Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 15 Tháng Năm, 2024, 06:01:54 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Căn cứ quân sự Cam Ranh  (Đọc 531845 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #550 vào lúc: 05 Tháng Mười Một, 2011, 04:46:33 pm »

(tiếp)

Cuối cùng, vào cuối tháng Chín, chính xác là 26/9/1982, đã ban hành lệnh của Tư lệnh binh đoàn tàu ngầm số 4 về việc thành lập tại binh đoàn nhóm sáng kiến của các sỹ quan nhằm phát triển máy tính chuyên dụng. Đó là ngày khai sinh chính thức nhóm sáng kiến của chúng tôi. Công việc tiến triển tốt. Chúng tôi đã gặp Bộ chỉ huy Hạm đội Biển Bắc, đại diện Cục KTVTĐT, chứng minh tính xác đáng của việc bổ sung cho tàu ngầm thiết bị kỹ thuật tính toán chuyên dụng, mà khi kết hợp với hệ thống định hướng âm của tổ hợp thủy âm chính tắc, có thể nâng cao đáng kể hiệu quả của nó trong phát hiện và phân loại các mục tiêu trên mặt nước và dưới mặt nước. Ngoài ra, việc kết nối thiết bị bổ sung vào tổ hợp thủy âm MGK-400 không hề gây ra khó khăn nào.

Các nhà thiết kế tổ hợp trong trường hợp này đã tính trước những khe cắm chính thức, có thể kết nối với bất kỳ thiết bị nào. Kết nối được thực hiện tại điểm sau bộ tạo đồ thị định hướng anten (Диаграмма Направленности - ДН - Radiation pattern), trước khi truyền tín hiệu vào kênh khuếch đại chính. Song song với các công việc thực hiện tại hạm đội, Kuryshev V.E. gặp gỡ với các nhà khoa học đang nghiên cứu giải quyết những vấn đề tương tự.


Đồ thị định hướng của một anten định hướng tiêu biểu (ru.viki).


Đồ thị định hướng theo góc vị trí (ru.viki).


Đầu năm 1983, Tư lệnh Hạm đội Biển Bắc ký lệnh thành lập nhóm sáng kiến tại binh đoàn tàu ngầm số 4 để áp dụng các phương tiện tính toán kỹ thuật số trên tàu ngầm nhằm mục đích làm tăng hiệu quả cho nó trong nhiệm vụ phát hiện tàu ngầm.

Tháng Chín năm 1983, tại Viện Nghiên cứu Khoa học Bộ Quốc phòng ở thành phố Pushkin,, Hội đồng Khoa học mở rộng đã tiến hành xem xét đề xuất về phương pháp xử lý kỹ thuật số tín hiệu thủy âm. Nhóm sáng kiến: Kuryshev V.E., Sumachev A.M. và Bukovsky Yu.V. trình bày để thảo luận và đánh giá công trình lý thuyết trong việc xử lý kỹ thuật số tín hiệu thủy âm và cải thiện khả năng của  hệ thống thủy âm về tầm xa phát hiện và phân loại mục tiêu, ủy ban đáng kính gồm các chuyên gia hàng đầu thuộc các Viện chuyên ngành kỹ thuật quân sự và các tổ chức khoa học dân sự (khoảng 30 người), chăm chú lắng nghe và đặt câu hỏi trong quá trình Sumachev và Kuryshev báo cáo. Kết quả: các chàng trai là các sĩ quan tốt, nhưng không làm đúng việc của mình, chúi mũi vào chỗ người ta không yêu cầu, họ mắc tay vào cái cày nhưng chẳng ai kéo cho, tất cả những gì các anh tặng chúng tôi, hoàn toàn vô nghĩa, không có một chút căn cứ vật lý nào. Hợp lý nhất đối với họ là quay trở lại Polyarny, quên mọi thứ đi, tiếp tục phục vụ trên vị trí của mình và đừng có kéo giới khoa học ra khỏi các nghiên cứu khoa học nghiêm túc của người ta.

Tuy nhiên, Bộ tư lệnh hạm đội đã ra một quyết định khôn ngoan. Công trình được lệnh vẫn tiếp tục tiến hành, Cục KTVTĐT được chỉ thị đảm bảo cung cấp cho nhóm phát triển các máy phân tích phổ trong nước BPF-2M và máy tính DVK-2M, để Kuryshev phát triển thuật toán và phần mềm, xây dựng từ máy phân tích phổ và máy tính điện tử một thiết bị có khả năng làm việc, và trong thời hạn sớm nhất, chuẩn bị cho anh ấy tiến hành thử nghiệm hiện trường trên các tàu ngầm của binh đoàn số 4. Sau khi nhận được sự phê chuẩn của Bộ tư lệnh hạm đội, những người tin tưởng chúng tôi mà không quan tâm đến bất kỳ kết luận tiêu cực nào từ Hội đồng KHKT mở rộng trên, chúng tôi hiểu rằng mình có trách nhiệm rất lớn khi hứa với bộ chỉ huy sẽ thúc đẩy công việc của mình đạt đến kết quả thực tế. Với một năng lượng được nhân đôi, chúng tôi lao vào công việc. Nếu như chúng tôi biết chúng tôi đã động vào một cỗ máy không thể lay chuyển được như thế nào. Nhưng ngay cả khi chúng tôi biết, chúng tôi cũng vẫn không rút lui! Tuổi trẻ có những sự liều lĩnh và ngông cuồng, mà bạn phải trả giá sau này. Nhưng điều này khi ấy chúng tôi không nghĩ tới, bởi lẽ chúng tôi đâu có thần lực nhìn thấu hàng chục năm sau.

Đầu tháng Tám năm 1985, Cục trưởng KTVTĐT thời đó, chuẩn đô đốc Popov thực hiện một nỗ lực tuyệt vọng nhằm làm gián đoạn công việc của chúng tôi. Ông gửi tới địa chỉ Phó tư lệnh thứ nhất Hạm đội Cờ Đỏ Biển Bắc một bức điện nói rằng thiết bị kỹ thuật chuyển cho Kuryshev đã không còn hoạt động và, do đó, nó phải được lấy lại, và các thủ phạm phải bị trừng phạt. Tuy nhiên, Bộ Tư lệnh Hạm đội Cờ Đỏ Biển Bắc không mắc lừa và ra lệnh tiếp tục làm việc.

Ngày 16 tháng 9 năm 1985 đã chế tạo xong hoàn chỉnh thiết bị đầu tiên BPF-2M-DVK-2M, sau này được gọi là "RITSA". Bản thân thiết bị này được chế tạo như một tổ hợp từ hai thiết bị hoàn toàn khác nhau, nay hoạt động như một thực thể duy nhất, khi đó chính là một cuộc cách mạng kỹ thuật nhỏ, cũng đủ nói lên chất lượng của các sỹ quan trong nhóm sáng kiến. Về bản chất, trong đất nước ta đã tạo ra chiếc máy tính mi ni để bàn đầu tiên có kiến trúc mở, cho phép trên hai kênh đồng thời, trong thời gian thực, đưa các tín hiệu analog làm tín hiệu đầu vào bộ ADC 12-bit để chuyển đổi sang mã dạng kỹ thuật số, xử lý bằng bộ xử lý chuyên dụng và chuyển sang một máy tính để xử lý tiếp, xuất kết quả thu được ra màn hình hoặc máy in. Giữ vai trò đặc biệt trong sự ghép nối máy phân tích phổ với máy tính DVK là thượng úy hải quân Sinyakin Yu.D. và Chobitko A.I., những người rất thành thạo trong kỹ thuật vi xử lý và lập trình.

Xét một thực tế là định dạng số do BPF xuất ra không phù hợp với định dạng số sử dụng trong DVK, các chuyên gia sẽ hiểu những khó khăn phải khắc phục trong quá trình kết nối phần "cứng”.  Các chương trình kết nối được viết bằng ngôn ngữ ASSEMBLER. Thế cũng đủ nói rằng chiến công này, ở nước ta khi đó, sẽ không ai khác có thể lặp lại, và những người tài tử sẽ không làm được. Kết quả của những nỗ lực khủng khiếp trên đã tạo ra một bộ máy duy nhất cho phép xử lý các tín hiệu đầu vào tại điểm kết nối và hiển thị thông tin thu được trên màn hình dưới dạng các thông tin phương vị tại các tọa độ. 27 Tháng Chín năm 1985 hai tàu ngầm diesel ra khơi tại biển Barentsev, lặn xuống cách nhau 20 kabelt và bắt đầu phân tán đội hình, phù hợp với kế hoạch bài tập. Sau khi mất tiếp xúc trên tổ hợp chính thức MGK-400 và sỹ quan thủy âm báo cáo về thực tế không may này cho buồng điều khiển trung tâm được biết, tiếp xúc với tàu ngầm-mục tiêu chỉ còn duy trì được theo số liệu thiết bị  "RITSA" cho đến khi nào nó còn làm việc. Tôi muốn nhận xét rằng máy phân tích phổ, trải qua quá trình được quân đội chấp nhận, trong suốt thời gian hoạt động của tất cả các thiết bị "RITSA"  không lần nào hỏng. Người ta chế tạo nó bằng lương tâm của mình! Còn với máy tính DVK-2M, không được như vậy. Liên tục bị hỏng hóc, bộ vi xử lý của nó, khi xử lý một số lượng lớn các số dấu chấm động, dường như định kỳ có lỗi. Vì vậy, máy tính chỉ làm việc ổn định với số học các số nguyên. Làm thế nào để biết? Đây là cả một câu chuyện riêng. Rất thú vị, tôi sẽ kể sau, bởi vì tôi là người phát hiện ra khiếm khuyết này.

Trở về căn cứ sau cuộc tập trận, gỡ giấy can ra, kiểm tra phương vị và mọi người rất ngạc nhiên. Phương vị thu được theo "RITSA" trùng với phương vị của hoa tiêu tại các thời điểm báo cáo, và khoảng cách duy trì được tiếp xúc ba lần cao hơn so với khoảng cách mất tiếp xúc trên tổ hợp MGK-400. Có thể là còn lớn hơn nữa nếu như máy tính DVK không phản thùng. Vâng, và tiếp sau đó là vòng xoáy chóng mặt! Các cuộc ra khơi, hoàn thiện các thuật toán và chương trình phần mềm, sửa chữa và thay thế bảng mạch DVK bị trục trặc, tìm kiếm vật tư thay số đã tiêu hao, giảng lại cho người chưa biết và huấn luyện lại cho người chưa thành thạo, sự tán thành của những người đồng cảm, mưu mô của những kẻ không thiện ý, những lời rủa xả từ ban lãnh đạo trực tiếp, những chỉ thị từ cấp cao hơn, những phiên trực, những ca gác, chứng minh sự hiển nhiên và nhận được kỷ luật vì sự không hoàn thành nhiệm vụ. Nói chung, một cuộc sống bình thường tại hạm đội với tất cả các sự việc vốn có, đủ cả trật tự, hỗn loạn và hài hước.

Khắp nơi dồn vào chúng tôi. Bộ Tư lệnh thì do công việc chúng tôi làm quá chậm, giới khoa học thì vì những gì chúng tôi làm chính chúng tôi không biết và không hiểu và không thể được nếu xét về nguyên tắc, các cô vợ của chúng tôi thì vì chúng tôi đã tham gia vào một cuộc phiêu lưu mà không ai biết sẽ kết thúc ra sao, và trong tư tưởng của họ, chúng tôi đã đặt cây thập tự lên trên đời phục vụ và sự nghiệp của chúng tôi mất rồi. Nhưng bất chấp tất cả những khó khăn trên, chúng tôi đã không rút lui. Kinh nghiệm, kiểm chứng rồi thử nghiệm như thể vô tận, những cơ sở lý thuyết nghiêm túc, thuyết phục chúng tôi rằng chúng tôi đang đi đúng hướng. Và công việc khó khăn của chúng tôi cuối cùng đã được tưởng thưởng. Bộ Tư lệnh Hạm đội quyết định tiến hành các cuộc luyện tập thường xuyên để xác định và phát hiện các tàu ngầm nguyên tử đi qua các khu vực được giao trách nhiệm. Việc săn tìm các con tàu đi qua như vậy sẽ thực hiện bởi các tàu ngầm nguyên tử đề án 671RTM với tổ hợp thủy âm "Skat-KS" có gắn "RITSA". Bản chất của bài luyện tập như sau. Trong biển Barentsev người ta khoanh ra liên tiếp vài hình vuông mà hai chiếc tàu ngầm phải vượt qua đó theo một "góc", và tương ứng cả hai tàu trở lại căn cứ "từ đó". Trong mỗi hình vuông người ta phái tới một tàu có nhiệm vụ phát hiện tàu ngầm đi qua bằng thiết bị "RITSA", và sau đó tiếp tục bám theo cho đến khi có tiếp xúc thủy âm bằng tổ hợp "Skat-KS". Trên một trong những chiếc tàu tiến hành công tác săn tìm đó có tôi, ở cương vị điều hành thiết bị "RITSA". Để có đánh giá khách quan về khả năng của thiết bị, đã thành lập một ủy ban liên ngành, các nhà quan sát thuộc ủy ban ở ngay trên con tàu đang thực hành công tác tìm kiếm. Con tàu mà tôi có mặt trên đó đã ở trên biển nhiều ngày đêm. Trong thời gian này, khi khảo sát đường chân trời, tôi đã hai lần thấy dấu hiệu của hai chiếc tàu ngầm nguyên tử và báo cáo với thuyền trưởng tàu ngầm.
.........
« Sửa lần cuối: 06 Tháng Mười Một, 2011, 12:54:13 am gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #551 vào lúc: 06 Tháng Mười Một, 2011, 12:52:01 am »

(tiếp)

Trường hợp đầu tiên theo ba phương vị thu được từ "RITSA", thuyền trưởng bắt đầu cho tàu mình vận động để xác định các yếu tố chuyển động của mục tiêu (ЭДЦ - Элементы Движения Цели) và chiếm vị trí theo dõi. Theo tính toán của hoa tiêu khoảng cách phát hiện ban đầu là khoảng 150 kabelt. Thuyền trưởng phản ứng với thông tin này bằng sự hoài nghi. Tại các khoảng cách như vậy, "Skat" chỉ có thể phát hiện mục tiêu mặt nước mà thôi. Nhưng không mất đi đâu cả, báo cáo về việc phát hiện tàu ngầm nguyên tử đã vang lên, được ghi nhận trong tất cả các nhật ký trên tàu và người chỉ huy quyết định thay đổi hướng tàu mình để tính toán hướng và tốc độ của mục tiêu vừa phát hiện. Theo phương vị thu được từ "RITSA", hoa tiêu và tổ hợp thông tin chỉ huy tác chiến BIP đã tính toán ra hướng sơ bộ, tốc độ mục tiêu và khoảng cách hiện tại đến nó, khoảng 90 kabelt. Tàu chúng tôi nằm trên hướng song song với hướng mục tiêu đó. Thuyền trưởng quyết định tăng tốc độ  để đạt tới tiếp xúc thủy âm bằng tổ hợp "Skat". Khi tăng tốc độ đồng thời mức ồn nội tại đối với sự làm việc của tổ hợp thủy âm đã tăng cao và "RITSA" mất tiếp xúc với mục tiêu, như đã báo cáo với thuyền trưởng, sau đó thuyền trưởng dừng bám mục tiêu.

