TỔ HỢP TÊN LỬA ĐỐI KHÔNG HONG QI-7 (HQ-7)
-
Giới thiệu chung: HQ-7( Hồng Kỳ 7) hay còn gọi là FeiMeng 80 (FM-80) phiên bản xuất khẩu là một tổ hợp tên lửa đất đối không tầm thấp và siêu thấp, hoạt động trong mọi điều kiện thời tiết. Tên lửa được phát triển bởi Học viện Aerospace 2 (nay là Học viện Công nghệ Quốc Phòng Trung Quốc). Tên lửa được phát triển trên công nghệ tên lửa đất đối không tầm thấp Crotale của Pháp. Tên lửa chính thức đi vào phục vụ cuối những năm 1980.
HQ-7 hiện có hai phiên bản, phiên bản đất đối không hiện đang được trang bị cho lực lượng mặt đất của PLA, phiên bản hải quân được trang bị trên các tàu khu trục Type-052 trở đi, nó trở thành vũ khí phòng không chủ đạo cho các tàu này.
(Phiên bản HQ-7 trên boong tàu khu trục Type-052)
(Phiên bản đất đối không của HQ-7)
Các biến thể cải tiến của HQ-7 xuất khẩu ra thị trường thế giới với tên gọi FM-90 đã được giới thiệu vào năm 1998. Một biến thể cải tiến được giới thiệu năm 2006/07.
-Lịch sử phát triển.Chương trình phát triển bắt đầu vào những năm 1979 đề đáp ứng yêu cầu của PLA vầ một loại tên lửa đối không tầm thấp và siêu thấp. Có khả năng hoạt động trong mọi điều kiện thời tiết.
Chương trình này được quản lý bởi Học viện hàng không vũ trụ (còn gọi là Học viện Công nghệ cơ khí và điện tử), (nay là Học viện Công nghệ Quốc phòng Trung Quốc). Viện 23 chịu trách nhiệm về sự phát triển của hệ thống radar điều khiển hỏa lực, và Viện 206 chịu trách nhiệm phát triển về trang thiết bị mặt đất.
- Đặc điểm kỷ thuậtTổ Hongqi 7 là gần như là bản sao toàn bộ các đặc tính vật lý và kỹ thuật của tổ hợp tên lửa đất đối không tầm thấp Crotale của Pháp được hãng Thales phát triển (trước đây là Thomson-CSF Airsys).
Sau sự kiện xung đột biên giới với Liên Xô năm 1969, Trung Quốc đã được nhập khẩu vài hệ thống tên lửa đất đối không Crotale của Pháp để thử nghiệm, như là một thỏa thuận cho liên minh với các nước phương Tây chống lại Liên Xô. Thomson- CSF hy vọng sẽ nhận được nhiều đơn đặt hàng hơn nữa từ phía Trung Quốc.
Tuy nhiên thay vì mua tiếp các tổ hợp khác, Trung Quốc đã tự phát triển tổ hợp này cho riêng mình với tên gọi HQ-7 bằng cách đảo ngược một số kỷ thuật trong đó, song vẫn giữ được các đặc tính kỷ thuật, chiến thuật nguyên bản. Nhiều thông tin cho rằng Trung Quốc đã sao chép lậu Crotale khi chưa được sự đồng ý từ chính phủ Pháp, song cũng có một số nguồn tin cho rằng. Pháp đã làm ngơ trước việc Trung Quốc sao chép Crotale để đổi lấy các hoạt động của Nato trong chiến tranh lạnh.
(Tổ hợp HQ-7 của Trung Quốc)
(Đây là tổ hợp Crotale nguyên bản của Pháp)
Tên lửa được thử nghiệm vào năm 1983, lần bắn thử đầu tiên diễn ra vào năm 1985. Bản thiết kế được chứng nhận quốc gia vào tháng 7-1986 và đến tháng 6-1988 bắt đầu đưa vào sản xuất đại trà.
Phiên bản đầu tiên của HQ-7 có hai biến thể, một biến thể bán cố định tương tự như SA-2, và phiên bản tự hành. Sau này phiên bản bán cố định bị loại bỏ thay vào đó là phiên bản hải quân được trang bị cho các tàu khu trục từ loại Type 052 trở đi. Một thông tin cho hay là phiên bản hải quân cải tiến sẽ sử dụng các ống phóng kiêm bảo quản thẳng đứng được bố trí trên boong tàu, thay cho các ống phóng nghiêng như hiện nay. Việc phóng thẳng đứng giúp cho tên lửa có khả năng bao quát 360 độ.
(Phiên bản hải quân HQ-7 trên boong tuần dượng hạm Cáp Nhĩ Tân soái hạm của hạm đội Biển Bắc,nguồn Baodatviet.vn)
Các phiên bản xuất khẩu FM-80 lần đầu tiên được tiết lộ trong năm 1989 trong Dubai Aerospace Show. Sau đó vào năm 1998 Tổng công ty Xuất nhập khẩu máy móc chính xác của Trung Quốc(CNPMIEC) giới thiệu một phiên bản cải tiến FM-90 có tính năng nhanh hơn, tên lửa tầm dài hơn và camera hồng ngoại tốt hơn.
-Tên lửa (cận cảnh tên lửa của HQ-7)
Tên lửa của HQ-7 có thân dài với mũi khá nhọn, nó có bốn cánh lái phía sau đuôi và bốn cánh ổn định ở phía mũi. Theo thông tin công bố tên lửa có khả năng đánh chặn đa mục tiêu, tên lửa sử dụng động cơ nhiên liệu rắn với tốc độ cực đại khoảng Mach 2.3, với tầm bắn tối đa là 12.
Hệ thống kiểm soát mục tiêu kết hợp giữa cảm biến radar và quang điện, dẫn hướng tấn công mục tiêu kết hợp giữa hồng ngoại+ TV. Tên lửa có khả năng kháng nhiễu mạnh mẽ và tiếng ồn khí tượng tương đối thấp. Tên lửa được trang bị đầu nổ phá mảnh HE với nòi nổ vô tuyến cận đích.
-Hệ thống kiểm soát bắn.
Một tiểu đoàn HQ-7 điển hình bao gồm ba khẩu đội, với một bộ phận hổ trợ kỷ thuật bao gồm tất cả 10 xe. Trong đó có 9 xe phóng với một xe hổ trợ kỹ thuật.
Một khẩu đội điển hình bao gồm một đơn vị tìm kiếm mục tiêu (SU), ba xe phóng với cơ số 4 tên lửa cho mỗi xe, ba hệ thống quang học, và một máy phát điện công suất 40kw.
Các radar của HQ-7 sẽ tìm kiếm, xác định đánh giá và phân loại mục tiêu, sau đó chỉ định mục tiêu nguy hiểm nhất và chuyển thông tin mục tiêu này cho đơn vị bắn. Nếu radar bị kẹt hoặc bị nhiễu gây hại thì các đơn vị bắn chuyển sang sử dụng hệ thống quang học để ngắm bắn. Việc sử dụng hệ dẫn đường đa dụng là một điểm mạnh của tổ hợp này, nó không bị phụ thuộc quá nhiều radar như các tổ hợp khác. Tuy nhiên việc dẫn bắn bằng quang học ít nhiều làm giảm xác suất trúng đích.
Các radar tìm kiếm mục tiêu sử dụng loại radar xung Doppler hoạt động ở băng tần E/F. Tầm phát hiện mục tiêu là 18.4km với tầm cao 3.2km. Hệ thống có khả năng phát hiện 30 mục tiêu và theo dõi 12 mục tiêu cùng lúc.
Các đơn vị bắn được trang bị radar có khả năng theo dõi mục tiêu ở cự ly 17km, một hệ thống theo dõi truyền hình có phạm vi hoạt động lên đến 15km trong điều kiện thời tiết tốt, một hệ thống lade định vị mục tiêu, một đơn vị xữ lý dữ liệu, một hệ thống liên lạc giữa đơn vị tìm kiếm mục tiêu và đơn vị bắn.
Phiên bản cơ bản được đặt trên khung gầm xe 4x4 bánh, với khả năng cơ động tối đa 60km/h trên đường nhựa và 50km/h ở địa hình xấu hơn.
FM-90 Vào cuối năm 1998, FM-90, một phiên bản nâng cao của FM-80/HQ-7, được giới thiệu với công chúng. So với các hệ thống ban đầu, những cải tiến trên FM-90 bao gồm:
* Sử dụng VLSI dựa trên công nghệ máy tính (thiết kế bởi Viện 706) để thay thế LSI ban đầu dựa trên công nghệ S-9 máy tính trên FM-80 HQ-7.
* Sử dụng công nghệ điện tử kỹ thuật số để thay thế các thiết kế tương tự ban đầu, tăng khả năng của tên lửa chống gây nhiễu hoạt động thụ động /.
* Sử dụng một radar theo dõi hai waveband mới để thay thế cho radar monopulse gốc
* Một máy ảnh hồng ngoại đã được thêm vào hệ thống theo dõi truyền hình để hệ thống theo dõi quang học có thể được sử dụng vào ban đêm.
* Chỉ tiêu thông tin giữa các đơn vị tìm kiếm và bắn được truyền thông qua dữ liệu, một hệ thống cực tương tự như trang bị trên Thomson-CSF Crotale 4.000.
Ngoài ra, các tên lửa tìm kiếm / homing phạm vi, tốc độ tối đa, và phạm vi tấn công tất cả đã được cải thiện, làm tăng hiệu quả chiến đấu rất nhiều. Với tầm phát hiện mục tiêu tối đa 25 km, các FM-90 có khả năng tấn công đồng thời ba mục tiêu bằng cách sử dụng ba chế độ hướng dẫn khác nhau . Tên lửa này cũng có khả năng chống tên lửa hành trình bay ở độ cao siêu thấp, và tên lửa chống bức xạ ở khoảng cách 17km.
Thông số kỹ thuật Tên lửa kích thước: (chiều dài) 3.00m; (đường kính) 0.156m; (sải cánh) 0.55m
Trọng lượng: 84.5kg
Độ cao: 30 ~ 5.000 m (HQ-7/FM-80); 15 ~ 6.000 m (FM-90)
Tầm hoạt động tối thiểu: 500m (HQ-7/FM-80); 700 m (FM-90)
Tầm hoạt động tối đa: 8.600 m (400m / s mục tiêu); 10.000 m (300m / s mục tiêu); 12.000 m (trực thăng); FM-90: 15.000 m cho tất cả các mục tiêu
Tốc độ: Mach 2,3 (750m / s)
Hướng dẫn: Command + theo dõi quang-điện
Đầu đạn: Đầu nổ HE-Frag với ngòi nổ vô tuyến cận đích
Xác suất: 70 ~ 80%
Radar phát hiện phạm vi: (HQ-7/FM-80) 18.4km; (FM-90) 25 km
(nguồn ảnh http://www.ausairpower.net, tài liệu tham khảo www.sinodefence.com)