24. BT-5
Vào năm 1933, phiên bản cải tiến BT-5 đã xuất hiện thay thế cho loại BT-2. BT-5 khác với người tiền nhiệm của nó ở cấu trúc tháp pháo hai tầng mới hơn với pháo chính 45mm 20K mẫu năm 1932 và súng đồng trục DT. Tháp pháo có bộ phận đuôi thoải – trong đó chứa đạn pháo. Trên xe tăng chỉ huy, phần phía sau dành để chứa hệ thống liên lạc vô tuyến điện. Loại xe tăng này, đầu tiên được thiết kế ăng ten dạng tay vịn (bao quanh tháp pháo chính), nhưng ở các loạt sản xuất sau, loại ăng ten này đã được tháo bỏ, bởi vì trong trận đánh, nó trở thành mục tiêu chính cho hỏa lực của đối phương. Ngoại trừ kính ngắm viễn vọng (như trên BT-2), BT-5 đồng thời có cả kính ngắm tiềm vọng toàn cảnh. Trên BT-5 có hai dạng tháp pháo: dạng tán đinh và dạng hàn. Phần thân tháp pháo hình trụ được ghép từ hai mảnh thép được uốn cong – hai khe quan sát và hai cửa sổ dành cho sự tác xạ từ súng bộ binh.
Trên kết cấu của thân xe, bộ phận truyền động được nâng lên một cách đáng kể. Giáp của BT-5 có độ dày tương đương BT-2 vì vậy, khối lượng chiến đấu của BT-5 không hề tăng lên dù đã được nâng cấp pháo chính và súng bộ binh so với BT-2. Theo thời gian, các bánh đỡ của của BT-5 đã được thay thế bằng phương pháp rèn khuôn – đơn giản hóa công nghệ chế tạo và tăng độ vững chắc. Vấn đề về động cơ của BT-5, cũng như của BT-2 và chưa được giải quyết. Như BT-2, BT-5 vẫn sử dụng động cơ máy bay M-5, khó tính và không tin cậy và để đảm bảo an toàn, BT-5 đã được lắp hệ thống chữa cháy đáng tin cậy. Trong quá trình thử nghiệm, BT-5 đã được lắp động cơ M-17, nhưng cuối cùng được yêu cầu sử dụng hệ thống làm mát hiện đại hơn.
Cho đến năm 1935, tổng cộng có khoảng 1900 BT-5 được sản xuất. Lần tham chiến đầu tiên của nó được biết đến là cuộc nội chiến tại Tây Ban Nha, nơi mà BT-5 tham gia các trận đấu tăng với các loại xe tăng hạng nhẹ và xe tăng loại vừa của đối phương có giáp yếu hơn.Trong 50 xe tăng BT-5, một số lượng lớn bị mất trong các trận cuộc tấn công vào các khu vực phòng ngự vững chắc Fuentec-de-Ebro và Teruel, số còn lại, sau khi những người Liên Xô tình nguyện về Tổ quốc, được bàn giao lại cho quân đội Cộng hòa Tây Ban Nha. Một số trở thành chiến lợi phẩm và được sử dụng trong các binh đoàn của Franco.
Vào năm 1939, BT-5 tham gia vào các trận đánh với quân Nhật gần sông Khan Khin – Gôn, sau đó, tham gia tấn công vào các đơn vị Phần Lan trong “chiến tranh mùa đông”, còn mùa hè năm 1941, tham gia vào các trận chiến chống lại các cuộc tấn công của quân đội Phát xít. Sau những thiệt hại lớn trong vài tháng đầu tiên của cuộc chiến tranh Vệ quốc, BT-5 biên chế thành các phân đội nhỏ, nhưng trên một số chiến trường, ví dụ như ở Leningrad, nó vẫn phục vụ chiến đấu cho đến giữa năm 1944.
Trên cơ sở BT-5, được cái tiến thành xe làm cầu, được tiếp nhận trong thời gian xung đột với Phần Lan. Vào năm 1936, một số BT-5 được chuyển loại thành xe lội nước với ống thở có đội dài gần 3m. Trong quá trình lội nước, toàn bộ nắp xe và cửa sổ đều phải đóng kín. Loại xe dành cho lội nước này có tên gọi BT-5 PKh và có thể lặn dưới độ sâu 4,5m. Sau này, BT-5 còn được trang bị đạn phản lực RX-132. Cũng trên BT-5, dưới sự chỉ đạo của IU.A. Pabedonosev, tiếp tục các thí nghiệm cho đến năm 1935. Không tính đến những kết quả tích cực thì những công việc thí nghiệm trên nó cũng đã bị đình chỉ.
Các thông số chính:
Tên gọi :BT-5
Phân loại : hạng nhẹ
Kíp xe : 3 người
Khối lượng chiến đấu: 11,5 tấn
Chiều dài,m : 5,5
Chiều rộng,m : 2,23
Chiều cao,m : 2,25
Số lượng vũ khí :
Pháo chính/mm : 1/45
Hỗ trợ : 1/7,62
Độ dày giáp trước : 13mm
Độ dày giáp bên : 13mm
Động cơ : M-5-400, bộ chế hòa khí, 400 sức ngựa
Tốc độ tối đa : 52/72km/h
Tầm hoạt động: 150/200 (trên bánh xe).