Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 14 Tháng Năm, 2024, 06:47:04 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Căn cứ quân sự Cam Ranh  (Đọc 531831 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #560 vào lúc: 17 Tháng Mười Một, 2011, 09:19:48 am »

(tiếp)


Công việc của nhóm đã được tiếp tục như vậy ở trung tâm Sáng tạo KHKT Thanh niên "Nevod" do tôi đứng đầu. Chúng tôi đã có phương tiện tài chính đáng kể. Chúng tôi đã xoay xở đươc thiêt bị  kỹ thuật số tiên tiến hơn.

Phó Đô đốc O.A.Erofeev Tư lệnh mới của Hạm đội Biển Bắc đã nhiều lần triệu tập tôi lên với gợi ý rằng sẽ tốt hơn nếu ông điều hành chi trả tiền lương của trung tâm. Nhưng theo điều lệnh, tôi đã buộc phải chi trả tiền không phải cho tiền lương mà là cho thiết bị. Nói chung, tôi không muốn dính vào cuộc phiêu lưu tài chính và bị giữ làm con tin theo ý thích của một ai đó. O.A.Erofeev không tha thứ việc này.

Nỗi khổ của niềm đam mê đã bùng cháy, khi một thành viên trong đội của tôi dưới áp lực của công tố viên cho biết, thiết bị chúng tôi đã mua bằng tiền mặt. Bởi vì sự thiếu hiểu biết về thuật ngữ kế toán, nên bằng sự ngây thơ của mình: "làm gì có sự khác biệt nào ở đây - tiền mặt hay chuyển khoản ngân hàng" anh ta đã làm chúng tôi trả giá đắt.

Chi phí thiết bị cũng rất đắt tiền - hơn 300 000 rup. Một số lượng tiền mặt như vậy hồi ấy gây ra sự nghi ngờ tính hợp pháp khi nhận được thiết bị. Trong tài liệu điều tra người ta đưa ra vấn đề chúng tôi đã mua các trang thiết bị bằng tiền mặt. Đây là lý do. Và việc gì đến rồi phải đến. Cuộc chính biến kết thúc. Thanh kiểm tra - không đạt. Trong quá trình thẩm vấn, Kiểm sát viên Viện kiểm sát quân sự Hạm đội Biển Bắc Trung tá V.V.Vasiliev yêu cầu tôi thú nhận những thiệt hại gây ra cho nhà nước trên quy mô lớn. Tôi nói điều này, ông ta viết lại trong biên bản thẩm vấn điều khác rồi bắt tôi ký. Tôi từ chối. Khi đó, ông ta đưa vào văn phòng thẩm vấn hai trong số các thủy thủ đội bảo vệ và tự ký tờ biên bản thẩm vấn. Tóm lại, người ta buộc tội tôi theo luật hình sự nước CHXHCN Xô Viết LB Nga, điều 93 có đoạn "... trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, 15 năm tù giam hoặc xử bắn". Một ý tưởng mà người ta cố gắng nhồi nhét cho tôi, và tôi phải ký đó là Trung tâm chúng tôi đã tạo ra đầu mối cho việc rửa tiền thông qua Bộ Tổng tư lệnh Hải quân. Rằng thiết bị phụ trợ thủy âm là chuyện mờ ám bẩn thỉu, dựng lên nhằm ngụy trang các hành động ăn cướp của mình. Điều tra viên V.V.Vasiliev là kẻ ranh mãnh đểu cáng, gợi lên cho tôi chỉ một mong muốn được giáng cho ông ta một cú đấm vào đầu. Ngoài ra, ông ta là người đàn ông rất khiêu khích. Trong quá trình ghi chép biên bản thẩm vấn đơn điệu, tôi "đọc lệnh" cho anh ta như thế như thế ... đến nỗi nhiều lần sau khi choàng tỉnh, ông ta la hét xé trước mắt tôi những gì chính ông ta đã viết. Mà đã xé gì - đó là yêu cầu gửi ban lãnh đạo về việc bắt giữ và tống giam chính ông ta, V.V.Vasiliev, vào tù và không phải chỉ một lần. Rõ ràng ông ta cảm thấy được tinh thần của tôi đãvô tình phá vỡ đi những tàn tích còn lại của bộ não ông ta và chuyển sang sợ tôi. Ngoài cánh cửa văn phòng trong suốt quá trình thẩm vấn luôn có hai thủy thủ vạm vỡ. Nhiều lần ông ta kiến nghị bắt giữ tôi. Nhưng cấp trên của ông ta không quyết.

Sự việc được quyết định ngày 15 Tháng 3 năm 1992. Vào lúc 7 giờ sáng bắt đầu chiến dịch "Cú nhẩy của con hổ" («Прыжок тигра»), khi đồng thời các kiểm sát viên Viện kiểm sát quân sự Hạm đội Biển Bắc, cùng với các nhân chứng, xông vào nhà tôi và nhà của tất cả nhân viên của trung tâm, cũng như tất cả các đối tác tại thành phố Moskva và thành phố Leningrad.

Trong quá trình khám xét họ cố tình tìm kiếm tiền mặt, chìa khóa xe, mà tôi chưa bao giờ "...mua một cách không đúng đắn bằng những đồng tiền dành dụm được". Việc tìm kiếm diễn ra mất bảy giờ. Tôi đã buộc phải ký tất cả biên bản khám xét, và không vô ích. Đồ đạc trong ngôi nhà khiêm tốn của tôi làm các nhân chứng lúng túng. Điều tương tự cũng được thực hiện với tất cả mọi người. Giáo sư V.Yu.Zavadski không thể hiểu thực chất cuộc thẩm vấn, được sắp xếp bởi các kiểm sát viên ở Moskva trong văn phòng của Giám đốc Học viện Thủy Âm mang tên Andreev. Đồng thời trong ngày cũng diễn ra cuộc thẩm vấn tại văn phòng Phó Tổng tư lệnh thứ nhất Hải quân Xô Viết I.M. Kapitanets. Bây giờ chuyện đó thấy thật buồn cười. Nhưng lúc đó hoàn toàn không phải chuyện đùa. Họ ra lệnh cho tôi ăn một cái gì đó sau 7 giờ khám xét. Họ còng tay và dẫn tôi vào "chuồng quạ" (xe tù - «воронок»). Lãnh đạo chiến dịch là Phó Kiểm sát viên trưởng Viện kiểm sát quân sự Hạm đội Biển Bắc Đại tá Khlupin. Tuy nhiên, xe "chuồng quạ" đã không đưa tôi vào tù mà chở đến văn phòng của Khlupin. Ở đó bày ra một đài vô tuyến, mà tôi bắt gặp trong quá trình khám xét ở những người đồng sự. Khlupin dọa tôi rằng vì tôi cứ cứng đầu nên đã dẫn Viện Kiểm sát Hạm đội Biển Bắc đến quyết định này. Họ đang chờ đợi báo cáo về các bằng chứng được tìm thấy. Đến tận 8 giờ tối bằng chứng vẫn không tìm thấy. Các báo cáo không chỉ tới từ Severomorsk, từ khu vực Murmansk, mà còn từ Moskva và Leningrad. Khlupin không hề giấu diếm mà tiếc rằng các căn cứ tống tôi vào tù không tìm thấy, nhưng ông ta hứa rằng bằng chứng sẽ tìm được trong quá trình thẩm vấn. Điều tra viên mới Trung tá Vladimir Milovanov là kẻ thông minh hơn V.V.Vasiliev. Nhưng bài hát vẫn là bài hát cũ. Như đã dự kiến được với các sỹ quan thời bấy giờ, những người đang tiếp tục bị theo dõi, sau hai tuần có lệnh đến về việc sa thải tôi khỏi quân đội.

May mắn thay, sự việc tôi bị bắt giữ và vụ án hình sự của tôi không vượt qua được chú ý của công chúng. Về trường hợp này Xô viết tối cao LBCHXHCNXV Nga đã biết. Một ủy ban được gửi đến Viện Kiểm sát Hạm đội Biển Bắc. Đứng đầu Ủy ban theo lệnh của Thứ trưởng Bộ Quốc phòng là Đại tá A.M.Purik, mang theo các chuyên gia và kiểm toán viên. Trong số các thành viên của ủy ban có Tổng công trình sư E.S.Elinson. Chính ông ấy là người muốn nhai luôn chiếc mũ của mình sau khi thử nghiệm với Ritsa. Ủy ban đã làm việc trong một thời gian dài. Biên bản của Viện Kiểm sát Hạm đội Biển Bắc đã hoàn toàn bị bác bỏ. Ủy ban công nhận các thành tựu khoa học kỹ thuật quan trọng của Trung tâm Sáng tạo KHKTTN "Nevod", còn các kiểm toán viên Bộ Quốc phòng, dẫn đầu là Đại tá Chugunov D.N. không hề tìm thấy bất thường nào để có thể buộc tội về tài chính. Vụ bê bối này đã được lên kế hoạch đầy đủ. Các kết quả của Ủy ban thường xuyên được báo cáo với Moskva.

Nhưng không đơn giản. Một sự thất bại như vậy thì Viện Kiểm sát Hạm đội Biển Bắc không mong đợi. Và họ đã lồng lộn trong văn phòng của thành viên ủy ban tổng công trình sư E.S.Elinson (nhà thiết kế chính của hệ thống săn tìm-ngắm bắn mục tiêu của các máy bay săn ngầm Tu-142-M3 và IL-38). Rõ ràng lời khai của ông về thiết bị "Ritsa" đã làm Viện Kiểm sát tức giận hơn tất cả những điều khác. Ông già trở lại Ủy ban trong nước mắt và kể ông vừa bị tra khảo trong cuộc thẩm vấn được định trước bởi V.V.Vasiliev và V.V.Milovanov. Chủ tịch Ủy ban, Đại tá A.M.Purik đã hành động với tốc độ rất nhanh. Ủy ban ngay lập tức kết thúc công việc. Tất cả mọi thứ trở nên rõ ràng. Sau một thời gian người ta chuyển trường hợp này đến văn phòng kiểm sát doanh trại đồn trú. Một thượng úy điều tra viên mới nói với tôi rằng sự việc được xếp loại bí mật và đã gửi đến văn phòng Viện Kiểm sát quân sự trung ương thuộc Bộ Quốc phòng ở Moskva. Và dài cổ chờ ngày kết thúc. Đó là mùa thu năm 1992, vụ việc đã được đóng lại với lý do thiếu bằng chứng. Đại tá Khlupin bất ngờ nhận được bổ nhiệm mới tại Primorye. Trung tá V.V.Milovanov được cử đi khỏi Severomorsk "kiểm sát" tại Zapadnaya Litsa. V.V.Vasiliev ở lại làm Kiểm sát viên trưởng chi nhánh tại Hạm đội Biển Bắc. E.S.Elinson đi khỏi đất nước. Tôi nghĩ rằng trong một quốc gia nơi mà niềm tin vào chân lý khoa học đã bị đập cho vỡ mặt trong Viện kiểm sát, điều ấy không giúp gì cho danh tiếng của đất nước và tương lai của nó. Vụ việc được “chế tạo" này, sau đó đã ngăn việc mở chính thức Trung tâm nghiên cứu và phát triển của Hải quân "Bespreryvnost-3 '. Tôi không nghĩ rằng "vụ việc" được đưa ra chống lại tôi một cách tình cờ. Nó trùng hợp với những thành công của ngành trinh sát Hạm đội Biển Bắc. Một người nào đó rất quyết tâm tìm cách đình chỉ các hoạt động này và dùng bàn tay của tư lệnh hạm đội, lúc đó đang phấn đấu để kiếm được luận án phó tiến sĩ. Tôi nghĩ rằng khơi dậy một vụ án hình sự vào đúng ngày của Ủy ban tình trạng khẩn cấp - đó là một công cụ sắp đặt trước nhằm giải quyết các vấn đề liên quan đến chế độ cộng sản thời đó.

Tất cả điều này làm tổn thương uy tín của Trung tâm Sáng tạo KHKTTN "Nevod". Cho tận đến ngày nay tôi vẫn chưa tháo cặp hồ sơ tài liệu của tôi bị tịch thu trong thời gian khám xét, nhưng đã trả lại tôi sau “vụ việc” này – thật ghê tởm. Và trong những thứ được xổ ra sẽ thấy rằng đó chỉ là các ghi chú nghiên cứu và tính toán của tôi mà họ đã làm bản sao. Họ đưa bút chì gạch dưới những khoảnh khắc toán học, mà các nhà điều tra V.V.Vasiliev và V.V.Milovanov rõ ràng là không hiểu, và các công thức toán học gạch dưới chẳng hề có liên quan gì đến vụ việc.

Từ năm 1991, các nhà bảo trợ cho tôi đã nhanh chóng ra đi. Năm 1992 đô đốc hạm đội N.I.Smirnov qua đời và chẳng bao lâu sau đến lượt đô đốc V.К.Коrоbоv. Năm 1990 đại tá hải quân V.V.Gavrilov về hưu. Năm 1992, đô đốc hạm đội I.M.Kapitanets rời khỏi chức vụ. Trước đó năm 1988 người đứng đầu Tổng cục Quân huấn Hải quân đô đốc G.А.Bоndarenko đột ngột qua đời (cùng ra đi năm đó là đô đốc hạm đội Liên bang Xô Viết S.G.Gorshkov. Tại nghĩa trang Novodevitchi ở thành phố Moskva mộ của hai nhà chỉ huy hải quân vĩ đại này nằm cạnh nhau. Chỉ cách một chút là nơi yên nghỉ của đô đốc hạm đội N.I.Smirnov).

Chỉ một tháng trước khi qua đời, G.A.Bondarenko đến thăm Severomorsk và nghiên cứu kỹ lưỡng công việc của hệ thống di động, mà ông không lập tức hiểu ngay tại thời điểm V.V.Gavrilov báo cáo. Tìm thấy tôi, ông trách mắng tôi hồi lâu trong văn phòng Trưởng Phòng Huấn luyện chiến đấu Hạm đội Biển Bắc vì tôi không chịu phục vụ tại Trung tâm Nghiên cứu số 5. Ông than thở mãi rằng hồi ấy tôi đã không cho ông biết việc không được bổ nhiệm tại Trung tâm 5. Nếu không tôi sẽ cho Viện Nghiên cứu số 54 bay khỏi đó "... như là một thứ..., và nói chung, Kuryshev, bộ phận đó tôi đã lập ra cho anh. Chúng tôi cần một sự thay thế. Chúng tôi tin vào anh. Và anh đã không đáp ứng mong đợi của chúng tôi". Tuy nhiên, người đứng đầu ban tác chiến chống ngầm Hạm đội Biển Bắc V.V.Gavrilov khi đó đề nghị G.A.Bondarenko cho thực hiện tại ban tác chiến chống ngầm Hạm đội Biển Bắc phòng thí nghiệm soi sáng hiện trường đứng đầu là tôi. Được mời dự thảo luận có Trưởng phòng Tổ chức Động viên Hạm đội Biển Bắc Chuẩn Đô đốc V.N.Kuznetsov, người nhận lệnh chuẩn bị các tài liệu liên quan. Đến năm 1991, biên chế của phòng thí nghiệm đã được phê duyệt. Nhưng năm 1991 chứng kiến sự cắt giảm lớn các vị trí cán bộ trong biên chế. Và Tư lệnh Hạm đội O.A.Erofeev đã cho vào danh sách giảm biên phòng thí nghiệm chưa tổ chức xong. Vụ việc hình sự và cắt giảm phòng thí nghiệm đã tiếp tục cắt nốt các con đường phục vụ của tôi trong hàng ngũ Hải quân. Và đó là sự việc "Ritsa" ở Hạm đội Biển Bắc.