Trường hợp phát hiện tàu ngầm thứ hai là sau đó khoảng một ngày, báo cáo cũng vang lên trong buồng chỉ huy trung tâm và cũng cho phương vị để hoa tiêu đánh giá các yếu tố chuyển động của mục tiêu. Theo phương vị nhận được và theo tính toán của hoa tiêu, mục tiêu đã được phát hiện ở khoảng cách khoảng 300 kabelt. Thuyền trưởng từ cabin hoa tiêu đi đến buồng thủy âm với một nụ cười châm biếm, nhìn tôi, xoay ngón tay vào cổ ông ta rồi trở về buồng điều khiển trung tâm. Một phút sau, tôi được chỉ thị không báo cáo về mục tiêu đó nữa, tôi cảm thấy vui mừng. Thành thật mà nói, việc phát hiện mục tiêu ở khoảng cách đó cũng làm bản thân tôi lúng túng. Chắc chắn tôi không nghi ngờ khả năng của thiết bị, nhưng trong giới hạn hợp lý thôi. Hãy tưởng tượng sự ngạc nhiên của tôi khi vài ngày sau, lúc phân tích các bài tập tại Bộ tham mưu Hạm đội, tôi thấy sơ đồ đường cơ động tàu ngầm của tôi và các hướng đi qua khu vực đa giác tập của các tàu ngầm-mục tiêu. Cả hai lần phát hiện tàu ngầm là hai lần thực sự phát hiện, phương vị báo cáo đã trùng hợp với thực tế, và khoảng cách phát hiện trong trường hợp đầu tiên, tính ra là 136 kabelt. Trong lần thứ hai là 260 kabelt. Nếu người khác nói tôi sẽ không tin. Tuy nhiên, Ủy ban đã thảo luận các tài liệu nhận được từ các tàu khác, mà các kết quả tích cực là không được thật rõ ràng. Kết quả thu được trên tàu chúng tôi, không ai nhận thấy, ngoại trừ các sỹ quan của hạm đội, nhưng họ không ở trong thành phần ủy ban và ý kiến của họ không ảnh hưởng đến quyết định cuối cùng của ủy ban về khả năng của thiết bị.

Chỉ sau đó tôi bắt đầu nhận ra rằng những kết quả tích cực thu được từ thiết bị "RITSA", do kết quả lớn, không làm ủy ban thích thú, rằng đã có một phương châm xác định trước và quyết định cũng đã được định trước của lãnh đạo ủy ban không ủng hộ "RITSA". Rõ ràng, bằng hành động và kết quả của mình, chúng tôi đã dẫm lên ngón chân của ai đó. Bởi vì tất cả giới khoa học chuyên ngành của chúng ta, lãnh đạo Cục KTVTĐT, biết rõ hiệu quả thấp của hệ thống thủy âm của chúng ta, vẫn cố gắng thuyết phục các nhà lãnh đạo quân sự và chính trị của đất nước rằng chúng ta không tụt lại phía sau người Mỹ trong việc thiết kế và xây dựng các phương tiện quan sát  thủy âm được lắp đặt trên các tàu ngầm, tàu mặt nước và máy bay của chúng ta. Đồng thời lãnh đạo Hải quân viện dẫn lập luận rằng việc xử lý tín hiệu thủy âm của họ và ta đã gần như nhau, tức là cùng những thuật toán tương tự (xử lý tín hiệu kết hợp theo không gian-đối sánh : пространственно-кореляционная обработка когерентного сигнала : spatial - correlation coherence signal processing) và mức hiệu quả khác hơn là không thể có được. Nào là các giải pháp kỹ thuật được sử dụng trong việc thiết kế ăng-ten, các bộ biến đổi, máy phát, xây dựng hệ thống thủy âm cũng như nhau cả, và chúng tôi có phần đang vượt trội so với người Mỹ. Rằng chi phí của hệ thống thủy âm của chúng ta tương xứng với đặc điểm kỹ chiến thuật, thậm chí còn thấp hơn, và sự chuyển sang xử lý bằng kỹ thuật số sẽ đòi hỏi những chi phí không cần thiết và làm giảm độ nhạy của thiết bị thủy âm xuống mức tín hiệu đầu vào, do đó làm giảm tỷ lệ S/P (tín hiệu/tạp âm) ở đầu vào kênh thủy âm, tức là làm cho hệ thống của chúng ta thậm chí còn kém nhạy hơn nữa.

.......
« Sửa lần cuối: 06 Tháng Mười Một, 2011, 02:17:15 am gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #552 vào lúc: 06 Tháng Mười Một, 2011, 04:48:45 am »

(tiếp)

Và hãy đi kiểm tra, bạn sẽ thấy không phải hoàn toàn như vậy, trong những điều kiện độc quyền quốc gia tuyệt đối. Trong lĩnh vực thủy âm chúng ta không có bất kỳ sự cạnh tranh nào và nó đã đem lại kết quả tiêu cực. Các thiết bị kỹ thuật số đã không đáp ứng cho tổ hợp Công nghiệp - Quân sự hùng mạnh (Вое́нно-промы́шленный ко́мплекс - ВПК) với số lượng cần thiết, và trong nước ta sự phát triển của nó diễn ra ở một tốc độ chưa đủ tầm. Tình hình ở lĩnh vực này giống như tình hình trong ngành công nghiệp ôtô của chúng ta. Sáng tạo cái mới làm gì, khi mà sản phẩm vốn được độc quyền nhiều năm liên tiếp. Kết quả là trong lĩnh vực thủy âm chúng tôi nhận được đúng những thứ giống như trong ngành công nghiệp ô tô. Một đằng là "Zhiguli" và "Moskvitch" còn một đằng là "Mercedes" và "BMW". Cũng chỉ là ô tô. Cũng bánh xe, khung xe và động cơ. Cùng hoạt động trên một nguyên tắc vật lý. Tuy nhiên, sự khác biệt giữa các xe của chúng ta và họ rõ ràng là đáng kể. Nếu tổ chức cuộc thi ai chiến thắng chúng ta có thể dự đoán được. Và bởi vì "xe ngoại" tăng tốc đến 100 sau năm hay sáu giây, thì Zhiguli mất 13 giây. Nhưng nếu lắp động cơ siêu nạp cho Zhigulenka thì nó cũng sẽ tăng tốc độ lên 100 sau 5 giây, và sau đó mới có thể đua tranh cùng "xe ngoại". Nhưng điều khó chịu nhất trong tình huống này là chúng ta đang tụt lại phía sau trong vấn đề phát triển công nghệ mới cho xử lý thông tin. Sự vắng mặt công nghệ kỹ thuật số mở và những ý tưởng mới gây ra sự trì trệ trong lĩnh vực này.

Nhưng hãy trở lại với ủy ban của chúng ta.
Kết quả tích cực đã thu được khi thử nghiệm thiết bị "RITSA" đã làm nảy sinh ở bộ chỉ huy hạm đội những câu hỏi mà giới khoa học giáo điều đã không có câu trả lời rõ ràng. Vì vậy, tất cả các kết luận về các cuộc thử nghiệm, trong đó có ủy ban liên ngành của hạm đội tham gia, nhìn chung đều tiêu cực. Một số nhà khoa học và quan chức của Hải quân chúng ta không thể thảo luận trên quan điểm những phương pháp mới đầy triển vọng, được đề xuất bởi các sĩ quan hải quân thuộc nhóm sáng kiến. Nhưng bất chấp những kết luận tiêu cực của Ủy ban, bộ tư lệnh hạm đội đã ra lệnh tiếp tục làm việc về đề tài thiết bị "RITSA". Công việc vẫn cứ tiếp tục.

Trong năm 1987, tại Severomorsk, trong Trung tâm nghiên cứu khoa học số 5, đã thành lập một ban và chuyển tất cả nhóm sáng kiến từ Polyarny tới đây. Ban này có nhiệm vụ tiếp tục hoàn thiện thiết bị "RITSA", thu thập và phân tích kết quả hoạt động của thiết bị trên các con tàu của hạm đội, đào tạo cán bộ làm việc với thiết bị. Tiện thể nói thêm, trước đó, xuất phát từ ban lãnh đạo Viện 14 ở thành phố Pushkin đã có đề nghị thành lập một phòng thí nghiệm cho cùng mục đích như vậy, họ sẵn sàng thu nhận tất cả các sỹ quan của nhóm sáng kiến. Vậy là, đối thủ của chúng tôi, mặc dù họ goi chúng tôi là lang băm, nhưng họ biết rằng trong công việc của chúng tôi có điều tích cực và nếu không thể thực sự bảo vệ nó, tốt nhất là để họ lãnh đạo. Tuy nhiên, chúng tôi đã từ chối lời đề nghị hấp dẫn này, bởi hiểu sự sáng tạo sẽ kết thúc, và chúng tôi sẽ rơi vào sự phụ thuộc kế hoạch gắn bó của Viện với những đề tài và thời hạn thi hành khắc nghiệt. Sự từ chối này đã bắt chúng tôi trả giá. Một vài tháng sau khi chúng tôi được bổ nhiệm, Kuryshev V.E. bị cách chức Phó ban và được đày đi  "solovki", tức là đến một trung tâm huấn luyện không quan trọng với cương vị thuyền trưởng, ở đâu đó gần Arkhangelsk.

Những người còn lại được người ta khuyến cáo quên nó đi và hãy làm việc trên các đề tài được phê duyệt. Thiếu anh ấy người lãnh đạo khoa học về đề tài do Sumachev A.M. đảm nhiệm. Nhưng trong cuộc sống này không phải mọi việc dễ dàng như vậy! Bộ tư lệnh Hạm đội Cờ Đỏ Biển Bắc đã kéo Kuryshev từ nơi tối tăm về và phái đến ban tác chiến chống ngầm của hạm đội, đứng đầu vào thời gian đó là đại tá hải quân V.O.Gavrilov. Sau khi Kuryshev ổn định tại ban tác chiến chống ngầm, tôi lại được bộ chỉ huy hạm đội gửi đến đó cùng tiếp tục làm việc chung. Tại đây, chúng tôi tổ chức một phòng thí nghiệm nhỏ nhưng được trang bị tốt, cho phép chúng tôi thực hiện đầy đủ cả hai công trình lý thuyết và thực tiễn về "RITSA".

Đầu tháng Bảy năm 1989 đến phòng thí nghiệm của chúng tôi là 2 công trình sư trưởng của NPO "Leninets" (Liên hiệp Khoa học Sản xuất), họ là các nhà phát triển hệ thống thủy âm cho máy bay để phát hiện tàu ngầm, trong thành phần hệ thống tìm kiếm-ngắm bắn mục tiêu (PPS- ППС - поисково-прицельная система - tức hệ "Berkut-38") chính thức, trang bị trên máy bay tuần tra duyên hải IL-38. Tìm hiểu thành tựu của chúng tôi trong lĩnh vực phát hiện tàu ngầm, lãnh đạo NPO quyết định xem liệu có đạt được ích lợi gì cho việc tăng phạm vi phát hiện khi xử lý tín hiệu thông tin thu nhận từ các phao thủy âm bằng phương pháp điều chỉnh thích ứng, so với phương pháp cổ điển, hiện đang được sử dụng trong PPS hiện có của máy bay IL-38. Đã thực hiện kiểm tra trên các băng ghi từ tính thu được từ các thử nghiệm mới nhất của hệ PPS của nó, nhưng không thấy có gì.

Bản chất của bài tập như sau. Tàu ngầm nguyên tử - mục tiêu chiếm lĩnh vị trí xuất phát từ một điểm trong đa giác huấn luyện. IL-38 thả xuống điểm quy định hai phao thủy âm. Theo lệnh từ trên máy bay, tàu ngầm nguyên tử lặn xuống độ sâu quy định, sau đó bơi qua điểm giữa các phao theo hướng và tốc độ  quy định cho đến điểm nổi lên. Nghĩa là trên máy bay sẽ biết chính xác khi nào tàu đi cắt qua đường nối hai phao. Song song với hệ thống chính thức xử lý dữ liệu và hiển thị dữ liệu,đã thực hiện ghi âm trên máy thu từ tính đa kênh trực tiếp từ máy thu radio. Vì cả trên máy bay và trong phòng thí nghiệm khi phân tích tiếp tục đều không phát hiện được mục tiêu, chúng tôi quyết định kiểm tra các băng từ trên thiết bị "RITSA" trong hệ tọa độ thông tin - thời gian.

Trong trường hợp này các nhà thiết kế hoàn toàn không quan tâm đến các thuật toán cài đặt trong phần "cứng", hay cơ sở toán học mà dựa vào đó các thuật toán này được tạo ra. Họ chỉ quan tâm đến kết quả cụ thể, có phát hiện hay không mục tiêu. Để thí nghiệm được thuần túy khác quan họ tự mình ngồi ở bàn điều khiển và đã tự tay mình làm mọi thứ. Chúng tôi đứng cạnh, không can thiệp vào công việc của họ. Khi nhận được những đặc tính thông qua rõ ràng trên các phao thủy âm, mà các tàu ngầm nguyên tử - mục tiêu đã đi qua giữa chúng (nói thêm, các tàu ngầm lớp này được xem là lớp tàu có tiếng ồn thấp nhất tại thời gian đó), giữa các nhà thiết kế bùng lên một cuộc tranh luận ngắn nhưng gay gắt. Tại thời điểm này, họ không chú ý gì đến chúng tôi. Một người cho rằng, điều này là không thể, bởi lẽ khoảng cách phát hiện cao hơn khoảng 5-6 lần so với phạm vi phát hiện tối đa của hệ thống chính tắc, và nói chung, trái với các tính toán tiêu chuẩn.

Người thứ hai cố gắng thuyết phục người thứ nhất tin những gì nhìn thấy trên màn hình và trên bản in. Sau khi xem xét kỹ lưỡng các kết quả thử nghiệm cả hai đi đến kết luận rằng kết quả này là rất nghiêm túc và được ghi nhận trong một biên bản thích hợp. Từ đó về sau, việc này dẫn đến sự hợp tác chặt chẽ với NPO "Leninets". Giữa các bên đã ký kết thỏa thuận nghiên cứu khoa học chung (НИР — «научно-исследовательская работа») và thỏa thuận nghiên cứu khoa học, thiết kế thử nghiệm và chuyển giao công nghệ (НИОКР - Научно-исследовательские, опытно-конструкторские и технологические работы - Research and Developpment) phát triển phương pháp luận toán học, chương trình phần mềm (Програ́ммное обеспе́чение), các thuật toán và áp dụng mẫu có hiệu lực của thiết bị phụ trợ thủy âm vào thành phần hệ thống PPS trong tương lai.


