MACV và Chiến Tranh Việt Nam: Những Cuộn Băng của Đại Tướng Abrams
Điểm sách: Vietnam Chronicles: The Abrams Tapes 1968 – 1972
Tác giả: Lewis Sorley
Texas Tech University Press; 917 trang; $50.00
Người điểm sách: Nguyễn Kỳ Phong
Trong một buổi họp ở bộ tư lệnh MACV vào cuối năm 1969, đại tướng Abrams đọc một huấn lệnh mới nhất của tổng trưởng quốc phòng Melvin Laird cho các sĩ quan cao cấp nghe. Laird ra lệnh cho MACV thay đổi một số chi tiết quan trọng về chương trình Việt Nam Hóa đang tiến hành ở Việt Nam: (1) Chương trình Việt Nam Hóa sẽ chấm dứt vai trò tác chiến của quân đội Mỹ tại Việt Nam. (2) Trong kế hoạch Việt Nam Hóa do chính phủ trước (Lyndon Johnson) soạn thảo, bộ quốc phòng ước lượng quân đội Bắc Việt sẽ rút khỏi lãnh thổ miền Nam, và vai trò của quân đội VNCH chỉ giới hạn vào mục tiêu đương cự với các lực lượng Việt Cộng còn lại ở miền Nam. Trong kế hoạch mới của chính phủ Nixon và tổng trưởng Laird, vai trò của quân đội VNCH không chỉ giới hạn vào nhiệm vụ chống lại quân Việt Cộng, mà họ còn có nhiệm vụ đương đầu với các đơn vị chánh qui từ miền Bắc đưa vào dù quân đội Bắc Việt có rút khỏi miền Nam hay không. Buổi họp ngày thứ Bảy đó có hai ông đại sứ; ba đại tướng; sáu trung tướng; năm thiếu tướng; chín chuẩn tướng; năm đại tá; và bốn, năm, nhân viên dân sự cao cấp. Những người đang có mặt là đại diện cho tất cả sức mạnh của Hoa Kỳ ở Việt Nam nếu không nói là cho cả sứ mạnh của Hoa Kỳ ở vùng Thái Bình Dương. Thái độ của tất cả sau khi nghe huấn lịnh của Laird là ngỡ ngàng, bực tức ... họ thấy một chút xấu hổ đối người bạn đồng minh Việt Nam. Sự xấu hổ đó được đại tướng Abrams diễn tả khi ông kết thúc buổi họp khi ông nói: “Tôi vẫn thường nói, ngày vui nhất của tôi là ngày đại tướng Cao Văn Viên gọi điện thoại và xài xể tôi. Ngày đó là ngày tôi vui nhất. Nhưng tướng Viên sẽ không làm chuyện đó; ông ta quá lịch sự. Nhưng tôi muốn ông ta làm như vậy.” (The Abrams Tapes, trang 302-316).
Trong buổi họp tình báo của MACV ngày 8 tháng Giêng, 1972, thuyết trình viên thông báo: “Vào tháng 11-1971, với những dữ kiện thâu thập đủ để có thể thử nghiệm phương cách đánh dấu những mục tiêu [xâm nhập], các trạm giao liên T-54, T-55, T-61, và T-62 [thuộc binh trạm 35 và 38] được chọn để thử nghiệm. Với các toán đầu của đoàn xâm nhập đang trên đường hướng về B-3, chiều ngày 6-tháng 12, B-52 oanh tạc trạm giao liên T-54 và T-61. Chiều ngày 14 tháng 12, hai phi tuần B-52 oanh tạc trạm T-62. [MACV] Có kế hoạch sẽ sử dụng bom CBU [để dội bom các binh trạm]. Sư đoàn 320 đang chuyển quân; Binh trạm 35 [phụ trách B-1 và Khu 5] thay đổi hệ thống trạm giao liên. ... [Tình báo] Thẩm định từ ngày 18 đến ngày 31 tháng 12-1972, các đơn vị thuộc sư đoàn 320 sẽ đi ngang các trạm giao liên T-31, T-35 và T-36. [MACV] Rải máy điện tử báo động và truy tầm. Sáng ngày 23 tháng 12, B-52 dội bom trạm giao liên T-31 bằng bom CBU. Chiều ngày 24 và sáng ngày 25, không quân chiến thuật và B-52 tiếp tục tấn công trạm giao liên này bằng bom CBU. Trạm giao liên T-36 bị tấn công ngày 28; T-35 bị tấn công ngày 29. Ngay ngày Tết Tây, T-62 bị tấn công với hơn 500 tiếng nổ phụ.” Sau khi thuyết trình viên chấm dứt, đại tướng Abrams lên tiếng: vì đây là kế hoạch tối mật, ông ra lệnh cho các sĩ quan cao cấp có mặt trong phòng không được bàn về chương trình Island Tree hay những gì họ đã được nghe với bất cứ ai (trang 743).
Ở trên là một vài đoạn trong tác phẩm The Abrams Tapes của sử gia quân sử Lewis Sorley. The Abrams Tapes, với những tin tức tối mật xuất hiện lần đầu tiên, được giới quân sử coi là một tác phẩm quan trọng về đại tướng Abrams và vai trò của bộ tư lệnh MACV (Military Assistance Command, Vietnam) trong chiến tranh Việt Nam. Như tựa sách cho thấy, nội dung của tác phẩm đến từ những cuộn băng thâu lại hơn hai ngàn giờ họp tại bộ tư lệnh MACV do Abrams chủ tọa và có sự hiện diện của các tư lệnh quân sự, dân sự, cao cấp nhất của Hoa Kỳ ở Việt Nam.
Ở đoạn nói về chương trình Việt Nam Hóa, câu nói chua xót và hối tiếc của tướng Abrams về tướng Cao Văn Viên vào cuối năm 1969, cho thấy những gì Bộ tư lệnh MACV đã hứa với bộ tổng tham mưu VNCH và tướng Viên sẽ không thực hiện được. Trước khi có huấn Lệnh của tổng trưởng Laird, Abrams đã thông báo cho bộ tổng tham mưu VNCH, là Hoa Kỳ sẽ rút quân theo khả năng gánh vác của quân đội VNCH; và, quân đội Mỹ vẫn duy trì một lực lượng tác chiến căn bản để canh chừng những vi phạm và hoạt động của Quân giải phóng, như họ đã và làm ở Nam Hàn, hay Tây Đức (Residual Forces). Nhưng tân tổng trưởng quốc phòng Melvin Laird — vì một áp lực chính trị, hay một khó khăn ngân sách nào đó — đã ra lệnh cho MACV rút tất cả quân tác chiến. Chủ trương giữ lại một số residual forces hoàn toàn bị hủy bỏ khi vào ngày 9 tháng 12-1971, Abrams yêu cầu ban tham mưu đừng nhắc đến nhóm từ residual forces nữa (trang 708). Hai ngài sau, 11 tháng 12, tương lại liên hệ Việt Mỹ càng mù mờ hơn trong buổi của tất cả các đại sứ vùng Đông Nam Á: ý kiến chung của họ là Việt Nam không còn là yếu tố quan trọng trong những quyết định chính trị, quân sự và ngoại giao của Hoa Kỳ ở Á Châu (714-718). Nghe những gì nói ra trong buổi họp của các đại sứ, chúng ta biết thêm là họ bị cấm không được bàn về tính cách chính trị chuyến viếng thăm của Nixon ở Trung Cộng sắp xảy ra (hơn hai tháng sau, tháng 2-1972, Nixon qua Trung Cộng); và chính họ cũng hoài nghi về đường lối ngoại giao của Hoa Kỳ ở Đông Nam Á.
Ở đoạn trích dẫn thứ nhì về những chiến dịch đánh bom CBU vào binh trạm của Quân giải phóng trên đường xâm nhập: Đó là lần đầu tiên MACV và bộ tư lệnh Thái Bình Dương chuyển sang kế hoạch tiêu diệt quân chính quy, thay vì tấn công các đoàn quân xa xâm nhập như họ đã cố gắng thực hiện từ lâu (trang 650). Trong quá khứ, Không Lực 7 và không lực của Hải Quân chú trọng vào các điểm tập trung quân xa, và các đoàn quân xa di chuyển trên các lộ trình xâm nhập. Nhưng từ lúc tình báo MACV nghe lén được truyền tin và biết được địa điểm chính xác của nhiều binh trạm, MACV quyết định tiêu diệt các đoàn quân xâm nhập khi họ nghỉ chân ở các binh trạm trên đoạn đường vào Nam. Loại bom CBU được nói đến là lọai CBU dùng để sát thương bộ binh, rất nhỏ, chứa chừng một ký chất nổ mỗi trái. Theo thuyết trình viên cho biết, mổi chiếc B-52 có thể chở được 44 ngàn quả bom bi BLU-23 và BLU-49. Những chi tiết này và kế hoạch tối mật Island Tree lần đầu tiên được tiết lộ ra công chúng trong The Abrams Tapes.
Sự thành hình của tác phẩm The Abrams Tapes: Theo tác giả Sorley vào năm 1994, trong lúc biên soạn về cuộc đời và binh nghiệp của đại tướng Abrams (Thunderbolf: General Creighton Abrams and the Army of His Times), Sorley được các sĩ quan cao cấp nói về sự hiện hữu của các cuộn băng này. Sorley dò theo các nguồn tin thì được biết thêm: sau khi Abrams mãn nhiệm chức tư lệnh MACV ở Việt Nam để trở về Ngũ Giác Đài nắm chức Tư Lệnh Lục Quân, ông đem theo 455 cuộn băng nói trên. Khi Abrams chết vào năm 1974 lúc còn đang tại nhiệm, tân tư lệnh Lục Quân Frederick Weyand (cũng là người theo sau Abrams giữ chức tư lệnh MACV ở Việt Nam năm 1972- 1973), ra lệnh mật hóa những cuộn băng và đem cất vào một thư khố quân sự bí mật. Sau khi nghe sự vụ, tác giả Sorley làm đơn xin tư lệnh Lục Quân Gordon Sullivan cho phép ông được nghe những cuộn băng đó với mục đích nghiên cứu về MACV và về tướng Abrams. Khi được cho phép, Sorley bỏ ra một năm trời làm việc: năm ngày một tuần; 10 tiếng một ngày để ghi lại những chi tiết quan trọng của 455 cuộn băng. Tổng cộng, Sorley ghi lại gần 3.200 trang tài liệu từ những cuộn băng. Sau đó ông đưa những gì được ghi lại đến những cơ quan thẩm quyền để được giải mật. Và tất cả những tài liệu đó là căn bản của tác phẩm A Better War: The Unexamined Victories and Final Tragedy of America's Last Years in Vietnam (Một Cuộc Chiến Tốt Hơn: Những Chiến Thắng Chưa Được Nói Đến và Thảm Kịch Những Năm Cuối của Hoa Kỳ ở Việt Nam), một quyển sách nói về những thành quả và chiến thắng của quân lực VNCH trong những năm sau cùng mà không được giới truyền thông báo chí Mỹ tìm hiểu hay để ý. Cũng với những trang tài liệu đến từ các cuộn băng đó, qua một hình thể khác, tác giả Sorley soạn ra The Abrams Tapes.