Và, phải nói thêm rằng đã có nhiều việc được hoàn thành. Thiết bị phụ trợ thủy âm "Ritsa" - không phải đơn giản là một công thức, nó là một tư tưởng và một thời đại trong cuộc đời của Hạm đội Biển Bắc. Đó là những năm Chiến tranh Lạnh. Cuộc chiến dưới mặt nước đại dương có thể bắt đầu bất cứ lúc nào. Đầu những năm 90 hồi kết của Chiến tranh Lạnh đã tới - không cần thiết nữa, cả những thiết bị phụ trợ thủy âm, cả người phát minh ra chúng. Bộ Tư lệnh Hải quân bấy giờ chỉ quan tâm đến việc bán các hạm đội, và không quan tâm đến việc phát hiện tàu ngầm bằng sonar. Mọi thứ đều có thời của mình.

Các chiến sỹ tàu ngầm đã phải gánh chịu gánh nặng chủ yếu của cuộc đối đầu lạnh giữa các cường quốc. Giới công nghiệp bấy giờ đã phản bội mà chẳng làm được gì hơn để nâng cao trình độ thủy âm, ngoài việc tỏ rõ sự bất lực (hoặc cố ý) của mình, và bằng bàn tay Cục KTVTĐT Hải quân đã gây phương hại cho công việc của "Ritsa". Ngày nay, gần hai thập kỷ sau khi chiến tranh lạnh chấm dứt, các chiến sỹ tàu ngầm đã có hiểu biết về sự phi lý của cuộc đối đầu dưới mặt nước. Và cũng chẳng cần giấu diếm làm gì - tính phi lý của đời phục vụ của mình, sự xấu hổ trước những người gần gũi, vì sáng kiến của mình và công việc của mình tại Hạm đội Biển Bắc. Nhưng bấy giờ đó là yêu cầu của thời đại. Phải rèn cho được vũ khí bảo vệ chính mình. Ngày nay, khuynh hướng xây dựng trang thiết bị quân sự, mà tiên phong là thiết bị "Ritsa", được gọi là công nghệ COTS, và phương pháp để tách các tín hiệu yếu, lần đầu tiên được nghĩ ra và thử nghiệm trong thiết bị phụ trợ trên, đang được phát triển rộng rãi trong tất cả các lĩnh vực khoa học đòi hỏi việc phát hiện các tín hiệu yếu từ thiên văn học đến kỹ thuật gen di truyền . Ở phương tây, phương pháp này được gọi là phương pháp entropy. Tôi gọi phương pháp phát hiện này là phương pháp thông tin-thích nghi, nhưng bản chất công thức của nó không thay đổi. Entropy - thước đo của sự hỗn loạn. Giảm sự hỗn loạn - đó là thông tin. Ritsa đưa ra biện pháp giảm độ bất định trên đường chân trời về loại mục tiêu xác định, tức là đồng thời cả thông tin phân loại và thông tin phát hiện, nhưng trong một biện pháp mới so với thời kỳ đó, không phải trong các tham số "V" (điện thế) hoặc "dB" (đề xi ben), mà là trong các bit thông tin.

Một đặc tính nổi bật của phương pháp này, không bị ảnh hưởng ở mức cao bởi nhiễu nội tại trong việc phát hiện các tín hiệu tiếng ồn thấp. Thời đó điều này rất quan trọng đối với các tàu ngầm xô viết. Cuối những năm 198x trên một tàu ngầm đề án 671RT của sư đoàn tàu ngầm nguyên tử số 3 Hạm đội Biển Bắc đã có một cuộc thử nghiệm thú vị trong việc tìm kiếm phương vị tàu ngầm-mục tiêu bằng thiết bị "Ritsa" khi tàu ngầm di chuyển ở tốc độ cao. Phương vị không bị mất dù tốc độ tàu của mình đã khoảng 17 hải lý. Thuyền trưởng và các trắc thủ thủy âm say sưa đếm các bit thông tin trên màn hình thiết bị phụ trợ, mà vì lý do nào đó, họ gọi chúng là các "bít hình que". Chạy vào cabin hoa tiêu, thuyền trưởng so sánh phương vị chỉ ra bởi trị cực đại của hàm chỉ thị bằng "các bit hình que" bí ẩn này với phương vị tính toán được trên thực tế của tàu ngầm-mục tiêu. Sau đó ông rời cabin, đăm chiêu vì nhận ra tầm xa của việc xác định phương vị vừa rồi. Ông xòe bàn tay mình ra: "... với "ebit" trong Hải quân mọi thứ đều rõ ràng, nhưng "bit" thay vì "volt", điều đó thật khó nhận thức....". Trong buồng chỉ huy trung tâm mọi người đều đồng cảm với thuyền trưởng. Thợ máy run lên vì con tàu bà lão già nua. Nhưng thuyền trưởng bước vào một lần nữa "Khi nào "Ritsa" sẽ mất mục tiêu vì tiếng ồn quá lớn?". Thật không may với con tàu cũ này thì tốc độ 17 hải lý đã là tốc độ đến ngưỡng phô trương rồi. Nhưng "Ritsa" vẫn không hề bị mất phương vị. Và tầm xa cùng phạm vi duy trì được tiếp xúc thủy âm thật đáng kinh ngạc. Các trắc thủ thủy âm đi cùng trên con tàu ngầm có gắn Ritsa này là thượng úy hải quân S.V.Novikov, chuẩn úy hải quân S.P. Aleinikov và chuẩn úy hải quân Ziyangulov M.R.

Mới đây, Viện Hàn lâm Khoa học Nga đã gọi công việc về thiết bị phụ trợ thủy âm là công việc có tính tiên phong trong lĩnh vực công nghệ COTS, họ đã hiểu và chấp thuận các nguyên tắc toán học đề ra trong nó.

Nếu hôm nay tại Hải quân không phát hiện ra các tàu ngầm nước ngoài trong chế đô thụ động ở khoảng cách không ít hơn 300 kabelt, tôi có quyền đặt câu hỏi - TẠI SAO?

Ủy ban khoa học biển Hải quân, Cục kỹ thuật VTĐT Hải quân, Viện nghiên cứu khoa học vũ khí điện tử Hải quân đã và đang làm tất cả mọi thứ để không cho phép áp dụng công nghệ mở "Ritsa" trên các tàu ngầm. Năm 2000, tôi đề nghị Tổng tư lệnh Hải quân tiến hành một thử nghiệm so sánh Ritsa-2000 chống lại các tàu ngầm có hệ thống thủy âm mới nhất, để một lần nữa chế nhạo "giới khoa học" thủy âm nghèo nàn, như trong năm 1986. Tổng tư lệnh Hải quân, năm 2001, đã triệu tập Hội đồng chuyên gia tư vấn và Hội đồng chuyên gia tư vấn thuộc Tổng tư lệnh Hải quân đã bác bỏ đề nghị này: "thiết bị phụ trợ thủy âm không có tính khoa học và thiếu cơ sở và bằng chứng khoa học để khẳng định sự làm việc của nó".

Năm 2001, toàn bộ Severomorsk từ trên các ngọn đồi âm thầm tiễn đưa tàu ngầm hạt nhân đã mất "Kursk" đi ngang qua vịnh Kola. Với những giọt lệ trong mắt mình, chúng tôi đứng bên  nhau và tiễn con tàu ra đi trong cuộc hành trình cuối cùng của nó cùng với thủy thủ đoàn. Thuyền trưởng của con tàu, Lyatchin là người đồng niên của tôi. Tôi từng chào mừng ông tại Bộ tham mưu Hạm đội Biển Bắc, khi ông còn là một trợ lý thuyền trưởng đến trả bài sát hạch trước V.V.Gavrilov. Cảm giác tội lỗi cứ đeo đẳng tôi. Hãy gắn cho tàu ngầm thiết bị "Ritsa", hoặc hệ thống chiếu sáng hiện trường di động, mà Hạm đội Biển Bắc từng có trong thời cuối thập niên 80, bộ tư lệnh sẽ không bị lẫn lộn trong thực tế bởi sự có mặt hay vắng mặt của tàu ngầm nước ngoài trong khu vực tập trận.

.........
« Sửa lần cuối: 18 Tháng Mười Một, 2011, 08:47:57 pm gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #561 vào lúc: 18 Tháng Mười Một, 2011, 03:46:32 pm »

(tiếp)


Thật kinh ngạc - làm sao mà đến ngày nay Tổng tư lệnh Hải quân vẫn đang bảo vệ thông qua Ủy ban Khoa học Biển và Hội đồng chuyên gia tư vấn của mình, giới tiến sỹ khoa học bất tài, bị điều khiển chống lại thiết bị phụ trợ thủy âm và bằng sự kém hiểu biết của họ đã dồn Hải quân vào cuộc khủng hoảng nghiêm trọng về thủy âm học, dường như sợ hãi và bảo vệ danh tiếng cho họ. Nhưng lại không lo sợ cho số phận của các chiến sỹ tàu ngầm của cả một cường quốc, những người cho đến nay có thể còn đang đi biển như mù và như điếc và không thể phát hiện tàu ngầm tiếng ồn thấp của kẻ thù ở khoảng cách đủ để chống lại chúng. Vâng, cũng như nhau cả nếu đó là sự kém hiểu biết, hoặc nếu là cố ý, hoặc có động cơ này khác. Khi ấy nó là SỰ PHẢN BỘI QUỐC GIA, và các kiểu thời hạn hiệu lực sẽ không thể có ở đây được. Công nhận cuộc khủng hoảng trong lĩnh vực thủy âm quân sự sẽ giúp tập trung năng lực khoa học-kỹ thuật và tài chính của đất nước để loại bỏ nó sau một thời gian ngắn. Nhưng ai đó đang được sưởi ấm bàn tay trên vấn đề này. Một cấu trúc có tên gọi của Hải quân trong vấn đề đó rõ ràng đáng quan tâm.

Năm 2006, thiết bị phụ trợ thủy âm được Giám đốc Học viện Hải quân đặc biệt mang ra phỉ báng tại Hội đồng chuyên gia tư vấn thuộc Tổng tư lệnh Hải quân. Hội đồng tuyên bố rằng thiết bị phụ trợ thủy âm chẳng dùng vào việc gì, nó là một công cụ hoàn toàn vô dụng - chúng ta đã đạt tới sự quân bình hoàn toàn đầy đủ với người Mỹ về thủy âm học và thiết bị thủy âm(!?).

Vâng, nếu đúng như vậy, phải nên vui mừng vì thời của thiết bị phụ trợ thủy âm và tư tưởng của nó đã trôi qua. Nhưng 20 năm trước đó lại là chuyện khác.

Chúng tôi các thượng úy hải quân-thủy thủ tàu ngầm của những năm 80 thế kỷ 20 không nghĩ như vậy, và đã phải làm mọi thứ để có thể đứng vững trên vị trí của mình. Còn bây giờ, đã thực sự có quân bằng hay chưa ...?

Toàn bộ hoạt động của "Ritsa" tại Hạm đội Biển Bắc mang tính sáng kiến, nhưng có tổ chức và quy tắc. Công việc được thực hiện dưới sự lãnh đạo của Bộ tư lệnh Hạm đội Biển Bắc và trực tiếp là ban tác chiến chống ngầm Bộ tham mưu Hạm đội Biển Bắc trong thời gian 1982-1992 theo chỉ đạo của V.V.Gavrilov, và sau ông tiếp đến chủ nhiệm mới ngành chống ngầm Hạm đội Biển Bắc là B.Sannikov. Chỉ có hạm đội mới thống nhất được nỗ lực của các ngành huấn luyện chiến đấu, trinh sát, tác chiến chống ngầm, thông tin liên lạc và hoạt động của phòng tác chiến trong một tổ hợp hành động duy nhất dưới cái tên "Ritsa" và  các tàu ngầm có trang bị "Ritsa" đã sẵn sàng chiến đấu để nhận chìm các tàu ngầm NATO trong khu vực trách nhiệm của mình, sẵn sàng phát triển cuộc chiến tranh lạnh sang chiến tranh nóng. Cơ sở toán học phát hiện trong "Ritsa" là tốt hơn so với cơ sở trong tổ hợp thủy âm của các tàu ngầm Mỹ.

Bây giờ ta nói về nhóm các sĩ quan tạo ra thiết bị hỗ trợ thủy âm. Trong binh đoàn tàu ngầm số 4 Hạm đội Biển Bắc ở thành phố Polyarny nơi tôi đến vào năm 1980, người ta đã có ý thức tạo ra và áp dụng một thiết bị phụ trợ thủy âm cho các tàu ngầm. Giải pháp này còn phát triển ở Gremikha. Năm 1979, tôi đã báo cáo ngành trưởng phân hạm đội tàu ngầm số 11 đại tá hải quân G.N.Bureg về khả năng cải thiện đáng kể phạm vi phát hiện bằng cách áp dụng xử lý kỹ thuật số. Nhưng chuyến ra khơi đầu tiên trên tàu ngầm nguyên tử theo đề tài của tôi, lại được trưởng ngành thông tin liên lạc VTĐT phân hạm đội tàu ngầm số 1 Ibragimov E.I. tổ chức tháng Tư năm 1980, trên con tàu của đại tá hải quân Loschenkov. Khi đó, tôi đang phục vụ trên các con tàu bảo vệ lãnh hải và con tàu tuần tra (SKR) của tôi được gửi đến Zapadnaya Litsa bảo đảm cho một công tác nào đó. Tôi không mất chút  thời gian nào cả. Trưởng ngành TTLL VTĐT phân hạm đội tàu ngầm số 1 E.I.Ibragimov đã trình bày bản chất của ý tưởng. Chuyến ra biển đầu tiên trên tàu ngầm của Loschenkov đã không bắt tôi phải chờ lâu.

Việc chuyển sang tàu ngầm đáng giá nhiều báo cáo, và đã có tiếng không tốt. Nhờ phó tư lệnh thứ nhất Hạm đội Biển Bắc phó đô đốc Kruglikov, năm 1980 tôi chuyển từ đơn vị tàu tuần tra bảo vệ lãnh hải Gremikha sang đơn vị tàu ngầm diesel ở thành phố Polyarnyi. Tại binh đoàn tàu ngầm, trong giai đoạn đầu, tôi trợ giúp về thông tin cho đại úy trinh sát hải quân V.Khlamkov (Larin). Sau đó anh ấy trở nên say mê và đi tiên phong trong việc phát triển thiết bị. Năm 1981, tại binh đoàn, tôi gặp một người cùng tư tưởng là Yu.V.Bukovsky. Trợ giúp kiên trì cho công việc còn có hai thuyền trưởng tàu ngầm G.N.Nuzhin và đặc biệt E.P.Sozansky. Năm 1982, sự sáng tạo được phát triển lên một bước nhờ mệnh lệnh về tổ chức của tư lệnh binh đoàn V.A.Paramonov. Chủ nhiệm chính trị binh đoàn V.P.Tkachev giúp đỡ bằng một mệnh lệnh dưới dạng khẩu hiệu: ". ... Hỡi Đức Chúa Trời!-Hãy làm bất cứ điều gì có ích chỉ để không uống". Năm 1984, Sozansky E.P. và tôi đề nghị Đô đốc hạm đội N.I.Smirnov cho thành lập và biệt phái đến công tác dưới quyền tôi một nhóm các sĩ quan và hạ sỹ quan binh đoàn nhằm hoàn thành công việc về thiết bị phụ trợ thủy âm. Hồi đó, tôi chỉ biết có lý thuyết, nhưng biết còn ít về lĩnh vực kỹ thuật tính toán và lập trình, còn hàn (bảng mạch) - đơn giản là không biết và cũng không muốn làm điều đó. Một chỉ thị bí mật đã được chuẩn bị. Tất cả các chuyên gia tôi cần đã được gửi đến thuộc quyền tôi.

Yu.V.Bukovsky, theo chuyên ngành đào tạo là một nhà thủy âm, đồng nghiệp, bạn bè và đồng chí của tôi, một nhà thông thái cực đoan (педант), kiệt sức làm việc để thí nghiệm, trong bụi bặm đã lăn lộn phá vỡ được các "lỗi" ban đầu của tôi, rồi bằng trực giác anh đi đến phương pháp phát hiện mà sau này được áp dụng thực tế. Anh từ chối hợp tác với Trung tâm nghiên cứu Hải quân số 5 và chuyển ngạch dự bị vào năm 1992.

A.M.Sumachev, chuyên ngành là nhà khoa học tính toán, có khả năng và là một đối thủ xứng đáng, uyên bác, có khiếu hài hước tuyệt vời, tiếp thu các công thức toán học rất tốt. Thích cùng nhau uống và khi có hơi men say sưa nói về các chủ đề khoa học và các công thức. Nhưng anh yêu thích sự quan tâm, là người "trong trắng và măng tơ" trong mắt bộ tư lệnh, mà không phải là một kẻ "đen tối và râu ria xồm xoàm". Điều này dẫn đến sự đổ vỡ và sụp đổ sau này của nhóm.

A.N.Kudimov, người đứng đầu phòng thí nghiệm dao động và tiếng ồn binh đoàn tàu ngầm số 4 Hạm đội Biển Bắc, thiếu anh ấy sẽ không có khả năng tổ chức và đảm bảo công việc, hạn chế ảnh hưởng hoàn cảnh bên ngoài mà nếu không, thiết bị sẽ không được tạo ra. Người bạn và đồng chí cũ.

A.I.Chobitko, chuyên ngành khoa học tính toán. Một chuyên gia hạng nhất trong lĩnh vực công nghệ tính toán. Anh tự thân và quên mình giải quyết tất cả các vấn đề liên quan đến việc đảm bảo lập trình hệ thống. Một người bạn tốt.

Yu.D.Senyakin, một chuyên gia khoa học tính toán, một kỹ thuật viên vô tuyến điện tử tuyệt vời. Với bộ não và kỹ năng của mình, khi cần hàn bảng mạch hoặc sửa chữa cái gì đó, anh luôn làm tôi cảm thấy như đang có Chúa Kitô bên cạnh che chở. Chỉ anh mới có trực giác hiểu biết để "tính ra" và khắc phục sự cố của thiết bị trong các tình huống gần như vô vọng. Một người bạn tốt và đồng chí trung thành. Họ đã cùng nhau trang bị cho các tàu ngầm tham gia chiến dịch "Atrina". Trong việc chế tạo về mặt kỹ thuật thiết bị phụ trợ thủy âm, tôi gắn bó rất nhiều với anh. Anh chấm dứt hợp tác trong Trung tâm nghiên cứu số 5 còn trước cả Yu.V.Bukovsky.

A.E.Salmin, chuyên gia khoa học tính toán, nhà hành động không thể thay thế. Làm công việc lập trình hệ thống và lập trình ứng dụng cho thiết bị. Một người bạn tốt. Tôi tôn trọng "sự điên rồ" của anh ấy và cách tiếp cận sáng tạo để giải quyết các vấn đề quan trọng trong kỹ thuật và đời sống.

M.R.Ziyangulov, chuyên ngành kỹ thuật viên thủy âm. Đồng nghiệp. Nếu không có chuyên ngành này về các đặc tính kỹ thuật của tổ hợp thủy âm, việc ghép nối thiết bị phụ trợ với hệ thống thủy âm sẽ không thể có được. Cùng phối hợp với nhau trang bị cho các tàu tham gia "Atrina". Người đồng chí, người bạn và người trợ giúp trung thành. Từ chối hợp tác với Trung tâm nghiên cứu số 5 Hải quân.

A.I.Zharkov, kỹ thuật viên thủy âm, có kinh nghiệm kỹ thuật và cuộc sống của anh, tôi luôn yên tâm. Anh chứng tỏ mình là không thể thay thế trong việc giải quyết các vấn đề "chính trị" khi ghép nối các thiết bị phụ trợ với hệ thủy âm. Xin cảm ơn anh. Anh ngay lập tức từ chối hợp tác với Trung tâm nghiên cứu số 5. Anh là người đã tiên đoán sự rối loạn của nhóm. Và nó đã xảy ra như vậy.

M.M.Efimov, chuyên gia máy tính. Đồng nghiệp. Xuất hiện trong nhóm sau khi thiết bị đã được xây dựng. Một người thông minh. Khi tranh luận với anh, ta thường thảo luận các vấn đề khoa học sâu sắc, quan trọng và cấp thiết. Tham gia vào việc áp dụng các thiết bị trên các tàu ngầm Hạm đội Biển Bắc. Một người bạn và người đồng chí. Từ chối hợp tác với Trung tâm nghiên cứu số 5 Hải quân.

M.N.Lyzhov, chuyên gia máy tính, cũng như M.M.Efimov xuất hiện trong nhóm sau khi đã có thiết bị. Nhanh chóng nắm bắt tất cả các vấn đề kỹ thuật. Tham gia vào việc áp dụng thiết bị trên các tàu ngầm Hạm đội Biển Bắc.

Hôm nay, tôi thong thả đi bộ dọc theo đường bờ biển của Severomorsk, vô tình để ý đến các chàng thượng úy, và bản thân tôi cũng không thể tin vào những gì đã kể trong câu chuyện này, những việc mà chúng tôi đã làm trong chiến tranh lạnh trong cùng thời tuổi trẻ như vậy. Chúng tôi, các thượng úy binh đoàn tàu ngầm số 4 Hạm đội Biển Bắc đã cung cấp cho các chiến sỹ tàu ngầm Hạm đội Biển Bắc khả năng phát hiện tàu ngầm Mỹ ở một khoảng cách bình đẳng, có nghĩa chiến đấu một cách bình đẳng.

Tôi gửi lòng biết ơn tới nhà sử học Magaznov A.M., người kiên trì tìm kiếm các hồ sơ ghi chép để viết bài bút ký về các chiến sỹ tàu ngầm. Nếu không có sự kiên trì của ông ấy, tôi sẽ không viết bài này.
 
Trân trọng,

Quân nhân đã về hưu V.E.Kuryshev,


Thành phố Severomorsk, 2008.
.......
« Sửa lần cuối: 20 Tháng Mười Một, 2011, 07:32:48 am gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #562 vào lúc: 19 Tháng Mười Một, 2011, 09:36:46 pm »

(tiếp)


Liên bang Xô Viết, tổ quốc của công nghệ COST


A.M.Magaznov

Tôi đã đọc bài báo của nhà đi biển nổi tiếng, đại tá hải quân về hưu, chiến sỹ tàu ngầm Nikolai Cherkashin "Cuộc đột kích của các Hoàng tử Đen" («Рейд "чёрных принцев"»), về chiến dịch huyền thoại của các thủy thủ tàu ngầm xô viết.

Trong đó kể rằng đô đốc hạm đội V.N.Chernavin đã dẫn dắt chiến dịch trinh sát chống ngầm lớn nhất từ trước đến nay «АТRINA», được tiến hành để duy trì sự quân bằng chiến lược của Liên Xô với thế giới phương tây. Mà để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ ấy cần phải tăng cường cho thiết bị thủy âm của biên đội tàu ngầm nguyên tử yếu nhất của chúng ta, thiết bị đã được lắp đặt trên các tàu ngầm này. Và “thiết bị còn thiếu sót trong trình tự thử nghiệm đó đã được bù trừ lại bởi một dụng cụ được phát triển bởi một sỹ quan-thủy thủ tàu ngầm còn trẻ Viktor Kurytshev…, được tác giả gọi là BPF-DVK, cuối cùng là – “Ritsa””. Còn trên diễn đàn HẠM ĐỘI  TẦU NGẦM NGA tôi đã đọc một bài báo khác của đại tá hải quân về hưu V.G.Sugrobov, cũng về thiết bị phụ trợ “RITSA” này, nhưng được viết dưới một âm điệu khác.

Hai bài báo này thúc đẩy tôi kể về số phận kỳ lạ và bất thường của nhóm sỹ quan tàu ngầm trẻ đứng đầu là thượng úy hải quân Viktor Kurytshev. Bài báo xét trên cái nhìn ban đầu dường như chứa quá nhiều chi tiết kỹ thuật. Nhưng phải làm vậy để độc giả thời nay có thể trở về 25 năm trước, trong thế giới của những chiếc computer đầu tiên và hiểu được chiến công mà nhóm sỹ quan ấy đã làm được.

Họ đã phát triển và chế tạo bằng bàn tay của mình một hệ thống phụ trợ thủy âm kỹ thuật số mới về nguyên tắc. Nó cải tiến về mặt PHƯƠNG PHÁP cho sự làm việc của thiết bị thủy âm analog đối với tàu ngầm. Đó là một giải pháp có tính cách mạng đến mức nhiều nhà khoa học cũng không hiểu được làm sao họ có thể nhận được điều này. Thiết bị phụ trợ vì thế trở thành khúc xương mà chẳng  hiểu sao mắc ngang họng với tất cả. Sự việc đi đến nỗi, ba viện sỹ hàn lâm nổi tiếng vốn nghiên cứu chuyên về cùng đề tài, thậm chí đã viết một bức thư gửi Ủy ban Trung ương ĐCS Liên Xô, trong đó họ yêu cầu bảo vệ ngành thủy âm học trong nước khỏi sự vi phạm của những "kẻ tay ngang gian xảo". Nhóm đã biết cách để không chỉ đứng vững, mà còn tiến lên, họ luôn làm trái với ý kiến của cộng đồng khoa học, đồng thời nhóm đã biết cách xây dựng tại Liên Xô một cách tiếp cận hoàn toàn khác cho vấn đề phát hiện các tàu ngầm có tiếng ồn thấp. Nhưng cũng đồng thời chúng ta không được quên rằng tại Liên Xô đã có mọi thứ để xây dựng khuynh hướng ấy trong thủy âm học. Nhóm Kuryshev có thể chỉ tìm thấy và kết nối một cách tài năng những gì đã có. Khi tạo ra thiết bị phụ trợ thủy âm, họ đã là những người đầu tiên trên thế giới phát triển công nghệ mới nhất trong việc xây dựng thiết bị quân sự, mà bây giờ đã phổ biến rộng rãi trên toàn thế giới, tại tất cả các hạm đội và các lực lượng vũ trang và công nghệ đó được gọi là công nghệ COTS.

Nhóm Kuryshev được biết đến từ năm 1981. Từ 1981-1983 họ phát triển lý thuyết của một phương pháp mới về nguyên tắc trong việc phát hiện các đối tượng dưới nước có tiếng ồn thấp và dựa trên phương pháp này họ viết cơ sở toán học cho nó. Nhóm đã đi tới tất cả các trung tâm khu vực của Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô, những nơi nghiên cứu vấn đề nhận dạng mẫu, và đã tìm thấy thứ cần thiết. Họ làm một danh sách các thiết bị cần phải mua. Để làm điều này, họ đã đi gần như khắp Liên bang Xô Viết. Song song với nó, họ đã thực hiện thí nghiệm trên biển, kiểm tra trong thực tế tính chính xác các kết luận của mình. Trong khi đó, danh sách rơi đến tay Chủ nhiệm ngành Kỹ thuật VTĐT Hải quân Liên Xô Chuẩn Đô đốc Popov.

Ông ấy hiểu được giá trị của danh sách và quyết định nhận các thiết bị kỹ thuật về sự quản lý của đơn vị mình. Nhưng để cho nó trông lịch thiệp một chút, ông ta làm như sau. Tháng mười năm 1983, tại một Viện thủy âm học hàng đầu ở thành phố Pushkin, diễn ra một hội nghị KHKT mở rộng (Hội đồng khoa học và kỹ thuật) thảo luận về đề án thiết bị phụ trợ thủy âm (проекта цифровой гидроакустической приставке) do nhóm Kuryshev phát triển. Không hiểu sao thường có một ý kiến sai lầm, chỉ có ở nước Nga, rằng vấn đề phát hiện các đối tượng dưới nước có tiếng ồn thấp là nhiệm vụ của các nhà thủy âm học, chứ không phải toán học. Tại hội nghị của Hội đồng KHKT này, các nhà thủy âm học quân sự được đại diện bởi một hàng ngũ dày đặc, phía toán học có một só, nhưng nói về họ thì để sau. Tại đó chẳng có ai quân hàm thấp hơn thiếu tá hải quân.

Rất nhiều sĩ quan đứng đắn và đứng tuổi, nhưng cuộc hội thảo chỉ nói về đề án được phát triển bởi các chú nhóc, các chàng thượng úy. Khi Kuryshev bắt đầu báo cáo, chẳng mấy chốc ah hoảng sợ nhận thấy rằng khán giả không tiếp nhận được ngay cả những vấn đề cơ bản nhất của lý thuyết thông tin, lý thuyết xử lý tín hiệu kỹ thuật số. Các câu hỏi đưa ra chỉ đề cập đến xử lý tín hiệu tương tự. Dưới đây là một đoạn trích từ một lá thư Kuryshev gửi Chuẩn Đô đốc Lavrichenko, trong đó anh nói về các nhà toán học ở trong Hội đồng này: "... Trong khi đó, tôi đã nghiên cứu công việc về cùng một đề tài của trung tá hải quân Kovalenko và xin thẳng thắn nói rằng chúng chứa rất nhiều sai sót đáng trách, phải chăng chỉ dễ hiểu duy nhất với các chuyên gia. Và tôi đã có cơ hội gợi ý cho ông ấy về điều đó. Đến lượt mình trong một cuộc trao đổi với giáo sư Saprykin (đại tá hải quân) tôi đã bảo vệ suy nghĩ không phải về những khả năng vô hạn như thế của các biến đổi Fourier-Mellin. Bằng cách ấy tôi đã gây ra cho mình sự hằn học của con người này. Trong khi đó, việc sử dụng các biến đổi đó trong các cơ sở lý thuyết, định nghĩa EDTS (các yếu tố chuyển động của mục tiêu - ЭДЦ - элементы движения цели) được chấp nhận trong những trường hợp rất hạn chế. Vì vậy, cái mà Giáo sư coi gần như là một thuốc chữa bách bệnh, tôi lại đặt thành mối nghi ngờ, và đến giờ nói chung vẫn từ chối áp dụng công cụ toán học của ông ấy trong những phát hiện lý thuyết của mình. ..... "

Thật không may, những con người này không thể bỏ qua những than phiền nhỏ nhặt để cố gắng chí ít là xem xét cái mới trong đề án được đề xuất. Ở đây cần lưu ý rằng người Mỹ đang đầu tư tiền của rất lớn trong việc phát triển các tổ hợp thủy âm kỹ thuật số của họ. Ở Liên Xô, người ta đã cố gắng phóng đại quá mức tầm quan trọng của thủy âm học và hạ thấp càng nhiều càng tốt giá trị của công tác xử lý kỹ thuật số thông tin để tìm kiếm các đối tượng dưới nước ít tiếng ồn. Một ví dụ nhỏ là cuốn sách của John Urik "Các cơ sở của thủy âm học". Nó là cuốn sách mà trong đó đưa ra các tài liệu rất tốt, cách viết rõ ràng, dễ hiểu, trở thành sách gối đầu giường đối với nhiều thủy thủ tàu ngầm Liên Xô. Đúng là với đại tá hải quân Yu.F.Tarasyuk, trưởng khoa thông tin thủy âm của một trong những học viện và nhà trường quân sự, một nghi ngờ nhỏ đã phát sinh, sau đó đã được xác nhận đầy đủ.

Đó là trên thực tế, John Urik, một chuyên gia lớn trong xử lý thông tin, chuyên sâu trong lĩnh vực định hướng âm thụ động, không bao giờ viết trên báo chí về vấn đề này. Ông ta và một số nhà khoa học Mỹ khác tham gia vào việc phát triển hệ thống «REPLOC», dành cho các tàu ngầm hạt nhân Mỹ. (Xét bề ngoài, hệ thống này thấy như sau. Bằng 3 ăng-ten đặc biệt trên mỗi mạn tàu ngầm nguyên tử, nhờ chúng họ xác định được tọa độ mục tiêu, trong chế độ thụ động). Trong các hệ thống như «REPLOC», thủy âm học với tư cách một khoa học chiếm không quá năm phần trăm, còn lại là các ngành khoa học hoàn toàn khác nhau. (Theo ước tính của Kuryshev khoảng 19 ngành). Câu hỏi được đặt ra ngay lập tức, những gì thúc đẩy R.J.Urik khi viết cuốn sách "Các cơ sở thủy âm học"? Yêu cầu của ai đó, nỗi sầu nhớ một cái gì đã xa xăm hoặc đơn giản chỉ mong muốn kiếm được tiền trên một loại tài liệu quen thuộc.

Trở lại với Hội đồng KHKT, tại đây đã cho ra một kết luận rất xấu về cơ sở toán học của thiết bị phụ trợ thủy âm. Trong các kết luận của Hội đồng KHKT nói rằng thiết bị phụ trợ thủy âm làm giảm đến 30% tầm xa phát hiện mục tiêu so với các thiết bị tiêu chuẩn (không lắp thêm thiết bị phụ trợ). Ký vào kết luận là 18 tiến sỹ và phó tiến sỹ. Mặt khác, họ băn khoăn, và kiến nghị trừng phạt nhóm Kuryshev vì những gì nhóm đó đã thực hiện. Một năm sau, giám đốc Viện thủy âm mang tên Andreev, Kryazhev F.I., sẽ buộc phải công nhận rằng các nguyên tắc đề ra trong thiết bị phụ trợ thủy âm là hoàn toàn chính xác. Và sáu tháng sau đó, các nhà khoa học cũng sẽ ký vào một biên bản thử nghiệm "RITSA", trong đó nói rằng nó "nghe" xa hơn 500% so với các hệ thống chính tắc. Nhưng đừng nghĩ rằng họ đã đọc rất nhiều tài liệu toán học, hiểu thiết bị phụ trợ làm việc thế nào, ít nhất là ở cấp độ ý tưởng.

Đơn giản là mỗi người trong số họ đã mang một thiếp cá nhân có lời cảm ơn của Tư lệnh Hạm đội Biển Bắc, vì đã "tham gia" vào cuộc thử nghiệm thành công thiết bị "Ritsa", trong đó đã phát hiện hai tàu ngầm-mục tiêu của chúng ta, một tàu ngầm diesel và một tàu ngầm nguyên tử. Và cho đến khi phát hiện được tàu ngầm nguyên tử có tiếng ồn thấp của Mỹ, con tàu đó đang ghi lại những chân dung tiếng ồn của tàu ngầm hạt nhân Liên Xô (trong vùng lãnh hải của chúng ta). Những tàu ngầm đó được phát hiện ở khoảng cách 28 km - tàu ngầm diesel, 60 km - tàu ngầm nguyên tử, và tàu ngầm hạt nhân của Mỹ - 60 km. Điều nhỏ nhặt dễ chịu này, đẩy các nhà khoa học của chúng ta tới chỗ ký báo cáo thử nghiệm. Mặc dù trước khi thử nghiệm, họ đã long trọng hứa sẽ dự, nhưng không ký biên bản, ngay cả khi thử nghiệm thành công. Họ không giấu diếm điều đó. Một thiếu tá hải quân Mashoshin A.I. nào đó thuộc Viện nghiên cứu số 54 của Hải quân đã được bị Bộ tư lệnh Hạm đội Biển Bắc cách ly trước khi bắt đầu thử nghiệm trên biển.

Tôi muốn kể ngắn gọn cho các bạn tự hình dung được thiết bị phụ trợ thủy âm "Ritsa", trên thực tế là một hệ thống sonar có nhiều bộ vi xử lý bao gồm hai phần. Phần đầu tiên là máy phân tích phổ tiếng ồn kỹ thuật số "Charysh-2M" (được phát triển bởi giáo sư Aaron Agizim Markovic, người đứng đầu phòng thí nghiệm tại Đại học Bách khoa Lviv), mà bản thân nó được phân thành bộ biến đổi tương tự số ADC, nơi diễn ra quá trình biến đổi analog-to-digital 12-bit. (Các tổ hợp có ít hơn 12 bit sau ADC, đứa trẻ của mình, "các chân dung thủy âm của các tàu ngầm có tiếng ồn thấp của đối phương" sẽ gạt nó vào thùng rác. Và bởi vậy, dùng phương pháp nào xử lý thông tin, mà trong đó hoàn toàn không có gì thì không quan trọng. Đó là lý do tại sao Kuryshev yêu cầu 12-bit).

Và bằng bộ xử lý chuyên dụng dùng cho biến đổi Fourier nhanh FFT với 4096 điểm (phần tử), với các bộ lọc kỹ thuật số 1300, nhờ chúng mà xử lý được khối lượng lớn như vậy các thông tin tương tự được số hóa. Và chỉ sau quá trình xử lý sơ cấp này, thông tin đã sơ chế được xử lý trong phần hai của thiết bị "Ritsa", trên máy tính "DVK-2M". Việc phân tách về chức năng trên cho phép xử lý thông tin trong quy mô thời gian thực. Nhưng cần hiểu rằng "DVK-2M" là một máy tính trường học với tất cả các sai sót của nó, chủ yếu là tốc độ thấp. Việc tiếp tục xử lý dữ liệu diễn ra như sau. Từ kết quả tiếng ồn số hóa nhận được, tín hiệu hữu ích (mục tiêu) được tách ra. Có một cách mô tả theo kiểu thơ ca cho quá trình này. "Tất cả là như nhau khi qua tiếng xạc xào của bông tuyết đang rơi ta gắng "nghe" tiếng réo của tuyết ở bên kia Trái đất" (trích dẫn từ diễn đàn này). Để có thể "nghe" tiếng rít này đã phát minh ra phương pháp thích ứng thông tin, và Kuryshev đã tìm ra một hiệu chỉnh đặc biệt, làm sâu sắc thêm sự hiểu biết về một số công thức rất quan trọng. Sau đó, cần xác định mục tiêu, nghĩa là xử lý thông tin được lựa chọn bằng các chương trình nhận dạng mẫu (đánh lừa các gói phần mềm này hầu như là không thể). Tiếp theo, so sánh nó với bức chân dung tiếng ồn có trong cơ sở dữ liệu và trong trường hợp thất bại, hãy ghi nhớ nó lại trong đó. Cơ sở dữ liệu mục tiêu có thể lưu trữ đến 600 đối tượng. Thậm chí dù là tôi đã mô tả khái lược cách sử dụng nó thực tế trong các tình huống chiến đấu, việc lập trình đòi hỏi rất cẩn thận. Ban đầu hệ thống được viết bằng ngôn ngữ "Fortran", sau đó viết lại hoàn toàn bằng ngôn ngữ "PASCAL", bởi vì trình biên dịch này cho tại đầu ra, các mã máy có độ nén cao hơn. Các phiên bản mới nhất của hệ thống đã được viết lại bằng ngôn ngữ "C", bởi vì đó là ngôn ngữ viết nhằm tối ưu hóa trình biên dịch, đối ứng 1-1, ngoài ra mỗi ngôn ngữ đều có bộ vi xử lý của mình.

Lý thuyết toán học cho Ritsa, được viết bởi các sỹ quan tàu ngầm, những người hơn ai hết hiểu rằng cuộc sống của họ là hoàn toàn phụ thuộc vào nó. Đầu tiên là do độ tin cậy của máy tính và thứ hai là  thực hiện điều kiện chính "ai phát hiện đầu tiên, người đó bắn đầu tiên". Do chú ý đến những vấn đề tối ưu hóa liên quan, mà trên thực tế DVK-2M có 64 KB bộ nhớ RAM, hoặc 0,064 MB và tốc độ của nó chỉ là 200 000 phép tính trong một giây, hoặc 0,2 MHz. Đĩa cứng kiểu Winchester chưa có. Các chương trình tách mục tiêu, chương trình nhận dạng mẫu, cơ sở dữ liệu mục tiêu chứa chân dung tiếng ồn của 600 đối tượng đều được nạp vào bộ nhớ. Tất cả chỉ trong 64 KB bộ nhớ RAM trong môi trường hệ điều hành thời gian thực "Phobos" (операционная система реального времени - ОСРВ «ФОБОС»). Do đó, thuật toán của chương trình và bản thân các công thức toán học được họ soát rất cẩn thận. Chỉ trong những điều kiện như vậy mới có thể tìm thấy tàu ngầm ít tiếng ồn của đối phương trong vòng 50-60 dặm. Các nhà khoa học thủy âm chắc chắn không thể đánh giá được điều kỳ diệu này. Tất cả những người bằng cách này hay cách khác, từng va chạm với "RITSA" bị phân thành hai phần không bằng nhau.

Phần đầu tiên là những người sử dụng trực tiếp. Đó là các thủy thủ tàu ngầm đã làm việc trực tiếp với các thiết bị "RITSA", trong đó ý kiến được chia ra từ trạng thái hoàn toàn thỏa mãn khi mà các mục tiêu ở tương đối xa, và chuyển vị góc của nó vì thế tương đối nhỏ. Khi mục tiêu là tương đối gần, và chuyển vị góc của nó tăng lên, các thiết bị "RITSA" không phải luôn luôn đủ thời gian để xử lý mục tiêu. Do đó, người ta không hài lòng. Tuy nhiên, lỗi trong trường hợp này không phải là "RITSA" mà là "DVK-2M", chiếc máy tính trường học này thiếu bộ vi xử lý mạnh hơn để có thể kịp xử lý. Bởi không ai trong đầu có thể nghĩ đến việc đưa các động cơ trên các xe chở khách cỡ nhỏ lên xe tăng.

Phần thứ hai, các đại diện của giới thủy âm học quân sự, không đồng nhất, một số khi mái tóc ngả bạc họ cũng mất khả năng chấp nhận bất cứ cái gì mới, thậm chí chỉ trên mức độ ý tưởng. Nhưng nghịch lý là ở chỗ ý kiến của những người này đôi khi lại được lắng nghe. Bây giờ hãy tưởng tượng một tình huống thế này. Tới báo cáo Đô đốc Tư lệnh Hạm đội Mỹ, một chỉ huy tiểu đoàn tàu ngầm, kể về những thử nghiệm thành công một công cụ rất hữu ích, mà anh ta đích thân tham dự và yêu cầu cài đặt thiết bị này trên tất cả các tàu ngầm của tiểu đoàn anh ta. Và đáp lại thông báo đáng mừng trên, tư lệnh hạm đội trả lời rằng mới đây ông ta đã đọc một bài báo của Giáo sư Khren mà đối với giáo sư không phải mọi thứ của thiết bị này đều được hiểu hết, và chính vì lý do này mà ông (tư lệnh hạm đội), không thể cho phép cài đặt nó. Họ có một cơn ác mộng, còn với chúng tôi hoàn toàn là tình huống rất thực tế.

Một phần khác các nhà khoa học hiểu ngay từ bên trong rằng thiết bị được xây dựng đúng, nhưng họ tức giận đến phát khóc vì miếng mồi béo bở bị vuột mất. Và họ buộc tội Kuryshev, vì anh ta đã giấu phát kiến "Nova Khava" của mình và không chịu đưa các công thức của mình ra thảo luận công cộng. Đầu tiên, đề xuất này thổi ra hơi lạnh của "chủ nghĩa cộng sản thời chiến" («военного коммунизма»), mà chúng ta lại đang ở trên thềm năm 2008, năm của gia đình, năm của sự phát triển sáng tạo của ngành công nghiệp Nga, của liên kết tài chính và hỗ trợ đầy đủ cho các doanh nghiệp nhỏ. Thứ hai, nhiều người nhầm lẫn tin rằng các công thức là bí quyết chính của Kuryshev, thực ra không phải thế. Ở đây tôi nghĩ rằng sẽ có ích nếu ta tiến hành các quan sát sau đây.


.....
« Sửa lần cuối: 20 Tháng Mười Một, 2011, 11:49:27 pm gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #563 vào lúc: 20 Tháng Mười Một, 2011, 06:15:31 pm »

(tiếp)


Khi xây dựng bất kỳ đề án nào, chẳng hạn như tàu vũ trụ, tàu ngầm, phân bón hóa học cho nông nghiệp, v.v. đòi hỏi một kiến thức tích lũy của một số ngành khoa học liên quan trực tiếp hoặc không trực tiếp. Vì vậy, các kiến thức tích lũy tổng hợp S, của đề án nào đó có thể được biểu diễn bằng công thức S = N 1 + N 2 + .... Ni (1), trong đó N - một số lượng tuyến tính của các kiến thức tích lũy  được dưới dạng dữ liệu của một ngành khoa học cụ thể , và vật mang khối kiến thức ấy có thể là một người hoặc nhiều người. Vì vậy, để thực hiện đề án bất kỳ nào đó cần có số lượng người i hoặc tập hợp người i. Năm 1928 một nhà khoa học người Mỹ, cha đẻ của lý thuyết thông tin Hartley đã chứng minh rằng việc tích lũy kiến thức của con người không phải theo quan hệ tuyến tính mà là quan hệ logarit. Vì vậy, mà (1) có dạng như sau: S = Log N1 + Log N2 + .... Log Ni (2), và do các tính chất của logarit, mà tổng các logarit thừa số sẽ bằng với logarit của tích số, đó là, S = Log (N 1 * N 2 * ....* Ni) (3).





Ralph Hartley (1888-1970) và công thức của ông.