Il-38 ảnh chụp năm 1986 (ru.viki).

Một phần công việc của chúng tôi đã được thực hiện trong khuôn khổ thỏa thuận đã ký, chủ yếu là lập cơ sở lý thuyết, nhưng rồi như là tiền định, thực sự người ta đã chấm dứt tài trợ chúng tôi, và đối với tất cả không còn sonar gì nữa. Năm 1991 Kuryshev được cho ra quân để cắt giảm biên chế, và năm 1992, đến lượt tôi ra đi cũng vì giảm quân số biên chế. Nhưng ba năm sau, đến năm 1995, bằng nhiệt tình trần trụi và sáng kiến của riêng mình, không hề có tiền bạc hay đơn đặt hàng, chúng tôi đã đưa phần mềm vào trạng thái làm việc. Chúng tôi đã tìm được những thuật toán độc đáo để xử lý thông tin thủy âm, hoàn thành thiết bị phụ trợ thủy âm "RITSA" kiểu mới (dựa trên nền tảng cơ bản khác) và phát triển một phương pháp thể hiện thông tin hoàn toàn mới. Năm 1995 tôi rời khỏi Severomorsk đến St Petersburg, Kuryshev thì mãi sau này mới đến Moskva. Các sĩ quan khác, những người đã tham gia trực tiếp và tích cực vào việc chế tạo và sử dụng thiết bị phụ trợ thủy âm "RITSA" tại Hạm đội Biển Bắc, thực tế không còn làm điều đó nữa. Không ai trong số họ có khả năng tự mình làm việc, có lẽ không đủ trí tuệ như anh ấy để có thể tiếp tục công việc mà Kuryshev đã bắt đầu. Tất cả đã phân tán đi nhận các cương vị mới được đề xuất và tiếp tục nhiệm vụ phục vụ quân đội phù hợp với nhiệm vụ họ được giao.

Đối với chúng tôi (tôi và Kuryshev) công việc về đề tài này không chấm dứt, nhưng những kết luận tiêu cực mà ủy ban liên ngành đưa ra khi tiến hành thử nghiệm kiểm tra thiết bị phụ trợ thủy âm "RITSA", cũng như kết luận tiêu cực của Hội đồng KH Hải quân, thực tế đã cắt đứt con đường để áp dụng nó tại hạm đội.
.........
« Sửa lần cuối: 06 Tháng Mười Một, 2011, 08:52:27 pm gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #553 vào lúc: 07 Tháng Mười Một, 2011, 12:37:41 am »

(tiếp)

Tất nhiên, tôi đã vạch ra rất sơ lược các giai đoạn chính trong công việc của chúng tôi. Nhưng để miêu tả chi tiết hơn nữa thì cần phải viết hẳn một cuốn tiểu thuyết. Lịch sử xây dựng nhóm sáng kiến tại binh đoàn tàu ngầm diesel số 4 Hạm đội Biển Bắc và công việc của nó trong giai đoạn 1981 đến 1995 là một tiền lệ rất độc đáo. Tại hạm đội chưa từng có hiện tượng nào tương tự và có lẽ sau này cũng sẽ không.

Đó là việc liên quan đến lịch sử. Bây giờ, ta nói về các nguyên tắc thể hiện trong thiết bị "RITSA". Thiết bị phụ trợ được thiết kế như một thiết bị độc lập có thể kết nối với tổ hợp thủy âm MGK-300, 400,500 tại các điểm tương ứng, do các nhà phát triển thiết kế một cách chuyên biệt để kết nối thiết bị UPA, trực tiếp ngay sau bộ tạo đặc tính hướng (KHN - XH - характеристика направленности антенны ГАК) trong mặt phẳng đứng và mặt phẳng ngang. Tín hiệu thủy âm đầu vào được số hóa qua bộ ADC 12-bit, biến đổi sang dạng phổ năng lượng, sau đó được tích lũy và lấy trung bình (усреднялись). Tiếp tục thực hiện chuẩn hóa tín hiệu đầu vào (tự nhiên mà không sử dụng điều khiển tự động khuếch đại - Автоматическая Pегулировка Усиления), tách các thành phần thông tin, các thành phần này được tổng hợp và lựa chọn theo không gian, thêm vào đó trong tín hiệu tổng chỉ đưa vào những thành phần có trong nội dung ảnh mẫu, đã được ghi trong bộ nhớ máy tính.


Tiếp theo các thông tin nhận được dưới dạng các thành phần biên độ được hiển thị trên màn hình trong hệ tọa độ biên độ-góc phương vị. Đó là quan niệm tổng quát của thiết bị. Chắc chắn người đọc sẽ tò mò hỏi, thế thì lợi ích là những gì? Chính là các hệ thống thủy âm hiện đại làm việc theo sơ đồ như thế. Cũng như vậy, mà lại không hẳn vậy. Nguyên tắc làm việc được mô tả hoàn toàn sơ giản. Có rất nhiều sắc thái mà tôi sẽ không tiết lộ chi tiết. Một trong số đó là chúng tôi đã phát triển được thuật toán để nhận được bất biến tối đa có thể của không gian dấu hiệu (đặc trưng) của mục tiêu. Không gian dấu hiệu (đặc trưng) lý tưởng, có thể được sử dụng trong các bài toán phân loại tự động và (hoặc) như là một bộ lọc phù hợp cho việc lựa chọn các thông tin theo đường chân trời. Vâng, đã có một điều kỳ diệu như vậy được phát minh ra, khi mà dải kênh đầu vào tự động thích ứng với dải tín hiệu đầu vào. Trong tổ hợp (thủy âm) thông thường thì dải tín hiệu đầu vào là cố định. Tín hiệu lớn nhất ở đầu ra kênh xử lý đạt được khi các tín hiệu đầu vào điền đầy toàn bộ băng thông kênh đầu vào.

Và nếu các tín hiệu đầu vào quá yếu đến nỗi trong các dải kênh chỉ chứa các thành phần độc lập của nó, thì ngay cả với một tỷ lệ tốt S/P, quá trình xử lý của tổ hợp sẽ không cho phép tách nó dưới mức độ mà trắc thủ thao tác ra quyết định. Nhưng ngài chuyên gia sẽ nói ngay với tôi rằng mục đích như thế đã có thiết bị UPA, được kết nối chính thức vào hệ thống sonar hiện đại và đã sử dụng thành công trong những năm 80 cho các tàu ngầm của chúng tôi, tức là thực hiện nguyên lý Brüel & Kjaer khét tiếng và tương tự như vậy. Tôi chỉ muốn nhấn mạnh với các chuyên gia đáng kính, đồng thời không chỉ các chuyên gia, rằng cố gắng phân loại các đối tượng trong một "biển sạch" trên cơ sở của phổ năng lượng, ngay cả khi phổ trung hòa, nước tinh khiết nhất, chỉ là sự điên rồ, chẳng mấy chốc sẽ qua ngay, khi mà thao tác viên được thỏa thích chơi. Tiện thể nói thêm, vị tiến sỹ khoa học kỹ thuật đáng kính giáo sư Mashoshin A.F. luôn nói đến điều này, và trong bài báo của G.Sugrobov đã nhắc đến ông ta một cách lịch thiệp. Ngoài ra, thưa ông V.G.Sugrobov đáng kính, nếu ông đọc bài viết này, ông có thể nhận ra rằng những nhà phát minh "thiết bị-phù thủy "RITSA" mà một trong số đó là tôi còn xa với từ huyền thoại lắm, từ mà ông đã nói.

Và tôi nghĩ rằng một sai lầm rất lớn là bộ chỉ huy hạm đội đã không biết nhìn ra trong công việc này tinh thần độc đáo mang tính cách mạng của nó, vì sự lạc hậu và thiếu hiểu biết các ý tưởng tiên tiến, đã không thể xây dựng cho nhóm sĩ quan những điều kiện hoàn toàn chấp nhận được cho công tác nghiên cứu khoa học, đảm bảo cho nhóm tất cả các trang thiết bị cần thiết. Bởi lẽ tất cả chỉ cầu xin công tác khoa học, chứ đâu phải nghỉ ngơi. Hoặc ông nghĩ rằng trên khắp đất nước chúng ta có rất nhiều người sẵn sàng và có khả năng giải quyết các vấn đề của thủy âm học hiện đại? Hãy đi và hãy tìm! Ông sẽ phải đề nghị những món tiền lớn hơn nhiều, mà vẫn không tìm thấy. Tham gia thì họ sẽ đồng ý, thỏa thuận tiền bạc cũng sẽ đồng ý, nhưng kết quả thì không ai hứa hẹn. Bởi họ sẽ không biết làm thế nào để đạt được điều đó. Nhận về mình trách nhiệm, xin nói thêm, phải có lòng can đảm rất lớn. Còn phê phán người khác một cách vô nghĩa thì không cần nhiều trí tuệ đến vậy. Người ta có thể nói với tôi, kết quả là không được chính thức công nhận.

Tôi xin trả lời rằng, người này không công nhận, nhưng người khác lại công nhận.
Cá nhân tôi từ lâu không còn băn khoăn vấn đề khả năng làm việc của thiết bị phụ trợ nũa, bởi tôi đã kiểm tra hiệu suất làm việc của nó trên giá bằng các máy móc của phòng thí nghiệm (máy phát tiếng ồn và máy phát âm thanh), kiểm tra trên mô hình, trên bến tàu tại căn cứ, trên biển với các mục tiêu ngẫu nhiên và sử dụng các nguồn hiệu chỉnh được. Ở khắp nơi thiết bị phụ trợ đều làm việc đúng đắn và thể hiện hoàn toàn đầy đủ chức năng. Tôi đau buồn và lo lắng vì thứ khác. Chúng ta, vào thời kỳ cuối những năm 198x, đã bỏ lỡ cơ hội áp dụng vào Hạm đội  Hải quân hệ thống kỹ thuật số cấu trúc mở, hệ thống cho phép các sỹ quan hiểu biết mà số đó không phải là ít, nâng cao hiệu quả cho tổ hợp thủy âm của hạm đội. Nỗi sợ hãi của nhiều sĩ quan cao cấp trước những điều mới mẻ, khác thường, vượt ra ngoài khuôn khổ phục vụ thông thường, đã không cho phép thực hiện đầy đủ công trình phát triển sáng tạo đã được đề xuất.

Mà không chỉ trong lĩnh vực thủy âm thanh, mà còn cả trong các vấn đề xạ kích ngư lôi. Nhiều chuyện đã đến mức phi lý! Một lần ban lãnh đạo cấp cao gọi tôi và Kuryshev lên bắt đứng nghiêm, rồi sau khi lần lượt xạc từng người vì đã có thái độ "thiếu tôn trọng người trên", họ cảnh báo: nếu để xảy ra việc đó một lần nữa, chúng tôi sẽ bị đuổi khỏi nhóm sáng kiến và người ta sẽ chỉ định các sĩ quan khác, những người xứng đáng và tính tình đúng mực vào vị trí của chúng tôi. Lúc đó nhóm chỉ có đúng ba người. Chúng tôi đứng đó và không biết nên cười hay khóc, bởi vì biết đó là việc rất nghiêm trọng. Ra khỏi phòng, chúng tôi cười đến rơi nước mắt, tưởng tượng khuôn mặt các sỹ quan được gọi lên bộ chỉ huy và được giao nhiệm vụ mới: anh được bổ nhiệm vào nhóm sáng kiến thay  Kuryshev và Bukovsky, và phải, trong thời gian ngoài giờ làm việc chính, phát triển cơ sở toán học cho lý thuyết thông tin và phát hiện thích ứng đối với các tín hiệu yếu, trên cơ sở đó tạo ra thuật toán, viết phần mềm nhằm chế tạo một mô hình hoạt động của thiết bị phụ trợ thủy âm, nhét tất cả các công cụ này vào trong đó, sao cho cải thiện được hiệu quả của MGK-400 trên phương diện phạm vi phát hiện của các loại tàu ngầm hiện có, thêm vào đó, không được quên bộ phân loại tự động. Nào, nếu các cậu vô tình, các cậu hãy xin lỗi đi, nếu không người ta sẽ trảm các cậu. Đó là suy nghĩ của cấp trên của chúng tôi.

Để kết luận tôi xin lưu ý một chi tiết không chính xác trong bài viết của V.G.Sugrobov. Ông ấy viết rằng "... không có các dữ liệu khách quan về sự làm việc của thiết bị trong các điều kiện thực tế". Tuy nhiên, các chuyên gia Viện nghiên cứu KHKT Hải quân đã đưa ra một kết luận phủ định về tổng thể. Một lầm lẫn lớn. Thông thường, các kết luận chỉ được đưa ra khi có đủ các dữ liệu khách quan, chứ không phải khi không có.

Tôi xin lỗi trước vì một số điều có thể không chính xác, sự việc đã lâu, tôi viết theo trí nhớ. Tôi chấp nhận với lòng biết ơn mọi sự bổ sung, lời chúc hoặc ý kiến nhận xét về vấn đề này. Tôi muốn nghe quan điểm của các thành viên của diễn đàn, đặc biệt là những người có liên quan với hệ thống thủy âm.

Trân trọng, thiếu tá hải quân  Yu.V.Bukovsky.

......
« Sửa lần cuối: 07 Tháng Mười Một, 2011, 01:58:40 pm gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #554 vào lúc: 08 Tháng Mười Một, 2011, 01:36:47 am »

(tiếp)


Huyền thoại với thiết bị RITSА

(phần tiếp theo)  



V.Е.Kurytshev.

Trong những năm chiến tranh lạnh, các tàu ngầm xô viết thua kém đáng kể về tầm xa phát hiện tương quan của hệ thủy âm trước người Mỹ. Điều đó dẫn tới cái chết cho tàu ngầm chúng ta trong hoàn cảnh cuộc đấu tay đôi ngầm dưới mặt nước, nếu chiến tranh bắt đầu nổ ra. Tất cả các sự kiện tích lũy dần một cách có dụng ý để nhằm làm suy yếu hạm đội tàu ngầm của chúng ta. Điều đó xảy ra bởi chính bàn tay của người xô viết hoặc do ngu ngốc hoặc vì tiền. Trình độ khoa học kỹ thuật chung của Liên Xô trong những năm 197x-198x cho phép khắc phục được sự gián đoạn trong công nghệ này. Xã hội chưa biết về điều đó và có lẽ đến bây giờ vẫn chưa biết.

Minh chứng cho điều đó là các nghiên cứu phát triển độc lập của các chuyên gia xô viết, mà xác tín và sự tự do của họ xét ra không phụ thuộc các chỉ thị của các cơ quan đảng cũng như học thuyết khoa học – kỹ thuật về phát triển phương tiện thủy âm để phát hiện các tàu ngầm được áp đặt tại Liên Xô thời đó.

Thậm chí trong những điều kiện thiếu thốn thiết bị các sỹ quan tàu ngầm xô viết từ những năm xa xôi thời chiến tranh lạnh vẫn biết cách tự mình phát triển một thiết bị số hóa cần thiết và áp dụng nó trên tàu ngầm nhằm bảo vệ mình và chiến thằng trước các tàu ngầm Mỹ trong cuộc đấu ngầm dưới nước.

Tình trạng thủy âm quân sự đối với các tàu ngầm xô viết thời gian ấy phải gọi đúng tên – sự phản bội quốc gia. Không thể tin được một cường quốc có bom hạt nhân lại không khắc phục nổi vấn đề hệ thủy âm nghèo nàn.

Theo tài liệu chúng ta có, tại Hoa Kỳ thủy âm học được gọi là yếu tố của chính sách răn đe hạt nhân chiến lược. Sự vượt trội của các tàu ngầm Mỹ về phương tiện phát hiện thủy âm so với các tàu ngầm xô viết trang bị tên lửa đạn đạo đã đổi chiều đến chỗ ngay từ khi bắt đầu xung đột quân sự - tất cả các tàu ngầm tên lửa của Liên Xô sẽ đồng thời bị tiêu diệt. Và điều đó chỉ cần 4 phút đồng hồ.

Phải là mù và điếc mới để đối phương, vốn gọi thủy âm học của họ là một yếu tố răn đe hạt nhân và yếu tố chiếm ưu thế hạt nhân đối với người xô viết, không quyết định bắt tay thực hiện nỗ lực đẩy thủy âm học xô viết đi vào đường cụt. Điều gì đã xảy ra. Nghiên cứu thủy âm học, mà cần phải nghiên cứu cách phát hiện tàu ngầm bằng thủy âm học, có nghĩa là xử lý tín hiệu và thủy âm học như là một chi nhánh của vật lý, thì không để làm gì cả. Trong vấn đề này không có tội phạm rõ ràng. Tội phạm cố tình lẩn tránh vào rất nhiều sự kiện nhỏ trong không gian và thời gian. Còn khi tập hợp lại chúng sẽ gây hậu quả phá hoại lớn cho nền quốc phòng của đất nước. Không có kẻ phạm tội, và tội phá hoại an ninh quốc gia cũng không có nốt. Và rõ ràng, không chỉ trong thủy âm học. Mà lại ở khắp mọi nơi trong các khuynh hướng chiến lược khoa học và kỹ thuật quan trọng đối với an ninh quốc gia. Đã đến lúc người dân Nga phải tìm hiểu để học cách chống lại điều này.

Tất cả những gì được viết ở đây - không phải là huyền thoại. Thực tế chính là như thế mà thôi. Các sỹ quan phân hạm đội tàu ngầm của Hạm đội Biển Bắc trong năm 1985, đã phát triển được thiết bị phụ trợ kỹ thuật số cho hệ thống sonar tàu ngầm, làm tăng đáng kể khả năng các tàu ngầm chúng ta phát hiện được tàu ngầm của người Mỹ. Từ năm 1986 bắt đầu các cuộc tập trận thường xuyên của tàu ngầm Hạm đội Biển Bắc với thiết bị phụ trợ thủy âm. Trong giai đoạn 1986-88 Hạm đội Biển Bắc đã đạt được đủ kinh nghiệm để đạt được tiếp xúc thủy âm bằng hệ sonar chính tắc có trợ giúp bởi thiết bị phụ trợ thủy âm. Vấn đề những tàu ngầm nước ngoài kiểu Los Angeles và Sturgeon, lảng vảng thường xuyên trong biển Barentsev và vịnh Motovsky, đã được các tàu ngầm của chúng ta có thiết bị phụ trợ thủy âm giải quyết. Năm 1986, người ta suýt nữa đã phóng ngư lôi vào tàu ngầm nước ngoài kiêu ngạo bị phát hiện bởi thiết bị phụ trợ ở vịnh Motovskii, gần khu vực trường bắn nước sâu. Và điều đó là cần thiết. Việc này xảy ra trên một chiếc tàu ngầm diesel, do thiếu tá hải quân Yu.A. Mogilnikov chỉ huy. Tàu của ông ấy đang thực thi nhiệm vụ trong vịnh Motovskii. Đột nhiên, thiết bị BPF-DVK bắt đầu cho thấy dấu hiệu của tàu ngầm nước ngoài theo hướng bờ biển. Tàu của Yu.A. Mogilnikov đang hướng ra biển. Thuyền trưởng ngạc nhiên, nhưng tin vào chỉ dẫn của thiết bị. Ông chuyển hướng con tàu sang phương vị phát hiện được tàu lạ.

Ngay sau đó, đột ngột trắc thủ - thủy âm phát hiện tiếng ồn của một tàu ngầm nước ngoài và phân loại được nó trên hệ thống định hướng âm chính tắc của tổ hợp thủy âm, còn thuyền trưởng không phát hiện được mục tiêu nào khác trên phương vị đó. Bất ngờ là ở chỗ tàu ngầm nước ngoài đang ở trong vùng lãnh hải của chúng ta, thậm chí xét theo các tiêu chí thì nó thuộc Hải quân Hoa Kỳ. Các hành vi của con tàu bị phát hiện cho thấy nó không biết mình đã bị lộ. Hãy ghi nhớ thuyền trưởng Yu.A.Mogilnikov, ông quyết định tấn công ngư lôi tàu ngầm nước ngoài đó. Thủy thủ đoàn, kíp chỉ huy chiến đấu đã sẵn sàng với lệnh báo động, chuẩn xác như đồng hồ. Tất cả tập trung nghe lệnh chỉ huy. Không ai nghi ngờ tính đúng đắn trong quyết định của thuyền trưởng. Trong trường hợp này, khi thuyền trưởng ở bên cạnh, tôi khuyến khích anh tấn công ngư lôi. Trong buồng trung tâm mọ người hành động chính xác, ta cảm thấy rõ sự thuần thục của thủy thủ đoàn. Chính trị viên nhiều lần gọi tôi là kẻ điên và lầm bầm điều gì đó về thế chiến III. Chúng tôi buộc phải có hành động không thân thiện nhằm yêu cầu ông ta rút khỏi phòng điều khiển xuống tầng bên dưới.

Trên đài vô tuyến, đáp lại thuyền trưởng về quyết định của anh ta xin phóng ngư lôi vào tàu ngầm nước ngoài trong vùng lãnh hải - Hạm đội Biển Bắc im lặng. Tư lệnh phân hạm đội tàu ngầm số 4 Hạm đội Biển Bắc lúc ấy là Larionov V.P., 23 năm sau khẳng định rằng nhiệm vụ chuẩn y quyết định phóng ngư lôi vào tàu ngầm nước ngoài trong vùng lãnh hải là nhiệm vụ khó khăn với ông. Nhưng điện đến từ Moskva - "dừng cuộc tấn công ngư lôi, tiếp tục theo dõi". Và chỉ hoài công. Khoảng ba năm trước tại Viễn Đông, không quân xô viết đã bắn rơi chiếc máy bay của Hàn Quốc trên lãnh thổ Liên Xô. Vùng lãnh hải cũng chính là lãnh thổ Liên Xô. Tôi nhớ đến người chỉ huy này. Không quân đã thể hiện mình, lẽ nào Hải quân tệ hơn? Mogilnikov đánh đắm tàu ngầm trong vùng lãnh hải xem nào, người ta sẽ không lao ngay đi tìm kiếm nó ở các bang (nước Mỹ). Tất cả sẽ uổng công. Ngày nay, trong các tài liệu đã được công bố về các hành động của thủy thủ tàu ngầm Mỹ trong vùng biển duyên hải nước ta, Bộ tư lệnh Hải quân Hoa Kỳ không khuyến khích sự quá nhiệt thành của các chỉ huy tàu ngầm của họ, bất chấp các thỏa thuận quốc tế, bao gồm các điều ước về vùng lãnh hải, ngay cả trong thời Chiến tranh Lạnh. Thủy thủ tàu ngầm Mỹ thừa nhận rằng bản thân họ khi phải đi vào vùng lãnh hải Nga họ rất lo sợ. Và trong trường hợp Mogilnikov – việc đó không vô ích. Thời bấy giờ Bộ Tư lệnh Hải quân không đủ sức (xử lý) so với Tư lệnh Quân chủng Phòng không và Không quân Liên Xô. Đáp lại hành động cương quyết của người chỉ huy, anh ta đã được khen thưởng, còn tôi – trừng phạt (bởi hành vi không tế nhị với sĩ quan chính trị). Nhưng một tháng sau băng ghi từ đã xác nhận âm thanh đó của tàu ngầm nước ngoài, và tôi đã được minh oan.

Sau đó, khi thiết bị "BPF-DVK" xuất hiện trên các tàu ngầm hạt nhân, đã có nhiều chiến dịch tìm kiếm ở vịnh Motovskii. Đã tìm thấy nơi hiện diện thường xuyên của tàu ngầm nước ngoài trong một vũng sâu thuộc vịnh Motovsky. Một trong các chiến dịch này do đại tá hải quân E.I.Ibragimov, chuyên gia trưởng ngành hàng đầu của phân hạm đội tàu ngầm thứ nhất Hạm đội Biển Bắc chỉ đạo. Đầu tiên, với trợ giúp của "BPF-DVK" tàu ngầm nước ngoài bị xác định vị trí bằng phép giao hội. Ibragimov không ngần ngại yêu cầu thuyền trưởng không chờ cho đến khi có tiếp xúc thủy âm, cho radar định vị phát ngay theo phương vị phát hiện của "BPF-DVK" (khi này đã là RITSA). Chiếc tàu ngầm bị phát hiện ở khoảng cách 5,4 km. Qua vài lần phát của radar định vị đã thấy rằng ngay từ đầu khoảng cách là không thay đổi (rõ ràng tàu ngầm kia giữ chúng tôi trên khoảng cách mà hệ thủy âm chính tắc của chúng ta không phát hiện ra), nhưng sau đó khoảng cách bắt đầu tăng. Điều ngạc nhiên là tốc độ rút chạy tính toán của tàu ngầm nước ngoài gần đến 20 hải lý.

Tên gọi " RITSA " đã được đặt cho thiết bị BPF-DVK, một năm sau khi khai sinh, tháng Chín năm 1986 một cuộc điện thoại từ Moskva, từ Cục KTVTĐT Hải quân, đề nghị gọi nó bằng một cái tên nào đó, chẳng hạn như Ritsa (?). Người ta cho suy nghĩ 2 giờ. Chúng tôi không thể nghĩ ra điều gì, ngoài cái tên chán ngắt hàng ngày - "mandulla", và do đó chúng tôi đồng ý với tên họ đề nghị.
Tháng 3 năm 1988 tại Hạm đội Biển Bắc bắt đầu đưa vào hoạt động hệ thống di động chiếu sáng cảnh quan chiến trường. Hai tàu ngầm có thiết bị phụ trợ thủy âm, ở cách xa nhau một khoảng cách đáng kể, chuyển về bộ tham mưu chỉ một phương vị của các nguồn tiếng ồn thủy âm, giống như tàu ngầm. Việc xác định vị trí cuối cùng và phân loại tàu ngầm được Bộ tham mưu Hạm đội Biển Bắc thực hiện. Theo quy định, tất cả các tàu ngầm tham gia tập trận, sau khi đi qua rào cản lớn này – đều bị phát hiện. Để làm việc đó, ban truyền tin Hạm đội Biển Bắc, đứng đầu là chuẩn đô đốc Golinyi B.N. và các trợ lý của ông đại tá hải quân S.Trufanov và đại tá hải quân B.N.Kolodkin đã phát triển chương trình liên lạc đặc biệt với các tàu ngầm, khi đi vào hệ thống này. Bản chất của chương trình chung quy là lệnh cho nổi lên các tàu ngầm trong thê đội tại một thời điểm và cứ bốn giờ một lần,  đồng thời gửi phương vị về tàu trong thê đội và các đối tượng có thuộc tính của các tàu ngầm hạt nhân Liên Xô cũng như tàu ngầm hạt nhân Mỹ.

Theo số liệu của các tàu ngầm, tại Bộ tham mưu Hạm đội Biển Bắc, một đội trắc thủ trong đó có đại tá hải quân V.I.Asriyan và trung tá hải quân Yu.F.Polzikov sẽ so sánh phương vị trên bản đồ và khi theo dõi các dấu vết xác định – sẽ ra quyết định phát hiện đối tượng hoặc gạt sang một bên các phương vị sai rồi đưa vào các báo cáo tình báo. Phải nói thêm rằng, ý tưởng chiếu sáng khung cảnh chiến trường bằng hai tàu ngầm được Tư lệnh Hạm đội Biển Bắc I.M.Kapitanets nghĩ ra trên cơ sở chiến dịch "Atrina". Khi phân tích kết quả "Atrina", ban tác chiến chống ngầm đã phân tích kỹ tất cả các phương vị tàu ngầm nước ngoài và tàu ngầm quân mình. Tầm xa phát hiện bằng thiết bị phụ trợ của các tàu ngầm quân mình, trong một số trường hợp, vượt quá 1000 kabelt. Hóa ra là hầu hết các phương vị báo cáo của các tàu ngầm của mình đều đã được khẳng định, còn về phía nước ngoài họ đã bị phát hiện các khu vực biển có sự cơ động rõ ràng của các tàu ngầm nước ngoài. Đô đốc I.M. Kapitanets thời đó phàn nàn rằng sẽ là không tồi nếu các tàu ngầm báo cáo phương vị về từ Đại Tây Dương trong thời gian thực, mà không phải là rất lâu sau đó khi tàu ngầm đã trở về căn cứ.

Một cách ngẫu nhiên trong thời gian báo cáo, ủng hộ nó là Tham mưu trưởng Hạm đội Biển Bắc Yu.N.Patrushev, có mặt Chủ nhiệm chính trị Hạm đội Biển Bắc S.Vargin, Chủ nhiệm ngành tác chiến chống ngầm Hạm đội Biển Bắc đại tá hải quân V.V.Gavrilov. Tôi cũng có mặt tại thời điểm báo cáo. Ngay lập tức người ta quyết định đầu năm 1988 sẽ tiến hành ít nhất 3 bài tập trận với hệ thống chiếu sáng chiến trường di động bằng hai tàu ngầm có thiết bị phụ trợ thủy âm để báo cáo lên Tổng tư lệnh Hải quân. Lãnh đạo về mặt khoa học của hệ thống người ta trao cho tôi. Mặc dù nghĩ ra có vẻ đơn giản, song thực hiện suy nghĩ ấy lại không dễ dàng. Theo lời một trong những thuyền trưởng tàu ngầm sư đoàn tàu ngầm số 24 Hạm đội Biển Bắc, được đóng vai trò như một tàu ngầm trong thê đội, đại tá hải quân A.A.Semin - sau ba ngày đêm liên tục lặn và nổi cứ mỗi phiên 4 giờ một lần, thủy thủ đoàn đã cạn kiệt sức lực. Các kỹ sư cơ khí rên rỉ và hàng ngày đêm liền không được ngủ, liên tục phải điều chỉnh chênh mớn dọc cho tàu ngầm. Trên bờ lại là vấn đề với truyền tin. Người thủy thủ chạy đua với các dữ liệu được giải mã chỉ sau 2 giờ sau khi nhận điện từ tàu ngầm, mất đi 2 giờ xử lý số liệu, do không có bất kỳ máy móc tự động hóa nào.


.............
« Sửa lần cuối: 09 Tháng Mười Một, 2011, 07:10:13 pm gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #555 vào lúc: 09 Tháng Mười Một, 2011, 07:09:25 pm »

(tiếp)

Một báo cáo tổng quan về các kết quả soi sáng khung cảnh chiến trường đã nằm trên bàn Tham mưu trưởng Hạm đội Biển Bắc gần 6 giờ sau khi nhận được các thông tin phương vị. Chiến thuật phát hiện tàu ngầm sử dụng hai tàu ngầm của hệ thống “chiếu sáng” di động đã được thử thách và chứng minh. Tuy nhiên, do vấn đề về truyền tin và thiếu một sự tự động hóa nhỏ trong xử lý dữ liệu tại bộ tham mưu, do thiếu quy mô thời gian thực khi ấy còn chưa có hiệu lực. Giữ lại đến 6 giờ, đó là thời gian trễ quá lớn để cho ra các quyết định tiếp theo đối với quy mô thời gian thực. Xử lý dữ liệu từ hệ thống di động hoàn toàn bị đắm trong thời gian một cuộc tập trận vào tháng Tư năm 1988, khi năm tàu ngầm "quân xanh" và 4 tàu ngầm "quân đỏ" chọc thủng tuyến Nordcap-Mezhvezhii hướng tới nhau. Thời đó tôi vật nài trước đại tá hải quân V.V.Gavrilov (để đưa) các báo cáo phát hiện tàu ngầm của hệ thống di động vào Sở chỉ huy tập trận, ngay từ khi cuộc tập trận bắt đầu để tập cho Sở chỉ huy quen với các dữ liệu trong hệ thống chiếu sáng khung cảnh. Tuy nhiên, một báo cáo chậm trễ của V.V.Gavrilov tới lãnh đạo cuộc tập trận, Đô đốc G.A.Bondarenko và Trưởng ngành chống ngầm Hải quân Xô Viết, Chuẩn Đô đốc N.Ya.Yasakov không tạo được ấn tượng. Bởi vì báo cáo về những phát hiện của V.V.Gavrilov công bố chậm 2 giờ sau khi cuộc tập trận đã vượt qua cao trào, khi tàu ngầm "quân xanh" và "quân đỏ" đến khoảng cách bị phát hiện rồi mà lại không thể tìm thấy nhau. Dường như tôi thấy, vì sự chậm trễ này, các đô đốc, bị tra tấn bởi các sáng tác của "người chiến thắng" trong mối tương quan đến những cuộc tập trận "thành công", do báo cáo của V.V.Gavrilov đã cắt ngang đòi ông đi đến một đề tài kiểu như vậy, khi đó đã tỏ thái độ vừa dữ dội, vừa đơn giản và cộc lốc. Sau đó V.V.Gavrilov quyết định không tiếp tục báo cáo việc hệ thống phát hiện được gì gì nữa.

Đáng chú ý là phương vị giữa các tàu ngầm với nhau được báo cáo một cách chắc chắn 100%, mà khoảng cách giữa chúng như vậy đã cho phép kiểm soát toàn bộ tuyến Nordcap - Mezhvezhy chỉ bằng hai tầu ngầm. Sau cuộc tập trận này ban tác chiến chống ngầm Hạm đội Biển Bắc đã dành nỗ lực lớn vào việc so sánh các phương vị báo cáo về từ các tàu ngầm của hệ thống với vị trí phân bố thực tế của các tàu ngầm tham gia tập trận và đi đến kết luận rằng tất cả các tàu ngầm tập trận đều bị hệ thống di động phát hiện và theo dõi. Tuy nhiên, báo cáo về vấn đề này chi đến tay Tư lệnh Hạm đội 1,5 tháng sau khi kết thúc tập trận. Kết luận cho đến lúc này thật đáng thất vọng – vẫn chưa đạt được quy mô thời gian thực. Thời đó - thời 20 năm trước, thông tin liên lạc chưa đáp ứng được.


Đã thấy được một tính năng phát hiện thú vị của "Ritsa". Tầm phát hiện lớn một cách đặc biệt và khả năng tìm phương vị đã được chứng minh ở cả các tàu ngầm đề án 971, lớp tàu được coi là có tiếng ồn thấp nhất. Thêm vào đó việc phát hiện diễn ra trên đặc điểm hành vi các dấu hiệu ngụy trang thể hiện rất mạnh. Tầm xa phát hiện các tàu ngầm loại này còn tăng lên, khi chúng di chuyển từ vùng nước nông tại biển Barentsev vào vùng lòng chảo nước sâu Lofoten ở Bắc Đại Tây Dương, mặc dù các tàu ngầm thuộc hệ thống chiếu sáng di động vẫn còn trong vùng nước nông.


Vị trí Lofoten trên bản đồ Na Uy.

Việc phân tích một số cuộc tập trận với việc sử dụng hệ thống di động đã chỉ ra rằng sự làm việc của hệ thống hai tàu ngầm có thiết bị phụ trợ thủy âm qua bộ tham mưu cho đến lúc đó chưa thể thực hiện được các tầm phát hiện lớn hơn nhằm phục vụ việc sử dụng vũ khí, vì các tàu ngầm có tốc độ thấp, mà bộ tham mưu không thể dẫn đường cho các lực lượng hỗn hợp do thiếu quy mô thời gian thực, xuất phát từ vấn đề thông tin liên lạc.

Người ta yêu cầu tôi xem xét việc áp dụng "Ritsa" trên máy bay chống ngầm IL-38, khi máy bay với phao vô tuyến thủy âm được phái đến điểm phát hiện do tàu ngầm thuộc hệ thống di động chỉ ra, trước đó nó đã nhận được các đặc tính chân dung sơ bộ (của mục tiêu) từ các tàu ngầm của hệ thống. Tư lệnh Hạm đội Biển Bắc bằng mật mã đặc biệt đề nghị Tư lệnh Không quân thuộc Hải quân nghiên cứu khả năng như vậy. Từ năm 1988, chúng tôi bắt đầu phát triển một phiên bản cho máy bay của thiết bị "Ritsa" – hệ thống vô tuyến thủy âm hàng không "Splokh".  Chúng tôi sau đó nhanh chóng tìm thấy điểm chung với các nhà phát triển của hệ thống vô tuyến thủy âm hàng không "Zaretchie", "Yzumrud" từ NPO "Leninets". "Ritsa" đã thử nghiệm thành công với các bản ghi từ tính từ phao thủy âm, mà các tàu ngầm tiếng ồn thấp đi qua, nhưng phao với sự xử lý thông tin thông thường không phản ứng lại các tàu ngầm đó. Sau cuộc kiểm tra thực hiện tại Bộ tham mưu Hạm đội Biển Bắc, đã ký kết một thỏa thuận với sự phê duyệt của Tham mưu trưởng Hạm đội Biển Bắc Yu.N.Patrushev về việc nâng cao nhiều lần phạm vi phát hiện của phao vô tuyến thủy âm với trợ giúp của thiết bị "Ritsa". E. S. Elinson, tổng công trình sư các hệ thống tìm kiếm-ngắm bắn mục tiêu trên máy bay, trong cuộc trò chuyện thân thiện, thừa nhận rằng ông đã sẵn sàng để nuốt hết cả mũ (với điều kiện nó đang ở trên đầu ông), khi chính mắt nhìn thấy phản ứng của "Ritsa" trên các tín hiệu tiếng ồn từ phao thủy âm gửi về, mà trước đây thì im lặng với xử lý thông thường.

Đầu tháng hai năm 1986, tại hội trường lớn Bộ Tổng tham mưu Hải quân, trên tầng của Tổng tư lệnh Hải quân và các cấp phó của ông, đã tiến hành họp Hội đồng kỹ thuật- quân sự Hải quân về thử nghiệm thiết bị BPF-DVK (Ritsa) tại Hạm đội Biển Bắc năm 1985. Lãnh đạo Hội đồng là Phó Tổng tư lệnh Hải quân Đô đốc hạm đội N.I.Smirnov. Tham dự có các trưởng phòng ban BTL Hải quân, đại diện của Bộ tham mưu Hạm đội Biển Bắc, Viện nghiên cứu Hải quân số 54, đại diện giới khoa học và công nghiệp,tất cả khoảng 30 người.

Thuyền trưởng tàu ngầm thiếu tá hải quân Yu.A.Moghilnikov báo cáo quá trình thử nghiệm và các kết quả. Anh báo cáo nhanh và rõ ràng các kết quả vượt trội hệ thống sonar chính tắc vài trăm phần trăm. Vẻ mặt của lãnh đạo Hải quân tỏ rõ sự hài lòng. Vẻ thờ ơ lãnh đạm, giới khoa học và công nghiệp nhìn sang phía khác, hai năm trước đó họ dự đoán sự thất bại hoàn toàn của thiết bị phụ trợ thủy âm và giảm hiệu suất tìm kiếm tầm xa của sonar có kèm thiết bị này đến 30%, do việc thiết bị sử dụng phương pháp xử lý tín hiệu kỹ thuật số mà bấy giờ chẳng ai hiểu. Sau báo cáo của Yu.A. Mogilnikov người ta cho tôi, một thượng úy, được nói. Chúa không cho tôi khả năng để kết những từ ngữ bình thường thành những câu nói làm phật lòng giới khoa học. Tôi nói hoàn toàn theo cảm xúc của mình. Theo cách báo cáo của tôi, mặt N.I.Smirnov đỏ dần lên (một năm rưỡi trước đây, ông đã hoàn toàn đứng ra gánh trách nhiệm cho việc xây dựng và thử nghiệm thiết bị này). Nhưng "ngành công nghiệp" khom lưng xuống và "giới khoa học" thì xám mặt lại. Trong thời gian báo cáo của tôi có thể nghe từ gian dành cho "giới khoa học" thời đó những tiếng kêu: "... đó là sự thô lỗ, phải chặn lại ngay !!!». Nhưng đột nhiên tôi được N.I.Smirnov ủng hộ, ông không kìm được và đổi sang giọng Nga mạnh mẽ, nhát gừng cắt đứt những tiếng kêu của "giới khoa học" và chế nhạo họ suốt một phút, đồng thời gật đầu với tôi và "nhổ" sang hướng của họ.

Cục trưởng Kỹ thuật Vô tuyến điện tử Hải quân (RTU) chuẩn đô đốc G.P.Popov tiếp tục chế nhạo "giới khoa học". Để bắt đầu, ông bịt miệng một người dưới quyền mình, sau đó "dạo chơi" qua mặt các đại diện "chưa hoàn thành" của Trung tâm nghiên cứu số 54 (Trung tâm nghiên cứu vũ khí vô tuyến điện tử), cư xử trong cuộc họp vẻ rất lo lắng, và trước mặt những ai hai năm trước đây chống lại ý tưởng này. Tôi nhớ những gương mặt "các nhà khoa học" của họ tại phiên họp mở rộng Hội đồng khoa học và kỹ thuật Hải quân vào năm 1983 tại Viện nghiên cứu 54, đã tưới đẫm bùn lên tôi và các chiến hữu của tôi. Dưới cái nhìn hài lòng của N.I.Smirnov, G.P.Popov hứa sẽ hợp tác đầy đủ để đưa thiết bị vào sử dụng. Tôi đang hồi hộp. Mới nửa năm trước đây, Chuẩn Đô đốc G.P.Popov đã bay ra khỏi phòng N.I.Smirnov trước sự hiện diện của tôi, khi ông cố gắng để luồn lách tránh phải cung cấp các thành phần dùng xây dựng thiết bị này. G.P.Popov viện dẫn các kết luận của Hội đồng khoa học năm 1983, tuyên bố rằng không có sự khác biệt giữa xử lý tín hiệu analog và xử lý tín hiệu kỹ thuật số (ngày hôm nay, tôi hy vọng, chẳng ai cần phải được thuyết phục về những lợi thế của xử lý các tín hiệu kỹ thuật số nữa). Đồng thời, N.I.Smirnov ba lần tiễn ông ta bay khỏi phòng lần lượt với các luận cứ cha chú. Bất chấp sự thù địch cá nhân đối với công việc của chúng tôi, tại hội nghị này G.P.Popov công nhận các kết quả của BPF-DVK. Ông ta làm điều đó với tất cả trái tim , hoặc trên cơ sở tình hình tạm thời trong Hội đồng? - Bí mật của ông ta. Nhưng đã xảy ra như vậy đấy.
.........
« Sửa lần cuối: 11 Tháng Mười Một, 2011, 05:05:07 pm gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #556 vào lúc: 11 Tháng Mười Một, 2011, 05:03:59 pm »

(tiếp)

Chiến thắng tinh thần của tôi trước hội đồng kỹ thuật-quân sự Hải quân là tuyệt đối. Ngay sau vụ bê bối này là thời gian tạm nghỉ. "Giới khoa học" gập người, ra khỏi phòng hội nghị (họ lấy làm tiếc không kịp thời có mặt tai tỉnh Magadan để nghiên cứu các đặc điểm truyền sóng âm trong nước ở cửa sông Kolyma), và sau khi hết giờ nghỉ họ không quay trở lại, trong đó có đại diện của Viện Vật lý từ Gorky, và đại diện của "Oceanpribor" từ Leningrad, và N.I.Smirnov cũng không trở lại hội trường. Trong giờ nghỉ một người đứng tuổi đến bên tôi tự giới thiệu mình là viện sỹ Nesterikhin và siết chặt tay tôi: "Tôi đã không thể làm như vậy, mặc dù thực tế, tôi đứng về phía anh, đồng chí thượng úy ạ" và mời tôi đến chỗ ông ấy, ở thành phố hàn lâm Novosibirsk. Hội đồng đã kết thúc họp mà không có N.I.Smirnov và "giới khoa học". Trách tôi nhiều lần còn cả Yu.E.Nesterikhin: "... với những người cao tuổi không nên như vậy, họ không xứng đáng bị như thế". Còn theo ý kiến của tôi, thế mới là xứng đáng. Tôi coi việc “quất roi” những tiến sỹ và phó tiến sỹ thủy âm học ốm yếu này là sự dũng cảm và bây giờ vẫn tự hào về việc đó. Sự bất lực (hay cố ý) của họ làm cho các thủy thủ tàu ngầm Liên Xô trở thành bất lực trước các tàu ngầm đối phương, vì hiểu biết yếu kém của họ về thủy âm học và lý thuyết phát hiện. Mặc dù tất cả các điều kiện tiên quyết về khoa học và kỹ thuật cho việc xây dựng thủy âm học và thiết bị thủy âm hạng nhất bấy giờ ở Liên Xô đã có. Thiết bị kỹ thuật số được một anh chàng thượng úy làm ra tại một nơi nào đó ở thành phố vùng Bắc Cực Polyarny, trong phòng thí nghiệm tiếng ồn của binh đoàn tàu ngầm số 4 Hạm đội Biển Bắc là một ví dụ.

Sau cuộc họp Hội đồng, ngày 7 tháng 2 năm 1986, N.I.Smirnov bằng chỉ thị của mình, "Về việc đưa vào áp dụng 100 bộ thiết bị phụ trợ thủy âm tại Hạm đội Biển Bắc", cuối cùng đã xác nhận hành động đánh giá tích cực cuộc thử nghiệm và cho tiến hành áp dụng thiết bị trên tại Hạm đội Biển Bắc.

Với sự xuất hiện các tàu ngầm hạt nhân Los - Angeles II và Trident II, Bộ tư lệnh Hạm đội Biển Bắc, trên cơ sở chỉ thị và mệnh lệnh của Tổng tư lệnh Hải quân, quyết định tăng cường các chiến dịch trinh sát về đặc tính tiếng ồn của các tàu ngầm loại đó, sử dụng thiết bị BPF-DVK (Ritsa). Tại một cuộc họp của Bộ Tổng tham mưu Hải quân, khi chúng tôi báo cáo các công việc liên quan đến "Ritsa», Phó Tổng tư lệnh thứ nhất Hải quân N.I.Smirnov, mời tất cả đứng dậy và để một phút im lặng mặc niệm hai điệp viên Liên Xô của chúng ta trong lĩnh vực thủy âm học. Người cha và người con, cả hai tình báo viên đó vừa từ giã cuộc đời trên ghế điện ở Mỹ. Người ta xem xét vấn đề kiểm tra lại thông tin thu được từ hai điệp viên trên, cụ thể bao gồm cả việc sử dụng thiết bị BPF-DVK. Để làm điều này cần phải trang bị thiết bị phụ trợ thủy âm cho một số tàu ngầm Hạm đội Biển Bắc. Tại cuộc họp không có đại diện Cục Kỹ thuật VTĐT. Tôi đưa ra lời giải thích cần thiết. Mệnh lệnh mật không bao lâu đã đến vào đầu tháng 12 năm 1986. Tuy nhiên, vấn đề với Trung tâm NCKH số 5 và các vấn đề tổ chức khác đã đẩy thời hạn các công việc ấy dãn thêm ra. Còn các tàu ngầm được trang bị thiết bị phụ trợ của sư đoàn số 33 phân hạm đội tàu ngầm số 1 Hạm đội Biển Bắc chuyển hướng sang chiến dịch "Atrina".

Công việc thu thập những chân dung thủy âm tại các căn cứ của đối phương, theo mệnh lệnh của Tổng tư lệnh Hải quân và chỉ thị của Tham mưu trưởng Hạm đội Biển Bắc, do Phòng Trinh sát Hạm đội Biển Bắc phụ trách. Trực tiếp lãnh đạo – Chủ nhiệm Trinh sát Hạm đội Biển Bắc đại tá hải quân S.P.Bodrikov. Các tàu trinh sát Hạm đội Biển Bắc "Kh.Laptev", "Lira" và "Biển Trắng" được trang bị thêm "Ritsa". Tranh cãi một hồi, rồi chúng tôi lập ra một kế hoạch cụ thể. S.P.Bodrikov đôi lúc than thở với tôi rằng thiếu bằng sáng chế cho thiết bị “Ritsa”. Tôi bác ngay – bằng sáng chế kiểu gì đây? Sự bí mật của công tác quan trọng hơn. Bộ tư lệnh Hạm đội Biển Bắc  nhấn mạnh khía cạnh bí mật của công tác này.



SSBN-734 Tennessee Ohio-class submarine - trang bị 24 tên lửa đạn đạo xuyên lục địa Triden-II.

Bản chất của kế hoạch rất đơn giản - đó là các tàu trinh sát Hạm đội Biển Bắc được trang bị thiết bị phụ trợ thủy âm BPF-DVK cần phải luôn luôn trực ở vị trí gần các căn cứ của đối phương. Chúng tôi thay đổi chương trình cho thiết bị, đơn giản hóa việc quản lý đến mức tối đa, và phân tích hoàn toàn tự động. Để sao cho các hạ sỹ quan-trắc thủ trên tàu trinh sát hoàn toàn có thể định hướng công việc của họ không phải dán mắt vào màn hình thiết bị phụ trợ, mà để chú mục vào "bắt" bằng thị giác các tàu ngầm và tàu chiến khi chúng đi ra từ căn cứ. Thiết bị phụ trợ thủy âm đã làm mọi thứ một cách tự động. Từ cuối năm 1989 thiết bị BPF-DVK bắt đầu làm việc thường xuyên trên các tàu trinh sát Hạm đội Biển Bắc ở kề các căn cứ bờ phía Đông của Hải quân Hoa Kỳ. Cơ quan trinh sát Hạm đội Biển Bắc đã tổ chức tốt công việc này. Tại Goriachie Rutchie, nơi đóng căn cứ các tàu trinh sát và ở gần thành phố Polyarny, tôi luôn luôn là khách “danh dự”. Đến năm 1991, đã theo dõi được rất chi tiết hơn một nửa tá khu trục hạm kiểu "Madison", một vài loại tàu ngầm cỡ lớn Los - Angeles, khoảng 20 tàu chiến các loại và rất nhiều tàu vận tải và tàu cá. Nhưng đại tá hải quân S.P.Bodrikov quan tâm đặc biệt đến việc phải hoàn thành nhiệm vụ phân tích trên thiết bị phụ trợ thủy âm các đặc điểm tiếng ồn của tàu ngầm hạt nhân mới nhất Tennessee thuộc hệ thống mang tên lửa đạn đạo liên lục địa Trident- II.



Căn cứ của tàu ngầm lớp Ohio ở Kings Bay, bang Georgia, bờ biển phía Đông nước Mỹ, trên bờ Đại Tây Dương (en.viki).

Chiến dịch đã thực hiện thử nghiệm trên biển trong các khu vực ở phạm vi gần Cape Canaveral, cũng như đối diện căn cứ Kings Bay trên bờ biển phía đông của Hoa Kỳ. Tàu ngầm (Ohio-class submarine) bị tàu trinh sát của chúng tôi có thiết bị "Ritsa" theo dõi liên tục trong 4 tháng liền. Bất biến lớn nhất trong đặc điểm chân dung tiếng ồn đã bị xác định, đồng thời đã phát hiện các lượng tử phát lộ (демаскирующие дискреты ) và các đặc điểm hành vi của tàu ngầm (Mỹ). Không có bất kỳ mánh khóe bóp méo tiếng ồn nào có thể giúp đỡ (tàu ngầm Mỹ khỏi bị phát hiện). Nói cách khác, ở nơi mà bây giờ bạn không nhìn thấy chiếc tàu ngầm này, nó sẽ bị phát hiện từ xa và theo dõi thành công nhờ có thiết bị phụ trợ thủy âm. Thực hiện nhiều cú nhào lộn “cool beats” khác nhau với các đợt lặn xuống rồi nổi lên, tàu ngầm Tennessee đáng thương không biết rằng đặc tính tiếng ồn của nó trong tất cả các chế độ hành trình đã nằm trong bộ nhớ của "Ritsa". Các hạ sỹ quan, các chuẩn úy hải quân, những con người cần mẫn đã làm công việc đó, xứng đáng với lời cảm ơn của Bộ tư lệnh Hạm đội Biển Bắc, còn S.P.Bodrikov là người đã sử dụng thiết bị "Ritsa" cung cấp thêm cho các tàu ngầm Hạm đội Biển Bắc các đặc điểm chân dung tiếng ồn mới, để cho các tàu ngầm chúng ta trong những chuyến hành quân xa tới bờ biển châu Mỹ, không bị phụ thuộc vào thời gian làm việc với số liệu analog mà kém hiệu quả của Cục Cục Kỹ thuật VTĐT Hải quân.

Các chiến dịch trinh sát với "Ritsa" trên tàu trinh sát Hạm đội Biển Bắc gần bờ biển nước Mỹ tiếp tục cho đến khi xảy ra sự sụp đổ của Liên Xô. Sự thành công của ngành tình báo hải quân do Bodrikov S.P. phụ trách ngay lập tức được phản ánh trong sự tăng cường chất lượng làm việc của thiết bị phụ trợ khi theo dõi tàu ngầm nước ngoài ở biển Barentsev. Sau khi được “làm tươi” dữ liệu nhờ bộ phận trinh sát hải quân Hạm đội Biển Bắc, thuyền trưởng tàu ngầm diesel, thiếu tá hải quân A.P.Ushakov thuộc binh đoàn tàu ngầm số 4 Hạm đội Biển Bắc  nói với tôi anh đã phát hiện ra bằng thiết bị phụ trợ, rồi tiếp tục đi khá lâu để đạt được tiếp xúc thủy âm với tàu ngầm nước ngoài bằng hệ thủy âm chính tắc từ khoảng cách đến 60 dặm. Và anh đã theo dõi nó hơn 3 ngày đêm.

Người ta nói trong thời gian đó, sau "công việc" của S.P.Bodrikov, đã có sự tăng vọt rất mạnh hiệu quả của các tàu ngầm chúng ta có trang bị "Ritsa”. Còn rất nhiều chuyện và tôi cũng khó mà tin hết những điều ấy. Các sổ tay chính thức của Hải quân về các thành phần phổ tiếng ồn là "sách vỡ lòng" nếu so với "Đại Bách khoa toàn thư Liên Xô" về tiếng ồn, được tập hợp và xử lý bằng "Ritsa" trong quy mô thời gian thực ngay tại các căn cứ của đối phương dưới sự lãnh đạo của S.P.Bodrikov.

.........
« Sửa lần cuối: 13 Tháng Mười Một, 2011, 11:07:16 am gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #557 vào lúc: 13 Tháng Mười Một, 2011, 01:02:41 pm »

(tiếp)

Các tín hiệu rời rạc của tàu Mỹ chỉ "nhấp nháy", tức là không liên tục. Trên máy phân tích phổ nó được coi như nhiễu, vì đặc điểm của mắt người gắn liền với loại tế bào thần kinh gọi là "tế bào gậy", tức là đối với sự rời rạc liên tục, nó đối xử như nhiễu nội tại. Nếu xét trên mô hình - khoa học, sự phân bố tín hiệu không phải là phân bố Gaussian, mà các bộ não thủy âm học thích thoa kem đánh phấn (vì không biết gì khác hơn thế), mà là phân bố Poisson, với sự phân bố biên độ tín hiệu rời rạc tuân theo các phân bố Rayleigh-Rice trong các quảng cách thời gian xuất hiện ngắn ngủi của chúng. Ngoài ra, các tham số của dòng chảy Poisson cho các (tín hiệu) rời rạc khác nhau cũng khác nhau. Nếu không có máy tính và xử lý tín hiệu kỹ thuật số, chỉ bằng mắt người ta không thể nhìn thấy và đánh giá chúng, và như thế có nghĩa là ta sẽ không phát hiện và phân loại được (tín hiệu, mục tiêu).


Giải phẫu tế bào cảm thụ ánh sáng hình gậy (Rod cell - Палочки (сетчатка)).

Đã xác định được "cửa sổ" tần số của bất biến lớn nhất, mà tất cả các lớp tàu ngầm Mỹ đồng thời sở hữu. Hệ thống định hướng âm của các tàu ngầm Liên Xô được xây dựng trên một mô hình không chính xác, không phù hợp với "bản thể vật lý" của (tín hiệu) rời rạc của các tàu Mỹ, cũng như “bản thể vật lý” của sự ngụy trang bởi nhiễu bản thân của chúng, do đó nó là một hệ điếc. Tình hình cần được hiệu chỉnh bằng cách sử dụng thiết bị phụ trợ kỹ thuật số kiểu như "Ritsa" trong thành phần tổ hợp thủy âm nhằm loại bỏ sự không phù hợp trên. Tuy nhiên, trong thời Xô Viết không thực hiện được khối lượng công việc đó trên quy mô lớn. Các nhà thủy âm học của Liên hiệp KHSX Morphyzpribor tuyên bố rằng (tín hiệu) các tàu Mỹ không có thành phần rời rạc. Cơ quan trinh sát Hạm đội Biển Bắc đã xua tan huyền thoại này. Nhưng dựa trên cơ sở các phương pháp toán học mới. Và tiếng kêu của nó đã chết chìm trong cuộc khủng hoảng chính trị thời đại ấy. (Tín hiệu) rời rạc và những chân dung (nhận dạng) là có – nhưng các thiết bị phù hợp với "bản thể vật lý” của sự phát hiện tại Hải quân (thời bấy giờ) là không có.

 

Phân bố chuẩn hay phân bố Gauss.



Siméon Denis Poisson (1781-1840).

   
Phân bố Poisson (Распределение Пуассона - Poisson distribution), nền tảng của lý thuyết phục vụ đám đông (Теория массового обслуживания (теория очередей) - Queueing theory), một loại lý thuyết xác suất.


 

Phân bố Rayleight.


 

Phân bố Rice. Các hình minh họa : ru.viki.

Nghiến răng trèo trẹo mà công nhận còn có cả Cục Kỹ thuật vô tuyến điện tử Hải quân với Cục trưởng mới, Chuẩn Đô đốc A.V.Kuzmenko. Cục KTVTĐT Hải quân quyết định đặt hàng nhóm sỹ quan sáng chế hạm đội thông qua NTTM “Nevod” (научно-технического творчества молодежи – hội thi sáng tạo khoa học – kỹ thuật thanh niên) nghiên cứu và phát triển chính thức đầu tiên (Опытно-конструкторские работы – ОКР - OKR) về sản phẩm BFT-DVK theo đề tài "Bespreryvnost-3 '. Nhưng OKR chính thức về Ritsa này đã không diễn ra, tôi sẽ nói trường hợp đó sau một chút .

Tôi ngạc nhiên bởi trong những ngày đó, tôi không gặp nhà khoa học chính thức nào được Bộ Tư lệnh Hải quân cử tới nhằm kiểm tra Kuryshev về "tính khoa học", mà bất cứ ai trong số họ cũng đều đã có một trình độ giáo dục toán học đủ để đánh giá ý tưởng. Ở tất cả bọn họ đều có một "nhất thể" bền vững. Trước đây, tôi không hiểu được điều đó. Bây giờ, tôi cắt nghĩa được rõ ràng rằng Bộ chỉ huy Cục KTVTĐT  đã đặc biệt gửi các tiến sỹ và phó tiến sỹ kém hiểu biết tới chỗ tôi để họ báo cáo "... chẳng làm sao mà hiểu được cái gì, vì Kuryshev là gã lang băm". Để họ rũ bỏ khỏi bản thân trách nhiệm chính thức vì tình trạng khủng hoảng trong lĩnh vực thủy âm học quân sự về phát hiện các tàu ngầm tiếng ồn thấp. Còn thiết bị phụ trợ thủy âm - đây là dụng cụ thủy âm kỹ thuật số đầu tiên trong Hải quân với công nghệ mở. Mặc dù chất những câu chửi tục thành một lớp dày và nặng nề lên đầu chúng tôi, vì sự "ăn không ngồi rồi" của chúng tôi với thiết bị "Ritsa", hạm đội vẫn bí mật tự hào về những thành tựu mà nhóm đạt được.

Lãnh đạo Hải quân đã chứng kiến sự trở lại thực tế và sự quan tâm của các quan chức cao cấp hải quân thậm chí còn cao hơn. Điều này thể hiện sự sẵn sàng hoàn toàn của giới lãnh đạo hải quân trong việc cho phép các tàu ngầm tham gia các thí nghiệm của chúng tôi. Trong sở hữu của tôi có các báo cáo về công việc với "Ritsa" thực hiện trong khoảng chừng 40 chuyến ra khơi. Những dữ liệu thực nghiệm này thì không có nhà khoa học thủy âm quân sự nào hồi xưa có được và bây giờ cũng sẽ không bao giờ có. Các kết quả nhận được cho phép lặp đi lặp lại việc cập nhật chương trình xử lý tín hiệu cài đặt trong "Ritsa". Và thủy âm học của biển hoàn toàn không phải nằm trong các sách giáo khoa và các sổ tay tham khảo. Phải từ bỏ lý thuyết về tia sáng (Ray theory - лучевая теория).Đã phải từ bỏ các phương trình về tầm xa, chỉ đơn giản bởi nó quá ngây thơ và không phản ánh được tính khả thi kỹ thuật của sự chế áp nhiễu thích ứng, các hiệu ứng hình thành tia sáng thích hợp và tính chất ngẫu nhiên của tín hiệu.

Dí trán vào các phương trình tầm xa trong điều kiện tiêu chuẩn, như dí mặt vào bức tường - lý do cho sự bế tắc của các nhà thủy âm học hải quân. “Tính khoa học" trên hết phải là sự thống nhất giữa lý thuyết và thực nghiệm. Chỉ có Hạm đội Biển Bắc có khả năng thực hiện yêu cầu này và đảm bảo công tác thực sự khoa học về Ritsa. Chỉ có hạm đội mới có thể trên cơ sở của tất cả các thông tin chúng tôi có mà phân tích các kết quả nhận được một cách chính xác. Chỉ có hạm đội có khả năng dạy cho các thuyền trưởng, rằng âm thanh có thể lan truyền ra ngoài các cạnh của đa giác. Thiết bị phụ trợ thủy âm - đó đã là một nửa trận chiến. Có ở đâu khó khăn hơn sự chuẩn bị cho các thuyền trưởng và thủy thủ đoàn trong việc áp dụng vào tác chiến thiết bị này. Các tham số phát hiện của thiết bị không phù hợp với PBI RES (побочные излучений (ПБИ) радиоэлектронных средств (РЭС) – bức xạ thứ yếu của phương tiện kỹ thuật VTĐT), và đây là nguyên nhân không chấp nhận thiết bị phụ trợ thời kỳ đầu tiên. Toàn bộ nề nếp tác phong trên tàu ngầm chúng ta và công việc của chu trình điều khiển nó không sẵn sàng cho việc tiếp xúc dài hạn với tàu ngầm (đối phương). Bằng các hướng dẫn đặc biệt tạm thời Hạm đội đã kiên nhẫn dạy các quy tắc mới cho các thuyền trưởng tàu ngầm. Nhiều lần các thuyền trưởng bằng thiết bị "Ritsa" đồng thời quan sát thấy tàu ngầm (đối phương) trong phạm vi lân cận các khu huấn luyện chiến đấu, nhưng không thể ngay lập tức tin vào điều ấy. Phải mất một thời gian đáng kể để quen với nó. Các cộng tác viên ban tác chiến chống ngầm Bộ tham mưu Hạm đội Biển Bắc đã biệt phái đến với các thuyền trưởng tàu ngầm và xác nhận tiếp xúc với các tàu ngầm của chúng ta.

........
« Sửa lần cuối: 13 Tháng Mười Một, 2011, 09:23:30 pm gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #558 vào lúc: 15 Tháng Mười Một, 2011, 04:17:29 pm »

(tiếp)


Thành thật mà nói, các thông tin về tình hình chiến trường – đó là những thông tin hoạt động mà bất kỳ học giả nào, thậm chí từ Viện Hàn Lâm Khoa học cũng không tiếp cận được. May mắn thay, việc phân tích dữ liệu trên "Ritsa" thực tế diễn ra thường xuyên, mặc dù việc hoàn thành tính toán với thông tin này được thực hiện khá chậm trễ. Và hạm đội tin tưởng vào thiết bị phụ trợ và không có nghĩa vụ chia sẻ thông tin với bất cứ ai. Đặc biệt với giới khoa học thuộc Trung ương, đó là nguyên nhân chính gây rò rỉ thông tin. Vì bí mật của công việc, tôi ủng hộ ý tưởng này ở cấp lãnh đạo. Nói cách khác, giải quyết vấn đề tăng hiệu quả của hệ thủy âm chỉ có thể là chính hạm đội, mà không thể chờ các viện nghiên cứu và ngành công nghiệp. Họ có nhiệm vụ khác – bóc lột hạm đội để duy trì sự tồn tại của mình, và một giải pháp giải quyết được vấn đề sẽ đem lại cho họ cái chết. Thiết bị với kiến trúc mở, như Ritsa, cho hạm đội một cơ hội ngay lập tức xem xét một cách thực sự các quan điểm cũ của ngày hôm qua, và thay đổi chương trình làm việc và không phụ thuộc vào thói đỏng đảnh của ngành công nghiệp chúng ta. Từ đây phát triển cả tầm xa (phát hiện mục tiêu), và đưa đến vấn đề xây dựng một hệ thống di động. Tôi muốn lưu ý rằng ngành công nghiệp không cung cấp được cái gì như vậy. Chính hạm đội đã "vẽ ra" điều ấy.

Bởi lẽ không chỉ các nhà phát triển có thể lập trình được cho "Ritsa" mà là tất cả những ai quan tâm đến việc giải quyết vấn đề, không cần tiêu tiền từ nhà nước. Vì vậy, người sĩ quan hải quân có óc tìm hiểu có thể nhanh chóng giải quyết một vấn đề với thiết bị như Ritsa, hơn bất kỳ viện sỹ Viện HLKH nào. Có vẻ như giới khoa học hải quân xô viết của chúng ta lo ngại điều đó và cố tình không cho phép áp dụng công nghệ nguồn mở vào hạm đội. Những người Mỹ cũng thấy được lợi ích của thiết bị "mở", nhưng chậm trễ hơn "Ritsa" của Hạm đội Biển Bắc khoảng mười đến mười hai năm. Chúng tôi phát minh ra, nhưng áp dụng lại là những người khác. Công Nghệ Mở - COTS đã trở thành một công nghệ quan trọng trong khoa học thủy âm của Hải quân Hoa Kỳ. Thông qua các bạn bè tôi, những người nói tiếng Nga đã di cư đến Mỹ trong những năm 199x, họ truyền tụng rằng Kuryshev - cha đẻ của công nghệ COTS, nhưng trong Hải quân Nga người ta vẫn cười chế giễu các tổ chức áp dụng công nghệ này. Thậm chí hôm nay, vẫn còn người đứng đầu Cục KTVTĐT Hải quân hỏi – đó là cái quái gì thế?

Ngay với tôi, ngày hôm nay vẫn thấy thật kỳ lạ khi các báo cáo, các thống kê số liệu, nhật ký ghi chép sự kiện của các thuyền trưởng tàu ngầm - đối với giới khoa học chẳng có ý nghĩa gì. Không thể hiểu được cả Ban lãnh đạo Hải quân, mà với họ, các ý kiến ngớ ngẩn và ngu ngốc của giới khoa học có bằng tiến sỹ lại quan trọng hơn báo cáo các sự kiện có thật của các thuyền trưởng tàu ngầm (!?). Những câu chuyện về thủy âm học thông qua kinh nghiệm phát hiện tàu ngầm bằng tổ hợp thủy âm của các tiến sỹ và phó tiến sỹ "bàn giấy", không gắn bó hàng ngày bằng các thí nghiệm với đối tượng nghiên cứu của mình, tôi dù chỉ là một kỹ sư cũng coi đó là điều vớ vẩn. Vấn đề không phải thủy âm học, mà là các phương pháp xử lý tín hiệu. Các nhà thủy âm học không biết đến xử lý dữ liệu sẽ có cách tiếp cận khi thảo luận các vấn đề phát hiện rất ngây thơ và vô lý. Chừng nào Hải quân chưa khắc phục được lỗi lầm này trong quan niệm về vai trò của thủy âm học, việc phát hiện tàu ngầm trong khoa học thủy âm quân sự của Hải quân sẽ tồn tại nhiều vấn đề và sẽ còn bế tắc. Để tăng phạm vi phát hiện thì phải tăng tỷ lệ tín hiệu trên nhiễu. Sự gia tăng này được đạt tới bằng cách sử dụng phương pháp lọc tối ưu.

Tại sao không có "ngôi sao" thủy âm học nào hồi đó đề xuất áp dụng vào xử lý tín hiệu cho tổ hợp thủy âm các bộ lọc tối ưu Wiener-Kolmogorov và Wiener-Hopf từng được phát minh ra bốn mươi năm trước "Ritsa"? Câu trả lời mới đơn giản làm sao - không có "ngôi sao" thủy âm học nào biết các công thức đó. Chính các công thức ấy đã chỉ ra rằng xử lý tối ưu phụ thuộc vào kiến thức hiểu biết được về phổ của nguồn và phổ của tiếng ồn nội tại. Khoa học về xử lý tín hiệu và dữ liệu từ lâu đã đề nghị phải làm gì để phát hiện các tín hiệu yếu. Việc cần thiết chỉ là thực hiện những ý tưởng kỹ thuật đã có từ lâu và áp dụng một cách có tổ chức trong Hải quân. Điều gì đã không được thực hiện và có thể ngay cả bây giờ cũng không được thực hiện. Vào giữa những năm 197x, tạp chí khoa học nước ngoài của Hiệp hội các kỹ sư tư vấn IEEE đã dành số đặc biệt cho vấn đề trên. Trong phiên bản tiếng Nga, nó có tên "Chế áp nhiễu một cách thích ứng". Thậm chí các học sinh sỹ quan trường hải quân cũng tiếp cận được vấn đề. Không hề có điều gì trong đó đã và đang có trong các hệ thống sonar tàu ngầm của Hải quân chúng ta. Đó là cái đập ngay vào mắt tôi, chàng học sinh sỹ quan mới hôm qua, nay là trung úy đến nhận nhiệm vụ tại hạm đội vào năm 1977. Không hề có các bộ lọc Wiener-Kolmogorov, Wiener-Hopft trong các kênh xử lý tín hiệu của hệ sonar tàu ngầm Liên Xô, nhưng nó đã được sử dụng trong sonar tàu ngầm Hải quân NATO. Cả cha đẻ các thuyền trưởng cũng có lỗi. Thay vì phải thảo luận về chuyện đó, với từ "thủy âm học" người ta đã và đang gửi tất cả các cây sáng kiến kiểu như tôi tới gặp các nhà thủy âm học. Và họ thì vui mừng vị sự quan tâm. Tiền của hạm đội không hút vào việc phát hiện tàu ngầm bằng sonar, mà vào nghiên cứu thủy âm học, như một bộ phận của vật lý. Và sau đó mình tự an ủi mình tại các Hội thảo quốc tế về "ánh sáng", "các chế độ", "bao hình khúc xạ", "hỗn độn động lực" và các trò màu mè khác. Một tình trạng ốm yếu.


Norbert Wiener (1894-1964), nhà toán học Mỹ gốc Do Thái Ba Lan nổi tiếng, một trong những cha đẻ của điều khiển học. Bộ lọc mang tên Wiener-Kolmogorov do hai nhà khoa học độc lập phát triển và đề ra trong những năm 40-41 của thế kỷ 20.


Eberhard Hoft (1902-1983), nhà toán học Mỹ gốc Áo-Hung nổi tiếng, cha đẻ lý thuyết ergodic trong toán học, một ngành toán học nghiên cứu các vấn đề hệ động lực (dynamical system) với độ đo bất biến (invariant measure) nó xuất phát từ các vấn đề của vật lý thống kê (statistical physic). Phương pháp Wiener-Hopft là một phương pháp sử dụng rộng rãi trong toán học ứng dụng để giải hệ phương trình tích phân, các phương trình vi phân 2 chiều với điều kiện biên hỗn hợp trên cùng một biên. Về tổng quát phương pháp này khai thác các đặc trưng giải tích phức của các biến đổi hàm. Tiêu biểu là biến đổi Fourier chuẩn, nhưng các mẫu tồn tại lại sử dụng biến đổi khác như biến đổi Mellin. Đó là các vấn đề ứng dụng trong xử lý tín hiệu.

Đối phương giải quyết vấn đề bằng cách tổ chức "bắt" phổ tiếng ồn của các tàu ngầm và tàu mặt nước của chúng ta, sử dụng phao thủy âm thả từ máy bay và các chiến dịch đặc biệt của các tàu ngầm bên ngoài căn cứ chúng ta, theo chỉ đạo của tình báo Hải quân Hoa Kỳ. Những loại xử lý "tối ưu" mà Viện nghiên cứu Hải quân 14 và "Oceanpribor" làm ra không có tổ chức công tác trinh sát như vậy và không có khả năng sử dụng trở lại các kết quả của nó vào tổ hợp thủy âm tàu ngầm trong quy mô thời gian thực. Về mặt kỹ thuật, hệ thủy âm các tàu ngầm chúng ta không được thiết kế cho việc này. Tại sao các nhà thủy âm học đã chín chắn và có uy tín chính thức của Hải quân không đề xuất từ 25 năm trước với hạm đội chế tạo các bộ biến đổi analog-digital (ADC- АЦП - аналого-цифровые преобразователи) cho các hydrofone ăng-ten của tổ hợp thủy âm kỹ thuật số với số bit thông tin cao lên? Bộ ADC có số bit nhỏ của hydrophone tổ hợp thủy âm kỹ thuật số sẽ "nuốt" toàn bộ dự toán kênh truyền và giảm thấp phạm vi hoạt động về mặt năng lượng của tổ hợp thủy âm và dự trữ năng lượng của tổ hợp thủy âm. Đây là một trong những lý do chính dẫn đến phạm vi hoạt động thấp của sonar kỹ thuật số tàu ngầm Hải quân chúng ta. Trong đầu những năm 198x, tôi đã đi những chuyến đặc biệt đến Riga, đến nhà máy chế tạo thiết bị vô tuyến điện và đã đấu tranh để đạt bằng được bộ chuyển đổi tương tự - số có dự trữ bit cao dành cho thiết bị phụ trợ thủy âm.

........
Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #559 vào lúc: 16 Tháng Mười Một, 2011, 01:59:18 pm »

(tiếp)


Mới gần đây tại  Cục KTVTĐT Hải quân, hai đại tá hải quân “hàng đầu”, một là phó tiến sĩ khoa học và từng được giải thưởng, đã nói với tôi rằng cấp (số bit biểu diễn) của ADC là không cần thiết phải quan tâm - vì tín hiệu là ergodic (?!). Từ "phát hiện" như vậy của các đồng sự Cục KTVTĐT Hải quân có thể đồng thời lật nhào trong các ngôi mộ những nhà khoa học nổi tiếng thế giới L.Boltzmann, N.Wiener và nhà toán học Liên Xô A.Ya. Khinchin những người phát minh ra và chứng minh tính ergodict (ergodicity- эргодичность) trong nửa đầu của thế kỷ trước. Không nghi ngờ gì, bản thân cha đẻ lý thuyết thông tin, Shannon K.E. cũng sẽ không hài lòng mà quằn quại trong ngôi mộ của ông, "sau khi nghe" từ thế giới bên kia các tuyên bố của các phó tiến sỹ khoa học Cục KTVTĐT Hải quân, các chuyên gia thẩm định trong lĩnh vực thủy âm học trực thuộc Tổng tư lệnh Hải quân. Một tình trạng ốm yếu.

Vậy tại sao các "ngôi sao" thủy âm học không đề xuất với Hạm đội Hải quân đưa vào biên chế hệ thống sonar tàu ngầm hải quân một hệ con loại «Reploc»? Hệ thống con này (AN BQG / -3,4,5), đã được đưa vào thành phần tổ hợp thủy âm của Mỹ AN BQQ / -2,5,6,10, cũng như đưa vào thành phần các tổ hợp thủy âm cả ở Pháp (TSM 2233), Đức, Anh, Tây Ban Nha, Trung Quốc, Pakistan, Argentina, Australia, - ở khắp mọi nơi, chỉ không có trên các tàu ngầm của Liên Xô và Nga. Hệ con này cho phép bạn xác định rất chính xác phương hướng và khoảng cách tới tàu ngầm theo tiếng ồn của nó, trong chế độ thụ động, tức là bí mật và nhanh chóng tính ra các tọa độ để áp dụng vũ khí ngư lôi mà không làm lộ sự hiện diện của bản thân mình. Nhưng chỉ vì thực tế là việc xử lý tín hiệu trong các hệ thống phụ đó cho đến nay các nhà thủy âm học Hải quân vẫn còn chưa hiểu rõ. Năm 1982 chúng tôi, cùng với Yu.F.Tarasyuk (biên tập viên chính rất có trách nhiệm của tủ sách "Thư viện kỹ sư thủy âm học"), xuất bản một báo cáo đặc biệt về các nguyên tắc hoạt động của một hệ thống như vậy. Nhưng thông tin không được tiếp nhận.

Lý do cho sự lạc hậu của ngành thủy âm học quân sự là ở tình trạng độc quyền chân lý và độc quyền sản xuất phương tiện kỹ thuật. Độc quyền, được bảo vệ nghiêm ngặt bởi Ủy ban Hàng hải của Hạm đội Hải quân, Cục KTVTĐT Hải quân, Trung tâm NCKHKT Vũ khí VTĐT Hải quân. Các anh chàng từ các tổ chức này, "chăm chăm kiếm" một nơi cho mình sau khi rời khỏi chức vụ, chủ yếu là trong khu vực St Petersburg. Còn với "công việc" không quan tâm. Các quan chức thậm chí còn phát minh ra một thuật ngữ không cho phép cạnh tranh: "để tránh trùng lặp công việc, các công việc trong lĩnh vực này không để các xí nghiệp khác làm". Trong suốt triều đại của V.I.Kuroyedov các quan chức và giới khoa học gia thủy âm, để biện minh cho sự yếu kém của mình và tiếp tục khai thác tham lam khoản ngân sách béo bở, đã gắn cho hạm đội một ý tưởng nguy hiểm, và củng cố bằng tài liệu cho ý tưởng đó, ý tưởng bảo đảm về sự vô ích của các phương tiện phát hiện thụ động. Giờ đây khi đặt cược vào sự phát triển của các phương tiện phát hiện chủ động, người ta mang niềm vui đến cho kẻ thù. Lý do – sự ngu xuẩn toàn diện (và có lẽ có dụng ý) của các nhà thủy âm học về các nguyên tắc hiện đại trong xử lý và phát hiện các tín hiệu yếu.

Đóng vai trò đặc biệt tiêu cực trong chuyện này bây giờ là hội đồng chuyên gia trực thuộc Tổng tư lệnh Hải quân. Nếu Tổng tư lệnh Hải quân quyết định trên cơ sở kết luận của hội đồng chuyên gia của mình có một trình độ đào tạo khoa học kỹ thuật xuống cấp như vậy trong lĩnh vực phát hiện tàu ngầm bằng sonar, thế thì khi ấy sao mà chiến đấu được. Sự thiếu hiểu biết, ngu dốt, lừa dối và tham lam – đó là phong cách của hội đồng này. Nói ngắn gọn, bây giờ quyết định của Tổng tư lệnh Hải quân đã được mua. Hội đồng chuyên gia tư vấn thuộc Tổng tư lệnh Hải quân là một cơ cấu tham nhũng tiện dụng để quyết định các vấn đề tiền bạc cho các thành viên của nó và các khách hàng tiềm năng của Hải quân và cũng là công cụ gây ảnh hưởng từ bên ngoài. Hội đồng tham nhũng thuộc Tổng tư lệnh là sự ô nhục của Hải quân. Có thể nói đến tầm xa phát hiện nào đây, nếu ở đó cần phải sợ sự rò rỉ thông tin, nếu không ngay lập tức coi kẻ thù tiềm năng bên ngoài, như với đối thủ cạnh tranh - chính xác phải như vậy. Ngày nay, các hoạt động của Hội đồng chuyên gia thuộc Tổng tư lệnh Hải quân mâu thuẫn với luật pháp của nước Nga "Về bí mật thương mại", "Về cạnh tranh", "Về Thông tin", phần IV của Bộ luật Dân sự LB Nga về quyền tác giả, v.v… Một hội đồng tội lỗi, tham nhũng như vậy không hề cần thiết cho Hải quân, đó là sự ô nhục của Hải quân và chắc chắn sẽ chấm dứt sự tồn tại của nó, sau khi đã làm mất uy tín của chính mình.

Cùng với thời đại khó khăn xáo trộn đã đến, công việc với thiết bị Ritsa tại Hạm đội Biển Bắc cũng dừng lại. Ngày 18 tháng 8 năm 1991 trong ngày đầu tiên của GKTCHP, Kiểm sát viên của Viện Kiểm sát Hạm đội Biển Bắc, đại úy hải quân Kolabashkin, cùng với tiếng hét: "hôm nay chúng tôi sẽ cho tất cả các anh các nhà sáng tạo và các doanh nhân biết, ai chúng tôi sẽ đuổi, ai chúng tôi sẽ tống giam" bắt đầu cuộc thanh tra Trung tâm sáng tạo khoa học và kỹ thuật thanh niên "Nevod" trực thuộc Bộ tham mưu Hạm đội Biển Bắc, mà ở đó tôi là người lãnh đạo. Phó Đô đốc O.A.Erofeev Tư lệnh mới của Hạm đội Biển Bắc là người ra lệnh thanh tra. Các tuyên cáo như vậy của kiểm sát viên rõ ràng xuất phát từ một thực tế là trong những ngày tồn tại Ủy ban tình trạng khẩn cấp (GKTCHP - ГКЧП), Hải quân đã ủng hộ Ủy ban. Tình cờ, người bảo trợ của tôi, Đô đốc hạm đội I.M.Kapitanets, trong những ngày này đang chèo lái Hải quân, đã không che giấu điều đó. Có lẽ từ trung tâm các nhân viên an ninh chê ka mới "gkachepista" đã đưa ra các mệnh lệnh nhằm bắt đầu cuộc đàn áp các cấu trúc kinh tế mới ở khắp mọi nơi.

Trung tâm sáng tạo KHKT thanh niên đầu tiên (và cuối cùng) trong lực lượng vũ trang, trung tâm "Nevod" khai trương công việc của mình bên cạnh Bộ tham mưu Hạm đội Biển Bắc trên cơ sở chỉ thị D-40 tháng 10 năm 1986 của Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội và Hải quân Liên Xô về "Hoạt động sáng tạo khoa học kỹ thuật của tuổi trẻ trong quân đội và Hải quân Liên Xô". Nhiệm vụ của trung tâm là bằng cách tự mình trang trải về tài chính, thực hiện trang bị các thiết bị phụ trợ thủy âm cho các tàu ngầm. Ý tưởng được ủng hộ bởi Phó Tổng tư lệnh thứ nhất Hải quân I.M.Kapitanets và  Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội và Hải quân V.I.Panin, và giúp đỡ thực hiện là Ủy ban Trung ương Đoàn TNCS Lê nin toàn Liên bang. Hướng dẫn viên của UBTU Đoàn Komsomol, S.V.Vyugin nghiên cứu tỉ mỉ các vấn đề tại Hạm đội Biển Bắc, đã nói chuyện với các thuyền trưởng tàu ngầm, với Bộ tư lệnh Hạm đội Biển Bắc, và sau chuyến đi của mình, cùng với Bí thư Đoàn Komsomol Hải quân S.A.Klemekhin báo cáo khách quan lên tất cả các cấp lãnh đạo về sự lựa chọn để hỗ trợ ý tưởng sáng tạo tại Hạm đội Biển Bắc. Tạo điều kiện cho vấn đề này là các trường hợp sau đây.

Trong tháng mười năm 1986, để tiếp tục công việc về thiết bị phụ trợ một cách có tổ chức, theo sáng kiến của chủ nhiệm ngành huấn luyện chiến đấu Hải quân Đô đốc G.A. Bondarenko, Tổng tư lệnh Hải quân ra mệnh lệnh thành lập một bộ phận riêng biệt tại Trung tâm NCKHKT số 5 của Hải quân ở thành phố Severomorsk. Nhưng tôi không thuộc bộ phận đó. Chuyển sang bộ phận này có một số thành viên của nhóm ngoại trừ tôi, vì xu hướng tính cách, chưa phải thành viên Đảng Cộng sản Liên Xô (tôi chưa bao giờ là đảng viên), và vì sự phản kháng của mình đối với việc lãnh đạo các công việc của ban này lại do Viện nghiên cứu KHKT Hải quân số 54 đảm nhiệm, đơn vị luôn chống lại thiết bị phụ trợ thủy âm. Cán bộ tổ chức cho rằng không xứng đáng giao trách nhiệm cấp phó cho một thượng úy kỹ sư như vậy. Bằng việc gạt bỏ tôi khỏi "công việc" họ đã tạo điều kiện cho việc thử nghiệm không thành công thiết bị tại cuộc tập trận một tháng trước khi diễn ra chiến dịch "Atrina". Khi đó Cục trưởng KTVTĐT Hải quân G.P.Popov yêu cầu loại bỏ các thiết bị phụ trợ khỏi các tàu ngầm. Hạm đội đã không nghe Popov và vẫn để lại thiết bị phụ trợ trên các tàu ngầm tham gia  "Atrina".

Khi tôi đang trang bị cho các tàu tham gia "Atrina" các thiết bị phụ trợ thủy âm, người ta lại phái tôi đến phục vụ tại Arkhanghelsk, còn các thành viên còn lại của nhóm thì Trưởng Trung tâm NCKHKT số 5 N.I.Yaretenko yêu cầu họ viết một báo cáo rằng họ bằng lòng không cần có Kuryshev, "nói khác đi, người ta giải tán ban này, và họ sẽ không được xếp vào thứ hạng nào, không thuộc loại phục vụ nào và cũng chẳng có căn hộ nào tại Severomorsk". Một viễn cảnh như vậy của các chàng trai đến từ thành phố Polyarny còn trở nên u ám hơn thế nhiều và họ đã viết báo cáo rằng "sẽ bằng lòng và không cần có Kuryshev".

Thật khó khăn phải ra đi khi chàng trung úy M.N.Lyzhov của bạn, người đã được mời vào nhóm làm việc đã "rũ bỏ" khỏi các hồ sơ của bạn, tất cả mọi thứ có thể liên quan đến thiết bị phụ trợ thủy âm. Tôi không tha thứ cho sự phản bội và lặng lẽ tước khỏi các thiết bị phụ trợ còn để lại trong Trung tâm NCKHKT phần "lập trình mạnh mẽ" (robust programming - «робастности»). Tôi sẽ giải thích, trong thời kỳ đó, các bộ vi xử lý không làm việc ổn định (và kể cả ngày nay cũng thế). Tất cả đều cần sự hỗ trợ của phần mềm, bằng cách nào đó duy trì sự làm việc ổn định của toàn bộ sản phẩm xử lý tín hiệu kỹ thuật số trong điều kiện đặt trên các con tàu. Các chàng trai kia đã không hiểu điều này, và giới khoa học thủy âm nói chung cũng không thể hiểu điều này. Tôi đã loại bỏ các chương trình này. Ngày nay trong các hệ thống máy tính xây dựng theo công nghệ COTS-nhằm để chúng không "treo" nhiệm vụ này sẽ do các hệ thống hoạt động với thời gian thực hoàn thành. Lúc bấy giờ người ta không biết và cũng không có khả năng làm điều đó. Tại ban, điều đó kết thúc trong nước mắt. Thiết bị phụ trợ của ban không muốn làm việc trên biển. Sáu tháng sau, mới thấy rõ ràng rằng các chàng trai của ban không thể sửa chữa tình thế. Sự việc kết thúc đến nỗi người ta bắt đầu xua đuổi họ ra khỏi các tàu ngầm. Trong khi đó, các tàu ngầm đã trở về từ chiến dịch “Atrina", trong chiến dịch này một số thuyền trưởng đã biết sử dụng thành công thiết bị phụ trợ để phát hiện tàu ngầm Mỹ. Cấp trên bắt đầu phân tích chiến dịch và nhớ đến tôi. Họ gọi tôi về từ Arkhanghelsk, sắp đặt nhóm thượng úy vị trí chính thức trong trung đoàn thông tin liên lạc và đề nghị một lần nữa tiếp tục công việc về thiết bị phụ trợ thủy âm. Một lần nữa lại thành lập nhóm hải quân, đã thành công trong việc cải thiện đáng kể thiết bị phụ trợ thủy âm. Các kết quả của thiết bị phụ trợ mới (phần mềm mới), giới khoa học đến ngày nay cũng không biết. Có lệnh phải giữ mọi thứ trong bí mật. Cục trưởng KTVTĐT Hải quân G.P.Popov, khi biết rằng tôi một lần nữa lại ở Severomorsk, đã nhiều lần phàn nàn với Bộ Tổng tư lệnh Hải quân và Bộ Tư lệnh Hạm đội Biển Bắc. Nhưng không có ai lắng nghe ông ta nữa.

.......
« Sửa lần cuối: 16 Tháng Mười Một, 2011, 09:57:30 pm gửi bởi qtdc » Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM