Tiểu đội tôi
Mưa. Mưa thối đất thối cát.
Mùa mưa của miền Tây nam bộ này ghê thật. Có vào đây tôi mới thấu hiểu được cái mùa mưa mà trong cuốn tiểu thuyết Mẫn và Tôi miêu tả nó thật như thế nào. Nằm giữa rừng già, chỉ có cái võng và cái tăng che ở trên đầu, một cơn gió nhẹ là mưa lại ào vào ướt hết cả. Cũng vì mưa mà cả 2 ngày hôm nay tiếng súng trên chốt đỡ hẳn. Thỉnh thoảng mới có vài tiếng AK nổ Tằng. Tằng. Tằng... như muốn báo rằng ta vẫn luôn cảnh giác .
- Này ông Vòng ơi! Dân Hải Hưng có cái gì nhỉ? - tôi hỏi - suốt từ hôm vào chiến dịch tới giờ, tiểu đội chúng tôi mới có thời gian nằm kề bên nhau mà chuyện trò như thế này.
Được dịp, Vòng ta liền khoe :
- Nhiều lắm, xã thằng Sơn, thằng Bình chân Tiệp có nhãn lồng bổ ngập dao phay. Còn xã thằng Sáng, thằng Ần có táo Thiện phiến ăn ngon và giòn, lại thơm nữa .
-Thế còn xã ông? - Tôi hỏi tiếp.
- Ôi, xã tôi gọi là đất làng vàng. Đất làng vàng là nói thế thôi, người đông đất hiếm, mà là đất phèn chua nên chỉ trồng được mỗi khoai tây thôi. Củ nào to cũng chỉ được như hai hạt dái chó. Cực lắm ông ạ.
- Vậy là xã ông nghèo nhất à?
- Ừ, Vòng trả lời.
- Mà ông Vòng này, sao lại gọi là "Bình chân Tiệp''?
Nghe tôi hỏi, Vòng ta cười ha hả trả lời:
- Tại gần nhà nó có xưởng chân tay giả của TIệp, mà nghe người ta bảo, chân tay giả của Tiệp là tốt nhất. Cho nên ngồi đâu, nói chuyện gì, nó cũng nói đến chân giả của Tiệp. Ngoài chuyện đó ra nó chẳng biết gì hơn. Thế nên, mọi người mới gọi nó là Bình chân Tiệp (sau này, chính Bình dẫm phải mìn, bị cụt mất một bàn chân... Lúc ấy nó cứ ôm chân mà kêu: "Ối chân Tiệp ơi là chân Tiệp").
Tôi thầm nghĩ, cả tiểu đội mười mấy con người. Mỗi người một vẻ. Thằng Sáng thì lúc nào cũng láu ta láu táu, thằng Soạn - tiểu đội phó của tôi thì cả ngày không nói được nửa câu. Vậy mà khi vào trận thì làm lì không ai bằng. Ông Vòng thì không biết một chữ nào cả. Viết thư và đọc thư thì toàn phải nhờ tôi làm hộ, nhưng tục ngữ và ca dao thì Vòng thuộc không ai bằng.
Đang mải nghĩ thì bỗng có tiếng gọi:
- Ê, Tuấn tròn! Vòng ! Sang tao làm điều thuốc lào.
Hóa ra nghe tôi và Vòng nói chuyện với nhau, anh Long fulro đồng hương Hà Nội với tôi chắc cũng không ngủ được, gọi với sang ...
Tôi liền trêu:
- Sang làm gì ? Em biết anh định nói gì rồi !
Hì hì, tôi biết thừa anh lại gọi sang nghe chuyện Fulro đây mà. Lạ thật, đã mấy tháng ở với nhau, cực khổ muôn phần, cái sống, cái chết lúc nào cũng kè kè trong gang tấc, không thấy anh đả động gì đến, mà hễ có dịp ngồi với nhau là anh lại lôi chuyện hồi ở Tây Nguyên đánh nhau với Fulro. Thế mới biết, con người dù hiện tại có sung sướng hay cực khổ tới đâu cũng không màng, nhưng kỷ niệm xưa thì khó mà phai nhòa được. Hình như những kỷ niệm xưa cũ ấy khiến cho con người sống có ý nghĩa hơn, mạnh mẽ hơn. Cũng như tôi bây giờ, mới ngày nào còn chưa lường hết sự ác liệt của chiến trường, nay đã trở thành một anh lính dày dặn.
Mấy tháng qua, những trận chiến dai dẳng, triền miên nay lại tái hiện qua giây phút nghỉ ngơi này. Rất may mắn là cả tiểu đội tôi chưa có thương vong nào. Ngày ngày đào hầm, nào thì hầm phẫu thuật, nào thì hầm sở chỉ huy. Hầm của chúng tôi có kích thước rộng 3 m, dài 5m, sâu 1m8, trên lát gỗ để tránh pháo, rồi thì hầm cho thương binh nằm, lo đạn dược, gạo, thực phẩm cho cả trung đoàn. Tối đến, tải đạn xuống cho các Tiểu đoàn và lấy thương binh, tử sĩ về. Với một núi công việc khổng lồ như vậy, thật ngoài sức chịu đựng của con người. Vậy mà chúng tôi vẫn luôn luôn hoàn thành nhiệm vụ. Dù sao vẫn còn sướng hơn anh em bộ binh, cả ngày nằm dưới hầm chữ A, mưa ướt hết mà lúc nào cũng cận kề với cái chết.
Hồi còn ở nhà tôi đã từng đọc cuốn Dấu chân người lính, cái khổ cực, cái ác liệt của các anh, giờ tôi đã hiểu. Cũng nhờ có cuốn tiểu thuyết này mà tôi bước chân vào đời lính nhẹ nhàng như trong tiểu thuyết vậy. Tất cả mọi cái như sắp sẵn cho tôi, cũng những cánh rừng già đại ngàn, cũng những cây cổ thụ cao tít tắp, dây leo chằng chịt. Đi dưới rừng già, nhiều lúc tôi đã quên đi thực tại, rừng đã cho tôi cảm giác bình yên. Những giây phút ấy thật hiếm hoi. Trong trận chiến này, cái khốc liệt là dai dẳng, liên tục không có "điều nghiên", không có chuẩn bị cho trận đánh nào. Ta và địch ở giữa hai biên giới nên có lúc cả mấy ngày không ngớt tiếng súng, do vậy quân ta bị thương và hy sinh khá nhiều. Thương binh thì đưa ngay về tuyến sau, còn tử sĩ thì chúng tôi phải tập trung lại, khâm liệm đàng hoàng. Nói là đàng hoàng, nhưng cũng chỉ quấn vải trắng cho các anh, rồi cho vào nilon. Mấy chục ca hy sinh chưa đưa về tuyến sau được. Đêm nay lại phải thay nhau gác cho các anh, sợ thú rừng đến tha mất xác. Giữa rừng già, đêm mắc võng nằm ngang trên xác các anh trông chừng .
Trời ! Hồi đầu dù có mệt đến mấy cũng không thể nào chợp mắt được vì chứng kiến các anh hy sinh có mấy ai lành lặn đâu .Thế là từ những vết thương cứ phát ra tiếng phì phì của ruột gan, tiếng xì xì như tiếng thở dài ... Chúng tôi nằm đó như nghe được cái chết cuối cùng của từng tế bào trong cơ thể con người. Vậy mà không có được một nén nhang để thắp cho các anh.
Thật may mắn cho tôi là tôi làm tiểu đội trưởng của một tiểu đội toàn người dũng cảm, đầy kinh nghiệm và cũng không kém phần nghịch ngợm. Cho nên cứ mỗi lần đi phối thuộc với các Tiểu đoàn là tiểu đội tôi lại lãnh trách nhiệm lên đường. Lần ấy, tiểu đội tôi đi phối thuộc với Tiểu đoàn 3, hành quân tiềm nhập suốt cả đêm. Đi đến 5h sáng thì nổ súng. Tất cả phải ngậm tăm không nói chuyện, xuyên rừng dưới ánh trăng lúc mờ, lúc tỏ. Tôi và Vòng đi cạnh nhau, thỉnh thoảng nhắc anh em bám sát kẻo lạc. Đi sau Vòng là tay trung đội trưởng của Đại đội 5, lúc nào hắn cũng làu bàu, vì thế Vòng ta có vẻ bực lắm. Đi được một lúc, qua một bãi trống dưới ánh trăng mờ mờ, tôi và Vòng thấy có bãi phân trâu to và tròn, thấp thoáng giữa tối và sáng, Vòng liền lấy khẩu AK cọ vào cái xẻng nghe xoảng một tiếng nhỏ. Hắn ngoảnh lại phía sau tay trung đội trưởng bảo khẽ:
- "Tôi rơi cái xoong, ông nhặt hộ tôi cái ".
Tay Trung đội trưởng tưởng thật, nên chẳng để ý, cứ nhằm chỗ đen đen tròn tròn là cúi xuống nhặt. Ngờ đâu, bốc ngay phải bãi phân trâu. Tôi và Vòng ôm bụng mà cười, mà nào dám cười to? Còn tay kia thì tức quá tay cứ vẩy lung tung, nhảy cẫng lên, thở hổn hà hổn hển vì tức quá mà không phát tiết ra được.
Vòng thấy thế, lủi ngay ra phía sau. Thật ra chúng tôi biết, mới xuất phát được một đoạn, chưa có gì là nguy hiểm lắm. Đã vậy mà cậu Vòng vẫn chưa tha, đi được một đoạn dài nữa, hắn lại lẩn lên đi đằng trước, đến chỗ từ bìa rừng đi vào, tranh tối tranh sáng giữa ánh trăng và bóng cây, hắn đang đi tự nhiên khựng lại, cúi xuống và bảo nhỏ người đằng sau: "Có hố đằng trước", thế rồi hắn lấy đà nhảy ào qua. Người đi sau cứ theo hắn mà nhảy. Oái oăm thay, tay Trung đội trưởng kia lại đi cuối. Anh ta nhảy thế nào mà lại rơi phịch ngay xuống "chỗ tối" mới biết là bị lừa. Anh mới bật cười hinh hích vì biết ngay trò này chỉ có thằng Vòng bày ra. Anh cũng không còn cáu nữa, kể ra không có mấy trò này làm anh em vui hơn thì cuộc hành quân chắc cũng mệt mỏi lắm.
Cứ sau mỗi trận đánh, ta lại có đợt bổ xung quân. Quân từ các tỉnh vào nhiều lắm, Thái bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Bắc, thôi thì đủ mọi miền tha hồ mà nhận đồng hương, cứ ồn cả một góc rừng.
- Ai đồng hương Hải Hưng đây?
- Ai Thanh Hóa nào?
- Thái Bình đâu?
Bỗng tôi nghe tiếng thằng Xuân, tiểu đội trưởng tiểu đội 2 đang tìm đồng hương :
- Đứa mô quê ở Nghệ An không hề? Kim Liên quê Bạc (Bác) đây !
Tôi bắt giọng trêu luôn:
- Tui! Tui ở Nghệ An nờ. Rứa mi ở Kim Liên, quê Bạc ở chộ mô hề ?
Thằng Xuân mừng lắm bảo:
- Tau, tau ở ngay đầu xạ (xã) nhà Bạc. Rứa mi ở mô?
- Rứa mi còn ngái (xa) lắm! Tau ợ.. ợ .. ợ ....Tôi ngắc ngứ ...
- Ở mô? Xuân hỏi dồn.
- Tau ở ngay đâu chuồng hôi (toa-lét) nhà Bạ...c ! Gần hơn nhà mi nhiều.
Đến lúc này thì tất cả chúng tôi không ai nhịn được cười nữa, cười lên ha hả. Tiếng cười của chúng tôi vang cả một góc rừng. Lúc này Xuân mới biết là tôi trêu nó, nó chạy đuổi theo tôi, hô: "Cái đồ đồng hương mất gộc!( gốc ). Vì tôi quê ở Nghệ An, nhưng sinh ra tại Hà Nội nên nó không chịu nhận tôi là đồng hương mà.
Cứ như vậy chúng tôi sống và chiến đấu thật vô tư và hồn nhiên.
(Hoa Hướng Dương)