Công thức này dẫn đến những ý nghĩ rất đáng buồn là nếu bạn xây dựng bất kỳ đề án nào, khi đang hình thành khối kiến thức tích lũy, sẽ chưa được tính đến kiến thức dù ít nhất đó là của một ngành khoa học cụ thể (Ni -1 = 0), khi đó công thức (3) có giá trị sau S =  0. Điều đó nghĩa là, đề án sẽ thất bại hoặc khởi đầu của nó sẽ không thành công cho đến khi tình huống ấy với ngành thứ (Ni -1) cũng sẽ chưa được sửa chữa. Như sau đó Kuryshev V.E tính toán để xây dựng thiết bị phụ trợ thủy âm này đòi hỏi kiến thức của 19 ngành khoa học. Tất cả các lập luận trên dẫn tới điều chủ yếu rằng khối lượng tổng hợp các kiến thức, đó không phải là các chuỗi kệ sách đều đặn. Trước hết nó là các liên lạc chéo và kỳ lạ xảy ra chỉ với một sự hiểu biết sâu sắc tất cả các ngành. Toàn bộ những điều này cho phép tìm thấy những giải pháp hết sức bất ngờ. Xin lỗi các bạn vì tôi đã đưa ra những lý luận có vẻ trừu tượng, nhưng chúng giúp hiểu được nhóm Kuryshev đã có thể giải quyết một nhiệm vụ phức tạp đến cỡ nào.

Hãy trở lại câu chuyện của chúng ta. Luôn luôn gây ra một cú sốc thực sự cho các thành viên Viện Nghiên cứu Hải quân, Cục KTVTĐT Hải quân Liên Xô và Bộ Công nghiệp đóng tàu Liên Xô là thiết bị phụ trợ thủy âm được kết nối với hệ thống định hướng âm (SHP - ШП - тракта ШумоПеленгования) của tổ hợp sonar tàu ngầm, mà không phải thực hiện bất kỳ thay đổi nào. Và việc "trên các tần số mà thiết bị phụ trợ thủy âm sử dụng, thực tế hệ thống định hướng âm không làm việc, rằng đặc tính hướng của ăng-ten tiệm cận vòng tròn và sự định hướng âm tìm kiếm mục tiêu là không thể thực hiện được " (phát biểu của Sugrobov V.G.). Và điều đó là trái với khẳng định "khoa học" này, rằng tất cả mục tiêu đều định phương vị được, với độ chính xác 1.0 ở khoảng cách 50-60 dặm hoặc hơn. Kỷ lục về tầm phát hiện mục tiêu bằng "RITSA" là 500 km. Sự việc như sau, các cán bộ ban tác chiến chống ngầm Hạm đội Biển Bắc, đại tá hải quân Polzikov và đại tá hải quân Asriyan V.I., sau khi đặt các phương vị thu được vào các thời điểm khác nhau từ "RITSA" lên bản đồ và đột nhiên phát hiện ra rằng tất cả các phương vị đó đều hướng đến cùng một điểm. Họ đã phát hiện ra rằng điểm này là một tháp khoan đang khoan xuống đáy biển vì nhu cầu nào đó.

Có một phát biểu rất chính xác, ngay tại diễn đàn này "Các tác giả (nhóm Kuryshev) chưa bao giờ không "tựa" bản thân vào thủy âm học. Toàn bộ bí quyết nằm trong việc xử lý tín hiệu đã có, nghĩa là, trong toán học, mà trong đó, xin nói thêm rằng chính "những chuyên gia điển hình của Viện Nghiên cứu Hải quân" không hiểu một chút nào, bởi vì họ là các chuyên gia về thủy âm học, mà không phải về toán học ". Tốt nhất ta không nói nữa.

Tất cả những điều đã nói ở trên, đặc trưng cho tư tưởng kỹ thuật quân sự Nga, khi với ba cây đinh và một đoạn dây thép gai cũng tạo ra được một vũ khí nguy hiểm. Trong quá trình xây dựng thiết bị phụ trợ, Kuryshev và Agizim nảy ra ý tưởng tạo nên một thiết bị tích hợp đơn khối duy nhất, nhưng vì thiếu thời gian, việc đó bị hoãn lại. Một thời gian sau, giáo sư Agizim A.M. quay trở lại ý tưởng của mình, ông liên lạc với Kuryshev và nói rằng có thể chế tạo một thiết bị phụ trợ thủy âm đơn khối tích hợp. Victor chuyển thông báo này đến Đô đốc hạm đội I.M.Kapitanets Tư lệnh Hạm đội Biển Bắc, mà đến thời điểm đó, đã nắm được đầy đủ thông tin về sự làm việc tốt của "RITSA". Đô đốc đã đón ngay lấy ý tưởng bằng cả hai bàn tay, và khi ông lên chức vụ cao hơn, Phó Tổng tư lệnh thứ nhất Hải quân Xô Viết, mà Tổng tư lệnh là Đô đốc hạm đội Chernavin V.N. Ông đã khai thông bằng cách cho đặt hàng Agizim A.M. thông qua Cục KTVTĐT Hải quân Liên Xô phát triển và sản xuất hai mẫu thiết bị trên.

Đơn đặt hàng được phân về nhà máy "Etalon" ở Kiev, và công việc này là hoàn toàn do Agizim A.M. chịu trách nhiệm theo dõi và giúp đỡ, ông ấy thay máy tính "DVK-2M" sang "ELEKTRONNIKA-NTS-80", cũng như áp dụng một phương pháp nhanh hơn của nhà khoa học Mỹ Winograd, để tính giá trị Chuỗi Fourier, phương pháp này lại sử dụng Định lý Số dư, mà những người Trung Quốc đã chứng minh 3.000 năm trước đây. Kết quả thiết bị được đặt tên là "MAGNII" chạy nhanh hơn thiết bị trước năm lần, trong một thân máy có 2 màn hình, một bàn phím, kích thước nhỏ tạo thuận tiện cho công việc của các trắc thủ thao tác, dễ học, dễ cài đặt và bảo trì. Đó là một sản phẩm rất cạnh tranh. Xu hướng này đã chết, bởi vì năm 1991 đã đến và hai bản mẫu vẫn ở nhà máy "Etalon" Kiev. Và thế là không thể tận dụng lợi thế của thiết bị này nữa, vì không có toán học (software của Kurytshev), và không có nó thì khác gì buổi triển lãm trong bảo tàng.

Một hướng có triển vọng hơn được phát triển song song với "MAGNII", do Viện sĩ Nesterikhin, giám đốc Viện Đo lường thuôc Chi nhánh Novosibirsk Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô đề xuất. Viện chia thành hai bảng chính. Trên một bảng mạch là bộ điều khiển đồ họa hiển thị nhanh kết quả ra màn hình, trên bảng kia là bộ vi xử lý "SP-12" (do trong nước phát triển) theo tiêu chuẩn "DVK-2M", có một bộ nhớ đủ lớn để xử lý tất cả các thông tin trước khi đưa nó vào "DVK-2M". Nó không chỉ thay thế "CHARYSH-2M", mà còn vượt trội khả năng của thiết bị phân tích phổ này. Người đọc chú ý có thể nhận thấy rằng hai bảng mạch được sản xuất bởi một tổ chức bên ngoài nước theo tiêu chuẩn " DVK-2M". Và sau khi chúng được lắp vào trong "DVK-2M", chiếc máy tính trường học yếu ớt đã trở thành một con ngựa chiến mạnh mẽ.

Đây chính là một ví dụ hoàn hảo của công nghệ COTS. Đó là khi những thiết kế phục vụ quân sự sử dụng cái gọi là công nghệ nền tảng mở (công khai). Kỹ thuật tính toán mục đích kép này, khi phát triển mà có sự xuất hiện bộ vi xử lý mới mạnh hơn, thì trong máy tính chỉ cần thay thế bảng mạch có bộ vi xử lý yếu hơn, mọi thứ khác vẫn không thay đổi, trong đó gồm cả toán học. Hoặc ngược lại toán học thay đổi, còn "phần cứng" («железо») vẫn không thay đổi, bạn chỉ cần biên dịch lại phần mềm tính toán toán học. Và trong toàn bộ tổ hợp, những thay thế này ta không cảm thấy, mà điều này cũng không quan trọng với nó. Máy tính cá nhân "DVK-2M" và bộ phân tích phổ kỹ thuật số "CHARYSH-2M" đáp ứng đầy đủ các yêu cầu này. Sau khi nâng cấp, như mô tả ở trên, tổ hợp bắt đầu làm việc nhanh hơn nhiều, và cơ sở toán học vẫn không thay đổi. Nó cũng tạo cơ hội để mô hình hóa những phương pháp "khó", nhưng có nhiều tài nguyên hơn.

Năm 1986, giới khoa học quân sự đã đòi hỏi tiến hành thử nghiệm bổ sung thiết bị "RITSA" trước khi bắt đầu chiến dịch "ATRINA" mặc dù họ không có nhu cầu. Nhưng họ đã chọn đúng thời điểm. Tổng tư lệnh mới của Hải quân Xô Viết V.N.Chernavin chỉ vừa mới nhận chức vụ này, đang toàn tâm tập trung cho công tác chuẩn bị chiến dịch, và công việc về "Ritsa" tạm thời ra khỏi sự quan tâm của ông, hơn nữa, ông không tưởng tượng được rằng giới khoa học muốn lặp lại sự việc năm 1983. Vì vậy, mà không cho việc thử nghiệm bổ sung có ý nghĩa gì đặc biệt. Ông đã cho phép họ.

Các thử nghiệm này, đã không thành công như mong đợi. Nó có lý do của nó, những lý do rất xác đáng. Hai thành viên của Ủy ban từ đầu đến lúc họ chưa nhìn thấy mục tiêu trên màn hình thiết bị phụ trợ, họ cư xử khá đúng mực. Nhưng chỉ cần mục tiêu xuất hiện, ngay lập tức họ gây trở ngại cho các trắc thủ "RITSA" và sau khi bị đuổi ra khỏi cabin, họ đi vào khoang đầu tiên, lặng lẽ cắt đứt dây, khi họ bị phát hiện, người ta bắt giữ họ và đặt một người lính giám sát cạnh cabin họ ở, sau đó khi người ta hỏi tại sao họ làm vậy. Họ trả lời họ làm một thí nghiệm khoa học. Thuyền trưởng tàu ngầm, trên đó tiến hành thử nghiệm "RITSA" trước khi diễn ra "ATRINA" là trung tá hải quân Vadim Konoplev. Tất cả những điều trên đã được ghi lại trong nhật ký của con tàu này. Tên của các sĩ quan đó đều đã được biết. Đã 22 năm trôi qua kể từ thời điểm đó và không biết bây giờ những con người đó quan hệ đến điều này ra sao. Sau vụ việc dứt đứt dây, đã có quyết định, không cho các "khoa học gia" tham gia vào kết quả làm việc của thiết bị phụ trợ này nữa. Và kể từ mùa hè năm 1987 HẠM ĐỘI bắt đầu sử dụng vào chiến đấu thiết bị phụ trợ trên, và nó đã được tiếp nhận vào biên chế vũ khí của Hạm đội Biển Bắc, thông qua một mệnh lệnh đặc biệt của vị tư lệnh hạm đội.

......
« Sửa lần cuối: 21 Tháng Mười Một, 2011, 08:05:11 am gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #564 vào lúc: 21 Tháng Mười Một, 2011, 02:08:53 am »

(tiếp)


Khi người ta báo cáo Chernavin rằng thử nghiệm "RITSA" thất bại, và đã có quyết định loại bỏ các thiết bị này khỏi các con tàu tham gia chiến dịch, nhưng Chủ nhiệm ngành KTVTĐT Hạm đội Biển Bắc Chuẩn Đô đốc V.P. Senin đã chống lại. Ông nói rằng tất cả các thử nghiệm trước đều thành công và kết quả cuộc thử nghiệm cuối cùng chỉ là cá biệt, người đã đào tạo, thiết bị đã được cài đặt. Ngoài ông, "RITSA" còn được bảo vệ bởi những người khác như đô đốc hạm đội Kapitanets I.M. Phó thứ nhất của Tổng tư lệnh Hải quân Xô Viết Chernavin, trưởng ban tác chiến chống ngầm Hạm đội Biển Bắc đại tá hải quân V.V.Gavrilov. Chernavin nói, "Hãy để tất cả nguyên như vậy", nhưng cấm không được báo cáo việc phát hiện bằng thiết bị "RITSA". Đó là một chỉ dẫn làm cho thiết bị "RITSA" thành một thiết bị cấp hai, và thái độ đối với nó như thế là thích hợp.

"Mục tiêu của cuộc hành quân - tổ chức ba chiến dịch tìm kiếm chống tàu ngầm để khám phá quang cảnh chiến trường dưới mặt nước ở bờ biển phía Đông Hoa Kỳ, ở Đông Bắc Đại Tây Dương và vùng biển Na Uy, trong các khu vực tuần tra chiến đấu của các SSBN. Chiến dịch tìm kiếm được thực hiện cùng với tàu khảo sát hải văn "Vaigach", các máy bay Tu-142M (từ các sân bay của Cuba) và tàu trinh sát cỡ lớn "Zakarpatchie". (Từ hồi ký của cựu Tư lệnh Hạm đội Biển Bắc Đô đốc hạm đội I.M.Kapitanets. Từ một bài viết của N. Cherkashin "Cuộc đột kích của các "Hoàng tử Đen"")

Chiến dịch "ATRINA" bắt đầu tháng ba năm 1987. Mỗi tàu ngầm được trang bị hai bộ "RITSA". Có năm tàu ngầm đề án 671RTM. Thuyền trưởng tàu ngầm K-299 trung tá hải quân M.I.Kliuev, thuyền trưởng tàu ngầm K-244 trung tá hải quân V.I.Alikov, thuyền trưởng tàu ngầm K-298 trung tá hải quân N.Popkov, thuyền trưởng tàu ngầm K-255 trung tá hải quân B.Yu. Muratov, thuyền trưởng tàu ngầm K-524 trung tá hải quân A.F.Smelkov (nay là Phó Đô đốc). Chỉ huy biên đội tàu ngầm nguyên tử trong chiến dịch "ATRINA" là Chuẩn Đô đốc A.I.Shevchenko.

11 tháng tư năm 1987, một ngày không khác gì với chuỗi ngày từ đầu chiến dịch đến lúc đó. Tàu ngầm K-298, giờ Moskva 7.56, phiên trực của thuyền trưởng trung tá hải quân N.Popkov đã kết thúc bốn phút. Anh vui mừng vì mọi thứ vẫn như thường lệ, không có sự cố. Đột nhiên chuẩn úy hải quân trắc thủ "RITSA" I.V.Shildyaev, thông báo đã phát hiện mục tiêu, thiết bị của anh ta xác định đó là một tàu ngầm nguyên tử Mỹ. Dường như có một luồng điện chạy suốt con tàu. Hoa tiêu lập tức đánh dấu vào bản đồ vị trí của K-298, nơi tàu ngầm nguyên tử Mỹ bị phát hiện. Theo hướng dẫn, thuyền trưởng không có quyền rời phòng điều khiển trung tâm, khi sỹ quan thủy âm báo cáo đã phát hiện tàu nổi, hoặc tàu ngầm. Nhưng "RITSA" không phải thiết bị tiêu chuẩn, mà ở đây đã có lệnh của Tổng tư lệnh.
 
Popkov, sau phiên trực đã quá mệt mỏi và muốn nghỉ ngơi. Thế mà bỗng nhiên lại là người Mỹ, có cái gì đó nhỏ giọt xuống cầu vai. Thiết bị có thể nói dối. Tất cả những bất ổn này, nó làm ta tức giận làm sao. Anh đến bên Shildyaev yêu cầu "hãy chỉ xem, người Mỹ đâu nào". Anh ta ngay lập tức chỉ vào màn hình "RITSA". Hình ảnh Shildyaev cho anh thấy, không thuyết phục. Nhưng anh biết Shildyaev như một chuyên gia rất cẩn thận và chính xác. Sự đơn điệu chiếm lĩnh con tàu, ngay lập tức đã biến đi đâu mất. Bản năng săn mồi thức dậy trong mọi người. Cũng như con mèo, khi bắt được chuột, không ăn thịt nó ngay, mà tiếp tục vờn mồi, và rất phấn khích vì trò chơi này.Thuyền trưởng nghĩ rằng sẽ không quá kéo dài, và do đó quyết định đi theo phương vị "RITSA" chỉ ra. Lần đầu tiên kể từ khi được tạo ra, thiết bị dẫn dắt niềm đam mê cháy bỏng của các thủy thủ tàu ngầm trong cuộc săn mồi tự do này. Cuộc truy đuổi tiếp tục, như hướng dẫn của Chernavin, cần phải xác nhận tiếp xúc chỉ bằng các phương tiện chính thức.

Đội thủy thủ vui vẻ nhìn cảnh Popkov với Shildyaev cãi nhau, người nói đó hoàn toàn là xx...và tàu không có ở đấy, người kia trả lời rằng đó không phải xx... chính đó là tàu ngầm, đồng thời chỉ phương vị mục tiêu, sự việc kéo dài đến 15.25. Viên chuẩn úy tuyệt đối tin vào thiết bị và không một chút nghi ngờ sự làm việc đúng đắn của "RITSA" ("MA TRẬN"). Thuyền trưởng tàu ngầm nguyên tử K-298 trung tá hải quân N.Popkov rất mạo hiểm, bởi vì họ đã ra khỏi khu vực được phép di chuyển. Đột nhiên vào lúc 15.25 ở khoảng cách 9 kabelt, bà cô già nghễnh ngãng "Skat-KS" cho thấy dấu hiệu đầu tiên đã sống lại. Thật tiếc rằng vào thời điểm này không thể đưa lên khoang trung tâm con tàu, các nhà khoa học xx... từ Hội đồng Khoa học xa xăm ở thành phố Pushkin năm 1983. Tại hội nghị đó họ cho rằng thiết bị sẽ không làm việc, tiếc, rất tiếc.

Các thủy thủ tàu ngầm hào hứng còn truy đuổi "người Mỹ" năm giờ nữa, không ngần ngại áp dụng các phương pháp chủ động duy trì tiếp xúc. Khi họ còn chưa chán chuyện "vui vẻ" này, thì được lệnh phải trở lại khu vực được phép di chuyển. Popkov lao ngay vào buồng hoa tiêu, và 2 người họ bắt đầu tính ngược trở lại. Từ điểm lần đầu tiên "Skat-KS" làm việc đến điểm mà "RITSA"  lần đầu tiên phát hiện được mục tiêu. Trên bản đồ, họ đã tính toán ra khoảng cách đó là 40 dặm. (Mô tả chi tiết hơn về "hiện tượng" này có thể tìm thấy trong nhật ký hải trình tàu ngầm nguyên tử K-298).

Và chẳng ai ngờ rằng trung tá hải quân N.Popkov và chuẩn úy hải quân I.V.Shildyaev đã tặng cho các thủy thủ tàu ngầm một ngày lễ mới. Ngày ra đời thủy âm học kỹ thuật số của đất nước, 15.25 ngày 11 tháng 4 năm 1987. Vì vậy, mà các thủy thủ tàu ngầm Nga có cơ hội để ăn mừng 2 ngày lễ chuyên nghiệp. Đó là ngày 19 tháng 3 theo nghị định của Sa hoàng Nicholas II ra ngày 19 tháng 3 năm 1906 và ngày 11 tháng tư năm 1987, nhờ nhóm Kuryshev và lòng can đảm của trung tá hải quân N.Popkov và chuẩn úy hải quân I.V.Shildyaev. Shildyaev vì thiết lập được tiếp xúc thủy âm trong thời gian dài như thế, đã được trao tặng đồng hồ bởi chính Chernavin.

Chuẩn Đô đốc Vladimir Dmitrievitch Yamkov sư đoàn trưởng sư đoàn tàu ngầm nguyên tử số 3, sau khi làm chủ được thiết bị "RITSA" và kiệt sức trong việc tưởng tượng các cuộc lựa chọn theo dõi tàu ngầm của đối thủ "giả định" ở khoảng cách 60 dặm, quyết định kiểm tra, tại tốc độ nào thiết bị "RITSA" sẽ mất tiếp xúc với tàu ngầm của kẻ thù "giả định" do mức độ nhiễu lớn (độ ồn cao). Thiết bị chính thức chỉ cho phép đến 6 hải lý. Thử nghiệm đã diễn ra trên một tàu ngầm nguyên tử lớp cũ VICTOR 1. Khi tốc độ tăng lên đến 17 hải lý, tiếp xúc với tàu ngầm-mục tiêu vẫn chưa bị mất. Tiếp theo kỹ sư máy trưởng trên tàu nói: "đó giới hạn tốc độ phù hợp của bà lão này, ép quá nữa là không hợp lý". Thí nghiệm dừng lại ở điểm này. Có các tài liệu chính thức về việc đó.

Kết thúc "ATRINA", khi ấy cơn mưa vàng đổ xuống đầu những người tham gia chiến dịch. Tất cả trừ các nhà phát triển "RITSA". Ở đây có một thời điểm rất thú vị. Vài tháng sau chiến dịch, khi người ta bắt đầu phân tích kết quả thu được. Trưởng ban tác chiến chống ngầm Hạm đội Biển Bắc đại tá hải quân V.V.Gavrilov nhận thấy "RITSA" đã tìm ra vị trí tàu ngầm hạt nhân Mỹ trang bị hệ thống tên lửa đạn đạo liên lục địa "TRIDENT". Đô đốc hạm đội Kapitanets I.M., chỉ sau thực tế đó mới thực sự tin tưởng "RITSA". Tình báo Hải quân cũng quan tâm đến "RITSA" và sử dụng nó tiến hành một chiến dịch, mà theo ý nghĩa của nó và các thông tin đã thu được, không hề thua kém "ATRINA".

Đã trôi qua gần một phần tư thế kỷ kể từ ngày, mà nhờ các tổ hợp thủy âm kỹ thuật số "RITSA", đã tổ chức chiến dịch trinh sát chống ngầm lớn nhất, dưới tên mã "ATRINA". Và kể cả vào thời kỳ đầu tiên khi mà "RITSA" chưa  phải là hoàn hảo, nhưng đó là bệnh của tuổi đang lớn. Bản thân thiết bị phụ trợ được sinh ra, nhờ mệnh lệnh của người tư lệnh binh đoàn tàu ngầm diesel ngày 25/05/84. "Về việc tổ chức công tác khoa học quân sự để thực hành áp dụng xử lý tín hiệu kỹ thuật số trong tổ hợp thủy âm" do Chuẩn Đô đốc Shalygin G.I. ký. Mệnh lệnh này có tầm nhìn xa  của các chỉ huy hạm đội, về mặt pháp lý đã xác định ngôi quán quân thế giới của Liên Xô trong việc phát triển công nghệ COTS trong lĩnh vực phát hiện bằng thủy âm các đối tượng dưới nước có tiếng ồn thấp. Còn chỉ thị của Phó Tư lệnh thứ nhất Hải quân Liên Xô Đô đốc hạm đội Smirnov N.I. ngày 07/02/86. "Về việc thực hiện áp dụng 100 thiết bị phụ trợ thủy âm" đã xác định tính quy mô trong sử dụng công nghệ COTS cho các tàu ngầm Liên Xô. Chỉ thị này củng cố thực tế rằng Liên Xô là nơi khai sinh của công nghệ COTS.

Trong vấn đề này chúng ta đã vượt trước người Mỹ đến 12 năm. Năm 1996, người Mỹ hoảng hốt vì sự kiện tàu ngầm nguyên tử "Tiger" đề án 971, chỉ huy bởi đại tá hải quân A.V.Burilichev đột phá tới bờ biển nước Mỹ. Vì lý do đó, một ủy ban đặc biệt được thành lập tập hợp các tham mưu trưởng quân binh chủng thuộc Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ. Hầu như ngay lập tức họ thông qua một chương trình hiện đại hóa của Hải quân Mỹ US Navy SBIR - ARCI nâng cấp trang bị tất cả các tàu ngầm của Hải quân Hoa Kỳ, và họ từ chối các dịch vụ của nhà thầu chính của Hải quân Hoa Kỳ, tập đoàn IBM. Chương trình hiện đại hóa được thiết kế để thu hút các doanh nghiệp nhỏ. Việc hiện đại hóa được thực hiện trên cơ sở các thiết bị phụ trợ, sử dụng công nghệ COTS.

COTS (Commercial Off The Shelf) - sẵn sàng sử dụng thiết bị có mục đích thương mại vào các mục đích quân sự.

........
« Sửa lần cuối: 26 Tháng Mười Một, 2011, 07:46:37 pm gửi bởi daibangden » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #565 vào lúc: 22 Tháng Mười Một, 2011, 08:38:24 pm »

(tiếp)


Các công nghệ mở trong các ứng dụng quân sự

Alexey Rybakov. Tạp chí "Các hệ thống mở" số 4 năm 2000.

Sự phát triển hiệu quả của nền kinh tế Nga ngày nay khó có thể hình dung được nếu không có sự phát triển tương ứng của các lĩnh vực quân sự trong nền kinh tế cả trên phương diện các yếu tố bảo tồn tiềm năng khoa học - kỹ thuật và sản xuất của đất nước, cũng như một yếu tố bảo vệ các lợi ích quốc gia. Sự tiến hóa của các vũ khí hiện đại là không thể tưởng tượng nếu không sử dụng những thành tựu của ngành công nghiệp máy tính, còn câu trả lời về nguyên lý cho câu hỏi đâu là khuynh hướng công nghệ và kinh doanh trong sự phát triển các phương tiện kỹ thuật tính toán dùng cho các ứng dụng quân sự trong vòng 15-20 năm tới, là vô cùng quan trọng và thú vị.



RQ-4 Global Hawk đang bay.

Sự khởi đầu thành công của máy bay không người lái Global Hawk của công ty Teledyne Ryan Aeronautical, chuyến bay giật gân lên sao Hỏa của tàu vũ trụ tự động «Pathfinder», việc thực hiện trên thực tế các đề án quân sự chuyên ngành cao cấp và phức tạp như M1M2 Abrams, M2A3 Bradley, F / A 18, Tornado, các lớp tàu ngầm Trident và Los Angeles, hệ thống điều khiển kiểm soát phòng thủ trên không, các trạm radar cố định và di động và các đề án khác liên quan đến sự phát triển và sản xuất các hệ thống quân sự hiện đại, cho phép nói đến bước đột phá quan trọng trong những cách tiếp cận truyền thống đối với sự hình thành chính sách kinh doanh và kỹ thuật trong việc xây dựng các máy tính tích hợp trên phương tiện (on board - бортовые) hoặc các hệ thống chuyên ngành điều khiển ở mặt đất. Tại sao lại như vậy?


MarsPathfinder Sojourner.


Xét từ quan điểm các công nghệ máy tính quân sự có một điểm thống nhất những dự án có tên trên - để xây dựng chúng người ta sử dụng rộng rãi công nghệ các phần cứng và phần mềm làm sẵn theo kiểu mở, trước đó đã được thử nghiệm chuẩn y và / hoặc tiêu chuẩn hóa rộng rãi cho thị trường công nghiệp nói chung và cho các ứng dụng dân sự. Đó gọi là công nghệ COTS (Commercial Off -The Shell - «sẵn sàng sử dụng"). Đặc biệt cần nói đến việc sử dụng trong các ứng dụng trên máy bay, tàu vũ trụ, kiến trúc máy tính kiểu mô-đun - xương sống mở có độ tin cậy cao đối với hệ thống thời gian thực VME (821 IEC, IEEE / ANSI 1014). Lấy ví dụ về các công nghệ COTS ở cấp hệ thống mở cho các ứng dụng cần độ tin cậy cao, bạn có thể chỉ ra một loạt các giao diện tiêu chuẩn hóa mô-đun - xương sống: VMEbus, CompactPCI, PCI, IndustryPack, PMC, PC-MIP, PC-104, các giao diện mạng và truyền thông: Ethernet, FDDI, RMN, MIL1553, RS422/485, ARINC 429/629, E1, v.v...

Cơ sở tiêu chuẩn của công nghệ COTS đang được phát triển và hỗ trợ trong các khuôn khổ của các tổ chức quốc tế (IEC / IEC, ISO) và quốc gia (ANSI, DIN, IEEE, GOST) về tiêu chuẩn hóa, và cũng như vậy trong phạm vi các tập đoàn quốc tế chuyên nghiệp lớn (ARINC, PCISIG, VITA, PICMG , GroupIPC v.v...). Tiêu chuẩn hóa diễn ra bằng nỗ lực chung của một số lớn các công ty cạnh tranh: Motorola, HP, IBM, SUN, đang sản xuất ra thiết bị kỹ thuật theo xê ri tương thích chung. Yếu tố chính của sự khởi đầu quá trình tiêu chuẩn hóa một công nghệ máy tính mở cụ thể là sự chấp nhận rộng rãi của nó bởi thị trường - một số lượng lớn các xí nghiệp - nhà sản xuất và người tiêu dùng, đang làm việc trong các lĩnh vực dọc và ngang khác nhau: các hệ thống công nghiệp, viễn thông, chế tạo máy và kỹ thuật người máy, các hệ thống nhúng (встраиваемые) trong quân sự trên bản thân phương tiện và cố định v.v .

Ta có toàn quyền để có thể gọi là công nghệ COTS mở, cái mà là chuẩn de-facto - được phổ biến rộng rãi trên các thị trường mục tiêu khác nhau và / hoặc được tạo ra bởi một nhà sản xuất hùng mạnh. Ví dụ, có một số hệ điều hành mục đích chung: Windows NT, UNIX, AIX, Solaris và các hệ điều hành nhúng thời gian thực (ОС РВ - Операционная система реального времени - RTOS - Real-Time Operating System): VxWorks, OS9, PSO, VRTX +, QNX, OSE, LynxOS, và, tương ứng, một lớp rộng các công nghệ công cụ để phát triển trong khuôn khổ của các hệ điều hành trên : C / C + +, ADA, v.v...

Dưới sự bảo trợ của COTS có các kiến trúc bộ xử lý, các mạng, đồ họa, công nghệ phần mềm công cụ, hệ điều hành, các chương trinh đảm bảo (Програ́ммное обеспе́чение - ПО - Computer Software) ứng dụng và công cụ, công nghệ bán dẫn  và v.v., cho đến các hệ tư tưởng của sản phẩm (các thuật toán, các phương pháp luận, các kiến trúc). Bởi vì ngay cả đến ngày hôm nay, sản phẩm thương mại đã được thử nghiệm, được thị trường rộng rãi chứng minh ý tưởng của mình cũng có giá rất đắt. Nhằm các mục đích làm rõ định nghĩa cơ bản, hãy thử trả lời các câu hỏi: "một đề án quân sự cụ thể có giá bao nhiêu từ đầu, "từ số không", để phát triển và thử nghiệm những sản phẩm công nghệ COTS "toàn cầu", như Windows NT, VxWorks, OS-9, OSE, AIX? Để phát triển "từ số không" và "test" kiến trúc (bao gồm cả sản phẩm bán dẫn và cơ khí) PCI / VME / CompactPCI? Phát triển kiến trúc "dưới nhiệm vụ đặc biệt" và làm chủ việc sản xuất các loại bộ xử lý Pentium II, AMD K7, PowerPC 750, MIPS 10 000, SHARC, TMS320C6701 ...?

Vì vậy, hôm nay, để thực hiện các hệ thống có chức năng chuyên biệt, trong đại đa số trường hợp, vấn đề đặt ra là lựa chọn và THÍCH ỨNG, nếu cần thiết, của một loạt các công nghệ máy tính COTS cụ thể, chứ không phải vấn đề sinh ra một công nghệ MỚI.

Trong hoạt động người ta đưa vào nguyên tắc phổ biến NDE (Non-Developmental Item) -  sử dụng "các công nghệ không phát triển mới từ đầu". Đây không phải là một nguyên tắc kỹ thuật. Đây là nguyên tắc của quản lý và kinh doanh.

Ví dụ về các phương pháp tiếp cận như vậy để sản xuất "trang thiết bị kỹ thuật chuyên nhiệm" có thể dẫn ra không ít. Cách tiếp cận này, đôi khi có khiếm khuyết thấy rõ (ví dụ, rất có thể một số "dư thừa" trong các hệ thống máy tính tác chiến cụ thể), hoàn vốn lại cho chính nó một cách thoải mái trong hầu hết các ứng dụng quân sự do cắt giảm đầu tư trong phát triển mới, giảm thời gian xây dựng hệ thống và giảm được tham số đã được chấp nhận ở Nga: "Thời gian để hoàn thành sản phẩm đưa ra thị trường. Nói một cách trần trụi, điều này nghĩa là sản phẩm cuối cùng, ví như "S-300" càng nhanh xuất hiện trên thị trường bao nhiêu, chu kỳ sống mang lại thu nhập của nó càng lâu dài bấy nhiêu. Khái niệm đặt ra cơ bản đó đang hoạt động trong thị trường chúng ta hiện nay, với lĩnh vực quân sự, Nga - một đối thủ cạnh tranh nghiêm túc và có thẩm quyền đầy đủ trong thị trường vũ khí thế giới toàn cầu.

Quy mô của việc áp dụng công nghệ COTS trên các thị trường khác nhau của các hệ thống nhúng có thể được minh họa bằng ví dụ nhỏ sau đây của các phân đoạn VMEbus: hệ thống quân sự - 30%, truyền thông - 29%, công nghiệp - 24% trong tổng doanh số chung của các thành phần mô-đun là 1 tỷ rưỡi US $. Các hợp đồng mới của Motorola với Hải quân / Không quân Hoa Kỳ dự kiến khối lượng cung cấp các mô-đun nhúng thành phần theo công nghệ COTS có trị giá hơn 1 tỷ USD vào năm 2001. Lĩnh vực ứng dụng chuyên ngành đặc biệt và phục vụ các kiến trúc mới có độ tin cậy cao đang phát triển cực kỳ nhanh chóng - CompactPCI. Đây trước hết là một ứng dụng chủ yếu liên quan với các hệ thống thông tin liên lạc và viến trắc khác nhau, các hệ thống I / O và xử lý hình ảnh, với việc thực hiện các chức năng (hệ) điều hành.

PS: - Đây là bài viết của tác giả từ năm 2000, nên một số thiết bị và một số chuẩn đề cập đã bị vượt qua, nhưng ý nghĩa của những vấn đề bài viết đặt ra vẫn còn tính thời sự.
....
« Sửa lần cuối: 26 Tháng Mười Một, 2011, 07:47:39 pm gửi bởi daibangden » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #566 vào lúc: 24 Tháng Mười Một, 2011, 10:46:26 pm »

(tiếp)

Chúng tôi lưu ý những mô típ và xu hướng chính trong quá trình hình thành chính sách-kinh doanh và kỹ thuật hiện nay trên thị trường công nghệ máy tính dùng cho mục đích quân sự:

• giảm ngân sách quân sự cho đất nước-nhà sản xuất và người tiêu dùng;

• tăng cạnh tranh trong nước và quốc tế giữa các nhà cung cấp cho các đơn đặt hàng quân sự, đặc biệt, dẫn đến nhu cầu tăng nhanh tốc độ đưa sản phẩm hoàn tất ra thị trường và giá cả thấp hơn;

• ưu thế áp đảo trong tốc độ và chất lượng phát triển công nghệ của công nghệ máy tính dân sự nói chung so với công nghệ máy tính quân sự, dẫn đến dòng vốn sản xuất từ  thị trường quân sự chuyển sang thị trường dân sự. Trong 10-12 năm qua, theo các ước tính khác nhau, thị phần toàn cầu các linh kiện bán dẫn điện tử quân sự đã giảm từ 17% đến dưới 3%;

• tăng cường các quá trình thị trường của sự đa dạng hoá sản phẩm, dẫn đến chuyên môn hóa và phát triển các lợi thế cạnh tranh của nhà cung cấp trong phân khúc thị trường cụ thể với việc phát triển hợp tác tương ứng tại địa phương và / hoặc quốc tế với các nhà sản xuất chuyên ngành độc lập tất cả các linh kiện cơ bản OEM (Original Equipment Manufacturer - nhà sản xuất thiết bị gốc) ngày càng phức tạp hơn hoặc các nhà cung cấp dịch vụ chuyên ngành;

• định hướng của các nhà sản xuất độc lập về phần mềm cơ sở (các hệ thống điều hành nhúng thời gian thực và phục vụ mục đích chung, các phương tiện công cụ để phát triển chương trình phần mềm ứng dụng) và phần cứng (аппаратное обеспечение - hardware) mô đun cơ sở (các mô-đun thành phần trong các chuẩn mô đun - xương sống khác nhau), không chỉ trên thị trường các khách hàng quân sự OEM, mà còn trên thị trường cho các ứng dụng công nghiệp, khoa học, y tế, truyền thông và các ứng dụng dân sự tương tự;

• Tăng số lượng tổng cộng các ứng dụng của công nghệ máy tính vào giải quyết các vấn đề trong lĩnh vực quân sự, cùng với sự gia tăng nhanh chóng mức độ phức tạp / hàm lượng khoa học và độ bão hòa thông tin của thiết bị kỹ thuật quân sự;

• Giảm chi phí phần cứng trong chi phí của các hệ thống máy tính quân sự mới và tăng phần quản lý dự án  / công nghệ phần mềm ứng dụng và phần "chi phí sở hữu", xác định chi phí duy trì và nâng cấp môi trường phần mềm và phần cứng phức tạp.

Những yếu tố này sẽ đương nhiên đẻ ra kết luận chính như sau:

Thời gian khi mà "công nghệ máy tính quân sự ", dù từ quan điểm tài chính cũng như từ điểm nhìn công nghệ, luôn xác định diện mạo toàn bộ thế giới máy tính, đã trôi qua. Ngày nay, "thị trường dân sự" các thiết bị kỹ thuật tính toán, như một định chế tài chính hùng mạnh, áp đặt các quy tắc-kinh doanh, tổ chức, và công nghệ chung nhất của mình cho cuộc sống của thị trường "quân sự".

Đây là nguyên tắc "toàn cầu" nền tảng và xu hướng quan trọng trong sự phát triển của các công nghệ máy tính quân sự tiên tiến. Sự không hiểu hoặc đánh giá không đúng nó chỉ có thể đưa đến một hậu quả: tăng nhanh khoảng cách trên nền các chi phí thời gian và tài chính nặng nề với kết quả cuối cùng đạt được là tối thiểu hoặc bằng không. Cuối cùng, sự đánh giá thấp nguyên tắc toàn cầu này chắc chắn dẫn đến việc mất các lợi thế cạnh tranh cơ bản hiện có, và hệ quả là sự triệt thoái của đất nước khỏi thị trường.

Điều quan trọng cần nhấn mạnh là, việc hình thành nên nguyên tắc này không hề có màu sắc "quốc gia" và theo nghĩa chung, nó được áp dụng bình đẳng với bất cứ đất nước nào.


Một kết luận quan trọng nữa được rút ra từ kết luận trước:

Tuyệt đại đa số các hệ thống máy tính "quân sự" mới nhất ngày nay đại diện cho các tiến bộ công nghệ tốt nhất, các chuẩn de-facto và de-jure ổn định của thế giới các công nghệ dân dụng, công nghiệp phần cứng và phần mềm chung nhất. Trong tương lai xu hướng này sẽ chỉ càng ngày càng phát triển mạnh mẽ.

Sự phức tạp của các hệ thống máy tính quân sự hiện đại, sự đa dạng của chúng, sự cần thiết phải giảm đầu tư trực tiếp và gián tiếp, các đòi hỏi tăng cường quá trình tạo ra các thế hệ công nghệ mới, sự phát triển cơ sở hạ tầng hợp tác để sản xuất - bán hàng - bảo hành, trong đó gồm cả các công ty nước ngoài sẽ bắt buộc một cách khách quan các nhà phân tích quân sự bước lên con đường sử dụng các công nghệ máy tính tiêu chuẩn hóa, có tính chất mở, phổ biến nhất, phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế để xây dựng được một phạm vi rộng rãi các ứng dụng hoàn chỉnh, trong đó có cả loại ứng dụng quân sự thuần túy và khắc nghiệt.


Hình 1: Ví dụ về các mô đun tương hợp trong các vai trò khác nhau.

Một trong những tư tưởng NDI đầu tiên đã được công ty Anh Radstone thực hiện khoảng 10 năm trước, đó là một nhà cung cấp lớn các mô-đun cơ bản thiết bị VMEbus cho công nghiệp nói chung và cho các ứng dụng quân sự. Nói theo cách đơn giản hóa, NDI là như sau.
 
• Chính phủ (tức Bộ Quốc phòng) không nhất thiết mỗi lần lại tài trợ từ đầu cho sự phát triển các thành phần mô-đun phần cứng và phần mềm, hơn nữa, công nghệ xây dựng chúng đắt hơn nhiều. Vẫn chỉ là một thành phần ấy, chẳng hạn máy tính đơn tấm (одноплатный компьютер - single-board computer) với một hệ điều hành cụ thể có thể được sử dụng để thực hiện một loạt các đề án khác nhau - từ hệ máy huấn luyện mô phỏng đến điều khiển radar, từ hệ thống sonar đến hệ tự động hóa điều khiển hệ thống phòng không hoặc điều khiển hỏa lực.

• Sự ưu tiên, nhằm giảm chi phí, việc sử dụng các mô đun phần cứng sản xuất hàng loạt được tiêu chuẩn hóa và tương thích hóa, cơ chế chấp hành phù hợp cho việc xây dựng trang thiết bị quân sự.

• Sự tương thích về phần mềm hoàn toàn của các mô-đun thực hiện trong thương mại, công nghiệp và quân sự, cho phép giảm thiểu chi phí của quá trình tạo ra sản phẩm tác chiến cuối cùng nói chung (Hình 1).

Ngày nay, khái niệm NDI đã trở thành cơ sở cho việc hình thành chính sách công nghệ để xây dựng các hệ thống chức năng quân sự hiện đại, được chấp nhận bởi tuyệt đại đa số các nhà thầu lớn khi xây dựng các hệ thống cuối cho các binh quân chủng khác nhau của quân đội nước ngoài. Ví dụ, chỉ một công ty DY4 nhưng phục vụ 80 khách hàng công nghiệp và quân sự lớn các đơn hàng-tích hợp tại 14 quốc gia, còn công ty Tây Đức PEP Modular Computers cung cấp khoảng 25% các thành tố mô-đun VME theo định dạng 3U cho các  nguồn thành phần của nó cho khách hàng quân sự Mỹ và châu Âu, trong tư cách là nhà cung cấp chính thức của NATO. Khái niệm NDI ngày càng được công nhận không chỉ bởi các công ty máy tính chuyên nghiệp thuần túy, mà cả các nhà phân tích của các cơ quan quân sự, chịu trách nhiệm về sự hình thành các chương trình dài hạn và phát động các chính sách công nghệ thích hợp.

Phân loại thiết bị kỹ thuật dùng trong các môi trường khác nhau

Khái niệm NDI ngụ ý tồn tại một sự khác nhau, nếu chúng ta nói về phần cứng, sự chấp hành cơ học của các thành phần mô-đun được sử dụng trong các hệ thống nhúng quân sự. Trong sách vở quân sự chuyên ngành ngày hôm nay có các tên viết tắt phổ biến, cho phép giới thiệu những sự phân loại thích hợp đối với thiết bị kỹ thuật của các thiết kế khác nhau được sử dụng trong lĩnh vực quân sự. Đối với các mô đun quân sự cơ sở hiện đại, chẳng hạn như các thành tố VME và CompactPCI, khái niệm NDI được diễn ta như sau.

Dòng sản phẩm COTS. "Sẵn sàng sử dụng các mô-đun thương mại» (Commercial Off-The Shelf). Nhiệt độ 0? 70? C. Các module được thực hiện bằng cách sử dụng linh kiện bán dẫn thương mại và thiết kế làm mát đối lưu theo tiêu chuẩn IEEE1101.1. Theo lệ thường, thiết bi kỹ thuật cố định có chức năng trụ cột hoặc dùng trong văn phòng. Có thể sử dụng thiết bị trong các hệ thống di động với sự cải biên thích hợp.

Dòng sản phẩm ROTS. ROTS - «sẵn sàng sử dụng mô-đun có độ tin cậy cao» (Rugged-Off-The Shelf). Nhiệt độ -40? đến +85? C. Các module được thực hiện bằng cách sử dụng linh kiện bán dẫn độ tin cậy cao, được làm mát đối lưu phù hợp với IEEE 1101.1 với việc kim loại hóa bề mặt của bảng mạch và thêm nhiều đặc tính cơ học nghiêm ngặt hơn nữa. Những module này cũng được sử dụng rộng rãi trong nhiều ứng dụng bên ngoài và trong bản thân thiết bị. Một ví dụ về các thành tố mô-đun hiện đại nhất thuộc loại này được thể hiện trong hình 2.


Hình 2. Máy tính đơn tấm CP302 theo chuẩn CompactPCI trên cơ sở bộ xử lý Intel Pentium III Mobile. Nó được định hướng từ thiết kế đến chế tạo để làm việc trong các điều kiện khai thác khắc nghiệt như trong tiêu chuẩn đề ra, cũng như trong dải nhiệt độ mở rộng hơn.

Dòng sản phẩm MOTS. "Sẵn sàng sử dụng các module cho môi trường quân sự» (Military-Off-The-Shelf). Nhiệt độ danh nghĩa -55? 105?? C. Các mô-đun được thiết kế trù tính làm mát tiếp xúc "trực tiếp" («на корпус») theo IEEE 1101.2. Chúng nổi bật ở các đặc tính cơ học vô cùng nghiêm ngặt. Thông thường, các mô-đun được sử dụng rộng rãi trong bản thân các thiết bị có nhiệm vụ quan trọng cần độ tin cậy rất cao - gồm có các ứng dụng trong hàng không - vũ trụ và xe tăng, trong các hệ thống công nghiệp phức tạp.
.......
« Sửa lần cuối: 25 Tháng Mười Một, 2011, 11:55:48 pm gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #567 vào lúc: 26 Tháng Mười Một, 2011, 11:11:01 pm »

(tiếp)

Thực tế của chúng ta

Công nghệ máy tính mở quân sự, công nghiệp và thương mại, ngày càng bén rễ vững chắc trên đất Nga. Lý do chính thật đơn giản - các nhà sản xuất trong nước đang ngày càng phải đối mặt với các quy luật thị trường trong việc tạo ra các thế hệ mới của các hệ chuyên dụng cuối cùng, sự cần thiết phải giảm đầu tư trong phát triển các tiêu chuẩn định mức mới trong nội bộ xí nghiệp sản xuất, sự cần thiết xây dựng các tiêu chuẩn mới hiện đại, gồm cả các tiêu chuẩn quốc tế, sự hợp tác để tổ chức sản xuất và bảo trì các thiết bị kỹ thuật mới, sự cần thiết để giảm thời gian đưa thành phẩm ra thị trường.

Thật không may, theo thời gian, việc hiểu sai nguyên tắc của cái gọi là điều kiện "Nga" bởi các nhà sản xuất cụ thể hoặc mong muốn chính đáng làm ra một thiết bị máy tính đặc biệt vừa "rẻ hơn", đồng thời "hiện đại hóa" các kiến trúc đã biết, mà ta có thể nói rằng, thuộc hệ thống mô-đun - xương sống, sẽ dẫn đến tạo ra những môi trường chuyên ngành máy tính không tương thích với bất cứ điều gì. Điều đó có nghĩa là sự phức tạp của hiện đại hóa, sự ít khả năng lựa chọn các thành tố mô-đun phần cứng và phần mềm và "độc quyền", được phản ánh trong giá cả, đặc tính làm việc của nhà sản xuất với tất cả các hậu quả tiêu cực tiếp theo cho người tiêu dùng. Tất cả những điều này, cuối cùng, chắc chắn dẫn đến sự thất thoát tài chính hữu hình. Việc không tuân thủ các tiêu chuẩn luôn luôn bị trừng phạt.

Có thể hoạt động trên thị trường nếu các tiêu chuẩn được đáp ứng không? Dĩ nhiên có. Có thể hưởng lợi từ việc không tuân thủ chúng hay không? Cũng có. Tuy nhiên, xác suất chiến thắng nếu tiêu chuẩn được đáp ứng (đặc biệt là nếu "đấu thủ" không có vốn lưu động như Intel, IBM, Motorola, v.v.) là cao hơn nhiều so với trong trường hợp hưởng lợi khi từ chối các tiêu chuẩn đó.

Công nghệ COTS phần cứng và phần mềm hiện đại - đó là nền tảng thực tế nhất, xung quanh nó ngày nay người ta xây dựng nên tòa nhà công nghệ "kép", có khả năng làm việc hiệu quả trong các hệ thống công nghiệp, truyền thông và các hệ thống thử nghiệm / đào tạo, cũng như trong các ứng dụng quân sự nghiêm ngặt bằng cách sử dụng một công cụ phần mềm duy nhất. Công nghệ COTS - đó là các thành tố cơ bản của phần cứng và phần mềm sản xuất hàng loạt, được thiết kế để tích hợp duy nhất các hệ thống theo đơn đặt hàng có mục tiêu nhất định, cũng như để hoàn tất loạt xê ri sản phẩm riêng của thiết bị có mục tiêu ban đầu.

Đây là công cụ tạo ra hệ thống, một nền tảng công nghệ nào đó, chứ không phải là một hệ thống cuối cùng. Chúng cho phép bạn sử dụng số lượng khổng lồ sẵn có các thành phần phần cứng và phần mềm mua được, khi cần phát triển và sản xuất các module nguyên thủy riêng của mình và chương trình phần mềm đảm bảo, tập trung vào vấn đề quan trọng và tốn kém nhất: thiết bị kỹ thuật hệ thống, quản lý, kỹ thuật, áp dụng và hỗ trợ hệ thống có mục tiêu riêng của mình, phát triển chương trình phần mềm ứng dụng và thực hiện bí quyết công nghệ của mình trong thời gian ngắn nhất có thể. Và đây chính là những yếu tố rất mạnh mẽ, giúp các chuyên gia trong nước xây dựng các hệ thống quân sự có các nhiệm vụ khác nhau nhất.

Thông tin về Tác giả
Alexey Rybakov - chuyên viên công ty RTSoft.

........
« Sửa lần cuối: 26 Tháng Mười Một, 2011, 11:29:10 pm gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #568 vào lúc: 28 Tháng Mười Một, 2011, 03:16:35 am »

(tiếp)

Vấn đề thu tín hiệu của hệ thống thông tin liên lạc với tàu ngầm

Bài của kỹ sư người Italia R.Romero và kỹ sư Phần Lan  V.Lehtoranta (tải lên vlt.it ngày 22/11/1999)

Các tín hiệu hướng tới các tàu ngầm nguyên tử đang bơi trong tư thế ngầm. Mỹ và Nga phát sóng đi trong băng tần số vô cùng thấp ELF (ELF - Extremely low frequency;КНЧ - Крайне низкие частоты: tần số từ 3 - 30Hz, bước sóng 10 000 - 100 000 km; trong thực tế 2 cường quốc này sử dụng băng tần siêu thấp SLF có tần số trong khoảng 30 - 300 Hz, bước sóng 1000 - 10 000 km) tạo ra một mã nhị phân chậm. Hệ thống của Mỹ sử dụng tần số 76 Hz (chiều dài sóng 3656 km, băng tần SLF: tần số siêu thấp - Сверхнизкие (СНЧ)), còn hệ thống của Nga sử dụng tần số 82 Hz (chiều dài sóng 3944,64 km, băng tần SLF: tần số siêu thấp - Сверхнизкие (СНЧ)); công suất năng lượng bức xạ hiệu quả E.R.P. (Effective Radiated Power) là nhỏ, có thể chỉ một vài Watts, nhưng tín hiệu có khả năng thu được trên toàn thế giới. Kiểu thu tin đặc biệt này đòi hỏi có các bộ lọc thông thấp (low-pass filters - Фильтр ни́жних часто́т (ФНЧ)) để tránh quá tải đầu vào với các môi trường khu vực. Tất cả các ảnh phổ tín hiệu trong phần này nhận được với ăng-ten Marconi T và vòng lặp theo phương ngang (2100 m2). Xem chi tiết trong phần TRẠM, GIẤY PHÉP ITU VÀ CÁC DỊCH VỤ DƯỚI 22 kHz, tại mục "76 Hz".

________________________________________

160999-2022


Điện trường theo phương đứng và điện trường theo phương ngang. Trong điện trường phân cực đứng, ta có thể nhìn thấy cộng hưởng Schumann (Schumann resonance; mang tên nhà vật lý Đức Winfried Otto Schumann, tìm ra năm 1952). Đồng thời, điện trường theo phương ngang cho thấy các tín hiệu không xác định ở mức 26 và 74 Hz (xem mục "dưới 150 Hz ") và một âm 76 Hz yếu từ hệ thống của quân đội Mỹ (tôi đoán vậy). Ta quan sát thấy rằng những sự phân cực khác nhau cho ra các tín hiệu hoàn toàn khác nhau. Các khu vực được lựa chọn ở phần cao nhất của ảnh phổ bên phải được phân tích trong hình ảnh tiếp theo.

160999-2022


Bức ảnh này được tạo ra khi thử nghiệm phần mềm CoolEdit 96 bởi Syntrillium Software. Phiên bản Shareware có sẵn tại http://www.syntrillium.com. Chương trình này không tạo ra biến đổi Fourier nhanh FFT trong thời gian thực, nhưng xử lý các file sóng để đo đạc, tạo các ảnh phổ tín hiệu vô tuyến điện từ (spectrograms) và phổ âm thanh (sonograms). Đường màu tím biểu diễn điện trường theo phương đứng và đường màu xanh biểu diễn điện trường theo phương ngang. Có thể nhìn thấy cộng hưởng Schumann ở 7-14 - 21 Hz trong vết điện trường theo phương thẳng đứng, âm (tiếng ồn) của tàu ngầm tại tần số 76 Hz trong điện trường ngang. Chúng cùng ở mức 10dB dưới mức nhiễu nền theo phương đứng. Tín hiệu tại tần số 85 Hz đến từ màn hình máy tính.

121099-1250


Điện trường theo phương ngang, nhận được với (anten) vòng lặp theo phương ngang. Trong phần cao của ảnh phổ, tín hiệu âm 82 Hz yếu nhưng rõ ràng, xuất hiện trong mã nhị phân một thời gian ngắn. Nó có lẽ có nguồn gốc Nga.
Bất kỳ thông tin nào về tín hiệu này (vị trí, công suất, loại điều chế ...) đều được hoan nghênh!
 ________________________________________

Cám ơn Väinö Lehtoranta, OH2LX, Phần Lan. Ông đã viết một bài báo về ELF trên tạp chí SHRS (trong ngôn ngữ Phần Lan). Đây là đóng góp của ông ấy, về các trạm "lắng nghe" tàu ngầm. Các hình ảnh này rất thú vị.

Hình ảnh này cho thấy sơ đồ truyền dẫn trong băng tần ELF: trạm phát, sự truyền tín hiệu và kỹ thuật thu nhận trong tàu ngầm đang ở tư thế lặn.



Hình ảnh này, ở kích thước đầy đủ rất rõ ràng, cho thấy tất cả các hệ thống thông tin liên lạc được sử dụng trong tàu ngầm. Các băng tần VLF và ELF chỉ là một phần nhỏ trong toàn bộ các tuyến thông tin liên lạc đến và đi từ các tàu ngầm. Các căn cứ mặt đất, các trạm trên không trung và vệ tinh đều tham gia vào quá trình liên lạc.



Bức ảnh này trình bày một sự cài đặt đặc trưng của trạm liên lạc sóng ELF với tàu ngầm, giữa các bang Michigan và Wisconsin. Hai trạm lắp đặt cách nhau 148 dặm (238 km). Tín hiệu vô tuyến được tạo ra tại điểm trung tâm giữa hai trạm.



Ảnh chụp từ trên không trạm vô tuyến tần số vô cùng thấp ELF của Hải quân Mỹ tại CLAM LAKE, WISCONSIN (WI) UNITED STATES OF AMERICA (USA). Date of Shot: 1 Feb 1982 (ru.viki).

(nguồn vlf.it - của hội chơi vô tuyến điện tài tử - Amateur Radio)
.......
« Sửa lần cuối: 29 Tháng Mười Một, 2011, 09:28:49 am gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #569 vào lúc: 29 Tháng Mười Một, 2011, 09:26:16 am »

(tiếp)

Các trạm vô tuyến, giấy phép ITU và các dịch vụ dưới 22 kHz

Danh sách dưới đây là tổng hợp dữ liệu về các trạm và các dịch vụ hoạt động ở tần số dưới 22 kHz. Giới hạn tần số này là của card SoundBlaster hoạt động ở tần số lấy mẫu 44.1 kHz, vậy nên việc giám sát phần phổ này là không đắt và chỉ đòi hỏi việc kết nối trực tiếp anten tới đầu vào S/B - không có bộ thu nào hết!
________________________________________

Danh sách rút gọn có thể tìm thấy ở http://moondog.astro.louisville.edu/flares/stations.html.
Sự đóng góp phù hợp nhất là từ Rick Warnett, người thu thập được các cuộc nghe cá nhân và dữ liệu từ các nguồn khác, bao gồm cả LWCA (Longwave Club of America). Cám ơn Rick đã cho phép xuất bản dữ liệu của mình ở đây. Các ghi chú dài và các báo cáo s / n là lấy từ ông. Tín hiệu được đánh dấu bằng -mb đã được kiểm tra bởi Marco Bruno, IK1ODO (Amateur Radio QTH locator), từ Torino, Italy.
Tín hiệu đánh dấu bằng DG4BAS được kiểm tra bởi Manfred Kerckhoff, DG4BAS, từ Bremen, Đức.
Paul Hawkins là G4KHU.
Klaus Betke là DL4BBL.
Danh sách này là dự kiến Bất kỳ bổ sung, chỉnh sửa nào đều được chào đón. Dữ liệu đến từ các nguồn khác nhau và qua kiểm tra chéo đôi khi hơi lộn xộn.

Những màu sắc hiển thị tần số trong một danh sách đại diện cho các băng tần được dẫn ra dưới đây (về bản chất không khác nhau, nhưng tên gọi thì khác quy định của ITU một chút).

VLF    Very Low Frequency    3 kHz    30 kHz
VF    Voice Frequency    300 Hz    3 kHz
ELF    Extremely low Frequency    30 Hz    300 Hz
ULF    Ultra Low Frequency    3 Hz    30 Hz

21,4 kHz
Tín hiệu gọi NPM (Call sign NPM), trạm Lualualei ở Hawaii - trạm của Hải quân Mỹ (USN station). Băng thông nghe được MSK (minimum-shift keying (MSK) - частотная модуляция с минимальным сдвигом) - Lowdown 2/99- 566kW ERP
12/7/98 1334, 4T untuned loop-95dbm noise floor (mức sàn tiếng ồn) @ 23K <-110dbm tỷ số S / N> 15dB
28/8/98 2116, V40 L202 350Hz -400-87dbm.


Cột anten trạm liên lạc sóng VLF với tàu ngầm của Hải quân Mỹ tại (Toạ độ: 21°25'13"N   158°9'14"W) thung lũng Lualualei, đảo O'ahu, quần đảo Hawaii.

21,1 kHz
Tín hiệu gọi 3SB, trạm Đại Đồng, Sơn Tây, Trung Quốc. (Toạ độ: 39°56'43"N   113°15'7"E)
28/12/95 0540, HF1000 LW7 CW (continuous wave) 200Hz -400-65dBm, kêu như máy fax!
21/4/96 2208, CW nghe được tới -80, khoảng 10 wpm.


Sự thay đổi ánh xạ trong điều chế pha liên tục (CPM - Continuous phase modulation).



Một ví dụ về điều tần với độ di tần π/2 .

20.9 kHz
unid (không định danh được) – 11/9/99, msk 50 Bd (-mb-)
________________________________________
20.6 kHz
3SB, xem thêm mục 19.5 KHz. Longwave ID định danh là 3SA chỉ vào dịp 2/99.
UTR3/UQC3, không có thông tin gần đây, xem mục 25.0 KHz
RAB99, RHJ77 và RHJ66, trạm của người Ngatại Khabarovsk, Arkhangelsk và Bishkek (Kirghizii). Số liệu từ Longwave 2/99. (Longwave Club of America).
23/7/99 2131, V40 L202 CW 500Hz cần tách các tín hiệu RTTY (Radioteletype) -86dbm.

Biển kỷ niệm Samuel Morse, cha đẻ mã Morse. Old Post Office Bldg, 7th Sts between F and G NW, Washington D.C.
________________________________________
20.5 kHz
3SA/3SB căn cứ hải quân Đại Đồng (Datong), Trung Quốc.
________________________________________
20.3 kHz
ICV, Tavolara, ITALY, 20kW ERP (or 100kW?).
Oct./99 1015 nhận được bởi DG4BAS trong dạng msk (minimum-shift keying)
________________________________________

.......
« Sửa lần cuối: 30 Tháng Mười Một, 2011, 01:15:21 pm gửi bởi qtdc » Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM