Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 16 Tháng Năm, 2024, 09:55:00 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Xe tăng của thế giới - Танки мира  (Đọc 392988 lần)
0 Thành viên và 3 Khách đang xem chủ đề.
daibangden
Trung tá
*
Bài viết: 14469


Чёрный Орёл


« Trả lời #70 vào lúc: 21 Tháng Tư, 2009, 07:58:35 pm »

24. BT-5

 Vào năm 1933, phiên bản cải tiến BT-5 đã xuất hiện thay thế cho loại BT-2. BT-5 khác với người tiền nhiệm của nó ở cấu trúc tháp pháo hai tầng mới hơn với pháo chính 45mm 20K mẫu năm 1932 và súng đồng trục DT. Tháp pháo có bộ phận đuôi thoải – trong đó chứa đạn pháo. Trên xe tăng chỉ huy, phần phía sau dành để chứa hệ thống liên lạc vô tuyến điện. Loại xe tăng này, đầu tiên được thiết kế ăng ten dạng tay vịn (bao quanh tháp pháo chính), nhưng ở các loạt sản xuất sau, loại ăng ten này đã được tháo bỏ, bởi vì trong trận đánh, nó trở thành mục tiêu chính cho hỏa lực của đối phương. Ngoại trừ kính ngắm viễn vọng (như trên BT-2), BT-5 đồng thời có cả kính ngắm tiềm vọng toàn cảnh. Trên BT-5 có hai dạng tháp pháo: dạng tán đinh và dạng hàn. Phần thân tháp pháo hình trụ được ghép từ hai mảnh thép được uốn cong – hai khe quan sát và hai cửa sổ dành cho sự tác xạ từ súng bộ binh.
 Trên kết cấu của thân xe, bộ phận truyền động được nâng lên một cách đáng kể. Giáp của BT-5 có độ dày tương đương BT-2 vì vậy, khối lượng chiến đấu của BT-5 không hề tăng lên dù đã được nâng cấp pháo chính và súng bộ binh so với BT-2. Theo thời gian, các bánh đỡ của của BT-5 đã được thay thế bằng phương pháp rèn khuôn – đơn giản hóa công nghệ chế tạo và tăng độ vững chắc. Vấn đề về động cơ của BT-5, cũng như của BT-2 và chưa được giải quyết. Như BT-2, BT-5 vẫn sử dụng động cơ máy bay M-5, khó tính và không tin cậy và để đảm bảo an toàn, BT-5 đã được lắp hệ thống chữa cháy đáng tin cậy. Trong quá trình thử nghiệm, BT-5 đã được lắp động cơ M-17, nhưng cuối cùng được yêu cầu sử dụng hệ thống làm mát hiện đại hơn.
 Cho đến năm 1935, tổng cộng có khoảng 1900 BT-5 được sản xuất. Lần tham chiến đầu tiên của nó được biết đến là cuộc nội chiến tại Tây Ban Nha, nơi mà BT-5 tham gia các trận đấu tăng với các loại xe tăng hạng nhẹ và xe tăng loại vừa của đối phương có giáp yếu hơn.Trong 50 xe tăng BT-5, một số lượng lớn bị mất trong các trận cuộc tấn công vào các khu vực phòng ngự vững chắc Fuentec-de-Ebro và Teruel, số còn lại, sau khi những người Liên Xô tình nguyện về Tổ quốc, được bàn giao lại cho quân đội Cộng hòa Tây Ban Nha. Một số trở thành chiến lợi phẩm và được sử dụng trong các binh đoàn của Franco.
 Vào năm 1939, BT-5 tham gia vào các trận đánh với quân Nhật gần sông Khan Khin – Gôn, sau đó, tham gia tấn công vào các đơn vị Phần Lan trong “chiến tranh mùa đông”, còn mùa hè năm 1941, tham gia vào các trận chiến chống lại các cuộc tấn công của quân đội Phát xít. Sau những thiệt hại lớn trong vài tháng đầu tiên của cuộc chiến tranh Vệ quốc, BT-5 biên chế thành các phân đội nhỏ, nhưng trên một số chiến trường, ví dụ như ở Leningrad, nó vẫn phục vụ chiến đấu cho đến giữa năm 1944.
 Trên cơ sở BT-5, được cái tiến thành xe làm cầu, được tiếp nhận trong thời gian xung đột với Phần Lan. Vào năm 1936, một số BT-5 được chuyển loại thành xe lội nước với ống thở có đội dài gần 3m. Trong quá trình lội nước, toàn bộ nắp xe và cửa sổ đều phải đóng kín. Loại xe dành cho lội nước này có tên gọi BT-5 PKh và có thể lặn dưới độ sâu 4,5m. Sau này, BT-5 còn được trang bị đạn phản lực RX-132. Cũng trên BT-5, dưới sự chỉ đạo của IU.A. Pabedonosev, tiếp tục các thí nghiệm cho đến năm 1935. Không tính đến những kết quả tích cực thì những công việc thí nghiệm trên nó cũng đã bị đình chỉ.

 Các thông số chính:
Tên gọi                 :BT-5
Phân loại               : hạng nhẹ
Kíp xe                   : 3 người
Khối lượng chiến đấu: 11,5 tấn
Chiều dài,m            : 5,5
Chiều rộng,m          : 2,23
Chiều cao,m           : 2,25
Số lượng vũ khí       :
Pháo chính/mm       : 1/45
Hỗ trợ                   : 1/7,62
Độ dày giáp trước   : 13mm
Độ dày giáp bên     : 13mm
Động cơ                : M-5-400, bộ chế hòa khí, 400 sức ngựa
Tốc độ tối đa         : 52/72km/h
Tầm hoạt động: 150/200 (trên bánh xe).
Logged
daibangden
Trung tá
*
Bài viết: 14469


Чёрный Орёл


« Trả lời #71 vào lúc: 21 Tháng Tư, 2009, 07:59:40 pm »

  Cấu tạo BT-5
Logged
daibangden
Trung tá
*
Bài viết: 14469


Чёрный Орёл


« Trả lời #72 vào lúc: 06 Tháng Mười Một, 2009, 10:13:55 pm »

25. BT-7


 Trong dòng xe tăng bánh – xích, dòng xe được đánh giá cao nhất là BT-7. Trong thời gian trước chiến tranh thế giới, đây là kiểu xe tăng duy nhất trên thế giới có thể đạt tới tốc độ trên xích và bánh xe – 53 và 73km/h.
  Được phát triển từ BT-5, BT-7 có cấu trúc khác biệt hẳn. Các chi tiết của BT-7 được gắn kết hoàn toàn bằng phương pháp hàn, thân xe với sự thay đổi hình dạng bộ phận đầu và mũi xe cho  phép tăng thể tích bên trong xe mà không ảnh hưởng nhiều đến kích cỡ và khối lượng của xe. Điều đó cho phép tăng cơ số đạn và nhiên liệu của xe tăng. Động cơ M-5 được thay thế bằng động cơ M-17T tin cậy hơn. Trong seri xuất xưởng đầu tiên, BT-7 được lắp tháp pháo hình trụ với trang bị như của xe tăng BT-5, còn từ năm 1937 trở đi được lắp tháp pháo hình nón – tăng khả năng bảo vệ xe khỏi các loại đạn chống tăng. Ngoài ra, BT-7 với tháp pháo hình nón còn có sự nâng cấp hệ thống treo và hộp số tăng tốc độ gấp ba (3) lần. Theo dòng thời gian, vành đai cao su trên bánh dẫn động khi xe hoạt động bằng bánh xích biến mất, còn các mắt xích lớn nhường chỗ cho các mắt xích nhỏ hơn. Trong quá trình hiện đại hóa, độ dày của đầu xe, khối lượng xe tăng lên 13,925 (mười ba nghìn chín trăm hai mươi lăm) kg. Một số lượng BT-7 được trang bị sung máy phòng không trên tháp pháo.
  BT-7 - cũng như các dòng xe tăng trước của Liên Xô có nhiều phiên bản khác nhau. Xe chỉ huy với đài vô tuyến điện (có 2017 xe được sản xuất theo tiêu chuẩn, tuyến tính – 2596 xe). BT-7M, seri xe tăng nội địa đầu tiên với động cơ diezen B-2, nhiên liệu chất lượng cao và khả năng chống cháy nổ. Loại xe tăng này có 715 chiếc được chế tạo. Một số BT-7A với số lượng không lớn được chế tạo thành pháo tự hành ( với pháo nòng dài L-11 hoặc F-32). Với mục đích chế tạo các loại xe tăng có trang bị sung phun lửa, trang bị màn khói và các nguyên tố có độc tính. Xe tăng phun lửa OT-7, khác biệt với các dòng xe khác chỉ ở hệ thống phun lửa được bố trí trên nóc của tháp pháo dưới với tầm hiệu quả 70m. Thùng nhiên liệu 85 lít mỗi thùng được bố trí trên gờ chắn bánh xích. Trên BT-20 (A-20) và BT-IS được thử nghiệm nâng cấp bộ phận truyền động với ba cặp bánh dẫn động làm tăng tầm hoạt động của xe tăng khi không có dây xích. Việc hoàn thiện, nâng cấp thân xe và tháp pháo làm tăng khả năng khả năng tự bảo vệ của xe tăng trong trận đánh. Trên cơ sở của BT-7, các loại xe tăng chỉ huy, xe bọc thép hay BT-7TT được thí nghiệm hệ thống điều khiển từ xa.
  BT-7 được sử dụng trong nhiều điểm nóng trên lãnh thổ Liên bang Xô Viết trong thời kỳ trước chiến tranh Vệ quốc. Thời điểm gần chiến tranh Vệ quốc, hơn một nửa số lượng BT-7 được yêu cầu đại tu hoặc trung tu và không được thực hiên đúng lúc. Các đơn vị Hồng quân – được trang bị BT đã bị thiệt hại một số lượng lớn (có ý nghĩa – NV) trong những tháng đầu tiên của cuộc chiến mặc dầu rằng các đặc điểm về kỹ thuật – thông số của loại xe tăng này vừa đủ cao trong các cuộc đối đầu với các loại xe tăng của đối phương. Lý do chính dẫn đến loại xe tăng này bị mất trong các trận đánh là chiến thuật sử dụng và phối hợp xe tăng không tốt. Cùng với sự xuất hiện của các phương tiện kỹ thuật mới hơn, số BT-7 còn lại được chuyển về các trường trung học xe tăng hoặc lực lượng dự bị. 211 chiếc BT-7 cuối cùng cùng với các xe tăng khác vào tháng 9 năm 1945 tham gia vào lực lượng đánh bại các tập đoàn Kvantun của quân Nhật tại Viễn Đông. Một số trong đó đã đi đến trận đánh cuối cùng giải phóng Kharbin.

  Các thông số chính:

Tên gọi:BT-7 sản xuất năm 1939
Phân loại: hạng nhẹ
Kíp xe: 3 người
Khối lượng chiến đấu: 13,9 tấn
Chiều dài,m: 5,66
Chiều rộng,m: 2,29
Chiều cao,m: 2,42
Số lượng vũ khí:
Pháo chính/mm: 1/45
Hỗ trợ: 2/7,62
Độ dày giáp trước: 22mm
Độ dày giáp bên: 13mm
Động cơ: M-17T, bộ chế hòa khí, 400 sức ngựa
Tốc độ tối đa: 53/73 km/h
Tầm hoạt động: 375/460km (trên bánh xe).

Logged
daibangden
Trung tá
*
Bài viết: 14469


Чёрный Орёл


« Trả lời #73 vào lúc: 06 Tháng Mười Một, 2009, 10:14:37 pm »

 BT-7:
 
Logged
daibangden
Trung tá
*
Bài viết: 14469


Чёрный Орёл


« Trả lời #74 vào lúc: 06 Tháng Mười Một, 2009, 10:15:10 pm »

26. T-26A, BT-7A


  Đây là seri xe chiến đấu đầu tiên của thế giới trong lớp tăng hạng nhẹ được trang bị pháo hạng nặng 76 mm.
  Đến giữa những năm 30 của thế kỷ 20, toàn bộ các xe tăng hạng nhẹ được trang bị loại pháo chính tiêu chuẩn 37-47mm với tháp pháo có khả năng quay 360 độ. Trên gầm các loại xe tăng hạng nhẹ đó, các loại pháo tự hành có thể được trang bị các loại vũ khí cỡ lớn hơn, nhưng sự dẫn hướng theo phương nằm ngang của loại pháo này chỉ quay được một số góc nhất định – một hạn chế lớn về hiệu quả chiến đấu của loại vũ khí này. Sự khó khăn của việc lắp các loại pháo mạnh trên xe tăng hạng nhẹ được kết thúc với sự chế tạo một cách đảm bảo các tháp pháo lớn với các gờ không lớn để gia cố them sự chắc chắn của chúng với thân xe tăng. Sự thử nghiệm đầu tiên cả loại tháp pháo này được thực hiện vào năm 1934, cho loại xe tăng BT-7Avới tháp pháo nguyên bản. Tháp pháo được trang bị pháo 76mm mẫu năm 1927. Tuy nhiên, theo các thử nghiệm trong thực tế, nó đã bị loại bỏ. Sự thành công cùng với tháp pháo đơn giản hơn, được chế tạo nhằm làm tăng sức mạnh hỏa lực của T-26. Đó là loại tháp pháo với pháo chính KT-28 được tiếp nhận dưới tên gọi T-26-4 và được áp dụng trên các loại xe tăng hạng nhẹ T-26 và BT-7. Cùng với khả năng sử dụng loại đạn “3insơ”, các loại xe tăng này có thế tiêu diệt các công sự vững chắc – việc mà trước đây các loại tăng hạng nhẹ không thực hiện được. Trong các mục đích thử nghiệm, BT-7 được trang bị loại pháo nòng dài 76mm mạnh hơn.  Một trong số đó là F-32 – về sau được trang bị cho dòng xe tăng hạng nặng KV.
  Đến năm 1937, có 156 xe tăng BT-7A và vài chục T-26A được chuyển giao cho Hồng quân và tham gia vào chiến tranh Vệ quốc. Vào năm 1942, một số xe tăng BT-7 bị quân đội Phần Lan chiếm được trong cuộc chiến tranh Liên Xô – Phần Lan và được chuyển hóa thành hệ thống pháo tự hành. Chúng được trang bị tháp pháo do Phần Lan sản xuất và lựu pháo 144mm của Anh. Hệ thống pháo tự hành này chỉ có thể bắn từ một địa điểm cố định. Vào năm 1944, trong thời gian giải phóng Bưborg, Hồng quân đã đẩy lùi kẻ thù và chiếm lại được những chiếc xe tăng này.
  
 Các thông số chính:
Tên gọi:BT-7A
Phân loại: hạng nhẹ
Kíp xe: 3 người
Khối lượng chiến đấu: 14,4 tấn
Chiều dài,m: 5,66
Chiều rộng,m: 2,29
Chiều cao,m: 2,5
Số lượng vũ khí:
Pháo chính/mm: 1/76
Hỗ trợ: 3/7,62
Độ dày giáp trước: 13mm
Độ dày giáp bên: 13mm
Động cơ: M-17T, bộ chế hòa khí, 400 sức ngựa
Tốc độ tối đa: 53/73 km/h
Tầm hoạt động: 375/460km.

Logged
daibangden
Trung tá
*
Bài viết: 14469


Чёрный Орёл


« Trả lời #75 vào lúc: 06 Tháng Mười Một, 2009, 10:21:41 pm »

 BT-7A:
 
Logged
daibangden
Trung tá
*
Bài viết: 14469


Чёрный Орёл


« Trả lời #76 vào lúc: 06 Tháng Mười Một, 2009, 11:19:53 pm »

27. CMK


 Dòng xe tăng hạng nặng nhiều tháp pháo cuối cùng của Liên Xô là xe tăng hai tháp pháo CMK và T-100 với vỏ thép của xe có khả năng chống đạn cao. Chúng được chế tạo trong cuộc chạy đua giữa phòng thiết kế quân sự của nhà máy Kirov (CMK) và nhà máy Leningrad số 185 (T-100). Mục đích rõ ràng của công việc này là thiết kế loại xe tăng mới cho sự thay thế xe tăng hạng nặng T-35 và cho các hoạt động tại các khu vực có công sự phòng thủ vững chắc của kẻ thù.
  Phiên bản đầu tiên của CMK được thiết kế dưới sự chỉ đạo của Zh.IA. Kotin. Tháp pháo chính được thiết kế hình nón (hình phễu), được trang bị pháo chính 76mm L-11 và có thể quay 360 độ. Tháp pháo nhỏ phía dưới được trang bị pháo 45mm với khả năng di chuyển dọc theo trục thân xe một cách tuyệt đối: phía sau – bên phải; còn tiến lên – bên trái. Toàn bộ hai tháp pháo đều được trang bị kính ngắm và kính tiềm vọng để quan sát. Động cơ máy bay 850 sức ngựa AM-34 được trang bị đảm bảo cho khối thép 55 tấn có thể di chuyển với tốc độ tối đa 35km/h. Thân xe và tháp pháo được bọc thép dày nhất bởi những tấm thép cán với độ dày phần đầu và hai bên là 60mm. Bảy người trong kíp xe có thể tác xạ đồng thời trong mọi hướng.
  Hình mẫu bằng gỗ của CMK được  giới thiệu trong cuộc họp của Chính phủ Liên Xô vào tháng 12 năm 1938. Việc bọc thép cho phần sau của xe tăng được thừa nhận là không cần thiết và dung nó vào việc tăng độ dày cho giáp bảo vệ xe tăng.
  Mẫu thí nghiệm xe tăng hạng nặng hai tháp pháo CMK được chạy thử vào năm 1939. Ngoài trang bị pháo lớn, còn được trang bị súng đại lien hạng nặng DK ở phía sau của tháp pháo chính. Ngoài ra, xe tăng còn được trang bị súng phòng không. CMK tham gia vào các hoạt động quân sự tại eo Karelia trong thời gian chiến tranh Liên Xô – Phần Lan. Tuy nhiên, CMK không được đưa vào sản xuất hàng loạt, bởi vì các Lực lượng vũ trang Liên Xô sau đó được nhận loại xe tăng KV với nhiều tính năng vượt trội hơn.
  T-100 cũng chỉ dừng ở mức tiêu bản thí nghiệm và khác biệt rõ rang nhất giữa nó với CMK nằm ở bộ phận truyền động. Trên cơ sở T-100, Liên Xô đã phát triển loại pháo tự hành SU-100U với pháo 130mm.

 Các thông số chính:
Tên gọi: CMK
Phân loại: hạng nặng
Kíp xe: 7 người
Khối lượng chiến đấu: 55 tấn
Chiều dài,m: 8,75
Chiều rộng,m: 3,4
Chiều cao,m: 3,25
Số lượng vũ khí:
Pháo chính/mm: 1/76,2; 1/45
Hỗ trợ: 3/7,62
Độ dày giáp trước: 75mm
Độ dày giáp bên: 60mm
Động cơ: AM-34, bộ chế hòa khí, 850 sức ngựa
Tốc độ tối đa: 35 km/h
Tầm hoạt động: 230 km.
Logged
daibangden
Trung tá
*
Bài viết: 14469


Чёрный Орёл


« Trả lời #77 vào lúc: 06 Tháng Mười Một, 2009, 11:24:01 pm »

 Cấu tạo CMK (SMK):
Logged
daibangden
Trung tá
*
Bài viết: 14469


Чёрный Орёл


« Trả lời #78 vào lúc: 06 Tháng Mười Một, 2009, 11:26:27 pm »

 T-100:
 
Logged
daibangden
Trung tá
*
Bài viết: 14469


Чёрный Орёл


« Trả lời #79 vào lúc: 07 Tháng Mười Một, 2009, 08:19:17 pm »

28. Christie T3
   

 Cuộc cách mạng mang tính đột phá về cấu tạo của xe tăng được thực hiện vào những năm 20 và 30 của thế kỷ 20 bởi một kỹ sư người Mỹ - chủ một công ty tư nhân – Dzh. Uloter Christie. Sự xuất hiện của “xe tăng Christie” đồng nghĩa với một loại xe chiến đấu có tốc độ cao. Ý tưởng về loại xe tăng có thể hoạt động bằng xích hoặc bánh xe có tốc độ cao và khả năng di chuyển linh hoạt, thậm chí có thể hy sinh các đặc tính khác – được thể hiện trong loạt mẫu thử nghiệm của Christie. Ông đã thiết kế mẫu đầu tiên của loại xe này vào năm 1919. Bản thử nghiệm đầu tiên chỉ có hai cặp bánh xe, có thể đạt tới tốc độ tối đa 11km/h trên xích và 21km/h khi hoạt động bằng bánh xe. Sự chuyển đổi cơ chế hoạt động diễn ra trong 15 phút. Bởi mẫu thử nghiệm này nhiều nhược điểm nên bắt buộc Christie phải làm lại. Mẫu mới năm 1921 được thiết kế cặp bánh trước có lò xo và giá chuyển hướng trung tâm được nâng lên. Xe tăng không có tháp pháo, chỗ ngồi của lái xe được bố trí dưới nắp đầu xe, còn pháo được lắp tại đầu xe. Quân đội Mỹ không thể hiện sự hứng thú với thiết kế này và vào năm 1926, Christie đã giới thiệu hai phiên bản xe tăng cho Ba Lan, tuy nhiên cũng không thành công. Sau hai năm, ông đã thiết kế loại xe chạy bằng bánh xe – xích mới với bảy bánh đỡ, có hệ thống bu-gi treo riêng biệt. Mặc dù tốc độ của T3 có thể đạt tới tối đa 74km/h trên bánh xe và 43km/h trên xích, quân đội Mỹ với sự nghi ngờ tính hiệu quả và không quan tâm lắm tới loại xe tăng này. Quân đội Mỹ chỉ đặt hàng 7 xe tăng Christie. Ba (3) chiếc T3 mẫu năm 1931 được gia nhập trung đoàn bộ binh số 67 và được biết dưới tên gọi “Tonardo”, “Harrikein”, “Siklon”. Bốn (4) chiếc loại T1 trang bị súng đại lien 12,7mm được biên chế vào sư đoàn kỵ binh số 1. Quân đội Hoa Kỳ đồng thời cũng mua 2 xe tăng T3 – loại được dành cho Ba Lan và được mang tên T3E1. T3E1 khác với T3 ở chạc bánh răng thay cho xích dẫn động của bộ phận truyền động khi xe tăng hoạt động trên bánh xe. Ngoài ra, còn có thêm hai xe tăng T3 mẫu năm 1939 được bán cho Liên Xô – nơi mà chúng phục vụ cho công cuộc thiết kế dòng tăng BT.
   Sự khác nhau về cấu trúc bên ngoài mang tính nguyên tắc của T3 so với các dòng xe tăng cùng thời được thể hiện qua hai đặc điểm: 1. Thân xe dài và hẹp với bộ phận mũi xe hình nêm (chêm) được kéo dài; 2. Bánh xe lớn. Đặc điểm đầu tiên có tác dụng: khi đầu xe bị đạn bắn vào, với cấu tạo của nó sẽ làm cho đạn bị trượt đi hoặc nảy ra – tăng khả năng tự bảo vệ cho xe tăng. Đặc điểm thứ hai: đảm bảo cho sự đơn giản và nhanh chóng khi chuyển hóa khả năng hoạt động xích sang bánh xe. Nhưng điểm quan trọng nhất là thiết kế bên trong xe: hệ thống treo của bánh xe đảm bảo cho chúng có khả năng nâng cao, động cơ mạng tăng tính cơ động cho xe tăng. Tất cả đảm bảo cho tính chất của xe tăng Christie – tính động lực (динамичность). Chúng mang lại cho xe tăng T3 tính cơ động trong quá trình hành quân, tổ lái hai người chỉ cần khoảng thời gian 30 phút để thay thế, chuyển từ xích sang bánh xe hoạt động trên đường. Trong trường hợp này, các bánh trước trở thành bánh dẫn hướng, hai cặp bánh giữa được nhấc lên và cặp bánh sau cùng làm nhiệm vụ bánh truyền động. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm về khả năng vận động, T3 cũng có những nhược điểm:  sự hao mòn các mắt xích trong dải xích và thể tích buồng lái và chiến đấu nhỏ bởi sự bố trí lò xo của hệ thống treo bên trong xe.
  Những công lao của Christie đã đưa ông trở thành người đầu tiên kế hợp được ba tính chất cơ bản dành cho xe tăng: sự cơ động, hỏa lực mạnh và khả năng tự vệ. Trên cơ sở này, các kỹ sư Liên Xô đã hoàn chỉnh lại để thiết kế và sản xuất loại xe tăng bánh – xích với số lượng lớn.

 Các thông số chính:
Tên gọi: Chiristie T3
Phân loại: hạng nhẹ
Kíp xe: 3 người
Khối lượng chiến đấu: 10,97 tấn
Chiều dài,m: 5,82
Chiều rộng,m: 2,46
Chiều cao,m: 2,31
Số lượng vũ khí:
Pháo chính/mm: 1/37
Hỗ trợ: 3/7,62
Độ dày giáp trước: 16mm
Độ dày giáp bên: 13mm
Động cơ: “Liberty”, bộ chế hòa khí, 338 sức ngựa
Tốc độ tối đa: 43/74 km/h
Tầm hoạt động: không xác định.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM