ba Trân, nghe uy danh chúng tôi hình dung ổng phải dị tướng lắm. Hóa ra không phải vậy. Anh vừa hoạt bát nhanh nhẹn vừa thoải mái, nhất là tướng mạo vừa đẹp trai, cao ráo, trắng trẻo thư sinh.

Hôm đó anh Năm có gọi tôi lên nói: “Hôm nay có ông Ba Trân và Ban chỉ huy sư đoàn đến, anh em mình phải làm bữa cơm chiêu đãi”. Tôi cử cậu Sang đi mò cua bắt ốc về làm bữa. Thời đó còn biết kiếm gì hơn cá với ốc, Tỉnh đội khó khăn đến mức không có đồng nào. Nghe tôi cử người đi bắt ốc, anh Năm nói nhỏ với tôi: “Cậu ra ngoài Dọc Lài mượn ít tiền kiếm cái gì cho xôm tụ để chiêu đãi cái coi, không có gì đãi cũng kỳ, chứ ai lại chiêu đãi ốc”. Rồi chúng tôi cũng mượn được ít tiền, mua được con vịt xiêm về cũng hãm tiết canh và làm món này món khác, so với thời ấy xôm tụ quá rồi.

Nấu nướng xong chỉ đợi các anh tới. Xế chiều, anh Ba Trân và anh Hai Viên đến. Sau khi anh Năm giới thiệu, anh Ba đi một vòng chào hỏi hết lượt. Anh Năm mời mọi người vào dùng cơm. Anh Ba gọi tôi: “Chú thư ký Tỉnh đội lại đây tôi biểu”. Tôi đến, anh móc túi rút một xấp tiền đưa cho tôi (sau này đếm được 500 riel - tiền Campuchia). Lúc đó và mãi sau này chúng tôi vẫn không hiểu anh Ba mới chân ướt chân ráo tới đất An Giang chưa được mấy bữa mà đã biết cảnh nghèo khó của Ban chỉ huy Tỉnh đội An Giang. Động tác của anh Ba làm anh em chúng tôi nhớ hoài. Tôi đưa mắt xin ý kiến anh Năm. Anh Năm chưa biết phản ứng ra sao. Tôi nói: “Em không lấy đâu”. Nghe vậy, anh Ba nhìn anh Năm nhìn tôi rồi bảo: “Mày không lấy, tao không ăn nữa tao về”. Chiều ý anh Ba, tôi tạm cầm để anh em cùng vào ăn cơm. Bữa cơm thật rôm rả, nói hết chuyện này sang chuyện khác cứ như anh đã quen biết lâu lắm rồi. Anh Ba nói chuyện thật có duyên.

Lần đầu tiên được tiếp xúc với anh Ba, nhìn tướng mạo, tác phong, tính tình và nhất là nghĩa cử của anh đã gây một dấu ấn sâu đậm trong tôi. Với chúng tôi lúc đó 500 riel là lớn lắm, nhưng cái lớn hơn đó là cách xử sự của một vị chỉ huy rất sâu sắc và tinh tế. Bấy giờ, tình hình chiến trường An Giang cũng như miền Tây Nam Bộ vô cùng ác liệt bởi chính sách bình định cấp tốc của địch. Tỉnh ủy cũng như lực lượng vũ trang thiếu thốn đủ thứ, nhất là lương thực, tất cả anh em bên văn phòng Tỉnh đội thay phiên nhau đi giăng câu kiếm tôm cá bán lấy tiền mua gạo đắp đổi qua ngày.

Trước tình hình ấy, anh Ba đã quyết định mỗi cán bộ chiến sĩ sư đoàn bớt tiêu chuẩn mỗi người 1 ki-lô-gam gạo dành cho Tỉnh đội An Giang. Trên thực tế thì sư đoàn của anh Ba cũng rất khó khăn. Anh giao cho anh Tư Bé, Phó Chủ nhiệm Hậu cần tính toán và chuyển giao cho Tỉnh đội.
_____________________________________
1. Nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang.


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Tư, 2016, 10:26:44 pm

Lực lượng Sư đoàn 1 không biết chính xác bao nhiêu, nhưng chúng tôi nhận được vài tấn gạo. Lúc đó quý như vàng. Nhờ có gạo cứu trợ kịp thời của anh Ba, chúng tôi đã vượt qua thời kỳ khó khăn đó. Giờ đây sau bao nhiêu năm chiến tranh đã lùi xa, vậy mà những hạt gạo của anh Ba vẫn còn để lại trong chúng tôi những tình cảm quý mến, và lòng biết ơn không thể tả xiết.

Rồi ngày 12 tháng 2 năm 1970 khi vượt kênh Vĩnh Tế trên đường trở về miền Tây Nam Bộ để chuẩn bị chiến trường, anh bị địch phục kích, bị thương và bị bắt. Nghe tin anh đã hy sinh, chúng tôi đau đớn bàng hoàng.

Sau ngày đất nước thống nhất, không ngờ chúng tôi lại được gặp anh con người bằng xương, bằng thịt. Anh em gặp nhau thật là sung sướng.

Kể từ đó anh em chúng tôi thường xuyên lui tới thăm nhau hoài. Chúng tôi coi anh như ruột thịt.

Còn tình cảm của anh dành cho chúng tôi thì vô cùng sâu sắc và chân tình, từ chuyện lớn đến chuyện nhỏ.

Vào những năm 80 lúc tôi đã chuyển sang Tỉnh ủy, mỗi lần từ chiến trường biên giới Tây Nam về hay từ Thành phố Hồ Chí Minh xuống có dịp là anh ghé thăm chúng tôi. Có lần anh về, với cương vị là Chánh văn phòng Tỉnh ủy An Giang tôi sắp xếp để anh nghỉ ở khách sạn Tỉnh ủy nhưng anh bảo: “Tao về thăm anh em, chứ có phải về tìm khách sạn để nghỉ đâu, từ nay mỗi lần về đây tao đến nhà mày để ở”. Anh Ba chân tình vậy đó.

Nhà tôi, nhà anh Năm Sương, Hai Khởi, chị Hai Nguyên... gần kề và quây quần bên nhau, nên anh chỉ đến chỗ chúng tôi ở. Anh thích nằm trên bộ ván trong căn nhà gỗ của tôi chứ nhất định không ở khách sạn.

Mỗi lần anh về cả xóm chộn rộn, nhà anh Năm làm món này, nhà chị Hai làm món khác... rồi thì hết chuyện trò với anh Năm, chị Hai, anh kêu chúng tôi tới trò chuyện. Mỗi lần gặp anh là bao nhiêu chuyện. Anh có tài nói chuyện lắm và nhất là chuyện tiếu lâm, tưởng chừng như không bao giờ hết chuvện.

Anh lặn lội hết chiến trường ác liệt này, bị địch tù đày tra tấn dã man, rồi lại đến chiến trường ác liệt khác. Anh luôn lạc quan, hài hước.

Vậy mà về nghỉ hưu sum vầy với gia đình, đi chơi, đi thăm hỏi anh em chưa được bao ngày thì anh đã vội vã ra đi. Thương tiếc anh mà chúng tôi không nói nên lời. Thương tiếc vô cùng! Anh Ba Trân, một vị tướng tài ba, một người anh tình nghĩa sâu sắc vẹn toàn.
An Giang, tháng 10 - 2006
Trần Chí Linh ghi


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Tư, 2016, 10:29:37 pm

ANH BA TRÂN, VỊ TƯỚNG TÀI BA, TÌNH NGHĨA SÂU SẮC
Đại tá Nguyễn Thành Khởi1 kể

Cả cuộc đời tôi gắn liền với quân ngũ. Lớn lên và trưởng thành trên mảnh đất An Giang, tôi đã được sự dìu dắt và chỉ bảo của nhiều bậc đàn anh. Một trong những vị chỉ huy đó phải kể đến đồng chí Trần Văn Trân, người anh mà chúng tôi luôn trìu mến gọi bằng anh Ba. Một tấm gương cho anh em chúng tôi noi theo.

Nói đến anh Ba với chiến trường An Giang thì nhiều chuyện xúc động để kể lắm. Những chuyện lớn thì lớp chúng tôi và cả những đàn em sau này của An Giang (có người biết mặt, có người không biết mặt anh Ba) đều biết chuyện: như chuyện mỗi chiến sĩ của anh Ba góp mỗi người 1 ki-lô-gam gạo ủng hộ lực lượng quân sự An Giang lúc khó khăn, rồi chuyện tặng tiền cho Tỉnh đội... Nhiều chuyện lắm.

Với riêng tôi, ấn tượng về anh Ba vô cùng sâu sắc. Một hôm, tôi được anh Năm Sương (Tỉnh đội trưởng An Giang) gọi lên giới thiệu anh Ba - Sư đoàn trưởng Sư đoàn 1 bộ đội chủ lực đầu tiên của Bộ vào chiến trường An Giang. Lúc đó tôi là Đại đội phó Đại đội cảnh vệ. Nghe uy danh anh là “Cọp xám miền Đông Nam Bộ” chúng tôi ngán lắm. Sau khi nghe giới thiệu, tôi cứ nghĩ anh Năm nhầm vì trông anh Ba cao ráo, trắng trẻo, tướng mạo thư sinh. Tôi nghĩ chắc anh Ba là chính ủy.

Lần đầu gặp anh Ba, nghe anh nói chuyện, truyền đạt ngắn gọn dễ hiểu, chúng tôi mê liền. Rồi từ đó số phận như gắn kết anh em chúng tôi với nhau.

Khoái nhất là, lúc nào anh Ba cũng nhìn nhận đi trước vấn đề.

Khi đó chiến trường An Giang vô cùng khốc liệt, lương thực, thuốc men... Vô cùng thiếu thốn và nhất là vũ khí, Tỉnh đội không được trang bị đầy đủ, toàn súng nhỏ lại thiếu.

Để thực hiện chính sách bình định cấp tốc, địch tập trung lượng lớn quân chủ lực các binh chủng quân Mỹ và ngụy, vũ khí, khí tài hiện đại rải khắp các tỉnh miền Tây Nam Bộ, nhất là chiến trường An Giang. Với khó khăn của lực lượng quân sự tỉnh An Giang nên việc đánh và diệt địch cứ dây dưa, giằng co hoài, không dứt điểm được.

Khi Sư đoàn 1 của anh Ba mới chuyển quân vào An Giang vừa ổn định được chỗ ăn, chỗ ở cho bộ đội, anh đã gặp và bàn với anh Năm tổ chức đánh địch. Anh Ba đưa ra phương án tác chiến: Bộ đội chủ lực sẽ tập trung đánh cứ điểm lớn, Tỉnh đội phối hợp tiêu diệt các cứ điểm nhỏ. Một trong những mục đích chính của chiến dịch là tạo đà thắng lợi để nâng cao tinh thần chiến đấu cho toàn mặt trận. Nghe anh Ba trình bày chúng tôi thấy quá đã. Anh “gãi” đúng chỗ ngứa của chúng tôi.

Và trận mở màn tại núi Bà Đôi, chiến thắng vang dội. Lâu lắm rồi lực lượng vũ trang của ta mới làm chủ một vùng rộng lớn, phá tan thế gọng kìm của địch. Thật sướng!

Sau trận đánh, biết tình hình An Giang đang gặp khó khăn, nên bao nhiêu vũ khí thu được, anh Ba giao hết cho Tỉnh đội. Lần đầu tiên Tỉnh đội có súng lớn, ai cũng phấn khởi.

Cuộc chiến ngày càng khốc liệt. Ta chiến thắng giòn giã. Mọi chiến thắng trên chiến trường An Giang đều thể hiện sự phối hợp nhuần nhuyễn giữa bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương. Công đầu phải kể đến anh Ba và anh Năm, hai anh khăng khít đến mức anh em chúng tôi thường đùa: họ là “bồ bịch” của nhau.
____________________________________
1. Nguyên Tỉnh đội trưởng Tỉnh đội An Giang.


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Tư, 2016, 10:30:12 pm

Nói đến anh Ba Trân phải nói đến cách giáo dục, rèn luyện lính của anh. Có lần anh Ba đến thăm đơn vị chúng tôi, lúc đó tôi là Đại đội trưởng, sau một hồi quan sát anh hỏi tôi: “Cậu và chính trị viên ở đâu?”. Tôi chỉ trong lùm dừa nước. Nhìn căn chòi bé tẹo, anh quay sang các đồng chí cán bộ sư đoàn đi cùng nói: “Các cậu thấy không, hai thằng này đoàn kết hết chỗ biết, nếu có chết thì chết chung một chỗ”. Anh cắt nghĩa cho chúng tôi, tất cả đều thấm thía: Để tạo được sức mạnh không gì bằng đoàn kết nhưng trong chiến đấu cứ đơn giản ở chung như vậy nếu có sự cố xảy ra, cán bộ chỉ huy hy sinh hết thì lấy ai lãnh đạo đơn vị?

Ngày 12 tháng 2 năm 1970, trên đường về để chuẩn bị chiến trường miền Tây Nam Bộ, anh bị địch phục kích và bắt ở kênh Vĩnh Tế. Chúng tôi nhận được tin anh hy sinh. Cả chiến trường An Giang đều thương tiếc anh vô cùng.

Cuộc chiến ngày càng lan rộng. Chúng tôi chiến đấu ngoan cường. Trong mỗi chiến thắng tôi đều nghĩ đến anh Ba, nếu có anh lúc này chắc anh vui lắm.

Sau ngày đất nước thống nhất, cuộc sống bình yên trong hòa bình chưa được bao lâu. Chiến tranh biên giới Tây Nam nổ ra, đã thấy có mặt anh ở đó. Thật bất ngờ năm 1976 tôi lại được gặp anh ngay trên mảnh đất An Giang, khi đó anh là Phó Tư lệnh Quân đoàn 4, xuống miền Tây Nam Bộ để củng cố tuyến phòng thủ chống bọn Khơme đỏ quấy phá và xâm nhập biên giới nước ta.

Anh em gặp nhau mừng khôn xiết. Tính cách anh Ba vẫn vậy, với anh em chúng tôi, anh lúc nào cũng chân tình, cởi mở, chu đáo. Anh vẫn lạc quan và tiếu lâm số một.

Tôi coi anh như người anh ruột thịt. Lúc nào anh cũng bày vẽ, chỉ bảo cho tôi như em út trong nhà. Tôi nhớ năm 1983, khi đó tôi đang là Chính trị viên tiểu đoàn. Gặp tôi trên chiến trường Campuchia, anh đã động viên tôi: “Cậu khá lắm, cố gắng lên, phấn đấu để thay anh Năm Sương, anh Tư Lê”. Tôi nghĩ trong bụng mình như thế này làm thế nào bằng anh Tư, anh Năm được mà thay.

Rồi thời gian trôi đi. Tôi luôn phấn đấu hết mình Anh Ba thường xuyên thăm hỏi, động viên. Thế rồi điều anh Ba nói nhưng tôi không dám nghĩ tới đã thành hiện thực. Tôi được đề bạt Đại tá Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh An Giang. Ngày đó anh Ba còn vui hơn cả tôi.

Vậy mà anh Ba đã bỏ lại gia đình, bỏ đồng đội đồng chí và những người anh em của anh mà ra đi đã gần mười năm.

Đến bây giờ cứ mỗi lần nhắc đến tên anh Ba Trân là anh em An Giang chúng tôi đều dâng lên nỗi xúc động, trìu mến.

Anh Năm Sương bây giờ tuổi đã cao, trí nhớ không còn được như trước, ăn bữa trước quên bữa sau. Vậy mà cứ nhắc tới anh Ba là ông kể vanh vách.

Tình nghĩa của anh Ba Trân đối với An Giang và An Giang đối với anh như vậy đó!
An Giang, tháng 10 - 2006
T.C.L ghi


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Tư, 2016, 10:33:05 pm

ANH BA TRÂN “ANH HAI NAM BỘ”
Đại tá Phạm Văn Bé1 kể

- Cậu có phải là Bẩy Bé, dân An Giang không?
- Phải - Tôi trả lời.

Tay bắt mặt mừng. Trước đó tôi chưa gặp anh. Nhưng trong “làng tù” tụi tôi, anh Ba Trân là biểu tượng: Mưu trí, dũng cảm, trung thành vô hạn. Và nhất là việc nhìn người và dùng người tuyệt vời. Đó là chuyện khi bị địch phục kích trên kênh Vĩnh Tế - An Giang anh bị thương và bắt, cùng bị bắt với anh có cậu cần vụ của anh.

Trong nhà tù Hố Nai - Biên Hòa khi bị địch dùng cực hình tra tấn, không chịu nổi, cậu cần vụ này đã chiêu hồi. Để bảo vệ an toàn và giữ bí mật tung tích của anh, Đảng ủy trong nhà tù đã bàn biện pháp xử lý. Nhưng anh Ba can. Anh nói: “Tôi biết cậu ấy, vì không chịu nổi cực hình nên cậu ta khai cho bớt cực thôi, chứ tôi biết chắc cậu ta không bao giờ phản bội lại anh em đâu. Mà cũng nhờ cậu ta có khi chúng ta biết thêm động tĩnh của địch”. Và sự thật đúng như vậy.

Hồi đó anh Ba ở trại tù Hố Nai - Biên Hòa, còn tôi ở trại tù Phú Quốc, tính khí tôi ở trong tù cũng hệt như anh Ba và lại là dân An Giang nên khi đến thăm trại an dưỡng anh em tù binh mới được trao trả là anh tìm tôi ngay.

Lần đầu tiên gặp nhau đáng nhớ vô cùng, thật là duyên kỳ ngộ. Sau Hiệp định Pa-ri, năm 1973 khi địch trao trả tôi được đưa ra Bắc về trại nghỉ dưỡng tại Quảng Yên - Quảng Ninh. Anh Ba được trao trả tại sông Thạch Hãn, được Bộ Quốc phòng đón về Hà Nội. Anh được Nhà nước, Chính phủ và Bộ Quốc phòng cho đi nghỉ dưỡng ở nước ngoài, nhưng anh từ chối. Anh xin ở nhà tranh thủ chăm sóc vợ con, để bù đắp những ngày gia đình phải chịu “tang” anh. Thấy anh từ chối đi nghỉ nước ngoài, Đại tướng Võ Nguyên Giáp hỏi anh có đề đạt nguyện vọng gì? Anh chỉ xin Đại tướng và Bộ Quốc phòng cho anh mượn một chiếc xe con để đi thăm anh em chiến hữu trong tù đang nghỉ dưỡng tại Quảng Yên - Quảng Ninh. Anh thăm hết lượt anh em chiến hữu vào sinh ra tử, đồng cam cộng khổ kiên trung trong những ngày ác liệt dưới đòn roi, nhục hình của kẻ thù. Anh thăm các anh em, đồng chí, đồng hương Thừa Thiên - Huế.

Sau khi thăm hỏi hết lượt, anh và gia đình tính về, khoái anh quá, tôi nói:

- Ở lại chơi thêm ít bữa, anh Ba.
- Ừ, tớ ở lại, anh em mình tâm sự.

Vậy là anh ở lại chơi với chúng tôi dăm ngày. Thôi thì đủ thứ chuyện, anh bày vẽ, chỉ bảo căn dặn chúng tôi đủ điều. Anh dặn đi dặn lại là chúng tôi phải hoàn toàn tin tưởng và chấp hành tổ chức.

Tôi ở lại quân đội và về Sư đoàn 330 cho đến ngày nghỉ hưu. Khi chúng tôi còn đang nghỉ dưỡng, cuối năm 1973 đã nghe tin anh Ba Trân nhận nhiệm vụ Sư đoàn trưởng Sư đoàn 341. Vậy là anh chẳng được nghỉ ngơi gì.

Sau ngày đất nước thống nhất, thật bất ngờ năm 1976 tôi lại được gặp anh Ba ngay trên mảnh đất An Giang, khi đó anh là Phó Tư lệnh Quân đoàn 4, xuống miền Tây Nam Bộ để củng cố tuyến phòng thủ biên giới, chống bọn Pôn Pôt quấy phá và xâm lược nước ta.

Anh em gặp nhau mừng khôn xiết. Anh coi tôi, Hai Khởi (sau này là Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh An Giang) và các đồng chí khác như anh em.
________________________________________
1. Nguyên Phó Sư đoàn trưởng Sư đoàn 330.


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Tư, 2016, 10:33:39 pm


Trong công việc anh Ba luôn xông xáo, đi sâu, đi sát tìm hiểu cặn kẽ tình hình cẩn thận, chu đáo mọi việc. Anh nhanh trí và táo bạo lắm. Tất cả các đức tính của anh Ba là bài học theo chúng tôi suốt cả quãng đời binh nghiệp cũng như đời thường sau này. Học hoài không hết.

Với anh Ba chúng tôi còn nhiều chuyện tri ân tri kỷ lắm. Một lần hồi ở Bát-tam-bang (Campuchia) nghe tin anh xuống công tác tại Lữ đoàn 96 của đơn vị bạn, tôi rủ Hai Khởi tới thăm anh. Đường đi rất nguy hiểm vì bọn Pôn Pôt cài mìn khắp nơi. Thấy chúng tôi, anh la làng: “Hai thằng quỷ liều mạng quá”. Tôi cười: “Chuyện nhỏ, có cách mà anh Ba, nghe tin anh xuống mà tụi em không thăm được thì bậy hết sức”.

Việc đầu tiên là anh đi đun nước nóng bắt chúng tôi tắm cho đỡ mệt. Khi tắm xong đã thấy cơm nước đầy đủ, trong mâm cơm đã có sẵn chai rượu. Trong bụng tôi đã nghĩ, thật kỳ lạ vì từ hồi quen anh Ba đến giờ, anh có uống rượu đâu. Mỗi lần thấy anh em chúng tôi uống rượu anh đều la làng: “Chúng mày đều sốt rét, uống cho lắm vào rồi lăn quay ra đấy bắt vợ con hầu”. Chẳng lẽ bây giờ anh cũng lai rai? Như đoán biết được ý nghĩ của tôi, anh Ba cười: “Đãi ai chứ đãi Bảy Bé, Hai Khởi mà không có món này là không xong”. Anh đãi bọn tôi nhưng anh có chịu uống miếng nào đâu, tính cách anh là vậy. Bữa cơm chiến trường không có gì nhưng sao xôm tụ quá, chuyện đông chuyện tây, chuyện tình chuyện nghĩa và nhất là chuyện tiếu lâm anh kể thì cười vỡ bụng. Chỉ tốn rượu, rôm rả cả buổi tối. Tiệc vừa tàn đã thấy anh mắc mùng bắt chúng tôi chui vào mùng ngủ để tránh muỗi vì vùng đó đang sốt rét dữ lắm, mặc dù tôi chỉ muốn ngủ ngoài cho mát. Trong lán trại chỉ có hai gường, tôi và Hai Khởi cởi trần ngủ chung một ghế bố nằm úp bụng lại với nhau, anh Ba nằm một giường. Đang ngủ ngon trớn, bỗng nghe anh Ba gọi dậy uống cà phê tưởng đã sáng, nhìn ngoài trời tối hù, xem đồng hồ mới gần 4 giờ. Tôi thắc mắc hỏi anh sao dậy sớm vậy, anh cười bảo: “Hai thằng mày uống vào ngáy như tàu hụ trên đầu tao - sao mà ngủ được, dậy uống cà phê tào lao cho vui, rồi mai mỗi người một ngả”.

Mỗi lần anh xuống đơn vị tôi công tác, tôi ở hậu cần thì anh xuống ở hậu cần. Tôi lên sư đoàn bộ thì anh lên sư đoàn ở với tôi.

Hồi đó tôi đang phụ trách hậu cần của sư đoàn. Anh thấy tôi đánh giặc cũng được, nên anh đề nghị lên Mặt trận: “Để đồng chí Bảy Bé - đánh giặc lì lợm làm hậu cần thì phí quá”. Anh đề nghị, đề bạt tôi làm Sư đoàn phó phụ trách chung. Thế là Bộ đồng ý, từ đó tôi làm Sư đoàn phó cho đến ngày nghỉ hưu.

Khi tôi đã là Sư đoàn phó Sư đoàn 330, anh làm Tham mưu trưởng Mặt trận 719. Có lần tôi lên Mặt trận họp, ra khỏi phòng họp tôi đi đâu anh cũng kè kè đi theo. Tôi xuống họp hậu cần, anh cũng kè kè theo, tôi hỏi anh không nói. Không hiểu thần sắc tôi thế nào mà khi họp trên Tham mưu Mặt trận anh đã để ý. Khi vừa đến hậu cần mặt trận, cơn sốt rét bùng phát, tôi quỵ luôn. Anh Ba phải đỡ tôi đưa vào Quân y cấp cứu. Anh Ba tài thật, cái gì anh cũng biết. Sau anh bảo: “Khi cậu họp trên Tham mưu tớ thấy thần sắc cậu kém lắm, nhưng tớ cứ để cậu báo cáo cho xong, cũng may cậu lại xuống hậu cần, chứ không đi về đơn vị luôn thì tiêu”. Tối đó anh đưa tôi về nhà anh nghỉ. Anh lo cơm nước cho tôi, anh còn trêu tôi, la làng bảo cậu Cổn cần vụ đi mua rượu về cho Bảy Bé uống.

Rồi một lần, nghe đoàn cán bộ mặt trận của anh bị lính Pôn Pốt phục kích, chúng tôi lo quá, vội điều lực lượng đến yểm trợ, giải vây, nhưng anh khôn khéo, mưu trí thoát khỏi. Gặp anh Ba, tôi phát khùng trách anh: “Sao anh bất cẩn, sơ hở vậy”. Anh cười: “Tao ở trong tay địch mà còn thoát được, huống hồ là mấy thằng đánh lén không dám ra mặt”.

Tính anh Ba Trân là vậy, thật hiếm ai như anh, đúng là “anh Hai Nam Bộ”
An Giang, tháng 10-2006
T.C.L ghi



Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Tư, 2016, 10:36:44 pm

LIỆT SĨ KHÔNG CHẾT!

Mùa hè năm 1970, gia đình chúng tôi được Tổng cục Chính trị mời ra Hà Nội để dự lễ truy điệu anh. Trong giấy mời chỉ ghi tóm tắt: “Đồng chí đại tá Trần Văn Trân - Sư đoàn trưởng Sư đoàn 1 đã anh dũng hy sinh ở chiến trường Đông Nam Bộ trong lúc đang làm nhiệm vụ..”. Gia đình đã lập bàn thờ và kỵ giỗ anh. Sự thật là anh vẫn còn sống. Trong một chuyến đi nghiến cứu chiến trường, anh đã bị phục kích, bị thương và bị bắt ở kênh Vĩnh Tế (Nam Bộ). Đồng đội đi tìm, tưởng anh đã hy sinh, báo về cho đơn vị, gia đình... chúng tôi xin trích một đoạn trong tập nhật ký của anh kể lại những ngày anh đã dũng cảm đấu trí với địch trong nhà tù và sau những ngày được trả lại tự do, tiếp tục chiến đấu giành độc lập, tự do cho Tổ quốc... Tựa đề là của chúng tôi.
Đại tá Trần Văn Sang
Hội Cựu chiến binh tỉnh Thừa Thiên - Huế


Ngày 18 tháng 3 năm 1973, tôi được đối phương trao trả tại sông Thạch Hãn (Quảng Trị), sau khi cởi vất lại quần áo tù, từ bờ nam sông Thạch Hãn tôi đã phóng xuống sông, bơi một mạch đến bên kia bờ bắc (con sông quá quen thuộc mà tôi thường qua lại hồi chống Pháp).

Nơi này cách đây 8 năm, nhân dân đã tiễn chân Sư đoàn 325 và tôi vào Nam. Ở Vĩnh Linh ruột thịt, có nhiều bà mẹ nghèo nhịn cháo, nhịn sắn nuôi tôi đánh đế quốc. Ra đi còn Bác Hồ, ngày về đã trải qua chục lần roi vọt trong tù để mặc niệm Bác, và được biết vợ con bao năm tang chế cho “liệt sĩ không chết”.

Tháng 10 năm 1965, khi đặt chân lên đường mòn Hồ Chí Minh, tôi nhận được điện vợ sinh con út, ngày trở về con đã 8 tuổi.

Ở đời lắm chuyện ngẫu nhiên.

Qua đến bờ bắc sông Thạch Hãn ướt đẫm, quá lạnh, tôi không đi qua trạm liên hợp mà đi thẳng theo quốc lộ. Ngẫu nhiên, tôi gặp ông bạn chính trị viên Đại đội độc lập 117 hồi đánh Pháp ở Huế là Nguyễn Chỉ, đại tá Cục trưởng Cục Bảo vệ Quân đội nhân dân Việt Nam. Hai anh em thấy nhau mà giả vờ lờ đi. Tôi đi trên đường song song với anh Chỉ, đi trong ruộng, hơn 1 ki-lô-mét mới rẽ vào nhà dân. Hai đứa ôm nhau đầy nước mắt. “Chỉ ơi, có gì cho ăn với, mấy ngày nay căng lăm không ăn được”. 15 phút sau, có một món ăn rất lạ, cực kỳ ngon - “lương khô”! Và 3 năm, 1 tháng, 16 ngày tôi mới vinh dự được mặc quân phục Quân đội nhân dân Việt Nam.

Ăn chưa xong thì tôi được xe của Bộ Tư lệnh B5, từ chỉ huy sở chiến đấu trong rừng ra đón về chỉ huy sở. Vào đến rừng, cả rừng cây và rừng người - rừng tình cảm ôm chầm bao phủ lấy tâm hồn tôi, tôi không nói được câu nào, chỉ đáp lễ bằng nước mắt và cả thân hình rung lên, sao không cảm động được?


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Tư, 2016, 10:37:53 pm

Tôi gặp được những người anh, người thầy dìu dắt trước cách mạng: Thiếu tướng Lê Tự Đồng, Trung tướng Hoàng Văn Thái, Thiếu tướng Cao Văn Khánh, Thiếu tướng Nguyễn Hữu An... Sau một hồi gặp nhau, anh An kéo riêng tôi ra và nói: “Có gì cho Trân ăn hè”. Hồi đó thực phẩm vô cùng khó khăn, vào bếp (là cái chòi canh), thấy 2 lạng thịt hiếm hoi, anh An nói: “Giao cho bếp trưởng Trân quyết định”. Tôi bóp hành, nước mắm đem nướng ngay và chỉ 15 phút sau, hai anh em ngồi bên bếp lửa ăn ngon hơn “nem công, chả phụng”.

Chiều, Bộ Tư lệnh B5 làm một bữa tiệc thịnh soạn, nhưng nào tôi có ăn được vì cảm động, vì tình người đầy ắp tận tâm can. Các anh hỏi: “Sao cậu ăn ít thế?” Cơm chan đầy nước mắt và tình cảm, vả lại trong tù ăn ít đã quen dạ rồi!

Đêm ấy ở B5, tôi được anh Thái tạo điều kiện để nói chuyện với vợ con tôi ở Hà Nội.

Trên đường từ B5 trở về Hà Nội, tôi hạnh phúc nhận thấy Thủ đô về đêm đèn pha commăngca sáng trưng, quét rõ hai rặng cây xà cừ. Trên đường vào Nam, hai hàng xà cừ còn bé bỏng, nay đã lớn cao phủ tán như vẫy chào và che chở đứa con trở về với cuội nguồn.

Bao nhiêu ngày tù là bấy nhiêu ngày căng thẳng song 9 tháng còn lại, tôi biết địch đi tìm nhận mặt Nguyễn Văn Thương, thượng sĩ đông y nấu cao hổ cốt cao khỉ.

Tôi nhớ sau 15 ngày toàn trại Cần Thơ tuyệt thực trước lúc bầu cử tổng thống Thiệu, buộc chúng phải nhượng bộ 100% yêu sách và đày 800 tù binh Việt Nam ra Phú Quốc. Chúng tôi là thương binh khoảng 70 người, bị đưa về nhà tù Hố Nai - Suối Máu.

Như các đồng chí đã biết, tên trung tá Mã Khắc Quy là em Mã Sanh Nhơn, bị bộ đội Long An bắn chết dịp Mậu Thân. Nó trực tiếp thẩm vấn tôi với con mắt căm thù. Nó hỏi: “Mày là Bí thư Đảng ủy Cần Thơ, phải không Thương?”.

Tôi trả lời: “Các thầy đã biết, khi tôi bị thương, các thầy bắt tôi chỉ có khẩu CKC, một túi y tá (cao hổ cốt, cao khỉ) không Đảng, không Đoàn, với lại chứng minh thư Nguyễn Văn Thương, thượng sĩ đông y nấu cao hổ cốt, cao khỉ, ai dám giao tôi là bí thư trong tù?”. Tôi nói thêm: “Tôi biết có người vu khống tôi, là thằng Vui trật tự, người Bến Tre. Ở Cần Thơ, nó đem bệnh di tinh bảo tôi chữa, tôi bảo lấy gì mà chữa; nhiều lần nó nói, tôi chịu vì không có thuốc. Nó dọa tôi sẽ báo với thiêu tá Hoạt tôi là người lãnh đạo trại giam, các thầy xét”.

Mã Khắc Quy thử: “Có mấy thằng Việt cộng nói với tao “tiêm nước dừa, huyết gà là tốt hơn xê rom, mày nghĩ sao?”. “Tôi không thạo thuốc Tây lắm, nhưng đứng trước cái sống, cái chết và thiếu thốn, dùng nó là cần thiết song có lẽ là không khoa học bằng thuốc tây và cao hổ cốt, cao khỉ”. Tôi trả lời.

Hắn lại nói: “Mày nói nghe được, dụng cụ nấu cao gồm những gì?”.

- Hai cái chảo gang, một nồi đồng, một cưa sắt, vá (môi) vớt bọt, một cái như thìa để khuấy.

Bài học đầu tiên của nhà tù mà các anh đảng viên vào tù trước bày xưng hô với nó bằng từ “các thầy”, nghĩa là “cầy thác” là “chó chết”.


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Tư, 2016, 10:38:29 pm

8 giờ sáng, xe đưa tôi về đến Hà Nội, vào nhà số 37 Lý Nam Đế, tôi được gặp anh Song Hào, anh Mậu, anh Ân và một số cán bộ Tổng cục Chính trị.

Còn gì sung sướng bằng lòng tin yêu của dân, của Đảng. Tôi được dự cơm với Quân ủy Trung ương, Đại tướng Võ Nguyên Giáp và các binh chủng.

Vài ngày sau đó, ở khách sạn Thắng Lợi, tôi được dự bữa cơm thân mật với các anh Trần Văn Trà, Hoàng Văn Thái, Lê Trọng Tấn. Cảm động nhất là được gặp chị Ba Định.

Trong lúc tôi nằm Viện 108, anh Ba Duẩn, anh Phạm Văn Đồng có đến thăm, còn anh Sáu Thọ thì được “gặp luôn”. Tôi được đi viếng lăng Bác, được đi thăm anh em bạn tù đang nghỉ dưỡng ở Sầm Sơn, ở Quảng Ninh. Vui mừng vô kể. Đúng là cuộc gặp mặt của những “người đứt ruột, mới biết người ruột đau”.

Vui mừng khôn xiết là nhận giấy chứng nhận của Ban Tổ chức Trung ương Đảng và Quân ủy Trung ương công nhận toàn bộ tuổi Đảng trong tù.

Tôi nằm viện trên ba tháng. Ra viện ở nhà được mấy hôm với gia đình, tôi xin phép gặp anh Song Hào, anh Lê Quang Đạo, đề nghị cho ra đơn vị chiến đấu. Hai anh nói: “Vội gì để nghỉ ngơi, khôi phục sức khỏe đã!”. Tôi trả lời: “Thưa anh, sức khỏe hồi này hơn hồi đi B năm 1964, vả lại, được nghỉ ba năm ròng trong tù rồi! (các anh cười). Nếu được ở đơn vị cơ động chiến đấu vào Nam, chiến trường nào tôi cũng thuộc: Trị Thiên, Tây Nguyên, Nam Bộ, miền Đông, An Giang và Sài Gòn cũng đã ở, cho vào Nam Bộ càng hay”.

Tháng 11 năm 1973, Bộ Quốc phòng quyết định thành lập Sư đoàn 341 lấy tên là Sông Lam, con sông quê hương Bác Hồ. cầm quyết định của Bộ Quốc phòng về Quân khu nhận chức Sư đoàn trưởng Sư đoàn 341, tôi mừng hết nói.

Tuổi của sư đoàn còn rất trẻ, nhưng đơn vị được vinh dự tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, tham gia quân quản thành phố Sài Gòn. Sau giải phóng, đồng chí Nguyễn Văn Linh - Bí thư Thành ủy đến thăm và tặng quà cho sư đoàn. Mặc dù mới được thành lập nhưng Sư đoàn 341 đã hai lần được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

Tục ngữ có câu: “Khéo ăn thì no, khéo co thì ấm”. Song, tôi không nằm co. Sau khi về hưu, tôi nuôi hàng trăm con gà và cá để tăng thêm phần thu nhập cho gia đình.

Hằng năm tôi được các anh em ở Kiên Giang, An Giang, Long Khánh tạo điều kiện cho đi Phú Quốc tìm mồ mả và thăm các nghĩa trang liệt sĩ, đồng thời về thăm các mẹ các em và nhân dân nơi đóng quân xưa.

Một hạnh phúc lớn lao nữa đối với tôi là thường có nhiều bạn bè từ các địa phương về thăm.

Tôi tham gia Hội Cựu chiến binh quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh và các công tác xã hội tại địa phương.

Các đồng chí hỏi tôi nhắn nhủ gì với thế hệ trẻ hôm nay?

Tôi nghĩ rằng: “Trẻ khôn qua, già lú lại” lớp trẻ Việt Nam của chúng ta tài giỏi lắm, bụng đầy ắp những truyền thống anh hùng của dân tộc, lại tiếp thu được nhiều kiến thức của thời đại văn minh. Tôi nghĩ, còn phải học lớp trẻ.
(Trích nhật ký Thiếu tướng Trần Văn Trân)


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Tư, 2016, 10:41:13 pm

TÌNH NGHĨA CỦA ANH BA TRÂN ĐỐI VỚI TÔI NHƯ ANH EM
Đại tá Nguyễn Văn Hanh1


Đồng chí thiếu tướng Trần Văn Trân, nguyên Phó Tư lệnh Quân đoàn 4 - Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia (719). Chúng tôi thường gọi theo thứ bậc gia đình của người Nam Bộ là anh Ba.

Năm 1952, tôi vào bộ đội thì anh Ba đã là Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 227 Trung đoàn 95 Đại đoàn 325.

Tôi gặp anh Ba Trân tại chiến khu Hòa Mỹ, tỉnh Thừa Thiên lúc đó tôi mới 14 tuổi. Anh Ba hỏi tôi: “Em còn nhỏ tuổi vậy, ở chiến khu có chịu nổi cái sốt rét không?” Dạ thưa anh, em muốn về đồng bằng, theo bộ đội chủ lực đánh Tây, ở cơ quan làm liên lạc, suốt ngày chạy công văn em buồn lắm. Anh Ba nói: “Em còn nhỏ, ở đơn vị chiến đấu, mang khẩu súng trường quét đất, làm sao theo kịp bộ đội. Thôi, khi nào lớn, anh cho theo đơn vị anh”.

Quả thật, sau đó tôi bị một trận sốt rét kéo dài 3 tháng không có thuốc men, không có cơm ăn, chỉ ăn cháo sắn và rau rừng, người kiệt sức không đi được, đơn vị gửi lại một nhà dân giữa rừng núi chiến khu.

Nghe tin tôi bị sốt nặng, anh Ba gửi cho một liều thuốc kí ninh. Hồi đó bộ đội bị sốt rét rất thiếu thuốc, một viên kí ninh hòa thành nước để tiêm cho nhiều người. Nhờ chục viên thuốc kí ninh của anh Ba mà cơn sốt trong tôi hạ dần. Tôi lần mò đến bệnh viện của Mặt trận tại chiến khu Ba Lòng, Quảng Trị.

Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954, anh Ba làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 101, sau đó làm Tham mưu trưởng rồi Sư đoàn phó Sư đoàn 325. Tôi là sĩ quan thông tin của Trung đoàn 95, Sư đoàn 325. Mười năm huấn luyện, xây dựng quân đội trong thời bình (1954 - 1964), thỉnh thoảng tôi được gặp anh qua những lần về sư đoàn tập huấn.

Đầu năm 1964, anh Ba đến kiểm tra đơn vị tôi huấn luyện tại huyện Hương Khê, Hà Tĩnh. Gặp tôi,, anh hỏi: “Hòa bình mười năm rồi, sao em vẫn chưa lấy vợ? Cưới vợ nhanh lên, nếu không sẽ “mồ côi vợ” suốt đời”. Tôi ngầm hiểu ý anh Ba, thời gian không xa đơn vị sẽ vào Nam chiến đấu. Tôi thưa thủ trưởng, nguyện vọng của em là trở về Nam chiến đấu, giải phóng quê hương. Chừng nào nước nhà còn bị chia cắt thì em chưa lấy vợ. Anh Ba cười gật gù đồng tình với ý nguyện của tôi.

Tháng 11 năm 1964, Sư đoàn 325 được lệnh vào Nam chiến đấu. Toàn sư đoàn với khí thế hùng dũng, rầm rập bước chân “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”. Anh Ba là Sư đoàn phó, vai đeo ba lô, tay cầm cái rađiô bán dẫn cùng bộ đội trèo đèo, lội suối, vượt qua bao nhiêu suối sâu, đèo cao, có những đỉnh núi cao 1001 - 2700 mét. Cuộc hành quân dài ngày, từ tỉnh Quảng Bình đến Tây Nguyên bộ đội mang vác nặng vô cùng gian khổ, có chiến sĩ phải nằm lại giữa rừng Trường Sơn vì bệnh tật và kiệt sức.

Sau hơn hai tháng hành quân liên tục, vào đến Tây Nguyên, Trung đoàn 95 đổi tên thành Trung đoàn 10, tách khỏi đội hình Sư đoàn 325, xuống hoạt động chiến đấu ở đồng bằng miền Trung, phát triển vào miền Đông rồi miền Tây Nam Bộ, chiến đấu ở chiến trường nam tỉnh Cà Mau, dải đất tận cùng của Tổ quốc. Sư đoàn 325 được đổi tên thành Sư đoàn 1 do anh Ba làm Sư đoàn phó, chiến đấu ở Tây Nguyên. Năm 1969, anh Ba làm Sư đoàn trưởng Sư đoàn 1, chiến đấu ở chiến trường miền Đông Nam Bộ, trực thuộc Bộ chỉ huy Miền (R).
______________________________________
1. Nguyên Chính ủy Trung đoàn 10.


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Tư, 2016, 10:41:42 pm

Tuy xa anh Ba Trân, nhưng tôi vẫn theo dõi tình hình, được biết Sư đoàn 1 là sư đoàn đánh giặc giỏi nổi tiếng toàn Miền. Đầu năm 1970, một tin sét đánh: anh Ba bị địch bắt ở vùng Bảy Núi, An Giang. Tôi vô cùng bàng hoàng, sửng sốt, thương anh Ba, người anh thân thiết, người chỉ huy gan dạ, dũng cảm, chỉ huy Sư đoàn 1 đánh đâu thắng đó, kẻ thù khiếp sợ. Người thủ trưởng được toàn sư đoàn yêu quý, cấp trên khen ngợi. Nay anh bị bắt, bị tù, không khỏi bị địch tra tấn, hành hạ. Nếu chúng biết anh là Sư đoàn trưởng thì chúng sẽ thủ tiêu. Nghĩ vậy mà lòng tôi đau xót, không sao cầm được nước mắt.

Sau khi bị địch bắt, anh khai là y tá. Trong trại giam của địch, nhiều anh em tù binh biết anh nhưng mọi người đều bảo vệ anh, anh không bị lộ tung tích và được bầu làm bí thư Đảng ủy, lãnh đạo anh em đấu tranh với địch, bảo vệ khí tiết của người chiến sĩ cách mạng cho đến ngày được trao trả.

Đầu năm 1973, anh được đối phương trao trả tại sông Thạch Hãn, Quảng Trị. Mọi người nghe tin anh được trao trả đều vui mừng, thở phào nhẹ nhõm. Đại tướng Võ Nguyên Giáp cho anh đi nghỉ dưỡng ở nước ngoài, anh xin nhận nhiệm vụ làm Sư đoàn trưởng Sư đoàn 341, vào chiến đấu giải phóng thị xã Xuân Lộc - Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.

Sau 30 tháng 4 năm 1975, đơn vị tôi làm nhiệm vụ quân quản thành phố Cần Thơ. Anh Ba xuống thăm đơn vị, xem lại nơi địch giam giữ anh. Anh em gặp nhau vui mừng khôn xiết. Trải qua 10 năm trên chiến trường đánh Mỹ vô cùng khốc liệt, biết bao đồng đội đã ngã xuống, thế mà anh em mình vẫn còn sống, được tận hưởng hòa bình thống nhất đất nước là sự may mắn và là một vinh dự lớn của người chiến sĩ cầm súng.

Anh Ba hỏi tôi: “Thế nào, bây giờ em đã chịu lấy vợ chưa?”. “Dạ, chịu rồi, thưa thủ trưởng”.

Đầu năm 1976, đơn vị tôi chuyển sang làm kinh tế, khai hoang ở vùng Tứ giác Long Xuyên, tỉnh An Giang.

Ngày 30 tháng 4 năm 1977, chiến tranh biên giới Tây Nam xẩy ra. Bọn Pôn Pốt - Iêng Xari xua quân xâm lấn trên toàn tuyến biên giới Việt Nam - Campuchia. Chúng tàn sát đồng bào ta rất man rợ. Hơn 1.000 đồng bào ở Xa Mát - Thiện Ngôn, tỉnh Tây Ninh, 3.000 đồng bào ở xã Ba Chúc, tỉnh An Giang bị chúng sát hại. Sáu vạn héc-ta ruộng dọc biên giới bị bỏ hoang. Anh Ba lại ra trận. Anh là Phó Tư lệnh Quân đoàn 4, chỉ huy cánh quân chiến đấu bảo vệ biên giới thuộc hai tỉnh An Giang và Đồng Tháp.


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 10 Tháng Tư, 2016, 10:42:08 pm

Cuối năm 1977, anh vào thăm đơn vị tôi đang ở kênh Tám Ngàn, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang. Anh Ba lại hỏi tôi: “Sao hòa bình, thống nhất đã hai năm rồi mà em vẫn chưa lấy vợ”. Tôi thưa, hòa bình được một năm thì mẹ em mất và như anh thấy đó, ở đây chỉ có lính và đồng hoang cỏ dại, nước chua phèn con cá cũng không sống được. Bộ đội phải đi cách 30 ki-lô-mét chở nước ngọt về ăn. Đơn vị làm nhiệm vụ khai hoang, đào kênh đắp bờ, rửa phèn, thau chua đồng ruộng, đời sống thiếu thốn vô cùng cực khổ. Với cương vị Chính ủy trung đoàn, em làm sao rời khỏi nơi đây được?

Anh Ba nói: “Thôi được rồi, để anh giúp”. Rồi anh quay sang nói với đồng chí cán bộ cùng đi: “Tao về chụp cổ con Phan Hoàng Anh giới thiệu cho Hanh”. Phan Hoàng Anh là cán bộ giảng dạy Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Anh lấy mấy cái hình tôi chụp sau hòa bình về để giới thiệu với Hoàng Anh.

Tôi tranh thủ mấy ngày phép lên gặp anh tại nhà riêng của anh ở 314 đường Hồng Đức, làng Đại học Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh. Anh và gia đình đón tiếp, giúp đỡ tôi tận tình. Anh dẫn tôi đến gặp Hoàng Anh tại 106 đường Lê Văn Sỹ, quận Phú Nhuận. Anh nói với Hoàng Anh: “Mày không lấy nó, tao dùng B40 phụt cho sập cái lô cốt của mày”. (Hoàng Anh ở một căn phòng 8 mét vuông trên lầu 6, trông như cái lô cốt). Mọi người cười vui vẻ với cách hỏi vợ táo bạo của anh Ba.

Thời gian tìm hiểu không có nhiều, nhưng gia đình và Hoàng Anh biết từ trước vả lại tin tưởng ở anh Ba, một con người có uy tín, chân thật và nghiêm túc, nên gia đình và Hoàng Anh chấp nhận.

Sau hơn hai tháng, đám cưới tôi và Hoàng Anh được tổ chức tại trường Đại học Sư pham Thành phố Hồ Chí Minh. Anh Ba bận chỉ huy đơn vị ở biên giới, không về dự được, gia đình tôi ở xa, dãy ghế dành cho bộ đội để trống vì đơn vị đang chiến đấu ở biên giới An Giang. Chị Hà vợ anh Ba, thay mặt nhà trai phát biểu lời cảm ơn.

Thế là nhờ sự giúp đỡ của anh Ba, chị Hà nên chúng tôi đã thành vợ, thành chồng, đã có hai con, một gia đình hạnh phúc.

Suốt hơn 45 năm trong quân ngũ, lúc ở gần, lúc ở xa, lúc hòa bình cũng như trong chiến đấu gian khổ, ác liệt. Hình ảnh anh Ba, người anh thân thương, người chỉ huy tài giỏi, sống chan hòa, yêu thương đồng đội luôn khắc sâu trong tôi. Anh luôn quan tâm, động viên, giúp đỡ tôi. Tình nghĩa anh Ba Trân đối với tôi như người anh ruột thịt.
N.V.H


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 11 Tháng Tư, 2016, 11:20:24 pm

KIÊN TRUNG, BẤT KHUẤT TRONG TÙ NGỤC,
VỀ VỚI ĐỜI THƯỜNG TÌNH NGHĨA THỦY CHUNG
Nguyễn Xuy1


Khi tôi đang ở trại giam C8 biệt lập đảo Phú Quốc thì một tù binh từ Cần Thơ vừa ra đảo cho biết ở trại giam tù binh nam có một cán bộ cao cấp bị địch bắt, khai tên Nguyễn Văn Thương y tá. Anh tả cả vóc dáng, khuôn mặt và giọng nói xứ Huế khiến tôi băn khoăn. Phải chăng đó là anh T. thủ trưởng của đơn vị? Với trách nhiệm của người lãnh đạo, tôi căn dặn người bạn tù tuyệt đối giữ bí mật và nhất thiết không để loan rộng tin tức ấy vì rất nguy hại. Từ đó, câu chuyện y tá Nguyễn Văn Thương tạm lắng xuống. Đến tháng 12 năm 1972, địch đã có lệnh tập trung tất cả tù binh là thương binh về trại giam Hố Nai (Biên Hòa) để chuẩn bị trao trả theo Hiệp định Pa-ri, trong đó có cả số thương binh ở trại Cần Thơ về tại khu B, chúng tôi tù binh Phú Quốc ở tại khu A. Tin tức về y tá Nguyễn Văn Thương càng dồn dập, bàn tán xôn xao và bọn giám thị cũng đã đánh hơi liền cài cắm hai tên chiêu hồi ác ôn chốt ngay bót gác cổng ra vào khu A để theo dõi mọi động tĩnh và mối liên hệ giữa hai khu A và B.

Nhận thức rõ hiểm họa, Đảng ủy khu A quyết định cử hai đảng viên trung kiên chập choạng tối đột nhập xử lý gọn hai tên chiêu hồi và để tránh khủng bố tràn lan, hai đồng chí thú nhận tự mình xử tội hai tên chiêu hồi ác ôn phản bội Tổ quốc. Bọn địch đã xử bắn cả hai đồng chí, sự hy sinh anh dũng của các đồng chí đã chặn đứng sự cài cắm theo dõi phát hiện những cán bộ “lọt lưới” trong đó có y tá Nguyễn Văn Thương. Sau khi trao trả, Đảng ủy đã báo cáo tổ chức và hai đồng chí đảng viên trung kiên đã được công nhận liệt sĩ.

Việc chuẩn bị cho đợt trao trả tù binh là thương binh tiến triển thuận lợi, ta đã đấu tranh được gặp phái đoàn quân sự bốn bên để giải quyết các yêu sách của tù binh trước lúc trao trả.

Nhưng có những bất trắc đã xảy đến, song đó lại là một dịp may hiếm thấy. Do sự trục trặc trong hợp đồng giao nhận tù binh tại Thạch Hãn (Quảng Trị), ngày 15 tháng 2 năm 1973 chuyến máy bay thứ nhất chở số thương binh trao trả bị kéo dài phải đến 16 tháng 2 năm 1973 mới xong; nhưng theo lịch đã định thì ngày 16 tháng 2 năm 1973 số tù binh thương binh cả khu A và khu B được lệnh lên xe ô tô chờ sẵn tại cảng khu A để chở đến sân bay Biên Hòa bay ra Quảng Trị. Số tù binh này vừa lên xe chuẩn bị nổ máy thì có lệnh dừng lại. Tất cả xuống xe, trở lại trại giam. Lệnh chưa chuyển đến xe cuối thì mọi người đã nhảy ào xuống xe mặc cho bọn quân cảnh hộ tống đoàn xe la hét om sòm, anh em ở khu A tranh nhau vào khu A kẻo sợ để chậm địch sẽ lùa vào khu B nơi mà bọn trật tự chiêu hồi còn lộng hành; ngược lại một số anh em khu B tranh thủ lúc lộn xộn lọt vào khu A được an toàn hơn, trong đó có y tá Nguyễn Văn Thương, cổng trại giam vừa khép lại khóa chặt, trên đường đi về phòng giam tôi bắt gặp một tù binh khu B vóc người cao lớn, mặt hơi cúi xuống đang suy nghĩ điều gì, thấy vậy tôi chống đôi nạng gỗ đối diện với anh định hỏi anh cần tìm ai? Anh vừa nhìn tôi thì cũng là lúc tôi định hỏi có phải anh là... Với ý thức cảnh giác thường trực, anh đưa ngón tay trỏ lên miệng ra hiệu im lặng!

Tôi hiểu ý ngay nhích gần anh và nói nhỏ: Chúng ta vào phòng số 2 để nói chuyện. Anh vào cửa trước tôi vòng ra cửa sau để tránh theo dõi của vọng gác ở cổng, tôi đi trước để thu xếp chỗ ăn ngủ đêm nay và tổ chức canh gác bảo vệ anh và xử lý các tình huống xảy ra thông qua đồng chí Đảng ủy viên kiêm bí thư chi bộ và nhờ đồng chí mật báo cho Thường vụ Đảng ủy xin ý kiến chỉ đạo. Mọi việc xong xuôi chúng tôi bắt đầu tâm sự, anh cho biết trường hợp anh bị địch bắt tháng 2 năm 1970 trong cuộc hành quân từ miền Đông xuống miền Tây Nam Bộ bằng xuồng máy thì bị hai chiếc tàu địch rượt đuổi nổ súng làm cho một số anh em hy sinh, còn mình bị thương và bị địch bắt. Lúc ấy là ban đêm, mình lại đang bị thương cần băng bó cầm máu nên bọn địch không thẩm vấn trực tiếp, chỉ có một tên lính ngụy hỏi mấy câu: họ tên gì? chức vụ? Mình đáp ngay:

Nguyễn Văn Thương y tá. Bọn chúng đem mình về nhốt vào nhà tù Cần Thơ. Mình cho rằng: “Đầu xuôi đuôi lọt” nên bắt đầu sắp xếp và nhẩm đi nhẩm lại thật ăn khớp với bản lý lịch mới, nhất là nghề y tá phải đổi sang nghề đông y thạo nấu cao khỉ, cao hổ cốt, thuốc nam... còn nếu nói lĩnh vực thuốc tây thì chịu, lộ tẩy; còn cha mẹ, vợ con, quê quán, thì mình có khả năng bịa như thực, nói chung là chết hết, đơn thương độc mã. Anh bảo vấn đề cốt lõi là gan lỳ còn hỏi cung thì trả lời trước sau như một thật kín kẽ, nói càng ít càng tốt. Một vấn đề khá gay cấn đó là thân hình anh cao to, tướng mạo khôi ngô, khai là thượng sĩ y tá thì bọn cai ngục, bọn thẩm vấn dễ phát hiện chân tướng. Vì vậy, lợi dụng vết thương anh giả bộ đau đớn nhức nhối, tóc tai bù xù, quần áo nhếch nhác, ít tắm giặt; có lúc anh phải giả ngây, giả dại để che mắt địch. Anh cũng cho biết lúc ở trại Cần Thơ, anh sinh hoạt Đảng theo đơn tuyến để khỏi lộ bí mật đến khi chuyển về khu B Biên Hòa thì cùng một số đồng chí hình thành bộ phận lãnh đạo của trại để lãnh đạo đợt trao trả.

Câu chuyện đang lắng dần, rỉ rả thì đột nhiên anh quay lại hỏi tôi đã biết tin gì về Thu Hà chưa? Tôi liền đáp, năm 1961 tôi vào chiến trường B, Thu Hà ở lại nhà máy gạch Thanh Hóa. Anh bảo: “Tao nghi quá chừng, hiện ở khu B trong số tù binh nữ trao trả ra Bắc có một người tên là Nguyễn Thị Thược y hệt Thu Hà vợ mày!”. Tôi vẫn chưa tin, anh lấy cả dẫn chứng hôm chúng tôi làm lễ cưới tại Trường Sĩ quan Lục quân có cả anh và anh Tấn, anh Hòa dự, chỉ có điều là Thu Hà già đi nhiều do bị tù đày! Tôi vẫn nửa tin nửa ngờ vì chính anh cũng chỉ đứng nhìn sang phòng tù binh nữ cách hàng trăm mét với hàng rào kẽm gai chằng chịt vây quanh chứ chưa trực diện lần nào vì vậy có thể nhầm lẫn là chuyện bình thường. Cuối cùng cả hai anh em nhất trí ngày 18 tháng 2 năm 1973 trên bờ bắc sông Thạch Hãn sẽ rõ trắng đen. Nói vậy nhưng đầu tôi căng như sợi dây đàn, phần vì lo cho đợt trao trả tù binh thương binh Hố Nai (Biên Hòa) có suôn sẻ trót lọt hay kẻ thù còn những thủ đoạn nham hiểm nào nữa đối với tù binh và Nguyễn Thị Thược có phải là Thu Hà hay đó là sự nhầm lẫn, cả hai câu hỏi đang chờ đáp án.

Việc gì đến đã đến! Đợt trao trả tù binh thương binh ở trại giam Hố Nai (Biên Hòa) ngày 18 tháng 2 năm 1973 đã diễn ra thuận lợi. Thượng sĩ Nguyễn Văn Thương y tá đông y đã cùng đoàn quân chiến thắng trở về quân ngũ với quân hàm Đại tá Sư trưởng! Và tôi đã gặp lại người vợ yêu thương với tên gọi đầy đủ Nguyễn Thị Thu Hà trung úy cán bộ quân báo, trong tù là Nguyễn Thị Thược dân buôn gạo qua biên giới tuyến Hiền Lương.

Những tin tức “bỏ sót, lọt lưới” trong trao trả tù binh cho miền Bắc kể cả Quân giải phóng miền Nam mà CIA nắm được ngày càng nhiều khiến bọn Mỹ sửng sốt. Cả lũ thầy tớ của chúng đổ lỗi cho nhau. Mỹ chê ngụy tồi, ngụy chê Mỹ có mắt như mù. Thực chất Mỹ - ngụy đều tồi!
Ngày 1-1-2007
N.X
________________________________
1. Nguyên Bí thư Đảng ủy Trại giam Hố Nai (Biên Hòa).


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 11 Tháng Tư, 2016, 11:23:56 pm

NHỮNG NGÀY GẶP ANH BA THƯƠNG
Trần Nguyên Phò1


Ngày 21 tháng 9 năm 1969, tôi và anh Lý Minh Văn cùng ở Tiểu ban giáo dục miền Nam đang trên đường từ Bến Tre trở về căn cứ R (chiến khu Đ) thì bị Mỹ ngụy bắt trong trận càn vào xã Phú Đức, huyện Châu Thành. Sau này, trao trả tù binh, gặp lại hai đồng chí bộ đội cùng bị bắt tôi mới biết do có chiêu hồi dẫn về đánh phá đường dây.

Tháng 2 năm 1970, sau khi khai thác lấy cung ở Mỹ Tho xong, địch đưa tôi về trại giam Cần Thơ. Chúng nhốt hai chúng tôi với anh em tù binh quê miền Bắc trong một phòng có kẽm gai bao quanh. Qua tìm hiểu, chúng tôi biết anh em cũ ở đây có 5 đảng viên với 2 chúng tôi nữa là 7, liên hệ với Đảng ủy trại giam để thành lập chi bộ. Đồng chí Nông Văn Viễn, dân tộc Tày, quê ở Lạng Sơn là đảng viên chính thức; Nguyễn Văn Viễn quê ở Quảng Ninh là đảng viên dự bị đến trại giam trước mấy ngày, rỉ tai tôi:

- Có đồng chí chỉ huy cấp cao của tôi cùng bị bắt bị thương ở chân, địch đang chữa trị, chắc nay mai cũng về đây thôi, vì anh ấy khai là thượng sĩ.
- Các cậu đừng nói với ai nữa nhé, phải giữ bí mật cho anh ấy đấy.
- Chứng em tin anh, nên chỉ nói với anh thôi, anh Mười à!

Gần một tuần lễ sau, khoảng 9 giờ sáng, một anh cao gầy mang đôi nạng gỗ được dẫn tới phòng giam chúng tôi. Vẻ mặt tỏ ra mệt mỏi, chỉ có đôi mắt sắc sảo, tinh anh:

- Chào các anh.
- Vâng, chào anh. Vết thương của anh nay thế nào rồi?
- Vết thương vẫn chưa lành, cũng không nặng lắm đâu, chủ yếu ở phần mềm. Tôi là Ba Thương, y tá thu dung, bị bắt ở An Giang.
- Còn tôi, Mười Phò, giáo viên bị bắt ở Bến Tre...

Qua hình dáng và mấy lời trao đổi, thăm hỏi nhau, tôi nghĩ ngay: đây là đồng chí bộ đội cấp cao mà hai anh Viễn đã nói cho tôi biết. Chúng tôi nhanh chóng tìm hiểu hoàn cảnh bị bắt của nhau, đã khai với địch thế nào... anh tỏ ra thông cảm với tôi, nhà giáo bị giặc khui từ hầm “bí mật quốc tế”2  trong tay không một tấc sắt chỉ có một số tài liệu về giáo dục.
_____________________________________
1. Nguyên Thường trực Ban liên lạc tù binh chống Mỹ tại Tp. Hồ Chí Minh và Việt Nam, Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội cựu giáo chức Tp. Hồ Chí Minh.
2. Hầm bí mật của đường dây giao liên. ‘‘Khách’’ ở trạm, gặp giặc càn, giao liên đưa “khách” xuống hầm. “Hầm bí mật” nhưng khách ai cũng biết.


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 11 Tháng Tư, 2016, 11:24:41 pm

Anh Ba Thương ít nói và có vẻ suy tư. Ai mà chẳng nghĩ ngợi khi sa vào tay giặc như thế này.

Với đôi nạng gỗ, lúc anh ở chỗ này, lúc ở chỗ nọ. Nhiều lần anh đứng ngắm hàng rào kẽm gai xám xịt, chăm chăm nhìn chòi canh ngất nghểu, hay phóng tầm mắt đến khoảng trời xanh bao la thăm thẳm, mây trắng bay lờ lững. Tôi bắt gặp ý nghĩ của anh: con chim đại bàng bị thương, bị nhốt trong lồng sắt nhớ về khoảng trời cao rộng. Sau này tôi mới biết tại sao như vậy. Anh tìm cách liên hệ với Đảng ủy trại giam, nhờ Đảng ủy báo ra bên ngoài là kế hoạch tác chiến mà anh giữ không bị lộ mặc dù anh bị giặc bắt.

Anh vẽ sơ đồ chỗ giấu vũ khí và tài liệu dưới sình nơi bị giặc phục kích, gửi ra ngoài để tổ chức tìm. Xong công việc, anh hoạt bát và nhanh nhẹn hẳn lên...

Anh bàn với tôi nên nói chuyện với anh em về văn học, qua đó lồng vào giáo dục tư tưởng, tình cảm, niềm tin... Và xử thế sao cho xứng đáng là lực lượng vũ trang của nhân dân không may sa vào tay giặc. Tôi hỏi anh:

- Tôi kể Truyện Kiều của Nguyễn Du có được không? Anh tính thế nào?

Anh đồng ý ngay và đề nghị nên bàn với anh Sinh, đảng viên, quê ở Thanh Hóa đang làm trưởng phòng để nói với anh em. Công việc suôn sẻ.

Tôi đã học thuộc lòng Truyện Kiều trên đường Trường Sơn từ Bắc vào Nam nên kể và phân tích gặp nhiều thuận lợi. Hằng ngày, sau bữa cơm chiều, anh em nghỉ ngơi một lúc rồi tụ họp nghe Truyện Kiều. Một vài anh em miền Nam ở phòng giam gần đó cũng đến. Anh Ba Thương để đôi nạng dựa vào vách tôn, ngồi nghe... Thúy Kiều bao lần bị xã hội phong kiến vùi dập xuống tận bùn đen là bấy nhiêu lần vùng lên ánh sáng. Từ Hải, về hàng triều đình nên phải chịu cái chết thảm thương - dù là cái chết của người anh hùng - chết đứng. Mỗi nhân vật, mỗi cảnh ngộ trong tác phẩm đều cho chúng tôi bài học. Một tuần trôi qua, anh Ba Thương không bỏ buổi nào, ra chiều thích thú lắm. Từ đó, anh gọi tôi là “ông thầy Kiều!”...

Anh Ba tỏ ý muốn tham gia sinh hoạt chi bộ. Tôi và anh Sinh thống nhất với nhau:

- Anh Ba à! Chi bộ mới tập hợp, người của khắp nơi. Cần gì chúng tôi báo cáo với anh, anh góp ý. Anh nên như ông thượng sĩ già, chỉ biết tiêm chích, phát thuốc thì không bị lộ.

Anh Ba nhất trí. Đến ngày trại giam được “thăm nuôi”, các phòng giam anh em miền Nam san bớt một ít trái cây tặng cho anh em miền Bắc ăn lấy thảo. Chúng tôi chia mỗi người được một phần sáu quả vú sữa, một phần tư quả mận... Anh Sinh chia cho anh Ba một phần tư quả vú sữa, vì anh bị thương cần bồi dưỡng. Anh Ba nhất định không nhận, nói thế nào anh cũng không chịu, chỉ nhận phần bằng anh em. Chúng tôi ăn, nhìn nhau mà ứa nước mắt...


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 11 Tháng Tư, 2016, 11:25:28 pm

Tôi và một số anh em khác bị đày ra đảo Phú Quốc. Lúc chia tay, lòng tôi bùi ngùi, lo lắng cho anh Ba Thương phải ở lại một mình ở một phòng giam. Liệu anh có giữ được bí mật cho đến ngày trao trả hay không?

Ra trại tù Phú Quốc, Nông Văn Viễn đã ít nói, càng ít nói hơn. Tôi gợi mở, Viễn nói với tôi:

- Anh Ba mong vết thương mau lành, để lãnh đạo một số anh em chí cốt có “tay nghề” tổ chức vượt ngục, ở Cần Thơ, anh Ba hay thơ thẩn chống tó ra gần hàng rào kẽm gai là để nghiên cứu địa hình địa vật. Vết thương chưa lành, anh em đã lại xa nhau, kế hoạch vượt ngục không thực hiện được, em buồn cho mình và lo cho anh Ba lắm, anh Mười ơi!

Ở đảo Phú Quốc cuộc đấu tranh trực diện với kẻ thù diễn ra hàng ngày. Bao nhiêu tâm trí tôi đều để vào đây, ít nghĩ đến việc khác. Thi thoảng đêm nằm, tôi nhớ về Cần Thơ, thương nhớ anh Ba, không biết giờ anh ở đâu, sống ra sao?

Sau Hiệp định Pa-ri, tôi được trao trả tại Thạch Hãn, Quảng Trị ngày 8 tháng 3 năm 1973. Biết tin anh Ba Thương được trao trả trước đó, tôi mừng lắm. Khi về an dưỡng ở Sầm Sơn, tôi và một số anh em được anh Ba tới thăm đôi lần...

Tôi lại vào miền Nam. Chuyến này không phải đi bộ vượt Trường Sơn mà đi bằng máy bay đáp xuống Tân Sơn Nhất vào ngày 6 tháng 5 năm 1975! Tháng 11 năm ấy, vợ con tôi cũng từ Thái Bình vào Sài Gòn công tác sinh sống. Tôi được cấp nhà ở hẻm số 9 đường Nhất Linh (nay là Nguyễn Huy Tưởng) quận Bình Thạnh. Một ban chỉ huy đơn vị bộ đội đóng cùng con hẻm đối diện nhà tôi.

Một buổi sáng, tôi dắt xe đạp từ nhà ra hẻm đi công tác. Mấy anh bộ đội từ ngoài đi vào. Một anh cao lớn thấy tôi, la lớn:

- Ông Mười Phò, ông thầy Kiều, ông ở đây à?

Tôi sững sờ:

- Ôi trời ơi, anh Ba Thương, anh đi đâu đây?

Chúng tôi ôm chầm lấy nhau, mừng vui khôn xiết. Đoạn, anh kéo tôi vào gặp Ban chỉ huy trung đoàn rồi giới thiệu với anh Cúc, anh Miên:

- Đây là ông Mười Phò cùng tù với tôi ở Cần Thơ. Ông ấy tốt lắm, mà nhà giáo thì nghèo rồi. Các cậu ở đây giúp được gì cho gia đình ông ấy thì cố gắng giúp.

Tôi dẫn anh vào nhà tôi uống nước, vợ tôi chuẩn bị đi làm, ra chào. Tôi giới thiệu vợ tôi cũng là giáo viên với anh Ba...


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 11 Tháng Tư, 2016, 11:35:08 pm

Từ đấy các anh ở đơn vị bộ đội đối diện coi tôi như bạn thân vậy. Các anh bảo mấy cậu cần vụ thường xuyên mang cơm thừa cho gia đình tôi nuôi heo. Cho ăn không hết, vợ tôi phơi khô để heo ăn dần, đỡ được bao nhiêu là tiền. Nhờ nuôi heo, tôi mua được xe honda đời mới...

Sau ngày anh Ba nghỉ hưu, chúng tôi thường gặp nhau khi Ban liên lạc tù binh chống Mỹ viết “Trại giam tù binh Phú Quốc 1967-1973”. Có lần tôi hỏi anh:

- Sao anh khai với giặc là thượng sĩ, mà lại là thượng sĩ “nấu cao khỉ”?

Anh hóm hỉnh giải thích:

- Mình lúc bị bắt là thượng tá. Mình khai là thượng sĩ để nếu thằng nào chiêu hồi “tâu” với giặc mình là thượng tá thì mình cãi lại: chúng nó nghe nhầm chứ tôi chỉ là thượng sĩ. Đều là thượng cả mà! Còn “thượng sĩ nấu cao khỉ” ấy à? Thằng Mỹ là khỉ đột. Lúc nào mình cũng phải nhớ nó là kẻ thù hung ác, quỷ quyệt, có thời cơ là mình phải xé xác nó...

Anh Ba kể với chúng tôi, có lần anh gặp một cán bộ tổ chức cấp cao. Người đó hỏi anh:

- Trân! Mày cao lớn, sắc sảo thế kia mà khai là thượng sĩ, thằng giặc nó cũng tin à? Tại sao thằng Nguyễn Văn Viễn, lính của mày cũng bị bắt, địch đày ra Phú Quốc, sau lại đưa về đất liền giam ở Biên Hòa cùng với mày, nó ra chiêu hồi khai khui nắp hầm bí mật đào vượt ngục mà không khai báo mày nghĩa là làm sao?

- Anh trả lời thế nào?
- Tớ chỉ còn biết cười, chứ trả lời làm sao!

Tôi bực tức:
- Gặp tôi, tôi trả lời liền!
- Trả lời sao?
- Thế này nhé. Trước Cách mạng tháng Tám, những người cộng sản, Tây nó biết rành rẽ mới bắt tống giam, còn bây giờ thời chống Mỹ, hàng chục ngàn bộ đội bị giặc bắt, chúng biết ai vào với ai? Chỉ vài người bị bắt cùng tài liệu như tôi hoặc dăm thằng yếu hèn, mấy dùi cui đã khai tuồn tuột, còn số đông anh chị em kiên cường bất khuất, khai giấu, tránh né cho xong. Có thế khi trao trả tù binh, chúng mình mới được Đảng gọi là “Những người chiến thắng trở về” chứ. Còn thằng Viễn ra chiêu hồi không khai báo anh mà chỉ khai nắp hầm bí mật đào vượt ngục thì cũng dễ hiểu thôi. Viễn khai báo cái hầm đang đào dở dang có thể là giặc đã gài thằng Viễn theo dõi tù binh vượt ngục. Giặc khui cái hầm ấy, một hai người ra nhận là mình không chịu cảnh tù đày, tìm cách vượt ngục cũng là lẽ thường tình. Chúng đánh đập rồi giam chuồng cọp, biệt giam... Khai báo anh Ba là thượng tá thì phiền phức đấy. Anh Ba không nhận, dù chết cũng không nhận - chắc chắn là như thế - Vậy thì giặc nó cho là thằng Viễn khai láo. Nó dần cho nhừ xương! Thằng Viễn thừa biết điều đó! Mặt khác, dù chiêu hồi, nó vẫn là con người. Trước đây chung đơn vị, anh Ba thương lính, nỡ lòng nào lính lại hại anh? Viễn sợ chết nên chiêu hồi, nhưng nó cũng muốn sống để còn trở về chứ! Nếu khai ra anh Ba thì nó hết đường về! Trường hợp thằng Viễn là như vậy. Tôi nói thế, có đúng không nào?

Anh gật gật cái đầu và... cười!

Tham gia cách mạng, không may sa vào tay giặc, thật bất hạnh. Bao nhiêu câu hỏi với mình. Càng làm to thì càng nhiều dấu hỏi. Tuy không được như anh Ba Thương (Trần Văn Trân) nhưng tôi cũng có niềm tin và tự hào là mình đã trung thành với Đảng, với Dân, với Nước dù trong hoàn cảnh tù ngục.
TP. Hồ Chí Minh, ngày 20-11-2006
T.N.P


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 11 Tháng Tư, 2016, 11:37:29 pm

NHỚ VỀ CHÚ BA THƯƠNG, NGƯỜI THẦY - NGƯỜI LÃNH ĐẠO
Nguyễn Anh Chiến1

Lần đầu tiên tôi biết chú Ba Trân (Trần Văn Trân - Nguyễn Văn Thương) tại khu 1, trại giam tù binh ở Cần Thơ, một người cán bộ kiên trung của Đảng và quân đội, mà sau này tôi mới biết chú là Tư lệnh Sư đoàn 341.

Hôm đó vào buổi sáng khoảng tháng 8 năm 1970, toàn bộ tù binh trong khu tập trung theo từng phòng ra trước sân chờ bọn cai ngục đọc tên từng người và số tù để đi đày ra trại giam Cây Dừa (Phú Quốc). Mọi người đều dõi theo để biết có tên mình hay không. Đến cái tên Nguyễn Văn Thương, tôi vẫn lơ là chưa chú ý nhưng vẫn nhìn về phía ấy và nhận ra một người cao lớn, gầy nhưng dáng đi mạnh mẽ.

Tuổi đời tôi còn quá ít, tuổi quân chưa được bao nhiêu dù trước đó tôi cũng bị đòn roi, bị mua chuộc dụ dỗ để cung khai đơn vị, quân số, trang bị lẫn những điều bí mật khác.

Chú Ba Thương không đi Phú Quốc như những người tù binh khác, chú ở lại và phải chịu biệt giam. Nghĩa là bị nhốt vào trong một cái thùng sắt khoảng 4 mét vuông, trên người chỉ độc quần cộc. Ban ngày trời nóng như rang, ban đêm thì lạnh cóng. Ăn cơm lạt.

Ngày hôm đó, một số anh em tù binh bị đày đi Phú Quốc, do không chịu chào cờ ba que và mọi quy định khác. Số anh em còn lại không chịu chào cờ thì bị chuyển trả lại khu 2 (khu được coi là cứng đầu). Tôi về phòng 36, phòng dành riêng cho thương binh và thiếu nhi (khai dưới 18 tuổi).

Sau thời gian biệt giam, chú Ba Thương được đưa vào trại, nhưng phải ở phòng cách ly. Tôi vẫn còn nhớ chú ở một mình, bọn quân cảnh (cai ngục) vào đóng cái bảng “xâm nhập” (phòng dành riêng cho các chiến sĩ miền Bắc vào Nam chiến đấu). Nhưng khi đóng xong, cai ngục bước ra là chú giật xuống vứt đi, cứ như vậy nhiều lần. Hình ảnh đó tác động đến tôi như lời nhắc nhở: Phải hiên ngang, dũng cảm trước quân thù dù trên tay không còn tấc sắt!

Sau đó, chú Ba Thương được đưa về phòng 36, vì chú là thương binh. Được ở với chú, bọn trẻ chúng tôi như có chỗ dựa về tinh thần. Chú kể cho chúng tôi nghe về những trận đánh thời chống Pháp, cũng như trong thời kỳ chống Mỹ, chuyện xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Có câu chuyện trên đường vượt Trường Sơn vào Nam chiến đấu, khi đi qua bản làng của người dân tộc cà răng - căng tai, chú gặp lại người lính năm xưa ở lại (không đi tập kết) chuẩn bị cho đường mòn Hồ Chí Minh. Người lính ấy nắm lấy tay chú vừa cười, vừa khóc “thủ trưởng quên em rồi sao?”
____________________________________
1. Phó Hiệu trưởng Trường Chính trị tỉnh Long An.


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 11 Tháng Tư, 2016, 11:38:31 pm

Thời gian sau ngẫm nghĩ lại, tôi mới thấm thía câu chuyện chú Ba kể. Câu chuyện đó như lời nhắc nhở nhắn nhủ chúng tôi, người chiến sĩ Quân đội nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Đảng, với dân, với nước, khó khăn nào cũng phải vượt qua, kẻ thù nào cũng phải đánh thắng như Bác Hồ đã dạy.

Nhiệm vụ của chúng tôi trong tổ chức chủ yếu cũng thực hiện 5 bước công tác như bên ngoài là tìm hiểu, tuyên truyền giáo dục, tổ chức, huấn luyện và đưa quần chúng ra đấu tranh. Vì không phải ai ở trong trại giam tù binh cũng đều là chiến sĩ quân đội, hoặc du kích, số này không nhiều, chủ yếu là dân thường ở vùng giải phóng, bị bắt bị tra tấn phải khai là du kích. Nhiệm vụ nữa của chúng tôi là canh phòng cho các chú họp Đảng ủy trại, mà chú Ba Thương là Bí thư. Không chỉ canh phòng bọn quân cảnh mà cả những tên chiêu hồi.

Rất vinh dự, tôi và anh Phạm Hồng Kiển (về sau là Giám đốc Đài phát thanh - Truyền hình Đồng Tháp) được chú Ba chọn làm thư ký. Nói cho oai vậy, thật ra đến các ngày lễ lớn, chú viết trước một bài dùng để các chi bộ tuyên truyền kỷ niệm như: thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3-2), Quốc tế Lao động (1-5), Quốc khánh (2-9)... Những tài liệu chỉ đạo khác của Đảng ủy cũng có nhưng rất cần thiết mới sử dụng. Chú rất cẩn thận, sinh hoạt với chúng tôi phải viết chữ in, không được viết chữ thường. Do vậy quá trình thực hiện điều này cũng khá gian nan, phải viết vào ban đêm dưới bóng đèn mờ, tốn nhiều thời gian. Nếu tài liệu không may rơi vào tay bọn phản bội, đầu hàng, chắc chắn bọn cai ngục sẽ đối chiếu nét chữ để tìm ra người viết. Có lẽ trong khoảng thời gian này, tôi có dịp được tìm hiểu nhiều nhất về lịch sử của dân tộc ta kể từ khi có Đảng.

Một hôm chúng tôi quây quần bên chú Ba để nghe chú kể chuyện. Tôi đột ngột hỏi chú:

- Chú Ba, tại sao chú lại tên là Nguyễn Văn Thương.
- Chú cười và hỏi ngược lại tôi: Tại sao cậu lại tên là Nguyễn Văn Tấn, trả lời đi rồi chú nói.

Tôi trả lời:
- Không may bị sa vào tay giặc, cháu suy nghĩ phải khai báo thế nào đây. Nên khi bọn chúng hỏi cung cháu nói tên Tấn, nghĩa là tấn công, phải không ngừng tấn công, không được đầu hàng phản bội, còn họ Nguyễn thì như họ bao nhiêu người khác.

Chú và mọi người cười ngặt nghẽo vì câu trả lời của tôi. Rồi chú nói:
- Chú cũng vậy thôi. Khi bị bắt chú lấy họ Nguyễn (họ thật của chú là họ Trần) còn tên là Thương bởi lúc đó chú bị thương. Đơn giản chỉ có vậy, sau này khi được trao trả về miền Bắc, gặp lại tôi mới biết chú tên là Trần Văn Trân...

Đảng ủy trại giam mà chú là người đứng đầu tôi cũng không biết chú và các anh quan hệ móc nối với bên ngoài như thế nào và bên ngoài cử người liên lạc ra sao? Chú có cả radio để nghe được tin tức từ bên ngoài lại có cả hai quả lựu đạn M26. Tôi tin chắc là do hai người lính đưa vào: người thứ nhất là lính bảo an, canh gác bên ngoài trại; người thứ hai là trung sĩ nhất tên Kiệt, giám thị trại giam quê ở Chợ Gạo, Tiền Giang. Khi được trao trả, qua anh em tù tôi hỏi về người giám thị này, nhưng không ai biết anh ở đâu và làm gì? (Hy vọng những dòng chữ này các anh có thể đọc được).


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 11 Tháng Tư, 2016, 11:56:59 pm

Tôi nói điều này hoàn toàn sự thật, không biết anh Phan Hồng Kiển hoặc anh Thái Dũng (Sau này là Giám đốc Sở Lao động Thương binh xã hội tỉnh Đồng Tháp) có biết không. Tôi đã cầm cái radio đó và nghe được một đêm, nhìn thấy 2 quả lựu đạn do anh Phan Thành Sang, Bí thư chi bộ phòng (Trung tá Trưởng phòng cảnh sát bảo vệ, công an Tiền Giang) đưa xem. Anh còn nói với tôi, Đảng ủy đã liên lac được với bên ngoài, có kế hoạch đánh vào giải thoát trại này.

Rất tiếc kế hoạch đã vạch ra nhưng không thực hiện được, bọn cai ngục tiếp tục thanh lọc trại. Toàn bộ thiếu nhi và thương binh (trong đó có chú Ba) bị đưa ra trại giam Hố Nai, Biên Hòa. Tôi và một số bạn cùng lứa đã sang tuổi 18, bị đày đi Phú Quốc với các anh em tù khác. Xa chú Ba Thương, tôi thấy như hụt hẫng, phải một thời gian mới trở lại bình thường, vì mất một chỗ dựa vững chắc của lòng tin.

Sau Hiệp định Pa-ri, chúng tôi được trao trả tại Thạch Hãn, Quảng Trị ngày 21 tháng 3 năm 1973. Biết tin bọn trẻ chúng tôi được trao trả ra miền Bắc, chú Ba Thương xuống thăm và nói:

- Chú về, Trung ương cho đi nghỉ ở nước ngoài hai tháng, nhưng chú từ chối. Chú báo cáo với Trung ương bây giờ không gì khỏe hơn và vui hơn là cho phép được đi thăm anh em trước đây cùng ở chung trại giam của Mỹ - ngụy.

Đầu những năm 80, tôi đi học ở trường Nguyễn Ái Quốc IX ở Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh. Tôi đến nhà thăm chú Ba và gia đình, chú cháu cùng nhau ôn lại những kỷ niệm của 10 năm về trước. Có lần chú nói:

- Chú Chín Cần (Bí thư Tỉnh ủy), chú Tư Thân (Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh) có ý định xin Bộ Quốc phòng cho chú về Long An.

Tôi hỏi:
- Chú về làm gì?
- Lãnh đạo ở Long An biết chú có Dự án Binh đoàn làm kinh tế, trong lúc tỉnh đang thành lập các trung đoàn làm kinh tế, khai mở Đồng Tháp Mười thuộc Long An. Các anh ấy dự kiến bố trí chú làm Phó Chủ tịch phụ trách lĩnh vực này.

Và chú Ba nói tiếp:
- Chú có về Long An, Tấn đi với chú nghe!
- Cháu rất sẵn sàng, nhưng sợ không làm hài lòng chú.
- Chú cháu mình biết nhau cả rồi, còn gì mà hài lòng với không hài lòng.

Nhưng điều đó cũng không xảy ra. Vì tình hình nhiệm vụ quốc tế cao cả, chú được Bộ Quốc phòng cử đi chiến đấu giúp nhân dân Campuchia đánh chế độ diệt chủng Pôn Pốt, hồi sinh đất nước.

Ngoài ra còn một việc không thể nào quên và đó cũng là bài học sâu sắc. Hôm đó khi hai chú cháu ngồi nói chuyện với nhau thì chuông ngoài cổng reo vang. Khách vào, chú giới thiệu với tôi, đây là Phó Tư lệnh Quân đoàn 4, và giới thiệu tôi với khách, đây là “ông bạn nhỏ của tôi ngày xưa”. Một cách giới thiệu rất hay mà tới giờ tôi chưa từng gặp lại.

Tham gia cách mạng, bị địch bắt tù đày, nhưng cũng có thể nói, thời gian được sống bên chú Ba Thương - Trần Văn Trân, người lãnh đạo, người thầy vô cùng kính yêu trong những ngày gian khổ đã giúp tôi trưởng thành rất nhiều về mọi mặt; củng cố được niềm tin và lòng trung thành với Đảng, với nhân dân. Chú Ba để lại cho tôi nhiều bài học quý báu trong cuộc đời.

Giờ đây chú Ba Trân đã đi vào cõi thiên thu, hy vọng bài viết nhỏ này trả được món nợ ân tình ngày nào của tôi với chú.
Tân An, ngày 11-1-2007
N.A.C


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 12 Tháng Tư, 2016, 11:42:40 pm

ANH TRẦN VĂN TRÂN VỚI SƯ ĐOÀN 341
Đại tá Vũ Thang1


Sau thắng lợi to lớn của ta trong cuộc tổng tiến công chiến lược năm 1972, từ diễn biến chiến lược trên chiến trường đã xuất hiện khả năng mới có lợi cho ta, đòi hỏi cấp bách cần có những sư đoàn mạnh, ngày 23 tháng 11 năm 1972, Sư đoàn 341 (Sư đoàn Sông Lam) được thành lập tại huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, với phương châm “Xây dựng chính quy, hiện đại, tinh nhuệ, thiện chiến”.

- Ban chỉ huy Sư đoàn 4 đồng chí.
- Ba cơ quan là: Phòng tham mưu, Phòng chính trị, Phòng hậu cần - kỹ thuật. Ban hóa học nằm trong Phòng tham mưu.
- 3 Trung đoàn bộ binh: 1, 2, 3.
- 1 trung đoàn pháo binh hỗn hợp: Trung đoàn 4.

Với quân số
Tiểu đội: từ 9 đến 12 người
Trung đội: 35 người
Đại đội: 125 người
Tiểu đoàn: 550 người

Để khẩn trương ổn định, bước vào huấn luyện sát với chiến trường đáp ứng yêu cầu chiến lược, Bộ Quốc phòng bổ nhiệm đại tá Trần Văn Trân làm Sư đoàn trưởng. Anh Trân là người quen thuộc chiến trường miền Nam, đã từng là Tiểu đoàn trưởng của Trung đoàn Cao Vân, rồi Trung đoàn trưởng của Sư đoàn 325 từ những năm kháng Pháp ở Khu 5 với các anh Nguyễn Sơn, Nguyễn Đôn, Hà Văn Lâu...

Đại tá Trần Văn Trân, người cao to, da trắng, đặc biệt ông có đôi mắt sáng, đôi mắt chứa đựng tất cả những đằm thắm yêu thương tình người, tình đồng chí, đồng bào và những năm thăng trầm trong cuộc sống. Chính ủy sư đoàn là đại tá Trần Nguyên Độ. Ngược lại với Sư đoàn trưởng, đại tá Chính ủy là người không cao, tóc bạc trắng, già trước tuổi vì lo học, lo làm luận án tiến sĩ triết học Mác - Lênin. Anh Độ vừa tham gia đấu tranh ngoại giao từ Phái doàn Quân sự bốn bên về. Anh cười rất tươi, rất sảng khoái, rất dễ mến nhất là sau mỗi lần hút thuốc lào. Trước đó đã có đồng chí Bảo Cường đảm nhiệm Sư đoàn trưởng nhưng vì tuổi cao, đồng chí Phạm Thành Minh, đồng chí Lương Tư đều là cán bộ lữ đoàn ở Hồ Xá - Vĩnh Linh nhưng quân lính bổ sung đi B, đi C hết, các chiến trường đều hút quân, nay Bộ điều về làm sư đoàn phó, phó chính ủy sư đoàn làm tăng chất lượng chỉ huy lãnh đạo.

Khi Sư đoàn vào chiến trường, Bộ điều đồng chí Vũ Cao về làm Sư đoàn phó; các đồng chí Bảo Cường, Lương Tư ở lại hậu phương. Đồng chí Vũ Cao là cựu cán bộ pháo binh, trong chiến dịch Biên giới 1950 - 1951, ông làm Tiểu đoàn trưởng pháo binh, sau chiến thắng Điện Biên Phủ, ông đi học ở Liên Xô, Trung Quốc nên ông rất giỏi về binh khí kỹ thuật quân sự. Ông có dáng người cao, da trắng, rất thư sinh.

Trung tá Nguyễn Quế - Chính ủy Lữ đoàn công binh Quân khu 4 về làm Chủ nhiệm chính trị. Tôi (Vũ Thang) trung tá ở Bộ Tham mưu Quân khu 4 về làm Tham mưu trưởng, đồng chí thiếu tá Nguyễn Văn Khánh ở Cục Hậu cần Quân khu về làm Chủ nhiệm.

Trung đoàn bộ binh 1 (e273) do đồng chí Hoàng Trung Trực làm Trung đoàn trưởng, đồng chí Nguyễn Mậu là Chính ủy.

Trung đoàn bộ binh 2 (e270) do đồng chí Nguyễn Thanh Vân làm Trung đoàn trưởng, đồng chí Nguyễn Trung Tín là Chính ủy.

Trung đoàn pháo binh 4 (e55) do đồng chí Lê Đình Cúc làm Trung đoàn trưởng, đồng chí Đỗ Nhân là Chính ủy.
_______________________________
1. Nguyên Tham mưu trưởng Sư đoàn 341.


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 12 Tháng Tư, 2016, 11:44:03 pm

Huấn luyện sát với yêu cầu chiến trường:

Được sự quan tâm đặc biệt của Bộ, sự đầu tư của Quân khu 4 nên cán bộ cơ quan, cán bộ trung đoàn hầu hết đã qua chiến đấu ở chiến trường C, ở mặt trận B5, B4. Đồng chí Hồ Đình Quý từng chỉ huy Tiểu đoàn 5 đặc công và Tiểu đoàn 4 bộ binh đánh Cồn Tiên về làm Tham mưu phó sư đoàn. Đồng chí Nguyễn Tấn Miên từ B5 về làm Chính ủy Trung đoàn 266. Đồng chí Lê Đình Cúc cùng đồng chí Vũ Thang đánh trận Gio An, nay đồng chí Cúc về làm Trung đoàn trưởng pháo binh 55...

Hầu hết các chiến sĩ đều mới qua ba tháng tân binh nên Đảng ủy và Tư lệnh sư đoàn có nhận định đánh giá cụ thể tỉ mỉ đến từng người, từng đại đội xây dựng tư tưởng, quyết tâm chiến đấu giải phóng miền Nam, với tinh thần đi vào sâu chiến trường, đi lâu, chiến đấu cho đến thắng lợi hoàn toàn.

Huấn luyện cho thật tinh thông vũ khí các loại có trong biên chế của đại đội mình và đặc biệt huấn luyện từng động tác từng người chiến đấu, tổ 3 người, tiểu đội, trung đội, đại đội rồi ghép tiểu đoàn, diễn tập cấp trung đoàn trên các loại địa hình ngày và đêm.

Đặc biệt nổi lên trong huấn luyện xây dựng là rèn luyện đạo đức kỷ luật. Đồng chí Sư đoàn trưởng Trần Văn Trân coi kỷ luật là sức mạnh của Sư đoàn. Hằng ngày, 10 lời thề danh dự của Quân đội nhân dân Việt Nam, và 12 điều kỷ luật, luôn được lấy làm cơ sở để soi rọi phấn đấu, tuyệt nhiên anh không cấm kỵ, không mệnh lệnh. Thực ra những ngày ở Quảng Bình cũng có dư luận là anh nóng nảy. Là Tham mưu trưởng, tôi không xa anh nửa bước. Khi vào Xuân Lộc, Trảng Bom - Biên Hòa và khi làm quân quản, thắng lợi của Sư đoàn 341 nổi lên là sức mạnh chiến đấu, là kỷ luật nghiêm minh. Ngày 20 tháng 10 năm 1976 Sư đoàn 341 được tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

Kết thúc huấn luyện năm 1974, đơn vị rời nhà dân ra dã ngoại ở ven rừng theo dọc đường lâm nghiệp chạy từ Bãi Hà nông trường Quyết Thắng của Vĩnh Linh đến Trường Thủy, Vạn Ninh của Lệ Thủy, Quảng Bình để làm công tác chuẩn bị chiến đấu.


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 12 Tháng Tư, 2016, 11:44:29 pm

Đầu tháng 1 năm 1975, Bộ tổ chức lớp tập huấn cho toàn quân ở Hà Nội 10 ngày. Đồng chí Chính ủy Trần Nguyên Độ và tôi được cử tham dự lớp học này.

Sau khi học tình hình nhiệm vụ, mỗi sư đoàn là một tổ phải vẽ quyết tâm chiến đấu cấp sư đoàn, hiệp đồng binh chủng đánh vào thành phố Huế với những tưởng định về địch, về dân tình, v.v... Anh Độ được Cục Cán bộ gặp riêng, anh Trân được Bộ Tổng Tham mưu gặp riêng, còn tôi cứ loay hoay vẽ, mà cả đời đã bao giờ đến Huế đâu! Tôi đành vẽ dặm bút chì đen mờ rồi lo so sánh lực lượng ta và địch. Khi anh Trân về anh la toáng lên, làm tôi xấu hổ quá chừng. “Mũi tấn công chủ yếu phải nhắm vào đồn Mang Cá đây nè. Tham mưu trưởng vẽ chỗ đó là đánh vào nhà tôi rồi...”. Đến đây tôi mới nhớ là anh Trân quê ở Huế. Rồi cũng xong, chúng tôi nộp bài cho bảo mật rồi lên hội trường nghe phổ biến tin chiến thắng đường 14 Phước Long của miền Đông Nam Bộ.

Trên dường từ Hà Nội về Quảng Bình, ngồi trên xe com-măng-ca đít tròn của sư đoàn trưởng, đồng chí Dong lái, tôi không thấy anh nói nhiều về Huế nữa mà lại nói nhiều về đặc điểm địa hình và các đơn vị của ta ở miền Đông Nam Bộ. Anh nhắc tôi muốn vào Sài Gòn từ rừng núi xuống có 3 trục đường bộ là đường 20 Đà Lạt đi Sài Gòn, đường 13 từ Lộc Ninh vào Sài Gòn, đường 22 từ Tây Ninh xuống Sài Gòn... Tôi chưa có bản đồ nên hỏi anh thế có đi qua dân không và địch thế nào? Anh nói: “Sau chiến thắng Phước Long, ở Sài Gòn, Nguyễn Văn Thiệu đã họp các tướng tá ở Dinh Độc lập bàn cách đối phó và đã nhận định rằng: năm 1975 Việt cộng có thể đánh lớn hơn 1974 nhưng không bằng 1968 và càng không bằng 1972, có nghĩa là Việt cộng chỉ đánh ở vùng ven như Phước Long, Gia Nghĩa...”.

Tôi đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác. Ở Huế anh cũng quen vì đó là quê anh, nay tôi hỏi ở Nam Bộ anh cũng quá rành. Sau này tôi mới hiểu là anh đã tranh thủ dạy tôi vì tôi là Tham mưu trưởng. Xe đi qua đất Thanh Hóa đường quá xấu, đầy hố bom, ổ voi, ổ gà và khói bụi nên phải đóng cửa kín. Mỗi lúc anh Trần Nguyên Độ ngáp ngủ là anh nói lái xe dừng lại để chính ủy hút thuốc. Ông chính ủy “bắn” liền hai phát rồi mở cửa vòng ra sau. Tôi thấy anh Trân mở cửa đối diện liếc nhìn chính ủy, rồi anh quay lại bịt miệng cười và dí ngón tay vào mũi tôi. Tôi còn đang ngơ ngác thì anh lệnh cho xe lăn bánh... Ôi câu chuyện tếu mà mang nặng tình người, tình đồng chí, đồng đội. Mãi sau giải phóng Sài Gòn, khi làm nhiệm vụ quân quản anh Trần Văn Trân đã nhờ Trung đoàn 270 có hậu cứ ở ngã ba Dầu Giây bắt giúp tắc kè. Đồn điền Ông Quế có rất nhiều tắc kè. Trung đoàn trưởng Trung đoàn 270, Nguyễn Thanh Vân đã huy động anh em đi làm sớm, bắt được cả trăm con tắc kè đực thật sung mãn, gửi về Sở chỉ huy ở đường Tô Hiến Thành quận 10 để ngâm rượu giúp Chính ủy Trần Nguyên Độ “sức yếu đầu bạc”. Bài thuốc này kết quả trông thấy, hiệu nghiệm lắm. Vài tháng sau tóc Chính ủy đã ngả màu muối tiêu mà tiêu đen nhiều hơn muối. Anh Trân ra lệnh cho tôi: “Tham mưu cho doanh trại, hành chính sửa chữa và dọn căn nhà số 201 đường Công Lý, quận 3 cho sạch sẽ, kín đáo, có vệ binh canh gác xa xa… để sau đám cưới với chị Kim Yến thì nơi đó là tuần trăng mật của Chính ủy, rõ chưa?” Tôi trả lời: “Rõ thưa Sư trưởng!” rồi bắt tay chuẩn bị.

Vài ngày sau đồng chí Lê Đức Thọ, các anh Vũ Cao, Phạm Thành Minh đến kiểm tra công tác chuẩn bị để đảm bảo chắc ăn...! Thời gian trôi đi, 27 năm sau, khi anh Trần Nguyên Độ từ trần, tôi đến viếng anh ở Làng đại học Thủ Đức. Với nghi thức lễ tang một vị tướng rất nghiêm trang cảm động có đại diện Học viện Lục quân, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 4, Quân khu 7, Bộ Tư lệnh Thành phố Hồ Chí Minh, Hội Cựu chiến binh Việt Nam. Bà con lối xóm, chính quyền Đảng bộ địa phương, gia đình ngoài Bắc trong Nam, mọi người đều ngậm ngùi vô cùng thương tiếc anh Trần Nguyên Độ, song trong lòng mọi người vẫn thầm cảm ơn “Y sĩ đông y Trần Văn Trân” mỗi khi họ nhìn vành khăn tang của chị Kim Yến và cháu Hoàng Chinh. Làm Tham mưu trưởng cùng chiến đấu, công tác với các anh tôi cảm nhận tình đồng đội, tình người thắm đượm quá. Nó ở bên nhau, nó đi với nhau hết cả cuộc đời.


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 12 Tháng Tư, 2016, 11:45:53 pm

Nhận nhiệm vụ hành quân chiến đấu:

Ngày 25 tháng 1 năm 1975, Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trực tiếp giao nhiệm vụ cho Sư đoàn 341 vào Nam Bộ chiến đấu trong đội hình Quân đoàn 4. Sau thời gian chuẩn bị, nay được vào chiến trường anh Trân mừng lắm, song vấn đề đặt ra là nhiều việc phải triển khai một lúc. Đảng ủy chỉ huy Sư đoàn đã phân công hợp lý, kịp thời. Anh Trân giao cho tôi vào Bộ Tư lệnh 559 hiệp đồng xe chở Sư đoàn đi B2. Cùng đi với tôi có đồng chí Phạm Tiễn - Trưởng ban Quân lực, đồng chí Hoàng Đăng Lâm - Trưởng ban Công binh. Anh dặn dò thêm: “B2 rất thiếu đạn, ta phải đem theo hai cơ số, lương thực thực phẩm đều trên vai cả đấy, khẩn trương lắm rồi, đi lẹ lên!”.

Tôi lo lắm vì quân số gần hai vạn, anh nói mang thêm cơ số đạn là tăng lên cả trăm tấn rồi. Nhưng nghĩ anh ở nhà lo tổ chức triển khai cả một sư đoàn đâu có nhẹ nhàng gì. Hồi tối, nghe anh bàn với anh Độ đi chào chính quyền và cảm ơn dân, đi hiệp đồng đón nhận quân nhân đi viện về, các gia đình vào thăm mà đơn vị đi rồi...

Rất may là tổ chức đã sắp xếp anh Bảo Cường, anh Lương Tư là cán bộ sư đoàn ở lại chịu trách nhiệm hậu cứ để sư đoàn lên đường một trăm phần trăm.

Làm việc với các đồng chí Đoàn 559 tôi được biết đường Tây Trường Sơn có 900 ki-lô-mét chạy tốt, đường Đông Trường Sơn có 1.050 ki-lô-mét chạy tốt, dọc đường có 46 kho, 113 trạm xăng dầu. Chúng tôi quyết định chọn đi đường Đông Trường Sơn, hiệp đồng 500 xe vận tải nặng mỗi xe chở gọn một trung đội của Đoàn vận tải anh hùng 571. Việc bảo đảm ăn uống, chiến đấu dọc đường đơn vị hành quân lo, đến phạm vi trạm nào thì kết hợp với trạm đó. Chỉ huy đoàn ngồi cùng xe với chỉ huy xe.

Sau bao ngày xa, anh Trân về lại sở chỉ huy ở xã Hoa Thủy, huyện Lệ Thủy, Quảng Bình. Anh gầy hẳn, vành mắt hơi thâm quầng vì mất ngủ, hội họp quá nhiều... Anh nói: Đảng ủy và chỉ huy sư đoàn đã thông qua phương án hành quân chia hai đoàn. Đoàn một gồm toàn bộ Trung đoàn 273 và bộ phận hỏa lực nhẹ, các cán bộ đi trước của sư đoàn do đồng chí Phạm Thành Minh chỉ huy. Đồng chí Vũ Thang và đồng chí Lê Hải Anh (nay là Trung tướng) đi trước hai tuần lễ, số lượng xe cần dùng là 160 xe. Số còn lại đi đoàn 2. Vật chất mang theo Bộ cho 100 xe, đồng chí Trịnh Hồng Phát đang nhận về... Trường hợp vợ đồng chí Phạm Tiễn từ Hải Dương vào trong khi chồng đi vắng, chị ấy trình bày: lấy anh Tiễn từ năm 17 tuổi, nay chị đã 28 tuổi, hai người vẫn chưa có con. Nay chị xin Đảng ủy và Sư trưởng cho gặp chồng để có một đứa con, rồi anh ấy đi bao lâu nữa chị cũng chờ.

Việc này tôi đã bàn với Chính ủy Trần Nguyên Độ là “còn nước còn tát...”. Từ xưa đến nay tôi chỉ nghe có cụm từ này cho người bệnh thập tử nhất sinh. Tôi luôn bất ngờ với quyết định của anh Trân khi anh cho phép những quân nhân nào có vợ hoặc gia đình đến thăm thì được ở lại đi theo đoàn thứ hai. 15 ngày đối với những người vợ lính là vô cùng quý giá. Anh quá hiểu chiến tranh, quá hiểu con người, quá tuyệt vời với lính. Ở trường hợp này ai mà không mang ơn ông Trân, ông Độ.


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 12 Tháng Tư, 2016, 11:46:31 pm

Ngày 28 tháng 2 năm 1975 tới trạm cuối cùng ở B2 bộ phận đi đoàn 1 của Sư đoàn 341 được tách ra làm 2 theo ý định của Miền và Quân đoàn 4.

Số cán bộ và cơ quan đi về hướng đường 20 để chuẩn bị đón sư đoàn. Toàn bộ Trung đoàn 273 vào thế chỗ của Trung đoàn 3 Sư đoàn 9 trên trục đường 13 đoạn Chơn Thành - Bầu Bàng, cùng Sư đoàn 9 và Quân đoàn chiến đấu ở Dầu Tiếng, ở đường số 2 từ Cầu Tào, ngã ba Đất Sét, v.v... Ngày 31 tháng 3 năm 1975, Trung đoàn 273 ở trong đội hình Quân đoàn giải phóng chi khu quận lỵ Chơn Thành, sau đó hành quân về trục đường 20 trong đội hình Sư đoàn 341 đủ. Đến đây tôi mới nhận thức điều anh Trân đã dạy tôi từ hôm ngồi trên xe từ Hà Nội về Quảng Bình, tôi mới thấm cái tình đồng chí, đồng đội ở anh.

Ngày 17 tháng 3 năm 1975, Sư đoàn 7 vừa tiêu diệt địch ở Định Quán, Quân đoàn cho phát triển giải phóng Lâm Đồng - Đà Lạt, giao ngay nhiệm vụ đánh về Túc Trưng, Gia Tân - Gia Kiệm cho Sư đoàn 341. Vừa trải qua chặng đường hành quân cơ giới hơn một ngàn ki-lô-mét, Sư đoàn 341 xuất hiện ở mặt trận hướng đông bắc Sài Gòn. Quân địch ngỡ như ta từ trên trời rơi xuống, còn quân ta khá bỡ ngỡ, mọi trang bị đều ở trên vai, mỗi chiến sĩ phải cõng từ 28 đến 30 ki-lô-gam vào trận.

Sư đoàn 9, Sư đoàn 7 của Quân đoàn 4 đã ở đây hàng chục năm rồi, rất thuộc đường, lại có căn cứ kho trạm nên vào chiến đấu chỉ cần mang một bộ đồ, một cơ số đạn, v.v...

Sau cuộc họp Đảng ủy sư đoàn và các đồng chí chỉ huy trung đoàn, có cả cán bộ địa phương nữa, Chính ủy Trần Nguyên Độ chỉ hút có một điếu thuốc lào rồi vội đi cùng với các chính ủy trung đoàn. Chủ nhiệm chính trị Nguyễn Quế, cán bộ địa phương, anh Trần Văn Trân, anh Vũ Cao, anh Hồ Đình Quý cùng các trung đoàn trưởng, các cán bộ tham mưu lên phương án trên bản đồ. Ngay chiều tối đầu tiên ấy toàn sư đoàn đã vào vị trí chiến đấu. Bị áp lực đè nặng nên chiến đoàn 52 ngụy và lữ đoàn thiết giáp của chúng ở Gia Tân, Gia Kiệm, Dầu Giây, không còn khả năng phản kích. Đây là điều kiện thuận lợi để Sư đoàn 7 giải phóng Lâm Đồng ngày 28 tháng 3 năm 1975.

Ngày 31 tháng 3 năm 1975, Bộ Chính trị có công điện: “Giờ phút quyết chiến chiến lược của quân và dân ta bắt đầu, cần động viên cao độ và nhanh chóng lực lượng của cả nước giải phóng Sài Gòn trong thời gian sớm nhất... không chậm trễ.”.

Ngày 3 tháng 4 năm 1975, tại Sở chỉ huy Quân đoàn 4 ở phía đông cầu La Ngà, anh Trần Văn Trân, anh Trần Nguyên Độ nhận nhiệm vụ và bàn phương án đánh Xuân Lộc - Long Khánh mở cửa vào Sài Gòn - Gia Định.

Thị xã Xuân Lộc - Long Khánh, nằm giữa quốc lộ số 1 cũ và quốc lộ số 1 mới (vòng ra Phan Thiết đi Nha Trang) chỉ cách Sài Gòn 60 ki-lô-mét đường chim bay về hướng đông bắc. Đây là đầu mối giao thông đường sắt đường bộ đi Nha Trang, đi Vũng Tàu, đi Đà Lạt về Biên Hòa. Tất cả các cánh quân hướng đông và đông bắc đều phải qua đây để vào Sài Gòn.

Xuân Lộc là mục tiêu kiên cố bởi nó kết hợp nhà xây, hầm hào kiên cố, kết hợp tiểu khu Long Khánh có sư đoàn 18 ngụy với 8 tiểu đoàn bảo an, 20 đại đội địa phương, hàng ngàn cảnh sát và dân vệ. Từ sau khi Đà Nẵng thất thủ, Mỹ ngụy đã bổ sung thêm trung đoàn 5 thiết giáp, chuyển sở chỉ huy quân đoàn 3 ở Biên Hòa lên Trảng Bom kéo theo quân cơ động để ứng cứu. Tướng Mỹ Uây-en đã khẳng định: “Bằng mọi giá phải giữ Xuân Lộc, nếu để mất Xuân Lộc là mất Sài Gòn...”


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 12 Tháng Tư, 2016, 11:47:09 pm

Ngày 4 tháng 4 năm 1975, thủ tướng Sài Gòn Trần Thiện Khiêm từ chức, Nguyễn Bá Cẩn được cử ra lập chính phủ mới. Mỹ gửi công hàm cho Liên Xô - Trung Quốc đề nghị họp hội nghị Giơ-ne-vơ. So sánh lực lượng ta áp đảo hơn địch, mục tiêu lực lượng địch rất đông dàn trải rộng. Quân đoàn 4 quyết định dùng Sư đoàn 7 hành động trên hướng chủ yếu đánh thẳng vào sư đoàn 18 ngụy; Sư đoàn 341 tiến công trên hướng thứ yếu, đánh thẳng vào thị xã Long Khánh, chi khu quận lỵ, dinh tỉnh trưởng.

Sư đoàn 6 Quân khu 7, Trung đoàn 95B của Bộ đánh ngã ba Dầu Giây, chia cắt Trảng Bom.

Đúng 5 giờ 40 ngày 9 tháng 4 năm 1975, ta nổ súng và kết thúc ngày 21 tháng 4 năm 1975. Trận đánh kéo dài tới 11 ngày, cam go nhất là 3 ngày đầu mùng 9, 10, 11 tháng 4, các ngày sau là truy diệt và đánh quân tăng viện.

Kết quả chung cuộc, ta tiêu diệt 2.056 tên địch, bắt 2.785 tên. Đánh tan 3 chiến đoàn bộ binh, 2 chi đoàn xe bọc thép, một số đơn vị pháo binh và biệt động. Ta thu 48 xe ô tô, 1.499 khẩu súng các loại, phá hủy 16 xe ô tô, 42 xe bọc thép.

Tổng thống ngụy Nguyễn Văn Thiệu vội vã từ chức để mặc Phó tổng thống Trần Văn Hương 71 tuổi, già yếu, mắt kém chịu trận tiếp theo.

Trong phạm vi nhiệm vụ của mình, ngay trong ngày 9 tháng 4 năm 1975, Sư đoàn 341 đã đánh chiếm hết các mục tiêu.

9 giờ 30 phút, Trung đoàn 266, Tiểu đoàn 5 Trung đoàn 270 đã tràn vào thị xã. Chiến sĩ Phan Lê Canh và Phan Văn Trong của Trung đoàn 270 phối hợp với chiến sĩ Nguyễn Thanh Sơn và chiến sĩ Nguyễn Minh Đức cắm cờ trên nóc dinh tỉnh trưởng. Ngày 10 và 11 tháng 4 năm 1975, chiến sự diễn biến vô cùng ác liệt. Bộ đội ta vẫn giữ từng căn nhà, ngách phố. Công lao của Đảng ủy và người chỉ huy Sư đoàn 341 đã tạo lên sức mạnh, lòng dũng cảm, sự chịu đựng ác liệt. Anh hùng Phạm Văn Lái xuất hiện ở đây.

Sau chiến thắng Xuân Lộc, bọn địch ở vòng ngoài và bọn tàn binh các nơi dồn về lập tuyến phòng thủ ở Long Bình, Trảng Bom, Biên Hòa, Bàu Cá, Tam Hiệp dày đặc hai bên quốc lộ 1 vào Sài Gòn. Khu vực Tam Hiệp có lữ đoàn dù số 3 thiết giáp và quân biệt động, khu vực Long Thành - Nước Trong có lữ đoàn 258 thủy quân lục chiến. Ở Trảng Bom còn nguyên quân tăng cường từ Biên Hòa lên kết hợp với quân ngụy tháo chạy ở các nơi về phòng thủ dày đặc tại dốc Ông Hoàng, ga Long Lạc, suối Đĩa, Bầu Cá, ấp Hưng Nghĩa; chi khu quận lỵ có tiểu đoàn 368.

Về phía ta, cấp trên đã quyết định mở chiến dịch Hồ Chí Minh từ ngày 27 tháng 4 năm 1975. Trung tướng Lê Trọng Tấn - Phó Tư lệnh, Trung tướng Lê Quang Hòa - Phó Chính ủy Bộ Chỉ huy chiến dịch đã lệnh cho Quân đoàn 4 sử dụng Sư đoàn 341 kết hợp với địa phương Đồng Nai đánh dứt điểm Trảng Bom vào ngày mở màn chiến dịch 27 tháng 4 năm 1975, sau đó phát triển vào Biên Hòa - Sài Gòn.


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 12 Tháng Tư, 2016, 11:48:28 pm

Ngày 24 tháng 4 năm 1975, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 4 đã tăng cường cho Sư đoàn 341 một tiểu đoàn xe tăng, một tiểu đoàn pháo cao xạ, một đại đội pháo 105 mm và giao nhiệm vụ đánh Trảng Bom.

Sau khi nhận nhiệm vụ, Sư đoàn đã tính toán thời gian mọi công việc phải làm cho kịp, rồi thông qua dự kiến quyết tâm của tham mưu trưởng, tổ chức đi trinh sát nghiên cứu tình hình mục tiêu trận đánh.

Toàn sư đoàn đã tổ chức quán triệt nhiệm vụ và thực hành công tác chuẩn bị chiến đấu.

Sau 11 ngày đánh Xuân Lộc, chính ủy Trần Nguyên Độ quá thèm thuốc lào! Hôm nay có khoảng cách giữa hai trận đánh, anh hút ba điếu liên tục rồi từ từ thả khói thuốc cuồn cuộn bay cao... thật quá đã. Bất giác anh đứng dậy hỏi Chủ nhiệm chính trị Nguyễn Quế đã đủ chưa? Rồi anh dõng dạc xác định trước hội nghị Đảng ủy sư đoàn mở rộng ngay tại lô cao su bên cạnh đường 20 khu Bình Lộc: “Đây là vinh dự cho Sư đoàn 341 chúng ta, mới vào chiến trường đã được tin tưởng giao nhiệm vụ. Chúng ta phải chiến thắng đúng thời gian mệnh lệnh, chậm trễ là ảnh hưởng toàn mặt trận”.

Trận đánh hiệp đồng binh chủng quy mô cấp sư đoàn tăng cường vào mục tiêu đông quân, vũ khí nhiều, tính chất ngoan cố, dễ đụng chạm chính sách. Thời gian trận đánh là tiếng kèn xung trận của chiến dịch Hồ Chí Minh trên hướng đông.

Khói bụi trận đánh Xuân Lộc đã khiến Sư đoàn trưởng Trần Văn Trân bị viêm mũi, anh phải lấy khăn dụi dụi làm đỏ bừng khuôn mặt. Anh Trân phụ với đồng chí Trần Hường - Trưởng ban Tác chiến trải tấm bản đồ cho song song với đường 20 trên tấm bản đồ - mục tiêu Trảng Bom được tô đậm, mục tiêu Biên Hòa được tô bằng hàng kẻ phụ, mục tiêu Sài Gòn được tô đậm, đứt đoạn. Sư đoàn trưởng phân tích rất kỹ về khả năng của địch, tính chất, tinh thần, chờ gọi đồng chí Lê Hải Anh, Hoàng Trung Trực vừa đánh Chơn Thành về rồi mới kết luận về địch.

Khi phân tích địa hình, anh cho mời chị Nguyễn Thị Ngọc Liên (Hai Liên - Bí thư Huyện ủy Trảng Bom) và hai du kích thông thạo địa hình vào trình bày đâu là chi khu quận lỵ, đi đường nào vào nhanh, đâu là dốc Ông Hoàng, là ga Long Lạc, là suối Đĩa, v.v... sau đó anh mới kết luận về địa hình. Chị Hai Liên tận dụng dịp may hiếm có tranh thủ phổ biến luôn nghị quyết của Khu ủy miền Đông, của Biên Hòa và yêu cầu bắn pháo phải trúng đích kẻo vào nhà dân thì không giữ được nguyên vẹn, các đồng chí cứ đánh đến đâu là dân ào lên đến đó, tôi sẵn lòng nhường căn cứ Huyện ủy để anh Ba Trân làm sở chỉ huy. Giờ nghỉ, anh trao đổi rất kỹ với anh Phạm Thành Minh, Phó chính ủy sư đoàn, các chính ủy trung đoàn và chị Hai Liên về chính sách sau giải phóng, về tù binh, quân nhân đi lạc, v.v...


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 12 Tháng Tư, 2016, 11:49:07 pm

Vào giờ thứ hai, anh Ba Trân hỏi ngay chủ nhiệm hóa học Trần Viện về tác hại của hai quả bom CBU địch thả xuống Bảo Vinh A hôm đánh Xuân Lộc. Đồng chí Trần Viện báo cáo CBU gây thương vong bằng sóng chấn động không có hóa học, ở Trảng Bom tôi đã cho trinh sát đi với Tham mưu trưởng Vũ Thang rồi. Anh hỏi về việc đạn pháo đem từ Quân khu 4 vào, đồng chí Lê Đình Cúc báo cáo theo lệnh của Sư đoàn phó Vũ Cao trận Trảng Bom 1.000 quả, chợ Sặc 500 quả, Biên Hòa 2.000 quả, còn lại dự trữ để vào Sài Gòn. Anh nói như ra lệnh cho đồng chí Cúc tìm gặp chị Hai Liên để hiểu rõ tình hình dọc Hố Nai - Biên Hòa vì quá nhiều dân, nhà thờ...

Sau đó anh trao đổi ngắn với Ban chỉ huy, Thường vụ Đảng ủy rồi kết luận. Với giọng Huế ấm áp thiết tha, dứt khoát, anh nói: Sư đoàn 341 được mang tên Sư đoàn Sông Lam, lại được đánh trận mở màn cho chiến dịch tổng công kích vào Sài Gòn, chiến dịch mang tên Bác Hồ kính yêu. Tất cả chúng ta quyết đánh tiêu diệt lớn trận này! Cả hội nghị giơ tay quyết tâm, một khí thế bừng bừng. Anh Trân cầm que chỉ huy đặt vào tấm bản đồ đây là mục tiêu chủ yếu có hầm ngầm chỉ huy, Trung đoàn 270 khi xung phong phải sớm phát hiện để tiêu diệt kiểm tra khối bộc phá và tổ chức đánh đồng thời cho tiểu đoàn 4 chiếm ngay suối Đĩa... Đồng chí Nguyễn Thanh Vân báo cáo: Rõ!...

Lần lượt các lực lượng được anh Trân dặn dò rất kỹ. Cuối cùng anh phái tôi (Vũ Thang) - Tham mưu trưởng đi theo hướng Trung đoàn 270. Anh ở giữa Trung đoàn 273 - 270 nơi hậu cứ của chị Hai Liên. Các mũi, các hướng vừa trinh sát bổ sung, vừa chiếm lĩnh bí mật đúng 4 giờ ngày 27 tháng 4 năm 1975, nổ súng.

Trận đánh diễn ra gần đúng như phương án nhiệm vụ được giao. Chúng tôi cảm nhận anh Trân nói không thừa một câu, không thiếu tình huống nào, cứ như là cái nghề chiến đấu của anh. Với lực lượng Sư đoàn hoàn toàn áp đảo, ta làm chủ lúc 10 giờ ngày 27 tháng 4 năm 1975 (chỉ mất 5 giờ đồng hồ). Với trình độ tinh thông, vũ khí mạnh, kỷ luật nghiêm minh, sức mạnh của Sư đoàn 341 vào thời điểm này không còn kẻ địch nào ngăn nổi. Ngày 28, 29, 30 lần lượt hành tiến tiến công. 21 giờ ngày 27 tháng 4 năm 1975, anh Trân lệnh cho tôi rời khỏi Trung đoàn 270 tìm gặp Trung đoàn 226 đang ở Trảng Bom để tổ chức đội hình hành tiến. Trời tối lại bị pháo binh địch bắn chặn khi phát hiện đội hình xe tăng, tôi hỏi anh Miên anh Thuật đâu? Thấy chiến sĩ ngồi quá cao tôi hỏi các em có sợ không, thì được trả lời đi giải phóng miền Nam vào đến đây rồi còn sợ gì, nếu có hy sinh cũng là cần thiết thủ trưởng ơi. Tôi thầm nghĩ trong bụng đánh Xuân Lộc, Trung đoàn 266 anh hùng thật, song thương vong rất lớn. Thế mới biết lúc còn ở Quảng Bình, trung đoàn được ông Trân - ông Độ xếp loại vững mạnh toàn diện.

Sau khi quét sạch địch ở dốc Ông Hoàng, ở ga Long Lạc, ở suối Đĩa, khoảng 14 giờ ngày 28 tháng 4 năm 1975 qua máy của anh Thuật, anh Miên, anh Trân bảo tôi cùng anh Thuật leo lên gác chuông để quan sát chợ Sặc, Biên Hòa. Anh điều pháo của anh Cúc lên chuẩn bị và cho người đón anh Cúc. Tôi chưa xuống khỏi gác chuông đã thấy xe anh Cúc vụt chạy qua lên sát suối bị xe tăng và bộ binh địch bắn chặn lại. Rất may là anh Cúc đi có đem theo trinh sát và pháo cao xạ 37 mm, anh hạ nòng chiến đấu vừa kịp lúc Trung đoàn 266 vượt lên. Hú vía!...


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 12 Tháng Tư, 2016, 11:50:52 pm

Đêm 28 tháng 4 năm 1975, tình hình bức bối quá, anh Trân giao Sở chỉ huy lại cho anh Vũ Cao, anh Trần Nguyên Độ và anh Phạm Thành Minh. Anh cùng sĩ quan tác chiến Lê Hải Anh vượt lên giao nhiệm vụ cho Trung đoàn 266 phải đột kích bằng được vào Biên Hòa, Trung đoàn 273 vòng đánh vào Hốc Bà Thức, vào sân bay. Trung đoàn 270 vượt qua Biên Hòa phát triển vào Sài Gòn qua ngã Dĩ An.

Ngày 30 tháng 4 năm 1975 ở Biên Hòa do xe tăng quá nặng, quá to không qua được cầu, anh Trân lệnh cho toàn bộ xe tăng và Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 273 quay lại xa lộ gặp anh đi cùng đường với Sư đoàn 7.

Đội hình các trung đoàn tiến vào Sài Gòn là Trung đoàn 270 có một đại đội vào Tao Đàn (càfe Trầu Cau bây giờ) còn lại trải dài từ quận 3 đến Dĩ An. Trung đoàn 273 vào ngả biệt khu thủ đô, trường đua Phú Thọ. Trung đoàn 266 vào ngã tư Hàng Xanh, Bình Thạnh, Gò Vấp.

Trung đoàn pháo binh đồng chí Cúc cho kéo pháo 85 và 37 mm ra tuốt cảng Sài Gòn, khu hải quân ngụy.

Các cánh quân hợp điểm, ai ai cũng muốn phải đến tận nơi, phải mắt thấy, tay sờ vào mục tiêu mới sướng, vì vậy mà kẹt đường, đội hình bị chia cắt, thông tin liên lạc tắc nghẽn. Mấy năm nay có lúc nào tôi xa anh Trân nửa bước, nếu tính kỹ thì tôi là người gần anh hơn cả chị Hà nhiều! Vậy mà lúc này anh đi đằng anh, tôi đi đằng tôi. Ấy thế mà tới Sài Gòn đã thấy anh cho sĩ quan tác chiến Lê Hải Anh đưa tôi và sư đoàn bộ đang ở Trần Hưng Đạo, quận 1 về đường Tô Hiến Thành, trại Đào Bá Phước của ngụy quyền Sài Gòn.

Tại đây anh Trân đã ra mệnh lệnh khẩn cấp:

1. Toàn tuyến hậu cần của sư đoàn dừng và quay lại Dầu Giây, đồn điền Ông Quế triển khai cấp cứu bộ đội, tăng gia tự túc.

2. Sở chỉ huy cơ bản về lại Biên Hòa – Hốc Bà Thức cấp cứu bộ đội, kiểm kê, tổ chức đón người đi lạc.

3. Sở chỉ huy nhẹ ở trại Đào Bá Phước, các đại đội trực thuộc về sân gôn Phú Nhuận.

4. Trung đoàn pháo binh về ngã ba Tam Hiệp - Long Bình triển khai phòng không, tăng gia.

5. Các trung đoàn bộ binh tiếp tục truy quét, tuần tra canh gác bảo vệ các mục tiêu phục vụ ngay cho ngày 1 tháng 5 năm 1975.

Năm nay, tôi đã 71 tuổi. Nhiều đêm nghĩ về anh Trân, cái mệnh lệnh ấy vẫn sống mãi đến hôm nay và không thể nào quên. Bởi các địa danh trong mệnh lệnh như đồn điền Ông Quế, Hốc Bà Thức, ngã ba Tam Hiệp đang có 37 gia đình của Sư đoàn 341. Ở Sài Gòn đang có 51 hộ gia đình của Sư đoàn 341. Tôi đã thay anh Trân dự hàng trăm đám cưới của con em những người chiến sĩ Sư đoàn, đám cưới, đám tiệc nào cũng gợi nhớ tên anh.


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 12 Tháng Tư, 2016, 11:52:23 pm

Nhiệm vụ quân quản:

Đêm 30 tháng 4 năm 1975, tại dinh Độc Lập, Quân đoàn 4 phân công Sư đoàn 7 làm nhiệm vụ quân quản các quận 1, 2, 3, 9, bảo vệ các mục tiêu dinh Độc Lập, đài phát thanh, khu Bộ tư lệnh hải quân ngụy, cảng Bạch Đằng.

Sư đoàn 9 quân quản các quận 5, 10, Tân Bình, bảo vệ nhà máy điện Chợ Quán, cầu chữ Y và ba cầu lớn từ quận 5 sang quận 8, khu Bà Quẹo, khu Chợ Lớn. Sư đoàn 341 là lực lượng cơ động, riêng Trung đoàn 266 quân quản các quận 6, 7, 11, Gò Vấp và khu nội đô.

Rạng sáng ngày 1 tháng 5 năm 1975, công nhân và nhân dân Sài Gòn đón nhận ngày Quốc tế Lao động đầu tiên dưới chính quyền cách mạng. Đứng trước các công sở, kho tàng, đường phố là các chiến sĩ quân đội nhân dân Việt Nam quân phục chỉnh tề, nét mặt vui tươi trẻ trung. Đặc biệt Sư đoàn 341 quần áo còn xanh mới có đồng chí còn giữ bộ quân hàm binh nhất, da trắng hồng chưa có râu.

Ngày 7 tháng 5 năm 1975, Ủy ban Quân quản thành phố Sài Gòn - Gia Định do Thượng tướng Trần Văn Trà làm Chủ tịch ra mắt nhân dân.

Là người gần gũi với anh Trần Văn Trân, anh Trần Nguyên Độ, tôi hiểu nhiệm vụ quân quản là nặng nề đối với Quân đoàn là tám tháng, đối với Sư đoàn 341 là hai năm với một thành phố lớn như Sài Gòn - Gia Định.

Từ sau năm 1954, ngụy quân, ngụy quyền ở miền Nam nước ta đã biến Sài Gòn - Gia Định, Chợ Lớn thành đô thị lớn, nơi đầu não của chế độ chống phá cách mạng, nơi tập trung kinh tế chính trị, ngoại giao, quân sự với một không gian và một diện tích rất rộng 2.000 ki-lô-mét vuông, dân số 3,5 triệu. Địch chia làm 12 quận có 268 cấp phường, trong phường có hệ thống chính quyền đến khóm.

Ngoại thành có 6 huyện: Củ Chi, Hóc Môn, Thủ Đức, Bình Chánh, Nhà Bè, Duyên Hải, có 83 xã diện tích 1.889 ki-lô-mét vuông. Số liệu điều tra:

Nam giới 1.522.972 người
Nữ giới 1.797.072 người
Nội thành 2.719.129 người
Ngoại thành 720.819 người
Hoa kiều 870.000 người

Các nước khác 8.000 người (gồm Pháp, Canada, Mỹ, Nhật, Phi Luật Tân...)


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 12 Tháng Tư, 2016, 11:53:08 pm

- Về thương mại:

Có 1.690 công ty nước ngoài, 30 ngân hàng, 300 đại diện các nhà buôn, 2.230 tư sản xuất nhập khẩu, 366.000 làm nghề kinh doanh, có 5 khu thương xá lớn, 220 khách sạn với 7.720 phòng chứa được 16 ngàn khách.

Tình hình đặc điểm trên có biết bao tình huống phải xử trí bằng quân sự, bằng luật pháp, bằng tình người. Hàng trăm vụ việc phải trấn áp bọn phản động lưu manh, nhen nhóm “phục quốc” bạo loạn, hàng trăm vụ trá hình nói xấu cách mạng, chia rẽ đoàn kết. Hàng tấn vũ khí, thuốc nổ, vứt bỏ ở cống rãnh, hầm hào, v.v... Đây là những thứ mà kẻ địch vứt bỏ trong thế hoang mang, nên rất khó kiểm soát và phải thu gọn.

Bọn lưu manh lợi dụng cướp giật tài sản của dân, bọn gái điếm đói ăn, đói tình dụ dỗ đủ kiểu...

Bộ đội Sư đoàn 341 đã vượt qua tất cả, tuyên truyền vận động nhân dân, bớt tiêu chuẩn ăn từ 7 lạng xuống còn 5 lạng mỗi người một ngày để cứu đói cho dân, được nhân dân ủng hộ và tin yêu.

Ngày 2 tháng 9 năm 1976, Đại tướng Võ Nguyên Giáp vào thăm, thấy sư đoàn làm tốt nhiệm vụ quân quản, được nhân dân và chính quyền tin yêu, lại tăng gia rau tự túc, nuôi gà công nghiệp mà vẫn duy trì nền nếp chính quy mẫu mực, Đại tướng đã nhận xét các đồng chí Sư đoàn 341: “Vào thành vững như thành…”

Tôi lướt qua những đặc điểm cơ bản trên, để qua đó thấy được sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng đối với đất nước, với quân đội. Cũng như nêu lên những kỷ niệm, qua những con số cụ thể, để thấy được công lao của những người chỉ huy mà Sư đoàn trưởng Trần Văn Trân là một trong những người tiêu biểu.

Tôi viết cảm nghĩ về anh Trân khi anh ở Sư đoàn 341 nhưng tôi biết rằng anh đã ở Sư đoàn 325, và nhiều đơn vị nữa. Đâu đâu cũng in đậm dấu ấn về anh, rồi anh lại lên cấp trên, trở thành vị tướng của quân đội ta. Những gì anh Trần Văn Trân để lại là rất lớn, rất nhiều và còn đọng mãi với thời gian...
Ngày 23-11-2006
V.T


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 12 Tháng Tư, 2016, 11:56:34 pm

CỰU CHIẾN BINH TRẦN VĂN TRÂN
Đại tá Nguyễn Đình Sử1

Đầu năm 1973 tôi chiến đấu phía tây Thành cổ Quảng Trị, được tin ta và địch đang trao trả tù binh bên Nham Biều, sông Thạch Hãn - Quảng Trị, chiếc tàu thủy chở tù binh ra trao trả có anh Ba Trân là Sư đoàn trưởng, ta đã đưa xe Commanca từ Hà Nội vào đón. Tên nữ trung úy nguỵ phụ trách áp tải dẫn đoàn tù binh từ miền Nam ra trao trả, té ngửa khi biết người tù binh mà chúng vừa trao trả chính là một cán bộ cấp cao của Việt cộng. Tôi được nghe kể, tên này trước đây vốn là người của ta, khi vào Nam y thị bị địch bắt dọa dẫm, mua chuộc rồi làm cho địch. Bọn địch tin dùng giao cho hắn theo dõi tù binh, chiêu hồi.

Khi bị địch bắt, anh Trần Văn Trân khai là y tá nhờ bởi cái túi thuốc và một quyển sách chữa bệnh bằng thuốc nam, cây thuốc, bài thuốc y học cổ truyền. Bọn địch tin là đúng, thế rồi tôi bị thương ra Bắc không biết gì thêm.

Đến khi tôi về hưu, nhận đất ở đường Cộng Hòa, phường 12, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 1993 tôi gặp anh Ba Trân lần đầu tiên, thấy anh cao to, khỏe, trắng trẻo, đẹp trai, tính tình cở mở, hiền hậu, chân tình giúp đỡ mọi người. Chị Hà, vợ anh, nhà anh chị cách nhà tôi khoảng 100 mét. Tôi là Chi hội trưởng Hội Cựu chiến binh và anh là hội viên, hằng ngày anh đi qua nhà tôi luôn. Bên cạnh nhà tôi, có chị Y. mua hai lô đất, mở bốn máy cưa chạy cứ ầm ầm, bụi bay mù mịt, ngoài ra còn sử dụng xăng thơm làm ảnh hưởng đến sức khỏe người cao tuổi, người mắc bệnh hiểm nghèo. Tôi đã làm đơn do các cựu chiến binh ký, đề nghị với anh Ba có uy tín giải thích thuyết phục chị Y. Anh Ba Trân nhận lời, rất nhiệt tình nói với chị Y. Và kết quả là chị này đã chuyển đi nơi khác, việc xăng thơm và máy chạy lan tỏa ảnh hưởng sức khỏe của các hội viên và nhân dân, tôi không phải làm đơn lên Vệ sinh môi trường của phường nữa.

Lại một chuyện nữa anh băn khoăn, trăn trở trong lòng là anh có ý định mở lớp cho những mảnh đời của các cháu lang thang cơ nhỡ, đi lượm ve chai để kiếm sống, các em đánh giầy. Anh khoe là: tớ đã viết được hai bài giảng. Việc mới bàn thì anh đã vội ra đi, thế là dang dở. Ba bốn năm trời ở với nhau, các anh chị, đối với các cháu còn nhiều chuyện kể, nào là chuyện chiến đấu, chuyện nhà trường, chuyện to, chuyện nhỏ...

Gần trưa ngày 29 tháng 3 năm 1997, chúng tôi nghe tin anh Ba Trân đột ngột đi cấp cứu ở Bệnh viện Thống Nhất. Chúng tôi không kịp hỏi thêm, tôi và anh Hai Nhường hớt hơ, hớt hải chạy đến trước nhà anh Bê có chiếc ô tô con nhờ anh lái xe anh đưa chúng tôi vào bệnh viện. Vào gần đến sân bệnh viện, gặp bác sĩ bảo bác Trân mất rồi!

Tôi và anh Hai Nhường trở về buồn bã. Chúng tôi bàn với nhau là phải họp ban liên lạc truyền thống Học viện Lục quân. Khi chúng tôi đang họp thì được tin gia đình đã đưa anh Ba Trân về nhà. Chúng tôi liền chạy sang. Thấy chúng tôi đến mọi người đều giãn ra để chúng tôi chải đầu, vuốt tóc, mặc quần áo ngay ngắn và xếp huân chương lên ngực cho anh. Người nhà và bà con hàng xóm xúm xít rất đông. Khoảng 12 giờ chúng tôi về họp tiếp và chiều tối triệu tập họp chi hội Cựu chiến binh, chủ yếu là thông báo hội viên Ba Trân đã mất và phân công túc trực, thông báo cho anh em và một số đơn vị cần thiết. Anh Phát - đại tá, Chủ tịch Cựu chiến binh phường 12 và anh Vận cũng là đại tá, ủy viên ban chấp hành Cựu chiến binh cũng sang gặp tôi để bàn túc trực và giúp đỡ gia đình.

Mấy ngày đêm chúng tôi túc trực bên linh cữu anh Ba Trân trong ánh đèn và nến, hương hoa nghi ngút. Chị Hà và các cháu vận đồ tang. Mọi người đến đây, ai nấy đều mặt mày ủ rũ, đau buồn. Các đoàn thay nhau đến viếng, tiếng giới thiệu giọng Huế chầm chậm, da diết: Vô cùng thương tiếc đồng chí Thiếu tướng Trần Văn Trân vang lên bùi ngùi, xúc động. Buổi sáng, sau mấy ngày làm lễ đưa tang, chúng tôi làm tiêu binh từ nhà ra đến đường Cộng Hòa, hai bên con hẻm người đứng chen chúc, đông nghẹt, lưu luyến tiễn đưa một vị tướng về nơi an nghỉ cuối cùng.

Ra đến đường Cộng Hòa, lúc bấy giờ chưa xây dải phân cách, khi đoàn xe tang đi qua, nhiều phương tiện tham gia giao thông đều tự giác vòng sang đường K300 để nhường đường. Chúng tôi lên xe đi đến nghĩa trang thành phố tiễn biệt anh Ba Trân lần cuối. Ai cũng bùi ngùi thương tiếc anh, người cựu chiến binh cởi mở, tốt bụng với đồng chí, đồng đội, với bà con tổ dân phố.
N.Đ.S
____________________________________
1. Chi hội trưởng Cựu chiến binh nơi anh Trân sinh hoạt.


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 12 Tháng Tư, 2016, 11:58:40 pm


CHÚNG TÔI ĐẾN VỚI NHAU
Nhà giáo Võ Bích Hà1

Anh Trần Văn Trân và tôi quen nhau do mối quan hệ đồng đội, đồng chí, đồng hương. Ba tôi là ông Võ Lương nguyên là Tham mưu trưởng Trung đoàn Trần Cao Vân - 101 của tỉnh Thừa Thiên - Huế. Trước khi vỡ mặt trận Huế, ba tôi ở trong Ban huấn luyện “Trường Thanh niên Tiền tuyến” Huế, cùng với các ông Phan Tử Lăng, Hà Văn Lâu, Cao Văn Khánh...

Bấy giờ, anh Trân vừa gia nhập Vệ quốc quân, là lính của Trung đoàn Trần Cao Vân. Vốn tinh nghịch, hiếu động thích đùa, vào Vệ quốc đoàn anh làm liên lạc, nấu ăn, chiến đấu kiêm luôn việc chăn dắt ngựa cho ba tôi.

Trung đoàn có hai con ngựa, chắc là lấy của Tây, thỉnh thoảng ba tôi về thăm nhà cưỡi ngựa trông rất oai phong. Huế vỡ mặt trận, bộ đội rút lên chiến khu Dương Hòa. Ba tôi đi rồi, mấy mẹ con dựng căn nhà tranh ba gian nhỏ ở làng An Ninh Thượng (nay là phường Hương Long). Một thời gian sau, nhà chúng tôi bị đốt cháy giữa đêm khuya, cùng với một nhà nữa ở xóm trên. Sau này chúng tôi được biết vì cả hai gia đình đều có người đi theo kháng chiến chống Pháp. Ba mẹ con tôi về ở nhờ nhà bà ngoại gọi là bà Tôn Sim, bà cho ở căn nhà ven sông Hương gần Máy nước, chợ Kim Long (Kim Luông). Đây là vùng đệm giữa ta và địch, lính từ đồn Văn Thánh - Võ Thánh về thành phố Huế phải qua con đường Kim Long - Thiên Mụ này, địch thường bị du kích đánh úp bất ngờ, chúng rất hoảng loạn nhưng người mình lại rất vui mừng.

Năm 1954, hòa bình lập lại. Ba mẹ con tôi ra Bắc tìm ba tôi. Căn nhà đó ông bà ngoại tôi bán lại cho “Mụ Ngữ”, người bán bánh ướt thịt nướng nổi tiếng tại làng Kim Long, sau này là quán “Huyền Anh” có tên trong danh mục ẩm thực được giới thiệu cho các tour du lịch khi về Huế.

Ra Hà Nội, gặp ba tôi, lúc đó ông là Trung tá công tác tại Cục Quân lực - Bộ Tổng Tham mưu. Hai chị em chúng tôi được chuyển vào ở nội trú học sinh miền Nam tập kết ra Bắc. Tôi đang học lớp đệ ngũ trường Đồng Khánh (Huế), nay chuyển ra học trường Trưng Vương, Hà Nội cho phù hợp. Học hết cấp II, tôi ở nội trú trường Chu Văn An, rồi về trường cấp III Lý Thường Kiệt (nay là trường Việt Đức), thầy Hiểu, thầy Vận là Hiệu trưởng. Chúng tôi học văn với thầy Lê Đình Kỵ, thầy Lê Trí Viễn, học toán với thầy Hoàng Tụy... Tôi được người quen là bộ đội (cậu Đào - Cục Vận tải) tìm mướn cho một căn phòng nhỏ ở nhà số 8 ngõ Hội Vũ - Hà Nội.

Ba tôi ở trong đơn vị, chị gái tôi Võ Thị Như Huê học y sĩ ở Phủ Lý. Tôi ở nội trú tại trường, chủ nhật được nghỉ về nhà, tối phải trở lại trường. Anh Trân đóng quân ở Quảng Bình (Sư đoàn 325) có dịp ra Hà Nội là đến thăm thủ trưởng cũ. Nhất là được biết thủ trưởng cũ có hai cô con gái mới ở Huế ra, tuổi chưa tới đôi mươi, đang đi học, trông cũng có duyên nên càng năng lui tới. Từ Quảng Bình ra, anh luôn có quà “đặc sản” của khu Bốn: mắm ruốc, mắm nêm, cam Vinh, v.v... là những thứ mà cả gia đình tôi đều rất thích.
______________________________________
1. Phu nhân của Thiếu tướng Trần Văn Trân.


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 12 Tháng Tư, 2016, 11:59:38 pm

Thời gian anh Trân đi học văn hóa, ngoại ngữ ở Kiến An, Hải Phòng, gần như tuần nào cũng có mặt ở nhà tôi, ở lại ăn uống thân tình với gia đình.

Thấy anh năng lui tới gia đình tôi, bà con tốt bụng ở khu phố hỏi mợ tôi:

- Anh bộ đội, đội mũ có lưới, mặc áo đại cán bốn túi, cao cao, trắng trẻo như người lai Tây, hay đến nhà hai bác, chắc là để ý cô Hà?

Một hôm, tôi ở trường về. Ba tôi gọi tôi, cụ có vẻ lúng túng. Ba tôi rất hiền, cha con ít khi tâm sự với nhau, nhưng cụ rất đỗi thương vợ con. Cụ bảo:

- Trân nhờ các anh trong Ban chỉ huy sư đoàn đến đặt vấn đề với ba mợ - muốn tìm hiểu con!

Cụ nói thêm: “Trân là đứa có triển vọng”.

Có lẽ tôi là con gái của thủ trưởng cũ nên anh ấy đi bằng con đường tổ chức trước, để bày tỏ tình cảm với tôi.

Hè năm 1961, tôi tốt nghiệp Đại học Sư phạm Hà Nội, anh ấy bàn với tôi: nên xin về trường cấp III Vinh (Nghệ An) dạy vì anh vẫn đóng quân ở Quảng Bình (Sư đoàn phó 325). Anh giải thích: mẹ con em ở Vinh, hàng tháng anh ra Vinh họp Đảng ủy Quân khu nên sẽ có nhiều dịp về thăm nhà. Anh nói thêm, anh ở Quảng Bình chắc không lâu nữa vì tình hình chiến sự không ổn.

Anh đi ô tô chở hai mẹ con tôi từ Hà Nội về Nghệ An, đến thẳng trường cấp III Vinh rồi anh về lại Quảng Bình, lúc đó khoảng 3 giờ chiều. Vào hè, trường vắng lặng, công trường xây dựng còn ngổn ngang, chỉ có một bác bảo vệ trường.

Hai mẹ con tôi tá túc trong gian lều tranh tuềnh toàng, trống huếch trong gió Lào thổi ràn rạt khô cả người - là lán của công nhân xây dựng mới vừa rút đi, chỏng trơ cái sạp tre cũ mục, không đèn, không điện. Chợ Vinh cách trường 2 ki-lô-mét, lại không có phương tiện đi lại, lạ nước lạ cái, bơ vơ, ngỡ ngàng! Tối đến, chiếc loa phóng thanh treo từ đầu cột điện ngoài ngã ba đường cái phát bản nhạc sérénade của Schubert - nó mới hay làm sao, da diết làm sao! Trong bối cảnh đó, bản nhạc khiến tôi xúc động và sao xuyến quá, để lại dấu ấn sâu đậm trong tâm khảm tôi, lần đầu theo chồng đi nhận công tác ở nơi xa.

Sáng hôm sau, thầy Nhượng - Hiệu phó của trường tới, thấy mẹ con tôi, thầy hỏi:

- Cô đến đây làm gì?

Tôi trình quyết định cho thầy. Thời gian sau, tôi được trường phân cho một gian phòng nhỏ mới xây xong khoảng 10 mét vuông, cho ba mẹ con và bà trông cháu ở. Anh em ở đơn vị đến chơi, nếu quá hai người thì không có chỗ để ngồi! Mỗi khi anh Trân về, muốn cải thiện bữa ăn rất khó xoay trở cho việc nấu nướng.


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 13 Tháng Tư, 2016, 12:00:59 am

Hồi đó trong trường, giáo viên các tỉnh xa ở nội trú tại trường, ăn cơm bếp tập thể, nhà bếp thường phục vụ món cá ướp nghệ nướng. Mấy mẹ con tôi cũng ăn cơm tập thể. Thời đó, chợ Vinh thức ăn vừa tươi ngon, lại rẻ, nhất là cứ 5 ngày lại có một phiên chợ, cũng hay. Anh Trân rất có tài xoay trở, lại khéo biết chế biến các món ăn nên gia đình tôi luôn có những bữa ăn ngon lành. Nhiều bạn bè của tôi cũng hết sức thán phục tài nấu ăn của anh ấy. Mỗi khi bạn bè đến chơi nhà, chúng tôi lại rất hiếu khách. Anh luôn hồ hởi, chân tình, bông đùa tiếp đón bạn bè nhiệt tình. Anh thường trổ tài nấu các món ăn, biết chọn những món ăn thích khẩu cho từng người, làm cho buổi gặp gỡ bạn bè càng thêm phần phấn chấn.

Anh em đơn vị đến chơi, thấy chúng tôi ở chật chội bảo tôi:

- Chị nói với anh, xin một phòng mà ở, nhà của Quân khu mới xây cho gia đình cán bộ quân đội.

Tôi cũng có dịp theo anh đến chơi gia đình anh chị Quách Sỹ Kha. Anh Kha là Chính ủy Sư đoàn 325, anh Trân là quyền Sư đoàn trưởng. Thấy gia đình anh chị ở hai gian tương đối rộng rãi, tiện nghi khá đầy đủ (so với thời gian đó). Tôi đem ý đó tâm sự với anh. Anh bảo:

- Anh sẽ không ở sư đoàn lâu nữa đâu, vì tình hình chiến sự sẽ phức tạp, hơn nữa gia đình anh chị Kha đông con hơn mình.

Anh nói sao thì tôi nghe vậy, tuy trong lòng cũng có chút ưu tư. Thời đó “cái ăn, cái ở” sao mà giản đơn đến thế!

Quả đúng như vậy, sáng ngày 5 tháng 8 năm 1964, máy bay Mỹ ném bom bắn phá Quảng Bình rồi Nghệ An, Thanh Hóa.. Trường học sơ tán, tôi về phân hiệu Quán Hành, Nghi Lộc. Ban ngày ba mẹ con theo đường giao thông hào, bồng bế nhau vào ở nhà dân, tối quay về trường thắp đèn dầu dạy học. Thực hiện lời Bác Hồ dạy: "Dù khó khăn đến đâu cũng phải dạy thật tốt, học thật tốt”.

Chiến tranh leo thang ngày càng ác liệt. Trước khi đi B, anh Trân đưa các con ra Hà Nội gửi nhờ ông bà ngoại. Tôi ở lại dạy hết năm học rồi ra sau.

Năm học kết thúc, tôi đạp xe từ Vinh ra Hà Nội hơn 300 ki-lô-mét, với bụng mang thai ba tháng. Ngày nghỉ, đêm đi, cả tuần lễ mới đến được Hà Nội.

Vừa đặt chân đến nhà, chưa kịp thở, các bác phụ trách tổ dân phố (20 Lê Thánh Tông) lập tức đến vận động mẹ con tôi phải sơ tán khỏi Hà Nội ngay! Mợ tôi bảo:

- Các cháu mới từ Nghệ An ra, chưa kịp hoàn hồn, các bác ạ!

Tôi chạy vạy mãi mới xin được Bộ Giáo dục cho về tỉnh Hà Tây ở xã Đại Đồng, dạy trường cấp III Thạch Thất.


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 13 Tháng Tư, 2016, 12:01:44 am

Chiến tranh ngày càng ác liệt, các con còn nhỏ.

Ngoài việc giảng dạy, tôi tích cực hoạt động đoàn thể nơi sơ tán, xây dựng trường. Năm 1968, tôi được Sở Giáo dục chọn đi học để nâng cao tay nghề, tại Từ Sơn, Thọ Vực, Bắc Ninh, Hà Bắc, cũng tiện việc cho các con cùng đi sơ tán theo. Những năm đó tin tức về anh Trân tôi cũng ít nhận được.

Khoảng năm 1969, anh Nguyễn Hữu An (về sau là Thượng tướng) từ Tây Nguyên ra ghé thăm mẹ con tôi. Anh cho biết: Trân thay anh làm Sư đoàn trưởng Sư đoàn 1. Anh chụp cho bốn mẹ con tôi tấm hình để gửi vào cho anh Trân kèm theo lá thư của cháu Bích Thủy, con gái đầu lòng, lúc anh đi B cháu đang học mẫu giáo, nay đã viết được thư gửi cho ba, đầy lỗi chính tả. Với câu hỏi mở đầu: Ba có “khẻo” không?

Đọc thư con, anh thích thú lắm, tìm cách gửi lại ra Bắc cất giữ làm kỷ niệm.

Sau khi học bồi dưỡng xong, tôi kiên trì chạy vạy, cậy cục xin được về Hà Nội, với lý do: diện gia đình chính sách từ Khu bốn, vùng chiến sự ác liệt ra, mong muốn được ở cùng bố mẹ. Phòng Tổ chức Sở Giáo dục Hà Nội nhận đơn hẹn sẽ xem xét, không từ chối.

Tôi kiên trì theo đuổi để đạt được mong muốn. Sau đó ngày nào tôi cũng có mặt trước cửa Phòng tổ chức sớm hơn giờ bắt đầu làm việc 15 phút và sau đó cũng vào giờ tan tầm, để các đồng chí phụ trách tổ chức thấy được tôi có mặt đang chờ được chấp nhận.

Bỗng một buổi chiều, đồng chí Phi phụ trách tổ chức của Sở, đạp xe đến nhà tôi nhắn bảo: ngày mai đến Sở nhận quyết định, làm tôi khá ngỡ ngàng. Tôi được về dạy tại trường cấp III Nguyễn Gia Thiều, Gia Lâm, Hà Nội, bên kia cầu Long Biên.

Tôi mừng vô kể! Gặp “số đỏ” rồi đây, không biết Cục Chính sách có can thiệp với Sở Giáo dục không? Bốn mẹ con tôi vẫn ở nhờ với ông bà ngoại các cháu, nhà số 20 Lê Thánh Tông, Hai Bà Trưng, Hà Nội. Ít lâu sau, tôi được nhận thông báo của Cục Chính sách báo tin: Đồng chí Trần Văn Trân thăng quân hàm từ Thượng tá lên Đại tá. Hằng tháng gia đình sẽ được lĩnh thêm tiền phụ cấp đi B theo chế độ mới.

Một hôm trời nhá nhem tối, cả nhà chuẩn bị ăn cơm, bác tổ trưởng dân phố đến đưa cho mợ tôi phong bì trong đó là giấy báo tử: Đồng chí Trần Văn Trân đã anh dũng hy sinh ở mặt trận phía Nam!

Tôi bàng hoàng, ngồi lặng không biết tính sao. Chị Thanh, chị dâu tôi hay tin đến liền. Mấy hôm sau chị lo chợ búa, nấu cơm cúng cho anh ấy đủ 49 ngày.

Tại lễ truy điệu được tổ chức ở Hà Nội, rất nhiều bạn bè, chiến hữu thân thiết của anh đến dự...


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 13 Tháng Tư, 2016, 12:03:33 am

Sau đó, mẹ con tôi được tổ chức bố trí cho về ở khu 1A Hoàng Văn Thụ, dãy X7 (nay là khu di tích lịch sử Hoàng Thành của Hà Nội), gần nhà anh chị Trần Văn Hoàng, trung tá Cục Quân báo. Chị dâu Trần Thị Thanh là cửa hàng trưởng của cửa hàng lương thực Đặng Dung thường qua lại động viên, chăm sóc mẹ con chúng tôi. Gia đình chúng tôi đã làm “giỗ đầu” cho anh Trân, nhưng không hiểu sao, linh tính mách bảo cho tôi rằng: anh ấy chưa chết.

Giáp tết năm 1972, ngày ngày tôi phải đạp xe qua cầu Long Biên để dạy học. Mưa gió, rét đậm, tâm tư có nhiều nỗi buồn... Tôi bị rối loạn tiền đình nặng, không nhấc nổi đầu, nằm yên một chỗ. Tôi vào Viện 354, bệnh viện giữ tôi nằm lại nhưng tôi xin về vì chỉ vài ngày nữa là Tết đến, các cháu ở nhà còn nhỏ tội nghiệp!

Hằng ngày y, bác sĩ quân đội đến điều trị cho tôi tại nhà. Mấy hôm sau, anh Võ Quang Hồ - Cục Tác chiến đến thăm và cho hay:

- Trân nó chưa chết. Hiện Trân bị bắt giam, đang tìm cách liên lạc với chị Ba Định xin bộc phá để vượt ngục. Anh Phạm Hùng - Bí thư Trung ương Cục biểu anh ra báo cho Hà hay. Nhưng phải hết sức giữ kín, nếu địch biết nó thủ tiêu Trân ngay đấy.

Tin quá vui, nhưng phải hai tháng sau tôi mới dậy được. Sau nhiều đêm nằm suy ngẫm tôi nói cho cháu Bích Thủy, con gái đầu về tin ba con hãy còn sống, để nếu chẳng may tôi có bị bom đạn chết, cháu còn hy vọng chăm lo cho hai em trai.

Như thông lệ, hằng tháng bộ phận chính sách ở quận Ba Đình đến phát tiền cho gia đình chúng tôi, vừa lúc gặp anh Trân trở về, các anh ấy ngỡ ngàng nhưng lại rất vui.

Sau một thời gian điều trị trở về, anh Trân lại hồ hởi lên đường cùng Sư đoàn 341 vào Nam giải phóng quê hương, góp phần giành độc lập thống nhất đất nước vào ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Ngày ngày mấy mẹ con chúng tôi lại sống trong cảnh trông ngóng, đợi chờ. Đêm đêm, tôi áp tai nghe tin tức từ đài BBC nói về trận đánh vào Xuân Lộc, cửa ngõ Sài Gòn, nghe nhắc đến tên Đại tá Trần Văn Trân chỉ huy trận chiến khốc liệt đó.

Sau 3 năm đất nước thống nhất, tháng 6 năm 1977, tôi xin chuyển công tác từ Hà Nội vào Thành phố Hồ Chí Minh. Sở Giáo dục phân công tôi làm cán bộ quản lý trường bổ túc văn hóa công nông I ở Thủ Đức, đồng chí Đoàn Phương Sách nguyên là cán bộ quân đội làm Hiệu trưởng, đồng chí Trần Hữu Nghị và tôi làm Hiệu phó. Sau khi trường này giải thể (1984) tôi về trường vừa học vừa làm, rồi về trường cấp III Thủ Đức. Đồng chí Trần Hữu Nghị làm Hiệu trưởng, đồng chí Nguyễn Trọng Điệp và tôi làm Hiệu phó. Tôi kiêm luôn công tác Đảng và công tác công đoàn của nhà trường. Gia đình tôi ở trong Làng đại học Thủ Đức.


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 13 Tháng Tư, 2016, 12:04:06 am

Sau ngày giải phóng, Sư đoàn 341 làm nhiệm vụ quân quản Sài Gòn. Anh Trân xin Thành ủy được 10 căn biệt thự ở Thủ Đức cho cán bộ cao cấp của Quân đoàn 4. Bấy giờ, anh Trân là Phó Tư lệnh Quân đoàn 4, đơn vị đóng quân ở Sóng Thần, nên anh có nhiều dịp về với gia đình.

Cuối thập niên 80, tôi có ý nguyện xin về hưu sớm, vì đi đến đâu anh ấy cũng thường nói vui bị “tiểu đường” hơn 40 năm chưa có điều kiện chữa trị! Cuộc đời binh nghiệp của anh đi suốt dọc Trường Sơn, tiểu bờ, tiểu bụi, tiểu đường là chuyện thường tình. Nghe anh hài hước kể chuyện với bạn bè, với đồng đội, nên tôi quyết định xin về hưu sớm để sang Campuchia sống với anh, vợ chồng có điều kiện chăm sóc lẫn nhau. Thời gian này anh là Tham mưu trưởng Mặt trận 719, cùng ở với đồng chí Đại tướng Lê Đức Anh. Tuy nhiên, mãi đến năm học 1990 - 1991, tổ chức Sở Giáo dục mới sắp xếp cho tôi được toại nguyện.

Tuy lấy nhau ngót 38 năm, nhưng mãi tới lúc về hưu (1995) anh mới thực sự được sống sum vầy với gia đình, gần gũi nhiều hơn với con cháu. Ấy cũng là lúc các con cần chỗ dựa, cần lời khuyên của người cha - một người rất mực thương yêu con cháu, khao khát không khí đầm ấm của gia đình. Một người đã biết sống, biết hiến dâng cuộc đời của mình cho sự nghiệp lớn của dân tộc, của đất nước.

Tiếc thay, các con tôi chưa được dựa vào người cha đáng kính đó được bao lâu. Anh đột ngột từ giã cõi đời vào tháng 3 năm 1997, nhưng hình ảnh người cha thân thương đó sẽ dìu dắt các con tôi suốt cuộc đời.

Trong tâm tưởng của mẹ con, bà cháu tôi, thì anh như người vừa chợt đi đâu đó thăm bạn bè, người thân...
Ngày 8 - 4 - 2007
(21-2 Đình Hợi)
V.B.H


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 13 Tháng Tư, 2016, 08:13:51 pm

VĨNH BIỆT ANH!
Đại tá Trần Văn Sang1


Anh Trân ơi!

Thật là thiệt thòi đau xót lắm anh ơi! Anh đã đột ngột ra đi không một lời trối trăng nhắn gửi với vợ con, anh em, các cháu, bạn bè và đồng đội.

Ai cũng biết:

“Trăng tròn đẹp, đến chu kỳ phải khuyết
Trái chín thơm đến lúc phải lìa cành
Cảnh bèo hợp mây tan, sau vầng ly tán
Là quy luật tồn vong của tạo hóa”


Nhưng sao anh ra đi sớm thế, đột ngột lắm, đau xót lắm anh ơi! Anh ra đi để lại trăm nhớ ngàn thương trào dâng tha thiết cho gia đình, bè bạn gần xa. Anh ra đi để lại chị vắng bóng người chồng thân yêu, các con bơ vơ vắng bóng người cha mẫu mực. Thế là mãi mãi đâu còn những lời chỉ bảo thân thương, đâu còn những tiếng cười, tiếng nói vui vẻ trong gia đình. Các cháu còn nhỏ dại lắm: cháu Quỳnh Anh, cháu Anh Trung còn nhỏ nhưng khi anh đột ngột ra đi, nỗi đau thương trào dâng khóc nức nở. Từ nay các cháu mãi mãi không còn những lời âu yếm, vỗ về của ông nữa. Nỗi mất mát lớn quá làm sao bù đắp nổi! Anh Trân ơi! Làm sao quên được những ngày thơ ấu, những kỷ niệm vui buồn mà anh em chúng mình đã cùng chung sống trong vòng tay ấm áp của mẹ kính yêu đã tần tảo một nắng hai sương, nuôi con khôn lớn. Dưới ách thống trị của thực dân Pháp, gia đình chúng mình nghèo quá, anh đã sớm nghỉ học để lao động cùng mẹ nuôi sống gia đình và để có điều kiện bí mật hoạt động cách mạng không hề sợ hy sinh gian khổ.

Khi Cách mạng tháng Tám thành công, anh là một trong những thanh niên đầu tiên của xứ Huế gia nhập quân đội cách mạng, theo lời kêu gọi cứu nước thiêng liêng của Bác Hồ. Em còn nhớ mãi, chỉ cách đây mấy tháng thôi, khi anh bị bệnh nặng, anh đã tâm sự cùng em: “Mẹ chúng mình suốt đời hy sinh gian khổ vì con vì nước, anh còn nhớ mãi câu nói của mẹ: “Trân ơi tại sao mỗi khi nghe con hát: “Đoàn vệ quốc quân một lần ra đi là có mong chi đâu ngày trở về”, mà mẹ buồn quá. Biết thế nhưng mẹ vẫn động viên bốn con ra đi bộ đội, giành độc lập tự do cho Tổ quốc, và đến khi đất nước thống nhất các con trở về thì mẹ không còn nữa! Mẹ suốt đời vì nước vì non nhưng không được một ngày vui trọn vẹn!”. Đối với gia đình, anh là người con hiếu thảo, là người anh, người chồng, người cha mẫu mực biết chăm lo cho từng thành viên trong gia đình được hạnh phúc, vui vẻ và trưởng thành. Đối với Tổ quốc, anh là một chiến sĩ cách mạng kiên cường, tuyệt đối trung thành với dân, với Đảng. Mỗi tên đất tên làng ở chiến trường Bình Trị Thiên, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ đều có ghi đậm những chiến công hiển hách của đồng chí, đồng đội và anh. Đúng vậy, những lời tâm tình của những người bạn cùng chiến đấu lúc vĩnh biệt anh đã chứng minh điều đó.

Anh Trân ơi, anh có lối sống rất đặc biệt, rất vị tha, quan tâm giúp đỡ, nghĩa tình trọn vẹn. Anh là một chỉ huy chiến đấu vô cùng dũng cảm, một vị tướng tài năng, hết lòng thương yêu chiến sĩ, cán bộ cấp dưới. Anh là một chiến sĩ kiên cường, mưu trí trong lao tù, chiến đấu bí mật giữa lòng kẻ thù, bảo vệ Đảng, bảo vệ đồng đội. Anh là một người bạn đã để lại nhiều dấu ấn, kỷ niệm sâu sắc khó quên trong lòng bạn bè, đồng chí, đồng đội. Vĩnh biệt anh, bạn bè, đồng đội không sao cầm dược nước mắt.

Anh Trân ơi! Trăm nhớ ngàn thương trào dâng vô hạn. Nuốt nước mắt vĩnh biệt anh. Chị, em, các cháu, các đồng chí và bè bạn gần xa, cả những người không có mặt hôm nay gửi anh lời chúc lên đường đi xa, đi xa mãi mãi.

Tuy anh đã đi xa, nhưng gia đình, đồng đội, đồng chí vẫn nhớ mãi hình ảnh của anh.

Vĩnh biệt anh, gia đình và bè bạn vô cùng thương tiếc, mãi mãi noi theo gương sáng của anh. Anh Trân ơi! Đã đến lúc anh lên đường đi vào cõi vĩnh hằng, cầu mong linh hồn anh thanh thản như ngày nào chúng mình ra trận.

Vĩnh biệt anh! Vĩnh biệt!
T.V.S.
______________________________________
1. Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Thừa Thiên Huế (em Thiếu tướng Trần Văn Trân).


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 13 Tháng Tư, 2016, 08:17:43 pm

ĐỂ TRUNG CANG MỘT THỜI
Kính viếng linh hồn anh Ba Thương1 
(Thiếu tướng Trần Văn Trân)

Chết nào có dễ đâu Anh
Bom luồn dép cứng, đạn đan võng mềm
Ruổi rong khắp chốn ngày đêm
Đất thân chỉ lối, trăng hiền rọi đi.

Chết nào đâu có dễ gì
Sáng chơi “chuồng cọp”, chiều đi “tàu ngầm”
Tối về kể truyện “Trăm năm”...
Xót đời Từ Hải, thương thân Thúy Kiều.

Sống sao mà khó trăm chiều
Oan khiên Thị Kính, đặt điều Sở Khanh
Ngổn ngang tình lý, công danh...
Việc mình mình biết, phận mình mình hay.

Sông sao khó, dễ lắm thay
Ngả lưng trên chiếc võng này, năm xưa...
Nghĩa, tình từ dạo nắng, mưa
Trả bao nhiêu vẫn thấy chưa bằng lòng.

Nghỉ yên cánh võng vô cùng
Để THƯƠNG huyền thoại trong lòng TRẦN gian:
Rủi ro trên đất An Giang
Nấu cao khỉ để trung cang một thời
16-5-1997
49 ngày mất anh Ba Trân
Trần Nguyên Phò
________________________________
1. Gặp anh Trần Văn Trân (Ba Thương) ở trại giam Cần Thơ lúc vết thương ở chân anh chưa lành.


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 13 Tháng Tư, 2016, 08:18:50 pm


TIẾC THƯƠNG THIẾU TƯỚNG TRẦN VĂN TRÂN
Người anh thân yêu của gia đình
Phạm Thị vắng, Trần Đức Bản

Tôi viết bài thơ tiễn biệt anh
Mà đôi dòng lệ cứ vòng quanh
Và trong gan ruột đau như cắt
Viết chẳng nên thơ, bỏ chẳng đành.

Tôi nhủ lòng tôi cứ viết đi
Nghĩ gì viết nấy có can chi
Tình như dòng thác trên câu chữ
Nghĩa nặng keo sơn cấu tứ thi.

Nhớ lắm anh ơi! Cả cuộc đời
Vào sinh, ra tử vẫn vui tươi
Nghĩa tình chung thủy không phai nhạt
Thân ái, hồn nhiên những nụ cười.

Giàu lòng nhân ái, nặng tình thương
Anh mãi xông pha khắp chiến trường
Luôn sống chan hòa cùng đồng đội
Nặng tình đồng chí, nghĩa quê hương.

Anh vội ra đi thế, anh Trân!
Giữa mùa hoa nở, giữa trời xuân
Gia đình, bạn hữu quanh anh đó
Anh đã vội ngồi trong khói hương!

Tôi viết bài thơ tiễn biệt anh
Mà đôi dòng lệ cứ vòng quanh
Anh đi để lại bao thương tiếc
Với tấm gương trong mãi sáng - lành!
Huế, 11-4-1997
Trần Đức Bản
(Trần Thanh Văn)



Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 13 Tháng Tư, 2016, 08:20:50 pm

VĨNH BIỆT BA VÔ VÀN KÍNH YÊU
Trần Thị Bích Thủy1


Ba ơi! Đau đớn quá, ba đột ngột ra đi không kịp nhắn nhủ lại dù một lời cuối.

Sáng mẹ con còn nói chuyện với ba, chúng con đi làm, các cháu đi học vẫn vui vẻ chào ba, vậy mà chiều về chúng con đã mất ba mãi mãi. Các cháu hỏi: Ông đâu? Sao ông không dậy ăn cơm? Con nhớ ông lắm cho nhìn ông đi!

Ba không còn nữa là mất mát to lớn không có gì có thể bù đắp được vì ba là tấm gương sáng, là trụ cột, là linh hồn và nhất là sự đầm ấm của gia đình. Từ nay mẹ con không còn được tâm sự với ba nữa, chúng con không còn được người ba khuyên bảo, bé Quỳnh Anh không được ngủ với ông, Tu Ty không còn được chào ông mỗi khi đi học về, bé Nô không còn được đòi “đi sang ông ngoại” để chơi bắn súng, còn bé Trung Anh thiệt thòi bé quá vẫn chưa biết ông.

Ba yêu thương, chúng con không dám nói lời “Cám ơn ba” ở đây, vì không có lời nào có thể đền đáp hết công lao, tình thương và lòng nhân hậu bao la của ba đối với chúng con. Chúng con chỉ xin ba một điều: ba hãy tha lỗi cho chúng con có những lúc chúng con đã làm ba buồn lòng. Ba hãy tha thứ cho chúng con ba nhé! Dù nỗi ray rứt, nỗi ân hận nay đã quá muộn màng.

Thôi ba cứ yên tâm ngủ ngon, chúng con xin hứa chăm sóc mẹ, chúng con xin hứa làm việc xứng đáng với ba và chúng con sẽ dạy các cháu sống - học tập xứng đáng với ông.

Một lần nữa chúng con xin vĩnh biệt ba - Nhưng ba mãi mãi vẫn sống trong trái tim của gia đình ta.
T.T.B.T
___________________________________
1. Cán bộ giảng dạy Trường Đại học Bách khoa Tp. Hồ Chí Minh, con gái đầu lòng của Thiếu tướng Trần Văn Trân.


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 13 Tháng Tư, 2016, 08:23:04 pm


NGƯỜI CHIẾN SĨ TRONG TÔI
Trần Ngọc Thúy1


Có lẽ con người và sự vật đều sợ thời gian vì lớp bụi thời gian sẽ phủ mờ đi tất cả. Nhưng cũng có khi những kỷ niệm khó quên cùng những con người mà ta hằng luôn kính trọng sẽ sống mãi trong lòng mỗi chúng ta, vượt qua thời gian...

Ông bác! Tiếng gọi thân thương và quen thuộc mà tôi đã từng gọi ông Trần Văn Trân, người ông kính yêu của tôi. Cho đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ như in hình ảnh của ông bác. Đó là một con người to cao, khỏe mạnh, nét mặt lúc nào cũng có vẻ nghiêm nghị nhưng lại rất vui tính và dễ gần. Những lúc rảnh rỗi, tôi thường được ông nội kể cho nghe về cuộc sống vất vả của gia đình hồi xưa và cả cuộc đời ông bác: “Nhà mình hồi xưa nghèo lắm, bà cố hằng ngày phải gánh hàng gia vị ra chợ Cống bán để kiếm tiền nuôi các con khôn lớn. Hồi nhỏ ông và ông bác cùng đi học chung một trường, một lớp và ông bác luôn bảo vệ cho ông mỗi khi ông bị những học sinh khác ăn hiếp. Nhưng do nhà mình nghèo nên ông bác phải nghỉ học sớm, xin đi làm thợ máy và phụ lái ô tô để kiếm tiền phụ giúp gia đình”. Giọng ông kể đến đây có cái gì đó nghèn nghẹn. Dường như những kỷ niệm hồi ấu thơ khi có ông bác đang ùa về trong ông. Ông bác vừa là một người anh, một người bạn nhưng cũng vừa là một người đồng chí của ông tôi.

Suốt hai cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc: chống Pháp và chống Mỹ, ông bác đã đi chiến đấu từ chiến trường này đến chiến trường khác, trải qua bao nhiêu khó khăn, bệnh tật... nhưng “người chiến sĩ ấy” vẫn quyết tâm một lòng chiến đấu anh dũng, kiên cường để bảo vệ Tổ quốc. Cũng vì có ý thức, trách nhiệm cao trong chiến đấu nên ông bác đã trưởng thành từ anh chiến sĩ nuôi quân đến Thiếu tướng Quân đoàn phó. Bên cạnh những thành tích có được qua hai cuộc kháng chiến thì có một điều cho đến khi mất cả ông bác và ông tôi bây giờ còn nuối tiếc. Đó là không kịp về thăm “mẹ” lần cuối.

Giờ đây, khi hai cuộc kháng chiến đã đi qua “người chiến sĩ ấy” trở về với cuộc sống đời thường bên cạnh gia đình, làng xóm. Từ ngày xuất ngũ, ông bác đã vào sống ở Thành phố Hồ Chí Minh nên tôi cũng ít có dịp được gặp. Nhưng những lúc có cơ hội được ra thăm Huế, ra thăm quê hương thì ông bác lại ở đây vài ba tháng. Nhớ những ngày ở Huế, ông bác vẫn giữ những thói quen khi sống trong quân ngũ, rất ngăn nắp và sạch sẽ. Hằng ngày ông bác dậy rất sớm đi tập thể dục và sau đó là chăm sóc những chậu cây trong vườn. Trước đây ở phía sau nhà tôi có mảnh đất trồng rất nhiều loại cây: nào là bắp, mía, nào là vú sữa, sa-pô-chê... Mỗi lần đến mùa, cả nhà tôi và ông bác đều ra thu hoạch và trồng lại một vụ mới. Nhìn những lúc ông bác cuốc đất, trồng cây cứ như là một người nông dân thực thụ, rất nhanh nhẹn và chăm chỉ.

Chiều chiều, sau bữa cơm thân mật, cả gia đình tôi và ông bác lại ngồi quây quần bên nhau trò chuyện vui vẻ. Ông bác và ông tôi ngồi ôn lại những kỷ niệm xưa hồi còn nhỏ rồi đến khi vào trong quân đội và kể lại cho mọi người cùng nghe. Có lẽ câu chuyện ông bác kể lại làm tôi nhớ nhất là những vụ đánh lộn hồi nhỏ. Hồi xưa, ông tôi và ông bác cùng học chung một lớp tiểu học. Ông tôi do tính tình hiền lành nên luôn bị những học sinh khác bắt nạt. Và mỗi lần như vậy ông bác đều đứng ra bảo vệ và che chở cho ông tôi. Vì thế mỗi lần đi học ông bác đều giao nhiệm vụ cho ông tôi xách cặp của hai anh em. Đối với ông tôi thì ông bác luôn là chỗ dựa an toàn cho ông những ngày thơ ấu. Có lẽ cái tính thẳng thắn, cương trực và dũng cảm đó đã theo ông bác vào cả chiến trường.

Trong cuộc sống, ông bác luôn được mọi người tin yêu, kính trọng. Chẳng bao giờ ông bác la mắng ai nặng lời mà chỉ nhẹ nhàng khuyên bảo, dạy dỗ. Hồi nhỏ, mỗi lần có dịp được ba mẹ cho vào Thành phố Hồ Chí Minh chơi, tôi rất vui. Vào trong đó, tôi luôn được nghe những câu chuyện hài hước, vui vẻ của ông bác, được đi xem những con cá cảnh của ông bác nuôi...

Tất cả những điều đó đã để lại một ấn tượng sâu sắc về ông bác trong tuổi thơ của tôi.

Nhưng rồi một ngày điều đau buồn đã xảy ra. Ông bác đã đi mãi mãi vào cõi vĩnh hằng để lại bao tiếc thương cho gia đình, đồng đội và bạn bè. Khi nghe tin ông bác mất, gia đình tôi không khỏi bàng hoàng, sửng sốt, không tin đó là sự thật mặc dù biết ông bác không còn khỏe nữa.

Tuy ở xa nhưng cả gia đình tôi đã kịp vào với ông bác. Trong tang lễ, không những chỉ có gia đình, người thân mà cả đồng đội, bạn bè, bà con lối xóm đều đến khóc thương bởi sự ra đi đột ngột của ông bác.

Suốt ba ngày tang lễ, cơ quan đoàn thể, đồng đội, bạn bè không ngớt đến thăm viếng. Nhiều ông, nhiều bà khóc nức nở, kể lể thảm thiết: “Anh Trân ơi! Anh ra đi đột ngột, đồng đội, bạn bè thương anh nhiều lắm anh ơi!”, “Sao anh ra đi không một lời nhắn nhủ, không một lời trăng trối, thế là anh đã mãi mãi ra đi không còn về Huế quê ta nữa anh ơi!”. Cả đám tang không ai cầm được nước mắt.

Khi về Huế, nơi mà ông bác sinh ra và lớn lên, tuy nghèo khó, vất vả nhưng chứa đựng bao nhiêu kỷ niệm sâu sắc. Gia đình tôi và đồng đội lại tổ chức truy điệu ông bác không kém phần trang nghiêm. Bà con, đồng đội, bạn bè đến với ông bác với bao nỗi niềm thương nhớ chứa đựng tình đồng chí, tình quê hương sâu đậm. Mọi người đứng bên bàn thờ úp mặt khóc nức nở, thật là cảm động! Đến khi chiếu lại cuốn băng đám tang của ông bác, anh tôi vẫn khóc nức nở: “Ông bác ơi!... Ông bác ơi!...”, cả nhà cũng khóc theo. Và một thời gian khá dài, mỗi lần ăn cơm, ông tôi đều xới thêm một bát cơm quay vào bàn thờ mời ông bác cùng ăn. Tuy ông bác đã mất nhưng mãi mãi gia đình tôi không bao giờ quên.

Sự ra đi của ông bác là một mất mát quá lớn và nó để lại một khoảng trống trong lòng ông tôi cũng như tất cả mọi người.

Ông bác ơi! Làm sao cháu có thể quên được hình ảnh người chiến sĩ dũng cảm trong chiến đấu, thân thuộc và gần gũi trong cuộc sống đời thường.

Thời gian trôi qua nhanh thật, mới đó đã 10 năm rồi kể từ khi ông bác mất. Nhưng dù thế nào đi chăng nữa thì ông bác vẫn luôn sống mãi trong trái tim của mọi người thân yêu.
T.N.T
_____________________________________
1. Cháu nội của Đại tá Trần Văn Sang, em ruột Thiếu tướng Trần Văn Trân.


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 13 Tháng Tư, 2016, 08:24:11 pm

KỶ NIỆM VỀ MỘT TRẬN ĐÁNH
Đại tá Đinh Như Ninh

Tháng 1 năm 1968, Sư đoàn 325B chúng tôi tách khỏi đường mòn Hồ Chí Minh từ ngã ba La Hạp tiến về hướng đông. Trong hơn một tháng dưới trời mưa rả rích, sên, vắt rừng và muỗi mòng nhiều vô kể, bộ đội khiêng vác nặng lại phải vừa đi vừa mở đường nhưng vì tiếp tế khó khăn nên mỗi người chỉ được ăn 150 gam gạo mỗi ngày. Máy bay địch quần đảo rải chất độc phá rừng để ngăn chặn.

Đầu tháng 3 năm 1966, bộ đội đã tập kết xong, chuẩn bị đánh cứ điểm A Sầu do 7 đại đội biệt kích địch chiếm giữ.

Sắp đến ngày N, tại Sở chỉ huy Sư đoàn mỗi người một việc ai nấy đều khẩn trương chuẩn bị. 5 giờ chiều ngày 5 tháng 3, đồng chí thượng tá Trần Văn Trân - Sư đoàn phó kiêm Tham mưu trưởng cho gọi tôi (lúc đó là đại úy trợ lý bảo vệ) nhận nhiệm vụ đi vòng qua phân đội nghi binh ở A Táo xác minh thực hư thế nào vì địch đưa tin có 2 cán binh Bắc Việt vào đầu hàng địch tại đồn A Sầu. Nếu có kẻ đầu hàng thì mức độ hiểu biết của họ về kế hoạch tác chiến của sư đoàn đến đâu? Tính toán lợi hại và đề xuất nên đánh hay chưa đánh? Anh Trân cho biết sẽ cho xác minh trên các hướng khác ngay trong đêm nay để kịp thời tổng hợp báo cáo với sư đoàn lúc 15 giờ ngày mai. Anh Trân nói tiếp: “Từ đây qua A Táo mất ba tiếng đồng hồ ban ngày. Bây giờ trời mưa lại đi ban đêm, phải khẩn trương lắm mới kịp về đây trưóc 3 giờ chiều ngày mai”. Để bảo đảm công việc, sư đoàn đồng ý cho sử dụng vệ binh hoặc trinh sát với số lượng và trang bị thế nào tùy tôi lựa chọn.

Tôi nói: đi đông nặng nề lắm, tôi chỉ xin một tổ trinh sát ba người mà tôi đã quen sử dụng trong đợt chuẩn bị địa hình vừa qua.

Trời vẫn mưa, bốn chúng tôi lên đường lúc trời đã tối mịt. Khi ngang qua Phòng tham mưu, thiếu tá Trần Hữu Xung - Tham mưu phó nhắc tôi phải cảnh giác chống địch phục kích trên đường đi. Nhất là khi đến, cần đề phòng địch đón sẵn tại A Táo. Tôi gật đầu ghi nhận. Chúng tôi lầm lũi đi trong đêm tối, đường trơn, bùn nhão nhoẹt. Cách sở chỉ huy khoảng một cây số tôi cho tạm dừng, dặn dò anh em những điều cần thiết rồi đi theo đội hình chiến đấu, nếu gặp địch thì tìm cách vòng qua. Chúng tôi vừa đi, đói thì nhấm nháp gạo rang, khát thì uống nước bi đông để tranh thủ thời gian. Dọc đường có gặp một số trở ngại, chúng tôi đều vượt qua và đến khu vực A Táo lúc 1 giờ sáng. Tôi cho dừng lại tản ra, cử một người lên dò xét. Thấy có bóng người, tôi dùng mật khẩu bắt liên lạc. Biết đúng là người của ta, mừng quá!

Tôi tìm gặp đồng chí Phát, đại úy phụ trách phân đội nắm tình hình chung, rồi đi gặp lần lượt những người cần thiết, khó nhất là tìm gặp cho được đồng chí nữ du kích dân tộc Pakô, người đã tận mắt nhìn thấy hai tên đầu hàng đi vào đồn địch lúc 4 giờ chiều ngày 4 tháng 3.

Xong việc lúc gần 9 giờ, tôi gặp lại đồng chí Phát nói lời cảm ơn về ý thức bảo mật chiến dịch phổ biến nhiệm vụ cho phân đội nghi binh rồi quay về sở chỉ huy sư đoàn. Trời tạnh mưa, tôi vừa đi vừa suy nghĩ nội dung báo cáo và đề xuất đánh hay chưa đánh... Dọc đường về tôi gặp một cán bộ trinh sát và được biết địch đã tăng thêm 150 tên biệt kích Nùng xuống đồn A Sầu.

Thượng tá Trần Văn Trân đón tôi lúc 12 giờ 30 phút, tôi báo cáo họ tên, cấp chức, quê quán đơn vị và thời gian hai tên đầu hàng đã vào đồn địch, xác định mức độ hiểu biết bí mật của chúng và đề nghị cứ đánh tiêu diệt bằng sức mạnh áp đảo. Anh Trân chú ý lắng nghe và biểu dương chúng tôi.

Tôi hiểu bằng nhiều nguồn tin và các yếu tố quan trọng khác, sư đoàn đã hạ quyết tâm và được cấp trên phê duyệt.

Trận đánh đã diễn ra trong 2 đêm và hơn hai ngày với kết quả: Quân ta đã tiêu diệt, bắt sống toàn bộ 7 đại đội và 150 tên biệt kích mới tăng cường cùng một số cố vấn Mỹ, thu toàn bộ vũ khí trang bị, san phẳng căn cứ A Sầu, giải phóng vùng rừng núi rộng lớn huyện A Lưới, Thừa Thiên. Đây là trận đánh được Bộ Tổng Tư lệnh đánh giá là một trong tám đòn sấm sét mà Quân giải phóng miền Nam đã giáng vào đầu bè lũ Mỹ ngụy trong mùa Xuân 1966.

Kỷ niệm này gợi nhớ trong tôi hình ảnh nhanh nhẹn của tổ trinh sát do thiếu úy Trần Quang Nhạ người Nam Đàn chỉ huy, đã cùng tôi vượt gian nan trong một đêm thức trắng. Đặc biệt, tôi nhớ đồng chí Trần Văn Trân, người cán bộ chỉ huy mưu trí, quyết đoán.
Đ.N.N


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 13 Tháng Tư, 2016, 08:26:53 pm

KỶ NIỆM NHỎ VỀ ANH BA TRÂN
Hồng Trần1


Là đồng hương, đồng đội, đồng chí, nhưng anh Trân ở bên quân sự, còn tôi ở ngành quân y nên chúng tôi ít có điều kiện gặp nhau nhiều, nhưng tiếng tăm về tài đánh giặc của anh thời chống Pháp, chống Mỹ, thì cả Trung đoàn Trần Cao Vân - 101, Sư đoàn 325 ai ai cũng biết.

Chuyện chiến đấu thì các đồng đội của anh Trân đã viết nhiều, riêng tôi chỉ xin kể lại mấy chi tiết nhỏ về đời sống bình thường của anh, một chàng trai xứ Huế mặc áo lính. Lúc xung trận, anh Trân là vị chỉ huy đầy bản lĩnh, mưu trí, dũng cảm, lập được nhiều chiến công vang dội, khiến kẻ thù phải khiếp sợ..., nhưng về đời thường anh là một thư sinh hiền lành, lúc nào cũng dí dỏm, hài hước và thích đùa nghịch. Anh gọi chị Hồng Tịnh là con mệ Tịnh, gọi tôi là Hồng Trần nghĩa là gió bụi, gọi anh Võ Quang Hồ bạn thân của mình là “cậu Hồ của tau” để trêu chọc Lệ Tùng, vì Lệ Tùng là cháu gọi anh Hồ bằng cậu. Đó là đặc điểm riêng của anh, luôn đùa nghịch thân mật với bạn bè thân thiết. Ngay cả Bích Hà vợ anh trong câu chuyện vui với bạn bè vẫn thường nói về chồng mình một cách âu yếm: “Ôi! Cái ông rể thiên lôi!”

Anh kể năm 1945, khi mới vào bộ đội anh rất trẻ, đẹp trai, dáng dấp thư sinh, vui tính. Được phân công làm anh nuôi, tiếp phẩm, anh ra chợ Đông Ba còn ngỡ ngàng chưa biết mua gì thì các mẹ đã xúm đến hỏi thăm: “Con đi chợ mua chi? Để mạ mua giùm cho..”. Chỉ một loáng, các mẹ đã mua đủ loại thực phẩm ngon: thịt, cá, tôm, rau... rồi bảo anh đem về mà không lấy tiền. “Rứa là mình đem về đơn vị nấu nướng cho bộ đội ăn ngon lành, được anh em khen mãi, lần sau lại cử mình đi chợ nữa”.

Anh sống giản dị, hồn nhiên, cởi mở, chan hòa với mọi người, giống như anh Nguyễn Chí Thanh của chúng ta vậy. Anh rất quan tâm giúp đỡ những đồng chí còn yếu kém về trình độ văn hóa. Bản thân anh cũng ra sức học tập, với trí thông minh nhạy cảm sẵn có, anh tiến bộ rất nhanh. Nhiều lần anh đến Quân y viện 108 ở Hà Nội gặp bác sĩ Ngọc Toản và tôi, anh nói rất chân tình: ở đây có hai đồng chí là đồng đội của đồng chí Hằng, rất mong các đồng chí quan tâm giúp Hằng nâng cao trình độ văn hóa cho kịp với mọi người. (Bây giờ, nữ đồng chí Hằng vẫn đang công tác tại khoa Ngoại B2 ở Bệnh viện 108).

Chín năm kháng chiến chống Pháp vô cùng gian khổ ở chiến trường Bình Trị Thiên khói lửa và ở nước bạn, anh Trân cũng như nhiều đồng đội không có thì giờ và hoàn cảnh thuận lợi để nghĩ đến việc xây tổ ấm riêng tư...

Sau hòa bình lập lại, mãi đến 1956, 1957, đồng đội mới thúc giục anh Trân tìm một mái ấm gia đình...

Một tối thứ 7 năm 1956, đồng chí bảo vệ cổng Quân y viện 108 thấy một đoàn cán bộ quân đội đến cổng hỏi gặp đồng chí Hồng. Vừa thấy tôi ra cổng, đồng chí Dương Sự nói như ra lệnh:

- Đi! Nhập vào đoàn mà đi cho đủ bộ!

Tôi tò mò hỏi:
- Đi mô rứa?
- Đi hỏi vợ cho Trân!

Tôi reo lên:
- Hoan hô, rứa thì tôi xin xung phong cùng đi với các anh!

Thế là ngẫu nhiên hình thành một đội họ nhà trai đến nhà gái. Đoàn gồm có: đồng chí Dương Sự làm trưởng đoàn, đồng chí Nguyễn Văn Mót, anh Trân, hai đồng chí nữa mà tôi quên tên, và cuối cùng là tôi, duy nhất là nữ. Tất cả vui vẻ, vừa đi vừa nói chuyện, một lúc thì đến nhà cụ Võ Lương, thủ trưởng cũ của anh Trân...

Thấy khách là “lính cũ” của mình, cụ Võ Lương vui vẻ, thân mật đón tiếp. Bà cụ ngồi nhai trầu, chị Thúy pha trà mời khách uống. Riêng “tiểu thư” Bích Hà khi ấy thẹn thùng e ấp sau rèm cửa...

Lần đầu đi hỏi vợ chưa kết quả... Lần thứ hai, còn gặp trắc trở gì đó. Anh Trân ra về có vẻ buồn... Chung quy cũng tại cái tính nghịch ngợm hồn nhiên như trẻ con của anh không bỏ được. Anh hay đùa nghịch, kể cả với cụ Lương, ông bố vợ tương lai của mình... Hôm ấy anh đến nhà thấy cụ Lương đang nằm ngửa trên gường, anh vui tính nghịch ngợm lăn lên nằm trên bụng cụ Lương, bà cụ thấy vậy, lắc đầu ngao ngán kêu lên:

- Chao trời, sắp làm rể mà dám nghịch ngợm như rứa tề!

Có lẽ vì thế mà anh và đồng đội phải đi lại nhiều lần. Cuối cùng thì ở hiền gặp lành... Trời cũng thương và hạnh phúc đã đến với anh. Anh được cụ Lương và cụ bà chọn làm “phò mã” để cùng “tiểu thư” Bích Hà xây đắp hạnh phúc lâu dài...
________________________________________
1. Cựu chiến binh Trung đoàn Trần Cao Vân - 101, Sư đoàn 325.


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 13 Tháng Tư, 2016, 08:27:18 pm

Năm 1970, nghe tin anh bị địch bắt và đã hy sinh, quân đội tổ chức truy điệu, gia đình lập bàn thờ hương khói. Anh Trần Quốc Phong (con trai cụ Trần Gia Hội) đang học lớp Chuyên tu 5 tại Trường đại học Quân y với tôi ở Hà Đông đã tranh thủ về Hà Nội dự lễ truy điệu.

Ngày hôm sau, tôi đi tàu điện từ Hà Đông ra Hà Nội tìm đến nhà cụ Võ Lương xin được thắp nén nhang cho anh Trân. Vợ anh là Bích Hà đi vắng, tôi gặp ông bà cụ ở nhà, hai cụ lặng lẽ không nói gì.

Đến trước bàn thờ, nhìn lên bức ảnh của anh Trân được phóng to, đôi mắt sáng nhìn thẳng, tôi thắp hương khấn vái xong, xúc động quá, tôi gục đầu vào bàn thờ đứng khóc nức nở. Tôi khóc rất lâu, khi nỗi đau đã vơi đi, tôi mới lau nước mắt và xin phép hai cụ ra về.

Thời gian sau, được tin anh còn sống và được trao trả trở về, hiện đang điều trị tại Quân y viện 108, tôi vội đến thăm anh. Đứng trước cửa phòng A1 nhìn vào thấy chị Cúc (vợ anh Nguyễn Chí Thanh) và bác sĩ Ngọc Toản (vợ anh Cao Văn Khánh) đang ngồi trò chuyện với anh, tôi ngập ngừng chưa muốn vào. Chợt anh nhìn thấy tôi và gọi to:

- Hồng Trần! Vào đây! Vào đây! Làm được mấy bài thơ rồi? Đọc cho nghe mau! À, mà còn mắc nợ tau hai con vịt, trả đây mau. Ai bảo tế sống tau?

Rồi anh quay sang nói với hai chị:

- Hắn đến nhà thắp hương tế sống tui, chừ tui phải đòi nợ hắn mới được!

Tôi nghĩ bụng chắc là cụ Lương đã kể lại chuyện tôi đến thắp hương cho anh ngày trước...

Tháng 3 năm 1997, tôi cùng đoàn Cựu nữ sinh Đồng Khánh Huế từ Thành phố Hồ Chí Minh ra Huế họp 80 năm ngày thành lập trường. Khi về lại Thành phố Hồ Chí Minh lúc 18 giờ 30 phút ngày 30 tháng 3 năm 1997, vừa bước chân vào nhà, nghe con tôi nói: “Má ơi! Chú Trân mất rồi! Trên ti vi có thông báo... Tôi bàng hoàng, sửng sốt... Đột ngột quá!”.

Không còn thì giờ ăn uống gì nữa, tôi vội đi xe ôm chạy đến Tân Bình để thắp nén nhang cho anh và chia buồn cùng gia đình... Đêm ấy tôi ở lại đó, ngồi gục đầu vào thành ghế suy nghĩ miên man, để sáng mai đưa đám cho kịp.

4 giờ sáng, cả nhà đã dậy chuẩn bị mọi thứ. Các đồng chí, đồng hương, đồng đội thân thiết của anh đã có mặt đầy đủ: anh Hà Văn Lâu, anh Võ Quang Hồ, anh Trần Chí Cường, anh Mai Xuân Tần, Lê Chí Thuận, v.v... Và chính quyền địa phương đã đứng chật ních cả sân nhà anh, im lặng trong niềm xúc động đau thương chuẩn bị đưa anh ra nơi an nghỉ cuối cùng...
H.T


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 14 Tháng Tư, 2016, 11:48:01 am

NHỚ MÃI MỘT NGƯỜI ANH
Huỳnh Kim Yến1


Tôi bắt đầu nghe nói về anh Trần Văn Trân khi còn học phổ thông Trường cấp III Nguyễn Trãi với chị Bích Hà (1957 - 1959). Lúc đó mà có người bạn gái học cùng quen với một sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam là “oách” vô cùng. Chúng tôi cứ to nhỏ với nhau: “lính chân chì” đấy, không phải dễ tìm đâu nghe!

Thật tình lúc ấy tôi cũng chưa được giáp mặt anh Trân bao giờ. Cứ nhớ như in, mỗi lần anh đến rủ chị Bích Hà đi chơi, chúng tôi lại giật bắn người vì tiếng chọi của viên sỏi vào kính cửa sổ phòng nội trú chúng tôi đang ở một cách bất ngờ. Đúng là kiểu hò hẹn người yêu của con nhà lính, vừa nghịch ngợm nhưng cũng rất “chì”!!!

Những năm tháng sau đó trong khi chúng tôi được tiếp tục học hành trong khung cảnh hòa bình ở miền Bắc và với điều kiện khá đầy đủ khi được đi học ở nước bạn, thì anh Trân và biết bao đồng đội khác trong đó có cả những bạn cùng học với chúng tôi đã cống hiến tất cả tuổi thanh xuân tươi đẹp cho cuộc chiến đấu chống Mỹ ở chiến trường miền Nam. Chúng tôi có những người bạn cùng lớp, cùng trường năm xưa đã hy sinh anh dũng như nhà thơ trẻ Ca Lê Hiến (Lê Anh Xuân), kỹ sư thổ nhưỡng Huỳnh Phan Lê, cô diễn viên văn công xinh đẹp Nguyễn Kim Yến, v.v... Còn anh Trân đã trải qua biết bao khó khăn, gian khổ, vào sinh ra tử ở mặt trận Tây Nguyên rồi chiến trường Nam Bộ. Tại đây, anh bị sa vào tay giặc gần 3 năm trời nhưng vẫn giữ gìn được khí tiết, khôn khéo đấu tranh với địch để bảo toàn tính mạng. Sau khi được trao trả, anh tiếp tục là một Sư đoàn trưởng xuất sắc của Sư đoàn 341 anh hùng, đánh thắng Mỹ ngụy tại cửa ngõ vào Sài Gòn góp phần tạo nên chiến thắng lẫy lừng 30-4-1975 giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Chính những tấm gương hy sinh và chiến đấu kiên cường đó là động lực thôi thúc chúng tôi, những học sinh miền Nam sống trên đất Bắc luôn phấn đấu rèn luyện và học tập thật tốt, công tác thật tốt để mong ngày được trở về miền Nam, được góp sức mình xây dựng lại quê hương.

Cuối năm 1975, tôi dược trở về Sài Gòn làm cán bộ giảng dạy môn Hóa của Trường đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Đúng là có duyên với nhau hay sao ấy mà người “lính chân chì” năm nào bây giờ lại là anh nuôi của chị Hoa, dạy môn Sinh cùng trường với tôi.

Trong một lần gặp mặt ở nhà chị Hoa, tôi mới biết đấy là anh Trân chồng chị Bích Hà, bạn học thời cấp III với tôi. Thật là “Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ”. Bấy giờ, tôi mới thấy một anh Trân bằng xương bằng thịt, cao to lừng lững, trắng trẻo, oai phong với đôi mắt sáng hay nheo nheo khi nói những câu hóm hỉnh để chọc cười tất cả mọi người. Cách đối xử của anh rất thân tình, quan tâm và cởi mở dù lúc ấy anh đang mang quân hàm đại tá. Ngày ấy, đối với cánh dân sự chúng tôi, hàm đại tá là quá giỏi, quá cao cấp... Vậy nhưng khi tiếp xúc với anh, chúng tôi không hề cảm thấy e ngại, cách biệt mà luôn có cảm giác như đang nói chuyện với một người anh dày dạn phong sương, rất anh hùng khi đánh giặc song lại rất giản dị, rất tình người trong cuộc sống đời thường.

Chính vì thế nên anh Trân đã chú ý đến cuộc sống riêng của tôi. Cha tôi cũng là bộ đội, ông đã anh dũng hy sinh thời kháng chiến chống Pháp năm 1950. Ông là Huỳnh Đình Hai, bí danh Hai Râu, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 300, Thành đội trưởng Thành đội Sài Gòn - Chợ Lớn. Hiện nay ở quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh có một con đường được mang tên ông. Mẹ tôi mất sớm, tôi được Nhà nước nuôi dạy cho ăn học nên người. Bây giờ trở về miền Nam tôi hầu như không còn ai thân thích, gia đình riêng vừa bị đổ vỡ, có một cháu trai vừa lên 5 tuổi. Thấy hoàn cảnh của tôi, anh Trân nghĩ ngay đến người bạn chiến đấu cùng Sư đoàn 341 với mình, đại tá chính ủy Trần Nguyên Độ cũng vì hoàn cảnh riêng mà chiến đấu đến gần 50 tuổi vẫn chưa lập gia đình. Anh Trân và chị Bích Hà đã tạo điều kiện để anh Độ và tôi có nhiều dịp gặp gỡ nhau và tìm hiểu cặn kẽ. Và chính nhờ sự chân tình hết lòng của anh Trân và Ban chỉ huy sư đoàn lúc bấy giờ (anh Vũ Cao, anh Phạm Thành Minh, anh Vũ Thang...) tha thiết muốn tạo dựng hạnh phúc cho đồng đội sau bao năm tháng chịu nhiều hy sinh trong chiến đấu, nên chúng tôi đã thành đôi lứa vào cuối năm 1976.
___________________________________
1. Phu nhân cố Thiếu tướng Trần Nguyên Độ.


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 14 Tháng Tư, 2016, 11:48:39 am

Anh Độ là con trai trưởng của một gia đình nông dân nhưng có truyền thống hiếu học ở làng Nguyệt Áng, huyện Thanh Trì, Hà Nội. Biết được tâm lý các cụ ngoài Bắc rất thích có cháu đích tôn nên anh Trân đã chú ý “chăm sóc sức khỏe” cho anh Độ rất kỹ. Không biết từ đâu mà anh Độ luôn có những hũ rượu ngâm tắc kè đầy ắp để sẵn trong nhà (sau này tôi mới biết có sự “góp công” rất lớn của anh Vũ Thang). Mỗi lần uống một ly nhỏ trước khi ăn cơm, anh Độ lại cười khà sảng khoái: Đây là “âm mưu” của ông Trân với mấy ông trong sư đoàn đây mà!

Thật là ấm áp khó quên trong tình yêu thương hết lòng của đồng chí đồng đội. Kết quả là cuối năm 1977 tôi và anh Độ đã có được một cháu trai đặt tên là Hoàng Chinh (vì lúc mang thai cháu, anh Độ, anh Trân cùng Sư đoàn 341 vẫn đang tham gia chinh chiến trên đất bạn Campuchia). Hạnh phúc nho nhỏ đó không phải chỉ riêng anh Độ và tôi có, mà nó còn là niềm vui thật sự của anh Trân, anh Vũ Cao và các đồng chí khác trong sư đoàn, với ý nghĩa: lính ta - lính Cụ Hồ đã chiến đấu thì trên bất cứ “mặt trận nào” cũng thắng!

Lúc bấy giờ điều kiện kinh tế quá khó khăn, mẹ con chúng tôi luôn được sống trong sự chăm sóc, quan tâm và chia sẻ của anh Trân, anh Vũ Cao và các đồng chí khác trong sư đoàn. Biết tôi là cô giáo, còn anh Độ lại là “quan văn” chẳng hề tháo vát chút nào trong việc xoay xở kinh tế, nên mỗi lần có món gì ngon và lạ “chiến lợi phẩm” từ các đơn vị mà anh Trân đã tham gia chiến đấu trước đây dành cho anh, anh Trân lại réo ông Độ ơi, ông Độ hỡi, để cùng nhau chia sẻ (vì nhà chúng tôi được phân ở cạnh nhau trong Làng đại học Thủ Đức). Lúc có phong trào nuôi cá rô phi để cải thiện, anh Trân và chị Hà tích cực động viên, hướng dẫn cho tôi cùng làm.

Hai cháu trai của tôi đều rất thương quý nhưng cũng rất sợ cậu Trân. Anh thật sự là tấm gương tốt cho các cháu. Trong mắt các cháu, anh là một vị đại tá oai phong lẫm liệt, đánh giặc giỏi, ngực đầy huân chương. Vậy mà cứ hễ về đến nhà là anh xắn quần, miệng nói tay làm mọi việc, từ cuốc cỏ trồng rau, dọn vườn, tắm heo, cho gà vịt ăn đến thu xếp nhà cửa... Các cháu hay chạy sang nhà anh, vừa xem cậu Trân làm, vừa được nghe kể chuyện đánh giặc, chuyện tiếu lâm kèm theo những lời dạy bảo. Đặc biệt đối với cháu Hoàng Chinh “chiến lợi phẩm” mà anh Trân và sư đoàn đã tìm mọi cách để tặng cho bố Độ, anh hay đe: “Sau này lớn lên con phải học cho giỏi và nghe lời bố Độ rõ chưa, không thì cậu đá một phát con bay lên ngọn dừa đó!” (vì nhà tôi có trồng mấy cây dừa rất sai quả). Anh đe cháu nhưng ánh mắt của anh lúc ấy thật sáng, thật ấm áp và tràn đầy tình yêu thương. Chính anh mới cảm nhận được sâu sắc niềm hạnh phúc bình dị rất đời thường của một người lính sau những tháng năm đầy vất vả hy sinh trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Anh biết đó là “vốn quý” của bố Độ, nên có lần được đi tham quan ở Cộng hòa Dân chủ Đức, tiền tiêu vặt chẳng có là bao nhưng anh vẫn dành dụm mua cho cháu một chiếc ô tô đồ chơi rất xinh xắn (cháu Chinh mê ô tô từ bé). Anh luôn muôn đem lại cho đồng đội, cho bạn bè thân thiết, cho con cháu những niềm vui, niềm hạnh phúc nho nhỏ để cuộc sống lúc đó tuy còn nhiều cực khổ nhưng vẫn không thiếu những điều tốt đẹp xảy ra xung quanh, giúp ta có đủ nghị lực để sống tốt hơn, xứng đáng hơn.

Tuy chỉ được sống cạnh gia đình anh trong khoảng thời gian gần 10 năm khi hai nhà còn là láng giềng của nhau, nhưng tôi thật sự quý mến và yêu kính anh như một người anh trai của mình. Trong gia đình có gì khó khăn tôi đều kể anh nghe và xin ý kiến. Anh cũng không hề “quân sự” chút nào trong việc góp ý và trao đổi với tôi. Trái lại, anh có một trái tim rất nhạy cảm để đánh giá đúng từng con người, đúng với vị trí và hoàn cảnh của nó nên những lời khuyên nhủ của anh đều rất chí lý, chí tình, giúp tôi biết cách sống chủ động hơn và bằng chính sức mình làm được nhiều việc hơn.

Không biết khi anh Trân còn sống, có lúc nào tôi đã mở miệng cám ơn “ông mai” vì đã hết lòng giúp tôi có được một gia đình ấm êm, không phải bơ vơ sau những năm vừa giải phóng đầy khó khăn ấy chưa?

Nhưng thật sự trong thâm tâm, tận đáy lòng tôi mãi mãi biết ơn anh (nghĩ đến đây, nước mắt tôi lại chảy dài...). Anh đã cho tôi thấy một tấm gương sáng của một người chiến sĩ, một người cộng sản thật sự: biết chiến đấu kiên cường không khuất phục, sẵn sàng hy sinh bản thân cho một lý tưởng cao đẹp. Đồng thời anh cũng là một con người rất đỗi bình dị, đời thường, biết sống bằng tất cả tình yêu cuộc sống (lạc quan yêu đời, không hề ngại bất cứ khó khăn nào...) và biết yêu thương con người bằng một tấm lòng nồng hậu và chân thành nhất.

Tôi tin rằng tuy anh Trân đã mãi mãi đi xa nhưng hình ảnh và tính cách con người anh sẽ vẫn còn sâu đậm mãi trong trái tim của những người đã từng quen biết, từng được sống cạnh anh!
TP. Hồ Chí Minh, tháng 5-2007
H.K.Y


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 14 Tháng Tư, 2016, 11:50:46 am

THƯƠNG TIẾC MỘT NGƯỜI ANH ĐÃ ĐI XA
Nhà văn Trần Công Tấn

Tháng 12 năm 1945, tôi nhập ngũ vào làm liên lạc ở Chi đội Trần Cao Vân. Một hôm được chỉ huy trao cho bản mệnh lệnh đưa đến cho ông Võ Lương, thì gặp một người rất đẹp trai, mắt sáng, môi đỏ như môi con gái, chặn ngựa tôi lại, giọng rất hách:

- Ê! Thằng tê. Mi đi mô mà phóng ngựa hắc xì dầu rứa?

Thấy người này nai nịt quá oai, tôi ngỡ là ông Võ Lương. Bèn xuống ngựa, rụt rè:

- Dạ thưa chỉ huy, em mang thư cho ông.

Người thanh niên đó hơn tôi chừng bốn, năm tuổi, cầm chiếc phong bì xem qua rồi nói:

- Ông Lương đi vắng. Tau làm liên lạc kiêm giữ ngựa cho ông Lương. Tau sẽ đưa thư cho ông Lương. Còn mi tên chi?

- Dạ em tên Tấn.

- Nì Tấn, cứ kêu tao là thằng Trân. Không thưa trình chi hết. Tau không phải chỉ huy. Hai thằng liên lạc in chắc (như nhau) thì thưa bẩm chi cho mệt.

Đó là lần đầu tiên tôi gặp anh Trần Văn Trân cách đây đã 62 năm. Từ ngày đó, chúng tôi thường gặp lại và chơi thân với nhau. Anh xem tôi như người em. Ở chung một trung đoàn, tôi làm ở bên lực lượng trinh sát, tình báo. Anh ở đơn vị chiến đấu. Nhưng cứ đụng trận lại gặp nhau, lúc ở Đường 9, Sê Pôn (Lào), lúc ở Huế, Quảng Trị, Quảng Bình...

Mặt trận Huế vỡ, chúng tôi rút lên chiến khu, cùng nhau đánh Pháp một thời gian rồi tôi được chuyển ra Trung đoàn 95 ở Quảng Trị. Khi anh Trân làm cán bộ Trung đoàn 95 thì tôi được ra Thanh Hóa đi học trường Thiếu sinh quân.

Cuối năm 1950, có đoàn cán bộ từ Bình Trị Thiên ra họp ở Bộ Tư lệnh Liên khu 4, trao cho tôi một bức thư của anh Trân. Thư viết: “…Vừa rồi Tiểu đoàn 227 của anh tham gia đánh đổ một đoàn tàu hỏa ở Như Sơn - Bến Đá, lấy được khẩu đại bác Bôpho. Từ nay quân mình có đại bác nòng dài 40 ly đánh lô cốt Pháp rồi. Còn anh thì thu được một cây viết máy Warever de luxe gửi ra cho em. Mong em học thiệt giỏi”.

Nghe lời anh tôi cố học, và khi trường giải tán, tôi được bổ sung về Trung đoàn 101 (Trần Cao Vân cũ) tiếp tục đi đánh Pháp ở Lào, Campuchia...

Ta thắng Pháp, chúng tôi kéo quân về Quảng Bình, làm lực lượng phía sau bảo vệ vĩ tuyến 17. Tôi cưới vợ là con gái Mệ Thoại, trọng tài bóng đá Huế và Đông Dương. Anh Trân rất mừng khi tìm lại được tôi ở Đồng Hới. Anh vốn mê bóng đá nên rất kính trọng mẹ vợ tôi và hay nhắc lại những trận bóng do bố vợ tôi làm trọng tài. Anh khen: “Chú mi giỏi. Mê bóng đá mà lấy được con gái ông trọng tài là nhất hạng rồi!”. Loay hoay thế nào anh lại về làm cán bộ Trung đoàn 101.

Khi anh về chỉ huy trung đoàn thì tôi lên sư đoàn làm điện ảnh rồi ra Quân khu. Xa anh Trân một thời gian, mãi đến đầu năm 1965 tôi gặp lại anh Trân ở sân vận động Hàng Đẫy, cùng ngồi xem bóng đá. Anh vẫn hồn nhiên hò hét cổ vũ cho đội Thể Công. Lúc thấy cầu thủ Thể Công - Ba Đẻn dẫn bóng và sút rất điêu nghệ, anh chửi yêu: “Coi tề! Mệ nội thằng Ba Đẻn”. Giờ nghỉ giải lao sau hiệp 1, anh nói: “Anh sắp đi B rồi. Lúc nào giải phóng Huế, anh sẽ đón em về Ngoẹo-Dàng-Xay, An Cựu ăn bánh bèo”.

Về sau tôi mới biết anh đi B với cương vị Sư đoàn phó Sư đoàn 325 mà anh Nguyễn Hữu An làm Sư đoàn trưởng (về sau là Thượng tướng), cùng chỉ huy sư đoàn đánh Mỹ ở Tây Nguyên. Bẵng đi một thời gian rồi tôi được tin anh hy sinh ở chiến trường Nam Bộ khi anh là Sư đoàn trưởng Sư đoàn 1, chiến đấu ở mặt mặt trận An Giang.

Nhưng rồi anh không chết mà bị thương ngất xỉu, rồi bị bắt làm tù binh. Trong nhà tù Mỹ ngụy, anh khai tên là Nguyễn Văn Thương, thượng sĩ đông y. Hàng trăm chiến sĩ, chỉ huy quân ta bị bắt, bị giam chung cùng anh, ai cũng biết tên anh và chức vụ của anh là Sư đoàn trưởng, bầu anh làm bí thư Đảng trong tù. Địch đã tra tấn bắt mọi người khai tên thật của anh, nhưng dù chết, không một ai để lộ tung tích của anh. Trong lúc đó ở Hà Nội, cấp trên biết rõ anh vẫn còn sống nhưng vẫn tổ chức lễ truy điệu anh để che mắt địch và làm lễ cho gia đình anh để tang cứ như anh đã chết thật.


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 14 Tháng Tư, 2016, 11:51:24 am

Giữa tháng 3 năm 1973, theo Hiệp định Pa-ri được ký kết, hai bên trao trả tù binh cho nhau. Khi địch đưa anh Trân và đồng đội ra trả tại bờ sông Thạch Hãn bên ngoài thành cổ Quảng Trị, thì anh đã cởi hết áo quần tù của Mỹ ngụy vứt đi rồi lao xuống sông bơi một mạch về phía bờ Bắc. Khi biết trong số tù binh Việt cộng có một Sư đoàn trưởng, đối phương rất cay cú. Anh đã được đón tiếp trong vòng tay của các tướng lĩnh và chiến sĩ của anh ở Bộ Tư lệnh mặt trận B5.

Chuyện cuộc đời chiến đấu anh dũng của anh suốt cả hai thời kỳ đánh Pháp, đánh Mỹ, những vinh quang cay đắng, những gian khổ và gian lao... của anh thì phải có một cuốn tiểu thuyết sự kiện lịch sử hàng ngàn trang mới mong nói hết. Riêng tôi có may mắn là biết anh rất sớm và trong suốt cuộc đời binh nghiệp cũng như về sau này anh luôn sống gần gũi tôi.

Về hưu với quân hàm Thiếu tướng, anh và chị Hà cùng các con về ở Làng đại học Thủ Đức, chỉ cách nhà tôi con đường số 1. Nhà anh có nuôi một ao cá tai tượng và có một cây khế ngọt. Vài hôm anh lại gọi điện thoại qua nói: “Tau đã hái một giỏ khế, qua mà đèo về cho mẹ con nó ăn”. Hôm thì nhắn: “Thằng Sang (đại tá Trần Văn Sang, em ruột anh) và vợ hắn vô chơi. Tau đã chiên xù hai “tai tượng” hơn ba ký. Qua mà nhậu. Vợ chồng chú mi không qua, thì tau tới đốt nhà cho mà coi”. Tính anh hài hước, thích bông đùa và hay dọa “đốt nhà” người khác. Nhưng cả đời anh chẳng gây gổ bắt nạt ai. Thượng tướng Nguyễn Hữu An, người đã gắn bó với anh rất lâu, nói về anh như sau: “Trần Văn Trân là một vị tướng có tài, có đức. Đặc biệt rất gần gũi và thương chiến sĩ. Chính vì vậy mà anh được bộ đội rất kính nể và yêu thương. Riêng chuyện giữ được bí mật tung tích của anh, che được mắt địch, bảo vệ cho anh là một bằng chứng và tấm lòng của chiến sĩ đáp lại tình cảm của anh”.

Về nghỉ, anh thường tranh thủ đi thăm các chiến trường cũ. Thăm lại đồng bào, đồng chí và tìm hài cốt đồng đội. Anh hay đi Phú Quốc và về An Giang. Có hôm anh rủ tôi đi An Giang để chỉ cho xem cái chỗ anh bị địch bắt và thăm lại các anh chị cán bộ cũ, thăm các bà má đã chăm sóc đơn vị anh trong thời đánh Mỹ. Đến đâu anh cũng được đón tiếp như người ruột thịt đi xa về. Đến đâu anh cũng giới thiệu tôi. Anh nói: “Cậu Tấn này cùng nhập ngũ với tôi một lần từ năm 1945. Hai đứa cùng làm liên lạc. Bây giờ thì cậu ấy là nhà văn, nhà báo. Tướng tá cứ về hưu chẳng mấy ai còn nhớ, nhưng nhà văn thì tên tuổi lưu danh muôn đời”.

Anh nói với một cán bộ Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang đừng mua quà cáp gì cho anh hết. Anh nói thêm: “Nên mua tặng nhà văn một cái quạt máy”. Vì hôm nào đó anh đến nhà thấy nhà văn, nhà báo ngồi viết bài mà không có quạt.

Lần đó trở về nhà, tôi khệ nệ bưng theo cái quạt của An Giang tặng. Anh cười khúc khích: “Quạt này người ta làm cho vua đó. Vì chỉ có vua mới dùng quạt mạ vàng. Bệ hạ cố gắng mà viết văn cho hay nhé!”.

Tính anh là thế. Rất chu đáo lo cho người lính khi đang là chỉ huy. Khi về nghỉ, anh chu đáo chăm sóc vợ con và quan tâm đến đời sống của bạn bè, bà con, đồng đội. Đi với anh, những đêm nằm nghỉ ở nhà khách đơn vị cũ hay của các tỉnh, anh thường tâm sự với tôi chuyện gia đình rằng chị Hà vợ anh, cô giáo đã về nghỉ nhưng vẫn dạy ngoại ngữ kiếm thêm tiền để cải thiện bữa ăn cho gia đình. Anh nuôi cá, nuôi gà, trồng bí, bầu, rau, ớt. Anh phân tích tính nết của các con: Bích Thủy, Chí Linh và Hiếu Trung. Cháu nào cũng có nhược điểm chỗ này chỗ nọ nhưng ưu điểm là chính. Anh thường khen ngợi, phát huy ưu điểm cho con để hạn chế nhược điểm. Anh là người chồng thủy chung và hết lòng yêu vợ, thương con, cháu.

Ngày 25 tháng 3 năm 1997, chúng tôi làm tiệc liên hoan mừng 40 năm ngày cưới, có mời anh Trân, chị Hà đến dự. Chờ mãi không thấy anh chị đến. Tiệc đãi được chừng 20 phút thì anh gọi điện đến bảo cháu ngoại anh bị cảm, ba mẹ cháu đi làm chưa về nên anh phải đưa cháu đi bác sĩ. Anh nói: “Mình và Hà không đến được nhưng không quên ngày vui của Tấn và An”. Tôi cảm ơn anh và thưa lại rằng, anh cứ yên tâm chăm sóc cho cháu bé. Giọng anh vẫn băn khoăn: “Tau đã chuẩn bị quà tặng hai đứa bay rồi. Áo quần là ủi sẵn, có móc lon tướng đoàng hoàng, mà tiếc quá: không đi được!”. Tôi cười vì giọng anh lại hài hước về cái lon thiếu tướng mà ít khi thấy anh đeo lên áo. Tự nhiên anh nghiêm giọng: “Mi cười chi? Nì! Tau nói thiệt từ nay đến cuối tháng mà tau không chết, thì tau sẽ xuống mừng vợ chồng mi”. Tôi lại cười. Anh lại nói: “Đó đó... lại cười. Tau nhắc lại: Từ nay đến 29 mà tau còn sống thì xuống mi. Còn đến ngày đó mà tau chết thì... huề nghe. Thông cảm nghe. Tấn ơi! Trân cúp máy đây”.. Anh nói vậy và tôi đã quen giọng bông lơn của anh. Ở Hà Nội anh thường rủ tôi đi ăn phở các quán Lò Đúc, Nam Ngư, Lê Văn Hưu... Vừa ăn, anh vừa rung đùi chửi: “Mệ nội cái phở Hà Nội. Ngon thiệt”. Rồi anh nói: “Khi tau chết mi cúng cho tau một bát phở là... xong”. Rồi vào tiệc, rồi khách khứa tôi cũng quên mất lời bông đùa của anh Trân. Ai ngờ sáng ngày 29 tháng 3 gia đình chị Hà gọi xuống bảo tôi: “Lên ngay! Anh Trân mất rồi!”. Tôi choáng váng hét lên với vợ: “Anh Trân chết rồi!”. Vợ tôi cũng hốt hoảng kêu lên: “Sao mà chết” và vừa khóc vợ tôi vừa nói: “Anh đi ngay đi, lên xem anh Trân đau ốm ra sao chứ chết làm sao được”. Tôi bước sấp bước ngửa đẩy cái xe ra. Xe chạy mà tôi như người mất hồn, cứ mong rằng người ta đang cấp cứu cho anh.

Đến nhà anh thấy ngoài hiên đã che rạp. Mấy cán bộ của Bộ Quốc phòng và các anh nhà báo, đài truyền hình đang chờ tôi để cùng viết tóm tắt tiểu sử anh đưa đăng cáo phó trên báo và phát tin trên đài truyền hình.

Tôi bước vào chỗ anh hay ngồi chuyện vãn những lần tôi đến thăm, thấy chị Hà và các cháu đang gục đầu nức nở trên quan tài anh. Chiếc ảnh anh mặc quân phục được phóng to có giải băng tang đen ngòm vắt qua. Nhưng qua làn khói nhang nghi ngút, tôi vẫn thấy mắt anh hấp háy hóm hỉnh nhìn tôi và như đang đùa với cái chết. Tôi kêu thầm mà trong lòng đau thắt: “Thế là hết một cuộc đời anh Trân ơi! Bây giờ thì anh không đùa nữa, anh chết thật rồi”.. Và nước mắt tôi trào ra, thương tiếc một người anh lớn đã mãi mãi di xa...
Ngày 29-3-2007
T.C.T


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 14 Tháng Tư, 2016, 11:53:18 am

MÃI MÃI THƯƠNG NHỚ ANH
Trần Văn Sang

Trên mảnh đất quê hương, bên bờ sông Như Ý của xứ Huế thân thương - nơi mà hai anh em chúng tôi đã sinh ra và lớn lên trong vòng tay âu yếm của Mẹ, tôi đang tưởng nhớ về Anh. Duyên nợ cuộc đời đã gắn chặt hai anh em chúng tôi từ ngày thơ ấu đến những ngày gian khổ của cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và cả đến ngày toàn thắng.

Những ngày thơ ấu:

Ông nội tôi là một sĩ phu yêu nước quê ở Trà Vinh (Nam Bộ) đã tham gia chống Pháp và hy sinh ở Cầu Kè (Trà Vinh). Bà nội tôi là người gốc Huế. Sau khi ông mất, bà đưa các con (hai gái một trai) ra định cư ở Huế. Từ đó cha chúng tôi cũng đi theo ngành võ làm quan ở triều đình Huế đến chức Thống chế Đại Nội - quan võ đầu triều thời kỳ Duy Tân làm vua. Sau cuộc bạo động chống Pháp của các cụ Thái Phiên, Trần Cao Vân cùng vua Duy Tân chống Pháp không thành và nhà vua bị Pháp bắt đưa đi đày biệt xứ. Cha chúng tôi bị thực dân Pháp và triều đình thải hồi về làm dân thường, định cư ở đường Nguyễn Công Trứ (thành phố Huế) ngày nay.

Kế thừa huyết thống của ông cha, sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công, bốn anh em chúng tôi đều xung phong vào quân đội cách mạng để giết giặc cứu nước.

Ba anh đã gia nhập lực lượng Vệ quốc doàn sau khi lực lượng vũ trang của Đảng mới ra đời ở Huế - Trung đoàn Trần Cao Vân -101.

Tôi đang học ở Trường Quốc học Huế, thời kỳ đó có phong trào “xếp bút nghiên lên đường tranh đấu, xếp bút nghiên theo việc đao cung” tôi cũng náo nức muốn nhập ngũ nhưng các anh không cho, khuyên tôi ở nhà với mẹ để những lúc “tối lửa tắt đèn” mẹ đỡ buồn vì không có ai chăm sóc. Cha mất ngày tôi mới 3 tuổi. Anh Trân lớn hơn tôi 3 tuổi. Nhà tôi nghèo lắm, mẹ phải vất vả ngày hai buổi gánh hàng gia vị ra chợ Cống bán để kiếm tiền nuôi các con khôn lớn. Anh cả tôi là Trần Văn Hiếu được bà dì ruột không có con xin mẹ tôi đưa về làm con nuôi và cho ăn học. Anh học đến Sơ học yếu lược (lớp 3), vì nhà nghèo nên phải đi học thợ máy để tự nuôi sống mình và nuôi mẹ cùng các em.

Anh Trân và tôi cùng đi học một trường, một lớp đến xong tiểu học, thấy mẹ quá vất vả làm việc quần quật suốt ngày nhưng không đủ nuôi các con ăn học nên anh thôi học và xin đi làm thợ máy, phụ lái ô tô để tự nuôi sống bản thân và giúp đỡ mẹ, em.

Ngày còn nhỏ đi học với nhau, anh là chỗ dựa an toàn của tôi để chống lại số học sinh lớn tuổi ăn hiếp dọa dẫm. Tuy không phải là to cao nhất lớp nhưng tài đánh bậy của anh thì không ai sánh kịp. Anh luôn sáng kiến tự tạo cho mình nhiều cách ra đòn độc đáo mà đối phương không hề đoán trước được.

Trước đây, hồi còn nhỏ anh em chúng tôi đi học phải đi qua nhà hàng khách sạn Morin, là cửa hàng dành cho quan Tây và trường con Tây học. Anh rất ghét bọn quan Tây và cả bọn con Tây choai choai. Để rảnh tay trị tội bọn con Tây, anh giao nhiệm vụ cho tôi mang cặp sách của cả hai anh em. Mỗi lần học trò Việt Nam đánh con Tây thì bọn cảnh sát rượt đuổi bắt chúng tôi. Anh nhanh chân thoát trước, còn tôi mang sách vở nặng chạy thoát sau, có bữa chạy đến hụt hơi mà vẫn thấy vui. Đi qua khách sạn Tây, nhìn vào cửa sổ nhà bếp thấy nào gà, nào bát đĩa đựng đầy thức ăn bốc khói chuẩn bị dọn cho khách Tây rượu chè phè phỡn. Anh lấy que tre thật dài chọc cho bát đĩa đổ vỡ loảng xoảng rồi bỏ chạy, cười khoái chí vì đã trả trù được bọn Tây ác ôn. Bọn bồi bếp khách sạn bị chửi mắng tức lắm, có bữa chuẩn bị sẵn xô nước nóng để khi thấy chúng tôi xuất hiện là tạt nước nóng đối phó. Và từ đó, anh lại nghĩ kế sách mới để bọn Tây ăn những ngón đòn khác không kém phần “hấp dẫn”.

Có lẽ vì thế mà sau này khi ra trận đối phó với kẻ thù, anh chiến đấu rất dũng cảm luôn luôn có nhiều chiến thuật, kỹ thuật bất ngờ, sáng tạo mà kẻ địch phải bó tay đầu hàng.

Tuổi thơ của chúng tôi đã gắn bó với nhau biết bao kỷ niệm vui buồn nên khi Cách mạng tháng Tám thành công, anh vào bộ đội, tôi đi học một mình, buồn lắm. Thời kỳ vào quân đội nơi anh đóng quân ở Phú Mộng (Kim Long) cách nhà độ 4 ki-lô-mét nên tôi thường xuyên lên thăm anh. Các anh chỉ huy trung đoàn thấy anh xông xáo, nhanh nhẹn nên đã chọn anh làm công vụ cho trung đoàn, khi nấu ăn, khi thì giữ ngựa. Hàng ngày cho ngựa ra tắm ở sông Hương xong, anh lại cho ngựa phi nước đại về nhà thăm mẹ và em, oai lắm. Anh thường hát bài: “Đoàn giải phóng quân một lần ra đi. Là có mong chi đâu ngày trở về...” Nghe chúng tôi hát, mẹ thường bảo: “Sao các con hát mà nghe buồn quá”. Sau này bốn đứa con của mẹ lần lượt ra đi, đến ngày chiến thắng ba đứa trở về lại không gặp được mẹ. Trong cuộc chiến đấu của chúng ta có những bà mẹ chờ con ở chiến trường vĩnh viễn không còn trở lại, nhưng cũng có những đứa con khi trở về nhưng không còn mẹ nữa.

Một thời gian sau, anh được đề bạt lên tiểu đội trưởng rồi trung đội trưởng. Đơn vị anh được cử đi chiến đấu ở chiến trường Lào. Anh bị thương ở mặt trận Sê Pôn và được đưa về điều trị ở bệnh viện Nguyễn Tri Phương (Huế).


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 14 Tháng Tư, 2016, 11:53:40 am

Tôi nhớ mãi hàng ngày mẹ bảo tôi mang thức ăn bồi dưỡng cho anh để chóng lành, ra viện. Các mẹ, các chị trong Ban ủy lạo chiến sĩ đã đến bệnh viện tặng quà, áo quần cho chiến sĩ. Trời rét, thấy em mình chỉ mặc mỏng manh chiếc áo tay cụt, anh rơi nước mắt, lấy bộ áo quần mới vừa được tặng cho em để em có bộ áo quần lành lặn mặc khỏi thua thiệt với bạn bè. Sau ngày thoát ly gia đình để đi bộ đội, tôi vẫn còn giữ mãi bộ quần áo mà anh đã cho.

Điều trị vết thương chưa lành hẳn, anh lại xung phong trở lại đơn vị chiến đấu. Anh được đề bạt lên Đại đội trưởng chiến đấu ở Mặt trận Huế. Trong ngày toàn quốc kháng chiến, ngày ấy hai mẹ con tôi được lệnh tản cư về Dương Mông. Mặt trận Huế bị vỡ, anh có về từ giã mẹ và em để đi vào cuộc kháng chiến trường kỳ chống Pháp. Huế bị giặc tạm chiếm, lực lượng vũ trang cách mạng chúng ta phải phân tán vào nhà dân ở vùng tự do để kháng chiến. Anh được giao nhiệm vụ Đại đội trưởng Đại đội độc lập 117 ở nam Thừa Thiên - Huế.

Anh nhắn mẹ về thăm, cả đơn vị đón mẹ rất nồng nhiệt, ấm cúng, về nhà mẹ cứ khen mãi, đơn vị bộ đội như mái ấm gia đình.

Biết tin tôi hoạt động trong Liên đoàn học sinh kháng chiến của thành phố Huế và bọn Pháp đang bắt thanh niên đi lính làm bia đỡ đạn cho chúng, anh đã thuyết phục mẹ cho em thoát ly gia đình ra vùng tự do, nếu ở vùng tạm chiếm thế nào cũng bị địch bắt đi lính, vô tình hai anh em ở hai chiến tuyến khác nhau.

Đúng như vậy, hoạt động nội thành dễ bị lộ, bị địch truy bắt. Thấy không ổn, mẹ đã đồng ý cho tôi ra vùng kháng chiến với anh.

Thời kỳ tôi đang hoạt động bí mật ở nội thành, thỉnh thoảng tôi được giao liện bí mật dẫn ra vùng tự do để họp nhận kế hoạch hoạt động nội thành nên đường đi về cũng khá quen thuộc.

Hôm đó, một chiều vàng cuối thu năm 1949, tôi tạm biệt mẹ để lên đường, tự đấu tranh tư tưởng khá quyết liệt. Trong căn nhà nhỏ, tiện nghi sinh hoạt sơ sài, chỉ có hai mẹ con sinh sống, tối đèn tắt lửa nương tựa vào nhau nhưng nay con lại ra đi để mẹ ở nhà một mình cuộc sống sẽ ra sao? Còn ai để chuyện trò với mẹ trong những ngày vắng lặng, ốm đau ai sẽ lo cơm cháo cho mẹ? Ở lại vùng tạm chiếm sẽ bị địch bắt đi lính, muôn vàn tủi nhục vì phải làm người nô lệ. Thấy con đứng ngồi không yên, không đành lòng để mẹ ở nhà một mình, mẹ rất hiểu điều đó. Mẹ buồn ôm con vào lòng nghẹn ngào cố nén xúc động: “Phận làm trai phải ra đi cứu nước, còn một tên giặc Pháp trên đất nước ta thì dân ta sẽ còn khổ mãi, mẹ ở nhà một mình buồn thật, nhưng còn có bà con lối xóm qua lại, rồi mẹ cũng sẽ quen dần...”.

Hôm đó mẹ nấu thật nhiều thức ăn mà con thường ngày vẫn thích để con ra đi theo kháng chiến. Ngồi trước mâm cơm đầy ắp tình yêu thương của mẹ, mẹ gắp bỏ đầy bát cơm của con nhưng hai mẹ con không thể ăn được miếng nào. Mẹ cố ghìm nước mắt để con khỏi xao xuyến trước khi chia tay. Từ tuổi thơ đến khi lớn lên tôi chưa bao giờ một ngày sống xa mẹ. Cố gắng nuốt nước mắt vào lòng, tôi buộc phải từ giã mẹ lên đường mà không kịp ôm hôn mẹ trước lúc đi xa không hẹn được ngày trở về.

Đến cầu ngói Thanh Toàn (Hương Thủy) tình cờ gặp anh Trân, mừng vô kể! Đại đội 117 do anh làm Đại đội trưởng về đóng quân ở đây để cùng giúp dân chống địch càn, bảo vệ xóm làng. Anh hỏi chuyện về mẹ, về chuyện học hành của tôi, về nguyện vọng của tôi sau khi đã ra vùng kháng chiến. Tôi muốn vào bộ đội để cùng anh diệt giặc lập công, giải phóng quê hương. Anh ân cần tâm sự: “Nguyện vọng của em muốn tòng quân là hoàn toàn chính đáng, nhưng kháng chiến cũng rất cần thanh niên có trình độ văn hóa để làm thầy giáo dạy cho các em nhỏ. Kháng chiến phải đi đôi với kiến quốc. Dân ta còn mù chữ quá nhiều, các em nhỏ không có điều kiện học hành, kháng chiến còn thiếu nhiều giáo viên. Em phải đi dạy học. Việc đánh giặc để các anh lo, vả lại trong mấy anh em mình phải có đứa còn sống để về với mẹ”.

Nhưng buồn thay, sau ngày chiến thắng trở về quê hương, cả ba anh em đều đau lòng nghe bà con xóm giềng kể lại là hàng ngày cứ chiều chiều mẹ lại ra đầu ngõ mỏi mắt ngóng chờ các con. Mẹ lại buồn rầu tâm tình với bà con hàng xóm: “Ba đứa con ra đi, sao không thấy đứa nào trở về hoặc nhắn tin về cho mẹ?”. Mẹ khóc và hôm đó, một buổi chiều cuối thu se lạnh của năm 1973, mẹ đã vĩnh viễn ra đi trong nỗi buồn, nỗi mong nhớ các con.


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 14 Tháng Tư, 2016, 11:55:27 am
Những ngày cùng ở quân đội:

Đúng là hai anh em chúng tôi có nhiều duyên nợ gắn bó với nhau suốt cả thời gian sống trong quân ngũ. Được sự thương yêu dìu dắt của anh trong suốt thời gian ở Đại đội độc lập 117, trong lúc sinh hoạt tập thể cũng như cùng chiến đấu, vui buồn đều có nhau, tôi không rời anh một ngày nào. Một thời gian sau, lựa chọn trong số chiến sĩ có lập trường tư tưởng tốt, có trình độ văn hóa khá, tôi được lọt vào tầm ngắm của Ban chỉ huy trung đoàn. Tôi là chiến sĩ độc nhất của trung đoàn hội tụ đầy đủ những tiêu chuẩn để được chọn đi học bác sĩ ở miền Bắc. Anh Trân thuyết phục tôi đi học bác sĩ, bước đầu tôi đồng ý. Nhưng khi lên cơ quan trung đoàn để chờ liên lạc đưa đi học ở Việt Bắc, xa anh, xa đơn vị chiến đấu, buồn quá tôi lại xin các anh chỉ huy trung đoàn cho về lại đơn vị tiếp tục chiến đấu.

Về lại đơn vị cũ, tôi được phân công làm chiến sĩ chính trị cùng ở cơ quan của Ban chỉ huy đại đội, cùng ăn ở và công tác hành quân chiến đấu với nhau, đi đâu hai anh em đều ở với nhau. Có những đêm hành quân chiến đấu trở về trong xóm ven bờ biển, dưới ánh trăng rằm êm dịu, hai anh em chúng tôi cùng nghĩ về mẹ, về quê nhà. Năm 1950, do những thành tích xây dựng Đại đội 117 thành đại đội chiến lũy và chi bộ cốt thép, anh được đề bạt lên Tiểu đoàn phó rồi Tiểu đoàn trưởng, còn tôi được điều động lên làm Tổ trưởng chính trị Tiểu đoàn 227. Anh Trân trực tiếp chỉ huy trận đánh đoàn tàu hỏa chạy qua địa phận Như Sơn (Phong Điền), anh đã xung phong nhảy lên nóc tàu tháo gỡ được khẩu pháo Bôpho 40 ly của địch.

Tết năm 1950, đơn vị hành quân vào Quảng Điền đánh đồn Sịa thì bị lộ, nên được lệnh rút về xã Phong Chương đúng vào đêm 30 Tết. Sáng mồng 1 Tết được tin chị Lượng, giao liên của ta vừa ở Huế ra có thư và quà Tết của mẹ gửi cho hai con, mừng vô kể. Mặc dù đã hai đêm thức trắng đi tìm diệt địch rất mệt nhưng tôi vẫn vừa đi vừa chạy đến địa điểm nhận thư và quà Tết của mẹ. Lá thư tuy ngắn gọn nhưng mẹ đã dồn tất cả tình thương cho các con nên đã làm hai anh em không cầm được nước mắt, nhớ và thương mẹ nhiều lắm.

Sau trận chống càn Thanh Lương - Mỹ Xuyên quân ta thắng giòn giã, anh Trân bị ốm phải đi điều trị và an dưỡng ở Mỹ Lợi - nam Thừa Thiên Huế. Đến trận càn lần sau của địch về Mỹ Xuyên - Phong Chương, đồng chí tiểu đoàn phó mới lên nhận nhiệm vụ lúng túng nên để cho Tiểu đoàn bộ 227 bị rơi vào vòng vây của địch, một số cán bộ của đoàn 227 bị thương, bị địch bắt làm tù binh. Tôi cũng bị thương nặng và bị địch bắt về giam tại Tòa Khâm (Huế). Anh Trân buồn lắm, rất ân hận là nếu có mình chỉ huy trận đó, Tiểu đoàn 227 chắc chắn sẽ không bị thiệt hại nặng. Vào tù được 3 tháng, may mắn tôi bắt được liên lạc với chi bộ Đảng nhà lao và được chi ủy giao nhiệm vụ tổ chức các đảng viên nòng cốt trong nhà tù do tôi trực tiếp chỉ huy vụ binh biến ở Động Sầm (Hương Thủy) dùng xẻng, cuốc diệt được 27 tên lính địch, thu 20 súng các loại, giải thoát được 50 tù binh của ta trở về với kháng chiến tiếp tục chiến đấu. Được tin tôi thoát tù, anh Trân mừng lắm. Khi tôi trở lại Tiểu đoàn 227 thì anh được tổ chức cho đi dưỡng bệnh ở Trung Quốc. Năm 1954, anh được đề bạt lên Trung đoàn trưởng Trung đoàn 95 rồi về làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 101, và Chủ nhiệm pháo binh của Sư đoàn. Để tạo điều kiện cho anh hoàn thành nhiệm vụ trên cương vị công tác mới, cấp trên bố trí cho anh đi học văn hóa và ngoại ngữ ở Kiến An (Hải Phòng). Có lẽ vì không thích nghi với môi trường mới lắm, anh xin về lại Sư đoàn 325 để công tác, được đề bạt lên Tham mưu trưởng rồi Sư đoàn phó và quyền Sư đoàn trưởng Sư đoàn 325. Sau khi thoát tù, tôi được tổ chức cho đi điều dưỡng ở Nghệ An và học bổ túc ở Trường Quân chính Quân khu 4. Năm 1956, được Bộ Quốc phòng điều về Phòng chính trị Sư đoàn 325. Hai anh em gặp lại nhau. Tôi làm trợ lý văn hóa sư đoàn nên có điều kiện, những khi anh rảnh rỗi tôi lại trực tiếp bồi dưỡng văn, hóa thêm cho anh.

Năm 1958, anh thay mặt gia đình và đơn vị đi hỏi vợ cho tôi. Gia đình cô ấy cách đơn vị gần 20 ki-lô-mét, không có phương tiện cơ giới, anh đi xe đạp cọc cạch về hỏi vợ cho em. Thời kỳ bao cấp, sĩ quan quân đội chưa có lương, chỉ có phụ cấp để tiêu vặt nên mọi việc cưới xin đều do gia đình bên gái lo liệu, đơn vị chỉ cung cấp một ít thuốc lá, bánh kẹo, đám cưới tổ chức theo đời sống mới tuy đơn giản nhưng vui vẻ, ấm cúng.

Đến cuối năm 1964, Sư đoàn 325 được lệnh của Bộ Quốc phòng điều động vào chiến trường miền Nam chiến đấu. Anh Trân phải ở lại miền Bắc xây dựng Sư đoàn 325B, anh buồn lắm, nhưng vẫn động viên tôi: “Là cán bộ miền Nam được về chiến đấu trên quê hương cùng cả nước giải phóng miền Nam, còn gì vinh dự bằng. Em cố gắng chiến đấu cho tốt, cố gắng về Huế để gặp mẹ. Anh rất buồn không được cùng Sư đoàn 325A đi chiến đấu trong dịp này vì anh được lệnh của Bộ Quốc phòng ở lại miền Bắc xây dựng Sư đoàn 325B, nhưng nhất định anh cũng sẽ được đi chiến đấu sau một thời gian ngắn nữa”.


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 14 Tháng Tư, 2016, 11:55:53 am

Năm 1965, Sư đoàn 325B được vào chiến đấu ở A So, A Lưới (Thừa Thiên - Huế) rồi đi thẳng vào Tây Nguyên. Gặp nhau mừng quá, hai anh em lại chung một chiến hào đánh Mỹ. Thấy tôi gầy yếu vì bị sốt rét liên tục, anh cho tôi một ít thuốc bổ, lương khô để bồi dưỡng sức khỏe.

Tết Mậu Thân 1968, anh và tôi cùng ở một mặt trận, cùng nằm chung một công sự, được tin Huế giải phóng, quân và dân ta đã 25 ngày đêm làm chủ thành phố, hai anh em cứ tiếc mãi: Nếu trong thời cơ này được chiến đấu ở Quân khu Trị Thiên, thế nào cũng được về Huế, được gặp mẹ, được mẹ ôm vào lòng cho thỏa lòng mong nhớ.

Cuối năm 1969, sư đoàn do anh làm Sư đoàn trưởng được bổ sung vào chiến trường Nam Bộ, còn tôi đã vào chiến trường gần 6 năm nên được Bộ Tư lệnh Tây Nguyên cho ra miền Bắc điều dưỡng, hai anh em bịn rịn không muốn xa nhau, liệu có còn cơ hội để gặp nhau nữa không?

Mùa hè năm 1970, gia đình chúng tôi được Tổng cục Chính trị mời ra Hà Nội để dự lễ truy điệu anh! Trong giấy mời chỉ ghi vắn tắt: “Đại tá Sư đoàn trưởng Sư đoàn 1 Trần Văn Trân đã anh dũng hy sinh trên chiến trường miền Đông Nam Bộ trong lúc đang làm nhiệm vụ”. Gia đình đã lập bàn thờ để hương khói cho anh nhưng sự thật là anh vẫn còn sống. Trong một chuyến đi nghiên cứu chiến trường, anh đã bị phục kích và bị thương, bị địch bắt ở kênh Vĩnh Tế (Nam Bộ). Đồng đội ngày đêm thương tiếc anh, tìm kiếm sục sạo mãi không thấy, tưởng anh hy sinh nên đã báo tin với đơn vị và gia đình.

Năm 1973, đột ngột biết tin anh được trao trả tù binh ở sông Thạch Hãn (Quảng Trị), mừng vô kể! Cấp trên dự định cho anh đi dưỡng bệnh ở nước ngoài, nhưng anh chỉ có một nguyện vọng duy nhất là trở lại chiến trường để cùng cả nước giải phóng miền Nam, anh được cấp trên chấp thuận và bổ nhiệm về làm Sư đoàn trưởng Sư đoàn 341 mới thành lập.

Hôm Sư đoàn 341 hành quân vào miền Nam, tôi cùng vợ con đến tiễn đưa anh tại Lệ Thủy (Quảng Bình). Sư đoàn 341 được vinh dự tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Qua đài tiếng nói Việt Nam, tôi biết đơn vị do anh chỉ huy đang quần nhau ác liệt với địch ở Xuân Lộc. Cả gia đình tôi đều hồi hộp lo âu theo dõi tin chiến thắng của đơn vị và tin anh. Và còn gì vui sướng bằng khi biết được tin miền Nam hoàn toàn giải phóng và anh vẫn còn sống.

Sư đoàn 341 được tặng danh hiệu đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân và được giao nhiệm vụ làm quân quản tại thành phố Sài Gòn và được Đại tướng Võ Nguyên Giáp khen tặng “Vào thành vững như thành”.

Một thời gian sau, anh được đề bạt làm Tư lệnh phó Quân đoàn 4 và sau đó lên làm Viện phó Học viện Lục quân Đà Lạt. Đây không phải là môi trường quen thuộc của anh nên anh lại tình nguyện đi chiến đấu ở Campuchia giúp nước bạn thoát khỏi nạn diệt chủng Pôn Pốt, và anh đã lập được nhiều chiến công xuất sắc.

Tôi có dịp may mắn lên thăm đơn vị anh đóng quân tại thủ đô Pnôm Pênh (Campuchia). Những đêm buồn vắng lạnh ở nước bạn, anh nhớ da diết gia đình và quê hương. Anh lại đem những băng nhạc Nam ai, Nam bình, dân ca xứ Huế ra nghe để đỡ nhớ nhà.

Anh tâm sự với tôi: “Đã gần 50 năm đi chiến đấu xa quê hương nhưng không lúc nào anh quên Huế, quên những ngày tháng thơ ấu sống trong vòng tay của mẹ và người thân. Anh kể lại sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, anh được cấp trên triệu tập ra Hà Nội để báo cáo kết quả chiến đấu của đơn vị, anh mừng thầm: chuyến đi này thế nào cũng được ghé Huế, ghé thăm mẹ. Anh chuẩn bị sẵn nhiều thuốc men để bồi dưỡng cho mẹ để mẹ đủ sức đi ra Hà Nội thăm con và ở lại sống hạnh phúc lâu dài với các con.

Nhưng buồn thay, mẹ đã vĩnh viễn ra đi không kịp để lại một lời nhắn nhủ với các con...


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 14 Tháng Tư, 2016, 11:56:27 am

Về lại đời thường.

Những ngày về hưu với vợ và các con ở Thành phố Hồ Chí Minh, thỉnh thoảng anh lại về Huế để cùng tôi đi thăm lại các địa danh mà trước đây ngày còn nhỏ hai anh em thường đi bẫy chim về nuôi. Anh bùi ngùi tâm sự: “Ngày còn nhỏ nhà tuy nghèo nhưng anh em mình sống với nhau ấm cúng quá! Được về Huế ôn lại kỷ niệm xưa, anh cảm thấy lòng mình rất thanh thản...”

Hai anh em rất hợp tính nhau và rất thương yêu nhau. Có thể nói từ nhỏ tới lớn chưa bao giờ anh to tiếng la rầy tôi...

Anh luôn luôn quan tâm, lo lắng cho sự tiến bộ của tôi cũng như hạnh phúc của gia đình tôi.

Vì vậy, khi anh bị ốm nặng phải vào điều trị ở bệnh viện Thành phố Hồ Chí Minh, các cháu đã điện thoại cho tôi vào với anh gần nửa tháng cho đến khi bệnh tình đã khá dần, anh đi lại bình thường tôi mới trở về Huế. Mấy tháng sau, tôi lại đột ngột được tin anh đã vĩnh viễn ra đi!

Cuộc đời anh đã gắn liền với cuộc đấu tranh giành lại tự do độc lập của dân tộc. Anh đã đi gần như suốt cả chiều dài của cuộc chiến tranh khốc liệt chống Pháp, chống Mỹ và giúp nước bạn Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng.

Căm thù sâu sắc bọn giặc ngoại xâm, anh đã luôn luôn ở tuyến đầu của chiến trận, là con người của trận mạc, linh hoạt, sáng tạo và quyết đoán, dũng cảm trong chiến đấu với quân thù. Đối với đồng đội, anh luôn luôn thương yêu gần gũi chiến sĩ như ruột thịt, vui vẻ, nhiệt tình, hay “phịa” những chuyện tiếu lâm nên anh em trong đơn vị ai cũng muốn gần anh để nghe anh nói chuyện vui. Đối với gia đình, anh là người chồng, người cha, người anh mẫu mực. Kể cả những lúc ốm nặng điều trị ở bệnh viện, anh vẫn lạc quan yêu đời chiến thắng bệnh tật, được cảm tình sâu sắc của các y bác sĩ và nhân viên phục vụ của bệnh viện.

Cố gắng hết sức mình nhưng tôi không thể nào nói hết được nỗi lòng mình. Đây chỉ là những nét chấm phá viết về anh - đời anh.

Với tất cả tình yêu thương sâu sắc, mãi mãi thương nhớ anh!
T.V.S


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 14 Tháng Tư, 2016, 11:57:37 am

NHỚ MÃI ANH TRẦN VĂN TRÂN
Nhà văn Trần Phương Trà

Quê tôi ở làng Trúc Lâm, trong cuộc kháng chiến chống Pháp thuộc xã Hương Mai, quê chị Võ Bích Hà ở làng An Ninh Hạ, xã Hương Bình, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Nay cả hai làng đều thuộc xã Hương Long thành phố Huế. Hồi năm 1947 - 1954, tôi ở vùng du kích phía tây thành phố Huế nên thường được gặp nhiều anh bộ đội thuộc Trung đoàn 101 của Sư đoàn 325. Thời kỳ 1952 - 1954, cuộc chiến tranh ác liệt và để bảo vệ Huế, lính Pháp cấm chèo đò sáng sớm trên sông Bạch Yến qua vùng Kim Long, Xuân Hòa nên tôi phải về ở làng Kim Long để hằng ngày đi học ở Trường Quốc học Huế. Tôi ở gần nhà hai chị Võ Như Huế và Võ Bích Hà. Tháng 8 năm 1954 khi Hiệp định Giơ-ne-vơ có hiệu lực, nhiều học sinh Huế rủ nhau đi thăm thương binh trên đường tập kết ra Bắc dừng lại nghỉ ở làng Long Hồ, Xước Dũ... Sau đó chúng tôi lên Lại Bằng, xã Hương Vân, huyện Hương Trà thăm bộ đội Việt Minh và xem triển lãm của bộ đội Trung đoàn 101. Khi trở về nhà, tôi xin phép ông bà nội, ba mẹ để được ra Bắc tiếp tục đi học. Mang ba lô theo bộ đội vượt qua vùng chiến khu Hòa Mỹ, qua vùng Cùa, Cam Lộ, vượt sông Bến Hải ở vùng Hói Cụ, qua vùng Mỹ Đức, đến ga Thuận Lý, chúng tôi xuống quốc lộ 1. Lúc này quân đội Pháp đang bàn giao thị xã Đồng Hới cho quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Những năm học trường Đại học Tổng hợp Hà Nội cũng như khi công tác ở Đài tiếng nói Việt Nam, sẵn mối thân tình với gia đình chị Bích Hà, tôi nhiều lần đến thăm ông bà Võ Lương ở ngõ Hội Vũ. Thỉnh thoảng tôi được gặp vợ chồng anh chị Nguyễn Thúy - Võ Như Huê và vợ chồng anh chị Trần Văn Trân - Võ Bích Hà.

Là một người với dáng cao, linh hoạt, vui vẻ, anh Trân có tiếng cười sang sảng và thoải mái. Tôi được nghe nhiều anh chị quen thân với anh Trân, chị Hà kể lại nhiều câu chuyện vui. Hồi kháng chiến chống Pháp, anh Trân làm liên lạc cho bác Võ Lương ở Trung đoàn 101. Sau này khi kết hôn với chị Bích Hà, anh Trân nói đùa với bố vợ:

- Ngày trước con giữ ngựa cho Ba nay con giữ con gái cho Ba!

Chị Bích Hà đã học ở trường Nữ Trung học Đồng Khánh Huế, khi viết thư cho anh Trân, cuối thư có ghi một câu tiếng Anh. Anh Trân không hiểu chị Hà nói gì phải mang thư đi hỏi người bạn thân cùng ở quân đội. Người bạn đọc thư cười bảo anh Trân:

- Phải khao đi! Có gì vui hơn khi nàng viết: “Em gửi anh ngàn chiếc hôn”.

Năm 1966, tôi được gặp lại anh Trân lúc anh từ chiến trường Tây Nguyên về Hà Nội. Anh siết chặt tay tôi, hỏi cặn kẽ về gia đình và công tác của tôi. Tôi nói với anh:

- Em có đề đạt nguyện vọng trở về quê hương nhận một công tác gì về báo chí và văn nghệ. Bộ biên tập Đài tiếng nói Việt Nam đã chuyển em từ Phòng Văn nghệ sang Tổ thời sự miền Nam để làm quen với các thể loại tin tức, bình luận... mà trước đây em chưa được học. Em biết vào chiến trường thì phải biết làm được nhiều loại công việc để có thể đáp ứng được yêu cầu ở mọi noi, mọi lúc.

Anh Trân kể và nói những kinh nghiệm khi sống ở vùng rừng núi rồi dặn tôi:

- Em sắm vài chục lưỡi câu, vài chục mét chỉ câu, phao và chì đem theo người. Đây là công cụ cần thiết để cải thiện sinh hoạt ở chiến trường. Đến đâu, có khe suối, chỉ cần kiếm một chút mồi, chặt một cành cây làm cần câu là có thể kiếm thêm con cá cho bữa ăn ở chiến trường. Không thể coi thường việc nhỏ này...

Từ 1967 đến cuối năm 1973, ở chiến trường Trị Thiên Huế, tôi vẫn nhớ những kinh nghiệm và những lời dặn dò của anh Trân. Khi dừng lại mắc võng bên bờ suối, tôi chú ý đề phòng những cơn lũ quét bất ngờ ập đến trong đêm. Những khi câu được cá, tôi lại nhớ anh. Tôi hình dung anh đang chỉ huy một sư đoàn chiến đấu ở Tây Nguyên...

Sau năm 1973, lại được gặp chị Bích Hà ở Hà Nội, tôi mới biết anh đã bị sa vào tay địch. Anh khéo che giấu được tung tích của mình trong một vai y tá đông y quân giải phóng. Tôi hiểu tính tình hiền lành, vui nhộn, hay đùa hay tếu và nhất là tác phong gần gũi quần chúng đã giúp anh che mắt được quân địch. Tôi khâm phục và mừng anh an toàn trở về với gia đình và đồng đội.

Tháng 11 năm 2006, cùng chị Võ Bích Hà, tôi được đến dự buổi họp mặt truyền thống của cán bộ và chiến sĩ Hội Cựu chiến binh Sư đoàn 341 tại Hà Nội. Những tiếng nói chân tình và tốt đẹp của đồng đội dành cho người thủ trưởng quý mến là một niềm an ủi lớn đối với chị Bích Hà và các cháu. Tôi cũng đã đến thăm gia đình chị Võ Bích Hà ở đường Cộng Hòa, Thành phố Hồ Chí Minh và thắp một nén nhang trước di ảnh của anh, nhớ tiếng cười lạc quan và giọng nói thân tình của một người anh, một vị tướng dũng cảm sống trọn vẹn cho đất nước và gia đình...
Hà Nội, 4-2007
T.P.T


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 14 Tháng Tư, 2016, 11:59:07 am

THIẾU TƯỚNG TRẦN VĂN TRÂN

Đồng chí Trần Văn Trân, sinh ngày 1 tháng 5 năm 1927 tại thành phố Huế trong một gia đình có truyền thống cách mạng.

Từ tháng 7 năm 1944 đến 26 tháng 9 năm 1945 hoạt động trong tổ chức Việt Minh Nguyễn Tri Phương, thành phố Huế, tham gia công tác cho cuộc khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám năm 1945 tại Huế.

Ngày 26 tháng 9 năm 1945, đồng chí gia nhập giải phóng quân ở Huế, đơn vị Trung đoàn Trần Cao Vân - 101.

Từ tháng 8 năm 1947 đến tháng 6 năm 1964 đồng chí đã qua các đơn vị từ cấp Đại đội phó đến Thượng tá Sư đoàn phó Sư đoàn 325.

Tháng 3 năm 1965 đến tháng 12 năm 1969 đồng chí vào chiến đấu tại chiến trường Tây Nguyên, giữ chức vụ Sư đoàn trưởng Sư đoàn 1. Sau đó đồng chuyển về chiến trường Nam Bộ giữ chức Sư đoàn trưởng Sư đoàn Nam Bộ, Phó bí thư Tiền phương Tư lệnh Mặt trận An Giang.

Từ tháng 2 năm 1970 đến tháng 2 năm 1973, trên đường đi công tác bị địch phục kích, đồng chí bị thương và bị địch bắt giam ở các nhà tù Cần Thơ, Hố Nai. Tại đây tổ chức cử đồng chí giữ nhiệm vụ Bí thư Đảng ủy trong nhà tù. Trong những năm tháng ở tù, bị địch tra tấn dã man nhưng đồng chí vẫn giữ vững khí tiết của người cộng sản. Tưởng như đồng chí không còn nữa, nhưng sau khi ký Hiệp định Pa-ri đồng chí được trở về trong chiến thắng của dân tộc.

Từ năm 1973 đến tháng 7 năm 1975, đồng chí lại tiếp tục vào chiến trường giữ chức vụ Đại tá Sư đoàn trưởng Sư đoàn 341 và đã tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Đến ngày 3 tháng 4 năm 1976 là Đại tá Phó Tư lệnh Quân đoàn 4.

Từ tháng 12 năm 1976 đến tháng 8 năm 1980 đồng chí là Phó Viện trưởng - Ủy viên Thường vụ Đảng ủy Học viện Quân sự Đà Lạt.

Từ tháng 9 năm 1984 đến tháng 12 năm 1985 đồng chí là Thiếu tướng Tham mưu trưởng Mặt trận 719.

Từ tháng 7 năm 1988 đến tháng 10 năm 1991 là Ủy viên Ban chỉ đạo Đoàn K88 tại Campuchia.

Từ tháng 11 năm 1991 đến tháng 12 năm 1994 đồng chí là cán bộ nghiên cứu của Bộ Quốc phòng.

Đến tháng giêng năm 1995, đồng chí nghỉ hưu. Khi về địa phương, đồng chí tham gia Hội cựu chiến binh, Hội người cao tuổi. Đồng chí Trân đã tích cực hoạt động trong các tổ chức Đảng, Đoàn thể địa phương, hòa mình cùng bà con đường phố tích cực hoạt động, được đồng đội và nhân dân quý mến.

Trong những năm tháng công tác và chiến đấu, với những cương vị công tác khác nhau nhưng dù ở cương vị nào đồng chí Trần Văn Trân cũng đem hết nhiệt tình, trách nhiệm hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, nêu cao tinh thần đấu tranh chống mọi kẻ thù của giai cấp, của dân tộc, phẩm chất cách mạng trong sáng. Tính tình hiền hậu, khiêm tốn, giản dị trong mọi sinh hoạt, tận trung với Đảng, tận hiếu với dân, thân ái với đồng đội.

Trong suốt những năm chiến đấu và công tác, đồng chí đã được Đảng và Nhà nước tặng thưởng:

-   Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng
-   Cán bộ Tiền khởi nghĩa
-   3 Huân chương Quân công hạng Nhất, Nhì
-   1 Huân chương Quân công giải phóng hạng Ba
-   4 Huân chương Chiến công hạng Nhất, Nhì
-   Huân chương Chiến thắng hạng Nhất
-   Huân chương Chiến sĩ giải phóng hạng 1, 2, 3
-   Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng 1, 2, 3
-   Huân chương kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất
-   Huân chương bảo vệ Tổ quốc Ăngko hạng Nhất
-   Huy chương quân kỳ quyết thắng
-   Kỷ niệm chương “Chiến sĩ cách mạng bị địch bắt tù, đầy”
Và nhiều bằng khen, giấy khen

Do căn bệnh hiểm nghèo, mặc dù đã được y bác sĩ bệnh viện Thống nhất và gia đình tận tình cứu chữa, nhưng do căn bệnh quá nặng, đồng chí trút hơi thở cuối cùng vĩnh viễn ra đi từ giã chúng ta vào lúc 11 giờ 10 phút ngày 19 tháng 3 năm 1997 (nhằm ngày 21 tháng 2 năm Đinh Sửu) hưởng thọ 71 tuổi. Gần 52 năm tham gia hoạt động cách mạng, “Với 51 tuổi Đảng cả cuộc đời quên mình vì Tổ quốc, gia đình, con cháu, bằng hữu, đồng đội”. Đồng chí Trân mất đi đã để lại trong lòng chúng ta hình ảnh một đảng viên trung kiên, một chiến sĩ kiên định, một người đồng đội chân thành. Đây là những hình ảnh không thể nào quên được, tiếc thương sao một cuộc sống vẹn tròn, một tấm lòng nhân nghĩa.

Đồng chí Trần Văn Trân mất đi, Đảng ta mất đi một đảng viên trung kiên, với gia đình đây là một mất mát không có gì bù đắp được, với bạn bè, đồng chí, đồng đội những người có mặt ở đây cũng như những người chưa kịp về đây để từ giã đồng chí, chúng ta mất đi một người đồng chí, một người anh gần gũi, chân thành.

Đồng chí Trần Văn Trân đã vĩnh biệt chúng ta để đi vào cõi vĩnh hằng, để lại lòng thương tiếc vô hạn trong lòng mỗi chúng ta. Đồng chí mất đi nhưng tinh thần, đạo đức, tình cảm của đồng chí sẽ mãi mãi là những hình ảnh tốt dẹp, gần gũi trong lòng mỗi chúng ta...
(Trích điếu văn do Thiếu tướng Nguyến Văn Chia, Phó Tư lệnh Quân khu 7 đọc)


Tiêu đề: Re: Thiếu tướng Trần Văn Trân-Chuyện bây giờ mới kể
Gửi bởi: chuongxedap trong 14 Tháng Tư, 2016, 12:03:35 pm

LỜI TƯỞNG NIỆM

Đồng chí Trân ơi! Đồng đội trên quê hương cố đô Huế quá đau buồn, quá bàng hoàng lúc nghe đồng chí ra đi đột ngột, không một lời trăng trối, không một lời vĩnh biệt vợ con, bạn bè, đồng đội. Đồng chí Trân ơi! Đồng chí đi thật rồi ư? Ra đi thanh thản quá, đã để lại bao nhiêu mọi sầu đau thương cảm, nuối tiếc, nhớ nhung cho người ở lại. Đứng trước bàn thờ khói hương nghi ngút là những đồng chí, đồng đội đã từng sánh vai cùng đồng chí chiến đấu khắp các nẻo đường của đất nước, đã giữ trọn lời thề thứ 7, luôn giữ trọn “Bài ca không quên” một mối tình đồng đội son sắt bất diệt.

Chúng tôi những người có mặt xin thay mặt cho toàn thể đồng chí, đồng đội hôm nay không có mặt xin gửi đến vong linh đồng chí nỗi niềm thương tiếc vô hạn.

Đồng chí Trân ơi! Bạn bè nhớ buổi tòng quân, nhớ tình chiến hữu máu xương chia lửa đạn, nhớ những thuở trường chinh, nhớ những trận phục kích, công đồn, nhớ hạt muối mặn trên môi, nhớ tấm chăn đơn co quắp suốt đêm trường.

Ôi bao nhiêu cái nhớ, cái vui buồn, cho nên kỷ niệm có lúc vô tình qua đi, nhưng ký ức đời lính của chúng mình luôn tồn tại.

Đồng chí là một đồng đội thủy chung, chân tình, giản dị, một người chồng mẫu mực, một người cha chăm lo cho các con từng bước trưởng thành, vun đắp cho các con thành những hoa thơm cỏ ngọt trong vườn hoa tươi đẹp, trọn vẹn ân tình trong tình làng nghĩa xóm, một người con ưu tú của Đảng, của Tổ quốc mang đủ 4 chữ: “Trung - Hiếu - Vẹn - Toàn” một con người đức độ như vậy. Ôi đồng chí đã từ giã gia đình, bạn bè, đồng đội ra đi sớm quá, đột ngột quá, đồng đội quá thương tiếc đồng chí, không ai muốn tin đó là sự thật.

Thưa vong linh đồng chí Trần Văn Trân!

Với đau thương vô hạn, hôm nay chúng tôi là đồng đội Cựu chiến binh, đồng đội Trung đoàn Trần Cao Vân - 101, Tiểu đoàn 227 xin có lời “tạm biệt” chứ không nói là vĩnh biệt, vì đồng chí vẫn sống mãi trong tâm tư tình cảm và kỷ niệm, ký ức chúng tôi, giống các cuộc chia tay trước lúc lên đường chiến đấu đầy hiểm nguy, không rõ ai còn, ai mất.

Với chị Hà, con cháu, họ hàng, chúng tôi những đồng đội thân tình chí cốt với đồng chí Trân, xin chia buồn sâu sắc đến gia quyến lòng thương tiếc vô hạn.

Đồng chí Trân ơi! Trái tim đồng chí đã dừng cấp dòng máu ấm, mọi ưu tư cũng tiêu tan trong lòng, mắt đồng chí đã khép lại để về cõi vĩnh hằng. Trong giờ phút đau thương này mới rõ, lúc lâm chung càng thấu rõ bạn bè, gánh trần thế sẽ nặng vai người ở lại.

Chúng tôi những người ở lại xin nguyện trước vong linh đồng chí, sẽ gánh vác thêm phần đồng chí, đóng góp bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.

Một lần nữa chúc đồng chí thanh thản ra đi và xin chia buồn sâu sắc đến gia quyến
Huế, 10-4-1997
Hội Cựu chiến bình tỉnh Thừa Thiền Huế
Hội Cựu chiến binh thành phố Huế
Ban liên lạc Trung đoàn Trần Cao Vân -101
Ban liên lạc Tiểu đoàn 227


HẾT