Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 16 Tháng Năm, 2024, 05:48:50 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Mùa đông lạnh nhất - David Halberstam  (Đọc 91519 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #70 vào lúc: 02 Tháng Mười Một, 2013, 05:55:17 pm »

Nhưng đồng thời cũng có mặt khác trong con người MacArthur kém hấp dẫn hơn nhiều. Ngay cả từ thời Thế chiến I đã có những dấu hiệu nguy hiểm về cái tôi quá lớn của ông. Nhưng khi đó ông còn trẻ và còn phải thăng tiến, nên ông đủ khôn ngoan để che dấu điều đó trong hầu hết các cơ hội, chúng bị che sau đặc tính táo bạo trong chỉ huy và tốt bụng với binh lính. Thế nhưng đến Thế chiến II thì khác. Lúc này ông đã nổi tiếng; chính trị hóa và cái tôi của ông thường xuyên xung đột với các vấn đề quân sự thuần túy. Lúc này có nhiều kẻ thù hơn và chúng không nhất thiết là quân xâm lược trên chiến trường mà còn là những nhà hoạt động quân sự, dân sự ở Washington; và thêm vào đó, thực vậy, với sự nổi tiếng, cần phải có sự tin cậy nhiều hơn. Ngoài ra ông còn ít kiềm chế. Đến cuối Thế chiến II, phần giỏi giang trong ông không tăng nhiều để cân bằng với phần tiêu cực.

Ông là một con người đòi hỏi kẻ dưới quyền phải trung thành tuyệt đối, nhưng lại không chia sẽ sự tin cậy với ai. Ông không như Eisenhower-người thường cho sỹ quan dưới quyền được hưởng chút vinh quang. Tất cả thông điệp phát ra từ sở chỉ huy đều thự danh ông, và như vậy mọi câu chuyện, sự kiện từ Thái Bình Dương luôn có phần dưới thiệu là “Sở chỉ huy MacArthur”, ngụ ý rằng thông tin phát ra từ một sở chỉ huy chiến trường mà ở đó chỉ có một người đưa ra các quyết định thực chiến. Tất cả các thông báo chiến thắng ở Thái Bình Dương trong cả cuộc chiến đều mang tên ông. Như William Manchester đã nghiên cứu và nhận ra trong tất cả các thông tin phát ra từ khu chiến ở ba tháng đầu, có tới 109 trên 144 thông cáo báo chí không có nói đến tên một sỹ quan nào khác. Tướng Robert Eichelberger, một trong những sỹ quan cao cấp của MacArthur, có lần nói với viên sỹ quan phụ trách thông tin đối ngoại rằng cơ hội thấy một con rắn đuôi chuông nhỏ chui trong túi ông còn lớn hơn là thấy tên mình trong một thông cáo. Khi Eichelberger, một sỹ quan cực kỳ năng nổ và thông minh trong tập đoàn quân Tám của MacArthur, viết bài cho tạp chí The Saturday Evening Post và tạp chí Life, thời đó hai tạp chí này rất quan trọng, MacArthur đã không hài lòng. Ông gọi Eichelberger đến và bảo: “Anh có tin là trong nội nhật ngày mai tôi sẽ giáng anh xuống cấp đại tá và đưa về nước không hử?”. Lòng trung thành với ông ta chỉ có một chiều, và ông có thể rất bất trung với mọi tổng thống mà ông phục vụ, cả với các sỹ quan quân đội cao cấp ở Washington. Ngày qua ngày ông càng lún sâu vào chính trị, thường xuyên liên hệ làm việc với đảng Cộng Hòa (*). Ngay vào giữa lúc thế chiến đang ác liệt năm 1944, một MacArthur đầy tham vọng và căm ghét Franklin Roosevelt đã dường như xác định ông và tổng thống là kẻ thù chính trị không đội chung trời. Năm 1948, ông tham gia vào nỗ lực chiếm ghế tổng thống cho đảng Cộng hòa, nhưng thất bại thảm hại, rồi năm 1950, ông đang chỉ huy quân ở Triều Tiên lúc giữa chiến cuộc, ông vẫn nóng lòng trông về cuộc đua tranh cử tổng thống vào năm 1952, mà ông sẽ là một trong số các ứng viên của đảng Cộng hòa.

Cánh bảo thủ trong đảng Cộng Hòa nghĩ rằng ông thuộc cánh họ, rằng xu hướng chính trị của ông là bảo thủ, và rõ ràng không có gì đúng hơn; dù rằng ông đã dựng lên một chính quyền tự do một cách đáng ngạc nhiên ở Nhật. Theo thang đo chính trị Mỹ thời giữa thế kỷ XX thì ông bảo thủ hơn là tự do, thiên hướng chính trị và quan điểm của ông được nhìn nhận theo từng thời kỳ khác nhau. Nhưng với những ai biết rõ ông thì cho rằng hệ tư tưởng chính trị chỉ xếp hạng nhì trong ông, bởi, hơn tất cả mọi điều, ông sống trong vương quốc của riêng mình và vì vậy xu hướng chính trị của ông là chỉ là chính trị của chính ông.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #71 vào lúc: 02 Tháng Mười Một, 2013, 05:59:40 pm »

Minh chứng rõ ràng nhất cho việc ông đã nhúng sâu vào chính trị, cũng như thèm muốn có vị trí ở tầm quốc gia, chính là vai trò của ông trong công cuộc triệt hạ phong trào Bonus Army (tạm dịch là Bảo tức Quân) ở đầu thập kỷ 1930. Cuộc Đại Suy thoái đã thể hiện sự cách biệt sâu thẳm trong xã hội Mỹ, và sự xa lánh xã hội, kinh tế, chính trị lên ngôi (Huh câu này không rõ nghĩa lắm Sad , có thể dịch sai). Lúc này MacArthur là tham mưu trưởng Lục quân Mỹ, và ông đã ủng hộ nồng nhiệt không chỉ chính quyền Hoover mà còn với các chỉ thị kinh tế – chính trị, và thách thức mãnh liệt ở nhiều mặt trận. Không có gì ngạc nhiên khi ông chọn vị trí bên phía chính quyền và có lẽ là đó là điều không thể tránh được. Nhưng cái cách ông tự dấn mình vào tâm chấn vượt quá xa yêu cầu với vị trí công việc hiện tại; đã phản ánh cho thấy nhu cầu được vinh danh, được nổi tiếng của ông. Phong trào Bảo tức quân đến Washington, đó là một nhóm các cựu binh Thế chiến I nghèo túng, liều mạng tìm kiếm vài sự trợ giúp, tưởng thưởng cho họ vì đã phục vụ trong chiến tranh. Đó là năm 1932, lúc cuộc Đại Suy thoái đạt đỉnh. Và đây là thời điểm rất hạn chế về mặt chính trị của MacArthur; bất kể ông nổi tiếng hay được tôn vinh như thế nào ở vị trí tướng lãnh trong thế chiến II, thì vết nhơ về việc ông đã làm không bao giờ phai nhạt trong tâm trí của nhiều người dân Mỹ; những người lớn lên trong thời kỳ ấy.

Khi đó hàng triệu người Mỹ thất nghiệp và Bảo tức quân, hoặc Lực lượng viễn chinh bảo tức, như cách họ gọi phong trào của mình, là nhóm các cựu binh khố rách áo ôm được hạ nghị sỹ Wright Patman của bang Texas bảo trợ, mùa xuân năm ấy họ hi vọng sẽ vận động được một khoản trợ cấp. Khoản trợ cấp này chừng 1000 $ cho từng người như là một thứ bảo tức, vào thời ấy thì đó là một con số rất lớn. Nếu phục vụ trong thế chiến I sẽ được hỗ trợ, thưởng lợi tức với mức còn hơn tiền tử tuất của lính vào năm 1945 – hai mươi bảy năm sau khi kết thúc thế chiến I. Dự luật Patman được xây dựng để giải quyết vấn đề.

Có lẽ có chừng 30,000 người, đa số là cựu binh nhưng cũng có cả vợ và con họ, đã lập một làng tạm bất hợp pháp, một khu trại nhỏ thảm hại với lều, lán cạc tông ngay tại thủ đô, đa số nằm ở một khu gọi là Ancostia Flats ngay bên kia sông Ancostia, phía nam thành phố. Chỉ một số ít trong đó là các phần tử cực đoan, mà cho dù có kha khá cực đoan đi nữa thì cũng chẳng mấy ngạc nhiên vào thời ấy bởi ngày càng nhiều dân thường mất lòng tin vào chủ nghĩa tư bản kiểu truyền thống. Courtney Whitney, một trong các trợ tá thân cận của MacArthur, một phát ngôn viên của ông, sau này đã viết rằng cuộc tuần hành Bảo tức có “phần lớn là tội phạm, những người từng bị tống tù với hồ sơ tội phạm như giết người, ngộ sát, hiếp dâm, cướp giật, trộm cắp, tống tiền và ám sát” . Với MacArthur, họ không là gì cả nhưng lại là đám tiện dân chống Mỹ nguy hiểm. Trong khi Hội Cựu chiến binh, tổ chức có lưu trữ gần chính xác nhất, sau này thông báo rằng có 94% trong số họ thực sự là cựu binh, 67% từng phục vụ viễn chinh cho Hoa Kỳ. Với Dwight Eisenhower, khi đó là thiếu tá, một trợ tá trẻ tài năng của MacArthur, thì dù cuộc tuần hành là một nỗ lực sai lầm, nhưng ông cảm thấy họ cùng các yêu sách đều thật đáng thương tâm – “Họ rách rưới, đói ăn và tự cảm thấy bị đối xử tàn tệ”.

Rồi cuộc chiến chính trị ở hạ viện với dự luật của Patman nóng lên, con số của phong trào Bảo tức quân tiếp tục tăng vọt. Đến mùa hè, cảnh sát địa phương gặp vấn đề với khả năng có thể khống chế họ. Hoover, ông này bị đờ đẫn nặng bởi cuộc suy thoái, và trong thời kỳ mất ủng hộ từ người dân, đã bắt đầu lo lắng hơn với sự đe dọa từ yêu sách của cuộc tuần hành. Mùa hè năm ấy, dự luật Patman được Hạ viện thông qua, nhưng không vượt được Thượng viện. Đồng thời, có vài cuộc đụng độ nhỏ giữa các thành viên Bảo tức quân  và cảnh binh địa phương. Hoover cảm thấy đây là lúc để quét các cựu binh ra khỏi thành đô và muốn quân đội Mỹ làm việc đó. Trong cuộc gặp với các quan chức dân sự, quân sự cao cấp nhất, có cả MacArthur, các lãnh đạo của Bảo tức quân đề nghị cho phép họ hành quân rút đi theo đội hình thích hợp và với vài nghi thức phẩm giá, khi quân đội vào tiếp quản khu trại. MacArthur trả lời: “Ồ, dĩ nhiên rồi các bạn”.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #72 vào lúc: 02 Tháng Mười Một, 2013, 06:09:10 pm »

Đến ngày 28 tháng 7, tình huống trở nên căng thẳng khi có vài cuộc hỗn chiến với những người tuần hành. Hoover tự tay ra lịnh phải dẹp cuộc kháng nghị. Khi đó Eisehower, vì không muốn quân đội quá liên đới tới sự kiện tồi tệ chắc chắn sẽ xảy ra, ngay cả khi được điều khiển thận trọng, một sự kiện chính trị tởm lợm, nên cố giữ MacArthur tránh ra xa. Một thiếu tướng, tên Perry Miles, một sỹ quan rất có năng lực, lãnh quân. Và thiếu tá thiết giáp trẻ George Patton Jr. chịu tránh nhiệm phụ trách xe tăng, một hình thức cảnh cáo với Bảo tức quân nếu họ có ý định kháng cự. Eisenhower thất kinh khi biết MacArthur định có mặt tại chỗ để tự thân chỉ huy các lực lượng đàn áp. Sáng đó cả ông và MacArthur đến văn phòng trong bộ thường phục. MacArthur bảo Eisenhower quay về nhà để mặc quân phục và đồng thời lịnh cho người chuẩn bị quân phục cho cả ông ta – với đầy đủ huân huy chương. Eisenhower dũng cảm tranh luận rằng đây là một sai lầm, một thứ sẽ bốc mùi thối inh, và thậm chí có thể làm tổn hại đến quân đội (“tôi nói thật là điên khùng và ông ta không có việc gì phải ra chỗ đó. Tôi nói ổng là không cần một tham mưu trưởng lục quân cho việc ấy” sau này Eisenhower kể lại). Vị tham mưu trưởng lục quân, người thường tự nói về mình ở ngôi thứ ba, trả lời “MacArthur quyết định sẽ đến vị trí chỉ huy thực địa”. Rồi ông nói thêm “Có hơi hớm của một cuộc nổi loạn”. Eisenhower đề nghị rằng hay là họ chỉ nên đến xem thôi và ít ra là không cần đóng quân phục, nhưng MacArthur bác bỏ đề nghị này.


Khu trại của phong trào Bảo tức quân


Bảo tức quân đụng độ với cảnh sát

Thế rồi họ mặc quân phục nghiêm chỉnh đến gặp Bảo tức quân. Lệnh từ Bộ trưởng Bộ Lục quân khá rõ ràng. Hoover muốn những người tuần hành phải được chế ngự, nhưng không muốn có sự hỗn loạn. Việc đàn áp những người kháng nghị càng thận trọng càng tốt. Quân đội không được vượt qua sông hoặc đến sát trại lớn nhất của cánh cựu binh vốn ở bên kia sông. Sau này Eisenhower thuật lại rằng ông có báo cho MacArthur biết là có một liên lạc viên mang theo lệnh từ tổng thống. MacArthur trả lời “Tôi không muốn nghe, không muốn thấy. Đưa người ấy đi chỗ khác”. Ông ta quyết định không nhận thông điệp, như vậy không cần phải tuân thủ lệnh và rồi sẽ không có giới hạn cho hành động của ông. Phải vượt sông và phá hủy khu trại.


Kỵ binh và xe tăng chuẩn bị tấn công Bảo tức quân

Khung cảnh quanh họ nhanh chóng trở nên tệ hại. Những căn lán nhỏ tồi tàn của các cựu binh bốc cháy. Eisenhower biết đây có thể là một hình ảnh truyền thông đầy cảm xúc nên cố đưa MacArthur ra xa. Ông tin rằng, đây là một vấn đề dân sự và cần cách giải quyết dân sự; hãy để cho cánh dân sự lãnh trách nhiệm và chịu nhiệt. Nhưng Eisenhower có lẽ gặp phải một con thiêu thân muốn ở quanh ngọn lửa. Như thể MacArthur cần phải ở trung tâm của sự kiện. Ông ta thận trọng tổ chức một cuộc họp báo vào tối muộn hôm ấy, và ở đó, dù đã vượt quá giới hạn lệnh của Hoover (và tạo ra một cuộc khủng hoảng chính trị, góp phần rất lớn giúp cho ứng viên đảng Dân chủ Franklin Roosevelt thắng trong cuộc bầu cử sắp đến), ông vẫn tán dương Hoover đã rất kiên định: “Nếu ông ấy chỉ chậm thêm một tuần nữa thôi thì tôi tin rằng thể chế của chính phủ chúng ta sẽ bị đe dọa”. Đó là cách MacArthur đưa Hoover vào thế việc đã rồi. Vị tổng thống không thể tỏ ý kiến bất đồng trước một việc mà dường như đã được làm theo lịnh của mình. Đó là khoản khắc phá hoại sự nghiệp chính trị của Hoover. Không ai nhận biết rõ điều đó hơn Franklin Roosevelt, ông tin chắc việc này sẽ định đoạt kết quả bầu cử.



Với hàng triệu thường dân Mỹ đồng cảm với cuộc tuần hành, thì đó là một thời khắc định mệnh, MacArthur đã vĩnh viễn tồn tại trong tâm trí họ với góc độ một quân nhân đã sỉ nhục quyền của thường dân, một người sẽ không bao giờ được tin cậy về mặt chính trị và rất quân phiệt. Tuy vậy, bằng cách đó, ông ta đã có được thứ mình muốn, những hành động trong ngày ấy đã giúp ông kết nối chặt chẽ hơn với cánh hữu – vốn xem phong trào Bảo tức quân như là một mối đe dọa lớn với chủ nghĩa tư bản. Ông biến mình thành một nhân vật được ưa thích với các nhóm cử tri bực bội với các phát kiến được đưa ra trong chính sách kinh tế mới (New Deal). Ông đã chính trị hóa mình hơn bất kỳ vị tướng nào có thể, ông tách khỏi cánh chính trị gia đang lên và cột chặt mình vào nhóm đang suy sụp.

Khung cảnh chung quanh của sự kiện hôm đó giúp hiểu biết thêm về hai sỹ quan Lục quân, những người đóng vai trò trung tâm của nước Mỹ trong tương lai: một Eisenhower với cảm xúc mềm dẻo về các hệ quả chính trị, có kỹ xảo chính trị bẩm sinh và đồng cảm với các khó khăn của thường dân; và một MacArthur với tuyên bố rằng đó là thời khắc cốt lõi đe dọa nền kinh tế mệnh lệnh hiện tại, và quan trọng hơn, là nhu cầu được đứng giữa trung tâm sân khấu, trang hoàng với quân phục nghiêm chỉnh đầy đủ huân chương, và nhận sự chú ý hết mực của toàn thể giới báo chí.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #73 vào lúc: 02 Tháng Mười Một, 2013, 06:17:44 pm »

Cảm nhận của cá nhân MacArthur về đất nước dường như thường bị thiên lệch nặng, đặc biệt khi ông già đi, còn đất nước theo đà tiến vũ bão của kỹ thuật, đã thay đổi rất nhanh. Về bản chất, ông là một con người của thế kỷ mười chín, ông thích hợp với những thứ của thế kỷ cũ mang sang hơn những điều mới lạ của một thời kỳ được cấu thành từ các lực lượng chính trị mới, biến đổi và dân chủ hóa bởi sự thay đổi kịch tính của nền kinh tế và các phương thức truyền thông. Không ngạc nhiên khi ông bất đồng ý kiến với đa số những thay đổi chính trị ở Washington. Nhưng với ông, mọi thứ còn mang màu sắc cá nhân; những ai đến cùng chính sách Kinh tế mới (New Deal) không chỉ khác với những người tiền nhiệm, mà còn là kẻ thù, là những kẻ tiếm quyền; có một phần không nhỏ là do ảnh hưởng của ông lên họ không còn được như với những người tiền nhiệm. Ông nhìn nhận hai vị Tổng thống của đảng Dân chủ mà ông phục vụ dưới quyền, không gì khác hơn là độc dược. Điều này đặc biệt đúng với Roosevelt, một con người thông minh và xảo quyệt, ông này đã xoay sở dùng vị tướng ấy với một kỹ thuật khác thường, rất kích thích – thứ kích thích của một tay chơi cổ điển cuối cùng phải mắc mưu người còn giỏi hơn. (Roosevelt xem MacArthur như một tay khuyển nho độc nhất vô nhị. Ông dùng nhưng không tin. Có lần vị tổng thống nói với trợ lý của ông – Rexford Tugwell, rằng Huey Long là một trong hai con người nguy hiểm nhất đất nước. Ai là người còn lại, Tugwell hỏi, là Cha Coughlin, một thầy tu bốc hỏa? “Ồ không” Roosevelt trả lời “người kia chính là Douglas MacArthur”).

Trong suốt Thế chiến II, ông và Roosevelt đã chơi những trò phức tạp nhất, một chính trị gia có năng khiếu tột bậc đấu với một tướng quân cũng xuất sắc cực kỳ nhưng đối nghịch. Có lần Roosevelt đã nói với viên tướng – đây là vài điều mà MacArthur thích nhắc lại như thể để cho thấy ông không có tham vọng chính trị – “Douglas, tôi nghĩ anh là vị tướng giỏi nhất của chúng tôi, nhưng tôi tin anh sẽ là một chính trị gia tồi nhất”. Roosevelt, một con người quý phái nhưng cực kỳ ranh ma, xem MacArthur như một con diều hâu. Roosevelt hiểu ông ta (và tham vọng cháy bỏng làm tổng thống của ông) nhiều hơn MacArthur hiểu về Roosevelt. Vị tổng thống không bao giờ nghĩ viên tướng ấy là một mối đe dọa chính trị nghiêm trọng – ông ta không có mấy quan hệ với cử tri thông thường – nhưng trong mọi trường hợp, ông vẫn lưu trữ một báo cáo của MacArthur trước khi thế chiến II nổ ra rằng ông ta khăng khăng có thể giữ được Philippine và những cứ điểm quan trọng trên Thái Bình Dương bởi “quân địch không có khả năng tấn công bằng không quân đến các đảo của chúng ta” ngoài ra còn có tài liệu về cách điều quân rối mù của MacArthur ở Philippine trong đó có việc để máy bay ngay ngoài trời ở căn cứ Clark cả 9 giờ sau khi sở chỉ huy của ông đã biết được tin quân Nhật tấn công Trân Châu Cảng, và như vậy làm thành mồi ngon cho máy bay Nhật.

Khó có sự tin cậy lẫn nhau trong mối quan hệ này. MacArthur, người luôn nắm giữ các kỷ lục, cảm giác rằng ông đang gặp đúng đối thủ nên rất bực bội, chua chát. Tháng 4 năm 1945, Roosevelt đột tử trong văn phòng ngay trước thềm chiến thắng châu Âu, nhiều quốc gia thương tiếc ông, nhưng Douglas MacArthur rất rõ ràng là không. Khi nghe tin, ông quay sang Bonnie Fellers, một sỹ quan tham mưu, và nói: “vậy là Roosevelt chết rồi: một tay không bao giờ nói thật thì cũng chỉ cần một lời dối trá để dùng”. Người ngoài sốc khi nghe ông ta nói vậy; thật là khó tưởng tượng nổi ở bất kỳ sở chỉ huy nào, khi một viên tư lệnh nói như vậy về thượng cấp vừa mới chết của mình.


Roosevelt – Tổng thống Mỹ thứ 32

Ký ức trong MacArthur về quan hệ công việc của mình với Roosevelt đều luôn tiêu cực: bất bình, không thành công, từ cái cách Roosevelt ra lịnh giải cứu ông lúc đầu năm 1942 khi ông dường như bị rơi vào bẫy ở Philippine và quân Nhật đã bắt được phần lớn quân của ông, cho đến việc vị tổng thống đã đứng về phía MacArthur trong cuộc tranh luận chính với Hải quân về phương thức tiến hành chiến tranh ở Thái Bình Dương và tiếp cận các đảo chính của Nhật. Điều quan trọng không phải là những gì Roosevelt đã làm cho ông mà  chính là những gì tổng thống đã không làm vì ông!!! Không có điều gì trong đống huyền thoại của ông nổi hơn vụ đào thoát khỏi Philippine. Đó là một cú PR thành công cho cả ông và cả tổ quốc. Khi đến được Úc, ông đã nói câu nói nổi tiếng: “Tôi sẽ trở lại”. Washington đã muốn đổi câu đó thành “Chúng tôi sẽ trở lại” nhưng vị tướng không làm: câu nói đó trở thành một thứ nhiệm vụ, cam kết cá nhân; và nó sẽ xảy ra như ông ta đã quyết. Trong những giờ phú đen tối, luôn cần phải có gương anh hùng, nên MacArthur được tôn xưng với cuộc đào thoát đó, và chính phủ đã giữ một vai trò tích cực trong công cuộc tôn vinh đó. Những tính toán sai lầm lớn của ông lúc đầu cuộc chiến, thứ lỗi có thể kết thúc sự nghiệp một vị tướng kém hơn, đã được che đậy và thay vào đó là một câu chuyện về người anh hùng được dựng lên, rằng MacArthur vẫn còn sống và chiến đấu vào một ngày tới . Không ai rõ điều này hơn William (Wild Bill) Donovan, một con người có tầm ảnh hưởng khổng lồ trong những ngày ấy, một luật sư đầy tham vọng ở phố Wall, lúc đó ông lãnh đạo OSS, đơn vị tiền thân của CIA. Ông nói “Tướng MacArthur là một biểu tượng của nước ta chiến đấu vì tự do – dù ngoài kia, trên biển, trên không quanh ông, địch có nhiều súng, nhiều quân”. Lời nịnh hót này chẳng được gì; MacArthur không cho cả OSS lẫn CIA vào trong vùng điều hành của ông trong cả thế chiến II lẫn ở Triều Tiên.


Donovan (Wild Bill)
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #74 vào lúc: 02 Tháng Mười Một, 2013, 06:22:44 pm »

Ở châu Âu, trong suốt thế chiến II, nhiều sỹ quan trẻ tài năng đã đến dưới trướng của Eisenhower và thành danh, cả sỹ quan tham mưu lẫn sỹ quan chiến đấu, nhưng dưới quyền của MacArthur ở Thái Bình Dương thì không, không một sỹ quan nào được phép tự tạo dựng tên tuổi và cũng không có mấy thay đổi nhân sự trong ban tham mưu của ông ta kể từ lúc bắt đầu cuộc chiến cho đến khi ông rời khỏi Tokyo. Tháng mười năm 1950 John Gunther viết “Cần phải có những dòng máu trẻ trung hơn quanh MacArthur, nhưng ông ta sẽ không cho bất kỳ ai cạnh ông quá nổi. Tôi nghe nói rằng ‘Người của MacArthur không  có ai dám liều đứng đầu’”.

Họ được gọi là hội Bataan. Ngay cái tên cũng phản ánh cho thấy một dạng kiểm tra trung thành. Bạn ở đâu lúc ông đang ở điểm đáy sự nghiệp – lúc ở Philipin với quân Nhật đang đến gần, ông ta buộc phải chạy đến Úc? Trừ Ned Almond, tham mưu trưởng của ông trong thời Tokyo, là một ngoại lệ hiếm – không mấy ai có thể trở thành một thành viên trong nhóm cận thần của ông nếu họ không thuộc thời kỳ Bataan ấy. Lúc bắt đầu cuộc chiến Triều Tiên, những sỹ quan hàng đầu của ông đã theo ông từ hồi cuối thập niên 1930, một con số không cân đối. Robert Sherwood, một kịch tác gia, một tác giả nổi bật, là đại diện không chính quy của Roosevelt trong suốt cuộc chiến, ông thất kinh trước sự thù địch mà ông phải đối diện ở sở chỉ huy (MacArthur), và sự thịnh nộ trước tất cả các loại văn kiện và các thông tin mặt trận khác. Sherwood đến đó vào năm 1944 và mang theo tin quân Đồng Minh đã vượt cầu Remagen – một thời khắc vĩ đại của chiến dịch đánh Đức. Nhưng khi ông nói với Charles Willoughby tin đó, Willoughby đã nạt ông “Bọn tôi mặc kệ bất cứ thứ gì ở châu Âu”. Thế là Sherwood viết thư về cho tổng thống rằng “có bằng chứng xác đáng về sự ngược đãi hoàn toàn trong công việc. Khi nghe các sỹ quan tham mưu ở đây nói, người ta có thể nghĩ rằng Bộ Chiến tranh, bộ Ngoại giao – và có thể cả Nhà trắng nữa – đã bị ‘cộng sản và đế quốc Anh’ thống trị”.

Roosevelt luôn tin rằng MacArthur hoàn toàn cách biệt với chính trị nội địa Mỹ, ông ta là tù nhân của chính giấc mơ của mình hơn là do những thay đổi chính trị trong nước, hay các thực tại kinh tế. Quay lại năm 1936, MacArthur tin rằng Alf Landon sẽ đánh bại Roosevelt, nên ông đã nổi giận với tham mưu trưởng của mình, Eisenhower – cũng là một người Kansas như Landon – vì Eisenhower tin chắc rằng Landon không có cơ hội. Eisenhower cho MacArthur xem một bức thư từ một người bạn ở Abilene, rằng Landon còn thậm chí không thắng nổi ở bang nhà. MacArthur đưa vào sổ đen ngay Eisenhower và một sỹ quan tham mưu khác do ông này cũng lo cho việc nhỡ Landon thắng bởi đó là “một người tư tưởng nhỏ hẹp, đáng ngại, một thứ người sợ không dám đưa ra phán quyết dù có bằng cớ rõ ràng trong tay”. Rốt cuột Landon chỉ thắng ở hai bang trong số 46 bang, thua ở cả Kansas.

Năm 1944, giữa cuộc chiến Thái Bình Dương, đã có tin nói rằng MacArthur bắt đầu chống lại Roosevelt. Vài nhân vật ghét Roosevelt nhất trong đảng Cộng hòa thúc đẩy ông ta quyết tâm tham gia cuộc đua. Một trong số họ là hạ nghị sỹ bang Nebraska thuộc đảng Cộng hòa A.L.Miller, ông thấy MacArthur là một ứng viên hi vọng duy nhất cho việc cứu lấy đất nước, và đã viết thư: “Tôi nhận ra rằng nếu chính sách Kinh tế mới không được dừng lại thì đời sống của dân Mỹ chúng ta sẽ vĩnh viễn sụp đổ”. Hàng đống thứ trong thư của Miller, mà có khá nhiều thư, rõ ràng là nhằm công kích vào các nhân vật chính trị hoặc quân sự đương thời, một kiểu làm của một tay lý luận gia phù phiếm, một con người không có dũng khí. Tuy vậy, MacArthur lại bắt đầu trao đổi với Miller: “Tôi hoàn toàn nhất trí với các nhận định rất thông thái và đầy tính khoa học quản lý nhà nước của ngài”, ông ta viết cho viên nghị sỹ khi nói về tình trạng đen tối của “tấn bi kịch tai hại trong thời kỳ hỗn loạn hiện nay của chúng ta”. Ngẫu nhiên sự kiện này diễn ra trong thời khắc đất nước đang gồng mình phục vụ cho chiến tranh, khi thường dân ở mọi lứa tuổi cống hiến sức mình cho cuộc chiến một cách thiện chí và tràn đầy quyết tâm!!!
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #75 vào lúc: 02 Tháng Mười Một, 2013, 06:30:26 pm »

Điều này không làm luồng thư qua, tin lại giữa Miller – MacArthur chấm dứt. Tay nghị viên này viết: “cái kiểu chế độ quân chủ  đang được thiết lập ở Mỹ sẽ hủy hoại quyền của dân lành”. MacArthur viết lại: “mô tả của ngài về tình hình ở Hoa Kỳ quả thực là rất tỉnh táo, và nó sẽ đánh động mọi nhà ái quốc chân chính suy xét thật cẩn trọng”. Thứ làm tổn hại ông ta chính là sự xu nịnh, và bởi chính mong muốn được sùng kính quá lớn nên ông khó lòng kháng cự nổi. Đó là nhược điểm trên lớp vỏ giáp của ông và ông lại rúc vào đó. Miller, do sợ rằng có một nhà yêu nước vĩ đại dường như đã thấy được chính xác cái cách hắn làm, nên rốt cuộc đã đưa các lá thư này ra công chúng giữa lúc chiến cuộc, làm cho MacArthur lúng túng nhiều. Khi ấy vị tướng nói rằng các lá thư đó hoàn toàn mang tính riêng tư, điều này thì đúng sự thật, và rằng nó không nhằm vào mục đích chỉ trích bất cứ chính trị gia hay nhà lý luận nào, điều này, dĩ nhiên là không thật. Nhưng họ đã bị tổn thương. Trong buổi họp báo do một người bạn, cũng là người ủng hộ ông, thượng nghị sỹ Arthur Vandenberg tổ chức, MacArthur thông báo rằng ông không muốn thấy tên mình được đưa ra tranh cử trong hội nghị hiệp thương của đảng Cộng hòa. Vandenberg ý thức rằng nếu tên của vị tướng được đưa ra bầu thì kết quả sẽ rất bẻ mặt. Tiếc là có một đại biểu lọt ra khỏi lưới, và Tom Dewey có 1056 phiếu, MacArthur có một. Rất chắc chắn, năm 1944 không là một năm tốt với sự nghiệp chính trị của MacArthur; nhưng cũng rõ ràng là khao khát tham gia cuộc đua (tổng thống) vẫn còn đó.

Tháng 5 năm 1946, Eisenhower, khi đó là tham mưu trưởng Lục quân, đến thăm vị tướng ở Tokyo và họ trao đổi với nhau về cuộc bầu cử tổng thống. MacArthur thúc Eisenhower tham gia, còn Ike cũng rất xứng đôi khi đề nghị MacArthur tranh cử. Lúc ấy MacArthur tự nhận là mình quá già để tranh cử tổng thống, nhưng Eisenhower hiểu quá rõ tham vọng quái dị và sự hão huyền của MacArthur hơn chính MacArthur, ông này về Washington và cảnh báo Truman rằng ông ta có thể phải đối đầu với MacArthur trong năm bầu cử 1948. Thực vậy, với việc chiến tranh kết thúc và công cuộc dân chủ hóa Nhật bản thành công ngoài mong đợi, vị tướng đã gửi thông điệp đến những người mến mộ ông, vào năm 1947, rằng dù ông không tìm kiếm một vị trí ứng cử của đảng Cộng hòa nhưng ông sẽ chấp nhận một yêu cầu ứng cử độc lập, nếu có. Ông quả quyết với họ rằng đó sẽ như là một bổn phận của mình. Sự thật là ông kỳ vọng cao một cách đáng ngạc nhiên cho cuộc chạy đua năm 1948. Nhưng ông không có mấy liên kết với tổ quốc – ông đã đi xa hơn một thập kỷ rồi, và ông là một kiểu người mà dù cho ông không đi quá bờ lục địa thì ông vẫn cứ không có liên kết được với những công dân ủng hộ ông.

Việc hàng triệu người Mỹ đặt chân vào tầng lớp trung lưu đã sớm có tác động quan trọng đến cả hai đảng, ví dụ như những người trước kia bầu cho đảng Dân chủ giờ họ trở nên giàu hơn và bắt đầu suy nghĩ một cách độc lập và bỏ phiếu bảo thủ hơn; nhưng tại thời điểm kế hoạch Kinh tế mới đang diễn ra thì việc bỏ phiếu trong cuộc bầu cử toàn quốc vẫn dựa trên cơ sở khác biệt kinh tế của các thành phần dân cư. Những người thúc đẩy MacArthur ra tranh cử, tin rằng kế hoạch Kinh tế mới đơn thuần là một bước đi đầu tiên của một hành trình dài, nguy hiểm dẫn đến chủ nghĩa Cộng sản. Ủng hộ viên của ông mạnh nhất là ở vùng Trung Tây, đặc biệt là khu vực dưới ảnh hưởng của đại tá Robert McCormick, chủ nhân ông tờ Chicago Tribune và là thủ lãnh của những người theo chủ nghĩa biệt lập thời ấy. Những người say mê vị tướng nhất là những người theo chủ nghĩa biệt lập, chủ nghĩa dân bản địa, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa chống Xê mít, và ghét dân lao động – dù MacArthur không như vậy nhưng ông vẫn sẵn lòng nhảy múa cùng họ. Họ hoàn toàn tin rằng họ chính là những đại diện chân chính của cái họ gọi là chủ nghĩa Mỹ. Thiếu tướng George Van Horn Moseley, bạn thân của MacArthur, ông này phản ánh cho quan điểm trên, đã viết cho MacArthurn ngay trước chiến dịch (tranh cử) năm 1948 rằng “Có một lượng lớn kẻ thù ngay trong cửa nhà chúng ta và những kẻ… sợ anh … chúng là thành viên của CIO, là Cộng sản, là Do Thái, hoặc những kẻ đê tiện như Walter Winchell [một tay nửa tầm phào, nửa cộng sản], và Drew Pearson [một người cộng sản tự do, từng rắc rối với MacArthur trước đó]”. Trong quyển America Mercury, nhà viết tiểu luận nổi tiếng thời đó John Carten đã ghi: “Có thể đó không phải là lỗi của ông ta, nhưng chắc chắn điều bất hạnh của ông chính là việc những phần tử xấu nhất của cánh Hữu, bao gồm cả đám cực đoan, quá khích nhất, đã hoan nghênh MacArthur”. Được họ ủng hộ đưa ra tranh cử năm 1948, MacArthur đã trả lời theo cách chán ngắt đặc trưng: “tôi sẽ nói, với tất cả sự khiêm nhường, rằng sẽ là bội phản các khái niệm về tư cách công dân gương mẫu tôi đã đề ra nếu tôi lùi bước vì sợ rủi ro và trách nhiệm khi nhận bất kỳ nhiệm vụ nào người dân Mỹ đã giao” . Không ai có thể quý phái hơn!!!
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #76 vào lúc: 02 Tháng Mười Một, 2013, 06:33:11 pm »

Những người thúc đẩy ông tham gia cuộc tranh cử 1948 là những tay chính trị gà mờ, mang đầy cảm giác chính trực lẫn giận dữ. Mọi người họ biết đều đồng ý với với chính kiến của họ; thế giới của họ cả ở văn phòng lẫn câu lạc bộ, không có nhiều tiếng nói bất đồng. Họ hầu như chẳng biết mấy về cấu trúc chính trị địa phương. Một bài thử cho cuộc đua của MacArthur là ngay tại Wincosin, nơi ông đã sống một thời gian hồi còn nhỏ, và cũng là quê cha đất tổ của gia đình ông cũng như nhiều gia đình quân nhân. Đó là một bang giữa khu Trung Tây, và an toàn trong phạm vi ảnh hưởng của tờ Chicago Tribune. Robert Wood, một người bạn cũ và cũng là một đầu não ngoại hạng của tổ chức theo chủ nghĩa biệt lập American First, chính là người hỗ trợ và đại diện của ông ta. Wood chắc ăn rằng MacArthur sẽ chiến thắng với ít phất 20 trong số 27 phiếu cử tri của bang Wisconsin. Bởi ông ta là một ứng viên nhưng không có mặt, nên họ hi vọng sẽ đưa ra thông điệp rằng người anh hùng yêu nước của họ vì quá bận rộn phục vụ tổ quốc nên ông phải được đối xử xứng đáng. Họ tin rằng ông sẽ thắng ở Wisconsin bởi vì ông không thể có mặt trong chiến dịch tranh cử ở đó. Nhưng mọi thứ không ổn – ngay với cả những cựu binh. MacArthur chưa bao giờ được biết như là một người-lính-cấp-tướng, và ngay cả là cựu binh, cuộc bầu cho thấy như vậy.

Wisconsin được chọn làm nơi khởi động tranh cử, nhưng nó kết thúc một cách đầy thực tế. Harold Stassen, cựu thống đống bang láng giềng Minnesota, chiến thắng cực nhọc với 40% phiếu bầu và 19 phiếu đại cử tri; Thomas Dewey, người sẽ chiến thắng ở vị trí đại diện đảng ra tranh cử được 24% và không phiếu đại cử tri; MacArthur, ở nơi xem là đất phát của mình, chỉ được 36% và 8 phiếu đại cử tri. Ngày hôm sau, đại sứ William Sebald, một nhà ngoại giao cao cấp Mỹ ở Tokyo, đến tòa nhà Dai Ichi để bàn việc. Thiếu tướng Paul Mueller, tham mưu trưởng của MacArthur giơ tay ra chặn ông lại. “Tướng quân đang như cái mền rách và rất ảo não” ông nói với Sebald như vậy, và ông này quyết định sẽ đến thử lần khác. Nhưng ngay cả việc thất bại thảm hại trong cuộc chạy đua dành vị trí ứng viên năm 1948 cũng cho thấy rõ ràng một điều, rằng dù đã đến cuối sự nghiệp, Douglas MacArthur vẫn mơ màng về vị trí tổng thống.

Mối quan hệ giữa vị tổng thống và viên tướng ngay từ lúc đầu đã là thảm họa. Viên tướng thì không tôn trọng tổng thống, và ngược lại đến phiên mình, thì tổng thống ngay trong bản năng đã không thích và không tin viên tướng. Trong năm 1945, vị tân tổng thống đã ghi trong nhật ký “có thể làm gì với ngài tướng mũ nồi xanh, Prima Donna, năm sao MacArthur bây giờ. Lão còn tệ hơn cả nhà Cabots lẫn nhà Lodges – họ ít ra còn nói với một ai khác trước khi tâu lên Chúa việc phải làm. Còn Mac thì bảo thẳng với Chúa trời luôn. Thật là rất đáng tiếc khi chúng ta cố nhét những chiếc áo dơ dáy đó vào các vị trí quan trọng. Tôi không hiểu tại sao Roosevelt đã không lịnh cho Wainwright về nước [từ Corregidor (*) hồi năm 1942] và để cho MacArthur làm một kẻ tử đạo…. Nếu là Wainwright, chúng ta đã có một vị tướng thực thụ, một chiến binh thay vì một tay diễn viên, một tay bợm mà ta có hiện nay. Không thể hiểu nổi sao một quốc gia có thể sản sinh ra những con người như Robert E.Lee, John J.Pershing, Eisenhower và Bardley thì cùng đồng thời đẻ ra những kẻ như Custers, Pattons và MacArthur”

(*) Corregidor là một cuộc chiến quan trọng được xem như là trận Gibraltar ở Thái Bình Dương, Corregidor là một cứ điểm phòng thủ mạnh, được chuẩn bị kỹ ở Philippine, quân Nhật không thể không chiếm nếu muốn sử dụng vịnh Manila. Trận chiến bắt đầu 29/12/1941 đến ngày 6/5/1942 thì quân Mỹ – Phi đầu hàng. Tướng Wainwright là tư lịnh ở đó cũng đầu hàng quân Nhật
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #77 vào lúc: 02 Tháng Mười Một, 2013, 06:36:52 pm »

Trong mắt MacArthur, thành tích, phẩm chất của Truman thì còn lâu mới gây được ấn tượng. Truman hành nghề chính trị, đã đủ tệ rồi, thế mà còn là đảng viên Đảng Dân chủ, một tay dân  chủ cánh tự do nữa chứ, ngoài ra ông ta còn được chỉ định thừa kế Franklin Roosevelt què quặt. Một con người như vậy, một đại úy Vệ binh quốc gia con con trong thời Thế Chiến I, và rồi thành một chính trị gia không mấy thành tích, rõ ràng là tự thấy thấp bé hơn, bây giờ lại đứng được trên MacArthur trong hệ thống chỉ huy sao? Trong trí óc của MacArthur, đó là một câu hỏi không thể trả lời. Trong đầu mỗi người, kẻ kia đều là quái dị, họ có bối phận hoàn toàn khác nhau, ý niệm về lòng trung thành và bổn phận cũng rất cách biệt nhau. Ngày từ thời điểm tháng 4 năm 1945, lúc Truman lên làm tổng thống, thì đã có vấn đề giữa hai con người này. Thượng nghị sỹ  Tom Connally của bang Texas, trưởng ban Quan hệ quốc tế Thượng viện, cũng đã cảnh báo Truman, phản đối việc để MacArthur tiếp nhận Nhật Bản đầu hàng. Truman viết trong nhật ký: “[Connally] bảo rằng Doug sẽ tham gia tranh cử chống lại tôi vào năm 48 nếu tôi lăng xê ông ta. Tôi nói Tom rằng tôi không muốn tranh cử vào năm 48 và rằng Doug cũng không thể làm phiền tôi bằng cách đó”

Tổng thống và những cán bộ quân sự cao cấp của ông hiểu rằng MacArthur sẽ bắt đầu có hành vi không tốt ngay khi chiến sự Thái Bình Dương chấm dứt. Vấn đề gây chia rẽ đầu tiên giữa họ là vấn đề binh sỹ. Trong 5 tháng hòa bình đầu tiên, tổng thống và các quan chức hàng đầu ráng làm chậm bớt việc giảm quân số quân đội Mỹ thời hậu chiến, cố gắng chống lại ước muốn gấp gáp một cách bản năng của các gia đình Mỹ mong con mình trở về, rời xa sắc áo lính. Và MacArthur, với vấn đề này ông diễn ngay, trong ngày 17 tháng 9 năm 1945, từ Tokyo ông thông báo rằng bởi việc chiếm đóng Nhật đang diễn tiến tốt đẹp, nên ông chỉ cần 200,000 quân trong số nửa triệu lính nguyên ủy. Vụ này được dùng làm quân bài trong tay những kẻ chỉ trích chính quyền trong nước, và làm những người ở Washington tin rằng đó là một thủ đoạn được sắp xếp cẩn thận, lúc này họ bị vây bởi áp lực ngày càng tăng cao của việc phục viên.

Trong mắt của Bradley và Eisenhower, đó là một ví dụ cho sự tệ hại tuyệt đối của vị tướng, không thèm kiểm chứng, không hiểu biết chính trị, và đặt cá nhân cùng ý thích riêng của mình lên trên các vấn đề nghiêm trọng của an ninh quốc gia. Bất kỳ sỹ quan cao cấp nào làm vậy cũng sẽ bị bay chức hay ít ra cũng có vài lời trách mắng. Nhưng không ai được phép làm gì chống lại MacArthur. Ông luôn được đối đãi một cách khác biệt. Ngay cả trong thời chiến tranh, những kế hoạch hoàn chỉnh ở Washington  sẽ được gửi đến tất cả các sở chỉ huy dưới dạng mệnh lệnh, chỉ riêng ở chỗ MacArthur thì chỉ là khuyến nghị. Từ xưa giờ không ai muốn bị ông giận. Nhưng Truman bắt đầu điên tiết và ông làm vụ giải ngũ cứng rắn hơn đồng thời ngẫm nghĩ nghiêm túc đến việc hất cẳng MacArthur. Eben Ayers, một trong các trợ lý tổng thống, viết trong nhật ký: “Tổng thống quát ầm lên về Mac và bảo rằng ông phải ‘làm gì đó với thằng cha này’, chính chả đã làm rối tung mọi thứ. Tổng thống bảo ông mệt mỏi vì cái kiểu điên khùng này”. Tuy vậy, nếu làm thế thì hậu quả của cuộc đối đầu này sẽ rất nghiêm trọng. Và, đây vẫn chỉ là dấu hiệu đầu tiên của điều nhanh chóng trở thành cuộc xung đột giữa hai con người. Rốt cuộc, theo yêu cầu của Truman, George Marshall chỉ khẽ khàng phát vào tay MacArthur, ông gửi điện thư đến Douglas bảo rằng phát biểu của ông ta gây khó cho việc duy trì chế độ quân dịch trong thời bình và cũng như vậy với lực lượng Mỹ ở nước ngoài. Trong tương lai, Marshall viết, bất kỳ phát ngôn nào như vậy cũng nên được phối hợp trước với Bộ Chiến Tranh
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #78 vào lúc: 02 Tháng Mười Một, 2013, 06:47:21 pm »

Nhưng vụ rắc rối này giúp gây ra một loạt lời mời lặp đi lặp lại từ Truman đến MacArthur trong tháng 9 rồi lần nữa vào tháng 10 năm 1945, gọi ông ta về nước, làm cố vấn tổng thống, được nhà nước vinh danh, có lẽ là còn được thêm một huân chương Phục vụ xuất sắc (Distinguished Service Cross), và một vị trí trong nghị viện. Đề nghị của Tổng tư lệnh, một người vừa được đưa lên vị trí tổng thống sau một tình huống bi kịch trong thời chiến, thực tế không phải là một đề nghị dù được núp dưới hình thức ấy, về mặt bản chất đó là lệnh. Rõ ràng MacArthur không chỉ được đối xử như vậy rồi thôi, mà còn gấp đôi. Ông có thể là một viên tướng bốn sao, ông có thể là một sỹ quan cao cấp, và có một điều một sỹ quan phải làm: nếu tống thống triệu tập, anh phải tuân hành. Nhưng ông ta coi thường Truman ngay từ đầu, và hành xử như thể hai bên ngang hàng và không có thứ tự chỉ huy ở đây. Ông bảo ông bận việc ở Tokyo, và rời khỏi đó thì rất nguy hiểm bởi: “tình hình cực kỳ nguy cấp và vốn dễ bốc hỏa đang tồn tại nơi đây”. Truman giận tím gan – bởi thông điệp trên lại đưa đến từ một người cách đó không lâu còn bảo là chỉ cần phân nửa số quân hiện dịch do mọi việc đang tốt lên. MacArthur hiểu rất rõ điều ông đang làm. Ông nói với một người trợ lý “Tôi định là người đầu tiên trong lịch sử nước ta từ chối [việc về nước theo yêu cầu của tổng thống]. Tôi sẽ nói với bọn ấy là tôi có việc phải làm và không có rảnh”. Những điều MacArthur nói riêng với người của ông còn phô trương hơn nữa. Ông tuyên bố, nếu ông rời Nhật ngay thì nước này và cả một phần châu Á sẽ chấn động, bởi bản thân họ tin rằng họ đã bị bỏ rơi. MacArthur cũng nói với một số trợ tá của mình rằng ông chỉ sẽ về nước với những điều kiện, yêu cầu của riêng ông và chúng phải được thỏa mãn. Đó có lẽ là một chuyến trở về đầy cảm xúc gắn chặt với một hội nghị của đảng Cộng hòa (Huh?). Khi một người bạn khuyên MacArthur rằng giờ là lúc nên đi, tất cả giận dữ và đa nghi tuôn trào: “Đừng nghĩ đến việc tôi sẽ đi ngay bây giờ. Một lúc nào đó, tôi sẽ đi, nhưng hiện nay cả tổng thống, bộ ngoại giao và Marshall đang tấn công tôi. Họ có thể thắng cũng được, nhưng bọn Đỏ sẽ ra mặt chống lại tôi và bọn Cộng sản sẽ chế giễu tôi và đưa tôi lên đoạn đầu đài. Cảm ơn Liên Xô, tôi ở trên đỉnh. Tôi muốn gắn một tấm huy chương lên chúng a—-“.

Hai con người: tổng thống và viên tướng không thể vênh nhau hơn về sự nghiệp. MacArthur đã là một anh hùng vĩ đại của đất nước ngay từ giai đoạn khó khăn đầu thế chiến II, khi ấy Truman vẫn còn đi từ thất bại này đến thất bại khác; đầu thập niên 1930; khi MacArthur vượt lệnh và đánh Bảo tức quân, thì dù có óc tưởng tượng xa tới mấy cũng không thể hình dung ra được Harry Truman – lúc đó ở vị trí rất thấp trong sự nghiệp – lại có thể đứng ngang hàng. Đến thời điểm ấy điểm nổi nhất trong sự nghiệp của Truman là vị trí đại úy vệ binh quốc gia bang Missouri tòng sự trong lực lượng viễn chinh Mỹ ở Pháp trong thế chiến I, thật khó so sánh nổi với thành tích tuyệt hảo của MacArthur cũng ở trong cùng cuộc chiến. Và cũng rất khó với sự kiện của năm 1945: một người thành tổng thống và người kia là tướng.

Ngay từ đầu, Truman không thích thú gì với việc có một tư lệnh đứng ngoài tầm kiểm soát. Rõ là ông luôn nghĩ cách hạ bệ MacArthur. Nhưng khi có ai đó khuyến nghị Truman, sau lúc MacArthur tuyên bố không cần số quân được giao, rằng có lẽ đây là lúc để hạ ông ta, thì vị tổng thống đã trả lời: “Hợm đã, hợm đã”. MacArthur có quân bài chủ trong tay, và rõ là hậu quả chính trị của việc hạ bệ ông ta sẽ rất lớn bởi ông có một lực lượng cử tri chính trị mạnh mẽ, cần suy sét cẩn trọng.

Khi John Foster Dulles trở về Washington sau cuộc gặp với MacArthur trong những ngày đầu khốn nạn của cuộc chiến Triều Tiên, hội ý với Truman, ông đề nghị nên thay tư lệnh. Ông nói, dường như MacArthur quá già và đang bấn loạn. Nhưng Truman đang bị khóa chặt. Ông bảo Dulles rằng ông bị khóa tay bởi MacArthur đã hoạt động chính trị trong nước quá lâu và được để ý như là một ứng viên tổng thống tiềm năng của đảng Cộng hòa. Truman nói thêm, rằng ông ta không thể bị gọi về nếu “không có gây ra một sự việc gì kinh khủng với đất nước” bởi MacArthur đã “dựng thành  một hình tượng anh hùng”. Một sự thú nhận đáng lưu tâm: tổng thống Hoa Kỳ bước vào một cuộc chiến ở đất nước xa xôi mà tư lệnh các lực lượng của ông là một viên tướng không những ông không thích, mà quan trọng hơn, còn không tin, nhưng ông ngại thay thế vì những lý do chính trị.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #79 vào lúc: 02 Tháng Mười Một, 2013, 07:53:33 pm »

MacArthur tự thấy mình là người vĩ đại đương thời khi so sánh với những vĩ nhân Mỹ trong quá khứ, chỉ Washington và Lincoln là ngang bằng ông (“Những vị cố vấn chính của tôi hiện nay, một người đã khai sinh nước Mỹ, còn người kia thì đã bảo vệ nó. Nếu bạn quay lại nhìn vào cuộc đời của họ, bạn có thể tìm thấy mọi câu trả lời” ông ta đã có lần nói). Khi ông nhận chức tổng tư lệnh Thái Bình Dương, một trong những việc đầu tiên ông làm là treo bức chân dung của Washington sau bàn làm việc, và khi chiến tranh kết thúc, theo Sidny Mashbir, một sỹ quan tình báo, ông đã đứng chào bức chân dung Washington và nói “Thưa ngài, chúng không còn mặc áo đỏ, nhưng chúng tôi cũng đã đánh đuổi chúng như xưa”. Lòng căm thù của ông với điện Capitol và những ai làm chủ ở đó trong những năm ấy là rất rõ ràng. Faubion Bowers, trợ tá quân sự ở Tokyo và cũng là người chia sẽ những vấn đề riêng tư của ông ta qua những bài độc thoại liên miên khi đi xe cùng, đã nghĩ rằng MacArthur ghét toàn bộ các tổng thống. Với ông, Roosevelt là Rosenfeld, và Truman thì ông kêu là “thằng Do thái ở Nhà trắng” . Có lần Bowers lúng túng hỏi lại “ Do thái nào ở Nhà trắng?” “Thì là Truman”, MacArthur trả lời “Cậu có thể thấy điều đó qua cái tên. Hoặc nhìn vào mặt nó á”. Và rồi một ngày nọ MacArthur làm Bowers tỉnh ngộ về quan điểm cho rằng ông không thích mọi tổng thống. Ông nói: “(TT) Hoover á, ổng không tệ”.

MacArthur nghi ngờ tùm lum, và như mọi bệnh nhân hoang tưởng khác, ông nhanh chóng tạo ra nhiều kẻ thù. Mùa xuân năm 1949, cả bộ Ngoại Giao và bộ Quốc phòng cùng nhau lên kế hoạch để hủy bỏ quyền lực của ông ta ở Nhật. Dean Acheson có thể sẽ là một lực lượng dẫn hướng phía sau kế hoạch. Ý tưởng là phân rã các công việc chính trị và quân sự ở Tokyo ra. MacArthur sẽ được đưa về nước và được tung hô, đồng thời sẽ có người – dù không có nổi bật bằng – thay thế vào hai vị trí công việc đó, với Maxell Taylor, một ngôi sao đang lên trong quân đội ở Thế Chiến 2, được đề cử vào nắm mảng quân sự. Tuy nhiên, MacArthur nghe ngóng được tình hình, liền liên lạc với các thân hữu đầy quyền lực ở Washington, và mang kế hoạch đến gửi cho Omar Bradley, chủ tịch hội đồng tham mưu liên quân, thứ sau này được gọi là “một sự công kích thô bạo, thứ mà tôi hiếm khi đọc”. Giọng điệu trong đó làm Bradley ngạc nhiên, ông này ghi nhận rằng ông không thể tin được “sự không tin tưởng lớn lao trong cái cách Tướng MacArthur nhìn nhận Bộ Ngoại giao nói chung và cá nhân Dean Acheson nói riêng”. Thực vậy, như Bradley ghi nhận, MacArthur xem ông như một kẻ phản bội cũng như đã chuyển cho bộ Ngoại giao thứ kể trên.

Chẳng có điều gì tốt đẹp. Truman và MacArthur không bao giờ chung một con đường, một chí hướng. Họ nhìn cuộc chiến mà họ phải tham gia trong những ngữ cảnh hoàn toàn khác biệt; và ngược lại, họ cũng có những quan điểm khá khác biệt nhau về những gì cần có để tạo thành một chiến thắng chấp nhận được cũng như số lượng tài nguyên mà đất nước phải bỏ ra để dành được chiến thắng đó. Và như thế, bắt đầu từ ngày 25 tháng 6 năm 1950, cuộc sống của họ lại sóng đôi với nhau trong một hình thái hiếm có trong lịch sự nước Mỹ. Truman thì thấy sự tổn hại nghiêm trọng với hình tượng tổng thống của mình bởi việc không điều khiển nổi MacArthur, còn phía ông tướng thì thấy vị trí của mình trong lịch sử bị xâm hại nặng bởi sự thất bại của ông trong việc tôn trọng và đánh giá đầy đủ từ tổng thống.

(Hết chương 9)
Logged

Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM