Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Tài liệu - Hồi ký Việt Nam => Tác giả chủ đề:: colorwind trong 11 Tháng Năm, 2008, 09:29:15 pm



Tiêu đề: Bộ đội Bình Xuyên
Gửi bởi: colorwind trong 11 Tháng Năm, 2008, 09:29:15 pm
Tên sách: Bộ đội Bình Xuyên
Tác giả: Hồ Sơn Đài - Đỗ Tầm Chương - Hồ Khang
Nhà xuất bản: Lao động
Năm xuất bản: 2005
Số hoá: ptlinh, colorwind

BỘ ĐỘI BÌNH XUYÊN


TỰA

Thời kỳ kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ,  trong số các đơn vị võ trang có bộ đội Bình Xuyên. Cả nước đều biết như vậy. Nhưng nhiều người muốn biết lịch sử bộ đội Bình Xuyên như thế nào? nguồn gốc, thành phần, việc làm và công lao của họ ra sao? Đó là nhu cầu chính đáng đòi hỏi các nhà sử học, các cán bộ chiến sĩ từng là người Bình Xuyên ghi lại lịch sử của bộ đội Bình Xuyên. Cuốn sách ghi lại lịch sử bộ đội Bình Xuyên (liên chi đội 2 và 3) này là một tiếng nói đáp ứng nhu cầu ấy.  Bộ đội Bình Xuyên thoạt đầu hình thành từ “hạt nhân” chi đội 2 và chi đội 3 Vệ quốc đoàn Khu 7 dưới sự chỉ huy của người anh cả Dương Văn Dương. Thành phần chủ vếu là các anh chị cùng đông đảo đàn em  giang hồ vì mưu sinh và tự vệ mà kết lại với nhau thành từng nhóm, lấy nghĩa huynh đệ, luật giang hồ làm căn bản ứng xử. Ngoài lực lượng của Dương Văn Dương còn có lực lượng của Nguyễn Văn Mạnh (ở Bình Xuyên, Chánh Hưng, Cần Giuộc) và nhiều nhóm anh chị khác tự coi mình là bộ đội Bình Xuyên, trở thành bộ đội Bình Xuyên. Vùng Bình Xuyên trở thành nơi khét tiếng như một trung tâm của giới giang hồ. Bọn cường hào ác bá địa phương phải khiếp sợ. Bọn an ninh cảnh sát Pháp phải khoanh tay bất lực. Trong bối cảnh bị thực dân Pháp đô hộ họ chống Pháp, chống cường hào tay sai Pháp theo cách riêng của giới giang hồ. Nhưng họ chỉ biết xưng hùng mà chưa tìm ra được cách “định bá đồ vương " cho đất nước. Phát huy tâm tính tích cực vốn có của những người Bình Xuyên đàn anh, một số người cộng sản đã thâm nhập vào Bình Xuyên với chân tình bằng hữu, dày công vun đắp cho họ lòng yêu nước, yêu giai cấp là mục đích cách mạng của Đảng Cộng sản Đông Dương. Từ đó các thủ lĩnh Ba Dương và Tám Mạnh cùng một số bằng hữu chí thân qui tụ đàn em đi theo chủ trương của Đảng Cộng sản, tham gia chuẩn bị khởi nghĩa từ lúc Pháp đầu hàng Nhật. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp lần thứ hai, dưới sự lãnh đạo của đảng , các nhóm võ trang tụ họp lại, tham gia tích cực vào cuộc chống xâm lược, từng bước phát triển từ các nhóm bộ đội riêng lẻ thành chi đội, trung đoàn. Đại bộ phận cán bộ, chiến sĩ Bình Xuyên từ trong cuộc chiến đấu đầy cam go thử thách đã trưởng thành, thành những đảng viên Cộng Sản, những cán bộ chiến sĩ cách mạng kiên cường.Máu và mồ hôi của họ đã góp phần xứng đáng vào thắng lợi trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. Tuy nhiên, trong hàng ngũ Bình Xuyên, đã không tránh khỏi có một bộ phận nhỏ vì nhiều lý do (âm mưu thâm độc của kẻ thù, bản lĩnh rèn luyện yếu, sa sút) trở thành tay sai của địch  làm phương hại đến sự nghiệp chung và uy tín của  bộ đội Bình Xuyên.  Lịch sử bộ đội Bình Xuyên, về thực chất chỉ tồn  tại trong vòng mấy năm ngắn ngủi, từ tháng 9 năm 1945 đến giữa năm 1948  khi Bảy Viễn về Sài Gòn hàng Pháp và các đơn vị bộ đội Bình Xuyên hòa nhập chung vào những trung đoàn Vệ Quốc  đoàn trên toàn bộ chiến trương miền Đông Nam Bộ. Kể từ đây không còn tổ chức đơn vị bộ đội Bình Xuyên, và do đó, không còn "Bộ đội Bình Xuyên " theo đúng nghĩa chân thực của cụm từ này.  Bản thân lịch sử bộ dội Bình Xuyên rất phức tạp. Việc nghiên cứu biên soạn lịch sử Bình Xuyên là một việc khó. Các tác giả của cuốn sách này mà chủ biên là đồng chí Hồ Sơn Đài đã nghiêm túc góp nhiều công sức trong quá trình thực hiện, nhất là khâu sưu tầm đánh giá tư liệu. Cuốn sách này đã trình bày được cơ bản  từng bước đường trưởng thành với những bước quanh co nhiều sự kiện thăng trầm khắc  nghiệt, những nét đặc thù của lịch sử bộ đội Bình Xuyên trong một thời kỳ lịch sử đầy biến động của đất nước đồng thời, cuốn sách cũng gợi mở nhiều vấn đề  cần được tiếp tục tranh luận nghiên cứu bổ sung, để tiến tới có được một bộ sử hoàn chỉnh xứng đáng với bộ đội Bình Xuyên.  Là chiến sĩ  “Bộ đội Bình Xuyên” từ ngày  mới thành lập, cầm dao kiếm, súng gỗ, súng lửa, lưỡi lê đi đánh giặc, tôi hân hạnh viết những dòng này  và xin trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc. 

Thiếu tướng LÊ THÀNH CÔNG (Sáu Thịnh)
Phó tư lệnh quân khu 7
 


Tiêu đề: Re: Bộ đội Bình Xuyên
Gửi bởi: colorwind trong 11 Tháng Năm, 2008, 09:37:06 pm
Chương I

ĐẤT VÀ NGƯỜI BÌNH XUYÊN


Huyện Nhà Bè nằm ở đông nam thành phố Hồ Chí Minh, là dải đất kéo dài theo hướng bắc nam, chiều rộng 5 km và chiều dài độ 1,5 km với diện tích đất tự nhiên 13.316 ha.

Thời thuộc Pháp, Nhà Bè là một quận thuộc tỉnh Gia Định, gồm hai vùng đất thuộc hai tổng: Bình Trị Hạ (vùng đất liền gồm 9 xã )[1] và An Thịt ( vùng rừng Sác gồm 9 xã )[2].

Vùng đất liền Nhà Bè là một cù lao, bao bọc bốn chung quanh là sông, kinh rạch hình thành ranh giới giữa Nhà Bè với các địa phương sát cạnh. Phía bắc, Nhà Bè giáp Quận 4 mà dòng kinh Tẻ là đường phân giới. Phía đông bắc giáp huyện Thủ Đức, địa giới là sông Sài Gòn. Phía đông, Nhà Bè giáp huyện Long Thành (tỉnh Đồng Nai), Cần Giờ mà sông Nhà Bè là đương phân ranh. Kinh Đồng Điền (nối thông sông Nhà Bè với Rạch Dơi ) là ranh giới giữa Nhà Bè với huyện Cần Giuộc (tỉnh Long An). Rạch ông Lớn bắt dòng với kinh Cây Khô, tạo nên địa giới phía tây giữa Nhà Bè với Cần Giuộc và Quận 8. Nhà Bè nằm trên khu vực  chuyển tiếp giữa miền Đông Nam Bộ và các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long độ cao so vởi mặt biển trung bình là 1,3 mét. Địa hình bị chia cắt mạnh bởi hệ thống rạch, kinh chằng chịt. Ngày ngày thủy triều lên xuống, đất đai nhiễm mặn. Thời thuộc Pháp, cư dân thưa thớt, lúc đông nhất mỗi xã cũng chỉ độ 1.000 dân. Đất đai phần lớn là hoang hóa. Trên bãi sình lầy, các loại cây ưa mặn lâu năm mọc lên xanh um tạo thành các " Vạt rừng " hoang rậm. "Vạt rừng " trải khắp lan tới ven trục lộ, tận mép các dòng sông, kinh. Thuở trước, đây là nơi cư ngụ và hành nghề của các băng nhóm trộm cướp, là nơi trú náu kín đáo cho những kẻ “bất phục tùng" chế độ. Chính thực dân Pháp cũng phải tỏ ra ngao ngán và bất lực khi đối mặt với vùng “đất nghịch" này.

Ép sát một phía của Sài Gòn, phía đông nam, mà những dòng kinh, sông và các tuyến đường bộ ngang qua nối Sài Gòn với biển cả và các tỉnh đồng hằng sông Cửu Long. Nhà Bè chiếm giữ vị trí quan trọng về kinh tế, quân sự đối với Sài Gòn và Nam Bộ. Từ đông nam rừng Sác, sông Lòng Tàu xuyên suốt rừng Sác miền Đông, lên hương tây bắc rồi hoà nhập với sông Nhà Bè, tẽ nhánh trái ăn thông với sông Sài Gòn[3] là một thương lộ quốc tế quan trọng nối cảng Sài Gòn với cửa biển Cần Giở. Trên dòng sông đó, tàu bè quốc tế có tải trọng hàng vạn tấn thường xuyên đi lại. Tuyến rạch ông Lớn - Cây Khô lại là đường vận chuyển thủy quan trọng nối Sài Gòn với các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Dòng kinh Tẻ cũng giữ một vai trò tương tự. Ngoài những đường thủy ra liên tỉnh lộ 15 nối Sài Gòn với Nhà Bè, hương lộ 34 nối Sài Gòn với các huyện lỵ của tỉnh Chợ Lớn và tỉnh Gò Công cùng những tuyến giao thông đường bộ huyết mạch. Do điều kiện tự nhiên như đã kể trên ở Nhà Bè, thực dân Pháp, đặc biệt đế quốc Mỹ đã xây dựng nhiều cơ sở kinh tế quân sự lớn. Hàng loạt kho chứa các nguyên liệu lỏng (xăng, nhớt)... của các công ty tư bản Mỹ, Pháp, Anh, Bỉ, Hà Lan, nằm dọc theo sông Nhà Bè với sức chứa rất lớn đủ cung cấp cho cả chiến trường Nam Đông Dương. Quân cảng Nhà Bè nằm giữa vùng tiếp giáp hai xã Phú Mỹ và Phú Xuân là nơi Pháp rồi Mỹ chuyên dùng nhập các hàng quân sự. Một bộ phận bến kè (quai) và bến đậu của hải cảng Sài Gòn, nằm trên đất Tân Thuận với dãy kho hàng đồ sộ.

Quá trình thực dân Pháp rồi đến đế quốc Mỹ xây dựng các cơ sở kinh tế, quân sự, bến cảng và hệ thống kho tàng trên đất Nhà Bè, cũng là quá trình xuất hiện đội ngũ những người công nhân làm thuê cho các hãng tư bản thực dân. Bên cạnh đội ngũ công nhân ngày càng tăng, còn có một bộ phận đáng kể gồm những người nông dân lao động nghèo làm công có định kỳ ở các kho chứa dầu Nhà Bè, bến cảng Tân Thuận. Hàng năm, khi công việc đồng áng rỗi rang, những người nông dân nghèo kéo tới các hãng dầu Nhà Bè, bến cảng Tân Thuận tìm việc làm để rồi khi mùa tới, họ lại lũ lượt về lại xóm cũ trồng cây... quá trình đó cứ lặp đi, lặp lại đơn điệu và buồn bã như đời người dân sống trong cảnh lầm than, mất nước.

Dưới ách thống trị của thực dân Pháp, như bao người dân mất nước, những người lao động Nhà Bè trải qua năm tháng đói rách, tủi nhục, bị bọn thực dân đế quốc áp bức bóc lột nặng nề. Chưa qua khỏi một thời xơ xác và cùng cực của cuộc tổng khủng hoảng những năm 1929-1933, nhân dân ta lại phải sống trong cảnh hết sức khốn cùng ngột ngạt, do phải chịu áp bức của thực dân Pháp, phát xít Nhật.

Là địa bàn có những cơ sở kinh tế, quân sự quan trọng của thực dân, đế quốc, Nhà Bè càng chịu những tác động nặng nề của tình hình đó.

Việc các nước trong Đồng Minh chống phát xít thực hiện bao vây quân sự, kinh tế phát xít Nhật ở Đông Dương khiến các tuyến đường nối thông giữa Sài Gòn với biển cả phía đông bị cắt đứt. Hàng hoá trở nên vô cùng khan hiếm. Bấy giờ, hàng vạn công nhân làm thuê trong các hãng dầu Nhà Bè, ở bến cảng Tân Thuận... bị thất nghiệp. Đời sống thường nhật vì vậy, lại càng trở nên khó khăn hơn. Nơi tập trung các kho xăng dầu lớn mà nhân dân phải thắp bằng dầu phộng, dầu mù u le lói, ốm đau, bệnh tật không tiền và không thuốc chữa trị. Công nhân và nông dân, đa phần là áo cộc tay, quần đùi tơi tả. Phụ nữ nông thôn phải dùng cả bao bố làm cái mặc, ở nhiều xã người dân bị phát xít Nhật cưỡng bức, dồn đuổi khỏi nhà cửa, đất đai, bến bãi của họ để thành lập phòng tuyến trận địa chống quân Đồng Minh có thể đổ bộ từ mặt sông Soài Rạp, Nhà Bè lên, các trận địa pháo phòng không bảo vệ quân cảng Nhà Bè, xây dựng các hầm ngầm cố thủ... Đồng thời, để đảm bảo an ninh và an toàn cho các trận địa. các tuyến phòng ngự... bọn mật thám và lực lượng cảnh binh Nhật thường xuyên tổ chức các cuộc vây ráp, truy lùng những người chống đối.


1.   Tân Thuận, Phú Mỹ, Phú Xuân, Tân Quy, Long Kiểng, Phước Lộc, Phước Long, Long Thới, Nhơn Đức (sau này thêm Hiệp Phước).
2.   Bình Khánh, An Thới Đông, Lý Nhơn, Tam Thôn Hiệp, Cần Thạnh, Đồng Hoá, Thạnh An, Long Thạnh, Tân Thạnh. 
3.   Nơi đó là cửa của hai sông Sài Gòn sông Đồng Nai: "Nhà Bè nước chảy chia hai, ai về Gia Định. Đồng Nai thì về". 


Tiêu đề: Re: Bộ đội Bình Xuyên
Gửi bởi: colorwind trong 11 Tháng Năm, 2008, 10:02:18 pm
Đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của cư dân Nhà Bè do  vậy cũng mang những đặc điểm khác biệt.

Đối mặt với kẻ thù, với bất công ngang trái, một số người giác ngộ sớm đi theo Đảng làm cách mạng, một số khác náu mình nơi cửa Phật, cắt tóc đi tu. Loại thứ ba không thế, họ phản ứng lại áp bức, bất công, khổ nhục bằng cách đi làm giang hồ. Đa phần trong số họ, thuở đầu vốn là những người dân nghèo khổ, trong sạch và lượng thiện. Sớm tối trên đồng ruộng hay ở bến cảng, kho dầu..., họ đã chọn con đường kéo bè, kết cánh thành các phe nhóm giang hồ hòng tự giải thoát, tự cứu mình trong cái thế giới đầy bất công nguy hiểm. Phần lớn trong số họ thoát ly sản xuất để đâm thuê, chém mướn kiếm ăn ở bến tàu, bến xe tổ chức cướp các cửa hàng, các chuyến xe khách, các chuyến ca nô... hoặc canh giữ và bảo vệ các sòng bạc, nhà chứa. Giới giang hồ gọi loại này là lục lâm thảo khấu (lục lục thường tài). Một số khác thuộc loại võ hiệp giang hồ (mã thượng giang hồ). Dẫu là “giang hồ" nhưng vẫn gắn bó với sản xuất, công việc họ giao du, kết bạn xa gần với những người đồng chí hương, làm việc nghĩa, bảo vệ người yếu thế, chăm lo việc đảm bảo an ninh xóm ấp, bất phục tùng, bất hợp tác với chính quyền thực dân, phong kiến. Bởi thế, không những họ có uy tín trong giới giang hồ mà còn được nhân dân trong vùng cảm mến.

Trong ngót mười năm, chỉ ở ba xã phía bắc Nhà Bè là Tân Thuận, Tân Quy, Phú Mỹ, hàng trăm băng nhóm giang hồ lớn, nhỏ ra đời. Mỗi băng nhóm do một hoặc vài “tay anh chị” trội nhất về võ nghệ so với “đàn em” trong nhóm đứng đầu. Sống chết phải hết lòng vì nhau, các thành viên trong băng nhóm không bao giờ được phản bội, lấy nghĩa khí, ân tình, có thuỷ có chung mà ứng xử với nhau. Đó chính là luật  của giới giang hồ. Từ thuở nhóm họp ban đầu và suốt cuộc vùng vẫy, hành nghề, người thủ lãnh phải là một mẫu mực về thế ứng xử, về khả năng tổ chức các hoạt động để dắt dẫn đàn em "làm ăn " đồng thời phải thường xuyên quan tâm, củng cố và tăng cường thực lực của băng nhóm, trong đó, điều cốt tử đảm bảo cho băng nhóm tồn tại là phải bằng mọi cách có thể, thu phục và đào luyện được đàn em út tuyệt đối  trung thành, đáng tin cậy, sẵn sàng tuân thủ bất cứ yêu cầu, mệnh lệnh nào của thủ lĩnh, hoàn thành bất cứ nhiệm vụ nào được trao phó trong mọi tình huống.

Tân Thuận là một xã ở phía đông bắc Nhà Bè, nơi có bến cảng Tân Thuận - bến cảng ngày đêm tàu bè lớn nhỏ tấp nập vào ra. Như bất cứ bến cảng nào thuở đó, gắn liền với bến cảng là sòng bạc, nhà chứa, các dịch vụ... Và cũng đi  liền vởi nó là sự xuất hiện hàng chục các băng, nhóm "nhảy dù” chuyên sống bằng nghề trộm cắp hàng hoá ở các tàu ngoại quốc, ở bến bãi, kho tàng, trên các tàu thuyền, xà lan hoặc xe vận tải. Trong số đó, trội hơn là băng của Trần Văn Hoàng (Ba Hoàng). Sinh ra trong một gia đình công giáo nghèo, cư ngụ cạnh chợ Tân Thuận. Ba Hoàng được cha mẹ cho ăn học đến hết lớp elêmentaire. Gặp lúc cảnh nhà khốn  khó anh thuê xe dùng con ngựa còm của gia đình đêm đêm đưa rước khách trên tuyến Tân Thuận - Sài Gòn. Ngặt nỗi,  vào thời buổi khó khăn, khách đi lại ít, tiền kiếm được  chẳng là bao. Cảnh sang giàu và nghèo túng vẫn ngày ngày đập vào mắt anh. Mong thoát vận bí anh triệu tập đàn em, tổ chức đánh cướp hàng hóa ở bến cảng Tân Thuận và cả bến cảng Sài Gòn nói chung. Với bản lĩnh, sự năng nổ, tháo vát ngoại giao của Ba Hoàng cộng với số "tay dao tay súng" ngày càng tăng, nhóm của Ba Hoàng "làm ăn " phát đạt, tiếng tăm “nổi” như cồn, khiến các tay anh chị khác phải “để ý”.

Tại bến tàu, bến xe, nhiều băng nhóm giang hồ khác “làm ăn" bằng cách thầu bảo vệ các sòng bạc, nhận đâm thuê, chém mướn, bắt cóc con tin... Hoạt động của các băng nhóm này dữ dằn đến nỗi bọn lính cũng giả bộ làm ngơ, không dám nhúng tay can thiệp. Bến tàu Nguyễn Văn Kiệu, cạnh cột cờ Thủ Ngữ, là chốn làm ăn ban đầu của nhóm giang hồ Trần Văn Đối (Sáu Đối). Rồi sau, nhóm này quản luôn cả bến đò Thủ Thiêm. Khi thế lực đã mạnh. Sáu Đối nhường lại các khu vực này cho một số đàn em hoạt động, còn mình và đa phần trong nhóm dịch chuyển sang hành nghề ở miệt Chợ Lớn, vùng chạy dọc bến Hàm Tử và Lê Quang Liêm. Năm 1940, khi Nhật vào Đông Dương, dùng tiền và vàng lo lót. Sáu Đối và nhóm của mình được thầu bảo vệ bãi chứa gỗ của một hãng chuyên đóng tàu đi biển, đi sông cho quân đội Nhật ở vùng Nam Bộ. Bấy giờ, Sáu Đối đã có một lực lượng khá đông, trang bị phần lớn là súng.

Ngoài hai nhóm giang hồ trên đây, có một số nhóm chuyên nghề đánh cướp nhà giàu, tiệm buôn, ghe thuyền, tàu xe... Công việc này, giới anh chị thương gọi là đi "hát". Thuộc loại này, trên địa bàn và vùng lân cận xã Phú Mỹ có các nhóm của Sáu Hoà vùng đông bắc xã, của hai anh em Sáu Kìm, Bảy Tường tây nam xã, của Bảy Tần. Năm Thợ Rèn, Ba Y, Tư Dết, Tư Màng... tại mạn nam xã mà "sào huyệt" đặt trong vùng Dừa Xụp ở phía tây bắc Phú Mỹ.

Cũng ở Tân Thuận bên cạnh những nhóm giang hồ kể trên, trội vượt và trùm lên là nhóm do Trần Văn Thơ (Sáu Thơ hoặc Xã Thơ) làm thủ lĩnh. "Đất căn bản" của nhóm này là khu vực tiếp giáp xã Tân Quy, một vùng đất đai hoang hóa với những "đám lá tối trời" u tịch nơi có rạch ông Đội, rạch Bàng Đông, thông ra cầu Hàng đổ dòng vào kinh Tẻ, tiện cho ẩn náu và dễ dàng cơ động ra Tân Quy, qua ấp 1, ấp 2 Tân Thuận... xuống địa bàn Dừa Xụp... Sáu Thơ sinh trưởng trong một gia đình trung lưu, theo đạo Thiên Chúa, đất có năm mẫu, trâu cày, ghe, xuồng đều sắm đủ. Chiều chiều, trong bộ cánh lành lặn, những người trong gia đình bác Cả Thoi, cha của Sáu Thơ, một thầy dạy võ có tiếng thời ấy, đều đặn đến nhà thờ bên xóm Chiếu. Bị bọn địa chủ tư sản địa phương dựa vào thần thế của người thân là tay sai của thực dân Pháp cướp hết ruộng đất, cả gia đình phải tới dốc cầu Tân Thuận mở lò rèn, rồi lại chuyển tới cầu Hàn để sống bằng nghề cưa xẻ gỗ. Sáu Thơ cùng người em trai thứ chín, chín Thôi, rủ thêm những bạn bè cùng trang lứa, chung cảnh ngộ, bỏ nhà đi "hát". Đầu tiên, cả thảy có độ vài mươi người và bảy khẩu súng. Đối tượng chủ yếu là nhè vào những kẻ sang giàu, nhất là bọn người có quyền, có thế và có súng đạn hay hiếp đáp dân nghèo. Chẳng bao lâu, nhóm của Sáu Thơ, Chín Thôi lên tới con số 60 người với 40, rồi 50 khẩu súng. Các nhóm Sáu Hoà (Tắc Rỗi). Bảy Trường... lần lượt tới gia nhập, thanh thế của nhóm Sáu Thơ ngày một mở rộng.


Tiêu đề: Re: Bộ đội Bình Xuyên
Gửi bởi: colorwind trong 11 Tháng Năm, 2008, 10:13:18 pm
Dọc theo bến cảng và cả ở quanh chợ Tân Thuận, nơi lai vãng của khách làng chơi đủ loại, kể cả người ngoại quốc, hàng chục phe nhóm hình thành, chia nhau khu vực ảnh hưởng, chuyên "làm ăn" bằng cách đứng ra mở hoặc thầu bảo vệ các nhà chứa, động mãi dâm, hoặc bảo vệ riêng từng gái làm tiền... Làng lính và thảy hết những kẻ muốn trải nếm lạc thú nơi đây, đều nhất nhất tuân theo luật giang hồ của các băng, nhóm. Trong tất cả các tay anh chị như Ba Én, Hai Địa, Tư Muôn, Tư Thiệt, Bảy Vàng.... thực lực mạnh nhất là nhóm của hai anh em họ Đoàn: Đoàn Văn Ngọc (Ba Ngọc) và Đoàn Văn Gìn (Bảy Gìn). Nhờ vào bản lĩnh, võ nghệ và khả năng thu phục, băng nhóm Ba Ngọc phát triển, có thực lực nhất trong số các băng nhóm trên địa bàn này. Một số trong các băng nhóm ở đây đã đến xin được sáp vào làm vây cánh, như băng nhóm của Hai Tư Lý chẳng hạn.

Ở Tân Quy, bám theo các bến đò, chợ búa, dọc theo lộ 34, đoạn từ ngang đồn Tân Quy qua cầu Rạch Bàng đến gần cầu Rạch Đỉa, hàng chục băng nhóm giang hồ hoạt động cũng không kém dữ dằn. Đó là các nhóm Sáu Núi, Mươi Dần, Năm Quán, Ba Tần, Bảy Cà Cuống, Hai Lô... Từ mạn đông cầu Tám Long kéo dài xuống phía tây Dừa Xụp là giang sơn chiếm giữ của các nhóm Năm Mười Ba, Tám Mao... Muộn hơn so với các bậc đàn anh, nhóm do Chín Phải[4] cầm đầu ra đời không lấy việc đâm thuê, chém mướn, hay cướp giật tài sản làm kế sinh nhai, mà để trả mối thù cho người cha đã bị một băng nhóm giang hồ khác liên kết với nhau sát hại. Được các đồng chí như Ba Của, Hai Lân và đàn anh Dương Văn Dương thuyết phục. Phải đưa toàn bộ đàn em rời Tân Quy, tới xóm Than chuẩn bị vũ khí, tăng cường lực lượng, cùng toàn dân chuẩn bị cướp chính quyền địch trong Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945 và trở thành một bộ phận quan trọng của bộ đội Tân Quy sau đó. Tại Chánh Hưng quận Cần Giuộc, lò võ Nguyễn Văn Mạnh (Tám Mạnh) quy tụ được nhiều anh chị không kém “nổi tiếng”. Tám Mạnh vốn là một anh chị giang hồ, học trò của những thầy võ khét tiếng như: Bảy Khuyên ở Hóc Môn, Hai Ngàn ở Tân Khánh, Tư Thêm ở Vàm Láng. Tám Mạnh là thầy võ có tư cách mực thước điềm đạm, được đồng chí Nguyễn Văn Trân (Bảy Trân) kết nạp vào Đảng Cộng Sản trước năm 1945. Cùng với Mai Văn Vĩnh (con rể), Tám Mạnh trở thành thủ lĩnh một nhóm anh chị có uy tín ở vùng này.

Như  đa số anh em giang hồ khác, Dương Văn Dương (Ba Dương) xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo trú ngụ ở làng Long Phước tổng An Bình, quận Thủ Đức, tỉnh Gia Định. Cha mất sớm, mẹ đi bước nữa, cả gia đình chuyển về xóm Bến Đò xã Tân Quy, quê bố dượng. Người bố dượng thương đứa con riêng của vợ như chính con mình, ông đặc biệt hy vọng nhiều vào anh, gửi đi học võ ở những lò có tiếng, rồi giao vốn cho nuôi vịt đàn.

Khoảng giữa năm 1936, bố dượng mất, Ba Dương mở lò dạy võ, trở thành một tay võ hiệp giang hồ có uy tín.

Khác với nhiều băng nhóm khác, Ba Dương vẫn dựa bám vào công việc cày cấy, chăn nuôi, lấy đó làm nguồn sống của cả gia đình. Mở lò dạy võ, anh hy vọng qua đó giúp cho người dân lượng thiện tự bảo vệ được cuộc sống của mình, không để cho những kẻ quyền thế và giàu có ức hiếp, không để cho tài sản bị lọt vào tay bọn cướp...

Tháng 9 năm 1929, sau khi Xứ uỷ Nam Kỳ thành lập, đồng chí Ngô Gia Tự phái Châu Văn Ký (tức Ấn) về Nhà Bè phát động phong trào đấu tranh trong công nhân, nhân dân lao động, gầy dựng cơ sở Đảng. Tại hãng dầu Sôcôny, Châu Văn Ký đã tiếp xúc với nhiều phần tử tích cực trong  công nhân, giác ngộ và dần dần đưa họ vào đội ngũ của Đảng. Ngày 3 tháng 2 năm 1930, Đảng Cộng Sản Đông Dương thành lập. Cách mạng lan tới vùng rừng Sác, Nhà Bè. Xứ ủy Nam Kỳ tăng cường cán bộ, đảng viên về đây. Phong trào đấu tranh của công nhân bắt đầu phát triển. Cuối năm 1930, chi bộ Đảng Nhà Bè ra đời. Châu Văn Ký là Bí thư chi bộ đầu tiên. Tháng 8 năm 1935, tiểu tổ Đảng xã Tân Thuận thuộc chi bộ Nhà Bè được thành lập. Phong trào đấu tranh của công nhân, nông dân Nhà Bè chuyển sang giai đoạn phát triển mới từ đấu tranh lẻ tẻ, tự phát tiến dần lên đấu tranh tự giác, có sự phối hơp hành động tương đối thống nhất, chặt chẽ.

Phong trào công nhân phát triển và tổ chức Đảng hình thành là những nhân tố tác động mạnh mẽ tới các tầng lớp nhân dân Nhà Bè, trong đó có giới giang hồ anh chị. Khi Xứ uỷ Nam Kỳ chủ trương phát động quần chúng nhân dân đứng lên khởi nghĩa cướp chính quyền (năm 1940), ở Chánh Hưng (quận Cần Giuộc tỉnh Chợ Lớn) nhóm Nguyễn Văn Mạnh đã nhanh chóng hưởng ứng. Những ngày đầu tháng 11 năm 1940 thầy võ Tám Mạnh lệnh cho đàn em ngưng đi “hát”, "ăn hàng"... để dồn, giành tâm lực chuẩn bị cho đại sự sắp bắt đầu. Bình yên trở về với nhiều xóm ấp tại vùng ngoại vi thành phố. Đêm đêm không còn xáo xác tiếng chó sủa, tiếng tù và rúc, tiếng thanh la, thùng thiếc liên hồi cùng tiếng la trộm cướp. Mọi công việc chuẩn bị diễn ra khẩn trương, đầy hứng khơi trong nhóm Nguyễn Văn Mạnh, dưới sự chỉ đạo sốt sắng của đồng chí Nguyễn Văn Trân.

Tất thảy nóng lòng đón chờ phút giây ra tay hành động!

Đêm 22 rạng ngày 23 tháng 11 nhân dân ở nhiều tỉnh Nam Bộ nhất loạt vùng lên. Khởi nghĩa Nam Kỳ như  ngọn triều dâng chồm lên rồi lắng xuống. Địch tập trung toàn lực đàn áp quyết liệt. Cuộc khởi nghĩa bị dìm trong máu. 

Ở Nhà Bè, về cơ bản lực lượng ta chưa bị lộ. Dù vậy, địch vẫn tăng cường lực lượng đối phó. Viên đội Ba Tai khét tiếng đàn áp Cộng sản ở Hóc Môn được điều tới Nhà Bè chỉ huy lực lượng an ninh toàn huyện. Trong khi đó, bọn làng, lính, chỉ điểm, mật thám càng hung hãn bội phần. Chúng thẳng tay đàn áp, bắt bớ những ai bị nghi là cộng sản. Giới giang hồ, những phần tử mà chúng xếp vào loại nguy hiểm thứ ba sau Cộng sản và các đảng phái chính trị đối lập,cũng bị truy lùng, bắt bơ gắt gao.

Sau khởi nghĩa, các nhóm giang hồ trở về nghiệp cũ, nhưng đối tương chính giờ đây được xác định là đám hội tề làng xã, cai tổng, những nhà giàu có mà sự giàu có đó gắn liền với mối quan hệ với thực dân. Một số người chuyển “nghề” náu mình đời thời cơ mới.

4. Quách Văn Phải con trai thứ chín của Quách Văn Sắc. Năm Sắc một nông dân yêu nước, Tổng lãnh binh của tổ chức Thiên Địa Hội quận Nhà Bè.


Tiêu đề: Re: Bộ đội Bình Xuyên
Gửi bởi: colorwind trong 11 Tháng Năm, 2008, 10:22:25 pm
Năm 1941 , bị một số cường hào, địa chủ tố giác tích trữ binh khí. Dương Văn Dương hai lần bị thực dân Pháp bắt. Tại khám Nhà Bè, anh bị biệt giam và bị tra tấn dã man. Năm 1942, Ba Dương và bạn bè tâm phúc đành chia tay nhau, mỗi người một nẻo, tìm đương trốn lánh. Anh đến trú ẩn tại nhà người em gái Tám Trắng, bấy giờ đang cùng chồng làm ăn ở một đồn điền cao su gần biên giới Việt Nam Campuchia.

Tình hình trong nước và trên thế giới đang có những chuyển hiến khẩn trương. Tại nước ta, phát xít Nhật ngày càng lấn át thực dân Pháp, âm mưu hất cẳng Pháp để độc quyền thống trị. 

Bạn bè của Ba Dương lần lượt trở lại Tân Quy. Mọi chuyện xem chừng êm thấm và xuôi xẻ. Thực dân Pháp và tay sai của chúng không còn hung hăng như trước. Bè bạn viết thư cho anh, kể rõ tình hình ở Tân Quy, ở khắp Nhà Bè, gơi rằng có thể khéo léo dựa vào thế Nhật để che mắt địch, tập hơp lực lượng, tích trữ chiến khí, sẵn sàng đón lấy cơ may...

Cuối 1943, Dương Văn Dương cùng vợ chồng em gái và một số bạn bè rời Lộc Ninh về lại Tân Quy. Lực lượng nhanh chóng được tập hợp. Nhóm anh ký hợp đồng thầu bảo vệ bãi chứa gỗ của một tư bản người Nhật hãng Ni-chi- năng. Sau tấm bình phong che đỡ đó, Ba Dương và các bạn bè thân thiết tìm mọi cách móc nối với những anh em cũ hiện còn tản mát nơi xa, gấp rút mua sắm, truy tầm vũ khí súng đạn, liên hệ với các đảng viên như Ba Của, Hai Lân, Tư Huệ (tức Nguyễn Việt Hồng)... vốn chỗ một thời quen biết cũ. Trong lúc đó, chi bộ Nhà Bè cũng chủ trương đẩy mạnh công tác vận động cách mạng trong quần chúng nhân dân, trong giới giang hồ. Đồng chí Tư Huệ được chi bộ giao nhiệm vụ trực tiếp tiếp xúc với Dương Văn Dương và nhóm của anh. Đây là thời kỳ Ba Dương được sự giáo dục, rèn luyện của các đảng viên cộng sản. Nhận thức của giới giang hồ Nhà Bè nói chung, của Dương Văn Dương và nhóm của anh có sự chuyển biến quan trọng. Giữa lúc đó ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp. Tại Đình Bảng, Ban Thương vụ Trung ương Đảng họp ngay tối hôm đó và ra nghị quyết: "Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta". Cao trào "chống Nhật cứu nước" dấy lên mạnh mẽ từ Nam ra Bắc. Hoà trong không khí chung của toàn dân tộc các băng nhóm giang hồ vùng ngoại ô Sài Gòn – Chợ Lớn khẩn trương củng cố và tăng cường lực lượng, ra sức luyện tập, gấp rút tìm kiếm, mua sắm thêm vũ khí. Tại Nhà Bè, Dương Văn Dương chủ động nối kết với các băng nhóm khác nhằm tập hợp và thống nhất lực lượng, động viên và giao nhiệm vụ cho bạn bè, người thân, môn đệ cũ hiện đang nắm các băng nhóm giang hồ như Mười Lực, Chín Hiệp, Sáu Thơ... Tận dụng thời cơ Nhật hất cẳng Pháp, các băng nhóm đã bao vây và đột nhập nhà cửa của bọn cường hào, ác bá từng là tay sai của thực dân Pháp, chặn bắt và tước súng của bọn lính Pháp, lính Nhật. Một số nơi, anh em bày ra quán cơm, quán rượu dọc ven đường, nhằm hút bọn lính vào để gạ đổi hoặc tước vũ khí của chúng, tổ chức mò, vớt vũ khí do lính Pháp đổ xuống lòng sông, tháo gỡ trang thiết bị, máy móc ở những tàu địch đã bị đánh chìm... Trong một thời gian ngắn, số lượng các loại vũ khí có trong tay giới giang hồ không ngừng tăng lên.

Vào đầu tháng 5 năm 1945, ở Sài Gòn Thanh niên Tiền phong - một tổ chức bán võ trang hoạt động hợp pháp, làm nòng cốt cho quần chúng cách mạng tiến hành tổng khởi nghĩa giành chính quyền - được thành lập. Trong dịp này, Lê Yên Triều được Thành uỷ Sài Gòn phái xuống Tân Thuận, Tân Quy, Phú Mỹ (phía bắc Nhà Bè) chỉ đạo việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động nhân dân, thành lập các đội Thanh niên Tiền phong, nhằm sẵn sàng hỗ trở cho quần chúng nổi dậy.

Nắm được nội dung chủ trương của Xứ uỷ, Ba Dương tức tốc thông báo cho các băng nhóm giang hồ đã thiết lập mối quan hệ với nhóm của anh, nhắc nhở, đốc thúc việc tiếp tục xây dựng lực lượng, tìm kiếm và mua sắm vũ khí, ủng hộ và sẵn sàng tiếp ứng cho các đội Thanh niên Tiền phong ở địa phương mình. Nhân dịp này, anh đề nghị thủ lãnh các băng nhóm đẩy mạnh các hoạt động khống chế, trừng trị bọn mật thám, tay sai của thực dân Pháp và phát xít Nhật thực hành các hiện pháp khả dĩ, nhằm vô hiệu hoá hội tề, gián điệp tay sai của địch ở các địa phương, tước vũ khí của chúng.

Thống nhất với đề nghị của Ba Dương, từ tháng 5 đến trước ngày tổng khởi nghĩa, số anh em giang hồ đã có sự phối hợp với lực lượng Thanh niên Tiền phong Nhà Bè, được sự hỗ trở tích cực của các băng nhóm giang hồ, các đội Thanh niên Tiền phong ở các xã đã công khai tiến hành trấn áp bọn tay sai, phản động. Đồng thời với các hoạt động “nổi" đó, anh em giang hồ đẩy mạnh các hoạt động "chìm": truy lùng, trừng trị, cảnh cáo những tên tay sai, ác ôn từng có nhiều nợ máu với nhân dân. Trong vòng ba tháng, hàng trăm tên chỉ điểm, mật thám, cảnh sát đã bị thủ tiêu, bị khống chế, nhiều tên phải chui lủi đi nơi khác. Cho đến trưa ngày tổng khởi nghĩa, nhiều nơi ở Nhà Bè, chính quyền tay sai đã căn bản bị vô hiệu hoá.


Tiêu đề: Re: Bộ đội Bình Xuyên
Gửi bởi: colorwind trong 11 Tháng Năm, 2008, 10:26:49 pm
Song song với các hoạt động trên đây, các băng nhóm giang hồ không ngừng củng cố và tăng cường thực lực của bản thân. Đầu tháng 8 năm 1945, nhóm Ba Dương đã có 70 người và 50 khẩu súng, trong đó có cả trọng liên 13,2 ly, đại bác nòng đúp cỡ 24 ly. Ngoài lực lượng trực tiếp cầm vũ khí chiến đấu. Ba Dương còn thành lập ban sưu tầm vũ khí bộ phận binh công xưởng có kỹ sư và nhiều thợ cơ khí lành nghề. Cùng với nhóm Ba Dương, nhóm Nguyễn Văn Hiệp - người em kết nghĩa của Dương Văn Dương, cũng có sự phát triển về số lượng và chất lượng. Lợi dụng lúc phát xít Nhật hoang mang, giao động trước phong trào cách mạng của quần chúng, nhóm này đã liên kết với cơ sở nội tuyến, vận động được gần 20 binh lính Việt và 2 lính Nhật ở trại Hei-hô trên quận Cần Giuộc mang theo 26 khẩu súng trốn trại, về theo với nhóm bấy giờ đang đứng chân ở ấp Long Đức.

Tại Tân Thuận, nhóm của Trần Văn Thơ đã tập hợp thêm lực lượng thuộc nhóm Sáu Hoà, Bảy Trương. Vào giữa tháng 8 năm 1945, dưới quyền thống lãnh của Sáu Thơ, lực lượng của nhóm đã lên tới ngót 80 người với hơn 50 khẩu súng. Ở Thủ Thiêm  Mười Lực có trong tay hơn 60 người với hơn 40 khẩu súng. Nhóm Đoàn Văn Ngọc và nhóm Chín Mập có 2 trung đội với 40 khẩu súng...

Trước đòi hỏi của tình hình mới, các băng nhóm giang hồ từng một thời vùng vẫy dọc ngang trên sông nước Nhà Bè bây giờ sát cánh, thống hợp lại xung quanh Ba Dương. Không chỉ giới "anh chị" trên địa bàn Nhà Bè mà ở các miền phụ cận cũng vậy, một số các băng nhóm giang hồ khác đã kéo về Tân Quy, tự nguyện gia nhập.

Theo chủ trương của chi bộ Nhà Bè, Ba Của[5] trưởng đạo Thanh niên Tiền phong quận Nhà Bè, đã truyền đạt cho Ba Dương toàn bộ yêu cầu, mục đích, biện pháp, thời gian tổng khởi nghĩa đề nghị Ba Dương đặt toàn bộ lực lượng hiện có vào tư thế sẵn sàng hành động. Thực hiện nhiệm vụ của chi bộ Nhà Bè giao cho. Ba Dương cho họp toàn bộ thủ lãnh các băng nhóm để phổ biến kế hoạch tổng khởi nghĩa, nêu rõ niềm tin của cách mạng đối với giới giang hồ, đồng thời tiến hành phân công trách nhiệm cụ thể cho các bộ phận:

1. Nhóm Sáu Thơ, phối hơp với một số lực lượng khác. đêm 24 tháng 8 sẽ đánh chiếm hai bót Xít-dèm và Thương Khẩu trụ lại đánh lực lượng phản kích của địch. Đồng thời, cử một bộ phận phối hơp với các lực lượng khác tiến công sở mật thám Ca-ti-na. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, sẽ tiến hành giao lại các vị trí đã đánh chiếm cho lực lượng sở tại quản lý.

2. Lực lượng Tám Mao, Chín Hiệp sức tham gia đánh chiếm Toà án và Khám lớn Sài Gòn.

3. Lực lượng Ba Bay sẽ phối hơp với lực lượng Dương Văn Đức (Năm Đức) truy quét bọn lính hiện đang tản khắp địa bàn Quận 6...

Căn cứ vào tình hình địch ta, các thủ lãnh đã hình thành phương án hành động. Trở về bản doanh. Sáu Thơ tập hợp lực lượng và phân giao nhiệm vụ:

-    Một lực lượng gồm 16 người và 10 khẩu Mút cơ tông, 10 quả lựu đạn do Bảy Trương chỉ huy sẽ tiến công bót Xít-dèm. Một lực lượng khác gồm 15 người và 10 khẩu mút cơ tông, 10 quả lựu đạn, do Hai Giàu chỉ huy, có nhiệm vụ tiêu diệt bót Thương Khẩu. Hai Hữu sẽ chỉ huy 16 đàn em tiến đánh bót Ca-ti-na. Với nhiệm vụ được giao, Tám Mao và Chín Hiệp họp bàn và đi tới thoả thuận: Tám Mao sẽ sử dụng lực lượng của mình cùng với các đơn vị bạn đánh chiếm mục tiêu Toà án Sài Gòn.
 
-   Chín Hiệp với lực lượng hiện có tham gia tiến công Khám Lớn, giải phóng các tù nhân hiện đang bị Nhật giam giữ.

Tại Chánh Hưng, lực lượng Thanh niên Tiền phong do Nguyễn Văn Mạnh làm đoàn trưởng cũng tích cực chuẩn bị, luyện tập võ nghệ, sắm sửa vũ khí, phối hơp với các lực lượng khác chờ ngày khởi nghĩa.

5. Lê Văn Của sau Tổng khởi nghĩa được cử làm Chủ tịch đầu tiên ủy ban nhân dân quận Nhà Bè.


Tiêu đề: Re: Bộ đội Bình Xuyên
Gửi bởi: colorwind trong 11 Tháng Năm, 2008, 10:33:48 pm
Thời cơ ngàn năm có một của vận mệnh dân tộc đã đến!

Cùng cả nước, nhân dân Sài Gòn tiến hành tổng khởi nghĩa đêm 24 tháng 8 năm 1945, 0 giờ ngày 25 tháng 8 toàn bộ chính quyền trong thành phố về tay nhân dân.

Mở sáng 25 tháng 8 Sài Gòn đã rập rập bước chân người. Náo nức và hân hoan ngập tràn mọi nẻo. Trước cuộc mít tinh lớn nhất trong lịch sử của thành phố, ủy ban hành chính lâm thời Nam Bộ (gọi tắt là Lâm uỷ hành chính) chính thức ra mắt đồng bào.

Ngày 2 tháng 9 tại vườn hoa Ba Đình của Thủ đô Hà Nội. Hồ Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hoà.

Ở Sài Gòn, hơn hai triệu đồng bào biểu tình tuần hành đón chào giờ phút thiêng liêng và trọng đại của dân tộc. Hoà trong thác người hôm ấy có lực lượng của giới giang hồ, các nhóm Bình Xuyên - những người đã có phần đóng góp vào thắng lợi của những ngày tháng 8 năm 1945.

Đối với lực lượng võ trang của giới giang hồ Nhà Bè, Xứ uỷ và Lâm uỷ hành chánh Nam Bộ chủ trương thống nhất các băng nhóm và nắm lấy lực lượng này. Huỳnh Văn Tiểng, Phó chủ tịch Lâm ủy, thay mặt ủy ban giao cho Dương Văn Dương nhiệm vụ Trưởng ban sưu tầm vũ khí.

Được sự cổ vũ của các đảng viên, Ba Dương khẩn trương thuyết phục các băng nhóm giang hồ, thống nhất thành lực lượng võ trang chung của quận Nhà Bè nhằm đáp ứng đòi hỏi ngày càng khẩn trương và phức tạp của tình hình mới. Bấy giờ, trên đất Nhà Bè ngoài lực lượng của các băng nhóm giang hồ Nhà Bè và lực lượng do chi bộ Nhà Bè, tiểu tổ Đảng Tân Thuận tổ chức, còn có một số các băng nhóm giang hồ từ nơi khác đến gia nhập. Toàn bộ lực lượng võ trang thống nhất Nhà Bè gồm các bộ phận sau:

1. Lực lượng Tân Thuận do Trần Văn Đối chỉ huy, là kết quả hợp nhất ba thành phần: Lực lượng Trần Văn Đối , lực lươc Trần Văn Thơ và lực lượng của tiểu tổ Đảng xã Tân Thuận.

2. Lực lượng Tân Quy do Quách Văn Phải chỉ huy gồm lực lượng của Quách Văn Phải, của Tám Mao và của Năm Mười Ba. 

3. Lực lượng Phú Xuân của chi bộ Đảng Nhà Bè, do Nguyễn Văn Soái (Hai Soái) phụ trách.

4. Lực lượng của Mười Đen.

5. Lực lượng của Chín Hiệp.

6. Lực lượng của Đoàn Văn Ngọc (Tân Thuận), Chín Mập (Chánh Hưng), Dương Văn Đức[6] hợp lại, do Đoàn Văn Ngọc làm chỉ huy trưởng. Lực lượng này được tổ chức thành đơn vị trinh sát, vệ binh trực thuộc Ban chỉ huy lực lượng võ trang thống nhất Nhà Bè.

 
7. Lực lượng do Ba Dương trực tiếp xây dựng, chỉ huy.

8. Lực lượng xã An Khánh (quận Thủ Đức, tỉnh Gia Định thường gọi là bộ đội Thủ Thiêm) gồm ba thành phần: của Ngô Văn Lực (Mười Lực). Võ Văn Môn (Bảy Môn) và Nguyễn Văn Hoe (Tám Hoe).

9. Lực lượng Nguyễn Văn Huỳnh (Tư Huỳnh). Đây là bộ phận bao gồm lực lượng Phú Nhuận, Tân Định và Thị Nghè. (Sau khi địch phá vỡ phòng tuyến ở nội ô Sài Gòn, Tư Huỳnh cho rút ra ngoại ô, sáp nhập vào lực lượng võ trang thống nhất của huyện Nhà Bè vào khoảng đầu tháng 10-1945).

6.Từ ngã ba Xóm Chiếu kéo xuống Cầu Rạch Đỉa với hơn 1 tiểu đội võ trang.


Tiêu đề: Re: Bộ đội Bình Xuyên
Gửi bởi: colorwind trong 11 Tháng Năm, 2008, 10:38:07 pm
Đến tháng 10 năm 1945, quân số của lực lượng võ trang thống nhất Nhà Bè khoảng 2000 người, gồm từ 22 đến 24 trung đội chiến đấu được trang bị 1.300 khẩu súng các loại (trong đó có 2 đại bác 24 ly, 7 trọng liên 13,2 ly khoảng 15 trung liên). Toàn bộ lực lượng này đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ huy của cơ quan chỉ huy thống nhất lực lượng võ trang Nhà Bè do Ba Dương làm chỉ huy trưởng. Đinh Văn Nhị làm uỷ viên chính trị, Từ Văn Ri đảm trách tham mưu trưởng và Năm Quán là phụ tá quân sự. Tổng hành dinh của lực lượng võ trang thống nhất Nhà Bè được đặt tại xóm Bến Đò, cầu Rạch Đỉa. xã Tân Quy - bản quán của Ba Dương. Trực thuộc tổng hành dinh có Ban tham mưu, Ban tình báo, bộ phận phụ trách văn phòng (sau đó đổi là quản trị), Ban quân nhu, Ban sưu tầm vũ khí, lực lượng trinh sát, lực lượng vệ binh bảo vệ Tổng hành dinh. Ngoài ra còn có đơn vị cảnh sát quân sự do Dương Văn Hà (Năm Hà) em trai Ba Dương làm cảnh sát trưởng.
 
Là một tập hợp không thuần nhất, không đồng đều về trình độ giác ngộ, gần một phần tư là anh em trong giới giang hồ, lực lượng võ trang thống nhất Nhà Bè thuở đầu mới thống nhất đã bộc lộ một số mặt còn non kém về ý thức giác ngộ chính trị, về chấp hành kỷ luật, về mối quan hệ đoàn kết, hiệp đồng giữa các bộ phận lực lượng... Thực tế đó đặt ra cho cấp lãnh đạo, chỉ huy nhiều vấn đề cần giải quyết. Ngay từ đầu, nhiều tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể cách mạng ở huyện Nhà Bè, thành phố Sài Gòn, Liên hiệp công đoàn Sài Gòn - Chợ Lớn... đã điều động đảng viên, cán bộ có nhiệt tình, có năng lực và dày dạn kinh nghiệm về tăng cường cho lực lượng võ trang Nhà Bè. Liên hiệp công đoàn Sài Gòn gửi tới 300 đoàn viên công đoàn. Khắp nơi, hàng ngàn người kéo tới xin gia nhập. Lực lượng võ trang Nhà Bè ngày càng được tăng cường về số lượng, trong đó các đảng viên đóng vai trò nhân tố đoàn kết, cảm hoá dần những anh em, đồng đội vốn thuộc các băng nhóm giang hồ.

Ngay khi cơ cấu tổ chức của lực lượng võ trang thống nhất Nhà Bè vừa được định hình, nhiều cán bộ chiến sĩ thấy cần có một danh xưng thống nhất, biểu đạt được ý nguyện của toàn thể thành viên và phản ánh được sắc thái riêng của lực lượng. Trước nay, mỗi bộ phận có một tên riêng, ví như “lực lượng võ trang Nhà Bè của Ba Dương”. Sau Tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945, hàng ngàn đảng viên ưu tú từ nhà tù Côn Đảo và nhiều nhà tù khác của đế quốc trở về đất liền. Nhiều người trong số họ đề nghị thay thế khái niệm “lực lượng võ trang thống nhất” bằng "bộ đội". Ý kiến này được chấp thuận. Vì nó gọn, tỏ rõ được bản chất cách mạng và phân biệt với lực lượng quân sự của kẻ thù. Từ đó, danh từ “bộ đội” được thống nhất dùng ví như "Bộ đội Tân Thuận". "bộ đội Ba Dương". Trong một cuộc họp giữa ban chỉ huy và chỉ huy các bộ phận tại Tổng hành dinh cầu Rạch Đỉa, vấn đề tìm một tên gọi chung cho bộ đội Nhà Bè được nêu ra. Các đại biểu thảo luận sôi nổi. Có ý kiến đề nghị lấy tên một vị anh hùng dân tộc để đặt. Ý kiến khác cho rằng nên lấy một địa danh lịch sử như ái Chi Lăng hay Bạch Đằng... chẳng hạn. Ý kiến thứ ba gợi rằng nên tìm ở ngay mảnh đất Nhà Bè một địa danh hoặc một tên người có liên quan đến truyền thống của địa phương làm tên gọi chung, bởi lẽ nó vừa sát hợp, vừa khiêm tốn. Ý kiến này được hội nghị tán đồng.

Mọi người cùng nghĩ ngay tới địa danh "Dừa Xụp". Đấy là vùng sình lầy nằm ở trung tâm vùng đất liền Nhà Bè, nơi có những “đám lá tối trời” liên giăng và hệ thống rạch, kinh chằng chịt nối Dừa Xụp với sáu xã bao quanh: Tân Thuận, Phú Mỹ, Tân Quy, Long Kiểng, Phước Lộc và Phú Xuân. Ở đây, chòm xóm lưa thưa dăm bảy nóc nhà và rải rác có những chòi tranh của người chăn vịt, đánh cá hay hái củi. Cư dân gồm những người nghèo, những kẻ trốn thuế, trốn lính, trốn tù trốn tội. Ngoài ra, đây còn là chỗ dừng chân của các tay giang hồ hảo hớn, những đảng viên cộng sản hoạt động bí mật... gọn lại, có thể nói, đó là "vùng đất nghịch" không chấp nhận ách áp bức, thống trị của kẻ thù. Không ít lần, những toán lính làng, lính quận thậm chí cả lính tập, lính trận... được điều tới hòng trấn dẹp nhưng đều bị tiêu diệt. Dừa Xụp, vì thế. là một tiêu biểu cho truyền thống đấu tranh bất khuất của nhân dân Nhà Bè. Tuy nhiên, từ "Dừa Xụp không được nhiều ý kiến tán thành vì nó nôm na lại gợi lên cảm giác không chắc bền, không vững chãi.

Dù vậy, như một gợi ý, nó nhắc mọi người liên tưởng tới ấp Bình Xuyên, vùng đất thuộc xã Chánh Hưng, xứ sở của bộ đội Tám Mạnh, Hai Vĩnh, nơi hệt như Dừa Xụp, cũng sình lầy hoang hoá, các loài cây ưa nhiễm mặn và hệ thống rạch kinh chằng chịt. Đây cũng là một giang sơn riêng của những kẻ bất phục tùng chế độ thực dân nửa phong kiến, nơi tụi làng lính phải dè chừng, kiềng mặt. Rồi nữa, cái tên "Bình Xuyên" phần nào biểu đạt được đặc trưng địa hình Nhà Bè là chằng chịt rạch sông, biểu đạt được cả những chiến công đánh dẹp... Bởi vậy, cuối cùng, hội nghị đã quyết định chọn "Bình Xuyên" làm danh xưng. Từ đây, toàn thể lực lượng do Dương Văn Dương làm tổng chỉ huy, Đinh Văn Nhị làm uỷ viên chính trị và Từ Văn Ri làm tham mưu trưởng, được gọi bằng một tên thống nhất: Bộ đội Bình Xuyên.


Tiêu đề: Re: Bộ đội Bình Xuyên
Gửi bởi: colorwind trong 12 Tháng Năm, 2008, 09:02:01 pm
Chương II

KHÁNG CHIẾN VÀ MẶT TRẬN SỐ 4

0 giờ ngày 23 tháng 9 năm 1945, được quân Anh trợ giúp, thực dân Pháp bắt đầu nổ súng, đánh chiếm hàng loạt mục tiêu quan trọng trong thành phố. Cuộc tái chiếm Đông Dương của chúng bắt đầu.

Sáng sớm 23 tháng 9. Xứ uỷ và ủy ban nhân dân Nam Bộ họp tại nhà số 629, đường Cây Mai (Chợ Lớn). Hội nghị chủ trương kiên quyết kháng chiến và ra lời kêu gọi toàn dân đoàn kết đứng lên chiến đấu chống kẻ thù xâm lược. Hội nghị quyết định thành lập ủy ban Kháng chiến Nam Bộ do Trần Văn Giàu làm chủ tịch.

Thực hiện lệnh của ủy ban Kháng chiến, nhân dân thành phố Sài Gòn bãi công, bãi thị, bãi khoá, tiến hành tiêu thổ kháng chiến, bất hợp tác với địch. Trong khi đó, các nhóm võ trang của ta liên tục tiến công quân địch trên cả năm mặt trận trong và bao quanh thành phố [7].

Một ngày cuối tháng 9 năm 1945 tại một địa điểm cạnh đường xe lửa Sài Gòn đi Mỹ Tho, ở bờ nam rạch Chợ Đệm, cuộc hội nghị cán bộ chỉ huy các lực lượng võ trang phía nam thành phố được tổ chức. Trần Văn Giàu chủ tịch ủy ban Kháng chiến Nam Bộ chủ trì cuộc họp. Thay mặt Xứ ủy và ủy ban kháng chiến, Trần Văn Giàu phổ biến quyết định thành lập Mặt trận số 4. Lực lượng chiến đấu ở đây bao gồm các bộ đội phía nam thành phố. Đứng đầu Mặt trận là ủy trưởng quân sự Nguyễn Văn Trân (Bảy Trân) một cán bộ đảng kỳ cựu và từng nhiều năm hoạt động ở địa bàn này. Nhằm giúp ủy trưởng quân sự tổ chức chỉ huy chiến đấu, hội nghị quyết định bầu ra một số ban giúp việc. Dương Văn Dương được bầu làm trưởng ban do thám, Sáu Đối phụ trách ban sưu tầm vũ khí. Trương Văn Bang (Ba Bang) đương nhiệm bí thư quận uỷ, chủ tịch ủy ban kháng chiến quận Cần Giuộc và là chỉ huy trưởng bộ đội Cần Giuộc làm trưởng ban tiếp tế, Sáu Tùng một anh chị giàu có ở ngã ba Xóm Chiếu là trưởng ban vận động nhân dân quyên góp ủng hộ bộ đội...

Cách trung tâm thành phố Sài Gòn khoảng 2 km về phía nam, phạm vi chủ yếu của Mặt trận số 4 gồm địa bàn hai huyện Nhà Bè và Cần Giuộc. Hạn định Mặt trận trải rộng kể từ bộ phận của hải cảng Sài Gòn, trên xã Tân Thuận - Nhà Bè ở phía đông bắc, theo dọc bờ nam con kinh Tẻ (Canal de dérivation) và kinh Đôi (Canal de doublement) theo hướng tây nam, đến tận rạch Bà Tàng thuộc nhóm Đồng Phú, xã Phong Đước, Cần Giuộc, nay thuộc Quận 8. Có chiều rộng khoảng 12 km. Không giống các mặt trận 1, 2, 3 và 5 lúc bấy giờ. Mặt trận số 4 tương đối cách xa địch, phân ranh chiến tuyến rạch ròi, dứt khoát hơn. Đó là một thuận lợi. Tuy nhiên, địa hình ở đây có nhiều nhược điểm đối với hoạt động của các đơn vị võ trang tập trung.

7. Bốn mặt trận bao vây xung quanh thành phố (đông, bắc, tây, nam) và " mặt trận nội đô.


Tiêu đề: Re: Bộ đội Bình Xuyên
Gửi bởi: colorwind trong 12 Tháng Năm, 2008, 09:29:33 pm
Chiến đấu chủ yếu trên mặt trận này có lực lượng võ trang Nhà Bè và lực lượng võ trang Cần Giuộc. Nhà Bè gồm bộ đội Dương Văn Dương (xóm Bến Đò cầu Rạch Đỉa) bộ đội Trần Văn Đối (Tân Thuận, gồm cả bộ đội Sáu Dối và Sáu Thơ) bộ đội Quách Văn Phải (Tân Quy gồm cả lực lượng Chín Phải, Tám Mao, Năm Mười Ba) bộ đội Nguyễn Văn Soái (Phú Xuân) bộ đội Đoàn Văn Ngọc (Tân Thuận gồm cả lực lượng Chín Mập, Dương Văn Đức, bộ đội Chín Hiệp (bến đò Tân Thanh, ngã ba rạch Ba Lao, rạch Dơi) bộ đội Mười Đen (khu vực kho cảng), bộ đội Ngô Văn Lực - Võ Văn Môn - Nguyễn Văn Hoe (Thủ Thiêm ) bộ đội Nguyễn Văn Huỳnh... Cần Giuộc gồm bộ đội Tám Mạnh (Chánh Hưng) bộ đội Tư Hoạch (cầu ông Thìn) bộ đội Ba Bang (Cần Giuộc) và một bộ phận bán võ trang quân số khoảng 1 trung đội trực thuộc cơ quan chỉ huy Mặt trận số 4.

Trên cơ sở phân tích, tính đến các điều kiện địa hình, địch, ta, hội nghị chỉ huy các bộ phận lực lượng phía nam thành phố quyết định đặt tổng hành dinh Mặt trận tại khu vực cầu Bình Đăng, sát cạnh liên tỉnh lộ 5A Sài Gòn đi Cần Giuộc.

Buổi đầu. hệ thống tổ chức chỉ huy còn sơ giản, phương hướng hoạt động, kế hoạch tác chiến chưa được xây dựng. Bởi thế trong quá trình chiến đấu, giữa các bộ phận lực lượng có sự chệch choạc, thiếu sự phối hợp chặt chẽ, thống nhất.

Sau hội nghị, các bộ đội tiến hành xây dựng công sự trận địa và bố trí lực lượng, triển khai công tác tuần tra, canh gác, đồng thời sử dụng một bộ phận lực lượng đột nhập vào nội đô nhằm quấy rối, tiêu hao quân địch.

Trên địa bàn quận Nhà Bè. nhân dân thực hành tiêu thổ kháng chiến, bao vây, phong toả địch. Trên các nẻo đường mà địch có thể đi qua, nhất là liên tỉnh lộ 15 và hương lộ 34, ta hạ cây, đào hào, xẻ rãnh, cắt đứt đường, phá sập cầu để ngăn chống xe tăng, cơ giới địch. Khắp nơi, nhân dân cất giấu, phân tán lương thực, thực phẩm và gia súc. Người già, trẻ em tản cư khỏi những vùng trọng điểm. Chợ Tân Thuận dời sâu xuống phía nam quãng hơn 1 km. Hàng chục trạm kiểm soát hỗn hợp dựng lên dọc triền bãi sông Nhà Bè cầu Tân Thuận, bến đò Tân Quy... nhằm kiểm tra tàu bè, ghe xuồng qua lại, ngăn không cho tải chuyển đồ ăn, thức uống về phía nội đô thành phố.

Các bộ đội phân chia khu đứng chân chiến đấu ngăn chặn địch, ở hướng đông - đông nam, nơi có quân cảng và các kho dầu Nhà Bè, bộ đội Phú Xuân và bộ đội Mười Đen phụ trách. Hướng đông bắc, bộ đội Tân Thuận chốt chặn đầu cầu Tân Thuận, đồng thời sẵn sàng cơ động lực lượng về hướng tây và nam. Ở tây bắc, bộ đội Tân Quy trấn giữ vùng giáp giới giữa Quận Nhà Bè và Cần Giuộc, chặn đánh địch ở cầu Rạch Ông - Cây Khô, bảo vệ căn cứ cầu Rạch Đỉa và khi cần, dùng một bộ phận chi viện cho đơn vị bạn chốt chặn phía nam cầu chữ Y. Bộ đội Chín Hiệp triển khai việc tổ chức kiểm soát chặn bến đò Tân Thanh, khoá chặt ngã ba rạch Ba Lao và rạch Dơi (xã Nhơn Đức) không để tàu thuyền địch từ sông Cần Giuộc ngược kinh Cây Khô lên rạch ông, thông qua kinh Tẻ để về cảng Sài Gòn. Nhiệm vụ chính của bộ đội Chín Hiệp là chặn đánh bộ binh địch nếu chúng từ bến đò Tân Thanh, theo hương lộ 34, đánh lên hướng bắc. Túc trực bên cạnh căn cứ Dương Văn Dương tại cầu Rạch Đỉa có các bộ đội và đơn vị trợ chiến với các hoả lực như tromblon VB, trọng liên 13,2 ly, đại bác 24 ly và tàu thuyền có võ trang. Tất cả sẵn sàng cơ động ứng cứu các nơi trong quận.

Trong khi các bộ đội đang triển khai chuẩn bị công sự trận địa, một lực lượng gồm 4 tiểu đội với trang bị gọn nhẹ (chủ yếu súng ngắn và lựu đạn) cải trang thành thường dân, đột nhập sâu vào vùng địch theo từng tốp nhỏ. Phối hợp với lực lượng nội thành, các tốp này đã thực hành các trận tập kích chớp nhoáng. Tại câu lạc bộ sĩ quan và câu lạc bộ hạ sĩ quan Pháp, các chiến sĩ bất ngờ tiến công, tiêu diệt và làm bị thương hàng chục tên. Phối hợp với lực lượng nội thành đột nhập vào hải cảng Sài Gòn nơi tàu thuyền đậu, thu hàng chục ghe hàng của địch, đốt cháy 4 dãy kho tại ngã ba Xóm Chiếu. Tiếp đó, từ 21 giờ đêm ngày 16 đến ngày 17 tháng 10, các chiến sĩ Bình Xuyên đã cùng lực lượng bạn tập kích địch ở xóm Bến Đò Cây Keo đánh thẳng xuống bót cảnh sát đường Ga-li-ê-ni (tức trung tâm cảnh sát thành phố Sài Gòn bót central).


Tiêu đề: Re: Bộ đội Bình Xuyên
Gửi bởi: colorwind trong 12 Tháng Năm, 2008, 09:44:01 pm
Quân địch ngày càng mở rộng phạm vi tiến công ra xung quanh thành phố. Ở hướng nam, dựa vào cơ giới quân Anh mở đường và chặn hậu, một bộ phận lính Pháp vượt cầu Tân Thuận xuống liên tỉnh lộ 15. Do khi thấy trên các xe thiết giáp lẫn xe chở quân đều có cắm cờ Anh, trong đội hình quân lính địch, có binh sĩ, sĩ quan Anh bộ đội Tân Thuận chốt chặt cầu Tân Thuận đã không nổ súng. Thế là quân địch vượt qua được cầu. Chừng thấy liên tỉnh lộ 15 đã bị ta cất đứt không thể tiến thẳng xuống phía nam để kiểm soát quân cảng và các kho dầu Nhà Bè, chúng liền theo vòng xoáy của ngã ba phía nam dốc cầu Tân Thuận, tiến lên con đường dọc bờ kinh Tẻ rồi chui dưới gầm cầu Tân Thuận, đến bến đò Tân Quy. Từ đó, bám theo hương lộ 34, chúng tiến xuống phía nam, đến kiểm soát các xã Long Kiểng, Nhơn Đức.

Tới cầu Đồn, cầu Gạch, đội hình địch chững lại vì đường đã bị cắt, cầu đã bị phá. Tại đây, chúng dùng súng trường Anh có gắn ống phóng lựu ở đầu, nã lựu đạn OF xuống khu vực cầu Rạch Đỉa, nơi đặt tổ chỉ huy của bộ đội Ba Dương.

Một bộ phận bộ đội Tân Thuận, do Hai Giàu chỉ huy, từ ấp I xã Tân Thuận cơ động lực lượng bí mật tiếp cận trận địa hỏa lực nổ súng tiến công. Bị tập kích bất ngờ, đội hình địch rối loạn. Nhiều tên bị loại khỏi vòng chiến đấu. Chúng rút chạy bỏ dở ý định tiến công. Trong cuộc chiến đấu này, chiến sĩ Trang Văn Thi đã anh dũng hy sinh. Anh là liệt sĩ Bình Xuyên đầu tiên ngã xuống trên mảnh đất Nhà Bè.

Bị vây chặt trong thành phố, viện binh chưa sang kịp, quân địch gặp khó khăn về lương thực thực phẩm. Chúng móc nối với bọn tay sai ở đồng bằng sông Cửu Long thu gom thóc gạo, thực phẩm, rồi tổ chức đoàn công voa chuyển vận về Sài Gòn. Trong mỗi đoàn vận tải, địch sử dụng một lực lượng được trang bị mạnh làm nhiệm vụ hộ tống. Thám sát tình hình, mở đường và đảm bảo thông tin liên lạc là bộ phận gồm 6 tên có võ trang trên 1 ca nô chiến đấu có tốc độ lớn. Chiếc ca nô này thường xuyên tiến lên phía trước đoàn tàu vòng về phía sau, phát hiện một dấu hiệu khả nghi và kịp thời thông báo cho lực lượng chiến đấu. Trên boong của chiếc tàu kéo vỏ sắt, hơn một tiểu đội trang bị bằng trung lien, tiểu liên và súng trường, bố trí trong những ụ súng bằng những bao cát. Ở trên xà lan vỏ sắt của đoàn công voa, có công sự, hầm cố thủ... với lực lượng mạnh gồm 2 tiểu đội lính Lê Dương.

Nắm được tình hình địch do bộ phận trinh sát cung cấp. Dương Văn Dương, Đinh Văn Nhị và Từ Văn Ri thống nhất kế hoạch tổ chức trận phục kích tàu địch trên sông. Trận địa chính được xác định dọc tuyến kinh Cây Khô, dài hơn 3 km, trên xã Phước Lộc - Nhà Bè. Làm nhiệm vụ chặn đầu đoàn công voa có hai chốt chặn. Chốt chính diện đặt ở cuối của kinh Cây Khô, trước khi đổ vào ngã tư, nơi nối thông giữa tắt Bến Đò, rạch ông Lớn và sông Cây Khô thuộc xã Long Kiểng. Chốt dự bị kế cận, đặt tại ngã tư rạch ông Nhỏ, rạch Đỉa, sông Cây Khô và rạch ông Lớn, cách chốt chính diện từ xa, chặn tàu thuyền chiến của địch từ Sài Gòn đến cứu nguy cho đoàn công voa bị phục kích đặt trên cầu Rạch ông và xã Tân Quy. Làm nhiệm vụ khoá đuôi đoàn công voa có hai chốt: chốt chính diện được xây dựng tại ngã ba của hai rạch Ba Lao và kinh Cây Khô, chốt dự bị đặt tại ngã ba của rạch Dơi ăn thông với rạch Ba Lao cạnh bến đò Tân Thanh trên xã Nhơn Đức.

Lực lượng chính diện công kích trên tuyến trận địa chính, được giao cho bộ đội Chín Hiệp, có tăng cường thêm 2 trung đội võ trang và 2 trọng liên 13,2 ly, do Chín Hiệp phụ trách chung.

Lực lượng chốt chặn chủ yếu và dự bị gần được giao cho đại đội vệ binh có tăng cường hoả lực trọng liên 13,2 ly và 1 khẩu tromblon VB. do Đoàn Văn Ngọc chỉ huy. Lực lượng chốt chặn từ xa kiêm nhiệm chống quân tiếp viện được giao cho bộ đội Tân Quy, do Quách Văn Phải chỉ huy.

Lực lượng ở hai chốt khoá đuôi được giao cho bộ phận án ngữ bến đò Tân Thanh có tăng cường thêm một trung đội của bộ đội Tư Huỳnh và một trọng liên 13,2 ly.

Bộ đội Tám Mạnh do Hai Vĩnh chỉ huy, hợp đồng án ngữ, đón lõng ở một số nơi xung yếu dọc theo bờ tây ngạn của sông Cây Khô và rạch ông Lớn bên địa phận Quận Cần Giuộc nhằm hỗ trợ cho trận địa phục kích. chặn bắt tàn binh địch từ đoàn công voa chạy tạt qua.
Mọi công tác chuẩn bị cho trận đánh được xúc tiến khẩn trương.

Công sự trận địa vừa xây dựng xong và các bộ phận lực lượng đã triển khai theo phương án tác chiến thì đoàn công voa của địch cũng vừa tiến đến. Lúc toàn bộ quân địch đã lọt vào trận địa phục kích, các tay súng bộ đội Bình Xuyên đồng loạt nổ súng. Nhiều loạt đạn nhằm trúng vào tàu kéo, xà lan và ca nô địch. Ngay từ đầu, đội hình của chúng đã bị rối loạn. Sau khi nổ mấy loạt đạn nghi binh, quân địch trên tàu kéo bí mật chặt dây, bỏ lại đoàn ghe chở nặng, hòng tháo chạy thoát thân về hướng bắc.

Liền sau đó, tàu địch bị trục trặc. Kịp thời phát hiện âm mưu và sự cố của chúng, chỉ huy trưởng bộ đội Chín Hiệp quyết định sử dụng một bộ phận lực lượng dùng ghe thuyền truy kích, đồng thời một bộ phận khác nhanh chóng cơ động dọc theo triền bờ đuổi đánh. Khi đã áp sát tàu địch, các chiến sĩ tới tấp tung lựu đạn lên boong. Lập tức Chín Hiệp và một số chiến sĩ lợi dụng địch chúi đầu ẩn nấp, bám nhảy lên boong, tiêu diệt và bắt sống toàn bộ lực lượng trên chiếc tàu này.

Trong khi đó, ở trận địa chặn đầu, chiếc ca nô võ trang đương kéo xà lan tự hành hỏng máy, đã bị các chiến sĩ đại đội vệ binh bắn chìm tại ngã tư Rạch ông - Rạch Đỉa. Dù vậy trên xà lan vẫn còn quân địch. Thuỷ triều đang rút. Theo con nước ròng trên dòng Rạch Đỉa, chiếc xà lan xuôi về phía hương lộ 34, tới cách căn cứ bộ đội Bình Xuyên quãng chừng 700 mét thì bị vướng và dừng tại đấy. Triều dâng, nó tấp sang bờ bắc Rạch Đỉa. Nước rút, nó lại dạt về bờ nam. Một ngày đi qua. Địch vẫn ngoan cố không chịu đầu hàng. Trước tình hình đó, hộ chỉ huy quyết định tăng cường thêm lực lượng nhằm dứt điểm trận đánh. Một phân đội thuộc bộ đội Tân Thuận do Hai Giàu, Hai Hữu chỉ huy cùng 16 lính Nhật (bỏ ngũ theo bộ đội Bình Xuyên từ trước đó) được biên chế vào đơn vị trợ chiến được điều đến. Toàn hộ lực lượng tại chỗ và lực lượng tăng cường bí mật dàn trận. Trận đánh diễn ra mau lẹ. Một lính Nhật được Ba Dương đặt tên là Đặng, bắn hạ liền 2 tên địch bằng một phát đạn, khi 2 tên này từ dưới hầm cố thủ ngóc đầu quan sát. Số địch còn lại gồm bảy tên phải kéo cờ trắng xin hàng.


Tiêu đề: Re: Bộ đội Bình Xuyên
Gửi bởi: colorwind trong 12 Tháng Năm, 2008, 09:47:14 pm
Vấn đề trung tâm thu hút sự chú ý của các đại biểu là việc xây dựng thế trận, bố trí lực lượng và xác định cách đánh. Trong điều kiện binh hỏa lực của ta buổi đầu còn hạn chế kinh nghiệm tổ chức chiến đấu còn ít, cán bộ, chiến sĩ chưa dạn dày trận mạc, kỷ luật còn lơi lỏng, tuỳ tiện, sự hỗ trợ, hiệp đồng tác chiến giữa từng bộ phận chưa cao, việc phải đảm trách trên một chính diện dài khoảng 12 km đặt ra cho tất thảy cán bộ chiến sĩ toàn Mặt trận thử thách nặng nề. Các đại biểu tranh luận sôi nổi và quyết định bố trí các vọng gác, sử dụng các tốp nhỏ tuần tra ở những khu vực xung yếu trên tiền duyên mặt trận nhằm phát hiện kịp thời và chặn địch từ xa. Ở các đầu cầu, tổ chức khu vực phòng thủ xung yếu của Mặt trận. Tại đây, sử dụng lực lượng mạnh, bố trí thành thế trận có chiều sâu và liên hoàn, các bộ phận vừa có thế độc lập tác chiến vừa có thể hỗ trợ, ứng cứu lẫn nhau. Để chủ động tiến công quân địch một bộ phận lực lượng sẽ được tổ chức thành các toán nhỏ, trang bị gọn nhẹ bằng súng ngắn và lựu đạn, bí mật đột nhập vào nội ô thành phố, tiến hành các hoạt động quấy rối, tiêu hao sinh lực địch.

Căn cứ vào thực lực và khả năng của các đơn vị, hội nghị đã chia giao khu vực đảm trách và nhiệm vụ cụ thể cho các bộ phận lực lượng. Bộ đội Nhà Bè chặn địch ở hướng đông bắc, đông đông nam, tây nam và tây bắc quận Nhà Bè. Bộ đội Cần Giuộc và bộ đội Tư Hoạnh chốt giữ khu vực đầu cầu Xóm Củi bố trí tác chiến. Ở các địa bàn quan trọng trên quận Cần Giuộc, đồng thời sử dụng một bộ phận đánh nhỏ lẻ ngay trong lòng địch. Phòng thủ khu vực đầu cầu chữ Y một trong ba khu vực xung yếu của Mặt trận là bộ đội Tám Mạnh và bộ đội Tân Quy. Ngay ở địa phương mình, bộ đội Tân Thuận chiến đấu phòng giữ khu vực đầu cầu Tân Thuận và dọc hải cảng.

Với khí thế mới, ngay từ những ngày đầu tháng 11 năm 1945, quân dân Mặt trận số 4 khẩn trương xây dựng công sự trận địa, tổ chức các trạm gác và các đội tuần tra, thành lập các nhóm luồn sâu vào lòng địch. Mỗi đêm, khi bóng tối buông trùm, đó đây trong thành phố vang len tiếng súng tiến công của ta đánh vào các vị trí quân sự của địch. Các chiến sĩ cảm tử đã tập kích đồn Cây Mai, trại lính Pháp sát ga xe điện, ga Pétruský trên đường Galiêni, bót Giếng Nước quận 1. Ở quận 6, bộ đội Tân Thuận tập kích địch tại nhà máy xay, kho chứa gạo Nguyễn Thanh Liêm (ở bờ bắc dòng kinh Tẻ, khu vực đối diện xã Tân Quy). Rồi phối hợp với các chiến sĩ nội thành, bộ đội Tân Thuận tiến công địch ở nhà máy điện Chợ Quán... Hoạt động đó đã gây cho địch thiệt hại đáng kể cả về sinh lực và hậu cần.

Sang tháng 11 năm 1945, giặc Pháp được tăng cường thêm viện binh.

Một ngày giữa tháng 11 chúng huy động lực lượng gồm bộ binh và thuỷ binh có xe tăng và tàu chiến yểm trợ tiến công theo 2 cánh vào thị trấn Cần Giuộc. Ở hướng thứ nhất, địch sử dụng xe tăng và hoả lực pháo binh phá vỡ trận địa chốt chặn của ta ở khu vực cầu Xóm Củi. Sức kháng cự của ta ở đây yếu. Trong khi đó, liên tỉnh lộ 5A vẫn chưa được cắt đứt. Bởi vậy, trên hướng này, địch đánh chiếm dễ dàng. Và nhanh chóng kiểm soát khu vực phía bắc Cần Giuộc. Đồng thời với cánh quân ở hướng thứ nhất, hàng chục ca nô, tàu xuồng chiến đấu của địch từ sông Soài Rạp rẽ nước, ngược dòng Rạch Cát, đánh thốc lên tây nam Cần Giuộc. Cả ở hướng này, địch không vấp phải sự chống trả nào đáng kể. Mũi tiến công thứ hai của quân Pháp nhanh chóng hợp vây với mũi thứ nhất theo kế hoạch dự định. Thị trấn Cần Giuộc rơi vào tay địch. Tại đây, với lực lượng tiến công gồm hơn một tiểu đoàn bộ binh, hải quân, địch nhanh chóng tổ chức phòng ngự tạm thời. Hai đại đội bộ binh đóng dã chiến ở khu vực đông bắc thị trấn, trên địa bàn thuộc ấp Trị Yên, xã Phước Lại. Hai trung đội khác bố trí ở phía tây bắc, địa phận ấp Thanh Cầu, xã Tân Kim. Trong khi đó, ở hướng đông nam, địch bố trí hai trung đội phòng ngự trên khu vực thuộc ấp Hoà Thuận, xã Trường Bình. Trong lòng thị trấn, có cụm pháo cối 81 ly và 60 ly. Dưới bến sông sát nội ô thị trấn là chỗ đậu của ca nô tàu xuồng chiến đấu...

Tình hình diễn biến mau lẹ và bất lợi cho ta. Sau khi nghe báo cáo về lực lượng và sự bố trí của địch, bộ chỉ huy Mặt trận số 4 đã có cuộc họp chớp nhoáng với các chỉ huy trưởng của các đơn vị và hạ quyết tâm: tập trung lực lượng, kiên quyết thực hành phản kích nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch ngay khi chúng chưa kịp tổ chức công sự, trận địa phòng ngự vững chắc. Bộ đội Chín Hiệp được tăng cường 2 trung đội với 3 khẩu trọng liên 13,2 ly có nhiệm vụ đánh tiêu diệt 2 đại đội địch ở đông bắc thị trấn. Nhằm ghìm giữ và phân tán lực lượng địch, hỗ trợ cho mũi tiến công chính, bộ đội Cần Giuộc sẽ tập kích 2 trung đội địch ở đông nam, bộ đội Tư Hoạnh tập kích 2 trung đội địch ở tây bắc thị trấn. Đề phòng quân tăng viện của địch, bộ đội Tám Mạnh có nhiệm vụ tổ chức phục kích ở một quãng xung yếu trên liên tỉnh lộ 5A, khu vực cách bót Bình Đăng độ 1 km về phía nam, sẵn sàng chặn đánh địch từ Sài Gòn kéo xuống. Để chế áp hoả lực pháo binh của địch, bộ phận trinh sát của tổng hành dinh được trang bị 3 khẩu Trom Blom VB đánh phá trận địa súng cối ở trong thị trấn. Chỉ huy thống nhất trận đánh là Dương Văn Dương.


Tiêu đề: Re: Bộ đội Bình Xuyên
Gửi bởi: colorwind trong 12 Tháng Năm, 2008, 09:49:54 pm
Theo đúng kế hoạch, khi tràng súng trọng liên 13,2 ly ở hướng đông bắc dòn dã phát lệnh, các mũi của bộ đội Chín Hiệp và lực lượng vệ binh nhất loạt nổ súng tiến công dồn dập các mục tiêu đã được phân công.

Trong khi đó, ở hướng tây bắc và đông nam thị trấn, khu vực các mục tiêu của địch tiếng súng vẫn im lìm.

Mặc dù gây cho địch một số thương vong và làm chúng hốt hoảng, nhưng thiếu sự hiệp đồng của các cánh, lực lượng tiến công bị lâm vào tình thế bất lợi. Dương Văn Dương buộc phải ra lệnh rút nhanh khỏi khu vực thị trấn và rút về Nhà Bè đặng bảo toàn lực lượng.

Về tới nơi tập kết, thấu hiểu lý do bộ đội Cần Giuộc và bộ đội Tư Hoạnh đã không vào trận theo kế hoạch phân công, Dương Văn Dương cử đại đội vệ binh được tăng cường thêm một phân đội của bộ đội Chín Hiệp tìm bắt Ba Bang, tước toàn bộ khí giới, trang bị và thu con dấu, tiền bạc của bộ đội Cần Giuộc.

Lúc này, công văn mời họp hội nghị quân sự Nam Bộ tổ chức tại An Phú Xã do Nguyễn Bình ký đã đến tổng hành dinh Mặt trận số 4... Bộ chỉ huy Mặt trận số 4 quyết định cử Đinh Văn Nhị và Nguyễn Văn Hội thay mặt Dương Văn Dương đi dự hội nghị.

Tình hình biến chuyện hết sức mau lẹ. Mặt trận số 4 với hàng ngàn cán bộ, chiến sĩ đang lâm vào tình thế bất lợi. Cần Giuộc đã rơi vào tay giặc. Nhà Bè đang bị uy hiếp nặng nề. Sông Nhà Bè và sông Soài Rạp có thể bị địch phong toả nay mai. Nếu vậy, quân ta sẽ bị chặn mất đường rút, hoặc sẽ bị chặn mất đường về. Trong khi đó, việc nội bộ lủng củng càng làm cho sức mạnh của đội quân bị suy giảm thêm. Nhận rõ sự bức bách của hoàn cảnh. Dương Văn Dương thuận theo lời khuyên của Bí thư kiêm Chủ tịch ủy ban kháng chiến Cần Giuộc Bảy Trân, thả Ba Bang, trả lại vũ khí, tiền bạc cho bộ đội Cần Giuộc. Rồi bộ chỉ huy Mặt trận tiến hành hội ý. Phân tích tình hình chiến sự, dự đoán ý đồ của địch và các khả năng diễn biến tiếp theo, thấy rõ tình huống "ngàn cân treo sợi tóc" mà ta đang lâm phải, bộ chỉ huy quyết định: rút ngay toàn bộ lực lượng về rừng Sác trước khi địch tiến hành phong toả hai con sông Nhà Bè và Soài Rạp. Thời hạn cuối cùng là ngày 20 tháng 11 năm 1945, các đơn vị phải rời khỏi hai quận Nhà Bè và Cần Giuộc. Mệnh lệnh được khẩn kíp chấp hành trong ngày chủ nhật, 18 tháng 11 (tức 14 tháng 10 âm lịch).

Theo các lối bằng ghe thuyền, ba đơn vị đóng trên quận Cần Giuộc đã về nơi tập kết an toàn. Bộ đội Cần Giuộc đứng chân ở xóm Tiều trên bờ nam sông Vàm Sát thuộc xã Lý Nhơn. Bộ đội Tám Mạnh và bộ đội Tư Hoạnh dựng bản doanh trên cù lao núi Nứa, khu vực mà cư dân hầu hết theo đạo ông Trần - một biến thể của đạo Phật. Các đơn vị bộ đội Nhà sẽ hành quân đến tập kết ở Phước An - một xã thuộc huyện Long Thành tỉnh Biên Hòa. Cuộc hành quân dài hơn 20 km đường sông nước của các bộ đội được tiến hành xuôi lọt. Riêng chỉ huy của hộ đội Tân Thuận, sau khi tập kết lực lượng quanh chùa Phật, thuộc xóm Giồng Trầu xã Bình Trưng, quận Thủ Đức, tỉnh Gia Định để chuẩn bị xuất phát hành quân, đã quyết định giấu 15 thùng đạn súng trường và đạn tiểu liên Anh ở hầm phía sau chùa Phật[8]. Sau đó số đạn này đã rơi vào tay địch.

Đối với tổng hành dinh và các cơ quan, đơn vị trực thuộc, xưởng binh khí, việc cơ động gặp khó khăn hơn. Bộ chỉ huy quyết định tổ chức thành ba đoàn, mỗi đoàn gồm hàng chục ghe xuồng lớn nhỏ có lực lượng hộ tống.

Khi tất thảy lực lượng ta vừa ra khỏi khu vực Mặt trận số 4 độ nửa ngày thì tàu chiến, ca nô địch tiến hành phong toả kín trên mặt sông Nhà Bè, Soài Rạp, kiểm soát chặt sông Rạch ông - Cây Khô. Cùng lúc đó, bộ binh cơ giới địch có xe tăng pháo binh yểm trợ mở đường từ nội ô Sài Gòn đã ầm ầm vượt qua cầu chữ Y, cầu Tân Thuận, bám hương lộ 34 và liên tỉnh lộ 15. Lập tức, bộ binh địch triển khai đội hình chiến đấu, chiếm lĩnh các vị trí then chốt tung lực lượng kiểm tra, lùng sục khắp nơi, cả từng lùm cây bụi cỏ dọc triền mép các dòng kinh rạch... Tạm thời mất đất, nhưng ta không mất người và vũ khí, lại càng không mất đi quyết tâm chiến đấu chống kẻ thù chung. Mọi thành bại, vui buồn mà đoàn quân vừa trải trong những ngày đầu khói lửa sớm trở thành kinh nghiệm quý báu, giúp cho cán bộ chiến sĩ ta nói chung, bộ đội Bình Xuyên nói riêng, tiếp tục lớn lên trong gian lao thử thách.

8. Lúc đó, Sáu Thơ thay Trần Văn Đối chỉ huy bộ đội Tân Thuận. Là tín đồ công giáo nhưng tin theo đạo Phật. Sáu Thơ chấp hành lệnh hành quân nhưng vì kiêng ngày 14 âm lịch nên đề xuất ý kiến để lại số đạn, sau sẽ quay lại lấy.



Tiêu đề: Re: Bộ đội Bình Xuyên
Gửi bởi: colorwind trong 14 Tháng Năm, 2008, 09:36:40 pm
Chương III

TỔNG HÀNH DINH PHƯỚC AN VÀ VỤ BA NHỎ

Phước An - một xã của quận Long Thành, tỉnh Biên Hoà, nằm cách thành phố Sài Gòn khoảng 30 km đường chim bay về phía đông nam. Phân nửa nằm trên đất liền với rừng già phủ kín, phía đông nam của lòng chảo Nhơn Trạch, có liên tỉnh lộ 19 xuyên suốt thông sang tây. Phân nửa còn lại trải rộng dưới rừng sác hạt ngàn, sông rạch chi chít, với những điểm dân cư tập trung như xóm Man Hoa ở nam ấp Vũng Gấm, xóm Ba Gioi... thuộc vùng cực bắc của rừng Sác Đông Nam Bộ. Bộ chỉ huy Mặt trận số 4 quyết định chọn Phước An làm nơi tập kết của bộ đội Bình Xuyên. Thời gian không đợi. Trong khi khẩn trương chuẩn bị cho buổi lên đường. Dương Văn Đức trưởng ban trinh sát được cử đi tiền trạm.

Cuối tháng 11 năm 1945, các đơn vị lần lượt tới nơi tập kết.

Tại trung tâm ấp Bà Trường xã Phước An, ngôi nhà cũ của viên quận trưởng Long Thành được chọn làm nơi đặt tổng hành dinh. Các đơn vị chiến đấu được bố trí dọc hai bên liên tỉnh lộ 19  đoạn từ cột mốc km 13 đến cột mốc km 18 thuộc phạm vi ấp Bà Trường, Bàu Bông, Vũng Gấm.

Tại khu vực km 13, cách tổng hành dinh 1 km về phía đông bắc, bộ đội Tân Thuận lấy trụ sở và các dãy nhà công nhân của đồn điền cao su tư nhân Nguyễn Văn Dưỡng làm doanh trại, hướng tiếp địch là Phước Thọ. Ở bến Mương Điều, hướng tiếp địch từ Ba Gioi vào sông Đồng Kho bộ đội Mười Đen đóng, cách tổng hành dinh 1 km về phía đông nam.

Xóm Bến Rạch Mới là địa bàn đứng chân của bộ đội Chín Hiệp. Các bộ đội khác trụ bám ở Bàu Bông, Vũng Gấm... hướng tiếp địch từ kho đạn Thành Tuy Hạ, Phước Lai, Phú Hội, Long Tân... theo đường Piste trong rừng, đến Hang Nai, tới Vũng Gấm... Còn các cửa khẩu đổ vào rừng sác như rạch Tràm, rạch Lá, rạch Đồng Vàng, sông Ngã Ba... thuộc phía bắc sông Đồng Tranh, đoạn từ rạch ông Kèo (phía tây) đến sông Ba Gioi (phía đông) là các ban ngành các đơn vị súng lớn, nơi đậu thuyền và chỗ hạ trại của binh công xưởng, quân y viện.

Buổi đầu, bao nhiêu vấn đề đặt ra, đòi hỏi phải khẩn trương giải quyết để đưa sinh hoạt của bộ đội sớm đi vào ổn định. Chuyện trò với dân săn bất thú rừng, chim muông, hái lượm củi rừng, đốt than, chài cá ở địa phương, Đinh Văn Nhị, Từ Văn Ri chú tâm tới các địa danh Rạch Tràm ở phía nam ấp Bàu Bông, rạch Su, rạch Tượng ở phía nam Cù Lao Tượng... Đó sẽ là nơi đặt tổng hành dinh, nơi xây dựng 2 cơ sở sản xuất, sửa chữa vũ khí - tiền thân của binh công xưởng Nam Bộ sau này.

Điều đặt ra bấy giờ là phải nhanh chóng đưa bộ đội vào khuôn phép kỷ luật, đặc biệt kỷ luật dân vận. Đưa một đội quân vừa từ mặt trận rút ra, lại mang sẵn lề thói một thời giang hồ phóng túng vào con đường tự rèn luyện để trở thành những quân nhân cách mạng có ý thức tổ chức kỷ luật cao là điều không dễ. Bằng nhiều biện pháp, Dương Văn Dương và bộ chỉ huy từng bước dẫn dắt mọi người vào khuôn khổ . Khắp các xóm ấp của xã Phước An, dọc theo liên tỉnh lộ 19, ở các ngã tư đường và nhiều nơi công cộng khác ông cho treo những băng khẩu hiệu nhằm nhắc nhở cán bộ, chiến sĩ: "Hãy luôn luôn nhớ mình là bộ đội Bình Xuyên của Chánh phủ Trung ương do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu "Cấm cờ bạc say sưa", "Nổ súng làm bị thương, chết người phải chịu kỷ luật nhà binh và đền mạng"... Đồng thời, trên mọi nẻo đường, các đơn vị thuộc bộ phận cảnh sát quân sự của tổng hành dinh tăng cường công tác tuần tra, kiểm soát quân nhân, kịp thời ngăn chặn và xứ lý mọi hành vi vô kỷ luật... Với bản thân, Dương Văn Dương và các đồng chí của ông trong bộ chỉ huy luôn giữ mẫu mực để mọi người noi theo. Những người thân của Dương Văn Dương, dẫu có là anh em ruột nếu phạm phải kỷ luật răn cấm đã đề ra cho tất cả mọi người, anh kiên quyết xử lý nghiêm khắc.

Sinh hoạt của bộ đội dần đi vào ổn định, quy củ.


Tiêu đề: Re: Bộ đội Bình Xuyên
Gửi bởi: colorwind trong 14 Tháng Năm, 2008, 09:43:05 pm
Đồng bào Phước An và vùng phụ cận càng thêm tin yêu hết lòng nuôi dưỡng bộ đội. Dù cuộc sống còn nhiều lam lũ. thiếu thốn nhưng họ vẫn giành cho cán bộ, chiến sĩ Bình Xuyên sự giúp đỡ hết mình: nhường giường, ván chăn chiếu; thăm hỏi, uỷ lạo, chung góp lương thực, thực phẩm nuôi quân. Ở Vũng Cấm, Bàu Bông, Bà Trường, chính quyền, đoàn thể địa phương chọn những địa điểm thuận lợi tổ chức các bếp ăn cho bộ đội. Mọi công việc bếp núc ở đây đều do nhân dân địa phương đảm nhiệm. Ngày ngày, theo tiếng trống quy định, từng kíp bộ đội đến ăn tại những bếp này. Có kíp ăn khuya, đồng bào dùng đèn đất bằng dầu chai thắp sáng cho bộ đội ăn cơm, ánh đèn dầu chai lung linh trong tâm khảm mỗi cán bộ, chiến sĩ Bình Xuyên mãi đến sau này.

Ngày 20 tháng 1 1 năm 1945, tại An Phú Xã. Nguyễn Bình triệu tập hội nghị cán bộ quân sự Nam Bộ, ông phổ biến một loạt vấn đề nóng bỏng lúc bấy giờ về chủ trương kháng chiến và quyết định thành lập Giải phóng quân Nam Bộ, tổ chức lực lượng võ trang thành các chi đội, phân công trách nhiệm và địa bàn hoạt động của các tổ chức võ trang. Đồng thời phát động phong trào du kích chiến tranh trên toàn Nam Bộ. Nguyễn Bình tuyên bố giữ chức Tư lệnh Giải phóng quân Nam Bộ và Vũ Đức ( Hoàng Đình Dong) giữ chức Chính uỷ.

Soát xét toàn bộ thực lực quân số trang bị của các đơn vị. Nguyễn Bình đặc biệt chú ý đến lực lượng Bình Xuyên. Theo đề xuất của Lương Văn Trọng, ông ngỏ ý sẽ xuống Phước An để tiếp xúc với bộ đội Dương Văn Dương.

Nguyễn Văn Hội và Đinh Văn Nhị vội rời An Phú Xã về Phước An. Mọi người bắt tay chuẩn bị công việc đón tiếp phái đoàn Tư lệnh Giải phóng quân Nam Bộ. Một bộ phận được cử tới sở ngựa Bàu Lòng bí mật hắt 10 con ngựa của Pháp đem về. Nguyễn Văn Hội đưa đoàn ngựa thắng đủ yên cương quay trở lại đón Nguyễn Bình và đoàn tuỳ tùng của ông. Ở Phước An, bộ đội Tân Thuận, bộ đội Chín Hiệp bộ đội Tư Huỳnh và bộ đội Phú Xuân chọn 4 trung đội (tương đương 4 đại đội) do Nguyễn Văn Soái chỉ huy làm hàng rào danh dự.

Ngày 10 tháng 12 năm 1945, tại xã Bình Hoà Nam bên bờ sông Vàm Cỏ Đông, hội nghị Xứ uỷ mở rộng toàn Nam Bộ được triệu tập. Hội nghị quyết định thành lập các khu 7, 8, 9 và đổi Giải phóng quân thành Vệ quốc đoàn. Khu 7 gồm thành phố Sài Gòn và các tỉnh Gia Định, Chợ Lớn, Biên Hoà, Bà Rịa (cả Vũng Tàu), Thủ Dầu Một, Tây Ninh, do Nguyễn Bình làm khu bộ trưởng, Dương Văn Dương khu bộ phó và Trần Xuân Độ làm chủ nhiệm chính trị bộ.

Từ hội nghị Bình Hòa Nam trở về. Nguyễn Bình ra chỉ thị bãi bỏ nghị quyết hội nghị An Phú Xã để thực hiện nghị quyết mới của Xứ ủy. Sau đó. ông đi xuống Phước An.

Một ngày giữa tháng 1 năm 1945, trên quãng đường liên tỉnh lộ 19 cách chỉ huy sở Dương Văn Dương 1 km về phía đông bắc đã diễn ra cuộc tiệp đón long trọng. Dọc hai vệ đường ngã ba đi Đồng Mu Rùa, từ ông Trúc tới cầu Suối Dẹp, hai hàng quân danh dự quần áo tề chỉnh, bồng súng đứng trang nghiêm. Nguyễn Bình và tuỳ tùng đi tới. Đến cách hàng quân 100 mét ông xuống ngựa, trao giây cương cho người "giám mã" đứng sau rồi tiến vào giữa hàng quân. Cùng lúc, Dương Văn Dương và tuỳ tùng cùng tiến lên phía khách. Nguyễn Bình giang rộng cánh tay ôm choàng Dương Văn Dương trong tiếng vỗ tay vang dậy. Phút gặp gỡ thân tình và cảm động như chưa hề cách biệt. Dương Văn Dương mời Nguyễn Bình và các thành viên trong đoàn về chỉ huy sở ở Phước An. Đội danh dự chuyển thành lực lượng hộ tống. Tại tổng hành dinh, trước đông đảo các cấp chỉ huy bộ đội Bình Xuyên. Nguyễn Bình long trọng trao cho Bộ chỉ huy bộ đội Bình Xuyên quyết định bổ nhiệm Dương Văn Dương giữ chức khu bộ phó khu 7. Trong giờ phút trang nghiêm. Dương Văn Dương và đồng đội của anh hiểu rằng vinh dự này thuộc về mọi cán bộ, chiến sĩ Bình Xuyên, rằng là một trách nhiệm nặng nề mà cấp trên đã tin trao cho không chỉ anh mà cả đồng đội của anh, trong giai đoạn lịch sử phức tạp này.

Ngay sau khi phái đoàn cấp trên rời Phước An, Dương Văn Dương và bộ chỉ huy triệu tập hội nghị chỉ huy các đơn vị chiến đấu, các ban ngành trực thuộc để bàn biện pháp thực hiện nghị quyết của cấp trên, củng cố và tăng cường sức chiến đấu của bộ đội.


Tiêu đề: Re: Bộ đội Bình Xuyên
Gửi bởi: colorwind trong 14 Tháng Năm, 2008, 10:26:40 pm
Theo quy tắc tổ chức đơn vị chiến đấu lúc đó, một chi đội gồm ba đại đội, mỗi trung đội gồm ba phân đội, mỗi phân đội gồm ba tiểu đội và mỗi tiểu đội có 12 chiến sĩ (tiểu đội súng máy phải 16 người). Theo chỉ thị của Nguyễn Bình, bộ đội Dương Văn Dương tổ chức thành 2 chi đội (mỗi chi đội còn thiếu 1 đại đội), lấy phân hiệu là chi đội 2 và chi đội 3 [9] . Thay cho bộ chỉ huy bộ đội Ba Dương, một bộ chỉ huy chung của hai chi đội được bầu ra, lấy tên là bộ chỉ huy liên chi đội 2 và 3 Bình Xuyên thuộc Vệ quốc đoàn Khu 7. Dương Văn Dương được cử làm chỉ huy trưởng bộ chỉ huy liên chi.

Hội nghị tiến hành bầu cử dân chủ chọn cán bộ phụ trách hai chi đội. Kết quả, Đinh Văn Nhị, nguyên uỷ viên chính trị bộ đội Ba Dương trúng cử làm chi đội trưởng chi đội 2 và Từ Văn Ri tham mưu trưởng bộ chỉ huy trước đây được bầu làm chi đội trưởng chi đội 3.

Trước yêu cầu của tình hình mới, hội nghị thấy rằng phải tăng cường hơn nữa công tác giáo dục chính trị, nâng cao nhận thức về lập trường, tư tưởng cho bộ đội. Trong nỗ lực đó cần xúc tiến thiết lập hệ thống chính trị viên 4 cấp ở mỗi chi đội (chi đội, đại đội, trung đội và phân đội). Những cán bộ, chiến sĩ nào có trình độ giác ngộ chính trị khá, có thành tích trong chiến đấu và công tác, có văn hoá và do các đồng chí đảng viên đứng ra giới thiệu sẽ được xét chọn và đề bạt chức vụ chính trị viên các cấp.

Nhấn mạnh vai trò, tác dụng của công tác giáo dục chính trị, hội nghị đồng thời nêu rõ cần trang bị cho bộ đội có một trình độ kỹ, chiến thuật nhất định. Trước mắt, tận dụng điều kiện địa hình thuận lợi của Phước An và tranh thủ tiểu đội xạ thủ lính Nhật cùng những người vốn là lính tập, hạ sĩ quan trong quân đội Pháp trước đây để tổ chức huấn luyện cho chiến sĩ thành thục môn ngắm bắn, ném lựu đạn, nắm và thực hành các nhiệm vụ, các thao tác khi đứng gác, đổi gác tuần tra...

Bộ chỉ huy liên chi cũng kiện toàn lại các bộ phận tham mưu, giúp việc, thành lập các bộ phận trực thuộc: 1-văn phòng, 2-ban giao thông liên lạc, 3-ban tham mưu, 4-ban trinh sát, 5-ban tình báo, 6 - đơn vị cảnh sát quân sự, 7-ban quân nhu, 8-Tòa án hinh và trại giam, 9-ban y tế và nhà thương, 10-ban binh công xưởng và Ban tiếp liệu (quyên tiền, mua sắm máy móc, nguyên vật liệu và chiêu tập, tuyển dụng thợ lành nghề...). 11-ban ấn loát tài liệu quân -sự, 12-ban chỉ huy các loại súng lớn (trọng liên, pháo...), 13-đại đội vệ binh bảo vệ tổng hành dinh, 14-ban chính trị. Mỗi ban ngành trên được quy định chặt chẽ về số người, trang bị, vũ khí. Riêng bộ phận trinh sát, tình báo, binh công xưởng được cấp súng đạn gần tương đương với các đơn vị chiến đấu. Đại đội vệ binh được chọn bao gồm những cán bộ, chiến sĩ qua tuyển lựa chặt chẽ và được trang bị mạnh.

Trong điều kiện phương tiện chuyển tải và đường đi lối lại từ các tỉnh Nam Bộ. Khu 7 về rừng Sác gặp nhiều khó khăn, để đảm bảo đủ súng đạn cho bộ đội, hội nghị cho rằng, hai cơ sở sản xuất và sửa chữa vũ khí hiện có là hết sức quý cần tăng cường hơn nữa công tác bảo vệ, tránh bị địch phá hoại và tránh để máy móc hư hỏng, tránh lãng phí nguyên liệu trong quá trình sản xuất, sửa chữa. Đồng thời, phải có biện pháp để không ngừng củng cố, mở rộng các cơ xưởng, tăng khả năng sản xuất và sửa chữa vũ khí. Hiện thời, cần nỗ lực tuyên truyền, vận động trong nhân dân nhằm quyên góp tiền bạc để mua sắm, khai thác, sưu tầm máy móc, nguyên vật liệu phục vụ sản xuất.

Tin tưởng vào sự lãnh đạo chỉ huy của cấp trên và của cán bộ chỉ huy liên chi trong không khí đầy phấn khởi, toàn thể cán bộ, chiến sĩ Bình Xuyên bắt tay thực hiện nghị quyết của hội nghị. Các hộ phận lực lượng được phiên chế thành chi hội. Hệ thống chính trị viên từng bước được thành lập ở các cấp các đơn vị. Với sự tham mưu của các đảng viên và phụ tá tin cẩn. Dương Văn Dương có công văn gửi các đơn vị, trong đó quy định mọi công văn, chỉ thị, báo cáo của phân đội, trung đội, đại đội và chi đội đều do chỉ huy trưởng quân sự và chính trị viên cấp đó ký tên; trong trường hợp đặc biệt phải có thêm chữ ký của cả một hoặc hai cấp phó. Đến cuối tháng 2 đầu tháng 3 năm 1946 các đảng viên trong chi đội 2 và chi đội 3 đã liên hệ với nhau và với cấp uỷ địa phương, cấp uỷ cấp trên. Chi đội uỷ chi đội 2 được thành lập. Một thời gian sau, tổ chức đảng ở chi 3 cũng ra đời đánh dấu bước phát triển mới trong công tác đảng, công tác chính trị ở bộ đội Bình Xuyên. Qua huấn luyện, bộ đội nắm được những kiến thức cơ bản về tính năng tác dụng, cách sử dụng súng trường, tiểu liên, trung liên, đại liên và lựu đạn, chiến thuật tập kích, phục kích trong các điều kiện.

[9] Trước đó đội Thủ Dầu Một được thành lập lấy phiên hiệu chi đội 1. Sau chi đội 2, chi đội 3, bộ đội Huỳnh Văn Trí tổ chức thành chi đội 4. Sang năm 1946, các bộ đội khác tiếp tục thành lập các chi đội, trong đó bộ đội Tám Mạnh - Hai Vĩnh thành chi đội 7, bộ đội Bảy Viển thành chi đội 9, bộ đội Nguyễn Văn Hoạnh thành chi đội 21, bộ đội Tư Ty thành chi đội 25.


Tiêu đề: Re: Bộ đội Bình Xuyên
Gửi bởi: colorwind trong 14 Tháng Năm, 2008, 11:00:17 pm
Trong lúc đại bộ phận cán bộ, chiến sĩ Bình Xuyên nỗ lực rèn luyện dấn bước trên con đường kháng chiến thì một bộ phận lực lượng như Đệ nhị, Đệ tam, Đệ tứ sư đoàn bộ đội HT.29... diễn ra sự phân hoá sâu sắc trong hàng ngũ. Nhiều bộ phận không vượt thoát khỏi bản chất lưu manh cơ hội, "ngựa quen đường cũ”, hoặc trở thành tay sai cho Pháp hoặc chuyển thành các nhóm thổ phỉ trên con đường tan rã.

Ở Bà Rịa, nhóm Ba Nhỏ là một trong những trường hợp như vậy. Ba Nhỏ tên thật là Lê Văn Khôi. Trước tháng 8 năm 1945. Nhỏ đứng đầu một băng chuyên nghề đâm thuê, chém mướn ở nam, bắc cầu Xóm Củi. Sau đó, khi chuyển địa vực làm ăn sang vùng Cầu Bông - Tân Định - Đa Kao - Thị Nghè. Nhỏ nhanh chóng khẳng định quyền uy, trở thành thủ lĩnh của nhiều băng nhóm nơi này. Cách mạng tháng Tám bùng nổ. Trong dòng thác cách mạng sôi sục, như nhiều băng nhóm khác, Ba Nhỏ đưa lực lượng của mình gia nhập với nhóm võ trang khác, cùng tiến công Nha khí tượng, đài phát thanh trong nội đô rồi tham gia mặt trận Thị Nghè - Bà Chiểu - Cầu Bông ( mặt trận số 1 ). Núp dưới danh xưng bộ đội cách mạng nhóm Ba Nhỏ tham gia tấn công khu Tân Định thảm sát gần 70 người mang quốc tịch Pháp, làm phức tạp thêm tình hình vốn đang rất phức tạp sau Cách mạng tháng Tám. Khi quân kháng chiến đang bao vây Sài Gòn, Ba Nhỏ đã không ngần ngại rút gươm hạ sát một người mẹ vô tội ở Cầu Bông chỉ vì nạn nhân mang trong giỏ 1 kg thịt đem vào cho con gái và đứa cháu ngoại đang kẹt trong thành phố. Mặt trận số 1 vỡ, có trong tay một đàn em hơn 3 tiểu đội và 15 khẩu súng, Ba Nhỏ rút về vùng Bưng Sáu Xã, không gia nhập bộ đội Thái Văn Lung mà liên kết với Tư Cò Đá - một phần tử lưu manh, chuyên sống bằng nghề bắt cóc con tin, đòi tiền chuộc, hiện có trong tay vài chục đàn em với hơn chục khẩu súng. Tại đây nhóm Ba Nhỏ và nhóm Tư Cò Đá tiếp tục quấy nhiễu nhân dân, đe doạ chính quyền cách mạng địa phương. Bộ đội Thái Văn Lung buộc phải điều một phân đội võ trang dưới quyền chỉ huy của hai cán bộ tên là Cam và Ô Phúc Thìn tới hỗ trợ chính quyền ở vùng xung quanh chiến khu C, lập lại an ninh, giữ gìn trật tự. Cùng thời gian đó, giặc Pháp lấn chiếm và kiểm soát hầu hết vùng cao của huyện Thủ Đức. Địa bàn đứng chân bị thu hẹp và bị uy hiếp cả từ hai phía, Ba Nhỏ và Tư Cò Đá kéo về Long Thành, rút ra tận miền nam Phan Thiết rồi tráo lại Bà Rịa. Đến đâu, họ gieo tai hoạ tới đó. Hành vi của nhóm Ba Nhỏ, Tư Cò Đá làm cho nhiều người hiểu sai về quân đội cách mạng.

Để giữ vững kỷ luật quân đội, lấy lại lòng tin của nhân dân đối với bộ đội cách mạng, với kháng chiến. Nguyễn Bình quyết định bắt Ba Nhỏ và mở phiên toà xét xử để làm gương cho ba quân. Long Thành được chọn làm nơi xét xử và bộ đội liên chi 2-3 sẽ làm nhiệm vụ bảo vệ phiên toà.

Được trao trách nhiệm, bộ chỉ huy liên chi họp bàn chuẩn bị. Tính đến những tình huống có thể xảy ra, bộ chỉ huy đề ra biện pháp nhằm bảo vệ hiệu quả phiên toà. Lực lượng bảo vệ sẽ gồm hai lớp. Lớp ngoài có bốn bộ phận. Một trung đội được tăng cường trọng liên 13,2 ly của bộ đội Phú Xuân sẽ chốt chặn ở ngã ba Phước Long, cách nơi xứ án 1.5 km về hướng đông nam. Dọc hai hên liên tỉnh lộ 19, đoạn chạy qua làng Phước Mỹ, cách khu vực mở phiên toà 1.5 km về phía Bắc, một trung đội của bộ đội Tư Huỳnh có tăng cường trọng liên 13,2 ly sẽ triển khai bố trí đội hình án ngữ. Về phía tây, cách khu vực xử án 1 km, một trung đội thuộc bộ đội Chín Hiệp sẽ triển khai lực lượng tại Bàu Chai. Cùng lúc một tiểu đội thuộc ban trinh sát sẽ tiến hành kiểm soát chặt con kinh Bà Ký, đoạn từ Phước Thiền (phía tây bắc) đến đồn điền Butier (phía đông nam) dài 4 km.

Ở vòng trong lực lượng bảo vệ sẽ gồm một trung đội vệ binh. Trung đội này tổ chức kiểm soát, tuần tra chặt khu vực xung quanh đình thần xã Phước Lai - nơi mở phiên toà. Một số cán bộ chỉ huy ban trinh sát và ban tình báo tập trung theo dõi và kịp thời có biện pháp ứng phó với bất kỳ diễn biến nào của tình hình xảy ra ngoài dự liệu.

Sự cẩn trọng của phương án bảo vệ phiên toà và số lực lượng được huy động đủ nói lên tình hình chung lúc đó thật phức tạp.

Địa điểm xét xử và nhiệm vụ bảo vệ phiên toà đã vậy, việc tiến hành bắt Ba Nhỏ lại càng không dễ dàng. Phương án vạch ra là: Cử một cán bộ có khả năng ứng xử linh hoạt cùng đi với một người vốn thân quen với Ba Nhỏ và được Ba Nhỏ nể trọng theo kiểu cách giang hồ. Khi gặp Ba Nhỏ người cán bộ đó, bằng mọi cách có thể, khéo léo đưa Ba Nhỏ tới một đơn vị bộ đội để thi hành lệnh bắt.

Mọi bước, kể cả ý định, cả người lập mưu, cả nhân sự thực thi phải được giữ kín. Nhiệm vụ khó khăn này được uỷ cho Nguyễn Văn Hội. Nguyễn Văn Hội bàn với Mai Văn Vĩnh thực hiện. Và mọi sự diễn ra xuôi xẻ. Mai Văn Vĩnh người được Ba Nhỏ tin nể đã trực tiếp xuống Bà Rịa, bắt êm Ba Nhỏ đang náu trong một thánh thất Cao Đài.


Tiêu đề: Re: Bộ đội Bình Xuyên
Gửi bởi: colorwind trong 14 Tháng Năm, 2008, 11:25:00 pm
Một buổi sáng, tại ngôi đình thần Phước Lai của xã Phước Lai - cách liên tỉnh lộ 19 độ 150 m về phía đông, phiên toà xử Ba Nhỏ bắt đầu. Từ tinh mơ, khi trời còn chạng vạng, theo kế hoạch, các bộ phận lực lượng bộ đội Bình Xuyên đã triển khai xong đội hình tại các khu vực đã quy định. Tại phiên toà, ngồi ghế chánh án là Nguyễn Bình - khu bộ trưởng Khu 7, Dương Văn Dương - khu bộ phó Khu 7 kiêm chỉ huy trưởng liên chi 2 và 3 và Nguyễn Văn Mạnh - chỉ huy bộ đội Chánh Hưng - ngồi ghế hội thẩm.

Tham dự phiên toà có đại diện khu bộ Khu 7, ủy ban kháng chiến tỉnh Biên Hoà, quận Thủ Đức, quận Long Thành, ủy ban kháng chiến và Ty Công an tỉnh Bà Rịa, cùng các nhân sĩ cao tuổi ở địa phương. Các chi đội trưởng và chỉ huy trưởng các bộ đội đóng trên các địa bàn phụ cận đều được mời tới dự. Biện hộ sư bào chữa cho bị can cũng có mặt tại phiên toà.

8 giờ sáng, phiên toà xử Ba Nhỏ bắt đầu. Các bước tuyên đọc cáo trạng, luật sư biện hộ đọc lời bào chữa... được tiến hành đúng thể thức. Sau khi nghị án, Nguyễn Bình thay mặt Toà đọc bản tuyên án, nêu rõ những tội danh mà Ba Nhỏ đã phạm:

1. Khủng bố đồng bào, làm suy giảm lòng tin của đồng bào đối với lực lượng võ trang kháng chiến, làm mất thanh danh của Vệ quốc đoàn.

2. Coi thường chủ trương, đường lối, chính sách và các nghị quyết của Chính phủ Trung ương, của thượng cấp. Dùng bạo lực uy hiếp, khủng bố chính quyền và các đoàn thể cách mạng ở địa phương.

3. Thoái thác nhiệm vụ chiến đấu chống kẻ thù xâm lược.

Xét trong lúc quốc gia lâm nguy, kháng chiến đang gặp nhiều khó khăn, phức tạp, để giữ vững niềm tin của nhân dân và cách mạng, đặng tăng cường khối đoàn kết toàn dân, đẩy mạnh cuộc kháng chiến, toà tuyên án: Ba Nhỏ phải chịu tội tử hình.

Trước vành móng ngựa, nghe luận về tội trạng của mình và những tác hại do tội trạng đó gây ra, Ba Nhỏ đành thú nhận rằng con đường mà Nhỏ và đồng bọn đã đi là con đường lầm lạc. Nhỏ cúi đầu nhận lãnh hình phạt không một lời thanh minh, không một lời xin giảm án, nhưng xin Toà cho phép được tự xử lấy bản án của mình, bằng súng! Toà đồng ý. Và Ba Nhỏ hành động theo đúng luật của giới giang hồ: nói sao, làm vậy.

Vài ngày sau, bản án tử hình Ba Nhỏ được khu bộ Khu 7 in thành nhiều bản kèm theo ảnh của phạm nhân gửi tới các cấp chính quyền. Ở các nơi công cộng, bản án đó cũng được yết cáo để mọi người cùng biết.

Bấy giờ là vào cuối tháng 1 năm 1945. Cũng cuối năm đó một phái đoàn Chính phủ Trung ương do ông Lê Văn Hiến dẫn đầu đã rời Hà Nội vào Nam. Sau khi thăm vùng giải phóng các tỉnh cực Nam Trung Bộ, đoàn tới tỉnh Bà Rịa. Từ vùng tự do Bà Rịa, đoàn được Lương Văn Trọng (bấy giờ vừa được bổ nhiệm làm uỷ viên quân sự tỉnh Bà Rịa) hướng dẫn và hộ tống về thăm bộ đội Bình Xuyên ở Phước An. Đoàn đã được cán bộ, chiến sĩ Bình Xuyên tiếp đón long trọng và nồng nhiệt.


Tiêu đề: Re: Bộ đội Bình Xuyên
Gửi bởi: colorwind trong 14 Tháng Năm, 2008, 11:30:08 pm
Tại buổi lễ duyệt binh chào mừng đoàn tổ chức tại sân vận động Phước An (sân bóng) cách tổng hành dinh khoảng 600 mét về phía tây bắc, trưởng phái đoàn Chính phủ Lê Văn Hiến đã trịnh trọng đọc thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi các chiến sĩ Nam Bộ và Nam Trung Bộ, thư của Bộ trưởng Bộ Nội vụ kiêm thứ trưởng Quốc phòng Võ Nguyên Giáp gửi cán bộ chiến sĩ đang chiến đấu trên chiến trường miền Nam. Mọi người lắng nghe từng lời của Bác với sự xúc động sâu xa:

"Từ ba tháng nay, các anh chị em đã đem xương máu ra để giữ lấy từng tấc đất của Tổ quốc.

“Tôi và tất cả đồng bảo ở Bắc Bộ và phía Bắc Trung Bộ, đã bao nhiêu lần tức giận khi bọn thực dân Pháp chà đạp lên lãnh thổ của ông cha ta, giết hại nòi giống ta.

"Đã bao nhiêu lần phấn khởi khi nghe những chiến công oanh liệt do những vị vô danh và hữu danh anh hùng dân tộc tạo nên, đã bao nhiêu lần hồi hộp cảm động trước những gương hy sinh vô cùng dũng cảm của những người con yêu Tổ quốc.

"Do đó, tôi càng tin chắc rằng: với một nước đã có những người con hy sinh như thế, anh hùng như thế, đã có một khối toàn dân đoàn kết như thế, nước ta nhất định không bị mất lại một lần nữa.

“Để bảo vệ Tổ quốc, chúng ta còn phải chiến đấu nhiều. Chỉ có chiến đấu mới đưa lại vẻ vang cho Tổ quốc. Các bạn ở tiền tuyến không bao giờ cô độc, vì đã có cả một khối toàn dân đoàn kết làm hậu thuẫn cho mình, thắng lợi cuối cùng nhất định về ta".

Ở Hà Nội từng ngày từng giờ Bác và Chính phủ vẫn luôn luôn theo dõi cuộc chiến đấu đầy gian khổ, hy sinh nhưng rất đỗi kiên cường của đồng bào và chiến sĩ miền Nam. Trong giờ phút thiêng liêng này, ai cũng hướng về Hà Nội, nơi có Bác đang lãnh đạo cuộc đấu tranh của toàn dân tộc thầm hứa với Bác sẽ nỗ lực hơn để xứng đáng với lời khen ngợi và dặn dò của Bác. Nhân danh trưởng phái đoàn Chính phủ, ông Lê Văn Hiến biểu dương thành tích chiến đấu và rèn luyện của bộ đội Bình Xuyên trong thời gian qua, khẳng định đó là kết quả bước đầu rất đáng khích lệ. Thay mặt Chính phủ, phái đoàn chính thức công nhận bộ đội Bình Xuyên là một bộ phận của quân đội quốc gia Việt Nam, ông nhắc nhở toàn thể cán bộ, chiến sĩ cần tăng cường sự đoàn kết thương yêu lẫn nhau, ra sức rèn luyện, tu dưỡng về mọi mặt, không ngừng nâng cao sức mạnh chiến đấu sẵn sàng hoàn thành xuất sắc mọi mệnh lệnh và nhiệm vụ mà cấp trên giao phó, đồng thời phải luôn nhớ mình là đội quân của cách mạng, gắn bó máu thịt với nhân dân, vì nhân dân mà hy sinh, chiến đấu. Ông Lê Văn Hiến đề nghị bộ chỉ huy liên chi đội 2 và 3 cần có kế hoạch chọn lựa những cán bộ, chiến sĩ ưu tú, cử đi đào tạo ở Trường Quân chính Trung ương hiện đặt tại Quảng Ngãi. Những người này, sau khi ra trường, sẽ là cán bộ nòng cốt để xây dựng Trường Quân chính của bản thân bộ đội Bình Xuyên. Cuộc kháng chiến có thể còn kéo dài, cần phải chuẩn bị mọi mặt để vừa chiến đấu, vừa xây dựng đơn vị, đảm bảo càng mạnh, càng trưởng thành vững chắc.

Thay mặt cán bộ, chiến sĩ, Dương Văn Dương cảm ơn sự quan tâm của đại diện Chính phủ Trung ương, hứa sẽ chấp hành nghiêm những lời huấn thị.

Sau buổi lễ, các bộ phận lực lượng đóng gần tổng hành dinh như bộ đội Chín Hiệp, bộ đội Phú Xuân... được vinh dự đón đoàn tới thăm. Ở rừng Sác, đoàn tận mắt chứng kiến điều kiện sinh hoạt của bộ đội ta khi thị sát đơn vị pháo 2 nòng cỡ 24 ly. Nơi đây, nền đất ẩm thấp, ướt át, việc di chuyển bị "bó rọ" dưới ghe, thuyền, nước ngọt cho bộ đội thiếu, muỗi, bù mắt, ba cánh nhiều vô kể trong khi anh em đều chẳng có mùng. Trước cuộc sống còn quá nhiều thiếu thốn gian khổ của cán bộ, chiến sĩ, đoàn hết sức xúc động.

Bấy giờ, quân Pháp đang tổ chức một lực lượng cơ động tương đối mạnh gồm bộ binh, xe tăng và pháo binh chuẩn bị đánh chiếm quận Long Thành, tạo thành bàn đạp tiến công Bà Rịa - tỉnh cuối cùng chưa bị chiếm ở miền Đông Nam Bộ. Nhận được tin do ban tình báo cung cấp, Dương Văn Dương cùng ban chỉ huy họp bàn và lệnh cho các đơn vị chuẩn bị mọi mặt, sẵn sàng chiến đấu.

Để bảo đảm an toàn cho phái đoàn Chính phủ hiện đang thăm các đơn vị bộ đội đứng chân ở rừng Sác, bộ chỉ huy quyết định sử dụng chiếc tàu kéo vỏ sắt có tốc độ lớn chiến lợi phẩm thu được của Pháp trên dòng Rạch ông - Cây Khô trước đây, đưa toàn bộ Phái đoàn rời khỏi rừng Sác.

Từ bến Rạch Mới cách tổng hành dinh khoảng 500 m về phía tây nam, chiếc xà lúp từ từ rẽ nước, tăng dần tốc độ, xuôi theo sông Ngã Ba rồi sông Đồng Kho, để vào dòng Thị Vải đưa phái đoàn trở lại Bà Rịa an toàn.


Tiêu đề: Re: Bộ đội Bình Xuyên
Gửi bởi: colorwind trong 14 Tháng Năm, 2008, 11:47:15 pm
Phái đoàn Chính phủ đi rồi, tại tổng hành dinh, bộ chỉ huy liên chi đội 2 và 3 nhận được lệnh của khu bộ trưởng Nguyễn Bình, yêu cầu bộ đội khẩn trương tổ chức lực lượng, cùng một số đơn vị khác thực hành tấn công địch ở thị xã Biên Hoà - một tỉnh lớn ở miền Đông Nam Bộ, một đầu mối giao thông thuỷ, bộ quan trọng ở phía đông bắc thành phố Sài Gòn vừa bị rơi vào tay địch. Thay mặt Nguyễn Bình, người mang mệnh lệnh tới đã tóm tắt toàn bộ tình hình diễn biến chiến trường cảm nặng nề trong cán bộ, chiến sĩ bộ đội liên chi khiến nhiều người tỏ ra nghi ngại. Dương Văn Dương khẳng định quyết tâm của bộ chỉ huy liên chi đội 2 và 3: khẩn trương tổ chức lực lượng, chấp hành mệnh lệnh chiến đấu của cấp trên.

Nhằm thống nhất kế hoạch chuyển binh tới địa điểm tập kết để phối hợp cùng bộ đội tỉnh Biên Hoà do Huỳnh Văn Nghệ, Phan Đình Công chỉ huy, cuộc họp liên quân giữa bộ chỉ huy liên chi đội 2 và 3 với chỉ huy bộ đội Tám Mạnh và chỉ huy bộ đội Tư Hoạnh được triệu tập. Hội nghị thống nhất:

1 - Dương Văn Dương điều động 6 phân đội trang bị súng máy đầy đủ tham gia chiến đấu.
 
2 - Lực lượng chiến đấu của cả 3 bộ đội do Dương Văn Dương cung cấp đạn dược và Nguyễn Văn Mạnh cung cấp lựu đạn.

3 - Cả 3 đơn vị sẽ cùng xây dựng và hoàn chỉnh kế hoạch tác chiến.

Là trận đánh giữ vị trí quan trọng trong ý đồ chung của Khu 7, Nguyễn Bình quan tâm chỉ đạo việc chuẩn bị cho trận đánh này, ông đích thân chủ trì hai cuộc họp giữa chỉ huy các bộ phận lực lượng, và quyết định cử Dương Văn Dương làm chỉ huy chung của trận đánh. Bộ đội Bình Xuyên và bộ đội Biên Hoà được phân công đánh ở hướng chính diện. Ngoài ra tham gia trận đánh còn có bộ đội Nguyễn Văn Thi, Huỳnh Kim Trương (chi đội 1 Thủ Dầu Một), bộ đội Tô Ký, Huỳnh Tấn Chùa, Nguyễn Văn Bứa (Gia Định), bộ đội Vũ Đức, Nam Long (Nam tiến).

Căn cứ vào nhiệm vụ được giao, trên cơ sở địa hình, địa vật và tương quan lực lượng giữa ta và địch. Ban tham mưu bộ đội Bình Xuyên xác định phương án tác chiến của trận đánh như sau:

1. Các hướng tấn công chính do bộ đội Dương Văn Dương phối hợp với bộ đội Huỳnh Văn Nghệ đảm nhiệm gồm hướng bắc, hướng đông và hướng tây thị xã Biên Hoà.

2. Hướng phối hợp:
đánh bót cầu Ghềnh đông nam thị xã Biên Hoà, do hộ đội Tám Mạnh và bộ đội Tư Hoạnh thực hiện.

3. Hướng nghi binh:
nằm dọc sông Đồng Nai, đoạn phía tây nam thị xã Biên Hoà. Dùng khói lửa, hò la và trống, tù và để thu hút sự chú ý của địch, tạo điều kiện cho các hướng khác tiến công. Sau đó, lực lượng ở hướng này cùng tham gia tiến công. Các bộ đội khác đều bố trí chiến đấu ở các hướng.

4. Ngày giờ nổ súng tiến công: 0 giờ đêm ngày 1 - 1 - 1946. Trong khi mọi mặt chuẩn bị đang được xúc tiến, trận đánh sắp bắt đầu, thì Dương Văn Dương bị đau nặng. Những đòn tra tấn của mật thám trước kia để lại di chứng trong cơ thể ông. Đinh Văn Nhị thay Dương Văn Dương làm chỉ huy trưởng trận đánh.


Tiêu đề: Re: Bộ đội Bình Xuyên
Gửi bởi: colorwind trong 14 Tháng Năm, 2008, 11:50:38 pm
Ngày N nhích gần lại. Thêm một tình huống xảy ra ngoài dự liệu: Ở hướng nghi binh, bộ đội Huỳnh Văn Nghệ vẫn chưa hoàn thành công tác chuẩn bị, đồng thời, việc chuyển tải đạn từ Khu về bổ sung cho các hướng bị chậm trễ. Nhiều người đề nghị hoãn ngày giờ nổ súng. Chần chừ lúc này sẽ làm ảnh hưởng tới kết quả trận đánh. Chấp thuận lùi cuộc tiến công có nghĩa là bỏ mất yếu tố bất ngờ, rất khó giữ bí mật trận đánh và làm nhụt chí của bộ đội; trong khi đó, địch sẽ đủ thời gian để tăng cường lực lượng phá việc chuẩn bị tiến công của ta. Cân nhắc mọi phương án, ban chỉ huy trận đánh lệnh cho các đơn vị vẫn nổ súng tiến công theo đúng thời gian đã được quy định.

Ngày N đã đến. Đêm xuống gió thổi se lạnh, 20 giờ các cánh được lệnh hành quân chiếm lĩnh vị trí xuất phát tiến công. Ngay lúc đó, ban chỉ huy nhận được thư của bộ đội Biên Hòa do liên lạc mang tới báo rằng: toàn thể trung đội Biên Hoà quyết nghị sẽ không nổ súng tiến công đêm nay. Phan Đình Công trong ban chỉ huy trận đánh, là chính trị viên bộ đội Biên Hoà, viết lệnh: "Phải thi hành đúng lệnh! Nếu thoái thác sẽ bị tử hình". Liên lạc cầm lệnh đi rồi, nhiều người trong ban chỉ huy lòng không khỏi lo âu!

Đoàn quân đã triển khai xong đội hình xuất phát tiến công. Không gian ắng lặng. Ai nếu đều hồi hộp đợi giờ nổ súng.

24 giờ, súng lệnh ở hướng chính diện phát hoả truyền hiệu lệnh tiến công. Phía nam thị xã, tiếng tù và vang động, lửa khói cháy ngút, toả sáng một góc trời. Sau phút choáng váng địch bắt đầu phản ứng mạnh. Từng tràng súng máy rồ lên không dứt ở hướng nghi binh.
Ngay lập tức, ở các hướng tiến công chính diện, quân ta tiến công mãnh liệt vào các mục tiêu đã định: các công sở, trạm gác, nhà lao, các vị trí đóng quân của địch... Súng nổ chát chúa. Khu chợ bốc cháy, lửa khói hừng lên.

Quân địch cố thủ trong các thành xăng đá và công sự phòng ngự dùng hoả lực mạnh bắn chế áp quân ta. Sức tiến công của quân ta yếu dần. Dưới làn mưa đạn, ban chỉ huy trận đánh nhận định rằng, lực lượng ta đang lâm vào thế bất lợi. Yếu tố bất ngờ không còn nữa. Hướng phối hợp không phát huy được hiệu quả chiến đấu. Hướng nghi binh, sau náo động ban đầu, tình hình cũng tương tự. Bởi thế, địch có điều kiện chống đỡ và nhanh chóng tổ chức lực lượng, thực hành phản kích quyết liệt. Cần nhanh chóng rút khỏi nội đô để bảo toàn lực lượng. Lệnh lui quân của ban chỉ huy được lập tức truyền tới các đơn vị đang chiến đấu. Phải mất một giờ sau, bộ đội ta mới bắt đầu rút. 2 giờ sáng ngày 2 tháng 1 năm 1946, toàn bộ lực lượng tiến công đã ra khỏi thị xã. Địch không dám mạo hiểm bung quân truy kích. Ngớt dần tiếng súng.

Trận đánh kết thúc. Tuy không diệt được nhiều địch nhưng trận đánh đã gây nên sự thối động mạnh về tâm lý. Ngay đêm đó, ở Sài Gòn và nhiều tỉnh khác, quân Pháp phải báo động chiến đấu. Niềm tin của nhân dân miền Đông Nam Bộ vào kháng chiến, vào cách mạng được củng cố hơn... Tuy nhiên, do sự phối hợp thiếu chặt chẽ, một số bộ đội không phát huy được hiệu quả chiến đấu nên sức tiến công của ta bị hạn chế kết quả còn thấp so với yêu cầu. Thành phố vẫn trong tay địch, 20 chiến sĩ Bình Xuyên đã anh dũng hy sinh; một trung đội trưởng trong đoàn quân Nam tiến ngã xuống trên đường tiến vào thị xã trên đất Biên Hoà.

Với bộ đội liên chi 2-3, trận chiến đấu tiến công thị xã Biên Hoà là một thử thách mới sau thời gian dừng chân ở đất Phước An để củng cố và tăng cường lực lượng. Cán bộ, chiến sĩ Bình Xuyên thêm một lần dạn dày trận mạc, thêm tự tin vào sức của mình để vững bước trên chặng đường dài kháng chiến.



Tiêu đề: Re: Bộ đội Bình Xuyên
Gửi bởi: colorwind trong 15 Tháng Năm, 2008, 12:15:14 am
Chương IV

CUỘC HÀNH QUÂN VỀ MIỀN TÂY

Mặc dù vấp phải sự chống trả mạnh mẽ và rộng khắp của quân và dân ta, thực dân Pháp vẫn phá vỡ vòng vây quanh Sài Gòn, nới rộng vùng kiểm soát. Với lực lượng được tăng cường về số lượng và trang bị vũ khí hiện đại, chúng bắt đầu mở rộng địa bàn đánh chiếm.

Những ngày cuối cùng năm 1945 sắp qua, cuộc kháng chiến của quân dân ta vẫn trong tình thế cực kỳ khó khăn. Các trục lộ giao thông huyết mạch và các đô thị ở Nam Bộ, Nam Trung Bộ lần lượt bị địch mở thông và thiết lập quyền kiểm soát.

Bước vào năm 1946, tình hình vẫn không mấy sáng sủa. Ở Đông Nam Bộ, tháng 2 năm 1946, Bà Rịa, tỉnh độc lập cuối cùng của ta bị địch đánh chiếm. Ở Trung Nam Bộ, sau khi đã kiểm soát hầu hết các tỉnh lỵ, các vùng đông dân, nhiều của và các đường giao thông thủy bộ quan trọng, địch với tới Bến Tre - tỉnh cuối cùng mà chúng tiến chiếm. Cuối tháng 12, tình hình ở đây đã vô cùng căng thẳng. Tàu chiến địch ngày đêm dập dình xuôi ngược trên sông Cửa Đại, Ba Lai, Hàm Luông... Nhiều nẻo đường về thị xã đã bị cắt đứt. Mặt trận An Hóa - Gia Hòa - một trong các mặt trận bảo vệ tỉnh lỵ do Trương Văn Giàu chỉ huy, đang bị uy hiếp.

Trong tình thế ấy, thể theo yêu cầu của Trương Văn Giàu, trên cơ sở soát xét khả năng của các đơn vị, Nguyễn Bình và bộ tham mưu của ông quyết định cử bộ đội Ba Dương xuống chi viện cho chiến trường Bến Tre. Dưới sự tổ chức, chỉ huy trực tiếp của Khu bộ phó Dương Văn Dương, bộ đội Bình Xuyên sẽ lựa ra một bộ phận lực lượng được trang bị vũ khí gọn nhẹ nhanh chóng lên đường. Bộ đội Tám Mạnh do Hai Vĩnh chỉ huy bộ phận ở lại hoạt động ở vùng Bà Trau, Núi Nứa.
 
Tại tổng hành dinh Phước An, phái viên Lương Văn Trọng truyền đạt quyết định của Nguyễn Bình và sau đó lưu lại hai ngày. Trong hai ngày, ông đã cùng Dương Văn Dương trao đổi, bàn bạc các vấn đề quan trọng liên quan đến nhiệm vụ mà bộ đội Bình Xuyên được giao.
 
Về đánh giá tình hình miền Đông, hai ông cho rằng, hiện thời khắp nơi quân Pháp đang ráo rết tăng cường các hoạt động quân sự và bình định. Tại những vùng chiếm đóng, chúng tiến hành các biện pháp nhằm quét sạch các nhóm võ trang còn lại của ta, thiết lập quyền kiểm soát, tạo dựng bộ máy thống trị. Đồng thời với quá trình này, chúng đang nỗ lực hòng chặn cắt cách mạch lối giao thông liên lạc giữa các địa phương với khu bộ nhằm phá vỡ sự chỉ đạo thống nhất của ta; tập trung một lực lượng lớn quân tại ven thành chuẩn  bị tấn công bộ đội Bình Xuyên để mở đường đánh chiếm Bà Rịa.

Trong khi đó, ở miền Trung Nam Bộ, quân Pháp cũng đang hoành hành, duy nhất chỉ còn Bến Tre đang khả thủ nhưng tình thế đang bị uy hiếp. Một số bộ đội tan rã và phân hoá. Lực lượng của Nguyễn Hoà Hiệp từ miền Đông kéo về cũng bị đánh gắt phải tiếp tục bỏ chạy, một số bộ phận của lực lượng này đã quay súng đầu hàng, làm tay sai cho địch.

Trên cơ sở đánh giá tình hình và lực lượng so sánh địch, ta hai ông đề ra kế hoạch chung:

1. Chia quân chặn giữ những hiểm địa quanh khu vực đóng quân của bộ đội Bình Xuyên ở rừng Sác.

2. Tiến hành lựa chọn "tinh binh" trong các đơn vị bộ đội Bình Xuyên, hành quân cấp tốc về Bến Tre tới mặt trận An Hoá - Gia Hoà trước khi địch tới, tạo nên thế bất ngờ đánh địch khi chúng đang khinh thường sức đánh trả của đối phương, củng cố niềm tin của dân chúng vào kháng chiến.

3. Trước sự thắng thế tạm thời của địch, tổ chức cho bộ đội tránh mũi nhọn tấn công ban đầu, đánh lạc hướng sự chú ý của chúng, đợi khi chúng ta chiếm Bà Rịa, toàn bộ lực lượng sẽ quay về hoạt động du kích ở vùng này, tiêu hao sinh lực chúng ở Long Thành và Bà Rịa.

4. Trừ bộ phận đi Bến Tre, lực lượng còn lại có nhiệm vụ phòng giữ các cơ quan, binh công xưởng và bảo vệ nhân dân.

5. Buổi lên đường, sẽ đồng loạt tập kích các bót đồn địch tại vùng Cần Giuộc, Cần Đước trong một đêm để tạ công ơn cưu mang, đùm bọc của nhân dân.


Tiêu đề: Re: Bộ đội Bình Xuyên
Gửi bởi: colorwind trong 15 Tháng Năm, 2008, 09:43:48 pm
Sau khi quyết định những vấn đề trên, bộ chỉ huy bộ đội Liên chi khẩn trương họp bàn kế hoạch hành động cụ thể. Bộ chỉ huy cho rằng, trong bối cảnh địch đã kiểm soát đại bộ phận các tỉnh Nam Bộ, từ rừng Sác (miền Đông Nam Bộ) tới Bến Tre (Trung Nam Bộ) chỉ còn lại hai lối có thể chọn để đưa quân đi. Xuất phát từ cửa sông Đồng Tranh (liền kề sông Soài Rạp ở phía tây nam rừng Sác), sẽ dùng loại ghe hạng trung (ghe cửa) ba buồm hướng ra biển, cắt đường về hướng tây nam, khoảng chừng qua đêm đã có thể cập Bình Đại một huyện của tỉnh Bến Tre. Đây là lối nhanh nhất và cũng là nguy hiểm nhất, bởi vì mặt biển, cửa sông đều trong tầm kiểm soát của địch. Ngoài con đường thuỷ này ra còn có lối đi trên bộ xuyên qua vùng đất thấp bị nhiều dòng sông rộng cắt chia của bốn tỉnh Chợ Lớn, Tân An, Mỹ Tho, Gò Công tới Bình Đại. Từ Bình Đại tiếp tục vượt sông Ba Lai đến huyện Giồng Trôm rồi đi về hướng tây bắc khoảng 15 km là đã đặt chân trên đất huyện Châu Thành, nơi lực lượng của mặt trận An Hoá - Gia Hoà bảo vệ thị xã Trúc Giang (thị xã Bến Tre) đang bố trí. Bấy giờ, các vùng mà con đường bộ này đi qua đều đang bị địch kiểm soát, đồn bốt dựng khắp nơi nên đây cũng là một lối đường ngáng trở; hơn nữa, các sông lớn đều có tàu thuyền của chúng ngược xuôi tuần tiễu... đặc biệt hệ thống phòng tuyến dài hơn 3 km ở bờ tây sông Soài Rạp được xây dựng kiên cố với hàng ngàn đồn bót, tháp canh và các căn cứ liên hợp là một trở lực khó bề vượt qua trót lọt. Đi đường nào để vừa bảo toàn lực lượng vừa tới đích nhanh? Đó quả là sự lựa chọn khó khăn, là bài toán đặt ra cho bộ chỉ huy Liên chi. So sánh và cân nhắc mọi yếu tố liên quan tới khả năng có thể gặp trên các chặng đường hành quân, bộ chỉ huy cho rằng, đường biển tuy nhanh hơn nhưng phiêu lưu, nguy hiểm; trong khi đó đường bộ dù dài xa hơn, phải khắc phục nhiều trở ngại dọc đường, tốc độ hành quân sẽ chậm nhưng đây là lối đảm bảo an toàn hơn. Trở ngại về địa hình có thể vượt qua bằng nhiều cách. Địch nếu phát hiện và chặn đánh thì ta nhanh chóng triển khai đội hình chiến đấu, đánh địch mà đi.

Trước đây, Ba Dương đã cùng đàn em chăn thả vịt trên đồng nước của các huyện Cần Giuộc. Cần Đước, Bình Phước (Chợ Lớn), Hòa Tân, Hòa Đồng, Hòa Lạc (Gò Công), Chợ Gạo (Mỹ Tho)... nên đường đất các huyện này ông từng quen, ông cũng từng kết bạn tâm giao với nhiều “võ hiệp giang hồ", với nhân dân địa phương. Đó là một thuận lợi. Rồi nữa, trên đường hướng tới Bến Tre, đoàn quân sẽ đi qua những làng mạc, thôn ấp của những đồng bào vốn có truyền thống cách mạng. Họ sẽ cưu mang, đùm bọc, chỉ lối đưa đường giúp bộ đội vượt qua mọi khó khăn dọc đường hành quân. Trên cơ sở yêu cầu nhiệm vụ được giao, đồng thời căn cứ vào ý định đã thống nhất với cấp trên, bộ chỉ huy quyết định xây dựng lực lượng hành quân đi Bến Tre gồm những cán bộ, chiến sĩ từng kinh qua thử thách trận mạc; số này được chọn lựa trong sáu đơn vị chiến đấu và ba ban là: tình báo, trinh sát, liên lạc. Mỗi đơn vị cử 4 đến 6 tiểu đội, mỗi ban cử hai tiểu đội. Cùng với 7 tiểu đội của bộ đội Cần Đước, toàn bộ lực lượng đi Bến Tre sẽ gồm 40 tiểu đội, tương đương 5 đại đội, tổng số trên dưới 500 người. Số quân còn lại của bộ đội Ba Dương sẽ chia thành hai bộ phận ở lại căn cứ. Bộ phận thứ nhất bao gồm bộ đội Mười Đen và 2/3 lực lượng của 6 đơn vị chiến đấu, sẽ chia quân bố trí trên khu vực rừng Giồng (nằm giữa lòng chảo Nhơn Trạch), do Đinh Văn Nhị chỉ huy. Bản doanh đặt tại sở cao su Nguyễn Văn Dưỡng cạnh miếu Bà Trường. Bộ phận thứ hai do Dương Văn Hà quản lãnh, sẽ khoanh vùng đóng quân dưới rừng Sác. Bộ phận này có binh công xưởng (đặt tại rạch Su, rạch Vàm Tượng), tàu kéo, ghe thuyền, trọng pháo, các ban ngành (tác chiến, liên lạc, trinh sát, tình báo, bệnh viện, quân nhu...) và đại đội vệ binh. Toàn bộ vũ khí, phương tiện chiến đấu cùng tài sản được soát xét, ghi vào văn bản, trao lại cho Dương Văn Hà chịu trách nhiệm bảo vệ.

Về vũ khí và trang bị cho lực lượng ra đi, bộ chỉ huy chỉ thị cho các đơn vị phải chọn lựa các loại súng tốt, đủ cơ số đạn quy định, không mang theo loại súng trường dài (của Pháp, Nhật, Nga) và tiểu liên Mỹ (Thomson) vì ít đạn. Tổng số vũ khí trang bị cho lực lượng ra đi là 3 khẩu trọng liên 13,2 ly (của bộ đội Chín Hiệp, bộ đội Thủ Thiêm và bộ đội Phú Xuân), hơn 10 khẩu trung liên, 20 khẩu tiểu liên Anh (sten), 250 súng trường và hai khẩu phóng lựu.

Toàn bộ lực lượng hành quân được đặt dưới quyền chỉ huy của một bộ chỉ huy do Dương Văn Dương làm chỉ huy trưởng, Trần Văn Đối chỉ huy phó và Từ Văn Ri tham mưu trưởng. Giúp việc cho bộ chỉ huy là một bộ phận gồm 15 cán bộ trưởng, phó ban tác chiến, liên lạc, trinh sát, tình báo, quân nhu và một bộ phận bảo vệ. Ở các đơn vị, Trần Văn Đối kiêm chỉ huy bộ đội Tân Thuận, Nguyễn Văn Soái chỉ huy bộ đội Phú Xuân, Quách Văn Phải chỉ huy bộ đội Tân Quy, Nguyễn Văn Hiệp chỉ huy bộ đội Chín Hiệp, Nguyễn Văn Huỳnh chỉ huy bộ đội Phú Nhuận, Nguyễn Văn Hoe chỉ huy bộ đội Thủ Thiêm và Nguyễn Văn Khoắn chỉ huy bộ đội Cần Đước.

Mặc dù có kinh qua một số trận chiến đấu nhưng kinh nghiệm hành quân đường dài, xuyên qua nhiều vùng địch chiếm, trên những khu vực địa hình phức tạp, phải tổ chức vượt sông, đánh địch mở đường, đảm bảo đủ lực lượng đến khu vực tập kết trước khi địch kịp đánh chiếm, quả là mới mẻ. Để hoàn thành nhiệm vụ trong điều kiện đó, bộ chỉ huy động viên cán bộ, chiến sĩ đoàn kết, khắc phục mọi trở ngại, giữ vững tốc độ hành quân, đảm bảo thời gian quy định. Suốt hành trình phải bí mật, cố tránh chạm trán với địch, trong tình huống hết sức cần thiết mới được nổ súng. Đồng thời, do điều kiện chiến đấu xa căn cứ, nguồn tiếp tế vũ khí đạn dược không có, đơn vị phải có kế hoạch và biện pháp giữ gìn, bảo quản và sử dụng tốt vũ khí, đạn dược bảo đảm cho cả lượt hành quân chiến đấu từ Bến Tre trở về căn cứ. Mọi cán bộ chiến sĩ, đặc biệt đối với các cán bộ tiền trạm, phải chấp hành nghiêm kỷ luật dân vận. Khi tiếp xúc với chính quyền, đoàn thể cách mạng (nếu ở đó vẫn là vùng độc lập) hoặc với quần chúng nhân dân ở vùng địch chiếm đóng phải luôn luôn chứng tỏ được mình là quân nhân của Chính phủ kháng chiến do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu, vì nhân dân mà chiến đấu. Mọi hành vi vô kỷ luật, làm tổn hại đến uy tín của bộ đội Bình Xuyên trong dân chúng đều phải bị nghiêm trị.


Tiêu đề: Re: Bộ đội Bình Xuyên
Gửi bởi: colorwind trong 15 Tháng Năm, 2008, 09:49:08 pm
Phương châm hành quân là "lai vô ảnh, khứ vô tung", ngày ém quân, đêm lên đường. Công tác tìm chọn nơi trú quân tổ chức cho bộ đội nghỉ ngơi và sẵn sàng chiến đấu phải xong trước 4 giờ sáng mỗi ngày.

Trong khi các đơn vị, ban ngành bộ phận đang khẩn trương chuẩn bị cho ngày lên đường, tết cũng gần kề. Ngày 26 tháng 12 âm lịch, bộ chỉ huy quyết định lệnh cho các đơn vị tập kết lực lượng về xóm Nhà Tròn xã An Thới Đông. Ngày 27 các đơn vị đã tập trung đông đủ. Thuyền ghe san sát trên các sông rạch. Tại đây, bộ đội được tổ chức ăn Tết Nguyên Đán trước 2 ngày. Trong khi mọi người đang vui tết sớm giữa lòng chiến khu rừng Sác, tại ngôi nhà ba gian một chái, mái lợp lá dừa của một lão nông, cuộc họp cán bộ chỉ huy các đơn vị, ban ngành được triệu tập.

Thông báo về tình hình địch, thay mặt bộ chỉ huy, tham mưu trường Từ Văn Ri cho biết: theo nguồn tin của tình báo quân sự và của các cơ sở trong vùng địch chiếm, trong hai tháng qua, dọc theo hành lang mà bộ đội sắp đi qua, địch đã thiết lập được bộ máy kiểm soát của chúng. Tại những nơi đó bọn tề điệp ngóc dậy ráo riết hoạt động. Ở các khu vực dân cư đông đúc (thị xã, thị trấn, dọc các đường giao thông quan trọng), chúng đều xây dựng chốt canh, bót gác. Bên tây sông Soài Rạp, hệ thống phòng ngự của chúng dày đặc gồm hàng rào, đồn bót trên bộ và tàu chiến, ca nô rình rập trên sông.

Hội nghị thảo luận sôi nổi những vấn đề cụ thể: chọn bến vượt ở đoạn sông nào, ngày giờ bắt đầu, đội hình qua song, hoả lực yểm trợ, hướng hành quân sau khi đã sang bờ, địa điểm trú quân trước khi trời sáng. Và cuối cùng bộ chỉ huy quyết định:

1. Quãng sông Soài Rạp chảy ngang qua xóm Rạch Rào (xã Lý Nhơn), nơi có con rạch Rào Lớn ăn thông, sẽ là bến vượt. Bởi vì bờ bên kia, cây chưa bị đốn hết, có thể lợi dụng làm vật che khuất. Vả lại có căn cứ thuỷ bộ Rạch Cốc án ngữ nên đồn bót địch nơi ấy không dày, địch canh phòng không chặt.

2. Nơi tập kết lực lượng chuẩn bị vượt sông: xóm Rạch Rào (phía đông dòng Soài Rạp) kẹp giữa cửa sông Vàm Sát (phía bắc) và xóm Đồng Tròn (phía nam), bên kia bờ Soài Rạp là xã Tân Tập huyện Cần Giuộc.

3. Thời điểm vượt: 22 giờ đêm 30 tết (tức ngày 2 tháng 2 năm 1946 dương lịch ).

4. Sau khi sang được bên bờ tây sông Soài Rạp, lợi dụng bóng khuất của bờ đất và cây cối, nhanh chóng di chuyển về phía nam, tới cách căn cứ Rạch Cốc gần 500 mét thì rẽ vào cửa sông Rạch Cát. Theo dòng sông Rạch Cát đi độ 10 km tới ngã ba sông - Rạch Cát và Rạch Cần Đước - Tại đây sẽ có bộ phận tiền trạm dẫn đến nơi tập kết. Đoàn ghe phải nhanh chóng và bí mật trở về.

5. Hoả lực yểm trợ vượt sông: ba phân đội thuộc bộ đội Phú Xuân, bộ đội Chín Hiệp và bộ đội vệ binh đảm trách (bộ phận được bố trí ở lại rừng Sác).

6. Ban trinh sát và ban tình báo tiếp tục nắm chắc tình hình, đặc biệt khu vực vượt sông, hai bên dòng Rạch Cát. Nếu phát hiện địch phục kích phải kịp thời báo về cho ban chỉ huy theo ám hiệu quy định.

7. Tại nơi tập kết vượt sông và suốt quá trình đến nơi trú ém lực lượng, mọi cán bộ chiến sĩ phải tuyệt đối giữ nghiêm kỷ luật hành quân, im lặng, không được hút thuốc.

8. Toàn bộ lực lượng vượt sông có mặt tại địa điểm tập kết lúc 20 giờ đêm 30 tết.

Kết thúc cuộc họp, mọi người cùng dự bữa cơm tất niên. Năm cũ sắp qua, năm mới sắp đến với bao nhiêu thử thách đang chờ đợi. Ai cũng thầm mong mọi việc tiến hành suôn sẻ.

Sắp tới thời điểm đưa quân qua sông, bộ chỉ huy nhận được cấp báo: suốt ngày 30 tết (tức 2-2-1946) tàu chiến. Ca nô võ trang, xà lúp chở lính tăng cường độ hoạt động trên dòng Soài Rạp. Chưa có gì chứng tỏ đêm nay địch sẽ giảm hoạt động.


Tiêu đề: Re: Bộ đội Bình Xuyên
Gửi bởi: colorwind trong 15 Tháng Năm, 2008, 09:53:12 pm
Cũng có thể là sự phản ứng bình thường của địch trong thời điểm dễ bị đối phương lợi dụng. Nhưng đảm bảo tuyệt đối bí mật, bộ chỉ huy quyết định không vượt sông theo ngày giờ đã quy định.

Gần đúng như dự đoán của ta, đêm mùng 2 tháng 2, địch cho tàu chiến, ca nô tắt máy, rình mò phục kích ở một số địa điểm bờ đông sông Soài Rạp. Hôm sau nữa, 4 tháng 2, từ 8 giờ sáng, trên sông lần lượt xuất hiện các đoàn công voa chở lương thực, thực phẩm về Sài Gòn. Đến 13 giờ chiều hôm đó hoạt động trên sông của địch giảm hẳn.

Theo dõi chặt chẽ hoạt động của địch, bộ chỉ huy quyết định: tổ chức cho bộ đội vượt sông vào lúc 22 giờ ngày 5 tháng 2 năm 1946 (tức ngày 3 tháng giêng âm lịch). Các đơn vị khẩn trương tập kết về địa điểm quy định. Bộ phận phụ trách hoả lực yểm trợ dàn xong đội hình chiến đấu. Phân đội của bộ đội Phú Xuân được tăng cường 1 tiểu đội trọng liên 13.2 ly bố trí trận địa trên doi đất cửa sông Vàm Sát đổ ra sông Soài Rạp, cách cửa Rạch Rào gần 2 km về phía bắc. Phân đội của bộ đội Chín Hiệp được trang bị súng trường và trọng liên 13,2 ly xây dựng trận địa trong những lùm bụi của xóm Đồng Tròn (xã Lý Nhơn), cách bến vượt 3 km về phía nam. Phân đội của đại đội vệ binh được tăng cường 1 tiểu đội trọng liên 13.2 ly bí mật bố trí lực lượng trong những công sự vững chắc trên bờ đối diện với căn cứ liên hợp Rạch Cốc.

22 giờ, từ trận địa chuẩn bị sẵn, lực lượng yểm trợ đồng loạt bắn vào các tàu thuyền, ca nô trên sông Soài Rạp và sử dụng hoả lực bắn thẳng đánh sang căn cứ Rạch Cốc phía bên kia bờ.

Lập tức, ghe thuyền ta nhanh chóng vượt sông, đưa toàn bộ lực lượng tới bờ tây một cách an toàn.

Tất cả các bước tiếp theo đều tiến hành đúng như dự định. Trước khi trời hửng sáng, toàn bộ lực lượng ta đã có mặt tại xã Tân Lân, huyện Cần Đước.

Cần Đước, một huyện cách trung tâm thành phố Sài Gòn khoảng 20 km đường chim bay ở mạn tây nam, là nơi có truyền thống đấu tranh kiên cường, bất khuất. Tháng 11 năm 1945, toàn huyện rơi vào tay địch. Giờ đây, Cần Đước đã là vùng địch hậu. Tân Lân - một xã nằm sát huyện lỵ, cách trung tâm thị trấn hơn 1 km về phía đông bắc lại là một nơi ba bề bốn bên đều xáp mặt với bót đồn và tàu chiến địch. Bởi lẽ bao quanh nó là các đường giao thông thuỷ bộ có tầm quan trọng trong vùng. Trên đường 226 - từ thị trấn Rạch Kiến tới bờ Soài Rạp - chạy ngang qua phía bắc Tân Tập, cách hơn 1 km là 1 tháp canh. Phía nam Tân Tập là hạ lưu của hai dòng Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây có chiều rộng 900 m. Trên đoạn sông này, ngày đêm tàu thuyền địch thường tuần tra, kiểm soát sông Rạch Cát và con kinh Nước Mặn chạy qua phía đông, tạo thành địa giới giữa Tân Lân và huyện Cần Giuộc. Nơi đây ít khi vắng bóng chiến thuyền địch tuần tiễu. Dọc theo địa giới phía tây tây nam là liên tỉnh lộ 5A - con đường chiến lược của vùng ven biển phía nam Sài Gòn với huyện lỵ Cần Giuộc, Cần Đước. Suốt chiều dài hơn 40 km đó, tháp canh và đồn bót địch dăng dài.

Ngoài ra, quanh các xóm ấp của Tân Lân, một số tháp canh được địch dựng lên nhằm kiểm soát, theo dõi tình hình.

Đơn thuần về quân sự, đây không phải là chỗ an toàn để ém dấu quân. Nhưng để ém dấu quân an toàn, điều trước hết mà bộ chỉ huy hành quân tính đến lại là lòng dân nơi đó. Mảnh đất này thuở trước từng là nơi diễn ra cuộc chiến đấu của nghĩa quân Trương Định, từng là nơi, bao nhiêu người nông dân suốt một đời cắm cúi làm ăn, đã đổ máu để giành giữ khỏi sự đoạt cướp của bọn cường hào địa chủ, bọn đế quốc thực dân. Đây cũng là nơi sản sinh và đùm bọc bộ đội Cần Đước, một bộ phận đang đứng trong đội ngũ Bình Xuyên. Từng lặn lội làm ăn trên đồng đất vùng này. Dương Văn Dương cùng nhiều đồng chí của ông khá thông thuộc đường qua lối lại cũng như tâm tính của người dân Tân Lân nói riêng và Cần Đước nói chung. Với lại, đồn trú ở đây là binh lính Việt nên việc tuần phòng, canh gác dễ bề chểnh mảng trong khung cảnh ngày Tết cổ truyền.
 


Tiêu đề: Re: Bộ đội Bình Xuyên
Gửi bởi: colorwind trong 15 Tháng Năm, 2008, 10:21:05 pm
Xuất phát từ nhận định trên, Bộ chỉ huy quyết định chọn Tân Lân làm chỗ trú quân sau đêm vượt sông Soài Rạp. Bộ đội được bố trí trong một số xóm ấp liền nhau. Sở chỉ huy đặt tại ngôi nhà ba gian hai chái của ông Bộ Cơ ở ấp Bình Hoà - một ấp hẻo lánh phía đông nam của xã. 8 giờ sáng ngày 6 tháng 2 năm 1946, tại sở chỉ huy dã chiến hộ chỉ huy tiến hành hội ý với chỉ huy các đơn vị.

Sau khi sơ bộ nhận xét về tình hình địch và kết quả thực hiện nhiệm vụ ngày đầu, tham mưu trưởng Từ Văn Ri thay mặt bộ chỉ huy phổ biến quyết định: trước khi tiếp tục hành quân sẽ đồng loạt tấn công các bót đồn của địch trong một đêm, ngay giữa vùng địch chiếm, nhằm tiêu hao, tiêu diệt một phần sinh lực địch, hạ uy thế của chúng, đáp ứng lòng mong mỏi của nhân dân. Sau khi tập kích chớp nhoáng, do không thể quay về ém quân ở Tân Lân được nữa, nên cần lập tức tổ chức cho bộ đội tới nơi tập kết mới.

Quãng đường hành quân dài, thời gian cập rập, bộ đội lại vừa chiến đấu xong, do vậy, bộ chỉ huy nhắc nhở các cán bộ chỉ huy chuẩn bị chu đáo cho bộ đội, nhất là về tinh thần, tâm lý để đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ.

Căn cứ vào tư liệu điều tra thực địa của các ban trinh sát, tình báo, tác chiến, bộ chỉ huy chia các mục tiêu thành 6 cụm:

1. Hai trung đội địch đóng trong hai đồn ở khu vực ngã ba liên tỉnh lộ 5A và tỉnh lộ 18 cách huyện lỵ Cần Giuộc 500 mét về phía tây nam (ấp Hoà Thuận xã Trường Bình).

2. Hai trung đội địch (trong đó có một trung đội lính Pháp) đóng ở phía bắc thị trấn Rạch Kiến (thuộc xã Long Hoà) cách huyện lỵ Cần Đước 9 km về phía bắc.

3. Một trung đội lính ngụy đóng cạnh chợ Trạm - cách thị trấn Cần Đước 5 km về phía đông bắc.

4. Một trung đội ngụy (do viên đội Pháp chỉ huy) đóng ở chợ Cũ (xóm Đái, xã Tân Trạch, huyện Cần Đước), cạnh bờ sông Vàm Cỏ, cách lộ 225 khoảng 1 km về phía đông nam.

5. Khoảng một đại đội ngụy (do tên trung uý Pháp chỉ huy) đóng ở bờ nam rạch Bến Ba - nơi uốn khúc hình chữ U của rạch, và rìa phía nam thị trấn Cần Đước.

6. Một trung đội địch đóng ở cầu Tràm (thuộc xóm Rạch Chùa, xã Long Trạch) cách huyện lỵ Cần Giuộc 9 km về phía tây bấc.

Về sử dụng lực lượng, bộ chỉ huy quyết định:

1. Bộ đội Phú Xuân được phối thuộc 3 tiểu đội của bộ đội Tân Quy, do Hai Soái chỉ huy sẽ tiến công mục tiêu 1 .

2. Bộ đội Chín Hiệp tiến công mục tiêu 2.

3.  Bộ đội Thủ Thiêm do Tám Hoe chỉ huy, tiến công mục tiêu 3.

4. Lực lượng còn lại của bộ đội Tân Quy được tăng cường thêm hai tiểu đội  (1 tiểu đội trọng liên) do Chín Phải chỉ huy, tiến công mục tiêu 4.

5.  Bộ đội Cần Được do Năm Khoắn chỉ huy, tiến công đồn địch ở rìa phía nam thị trấn Cần Đước. Bộ đội Tân Thuận do Hai Giàu chỉ huy, từ bờ bắc, dùng hoả lực trung liên Mác xim đánh đồn bờ nam rạch Bến Ba.

6.  Bộ đội Phú Xuân – Thị Nghè do Tư Huỳnh chỉ huy, sẽ tập kích mục tiêu 6, đồng thời gây tiếng động và đám cháy nhằm hỗ trợ cho các đơn vị bạn.

Để giúp các bộ phận lực lượng trên đây đến đúng vị trí xuất phát tiến công, mỗi ban chỉ huy sẽ được tăng cường hai liên lạc người địa phương, hai trinh sát và một cán bộ tác chiến.  Bộ chỉ huy bố trí chỉ huy sở ngay trên khu vực trận địa của bộ đội Chín Hiệp. Tại đây hiệu lệnh tiến công sẽ được phát ra.


Tiêu đề: Re: Bộ đội Bình Xuyên
Gửi bởi: colorwind trong 15 Tháng Năm, 2008, 10:25:56 pm
Trời khuya, mọi vật chìm im trong bóng tối. Không gian lặng ngắt, chỉ nghe tiếng côn trùng xao xác, thỉnh thoảng có tiếng nổ vu vơ. Phía Sài Gòn hừng lên một quầng sáng nhạt. 

Bộ đội lặng lẽ hành quân tiếp cận mục tiêu. 22 giờ 30 phút, một loạt trọng liên 13,2 ly vang lên từ phía bắc thị trấn Rạch Kiến, xé tan bầu không khí tĩnh mịch. Hiệu lệnh nổ súng tiến công đã điểm.

Lập tức, ở các khu vực được phân công, bộ đội ta đồng loạt nổ súng, đánh trúng mục tiêu quy định.

Bị tấn công bất ngờ, địch bàng hoàng, chống trả yếu ớt. Ở cụm mục tiêu 1, quân ta đánh thiệt hại nặng lực lượng tại chỗ và lực lượng ứng cứu của địch từ thị trấn Cần Giuộc kéo ra. Trong khi chỉ huy bộ đội xung phong, Tám Mao, chỉ huy phó trận đánh bị trúng đạn. Anh ngã xuống trên mảnh đất quê hương. Tại cụm mục tiêu 5, ngay từ những loạt đạn đầu, ta đã tiêu diệt và làm bị thương một số tên, khiến những tên sống sót phải nhảy xuống rạch Bến Ba ẩn nấp. Dãy nhà binh lính và khu chứa nhiên liệu ở Cầu Tràm bốc cháy, lửa rực một góc trời. Quân địch trong các đồn bót ở thị trấn Rạch Kiến, chợ Trạm, chợ Cũ cũng bị đánh thiệt hại nặng. Theo báo cáo của cơ sở, số địch bị chết ở chợ Trạm, chợ Cũ và thị trấn Rạch Kiến là gần 100, số bị thương khoảng 40 tên.

Kết thúc cuộc tấn công, các mục tiêu đề ra đã được thực hiện. Ta loại khỏi vòng chiến đấu một số đáng kể sinh lực địch, đánh sập và phá hỏng nhiều đồn bót của chúng. Thắng lợi đó là một đòn giáng vào những nỗ lực bình định của địch, tạo nên tiếng vang rộng rãi trong dư luận ở vùng phụ cận. Lòng tin yêu của quần chúng nhân dân vào quân đội cách mạng thêm một lần được củng cố. Nỗi canh cánh mà cán bộ chiến sĩ Bình Xuyên từng đeo đẳng sau những trận chiến đấu không thành trong nội ô thành phố, ở Gò Công, ở thị xã Biên Hoà vừa qua bây giờ cơ chừng nhẹ bớt.

Với niềm vui thắng trận, bốn bộ phận đánh các cụm mục tiêu chợ Trạm, Rạch Kiến, chợ Cũ và thị trấn Cần Đước vừa hoàn thành nhiệm vụ đi khẩn trương cơ động lực lượng về xóm Mường Ban (xã Tân Chánh), cách thị trấn Cần Đước hơn 3 km về phía nam. Hai bộ phận đánh vào các cụm mục tiêu ở Cầu Tràm và thị trấn Cần Giuộc sau khi hoàn thành nhiệm vụ cũng nhanh chóng men theo dòng Vàm Cỏ, kịp nhập với đoàn quân tới xóm Mường Ban. Bấy giờ đã quá nửa đêm. Bóng tối phủ trùm mọi vật. Ghe thuyền do bộ phận tiền trạm chuẩn bị đã chờ sẵn dưới con rạch Phong Lưu. Các bộ phận khẩn trương xuống bến theo sự phân công của cán bộ tiềm trạm. Đoàn ghe thuyền nối nhau rời bến đậu xuôi theo con nước đưa đoàn quân tới mặt sông Vàm Cỏ rẽ vào sông Tra. Ngược xuống phía nam, quặt vào chi lưu sông Tra, đoàn ghe thuyền đã đưa đoàn quân cặp bờ sông Rạch Kiến. Từ đây, đoàn quân hành quân bộ xuyên dọc các ấp Đồng Thới. Đồng Bình, Đồng Trinh, Hoà Long, thuộc xã Đông Sơn quận Hoà Đồng, tỉnh Gò Công; rồi theo hướng tây nam tiến vào địa bàn huyện Chợ Gạo của tỉnh Mỹ Tho. Các đơn vị nhanh chóng theo sự hướng dẫn của liên lạc và cán bộ tiền trạm về chỗ trú quân dọc đôi bờ Rạch Kiến. Toàn bộ lực lượng được bố trí trong những ngôi nhà ẩn mình dưới tán lá của cây rừng ngập mặn thuộc ba ấp Bình Ninh, Bình Quới, Bình Trị, xã Bình Phục Nhứt, huyện Chợ Gạo, cách huyện lỵ chừng 12 km. Ở đây có thể nghe rõ tiếng động cơ ca nô xuôi ngược trên dòng kinh Chợ Gạo, tiếng ầm  của các loại xe máy trên liên tỉnh lộ 21 và 24. Bốn phía khu vực trú quân xa gần đều có đồn bót và cứ điểm địch dọc tỉnh lộ 21, trên tỉnh lộ 24 và ở huyện lỵ Bình Phước.

Dù vậy, được nhân dân và giới giang hồ địa phương do ông Tư Phương - bạn cũ của Dương Văn Dương - đứng đầu hết lòng giúp đỡ, đoàn quân vẫn giữ kín được hình tích của mình, không bị địch phát hiện.

Đêm xuống, đoàn quân lại lặng lẽ lên đường tới xã Bình Ninh còn được gọi là Hoà Ninh thuộc huyện Chợ Gạo cách nơi tập kết cũ hơn 10 km về phía nam. Nơi đây, bần, mắm, sú vẹt, dừa nước ken dày, tạo thành dải rừng ngập mặn phủ kín đôi bờ kinh Gò Công - con kinh tạo thành địa giới phía đông của xã Hoà Ninh và Vĩnh Hựu. Bộ đội trú quân trong nhà dân, thuộc bốn ấp Hoà Phú 1 , Hoà Phú 2, Hoà Mỹ 1 và Hoà Mỹ 2, theo đội hình có thể nhanh chóng triển khai chiến đấu.

Tin bộ đội tập kết ở Bình Ninh bị một số tên tay sai phản động địa phương báo với chỉ huy quân sự của địch ở thị trấn Chợ Gạo. Lập tức, một đại đội bộ binh do trung úy Pháp chỉ huy được điều động tới khu vực xã Bình Ninh nhằm bao vây truy diệt lực lượng ta, trừng phạt nhân dân vùng sở tại.

Rạng sáng ngày 8 tháng 2 năm 1946 từ mạn tây bắc hướng huyện Chợ Gạo có tiếng động cơ vọng lại. Tiếng động cơ rõ dần. Được nhân dân cho biết đó là cơ giới của địch đang tiến đến, bộ chỉ huy phát lệnh báo động.



Tiêu đề: Re: Bộ đội Bình Xuyên
Gửi bởi: colorwind trong 15 Tháng Năm, 2008, 11:09:18 pm
Qua ống nhòm, ta quan sát thấy đoàn xe địch gồm 6 chiếc đang trên đường tiến tới. Đi đầu là xe thiết giáp mở đường, lăn bánh theo sau là 5 xe chở đầy lính. Tới gần Hoà Ninh, địch đổ quân thành hai cánh cùng tiến. Cánh thứ nhất khoảng 2 trung đội, lợi dụng ruộng khô, cắt đường vượt xóm Giồng ông Tân (phía tây Hoà Ninh) và khi đến ngang ấp Hòa Mỹ 1 , chúng đột ngột ngoặt sang bên trái. Từ đội hình hàng dọc, chúng chuyển sang đội hình hàng ngang tiến vào khu vực bố trí trận địa của bộ đội Phú Xuân. Trong khi đó, cánh thứ hai khoảng 1 trung đội lính Việt do 1 hạ sĩ quan Pháp chỉ huy, tiến vào ấp Hoà Mỹ 2.

Yểm trợ cho hai cánh quân, địch tập trung hoả lực bắn dọn đường. Đạn cối 81 rơi phía sau trận địa của ta. Đại liên địch đặt ở bãi đổ quân chĩa nòng quét từng loạt vào khu vực bên sườn đội hình tiến công của chúng.

Khi gần sát vào rìa ấp, các khẩu trọng liên của hai cánh thay nhau nhả đạn hòng chế áp đối phương. Phía trong ấp vẫn không động tĩnh.
Sau nhưng gốc cây, các lùm bụi, các mô đất và dưới các mương dừa..., bộ đội ta hồi hộp chờ hiệu lệnh.

Khi địch đã vào tầm bắn có hiệu lực, các cỡ súng của ta bất thần nhả đạn, quất thẳng vào đội hình tiến quân của địch. Đồng thời, ta dùng hoả lực đánh vào bãi đậu xe, sở chỉ huy của chúng.

Với đòn đánh vỗ mặt bất ngờ, ta đã loại khỏi vòng chiến đấu cả hai cánh quân, đánh thiệt hại nặng trận địa cối 81 ly và đại liên cùng đoàn xe chở quân của chúng, bắt sống 33 tên, trong đó có 30 tên bị thương.

Trận địa còn khét mùi thuốc súng, nhiều bà con, cô bác đã ra chiến hào tiếp tế cho bộ đội. Một số bà con hối hả cất dấu của cải, tiếp tục gồng gánh tản cư.

Xế chiều, khoảng 13 giờ 30 phút, lại có tiếng động cơ từ xa vọng tới. Hai giờ, địch đã tới khu vực phía bắc cầu Rạch Trâu. Từ các lùm bụi, địch dùng hoả lực đánh vào khu vực bố trí trận địa của ta. Đồng thời, bộ binh chia làm ba cánh, mỗi cánh cách nhau khoảng 300 mét; bắt đầu tiên công theo con đường ban sáng nhưng chếch về phía tây. Hai cánh vòng xuống hai ấp Hoà Mỹ 1, Hoà Phú 2 ở phía nam rồi ngoặt trái về phía đông. Cánh thứ nhất khoảng 2 trung đội tấn công vào trận địa của ta ở Hoà Mỹ 1. Cánh thứ hai khoảng 1 trung đội tấn công vào ấp Hoà Phú 2. Trong khi đó cánh quân thứ ba khoảng 1 trung đội vòng theo hướng tây bắc địch tập kích vào sườn đội hình quân ta. Khi hai cánh vào cách tiền duyên trận địa bố trí sẵn của ta chừng 200 mét, địch bắt đầu sử dụng hoả lực yểm trợ tấn công. Cối 81 ly, 60 ly và đại liên của chúng đánh vào cả ba ấp, sát trận địa của ta.

Chờ chúng cách tiền duyên chừng 60 mét, ta nổ súng đánh vào đội hình tiến công của cả hai cánh quân, vào trận địa súng cối 60 ly, ghìm địch lại. Trong khi chúng đang lúng túng chống đỡ thì hai tiểu đội của bộ đội Hai Soái xuất kích, dùng lựu đạn đánh thẳng vào đội hình cánh thứ nhất, tiêu diệt nhiều tên, trong đó có tên đại uý chỉ huy cuộc tấn công và một số phụ tá. Những tên sống sót quay đầu bỏ chạy. Cánh thứ hai cũng phải tháo lui, bỏ lại một số xác chết và một số tên bị thương đang la hét. Tại trận địa ta ở khu vực ngã ba phía tây bắc Hoà Mỹ 2, mũi tiến công thứ 3 của địch bị chặn đánh quyết liệt.

Cùng lúc, hai tiểu đội của bộ đội Phú Nhuận - Thị Nghè do Tư Huỳnh phụ trách từ phía bắc ấp Hoà Mỹ 1 nhanh chóng cơ động lực lượng về phía tây đánh vào sườn đội hình.

Bị tấn công bất ngờ, đội hình địch lập tức rối loạn. Nhận thấy địch đã núng thế và tỏ ra hoang mang, chớp thời cơ bộ đội ta bung ra truy kích. Hơn hai tiểu đội địch bị loại khỏi vòng chiến đấu.

Chiều xuống, khắp thôn ấp ngưng tiếng súng. Suốt một ngày chiến đấu, bộ đội Bình Xuyên đã đánh bại hai cuộc tấn công của địch ngay trong vùng kiểm soát của chúng tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng hai đơn vị chủ lực cơ động với quân số gần 1 tiểu đoàn (trong đó 1 trung đội lê dương, 1 đại uý 1 trung uý và 1 thiếu uý người Pháp), thu nhiều vũ khí súng đạn.

Chiến thắng Hoà Ninh một lần nữa kích thích lòng hăng hái của cán bộ, chiến sĩ Bình Xuyên trên con đường tiếp bước xuống miền Tây.

Tuy nhiên, các sự kiện liên tiếp kể trên đã làm cho đội hình hành quân không còn giữ được bí mật nữa. Trước mắt là ba con sông rộng, tàu chiến địch tuần tra ngày đêm. Bên phải (đông bắc) là huyện lỵ Vĩnh Bình (Gò Công), bên trái (tây bắc) là huyện lỵ Chợ Gạo (Mỹ Tho) - cả hai nơi đều có lực lượng địch chiếm đóng và hệ thống đồn bót của chúng án ngữ.


Tiêu đề: Re: Bộ đội Bình Xuyên
Gửi bởi: colorwind trong 15 Tháng Năm, 2008, 11:15:21 pm
16 giờ chiều tại Hoà Ninh, khi tiếng súng vừa ngớt, bộ chỉ huy đã họp bàn về khu vực tập kết tối hôm đó với Ba Đạt (cầm đầu nhóm người tâm phúc của ông Tư Phương đi theo giúp đỡ bộ đội Bình Xuyên) và các trưởng ban liên lạc, trinh sát, tình báo, quân nhu. Nhiều phán đoán, nhiều nhận định về âm mưu và phản ứng của địch; về điều kiện địa hình các khu vực dự định trú quân, về phương tiện vượt sông... được đưa ra thảo luận. Theo ý kiến Ba Đạt, quy chế của địch là chính quyền, binh lính và cảnh sát của địa phương nào chỉ được phép thực thi quyền hạn trong khu vực hành chính của địa phương đó. Đây là kẽ hở ta có thể lợi dụng. Ví như nay đang ở Mỹ Tho nếu ta đưa quân sang một vùng nào của Gò Công hoặc Bến Tre thì chỉ huy quân sự tỉnh Mỹ Tho phải được lệnh của cấp trên về quân sự của cả ba tỉnh cho phép mới dám đưa quân ra ngoài địa giới tỉnh để truy lùng. Mọi người trong cuộc họp chú ý chi tiết này. Thấy vậy Ba Đạt mạnh dạn trình bày tỉ mỉ kế hoạch đưa bộ đội qua ba con sông bằng hai giai đoạn trong vòng hai đêm. Phương án được chấp thuận.

Trời ụp tối, từ vị trí chiến đấu, các bộ đội nhanh chóng vận động về phía nam ấp Hoà Phú 2, tập kết tại bờ bắc, lần lượt xuồng ghe thuyền, vượt sang bờ nam sông Cửa Tiểu.

Bên kia bờ đã là Tân Thới, một trong hai làng trên cù lao Lợi Quan (hay còn gọi là cù lao Tân Thới )[10] thuộc tổng Hoà Đồng Hạ, huyện Hoà Bình, tỉnh Gò Công. Phủ xanh cù lao là đước, dà hôi, bần sú, dừa nước - loài cây ưa mặn. Rời ghe thuyền, nhắm hướng tây bắc - đông nam, đoàn quân mải miết đi, bốn bề yên tĩnh. Vượt qua quãng đường chừng hơn 10 km, bộ đội được lệnh dừng chân, tạm trú trong nhà những người nông dân. Đây là xóm nghèo, hẻo lánh, thưa thớt dân cư đất đai phần nhiều còn hoang hoá . Trên cù lao, bộ máy tề ngụy vừa mới lập. Bọn làng lính còn mặc cảm, ngán sợ chưa dám với xuống vùng này. Bộ đội ta an toàn nghỉ qua đêm và cả hôm sau, ngày 9 tháng 2 năm 1946. Nhưng sáng hôm đó ở Hoà Ninh, một lực lượng khá đông quân địch kéo tới dè dặt tiến vào làng. Vồ hụt quân ta, địch doạ dẫm đe nẹt dân chúng địa phương. Bà con đã khéo léo đối thoại, không để địch biết được hướng di chuyển của bộ đội. Địch rút khỏi, bà con bí mật cho bộ đội mượn ghe cửa - loại ghe lớn vượt sông khi sóng to - và cả người chèo lái.

Đêm 9 tháng 2 năm 1946, từ các ấp Tân Định, Tân Thạnh, Tân An xã Tân Thới, bộ đội ta men theo đường rừng vòng lại bến con sông Cửa Đại Nhỏ. Đoàn ghe cửa lẹ làng rẽ nước đưa nhanh quân qua sông Cửa Đại Nhỏ, tiếp đến sông Cửa Đại Lớn. Với sự giúp đỡ của bè bạn ông Tư Phương và du kích hai ấp Vĩnh Hội, Vĩnh Huê, làng Vang Quới, bộ đội ta nhằm hướng đông nam, vượt tỉnh lộ 17, tới đóng ở các ấp Kiến Vàng, ấp Ao Vuông... phía nam và tây bắc xã Tân Phú Trung, một xã thuộc cù lao Bình Đại, tỉnh Bến Tre.

Sáng hôm sau, ngày 10 tháng 2 năm 1946, bộ chỉ huy nhận được tin báo trận địa phía nam cầu Ba Lai và mặt trận An Hoá - Gia Hoà đã vỡ. Thị xã Bến Tre đã bị địch chiếm ngày 7 tháng 2 năm 1946. Huyện lỵ Giồng Trôm cũng đã rơi vào tay giặc.

Đêm 10 tháng 2, quân ta lại lên đường. Vượt sông Ba Lai, bộ đội tới đóng ở các xóm xen kẽ giữa những đám rừng thưa Châu Phú huyện Giồng Trôm. Đang mùa khô, đất se cứng, việc đi lại của bộ đội dễ dàng.

Trong khi đó, ở Bến Tre, địch triển khai lập hệ thống đồn bót, tổ chức tuần tra, canh gác trong nội đô và xung quanh thị xã, tập trung lực lượng mạnh gồm bộ binh và tàu chiến đánh chiếm và kiểm soát các trục lộ quan trọng 17, 26, 27, 6... nhằm mở đường tiến chiếm các huyện lỵ còn lại trong tỉnh như Hàm Long, Hương Mỹ, Ba Tri, Mỏ Cày, Thạnh Phú... Do vậy, công cuộc "bình định" còn lại buông lơi hoặc chưa được triển khai thực hiện ở các vùng nông thôn Bến Tre. Khu vực mà bộ đội Bình Xuyên bấy giờ đang trú đóng vẫn còn là vùng độc lập. Tại đây, bộ đội ta đỡ căng thẳng hơn. Những ngày ở Châu Phú, bộ chỉ huy được tin, lực lượng võ trang của Mỹ Tho, Gò Công và Bến Tre đã sát hợp thành Giải phóng quân liên tỉnh Mỹ Tho - Gò Công - Bến Tre về mặt tổ chức. Trên thực tế, ba bộ phận hợp thành này vẫn hoạt động tương đối độc lập dưới các tên gọi: bộ đội Gò Công, bộ đội Mỹ Tho, bộ đội Trương Văn Giàu - tức bộ đội Bến Tre... Đại diện các bộ phận đó đã có một số cuộc tiếp xúc với bộ chỉ huy bộ đội Bình Xuyên nhằm bàn bạc một số vấn đề về tổ chức lực lượng xây dựng địa bàn đứng chân của đơn vị mình trong tình hình mới. Những người dự họp đã thảo luận và thống nhất rằng, giờ đây, địch đã chiếm đóng hầu hết các tỉnh lỵ, huyện lỵ, các khu vực đông dân cư; đã kiểm soát các trục lộ giao thông thuỷ bộ huyết mạch trên địa bàn ba tỉnh Mỹ Tho, Gò Công, Bến Tre. Việc lực lượng võ trang ta trụ bám và chiến đấu trên một địa hình bị chia cắt mạnh bởi trăm ngàn rạch kinh chằng chịt thì việc xây dựng các căn cứ kháng chiến lâu dài là điều kiện khó khăn, phức tạp. Dọc theo các huyện ven biển như Bình Đại, Ba Tri..., hoặc vẫn còn dăm ba cánh rừng ngập mặn có thể dựa vào để lập các bàn đạp, các căn cứ nhỏ cho một lực lượng cỡ đại đội trú ém ngắn ngày mà thôi, còn không hội đủ điều kiện cho các đơn vị võ trang tập trung hoạt động lâu dài. Đại diện các bộ đội Gò Công, Mỹ Tho, Trương Văn Giàu đề nghị cùng với bộ đội Bình Xuyên chuyển về rừng Sác miền Đông, chung sức đánh giặc. Sáng sớm ngày 14 tháng 1 năm 1946, một đoàn công voa của địch gồm 10 ghe chất nặng các hàng hoá quân sự theo sông Bến Tre, rẽ vào kinh Chẹt Sậy. Theo nguồn tin trinh sát đoàn công voa được hai tàu kéo (một tàu kéo 5 ghe, mỗi ghe trọng tải từ 2 đến 3 tấn), lực lượng hộ tống gồm hai trung đội Âu Phi và hai ca nô võ trang làm nhiệm vụ trinh sát mở đường. Đoàn công voa sẽ vào sông Ba Lai để xuôi ra biển. Căn cứ vào độ đường sông nước và tốc độ đoàn công voa, bộ phận trinh sát nhận định, khoảng 13, 14 giờ chiều, địch sẽ ngang qua khu vực mà quân ta đang trú đóng.

10. Nằm kẹp giữa cửa sông Cửa Tiểu (bắc) cửa sông Cửa Đại Nhỏ (nam), cù lao có chiều rộng trung bình 4 km chiều dài 37 km.


Tiêu đề: Re: Bộ đội Bình Xuyên
Gửi bởi: colorwind trong 15 Tháng Năm, 2008, 11:35:05 pm
Bộ chỉ huy quyết định tổ chức phục kích đánh đoàn tàu chở hàng nhằm tiêu diệt một bộ phận địch, củng cố lòng tin của nhân dân, hỗ trợ cho chính quyền, đoàn thể địa phương, góp phần giải quyết một phần khó khăn về lương thực, thực phẩm của nhân dân và bộ đội. Trận địa đón địch được bố trí trên sông Ba Lai, thuộc khu vực trên sông Phong Mỹ, cách ngã ba Chẹt Sậy - Ba Lai 1,5 km về phía đông nam. Hai ven bờ cây cối um tùm che phủ. Nơi đây, mặt sông Ba Lai trải rộng trên 200 mét. Công sự, trận địa phục kích kéo dài hơn 1 km về phía hạ lưu.

Chiều oi ả. Con nước đang ròng. Những con kền kền có bộ lông màu nâu đập cánh tìm mồi trên dòng sông lờ lững. Trong cái vắng lặng của không gian, các chiến sĩ đã nghe rõ dần tiếng động cơ vọng lại. Lệnh sẵn sàng chiến đấu được phát ra. Các bộ phận lực lượng nhanh chóng vào vị trí chiến đấu.

2 giờ chiều, đoàn công voa lừ lừ tiến tới. Gần vào khu vực trận địa của ta, chiếc ca nô đi đầu bỗng tăng tốc xé nước, chồm lên, bắn mấy loạt đại liên vào hai bờ sông Ba Lai rồi ngoái lại, giữ nguyên cự ly giãn cách ban đầu.

Chờ cho đoàn công voa lọt hẳn vào trận địa, bộ chỉ huy quyết định nổ súng tiến công.

Lập tức, các loại súng của ta tới tấp nhả đạn vào các mục tiêu. Trận đánh diễn ra chớp nhoáng. Gần 3 trung đội của địch bị tiêu diệt và bắt sống, một số tàu ghe bị bắn hỏng, toàn bộ hàng hoá về tay quân ta.

Sau khi trao đổi với Trương Văn Giàu, bộ chỉ huy tiến hành bàn giao chiến lợi phẩm cho chính quyền, đoàn thể cách mạng và nhân dân địa phương.

Đêm buông xuống. Đoàn quân rời Phong Mỹ cắt rừng qua xã Châu Phú và Châu Thới, đến đóng tại kinh Rạch Rợp ở mạn đông nam của xã Châu Bình.

Quân về, xóm ấp trở nên sôi động. Mọi người rối rít dọn dẹp, chuẩn bị chỗ nghỉ cho bộ đội. Đồng chua nước mặn, mỗi năm chỉ trồng cấy một vụ lúa năng suất thấp nên cuộc sống của người dân nơi đây còn rất nghèo. Tuy vậy, ai nấy đều lo cơm ăn, nước uống cho bộ đội. Nước uống, mùa khô ở miệt biển, triền sông nước mặn trở nên hiếm hoi. Mọi người trong xóm thức khuya dậy sớm gạn lọc từng nồi cho cán bộ, chiến sĩ đủ dùng.

Chiều ngày 15 tháng 2, trời lặng gió. Bộ đội đang nghỉ trưa thì nhận được lệnh khẩn trương triển khai đội hình sẵn sàng chiến đấu theo phương án tác chiến đã phổ biến.

Từ huyện lỵ Giồng Trôm, một đơn vị bộ binh địch vận động theo tỉnh lộ 174 về phía Châu Bình. Qua ống nhòm, ta quan sát thấy toàn bộ địch có khoảng gần 2 đại đội. Tới ngã ba đi Giồng Trộm (ngã ba tại ấp Hoà Bình, Mỹ Chánh, Ba Tri) phía đông nam xã Châu Bình chúng bắt đầu triển khai đội hình. Tại ngã ba này, chúng đặt sở chỉ huy, trận địa hoả lực và một trung đội làm lực lượng dự bị và giữ mặt sau của một đội hình tiến công. Được hoả lực yểm trợ, hai đại đội xuồng cao su vượt qua rạch Bà Tri Rôm (nhánh tẽ của con rạch Hiền Nhân, vòng từ tây bắc xuống đông nam và nam xã Châu Bình). Vừa đổ bộ lên bờ bắc rạch, địch để lại một bộ phận nhằm bảo vệ khu vực đầu cầu bến vượt, còn lại hình thành hai mũi tiến dọc theo bờ bắc và nam con kinh Bình Khương-một nhánh của rạch Bà Tri Rôm, dài 4 km, tạo thành địa giới giữa Châu Bình (phía bắc) với xã Mỹ Chánh Hoà huyện Ba Tri phía nam ) và xã Tân Phú Trung huyện Bình Đại (phía đông), đồng thời sở chỉ huy dời đến đóng tại đầu cầu bến vượt.

Đây là cuộc hành quân càn quét nhằm phát hiện và tiêu diệt lực lượng đã tổ chức trận phục kích đoàn công voa của địch hôm qua. Nón dạ vành to, quần áo màu vàng, súng lăm lăm trong tay, địch lố nhố tiến vào trận địa phục kích của ta .

Bình tĩnh chờ cho địch vào sâu trong tầm sát thương của hoả lực, bộ đội ta đồng loạt nổ súng vào đội hình tấn công của chúng. Cùng lúc, sở chỉ huy, trận địa hoả lực của chúng cũng bị hoả lực trọng liên 13.2 ly và những khẩu VB tập kích.

Mũi thứ nhất gồm ba trung đội bị tiêu hao nặng và bị loại khỏi vòng chiến đấu từ những loạt đạn đầu. Một số ít thoát chết, nhoài vội xuống sông.

Mũi thứ hai gần hai trung đội cũng nhanh chóng bị đánh tan. Nhiều tên vứt súng, lội qua rạch Bến Thắng (thuộc Mỹ Chánh Hoà, Ba Tri ) theo lộ 173 chạy tới ngã ba Giồng Trôm hợp cùng lực lượng dự bị tháo lui về huyện lỵ Giồng Trôm.

Trận đánh kết thúc vào quãng 15 giờ 30 phút. Bộ đội Tân Thuận được lệnh bí mật vận động tới khu vực ngã ba Giồng Trôm nơi địch tập kết vượt rạch vào càn quét lúc xế chiều, xây dựng công sự, bố trí lực lượng, sẵn sàng chặn địch.


Tiêu đề: Re: Bộ đội Bình Xuyên
Gửi bởi: colorwind trong 15 Tháng Năm, 2008, 11:42:24 pm
Sắp sang canh, Bộ đội Tân Thuận được lệnh rút về Rạch Rợp. Lại ra đi, đoàn người băng qua cánh đồng, tiến về phía bắc. Trăng mười ba sắp tàn, phủ mờ trên nẻo đường mùa khô trong cánh rừng ngập mặn. Qua những vạt rừng trú đậu của vô số loài chim, tiếng thậm thịch của đoàn người làm cho bầy chim xao xác. Rồi ngưng lắng bốn bề. Thảng hoặc, trên trảng trống, dăm ba nóc nhà, chòi ruộng loi thoi hiện ra, im lìm trong sương đêm.

Gần 3 giờ sáng, đoàn người dừng lại, chia quân đóng trong xóm nhỏ. Đây là địa bàn  ấp Bình Khương nằm ở phía đông bắc của xã Châu Bình. Nhà cửa cất thành từng cụm dăm bảy nóc nép dưới tán lá. Đây đó, những vạt ruộng vừa được vỡ hoang, còn ngái mùi cỏ đắng.
Trời sang, có tiếng máy bay từ xa vọng lại. Ba chiếc Spitfire từ phía bắc lao tới, đảo mấy vòng trên khu vực đóng quân của bộ đội Bình Xuyên rồi chúi xuống, xả mấy loạt đạn vào xóm nhỏ.

Tại nơi đặt bản doanh của bộ chỉ huy, khi nghe tiếng máy bay, Dương Văn Dương và một số cán bộ. chiến sĩ vội ra sau lưng nhà, nấp cạnh cây rơm, theo dõi hoạt động của máy bay địch. Trong lúc ông đang quan sát. một loạt trọng liên từ máy bay địch bắn xuống khu vực bộ chỉ huy. Dương Văn Dương bị trúng đạn và hy sinh. Máu nhuộm đỏ những cọng rơm vàng và thấm vào lòng đất nơi ông vừa ngã xuống. Bấy giờ là 8 giờ 30 phút ngày 16 tháng 2 năm 1946 (tức ngày 14 tháng 1 âm lịch).

Trước tổn thất quá lớn và bất ngờ, hai người còn lại trong bộ chỉ huy quyết định khẩn cấp họp cán bộ chỉ huy các bộ đội. Hội nghị nhận định rằng, đức độ và tài năng của vị chỉ huy Dương Văn Dương là niềm tin của cán bộ và chiến sĩ Bình Xuyên. Tin anh không còn nữa, nếu lộ ra, chắc chắn sẽ gây bất lợi. Do vậy, hội nghị quyết định: tuyệt đối giữ kín việc Dương Văn Dương hy sinh; bí mật an táng anh, đồng thời thi hành biện pháp nghiêm ngặt để thực hiện quyết định này.

Hội nghị nhất trí cử Trần Văn Đối thay Dương Văn Dương làm chỉ huy trưởng đoàn quân. Ngoài ra, cơ cấu và sự hoạt động của bộ chỉ huy cần phải được giữ nguyên như cũ để phục vụ quyết định thứ nhất.

Hội nghị cho rằng, mục tiêu của cuộc hành binh về Bến Tre, tăng viện cho mặt trận An Hóa - Gia Hòa đã kết thúc. Địch đã thiết lập quyền kiểm soát ở hầu hết những khu vực xung yếu như thị xã. thị trấn, ven các trục đường giao thông và các vùng đông dân. Giờ đây, việc đảm bảo mọi mặt cơ động lực lượng, tiếp tế lương thực thực phẩm, bổ sung đạn dược, vũ khí cho một lực lượng tập trung hơn 500 người có thể trụ bám và chiến đấu dài ngày trên vùng địa hình hẹp, lầy thấp, bị hệ thống sông, kinh, rạch chia cắt như vùng độc lập còn lại của Giồng Trôm nói riêng, của Bến Tre, Mỹ Tho, Gò Công, Tân An... nói chung, đã là điều không thể. Hội nghị quyết định khẩn trương tổ chức cho bộ đội trở lại rừng Sác miền Đông.

Trở về theo đường cũ là điều cho đến thời điểm này, đã trở nên nguy hiểm. Chắc chắn địch đã có biện pháp chặn giữ ngặt nghèo hơn. Hội nghị nhất trí chọn giải pháp ông Ba Đạt đề xuất: lợi dụng mùa gió nồm đang đến, mượn ghe cửa, căng hết ba buồm, đưa bộ đội vượt biển. Đường đi chừng 40 km, tốc độ ghe cửa hơn 10 km một giờ. Tính ra nếu xuôi lọt thì sau 4 giờ trên sông nước, đoàn quân sẽ về tới rừng Sác miền Đông.


Tiêu đề: Re: Bộ đội Bình Xuyên
Gửi bởi: colorwind trong 15 Tháng Năm, 2008, 11:48:25 pm
Ông Ba Đạt và nhóm lãnh nhiệm vụ đưa bộ đội đến chỗ tập kết mới, mượn ghe cửa của ngư dân và làm hoa tiêu cho đoàn ghe đi đúng hướng.

Trương Văn Giàu cũng đem lực lượng của mình tới kịp cùng về rừng Sác với bộ đội Bình Xuyên.

Đêm 16 tháng 2 năm 1946, giã biệt ấp Bình Khương - nơi yên nghỉ ngàn năm của người Anh cả, đoàn quân Bình Xuyên lại ra đi. Hai giờ sáng ngày 17 tháng 2, toàn bộ lực lượng đã tập kết đầy đủ các xóm ở đông nam thị tứ Thới Thuận, huyện Bình Đại.

Vào thời gian này, Thới Thuận, tương tự các xã Thừa Đức, Thanh Tân, Phước Thuận trên vùng rừng Sác, còn chưa bị địch chiếm. Chính quyền, đoàn thể cách mạng vẫn đang mạnh. Đa phần ngư dân sống bằng nghề hái củi, đánh cá trồng trọt trên các rẫy đất giồng... Một số là chủ các hiệu tạp hoá nhỏ, chủ vựa cá, vựa củi, sửa chữa và đóng ghe thuyền...

Trong lúc đoàn quân dừng lại nghỉ ngơi, bộ phận tiền trạm của nhóm ông Ba Đạt mượn đủ số ghe cần thiết. Khi tất cả đã sẵn sàng chờ xuất phát thì bộ chỉ huy nhận được nguồn tin do số bà con vừa đi đánh cá hoặc vừa bỏ hàng xong ở Sài Gòn trở về báo lại: liền mấy hôm nay, chiến thuyền địch xuất hiện nhiều, tăng cường soát xét trên các luồng đi lại của ghe thương hồ, thuyền đánh cá; có cả những chiếc neo đậu ngoài khơi rập rình. Lời mách của bà con khớp với tin tình báo của ta. Bộ chỉ huy họp bàn quyết định: bỏ đường biển, quay về theo lối cũ.

Tối 18 tháng 2 năm 1946, đoàn quân lên đường. Sáng hôm sau, ngày 19 tháng 2 năm 1946, đại diện bộ đội Gò Công, trong đó có Ba Vinh (Nguyễn Huỳnh Ngân) từ xã Thừa Đức đến thị trấn Thới Thuận liên hệ đưa lực lượng nhập với bộ đội Bình Xuyên về miền Đông xây dựng căn cứ. Nhưng đã muộn, bộ đội Bình Xuyên đã ra đi đêm trước. Đại diện bộ đội Gò Công vừa ra khỏi thị trấn thì ngay lập tức máy bay địch lao tới, ném bom, bắn phá khu vực mà bộ đội Bình Xuyên vừa rút.

Là con em nhân dân địa phương, thạo thuộc sông biển của tỉnh nhà, hai hôm sau, bộ đội Gò Công đã vượt sông Vàm Láng cửa sông Soài Rạp đến hạ trại trên xóm Cả Đại, xã Lý Nhơn, thuộc rừng Sác, Nhà Bè. Bấy giờ bộ đội Bình Xuyên vẫn chưa về tới. Từ đây, bộ đội Gò Công là một bộ phận khăng khít của bộ đội Bình Xuyên. Mấy hôm sau, bộ đội Bến Tre do Trương Văn Giàu chỉ huy cũng kéo tới đóng trên xã Lý Nhơn gần bộ đội Gò Công.

Cuối cùng, khuya đêm 4 rạng ngày 25 tháng 2 năm 1946, đoàn quân về đến rừng Sác. Bộ phận viễn chinh đi chiến đấu ở Bến Tre đã trở lại chính nơi mà cách đó gần một tháng họ lên đường. Quân số có đông hơn buổi ra đi nhưng giờ đây Dương Văn Dương cùng một số cán bộ, chiến sĩ không còn nữa ! Rồi ra, tên của Dương Văn Dương, Thiếu tướng Khu bộ phó Khu 7, chỉ huy trưởng Liên chi 2 - 3 Bình Xuyên sẽ còn được nhắc lại trong phiên hiệu một trung đoàn bộ đội hay một con kinh kháng chiến, hay trong tâm thức của mọi người. Dù sao, cuộc kháng chiến mới bắt đầu. Mỗi cán bộ, chiến sĩ Bình Xuyên nén nỗi buồn mất mát, điềm tĩnh và từng trải hơn khi tiến bước trên chặng hành trình với bao cam go thử thách đang chờ đón họ ở chiến trường miền Đông Nam Bộ.



Tiêu đề: Re: Bộ đội Bình Xuyên
Gửi bởi: colorwind trong 16 Tháng Năm, 2008, 10:27:08 am
Chương V

CHIẾN TRƯỜNG MIỀN ĐÔNG

Từ Thới Thuận, thị tứ duy nhất của Bến Tre còn chưa rơi vào tay địch, bộ đội Bình Xuyên bỏ đường biển, theo đường bộ, trở lại miền Đông. Ngày nghỉ đêm đi, được nhân dân giúp đỡ, đoàn quân qua cù lao Bình Đại, vượt sông Tiền Giang, qua Tân An, lại vượt dòng Vàm Cỏ, qua Cần Đước, về tới An Thới Đông, rồi dừng chân trên rừng Giồng Phệt ở phía nam ấp Bà Yên, xã Tân Thạnh, huyện Nhà Bè. Là giồng đất cao ở cực nam chiến khu rừng Sác, biệt lập với xóm ấp, lọt trong cánh rừng ngập mặn hoang dại trải ngút ngát phía bắc dòng Đồng Định - một con sông chảy về vịnh Gành Rái - cửa của dòng Thất Kỳ Giang (sông Ngã Bảy), phía trong cửa biển Cần Giờ, rừng Giồng Phệt đủ rộng và đảm bảo an toàn cho 500 người nghỉ ngơi vào sắp xếp đội hình sau những ngày gian truân trên dặm dài viễn chinh về miền Tây.

Ngày 6 tháng 3 năm 1946, Hiệp định sơ bộ giữa ta và Pháp được ký kết. Dù vậy, thực dân Pháp vẫn chủ trương tiếp tục đẩy mạnh hoạt động quân sự. Tại Nam Bộ và nam vĩ tuyến 16, đồng thời với các biện pháp quân sự nhằm tiêu diệt lực lượng kháng chiến của ta, bình định các vùng nông thôn, địch tiến hành các thủ đoạn chính trị khác hòng biến Nam Bộ thành "xứ tự trị" thuộc khối liên hiệp Pháp. Chúng lôi kéo tay sai lập "Hội đồng tư vấn", lập các đảng phái phản động như "Mặt trận quốc gia liên hiệp", "Việt Nam cách mạng dân chủ xã hội đảng". "Liên minh dân chủ đảng"... tung bọn phòng nhì, tay sai thâm nhập dần vào một số đơn vị võ trang của ta, hòng lũng đoạn, phá hoại ta từ bên trong, nắm các giáo phái, chia rẽ Việt Nam - Campuchia, dùng bọn tay sai để lập ra "Nam Kỳ quốc"...

Với bộ đội Bình Xuyên, từ trước, địch đã có ý định bằng mọi cách lôi kéo lực lượng này rời xa cuộc kháng chiến, biến thành một đội quân tay sai chống phá cách mạng. Sau khi Dương Vãn Dương hy sinh, chúng càng ráo riết xúc tiến kế hoạch này.

Bảy Viễn là con bài được chúng chọn để thực hiện mưu đồ nói trên. Những ngày cuối tháng 2, Bảy Viễn cùng "bộ đội Phú Thọ" của mình - gần một trung đội - kéo tới địa bàn rừng Sác thuộc xã Phước An, nơi có sở chỉ huy của Dương Văn Hà, Đinh Văn Nhị cùng bộ phận bộ đội Bình Xuyên được bố trí ở lại không đi Bến Tre. Bằng thủ đoạn khéo léo, y bắt đầu tiến hành các hoạt động lôi kéo, dụ dỗ cán bộ, chiến sĩ Bình Xuyên. Nội bộ liên chi 2 và 3 dần dần hình thành một nhóm người thuộc phe cánh Bảy Viễn.
 
Cuối tháng 2 năm 1946, cán bộ từ các ban chỉ huy đại đội chi đội của bộ đội Bình Xuyên từ Giồng Phệt vượt sông Lòng Tàu và Đồng Tranh về rừng Sác, xã Phước An dự lễ truy điệu Dương Văn Dương.

Nguyễn Bình, do có việc đột xuất không tới được, gửi công văn uỷ nhiệm cho tập thể cán bộ chỉ huy bộ đội Bình Xuyên cùng Lương Văn Trọng (từ Bà Rịa tới) đứng ta tổ chức lễ truy điệu.

Thay mặt Nguyễn Bình, Lương Văn Trọng đọc quyết định truy phong liệt sĩ Dương Vãn Dương cấp hàm Thiếu tướng của Quân đội quốc gia Việt Nam. Ghi nhớ công lao của ông, Uỷ ban kháng chiến - hành chính Nam Bộ quyết định lấy tên Dương Văn Dương đặt cho dòng kinh lớn ở trung tâm căn cứ Đồng Tháp Mười thay cho tên cũ là kinh Lagrange. Cán bộ chiến sĩ bộ đội Bình Xuyên đặc biệt xúc động khi nghe tin Hồ Chủ tịch gửi điện chia buồn với gia quyến người vừa khuất.

Sau lễ truy điệu, 41 cán bộ lãnh đạo, chỉ huy các đơn vị các ban ngành trực thuộc đã họp để bầu người thay thế Dương Văn Dương làm chỉ huy trưởng. Dự họp có cả Bảy Viễn. Không khí trong phòng và ngoài hành lang cuộc họp đầy căng thẳng.

Các thành viên trong hội nghị đề cử hai người: Dương Văn Hà (có năm người đề cử, trong đó có Từ Văn Ri, Đinh Văn Nhị) và Lê Văn Viễn (hai người đề cử là Trần Văn Đối và Nguyễn Văn Huỳnh). Thể thức bầu đơn giản, số phiếu từng ứng cử viên được căn cứ bằng số cánh tay của đại biểu giơ lên.

Kết quả, với số phiếu chỉ trội hơn hai cánh tay, Dương Văn Hà trúng cử chức chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy liên chi đội 2 và 3 Bình Xuyên. Tiếp đó, hội nghị đã biểu quyết cử Trần Văn Đối làm chỉ huy phó. Tham vọng nắm bộ đội Bình Xuyên của Bảy Viễn đã bị hội nghị bác bỏ.
 
Phần cuối của chương trình, hội nghị tiến hành bàn bạc, chọn lựa điểm đóng quân. Mọi người quyết định lấy vùng núi Bà Rịa nằm kẹp giữa quốc lộ 15 và liên tỉnh lộ 2 làm khu vực tập kết mới.


Tiêu đề: Re: Bộ đội Bình Xuyên
Gửi bởi: colorwind trong 16 Tháng Năm, 2008, 11:09:29 am
Những ngày đầu tháng 3 năm 1946, trước khi rời Giồng Phệt, bộ đội Bình Xuyên đã tập kích đồng loạt vào các căn cứ quân sự, đồn bót địch trong thị trấn Cần Giờ, đánh thiệt hại nặng một trung đội ở ấp Nhì. Số còn lại gần hai trung đội đóng ở ấp Tuân và ấp Ba dạt ra mép nước của bãi biển Cần Giờ và được tàu tuẫn tiễu địch từ cửa Cần Giờ vào cấp cứu.

Thượng tuần tháng 3 năm 1946, các đơn vị chiến đấu và một bộ phận nhỏ ban ngành trực thuộc bộ đội huyện Châu Thành, vượt quốc lộ 15, tới hạ trại ở núi Hàm Rồng và Eo ông thuộc cụm núi Thị Vải - ông Trịnh - Tóc Tiên... Tư Huỳnh đưa lực lượng của mình (Đại đội 3, Chi đội 3) tới núi Hàm Rồng, một mình đóng cạnh con suối Mù Cua. Các đơn vị còn lại kéo cả tới núi Eo ông, chia quân trấn giữ. Bộ đội Thủ Thiêm và Đại đội 3, Chi đội 2 đóng dưới chân núi. Bộ đội Phú Thọ của Bảy Viễn nhè chóp đỉnh hạ trại. Giữa lưng chừng núi là khu vực đóng quân của các đơn vị khác thuộc chi đội 2 và 3. Sở chỉ huy chung đặt tại Rạch Nghệ, vùng rừng Sác thuộc xã Phước Hoà. huyện Châu Thành. phía tây quốc lộ 15. Binh công xưởng, pháo lớn (đại bác 75 ly và súng 24 ly ) cùng các tàu thuyền vẫn đặt nguyên chỗ cũ sâu trong rừng Sác.

Ổn định xong nơi ăn, chốn ở cho cán bộ, chiến sĩ toàn đơn vị. Bộ chỉ huy triển khai các mặt công tác nhằm từng bước củng cố, tăng cường sức chiến đấu của bộ đội. Thời kỳ này kéo dài đến hết tháng 5 năm 1946 và được tiếp tục cả một thời gian dài sau đó. Về cơ bản, sau khi chỉnh đốn lại lực lượng, cơ cấu chỉ huy hợp lý hơn, chất lượng bộ đội Bình Xuyên được nâng lên một bước,

1. Bộ chỉ huy chung: Dương Văn Hà (chỉ huy trưởng), Nguyễn Đức Huy [11] (chính trị viên).

2. Các ban, ngành trực thuộc:

- Văn phòng bộ chỉ huy: Lương Văn Trung (chánh văn phòng).

- Ban Tham mưu: Nguyễn Sơn Xuyên (tham mưu phó, quyền tham mưu trường).

- Ban tình báo: Dương Văn Thiệu (trưởng ban).

- Ban cơ yếu, điện đài: Hai Thiền (phó ban).

- Ban giao thông, liên lạc thuỷ bộ: Sáu Hằng, Tư Cao (phụ trách).

- Ban chính trị: Nguyễn Đức Huy (kiêm trường ban).

- Tập san Yêu nước: Nguyễn Đắc chủ bút).

- Ban quân nhu: Đặng Bá Lầu (trưởng ban).

- Ban quân y và bệnh viện: bác sĩ Nguyễn An Trạch (trường ban kiêm bệnh viện trưởng).

- Toà án binh: Hàm và Yên (phụ trách).

- Trại giáo hóa (trại giam): Nguyễn Văn Dậu ( trưởng trại ) .

- Binh công xưởng: gồm 2 bộ phận. Bộ phận đóng tại Rạch Su, giám đốc là Hanh. Bộ phận đặt tại Rạch Tượng do Lương Văn Chắc (Nhứt Lang) làm giám đốc.

- Ban sưu tầm vũ khí: Nguyễn Văn Đức trưởng ban.

11. Do Khu uỷ Khu 7 điều về tham gia kháng chiến ở chiến trường miền Đông đến hết cuộc kháng chiến chống Pháp, từng giữ nhiều chức vụ quan trọng như Phó bí thư Khu uỷ Khu 7. Bí thư Đảng uỷ phân khu Duyên Hải. Sau tập kết 1954 bị phát hiện là tên phản bội cách mạng từ trước Cách mạng tháng Tám.


Tiêu đề: Re: Bộ đội Bình Xuyên
Gửi bởi: colorwind trong 16 Tháng Năm, 2008, 11:12:34 am
- Ban tiếp liệu [12]: (khai thác và mua sắm nguyên liệu, hoá liệu phục vụ sửa chữa, sản xuất vũ khí): Nguyễn Văn Dại (trưởng ban).

- Đơn vị trợ chiến gồm trọng liên 13,2 ly, tốc xạ pháo 20 ly: Nguyễn Văn Hiệp (chỉ huy trưởng). Đơn vị trợ chiến gồm 2 khẩu pháo 24 ly: Thanh (chỉ huy trưởng).

- Đại đội vệ binh, trinh sát: Đoàn Văn Ngọc (đại đội trường ).

3. Chi đội 2

- Ban chỉ huy chi đội: Lê Văn Chàng (chi đội trưởng), Nguyễn Lộc (chính trị viên), Nguyễn Văn Soái (chi đội phó).

- Văn phòng: Lê Văn Bảy (chánh văn phòng).

- Cơ quan chính trị chi đội: Trần Văn Ơn (bí thư chi đội uỷ).

- Ban tình báo: Lê Thành Công (Lê Minh Thịnh tức Sáu Thịnh trưởng ban).

- Đại đội 1 : Huỳnh Văn Nên (Ba Bay, đại đội trưởng), Nguyễn Văn ích (Hoàng Bác Phong, chính trị viên).

- Đại đội 2: Quách Văn Phải (đại đội trường). Chưa có chính trị viên.

- Đại đội 3: Trần Văn Thơ (đại đội trưởng), Đỗ Văn Sáu Nhỏ (Đỗ Tầm Chương) chính trị viên.

4. Chi đội 3:

- Ban chỉ huy chi đội: Ngô Văn Lực (chi đội trưởng), Lâm Văn Hậu (Ba Hậu, chính trị viên).

- Đại đội 1 : Võ Văn Môn (đại đội trưởng), Nguyễn Đắc (chính trị viên).

- Đại đội 2: Trương Công Trứ (đại đội trường), Huỳnh Văn Được (chính trị viên).

- Đại đội 3: Nguyễn Văn Huỳnh (đại đội trường), Lê Sùng (chính trị viên).

Cùng với quá trình bố trí, sắp xếp đội ngũ cán bộ các cấp tăng cường hệ thống lãnh đạo, chỉ huy trong các đơn vị, vấn đề xây dựng cơ sở đảng và phát triển đảng viên mới ở các khối của bộ đội Bình Xuyên bất đầu được tiến hành. Trước tháng 2 năm 1946, trong lực lượng võ trang Bình Xuyên, chỉ bộ đội Phú Xuân và bộ đội Cần Đước là có tổ chức đảng. Các đơn vị còn lại, cơ sở đảng chưa hình thành. Gặp nhau ở lòng yêu quê, yêu nước mà từ giã "kiếp giang hồ", cố kết vào một khối trong buổi Tổ quốc nguy nan, đa số cán bộ, chiến sĩ Bình Xuyên, khi xáp trận thì đánh hết mình, dũng mãnh, gan dạ nhưng vẫn còn nhiều biểu hiện tuỳ tiện - nết cũ một quãng đời chưa mấy xa. Giờ đây, trước đòi hỏi của thực tiễn cách mạng và để đảm bảo cho bộ đội Bình Xuyên phát triển lành mạnh hơn, vững chắc hơn, các đảng viên trong đơn vị đã liên hệ với cấp uỷ đảng địa phương huyện Long Thành, với Tỉnh uỷ Biên Hoà và Khu uỷ Khu 7, xúc tiến công việc hệ trọng này. Từ đầu tháng 3 năm 1946, một số tổ chức đảng được thành lập.

Ở Chi đội 2, tham gia cấp uỷ có Trần Văn Ơn (Năm Ơn) phụ trách bí thư, Nguyễn Văn Sáng. Nguyễn Văn Khoắn, Nguyễn Lộc là uỷ viên. Trong chi đội này, Đại đội 1, Đại đội 3 và Văn phòng Chi đội có chi bộ Đảng. Tháng 6 năm 1946, thêm một chi bộ - chi bộ Đại đội 2 - ra đời. Ở bộ phận các ban, ngành trực thuộc, các tổ chức cơ sở đảng có văn phòng ở bộ chỉ huy, ban chính trị, ban tình báo, binh công xưởng (bộ phận do Lương Văn Chắc làm giám đốc). Cuối năm 1946, bốn chi bộ nữa ở các ban ngành lần lượt hình thành. Do điều kiện nội tại, ở Chi đội 3, tổ chức đảng ra đời muộn hơn so với Chi đội 2 và các ban ngành trực thuộc. Tháng 7 năm 1946, chi đội uỷ Chi đội 3 được chỉ định: Nguyễn Đắc (gốc người miền Bắc, chính trị viên Đại đội 1 , Chi đội 3) làm bí thư. Ba đảng viên được Khu uỷ chỉ định tham gia Đảng uỷ liên chi: Trần Văn Ơn (bí thư chi đội uỷ Chi đội 2), Nguyễn Đắc (quyền bí thư chi đội uỷ Chi đội 3) và Lê Văn Phẩm (vừa lên thay Lương Văn Trung làm chánh Văn phòng).

12. Sau này là Ban liếp liệu của bộ đội 15 (xưởng quân giới Nam Bộ ở rừng Sác).


Tiêu đề: Re: Bộ đội Bình Xuyên
Gửi bởi: colorwind trong 16 Tháng Năm, 2008, 11:22:52 am
Cùng với quá trình hình thành các tổ chức đảng, vấn đề tăng cường số lượng đảng viên trong các đơn vị bộ đội Bình Xuyên cũng đặt ra. Bấy giờ, số lượng đảng viên còn ít, thiếu cân đối so với "khung" tổ chức đảng hiện có trong bộ đội Bình Xuyên. Con số mấy chục đảng viên trong tổng số hơn 2.500 cán bộ, chiến sĩ là một tỷ lệ khiêm tốn. Giờ đây, khi tình hình chung và điều kiện nội tại thuận hơn, Đảng bộ bộ đội Bình Xuyên chủ trương: bí mật mở cuộc vận động, tuyên truyền về mục tiêu, lý tưởng của Đảng, về lập trường giai cấp công nhân, về đường lối, chính sách, chủ trương của Đảng. Chính phủ... trong tất thảy các đơn vị, thông qua việc giáo dục và tăng cường ý thức chính trị, đưa mọi người vào nếp sống có kỷ luật chặt chẽ, không ngừng rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất đạo đức của chiến sĩ cách mạng, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, xây dựng đơn vị ngày càng vững mạnh. Từ đó lựa chọn những cán bộ, chiến sĩ có đủ điều kiện đức và tài, tiến hành bồi dưỡng kết nạp Đảng. Chủ trương của Đảng bộ được triển khai thực hiện và đưa lại những kết quả tốt. Đại đa số cán bộ chiến sĩ bước đầu hiểu rõ mục tiêu, lý tưởng của Đảng ta, nắm được chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ. Trên cơ sở đó phong trào thi đua rèn luyện, phấn đấu để trở thành đảng viên trong các đơn vị đã hình thành và thu hút nhiều người tham gia. Một số gương chiến đấu, học tập và công tác xuất hiện, tiêu biểu là Trần Văn Hoàng. Mưu trí và táo bạo, anh tự trói mình giả bị bắt để cho các chiến sĩ của mình cải trang thành lính địch giải về đồn Phú Mỹ nằm sâu trong vùng địch hậu ở Nhà Bè. Khi đã lọt vào sào huyệt của địch, anh và đồng đội bất ngờ nổ súng vào giữa đội hình chúng, tiêu diệt nhiều tên, thu nhiều vũ khí súng đạn rồi nhanh chóng vượt sông Nhà Bè, trở lại căn cứ an toàn. Sau chiến công này, anh được vinh dự kết nạp vào Đảng. Cũng như anh, nhiều cán bộ, chiến sĩ khác đã được đứng vào hàng ngũ của Đảng sau 3 tháng rèn luyện, thử thách kể từ ngày Đảng bộ ra nghị quyết phát triển đảng viên mới trong bộ đội Bình Xuyên.

Nhằm tăng cường hiệu lực lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, đảm bảo cho các đơn vị nắm vững và thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, Chính phủ và nghị quyết của Đảng uỷ cấp trên, đi đôi với việc thiết lập và củng cố vai trò lãnh đạo của Đảng, vấn đề xây dựng và từng bước kiện toàn hệ thống chính trị viên các cấp trong các đơn vị thuộc bộ đội Bình Xuyên cũng được triển khai từ cuối tháng 2 đầu tháng 3 năm 1946. Với sự hướng dẫn, giúp đỡ của phái viên Phòng Chính trị Khu 7, các đơn vị đã sôi nổi thảo luận, quán triệt chỉ thị tổ chức hệ thống chính trị viên của Khu uỷ, Bộ Tư lệnh Khu 7. Cán bộ, chiến sĩ trong toàn đơn vị đã thẳng thắn tham gia góp ý kiến, bình chọn những người có đủ tiêu chuẩn cấp trên quy định, giới thiệu lên cấp có thẩm quyền xét, và bổ nhiệm chức vụ chính trị viên. Theo chỉ thị của Khu ủy và Bộ Tư lệnh Khu 7, chính trị viên trong bộ chỉ huy liên chi, chính trị viên ban chỉ huy chi đội và chính trị viên đại đội (cùng cấp tương đương) do cấp trên trực tiếp giới thiệu, đề nghị và cấp trên nữa ra quyết định bổ nhiệm. Còn lại, chính trị viên cấp trung đội, phân đội thì chi uỷ và ban chỉ huy đại đội được quyền quyết định.

Về cơ bản, đến cuối tháng 5 năm 1946, chính trị viên ở các phân đội, trung đội, đại đội, chi đội và liên chi đội (cùng cấp tương đương) đã được bổ nhiệm. Một số đại đội và cấp tương đương, do chưa chọn được nhân sự cán bộ quân sự hoặc chính trị viên dưới một cấp được chỉ định đảm trách thêm công tác đảng, công tác chính trị trong trường hợp cần thiết. Đề cao trách nhiệm đối với sự vững mạnh của đơn vị, mọi người, trong khi bình chọn đã không hẹp hòi, bè cánh, cục bộ, không mặc cảm đối với dĩ vãng của mỗi con người. Họ trân trọng và biết tin vào những phẩm chất, năng lực hiện có của đồng đội, đồng chí, bất kể đó là người Nam, người Bắc, là tứ chiếng giang hồ hay công nhân, đảng viên, bất kể mới nhập ngũ hay vào bộ đội đã lâu... Ví như, Nguyễn Lộc, gốc quê miền Bắc được chỉ định làm chính trị viên chi đội 2, Lâm Văn Hậu vốn dân Gò Công là chính trị viên chi đội 3; chính trị viên đại đội 1, chi đội 2 là Nguyễn Văn Ích nay là Hoàng Bác Phong, người miền Bắc. Tất cả cán bộ chính trị thuộc đại đội 3, chi đội 3 (tức bộ đội Tư Huỳnh) đều gốc miền Bắc và đều xuất thân từ công nhân, thợ thủ công, chỉ riêng Huỳnh Văn Lâm (Năm Bình). chính trị viên trung đội là người Nam Bộ. Là cán bộ phụ trách công tác đảng, công tác chính trị trong các đơn vị võ trang, người chính trị viên ở bất cứ cấp nào cũng phải là đảng viên Đảng cộng sản. Đó là yêu cầu căn bản đặt ra trong quá trình xét chọn. Thời kỳ đầu, đảng viên trong các đơn vị còn ít nên nhiều cán bộ chính trị chưa đứng trong hàng ngũ của Đảng; số cán bộ chính trị là đảng viên chiếm 8%. Sau khi kết thúc đợt phát triển đảng viên mới, tỷ lệ đó được tăng lên đạt 11%.


Tiêu đề: Re: Bộ đội Bình Xuyên
Gửi bởi: colorwind trong 17 Tháng Năm, 2008, 10:03:01 pm
Cùng với hệ thống chính trị viên, cơ quan chính trị trong các đơn vị bộ đội Bình Xuyên cũng được tổ chức. Theo quy chế bấy giờ, trong bộ đội Bình Xuyên, cơ quan chính trị được thành lập ở Bộ chỉ huy liên chi đội 2 và 3 (gọi là ban chính trị, trực thuộc bộ chỉ huy liên chi), ở các chi đội (ban chính trị trực thuộc ban chỉ huy chi đội) và ở cấp đại đội (các ban ngành trực thuộc tương đương), gọi là ban công tác chính trị. Các cơ quan chính trị đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của cấp uỷ Đảng tương đương, đảm nhiệm công tác Đảng, công tác chính trị trong đơn vị, giúp chỉ huy đơn vị triển khai thực hiện công tác chính trị, tư tưởng và tổ chức... Ở các ban công tác chính trị (tức cơ quan chính trị của cấp đại đội và các ban ngành tương đương) ngoài cán bộ chính trị viên kiêm trưởng ban, có thể cử thêm 1 hoặc 2 cán bộ chính trị cấp trung đội, phân đội kiêm nhiệm phó ban và một số uỷ viên chuyên trách (hoặc kiêm nhiệm) từng mặt công tác.

Buổi đầu, do kinh nghiệm thiếu, hoạt động của các cơ quan chính trị trong bộ đội Bình Xuyên còn bỡ ngỡ, sơ giản. Theo thời gian, những chập chững dần được khắc phục. Cán bộ chính trị vỡ vạc thêm ra trong công tác thực tiễn của mình. Hoạt động của cơ quan chính trị dần dần phong phú, thiết thực, có hiệu quả và từng bước đi vào thế ổn định hơn. Lúc đó, ở mỗi ban công tác chính trị (đại đội và cấp tương đương), có các tổ chuyên trách, mỗi tổ do một uỷ viên ban công tác chính trị đứng đầu. Tổ học tập có nhiệm vụ triển khai cho đơn vị học thuộc Quốcc ca, học 10 lời thề của chiến sĩ Vệ quốc đoàn, đồng thời tổ chức các lớp học văn hoá. Cấp uỷ Đảng chỉ đạo tập trung xoá nạn mù chữ trong các đơn vị. Đồng thời tổ câu lạc bộ thuộc ban công tác chính trị thường xuyên tổ chức liên hoan ca nhạc, diễn kịch, ngâm thơ, đêm lửa trại... Cùng với tổ học tập, tổ câu lạc bộ, tổ cải thiện sinh hoạt cũng triển khai các hoạt động của mình: vận động cán bộ, chiến sĩ góp công, góp sức, giúp đỡ bộ phận nhà bếp nâng cao chất lượng bữa ăn, tham gia các hoạt động nhằm cải thiện sinh hoạt thường ngày cho bộ đội; tổ chức chăm vá áo quần rách cho mỗi người, vận động anh em làm vệ sinh khu vực, đề phòng bệnh tật và chống muỗi rừng, bù mắt, ba cánh. Ngoài 3 tổ chuyên trách trên đây, một thời gian sau trong công tác chính trị đại đội (và cấp tương đương) xuất hiện thêm một số tổ chuyên trách khác: tổ vận động cán bộ chiến sĩ viết báo "liếp" báo "phên" (báo dán lên những tấm phên đan bằng tre), tổ kỷ luật (tiền thân của hội đồng khen thưởng, kỷ luật) và tổ "Hội đồng quân nhân cách mạng".

Quán triệt chỉ thị của Bộ Tư lệnh Khu 7 về công tác chính trị viên, Bộ chỉ huy liên chi đội 2 và 3 quy định:

- Mọi công văn báo cáo của đại đội (và ban ngành trực thuộc tương đương) gửi chi đội và của chi đội gửi lên Bộ chỉ huy liên chi đều phải thông qua sự bàn bạc, thảo luận nhất trí trong cán bộ, đặc biệt phải được sự thống nhất giữa cán bộ chỉ huy quân sự và chính trị viên thông qua chữ ký của hai người. Mọi công văn, giấy đi đường, giấy giới thiệu ra vào các sở chỉ huy, các văn bản liên hệ công tác với chính quyền, đoàn thể kháng chiến, với các đơn vị bạn... cũng đều phải được cán bộ quân sự và cán bộ chính trị trong ban chỉ huy cùng ký.

- Bộ chỉ huy liên chi đội 2 và 3 đã thực hiện nghiêm túc chỉ thị của Bộ Tư lệnh Khu 7 và các quy định trên đây, do đó từ tháng 3 năm 1946 trở đi, vai trò chức năng, quyền hạn của cơ quan chính quyền và chính trị viên từng bước được hợp thức hoá, từng bước trở thành nguyên tắc trong hoạt động lãnh đạo chỉ huy của các cấp. Cùng thời gian này, tập san Yêu nước ra đời. Ngay từ những số đầu, tập san tập trung phản ánh cuộc sống chiến đấu, học tập và xây dựng đơn vị của bộ đội. Với thể loại phong phú, sinh động, phù hợp với khả năng và trình độ nhận thức của các đối tượng, tập san yêu nước đã góp phần bồi dưỡng, giáo dục lòng yêu quê hương, đất nước, chí căm thù giặc cho cán bộ, chiến sĩ; xây dựng, củng cố khối đoàn kết đơn vị, mối quan hệ mật thiết giữa đơn vị với chính quyền, đoàn thể kháng chiến, với nhân dân và các đơn vị bạn; động viên tinh thần, khắc phục khó khăn, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ được giao, tập san còn góp phần đắc lực trong việc xây dựng ý thức chấp hành nghiêm kỷ luật, ý thức rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất đạo đức của người chiến sĩ cách mạng cho cán bộ, chiến sĩ Bình Xuyên. Trong 16 số đầu (mỗi tháng ra hai kỳ) với số lượng 300 bản/một kỳ và số trang 16/một số, tập san lưu hành nội bộ. Từ tháng 9 trở đi, trước nhu cầu ngày càng tăng của độc giả, tập san tăng lên 800 rồi 1000 bản/kỳ, phát hành tới cả các đơn vị bạn và chính quyền, đoàn thể kháng chiến địa phương. Tập san thực sự trở thành người bạn tinh thần trong mỗi nỗi vui buồn của cán bộ, chiến sĩ Bình Xuyên giữa tháng năm trụ bám và chiến đấu ở chiến khu rừng Sác.

Khắp nơi, giặc Pháp đang ra sức củng cố, bình định những vùng đã chiếm đồng thời ráo riết tiến hành bao vây, phong toả các căn cứ kháng chiến vừa hình thành của ta, thực hiện các thủ đoạn thâm độc như tổ chức các hoạt động gián điệp, gài lực lượng vào các tổ chức, các đơn vị lực lượng võ trang của ta... hòng phá ta từ bên trong.

Với rừng Sác, thực dân Pháp tiến hành kiểm soát chặt các đường giao thông thuỷ bộ dẫn qua, ngăn chặn nguồn cung cấp lương thực, thực phẩm và những nhu yếu phẩm thiết yếu cho hàng vạn con người đang trụ bám giữa bạt ngàn rừng ngập mặn. Cán bộ, chiến sĩ và nhân dân nơi đây đang phải chịu đựng biết hao thiếu thốn, khó khăn. Đối với một lực lượng tập trung có số quân đông như bộ đội Bình Xuyên, tình hình càng căng thẳng. Hàng tuần các đơn vị phải tổ chức lực lượng vượt lộ 15 đang bị địch kiểm soát tới bến ông Trịnh hoặc bến Phước Hoà để lấy gạo tiếp tế. Số lượng lương thực từ nguồn này rất hạn chế, không đủ đảm bảo khẩu phần ăn cho bộ đội. Trong những dịp này, nếu may gặp những đoàn ghe bầu chuyển tải nước mắm từ Phan Thiết lên Sài Gòn, anh em xin và đồng bào vui lòng ủng hộ mỗi ghe chừng vài mười trĩnh. Cơm không đủ ấm bụng, thức ăn càng đạm bạc, chỉ độc nước mắm, muối và đôi lúc có thêm ít cá khô. Trong khi đó, quần áo ngày một tả tơi. Giữa rừng, muỗi, bù mắt, ba cánh đối với cán bộ, chiến sĩ ta cũng là một loại kẻ thù, ít người có màn mùng, chăn chiếu...


Tiêu đề: Re: Bộ đội Bình Xuyên
Gửi bởi: colorwind trong 17 Tháng Năm, 2008, 10:07:51 pm
"Khó khăn khắc phục". Tổ cải thiện sinh hoạt thuộc ban công tác chính trị đã phân công các bộ phận hoặc bắt cua ốc hái các loại rau rừng ngành ngạnh, kim càng, lá giang, lá bứa hoặc tổ chức đánh cá, săn bắt thú và chim. Đêm lạnh thì gom lá rừng đốt lên xua muỗi và sưởi ấm.

Trong khi đa số cán bộ, chiến sĩ đang nỗ lực khắc phục khó khăn, ra sức rèn luyện, học tập và công tác thì Bảy Viễn lặng lẽ, đưa quân về đóng ở khu vực Rạch Giồng, phía nam xã An Thới Đông, tiếp giáp xã Lý Nhơn thuộc rừng Sác huyện Nhà Bè sau hơn 20 ngày chốt trên đỉnh Eo ông.

Cuối tháng 4 năm 1946, bộ đội Tân Thuận và bộ đội Phú Xuân cùng hợp quân xuống núi, nhằm hướng đông mà đi, vượt liên tỉnh lộ số 2, vào tới Long Phước - một xã đông đúc dân cư nằm dọc phía bắc đường liên tỉnh lộ 52 - hạ trại. Hôm sau khoảng 9 giờ sáng một đại đội ngụy do một sĩ quan Pháp chỉ huy từ phía thị xã Bà Rịa theo lộ 52 hành quân tới. Đến ngã tư Hoà Long, nơi giáp nối giữa liên tỉnh lộ 2 và tỉnh lộ 52, chúng bắt đầu khai triển đội hình, tiến hành càn quét. Kết thúc cuộc càn, chúng thu vét được nhiều lúa gạo, bắt 70 con trâu và dồn hơn 40 người dân Long Phước ra bãi tập kết ban đầu, ý định ép họ về đồn. Theo dõi sát các hành động, ban chỉ huy hai đơn vị quyết định tổ chức trận tập kích ngay tại khu vực tập kết lực lượng của địch nhằm tiêu diệt sinh lực địch, cứu đồng bào, thu lại những thứ mà chúng đã cướp của nhân dân. Trận đánh diễn ra chớp nhoáng, ta hoàn toàn giữ thế chủ động. Bị bất ngờ, địch tỏ ra lúng túng, đối phó yếu ớt Gần hai trung đội địch mang theo vũ khí tháo chạy thoát thân. Ngay tối hôm đó, chính quyền, đoàn thể và nhân dân xã Long Phước tổ chức liên hoan khao thưởng ba quân.

Một ngày tháng Năm năm 1946, tại tổng hành dinh ở Rạch Nghệ, bộ chỉ huy liên chi đội 2 và 3 quyết định dời quân về đứng chân hoạt động trên chiến trường cũ - rừng Sác. Căn cứ vào khó khăn chung, trong điều kiện đảm bảo hậu cần của cấp trên còn nhiều hạn chế, bộ chỉ huy chủ trương khi trở lại rừng Sác, đơn vị, ban ngành nào vốn sinh ra ở đâu phải chủ động liên hệ với địa phương ở đó nhằm tranh thủ sự giúp đỡ của nhân dân, chính quyền đoàn thể hiện đang hoạt động bí mật giữa vùng địch chiếm, xây dựng và củng cố cơ sở cách mạng, tiến hành các hoạt động diệt tề trừ gian. Đồng thời tổ chức các trận phục kích, tập kích ngay trong lòng địch nhằm quấy rối. tiêu hao sinh lực địch, phá huỷ phương tiên chiến tranh của chúng, lấy súng đạn, vũ khí thu được trang bị cho bộ đội. Song song với nhiệm vụ trên đây, ban chỉ huy liên chi và chỉ huy các chi đội, đại đội bàn lạc thống nhất, tiến hành khảo sát thực địa khu vực dự định sẽ xây dựng thành căn cứ đứng chân lâu dài cho toàn bộ lực lượng, xác định rõ từng địa điểm cụ thể cho các đơn vị các cơ quan, ban ngành. Bộ chỉ huy nhắc nhở, trên cơ sở chủ động, tích cực liên hệ với quần chúng, giải quyết tốt việc tiếp tế giúp đỡ của nhân dân, xây dựng được hậu cứ  dừng chân lâu dài, các đơn vị kiên quyết, chủ động mở các hoạt động quân sự tiến công quân địch xung quanh khu vực rừng Sác nhằm cùng các đơn vị bạn bảo vệ vững chắc chiến khu.

Quyết định trở lại rừng Sác và những nhiệm vụ mà ban chỉ huy đề ra sau khi "xuống núi" đã được truyền đạt tới các đơn vị. Mọi công tác chuẩn bị được tiến hành gấp rút. Trong khi chuẩn bị, ban chỉ huy đại đội 1 và 3 (chi đội 2), đại đội 3 (chi đội 3 ) đã bàn bạc và quyết định phối hợp mở trận “giao thông chiến " trên quốc lộ 15 chặn đánh đoàn xe quân sự địch từ Vũng Tàu về Sài Gòn gây thanh thế cho bộ đội Bình Xuyên trước khi về lại chiến trường quen thuộc của mình.

Quốc lộ 15 bấy giờ còn lắm "cua", "cùi chỏ" với giăng giăng những cây rừng to cao, rậm rạp rải dọc ven đường. Căn cứ tình hình địch, ta và điều kiện địa hình, sau khi nắm chắc quy luật hoạt động của đoàn xe địch, chỉ huy ba đại đội chọn khu vực có "cùi chỏ" ngang bến ông Trịnh thuộc khu vực xã Phước Hoà làm nơi bố trí trận địa.

Để chặn đầu đoàn xe địch, ta bí mật bố trí mìn ngay giữa lòng đường. Hoả lực 13.2 ly sẽ làm nhiệm vụ khoá đuôi. Lợi dụng địa hình, địa vật mấp mô và những cây giá tỵ (gỗ tếch) mọc dày hai bên cùi chỏ, các đơn vị sẽ bố trí trận địa phục kích tại mé đông con đường, kéo dài ngót 500 mét và cách mặt đường chừng 15 mét - cự ly phát huy được uy lực tối đa của các loại vũ khí mà ta đang có trong tay. Một ban chỉ huy thống nhất trận đánh được cử ra, Nguyễn Văn Soái làm chỉ huy trường, Đỗ Văn Sáu Nhỏ làm chính trị viên, Nguyễn Văn Huỳnh, Nguyễn Văn Khoắn và Lương Văn Ngữ là chỉ huy phó. Theo mệnh lệnh của ban chỉ huy chung, các bộ phận khẩn trương xây dựng trận địa, triển khai bố trí lực lượng theo phương án tác chiến. Khi mọi công tác chuẩn bị cho trận đánh đã xong thì đoàn xe địch gồm 5 chiếc từ phía Vũng Tàu cũng vừa trờ tới, theo sau chiếc xe dẫn đầu chở hơn 1 tiểu đội lính Pháp đến xe gắn trung liên đang lăn bánh vào trận địa phục kích. Một ánh lửa loà nháng, theo sau là tiếng nổ xé tai, chiếc xe bị hất tung khỏi mặt đường và quay ngang, chặn mất lối đi. Lập tức, quân ta nổ súng tới tấp đánh vào 3 chiếc xe đi sau. Do duy trì cự ly trong khi hành quân, chiếc xe thứ 5 – chiếc đi sau cùng - kịp thời quay đầu chạy. Các chiến sĩ sử dụng trọng liên 13.2 ly rê nòng bắn đuổi nhưng không trúng. Chiếc xe tẩu thoát về Ô Cấp.

Trận phục kích diễn ra chớp nhoáng. Kết quả, ta tiêu diệt và bắt sống 50 sĩ quan, một trung đội lính bảo vệ, bắn cháy, bắn hỏng 4 xe quân sự, thu nhiều vũ khí; súng đạn. Đại đội 3, Chi đội 3 (bộ đội Tư Huỳnh) do phục kích ngay tại khu vực cụm xe 3 chiếc bị tiêu diệt nên thu được chiến lợi phẩm nhiều nhất, trong đó có 5 khẩu tiểu liên báng gỗ.

Thêm một lần, chiến thắng đường 15 của bộ đội Bình Xuyên làm nức lòng đồng bào, chiến sĩ phía đông nam thành phố Sài Gòn. Sau trận đánh, các đơn vị rời núi Eo ông, Hàm Rồng trở lại rừng Sác.


Tiêu đề: Re: Bộ đội Bình Xuyên
Gửi bởi: colorwind trong 17 Tháng Năm, 2008, 10:12:35 pm
Đầu tháng 6 năm 1946, đoàn quân lần lượt về tới khu vực tập kết. Đại đội 1 chi đội 3 (bộ đội Thủ Thiêm) và các bộ phận công binh xưởng, đơn vị pháo lớn đóng ở rừng Sác tại xã Phước An, huyện Long Thành. Các đơn vị khác chia quân trấn giữ các khu vực trên vùng đất hai xã An Thới Đông và Bình Khánh thuộc địa bàn rừng Sác huyện Nhà Bè, cách bộ đội Phú Thọ của Bảy Viễn 10 km. Bộ chỉ huy đặt tại ngã tư Bưng Bòng, khu vực phía trên của sông Rạch Lá - dòng sông ăn thông với con kinh Tây Đen đổ ra sông Lòng Tàu.

Với địa hình lầy thụt, đất đai chua mặn, rừng Sác miền Đông Nam Bộ tự bao đời vốn là miệt đất nghèo, dân cư thưa vắng. Diện tích trồng được lúa không đáng kể, mỗi năm được một vụ với năng suất rất thấp nên thiếu đói thường xuyên. Người dân quanh năm phải lặn lội đầu ghềnh, cuối bãi, bòn hái sản vật của rừng, của sông nước để trang trải cho cuộc sống thường ngày.

Trong điều kiện đó, giờ lại phải bao chứa hàng vạn cán bộ, chiến sĩ, nhân viên các cấp chính quyền, đoàn thể kháng chiến từ các huyện xung quanh đổ về, vấn đề cung cấp lương thực, thực phẩm và các nhu cầu thiết yếu trở nên khó khăn. Tình hình càng căng thẳng hơn do địch tiến hành phong toả, bao vây kinh tế. Lương thực đã vậy, nước ngọt đảm bảo cho cán bộ, chiến sĩ cũng là vấn đề nan giải.
Từ khu vực đóng quân, bộ đội phải đi một quãng đường khá dài, vượt hai con sông lớn là Lòng Tàu, Đồng Tranh và nhiều tắt rạch khác mới đến được ấp ông Kèo, Vũng Gấm, Bàu Bông là nơi có nước ngọt. Ngoài cách đó, anh em còn tổ chức lấy nước ngọt giữa dòng sông Nhà Bè và sông Soài Rạp. Muốn vậy, phải phục chờ nước ròng. bơi thuyền ra, nhanh tay múc lấy thứ nước lợ từ sông Đồng Nai đổ xuống. Thời gian đó chỉ diễn ra trong chốc lát chừng nửa tiếng đồng hồ.

Qua một lần trót lọt, việc lấy nước ngọt gặp khó khăn hơn, địch dò biết và tổ chức phục kích. Nhiều lần, chúng bắn chìm ghe thuyền của ta, giết hại nhiều cán bộ chiến sĩ. Nước ngọt cho bộ đội phải đổi bằng mồ hôi và cả máu !

Tháng 6 năm 1946, ban chỉ huy liên chi 2-3 nhận được chỉ thị của Bộ Tư lệnh Khu 7, yêu cầu tổ chức một lực lượng gồm một tiểu đoàn trang bị vũ khí tốt tham gia Liên quân C, tới hoạt động trên địa bàn huyện Đức Hoà (Chợ Lớn) và Châu Thành (Tây Ninh) - khu vực thuộc Quân khu Đông Thành, nơi hiện đặt bản doanh Bộ Tư lệnh Khu 7. Nguyên địch đang triển khai kế hoạch mang mật danh Essaie Cao Daiste" nhằm lôi kéo kích động bọn phản động trong giáo phái Cao Đài gây rối loạn. Tháng 5 năm 1946, lợi dụng tên tuổi Trần Quang Vinh và Phạm Công Tắc bị đày ở Mađagascar vừa được thả về, chúng cho Vũ Tam Anh, một nhân viên phòng nhì của Pháp hiện làm chủ tịch “Liên hiệp quốc gia" theo sát Vinh, Tắc. Số người đội lốt lãnh tụ giáo phái Cao Đài này ráo riết tiến hành các hoạt động chống phá cách mạng. Họ tổ chức ra Bát Quái Đài - phụ trách quân sự, tiến hành thành lập lực lượng võ trang gồm các đội: Hắc y, Thành vệ y, Lưu Động, Lưu Thư... Lực lượng này do Pháp trang bị, huấn luyện dưới sự chỉ huy của một đại tá Pháp. Tất cả nằm trong kế hoạch lật đổ chính quyền cách mạng ở Tây Ninh, tiêu diệt lực lượng võ trang của ta.

Sau một thời gian dài kiên nhẫn thực hiện chủ trương mở rộng mặt trận đoàn kết dân tộc không thu được kết quả đáng kể, nhằm hạn chế khu vực hoạt động của quân đội Cao Đài phản động, tạo điều kiện cho bộ đội tác chiến đánh địch trên các chiến trường, tháng 2 năm 1947, Bộ Tư lệnh Khu 7 quyết định thành lập một số Liên quân đặc nhiệm:

1. Liên quân A: phụ trách mặt đông bắc Tây Ninh giáp với Campuchia, ngăn chặn sự liên hệ. móc nối của bọn phản động trong đạo Cao Đài với các sóc ở Công Pông Chàm, Soài Riêng.

2. Liên quân B: chặn mặt đông nam Tây Ninh, không cho chúng tràn về Gia Định. Chi đội 15 giữ chặt phía bắc tỉnh Chợ Lớn.

3. Liên quân C: chặn mặt nam tỉnh Tây Ninh, không cho chúng xuôi dòng Vàm Cỏ Đông tràn xuống Tân An.

Nhận rõ tầm quan trọng của nhiệm vụ, Bộ chỉ huy Liên chi 2-3 điều gần phân nửa lực lượng đi chiến đấu trong Liên quân C, đồng thời cử hai chi đội phó có năng lực chỉ huy và kinh nghiệm chiến đấu là Nguyễn Văn Soái, Lê Văn Lung chỉ huy bộ phận này. Một số cán bộ như Lương Văn Ngữ, Nguyễn Văn Ích, Trần Ngọc Hoà, Fu-ta-ga-mi (hạ sĩ quan Nhật bỏ ngũ gia nhập bộ đội Tân Thuận). Phạm Văn Xướng cũng có mặt trong đội hình Liên quân C.

Từ trung tâm rừng Sác, bộ đội hành quân về khu vực ô trũng rìa Đồng Tháp Mười, mặt tây bắc, cách Sài Gòn 20 km. Sau gần 14 tháng chiến đấu ác liệt, hoàn thành nhiệm vụ, họ mới trở về đơn vị cũ.

Trong lúc đó ở Sài Gòn, ban lãnh đạo Liên hiệp Công đoàn thành phố bí mật tổ chức quyên góp trong các tầng lớp nhân dân, lấy tiền mua thực phẩm, thuốc men và các vật dụng sinh hoạt thiết yếu khác tiếp tế cho bộ đội còn ở căn cứ rừng Sác. Ban lãnh đạo giao cho một cán bộ công đoàn tên là Tiễn lo liệu chuyển tải các đồ tiếp tế từ Sài Gòn vào chiến khu. Trong suốt gần 3 tháng, đoàn ghe lớn nhỏ có mui trọng tải 4 tấn/chiếc đã ngụy trang thành các ghe từ đồng bằng sông Cửu Long tới Sài Gòn bỏ hàng rồi mua thực phẩm và các nhu yếu phẩm, xuôi theo sông Sài Gòn, Nhà Bè, Soài Rạp, rẽ trái vào dòng Rạch Lá tiếp tế cho bộ đội. Trong vòng 3 tháng 6, 7, 8 sau khi chuyển trót lọt 6 chuyến cho bộ đội Bình Xuyên, việc tiếp tế này bị địch phát hiện, ngăn chặn. Hai ghe chở đầy hàng bị chúng bắn chìm.


Tiêu đề: Re: Bộ đội Bình Xuyên
Gửi bởi: colorwind trong 17 Tháng Năm, 2008, 10:30:22 pm
Một tháng hai kỳ, các đơn vị bộ đội Bình Xuyên nhận được một số lương thực thực phẩm và các vật dụng khác từ Sài Gòn bí mật chuyển tới. Trong số các đơn vị, Đại đội 3, Chi đội 2 (bộ đội Tân Thuận) có quân số đông nhất (trên 300 người) được lãnh mỗi kỳ một số hàng như sau: một thùng mỡ heo (loại thùng thiếc 20 lít), một thùng dầu thắp sáng, một ít thuốc rê, giấy bút và thuốc trị bệnh, kim chỉ, khoảng 100 trái bí rợ (bí ngô) và một số bí đao, một chục kg khô cá lóc, cá sặt.

Trung tuần tháng 6 năm 1946, tại Ba Giồng, Bảy Viễn mời đại diện chỉ huy quân sự các chi đội 2, 3, 4, 7, 9, 2 1 và 25 về hội nghị tuyên bố lập "Liên khu Bình Xuyên". Danh xưng của bộ đội Bình Xuyên từ đây bắt đầu bị lợi dụng. (Và đó là lý do để không ít người hiểu lầm, lấy danh từ Bình Xuyên gán cho một số đơn vị võ trang có thành phần hợp thành từ những tay anh chị giang hồ, như bộ đội Bảy Viễn...).

Tháng 9 năm 1946, bộ chỉ huy liên chi 2 và 3 hành quân về khu vực nam xã Phước An, huyện Long Thành, tỉnh Biên Hoà, vùng cực bắc chiến khu rừng Sác, nơi trước đây Dương Văn Dương, Từ Văn Ri đã chọn làm nơi đóng quân, xây dựng thành căn cứ đứng chân lâu dài. Địa điểm đóng quân cách xa các chi đội 9, 21, 25 và tổng hành dinh Lê Văn Viễn hơn 20 km đường rừng qua các dòng sông rộng như Lòng Tàu, Đồng Tranh. Bộ chỉ huy liên chi đóng ở Rạch Tràm, phía nam ấp Bàu Bông.

Đội hình của Chi đội 2 đóng ở xã Phước An (đại đội của Ba Bay, Chín Phải) và rạch Cá Nâu (đại đội của Sáu Thơ). Chi đội 3 đóng ở khu vực Bàu Bông (đại đội của Bảy Môn, Ba Trứ và Tư Huỳnh).

Các đơn vị súng lớn trực thuộc bộ chỉ huy liên chi nằm sâu trong rừng Sác, Phước An. Một bộ phận binh công xưởng do Lương Văn Chắc làm giám đốc đặt tại rạch Vàm Tượng. Bộ phận binh công xưởng khác đóng ở đông nam vùng Rạch Su sâu trong rừng Sác.

Trên con kênh thẳng băng, đoạn chắn ngang nằm giữa ấp Bàu Bông và vàm Rạch Tràm là nơi đặt bệnh viện - cách khu vực đất liền của ấp Bàu Bông ngót 3km đường chim bay. Sau khi ổn định nơi ăn, chốn ở toàn bộ lực lượng của bộ đội Bình Xuyên đã tiến hành các mặt công tác biến khu vực đóng quân ở cực bắc rừng Sác thành căn cứ đứng chân lâu dài.

Thực hiện chủ trương đề ra trước đây tại khu vực núi Eo ông, Hàm Rồng, các đơn vị lại móc nối, liên hệ với các cấp ủy chính quyền, đoàn thể kháng chiến và các cơ sở cách mạng hiện còn trụ bám và hoạt động bí mật ở Cần Giuộc, Cần Đước (tỉnh Chợ Lớn): vùng đất liền Nhà Bè, Thủ Thiêm, các xã An Khánh, Thạnh Mỹ Lợi (tỉnh Gia Định); Hoà Tân, Hoà Lạc... (tỉnh Gò Công); các vùng Phú Nhuận, Tân Định, Thị Nghè, Bà Chiểu (thành phố Sài Gòn)... Tùy điều kiện địa  phương, các đơn vị bộ đội Bình Xuyên phối hợp với chính quyền, đoàn thể đẩy mạnh phong trào kháng chiến, xây dựng cơ sở cách mạng, tiến hành hoạt động võ trang, diệt ác, phá tề. Các vụ trừng trị tên Toàn mật thám ở thị trấn Cần Giuộc, tên Ách Thế ở Kiểng Phước, Gò Công, tên chỉ điểm Lầu gần nghĩa trang liệt sĩ Nhà Bè... có ảnh hưởng tốt trong nhân dân, làm cho bọn tay sai, tề điệp phải dè chừng.

Nhiều đơn vị tổ chức lực lượng nhỏ (tiểu đội, tổ, nhóm) bí mật vượt sông Nhà Bè, Soài Rạp, đột nhập sâu vào vùng địch chiếm đóng, tiến hành các trận phục kích nhỏ, các đoàn xe vận tải của địch, ca nô tuần tiễu, các đoàn ghe chở lính đi càn quét nhầm tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch, phá huỷ, phá hỏng các phương tiện chiến tranh của chúng. Ở khu vực đất liền Nhà Bè, bộ đội Tân Thuận từ Rạch Tràm vượt sông Nhà Bè rộng 2 km kỳ tập đồn Phú Mỹ giữa ban ngày, thu nhiều, súng đạn rồi nhanh chóng thu quân về căn cứ.

Công tác địch ngụy vận cũng được chú ý. Bộ đội Tân Thuận vận động 14 binh sĩ người Việt canh gác các kho chứa hàng xuất nhập khẩu trên bến cảng Tân Thuận. 14 người này đã mang theo súng xuống chiến khu rừng Sác gia nhập bộ đội Bình Xuyên.

Tại chiến trường Bà Rịa, từ mùa thu năm 1946, địch tăng cường đẩy mạnh hoạt động càn quét ruồng bố. Thực hiện mệnh lệnh của trên, chi đội 2 lập một đại đội bộ đội lưu động tới phối hợp với chi đội 16 hoạt động trên địa bàn Bà Rịa. Chỉ huy trưởng 3 đại đội (1, 2 và 3) của chi đội 2 luân phiên chỉ huy trường đại đội lưu động này.

Một ngày tháng 7 năm 1946, đội quân lưu động dời căn cứ hành quân đến khu vực rừng Sác Bà Rịa. Sau khi tập kết trên địa bàn mới, đơn vị lưu động liên tục có mặt ở chiến khu Minh Đạm, Xuyên Mộc, Phước Bửu, Cơ Trạch, Rừng Tre, Bàu Lâm, Châu Pha, Hắc Dịch... Trong các trận chiến đấu hàng chục cán bộ chiến sĩ chi đội 2 đã vĩnh viển nằm lại chiến trường Bà Rịa.


Tiêu đề: Re: Bộ đội Bình Xuyên
Gửi bởi: colorwind trong 17 Tháng Năm, 2008, 10:35:16 pm
Bước sang năm 1947, huyện Long Thành, khu vực tiếp giáp phía bắc, đông bắc chiến khu rừng Sác bị địch uy hiếp nặng nề. Nhằm hỗ trợ phối hợp với lực lượng võ trang tỉnh Biên Hoà ở Long Thành. Bộ đội lưu động này do Nguyễn Văn Khoắn làm chỉ huy trưởng. Đến cuối năm 1947, đơn vị bộ đội lưu động Long Thành được tăng cường thêm hai trung đội. Liên chi đội còn tổ chức nhiều phân đội nhỏ, bí mật luồn sâu vào nội ô thị trấn và các xã địch hậu như Long An, Bà Ký, Tuy Long, Nhà Mát, Xóm Trầu... kết hợp với lực lượng tại chỗ, tiến hành các hoạt động chiến tranh du kích. Trong một trận đánh địch từ thị trấn Phước Lý - (gần kho đạn Thành Tuy Hạ) tới càn quét ấp Xoài Minh và ấp ông Kèo, bộ đội lưu động Long Thành đã cơ động hình thành các mũi trận đánh, loại khỏi vòng chiến đấu một số tên buộc chúng phải bỏ dở cuộc hành quân càn quét, bỏ lại những thứ đã cướp của dân. Trong một trận chiến đấu khác ở khu vực sở cao su Hêlêna thuộc Công ty cao su SIPH của tư bản Pháp, bộ đội Bình Xuyên đã phục kích diệt gọn 2 tiểu đội lính Pháp, thu toàn bộ vũ khí, trong đó có một khẩu trung liên Prenn.

Những hoạt động tác chiến trên đây của bộ đội lưu động Long Thành cùng với hoạt động của các đơn vị bạn đã góp phần đẩy lùi áp lực quân sự của địch ở Long Thành, góp phần từng bước giành quyền chủ động chiến trường trên khu vực này của tỉnh Biên Hoà.

Tại địa bàn ngoại ô phía nam, đông nam thành phố Sài Gòn, ở các vùng địch hậu của tỉnh Gò Công và Chợ Lớn, các vùng đất liền của Nhà Bè, các khu vực thuộc xã An Khánh, Thạnh Mỹ Lợi, Thủ Thiêm (huyện Thủ Đức), lực lượng còn lại của Chi đội 2 và 3, thường xuyên tổ chức đánh địch. Đây là địa bàn quen thuộc của bộ đội Bình Xuyên từ giữa năm 1946, bộ đội Gò Công, Cần Đước, Cần Giuộc, Phú Xuân, Nhơn Đức, Tân Quy, Tân Thuận, Thủ Thiêm... mở rộng các hoạt động quân sự, địch ngụy vận quyên góp tiền bạc trong các tầng lớp nhân dân địa phương, lập thêm các ban sưu tầm vũ khí, khai thác và thu mua máy móc, nguyên - hoá liệu để sửa chữa và sản xuất vũ khí. Bộ đội Tân Quy, Tân Thuận, Thủ Thiêm được chính quyền và nhân dân vùng tiếp cận nội ô ủng hộ đã tổ chức thành những phân đội nhỏ, bí mật vào thành phố, tập kích vào Portdechalanndes ở Quận 4, đốt cháy cơ sở kinh tế quan trọng này của địch. Chiến sĩ Bình Xuyên còn đột nhập bến cảng của Annexe Fortrede com- merce nằm giữa hải cảng quốc tế Sài Gòn, đoạt chiếm một tàu kéo 2.000 sức ngựa đưa về rừng Sác. Ngay sau đó, địch sử dụng máy bay trinh sát quần lượn trên bầu trời chiến khu rừng Sác hòng phát hiện nơi dấu ém chiếc tàu này nhưng cây rừng đã che mắt chúng. Nhằm giải quyết khó khăn về lương thực, thực phẩm, bộ đội nhiều lần tổ chức các phân đội nhỏ bí mật tiếp cận quân cảng Nhà Bè, đánh chiếm chiếc cầu nổi, khống chế quân địch, tạo điều kiện để hàng chục ghe thuyền của ta áp sát cầu tàu, lấy hàng hoá của địch. Bằng cách này ta thu được tương đối hàng hoá Mỹ viện trợ cho thực dân Pháp bao gồm máy móc, văn phòng phẩm và các thứ thực phẩm khô, đường sữa...

Các hoạt động này đặt vùng chiếm đóng sâu của địch ở vào thế bị uy hiếp, bị đe dọa tiến công thường xuyên. Chúng phải dàn mỏng lực lượng, bị động đối phó.

Thực hiện chỉ thị của Khu về việc đẩy mạnh kháng chiến lập thành tích chào mừng các ngày lễ lớn năm 1947, Bộ chỉ huy Liên chi 2-3 quyết định sử dụng pháo 24 ly tiến công địch trong huyện lỵ Nhà Bè, thiết thực kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động 1-5.

Bấy giờ, bộ đội Bình Xuyên có nhiều loại hoả lực: cối, trọng liên 13.2 ly, 12,7 ly..., trong đó có cả pháo hai nòng kép cỡ 24 ly. Đây là khẩu pháo lấy được từ chiếc tàu chiến Lamotte Picgué của Pháp bị Nhật đánh chìm khi đang neo đậu bên bờ đối diện của căn cứ thuỷ phi cơ thuộc căn cứ hải quân Cát Lái, Cò Gió, người phụ trách sưu tầm binh khí, đã cùng bộ đội Thủ Thiêm tổ chức mò lặn, tháo gỡ vào cải tiến lại nòng. Người công nhân lành nghề Cai Hiêm đã tách đôi thành hai khẩu. Đây là khẩu pháo có thể bắn liên thanh. Đạn từng gắp, mỗi gắp 20 viên.

Từ Phước An, bộ đội vượt quãng đường 30km chuyển pháo tới phía tây chiến khu rừng Sác, bố trì ở bờ đông sông Nhà Bè, đối mặt với trung tâm huyện lỵ qua mặt sông rộng gần 2km. 22 giờ 10 phút đêm mùng 1 tháng 5 năm 1947, đại bác ta bất ngờ gầm vang, róc đạn vào các mục tiêu trong huyện lỵ. Trận đánh chớp nhoáng, diễn ra trong 10 phút. Rồi bộ đội nhanh chóng rút khỏi trận địa, đưa pháo trở về nơi cũ an toàn.

Trận đánh gây nên chấn động mạnh! Sau trận tấn công vào huyện lỵ Nhà Bè, các đơn vị bộ đội Bình Xuyên lại cùng với quân và dân miền Đông Nam Bộ chủ động tỏa ra tìm giặc đánh trên khắp chiến trường. Những ngày cuối năm 1947, đơn vị đã góp phần xuất sắc trong đợt hoạt động phối hợp với chiến dịch Việt Bắc ở chiến trường phía nam đông nam thành phố Sài Gòn. Có thể nói từ sau cuộc hành quân xa về miền Tây đến cuối năm 1947 và quãng thời gian bộ đội Bình Xuyên củng cố lại lực lượng, xây dựng đơn vị thành tổ chức võ trang tương đối mạnh về chất lượng và hoàn chỉnh về biên chế tổ chức, xác định một lối chọn trụ bám và tác chiến trên chiến trường tại chỗ - chiến trường miền Đông!
 
Và cũng trong thời gian này, ở chiến trường này, trong bộ đội Bình Xuyên và những đơn vị có thành phần hợp thành là những anh chị giang hồ, bắt đầu xuất hiện sự phân hoá và cùng với nó là sự sàng lọc khắc nghiệt của lịch sử.


Tiêu đề: Re: Bộ đội Bình Xuyên
Gửi bởi: colorwind trong 17 Tháng Năm, 2008, 10:54:16 pm
Chương VI

CHIẾN KHU MA VÀ CUỘC THANH TRỪNG


Chiến khu rừng Sác nằm ở phía đông nam thành phố Sài Gòn - mảnh đất của những rừng sác bạt ngàn mọc trên đất đai lầy thụt, có nơi những cù lao, gờ nổi vắng thưa bóng người, đượm màu sắc hoang liêu cô biệt. Sau khi địch đánh rộng ra xung quanh, phá vỡ các tuyến mặt trận bao vây thành phố, nhiều cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể kháng chiến cùng các nhóm võ trang đã rút về đây, dựa vào thế hiểm yếu của địa hình trụ bám và tiếp tục hoạt động.

Chiến khu rừng Sác ra đời, trở thành nơi đứng chân của hàng chục cơ quan, đoàn thể, đơn vị võ trang. Là vùng rừng có tổng diện tích 60 ngàn ha trải trên địa bàn 3 huyện thuộc 3 tỉnh khác nhau, nối thông với những dải rừng Giồng rậm rì trong thế trận đồ bát quái; với hàng trăm ngàn sông rạch lớn nhỏ, trong đó quan trọng nhất là con sông Lòng Tàu - huyết mạch nơi Sài Gòn với biển Đông... Chiến khu rừng Sác chiếm giữ vị trí có tầm quan trọng về quân sự, chính trị, kinh tế đối với cả ta và địch. Đây từng là nơi tập kết quân của người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ, là căn cứ của nghĩa quân Trương Định, là giang sơn của những tay hảo hớn giang hồ. Bọn thống trị đã ngán sợ và kinh hoàng mỗi lần nghe tên những vùng tử địa như An Thịt, An Thổ, Bà Kiểng, Bà Đãi, Bà Nghĩa, Rạch Lá, Lý Trung, Lý Ngãi... nằm trong rừng Sác.

Khi chiến khu rừng Sác hình thành, bao chứa nhiều đơn vị lực lượng võ trang, trong đó có bộ đội Bình Xuyên, vùng đất này càng trở thành nỗi lo sợ nhức nhối trong tâm não của bọn xâm lược Pháp. Không ít lần, chúng xua quân tấn công hòng tiêu diệt nhưng mọi nỗ lực quân sự đã không đem lại kết quả. Từ đầu năm 1948, thực dân Pháp chuyển hướng chiến lược chiến tranh, từ đánh nhanh giải quyết nhanh sang đánh kéo dài, tập trung lực lượng bình định vùng đã chiếm đóng và lấn chiếm vùng tự do của ta. Một trong những biện pháp nhằm thực hiện chủ trương trên là sử dụng thủ đoạn chiến tranh gián điệp, kết hợp với các đòn tiến công bằng kinh tế, chính trị, quân sự làm tê liệt, vô hiệu hoá chiến khu của ta, làm cho chiến khu của ta trở thành chiến khu hình thức, chiến khu "ma". Chiến khu rừng Sác là một trong những đối tượng số một của kế hoạch này.

Và Lê Văn Viễn "lọt vào mắt xanh" của Pháp. Lê Văn Viễn tự Bảy Viễn, sinh năm 1904, trong một gia đình địa chủ ở xã Phong Đước, huyện Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn. Như bao con cái trong một gia đình giàu có, tuổi thơ của Bảy Viễn trôi trong nhung lụa. Tính khí ngỗ ngược hơn bè bạn cùng trang lứa, cậy thế ở gia đình. Viễn lêu lổng, ít học hành... 13 tuổi, Viễn bỏ nhà đi bụi, lang bạt giữa thành phố Sài Gòn đen đỏ. Thoạt đầu, Viễn quẩn quanh khu vực trường đua Phú Thọ, tiếp xúc với đám trẻ lưu manh, tiêm nhiễm những thói hư tật xấu của giới bụi đời, học được cách kiếm tiền một cách bất chính. Khi trở thành một thanh niên cường tráng, Viễn đã có xung quanh một đám "đàn em" đông đảo hành nghề trấn cướp xe đò, ghe thương hồ, đột nhập các tiệm vàng ở vùng chợ Thiếc, An Bình, bến Hàm Tử vùng dọc theo đường Phạm Thế Hiển, từ cầu Rạch ông đến cầu Mật. Dữ dằn, táo tợn trong cung cách hành nghề, hoang tàn trong tiêu xài tiền bạc, Bảy Viễn nhanh chóng trở thành tay anh chị "có cỡ" khiến nhiều băng nhóm khác phải kiêng nể.

Tiền bạc do kiếm dễ như thò bàn tay lấy vật trong túi Bảy Viễn sắm 3 chiếc Locaxông, mở rộng địa hạt "làm ăn" xuống tận vùng nông thôn quận phía nam Sài Gòn, nhằm vào đám tiểu chủ, hương cả, chủ tiệm vàng...

Như nhiều anh chị bấy giờ, Bảy Viễn không ít bận vào tù Ba lần bị kết án từ 10 đến 15 năm tù khổ sai, bị đày ra Côn Đảo, Bảy Viễn đều trốn ngục, kết bè, vượt biển, trở lại đất liền, tiếp tục nghiệp cũ. Về phương diện đó, nhà tù Pháp cũng góp phần làm cho Bảy Viễn càng thêm nổi tiếng.

Lại Hữu Tài (Năm Tài), một nhân viên phòng nhì Pháp, được giao nhiệm vụ tiếp cận và lung lạc Bảy Viễn. Vốn là nhân viên của Ty mật thám Sài Gòn hồi trước Cách mạng tháng Tám, Tài chẳng lạ gì Viễn. Đôi lần, chính hắn đã “giúp" Viễn thoát vòng tù tội. Nợ ân thì trả nghĩa, đó là mặt tích cực trong luật giang hồ. Cách mạng tháng Tám bùng nổ, Tài theo về với Bảy Viễn. Phần vì nghĩa cũ, phần vì lượng sức mình trí kém mưu nông, Bảy Viễn trọng dụng Tài, ban cho Tài chức "Tổng thơ ký mặt trận địa phương Sài Gòn - Chợ Lớn ".

Từ năm 1946. giặc Pháp xúc tiến thành lập "Mặt trận quốc gia liên minh" thâu góp các đảng phái phản động, tập hợp bọn tay sai, bọn đầu hàng, phản bội... Trong bối cảnh này, địch tìm cách nắm Bảy Viễn, đưa Bảy Viễn len sâu vào chiến khu rừng Sác, lôi kéo và nắm lấy các đơn vị bộ đội có thành phần hợp thành vốn là dân anh chị giang hồ trước đây, tạo thành bộ phận cùng với bọn phản động trong giáo phái Cao Đài, Hoà Hảo, hình thành trên một liên minh cả về chính trị lẫn quân sự, tạo nền tảng cho "Mặt trận quốc gia liên minh" phát huy tác dụng, làm hậu thuẫn cho sự tồn tại của chính phủ bù nhìn.


Tiêu đề: Re: Bộ đội Bình Xuyên
Gửi bởi: colorwind trong 17 Tháng Năm, 2008, 11:01:46 pm
Thượng tuần tháng 2 năm 1946, nghe tin bộ đội Bình Xuyên vừa từ Bến Tre trở về, Dương Văn Dương không còn nữa, Trần Văn Đối tạm thời giữ chức chỉ huy trưởng bộ phận hành quân. Bảy Viễn và Lại Hữu Tài (đằng sau là phòng nhì Pháp) cho đây là cơ may để thực hiện ý đồ bá chủ Bình Xuyên. Sau khi liên hệ với Trần Văn Đối, tìm sự hậu thuẫn trong bộ đội Bình Xuyên, Bảy Viễn rời Vườn Thơm - Chợ Lớn, đem theo toàn bộ lực lượng về đóng tại An Thới Đông, trên khu vực tắt Cây Mắm. Cách tiềm nhập nửa úp nửa mở của lực lượng Bảy Viễn không khỏi khiến nhiều người trong bộ đội Bình Xuyên xì xào, dị nghị.

Với sự có mặt của Bảy Viễn, cùng các thủ đoạn của y do Năm Tài dàn dựng... khối đoàn kết gắn bó của bộ đội Bình Xuyên bắt đầu bị ảnh hưởng. Trong đội ngũ cán bộ chỉ huy, Bảy Viễn đã lôi kéo được một số người.

Sau khi thất bại trong ý định đoạt chức tư lệnh Bình Xuyên, cùng với bộ đội Bình Xuyên, Bảy Viễn đem lực lượng của mình theo về khu vực rừng Giồng, quận Châu Thành, Bà Rịa. Chẳng bao lâu, Viễn và Tài tách khỏi bộ đội Bình Xuyên, rời núi Eo ông, đưa quân về hạ trại ở Ba Giồng, vùng nam xã An Thới Đông, nơi giáp với xã Lý Nhơn, thuộc địa bàn rừng Sác. Tại đây, bộ đội Phú Thọ được Nguyễn Bình quyết định tổ chức thành Chi đội 9 do Lê Văn Viễn làm chi đội trưởng. Lại Hữu Tài được Bảy Viễn trao chức bí thư của Bảy Viễn.

Ngày 12 tháng 4 năm 1946, thay mặt Bộ Tư lệnh Khu 7, Nguyễn Bình gửi thư cho bộ chỉ huy liên chi đội 2 và 3 Bình Xuyên, chính thức chấp thuận kết quả bầu Dương Văn Hà làm chỉ huy trưởng của cuộc họp các cán bộ chỉ huy bộ đội Bình Xuyên.

Đầu tháng 6, toàn bộ bộ đội Bình Xuyên về lại rừng Sác, đóng cách Chi đội 9 của Bảy Viễn 10 km đường chim bay. Trong khi đó, tại tổng hành dinh của Bảy Viễn xuất hiện thêm một nhân vật mới: Lại Văn Sang, Lại Văn Sang tức Tư Sang, là anh ruột của Tài. Bảy Viễn cùng Tài, Sang ráo riết mua chuộc, lôi kéo thêm một số người trong ban chỉ huy các chi đội, đại đội, dùng số người này để tiếp tục tăng cường ảnh hưởng trong đơn vị.

Vào trung tuần tháng 6- 1946, nhân danh chi đội trưởng Chi đội 9. Bảy Viễn mời chi đội trưởng, chi đội phó các chi đội 2, 3, 4, 7, 21, 25 đến Ba Giồng bàn việc lập " Liên quân các chi đội", với lý do: để thống nhất và tăng cường lực lượng đánh Pháp. Chính trị viên các chi đội - thành viên của ban chỉ huy chi đội - không được mời.

Vào hội nghị. chương trình nghị sự gây bất ngờ đối với không ít người dự họp. Thay cho việc lập "liên quân các chi đội” đặng tăng cường sức mạnh đánh Pháp như giấy mời ghi rõ hội nghị xoay ra bàn việc thống hợp các chi đội về một mối do Bảy Viễn quản lãnh. Phần vì cả nể trước sự tiếp đãi của chủ nhà, phần vì chưa lường định hết những gì sẽ diễn ra sau đó, đa số đại biểu đã xuôi theo đề nghị của Bảy Viễn. Hội nghị quyết định thành lập "Liên khu Bình Xuyên", bao gồm lực lượng các chi đội 2, 3, 4, 7, 21, 25 và cử Bảy Viễn làm tổng chỉ huy.
Bộ đội Bình Xuyên, tên gọi của bộ đội Dương Văn Dương và bộ đội Nguyễn Văn Mạnh nay trở thành danh xưng của cả những đơn vị vốn không phải Bình Xuyên. Danh từ Bình Xuyên từ đây được dùng để chỉ cho tất cả các chi đội nêu trên [13] .

Cùng với diễn biến ngày càng phức tạp trong lòng chiến khu rừng Sác, tại chiến khu Đ và quân khu Đông Thành, địch đẩy mạnh cuộc tiến công nhằm vào khu vực đặt sở chỉ huy khu bộ Khu 7. Các cuộc chiến đấu chống càn diễn ra quyết liệt và liên tục. Trong tình hình đó, Tư lệnh Nguyễn Bình nhận được báo cáo của Bảy Viễn, trong đó trình bày diễn biến và kết quả hội nghị Ba Giồng. Thay mặt Bộ Tư lệnh, Nguyễn Bình nhất trí kết quả của hội nghị thành lập Liên khu Bình Xuyên, đồng thời để tranh thủ thêm lực lượng bộ đội đông đảo này và cá nhân Bảy Viễn, ông báo cáo lên cấp trên đề nghị bổ nhiệm tổng chỉ huy Liên khu Bình Xuyên Lê Văn Viễn giữ chức khu bộ phó Khu 7.

Trong thâm tâm ông muốn đối xử với con người này như đối với Dương Văn Dương trước đây.

Từ sau hội nghị Ba Giồng, khu vực gần địa bàn xóm Tiều và xung quanh thuộc xã Lý Nhơn - nơi đặt tổng hành dinh Liên khu Bình Xuyên huyên náo hẳn lên. Trong khi các đơn vị cơ quan, ban ngành trong chiến khu hết sức khó khăn, thiếu thốn thì tình hình tại đây khác hẳn. Hàng quán mọc lên, người qua kẻ tới tấp nập. Ngày lễ đón nhận quyết định đề bạt khu bộ phó, Bảy Viễn tổ chức linh đình. Đây là dịp Bảy Viễn khuếch trương thanh thế, đãi bằng khách khứa gần xa. Tiệc tùng ăn uống kéo dài suất tuần lễ.

13. Trước thời điểm xuất hiện "Liên khu Bình Xuyên", ngoài chi đội 2 và 3 mang tên Bình Xuyên và chi đội 7 vốn ở đất Bình Xuyên, Chánh Hưng, các đơn vị khác chưa có tên bộ đội Bình Xuyên. Chi đội 4 có tên là "bộ đội Bà Quẹo" "bộ đội Mười Trí" thoạt đầu hoạt động vùng Bà Quẹo, Gò Mây, Vĩnh Lộc. Lực lượng của Bảy Viễn lúc đầu gồm 11 trung đội mang tên "bộ đội Phú Thọ", "bộ đội Bảy Viễn". Chi đội 21 ban đầu là "bộ đội cầu ông Thìn" hoặc bộ đội Tư Hoạnh. Còn chi đội 5 là "bộ đội An Điền" hay "bộ đội Tư Ty"...


Tiêu đề: Re: Bộ đội Bình Xuyên
Gửi bởi: colorwind trong 17 Tháng Năm, 2008, 11:20:35 pm
Hai anh em Tài, Sang xúi Viễn đặt các "trạm thu thuế lâm sản" trên địa bàn rừng Sác nhằm lấy tiền nuôi lính, hình thành các ban "địch vận", "trừ gian" và "tình báo" trực thuộc Tổng hành dinh Liên khu.

Dù vậy bọn cầm đầu phòng nhì và Bảy Viễn vẫn không sao chi phối được phần lớn cán bộ chiến sĩ trong 7 chi đội thuộc quyền, không tách nổi đa số các chi đội khỏi hệ thống chỉ huy trực tiếp của Bộ Tư lệnh Quân khu 7, càng không thể biến các chi đội đó thành lực lượng thù địch với nhân dân, với kháng chiến.

Tổ chức cơ sở Đảng và hệ thống chính trị viên trong các chi đội đã tích cực hoạt động và phát huy vai trò, hiệu lực của mình trong công tác lãnh đạo chính trị, tư tưởng và tổ chức bộ đội.

Trước tình hình này, bọn phòng nhì Pháp quyết giành thế chủ động. Thông qua Tài, Sang, chúng xúi Bảy Viễn lập ra bộ tham mưu Tổng hành dinh Khu bộ phó Khu 7. Về thực chất bộ tham mưu sẽ hoàn toàn thuộc quyền chi phối của cơ quan phòng nhì Pháp, sẽ là nơi chúng tổ chức và triển khai thực hiện các thủ đoạn nhằm biến rừng Sác thành một chiến khu kháng chiến trên hình thức, chiến khu ma, nơi tập kết lực lượng phản cách mạng.

Tháng 3 năm 1947. lấy tư cách Tổng chỉ huy Liên khu Bình Xuyên và khu bộ phó Khu 7, Bảy Viễn triệu tập chỉ huy trưởng 7 chi đội thuộc quyền về Tổng hành dinh Liên khu tại tắt Cây Mắm họp hội nghị. Trong hội nghị này, Bảy Viễn trình bày trước đại biểu dự thảo nghị quyết thành lập bộ tham mưu trực thuộc Tổng hành dinh Liên khu Bình Xuyên, đồng thời là Tổng hành dinh khu bộ phó Khu 7, trên địa bàn chiến khu rừng Sác. Theo dự thảo nghị quyết, 7 chi đội đứng trong Liên khu Bình Xuyên phải chịu sự lãnh đạo, chỉ huy trực tiếp của bộ tham mưu này. Bộ tham mưu có toàn quyền xây dựng phương hướng, kế hoạch quân sự, có quyền điều động lực lượng, điều động sắp xếp đội ngũ cán bộ, chiến sĩ trong 7 chi đội. Bộ tham mưu có nhiệm vụ thay mặt các chi đội trực tiếp nhận mệnh lệnh, chỉ thị của cấp trên và ngược lại báo cáo toàn bộ tình hình các chi đội lên cấp trên. Mọi chủ trương, đường lối, chính sách, mọi mệnh lệnh, chỉ thị, chỉ lệnh của cấp trên gửi xuống đều qua Bộ tham mưu xét duyệt, phê chuẩn mới được chuyển xuống các chi đội. Bộ tham mưu có tài chính riêng của mình. Các chi đội sẽ được phân phát một khoản tiền tuỳ theo điều kiện ngân quỹ cho phép, không thành quy định thông lệ. Cuối cùng, dự thảo nghị quyết quy định: Bộ tham mưu có cơ quan tư pháp riêng. Tất thảy mọi chi đội trong Liên khu phải quán triệt, giáo dục cho mọi cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị mình đoàn kết với lực lượng võ trang giáo phái Cao Đài, Hoà Hảo.

Hội nghị tiến hành biểu quyết thông qua dự thảo. Từ đây, dưới sự thao túng của bọn Tài Sang tay sai Pháp do phòng nhì điều khiển, bộ tham mưu Liên khu Bình Xuyên đóng vai trò “não bộ" vạch ra và tổ chức thực hiện các hoạt động ngày càng tách xa con đường kháng chiến.

Sau khi cán bộ tham mưu được lập và đi vào hoạt động, vùng Tiều, xã Lý Nhơn ngày càng nhiều khách lạ lui tới. Họ không chỉ vào ra văn phòng bộ tham mưu mà còn xuất hiện cả ở ban chỉ huy các chi đội 9, 21 và 25. Mỗi người khách đều có một vệ sĩ súng dắt hông theo cạnh như hình với bóng. Tại bất cứ nơi nào khách đến, chủ đều dành cho họ sự thù tiếp ân cần, tỏ tấm thật tình đối với khách, tạo cho khách các điều kiện thuận lợi nhất để khách thực hành công vụ ...

Chiếm phần đông trong những người khách lạ trên đây là sĩ quan và các nhân viên, các chuyên gia thuộc phòng nhì Pháp, các chuyên gia về chất nổ, về công binh, về các hoạt động đặc biệt... Nổi bật trong số này là Lâm Ngọc Đường và Mo rít Thiên (Maurice Thiên).

Lâm Ngọc Đường còn được gọi là "chàng công tử Bạc Liêu'. Trước ngày 9 tháng 3 năm 1945. Đường đang là nhân viên an ninh trong bộ máy cai trị của Pháp ở Bắc Kỳ . Khi Nhận đảo chính Pháp, y được cử giữ chức giám đốc an ninh trong chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim. Pháp tái chiếm Nam Bộ, phòng nhì Pháp thâu nhận lại Đường, phong cho hàm trung uý , sĩ quan phòng nhì, đặc trách các vấn đề an ninh - chính trị. Đường được phòng nhì tung vào rừng Sác, tham gia Bộ Tham mưu Liên khu Bình Xuyên, chỉ huy cơ quan nghiên cứu, tổng hợp tình hình trên địa bàn chiến khu rừng Sác.

Cũng trong Bộ Tham mưu Liên khu Bình Xuyên, đứng đầu các ban giám sát, do thám, trừ gian là một trung uý phòng nhì khác: Tư Thiên, xuất thân trong một gia đình giàu có, Thiên nổi danh là kẻ ăn chơi ngang tàng, ham mê cờ bạc. Vào làng Tây, y lấy tên nửa ta: Mô rít Thiên. Rồi phục vụ trong quân đội liên hiệp Pháp ở Nam Kỳ. Phòng nhì Pháp phát hiện ở Thiên có nhiều khả năng nghiệp vụ nên tuyển chọn giao cho đặc trách binh chủng đặc biệt Com- măng-đô (biệt kích) phòng nhì.

Việc đầu tiên mà họ bắt tay thực hiện là biến các trạm "thu thuế lâm sản" (do Sáu Tuấn, con hội đồng Thì, một tay chân thân tín của Bảy Viễn, hiện đang quản lãnh) thành trạm thu thuế lâm sản, kiểm soát hỗn hợp về chính trị, quân sự kinh tế trên khắp địa bàn có thể vươn ra khống chế.


Tiêu đề: Re: Bộ đội Bình Xuyên
Gửi bởi: colorwind trong 17 Tháng Năm, 2008, 11:30:11 pm
Độc quyền tổng quản của Sáu Tuấn đối với 40 trạm trước kia giờ bị chia sẻ bởi sự có mặt của các nhân viên an ninh, hạ sĩ quan phòng nhì. Cơ cấu của mỗi trạm cũng thay đổi theo hướng chuyển thành các chốt quân sự. Mạng lưới các chốt chặn này giăng khắp mọi nẻo, gây ra biết bao tai họa đối với lực lượng kháng chiến và nhân dân: giết hại cán bộ, chiến sĩ của ta đi công tác, tịch thu giấy tờ, công văn, ngăn chặn mọi luồng tiếp tế cho các bộ phận lực lượng kháng chiến bên trong chiến khu rừng Sác. Nhiều lần đã diễn ra cuộc chạm súng giữa lực lượng hộ tống, bảo vệ đoàn công tác giao liên với nhân viên các trạm.

Trong khi đó, lực lượng của các "ban đặc nhiệm", "đội đặc nhiệm" trực thuộc bộ tham mưu Liên khu tiến hành bắt bớ, giết hại dã man cán bộ, nhân viên, phá vỡ cơ sở của Phân tổng trạm 3 thuộc Tổng trạm giao liên - liên lạc của Ban giao thông liên lạc Khu 7 [14] .

Nhiều đoàn cán bộ, chiến sĩ của các đơn vị võ trang, các cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể cứu quốc đi công tác trên các tuyến sông rạch thuộc địa bàn tây nam chiến khu rừng Sác bị phục kích giết hại. Một số kẻ từng dự các cuộc phục kích gọi tuyến đường giao thông liên lạc ở Phân tổng trạm 3 là "con đường ngập mình trôi sông". Những năm tháng ấy, trong nước của nhiều dòng sông núi đây có pha máu của biết bao cán bộ, chiến sĩ Vệ quốc đoàn không phải vì kẻ thù mà vì cái gọi là "lực lượng kháng chiến" !

Bộ tham mưu Liên khu Bình Xuyên còn lập ra 20 ban “do thám" và "trừ gian" làm nhiệm vụ ám sát, bắt cóc, quấy nhiễu nhân dân, thu nhập tin tức mọi mặt về tình hình của ta để cung cấp cho bộ tham mưu xử lý. Đây là một lực lượng khá lớn, mỗi ban có từ 70 - 100 người, phần lớn là các tay súng thiện xạ. Lực lượng này được huấn luyện kỹ lưỡng và trang bị bằng vũ khí phương tiện hoạt động tốt, được cung cấp dồi dào về tài chính chi tiêu. Trong thành phần cấu tạo lực lượng của 20 ban này, 35% là hạ sĩ quan và lính biệt động của phòng nhì, còn lại 65% được tuyển lựa trong đám lưu manh, côn đồ chuyên nghiệp và trong lực lượng của Bảy Viễn. Đối tượng tác chiến và địa bàn hoạt động của nó nhằm vào cán bộ, chiến sĩ, đảng viên, nhân viên các cơ quan, chính quyền đoàn thể cứu quốc, các đơn vị võ trang, du kích của ta ở khu vực trong và ngoài rừng Sác. Nhiều nơi, các cơ quan kháng chiến của ta luôn luôn đặt trong tình trạng sẵn sàng đối phó với hoạt động của các "ban" này. Tình trạng rất căng thẳng.

Một trong những đối tượng mà bọn phòng nhì tập trung nhiều công sức là tổ chức ám sát người đứng đầu lực lượng võ trang Khu 7 - Nguyễn Bình. Trước đây, chiến sĩ liên lạc của ông đã bị bắn chết trên đường đi công tác. Nhiều lần, phòng nhì Pháp đã xây dựng, triển khai kế hoạch để ám sát ông, nhưng không thành.

Nhân lúc bọn cầm đầu các đảng phái phản động hiệp sức cùng những tên Việt gian phản bội và một số chỉ huy của lực lượng ly khai kháng chiến hiện trụ bám tại các vùng sâu bưng biền ra lời kêu gọi các nhân sĩ, trí thức trong hàng ngũ kháng chiến, các vị lãnh đạo Uỷ ban kháng chiến hành chính Nam Bộ, Mặt trận Việt Minh... tham gia hội nghị mà chúng dự định sẽ tổ chức tại một vùng tự do nhằm thành lập "Mặt trận quốc gia liên minh", phục vụ cho mưu đồ của Pháp, cơ quan phòng nhì của Pháp chớp lấy cơ hội, vạch kế hoạch để ám sát Nguyễn Bình. Chúng đạo diễn để đại diện các đảng phái phản động mời chỉ huy các chi đội thuộc Liên khu Bình Xuyên và Khu bộ trưởng Nguyễn Bình dự hội nghị. 

Nắm được âm mưu của địch, sau khi trao đổi với lãnh đạo ủy ban kháng chiến hành chính Nam Bộ, thay mặt lực lượng võ trang Khu 7, Nguyễn Bình gửi thư tới đại diện các đảng phái đề nghị chuyển chương trình nghị sự của hội nghị là thành lập "Mặt trận quốc gia liên minh" sang thành lập Mặt trận liên hiệp quốc dân Việt Nam - Mặt trận mà Chính phủ Trung ương vừa quyết định tổ chức ở Nam Bộ. Đề nghị này bị chúng bác bỏ, ủy ban kháng chiến hành chính Nam Bộ ra quyết định giải tán hội nghị. Kế hoạch của phòng nhì Pháp cũng theo đó tan vỡ. Nhưng địch chưa từ bỏ âm mưu. Chúng tổ chức điều tra tìm cách khai thác những nhược điểm sơ hở nằm trong tính cách can trường giản dị, máu mạo hiểm mã thượng như một anh hùng hảo hớn của ông.

14. Phân tổng trạm 3 là một trong 3 phân tổng trạm của các tổng trạm giao thông - liên lạc trực thuộc Ban giao thông - liên lạc Khu 7 lập ra đặt trên địa bàn rừng Sác nhằm đảm bảo công tác giao thông liên lạc hai chiều giữa Bộ Tư lệnh Khu 7 với các bộ phận lực lượng Đảng, chính quyền, đoàn thể, các đơn vị võ trang hiện đứng chân trong rừng Sác. Phân tổng trạm 3 đặt ở tây nam chiến khu trên địa bàn xóm Tiều, xã Lý Nhơn, đặc trách tuyến giao thông liên lạc nối kết chiến khu rừng Sác với khu bộ Khu 7, mà cung đường chính là xóm Tiều - qua sông Xoài Rạp - Gò Bầu - rẽ hướng đông nam tây bắc - vượt sông Cần Giuộc vào quốc lộ 16, kinh chợ Đệm - tới xã An lạc (hoặc xã Tân Kiên) rồi mới nhập vào vùng giải phóng Giồng Tràm, Mỹ Thạnh Đông, Giồng Dinh nơi đặt bản doanh của khu bộ Khu 7.


Tiêu đề: Re: Bộ đội Bình Xuyên
Gửi bởi: colorwind trong 17 Tháng Năm, 2008, 11:50:25 pm
Vào thời gian này, ở ngoại ô phía tây Sài Gòn và Quân khu Đông Thành thường xuyên có lực lượng của Chi đội 4 hoạt động. Chi đội trưởng Chi đội 4 Huỳnh Văn Trí vốn có quan hệ mật thiết với Khu bộ trưởng, được Nguyễn Bình tin tưởng. Lợi dụng mối quan hệ này, một đồ đệ của Mười Trí là Sáu Section được chỉ thị của phòng nhì Pháp thực hiện kế hoạch. Sáu Section tên thật là Sáu Thâu, có người thân con cô con cậu hiện là chuẩn uý biệt kích mà phòng nhì điều về phụ trách ban do thám số 2 thuộc bộ tham mưu Tổng hành dinh Bảy Viễn. Sáu Section bí mật tới Giồng Dinh gặp riêng Nguyễn Bình báo cáo: y có biết điểm trú náu của hai đơn vị ly khai kháng chiến do Nguyễn Thành Long, Bùi Hữu Phiệt chỉ huy. Đa số cán bộ, chiến sĩ trong hai đơn vị hết sức bất bình với chỉ huy,. đang mong mỏi được gặp Nguyễn Bình để báo cáo kế hoạch trong ngoài phối hợp nhằm tước khí giới của những phần tử phản loạn, bắt chỉ huy hai đơn vị này. Cuối cùng Sáu Section tình nguyện làm người dẫn đường cho Nguyễn Bình đến gặp họ tại địa điểm chuẩn bị.

Địa điểm đó là ngôi chừa Thạnh Lợi trong Quân khu Đông Thành. Chùa nằm trên một đồi đất bên rìa xóm nhỏ, có những khóm tre già nghiêng ngả lưa thưa. Xa về phía tây cây rừng mọc đầy bưng trấp.

Theo hẹn, Nguyễn Bình mang theo một phụ tá, một liên lạc người địa phương cùng Sáu Section vào chùa. Bên ngoài, các chiến sĩ trong tiểu đội bảo vệ lấy từ bộ đội Hoàng Thọ triển khai bố trí ở các lùm tre. Vừa giới thiệu Nguyễn Bình với nhà sư trụ trì xong, Sáu Section xin được phép đi đón 4 "cán bộ" của hai đơn vị ly khai vào báo cáo. Bốn "cán bộ" xuất hiện. Sáu Section theo cửa sau chùa đi ra. Ngay lúc đó một trong bốn người kia vốn là thuộc hạ của Section bất ngờ rút súng chĩa vào Nguyễn Bình. Ông né mình và rút súng. Đạn nổ, cánh tay phải của ông bị trúng ở phần mềm nhưng ngực tên kia đã bị dính liền hai viên đạn. Tên thứ hai cũng bị ông bắn gẫy tay khi hắn xông vào ông. Nghe súng nổ, tiểu đội bảo vệ ập vào. Nhưng hai tên còn lại đã chạy ra cửa phía tây ngôi chùa, lủi xuống bưng trốn thoát.

Cùng với việc giật dây các hoạt động nêu trên, cơ quan phòng nhì Pháp còn tổ chức tiếp tế vũ khí, đạn dược, lương thực, thực phẩm và các phương tiện, nhu yếu phẩm khác cho tổng hành dinh Bảy Viễn.

Vụ tổ chức tiếp nhận hàng trên chiếc tàu Thanh Vân trên sông Soài Rạp là một điển hình. Bọn phòng nhì Pháp tổ chức tiếp tế cho Bảy Viễn bằng cách cho phép Bảy Viễn lấy lương thực thực phẩm trên tàu Thanh Vân do Pháp bảo vệ. Viễn sắp đặt kế hoạch, thống nhất trong ngoài, tổ chức cho lực lượng của Chi đội 9 thi hành một trận phục kích giả. Lại Văn Sang chỉ huy chi đội phục sẵn dọc bờ sông Soài Rạp chờ "tàu địch" đi qua bèn phát lệnh xung phong. "Tàu địch" chưa bị đánh đã vội vã "đầu hàng". Các tam bản của quân ta lao ra thu gọn toàn bộ số hàng hoá mà tàu Thanh Vân tải kéo. Liền sau đó, Tổng hành dinh khu bộ phó ra thông báo về "chiến thắng vang dội" trên đây, biểu dương thành tích của chi đội 9. Đồng thời trích một phần "chiến lợi phẩm" gửi biếu các chi đội thuộc Liên khu. Chiếc tàu này được bố trí ngụy trang sơ sài để cho Pháp lấy lại. Mặc dù thao túng được bộ tham mưu Liên khu và Bảy Viễn. Pháp không thể chi phối được phần lớn các chi đội. Trong 7 chi đội thuộc Liên khu Bình Xuyên, qua Bảy Viễn, phòng nhì Pháp chỉ nắm được ban chỉ huy các chi đội 9, 21 và 25. 4 chi đội 2, 3, 4, 7 nói riêng và đa số cán bộ chiến sĩ thuộc Liên khu Bình Xuyên nói chung vẫn một lòng tin vào cách mạng, vào Chính phủ Trung ương.

Trước những diễn biến ngày càng phức tạp trong tổng hành dinh Bảy Viễn, các chi đội 2, 3, 4, 7 kiên quyết hướng hoạt động của đơn vị vào lợi ích chung của kháng chiến. Các đồng chí trong chi đội ủy đã bàn bạc và thống nhất chọn lựa, bố trí một số cán bộ, chiến sĩ trong chi đội vốn là con em các đảng viên, giả vờ đảo ngũ, bỏ trốn đơn vị, sang xin gia nhập Chi đội 9 của Bảy Viễn để nắm hoạt động của Bảy Viễn cùng Chi đội 9. Trong các chi đội, các đảng viên bí mật xây dựng cơ sở đảng trong đơn vị mình, phát triển đảng viên mới.
Một số chi đội không án binh bất động, vẫn tiếp tục xây dựng và chiến đấu. Đặc biệt, bất đầu từ cuối 1946 nhiều chi đội đã tách hẳn khỏi "Liên khu Bình Xuyên" của Bảy Viễn, kéo lực lượng đi chiến đấu.

Toàn bộ tình hình trên đây làm cho bọn phòng nhì trong bộ tham mưu Liên khu lo ngại. Chúng tung tiền mua chuộc, lôi kéo, tổ chức bắt, ám sát cán bộ chính trị viên, tung tin, kích động nhằm chia rẽ giữa Bảy Viễn với cán bộ chính trị, giữa cán bộ chính trị với cán bộ quân sự, giữa người miền Nam, miền Trung và miền Bắc. Trong chi đội 9, Bảy Viễn tuyên bố rõ: không có chính trị viên, không có người miền Bắc, không học chính trị...


Tiêu đề: Re: Bộ đội Bình Xuyên
Gửi bởi: colorwind trong 17 Tháng Năm, 2008, 11:53:03 pm
Sau ngày thành lập bộ tham mưu Liên khu Bình Xuyên, một trong những trọng tâm hoạt động của phòng nhì là tìm mọi biện pháp nhằm vô hiệu hoá cán bộ chính trị viên, cấm các chi đội thuộc quyền học tập chính trị. Trong các chỉ thị gửi tới ban chỉ huy các chi đội, chúng xuyên tạc vị trí cán bộ chính trị viên, qua đó xuyên tạc Đảng và Chính phủ kháng chiến, chỉ thị cho ban chỉ huy các chi đội phải tích cực chống mọi ảnh hưởng của cộng sản, cấm học tập tài liệu liên quan đến học thuyết Mác - Lênin.

Trong tình hình giữa các chi đội đã có sự phân hoá, chỉ thị của ban tham mưu Liên khu Bình Xuyên không phát huy được hiệu lực ở các chi đội 2, 3, 4 và 7.

Chi đội 7 ngay từ giữa 1946 biết được mưu đồ của Bảy Viễn và bọn Tài, Sang đã dần thoát khỏi ảnh hưởng của Liên khu Bình Xuyên. Nguyễn Văn Mạnh và Mai Văn Vĩnh đưa chi đội rời chiến khu rừng Sác về đứng chân trên khu vực đất liền tỉnh Bà Rịa. Năm sau, Bộ Tư lệnh khu 7 điều Phan Đình Công (Bảy Công) cán bộ thanh tra Quân khu về làm chính trị viên chi đội.

Cũng như Chi đội 7, hai chi đội 2 và 3 ngay từ những ngày đầu và trong suốt, quá trình chiến đấu, xây dựng đã luôn luôn làm theo ước nguyện của Dương Văn Dương, một lòng đi theo kháng chiến. Một số phần tử tha hoá, gục ngã trước cám dỗ của những viên đạn bọc đường là đơn biệt.

Trong khi đường đi của ba chỉ đội (2, 3 và 7) về đại thể luôn luôn luôn được định hướng thì, với Chi đội 4 do Huỳnh Văn Trí làm chi đội trưởng là cả một quá trình chọn lựa và đấu tranh vật vã. Giữa Trí và Viễn vốn có tình bằng hữu kiểu đào viên kết nghĩa, từ độ cùng ngồi tù Côn Đảo kết bè vượt biển trở về. Trước hành động ngày càng sa đà vào con đường phản dân hại nước của Viễn, Huỳnh Văn Trí vẫn một lòng kiên trung, cùng ban chỉ huy chi đội gồm Triệu (chi đội phó), Tư Lạc (chính trị viên, bí thư đảng bộ chi đội) thống nhất bàn bạc giữ vững con đường đi theo kháng chiến của mình [15]. Kế hoạch biến chiến khu rừng Sác thành chiến khu ma, án binh bất động, biến lực lượng Liên khu Bình Xuyên thành lực lượng tay sai từ trong đánh ra, bảo vệ vững chắc tuyến thông lộ chiến lược chạy ngang qua rừng Sác đã không thu được kết quả như địch mong đợi.

Về mặt quân sự, cuộc tiến công đêm 1 tháng 5 năm 1947 buộc địch phải nhìn lại toàn bộ tình hình liên quan tới chiến khu rừng Sác của đối phương và mặt trận phía nam thành phố Sài Gòn. Trừ tuyến phòng ngự phía đông (phía tây rừng Sác) tương đối an toàn, các khu vực khác của chúng đều bị lực lượng của ta uy hiếp mạnh. Từ tháng 5 năm 1946, quân và dân Biên Hoà, Bà Rịa đã từng lúc cắt đứt quốc lộ 15, kiểm soát liên tỉnh lộ 19 dọc theo rìa phía bắc chiến khu rừng Sác (đoạn từ xã Phước Thọ đến xóm Xoài Minh xã Phước Lý) làm chuyển biến tình hình mặt trận ở phía bắc và suốt dọc phía đông chiến khu có lợi cho ta. Việc cơ động lực lượng phối hợp chiến trường, giao lưu kinh tế trong vùng rừng giồng phía bắc và đông thuộc Biên Hoà, Bà Rịa với lực lượng trong chiến khu rừng Sác thuận lợi hơn. Về phía địch, vấn đề điều động lực lượng, tiếp tế hậu cần cho lực lượng đang chiếm đóng Bà Rịa, Ô Cấp giờ đây chỉ có thể thực hiện được thông qua tỉnh lộ 2 và con đường thuỷ từ hải cảng Sài Gòn đến bến Rạch Dừa. Trong khi đó tàu thuyền địch xuôi ngược trên tuyến giao thông huyết mạch từ biển Đông vào hải cảng Sài Gòn luôn bị đe dọa tấn công. Bởi lẽ hai triền bờ dòng sông Lòng Tàu cây cối um tùm, lại uốn lượn quanh co trong bạt ngàn chiến khu rừng Sác mà phần lớn lực lượng đối phương đang trấn giữ.

Vì thế, địch gấp rút củng cố, tăng cường hệ thống phòng ngự phía đông - đông nam huyện lỵ Nhà Bè, tăng cường số lượng tàu thuyền chiến đấu, đưa vào hoạt động loại tàu chiến đấu mới trên sông và ven biển [16] , đẩy mạnh các cuộc hành quân chiến đấu trên các xuồng sông Thị Vải, Gò Già, Ngã Bảy, Rạch Dừa, tăng cường các hoạt động tuần tra, bảo vệ trên ba sông Lòng Tàu, Nhà Bè, Soài Rạp; đồng thời mở các cuộc hành quân lớn đánh vào chiến khu rừng Sác, buộc ta phải tập trung lực lượng đối phó, không rảnh tay để phục kích địch trên sông.

15. Khi đế quốc Mỹ xâm lược miền Nam, Huỳnh Văn Trí lại sớm gia nhập Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và được bầu vào ủy ban Trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam.

16. Loại LCT chở 1 trung đội, trang bi tốc xạ pháo 20 ly; loại LCB chở 2 trung đội; loại LCM chở 1 đại đội, trang bi pháo 37 ly. 


Tiêu đề: Re: Bộ đội Bình Xuyên
Gửi bởi: colorwind trong 18 Tháng Năm, 2008, 09:17:06 am
Phối hợp chặt chẽ với các hoạt động quân sự trên đây, bọn phòng nhì Pháp thông qua tay chân Bảy Viễn âm mưu lập đơn vị hoả lực chuyên trách để gom thu toàn bộ súng lớn của Liên chi đội 2 và 3. Nếu bước một thành công, sang bước hai chúng sẽ sử dụng biệt kích đường thuỷ và biệt kích đường không cùng phối hợp đánh chiếm toàn bộ súng lớn của đơn vị hoả lực.

Kế hoạch đó không thành, các phái viên của Khu bộ phó Lê Văn Viễn đi đến đâu cũng bị cán bộ các đơn vị thuộc Liên chi đội 2, 3 và bộ chỉ huy Liên chi đội viện lý lẽ khéo léo từ chối.

Sau đó ít lâu, nhân danh Khu bộ phó, Bảy Viễn triệu tập hội nghị các chi đội trưởng bảy chi đội thuộc Liên khu Bình Xuyên để bàn bạc và quyết định thành lập một số đơn vị liên quân. Hội nghị đã nghe Bảy Viễn trình bày toàn bộ vấn đề và tiến hành thảo luận. Kết quả hội nghị biểu quyết thống nhất lập "Liên quân A". Nhiệm vụ của liên quân này là trấn giữ tây nam chiến khu rừng Sác (3 xã Bình Khánh, An Thới Đông và Lý Nhơn), sẵn sàng vượt sông Soài Rạp. vào sâu vừng địch chiếm, tiến hành các hoạt động tập kích, phục kích, chặn đánh giao thông bẻ gãy các cuộc hành quân càn quét lấn chiếm của chúng trên địa bàn tây nam rừng Sác Về lực lượng tham gia liên quân này, hội nghị quyết định: mỗi chi đội góp một đại đội mạnh, được trang bị vũ khí đầy đủ và tốt (trong đó phải có một trung liên).

Một ban chỉ huy chung được bầu ra, Trương Công Trứ (đại đội trưởng Đại đội 2, Chi đội 3) chỉ huy trưởng, Lưu Quý Thoái (chính trị viên đại đội trong Chi đội 4) chính trị viên và Nguyễn Vãn Hoe (đại đội phó Đại đội 1 Chi đội 3) chỉ huy phó.

Bước triển khai thực hiện thành lập liên quân, chỉ có 5 chi đội điều lực lượng tham gia: 2, 3, 9, 21, 25. Chi đội 4 bấy giờ hoạt động ở xa chỉ gửi Lưu Quý Thoái tới. Chi đội 7 lúc đó còn ở Bà Rịa, lấy núi Thị Vải làm căn cứ.

Tập kết xong lực lượng, năm đại đội trong Liên quân A, dưới quyền điều khiển của bộ tham mưu Liên khu Bình Xuyên thực hiện án binh bát động, sống trong điều kiện rất khó khăn. Sáu tháng mùa khô, nước uống trở thành vấn đề nan giải. Bộ đội phải đi một đoạn đường cách khu vực đóng quân 20 km mới mong có nước. Nhân dân vùng rạch Gốc Tre Bé (cách xóm Đồng Tròn, xã Lý Nhơn 2 km phía đông bắc) và rạch Gốc Tre Lớn (cách xóm Cả Đại xã Lý Nhơn 1 km phía đông bắc) đã góp nước giúp Liên quân A trong những ngày cam go ấy - thứ nước hoà trộn giữa nước mưa và nước mặn chắt gạn trong ao hồ rồi để lắng. Ngày ngày, chờ cho nước ròng, đáy của các con lạch nhỏ lộ phơi dưới ánh mặt trời. cán bộ, chiến sĩ quần xà lỏn đi dọc theo lòng rạch, bắt tôm, cá dồn ẩn trong các búng lõm. Suốt tám tháng trời, 600 con người không sử dụng súng đạn, chỉ loay hoay cho nhu cầu tối thiểu cuộc sống thường ngày. Da dẻ mọi người bủng heo, vàng vọt. Sức khoẻ ngày càng sút kém. Đói khát, bệnh tật, rét mướt và những bù mắt, muỗi, ba cánh tỉa rút dần sức khoẻ của bộ đội. Trước thực tế khó khăn đó, Khu bộ phó Lê Văn Viễn phải chấp thuận đề nghị giải thể Liên quân A.

Trong khi đó, tại các chi đội, dưới sự lãnh đạo chỉ đạo của tổ chức cơ sở Đảng, của các đảng viên, bộ đội vẫn tiếp tục hoạt động chiến đấu và công tác theo phần việc được giao phó. Khu bộ trưởng và các đồng chí trong Khu uỷ, Bộ Tư lệnh Khu 7 tăng cường theo dõi, nắm tình hình ở chiến khu rừng Sác nói chung, Liên khu Bình Xuyên nói riêng, kịp thời đề ra những biện pháp nhằm hạn chế tối đa âm mưu, thủ đoạn và hậu quả của bọn phòng nhì Pháp. Tuy vậy công tác lãnh đạo, chỉ huy của Khu uỷ, Bộ Tư lệnh Khu đối với các đơn vị thuộc quyền gặp rất nhiều khó khăn, phần vì sự phá hoại thâm độc của địch, phần vì thành phần, nguồn gốc khác nhau và chất lượng không đồng đều của các đơn vị võ trang, chiến tuyến khó phân ranh, lực lượng ta - địch đan cài.

Giữa năm 1947, trong nội thành Sài Gòn, sáu ban công tác Thành phát triển thành mười ban, trở thành lực lượng nòng cốt trong tác chiến đánh địch ở nội đô. Ở vùng ven Sài Gòn, các lực lượng chiến đấu tập trung lại thành lập Trung đoàn Phạm Hồng Thái do Huỳnh Văn Vàng làm Trung đoàn trưởng, gồm ba tiểu đoàn Hoàng Văn Thụ, Ngô Gia Tự và Ký Con. Cùng thời gian này, Trung ương quyết định thành lập Tiểu đoàn Nam Tiến mang tên Dương Văn Dương. Nòng cốt của tiểu đoàn là cán bộ, chiến sĩ Bình Xuyên do Dương Văn Dương sinh thời cử đi học tại Trường quân chính Trung ương đặt tại Quảng Ngãi. Kết thúc khoá học, toàn bộ số này được bổ sung quân số, vũ khí, biên chế thành Tiểu đoàn Nam Tiến do Nguyễn Chí Sinh và Nguyễn Việt Hồng chỉ huy. Sau khi tập kết lực lượng ở Giồng Dinh. Tiểu đoàn còn lại 400 người. (Buổi ra nơi tập kết để lên đường về Nam, quân số là 1.000). Tại đây, Bộ Tư lệnh Khu 7 quyết định hợp nhất lực lượng của tiểu đoàn với Chi đội 13, lực lượng bộ đội hải ngoại và bộ đội Nha Trang vừa từ Thái Lan rút về, thành lập Trung đoàn 300 mang tên Dương Văn Dương. Trung đoàn khi mới thành lập chỉ mới có hai tiểu đoàn: Lý Chính Thắng, Lê Hồng Phong. Trung đoàn trưởng là Đặng Văn Thìn (Mười Thìn), chính trị viên là Nguyễn Việt Hồng (Tự Huệ). Trung đoàn 300 được điều xuống địa bàn tây nam chiến khu rừng Sác để hỗ trợ, chi viện cho lực lượng trung thành với kháng chiến trong các chi đội thuộc Liên khu Bình Xuyên, tiến hành các hoạt động đánh phá giao thông của địch và phát triển phong trào cách mạng địa phương ở các huyện phía đông nam thành phố Sài Gòn. Bấy giờ, tại đây, lực lượng bộ đội Cần Giuộc do Trương Văn Bang và Lưu Quang Tuyến chỉ huy đang hoạt động mạnh theo phương thức kết hợp chặt chẽ giữa tuyên truyền và tác chiến. Sở chỉ huy của bộ đội Cần Giuộc đặt tại xóm Tiều, cách căn cứ các chi đội 9, 21, 25 gần 2km.


Tiêu đề: Re: Bộ đội Bình Xuyên
Gửi bởi: colorwind trong 18 Tháng Năm, 2008, 09:25:41 am
Trung đoàn 300 và Trung đoàn Phạm Hồng Thái là hai trung đoàn thành lập đầu tiên trên chiến trường miền Đông Nam Bộ. Sự ra đời của hai trung đoàn phản ánh sự trưởng thành của lực lượng võ trang ta nói chung. Đối với bọn phản động và gián điệp trong Tổng hành dinh Bảy Viễn, sự xuất hiện của một lực lượng mạnh như Trung đoàn 300 và sự kết hợp chặt chẽ giữa nó với các chi đội trong Liên khu, với bộ đội Cần Giuộc... là một áp lực.
 
Trong khi chú trọng lãnh đạo, chỉ huy các mặt chiến đấu và xây dựng của các chi đội 2, 3, 4, 7..., tăng cường sự hỗ trợ về lực lượng cho các chi đội đó, Khu uỷ và Bộ Tư lệnh Khu 7 còn xúc tiến việc theo dõi, thu thập các tin báo từ nhiều nguồn về các hoạt động của bộ tham mưu Bảy Viễn.

Hồ sơ về vấn đề Liên khu Bình Xuyên, về bộ tham mưu Liên khu và của cá nhân Bảy Viễn ngày càng dày thêm. Những nhận định của Bộ Tư lệnh về thủ đoạn mà địch đang tiến hành, đang lợi dụng cá nhân Bảy Viễn ngày càng được bổ túc thêm tư liệu. Trong khi đó, cuộc kháng chiến đang phát triển lên giai đoạn cao, đòi hỏi có lực lượng võ trang mạnh, thống nhất và xây dựng theo hướng chính quy. Ngày 27 tháng 3 năm 1948, Khu uỷ Khu 7 triệu tập hội nghị mở rộng toàn Khu. Hội nghị đã quyết định xây dựng các trung đoàn. Hội nghị cũng đã nghe háo cáo về tình hình nội bộ Bình Xuyên và trường hợp Bảy Viễn: Bảy Viễn bị bọn phòng nhì Pháp mua chuộc và đã phản bội lại kháng chiến, cần phải có kế hoạch thanh trừng bọn phản động và gián điệp nằm trong nội bộ Bình Xuyên.

Việc loại khỏi Bình Xuyên những phần tử phản động, gián điệp, củng cố lại nội bộ, xây dựng Bình Xuyên thành những đơn vị mạnh là nhiệm vụ cần được tập trung giải quyết khẩn cấp nhưng phải đặc biệt thận trọng.

Trong thời gian qua, các hoạt động của Bảy Viễn và đồng bọn gây cho ta nhiều thiệt hại, khó khăn, nhưng tất cả được bọn phòng nhì che dấu, gài ghép, bày đặt khá công phu. Trước mắt anh em chiến sĩ bảy chi đội, Bảy Viễn thoạt đầu là một người kháng chiến. Nhiều người cho ràng, cho đến bây giờ, mặc dù có hành vi sai trái, khó hiểu nhưng “chất kháng chiến" vẫn chưa nhoà nhạt hết trong con người này. Vả chăng, Bảy Viễn vẫn đương kim Khu bộ phó Khu 7. Có nghĩa có tình, có chung có thuỷ vốn là cung cách cư xử của những người dân lao động, của cả anh em trong giới giang hồ. Giữa gian khổ và nguy nan, thế ứng xử đó càng rõ nét.

Tuy nhiên, mọi điều tốt vẫn có thể bị kẻ xấu lợi dụng. Bọn phòng nhì núp sau Bảy Viễn đã lôi kéo, lường gạt được một số người. Quá nể vào tăm tiếng một thời của bậc đàn anh trong giới giang hồ, quá nệ vào tiền tài và hưởng lạc, một số người đã vô tình trở thành tay sai cho giặc mà không nhìn rõ thực chất của vấn đề. Bởi vì, Bảy Viễn là lưu ảnh một thời xa, nhắc nhở một quãng đời trước kia của họ. Rũ áo với Bảy Viễn là đoạn tuyệt với quá khứ của chính mình. Tự phủ định bao giờ cũng xót xa, rớm máu.

Nhận rõ sự phức tạp, éo le trong tâm khảm của một số cán bộ chiến sĩ trong Liên khu Bình Xuyên, Khu uỷ và Bộ Tư lệnh Khu 7 cho rằng, vấn đề Liên khu Bình Xuyên không bó gọn trong cá nhân Bảy Viễn. Khi xử lý cần phải tính đến các mặt khác liên quan, trên cơ sở đảm bảo lợi ích tối cao của kháng chiến, đảm bảo sự đoàn kết nhất trí trong nội bộ các đơn vị liên quan, làm thất bại âm mưu của kẻ thù. Sau khi cân nhắc, Khu bộ trưởng Nguyễn Bình và chính trị bộ chủ nhiệm Nguyễn Văn Trí đi đến quyết định: thanh trừng một số tên phòng nhì và tay sai phản động trong ban chỉ huy các chi đội 9, 21 , 25. Nội dung cuộc thanh trừng gồm :

1. Phương hướng chung: thực hiện phân hoá sâu sắc hàng ngũ kẻ thù, thấy rõ ai là kẻ chủ mưu, ai là người bị lợi dụng. Trên cơ sở đó có biện pháp thích hợp với từng loại đối tượng, về cá nhân Bảy Viễn: tìm mọi cách tách khỏi ảnh hưởng tác động và sự chi phối của bọn tay chân phòng nhì, chỉ cho Viễn thấy rõ âm mưu và thủ đoạn thâm hiểm của địch cùng những lầm lạc và tội lỗi của mình, từ đó làm cho Viễn hồi tâm, trở về với kháng chiến. Với bọn phản động và nhân viên phòng nhì cùng các loại nhân viên khác của địch cài vào tổng hành dinh, bộ tham mưu, các ban ngành, các chi đội, cùng bọn tay sai cơ hội đồng lõa, phải kiên quyết và nhanh chóng bắt gọn, không bỏ sót, không bắt nhầm, hết sức chú ý thu gom và lưu giữ các giấy tờ, tài liệu, hồ sơ của chúng.

2. Phương châm: bí mật, bất ngờ, tiến hành vây chặt, đột kích nhanh.

3. Thời gian tiến hành: sẽ quy định và thông báo sau. Trước mắt, các đơn vị, các bộ phận được giao nhiệm vụ phải khẩn trương bắt tay vào chuẩn bị.

Thấy trước những khó khăn, phức tạp trong việc xây dựng quyết tâm, hình thành phương án tác chiến. Khu ủy, Bộ Tư lệnh Khu một mặt báo cáo và xin ý kiến Xứ ủy, Ban quân sự Nam Bộ, mặt khác thường xuyên theo dõi chặt chẽ, sát sao các diễn biến của tình hình, kịp thời lãnh đạo, chỉ đạo cấp dưới trong công tác chuẩn bị. Nguyễn Văn Trí đặc trách chỉ đạo trực tiếp quá trình chuẩn bị và thực hiện ý định của Khu ủy, Bộ Tư lệnh Khu về cuộc thanh trừng.


Tiêu đề: Re: Bộ đội Bình Xuyên
Gửi bởi: colorwind trong 18 Tháng Năm, 2008, 11:07:24 am
Sau khi làm việc với ban chỉ huy các đơn vị bộ đội trực tiếp tham gia cuộc thanh trừng, Khu ủy ra quyết tâm: thực hành phân hoá hàng ngũ kẻ thù, tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ. Nhanh chóng tổ chức triển khai lực lượng, chọn lựa và nắm chắc đối tượng, bí mật bao vây, thực hành đột kích, dứt điểm gọn các mục tiêu bắt đúng đối tượng, đảm bảo an toàn, nhanh chóng và hiệu quả.

1. Ban chỉ đạo thanh trừng:

- Trưởng ban: Nguyễn Đức Huy (Phó bí thư Khu uỷ, kiêm Bí thư Đảng bộ Liên chi đội 2-3).
 
- Các uỷ viên: Dương Văn Hà (Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy Liên chi đội 2,3), Nguyễn Việt Hồng (Phó bí thư Đảng uỷ chính trị viên Trung đoàn 300 Dương Văn Dương), Trương Văn Bang (Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 922 thuộc Trung đoàn 308), Võ Văn Thạnh (Tiểu đoàn trưởng thuộc Trung đoàn 300).

- Chức năng: tiếp nhận sự chỉ đạo của Khu uỷ, căn cứ vào điều kiện, tình hình đơn vị, đề ra phương hướng, yêu cầu cụ thể nhằm lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động của ban chỉ huy thanh trừng và toàn thể cán bộ, chiến si trong lực lượng tiến hành thanh trừng.

2. Ban chỉ huy thanh trừng:

- Chỉ huy trưởng: Trần Văn Tâm (Tám Tâm, nguyên Chánh văn phòng Chi đội 9).
 
- Chính trị viên: Lưu Quý Thoái (chính trị viên đại đội trong Chi đội 4).

- Chỉ huy phó: Vũ Văn Hiệp (đại đội trưởng thuộc Chi đội 9).

- Chức năng: quán triệt chủ trương, yêu cầu, phương châm, mục tiêu, biện pháp mà ban chỉ đạo đề ra, tiến hành phân loại các đối tượng tiến hành thanh trừng tổ chức thực hiện.

3. Mục tiêu, đối tượng và yêu cầu:

- Mục tiêu: các sở chỉ huy các chi đội 9, 21 , 25 và Tổng hành dinh Liên khu Bình Xuyên, sở chỉ huy của ban "do thám" và ban "ám sát" thuộc bộ tham mưu Liên khu Bình Xuyên.

- Đối tượng: toàn bộ lực lượng biệt kích, sĩ quan và nhân viên phòng nhì cùng các lực lượng của địch gài vào Liên khu Bình Xuyên, các phần tử phản động đã gây nhiều tội ác đối với nhân dân và lực lượng kháng chiến.


- Yêu cầu tiến hành: đánh trúng đối tượng, có trọng tâm, trọng điểm, tập trung dứt điểm từng địa bàn, từng vấn đề, tránh tràn lan phân tán.

4. Sử dụng lực lượng bố trí đội hình:

Lực lượng sẽ tổ chức thành 3 mũi, đánh vào 3 cụm mục tiêu:

3 đại đội trang bị tốt của Trung đoàn 300 Dương Vãn Dương do Trần Sơn Tiêu (Năm Lê) chỉ huy sẽ bao vây và đột kích 3 mục tiêu: Tổng hành dinh Liên khu Bình Xuyên, bộ tham mưu Tổng hành dinh và sở chỉ huy Chi đội 9.

Đại đội 1 (thuộc Chi đội 21 đã tách khỏi Chi đội 21 kéo lên Khu 7, bây giờ trở lại hoạt động) được tăng cường thêm một lực lượng, do Bảy Nghiệp chỉ huy sẽ phối hợp với lực lượng các đại đội 2, 3 (Chi đội 21 ) tiến hành bao vây chặt vòng trong và vòng ngoài sở chỉ huy Chi đội 21, sử dụng một lực lượng làm nhiệm vụ thọc sâu, đánh vào trung tâm Sở chỉ huy.

Một đại đội (thuộc Chi đội 9) do Trần Công Đức chỉ huy, tiến hành bao vây và đột kích sở chỉ huy Chi đội 25.

5. Cách đánh:

Trên cơ sở nắm vững tình hình (bố trí lực lượng, quy luật hoạt động) bí mật tiếp cận và bao vây chặt mục tiêu, sử dụng một lực lượng làm nhiệm vụ thọc sâu, thực hành đột kích nhanh, mạnh, bất ngờ vào trung tâm, đè bẹp mọi sự phản kháng của bọn phản động và gián điệp. bắt đối tượng đã định trước, thu hồi gọn toàn bộ tài sản, tư liệu, sổ sách, hồ sơ. . . trong các sở chỉ huy đó.

6. Thời gian, mật hiệu:

- Hoàn thành mọi công tác chuẩn bị: ngày 1 5-5- 1948.
- Bắt đầu nổ súng: căn cứ vào tình hình, lúc không còn Bảy Viễn ở rừng Sác, cấp có thẩm quyền sẽ quyết định.
- Thời gian thanh trừng: trong vòng 10 ngày.
- Mật hiệu: hỏi - Tảo, đáp - Thanh.

Trong khi phương hướng đã hình thành, các bộ phận đang gấp rút triển khai xây dựng quyết tâm tác chiến thì tại Bộ Tư lệnh Khu 7, việc triển khai kế hoạch tách Bảy Viễn khỏi chiến khu rừng Sác đã bắt đầu.
 
Đầu tháng 5 năm 1948, Khu uỷ, Bộ Tư lệnh Khu đã gửi quyết định của Ban quân sự Nam Bộ đề bạt Lê Văn Viễn giữ chức Khu bộ trưởng Khu 7. Trung tướng Nguyễn Bình thôi giữ chức Khu bộ trưởng để giữ chức Uỷ viên quân sự Nam Bộ. Điều 2 quyết định này chỉ rõ: ngày 19-5-1948, Lê Văn Viễn phải có mặt tại trụ sở ủy ban kháng chiến hành chính Nam Bộ và sở chỉ huy Ban quân sự Nam Bộ hiện ở xã Nhơn Hoà Lập - Hậu Thạnh trung tâm căn cứ kháng chiến Đồng Tháp Mười) để làm lễ nhận chức.

7. Công tác bảo đảm:

Chỉ huy sở: lấy sở chỉ huy Bộ chỉ huy Liên chi đội 2-3, gồm văn phòng và phương tiện thông tin liên lạc làm địa điểm và phương tiện liên lạc cho ban chỉ đạo thanh trừng. Sử dụng một số cán bộ thuộc Liên chi đội 2 và 3 phục vụ cho công tác chỉ đạo tại chỉ huy sở. Lập trại giam: thành lập 2 trại giam: trại giam đối tượng loại 1 (đối tượng đặc biệt) đặt ở núi Thị Vải. Võ Ngọc Phán (Trung đội trưởng thuộc Đại đội 3, Chi đội 2) làm chỉ huy trưởng và Nguyễn Văn Nam (chính trị trung đội 1 thuộc Đại đội 2 Chi đội 3) làm chính trị viên. Một trại giam khác đặt tại rạch Cá Út, ấp Bàu Bông, xã Phước An, Long Thành. Ba Bay, Năm Khoán (ban chỉ huy Đại đội 1 , Chi đội 2) làm chỉ huy trưởng và chỉ huy phó, Trịnh Tuấn Châu (Đại đội 3, Chi đội 2) làm chính trị viên lực lượng bảo vệ. Lê Thành Công (Sáu Thịnh, trưởng ban tình báo Chi đội 2) làm trưởng ban điều tra tội phạm.

Lực lượng bảo vệ Ban chỉ đạo thanh trừng: lấy đơn vị vệ binh thuộc bộ chỉ huy Liên chi 2-3. Hai trung đội thuộc Đại đội 2 Chi đội 3 nhận nhiệm vụ bảo vệ trại giam Thị Vải. Hai trung đội thuộc Đại đội 1 Chi đội 3 và Đại đội 3 Chi đội 2 bảo vệ trại giam rạch Cá Út.


Tiêu đề: Re: Bộ đội Bình Xuyên
Gửi bởi: colorwind trong 18 Tháng Năm, 2008, 11:26:00 am
Mấy hôm sau, Khu bộ phó Huỳnh Văn Nghệ lên đường tới rừng Sác, vào tổng hành dinh Liên khu Bình Xuyên gặp Bảy Viễn. Đây là một quyết định mạo hiểm. Trạm gác và các tay súng trong ban ám sát, tình báo... của bộ tham mưu Liên khu Bình Xuyên giăng khắp mọi ngả dẫn vào tổng hành dinh Bảy Viễn. Bọn phòng nhì ở bộ tham mưu cũng đã có kế hoạch và bố trí lực lượng để thủ tiêu ông. Bỏ qua những nguy hiểm rình rập, bình tĩnh và khôn khéo, Huỳnh Văn Nghệ đã thuyết phục Bảy Viễn về Đồng Tháp Mười.
 
Bảy Viễn bị đặt trước sự chọn lựa đầy gay cấn. Sau khi bàn bạc, cân nhắc mọi khả năng, cuối cùng Bảy Viễn và bộ tham mưu đi tới quyết định: Bảy Viễn sẽ về Đồng Tháp Mười dự lễ tấn phong chức Khu bộ trưởng. Dùng một lực lượng hộ tống mạnh để bảo vệ và gây áp lực trên dọc đường đi về và trong thời gian ở lại Đồng Tháp Mười. Bộ phận tuỳ tùng gồm Lại Hữu Tài (cố vấn ngoại giao), Năm Bé, Lại Văn Sang. Tư Hiểu (các cố vấn quân sự). Ngoài ra trong đoàn còn có Thái Hoàng Minh, Lê Paul, cháu và con trai Bảy Viễn. Lực lượng hộ tống gồm hai đại đội trang bị mạnh, có súng lớn. Chỉ huy trưởng và tham mưu trưởng lực lượng hộ tống là Tư Hiểu và Bảy Cao.

Lực lượng thủ trại: do Tư Ty chi đội trưởng chi đội 25 và Lâm Ngọc Đường đảm trách. Một ngày giữa tháng 5 năm 1948, Bảy Viễn cùng đoàn tuỳ tùng lên đường. Trước khi xuất phát, Lại Văn Sang chi đội trưởng chi đội 9) cho tập họp lực lượng hộ tống để phổ biến nhiệm vụ, hạ đạt mệnh lệnh hành quân, mời ngài tân Khu bộ trưởng duyệt binh và nói lời hiệu triệu. Sau 3 ngày đêm hành quân vừa đi ghe vừa lội bộ, đoàn quân tới hạ trại ở xóm Nhà Thờ xã Nhơn Hoà Lập. Lễ tấn phong diễn ra đúng nghi thức. 

Trong lúc Bảy Viễn đang ở Đồng Tháp Mười dự Hội nghị quân sự Nam Bộ, Ban chỉ đạo thanh trừng nhận được mệnh lệnh tiến hành thanh trừng của Nguyễn Văn Trí, Bí thư Khu ủy. Mệnh lệnh lập tức được triển khai thực hiện.

Các đơn vị tiến hành thanh trừng lần lượt đưa lực lượng vào vị trí chốt chặt và thọc sâu ém sẵn xung quanh các mục tiêu. Giữa lúc đó, có chỉ thị của Xứ ủy Nam Bộ: đình chỉ lập tức cuộc thanh trừng. Rừng Sác mênh mông. Các đơn vị thanh trừng đang ém quân bí mật phân tán khắp các luồng lạch, vạt rừng. Đường đi lại khó khăn và nguy hiểm, chỉ thị của Xứ ủy đã không đến kịp.

4 giờ sáng ngày 24-5-1948, cuộc thanh trừng bắt đầu. Các cánh quân bao vây và thọc sâu vào tổng hành dinh Bảy Viễn và bộ tham mưu Liên khu Bình Xuyên, bắt gần gọn bọn phản động và nhân viên phòng nhì Pháp. Ở các cánh khác, lực lượng thanh trừng bắt được Tư Tỵ, Ký Huỳnh. Lê Văn Hanh... Lâm Ngọc Đường dùng ghe riêng chạy trốn... sau khi vội vã dùng vô tuyến điện báo nguy và yêu cầu bọn đầu sỏ phòng nhì Pháp cứu hắn.

Biết Lâm Ngọc đường một gián điệp nhà nghề từng gây nhiều nợ máu đang lẩn trốn trong các khu rừng quanh tổng hành dinh, quân ta kịp thời bao vây, phong toả ráo riết. Các đơn vị được tăng cường thêm tiến hành chốt chặt ở các cửa rạch, song, những vạt rừng xung yếu. Đồng thời điều động thêm nhiều tổ toán cán bộ, chiến sĩ cải trang thành đồng bào lao động làm các nghề than, củi đước, đánh bắt cá... theo các rạch, dùng xuồng, ghe sục sạo, truy lùng.

Lâm Ngọc Đường thoát khỏi sở chỉ huy Liên khu Bình Xuyên độ hơn 1 km, liền ra lệnh cho những người chèo ghe tạt vào rừng giấu và bảo vệ ghe. Còn hắn tách lủi theo hướng khác. Đi bộ vài trăm mét, lại lộn lại theo hướng ngược chiều với đoạn vừa đi, tiến đến vùng tọa độ quy định, Đường loay quay lẩn lút suốt bảy ngày đêm trong rừng sâu, lương thực hết, nước ngọt cạn từ ngày thứ tư.

Ta triển khai việc thanh trừng được khoảng 4 giờ thì tàu, thuyền chiến các loại của giặc Pháp xuất hiện, càng lúc càng nhiều và dập dềnh xuôi ngược trên các dòng sông Soài Rạp, Vàm Sát, Đinh Ba (phụ lưu của sông Đồng Tranh phía hạ lưu)..., chỉ cách sở chỉ huy các chi đội 9, 21 , 25 và tổng hành dinh, nơi gần khoảng 4km, nơi xa khoảng 6km đường chim bay. Đó đây, những khẩu đại bác 20 ly, 37 ly trên các tàu nổ ầm vang từng loạt.

Bỗng Lâm Ngọc Đường nghe tiếng dầm bơi khuấy nước và tiếng người trò chuyện càng lúc càng gần. Một ghe nhỏ có bốn người dân với dụng cụ dao, rựa, cưa, dây đi tới. Sau khi khẳng định đó là bốn ngươi dân nghèo đi củi. Đường lên tiếng gọi khẩn thiết yêu cầu cứu giúp.
 
Sau khi nhận dạng, xác định đó là Lâm Ngọc Đường đang có lệnh truy nã, một trong bốn người đứng lên tỏ ra thông cảm, mời y đến gần ghe. Rồi bảo ba người còn lại bày cơm, nước mà họ "dành để ăn, lao động làm củi" thiết đãi y Khi Đường vừa lên ghe thì bị họ bất sống, thu hết hành lý áp giải về sở chỉ huy. Bốn người đi trên ghe là bốn chiến sĩ và lực lượng truy lùng giả dạng. Lâm Ngọc Dường bị bắt trong lúc chưa kịp phi tang các tang chứng: một cặp đựng tài liệu Pháp gửi cho Bảy Viễn, danh sách bọn phòng nhì và phản động, nhật ký ghi các vụ việc phá hoại, kế hoạch chiến khu ma và một cặp đầy ắp tiền Đông Dương ngân hàng . Ngày 31 tháng 5 năm 1948, cuộc thanh trừng kết thúc.


Tiêu đề: Re: Bộ đội Bình Xuyên
Gửi bởi: colorwind trong 18 Tháng Năm, 2008, 11:31:48 am
Kết quả, lực lượng thanh trừng đã bắt hơn chục tên gián điệp và phản động. Trong số đó có Lâm Ngọc Đường, Mười Giao (thiếu uý biệt kích Pháp, tổng chỉ huy 20 ban đặc nhiệm bộ tham mưu), giáo sư Lê Văn Hanh "phái viên chính phủ' của thủ tướng bù nhìn Nguyễn Văn Xuân bên cạnh bộ tư lệnh Liên khu Bình Xuyên. Một số đối tượng quan trọng trong hai chi đội 21, 25... Và 70% lực lượng trong các ban đặc nhiệm các trạm kiểm soát thu thuế. Trong số những người bị bắn chết sau đợt thanh trừng khoảng hai tháng, có chỉ huy phó bộ chỉ huy Liên chi đội 2, 3 Trần Văn Đối.

Tại tổng hành dinh bộ tham mưu Liên khu Bình Xuyên, lực lượng thanh trừng đã thu được nhiều tiền Đông Dương ngân hàng, vàng và một số tài liệu. Trong đó có một văn bản ký kết giữa đại diện quân đội Liên hiệp Pháp khu vực Đông Nam Bộ với tổng chỉ huy Liên khu Bình Xuyên Lê Văn Viễn:

1. Quân đội Liên hiệp Pháp (chịu trách nhiệm về tình hình quân sự đối với tỉnh Gia Định) cam kết không tiến hành các hoạt động quân sự nhằm vào các lực lượng của Liên khu Bình Xuyên trong căn cứ rừng Sác.

2. Lực lượng quân sự Liên khu Bình Xuyên (và các lực lượng quân sự có liên quan hiện đóng trong căn cứ rừng Sác) cam kết không tiến hành các hoạt động quân sự nhằm vào khu vực thuộc quyền kiểm soát của quân đội Liên hiệp Pháp tại các tỉnh Gia Định, Chợ Lớn... nằm dọc bên tây hai con sông Nhà Bè và Soài Rạp.

3. Chỉ huy quân đội Liên hiệp Pháp (chịu trách nhiệm về tình hình quân sự tỉnh Gia Định) có trách nhiệm báo cáo toàn bộ tình hình và đệ trình thoả ước này lên tư lệnh quân đội Liên hiệp Pháp ở miền Đông Nam phần Việt Nam chuẩn y.

Ngoài ra, lực lượng thanh trừng còn thu được dự thảo thoả ước giữa Bảy Viễn và quân đội Pháp, nội dung:

1. Tổng chỉ huy Liên khu Bình Xuyên bảo đảm không để xảy ra các hoạt động quân sự dọc tuyến sông Lòng Tàu, gây thiệt hại về người và phương tiện vận chuyển thuộc quyền kiểm soát của Pháp.
 
2. Đổi lại, Pháp giành cho Liên khu Bình Xuyên các khoản viện trợ về tài chính, hàng tiêu dùng theo kế hoạch từng năm.

Mặc dù phạm một số khuyết điểm như nóng vội, công tác phân loại đối tượng chưa chu đáo, ở một số nơi đã tiến hành tràn lan, làm cho một số người bị bắt và xử lý oan, cuộc thanh trừng một số phần tử phản động và gián điệp Pháp trong bộ đội Bình Xuyên đã giáng một đòn mạnh mẽ vào thủ đoạn chiến tranh gián điệp, âm mưu gây chia rẽ nội bộ, tạo điều kiện để củng cố khối đoàn kết, xây dựng các đơn vị bộ đội ngày càng vững mạnh, tiến kịp với yêu cầu ngày càng cao của cuộc kháng chiến.

Sau cuộc thanh trừng, một đoàn kiểm tra hỗn hợp được thành lập gồm đại diện ủy ban kháng chiến hành chánh Nam Bộ, Ban quân sự Nam Bộ và Sở công an Nam Bộ được thành lập Tạ Nhứt Tứ làm trưởng đoàn, Trần Văn Hồng và Diệp Ba là uỷ viên. Đoàn đã về ngay rừng Sác để kiểm tra cuộc thanh trừng. Sau một thời gian làm việc, đoàn nhận định: cán bộ chiến sĩ thực hiện nhiệm vụ đã nghiêm chỉnh chấp hành chủ trương yêu cầu của Khu ủy Khu 7. Trong quá trình tiến hành, không có hiện tượng tư thù, tư oán, (riêng cái chết của Trần Vãn Đối, đoàn không được ban chỉ đạo cuộc thanh trừng báo cáo nên không có kết luận).
 
Tháng 6 năm 1948, lầu không khí u ám nặng nề của quãng thời gian hai năm về trước đã bị luồng gió cuộc thanh trừng thổi quét. Những xạ ảnh của nó còn lưu vương trong lòng mỗi cán bộ chiến sĩ Bình Xuyên. Một bản hiệu triệu được phát đi khắp nơi trong rừng Sác và các vùng kế cận:


Tiêu đề: Re: Bộ đội Bình Xuyên
Gửi bởi: colorwind trong 18 Tháng Năm, 2008, 11:40:43 am
“Hỡi quý vị đồng bào, hỡi anh em chiến sĩ Bình Xuyên đi lưu động! Hơn ba nam trường chiến đấu với thực dân Pháp muốn tròng lại ách nô lệ cho dân tộc ta, chiến sĩ Bình Xuyên đã hy sinh không biết bao xương máu để đóng góp phần vào sự bảo vệ đất nước gìn giữ sự độc lập tự do và đem hạnh phúc lại cho giống nòi. Bằng chứng là khu bộ phó Dương Văn Dương, Từ Văn Ri, Nguyễn Văn Hội và còn biết bao nhiêu chiến sĩ Bình Xuyên vì nghĩa vụ đã xả thân ngoài mặt trận, vì nước bỏ mình. Vậy mà bọn manh tâm bán nước như Lâm Ngọc Đường, Tư Thiên. .., cố chen vào hàng ngũ Bình Xuyên, âm mưu chia rẽ lực lượng kháng chiến bồng bột. Bằng chứng dưới đây:

- Lần thứ nhất bọn chúng bí mật lập "Mặt trận quốc gia liên hiệp" để chia rẽ với Mặt trận Việt Minh, nhưng không thu được kết quả; vì toàn thể đồng bào hoàn toàn tín nhiệm vào Mặt trận Việt Minh là Mặt trận thống nhất của toàn dân đã tranh đấu từ năm 1941 lập chiến khu giải phóng ở Việt Bắc đem lại cuộc cách mạng tháng Tám thắng lợi vẻ vang.

- Lần thứ hai chúng công khai hợp tác với Hoạch, Xuân, lập Chính phủ bù nhìn Nam Kỳ tự trị nam phần Việt Nam.

- Lần thứ ba chúng lợi dụng Hoà Hảo, bộ tham mưu Liên khu Bình Xuyên, cố chia rẽ Bình Xuyên với chánh quyền Nam Bộ, cho khu trưởng Nguyễn Bình là độc tài. Sự thực thâm tâm họ muốn cướp chính quyền ở Nam Bộ.

- Lần thứ tư bọn chúng phái Lâm Ngọc Đường xuống hành dinh khu phó Lê Văn Viễn, định lập khu giả (chiến khu quốc gia) làm hậu thuẫn ủng hộ Bảo Đại và chống lại Chính phủ kháng chiến do Hồ Chủ tịch lãnh đạo mà chúng phao là chánh phủ cộng sản.

Sở dĩ bọn phản động len lỏi được vào hàng ngũ của Bình Xuyên là do sự cảm tình bằng hữu với ông khu phó Lê Văn Viễn, ông Lâm Văn Đức, tức Tư Tỵ, là chi đội trưởng Chi đội 25. Bọn chúng lợi dụng tình cảm mua chuộc lòng can đảm của hai ông được xuống chiến khu ở yên, lập mưu này kế nọ để xuyên tạc chia rẽ Bình Xuyên với Chính phủ... Nhưng mưu mô xảo quyệt của chúng không thành là nhờ sự trung kiên của các tướng lĩnh cũng như chiến sĩ Bình Xuyên đồng tâm nhất trí ủng hộ Chính phủ Hồ Chí Minh, đặt quyền lợi của Tổ quốc lên trên tình cảm, nên cùng đứng lên chống lại hành vì chấp chứa bọn phản động của khu phó Lê Văn Viễn mặc dù chiến sĩ Bình Xuyên coi ông Viễn như một người anh.

Đến giai đoạn quyết liệt này, không thể duy trì được nữa, không thể để bọn phản động lợi dụng danh nghĩa của Bình Xuyên để lừa gạt đồng bào, lôi kéo vào mặt trận bán nước, để làm tay sai cho thực dân Pháp gây cảnh nồi da nấu thịt. Muốn đập tan kế độc của thực dân, muốn tỏ lòng tin cậy đối với đồng bào, đối với Chính phủ, muốn làm cho bọn phản động biết ro sức chiến đấu của Bình Xuyên, vì chính nghĩa, vì Tổ quốc, chúng tôi xin thay mặt toàn thể anh em chiến sĩ Bình Xuyên đồng đứng lên kêu gọi toàn thể đồng bào, các cơ quan Chính phủ, các đoàn thể cứu quốc, các trung đoàn bạn, ủng hộ chúng tôi ở tất cả mọi mặt để tảo trừ những phần tử phản động chui vào hàng ngũ của chúng ta. Chúng tôi muốn làm tròn xứ mạng ấy, yêu cầu các cơ quan, các đoàn thể góp tất cả những tài liệu, những hành vi vô chánh phủ của bọn chúng còn ẩn núp trong dân chúng gửi gấp cho chúng tôi để cuộc thanh trừng của chúng tôi chóng kết thúc

Ngày  8 - 6 - 1948
Thay mặt toàn thể chiến sĩ Bình Xuyên
Ban chỉ huy [17]

17. Báo cáo tổng quát của Bộ Tổng tham mưu về tình hình chiến sự toàn quốc tháng 6 và tháng 7 - 1948. Hồ sơ 27, phòng BTTM, kho lưu trữ BỘ Quốc phòng trang 156 - 157.


Tiêu đề: Re: Bộ đội Bình Xuyên
Gửi bởi: colorwind trong 18 Tháng Năm, 2008, 12:06:52 pm
Chương VII

BÌNH XUYÊN LY KHAI VÀ VỤ ÁN TƯ HUỲNH

“Liên khu Bình Xuyên", thủ đoạn thâm độc của kẻ thù nhằm biến một bộ phận võ trang của ta thành lực lượng thù địch với kháng chiến, thành nòng cốt của liên minh giáo phái phản động, biến chiến khu rùng Sác thành chiến khu ma . . . bị thất bại.

Cuối tháng 5 đầu tháng 6 năm 1948, trong khi cuộc thanh trừng bắt đầu tại rừng Sác thì ở xóm Nhà Thờ thuộc xã Nhơn Hoà Lập nằm trong chiến khu Đồng Tháp Mười. Bảy Viễn, bọn phòng nhì và lực lượng hộ tống gồm hơn 200 người đã có mặt. Cách không xa nơi Bảy Viễn hạ trại, một cuộc họp gồm cán bộ Xứ ủy, ủy ban kháng chiến hành chính Nam Bộ được khẩn trương triệu tập. Xung quanh vấn đề xử lý đối với Bảy Viễn và đồng bọn, các ý kiến đưa ra khác nhau. Một số cho rằng: không nên bắt Bảy Viễn, không tiến hành thanh trừng, vẫn tấn phong chức vụ Khu bộ trưởng Khu 7 cho Bảy Viễn, nhằm tránh gây xung đột và đổ máu, đề phòng kẻ thù lợi dụng vu cáo, gây chia rẽ và kích động... Một số ý kiến khác đề nghị bắt Bảy Viễn và bọn phòng nhì đưa ra tòa án quân sự xét xử.

Hội nghị biểu quyết, đa số tán thành ý kiến thứ nhất. Lễ tấn phong vẫn được tổ chức theo dự định. Tiếp đó, đồng chí Lê Quẩn đại diện cho Xứ uỷ ra chỉ thị hoãn cuộc thanh trừng trong nội bộ "Liên khu Bình Xuyên". Công văn được khẩn tốc chuyển tới Ban chỉ đạo. Tuy nhiên, lệnh đó về tới rừng Sác thì đã muộn, cuộc thanh trừng đã tiến hành được ba ngày. Cùng lúc, tại xóm Nhà Thờ, Bảy Viễn vô cùng hoang mang. Dưới sức ép của bọn Tài, Sang. Viễn quyết định không trở về rừng Sác mà quay lại Sài Gòn.

Năm Tài mang theo một số tay súng bí mật rời xóm Nhà Thờ, cắt đường về Sài Gòn, báo cáo toàn bộ tình hình với cơ quan phòng nhì, chuẩn bị phương án tiếp tục sử dụng Bảy Viễn. Ba hôm sau toàn bộ lực lượng còn lại của Bảy Viễn cũng lặng lẽ rút chạy giữa đêm Đồng Tháp Mười. Trên đường, phần lớn cán bộ, chiến sĩ thuộc hai đại đội hộ tống do Bảy Cao chỉ huy bí mật quay về với đồng đội với kháng chiến.

Tới cầu Hiệp Ân - điểm hẹn đón đã thống nhất với Năm Tài - xung quanh Bảy Viễn còn lại: Lại Hữu Tài, Lại Văn Sang, Tư Hiểu, Thái Hoàng Minh, Năm Bé, Lê Paul (con trai Viễn) và 21 tay chân thân tín khác.

Về lại Sài Gòn với chủ, bộ mặt đích thực của Bảy Viễn và đồng bọn đã sạch mạng che. Ván bài "Liên khu Bình Xuyên" và "chiến khu ma" rừng Sác của địch hoàn toàn bị phơi bày trước công luận.

Giờ đây bọn phòng nhì đang sắp đặt một âm mưu mới: sử dụng Bảy Viễn và lợi dụng danh nghĩa "Bình Xuyên" trong điều kiện mới nhằm tiếp tục chống phá cuộc kháng chiến của quân dân Nam Bộ.

Ngay khi Bảy Viễn đặt chân tới Sài Gòn, bộ máy thông tin địch mở đợt tuyên truyền về lực lượng Bình Xuyên "ly khai kháng chiến". Đồng thời, phòng nhì Pháp lập tức tung tiền mộ lính nhằm gấp rút chuẩn bị cho Bảy Viễn 1 tiểu đoàn để kịp ngày ra mắt. Năm Bé đảm nhận nhiệm vụ tuyển mộ. Tại chợ Phạm Thế Hiển, Rạch ông, cầu Nhị Thiên Đường, cầu Tân Thuận... các bàn mộ lính được lập ra. Để đủ số lượng và kịp thời gian, tay chân Năm Bé đến các bót, các đồn xin về những tên du đãng đang bị bắt giữ. Tư Sang cấp tốc phiên chế và tổ chức huấn luyện những thao tác sơ đẳng của luật nhà binh.
 
Ngày 13 tháng 6 năm 1948, lễ ra mắt của "Bình Xuyên ly khai" được tổ chức tại chợ Phạm Thế Hiển. Về dự có Đơ La-tua cùng các viên chức trong chính phủ ngụy quyền Pháp và đầy đủ bộ sậu của Bảy Viễn. Sắc phục còn sực nức mùi vải mới, Bảy Viễn xuất hiện trên lễ đài và đọc bài diễn văn do phòng nhì soạn thảo. Y hứa trung thành nhất mực với “chính phủ quốc gia" và "nhà cầm quyền Việt - Pháp", nguyện một lòng "chiến đấu chống Việt Minh và cộng sản độc tài”… Thay mặt cho nhà cầm quyền Pháp - Việt, tướng Đơ La-tua chính thức tiếp nhận lực lượng "Bình Xuyên ly khai", đồng thời đọc quyết định phong quân hàm đại tá cho Lê Văn Viễn.

Sau lễ trình diện, phòng nhì Pháp và đồng bọn Bảy Viễn bắt tay tổ chức lực lượng, xây dựng sở chỉ huy và doanh trại. Suốt dọc hành lang hai con đường Trần Xuân Soạn, Phạm Thế Hiển, bờ nam của kinh Tẻ và kinh Đôi, dọc tỉnh lộ 5 và liên tỉnh lộ 15... hơn 30 địa điểm tuyển mộ lính được Năm Bé lập ra, chiêu tập lực lượng, tăng cường quân số cho “Bình Xuyên ly khai". Điều kiện "đăng lính" hết sức rộng rãi nhằm thâu gộp nhanh mọi đối tượng cho đủ số lượng. Hơn hai tháng, Bảy Viễn có trong tay một trung đoàn với 6 tiểu đoàn quân sự và 3 tiểu đoàn cảnh sát chìm lẫn nổi. Như vậy “lính" của Bảy Viễn lúc này không còn là "Bộ đội Bình Xuyên" nữa theo đúng nghĩa của bộ đội Bình Xuyên.

Cùng lúc, căn cứ tổng hành dinh, các cơ quan trực thuộc sở chỉ huy các tiểu đoàn cũng được gấp rút tổ chức. Toàn bộ được xây dựng trên khu vực phía nam cầu chữ Y. Một văn phòng liên lạc của "Bình Xuyên ly khai" với quân đội Pháp, nơi bộ tham mưu tổng hành dinh thường trực cũng được lập tại căn phố 31 đường Căn-tông. Hết thảy mọi chức vụ, vị trí chủ chốt đều là người thân tín của Bảy Viễn nắm giữ, trên cơ sở được phòng nhì Pháp chấp thuận. Mọi nhất cử nhất động của "Bình Xuyên ly khai" đều được cơ quan phòng nhì Pháp đặc biệt theo dõi, giám sát chặt chẽ, toàn diện mọi hoạt động của lực lượng này. Tư Hiểu chỉ huy 6 tiểu đoàn quân sự (trung đoàn trưởng). Năm Bé vừa là tổng cố vấn quân sự cho Bảy Viễn, kiêm cố vấn quân sự cho Tư Hiểu. Thái Hoàng Minh giữ chức tham mưu trưởng trung đoàn. Lê Paul, sau này có thêm Ngô Văn Lực, Võ Văn Môn, Lê Văn Chàng, Tiểu Lý Quảng, Năm Thời... làm tiểu đoàn trưởng 6 tiểu đoàn quân sự Lại Văn Sang nắm 3 tiểu đoàn an ninh, cảnh sát. Năm Tài được phòng nhì giao nhiệm vụ là sĩ quan biệt phái của trung tá Savani theo dõi, kiểm tra toàn bộ hoạt động và nhân sự của "Bình Xuyên ly khai". Dưới Năm Tài là hai nhân viên phòng nhì Viện và Kiểng trực tiếp chỉ huy ban tình báo thuộc bộ tham mưu "Bình Xuyên ly khai". Đây là ban phụ trách nhiệm vụ phản gián, nắm tình hình hoạt động của lực lượng đối phương và bí mật kiểm soát, thanh tra sĩ quan hạ sĩ quan các cấp trong lực lượng "Bình Xuyên ly khai".


Tiêu đề: Re: Bộ đội Bình Xuyên
Gửi bởi: colorwind trong 18 Tháng Năm, 2008, 12:27:15 pm
Địa bàn nam và đông nam thành phố Sài Gòn, trước khi “Bình Xuyên ly khai" được tổ chức, là khu vực có phong trào kháng chiến chống Pháp mạnh mẽ. Dựa vào nhân dân, vào các cơ sở cách mạng, vào địa thế thiên hiểm (những vùng hoang hoá, cây cỏ ngập tràn và rạch sông chằng chịt), du kích, lực lượng các ban công tác Thành, các tiểu tổ, tiểu đội của đơn vị biệt động số 1 và số 2 của Trung đoàn 300 Dương Văn Dương cùng cán bộ, nhân viên chính quyền và lực lượng công an của ta đã kiên cường trụ bám, tiến hành các hoạt động diệt ác, phá kềm, liên tục phục kích, tập kích nhỏ lẻ, gây cho địch thiệt hại về sinh lực, phương tiện chiến tranh, làm cho hậu phương của chúng luôn luôn bị đe dọa... Vì thế, địch khẩn trương xây dựng, trang bị, huấn luyện lực lượng "Bình Xuyên ly khai" tung vào hoạt động trên địa bàn nóng bỏng này của phía nam thành phố, nhằm các mục đích:

1. Càn quét, đánh phá quyết liệt, tiến tới xoá bỏ các cơ sở kháng chiến của ta, bảo đảm an ninh để phát huy hiệu lực của bộ máy thống trị. Thực chất đây là nhiệm vụ nhằm bình định các vùng mà Pháp đã chiếm đóng, tạo điều kiện cho quân đội Liên hiệp Pháp rảnh tay đối phó với các đơn vị võ trang tập trung của ta ở vùng ngoài.

2. Bảo đảm an ninh dọc sườn phía nam nội ô thành phố Sài Gòn: khu vực hành lang phía bắc kinh Tẻ, kinh Tàu Hủ, kinh Đôi, hình thành vành đai an ninh phía nam nhằm đảm bảo an toàn cho các cơ quan đầu não của bộ máy thống trị địch.

Ngay sau ngày cơ cấu lực lượng bước đầu tạm ổn, các đơn vị "Bình Xuyên ly khai” đã triển khai hoạt động theo nhiệm vụ được giao. Những tháng cuối năm 1948 địch liên tiếp mở 3 cuộc hành quân hỗn hợp đánh vào rừng Sác. Pháo 105 ly được đưa từ Gò Công về căn cứ Vàm Láng, nghếch nòng về hướng tây nam chiến khu nhả đạn dọn đường và yểm trợ cho bộ binh Pháp tiến. Trên các dòng kinh, hàng chục tàu chiến nhanh chóng thọc sâu vào rừng Sác.

Trong đội hình tiến công có nhiều đại đội thuộc 3 tiểu đoàn cơ động ứng chiến của "Bình Xuyên ly khai" tham gia. Đây là lực lượng chủ yếu mà địch sử dụng để đánh phá các khu vực xóm ấp của nhân dân thuộc chiến khu rừng Sác quận Nhà Bè càn quét ác liệt những khu vực bộ đội ta đóng quân và cướp phá các kho tàng của ta. Chúng đốt hàng trăm ngôi nhà, tàn hại đồng bào các xã An Thới Đông. Lý Nhơn, bắn chìm và cướp đi hàng trăm ghe thuyền - phương tiện đi lại và kiếm sống của những người dân nghèo trên sông rạch rừng Sác. Trong khi đó, bốn tiểu đoàn quân sự phối hợp với lực lượng tề điệp, cường hào ác bá địa phương, tiến hành phân loại dân, định ra các biện pháp phân biệt đối xử với từng loại. Các gia đình có người thân tham gia kháng chiến thuộc đối tượng chúng cho là nguy hiểm nhất, đặc biệt những nhà có người là cán bộ chiến sĩ Bình Xuyên trung kiên. Hàng trăm người thuộc diện này đã bị bắt bớ, thẩm vấn tra hỏi cực kỳ dã man. Hàng trăm gia đình tan nát. Xóm ấp thường xuyên náo động bởi các cuộc hành quân biệt kích ngày đêm của chúng. Trên mọi nẻo đường, bờ sông rạch... đều có thể có lực lượng "Bình Xuyên ly khai" phục kích. Không ít cán bộ, nhân viên chính quyền, đoàn thể kháng chiến và các chiến sĩ thuộc lực lượng công an, du kích của ta bị giết, bị bắt bởi những tên chỉ điểm, những toán phục kích loại này. Hàng chục cán bộ chiến sĩ đại đội đặc biệt thuộc đơn vị biệt động số 1 và số 2 (trung đoàn 300 Dương Văn Dương) đã rơi vào ổ phục kích của chúng...

Cũng như nhiều địa phương khác trên chiến trường miền Đông nửa cuối năm 1948, cuộc kháng chiến của quân và dân ta ở nam và đông nam thành phố gặp nhiều khó khăn. Cơ sở cách mạng và lực lượng kháng chiến của ta ở đây chịu nhiều tổn thất trước sự hoạt động đánh phá của các đơn vị thuộc "Bình Xuyên ly khai".

Quân và dân nam và đông nam thành phố Sài Gòn đã chống trả quyết liệt các thủ đoạn của kẻ thù. Quần chúng nhân dân vẫn một lòng theo kháng chiến, nuôi giấu cán bộ cách mạng, bí mật tiếp tế cho công an, du kích ấp, xã, phối hợp với lực lượng công an và các ban công tác, các đội biệt động, đẩy mạnh các hoạt động diệt tề, trừ gian, trừng trị đích đáng những tên có nhiều nợ máu. Sau khi Bảy Viễn chạy về hàng Pháp và các đơn vị võ trang của ta tổ chức lại lực lượng, nâng cao chất lượng chính trị, căn cứ rừng Sác trở nên ổn định hơn. Từ đây các đơn vị lực lượng võ trang của ta thường xuyên tổ chức các phân đội nhỏ luồn sâu vào vùng chiếm đóng của địch hoạt động.

Trong khi đó, sự lớn mạnh của lực lượng võ trang Phân khu 2 Duyên Hải cũng tạo điều kiện thuận lợi cho các địa phương đẩy mạnh hoạt động du kích, phát triển cơ sở cách mạng, củng cố chính quyền đoàn thể kháng chiến...

Bước sang năm 1949, cuộc chiến đấu trên chiến trường miền Đông trở nên quyết liệt. Địch tiếp tục đẩy mạnh chương trình "bình định" toàn diện Nam Bộ và tập trung mọi cố gắng nhằm thực hiện chương trình này. Về mặt quân sự chúng tăng cường thực hiện "chiến thuật tháp canh Đơ La - tua", tổ chức bảo vệ các trục lộ giao thông, các khu vực đông dân cư.

Tại nam và đông nam thành phố Sài Gòn, suốt dọc các đường Trần Xuân Soạn, Phạm Thế Hiển (khu vực dọc dài theo bờ nam kinh Tẻ, kinh Đôi), trên quãng dài 6 km phía bắc ven liên tỉnh lộ 5, 15 và hương lộ 34 (xuyên dọc các huyện Nhà Bè, Cần Giuộc). ở những xóm ấp mà phần nhiều là đất đai hoang hóa, kinh rạch chằng chịt nối thông... 4 tiểu đoàn quân sự địch thành lập một mạng lưới tháp canh, chòi gác, bót đồn xen kẽ. Các ấp 2, Tắt Rỗi... (xã Tân Thuận), ấp Bến Đò. Khánh Bình xóm ông Đội... (xã Tân Quy), xóm Chuối, rạch Ngang (xã Bình Đăng), thôn Thái Phúc, Phước Thới... (xã Chánh Hưng), vùng tiếp giáp 2 xã Bình Đăng và Phong Đước... thường xuyên có các tiểu đội thuộc lực lượng 4 tiểu đoàn "Bình Xuyên ly khai" chiếm đóng. Cùng với việc thành lập hệ thống tháp canh Đờ La - tua, các đơn vị 'Bình Xuyên ly khai" còn mở hàng trăm cuộc càn quét, ruồng bố trên khu vực rộng lớn từ bờ kinh Tẻ- kinh Đôi (phía bắc) trải dài xuống phía nam; từ ngã ba sông Nhà Bè Sài Gòn (phía đông bắc) tới rạch Cần Giuộc, nơi nối thông với rạch Chợ Đệm. Trong khi đó, 2 tiểu đoàn "xung kích". .. “cơ động ứng chiến" liên tục mở các cuộc ruồng ráp nhằm triệt phá cơ sở cách mạng, tiêu diệt lực lượng kháng chiến của ta.


Tiêu đề: Re: Bộ đội Bình Xuyên
Gửi bởi: colorwind trong 18 Tháng Năm, 2008, 12:34:24 pm
Thực hiện nghị quyết hội nghị quân sự Nam Bộ ngày 3 tháng 1 năm 1949 "Ra sức phát triển phong trào dân quân, ra sức phát triển du kích chiến tranh ở vùng tạm chiếm, nhất là Sài Gòn, Chợ Lớn", trong vòng 3 tháng đầu năm 1949, quân và dân nam - đông nam thành phố đã mở đợt hoạt động phối hợp nhằm "củng cố cơ sở, diệt ác phá kềm, chống phá biệt kích"... Nhiều nơi. những tên tay sai và ác ôn khét tiếng phải đền nợ máu. Một số tên tay sai khét tiếng đã nằm trong danh sách phải trừng trị. Tại Hố Bò nơi tiếp giáp với Bình Đăng - Phong Đước) du kích sử dụng lựu đạn gài gây thương vong cho 2 tiểu đội biệt kích của tiểu đoàn 2. Ở Tân Thuận, lực lượng công an xung phong do Hai Hữu phụ trách hạ sát tên Hồ. Công an và ban công tác hộ bắn chết tên Bầu Lung... Những hoạt động trên đây đã gây hoang mang, lo sợ cho "Bình Xuyên ly khai". Bọn chỉ huy Tư Hiểu, Thái Hoàng Minh tăng cường thị sát tình hình các tiểu đoàn, các đại đội đặc biệt chú trọng tới những đơn vị gặp nhiều khó khăn, bị thiệt hại nặng. Một mặt chúng tiến hành các biện pháp nhằm thanh lọc nội bộ, đề phòng lực lượng ta cài vào hàng ngũ của chúng. Mặt khác chúng điên cuồng mở hàng loạt những cuộc càn quét đánh phá ác liệt các địa bàn thường xảy ra "mất an ninh". Hàng chục tên phản bội kháng chiến vừa ra nhập "Bình Xuyên ly khai" bị chúng công khai thí bỏ tại những địa điểm đông người qua lại nhằm đe nẹt các biểu hiện giao động trong quân ngũ, trấn áp tinh thần dân chúng. Tại cầu Rạch Đỉa, Phan Văn Trường nguyên trưởng ban trừ gian số 9 vừa bỏ rừng Sác trở về theo Bảy Viễn bị chúng bắn giữa ban ngày. Trong khi đó, một lực lượng thuộc 4 tiểu đoàn quân sự phối hợp với lực lượng của 2 tiểu đoàn cơ động ứng chiến tiến hành càn quét khắp nơi.

Từ giữa năm 1949, trên địa bàn do tiểu đoàn 2 "Bình Xuyên ly khai" đảm trách, cuộc đấu tranh giữa ta và địch diễn ra rất quyết liệt. Địch đẩy mạnh càn quét, vây ráp hòng đánh bật lực lượng kháng chiến khỏi địa bàn. Hàng ngàn đồng bào ta bị tra tấn, thẩm vấn, tù đày.

Hàng trăm cán bộ chiến sĩ sa vào tay địch. Trong một đợt càn quét, lực lượng thuộc chi khu quân sự huyện Nhà Bè bắt được Lâm Văn Bền, Bí thư liên huyện ủy Nhà Bè - Cần Giuộc, khi đồng chí từ xã Hiệp Phước đến Tân Thuận công tác. Lập tức, những tên cầm đầu trung đoàn "Bình Xuyên ly khai" yêu cầu chi khu quân sự Nhà Bè giao đồng chí Bền lại cho chúng. Một số tay súng trực tiếp đến tận nơi tiếp nhận và tra tấn dã man đồng chí.

Vào những tháng cuối năm 1950, Bộ chỉ huy quân đội Pháp ở Nam Bộ quyết định đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động quân sự tạo điều kiện thuận lợi cho quân nguỵ đảm lãnh nhiệm vụ bảo vệ an ninh trên vùng đất đã được "bình định", điều các đơn vị chiến đấu của quân đội Pháp ra chiến trường miền Bắc.

Trên chiến trường nam và đông nam Sài Gòn, địch lập thêm nhiều đồn bót đã bị ta nhổ bỏ, tung lực lượng càn quét nhằm đánh bật lực lượng ta khỏi nhân dân, kiểm soát chặt hơn các nẻo đường giao thông thuỷ bộ. Từ các căn cứ và đồn bót, lực lượng "Bình Xuyên ly khai" bung ra, thẳng tay bắn giết và bắt bớ những ai chúng nghi ngờ là người cách mạng. Cho tới thời gian cuối năm 1950, đầu 1951, chúng tập trung nỗ lực nhằm giải toả quốc lộ 15 từ Sài Gòn đi Vũng Tàu, chiếm lại liên tỉnh lộ 19 chạy qua khu vực lòng chảo Nhơn Trạch, đặc biệt là đoạn từ Phước Thọ xuyên qua Phước An đến Phước Lý (huyện Long Thành). Khai thông và đảm bảo an toàn trên tuyến lộ 15 là điều không dễ.

Suốt quãng đường dài 35 km từ cầu Đồng Hươu (xã Long An huyện Long Thành) đến Long Hương phước Lễ), các cầu cống đã bị phá hủy, mặt đường bị cuốc tróc nhiều đoạn, nhân dân đào hố trồng tre ngăn xe địch. Ruộng đồng, thôn xóm ven đường đã bị hoang hoá, phá bỏ từ lâu nên cây cối um tùm, rậm rạp. Với lực lượng lớn gồm bộ binh, thiết giáp, pháo binh, biệt kích, tàu chiến, không quân, trinh sát, công binh, trong đó có 3 tiểu đoàn "Bình Xuyên ly khai", địch tiến hành càn quét đánh phá ác liệt khu vực hai bên đường và hai bên bờ sông Thị Vải. Hàng chục xóm ấp của xã Thái Thiện, Nam Bà Ký, Tuy Long, Phú Mỹ bị tàn phá nặng nề. Hàng trăm đồng bào bị bắn giết, bắt giữ. Hàng trăm ghe thuyền, trâu bò bị chúng cướp đi. Lực lượng "Bình Xuyên ly khai" do Thái Hoàng Minh chỉ huy ngày càng hung hãn. Chúng đánh sâu vào cả chiến khu Hắc Dịch của ta, thẳng tay bắn giết và cướp phá.

Bộ đội chủ lực của tỉnh, khu, bộ đội địa phương huyện Long Thành, Vũng Tàu và các đơn vị du kích của các xã ven trục lộ liên tục tác chiến phục kích, tập kích vào đội hình hành quân giải toả của địch, gây cho chúng nhiều tổn thất. Có những trận, ta tiêu diệt gọn cả trung đội khi lực lượng này đang bí mật phục kích "đón lõng" ta. "Bình Xuyên ly khai" bị thiệt hại về sinh lực và vũ khí. Trước tình hình đó, Thái Hoàng Minh hoang mang, y tự bắn vào cánh tay để lui về tuyến sau điều trị. Bảy Viễn đẩy Tư Hiểu ra thay Thái Hoàng Minh, chỉ huy 3 tiểu đoàn này. Tháng 6 năm 1951 , toàn tuyến lộ 15 được khai thông. Tiểu đoàn 1 “Bình Xuyên ly khai" do con trai Bảy Viễn chỉ huy được tăng cường thêm hai đại đội hoả lực, trở thành lực lượng nòng cốt của chi khu quân sự Phú Mỹ. Đây là chi khu đảm lãnh nhiệm vụ bảo vệ toàn bộ quãng đường từ nam cầu Sông Nước Lớn đến nam xã Phước Hòa. Sở chỉ huy chi khu đặt tại ấp Mỹ Xuân trung tâm xã Phú Mỹ (huyện Vũng Tàu tỉnh Bà Chợ). Toàn bộ chi khu được phân thành 4 phân khu với hệ thống đồn bót, chòi canh do tiểu đoàn 1 "Bình Xuyên ly khai" trấn đóng. 


Tiêu đề: Re: Bộ đội Bình Xuyên
Gửi bởi: colorwind trong 18 Tháng Năm, 2008, 01:00:37 pm
Từ đây, giữa chiến khu rừng Sác và chiến khu Hắc Dịch của ta bị địch chia cắt. Hơn thế, suốt dọc sườn tây chiến khu Hắc Dịch luôn luôn bị lực lượng "Bình Xuyên ly khai" uy hiếp. Tính từ tháng 6 năm 1951 đến tháng 7 năm 1954, lực lượng do Lê Paul chỉ huy gồm hơn 2000 sĩ quan, hạ sĩ quan, binh lính hên tục mở các cuộc hành quân càn quét, gom dân, cưỡng bức hàng vạn đồng bào từ vùng ven chiến khu về tập xung xung quanh bót đồn dọc quốc lộ 15. Chúng tổ chức hàng trăm trận phục kích trên các nẻo đường từ rừng Giồng xuống rừng Sác, gây nên nhiều tổn thất cho lực lượng kháng chiến.

Nhận rõ âm mưu, thủ đoạn mới của kẻ thù, cuối năm 1948, Khu ủy Khu 7 chủ trương tổ chức đưa người của ta về Sài Gòn, tìm cách lọt vào hoạt động trong hàng ngũ "Bình Xuyên ly khai" của Bảy Viễn. Đối với số đông những người bị địch mua chuộc, lợi dụng... ta chủ trương vận động, giác ngộ họ, giúp họ từng bước rời bỏ con đường lầm lỗi. Đối với những tên có nhiều nợ máu, đặc biệt những tên đầu sỏ đã và đang ra sức chống phá kháng chiến, thì kiên quyết tìm cách tiếp cận, trừng trị.

Thực hiện quyết định trên, ban chỉ huy Trung đoàn 301 lựa 5 cán bộ chiến sĩ của trung đoàn, tiến hành bồi dưỡng giao nhiệm vụ trở lại Sài Gòn hoạt động. Tại chiến khu rừng Sác ban chỉ huy Phân khu 2 Duyên Hải đề ra kế hoạch thuyết phục Bảy Viễn về với kháng chiến. Đây là vấn đề rất khó khăn, phức tạp. Cần phải xây dựng một kế hoạch tương đối hoàn chỉnh để đưa người về Sài Gòn, thâm nhập hàng ngũ một, cách trót lọt, đồng thời người đưa giao nhiệm vụ phải trung thành với cách mạng, mưu trí, dũng cảm, từng có quan hệ mật thiết với Bảy Viễn...

Đảng ủy Phân khu 2 Duyên Hải nhận thấy Nguyễn Văn Huỳnh (Tư Huỳnh) hội đủ các điều kiện đó.

Do tính chất đặc biệt của nhiệm vụ, Đảng ủy và bộ chỉ huy phân công Nguyễn Đức Huy (Bí thư phân khu ủy, kiêm chính trị viên bộ chỉ huy Phân khu 2) và Dương Văn Hà (phân khu trưởng) trực tiếp thử thách giao việc, theo dõi kiểm tra, động viên Nguyễn Văn Huỳnh.

Sau khi bàn bạc và biểu quyết nhất trí phương án hành động Đảng ủy và bộ chỉ huy Phân khu, cử ra ban chuyên trách chỉ đạo nhiệm vụ do Nguyễn Đức Huy phụ trách. Việc đưa Nguyễn Văn Huỳnh trở về hoạt động trong hàng ngũ “Bình Xuyên ly khai" được thông báo cho các cấp ủy. Các chi bộ và toàn thể đảng viên trong phân khu. Đồng thời nhằm đánh lạc hướng sự theo dõi của kê thù, bộ chỉ huy phân khu đã chỉ thị cho các đơn vị triển khai đợt tuyên truyền công khai trong nhân dân, ra thông báo cho các chính quyền địa phương trong phân khu về "hành động phản bội kháng chiến của Nguyễn Tư Huỳnh".

Tư Huỳnh trở vào Sài Gòn xuôi lọt và tiếp xúc được với Bảy Viễn. Bảy Viễn đã giành cho Tư Huỳnh sự thù tiếp thân mật.

Thay cho việc thực hiện nhiệm vụ mà Phân khu ủy và bộ chỉ huy Phân khu trao phó, Tư Huỳnh bị Bảy Viễn lôi kéo, quay trở lại tự nguyện phục tùng Bảy Viễn. Tiếp đó phòng nhì Pháp hình thành phương án "tương kế tựu kế' đưa Tư Huỳnh trở về rừng Sác vận động, lôi kéo cán bộ chiến sĩ của ta bỏ hàng ngũ kháng chiến trở về với "chánh nghĩa quốc gia". Đối tượng chủ yếu nhằm vào những cán bộ quân sự vốn trước đây là bạn bè thân gần và đàn em của Bảy Viễn. Tư Huỳnh được giao nhiệm vụ cụ thể, thống nhất những quy định về ký tín hiệu liên lạc, đường đi, vùng tập kết, thời hạn đón nhận số bỏ hàng ngũ kháng chiến trở về thành.

Tại rừng Sác, ban chuyên trách chỉ đạo nhiệm vụ đặc biệt thuộc ban chỉ huy Phân khu 2 Duyên Hải từng ngày chờ tin tức. Quá thời hạn quy ước cho việc hoàn thành nhiệm vụ, nhưng ban chỉ đạo vẫn chưa nhận được kết quả và cả tin tức về Tư Huỳnh. Trước tình hình đó, Phân khu ủy và bộ chỉ huy Phân khu quyết định bí mật lệnh cho Tư Huỳnh trở về chiến khu rừng Sác.

Một ngày đầu năm 1949, từ tảng sáng, Tư Huỳnh cùng với vợ và đứa con gái nhỏ rời Sài Gòn trở lại rừng Sác. Hành trình của Tư Huỳnh được phòng nhì Pháp bố trí, đảm bảo hết sức thận trọng và chu đáo. Một chiếc xe hơi của địch được cải dạng thành xe lô - ca - xông chở vợ chồng Tư Huỳnh xuống xã Tân Thuận. Tới tháp canh cầu Trệt (Cống Lở) tài xế - mật thám Pháp - cho xe dừng lại. Vợ chồng Tư Huỳnh đi một mạch tới xóm Tắt Rỗi thuộc ấp 2 xã Tân Thuận). Tại đây, chiếc ghe ba chèo đã chờ sẵn mép nước, nhanh chóng đưa họ vượt sông Nhà Bè, đi ngang Đèn Đỏ, qua Rạch Lá (thuộc xã Phú Hữu huyện Long Thành. Về lại ngôi nhà cũ cạnh bến Ghe ở nam ấp Bàu Bông (xã Phước An, huyện Long Thành), Tư Huỳnh sau khi soát xét lại toàn bộ vật dụng trong nhà đã khiếu nại lên bộ chỉ huy phân khu, đề nghị đền bù số tài sản của mình bị mất trong thời gian đi vắng. Khiếu nại được giải quyết.

Tư Huỳnh báo cáo tình hình với ban chỉ đạo nhiệm vụ đặc biệt với nội dung đã được phòng nhì Pháp thông qua. Ghi nhận những lý do không hoàn thành nhiệm vụ mà Tư Huỳnh trình bày, bộ chỉ huy Phân khu động viên Tư Huỳnh tiếp tục công tác ở chiến khu rừng Sác. Bộ chỉ huy Phân khu lệnh cho ban tình báo cử người bí mật giám sát theo dõi các hoạt động của Tư Huỳnh.

Tranh thủ thời gian được cấp trên cho nghỉ ngơi sau thời gian làm nhiệm vụ đặc biệt, Tư Huỳnh đã tiếp xúc với những bạn bè bấy giờ đang giữ cương vị chỉ huy các cấp từ trung đội đến trung đoàn hiện đứng chân trên địa bàn rừng Sác. Một đêm, trong nhà riêng của Bảy Môn, Tư Huỳnh bí mật gặp một số người. Phác lại toàn bộ những điều tai nghe mắt thấy về thực lực quân sự, kinh tế của "Bình Xuyên ly khai", Tư Huỳnh nhận thấy phản ứng của số người này thuận lợi. Vì thế Tư Huỳnh không ngần ngại nói rõ sự thay đổi quan điểm, lập trường của mình và kể lại thái độ của Bảy Viễn cùng lời nhắn nhủ của y đối với họ. Số người này tỏ ý chấp thuận.

Liền đó Tư Huỳnh phổ biến cho họ kế hoạch đào ngũ về Sài Gòn, gồm thời gian, cung đường, phương tiện, mật khẩu liên lạc với đồn bót, địa điểm gặp người của Bảy Viễn. Cuộc họp kín bị chiến sĩ trinh sát của cơ quan tình báo thuộc bộ chỉ huy Phân khu theo dõi. Toàn bộ nội dung lập tức được báo bộ chỉ huy Phân khu, một phương án nhằm đập tan kế hoạch của Tư Huỳnh được hình thành. Đồng thời bộ chỉ huy lệnh cấm tất cả những cán bộ quân sự nếu không có nhiệm vụ không được ra khu vực sông (kể cả dọc triền sông) và khu vực tắt ông Mai, tắt ông Thuộc (địa bàn tiếp giáp giữa hai xã Phước Khánh và Phú Hữu huyện Long Thành tỉnh Biên Hoà).

[18] Trong đó có Lê Văn Chàng (Năm Chàng) nguyên chi đội trưởng chi đội 2, đi học văn hoá và trở thành đảng viên, cán bộ của Trung đoàn 301.


Tiêu đề: Re: Bộ đội Bình Xuyên
Gửi bởi: colorwind trong 18 Tháng Năm, 2008, 01:02:44 pm
Sau khi lôi kéo được một số người, Tư Huỳnh tìm cách móc nối với một số cán bộ đại đội và trung đội như Huỳnh Văn Nên (Ba Bay). Nguyễn Văn Hoe (Tám Hoe), Nguyễn Văn Sỏi (Tám Sỏi), Lê Văn Cà (Sáu Cà)...Cuộc họp kín thứ hai được tổ chức tại gian nhà người vợ bé của Ba Hà nằm trên bờ rạch Cái Đôi, mạn nam xã Phước Khánh. Kết quả đúng như Tư Huỳnh trù tính, Ba Bay và Ba Hưng đứng ra lo tổ chức, chuẩn bị phương tiện trốn về thành.

Để tránh chạm trán với các đội tuần tra, trạm gác, chốt chặt ven rừng Sác, từ ấp Bàu Bông, Vũng Gấm thuộc xã Phước An tới Phước Khánh đi bằng xuồng ghe, qua các rạch, các tắt. Ra tới sông Đồng Tranh, bỏ ngã ba Đồng Tranh và Lòng Tàu, mặc dù đó là đoạn đường tới Nhà Bè ngắn nhất. Ngược lại, xuôi Đồng Tranh rẽ vào rạch Muỗi, vượt ngã tư Rạch Vọp, Rạch Bàng, theo tắt Thợ Hồ lên Phước Khánh, địa bàn tập kết lực lượng để chuẩn bị vượt sang vùng địch là ngã ba Rạch Mương, con rạch đổ nước vào sông Lòng Tàu. Đây là con rạch có chiều dài độ 5 km, bắt từ trung lưu rạch ông Kèo (phía đông bắc) xuyên qua Sở Dừa (đồn điền cũ của một tư sản tên là Ban Tiêu phía đông bấc xã Phước Khánh) tới nhập sông Lòng Tàu hình thành ngã ba sông. Đây là nơi giao lưu mua bán giữa vùng ta và địch. Dân cư tụ hội, nhịp sống tấp nập, có nhà thờ Tin Lành bên bờ sông. Một địa điểm thuận lợi để vượt vào vùng địch. Tiếp theo sẽ hành động theo hai phương án. Hoặc từ ngã ba Rạch Mương, theo dòng về hướng tây tới ngã ba Lấp Vò, tiếp điểm sông Nhà Bè và Lòng Tàu, cập đất liền Nhà Bè, tiếp xúc với địch ở đồn bót dọc liên tỉnh lộ 15 để bắt liên lạc với Bảy Viễn; hoặc: nếu gặp tình huống bất trắc, bị phát hiện, bị gió thổi ngược chiều, sóng to không tiến được về hướng tây, thì nhanh chóng vượt sông Lòng Tàu từ bờ bắc sang bờ nam, đổ bộ lên địa bàn do quân Pháp kiểm soát thuộc xã Bình Khánh vùng rừng Sác huyện Nhà Bè.

Mặc dù ta đã có kế hoạch chặn bắt, nhưng trong quá trình triển khai thực hiện, do chủ quan và sơ suất, ta đã để một số người cùng vợ con Tư Huỳnh đi thoát. Riêng Tư Huỳnh và người chèo ghe bị đuổi ráo riết nên sa lưới. Chiều hôm đó, nhóm Ba Bay đang chuẩn bị xuất phát thì nhận được tin cấp báo việc Tư Huỳnh bị bắt. Số người còn lại bị truy đuổi. Nhận định việc đã lộ, mọi ngả đường đã bị chặn, họ quyết định nán lại, chờ đêm xuống.   

Dựa trên tin báo của đồng bào, một phương án vây bất được hình thành. Phối hợp với lực lượng công an, dân quân du kích xã Phước Khánh, các chiến sĩ trung đội số 1 , đại đội đặc biệt của phân khu nhanh chóng bao vây, bắt gọn toán bỏ trốn.

Tất cả được đưa về bộ chỉ huy Phân khu 2 Duyên Hải. Nhằm giáo dục cán bộ chiến sĩ, nâng cao cảnh giác góp phần làm thất bại âm mưu thủ đoạn mua chuộc của kẻ thù. Bộ Tư lệnh Khu 7 chỉ đạo Phân khu ủy và bộ chỉ huy Phân khu 2 Duyên Hải mở phiên toà đặc biệt xét xử vụ án do Tư Huỳnh chủ mưu và đồng phạm.

Đầu tháng 3 năm 1949, tại hội trường của Trung đoàn 309 nằm trên bãi sông cạnh cầu Vũng Gấm, ấp Vũng Gấm xã Phước An, phiên toà chính thức khai mạc. Đại diện chính quyền, đoàn thể cứu quốc tỉnh Biên Hoà, tỉnh Bà Rịa, huyện Long Thành, xã Phước An và các trung đoàn 306, 309, 310 cùng đông đảo nhân dân vùng giải phóng được mời đến dự. Ngoài ra, các cán bộ quân chính từ cấp đại đội trở lên của lực lượng võ trang thuộc Phân khu 2 Duyên Hải cũng có mặt tại phiên toà.

Ngồi ghế chủ toạ là Nguyễn Đức Huy, Dương Văn Hà ngồi ghế công tố viên, Đặng Văn Thìn ngồi ghế hội thẩm. Luật sư Đỗ Tân ngồi ghế biện hộ, Lê Văn Phẩm là chánh thư ký .
 
Các bị cáo gồm: Nguyễn Văn Huỳnh, Ba Bay, Tám Hoe. Tám Sỏi, Ba Hà. Sáu Cà và 4 người chèo ghe (nguyên là chiến sĩ). .
Phiên toà được tiến hành nghiêm túc, đúng thể thức.

Trước vành móng ngựa, Tư Huỳnh, Ba Bay thú nhận tội, lỗi của mình. . Căn cứ vào tang chứng và lời khai bị cáo, xét mức độ phạm tội và hậu quả do hành động phạm tội gây ra, toà 1 tuyên án: Nguyễn Văn Huỳnh: tử hình; Huỳnh Văn Nên (Ba Bay): 2 năm tù giam; Nguyễn Văn Hoe, Nguyễn Văn Sỏi, Lê Văn Cà, Trần Văn Hà mỗi người 2 năm tù hưởng án treo và 2 năm thử thách; 4 can phạm chèo ghe: miễn tố, 1 cho giải ngũ ...

Tiếp đó toà quy định: Các tội phạm được kháng án lên 1 toà án quân sự cấp trên, thời gian 20 ngày kể từ ngày tuyên án. Hết thời gian quy định kháng án, bản án phải được thi hành. Đoàn Văn Ngọc đại đội trưởng đại đội vệ binh trực thuộc bộ chỉ huy Phân khu 2 Duyên Hải có trách nhiệm tổ chức thi hành án.

Một ngày cuối tháng 3 năm 1949, bản án tử hình đối với Nguyễn Văn Huỳnh được tiến hành tại ngã ba Hàng Điều, một địa điểm nằm ở km 16 trên liên tỉnh lộ 19 thuộc địa phận ấp Bàu Bông.

Toàn bộ diễn biến của "vụ án Tư Huỳnh" chứng tỏ công tác địch nguỵ vận tiến hành trong hàng ngũ "Bình Xuyên ly khai" buổi ấy rất khó khăn, phức tạp và nguy hiểm. Để xảy ra vụ án Tư Huỳnh là điều đáng tiếc. Tuy nhiên, việc lập toà án quân sự đặc biệt xét xử công khai Tư Huỳnh và đồng phạm có tác dụng tốt. Nó kịp thời cảnh tỉnh những ai còn lẫn lộn, mơ hồ về lập trường giai cấp còn mơ hồ giữa địch và ta, ảo tưởng về bản chất của Bảy Viễn và "Bình Xuyên ly khai", qua đó, giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ và đông đảo quần chúng nhân dân, nâng cao tinh thần cảnh giác, làm thất bại âm mưu hoạt động phá hoại hàng ngũ kháng chiến của kẻ thù.


Tiêu đề: Re: Bộ đội Bình Xuyên
Gửi bởi: colorwind trong 18 Tháng Năm, 2008, 01:12:34 pm
ĐOẠN KẾT

SÔNG VỀ BIỂN LỚN

Cuộc thanh trừng ở rừng Sác làm lạnh mạnh hoá ban chỉ huy các chi đội 9, 21, 25 là những đơn vị vốn trước đó bị bọn phòng nhì Pháp và tay sai phản động lũng đoạn phá hoại; đồng thời qua đó, làm lành dần vết thương từng rỉ máu trong lòng mỗi cán bộ, chiến sĩ ở khắp bảy chi đội 2, 3, 4, 7, 9, 21, 25.

Từ giữa đến cuối năm 1948, chiến trường miền Đông Nam Bộ đang trong quá trình điều chỉnh lớn về sắp xếp, bố trí lực lượng, xây dựng các trung đoàn bộ đội địa phương theo yêu cầu chung của cuộc kháng chiến. Bộ đội Bình Xuyên chia toả ra, sát nhập lại hoặc bổ sung vào các đơn vị bạn để xây dựng các trung đoàn 300, 301, 302 (sau là 309 rồi 397) 304, 306, 307 (sau là 397), 308, 310, 311, 312 lực lượng biệt động Sài Gòn; rồi thành đội bộ Sài Gòn, tỉnh đội bộ các tỉnh Bà Rịa, Biên Hoà, Thủ Dầu Một, Tây Ninh; huyện đội bộ các huyện Nhà Bè, Cần Giuộc, Cần Đước, Long Thành, Vũng Tàu; các cơ quan thuộc Khu bộ Khu 7 như Phòng Tham mưu, Phòng Chính trị, Phòng Dân quân, Phòng Cung cấp. Dương Văn Hà về giữ chức Phó Tư lệnh Khu 7. Nhiều cán bộ khác của bộ đội Bình Xuyên tuỳ theo năng lực, phẩm chất và theo yêu cầu chung, được giao trọng trách ở nhiều đơn vị võ trang và cơ quan kháng chiến địa phương.

Buổi chia tay kẻ ở người đi bịn rịn và gấp gáp. Hành trang của mỗi người trĩu nặng kỷ niệm một đoạn đường chiến đấu buồn vui lẫn lộn, có vấp váp trả giá có thắng lợi quang vinh.

Giờ đây bộ đội Bình Xuyên đã hoà vào mạng lưới rộng lớn lực lượng võ trang Nam Bộ, vào điệp trùng đội ngũ Quân đội nhân dân Việt Nam - một đội quân cách mạng từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, sẵn sàng hy sinh vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc nhân dân. Trên thực tế, không còn tổ chức đơn vị bộ đội Bình Xuyên riêng rẽ.

Ngày tháng đi nhanh. Thời gian và cuộc chiến đấu đầy gian khổ phức tạp lưu khắc vào cuộc đời mỗi người những khúc điệu không đồng thanh, những mảng màu không đồng sắc Nhưng dẫu vậy, kỷ niệm của một thời chiến đấu và công tác từng chia ngọt, sẻ bùi trong đội hình bộ đội Bình Xuyên vẫn mãi mãi là hằng số trong nỗi nhớ thẳm sâu của mỗi cán bộ chiến sĩ ra đi từ bộ đội Bình Xuyên ngày ấy.
Đấy là niềm tự hào, niềm tin tự hào xen cả nỗi cay đắng, ngậm ngùi. Vì đã có một thời, danh xưng lực lượng Bình Xuyên từng bị hiểu là lực lượng Bảy Viễn; từng bị sai lệch trong nhận cảm của không ít người - cả trước đây và cho đến tận gần đây!

Trên khắp chiến trường Nam Bộ, trong suốt những năm còn lại của cuộc trường kỳ kháng Pháp, rồi kế đến 21 năm chống Mỹ, hầu hết cán bộ, chiến sĩ một thời mang danh Bình Xuyên vẫn một lòng trung trinh với Đảng, chiến đấu kiên cường. Không thể kể hết hàng ngàn trong số họ, từ trong lò lửa cuộc chiến tranh giải phóng ba mươi năm, đã trở thành những cán bộ trung cấp, cao cấp, những vị tướng, những người nắm giữ nhiều vị trí quan trọng trong khắp các ngành kinh tế, chính trị, văn hoá, quân sự của đất nước.

Ngay cả những người theo Bảy Viễn về đầu hàng giặc, hoặc vì nhiều lẽ bị kẹt lại với y, vẫn nặng nghĩa đồng bào đồng chí. Đó là Bảy Môn cùng nhiều cán bộ chiến sĩ khác. Họ đã trở lại hàng ngũ kháng chiến trong những năm đầu đánh Mỹ, và trở thành một trong những đơn vị võ trang cách mạng được xây dựng đầu tiên thời kỳ sau hiệp định Giơnevơ tại chiến trường miền Đông Nam Bộ, một trong những lực lượng làm nên chiến thắng Trại Be, Dầu Tiếng. Tua Hai, ...

Họ như những kinh rạch chảy dẫu quanh co, đứt nối trong lưu vực cuộc chiến tranh ở Nam Bộ, cuối cùng vẫn hội nhập về dòng sông cách mạng, về biển lớn nhân dân !


~HẾT~