Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 14 Tháng Năm, 2024, 04:27:43 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Sự lừa dối hào nhoáng  (Đọc 147637 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
TraitimdungcamHP
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 505


« Trả lời #70 vào lúc: 16 Tháng Năm, 2008, 04:36:00 pm »

Vann bay vòng vòng trên chiến trường, khổ sở vì thất vọng trước quang cảnh ấy : Việt cộng bắn hạ xạ thủ súng máy, xe bọc thép lùi dần nối tiếp nhau và ống phun lửa gặp sự cố. Đây là lúc kỳ quái nhất của một ngày điên cuống. Anh rủa Bá đã không tập hợp tất cả M-113 đồng thời tấn công, chửi Harkins đã cản trở anh tác động trong quá trình cuộc chiến. Anh cũng ngạc nhiên như những người khác thấy Việt cộng không rời bỏ trận địa chạy trốn trước xe bọc thép. Anh không chịu đựng nổi khi không thể hành động trước mặt trái bất ngờ này. Anh những muốn nói với Mays và kẻ đồng cấp ngu dốt của anh ta rằng, nếu sử dụng súng máy quá nguy hiểm thì chỉ việc đóng các cửa xe xông vào hàng cây ; khi đã ở trên đê họ đổ quân lính bộ binh ra đi tàn sát Việt cộng trong các hố. Nhưng anh không có cách nào nói được với Bá hoặc Mays : những làn sóng điện bố trí ở M-113 không cùng tần số với những làn sóng trên máy bay thám thình L-19. Đã bao nhiêu tháng nay Vann đề nghị Sài Gòn bố trí để máy bay anh có thể liên lạc trực tiếp với xe bọc thép mà không được.

Trong các hố cá nhân, Việt cộng không thể cho phép mình tính toán gì nữa : họ chiến đấu để tránh bị tiêu diệt. Sau khi bị súng máy đánh vào đầu, Bá đã đủ hồi sức để tập hợp bảy , tám chiếc xe và tung một đợt tấn công phối hợp vào hàng cây. Nhưng còn ê ẩm vì cú đánh, choáng váng về cái chết của viên trung sĩ nhất và ngạc nhiên thấy Việt cộng vẫn tiếp tục chiến đấu, ông không đủ tâm trí sáng suốt để chú ý đến lời kêu gọi của Mays trong đài báo tấn công vào cánh sườn phải. Ông quá choáng nên không nhận ra cần buộc bốn hoặc năm xe sợ sệt ở lại phía sau gần con kênh phải tiến lên tăng cường cuộc tấn công. Theo bản năng, ông đã bỏ rơi chiến thuật Vann muốn thấy ông áp dụng : đóng mọi cửa ra vào và lao tới. Vann không biết một sĩ quan xe bọc thép như Bá đã học được, không phải không có lý do, không bao giờ mạo hiểm như vậy mà đối với một lính bộ binh có thể là sáng tạo. Các thấy ở những trường Pháp, Mỹ đã dạy ông,chỉ có những kẻ điên mới mù quáng tung xe bọc thép vào rừng. Bộ binh địch lúc nhúc ngay quanh xe, ném lựu đạn vào khi có một lỗ mở và bắn hạ bất cứ ai ở ngoài. Bá cũng biết bên kia đê có nước. Nếu ông lao tới, xe có đủ đà vượt qua đê chìm vào kênh tưới. Nước vào qua các lỗ thông hơi ngập hết máy. Những chiếc xe sẽ chúi hẳn xuống, không sử dụng được súng máy, xung quanh là Việt cộng. Giải pháp duy nhất nảy ra trong trí óc còn bối rối của ông là mở một con đường giữa cây cối với những súng máy, súng tự động và tất cả những vũ khí bộ binh có thể sử dụng; phải thận trọng lên đê không nhào sang bên kia rồi đi dọc hàng hố cá nhân Việt cộng nếu họ không chạy trốn trước khi ông vào chu vi đề kháng của họ.

Những chiếc xe bọc thép tiến lên theo hàng lộn xộn trong bùn và nước ruộng. Hai mươi phút hành động riêng lẻ và rời rạc, một số lớn trung sĩ tử thương dẫn đến tâm trạng ngập ngừng trong lúc tình hình đòi hỏi một quyết định dứt khoát. Bá khó khăn trong việc phối hợp những chiếc xe mà các tổ lái đã mất tinh thần. Việc tấn công dè dặt và các chiến binh không dứt khoát, Người lái không muốn lộ người ra, ngồi trong xe cố điề khiển xe bằng hệ thống quang học. Không quen và tầm nhìn hạn chế làm họ tiến chậm hơn bình thường tăng nguy cơ súng máy dễ trúng đạn Việt cộng cũng như lính bộ binh đứng trên xe bắn vũ khí hạng nhẹ. Lái xe trông không rõ dẫn đến việc không giữ được thăng bằng xe, cản trở lưới lửa của bảy hoặc tám chiếc xe tập trung chính xác. Một số xạ thủ súng máy mới từ chối đứng sau súng mà ngồi trong tháp pháo bắn thẳng cánh, nghĩa là đưa đạn lên trời.

Qua từng giây, Bowers càng khâm phục trình độ quân sự của kẻ địch. Anh mê nhất việc Việt cộng giữ vững lòng can đảm và chiến đấu thông minh chống những con quái vật sắt xám thẫm gần đến thế. Họ không phân tán tầm bắn dọc theo hàng những kẻ tấn công mà tập trung vào xe gần nhất. Bowers nhìn những viên đạn địch nhảy trên vỏ thép từ làn bắn chéo cho đến lúc giết chết hoặc làm bị thương xạ thủ hoặc một lính bộ binh. Người lái ngập ngừng rồi dừng lại. Việt cộng bèn ngừng bắn hoặc vì tiết kiệm đạn hoặc để bắn tập trung vào chiếc xe đi đầu. Cuộc tấn công thất bại. Một số lái xe bắt đầu lùi. Kể cả Chớ hiếu chiến có Mays ngồi cùng xe cũng để tổ lái rút lui sau khi súng máy bị bắn trúng.

Chiếc xe bọc thép của Bá và một, hai xe khác tiếp tục tiến, chẳng mấy chốc đã cách con đê kênh tưới 15, 20 mét. Những lính đánh thuê Sài Gòn không mong muốn một trận chiến như vậy nhưng họ là người Việt và một số cũng can đảm khi đã vào trung tâm hành động. Tinh thần của Việt cộng bắt đầu rạn nứt ; một lúc nữa một trong những con quái vật 10 tấn ấy trèo lên đê và lòng quyết tâm chống cự sẽ tan biến. Tổ lái trên những chiếc xe bọc thép khác bị đánh lấy lại can đảm trở lại chiến đấu. Sĩ quan và hạ sĩ quan Việt cộng không khống chế nỗi sợ hãi được nữa. Binh lính của họ sẽ nhảy ra khỏi hố bảo vệ chạy trốn và bắt đầu cuộc tàn sát như trường hợp thường xảy ra trước đây.

Tiểu đội trưởng Dũng chặn ngay những chiếc xe lại. Anh nhảy ra khỏi hố cá nhân, đứng thẳng trước những vật to cồng kềnh. Nỗi sợ hãi của anh cùng các bạn khi thấy chúng phần lớn do chúng xấu xí quỷ quái. Phía trước tận cùng bằng một mõm rộng phình ra hai con mắt là đèn pha. Dũng lấy ở thắt lưng ra một quả lựu đạn, rút chốt đưa cánh tay ra sau ném vào một trong những con quái vật. Quả lựu đạn rơi trên đỉnh một chiếc M-113 nổ một tiếng lớn và bùng lên ngọn lửa. Trước sự dũng cảm của anh, binh sĩ trong đội vượt qua nỗi sợ, rởi chỗ ẩn nấp theo gương anh cũng ném lựu đạn. Một người khác tên là Sơn bắn súng phóng lựu đạn dọc theo hàng xe bọc thép. Ở chỗ nằm Bowers thấy hai quả nổ phía trên xe. Dũng xem ra không việc gì nhưng ba người bạn chết, những thành viên khác trong tiểu đội bị thương vì đạn của quân đội Sài Gòn hoặc vì mảnh lựu đạn của họ. Không biết trong xe có bao nhiêu nạn nhân. Điều đó không quan trọng. Tiếng nổ xé tai và những ngọn lửa cũng đủ để làm tan một ít can đảm còn lại của các tổ lái. Bá cho phép lái xe lùi và những xe khác đi theo. Cuộc tấn công thất bại. Bá quá kinh ngạc và bối rối, không bắt đầu lại được nữa. Dù sao các tổ xe của ông mất tinh thần đến nỗi nếu ông muốn làm họ cũng không nghe theo. Mays trong xe của Chớ cố thử hai đợt mới để đánh vòng vào sườn quân địch và giết các xạ thủ súng máy ở đầu bên phải. Họ bị đẩy lui với giá mạng sống của hai xạ thủ súng máy và những lính bộ binh khác. Lúc này là 14 giờ 30. Việt cộng đã hoàn thành điều tưởng như không thể làm được.
Logged
TraitimdungcamHP
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 505


« Trả lời #71 vào lúc: 16 Tháng Năm, 2008, 05:26:09 pm »

Chống đỡ với bi kịch này là màn khôi hài rùng rợn do Cao tưởng tượng ra. Khi được tin bốn trực thăng bị bắn hạ, lúc 11 giờ 30 sáng hôm ấy từ tổng hành dinh ở Cần Thơ, viên tướng đi máy bay đến Tân Hiệp. Ông ta sợ báo chí công bố tin này và lo ngại tổng thống Diệm sẽ có thái độ đối với ông khi được biết bản tổng kết thiệt hại mỗi lúc một cao hơn. Chắc chắn Diệm sẽ quy trách nhiệm cho ông. Ông tức giận Vann và Đạm đã đưa ông vào một ngõ cụt tồi tệ, một tình thế buộc phải đánh nhau với Việt cộng. Khi biết xe bọc thép của Bá cũng thất bại, làm bia cho quân địch bắn dễ dàng, ông bắt đầu tìm cách tránh khỏi cuộc chiến này, đổ trách nhiệm thất bại lên một người nào đó.

Vann đang bay trên ấp Bắc, quan sát đợt cố gắng cuối cùng của Chớ trong xe bọc thép ở đầu con đê thì được Dan Porter gọi điện cho biết kế hoạch của Cao rút khỏi vấn đề rắc rối. Porter đến Tân Hiệp cùng Cao, báo tin mật Cao đã xin một tiểu đoàn lính dù ở tổng hành dinh Sài Gòn. Vann đề nghị  Porter thả lính dù trên đồng ruộng và đầm lầy phía đông Tân Thới và ấp Bắc, lối thoát duy nhất của Việt cộng không thể diễn ra ban ngày nhưng là đường rút lui hợp lý của họ về đêm.

“Topper Six, tôi đã nói với ông ta như thế nhưng ông bảo sẽ sử dụng họ ở phía bên kia”. Porter trả lời.
“Tôi sẽ đến ngay”, Vann đáp, và lệnh cho phi công lái nhanh chóng trở lại Tân Hiệp.

Anh hiểu ngay trò chơi của Cao. Như sau này anh viết trong báo cáo gửi Harkins, Cao có ý đồ dùng tiểu đoàn dù không phải để bẫy và tiêu diệt Việt cộng mà như một “trình diễn sức mạnh .. hy vọng các đơn vị quân địch thôi chiến đấu để cuộc chiến bất đắc dĩ này kết thúc.”

Vann từ chiếc máy bay nhỏ bước xuống, sải dài bước chân vào lều chỉ huy. Anh nói với cao không thể phí phạm máu chẳng được gì, phải khép bẫy đối với Việt cộng và tiêu diệt họ. Porter bảo vệ anh và cả hai khẩn nài : nhân danh người chỉ huy chịu trách nhiệm, ông không có sự lựa chọn nào khác. “Ông phải thả lính dù ở kia”. Vann nói vừa đưa ngón tay vào tấm bản đồ hành quân lớn, chỉ sườn trống ở phía đông hai ấp. Anh giận dữ và vung tay đến mức suýt làm đổ giá đỡ bản đồ.

Cao không nhạy cảm với tính hợp lý quân sự ấy. “Như vậy không khôn ngoan. Như vậy không khôn ngoan”, ông không ngớt nhắc lại và giải thích tốt hơn nên thả lính dù xuống phía tây, phía sau những chiếc M-113 và quân bảo an để liên kết với những đơn vị này. “Chúng ta phải tăng cường”. Sau này, Vann phải tóm tắt lôgic của Cao bằng công thức “Họ đã chọn cách tăng cường sự thất bại”.

Anh lại một lần nữa mất bình tĩnh :

“Nhưng lạy Chúa ! Anh hét lên, ông muốn họ bỏ chạy ư ? Ông sợ phải đánh nhau. Ông biết rõ họ sẽ chuồn khỏi lối ấy và đó là điều ông muốn”

Cảm thấy bị dồn ép, Cao lấy giọng gay gắt của viên tướng nói với một trung tá.

“Tôi là tướng. Ở đây tôi chỉ huy và đấy là quyết định của tôi”.

Thiếu tướng Trần Thiện Khiêm, trưởng ban tham mưu hỗn hợp từ Sài Gòn đến theo yêu cầu của Cao, chứng kiến cuộc cãi nhau kịch liệt không có một ý kiến phản đối nào cả. Harkins không tới và không cử một thuộc hạ nào đến thăm dò lý do thiệt hại chưa từng có về năm chiếc trực thăng; vậy là không một viên tướng Mỹ nào trong lều để vung sao lên có lợi cho Vann và Porter. Để xoa dịu Vann, Cao cho rằng đã đưa giờ hành quân lên sớm hơn. “Sẽ tiến hành vào lúc 16 giờ”. Vann quay trở lại máy bay thám thính của mình. Anh đã hiểu tranh cãi lâu hơn nữa sẽ vô ích và hy vọng lính dù đến địa điểm khá sớm để còn có lợi một phần nào.

Cả buổi chiều, anh tự hỏi bao giờ lính dù sẽ đến và cố thuyết phục Cao, Đạm và Thọ, biến sự thất bại lớn nhất trong chiến tranh thành thắng lợi lớn nhất. Còn có khả năng chuộc lại lỗi lầm. Chỉ cần tập hợp hai tiểu đoàn bảo an và đại đội xe bọc thép của Bá, tổ chức một đợt tấn công phối hợp vào ấp Bắc. Dù lính M-113 mất tinh thần đến mấy, ít nhất họ cũng hỗ trợ được lính bộ binh bằng những loạt đạn súng máy hạng nặng và Việt cộng không thể chống cự lại một sức mạnh như thế. Cao cũng như Thọ không thể hiểu con đường hợp lý và đạo đức duy nhất là tấn công, chấp nhận những thất bại mới tương đối nhỏ, minh oan cho sự hy sinh của những người đã bị giết hoặc bị thương.

Thực tế tiểu đoàn bảo an thứ hai đã đến ấp Bắc trong lúc xe bọc thép của Bá tấn công và do một trung úy trẻ có tài chỉ huy. Anh thấy ngay có thể hỗ trợ Bá bằng cách vòng qua sườn phải, tấn công hàng phòng thủ Việt cộng từ phía nam, điều đáng lẽ tiểu đoàn thứ nhất đã phải làm. Anh điện đàm xin phép Thọ tấn công và bố trí ngay một đại đội để tranh thủ thời gian. Thọ bảo anh phải chờ. Suốt buổi chiều và sau khi Bá bị đánh bại, viên trung úy đã ba lần xin phép tấn công.

Prevost đã chuẩn bị trận địa cho anh khi buộc khẩu súng máy của địch ở góc phải con đê im lặng do cuộc tấn công bằng máy bay duy nhất có hiệu quả trong trận đánh. Việc đó xảy ra lúc 15 giờ 40 phút, chậm mất một giờ để hỗ trợ Bá nhưng đủ sớm cho quân lính bảo an. Vann tìm được Prevost ở trạm chỉ huy ngay sau khi cãi nhau với Cao. Anh đề nghị phải làm gì để chuộc lại sự thất bại hoàn toàn của những đợt tấn công bằng máy bay. Anh chỉ trên bản đồ hàng phòng ngự của Việt cộng và khẩu súng máy anh dò thấy cuối buổi sáng trong việc cứu hụt máy bay trực thăng. Prevost mượn một máy bay quan sát L-19 khác và Đạm ra lệnh cho một người Việt Nam ngồi ở ghế sau để điều chỉnh tầm bắn một chiếc A-26 khi cần can thiệp.

Lúc đầu Prevost tôn trọng nguyên tắc, để người quan sát viên Việt Nam kiểm soát chiếc máy bay ném bom hai động cơ. Anh nhận định người phi công Mỹ lãng phí vô ích hai thùng napalm và quả bom 50 kilô. Prevost bèn quyết định vi phạm nguyên tắc, thuyết phục quan sát viên Việt Nam để anh điều khiển chiếc A-26. Anh bay nhiều lần dọc theo hàng cây. Lúc đầu, anh phi công nóng lòng với những bài học Prevost dạy cho anh tiến lại gần và bổ nhào trong lúc súng máy nhả đạn, có xu hướng xuống quá dốc đứng và bay lên quá sớm. Đạn thường không trúng mục tiêu. Ban tham mưu của trung tâm hành quân hỗn hợp ở Tân Sơn Nhất vẫn nghe những cuộc liên lạc điện đài. Một trong những sĩ quan cũ biết Prevost và nhận ra tiếng nói của anh, bảo những người khác “Nghe này, Herb đang dạy cho phi công tiến đánh một đợt tấn công”. Khi anh phi công biết bổ nhào đúng, Prevost bảo bắn một loạt rốc két đúng vào góc đê. Khẩu súng máy của Việt cộng im bặt, xạ thủ bị giết hoặc bị thương. Ban chỉ huy trọng pháo phạm sai lầm gọi chiếc A-26 trở lại vì muốn lại bắn vào mặt đất. Nhưng không phải sự vụng về ấy làm cho chiến công của Prevost trở thành vô ích. Mỗi lần viên trung úy bảo an xin phép tấn công, Thọ đều ra lệnh chờ đã. Với thời gian ấy, ông ta mất oan ba người chết và bị thương.
Logged
TraitimdungcamHP
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 505


« Trả lời #72 vào lúc: 19 Tháng Năm, 2008, 11:07:46 am »

Mỗi lần Vann hỏi Ziegler vì sao tiểu đoàn lính dù chưa được thả xuống và Ziegler chất vấn Cao, ông ta ra cửa lều nhìn trời. “Đáng lẽ họ phải đến rồi, ông nói. Việc này do Sài Gòn làm chậm”. Thực ra ông đã thu xếp để thả lính dù lúc 18 giờ, nghĩa là một giờ rưỡi trước khi trời tối. Như vậy họ chỉ vừa tập hợp lại, bố trí một chu vi bảo vệ trong đêm, không có thì giờ tổ chức tấn công, hoàn toàn phù hợp đối với Việt cộng.

Quân lính dù trên bảy chiếc hai động cơ vận tải C.123 nhảy xuống lúc 18 giờ 5 phút. Nghe làn sóng đài Quân đội Cộng hòa, người chỉ huy tiểu đoàn Việt cộng biết họ sẽ đến từ hai tiếng trước đó. Nhưng ông không biết chính xác địa điểm nhảy dù, ra lệnh cho chỉ huy đại đội Tân Thới sẵn sàng di chuyển một bộ phận chiến sĩ để chống lại quân dù nếu chúng đe dọa.

Khác với đồng đội của họ ở ấp Bắc, các đội quân Việt cộng ở Tân Thới còn tương đối sung sức. Cuộc chiến đấu của họ với Sư đoàn 7 mới hạn chế trong việc đấu súng. Đại úy Kenneth Good, người California, 32 tuổi, cố vấn tiểu đoàn ưa chuộng của Vann và là sĩ quan có tính quần chúng nhất phân đội, bị chết tại đó. Anh đi thăm dò để cố lay chuyển các toán quân bất động. Bị thương, một thời gian lâu mất máu vì viên đại úy người Việt đi cùng không báo cho ai anh đã trúng đạn. Chỉ hai giờ sau, tình cờ một cố vấn khác phát hiện ra và Vann cho chuyển anh đến tận đường bay, chỉ mấy phút sau thì anh chết. Hai giờ rưỡi sau cái chết của Good, quân lính dù đến được tiểu đoàn hoan nghênh và một loạt kèn chào đón. Nhưng không ai động đậy cũng không bắn một phát súng hỗ trợ lực lượng tăng cường từ bầu trời.

Người ta không bao giờ biết trưởng phi vụ Mỹ hoặc trưởng chỉ huy nhảy dù người Việt đã phạm sai lầm phù hợp với việc bố trí của chỉ huy Việt cộng. Lính dù nhảy xuống phía cuối chứ không phải vào đầu địa điểm cách nhau đến gần một cây số. Do vậy, nhiều người trong bọn họ hạ xuống trước vị trí quân địch ở phía tây và tây bắc Tân Thới thay vì xuống phía sau chỗ bảo vệ của lính bảo an và xe bọc thép ở ấp Bắc như Cao dự kiến. Một sai lầm như vậy có thể xảy ra ở mọi cuộc hành quân nhảy dù nên Vann và Porter đã khẩn thiết cho thả quân sớm hơn vào buổi chiều. Việt cộng bắt đầu bắn vào lính dù khi họ đang xuống.

Khác với quân thường trực, những đội không quân Sài Gòn gồm những người lính kiên cường. Các sĩ quan dù Pháp đã là hiệp sĩ trong quân đội thực dân, những người lãng mạn thể hiện tình bạn và lòng can đảm trong cái chết để chuộc lại những ngu ngốc đè nặng lên số phận. Đồng đội Việt Nam của họ vẫn giữ lại ký ức về họ và cố gắng hành động với lòng dũng cảm của những thần tượng Pháp. Nhưng bây giờ họ buộc phải chiến đấu trong điều kiện tồi tệ, không thể tự tổ chức lại trong bóng tối mỗi lúc một gia tăng, còn quân địch gần như bắn liên hồi. Họ đành tấn công từng phần theo đơn vị nhỏ trước khi một đêm xuống kết thúc cuộc đấu. Việt cộng chỉ thiệt hại một ít trong khi gây cho họ những thiệt hại nặng : 19 người chết, 33 bị thương trong đó có hai cố vấn Mỹ, một đại úy, một trung sĩ.

Để chắc chắn Việt cộng có thể thoát khỏi trong đêm, Cao không cho phép máy bay C-47 thả pháo sáng như Prevost đề nghị nhằm soi tỏ đường rút lui của quân địch. Vann muốn đồng ruộng và đầm lầy phía đông Tân Thới và ấp Bắc được chiếu sáng như ban ngày và trọng pháo oanh tạc. Anh đề nghị 600 đạn súng cối. Cao cho một trăm. Rồi ông ta ra lệnh cho trọng pháo chỉ bắn bốn quả mỗi giờ. Ông biện bạch cấm thả pháo sáng vì lính dù không muốn  bị quân địch phát hiện. Việc họ yêu cầu như vậy thật đáng ngờ và Vann cãi lại, giải thích dù sao pháo sáng cũng không chiếu rõ họ được vì họ ở bên kia Tân Thới. Những lý lẽ riêng của Cao vẫn có giá trị hơn và trận địa chỉm trong bóng tối.


Những “con vật nhỏ rách rưới” bắt người Mỹ phải chấp nhận. 350 Việt cộng đã giữ vững trận địa và hạ nhục một quân đội hiện đại với quân số lớn gấp bốn lần, trang bị xe bọc thép, trọng pháo, trực thăng và máy bay ném bom. Để đối chọi, vũ khí mạnh nhất của họ là một khẩu móc-chi-ê nhỏ, cỡ 60, được xem là vô dụng. Họ có 18 người chết và 39 bị thương, thiệt hại tương đối nhẹ trong cuộc chiến mà người Mỹ và những người Việt Nam do họ bảo vệ đã dội vào nhiều nghìn loạt đạn súng thường và súng máy hạng nặng,  600 đạn súng cối, napalm và bom cùng những quà tặng khác chở trên 13 máy bay và năm trực thăng chiến đấu. Riêng những chiếc Huey đã trút xuống hàng cây ấp Bắc 8400 đạn súng máy và một trăm rốc két. Với vũ khí hạng nhẹ, Việt cộng đã gây gấp bốn lần thiệt hại cho họ, giết được khoảng 80 lính Sài Gòn, làm bị thương hơn 100; ba người Mỹ chết và 8 người khác bị thương, 5 chiếc trực thăng bị bắn hạ. (Sau này, chính quyền Sài Gòn công nhận có 63 người chết và 109 bị thương, làm giảm nhẹ thiệt hại bằng bỏ sót những mất mát của đại đội dự phòng trước ấp Bắc). Việt cộng gây ra những tổn thất ấy mà tiết kiệm đạn dược. Từ những loạt đạn đầu bắn nhau với quân bảo an cho đến những loạt cuối cùng với lính dù, họ chỉ dùng khoảng 5000 đạn súng thường và súng máy.

Viên chỉ huy tiểu đoàn quyết định rút lui vào 22 giờ, địa điểm tập kết là ngôi nhà một nông dân ở đầu phía nam Tân Thới. Suốt cả ngày, ông đảm nhận việc chỉ đạo chiến đấu, quyết định số phận mọi người với kinh nghiệm và suy tính của một người lính thực thụ, ý thức chỉ hy sinh người của mình cho chiến thắng. Bây giờ ông tổ chức cuộc rút lui cũng thận trọng như thế để rồi sau này lại chiến đấu. Hai đại đội phải đi từng đợt theo đơn vị nhỏ gần với ngôi nhà. Đại đội ấp Bắc đã bắt đầu rút hàng phòng ngự trước mặt những chiếc M-113 từ cuối buổi chiều ngược theo con sông nối liền hai ấp. Trong khi rút lui, mỗi trung đội của từng đại đội được phân công bảo vệ phía sau trong trường hợp quân đội Cộng hòa dám tấn công vào ban đếm. Hai giờ trước khi đi, viên chỉ huy đã cử hai trinh sát địa phương thăm dò đường rút về phía đông và tập hợp ghe thuyền chở những người bị thương theo kênh đến trạm cứu thương của căn cứ gần nhất. Khi trinh sát chở về, ông bàn bạc với các sĩ quan của mình để chọn con đường chắc chắn nhất. Ông cử một tiểu đội trở lại ấp Bắc tìm xác Dũng và đồng đội để được chôn cất theo vinh dự dàng cho họ. Dũng đã đứng lên trước xe bọc thép và trước các bạn còn sống, bị máy bay hoặc một loạt trọng pháo bắn chết một lúc sau đó. Tiểu đội trở về không có xác đồng đội, không tìm được trong bóng tối và sợ có tiếng động trong xóm vì những chiếc M-113 đóng quân ban đêm gần đấy. Trong báo cáo trận đánh họ viét “Đồng chí Dũng đã không thể trở về với chúng ta”.

Lúc 22 giờ, hai đại đội theo hàng dọc đi về hướng căn cứ Đồng Tháp Mười. Dân quân địa phương và nông dân ấp Bắc, Tân Thới đã hỗ trợ họ trong suốt cuộc chiến cũng đi theo một con đường khác về chỗ trú ẩn trong những rừng dừa lân cận. Đi đầu là các toán quân chủ lực của Tiểu đoàn 261 đã chống cự ở ấp Bắc. Giữa hàng quân , lính bộ binh mang những người bị thương và những người chết sẽ được làm lễ an táng trang trọng. Quân địa phương của Tiểu đoàn 514 đi đoạn hậu với một trung đội bảo vệ phía sau. Những người này di chuyển trong tình đồng đội và đã có thói quen bước đi trong đêm. Họ chuyển những người bị thương xuống thuyền đang chờ trên kênh. Hàng quân tiếp tục đi đến một chỗ lội qua sông, tiến lên không bị phát hiện và về đến trại lúc 7 giờ sáng. Họ đã làm được nhiều hơn việc thắng một trận, mang về một thắng lợi theo kiểu Việt Nam cũng như tổ tiên hộ đã làm từ nhiều thế kỷ. Họ đã chiến thắng quân địch mạnh hơn họ.
Logged
TraitimdungcamHP
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 505


« Trả lời #73 vào lúc: 19 Tháng Năm, 2008, 01:38:09 pm »

Vann tỏ lòng tôn kính họ lúc họ vừa bắt đầu rút lui. Điều đó đúng đã đến với anh vì anh là người báo tin của số phận. Không có anh, Bá có lẽ còn lờ đờ khá lâu để đến ấp Bắc quá chậm chiến đấu. Trong quyết định phải thắng quân địch, anh hối thúc buộc xe bọc thép tiến nhanh. Như vậy, anh dồn ép cuộc chiến đến mức nhục mạ cao độ quân lực Sài Gòn và đưa lại chiến thắng cho Việt cộng.

Đêm ấy tôi đi xe đến Tân Hiệp cùng Nicholas Turner, người New Zealand, thông tín viên hãng thông tấn Reuter và Nguyễn Ngọc Rao, phóng viên UPI. Những tin tức chúng tôi nắm được ở Sài Gòn về năm chiếc trực thăng bị bắn hạ, những đội quân được máy bay chở đến thả giữa chiến trường thật kỳ lạ khiến chúng tôi quyết định đến tại chỗ để xem điều gì đã xảy ra. Chúng tôi sợ bị bắt hoặc cầm tù ở một trong những rào chắn thường Việt cộng ngăn chặn về đêm. Nhưng chắc chắn chúng tôi mạo hiểm hơn hiều khi ngồi trên chiếc Triumph nhỏ của Turner đi mỗi giờ 100 cây số trên con đường nhựa hai chiều.

Cao đang trong tình trạng không muốn nói chuyện với chúng tôi. Ông ta bước ngang dọc trước lều chỉ huy, không ngớt đưa hai tay lên vuốt tóc như bị chi phối bởi một cơn thần kinh. Khi tôi tiến lại để hỏi ông một vài câu, ông nhìn thẳng vào tôi một lúc rồi  nói những câu rời rạc và đi xa ra.

Một trong những đại úy  của Vann đi tìm anh cho chúng tôi. Vann đưa chúng tôi lại cuối đường băng, xa ánh sáng những ngọn đèn treo trên dây lều. Anh không muốn Cao, Đạm và những sĩ quan Việt Nam khác thấy anh nói chuyện với chúng tôi. Anh rất thật thà nhưng đêm ấy cố nén giận, nghĩ đến hậu quả của việc báo chí công bố những chi tiết tệ hại của sự tan vỡ này. Anh kể với chúng tôi Việt cộng đã chống cự như thế nào trước sự tấn công của xe bọc thép và những đợt dội bom hàng loạt. Anh nhìn về phía ấp Bắc ban đêm trong lúc người ta nghe xa xa tiếng ì ầm của trọng pháo và đạn pháo sáng thỉnh thoảng soi rõ bầu trời mặc dù Cao đã có lệnh cấm. Rồi anh nói với chúng tôi :

“Họ thật dũng cảm, họ đã cho chúng ta một hình ảnh đẹp về bản thân họ ngày hôm nay”.
Logged
TraitimdungcamHP
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 505


« Trả lời #74 vào lúc: 19 Tháng Năm, 2008, 02:32:29 pm »

IV
SỰ CHỐNG ĐỐI


Không thể chấp nhận sự thua trận. Anh là trung tá quân đội Hoa Kỳ. Dù chỉ là một cố vấn không có quyền chỉ huy, cuộc chiến tranh này đã trở thành của anh và anh đã gắn chặt mình vào đó nên không thể đánh mất nó. Lòng tự ái cá nhân, niềm tự hào về sự lớn mạnh của đất nước anh và ưu thế của nó trên thế giới bị đạp xuống chân làm anh không chịu đựng nổi. Trận ấp Bắc quyết định cho cuộc cách mạng Việt Nam ở miền Nam nhưng cũng có nghĩa quyết định với John Vann. Nó hối thúc anh theo hướng anh đã khởi đầu một cách tuần tự. Anh sẽ đi gặp Harkins ở Sài Gòn để thuyết phục và nếu Harkins không nghe theo, anh sẽ vượt qua đầu ông ta để xác định chắc chắn với những nhân vật quân sự chính trị cao nhất của Washington, chỉ có một thái độ duy nhất tránh cho Hoa Kỳ thất bại ở Việt Nam : thay đổi chiến lược và buộc Sài Gòn chấp nhận anh và những sĩ quan Hoa Kỳ khác trên đất này nắm quyền chỉ đạo các cuộc hành quân. Vô tình Harkins đang chuẩn bị một thảm họa cho người Mỹ và những người Việt Nam đã chọn trận tuyến cho họ. Vann nhận thức được những khởi đầu của kết thúc bi thảm ấy hơn bất cứ ai ở Việt Nam thời kỳ ấy và quyết định phải làm gì để tránh kết thúc ấy. Đây là một việc làm đầy tham vọng đối với một trung tá bình thường. Nhưng anh không nhận thấy từ đầu mà thể hiện thực tế qua các sự kiện. Anh sẵn sàng vi phạm những qui định của quân đội buộc phải tôn trọng nếu để thay đổi đường lối và chiến thắng trong cuộc chiến tranh. Người ta có sự chứng minh ngay sau trận đánh khi anh không giấu giếm nỗi giận dữ và mức độ thảm họa với các nhà báo mà anh quen biết.

Vào tháng Giêng năm 1963, trong lúc quân đội Mỹ có mặt ở Việt Nam, không tính đến hàng trăm nghìn binh lính như sau năm 1965, báo chí nước ngoài không có hàng trăm phóng viên mọi giới và mọi dân tộc, báo viết, truyền hình, truyền thanh, quay phim, nhiếp ảnh và những người cuồng tín khác đối với chiến tranh tự nhận là những phóng viên địa phương sau này đổ vào Việt Nam. Trong trận ấp Bắc, chúng tôi chỉ  có khoảng một tá phái viên đặc biệt trong đó có cả các nhà báo ít quan tâm hơn vì không phải cuộc chiến tranh của họ nữa. Đội quân viễn chinh Mỹ lên đến khoảng 11.300 người nhưng những cố vấn mặt trận chỉ chiếm một phần tư trong tổng số, gần 3000 sĩ quan và binh lính. Với mức độ ấy các phóng viên và những cố vấn chính hầu như đều quen biết lẫn nhau.

Để nắm khắp Sư đoàn 7, các nhà báo không cần có sự khuyến khích của sĩ quan đối ngoại ở ban tham mưu của Harkins vì viên tướng chỉ huy bị tác động bởi bản tổng kết số địch quân bị sư đoàn tiêu diệt rất cao. Báo chí thường theo dõi các sự kiện quan trọng : năm 1962 và 1963 là cuộc chiến đấu mấu chốt để kiểm soát nửa đồng bằng phía bắc. Vann đã nuôi dưỡng những quan hệ đó. Anh tiếp các nhà báo một cách thuận lợi ở hội thảo. Lúc đầu, họ có ích cho anh trong việc thông báo hình ảnh anh muốn tạo dựng “Cao, con hùm” của miền Nam Việt Nam. Mỗi lần có một bài báo khoa trương tính chất hiếu chiến của Cao, Vann vội vã đưa cho ông ta xem. Nhưng ngược lại với tính thật thà, anh cho chúng tôi thấy và nghe những điều không phù hợp với sự tế nhị quá đáng ấy. Anh để các cố vấn thuộc quyền cung cấp những thông tin chúng tôi cần và đảm bảo chúng tôi có thể đi hành quân với các đại úy, trung úy noi gương anh. Họ hoàn toàn thật thà về những yếu kém của lực lượng quân đội Sài Gòn.

Khi một nhà báo tỏ ra chịu đựng được việc thiếu tiện nghi và bằng lòng xông pha nguy hiểm, bì bõm trên đồng ruộng và ở lại ban đêm tại trận địa, nói một cách khác đã chấp nhận cuộc sống một người lính, anh được những người dễ mến và thật thà này tiếp đón, việc trao đổi trở nên thẳng thắn. Lần thứ hai những câu chuyện còn cởi mở hơn. Thời gian trận đánh ấp Bắc, nửa tá phóng viên Mỹ chúng tôi tham gia nhiều cuộc hành quân của Sư đoàn 7 và trở thành bạn thân của Vann và người của anh. Chúng tôi chia sẻ với các cố vấn quan điểm của họ về cuộc chiến tranh này. Tầm nhìn lý tưởng và xu hướng văn hóa của chúng tôi chẳng có gì khác nhau. Chúng tôi xem cuộc tranh chấp này cũng là của chúng tôi. Chúng tôi tin vào những gì chính phủ nói với chúng tôi và điều họ đang cố gắng hoàn thành ở Việt Nam, chúng tôi cũng muốn đất nước của chúng tôi thắng trận, cũng say sưa về điều đó như Vann và các đại úy của anh.
Logged
TraitimdungcamHP
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 505


« Trả lời #75 vào lúc: 19 Tháng Năm, 2008, 03:58:17 pm »

Buổi chiều sau trận ấp Bắc, sau khi nói chuyện với Vann, Turner của hãng Reuter , Rao và tôi trở về Sài Gòn để gửi tin, tắm và ăn tối rồi chúng tôi trở lại Tân Hiệp trong đêm để sáng sớm hôm sau lên trực thăng đi ấp Bắc. Merton Perry của TIME MAGAZINE, một người to lớn nặng 150 kilô , thái độ vui vẻ và nghị lực tương xứng với tầm vóc. Chúng tôi đến nơi đúng lúc mặt trời vừa mọc khi Cao, quân phục xanh lá cây còn ánh nếp là với hai ngôi sao thiếu tướng theo kiểu Pháp, đi xe Jeep từ Mỹ Tho đến. Ông đã lấy lại được bình tĩnh. Đạm triệu tập đội vệ binh của sư đoàn. Binh lính đứng thành hàng trước lều chỉ huy với mũ cát trắng, thắt lưng trắng khuy đồng nhắn bóng và dây trắng trên giày đen. Đội vệ binh đứng nghiêm bồng súng chào khi Cao từ xe Jeep bước xuống. Ông chào lại với một động tác nhanh của chiếc gậy cầm tay và bước vào lều, cười bất đắc dĩ với chúng tôi, rõ ràng không muốn nói chuyện. Vann chỉ cho chúng tôi hai chiếc Huey-21 chuẩn bị bay đi thu thập người chết ở ấp Bắc. Turner và tôi lên máy bay, Merton Perry ở lại nói chuyện với Vann còn Rao tìm cách nắm thông tin từ các sĩ quan Việt Nam.

Nhà cửa đổ nát trong ấp còn bốc khói và phi công khôn khéo vòng về phía tây. Họ hạ xuống cách xa trận địa, đậu trên một đồng ruộng gần con kênh cuối mà đại đội của Bá hôm qua tốn bao thời gian để vượt qua. Turner và tôi thấy những chiếc M-113 đậu thành hàng trước hàng cây. Không có tiếng súng, chúng tôi bước đi dọc đê theo hướng những chiếc trực thăng bị bắn hạ. Có khoảng 20 xác chết. Những người lính Việt Nam nằm ngửa, quân phục đẫm máu, mũi giày chĩa lên trời.

Scanlon lại gần cùng với hai chiếc xe bọc thép để nhặt xác đưa tới chỗ máy bay. Anh nói với chúng tôi Việt cộng đã đi hết từ hôm qua. Tuy thế, phi công cũng được lệnh không đậu xuống quá gần. Lính bộ inh của xe bọc thép mất tinh thần đến mức không muốn đụng vào người đồng đội. Scanlon chửi rủa, buộc họ xuống khiêng xác chết. Turner và tôi cũng giúp họ, đặc biệt đối với Braman và Deal. Đến chỗ máy bay, Scanlon cũng phải thuyết phục những người sống sót trong xe bọc thép của Bá nghiêm túc làm những gì cần thiết để đưa xác đồng đội về với gia đình làm tang lễ theo thủ tục. Anh lại phải gào lên buộc họ khiêng xác lên máy bay. Turner và tôi cũng bực tức về thái độ của họ và cũng la mắng họ. Chúng tôi chưa bao giờ thấy cố vấn Mỹ hoặc binh lính Quân đội Cộng hòa xử sự theo cách ấy. Chúng tôi lúc đó mới hiểu mức độ rộng lớn của thảm họa trút xuống nơi đây.

Thiếu tướng Robert York, 49 tuổi, chỉ huy một phân đội đặc biệt do Lầu Năm Góc cử sang Việt Nam thử nghiệm vũ khí và chiến thuật mới. Ông hạ cánh xuống ấp Bắc lúc chúng tôi đã chuyển xong người chết lên máy bay. York còn là một đại diện cho thế hệ những người miền Nam nước Mỹ thời kỳ suy sụp kinh tế, lúc đầu đến với các trường quân sự để học khỏi mất tiền , sau đó phát hiện ra nghề sử dụng vũ khí thích hợp với mình. Ở trường West Point, thân hình gân guốc và nhanh nhẹn của ông cho phép ông thường giành phần thắng trong các cuộc đấu quyền Anh. Những người cùng thời khao khát một trong những thành tích xuất sắc nhất của ông về chỉ huy bộ binh trong chiến đấu. Ông đã cầm đầu một tiểu đoàn của sư đoàn 1 nổi tiếng rồi một trung đoàn, chỉ huy chiến đấu rất giỏi ở các mặt trận chống quân Đức ở Tunisia, Ý, Normandie hơn hai năm.

Trong số 12 viên tướng Mỹ ở Việt Nam tháng Giêng năm 1963 ( hơn một phần ba nữa không hoạt động trực tiếp trong Quân đội Cộng hòa), chỉ riêng York thấy phải đến ấp Bắc vì tính cách của Vann để phát hiện xem điều gì đã xảy ra ở đấy. Việc tìm kiếm sự thật ất hơi khác thường đối với những viên tướng. Được tự do hành động vì ông chỉ tùy thuộc trên danh nghĩa ở ban tham mưu của Harkins, từ khi tới Sài Gòn vào tháng Mười, York không ngớt chạy khắp vùng để tự mình đánh giá cách chỉ đạo chiến tranh. Vann hiểu York thực hiện vai trò của mình rất nghiêm túc và cố gắng làm cho ông hiểu mảnh đất và dân cư ở đây. Đặc biệt, anh nhấn mạnh một số vấn đề trong cuộc tranh chấp này, như về các đồn tiền tiêu mà anh không dỡ bỏ được. Anh dẫn York trên xe Jeep chạy qua các vùng mà viên tướng rõ ràng cảm thấy nguy hiểm. Qua trò chuyện, York chú ý đến niềm xúc cảm của Vann và đồng thời đến khả năng của anh biết lùi lại nhận xét người Việt Nam một cách khách quan và nhận rõ sai lầm. Vann không rơi vào sai lầm của một số cố vấn, sẵn sàng nêu lên chiến thắng của những người Việt Nam đồng minh để có lợi cho sự nghiệp của mình. Điều đó cho phép viên trung tá trẻ này lập luận với trí óc sáng tạo ngang với viên tướng chỉ huy Harkins.

York có thể hiểu dễ dàng những lý lẽ của Vann vì đã có kinh nghiệm đặc biệt trong nghề khác với đồng sự của ông. Viên tướng Mỹ duy nhất đến ấp Bắc cũng là người duy nhất biết rõ một cuộc khởi nghĩa của cộng sản. Năm 1952, ông có may mắn được biệt phái ba năm rưỡi làm quan sát viên quân đội Hoa Kỳ bên cạnh người Anh đánh nhau với du kích Trung Hoa ở Malaysia. Những bài học ông rút ra được làm ông nghi ngờ, ngay trước khi sang Việt Nam, không dễ dàng đánh Việt cộng như những viên tướng khác bạn ông suy nghĩ. Người Anh có lợi thế binh lính và cảnh sát gấp 20 lần quân du kích vốn không bao giờ vượt quá hơn mười nghìn người kể cả các thành viên dân sự; ngoài ra họ lại lợi dụng được mối hận thù chủng tộc của người Malaysia. Thế mà cuộc chiến tranh đó kéo dài 12 năm.

Tướng York lại có một lý do cá nhân để đến ấp Bắc. Ông là một trong những người Mỹ mà gia đình bị chiến tranh đụng đến. Tháng Bảy năm 1962, một người cháu ông rất tự hào và yêu mến, đại úy Donald York, tình nguyện sang làm cố vấn một tiểu đoàn dù, ba tháng sau khi đến Việt Nam, anh bị giết chết trong một cuộc phục kích của Việt cộng trên đường 13 trong vùng đồn điền cao su bắc Sài Gòn.

York, phó của ông là trung úy Willard Golding, Turner và tôi ngược theo tuyến phòng thủ của Việt cộng đến tận ấp và chỉ thấy ba xác người của họ. Trong dòng kênh tưới chảy về phía sau, chúng tôi thấy những mảnh vỡ của một chiếc thuyền đục bằng thân cây dùng chuyên chở thương binh và tiếp tế đạn dược. Chúng tôi xuống ngồi ở hố cá nhân Việt cộng ẩn nấp và lần đầu tiên phát hiện ra các vị trí trông rõ cánh đồng trực thăng đậu đến mức nào. Toàn vị trí được chọn lựa và chuẩn bị hoàn hảo đến mức sau này, Scanlon phải nói đây là giải pháp điển hình mà một đơn vị bộ binh phải tổ chức để chống cự khi bị một kẻ địch mạnh hơn tấn công. Chúng tôi cũng nhận xét mặc dù việc rút lui căng thẳng dưới lưới lửa của máy bay và trọng pháo, Việt cộng đã nhặt hết vỏ đạn đồng để sau này lại nhồi thuốc làm đạn.

Tôi đã có đủ kinh nghiệm để xác định sự thật hiển nhiên nhưng một nhà báo phải dựa vào phán xét của nhà chức trách. Vì vậy, tôi hỏi York nghĩ gì về tình hình Việt cộng.

“Tình hình có vẻ như thế nào, đúng không ? Ông trả lời hơi bực mình vì câu hỏi ngây ngô. Họ rú đi hết ! Việc xảy ra như thế đấy !”
Logged
TraitimdungcamHP
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 505


« Trả lời #76 vào lúc: 21 Tháng Năm, 2008, 01:27:05 pm »

Turner, York, Golding và tôi có lúc đã nghĩ mình không may mắn bằng họ. Cao cho rằng đã giết cũng một viên tướng Việt cộng nhiều lần liền, quên rằng trước đã khoe khoang điều đó, suýt thêm vào danh sách ông ta bắn được một viên tướng Mỹ thực thụ, phó của ông này và hai nhà báo. Chúng tôi đang ở trên một con đập nhỏ gần chỗ trực thăng bị hạ, nhìn một tiểu đoàn của Sư đoàn 7 đến từ ban sáng đang đi vào trong ấp. Lúc này, Turner và tôi đã ở ấp Bắc bốn tiếng đồng hồ. Chúng tôi nắm được ở đây câu chuyện lớn nhất của chiến tranh, vội vã để nhận được những lời giải thích của Vann ở Tân Hiệp, rồi về Sài Gòn gửi các bản tin cho thế giới biết việc gì đã xảy ra. York đồng ý đưa chúng tôi cùng về trên trực thăng. Một phát súng cối nổ ở phía nam và một quả bom khói làm tóe bùn gần hàng cây đoàn bộ binh vừa biến mất sau bụi rậm.

“Này ! Gần kinh khủng !: . Golding kêu lên.

Hai phát lửa khác nổ ở phía xa. Đạn súng cối hướng về phía chúng tôi với tiếng rít đáng sợ của một con tàu tốc hành trong đem; chúng bùng lên ở đầu một đoàn bộ binh khác đi trên đê vào ấp, cách đấy 75 mét. Sự va chạm và tạc đạn làm nhiều binh lính ngã xuống, còn những người khác xô đẩy nhau trên ruộng vừa hét lên sợ hãi.

“Chúng ta đi khỏi đây nhanh!”, York kêu lên trong lúc những quả đạn súng cối khác nổ trong bùn cách chúng tôi 30 mét.

York phía trước, chúng tôi chạy dọc con đê tránh xa những điểm đạn rơi. Nhưng đạn súng cối bắn theo. Chúng tôi vừa vượt một đoạn ngắn thì một quả nổ ngay sát cạnh, làn gió suýt xô ngã chúng tôi xuống đất.

“Các anh nằm xuống !” viên tướng kêu lên,

Chúng tôi nhào xuống bùn nằm dọc theo đê trong lúc đạn nổ xung quanh.

Bây giờ Việt cộng không còn nữa, Cao quyết định giả vờ một cuộc tấn công vào ấp Bắc. Ông ta muốn Phủ tổng thống biết ông ta đã làm một điều gì đó để bù lại. Vậy là ông ra lệnh tiểu đoàn bộ binh dự phòng tấn công ấp Bắc cùng những đội quân còn lại của Bá. Ông lên một chiếc trực thăng đến trạm chỉ huy trên con đường lớn vùng đồng bằng và ra lệnh cho Thọ nổ một loạt bắn chận làm yếu lực lượng địch trước đợt tấn công. Dĩ nhiên, Cao không đến ấp Bắc kiểm tra xem có người mình ở đấy không. Về phần Thọ cũng chỉ giao cho phó của mình ra lệnh trọng pháo bắn. Cao và Thọ có lẽ sẽ tự hạn chế nếu viên thiếu úy đi theo bộ binh quan sát tầm pháo biết đọc bản đồ. Khi sĩ quan phụ trách trọng pháo lo lắng, điện hỏi vị trí của tiểu đoàn, viên thiếu úy trả lời với những tọa độ chỉ vị trí tiểu đoàn hơn một cây số về tây nam ấp Bắc.

Khác với Cao và Thọ, viên thiếu úy phải trả giá cho sai lầm này. Nổi giận vì loạt đạn giết và làm bị thương người của mình, viên chỉ huy tiểu đoàn rút súng ngắn bắn vào đầu thiếu úy. Trước khi liên lạc điện đài để chấm dứt đợt bắn phá, khoảng dăm chục viên đạn cối đã làm bốn lính chết  và mười hai bị thương. Sẽ thiệt hại hơn nhiều nếu bùn và nước không hạn chế tia đạn. Còn bốn chúng tôi sẽ chết hoặc bị thương nếu York không lợi dụng thời gian tạm lắng 30 giây kêu chúng tôi chạy tránh ra xa. Hai viên đạn cối tiếp đó nổ đúng vào chỗ chúng tôi vừa rời khỏi. Ngoài ra, một mảnh đạn to bằng nắm tay cắm vào đê cách Turner ba mét.

Tôi tìm một trung sĩ của Bá biết tiếng Pháp như mọi người trong quân đội thực dân cũ, phiên dịch những chỉ thị của viên tướng để ông ta đề nghị qua điện đài gọi trực thăng đến chuyển những người chết và bị thương. Bá và các cố vấn, cả Prevost cũng tới xem, đang ở trong ấp với bộ binh. Vậy là chính York chỉ đạo công việc.

Ở Tân Hiệp chúng tôi thấy tướng Harkins, đi máy bay từ Sài Gòn đến để trao đổi với Vann. Tôi đã gặp, nói chuyện với ông nhiều lần, quen thuộc với bề ngoài của ông, bỗng nhiên ngơ ngác về cách ông ăn mặc trong lúc Turner, Golding và tôi đầy bùn. Tôi 26 tuổi, Turner và Golding cũng xấp xỉ thế. Việc trọng pháo bắn vừa rồi là kinh nghiệm làm bia ngắm đầu tiên, chúng tôi sợ hãi vùi người vào bùn cố tránh đạn. Chỉ York còn trông được. Rất can đảm, ông chống cùi tay để không vấy bẩn phần áo phía trước. Sau đợt bắn phá, tôi hỏi làm sao ông vẫn giữ được sạch sẽ, ông trả lời “Tôi không muốn nhúng ướt thuốc lá, anh bạn”.

Harkins thuộc về một thế giới khác với bộ đồng phục mùa hè, áo sơ mi ngắn tay và quần vải mỏng. Ve cổ áo trang trí bốn ngôi sao bạc, viền mũ đi nông thôn ánh lên một dải tết vàng. Ông trưng diện đôi giày thành phố, một chiếc gậy nhỏ lịch sự và chiếc tẩu dài yêu thích. Ông hỏi York về sự cố bắn trọng pháo rồi trở về Sài Gòn trong chiếc hai động cơ của mình. David Halberstam của tờ NEWYORK TIMES và Peter Arnett của Hiệp hội báo chí sau này nói với tôi họ đã hỏi ông khi đi về xem ông nghĩ thế nào về cuộc chiến. Ông trả lời :

“Chúng tôi đã giam họ trong một chiếc bẫy và sẽ đóng lại trong nửa giờ nữa”.

Halberstam và Arnett nhìn ông sửng sốt. Họ vừa bay trực thăng trên ấp Bắc , Tân Thới, nhận thấy ở đấy yên lặng. Họ cũng được Vann và các cố vấn cho biết qua đài của phi công lái là Việt cộng rút đi từ lâu rồi.

Tất cả những điều đó thật trơ trẽn. Giữa những người chết và tàn tật, một viên tướng Việt nam đáng lẽ ở vị trí một cảnh nhạc kịch nhỏ hơn là trong quân đội, tăng cường những trò hề rùng rợn còn đội quân danh dự tôn vinh ông ta. Một viên tướng Mỹ với chiếc gậy chỉ huy và tẩu thuốc dài, bốn ngôi sao nói lên rằng ông ta là người chịu trách nhiệm về tất cả, máy bay ném bom, trực thăng, súng đạn nhưng không nỡ làm bẩn đôi giày bóng loáng hoặc làm hỏng nếp là quần áo trong một đám ruộng, huyên thuyên cho rằng mình đã làm cho Việt cộng vào bẫy..

Khi Harkins đi rồi, Vann đến tìm chúng tôi nói rất chán ngán về đợt bắn phá. Tôi hỏi anh :

“Nhưng lạy Chúa, John này, sự hỗn độn ấy là thế nào ?”
 
Vann còn chưa biết Cao chịu trách nhiệm về đợt pháo kích.

“Do tên hèn nhát Thọ đấy”, anh trả lời.

Sự việc ngu xuẩn này giải thoát cho anh khỏi sự ngần ngại đối với báo chí. Anh đả kích nặng nề những ngốc nghếch và hành động hèn nhát trong hai ngày qua.

“Đấy là một cuộc hành quân hoàn toàn yếu kém. Những tay ấy không muốn nghe gì, không ngớt lặp lại cũng những ngu xuẩn ấy”.

Anh chửi rủa Cao đã tổ chức để Việt cộng thoát đi hết.

“Chúng tôi đã khẩn cầu, nằn nỉ, xin xỏ để quân lính dù được thả xuống phía đông và cuối cùng khi đến họ kiên quyết đậu xuống phía tây”.

Điều mà Vann không nói với chúng tôi, những phó của anh đã nói thay. Những bất cần cảu họ tỷ lệ với nỗi chán chường sâu sắc. Các phi công trực thăng cũng nói thẳng thắn. Họ thất vọng vì người của họ bị hy sinh và máy bay mất đi mà chẳng được gì cả.

Như các nhà báo khác, tôi cố gắng bênh vực Vann và các cố vấn. Những nhận xét của Vann là của “một sĩ quan Mỹ”. Tổng biên tập tờ báo ROCHESTER DEMOCRAT AND CHRONICLE, thành phố quê hương của Mary Jane, vợ Vann, đăng lại bài mô tả độc ác tình ình lực lượng Sài Gòn bị mất danh dự.  Tờ báo in lên trang nhất báo cáo của tôi dưới tiêu đề “MỘT CUỘC HÀNH QUÂN HOÀN TOÀN YẾU KÉM!” . Bà mẹ Mary Jane vẫn sống ở ROCHESTER, nhận ra bóng dáng của con rể mình. Bà gửi bài báo cho con gái với lời ghi chú :

“Rất giống một nhận xét của John!”.
Logged
TraitimdungcamHP
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 505


« Trả lời #77 vào lúc: 22 Tháng Năm, 2008, 09:06:45 pm »

Tướng Harkins suýt cắt đứt tham vọng của Vann về điều chỉnh đường lối chiến tranh. Sáng hôm sau, ngày 4 tháng Giêng khi viên tướng tổng chỉ huy trở lại Tân Hiệp, ông đã quyết định phạt nặng viên trung tá. Những bài báo của chúng tôi đăng ở Hoa Kỳ được in chuyển về Sài Gòn. Trước trận ấp Bắc, chính quyền Kennedy đã tránh được việc công chúng ý thức đầy đủ về đất nước họ dính líu vào một cuộc chiến tranh ở một vùng gọi là Việt Nam. Họ tập trung chú ý vào Berlin, Cuba, Congo, những khủng hoảng quốc tế lớn về đường lối ngoại giao của đất nước. Ấp Bắc đột ngột đưa Việt Nam lên trang đầu, báo chí trình bày một bi kịch mà không sự kiện nào sánh bằng. Harkins lúng túng và giận dữ. Các bài báo, đầy chi tiết về sự hèn nhát và hư hỏng, cùng những câu gây thương tổn đại loại như “cuộc hành quân hoàn toàn yếu kém” của Vann, mô tả trận đánh  như một sự thất bại tệ hại và nhục nhã nhất của sĩ quan, soi rõ những yếu hèn của lực lượng quân đội Diệm. Tổng thống Kennedy và bộ trưởng quốc phòng Mc Namara đòi có sự giải thích. Harkins cũng bị sức ép của chế độ Sài Gòn phải đưa Vann là bung xung. Diệm, gia đình và những kẻ cuồng tín của ông ta bực tức vì bị mất mặt. Lời giải thích của Cao trước các nhà báo khi nói với họ ngày mồng 3 tháng Giêng là Vann và Đạm xây dựng một kể hoạch tấn công sai lầm và không trình bày với ông để điều chỉnh. Phủ tổng thống cũng đổ hết lỗi lên đầu Vann. Bà Nhu tuyên bố mọi việc sẽ tiến triển rất tốt đẹp nếu không có ông trung tá Mỹ ấy, suốt ngày bay trên chiến trường với chiếc máy bay nhỉ để hủy bỏ những mệnh lệnh của các sĩ quan cao cấp của anh chồng bà.

“Phải rũ bỏ anh ta đi”, Harkins nói với trung tướng Charles Timmes, người dưới quyền ông, là trưởng phái đoàn viện trợ và cố vấn quân sự. Vào ngày diễn ra trận đánh, Timmes đi thanh tra vùng đông bắc, chỉ có thể đến Tân Hiệp hôm mồng 4 tháng Giêng. Harkins đến trước, gặp riêng ông để ra lệnh thay ngay Vann ở vị trí cố vấn Sư đoàn 7. Vann phụ thuộc vào Timmes vì thời kỳ đó, các cố vấn đều phiên chế vào phái đoàn viện trợ dù họ nhận lệnh hoạt động từ tổng hành dinh. Timmes luôn trung thành phục vụ cấp trên và được tín nhiệm. Tuy vậy, Harkins thấy không cần thiết tỏ ra nhã  nhặn và lịch sự như thường ngày và để giận dữ bùng lên.

Timmes hoảng hốt vì lệnh ấy. Con trai một bác sĩ vùng ngoại ô New York, ông luôn muốn vào lính và nhiều lần thi vào trường West Point không được, bèn học luật để kiếm sống đầy đủ trong thời kỳ đại suy thoái cho đến khi được chuyển từ quy chế dự bị sang sĩ quan chính thức. Ông được điều động vào quân đội trước sự kiện Trân Châu Cảnh ba tháng. Tuy được thử thách nhiều ở chức vụ chỉ huy một tiểu đoàn dù trong Thế chiến thứ hai, ông vẫn dè dặt trước những người cũ của trường West Point nổi tiếng như Harkins, chắc vì đã cố vào đội quân ấy không có hiệu quả. Ông vẫn xác định tầm nhìn lạc quan của Harkins về chiến tranh là đúng và những báo cáo của Vann quá đen tối.Tuy thế, ông vẫn thích Vann, một người chiến đấu như ông. Nôn nóng là do bản tính của anh và ông sẵn sàng tha thứ những sai sót để tranh thủ những đức tính khác của anh. Ông cũng nhận thấy nếu cách chức Vann trong những trường hợp như vậy sẽ làm suy sụp tinh thần của những cố vấn khác trong sư đoàn. Họ sẽ kết luận nếu mạo hiểm để thắng cuộc chiến tranh này, quay lưng lại với người Việt Nam, họ cũng sẽ bị thanh lọc và sự nghiệp của họ sụp đổ. Nhất là Timmes muốn ngăn Harkins làm một việc khinh suất, sẽ gây ra một vụ bê bối mới với báo chí.

“Ông không nên làm điều đó, ông nói với Harkins. Họ sẽ đóng đinh câu rút ông”.

Ông nhắc viên tướng rằng các sĩ quan báo chí của Phái đoàn viện trợ đã tung Vann lên và Vann cũng biết tác động các nhà báo vốn tôn vinh anh. Họ sẽ vội vã nhảy vào việc bãi chức anh dù xác đáng hay không và đưa tin như là một hành động phục tùng của Hoa Kỳ đối với chế độ Sài Gòn. Sẽ là một thảm họa.

Timmes nhận thấy lập luận của ông có tác dụng. Harkins bình tĩnh lại và lắng nghe ông. Timmes cũng nêu lên nguy cơ làm nản lòng những cố vấn khác nhưng ông nhấn mạnh chắc chắn sẽ bê bối.

“Tôi xin ông, hãy để tôi giải quyết vấn đề này”.

Vann chỉ còn ba tháng phục vụ ở Việt Nam. Timmes đề nghị để anh ở lại Sư đoàn 7 trong một thời gian thích hợp rồi cử anh lên cao nguyên và ra bờ biển miền Trung với lý do anh cần có sự phân tích khách quan về diễn biến chiến tranh ở vùng này. Harkins chấp nhận.

Mấy ngày sau, Timmes thăm dò Porter, nói với ông Harkins rất giận Vann và muốn ông, Porter loại bỏ anh ấy. Hai người biết nhau đã nhiều năm và là bạn thân của nhau. Porter chao đảo, phản ứng ngay :

“Tôi sẽ tự trừng phạt mình nặng trước khi trừng phạt Vann”.

Đấy là một lời đe dọa ngầm : nếu người ta đề nghị ông thải hồi Vann, ông sẽ đề nghị cách chức cả chính ông. Các nhà báo lại có một vụ bê bối mới để rùm beng và vì Portert không phải về Hoa Kỳ trước cuối tháng Hai, tương lai trước mắt của Vann được đảm bảo.

Về phần mình, Vann làm dịu bớt cơn giận của Harkins khi nói rõ sự sai trái. Anh không thể nói với các nhà báo. Chắc họ nghe được những gì anh nói với Harkins và những người khác nhưng đấy không phải lỗi của an vì anh không có quyền kiểm soát người lạ vào trạm chỉ huy và trách nhiệm đó giao cho các sĩ quan Sài Gòn. Và anh quá lịch sự , không mời các đại diện báo chí ra ngoài. Anh cho rằng, họ có mặt bất chợt nghe được những gì anh nói từ máy bay quan sát. Không ai quanh Harkins khá thông minh để nghi ngờ lời bịp của Vann, đi xác định xem thực sự có một nhà báo nào ở trong trạm chỉ huy trong trận đánh không.

Thái độ bực tức của Harkins mất đi. Ông không phản đối đề nghị của Porter tặng Vann danh hiệu Người bay vượt nguy hiểm xuất sắc, huy chương khen thưởng những phi công đối đầu với lưới lửa của địch trên máy bay quan sát của mình. Ông cũng cố làm cho Vann biết ông rất hiểu đã không giao cho anh một đội chiến binh đáng sợ và sẵn sàng tha thứ cho anh về sự thiếu ý thức chính trị. Bill Mauldin, người sáng tạo nhân vật trong chiến tranh, cho xuất hiện trên báo chí một bức vẽ hóm hỉnh về trận ấp Bắc. Người ta thấy trong đó một lính bộ binh Nam Việt Nam nằm co quắp dưới hố. Một trung sĩ Mỹ, trước làn đạn của quân địch, cúi xuống chắp tay cầu khẩn anh ta :” Khi tôi nói tiến lên thì không có nghĩa là nằm về phía trước”. Người ta đưa bức vẽ cho Harkins xem, ông bảo “Gửi nó cho trung tá Vann”.

Nếu ông hiểu được Vann là một người phức tạp đến mức nào và sẽ làm hại ông ra sao, Harkins đã đuổi anh ra khỏi cửa cả với Porter và sẽ chấp nhận báo chí đóng đinh câu rút, vì Vann không hề có ý định xử sự tốt trong tương lai. Anh chỉ dấu kín điều mình nghĩ để thắng. Lương tâm nghề nghiệp không cho phép anh gian dối nếu nó đưa lại thất bại.
Logged
TraitimdungcamHP
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 505


« Trả lời #78 vào lúc: 23 Tháng Năm, 2008, 02:41:59 pm »

Việc làm đầu tiên của Vann là cố gắng biến trận ấp Bắc thành lợi thế của mình. Anh sử dụng sự tan vỡ để chứng minh đội quân mà người ta giao cho anh hướng dẫn không thể nào giữ nổi miền Nam Việt Nam cho Hoa Kỳ. Anh làm một báo cáo về trận đánh, dài nhất và chi tiết nhất của lịch sử chiến tranh.

Anh đề nghị mỗi cố vấn của anh làm cho một báo cáo đầy đủ nhất những gì xảy ra ở khu vực mình để đính theo báo cáo của anh. Một mình Scanlon gửi cho anh sáu trang rưỡi đánh máy. Bổ sung cho báo cáo của Mays và Bowers, câu chuyện kể của Scanlon thật đáng hãi hùng. Cố vấn của thiếu tá Thọ viết năm trang tả sự vô hiệu quả của tỉnh trưởng, kèm theo bản sao bức thư ông gửi cho Thọ hôm trước trận đánh. Đấy là bản tập hợp chua cay những lời trách cứ trong đó ông nêu lên những hành động của Thọ với ý đồ, theo lời ông, để “phục vụ việc xây dựng của ông và để ông có thể sửa chữa”. Về phần mình, Prevost gửi 14 trang để nhận xét.

Sau khi Ziegler chỉnh sửa lại 16 bài mang tính hết sức gắt gao, Vann đưa lên trước báo cáo của anh : 21 trang trình tự mô tả và phân tích. Anh nêu lên “cuộc hành quân hoàn toàn yếu kém”, không bao giờ dùng chữ “tan vỡ” hoặc “thất bại”. Anh biết mọi dấu vết xúc động sẽ làm bản báo cáo yếu đi và cho phép Harkins và những người cấp trên khác, vốn không muốn nghe những tin xấu, dựa vào cảm xúc ấy để giải thích sự phê phán của Vann bị biến chất. Anh viết theo lối thận trọng thường dùng trong quân đội. Nhưng tính xác thực của nhân chứng, câu chuyện từng giờ về những hư hỏng nối tiếp lên nhau và những việc làm thảm hại cuối cùng vượt qua giới hạn nhạt nhẽo của quân đội đã làm rõ điều anh muốn nói. Anh ký tên dưới tài liệu, 90 trang với những hình ảnh của việc làm và gửi đi sau trận đánh một tuần lễ, thông qua Porter ở Cần Thơ trong ban tham mưu Quân đoàn 4 của Cao. Trình tự thông thường là Porter ghi nhận xét được xem như tán thành trước khi theo hệ thống dọc lên bam tham mưu của viên tướng chỉ huy.

Lời ghi của Porter gửi lên Harkins là một tài liệu sửng sốt của một đại tá tóc bạc được tiếng ôn hòa, như một lời buộc tội trước toà án binh đặc biệt mà hồ sơ Vann cung cấp là bằng chứng – “Báo cáo này có lẽ nhiều tư liệu, đầy đủ, quý giá và phát hiện rõ nhất trong số những gì chúng ta nhận được từ 12 tháng nay, ông mở đầu như vậy. Việc chỉ đạo cuộc hành quân này làm lộ rõ một loạt những yếu kém mù quáng”. Porter nhắc lại với Harkins rằng Vann và các cố vấn khác trong sư đoàn đã lưu ý về “phần lớn” những bất cập ấy trong báo cáo của họ về những cuộc hành quân khác của ba Sư đoàn Quân lực Cộng hòa vùng quanh Sài Gòn. Rồi ông nêu lên tất cả những sai lầm của lực lượng Diệm trong trận đánh mà Vann chỉ ra để tổng hợp thành một danh sách dưới những đề mục kể lại mọi tội lỗi chết người trong binh nghiệp.

Thất bại …
Thiếu quyết tâm ….
Không hiệu quả …
Thất bại hoàn toàn …
Không có khả năng …

Porter không một lời phê phán để chuộc lại những sai lầm mắc phải. Ông kết luận, cảnh báo sẽ là điên rồ nếu có ảo tưởng lâu hơn về sự chỉ huy của quân đội Sài Gòn. “Phần lớn những yếu kém kể ở đây là đặc điểm tiềm tàng của tất cả những sĩ quan cao cấp của các lực lượng quân đội Việt Nam”.

Để khởi sự quá trình cải tổ, Porter gợi ý Harkins đề nghị Diệm cho phép tổ chức “một loạt hội thảo hoặc nhóm chuyên đề phối hợp giữa sĩ quan cao cấp Mỹ và Việt Nam, các tướng, sĩ quan tham mưu, các lữ đoàn trưởng, sư đoàn trưởng và cố vấn của họ”. Trong những cuộc họp ấy, những người Mỹ “tranh luận cởi mở và thẳng thắn” với những người Việt Nam. Trình tự tranh luận và cải tổ Porter nêu lên tiếp đó bao gồm thực tế các mặt của một quân đội xứng đáng được tôn trọng, từ những nguyên tắc chiến thuật đến sự cải tổ áp dụng ngay đối với Cao và Thọ. “Cần thiết loại bỏ những chỉ huy bất lực”. Thực ra, tất cả phải làm lại từ số không.

Tướng York, từ khi thoát khỏi đạn cối “phối hợp” của Cao, đánh giá sâu sắc hơn các chỉ huy Quân lực Cộng hòa, ông là người đầu tiên biết Harkins nhận xét trận đánh ra sao, do đó sẽ xử sự đúng đắn đối với báo cáo của Vann và Porter. York đã thấy trận ấp Bắc đưa ra ánh sáng bao yếu kém của lực lượng Sài Gòn và đó là điểm rất xấu, đáng có một báo cáo đặc biệt lên tổng chỉ huy. Ông cho rằng bản phân tích của ông có thể có ích cho Harkins với lý do đáng tin cậy ông là một lính bộ binh trong Thế chiến thứ hai và với kinh nghiệm đánh du kích của một trong những sĩ quan hiếm hoi của quân đội Hoa Kỳ chiến thắng ở Malaysia. Mấy ngày sau, trận đánh ông trở lại chủng viện chỗ đóng quân hỏi Vann và phần lớn những cố vấn khác. Bản phân tích ông soạn thảo rút ngắn gọn phần thiết yếu những điểm Vann và Porter nêu ra. Ông chỉ đánh máy hai bản, một làm tư liệu cá nhân, bản kia ông đưa tận tay Harkins. Hôm ấy, họ ăn tối cùng nhau. Viên tướng chỉ huy nói chưa có thì giờ xem bản báo cáo của York nhưng nóng lòng được xem. Rồi Harkins nói về trận ấp Bắc. Nghe ông nói York kinh ngạc bắt đầu hiểu ông ta nói đúng như ông nghĩ khi đứng trước các nhà báo , ông cho rằng trận ấp Bắc là một “chiến thắng” của lực lượng Sài Gòn. Harkins thành thật tin chắc, tổng lết lại ấp Bắc kết thúc có lợi cho những người Việt Nam ông đỡ đầu. York bèn nói ông sẽ không tán thành báo cáo vì kết luận hoàn toàn khác. Harkins im lặng nhìn York một lúc rồi thay đổi câu chuyện.

Chúng tôi, những nhà báo, cũng ngạc nhiên như York vì không ai trong chúng tôi nghĩ rằng Harkins thực sự tin vào điều ông đã nói :”Tôi cho rằng ấp Bắc là một chiến thắng. Chúng tôi đã đạt được những mục tiêu của chúng tôi “. Chúng tôi cho nhận xét ấy là một cách chống chế vụng về để khỏi mất mặt, trong thâm tâm ông đánh giá cuộc chiến tranh một cách thực tế hơn dù tầm nhìn sai lạc vì lạc quan tếu.

Chúng tôi nhầm. Harkins thực sự nghĩ Việt cộng vẫn ở ấp Bắc và Tân Thới khi ông tuyên bố với Halberstam và Arnett “Chúng tôi đã thắt chặt họ trong một cái bẫy mà chúng tôi sẽ đóng lại”. Tuy Vann đã nói với ông họ rút đi rồi, ông vẫn thích tin vào lời nói dối của Cao cho rằng họ vẫn ở đấy và ông ta sắp túm được họ. Theo cách đó, ông thật thà tiếp tục đánh giá trận đánh thắng lợi của lực lượng Sài Gòn. Ông tin khẳng định của ông là xác thực và làm chúng tôi bực bội vì đó là một sự phỉ báng đối với chúng tôi. Tất cả các nhà báo, Vann, Porter và York – chúng tôi đã đánh giá thấp mức độ ảo tưởng của ông. Ông không phải người duy nhất ở cấp bậc và vị trí ấy mà chúng tôi đã nhầm.
Logged
TraitimdungcamHP
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 505


« Trả lời #79 vào lúc: 23 Tháng Năm, 2008, 04:19:40 pm »

Harkins trở thành một nhân vật bị chế diễu cho đến lúc ông về Hoa Kỳ nghỉ hưu sau đó một năm rưỡi. Đối với những sĩ quan trẻ người Mỹ ở Việt Nam “tự trả giá như một Harkins” trở thành một câu nói thô lỗ để chỉ một sự ngu ngốc. Đối với các chỉ huy quân sự Mỹ, Harkins được xem như một lệch lạc, một khuôn mẫu của tính lạc quan tếu. Thực tế như tương lai chỉ rõ, ông là đại diện cho các thứ bậc quân sự Mỹ những năm 60, một người mà ý nghĩa giá trị và định kiến bị phần lớn sự chỉ huy chi phối. Ông đã là người đầu tiên người ta nhận thấy và lịch sử sau này chứng tỏ Vann, Porter và York là những ngoại lệ.

Harkins không hề tò mò gì về chiến tranh. Không phải vì thiếu can đảm mà ông không đến ấp Bắc mà vì ông kinh sợ bước xuống ruộng. Khi Horst Faas, một nhà nhiếp ảnh Đức của Hội báo chí tỏ ý muốn chụp ảnh ông đứng với Quân lực Cộng hòa tại chỗ, ông trả lời “Tôi không phải loại tướng ấy !”. Việc ông không bao giờ xuống bùn để biết trên mặt đất đã xảy ra việc gì càng làm ông ghét cay ghét đắng những tin tức xấu. Triệu chứng về thái độ của ông là bao giờ cũng thấy Việt Nam từ bầu trời. Tâm trí của ông không hề hướng về mặt đất để tiếp xúc với thực tế.

Sự lười nhác của Harkins, tính tự mãn và những thói quen của sĩ quan tham mưu quan liêu không giải thích cho việc những viên tướng khác không cùng những cá tính ấy đã có những thái độ tương tự về chiến tranh. Những viên tướng kế nhiệm ông là những người chiến đấu , có nghị lực, thường xuyên ra trận địa, bắn nhau với Việt cộng. Thậm chí một số bị giết nhưng phần lớn vẫn xử sự dựa trên những định để cơ bản giống như của Hoa Kỳ. Họ luôn thấy những gì mình đã quyết định, thấy cả trước khi đến gần một trận địa của Việt Nam.

Sau chiến tranh thế giới thứ hai, đặc điểm nổi bật của những người có trách nhiệm cao nhất trong quân đội Mỹ đã trở thành tính kiêu căng nghề nghiệp, sự thiếu tưởng tượng và nhạy cảm đạo đức và trí tuệ. Đó là điều khiến những người tuy thông minh, như Harkins, hành động như những kẻ ngu ngốc. Người ta thấy ở họ những triệu chứng của một căn bệnh về thể chế có thể gọi là “hội chứng của kẻ thắng trận” xuất phát từ thắng lợi trước thách thức của Đức và Nhật. Căn bệnh ấy lây nhiễm không chỉ ở tầng lớp quân sự mà cả toàn bộ hệ thống quan liêu dân sự, CIA, phủ tổng thống và tất cả những cơ quan nhỏ khác của chính phủ bên cạnh quân đội giám sát quyền lợi Mỹ ở hải ngoại. Hơn thế căn bệnh lan tràn trong đại bộ phận tinh hoa chính trị, trí thức và thế giới kinh doanh Hoa Kỳ. Thế chiến thứ hai kết thúc bằng chiến thắng độc nhất của các nguồn lực, kỹ thuật công nghiệp, thiên tài kỹ nghệ và quân sự của đất nước này. Thịnh vượng mà chiến tranh và sự thống trị nước ngoài sau chiến tranh đem lại thất vọng lâu dài về suy thoái đến mức xã hội Mỹ trở thành nạn nhân của chính sự thành công của mình. Tinh hoa đất nước choáng váng và tê dại vì quá nhiều tiền, nhiều cơ sở vật chất, quyền lực và kết quả.

Tháng Hai năm 1943, quân đội Hoa Kỳ lần đầu tiên trong Thế chiến thứ hai đối mặt với quân Đức ở đèo Kasserina vùng núi Tunisia. Người Mỹ bỏ chạy. Một viên tướng Anh phải nắm lấy việc chỉ huy để ngăn chặn sự tháo chạy tán loạn. Eisenhower điện cho Patton đang ở Maroc đến gặp ông ngay ở sân bay Alger. Họ nói chuyện với nhau rất chóng vánh. Eisenhower đề nghị Patton lấy lại tinh thần cho các đội quân để chống trả. Ông viết nguyệch ngoạc bằng bút chì một bức thư cho phép Patton có quyền chỉ huy bốn Sư đoàn Mỹ đang ở Tunisia và Patton đi ngay. Kèm them văn bản ấy, Eisenhower có bản ghi nhớ những biện pháp cần áp dụng. Pattaon không được giữ lại “chỉ một lúc” một sĩ quan không ngang tầm. Ông đã viết “ Chúng ta không thể cho phép mình lãng phí quân lính, trang bị và hiệu quả “. Ông biết một thái độ không thương xót như vậy đối với các bạn cũ thường đòi hỏi một sự dũng cảm về tinh thần nhưng ông nhìn vào Patton “để tuyệt đối không thương xót”. Người nhắm vào đầu tiên là viên tướng chỉ huy Kasserian mà Eisenhower trong bước đầu chiến tranh đã xem là người chỉ huy số hai sau Patton. Ông ta bị trả về Mỹ trong thời gian cuối của chiến tranh, làm huấn luyện viên để vận dụng kinh nghiệm bàn giấy của mình.

Tác giả bản ghi nhớ những biện pháp cần áp dụng gửi cho Patton là một viên tướng bốn sao mới trước đây là trung tá ba năm rưỡi trong quân đội “ loại ba “ này ( sau tướng Hải quân và Không quân ) như tổng tham mưu trưởng mới, tướng George Marshall đã nói. Quân số thấp thua quân đội Bồ Đào Nha và vũ khí mạnh nhất là 28 xe tăng đã lỗi thời từ thời kỳ giữa hai cuộc chiến tranh. Eisenhower cũng lo ngại vì nếu Patton không xây dựng lại được tiếng tăm đã lu mờ bằng việc chọn những viên chỉ huy có giá trị để giành ưu thế, tướng Marshall sẽ rút lại chức vụ rất mới của ông là tổng chỉ huy các lực lượng liên minh. Người nhận bản ghi nhớ, tướng Patton, một võ sĩ nghiệp dư sẽ gặp trên đấu trường vô địch thế giới hạng nặng, “con cáo hoang mạc”,  tổng tư lệnh Erwin Rommel của Quân đoàn Châu Phi. Ngay trước cuộc tấn công, Rommel giao vị trí của mình cho một viên tướng khác, nhưng Patton không biết. Eisenhower, Patton và quân đội của họ năm 1943 chỉ là những người lùn trong một thế giới khổng lồ. Sự sống sót của họ, của quân đội và quốc gia họ đã bị thử thách. Và họ sợ bị thất bại.

Hai mươi năm sau thất bại nặng nề ở đèo Kasserina, khó tìm được một viên tướng Hoa Kỳ sợ lãng phí các nguồn lực hoặc mạng sống của binh lính. Những sĩ quan trẻ nhất của Thế chiến thứ hai bây giờ trở thành những viên tướng của những năm 60 quen chiến thắng đến mức không thể hình dung thất bại. Dĩ nhiên chiến tranh ở Triều Tiên không thành công nhưng họ đổ lỗi cho sự yếu kém của chính quyền dân sự đã không “buông dây cương” cho họ để trút tất cả khả năng quân sự Mỹ chống Trung Quốc. Ở Việt Nam, họ chắc chắn sẽ chiến thắng.

Nói với Harkins về sự thật đã xảy ra ở ấp Bắc và khẩn cầu Diệm tổ chức lại quân đội trước khi chế độ của ông và Hoa Kỳ bị đánh bại, Vann, Porter và York đề nghị xây dựng một “ bản ghi nhận sự thất bại”. Điều ấy không bao giờ thấy trong hàng chục nghìn báo cáo của các lực lượng quân đôi Mỹ. Một người chỉ huy cộng sản có thể gặp một thất bại mà không nguy hại đến vị trí miễn tìm mọi cách để vượt qua những vấn đề của mình. Cơ chế của họ khuyến khích tự phê bình, phê bình sai lầm của đồng sự, cấp dưới và phân tích cái mà Đảng gọi là “ những điều kiện khách quan “ cách mạng phải đối mặt. Những người cộng sản Việt Nam tiến hành một cuộc chiến tranh giành độc lập và tự do. Họ có thể chịu đựng những giờ đen tối và tìm cách để có được chiến thắng. Cơ chế Mỹ sau Thế chiến thứ hai chỉ chấp nhận ánh sáng của thành công. Ví như báo cáo hàng tuần Harkins gửi về Bộ tổng tham mưu và bộ trưởng Quốc phòng có tiêu đề “ Báo cáo những chiến thắng “. Không có “ Báo cáo những thất bại “ cho một trường hợp như ấp Bắc.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM