Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thảo luận Lịch sử bảo vệ Tổ quốc => Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước... => Tác giả chủ đề:: TroiDanh trong 25 Tháng Tư, 2008, 12:35:43 pm



Tiêu đề: Tình báo VN trong KCCM
Gửi bởi: TroiDanh trong 25 Tháng Tư, 2008, 12:35:43 pm
Kỳ 1: Sự lợi hại của tiếng Anh

Cố vấn Mỹ George Melvin đập bàn nói: "Tao tiếc rằng mày chỉ có cấp bậc thượng sĩ, chứ mày mà là sĩ quan thì tao đã đề nghị với Trần Trung Dung cho mày làm Trưởng phòng quân huấn ngay!".

Chuyện ông Ẩn bắt đầu làm tình báo như thế nào chúng tôi đã từng đề cập. Từ nhân viên của Hãng xăng Caltex, chuyển sang làm việc cho Hải quan Pháp ở Cảng Sài Gòn, ông đã "chép được hầu hết các tài liệu về chuyên chở tiếp tế, vũ khí trang bị của quân đội Pháp gửi về trên" và học được nhiều kinh nghiệm bước đầu của công tác tình báo. Khi cuộc kháng chiến chống Pháp sắp kết thúc, ông được chỉ thị "chuyển vào mục tiêu mới, nhưng không bỏ mục tiêu cũ". Mục tiêu nhắm tới là quân sự. Bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời hoạt động của ông là thời điểm "chuyển giao" giữa Pháp và Mỹ ở Việt Nam. Trước khi ký Hiệp định Genève, cấp trên của ông - ông Phạm Ngọc Thạch chỉ dặn: "Cố gắng không để bị bắt lính, nếu bị bắt lính thì ít nhất phải làm đến chức tiểu đoàn trưởng".

Ông Ẩn có người anh họ là đại úy Phạm Xuân Giai, lúc đó là Trưởng phòng 5 Bộ Tổng tham mưu "quân đội quốc gia Việt Nam" (do Pháp dựng lên). Đại úy Giai là người quen thân với tướng Nguyễn Văn Hinh, Tổng tham mưu trưởng và thiếu tá Trần Đình Lan, Trưởng phòng 6 (phản gián), nên đây là cơ hội thuận lợi. Ông nhờ đại úy Giai và được ông Giai xin vào làm việc tại Phòng 5. Trước khi vào làm việc ở đây, ông đã chọn được một người "bạn tốt", là ông Tư An, thay thế ông tại Hải quan. Ông Tư An đã cung cấp đầy đủ tin tức như ông Ẩn đã làm, cho đến khi Hiệp định Genève được ký kết.

Phòng 5 của Bộ Tổng tham mưu là phòng phụ trách huấn luyện và chiến tranh tâm lý, nên còn gọi là Phòng quân huấn. Tháng 4.1954, ông Ẩn được tướng Hinh ký quyết định vào làm việc tại phòng này với quân hàm thượng sĩ đồng hóa. Ông được bố trí làm bí thư cho ông Giai thay cho người bí thư cũ.

Khi người Mỹ bắt đầu can thiệp để hỗ trợ cho quân Pháp, họ thâm nhập vào quốc phòng và tất nhiên là thâm nhập vào Bộ Tổng tham mưu. Hầu hết các sĩ quan của Bộ Tổng tham mưu đều biết tiếng Pháp, ít người biết tiếng Anh, trừ đại úy Giai có thời gian đi tu nghiệp tại Mỹ (học chiến tranh tâm lý tại trường Ford Bragg, California). Bởi vậy, khi còn làm Tổng tham mưu trưởng, tướng Hinh giao cho ông Giai trực tiếp liên lạc làm việc với đại tá Mỹ Edward Lansdale, một nhân vật khét tiếng từng đóng vai trò chính trong việc dựng lên và củng cố chính quyền Ngô Đình Diệm. Ông Ẩn là người thạo tiếng Anh nên được đại úy Giai giao nhiệm vụ giao dịch với các sĩ quan cấp dưới của Lansdale như đại úy Rufus Philips, đại úy Roderick, đại úy Sharp... Ban đầu Phạm Xuân Ẩn chưa tạo được quan hệ với Lansdale, nhưng đã làm quen với nhiều sĩ quan Mỹ và biết làm theo cách của Mỹ.

Sau Hiệp định Genève, Pháp và Mỹ thỏa thuận trao lại "quyền tự trị hoàn toàn" cho "quân đội quốc gia" vào tháng 5.1955 để Mỹ huấn luyện và xây dựng lại theo phương hướng của Mỹ. Phái bộ huấn luyện quân sự hỗn hợp Pháp-Mỹ (TRIM) lập ra trước đây được chuyển thành Phái bộ huấn luyện tác chiến lục quân (CATO) và nằm trong MAGG (Phái bộ cố vấn và viện trợ quân sự). Tháng 10.1955, Mỹ đề ra cho Ngô Đình Diệm cải tổ quân đội, tập hợp các tiểu đoàn bộ binh và khinh quân để lập ra 6 sư đoàn khinh quân và bắt đầu huấn luyện theo chương trình của Mỹ tại trường Võ bị Thủ Đức. Phạm Xuân Ẩn trở thành một hạ sĩ quan duy nhất đi với các sĩ quan "quân đội quốc gia" đến trường Võ bị Thủ Đức làm phiên dịch cho cố vấn Mỹ. Và từ một thông dịch viên, nhưng do "biết cách làm việc với Mỹ",  ông được giao làm nhiệm vụ của sĩ quan liên lạc giữa Phòng 5 với CATO, thay cho viên sĩ quan liên lạc cũ không được người Mỹ chấp nhận, vì anh ta "quá nặng ảnh hưởng của Pháp".

Tuy cấp bậc thấp, nhưng làm nhiệm vụ sĩ quan liên lạc với CATO, lại thông minh, nhạy bén, nên ông Ẩn được thảo luận với các sĩ quan Mỹ về mọi chương trình, kế hoạch huấn luyện, tuyển chọn người đi học ở Mỹ hoặc các nước khác. Thời điểm này, CATO đưa ra kế hoạch huấn luyện biệt kích để đưa ra phá hoại miền Bắc. Tất nhiên ông chép ngay kế hoạch này để báo về cấp trên.

Vấn đề rắc rối xảy ra là các sĩ quan ở Phòng quân huấn hầu hết do Pháp đào tạo và làm việc theo kiểu Pháp. Họ chưa chấp nhận kế hoạch này cũng như chưa chấp nhận kiểu huấn luyện của Mỹ. Trong tình thế đó, Phạm Xuân Ẩn tự xác định mình là người "đứng giữa", vừa phải làm hài lòng Phòng quân huấn, vừa phải làm hài lòng các sĩ quan Mỹ, dứt khoát không thể để phía nào chê trách. Nếu làm mất lòng một trong hai bên, ông sẽ bị loại ngay.

Trưởng nhóm cố vấn Mỹ, trung tá George Melvin hỏi ông: "Anh thấy kế hoạch này thế nào?". Phạm Xuân Ẩn trả lời: "Kế hoạch hay lắm, rất mới mẻ. Nhưng tôi sợ các sĩ quan ở Bộ Tổng tham mưu khó chấp nhận, vì họ cho rằng đã đình chiến rồi mà còn thả biệt kích ra miền Bắc thì khác gì làm chuyện không đâu". Melvin đập bàn nói: "Tao tiếc rằng mày chỉ có cấp bậc thượng sĩ, chứ mày mà là sĩ quan thì tao đã đề nghị với Trần Trung Dung (Tổng trưởng quốc phòng) cho mày làm Trưởng phòng quân huấn ngay!". Ông Ẩn nói: "Chết chết, đừng nói thế. Nói thế nhỡ cấp trên tôi nghe được tưởng tôi muốn làm to, chắc tôi bị đày ra Bến Hải mất. Để tôi cố thuyết phục coi". Melvin vui vẻ: "Anh mà làm được, tôi sẽ chiêu đãi anh".

Ông Ẩn xin gặp trực tiếp Trần Văn Đôn, lúc này là Tổng tham mưu trưởng. Ông nói với tướng Đôn: "Thưa thiếu tướng, kế hoạch huấn luyện biệt kích Phòng quân huấn bác bỏ, nhưng tôi thấy làm như thế không những mất mặt cho George Melvin mà mất mặt luôn cả tướng Williams nữa. Thiếu tướng nên cho phép chấp thuận kế hoạch trên nguyên tắc để giữ thể diện cho họ, sau đó mình sẽ có cách hoãn không thi hành thì có sao đâu. Đến lúc đó thì họ đã đổi người khác rồi". Trần Văn Đôn thấy có lý, liền tán thành và ra lệnh cho Phòng quân huấn chấp thuận (đúng như ông Ẩn nói, kế hoạch này được trì hoãn kéo dài cho tới năm 1960 mới bắt đầu tổ chức triển khai ở Dục Mỹ).

Phạm Xuân Ẩn gọi điện cho Melvin: "Trung tá chuẩn bị tiền chúng mình đi ăn đi". Melvin biết đã thành công. Thay vì dẫn ra tiệm ăn, ông ta mời Phạm Xuân Ẩn về nhà. Một bữa tiệc long trọng diễn ra để đón tiếp Phạm Xuân Ẩn, có Lansdale, Philips, tướng Williams, đại tá Phi Luật Tân Benson... cùng dự. Mối thân tình và sự tin cậy của một nhân vật đầy thế lực là Lansdale dành cho Phạm Xuân Ẩn bắt đầu từ đó...


Nguồn : tham khảo từ loạt bài tư liệu : "Giải mã Phạm Xuân Ẩn" trên báo Thanh Niên của tác giả Hoàng Hải Vân


Tiêu đề: Re: “Giải mã” Phạm Xuân Ẩn
Gửi bởi: TroiDanh trong 25 Tháng Tư, 2008, 12:37:47 pm
Kỳ 2: Thân với Lansdale được lợi gì?

"Tốt lắm, anh muốn sang Mỹ học về quân sự hay về dân sự đều được cả. Tôi hoàn toàn ủng hộ", Lansdale nói với Phạm Xuân Ẩn.


Tướng tình báo Mỹ Edward Geary Lansdale (1908-1987) là chuyên gia lật đổ và chống nổi dậy "thượng thặng" của CIA. Từng là chuyên viên quảng cáo thương mại trước khi vào quân đội phục vụ trong cơ quan tình báo OSS của Mỹ, chuyên về chiến tranh tâm lý từ chiến tranh thế giới lần thứ hai, sau đó từng đến Philippines tổ chức đánh bại phong trào du kích và "dựng lên" Tổng thống Ramon Magsaysay, Lansdale được Stanley Karnow mô tả (trong sách Vietnam, a history) là người "sử dụng đòn chiến tranh tâm lý tương tự như những mánh lới quảng cáo". Cựu Giám đốc CIA Colby ca ngợi Lansdale là "một trong những nhà tình báo lớn nhất trong lịch sử", "là chất liệu của những huyền thoại". Có lẽ vì vậy mà sau này Lansdale trở thành nguyên mẫu của các nhân vật: Alden Pyle trong cuốn sách nổi tiếng The Quiet American (Người Mỹ trầm lặng) của Graham Greene, đại tá Edwin Hillendale trong cuốn The Ugly American (Người Mỹ xấu xí) của Willam Lederer và Eugene Burdick...

Lansdale bí ẩn đến mức cả Ngoại trưởng Mỹ Dean Rusk (thời Kenedy) chỉ biết bộ mặt thật khi đích thân Tổng thống Kenedy giao cho Landsdale thực hiện kế hoạch Mongoose, một kế hoạch ám sát Fidel Castro vào năm 1961. Và mãi cho đến năm 1971 công chúng mới biết hành tung của ông ta khi tài liệu mật Lầu năm góc về chiến tranh Việt Nam bị đưa lên báo chí.

Lansdale được coi là "kiến trúc sư" của chế độ Ngô Đình Diệm. Đến Việt Nam lần đầu tiên vào năm 1953 trong phái đoàn của tướng O'Daniel, và vào khoảng giữa năm 1954, Lansdale được Giám đốc CIA Allen Dulles chính thức cử đến Việt Nam để làm "như đã làm ở Philippines". Nói một cách tóm tắt, nhiệm vụ của Lansdale là tổ chức đánh phá, làm suy yếu miền Bắc và thiết lập, tăng sức mạnh cho chính quyền Ngô Đình Diệm. Lansdale đã tiếp xúc với Ngô Đình Diệm từ trước và chỉ 3 tuần sau khi đến Sài Gòn, Ngô Đình Diệm (lúc này là Thủ tướng) mời ông ta vào ở hẳn với mình, tất nhiên Lansdale từ chối vì bất tiện. Lansdale đến Việt Nam với tư cách là tùy viên Không quân trong Phái bộ viện trợ và cố vấn quân sự (MAAG), nhưng CIA lập ra một cơ quan tình báo hỗn hợp mang tên Saigon Military Misson (SMM) do Lansdale phụ trách. Về danh nghĩa, tất cả các chuyên viên quân sự Mỹ đều thuộc MAAG, nhưng SMM chỉ nhận nhiệm vụ và báo cáo trực tiếp với giám đốc CIA tại Mỹ. Cả Chỉ huy trưởng MAAG lẫn Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn đều không biết và không có quyền chỉ đạo các hoạt động của SMM, dưới quyền họ có một nhóm CIA khác.

Các quyết sách của chính quyền Mỹ đối với chính quyền Sài Gòn lúc này chủ yếu xuất phát từ những nhận định và kiến nghị của Lansdale. Lansdale đã giúp Ngô Đình Diệm tạo dựng và củng cố thế đứng, là cố vấn cho chính Ngô Đình Diệm. Ông ta "bóp chết" cuộc nổi loạn của tướng Nguyễn Văn Hinh, dẹp tan quân đội của các giáo phái bằng cách vừa chi tiền mua chuộc vừa tổ chức tấn công.

Lansdale là kẻ chủ mưu chính trong cuộc di cư ồ ạt của gần một triệu người từ Bắc vào Nam sau Hiệp định Genève. "Cộng đồng Công giáo tháo chạy, đi đầu là các linh mục. Số khác là những người thuộc các phe phái chống đối Việt Minh. Mỹ và Pháp cung cấp tàu và máy bay cho họ. Những người di cư từ miền Bắc vào sẽ là những cử tri chống cộng quyết liệt của Diệm tại miền Nam, do đó cuộc di cư có ý nghĩa rất quan trọng về chính trị (đối với Diệm). Lansdale đã cổ vũ, động viên tinh thần những người Công giáo bằng cách cho lan truyền những khẩu hiệu như "Đức Mẹ Maria đang đi về phía Nam". Nhưng còn có tác động khác của ông ta nữa, như sau này Lansdale giải thích với tôi: Người ta không bao giờ nhổ rễ rồi trồng lại chỉ vì những khẩu hiệu. Họ thực sự sợ những gì có thể xảy ra với họ. Cảm xúc ấy một khi đủ mạnh có thể vượt qua những sợi dây liên kết với quê hương, tổ quốc và cả mồ mả ông cha. Vì vậy họ chủ động. Chúng tôi chủ yếu hỗ trợ việc di chuyển" (Stanley Karnow, sách đã dẫn).

Lansdale là người như thế đó. Cho nên trở thành thân thiết với Lansdale có ý nghĩa quan trọng như thế nào trong bước ngoặt hoạt động tình báo của Phạm Xuân Ẩn.
Lúc này cấp trên xét thấy, ở vị trí sĩ quan liên lạc, tuy Phạm Xuân Ẩn cung cấp được các tin tức về cải tổ quân đội và kế hoạch huấn luyện quân sự, việc này phục vụ "có chừng mức nhất định" cho cấp trên, nhưng về chiến lược thì cần phải đi sâu hơn mới đạt yêu cầu. Ông Mười Hương, Cục phó Cục Tình báo chiến lược được cử vào Nam năm 1952 và ở lại miền Nam sau Hiệp định Genève, lúc này là người phụ trách Phạm Xuân Ẩn. Ông Mười Hương phân tích tình hình, phổ biến chủ trương và quyết định cho Phạm Xuân Ẩn bỏ vị trí cũ để chuẩn bị cho chiến lược lâu dài. Quan hệ rất tốt giữa Phạm Xuân Ẩn với người Mỹ lúc này đúng là thời cơ cần tận dụng: tìm cách sang Mỹ học.

Ông đến gặp Lansdale, đề đạt nguyện vọng muốn được sang Mỹ học tập. Sẵn lòng quý mến chàng trai đầy ấn tượng này, Lansdale vui vẻ nói: "Tốt lắm, anh muốn sang Mỹ học về quân sự hay về dân sự đều được cả. Tôi hoàn toàn ủng hộ". Lansdale liền giới thiệu Phạm Xuân Ẩn với tiến sĩ Elon E.Hildreth, Trưởng phòng giáo dục Cơ quan Viện trợ Mỹ (USOM, sau gọi là USAID). Hildreth gợi ý Phạm Xuân Ẩn nên đi học với tư cách là dân sự hơn là quân nhân. Ông đề nghị được đi học chính trị học, môn phụ là báo chí. Hildreth chấp nhận và lo thủ tục xin cho Phạm Xuân Ẩn một học bổng để học ở Đại học Columbia.

Ông Ẩn gặp tướng Trần Văn Đôn nói nguyện vọng và xin được giải ngũ. Tướng Đôn đặt điều kiện là ông Ẩn phải tìm giới thiệu một người có đủ năng lực để thay thế và người đó phải được người Mỹ chấp nhận. Phải mất hơn 3 tháng ông mới thuyết phục được trung úy Thường làm ở Bộ Tổng tham mưu chịu thay thế cho ông. Sau đó ông phải nhờ Lansdale can thiệp mới nhận được lệnh giải ngũ vào tháng 2.1957.

Nhưng lại gặp rắc rối. Hildreth cho ông Ẩn biết hồ sơ của ông đưa qua Hội đồng du học không được chấp nhận với hai lý do: Một, Phạm Xuân Ẩn chưa có văn bằng tú tài. Hai, phải chọn một ngành mà Đại học ở Sài Gòn chưa có. Vì vậy, ông phải đề nghị xin đi học tự túc và học ngành báo chí. Người ta chấp nhận nguyện vọng này và yêu cầu sát hạch Anh văn, mặc dù trước đó ông đã được USOM đưa qua Hội Việt-Mỹ kiểm tra Anh văn rồi. Chính Huỳnh Văn Điểm, Tổng giám đốc kế hoạch của chính quyền Ngô Đình Diệm kiểm tra. Tiếng Anh ông trôi chảy. Nhưng cuối cùng Huỳnh Văn Điểm vẫn phê một câu trong hồ sơ: "Ngành báo chí chưa cần thiết cho quốc gia". Và hồ sơ được xếp sang một bên.

Lúc này Lansdale đã về Mỹ chưa sang lại. Ông phải chạy đến gặp tùy viên quân lực Mỹ, đại tá Woodburry, để nhờ can thiệp. Woodburry là bạn thân của Lansdale nên cũng quý mến ông Ẩn. Woodburry giao cho đại úy Jack Horner đến gặp Bùi Quang Ân, đổng lý văn phòng của Bộ trưởng Bùi Hữu Châu tại Phủ Tổng thống (ông Châu là anh rể của Trần Lệ Xuân, vợ Ngô Đình Nhu) để yêu cầu giúp đỡ. Khi nghe ông Ân trình bày, ông Châu ký ngay giấy tờ cho Phạm Xuân Ẩn đi học, với phương thức tự túc. Hildreth nói với ông Ẩn: "Lẽ ra anh được học bổng, nhưng vì khó khăn nội bộ". Sau đó Horner còn đưa Phạm Xuân Ẩn đến gặp tiến sĩ Parker, Giám đốc Cơ quan văn hóa Á Châu, để xin học bổng tư nhân. Parker ủng hộ nhưng ngại làm mất mặt Huỳnh Văn Điểm và Hội đồng du học, nên khuyên ông Ẩn "cứ đi học đi, rồi sẽ giải quyết sau".

Và Phạm Xuân Ẩn đã đến học báo chí tại trường Orange Coast (California) vào năm 1957. Nếu không tạo được mối quan hệ thân tình với một người có thế lực như Lansdale, việc đi học này khó có thể diễn ra...


(http://www2.thanhnien.com.vn/Uploaded/huynhthang/Nam_2008/Thu_nam/Thu_nam_101/3sdhpb.jpg)
Phạm Xuân Ẩn đạp xích lô chở tiến sĩ Hildreth ở California (Ảnh do gia đình cung cấp)

(http://www2.thanhnien.com.vn/Uploaded/huynhthang/Nam_2008/Thu_nam/Thu_nam_101/3sdhpa.jpg)
Tướng tình báo Mỹ Edward Geary Lansdale


Tiêu đề: Re: “Giải mã” Phạm Xuân Ẩn
Gửi bởi: TroiDanh trong 25 Tháng Tư, 2008, 12:38:38 pm
Kỳ 3: Lời dặn của cấp trên

"Phải học cho giỏi về nghiệp vụ, đồng thời tìm hiểu kỹ về nước Mỹ, về nền văn hóa Mỹ, về phong tục tập quán, về cách làm việc, về tâm lý, cá tính của người Mỹ. Phải tư duy và làm việc như người Mỹ".


Phạm Xuân Ẩn chính thức hoạt động trong ngành tình báo từ tháng 2.1952. Trước đó ông tham gia Vệ quốc đoàn, rồi tham gia phong trào đấu tranh của học sinh, sinh viên chống Pháp. Tóm tắt kết quả từ khi hoạt động tình báo cho đến thời điểm trước khi đi học ở Mỹ, cấp trên của ông nhận xét: "Về tin tức, Phạm Xuân Ẩn lấy được đầy đủ số liệu vận chuyển quân sự từ Marseilles (Pháp) sang Việt Nam trước Hiệp định Genève, tài liệu huấn luyện của Phòng quân huấn và tài liệu huấn luyện đầu tiên của Mỹ (huấn luyện biệt kích). Tài liệu lúc bấy giờ chủ yếu phục vụ chiến dịch và chiến đấu phù hợp với vị trí thấp và khả năng nghiệp vụ ban đầu của Phạm Xuân Ẩn, song các báo cáo đều trung thực, nguyên bản, chính xác" (theo ông Mười Nho, người phụ trách công tác tổng kết tình báo chiến lược trong kháng chiến).

Cấp trên của ông Ẩn cũng ghi nhận, ba má của Phạm Xuân Ẩn là những người yêu nước liên hệ với cách mạng nhưng không để lộ vết tích. Phụ thân của Phạm Xuân Ẩn là một công chức có nhiều bạn bè và họ hàng là công chức, sĩ quan cấp trung, cấp cao trong chế độ cũ. Đó là điều kiện thuận lợi để kẻ địch không nghi ngờ tung tích, lý lịch của Phạm Xuân Ẩn, nhờ đó mà Phạm Xuân Ẩn vào được "những vị trí tốt" và mở rộng quan hệ.

Tuy nhiên các cấp trên của ông cũng lưu ý đến nhược điểm quan trọng của Phạm Xuân Ẩn trong thời gian này. Đó là khi đã nhận nhiệm vụ tình báo rồi mà ông "vẫn lui tới thăm viếng" số anh chị em cùng hoạt động trong phong trào đấu tranh của học sinh trước kia, thậm chí còn giúp đỡ họ việc này việc khác, trong đó có những người sau này làm đến đại tá cảnh sát chế độ Sài Gòn như Phạm Kim Quy hoặc làm đến tỉnh trưởng Phước Long như Nguyễn Minh Mẫn. Điều này cực kỳ nguy hiểm, nhưng "rất may là những người này không theo dõi hoạt động của Phạm Xuân Ẩn". Được chấn chỉnh ngay nên từ đó về sau ông Ẩn "tuyệt đối không chơi với những người có cảm tình với cộng sản".

Thời gian này cũng để lại một bài học quý giá. Ban đầu ông Ẩn dựa vào thế của đại úy Phạm Xuân Giai để vào làm ở Phòng quân huấn, mà đại úy Giai là người thân tín của tướng Nguyễn Văn Hinh thân Pháp. Khi tướng Nguyễn Văn Hinh và nhóm thân Pháp bị "bóp chết" trong âm mưu lật Diệm không thành, Phạm Xuân Ẩn gặp khó khăn không ít, ông bị nghi ngờ thuộc nhóm thân Pháp. Nhờ có quan hệ rất tốt với Lansdale và được các sĩ quan Mỹ quý mến nên ông mới đứng vững. Nếu như ông không biết tiếng Anh và không có được quan hệ tốt với người Mỹ thì chắc chắn đã bị lực lượng thân Mỹ "cho ra rìa" rồi. Kinh nghiệm ban đầu này đã giúp cho Phạm Xuân Ẩn xử lý tốt những tình huống các phe phái lật nhau liên tiếp sau này để giữ được thế đứng vững chắc của mình.

Thật ra, thời điểm sau khi ký Hiệp định Genève, do chưa được phổ biến kịp thời chủ trương của trên, nên Phạm Xuân Ẩn chưa nhận định nổi tình hình, chưa thấy hết sự tranh chấp kịch liệt giữa lực lượng thân Pháp và thân Mỹ ở miền Nam và chưa thấy hết âm mưu lâu dài của người Mỹ. Vượt qua được tình thế này chủ yếu là do ông thông minh, nhạy bén. Sau khi nhóm thân Pháp thất bại, ông Mười Hương chỉ ra cho Phạm Xuân Ẩn thấy tình hình và lưu ý: Người Mỹ không có đủ tay chân để làm việc cho họ, nên họ vẫn sử dụng những người ít thân Pháp mà họ có thể lôi kéo được. Cho nên, ông Mười Hương chỉ thị, phải tiếp tục bám sát người Mỹ và làm thân với những người trong lực lượng thân Mỹ. Thực hiện chỉ thị đó, Phạm Xuân Ẩn tiếp tục làm thân với nhiều sĩ quan Mỹ ở CATO và suốt năm 1956, Phạm Xuân Ẩn đã "làm đủ mọi việc", từ "dàn xếp mọi chuyện lủng củng giữa các sĩ quan Bộ Tổng tham mưu với tòa đại sứ Mỹ" đến việc lo giấy tờ an ninh, thông hành, tiền bạc, đưa đi thi tiếng Anh, đưa đi khám sức khỏe cho các sĩ quan được đưa tu nghiệp ở Mỹ, khi họ đi học về ông đến thông báo cho gia đình họ, rồi trực tiếp ra sân bay đón, thu xếp với các nhân viên thuế quan khi hàng hóa quà cáp họ mang về vượt quá quy định. Nhờ những việc cụ thể đó mà ông lấy được cảm tình của các sĩ quan và gia đình họ. Phạm Xuân Ẩn và cấp trên của ông ý thức được rằng, những sĩ quan đó 5-7 năm sau sẽ vọt lên cấp cao, sẽ trở thành "nguồn tin" của ông.

Trong khi Phạm Xuân Ẩn sang Mỹ học báo chí tại trường Orange Coast, thì ở miền Nam phong trào yêu nước của nhân dân bị dìm trong biển máu. Trước đó, ngày 20.7.1956 Ngô Đình Diệm công khai tuyên bố không thi hành Hiệp định Genève và đưa các chiến dịch "tố cộng, diệt cộng" (bắt đầu triển khai từ tháng 5.1955) lên hàng "quốc sách" trên toàn miền Nam. Tính đến cuối năm 1958, chúng đã giết hại gần 70 ngàn cán bộ, đảng viên, bắt giam gần nửa triệu người và tra tấn thành thương tật gần 700 ngàn người. Ông Mười Hương, người chỉ huy ông Ẩn bị bắt vào tháng 6.1958.

Thời kỳ này các cơ sở Đảng bị đánh phá tan nát, cách mạng lâm vào thoái trào. Kẻ địch ngày càng được trang bị các phương tiện chiến tranh hiện đại, tiến hành các chiến dịch "tố cộng, diệt cộng" với quy mô lớn, trong khi những người yêu nước miền Nam trong tay hầu như không có vũ khí. Tuy nhiên cuộc chiến về tình báo lại khác.

Lansdale đã đem hết tài năng và kinh nghiệm hoạt động tình báo của mình ra áp dụng tại Việt Nam. Ngoài việc kích động và tổ chức cho đồng bào Công giáo di cư, Lansdale còn lợi dụng thời gian tự do đi lại (300 ngày) theo quy định của Hiệp định Genève, Lansdale đưa người cài vào hạ tầng chính quyền một số nơi sẽ chuyển giao cho Việt Nam dân chủ cộng hòa, chuyên chở vũ khí giấu ở các địa điểm bí mật, chuẩn bị nơi trú ẩn trước, sau đó huấn luyện và đưa biệt kích, đưa các điệp viên ra miền Bắc. Đồng thời tiến hành chiến tranh tâm lý, kích động, phao tin gây hoang mang trong nhân dân, thậm chí còn cài gián điệp trà trộn trong các nhóm tập kết để tung tin hòng làm mất tinh thần cán bộ, chiến sĩ miền Nam ra Bắc. Và như chúng ta đã biết, toàn bộ các ổ gián điệp cài lại và đưa ra miền Bắc "đều bị hốt sạch", một phần do nhân dân tố giác, một phần do hiệu lực phản gián của các lưới tình báo chúng ta, điển hình là anh hùng Đặng Trần Đức (Ba Quốc) với việc phát hiện 42 ổ gián điệp...

Về phía cách mạng, trong dầu sôi lửa bỏng, các lưới tình báo của ta tuy có bị tổn thất nặng nề do mất cảnh giác trong thời gian đầu, nhưng các chiến sĩ tình báo của ta được nhân dân che chở, vẫn tồn tại và phát triển. Ngoài tình báo chiến thuật và tình báo nhân dân thiên la địa võng, chúng ta đã tổ chức được một mạng lưới tình báo chiến lược thành công ngoạn mục. Những người trở thành ngôi sao tình báo như Phạm Xuân Ẩn, Phạm Ngọc Thảo, Đặng Trần Đức, Vũ Ngọc Nhạ, Lê Hữu Thúy, Nguyễn Xuân Hòe... đã được cài sâu trong lòng địch chính trong thời kỳ này. Họ không được trả lương, không được đào tạo chuyên nghiệp về tình báo, họ chỉ được cấp trên bảo: "Hãy tự tìm sách vở của phương Tây mà học, xem cái gì áp dụng được thì đem ra áp dụng. Phải tự lực cánh sinh" (lời bác sĩ Phạm Ngọc Thạch nói với Phạm Xuân Ẩn). Họ chỉ có một tấm lòng đối với Tổ quốc. Sức mạnh của họ, sự mưu trí của họ bắt đầu từ tấm lòng đó.

Phạm Xuân Ẩn chưa bao giờ căm thù nước Mỹ. Cấp trên của Phạm Xuân Ẩn cũng chưa bao giờ căm thù nước Mỹ. Cụ Hồ bảo "chống Mỹ, cứu nước", nghĩa là chỉ chống những người Mỹ đến xâm lăng thôi, hết xâm lăng rồi thì thành bạn bè. Trước khi đi Mỹ, cấp trên ông Ẩn dặn: "Phải học cho giỏi về nghiệp vụ, đồng thời tìm hiểu kỹ về nước Mỹ, về nền văn hóa Mỹ, về phong tục tập quán, về cách làm việc, về tâm lý, cá tính của người Mỹ. Phải tư duy và làm việc như người Mỹ". Lời dặn đó ngoài việc mục tiêu tạo thế đứng vững chắc để hoạt động tình báo "chống Mỹ, cứu nước", còn hàm chứa ý nghĩa hòa bình thân thiện với nước Mỹ. Bởi vậy, ý kiến của một số tác giả nước ngoài cho rằng sau chiến tranh ông Ẩn "không được chế độ tin dùng" vì ông bị "ảnh hưởng Mỹ quá sâu" là không có cơ sở...



Tiêu đề: Re: “Giải mã” Phạm Xuân Ẩn
Gửi bởi: TroiDanh trong 25 Tháng Tư, 2008, 12:41:04 pm
Kỳ 4: Đường vào cơ quan mật vụ Phủ Tổng thống

"Sở Nghiên cứu chính trị xã hội cũng đang muốn đặt người của Sở sang Việt tấn xã để theo dõi hoạt động của số nhân viên được gửi đi làm tình báo ở các nước, dưới danh nghĩa Việt tấn xã. Tôi sẽ bàn với ông Tuyến bố trí anh vào làm việc này" (lời Lê Văn Thái nói với Phạm Xuân Ẩn)


Chuyện ông Ẩn đi học ở Mỹ 2 năm (*) và thời điểm ông Ẩn về nước, chúng tôi đã đề cập qua trước đây theo lời kể của ông. Nay xin nói kỹ hơn theo báo cáo của ông với cấp trên mà ông Mười Nho đã ghi chép lại.

Phạm Xuân Ẩn về đến Sài Gòn vào ngày 10.10.1959. Dù ông tin chắc là các cán bộ cấp trên của ông không bao giờ khai báo, nhưng biết đâu địch có thể lần ra những sơ hở của đường dây, nên ông bước xuống sân bay Tân Sơn Nhất với tâm trạng bồn chồn lo lắng. Nhưng sau khi gặp mẹ và em trai, ông biết tung tích của ông chưa bị lộ. Nếu ông Ẩn không có niềm tin chắc chắn vào cấp trên thì có lẽ cuộc đời ông đã rẽ sang một ngã khác, vì có thể ông đã bỏ học và tìm cách trốn sang một nước khác rồi (cuối năm 1958 ông đã biết những cán bộ cấp trên của ông là ông Mười Hương, ông Dương Minh Sơn và ông Nguyễn Vũ đều bị bắt, qua một bức thư có ám hiệu của người em trai).

Biết mình vẫn an toàn, ông đi chào hỏi bà con và gặp gỡ cám ơn những người đã giúp ông đi học, cả người Việt lẫn người Mỹ. Tiếp đó, ông phải "tự lực cánh sinh", vì không còn ai chỉ đạo.

Theo kế hoạch dự định từ trước, nhiệm vụ của ông là trở thành nhà báo để tiếp tục hoạt động. Ông hướng tới một trong hai nơi: Việt tấn xã hoặc The Time of Việt Nam - tờ báo tiếng Anh duy nhất ở Sài Gòn hồi đó. Nhưng trước tiên ông phải đến gặp Giám đốc Quỹ Á châu (The Asia Foundation) là ông Howard Thomas. Vì mùa hè năm 1959 Quỹ này đã cấp cho ông một học bổng ba tháng để thực tập tại báo Sacramento Bee để chuẩn bị cho một chương trình huấn luyện các ký giả Việt Nam viết báo theo kiểu Mỹ. Ông Thomas nói với ông: "Chương trình mà tôi đã trao đổi với anh trước đây, tôi đã thảo luận và đề nghị ông Nguyễn Thái, Tổng giám đốc Việt tấn xã, hợp tác. Việt tấn xã sẽ đứng ra tổ chức, còn chúng tôi tài trợ về tài chính cho chương trình. Anh nên gặp ông Nguyễn Thái, ông ta sẽ đón tiếp anh nồng hậu, vì chúng tôi đã thống nhất cử anh phụ trách chương trình này". Như vậy là Quỹ Á châu đã theo dõi chặt chẽ để sử dụng người được đào tạo từ Mỹ về.

Đúng như ông Thomas nói, ông Nguyễn Thái đã tiếp đón Phạm Xuân Ẩn một cách trọng thị. Ông Thái nói: "Chúng tôi đang chờ anh về và sẽ giao công việc cho anh ngay. Nhưng chúng tôi đang gặp một khó khăn. Đó là Việt tấn xã chưa được phép tuyển thêm người cho đến khi có lệnh mới. Nếu anh có quen ai bên Phủ Tổng thống thì anh nên xin vào làm ở đó, rồi Phủ Tổng thống biệt phái sang đây là ổn nhất".

Trong khi đó, USOM cũng cho ông Ẩn biết, nếu ông chưa tìm được chỗ làm việc thích hợp thì họ sẽ giới thiệu cho ông vào làm cho các cơ quan của Mỹ ở Sài Gòn, chẳng hạn như làm cho phái đoàn Michigan State Univercity... Nhiều tờ báo Việt ngữ cũng ngỏ ý mời ông về làm với họ.

Như vậy là ông đang có nhiều hướng lựa chọn, chỗ nào cũng thuận lợi cả. Nhưng ông nghĩ, phải chọn một nơi có thể làm bình phong tốt nhất, ở đó vừa có điều kiện quan hệ rộng mà không bị các cơ quan an ninh nhòm ngó. Ông thấy đề nghị của ông Nguyễn Thái là tối ưu.

Ông điểm lại các quan hệ đang có thế lực ở Phủ Tổng thống. Bùi Quang Ân thì bị Ngô Đình Diệm cho "ra rìa" rồi, Nguyễn Đình Thuần cũng vậy... Cuối cùng ông tìm được một người mà ông thân quen 1 năm trước khi đi Mỹ. Đó là Lê Văn Thái (thường gọi là "Thái Trắng"). Ông Thái lúc này đang làm ở Sở Nghiên cứu chính trị xã hội, tức cơ quan mật vụ Phủ Tống thống do Trần Kim Tuyến đứng đầu.

Ông trình bày câu chuyện cho Lê Văn Thái nghe. Ông Thái nói: "Vấn đề của anh rất dễ giải quyết". Coi Phạm Xuân Ẩn là người tin cậy của mình, Lê Văn Thái tiết lộ: "Sở Nghiên cứu chính trị xã hội cũng đang muốn đặt người của Sở sang Việt tấn xã để theo dõi hoạt động của số nhân viên được gửi đi làm tình báo ở các nước, dưới danh nghĩa Việt tấn xã. Tôi sẽ bàn với ông Tuyến bố trí anh vào làm việc này". Tuy nhiên, ông Thái cũng nói thật cho ông Ẩn biết là hiện có mâu thuẫn nội bộ khá nặng giữa nhóm mật vụ của Ngô Đình Nhu (Sở Nghiên cứu chính trị của Trần Kim Tuyến) và nhóm mật vụ của Ngô Đình Cẩn (Đoàn công tác đặc biệt của Dương Văn Hiếu). Ông Thái vừa ngẫm nghĩ vừa nói với Phạm Xuân Ẩn: "Tôi biết anh là người chân thật, nên tôi đang nghĩ không biết có nên để anh dính với nhóm của Trần Kim Tuyến hay không. Tôi sợ có chuyện gì anh sẽ bị vạ lây". Qua Lê Văn Thái, Phạm Xuân Ẩn cũng được biết Tổng giám đốc Việt tấn xã Nguyễn Thái thuộc nhóm Ngô Đình Cẩn. Ông Ẩn nói: "Không sao đâu. Tôi có một người anh rể họ là Lê Khắc Duyệt, Giám đốc Công an cảnh sát Trung phần được ông Ngô Đình Cẩn tin lắm, dù tình huống nào thì chắc cũng không có vấn đề gì xảy ra. Vả lại, tôi chỉ theo nghề làm báo chứ không thích làm chính trị".

Qua mối quan hệ đó, ít lâu sau Trần Kim Tuyến mời Phạm Xuân Ẩn đến. Trùm mật vụ Trần Kim Tuyến chắc chắn biết rõ "lý lịch trong sạch" của ông Ẩn, vì chính cơ quan mật vụ Phủ Tổng thống và An ninh quân đội đã thẩm tra cẩn thận nhân thân của ông trước khi cấp giấy tờ cho ông sang Mỹ học. Trần Kim Tuyến chấp nhận ngay đề nghị của ông, bố trí ông làm việc ở cơ quan mật vụ Phủ Tổng thống, ăn lương chỉ số 420, tức lương cấp cử nhân, và biệt phái sang Việt tấn xã.

Sau khi gặp Trần Kim Tuyến, Phạm Xuân Ẩn báo cho Nguyễn Thái biết. Ông Thái niềm nở nói thêm với Phạm Xuân Ẩn: "Ngoài việc ông Thomas đề nghị, bác Ngạc (tức kỹ sư Lê Sĩ Ngạc, là bạn của ba Phạm Xuân Ẩn) có gửi gắm anh với tôi. Bác Ngạc coi anh như người trong nhà, nên anh với tôi từ nay trở thành người thân. Chúng mình tin tưởng cộng tác với nhau. Ngoài ra, có anh ở đây bác sĩ Tuyến cũng không hiểu lầm là tôi chống bác sĩ".

Đến đây, Phạm Xuân Ẩn bắt đầu trở thành "người nhà" của một nhân vật đặc biệt, nhân vật quyền lực số 3 của chế độ Ngô Đình Diệm: bác sĩ Trần Kim Tuyến.

Trần Kim Tuyến, trùm mật vụ chống cộng khét tiếng, người gắn liền với những câu chuyện giật gân rùng rợn và đầy mâu thuẫn. Nhưng lạ lùng nhất, Trần Kim Tuyến cũng là người gắn chặt và là "chỗ dựa" của ba nhà tình báo lừng danh nhất của "Việt cộng" là thiếu tướng anh hùng Phạm Xuân Ẩn, thiếu tướng anh hùng Đặng Trần  Đức và đại tá anh hùng Phạm Ngọc Thảo, là người mà chính Phạm Xuân Ẩn đã "giải cứu" vào ngày cuối cùng của cuộc kháng chiến. Nếu đánh giá một cách đơn giản về Trần Kim Tuyến thì không thể hiểu đúng bản chất của các hoạt động của ba nhà tình báo của chúng ta, không thể hiểu được tính logic của các điệp vụ ngoạn mục mà họ đã làm.

Khi nói chuyện với chúng tôi, Phạm Xuân Ẩn rất ít nói về các hoạt động cũng như con người Trần Kim Tuyến, thỉnh thoảng ông đề cập đến nhân vật này qua một số chuyện cụ thể. Còn ông Ba Quốc thì nói với chúng tôi khá nhiều những chuyện "thâm cung bí sử" của cơ quan mật vụ mà Trần Kim Tuyến trực tiếp chỉ huy nhưng cũng không bình luận nhiều về con người Trần Kim Tuyến.

Vì vậy muốn "giải mã" Phạm Xuân Ẩn (cũng như Ba Quốc và Phạm Ngọc Thảo) thì không thể không "giải mã" Trần Kim Tuyến...

(http://www2.thanhnien.com.vn/Uploaded/ngocthanh/0000110408/P3/P3a.jpg)
Thẻ hoạt động báo chí khi ông Ẩn thực tập tại Sacramento Bee


(http://www2.thanhnien.com.vn/Uploaded/ngocthanh/0000110408/P3/PS7Z8521.jpg)
Bằng lái quân xa lúc ông Ẩn làm việc cho Phòng Quân huấn


Tiêu đề: Re: “Giải mã” Phạm Xuân Ẩn
Gửi bởi: TroiDanh trong 25 Tháng Tư, 2008, 12:42:17 pm
Kỳ 5: Bác sĩ Trần Kim Tuyến

Bruce Russell, thông tín viên thường trú của Reuters tại Sài Gòn gọi điện thoại cho ông Ẩn: "Anh có nghe thấy gì không?". Phạm Xuân Ẩn: "Có nghe tiếng súng nổ nhỏ, sau tiếng nổ lớn". Russell: "Anh liên lạc ngay với các nguồn tin". Ông Ẩn gọi điện cho Trần Kim Tuyến. Bác sĩ Tuyến nói không biết gì hết.


Trần Kim Tuyến sinh năm 1925 ở Nga Sơn, Thanh Hóa trong một gia đình Công giáo. Thời nhỏ ông học trường dòng ở Thanh Hóa, năm 1943 ra Hà Nội có một thời gian học ở Đại Chủng viện, sau khi đỗ tú tài về lại Thanh Hóa dạy học cũng tại một trường dòng. Năm 1949 lại ra Hà Nội học Luật và Y khoa. Tốt nghiệp khoa Luật nhưng về Y khoa ông chưa học xong thì bị động viên vào quân đội (thuộc Pháp), vào học trường Quân Y và ra trường với cấp bậc trung úy (trình độ chuyên môn tương đương y sĩ). Gọi là "bác sĩ" nhưng thực ra ông chưa có bằng bác sĩ và chưa bao giờ hành nghề y cả.

Trong thời gian ở Hà Nội ông kết thân với Ngô Đình Nhu, lúc đó đang làm việc ở Viện Viễn đông bác cổ, và làm nhiều việc để giúp đỡ Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Diệm. Sự gắn bó giữa ông Tuyến với ông Nhu bắt đầu từ đó.

Khi Ngô Đình Diệm lên làm Thủ tướng vào năm 1954, Ngô Đình Nhu lập đảng Cần lao để làm lực lượng chính trị hậu thuẫn cho anh mình. Trần Kim Tuyến gia nhập đảng này và trở thành cộng sự thân tín của Ngô Đình Nhu. Khi Ngô Đình Diệm lên làm tổng thống, cố vấn Ngô Đình Nhu trở thành nhân vật có thực quyền lớn nhất của chế độ. Trần Kim Tuyến được cử làm Giám đốc Sở nghiên cứu chính trị xã hội, thực chất là trùm mật vụ Phủ Tổng thống, quyền hành chỉ đứng sau ông Diệm, ông Nhu.

Trần Kim Tuyến tổ chức và chỉ huy toàn bộ mạng lưới tình báo chiến lược, hệ thống mật vụ, các đơn vị đặc nhiệm, cài cắm gián điệp ra miền Bắc... Hai mục tiêu chính của Sở Nghiên cứu chính trị là: chống phá cách mạng và kiểm soát, thanh trừng lực lượng chống đối để bảo vệ chế độ.

CIA cung cấp tài chính cho Sở Nghiên cứu chính trị, chủ yếu để phục vụ cho mục tiêu thứ nhất. Tuy nhiên, thiếu tướng anh hùng tình báo Đặng Trần Đức (Ba Quốc), người từng làm việc trong Sở Nghiên cứu chính trị xã hội của Trần Kim Tuyến kể với tôi: Năm 1956, Mỹ cấp cho Sở Nghiên cứu chính trị xã hội 50 triệu đồng (tiền Sài Gòn lúc đó) để tổ chức biệt kích đưa ra đánh phá miền Bắc. Biệt kích thì bác sĩ Tuyến chọn trong những người Công giáo di cư, hầu hết là người Bùi Chu - Phát Diệm để người Mỹ huấn luyện. Số tiền 50 triệu đó được dùng để mua một chiếc tàu viễn dương loại tốt dùng cho hoạt động này, nhưng "bác sĩ Tuyến lại quan tâm đến việc khác nhiều hơn", nên ông ta đã dùng đến 30 triệu để chi cho công việc của Đảng Cần lao và tài trợ để củng cố Tổng liên đoàn lao động của Bùi Lượng chống lại Tổng liên đoàn lao công của Trần Quốc Bửu do Mỹ khống chế. 20 triệu còn lại dùng vào việc mua tàu, nhưng người của Sở này ăn bớt một ít, người đi mua ăn bớt một ít nữa, thực tế không còn bao nhiêu nên chỉ mua được một chiếc tàu cũ nát không ra gì. Sau khi mua tàu và trong khi triển khai chương trình, CIA vẫn nhận được tin tức miền Bắc. Nhưng đùng một cái, người Mỹ sinh nghi, bởi họ kiểm tra những tin tức được gửi về, thấy không phải gửi trực tiếp từ Hà Nội hoặc các nơi khác ở miền Bắc mà từ những người của Trần Kim Tuyến được cài ở Lào và Campuchia gửi về. Bởi vậy, đến năm 1958, người Mỹ yêu cầu kiểm soát chương trình này. Để đối phó, Trần Kim Tuyến chỉ đạo tạo ra sự cố cho chiếc tàu này nổ luôn ở ngoài khơi, phi tang luôn chiếc tàu kém chất lượng này và cho phép thuyền trưởng, thuyền phó nhảy khỏi tàu để thoát nạn.

Chuyện đó cho thấy ông Tuyến lợi dụng người Mỹ, việc làm theo người Mỹ chỉ làm lấy lệ. Nhưng ban đầu Phạm Xuân Ẩn chưa đánh giá được thực chất quan hệ giữa Trần Kim Tuyến với CIA.

Phải đến ngày 11.11.1960, lúc này Phạm Xuân Ẩn đã làm thêm cho hãng tin Anh Reuters (nhưng vẫn còn làm cho Sở Nghiên cứu chính trị xã hội và Việt tấn xã), ông mới biết một tin tức quan trọng về Trần Kim Tuyến. 4 giờ sáng ngày hôm đó, Bruce Russell, thông tín viên thường trú của Reuters tại Sài Gòn gọi điện thoại cho ông Ẩn: “Anh có nghe thấy gì không?”. Phạm Xuân Ẩn: “Có nghe tiếng súng nổ nhỏ, sau tiếng nổ lớn”.

Russell: “Anh liên lạc ngay với các nguồn tin”. Ông Ẩn gọi điện cho Trần Kim Tuyến. Bác sĩ Tuyến nói không biết gì hết. Ông gọi cho Lê Văn Thái, ông Thái cũng không biết gì. Ông gọi cho Nguyễn Chánh Thi, chỉ huy trưởng Lữ đoàn dù nhưng điện thoại của Nguyễn Chánh Thi đã bị cắt. Gọi cho Bùi Huy Lợi, trưởng phòng tác chiến thì viên sĩ quan trực bảo Lợi đang họp.

Lúc đó Tổng giám đốc Nguyễn Thái gọi điện cho ông, bảo: “Có đảo chính” và nói với Phạm Xuân Ẩn rằng ông ta phải đổi chỗ ở, sẽ liên lạc lại sau khi tình hình tạm yên. Ông ta còn dặn thêm ông Ẩn “nhớ viết tin cho đúng đường lối”. Sau này ông Ẩn mới biết ông Thái “có quan hệ” với CIA và người tham gia vào cuộc đảo chính đó.

Phạm Xuân Ẩn lái xe đến nhà Bruce Russell trao đổi tin tức và khẳng định cuộc đảo chính do quân nhảy dù tiến hành chống Ngô Đình Diệm. Hai người đến Bưu điện để đánh điện tín gửi tin về Reuters, nhưng Bưu điện đã bị quân dù chiếm. Hai người đến nhờ người chỉ huy tình báo Anh ở tòa đại sứ Anh gửi điện dùm. Sau đó Phạm Xuân Ẩn ghé qua nhà Trần Kim Tuyến, lúc đó trời rạng sáng, ông Tuyến vẫn đang ở nhà. Ông Ẩn nói: “Bác sĩ ơi. Đang đảo chính. Ông phải chạy đi và nhớ đưa vợ con lánh nạn. Lính dù bao vây đến dinh Tổng thống rồi, chính mắt tôi trông thấy. Bác sĩ đi đâu nhớ gọi điện và cho tôi số điện thoại để liên lạc”. Tiếp đó ông Ẩn đến nhà Lê Văn Thái, ông Thái cũng đang ở nhà. Ông khuyên ông Thái như đã khuyên ông Tuyến.

Trở lại tòa đại sứ Anh để đón Bruce Russell, ông Ẩn bất ngờ thấy vợ con ông Tuyến vừa đi xe đến tá túc tại nhà viên chỉ huy tình báo mà ông vừa nhờ gửi điện. Một ý nghĩ lập tức hiện ra trong đầu Phạm Xuân Ẩn: Trần Kim Tuyến không phải làm cho CIA. Ông ta làm cho tình báo Anh.

Rời tòa đại sứ Anh, Phạm Xuân Ẩn đi vòng quanh để thu lượm tin tức về cuộc đảo chính. Gặp đại tá Nguyễn Chánh Thi đang chỉ huy quân dù, ông bảo: “Đại tá còn đợi gì mà chưa ra lệnh tấn công vào dinh Tổng thống?”. Nguyễn Chánh Thi nói: “Anh làm báo mà nóng nảy hơn tui làm nhà binh. Cần chờ lệnh trên và cần thương thuyết với ông Diệm”. Tiếp đó ông còn liên lạc được với thiếu tá Bùi Huy Lợi đang cùng với đại tá Vương Văn Đông chỉ huy cuộc đảo chính.

Trong một thời gian ngắn diễn ra cuộc đảo chính, Phạm Xuân Ẩn đã nhanh chóng liên lạc được với cả hai phe đảo chính, chống đảo chính và thực hiện một tác nghiệp nổi trội. Đối với nghề báo, ông đã cung cấp cho hãng Reuters những tin tức đầy đủ và chính xác nhất từ đầu cho đến khi đảo chính thất bại. Đối với Nguyễn Thái, khi biết chắc chắn cuộc đảo chính không thành, ông Ẩn tìm gặp ông ta để đưa về lại Việt tấn xã và chuẩn bị phát bản tin ngay sau đó. Sự chu đáo này làm Nguyễn Thái cảm động nên về sau ông Nguyễn Thái đã giúp rất nhiều cho ông. Đối với các sĩ quan đảo chính, Phạm Xuân Ẩn cũng gây được cảm tình.

Đặc biệt đối với Trần Kim Tuyến (cũng như Lê Văn Thái), ông thể hiện sự quan tâm lo lắng đến sinh mạng của họ và gia đình họ, củng cố sự tin cậy lâu dài về sau. Và qua đây ông đã biết rõ về bản chất mối quan hệ chính trị của Trần Kim Tuyến. Nếu không biết rõ về con người này, Phạm Xuân Ẩn đã không thực hiện thành công những điệp vụ ngoạn mục vào đầu những năm sáu mươi của thế kỷ trước.

Khi nói với tôi về bác sĩ Trần Kim Tuyến, ông Ẩn dùng từ thận trọng. Ông bảo nói cho đúng là ông Tuyến "cộng tác" với tình báo Anh, vì ông ta có mục đích riêng. Trao đổi chuyện này với ông Mười Nho, tôi hỏi tình báo Anh cần gì ở ông Tuyến, ông Mười Nho nói: “Người Anh muốn biết mưu đồ của Mỹ ở Việt Nam để đối phó với Mỹ trên thế giới”.

Như vậy là Trần Kim Tuyến cũng cần đến Phạm Xuân Ẩn để “biết Mỹ”...

(http://www2.thanhnien.com.vn/Uploaded/tno/13.4.2008/pxa04131.jpg)
Thẻ nhà báo của Phạm Xuân Ẩn khi làm việc cho Reuters - Ảnh: do gia đình cung cấp


Tiêu đề: Re: “Giải mã” Phạm Xuân Ẩn
Gửi bởi: TroiDanh trong 25 Tháng Tư, 2008, 12:45:16 pm
Kỳ 6: Sự trùng hợp thú vị

Ông Ẩn bảo, có một nguyên tắc trong nghề tình báo là cấp dưới không được tự động tìm liên lạc với cấp trên, nếu rủi mà mất liên lạc thì phải ráng mà chờ chứ không được tự tiện. Tuy nhiên, quá sốt ruột và lo lắng, ông quyết định vi phạm nguyên tắc này...


Chuyện liên quan đến bác sĩ Trần Kim Tuyến chúng tôi sẽ lần lượt đề cập trong những điệp vụ của ông Ẩn. Lúc mới đến làm việc ở Việt tấn xã với tư cách là người của cơ quan mật vụ cử sang, Phạm Xuân Ẩn có 5 nhiệm vụ chính: thứ nhất là theo dõi, đốc thúc các điệp viên được Sở Nghiên cứu chính trị đưa đi làm tình báo ở nước ngoài dưới vỏ bọc của Việt tấn xã. Thứ hai, đọc các tin tức lấy từ báo chí từ các tòa đại sứ ở nước ngoài gửi về, rồi phân tích, tổng hợp thành báo cáo để Tổng giám đốc Việt tấn xã gửi cho Văn phòng báo chí Ngô Đình Diệm. Thứ ba, giúp Việt tấn xã viết cho xong cuốn sách về nghề báo lấy tên là "Săn tin" được các cố vấn Mỹ cùng các biên tập viên ở đây đang soạn thảo. Thứ tư, thay mặt tổng giám đốc đi họp hàng ngày với Giám đốc báo chí Bộ Thông tin, Giám đốc Phòng Thông tin Mỹ, Giám đốc Phòng Thông tin Anh, khi Nguyễn Thái bận việc. Thứ năm, lo việc giao tế với các cơ quan nước ngoài, nhất là Mỹ, Anh và Phủ Tổng thống về những tin tức va chạm đến các cơ quan này.

Trong loạt ký sự trước đây (Tướng tình báo chiến lược, kỳ 5: Từ mật vụ đến nhà báo), chúng tôi đã nói về chuyện ông Ẩn "trị" đám điệp viên mang danh nhà báo của Trần Kim Tuyến như thế nào. Nhóm này được CIA huấn luyện gồm 4 người là Nguyễn Sơn, Nguyễn Thúy Phượng, Lê Đức Đạt và Nguyễn Trọng. Họ lấy danh nghĩa nhà báo mà không có bài vở gì cả, chẳng khác gì "la lên cho cả làng biết là tôi làm tình báo đây",  lại coi thường Tổng giám đốc Việt tấn xã, nhưng ông Nguyễn Thái không dám trị vì sợ đụng chạm với Trần Kim Tuyến. Việc ông Ẩn chấn chỉnh đám này (buộc họ phải viết bài nghiêm chỉnh, có định mức) không những khiến cho ông Thái hả dạ mà còn làm cho Trần Kim Tuyến tâm phục khẩu phục.

Có lẽ bị ám ảnh từ chuyện này mà Phạm Xuân Ẩn coi thường các điệp viên trong các cơ quan tình báo của chế độ Sài Gòn. Do vậy mà sau này có một vài tin tức ông lấy từ các điệp viên của Đặc ủy Trung ương tình báo báo về được gửi về từ Tokyo, nhưng do đánh giá thấp trình độ các điệp viên này nên ông đã không báo về trên, khi sự kiện xảy ra  mới biết đó là các tin tức quan trọng.

Phạm Xuân Ẩn trở thành phóng viên của Hãng Reuters là do ông Nguyễn Thái ráp nối. Nguyên do ban đầu là Reuters có hợp đồng trao đổi tin tức với Việt tấn xã, sau đó họ cần người chuyên trách để mở đại diện ở Việt Nam phụ trách luôn cả 3 nước Đông Dương, nên ông Thái giới thiệu ông Ẩn. Cũng qua ông Thái, Phạm Xuân Ẩn quen với trùm CIA Colby và một loạt các chuyên viên CIA cấp dưới khác. Từ Lansdale đến Colby, Phạm Xuân Ẩn đã thiết lập được một mối quan hệ vững chắc với người Mỹ. Về phía chính quyền Sài Gòn, thời gian này ông cũng tạo được quan hệ tin cậy với các chính khách, tướng tá của chế độ thông qua Trần Kim Tuyến và những "người quen cũ" nay đã có nhiều vai vế. Lúc này ông không những "đọc được tất cả các bản tin mật của Bộ Quốc phòng" mà đã có thể "lên trực thăng của Phủ Tống thống đi khắp mọi nơi", thông qua Tổng giám đốc chiến tranh tâm lý Bộ Quốc phòng Nguyễn Văn Châu - người của đảng Cần Lao, được Trần Kim Tuyến giới thiệu.

Trong một thời gian, Phạm Xuân Ẩn "ăn 3 lương": Cơ quan mật vụ Phủ Tổng thống, Việt tấn xã và Reuters. Để tránh sự phức tạp khó lường sau này, ông đề nghị Trần Kim Tuyến cho ông thôi làm việc ở Sở Nghiên cứu chính trị và Việt tấn xã. Trần Kim Tuyến và Nguyễn Thái đều vui vẻ đồng ý. Tuy ông phải "cáo từ" hai nơi này, nhưng quan hệ giữa ông với Trần Kim Tuyến và Nguyễn Thái vẫn tiếp tục được duy trì, thậm chí phát triển tốt hơn.

Tạo được một chỗ đứng rất tốt, với các quan hệ vững chắc và các nguồn tin phong phú rồi, nhưng ông vẫn chưa liên lạc được với tổ chức. Biết bao nhiêu điều cơ mật mà Phạm Xuân Ẩn vẫn không biết báo cho ai. Ông Ẩn bảo, có một nguyên tắc trong nghề tình báo là cấp dưới không được tự động tìm liên lạc với cấp trên, nếu rủi mà mất liên lạc thì phải ráng mà chờ chứ không được tự tiện. Tuy nhiên, quá sốt ruột và lo lắng, ông quyết định vi phạm nguyên tắc này: ông tìm cách bắt liên lạc thông qua bà Huỳnh Tấn Phát, nhưng chưa kịp nhờ thì bà Huỳnh Tấn Phát đã bị bắt...

Đó là thời kỳ cuộc Đồng Khởi của nhân dân miền Nam bùng lên mạnh mẽ. Đến nỗi trong một báo cáo gửi về tổng hành dinh CIA, Lansdale phải thừa nhận: "Đến tháng 12.1960 có thể có chưa đầy 15.000 Việt Cộng ở miền Nam Việt Nam, thế mà họ đã kiểm soát được nửa nước (miền Nam) vào ban ngày và hơn thế nữa vào ban đêm". Hệ thống công tác tình báo, đã được củng cố sau tổn thất nặng nề những năm 1957-1958. Phụ trách an ninh và tình báo của Xứ ủy lúc này là ông Mai Chí Thọ và ông Cao Đăng Chiếm (sau này là thượng tướng). Ông Mười Nho, trước đó hoạt động tình báo ở miền Nam, sau sang Lào và Campuchia, được điều về phụ trách Ban tình báo của Khu ủy Sài Gòn -  Chợ Lớn, mật danh là I4. I4 đặt dưới sự lãnh đạo của Bí thư Đặc khu ủy lúc đó là ông Võ Văn Kiệt vừa nhận chỉ thị của tình báo Xứ ủy, trực tiếp là ông Cao Đăng Chiếm. Yêu cầu về tin tức tình báo chiến lược lúc này rất khẩn trương.

Ông Mười Nho có tổ chức cơ sở học sinh ở Phnom Penh đưa về hoạt động ở Sài Gòn. Khi về phụ trách I4, có lần liên lạc đưa một cơ sở học sinh tên là Tâm về căn cứ làm việc, anh Tâm cho ông Mười Nho biết anh có một người chị tên Bùi Thị Nga, trước đây là cán bộ phụ nữ hồi chống Pháp. Chị Nga có quen với một người tên là Phạm Xuân Ẩn, vừa học ở Mỹ về. Chị Nga cũng quen với chị Tám Thảo, một người có tham gia kháng chiến về đang sống với cha mẹ và chị Thảo cũng quen với anh Ẩn. Theo anh Tâm thì "anh Ẩn là người rất tốt"... Từ tin tức sơ bộ đó, ông Mười Nho báo cáo với ông Võ Văn Kiệt và Cao Đăng Chiếm. Ông Cao Đăng Chiếm là người biết rất rõ Phạm Xuân Ẩn, nên nghe tin ông mừng quá, ông nói với ông Mười Nho: "Ẩn là người của ngành được cử đi học ở Mỹ năm 1957, nhưng bấy lâu nay không biết tin tức".

Sau đó, ông Cao Đăng Chiếm từ chiến khu Dương Minh Châu về Củ Chi gặp ông Võ Văn Kiệt để trao đổi và giao cho ông Mười Nho tổ chức bắt liên lạc với Phạm Xuân Ẩn. Bà Tám Thảo, lúc này đang hoạt động trong tổ chức phụ nữ của Thành ủy, lập tức được tách khỏi tổ chức này và được điều động về I4 làm nhiệm vụ liên lạc với Phạm Xuân Ẩn.

Cuối năm 1960, bà Tám Thảo đã dẫn Phạm Xuân Ẩn về căn cứ Phú Hòa Đông, Củ Chi. Đây là một "lõm giải phóng" mà I4 đã xây dựng được một cụm liên lạc an toàn. Đối với ông Ẩn, việc đi lại cũng không khó khăn, vì ông có giấy công vụ do Trần Kim Tuyến cấp, "đủ hiệu lực không bị ai theo dõi hoặc cản trở".

Tại đây, lần đầu tiên ông gặp ông Mười Nho, còn ông Cao Đăng Chiếm thì Phạm Xuân Ẩn đã gặp từ năm 1953. Ông Ẩn ở lại đây 3 ngày, báo cáo đầy đủ tất cả những gì diễn ra trong thời gian trước, trong và sau khi ông đi học ở Mỹ về cùng những tin tức, những nhận định, phân tích của ông về tình hình và biến động nội bộ của đối phương. Ông Cao Đăng Chiếm và ông Mười Nho đã báo cáo lại cho ông Võ Văn Kiệt biết toàn bộ. Qua cuộc làm việc này, cấp trên nhận định Phạm Xuân Ẩn là "điệp viên có tầm cỡ trong tương lai".

Có một sự trùng hợp thú vị: Giữa lúc ông tìm cách liên lạc với tổ chức thì tổ chức cũng đang tìm cách liên lạc với ông. Phạm Xuân Ẩn vô cùng phấn chấn. Đó là những ngày vui mà ông không bao giờ quên được. Từ đây, ông bắt đầu thực hiện các điệp vụ ngoạn mục, dày đặc và cấp tập...



Tiêu đề: Re: “Giải mã” Phạm Xuân Ẩn
Gửi bởi: TroiDanh trong 25 Tháng Tư, 2008, 12:46:15 pm
Kỳ 7: Điệp vụ đầu tiên

Trong quá trình trao đổi, thấy Phạm Xuân Ẩn có những kiến thức sâu sắc về quân sự, chính trị, kinh tế, tư duy đúng như tư duy của người Mỹ, nên Staley đã thuyết trình cho Phạm Xuân Ẩn nghe toàn bộ ý đồ, mục tiêu của kế hoạch trước khi nó trở thành chính thức...


Trong 3 ngày làm việc với Phạm Xuân Ẩn, các cán bộ chỉ huy tình báo đánh giá được thế đứng, các mối quan hệ và khả năng tiếp cận nguồn tin của ông, trong đó quan trọng nhất là khả năng tiếp cận các cơ quan đầu não của Mỹ ở Sài Gòn và chính quyền Ngô Đình Diệm. Cấp trên giao cho ông các nhiệm vụ:

+ Điều tra các tin tức chiến lược của Mỹ và chính quyền Sài Gòn cả về quân sự và chính trị.

+ Tiếp tục giữ thế nghề nghiệp, củng cố bình phong hiện có để hoạt động lâu dài. Củng cố, mở rộng các quan hệ xã hội và nghề nghiệp với các quan chức người Mỹ, người Việt trong các cơ quan của Mỹ, Phủ Tổng thống, Bộ Tổng tham mưu "các tác dụng khai thác các tài liệu chiến lược".

+ Bảo đảm an toàn lâu dài, cắt các quan hệ với những người kháng chiến cũ từng biết ông Ẩn có quan hệ trước đây với kháng chiến.

+ Giữ vững liên lạc, bảo đảm an toàn và thường xuyên, liên tục. Tạm thời để nữ đồng chí Tám Thảo làm liên lạc với Phạm Xuân Ẩn từ Sài Gòn vào căn cứ, nhưng sẽ nhanh chóng thay người liên lạc khác vì bà Tám Thảo "có vết tích tham gia kháng chiến 9 năm".

Ngay sau khi nối được liên lạc, Phạm Xuân Ẩn đã gửi về một tài liệu quân sự quan trọng. Đó là tài liệu "Technics and Tactics of Counter Insurgency" (Kỹ thuật và chiến thuật chống nổi dậy) do chính tướng Mỹ Lioenel Mc Garr, Chỉ huy trưởng MAAG ký. Cần biết, các tướng chỉ huy MAAG trước đó như  O'Daniel và Williams không đủ kinh nghiệm ứng phó với cuộc Đồng Khởi, nên từ tháng 8.1960, Tổng thống Mỹ Eisenhower đã cử Mc Garr, một viên tướng có kinh nghiệm nhiều năm chỉ huy chiến trường và có kinh nghiệm "chống nổi dậy" sang thay thế. Tài liệu của Mc Garr chính là tài liệu triển khai kế hoạch "Chống nổi dậy" do Hội đồng An ninh quốc gia Mỹ phê duyệt ngày 29.4.1961, tăng lực lượng cố vấn và các đơn vị đặc biệt Mỹ, tăng thêm viện trợ cho chính quyền Sài Gòn để đẩy mạnh xây dựng quân đội, tăng cường phong tỏa miền Nam Việt Nam, kể cả biên giới và vùng biển, xúc tiến các hoạt động phá hoại bí mật ở miền Bắc. Kế hoạch này là một "khúc dạo" cho "Chiến lược chiến tranh đặc biệt".

Ông Ẩn hoàn toàn không "lấy cắp" bản tài liệu đó. Chính bác sĩ Trần Kim Tuyến sai Lê Văn Thái mang tài liệu đó cho ông và đề nghị ông "đọc, nghiên cứu, tóm tắt và đề xuất ý kiến" để ông Tuyến hiểu chiến lược quân sự mới của người Mỹ, vì ông Tuyến không có kinh nghiệm mấy về vấn đề này. Như bạn đọc đã biết, Phạm Xuân Ẩn được Trần Kim Tuyến tin cậy, sự tin cậy này càng được củng cố sau vụ đảo chính hụt, ông trở thành người thân tín của ông Tuyến. Hơn nữa, bác sĩ Tuyến còn biết rõ mối quan hệ thân thiết của Phạm Xuân Ẩn với người Mỹ và biết trình độ phân tích chính trị - quân sự của ông, nên mặc nhiên ông trở thành “tham mưu" trong những lĩnh vực mà Trần Kim Tuyến không biết rõ, nhất là về lĩnh vực quân sự.

Việc đầu tiên khi nhận được tài liệu là ông chụp tất cả thành 24 cuốn phim "gửi về trên", thông qua đường dây và phương thức liên lạc vừa mới thiết lập. Cấp trên nhận đủ 24 cuộn phim, nhưng do chưa có kinh nghiệm chụp phim nên toàn bộ 24 cuộn phim đó "không đọc được". Nhận được thông báo của cấp trên cho biết là phim bị hỏng, ông lập tức tự mình đánh máy sao nguyên tài liệu đó ra và đích thân mang tài liệu về căn cứ. Sở dĩ ông phải đích thân mang đi vì giao liên không thể mang một tài liệu kềnh càng như vậy, đi là rất không an toàn, còn ông thì có "Sự vụ lệnh" của Trần Kim Tuyến nên không sợ ai kiểm soát. Tất nhiên đây là việc "chữa cháy", nếu lặp lại thì sẽ nguy hiểm ngay.

Đồng thời với việc gửi tài liệu đi, ông đã giữ thêm bản gốc trong nhiều ngày để nghiên cứu. Ông biết, một khi một tài liệu như thế, do chính Mc Garr đưa ra, thì "sức mấy" mà ông Diệm ông Nhu dám phản đối, nên ông dịch và tóm tắt những nội dung quan trọng để giao cho bác sĩ Tuyến mà không đưa ra ý kiến riêng...

Phạm Xuân Ẩn nối được liên lạc với tổ chức chỉ mấy tháng sau khi Ngô Đình Diệm ban hành Luật 10/59 "đặt cộng sản ra ngoài vòng pháp luật", lê máy chém đi khắp miền Nam, dù trước đó Chủ tịch Hội đồng tố cộng trung ương Trần Chánh Thành tuyên bố "hoàn toàn tiêu diệt ảnh hưởng áp đảo của cộng sản trong 9 năm trước đây".  Tuy nhiên, người Mỹ lại ghi nhận: "Vô luận nó đã đóng góp như thế nào vào nền an ninh nội bộ của chính quyền Nam Việt Nam, chiến dịch tố cộng đã làm kinh hoàng những người nông dân Việt Nam và làm cho dân chúng thêm ghét chế độ" (theo Nhật ký Lầu Năm góc). Cũng chính người Mỹ chua xót: "Hoa Kỳ tìm cách tiêu diệt tổ chức Việt Minh cũ và đặt cho cái tên mới Việt Cộng. Nhưng quá trình đó, Hoa Kỳ lại tạo ra một Việt Minh mới còn lợi hại hơn rất nhiều cái tổ chức Việt Minh cũ mà người Pháp đã phải đương đầu".

Cao trào Đồng Khởi đã dẫn đến sự ra đời của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (20.12.1960) và tiếp đó Quân giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập. Từ đấu tranh chính trị chuyển thành đấu tranh chính trị kết hợp đấu tranh vũ trang và tiến tới "chân vũ trang" đưa lên ngang với "chân chính trị".

Giữa lúc Quân giải phóng cùng với nhân dân toàn miền Nam tiến hành khởi nghĩa phá kềm, giành quyền làm chủ khắp nơi thì nội bộ chính quyền Ngô Đình Diệm trở nên lủng củng, cuộc đảo chính hụt do Vương Văn Đông và Nguyễn Chánh Thi cầm đầu là biểu hiện đầu tiên.

Để đối phó với cuộc Đồng Khởi, Ngô Đình Diệm ký sắc lệnh bãi bỏ các quân khu và thành lập 4 vùng chiến thuật, áp dụng chính sách quân phiệt ở miền Nam. Đầu năm 1961, trong khi tiếp tục tăng viện trợ cho chính quyền Ngô Đình Diệm, Chính phủ Mỹ đồng thời yêu cầu Ngô Đình Diệm tiến hành "cải cách". Mỹ đề nghị cải tổ hệ thống chỉ huy quân đội, "cải sửa" chế độ độc tài Ngô Đình Diệm. Tuy nhiên ông Diệm vẫn chần chừ không muốn làm theo ý người Mỹ. Đến giữa tháng 5.1961, Phó tổng thống Lyndon Johnson sang. Một thông cáo chung xác nhận Mỹ tiếp tục tăng viện trợ "để chiến thắng cộng sản" và ông Diệm hứa sẽ tiến hành "cải cách".

Tiếp theo phái đoàn của Johnson, từ tháng 6 đến tháng 10.1961, Mỹ cử hai phái đoàn quan trọng sang. Thứ nhất là phái đoàn do giáo sư Eugene Staley, Viện nghiên cứu Stanford (Đại học Stanford, California), đến Sài Gòn vào tháng 6.1961 để xem xét những nhu cầu kinh tế cho "cuộc chiến chống cộng trong giai đoạn mới". Tiếp theo là phái đoàn do tướng Maxwell Taylor, cố vấn quân sự đặc biệt của Tổng thống Kennedy, cầm đầu. Edward Lansdale lúc này đã được thăng quân hàm cấp tướng và làm phụ tá đặc biệt cho Bộ trưởng Quốc phòng McNamara, cũng tham gia phái đoàn này.

(http://www2.thanhnien.com.vn/Uploaded/ngocthanh/0000140408/P3/hinh2sandiegoedu.jpg)
Tướng Maxwell Taylor và Tổng thống Kennedy, tháng 5.1961 - Nguồn: history.sandiego.edu

Hai phái đoàn này đến Sài Gòn nhằm nghiên cứu triển khai "Chiến lược chiến tranh đặc biệt", lấy Việt Nam làm thí điểm chiến lược toàn cầu "Phản ứng linh hoạt" của Mỹ. Kết quả là kế hoạch Staley - Taylor ra đời.

Do thiết lập được các quan hệ từ trước và sau một thời gian làm nghề báo với những phân tích quân sự - chính trị sắc sảo, lại được đào tạo từ Mỹ, nên các chuyên gia Mỹ rất quan tâm đến Phạm Xuân Ẩn và coi ông là "người của Mỹ". Vì vậy, chính Staley đã nhiều lần gặp ông để tham khảo ý kiến của ông nhiều lần trong quá trình chuẩn bị kế hoạch nói trên. Trong quá trình trao đổi, thấy Phạm Xuân Ẩn có những kiến thức sâu sắc về quân sự, chính trị, kinh tế, tư duy đúng như tư duy của người Mỹ, nên Staley đã thuyết trình cho Phạm Xuân Ẩn nghe toàn bộ ý đồ, mục tiêu của kế hoạch trước khi nó trở thành chính thức, mục đích là thông qua Phạm Xuân Ẩn để biết phản ứng của giới cầm quyền Sài Gòn và qua đó Staley cũng muốn Phạm Xuân Ẩn có những bài viết trên Reuters theo "định hướng" thuận lợi cho việc triển khai kế hoạch này. Vì vậy mà ông đã biết được ý đồ của người Mỹ "ngay từ trong trứng nước" trước khi ông lấy được nguyên bản kế hoạch đó một cách dễ dàng...


Tiêu đề: Re: “Giải mã” Phạm Xuân Ẩn
Gửi bởi: TroiDanh trong 26 Tháng Tư, 2008, 07:49:00 am
Kỳ 8: Những điệp vụ cấp tập

Quả nhiên Vũ Quốc Thúc đã giao bản kế hoạch theo yêu cầu của bác sĩ Tuyến để "nghiên cứu và trình cố vấn Ngô Đình Nhu". Nhận được bản kế hoạch, bác sĩ Tuyến liền đưa cho Phạm Xuân Ẩn. Ngay lập tức, nguyên bản kế hoạch Staley-Taylor đã được chuyển về Tổng hành dinh của kháng chiến, trước khi nó được triển khai thực hiện.


Kế hoạch Staley - Taylor bao gồm 3 giải pháp chiến lược: 1- Tăng cường sức mạnh quân đội Sài Gòn do cố vấn Mỹ chỉ huy, sử dụng "trực thăng vận", "thiết giáp vận" để nhanh chóng tiêu diệt các lực lượng vũ trang cách mạng. 2- Xây dựng bộ máy chính quyền Sài Gòn mạnh, giữ vững thành thị, dập tắt phong trào cách mạng ở nông thôn bằng "bình định" và lập "ấp chiến lược". 3- Ngăn chặn biên giới, kiểm soát vùng ven biển, cắt đứt nguồn chi viện từ miền Bắc, cô lập cách mạng miền Nam. Kế hoạch được triển khai từ 1961 đến 1965 theo 3 giai đoạn. Giai đoạn 1, bình định miền Nam trong vòng 18 tháng tính từ giữa năm 1961 với hai biện pháp: tăng nhanh lực lượng và khả năng chiến đấu của quân đội Sài Gòn (theo công thức: Quân đội Sài Gòn + vũ khí trang bị Mỹ + cố vấn Mỹ); thực hiện cho được "quốc sách ấp chiến lược", dự kiến đưa 10 triệu dân vào 16 - 17.000 ấp chiến lược.  Giai đoạn 2, từ đầu năm 1963: khôi phục kinh tế, tăng cường lực lượng quân đội, hoàn thành công cuộc bình định. Giai đoạn 3, thực hiện từ đầu năm 1965: phát triển kinh tế, ổn định miền Nam và kết thúc chiến tranh.

Tham gia soạn thảo kế hoạch này, trong nhóm của Eugene Staley về phía Sài Gòn còn có Vũ Quốc Thúc. Tất nhiên trong quá trình trao đổi với tiến sĩ Eugene Staley và những chuyên gia khác của hai phái đoàn, trong đó có cả tướng Lansdale, Phạm Xuân Ẩn đã liên tục gửi các báo cáo phân tích những nội dung cơ bản về trên. Tuy nhiên, cấp trên cần có ngay "nguyên bản".

Kế hoạch Staley-Taylor được soạn thảo bí mật đến mức cho tới khi đã soạn thảo xong rồi mà ngay cả Trần Kim Tuyến cũng không biết. Phạm Xuân Ẩn hỏi bác sĩ Tuyến thì ông Tuyến nói chưa có văn bản. Ông Ẩn cho ông Tuyến biết Vũ Quốc Thúc có tham gia soạn thảo kế hoạch này và đề nghị ông Tuyến yêu cầu ông Thúc cung cấp văn bản. Ông Ẩn biết chắc rằng, nếu bác sĩ Tuyến có bản kế hoạch này thì ông ta sẽ đưa ngay cho ông để "đọc, dịch, tóm tắt nội dung và cho ý kiến". Quả nhiên Vũ Quốc Thúc đã giao bản kế hoạch theo yêu cầu của bác sĩ Tuyến để "nghiên cứu và trình cố vấn Ngô Đình Nhu". Nhận được bản kế hoạch, bác sĩ Tuyến liền đưa cho Phạm Xuân Ẩn. Ngay lập tức, nguyên bản kế hoạch Staley-Taylor đã được chuyển về Tổng hành dinh của kháng chiến, trước khi nó được triển khai thực hiện.

Để cụ thể hóa kế hoạch Staley - Taylor, Ngô Đình Nhu chỉ đạo xây dựng  "Kế hoạch Ấp chiến lược", đây thực chất là giải pháp chiến lược chống chiến tranh du kích. Tài liệu thảo xong ông Nhu giao cho Sở Nghiên cứu chính trị bổ sung, sau đó trình lại cho ông Nhu duyệt.  Duyệt xong, tài liệu này được chuyển lại sang Sở Nghiên cứu chính trị dịch ra tiếng Anh để trình cho người Mỹ.


(http://www2.thanhnien.com.vn/Uploaded/huynhthang/Nam_2008/Thu_tu/Thu_tu_107/3xfxdfjpa.jpg)
Một ấp chiến lược thời Ngô Đình Diệm - Nguồn: History.navy.mil

Bác sĩ Tuyến lại giao cho ông Ẩn dịch tài liệu này. Tất nhiên ông Ẩn chụp phim để báo cáo về trên trước khi dịch. Đây là tập tài liệu khá dày, lúc đó ông Ẩn được cấp trên giao điều tra một số tin tức cấp bách, nên ông phải nhờ Peter Roberts, người của cơ quan tình báo Anh (BIS) tham gia dịch cùng ông. Roberts với ông Ẩn có quan hệ thân tình, thường trao đổi tin tức. Roberts nhận lời dịch ngay, vì đây là tài liệu mà Tòa đại sứ Anh cũng cần theo dõi. Tuy biết tài liệu này để lộ ra ngoài là rất nguy hiểm cho ông, nhưng ông nghĩ rằng tình báo Anh không dại gì để mất nguồn tin nên không bao giờ họ để lộ. Bản dịch được giao cho bác sĩ Tuyến, chuyển cho ông Nhu giao cho người Mỹ. Người Mỹ đánh giá cao bản dịch. Và tiếp đó, ông Ẩn lại được giao dịch tiếp "Kế hoạch Ấp chiến đấu".

Vậy là ông lấy gọn luôn 2 tài liệu nữa gửi về cơ quan chỉ huy tình báo.

Quân đội Sài Gòn phát triển rất nhanh dưới kế hoạch này. Đến năm 1962, quân số tăng lên 354 ngàn, trong đó có 200 ngàn quân chủ lực được trang bị hiện đại, có 257 máy bay chiến đấu, 346 xe thiết giáp. Cố vấn Mỹ được tăng lên 2.630, ngoài ra còn có 8.280 lính Mỹ thuộc lực lượng đặc nhiệm.

Ngày 8.2.1962,  Bộ Tư lệnh quân sự Mỹ tại Việt Nam (MACV) được thành lập do đại tướng Paul Harkins làm Tư lệnh, thay cho phái đoàn MAAG. Như vậy là Mỹ sẽ trực tiếp nắm quyền chỉ huy chiến tranh, thông qua hai bộ phận chủ yếu là lực lượng yểm trợ và lực lượng cố vấn trong MACV.

Tham mưu trưởng của Harkins là tướng Richard Stillwell, một chuyên viên về tình báo quân sự. Một loạt các sĩ quan thân cận của Lansdale và là những người quen của Phạm Xuân Ẩn như Rufus Philips, Ogy Williams, Leonard Maynard và David Hudson giúp Harkin lập một cơ quan yểm trợ cho chương trình ấp chiến lược. Rufus Philips được chỉ định làm trưởng cơ quan này.

Sang Việt Nam, tướng Harkins tiếp tục bổ sung và hoàn chỉnh kế hoạch quân sự của Mỹ mà trước đó tướng Mc Garr đã triển khai thí điểm (kế hoạch chống nổi dậy). Năm 1962, một kế hoạch quân sự mới của Mỹ,  kế hoạch Harkins - Mc Garr, được đem ra áp dụng. Đây là kế hoạch quân sự tập trung lực lượng càn quét đánh phá mức độ ngày càng tăng, với chi viện hỏa lực mạnh, với chiến thuật trực thăng vận, thiết xa vận nhằm đối phó với các cuộc tấn công ngày càng mạnh của ta. Mục tiêu của kế hoạch quân sự này là nhanh chóng tiêu diệt lực lượng vũ trang còn non trẻ của ta để giành lại thế chủ động trên chiến trường, chiếm lại những vùng đã giải phóng.

Toàn bộ kế hoạch quân sự này của Mỹ cũng được ông Ẩn "lấy gọn".

Ngoài những kế hoạch quan trọng nói trên, cùng thời gian này Phạm Xuân Ẩn còn gửi về hàng loạt các báo cáo:

+ Tổ chức lực lượng của quân đội Sài Gòn tăng cường quân số theo kế hoạch của Mỹ
+ Vũ khí, trang bị mới
+ Chiến thuật "bủa lưới, phóng lao" (Net and Spear)
+ Chiến thuật "Diều hâu" (Eagle Flight)
+ Chiến thuật thiết vận xa M113...

Nhưng chưa hết, ông còn có những báo cáo dồn dập về các hoạt động tình báo của Mỹ, về mâu thuẫn giữa Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm, mâu thuẫn trong nội bộ chế độ Sài Gòn...



Tiêu đề: Re: “Giải mã” Phạm Xuân Ẩn
Gửi bởi: TroiDanh trong 26 Tháng Tư, 2008, 07:58:56 am
Kỳ 9: Tình huống nguy hiểm

Giữa lúc ông thực hiện các điệp vụ cấp tập thì xảy ra một sự cố. Tài liệu đầu tiên của Mỹ mà ông gửi về - tài liệu Mc Garr "Kỹ thuật và chiến thuật chống nổi dậy" - do sự thiếu cẩn trọng của cấp trên, nên cơ quan tuyên huấn miền đã trích in ra... phổ biến cho các tỉnh. Hậu quả là địch nhặt được tài liệu này trong một cuộc hành quân càn quét ở khu 9. Nó đã được báo cáo lên Trần Kim Tuyến. Bác sĩ Tuyến liền cho ông Ẩn biết việc này.


Phạm Xuân Ẩn là nhà tình báo duy nhất cung cấp đầy đủ toàn bộ tài liệu "Chiến lược chiến tranh đặc biệt" cùng các kế hoạch cụ thể triển khai chiến lược đó của Mỹ và của chính quyền Ngô Đình Diệm, mặc dù ông Ẩn thường nhắc chúng tôi "tình báo chiến lược ta có hàng trăm, tôi chỉ là một đầu mối". Ông không những cung cấp các tài liệu nguyên bản mà còn có nhiều báo cáo phân tích khi những kế hoạch đó "còn trong trứng nước" cũng như quá trình triển khai chúng. "Cấp trên cần cái gì, tôi cung cấp cái đó", ông nói.

Ông cũng báo cáo phân tích những mâu thuẫn giữa Mỹ với chính quyền Ngô Đình Diệm trên các lĩnh vực chính trị, quân sự, trong đó có những thông tin quan trọng: Cuối năm 1961, miền Tây bị lụt lớn, Taylor thừa cơ hội muốn đưa quân sang lấy cớ cứu lụt cho dân, nhưng Ngô Đình Diệm không đồng ý. Trước đó Mỹ định đưa cố vấn Mỹ đến cấp sư đoàn, trung đoàn nhưng Ngô Đình Diệm không chấp nhận... Nói chung là Ngô Đình Diệm không muốn Mỹ xen sâu vào nội bộ chế độ. Mâu thuẫn Mỹ - Diệm mỗi lúc một thêm gay gắt. Đó là nguyên nhân dẫn đến việc người Mỹ "thay ngựa giữa dòng".

Đối với tình báo Mỹ, Phạm Xuân Ẩn đã kịp thời báo cáo về trên những tin tức quan trọng: hoạt động của CIA núp trong các tổ chức (mới thành lập và đang hoạt động); hoạt động của biệt kích CIA thả ra miền Bắc; việc thả biệt kích của hãng "Flying Tiger" ("Cọp bay"); hoạt động của lực lượng đặc biệt "Mũ nồi xanh" ở Tây Nguyên... Trong khi đó, CIA hầu như không nắm được gì hoặc, như sau này chính CIA thừa nhận, họ "nắm không chính xác" về lực lượng và hoạt động của Quân Giải phóng.

Từ năm 1961, kết hợp với đấu tranh chính trị được triển khai rộng khắp, các lực lượng vũ trang của ta đã lớn mạnh nhanh chóng, bao gồm bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích để đối phó với "Chiến tranh đặc biệt".
 
Trong khi vùng giải phóng liên tiếp được mở rộng, ấp chiến lược bị phá hủy hàng loạt thì đến giữa năm 1962 tướng Harkins báo cáo với Bộ Quốc phòng Mỹ: "Quân Nam Việt Nam đang đẩy lùi Việt Cộng và mở rộng vành đai kiểm soát ở nông thôn... Không nghi ngờ gì nữa, chúng ta đang ở thế chiến thắng". "Trên đà thắng lợi" đó, Mỹ tăng gấp đôi viện trợ quân sự, từ 321,7 triệu USD tài khóa 1961-1962 lên 675 triệu USD tài khóa 1962-1963. Dưới sự chỉ huy của các cố vấn Mỹ, tính đến năm 1962 quân đội Diệm đã tiến hành 4.000 cuộc hành quân càn quét tấn công vào vùng giải phóng.

Quân Giải phóng đã đáp trả. Trận Ấp Bắc (diễn ra ngày 2.1.1963 tại Ấp Bắc, xã Tân Phú Trung, huyện Cai Lậy, Tiền Giang) là trận mở đầu đánh bại hai chiến thuật chủ yếu "trực thăng vận" và "thiết xa vận" của đối phương, được báo chí thế giới miêu tả kỹ lưỡng cho thấy Quân Giải phóng không còn là nhóm nhỏ bất lực trước "trực thăng vận" và "thiết xa vận" nữa, mà đã lớn mạnh "đủ để đánh bại quân cơ động của đối phương". Phong trào "thi đua với Ấp Bắc" được phát động, quân và dân miền Nam đã tấn công và nổi dậy, phá gần 3.000 trong số hơn 6.000 ấp chiến lược. "Chiến lược chiến tranh đặc biệt" cuối cùng bị phá sản, đánh dấu bằng trận Bình Giã (Bà Rịa, tháng 12-1964), tại đây lần đầu tiên bộ đội chủ lực Quân Giải phóng mở chiến dịch tấn công cấp trung đoàn và cấp tiểu đoàn, tiêu diệt 2 tiểu đoàn chủ lực, 1 tiểu đoàn thiết giáp, bắn rơi và bắn hỏng 35 máy bay trực thăng.

(http://www2.thanhnien.com.vn/Uploaded/ngocthanh/0000170408/P3/p3b.jpg)
Máy bay Mỹ bị bắn hỏng trong trận Ấp Bắc, năm 1963 - Nguồn: wikipedia

Như chúng tôi đã đề cập trong loạt bài trước, phóng viên Hãng tin Anh Reuters Phạm Xuân Ẩn đã đến "thị sát chiến quả" trận Ấp Bắc, bằng máy bay trực thăng Mỹ. Trận đó ông được thưởng Huân chương Chiến công.

Trong chiến tranh thế giới thứ hai, một cái tin "Nhật không mở mặt trận phía đông" do nhà tình báo vĩ đại Richard Sorge báo về, chỉ với một cái tin đó thôi cũng đã làm cho cục diện chiến tranh thay đổi, vì Hồng quân Liên Xô không cần phải để lại quân đối phó với Nhật, do đó mấy chục sư đoàn phía đông đã được điều về mặt trận chống Đức. Bởi vậy mà các nhà nghiên cứu cho rằng cái tin đó của Sorge có giá trị bằng mấy chục sư đoàn. Ngày nay chúng ta đã biết những thông tin của Phạm Xuân Ẩn khiến cho các nhà lãnh đạo kháng chiến không chỉ biết kế hoạch này kế hoạch kia của Mỹ mà biết rõ Mỹ "như ngồi giữa tổng hành dinh của Mỹ". Và chúng tôi nghĩ, các nhà nghiên cứu lịch sử quân sự rồi sẽ định lượng giá trị chiến lược của những thông tin đó, không phải chỉ để vinh danh ngành tình báo và vinh danh ông Ẩn, mà quan trọng hơn, để bổ sung vào lý luận quân sự, làm dày thêm bài học giữ nước...

Trở lại chuyện của 1961. Giữa lúc Phạm Xuân Ẩn thực hiện các điệp vụ cấp tập thì xảy ra một sự cố. Tài liệu đầu tiên của Mỹ mà ông gửi về - tài liệu Mc Garr "Kỹ thuật và chiến thuật chống nổi dậy" - do sự thiếu cẩn trọng của cấp trên, nên cơ quan tuyên huấn miền đã trích in ra... phổ biến cho các tỉnh. Hậu quả là địch nhặt được tài liệu này trong một cuộc hành quân càn quét ở khu 9. Nó đã được báo cáo lên Trần Kim Tuyến. Bác sĩ Tuyến liền cho ông Ẩn biết việc này.

Phạm Xuân Ẩn báo ngay về trên. Để bảo đảm an toàn cho ông, cấp trên chỉ thị cho ông tạm ngưng hoạt động. Mọi liên lạc cũng tạm ngưng để theo dõi.

Sự cố này quá nguy hiểm. Từ tài liệu này đối phương có thể khoanh vùng, điều tra và cuối cùng có thể lần ra ông, bởi những người tiếp cận nó là không nhiều. Vấn đề là làm sao có thể biết đối phương có lần ra được ông hay không, làm sao biết đối phương nghi ngờ cho ai. Nếu có dấu hiệu lộ thì đương nhiên ông phải chạy về căn cứ. Phức tạp nhất là không biết có bị lộ hay không. Tự ông phải điều tra việc này.

Trước hết tại cơ quan mật vụ Phủ Tổng thống. Những người thân tín của Trần Kim Tuyến ở đây đều quen thân với ông, ông khéo léo thăm dò coi họ nghi ngờ những đối tượng nào. Không thấy biểu hiện nghi ngờ gì hết, càng không có chút biểu hiện nghi ngờ đối với bản thân ông. Họ chỉ muốn "xóa vết tích" để khỏi lôi thôi, khỏi phải chịu trách nhiệm.

Ông thăm dò những người quen ở cơ quan an ninh quân đội. Tại đây họ "hoàn toàn không biết gì".

Thăm dò phía tình báo Mỹ. Không thấy có gì nguy hiểm. Qua một người quen là ông Đặng Đức Khôi, làm cho CIA, ông được biết CIA kết luận đây là tài liệu "ngụy tạo" nhằm gây chia rẽ trong nội bộ, họ không coi đây là tài liệu của Việt Cộng. Để xác minh cho chắc, ông hỏi thẳng Trần Kim Tuyến và Lê Văn Thái. Cả hai người này đều trả lời tương tự. Thế là yên tâm.

Khi đã biết chắc là đối phương không có chút nghi ngờ đến mình, Phạm Xuân Ẩn báo cáo về trên, xin tiếp tục hoạt động, tiếp tục liên lạc lại bình thường. Cấp trên đồng ý.

Cơ quan chỉ huy tình báo đã rút kinh nghiệm nghiêm khắc về sự cố này. Chỉ một sơ suất về nguyên tắc sử dụng tài liệu cũng có thể dẫn đến hậu quả khôn lường. Nếu Phạm Xuân Ẩn không có mối quan hệ sâu với hệ thống phản gián của đối phương để tự mình điều tra thì việc quyết định cho ông tiếp tục hoạt động bình thường trở lại là không dễ dàng đối với cấp trên. Ông thoát hiểm không phải là do may mắn. Ông thoát hiểm là do ông chuyên nghiệp. Ông phải tự kiểm tra sự an toàn của bản thân...


Tiêu đề: Re: “Giải mã” Phạm Xuân Ẩn
Gửi bởi: TroiDanh trong 26 Tháng Tư, 2008, 08:50:03 am
Kỳ 10: Bản lĩnh trước biến cố

"Thời gian này công việc của tôi rất căng thẳng. Một mặt phải ứng phó khôn khéo trước các biến cố phức tạp. Mặt khác cấp trên cần tin tức gấp rút, các chuyến liên lạc dày lên. Mặt khác nữa là đòi hỏi của Reuters rất cao, tin tức phải đánh đi liên tục", ông Ẩn nói.


Cần biết, anh em Ngô Đình Diệm - Ngô Đình Nhu trước những năm 1960 đã "ngoan cố" không chịu để Mỹ đưa cố vấn đến cấp sư đoàn, trung đoàn, nhưng do "sự lớn mạnh của cộng sản miền Nam", nên họ đã "thay đổi lập trường" không những chấp nhận Mỹ đưa cố vấn xuống sâu trong quân đội mà còn tuyên bố "cần có sự giúp đỡ của quân đội Hoa Kỳ". Tuy nhiên, họ đã bằng mặt mà không bằng lòng.

Trong khi ngoài chiến trường bị thất bại liên tiếp, trên chính trường thì siết chặt chế độ độc tài gia đình trị. Sau cuộc đảo chính hụt năm 1960, các phe phái đối lập bị khủng bố. Phong trào đấu tranh của nhân dân nổi lên khắp nơi. Phật giáo bị đàn áp nên nổ ra đấu tranh mà đỉnh cao là vụ tự thiêu của Hòa thượng Thích Quảng Đức (11.6.1963).

Để đẩy mạnh "Chiến tranh đặc biệt", người Mỹ muốn tăng quân tham chiến và thọc sâu bàn tay điều khiển chế độ, nhưng vấp phải sự phản đối của Ngô Đình Nhu. Ngô Đình Nhu rất khó chịu với đám cố vấn Mỹ và không muốn quân Mỹ tham chiến. Bực tức với thái độ của Ngô Đình Nhu và thấy việc triển khai các kế hoạch của "Chiến tranh đặc biệt" có nguy cơ biến thành công cốc, tháng 6.1963, Henry Cabot Lodge được chính phủ Mỹ cử sang làm đại sứ thay cho Frederick Nolting, với "sứ mệnh" gây áp lực để Ngô Đình Diệm chấp nhận cho Mỹ tăng quân tham chiến và loại bỏ Ngô Đình Nhu, nếu ông Diệm không chấp nhận thì loại bỏ luôn Ngô Đình Diệm. Tình hình nội bộ chế độ Sài Gòn rối như canh hẹ.

Phạm Xuân Ẩn đã có nhiều báo cáo phân tích tình hình chính trị ở Sài Gòn. Qua các nguồn tin, ông cho cấp trên biết có nhiều nhóm âm mưu đảo chính: Nhóm thứ nhất do Trần Kim Tuyến, Trần Thiện Khiêm, Phạm Ngọc Thảo (là cán bộ tình báo của ta, dĩ nhiên lúc này ông Ẩn không thể biết) và Đỗ Mậu. Nhóm thứ hai do Trần Văn Đôn, Dương Văn Minh, Mai Hữu Xuân, Lê Văn Kim và Phạm Văn Đổng cầm đầu. Nhóm thứ ba của Đại Việt do Nguyễn Tôn Hoàng, Chung Tấn Cang, Phan Huy Quát cầm đầu và nhiều nhóm nhỏ khác. Tất cả các nhóm đều có tay chân của CIA cài vào và đều liên hệ với phong trào Phật giáo miền Trung.

Về âm mưu của Trần Kim Tuyến, điều kỳ lạ là có liên quan đến hai nhà tình báo "Việt cộng". Đó là Phạm Ngọc Thảo và Đặng Trần Đức (Ba Quốc). Bác sĩ Tuyến bàn trực tiếp với ông Phạm Ngọc Thảo (lúc này đã được thăng quân hàm đại tá)  lợi dụng một số tướng lãnh đang có âm mưu đảo chính để lên một kế hoạch tiến hành một cuộc đảo chính "hòa bình", nghĩa là vừa giữ được mạng sống anh em ông Diệm vừa "cải sửa" chế độ, thoát khỏi sự lệ thuộc của người Mỹ.  Sau này ông Ba Quốc xác nhận với chúng tôi rằng, là người cầm đầu cơ quan mật vụ Phủ Tổng thống và có công lớn trong việc củng cố chính quyền Ngô Đình Diệm nhưng Trần Kim Tuyến bị Ngô Đình Cẩn tìm cách loại bỏ, cho nên bác sĩ Tuyến bắt đầu chán ghét gia đình họ Ngô. "Bác sĩ Tuyến không giấu tôi quan điểm chính trị của ông ta. Ông ta không tán thành chế độ gia đình trị và cho rằng Ngô Đình Nhu phạm nhiều sai lầm, đàn áp Phật giáo, không được lòng dân. Ông ta giao cho tôi liên lạc với các lãnh tụ Phật giáo để phát động phong trào chống Diệm-Nhu và lên kế hoạch hoạt động lật đổ. Nhưng kế hoạch bị lộ, bác sĩ Tuyến bị chuyển đi làm đại sứ ở Le Caire (Ai Cập)", ông Ba Quốc nói.

(http://www2.thanhnien.com.vn/Uploaded/huynhthang/Nam_2008/Thu_bay/Thu_bay_110/3mhfgpa.jpg)
Ngô Đình Diệm quay lưng với                  Ngô Đình Nhu - Ảnh tư liệu
Đại sứ Henry Cabot Lodge
(10.1963) - Ảnh tư liệu

Là người thân với bác sĩ Tuyến, nhưng tất nhiên Phạm Xuân Ẩn không tham gia vào các âm mưu này. Phạm Ngọc Thảo và Đặng Trần Đức là các nhà tình báo "hành động", còn nhiệm vụ của ông Ẩn thì khác.

Ông phải giữ được thế đứng lâu dài của mình trong bất kỳ tình huống nào, bất kỳ ai lên cầm quyền. Nhưng trong bối cảnh "rối như canh hẹ" này, ông Ẩn đứng trước một tình thế quá phức tạp. Nếu đảo chính xảy ra, những người cũ bị loại bỏ thì ông mất các "nguồn tin" quan trọng, nhưng lúc này ông không thể "quay lưng" lại với họ, vì như vậy không những mất "nguồn tin" mà bản chất con người tình nghĩa của ông cũng không cho phép ông làm điều đó. Đối với những người mới, trong cuộc chơi này ông chưa biết ai thắng ai thua. Bởi vậy ông chơi thân với tất cả và giữ ý không để phe này nghĩ ông là người của phe kia, ông giữ vững "bình phong" Reuters để chứng minh cho các phe phái rằng ông chỉ là một nhà báo. "Thời gian này công việc của tôi rất căng thẳng. Một mặt phải ứng phó khôn khéo trước các biến cố phức tạp. Mặt khác cấp trên cần tin tức gấp rút, các chuyến liên lạc dày lên. Mặt khác nữa là đòi hỏi của Reuters rất cao, tin tức phải đánh đi liên tục", ông nói với chúng tôi.

Nhưng đây cũng là thời cơ để mở rộng quan hệ, vì phe phái nào cũng cần Reuters nói tốt về họ. Do đứng ở "trung tâm thời cuộc", tiếp cận được rất nhiều nguồn tin đa dạng, phong phú, lại là người phân tích sắc sảo, nên các tướng lĩnh, chính khách đã hướng về ông, để qua ông mà họ nhận định tình hình, mà thay đổi thái độ, mà củng cố địa vị. Ông đã khôn ngoan "chia cắt" các quan hệ, để nhóm này không biết ông "tư vấn" cho nhóm kia. Thời điểm này báo chí nước ngoài bắt đầu tập trung rất đông ở Sài Gòn, Phạm Xuân Ẩn cũng trở thành "nguồn tin" của họ. CIA cài người dày đặc, các loại tình báo quốc tế cũng hút vào đây. Ông Ẩn không chỉ mở rộng quan hệ với CIA để tăng thêm nguồn tin mà còn quan hệ với tình báo Anh, Tây Đức, Phòng nhì Pháp và tùy viên của nhiều sứ quán nước ngoài tại Sài Gòn... Những quan hệ đó ông đều báo cáo về trên.

Tình hình khủng hoảng chính trị ở Sài Gòn và mâu thuẫn giữa Mỹ với anh em Ngô Đình Diệm ông đều “nắm chắc chắn và báo cáo đầy đủ về trên”. Qua ông Ẩn và các lưới tình báo khác lúc này đã phát huy hiệu lực, Tổng hành dinh kháng chiến ở Hà Nội và miền biết rõ việc Mỹ chuẩn bị "thay ngựa giữa dòng", do đó đã điều chỉnh chiến lược, chiến thuật ứng phó. Riêng thời điểm diễn ra cuộc đảo chính 1.11.1963 dẫn đến cái chết của Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu, ông biết trước 1 ngày, nhưng do lệch với thời gian liên lạc nên đã không báo cáo kịp về trên.

Như vậy là Phạm Xuân Ẩn đã thể hiện xuất sắc bản lĩnh và tính chuyên nghiệp của một nhà tình báo chiến lược tại một trong những thời điểm phức tạp nhất. Tuy nhiên, ai đó trong Phủ Tổng thống đã phát hiện Phạm Xuân Ẩn đã có những động thái bất lợi cho chế độ Ngô Đình Diệm. Sau khi Ngô Đình Diệm bị lật đổ, ký giả tạp chí TIME Merton Perry (sau này làm cho Newsweek) nói với ông: "Nếu cuộc đảo chính không xảy ra thì có lẽ anh đã bị mất việc ở Reuters rồi". Perry cho ông Ẩn biết ông ta đã nhìn thấy một công văn trong dinh Tổng thống ra lệnh cho cố vấn chính trị Tòa Đại sứ chính quyền Sài Gòn ở Anh vận động chủ hãng Reuters rút nhà báo Nick Turner, trưởng đại diện Reuters tại Sài Gòn, về nước, vì "Reuters ở Sài Gòn cung cấp thông tin đồn đại không xác thực". Mà Reuters thì thừa biết tất cả tin tức đó đều từ Phạm Xuân Ẩn. Do đảo chính xảy ra nên Reuters đã bỏ qua việc này...


Tiêu đề: Re: “Giải mã” Phạm Xuân Ẩn
Gửi bởi: TroiDanh trong 28 Tháng Tư, 2008, 02:22:05 pm
Kỳ 11: Tin tức tối quan trọng

Đến đầu tháng 3.1964, Johnson thông qua một kế hoạch quân sự mới - kế hoạch McNamara - Taylor với các nội dung chính: Tăng cường sự chỉ huy trực tiếp của các cố vấn Mỹ, tăng viện trợ quân sự và tăng quân số quân đội Sài Gòn; đẩy mạnh các chiến dịch bình định nông thôn, đặc biệt là các khu vực quanh Sài Gòn; dùng không quân đánh phá miền Bắc và Lào, buộc miền Bắc phải ngưng tăng viện cho "Việt cộng".


Sau khi Ngô Đình Diệm bị lật đổ, cả ba nhà tình báo "Việt cộng" gắn với bác sĩ Trần Kim Tuyến đều an toàn. Ông Phạm Ngọc Thảo bắt đầu lao vào những cơn bão táp khuynh đảo chính trường. Ông Ba Quốc được "đưa vào máy kiểm tra nói dối" trước khi chuyển sang làm ở Đặc ủy Trung ương tình báo. Còn Phạm Xuân Ẩn thì tiếp tục phát huy các lợi thế chiến lược...

Anh em Ngô Đình Diệm chết, nhóm tướng lĩnh Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn, Mai Hữu Xuân, Lê Văn Kim... được người Mỹ ủng hộ, lên cầm quyền. Một số sĩ quan từ Pháp cũng lần lượt về giữ các vị trí trong quân đội, trong đó có những người quen cũ của Phạm Xuân Ẩn như Nguyễn Huy Lợi, Nguyễn Chánh Thi... và có cả ông Phạm Xuân Giai, người anh họ của Phạm Xuân Ẩn.

Những người mới lên cầm quyền rất cần "sự hợp tác" của các hãng thông tấn, báo chí nước ngoài. Do đó ông Ẩn được họ ân cần săn đón. Một loạt các quan hệ "nguồn tin" mới được thiết lập, qua những người như Phạm Văn Đổng (là sĩ quan được người Mỹ tín nhiệm), Nguyễn Huy Lợi (là "cánh tay mặt" của tướng Nguyễn Văn Vỹ ở Bộ Tổng tham mưu), Nguyễn Bé (tham mưu trưởng lực lượng đặc biệt), Nguyễn Chánh Thi... Song ông Ẩn không quên duy trì các quan hệ cũ, với những người có vai vế thời Ngô Đình Diệm nay đã bị thất thế, như nhóm đàn em của bác sĩ Tuyến. Điều đó không đơn giản là ông "tính chiến lược" lâu dài vì có thể sau này họ sẽ trở lại cầm quyền, mà còn vì tình nghĩa bạn bè. Bạn bè cũ của họ ai cũng "sợ liên lụy" không dám đến gần, còn ông thì không ngại, ông vẫn thăm viếng bình thường, ông an ủi và làm những gì có thể làm được để giúp đỡ họ, bởi vậy ai cũng yêu mến nể phục ông.

Về phía Mỹ, thông qua các mối quan hệ đặc biệt, ông kết thân thêm với Robert Shaplen, một nhà báo Mỹ (làm cho tờ NewYorker) nổi tiếng và có thế lực. Ông cũng quen với Lucian Conein, trùm CIA ở Sài Gòn. Shaplen và Conein là hai bạn thân và hai người đều trở thành bạn thân của ông Ẩn. Conein từng đóng vai trò liên lạc giữa CIA và các tướng lĩnh Sài Gòn, và thông qua Conein, các tướng này nhận được sự đồng ý ngầm của Mỹ khi họ lên kế hoạch đảo chính Ngô Đình Diệm ngày 1.11.1963. Conein "lừng danh" đến mức Stanley Karnow, tác giả cuốn sách Vietnam - a History từng dành 70 tiếng đồng hồ phỏng vấn với dự định viết tiểu sử, là người được Karnow nhận xét là "một người lính đánh thuê đầy chất giang hồ hảo hán, một nhân vật chỉ chết trong tiểu thuyết". Còn Robert Shaplen, theo đánh giá của New York Times, "là một tượng đài của báo chí Mỹ". Ông có mặt khắp nơi, từ những chiến trường trong chiến tranh thế giới thứ hai, từ Triều Tiên, Việt Nam đến những khu rừng già ở Lào, Campuchia, đến những khu phố đông người ở Hồng Kông, Singapore... Đối với các phóng viên trẻ, "việc đến thăm Robert Shaplen được xem như bắt buộc trước khi đến châu Á". Trong thời gian chiến tranh Việt Nam, ngòi bút của ông ôn hòa, ít chỉ trích chính quyền Mỹ so với các đồng nghiệp, mặc dù rốt cuộc ông cũng phê phán gay gắt cuộc chiến do người Mỹ gây ra.

 
(http://www2.thanhnien.com.vn/Uploaded/tuanthanh/0804/19/080419p03aa2.jpg)
Lính Mỹ tham chiến tại VN được máy bay trực thăng sơ tán khỏi một vị trí quân sự năm 1965 - Ảnh: AFP
 

Giới thiệu đôi dòng như vậy để thấy mối quan hệ của ông Ẩn với hai nhân vật này không chỉ quan trọng về tin tức mà thông qua hai người này, ông có thể mở rộng và thắt chặt quan hệ sâu rộng với rất nhiều người trong giới chức Mỹ cũng như giới cầm quyền mới ở Sài Gòn.

Thời gian sau đảo chính, cấp trên chỉ thị cho ông đi sâu vào các kế hoạch quân sự, kế hoạch ấp chiến lược và tình hình biến động chính trị nội bộ giữa Mỹ và giới cầm quyền mới ở Sài Gòn.

Nhóm tướng lĩnh cầm quyền mới chưa làm được gì mà nội bộ lủng củng triền miên. Không bao lâu sau, vào cuối tháng 1.1964, nhóm tướng lĩnh do Nguyễn Khánh và Trần Thiện Khiêm đứng đầu đã đảo chính lật đổ Dương Văn Minh (gọi là "Chỉnh lý I"), Nguyễn Khánh lên làm Thủ tướng kiêm Tổng tư lệnh quân đội. Tiếp đó, ngày 27.8.1964, Nguyễn Khánh và Trần Thiện Khiêm tiến hành cuộc "Chỉnh lý II", lập "tam đầu chế" với Dương Văn Minh làm Quốc trưởng, Nguyễn Khánh làm Thủ tướng, Trần Thiện Khiêm làm Tổng trưởng Quốc phòng. (Phạm Ngọc Thảo lúc đó cũng được Nguyễn Khánh tin cậy kéo vào làm Giám đốc báo chí Phủ Thủ tướng).

Phạm Xuân Ẩn tận dụng các quan hệ rất khôn khéo gián tiếp chứng minh cho Nguyễn Khánh thấy mình chỉ là một ký giả chứ không làm chính trị. Và đặc biệt thông qua Conein và các đàn em của ông ta để thiết lập thế đứng của mình trong quan hệ với nhóm Nguyễn Khánh.

Trong khi đó, cũng vào tháng 1.1964, Tổng thống Mỹ Johnson cử tướng William C.Westmoreland sang miền Nam thay Harkins làm Tư lệnh MACV. Trước đó, vào giữa tháng 12.1963, Johnson đã cử McNamara và Taylor sang Sài Gòn để khảo sát tình hình thực tế, với một kết quả bi quan rằng các tướng lĩnh mới lên cầm quyền "chỉ muốn làm chính trị ở Sài Gòn hơn là tham gia các chiến dịch trên chiến trường". Đến đầu tháng 3.1964, Johnson thông qua một kế hoạch quân sự mới - kế hoạch McNamara - Taylor với các nội dung chính: Tăng cường sự chỉ huy trực

tiếp của các cố vấn Mỹ, tăng viện trợ quân sự và tăng quân số quân đội Sài Gòn; đẩy mạnh các chiến dịch bình định nông thôn, đặc biệt là các khu vực quanh Sài Gòn; dùng không quân đánh phá miền Bắc và Lào, buộc miền Bắc phải ngưng tăng viện cho "Việt cộng". Tháng 7.1964, Cabot Lodge bị triệu hồi về nước, đại tướng Maxwell Taylor, Tổng tham mưu trưởng liên quân được cử sang làm Đại sứ ở Sài Gòn.

Trên chiến trường, Quân giải phóng đang tấn công tới tấp. Câu hỏi cấp bách mà cấp trên đặt ra với Phạm Xuân Ẩn lúc bấy giờ là: "Mỹ có đem quân sang cứu nguy cho chế độ Sài Gòn hay không?".

Tình hình của đối phương ông Ẩn nắm hết. Ông báo cáo nội dung kế hoạch McNamara - Taylor, những ý đồ của Mỹ và nguyên bản các tài liệu quan trọng:

+ Chương trình biệt chính.
+ Kế hoạch bổ sung xây dựng biệt kích dù.
+ Kế hoạch tình báo dân ý vụ.
+ Chương trình bình định vùng ven Sài Gòn và vùng xung yếu (PICA).
+ Kế hoạch quân sự mùa khô 1964-1965 mang tên "Anh dũng 8" (AD8)...

Tin tức tối quan trọng mà ông Ẩn báo về trên là: Mỹ sẽ đem quân sang Việt Nam...



Tiêu đề: Re: “Giải mã” Phạm Xuân Ẩn
Gửi bởi: TroiDanh trong 28 Tháng Tư, 2008, 02:23:52 pm
Kỳ 12: Trở thành nhà báo Mỹ

Yêu cầu khẩn thiết của cấp trên lúc này là: Phải nắm được ý đồ mở rộng chiến tranh, các biện pháp chiến lược, các kế hoạch quân sự của Mỹ trong từng thời gian, trên các chiến trường Việt Nam và Đông Dương... Và Phạm Xuân Ẩn đã gửi về nguyên bản Kế hoạch quân sự của Mỹ do tướng Westmoreland ký, tiếp đó là nguyên bản Kế hoạch bình định mới mang tên Kế hoạch "Ấp tân sinh"...


Trong những tài liệu nguyên bản gửi về thời điểm này, hầu hết là do Phạm Xuân Ẩn tự lấy thông qua giới chức cao cấp Mỹ và những người cầm quyền mới. Riêng tài liệu AD8, do em ruột ông Ẩn lấy giúp. Người em của Phạm Xuân Ẩn làm việc tại Văn phòng của Hoàng Xuân Lãm, sư trưởng Sư đoàn 2 đóng ở Kontum, nhân lúc trực đêm thấy tài liệu này, biết là anh mình rất cần giao cho cách mạng, nên đã chép nguyên văn rồi mang về Sài Gòn giao cho Phạm Xuân Ẩn.

 "Không báo cáo theo khẩu vị cấp trên", là nhận xét của thiếu tướng Nguyễn Đức Trí (Sáu Trí) nguyên Thủ trưởng cơ quan tình báo miền về Phạm Xuân Ẩn mà chúng tôi đã đề cập trong loạt bài trước đây. Thời kỳ này (1964) trên chiến trường, Quân giải phóng phát triển ngày càng mạnh sau chiến thắng Ấp Bắc. Địch ngày nào cũng mất một vài đồn bót, tuần nào cũng mất một quận lỵ hoặc ít nhất 1 tiểu đoàn bị loại khỏi vòng chiến đấu. Ở Sài Gòn, các cuộc biểu tình diễn ra rầm rộ. Theo ông Sáu Trí, do đà thắng lợi trên chiến trường, nên việc chỉ đạo công tác tình báo hồi đó có khuynh hướng nhấn mạnh đến việc Mỹ thua, nhưng Phạm Xuân Ẩn trong các báo cáo của mình, đã thẳng thắn nói rằng ông không thấy dấu hiệu gì là Mỹ chịu thua cả.

Ông khẳng định dứt khoát trong báo cáo gửi về cấp trên: Mỹ sẽ đưa quân sang. Thông tin này ông đã lấy được từ Rufus Philips và các sĩ quan CIA trong Bộ Chỉ huy MACV, có phối kiểm qua các nguồn tin cao cấp khác của Bộ Tổng Tham mưu quân đội Sài Sòn. Thông tin này ban đầu cũng có người chưa tin, nhưng những tài liệu tiếp theo ông gửi về đã chứng minh chắc chắn.

Nội bộ chính quyền Sài Gòn lúc này hết sức lủng củng, giới cầm quyền bị thay đổi xoành xoạch. Sau hai cuộc "Chỉnh lý" của Nguyễn Khánh, ngày 13.9.1964, tướng Dương Văn Đức tiến hành đảo chính lật đổ Nguyễn Khánh nhưng thất bại, tạo thêm cơ hội cho Nguyễn Khánh thâu tóm luôn 3 ghế quyền lực cao nhất: Chủ tịch Hội đồng quân lực, Thủ tướng Chính phủ và Tổng trưởng Quốc phòng.

 
(http://www2.thanhnien.com.vn/Uploaded/ngocthanh/0000210408/P3/PXA2.jpg)
Thẻ hoạt động báo chí của Phạm Xuân Ẩn do Bộ Chỉ huy Quân sự Mỹ (MACV) cấp



Nhưng do sức ép của người Mỹ, ngày 1.11.1964, Nguyễn Khánh buộc phải thành lập chính phủ dân sự do Trần Văn Hương làm Thủ tướng, Phan Khắc Sửu làm Quốc trưởng.

Tiếp đó, ngày 19.2.1965, thiếu tướng Lâm Văn Phát và đại tá Phạm Ngọc Thảo tiến hành đảo chính nhưng không thành công. Các tướng Nguyễn Chánh Thi, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ chống lại đảo chính. Sự thất bại của cuộc đảo chính này đã đưa trung tướng Nguyễn Văn Thiệu nắm chức Chủ tịch Hội đồng quân lực và đưa bác sĩ Phan Huy Quát lên làm Thủ tướng thay Trần Văn Hương...

Sở dĩ các cuộc đảo chính, các biến cố xảy ra triền miên và tất cả các biến cố đó đều có bàn tay của CIA, là do người Mỹ vẫn chưa chọn được một nhân vật có thể "bình ổn" được chính trường để thực hiện các kế hoạch của Mỹ. Về phía ta, các điệp viên (như Phạm Ngọc Thảo) được chỉ thị tham gia khoấy động chính trường nhằm làm suy yếu cơ quan đầu não chính quyền Sài Gòn để hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh chính trị của nhân dân, tạo thế tấn công cho Quân Giải phóng trên chiến trường. Nói về sự biến động hồi đó, ông Ẩn bảo nếu người Mỹ không muốn thì không có cuộc đảo chính nào diễn ra được, bằng chứng là sau này khi đã "chọn được Nguyễn Văn Thiệu" thì tất cả các cuộc đảo chính đều bị "bóp chết trong trứng nước".

Rút kinh nghiệm những biến cố xảy ra dồn dập, Phạm Xuân Ẩn thấy rằng nếu đi sâu vào một phe nhóm nào đều hết sức nguy hiểm, mặc dù ông có "bình phong" khá an toàn. Đồng thời ông cũng nhận thấy rằng, khi Mỹ đưa quân xâm lược vào thì "bình phong" Reuters của ông sẽ không còn thích hợp, vì lúc đó thế lực của truyền thông Mỹ sẽ mạnh áp đảo. Nếu ông làm báo Mỹ thì điều kiện tiếp cận với các tướng lĩnh Mỹ cũng như với giới cầm quyền Sài Gòn sẽ tốt hơn, không chỉ đối với tin tức mà cả với việc mở rộng quan hệ. Vì vậy, ông chuyển sang làm phóng viên cho nhật báo The NewYork Herald Tribune, cùng với một đồng nghiệp người Mỹ - nữ ký giả Bervely Deepe.

Vừa nhận việc với tờ The NewYork Herald Tribune thì Giám đốc Quỹ Á châu Thomas Howard thuyết phục ông Ẩn về làm phụ tá cho ông ta. Ông Thomas Howard nói với Phạm Xuân Ẩn rằng cơ quan này đang mở rộng phạm vi hoạt động và rất cần một người cộng sự tin cậy như ông Ẩn. Ông Ẩn biết cơ quan này được CIA yểm trợ, nên hẹn sẽ nghiên cứu rồi trả lời. Mấy hôm sau, Howard mời ông đi ăn để thảo luận, nhưng trước giờ hẹn, ông ta đã bị thương nặng do một cuộc đánh bom của đặc công ta vào Sài Gòn, cuộc đánh bom đó được coi là "món quà dành cho Westmoreland" mới sang nhậm chức chỉ huy quân đội Mỹ.

Trở thành một nhà báo Mỹ, hoạt động của Phạm Xuân Ẩn thuận lợi hơn nhiều so với trước, nhất là trong quan hệ đối với những người cầm quyền mới đang bị "thay đổi xoành xoạch". Chẳng hạn như đối với Nguyễn Khánh. Khi còn làm Chủ tịch Hội đồng quân lực, Nguyễn Khánh "rất tín nhiệm" ký giả Bervely Deepe, do đó cũng tín nhiệm ông Ẩn. Ông Ẩn bảo những bài viết của nữ ký giả này là "rất chính xác" nên có ảnh hưởng trong dư luận Mỹ, được Quốc hội Mỹ quan tâm. Nguyễn Khánh coi trọng bà vì ông ta cần tiếng nói của báo chí Mỹ bênh vực quan điểm của ông ta đối phó lại tướng Maxwell Taylor. Khi cần, Nguyễn Khánh đích thân gặp bà Deepe hoặc sai Phạm Quang Tước, người chỉ huy tình báo đến gặp bà Deepe hoặc ông Ẩn để cung cấp tin tức.

Sau khi dựng lên "sự kiện Vịnh Bắc Bộ", ngày 7.8.1964, Quốc hội Mỹ thông qua Nghị quyết cho phép chính quyền Johnson leo thang chiến tranh, ném bom miền Bắc. Và ngày 8.3.1965, 2 tiểu đoàn của Lữ đoàn viễn chinh thủy quân lục chiến số 9 của Mỹ đổ bộ vào Đà Nẵng, mở đầu việc Mỹ trực tiếp xâm lược Việt Nam, đánh dấu việc chuyển từ chiến lược chiến tranh đặc biệt sang chiến tranh cục bộ. Những tin tức mà Phạm Xuân Ẩn gửi về là hoàn toàn chính xác.

(http://www2.thanhnien.com.vn/Uploaded/ngocthanh/0000210408/P3/Pxa3.jpg)
Lính Mỹ đổ bộ vào bờ biển Đà Nẵng năm 1965 - (Nguồn: talkingproud.us)



Yêu cầu khẩn thiết của cấp trên lúc này là: Phải nắm được ý đồ mở rộng chiến tranh, các biện pháp chiến lược, các kế hoạch quân sự của Mỹ trong từng thời gian, trên các chiến trường Việt Nam và Đông Dương... Và Phạm Xuân Ẩn đã gửi về nguyên bản Kế hoạch quân sự của Mỹ do tướng Westmoreland ký, tiếp đó là nguyên bản Kế hoạch bình định mới mang tên Kế hoạch "Ấp tân sinh"...


Tiêu đề: Re: “Giải mã” Phạm Xuân Ẩn
Gửi bởi: TroiDanh trong 28 Tháng Tư, 2008, 02:28:37 pm
Kỳ 13: Phạm Xuân Ẩn dưới mắt một cựu phó Thủ tướng chính quyền Sài Gòn cũ

"Ẩn là một nhân tài. Ảnh chọn chính nghĩa đi theo và lúc nào cũng trọng nhân cách. Ảnh không bao giờ làm hại ai và luôn làm người ta cảm thấy yên lòng" - (lời tiến sĩ Nguyễn Văn Hảo).


Trước khi tiếp tục đề cập đến các điệp vụ của Phạm Xuân Ẩn, xin trở lại câu chuyện về nhân cách của ông. Trong loạt bài trước đây, lần đầu tiên Báo Thanh Niên gọi Phạm Xuân Ẩn là nhà tình báo vĩ đại. Sự vĩ đại đó bao hàm tài năng và nhân cách.

Trả lời những người bạn Mỹ, ông Ẩn nói ông không bao giờ ân hận về những gì ông đã làm. Sở dĩ ông Ẩn phải khẳng định như vậy vì sách báo nước ngoài có những đánh giá khác nhau về cuộc đời ông, họ chưa hiểu hết chân lý giản dị của người dân ở một đất nước bị ngoại bang xâm lược. Phục vụ cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giành độc lập cho Tổ quốc thì dĩ nhiên không có gì phải ân hận, bất cứ người Việt Nam yêu nước nào cũng đã làm và sẽ làm khi có ngoại xâm. Mỗi người làm theo mỗi cách, tùy theo điều kiện, tùy theo hoàn cảnh.

Trong dịp về xã Điện Tiến (Điện Bàn, Quảng Nam) để viết bài về anh hùng Mười Khôi, tôi đã nghe nhiều câu chuyện về hành động yêu nước của những người dân bình thường nhất, trong đó có câu chuyện huyền thoại về một người phụ nữ. Đó là chuyện của bà Đặng Thị Dũng. Đầu năm 1971, lúc đó nhiều chiến sĩ đặc công đang ở trong nhà bà. Bất ngờ một toán lính Mỹ xuất hiện. Chúng xả súng bắn chết chồng bà và cô con gái lớn 13 tuổi ngay tại chỗ. Bà Dũng lúc này đang mang thai, nhưng vẫn xông lên ôm chặt khẩu trung liên mà tên lính Mỹ đang bắn, bà dùng hết sức bình sinh đẩy nòng súng chĩa lên trời để các chiến sĩ giải phóng nhân đó mà chạy thoát. Chúng bắn bà bị thương vỡ một mảng đầu. Chúng bắt bà, tra tấn dã man, rồi thả bà ra. Bà vẫn sinh con, 5 mẹ con tiếp tục về quê trụ bám. Bà Dũng giờ đây đã ngoài 80 tuổi, trên đầu bà vết sẹo vẫn còn lõm sâu... Bà Dũng đã "chống Mỹ, cứu nước" như vậy đó.

(http://www2.thanhnien.com.vn/Uploaded/tuanthanh/0804/22/080422p03aa1.jpg)
TS Nguyễn Văn Hảo - ảnh: H.H.V

Kết thúc chiến tranh, mặc dù chồng con bị giặc giết, mặc dù bản thân bị thương tật vì súng đạn giặc, vì những đòn tra tấn của giặc, nhưng bà Dũng và những người như bà Dũng không còn thù oán ai, miễn là được hồn nhiên lam lũ trên đồng ruộng là tốt rồi. Tất nhiên Phạm Xuân Ẩn không biết bà Dũng, nhưng ông biết rõ mình đang chiến đấu trong thế trận chiến tranh nhân dân với rất nhiều những người dân hiền lành và quật cường như bà Dũng. Ông Ẩn không muốn ai đề cao mình, một mặt do bản tính ông khiêm tốn, mặt khác ông ý thức được đằng sau ông còn có rất nhiều người như bà Dũng và gần ông hơn là hàng chục chiến sĩ đã thầm lặng hy sinh để bảo vệ sự an toàn của cụm tình báo mà ông là trung tâm.

"Không ân hận", điều đó còn hàm chứa một ý nghĩa khác. Do đặc điểm nghề nghiệp và công việc của ông, ông có nhiều bạn bè ở "phía bên kia", gồm cả người Mỹ và các tướng tá, chính khách chế độ Sài Gòn. Theo chúng tôi, ông Ẩn biết rõ rằng nếu tất cả những bí ẩn của cuộc đời ông đều được công khai hết thì cũng không có bất cứ điều gì khiến ông phải xấu hổ trong quan hệ với bạn bè. Vì ông là nhà phân tích quân sự - chính trị sắc sảo, lại có quan hệ sâu rộng, nên họ cần tham khảo ý kiến, tranh thủ chất xám của ông. Họ giao tài liệu cho ông là vì mục đích của họ. Ông giúp họ những gì ông có thể, miễn là sự giúp đỡ đó không có hại cho cách mạng. Ông thu thập những tài liệu đó gửi về Tổng hành dinh kháng chiến để có đối sách thích hợp nhằm bẻ gãy ý đồ xâm lược, làm thất bại các kế hoạch chiến tranh. Không có ai "phía bên kia" bán tài liệu cho ông, ông cũng không "lấy cắp", không lợi dụng để làm hại bạn bè. Sau này biết việc ông làm, những bạn bè của ông "phía bên kia", những người hiểu được những sai lầm của người Mỹ khi gây ra cuộc chiến phi nghĩa chống Việt Nam, không ai phiền trách gì ông. Họ đều nể phục ông Ẩn.

Người ta thường gọi nghề báo là một "vỏ bọc" của nhà tình báo Phạm Xuân Ẩn, người ta cũng gọi ông có cuộc đời "hai mặt". Nhưng sự thật thì ông đã làm báo một cách chuyên nghiệp, làm báo một cách chính trực. Nếu nói "hai mặt" thì mặt nào trong cuộc đời ông cũng chính trực cả. Sự chính trực đó làm nên tầm vóc của nhà tình báo Phạm Xuân Ẩn và tầm vóc của ký giả Phạm Xuân Ẩn.

(http://www2.thanhnien.com.vn/Uploaded/tuanthanh/0804/22/080422p03aa2.jpg)
Thẻ hoạt động báo chí của Tổng cục Chiến tranh chính trị quân đội Sài Gòn cấp cho Phạm Xuân Ẩn

Tiến sĩ Nguyễn Văn Hảo, cựu Phó thủ tướng chính quyền Sài Gòn cũ, là một trong những người bạn thân của Phạm Xuân Ẩn. Ngày 30.4.1975 ông Hảo quyết định không ra đi, mặc dù ông là một quan chức cấp rất cao của chế độ cũ và không có một mối liên hệ nào với cách mạng. Ông sẵn sàng chờ đợi điều xấu nhất xảy ra với ông, nhưng không có điều xấu nào xảy ra cả...

Nói chuyện với chúng tôi về Phạm Xuân Ẩn, tiến sĩ Nguyễn Văn Hảo cho biết: "Tôi quen anh Ẩn khi tôi làm Phó thủ tướng chế độ cũ. Sau 30.4.1975, tôi và ảnh gặp nhau thường xuyên với tư cách bạn bè, hầu như tuần nào cũng gặp, mãi cho tới lúc tôi rời khỏi Việt Nam năm 1982...".

Ông Hảo đã dành những lời thật tốt đẹp để nói về Phạm Xuân Ẩn: "Chúng tôi quen nhau bắt đầu từ một cuộc phỏng vấn. Hồi đó ảnh là ký giả Báo TIME, gặp tôi để phỏng vấn về kinh tế. Gặp con người này, tôi vừa tò mò vừa thích thú: Sao Việt Nam có thể có một người đủ trình độ và uy tín làm phóng viên một tờ báo tầm cỡ của Mỹ, lại được người Mỹ nể trọng như vậy! Trong câu chuyện trao đổi, anh Ẩn cởi mở, thoải mái, thỉnh thoảng lại chen một chuyện trào phúng, rất dễ thông đạt. Tôi cảm nhận được con người ảnh ngay thật, không có thủ đoạn, không có hậu ý gì. Sau đó ảnh viết một bài trên Báo TIME, tuần đó có chuyên đề về Việt Nam. Hồi đó khi tiếp xúc với Phạm Xuân Ẩn, không có ai nghi ngờ ảnh là tình báo cho bên kia hết. Ảnh có nghệ thuật ẩn giấu vai trò bí mật của mình một cách tuyệt vời. Ảnh chân thành, thân thiện thực sự, không hề giả dối" .

Về quan hệ với Phạm Xuân Ẩn sau giải phóng, ông Hảo kể: "Sau 1975, tôi với anh Ẩn thân thiết lắm. Chúng tôi rất hợp tánh nhau, mở hết lòng ra chơi với nhau, không có giới hạn. Cho đến khi rời khỏi Việt Nam năm 1982 tôi vẫn không biết anh Ẩn là tình báo. Ra nước ngoài rồi tôi mới nghe nói. Lúc đó tôi mới hỡi ôi... Tôi tự hỏi, anh ta làm tình báo, có phải là từ 1975 đến lúc đó anh ta đã nhận nhiệm vụ theo dõi tôi hay không. Tôi ấm ức đến mức độ 10 năm sau khi trở về Việt Nam, tôi mời ảnh đi ăn cơm để hỏi cho ra lẽ. Anh Ẩn nói: Moa có thể lấy danh dự nói với toa là không bao giờ moa làm chuyện đó. Bạn là bạn, không thể nào moa làm chuyện đó được. Nghe Ẩn nói, tôi tin ngay. Sau này tôi cũng biết chắc chắn là không có chuyện đó".

"Ẩn là một nhân tài. Ảnh chọn chính nghĩa đi theo và lúc nào cũng trọng nhân cách. Ảnh không bao giờ làm hại ai và luôn làm người ta cảm thấy yên lòng", tiến sĩ Nguyễn Văn Hảo nhận xét...



Tiêu đề: Re: “Giải mã” Phạm Xuân Ẩn
Gửi bởi: TroiDanh trong 28 Tháng Tư, 2008, 02:34:19 pm
Kỳ 14: Giữa thời điểm lịch sử

Trong thời điểm lịch sử đó, sau khi gửi nguyên bản kế hoạch quân sự của tướng Westmoreland và kế hoạch bình định mới về Tổng hành dinh kháng chiến, tức là nội dung của hai gọng kìm chiến lược "tìm diệt" và "bình định", Phạm Xuân Ẩn đã tiếp tục cung cấp những tin tức hết sức quan trọng...


Sự phá sản của chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" đánh dấu bằng chiến thắng Bình Giã của Quân giải phóng, trận đánh mà chính tướng Westmoreland sau này cũng thừa nhận là "thất bại có tính báo trước rõ nhất của quân đội Nam Việt Nam" (Westmoreland, A Soldier Reports). Cựu tham mưu phó lục quân Mỹ, tướng Bruce Palmer cũng khẳng định: "Nếu trong năm 1965, Mỹ không đưa các lực lượng chiến đấu trên bộ vào tham chiến thì chắc chắn Nam Việt Nam đã sụp đổ và Bắc Việt Nam đã chiếm lấy nó ngay rồi" (Bruce Palmer, Vai trò quân sự của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam, dẫn theo quansuvn.net). :)

Chiến lược "chiến tranh cục bộ" được Mỹ triển khai ở Việt Nam trong bối cảnh như vậy. Đến cuối năm 1965 đã có hơn 20 vạn quân Mỹ và chư hầu, trong đó có hơn 18 vạn quân Mỹ, cộng với quân đội Sài Gòn, hợp thành một đội quân trên 72 vạn. Đội quân này vào cuối năm 1967 đầu năm 1968 lên tới hơn 1 triệu, gồm 486.000 lính Mỹ, 58.800 lính các nước chư hầu và 650.000 lính quân đội Sài Gòn. Các phương tiện chiến tranh hiện đại nhất được đem ra sử dụng, trong đó lần đầu tiên sử dụng máy bay ném bom B52. "Tìm diệt" và "bình định" là hai gọng kìm được áp dụng ở miền Nam, đồng thời leo thang chiến tranh ra miền Bắc với cường độ dữ dội (chỉ tính riêng năm 1965, Mỹ đã sử dụng 55.000 phi xuất đánh ra miền Bắc). Vừa triển khai lực lượng và bố trí chiến trường, Mỹ mở ngay chiến lược phản công mùa khô 1965-1966 nhằm "tìm diệt" quân giải phóng tại hai chiến trường trọng điểm là khu V và Đông Nam bộ với 450 cuộc hành quân càn quét, trong đó có 20 cuộc hành quân quy mô lớn...

Trích dẫn
(http://www2.thanhnien.com.vn/Uploaded/ngocthanh/0000240408/P3/Anh-Ca-do,-trong-1-chien-di.jpg)
Năm 1967, sư đoàn bộ binh số 1 của Mỹ mang tên Anh Cả Đỏ (Big Red One) tham gia một cuộc hành quân lớn đánh vào Khu Tam Giác Sắt Củ Chi. Đó là cuộc hành quân Cedar Falls. Cuộc hành quân đã bị thất bại, không thể tiêu diệt được chủ lực của Quân giải phóng mà ngược lại quân Mỹ còn bị thiệt hại nặng nề trước cách đánh khôn khéo, chủ động của Quân giải phóng. Phạm Xuân Ẩn đã báo trước cuộc hành quân này.

Ngày 17.7.1966, trong lời kêu gọi toàn dân chống Mỹ, cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố sắt đá: "Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập tự do!".

Trong thời điểm lịch sử đó, sau khi gửi nguyên bản kế hoạch quân sự của tướng Westmoreland và kế hoạch bình định mới về Tổng hành dinh kháng chiến, tức là nội dung của hai gọng kìm chiến lược "tìm diệt" và "bình định", Phạm Xuân Ẩn đã tiếp tục cung cấp những tin tức hết sức quan trọng:

+ Báo trước các cuộc hành quân lớn của Mỹ và quân đoàn 3 quân đội Sài Gòn, như các cuộc hành quân Cedar Falls, Birmingham...

+ Báo cáo chi tiết về bố trí, sử dụng lực lượng Mỹ và chư hầu.

+ Kế hoạch xây dựng quân đội Sài Gòn.

+ Kế hoạch quân sự AB142 (1966).

+ Kế hoạch quân sự AB 143 (1967).

+ Diễn biến trước cuộc bầu cử tổng thống năm 1967, tranh chấp giữa các phe nhóm trong chính quyền Sài Gòn...

Những tin tức từ Phạm Xuân Ẩn đã giúp cho Tổng hành dinh kháng chiến đánh giá đúng ý đồ của Mỹ.

Để thấy hết ý nghĩa của hoạt động tình báo kháng chiến nói chung và của Phạm Xuân Ẩn nói riêng, cần biết qua về hoạt động tình báo của Mỹ vào thời điểm này. Theo tướng B.Palmer thì: "Hoạt động hành quân không đạt kết quả nếu tin tức tình báo thiếu chất lượng". Mặc dù Tổng thống Mỹ và các nhà hoạch định chính sách ở Washington "có quá thừa các bản nghiên cứu và ước tính tình báo về Việt Nam", nhưng hệ thống tình báo Mỹ trong chiến tranh Việt Nam có quá nhiều nhược điểm. Ông Palmer cho rằng, trong thời chiến, tư lệnh chiến trường thường là viên tư lệnh thống nhất, có quyền điều khiển tất cả các nguồn cung cấp tình báo, tuy nhiên chiến trường Việt Nam là trường hợp duy nhất mà tổ chức thời chiến nói trên không được áp dụng. Hậu quả là 1 tỉnh lỵ hoặc 1 huyện lỵ mà có đến 2 trung tâm thẩm vấn, 1 dành cho cơ quan tình báo trung ương (CIA), một dành cho MACV. MACV quan tâm đến các khía cạnh tình báo trực tiếp cho cuộc chiến, CIA lại chú ý đến khía cạnh chiến lược dài hạn. Nhưng vấn đề mà tướng Palmer cho là đặc biệt phức tạp và gây tranh cãi trong cộng đồng tình báo Mỹ suốt cuộc chiến tranh là “ước tính số quân và xác định thành phần các đơn vị lớn của địch”. "Đó là sự xét đoán về tình báo quân sự khó khăn nhất, nhất là trong chiến tranh nhân dân ở Việt Nam, một cuộc chiến mà quân chính quy rất khó phân loại các lực lượng trực tiếp chiến đấu với các lực lượng gián tiếp. Lại còn rất khó ước tính thương vong của bộ đội địch vì lực lượng tham chiến có cả dân thường, quân chính quy, quân địa phương và dân quân. Ước tính giữa CIA và MACV về số đơn vị địch tham chiến phải trải qua thời gian lâu dài mới nhích lại gần nhau, còn với lực lượng quân du kích thì khác xa nhau một trời một vực" (tài liệu đã dẫn). Liên quan đến vấn đề này là hội chứng "đếm xác". Tướng Palmer viết tiếp: "Phân biệt được số quân trực tiếp tham chiến là chính quy hay không chính quy rất khó khăn nên có xu hướng gây thương vong cho dân thường để làm tăng số "địch" bị chết. Nó (hội chứng "đếm xác") khuyến khích các đơn vị chiến đấu vừa thổi phồng con số và thêm thắt vào báo cáo số địch thương vong làm cho hội chứng "đếm xác" gay gắt thêm".

Đề cập đến những yếu kém về phản tình báo của Mỹ, tức là những nỗ lực để ngăn chặn không cho đối phương biết về các kế hoạch quân sự và các vấn đề quân sự khác, tướng Palmer cho rằng việc bảo đảm an toàn thông tin liên lạc của Mỹ ở Đông Nam Á là không hoàn hảo. "Do thói quen cẩu thả, nói thẳng (không dùng mật mã) qua máy điện thoại hoặc máy vô tuyến không an toàn, nên địch thường biết trước kế hoạch của Mỹ rất rõ, kể cả các cuộc ném bom của Bộ Tư lệnh không quân chiến lược nên đã có biện pháp báo động cho bộ đội và người của họ. Hậu quả là Mỹ đã bỏ mất nhiều cơ hội và lợi thế quý giá gây bất ngờ cho địch".

Nhận xét đó là đúng trên lý thuyết, nhưng thực tế thì khác. Việc dò được những thông tin rò rỉ do sự "cẩu thả" của đối phương là có, nhưng rất ít. Trường hợp của Phạm Xuân Ẩn có lẽ là rất khó hiểu đối với các nhà phân tích quân sự phương Tây...


Tiêu đề: Re: “Giải mã” Phạm Xuân Ẩn
Gửi bởi: TroiDanh trong 28 Tháng Tư, 2008, 02:54:05 pm
Kỳ 15: "Việt Nam hóa chiến tranh" - Hà Nội biết trước Nguyễn Văn Thiệu

Năm 1969, Nixon lên làm Tổng thống Mỹ, kế hoạch "Việt Nam hóa chiến tranh" mà các nhóm nghiên cứu đã chuẩn bị từ năm 1968 được Nixon chấp nhận trên căn bản. Ông Ẩn đã có được một bản dự thảo kế hoạch. Ông đã tiến hành xác minh rất công phu, sau khi biết chắc chắn đó chính là tài liệu về căn bản đã được Nixon duyệt ông mới gửi về trên.


Năm 1966 nhật báo New York Herald Tribune bên Mỹ phải đóng cửa. Nữ ký giả Berverly Deepe và ông Ẩn có một thời gian cộng tác cho một số tờ báo, cho Hãng truyền hình NBC, sau đó làm chính thức cho tờ Christian Science Monitor. Đây cũng là một tờ báo có uy tín của Mỹ.

Lúc này đồng thời với việc đưa quân vào miền Nam, người Mỹ đã gạt tướng Nguyễn Khánh, gạt luôn các ông Phan Khắc Sửu và Phan Huy Quát, tạo điều kiện cho các tướng Nguyễn Văn Thiệu - Nguyễn Cao Kỳ dùng quân đội nắm chính quyền, tiếp tay cho quân đội Mỹ tiến hành các chiến dịch "tìm diệt" và "bình định". Từ đây nội bộ chính quyền Sài Gòn tuy vẫn còn mâu thuẫn đấu đá nhau, nhưng không còn xảy ra đảo chính, vì người Mỹ đã "chọn được" Nguyễn Văn Thiệu.

Phạm Xuân Ẩn tiếp tục thắt chặt quan hệ sâu hơn, rộng hơn với giới chức có thế lực Mỹ và chính quyền, quân đội Sài Gòn. Lúc này ngoài Phạm Xuân Ẩn, nhiều lưới tình báo chiến lược khác cũng phát huy hiệu lực, tin tức các lưới bổ sung cho nhau, phục vụ một cách toàn diện yêu cầu của kháng chiến.

Cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965-1966 của Mỹ thất bại. Mùa khô 1966-1967, Mỹ huy động 20 sư đoàn, 10 lữ đoàn và trung đoàn cùng 4.000 máy bay, 2.500 xe bọc thép, 2.540 khẩu pháo, 500 tàu chiến lớn nhỏ mở cuộc phản công chiến lược lần thứ hai quy mô lớn hơn với 895 cuộc hành quân càn quét (nhiều gấp đôi cuộc phản công lần trước). Cuộc phản công tập trung chủ yếu vào chiến trường Đông Nam Bộ với mưu đồ tiêu diệt các cơ quan đầu não của quân giải phóng, trong đó lớn nhất là cuộc hành quân Junction City với 45.000 quân tham chiến đánh đi đánh lại chiến khu Dương Minh Châu (bắc Tây Ninh) và tam giác sắt Củ Chi suốt hơn 50 ngày. Cuộc phản công chiến lược này cũng thất bại.

Về phía quân giải phóng, đến cuối năm 1967 bộ đội chủ lực có 7 sư đoàn, 15 trung đoàn, 50 tiểu đoàn độc lập, bộ đội địa phương có 55 tiểu đoàn, 17 đại đội, 144 trung đội độc lập cùng 300.000 dân quân du kích. Lực lượng này kết hợp với phong trào đấu tranh chính trị của nhân dân đã bẻ gãy hai cuộc phản công chiến lược của Mỹ, tạo thế trận vững chắc cho cuộc tổng tấn công và nổi dậy lịch sử Tết Mậu Thân 1968.

Những năm 1966, 1967, 1968 công việc của Phạm Xuân Ẩn rất căng thẳng. Lúc này ông không chỉ cung cấp tin tức tình báo chiến lược mà còn cung cấp các tin tức chiến dịch, những điều tra cụ thể phục vụ chiến đấu. Liên lạc mỗi tháng tăng lên đến 4-5 lần.

Trong cuộc tổng tấn công Mậu Thân, cả đợt 1 và đợt 2, ông đều cung cấp những tin tức về diễn biến ở mặt trận và tình hình nội bộ của đối phương.

(http://www2.thanhnien.com.vn/Uploaded/huynhthang/Nam_2008/Thu_sau/Thu_sau_116/3fmhfdpa.jpg)
Mỹ phản công vào mùa khô 1965 - 1966 - Ảnh: tư liệu
 

Sau đợt 2 chiến dịch Mậu Thân, tướng Westmoreland bị mất chức và bị triệu hồi về nước, tướng Abrams lên thay. Nhà Trắng và Lầu Năm Góc đưa sang Sài Gòn 3 nhóm nghiên cứu chiến lược:

- Nhóm của Donald Marshall với khoảng 25 sĩ quan, có 7 tiến sĩ nhiều ngành khác nhau.

- Nhóm của giáo sư Guy Pauker, Giám đốc Á châu của Rand Corporation.

- Nhóm của giáo sư Hermann Kahn của Hãng nghiên cứu Hudson Institute.

Ông Ẩn được bạn bè đồng nghiệp giới thiệu với các nhóm nghiên cứu đó, bản thân ông cũng có một số người bạn Mỹ là thành viên các nhóm này, nên ông có dịp tham gia trao đổi nhiều vấn đề. Qua đây ông nắm được những nội dung của kế hoạch xuống thang chiến tranh mà sau này gọi là kế hoạch "Việt Nam hóa chiến tranh". Một báo cáo chi tiết về kế hoạch này đã được ông viết gửi về trên. Những nội dung của nó đã được ông xác minh từ ba nhóm nghiên cứu. Như vậy là ông Ẩn đã cho lãnh đạo kháng chiến biết trước ý đồ của Mỹ trong giai đoạn này.

Năm 1969, Nixon lên làm Tổng thống Mỹ, kế hoạch "Việt Nam hóa chiến tranh" mà các nhóm nghiên cứu đã chuẩn bị từ năm 1968 được Nixon chấp nhận trên căn bản. Ông Ẩn đã có được một bản dự thảo kế hoạch. Ông đã tiến hành xác minh rất công phu, sau khi biết chắc chắn đó chính là tài liệu về căn bản đã được Nixon duyệt ông mới gửi về trên.

Cần biết, cũng trong năm 1969, Nixon đã gặp Nguyễn Văn Thiệu ở đảo Midway để thuyết minh cho Nguyễn Văn Thiệu về kế hoạch "Việt Nam hóa chiến tranh", điều thú vị là nội dung đó Hà Nội đã biết trước.

Cuối năm 1969, xảy ra một chuyện phức tạp. Hai vụ địch đem xử cán bộ tình báo của ta là Trần Ngọc Hiền và Huỳnh Văn Trọng. Ông tìm cách tiếp cận các tài liệu của vụ án và thấy những người này nằm trong một lưới tình báo chiến lược, trong tài liệu mà lưới này thu được có kế hoạch quân sự AB144. Tài liệu này chính ông cũng đã gửi một bản về trên vào cuối năm 1968. Biết việc này ông Ẩn rất lo lắng. Việc lưới tình báo kia để lộ ra một tài liệu như vậy sẽ ảnh hưởng đến ông, vì nếu biết tin này thì người đưa cho ông tài liệu đó sẽ rất ngán không dám đưa nữa, dù họ không hề nghĩ ông có liên quan gì đến cộng sản.

Đối với ông Huỳnh Văn Trọng, ông nhớ lại đã có ăn cơm với vợ chồng ông Trọng hai lần, cả hai lần đều có các quan chức Mỹ và Việt dự, riêng lần thứ hai có chụp hình kỷ niệm. Ông Huỳnh Văn Trọng là cố vấn chính trị của tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, đương nhiên cả ông Trọng và ông Ẩn người này không thể biết người kia là tình báo của ta. Qua người quen, ông Ẩn biết bức ảnh kỷ niệm này đã được đưa lên Phủ Tổng thống. Ông lo không biết bọn an ninh có đưa bức ảnh này cho bọn chiêu hồi và tù binh nhìn mặt không và những người cho nhìn mặt không biết có ai biết ông hay không. Suốt thời gian này ông phải bám sát để theo dõi bên an ninh để nghe động tĩnh. Do vậy mà ông đã bị hạn chế mất một thời gian, cho đến khi ông biết chắc là mình an toàn.

Vì hạn chế đó nên đến cuối năm 1969 ông vẫn chưa lấy được kế hoạch quân sự AB145, cho đến đầu năm 1970 ông mới chép được nội dung kế hoạch này và 1 tháng sau mới lấy được nguyên bản. Khi ông chụp phim xong chuẩn bị gửi về thì được lệnh hủy phim vì tài liệu này lưới tình báo khác đã gửi về rồi. Chúng tôi nêu chi tiết này để thấy tính kỷ luật cao và sức làm việc phi thường của Phạm Xuân Ẩn...


Tiêu đề: Re: “Giải mã” Phạm Xuân Ẩn
Gửi bởi: TroiDanh trong 28 Tháng Tư, 2008, 03:15:16 pm
Kỳ 16: Giữa những cuộc săn đón của tình báo quốc tế

CIA và tình báo Anh, tình báo Đài Loan... đều đề nghị Phạm Xuân Ẩn làm cho họ. Ông báo cáo cấp trên. Cấp trên bảo: "Nếu thấy có lợi cho cách mạng thì cứ làm !".




Vào đầu năm 1969, lúc này Phạm Xuân Ẩn đã chuyển hẳn sang làm cho báo TIME, một loạt các tổ chức tình báo quốc tế "săn đuổi", lôi kéo ông làm cho họ.

Trước hết là CIA. Mặc dù ông Ẩn có mối quan hệ thân tình với các nhân vật CIA đầy thế lực như Lansdale và Conein..., song những người này không bao giờ đề nghị ông làm việc hoặc cộng tác với CIA. Nhưng cấp dưới của họ thì có hai người đề nghị.

Thứ nhất là một trùm CIA ở miền Trung tên là Harper, đề nghị ông vừa làm việc cho báo TIME vừa làm việc cho CIA với mức lương rất hậu. Ông hỏi nếu ông nhận lời thì ông hoạt động theo hướng nào, Harper đề nghị ông thâm nhập vào tổ chức công đoàn của Trần Quốc Bửu để "phát hiện những phần tử Việt cộng" trong tổ chức này. Ông báo cáo với cấp trên chuyện này. Ý kiến của cấp trên là: "Nếu xét thấy làm cho CIA có lợi cho cách mạng thì cứ làm". Tuy nhiên, ông Ẩn đã từ chối Harper.

Người thứ hai là David Hudson, phụ tá của Lansdale. Người này đề nghị ông Ẩn bỏ nghề làm báo để chuyển sang kinh doanh. Ông ta đề nghị ông Ẩn mở một trang trại nuôi bò sữa ở Bình Long. CIA sẽ cho ông Ẩn mượn tiền đầu tư, "lời thì trả, lỗ thì thôi", với một điều kiện là trang trại của ông Ẩn phải nhận một số nhân viên người Kinh và người Thượng vào làm. Ông Ẩn từ chối, lý do là ông không thể bỏ nghề báo - nghề mà ông say mê theo đuổi. Ít lâu sau người này lại đề nghị ông Ẩn đứng ra làm chủ một nhà máy cá hộp, cũng với phương thức như trên. Ông từ chối nốt.

Đối với tình báo Đài Loan.  Francis Cao, trùm tình báo Đài Loan ở Sài Gòn đề nghị ông làm tình báo cho "Trung Hoa dân quốc". Cao giới thiệu với ông Ẩn tướng Wang Tchen, người từ Mỹ sang sắp thay thế ông ta. Ông Ẩn vẫn làm quen với tướng Tchen, chứ ông không nhận lời làm tình báo.

Đối với tình báo Anh. Trùm tình báo Anh ở Sài Gòn lúc đó là Fordaz, người từng đóng vai trò quan trọng của cơ quan tình báo Anh cộng tác với CIA lật đổ Mossadegh ở Iran, đến gặp ông để đề nghị cộng tác bằng cách "trao đổi tin tức hai bên cùng có lợi". Fordaz nói với ông Ẩn: "Nhân viên tình báo thường méo mó nghề nghiệp, nhiều báo cáo không khách quan bằng tin tức của các ký giả. Các ký giả có uy tín thường có đủ các loại tin tức rất phong phú, nhưng không bao giờ sử dụng hết, ngoại trừ ký giả đó có tham vọng viết sách. Chúng tôi sẽ trả tiền thù lao cho ông về những tin tức chúng tôi cần chứ không phải mướn ông làm tình báo cho Anh quốc. Tôi biết, nhiều ký giả không thích làm tình báo". Đứng trước một chuyên gia tình báo già dặn như Fordaz, ông Ẩn hết sức cảnh giác và khéo léo từ chối. Đến cuối năm 1969, người này đã đổi đi nơi khác...

Tất cả những lời mời nói trên đều được ông Ẩn báo cáo về trên nghiêm túc và cấp trên để ông tự quyết định có nên làm hay không. Vì vậy câu chuyện về cuộc đời "hai mang" của ông Ẩn mà một số tác giả nước ngoài phỏng đoán là không đúng sự thật.

(http://www2.thanhnien.com.vn/Uploaded/tuanthanh/0804/25/080425p03aa2.jpg)
Máy bay Mỹ bị bắn rơi tại Khe Sanh trong chiến dịch “Bình định cấp tốc” năm 1968 - Ảnh: AFP

Thời kỳ này Mỹ áp dụng "học thuyết Nixon", đang tiến hành "Việt Nam hóa chiến tranh". Quân Mỹ triệt thoái dần, quân Sài Gòn được tăng cường, từ 1969 đến 1971 quân chính quy tăng từ 700 ngàn lên 1,1 triệu, lực lượng bán vũ trang tăng từ 1,5 triệu lên 2 triệu. Địch vừa đẩy mạnh chiến tranh với một quân đội hùng hậu được trang bị vũ khí và phương tiện hiện đại nhất Đông Nam Á. Mặc dù viện trợ Mỹ vẫn giữ vị trí số 1, nhưng chính quyền Sài Gòn đã áp dụng một loạt các biện pháp nhằm phát triển kinh tế để thực hiện chính sách "bình định", coi bình định là biện pháp then chốt của "Việt Nam hóa chiến tranh".

Mặc dù Phạm Xuân Ẩn có quen với Nguyễn Văn Thiệu từ trước, nhưng cho đến năm 1969 ông vẫn "có khoảng cách" với các thuộc hạ thân tín của Nguyễn Văn Thiệu. Lúc này lại xảy ra một sự cố. Giữa năm 1970, ký giả Larsen, con của chủ báo TIME, được phái qua làm Trưởng văn phòng báo TIME ở Sài Gòn. Mặc dù là con của một triệu phú, nhưng có đầu óc phản chiến, Larsen viết bài chỉ trích Nguyễn Văn Thiệu và có xu hướng bênh những người chủ trương hòa bình như Dương Văn Minh. Bộ máy của Nguyễn Văn Thiệu bực tức, Hoàng Đức Nhã đổ tội cho Phạm Xuân Ẩn xúi Larsen chống Thiệu. Hoàng Đức Nhã đâm ra ghét Phạm Xuân Ẩn. Phải mất một thời gian, qua nhiều mối quan hệ giải thích, Hoàng Đức Nhã mới thay đổi thái độ, chuyển sang tin cậy ông. Mối quan hệ này được thắt chặt. Phạm Xuân Ẩn đã giúp rất nhiều tướng tá, chính khách trong việc thiết lập quan hệ với người Mỹ và giới cầm quyền mới để họ củng cố địa vị. Bởi vậy họ đều coi ông là "người nhà", sẵn sàng tạo những điều kiện thuận lợi nhất để phục vụ cho nghề báo của ông. Đối với các tướng lĩnh, chính khách chống Thiệu, ông vẫn giữ thái độ hòa nhã, mực thước.

Bước vào "Việt Nam hóa chiến tranh", sau khi lấy được từ trong trứng nước chiến lược này cũng như các kế hoạch quân sự hằng năm, ông đã cung cấp về trên nhiều tài liệu quan trọng, đặc biệt là:

+ Báo trước kế hoạch đưa quân đội Sài Gòn lên Campuchia đánh vào vùng Ba Thu và dùng không quân yểm trợ cho cuộc hành quân này.
+ Báo trước thời điểm rút quân Mỹ khỏi Campuchia.
+ Báo trước kế hoạch tấn công Hạ Lào mùa khô 1970 -1971 từ đường 9.
+ Kế hoạch bình định.
+ Kế hoạch cải tổ quân đội Sài Gòn.
+ Ý đồ của Mỹ xung quanh cuộc bầu cử Tổng thống Sài Gòn 1971.
+ Báo trước tin Mỹ ném bom trở lại miền Bắc năm 1972...

Thời điểm này có vài tin tức quan trọng ông biết nhưng không báo cáo kịp thời, chủ yếu là do đánh giá thấp nguồn tin.  Quan trọng nhất là Mỹ âm mưu đảo chính lật đổ hoàng thân Sihanouk. Tin này ông biết lúc ăn cơm tại nhà một tướng lĩnh quân đội Sài Gòn, có ký giả Shaplen và Sơn Ngọc Thành (Campuchia) dự nhân dịp tất niên. Tại đây, Sơn Ngọc Thành nói ông Sihanouk đang đi Paris chữa bệnh, đây là dịp tốt để lật đổ. Ông ta còn hứa sẽ ưu tiên dành mọi tin tức cho Shaplen - Phạm Xuân Ẩn và đề nghị hai ký giả ủng hộ ông ta. Tại cuộc gặp này, Phạm Xuân Ẩn tập trung chú ý đến một tin tức khác, đó là tin Mỹ thuyết phục Sihanouk không để phía ta sử dụng cảng Sihanoukville. Ông đã không coi trọng tin về âm mưu lật đổ Sihanouk, vì ông coi thường Sơn Ngọc Thành, không nghĩ là Sơn Ngọc Thành được người Mỹ trọng dụng. Vì vậy mà tin tức quan trọng này ông đã lơ đi không báo cáo...



Tiêu đề: Re: “Giải mã” Phạm Xuân Ẩn
Gửi bởi: TroiDanh trong 28 Tháng Tư, 2008, 03:26:23 pm
Kỳ cuối: Di sản

Ông quang minh chính đại và tận tình tận nghĩa với bạn bè, dù họ là đồng đội hay trong hàng ngũ đối phương. Ông bảo ông không bao giờ ân hận những gì mình đã làm, nghĩa là ông không có ảo tưởng làm vừa lòng tất cả.


Trong thời kỳ từ 1973 đến kết thúc chiến tranh, bên cạnh các lưới tình báo khác, Phạm Xuân Ẩn vẫn cung cấp những tin tức chiến lược quan trọng. Sau khi ký Hiệp định Paris, trên chiến trường có xu hướng cả tin, rằng đối phương thi hành hiệp định, nên mất cảnh giác để địch lấn chiếm nhiều nơi. Trong báo cáo về trên, Phạm Xuân Ẩn khẳng định dứt khoát rằng đối phương không thi hành hiệp định, kèm theo nhận định đó là các kế hoạch quân sự tấn công vùng giải phóng mang tên Kế hoạch Lý Thường Kiệt 73, 74 và 75. Các kế hoạch này đều được Mỹ tán thành thông qua cơ quan DAO (Defence Attache Office). Tiếp đó, ông cung cấp nhiều tài liệu quan trọng:

+ Tài liệu cải tổ quân đội Sài Gòn.

+ Kế hoạch bình định dài hạn.

+ Kế hoạch "hậu chiến phát triển trường kỳ" của Vũ Quốc Thúc - David Lilienthal

+ Kế hoạch bảo vệ Sài Gòn. Kế hoạch này được Nguyễn Văn Thiệu bàn với Đặc ủy trưởng Trung ương tình báo Nguyễn Khắc Bình và Tư lệnh biệt khu thủ đô kiêm Tổng trấn Sài Gòn - Gia Định Nguyễn Văn Minh cùng một số tướng thân tín ở Bộ Tổng tham mưu. Thời gian này Nguyễn Văn Thiệu không muốn các đơn vị quân đội tập trung nhiều ở Sài Gòn vì sợ đảo chính, nên đây thực chất là kế hoạch chống đảo chính nhiều hơn là đối phó với sự tấn công của quân giải phóng.

+ Tin về việc Bộ Tổng tham mưu quân đội Sài Gòn đã lấy được tài liệu về quyết tâm của ta chấm dứt chiến tranh năm 1975.

+ Tin về Đại sứ Mỹ Martin tìm cách thương thuyết để đi đến một giải pháp chính trị về việc viện trợ khẩn cấp cho chính quyền Sài Gòn và Mỹ sẽ không viện trợ trong trường hợp quân đội Sài Gòn thua.

+ Tin về nội bộ chính quyền Sài Gòn ép Nguyễn Văn Thiệu từ chức để mở đường cho thương thuyết...

Hai tin tức có ý nghĩa chiến lược hết sức quan trọng trong thời gian này là: Đối phương không thi hành Hiệp định Paris và Mỹ sẽ không tham chiến nếu quân đội Sài Gòn thua (nhiều lưới tình báo khác cũng khẳng định tương tự). Sự khẳng định này đã củng cố quyết tâm mở chiến dịch Tổng tấn công và nổi dậy mùa xuân 1975 lịch sử.
Liên tục hơn hai mươi năm sống trong hoàn cảnh cực kỳ căng thẳng để làm tất cả những gì mà mình có thể làm được cho Tổ quốc, Phạm Xuân Ẩn không có mong muốn nào hơn là trở thành một người bình thường.

Câu chuyện "giải cứu" bác sĩ Trần Kim Tuyến vào ngày cuối cùng của chiến tranh chúng tôi công bố chi tiết trên Thanh Niên năm 2002 với việc phỏng vấn Phạm Xuân Ẩn và các cấp trên của ông. Làm chuyện này ông không báo cáo, chuyện xảy ra rồi cũng không ai hỏi ông, không ai bắt ông phải "kiểm điểm", "giải trình", càng không có chuyện "gây khó dễ" cho ông như một số tác giả nước ngoài phỏng đoán.

Ngày xưa khi Lưu Bị còn yếu thế, Quan Công nhận lệnh mai phục bắt Tào Tháo sau trận Xích Bích. Quan Công vì nghĩa mà vi phạm quân lệnh, tha cho Tào Tháo. Khổng Minh cảm động với cái nghĩa đó mà không bắt tội Quan Công, để cho Quan Công có dịp trả ơn Tào Tháo. Tất nhiên chuyện ông Ẩn với Trần Kim Tuyến không giống câu chuyện này, nhưng cái nghĩa thì giống nhau. Vì thế mà khi chúng tôi hỏi đến sự kiện Phạm Xuân Ẩn "giải cứu" bác sĩ Tuyến, Đại tướng Mai Chí Thọ không ngần ngại nói ngay: "Nhân Trí Dũng!". Đó cũng là đánh giá chung của các nhà lãnh đạo cấp trên về ông Ẩn.

Giáo sư Larry Berman, tác giả cuốn Điệp viên hoàn hảo, đã dành những lời thật tốt đẹp ca ngợi Phạm Xuân Ẩn, ca ngợi các hoạt động tình báo của Phạm Xuân Ẩn phục vụ cho cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam. Tuy nhiên, ông Larry đã có những phỏng đoán không đúng thực tế về nhiều chi tiết liên quan đến cuộc đời Phạm Xuân Ẩn sau chiến tranh. Chẳng hạn: "Thật trớ trêu, khi cuộc chiến tranh đã chấm dứt và Việt Nam không còn bị chia cắt nữa, thì lại có một số người trong cơ quan công an Việt Nam tin rằng quan hệ của Phạm Xuân Ẩn với người của tình báo Mỹ và CIO (Đặc ủy Trung ương tình báo chế độ Sài Gòn cũ - HHV) vẫn còn quá thân thiết. Và rằng, người anh hùng tình báo của họ tồn tại được lâu như vậy là vì đã làm việc cho các bên khác nhau nên rất có thể Phạm Xuân Ẩn là một điệp viên đồng thời cho cả ba cơ quan tình báo. Sự rắc rối đối với Phạm Xuân Ẩn bắt nguồn từ việc ông luôn luôn dùng những lời lẽ thân thiết để nói về những người bạn của mình từng làm việc cho CIA và CIO" (Larry Berman, Điệp viên hoàn hảo, bản tiếng Việt, NXB Thông tấn, Hà Nội 2007, tr.34-35). "Trong thời kỳ 1975 - 1986, khi Phạm Xuân Ẩn đang bị theo dõi chặt chẽ..." (sđd, tr.468). Chuyện ông đi học ở học viện quân sự cao cấp, được lý giải là (một phần của lý do) "vì ông đã sống quá lâu với người Mỹ" (sđd, tr.406)...

Như chúng tôi đã trình bày, tất cả những quan hệ với các cơ quan tình báo nước ngoài và của chế độ Sài Gòn cũ ông Ẩn đều báo cáo đầy đủ, cấp trên của ông đã ghi nhận. Ông Mười Nho, người tổng kết toàn bộ hoạt động của Phạm Xuân Ẩn, nhớ lại nhận xét của cơ quan tình báo quốc phòng về ông Ẩn như sau: "Là một cán bộ trung thực, báo cáo rõ ràng, đầy đủ trong quan hệ rất phức tạp với người Mỹ và tướng tá, chính khách chính quyền Sài Gòn cho tổ chức hiểu rõ và tin cậy đồng chí". Chúng tôi chưa thấy bất cứ biểu hiện nào của bất cứ ai gây "rắc rối" cho ông Ẩn cả.

Trong những lần trao đổi với chúng tôi, giáo sư Larry Berman có đề cập đến những "rắc rối" đó. Tôi nói với ông Larry: Việt Nam có những quy định rất nghiêm ngặt đối với việc phong anh hùng và việc thăng quân hàm. Dù anh có công lớn, nhưng nếu như anh có những biểu hiện không đáng tin cậy thì anh cũng không được phong danh hiệu anh hùng. Dù anh có tài, có công nhưng anh không có đức, nghĩa là anh không đáng tin cậy, anh vẫn không được thăng cấp. Ông Ẩn đã được phong anh hùng đợt đầu tiên sau ngày kết thúc chiến tranh. Và hồi đó cấp bậc ông chỉ là trung tá, sau đó thăng dần lên đến thiếu tướng. Điều đó chứng minh không ai nghi ngờ hay làm khó gì cho ông Ẩn.

Còn việc ông Ẩn phải đi học, theo quy định của quân đội nhân dân Việt Nam, sĩ quan mỗi cấp phải qua các trường đào tạo tương ứng, nếu không đi học thì không được phong quân hàm. Ông Ẩn là trung tá mà chưa học trường lớp sĩ quan nào cả thì việc ông đi học là lẽ đương nhiên. Những chuyện tưởng như đơn giản dễ hiểu đó lại hóa thành rắc rối.

Phạm Xuân Ẩn là một nhân cách lớn. Ông là đảng viên cộng sản đến trọn đời và sự trung thành là thuộc tính của nhân cách Phạm Xuân Ẩn. Ông quang minh chính đại và tận tình tận nghĩa với bạn bè, dù họ là đồng đội hay trong hàng ngũ đối phương. Ông bảo ông không bao giờ ân hận những gì mình đã làm, nghĩa là ông không có ảo tưởng làm vừa lòng tất cả.

Phạm Xuân Ẩn là sản phẩm của chiến tranh nhân dân chống ngoại xâm. Không có những người lãnh đạo kháng chiến tầm vóc, không có những bà Ba anh hùng và những người dân anh hùng thì không thể có sự vĩ đại của Phạm Xuân Ẩn. Và ông trở thành một trong những di sản vô giá của khoa học và nghệ thuật quân sự Việt Nam.

Hoàng Hải Vân


Tiêu đề: Tình báo VN trong KCCM
Gửi bởi: Tunguska trong 25 Tháng Mười Một, 2008, 11:22:12 am
Loạt bài về thiếu tướng Đặng Trần Đức (Ba Quốc), Anh hùng LLVTNDVN.
Nguồn: thanhnien.com.vn
Ebook: http://www.thuvien-ebook.com/forums/showthread.php?t=12312


Ông tướng tình báo bí ẩn và những điệp vụ siêu hạng

Trong những nhà tình báo siêu hạng của chúng ta, có 2 điệp viên vừa được phong quân hàm cấp tướng vừa được phong danh hiệu anh hùng. Đó là Phạm Xuân Ẩn và ông. Tên của vị lão tướng này cho đến nay vẫn chưa hề xuất hiện trên sách báo. Cuộc đời ông là một chuỗi dài những chuyện hào hùng gay cấn xuyên suốt cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và chiến tranh bảo vệ biên giới của Tổ quốc, trong đó có hơn 20 năm hoạt động đơn độc giữa Sài gòn. Bằng lòng yêu nước vô bờ bến và tài năng bẩm sinh, ông đã thực hiện nhiều điệp vụ siêu hạng, trong đó có việc cứu ông hoàng Norodom Shihanouk và cứu ông Nguyễn Văn Linh (sau này là Tổng Bí thư Đảng)... Ông là ai vậy ? Đồng đội gọi ông là Ba Quốc, còn trong giấy tờ, ông là Đặng Trần Đức, thiếu tướng anh hùng quân đội nhân dân Việt Nam... Năm nay đã 83 tuổi, ông vẫn chưa được nghỉ hưu. Và khi chúng tôi khởi đăng loạt ký sự này thì ông đang nằm bệnh viện vì một căn bệnh hết sức hiểm nghèo...

Bước chân vào nghề Hai năm trước, khi thu thập thông tin để viết thiên ký sự về tướng tình báo Phạm Xuân Ẩn, chúng tôi có dịp “thâm nhập” vào các mạng lưới tính báo và được gặp nhiều điệp viên siêu hạng. Chúng tôi bị cuốn hút bởi các chiến công và những câu chuyện ly kỳ của họ, đã đành là như vậy rồi. Nhưng càng thâm nhập sâu, càng hiểu nhiều hơn về họ, chúng tôi càng bị một sức cuốn hút khác, mạnh mẽ hơn. Đó là những nhân cách lớn được tạo ra từ lòng yêu nước và tâm hồn trong trẻo của họ. Ai trong số họ cũng có một cuộc đời đầy sóng gió nhưng tất cả đều sống thầm lặng. Họ không hiếu danh. Đức tính đó cuốn hút mạnh mẽ chúng tôi, nhưng cũng gây cho chúng tôi không ít khó khăn, bởi họ không muốn nói về mình.

Lần đầu tiên chúng tôi biết về ông Ba Quốc là từ câu chuyện với ông Mười Nho, một cán bộ chỉ huy tình báo lão thành. Trong những lần nói chuyện với chúng tôi về Phạm Xuân Ẩn, ông Mười Nho có kể chuyện về ông Ba Quốc vâ “hứa” sẽ giới thiệu chúng tôi gặp ông – người mà ông Mười Nho cho là cũng rất “lừng lẫy”. Nhưng đến lần gặp sau thì ông Mười Nho lắc đầu, ông nói ông đã “cố gắng hết sức mình” để thuyết phục, nhưng ông Ba Quốc không đồng ý để ai viết về mình. Chúng tôi đem câu chuyện này nói với một sĩ quan tình báo quân đội, người hay lui tới chỗ ông. Anh này cũng lắc đầu : “Khó lắm. Ông ấy sống âm thầm, vĩnh viễn không muốn ai biết về những chuyện của ông ấy”.

Cuối cùng, chúng tôi phải nhờ đến người chỉ huy cao nhất của cơ quan tình báo quốc phòng. Đó là một vị tướng trẻ, từng làm trợ lý cho ông Ba Quốc. Vị tướng trực tiếp dẫn chúng tôi đến giới thiệu với ông Ba Quốc bằng một lời “bảo lãnh” khiến chúng tôi hơi bất ngờ : “Thưa chú, Báo Thanh niên là tờ báo nổ phát súng đầu tiên vào tập đoàn tội ác Năm Cam và những kẻ bảo kê cho Năm Cam, chú có thể yên tâm”. Và hoàn toàn không giống như chúng tôi hình dung. Thiếu tướng anh hùng quân đội nhân dân Việt Nam Đặng Trần Đức không phải là một ông già nghiêm nghị, khó tánh và lập dị. Ông trả lời vị tướng trẻ bằng một nụ cười cực kỳ hiền từ. Trên khuôn mặt nhiều nếp nhăn nhưng đầy thần sắc của ông vừa lộ rõ khí phách, vừa ẩn chứa những nét bao dung đôn hậu. Sau này chúng tôi mới biết, ngày xưa khi làm sĩ quan trong Đặc ủy Trung ương tình báo Sài gòn, ông mang tên Nguyễn Văn Tá, biệt hiệu là Tá “bụt”.

“Anh Ba Quốc thâm nhập vào cơ quan an ninh địch lúc Pháp còn chiếm Hà Nội. Sau Hiệp định Genève, anh theo Pháp di cư vào Nam, làm việc rất sớm ở Sở Nghiên cứu chính trị xã hội (cơ quan mật vụ Phủ Tổng thống chính quyền Sài Gòn thời Ngô Đình Diệm- PV), sau đó là sĩ quan tình báo của Phủ đặc uỷ Trung ương tình báo... Mỗi tháng anh có 2 lần báo cáo, mỗi báo cáo có khoảng 50-70 tin chính trị, có khi trên 100 tin. Đồng chí viết tin ra xong rồi mã hóa bằng chữ tốc ký. Phải nói cường độ lao động của anh rất lớn, hoạt động trong vùng địch với tinh thần tận tụy, dũng cảm... Anh Ba Quốc là một điển hình cơ cán tình báo đi sâu làm việc trong cơ quan an ninh tình báo cấp trung ương của địch là mục tiêu tình báo lý tưởng của bất cứ tình báo quốc tế nào, vì cơ quan này tập trung nhiều cơ mật cấp cao và đa dạng của địch. Nhờ bình phong này, anh tồn trại trong cơ quan an ninh địch từ 1950 đến 1974...”. Đó là lời nhận xét của thiếu tướng Nguyễn Đức Trí, nguyên thủ trưởng cơ quan tình báo miền về ông. Nhưng đó là chuyện sau này.

Còn sau đây là vài dòng tiểu sử trước khi ông “thâm nhập vào cơ quan an ninh dịch” : Tháng 5-1945 ông là Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cách mạng xã Thanh Trì (Hà Nội). Sau khi củng cố chính quyền xã, ông huy động nhân dân lên tham gia cuộc mítting ngày 19/8 tại Nhà hát lớn Hà Nội. Sau đó được điều về Hà nội làm công an, tham gia phá một số vụ án, trong đó có vụ án Ôn Như Hầu. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, ông là đoàn trưởng mặt trận Khâm Thiên, đánh nhau với Pháp 1 tháng, sau đó được lệnh rút vào Đô Lương (Nghệ An), làm trưởng khu Đức Hòa. Tháng 5/1949, ông chuyển sang ngành tình báo quân sự và được giao nhiệm vụ vào hoạt động tại Hà Nội. Ông vào Hà Nội với danh nghĩa là đi tìm vợ con bị thất lạc. Và ông đã tận dụng tất cả các quan hệ để tìm chỗ đứng trong lòng địch. Ông nhờ một người quen, là con rễ của một nhân vật rất có thế lực ở Hà Nội. Người này đưa ông đến giới thiệu với bố vợ của ông ta là Đàm Y, quận trưởng quận 1 (Hàng Trống) và là tay chân đắc lực của Tổng trấn Bắc Việt Nghiêm Xuân Thiện. Ông đã thiết lập được mối quan hệ thân tình đặc biệt với Đàm Y và chính mối quan hệ này đã tạo một bước ngoặt cho cuộc đời hoạt động tình báo của ông sau này. Từ đây, ông bước chân vào cơ quan công an của Pháp....


Tiêu đề: Re: Tình báo VN trong KCCM
Gửi bởi: Tunguska trong 25 Tháng Mười Một, 2008, 11:27:38 am
Bài học đầu tiên: Lòng dân

Ông Ba Quốc nhớ lại: "Theo quy ước, sau khi thiết lập quan hệ với ông Đàm Y, tôi phải bắt liên lạc với cấp trên. Hộp thư mật đặt tại 80 Hàng Bạc. Nhưng khi tôi đến gặp cô gái cần gặp thì có một chuyện lạ. Cô ta trông thấy tôi lập tức quay vào nhà. Tôi biết ngay là có người đang theo dõi. Hộp thư coi như bị hủy bỏ...

Tôi mất liên lạc. Mà mất liên lạc, không có chỉ đạo thì tôi không biết tiếp theo phải làm gì. Suốt cả một tuần lễ tôi rủ em vợ của ông Đàm Y và người lái xe lấy ô tô của ông ta đi chơi la cà các phòng trà và quán bia, hết nơi này đến nơi khác, đi đâu tôi cũng được giới thiệu là cháu của Đàm Y ở quê ra. Mục đích của tôi là tìm người quen để nối liên lạc. Nhưng làm cách này không được. Tôi làm quen một người phụ nữ làm công ở nhà Đàm Y, quan sát tôi biết người này có cảm tình với kháng chiến. Đó là bác Năm Gái. Tôi liều nói thật với bác và quả đúng như nhận định của tôi. Tôi nhờ bác ra căn cứ bắt liên lạc cho tôi. Bác đi, nhưng không hiểu sao mất tích luôn, không bao giờ trở lại nữa. Hết cách. Cuối cùng tôi phải xin ông Đàm Y đưa tôi vào làm công an và sau đó xin làm luôn Đồn trưởng Công an Từ Sơn, với lý do là làm ở vị trí đó tôi mới có điều kiện tìm được vợ con. Ông Đàm Y rất có thế lực, nên việc của tôi được chấp nhận dễ dàng. Đây là đồn kiểm soát bắt hàng lậu trên các chuyến xe tuyến Hà Nội - Bắc Giang. Mục đích của tôi lúc này là tìm cho được người tin cậy để bắt liên lạc. Tôi quan sát, phát hiện trong xóm phía sau đồn có một cô gái, tên là Quỳ, có thể là người liên lạc của ta, nhưng không dám tiếp cận.

Tôi dùng một phương pháp khác. Từ khi làm đồn trưởng, tôi lệnh cho nhân viên không được bắt hàng, tất cả hàng lậu cho đi hết. Không ai hiểu vì sao tôi làm như vậy. Dân buôn thấy tôi dễ quá, đâm ra sợ, đến mức họ phải mang hàng vào đồn bảo tôi phải làm biên bản, họ sợ tôi dễ quá sẽ bị cấp trên chuyển đi nơi khác. Thời gian này tôi tập trung nghiên cứu những tay trùm chở hàng lậu qua đây, phát hiện thấy vợ tên Đồn trưởng Bảo an (đóng cách đồn của tôi khoảng 1,5 km) cũng là trùm buôn lậu. Đến một hôm, tôi ra lệnh bắt toàn bộ hàng của tên Đồn trưởng Bảo an".

Thấy chúng tôi ngạc nhiên, ông cười, nói tiếp: "Các anh có biết tôi làm như vậy để làm gì không ? Là để tạo ra một sự cố, may ra tìm được người của mình, vì tôi đợi lâu quá. Và quả như tôi dự đoán. Hôm sau, tên đồn trưởng dẫn một tốp lính tấn công đồn của tôi. Quân của tôi chỉ có mấy người thì làm gì được nó, nên bỏ chạy hết. Còn một mình tôi, chúng đánh tôi một trận tơi bời. Tôi không chạy, vì mục đích của tôi là để cho chúng đánh mà. Lúc ấy nhiều dân buôn đè lên người để đỡ đòn cho tôi, nhưng tôi cũng bị một trận đau ê ẩm, cả người bê bết máu. Khi chúng bỏ đi, cô Quỳ mà tôi đã kể ở trên đến đưa tôi về nhà, lấy lá thuốc rịt các vết thương cho tôi. Nhờ chuyện đó tôi mới biết chắc cô Quỳ là người tốt, nhưng cũng không biết chắc cô ấy có phải là người bên mình hay không. Tôi đành phải liều một lần nữa. Tôi nói với cô tôi là người của cách mạng, cần phải bắt liên lạc gấp. Tôi nhờ cô ra căn cứ tìm cách liên lạc với anh Văn Tùng, lúc đó là người chỉ huy của tôi. Cô Quỳ nhận lời đi theo đề nghị của tôi. Ba ngày sau cô trở lại, bảo tôi đến số 3 Hàng Khoai gặp người cần gặp. Tôi đến gặp anh Văn Tùng, báo cáo tình hình và nhận chỉ thị. Anh Văn Tùng yêu cầu tôi ra lại vùng giải phóng một thời gian để bàn cụ thể cách thức hoạt động lâu dài sau này, thời gian và địa điểm đón tôi được hẹn trước. Tôi giao công việc cho đồn phó, nói rằng tôi phải dành một thời gian đi đón vợ con. Đến giờ hẹn, tôi được cậu giao thông ra đón. Lúc tôi và cậu ấy đang đi trên đê Đáp Cầu của sông Đuống để ra vùng giải phóng thì phát hiện một toán lính Pháp đi tuần bên kia bờ đê. Cậu ta đưa tôi xuống vệ đê để tránh toán lính, vừa đi một đoạn thì cậu giao thông dẫm phải một quả mìn, mìn nổ làm cậu ta chết tại chỗ, còn tôi thì bị ngất đi. Lúc tỉnh dậy, tôi thấy có bàn tay đụng vào người. Mở mắt ra, tôi nghe ngay giọng một cô gái: "U ơi, u ơi... Anh ấy tỉnh rồi!". Tôi chưa hiểu gì cả, thì một cụ già chạy vào ôm lấy tôi khóc nức nở: "Ôi con ơi... con của mẹ sống rồi, ơn trời phật...". Điều gì vậy ? Tôi vẫn không hiểu. Tôi có quen bà này đâu... Nhưng khi tỉnh hẳn, tôi lập tức hiểu ngay, thì ra là người dân đã cứu tôi. Bà cụ biết chắc tôi là Việt Minh, nên đã nhận tôi là con, nói với bọn địch rằng con của bà ngẫu nhiên đi gần chỗ nổ mìn, không quen biết người vừa chết. Nhờ lòng dân mà tôi thoát nạn. Sau đó bà cụ đưa tôi vào bệnh viện điều trị vết thương. Một tháng sau tôi trở lại nhà ông Đàm Y và nói dối rằng trên đường đi tìm vợ con tôi đã bị bệnh sốt rét...".

Câu chuyện ông kể thật là giản dị. Bác Năm Gái làm công, cô Quỳ, hai mẹ con bà cụ... Họ ở khắp nơi, bây giờ kẻ mất người còn, nhưng thế hệ kế tiếp thế hệ, tấm lòng của dân là biển cả, là thiên la địa võng. Bất kể anh là ai, hễ anh chống ngoại xâm, anh yêu nước, anh làm những chuyện ích nước lợi dân thì được đùm bọc chở che, ngược lại thì anh không có đường thoát. Dân tộc Việt Nam này là như vậy, thời nào cũng vậy. Bài học đó đã thấm tự nhiên vào máu thịt của người chiến sĩ tình báo.

Nhưng mọi chuyện chưa phải đã thuận buồm xuôi gió. Ông Đàm Y có thể tin ông, nhưng cơ quan mật vụ của Pháp thì không đơn giản. Vũ Đình Lý, Trưởng Công an Hà Nội lúc đó biết rõ ông là Việt Minh được "đánh" vào Hà Nội để hoạt động nên muốn ra lệnh bắt ông...


Tiêu đề: Re: Tình báo VN trong KCCM
Gửi bởi: Tunguska trong 25 Tháng Mười Một, 2008, 12:02:46 pm
Câu chuyện về kho vàng

Xung quanh câu chuyện quan hệ với gia đình ông Đàm Y có nhiều uẩn khúc, liên quan đến những vấn đề riêng tư nhạy cảm của gia đình ông sau này. Đó là một bí mật, nhưng không phải là bí mật của ngành tình báo, mà là bí mật về số phận của những người thân của ông, có lẽ “người ngoài” không nên biết. Ông chỉ nói rằng , ông Đàm Y không có con trai, ông ta muốn lo mọi chuyện cho ông Ba Quốc để sau này ông Ba Quốc lo cho ông ta lúc tuổi già.

Câu chuyện đó mang nhiều tình tiết hết sức tế nhị, nhưng đại khái là hai bên có một sự thỏa thuận... Trở lại chuyện rắc rối từ cơ quan công an Hà Nội. Mặc dù ông Đàm Y có nghi ngờ ông Ba Quốc là Việt Minh, nhưng ông ta vẫn can thiệp không cho Vũ Đình Lý ra lệnh bắt ông Ba Quốc. Vì vậy ông mới được yên ổn.

Năm 1954, Hiệp định Genève được ký kết. Địch tổ chức một đợt di cư ào ạt vào Nam. Ông được lệnh theo theo quân Pháp vào Nam tiếp tục hoạt động. Nhưng có một vấn đề gay cấn không biết làm sao giải quyết được. Đó là hồ sơ nghi vấn ông làm Việt Minh vẫn đang ở chỗ Vũ Đình Lý. Với hồ sơ đó, khi vào Nam chắc chắn ông sẽ bị bắt ngay. Chỉ có cách duy nhất là nhờ ông Đàm Y. Và ông Y đã giúp ông. Với thế lực của mình, ông Đàm Y đã nói với Bạch Văn Luy, là Chánh án tòa án tối cao lúc đó, rút toàn bộ hồ sơ nghi vấn của ông ra khỏi cơ quan công an, chỉ để lại hồ sơ hành chánh. Và ông đã vào Nam với tư cách là người trong ngành công an của Pháp cùng một bản lý lịch hoàn toàn “trong sạch”, không dính đến Việt Minh.

Ông bảo, khi nhận nhiệm vụ làm tình báo quân sự, khi vào hậu phương của địch ông phải làm hai chức năng : Thứ nhất là báo tin tức về địch, thường xuyên và đột xuất. Thứ hai là “hành động cách mạng”, bằng cách : vô hiệu hóa âm mưu thủ đoạn của địch chống phá ta, phát hiện cán bộ của ta làm tay sai cho địch và kích động, khai thác mâu thuẫn nội bộ địch. Muốn làm được “hai chức năng” đó, phải “chui” thật sâu, “leo” thật cao vào các cơ quan cơ mật của đối phương.Đó là việc hoàn toàn không dễ chút nào. Ông nghĩ mãi chuyện đó trong đầu. Khi xuống Hải Phòng để lên tàu vào Nam, ông tìm cách làm quen với những người “có máu mặt”. Tình cờ ông gặp được một người Tây lai, đó là Ginard, Trưởng phòng nhì của Pháp. Anh ta nói với ông rằng anh ta biết người Pháp đang có kế hoạch chuyển một số vàng rất lớn về Pháp. Anh ta gợi ý : “Nếu ông quen ai có thế lực, tôi sẽ cho biết cụ thể về kế hoạch đó. Tôi muốn có tiền hoa hồng”. Thế là tự nhiên ông có được một “bửu bối”.

Vào Sài Gòn, ông làm việc ở Nha Công an Nam phần, nhiệm vụ là làm kế toán. Tất nhiên ông không hài lòng với việc đó. “Làm kế toán thì không thể có điều kiện làm đại sự được”, ông nghĩ. Ông cố tìm cách làm sao có thể vào sâu các cơ quan cơ mật của địch. Và ông nhớ đến “vụ vàng” của Ginard. Để khai thác được vụ này, việc đầu tiên là phải tìm xem ở đây ai là người có thế lực nhất bên cạnh gia đình Ngô Đình Diệm. Qua nhiều người, ông biết người đó là Trần Kim Tuyến, là Trưởng ban công tác đặc biệt Phủ Tổng thống (Sở Nghiên cứu chính trị xã hội) . Nhưng tiếp cận với Trần Kim Tuyến không phải dễ. Ông lại phải tìm hiểu những ai là người thân của Trần Kim Tuyến. Biết được Kiều Văn Lân, chủ nhiệm báo Tự Do là bạn thân của Trần Kim Tuyến. Ông đến làm quen với ông Lân. Khi quen biết rồi, ông nói với ông Lân về “vụ vàng”. Và ông Lân báo ngay việc đó với Trần Kim Tuyến. Ngay ngày hôm sau, Trần Kim Tuyến gọi ông cùng ông Lân đến.

Ông nhớ lại : “Sau khi nghe tôi nói chuyện này, bác sĩ Tuyến bảo tôi dẫn Ginard đến gặp ông ta. Tôi tới cư xá Pháp tìm Ginard và đưa Ginard đến gặp bác sĩ Tuyến. Kết quả là, sau khi nghe Ginard nói cụ thể, bác sĩ Tuyến báo cáo với Ngô Đình Nhu, rồi giao nhiệm vụ cho tôi cùng với Ginard tới Ngân hàng tìm hiểu và theo dõi xem bao giờ thì người Pháp chuyển vàng xuống tàu và vàng sẽ được chuyển như thế nào. Tôi mang theo 3 “đàn em” - những người người lính comando cũ, theo tôi từ Hà Nội, đó là Châu “gối”, Quạ “đen” và Thạch Sanh. Lúc đó lại xảy ra một sự cố...”.

Ông kể tiếp : “Trên đường đi tới Ngân hàng, tôi và 3 người của tôi đột nhiên bị bắt. Người bắt chúng tôi là đại úy Nguyễn Đức Xích, trưởng phòng nhì của Lữ đoàn an ninh Phủ Tổng thống. Người ra lệnh bắt là trung tá Lữ đoàn trưởng Lý Thái Như. Tôi bị giam ở một buồng trên lầu, còn 3 người của tôi bị giam ở dưới trại giam. Tôi rất phân vân, không hiểu vì sao mình bị bắt. Tôi đi làm việc cho Phủ Tổng thống mà bị người của Phủ Tổng thống bắt. Tôi nghĩ thế là hết rồi, chắc là địch đã phát hiện ra tung tích, tôi đã bị lộ...”.


Tiêu đề: Re: Tình báo VN trong KCCM
Gửi bởi: Tunguska trong 25 Tháng Mười Một, 2008, 12:04:14 pm
“Người hùng” của Cơ quan mật vụ Phủ Tổng thống

Một buổi sáng nằm trong buồng giam, đang nghĩ một chặng đường mới chưa bắt đầu mà coi như đã hết, ông Ba Quốc bỗng nghe một tiếng "soạt" nhẹ. Một mảnh giấy vo tròn ai đó vứt vào sàn nhà. Ông nhặt lên, mở ra đọc, trong đó có một dòng chữ: "Bọn em bị chúng tra tấn rất tàn bạo. Chúng bắt bọn em khai anh và bọn em nhận lệnh của bác sĩ Tuyến ám sát trung tá Lý Thái Như (xin lỗi bạn đọc, kỳ trước đánh máy nhầm là Lý Thanh Như - PV), Lữ đoàn trưởng An ninh Phủ Tổng thống và đại tá Nguyễn Cao, tham mưu biệt bộ Phủ Tổng thống". Đó là mảnh giấy do người của ông bị giam ở dưới tìm cách ném lên. Ông nhớ lại: “Nhận được mảnh giấy đó tôi thở phào nhẹ nhõm. Tôi biết mình đã rơi vào chỗ mâu thuẫn nội bộ giữa đám tay chân của Ngô Đình Cẩn (trung tá Như) và tay chân của Ngô Đình Nhu (bác sĩ Tuyến). Tôi chờ đợi và nghĩ cách đối phó, nghĩ cách khai thác mâu thuẫn này. Nằm trong phòng giam mà tôi cảm thấy lý thú vô cùng...".

Chừng một tuần lễ sau, đại úy Xích vào phòng giam gặp ông. Xích bảo: "Anh cứ yên tâm. Tôi tuy là Trưởng phòng nhì của ông Như nhưng là người của bác sĩ Tuyến. Bác sĩ Tuyến bảo tôi sẽ lo cho anh ra...".

Nghe đại úy Xích nói những lời như vậy ông nghĩ ngay đây là một thủ đoạn của Lý Thái Như. Chưa biết chúng sẽ bày trò gì đây. Nhưng ông vẫn "lật bài ngửa" với Xích: "Tôi không biết ông là người của ai, nhưng dù anh là người của ai đi nữa thì tôi vẫn kính trọng bác sĩ Tuyến, ông ấy là người có đạo đức. Còn ông Như là người bậy bạ...". Đại úy Xích ra về không nói gì thêm.

Khoảng 10 ngày tiếp đó, cũng vào một buổi sáng, một người lính vào mở cửa buồng giam dẫn ông đi. Ông nghĩ chắc chúng sẽ đưa ông đi tra tấn. Nhưng không phải. Chúng đưa ông đến một căn phòng rộng. Ở giữa có đặt một cái bàn có một người ngồi. Đứng một bên là 3 người đàn em của ông, còn đứng phía bên kia là trung tá Như và những người của ông ta.

Khi ông bước vào, người ngồi giữa bảo: "Tôi là đại diện của tổng thống được giao đến xử vụ này". Nhìn sang ông, người đó hỏi: "Ông có phải là ông Tá không? Ông hãy cho biết hết những gì đã xảy ra, phải khai cho đúng sự thật". Ông kể đúng sự thật, từ chuyện bác sĩ Tuyến giao cho ông đi theo dõi vụ Pháp chuyển vàng từ ngân hàng về Pháp, đến việc bị người của trung tá Như bắt giam trên đường làm nhiệm vụ. Kể xong, ông chỉ vào Lý Thái Như nói “phịa” thêm: "Cách đây 3 ngày, ông Như một mình tới buồng giam đưa tôi lên xe jeep chở đến bên sông Nhà Bè, bắt tôi phải ký vào một biên bản đã đánh máy sẵn với nội dung là: Tôi nhận lệnh của bác sĩ Tuyến đến ám sát trung tá Như và đại tá Cao. Tất nhiên việc đó là bịa đặt sai sự thật nên tôi không ký. Ông Như cho tôi một thời gian suy nghĩ và dọa rằng nếu tôi không ký ông ta sẽ bỏ tôi vào bao bố quẳng xuống sông...". Lý Thái Như nghe đến đó há hốc mồm, rồi nổi xung lên, định xông vào đánh ông. Nhưng người ngồi giữa trợn mắt quát: "Ông không được làm bậy. Tôi là người của tổng thống. Trước mặt tôi mà ông còn có thái độ như vậy, huống hồ... Thôi, ngày mai mời ông và người của ông dẫn ông Tá và người của ông Tá tới Dinh Tổng thống. Tổng thống sẽ trực tiếp xử vụ này". Quay sang ông, người đại diện tổng thống nói tiếp: "Tôi cũng báo cho ông Tá biết là ông hãy yên tâm. Người của ông cũng đã báo hết cho tôi nghe chuyện này rồi". Nhìn nét mặt trung tá Như ông thấy ông ta không giấu được vẻ lo lắng. Ông ta lo lắng tột độ... Sau đó, Lý Thái Như đưa ông về phòng của ông ta, lấy rượu mời ông và tỏ ra rất ân hận. Như bật khóc và nói với ông như năn nỉ: "Mong anh thương tình. Ngày mai vào gặp tổng thống mà anh nói như thế này thì sự nghiệp của tôi sẽ tan thành mây khói". Ông trả lời lấp lửng: "Trung tá làm sao thì tôi cũng làm như vậy mà...". Sáng hôm sau, ông kể: “Lý Thái Như và người của ông ta đưa chúng tôi tới tầng hầm của Dinh Độc lập. Tại đây tôi đã thấy bác sĩ Trần Kim Tuyến và mấy người khác chờ sẵn. Đợi khoảng 1 tiếng, Vũ Văn Hải, Chánh văn phòng của Ngô Đình Diệm xuống, bảo rằng ông Diệm hôm nay bận tiếp khách ngoại quốc không đến được, tổng thống sẽ có quyết định sau, bây giờ ai làm gì thì về làm việc ấy... Phía bác sĩ Tuyến vui như thắng trận. Họ công kênh tôi về cơ quan như một người hùng. Hôm đó bác sĩ Tuyến tặng tôi 1.000 đồng, bảo mang về cho nhà tôi yên tâm rồi tiếp tục làm nhiệm vụ, công việc vẫn chưa xong đâu...". Một tháng sau, trung tá Lý Thái Như bị cách chức. Bác sĩ Tuyến được bổ nhiệm làm Giám đốc Sở  Nghiên cứu chính trị xã hội (Cơ quan mật vụ Phủ Tổng thống) thay Vũ Tiến Huân. Ông chính thức được điều về Sở này, với cấp bậc là chuyên viên 3. Cần biết, để trở thành một cán bộ chính thức của Sở Nghiên cứu chính trị - xã hội, phải có đủ 3 điều kiện: Một, phải là đảng viên đảng Cần lao; hai, phải là người Công giáo; ba, phải là người miền Trung. Nhưng vì ông đã "lập công lớn", nên Trần Kim Tuyến bảo: "Anh là trường hợp đặc biệt". Bác sĩ Tuyến chỉ khuyên ông vào đạo Công giáo. Ông Tuyến cũng giao cho linh mục Thụ làm người bồi dưỡng giáo lý và giao cho Hoàng Ngọc Điệp, Phó giám đốc Sở Nghiên cứu chính trị - xã hội làm "cha đỡ đầu" cho ông. Từ đây ông trở thành người "hoàn toàn tin cậy" của Trần Kim Tuyến...


Tiêu đề: Re: Tình báo VN trong KCCM
Gửi bởi: Tunguska trong 25 Tháng Mười Một, 2008, 12:05:52 pm
“Biết địch, biết ta”

Như mọi người đều biết, Hiệp định Genève được ký kết năm 1954, những người cộng sản và nhân dân Việt Nam vẫn thành thật tin rằng 2 năm sau sẽ tổng tuyển cử thống nhất nước nhà. Nhưng Ngô Đình Diệm thì không quan tâm đến bản Hiệp định và nguyện vọng của nhân dân. Với sự hậu thuẫn của Mỹ, Diệm phế truất Bảo Đại, xây dựng miền Nam thành “nước Việt Nam Cộng hòa”.

Vì chủ trương nghiêm chỉnh thi hành Hiệp định Genève, nên Đảng Cộng sản chủ trương không đấu tranh vũ trang. Ngay cả khi biết chắc chính quyền Ngô Đình Diệm không thi hành Hiệp định, Đảng vẫn chỉ cho phép tiến hành đấu tranh chính trị, đấu tranh “đòi thi hành Hiệp định Gnenève”. Trong khi đó, Ngô Đình Diệm triệt để thực hiện chính sách “tố cộng, diệt cộng”, lê máy chém khắp miền Nam. Hậu quả là thực lực của cách mạng cũng như phong trào yêu nước của nhân dân đều bị dìm trong biển máu.

Ở Sài Gòn, chính quyền Ngô Đình Diệm một mặt thực hiện chính sách “tố cộng, diệt cộng”, một mặt tiến hành dẹp các giáo phái võ trang thân Pháp. Để củng cố vị trí của mình, chính quyền Ngô Đình Diệm mà người “chèo lái” thực chất là Ngô Đình Nhu, đã dần dần dần biến thành chế độ độc tài “gia đình trị”. Trong đó, người “lãnh đạo tinh thần” bên trên là ông anh ruột Ngô Đình Diệm - Tổng Giám mục Ngô Đình Thục. Điều hành trực tiếp công việc của chính phủ là một ông em ruột – cố vấn Ngô Đình Nhu. Trực tiếp “cai quản” miền trung cũng là một ông em ruột – Ngô Đình Cẩn. Chế độ Ngô Đình Diệm ngay sau khi hình thành đã bộc lộ nhiều mâu thuẫn và những mâu thuẫn đó ngày càng trở nên gay gắt. Ngay trong gia đình họ cũng bộc lộ mâu thuẫn. Đó là mâu thuẫn giữa Ngô Đình Nhu với Ngô Đình Cẩn. Lâu nay sách báo viết về gia đình họ Ngô thường miêu tả Ngô Đình Cẩn là một anh nhà quê bất tài “chân đi guốc gỗ, miệng nhai trầu”, nhưng tướng tình báo Phạm Xuân Ẩn thì cho rằng “Ngô Đình Cẩn là một người rất tài giỏi, nếu anh em Diệm – Nhu nghe lời Cẩn thì chưa chắc chế độ Ngô Đình Diệm đã sụp đổ lúc đó”. Nhưng đó là chuyện không liên quan đến thiên ký sự này. Chúng tôi muốn nói lướt qua một chút để bạn đọc hiểu thêm nhân vật chính của chúng ta lúc này đang ở trong một bối cảnh như thế nào.


Tuy là “lãnh chúa miền trung”, nhưng Ngô Đình Cẩn vẫn “thò tay” rất sâu vào hầu hết các vấn đề ở Sài Gòn, nhất là “vấn đề nhân sự”. Ngô Đình Cẩn muốn tìm cách đưa người thân tín gốc miền trung của mình vào các cương vị trọng yếu trong chế độ, còn Ngô Đình Nhu thì thích dùng người Bắc di cư. Ngô Đình Nhu đặc biệt tin dùng Trần Kim Tuyến, còn Ngô Đình Cẩn thì rất ghét Tuyến, muốn đưa người của ông ta thay Tuyến. Vì vậy mới có chuyện đàn em của Cẩn tìm cách hãm hại Tuyến và nhân vật chính của chúng ta đã khai thác một cách ngoạn mục “sự cố” đó để củng cố vị trí của mình trong cơ quan mật vụ Phủ Tổng thống. Không thấy ông nói về kết quả của “vụ vàng”, chúng tôi thắc mắc. Ông cười : “Sau đó là việc của họ. Được việc của mình rồi, tôi không quan tâm đến vụ ấy nữa”. Nghe ông nói một câu như vậy chúng tôi hiểu rõ hơn về tính cách của ông : Tính mục đích của nhà tình báo này là rất cao. Ông không quan tâm đến những gì không liên quan đến nhiệm vụ của mình.

Trở thành chuyên viên của Sở Nghiên cứu chính trị, ông Ba Quốc tập trung nghiên cứu tất cả những công việc của cơ quan này và bắt đầu khai thác những gì có thể khai thác. Ông nói thành thật : “Tôi không được đào tạo gì nhiều, học vấn cũng vậy mà nghiệp vụ tình báo cũng vậy. Chỉ đến khi vào trong lòng địch tôi mới tự học. Ban đầu tôi hơi lo vì vào đây tiếp xúc với toàn là luật sư, bác sĩ, trí thức... mà mình từ miền bắc vào, trông nhà quê lắm. Nhưng sau một thời gian học hỏi, thích nghi, tôi thấy bọn họ cũng không hơn gì mình, cả về kiến thức, về nghiệp vụ... Từ đó tôi thấy tự tin hơn”. Ông làm việc tận tụy, chu đáo, mẫn cán để tạo lòng tin cho Trần Kim Tuyến.

Vừa thể hiện “tính chuyên nghiệp” trong công việc hàng ngày, ông vừa nhanh chóng tìm hiểu để biết rõ những cái mạnh và cái yếu của cơ quan mật vụ Phủ Tổng thống, ngoài chức năng, nhiệm vụ và các thủ đoạn của nó. Ông kể : “Năm 1956, Mỹ cấp cho Sở Nghiên cứu chính trị xã hội (Phòng 4) 50 triệu đồng (tiền Sài Gòn lúc đó) để tổ chức biệt kích đánh phá miền Bắc. Biệt kích thì chọn những người công giáo di cư, hầu hết là người Bùi Chu-Phát Diệm để người Mỹ huấn luyện. Còn số tiền đó thì dùng để mua một chiếc tàu viễn dương loại tốt. Nhưng, bác sĩ Tuyến lại quan tâm đến việc khác nhiều hơn, nên ông ta đã dùng 30 triệu dùng để chi cho công việc của Đảng Cần Lao và củng cố Tổng liên đoàn lao động của Bùi Lượng để chống lại Tổng liên đoàn lao công của Trần Quốc Bửu do Mỹ khống chế. Số tiền còn lại đi mua tàu, bị Phòng 4 ăn bớt một ít, người đi mua ăn bớt một ít nữa, nên chỉ mua được một chiếc tàu cũ nát không ra gì. Sau chương trình đó, Mỹ vẫn nhận được tin tức về miền Bắc, nhưng đùng một cái người Mỹ sinh nghi. Bởi họ kiểm tra những tin tức đó, thấy không phải gửi trực tiếp từ Hà Nội mà lấy từ người của Trần Kim Tuyến ở Lào và Campuchia. Năm 1958, người Mỹ yêu cầu kiểm soát chương trình này. Để đối phó, Trần Kim Tuyến tạo sự cố cho tàu nổ luôn ngoài khơi, cho phép thuyền trưởng và thuyền phó nhảy trước khỏi tàu để thoát nạn”. Đó là một trong những câu chuyện cho thấy chính quyền Ngô Đình Diệm và bản thân Trần Kim Tuyến nhận viện trợ của Mỹ mà bắt đầu “qua mặt” người Mỹ như thế nào. Những việc đại loại như thế ông đều theo dõi kỹ, để “biết địch, biết ta”.

Năm 1956, địch bắt đầu đánh phá ác liệt các “cơ sở nằm vùng của Việt cộng”. Người chỉ huy trực tiếp của ông là ông Ba Hội cũng bị bắt. Trong bối cảnh đó, Trần Kim Tuyến bất ngờ giao cho ông thực hiện một kế hoạch đặc biệt. Đó là một vụ án cực kỳ quan trọng mà đích thân Ngô Đình Nhu phải chỉ đạo trực tiếp và theo dõi từng ngày một. Còn đối với ông, đây là một công việc vô cùng gay cấn...


Tiêu đề: Re: Tình báo VN trong KCCM
Gửi bởi: Tunguska trong 25 Tháng Mười Một, 2008, 12:09:38 pm
Giải cứu ông Nguyễn Văn Linh và 9 đặc khu ủy viên SG-GĐ

Ông Ba Quốc kể: "Chuyện là như thế này. Một đặc khu ủy viên Sài Gòn - Gia Định đang hoạt động ở nội thành tên Huỳnh Kim Hiệp, là một tên phản bội, làm tay sai cho địch. Nghề nghiệp công khai của hắn là thư ký bưu điện. Hiệp đã nhiều lần đến Sở Nghiên cứu chính trị của Trần Kim Tuyến báo cáo tình hình hoạt động của tổ chức cách mạng ở Sài Gòn. Trần Kim Tuyến giao cho tôi phụ trách vụ này.

Tôi được giao quản lý, khai thác Huỳnh Kim Hiệp. Hiệp trực tiếp báo cáo tình hình hằng ngày cho tôi, tôi trả lương cho hắn mỗi tháng 1.000 đồng. Trần Kim Tuyến cũng giao cho tôi 2 đội ngoại tuyến để theo dõi toàn bộ hoạt động của Đặc khu ủy Sài Gòn - Gia Định. Hiệp báo tất cả danh sách đặc khu ủy, gồm bí thư và 9 đặc khu ủy viên, nơi ở và các hoạt động hằng ngày của họ. Tôi dùng 2 đội ngoại tuyến đi trinh sát theo dõi mọi hoạt động của đặc khu ủy. Đây là một vụ án đặc biệt, nên Ngô Đình Nhu trực tiếp theo dõi. Tôi phải làm báo cáo mọi diễn biến hằng ngày của từng thành viên đặc khu ủy trình lên Trần Kim Tuyến hoặc Phó giám đốc Sở Nghiên cứu chính trị xã hội Hoàng Ngọc Điệp để những người này báo cáo lên Ngô Đình Nhu...".

Đây quả là một vụ hết sức cam go. Chúng tôi hỏi: "Những người trong đặc khu ủy lúc đó đang ở đâu ?". Ông Quốc nói: "Ở trong nội thành Sài Gòn cả. Bí thư tên là Trình Văn Thanh, làm nghề sửa radio ở tiệm radio Nguyễn Văn Ba trên đường Nguyễn Trãi, còn 9 ông kia mỗi ông làm việc và ở mỗi nơi khác nhau, rải rác trong thành phố. Thông qua các đội ngoại tuyến tôi nắm chắc hết, cả lý lịch, hình ảnh, quy luật hoạt động...". "Ông có báo cáo lên cấp trên không ?". "Làm sao mà báo được. Không thể báo tin này về tổ chức của mình được, vì trước hết anh Ba Hội, người chỉ huy của tôi đã bị bắt, tôi không biết liên lạc với ai. Thứ nữa là địch theo dõi vụ này rất chặt, theo dõi từng chút một, tôi không thể và không có thì giờ tìm cách liên lạc, mà nếu tìm cách báo được thì chắc chắn mấy ông này đã bị bắt hết rồi. Vì vậy tôi phải tùy cơ ứng biến... Suốt trong thời gian theo dõi, tôi luôn luôn nghĩ cách tốt nhất để cứu những người này, nhưng tôi hoạt động đơn thương độc mã, nghĩ mãi vẫn chưa tìm ra cách. Nếu để lộ thì tôi sẽ mất mạng. Mạng sống của tôi là chuyện nhỏ, nhưng vấn đề là nếu tôi bị lộ thì chắc chắn những người kia sẽ bị tóm gọn, đó là chuyện lớn hơn nhiều...".

Giữa lúc cam go đó thì có một sự cố xảy ra, cũng hết sức nguy hiểm. Ông nhớ lại: "Khi tôi đang theo dõi vụ này thì có một công văn bên Tổng nha Cảnh sát gửi sang Sở Nghiên cứu chính trị xã hội, kèm theo lệnh truy bắt một người có tên là Thọ...". "Thọ là ai vậy ?". "Thọ là tôi chứ còn ai vào đây nữa... Câu chuyện là như thế này. Khi anh Ba Hội liên lạc với tôi trước đó, thỉnh thoảng chúng tôi có đến nhà một người tên là Tài Luy. Tài Luy làm tài xế bên Bộ Tư pháp. Những lần gặp Tài Luy, anh Ba Hội gọi tên tôi là Thọ. Lúc anh Ba Hội bị bắt thì Tài Luy cũng bị bắt luôn. Anh Ba Hội bị địch tra tấn vô cùng tàn bạo, nhưng anh vẫn kiên trung bất khuất, không những không khai báo mà còn không để lộ bất cứ một dấu hiệu nào để địch có thể lần ra dấu tích của đồng đội. Đó cũng là niềm khích lệ rất lớn đối với tôi trong suốt cả đời hoạt động tình báo của mình. Nhưng Tài Luy thì khác. Anh ta đã khai ra tôi. Anh ấy khai người mang tên Thọ làm ở Tổng nha Cảnh sát kèm theo bản mô tả hình dáng, đúng là tôi. Tài Luy chỉ biết tôi tên là Thọ thôi, không biết tên khác. Bên tổng nha điều tra, căn cứ vào hình dáng, cũng nghi vấn, nên gửi công văn yêu cầu truy bắt...". "Lúc đó ông đối phó như thế nào ?". Ông kể tiếp: "Công văn đó gửi cho văn phòng, văn phòng đưa trực tiếp cho Trần Kim Tuyến. Bác sĩ Tuyến giao hồ sơ đó cho tôi, bảo rằng: Anh điều tra xem đó là thằng nào ? Tôi bảo: Vâng...". "Rồi ông làm thế nào ?". Ông cười: "Tôi giao việc đó cho Phòng 1 của Sở Nghiên cứu chính trị, ém luôn bản mô tả về hình dáng, bảo họ điều tra có ai tên là Thọ từ tổng nha chuyển sang không. Sau khi thẩm tra hồ sơ, Phòng 1 bảo không có ai tên là Thọ từ tổng nha chuyển sang cả. Tôi báo lại cho Trần Kim Tuyến. Bác sĩ Tuyến cũng tin như vậy, không yêu cầu điều tra thêm. Thế là tôi thoát nạn. Thật hú hồn...".

Trở lại vụ đặc khu ủy. Ông kể tiếp: "Sau 3 tháng theo dõi vụ án, Ngô Đình Nhu đột nhiên quyết định phá án. Kế hoạch hốt gọn đặc khu ủy được giao cho Giám đốc An ninh quân đội Nguyễn Văn Thăng. Tôi có nhiệm vụ theo dõi. Tôi phải bàn giao toàn bộ hồ sơ, nhân dạng, địa điểm... của toàn bộ các thành viên đặc khu ủy cho đại úy Nguyễn Văn Thăng để lực lượng An ninh quân đội tiến hành bắt. Kế hoạch phá án hết sức chặt chẽ và bí mật hoàn toàn. Đến nước này thì tôi đành phải liều...".

Trước tình huống này, đúng là ông phải liều, không có cách nào khác. “Ông liều như thế nào ?”, chúng tôi hỏi. Ông kể : “Tôi phải bàn giao cho Giám đốc An ninh quân đội từng người một, bàn giao một cách cụ thể tên tuổi, địa chỉ, nhân dạng, anh này là bí thư, anh kia là đặc khu ủy viên... để nó bắt. Theo kế hoạch là ngày thứ Hai phải bắt. Tôi tính toán phải liều cứu cho được những người này, nên tôi bàn giao cho đại úy Thăng vào ngày thứ Sáu tuần trước. Đại úy Thăng và người của anh ta có 3 ngày để theo dõi, nghiên cứu địa hình ở tất cả những nơi có người của đặc khu ủy. Trong thời gian đó tôi cũng sẽ kịp thực hiện kế hoạch của tôi”.  

“Ông có kế hoạch gì vậy ?”. Ông cười : “Kế hoạch là như thế này. Khi bàn giao xong đâu vào đó, tôi đến ngay tiệm radio Nguyễn Văn Ba trên đường Nguyễn Trãi, nơi ông Trình Văn Thanh đang làm nghề công khai. Tôi phải đến ngay lúc người của tôi đã chấm dứt việc theo dõi và người của đại úy Thăng chưa kịp triển khai kế hoạch theo dõi, như vậy mới bảo đảm an toàn. Lúc tôi đến, tôi thấy ông Thanh đang sửa radio bên trong. Tôi đã nhìn kỹ ảnh của ông nên biết ngay đây là Bí thư Đặc khu ủy. Tưởng tôi là khách hàng, ông hỏi tôi cần gì. Tôi không trả lời mà tranh thủ nói nhanh với ông : Thằng Huỳnh Kim Hiệp đã phản bội. Sáng thứ Hai anh và toàn bộ người của anh sẽ bị chúng bắt hết. Nói xong tôi đi ngay. Ra đường tôi ngoảnh lại thì thấy ông Thanh vẫn còn ngẩn người nhìn theo...”.

“Báo được tin cho ông Trình Văn Thanh ông còn lo lắng không ?”. “Tôi vừa yên tâm vừa lo lắng. Yên tâm là vì tôi biết nhận được tin đó ông Thanh và những người trong đặc khu ủy sẽ có cách thoát nạn. Tuy họ hoàn toàn không biết tôi là ai, nhưng chỉ riêng việc tôi báo cho họ tin đó thì họ phải biết là họ đã bị lộ, họ đang gặp nguy hiểm. Còn lo thì tất nhiên rồi. Khi kế hoạch phá án của Ngô Đình Nhu không thành công, chúng sẽ truy thông tin lộ từ đâu...”. Nhưng đó là chuyện sau này.

Và sau đây là việc “phá án”. Ông kể tiếp : “Sau 3 ngày theo dõi, sáng thứ Hai bọn chúng thực hiện việc bắt người. Từng nhóm được khai đến các địa điểm khác nhau. Nguyễn Văn Thăng dẫn một toán lính đến bắt ông Trình Văn Thanh. Tôi cùng đi với Thăng để theo dõi. Hai chiếc xe Jeep đậu núp sau hàng cây xế cửa tiệm Radio Nguyễn Văn Ba và 5 chiếc mô tô núp quanh đó chờ đợi. Mục đích của chúng là bắt cóc ông Thanh ngay trên đường để tránh “bứt dây động rừng”. Lúc đó tôi rất hồi hộp, nhưng tất nhiên vẫn giữ được khuôn mặt bình thản. Đúng 7h30, tôi thấy ông Thanh lù lù dắt chiếc xe gắn máy từ tiệm Radio lên đường Nguyễn Trãi. Tôi hơi hốt hoảng, bụng bảo dạ : Thôi chết rồi, mình đã nói rõ như thế mà cha này tự dẫn thân vào miệng cọp. Nhưng một thoáng sau tôi lại nghĩ : Chắc là cha này kiêu. Nếu vậy thì cha này sẽ có cách.... Tôi dán mắt vào ông Thanh quan sát. Tôi thấy ông chống chân xe máy lên, đạp cho nổ máy. Cùng lúc đó hai chiếc xe Jeep và 5 chiếc mô tô cũng nổ máy. Ông cho xe nổ máy xong, nhìn lại phía sau nhếch mép cười, rồi chạy thẳng. Khi nhìn ông Thanh nhếch mếp cười, tôi nghĩ : chà chà... chắc là cha này có âm mưu gì rồi. Lập tức hai chiếc xe Jeep và toán mô tô của an ninh quân đội rượt theo. Tim tôi như đứng lại mặc dù tôi vẫn giữ vẻ bên ngoài hoàn toàn bình tĩnh. Ông Thanh chạy được một đoạn, đến chợ An Đông, loáng một cái ông nhắc xe lên vỉa hè. Hai chiếc xe Jeep và toán mô tô cứ thế rượt tới, thắng không kịp, lao ngay vào mấy chiếc xích lô. Lập tức, mấy anh xích lô và một đám đông dân chúng chặn xe của bọn an ninh quân đội lại, đòi bắt đền. Thừa cơ, ông Trình Văn Thanh chạy vào chợ An Đông trốn mất...”.

“Còn 9 người kia thì sao ?”. “9 người kia cũng trốn luôn, chúng không bắt được ai cả. Vụ này tôi thấy lý thú quá”. “Sau đó thì việc gì diễn ra ?”. “Để sổng những người kia, Ngô Đình Nhu lồng lộn lên. Sự việc nghiêm trọng tới mức Nguyễn Văn Thăng bị mất chức Giám đốc An ninh quân đội. Còn tôi thì vô can. Vì tôi đã bàn giao toàn bộ cho An ninh quân đội, không còn trách nhiệm gì nữa”. “Ông có biết Trình Văn Thanh là ai không ?”. “Không. Tôi chỉ biết ông ấy là Bí thư Đặc khu ủy Sài Gòn-Gia Định lúc đó. Sau này tôi mới nghe nói đó là ông Nguyễn Văn Linh”. Chúng tôi giở lại lịch sử Đảng, thấy quả đúng là Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh làm Bí thư Đặc khu ủy Sài Gòn-Gia Định vào năm 1955-1957, là thời gian diễn ra sự kiện này. Chúng tôi thắc mắc : “Lúc đó ông đã bàn giao toàn bộ công việc cho An ninh quân đội nên về nguyên tắc thì ông không chịu trách nhiệm gì, nhưng Trần Kim Tuyến có nghi ngờ gì ông không ?”. Ông nói : “Trần Kim Tuyến không tỏ ra có chút nghi ngờ nào. Ngay sau vụ đó, bác sĩ Tuyến giao cho tôi 2 nhiệm vụ hết sức nguy hiểm : Ám sát ông hoàng Norodom Shihanouk và bắt 3 lãnh tụ Hòa Hảo...”.


Tiêu đề: Re: Tình báo VN trong KCCM
Gửi bởi: Tunguska trong 25 Tháng Mười Một, 2008, 12:12:53 pm
Một “sứ mạng” nguy hiểm

Lúc mới lên nắm quyền, anh em Ngô Đình Diệm đã bị các giáo phái võ trang Cao Đài, Hòa Hảo và quân Bình Xuyên gây rất nhiều khó khăn. Các nhóm võ trang này trước đây được người Pháp hậu thuẫn, khi người Pháp rút khỏi Việt Nam, họ muốn lập các "lãnh địa", không phục tùng chính quyền Ngô Đình Diệm. Dẹp cho được lực lượng võ trang của các giáo phái là một trong những mục tiêu trước mắt của họ Ngô. Phật giáo Hòa Hảo là một giáo phái có lực lượng vũ trang hùng hậu ở miền Tây Nam Bộ lúc đó. Liên tục trong những năm 1955-1956, chính quyền Ngô Đình Diệm đã phải mở nhiều chiến dịch truy quét, đồng thời dùng các thủ đoạn để vô hiệu hóa những người cầm đầu, nhằm dẹp cho được lực lượng này.

Trở lại công việc của ông Ba Quốc. Ông được bác sĩ Trần Kim Tuyến giao đi bắt cho bằng được Trịnh Quốc Khánh, một trong các lãnh tụ "Hòa Hảo dân xã" (cùng 2 người nữa là Sỹ Thanh và Văn Phúc). Trần Kim Tuyến nói rằng, nhân vụ lụt ở miền Tây năm 1956, Mỹ có ý định đưa thủy quân lục chiến xuống, danh nghĩa là cứu lụt, để "nắm" quân đội Hòa Hảo. Lại có tin Mỹ sắp đưa Huỳnh Văn Nhứt, em của Huỳnh Phú Sổ (lãnh tụ Hòa Hảo, đã chết) về thay vị trí của Huỳnh Phú Sổ. Như đã nói, anh em Ngô Đình Diệm được người Mỹ "dựng" lên, nhưng lại không muốn người Mỹ "xía" sâu vào nội bộ chính quyền. Biết tin đó Ngô Đình Nhu rất sốt ruột, giục Trần Kim Tuyến sớm "ra tay". Ngô Đình Nhu đã trực tiếp viết thư cho Trịnh Quốc Khánh, mời Khánh về Sài Gòn "để dàn xếp thống nhất lực lượng Hòa Hảo với quân đội quốc gia". Thực chất là lừa để bắt Khánh. Nhưng Khánh vẫn nhận lời. "Sứ mạng" của ông là xuống "mời" Khánh về. Nhưng đây là một "sứ mạng" cực kỳ nguy hiểm. Ông nhớ lại trước đây Nguyễn Ngọc Thơ, tỉnh trưởng Cần Thơ, cũng mời Ba Cụt (Lê Quang Vinh, một trong những người chỉ huy quân sự Hòa Hảo) về tỉnh, với danh nghĩa là mời ra thương thuyết, nhưng rồi bắt Ba Cụt và giết đi. Lần này làm sao mà Trịnh Quốc Khánh có thể tin Ngô Đình Nhu được? Mà Khánh đã không tin Ngô Đình Nhu thì lấy gì đảm bảo rằng Khánh không giết ông? Bởi vậy chuyến đi lần này chết nhiều hơn sống.

Ông kể: "Tôi đi mang theo 3 người, dùng 2 chiếc traction. Đến An Giang, chúng tôi tới Tổ đình nghỉ ngơi, rồi gặp Trịnh Quốc Khánh. Tôi nói lại với Khánh bức thư của Ngô Đình Nhu và bảo rằng tôi được Nhu cử đến mời Khánh về Sài Gòn. Khánh bảo ông ta sẽ đi với tôi về Sài Gòn. Sau đó tôi được Khánh cùng các bô lão Hòa Hảo khoản đãi rất trịnh trọng ngay trong Tổ đình. Tôi tranh thủ gặp riêng Khánh và nói thẳng: Một bên thì rắp tâm muốn bắt, một bên thì nằm im chờ thời cơ. Tôi đến đây là theo lệnh của ông Nhu, nhưng về phía cá nhân thì tôi rất có cảm tình với các ông. Ông hãy nhớ rằng không bao giờ có sự phối hợp giữa quân đội của các ông với quân đội của chính phủ cả. Vì vậy tôi khuyên ông không nên về... Khánh không nghe tôi, ông ta nói: Thôi được rồi, không sao đâu, ông yên tâm đi...". "Khuyên như vậy ông không sợ à? Biết đâu Khánh sẽ báo lại với Ngô Đình Nhu chuyện đó...", chúng tôi hỏi. "Tất nhiên là tôi sợ chứ. Nhưng trong tình thế đó mình phải phá chúng nó. Mà phá chúng nó thì phải chấp nhận nguy hiểm thôi. Tôi vào trong lòng địch, tôi phải thực hiện mấy nguyên tắc...".

Ông nói lại các "chức năng" của người làm tình báo mà ông được giao khi mới nhận nhiệm vụ, trong đó có việc "kích động và khai thác mâu thuẫn nội bộ địch". Ông kể tiếp: "Sáng hôm sau tôi đưa Khánh về Sài Gòn. Tôi đi một xe, Khánh đi một xe, xe của Khánh đi trước, xe của tôi đi sau. Khánh yêu cầu xe ông ta đi để tài xế của ông ta lái, tôi đồng ý. Tôi đã đề phòng trước nên bảo tài xế chạy tốc độ tối đa 70 km/giờ. Nhưng không ngờ lúc vừa ra khỏi thị xã thì đột nhiên xe của Khánh tăng tốc độ, nó chạy vùn vụt tới hơn 100 km/giờ, xe tôi không đuổi kịp. Tôi thầm nghĩ: Chắc cha này mưu đồ trốn đây. Xe của tôi rượt theo, mấy lần suýt lộn nhào mỗi lần qua cầu. Đến bắc Mỹ Thuận thì đuổi kịp, tôi lệnh cho người của tôi còng tay Khánh, đưa về Sài Gòn, đem giam ở trại giam Gia Định".

"Ông khuyên Khánh đừng về, tại sao ông lại bắt Khánh ?". Ông bảo khi Khánh ở trong "căn cứ" của mình mà không đi thì ông không sao, nhưng đã dẫn đi trên đường mà chạy trốn thì ông sẽ "lãnh đủ".

"Sự việc sau đó diễn biến như thế nào ?". "Ngô Đình Nhu rất hài lòng về việc này. Còn Trịnh Quốc Khánh thì rất biết ơn tôi, vì tôi có thiện chí. Tôi bảo với ông ta rằng tôi rất tiếc khi phải hành động như vậy với ông ta, vì tôi không còn cách nào khác. Khánh nói thật là ông ta nhận lời về Sài Gòn là chỉ mượn đường chạy thôi, ông ta biết rõ Ngô Đình Nhu không chỉ muốn bắt ông ta mà còn muốn bắt cả ông Văn Phúc và những lãnh tụ Hòa Hảo khác nữa".

"Sau đó Trịnh Quốc Khánh bị xử lý như thế nào ?". "Bị giam một thời gian".

"Vì sao Ngô Đình Nhu không giết Khánh?". "Giết thế nào được. Giết thì sẽ sinh to chuyện. Hòa Hảo lúc đó là cả một hệ thống, có giáo dân, có quân đội. Giết Khánh, họ nổi loạn lên thì Ngô Đình Nhu lãnh đủ". Đối với lực lượng của Hòa Hảo, cuối cùng Ngô Đình Nhu cũng dẹp được, rồi sáp nhập lực lượng võ trang của giáo phái này vào "quân đội quốc gia".

Sau vụ đó, bác sĩ Trần Kim Tuyến giao cho ông sang Biệt khu thủ đô để "xem bọn tình báo Anh đang làm gì". Ông đi điều tra và báo cho bác sĩ Tuyến rằng họ đang triển khai một kế hoạch, gọi là "chiến dịch thằn lằn" (operation Zecko), phái lực lượng biệt kích ra miền Bắc qua đường Tây Nguyên nhằm "lật đổ chế độ miền Bắc". Ông đề nghị với Trần Kim Tuyến: "Âm mưu của tình báo Anh là gây căng thẳng giữa hai miền. Trong tình hình này, việc gây căng thẳng là không cần thiết và rất nguy hiểm". Trần Kim Tuyến tán thành ý kiến của ông, báo với Ngô Đình Nhu lệnh cho Tổng trưởng sắc tộc Ibrahim dùng thủ đoạn triệt phá kế hoạch đó.


Tiêu đề: Re: Tình báo VN trong KCCM
Gửi bởi: Tunguska trong 25 Tháng Mười Một, 2008, 12:15:07 pm
Cứu ông hoàng Norodom Sihanouk và xóa 7 ổ gián điệp Mỹ

Theo yêu cầu của Mỹ, Sở Nghiên cứu chính trị xã hội lúc đó lên kế hoạch ám sát ông hoàng Norodom Sihanouk. Cuộc ám sát hụt này sau đó đã được báo chí Phnom Penh và quốc tế loan tin và được coi là một trong những vụ mưu sát "nổi tiếng thế giới". Một quả bom được đặt trong gói quà gửi tặng Sihanouk đã nổ với sức công phá rất mạnh nhưng ông hoàng đã may mắn thoát chết. Ông Ba Quốc được Trần Kim Tuyến giao tham gia vụ này.

Để bạn đọc dễ theo dõi, chúng tôi xin nói qua một vài nét về bối cảnh chính trị lúc đó. Khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân Việt Nam giành được những thắng lợi vang dội, từ năm 1953, Pháp buộc phải đàm phán với Sihanouk và thừa nhận nền độc lập của Campuchia, nhưng thực tế vẫn còn khống chế nước này. Và cho đến khi thất bại ở Điện Biên Phủ, ách thống trị của thực dân Pháp ở Đông Dương mới chấm dứt. Tại Hội nghị Genève, Campuchia giành được thắng lợi trọn vẹn, không bị chia cắt như Việt Nam. Hội nghị Genève quy định Campuchia giữ nghiêm thế trung lập. Xây dựng Campuchia thành một nước trung lập lâu dài cũng là mục tiêu của Hoàng thân Norodom Sihanouk. Ông muốn biến Campuchia thành một "Thụy Sĩ của châu Á". Do những quy định của Hiệp định Genève về Campuchia hoàn toàn phù hợp với mục tiêu của mình nên Hoàng thân Sihanouk rất phấn khích và kiên quyết thi hành đường lối trung lập, không để cho Mỹ sử dụng đất Campuchia làm căn cứ xâm lược các nước khác. Bởi vậy Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm rất căm ghét Sihanouk. Mỹ không thuyết phục được Sihanouk, nên một mặt sử dụng viện trợ để lôi kéo các nghị sĩ Quốc hội và các quan chức, tướng lĩnh Campuchia, mặt khác tiếp tay cho chính quyền Sài Gòn đem quân xâm nhập miền Đông Bắc Campuchia, sâu tới 9 km. Hoàng thân Sihanouk yêu cầu Mỹ "khuyên bảo" Ngô Đình Diệm rút quân, nhưng Mỹ không nghe, lý do là Mỹ "không thể can thiệp vào cuộc tranh chấp giữa hai nước láng giềng". Quan hệ giữa Campuchia với Mỹ trở nên căng thẳng.

Dưới sự hậu thuẫn của CIA, Ngô Đình Nhu chỉ thị cho Ngô Trọng Hiếu cùng với cơ quan mật vụ của Trần Kim Tuyến thi hành một nhiệm vụ đặc biệt: Lật đổ Sihanouk. Trước đó, Ngô Đình Diệm sai Ngô Trọng Hiếu làm "thuyết khách", thuyết phục Sihanouk thay đổi chính sách trung lập "thân Cộng", đặc biệt là thay đổi quan hệ với "Bắc Việt Nam", nhưng Sihanouk từ chối. Vì vậy Nhu quyết định thực hiện âm mưu đảo chính lật đổ Sihanouk. Cơ quan mật vụ của Trần Kim Tuyến cùng Ngô Trọng Hiếu mua chuộc được viên tướng Khmer là Dap Chuon phối hợp thực hiện âm mưu này, nhưng cuộc đảo chính bị thất bại. Ngô Trọng Hiếu về lại Sài Gòn. Nhớ lại vụ này, Trần Văn Đôn, cựu trung tướng chế độ Sài Gòn viết trong một cuốn hồi ký: "Sau vụ đó, Sihanouk... ủng hộ Bắc Việt Nam và Mặt trận Giải phóng miền Nam chống lại Sài Gòn. Sihanouk cho quân Bắc Việt dùng lãnh thổ của mình ven biên giới để chuyển quân và vũ khí vào Nam, mỗi lần quân đội Việt Nam cộng hòa tảo thanh các chiến khu Việt Cộng thì quân Mặt trận Giải phóng rút lui qua bên biên giới Miên".

Âm mưu đảo chính bất thành, Ngô Đình Nhu bày tiếp âm mưu ám sát Sihanouk. Chỉ huy chiến dịch này là Hoàng Ngọc Điệp, Phó giám đốc Sở Nghiên cứu chính trị xã hội. "Hoàng Ngọc Điệp đóng vai một ông chủ lớn từ Sài Gòn sang Phnom Penh ở tại một khách sạn sang trọng để chỉ đạo. Cùng đi với Điệp có một số người nữa do Điệp chọn. Tôi phải đi thuê một cô gái đóng vai vợ của Điệp", ông Ba Quốc nhớ lại. Kế hoạch là bố trí cho hai người Hoa từ Hồng Kông sang Campuchia, mang quà của người bạn thân của Sihanouk đến tặng cho ông hoàng. Bom được đặt trong món quà đó. Phương án được bố trí là đúng giờ Sihanouk nhận quà thì bom nổ. Ông Ba Quốc được giao các nhiệm vụ trọng yếu của kế hoạch này. Một mặt ông được giao liên hệ với hai người Hoa mang quà từ Hồng Kông và liên hệ với các nhân viên lễ tân để thống nhất thời gian tiếp khách. Mặt khác, ông lên biên giới Tây Ninh do cán bộ địa phương dẫn đường sang cột mốc 136 gặp người của tướng Dap Chuon để thống nhất kế hoạch đặt bom.

Còn nhớ, lúc đó Trần Kim Tuyến giao cho ông một lúc 2 nhiệm vụ: Ám sát Sihanouk và đi bắt Trịnh Quốc Khánh. Lợi dụng "nhiệm vụ kép" này, ông vừa cứu được ông hoàng Sihanouk vừa thoát nạn. Ông kể: "Khi thống nhất được thời gian tiếp khách của ông hoàng Sihanouk và kế hoạch đặt bom đâu vào đó, tôi bàn giao tất cả công việc lại cho đại úy Lưu Thành Hữu, người cùng đi với Hoàng Ngọc Điệp. Tôi không sang Campuchia nữa, viện lý do phải đi bắt Trịnh Quốc Khánh cho kịp. Đó là lý do chính đáng, không ai nghi ngờ gì tôi, vì Ngô Đình Nhu cũng rất sốt ruột về vụ này".

"Sao ông hoàng Sihanouk không chết?", chúng tôi hỏi. Ông cười: "Tôi bố trí đặt bom lệch giờ, ví dụ: thời gian Sihanouk nhận quà là 10 giờ, tôi bảo người đặt bom cho nổ lúc 9 giờ”.

"Cuối cùng thì bom có nổ không ?". "Nổ hay không thì tôi không rõ, nhưng tất nhiên ông Sihanouk thì không chết. Khi về bọn chúng không nói gì, chỉ lắc đầu ngao ngán. Đại úy Lê Thành Hữu bị Bộ Nội vụ Campuchia bắt. Sau này Sài Gòn phải chuộc mất 7 triệu đồng (tiền Sài Gòn lúc đó) Hữu mới được thả về".

"Vì sao ông cứu ông Sihanouk ?". "Tôi làm như vậy vì theo dõi đài tôi thấy ta có thái độ tốt với ông Sihanouk".

Thời gian này ông thâm nhập ngày càng sâu vào cơ quan mật vụ của địch. Ông đã phát hiện hồ sơ về 7 ổ gián điệp do Mỹ cài ở miền Bắc. Đó là những hồ sơ mang tên STAY BEHIND IN NORTH VIETNAM. Ông chụp ảnh tất cả những hồ sơ này và gửi về căn cứ. Chúng tôi hỏi ông Mười Nho về việc này. Ông Mười Nho nói: "Những thông tin anh Ba Quốc chuyển về được gửi ra Hà Nội, chuyển qua chỗ anh Trần Quốc Hoàn (Bộ trưởng Công an lúc đó), sau này ảnh còn gửi về hàng chục hồ sơ nữa. Các ổ gián điệp đó bị ta làm sạch hết. Đó là thành công lớn của chúng ta. Ta cài người vào trong các cơ quan của nó thì rất nhiều, còn Mỹ cài vào được bao nhiêu đều bị ta tóm sạch hết".


Tiêu đề: Re: Tình báo VN trong KCCM
Gửi bởi: Tunguska trong 25 Tháng Mười Một, 2008, 12:17:45 pm
Sự vô dụng của máy phát hiện nói dối và cái hữu dụng của nghề... coi tướng số

Chế độ Ngô Đình Diệm ngày càng trở thành “độc tài gia đình trị”. Đến những năm 1959-1960, phong trào yêu nước của nhân dân ở cả nông thôn và thành thị dâng lên mạnh mẽ, bắt đầu cao trào Đồng khởi, chuyển cuộc đấu tranh chính trị thành đấu tranh vũ trang và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời. Chế độ Ngô Đình Diệm ngày càng trở thành “độc tài gia đình trị”. Đến những năm 1959-1960, phong trào yêu nước của nhân dân ở cả nông thôn và thành thị dâng lên mạnh mẽ, bắt đầu cao trào Đồng khởi, chuyển cuộc đấu tranh chính trị thành đấu tranh vũ trang và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời. Tại Sài Gòn, nội bộ chính quyền bộc lộ những mâu thuẫn gay gắt. Những người chống đối chế độ bị đàn áp, Phật giáo bị kỳ thị... Trần Kim Tuyến, người cầm đầu cơ quan mật vụ, mặc dù có công rất lớn trong việc củng cố chính quyền Ngô Đình Diệm, nhưng bị Ngô Đình Cẩn tìm mọi cách loại bỏ. Bác sĩ Tuyến bắt đầu chán ghét gia đình họ Ngô. Ông ta không chỉ là trùm mật vụ mà còn có mưu đồ chính trị riêng.

Ông Ba Quốc kể: “Bác sĩ Tuyến không giấu tôi quan điểm chính trị của ông ta. Ông ta không tán thành chế độ gia đình trị và cho rằng Ngô Đình Nhu phạm nhiều sai lầm, đàn áp Phật giáo, không được lòng dân. Ông ta giao cho tôi liên lạc với các lãnh tụ Phật giáo để phát động phong trào chống Diệm-Nhu và lên kế hoạch hoạt động lật đổ. Nhưng kế hoạch bị lộ, bác sĩ Tuyến bị chuyển đi làm đại sứ ở Le Caire (Ai Cập), không còn làm Giám đốc Sở Nghiên cứu chính trị xã hội nữa, còn tôi được chuyển sang Phủ Đặc ủy Trung ương tình báo. Tại đây, tôi và 2 người nữa bị đưa vào máy phát hiện nói dối, chúng muốn kiểm tra tôi có phải là người cách mạng cài vào không...”.

“Ông có... run không?”, chúng tôi hỏi. Ông nói: “Nghe nói vậy tôi run chứ. Tôi nghe những người ở đây nói về cái máy này tôi thấy ớn lạnh xương sống. Vào đó, tôi sẽ phải ngồi đối diện với một người Mỹ và một người phiên dịch, hai tay sẽ đặt lên một cái máy đo nhịp tim qua một sợi dây cặp vào cánh tay. Chúng nó bảo: Ông phải coi chừng, nếu ông mà có dính với cộng sản thì không thoát được đâu. Là vì nó sẽ hỏi dông dài, hỏi đông hỏi tây, rồi sẽ hỏi những vấn đề liên quan đến cộng sản, nếu ông là người của cộng sản thì tim ông sẽ đập không bình thường, như vậy ông sẽ... tiêu ngay. Nghe nói thế tôi hoảng quá”.

“Rồi ông đối phó bằng cách nào?”. Ông bảo tối hôm đó ông không ngủ được, tìm mãi cách để đối phó. Ông nghĩ đến các diễn viên điện ảnh hoặc diễn viên kịch người ta “nhập vai” như thế nào. Ông nhớ lại: “Đêm đó tôi tưởng tượng tâm lý của con một địa chủ gian ác bị cách mạng xử lý anh ta ghét cộng sản như thế nào. Rồi tôi nghĩ nếu tôi là anh ta tôi sẽ có thái độ như thế nào đối với cộng sản. Tôi thử nhập vai thành anh ta...”.

“Phương pháp đó có hiệu quả không?”. “Khi vào máy phát hiện nói dối, chúng dựa vào bản khai lý lịch của tôi để hỏi. Tôi nhập được vai và giữ bình thản trong mọi tình huống. Chúng hỏi tôi 13 câu rồi cho qua, không hỏi nữa và tôi đã vượt qua được chiếc máy này. Có người bị hỏi nhiều hơn, nhưng cũng có người chỉ hỏi 4 câu đã bị loại, mặc dù anh ta là Công giáo toàn tòng, không dính dáng gì đến cộng sản. Vấn đề là anh phải giữ được tâm trạng bình thản trong mọi tình huống...”.

Ông kể tiếp: “Vào đây tôi được bồi dưỡng nghiệp vụ tình báo chống cách mạng và trở thành sĩ quan trợ lý cho Cục trưởng Cục Tình báo quốc nội Nguyễn Văn Giàu. Nguyễn Văn Giàu là thiếu tá. Đặc ủy trưởng Đặc ủy Trung ương tình báo lúc đó là Lê Liêm, trung tá. Nhưng Nguyễn Văn Giàu tỏ ra vẫn kỳ thị với tôi...”.

“Ông làm thế nào để được tin cậy?”. “Nếu bị kỳ thị thì tôi sẽ rất khó có điều kiện hoạt động cho hiệu quả, nên tôi phải tìm cách để lấy lòng tin của họ. Vì vậy tôi phải tiếp cận Đặc ủy trưởng Lê Liêm. Để có cớ tiếp cận, tôi phải khai thác cho được những thông tin mà Lê Liêm quan tâm. Một buổi sáng, tôi đến nhà Lê Liêm, ngồi ở phòng khách đợi ông ta. Ông ta từ trên lầu đi xuống, đi qua phòng khách nhưng không thèm nhìn tôi mà đi thẳng. Vợ ông ta cũng từ trên lầu đi xuống. Trông thấy tôi bà ta nghĩ tôi là người chuyên... dắt gái cho Lê Liêm, nên phun ra một tràng lời lẽ chửi mắng hết sức thậm tệ. Nghe những lời xỉa xói của bà ta, tôi vẫn bình tĩnh không nói gì. Tôi nghĩ ra một cách. Tôi nhìn bà ta từ đầu đến chân, mồm tôi lẩm bẩm như nói một mình. Bà ta nhìn tôi ngạc nhiên, rồi lập tức dịu giọng hỏi: Anh biết tướng số hả? Tôi biết cá đã cắn câu, nên ra vẻ khiêm tốn: Thưa bà, tôi cũng biết chút đỉnh. Bà ta ngồi xuống ghế, rất vui vẻ: Anh thấy tướng của tôi có gì lạ? Tôi làm ra vẻ rất quan trọng: Tôi nhìn bà mà bị cuốn hút. Vì tướng của bà rất lạ, rất đặc biệt. Đó là tướng của một bậc mệnh phụ phu nhân. Ông nhà sở dĩ được như ngày nay là nhờ tướng của bà. Nhưng không dừng lại ở đó, với tướng của bà, ông nhà sẽ còn tiến xa hơn nữa... Tôi có đọc qua một số sách vở về tướng số nên phân tích một hồi, làm bà ta hết sức phấn khích. Cuối cùng, bà ta hỏi: Anh đến đây có việc gì? Tôi nói: Tôi có việc rất quan trọng cần báo với Đặc ủy trưởng. Bà ta bảo: Sáng mai anh lại đây.

Sáng hôm sau tôi lại. Tôi rất ngạc nhiên, cả hai vợ chồng Lê Liêm ngồi đợi tôi, thái độ rất vồn vã. Khi tôi ngồi xuống, bà vợ nói mấy câu rồi đứng dậy lên lầu, để tôi ngồi nói chuyện với Lê Liêm. Lê Liêm cũng hỏi thăm tôi rất tử tế. Tôi nói với ông ta tôi ở chỗ thiếu tá Nguyễn Văn Giàu, tôi được tin người Mỹ âm mưu lật đổ chế độ của Tổng thống Ngô Đình Diệm nhưng vì thiếu tá Giàu tỏ ra kỳ thị với tôi nên tôi không biết báo với ai. Lê Liêm nói: Tôi sẽ bảo với thiếu tá Giàu là anh làm việc riêng cho tôi. Còn những tin tức quan trọng anh nắm được anh cứ bỏ phong bì dán kín lại gửi riêng cho tôi. Thông tin về âm mưu của Mỹ tôi lấy từ những nhân vật đối lập, lúc này tôi đã thiết lập rất nhiều quan hệ với họ, trong đó có luật sư Trần Văn Tuyên. Thông tin cung cấp cho Lê Liêm tôi lấy chủ yếu từ luật sư Tuyên. Kể từ sau hôm đó, Nguyễn Văn Giàu kiêng nể tôi một phép, tôi được tự do ra vào phòng làm việc riêng của Cục trưởng tình báo quốc nội. Tôi đã lợi dụng ngay mọi thời cơ để thâm nhập vào nơi cơ mật của bọn họ. Một hôm, tôi vào phòng làm việc của Nguyễn Văn Giàu, lúc đó ông ta đã đi ra ngoài, tôi đã phát hiện và chụp ảnh toàn bộ hồ sơ những cán bộ của ta làm gián điệp cho địch, đó là 1 bí thư tỉnh ủy, 2 tỉnh ủy viên và 1 cán bộ chỉ huy quân đội hàm cấp tá...”.


Tiêu đề: Re: Tình báo VN trong KCCM
Gửi bởi: Tunguska trong 25 Tháng Mười Một, 2008, 12:20:08 pm
Kích động đảo chính

Trong một cuốn hồi ký xuất bản ở nước ngoài, ông Nguyễn Cao Kỳ, cựu Phó tổng thống chế độ Sài Gòn cũ có kể về cuộc đảo chính tháng 10/1960. Ông Kỳ viết: “Cuộc đảo chính do đại tá Nguyễn Chánh Thi cầm đầu, một sĩ quan của quân nhảy dù mà doanh trại nằm bên cạnh căn cứ không quân do tôi chỉ huy.." Ông Kỳ viết tiếp: "Sáng sớm tinh sương ngày 11/11/1960, 3 tiểu đoàn nhảy dù của ông ta chiếm phần lớn các vị trí then chốt ở Sài Gòn, kể cả căn cứ không quân, làm tôi trở thành người tù của họ. Chính lúc bấy giờ Thi đã phạm phải một sai lầm tai hại. Cuộc tiến công sơ khởi không bao giờ được tiếp diễn nữa vì chiều ngày hôm ấy Diệm đã hứa với Thi là ông ta sẽ từ chức và để cho Thi thành lập một chính phủ “đoàn kết quốc gia”. Đối với Thi điều đó có vẻ như là chiến thắng hoàn toàn và sáng hôm sau, Thi công bố kế hoạch của ông trên đài phát thanh do ông kiểm soát. Cùng lúc đó - chắc là do đề nghị của Nhu, con người xảo quyệt - Diệm âm thầm đưa quân trung thành từ phía bắc và phía nam vào thủ đô. Ngay trước khi Thi ý thức được điều gì đang xảy ra thì các lực lượng của Diệm đã chiếm lại được nhiều vị trí then chốt ở Sài Gòn. Cuộc đảo chính đã tan vỡ”.

Còn ông Trần Văn Đôn, cựu trung tướng chế độ Sài Gòn cũ, cũng trong một cuốn hồi ký xuất bản ở nước ngoài đã miêu tả khá sinh động về cuộc đảo chính này. Ông Đôn viết: “Sáng ra tôi đến nhà gia đình vợ tôi ở Chợ Lớn theo dõi tin tức trên đài phát thanh, khoảng 10 giờ tôi nghe tiếng đại tá Nguyễn Chánh Thi kể tội gia đình nhà Ngô... Nghe đại tá Thi lãnh đạo cuộc đảo chánh, tôi hơi ngạc nhiên vì tôi biết ông Diệm cưng quý ông Thi lắm...”. Ông Đôn còn cho biết, chỉ huy cuộc đảo chính này còn có trung tá Vương Văn Đông và trung tá Nguyễn Triệu Hồng, hai người này là anh em bạn rể.

Cũng theo ông Đôn: Quân nhảy dù đã vô được hàng rào của dinh Độc lập, còn cách 50 mét nữa là xâm nhập vô dinh. Lúc đó ông Diệm và ông Nhu lo sợ. Ông Diệm ký ngay sắc lệnh cử thiếu tướng Nguyễn Khánh làm Tổng tư lệnh toàn quyền vì ông Khánh đang có mặt trong dinh. Tình hình nguy ngập, họ định nhượng bộ quân đảo chánh. Bà Trần Lệ Xuân (vợ Ngô Đình Nhu) không chịu, bà ta đòi chống cự. Nguyễn Khánh tức giận nói: “Nếu bà chỉ huy, thì tôi xin rút lui. Bà rút lui tôi mới chỉ huy”. Ngô Đình Diệm phải dàn xếp, nói với bà Nhu: “Thôi bà mệt, bà vô nghỉ đi, để chúng tôi lo...”. Quân nhảy dù ở ngoài không tiến thêm, vì lúc đó ông Võ Văn Hải, Chánh văn phòng đặc biệt đã đề nghị Ngô Đình Diệm bảo Nguyễn Khánh ra nói chuyện với quân đảo chính. Nguyễn Khánh ra gặp trung tá Vương Văn Đông. Khánh hỏi: “Mấy anh muốn gì ?”. Vương Văn Đông trả lời: “Chúng tôi muốn thay đổi chánh phủ, chánh phủ hiện tại làm việc không hữu hiệu...”. Khánh vào trình lại với Ngô Đình Diệm. Hai anh em ông Diệm bàn với nhau rồi đồng ý chấp thuận. Khoảng 4 giờ chiều, ông Diệm tuyên bố qua đài phát thanh giải tán chính phủ... Trong lúc đó, Nguyễn Khánh đề nghị với ông Diệm gọi điện thoại đến đại tá Trần Thiện Khiêm - chỉ huy trưởng Sư đoàn 21 đóng tại Cần Thơ, phối hợp với đơn vị thiết giáp do thiếu tá Lý Tòng Bá chỉ huy đang đóng ở Mỹ Tho lên giải cứu Dinh Độc lập...

Ông Đôn cũng kể rằng, đến buổi chiều ngày 12/11, các sĩ quan làm đảo chính biết mình đã thua, để rút lui cho chắc chắn, họ đến bắt trung tướng Thái Quang Hoàng, tư lệnh biệt khu thủ đô đem ra phi trường Tân Sơn Nhất đưa lên phi cơ C-47 Dakota bay sang Campuchia. Nguyễn Khánh ra lệnh cho hai máy bay khu trục bay theo “xem họ đi đâu”. Hai khu trục bắt kịp chiếc C-47 Dakota đang tới biên giới Campuchia, gọi về xin chỉ thị. Đứng bên cạnh nghe thấy, bà Nhu la lên: “Hạ chiếc máy bay đó, giết hết tụi nhảy dù phản nghịch đó”. Nguyễn Khánh bực mình: “Tôi là tổng tư lệnh ở đây, quyền là của tôi”. Rồi Nguyễn Khánh ra lệnh cho hai máy bay khu trục bay về. Thuật lại chuyện đó, ông Đôn cho rằng sở dĩ Nguyễn Khánh không cho bắn hạ chiếc máy bay vì muốn chứng tỏ rằng "mình có quyền quyết định".

Về vai trò thực sự của đại tá Nguyễn Chánh Thi trong cuộc đảo chính này, ông Đôn viết: “Theo phúc trình sau này cho thấy nhóm chủ trương đảo chính đến nhà trung tá Ngô Xuân Soạn kêu gọi tham gia đảo chính, trung tá Soạn không chịu nên bị giết. Nhóm này đến nhà mời mọc Nguyễn Chánh Thi nhập cuộc và đưa ông Thi đến Dinh Độc lập. Lúc này dân chúng và sinh viên học sinh tụ tập rất đông, khi thấy Nguyễn Chánh Thi và các sĩ quan đến, họ hoan nghênh nhiệt liệt, Nguyễn Chánh Thi cũng đưa tay hoan nghênh theo”.

Trên đây là những tư liệu sơ lược về cuộc đảo chính ngày 11/10/1960. Người cầm đầu thực chất của cuộc đảo chính không phải là Nguyễn Chánh Thi mà là Vương Văn Đông, lúc đó là chỉ huy quân dù ở Sài Gòn. Vì sao Vương Văn Đông tiến hành đảo chính ? Trong vụ này có bàn tay của ông Ba Quốc. Lúc đó ông vẫn còn làm việc ở Sở Nghiên cứu chính trị xã hội của Trần Kim Tuyến. Ông Ba Quốc kể: “Sau khi làm tổng thống, củng cố được chính quyền, Ngô Đình Diệm bắt đầu thay dần số sĩ quan do Pháp đào tạo bằng các sĩ quan do Mỹ đào tạo. Biết rõ điều đó, tôi phải tìm cách kích động số sĩ quan do Pháp đào tạo chống lại Diệm. Tôi đến gặp ông Lê Thanh Cảnh, nguyên là Chánh văn phòng của Bảo Đại khéo léo nói rõ chuyện đó cho ông ta biết. Ông Cảnh bảo tôi đến gặp Vương Văn Bách, anh ruột của trung tá Vương Văn Đông, lúc đó đang chỉ huy lực lượng dù ở Sài Gòn. Vương Văn Đông là sĩ quan do Pháp đào tạo. Nhân vụ đại úy Koong Le làm đảo chính ở Lào, tôi lại đến kích động Vương Văn Bách, tôi nói anh em Ngô Đình Diệm dự kiến sẽ thay hết các sĩ quan do Pháp đào tạo và nói lại ý kiến của ông Lê Thanh Cảnh. Vì tôi là người trong cơ quan mật vụ Phủ tổng thống nên thông tin này rất quan trọng đối với anh em Vương Văn Bách. Vương Văn Đông vốn đã bất mãn với anh em Ngô Đình Diệm, đặc biệt là Ngô Đình Cẩn, không những không cất nhắc mà còn kỳ thị với mình. Nay biết tin đó, Đông càng trở nên tức tối. Chỉ một tuần sau, Vương Văn Đông sẵn có quân trong tay, đã liên kết với một số sĩ quan khác, đưa lực lượng dù đến bao vây Dinh Độc lập. Ngô Đình Diệm xin đầu hàng. Nhưng bọn Vương Văn Đông lúng túng không biết làm gì tiếp theo nên đã bị viện quân của Diệm kéo về dẹp tan”.

Ông Ba Quốc mô tả thêm về cuộc đảo chính này: “Vương Văn Đông cùng các sĩ quan toa rập với nhau để lật Diệm cho... bõ ghét, còn lật Diệm rồi thì làm gì thì họ không biết. Đến phút chót, Nguyễn Triệu Hồng mới đưa ông cậu vợ là Hoàng Cơ Thụy và thông qua ông Thụy gọi thêm mấy người như Phan Bá Cầm, Bùi Lượng ra bàn kế sách, nhưng chỉ loay hoay cãi nhau như mổ bò... Họ giằng co mãi thì Diệm đã kịp đem viện binh về giải cứu rồi”.

Sau vụ đó, bác sĩ Tuyến giao cho ông Ba Quốc tiến hành điều tra cuộc đảo chính. Yêu cầu của Trần Kim Tuyến là phải điều tra xem trong vụ này có bàn tay của người Mỹ không, nếu có thì thực chất người Mỹ muốn gì...


Tiêu đề: Re: Tình báo VN trong KCCM
Gửi bởi: Tunguska trong 25 Tháng Mười Một, 2008, 12:36:43 pm
Những viên kim cương, "cậu" phù thủy và anh bán giày

Trước khi nói tiếp về những điệp vụ của ông Ba Quốc, xin bạn đọc "thâm nhập" một chút vào nội tâm của con người này. Một trong những điểm khác biệt căn bản giữa tình báo "Việt cộng" trong kháng chiến với tình báo của đối phương là làm tình báo cho "Việt cộng" không được lĩnh lương.

Sự khác biệt này mang rất nhiều ý nghĩa. Đó cũng là một sức mạnh bí ẩn mà những kẻ đi xâm lược không bao giờ lường hết được. Chúng tôi hỏi ông Ba Quốc: "Ông có được cách mạng trợ cấp chi phí gì không?". Trả lời: "Không có. Cách mạng không cấp cho tôi cái gì cả. Tôi chỉ có một niềm tin thôi". Đó là niềm tin vào cuộc chiến đấu giành độc lập, tự do cho Tổ quốc, niềm tin vào cuộc chiến đấu cho chính nghĩa. Nằm trong tổ chức của đối phương, ông đã chứng kiến rất nhiều chuyện khôi hài.

Chuyện thứ nhất: Hồi còn làm ở Sở Nghiên cứu chính trị xã hội, một buổi tối ông đi kiểm tra, ông đến một cơ sở của cơ quan tại số 2 Nguyễn Hậu, tại đó có một phòng dành cho một nhóm công tác (bí số là B42). Đến đó ông vô tình bắt gặp đại úy Lưu Thành Hữu và Tôn Thất Tuế đang đổ một túi hột xoàn ra đếm, định chia nhau. Của quý đó họ bắt của một người buôn kim cương ở đường Hồng Thập Tự. Hai người này, tuy là người của Cơ quan mật vụ Phủ Tổng thống, nhưng lại có một "thân phận" khá đặc biệt. Lưu Thành Hữu, người quản lý B42, là một sĩ quan chuyên hướng dẫn Ngô Đình Nhu đi săn. Ngô Đình Nhu rất mê người này, đơn giản là vì lần nào Hữu đưa ông Nhu đi săn, ông Nhu cũng bắn được thú rừng. Thực ra những thứ như hổ, nai, heo rừng... mà ông Nhu bắn được đều là những con vật của người dân tộc thiểu số bẫy được. Mỗi lần ông Nhu đi săn, Hữu phải tới trước địa điểm săn bắn vài ngày, để mua những con thú đó và khôn khéo bố trí để cho Ngô Đình Nhu bắn trúng. Còn Tôn Thất Tuệ là chuyên viên... đấm bóp cho ông Nhu.

Suốt trong mấy chục năm sống trong lòng địch, ông luôn luôn "giữ thân", không những phải giữ cho mình trong trắng, không để cho ai khống chế, mà còn không để cho ai ganh ghét, nhất là không để cho những kẻ có chức có quyền và những người thân cận với kẻ đó biết là mình biết được những mặt trái xấu xa của họ. Vì nếu họ biết được mình biết được những "bí mật" đó thì mình sẽ khó tồn tại lâu dài. Đối với hai người này, tuy chức phận địa vị không hơn ông, nhưng lại là những kẻ hầu hạ Ngô Đình Nhu, nếu bị làm khó, chúng sẽ tìm cách trả thù ông, chúng thiếu gì cách. Theo chức năng, ông phải lập biên bản về vụ này để sáng hôm sau trình cho Trần Kim Tuyến. Nhưng ông không thể "gây thù chuốc oán" với những người này được. Song đã lỡ phát hiện rồi, ông không thể làm lơ. Ông bảo với Lưu Thành Hữu gọi điện cho Trần Kim Tuyến báo tin bắt được một vụ buôn lậu hột xoàn có ông chứng kiến. Hữu nghe lời ông, gọi điện cho bác sĩ Tuyến. Mặc dù đã xử lý một cách "tế nhị" như vậy, nhưng mấy bữa sau bác sĩ Tuyến gặp ông và bảo ông không nên đến B42 nữa. Ngạc nhiên về thái độ này, ông nói thật với Trần Kim Tuyến là ông đi kiểm tra bắt quả tang những người đó lấy kim cương chia nhau, vì giữ thể diện cho họ và vì bảo vệ uy tín cho bác sĩ Tuyến nên ông mới bảo họ gọi điện nói như vậy. Trần Kim Tuyến ngẫm nghĩ một lát rồi nói: "Tôi hiểu, nhưng cậu cũng không nên tới đó nữa".

Chuyện thứ hai: Thiếu tá Nguyễn Văn Giàu ở Phủ Đặc ủy trung ương tình báo là một tay "rất ác ôn". Giàu được cố vấn (phối trí viên) Mỹ Thomas Paul Carney dành cho nhiều biệt đãi khiến cho nhiều người ghen ghét. Có người phát giác Giàu sử dụng bằng cấp giả và định tố giác. Giàu rất lo lắng. Một hôm, Giàu đưa ông Ba Quốc đi uống cà phê để "thổ lộ tâm tình". Giàu có ý định mời một thầy phù thủy "triệu âm binh" lên bảo vệ cho mình. Ông Ba Quốc rất tán dương chuyện đó. Ông bịa ra một câu chuyện, rằng hồi trước ở miền Bắc có một người con gái đẹp bị vợ cả của một tri huyện âm mưu ám hại vì ghen tuông, cô ta mời một phù thủy triệu "một sư đoàn âm binh" lên bảo vệ người con gái, viên tri huyện đã cử một người thân cận đến để "giám hộ sư đoàn âm binh" đó, vì vậy mà cô gái được an toàn tuyệt đối. Ông hứa với thiếu tá Giàu, nếu nhờ phù thủy đến ông sẽ làm nhiệm vụ "giám hộ". Giàu rất phấn khích, cùng ông xuống đường Petrús Ký gặp một phù thủy, gọi là "ông cậu". Hai bên thỏa thuận ngày "lập đàn khao quân", người phù thủy hứa sẽ "triệu" cho Giàu... 3 sư đoàn. Ông triệt để khai thác tâm lý mê tín của người này nhằm thắt chặt quan hệ "hữu hảo", mục đích của ông là hướng tới... cái tủ sắt đựng những kế hoạch công tác tuyệt mật. Tuy kế hoạch "lập đàn gọi âm binh" chưa thực hiện vì sau đó Giàu thoát nạn nhờ được Lê Liêm bảo vệ, nhưng ông Ba Quốc không những được gần gũi hơn với Giàu mà còn được kiêm nhiệm thêm việc, làm trưởng một ban công tác...

Đó là hai trong nhiều câu chuyện khôi hài khiến cho ông Ba Quốc nhìn rõ hơn bản chất, trình độ của những người có chức có quyền trong hàng ngũ của đối phương và điều đó khiến cho ông càng tự tin hơn trong cuộc đấu trí vừa âm thầm dai dẳng vừa khốc liệt. Nhưng niềm tin của ông được củng cố một cách chắc chắn hơn từ một hướng khác, thể hiện qua một câu chuyện hết sức giản dị. Đó là khi ông Ba Hội, người chỉ huy trực tiếp của ông bị bắt, một thời gian sau ông có xuống nhà một người bán giày ở đường Tản Đà. Người này là một người dân bình thường làm cơ sở cho cách mạng mà ông Ba Hội đã giới thiệu với ông. Ông đến đó để hỏi han tình hình. Anh bán giày cười nói với ông: "Anh đừng lo. Chú ấy gan lì tướng quân, mưu kế như Tào Tháo, chúng nó không làm gì được chú ấy đâu". Thuật lại chuyện này, ông nhớ lại: "Lúc nghe anh bán giày nói, tôi cảm thấy rất sượng sùng xấu hổ. Tôi biết anh bán giày nghĩ oan cho tôi. Thực ra tôi đến để nắm tin tức thôi chứ có phải đến vì động cơ sợ anh Ba Hội không giữ khí tiết mà khai ra tôi đâu... Anh Ba Hội và anh bán giày đã làm cho niềm tin trong tôi càng thêm mãnh liệt".


Tiêu đề: Re: Tình báo VN trong KCCM
Gửi bởi: Tunguska trong 25 Tháng Mười Một, 2008, 12:39:20 pm
Giữa những cơn bão của 7 cuộc đảo chính  

“Theo Hồng Liên Liên Xuân Giáo, vào đầu năm 1962, sau vụ phi công Nguyễn Văn Cử và Phạm Phú Quốc oanh tạc Dinh Độc lập, ông được mời vào Dinh gặp Tổng thống Diệm, sau gặp ông Nhu, ông được ông Nhu nhờ ra Văn khố Hoàng Triều cũ ở Huế, tìm cho ông những tài liệu về “tiễu phỉ” và dinh điền từ thời Nguyễn Công Trứ. Nửa năm sau, một kế hoạch tối mật được đệ trình trong đó có kế hoạch đánh vào cân não địch.

Hàng ngày, Sở Tình báo in lại báo Nhân Dân hàng tháng in lại báo Học Tập của Cộng sản, với khổ chữ và hình thức y như của Hà Nội. Một số sách của Võ Nguyên Giáp về chiến lược chiến thuật cũng được in lại y như ấn bản chính song chỉ vài trăm cuốn và dăm trăm số báo. Riêng tờ Học tập in khoảng 50 số. Một ban chuyên môn nghiên cứu các bài quan trọng hay đoạn quan trọng trong sách rồi sửa đi một cách khéo léo, như bài bình luận ở báo Nhân Dân sửa một dòng, thêm vào một số chữ hay năm ba câu. Sách của Võ Nguyên Giáp thì them vào năm ba đoạn làm sai lạc ý nghĩa của chiến thuật, chiến lược. Sau đó một cách khéo léo nhất của nghề tình báo, các tài liệu này được phổ biến tận chiến khu hay hang ngũ cán bộ cao cấp cuả Việt Cộng. Đây là một trong những đòn phép tinh vi mà Sở Tình báo Phủ Tổng thống đã tuyệt đối bí mật thực hiện với ngân khoản tài trợ của CIA và phần kỹ thuật do Tình báo Trung Hoa quốc gia” (Cao Thế Dung, Việt Nam ba mươi năm máu lửa, Alpha, Hoa Kỳ, 1991).

Chúng tôi trích dẫn đoạn trên để thấy rằng hoạt động tình báo chống cộng của cơ quan mật vụ thời Ngô Đình Diệm tinh vi đến cỡ nào. Tuy nhiên cơ quan này vẫn dành tài lực nhiều hơn cho các hoạt động nhằm củng cố chế độ mà việc “bớt xén” tiền của Mỹ dành để mua tàu hoạt động gián điệp chống phá miền bắc vào các hoạt động cũng cố lực lượng chính trị như đã đề cập ở phần trước là một minh chứng. Không những thế, bản thân Trần Kim Tuyến cũng phải lo đối phó với Ngô Đình Cẩn tìm cách thay mình. Ông kể, vào năm 1960, vợ ông bị bệnh nặng kéo dài. Hoàng Ngọc Điệp bảo ông nên cho vợ lên Đà Lạt một thời gian để dưỡng bệnh. Ông cử mấy nhân viên của ông lên trước để tìm nhà đưa vợ lên. Khoảng 1 tuần sau, Công an Đà Lạt báo tin về là những người của ông lên đó mạo nhận là người của Mặt trận dân tộc giải phóng tống tiền một tiệm thuốc tây. Bọn tay chân của Ngô Đình Cẩn coi vụ này là thời cơ để hạ bệ Trần Kim Tuyến nên chúng hướng việc điều tra đưa những người của ông vào tội phạm chính trị. Vụ án đó kéo dài suốt một năm trời mới kết thúc. Những chuyện như vậy là rất nguy hiểm đối với ông.

Sau khi chế độ Ngô Đình Diệm bị lật đổ, Sở nghiên cứu chính trị-xã hội trở thành đối tượng thanh toán của phe đảo chính. Tất cả đều bị điều tra, thẩm vấn, một số khá đông có tài sản bị tịch thu và đưa đi “an trí”. Ông đã may mắn thoát nạn. Những năm tiếp đó, chính trường Sài Gòn rối ren, đảo chính xảy ra lien tiếp. Sở Nghiên cứu chính trị hay Đặc ủy Trung ương tình báo, như đã nói ở trên, đều là công cụ chủ yếu để củng cố quyền lực của những người cầm đầu chế độ nên đều là đối tượng thanh trừng sau đảo chính. Nếu không cảnh giác thì ông không bị bắt cũng bị loại khỏi bộ máy, vì vậy ông tự vệ rất thận trọng. Thời gian này tình hình đảng phái, tôn giáo ở Sài Gòn rối như canh hẹ, các phe phái phân hóa chống đối lẫn nhau mà phe nào cũng có “Mỹ lớn Mỹ nhỏ” đứng phía sau, phe nào cũng tranh nhau nhận viện trợ của Mỹ. Phía công giáo thì Đảng cần lao tập hợp lại bằng hai tổ chức : Mặt trận quốc lực và Đảng Nhân xã. Phật giáo thì chia năm xẻ bảy chống đối, kìm chế nhau : Ấn Quang, Việt Nam quốc tự, Cổ sơn môn, Lục hòa tăng… Cao đài thì chia thành 12 hệ phái. Hòa Hảo thì có 2 đảng : Đảng dân chủ xã hội Việt nam và Việt Nam dân chủ xã hội Đảng. Ngoài ra còn khoảng 70 đảng phái, hiệp hội khác, lớn nhỏ cũng chia thành nhiều phe tranh giành ảnh hưởng…Trên chính trường Sài Gòn, chỉ một năm, từ đầu năm 1964 đến đầu năm 1965 đã diễn ra 7 cuộc đảo chính.

Lúc này ông lại làm ở Sở Giao tế dân sự, một bộ phận của Đặc ủy trung ương tình báo chuyên chống đảo chính. Đó là một công việc cực kỳ nguy hiểm. Ngô Đình Diệm bị lật đổ tháng 11/1963 thì tháng giêng năm sau Nguyễn Khánh lật đổ Dương Văn Minh lên làm thủ tướng, rồi bổ nhiệm Dương Văn Minh làm quốc trưởng. Đến tháng 8/1964, Dương Văn Minh bị phế truất, Khánh lên làm quốc trưởng…Lúc này Mỹ trực tiếp nhúng tay sâu vào Đặc uỷ trung ương tình báo. Ông Ba Quốc kể : “Tháng 8-1964, khi Lâm Văn Phát và Trần Thiện Khiêm đảo chính hụt, Khánh đuổi Dương Văn Minh và tự phong làm quốc trưởng, Trần Văn Hương làm thủ tướng. Phong trào Phật giáo chống Khánh-Hương lại bộc phát. Phan Khắc Sửu thay Khánh làm Quốc trưởng. Đầu năm 1965, Nguyễn Khánh - Nguyễn Cao Kỳ - Nguyễn Chánh Thi lại lật Sửu-Hương đưa Phan Huy Quát lên làm Thủ tướng… Sở Giao tế dân sự đã biến thành một đơn vị trinh sát chống đảo chính. Sở này phải thường xuyên phân phối nhân viên canh gác các ngã đường tiến vào Sài Gòn. Và chỉ một tin vịt thôi cũng làm cho các nhân viên của Sở mất cả tuần lễ đêm ngày hoạt động…”. Lúc này luật sư Trần Văn Tuyên đang làm Phó Thủ tướng phụ trách kế hoạch. Ông quen thân với luật sư Tuyên từ lúc ông Tuyên là chính khách đối lập thời Ngô Đình Diệm. Ông bảo : “Tôi nghĩ phải khai thác mối quan hệ này để củng cố vị trí của mình. Vì vậy tôi đã hai lần đến gặp Trần Văn Tuyên, mục đích là xin làm công cán ủy viên, để từ đó trở lại Phủ Đặc ủy trung ương tình báo bằng cửa rộng. Nhưng cả hai lần tôi đều về không, vì khi tới nơi tôi lại nghĩ nhận công việc đó rồi nếu một cuộc đảo chính nữa xảy ra thì tôi sẽ mất hết, không còn một chỗ đứng nào, kể cả chỗ đứng trong Đặc ủy trung ương tình báo”.


Tiêu đề: Re: Tình báo VN trong KCCM
Gửi bởi: Tunguska trong 25 Tháng Mười Một, 2008, 12:40:26 pm
Nhãn quan chính trị

Trong lúc ông Ba Quốc đang lúng túng trước những cơn bão của các cuộc đảo chính thì Nguyễn Gia Hiến đến tìm ông. Lúc này Phan Huy Quát đang làm thủ tướng. Ông Hiến là một kỹ sư nông cơ, người của linh mục Hoàng Quỳnh, sau khi di cư vào Nam được cử sang Mỹ học.Thời Ngô Đình Diệm ông Ba Quốc có liên hệ với vị linh mục khét tiếng chống cộng này thông qua bác sĩ Trần Kim Tuyến,  khi Nguyễn Gia Hiến ứng cử vào Hạ nghị viện, bác sĩ Tuyến cử ông Ba Quốc làm cố vấn kế hoạch bầu cử cho ông Hiến, nhưng ông Hiến không trúng cử.  

Sau khi Ngô Đình Diệm bị lật đổ, linh mục Hoàng Quỳnh thành lập "Lực lượng Đại đoàn kết", đưa Nguyễn Gia Hiến làm chủ tịch với mục đích  dựng nhân vật này thành một con bài chính trị. Nguyễn Gia Hiến nói với ông: "Cha Quỳnh thấy rõ nguy cơ mất nước, vì một bên là cộng sản đang tiến gần tới Sài Gòn, một bên Phan Huy Quát vừa dựa vào Phật giáo vừa bán Cam Ranh, Vũng Tàu cho Mỹ để củng cố địa vị...". Ông Hiến đặt yêu cầu là nhờ ông làm trung gian cho sự hợp tác của nhóm Nhân Xã (hậu thân của đảng Cần lao) để "có đủ sức mạnh áp đảo" giới cầm quyền. Ông nhớ lại: "Bề ngoài tôi chấp nhận đề nghị giúp họ, nhưng tôi biết lúc đó người Mỹ đang tiếp tục gây xáo trộn để lựa chọn tay sai, tôi dính vào thì không bể đầu cũng sứt tai".

Tháng 2/1965, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ và Nguyễn Chánh Thi lật đổ Nguyễn Khánh, trục xuất Khánh khỏi miền Nam. Về quân sự, Mỹ bắt đầu đưa quân ào ạt vào miền Nam. Mỹ cũng nắm chặt hơn Đặc ủy Trung ương tình báo. Cơ quan này lại bị thanh lọc và củng cố để "chống Việt cộng xâm nhập". Việc củng cố đang thực hiện thì Nguyễn Chánh Thi bị "đá" nốt. Nguyễn Văn Thiệu lên làm Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo quốc gia (ngang tổng thống), Nguyễn Cao Kỳ làm Chủ tịch Ủy ban Hành pháp trung ương (ngang thủ tướng). Đặc ủy trưởng Trung ương tình báo tất nhiên được thay bằng người của Thiệu. Lúc này ông Ba Quốc được cấp trên chỉ thị phải bám vị trí, nắm chắc các hoạt động của tình báo chống cách mạng, theo dõi những diễn biến chính trị, các kế hoạch quân sự, đồng thời tiếp tục củng cố thế đứng, thâm nhập sâu hơn vào hàng ngũ đối phương. Khi Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ lên cầm quyền, qua những động thái của người Mỹ, nhất là qua Hội nghị Honolulu tháng 2.1966, ông dần dần biết rõ người Mỹ đã chọn được Nguyễn Văn Thiệu và bắt đầu hậu thuẫn mạnh mẽ chính quyền Thiệu - Kỳ. Từ lúc này cho đến khi kết thúc chiến tranh, người Mỹ ủng hộ triệt để Nguyễn Văn Thiệu và dập tắt tất cả những âm mưu đảo chính ngay từ trong trứng nước.

Lúc Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ tuyên bố bầu cử, Trịnh Quốc Khánh tìm gặp ông. Trịnh Quốc Khánh bấy giờ là Tổng bí thư Dân xã đảng của Hòa Hảo. Còn nhớ, thời Ngô Đình Diệm, mặc dù Khánh bị ông bắt về cho Ngô Đình Nhu, nhưng Khánh vẫn chịu ơn ông và hối hận đã không nghe lời ông. Khánh đã bị giam cầm cho đến khi Ngô Đình Diệm đổ mới được thả ra. Giờ đây gặp ông, Trịnh Quốc Khánh ôn lại chuyện cũ và "tham khảo ý kiến" của ông về công việc của mình. Trước khi đi dự Hội nghị Honolulu, Nguyễn Văn Thiệu tập hợp các đảng phái ủng hộ mình thành "Mặt trận quốc gia dân chủ" để làm hậu thuẫn. Trịnh Quốc Khánh là đồng chủ tịch của mặt trận này. Sau đó Khánh được Nguyễn Văn Thiệu chọn làm ứng cử viên phó tổng thống đứng chung liên danh với Thiệu. Đối thủ dự kiến lúc đó là liên danh của Nguyễn Cao Kỳ. Trịnh Quốc Khánh tâm sự thật với ông rằng liên danh của Thiệu yếu thế hơn liên danh của Kỳ rõ rệt, rằng Nguyễn Cao Kỳ không những là đương kim thủ tướng, nắm trong tay các tỉnh trưởng, lại được các tướng lĩnh ủng hộ, do đó Nguyễn Văn Thiệu khó thắng Nguyễn Cao Kỳ. Kể xong, Trịnh Quốc Khánh mời ông Ba Quốc vào Ban bầu cử để giúp ông ta. Qua theo dõi rất chặt chẽ tình hình các tôn giáo, ông biết giới Công giáo, kể cả Công giáo Mỹ, rất bất mãn về việc Mỹ ra lệnh giết anh em Ngô Đình Diệm - một con bài Công giáo đáng giá nhất, trong khi các chức sắc Công giáo là lực lượng chính trị chống cộng mạnh nhất ở miền Nam. Người Mỹ không thể không "rút kinh nghiệm" về việc này. Còn Nguyễn Văn Thiệu, vừa là chân tay duy nhất "còn sót" lại của Ngô Đình Diệm, vừa là người Công giáo, vừa có năng lực thực hiện các yêu cầu của người Mỹ. Vì vậy ông nghĩ Nguyễn Văn Thiệu là nhân vật được Mỹ ủng hộ tập trung nhất. Bởi thế ông vui vẻ nhận lời Trịnh Quốc Khánh, tham gia Ban bầu cử.  Nhưng... ông nhớ lại: "Bữa sau, Trịnh Quốc Khánh đến báo tin cho tôi biết, Nguyễn Văn Thiệu đã khóc trong cuộc họp các tướng lĩnh và để cho Nguyễn Cao Kỳ đứng chung liên danh làm phó tổng thống, Trịnh Quốc Khánh bị Thiệu loại ra ngoài". Nếu Trịnh Quốc Khánh không bị Nguyễn Văn Thiệu bất đắc dĩ loại bỏ thì ông Ba Quốc chắc chắn sẽ tạo thêm được một cánh cửa rộng hơn cho hoạt động tình báo.

Những câu chuyện trên cho thấy nhãn quan chính trị và sự nhìn xa trông rộng của ông trên chính trường của đối phương. Bởi vậy mà ông vừa vượt qua được những cơn bão táp chính trị để tồn tại, vừa tận dụng mọi thời cơ để luồn sâu vào nội bộ kẻ địch. Ông không chịu ở yên để "thâm canh" trên mảnh đất đang đứng mà luôn luôn chủ động "quảng canh" để giành thêm trận địa mới. Nhưng những nỗ lực thâm nhập vào chính trường của ông không chỉ dừng lại ở đó...


Tiêu đề: Re: Tình báo VN trong KCCM
Gửi bởi: Tunguska trong 25 Tháng Mười Một, 2008, 12:42:54 pm
Khu vực nhạy cảm

Ông Ba Quốc có 6 người con, nhưng 2 người mang họ Trần còn 4 người ban đầu mang họ Nguyễn, sau đó 3 người đổi lại họ Trần, nhưng vẫn còn 1 người mang họ Nguyễn. Vì sao vậy ? Đây là một câu chuyện rất dài và khá tế nhị của gia đình ông, như chúng tôi đã đề cập ở phần đầu của thiên ký sự này, ông không muốn "người ngoài" biết.  

Nhưng khi đề cập đến các hoạt động của ông, nhất là về sau này, chúng tôi không thể không nhắc đến những người trong gia đình. Bởi vậy chúng tôi phải tìm hiểu, qua các tư liệu và qua những người thân của ông.

Còn nhớ lúc ông được cử vào Hà Nội hoạt động tình báo hồi chống Pháp, ông bảo ông vào với "danh nghĩa đi tìm vợ con bị thất lạc". Như vậy là lúc đó ông đã có vợ, có con và thực ra vợ con của ông không hề bị "thất lạc". Vợ ông, bà Phạm Thị Thanh, cũng là một chiến sĩ Việt Minh, cùng tham gia phá vụ án Ôn Như Hầu với ông sau Cách mạng tháng Tám. Cho đến khi ông vào Nam, ông và bà Thanh đã có với nhau 2 người con. Nhưng ông đã vào Nam với một người vợ khác, đó là bà Ngô Thị Xuân. Đây là một câu chuyện nhạy cảm.

Ở phần đầu của thiên ký sự, chúng tôi có nhắc đến một nhân vật. Đó là người con rể của ông Đàm Y, chính người này đã đưa ông về nhà giới thiệu với bố vợ, để từ đó ông có điều kiện thâm nhập vào lòng địch. Người con rể của ông Đàm Y hiện nay còn sống và đang ở Sài Gòn. Chúng tôi đã tìm gặp được ông. Ông tên là Đặng Văn Hàm, năm nay đã 86 tuổi. Trước khi "vào thành" với ông Ba Quốc, ông Hàm cũng là một cán bộ Việt Minh, làm Trưởng ty Thương binh tỉnh Ninh Bình. Khi vào Hà Nội lúc đó, ông Hàm vào làm ngành bưu điện để hoạt động cách mạng, năm 1954 ông cũng vào Sài Gòn tiếp tục hoạt động, cũng làm trong ngành bưu điện. Ông đã về hưu từ nhiều năm nay, cấp hàm được công nhận là thiếu tá. Ông Hàm kể: "Khi tôi đưa Ba Quốc về nhà bố vợ tôi, nhờ ông cụ giúp đỡ, che chở, ông cụ đã lo rất chu đáo. Ba Quốc đã ở luôn tại nhà ông cụ tôi, như người trong nhà, tôi và Ba Quốc như anh em ruột thịt. Sau đó ông cụ tôi đã xin cho Ba Quốc làm ở một đồn công an ở Bắc Ninh như các anh đã biết. Ở được một thời gian, Ba Quốc tự nhiên biến đi đâu mất. Tôi biết anh ta đi ra ngoài liên lạc với tổ chức của ta. Được một thời gian, lại quay về. Thấy nguy hiểm quá, tôi nói với ông cụ tôi: Bố ơi, bố làm thế nào lấp liếm chuyện này với tụi mật vụ cho thằng Tá. Mà các anh có biết tên Nguyễn Văn Tá là do ai đặt không? Là do chính tôi đặt cho Ba Quốc đấy. Tụi mật thám lại tin ông cụ tôi nên cho qua luôn...". Chúng tôi hỏi: "Ông Đàm Y có biết ông Ba Quốc là Việt Minh không?". Ông Hàm nói: "Sao không biết. Ông cụ tôi làm quận trưởng cho Pháp, nhưng ông biết tôi là Việt Minh, do đó cũng biết Ba Quốc là Việt Minh, khi giới thiệu Ba Quốc vào làm công an cho Pháp, ông cụ đã biết rồi". Ông Đàm Y đã mất một năm trước khi giải phóng, bà vợ ông hiện vẫn còn, nay đã già yếu. Chúng tôi được biết cơ quan tình báo quân đội hằng tháng vẫn dành một khoản trợ cấp cho bà, khoản trợ cấp tuy không nhiều nhưng đầy tình nghĩa.

Qua sự giới thiệu của người con rể và nhìn cách ăn ở thật thà tình nghĩa của ông Ba Quốc, gia đình ông Đàm Y rất thương yêu ông. Ông Đặng Văn Hàm xác nhận: "Anh ấy là người rất có tình có nghĩa, có trước có sau. Tuy sau này anh ấy đã trở thành một vị tướng, nhưng đối với mọi người anh ấy vẫn một mực thủy chung". Ông Đàm Y là bạn thân của bố bà Ngô Thị Xuân nên bà Xuân được vợ chồng ông Đàm Y coi như con cháu. Biết ông Ba Quốc "tìm vợ con thất lạc" không có kết quả, vợ chồng ông Đàm Y nhiều lần muốn làm mối bà Xuân cho ông, mục đích là muốn có được một người con rể tử tế như ông, vì vợ chồng ông Đàm Y thương bà Xuân như con ruột. Đến khi chuẩn bị di cư, gia đình ông Đàm Y lại đề cập đến chuyện đó với mong muốn ông Ba Quốc cùng gia đình ông bà vào Nam. Như chúng tôi đã đề cập, ông Ba Quốc cũng nhận lệnh vào Nam hoạt động, nhưng vấn đề gay cấn nhất là hồ sơ nghi vấn Việt Minh của ông vẫn còn chỗ cơ quan công an của địch. Nếu trở thành "người nhà" của ông Đàm Y thì việc xóa hồ sơ đó sẽ dễ dàng. Ông báo cáo với tổ chức, tổ chức đồng ý. Ông trao đổi với vợ ông là bà Phạm Thị Thanh, bà Thanh cũng đồng ý và mong cho ông hoàn thành nhiệm vụ. Vì vậy, ông lấy bà Xuân làm vợ và như đã biết, ông Đàm Y đã "làm trong sạch" lý lịch cho ông. Tất nhiên, để lấy bà Xuân làm vợ, việc ông có cảm tình với bà Xuân là lẽ đương nhiên.

Vì hoàn cảnh như thế cho nên ông có đến hai người vợ, một ở lại miền Bắc cùng với 2 người con và một cùng ông vào Nam, sau này có 4 người con (và một người con đầu đã mất từ nhỏ). Hồi đó hai bà vợ của ông không gặp nhau, nhưng ông Ba Quốc đã "làm trung gian" cho hai người trao đổi thư từ với nhau. Anh Nguyễn Vũ, con trai ông Ba Quốc (với bà Xuân) đã "tiết lộ" cho chúng tôi biết là ông Ba Quốc vẫn còn giữ một lá thư mà bà Thanh gửi cho bà Xuân, trong đó có câu: "Chị gửi anh Đức cho em chăm sóc".

Bây giờ bà Thanh không còn nữa, còn bà Xuân thì lo chăm sóc ông đang nằm trên giường bệnh. Sau giải phóng họ đã gặp nhau. Bà Ngô Thị Xuân nhớ lại: "Chị em chúng tôi gặp nhau vui vẻ lắm. Sau này mặc dù phận ai nấy lo làm ăn nhưng chúng tôi vẫn lui tới bình thường". Khi bà Thanh mất, bà Xuân bị bệnh không ra được, nhưng các con của bà đều ra đầy đủ, họ rất thương bà Thanh. Còn các con của bà Thanh cũng thương bà Xuân như là mẹ của mình.

Đó là sơ lược mấy nét về gia đình ông Ba Quốc. Họ đã được đoàn tụ sau giải phóng, nhưng suốt hơn 20 năm chiến tranh, mỗi người một hoàn cảnh, trong cách biệt hai miền, họ đã vì ông Ba Quốc mà chấp nhận một cuộc sống gian truân, nhiều khi rất nghiệt ngã...


Tiêu đề: Re: Tình báo VN trong KCCM
Gửi bởi: Tunguska trong 25 Tháng Mười Một, 2008, 12:44:54 pm
Khi người thân vào Nam “làm tay sai cho địch”

Chúng ta thường nghe đây đó những câu chuyện về các nhà tình báo của chúng ta được cử đi "theo địch" vào Nam hoạt động, vợ con ở ngoài Bắc phải chịu cảnh éo le, vì có chồng, có cha "làm tay sai cho địch". Họ mang một bản lý lịch không trong sạch, bị chính quyền địa phương hoặc đơn vị công tác phân biệt đối xử, con cái không được học hành, vì hồi đó những người có lý lịch "không trong sạch", "không rõ ràng" thì khó mà học lên đại học. Những người có trách nhiệm chỉ đạo hoạt động tình báo nhiều khi vẫn biết gia đình đồng đội của mình bị rơi vào hoàn cảnh như vậy nhưng đành phải "cắn răng" không can thiệp, vì nếu can thiệp thì sẽ không giữ được bí mật, rất nguy hiểm cho người tình báo.

Gia đình ông Ba Quốc ở miền Bắc cũng chịu một số phận như vậy. Chúng tôi đã gặp người con trai của ông Ba Quốc và bà Phạm Thị Thanh. Anh năm nay đã ngoài 50 tuổi và cũng là một cán bộ quân đội. Anh bảo: "Hồi đó sau khi bố tôi đi họp về, bảo với mẹ tôi rằng: Anh phải đi, 2 năm nữa sẽ về. Bố cũng nói với mẹ về chuyện cô Xuân, mẹ bảo vì nhiệm vụ của bố nên chấp nhận. Thế rồi không phải 2 năm mà đến 20 năm sau bố mới trở về". Khi ông Ba Quốc vào Nam, bà Thanh đang làm việc tại công trường xây dựng Nhà máy In Tiến Bộ. Anh kể tiếp: "Mẹ tôi đang làm ở đó thì bị đưa lên Phú Thọ, nơi đấy rừng núi âm u lắm. Ban đầu bà làm cấp dưỡng cho một đơn vị, sau đó chuyển qua Nông trường chè Vân Lĩnh. Lúc đó tôi nghe nhiều thông tin về bố tôi, có người bảo bố tôi chết rồi, có người bảo bố tôi theo giặc. Mẹ tôi cũng giấu không nói bố tôi đi đâu. Chị em chúng tôi không biết gì cả. Mãi đến sau này, khi mẹ tôi bị một trận ốm rất nặng, tưởng không qua khỏi, bà mới gọi chúng tôi lại bảo rằng bố chúng tôi đi B".

Chúng tôi hỏi cuộc sống của gia đình hồi đó như thế nào, anh nhớ lại: "Lên nông trường mẹ tôi khổ lắm. Lương thì ít ỏi mà phải nuôi ba miệng ăn. Mẹ tôi là con gái Hà Nội, được học hành tử tế, vậy mà lên đến Vân Lĩnh phải làm đủ thứ công việc, từ cuốc đất trồng chè, giữ kho quần áo bảo hộ lao động và nhiều công việc nặng nhọc khác. Mà ăn uống thì có bao giờ đủ no đâu. Cả ba mẹ con chúng tôi chỉ trông vào một suất gạo của mẹ, nên ăn sắn ăn khoai là trường kỳ, thậm chí có thời gian cả tháng trời phải ăn sắn. Tôi nhớ một lần chị tôi đi tập huấn bắn súng, vì chị tôi có năng khiếu thể thao, chị tôi tiết kiệm được mang về một ít gạo. Các anh có tưởng tượng được không, chúng tôi chỉ nấu lên chưa ăn đã thấy ngon, rồi ăn tới đâu tỉnh người tới đấy. Chưa hết đâu, ngay cả quần áo chúng tôi cũng không đủ để mặc, nên nhiều khi mẹ tôi và chị tôi phải mặc chung đồ của nhau. Mẹ tôi bị nông trường phê bình rất nhiều về việc mặc chung đồ với con gái, nhưng bà phải chịu thôi, vì quá nghèo biết làm thế nào được, cái ăn còn không đủ thì lấy đâu cái mặc". Nhớ lại những chuyện đã xảy ra, đã lâu lắm rồi mà anh tưởng như vừa mới xảy ra. Anh nói tiếp: "Hồi ấy gần chỗ chúng tôi ở có một cái căn-tin, thấy người ta ăn phở chúng tôi thèm lắm. Nhưng phở đối với chúng tôi là cả một vấn đề. Có lần thèm quá chúng tôi về xin mẹ, mẹ không có tiền, nhưng thương con bà cũng tìm được cho chúng tôi. Tiền mẹ cho chỉ đủ mua một tô phở thôi. Thế là hai chị em hăm hở đến căn-tin xếp hàng, đến lượt chị tôi mua thì đồng xu do chen lấn đã rơi đâu mất. Chúng tôi buồn bã quay về nhà nói với mẹ. Mẹ bảo hai chị em về nhà đi, đợi mẹ. Chúng tôi vừa buồn vừa sợ. Rồi mẹ về, mẹ chỉ khóc thôi. Cho đến bây giờ chúng tôi vẫn không hiểu vì sao cuộc sống của chúng tôi lại cơ cực đến vậy". "Còn chuyện ở, cũng nhiêu khê lắm, cực kỳ tạm bợ. Một lần, lúc đó tôi đã lớn rồi, về nhà tôi thấy áo quần đồ đạc bị bỏ ra ngoài sân. Người ta lấy lại chỗ ở đó. Nếu muốn lấy lại nhà thì người ta chỉ cần bỏ đồ đạc của chúng tôi ngoài sân. Lúc bấy giờ mẹ con tôi lại lóc cóc, người ta chỉ đến đâu thì đến đó. Thời gian ấy có năm mẹ con tôi phải chuyển đi đến 4 lần. Bởi vì chỗ ở là của nông trường, hễ có một ai đó xây dựng gia đình, người ta lại "mời" mẹ con tôi đi chỗ khác lấy chỗ cho vợ chồng mới cưới ở, họ bảo mình tới đâu thì mình tới đó", anh nhớ lại.

Chúng tôi cũng đã gặp chị Đặng Thị Chính Giang, người con gái đầu của ông Ba Quốc. Nói thêm về chuyện nhà cửa, chị Giang bảo: "Nhà của mẹ con tôi hồi ấy không có cửa nẻo gì hết, chui ra chui vô bất cứ chỗ nào cũng được. Phía trên trời nắng thì không sao, còn trời mưa thì ba mẹ con cứ căng tấm nilon lên, dồn vào một cái giường. Cái giường là vật đáng giá nhất của mẹ con tôi, tính ra trị giá khoảng 15 ngàn đồng bây giờ".

Sống trong một hoàn cảnh như thế, bà Thanh đã có một bản lĩnh đáng nể. Anh Trần Sơn, chồng chị Giang, cũng là một cán bộ quân đội về hưu, nói về mẹ vợ của mình: "Bà là người tuyệt vời lắm. Kiếm một phụ nữ như thế là hơi khó đó, không phải bà là mẹ vợ của tôi mà tôi nói vậy đâu...".


Tiêu đề: Re: Tình báo VN trong KCCM
Gửi bởi: Tunguska trong 25 Tháng Mười Một, 2008, 12:47:02 pm
“Ngõ cụt” trên đường học vấn của hai người con ở miền Bắc

Chị Đặng Thị Chính Giang (1) kể: “Chuyện học hành của chị em tôi nhiêu khê lắm. Khi tôi học đến lớp 4, tự nhiên nhà trường không cho học nữa. Hồi ấy vào đầu năm học, những cháu gặp khó khăn hoặc gia đình bộ đội, gia đình cán bộ công nhân viên thì được nhà trường cho sách giáo khoa hoặc tập vở, còn tôi thì không có gì. Lại có tin bố tôi là phản động chạy theo địch nên họ không cho học tiếp. Mẹ tôi phải nhờ một ông ở nông trường đứng ra can thiệp thì tôi mới được học tiếp, nhưng cũng không được cấp sách vở. Tôi là học sinh giỏi văn đấy, nhưng trường cũng không cho đi thi. Cho đến khi tôi học xong lớp 5, thì trên Cục (cơ quan tình báo quân đội - PV) thông báo cho tôi vào học trường học sinh miền Nam dành cho nữ, khi ấy ở Hải Phòng. Thế là mẹ tôi cho tôi về Hà Nội để chờ nhập học. Tôi chờ hết tháng 8, không thấy gọi, sang đến sau mùng 2 tháng 9 cũng không thấy gọi. Ông nội tôi mới lên Cục hỏi thì các anh ấy bảo: Nếu cho cháu vào học thì anh ấy (ông Ba Quốc - PV) sẽ bị lộ. Các anh trong Cục chỉ nói với ông và mẹ tôi thôi, còn với tôi thì họ nói ngắn gọn: Trường miền Nam đủ học sinh rồi, không nhận nữa. Tôi phải về lại Phú Thọ. Còn nhớ lúc ấy tôi một mình cầm một túi quần áo và đem theo mấy cái bánh dẻo ông nội cho, ra tàu đi từ Hà Nội về đến ga Phú Thọ, từ ga đi bộ thêm 9 cây số nữa. Năm ấy lại bị lũ, tôi đi qua một cái suối, cầu thì trôi hết rồi, nên phải đi trên một cây cầu tạm lắc lư, nhìn xuống suối mà bụng bảo dạ: nếu có ngã xuống suối này cũng không sao, miễn là đừng chết và đừng rơi mấy cái bánh dẻo. Trên ấy mà có được mấy cái bánh dẻo này là cả một vấn đề, quý lắm...”.

Chị Giang kể tiếp: “Về đến trên này, tôi học đến hết lớp 7, không được thi lên lớp 8, họ chuyển tôi sang học trường phổ thông công nghiệp, dạng như trường vừa học vừa làm. Một buổi đi học, một buổi phải đi làm, thấy khổ quá, tôi nghĩ tốt nhất mình đi học trung cấp, mất hai năm rưỡi thôi, khi ra trường sẽ có một cái nghề làm kiếm tiền đỡ đần cho mẹ. Tôi làm đơn xin nghỉ học, rút hồ sơ xin vào học trung cấp vật tư. Hồi đó xin vào học trung cấp thì không khó nhưng phải nộp tiền ăn học, không có học bổng”.

Chuyện học của chị Giang là như vậy, nhưng chị bảo chuyện học của em trai chị còn phức tạp hơn nhiều. “Cũng long đong như tôi, cậu ấy học xong cấp 2 thì họ cũng không cho học nữa. Mẹ tôi gọi tôi về bảo ra trường cấp 3 xin cho em, nếu không cho học chính quy thì học dự bị cũng được. Nhưng họ dứt khoát không cho. Chính quy cũng không cho mà dự bị cũng không cho. Thế là cậu ấy phải về nông trường đi làm mất một năm, nói chính xác là đi chặt nứa về bán cho nông trường. Lúc ấy tôi đã lớn rồi, tôi chạy lên Cục nhờ các anh ấy can thiệp. Tôi làm sẵn một cái đơn nhờ các anh ấy chứng nhận, nhưng các anh ấy bảo: Không thể chứng nhận được, chứng nhận vào là bố sẽ bị lộ ngay! Cuối cùng, có một chú tên là Kình, bạn thân của bố tôi đứng ra bảo lãnh. Chú Kình là cán bộ quân đội chỉ huy cấp sư đoàn. Chú nhờ bạn bè lo cho em tôi vào học trường trung cấp quân giới. Cậu ấy thi và đậu vào trường này, nhưng khi đến trường thì bị đuổi về vì lý lịch. Chú Kình lại chạy đi lo một lần nữa mới được. Chú ấy bảo: Tôi phải lo cho cháu chứ mai kia anh ấy về thì tôi biết nói sao với anh ấy đây ! Thật tội cho chú ấy, không bao giờ chú ấy còn gặp được bố tôi, vì sau đó chú ấy đã hy sinh ở Quảng Trị”.

Người em trai chị Giang còn cho biết, giữa lúc chiến tranh diễn ra ác liệt, anh đã đăng ký vào bộ đội nhưng cũng vì lý lịch “không trong sạch” của anh mà người ta đã không cho anh nhập ngũ. Gia đình bà Thanh ở trên Phú Thọ một thời gian rất dài, mãi sau này mới về Hà Nội. Anh Trần Sơn kể: “Hồi đơn vị tôi lên sơ tán, tôi quen nhà tôi. Lúc ấy gia đình bà cụ khó khăn lắm, nhưng mọi người chung quanh rất kính trọng bà cụ. Tình cảm giữa chúng tôi ngày càng sâu đậm và thành vợ thành chồng”. Chúng tôi hỏi: “Anh là bộ đội, lấy một người có lý lịch không rõ ràng, anh có gặp trở ngại gì không ?”. “Cô ấy tốt, gia đình cô ấy được mọi người kính trọng, tôi sợ gì. Vả lại, tôi tuy là đảng viên nhưng chỉ làm công tác chuyên môn thôi, nên không bị gây khó dễ. Mà có bị gây khó dễ tôi cũng chấp nhận”. Anh Sơn kể tiếp: “Trong thời gian xây dựng Lăng Bác Hồ, cả Cục Quân khí chỉ chọn một người đi xây Lăng, người đó là tôi, thành ra tôi nghĩ đơn vị không có định kiến gì với tôi qua cuộc hôn nhân này. Và chính vì được đi xây Lăng nên sau đó tôi mới chuyển được nhà tôi và bà cụ về Hà Nội. Có lần (sau giải phóng), thằng Vũ (anh Nguyễn Vũ, con ông Ba Quốc với bà Ngô Thị Xuân) ra, nó thấy một gian nhà lá ở Đông Anh, chỉ kê một chiếc giường, nó bảo: Có lẽ mẹ ở ngoài này bị đi cải tạo hay sao mà không được ở một cái nhà đàng hoàng ? Tôi bảo với nó rằng không phải, vì hoàn cảnh mới như thế thôi. Căn nhà lá đó là tiêu chuẩn của nhà tôi, bà cụ về ở với con để trông cháu ngoại, chứ hộ khẩu của cụ vẫn còn trên Phú Thọ. Một thời gian sau khi ông (ông Ba Quốc) về, tôi có một anh bạn, anh ấy cho tôi một mảnh đất ở Nghĩa Đô, làm được một căn nhà cấp 4, lúc bấy giờ mẹ con tôi mới chính thức có được một cái nhà riêng”.


Tiêu đề: Re: Tình báo VN trong KCCM
Gửi bởi: Tunguska trong 25 Tháng Mười Một, 2008, 12:49:19 pm
Tình báo cha và tình báo con

Bà Ngô Thị Xuân nhớ lại: "Bố tôi hồi đó làm công chức cho Pháp ở Bắc Ninh. Ông này (ông Ba Quốc) được ông Đàm Y gửi gắm đến làm việc chỗ bố tôi. Ông ấy ăn ở luôn tại nhà tôi, ngoài thời gian đi làm còn dạy thêm cho mấy đứa em tôi học.

Ông ấy bảo với bố mẹ tôi là ông ấy đã có vợ con, nhưng vợ con bị thất lạc, kiếm hoài không được. Tôi chỉ biết có vậy. Ông bà Đàm Y ngỏ ý muốn "xin" tôi cho ông ấy. Ban đầu bố mẹ tôi rất băn khoăn, nhưng thấy ông ấy hiền, dạy các em tôi rất chu đáo, nên cuối cùng bố mẹ tôi đã đồng ý. Sau Hiệp định Genève, tôi vào trước ở với gia đình ông Đàm Y trên đường Tự Đức, hai tháng sau ông ấy vào, chúng tôi đi thuê nhà ở. Cuộc sống của chúng tôi lúc mới vào Sài Gòn khó khăn lắm, phải làm việc rất nhiều. Tôi đi lên chợ Sài Gòn lấy sợi về đan thành những cái túi xách tay (dùng để đi chợ) bán cho người ta kiếm tiền. Sau này ổng làm ở Sở Nghiên cứu chính trị, rồi Phủ Đặc ủy tình báo, tiền lương của ông ấy cũng không phải dồi dào, lúc ấy lại có đông con, tôi phải đi lấy len ở mãi đồng ông Cộ về làm thêm kiếm sống...". Trong suốt 20 năm sống ở Sài Gòn, ông phải dành một phần đáng kể tiền lương của mình cho việc "gây dựng cơ sở" hoặc sau này cho những người cung cấp tài liệu cho ông ở Bộ Tổng tham mưu (quân đội Sài Gòn cũ). Vợ ông phải cất giấu dành dụm để có tiền nuôi con, đề phòng trường hợp ông bị bắt. Vì vậy cuộc sống gia đình quá thiếu thốn. Ông Ba Quốc bảo hồi đó ông sống "kham khổ như một nhà tu".

Như đã biết, làm ở Sở Nghiên cứu chính trị xã hội của Trần Kim Tuyến ông nhất thiết phải vào đạo Công giáo. Nhưng ông không vào đảng Cần lao. Vào đảng Cần lao lúc đó có thể có khả năng "thăng tiến" nhanh, nhưng sẽ không an toàn nếu thời thế thay đổi. Và thực tế chứng minh ông đã lựa chọn đúng. Cả nhà ông đi nhà thờ, các con ông học trường của Công giáo. Người con thứ ba của ông nói rằng hồi ấy anh đi nhà thờ, đi học Trường Lasan Đức Minh, Kinh Thánh thì "đến bây giờ vẫn còn thuộc", nhưng ông không cho các con ông tham gia các hội đoàn Công giáo.

"Anh biết bố anh hoạt động cho cách mạng từ lúc nào ?". Người con trai của ông kể: "Chúng tôi đi học về, ông bắt ở nhà, không cho giao du với ai hết. Mục đích duy nhất của chúng tôi chỉ là học thôi. Ông rất ghét Mỹ nên trong nhà không bao giờ xài đồ Mỹ. Buổi tối xem ti vi, ông chỉ cho chúng tôi coi phim hoặc văn nghệ, đến chỗ Nguyễn Văn Thiệu phát biểu hay các chương trình về quân đội ông tắt máy không cho coi. Một hôm tôi đã nhìn thấy ông viết tài liệu lên những tờ giấy dầu màu vàng, viết bằng nước trà. Viết nước trà lên giấy đó không nhìn thấy chữ, sau này tôi biết là phải dùng hóa chất mới đọc được. Mẹ tôi dặn tuyệt đối không được nói với ai chuyện này. Năm đó tôi 12 tuổi".

"Anh có giúp gì cho bố anh không?". "Năm tôi 13 tuổi, một hôm ông đem một máy chụp hình hiệu Canon về kèm theo một hộp tráng phim và thuốc tráng phim. Tôi còn nhớ hôm đó ông đem tập tài liệu "hồ sơ trận liệt" về hướng dẫn tôi chụp từng trang một. Ông lấy một thùng carton, kẹp tài liệu trên thành đứng của nó, máy ảnh đặt trên ba chân chống, ống kính cách tài liệu 40 cm, một bóng đèn rọi vào tài liệu từ phía sau. Bé Hạnh, em gái tôi, lấy hai tay căng tờ giấy cho thẳng ra, tôi chụp xong tờ nào thì bé Hạnh rút ra tờ đó, cứ thế chụp cho đến khi nào hết tập tài liệu... Chụp xong, ông hướng dẫn tôi cách tráng phim".

Liên quan đến tính cẩn thận của ông Ba Quốc, anh con trai kể tiếp: "Lần tráng phim đầu tiên, tôi nhớ đó là ngày thứ bảy, tài liệu chưa gửi đi, ông bảo tôi kiểm tra độ nét của tài liệu mà chúng tôi chụp. Ông lấy tấm thẻ quân nhân của ông cậu tôi, bảo tôi chụp, rồi cắt phim mang ra tiệm chụp hình Chí Mỹ ở đường Hai Bà Trưng coi thử có rõ không. Ông chủ tiệm là ông Nguyễn Chí Bửu, có một con trai học cùng lớp với tôi tên là Nguyễn Chí Xuân, anh ta có một đứa em gái tên Nguyễn Thị Thu, tôi chơi rất thân với cô Thu. Tôi đem phim ra nhờ cô Thu rọi, thì đọc được, nhưng hơi mờ. Tôi nghĩ tấm thẻ đó chữ in lớn mà còn mờ, chắc là tài liệu chụp xong sẽ rất khó đọc. Nghĩ vậy nên trưa hôm đó, tôi cắt một đoạn phim chụp tài liệu mang đến tiệm Chí Mỹ, tôi cùng với cô Thu vào rọi trong phòng tối. Khi cô Thu sấy hình, đang đợi cho khô, thì bố tôi đi vespa chạy tới, bảo tôi thu lại tất cả mang về, không để ai nhìn thấy. Hôm đó phim chụp đọc được, nhưng hơi nhòe. Ông phải mua thêm một ống kính... Đến giờ tôi vẫn còn nhớ cái tiệm chụp hình đó. Sau giải phóng ông Nguyễn Chí Bửu về Tây Ninh, cũng mở tiệm chụp hình lấy tên Chí Mỹ, có thời gian vướng phải chuyện rắc rối, cô Thu có gửi thư cho tôi. Thời gian đó bố tôi đi công tác xa. Đến năm 1990, bố tôi về lại thành phố, nhắc lại tiệm chụp hình Chí Mỹ, ông hỏi bây giờ họ ở đâu để ông lên thăm...".

Anh con trai thứ ba này của ông Ba Quốc chuyện gì cũng nhớ, anh nói chuyện này thì liên tưởng đến chuyện kia, chuyện gì cũng có tình người. Anh không những nhớ tới cô Thu mà còn nhớ hồi học lớp năm, lớp tư, lớp ba (lớp 1, lớp 2, lớp 3 bây giờ), khi ấy ông Hoàng Ngọc Điệp (Phó giám đốc Sở Nghiên cứu chính trị, "cha đỡ đầu" của ông Ba Quốc) không có vợ con, nuôi hai người cháu, một người tên là Hảo, một người tên là An, học chung lớp với anh, hằng ngày ông Điệp cho lái xe đưa ba anh em đi học, những năm đó anh thường xuyên lui tới nhà ông Điệp. Anh nhớ tới người quản gia của ông Điệp là cô Lý, thỉnh thoảng vẫn dúi tiền cho anh ăn quà. Ông Điệp thì đã chết, hình như vào năm 1976, còn cô Lý, Hảo, An không biết giờ đây đang ở đâu...


Tiêu đề: Re: Tình báo VN trong KCCM
Gửi bởi: Tunguska trong 25 Tháng Mười Một, 2008, 12:51:12 pm
Kỹ thuật truyền tin

Trước khi vào phần chính của kỳ này, chúng tôi xin nói thêm vài điều về gia đình ông Ba Quốc ở miền Bắc. Vì theo dõi thiên ký sự này trong những ngày qua, nhiều bạn đọc đã gửi thư về tòa soạn bày tỏ lòng ngưỡng mộ đối với ông Ba Quốc và khâm phục sự hy sinh của những người trong gia đình ông, đồng thời cũng nêu một vài thắc mắc liên quan đến chính sách.

Một bạn đọc tên là Jeff Nguyễn, ở Canada, trong e-mail gửi về tòa soạn có nêu vấn đề về những người thân của ông Ba Quốc ở miền Bắc: "Tôi thắc mắc là không biết sau chiến tranh họ có được Nhà nước đền bù cho những thiệt thòi to lớn mà họ phải gánh chịu một cách oan uổng hay không?". Chúng tôi định sẽ đề cập những vấn đề đó trong những kỳ sau vì thiên ký sự này vẫn chưa kết thúc. Nhưng để giải tỏa nỗi bức xúc của bạn đọc, chúng tôi xin thông tin như sau: Sau ngày thống nhất đất nước, gia đình ông Ba Quốc ở miền Bắc đã được Đảng, Nhà nước cũng như cơ quan tình báo quân đội chăm lo thực hiện chính sách một cách chu đáo. Bà Phạm Thị Thanh được chuyển hộ khẩu về Hà Nội, được cấp một căn hộ để ở và được hưởng chính sách theo chế độ chung. Gia đình hai người con đều có công việc thuận lợi, hạnh phúc và thành đạt. Riêng người con trai đã được đào tạo thành sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam.

Trở lại nội dung chính của kỳ này. Cho đến nay, có thể khẳng định các điệp viên của "Việt cộng" hoạt động ở Sài Gòn rất ít khi dùng điện đài, trừ việc phục vụ các chiến dịch lớn. Trong khi người Mỹ sử dụng những thành tựu khoa học hiện đại nhất và phương tiện kỹ thuật tối tân nhất cho hoạt động tình báo thì "Việt cộng" lại sử dụng các phương tiện truyền tin thô sơ nhất. Trong suốt cuộc chiến tranh Việt Nam, rõ ràng là các phương tiện hiện đại nhất của CIA đã hoàn toàn bất lực trước các phương tiện "dân dã" nhất của tình báo "Việt cộng". Chúng tôi tò mò hỏi anh con trai thứ ba của ông Ba Quốc: "Anh có biết bố anh chuyển phim ảnh và tài liệu lên chiến khu bằng cách nào không ?". Anh cười: "Biết chứ. Tôi cũng thường giúp bố tôi làm chuyện đó mà. Đối với tài liệu viết bằng nước trà trên những tờ giấy dầu màu vàng thì dùng những tờ giấy đó... gói đồ, hoặc dán lại thành cái túi đựng đồ. Còn phim thì làm theo hai cách. Một là mua một đôi dép chapeau, lột lớp phía trên ra, rồi lấy dao cắt rỗng miếng xốp trong đế dép, phim cắt ra từng khúc nhét vào đó rồi dán lại. Một chiếc dép chứa được 1/4 cuộn phim, một đôi được 1/2 cuộn. 1/2 cuộn còn lại cũng cắt ra, cuộn nhỏ lại, nhét vào đồ chơi trẻ em. Tất cả đựng vào cái túi bằng giấy dầu màu vàng nói trên, cả vỏ cả ruột đều là tài liệu. Ông đem cái túi đó để vào cốp xe vespa rồi mang đi gặp giao liên nội đô". Chúng tôi được biết, theo nguyên tắc, ông chỉ gặp giao liên nội đô thôi. Người giao liên nội đô sau khi nhận tài liệu của ông, ra khỏi thành phố sẽ chuyển cho giao liên có vũ trang mang tài liệu về căn cứ.

"Một tập Hồ sơ trận liệt mà anh chụp hình có bao nhiêu trang ?". "Một tập ít nhất là trên 100 trang giấy A4, nhiều nhất là hơn 200 trang, cứ 3 ngày bố tôi mang về một tập". "Anh có biết nội dung trong đó là gì không ?". "Biết chứ. Tôi vẫn còn nhớ ngoài bìa ghi là Hồ sơ trận liệt cộng sản Bắc Việt. Trong đó có ghi phiên hiệu các sư đoàn và đơn vị quân đội, trang bị vũ khí hỏa lực, nơi đóng quân, tên cấp chỉ huy, tinh thần cán binh và những diễn biến trên chiến trường". "Hồ sơ đó ông bắt đầu đem về nhà từ bao giờ và đến bao giờ thì hết ?". "Tài liệu Hồ sơ trận liệt thì bắt đầu từ năm 1971, suốt cho đến ngày bố tôi bị lộ. Trước năm 1971 ông chỉ viết trên giấy dầu thôi, từ năm 1971 trở đi vừa viết trên giấy dầu vừa chụp phim, riêng giấy dầu thì ngày nào ông cũng viết".

Được biết, vào năm 1971, do quen biết với trung tá Vũ Văn Nho, Trưởng phòng 2 (tình báo) của Bộ Tổng tham mưu, ông đã biết được tin địch phát hiện ra đường dây 559 của ta suốt dọc dãy Trường Sơn. Tài liệu này ông lấy được nguyên bản và đó là bản Hồ sơ trận liệt đầu tiên mà anh con trai thứ ba của ông đã kể. Từ đó, thông qua một sĩ quan phụ trách in ấn của Bộ Tổng tham mưu ông lấy được tất cả các tài liệu nguyên bản Hồ sơ trận liệt, cứ 3 ngày một tập như trên đã nói. Những tài liệu đó cho thấy địch đã phát hiện nhiều bí mật của ta trên chiến trường, thông qua điệp báo và do thám. Có những hồ sơ cho thấy địch còn theo dõi được những diễn biến, sự thay đổi về quân số, hỏa lực, nơi đóng quân và cấp chỉ huy của từng sư đoàn của chúng ta vào những thời điểm khác nhau. Những tài liệu mà ông gửi về đã giúp ích rất nhiều cho việc điều chỉnh, đối phó, ngăn ngừa được tổn thất trên chiến trường, đồng thời cảnh giác, phát hiện được các hoạt động gián điệp của kẻ địch, vì vậy với những tài liệu đó ông đã góp phần lặng lẽ nhưng rất đáng kể vào thắng lợi của các hoạt động quân sự. Biết địch biết được những gì về ta cũng là một trong những yêu cầu của công tác tình báo.

Tuy nhiên, đó chỉ là một trong những phần việc "làm thêm" của ông. Vì như đã biết, vị trí của ông không phải ở Bộ Tổng tham mưu quân đội Sài Gòn mà ở Đặc ủy Trung ương tình báo. Mặc dù vậy, việc "làm thêm" này được ông thực hiện một cách hết sức khôn khéo và mẫn cán, đến mức nhiều khi ông có trong tay những tập tài liệu đó trước khi nó được đưa đến Tổng tham mưu trưởng quân đội Sài Gòn. Và thật đáng tiếc, chính vì những tập Hồ sơ trận liệt này mà ông đã bị lộ, vợ con ông bị bắt... Nhưng đó là việc sau này, chúng tôi sẽ đề cập chi tiết hơn trong những kỳ cuối của thiên ký sự. Còn lúc đó, trong những năm Nguyễn Văn Thiệu cầm quyền, trong nhiệm vụ trọng tâm của mình, ông vừa lập được chiến công ngoạn mục vừa có những hành động mạo hiểm cũng ngoạn mục không kém...


Tiêu đề: Re: Tình báo VN trong KCCM
Gửi bởi: Tunguska trong 25 Tháng Mười Một, 2008, 12:54:13 pm
"Tóm gọn" 35 ổ gián điệp

Hoạt động tình báo của ông Ba Quốc ở Sài Gòn khá đa dạng. Ông vừa làm nhiệm vụ phản gián vừa làm tình báo chính trị vừa làm tình báo hành động, nhưng thành công lớn nhất của ông có lẽ là nhiệm vụ phản gián.

Trong thời gian ở Phủ Đặc ủy Trung ương tình báo chế độ Sài Gòn, có lúc ông làm trợ lý cho Cục trưởng Cục Tình báo quốc nội, có lúc làm Trưởng ban Đoàn thể phụ trách các đảng phái chính trị. Ông tìm hiểu khá kỹ thực chất hoạt động của từng bộ phận của Phủ Đặc ủy.

Thông qua một sĩ quan phụ trách bộ phận ra tin của Ban R, ông biết 2/3 tin tức do Ban R sản xuất là tin công khai của báo chí và phát thanh, 1/3 là tin lấy cung từ các tù binh. Những tin tức của Cục Tình báo quốc ngoại cũng tương tự, có những tin tức có giá trị cũng chủ yếu là tin của "cảm tình viên", không phải là "nội tuyến". Chỉ có Cục Tình báo quốc nội là nơi ông có thể khai thác những tin tức cần thiết để phục vụ cho yêu cầu của cấp trên. Lúc đó, cấp trên yêu cầu ông "bằng mọi giá" phải lấy cho được toàn bộ hồ sơ về mạng lưới gián điệp của đối phương. Bởi vậy, thông qua Lê Liêm, ông ngày càng bám sát Nguyễn Văn Giàu. Ông biết Nguyễn Văn Giàu giữ cái tủ tài liệu còn "kỹ hơn giữ cái đầu của mình". Sau câu chuyện coi tướng cho vợ Lê Liêm, ông đã tận dụng triệt để mối quan hệ này. Nhưng để có chuyện mà bàn với Lê Liêm, ông lại phải tận dụng thông tin từ những chính khách đối lập đủ mọi khuynh hướng, trong đó có những người ông tạo mối quan hệ thân tình ngay từ khi mới vào Nam hoặc trước khi vào Nam. Những tin tức đó được ông xử lý rất thận trọng trên một tầm hiểu biết vừa rộng vừa sắc sảo. Ông nói với Lê Liêm: "Mặt trận Khe Sanh (lúc đó quân giải phóng đang đánh lớn ở Khe Sanh) có nguy cơ trở thành một Điện Biên Phủ thứ hai. Người Mỹ đang có nhiều tính toán để gỡ bí. Một trong những toan tính của người Mỹ là làm một cuộc đảo chính, thay chính quyền quân sự bằng một chính quyền dân sự để thương thuyết với cộng sản, nếu không có lối thoát về quân sự". Ông cũng kể cho Lê Liêm nghe về hoạt động bí mật của đại tá Mỹ Malwin trong chính giới Sài Gòn. Ông chứng minh với Lê Liêm rằng ông đủ khả năng theo dõi những âm mưu này và có thể báo trước nếu có đảo chính xảy ra. "Nghe tôi nói, Lê Liêm ngẩn người như tỉnh ngộ", ông nhớ lại. Ông đề nghị cho lập một phòng tình hình, ông hứa sẽ lo tin tức từ phía Mỹ. Nhân đó ông cũng đề nghị phục hồi lại cho ông cấp bậc mà Nguyễn Khánh đã tước khi làm đảo chính Ngô Đình Diệm (lúc đó ông mang quân hàm đại úy). Lê Liêm yêu cầu ông bám sát các hoạt động của Mỹ và yêu cầu hằng ngày gặp ông vào 9 giờ sáng tại nơi làm việc. Cần biết, Phủ Đặc ủy Trung ương tình báo ngày càng trở thành công cụ để bảo vệ người cầm quyền mà mối đe dọa lớn nhất lúc đó là các âm mưu đảo chính. Mà các cuộc đảo chính đều có bàn tay của người Mỹ. Cho nên Mỹ cũng là đối tượng của Phủ Đặc ủy Trung ương tình báo.

Ông kể: "Từ đó tôi gặp Lê Liêm hằng ngày. Một buổi sáng tôi không tới, ông ta gọi điện tìm tôi, gọi không được ông ta gọi điện bảo Nguyễn Văn Giàu đi tìm. Nguyễn Văn Giàu yêu cầu tôi nếu có đi đâu thì báo cho ông ta biết để nếu Lê Liêm gọi thì ông ta biết chỗ mà tìm". Như đã nói, mục đích của ông là mở cho được cái tủ tài liệu của Nguyễn Văn Giàu và ông đang "mượn thế" của Lê Liêm để tiến tới mục đích đó. Ông kể tiếp: "Hằng ngày, 7 giờ 30 sáng Giàu tới phòng mở tủ ra làm việc, 9 giờ 30 đi uống cà phê, 10 giờ 30 trở về nhận tin hay tiếp xúc với các trưởng SOC (Sở Giao dịch dân sự), ký các giấy tờ công văn... cho đến hết ngày. Sáng thứ bảy ông ta tiếp cố vấn Mỹ Tom Barret, chiều thứ bảy nghỉ... Một buổi sáng, tôi cầm một semi giấy tờ lên phòng ông ta, đến trước cửa tôi dừng lại. Ông ta biết ý, bảo: Chắc anh cần làm việc riêng cho ông Lê Liêm, anh cứ vào bàn giấy của tôi ngồi làm việc, tôi đi uống cà phê một lát không sao. Ông ta biết buồng làm việc của tôi đông người, không tiện ngồi làm những việc hết sức quan trọng của sếp. Tôi cám ơn và ngồi vào bàn của ông ta. Khi ông ta đi, tôi mở tủ và phát hiện thấy trong đó có các hồ sơ STAY BEHIND IN NORTH VIETNAM. Đó chính là những hồ sơ mà cấp trên yêu cầu tôi phải lấy cho được bằng mọi giá".

"Ông làm sao lấy được những tài liệu đó?", chúng tôi hỏi. "Tôi lấy tài liệu trong tủ ra ngồi chép lại". "Ông làm sao chép hết được ?". "Hôm đó tôi chép được một ít thôi. Từ bữa đó trở đi, cứ mỗi lần tôi nhìn thấy tủ của Giàu hé mở là tôi vác đồ lên, ông ta biết ý lại vội vàng xếp đồ vào cặp rồi nhường chỗ cho tôi. Khoảng nửa tháng, tôi chép sạch hết 35 bộ hồ sơ kế hoạch của 35 ổ gián điệp cài ở miền Bắc". "Trong thời gian đó ông hoàn toàn không bị phát hiện ?". "Chỉ có một lần tôi bị một nữ thư ký đánh máy tài liệu mật tên là Nguyễn Thị Lệ lên bắt gặp tôi đứng cạnh tủ tài liệu của Nguyễn Văn Giàu, nhưng cô ta không hề tỏ thái độ ngạc nhiên. Tôi nghĩ là cô ta thường thấy tôi ngồi làm việc tại bàn giấy của ông Giàu nên coi việc tôi đứng trước tủ hay ngồi ở bàn cũng không có gì lạ". "Còn Nguyễn Văn Giàu ? Ông ta không lúc nào về trong khi ông chép tài liệu ?". "Không. Thứ nhất là tôi chỉ chép trong khoảng thời gian ông ta uống cà phê, trước khi ông ta về tôi cẩn thận đem tài liệu để lại đúng chỗ. Thứ hai, vì ông ta biết tôi đang làm những việc tối quan trọng cho Lê Liêm, nên trong khi tôi làm việc ông ta không bước vào phòng, vì ông ta phải giữ ý tứ". Đó là khoảng thời gian sau Tết Mậu Thân 1968. Những ổ gián điệp đó, theo lời ông Mười Nho, đã bị "tóm gọn" hết.


Tiêu đề: Re: Tình báo VN trong KCCM
Gửi bởi: Tunguska trong 25 Tháng Mười Một, 2008, 12:55:46 pm
Khi Mỹ trở thành đối tượng của Phủ Đặc ủy Trung ương tình báo

Sau Tết Mậu Thân 1968, quân giải phóng tiếp tục giành thế chủ động trên chiến trường. Mặt trận Khe Sanh trở thành "địa ngục trần gian" của quân Mỹ. Phong trào chống chiến tranh dâng cao trên khắp nước Mỹ. Giới cầm quyền Sài Gòn lâm vào hoàn cảnh đen tối.

Lúc này Johnson có tái đắc cử Tổng thống Mỹ hay không là tùy thuộc vào tình hình Việt Nam. Tháng 6/1968, Johnson tuyên bố ném bom hạn chế để đi vào Hội nghị Paris. Ông Ba Quốc nhớ lại: "Lúc đó khắp nơi phấn khởi nhưng bọn cực hữu trong và ngoài chính quyền Sài Gòn dao động đến cực độ. Vợ Nguyễn Văn Thiệu khóc oán trách người Mỹ...". Lúc này phái hiếu chiến trong giới cầm quyền Mỹ đã có liên lạc với giới chính trị chống cộng cực đoan ở Sài Gòn tác động Nguyễn Văn Thiệu phá hoại thương thuyết để tiếp tay cho đảng Cộng hòa hạ bệ Johnson. Kết quả là Nguyễn Văn Thiệu trì hoãn không chịu ngồi vào bàn đàm phán, rồi bày ra chuyện "chỉ xanh, chỉ đỏ", "bàn méo, bàn tròn", cù cưa kéo dài thời gian cho đến khi Johnson rút lui không ứng cử tổng thống. Trong chuyện này, Nguyễn Văn Thiệu được coi là đã góp phần đáng kể cho Nixon lên làm Tổng thống Mỹ.

Nguyễn Văn Thiệu một mặt phá hoại đàm phán để kéo dài chiến tranh, mặt khác ra sức củng cố thế đứng. Thiệu tiến hành cải tổ Phủ Đặc ủy Trung ương tình báo, biến cơ quan này thành tổ chức mật vụ để khống chế, kiểm soát, lũng đoạn, vô hiệu hóa các đảng phái đối lập và các lực lượng hòa bình, đồng thời theo dõi các âm mưu của Mỹ nhằm đề phòng đảo chính. Thiệu đưa người bí thư thân tín của mình là tướng Nguyễn Khắc Bình về làm Đặc ủy trưởng. Phủ Đặc ủy được cải tổ sâu rộng. Về tổ chức, ngoài Văn phòng Đặc ủy trưởng, còn có 3 văn phòng phụ tá: An ninh, Điều hành và Kế hoạch. Cục Tình báo quốc nội và Cục Tình báo quốc ngoại được "nâng cấp". Riêng Cục Tình báo quốc nội có ba nha: Nha Điệp báo (ban K), Nha Phản gián (ban U) và Nha Chính trị (ban Z). Về nhân sự, Nguyễn Khắc Bình loại hết những người của Mỹ và của "chế độ cũ" (chỉ chế độ Ngô Đình Diệm, Nguyễn Khánh) ra khỏi các chức vụ chỉ huy từ cấp phòng trở lên. Ví dụ, trung tá Nguyễn Văn Hữu, Trưởng ban E (tình báo quốc ngoại) người của Mỹ và  khoảng 25 sĩ quan từ cấp úy trở lên người của "chế độ cũ" bị trả về Bộ Quốc phòng hoặc Tổng nha Cảnh sát. Người Mỹ chỉ quản lý được ban Q (Trung tâm Thẩm vấn quốc gia), cơ quan này chỉ làm nhiệm vụ tiếp nhận các tù binh từ các quân khu đưa về thẩm tra. Mặc dù trên văn bản không nêu, nhưng nhiệm vụ chủ yếu của Phủ Đặc ủy Trung ương tình báo là bảo vệ Nguyễn Văn Thiệu, đối tượng của Phủ Đặc ủy là Mỹ và các thế lực chống đối trong và ngoài chính quyền. Các kế hoạch và biện pháp an ninh trong Phủ Đặc ủy được bảo đảm hết sức chặt chẽ. Từ nhân viên cho đến  chỉ huy  ra vào cơ quan đều qua các lần kiểm tra an ninh. Khu vực đi lại trong cơ quan được quy định nghiêm ngặt. Ngay cả các cố vấn Mỹ cũng không được tùy tiện vào ra Phủ Đặc ủy, họ chỉ được tiếp xúc với trưởng ban E, ban K, ban U. Để đối phó với thái độ của Nguyễn Khắc Bình, Mỹ cắt các khoản viện trợ về tiền và phương tiện, cắt các cố vấn SOC. Mỹ chỉ còn chi tiền cho từng kế hoạch cụ thể, còn người và phương tiện thì chỉ còn dành cho Trung tâm Thẩm vấn quốc gia mà thôi.

Ông Ba Quốc kể: "Trước khi Nguyễn Khắc Bình về Phủ Đặc ủy 1 tuần, Nguyễn Văn Giàu cho tôi biết là Giàu sẽ nằm trong Bộ Tham mưu của Bình làm kế hoạch cải tổ Phủ Đặc ủy, ông ta bảo sắp xếp xong tổ chức tôi sẽ về chỗ ông ta. Sau khi cải tổ, Giàu làm Giám đốc Cục Tình báo quốc nội. Tôi gặp ông ta để bàn công việc của tôi, nhưng Giàu khuyên tôi không nên về vì chính ông ta cũng định không nhận nhiệm vụ đó. Ông ta tỏ ra thất vọng. Tôi hỏi vì sao, ông ta nói: Nguyễn Khắc Bình đã không thực hiện đúng chức năng của một cơ quan tình báo chiến lược chống cộng. Kế hoạch đề ra chức năng là vậy nhưng sau khi đưa cho Tổng thống Thiệu duyệt, Nguyễn Khắc Bình đã biến Phủ Đặc ủy thành tổ chức chỉ để bảo vệ Tổng thống Thiệu. Giàu không chống lại việc bảo vệ chế độ của Thiệu nhưng ông ta cho rằng chỉ cần dành 30% hay nhiều nhất là 50% cho công việc này là đủ. Bình không những không nghe mà còn coi Giàu là một phần tử chống Thiệu. Từ lúc đó tôi gần như ngày nào cũng vào giải thích cho Giàu, tôi bảo với ông ta rằng chủ trương của tướng Nguyễn Khắc Bình là đúng, vì nếu không tích cực bảo vệ Tổng thống Thiệu thì rất có thể bị đảo chính. Nguyễn Văn Giàu dần dần nghe lời tôi, nhưng giữa Bình và Giàu vẫn còn mâu thuẫn, bởi vậy tuy Giàu vẫn là Cục trưởng Cục Tình báo quốc nội nhưng 3 nha của Cục này đều làm việc trực tiếp với Bình, không thông qua Giàu".

Theo ông Ba Quốc, việc củng cố và chuyển hóa Phủ Đặc ủy Trung ương tình báo (cũng như Cơ quan An ninh quân đội) thành công cụ để bảo vệ bản thân mình là phản ứng tự nhiên của Nguyễn Văn Thiệu để đối phó với Mỹ và các tướng tá trong quân đội cũng như các phong trào chính trị nhằm ngăn ngừa các âm mưu đảo chính. Do vậy, Phủ Đặc ủy Trung ương tình báo và Cơ quan An ninh quân đội trở thành mục tiêu thù ghét của các tổ chức khác, kể cả Bộ Tổng tham mưu và Bộ Tư lệnh cảnh sát. Bởi vậy mà tướng Cao Văn Viên, Tổng tham mưu trưởng, cấm không cho Bộ Tổng tham mưu trao tin tức tài liệu cho Phủ Đặc ủy Trung ương tình báo.

Trước tình hình đó, ông Ba Quốc thấy rằng, trừ các văn phòng của Đặc ủy trưởng, việc bám vào các vị trí khác của Phủ Đặc ủy, kể cả ở Cục Tình báo quốc nội hay quốc ngoại đều không đáp ứng được yêu cầu điều tra mà cấp trên giao cho ông. Lúc này Nguyễn Văn Thiệu không chỉ đưa người thân tín về làm Đặc ủy trưởng mà còn đưa "người nhà" vào nắm các vị trí then chốt của Phủ Đặc ủy. Ông Ba Quốc lại "nhắm" vào những người này...


Tiêu đề: Re: Tình báo VN trong KCCM
Gửi bởi: Tunguska trong 25 Tháng Mười Một, 2008, 12:58:33 pm
Mạo hiểm

Trong những người thân tín của gia đình Nguyễn Văn Thiệu đưa về “cắm” ở Phủ Đặc ủy trung ương tình báo có Nguyễn Thành Long, cháu vợ Nguyễn Văn Thiệu. Long còn trẻ, chưa vợ, được Nguyễn Khắc Bình cho làm Giám đốc Nha chính trị (ban Z). Nghĩ rằng người này sẽ có vị trí cao hơn ở Phủ Đặc ủy nên ông làm thân với anh ta, hy vọng có thể khai thác được những tin tức quan trọng sau này.

Long cũng rất tin tưởng ông và thường hỏi ý kiến ông về mọi chuyện. Anh ta nói thật với ông rằng anh ta đã nhờ vợ Nguyễn Văn Thiệu can thiệp cho mình được làm Đặc ủy phó hoặc phụ tá điều hành. Nhưng chức vụ phụ tá điều hành lúc đó đã được giao cho đại tá Nguyễn Phi Phụng mà Phụng là người của Trần Thiện Khiêm. Nguyễn Khắc Bình tuy là thủ hạ thân tín của Nguyễn Văn Thiệu nhưng vẫn sợ mất lòng Trần Thiện Khiêm vì ông Khiêm lúc này đang làm Thủ tướng. Qua điều tra, ông được biết giữa vợ Trần Thiện Khiêm với vợ Nguyễn Văn Thiệu có mâu thuẫn. Nguyễn Văn Thiệu lại có tính sợ vợ, nên nhân vụ này ông xúi Nguyễn Thành Long báo cho vợ Thiệu biết chuyện Nguyễn Khắc Bình trọng dụng người của Trần Thiện Khiêm. Quả như dự đoán, vợ Nguyễn Văn Thiệu đã làm áp lực bảo chồng buộc Nguyễn Khắc Bình đưa Long thay thế Phụng. Nhưng vụ này kết quả diễn ra ngược với mong muốn của ông và của Nguyễn Thành Long. Do sự can thiệp của vợ Thiệu, Nguyễn Khắc Bình buộc phải đưa Nguyễn Phi Phụng khỏi Đặc ủy, chuyển về Tổng nha quan thuế, nhưng lại đưa một người khác lên thay, người đó là đại tá Nguyễn Văn Tây, cũng là một người thân tín của Nguyễn Văn Thiệu. Còn Nguyễn Thành Long không những không được đề bạt mà còn bị Nguyễn Khắc Bình đưa xuống quân trường Thủ Đức. Trung tá Võ Thanh Phong về làm giám đốc Nha chính trị thay Long. Thời kỳ này dư luận chống đối Phủ Đặc ủy cho rằng phủ này là phủ “trốn tổng động viên”, nên Nguyễn Khắc Bình giải thích với vợ Thiệu rằng Long còn quá trẻ, phải đưa đi “rèn luyện” một thời gian rồi sẽ rút về cho giữ chức phụ tá. Vợ Thiệu không biết nói gì, vả lại chức vụ phụ tá lúc này cũng được giao cho người của Nguyễn Văn Thiệu nắm giữ. Trong vụ này, coi như ông Ba Quốc đã đi lạc một nước cờ.

Yêu cầu của cấp trên ngày càng khẩn trương, ngoài những tin tức thường xuyên mà ông lấy được dễ dàng từ vị trí công tác của mình, ông giữ mối quan hệ tốt với Giám đốc Nha chính trị Võ Thanh Phong. Với cương vị là trưởng ban chính trị phụ trách các đảng phái, ông nắm rất chắc mọi diễn biến chính trị của các phe phái đối lập, hằng tuần ông và trung tá Phong gặp nhau để trao đổi tin tức. Ông thông báo tình hình cho ông ta vào chiều thứ sáu, sáng thứ bảy ông ta họp với Nguyễn Khắc Bình và sáng thứ hai ông ta báo lại cho ông biết về phương hướng công tác của Phủ Đặc ủy, những mâu thuẫn khó khăn trong nội bộ, những chỉ thị của Nguyễn Văn Thiệu... Tuy nhiên, nhiệm vụ quan trọng nhất của ông lúc này là phải tiếp tục phát hiện và lấy cho được các tài liệu về mạng lưới gián điệp của địch. Người mà ông "nhắm" vào là Nguyễn Đăng Khiêm, chủ sự kế hoạch của Nha Điệp báo (ban K).

Nguyễn Đăng Khiêm là một thầy tu xuất, không chơi bời hút xách và “kín như bưng”. Ông đã “đi vào tình cảm” và trở nên thân thiết với người này qua việc cùng nhau nghiên cứu đất đai trồng trọt ở Long Khánh và bàn công việc làm ăn. Từ đó ông lái dần sang những vấn đề thời sự, rồi bàn đến những việc ở Phủ Đặc ủy. Kết quả cũng thật khả quan. Từ Nguyễn Đăng Khiêm ông đã phát hiện 4 cán bộ của ta làm việc cho địch.

Đến tháng 5.1972, ông lại được cấp trên chỉ thị bằng mọi cách phải lấy cho bằng được hồ sơ của hai cán bộ ta làm mật vụ cho địch ở hai tỉnh. Ở trên đã biết là có hai nội gián làm việc cho địch nhưng không biết cụ thể tên tuổi, chức vụ. Với tư cách là một cán bộ nằm sâu trong mục tiêu, ông phải chấp hành chỉ thị này, nhưng đây là một nhiệm vụ cực kỳ khó khăn. Ông bảo, Phủ Đặc ủy trung ương tình báo “áp dụng chế độ phát-xít” trong nguyên tắc bảo mật, người của nha này kình chống người của nha kia, nên việc đi lại rất phức tạp. Chấp hành chỉ thị này, ông đành phải mạo hiểm.

Thiết lập được “quan hệ làm ăn” với Nguyễn Đăng Khiêm, ông thường xuyên đến nhà Khiêm và vài ngày ông đến phòng làm việc của ông ta một lần... Ông đến phòng làm việc của ông ta mục đích là nghiên cứu kế hoạch đánh cắp tài liệu. Mỗi lần đến, ông quan sát để xác định tài liệu nằm ở tủ nào, ngăn nào, khóa gì, chìa ra sao, đồng thời quan sát quy luật đi lại, giờ giấc của Nguyễn Đăng Khiêm. Ông kể: "Sau khi nắm được quy luật, một buổi sáng tôi đột nhập vào ban K, lúc nhân viên canh gác còn đi uống cà phê. Tôi đến trước phòng làm việc của Nguyễn Đăng Khiêm lúc người tùy phái vừa làm xong nhiệm vụ mở cửa lau bàn và đã sang làm buồng bên cạnh. Tôi bước nhanh tới tủ, mở khóa. Tôi đã hai, ba lần đo khóa của ông Khiêm để làm chìa cho đúng. Tôi cũng thử làm như vậy để mở các tủ hành chính trong ban của tôi và mở rất tốt. Nhưng thật đáng tiếc, loại tủ Macadi trong phòng của ông Khiêm không mở được bằng khóa của tôi, mặc dù chìa khóa tôi làm rất đúng tầm, đúng cỡ. Đã không mở được mà chìa khóa còn bị kẹt trong tủ. Tôi hơi hốt hoảng, nhưng lúng túng một lát tôi cũng rút được chìa khóa và ngồi xuống ghế dành cho khách. Ngay lúc đó, trung tá Tiên, Giám đốc Nha Điệp báo từ cầu thang đi lên. Ông ta trân trân nhìn vào tôi, hỏi vào giờ này tôi tới đây có việc gì. Tôi trả lời rằng tôi đến gặp ông Khiêm hẹn ông ta chủ nhật đi Long Khánh. Trung tá Tiên yên lặng đi vào phòng làm việc của mình. Tôi vẫn ngồi đó, chờ cho Nguyễn Đăng Khiêm đến và rủ ông ta đi Long Khánh để chứng minh việc này là có thật. Khi ra về, tuy không lấy được tài liệu nhưng tôi yên tâm vì đã che được mắt địch. Tôi đang nghĩ đến một kế hoạch khác thì buổi chiều hôm đó đại úy Tâm, trưởng ban An ninh của Nha Điệp báo đến gặp tôi. Đại úy Tâm trước đây là nhân viên dưới quyền của tôi thời tôi làm chỗ bác sĩ Tuyến. Anh ta báo cho tôi biết là anh ta được trung tá Tiên ra lệnh theo dõi tôi. Tôi báo cáo khẩn cấp về cấp trên, cấp trên chỉ thị ngưng không thực hiện kế hoạch đó nữa. 10 ngày sau, đại úy Tâm lại báo cho tôi biết anh ta đã được lệnh ngừng theo dõi tôi. Tôi báo về trên rằng tình hình đã yên, nhưng tôi vẫn nhận được chỉ thị thôi không thực hiện kế hoạch này. Vụ đó mãi đến sau giải phóng, khi khai thác những người chỉ huy và nhân viên Phủ Đặc ủy Trung ương tình báo tôi mới nắm được danh sách hai cán bộ này, qua Nguyễn Đăng Khiêm”.


Tiêu đề: Re: Tình báo VN trong KCCM
Gửi bởi: Tunguska trong 25 Tháng Mười Một, 2008, 02:16:47 pm
"Xúi" Nguyễn Cao Kỳ đảo chính lật Nguyễn Văn Thiệu

Trong cuốn hồi ký Chúng ta đã thua trận ở Việt Nam như thế nào ? xuất bản ở nước ngoài năm 1985, ông Nguyễn Cao Kỳ kể lại: "Khi sắp bầu cử tổng thống và nhiệm kỳ 4 năm của tôi sắp hết, tôi quyết định là dù ông Thiệu có muốn tôi cũng không ứng cử phó tổng thống nữa.

Nhưng ông Thiệu không muốn và đã chọn ông Hương (Trần Văn Hương - PV). Ông Hương từng là thủ tướng đầu tiên của Thiệu, về sau làm tổng thư ký cho Thiệu ở Dinh Độc Lập. Còn tôi, tôi quyết định ứng cử tổng thống. Nhưng cuộc bầu cử đã bị gian lận, như tôi chờ đợi, Thiệu có 2 đối thủ chính - ông Minh Lớn (Dương Văn Minh - PV), từ ngoài chính quyền trở lại và tôi - nhưng trong 4 năm cầm quyền Thiệu đã củng cố địa vị của mình đến độ không còn có thể tổ chức một cuộc bầu cử thực sự tự do được nữa. Ông đã làm ra những đạo luật khiến cho người ta khó lòng có thể tranh cử chứ đừng nói đến thắng cử...

Người muốn ứng cử phải đại diện cho một đảng lớn (tôi không phải là đảng viên của một đảng nào), hoặc phải được 40 nghị sĩ, dân biểu giới thiệu và bảo đảm. Nhưng Thiệu đã kiểm soát tất cả các dân biểu và nghị sĩ. Người ta đòi hỏi chữ ký giới thiệu của hơn 100 hội viên hội đồng tỉnh. Tôi biết là có đủ số hội viên muốn tôi ra ứng cử nhưng Thiệu lại đưa ra một đạo luật cho ông ta được quyền cách chức họ một cách độc đoán, vì thế đã đặt họ vào một địa vị khó xử.

Thiệu làm đủ điều để ngăn cản các đối thủ ra tranh cử. Nhiều nhân viên mật vụ của ông nói với tôi là có thể có đến 65 phần trăm quân đội bầu cho tôi hoặc cho ông Minh nếu có bầu cử trung thực, nhưng sau bốn năm cầm quyền Thiệu đã kiểm soát được công an và qua công an, đã kiểm soát được nhân dân.

Trong một nước mà đảo chính đã trở thành cơm bữa, dĩ nhiên là chúng tôi có thảo luận về khả năng làm đảo chính để lật đổ Thiệu. Tôi biết rằng tôi có thể hoàn toàn tin tưởng ở không quân và đa số tướng lãnh trong quân đội, nhưng không thể nào giữ được bí mật bởi vì những người Mỹ còn lại vẫn liên lạc chặt chẽ với các đơn vị Việt Nam. Chắc chắn họ sẽ mách Thiệu. Nhiều tướng lãnh khẳng định là chúng tôi không cần lính. "Chỉ cần làm sao cho các sĩ quan cao cấp nhất ký một tối hậu thư là Thiệu sẽ ra đi", một người nói như thế. Nhưng việc ấy không làm được. Các tướng lãnh có thể ủng hộ một sự thay đổi chính phủ, nhưng những sĩ quan cao cấp nhất, những người làm việc cho Bộ Tổng tham mưu, đã được người Mỹ cảnh cáo là đừng có can thiệp, đồng thời tìm cách mua chuộc một cách tế nhị...

Có điều lạ lùng là, mặc dù Bộ Ngoại giao Mỹ đã nói cho tôi hiểu rằng họ không chấp nhận một cuộc xung đột công khai giữa Thiệu và tôi (hay bất cứ việc gì có vẻ như một cuộc đảo chính), họ lại rất muốn tôi ra tranh cử để chống lại Thiệu. Họ nghĩ rằng việc ấy sẽ làm cho cuộc bầu cử có vẻ dân chủ hơn. Một buổi chiều, Đại sứ Bunker đến nhà tôi trong căn cứ không quân và nói với tôi: "Bầu cử và độc diễn thì không phải là tấm gương tốt cho thế giới". Ông ta còn xung phong kiếm tiền cho tôi vận động bầu cử, chắc hẳn ông ta thừa biết tôi chẳng có hy vọng gì trúng cử, nhưng có lẽ người Mỹ nghĩ rằng nếu phải tổn phí mà tạo được một cái vỏ ngoài bầu cử tự do thì cũng đáng đồng tiền. CIA cũng làm áp lực để tôi phải ra tranh cử, nhưng tôi trả lời họ như tôi đã trả lời Đại sứ Bunker: "Không thể được. Thiệu nắm chắc quá, và nhất định sẽ không chịu để cho tôi trúng cử". Rốt cuộc, cả Minh và tôi đều rút lui và cuộc bầu cử đã tiến hành với một tên duy nhất trên lá phiếu: tên của Thiệu".

Đó là cuộc bầu cử năm 1971 mà báo chí gọi là "trò hề độc diễn" của Nguyễn Văn Thiệu. Điều tra thực chất cuộc bầu cử này là nhiệm vụ trọng tâm mà cấp trên giao cho ông Ba Quốc. Nhưng ông không chỉ điều tra mà còn làm một cuộc khuấy động, khoét sâu mâu thuẫn giữa Nguyễn Cao Kỳ và Nguyễn Văn Thiệu. Tiếp xúc, theo dõi các thủ lĩnh các đảng phái, tôn giáo là chức năng của ông Ba Quốc ở Đặc ủy Trung ương tình báo. Nhưng không chỉ có vậy. Ông còn "tham mưu", "cố vấn" cho họ nhiều kế hoạch. Trong cuộc bầu cử năm 1971, thông qua các "chân rết" của mình nằm trong bộ tham mưu của Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ và Dương Văn Minh, ông nắm rất chắc tương quan lực lượng.

Lúc này Tổng thống Mỹ Nixon tập trung ủng hộ Nguyễn Văn Thiệu nhằm chứng minh sự thành công của học thuyết "Việt Nam hóa chiến tranh". Trong cuộc bầu cử này, Dương Văn Minh được Phật giáo ủng hộ nhưng vì không nắm được âm mưu của người Mỹ nên phải rút lui. Ông Ba Quốc kể: "Bunker sợ Thiệu độc diễn nên sẵn sàng chi cho Nguyễn Cao Kỳ 2 tỉ đồng để Kỳ ra tranh cử. Ông Thái Lăng Nghiêm và ông Lê Văn Thái nằm trong Ban tham mưu của Nguyễn Cao Kỳ. Hai người này đều thân quen với tôi từ khi tôi mới vào Nam. Tôi một mặt tiếp cận với Nguyễn Cao Kỳ, mặt khác tiếp cận với Phật giáo qua thượng tọa Thích Thiện Minh. Tôi gặp vị thượng tọa này để thống nhất một kế hoạch. Sau đó, tôi xúi Hoàng Văn Giàu, người của thượng tọa Thích Thiện Minh viết bài trên tờ Lập Trường chống Thiệu, đề cao vai trò Nguyễn Cao Kỳ. Đồng thời thông qua Lê Văn Thái, tôi đến gặp Nguyễn Cao Kỳ. Khi tôi đến nhà Nguyễn Cao Kỳ, Lê Văn Thái giới thiệu với Kỳ tôi là người của thượng tọa Thích Thiện Minh, ông Kỳ có thể trông cậy vào tôi để lấy chữ ký của nghị viên Phật tử. Tôi nói với Nguyễn Cao Kỳ rằng, việc lấy chữ ký vào thời điểm này là hơi muộn, vì Nguyễn Văn Thiệu đã mua gần hết, nhưng vẫn còn có khả năng nếu ông Kỳ được Phật giáo ủng hộ. Tôi cũng thông báo cho Nguyễn Cao Kỳ biết, vấn đề quan trọng là Phật giáo sẽ ủng hộ ai trong cuộc tranh cử này. Nguyễn Văn Thiệu tất nhiên là Phật giáo không ủng hộ rồi. Tôi nói: Còn đối với ông Kỳ, một là Phật giáo không chấp nhận tính hiếu chiến của ông, hai là vụ ông Kỳ đàn áp Phật giáo ở miền Trung vừa qua họ cũng không chấp nhận. Phật giáo không cần tiền, họ chỉ cần ông Kỳ có thái độ rõ rệt đối với các yêu cầu của Phật giáo. Nguyễn Cao Kỳ nói nếu được ủng hộ ông ta sẽ làm theo yêu cầu của Phật giáo. Ông ta hẹn gặp lại tôi trưa hôm sau. Tôi về gặp lại thượng tọa Thích Thiện Minh, cho ông ta biết là Nguyễn Cao Kỳ sẽ làm bất cứ việc gì miễn là được Phật giáo ủng hộ. Thượng tọa Thích Thiện Minh nói: Ông Kỳ dù có lấy đủ chữ ký cũng không thể đắc cử tổng thống được. Vì vậy, ông ta chỉ cần sám hối việc đàn áp Phật giáo vừa qua và đảo chính lật đổ Thiệu thì Phật giáo sẽ ủng hộ. Ông ta có dám làm đảo chính không ? Hôm sau tôi trở lại nhà Nguyễn Cao Kỳ, cho ông ta biết ý của thượng tọa Thiện Minh. Kỳ ưng chịu ngay. Ông ta nói về phía Mỹ ông ta sẽ cử người đi vận động, vì đảo chính mà không được Mỹ ủng hộ thì không thể thành công. Kỳ cũng đi vận động Dương Văn Minh tham gia. Tôi ráp mối cho Nguyễn Cao Kỳ gặp thượng tọa Thiện Minh, ông ta nói sắp xếp xong sẽ cho tôi biết thời gian gặp. Lúc đó thượng tọa Thiện Minh cáo ốm vào nằm Bệnh viện Sùng Chính đợi Nguyễn Cao Kỳ suốt cả tuần lễ nhưng không thấy tin tức gì. Tôi lại đến nhà Nguyễn Cao Kỳ. Ông ta nói rằng người Mỹ dứt khoát không ủng hộ, còn ông Dương Văn Minh thì không chịu hợp tác. Ông ta đề nghị: Chỉ còn một cách thôi, Phật giáo cứ đưa phong trào lên, tôi sẽ nhân cơ hội đó đặt người Mỹ vào một chuyện đã rồi. Nhưng thượng tọa Thích Thiện Minh vẫn một mực đòi hỏi ngược lại: Nguyễn Cao Kỳ phải công khai xin lỗi Phật giáo, rồi làm đảo chính, lúc đó Phật giáo sẽ đưa phong trào ra ủng hộ cuộc đảo chính này. Cuối cùng, hai bên đều bỏ cuộc".


Tiêu đề: Re: Tình báo VN trong KCCM
Gửi bởi: Tunguska trong 25 Tháng Mười Một, 2008, 02:18:41 pm
Mật vụ và chính khách

Sau việc "xúi" Nguyễn Cao Kỳ đảo chính Nguyễn Văn Thiệu không thành công, khi phong trào chống Thiệu bùng phát dữ dội, ông Ba Quốc bảo ông lại xáp vào làm một cuộc vận động nữa nhưng cũng thất bại. Ông rút kinh nghiệm và điều chỉnh lại các hoạt động.

Năm 1972 là năm có nhiều biến cố quan trọng. Nếu năm 1971 quân giải phóng mới tiêu diệt địch “dã ngoại” thì năm 1972 đã tiêu diệt địch ở những cứ điểm rắn nhất, giải phóng Quảng Trị, đánh đường 13 bao vây An Lộc... Mặc dù quân đội Sài Gòn được Mỹ yểm trợ không quân và hải quân với quy mô chưa từng thấy, mặc dù Mỹ điên cuồng ném bom dữ dội xuống Hà Nội và Hải Phòng cuối năm 1972, nhưng đây cũng là năm Mỹ phải chấp nhận thất bại, buộc phải ký Hiệp định Paris vào đầu năm 1973. Đây cũng là năm mà các phái đoàn quân sự từ Mỹ, Pháp, Thái Bình Dương... qua Sài Gòn nghiên cứu đông nhất, cũng là năm mà các tướng tá quân đội Sài Gòn dao động chưa từng thấy. Lúc này ông Ba Quốc đã mở rộng thêm được nhiều mối quan hệ.

Về quân sự, từ năm 1971 ông lợi dụng mâu thuẫn giữa Đặc ủy trưởng Nguyễn Khắc Bình với Tổng tham mưu trưởng quân đội Cao Văn Viên để lấy cắp các tài liệu của Bộ Tổng tham mưu mà người cung cấp chỉ biết ông lấy cho Phủ Đặc ủy Trung ương tình báo. Ông còn thân thiết với Giám đốc Trung tâm Tình báo hỗn hợp Bộ Tổng tham mưu Vũ Văn Nho, với nhiều phòng ban của Bộ Tổng tham mưu, rồi mở rộng quan hệ với chuẩn tướng Vũ Văn Giai (Quân đoàn I) và trung tướng Ngô Du (Quân đoàn II), với Phó đại sứ Mỹ Comer, với các sĩ quan Mỹ trong cơ quan MACV... Ông không chỉ lấy được những tài liệu nguyên bản về hồ sơ trận liệt suốt từ năm 1971 đến 1974 mà còn báo những tin quan trọng về tình trạng suy sụp của Quân đoàn 2 và kế hoạch sử dụng địa phương quân của Ngô Du, về mức độ tan vỡ của hai binh chủng Dù và Thủy quân lục chiến, về việc Lonnol gặp Nguyễn Văn Thiệu chuẩn bị thành lập các trung đoàn hỗn hợp dọc biên giới Việt Nam -Campuchia, thông tin xung quanh việc Mỹ ném bom B52 ở Hà Nội...

Năm 1973, sau khi Hiệp định Paris được ký kết, Mỹ một mặt ồ ạt đổ chiến cụ vào miền Nam, mặt khác tiếp tay cho chính quyền Nguyễn Văn Thiệu vi phạm hiệp định, đẩy mạnh bình định lấn chiếm. Lúc này ngoài tin tức về quân sự, ông Ba Quốc được chỉ thị đi sâu vào các tổ chức chính trị và các phe phái đối lập.

Ông kể: "Kinh nghiệm cho thấy tôi có nhiều khả năng cố vấn những âm mưu chống lại chính quyền bao nhiêu thì càng khai thác được nhiều tin tức bấy nhiêu. Chẳng hạn, tôi "gà bài" cho dân biểu Vũ Công Minh (Vũ Công Minh, người của Hòa Hảo, trước đây dẫn đường cho ông gặp Trịnh Quốc Khánh hồi ông còn làm ở Sở Nghiên cứu chính trị, nên thân với ông từ đó - PV) thì không những tôi khai thác được tin tức của các phe phái Hòa Hảo mà còn sử dụng ông ta điều tra các phe phái tay chân của Mỹ hay của Nguyễn Văn Thiệu trong Hạ viện. Góp ý với Thái Lăng Nghiêm (thượng nghị sĩ) cách chống Nguyễn Văn Thiệu, tôi có thể sử dụng ông ta điều tra bàn tay của Mỹ, của Thiệu hay của Công giáo trong Thượng viện... Còn đối với linh mục Hoàng Quỳnh, lúc đó muốn thành lập Mặt trận nhân dân đòi hòa bình, tự do dân chủ với chủ trương muốn Chính phủ của Thiệu nói chuyện với Hà Nội còn mặt trận của ông ta nói chuyện với Mặt trận dân tộc giải phóng. Linh mục Quỳnh đã liên lạc được với Cao Đài, Hòa Hảo, nhưng chưa liên lạc được với Phật giáo Ấn Quang. Âm mưu của người Mỹ là sử dụng linh mục Hoàng Quỳnh để thành lập "mặt trận liên tôn" chống cộng, nên phải lôi kéo Phật giáo tham gia, vì nếu Phật giáo không tham gia thì các tôn giáo khác sẽ không theo. Tôi hứa với linh mục Quỳnh liên lạc với Phật giáo. Và khi gặp người của thượng tọa Trí Quang, tôi biết ông Trí Quang nắm rõ âm mưu của Mỹ nên không bao giờ hợp tác với Hoàng Quỳnh...".

Ông Ba Quốc kể tiếp: "Để có thể nắm được sát âm mưu của địch trong việc thi hành hiệp định và để nếu chính phủ ba thành phần được hình thành thì tôi đã nằm được trong phe cực hữu, tôi bắt đầu tham gia vào các tổ chức chính trị. Đầu tiên tôi gia nhập lực lượng nhân dân kiến quốc của luật sư Lê Trọng Quát với cương vị Ủy viên Trung ương phụ trách Tổng bộ chính trị. Tiếp đó, trước khi Nguyễn Văn Thiệu đi Mỹ gặp Nixon, ông ta liên lạc với Trần Quốc Bửu, Chủ tịch Đảng Công nông, Nguyễn Ngọc Huy, Tổng thư ký Tân Đại Việt và Lê Trọng Quát yêu cầu lập mặt trận rộng rãi vừa để hậu thuẫn cho ông ta gặp Nixon vừa sẵn sàng cho một cuộc đấu tranh chính trị để củng cố quyền lực. Sau nhiều ngày họp tại trụ sở Tổng liên đoàn Lao công, "Mặt trận quốc gia xã hội" được thành lập, gồm Đảng Công nông, Tân Đại Việt, Lực lượng nhân dân kiến quốc Việt Nam Quốc dân Đảng (nhóm Nguyễn Đình Lương), Việt Nam Dân chủ xã hội Đảng (nhóm Hòa Hảo của Lâm Thành Nguyễn) và Đảng Xã hội của Trương Lương Thiện (Cao Đài). Tôi tham gia mặt trận này với cương vị Ủy viên Trung ương phụ trách Tổng bộ Lao động". Việc tham gia hoạt động chính trị như vậy cũng là "chức năng" của ông ở Phủ Đặc ủy Trung ương tình báo, vì phủ này cũng cần đưa mật vụ vào nắm giữ các vị trí trong các tổ chức chính trị, bởi vậy coi như ông làm một công đôi việc. Bên cạnh các tin tức quân sự, tin tức chính trị ông gửi lên cấp trên trong thời kỳ này là nhiều nhất...




Tiêu đề: Re: Tình báo VN trong KCCM
Gửi bởi: Tunguska trong 25 Tháng Mười Một, 2008, 02:20:41 pm
"Tài liệu của Bộ Tổng tham mưu, Tổng tham mưu trưởng chưa đọc mà Hà Nội đã đọc rồi"

Sau Hiệp định Paris, Nguyễn Văn Thiệu sang Mỹ gặp Nixon, nhưng không được tiếp như một "quốc khách". Lúc về, Nguyễn Văn Thiệu chỉ trích Mỹ bỏ rơi mình. Đó là chưa kể ông ta đi một loạt nước châu Âu để vận động ủng hộ nhưng cũng bị các nước này khinh rẻ, nhiều nước coi Thiệu như tội phạm chiến tranh. Lúc này Nguyễn Văn Thiệu thi hành chính sách phát-xít, ra lệnh cấm các đảng phái không có "phái lai" hoạt động, đảng phái nào muốn hoạt động phải dồn vào mặt trận ủng hộ Thiệu. Đây là cơ hội để đưa phong trào chống chiến tranh, đòi thi hành Hiệp định Paris lên cao.

Ông Ba Quốc một mặt vẫn giữ một chân trong "Mặt trận quốc gia xã hội" - mặt trận được lập ra để hậu thuẫn cho Nguyễn Văn Thiệu, mặt khác tiếp tục "sát cánh" với ông Nguyễn Văn, người của thượng tọa Thích Trí Quang để thúc đẩy phong trào Phật giáo phản chiến bùng lên. Ông kể: "Nhưng phong trào Phật giáo lúc đó gặp hai trở ngại chính. Thứ nhất là không có tiền, không có gạo. Tôi tính với ông Nguyễn Văn là muốn đưa phong trào lên thì phải tập trung cho được khoảng 600 tăng ni và khoảng 2.000 thanh niên sinh viên Phật tử. Ông Văn vận động với Hòa thượng Thích Trí Thủ cho tiến hành một cuộc lạc quyên toàn thể Phật tử mỗi người góp 1 đồng, nhưng vì mâu thuẫn trong Viện Hóa đạo nên cuộc lạc quyên này chưa thực hiện được. Cái khó thứ hai là sự cản trở của thượng tọa Thích Thiện Minh và Hoàng Văn Giàu. Với tư cách là bạn và là người giới thiệu Hoàng Văn Giàu viết bài trên tờ Lập Trường chống Nguyễn Văn Thiệu, tôi trực tiếp vận động thượng tọa Thích Thiện Minh và Hoàng Văn Giàu thay đổi thái độ đi theo con đường hòa bình chống chiến tranh, nhưng cũng không có kết quả, vì cả hai đều chủ trương không để Phật giáo bị "cộng sản hóa". Ông Nguyễn Văn bàn với một số thanh niên Phật tử gây áp lực với thượng tọa Thích Thiện Minh và Hoàng Văn Giàu để chiếm trụ sở Tổng vụ Thanh niên rồi phát động phong trào chống Thiệu. Tôi lại dàn xếp với ông Văn ngưng vụ này, vì làm như vậy có thể dẫn đến việc một số người trong Viện Hóa đạo quay sang hợp tác với chính quyền thì phong trào sẽ bị dập tắt ngay, mặt khác do tôi đã trực tiếp can thiệp, nếu để việc đổ bể tôi chắc rằng Nguyễn Văn Thiệu sẽ truy ra và không để tôi yên". Đó là phía Phật giáo.

Còn phía công giáo, ông Ba Quốc nói: "Lúc đó Mỹ rút quân nhanh ra khỏi miền Nam, vũ khí đạn dược, máy bay yểm trợ trên chiến trường bị cắt giảm mạnh. Quân đội Sài Gòn ngày càng hoang mang dao động. Về kinh tế, giá cả tăng vọt, giá xăng tăng từ 24 đồng lên 240 đồng/lít, nạn thất nghiệp gia tăng nhanh, đã có hiện tượng người dân bị chết đói ở miền Trung. Lúc đó ngay cả các thế lực chống cộng cực đoan trong Công giáo cũng không thể ngồi yên, họ phát động chiến dịch chống tham nhũng để chứng minh họ không liên quan đến trách nhiệm về sự thối nát của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu. Phát động phong trào này, họ còn nhằm tập hợp lực lượng để hậu thuẫn cho những người được mệnh danh là trong sạch trong hàng ngũ tướng tá trẻ, dọn đường cho những người này lật đổ Nguyễn Văn Thiệu để lên nắm chính quyền. Một trong những người khai sinh ra phong trào này đến gặp tôi, giới thiệu với tôi một giáo sư từ Mỹ về tên là Trần Văn Nam, bạn của Kissinger. Tôi đến gặp luật sư Trần Văn Tuyên để điều tra về người này nhưng chưa có kết quả thì một sự cố nghiêm trọng xảy ra...".

Ông Ba Quốc kể tiếp: "Đó là ngày 22/5/1974, tại địa điểm giao liên thường trực, tôi được báo tin một giao thông viên khi mang tài liệu trên đường đã bị bắt ở Suối Cụt vào ngày 20/5, tức là đúng vào ngày mà tôi giao tài liệu cho chuyến liên lạc trước. Ngày 23, tôi nhận được chỉ thị phải ra căn cứ gấp. Cấp trên cũng cho quy ước bắt liên lạc tại một rạp chiếu bóng ở Mỹ Tho vào các ngày lẻ 25, 27, 29... Nhận được chỉ thị này tôi thấy rất tiếc là mình không được hoạt động cho đến ngày thắng lợi cuối cùng mà lúc bấy giờ đang là thời kỳ hấp hối của địch. Hôm đó, tôi vẫn tìm hiểu tin tức ở Phủ Đặc ủy Trung ương tình báo và Bộ Tổng tham mưu, nhưng không thấy động tĩnh gì hết. Buổi tối, tôi còn đến nhà luật sư Đặng Thị Tám trong nhóm của Trần Quốc Bửu gặp một người Israel đến theo lời mời của bà Tám để nghe người này trình bày về dự kiến thành lập làng Kibud (làng tổ chức theo kiểu Do Thái). Hôm sau, tôi lại nhà Vũ Văn Nho, Trưởng phòng 2 Bộ Tổng tham mưu. Ông Nho là chỗ bạn bè mà tôi thường hay lui tới để nắm tình hình. Vũ Văn Nho bảo với tôi: Trong Bộ Tổng tham mưu có phản gián của Việt cộng. Ông ta nói có lẽ vì thấy ông ta là người chống cộng vào loại đáng sợ nên phản gián của Việt cộng muốn thanh toán ông ta bằng cách đưa tài liệu của ông ta ra cho chính An ninh bắt. Đại tướng Cao Văn Viên đã gọi ông ta tới Văn phòng, đập bàn hét: Tài liệu của Bộ Tổng tham mưu, Tổng tham mưu trưởng chưa đọc, mà Hà Nội đã đọc rồi ! Cao Văn Viên nghi thủ phạm chính của vụ này là Vũ Văn Nho. Kể chuyện xong, Nho bảo với tôi: Hai bữa nữa anh lại đây tôi sẽ cho anh biết thủ phạm của vụ này là ai...".


Tiêu đề: Re: Tình báo VN trong KCCM
Gửi bởi: Tunguska trong 25 Tháng Mười Một, 2008, 02:23:02 pm
Chống Mỹ 20 năm mới bắt đầu tập... đi chân đất

Ông Ba Quốc nhớ lại: "Nghe Vũ Văn Nho nói như vậy là sự việc đã về tới Bộ Tổng tham mưu, nhưng chúng chưa tìm ra được thủ phạm. Song chắc chắn chúng sẽ tìm ra tôi. Thực ra tài liệu đó là những hồ sơ trận liệt do trung úy Vũ Văn Mùi đưa cho tôi chứ không phải từ Vũ Văn Nho. Những tài liệu đó do ông Mùi in, cứ in được tới đâu giao cho tôi tới đó chứ không giao luôn một đợt, còn với Tổng tham mưu trưởng thì phải chờ in đủ một đợt mới trình lên, do vậy mà tài liệu tôi bao giờ cũng có trước ông Cao Văn Viên. Tất nhiên ông Mùi không nghĩ tôi là Việt cộng, ông ta chỉ nghĩ tôi lấy tài liệu cho Phủ Đặc ủy Trung ương tình báo thôi. Hằng tháng tôi trích một phần tiền lương của tôi để trả công cho ông ta. Khi biết bị lộ rồi, tôi tới báo tin cho ông Mùi rằng tôi bận đi miền Tây mấy ngày về vụ Hòa Hảo, dặn ông ta đừng mang tài liệu ra, đợi tôi về hẵng hay".

"Lúc đó ông đi ngay về căn cứ hay còn làm gì nữa ?", chúng tôi hỏi. Ông Ba Quốc: "Chưa. Tôi phải làm hai việc nữa. Thứ nhất là tôi đến gặp một số chính khách có thiện cảm với cách mạng, mục đích là để sau này móc nối làm việc. Đó là các ông Thái Lăng Nghiêm, nghị sĩ; Vũ Văn Vị, lãnh tụ Duy Tân; Phan Bá Cầm, lãnh tụ Dân chủ xã hội, Vương Ngọc Các, con rể nguyên Thủ tướng Lê Văn Hoạch; luật sư Trần Văn Tuyên; Nguyễn Văn, người của thượng tọa Trí Quang, Vũ Công Minh, dân biểu... Khi biết tôi là người của cách mạng, phản ứng của những người này rất có lợi cho dự kiến của tôi. Ông Thái Lăng Nghiêm nói: Cộng sản mà có anh thì cả nước này là cộng sản rồi còn gì. Các anh sẽ thắng ! Việc thứ hai là tối hôm đó tôi dặn vợ con tôi cách khai báo với địch. Trước hết khai rằng tôi báo với gia đình đi công tác 1 tháng. Cả nhà lớn nhỏ người nào thấy tôi làm gì từ trước đến nay đều khai hết và khai đúng sự thật, không giấu giếm bất cứ thứ gì, nhưng chỉ biết tôi làm cho Phủ Đặc ủy Trung ương tình báo, dứt khoát không nói biết tôi làm cho cách mạng".

"Sau đó ông đi luôn ?". "Vẫn chưa. Sáng hôm sau tôi đến Phủ Đặc ủy làm việc bình thường. Đến một lúc, tôi dặn nhân viên của tôi có ai hỏi thì bảo tôi sang chỗ linh mục Hoàng Quỳnh và đi bằng xe của Hoàng Quỳnh đến đón. Dặn xong tôi mới đi đến địa điểm hẹn với giao thông. Sở dĩ tôi phải dặn như vậy là để đề phòng trường hợp tôi không đi được phải trở về. Và bữa đó không bắt được liên lạc, tôi phải trở về thật. Sáng ngày 27/5, tôi lại đến điểm liên lạc thường trực, gặp chị giao thông và chị đã đưa tôi tới Mỹ Tho. 9 giờ đã đến nơi rồi mà quy ước là 5 giờ chiều mới có liên lạc. Chúng tôi phải vào rạp xem ciné từ 9 giờ và ngồi xem mãi cho đến 5 giờ mới ra bắt liên lạc. Đến 8 giờ tối thì tôi được đưa về Cụm H67 (ông Ba Quốc thuộc Cụm Tình báo H67 của cơ quan tình báo miền). Tôi được nghỉ tại đây khoảng 1 tháng để... tập đi chân đất, tập lội bùn, và về đến cơ quan tình báo miền sau 1 tháng 8 ngày bằng đường dây võ trang".

"Vì sao ông phải... tập đi ?". Ông Ba Quốc cười: "Suốt 20 năm hoạt động ở Sài Gòn tôi chưa ra vùng giải phóng lần nào. Lần đầu tiên ngỡ ngàng lắm, phải tập thì mới đi được chứ !".

Anh con trai của ông Ba Quốc kể: "Đợt chụp phim cuối cùng đó tôi còn nhớ, tôi chụp cái hồ sơ trận liệt khoảng hơn 100 tờ, hết 4 cuộn phim, rồi chụp thêm 4 tờ giấy viết tay, rồi một bức thư nữa. Chụp xong, tôi đi đá banh... Mấy hôm sau, buổi chiều bố tôi về, tôi thấy ông có vẻ buồn. Tới tối, tôi nghe mẹ tôi nói: Bố bị lộ rồi. Hôm sau, trước khi đi bố tôi còn leo lên sửa lại mái nhà bị dột, dặn nếu có ai đến thì bảo bố không có nhà. Lúc đó ông Vũ Văn Mùi đến, gõ cửa hỏi : Anh Tá có nhà không ? Tôi bảo bố tôi không có nhà. Sau đó ông Mùi bị bắt. Bố tôi đi bỏ chiếc xe Vespa và khẩu súng ru-lô lại. Chiều hôm đó tôi bắt đầu thấy có hiện tượng nhà tôi bị theo dõi. Cư xá chúng tôi ở lúc đó phần nhiều là dân của Phủ Đặc ủy, nhìn họ ngó ngó nghiêng nghiêng là biết ngay. Mấy ngày sau, vào lúc 12 giờ đêm, khi còi vừa hụ giới nghiêm xong là họ ập vào nhà rất đông. Mặc dù đã chuẩn bị sẵn nhưng cũng thấy rất hoảng vì họ đến đông quá. Họ bắt đầu xét nhà, toàn bộ đồ đạc giấy tờ liên quan đến bố tôi đều bị họ dồn vào giữa nhà. Đến khoảng 4 giờ sáng họ xuống nhà xe lục tiếp và tịch thu chiếc xe, tịch thu súng. Đến 4 giờ 30 sáng họ về. Họ đi rồi mẹ tôi bảo: Thế nào chúng cũng quay lại bắt...".

Anh con trai thứ ba của ông Ba Quốc kể tiếp: "Tôi có ba anh em. Tôi lúc đó chuẩn bị thi tú tài, anh trai tôi là sinh viên Đại học Phú Thọ, còn bé Hạnh, em gái tôi thì còn nhỏ. Trước khi đi, bố tôi bảo với tôi: Chúng sẽ bắt mẹ con và bắt một trong hai đứa, tức là bắt người chụp hình. Con cứ nói thật là con chụp, còn hai ngón tay in dấu trên phim cũng cứ nói thật là của bé Hạnh. Bố tôi dự đoán rất chính xác. Đến 6 giờ sáng, họ quay trở lại. Họ bảo bố tôi đang ở Phủ Đặc ủy, mời mẹ tôi và tôi lên gặp ổng. Xe chạy ra đến đường Trần Quang Khải thì họ đưa băng đen bịt mắt mẹ con tôi lại, khi đến nơi họ tách mẹ con tôi ra...".


Tiêu đề: Re: Tình báo VN trong KCCM
Gửi bởi: Tunguska trong 25 Tháng Mười Một, 2008, 02:25:07 pm
Đại họa giáng xuống đầu vợ con

Ngay sau khi ông Ba Quốc lên chiến khu, đại họa đã giáng xuống đầu gia đình ông. Vợ và người con trai thứ ba của ông ở Sài Gòn bị bắt. Bà Ngô Thị Xuân, vợ ông kể: "Suốt hai mươi năm tôi sống trong lo lắng, cứ mỗi lần ông về muộn là tôi lại thấp thỏm không yên, không biết tai họa sẽ giáng xuống vào lúc nào. Và ngày đó đã đến. Ông vừa đi thì mẹ con chúng tôi bị chúng bắt, tra tấn tàn bạo lắm. Con tôi bị đánh mặt mũi sưng vù, chân tay lở lói, ăn uống thì thiếu thốn nên cả người nó bị phù thũng. Tôi nhớ có lần chúng đưa đi thẩm vấn, tôi ngồi đằng này, con tôi ngồi đằng kia mà mẹ con tôi không nhận ra nhau. Thấy nó nhưng tôi không nghĩ đó là con của mình, mãi đến khi nó mở miệng nói thì tôi mới nhận ra nó".

Còn anh con trai thứ ba của ông Ba Quốc thì kể: "Ban đầu chúng bắt mẹ con chúng tôi vào giam ở nhà giam của Phủ Đặc ủy Trung ương tình báo, giam riêng mẹ tôi một nơi, tôi một nơi. Người hỏi cung là đại úy Phan Ngọc Sơn. Ngày đầu tiên chúng không hỏi gì hết. Đến tối, chúng đưa cho tôi một tờ giấy bảo làm bản tự khai, bảo tôi khai tất cả những việc tôi làm từ nhỏ đến lớn. Trước khi đi bố tôi dặn đi dặn lại là, tất cả những gì tôi đã làm thì phải khai cho hết, bố bảo không khai là không được vì tất cả những vân tay đều được in trong phim rồi. Tôi khai: Bắt đầu từ năm 1971, thấy bố mang máy chụp hình về, bảo chụp hình giùm bố, đó là những tài liệu về trận liệt, bố nói là chụp tài liệu cho Phủ Đặc ủy. Chúng hỏi những việc bố tôi làm ở nhà, những ai thường đến nhà và địa chỉ những người đó ở đâu... Tôi thấy như thế nào tôi nói ra như thế, những gì không biết tôi nói không biết. Tôi chỉ không khai bố tôi là Việt cộng thôi, vì trước khi đi bố tôi dặn nhất thiết không được khai chuyện đó. Hằng ngày chúng làm cung và làm cung liên tục. Vài hôm sau khi bị bắt, khi tôi đi tắm thì nhìn thấy ông Vũ Văn Mùi, tôi hơi giật mình. Vợ ông Mùi và con trai ông Mùi cũng bị bắt. Trong trại giam, tôi nằm phòng chính giữa, con ông Mùi nằm phía bên phải, ông Mùi nằm phía bên trái, hai phòng ngoài là mẹ tôi và vợ ông Mùi nằm. Ông Mùi bị chúng đánh suốt một tuần lễ, người chỉ còn da bọc xương".

"Ông Mùi khai đã đưa tài liệu cho bố anh?", chúng tôi hỏi. "Ông Mùi là người giữ tài liệu gốc ở Bộ Tổng tham mưu, đưa cho bố tôi, ông ta chỉ biết bố tôi là người của Phủ Đặc ủy Trung ương tình báo, tất nhiên là ông ta khai như vậy. Trong trại giam bà vợ ông Mùi còn phàn nàn với mẹ con tôi rằng: Đưa tài liệu cho ông Tá mỗi tháng chỉ được ông Tá cho một bao gạo, mà chồng tôi chỉ biết ông Tá làm cho Mỹ, không ngờ lại ra nông nỗi này".

Anh kể tiếp: "Trong thời gian này tôi đang chuẩn bị thi tú tài. Những người trong Phủ Đặc ủy bảo với tôi: Chúng tôi biết anh đang chuẩn bị thi tú tài, anh khai thì cứ khai, nhưng trong thời gian rảnh, chúng tôi sẽ mang sách vở đến cho anh học thi. Và quả đúng như thế, họ bảo tôi viết thư gửi về nhà và cho người đến gặp anh tôi, cậu tôi để lấy sách vở mang vào cho tôi học thật. Hỏi cung liên tục hơn 2 tháng, một hôm chúng đem những tấm hình tài liệu ra hỏi: Có phải anh chụp những tấm hình này không ? Tôi đáp: Đúng là tôi chụp. Chỉ vào 2 dấu vân tay, chúng hỏi tiếp: Dấu tay này là của ai ? Tôi đáp: Của bé Hạnh, em gái tôi. Sau đó chúng bảo sẽ chở mẹ con tôi đi để thả về. Nhưng mẹ tôi nói với tôi rằng: Chúng sẽ không thả đâu con. Và đúng như mẹ tôi nói. Chúng đưa chúng tôi lên xe chở đi, đến khi chúng mở băng bịt mắt thì tôi thấy nguyên một dãy nhà tù, sau này tôi mới biết đó là Trung tâm Thẩm vấn của Tổng nha Cảnh sát...".

"Tại Phủ Đặc ủy Trung ương tình báo chúng có đánh mẹ con anh không?". "Tại đây chúng không đánh, chỉ hỏi cung 2 tháng thì kết thúc hồ sơ. Nhưng sang đến trung tâm thẩm vấn thì khác. Mẹ con tôi bị đánh tàn bạo. Người làm cung ở đây là đại úy Nguyễn Văn Hiệp. Gặp tôi là hắn đánh phủ đầu. Hiệp hỏi: Mày có biết bố mày là Việt cộng không? Tôi trả lời: Không biết. Hiệp: Mày mà không biết bố mày là Việt cộng hả? Hắn vừa nói vừa đánh tôi một trận nhừ tử. Chúng đưa tôi đến nhận diện giao thông viên. Hỏi: Có biết người này không? Trả lời: Không biết. Mà thật sự là tôi không hề biết người đó. Lại đánh một trận nữa. Đến hôm khác, hắn lại hỏi: Người đưa bố mày đi là ai? Bây giờ ở đâu? Trả lời: Không biết. Lại bị đánh. Một hôm khác, hỏi: Mày thấy bố mày bắt đầu chụp hình từ khi nào? Tôi khai như khai ở Phủ Đặc ủy. Hắn bắt tôi diễn lại  việc chụp hình, tráng hình... Rồi tiếp tục đánh. Hôm khác lại hỏi: Ngoài tài liệu của bố mày đưa cho mày chụp, còn có ai đưa tài liệu nữa không? Người ấy bây giờ ở đâu? Trả lời: Không có ai nữa hết. Lại đánh tiếp... Chúng thẩm vấn như vậy mãi cho đến hết tháng 11/1974 thì làm xong cung chì, lúc đó mới hết đánh...".


Tiêu đề: Re: Tình báo VN trong KCCM
Gửi bởi: Tunguska trong 25 Tháng Mười Một, 2008, 02:27:06 pm
Chuyện “hàng xóm” và chuyện của người giao liên

Anh con trai thứ ba của ông Ba Quốc kể tiếp: "Trong thời gian mẹ tôi và tôi ở trong nhà giam, ở nhà anh tôi một mình nuôi hai đứa em. Trước anh tôi cũng học Trường Lasan Đức Minh, đỗ tú tài 2 xong, do học giỏi, anh được cấp học bổng đi du học Colombia (Mỹ), Trường Đức Minh có 2 người được học bổng du học đợt đó, nhưng bố tôi không cho đi, nên anh thi và đỗ vào Trường Phú Thọ. (...)

Khi bố tôi bị lộ, mẹ tôi và tôi bị bắt, Trường Phú Thọ chỗ anh tôi học không gây khó dễ gì cho anh tôi cả. Anh tôi vừa đi học, vừa đi làm, vừa đi dạy kèm. Giám học Trường Lasan Đức Minh là fère Bénile, thấy hoàn cảnh gia đình tôi như vậy cũng giúp đỡ bằng cách giới thiệu cho anh tôi đi dạy thêm. Trong những học trò mà anh tôi dạy có cả con của trung tướng Ngô Du, Tư lệnh Quân đoàn 2. Còn tại cư xá nhà tôi ở, phía dưới là nhà trung tá Ngọ, phi công. Bên cạnh là nhà ông Đán, trợ lý của linh mục Hoàng Quỳnh. Cạnh ông Đán là nhà ông Thụ, thiếu tá Biệt khu thủ đô. Trên lầu là 2 ông ở Bộ Nội vụ, cạnh đó là nhà ông Lộc, ông Phúc, ở Phủ Đặc ủy Trung ương tình báo. Đối diện cầu thang nhà tôi là nhà đại tá Nguyễn Văn Y, trước là Tổng giám đốc Cảnh sát quốc gia thời Ngô Đình Diệm, lúc đó đã về hưu... Xung quanh toàn là những người như vậy cả, nhưng khi biết bố tôi là Việt cộng rồi mà không ai có định kiến gì. Ngay cả những người ở Phủ Đặc ủy cũng kêu anh tôi đến dạy cho con họ. Có lẽ do cách sống, cách ăn ở của bố tôi làm ai cũng có cảm tình, nên khi biết ông là Việt cộng rồi mà không ai sợ liên lụy cả. Chính vì vậy mà anh tôi mới có việc làm nuôi hai đứa em ăn học bình thường...".

Anh con trai thứ ba của ông Ba Quốc sau này cũng trở thành sĩ quan cao cấp Quân đội nhân dân Việt Nam. Anh đúng là con ông Tá "bụt", hiền lành, chân chất, thấy ai tốt thì anh nói tốt, mà những chuyện tốt của người khác thì anh nhớ rất lâu.

"Còn việc bắt giam mẹ anh và anh, sau đó chúng xử lý như thế nào ?". "Giam được 6 tháng, sau khi làm cung xong, một hôm chúng dẫn chúng tôi ra xe đưa qua Nha Cảnh sát đô thành. Hai ngày sau chúng thả mẹ tôi ra, còn tôi chúng cũng thả ra nhưng kèm theo một tờ giấy yêu cầu đến trình diện tại Trung tâm Nhập ngũ 3. Về tới nhà, chúng yêu cầu mẹ tôi phải đăng một mẩu tin trên báo Đại Dân tộc, nội dung chúng viết sẵn như sau: Nhắn bố thằng Q. Gia đình vẫn bình yên. Bố về gấp! Q. là em trai tôi...".

"Rồi anh có trình diện không ?". "Không. Lúc đó tình hình đã rất lộn xộn rồi. Mấy tháng sau thì giải phóng".

"Có đăng báo không ?". "Có chứ. Chúng bắt buộc phải làm như vậy".

"Anh có biết chúng bảo đăng báo như vậy để làm gì không ?". "Có lẽ để dụ bố tôi về".

Suốt 20 năm hoạt động trong lòng địch, trong những tình huống bất đắc dĩ hoặc do yêu cầu bức bách của nhiệm vụ, ông Ba Quốc nhiều phen phải mạo hiểm, phải "liều", nhưng ông vô cùng cẩn trọng. Theo chúng tôi biết, việc ông bị lộ là do một tình huống rủi ro ngẫu nhiên, không phải khiếm khuyết của bản thân ông hay của hệ thống liên lạc. Bà Bảy Anh (Nguyễn Thị Bảy), người giao thông nội đô cho ông kể:

"Tui làm liên lạc cho anh Ba từ năm 1966 đến năm 1974. Tui có nhiều bình phong lắm, nhưng chủ yếu là làm nghề may, cũng có khi tui đóng vai làm mướn cho người ta. Tất cả những chỗ tôi ở đều không gặp nguy hiểm gì hết. Những chỗ tôi ở đều là cơ sở, biết tôi là Việt cộng nhưng không biết tôi làm ngành nào mà không ai hỏi han bao giờ. Có lúc tôi ở nhà một cơ sở của ta là dân biểu Hạ nghị viện, ở nhà đó tôi đóng vai người làm công. Tui lại có giấy tờ tùy thân đầy đủ, mà là giấy căn cước thật chứ không phải căn cước giả đâu. Tôi gặp anh Ba mỗi tuần 1-2 lần, có khi nhiều hơn. Hễ có chỉ đạo gì trong đó gửi cho anh Ba là tui căn cứ trong thư tui gặp, chứ không hề có quy định ngày giờ và địa điểm. Cứ mỗi lúc đến kỳ hẹn gặp giao thông trong cứ ra, tôi mới biết ngày giờ và địa điểm tui sẽ gặp anh Ba. Trong tất cả những lần gặp gỡ anh Ba để trao đổi tài liệu, tôi chưa bao giờ cảm thấy nguy hiểm cả, lần nào hẹn là đều gặp được và rất an toàn. Hồi đó mỗi lần đi gặp anh Ba, tùy theo địa điểm mà tui ăn mặc, ví dụ hẹn gặp ở chợ Sài Gòn hay vào dịp lễ tết thì tui mặc áo dài, còn hẹn gặp ở những địa điểm thường thì tui mặc bà ba bình thường, có khi đi bộ, có khi đi xe lam, xích lô. Nhiều lúc đi đến nơi hẹn phải đi 2 hay 3 chặng xe. Chúng tôi gặp nhau thường chỉ kịp trao đổi tài liệu, không bao giờ kịp nói điều gì hay hỏi thăm hoàn cảnh của nhau. Sau khi nhận tài liệu của anh Ba xong thì các ngày sau tôi mới gặp giao thông trong cứ ra. Tài liệu của ảnh hóa trang rất kỹ và nhỏ gọn lắm, mang về nhà tui hay quăng đâu đó mà chẳng ai để ý. Chuyện anh Ba bị lộ là như thế này. Bữa ấy có một cô giao liên trong cứ ra gặp tôi để lấy tài liệu về. Tôi biết trên đường đi cô ấy không hề bị lộ. Nhưng trong lúc ra đến Củ Chi để đi về căn cứ, trên đường đi thì gặp một cán bộ của mình công tác ở ngành nào đó tui không rõ, tụi nó bắt ông đó trên xe, tất cả những người trên xe đều bị bắt hết, cô giao liên đi trên xe đó cũng bị bắt luôn. Cô ấy bị bắt rồi thì mấy ảnh trong cứ tức tốc cho liên lạc gặp tui tại hộp thư bất thường gọi tôi vào trong cứ. Tui báo với mấy ảnh trong đó rằng cô ấy bị bắt, dù cô ấy có ra đây cũng không biết tui ở đâu, nên tui biết chắc là tôi không thể nào bị lộ được. Nhưng cấp trên đã bảo rút thì tui phải chấp hành. Cô ấy bị bắt và địch đã phát hiện ra chính tài liệu sau cùng mà tôi nhận từ anh Ba giao cho cô ấy, từ tài liệu đó mà địch truy ra". Bà Bảy Anh chính là vợ ông Bảy Anh, người chỉ huy trực tiếp của ông Ba Quốc sau ông Ba Hội. Bà cũng lên căn cứ cùng lúc với ông Ba Quốc. Sau giải phóng bà mang quân hàm trung úy. Bà được thưởng Huân chương Chiến công hạng 3 và 3 Huân chương Chiến sĩ giải phóng hạng 1, 2, 3.


Tiêu đề: Re: Tình báo VN trong KCCM
Gửi bởi: Tunguska trong 25 Tháng Mười Một, 2008, 02:28:29 pm
Nhật ký về cuộc "hành quân" đầu tiên

Sau một thời gian "tập đi chân đất, tập lội bùn", ông Ba Quốc được đón về cơ quan tình báo miền trên chiến khu. Sau đây là một đoạn trích trong nhật ký nói về cuộc "hành quân" đầu tiên của ông:

"...Trời dần tối, đoàn người lặng lẽ men theo bờ ruộng ngoằn ngoèo, lồi lõm. Tới ấp chiến lược, tin báo truyền khẩu từng người vừa đủ nghe. Trong ấp khoảng 1 giờ khuya, thỉnh thoảng ánh đèn dầu le lói qua khe cửa. Ra khỏi ấp chừng 2 tiếng là đến điểm bàn giao giữa hai cung giao liên. Dưới vòm trời sao lấp lánh, giữa cánh đồng mênh mông gió thổi, những đốm lửa thuốc lá lập lòe, cán bộ giao liên phổ biến tình hình để phòng tránh địch phát hiện, tránh máy bay, nên yêu cầu đi nhanh tới điểm tập kết trước khi trời sáng. Đoàn người lại nối đuôi nhau rảo bước. Đôi bàn chân vốn chỉ quen đi trong thành phố, dù đã tập luyện cả tháng trời mà lúc này bước thấp bước cao, tê dại tưởng chừng hết chịu đựng nổi, cảm giác như máu đang chảy ướt đẫm lẫn với bùn. Toàn thân dựa vào cái gậy chống, lao đi cho kịp với dòng người, chẳng ai chờ đợi ai. Tới điểm tập trung, toàn thân đau như dần, hai chân sưng húp, vừa đau đớn vừa tê cứng. ...Nghỉ ngơi đến 5 giờ chiều, ăn uống xong, lại chống gậy đeo ba lô lên đường. Leo qua hai chiếc cầu khỉ mà tưởng như muốn rớt xuống lòng kênh sâu thăm thẳm. Bì bõm nương theo bờ ruộng, đến khoảng 8 giờ tối được báo chuẩn bị qua lộ 4. Mọi người tự tìm lấy một chỗ núp chờ để giao liên đi nắm tình hình. Vòm trời sao thưa thớt, tiếng dế kêu như một bản đại hòa tấu vang khắp cánh đồng. Một tấm nilon được trải qua lộ cho mọi người bước đi không để lại dấu vết. Một tiếng cú kêu. Đoàn người ra khỏi những chỗ núp, lần lượt băng qua lộ. Đi một đoạn, lại báo có đèn xe jeep, mọi người lao nhanh lên phía trước. Tư Xệ, cán bộ giao thông vũ trang lùi lại mấy bước ghé vào tai tôi: Chú đi như thế địch phát hiện thì nguy. Phải chúc 5 ngón chân xuống, thế này... thế này... Pháo địch không rõ từ đâu dội tới, phá tan đội hình. Tất cả đều nằm xuống. Hết tiếng pháo, đoàn người lóp ngóp đứng dậy, người nào cũng ướt sũng. ...Sau 10 ngày hành quân, hai chân nát bấy, tứa máu mủ. Bước một bước là đau buốt lên tận óc, toàn thân đè lên chiếc gậy. Cuối cùng cũng không chịu nổi, ngất đi, được cõng vào nhà một đồng bào cơ sở cách mấy cây số. Tư Xệ mỗi ngày phải đi về 12 cây số để đón y tá trong xã ra điều trị. Một tuần sau, tuy chưa khỏi hẳn, vẫn phải lên đường trong tình trạng suy kiệt, bước thấp bước cao, nhìn cảnh vật ngày cũng như đêm, quay cuồng trong đồng nước mênh mông mù mịt... ...Sau khi vượt qua cuộc hành trình gian truân 1 tháng 8 ngày thì về đến cơ quan, tại một khu rừng le thuộc tỉnh Lộc Ninh. Niềm vui tràn ngập như đứa con đi xa lâu năm mới về. Ngây thơ, trong trắng, rộn ràng khí thế cách mạng... Các anh cho biết tình hình trong Sài Gòn - địch đã bắt Xuân và con trai. Ngoài Bắc thì cả gia đình đã biết tin mình ra vùng giải phóng...".

Sau hai mươi năm hoạt động trong lòng địch, ông Ba Quốc chịu đựng những gian khổ ít ai hiểu được. Nhưng đoạn nhật ký trên cũng cho thấy, lần đầu tiên ông Ba Quốc biết đến một sự gian khổ khác của cuộc chiến đấu mà hai mươi năm qua ông chưa từng nếm trải. Gian khổ nhưng đầy chất lãng mạn. Và "ông tướng" này lại hăng hái hướng về Sài Gòn. Con người này không bao giờ bỏ dở nửa chừng bất cứ công việc nào. Không phải ngẫu nhiên mà khi đã bị lộ rồi ông vẫn còn tranh thủ gặp người này người khác. Ông bảo, cuối năm đó (1974) ông lại xuống Củ Chi để "móc nối lại" những người mà ông đã tiếp xúc trước khi đi. Đầu tiên ông cử giao liên vào gặp ông Nguyễn Văn, nhưng thất bại. Người giao liên cho biết vì vợ con ông đã bị bắt, nhà đang bị canh chừng, bạn bè thân thích của ông đều bị theo dõi, phải chờ một thời gian cho lắng xuống rồi mới móc nối lại được.

Liên quan đến chuyện này, anh con trai thứ ba của ông Ba Quốc kể: "Sau khi bố tôi đi, lãnh đạo cơ quan tình báo miền cho giao liên mang xuống Sài Gòn gửi cho gia đình tôi 30 ngàn đồng (tiền Sài Gòn lúc đó). Số tiền này giao liên mang đến nhờ ông Nguyễn Văn chuyển. Ông Nguyễn Văn nhận nhưng sợ bị theo dõi nên không dám mang đến. Không biết làm sao với số tiền ấy, cuối cùng thì ông ấy đem đút vào ống tre, giấu kỹ trên trần nhà. Mãi đến khi giải phóng Sài Gòn rồi, ngày 2/5/1975 ông mới mang số tiền đến gửi cho mẹ tôi và nói thật là lúc ấy sợ quá không dám mang qua nhà tôi". Còn ông Ba Quốc, sau chuyến xuống Củ Chi không thành, ông trở lại cơ quan, đi tham gia khai thác số tù binh bắt được trong trận Phước Long. Và ông bắt đầu nôn nao muốn về thăm gia đình ở Hà Nội. Đúng lúc đó thì cơ quan tình báo quân sự trung ương có lệnh gọi ông ra Bắc. Thế là ông chuẩn bị cho một chuyến đi ra Bắc. Lúc này đã là mùa xuân năm 1975...


Tiêu đề: Re: Tình báo VN trong KCCM
Gửi bởi: Tunguska trong 25 Tháng Mười Một, 2008, 02:31:01 pm
Hai cuộc đoàn tụ

Ông Ba Quốc lên đường ra Bắc bằng ô tô quân sự, dự định sẽ đi trên đường Trường Sơn. Ông viết trong nhật ký:

"... Ra đến Pleiku thì được tin Bình Định đã giải phóng. Xe đi sang phía đèo An Khê rồi xuống đường số 1 về Hà Nội đi thẳng ra Hà Nội. Lúc này tin chiến thắng cứ dồn dập. Quân đội, pháo, tên lửa và các phương tiện chiến tranh rầm rập chuyển vào, khí thế hừng hực, người người nô nức. Đi ba ngày đêm thì về đến Hà Nội, đúng vào lúc tiếng pháo đầu tiên đốt mừng chiếm Dinh Độc Lập. Hà Nội vui như bể tung ra, đâu đâu cũng nghe tiếng reo hò... Tới trạm tiếp đón của cơ quan, nghỉ ngơi một lát rồi được cơ quan đưa xe về nhà bố ở khu tập thể Kim Liên. Từ trên lầu bước xuống, nước mắt dàn dụa, bố nghẹn ngào: Mày đấy ư con...! Rồi bố run rẩy ôm lấy đứa con hơn 20 năm xa cách trước sự xúc động của bà con xung quanh. Dắt tay con lên nhà, bố chỉ tấm bản đồ treo trên tường với những mũi tên bằng chì đỏ, bố nói bố chấm không kịp với tin chiến thắng. Vợ chồng Dung-Hòa (vợ chồng người em trai ông Ba Quốc - PV) cũng về kịp. Cả nhà đông nghẹt người, cười nói thăm hỏi nhộn nhịp...".

Về chuyện ông Ba Quốc gặp người cha già của mình, anh con trai của ông ở miền Bắc kể: "Lúc đó ông nội tôi đang dọn cơm trên nhà, nghe bố tôi về ông bàng hoàng quăng cả mâm cơm xuống đất, chén bát vỡ tan hết cả. Ông nội tôi không thể tin rằng sẽ có ngày còn gặp được con mình".

Ông Ba Quốc viết tiếp: "Chú Dung lên báo cho mẹ con Thanh xuống, lý do là tôi không thể về nhà kịp, vì lúc đó cơ quan có lệnh phải vào gấp Sài Gòn để tiếp quản Phủ Đặc ủy Trung ương tình báo của địch. Đáng lẽ tôi đã nhận được lệnh trở lại ngay trên đường ra Hà Nội nhưng vì xe rẽ xuống Quốc lộ 1 nên lệnh không truyền tới kịp. Lúc ở cơ quan về lại nhà bố thì Thanh và các con đã xuống. Thanh già đi nhiều, tóc đốm bạc, da nhăn nheo, nhưng nét mặt vẫn dịu dàng hiền hậu như xưa. Lúc ra đi thì các con chưa biết gì, bây giờ thì con gái đã lấy chồng có 2 cháu, chồng là thiếu úy quân đội. Còn con trai bây giờ đã là công nhân xí nghiệp quốc phòng. Chồng vợ, cha con gặp nhau, nước mắt quanh tròng, mừng mừng tủi tủi. Buổi chiều cơm nước xong, khách đã vãn, chỉ còn lại cha con, vợ chồng, ông cháu, anh chị em quây quần hỏi han, chuyện kháng chiến, chuyện của Xuân và các con trong Nam, rồi những chuyện thăng trầm của cuộc sống, của tình người trong hai mươi năm... Đến nửa đêm, Thanh hỏi với ý trách móc: Sao anh lại đi ngay? Nhưng rồi Thanh cũng hiểu công việc và rất thương chồng...".

Ông Ba Quốc đã đoàn tụ với vợ con chỉ một hôm như vậy, hôm sau ông lại vào Sài Gòn. Anh con trai ông Ba Quốc ở miền Bắc nói: "Sau cuộc gặp đó, một năm sau bố tôi mới trở lại". Còn bà Ngô Thị Xuân, vợ ông ở Sài Gòn thì kể: "Vào ngày 5/5/1975 nhà tôi mới về. Lúc ông về thì tôi đang dọn dẹp nhà cửa. Thấy ông bước vào mấy đứa nhỏ bảo: Mẹ ơi, bố về ! Ông chả nói gì cả, chỉ cười và chơi với con một lúc rồi vào cơ quan. Lúc ấy ông mặc đồ bộ đội, đội mũ cối".

Còn ông Ba Quốc thì viết trong nhật ký: "Gặp vợ con ở Hà Nội một hôm, lại một cuộc chuẩn bị "vì nhiệm vụ" đối với cả người ở lẫn kẻ đi. Gần trưa hôm sau xe đón sang sân bay Gia Lâm, lên máy bay quân sự, hạ cánh xuống sân bay Tân Sơn Nhất lúc 6 giờ chiều... Trên đường về nhà, ngang qua một quán phở, một đám trẻ con bu theo: Ê ê... anh bộ đội! Ủa, bộ đội à... Đúng rồi, quần áo, mũ cối, dép râu, ba lô... đúng là anh bộ đội rồi. Hơi đỏ mặt, nhưng trước cái nhìn đầy cảm tình của những người trong quán, trong lòng thấy vui vui... ...Về đến cư xá khoảng 9h tối. Bọn trẻ con đang chơi chạy theo trầm trồ: Bố thằng Q. về, bố thằng Q. về... Có đứa chạy trước gọi Q. Thằng Q., rồi các con chạy ra đón bố. Chưa kịp vào nhà kể những chuyện xảy ra một năm qua... Trong thời gian mẹ và anh trai bị bắt, anh trai lớn đi học và đi làm, Q. ở nhà mỗi khi thò đầu ra cửa là bị một số trẻ con trong cư xá chọc quấy: Ê... con Việt cộng... Có hôm còn  bị chúng xúm lại đấm đá... Nhưng một hôm, Q. giấu một con dao cắt bánh mì vào cạp quần, chờ cho tụi trẻ tới chọc quấy, Q. rút dao ra đâm lia lịa... Thế là từ hôm sau, Q. trở thành "đầu đảng" của đám trẻ con trong cư xá, được bọn trẻ phục tùng. ... Một chuyện khác nghe kể lại: Chỉ sau hai bữa Sài Gòn được giải phóng, anh P., theo yêu cầu của cơ quan tình báo miền, đã đem xe lại đón mẹ con Xuân lên cơ quan (lúc này đặt tại Phủ Đặc ủy Trung ương tình báo cũ). Trên đường đi, anh P. chỉ chiếc vali trong xe, nói: Chuyến này tôi sẽ để mẹ con nó ở nhà, nhất định đi làm cách mạng. Anh P. hồi trước là bí thư của tướng Lâm Quang Viên (Đặc ủy trưởng Trung ương tình báo trước Nguyễn Khắc Bình). Tôi được giao nhiệm vụ móc nối làm việc cho ta, nhưng anh này sau đó đã bỏ cuộc. ...Các ông Hoàng Văn Giàu, luật sư Trần Văn Tuyên và một số bạn bè tìm gặp. Họ có chung một ý kiến: Giang sơn gấm vóc này từ nay thực sự là của người Việt Nam. Chúng tôi mừng đất nước thoát nạn ngoại xâm...".

Từ đây, ông Ba Quốc lại bước vào một nhiệm vụ mới, một nhiệm vụ cũng dài lâu, gian khổ và ông cũng làm được những chuyện xuất sắc không kém những việc mà ông đã làm trong 20 năm chống Mỹ. Đang nói chuyện với ông, nhìn trên tường, lướt qua những tấm huân chương, chúng tôi thấy có một tấm "Huân chương Chiến công hạng nhất" được Nhà nước tặng cho ông trong nhiệm vụ bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc...


Tiêu đề: Re: Tình báo VN trong KCCM
Gửi bởi: Tunguska trong 25 Tháng Mười Một, 2008, 02:33:20 pm
Tướng tình báo Ba Quốc dưới mắt tướng tình báo Phạm Xuân Ẩn

Khi bị lộ lên chiến khu ông Ba Quốc mang cấp bậc là trung đoàn bậc phó, giải phóng xong ông mang quân hàm trung tá. Năm 1977, ông được phong danh hiệu Anh hùng Quân đội nhân dân Việt Nam vì những công lao đặc biệt xuất sắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Ông không nhớ hết những huân chương ông được tặng thưởng, nhưng chúng tôi biết ông được tặng Huân chương Độc lập và nhiều Huân chương Chiến công, trong đó có ít nhất là 3 Huân chương Chiến công hạng nhất. Những năm sau giải phóng, ông đảm nhiệm nhiều trọng trách trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, được thăng quân hàm thiếu tướng năm 1990 và giữ chức cục trưởng trong ngành tình báo quốc phòng. Những hoạt động của ông trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc chúng tôi sẽ đề cập sau...

Để bạn đọc hiểu rõ hơn về con người ông Ba Quốc, không thể không nói đến những quan hệ giữa ông với đồng đội. Nhưng do ông hoạt động đơn tuyến, suốt hai mươi năm ông chỉ biết mặt có 4 "Việt Cộng". Người thứ nhất là ông Văn Tùng, người chỉ huy đầu tiên của ông khi ông vào Sài Gòn. Ông Văn Tùng liên lạc với ông được một thời gian ngắn thì bị địch bắn chết ở ngã ba Chuồng Bò. Người thứ hai, cũng là chỉ huy của ông, là ông Ba Hội, nhưng được một thời gian thì ông Ba Hội bị bắt. Người thứ ba là ông Bảy Anh. Ông Bảy Anh là người chỉ huy trực tiếp sau cùng của ông, người đã đến ở trong nhà ông vào Tết Mậu Thân năm 1968, nhưng sau đó ông bảo là ông Bảy Anh đã "mất tích". Một thời gian dài còn lại ông chỉ gặp người giao liên, đó là vợ ông Bảy Anh, người làm giao liên nội đô cho ông mà chúng tôi đã kể.

"Sau ông Bảy Anh ông có biết những người chỉ huy của ông là ai không ?", chúng tôi tò mò. Ông Ba Quốc: "Không. Tôi không biết ai hết. Tôi chỉ gửi tài liệu, báo cáo về cấp trên và nhận chỉ thị từ cấp trên thôi. Còn cấp trên là ai thì tôi không biết. Khi bị lộ, được rút lên căn cứ tôi mới biết".

"Ở Sài Gòn hồi đó ông có biết ông Phạm Xuân Ẩn (Hai Trung) không?". "Tôi có quen biết với anh Hai Trung, nhưng chỉ biết anh ấy là một nhà báo của Mỹ rất có thế lực và có quan hệ rất rộng mà thôi".

"Là người làm ở Phủ Đặc ủy Trung ương tình báo, bằng con mắt nghề nghiệp của mình, ông có nghi ngờ ông Hai Trung dính dáng đến Việt Cộng không?". "Không, làm sao tôi có thể nghi ngờ được. Vì biết anh ấy là người có thế lực nên tôi muốn quan hệ để khai thác tin tức. Tôi báo cáo lên cấp trên về việc đó, nhưng ở trên cấm không cho tôi làm việc này. Mấy ông ấy còn lưu ý: Phải cẩn thận với thằng đó, nó là CIA đấy!".

Chúng tôi đã gặp tướng Phạm Xuân Ẩn để hỏi chuyện ông Ba Quốc: "Hồi đó ông có biết ông Ba Quốc không ?". Ông Ẩn: "Có chứ. Tôi biết ổng là Nguyễn Văn Tá, sĩ quan của Phủ Đặc ủy Trung ương tình báo. Ổng tên Tá nên không hiểu sao tôi cứ nghĩ ổng là thiếu tá. Cái Phủ Đặc ủy đó tôi cũng được mời tham gia sáng lập. Nhà ông Tá nghèo nhưng sống rất liêm khiết. Ổng làm việc rất cẩn thận. Mỗi khi gặp ai, ổng chỉ nói những điều cần nói và nghe những chuyện cần nghe, chứ không nói năng lung tung vô tội vạ như tôi. Nhiều người bảo tôi: Ông coi ông Tá đó, ổng nói năng nghiêm túc, đâu có ăn nói văng mạng như ông. Tôi cười: Thì ổng là sĩ quan tình báo ổng mới như vậy, còn tôi là nhà báo thì phải khác chứ, tôi có phải làm tình báo đâu mà phải nghiêm túc như ổng".

"Dưới con mắt nghề nghiệp, ông có đoán được ông Tá làm cho Việt Cộng không?". Ông Ẩn: "Không thể biết được".

"Ông biết ổng là Việt Cộng từ lúc nào?". "Khi ổng bị lộ. Nhưng ông này khi bị lộ rồi vẫn còn xớ rớ ở Phủ Đặc ủy mà vẫn còn tham công tiếc việc chưa chịu đi. Đến mức mấy người bên Phủ Đặc ủy, trong đó có ông Chánh văn phòng phải đến nhờ tôi: Thằng Tá là Việt Cộng bị lộ rồi, ông quen nó ông làm ơn bảo nó đi nhanh lên, chần chừ sẽ bị bắt đó".

"Ông trả lời như thế nào?". "Tôi bảo với họ: Nó là Việt Cộng thì liên quan gì đến tôi. Các ông cứ bảo nó đi...".

Chúng tôi thắc mắc: "Vì sao những người đó không muốn ông Tá bị bắt?". Ông Ẩn: "Ông Tá bị bắt sẽ liên lụy đến họ".

"Họ có quan hệ với Việt Cộng đâu mà sợ bị liên lụy?". "Tất nhiên là họ không có quan hệ gì với Việt Cộng, nhưng họ có quan hệ với ông Tá. Nếu ông Tá bị bắt, biết đâu trong những tài liệu mà ông Tá lấy có những tài liệu mà họ đã vô tình cung cấp cho ông. Bởi vậy họ mới sợ bị rầy rà...".

Ông Ẩn vừa vào bệnh viện thăm ông Ba Quốc. Bệnh ông Ba Quốc hiện rất trầm trọng, chắc ông không còn sống thêm được bao nhiêu ngày. Ông Ẩn rơm rớm nước mắt khi nói về bạn mình: "Tội nghiệp cho ông Ba Quốc. Cả một đời ổng sống gian khổ vì đất nước, thanh bạch, liêm khiết cho đến những ngày cuối cùng. Gia đình ngoài Bắc và gia đình trong Nam đều phải chịu nhiều hy sinh. Cả gia đình ai cũng tốt, ai cũng nghe lời ổng. Những năm trước đây, một người con dâu bị kẻ xấu tạt a-xít hỏng cả khuôn mặt, cũng là do nghe lời ổng chống tham nhũng mà ra như vậy đó...".


Tiêu đề: Re: Tình báo VN trong KCCM
Gửi bởi: Tunguska trong 25 Tháng Mười Một, 2008, 02:34:52 pm
Những người chỉ huy ở phía sau

Trong 3 người chỉ huy trực tiếp ông Ba Quốc, ông Văn Tùng và ông Bảy Anh đã mất, riêng ông Ba Hội vẫn còn sống. Chúng tôi vẫn không có tài liệu nào về ông Văn Tùng mà chỉ nghe ông Ba Quốc kể lại vài dòng ngắn ngủi sau đây:

"Đầu năm 1956, theo quy ước tôi đến Sở thú gặp anh Văn Tùng. Sau khi trao đổi về tình hình, anh Văn Tùng dự kiến đưa tôi vào một vị trí khác để có tác dụng tốt hơn cho công tác (lúc đó ông Ba Quốc mới vào Nam, đang làm kế toán ở Nha Công an Nam phần - PV). Bữa sau, tôi lặng người đi khi đọc một cái tin trên báo: Anh Văn Tùng đã bị hạ sát bằng súng sáu trong lúc đang ngủ tại một căn nhà ở xóm Chuồng Bò cùng với mấy người khác... Trên đường tới viếng mộ anh, tôi cũng nghĩ tới bản báo cáo của tôi đưa cho anh bữa trước có thể lọt vào tay địch, nếu như vậy thì địch sẽ biết anh là cán bộ cách mạng và tất chúng sẽ bố trí để bắt những người đến tìm hiểu về cái chết của anh hoặc đến thăm mộ anh, nhưng tôi nghĩ anh chết tôi không đi đưa, mộ anh tôi cũng không dám viếng thì tôi không còn là gì nữa cả. Song tới nơi tôi cũng yên tâm vì người ta đến viếng mộ anh cũng rất đông, địch dù có phục cũng không làm gì được. Khi về, trong lòng tôi tiếc thương lo buồn lẫn lộn. Anh Văn Tùng rất thông minh và còn trẻ quá. Anh mất đi, tôi không biết liên lạc với ai nữa. Tôi thấy như đôi mắt đen láy của anh lúc nào cũng nhìn tôi...". Đó là tất cả những gì chúng tôi biết về ông Văn Tùng.

Còn ông Ba Hội, tức Trần Văn Hội, năm nay gần 90 tuổi, hiện vẫn còn sống tại Hà Nội nhưng đã rất già yếu. Trong kháng chiến chống Pháp, ông là cán bộ Nha Tình báo trung ương, sau năm 1954 ông vào Nam làm chỉ huy điệp báo. Đến cuối năm 1956, ông phụ trách một cụm tình báo quan trọng gồm 18 cơ sở, nhiều lưới tình báo trong cụm của ông hoạt động có hiệu lực cao, trong đó có ông Ba Quốc. Ông bị mật vụ của Ngô Đình Cẩn bắt (năm 1958). Sau đảo chính Ngô Đình Diệm, ông được thả ra cùng lúc với ông Mười Hương vì địch không có đủ chứng cứ kết tội ông là "Việt Cộng".

Ông Sáu Trí (tướng Nguyễn Đức Trí, nguyên Thủ trưởng Cơ quan tình báo miền) kể: "Anh Ba Hội là người chỉ huy tình báo rất giỏi. Anh bị bắt không quả tang, nên sau khi ra tù vẫn ở lại hoạt động trong vùng địch tạm chiếm. Nhà ảnh có mua một chiếc xe hơi, năm 1968, ta đã dùng chiếc xe hơi ấy chở biệt động đi đánh Tòa đại sứ Mỹ. Cơ quan tình báo miền thấy ảnh chắc chắn sẽ bị lộ vì địch truy lùng chủ chiếc xe ấy, nên rút ảnh ra căn cứ làm Cụm trưởng Cụm Tình báo A36. Anh Ba Quốc thuộc cụm tình báo đó. Anh Ba Hội là một cán bộ tình báo cao tuổi, anh mang cặp kính rất dày, đi với ngành tình báo từ Cách mạng Tháng Tám, đã trải qua đủ thử thách với các cảnh ngộ nghiệt ngã và luôn luôn tận tụy với công tác cách mạng, với ngành tình báo. Anh đã có công lớn khôi phục lại các lưới tình báo và cơ sở tình báo mật bị đứt sau vụ bể năm 1957-1958, có người có vị trí cao nằm trong mục tiêu tình báo, có cán bộ mật có năng lực và lập được nhiều thành tích. Trong cuộc sống, anh Ba Hội có thái độ lạc quan đặc biệt. Mỗi lần gặp anh, mọi người bao giờ cũng được nghe những câu chuyện dí dỏm để cười, cười đến đau bụng. Anh ra Bắc trước giải phóng".

Về ông Bảy Anh (tên thật là Nguyễn Văn An), thực ra không hề bị "mất tích" như ông Ba Quốc nghĩ. Sở dĩ ông Ba Quốc nói ông Bảy Anh "mất tích" là vì sau năm 1968 ông Bảy Anh không gặp ông Ba Quốc nữa mà thôi. Ông vẫn là người chỉ huy trong cụm. Chúng tôi hỏi ông Sáu Trí về ông Bảy Anh. Ông Sáu Trí nói: "Anh Bảy Anh là cán bộ quân sự rất giỏi và rất có kỷ luật, được học nghiệp vụ tình báo một cách có hệ thống. Ảnh là Cụm phó Cụm A36. Khi anh Ba Hội ra Bắc, ảnh làm cụm trưởng. Ảnh đã nhiều lần vào thành công tác, tiếp xúc trực tiếp với anh Ba Quốc và bồi dưỡng chính trị cũng như nghiệp vụ cho lực lượng mật trong nội thành. Ảnh là người đã sáng tạo ra cách viết báo cáo bằng tốc ký theo kiểu mật ngữ để bảo mật nội dung báo cáo từ cơ sở gửi về cụm, ảnh cũng tự mã hóa thông tin. Lúc anh Ba Quốc bảo anh Bảy Anh bị mất tích chính là lúc ảnh chuyển sang làm tình báo chiến dịch".

Chúng tôi đã kể với bạn đọc chuyện vợ ông Bảy Anh làm giao liên nội đô cho ông Ba Quốc. Ông Sáu Trí nói thêm: "Anh chị Bảy Anh là một đôi vợ chồng kiểu mẫu. Khi anh tập kết, chị ở lại miền Nam tham gia hoạt động chính trị, bị tù đày nhưng đã giữ trọn khí tiết. Khi chồng vào Nam chiến đấu, chị đã tòng quân cùng đơn vị của chồng, làm giao liên hợp pháp cho lưới tình báo chủ lực của cụm (lưới ông Ba Quốc - PV)". Trong câu chuyện giữa ông Sáu Trí với chúng tôi, có ông Tư Cang (Cụm trưởng phụ trách lưới tình báo Phạm Xuân Ẩn) và vợ ông Sáu Trí tham gia. Đến đoạn nói về vợ chồng ông Bảy Anh, bà Sáu Trí trở nên phấn chấn: "Hai ông bà đó tình tứ lắm nghen. Thư tình họ viết cho nhau cũng toàn bằng mật mã không hà...". Còn ông Tư Cang thì tranh thủ "kể công": "Chính tui đã giúp ông Bảy Anh gặp lại vợ ổng đó. Hồi đó ổng làm cụm trưởng, tui cũng làm cụm trưởng. Trước, ở Phú Hòa Đông bị địch ruồng bố gắt gao, tui phải nhờ đường dây của ổng đưa về Sài Gòn. Sau này, ổng nhờ tui móc nối giùm vợ ổng, hồi đó ổng chưa liên lạc được với vợ. Ổng đã giúp đưa tôi vào Sài Gòn, còn tôi thì giúp ổng gặp lại vợ". Kể xong, ông Tư Cang cười thật vui vẻ. Chúng tôi bỗng nhớ lại những tiếng cười của những "lão tướng" tình báo, họ đều trên dưới tuổi 80, nhưng ai cũng có tiếng cười thật trong trẻo, trong trẻo như trẻ thơ...


Tiêu đề: Re: Tình báo VN trong KCCM
Gửi bởi: Tunguska trong 25 Tháng Mười Một, 2008, 02:36:53 pm
Liều lĩnh và nhân hậu

Chúng tôi hỏi ông Ba Quốc: "Ông có bao giờ thấy căng thẳng không?". Trả lời: "Tôi không bao giờ thấy căng thẳng cả". "Việc gì là nguy hiểm nhất?". "Việc cứu mấy ông cán bộ cách mạng ở Sài Gòn hồi tôi làm chỗ bác sĩ Tuyến là nguy hiểm nhất". "Khi ông bị lộ mà ông chưa đi, ông đã gặp nhiều người như các ông Thái Lăng Nghiêm, Hoàng Văn Giàu, Trần Văn Tuyên..., ông bảo với họ ông là cộng sản, ông có biết điều đó rất nguy hiểm không?". "Biết chứ, nhưng kệ".

Là Thủ trưởng Cơ quan tình báo miền trong giai đoạn chiến tranh ác liệt nhất, ông Sáu Trí coi ông Ba Quốc là một "điển hình cơ cán tình báo đi sâu", "tận tụy, cần mẫn, dũng cảm, làm việc hết mình cho kháng chiến với cường độ lao động rất lớn". Nhưng ông Sáu Trí không tán thành cách làm việc mạo hiểm của ông Ba Quốc. Ông Sáu Trí nói: "Một lần ảnh phát hiện một danh sách 12 nội gián làm việc trong tổ chức của ta. Ảnh lấy được danh sách đó là do phục rượu trưởng phòng phản gián của Đặc ủy Trung ương tình báo, khi người này nhậu say mềm rồi ngủ mê, ảnh tranh thủ mở cặp tài liệu để chép lại hồ sơ kế hoạch phản gián. Nhận được tin, tôi viết thư yêu cầu không làm những chuyện như vậy vì rất nguy hiểm. Còn chuyện mở tủ hồ sơ mật trong Phủ Đặc ủy, tôi có gửi điện phê phán cách làm mạo hiểm đó. Tôi đã chỉ thị cho ảnh không được dùng những thủ đoạn như vậy, vì rất dễ bị lộ, rất có nguy cơ bị bắt quả tang".

Là người tham gia tổng kết công tác tình báo miền Nam, ông Mười Nho nhận xét ông Ba Quốc là một trong những điệp viên "xuất sắc", "thành công lớn". Ông Mười Nho nói: "Anh Ba Quốc có nhiều cống hiến, đặc biệt trong thời kỳ 1967-1968-1969, khi các lưới tình báo của ta gặp nhiều khó khăn, một số lưới quan trọng bị bể (ví dụ lưới của ông Vũ Ngọc Nhạ...), ảnh đã đáp ứng được những yêu cầu chiến lược của cấp trên. Từ đầu ảnh không được đào tạo một cách cơ bản, ảnh làm tình báo được là do học của địch, cũng như tôi chủ yếu là học của địch. Ảnh rất trung thành, rất có kỷ luật. Cái đó khó lắm, không phải giỡn chơi được đâu. Cũng có anh làm ăn không được, bí quá nên báo cáo sai hoặc xào nấu thông tin trên báo chí để báo cáo, nhưng anh Ba Quốc thì rất trung thực. Có lúc không có tin tức thì ảnh không báo cáo chứ không báo cáo sai. Làm tình báo rất cần cái này".

Ông Ba Quốc dũng cảm đến mức liều lĩnh, nhưng cũng theo nhận xét của ông Mười Nho: "Anh Ba Quốc trầm tĩnh, ít nói, không nóng giận, không vỗ ngực tự khoe. Những đức tính đó quý lắm, rất phù hợp với công tác tình báo". Chúng tôi hỏi bà Ngô Thị Xuân: "Mấy chục năm sống với bà có bao giờ bà thấy ông Ba Quốc nóng giận không?". Bà Xuân: "Không bao giờ. Đối với con cái cũng vậy, ông ấy nghiêm khắc nhưng chẳng bao giờ la mắng. Chỉ duy nhất một lần trong đời ông ấy quát tôi, chỉ một câu thôi. Đó là khi tôi định đưa bọn trẻ vào học nội trú, vì tôi sợ chúng ở bên ngoài gần bạn bè xấu dễ bị hư hỏng. Nghe tôi bảo thế ông ấy gạt ngay, ông ấy bảo không được làm thế, hãy để chúng sống với gia đình, gần mẹ gần cha...".

Ông tướng "liều mạng" này là người rất trọng tình trọng nghĩa. Cách đây vài tuần, chúng tôi có xuống Bến Tre gặp một người. Đó là người giao liên chỉ gặp ông Ba Quốc duy nhất có một lần. Bà tên là Ngô Thị Mân (Tư Mân), người đã đón ông Ba Quốc từ Mỹ Tho đưa vào căn cứ khi ông Ba Quốc bị lộ. Cùng đi với chúng tôi có ông Bảy Vĩnh (anh hùng quân đội, đại tá tình báo). Bà Tư Mân nói rằng lúc đó bà chỉ dẫn đường cho ông Ba Quốc một đoạn thôi, nhưng 15 năm sau ông đã về thăm lại bà. Sở dĩ phải 15 năm sau mới về thăm được là vì giải phóng xong ông lại tiếp tục đi làm nhiệm vụ, anh con trai của ông bảo rằng mãi đến năm 1987 hay 1988 gì đó ông mới trở lại Sài Gòn. Ông Bảy Vĩnh nói: "Lần về thăm chị Tư Mân là do ảnh giục đó. Lúc ấy công việc của ảnh rất bề bộn nhưng ảnh đòi đi thăm cho bằng được chị ấy. Nhưng gặp chị Tư Mân là chuyện rất khó khăn, vì chị đã lớn tuổi không còn công tác nữa. Chúng tôi phải vừa đi vừa hỏi, hỏi mãi mới tìm được". Bà Tư Mân năm nay đã 83 tuổi, nghe ông Ba Quốc bị bệnh nặng, bà khóc mếu máo: "Tội nghiệp ảnh quá, tôi muốn lên thăm nhưng tôi già quá rồi không đi nổi...". Còn chuyện này nữa. Khi vào bệnh viện thăm ông, chúng tôi gặp một cán bộ cấp dưới của ông. Anh này nói với chúng tôi: "Tôi có may mắn làm việc được một thời gian dài với chú Ba. Trong nghề nghiệp cũng như trong cuộc sống đời thường, ông thật sự là chuẩn mực để chúng tôi học tập. Tuy đã là cấp tướng, nhưng cứ mỗi lần đi công tác, dù ở hậu phương hay ở chiến trường (ông Ba Quốc tham gia chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam - PV), bao giờ ông cũng giành ngồi ở vị trí chiến đấu bên cạnh tài xế. Vị trí đó bao giờ cũng nguy hiểm đến tính mạng nếu bị tấn công. Chúng tôi còn trẻ, được trang bị vũ khí đầy đủ mà không bao giờ tranh được chỗ đó với ông già. Các anh biết không, chú Ba bắn súng thì hết chê, bắn đâu trúng đó, mà ông chỉ quen sử dụng rulo thôi...".



Tiêu đề: Re: Tình báo VN trong KCCM
Gửi bởi: Tunguska trong 25 Tháng Mười Một, 2008, 02:38:14 pm
Con người khổ hạnh

Chúng tôi chưa có đủ thông tin về những công việc của ông Ba Quốc từ sau giải phóng đến nay. Tuy nhiên theo ông Mười Nho thì công lao của ông trong cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới của Tổ quốc là "nổi bật hơn và có những công lao đặc biệt".

Ông Ba Quốc đã cống hiến cả cuộc đời vì độc lập, tự do của đất nước theo đúng nghĩa chính xác của những từ đó. Bởi vì ông vẫn làm việc cho ngành tình báo quốc phòng đến ngày ông vào bệnh viện. Ông sống rất kham khổ, hầu như không có ngày nào được nghỉ ngơi. Về những năm làm ở Sở Nghiên cứu chính trị và Đặc ủy Trung ương tình báo, ông kể: "Sáng tôi dậy lúc 5 giờ, tập thể dục 15 phút, đánh răng rửa mặt xong vào ăn cơm rang rồi nghe đài, lo cho các cháu đi học rồi đi làm, 12 giờ về ăn cơm, nghỉ trưa một lát đến 1 giờ đi, 6 giờ về, giặt quần áo cho các cháu, phân công các cháu giúp đỡ mẹ của chúng lau nhà, đi chợ, rửa bát... Cơm tối xong 7 giờ đi, 10 giờ về nghe đài, dạy các cháu học, viết báo cáo đến 1 giờ sáng đi ngủ. Tôi không có ngày nghỉ, không có chủ nhật, không có ngày lễ. Nói thật là hồi đó tôi rất ít khi được ăn một bát phở...". Ông biết tiếng Pháp, tiếng Anh và chữ Hán. Nhưng tiếng Anh thì khi vào Nam ông mới học. Ban đầu ông cũng hơi bảo thủ trong việc học tiếng Anh, ông nhớ lại: "Lúc đó đứng trước làn sóng người đủ mọi thành phần đổ xô đi học tiếng Anh, tôi nóng mặt nghĩ đến trước đây người ta học tiếng Pháp để làm thông ngôn cho Pháp, bây giờ học tiếng Mỹ để làm bồi cho Mỹ. Tuy biết rằng phải học để phục vụ nhu cầu công tác, nhưng nghĩ đến chuyện đó tôi thấy không hứng thú đi học. Tôi kể cho anh Ba Hội nghe tâm trạng của tôi, anh Ba Hội bảo tôi phải học. Từ đó tôi học tiếng Anh và học rất chăm".

Giữa Sài Gòn phồn hoa đô hội hồi đó ông đã sống "như một nhà tu". Còn sau này, một người con của ông ở Sài Gòn kể rằng, sau những ngày bận rộn với công việc tiếp quản Sài Gòn mới giải phóng, ông được cử đi học chính trị tại Hà Nội, nhưng chỉ học được một thời gian rất ngắn, ông lại nhận lệnh đi làm nhiệm vụ. Những tháng đầu tiên sau giải phóng, ông làm việc và ở lại cơ quan, lâu lâu mới về nhà một lần. Và suốt từ năm 1976 cho đến năm 1988, thỉnh thoảng khi 2 tháng, khi 3 tháng ông mới về thăm nhà. Đến năm 1988, ông về làm việc ở TP.HCM nhưng do yêu cầu công việc ông cũng ở luôn tại cơ quan, mỗi tuần về thăm nhà một lần. Từ năm 1990, buổi tối ông mới về nhà. "Anh có thấy bố anh nghỉ phép không?". "Không, tôi chưa thấy ông nghỉ phép ngày nào cả. Cả chủ nhật và ngày lễ ông vẫn đi làm. Còn Tết thì mồng một ông đã đi làm rồi". Người con của ông cũng cho biết tiền lương của ông thì "chia đôi", gửi cho bà ngoài Bắc một nửa, bà trong Nam một nửa. Những năm sau giải phóng bà Xuân mở một quầy bán sách báo và nuôi heo để "cải thiện" đời sống. Ông làm việc cho đến mãi cách đây 1 năm, lúc đã 82 tuổi (ông sinh năm 1922, tuổi "mụ" là 83 tuổi) mới dứt ra khỏi công việc thường xuyên, nhưng mỗi tuần ông vẫn đến làm việc ở cơ quan khoảng 1 hoặc 2 lần.

"Thú vui của bố anh là gì?". "Là đọc sách, nghe đài, coi tivi và đọc báo. Hồi làm ở Phủ Đặc ủy Trung ương tình báo chế độ Sài Gòn bố tôi hình như còn làm việc kiểm duyệt báo chí nữa, mỗi ngày tôi thấy ông mang về một tập báo dày. Bố tôi đọc báo kỹ lắm, hồi đó ông theo dõi các đảng phái, tôi thấy từng đảng phái một ông đều có hồ sơ riêng, trong đó có tất cả những bài báo viết về đảng phái đó. Ông hay đọc truyện, nhưng ông thích nhất là truyện Tàu. Hôm nào ông cũng coi tivi, nghe đài BBC, đài VOA... Khi vào nằm bệnh viện, ông còn mang cái đài theo. Mấy tuần trước ông đã yếu lắm rồi nhưng vẫn còn mở đài nghe. Khi đã ở trạng thái lúc mê lúc tỉnh, lúc tỉnh dậy ông lại bảo con cháu đọc báo cho ông nghe...".

Cho đến những ngày cuối cùng ông vẫn không tách mình ra khỏi thời cuộc. Năm ngoái, trong một lần trò chuyện với chúng tôi, lúc ấy tòa án đang xử vụ Năm Cam, ông Ba Quốc không giấu được vẻ buồn rầu khi nói đến những cán bộ nhà nước thoái hóa biến chất cam tâm làm "bảo kê" cho tội phạm. Ông bảo một số cán bộ cấp cao tiếp tay cho tội phạm trong vụ này là không thể tha thứ được, nhưng cũng do công tác tổ chức thiếu chặt chẽ. Ông cũng cho rằng nạn tham nhũng, nhận hối lộ, tiếp tay cho tội phạm của một bộ phận cán bộ không chỉ do sự sơ hở của cơ chế chính sách và sự thiếu sót của công tác tổ chức mà còn do "lương của cán bộ ta thấp quá". Người anh hùng sống một cuộc đời khổ hạnh này không bao giờ lấy mình làm chuẩn để phán xét người khác. Ông không bảo thủ, không nhìn cuộc đời theo lăng kính của ông, ông nhìn cuộc đời như nó vốn có...


Tiêu đề: Re: Tình báo VN trong KCCM
Gửi bởi: Tunguska trong 25 Tháng Mười Một, 2008, 02:40:05 pm
Khẩu súng và nhân tình

Chúng tôi vừa gặp một trong những người gần gũi nhất của ông Ba Quốc. Đó là người lái xe cho ông suốt hơn 20 năm qua. Trong những ngày này anh vẫn thường xuyên trong bệnh viện, anh không rời ông Ba Quốc. Anh bảo:  

“Suốt hơn 20 năm lái xe cho chú Ba, chỉ duy nhất có một lần ông nổi nóng quát tôi. Đó là lần tôi đưa ông đi dự đám cưới một cán bộ trong đơn vị. Đám cưới đó ông làm chủ hôn. Lần đó tôi gặp một sự cố nên đến đón ông trễ giờ. Ông rất giận. May mà cô Xuân (vợ ông Ba Quốc - PV) nói giúp: Đám cưới bây giờ người ta tổ chức trễ lắm so với giờ mời, ông không lo. Lúc đó ông mới nguôi giận”.

Ngồi với chúng tôi trong căn-tin bệnh viện, người tài xế của ông Ba Quốc nói tiếp: “Đối với anh em trong đơn vị, ông thân tình như một người cha, người chú thật sự. Cán bộ, nhân viên dưới quyền nếu có sai sót khuyết điểm gì thì ông rất nghiêm khắc, nhưng ôn tồn chỉ bảo từng li từng tí một. Một lần đưa chú Ba ra Hà Nội công tác, bà Thanh (vợ ông Ba Quốc ngoài Bắc - PV) hỏi: Cháu đi với ông, cháu có biết tính ông không ? Bà hỏi và trả lời luôn: Ông này đơn giản lắm. Rất ngang đối với cấp trên nhưng lại rất thương cấp dưới. Ông còn dạy tôi cách lái xe nữa. Ông khuyên tôi một câu mà tôi nhớ mãi: Cậu muốn lái xe cho an toàn thì cậu phải coi những người lái xe khác đang chạy đều là người say hết, chỉ mình cậu tỉnh thôi, như vậy cậu sẽ cẩn thận không để xảy ra tai nạn. Chú Ba làm việc giờ giấc cực kỳ chính xác và rất thận trọng trong mọi chuyện. Trong người ông có hai vật bất ly thân. Đó là khẩu súng và cái hộp quẹt. Ông chỉ rời hai thứ đó khi ông vào phòng tắm. Súng thì ông để tự vệ, còn hộp quẹt thì có lẽ do thói quen từ trước, ông dùng để đốt tài liệu nếu gặp bất trắc. Khẩu súng ông mới trả lại cho cơ quan được một năm nay thôi...”.

Người tài xế của ông Ba Quốc còn kể rằng hồi mới giải phóng, khi ông làm nhiệm vụ tiếp quản Phủ Đặc ủy Trung ương tình báo, nhiều người trong gia đình các tướng tá, sĩ quan và nhân viên cũ của phủ này đã mang quà cáp rất đắt tiền đến nhà đưa cho bà Xuân, nhờ bà Xuân nói với ông cho họ được nhẹ tội. Ông dặn bà Xuân dứt khoát không được nhận bất cứ một thứ gì, cái gì họ để lại thì phải mang đi trả cho bằng được.

Như chúng tôi đã từng đề cập trong thiên ký sự viết về tướng tình báo Phạm Xuân Ẩn, những người cách mạng chân chính không có kẻ thù riêng. Làm tình báo càng phải như vậy. Cũng như ông Ẩn, ông Ba Quốc có những bạn bè ở bên kia chiến tuyến. Ông phải thắng họ, nhưng ông vẫn trân trọng tình người. Ngay cả những người đã làm hại gia đình ông, ông cũng không định kiến. Cũng theo người lái xe của ông kể lại, khi người sĩ quan đã từng đánh đập con ông khi vợ con ông bị bắt hồi đó đến trình diện ông, người này rất sợ ông trả thù. Nhưng ông Ba Quốc đã nói với người này rằng: “Anh có tội với nhân dân, chứ không có tội gì với gia đình tôi, với con tôi cả. Bây giờ kết thúc chiến tranh rồi, anh cứ đến trình diện đi học tập theo chính sách chung để sau này về làm ăn bình thường như những người dân khác”. Nghe ông nói vậy, người này rất cảm động. Anh ta đã cởi chiếc đồng hồ đang đeo tay nhờ ông Ba Quốc mang về trả lại cho con trai ông. Chiếc đồng hồ đó anh ta đã lấy của con trai ông khi vợ con ông bị bắt.

Khi thiên ký sự này được đưa lên Thanhnien online, rất nhiều bạn đọc ở nước ngoài, trong đó có những bạn đọc ở Mỹ, Canada, Australia... gửi thư về tòa soạn bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với ông Ba Quốc. Ông Hoàng Văn Giàu, người mà chúng tôi có nhắc đến trong ký sự này, hiện cư trú tại Australia, có gửi thư cho chúng tôi. Trước đó, người thân của ông Giàu đã gửi thư nói với chúng tôi rằng: “Anh Giàu bảo dù hai người ở hai chiến tuyến, nhưng giữa anh Giàu và anh Tá (tên ông Ba Quốc hồi ở Sài Gòn trước giải phóng - PV) có mối quan hệ bạn bè tốt và chung một chí hướng là đất nước phải thống nhất và chấm dứt chiến tranh. Được tin anh Tá bị bệnh nặng, anh Giàu và chúng tôi rất buồn, cầu mong cho mọi chuyện êm ái đến với anh ấy”. Còn ông Hoàng Văn Giàu thì sau đó viết trong thư gửi chúng tôi: “Tôi thành tâm cầu nguyện cho sức khỏe anh Tá được cải thiện. Xin gia đình cho biết tôi có thể làm được gì để giúp anh Tá không ?”. Chúng tôi đã chuyển lời ông Giàu đến gia đình ông Ba Quốc. Gia đình ông gửi lời cảm ơn ông Giàu và thông báo rằng ông Ba Quốc được Nhà nước và quân đội chăm sóc tận tình và chu đáo với những điều kiện tốt nhất. Mặc dù ông Ba Quốc đang được Đảng, Nhà nước, các bác sĩ, nhân viên y tế và gia đình tận tình chăm sóc sức khỏe, nhưng đến thời điểm này sức khỏe của ông đang được tính từng giờ...


Tiêu đề: Re: Tình báo VN trong KCCM
Gửi bởi: Tunguska trong 25 Tháng Mười Một, 2008, 02:50:26 pm
Vĩnh biệt ông Ba Quốc

Sáng sớm ngày 26/3, tướng Phạm Xuân Ẩn gọi điện cho chúng tôi báo tin: "Ông Ba Quốc đã mất rồi. Tội nghiệp ổng quá". Sau đó, chúng tôi nhận được tin buồn từ Bộ Quốc phòng và cơ quan tình báo quân đội thông báo chính thức: Thiếu tướng Anh hùng lực lượng vũ trang Đặng Trần Đức (tức Ba Quốc) đã từ trần hồi 5h30 phút ngày 26/3/2004 tại Quân y viện 175. Lễ viếng bắt đầu lúc 9h30 ngày 29/3/2004 tại Nhà tang lễ Bộ Quốc phòng phía nam, số 5 đường Phạm Ngũ Lão, quận Gò Vấp, TPHCM. Lễ truy điệu lúc 8h ngày 30/3/2004. An táng tại nghĩa trang TP Hồ Chí Minh.

(http://img135.imageshack.us/img135/6642/thieutuongdangtranducfe4.th.jpg)

Thiếu tướng Đặng Trần Đức (tức Ba Quốc)

Ông Ba Quốc tên thật là Đặng Trần Đức, nguyên Ủy viên Thường vụ Đảng ủy, Cục trưởng Cục 12, Tổng cục II, Bộ Quốc phòng, Huân chương Độc lập hạng ba; Huân chương Quân công hạng hai; Huân chương Chiến thắng hạng hai; Huân chương Kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng nhất; Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhì, ba; Huân chương Chiến công hạng nhất, nhì, ba; Huân chương Chiến sĩ giải phóng hạng nhất, nhì, ba; Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng nhất, nhì, ba; Huy chương Quân kỳ quyết thắng.

Khi viết những dòng vĩnh biệt này, chúng tôi lại nhận được rất nhiều thư của bạn đọc. Bạn Trần Minh Trung, thay mặt các nghiên cứu sinh Việt Nam ở Hàn Quốc viết: “Đọc thiên ký sự về tướng tình báo ông Ba Quốc, tôi rất bất ngờ, cảm phục và xúc động. Hôm nay khi đọc đến đoạn "... đến thời điểm này sức khỏe của ông đang được tính từng giờ...", tôi đã rơi lệ. Dân tộc ta lại sắp mất đi một người anh hùng. Thực sự tôi không thể hình dung nổi sự hy sinh chịu đựng quá lớn lao mà ông và gia đình đã dành cho sự nghiệp chung của dân tộc. Tôi cầu nguyện ông được khỏe mạnh trở lại để được tiếp tục chứng kiến những thay đổi lớn lao của đất nước. Thế hệ trẻ chúng tôi nguyện sẽ ngày đêm học hỏi để không phụ lòng sự hy sinh to lớn của thế hệ cha anh như tướng Ba Quốc. Xin chân thành cảm ơn Báo Thanh Niên đã mang đến cho chúng tôi những trang ký sự đầy ý nghĩa này".

Bạn Nguyễn Trọng Việt viết: "Chuyện về ông Ba Quốc quá hay, đầy kịch tính, tôi say mê đón đọc mỗi ngày. Hy vọng báo sẽ gom lại và xuất bản thành sách".

Ông Đào Phúc, 58/647 Nguyễn Oanh, Gò Vấp, TPHCM viết trong một bức thư rất dài: "Xin được gửi đến Báo Thanh Niên và các tác giả lời cảm ơn vì đã đem đến cho độc giả một thiên ký sự thật hay, thật chân thực về một con người vĩ đại - cho tôi được dùng từ vĩ đại với đúng nghĩa đen của từ này để nói về ông Ba Quốc. Ông là người rất khiêm tốn, giản dị, không thích nói về mình nên tôi biết các tác giả đã phải rất kỳ công và đầy trách nhiệm mới có thể cho ra đời một thiên phóng sự đầy đủ đến như vậy. Tôi cám ơn quý vị vì: Đức tính khiêm tốn của ông nếu không được những người có trách nhiệm như hai tác giả quyết tâm tìm hiểu để viết thì rất có thể một tấm gương sáng ngời như cuộc đời ông sẽ rất ít người biết đến và đó sẽ là sự thiệt thòi không nhỏ cho nhiều thế hệ... Địa vị xã hội không phải bao giờ cũng là sự đánh giá hoàn toàn đúng về đức độ và tài năng của một con người. Ông Ba Quốc là người có địa vị không thật cao nhưng ngành tình báo quân đội và quân đội ta có quyền tự hào về ông. Đức độ, tài năng và những chiến công mà ông giành được thật sự xứng đáng được đánh giá cao ở tầm mức quốc tế trong lĩnh vực tình báo... Tôi thiết tha mong Báo Thanh Niên cho xuất bản cuốn sách viết về ông để lại cho hôm nay và cho hậu thế...".

Bạn Mạnh Hiệp (Bruxelles, Bỉ) xúc động: "Tôi đọc và theo dõi thường kỳ về chuyện ông tướng tình báo, tôi vô cùng cảm phục và biết ơn sâu sắc những chiến sĩ cách mạng đã hy sinh cuộc đời mình cho dân tộc và cách mạng Việt Nam. Đọc đến hoàn cảnh éo le của gia đình ông mà tôi không cầm được nước mắt, nếu không có những người con thân yêu của Tổ quốc như vậy, những bậc cha chú như vậy, những gia đình như thế, xã hội chúng ta làm sao có được như ngày hôm nay".

Còn rất nhiều thư, nhiều cuộc điện thoại gửi đến, gọi đến tòa soạn bày tỏ lòng thán phục, nhiều người hỏi chúng tôi bệnh viện nơi ông Ba Quốc nằm để đến thăm, nhưng chúng tôi không thể cho biết được vì mấy hôm vừa rồi ông đã bất tỉnh. Một số nghệ sĩ còn tỏ ý muốn góp tiền giúp đỡ ông Ba Quốc, chúng tôi giải thích rằng ông Ba Quốc được quân đội chăm lo chu đáo, ông không gặp khó khăn gì. Ngay cả những người "có chuyện này chuyện kia" đối với cách mạng vẫn gửi thư bày tỏ sự khâm phục đối với một con người dành cả cuộc đời toàn tâm toàn ý phụng sự đất nước như ông Ba Quốc.

Sau khi nhận được tin ông mất, chúng tôi đã đến thăm gia đình ông. Bà Ngô Thị Xuân nói trong nước mắt: "Tôi không tin nhà tôi lại đi nhanh như vậy. Tháng 11 năm ngoái ông còn định đi Hà Nội họp, nhưng nghe Hà Nội lúc đó lạnh quá, nhà tôi lại bị đau khớp nên bác sĩ khuyên không nên đi, chứ ông ấy đã chuẩn bị áo quần, đồ đạc chuẩn bị đi rồi. Mà cuối năm ông còn vào cơ quan ăn tất niên vui vẻ lắm. Hôm tết ông bảo cái bụng hơi đau, mấy ngày sau khi ăn cơm tay ông cầm đũa hơi run. Mồng 6 tết ông vào bệnh viện kiểm tra sức khỏe. Đầu tiên thì không thấy dấu hiệu gì, rồi siêu âm, rồi cắt lớp... mới phát hiện ông bị ung thư gan. Bác sĩ bảo bệnh mới phát cách đó vài tháng. Nhưng nằm trong bệnh viện, mặc dù các bác sĩ rất tận tình nhưng mỗi ngày ông yếu dần, bệnh ông nhanh chóng rơi vào giai đoạn cuối, không thể cứu chữa được. Từ khi ông vào bệnh viện cho đến lúc mất là tròn 2 tháng...".

Giờ đây ông Ba Quốc không còn nữa. Những gì có thể viết được về ông, chúng tôi đã viết trong thiên ký sự dài 36 kỳ báo. Nhưng con người này vẫn còn rất nhiều bí ẩn, đặc biệt là những bí ẩn trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Một phần những bí ẩn đó ông đã mang theo, nó mãi mãi là những bí ẩn. Một phần khác đến một lúc nào đó sẽ được "giải mã" và chúng ta sẽ biết.

Tối 26/3, chúng tôi ngồi với 3 sĩ quan cao cấp từng là những người cộng sự của ông Ba Quốc. Tưởng nhớ đến ông, cả ba người đều bảo: "Chúng tôi còn có những thú vui, thỉnh thoảng còn đi nhậu với bạn bè, nhưng chú Ba thì không. Cả đời ông chỉ làm việc cho quân đội". Viết ra những dòng này, chúng tôi không có ý muốn khuyên các bạn trẻ học tất cả những gì mà ông Ba Quốc làm. Mỗi thế hệ có những nhiệm vụ của mình, mỗi con người đều phải làm việc đều phải phụng sự cho xã hội và đều được hưởng những thú vui. Ông Ba Quốc vừa là điển hình, vừa là cá biệt. Ông Ba Quốc tận trung với nước một đời không hối tiếc. Ông là con người "nếu có đi trở lại, tôi sẽ đi đường này", như một câu thơ ai đó đã viết. Học ông Ba Quốc, chính là phải học điều quan trọng đó.

Nhiều bạn đọc vừa ngưỡng mộ vừa bức xúc về sự thiệt thòi của gia đình ông Ba Quốc ở cả ngoài Bắc lẫn trong Nam. Chúng tôi gửi những ý kiến đó lên cơ quan có trách nhiệm. Được trả lời như sau: "Những chiến công, thành tích đạt được của ông Ba Quốc trước hết là có sự lãnh đạo, chỉ đạo sáng suốt của Đảng và Nhà nước, của Quân ủy Trung ương và cơ quan tình báo quốc phòng, được nhân dân nuôi dưỡng đùm bọc, là của tập thể anh hùng... Suốt trong thời gian hoạt động tình báo trong hàng ngũ của địch, ông Ba Quốc đã tỏ rõ khí tiết, bản lĩnh kiên cường, tinh thần chủ động tiến công địch ở mọi tình huống, mưu lược, sáng tạo, một cuộc đấu trí tuyệt vời của người chiến sĩ tình báo làm nên những điệp vụ phi thường. Chiến công của ông Ba Quốc còn có sự đóng góp rất quan trọng của gia đình. Gia đình ông đã chịu đựng, khắc phục khó khăn, chia sẻ động viên để ông yên tâm hoạt động. Đảng và Nhà nước rất quan tâm thực hiện chính sách hậu phương cho cán bộ, chiến sĩ đi B (vào miền Nam chiến đấu), đặc biệt là cán bộ tình báo chiến đấu trong lòng địch, trong đó có ông Ba Quốc. Khi ấy các đồng chí lãnh đạo ngành tình báo quốc phòng cũng đã thường xuyên bí mật cử cán bộ đến chăm lo chính sách cho gia đình rất chu đáo. Song, vì để bảo đảm an toàn tuyệt đối cho ông Ba Quốc làm nhiệm vụ nên chỉ có vợ ông biết, các con đều không được biết. Và không thể biểu lộ bên ngoài khác đi với những gia đình khác có người làm tay sai cho giặc. Do đó mà vợ và các con ông phải nhẫn nhục chịu đựng mọi gian nan cực khổ và trước sự thờ ơ, lạnh nhạt của mọi người. Đó là một trong những yếu tố làm cho mạng lưới an ninh tình báo của địch với những phương tiện tối tân hiện đại cũng không thể nào phát hiện ông là cộng sản. Sau ngày miền Nam được giải phóng, gia đình ông Ba Quốc được sum họp. Ngoài các danh hiệu ghi nhận công lao, ông Ba Quốc được cấp nhà đất để ở, được tạo mọi điều kiện để con cái học hành và thành đạt, có vị trí trong xã hội, có cuộc sống ngày càng ổn định. Mọi người đều tôn kính, ngưỡng mộ, cảm phục trước sự hy sinh của ông Ba Quốc và gia đình".

Hoàng Hải Vân - Tấn Tú


Tiêu đề: Re: Tình báo VN trong KCCM
Gửi bởi: Tunguska trong 10 Tháng Giêng, 2009, 01:02:58 pm
Người giữ khoá bí mật ở Bộ Tổng tham mưu VNCH
(Nguồn: VietNamNet)

Giải mã người mang bí số H.3 nằm trong Bộ Tổng tham mưu Quân đội Sài Gòn

Không cần phải 30 năm, 35 năm, hay những dịp kỷ niệm chẵn ngày chiến thắng. Câu chuyện này được viết khi Quốc lễ 30 tháng Tư lần thứ 32 đang đến gần. Những chiến công của họ không cần bất kỳ ngày lễ nào để tôn vinh, bởi sự thật lịch sử không cần bất kỳ bàn tay nào tô hồng, đánh bóng. Bản thân họ, cuộc đời họ, chiến công của họ… đã tự toả sáng mãi muôn đời.

Câu chuyện này kể về 1 người đàn ông cao gầy, bệnh tật thường xuyên, giữ im lặng suốt quãng đời phục vụ cho Tổ Quốc từ những năm còn chìm trong lửa đạn cho tới ngày toàn thắng. Đến tận năm 2006, CIA vẫn còn phải đặt câu hỏi: Ông là ai?

Kỳ 1: Người giữ khoá bí mật ở Bộ Tổng tham mưu Việt Nam Cộng hoà

Sài Gòn. Sáng 30/4/1975. Những góc thành lịch sử.

Năm đạo quân từ 5 cánh đổ về, rợp cờ giải phóng rầm rập tiến vào thành phố. Những con đường tấp nập hằng ngày giờ bỗng trở nên tán loạn. Từng tốp lính cộng hoà, có người chỉ còn chiếc quần xà lỏn, vội vã chạy ngang dọc mà không biết về đâu.

Tại Đại sứ quán Mỹ…

9 giờ sáng, khi tiếng xích xe tăng của quân giải phóng kéo sầm sầm trên đường phố Sài Gòn thì cũng là lúc chiếc máy bay di tản cuối cùng ngừng gầm rú ngay trên nóc toà đại sứ quán.


(http://images.vietnamnet.vn/dataimages/200704/original/images1297771_rutchay.jpg)
Cuộc tháo chạy tán loạn bằng trực thăng khi quân giải phóng đang tiến vào Sài Gòn ngày 30/4/1975.

Trước làn sóng quân giải phóng đang tràn ngập đô thành, những người Mỹ còn lại trên mảnh đất này cũng rơi vào tình trạng hoảng loạn. Kenneth Moorefield – nguyên sĩ quan bộ binh - đã đẩy Graham Martin, vị đại sứ Mỹ vẫn còn đang trong cơn chấn động bàng hoàng, ra khỏi một trong những chiếc trực thăng cuối cùng để tự mình leo lên đó.

Cái nhìn của Moorefield về Sài Gòn giờ phút cuối thật kinh hoàng: “Hàng trăm người Việt Nam đổ ào lên những bức tường, cướp bóc kho hàng, phòng ốc, quầy bar. Một số người khác thì lái xe của sứ quán chạy lòng vòng như những kẻ điên khùng. Ở bên kia bức tường, cả đám đông người hát vang lời ca chống Mỹ, chào mừng chiến thắng đang tới gần của những người cộng sản...

Từ trên cao, tôi có thể nhìn thấy văn phòng của tuỳ viên quân sự Mỹ - DAO - ở Tân Sơn Nhứt - bốc cháy. Cả thành phố im lìm một cách đáng sợ. Chỉ toàn một màu đen đặc. Không động tĩnh, không đèn điện, không một cảm giác nào về những gì đang đến”. 

Trong giờ phút nguy cấp ấy, có bao nhiêu người rời khỏi Việt Nam mà không một lần giật mình hỏi: “Điều tồi tệ có thể đến là gì? Liệu Mỹ sẽ trở lại “trả thù” không, trên xứ sở nắng ấm tươi đẹp này?”

Tại Bộ Tổng tham mưu của Quân đội Việt Nam Cộng Hoà (BTTM)…

41 chiến sỹ đặc công biệt động Z28 (đoàn 316 đặc công) chia làm 2 mũi tiếp cận với cổng số 1 và cổng số 3. Mũi chủ công do Bảy Vĩnh (tên thật là Lê Văn Vĩnh - chúng tôi sẽ đề cập trong phần sau), mũi bảo đảm do Ba Đen phụ trách. Nhiệm vụ: Đánh chiếm Bộ Tổng tham mưu - đầu não của quân đội Việt Nam Cộng hoà – và chờ đại quân tiến vào.

(http://images.vietnamnet.vn/dataimages/200704/original/images1297777_dinhDocLap.jpg)
Hình ảnh ngày toàn thắng khi xe tăng quân giải phóng húc đổ cổng dinh Độc Lập, chính thức nối lại 2 miền Nam - Bắc, đất nước thống nhất.

6 giờ sáng, mũi do Ba Đen chỉ huy giả lính cộng hoà, thâm nhập cổng số 1, đánh cầm chân lực lượng dù và thiết đoàn xe tăng địch, ngăn chặn việc địch chi viện cho BTTM. 2 chiến sỹ hy sinh tại chỗ.

7 giờ sáng. Mũi do Bảy Vĩnh chỉ huy lợi dụng lực lượng bảo vệ cổng số 3 sơ hở, sử dụng 3 xe bọc thép M113 lấy được của địch áp sát, khống chế rồi vượt qua cổng gác, chạy thẳng vào trung tâm BTTM. Toàn bộ lực lượng địch giơ tay xin hàng.

9 giờ 40’, cờ giải phóng treo cao trên cột cờ BTTM chế độ Sài Gòn. Việc đánh chiếm BTTM từ cổng số 3 không tốn một viên đạn.

11 giờ 45’, từ một góc quan sát trong căn phòng bé tí chứa hồ sơ tại BTTM, một người đàn ông ngoài 40 tuổi cao lênh khênh, gầy mảnh khảnh vẫn lặng yên chờ. Ông không chạy di tản như những chiến hữu khác, song cũng chẳng bỏ văn phòng thư ký của mình để tìm chỗ an thân.

Trong đôi mắt long lanh lạ thường của một người đã hàng trăm đêm mất ngủ cứ ánh lên nỗi mong chờ. Nỗi mong chờ đằng đẵng mấy thập kỷ, vậy mà đến giờ lại mang vẻ thản nhiên, thanh tĩnh lạ kỳ.

Trước đó, lúc 6 giờ sáng cùng ngày, chính mắt ông chứng kiến hình ảnh một đại tá Pháp tới báo tin cho 1 trung tá làm việc tại văn phòng Cao Văn Viên. Chỉ sau vài phút ngắn ngủi, viên trung tá cởi phăng quân phục ra, lấy súng ống quẳng vào cốp xe và chạy đi.

Một tiếng sau, Nguyễn Cao Kỳ bay trực thăng tới, vội vã đi bộ vào toà nhà chính chừng 5 - 10 phút, sau đó ra đứng chờ. Chờ một lúc thì chiếc trực thăng thứ 2 đến. Nguyễn Cao Kỳ khiêng 1 va li con cho lên máy bay. Ông còn nhớ trước khi leo lên trực thăng bỏ chạy, Nguyễn Cao Kỳ còn không quên ngoái lại trụ sở BTTM với ánh nhìn đầy tiếc nuối.

“Anh lính quèn” và mệnh lệnh cuối cùng của thời chiến

… Sau giờ khắc mà hai miền nối lại, ngay tại chính trụ sở của Bộ Tổng tham mưu, có hai nhà tình báo anh hùng của cộng sản... chạm trán nhau. Một người là sĩ quan chỉ huy cánh quân biệt động - đại tá anh hùng Bảy Vĩnh, còn người kia là anh thượng sĩ nhứt “quèn” mang bí số H3.

(http://images.vietnamnet.vn/dataimages/200704/original/images1297781_nguoibimat1.jpg)
Người bí mật ở Bộ Tổng tham mưu chế độ cũ đã cung cấp hàng loạt tin tình báo chiến lược, mà đến năm 2006, CIA vẫn không ngừng thắc mắc: Ông là ai?

Lúc đụng nhau, lính của “ông cộng sản” vẫn không quên dặn lại "tên địch" mà sau này họ mới hay là đồng chí của mình, rằng: “Ông ở đây coi khu vực này nghen”.

Lời dặn chỉ bấy nhiêu, nhưng người đàn ông đó đã ở lại cho tới 3 giờ chiều, khi mọi việc bàn giao xong xuôi. Hệ thống máy tính lưu trữ hồ sơ của hơn 1 triệu quân VNCH cùng toàn bộ giấy tờ tại văn phòng Tổng tham mưu trưởng Cao Văn Viên được niêm phong không mất một tờ nào.

Người đàn ông cao hơn 1m70 mà nặng chỉ ngoài 40 kg đó thậm chí còn tự đi kiếm giùm mấy ông giải phóng lá cờ khác để thay, rồi lại trực tiếp trao chìa khoá, dẫn quân giải phóng tiếp quản tất cả những gì còn lại ở cơ quan đầu não của quân đội Việt Nam Cộng hoà.

Chỉ khi ấy, ông mới thanh thản trở về nhà. Mệnh lệnh cuối cùng của thời chiến, nhiệm vụ cuối cùng của người lính ẩn danh: ông đã hoàn thành!

32 năm sau, trong 1 gian nhà nhỏ giữa Sài Gòn cũng vào cuối tháng 4, đại tá anh hùng Bảy Vĩnh nhớ lại khoảnh khắc đó: "Khi tôi và anh em xông vào thì thấy 2 nhân viên văn phòng ngồi chờ. Các ngăn tủ đã được khoá kín. Tôi hỏi đường lên nóc BTTM thì một người đàn ông cao, gầy chỉ đường...".

Mãi về sau, người hỏi lối kẻ chỉ đường mới có dịp gặp nhau trong một tình huống hoàn toàn ngược lại: Cuộc gặp mặt những anh em đồng đội của Phòng tình báo chiến lược (J22) - Bộ tham mưu quân giải phóng miền Nam. Chính Bảy Vĩnh - sĩ quan chỉ huy quân biệt động khi ấy, Cụm trưởng Cụm tình báo H67 (đơn vị anh hùng) – đã nhận ra ngay người đàn ông “phe địch” mà mình gặp khi đánh chiếm BTTM.

Cả 2 người, giờ đã vào tuổi "thất thập cổ lai hy", đều cùng nghỉ ngơi với quân hàm Đại tá, Anh hùng lực lượng vũ trang ngành tình báo quân đội Nhân dân Việt Nam, cùng sinh sống ngay tại chính thành phố mà họ đã chiến đấu, bằng cách này hay cách khác nhau, để giải phóng đất nước.

Và bây giờ thì tất cả đều đã là con dân của một quốc gia thống nhất!

Thiếu tướng Nguyễn Văn Khiêm, (bí danh Sáu Trí, nguyên Trưởng phòng J22) sau này còn xác nhận thêm một chi tiết thú vị nữa: "Khi tiến vào trung tâm, đồng chí Bảy Vĩnh đã gặp nội tuyến của ta, chuẩn uý văn phòng BTTM. Nội tuyến này còn động viên sỹ quan binh lính địch ra hàng".

Nhân vật nội tuyến, người đàn ông cao gầy, thượng sỹ nhất ở văn phòng BTTM... cứ được nhắc hoài đó chính là H3, người mà rất nhiều năm sau này, CIA vẫn không ngừng thắc mắc: Ông là ai?

 
Hà Trường - Việt Hà - Thế Vinh


Tiêu đề: Re: Tình báo VN trong KCCM
Gửi bởi: Tunguska trong 10 Tháng Giêng, 2009, 01:05:09 pm
Kỳ 2: Ai là người mang bí số H.3?


(VietNamNet) - Giữa mịt mù khói và dòng người cuồn cuộn trong ngày 30/4/1975 đó, có lẽ H3 là người lính cộng hoà hiếm có thấy cuộc đời thật bình yên. Bởi hơn ai hết, H3 là người hiểu rõ rằng: Chiến tranh ở Việt Nam đã thực sự kết thúc. Và người Mỹ không có ý định quay trở lại xứ sở này.


Để có được niềm tin chắc chắn như vậy, ông đã phải ẩn mình suốt 10 năm  trời trong hàng ngũ của chính quyền Sài Gòn.

Những câu hỏi không được phép trả lời sai

Trở lại năm 1973. Hiệp định Paris về việc Mỹ chấm dứt sự can thiệp vào chiến tranh Việt Nam được ký kết. Miền Bắc nỗ lực chuẩn bị cho cuộc tổng tấn công hoàn toàn giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam chuẩn bị gấp rút cho 1 cuộc tổng nổi dậy để hoàn toàn giành chính quyền. Chính quyền Sài Gòn cũng cố gắng tối đa tận dụng mọi nguồn lực để giành đất, giành dân theo kế hoạch "tràn ngập lãnh thổ".

Tuy nhiên, người ta vẫn thấy trong những trận càn, trận đánh trên chiến trường Nam bộ cái bóng dáng chiến tranh kiểu Mỹ, bởi những đồng đôla xanh, những vũ khí Mỹ, trang bị Mỹ và cố vấn Mỹ vẫn tiếp tục được gửi sang miền Nam Việt Nam.

Chính vì thế, trong hàng ngũ tướng tá cộng hoà đã xì xầm lên những tin đồn, rằng: nếu như Sài Gòn thất thủ, Mỹ sẽ không để yên cho phe cộng sản Bắc Việt. Những cuộc tắm máu có thể xảy ra...

Tin đồn ấy cứ như vệt dầu loang, trở thành đòn tâm lý chiến buộc những người cầm quân giữa hai phía phải thực sự cân não. Là người Việt, không kể Nam hay Bắc, dẫu có lạc quan nhất cũng không thể không trăn trở: Vậy thì cuối cùng, Mỹ thực sự đang quan tâm điều gì? Mỹ đã thật sự “ớn” với cuộc chiến ở xứ Đông Dương?

Tất cả mạng lưới tình báo mật của quân giải phóng ở miền Nam đã phải vào cuộc. Căng thẳng. Gấp rút. Dồn dập. Mọi sức lực và trí tuệ đều được huy động tối đa để tìm ra câu trả lời chính xác, giúp Bộ Chính trị tại Hà Nội có được quyết định đúng đắn nhất.

Chỉ riêng với đầu mối H3, ngay sau khi tổ chức tình báo miền Nam bắt lại được liên lạc, liên tiếp trong những tháng cuối năm 1974, hàng loạt câu hỏi tới tấp từ Hà Nội dội về tận trong lòng của BTTM Quân đội Sài Gòn: Liệu khi ta giải phóng miền Nam, Mỹ có thể can thiệp và can thiệp tới đâu? Khả năng cung cấp phương tiện chiến tranh của Mỹ như thế nào? Mỹ có tiếp tục duyệt ngân sách hỗ trợ quân sự cho chính quyền Nam Việt Nam hay không? Bố phòng quân lực, kế hoạch đôn quân, bắt lính của chính quyền Sài Gòn ra sao? Địch đánh giá tình hình về ta như thế nào?...

 Thời điểm đó, hai miền vẫn nằm trong thế giằng co nhau để giữ đất. Nhìn trên bản đồ bố phòng của quân đội Việt Nam Cộng hoà, rõ ràng là nếu muốn chấm dứt cuộc chiến này, chắc chắn ta phải dùng đến quân đội chủ lực.

Song lại có một vấn đề nữa đặt ra, khi đã dốc toàn lực vào miền Nam tức là ta phải đảm bảo một kết quả toàn thắng. Toàn thắng không chỉ cho một năm, hai năm mà là vĩnh viễn. Nhưng, nếu bỗng nhiên Mỹ...? Câu hỏi ấy ai cũng hiểu, nhưng chẳng ai muốn viết thêm vào.


Sau hiệp định Paris năm 1973, lính Mỹ rút khỏi Việt Nam, nhưng các tướng Mỹ vẫn luôn đưa ra những lá bài "Mỹ sẽ quay trở lại". Đó là đòn cân não giữa những người chỉ huy ở cấp cao nhất từ cả 2 phía, và rốt cuộc thì Hà Nội đã chiến thắng khi ra quyết định cuối cùng: Tổng tấn công giải phóng hoàn toàn miền Nam, từ những tin tình báo đặc biệt lấy từ trung tâm "bộ não chiến tranh" của Mỹ lẫn VNCH.
Trên thực tế, những lo ngại đó của các nhà lãnh đạo miền Bắc Việt Nam không phải không có cơ sở. Bởi ngay cho đến những ngày cuối cùng của chế độ Việt Nam Cộng hoà, một số tướng Mỹ vẫn xem việc sử dụng sức mạnh quân đội Hoa Kỳ như một giải pháp có thể cân nhắc trên chiến trường Việt Nam.

Ngày 4/4/1975, trong bản lượng giá về tình hình Việt Nam mà Tổng tham mưu trưởng Mỹ Fred C. Weyand gửi cho Tổng thống G. Ford, chính nhân vật này đã đề cập tới khả năng tham gia trở lại của quân đội Mỹ:

“Chính phủ Nam Việt Nam đang bên bờ vực thẳm của một sự thất bại quân sự hoàn toàn. Tuy nhiên, miền Nam Việt Nam đang dự tính sẽ tiếp tục phòng ngự với nguồn lực sẵn có của mình, và nếu như được nghỉ ngơi, có thể sẽ tái thiết lại khả năng chiến đấu tùy thuộc vào sự yểm trợ về trang thiết bị mà phía Hoa Kỳ cho phép.

Tôi tin là chúng ta phải có nghĩa vụ yểm trợ giúp họ.[...] Việc sử dụng không lực Hoa Kỳ nhằm tăng cường khả năng chống lại sự xâm chiếm của Bắc Việt sẽ hỗ trợ cho chính phủ Nam Việt Nam trên cả hai bình diện: phương tiện và tâm lý, đồng thời sẽ đem lại một thế trì hoãn cần thiết trên chiến trường”.

Bình tĩnh mà ngẫm kỹ mới thấy, những đề nghị trợ giúp đó không phải để “cứu nguy” cho chính quyền Nam Việt Nam, mà chính xác hơn là “cứu nguy” cho danh dự của chính nước Mỹ. Từng thản nhiên “bỏ rơi” anh bạn nhỏ phương Nam trong Hiệp định Paris, khi vào giờ phút “lâm chung” của chế độ đó, tướng Weyand vẫn nói: “Chữ tín của Hoa Kỳ trên phương diện đồng minh đang trong thế đổ bể tại Việt Nam. Để duy trì sự tin tưởng đó, chúng ta phải nỗ lực tối đa trong việc hỗ trợ cho miền Nam Việt Nam ngay bây giờ”.

Một ngày sau, 5/4/1975, trong bản báo cáo về tình hình Việt Nam gửi cho tướng Brent Scowcroft - Phó trợ lý Tổng thống về các vấn đề an ninh Quốc gia, đại tá Clinton Granger - sĩ quan quân sự cao cấp của Nhà Trắng - vẫn còn nhắc đi nhắc lại:

“Chữ tín của chúng ta với tư cách một đồng minh sẽ được đánh giá bằng những nỗ lực của chúng ta trong vài tuần tới, và hy vọng là vài tháng tới. Tuy khả năng thành công có vẻ thấp, nhưng Hoa Kỳ cần thiết phải thể hiện một hình ảnh rõ ràng về thái độ trợ giúp cho miền Nam Việt Nam. Điều này sẽ khiến cho chính phủ Việt Nam có chút cơ may sống sót và quan trọng hơn, sẽ bảo vệ được chữ tín của Hoa Kỳ trên thế giới”.

Như vậy, rõ ràng là mối quan tâm lớn nhất của Mỹ lúc này không phải là “tình trạng bên bờ vực thẳm” của Sài Gòn như cách họ vẫn gọi, mà chính là danh dự của nước Mỹ, sức mạnh của nước Mỹ trong con mắt các quốc gia khác.

Tuy nhiên, giải pháp cuối cùng mà Mỹ đã lựa chọn cho cuộc chiến này là: Mỹ coi chiến tranh ở Việt Nam đã kết thúc. Mỹ sẽ không chi viện cho Việt Nam Cộng Hoà bằng lực lượng chiến đấu của Mỹ”. Đó chính là nội dung bức điện mà Mỹ đã trả lời Bộ Tổng tham mưu chế độ cũ khi Sài Gòn gửi thư sang cầu viện, ngay sau trận tiến công và giải phóng Phước Long của đội quân cộng sản.

Song, các tướng Mỹ vẫn luôn có cách làm cho những người Việt Nam ở cả hai phía tin rằng Mỹ sẽ trở lại. Đơn giản, để người Việt tự hồ nghi lẫn nhau, để họ sẽ dè dặt "giữ miếng" của nhau mà cuối cùng người hưởng lợi sẽ lại là nước Mỹ.

Nhưng ý đồ và nội dung bức điện mật mà Mỹ gửi cho Bộ Tổng tham mưu Sài Gòn đó đã nhanh chóng được H3, cùng rất nhiều điệp viên khác của Bắc Việt, chuyển về các nhà lãnh đạo miền Bắc để họ ra quyết định cuối cùng.

Nhờ đó, những bước chân thần tốc của quân giải phóng tiến vào Sài Gòn càng trở nên táo bạo. Thậm chí, họ còn giữ cho người Mỹ những danh dự cuối cùng. Trước khi vào thành phố, quân giải phóng còn dừng hẳn bên ngoài 1 ngày để người Mỹ di tản hết. Bởi họ “đợi vì mục đích chính là để giải phóng Sài Gòn chứ không phải để giết người” (Trần Văn Trà).

Bí ẩn H3?

Năm 1977, trong cuốn sách nói về sự sụp đổ của Sài Gòn (Decent Interval), Frank Snepp, cựu chuyên gia phân tích chiến lược của CIA, đã bắt đầu tò mò về "con người vô danh" mà ông gọi là “điệp viên trong hàng ngũ thân cận của Tổng thống Thiệu”.

(http://images.vietnamnet.vn/dataimages/200704/original/images1297889_nguoibimat2.jpg)
H.3, người bí mật ở BTTM chế độ cũ, đã cung cấp những tin tức chiến lược về Hà Nội, giữ bí mật đến phút cuối cùng, mà CIA đến năm 2006 vẫn thắc mắc: Ông là ai?. Ảnh: Thế Vinh.

Ba thập kỷ sau. Năm 2006, trong hội thảo quốc tế về “Tình báo trong Chiến tranh Việt Nam” do Trung tâm Việt Nam thuộc Đại học Công nghệ Texax cùng Trung tâm Nghiên cứu Tình báo thuộc CIA, Merle Pribbenow - cựu nhân viên CIA - căn cứ từ nhận định của Frank Snepp, những đoạn hồi ký của đại tướng Võ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng và một vài chi tiết báo chí khác, đã chắp nối và phỏng đoán rằng: đúng là phải có một điệp viên cộng sản từng nằm ngay trong lòng BTTM. Dường như không phải là sĩ quan cao cấp, không phải là tuỳ tùng thân cận của Tổng thống Thiệu, song chắc chắn nhân vật này đã gửi ra Bộ Chính trị Bắc Việt nhiều tin tình báo chiến lược.

Và đến giờ, họ vẫn đang cố đoán thử: Đó là ai?

Nếu đảo sáng góc bên kia, nhìn từ phía những người lính của quân đội Việt Nam, manh mối đầu tiên để những trùm mật vụ Sài Gòn hay CIA khởi sự điều tra thường là: Đó có phải là Đảng viên Đảng Cộng sản?

Nhưng câu trả thứ nhất: H3 chưa từng là Đảng viên trong suốt quá trình cấp tin cho ngành tình báo thời kỳ trước giải phóng Sài Gòn. Ông chỉ chính thức đứng trong hàng ngũ của Đảng vào cuối năm 1975, khi đất nước đã hoàn toàn thống nhất.

Vậy thì câu hỏi thứ hai: Đó hẳn là một cán bộ cao cấp, một người được đào tạo tình báo bài bản, có thời gian tập kết hay tham gia kháng chiến 9 năm...? Bởi chỉ những người như vậy mới có đủ trình độ và lá gan để làm công việc nguy hiểm tày đình này.

Nhưng câu trả lời thứ hai vẫn chỉ là... bỏ ngỏ.

Những phút giây vọng về

…Trong ngôi nhà nằm ở ngay quận ngoại ô TP.HCM, vào một ngày cuối tháng 4/2007, H3 lặng ngồi hồi tưởng lại khoảnh khắc 30/4 của đời mình:

"Khi đó, đang ở toà nhà chính, tôi thấy người của anh Bảy Vĩnh treo cờ. Tôi liền kiếm cái khác cho mấy ảnh treo.

Đến 3 giờ chiều, thấy máy truyền tin vẫn hoạt động, tôi tắt máy. Khi bàn giao cho quân giải phóng, tôi nói 20 năm nữa mình cũng không sản xuất được máy truyền tin tự động như thế này đâu.

Rồi lúc trung đoàn xe tăng vô, đi tới đâu bắn tới đó. Tôi ngồi trong nhà lầu chắc chắn nhưng vẫn thấy rung rinh. Tôi lấy áo trắng ngoắc làm tín hiệu cho xe vô để khỏi bắn tốn đạn. Lúc đó tôi đã thay thường phục rồi. Cảm giác khi ấy mừng lắm. Mấy chục năm rồi... nay tôi đã thoát vòng nguy hiểm. Mừng, mà không chia sẻ được với ai".

Mấy ngày sau, ông ra trình diện, đi học tập cải tạo mất... 3 ngày, trước khi chính thức khoác lên mình bộ quân phục của người chiến sỹ tình báo Quân đội Nhân dân Việt Nam. Bộ quân phục của ông khi ấy hẳn vẫn là bộ ngoại cỡ: dài lòng khòng cho cái thân gầy lọc cọc.

Việt Hà – Hà Trường - Thế Vinh


Tiêu đề: Re: Tình báo VN trong KCCM
Gửi bởi: Tunguska trong 10 Tháng Giêng, 2009, 01:08:09 pm
Kỳ 3: Tìm đôi mắt cộng sản cho anh lính cộng hoà


(VietNamNet) - Có lẽ đến giờ, những người cùng làm việc với H3 tại văn phòng Tổng tham mưu trưởng, BTTM của Quân đội Việt Nam Cộng hoà, dù giàu sức tưởng tượng bao nhiêu cũng khó có thể tin rằng viên hạ sỹ cao lòng khòng, "ốm đói như sót lại từ năm 1945" (lời chính H3 miêu tả về mình lúc bấy giờ), chuyên nghiên cứu số đề, đánh bạc như con nghiện thực thụ, lại có thể là "con cá bự" của tình báo Việt Cộng.

Kẻ chơi đề, gây lộn trong cuộc chiến im chìm

Ẩn trong vóc dáng gầy ốm với đôi tai to như thể mọi sự ồn ã bên ngoài đều lọt thấu, Nguyễn Văn Minh (Ba Minh) lẳng lặng đến công sở hằng ngày, ít nói và vô cùng thận trọng, bởi với ông, “lúc nào mình chẳng như cá nằm trên thớt”.

(http://images.vietnamnet.vn/dataimages/200704/original/images1298439_chiemBTTM1.jpg)
Cờ giải phóng tung bay tại Bộ Tổng tham mưu quân đội Sài Gòn, ngày 30/4/1975. H.3 lặng lẽ rời BTTM lúc 3h chiều cùng ngày, sau khi hoàn thành nốt công việc cuối cùng: Bảo quản và bàn giao lại toàn bộ hồ sơ, giấy tờ đã được niêm phong cho quân giải phóng. Ảnh: chụp lại tư liệu tại Dinh Thống Nhất.

Hơn 10 năm làm thư ký đánh máy tại BTTM là hơn 10 năm Ba Minh sống trong hang hùm. Người bao bọc và giúp đỡ cho ông không ai khác chính là gia đình và những người đồng chí. Tuy nhiên, trước khi được dốc trọn sức mình cống hiến trong sự che chở vẹn toàn, Ba Minh đã phải trải qua những cuộc chiến im lìm đến khốc liệt.

10 đứa con nheo nhóc, 10 năm làm việc không màng gì thăng tiến, viên thượng sĩ nhứt hay đau yếu liên miên ấy, lạ thay, lại có cách làm việc rất chuyên nghiệp. “Chẳng xía vô chuyện của ai bao giờ”, Ba Minh trở thành một trong những viên thư ký được các đời Tổng tham mưu trưởng (trải từ thời tướng Nguyễn Hữu Có cho tới tướng Cao Văn Viên) đặc biệt tin cậy.

Ông biết cách sắp xếp tài liệu rất gọn gàng, có khi chỉ 2 phút sau khi tướng Viên yêu cầu là đã tìm xong. Ông còn là người được Cao Văn Viên tin tưởng, nhờ tìm mua những cuốn kinh Phật trong giai đoạn cuối của cuộc chiến ở Việt Nam. Ông là thượng sĩ duy nhất được vào phòng Tổng tham mưu trưởng mà không cần xin phép trước. Thậm chí, có những tài liệu mật mà chỉ 5 người được phép biết, trong đó, 4 người kia đều phải hàng chóp bu. Có mỗi ông thì lúc nào cũng lờ đờ là một anh thượng sĩ.

Nhưng làm lính tráng quèn của BTTM mà chỉn chu, nghiêm túc quá thì cũng kỳ. Như ai, Ba Minh cũng đôi lần quậy dữ. Nguyên tắc chỉ cực kỳ kỷ luật khi làm việc, còn ngoài ra, ông “hay mang cuốn nghiên cứu số đề trong người để nguỵ trang. Nguỵ thế thôi, chứ chơi đề là thật”. Ông cười sảng khoái khi ngẫm lại thời “chúa đề” của mình và lý giải.

“Tôi sống tự nhiên để có thể đóng góp những cái quý nhất cho cách mạng. Khi liên lạc bị đứt, tôi cũng sống làm việc bình thường thôi. Trong cơ quan, có người cũng chơi thân nhưng tôi không hỏi han gì để gây nghi vấn cả. Nghĩa là tôi vẫn giữ được bình phong tối đa của một người rất bình thường. Thậm chí tôi cũng gây lộn, đánh bạc... như tất cả người khác trong BTTM. Có dạo đánh bạc cũng dữ. Binh xập xám, tổ tôm... oánh tất. Một ông thiếu tá tuỳ viên, cận vệ của ông tướng phó trưởng liên quân, tương đương tổng tham mưu phó, cũng hay qua phòng tôi chơi bài”.

Sau này, chính bí quyết nguỵ trang số đề ấy đã giúp cho H3 giữ được an toàn tuyệt đối trong giai đoạn phải truyền tin tức dồn dập ra ngoài hồi cuối năm 1974. Thậm chí, cái vỏ "đề đóm" còn khiến ông “đến khi giải phóng lại thu được tiền lời bằng 8 tháng tiền lương”.

Đi tìm người trừng mắt

Sinh năm 1933, Ba Minh nói rằng, cuộc đời ông sống vội lên trong nghèo khó. Cha là người Hưng Yên, má là người Nhị Khê, ông rất tự hào: “Tôi cùng quê với Nguyễn Trãi đó!”. Thuở dắt dìu nhau vào Nam, ba má ông sinh được 6 người con: 5 trai 1 gái. Anh cả sinh năm 1929, ông là con thứ hai, đặt tên là Nguyễn Văn Minh, thường gọi Ba Minh theo cách của người Nam bộ.

Ba Minh kể rằng, ông lớn lên ít học (chỉ hết tiểu học, sau này mới học thêm), vì gia đình quá khổ. Đã có thời tính vô căn cứ, nhưng gia cảnh ngặt nghèo, 18 tuổi đã phải thay cha nuôi em, sức khoẻ lại yếu, nên ông nghĩ có vô rừng cũng bị đuổi về trông em mà thôi.

Tuy nhiên, dòng máu cách mạng thì đã ngấm vào máu ông từ nhỏ. “Ba của tôi cũng không được học hành gì, viết chữ sai chính tả tùm lum, nhưng rất khoái nói chuyện chính trị. Ông là người Bắc, cứ uống 1-2 chén rượu vô thì ngồi nói chuyện cách mạng suốt ngày. Ông nói về Phan Chu Trinh, về Phan Bội Châu, về lòng yêu nước, tôi nghe riết rồi nhập tâm".

Bên cạnh đó, Ba Minh còn có một người chú ruột - người khiến Ba Minh nhớ ơn rất nhiều, bởi đó không chỉ là người thầy dạy nghề đầu tiên mà còn là người hướng dẫn cách mạng cho ông nữa.

Cha, chú, anh trai, rồi sau này là em trai, em gái của Ba Minh đều đồng lòng đi theo cách mạng, dẫu cho bức tường mà họ tựa vào có thể rất khác nhau.

18 tuổi, Ba Minh kiếm sống, nuôi em bằng nghề thợ giày và tham gia vào nghiệp đoàn thợ giày. 20 tuổi, chàng thanh niên ưa hoạt động phong trào này được đưa ra Đồng Tháp Mười, giữa chốn đồng không mông quạnh, để học chính trị, học về nghệ thuật chiến tranh nhân dân. Khi trở về khu phố, những chàng trai trẻ như Ba Minh cứ đều đặn sinh hoạt tổ mỗi tuần 1 lần, tổ chức đi căng biểu ngữ đấu tranh chống Diệm phá hoại Hiệp định Geneve, bày mưu giả đụng xe để cản đường, thu hút người xem và tuyên truyền cách mạng.

Thời kỳ 1954-1955, Ba Minh tham gia biểu tình công khai trên đường phố Sài Gòn. Hàng ngàn người đổ ra kín đường phố chính, mặc cho cảnh sát dùng xe jeep dàn hàng ngang càn tới, đánh lựu đạn hơi cay, cán cho đồng bào bể xương cũng mặc.

Năm 1955, Diệm bắt đầu tăng cường khủng bố. Ba Minh không bị bắt, nhưng tổ chức của Ba Minh và Trần Minh Đạm ở huyện uỷ Thủ Đức (lúc bấy giờ gọi là phân khu Thủ Đức - Dĩ An) bị vỡ. Cả 2 giao ước với nhau: Ai bắt được liên lạc với tổ chức thì kéo người khác đi theo. Thời điểm đó, Ba Minh thất nghiệp, 1 vợ 1 con nheo nhóc. Ông bèn đăng ký đi học thư ký đánh máy, rồi bán nhà, đút tiền xin làm ở Lữ đoàn Phòng vệ Phủ Tổng thống.

Thời điểm đó, Ba Minh đang hoạt động dưới sự chỉ đạo của vợ chồng ông Chín Đức (Trần Quốc Hựu – nguyên Bí thư huyện uỷ Thủ Đức – Dĩ An), đầu mối liên lạc là cô em gái tên Nguyệt.

Đến năm 1960, thành tích đáng kể đầu tiên của Ba Minh là vẽ lại sơ đồ phòng thủ thành Cộng Hoà để chuyển cho ông Chín Đức. Với vai trò thư ký đánh máy về quân số (vào sổ lính gác, tên, số quân, lý lịch cá nhân, gia đình...), hàng ngày Ba Minh có cơ hội tiếp xúc, bắt quen rồi xin xỏ, bí quá thì... ăn cắp vũ khí (đạn, lựu đạn), đem về bảo em chuyển ra cho tổ chức.

Năm 1962, lính dù tiến hành đảo chính Diệm - Nhu, cuộc đảo chính được xem là "lời cảnh cáo cuối cùng" đối với chế độ Diệm. Sang năm 1963, ngay trong ngày anh em Diệm - Nhu bị ám sát tại cuộc đảo chính 1/11/1963, sau 3 giờ nằm dưới tầm pháo kích tấn công thành Cộng Hoà, khi thoát ra ngoài được, Ba Minh đã kết luận rằng: "Hoá ra, mình không biết sợ là gì".

Sau khi đã vào được Văn phòng BTTM, Ba Minh thường theo TTMT Nguyễn Hữu Có về Cần Thơ (ở Quân đoàn 2, vùng 4 chiến thuật) công tác. Nhưng khoảng thời gian yên ả đó không lâu. Sài Gòn lại tiếp tục biến loạn. Tướng Có lên chức, thuyên chuyển đến Pleiku. Thi thoảng nhớ tổ chức quá, khi tìm về mạn Cái Răng (Cần Thơ), Ba Minh trong bộ đồ hạ sỹ nhất cứ lang thang vào xóm chỉ để tìm xem "có ai trừng mắt nhìn mình không" mà bắt liên lạc. Vậy mà vẫn không thành.

Ngồi trên “vàng” mà ấm ức

Suốt một thời gian dài, Ba Minh cứ đi tìm tổ chức, tìm đồng đội như thế.

(http://images.vietnamnet.vn/dataimages/200704/original/images1298441_BaMinh5.jpg)
Thượng sỹ nhất Nguyễn Văn Minh đã mải miết đi tìm đôi mắt, cái đầu của tổ chức tình báo đủ tầm đánh giá được giá trị chiến lược của những tài liệu mà anh đang giữ, suốt mấy chục năm trời, đến cuối năm 1973 mới toại nguyện: Gặp được Hai Kim. Ảnh: Hà Trường.

Đến tận cuối năm 1965, sau cuộc chỉnh lý của nhóm tướng lĩnh trẻ lật Nguyễn Khánh, tướng Nguyễn Hữu Có quay về Sài Gòn, trở thành "nhân vật số 3" trong Chính phủ VNCH, chỉ sau Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ, giữ chức Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc phòng, kiêm Tổng tham mưu trưởng Quân đội Sài Gòn. Nguyễn Văn Minh cũng có mặt trong nhóm hầu cận của tướng Có, lọt vào Bộ Tổng tham mưu, làm thư ký văn phòng lưu trữ hồ sơ.

Ngày 14/10/1965, khi tướng Cao Văn Viên được cử chức Tổng Tham mưu trưởng thay tướng Nguyễn Hữu Có, Nguyễn Văn Minh vẫn được giữ lại trong tổ thư ký, chính thức "nằm trên đống vàng" tài liệu - cách mà ông thường nói thế - suốt 10 năm liền sau đó.

Tuy công việc đã êm êm, song Ba Minh vẫn trăn trở và ấm ức mãi vì không tìm được người để móc nối và sử dụng nguồn tin. Dẫu tự nhận là “không học hành nhiều”, nhưng Ba Minh hiểu: không lấy được tin này ra là thiệt thòi cho cách mạng.

Lúc bấy giờ, quan niệm của Ba Minh về tình báo quân sự cũng chỉ đơn giản như chính cách ông được học về tình báo: ngày xưa, coi phim thấy tình báo Anh lấy được bản vẽ tí ti mà sau này nhờ nó, họ đã đánh sập tuần dương hạm lớn nhất của Đức. Rồi cả chu yện ba ông hay kể về người lính Cộng sản được bố trí đi theo Quốc dân đảng. Anh lính này được ông Mao Trạch Đông giao mỗi một việc, khi nào Tưởng Giới Thạch trở mặt thì cấp báo. Vậy là hoàn thành nhiệm vụ.

"Tôi sức yếu, chỉ nghĩ rằng mình đóng góp được gì cho cách mạng thì đóng góp. Những người trong phim hay trong truyện tôi đã xem, đã nghe, cả đời họ chỉ làm đúng một việc, nhưng miễn là thành công thì cũng đã là đóng góp rồi" - ông nghĩ vậy, và lý giải đơn giản vậy.

Và rồi cuối cùng, cả đời ông đã diễn ra đúng như cách ông đã chọn.

Gian nan tìm đồng đội

Năm 1967, việc liên lạc với huyện uỷ Thủ Đức được nối lại thông qua người em gái. Nhưng mối quan tâm của người phụ trách huyện uỷ chỉ dừng lại quanh những tin lặt vặt liên quan đến cấp huyện - điều mà "bói suốt ngày" mới thi thoảng kiếm được ở văn phòng cỡ BTTM. Nhưng chưa kịp chuyển tin gì thì Ba Minh phải vào viện vì bệnh - việc như cơm bữa hàng ngày.

(http://images.vietnamnet.vn/dataimages/200704/original/images1298447_BaMinh3.jpg)
Ba Minh nói rằng: Tình yêu nước, mong muốn cống hiến cho cách mạng lớn lên, được nuôi dưỡng trong ông bắt đầu từ những câu chuyện kể về Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh... Vì vậy mà suốt mấy chục năm trời nằm trong lòng địch, ông mong mỏi có 1 cơ hội để có thể cống hiến chút công "lấy sức ít mà đánh được địch nhiều". Ảnh: Hà Trường.

"Trong nhà tôi giờ vẫn còn giữ cái giấy tôi nằm viện 4 tháng. Còn ở ngoài Hà Nội vẫn còn cái giấy tôi nằm viện tới 5 tháng trời. Bệnh nặng, năm nào cũng vào viện mấy đợt, đóng góp của tôi với cách mạng cũng kém đi vì vậy", Ba Minh cười khi nhắc tới bệnh tật.

Nhưng đấy đúng là chuyện "tái ông thất mã". Vì sức khoẻ ốm mà ông vì giữ kín được mình, để đến phút cuối cùng mới tung tổng lực ra cho cách mạng nhiều hơn. "Nếu làm từ hồi đó, chắc tôi bị bể sớm rồi. Mà bể thì làm gì có cơ hội phục vụ được như sau này", ông lại cười sảng khoái.

Đến 1967, Ba Minh vào hẳn trong trại gia binh BTTM, có nhiều thời gian hơn với việc tiếp xúc tài liệu. Một năm sau, cán bộ phụ trách và huyện uỷ Thủ Đức vỡ, Ba Minh tạm thời mất liên lạc.

Không chịu ngồi yên, cùng lúc, thông qua người em gái cũng hoạt động mật, Ba Minh cứ đều đặn gửi thông tin ra ngoài cho nhiều lưới khác nhau. Chiến công đầu tiên mà Ba Minh thấy rõ ràng nhất là lần ông báo tin về một toán biệt kích mới được huấn luyện tại nước ngoài sắp được tung ra phá hoại hậu phương miền Bắc.

Về sau, bà chị dâu Sáu Chi (người luôn chủ động móc nối liên lạc cho chú em Ba Minh) thông báo lại: "Ngoài đó người ta biểu dương chị em mình quá trời luôn". Vì tin báo kịp thời này đã giúp miền Bắc đón lõng, bắt gọn toàn bộ nhóm biệt kích kia.

Tuy nhiên, đã làm tình báo thì lúc nào cũng phải chuẩn bị sẵn tinh thần chịu nguy nan. Một lần, trên đường chuyển tài liệu ra cứ, người giao liên của Ba Minh bị địch phục bắn chết, tài liệu bay tung toé ra đường.

Nhưng may mắn thay, dù tài liệu mà địch thu được còn nguyên chữ viết của ông, song do thông tin mà cấp huyện yêu cầu chỉ là tin tức phòng vệ thông thường, lấy đâu cũng được nên không bị mật vụ truy xét kỹ về nguồn.

Bình luận về sự việc này, Đại tá T.T nói: “Đó là một mất mát về con người, nhưng cũng là một điều may cho Ba Minh. Nếu tin tức đó quan trọng, địch tập trung truy xét là "lòi" ra ngay. Thông tin, tài liệu chính là điệp viên. Nếu mất Ba Minh lúc đó, về sau, cách mạng sẽ mất đi một nguồn tin có tính chiến lược đặc biệt quan trọng”. Sự việc đó xảy ra vào năm 1972.

Vốn là người thận trọng và kỹ tính, sau sự cố ấy, Ba Minh ráo riết tìm người liên lạc cấp cao hơn, bởi ông biết mình đang nằm ở chỗ nào. “Hồi đảo chính Diệm, tôi nằm 3 giờ dưới đạn pháo, khi chui lên mới biết là mình đâu có sợ gì. Tôi chỉ sợ là tài liệu quan trọng không được dùng đúng chỗ thôi”.   

Và cuối cùng, đến cuối năm 1973, cái tên Hai Kim xuất hiện trong cuộc đời Ba Minh, đưa Ba Minh vào đúng vị trí lịch sử mà ông theo đuổi từ những ngày còn "học" làm tình báo: Chỉ cần có cơ hội, chỉ cần cung cấp được một thông tin có giá trị đã là mãn nguyện rồi.

Nhưng Ba Minh không chỉ cung cấp một thông tin. Ông đã báo về một "núi" thông tin, toàn loại tuyệt mật, chỉ trong vòng chưa đầy năm rưỡi.

Bắt đầu từ giờ phút gặp Hai Kim, các bí số H3, H4, T2... cũng lần lượt ra đời. Nhà tình báo không chịu ngồi yên ấy đã tìm được đôi mắt đủ sức đánh giá những tài liệu ông đang giữ sau gần 10 năm trời lặn lội.   

Thế Vinh – Việt Hà - Hà Trường


Tiêu đề: Re: Tình báo VN trong KCCM
Gửi bởi: Tunguska trong 10 Tháng Giêng, 2009, 01:10:50 pm
Kỳ 4: Cuộc thử lửa cho tấm lưới vàng

(VietNamNet) - Tháng 4/2007. Người mang bí số H3 bí ẩn nay đôi mắt đã mờ đục. Một mắt loà, một mắt chỉ còn 30% thị lực. Ông nói, đó là kết quả những ngày đêm ông ngồi viết tài liệu đêm ngày để chuyển kịp về cho cách mạng.

"Tôi từng làm việc với rất nhiều lưới khác nhau. Nhưng quãng thời gian tôi làm việc cật lực nhất là với chị Hai Kim, từ đầu năm 1974 cho đến ngày giải phóng", đôi mắt Ba Minh dần tìm về thời kỳ hoàng kim với những người đồng đội...

Niềm tin cách mạng giữa giai đoạn thăng trầm

...Năm 1969, Trưởng trạm B.52, đồng chí Ba Phấn (tên thật là Nguyễn Văn Phấn) dẫn đoàn cán bộ xuống khu 9 (Đồng bằng sông Cửu Long), vượt qua 1 chặng đường dài gian khổ để đứng chân ở vùng giải phóng, xây dựng cụm tình báo ở vùng đất giàu truyền thống cách mạng này.

Thử thách rơi vào trạm B.52 đúng vào thời kỳ khốc liệt nhất: Mỹ - VNCH đang tiến hành bình định cấp tốc vùng căn cứ, địch tăng cường càn quét kết hợp đánh B.52. Vùng giải phóng thu hẹp, không còn dân. Việc đi lại giữa căn cứ với vùng tạm chiếm rất khó khăn vì phải qua vùng trắng.

(http://images.vietnamnet.vn/dataimages/200705/original/images1299212_BaMinh2.jpg)
Đại tá Nguyễn Văn Minh (Ba Minh), điệp viên mang bí số H3, người mà Frank Snepp, cựu chuyên gia phân tích chiến lược của CIA, từ năm 1977 đã tò mò đặt dấu hỏi về "con người vô danh" mà ông gọi là “điệp viên trong hàng ngũ thân cận của Tổng thống Thiệu”, trong cuốn Decent Interval (Cuộc tháo chạy tán loạn). Ảnh: Hà Trường.

Sau 2 năm đứng chân, trạm trưởng Ba Phấn về báo cáo lại với Trưởng phòng J22: "Tình hình chính trị quân sự khu 9 đang hé mở có triển vọng, nhưng khả năng tình báo còn mờ mịt. Tuy ác liệt nhưng tôi không sợ, không đáng kể đâu. Bất quá chết thì thôi. Nhưng đáng buồn là mình cứ chạy càn, đến gặp quân khu 9 làm phiền cấp trên đang trăm công ngàn việc mà không phục vụ gì được". Thiếu tướng Sáu Trí nhớ lại những day dứt của người trạm trưởng dưới quyền, nhưng cũng là đồng đội một thời vào sinh ra tử.

Sự day dứt của người lính tình báo khi đã bằng mọi cách vẫn không thể hoàn thành nhiệm vụ chính là điều mà người trong nghề dễ gặp và dễ chia sẻ với nhau nhất. Tình báo là bám vào dân, nguồn tin là ở dân, tài liệu cũng từ dân, điệp viên cũng từ dân mà ra. Nay, cơ sở quần chúng thì ở vùng tạm chiếm, còn trạm thì đóng ở chiến khu. Trong khi đó, đoàn của đồng chí Ba Phấn lúc bấy giờ chưa có được cơ sở hợp pháp. Vậy thì chỉ còn là 1 đơn vị vũ trang đúng nghĩa!!!

Trong khó khăn, mới thấy niềm tin cách mạng và nghĩa tình đồng đội. Vào thời gian đầu, cùng với việc xây dựng mạng lưới, trạm B.52 tạm thời dùng thông tin từ phòng tình báo J22 chuyển xuống để báo cáo với Tư lệnh khu 9, người mà về sau cái tên đã trở thành quen thuộc với nhân dân Việt Nam: Đại tướng Lê Đức Anh, nguyên Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bí danh Sáu Nam. Đồng thời, J22 tăng cường cho B.52 một cán bộ nữ hợp pháp, có tên Hai Kim.

Khi trạm B.52 đang thiếu cơ sở nằm sâu trong lòng địch, thì cơ hội đến. Bà Sáu Chi, một người trong mạng lưới lên Sài Gòn bắt liên lạc với 1 người cháu là đại uý không quân nhưng người này đã thiệt mạng. Bà Sáu Chi buồn lắm, nhất định không chịu về tay không. Nhân lúc qua thăm gia đình em chồng, biết được vị trí và nguyện vọng của Ba Minh, bà Sáu Chi giới thiệu ngay chú em mình với Cụm trưởng Ba Phấn.

Với bản năng của một người chỉ huy tình báo lâu năm đã kinh qua chiến trường, Cụm trưởng Ba Phấn (lúc đó đã là Cụm A33, đóng tại Cần Thơ) biết ngay rằng đây đã là 1 nguồn tài liệu quan trọng. Hai Kim được cắt cử lên đường vào Sài Gòn tiếp cận với Ba Minh. Lúc đó khoảng mùa mưa, chừng tháng 8-9/1973.

Thử thách đầu tiên

"Bả đến nhà đứa em gái tôi hôm 28 Tết âm lịch. Hôm đó đang có giỗ bên nhà chồng nó", Ba Minh và cô Nguyệt (em gái) nhớ lại. Khi tới, cô Hai Kim cầm theo 1 tấm ảnh của cháu Hoàng (con đầu lòng của Ba Minh) để làm tin.

"Khi chị Sáu Chi trở về, chị có dẫn thằng con lớn của Ba Minh là thằng Hoàng ra chiến khu, gửi cho A33 để được bảo đảm an toàn. Vì khi đó nó đang học lớp 12, có thể bị bắt lính. Lúc đến, trong vai là người đi mua vải, tôi đưa thẻ của thằng Hoàng ra. Cô Nguyệt tin ngay. Song cô chưa bắt chuyện ngay mà lấy nước, lấy báo cho tôi coi, với lý do nhà đông khách. Tôi biết lúc đó gia đình cổ vẫn quan sát tôi, tôi ngồi chờ cho đến phút cuối rồi hẹn mấy ngày sau sẽ gặp lại. Ngay hôm sau, cô Nguyệt báo lại với anh trai. Lúc đầu ảnh cho rằng, hoặc là thằng Hoàng đã bị bắt, hoặc hoặc vì lý do nào đó, nó đánh rơi thẻ mà thôi", cô Hai Kim nhớ lại.

(http://images.vietnamnet.vn/dataimages/200705/original/images1299210_chiemBTTM2.jpg)
Quân giải phóng chiếm Bộ Tổng tham mưu Quân đội Sài Gòn. Nơi đây, H3 đã "ẩn" mình suốt 10 năm trời chờ đợi để góp sức mình cho cách mạng. Ảnh: Chụp lại tư liệu tại Dinh Thống Nhất.

Sự thận trọng đó vốn là bản tính của Ba Minh, cộng thêm được rèn giũa kỹ càng vì đang sống giữa trung tâm Bộ Chỉ huy Sài Gòn. Vì thế, mặc dù nghe Hai Kim kể rất rành rọt về chị dâu Sáu Chi, nhưng Ba Minh vẫn chỉ mới tạm nhận lời và tìm cách... thử thách “thủ trưởng”.

“Lần gặp đầu tiên, Ba Minh cứ ngồi nói, nói... liên tục, từ kiến thức quân sự, kiến thức về tổ chức bộ máy quân đội Sài Gòn, cho tới những con số chi tiết trong các bản báo cáo mà Ba Minh còn nhớ vanh vách. Sau đó, anh hỏi lại một câu thế này: “Không biết nãy giờ tôi nói, chị có lãnh hội được không?” Tôi biết ảnh nói câu đó là để thử thôi. Tôi liền bảo là để tôi báo cáo lại những gì anh nói nãy giờ. Thế rồi tôi tóm lại những ý chính, đồng thời nêu luôn tất cả các con số mà anh nêu, dù tôi đâu có ghi chép" - bà Hai Kim cười vui, kể lại.

Đến khi đó, Ba Minh mới yên tâm vào người cộng sản có đôi mắt mà mình đang cần. Khi đã đặt trọn vẹn niềm tin rồi thì mức độ "nhồi" tài liệu của Ba Minh tới giao thông viên đặc biệt Hai Kim thật... kinh hoàng. Từ lịch hẹn gặp 2 tháng/lần, Ba Minh chủ động rút xuống còn 1 tháng..., rồi cuối cùng là 5 ngày/lần gặp, mỗi lần là hàng chục trang tài liệu gốc. Đó là khoảng thời gian làm việc khủng khiếp nhất trong cuộc đời làm tình báo của Ba Minh.

Bắt đầu nhập lưới

Đại tá Ba Minh dù đến nay đã qua tuổi 70, trí nhớ kém nhiều, nhưng vẫn còn nhớ ngày đầu tiên đó: "Lúc đầu tôi cũng đâu có chép nguyên gốc nguyên bản cho bà Hai Kim. Tôi chỉ nói thôi, tôi cũng có viết nhưng mang tính tóm lược chứ không viết rõ ràng hết.

Văn hoá tôi kém nhưng lúc đầu tôi đọc báo thiếu nhi có sách hồng của ông Tố Hữu, mặt sau có mục ai? ở đâu? tại sao? thế nào? lúc nào? (5 yếu tố W khởi nguồn của truyền đạt tin tức - NV). Vì thế, một nguồn tin tôi đưa cũng có tổ chức, đơn vị nào, làm gì, ngày giờ, thực hiện ở đâu, tại sao lại cần thiết như vậy. Phải mất một vài tháng tôi mới bắt đầu chép thử chuyển cho bà Hai Kim".

Rồi từ tháng 2/1974, bí số H3 ra đời. Đó là Thượng sĩ nhất Nguyễn Văn Minh, thư ký đánh máy tại văn phòng Bộ Tổng tham mưu - Bộ Quốc phòng VNCH. Hai Kim mang bí số T2. Người em gái Ba Minh là Nguyễn Thị Nguyệt mang bí số H4. Một người em trai nữa của Ba Minh tên Nguyễn Văn Chí (sinh năm 1941) cũng tham gia nhưng không đặt bí số. Lưới điệp báo xoay quanh H3, theo tài liệu lưu trữ, được đặt là A3.

Người chỉ huy T2 nhớ lại, để chuyển tin cho một mình H3, có tới gần chục người sẵn sàng làm nhiệm vụ. Trước khi bắt đầu, họ có một lời tự thề với mình rằng: sẽ sẵn sàng im lặng tuyệt đối nếu lỡ bị bắt, bị tra tấn hay thậm chí bị giết, chỉ bởi vì một điều đơn giản, họ có nhiệm vụ đảm bảo an toàn tuyệt đối cho H3.

Và cả một lưới gồm rất nhiều người đang nằm ở chiến tuyến khác nhau, thậm chí chưa hề biết đến nhau, đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tuyệt mật, đến giờ phút quân giải phóng cắm cờ lên Dinh Độc Lập và Bộ Tổng tham mưu quân đội Sài Gòn. 

Hà Trường - Thế Vinh - Việt Hà


Tiêu đề: Re: Tình báo VN trong KCCM
Gửi bởi: Tunguska trong 10 Tháng Giêng, 2009, 01:14:59 pm
Kỳ 5: Những tin vàng cho cách mạng


(VietNamNet) - Luôn tự nhận mình là người “ít học”, nhưng Ba Minh lại là người được Cao Văn Viên tin tưởng nhất trong việc sắp xếp hồ sơ, tài liệu. Nhờ ở vị trí đó mà ông đã đưa được rất nhiều tin tức cho cách mạng. Chỉ trong vòng chưa đầy 1 năm, ông đã chuyển ra ngoài 90 bản tài liệu, mỗi bản dày hàng chục trang.

Những bản tin tuyệt mật

Như đã viết ở trên, chiến công đầu tiên mà H3 cảm nhận thấy rõ nhất hiệu quả những thông tin ông gửi về là việc miền Bắc tổ chức bắt gọn một toán biệt kích được Mỹ đào tạo tại nước ngoài rồi tung ra phá hoại hậu phương lớn của ta.

Đấy mới chỉ là bắt đầu của 1 quá trình, dù thời gian không dài, nhưng cực kỳ hiệu quả trong việc hoạt động của lưới A3 xoay quanh điệp viên nằm ngay “ruột” của Bộ Tổng tham mưu quân đội Sài Gòn.

(http://images.vietnamnet.vn/dataimages/200705/original/images1299238_BaMinh4.jpg)
Nếu ví căn phòng chỉ huy ở Hà Nội hằng đêm sáng rực ánh đèn thông tin tình báo quân sự và mỗi lưới điệp báo thắp lên 1 ngọn đèn, thì H3 cũng là 1 ngọn đèn sáng trong số đó. Bởi “sức ít” của Ba Minh cuối cùng cũng giúp cho quân ta “đánh được thật nhiều”. Ảnh: Hà Trường.

Không chỉ vậy, từ H3, Hà Nội nắm rõ đường lối hoạt động của Hải quân chế độ Sài Gòn theo kế hoạch 1974–1975. Chưa hết, Hà Nội biết  rõ kết quả quân đội Sài Gòn tiến hành “triệt hạ các vùng lõm của Cộng sản” ra sao, khi bản báo cáo này đến BTTM. Hoặc chi tiết hơn, Hà Nội còn biết ngọn ngành cả kế hoạch tái chiếm R.B, trước khi kế hoạch này được triển khai.

Thậm chí, thư của văn phòng tuỳ viên quân sự Mỹ (DAO) gửi BTTM quân đội Sài Gòn về kế hoạch sử dụng viện trợ quân sự của Mỹ, hay việc người Mỹ trả lời về việc Mỹ không thể đáp ứng đề nghị của VNCH trong việc cho các oanh tạc cơ tham gia can thiệp khi ta giải phóng hoàn toàn Phước Long (tháng 12/1974).

“Biết địch, biết ta trăm trận trăm thắng”, tất nhiên H3 không phải là nguồn thông tin duy nhất để Hà Nội đưa ra những quyết định cuối cùng về việc tổng tấn công giải phóng hoàn toàn miền Nam. Nhưng, H3 là một nguồn tin nằm ngay trong “bộ não” chỉ huy chiến tranh của chính quyền Sài Gòn.

Với tốc độ chuyển tin không có ngày nghỉ, Ba Minh luôn làm việc mỗi ngày như là ngày cuối cùng không e ngại, sợ hãi, chỉ với 1 ý nghĩ  “góp sức để mà ít có thể đánh được nhiều”.

Tới năm 1975, khi toàn chiến trường sục sôi khí thế “giải phóng hoàn toàn miền Nam”, với những cú đấm mạnh đúng “tử huyệt” bố phòng quân lực của VNCH, ít ai có thời gian đặt câu hỏi: Vì sao chúng ta đánh đúng, đánh trúng, đánh thắng như chẻ tre vậy?

Câu hỏi này, chỉ có Bộ Chính trị rõ hơn ai hết. Nếu ví căn phòng chỉ huy ở Hà Nội hằng đêm sáng rực ánh đèn thông tin  tình báo quân sự, và mỗi lưới điệp báo thắp lên 1 ngọn đèn, thì H3 cũng là 1 ngọn đèn sáng trong số đó. Bởi “sức ít” của Ba Minh cuối cùng cũng giúp cho quân ta “đánh được thật nhiều”.

Cú điểm “tử huyệt” Tây Nguyên

Chiến dịch Tây Nguyên (4/3-24/3/1975) mở màn cho cuộc tổng tấn công và nổi dậy mùa xuân năm 1975. Bộ Chính trị hạ quyết tâm giải phóng hoàn toàn miền Nam trong năm 1976. Tuy nhiên, với cục diện diễn biến nhanh trên chiến trường: lực lượng VNCH vỡ hàng loạt theo hiệu ứng Domino, lực lượng cách mạng liên tiếp giành các chiến thắng áp đảo, thời gian giải phóng Sài Gòn được rút xuống: trước mùa khô năm 1975.


(http://images.vietnamnet.vn/dataimages/200705/original/images1299226_BanMeThuot.jpg)
Buôn Ma Thuột, ngày 11/3/1975. Trận đánh mở màn cho cú điểm "tử huyệt" Tây Nguyên, là kết quả tính toán thận trọng và táo báo của những nhà lãnh đạo Việt Nam. Ảnh:  Sách "Việt Nam 30 năm chiến tranh giải phóng" - Nhà xuất bản thông tin 2004.

Đánh Tây Nguyên, cú "đòn hiểm" đầu tiên của cuộc tổng tiến công, là kết quả tính toán thận trọng và táo bạo của những nhà lãnh đạo Việt Nam. Một trong những nguồn tài liệu quan trọng để Bộ Chính trị đưa ra quyết định giải phóng vùng đất cao nguyên này chính là những tin tức tình báo mà H3 lấy được.

Nguyên phó phòng tình báo J22 (phụ trách tham mưu), Đại tá T.T nhớ lại: "Từ năm 1974, mình đã nhận được sách lược quốc gia năm 1975 của nó. Huấn thị của VNCH về việc thiết lập kế hoạch 1974-1975, ngay từ tháng 6/1974 mình đã nhận được rồi. Như vậy, công lao của anh Ba Minh là rất lớn, tin tức thu về được nhiều chứ không phải chỉ mỗi thông tin về việc Mỹ không quay trở lại Việt Nam. Tất cả những tin mà H3 gửi về đều giúp ta phán đoán được tình hình và là 1 trong những nguồn tin quan trọng phục vụ cấp trên quyết định mở chiến dịch cuối cùng năm 1975".

Chẳng hạn, tất cả những nội dung chi tiết trong bản kế hoạch Lý Thường Kiệt dày hàng trăm trang đã có mặt trên bàn Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam từ khá sớm. Căn cứ trên tài liệu này cùng với thông tin từ rất nhiều nguồn khác, các quân đoàn của ta đã phối hợp, triển khai hướng tiến công theo đúng ý đồ chiến lược của những nhà chỉ huy quân sự.

Tháng 7/1974, phòng tình báo J22 đã thu được bản tường trình của Bộ Tổng tham mưu VNCH về kế hoạch dự kiến năm 1975. Trong những tài liệu này có những thông tin đặc biệt quan trọng nói về mức độ tiếp viện của quân Mỹ trên chiến trường miền Nam, giúp cho các nhà lãnh đạo của ta quyết định được cách đánh.

Theo bản tường trình này, việc quân đội VNCH triển khai các hoạt động giữ đất, chiếm đất và việc phân phối ngân sách cho các loại quân binh chủng đều phải tương ứng với tỉ lệ viện trợ của Mỹ. Cụ thể, nếu Mỹ viện trợ 1,4 tỷ đôla, quân đội VNCH sẽ kiểm soát được toàn miền Nam, 1,1 tỷ đô la sẽ mất một nửa quân khu 1 về phía Bắc, nếu chỉ 900 triệu đô la sẽ mất quân khu 1 và vài tỉnh quân khu 2, còn 750 triệu đô la sẽ mất quân khu 1 và quân khu 2, nếu chỉ còn 600 triệu đô la thì chỉ kiểm soát một nửa quân khu 3 từ Biên Hòa tới quân khu 4...

Thật là một kiểu tính toán về một cuộc chiến tranh sặc mùi đô la của các ông chủ Mỹ.

Nắm được tài liệu này, ta có thêm điều kiện để hiểu được được khó khăn của chính quyền Sài Gòn và ý đồ co cụm từng bước. Rõ ràng là chính quyền Sài Gòn đang thay đổi chiến thuật tác chiến "theo kiểu Việt Nam", "lối đánh con nhà nghèo" trước tình trạng khó khăn về viện trợ và quân số.

Sự rệu rã của quân đội VNCH càng cho thấy tương lai sụp đổ tất yếu của một chính quyền hoàn toàn lệ thuộc vào tiền và vũ khí viện trợ của Mỹ.

Ngoài ra, với mức độ “nhồi” tin 5 ngày/chuyến, đến cuối năm 1974, những tài liệu do H3 chuyển về còn giúp ta nắm rõ được tình hình Bộ Tổng tham mưu, kế hoạch bộ binh hoá sư dù, chỉ thị của Bộ Tư lệnh không quân, phúc trình của hải quân về đường lối hoạt động năm 1975; biết được mức độ yểm trợ của Mỹ khi đánh nhau thì như thế nào; lực lượng VNCH có những sư nào lớn, những trận nào mà họ có thể bỏ; mức độ giảm quân đội khi viện trợ giảm; việc thiết kế đồn bốt bây giờ không còn kiên cố sắt thép như ngày xưa nữa, khi mà Mỹ đã cắt bỏ viện trợ...

Không chỉ vậy, từ H3, Hà Nội nắm rõ đường lối hoạt động của Hải quân Sài Gòn theo kế hoạch 1974–1975. Chưa hết, Hà Nội biết rõ kết quả quân đội Sài Gòn tiến hành “triệt hạ các vùng lõm của Cộng sản” ra sao, khi bản báo cáo này đến BTTM. Hoặc chi tiết hơn, Hà Nội còn biết ngọn ngành cả kế hoạch tái chiếm R.B, trước khi kế hoạch này được triển khai.

Thêm vào đó, những tài liệu riêng ở quân khu 4 về tình hình 6 tháng đầu năm, kế hoạch 6 tháng cuối năm, quân số, đánh giá của Hội đồng An ninh quốc gia như thế nào, lượng giá của họ về tinh thần quân cộng sản ra sao... cũng bị ta nắm rõ.

H3 khẳng định với tổ chức: Năm 1974, với mức độ viện trợ bị rút xuống, VNCH không bắt đủ lính quân dịch cần thiết. Phân tích về mặt chiến lược: Điều đó đồng nghĩa với việc chính quyền Sài Gòn đang phải co cụm lực lượng nếu không muốn dàn trải, nghĩa là phải chấp nhận bỏ đất.

Đến đầu năm 1975, dựa trên những thông tin và tài liệu mà tình báo của ta nắm được, phòng tình báo J22 khẳng định: Mỹ không thể can thiệp để cứu nguy cho quân đội Sài Gòn trong bất cứ tình huống nguy ngập nào. Trên chiến trường, thế bố phòng lực lượng yếu nhất và khó bảo vệ nhất là chiến trường Tây Nguyên (quân khu 2). Tại quân khu 2, chiến trường hiểm yếu nhất là Ban Mê Thuột.

"Nếu Cộng sản đánh Ban Mê Thuột thì toàn bộ hệ thống phòng thủ ở Tây Nguyên sẽ đổ vỡ, hậu quả sẽ tai hại khôn lường được cho VNCH", nội dung tài liệu này được Thiếu tướng, anh hùng tình báo huyền thoại Phạm Xuân Ẩn (Hai Trung) cung cấp nguyên bản, khẳng định "tử huyệt" là chiến trường Tây Nguyên. Và kết quả thì như các sách lịch sử đã ghi lại đầy đủ.

Trong những tháng cuối cùng của cuộc tổng tấn công, tin tức từ lưới điệp báo A3 chuyển về dày đặc. Từ trung tâm chỉ huy của quân đội Sài Gòn, những tập tài liệu về quy chế thiết lập đồn bốt; duy trì các giang đoàn để cản hướng tấn công đường thuỷ; quân số của quân đội Sài Gòn hay phương án sử dụng lực lượng hải quân sẽ như thế nào… đều nhanh chóng bay ra Hà Nội.

Trong những ngày căng thẳng nhất, thư của văn phòng tuỳ viên quân sự Mỹ (DAO) gửi BTTM chế độ cũ về kế hoạch sử dụng viện trợ quân sự của Mỹ, hay việc người Mỹ trả lời về việc Mỹ không thể đáp ứng đề nghị của VNCH trong việc cho các oanh tạc cơ tham gia can thiệp khi ta giải phóng hoàn toàn Phước Long (tháng 12/1974), những tài liệu mật liên quan đến việc hướng dẫn phân ô của Bộ Tư lệnh cảnh sát quốc gia (chia ô để kiểm soát, theo kế hoạch “lấn đất giành dân” - NV); việc BTTM quân đội Sài Gòn đánh giá về lực lư ợng và lãnh thổ cho tới báo cáo của an ninh quân đội về tình hình đảng phái, tôn giáo ở miền Nam, hay quan hệ VNCH – Campuchia… đều đã có mặt tại Hà Nội.

Một chi tiết nữa của lịch sử: Chính quyền Sài Gòn trong những ngày cuối cùng, đã bắt đầu dự trù phương án bỏ Sài Gòn, rút về miền Tây “tử thủ”, đánh lâu dài.

Nhưng họ không biết rằng: kế hoạch nâng cao quân số cho các sư đoàn bộ binh ở vùng 4 chiến thuật, hay việc tăng cường lực lượng cho lực lượng đặc biệt, hoặc việc tăng cường biệt động quân, thuỷ quân lục chiến cho các quân khu, kế hoạch yểm trợ không quân… đều đã bị Hà Nội nắm rõ.

Với những chiến lược chiến tranh, không thể thay đổi trong ngày một ngày hai. Cho nên thật khó để việc quân giải phóng tiến vào Sài Gòn không thành công, khi tất cả những suy tính của Bộ Tổng tư lệnh quân đội Sài Gòn, kể cả người có quyền chỉ huy cao nhất, đã bị Hà Nội “đọc” quá rõ như trong lòng bàn tay mình có bao nhiêu đường kẻ.

Vấn đề còn lại, chỉ phụ thuộc vào những đoàn quân với khí thể hừng hực hành quân như vũ bão trên mọi nẻo đường tiến về Sài Gòn mất bao nhiêu thời gian.

Đến giữa tháng 4/1975, khi quân giải phóng áp sát Xuân Lộc, cửa ngõ phía Bắc Sài Gòn, H3 đã hoàn thành xong sứ mệnh mà ông theo đuổi: Góp chút sức mình cho cách mạng, thống nhất đất nước.

Ông lặng lẽ ẩn mình, lưới điệp báo A3 ngưng liên lạc. Việc duy nhất cuối cùng còn phải làm chỉ là bảo vệ trọn vẹn hồ sơ tài liệu, chờ đợi ngày toàn thắng.

Huân chương chiến công sau 10 tháng hết mình

Khối lượng tài liệu H3 chuyển về trong gần 2 năm rất lớn. Đặc biệt, tin tức, tài liệu phần lớn ở dạng nguyên bản chính xác của cơ quan cấp rất cao của cả Mỹ và VNCH.

Đại tá T.T thống kê, bắt đầu từ tháng 2/1974 tới cuối năm 1974 (trừ các tháng 7, 8, 9), H3 chuyển được 90 bản tài liệu. "Mỗi bản tài liệu thì số lượng khổng lồ, đánh máy rất nhiều, những năm đó, tin tức, tài liệu của H3 chuyển ra ào ạt, xử lý nhiều khi không kịp".

Vì thế, chỉ chưa đầy 10 tháng chuyển tài liệu trong năm 1974, H3 được xét tặng Huân chương chiến công Hạng 3 vì những thành tích của mình, mặc dù ông chỉ được nhận huân chương bằng thông báo... miệng qua người trực tiếp chỉ huy là bà Hai Kim.

Đến giờ, Ba Minh vẫn cười khi nhớ lại quãng thời gian ông cung cấp thông tin tình báo về: "Đó là quãng thời gian tôi làm việc đến... chết bỏ. Cố gắng lấy được càng nhiều càng tốt. Vì tôi biết tôi đang nằm trên 1 mỏ vàng. Kể cả thư Mỹ gửi cho tướng lĩnh cao cấp của BTTM chế độ cũ, tôi chép nguyên xi cả bản tiếng Anh rồi gửi ra ngoài đó".

Ít ai hay, để chuẩn bị tinh thần cho những ngày nhọc nhằn nhất của mình, ngay từ khi chưa bắt được vào lưới bà Hai Kim, ông Ba Minh đã dành riêng 1 năm học tiếng Anh trước đó. 

Làm việc quần quật, “tống hết cả sức đi” như cách Ba Minh nói, chỉ sau ngày Sài Gòn giải phóng ít lâu, ông phải nhập viện vì... kiệt sức.

Thiếu tướng Sáu Trí, Trưởng phòng tình báo J22, ghi lại những dòng tưởng thưởng về người đồng đội ẩn danh H.3: "Anh đã lấy tin, tài liệu về các phòng hành quân (BTTM); tin tức, tài liệu giá trị lâu dài như kế hoạch Lý Thường Kiệt; về lực lượng đặc biệt. Âm mưu và thủ đoạn bình định của địch. Tình hình quân số, bố trí quân (chủ lực và địa phương). Có những tin định kỳ quan trọng như biệt kích đổ bộ; tàu lặn, tinh thần quân đội Sài Gòn ở Quân khu 1 sau chiến dịch Quảng Trị của ta...

Chất lượng công tác của H3 đáp ứng đúng yêu cầu của lãnh đạo trong giai đoạn then chốt của cuộc chiến tranh: Ta cần hiểu sâu về địch để giành toàn thắng”.

Hà Trường - Việt Hà - Thế Vinh


Tiêu đề: Re: Tình báo VN trong KCCM
Gửi bởi: Tunguska trong 10 Tháng Giêng, 2009, 01:20:44 pm
Kỳ 6: Anh lính Việt sống bằng giờ của... Mỹ


(VietNamNet) - Lịch sử có thể sẽ phải nhắc tới 1 người lần đầu tiên tạo ra lịch mới: Một tuần chỉ có 4 ngày. Rồi một ngày lại bị đảo ngược thời gian, đêm là lúc để sống, ngày là lúc để quên. Đó là quãng thời gian H3 làm việc quên mình để chuyển tin về tổ chức...

Tính theo vòng xoay của trái đất, một tuần có 7 ngày. Nhưng một ngày lại có hai miền sáng tối ở hai nửa bán cầu. Mỹ - Việt cách nhau đúng 12 tiếng. Nếu sống theo giờ Mỹ ban ngày thì có nghĩa là phải thức trắng đêm ở Việt Nam.

Lịch sử có thể sẽ phải nhắc tới 1 người lần đầu tiên tạo ra lịch mới: Một tuần chỉ có 4 ngày. Rồi một ngày lại bị đảo ngược thời gian, đêm là lúc để sống, ngày là lúc để quên.

Người định nghĩa: “Một tuần chỉ có 4 đêm”

Trong BTTM Sài Gòn có “rất nhiều con em tướng tá được nhét vô đây để tránh cầm súng ra trận, tụi tôi gọi là "lính kiểng"”. Thế nên, riêng khoản chơi bời thì đêm không bao giờ là đủ. Nhưng làm lính gác thì phải trực, mà trực thì nghỉ chơi. Thấy Ba Minh chẳng ham gì danh vọng, chỉ lầm lũi đi làm kiếm tiền nuôi con, những “chiến hữu” của ông thường xuyên nhờ trực giúp. Và Ba Minh chưa từ chối một lần.

(http://images.vietnamnet.vn/dataimages/200705/original/images1303820_BaMinh13.jpg)
H.3 đã sống đúng kiểu giờ Mỹ: Đêm là lúc để sống, ngày là lúc để quên, trong suốt gần 2 năm cuối của cuộc chiến, ngay tại Việt Nam. Ảnh: Hà Trường.

"Tụi tôi có 4 thằng, chia nhau trực 4 đêm. Nhưng tôi thường làm hộ một nửa. Cứ 4 đêm thì tôi làm việc mất 3 đêm rưỡi. 2 đêm chép tại nơi làm việc, 1 đêm chép tại nhà. Đêm thứ 4 tôi chỉ chép đến 9-10 giờ là ngủ, bù lại 3 đêm kia. Khi tôi chép ở nhà, vợ tôi canh chừng. Có thời kỳ tôi làm đêm nhiều, ban ngày tôi chỉ lờ đờ thôi nên nhiều cái nhanh quên lắm", Ba Minh nhớ lại giai đoạn làm việc quên mình khi đã tìm về đúng tổ chức, dù chưa bao giờ ông là người khoẻ mạnh.

Với một tập giấy pơ-luya dày bằng bao thuốc lá, ông có thể chép 30 trang trang tài liệu. Cách chép rất giản đơn: "Tôi chép bằng chữ ’’con lăng quăng’’ bé xíu và viết tắt. Cái nào tôi quan tâm mà bà Hai Kim cần, tôi để riêng nó ra trước khi lưu hồ sơ để tối chép. Có những tập kế hoạch quân sự hàng năm phải thay đổi, cũng có khi phải chép nguyên quyển sách dày 300-400 trang, mà tôi bảo đảm không chép sai con số nào".

Ông đã sống đúng kiểu giờ Mỹ liên tục trong suốt hai năm cuối cùng của cuộc chiến, ngay tại Việt Nam.

Kẻ nghiện số đề có đôi tai tình báo

Dưới vỏ bọc của 1 kẻ nghiện số đề nặng, Ba Minh luôn kè kè cuốn sổ tính toán bên người. “Cả ngày lẫn đêm, ai bất chợt vô cũng thấy tôi đang nghiên cứu số đề".

Để không bị ai để ý, khi ở văn phòng, "tôi thường để đèn cả ngày lẫn đêm. Có thời gian nó bắt tiết kiệm điện, đến giờ là tắt hết, nhưng riêng phòng tôi thì luôn để nguyên điện cho nó không để ý", Ba Minh kể. Vì thế, chẳng ai lấy làm lạ khi thấy phòng của kẻ yêu đề đóm quanh năm sáng đèn.

(http://images.vietnamnet.vn/dataimages/200705/original/images1303822_BaMinh7.jpg)
Đôi tai này luôn lắng nghe mọi âm thanh dù nhỏ nhất để đề phòng bất trắc, ghi nhận mọi thông tin có thể "lấy sức ít mà đánh được nhiều" để chuyển ra tổ chức... Ảnh: Thế Vinh.

Tuy vậy, công việc không phải lúc nào cũng thuận buồm xuôi gió. "Tôi làm việc ban đêm, phòng có cửa sổ dài hai thước, đi từ ngoài cổng 1 vô cách cây số đã nhìn thấy ánh đèn, mà cửa sổ ngày đêm không đóng, mưa không tạt, gió không lùa. Cứ đến đêm trực, tôi lại để cái giường xếp đằng sau bàn làm việc, 9 giờ - 9 rưỡi đã mắc mùng rồi. Tối thiểu từ 10 giờ trở đi tôi mới giở hồ sơ ra chép".

Ba Minh cứ chép liền tù tì như vậy đến 4-5 giờ sáng. Khi ngồi chép, ông chốt cửa phòng, cẩn thận móc thêm khoá. Tay viết, mắt nhìn tài liệu nhưng tai vẫn phải lắng nghe để phân biệt tiếng giày, tiếng dép đi. Giày của người chuyển công văn khác, giày của an ninh khác, giày của quân cảnh khác, thậm chí tiếng giày của đồng nghiệp trực chung đêm như lái xe, thượng sĩ quan, sĩ quan cùng trực đều phải lắng nghe rõ.

"Cứ nghe tiếng động là phải xếp hồ sơ đang chép vào trong bìa, sau đó mới nhè nhẹ đi dép cao su ra mở hết các chốt cửa rồi vô giường nằm giở cuốn số đề ra.

Tổng cộng trong vòng 1 năm cũng bị 7,8 lần như vậy. 3,4 lần bị tuỳ phái vô, có lần thì an ninh, quân cảnh đẩy cửa xông vào, thấy mình đang nghiên cứu số đề nên thôi. Khi nó đi rồi, tôi lại ra chốt cửa vào và chép tiếp", ông nhớ lại.

Những bức tin mật

Tài liệu mà Ba Minh gửi về thường rất sớm. Ngay từ tháng 2/1974, kế hoạch quân sự năm 1975 đã nằm trên bàn Bộ chỉ huy ở Hà Nội.

(http://images.vietnamnet.vn/dataimages/200705/original/images1303824_BaMinh21.jpg)
Đôi bàn tay của người đàn ông này đã là một bí mật mà CIA đã muốn tìm hiểu nhiều năm sau cuộc chiến tranh Việt Nam: Ông đã chép và chuyển được những tin tức chiến lược gì ra Hà Nội? Ảnh: Hà Trường.

T2 nhớ lại: "Lúc đó mình đặt ra nhiều vấn đề lắm: Một là, sau khi Việt Nam hoá chiến tranh, Mỹ có quay trở lại không? Hai là, kế hoạch quân sự năm 1974 là gì? Ba là, nếu Việt Nam hóa chiến tranh thì Sài Gòn có bắt đủ quân không? Lúc đó, cũng có một nguồn tin ở quân đoàn 4 cũng trả lời là không thể tới, giỏi lắm là hơn 80%. Phối hợp với tin tức của Ba Minh, ta có thể khẳng định rằng Sài Gòn không thể bắt tới 1 triệu lính được.

Thứ 4 nữa là hỏi về việc Mỹ rút quân: Mỹ rút quân thì để lại phái đoàn quân sự nào? Số lượng bao nhiêu? Phương tiện chiến tranh nữa. Mỹ vẫn nói trên đài, trên báo rằng sẽ tiếp tục viện trợ cho VNCH. Thế nên phải thêm câu hỏi rằng liệu Mỹ có duyệt ngân sách quân sự cho chiến tranh Việt Nam không? Đó là những câu hỏi lớn mà Ba Minh phải trả lời. Trả lời gấp, và phải trả lời rất nhiều lần cho chắc chắn.

Thế nhưng, tất cả những gì Ba Minh làm được là... còn nhiều hơn thế nữa. Ngoài việc cung cấp tài liệu cho những câu hỏi chiến lược trên, Ba Minh còn "tiện tay" vớ luôn những tin tức mà ông nghĩ có lợi cho cách mạng. Ví như tin về 1 tay điệp viên đang trú ở cơ quan mình, chỗ tỉnh miền Tây. Đọc xong, ông liền gửi ngay ngoài ra để mình bắt gián điệp.

Chưa hết, trên đường về sau một lần nhận tin, bà Hai Kim thấy 1 đoàn xe rồng rắn hơn 70 chiếc, chở đầy lính tráng, kèm theo cả vợ con, giường chiếu không rõ đi đâu. Nghĩ là có việc chuyển quân lớn, trên yêu cầu chị hỏi lại Ba Minh. Giữa ngồn ngộn cả núi hồ sơ quân sự, H3 vẫn nhanh chóng truy ra câu trả lời rõ ràng.

Cách làm tình báo của anh “ít học”

Tài liệu chép xong, Ba Minh cho vào trong chiếc áo lính rộng thùng thình, nhét trước bụng, lững thững tay cầm cuốn sổ nghiên cứu đề, ra khỏi BTTM đi gặp T2. Cuộc hẹn khi thì ở quán nước, lúc lại dưới dạng 1 anh lính chạy xe kiếm thêm. H3 gặp T2 dưới mọi hình thức có thể, rất nhanh rồi chia tay.

Cũng có khi, việc giao tài liệu thông qua H4 lên trại gia binh thăm anh, đồng thời tiếp tế cho mấy đứa cháu. Rồi cậu em cũng kiêm luôn vai trò "xe ôm" cho H.4, mặc áo cảnh sát kiểng (cảnh sát áo trắng) chạy ào ào chở H4 đi giao tài liệu cho cách mạng. Tài liệu nhiều, thời gian gấp quá, nhiều hôm chồng H4 cũng được huy động luôn trong 1 vài chuyến lên thăm anh trai vội vã.

(http://images.vietnamnet.vn/dataimages/200705/original/images1303832_BaMinh6.jpg)
Ba Minh luôn nói rằng: Ông là người ít học. Việc của ông chỉ là "chép và chuyển" về tổ chức những tin tức được yêu cầu, hoặc những thông tin mà ông nghĩ rằng "có thể góp sức ít mà đánh được nhiều"... Ảnh: Hà Trường.

"Hồi đó anh Ba Minh chỉ lo viết và viết, còn tôi chỉ lo chuyển và chuyển mà thôi. Nội dung chính xác đến đâu, dù mình cũng có kiến thức để phân loại tin nào chuyển trước, tin nào chuyển sau, nhưng không đủ để thời gian để nghĩ nữa. Tài liệu của anh thì nhiều. Giấy pơluya như vậy, anh viết 4 mặt chứ không phải 2 mặt, chữ nhỏ, đến nỗi mà sau một thời gian viết lại, tôi phải mang kiếng luôn", bà Hai Kim nhớ về những ngày chuyển tin như con thoi giữa Sài Gòn và căn cứ.

Đến khoảng giữa năm 1974, chỉ để phục vụ mỗi việc chuyển tin của Ba Minh, lưới A3 đã phát triển tới hơn 10 liên lạc viên: trong thành phố, ở cửa ngõ và ngoài căn cứ... đặt dưới quyền chỉ huy của T2.

Sau khi nhận tài liệu, bà Hai Kim phải viết lại ngay để kịp chuyển đi. Ra ngoài, tài liệu sẽ được 1 người của ta đọc lại lần nữa. Dẫu vậy, tài liệu nhồi về nhiều đến nỗi, như Hai Kim thuật lại: "Mấy thằng nó la quá trời, vì quá nhiều thứ phải chuyển. Cứ thấy tài liệu của H3 thì tức là phải làm việc cả đêm. Có lần, không lấy được tài liệu, tụi nó mừng lắm, vì hôm nay được đỡ việc. Nhiều khi tôi phải mua thêm dầu để cho tụi nó làm, rồi phải dặn thêm những bà bán dầu rằng mình mua về cho dân quê đi nhà thờ, chứ nếu không, mua nhiều dầu quá thì sẽ lộ".

Về sau, Ba Minh lý giải lý do mình làm việc hăng say như vậy "vì tôi thấy mình tin đưa ra là có người biết dùng. Trước khi làm với chị Hai Kim, chừng giữa năm 73, có lần tôi báo tin qua 1 chỗ khác là tụi Sài Gòn rút hết lính biệt kích từ vùng 3, vùng 4 chiến thuật ra để tập trung phá đường Hồ Chí Minh, nhưng cũng chẳng ai quan tâm hỏi lại quân số, vị trí... gì cả. Nay thì...".

Ba Mi nh bỏ lửng câu nói vì đột nhiên ông chuyển nghĩ về một điều gì đó rất lung. Nhưng câu trả lời thì được T2 giải thích: "Sau này, Ba Minh cũng tâm sự rất nhiều về công việc, về gia đình. Ảnh nói rằng ảnh tiếc là “đã gặp chị muộn quá”. Còn tôi cũng tiếc là đã gặp anh chậm quá, chứ sớm hơn thì chắc...". Nói xong, bà Hai Kim, như không hẹn, cũng ngồi lặng yên nghĩ rất xa về một điều gì.

Sau này, khi tài liệu đã trở nên quá nhiều, bà Hai Kim đề nghị cấp cho ông 1 chiếc máy ảnh để chụp cho đỡ vất vả. Nhưng Ba Minh đã từ chối ngay, vì rất đơn giản: "Tui không được học. Lỡ chụp mà tụi đi tuần nó nghe tiếng lạch xạch, hay tự nhiên nó nhá đèn thì sao? Với lại một anh lính quèn cứ kè kè cái máy ảnh bên người là sao? Thôi để tui chép".

Rồi ông còn nói thêm, ông không hiểu tin tức, không hiểu nghiệp vụ, việc duy nhất làm được chỉ là "chép và chuyển" thì ông cứ làm thôi, còn sử dụng thế nào là việc của cấp trên.

Nói vậy, nhưng về sau, chính cái sự "ít học" khiến ông tiếc mãi: "Một ngày tôi nhận được 15-30 mật điện, nếu có máy hình chụp tý là được nhưng tôi không có trình độ. Vậy nên không chuyển đi được. Rồi hàng tháng tôi nhìn thấy bản tin của nó, nhưng cũng vì không có trình độ nên không thể lấy về cho mình dùng".

“Tôi không bán tin”


(http://images.vietnamnet.vn/dataimages/200705/original/images1303828_BaMinh15.jpg)
Nụ cười thanh thản của Đại tá, anh hùng tình báo Nguyễn Văn Minh khi đã hoàn thành nhiệm vụ đối với Tổ Quốc. Ảnh: Thế Vinh.

Nhưng anh chàng ít học, 1 vợ, 10 con, nghèo ốm thường xuyên đó lại có quan điểm nghề nghiệp rất rành mạch. Ông làm vì Tổ Quốc. Đất nước bảo sao ông làm vậy, bằng hết sức mình chứ không đòi gì hơn .

Chính người trưởng lưới A3 cũng đã nhoè nước mắt khi nhớ lại câu chuyện này: "Hồi đó lương thượng sĩ nhất không đủ nuôi vợ con, tôi đặt vấn đề để tổ chức mua cho anh cái xe máy. Trước đó, có lần đi ra Thủ Đức thôi mà anh phải đi xe lửa, vì vé nó rẻ nhất, rẻ hơn cả xe đò.

Mấy tháng sau, tôi đề nghị anh dùng xe DAM nữ mà đi, giá khoảng 200.000 đồng (tiền Sài Gòn cũ), nhưng ảnh không nhận. Ảnh bảo: lương tôi thấp quá, không thể đi xe 200.000. Anh tự mua xe 67, giá đâu hơn 100.000, tiền dư anh trả lại. Tôi chả biết gì, lúc anh đưa thì tôi cầm về trả tổ chức thôi. Sau, ông Ba Phấn biết chuyện mới la tôi dữ: “Trời ơi, sao cô cầm lại? Để nó cầm cho nó nuôi con chớ”. 

Mãi sau này, tôi đặt lại câu hỏi thì anh Ba Minh bảo: Tôi không có bán tin. Tôi chỉ làm cách mạng như các anh chị thôi".

Nghĩ về những ngày gian khó đó, ông Ba Minh cười: “Hồi anh trai tôi từ chiến khu về, có dạy tôi mấy bài hát. Tôi nhớ nhất bài hát "Mắng Ích Tắc" của ông Lưu Hữu Phước, có đoạn thế này:

...Anh nghe chăng, hỡi ai theo mùi phú quý quên non sông,

Hãy nghe đây lời tra huấn muôn năm

Sao nỡ đành đem người ngoại quốc ác tâm

Xâm chiếm quê hương nhà sát tàn nòi giống

Loài bán nước, loài buôn dân, loài phản quê hương...


Giọng run run, nhà tình báo anh hùng hơn 70 tuổi bỗng cất tiếng hát.

Việt Hà – Hà Trường - Thế Vinh


Tiêu đề: Re: Tình báo VN trong KCCM
Gửi bởi: Tunguska trong 10 Tháng Giêng, 2009, 01:26:01 pm
Kỳ 7: Người đặt cả gia đình lên bàn mổ


(VietNamNet) - Cả gia đình Ba Minh: Em gái, em trai, em rể, vợ đã cùng ông “vào trận”, để giúp H.3 hoàn thành nốt tâm nguyện mà người cha, trong những cuộc rượu buồn, vẫn ước mơ: Độc lập cho Tổ quốc… Và, anh em họ sát cánh bên nhau cũng vì lý do máu mủ: Để bảo vệ, che chở lẫn nhau.

Người đồng đội cùng chung dòng máu

Ngôi nhà nơi gia đình bà Nguyễn Thị Nguyệt, em gái của Ba Minh, đang sống hiện nay từng là nơi mấy anh em bàn bạc, cất giấu tài liệu, đã được xây lại. Nhưng có một điều đặc biệt, lúc bấy giờ, không ai trong gia đình biết mình đang làm... tình báo.   

... Nguyễn Thị Nguyệt bắt đầu hoạt động từ năm 1960 với sự giới thiệu, đưa vào tổ chức của ông Trần Văn Đạm. Khi mới tham gia, bà Nguyệt chỉ hoạt động binh vận, dân quân. Đến năm 1968, sau chiến dịch Mậu Thân, bà Nguyệt và Ba Minh phải tạm thời nằm yên. 

(http://images.vietnamnet.vn/dataimages/200705/original/images1303980_BaMinh14.jpg)
Hai anh em Nguyễn Văn Minh (H.3) và Nguyễn Thị Nguyệt. Bà Nguyệt là người mang bí số H.4 trong lưới điệp báo A.3 do T.2 chỉ huy, thuộc Cụm tình báo A33. Ảnh: Thế Vinh.

Những năm tháng hoạt động hiện dần trong trí nhớ của người phụ nữ nhỏ bé, tóc đã điểm những sợi bạc thời gian.... Trong thời gian tạm yên, ông Ba Minh nóng ruột nói với em gái là tin tức ngày càng nhiều. Không thể ngồi yên được, nhất là khi đã ngồi trên ’’kho vàng’’ tư liệu quý.

Hai anh em cứ tìm kiếm, tìm kiếm hoài, mong có một ngày bắt được người của tổ chức. 

Tính Ba Minh vốn cẩn thận từ nhỏ nên ông giao hết lại việc móc nối cho em gái. Hơn nữa, với bình phong là chủ xưởng dệt, bà Nguyệt có nhiều thuận lợi hơn. Không lâu sau, một người đàn ông về gặp bà Nguyệt. Mọi ám hiệu gặp mặt, trao đổi đã được người chị dâu Sáu Chi báo trước. Bà Nguyệt cầm tờ báo cuộn tròn trên tay đi ra ngã năm Thủ Đức để gặp đầu mối. 

Theo quy ước, tổng số tên 2 người cộng lại là 10. Ông kia hỏi: ’’Chị Tư đi đâu vậy? Lúc này làm ăn được không?’’. Bà Nguyệt: "Cám ơn chú Sáu, tôi làm ăn được, chú có khoẻ không?’’. Hai cái tên cộng lại rất khớp. Đã nhận ra người cần tìm. Họ vào quán cà phê trao đổi. Lần đầu tiên, chỉ nói chuyện và trao đổi qua loa. Sau đó, cứ quy định gặp nhau, bà Nguyệt lấy tin từ Ba Minh, chuyển cho ’’ông Sáu’’.

Cứ thế, bà Nguyễn Thị Nguyệt vừa làm nghề dệt kiếm tiền nuôi gia đình, vừa vận chuyển tài liệu cho anh Ba Minh. 

’’Ban đầu tôi cũng sợ lắm chứ, đâu có dám đưa bằng giấy tờ, chỉ học thuộc và truyền tin lại cho ’’ông Sáu’’. Làm một thời gian, anh Ba tôi thấy tin tưởng được nên mới chép. Ghi cái gì tôi cũng không biết nữa.’. 

(http://images.vietnamnet.vn/dataimages/200705/original/images1304000_BaMinh9.jpg)
Điệp viên H.3, Đại tá, anh hùng tình báo Nguyễn Văn Minh, người mà đến năm 2006 CIA vẫn thắc mắc tìm hiểu về "điệp viên trong hàng ngũ thân cận của Tổng thống Thiệu", chỉ là một viên thượng sỹ nhất "quèn" trong BTTM chế độ Sài Gòn. Ba Minh  nói rằng: Ông chỉ được đào tạo nghiệp vụ tình báo qua... xem phim và đọc truyện. Ảnh: Hà Trường.

Đến bây giờ, khi đã vài chục năm trôi qua, cái cảm giác những ngày đầu đi đưa tin cho anh mình thỉnh thoảng vẫn hổi hổi nóng trở lại trong tâm trí bà khi những ngày 30/4 hàng năm đến. Bao nhiêu nguy hiểm rình rập, nhưng bà vẫn cứ lao vào, chỉ đơn giản một điều: Có lợi cho cách mạng thì làm, giúp được cho anh mình thì giúp!

Đến năm 1973, khi bà sắp sinh con thì ’’ông Sáu’’ bảo nên tạm nghỉ mấy tháng, sau đó ông ấy sẽ bắt liên lạc lại. Nhưng sau đó, tin lại nhiều quá, mặc dù đang mang thai nhưng bà đứng ngồi không yên. Bà lại nói với bà Sáu Chi để nói lại với ông Vũ Đình Liệu để cử người bắt liên lạc. 

Mãi sau này, bà Nguyễn Thị Nguyệt mới nhận thức được sự nguy hiểm trong công việc anh trai mình đang làm. ’’Anh tôi bây giờ như ’’cá nằm trên thớt’’, chỉ cần lộ một nguồn tin nhỏ thì coi như anh em tụi tôi chết luôn.Cả gia đình chết luôn...’’.

Lo cho cách mạng, cũng là lo cho sự an nguy của anh mình, của gia đình mình, bà Nguyệt yêu cầu bà Sáu Chi nói tổ chức đưa người nào có trình độ về “để khi lỡ có bị bắt, người ta có thể chịu đựng không khai”. Sau đó, tổ chức cử người về liên lạc vào cuối năm 1973. Đó là bà Hai Kim (Nguyễn Thị Xuân). 

Thông thường, bà Hai Kim đến tận nhà Nguyễn Thị Nguyệt lấy tin. Ban đầu, lịch chuyển tin thưa, sau đó dồn dập hơn, một tuần 2 lần. Nguyễn Thị Nguyệt cũng quy ước với Hai Kim về tín hiệu an toàn và nguy hiểm khi giao dịch. Nếu thấy cửa sổ nhà bà Nguyệt cột một sợi dây trắng thì không được vào vì trong nhà có động. 

Ngày ấy, bà Nguyệt thường xuyên vào Khu gia binh trong Bộ Tổng tham mưu Sài Gòn để lấy tin từ Ba Minh. Vỏ bọc là em gái vào tiếp tế thực phẩm, tiền nong cho gia đình anh trai mình. Nhưng đó cũng là nhu cầu tiếp tế thực sự cho cuộc sống gia đình anh trai. Nguyệt vào khu gia binh nhiều đến nỗi lính gác cũng quen mặt. 

"Thực phẩm vào, tin tức ra"

Đến tận bây giờ, khi nghĩ lại, bà Nguyễn Thị Nguyệt vẫn không thể hiểu được tại sao hồi đó mình làm việc được như vậy. Hơn 30 tuổi, vóc dáng nhỏ bé, chỉ nặng gần 40 ký, nhưng gánh nặng nuôi gia đình mình và cả gia đình anh trai còn nặng hơn.

Hai vợ chồng Nguyễn Thị Nguyệt ngày đêm lăn lộn trong xưởng dệt. Ngày nào cũng quần quật 17-18 tiếng đồng hồ. 8 máy dệt cộng với biết bao mồ hôi của 2 vợ chồng là ’’hậu phương’’ vững chắc cho Ba Minh yên tâm làm việc. 

Cứ khi nào cần lấy tin, Nguyệt lại mang tiền, mắm muối, gạo, thịt, cá vào khu gia binh cho gia đình anh trai. Một đàn con, vợ không làm ra tiền, với đồng lương thượng sĩ nhất của mình, cuộc sống của Ba Minh đầy chật vật. ’’Gia đình có vững thì mới yên tâm công tác được’’ - Khi ấy, Nguyệt suy nghĩ rất đời thường.

’’Anh Ba Minh ngày đó yếu lắm. Ngoài việc chu cấp cho gia đình anh ấy, tiền mỗi lần đưa anh ấy đi khám bác sĩ, tiền thuốc tôi cũng trả. Hồi ấy đi bác sĩ đắt lắm, người dân thường chỉ mua thuốc về uống, chứ mấy ai dám đi khám. Tôi rất lo cho anh Ba Minh về sức khoẻ nên tôi đến nhà đưa anh ấy đi khám bằng được. Tiền lương của anh ấy không đủ cho anh ấy đi bác sĩ, con đi học. Tôi cáng đáng hết...’’.

Ngoài truyền thống cách mạng của gia đình, Nguyệt và Ba Minh lôi kéo anh, em, vợ, chồng của mình vào cuộc đều đơn giản một suy nghĩ: ’’Anh em ruột nên mới tin nhau, không thể hại nhau được, người ngoài thì đâu dám nhờ như vậy...’’.

Những người em của H.3 đều nói, nếu không như vậy, họ sẽ không làm vì nguy hiểm cho anh mình. Công việc khiến tính mạng Ba Minh như cá nằm trên thớt. Mọi người trong gia đình thường xuyên bàn bạc để có cách hoạt động an toàn nhất. Nguyễn Thị Nguyệt nói, tính tình Ba Minh cẩn thận, dứt khoát không gặp ai khác, chủ yếu là mấy anh em trong nhà. 

(http://images.vietnamnet.vn/dataimages/200705/original/images1303994_BaMinh19.jpg)
Ba Minh và người em trai Nguyễn Văn Chí. Những ngày H.3 còn hoạt động, ông Chí trong bộ đồ cảnh sát "kiểng" là người chạy xe ào ào ngoài đường chuyển tài liệu giúp anh. Ảnh: Hà Trường.

Vỏ bọc của Nguyễn Văn Chí lúc đó khá tốt. Ông đang đi lính cảnh sát cho chế độ Sài Gòn cũ. Hồi ông còn khoác áo ’’bên kia chiến tuyến’’, người em của ông là Nguyễn Văn Dũng hoạt động ở Thủ Đức bị bắt và đày ra Côn Đảo. 

Khi gia đình nhận được thư của ông Dũng gửi về, bọn chính quyền địa phương và cảnh sát biết nên hay rình mò. Cả gia đình bàn với nhau, muốn hoạt động an toàn, bảo vệ tốt cho Ba Minh thì phải có một người đi lính kiểng (lính không phải ra chiến trường), thời đó gọi là cảnh sát áo trắng chỉ đi gác công lộ, gác chợ. 

Gia đình nghĩ cách chạy tiền để cho ông Chí đi lính kiểng. Riêng việc này, Ba Minh đã báo cáo với tổ chức và được đồng ý vì Chí làm cảnh sát áo trắng, không có hại gì nên cho phép Ba Minh sử dụng làm người liên lạc. Nguyễn Văn Chí có xe máy, lại mặc đồ cảnh sát chính quyền Sài Gòn nên rất thuận lợi cho việc chuyển tin. 

Cứ theo quy ước, đến ngày chuyển tin, Nguyễn Thị Nguyệt vào tận nhà Ba Minh ở Khu gia binh (Bộ Tổng tham mưu) lấy tin. Bà Nguyệt khi đó vốn không biết đi xe gắn máy nên chồng hoặc anh trai thường xuyên chở đi. Với vỏ bọc ’’trách nhiệm gia đình’’, tiếp tế cho ’’ông anh’’ làm hạ sĩ quan nghèo khó, chồng bà Nguyệt và ông Chí thay nhau chở Nguyễn Thị Nguyệt vào khu gia binh đưa thực phẩm và lấy tài liệu. 

"Lưới gia đình"

(http://images.vietnamnet.vn/dataimages/200705/original/images1303986_BaMinh22.jpg)
Vợ của Ba Minh, bà Đinh Thị Nữ đã cùng chồng "lâm trận", là người cảnh giới cho H.3 ngồi chép tại liệu tại nhà ở ngay trong trại gia binh Bộ tổng tham mưu chế độ cũ. Ảnh: Thế Vinh.

Nhiều hôm, Nguyễn Thị Nguyệt đau ốm hoặc bận việc buôn bán, gia đình không thể vào lấy tin, đích thân ông Nguyễn Văn Chí mang đồ tiếp tế vào và lấy tin ra, chuyển cho Nguyệt để chờ Hai Kim mang ra cứ. Khi cả 3 ’’liên lạc’’ của Ba Minh đều bận, người chuyển tin là vợ ông, bà Đinh Thị Nữ với vỏ bọc về thăm anh em nhà chồng. 

Bà Đinh Thị Nữ vốn chỉ biết... đẻ cho chồng những đứa con và nội trợ, không hiểu được công việc của chồng. Một lần chuyển tin, hai lần chuyển tin bà không nghi ngờ gì. Nhưng đến lần thứ ba, thứ tư thì bà hiểu được công việc nguy hiểm mà chồng và các em chồng mình đang làm. 

Bà vẫn hoàn thành việc chồng giao đơn giản với trách nhiệm của người vợ. Rồi sau đó, đêm đêm, trong căn hộ tập thể chật chội ở khu gia binh, bà Nữ cần mẫn ngồi canh cửa, canh tiếng động cho chồng chép tài liệu. 

Ba Minh đã sử dụng ’’lưới gia đình’’ khép kín để đảm bảo an toàn cho vai trò một điệp viên, cho lưới tình báo của mình đến tận ngày 30/4/1975.

Những ’’liên lạc’’ trong gia đình Ba Minh không ai biết nội dung thông tin mình đang vận chuyển quan trọng như thế nào đối với cách mạng. Chỉ biết làm, có lợi cho cách mạng là làm. Cả ’’anh lính Sài Gòn’’ Nguyễn Văn Chí, vợ chồng Nguyễn Thị Nguyệt và vợ Ba Minh đều ngấm ngầm hiểu được, chỉ cần sơ sẩy, cả gia đình sẽ tiêu tan... 

’’Anh tôi, chồng tôi chở tôi đi lấy tin từ anh Ba Minh, nhưng tôi luôn là người giữ tài liệu. Vì nếu có bị bắt, tôi sẽ đứng ra chịu hết, không ai bị dính líu...’’ - Trong con người Nguyễn Thị Nguyệt còn có thêm một phẩm chất anh hùng, anh hùng ngay cả với những người ruột thịt của mình...

"Đặt cả gia đình bàn mổ!"

Ngày 30/4/1975, một ngày không thể quên đối với những người trong gia đình Ba Minh. Khi đó, Ba Minh đang tiếp tục làm nhiệm vụ bảo quản tài liệu, hồ sơ trong Bộ tổng tham mưu còn Nguyễn Thị Nguyệt đang ở tại nhà. Bà Nguyệt cùng ông Trần Văn Đạm nghe thông tin chiến thắng qua radio. Khi quân giải phóng cắm cờ trên nóc Dinh Độc Lập, chế độ Sài Gòn sụp đổ, bà mừng đễn nỗi... nhảy tưng tưng như trẻ con.   

(http://images.vietnamnet.vn/dataimages/200705/original/images1303996_BaMinh8.jpg)
Ba anh em: Nguyễn Văn Minh (H.3), Nguyễn Văn Chí, Nguyễn Thị Nguyệt (H.4) đã thực hiện xuất sắc tâm nguyện của người cha về một đất nước hoàn toàn độc lập. Ảnh: Thế Vinh.

Hết chiến tranh, người đồng đội, người anh thân thương của Nguyệt sẽ trở về. Cô đã mua sẵn một cái nhà dành cho gia đình anh mình. Thương anh, chu cấp cho gia đình anh trong chiến tranh chưa đủ, bản tính lo xa của người buôn bán thôi thúc cô dành dụm mãi được 610 ngàn đồng mua nhà cho anh. Nguyệt bảo, đơn giản một điều, cô không bao giờ nghĩ hoà bình lập lại, anh cô sẽ chờ hưởng ’’đền bù’’ của đất nước. Cô hiểu hơn ai hết tính cách khí khái của anh mình.

Giờ đây, H.3 đã 73 tuổi, sức nặng của bệnh tật đeo bám cả cuộc đời khiến ông không còn nhanh nhẹn, tinh tường. Chỉ có nụ cười luôn thân thiện với hàm răng đã rụng khá nhiều. Đôi bàn tay gầy guộc, nhăn nheo run run lật lại những hồi ức của quá khứ .

’’Làm công việc này là đặt gia đình lên bàn mổ!’’ - một đồng đội của ông đã nói hộ những tâm sự thời ấy của vị Đại tá tình báo như vậy. Gia đình ông bị chính ông ’’đặt lên bàn mổ’’ như thế nào?

Để tạo vỏ bọc tốt, Ba Minh đã chuyển cả gia đình vào sống trong khu gia binh Bộ tổng tham mưu. Gần 10 con người sống trong căn nhà bé nhỏ. Đồng lương thượng sĩ nhất 3.000 đồng không nuôi nổi gia đình. Ông lôi các thành viên trong gia đình vào cuộc với mình. 

Và giữa Sài Gòn hoa lệ nhưng đầy hiểm nguy, không phải lúc nào những ’’mạng lưới gia đình’’ của H.3 cũng trong tình cảnh an toàn.

Từ bé sinh ra đã còi cọc và lao động nặng nhọc, đến lúc làm trong Bộ tổng tham mưu chế độ Sài Gòn, phải thức đêm để chép tài liệu, sức khoẻ Ba Minh ngày càng yếu đi. Ba Minh đau ốm suốt ngày. Đi khám, bác sĩ cũng không tìm ra bệnh, mặc dù ông biết mình bị chủ yếu ở bộ phận tiêu hoá.

Bác sĩ chữa đủ mọi cách vẫn không được mới khuyên ông mỗi bữa cơm nên uống một ly nhỏ rượu Tây để làm ấm đường tiêu hoá, đỡ đau bụng. Từ đó, ông mới đỡ hơn. Nhưng ông không để ý gì đến sức khoẻ mình.

(http://images.vietnamnet.vn/dataimages/200705/original/images1304008_BaMinh17.jpg)
Ông đã cùng gia đình, đồng đội đi qua 1 quãng đường dài nhiều hiểm nguy luôn rình rập, nhưng rất vinh quang. "Làm công việc này là đã đặt cả gia đình lên bàn mổ!" - một đồng đội của ông đã nói hộ những tâm sự thời ấy của vị Đại tá, Anh hùng tình báo Nguyễn Văn Minh như vậy. Ảnh: Hà Trường.

Ông đã cùng gia đình đi qua 1 quãng đường dài nhiều hiểm nguy luôn rình rập. Cả gia đình đều biết đang làm việc cực kỳ nguy hiểm. H.4 còn nhớ, vào thời điểm ’’lưới gia đình’’ đang hoạt động hiệu quả nhất, có một người láng giềng tự nhiên nói với H.4: ’’Tôi thấy có cảnh sát đến hỏi tôi biết nhà cô Nguyệt ở đâu không? Không biết họ có tìm vào nhà cô không?’’. Mặc dù vốn cẩn thận, nhưng từ đó cả gia đình H4 đã đề phòng, cảnh giác hơn. ’’Nhưng vẫn lo, vì ở đời đâu biết được chuyện gì sẽ xảy ra với mình. Khi đó, chúng tôi cũng suy nghĩ nhiều...’’ - H4 nhớ.

… Đến bây giờ, đã mấy chục năm không còn tiếng súng chiến tranh, bà Nguyễn Thị Nguyệt vẫn không thể quên những giấc mơ ngày xưa. Hồi đó, đêm đêm bà nằm mơ thấy bà và Ba Minh bị bắt, rồi nắm tay nhau lẩn trốn.

Những người đồng đội một thời của H4 đều có chung một nhận xét, Ba Minh là người giản dị, cẩn thận và khí khái. Ông làm tất cả cho cách mạng, nhận rất nhiều hiểm nguy nhưng không muốn nhận về bất cứ thứ vật chất nào.

’’Tôi đi làm vậy tức là đặt vợ con lên bàn mổ!’’ - Đó là lời của một đồng đội dẫn lại lời về Ba Minh. Bây giờ ông không thể nhớ mình đã nói câu này khi nào, ở đâu, với ai. Nhưng những câu chuyện của ông, của gia đình ông đã minh chứng điều đó.

Trước câu hỏi: ’’Vì sao cả gia đình lại chấp nhận làm một việc khó khăn và nguy hiểm như vậy?’’, những giao liên thầm lặng cho H3 thổ lộ như một lẽ tự nhiên: ’’Ba tôi là người mang tư tưởng cách mạng, thường xuyên nói chuyện với con cái về chuyện này. Gia đình tôi lúc nào cũng nghĩ phải làm gì cho đất nước. Làm việc vì một mục đích cao nhất là đánh đuổi Mỹ, để đất nước hoà bình...!’’.

Thế Vinh - Việt Hà - Hà Trường


Tiêu đề: Re: Tình báo VN trong KCCM
Gửi bởi: Tunguska trong 10 Tháng Giêng, 2009, 01:31:07 pm
Kỳ cuối: Điều tiếc nuối của thủ trưởng Hai Kim


(VietNamNet) - Như rất, rất nhiều phụ nữ Việt Nam tham gia cách mạng trong chiến tranh, người vợ, người mẹ  trẻ Nguyễn Thị Xuân ’’gói’’ hạnh phúc riêng tư lại. Chiến tranh là chia ly, thậm chí là mất mát, mà cuộc đời đại uý tình báo Hai Kim chỉ là một trong nhiều ví dụ.

“Tôi giờ đã quên nhiều rồi, muốn hỏi gì thì phải tìm chị Hai Kim”. Lúc nào ông Ba Minh cũng nói về người đồng đội đặc biệt của mình như vậy. Đến ngay cả bây giờ, ông vẫn luôn một điều “chị”, hai điều “chị” khi nhớ về người phụ nữ thông minh ngay từ lần đầu gặp gỡ. Và niềm kính trọng của ông còn nhân lên gấp bội khi đến mãi sau khi hoà bình, ông mới hay: Chị là thủ trưởng!

Những bước chân trở về

(http://images.vietnamnet.vn/dataimages/200705/original/images1305836_IMG_8989.jpg)
Cô sinh viên Nguyễn Thị Xuân những năm tháng còn học ĐH Sư phạm tại miền Bắc. Ảnh: Tư liệu gia đình.

... Năm 1966, Nguyễn Thị Xuân đang là cô sinh viên ĐHSP ngành Hoá lý. Khi đó, các trường ĐH đang tuyển chọn người đi B. Xuân nghĩ, trình độ thì mình đạt được, nhưng sức khoẻ thì kém vì cô chỉ nặng có 38,5kg, 42kg mới đủ tiêu chuẩn. Rất nhiều lần làm đơn xin đi B không được. Trong khi đó, chị lại là người Nam, tập kết ra Bắc. Tháng 8/1966, học xong chị được giữ lại trường. 

Tháng 3/1967, Phòng tình báo Miền có nhu cầu tìm người hoạt động tại chiến trường miền Nam. Một cán bộ của phòng về trường Hai Kim tuyển người. Hôm ấy, trưởng phòng của Hai Kim đi vắng, chị phải tiếp khách thay. Cách nói chuyện, tác phong cùng với thông tin 6 lần chị xin đi B không được đã gây bất ngờ cho cán bộ nọ. Chị ’’thuyết phục’’ người này một cách tự nhiên, không mảy may suy nghĩ mình sẽ được lựa chọn. 

Cuối cùng, Nguyễn Thị Xuân đã được toại nguyện. Sau 1 thời gian đào tạo về nghề nghiệp, ngày 1/4/1967, Nguyễn Thị Xuân lên đường về Nam, với bí danh Hai Kim.

Vượt vỹ tuyến 17 tại Quảng Trị, theo con đường hợp pháp, Hai Kim tới Huế. Trong vai đi tìm người thân đi lính tại Huế nhưng không gặp, Hai Kim ra Phú Bài mua vé máy bay vào Sài Gòn.

Tuy nhiên, khi đặt chân tới mảnh đất này, Hai Kim bị mất liên lạc, dù đã tới địa điểm hẹn chính lẫn địa điểm dự phòng đúng hẹn.

Vậy là suốt thời gian sau đó, chị phải tự mình tìm cách tồn tại giữa Sài Gòn đầy rẫy mật vụ, an ninh giăng lưới nhện dày đặc. Hai Kim phải đi ở đợ cho 1 gia đình người Hoa để lấy tiền trang trải cuộc sống, chờ cơ hội bắt liên lạc với tổ chức. 

Rối cơ hội cũng tới, sau 1 thời gian người có thể liên lạc với căn cứ thử thách, chị được “móc” về R (căn cứ), sau đó nhận nhiệm vụ xuống bổ sung cho Cụm A33 ở miền Tây.

Sau đó, ông Ba Phấn (Nguyễn Văn Phấn, Cụm trưởng Cụm tình báo A33, ở Cần Thơ) yêu cầu bà đi móc nối với anh Nguyễn Văn Minh (Ba Minh), em rể của chị Sáu Chi, là y sĩ của quân khu 9. 

Hai Kim đến với anh em nhà Ba Minh vào năm cuối 1973, xây dựng lên lưới điệp báo A3 đã nói ở trên. Chỉ trong 1 năm hoạt động, với những thành tích xuất sắc, cả H3 và T2 đều được cấp trên xét tặng Huân chương chiến công hạng 3. 

(http://images.vietnamnet.vn/dataimages/200705/original/images1305844_HaiKim3.jpg)
Thủ trưởng Hai Kim và Ba Minh trong buổi gặp mặt truyền thống hằng năm của Đoàn 22 (tình báo miền Nam) gần đây nhất: Ngày 28/4/2007. Ảnh: Thế Vinh.

Tháng 4/2007, bà Hai Kim lại có thời gian ngồi kể lại những phút giây hiểm nguy đã qua trong khi quãng đời hoạt động của mình. Những năm , dù được tổ chức cấp tiền nhưng bà vẫn tiết kiệm tiền nhà nước, di chuyển bằng xe buýt cho… rẻ. Suốt thời gian chuyển tài liệu, bà thường xuyên đi xe buýt. 

“Lúc từ cứ đi vào thành thì nó không xét, lúc mang tài liệu từ thành vô cứ thì nó hay xét. Những chỉ thị cấp trên giao cho lưới, chỉ nhớ trong đầu chứ không ghi ra giấy”, bà nhớ lại. 

Mỗi lần vận chuyển tài liệu, bà thường mang tới 4-5 tờ giấy pơluya. Mang tài liệu trong người, “nhiều lúc cũng  run”. Trên đường ra khỏi nội thành có nhiều trạm kiểm soát, Hai Kim luôn cố gắng tránh những trạm xét gắt gao và bằng mọi cách vượt qua.

Chỉ có 2 lần, Hai Kim bị giữ với cùng 1 tội. Năm 1968, bà bị bắt ở gần sông Sài Gòn vì cư trú bất hợp pháp. Cảnh sát bắt bà đưa vào khám (trại giam), phạt 200 đồng. “Lần đầu vi phạm, nó trả lại căn cước”, bà cười. 

Lần sau, cũng bởi tội “cư trú bất hợp pháp”, bà bị thu giữ giấy tờ, phải về tận miền Tây xin lại. Đóng 200 đồng tiền phạt, bà khai mù chữ, chỉ biết điểm chỉ vào giấy nhận. 

Khi nghe bà kể lại chuyện này, Cụm trưởng Ba Phấn phải phì cười: “Nhìn cái mặt cô bảo không biết chữ, ai tin cho nổi ”. Vậy là rốt cuộc, trong quãng thời gian hoạt động, mà mất 400 đồng tiền “phí” lót tay.

Những ngày tháng 4 này, bà lại ngồi nhớ về kỷ niệm ngày 30/4/75. Đúng thời khắc lịch sử đó, bà mở cả đài Sài Gòn, đài Hà Nội để nghe thông tin. 

Trên đài Sài Gòn, tướng Ngô Quang Trưởng kêu gọi tử thủ, khẳng định đã có mặt trận tiền phương ở Phan Rang, Phan Thiết, kêu gọi bảo vệ thủ đô Sài Gòn, kêu gọi hoà hợp dân tộc. Cũng trên đài Sài Gòn, sáng 30/4, tướng Nguyễn Hữu Hạnh thay tướng Cao Văn Viên, kêu gọi binh lính “sẵn sàng chờ lệnh Tổng thống”. 

Còn đài Hà Nội đưa tin, quân giải phóng tiến tới đầu Sài Gòn, sắp giải phóng! 

Khi đó, bà ngồi trong nhà cơ sở ngay nội ô, chờ đến chiều 30/4, chạy đi tìm Ba Minh ở khu gia binh. Trước đó, hai người đã căn dặn cách để bảo vệ nhau...

Một mình, ngồi bên nào cũng lệch…

Cả cuộc đời cách mạng, bà chứng kiến nhiều nỗi đau, mất mát. Bà kể lại, ngay cả thời còn hoạt động, vợ chồng cách nhau không xa nhưng sống bên nhau chẳng được bao nhiêu. Vì nhiệm vụ, vì yêu cầu của tổ chức, vì bí mật của nghề tình báo. 

Như rất, rất nhiều phụ nữ Việt Nam tham gia cách mạng trong chiến tranh, người vợ, người mẹ  trẻ Nguyễn Thị Xuân ’’gói’’ hạnh phúc riêng tư lại. Bí số T2 dành tất cả nhiệt huyết cho nhiệm vụ tổ trưởng tình báo trong lưới A3, trực tiếp chỉ huy H3.

Chiến tranh là chia ly, thậm chí là mất mát, mà cuộc đời đại uý tình báo Hai Kim chỉ là một trong nhiều ví dụ.   

(http://images.vietnamnet.vn/dataimages/200705/original/images1305854_HaiKim1.jpg)
Giờ đây, một mình ở trong căn nhà tuy nhỏ, nhưng lúc nào cũng trở nên quá rộng đối với bà. Hằng ngày, một mình một mâm cơm, bà ngồi bên nào cũng lệch. Ảnh: Hà Trường.

Với cuộc đời Hai Kim, hạnh phúc riêng tư như làn gió thoảng, chỉ ghé qua cuộc đời bà một thời gian ngắn rồi vội vã ra đi. Cả cuộc đời hoạt động qua nhiều lĩnh vực khác nhau với nhiều thành công, nhưng số phận riêng đã không mỉm cười với bà. 

Tháng 4/ 2007, trong một ngôi nhà bé tẹo nép mình sâu trong ngõ nhỏ giữa TP.HCM ồn ã, bà Hai Kim đang sống cùng người cháu, nên lúc nào bà cũng thấy căn nhà rộng thênh thang. Trên bàn thờ, ngoài ảnh Bác Hồ, ảnh cha mẹ, còn có một tấm ảnh chồng bà: ông Trang Văn Tỏ. Ông đã bỏ bà đi đã mấy chục năm rồi. 

Thời chiến, số bữa cơm ăn hai vợ chồng ăn với nhau chỉ đếm trên đầu ngón tay. Thời bình, một mình một mâm cơm, bà ngồi bên nào cũng lệch… 

... Năm 1951, trong một lần đi công tác, hai ông bà gặp nhau rồi quen nhau trong chiến khu. Họ có cảm tình rồi được tổ chức hỏi cưới giữa rừng. Bà nhớ hồi đó, ông thương bà, có viết thư mà không dám gởi. Sau được đơn vị gợi ý, giúp đỡ, đặt vấn đề cho 2 người, thì Tỏ mới dám đưa thư cho Xuân coi. 

Bà cười nhẹ nhàng: ’’Hồi đó hổng dám nói yêu anh, yêu em gì, mà chỉ nói đại khái đi công tác thấy quen, thấy nhớ, viết thơ thăm hỏi. Hẹn nhau khi nào chuyển qua công tác thì đến các xã chơi...’’. 

Đám cưới được tổ chức trên rừng, có cắt giấy làm hoa, uống nước suối, ăn bánh kẹo. Ngày cưới không có áo cô dâu, chỉ có bộ bà ba đen đưa Xuân... ’’về nhà chồng’’. Đó là quãng thời gian hạnh phúc nhất cuộc đời bà.

Đến tháng 7/1952, khi Xuân đang mang thai thì chồng bị bắt tại huyện Cần Giờ. Tháng 10/1952, Xuân sinh con. Đến tháng 7/1954, tất cả quân dân chánh từ cấp huyện trở lên đều phải đi tập kết ra Bắc. Vợ chồng chia ly. 

’’Mấy ai ngoái nhìn đếm bước chân mình đã qua...’’

Mặc dù, một trong những nguyện vọng để trở về Nam của Xuân là có thể được gặp lại gia đình sau 13 năm xa cách, mong được ôm con vào lòng, kể cho chồng nghe những câu chuyện xảy ra trong khoảng thời gian chia xa đằng đẵng, nhưng Xuân vẫn phải nén lòng lại vì yêu cầu nhiệm vụ: Không được bắt liên lạc với gia đình.

(http://images.vietnamnet.vn/dataimages/200705/original/images1305860_HaiKim2.jpg)
Hình ảnh này được ghi lại trong ngày 28/4/2007, khi Đoàn 22 tổ chức buổi gặp mặt truyền thống. Ẩn sau nụ cười này, là quá nhiều mất mát đối với cuộc đời 1 người phụ nữ. Nhưng người chỉ huy lưới điệp báo A.3 luôn nhắc rằng: "Có mấy ai đi suốt một ngày đường, cuối ngày lại ngoảnh nhìn phía sau, đếm coi mình đã đi được mấy bước chân?. Hạnh phúc của mình là nhìn tới tương lai". Nay, bà nói rằng bà luôn sống thanh thản, vì đã hoàn thành nhiệm vụ tổ chức giao, hoàn thành nghĩa vụ đối với Tổ quốc.  Ảnh: Thế Vinh.

Về Nam năm 1967, trong khoảng thời gian chờ đợi bắt liên lạc với tổ chức, Hai Kim thuê nhà ở Sài Gòn, chỉ cách nơi ở của gia đình có… 15km, nhưng không thể ghé thăm.

Rồi nhiệm vụ cuốn Hai Kim đi, mải miết. Giải phóng rồi, người phụ nữ này về tìm lại gia đình, mong thấy chồng, gặp con. Tưởng đâu sẽ lại có những tháng ngày hạnh phúc. Nhưng tới lúc đó, bà mới hay, núm ruột của mẹ Xuân đã mất khi vừa được 8 tuổi. Chồng chị cũng đã hy sinh năm 1966. Từ đó đến nay, Hai Kim ở vậy, 1 mình…

“Bây giờ hạnh phúc riêng thì mình không có. Nói về gia đình thì cô thiệt thòi, nhưng cái cao quý nhất là mình được độc lập tự do. Có mấy ai đi suốt 1 ngày đường, cuối ngày lại ngoảnh nhìn phía sau, đếm coi mình đã đi mấy bước chân? Hạnh phúc của mình là nhìn tới tương lai. Giờ cô tuy không có con, nhưng có đứa cháu chăm sóc. Hơn nữa, dòng họ bên chú rất quý cô...’’ - Bà đã tràn nước mắt khi nhắc tới hai từ ’’hạnh phúc’’.

Hai Kim chỉ tiếc rằng, có những điều trước khi vượt vỹ tuyến về Nam muốn nói với chồng nhưng bà đã không có cơ hội nói được... Mẹ Xuân cũng chỉ mong lại được ôm đứa con sinh ra ở chiến khu trong vòng tay mình, ngay Xuân đi chỉ mới gần 2 tuổi, nhưng cũng không kịp nữa. Bà chỉ tiếc vậy thôi. 

Không ngồi lại với nỗi buồn và tiếc nuối, nay bà Hai Kim tìm sống bằng niềm vui của tuổi già: ’’Với trách nhiệm của một công dân, một cán bộ, bây giờ mình đã làm tròn trách nhiệm rồi. Tôi cũng vui vì mình đã đem công sức của mình vào việc làm từ thiện Về quê chồng, thấy quê mình nghèo nên giúp đỡ được cho gia đình, đó là nguồn vui lớn rồi...!’’.

Cuộc sống của bà Hai Kim sau giải phóng cứ lặng lẽ trôi. Hoà bình, bà chuyển qua Ban Tổ chức Thành uỷ TP.HCM làm việc. Về hưu, bà được cấp một ngôi nhà bây giờ đang dùng cho thuê. Bà bộc bạch “lương hưu 2,1 triệu, được trợ cấp đặc biệt cho gia đình liệt sĩ không con 600 ngàn, thành 2,7 triệu, cộng thêm 4 triệu tiền cho thuê nhà nữa, cũng đủ sống”. 

’’Năm nay tôi bằng tuổi bà mẹ đã chết, làm xong mà chết thì không còn điều gì ân hận! Mấy thằng em chồng bảo rằng chị phải sống đến trăm tuổi thì chị mới chết. Nếu chị sống quá trăm tuổi mà không chết thì tụi em lấy cái cây đập cho chị chết...!’’ - Bà Hai Kim cười vang căn phòng nhỏ.

Khi tiễn khách ra đầu ngõ, bà vẫn níu tay: “À, tôi còn một niềm vui nữa chưa kịp nói. Đó là lâu lâu ra đường, có người nói: ’’Bà ơi, cháu thấy bà lên ti vi’’. 

Đó là lần bà được chọn làm một trong những nhân vật cho phim tài liệu, quay ở chợ Bến Thành.

Người mang bí số T.2 cười thanh thản, trở về ngôi nhà lặng lẽ trong con ngõ nhỏ, giữa Sài Gòn ồn ã, khi ngày 30 tháng Tư lần thứ 32 đang tới, rất gần...

Vỹ thanh

Có rất nhiều câu hỏi đặt ra: Tình báo Việt Nam, họ là ai? Bằng cách nào để họ chiến thắng được 1 cỗ máy chiến tranh khổng lồ như Hoa Kỳ, khi đối diện trực tiếp với bộ máy tình báo tinh vi, truyền thống lâu đời như CIA.

Câu trả lời, có lẽ nên bắt đầu từ những người như Hai Kim, Ba Minh và những người trong gia đình H.3 đã tham gia lưới điệp báo A3 vậy.

(http://images.vietnamnet.vn/dataimages/200705/original/images1305826_IMG_8990.jpg)
Lưới điệp báo A3 trong một lần gặp mặt. Từ trái sang: Ba Minh (H.3), Nguyễn Văn Chí, Nguyễn Thị Nguyệt (H.4), Hai Kim (T2). Ảnh: Tư liệu gia đình.

Mấu chốt đầu tiên của mọi cuộc truy lùng những người trung kiên hoạt động trong lòng đối phương mà tất cả mọi thế lực, đứng trên góc nhìn của hệ tư tưởng lẫn quyền lợi đều đặt ra: Họ có phải là Đảng viên Đảng cộng sản hay không? Câu trả lời chỉ có 1: Họ là Đảng viên, nhưng đứng vào hàng ngũ từ thời gian nào? Sớm hay muộn, đó không phải là thước đo của lòng người cộng sản. Thước đo tấm lòng những người trung kiên, là họ xuất phát từ đâu? Tại sao họ dám chấp nhận hy sinh như vậy?

Câu trả lời duy nhất đúng: Họ trước hết là những người yêu nước, không chấp nhận thân phận nô lệ. Đó là truyền thống ngàn đời của dân tộc Việt, ăn vào máu, vào tim. Lý tưởng cộng sản là con đường mà họ chọn, để hướng tới mục tiêu giải phóng đất nước, độc lập dân tộc.

Đã từng có những cuộc hội thảo về tình báo của nước ngoài được tổ chức ở những chốn sang trọng, với những micro không dây lọc âm được những diễn giả phân tích tuyệt vời, đầy lôi cuốn. Có những tổ chức tình báo lớn trên thế giới trang bị cho điệp viên của họ thiết bị phục vụ nghề "ăn cắp" thông tin tối mật. Có những cái tên đã được đánh bóng, lăng xê mà mới nghe qua, không ít người đã phải giật mình kinh sợ.

Còn tình báo Việt Nam là gì? Những chiến sĩ tình báo Việt Nam là ai? Họ không phải là những điệp viên được vẽ trên phim với dáng vẻ rất “khinh đời”: Đầu đội mũ kê-pi, người khoác áo choàng đen, chân giày da bóng lộn, mắt ngập nghè kính râm, tay luôn đút túi quần, tiền thì tiêu như nước, thi thoảng lại rút súng ngắn trong thắt lưng ra bắn "đoàng... đoàng...".

Họ là người dân Việt Nam, lớn lên trong dân, sống nhờ vào dân, chiến đấu trong lòng dân, và được biết bao người dân xung quanh bảo bọc, chở che. Họ giản dị như trong chính lời tâm sự của Ba Minh: "Sức khoẻ mình như thế nên khả năng tôi đóng góp được cái gì tôi sẽ làm. Tôi đã nghĩ đến giả thiết khi mình là lính VNCH thế này, nếu có bị bắn lầm thì thôi. Còn đối với cách mạng, tôi chỉ nghĩ tôi góp sức để mà ít có thể đánh được nhiều, yếu có thể đánh được mạnh. Trong thâm tâm tôi nghĩ mình góp được cái gì thì góp, chết thì bỏ. Đơn giản vậy thôi".

Tình báo Việt Nam được hình thành và phát triển từ những con người như vậy. Chỉ có thế, họ mới vượt qua được mọi cám dỗ đời thường, những vinh hoa, phú quý, những nguy hiểm thường nhật để có thể chấp nhận hy sinh cả 1 đại gia đình vì mục tiêu độc lập cho Tổ quốc.

Trong nhà Đại tá, Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nguyễn Văn Minh, ngày còn cha, trên bàn thờ có 4 chữ “Quốc Tổ Hùng Vương”. Đến đời ông, bàn thờ vẫn thiêng liêng như thế, và có 2 chữ: "Tổ Quốc"!

Câu chuyện về người điệp viên bí mật H.3 chỉ mới bắt đầu kể lại những bí ẩn của tình báo Việt Nam. Những bí ẩn mà đến hôm nay, vẫn còn bao nhiêu câu hỏi chưa thể giải đáp.

VietNamNet sẽ tiếp tục ghi lại nhiều hơn những câu chuyện về những người anh hùng như vậy.

Trường Giang - Việt Hà - Thế Vinh


Tiêu đề: Re: Tình báo VN trong KCCM
Gửi bởi: Hoverung trong 26 Tháng Hai, 2009, 04:49:19 pm
 Gửi các bác Admin và Mod.

Em có tài liệu và có một bức hình của đại tá Phạm Ngọc Thảo(Master Spy) do Ông (Truong Nhu Tang-NV) Former Minister Of Justice viết bằng tiếng Anh.Chỉ là hồi ký của Bác Truong Nhu Tang-không biết viết như thế nào cho đúng( có thể là Trương Như Tảng) về bậc thầy tình báo viên, đại tá Phạm Ngọc Thảo.Em thấy có rất ít tư liệu về đại tá Phạm Ngọc Thảo,nay muốn đưa lên cho các thành viên của quansuvn.net.Tài liệu bằng tiếng Anh,mà em thì không có thời gian dịch,với lại trình tiếng Anh của em còn còi,mong các bác cho ý kiến.

Đây là đoạn trích ngắn:" Whatever the facts of his death,Albert Thao was a man who throughout his life fought single-mindedly for Vietnam's independence.He was a nantionalist,not an ideologue,one whose attitudes and goals were shaped at a time when Vietnam was a politically suppressed and economically exploited colony of France.A talented and vibrant personality,he was also a consummate actor,who played a leading an exaggeration to say that he personally changed the balance of political power between the Saigon government and the NLF.

Thao's great failure-and indeed the great failure of the NLF durỉng the early sixties-was that all his eforts did not deter the United State from its decision to intervene.He can hardly be blamed,though,for insufficiently pointing out the shabby incompetence of the South Vietnamese political system-the system upon which America's new strategy ultimately depended."

Còn có rất nhiều ảnh và tư liệu về NLF ( The National Liberation Front for South Vietnam) Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam.PRG ( Provisional Revolutionary Government of South Vietnam).
Ảnh của anh hùng liệt sỹ Lê Thị Riêng,ảnh sinh hoạt trong rừng (của cán bộ cấp cao thôi)...


Tiêu đề: Re: Tình báo VN trong KCCM
Gửi bởi: Hoverung trong 27 Tháng Hai, 2009, 02:00:39 am
Phạm Ngọc Thảo - Con người thật của Đại tá Nguyễn Thành Luân


Phạm Ngọc Thảo (1922–1965) là một tình báo viên bí ẩn trong suốt Chiến tranh Việt Nam. Ông là đại tá của hai quân đội đối nghịch trong cuộc chiến này: Quân đội Nhân dân Việt Nam và Quân lực Việt Nam Cộng hoà. Ông là người có nhiều ảnh hưởng chính trị và cũng là một thành viên chủ chốt trong 2 cuộc đảo chính bất thành ở Việt Nam Cộng hòa vào những năm 1964–1965.


1. Thân thế gia đình

Ông sinh ngày 14 tháng 2 năm 1922 tại Sài Gòn, nguyên quán Vĩnh Long, (có tài liệu là Bến Tre). Cha ông là Adrian Phạm Ngọc Thuần một địa chủ lớn người Công giáo, có quốc tịch Pháp. Ông còn có tên là Albert Phạm Ngọc Thuần, còn gọi là Albert Thảo. Mọi người thường gọi là Chín Thảo vì ông thứ 8 trong gia đình.

Lúc nhỏ ông học một trường tư thục công giáo nổi tiếng ở Sài gòn đó là trường Tabert (hay Taberd? Có tài liệu nói học trường Chasseloup Laubat). Khi học xong tú tài, khác với các anh em khác, ông không sang Pháp du học (do Thế chiến thứ hai xảy ra) mà ra Hà Nội theo học trường Kỹ sư Công chính Hà Nội.


2. Tham gia Việt Minh

Khi Cách mạng tháng Tám bùng nổ, anh ruột của ông là Gaston Phạm Ngọc Thuần tham gia Việt Minh ở Vĩnh Long và giữ chức Phó Chủ tịch Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ (sau này làm đại sứ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại một nước Đông Âu). Phạm Ngọc Thảo tuyên bố huỷ bỏ quốc tịch Pháp và quyết định trở về Vĩnh Long theo anh tham gia kháng chiến. Trên đường về, ông bị dân quân Việt Minh bắt hai lần và suýt bị giết chết.

Năm 1946, trường Võ bị Trần Quốc Tuấn khai giảng. Ông cùng 12 chiến sỹ Nam Bộ khác được cử ra Sơn Tây học tập. Tốt nghiệp khoá I, ông được điều về Phú Yên nhận nhiệm vụ làm giao liên. Một lần, ông được giao nhiệm vụ đưa một cán bộ về Nam Bộ. Đó chính là Lê Duẩn, người có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động tình báo của ông sau này.

Sau khi trở về Nam Bộ, ông được giao nhiệm vụ Trưởng phòng quân báo Nam Bộ, rồi được bổ nhiệm làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 410, Quân khu 9 (có tài liệu nói là tiểu đoàn 404 hoặc tiểu đoàn 307). Trong thời gian này ông hướng dẫn về chiến tranh du kích cho Trần Văn Đôn, Nguyễn Khánh, Lê Văn Kim... những người sau này trở thành các tướng lĩnh trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa.

Những năm 1952-1953, ông là sĩ quan tham mưu trong một số đơn vị chủ lực của Việt Minh tại miền Tây Nam Bộ. Cũng trong những năm ở chiến khu này, ông lập gia đình với bà Phạm Thị Nhiệm, là em ruột giáo sư Phạm Thiều, nguyên đại sứ tại Tiệp Khắc.




3. Thâm nhập vào đảng Cần lao Nhân vị

Sau Hiệp định Genève, các cán bộ của Việt Minh (cả dân sự lẫn quân sự) đều được tập kết ra Bắc. Cũng có nhiều cán bộ Việt Minh đã bí mật ở lại hoạt động. Riêng trường hợp của Phạm Ngọc Thảo, chính Lê Duẩn đã chỉ thị cho ông không tập kết ra Bắc mà ở lại miền Nam để hình thành "lực lượng thứ ba".

Do đó ông ở lại miền Nam hành nghề dạy học tại một số trường tư thục Sài Gòn. Vì không chịu ký tên vào giấy "hồi chánh" theo qui định của chính quyền miền Nam Việt Nam đối với những người đã đi theo Việt Minh không tập kết ra Bắc, ông bị đại tá Mai Hữu Xuân, Giám đốc An ninh Quân đội lùng bắt nhiều lần nhưng đều trốn thoát.

Sau cùng, ông về Vĩnh Long dạy học. Vùng này thuộc giáo phận của Giám mục Phêrô Ngô Đình Thục, vốn quen biết gia đình ông từ lâu. Vì vậy, Giám mục Thục đã bảo lãnh cho ông vào dạy học ở trường Nguyễn Trường Tộ. Sau này, cũng chính Giám mục Thục đã giới thiệu ông với Ngô Đình Nhu và ông được sắp xếp vào làm việc ở Sở Tài chánh Nam Việt.

Tháng 5 năm 1956 được sự giới thiệu của ông Huỳnh Văn Lang, Tổng giám đốc Viện Hối đoái và Bí thư Liên kỳ bộ Nam Bắc Việt của đảng Cần Lao, Phạm Ngọc Thảo được cử đi học khóa huấn luyện tại trung tâm Nhân vị tại Vĩnh Long. Và sau đó (tháng 10 năm 1956) ông gia nhập đảng Cần Lao.

Sau khi gia nhập đảng Cần Lao, ông phụ trách tổ quân sự, giữ nhiệm vụ nghiên cứu về chiến lược và chiến thuật quân sự và huấn luyện quân sự cho các đảng viên Cần Lao. Tháng 1 năm 1957 Phạm Ngọc Thảo tham gia biên tập bán nguyệt san Bách Khoa - tạp chí của một nhóm trí thức đảng Cần Lao.



Tiêu đề: Re: Tình báo VN trong KCCM
Gửi bởi: Hoverung trong 27 Tháng Hai, 2009, 02:01:31 am
4. Hoạt động trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa


Biết ông có nhiều kinh nghiệm về quân sự, Ngô Đình Nhu quyết định đưa ông sang ngạch quân sự với cấp bậc đại úy đồng hóa trong quân đội Sài Gòn. Từ đó, ông lần lượt giữ các chức vụ Tỉnh đoàn trưởng Bảo an tỉnh Vĩnh Long, rồi Tỉnh đoàn trưởng Bảo an tỉnh Bình Dương.

Năm 1960, sau khi học một khóa chỉ huy và tham mưu ở Đại học Quân sự Đà Lạt, Phạm Ngọc Thảo được thăng thiếu tá và được cử làm Thanh tra Khu Trù Mật.

Biết Phạm Ngọc Thảo từng là chỉ huy du kích Việt Minh, đầu năm 1961 Ngô Đình Nhu đã quyết định thăng ông lên trung tá và cử làm tỉnh trưởng tỉnh Kiến Hòa (tức Bến Tre) để trắc nghiệm Chương trình Bình định. Từ khi ông nhậm chức, tình hình an ninh tại vùng này trở nên rất yên ổn, không còn bị phục kích hay phá hoại nữa. Tuy nhiên, do có nhiều tố cáo nghi ngờ ông là cán bộ cộng sản nằm vùng, anh em Ngô Đình Diệm - Ngô Đình Nhu đã ngưng chức tỉnh trưởng Kiến Hòa và cho ông sang Hoa Kỳ học một khóa về chỉ huy và tham mưu. Từ đó Bến Tre tiếp tục mất an ninh.



5. Tham gia các cuộc đảo chính

Lần thứ nhất

Tháng 9 năm 1963 Bác sĩ Trần Kim Tuyến nguyên Giám đốc Sở Nghiên cứu chính trị (thực chất là trùm mật vụ) và Phạm Ngọc Thảo âm mưu một cuộc đảo chính. Phạm Ngọc Thảo đã kêu gọi được một số đơn vị như Quân đoàn 3, Quân đoàn 4, Biệt động quân, Bảo an... sẵn sàng tham gia. Để chấm dứt âm mưu đảo chính này, ngày 6 tháng 9 năm 1963, Tổng thống Diệm đã cử Trần Kim Tuyến đi làm Tổng lãnh sự tại Ai Cập.

Sau khi chính quyền Ngô Đình Diệm bị lật đổ ngày 1 tháng 11 năm 1963 (cuộc đảo chính do một nhóm tướng lĩnh khác chủ mưu), Phạm Ngọc Thảo được lên chức đại tá, làm tùy viên báo chí trong Hội đồng Quân nhân Cách mạng. Một thời gian sau, ông được cử làm tùy viên văn hóa của Tòa đại sứ Việt Nam tại Mỹ.


Lần thứ hai

Đầu năm 1965, Phạm Ngọc Thảo bị gọi về nước vì chính quyền Sài Gòn đã nghi ngờ, muốn bắt ông. Vì vậy, ông đã đào nhiệm và bí mật liên lạc với các lực lượng đối lập khác để tổ chức đảo chính ở Sài Gòn.

Ngày 19 tháng 2 năm 1965, Phạm Ngọc Thảo và tướng Lâm Văn Phát đem quân và xe tăng vào chiếm trại Lê Văn Duyệt, đài phát thanh Sài Gòn, bến Bạch Đằng và sân bay Tân Sơn Nhất. Tướng Nguyễn Khánh đào thoát bằng máy bay ra Vũng Tàu.

Ngày 20 tháng 12, hội đồng các tướng lĩnh họp ở Biên Hòa. Các tướng cử Nguyễn Chánh Thi làm chỉ huy chống đảo chính và ra lệnh cho Phạm Ngọc Thảo, Lâm Văn Phát và 13 sĩ quan khác phải ra trình diện trong 24 giờ.

Ngày 21 tháng 2 năm 1965, các tướng tiếp tục họp tại Biên Hòa, quyết định giải nhiệm Nguyễn Khánh và cử tướng Trần Văn Minh làm Tổng Tư lệnh Quân lực Việt Nam Cộng Hòa.

Ngày 22 tháng 2 năm 1965, Quốc trưởng Phan Khắc Sửu ký sắc lệnh bổ nhiệm tướng Nguyễn Khánh làm Đại sứ lưu động (một hình thức trục xuất khỏi nước cho đi lưu vong). Ngày 25 tháng 2 năm 1965, Nguyễn Khánh rời khỏi Việt Nam.

Khi biết tin quyền lãnh đạo đã rơi vào tay các tướng lĩnh khác Phạm Ngọc Thảo bỏ trốn.


6. Bị bắt và giết

Ngày 11 tháng 6 năm 1965, Quốc trưởng Phan Khắc Sửu và Thủ tướng Phan Huy Quát tuyên bố trả lại quyền lãnh đạo quốc gia cho quân đội.

Ngày 14 tháng 6 năm 1965, Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia đã được thành lập do tướng Nguyễn Văn Thiệu làm Chủ tịch.

Sau khi nhậm chức, tướng Thiệu quyết định tìm bắt và giết Phạm Ngọc Thảo để trừ hậu họa. Tướng Lâm Văn Phát đã ra trình diện và chỉ bị cách chức, nhưng đại tá Phạm Ngọc Thảo phải trốn nhiều nơi, cuối cùng đến trốn trong Đan viện Phước Lý ở xã Vĩnh Thanh, huyện Nhơn Trạch, Biên Hòa.

Cuối cùng nơi trú ẩn này cũng bị lộ. Lúc 3 giờ sáng ngày 16 tháng 7 năm 1965, khi ông vừa ra khỏi Đan viện Phước Lý thì bị an ninh quân đội mai phục sẵn bắt rồi đưa về một cái suối nhỏ gần Tam Hiệp, Biên Hòa, thủ tiêu.

Tuy nhiên Phạm Ngọc Thảo không chết mà chỉ bị ngất vì viên đạn chỉ trúng cằm. Ông được Linh mục tuyên úy của Dòng Nữ tu Đa Minh, Tam Hiệp đem về cứu chữa, nhưng bị phát giác và ông lại bị an ninh quân đội bắt về Sài Gòn.

Theo tướng Nguyễn Ngọc Loan, giám đốc Nha An ninh Quân đội lúc bấy giờ, thì khi về đến Nha An ninh Quân đội Phạm Ngọc Thảo được cứu chữa, nhưng máu ra quá nhiều nên đã từ trần lúc 1 giờ 30 sáng 17 tháng 7 năm 1965. (Một nguồn tin khác thì ông bị Hùng Xùi, một nhân viên An ninh Quân đội bóp vào hạ bộ tra tấn cho đến chết. Khi đó ông mới 43 tuổi.

Theo Larry Berman trong cuốn " PERFECT SPY" , Phạm Ngọc Thảo đã bị tra tấn dã man vào lúc bị bắt cho đến chết " Người ta tin rằng chính Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu đã ra lệnh hành hạ ông Phạm Ngọc Thảo thật đau đớn bằng cách dùng một chiếc thòng lọng bằng da thít quanh cổ và một chiếc khác thít chặt nơi tinh hoàn. Sau khi ông Phạm Ngọc Thảo đã chết, Nguyễn Văn Thiệu và vợ liền mở rượu sâm banh ăn mừng."


Tiêu đề: Re: Tình báo VN trong KCCM
Gửi bởi: Hoverung trong 27 Tháng Hai, 2009, 02:03:21 am
(http://www.bentre.gov.vn/images/stories/nhanvat/phamngocthao.jpg)

7. Di sản

Những năm ấy, rất ít người biết Phạm Ngọc Thảo là một nhà tình báo, người ta chỉ biết ông là một sĩ quan có khả năng chính trị và ngoại giao. Sau ngày Việt Nam thống nhất, nhiều đồng đội đã vô cùng chua xót khi thấy mộ ông vẫn chỉ là nấm mồ vô danh. Họ đã sưu tầm tư liệu, đề nghị Nhà nước truy tặng ông danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân... Rất nhiều nước mắt xúc động, cảm thương của những người chiến binh già đã rơi khi kể lại câu chuyện về ông. Năm 1987, Nhà nước Việt Nam truy tặng ông danh hiệu liệt sĩ, với quân hàm đại tá Quân đội Nhân dân Việt Nam, danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Hiện nay, mộ Phạm Ngọc Thảo được đưa về nghĩa trang TP.HCM, trên đồi Lạc Cảnh(huyện Thủ Đức). Mộ ông nằm cạnh mộ những tên tuổi nổi tiếng như Lưu Hữu Phước, Phạm Ngọc Thạch, Can Trường...

Phạm Ngọc Thảo được coi là một trong 4 tình báo viên xuất sắc nhất của Quân đội Nhân dân Việt Nam (3 người kia là Phạm Xuân Ẩn, Vũ Ngọc Nhạ và Lê Hữu Thúy). Một số người còn cho ông là điệp viên xuất sắc nhất bởi 3 đặc điểm chính:


1. Phạm Ngọc Thảo là tình báo viên hoạt động đơn tuyến, không có đồng đội trực tiếp hỗ trợ, chỉ chịu sự chỉ đạo về chiến lược của Lê Duẩn. Nhiệm vụ của ông không phải là đưa tin mà là tác động đến sự "thay đổi chế độ". Có thể nói, với nhiệm vụ này, tầm quan trọng của Phạm Ngọc Thảo ngang với sức mạnh của một đạo quân.

2. So với các tình báo viên khác, Phạm Ngọc Thảo là người có thể tác động trực tiếp đến chính quyền và quân đội. Là sỹ quan cao cấp trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa, ông có tác động, thậm chí trực tiếp đạo diễn và tham gia chỉ đạo hàng loạt vụ đảo chính làm rung chuyển gây mất ổn định chính quyền Nam Việt Nam những năm 1964-1965.

3. Trong cuộc tranh giành quyền lực giữa các phe phái quân đội, Phạm Ngọc Thảo bị xem là đối tượng nguy hiểm và bị đe dọa tính mạng bất cứ lúc nào. Dù vậy, ông vẫn tiếp tục nhiệm vụ mà không trốn chạy để bảo toàn mạng sống. Thậm chí, cả khi bị bắt và tra tấn đến chết, Phạm Ngọc Thảo vẫn không lộ tung tích của mình. Mãi sau này, khi ông được truy phong, người ta mới biết ông là tình báo viên.



Thời gian ở chiến khu, Phạm Ngọc Thảo đã lấy bà Phạm Thị Nhiệm, em ruột của giáo sư Phạm Thiều, đại sứ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Cambodia (1956–1967) và Tiệp Khắc. Ông có 7 con và vợ ông đi dạy học. Vợ và con ông hiện đang ở Hoa Kỳ. Tất cả các con của ông đều học hành thành tài (có người là bác sĩ, đang ở Quận Cam).

Trong dòng đề tựa trong cuốn Ván Bài Lật Ngửa, nhà văn Nguyễn Trương Thiên Lý đã trân trọng viết "Tưởng nhớ anh Chín T. và những người đã chiến đấu hy sinh thầm lặng". Ông đã sử dụng chính hình tượng của Phạm Ngọc Thảo để xây dựng nhân vật Nguyễn Thành Luân trong tiểu thuyết của mình. Tiểu thuyết này sau được dựng thành phim rất ăn khách (vai Nguyễn Thành Luân do diễn viên Nguyễn Chánh Tín đảm nhiệm).


Nguồn: Wikipedia


Tiêu đề: Re: Tình báo VN trong KCCM
Gửi bởi: Hoverung trong 27 Tháng Hai, 2009, 04:33:41 am
Nhà tình báo Ziệp Sơn và phần đời chưa kể


(http://vietnamnet.vn/dataimages/200608/original/images1060323_gsngoc4.jpg)

Trả lời một phỏng vấn, Thiếu tướng Giáo sư Nguyễn Đình Ngọc đã nói: "Tôi không muốn nói về tôi mà đơn giản chỉ là tâm sự của một thế hệ. Thế hệ những người như tôi đã đi trọn cuộc kháng chiến trong đó không ít người đã vĩnh viễn nằm xuống". Anh Ngọc đã nói thế, tôi cũng nghĩ rằng khi kể chuyện về anh, tôi không chỉ kể về một cá nhân, một "cố nhân", mà kể rộng hơn thế; không phải là tôi vô tình lạc đề. Anh Ngọc là ai: điệp viên với bí danh "Ziệp Sơn", người cán bộ công an, nhà khoa học?

Tối 2/5/2006, vợ chồng tôi đang ăn cơm, thì có chuông gọi cổng: chị T. vợ anh, lại tìm chúng tôi, báo tin cho biết là anh Ngọc vừa mất sáng hôm đó, và chị và cháu H. (con trai duy nhất của anh chị) sửa soạn lên đường về dự đám tang. (Xin nói ngay là ở đây, tôi nói tới chị T., vợ còn định cư ở Pháp, chứ tôi không nói tới người khác). Mấy ngày sau, tôi được đọc một số bài báo trên mạng do bạn bè gửi cho. Có những tin đưa chính xác, có những tin đúng nhưng khó hiểu, có những tin đưa không đúng, qua những gì tôi đã được biết hoặc chứng kiến.

Những dấu hỏi sau một bản tin

Bản tin của Ban chấp hành Hội Tin học Việt Nam, các Hội Tin học thành viên và gia đình, đăng 5/5/2006 trên tạp chí Tin học và Đời sống viết như sau:

Thiếu tướng, Giáo sư, Tiến sĩ khoa học: NGUYỄN ĐÌNH NGỌC, Nguyên Phó Chủ tịch Hội Tin học Việt Nam, Trưởng ban Kiểm tra Hội Tin học Việt Nam, sinh ngày 13 tháng 8 năm 1932, quê quán xã Phượng Dực, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Tây, thường trú tại Phòng 402, nhà D3, Tập thể Trung Tự, Đống Đa, Hà Nội; nguyên Bí thư Đảng uỷ, Cục trưởng Cục Khoa học Viễn thông – Tin học, Bộ Công An, Phó trưởng ban chỉ đạo chương trình quốc gia về công nghệ thông tin (BCĐ49), Bí thư Chi bộ Trường Đại học dân lập Thăng Long; Phó Chủ tịch Hội Vô tuyến – Điện tử Việt Nam, Hiệu trưởng Trường Đại học Dân Lập Tây Đô - Cần Thơ; Huân chương Quân công hạng Ba, Huân chương chiến công hạng Nhì, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất, Huy chương Vì An Ninh Tổ Quốc, Huy chương vì sự nghiệp các hội KHKT, Huy chương vì thế hệ trẻ; sau một thời gian lâm bệnh, […] đã từ trần hồi 8 giờ 56 phút ngày 2 tháng 5 năm 2006 (tức ngày 5 tháng 4 Bính Tuất) tại Bệnh viện 198 - Bộ Công an. Lễ viếng đã tổ chức từ 9 giờ 30 ngày 8 tháng 5 năm 2006 tại Nhà tang lễ số 5 Trần Thánh Tông, Hà Nội. Lễ truy điệu hồi 12 giờ 30 cùng ngày. Điện táng tại Đài hoá thân hoàn vũ, Hà Nội.

Điều quan trọng nhất đáng biết về anh Ngọc, tất nhiên là kết quả công tác điệp báo của anh, dưới bí danh "Ziệp Sơn , nhưng tiếc thay, các bản tin đều chỉ nói lướt qua. Thí dụ như có bản tin viết: "Trong vai trò một điệp báo viên, những tin tức ông cung cấp luôn chính xác, kịp thời và vô cùng quan trọng – thông tin về cuộc tập kích vào Trung ương cục Miền Nam, về việc năm 1975 Mỹ sẽ không quay lại… chỉ là một vài trong số rất nhiều những chiến công thầm lặng của điệp viên tài ba này". "Vô cùng quan trọng" mà chỉ vọn vẹn được mấy dòng đó sao? Hay là vì thời điểm hiện nay còn quá sớm để công bố chi tiết toàn bộ? Hay là những chi tiết này nằm trong các bản tuyên dương mà tôi không được đọc? Biết bao câu hỏi còn chưa được trả lời. Hẳn là vào tháng 4 năm 1975, đã có nhiều nguồn tin trái ngược về khả năng Mỹ quay lại can thiệp hay không; và những người chuyển những loại tin này gánh một trách nhiệm rất nặng vì nó ít nhiều liên quan đến quyết định cuối cùng của Bộ Chính trị mở chiến dịch Hồ Chí Minh. Tôi tò mò và mong một ngày nào được biết hết…

Giấc mơ thời bình

Trong khi chờ đợi, tôi xin được kể những gì tôi được biết về anh: vì ở anh, sau người điệp viên còn có người công an, sau người công an còn có nhà khoa học; khi người điệp viên đã chấm dứt công tác, người công an ở anh vẫn còn tiếp tục nhiệm vụ – như có người phóng viên đã viết về anh: "Có ai đó đã từng nói, bộ đội còn thời chiến thời bình chứ công an chẳng lúc nào ngơi nghỉ" – và khi người công an đã nghỉ hưu, nhà khoa học vẫn còn đeo đuổi công việc.

Về việc anh đam mê học hành, nghiên cứu khoa học, cũng trong cuộc phỏng vấn dẫn trên, anh nói: "Năm đó (1947) tôi còn rất nhỏ, cả hai bố con cùng bị giặc Pháp bắt. Biết mình sẽ bị đem đi hành hình, thay vì nói con trả thù cho bố, ông nói: “Con cố học và giúp người khác học, còn thiếu tri thức dân mình khổ đừng trách ai, chỉ nên tự trách mình”. Khi đất nước cho phép ngơi nghỉ thì tôi lại làm điều cha tôi đã dạy. Dạy học, nghiên cứu khoa học... tôi hiểu rằng, cuộc chiến giành lấy hạnh phúc, phồn vinh không thể thiếu tri thức". Rồi với câu hỏi của phóng viên: "Phải chăng thế hệ ông còn nhiều nỗi lo khi đã làm tròn sứ mệnh của mình với đất nước?", anh đã trả lời: "Phải. Nó như cuộc chạy tiếp sức, thế hệ bố tôi đã làm tốt trọng trách đầu tiên tức là cuộc kháng chiến chống Pháp nhưng để lại trên vai chúng tôi cả một gánh nặng. Và tất cả vẫn chưa kết thúc, sau 1975 tất cả những ai may mắn còn sống phải đi tiếp cuộc kháng chiến mới: cuộc kháng chiến chống sự tụt hậu về khoa học và công nghệ đòi hỏi các bạn trẻ cũng phải ghé vai gánh vác".

 Tôi không biết người phóng viên khi kể lại mấy lời này có lý tưởng hóa khung cảnh không, nhưng rõ ràng là nội dung của mấy câu trả lời của anh Ngọc là chí lý, và tôi hoàn toàn tâm đắc: mất nước ở thế kỉ 19, cũng vì thiếu tri thức; những năm đói rách, cùng cực, cũng vì thiếu tri thức; những đợt làm khổ nhau, cũng vì thiếu tri thức; giáo dục đào tạo bê bối, cũng vì thiếu tri thức; tham nhũng và để tham nhũng, cũng vì thiếu tri thức, vv. và vv.




Tiêu đề: Re: Tình báo VN trong KCCM
Gửi bởi: Hoverung trong 27 Tháng Hai, 2009, 04:34:24 am
Con đường trở thành người cán bộ điệp báo

Tôi đã có dịp kể trong cuốn sách "Tự sự của người xa quê hương": Tôi bị bệnh lao ngay mấy tháng sau khi đến Pháp, nên tôi "lê la" gần 7 năm trong các sanatoria và dưỡng đường cho các sinh viên ở Pháp. Vào khoảng năm 1955-1956, trong lúc tôi ở dưỡng đường ở Sceaux, thì anh Nguyễn Đình Ngọc cũng ở đó, và vì thế nên quen biết. Những điều như: về ông thân sinh anh ấy bị quân viễn chinh Pháp bắt và giết (1947), tôi có nghe anh kể thuở đó. Nhưng tất nhiên, việc anh làm điệp viên thì sau ngày giải phóng, tôi mới được biết.

Ở đây, chủ yếu tôi chỉ nói đến những gì tôi đã nghe kể và/hoặc chứng kiến:

Lúc sang Pháp, thì anh Ngọc đã có vợ, chị T., và ở Pháp anh chị ấy sinh một con trai, cháu H. Theo như tôi được biết, chị T. thuộc một vọng tộc: mẹ chị T. là cháu nội hoàng giáp Đặng Văn Thụy, con gái phó bảng Đặng Văn Hướng – quan to của triều đình Huế, sau đi kháng chiến và một thời là Bộ trưởng của Chính phủ cụ Hồ trong kháng chiến, nhưng chết trong đợt Cải cách ruộng đất. Như vậy là chị T. là cháu gọi ông Đặng Văn Việt bằng cậu – ông Đặng Văn Việt người chỉ huy bộ đội vùng biên giới, người của con "đường số 4 anh hùng", và của chiến dịch biên giới phá các binh đoàn Lepage và Charton vv. Mẹ chị T. lại là cháu ngoại của cử nhân Hoàng Đạo Phương, là một thương gia giàu có ở Hà Nội thuở xưa; ông Phương lại đồng thời là anh của ông Hoàng Đạo Thúy (người anh cả của Hướng đạo Việt Nam, một lúc là giám đốc trường võ bị Trần Quốc Tuấn thời Dân chủ Cộng hòa, rồi chủ nhiệm Truyền tin, quân hàm đại tá quân đội nhân dân)

 Mẹ chị T. mất sớm, bố chị T. đi kháng chiến – trước ông là công chức bưu điện thời Pháp thuộc, sau Cách mạng là cán bộ cao cấp ngành công an – sáu chị em chị T. sống với ông bà nội Trịnh Hữu Thăng, tiến sĩ tại gia (không ra làm quan) ở quê, vùng Nam Định; đến khoảng năm 1951 quân viễn chinh Pháp càn quét dữ quá, gia đình mới gửi chị em chị T. vào Hà Nội sống với một bà dì (em mẹ chị T.), bà này là vợ ông Phan Huy Quát. Ông Quát từng làm tổng trưởng giáo dục (1949), quốc phòng (1950, 1954), ngoại giao (1964) của chính quyền Bảo Đại trong vùng tạm chiếm, thủ tướng mấy tháng năm 1965..., sau 1975 chết trong trại cải tạo.Anh Ngọc học trường trung học Chu Văn An ở Hà Nội, là học sinh giỏi cùng học với ông Phan Huy Lương nên quen với gia đình ông Phan Huy Quát (ông Lương là em ông Quát).

 Vào giai đoạn từ cuối năm 1951 đến 1954, do tướng De Lattre de Tassigny, tổng tư lệnh quân đội viễn chinh Pháp, kiêm cao ủy Pháp ở Đông Dương, bắt đầu có lệnh động viên trong vùng tạm chiếm .Anh Ngọc tránh quân dịch, nên ra vùng kháng chiến, rồi tại đó, năm 1952, anh học lớp "điệp báo ở sở công an Liên khu IV" (như chính anh viết trong bài đăng trong cuốn sách "Giáo sư Lê Văn Thiêm", nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội 2003), rồi: " […] Bắt đầu từ Giám đốc Công an Liên khu 4, Nguyễn Hữu Khiếu, (anh) được (Bộ trưởng Bộ Công an sau này) Trần Quốc Hoàn để mắt tới và quyết định đào tạo "đánh" anh vào lòng địch tại miền Nam dưới sự điều khiển đơn tuyến từ miền Bắc tới Ban An ninh Trung ương Cục miền Nam", như một đoạn bài báo "Thiếu tướng, GS, TSKH Nguyễn Đình Ngọc: Vinh quang là lặng lẽ" đăng trên báo Công An Nhân Dân trên mạng, viết ngày 9/5/2006. Anh vào Nam, theo học ở Đại học Sài Gòn và cưới chị T. vào năm 1955. Anh sang Pháp cuối 1955 vì có được học bổng để sang học về Khí tượng, rồi chị T. cũng sang Pháp đầu 1956; cuối năm chị sinh cháu H. ở Pháp.

Học "dàn hàng ngang"

Ở Pháp, anh Ngọc học lấy được 3 bằng kỹ sư và bằng tiến sỹ cấp ba (doctorat de 3ème cycle) về Khí tượng. Mấy năm sau, anh và tôi soạn luận án tiến sĩ nhà nước về Toán, ở Đại học Paris cùng thời, nhưng không cùng ngành.

Anh bảo vệ luận án dưới sự hướng dẫn của giáo sư Ehresman, dưới đề tài "Sur les espaces fibrés et les prolongements" (Về không gian phân thớ và thác triển), thuộc ngành tô-pô và hình học vi phân. Tôi bảo vệ luận án năm 1962, anh Ngọc bảo vệ năm 1963 và anh có làm giáo sư ở Đại học Poitiers, rồi ở Đại học Brest ở Pháp một thời gian.

Cái thuở còn soạn luận án, rồi đi dạy ấy, chúng tôi khá thân, nhưng tất nhiên tôi không biết anh là điệp viên. Anh chị Ngọc và vợ chồng tôi thời ấy cùng sống ở Antony, ngoại ô nam Paris, nhà ở chỉ cách nhau nửa cây số, gặp nhau luôn. Đi dạy ở địa phương xa hàng mấy trăm cây số – tôi dạy ở Lille cách Paris 200 km, anh ấy dạy ở Brest cách Paris 600 km – nhưng nhà vẫn ở vùng Paris, vì thuở ấy sinh hoạt khoa học phần lớn tập trung ở thủ đô Paris; các giáo sư đại học lại chỉ phải giảng bài 3 giờ/một tuần; lèo tèo hướng dẫn vài ba nghiên cứu sinh đồng thời lại là phụ giảng viên của mình ở đại học địa phương; ngành Toán lại không có phòng thí nghiệm, mình chỉ cần tập trung có mặt ở đó độ hai, ba ngày là đủ.

Cho nên thuở đó có cái tên gọi các giáo sư không cư ngụ tại chỗ là "turbo-prof " – (anh KV. đề nghị tôi dịch là "giáo sư vù": chợt đến rồi lại "vù" đi nhanh). Ai không sống trong khung cảnh đó thì dễ bị lẫn lộn và hiểu lầm: anh Ngọc không hề giảng dạy ở những nơi mà anh ấy học ở Pháp (trường Viễn thông, trường Hải công, Đại học Paris) như có phóng viên khẳng định. Về cái việc anh Ngọc học "dàn hàng ngang", chuyên môn này rồi chuyên môn nọ, tôi muốn nói một cách công bằng: theo tôi, không phải tại anh mắc cái tật của một số người Việt Nam, ưa học lấy càng nhiều bằng "là là" lại càng tự cho là oai, chứ không chịu (hay không có khả năng) học cao học sâu. Anh Ngọc có chủ ý khác.

Có lần anh tâm sự với tôi là: nước mình lạc hậu, thay vì cá nhân mình bỏ hết hơi sức "rặn" ra thêm được vài định lý để đăng nhiều bài báo, chẳng có ích gì thực sự; mình nên để công sức "nhập" những môn mới vào nước mình để giúp cho thế hệ sau mình có điều kiện tiến lên, còn tốt hơn. Về lý luận này, tôi có phần chia sẻ.


Tiêu đề: Re: Tình báo VN trong KCCM
Gửi bởi: Hoverung trong 27 Tháng Hai, 2009, 04:35:35 am
(http://vietnamnet.vn/dataimages/200608/original/images1060315_gsngoc1.jpg)
Thói quen ghi lại hình ảnh tư liệu có từ khi ông còn là điệp báo viên. Ảnh Trọng Chính (nguồn: Báo ảnh VN)


Một kỷ niệm đời giảng dạy

Phóng viên tác giả của bài báo trên Công An Nhân Dân đã dẫn trên, còn viết: "Có lần ông kể với tôi, vì ông tự ái, tại sao người Việt Nam lại không thể giảng bài ở Pháp mà không nhìn vào giáo án. Thế là suốt nhiều đêm ông đã đọc và thuộc lòng giáo án đại học. Sáng hôm sau vào lớp, ông chỉ cầm một chiếc bút và thao giảng những kiến thức cao siêu trước sự ngạc nhiên của sinh viên nước ngoài".

Xuất phát câu chuyện chi tiết là như thế này: Vốn là thuở anh Ngọc và tôi còn học và soạn luận án, thì có một ông giáo sư ở Đại học Paris tên là ông G. Choquet, là một trong những "tổ sư" của ngành tô-pô. Xin nói qua về ông Choquet này. Ông ta vốn là bạn đồng khóa với ông L. Schwartz – người bạn thân thiết của Việt Nam mà tôi có dịp nói tới trong cuốn sách (5) – thuở trẻ ông Choquet học rất giỏi, thi vào thi ra, đều đỗ thủ khoa còn ông Schwartz thì lần nào cũng đỗ á nguyên, thứ nhì sau ông này; điều này ông Schwartz có kể trong cuốn hồi ký của ông (6). Nhưng ông Schwartz thì được huy chương Fields, ông Choquet thì không, tuy ông cũng là một cự phách trong làng Toán. Ông Choquet có một cách giảng bài khá đặc biệt, đó là vào giảng đường "tay không", không có giấy tờ, hồ sơ sách vở, tay trái bỏ vào túi quần, tay phải cầm phấn viết trên bảng, cả buổi không cần nhìn giáo án gì cả, rất gây ấn tượng cho sinh viên. Theo tôi, thì vị cũng có ý "trộ" thiên hạ. Bởi vì trí nhớ dù tốt đến đâu, cũng có giới hạn của nó, và tất nhiên đã nhiều lần vị nhớ lộn, giảng bài không trôi, phải xin lỗi lần sau giảng lại…

Ông Ngọc nhà ta cũng muốn làm như vậy, và tất nhiên "đi đêm có ngày gặp ma"; một bữa, cũng giảng bài lộn, bí không tìm ra đầu đuôi, phải khất sinh viên lần sau giảng lại. Nếu vì ngành điệp viên cần luyện trí nhớ – và đó là một cách luyện trí nhớ – thì tôi thông cảm, chứ coi đó là cách giảng dạy có tính thuyết phục, thì tôi không tin.

Thuở ấy, cái lần giảng lộn bài phải khất sinh viên, anh Ngọc có thú thật khi kể lại cho tôi nghe, và chúng tôi cười với nhau mãi. Thời đó, tôi chưa biết anh là điệp viên, nên chúng tôi có thảo luận về cách giảng dạy. Tôi thì cho rằng mình có bổn phận tôn trọng và nâng đỡ sinh viên – nhất là thời đó sinh viên còn chưa có phụ đạo, ít sách vở tài liệu, ít người có học bổng, một phần không nhỏ sinh viên lại là những người đã đi làm kiếm sống (giáo viên tiểu học, trung học, công chức, vv.) tới học thêm để tiến thân, mình không nên vì lòng tự ái cá nhân mà gây thiệt thòi cho họ. Bởi vì, theo tôi, có bài giảng soạn sẵn kỹ càng, đánh số thứ tự, định nghĩa hay định lý đọc ra phải chính xác từng chữ, từng ký hiệu, thì sinh viên mới tiếp thu dễ dàng, và như vậy họ dành được nhiều thì giờ để tham khảo thêm ngoài bài giảng. Nhưng đó là lý luận của người giảng dạy, không phải là lý luận trong khung cảnh của một… điệp viên.

Trở lại chuyện anh Ngọc và cái sứ mạng điệp viên của anh ấy; tôi chỉ nhớ là anh ấy thỉnh thoảng đi Thụy Sĩ "thăm bạn" (anh chị có một cặp bạn thân ở Thụy Sĩ; mãi sau này, khi gặp lại anh ấy ở Thành phố Hồ Chí Minh năm 1977, anh ấy mới kể cho tôi là Thụy Sĩ là đường dây liên lạc của anh ấy). Kể ra thuở ấy, tôi ngay thật không nghi ngờ gì, tuy bao nhiêu bài nhạc, bài hát miền Bắc mà tôi có được là do anh ấy cho mượn để thu vào máy, vv. Nhưng tôi đoán, thời ở Pháp là cái thời sửa soạn cho anh một cái vỏ, một địa vị cao để sau đó dễ lọt sâu; công tác của anh có lẽ chỉ thực sự bắt đầu khi anh đã trở về Sài Gòn, chứ ở Pháp có gì đâu mà tìm hiểu, có lẽ ngoại trừ việc anh tìm ra tung tích của người sĩ quan Pháp đã hạ lệnh giết cha anh.

Paris 6/7/2006

Bùi Trọng Liễu
Nguyên giáo sư Đại học Paris (Pháp)




Tiêu đề: Re: Tình báo VN trong KCCM
Gửi bởi: TichTuongNhuLe trong 14 Tháng Sáu, 2010, 09:19:47 am


      _____________________________________________________________________________
     !                                                                                                                          !
     !      Đại tá Lê Tấn Hổ , trưởng phòng quân báo quân khu V, cựu                                     !
     !      trinh sát E95-325, cựu sinh viên ĐHSP Hà Nội                                                        !
     !      Từ trần 2 giờ 30, ngày 14/6/2010 tại nhà riêng tại Đà Nẵng                                      !
     !                                                                                                                          !
     !      Anh em nào có điều kiện thăm viếng, xin liên lạc với phòng quân báo quân khu             !
     !                                                                                                                           !
     !_____________________________________________________________________________! 
 


Tiêu đề: Re: Tình báo VN trong KCCM
Gửi bởi: duyvu1920 trong 25 Tháng Giêng, 2011, 10:21:49 am
Trong các bác có ai biết địa chỉ ban liên lạc tổng cục 2 không ạ ???.Cậu ruột em hồi trước giải phóng làm thông tín viên cho cục 2(ở sài gòn)giờ muốn kiếm lại vài người bạn nhưng mất địa chỉ.Em cảm ơn các bác trước.


Tiêu đề: Re: Tình báo VN trong KCCM
Gửi bởi: panphilov trong 17 Tháng Tư, 2011, 06:54:06 pm
(http://image.qdnd.vn/Upload//thuha/2011/3/14/14032011hoai03143241838.jpg)

Trong tấm ảnh nhỏ này có một số nhà tình báo rất nổi tiếng của ta. Đố các bác đó là những ai  ;D


Tiêu đề: Re: Tình báo VN trong KCCM
Gửi bởi: ngocdan_lep trong 17 Tháng Tư, 2011, 07:26:54 pm
(http://image.qdnd.vn/Upload//thuha/2011/3/14/14032011hoai03143241838.jpg)

Trong tấm ảnh nhỏ này có một số nhà tình báo rất nổi tiếng của ta. Đố các bác đó là những ai  ;D

Như em được biết từ phải sang trái  là các bác:
1.Thiếu tướng Phạm Xuân Ẩn
2.Thiếu tướng Đặng Trần Đức (Ba Quốc)-Anh hùng lực lượng vũ trang
3.Thiếu tướng Vũ Ngọc Nhạ
4.??


Tiêu đề: Re: Tình báo VN trong KCCM
Gửi bởi: panphilov trong 17 Tháng Tư, 2011, 08:04:56 pm

Như em được biết từ phải sang trái  là các bác:
1.Thiếu tướng Phạm Xuân Ẩn
2.Thiếu tướng Đặng Trần Đức (Ba Quốc)-Anh hùng lực lượng vũ trang
3.Thiếu tướng Vũ Ngọc Nhạ
4.??


Cái cụ đại tá ngồi hàng đầu đấy mình không nhận ra vì tư nhiên lại quay mặt đi. Còn cụ mặc áo sơ-mi trắng thắt cà-là-vạt với bộ râu dài và trằng (đằng sau cụ Phạm Xuân Ẩn) là cụ Vũ Hữu Ruật. Cụ Ruật từng "leo" tới chức vụ Phó Tổng Thư ký Mặt trận quốc gia dân chủ xã hội do Nguyễn Văn Thiệu làm chủ tịch.


Tiêu đề: Re: Tình báo VN trong KCCM
Gửi bởi: ngoduythiet trong 11 Tháng Năm, 2011, 08:25:48 pm
   Kể ra các bác tình báo nhà mình cũng giỏi thật đấy. Quan chức cao cấp của chính quyền VNCH ngày ấy cũng có kha khá là các vị nhà mình đấy chứ... ;D ;D ;D.Bọn CIA của Mỹ mà đem ra so sánh với tình báo nhà mình thì chỉ như con thỏ con đứng cạnh con sư tử lớn. ;D ;D


Tiêu đề: Cụm tình báo H.63 anh hùng
Gửi bởi: Mig21Bis_1 trong 24 Tháng Mười Một, 2011, 01:43:36 am
Các bài viết trong topic này được lấy tại trang: http://vnn.vietnamnet.vn/psks/2007/10/747714/

Kỳ 1: "Hoa trong tuyến lửa"

Có một cụm tình báo đặc biệt, suốt 13 năm gồng mình trong tuyến lửa, mở những mạch máu vận chuyển thông tin, tài liệu thông suốt từ nội đô Sài Gòn ra tới chiến khu, chưa một lần đứt đường dây dù trong giai đoạn gian khổ, ác liệt nào. Cụm tình báo có bí số H.63, được tuyên dương Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân từ năm 1970, khi miền Nam còn chưa hoàn toàn giải phóng.

Những câu chuyện sau đây kể về phần nổi trong tảng băng chìm dày, về những chiến công, hy sinh của những người hoạt động trên mặt trận thầm lặng: Tình báo quân sự, với niềm tin cống hiến “Đảng và nhân dân sẽ công bằng chấm công, khi hy sinh”.

(http://www.lichsuvietnam.vn/images/stories/anhtulieu/phongsukisu/huyenthoai/images1389411_PhamXuanAn2.jpg)
Phạm Xuân Ẩn tại Mỹ (1957-1959). Ảnh tư liệu.

Cuộc sống luôn có những điều kỳ lạ. Giữa gian nan, ta tìm thấy bạn. Giữa chiến tranh, ta thấy lòng trung thành. Trong chiến tranh Việt Nam có những anh hùng tình báo gắn kết với nhau bởi những điều... không thể lý giải. Tổ quốc có một Phạm Xuân Ẩn - người anh hùng có cái tên như cuộc đời (1).

Còn Phạm Xuân Ẩn lại có một người bạn - người đồng đội cũng có cái tên như cuộc đời như thế: Nguyễn Thị Mỹ Nhung - người đẹp giữa đất Sài Gòn...    

Chuyến trở về bão táp

Ngày 10/10/1959, trên chuyến bay từ Mỹ về Sài Gòn có một thanh niên còn rất trẻ, vừa tốt nghiệp 2 năm du học báo chí tại California. Anh trở về với tâm trạng ngổn ngang: Mình là ai? Ai đã biết về mình? Liệu có chiếc còng tay hay họng súng nào chào đón?.

Khi máy bay vừa hạ cánh, anh tận mắt thấy chiếc xe bịt bùng của an ninh quân đội chế độ Sài Gòn hú còi trên đường băng Tân Sơn Nhất. Chiếc xe dừng sát chân cầu thang máy bay, đưa lên xe... một người đàn ông trẻ khác. Chỉ đến khi mọi hành khách đi rồi, anh mới từ từ đặt chân xuống Tổ quốc.

Thấy người nhà ra đón, thấy nụ cười của mẹ và em trai, lúc bấy giờ anh mới thở phào "tạm ổn".

Người thanh niên trẻ có nụ cười tinh nghịch ấy, về sau, đã viết nên một huyền thoại mẫu mực về một điệp viên chui sâu trong lòng địch, là cơ cán đi sâu thường được biết tới với cái tên Phạm Xuân Ẩn.

Nhưng câu chuyện này không chỉ kể về vị thiếu tướng tình báo huyền thoại của Việt Nam mang tên Phạm Xuân Ẩn, có tên thật là Trần Văn Trung (Hai Trung)…

Câu chuyện con két và con chó xù

Năm 1957, Hai Trung rời Sài Gòn, mang theo một mệnh lệnh: "Sang Mỹ, học thật giỏi. Phải học Mỹ, hiểu Mỹ, mới đánh Mỹ tốt được". Ngành học được chọn là báo chí, nghề duy nhất thời bấy giờ chưa có người Việt Nam nào được đào tạo tại Mỹ.

Ngoài ra, anh học tất cả mọi thứ để có thể hiểu Mỹ, sống như Mỹ, trở thành một thứ "Mỹ con" (thuật ngữ dùng để gọi những người được Mỹ đào tạo và nâng đỡ thời bấy giờ ở miền Nam Việt Nam, khi người Mỹ chính thức hất cẳng người Pháp năm 1954 để can thiệp vào Việt Nam) như kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội. Anh còn cố công học từ cách nhảy đầm thật ngọt cho tới việc... chửi thề sao cho thật giống Mỹ.

Cuối năm 1959, khi vừa hoàn thành nửa chặng đường (dự kiến khoá học kéo dài 4 năm), Trung nhận được bức thư nhà của người em trai, kể đại ý: Có 2 anh em nhà nọ vào rừng, người em bị quái vật bắt. Người anh thương em quay trở lại tìm, bị quái vật bắt nốt. Cả con chó và con két, vốn là vật nuôi thân thiết của 2 anh em, cũng chung số phận.

Bức thư gửi vào dịp lễ Phục Sinh, và Trung phải đoán mất mấy ngày mới nhớ ra: Người chỉ huy trực tiếp của mình, bí danh "anh Ba", từng được ba Trung cho 1 con két và 1 con chó xù về làm quà cho con gái, đã bị bắt. Người chỉ huy khác, Trung thường gọi là "anh Hai", cũng đã bị cầm tù.

Mãi về sau, trong tự thuật của mình, Hai Trung nhớ lại: "Lúc bấy giờ, Trung thật sự hoang mang. Địch đã biết tung tích của mình chưa? Các anh bị bắt có khai ra mình không? Địch sẽ triệu hồi mình về nước để bắt, hay bắt ngay tại bên này? Hay chúng sẽ chờ mình về, rồi theo dõi bắt trọn ổ?...".

Hàng loạt câu hỏi đau đáu theo Trung cho đến khi hoàn thành 3 tháng thực tập tại các toà soạn báo lớn ở Wasshington DC, lấy vé máy bay lên đường về Sài Gòn. Trước đó, anh đã tính tới trường hợp đi qua Canada hoặc Mexico, từ đó qua một nước thứ ba (Pháp) rồi tìm đường về Hà Nội.

Tuy nhiên, lòng trung thành tuyệt đối của anh vào Đảng, vào nhân dân và vào những người đồng đội đã giúp anh có thêm bản lĩnh vững vàng. Được tôi luyện ngay trong lòng địch khi còn ở Việt Nam, được thử lửa trong môi trường đầy hấp dẫn trên đất Mỹ, trách nhiệm của một người lính đã thôi thúc anh trở về: "nếu bỏ trốn là đào ngũ", "nếu bỏ cuộc thì bao nhiêu công lao của tổ chức gây dựng sẽ đổ sông đổ bể hết".

Hơn thế nữa, với lòng tin tuyệt đối vào tình đồng chí thuỷ chung, “các anh chỉ huy sẽ không bao giờ khai ra mình", cộng với việc phân tích tình huống, diễn biến qua trao đổi thư nhà, Hai Trung đã quyết định "trở về".

Một quyết định dựa trên tất cả lòng tin vào những người đồng chí, dựa trên sự hy sinh thầm lặng của đồng đội mà mãi về sau đã được khẳng định: Đó là niềm tin tuyệt đối đúng.

Thâm nhập ổ sói

... Chỉ trong vòng 1 năm từ khi đặt chân xuống sân bay Tân Sơn Nhất, Hai Trung nhanh chóng xác lập các mối quan hệ nguồn tin trên tư cách là nhà báo đầu tiên được đào tạo từ Mỹ về, theo con đường tự túc.

(http://www.lichsuvietnam.vn/images/stories/anhtulieu/phongsukisu/huyenthoai/images1389417_PhamXuanAn1.jpg)
Ông Phạm Xuân Ẩn và tấm thẻ nhà báo của mình từ năm 1965 - Ảnh do Hãng AP chụp năm 2000.

Việc đầu tiên của Trung sau khi về nước là tiếp xúc với Việt Tấn Xã, cơ quan do Nguyễn Thái (Thái "trắng") đứng đầu. Thái "trắng" vốn từng làm báo tại Mỹ, nhưng quan trọng hơn, ông ta là một trong số bốn người được Tổng thống đương nhiệm của chính quyền Sài Gòn lúc bấy giờ là Ngô Đình Diệm "thương như con" (dù Ngô Đình Diệm không lập gia đình), dìu dắt từ bên Mỹ về để giao trọng trách.

 

Nhưng có một điều bất ngờ mà phải đến sau khi cuộc đảo chính của lính dù cuối năm 1960 do Nguyễn Chánh Thi cầm đầu, Hai Trung mới phát hiện ra: Hoá ra Thái "trắng" làm việc cho CIA (Cơ quan tình báo Trung ương Mỹ), và là một trong số những nhân vật giấu mặt trong cuộc đảo chính "cảnh cáo" gia đình “cha nuôi” Diệm - Nhu. Bàn tay của CIA đã thò vào và thao túng giới chức Sài Gòn ngay từ rất sớm.

Tuy nhiên, biên chế của Việt Tấn Xã không cho phép Thái "trắng" tiếp nhận Trung (dưới cái tên Phạm Xuân Ẩn). Thái "xui" Trung đến gặp Trần Kim Tuyến - Giám đốc Sở nghiên cứu Chính trị Xã hội của Phủ Tổng thống, cơ quan mật vụ của Diệm - Nhu.

Trung  lại thông qua Lê Văn Thái, phụ tá của Tuyến, để tiếp xúc với nhân vật từng có quan hệ từ trước với mình, nhưng đã quá lâu rồi chưa gặp mặt. Kênh tiếp theo nữa để tác động là The Asia Foundation (Cơ quan Văn hoá Á châu), tổ chức tình báo ngầm của Mỹ, từng giúp Hai Trung khi xin giấy tờ đi du học.

Rốt cuộc, 1 tháng sau khi từ Mỹ trở về, Hai Trung đã chính thức trở thành nhân viên biệt phái của Biệt bộ phủ Tổng thống, làm việc tại Việt Tấn Xã (giúp Thái “trắng” quản lý 4 nhân viên của Tuyến đi biệt phái tình báo dưới hình thức làm nhà báo nhưng quanh năm không viết bài nào), trao đổi công việc trực tiếp với Lê Văn Thái, Trần Kim Tuyến.

Tới tháng 10/1960, Trung kiêm nhiệm thêm công việc thứ ba: Trở thành thông tín viên cho hãng Reuters, chi nhánh tại Sài Gòn.

Tròn 1 năm trở về, Hai Trung - Phạm Xuân Ẩn đã chính thức đặt dấu ấn lên làng báo Sài Gòn, với hàng loạt nguồn tin từ Sở nghiên cứu Chính trị Xã hội của Trần Kim Tuyến; The Asia Foundation; làm thêm cho tờ nguyệt san “Quê hương" do Tuyến tổ chức; làm việc cho Việt Tấn Xã; quan hệ với Hội cựu sinh viên Việt Nam ở Mỹ (The American University Alumni Association) mà Đại sứ Mỹ tuần nào cũng mời đến nhà chơi để giúp đỡ; một số sỹ quan có ảnh hưởng trong chế độ Diệm; phòng Thông tin của Anh và nhân viên toà đại sứ Anh...

Khi đã "chắc chân" trong hàng ngũ địch, Hai Trung bắt đầu tự đi tìm lại tổ chức mà ông đã mất liên lạc từ lâu. Biết là nguy hiểm, vi phạm nguyên tắc, nhưng với Trung lúc bấy giờ, đó là sự lựa chọn duy nhất. Và người Trung chọn, là chị em Tám Thảo...

Trong di cảo còn lưu giữ lại đến giờ, Phạm Xuân Ẩn đã dành hẳn những dòng viết đầy trang trọng cho người phụ nữ ấy: Năm 1960, Tám Thảo (Mỹ Nhung) chính là người đã móc nối cho Hai Trung (bí số 2T) trở lại với tổ chức. [...] Đến sau này, khi phải chiến đấu âm thầm trong lòng địch, đôi lúc vì quá cô đơn giữa kẻ thù, Hai Trung đã tự ý tìm đến gia đình cô, để được nói chuyện, được sống thật và được cân bằng lại chính mình.
 
Tám Thảo hay Mỹ Nhung: Cô là ai mà nhà tình báo lỗi lạc Phạm Xuân Ẩn dành trọn niềm tin đến như vậy?  

Nguồn: http://www.lichsuvietnam.vn/home.php?option=com_content&task=view&id=1417&Itemid=68


Tiêu đề: Re: Cụm tình báo H.63 anh hùng
Gửi bởi: Mig21Bis_1 trong 24 Tháng Mười Một, 2011, 12:27:33 pm
Kỳ 2: Tiểu thư Thành đô sống như... tiểu thuyết

Đứng ở góc nhìn giai cấp và lý tưởng, không ít người đã từng băn khoăn hỏi: Tại sao một tiểu thư con nhà tư sản, đẹp và giàu có như Mỹ Nhung (Tám Thảo) lại xuất hiện trong cuộc chiến tranh này?
 
Nếu hiểu chiến tranh dưới góc độ ý thức hệ giai cấp: Cộng sản – Tư bản, thì rõ là giai cấp mà cô xuất thân hoàn toàn xa lạ với giai cấp công nông. Người công nhân, nông dân đấu tranh để giành cơm no, áo ấm, độc lập dân tộc và công bằng xã hội, để có cuộc sống tốt đẹp hơn. Còn sự hy sinh của Tám Thảo và gia đình cô trong cuộc chiến này lại là một lát cắt khác mà không phải học giả nào cũng có thể lý giải được.

"Hoa" truyền đơn

Chuyện về cô khó có thể bắt đầu bằng hình ảnh nào khác ngoài một bức tranh về người con gái đẹp bước ra từ nhung lụa.

(http://www.lichsuvietnam.vn/images/stories/anhtulieu/phongsukisu/huyenthoai/images1390115_thao2.jpg)
Mỹ Nhung (Tám Thảo) thời trẻ - Ảnh: Tư liệu gia đình


Là con một gia đình tư sản giàu có ở Sài Gòn, ngay từ bé, Mỹ Nhung chẳng phải làm gì, chỉ biết học, chơi và xem tiểu thuyết. Cô mê những con người trong thế giới chữ nghĩa, mê những truyện ngắn đăng báo hằng tuần của Thế Lữ, mê tiểu thuyết của các nhà văn Tự Lực Văn Đoàn.

Những câu chuyện về một lớp thanh niên trí thức cứ trăn trở tìm đường làm cách mạng lôi cuốn cô suốt một thời thiếu nữ. Cô đọc chỉ để... chơi. Nhưng ai dè, chơi rồi thành thật. Cái đẹp, cái bi của những cuốn tiểu thuyết anh hùng rốt cuộc lại vận vào chính cuộc đời cô.

Năm 1948, tiểu thư Mỹ Nhung theo gia đình rời Sài Gòn về Vĩnh Long kháng chiến. Khi ấy cô mới 16 tuổi, chưa từng biết nấu nướng, chỉ mê sách, điện ảnh và hoa. Thế nên trong hành trang chiến đấu, vũ khí của cô chỉ là... tiểu thuyết.

Hàng ngày, cô bé Nhung được tận mắt chứng kiến cảnh các chị bên hội phụ nữ đi rải truyền đơn. Trước mỗi lần “xuất trận”, các chị đều kín đáo đặt truyền đơn lên một góc xe hơi, đợi đến khi xe nổ bánh, gió thổi bạt lại làm tung tròn những lá truyền đơn lên không trung rồi rụng xuống lả tả. Cô nhìn mà cứ mê đi vì cảnh rải truyền đơn... “đẹp hơn cả tiểu thuyết!”.

Mê quá rồi, cô nằng nặc đòi theo, nhưng đều bị các chị gạt phắt đi vì “còn con nít”. Các chị biết giải thích thế nào cho bé Mỹ Nhung hiểu đây, rằng đằng sau những “chùm hoa” truyền đơn đó là đòn roi, là trừng phạt, là tù đày đang giăng lưới?

Phải đến sau này, khi đã thực sự trải qua ranh giới khốc liệt giữa cái sống và cái chết, cô mới hiểu rằng khoảnh khắc “đẹp hơn tiểu thuyết” ấy chỉ là phút giây thăng hoa tột đỉnh của một chuỗi dài gian nan, nguy hiểm đến chết người.

Thiếu nữ Sài Gòn trên chiếc xuồng hoa

Không được đi rải truyền đơn, song Mỹ Nhung vẫn không chịu lùi bước. Nhân lúc có người chèo đò ngang sông, cô liều nhảy xuống xin quá giang để được đi “chiến đấu”. Bà cô bắt đi lên, nhưng cô nhất định ở lại và tìm kế... trốn. Mãi rồi cũng lần mò được ra chiến khu, cô tiếp tục tự đi tìm tổ chức.

(http://www.lichsuvietnam.vn/images/stories/anhtulieu/phongsukisu/huyenthoai/images1390117_thao3.jpg)

Tại đây, sau khi tìm được người chị gieo “chùm hoa” truyền đơn cũ, cô xin được một công việc rất vinh quang của tuổi 16. Đó là hằng ngày, bé Mỹ Nhung phải tập... dậy sớm và học bơi xuồng. Sướng quá, cô tiểu thư vốn quen được chiều chuộng gật đầu nhận ngay.

Thế là từ đó, cứ sáng sớm, cô lại đẩy xuồng ra giữa dòng sông, tập bơi, tập lái. Nhưng với cô, chèo xuồng khó đến độ cô toàn lóng ngóng để nước tràn vào trong. Dưới ánh nắng lung linh, xuồng của cô cứ quay tròn trên mặt nước. Chẳng biết làm sao, cô đành ghé tạm bên những bụm hoa trôi, vừa để neo xuồng tát nước, vừa tranh thủ... hái hoa rồi chất đầy lên khắp xuồng.

Đến khi biết chèo rồi, cô nhận thêm nhiệm vụ đưa cán bộ qua sông. Cứ mỗi khi nghe tiếng gọi “Mỹ ơi” (tên gọi thời ở chiến khu), cô lại tất bật đẩy xuồng ra giữa dòng đón cán bộ. Ở đây, cô đã gặp một con người mà đến tận bây giờ, cuộc đời của ông vẫn là kho bí mật chưa tiết lộ.

“Cuộc đời tôi có nhiều cái may mắn, thuở bé đã được gặp một trong những anh hùng tình báo vĩ đại nhất Việt Nam, lớn hơn thì làm đồng đội với chính họ: anh hùng Phạm Xuân Ẩn, anh hùng Tư Cang...”.

Những lần gặp gỡ của cô chỉ là khoảnh thời gian đưa người sang sông, nhưng đến tận bây giờ, khi chiến tranh đã qua thêm nửa cuộc đời nữa, ấn tượng của cô về người cán bộ đó vẫn còn nguyên vẹn.

“Buổi sáng đầu tiên đưa anh đi, nhìn anh cười, tôi tin anh ngay lập tức. Anh không đẹp, mắt lé, da ngăm ngăm, nhưng nụ cười của anh thì luôn nói với mọi người rằng, anh là người tốt”.

Thế rồi sáng nào cũng vậy, ông được cô bé Mỹ Nhung chở đi trên chiếc xuồng bé xíu chất đầy hoa. Đến khi chiều xuống, ông trở về, trên tay luôn là một bó hoa rừng nho nhỏ. Cô không biết ông đi đâu, làm gì, nhưng nhìn là biết chặng đường của ông dài tới cỡ nào, bởi khi được tặng cho cô thì bó hoa đã rủ héo.

Nhận hoa, cả cô và ông cùng cười. Những bông hoa ấy sau này cứ cuộn hương đi theo cô trong suốt hành trình bí mật. Nó giống như sợi dây nối thiêng liêng giữa những người đồng đội: họ thậm chí có thể tìm thấy nhau, nhận ra nhau chỉ trong linh cảm. (Trong các loạt bài tiếp theo, VietNamNet sẽ tiếp tục công bố những bí mật về chân dung và tầm vóc của người anh hùng vĩ đại này).

Hai năm sau, khi vừa tròn 18 tuổi, cô được kết nạp Đảng. Cũng trong năm đó, ba cô trở thành Đảng viên. Nhớ lại giây phút biết tin ba cũng vào Đảng, cô vẫn cười tinh nghịch. “Ông cụ theo lễ giáo nhà Nho, rất nghiêm khắc nhưng cũng rất dân chủ với các con. Ngày ba cô được kết nạp, cô cứ chọc ba hoài, vì ba con lại cùng một năm tuổi Đảng”.

Ba cô, dù đứng trong hàng ngũ tư sản, nhưng ông chưa bao giờ quên nói với các con về quê hương, về dân tộc, về những người cùng khổ. Với cô, ông là hình mẫu lý tưởng còn trên cả tiểu thuyết, bởi ông luôn hướng cô đi theo những con đường thiện trên đời.

Đường về với Cách mạng

Những năm đầu 1940, đất Sài Gòn rất quen thuộc với tiệm vải Tân Mỹ. Chủ cửa hàng, ba cô – ông Nguyễn Đăng Phong – vốn là người Kinh Bắc. Sau khi đưa cả gia đình vào Nam lập nghiệp, chỉ trong một thời gian ngắn, lòng đại hiệp và khả năng kinh doanh nhanh nhạy của ông đã biến Tân Mỹ thành một thương hiệu có tiếng thời bấy giờ.

Ngày đó, gia đình cô sống cạnh nhà hai “đại gia” nổi tiếng - một người Hoa, một người Ấn - trên đường Gia Long (Lý Tự Trọng ngày nay). Khi hè sang, ba mẹ cô thường đưa các con về “nhà mát” ở Bạc Liêu chơi. Gọi là “nhà mát” bởi đó là nhà chỉ để... nghỉ mát. Căn nhà nằm ngay cạnh tư dinh của ông Hội đồng Trạch – gia đình bên chồng của “người đẹp Tây Đô” Lâm Thị Phấn.
 
(http://www.lichsuvietnam.vn/images/stories/anhtulieu/phongsukisu/huyenthoai/images1390119_thao1.jpg)
Gia đình Tám Thảo

Sống giữa toàn các bậc đại gia và những người ngoại quốc giàu có, gia đình cô rất hiểu cái màu ẩn phía sau đồng tiền. Thế nên ba mẹ cô luôn hướng ngược về những người đồng bào đói khổ.

Mỗi khi vợ chuẩn bị sinh, ông lại đưa bà về Bắc để cho các con được chào đời và được ngấm cái hồn thiêng của quê cha đất tổ. Chính vì thế, đến bảy mươi năm sau, các con ông, cứ ai có dịp ra Hà Nội lại nhất định phải về thăm quê cũ, dẫu cho ở đó chỉ còn vài mảnh ký ức rất xa xăm.   

Năm 1945, nghe theo lời kêu gọi của cụ Hồ, mẹ cô góp toàn bộ đồ nữ trang bằng vàng cho cách mạng. Đến khi Tây về (23/9/1945), gia đình cô phải tản cư vào Vĩnh Hưng, giáp với Cần Thơ. Biết nhà cô giàu có, ba má quan hệ rộng, quen biết từ tỉnh trưởng cho tới địa chủ nên tụi quan Tây treo giá 5.000 đồng để kiếm ba cô về theo chúng.

Ngày đó, cô bé Mỹ Nhung còn nhỏ, đâu biết 5.000 là giá làm sao, chỉ nhớ khi em cô đòi ăn khoai lang, má liền cho 1 hào. Bé em mang 1 hào đi đổi lấy 1 củ khoai lớn mang về, khiến cô bán hàng phải sấp ngửa đuổi theo để... thối lại tiền.

Nhưng tới năm 1946, trên đường về Sài Gòn trị bệnh, ba cô bị chỉ điểm bắt. Biết tính ông cụ ngang tàng, không chịu luồn cúi nên quan Tây nghĩ ra một chiêu độc để moi tiền. Chúng lôi người bà con của gia đình ra đánh cho hộc máu mũi ngay trước mặt ông. Thương quá, ba cô liền nộp 12.000 đồng tiền Đông Dương để chuộc. Còn với những người ở chung, hễ cứ ai bị mất gì thì ba má cô lại đền giúp.

Đến khi cạn túi, ba cô đành trở về Bắc Ninh cùng hai cô con gái út. Mỹ Nhung và các anh chị khác tá túc tại Vĩnh Long với người họ hàng. Cái duyên đưa cô tới Vĩnh Long để làm nghề tình báo bắt đầu từ những chuyện gập ghềnh như vậy.

"Tổ Quốc là trên hết"

Sau này, trong những ngày ở chiến khu, cô thiếu nữ Sài Gòn đã rung động trước một người lính cũng mê văn học không kém. Thời ấy, “thơ ca thúc đẩy sự nhiệt huyết của tôi nhiều lắm”. Ở chỗ cô, ai cũng thuộc lòng khổ thơ đầu của Tố Hữu:

“Đời cách mạng từ khi tôi đã hiểu
Dấn thân vô là phải chịu tù đày
Là gươm kề cổ súng kề tai
Là thân sống chỉ coi còn một nửa”

Nhưng thơ ca thôi cũng không đủ làm cho chiến tranh dừng bước. Yêu nhau không được bao lâu, ông phải đi tập kết. Ngày ông lên đường, cô hớt hải chạy đi tìm. Song nỗi trớ trêu của tiểu thuyết cũng chẳng từ cô: khi Mỹ Nhung vừa đến thì ông lại vừa đi.

Hai người không kịp nói với nhau dù chỉ một lời tạm biệt, để rồi suốt gần 20 năm sau đó, hình ảnh của ông cứ không thôi ám ảnh trong cô.

Năm 1954, khi Hiệp định Geneve được ký kết, cô liền xin tập kết ra Bắc để gặp người yêu. Nhưng ông Mười Hương - chỉ huy của cô bấy giờ - thuyết phục cô ở lại, bởi người thầy tình báo ấy rất hiểu, trong cô còn có một tình yêu lớn nữa: tình yêu Tổ Quốc.

Ông còn hiểu rõ, nếu cô ra đi, cuộc chiến trong Sài Gòn sắp tới có thể sẽ khốc liệt hơn, bởi không dễ gì tìm ra một gia đình tư sản yêu nước ngay trong nội thành như vậy. “Em mà ra Bắc, không ai liên lạc được với gia đình thì cơ sở mất một căn cứ tốt”.

Nghe vậy, cô đắn đo một lúc rồi trả lời: “Vâng, thế em ở lại. Tổ Quốc là trên hết”.

Nguồn: http://www.lichsuvietnam.vn/home.php?option=com_content&task=view&id=1417&Itemid=68


Tiêu đề: Re: Cụm tình báo H.63 anh hùng
Gửi bởi: Mig21Bis_1 trong 25 Tháng Mười Một, 2011, 12:25:32 am
Kỳ 3: Đồng đội, duyên phận và những ám ảnh cuộc đời


Rời chiến khu, Mỹ Nhung về Sài Gòn, vừa giúp cha mẹ khôi phục cửa hàng, vừa làm căn cứ cho cách mạng. Tại đây, cô được chỉ huy giới thiệu với nhà tình báo Phạm Xuân Ẩn (Hai Trung), trở thành học trò của ông, để rồi từ đó, khi ông mới từ Mỹ về, cô lại là người đưa ông trở lại với tổ chức. Tham gia vào lưới, Mỹ Nhung đổi tên thành Tám Thảo. Tình bạn, tình đồng đội gắn bó đã giúp cô vượt qua nhiều hiểm nguy để làm giao liên an toàn cho lưới H63, ngay giữa nội thành Sài Gòn.

Hai mối duyên không thành

Gia đình Tám Thảo và Hai Trung quen nhau từ sớm. Biết nhau từ thuở ngoài 20 nên chị em cô gắn bó với Hai Trung rất sâu sắc. Ông vừa là chỉ huy của chị em Mỹ Nhung - Mỹ Linh, vừa là thầy dạy Anh văn, lại vừa là người anh lớn.
 
(http://www.lichsuvietnam.vn/images/stories/anhtulieu/phongsukisu/huyenthoai/images1390559_thao2.jpg)

Mỹ Nhung về Sài Gòn, cô được chỉ huy giới thiệu với nhà tình báo Phạm Xuân Ẩn (Hai Trung), trở thành học trò của ông, để rồi từ đó, khi ông mới từ Mỹ về, cô lại là người đưa ông trở lại với tổ chức - Ảnh: Tư liệu

Sau một thời gian “thầy Hai Trung” hướng dẫn, chị em cô nói tiếng Anh rất khá, đặc biệt là cô em Mỹ Linh. Chính vì thế, để phục vụ cho cách mạng lâu dài, tổ chức từng định đưa Mỹ Linh đi học ở Anh, còn Hai Trung đi học ở Mỹ. Nhưng thời gian xa cách 4-5 năm khiến Hai Trung hơi ngại ngần.

Năm 1957, trước khi quyết định sang Mỹ, Hai Trung còn tìm đến nhà Mỹ Nhung để xin ý kiến ba cô, bởi ba cô cũng là người rất có ảnh hưởng tới Hai Trung. Chẳng rõ ông đến có phải để mong chờ một ánh mắt nào không, chỉ biết rằng đã có thời, sự thân thiết của ông với gia đình đã khiến cho người chỉ huy Mười Hương phải gợi ý: Nếu được thì cứ làm... rể gia đình luôn.

“Tôi biết anh Ẩn thương em Mỹ Linh lắm, nhưng Mỹ Linh không chịu”, cô nhớ lại. Cô bé kế sau của cô muốn được vào chiến khu, tự mình đóng góp cho cách mạng chứ không muốn trở thành cái bóng của bất kỳ ai.

Sau này, khi đã trở thành ký giả nổi tiếng, ông Ẩn vẫn thường xuyên đến thăm gia đình Mỹ Nhung dưới vỏ bọc là đi... tán các tiểu thư trong nhà, vừa để giao tài liệu, vừa có thêm bạn chuyện trò.

Thế nên duyên chị chưa trọn thì lại kéo theo duyên em không thành. Kế sau Mỹ Linh là cô Lan. “Bé Lan thì thương anh Ẩn dữ, vì anh là người tốt, lịch thiệp mà lại giản dị, chẳng bao giờ tính toán tiền nong”. Nhưng ngày đó Lan còn quá nhỏ, Hai Trung chỉ thương như em gái mà thôi.

Năm 1962, Mỹ Linh vào rừng, trực tiếp làm người dịch tài liệu cho căn cứ miền. Cô được đổi tên thành Chín Chi, bởi chị cô - Mỹ Nhung - đã được đổi tên thành Tám Thảo.

Cũng trong năm đó, Hai Trung lập gia đình. Lan buồn lắm, nhưng dẫu mỗi người mỗi nơi thì tình cảm của ông với gia đình vẫn còn nguyên vẹn.   

Người đẹp trên tuyến lửa

Năm 1960, trước khi phong trào Đồng khởi bắt đầu, trung ương yêu cầu cục tình báo tìm hiểu các chiến lược đối phó của địch để đề phòng bất trắc. Lệnh được truyền đi, ở trong nội thành, Hai Trung nhanh chóng tìm ra tài liệu và chụp thành 20 cuộn phim, giao cho Tám Thảo.
 
(http://www.lichsuvietnam.vn/images/stories/anhtulieu/phongsukisu/huyenthoai/images1390561_thao3.jpg)
Mỹ Nhung thời trẻ- Ảnh: Tư liệu

Tha thướt trong tà áo dài, Tám Thảo bắt xe ra ngoại thành chuyển tài liệu. Ở đó, cô liên lạc được với bà Bảy Huê – cũng là con một nhà tư sản nổi tiếng. Hành trình của cô không quá dài, nhưng để vượt được quãng đường nhỏ từ nội thành ra ngoại ô thì thực sự khủng khiếp.

Lần nào, đi đâu, cô cũng đều phải vượt qua chỗ bót canh của lính. “Tôi rất sợ cái chỗ đó, vì đã đi qua thì chết là chuyện bình thường”.

Nỗi nguy hiểm để có thể chết chính là ở chỗ, nơi cô tới toàn những nhà nông dân, mà theo lệ thường thì nông dân chỉ mặc áo bà ba. Một mình cô, áo dài tóc vấn, ra giữa chốn đồng không mông quạnh, hẳn phải có vấn đề. Cô cũng có thể mặc áo bà ba, nhưng dáng vẻ của cô thì lại đài các quá, dùng không hợp.

Hơn thế nữa, nếu mặc bà ba ra khỏi thành thì khi về cô sẽ khó trở lại, bởi tiểu thư Sài Gòn trở về từ ngoại ô trong chiếc áo bà ba thì có nghĩa là sao? Vậy nên mỗi lần đi liên lạc, cô lại trở thành tâm điểm dò xét của tụi lính. “Nếu mất bình tĩnh là chết như chơi”. Nhưng trí thông mình và khuôn mặt thánh thiện đã giúp cô nhiều lần thoát chết.

Suốt từ năm 1960 đến năm 1966, cô đi lại như con thoi từ Sài Gòn xuống Củ Chi, Hoóc Môn, Phú Hòa Đông, Tây Ninh rồi lại về thành phố. Những tài liệu mà cô chuyển ra đều do Hai Trung khéo léo lấy từ trong lòng địch, như tài liệu về những kế hoạch đối phó trước các cuộc tấn công của ta, tài liệu của Mỹ hướng dẫn cho quân đội Cộng hoà về kỹ thuật và thủ thuật chống nổi loạn, tài liệu liên quan đến Chiến tranh Cục bộ năm 1965...

Có lần, trên chuyến xe đò đi ra cứ, cô cùng tất cả hành khách bị chặn lại ngay tại bót canh. Nhanh trí, Tám Thảo tự tách khỏi đoàn người đang phải khám xét tùm lum, chạy ra đứng nói chuyện với viên chỉ huy cao nhất.

Chuyện trên trời dưới biển, chuyện văn chương thi phú, chuyện về “người dì tư sản” ở ngoài mà cô phải đến thăm khiến cho viên chỉ huy cứ phải cười ngoác miệng. Thế là, trong khi cả chiếc xe bị lục soát tứ tung thì cô cùng chiếc giỏ tài liệu lủng lẳng trên tay lại an toàn tuyệt đối, ngay bên cạnh... viên chỉ huy tít mắt cười. Đến khi lục soát xong xuôi, tụi lính cho xe lên đường, cô cũng nói lời tạm biệt.

Nhưng chưa hết, bỗng nhiên ngay lúc ấy, một tên lính gọi giật lại: “Ủa, cô kia, xét chưa?” Cô mỉm cười rất tươi, quay sang viên chỉ huy bảo: “Chưa, nói chuyện với anh vui làm tôi quên khuấy mất. Anh xét đi!” Nói rồi, cô thẳng tay chìa cái giỏ hàng “chết người” về phía chúng. Viên chỉ huy vội xua tay lắp bắp: “Thôi, cô lên xe đi. Cô đi đường cẩn thận đó”.

Vẫn bình tĩnh nở thêm một nụ cười tạm biệt, cô nhẹ nhàng bước lên xe, tiếp tục cuộc hành trình ngàn cân treo sợi tóc. Cô biết, đằng sau cô là rất nhiều chiếc xe đang chờ xét. Nếu cứ lục soát kỹ, tụi lính cũng oải vì lấy đâu ra thời gian. Hơn nữa, làm cái nghề “cú vọ” này, bà con trên xe ai chẳng ghét. Cô hiểu điều đó nên căn giờ “buôn chuyện” chính xác và tỉnh táo đến mức không để lại chút nghi ngờ.   

Biết mình thông minh nhưng cô cũng không dám đùa với “lửa”, bởi trong tay cô không chỉ là tính mạng của mình mà còn là số phận của cả gia đình, của “anh Ẩn” và của những người khác. Vì thế, những lần sau đó, cô đã rút kinh nghiệm hơn.

Mỗi khi lên xe “thăm bà dì”, theo lời khuyên của chỉ huy và cả... ông chủ xe đò, cô không bao giờ chọn ngồi ghế đầu nữa. Đến khi qua trạm gác, cô cũng đều ý tứ... quay mặt đi, nếu không, theo lời các ông, “thấy cô đẹp quá, tụi lính bắt dừng xe lại để... hỏi han thì phiền”.

Ám ảnh một ánh mắt

Một lần, đích thân ông Ẩn lái xe đưa cô ra ngoài Củ Chi. Trước khi chuyển sang chiếc xe khác để về căn cứ, cô ngoái lại chào tạm biệt người đồng đội chu đáo ấy. Bất ngờ, lần đầu tiên trong đời, cô bắt gặp cái nhìn của ông đầy day dứt. Nỗi băn khoăn về đôi mắt khó tả đó vẫn ám ảnh cô cho đến tận bây giờ.
 
(http://www.lichsuvietnam.vn/images/stories/anhtulieu/phongsukisu/huyenthoai/images1390563_thao1.jpg)
2 chị em Mỹ Nhung và Mỹ Linh tại tư gia tháng 4/2007

Với ông, có những điều cô không bao giờ hỏi, và với cô, có những điều ông cũng không ba o giờ nói. Nguyên tắc nghề nghiệp khiến cho những người bạn, người đồng chí chỉ có thể giao tiếp với nhau bằng linh cảm.

Hôm nay đây, khi ông đã qua đời, mang theo cả bí mật của đôi mắt để trở về với đất, nhưng mấy ai biết rằng, trong cả cuộc đời làm nên những kỳ tích như huyền thoại, đã bao lần ông phải đối mặt với phút giây ân hận với chính mình. Đồng đội của ông – Tám Thảo, Tư Cang, Ba Già, Hai Thương... – chưa bao giờ sợ bước chân vào cõi chết, họ hiên ngang đối mặt với họng súng thù để giữ gìn mạng sống cho ông và cho dân tộc.

Trong những dòng tự thuật về “khuyết điểm” của mình sau này, ông cũng đã tự “sỉ vả” mình không ngớt: chỉ vì không tính toán nên Hai Trung cứ để nguyên phim chưa tráng cồng kềnh, hay đưa hàng chục trang tài liệu cồm cộm không xử lý ra chiến khu, gây biết bao nguy hiểm cho anh chị em giao thông.

Đi giữa hai làn sống chết mong manh, chỉ một chút sơ suất thôi là một con người, thậm chí là một gia đình, phải đổ máu.

Vì lẽ đó, mỗi khi đứng trước những đồng đội của mình, người anh hùng vĩ đại luôn thấy mình quá bé nhỏ. Ông hiểu, chính những dáng người mảnh mai đang đi về tuyến lửa kia mới là những người làm nên chữ “anh hùng” trên ngực áo của con người được phong là “huyền thoại”.



Tiêu đề: Re: Cụm tình báo H.63 anh hùng
Gửi bởi: Mig21Bis_1 trong 25 Tháng Mười Một, 2011, 12:24:11 pm
Kỳ 4: Mỹ nhân của cố vấn Hải quân Mỹ!

Năm 1966, theo yêu cầu của tổ chức, chiến sĩ tình báo Tư Cang - chỉ huy lưới H.63 - được điều vào nội thành hoạt động. Lúc này, gia đình Tám Thảo là sự lựa chọn số một bởi bình phong quá an toàn. Cũng trong năm này, Tám Thảo được lệnh dừng làm liên lạc cho Hai Trung bởi công việc ngày càng phức tạp. Thay vào đó, cô phải tập trung học tiếng Anh, kiếm tấm bằng loại ưu để xin vào làm việc cùng người Mỹ.

Đi vào “cửa tử”

Với vẻ đẹp sang trọng, thông minh và vỏ bọc gia đình giàu có, cô lần lượt vượt qua những vòng thử thách khó khăn, thậm chí cả “chạy tiền” cho sĩ quan cấp dưới, để lọt được vào vị trí phiên dịch cho thiếu tá Tình báo Hải quân Mỹ, cố vấn của Bộ Tư lệnh Hải quân Việt Nam Cộng hoà.

(http://www.lichsuvietnam.vn/images/stories/anhtulieu/phongsukisu/huyenthoai/images1390887_thao4.jpg)
Trong mắt lính Cộng hoà, Mỹ Nhung là kiểu con nhà giàu đi làm để kiếm chồng quan to

Lúc này, nhiệm vụ của cô đã bắt đầu chuyển sang giai đoạn khác. Hàng ngày, cô đến sở, dịch tài liệu ngược xuôi về tin tức tình báo hải quân cho “sếp”. Đến khi Đảng yêu cầu lấy tài liệu ra, để tránh nghi ngờ, nếu tài liệu bằng tiếng Việt thì cô lại dịch sang tiếng Anh rồi mang về nhà cho ông Tư Cang... dịch lại.
Thỉnh thoảng, thời gian cần kíp, cô “cầm tạm” luôn tài liệu về nhà vào đúng giờ nghỉ trưa để cho anh Tư trên lầu chụp. Đến khi phiên làm việc chiều bắt đầu thì tài liệu cũng đã nằm gọn gàng trở lại. Nhiều lúc, gặp những tài liệu không thể mang về, cô buộc phải tự nhớ trong đầu rồi về tóm lược cho chỉ huy lưới.

Cô hoạt động trong suốt thời gian dài mà không để lại một mảy may nghi ngờ nào. Thậm chí, có lần mải nói chuyện say sưa, cô còn sơ ý hỏi viên chỉ huy: “ủa, sao đồng chí nói vậy?”. Cũng may, anh chàng tưởng cô nhại “giọng Việt Cộng” để bông lơn nên không thèm để ý.

Nhiều lần, thấy cô giải thích vanh vách thế nào là “ở trong R” (ở trong rừng, cách gọi của trung ương đầu não), tụi Mỹ rất ngạc nhiên, hỏi “sao cô như Việt Cộng vậy”? Cô thản nhiên trả lời: “Các ông coi kẻ thù là Việt Cộng, tôi làm việc cho các ông thì tôi phải nghiên cứu giùm các ông chứ”.

(http://www.lichsuvietnam.vn/images/stories/anhtulieu/phongsukisu/huyenthoai/images1391071_lo.jpg)
Hai chị em Mỹ Nhung và Mỹ Linh thời trẻ- Ảnh: Tư liệu

Tuy nhiên, bên cạnh cái vẻ phớt Ăng-lê như thế, cô vẫn luôn phải thận trọng để giữ kín bình phong. Thỉnh thoảng, cô còn đi du lịch trong và ngoài nước, khi thật khi giả, để tránh sự nghi ngờ của địch mỗi lúc có chuyện phải vào rừng đột xuất.

Thậm chí, cô còn được ngưỡng mộ là người... chịu chơi, bởi lương tháng có 800 đồng mà dám chi vài ngàn chỉ để đi nghỉ ở Pháp.

Vì lẽ đó, trong mắt lính Cộng hoà, cô là kiểu con nhà giàu đi làm để kiếm chồng quan to, còn trong mắt bà con hàng xóm, cô là kiểu phụ nữ ôm chân Mỹ mơ giấc mộng nhà lầu. Cô biết vậy mà chẳng cần thanh minh, thậm chí còn tỏ ra rất “chảnh” để giữ an toàn.

Chỉ đến khi nào còn lại một mình với ba, cô mới thoả lòng khóc và kể cho ba nghe những gì còn ấm ức, bởi chỉ có ba cô là người thương và hiểu cô nhất. 

Quyền năng của người đẹp

Làm việc ngay trong lòng địch, sơ hở một phút là chết liền, thế nên nguyên tắc đầu tiên của cô là phải sống thật. “Nếu không sống thật thì mình sẽ chết thật”. Chính vì thế, không ít lần cô đập bàn, nổi nóng, thậm chí giang tay tát thẳng vào mặt tên sĩ quan chỉ vì dám nói năng sàm sỡ.

(http://www.lichsuvietnam.vn/images/stories/anhtulieu/phongsukisu/huyenthoai/images1390889_thao5.jpg)
Trong mắt bà con hàng xóm, cô là kiểu phụ nữ ôm chân Mỹ mơ giấc mộng nhà lầu

Cô kể, hồi sau Mậu Thân, có viên sĩ quan Mỹ mới sang nên sợ Việt Cộng lắm. Anh ta dò hỏi ông trung tá trưởng phòng là sao cô giống Việt Cộng vậy, bởi thấy cô nói năng chẳng ra vẻ sợ gì? Ông trung tá gạt phắt ngay: “Trời, tính cô vậy đó, nào có sợ ai. Gia đình cô ấy giàu lắm, đâu cần tiền”. Thế rồi, ông ta tuôn ngay một kỷ niệm “kinh hoàng” về người đẹp.

Bữa đó, ông ta kêu cô làm thêm giờ, nhưng cô không làm. Cô bảo: “Tôi phải về chơi, nghỉ ngơi với gia đình”. Nói kiểu gì cô cũng không nghe, ông trung tá giận lắm, vỗ bàn đánh đốp một cái, quát lên: “Đi làm có thêm tiền, tại sao cô không đi?”.

Cũng không vừa, cô đứng phắt dậy, đập bàn đánh đốp thêm cái nữa, rắn rỏi trả lời: “Ông có ngày chủ nhật của ông, tôi cũng có ngày chủ nhật của tôi. Tôi không cần tiền thêm giờ của ông, tôi cần thời gian ở với ba mẹ”.

Sợ quá, ông trung tá im liền. “Bà chằn này chịu chơi như vậy, không bao giờ có thể là Việt Cộng đâu”. 

Bận khác, một viên trung sĩ coi bảng lương vốn ghen ghét cô vì thấy người đẹp cứ đi chơi hoài mà vẫn được sếp cưng, thậm chí có hôm 9 giờ cô mới tới. Hôm nào mà cửa hàng đông khách, cô còn nghỉ tít luôn ở nhà để giúp mẹ.

Phải chấm công nên anh chàng ức lắm, một hôm chờ đến buổi giao ban mới hất hàm hỏi: “Nè, giờ giấc của cô thế nào đó? Tại sao 9 giờ chưa có mặt, 12 giờ đã thấy mất tiêu. 3 giờ chiều mới thèm tới sở?”.

Cô thản nhiên trả lời: “Sao anh hỏi tôi? Tôi đi thông dịch cho sếp, anh muốn biết thì hỏi sếp tôi đó”. Nói rồi cô quay đi, biết chắc rằng viên trung sĩ chẳng bao giờ dám mở miệng hỏi quan thầy Mỹ. Mà cho dù hắn có hỏi thì cô cũng chắc chắn sếp sẽ bênh cô, bởi cô biết tính ông ta, chỉ cần làm hiệu quả chứ đâu ngồi tính thời gian.

Dần dần, cô càng củng cố hình ảnh về mình: một tiểu thư nhà giàu, đi làm chỉ vì mê Mỹ và thích khoe sắc khoe tài mà thôi. Ai biết đâu rằng, những ngày nghỉ cô không thèm làm thêm là để dành thời gian ra căn cứ, còn những lúc đi muộn về sớm là khi cô phải làm nhiệm vụ đột xuất, hoặc chờ cho người chỉ huy Tư Cang sao chép hết tài liệu để gửi đi cho kịp giờ.

Còn viên trung sĩ, nuôi cơn ấm ức trong thời gian dài, có bữa mới quyết định “trả đũa”. Một hôm, cô phải chuyển một lá thư của sếp sang cho anh chàng. Thấy bàn anh ta để tùm lum bừa bộn, cô hỏi đặt đâu bây giờ.

Anh chàng mới học được non nửa “ngón nghề” của cô nên cũng ra bộ kênh lắm, đáp thọt lỏn “để thùng rác đó”. Lập tức, cô xé toẹt cái bao thơ ra rồi ném thẳng vào thùng rác, nói ngắn gọn: “Tui bỏ đó đó” rồi đóng cửa cái rầm.

Về phòng họp, cô tới gặp thẳng sếp, kể lại chuyện rồi nhẹ nhàng: “Tui xin lỗi, ông vừa ký chưa ráo mực mà tôi đã làm vậy là khiếm nhã”. Viên thiếu tá Mỹ vội xua tay: “Không sao đâu, cô làm vậy là rất đúng”.

Ở bàn bên kia, cô thư ký người Việt kéo vội cô ra góc, thì thầm: “Thôi chị ơi, em làm cho chị cái khác nha, lúc đó chị điên cái đầu hay sao?”. Cô trả lời: “Nó điên cái đầu chứ tao điên à?”. Viên thiếu tá biết cô vẫn đang giận nên xuống giọng: “Cô đừng bực, để đó tôi ký lại cho”.

Xong xuôi, cô lại đem thơ xuống, hỏi: “Bây giờ tôi để đâu?”. Anh ta chỉ tay lên bàn rồi thẽ thọt: “Cô để đâu cũng được”.


Tiêu đề: Re: Cụm tình báo H.63 anh hùng
Gửi bởi: Mig21Bis_1 trong 25 Tháng Mười Một, 2011, 12:31:54 pm
Kỳ 5: Cứu đồng đội bằng cách... chia lửa về nhà


Vừa mới ở rừng ra, người lính đặc công bắn hai tay hai súng bỗng chốc trở thành anh Tư trong gia đình người đẹp. Để tránh bị nhòm ngó, Tám Thảo nghĩ ra cách thỉnh thoảng mời sếp... về nhà chơi. Những chuyến thăm của viên thiếu tá Mỹ tới gia đình nhà tư sản bỗng nhiên tạo thành chiếc khoá an toàn cho ông thiếu tá Việt cộng.
 
Sáng tình báo Việt cộng đưa đi, chiều tình báo Mỹ rước về

Trước ngày cô Tám Thảo xin cho Tư Cang về nhà, ba cô cũng nghĩ ngợi ghê lắm. Trong nhà vốn toàn các cô chưa lập gia đình, tiêu tiền kiểu tư sản, nay tự nhiên lại xuất hiện một anh lính ở rừng về, chưa biết hoạ phúc ra sao.
 
(http://www.lichsuvietnam.vn/images/stories/anhtulieu/phongsukisu/huyenthoai/images1391657_8t2.jpg)
Tám Thảo, người phụ nữ nổi tiếng với việc sáng tình báo Việt cộng đưa đi, chiều tình báo Hải quân Mỹ rước về

Ông cụ vẫn còn nhớ, gần hai chục năm trước đó, ngày cô xin đi vào chiến khu làm cách mạng, sợ ba gặp khó khăn, cô liều bảo: “Con đi vào rừng không có nhà. Nếu ai làm khó dễ ba, ba cứ bảo là con mê thằng nào rồi theo nó bỏ đi Nha Trang, Đà Lạt nha. Vậy nên ba tức chuyện, ba từ con luôn, nói thế cho an toàn”.

Khác với mọi khi luôn gật đầu vì cưng chiều con gái, lần này, ông nhất định không chịu: “Đâu có được, con gái của ba, không bao giờ ba bêu tiếng xấu như vậy. Con cứ đi, để ba ở nhà tuỳ cơ ứng biến”.

Nhưng lần này, câu chuyện lại hoàn toàn ngược lại. Tám Thảo vẫn ở trong nhà, chỉ có điều, thêm một người đàn ông đến tá túc. Ngẫm ra, chuyện đó chẳng có vấn đề gì, tình thương của ông đối với cán bộ đã giúp ông gạt phăng hết ngại ngần.

Về ở với gia đình ông, “thằng Tư” sẽ bớt đi nhọc nhằn, nguy hiểm. Trong khi chiến tranh đang leo thang, tài liệu mật càng nhiều, nếu cứ đi đi về về thì sẽ còn nguy hiểm nữa.

Vậy nên không cần đợi cô thuyết phục, ông gật đầu đồng ý. Với vỏ bọc “anh rể thứ tư” mới trở về, từ hôm đó, cứ sáng ra, “anh Tư” đưa Tám Thảo đi làm. Chiều về, viên thiếu tá Mỹ lại chở cô về tận cửa. Bà con hàng xóm cũng có người tò mò, nhưng tiểu thư Mỹ Nhung nổi tiếng vừa đoan trang vừa kiêu kỳ nên chẳng ai dám lời ong tiếng ve.

(http://www.lichsuvietnam.vn/images/stories/anhtulieu/phongsukisu/huyenthoai/images1391659_IMG_8713.jpg)l
Tiểu thư Mỹ Nhung từng nổi tiếng vừa đoan trang vừa kiêu kỳ đất Sài Gòn là vỏ bọc tốt cho Tám Thảo hoạt động trong lòng địch.

Một bữa, trên đường tới sở, tự nhiên nghĩ ra điều hay, cô kều tay nói giỡn với Tư Cang: “Anh Tư nè, em nghĩ đời mình cũng hay thiệt nghe. Sáng thì thiếu tá tình báo Việt cộng chở honda đi làm, chiều thì thiếu tá tình báo Mỹ xách bỏ lên xe jeep chở về. Anh bảo có ai được như vậy không?”.

Nghe cô cười khanh khách, ông thiếu tá Việt cộng cứ nghĩ mà xót xa. Khi ấy, cô đã gần 40 nhưng vẫn quyến rũ đến chết người. Bao nơi muốn mối lái, vậy mà cô cứ mải mê đi “làm Việt cộng”, chẳng hề tính đến hạnh phúc trăm năm.

Thời đó, có những lúc cũng có người gợi ý, sao hai người ở gần mà không cưới nhau đi, tạo luôn cái vỏ bọc hợp pháp cho an toàn? Nhưng cô chỉ điềm tĩnh bảo: Anh đã có vợ, còn chúng tôi lại chỉ là đồng chí, làm sao có thể yêu nhau theo cái kiểu lửa gần rơm lâu ngày cũng bén được vậy?

Cứ như thế, suốt từ năm 1966, trong ngôi nhà tư sản toàn tiểu thư xinh đẹp, có một ông nông dân chính hiệu ra vào. Với gia đình cô, chưa bao giờ ông là người lạ, dù cho lối sống đã quen kham khổ của ông rất khác xa với gia đình.

Tình quân dân, tình đồng chí lúc này là trên hết, vì có gì lạ đâu: cô và ông đều là người Việt, đều đang chiến đấu cho Nam Bắc một nhà!

Hai phát súng sinh tử

Đêm 31/1/1968, cuộc tổng tiến công Mậu Thân bắt đầu. Đã biết qua từ trước nên cả gia đình đều sẵn sàng chuẩn bị tinh thần.

Trước đó, theo yêu cầu của cấp trên, cô đã kịp chuyển tài liệu bố phòng quân sự tại Bộ Tư lệnh Hải quân ra ngoài căn cứ để làm sơ đồ cho biệt động Sài Gòn tấn công.

Đêm về, trong ngôi nhà bề thế nằm giữa trung tâm thành đô, cô có thể nghe tiếng súng nổ và quan sát những nhánh quân đang di chuyển về phía dinh Độc Lập. Lực lượng mỏng, gặp phải trục trặc ban đầu, đội biệt động Sài Gòn ngay khi vừa tấn công đã gặp phải sự kháng cự quyết liệt.
 
(http://www.lichsuvietnam.vn/images/stories/anhtulieu/phongsukisu/huyenthoai/images1391883_thao2.jpg)
"Tình quân dân, tình đồng chí lúc này là trên hết, vì có gì lạ đâu: cô và ông đều là người Việt, đều đang chiến đấu cho Nam Bắc một nhà!" - hơn 30 năm trước, Tám Thảo đã nghĩ như vậy về thủ trưởng Tư Cang của mình

Rạng sáng ngày mồng 1 Tết, địch được chi viện thêm lực lượng. Các chiến sĩ biệt động phải mở đường máu thoát ra ngoài và cố thủ tại một toà nhà còn đang xây dở. Cuộc chiến giằng co đến vài ngày. Đội biệt động của ta rơi vào tình cảnh nguy cấp. Khắp nơi, lính Cộng hoà bao vây kín cả trên trời dưới đất. Cả lính Mỹ và lính Đại Hàn tăng cường vây bủa.

“Suốt 2-3 ngày liền, hai anh em cứ nằm bò trên gác để theo dõi mà không thấy chiến sĩ nào thoát ra”. Tiếng súng trong toà nhà thì cứ ngày một thưa dần rồi yếu hẳn. Linh cảm thấy đồng đội đang gặp nguy hiểm, cô quyết định: chia lửa cùng anh em.

Nhìn quanh trong số những tên lính đang vây ráp, thấy có cả toán lính đánh thuê Đại Hàn, Tám Thảo giục anh Tư: Bắn!

Nhưng Tư Cang là chỉ huy lưới khi đó. Nhiệm vụ của ông là nằm vùng để chỉ huy và giúp đỡ nhà báo Phạm Xuân Ẩn chứ không phải chiến đấu trực tiếp. Hơn nữa, nếu bị lộ, không chỉ mình ông mà cả gia đình cô sẽ vào vòng tù tội, không chỉ cách mạng mất đi một cơ sở mà công sức gây dựng một lưới tình báo chui sâu leo cao trong lòng địch cả chục năm qua sẽ đổ sụp.

Ông băn khoăn ghê gớm. Nhưng Tám Thảo một mực giục ông: “Sao anh nỡ nhìn đồng đội mình chết? Mọi chuyện em sẽ lo, anh cứ bắn đi”.

Thế rồi, trước máu của đồng đội và nước mắt của cô, người anh hùng có tài bắn hai tay hai súng giương cao khẩu K54. “Đoàng, đoàng!” Hai phát đầu tiên, một tên chỉ huy Mỹ, một tên chỉ huy Đại Hàn ngã gục.

Phản xạ như chớp, Tám Thảo chạy nhanh xuống dưới tầng, chôn luôn mấy viên đạn còn lại cùng 2 vỏ đạn vào đống rác để đề phòng lính kéo đến lục lọi. Xong xuôi, cô cũng kéo luôn ông xuống nhà, giấu ông vào phía sau căn gác xép chứa đầy vải vóc, nơi để tài sản buôn bán của gia đình.

Còn tụi lính, ngay khi nghe tiếng súng nổ, đã hô lên ầm ĩ “có Việt cộng”. Chúng chia người bủa vây khắp nơi, đập cửa nhà cô ầm ầm. Trời tối, cô vừa giả bộ tìm chìa khoá để kéo dài thời gian, vừa nghĩ nhanh cách ứng phó với tụi lính.

Tới khi chúng xộc vào trong thì ba cô cũng đã gọi tất cả 8 người dậy, lấy nước mời chúng uống. Nhìn phong cách gia đình lịch thiệp, lại thêm các cô gái trẻ đẹp, tên chỉ huy bắt đầu hạ giọng. Nhưng chúng vẫn toả đi sục sạo khắp góc nhà. Vừa tìm, chúng vừa quát hỏi để “nắn gân” mọi người.

Nhìn thấy mẹ cô, tên chỉ huy quát lớn: “Bà già, sao lại mặc đồ trắng thế kia?” (vì ngày đó các cụ hay mặc đồ đen). Mẹ cô - do đã chuẩn bị tinh thần từ trước - nên từ tốn trả lời: “Tôi không biết nữa, thích thì mặc thôi”. Nghe câu trả lời không chút bối rối, tên chỉ huy cười bảo: “Tôi giỡn bà già đó” rồi lại tiếp tục ngó nghiêng.

Chỉ đến khi nhìn thấy ảnh ông thiếu tá Mỹ rất đẹp trai mà cô treo đầu giường, hắn mới thật sự hạ nhiệt: “Ủa, ai đây vậy cô?”. “Sếp tôi đó”. Chỉ trong một giây, cô thoáng thấy vẻ bối rối ngại ngần của hắn. Nhìn quanh quất lấy lệ cho xong, tên chỉ huy xin lỗi rồi rút quân về.
 
(http://www.lichsuvietnam.vn/images/stories/anhtulieu/phongsukisu/huyenthoai/images1391663_IMG_8887.jpg)
Suốt từ năm 1966, trong ngôi nhà tư sản toàn tiểu thư xinh đẹp, có một ông nông dân chính hiệu ra vào. Với gia đình cô, chưa bao giờ Tư Cang là người lạ, dù cho lối sống đã quen kham khổ của ông rất khác xa với gia đình - Ảnh chụp tại tư gia Tám Thảo tháng 4/2007

Chỉ đến khi toán lính rút đi, cô mới nhận ra rằng, mình vừa đi qua cõi chết. Sau một hồi im ắng, ông Tư Cang từ trong nơi ẩn nấp bước ra, nghẹn ngào cảm ơn cô cứu mạng. Cô cầm tay ông rồi cứ thế oà khóc.

Bây giờ cô mới thực sự hiểu: Làm tình báo đâu phải bước đi trên nhung hoa, đâu giống như tiểu thuyết mà cô đọc đầu đời. Làm tình báo không bao giờ được mắc lỗi. Nhưng sẽ bi kịch thế nào khi phải nhìn đồng đội chết trước mắt mà không được nổ súng, nhìn đồng bào bị tra tấn dã man mà không được rơi lệ? Trong phút lâm nguy nhất, bản năng sống và tự vệ đã giúp cô đối đầu được cả toán biệt kích lăm lăm súng đạn.       

Mấy ngày sau, cô đưa ông Tư Cang về căn cứ. Đối diện với nhà cô là nhà một tên chỉ điểm. Những ngày Tư Cang tá túc tại đây, hắn biết thừa cái “anh rể Tư” chỉ là vỏ bọc. Nhưng kỳ lạ ở chỗ, biết gia đình cô che chở cho cán bộ cách mạng, hắn cũng không tố cáo bao giờ. Có thời nhà hắn khó khăn chật vật nhất, gia đình cô vẫn thương tình giúp đỡ, cho mượn 100.000 để giúp vợ chồng làm ăn.

Sau này, khi đã dư dả, sống thêm bằng lương chỉ điểm, nhưng hắn vẫn luôn tôn trọng gia đình. Một người hàng xóm của cô có con rể làm đại úy cảnh sát, sau ngày giải phóng, cũng nói lại: “Tao biết hết việc làm của tụi bay nghe. Đứa này đi Nam, đứa kia về Bắc, nhưng tao có nói gì hết đâu”.

Mỗi lần nghe vậy, cô đều xúc động.

Trong chiến tranh nhân dân, nếu không có những người đồng bào thương yêu và kính nể mình thật sự, liệu cô có còn sống sót? Liệu ông Tư Cang có hoàn thành nhiệm vụ? Liệu Phạm Xuân Ẩn có trở thành anh hùng? Và liệu dân tộc này có thể giành chiến thắng?


Tiêu đề: Re: Cụm tình báo H.63 anh hùng
Gửi bởi: Mig21Bis_1 trong 25 Tháng Mười Một, 2011, 12:37:02 pm
Kỳ 6: Giữa lòng địch để tang Bác Hồ


Đầu tháng 9 năm 1969, tin dữ bay về: Bác Hồ mất. Nữ chiến sĩ tình báo đã hơn 10 năm cận kề giữa sự sống và cái chết vẫn không thể tin rằng, trong đời mình cô lại từng khóc dữ đến thế. Bất chấp đang ở ngay trong lòng địch, cô vẫn hiên ngang mặc áo trắng để để tang Người.
 
Đó là một ngày cô không thể nào quên. Buổi sáng cô đến sở làm. Vừa ngồi không bao lâu thì viên thiếu tá Mỹ Dave mới từ Mỹ đến Sài Gòn xông vào thông báo: “Ông Hồ đã mất”.
 
(http://www.lichsuvietnam.vn/images/stories/anhtulieu/phongsukisu/huyenthoai/images1392515_8t9.jpg)
Tình yêu và niềm kính trọng Bác không thể không khiến Tám Thảo nghĩ ra cách để tang cho phù hợp với mình.

Dù đã quá quen với các kiểu tin sốc bất ngờ, nhưng chính trong khoảnh khắc đó, cô vẫn cảm thấy tim mình đứng sững lại.

Nhưng chỉ trong tích tắc sau, bản năng mách bảo cô phải giữ ngay lại bình tĩnh, bởi lúc xúc động là giây phút sơ hở nhất trong nghề. Quay mặt ngó lơ, cô đáp lại rất hờ hững: “Vậy hả?” rồi tiếp tục làm việc. Viên thiếu tá nhìn cô dò xét một lúc rồi cũng quay đi.

Mãi đến buổi trưa trở về, chỉ tới khi nhìn thấy ba và dắt xe vào hẳn trong nhà, cô mới dám oà lên nức nở: “Ba ơi, Bác mất rồi”.

Trong cả tháng trời sau đó, bất chấp sự theo dõi cảnh báo gắt gao, khắp nơi trong thành phố, đồng bào đã tổ chức truy điệu Bác, bằng cả hình thức công khai lẫn bí mật.

Ở nhà lao Chí Hoà, 600 anh chị em tù chính trị sáng nào cũng hát Quốc ca và làm lễ tưởng niệm Bác.
 
Tại Ngã Bảy, anh chị em công nhân và các nghiệp đoàn quanh vùng đã chiếm trụ sở Tổng Liên đoàn Lao động để làm lễ tiễn đưa Người, còn giới công nhân xe buýt thì dành cả ngày và đêm mồng 9 tháng 9 để làm lễ truy điệu Bác.

Hàng loạt thanh niên, sinh viên Sài Gòn kính cẩn mặc niệm Bác trong tiếng hát trang nghiêm của bài "Hồn tử sĩ".

Tại vùng Hòa Hưng, 200 phật tử, nhân sĩ trí thức tập trung về chùa Khánh Hưng ngay sau giờ Hà Nội bắt đầu truy điệu. Bốn ngày sau, Thượng tọa Thích Pháp Lan - người đọc điếu văn trong buổi lễ - bị Tổng nha Cảnh sát gửi giấy mời lên thẩm vấn suốt 9 tiếng đồng hồ.

Nhiều nơi, cảnh sát Cộng hoà cũng biết các hoạt động tưởng nhớ Bác nhưng cũng đành phải làm lơ vì không dám xúc phạm đến tình cảm thiêng liêng của nhân dân (*).

Còn với Tám Thảo, ở vị trí của cô, buồn là... không được phép. Nhưng tình yêu và niềm kính trọng Bác không thể không khiến cô nghĩ ra cách để tang cho phù hợp với mình.

Cuối cùng, bằng trí thông minh và sự khéo léo, cô đã “qua mặt” được cả viên sĩ quan tình báo Mỹ đầy kinh nghiệm.

(http://www.lichsuvietnam.vn/images/stories/anhtulieu/phongsukisu/huyenthoai/images1392525_thaobn.jpg)
Tám Thảo lần về thăm quê tại Bắc Ninh (2007)

Cô kể, suốt mấy tháng trời sau đó, ngày nào cô cũng bận áo dài trắng đi làm. Dave thấy thế sinh nghi, liền vặn hỏi: “Sao dạo này cô hay mặc đồ trắng vậy?”.

Đã tính kỹ nên cô trả lời không chút đắn đo: “Nhà tôi bán vải lụa, mẹ tôi may cho tôi hàng trăm cái áo. Tôi muốn thử hết những chiếc màu trắng này rồi chuyển sang những chiếc màu khác xem sao”.

Dave nghe vậy tin ngay, bởi từ trước đến giờ, ai chẳng biết tiểu thư Mỹ Nhung đi làm chỉ để khoe giàu khoe sắc. Thậm chí, đã có thời cô là chủ đề bàn tán của không ít sĩ quan, bởi trong suốt cả năm đi làm với mức lương loại xoàng, cô chưa hề mặc... trùng một chiếc áo.

Sau này, khi đất nước đã giải phóng, trong những ngày đầu tiên ra lại Hà Nội, điểm đến của cô bao giờ cũng là vào Lăng Bác.

Một lần, hai lần... nhiều lần quá đến mức không thể nhớ, nhưng mỗi lần được viếng Lăng lại là một lần cô nhớ về chuyện chiếc áo trắng ngày xưa.

“Thực ra trong nghề đâu có được liều lĩnh làm như vậy, nhưng lúc đó mình thực lòng thấy đau khi Bác mất. Kẻ thù nó phải sợ người Việt mình vì mình có những người như Bác chớ? Lúc đó, dù không nói ra đâu, nhưng tụi lính chỗ cô cũng không dám chống lại đồng bào để tang. Tụi nó cũng buồn, nhưng không dám lộ ra vì sợ Tây nghi là Việt Cộng. Cứ nghĩ xem, người như ông Cụ mà mất, ai không khóc thương?”, đến giữa tháng 4/2007, Tám Thảo vẫn còn nhớ như in câu chuyện đó.

Tháng 5/2007, có dịp gặp lại cô ở Hà Nội, trên đường trở về thăm quê. Suốt câu chuyện dài ở Hồ Tây vẫn thấy cô rưng rưng nước mắt khi nhắc tới những ngày tháng trắng màu tang năm 1969.

Đứng ở quảng trường Ba Đình, đôi mắt cô sâu hun hút hướng vào Lăng Bác. Ở đó, người Cha già của dân tộc đang nằm, mà mỗi khi có dịp ra Hà Nội, cô không thể không dành thời gian ghé lại, chào Người.


Tiêu đề: Re: Cụm tình báo H.63 anh hùng
Gửi bởi: Mig21Bis_1 trong 25 Tháng Mười Một, 2011, 12:43:11 pm
Kỳ 7: Sống giữa lằn ranh


Nghề tình báo có những điều rất đặc biệt. Sống với mưa, anh phải là hạt mưa. Sống trong nắng, anh lại là giọt nắng. Nhưng dù bão táp có quật dữ đến đâu thì cội rễ nguyên sơ trong mỗi giọt mưa nắng ấy vẫn còn. Giữa bủa vây súng ống trên đất Sài Gòn nhiều cạm bẫy, tại sao những con người như Phạm Xuân Ẩn, Nguyễn Thị Mỹ Nhung vẫn có thể sống an toàn? Đơn giản, bởi họ luôn giữ cái cội rễ nguyên sơ nhất: tính người và chất người Việt Nam.
 
Thế nào Việt Cộng?

Những ngày sống trong lòng địch, Tám Thảo luôn được các đời thiếu tá tình báo Mỹ yêu mến. Dù mang dáng vẻ rất “chảnh” của một tiểu thư con nhà giàu, nhưng chưa bao giờ cô tỏ ý đành hanh, ăn hiếp bất kỳ ai trước.
 
(http://www.lichsuvietnam.vn/images/stories/anhtulieu/phongsukisu/huyenthoai/images1393275_thao1.jpg)
Sống giữa lằn ranh mong mang, Mỹ Nhung vẫn giữ được an tòan vì luôn giữ được cái cội rễ nguyên sơ nhất: tính người và chất người Việt Nam!

Những cú đập bàn, bạt tai cô chỉ “tung ra” khi biết có thể rơi vào vòng nguy hiểm, bởi trong mắt chúng, Việt Cộng là... cái gì đó... rất bí hiểm. Nếu cô lập luận sắc sảo - thế nào cũng bị nghi là Việt Cộng. Nếu cô chăm chỉ làm việc - Việt Cộng đây. Còn nếu cô tuân lệnh làm tròn nhiệm vụ - không ai khác ngoài Việt Cộng.

Hồi Phạm Xuân Ẩn đi học ở Mỹ, chỉ vì... học giỏi quá mà có lần bà giáo Mỹ phải soi mục kỉnh lên: “Mày là Việt Cộng hay sao mà học giỏi thế?”. Dẫu chỉ là câu hỏi chơi chơi, nhưng kể từ đó, Phạm Xuân Ẩn... dừng ngay chuyện chăm chỉ học hành.

 
Ông hiểu ngay, với người Mỹ, ông cần ứng xử như ông là chính họ: thích nói dóc, hay bông đùa, nói ngắn gọn nhưng luôn luôn thực dụng nhất.

Kết thân một thời gian, một hôm, Tám Thảo hỏi thẳng “sếp” Mỹ: “Này, ông có biết tại sao các ông sẽ thua không?”. Trố mắt ra nhìn, viên thiếu tá Mỹ ngạc nhiên hỏi: “Sao cô nói vậy?”.

Cô lạnh lùng trả lời: “Các ông thua vì các ông là người ngoại quốc. Các ông đến đây, không dành thời gian nghiên cứu, chỉ đến, ra lệnh, rồi về. Trong khi Việt Cộng là con đẻ ở đây. Họ sống chết ở đây, họ giành độc lập cho họ chứ họ không có xâm lăng ai. Do vậy, họ có cơm ăn cơm, có cháo căn cháo, có súng đánh bằng súng, có cuốc đánh bằng cuốc. Họ có thể chiến đấu từ đời này sang đời kia, ông, cha, con, cháu, miễn khi nào các ông rời khỏi hẳn quê hương họ. Còn các ông chỉ sang đây 18 tháng, 6 tháng đầu mới tìm hiểu việc, 6 tháng sau mới bắt đầu làm, 6 tháng cuối thì đi nghỉ với vợ, hết HongKong rồi lại Hawaii... Trong khi đó, Việt Cộng thì chỉ có mỗi một mục đích là làm sao có được độc lập. Tôi hỏi, nếu phải vậy thì ai sẽ thua?”

Viên thiếu tá nghe xong, vã mồ hôi hột, nhưng vẫn không quên chất vấn “sao cô nói giống giọng Việt Cộng thế?” Cô lại trả lời: “Tôi cũng là người Việt Nam nên tôi hiểu họ nghĩ gì. Đã làm việc cho các ông thì tôi phải tìm hiểu kỹ về Việt Cộng. Nhưng các ông không bao giờ nghe cả, các ông lúc nào cũng tự đắc là ông lớn mà thôi...”

Một lúc sau, viên thiếu tá gật gù, bởi chính bản thân cậu chàng cũng đâu quan tâm tới cuộc chiến. Ở bên Mỹ, cha cậu là giảng viên đại học, mẹ dạy đàn piano nên cậu chàng cũng có máu mê văn chương, nghệ thuật lắm.

Vì phải sang Việt Nam làm nghĩa vụ nên suốt thời gian ở đây, cậu chàng không bao giờ dám ra ngoài một mình, chỉ thích ngồi đàm đạo văn chương với Tám Thảo. Có việc gì cần đi đâu, cậu chàng đều nhờ Tám Thảo giúp, vì cô nói năng, lập luận vững vàng, đến sĩ quan ở đây còn phải kiềng nể.

Sau này, trong tài liệu Những thất bại của tình báo Mỹ trong chiến tranh Việt Nam do CIA công bố, một trong những lý do thất bại mà Mỹ phải công nhận chính là vì Mỹ đã quá chủ quan và tự kiêu về uy lực của mình.

Rất nhiều sĩ quan tình báo Mỹ được cử sang chiến trường Việt Nam mà không thèm học tiếng Việt. Họ thậm chí không cần biết người Việt là ai, văn hoá Việt Nam là thế nào, bởi Mỹ luôn số một.

Trong khi đó, ngay từ lúc người Pháp còn chưa chịu chấp nhận là Mỹ sẽ thế chân tại Đông Dương, những nhà lãnh đạo của Việt Nam đã nhanh chóng gửi Hai Trung sang Mỹ học tập.

Họ đã nhìn thấy rõ kẻ thù của đất nước ngay khi đối phương chưa hoàn toàn xuất đầu lộ diện.     

Những giờ tự học

Sống thẳng thắn, không sợ bất kỳ dèm pha nào, nhưng nhiều lần Tám Thảo vẫn phải nếm những cái bẫy điều tra, thậm chí còn bị công khai thẩm vấn qua máy phát hiện nói dối. Song bản lĩnh và trí tuệ luôn giúp cô giành chiến thắng trước cặp mắt cú vọ và những cỗ máy tâm lý hàng đầu.

(http://www.lichsuvietnam.vn/images/stories/anhtulieu/phongsukisu/huyenthoai/images1393277_IMG_8784.jpg)
"Tiểu thư" Tám Thảo hồn nhiên nhớ lại những kỷ niệm với viên thiếu tá hải quân mê văn chương

Thậm chí sau này, một vài người mới đến còn tỏ ý ngờ cô là Việt Cộng, nhưng chính những người làm việc lâu năm với cô lại... gạt phắt ngay: “Cô mà là Việt Cộng thì cả cái Bộ Tư lệnh Hải quân này cũng là… Việt Cộng hết”. 

Làm việc một thời gian dài, Tám Thảo cũng cảm mến viên thiếu tá mê văn chương nọ. Kém cô gần 8 tuổi nên có chuyện gì khó khăn trong cuộc sống riêng, cậu lại tìm đến Tám Thảo. Đôi khi, chỉ vì một câu thơ hay, một thoáng tiết trời đẹp, cậu thiếu tá lại mời cô đi uống cà phê, nói chuyện về gia đình, về cuộc sống.

Trong chiến tranh, là đối thủ, nhưng ở mỗi bên chiến tuyến, họ lại đều là những con người. “Anh là người Mỹ, tôi là người Việt, tại sao anh có quyền mang súng bom đến đất nước này để nói rằng nước Mỹ đang đem lại... tự do? Tôi phải cầm súng lên chính là vì lẽ đó. Nhưng khi thay bỏ quân phục, anh cũng là con người. Anh có cha, có mẹ, có những giấc mơ về một gia đình hạnh phúc. Nào ai muốn chính gia đình mình phải ly tán, đổ máu, tù đày? Chỉ khi phải trực diện với nỗi đau nào đó, người ta mới hiểu được giá trị của lương tri con người hay sao? Nếu anh là người tốt, anh có thể trở thành bạn tôi. Nhưng nhìn những chuyến hàng chở đạn mà anh ký nhận hằng ngày, nhìn những người đồng đội của tôi bị tra tấn trong hầm tối, bị thủ tiêu, tôi không thể không nói anh là kẻ thù được” - Tám Thảo lý giải với lòng mình, trong những lần đi cùng thiếu tá Mỹ mê văn chương.

Được huấn luyện tinh thần cách mạng từ khi 16 tuổi, thế nhưng không biết bao lần Tám Thảo cũng phải trăn trở đấu tranh với chính mình như thế. Có những lúc căng thẳng quá, cô phải tìm đến sự che chở của ba. Cô hạnh phúc vì có ba bên cạnh, nhưng càng hạnh phúc bao nhiêu thì cô càng hiểu rằng đang có những gia đình bất hạnh bấy nhiêu, bởi chỉ vì chiến tranh mà mỗi người mỗi ngả.

Năm 1968, Tảm Thảo kể, có một viên sĩ quan Mỹ cao lớn, đẹp trai đến Bộ Tư lệnh. Vừa chân ướt chân ráo về, cậu chàng dính ngay phải trận đánh khốc liệt Mậu Thân. Cô vẫo nhớ như in cảnh cậu chàng to cao lừng lững, ngồi sụp xuống ôm quả B40, núp bên chậu kiểng.
 
(http://www.lichsuvietnam.vn/images/stories/anhtulieu/phongsukisu/huyenthoai/images1393279_IMG_8663.jpg)
Bà Tám Thảo hồi tưởng lại những tháng ngày sống giữa lằn ranh giữa bạn và thù, chỉ một mình và chưa một lần vấp ngã

Nhìn thấy cô, nó kể chuyện nó có cái ảnh Việt Cộng, nhưng bảo “Cô đừng coi. Cô coi đêm về không ngủ được”. Nghe vậy, Tám Thảo hiểu ngay tấm ảnh đó là gì

Suốt mấy hôm sau, những lời bàn tán về nhiều “tên Việt Cộng” bị đánh, bị tra xét dã man càng chà xát lên lòng cô nỗi đau mất nước. Cô ngồi nghe, ức muốn rớt nước mắt mà vẫn phải yên lặng, không hé răng một lời.

Thấy cô căng thẳng quá, tụi lính liền bảo: “Thôi cô về đi, đừng ngồi nghe làm gì cho tội thân”. Tám Thảo đứng dậy, xách túi ra về. Vào đến nhà, cô mới dám khóc.

“Chục năm theo nghề cũng giúp mình biết được ai tốt ai xấu, ai bạn ai thù. Về con người, ai cũng có những điều đáng quý. Nhưng về công việc, nếu đấy lại là kẻ thù thì mình phải chiến đấu, phải đuổi ra khỏi đất nước thôi”, cô nói.

Cái biên giới giữa bạn và thù cứ mong manh như thế, vậy mà Tám Thảo cứ đi suốt cả chục năm ròng: đi một mình mà vẫn thẳng người, không một lần vấp ngã.


Tiêu đề: Re: Cụm tình báo H.63 anh hùng
Gửi bởi: Mig21Bis_1 trong 25 Tháng Mười Một, 2011, 12:50:06 pm
Kỳ 8: Hạnh phúc của chiến sĩ tình báo?


Mải lo làm cách mạng, đến khi gần 40 tuổi mà vẫn chưa lấy chồng, mẹ cô sốt ruột lắm. Bà cụ suốt ngày làu bàu: “Không lo mà lấy chồng đi, mày chỉ giỏi thờ mấy thằng Việt Cộng thôi sao?”. Tụi sinh viên Sài Gòn tán tỉnh cô hoài không đổ, ức quá bèn dựng chuyện cô là “con gái nhà giàu làm cao, sống mà trái tim không có”. Cô cười, hai mắt ngấn lệ. Trời ơi, nếu không có trái tim, chẳng bao giờ đồng đội của cô có thể sống sót.

 
Tự rút lui để giữ an toàn cho đồng đội

Năm 1970, đang trong giai đoạn tạo được niềm tin vững chắc tại Bộ Tư lệnh Hải quân Việt Nam Cộng hoà, cô nhận lệnh phải rút về chiến khu, để đảm bảo an toàn cho Phạm Xuân Ẩn. Hơn 15 năm đào tạo và nỗ lực, đến giờ Phạm Xuân Ẩn đã trở thành ký giả nổi danh, đã chui sâu leo cao vào lòng địch.

(http://www.lichsuvietnam.vn/images/stories/anhtulieu/phongsukisu/huyenthoai/images1393981_cothao1.jpg)
Vợ chồng Tám Thảo - Ảnh tư liệu gia đình

Lúc này, mọi mối quan hệ của Phạm Xuân Ẩn phải được giữ gìn cẩn thận, bởi ông đã là một trong những nhà tình báo chiến lược của miền Bắc Việt Nam. Hơn nữa, bây giờ đã chuyển sang giai đoạn căng thẳng, sau Tết Mậu Thân, bất kể ai cũng có thể chết nếu để sơ hở dù nhỏ nhất.

Những lúc cảm thấy cô đơn trong trận tuyến một mình, Phạm Xuân Ẩn đã nhiều lần tự ý đến thăm gia đình Tám Thảo, để tìm ở đấy chút cảm giác bình yên. Nhưng hành động tưởng nhỏ đó lại vô cùng nguy hiểm.

Không thể để một sơ suất nào nguy hại đến ông và đến hàng chục giao liên đang ngày đêm làm việc trong im lặng, Tám Thảo lập tức tuân lệnh. Nhưng nếu đi có nghĩa là cô phải chia tay với gia đình, xa rời cuộc sống sung túc trong nội thành, ra chiến khu sẽ khổ...

Song cái đó thì có nghĩa lý gì? Tổ chức đã quyết, và hạnh phúc của người lính không có gì hơn: cô rút lui để giúp cho cách mạng tiến lên thêm bước mới.

Thiếu tướng Sáu Trí, lãnh đạo Phòng tình báo Miền, trong cuốn hồi ký tổng kết đời hoạt động tình báo của mình cũng dành những dòng ghi ơn trang trọng nhất khi viết về Tám Thảo: “Để bảo vệ lưới tình báo đặc biệt 2T, xoá nhiệm vụ cơ cán đi sâu của chị Tám Thảo đang làm phiên dịch cho cố vấn Mỹ trong Bộ Tư lệnh Hải quân nguỵ… Chúng tôi tiếc phải rút chị ra cứ vì chị Tám đang phát huy tác dụng cao.

Chị là một nữ điệp viên duy nhất của Phòng tình báo Miền. Chúng tôi có ý định nhân điển hình của chị Tám để khai thác khả năng phong phú và quý giá của phụ nữ miền Nam trong công tác tình báo”.


Mệnh lệnh này được đưa ra trong hội nghị tình báo tháng 9/1969.

Hạnh phúc trong nửa vòng tay

Sau khi rút ra ngoài rừng, cô được gặp người em trai của “bà tư sản Bảy Huê” - người phụ nữ từng giúp cô suốt cái thời làm giao liên cho ông Ẩn.
 
(http://www.lichsuvietnam.vn/images/stories/anhtulieu/phongsukisu/huyenthoai/images1393983_IMG_8651.jpg)
Trong nhà cô, ngoài bàn thờ ra, ở tất cả các vị trí trang trọng khác đều treo ảnh ông, như một cách để giữ lại hạnh phúc cuối đời.

Thuở mới quen ông, cô cũng chưa có tình yêu ngay. “Đám cưới của tôi là do... Đảng gợi ý”, bởi cô đã quá tuổi thanh xuân rồi. Những người chỉ huy của cô, ông Sáu Trí, ông Tám Mỹ lo lắm, tìm cách mai mối giúp cô. “Đảng lo cho em nên giới thiệu em với đồng chí đó. Ba em kén cho em cũng không bằng Đảng kén cho em đâu, vì Đảng biết Đảng viên nào xứng đáng với em mà”.

Nghe vậy, Tám Thảo đồng ý gặp mặt, rồi 7-8 tháng sau, hai người nên duyên. Ngày cưới, cô tiểu thư vốn quen được chiều chuộng chỉ băn khoăn mỗi một điều: không hiểu ông có “kẹo kéo” hay không, bởi tính cô giống ba, vốn quen rộng rãi, đại lượng với tất cả mọi người.

Lấy nhau rồi, cô mới bắt đầu mở lòng mình sau suốt gần 40 năm khép kín. Cô kể cho chồng nghe về mối tình đầu thuở đôi mươi không thành. Nghe xong, ông cảm động lắm. Người chiến sĩ tình báo nửa đời phải sống trong câm lặng và những lời đồn cay nghiệt, nay đã có thêm một cái tôi để chia sẻ.

Tuy nhiên, kết hôn năm 39 tuổi, cộng với sự căng thẳng thời sống trong nội thành và sự gian khổ khi ra ngoài căn cứ, Tám Thảo chưa bao giờ được làm mẹ. Điều duy nhất an ủi cô chính là niềm hạnh phúc có được một người chồng thương yêu, tin tưởng cô hết mực.

(http://www.lichsuvietnam.vn/images/stories/anhtulieu/phongsukisu/huyenthoai/images1393987_cothao2.jpg)
Ngay cạnh phòng của cô là một khu vườn nhỏ, đầy hoa và đầy nắng. Ở đây không có dòng sông, không có xuồng nhỏ, nhưng những bông hoa tự tay cô trồng luôn nhắc cô nhớ về những ngày đầu tiên của chuỗi hành trình cuộc đời: giờ đã đẹp hơn cả tiểu thuyết!

Đầu năm 1973, khi vòng đàm phán 4 bên bắt đầu vào hồi kết, cô tình cờ gặp lại... mối tình đầu tiên. Ông là thành viên tham gia phái đoàn đàm phán. Được trở lại Nam sau 20 năm xa cách, ông bắt đầu tìm cô.

Nhưng làm sao tìm được khi đến chính tên cô cũng thay đổi bao lần: từ Mỹ Nhung cho đến Mỹ, Tuyết chị (Sáu Tuyết), rồi Yên Thảo (Tám Thảo)... Chưa kể đến chuyện lòng người, biết ai còn nhớ tới ai. Nhưng ông vẫn quyết tâm dò tìm cho bằng được.

“Ngày gặp nhau, cũng cảm động dữ lắm. Hai chục năm rồi còn gì”. Thương nhau, nhưng giờ đã mỗi người mỗi phận. Ông có gia đình, cô có hạnh phúc. Trước giây phút gặp nhau, không biết có khi nào ông băn khoăn rằng liệu cô tiểu thư Sài Gòn năm xưa có thể kiên cường vượt qua mọi thử thách cam go để theo đuổi tình yêu lớn nhất trong đời: yêu Tổ quốc, hay không? Hay tình yêu với cuộc sống nhung lụa của mình sẽ làm cô gục ngã?. Hai mươi năm gặp lại, hẳn ông đã rất tự hào. Người con gái ông yêu đã thực sự viết nên những trang tiểu thuyết đẹp về chính cuộc đời mình.

Sau này, cô cũng kể lại buổi gặp gỡ cho chồng nghe. Thậm chí, cô còn không quên chuyện vào một ngày nắng đẹp, cô từng nhận liền lúc 2 lá thơ gửi về: một của chồng và một của ông. Nghe xong, chồng cô lại càng thấy thương và kính trọng vợ mình hơn nữa.

Đến bây giờ, ở tuổi 75, cô Tám Thảo sống một mình. Vào đúng độ con người thực sự cần hơi ấm mỗi khi chiều buông thì cô lại lẻ bóng. Trong nhà cô, ngoài bàn thờ ra, ở tất cả các vị trí trang trọng khác đều treo ảnh ông, như một cách để giữ lại hạnh phúc cuối đời.

Sống một mình, nhưng trái tim cô vẫn luôn biết yêu thương như thuở nào, yêu từ những bông hoa nhỏ, những kỷ vật xưa cũ cho tới thương những người bạn già, những đứa cháu láu lỉnh mãi ngoài Hà Nội.   

Phòng ngủ của cô giờ không có dáng vẻ khuê phòng thuở xưa, nhưng nét sang trọng thì vẫn ẩn trong từng chi tiết, từ chiếc gối phảng phất hương thơm cho đến bức hình gia đình ấm cúng. Cô đã đi gần hết cuộc đời, đủ thấy cái hiểm nguy mà không còn sợ hãi, đủ kinh qua chuyện lớn mà coi như chuyện nhỏ, đủ thấy sự cao cả trong những con người thầm lặng, và đủ yêu những con người vĩ đại mà giản dị vô cùng. Thế nên, cuộc sống của cô giờ đã nhẹ nhàng lắm.

Ngay cạnh phòng của cô là một khu vườn nhỏ, đầy hoa và đầy nắng. Ở đây không có dòng sông, không có xuồng nhỏ, nhưng những bông hoa tự tay cô trồng luôn nhắc cô nhớ về những ngày đầu tiên của chuỗi hành trình cuộc đời: giờ đã đẹp hơn cả tiểu thuyết!

                                                       *    *    *

… Mùa thu năm 1960, Hai Trung thông qua Tám Thảo để móc nối liên lạc với tổ chức, với yêu cầu “chỉ tiếp xúc với một người mà Trung đã từng biết”. Cuối năm 1960, trực tiếp Hai Trung lái xe, Tám Thảo dẫn đường ra căn cứ, để Hai Trung gặp lại người đã từng ăn với ông bữa cơm chiều muộn khi giao nhiệm vụ từ 8 năm về trước: ông Cao Đăng Chiếm.

Bắt đầu từ đây, “câu chuyện tuyệt vời về một điệp viên đã thách thức nước Mỹ" như cách mà nhà báo kỳ cựu của tờ Le Monde (Pháp) Jean Claude Pomonti nói về Trần Văn Trung, được viết nên, như một huyền thoại.


Tiêu đề: Re: Cụm tình báo H.63 anh hùng
Gửi bởi: Mig21Bis_1 trong 25 Tháng Mười Một, 2011, 01:04:17 pm
Kỳ 9: Chuyến đi của "con sói cô độc"

(Viết về điệp viên Phạm Xuân Ẩn tức Hai Trung)


"Ai cũng biết khoác áo báo chí là một bình phong tốt nên bất kỳ cơ quan tình báo hay phản gián nào cũng muốn xây dựng bình phong này cho nhân viên của mình. Cũng vì thế mà một điệp viên khoác áo báo chí vào thì anh ta hôi sặc mùi điệp báo từ xa mà nhân viên an ninh cứ thế mà đánh hơi theo dõi" - Hai Trung (Trần Văn Trung) tổng kết.

Nhưng ông đã ẩn mình và đi suốt hơn 20 năm trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam, cung cấp về Hà Nội những thông tin quý giá đến mức các nhà lãnh đạo Hà Nội phải thốt lên tán thưởng: "Chúng ta đang có cái đầu ngồi ngay phòng chỉ huy chiến lược của cỗ máy chiến tranh Mỹ - ngụy".

Vậy cái đầu chiến lược và chuyến hành trình của con sói cô độc (Alone Wolf, thuật ngữ mà người phương Tây thường ví các điệp viên) trong hang hùm đã diễn ra như thế nào?

Chọn một người để cứu trăm người

Từng tham gia phong trào học sinh - sinh viên năm 1945, Trung được anh Đỗ Ngọc Thạnh (tức Ba học sinh) lựa chọn là gương mặt sáng giá để giới thiệu với Đặc khu uỷ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định nhằm huấn luyện thành một thành viên cốt cán.

Tuy nhiên, cuộc gặp giữa Trung với anh Mười Cúc (tức Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh sau này, lúc bấy giờ là Bí thư Đặc khu uỷ - NV) đã không thể thực hiện bởi anh Ba học sinh sớm bị Pháp phát hiện, bắt và thủ tiêu. Mất liên lạc, Trung tìm cách thi đậu vào làm công chức Hải quan cho Pháp ở cảng Sài Gòn.

Mãi tới năm 1952, khi Cục tình báo Miền thành lập, Đặc khu uỷ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định quyết định "nhường" Trung lại cho ngành tình báo. Liên lạc giữa Trung với tổ chức mới được bắt trở lại.

Khi hay tin mình được tổ chức giao cho làm tình báo chiến lược, Hai Trung... thất vọng lắm. Chàng thanh niên mới ngoài 20 tuổi muốn được tự tay cầm súng chiến đấu, chứ đi làm tình báo thì hoá ra là làm... thằng chỉ điểm à?

Lúc ấy, bác sĩ Phạm Ngọc Thạch (Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến Đặc khu), là người chỉ huy trực tiếp của Hai Trung, phải giải thích kỹ, rằng tình báo chiến lược không phải là điểm chỉ viên, rằng đã đi chiến đấu thì ở vị trí nào cũng có ích, chớ không phải cứ cầm súng lên mới là yêu nước.

Bác sĩ Thạch còn nhấn mạnh, làm tình báo chiến lược sẽ rất gian khổ vì phải sống trong lòng địch, không được đồng đội trực tiếp chia sẻ như anh em trong rừng, nguy hiểm khó khăn hơn nhưng sẽ lại cứu được hàng trăm anh em đồng đội khỏi cái chết, giúp cho máu của đồng bào bớt đổ, giúp cho cuộc cách mạng mau tới thành công.

Hai Trung nghe ra, nhưng vẫn chưa hoàn toàn chịu. Cậu tự nhận mình “thật thà, ngớ ngẩn, hay tin người lắm, làm sao làm được”, song bác sĩ Thạch vẫn khẳng định: Đảng đã nhìn ra khả năng của Hai Trung rồi, cứ nhận việc đi, vừa làm vừa học.   

Thế là, trong bữa cơm chiều ở chiến khu D giữa mùa xuân, tháng 2/1952, Hai Trung chính thức nhận nhiệm vụ thiêng liêng: trở thành chiến sĩ tình báo.

Lời dặn dò kỹ lưỡng của bác sĩ Thạch hôm đó "Đảng và dân ta còn nghèo lắm. Phải giữ vững tinh thần cách mạng thì mọi khó khăn sẽ lần hồi được giải quyết... Chú cứ yên tâm công tác, Đảng và nhân dân sẽ công bằng chấm công khi hy sinh" đã theo sát Trung suốt 23 năm nằm sâu trong lòng địch, trở thành một điệp viên chiến lược huyền thoại của ngành tình báo Việt Nam.

Nhiệm vụ đầu tiên: Sao chẳng giống xi nê?

Những ngày mới bắt đầu vào nghề, Hai Trung dùng công việc ở hải quan làm bình phong. Trung phụ trách bộ phận kiểm hoá, được tổ chức giao cho việc phải theo dõi hoạt động của quân đội Pháp, tìm hiểu về phương tiện, vũ khí chiến tranh, lập biểu đồ di chuyển của quân đội Pháp từ Marseille qua Đông Dương và ngược lại.

Nghe lệnh từ trên, Hai Trung vội trả lời ngay: “Tưởng làm tình báo thì phải như trong xi nê, làm những việc kinh thiên động địa, chứ kiểu này thì dễ như ăn cơm bữa và chẳng có gì giựt gân cả”.

Bác sĩ Thạch nghe Hai Trung láu táu vậy vội vàng ngăn ngay: “Dễ, nhưng nếu để địch biết thì số phận chắc chắn sẽ như anh Ba Học sinh. Đây là công việc mật, chú không được chủ quan”.

Nói rồi, ông dạy cho Hai Trung những bài học đầu tiên về cách liên lạc, cách viết tin, dặn Hai Trung phải cắt những liên lạc không cần thiết, không tham gia phong trào, không đi ào ào hô khẩu hiệu như ngày xưa, cũng không được cầm súng chiến đấu trực tiếp. Làm công việc mật gian khổ hơn nhiều, chớ không dễ như ăn cơm đâu.

Hai Trung nghe rồi mới bắt đầu chú tâm tìm hiểu công việc mà cậu chàng tưởng dễ như xi nê. Đến khi thực sự nhập vai, Hai Trung mới kinh hoàng tỉnh giấc, trời ơi, chiến tranh đang hiện ra mồn một trên những con số mà Trung phải xuất nhập hàng ngày.

Theo đó, ngay từ những ngày đầu năm 1952, không chỉ có tàu chiến của Pháp mà ngay cả tàu chiến của Mỹ cũng đã xuất hiện ngay giữa cảng Sài Gòn, với những đợt chuyển quân và vũ khí chiến tranh tối tân, di chuyển như con thoi từ Sài Gòn ra Đà Nẵng, Hải Phòng. Bàn tay của Mỹ đã thọc vào Việt Nam ngay từ khi Pháp vẫn còn chễm trệ giữ quyền lực ở Đông Dương và ào ạt đổ quân vào cứ điểm bất khả xâm phạm trên Điện Biên Phủ.

Đến lúc này, Hai Trung mới hiểu rằng tại sao mình được lựa chọn, bởi Đảng và các anh chỉ huy đã nhìn thấy những điều rất xa: cuộc chiến khốc liệt đang thực sự bắt đầu, và Đảng cần chọn đúng người để giao trọng trách.

Bước chân vào nghề tình báo những năm đầu tiên nghe cứ... như chuyện đùa. Thậm chí, những ngày đầu kháng Mỹ non sơ, chính bác sĩ Phạm Ngọc Thạch - người thầy đầu tiên của Trung - cũng phạm phải lỗi cơ bản đến chết người: đó là nhận được tin tức tài liệu của Hai Trung xong, bác sĩ còn gửi đi phát sóng trên đài “Tiếng nói Nam bộ” nhằm tố cáo quân Pháp, rồi tới quan Mỹ trong việc cố tình tăng cường viện trợ vũ khí chiến tranh, nhân lực quân sự, đào tạo để ủng hộ Diệm phá hiệp định Geneve.

Ngay lập tức, hai chiến sĩ tình báo đầu tiên được điều vào Nam là anh Nguyễn Vũ và anh Dương Minh Sơn nhằm tăng cường cho bác sĩ Phạm Ngọc Thạch. Đích thân anh Nguyễn Vũ còn phải tìm mọi cách để chặn lại những bản tin trên để bảo đảm an toàn cho Hai Trung.

Những bài học vỡ lòng đó khiến cho Hai Trung và những người chỉ huy, những người đồng đội chưa bao giờ dám đùa hay lơ là công việc.

Nhiệm vụ đầu đời với Hai Trung xem ra chả giống gì với xi nê, thế nhưng hoá ra, cuối cùng cả cuộc đời ông dẫu có hàng chục bộ phim cũng chưa chắc đã dựng nổi.


Tiêu đề: Re: Cụm tình báo H.63 anh hùng
Gửi bởi: Mig21Bis_1 trong 25 Tháng Mười Một, 2011, 01:08:31 pm
Kỳ 10: "Mùi" của một điệp viên


Hai Trung đã tự "cắt đuôi con tiểu tư sản" theo cách của mình và chẳng hề giống ai. Cắt đi rồi, lại lòi cái đuôi khác, còn sơ hở hơn. Thế nên sau này ngồi nhìn lại, ông thừa nhận "buổi đầu làm tình báo, áp dụng các bài học vào thực tế đều... sai be bét". Sai đến... "bốc cả mùi"...

Cái đuôi con tiểu tư sản…

Xuất thân của Trần Văn Trung là con một gia đình trung lưu ở thành thị, được giáo dục theo gia phong nhà nho. Ngày còn bé, Trung được cha dạy theo quan điểm “thương cho roi vọt, ghét cho ngọt ngào”. Chơi bời lêu lổng, học hành không ra nơi ra chốn, quên nỗi nhục mất nước là những điều không được phép có ở cậu Hai Trung. Vậy nên cứ những lần nghịch ngợm, láu táu là Trung lại rất được ba... “thương”.
 
(http://www.lichsuvietnam.vn/images/stories/anhtulieu/phongsukisu/huyenthoai/images1397635_pxa1111111111.jpg)
Nhà tình báo Phạm Xuân Ẩn- Ảnh: QĐND

Nhưng lạ cái, nghiêm khắc với con là vậy, song gia đình ông lại sẵn lòng nuôi giấu cán bộ Thành uỷ từ những ngày cách mạng sục sôi kháng Pháp. Năm 1947, cha của Trung còn bị tên mật thám Lơ Bét-xơn - Trưởng ty Công an Rạch Giá - hành hạ khi ông đang cố tìm cách bắt liên lạc với cách mạng.

Xét về thành phần gia đình như vậy là quá cơ bản, ấy thế mà những điều đó cũng không được các anh chỉ huy "tha", từ anh Sáu (Nguyễn Vũ) cho tới anh Tư Tùng (anh Hai, Dương Minh Sơn) đến anh Ba (Mười Hương) trong những bài giảng đầu tiên về chính trị và nghiệp vụ: "Cậu là một thằng tiểu tư sản, mà thằng tiểu tư sản có máu thích làm anh hùng, mê xi nê nên dễ hỏng việc. Hơn nữa, con tiểu tư sản lại còn có một cái đuôi. Cái đuôi đó là lối sống trưởng giả, là cách ăn nói, đối xử hợm hĩnh với con người, đặc biệt là người dân nghèo, mà họ gọi là tầng lớp dưới. Dù cậu có khéo giấu đến đâu thì sớm muộn cái đuôi đó cũng lòi ra, kinh tởm bỏ mẹ. Phải tìm cách cắt cái đuôi đó đi. Nhưng cái đuôi của con tiểu tư sản không phải như đuôi chồn, đuôi cáo, cầm dao cắt phéng một lần là xong. Vậy nên phải thường xuyên kiểm tra, kiểm điểm, nghiêm khắc với bản thân mình. Phải thường xuyên xem lại bản thân mình, hằng ngày, hằng giờ".

Lối giảng bài đậm chất dân dã, tục nhưng dễ nhớ đó đã in sâu vào trí nhớ của Trung, trở thành châm ngôn sống và hoạt động mãi về sau của chàng điệp viên trẻ này: "Phải luôn nghiêm khắc với chính bản thân mình".

Tuy nhiên, cái khó của nghề tình báo thì chẳng sách vở đâu dạy đầy đủ, ngoài chính cuộc đời và chính tự mình. Hai Trung nghe giảng bài, thực hành nghiêm túc lắm. Cứ mỗi giờ nghỉ trưa, Hai Trung lại chạy tuốt xuống ăn cơm, ba cùng "cùng ăn, cùng làm, cùng nghỉ" với anh em phu khuân vác ở Khánh Hội. Tính Trung vốn dân dã nên được nói chuyện với đồng bào nghèo khổ, Trung thấy hợp lắm. Cậu còn mê chơi với công nhân đến độ ghét ra mặt với những tên người Việt hay người Hoa kết hợp với người Pháp buôn lậu.

Có lần, một thằng Pháp làm cho hãng bốc xếp Rondon bắt nạt nhân viên của Hai Trung, làm Trung nóng mặt, chụp cổ đánh ngay tại văn phòng. Biết chuyện, tên trưởng phòng Stenou gọi vào, cho nghỉ việc 3 ngày để Trung... nguôi cơn giận, xong xuôi sẽ kêu tên Pháp kia đến tận nơi xin lỗi.

Hai Trung nghe vậy hài lòng lắm, phải thế chứ, cho tụi bây biết tay, đâu có thể cho nó bắt nạt đồng bào mình được. Thế rồi Hai Trung nằm thẳng cằng, nghỉ một lèo ở nhà 3 ngày cho hả giận.

Biết chuyện, anh Tư Tùng hoảng quá, vội vàng dập ngay “cơn sĩ” của Hai Trung lại. Trời đất, làm thế là bị... “lòi đuôi” rồi còn gì? Đuôi nào cơ? Nghe lời chỉ huy, Hai Trung đã chặt phăng cái đuôi tư sản rồi còn gì?

Vậy đấy, nguy hiểm ở chỗ, cái đuôi đó lại không phải là “đuôi tư sản”, mà là “đuôi... yêu nước”. Làm tình báo thì không được nóng nảy, tự ái cá nhân. Muốn tỏ ra là sếp bênh đàn em thì đâu có được? Đã được giao việc mật ngay trong lòng địch mà lại không thèm chơi với “đồng nghiệp”, không nhận đút lót, từ chối nhậu nhẹt, không chịu đi... tán gái thì còn làm ăn nước mẹ gì? Rõ là chỉ có thằng cộng sản thì mới nghiêm túc, kiên định vậy. “Lòi đuôi” thế thì còn chiến đấu ra sao?

Hai Trung nghe giảng mới à lên. Hoá ra làm tình báo không phải dễ như ăn cơm, càng không bóng lộn như trên phim ảnh. Làm chiến sĩ tình báo, nếu không tự hiểu mình là ai và vận dụng trí tuệ đúng lúc thì đôi khi sẽ phải trả giá bằng mạng sống.     

Sau thời bình, trong lần thử phân tích về chính mình, chính Thiếu tướng Trần Văn Trung đã nhìn nhận: "Điệp viên phải có tính kỷ luật cao, nhất là kỷ luật tự giác vì anh ta hoạt động đơn độc, không có ai bên cạnh kiểm tra cả. Thiếu kỷ luật thì dễ chủ quan dễ buông lỏng nguyên tắc, dễ mất cảnh giác và cuối cùng là dễ bị bắt".

Mà nếu đã bị bắt, điệp viên chỉ còn nước chọn: hoặc chết, hoặc khai. Bởi trong mọi đòn tra tấn, đòn tra tấn dành cho điệp viên tình báo bị bắt là khủng khiếp nhất: đánh cho khai, khai ít đánh cho khai nhiều, khai nhiều đánh cho khai hết. Thậm chí, kẻ thù không từ bất cứ thủ đoạn nào, thậm chí dùng thuốc độc khiến điệp viên khi ra khỏi nhà tù trở nên thần trí bất thường. Việc thoát khỏi nhà tù do may mắn hay được tổ chức đào thoát là cực kỳ hãn hữu.

Kinh nghiệm đó, ông đúc kết trong hàng chục năm nằm sâu trong lòng địch, tiếp xúc với đủ loại nguồn tin lẫn chứng kiến những trận đòn thù tra tấn của đối phương đối với các chiến sỹ Việt cộng bị bắt.

Trung đã tự "cắt đuôi con tiểu tư sản" như thế, theo kiểu chẳng hề giống ai. Cắt đi rồi mà lại lòi cái đuôi khác, còn sơ hở hơn, thế nên sau này ngồi nhìn lại, ông thừa nhận là "buổi đầu làm tình báo, áp dụng các bài học vào thực tế đều... sai be bét".

... Sai đến bốc cả mùi

Làm ở Hải quan được hơn 1 năm, đến hết mùa mưa năm 1952, Hai Trung đã bắt đầu được khen ngợi vì tiến bộ rõ rệt. Tuy nhiên, tình hình lúc này bắt đầu ngày càng căng thẳng. Lo ngại Hai Trung có thể bị bắt đi lính, các đồng chí chỉ huy đã ra lệnh cho Hai Trung phải tìm mọi cách để tránh bị bắt lính, đồng thời phải tìm người thay thế trong việc lấy tin tức quân sự ở Hải quan, đề phòng bất trắc.

(http://www.lichsuvietnam.vn/images/stories/anhtulieu/phongsukisu/huyenthoai/images1397637_an222222222.jpg)
Hai Trung- Ảnh: Tuổi trẻ

Cuối cùng, thông qua việc vận động được người anh họ là Phạm Xuân Giai - Trưởng phòng 5 (phòng tâm lý chiến) Bộ Tổng tham mưu, cánh tay đắc lực của Trung tướng Nguyễn Xuân Hinh (Tổng tham mưu trưởng), Hai Trung vào làm bí thư cho Giai với mục đích trốn lính.

Vào cơ quan đầu não của quân đội rồi mà Trung vẫn sống ngoan ngoãn, “sạch sẽ” tới mức những sĩ quan cùng phòng đã phải ngao ngán vì rủ rê Trung chơi bời mãi không được: "Thằng anh thì cái gì cũng sắc bén, cái gì cũng biết không ai qua mặt được, chơi bời không thiếu thứ gì. Còn thằng em thì thật thà như đếm... không biết trời sinh ra để làm gì mà sống khổ sở thế".

Có lần, nửa đêm cuối tháng 3/1955, Bình Xuyên pháo kích vào Dinh Độc Lập. Nội bộ chính quyền Diệm lục đục, phe thân Pháp và phe thân Mỹ muốn thôn tính lẫn nhau, các sĩ quan đánh hơi thấy nguy hiểm, trốn chui lủi ở nhà hết. Có mỗi Hai Trung là “ngây thơ chạy đến” xem tình hình, thậm chí còn hớn hở tuyên truyền để lung lạc tinh thần sĩ quan: tình hình cứ thế này thì đến bầu cử 1956, Bắc sẽ thắng Nam.

Ngày đó, Hai Trung mới vào nghề, đã được dạy gì đâu? Cậu chưa đủ kinh nghiệm để hiểu rằng, dù có choảng nhau thì cũng chẳng bao giờ Pháp và Mỹ muốn rút lui để trả đất nước này về cho dân tộc Việt, bởi dù thua hay thắng thì bản chất đế quốc vẫn luôn là xâm lược.

Tuy nhiên, trong cái rủi lại có cái may. Sự hồn nhiên, thật thà đó lại khiến cho nhiều sĩ quan Pháp, Mỹ, Việt cảm mến, giúp cậu vượt qua nhiều cái bẫy một cách rất tình cờ. Chính họ cũng chẳng hiểu nổi tại sao lại có thể yêu quý một cậu nhóc gầy ốm, hiền lành mà lại rất chân thật, hài hước đến thế được. Bởi có thể chính họ đã không chịu hiểu, đứng trước sức mạnh quá lớn của sự lương thiện, ai cũng sẽ tìm cách tự làm trong sạch chính mình. Yêu quý, giúp đỡ một chàng thanh niên tốt bụng có phải là cách giúp họ tẩy bớt nỗi tủi hổ sau những chuỗi việc ác chăng?             

Đến tận năm 1957, khi đã qua Mỹ học, Hai Trung vẫn còn chưa cắt được cái “đuôi yêu nước” của mình. Đứng trên đất Mỹ, học nghiệp vụ Mỹ, thế mà trong những buổi thuyết trình, Trung vẫn cứ hồn nhiên chêm vào nào là "áp bức, bóc lột”, nào là “cách mạng, đế quốc" - những khái niệm mà người Mỹ lúc bấy giờ đặc biệt dị ứng.

Hai Trung thật đến nỗi bị giáo sư giảng dạy đánh điểm kém cho những bài luận luôn xuất sắc, chỉ vì cậu không nghĩ được rằng, trong số rất nhiều giáo sư, cũng có những người đang làm công việc y như cậu. Họ muốn dò tìm manh mối cộng sản trong những con người do chính họ đào tạo nên. Đi học trên đất Mỹ đâu chỉ là học thêm kiến thức, đó thực sự còn là một cuộc cân não lớn.

Hai Trung phát hiện ra điều đó sau một thời gian dài luôn đứng đầu lớp. Ấy là lần một bà giáo vốn là nhân viên phòng tình báo Hải quân Mỹ giương mục kỉnh lên thắc mắc: "Học kiểu như mày, chỉ có là cộng sản". Chột dạ, từ đó Hai Trung bỏ luôn thói miệt mài đèn sách để giành điểm cao.

Ngẫm nghĩ lại, Trung mới ngộ ra rằng, hoá ra yêu nước không thôi là chưa đủ. Nếu không dùng cái đầu để đấu trí lại thì chắc chắn mình sẽ thua. Trong khi biết bao sĩ quan miền Nam Việt Nam qua Mỹ học một ít, còn đâu dành thời gian ăn chơi, tiêu xài, mua sắm, nhảy đầm, cặp gái... thì Trung chỉ như một thầy tu, suốt ngày cắm đầu vào học và nghiên cứu.

Thực tế, Hai Trung chỉ có thể làm thế khi được sống trong sự che chở an toàn của đồng bào. Còn ở đây, một mình giữa hang sói, nếu bê nguyên những nguyên tắc đạo đức vào thì chỉ có thể đổ máu, mất xác mà thôi.


Tiêu đề: Re: Cụm tình báo H.63 anh hùng
Gửi bởi: Mig21Bis_1 trong 25 Tháng Mười Một, 2011, 01:23:55 pm
Kỳ 11: "Tướng Givral" – Lý tưởng và tài năng bậc thầy


Từng có những phản ứng khác nhau kể từ năm 1978, khi những đồng nghiệp, và cả những người một thời ở "phía bên kia" biết được Phạm Xuân Ẩn, tên thật là Trần Văn Trung, thường gọi là Hai Trung, vốn là điệp viên tầm cỡ của Hà Nội: Giận dữ, bàn luận, phân tích... nhưng hơn tất thảy, là họ kính phục tài năng, con người và lý tưởng cống hiến của ông.

Lý tưởng – "viên gạch" đầu tiên cho chiến thắng

Sống trong lòng địch hơn 20 năm, tiếp xúc với đủ mọi loại người, Hai Trung quá hiểu những người mà ông đang âm thầm chiến đấu. Ông hiểu tại sao nhiều người trong số họ cứ điên cuồng cầm súng theo Mỹ để tàn sát đồng bào. Có người vì bị ép, có người vì túng bấn, có người vì muốn nhanh chóng nắm quyền lực nhờ núp bóng quan thầy...

Tiền, tình, địa vị, cuộc sống giàu sang theo tiêu chuẩn Mỹ là những cạm bẫy khôn lường. Chính vì thế, người chiến sĩ tình báo luôn tự mình phải học.

Khi đã chui sâu leo cao rồi, ông không thể trực tiếp nghe giảng những bài học dễ thương như cái "đuôi con" tiểu tư sản thuở nào. Thay vào đó, ông tìm cách học lại từ chính những tài liệu của kẻ địch. Thế nên, không phải ngẫu nhiên mà sau khi giải phóng, ông vẫn còn lưu giữ cẩn thận một tài liệu nghiên cứu có ghi "Tam giác thắng", được viết vào năm 1968, không đề tên tác giả.

Với luận điểm "Tất cả mọi phương pháp để thắng cộng sản", người viết vạch ra những nguyên nhân khiến cho chế độ miền Nam Việt Nam không bao giờ được nhân dân ủng hộ, từ đó chỉ ra đường đi, nước bước để lên dây cót tinh thần cho binh sĩ, nhằm củng cố vị trí chính trị trong mắt người dân. Tuy nhiên, lập luận vòng vo, cuối cùng chính tác giả đó cũng phải thừa nhận rằng, cái chính thể VNCH thua cộng sản vì một lý do lớn nhất: Thiếu một chủ thuyết lý tưởng để đi tới cái đích cuối cùng.

Tháng 6/2007, khi Chủ tịch nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam Nguyễn Minh Triết gặp mặt đông đảo Việt kiều và báo giới tại quận Cam (Mỹ), Nguyễn Cao Kỳ (cựu Phó Tổng thống Việt Nam Cộng hoà, viên tướng râu kẽm một thời dẫn đầu phi đội máy bay của miền Nam Việt Nam ném bom Quảng Trị) đã phải tâm phục khẩu phục: "Tôi cũng từng tham vọng thống nhất đất nước. Nhưng hôm nay phải ngả mũ với những người đã làm được điều đó".

Còn Hai Trung – người anh hùng tình báo của Quân đội Nhân dân Việt Nam – đã khiến cả thế giới phải ngả mũ như thế nào?

Bậc thầy trong nghiệp: làm báo và tình báo

Sau khi chiến tranh kết thúc, Hà Nội công bố: Nhà báo lừng danh Phạm Xuân Ẩn là một điệp viên hạng nhất trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ.

Ngay lập tức, Murray Gart, thông tín viên trưởng của Time trong thời gian chiến tranh đã gào lên "Ông Ẩn là một kẻ đáng ghét. Tôi muốn giết ông ta!". Trong khi đó, nhiều đồng nghiệp khác của ông thì bàng hoàng. Lý trí bảo họ phải tin vì Phạm Xuân Ẩn thừa tài năng để làm được điều đó. Nhưng trong lòng họ lại muốn nghi, bởi họ không dám nghĩ rằng một chiến sĩ cộng sản lại sống có trái tim với tất cả mọi người như vậy.

Đã quá nhiều người biết và viết về ông với khả năng hài hước, luôn là trung tâm của mọi cuộc tranh luận nảy lửa về tin tức, về nghề nghiệp. Thú vị hơn nữa, mỗi khi kết thúc cuộc nói chuyện với ông, phóng viên nào cũng có một món quà tự mang về cho chính mình: khi thì là một bản tin chính xác nhất cho hãng, khi thì là khám phá mới về văn hoá Việt Nam, đôi khi lại còn là một bài học về cách làm người - sống để đức cho con cháu.

Nhờ đó, cánh phóng viên tuyệt đối tôn trọng ông. Ngay cả chính những phóng viên chiến trường lúc bấy giờ ở Việt Nam cũng đã nghiêng mình gọi ông là "nguồn cung cấp tin tốt nhất tại Sài Gòn" (Thomas A.Bass) khi cùng bàn luận tại quán cà phê Givral, nơi lần đầu tiên ông được phong "tướng" bởi những đồng nghiệp đủ mọi quốc tịch: "Tướng Givral"!

H.D.S Greenway (thường được biết đến với cái tên David) là phóng viên có mặt ở Khe Sanh năm 1971, sau này cũng nhớ lại: "Tôi chứng kiến nhiều người lính bị thương được đưa từ Lào về. Tôi mô tả họ như những người sống sót từ các đơn vị dẫn đầu cuộc tấn công", nhưng ông Ẩn nói không phải, "đơn vị dẫn đầu đã bị xoá sổ. Những gì anh đang chứng kiến là những người sống sót khi đang cố gắng hỗ trợ nhưng cũng bị thất bại. Tôi nghĩ lại về chuyện này: Có vẻ như ông Ẩn được thông tin khá chi tiết. Đó chính là sự đánh giá mà bạn chỉ có thể có được khi biết rõ cả 2 bên đang làm gì trong chiến đấu".

Trên thực tế, chiến dịch Lam Sơn 719 thất bại thảm hại, khi quân đội Việt Nam Cộng hoà mở cuộc tiến công Lào với quy mô lớn năm 1971 thì Phạm Xuân Ẩn đang ở Sài Gòn. Chính ông là người đã đọc và chuyển về Hà Nội nội dung của chiến dịch Hạ Lào trước khi nó được thi hành. Ông giữ bí mật tuyệt đối cho nghề tình báo mà ông theo đuổi hai thập kỷ qua.

Còn với tư cách đồng nghiệp một người làm báo, ông đã cho Greenway một lời khuyên chính xác về bản chất của sự kiện. Lời khuyên có giá trị giữ gìn danh tiếng cho Greenway (người mà năm 1973 đã rời khỏi tờ Time và sau này trở thành biên tập viên của tờ Boston Globe), bởi cũng trong thời gian này, chính Jean Claude Pomonti cũng bị đánh lừa bởi "những thành công của chiến dịch" trong những bản tin mà phóng viên này chuyển về Pháp.

Đó chỉ mới là khúc gút của câu chuyện về nghề làm báo của Phạm Xuân Ẩn trong việc tôn trọng đồng nghiệp và tinh thần tương hỗ của những phóng viên, thông tín viên của các hãng lớn ở Sài Gòn đang có sự cạnh tranh khốc liệt về tin tức. Ông nói rằng, ông tuyệt đối tuân thủ "tinh thần thể thao" trong nghề nghiệp mà báo chí Mỹ đã dạy cho ông.

Chính vì vậy, những đồng nghiệp của ông thời bấy giờ đã phải kính trọng nhà tình báo - nhà báo cộng sản này, dẫu cho nhiều tác phẩm mà họ viết về ông, dù muốn hay không, cũng cố áp đặt góc nhìn có hơi hướng chính trị lên những sự kiện liên quan đến cuộc đời vị thiếu tướng tình báo đầy giai thoại và huyền thoại này.

Bí mật sau những bản tin

Tháng 7/1964, tất cả các nhà báo ở Sài Gòn cố gắng tìm kiếm nguồn xác minh thông tin "Mỹ có đổ quân và bao giờ Mỹ đổ quân vào Nam Việt Nam?". Câu trả lời liên quan đến thượng tầng chóp bu của chính giới Mỹ. Tất nhiên, chóp bu của Mỹ tại Sài Gòn là toà đại sứ.

Một buổi tối, tại quán bar La Cigale, viên bí thư của đại sứ Cabot Lodge ngật ngưỡng bước vào với bộ quần áo chim cò, khoác vai một cô gái đẹp. Không phải những lần "tung tin để nhận tin", trao đổi tin tức như trước, viên bí thư chỉ mong một đêm ăn chơi tới bến vì "một tuần nữa tôi về nước rồi".

Trong đêm đó, bản tin của Reuters đánh đi từ Sài Gòn: "Một tuần nữa, Mỹ thay đại sứ ở Nam Việt Nam". Sự nhanh nhạy nghề nghiệp của Phạm Xuân Ẩn giúp cho Reuters có bản tin độc quyền trước các hãng, dù sau đó chính ông đã phải mất thời gian bị an ninh Việt Nam Cộng hoà thẩm vấn để tìm hiểu nguồn tin, được ông kiên quyết bảo vệ vì "chính  người Mỹ dạy tôi như vậy".

Nhưng có một câu chuyện chưa bao giờ được kể: Sau khi bản tin của Reuters đánh đi, Phạm Xuân Ẩn đã nhấc máy gọi cho đồng nghiệp "có cái tin như vậy, coi thử sao", không phải để tìm kiếm người "chia lửa" những rắc rối phát sinh, mà bởi nguyên tắc "thi đấu thể thao" giữa những người làm cùng nghề, mà ông đã thấm nhuần. Trước và sau câu chuyện này, ông vẫn thường xuyên làm như vậy.

Đúng 1 tuần sau khi bản tin được phát đi, Maxell Taylor sang Nam Việt Nam thay cho H.C. Logde, khẳng định sự chính xác của bản tin mà Hai Trung đã gửi. Đồng thời khẳng định chắc chắn Mỹ sẽ tiếp tục tăng cường quân số ở Nam Việt Nam.

Thời điểm đó, Hai Trung nhận định: "Mỹ không đổ quân vào thì bọn ngụy chỉ có chết mà thôi. Vì vào đầu năm 1965, cho đến khi Mỹ đổ quân thì mỗi tuần chúng bị mất một quận lỵ và 1 tiểu đoàn quân chính quy". Nhận định này bắt nguồn từ vị trí của một nhà báo có nhiều nguồn tin và đầu óc của một điệp viên chiến lược biết phân tích từ chiều hướng chiến lược từ những nguồn tin rời rạc đó.

Trong một trang hồ sơ tuyệt mật, Hai Trung tự nhìn lại quãng thời gian phục vụ cho Reuters: "Trong quãng thời gian 1960 đến 1964, Reuters luôn là hãng thông tấn có những bản tin tốt nhất, nhanh nhất gửi đi từ Sài Gòn".

Và tất nhiên, trong những bản tin đó đều có bàn tay, khối óc của Phạm Xuân Ẩn.

Ghi điểm trong đảo chính

Trước vụ đảo chính năm 1963 đúng 3 năm, trong đêm 11/11/1960, lính dù của Diệm cũng đã từng đảo chính. Nguyễn Chánh Thi, Tư lệnh lực lượng dù, người được tạp chí Time mệnh danh là "chuyên gia đảo chánh" và cũng là một trong bốn người được Diệm “thương như con”, được cho là cầm đầu.

Khi đó, Phạm Xuân Ẩn đã là nhân viên chính thức của Reuters, đồng thời ăn lương tại Sở nghiên cứu chính trị văn hoá xã hội (Phủ Tổng thống) của trùm mật vụ Trần Kim Tuyến và ở cả Việt Tấn Xã.

Thời điểm đảo chính xảy ra lúc 4 giờ sáng. Ngay sau khi xác minh thông tin từ cả phe đảo chính (Nguyễn Chánh Thi, Vương Văn Đông) lẫn phe Diệm - Nhu, chính Phạm Xuân Ẩn đã đến tận nhà báo động cho Trần Kim Tuyến: "Đảo chính thật rồi. Ông không dắt vợ con trốn đi, nằm nhà chờ lính dù đến bắt hả". Với Lê Văn Thái, nhân viên của Tuyến, ông cũng đích thân đến báo động để Thái đi trốn.

Tuy nhiên, sáng sớm hôm sau, sau khi tìm cách gửi điện tín tin tức đi, thấy thái độ chần chờ của Nguyễn Chánh Thi trước cửa Phủ Tổng thống, Phạm Xuân Ẩn hỏi ngay: "Lính dù vây chặt rồi, sao không tiến vào đi đại tá?". Lập tức, Thi văng miệng: "Đ.má, mày làm nhà báo mà còn nóng hơn tao làm nhà binh!". Linh tính nghề nghiệp đã báo cho ông: "câu chuyện còn dài".

Trên thực tế, đúng là Nguyễn Chánh Thi có ý định đảo chính thật, nhưng kế hoạch của ông ta không phải vào ngày đó, chẳng qua bị đám sĩ quan gí súng ngắn vào đầu ép phải làm. Sự chần chừ của Thi trong việc chờ thương thuyết đã khiến Phạm Xuân Ẩn mạnh dạn khẳng định: cuộc đảo chính sẽ thất bại!

Rốt cuộc, đúng như dự đoán. cuộc đảo chính thất bại chỉ trong vòng vài ngày ngắn ngủi như Reuters nhận định. Ẩn chính thức "lên điểm" trong mắt của hãng tin này, đồng thời trở thành ân nhân của của Tuyến lẫn Thái vì "có ơn" cứu mạng.

Quan trọng hơn, nội tình cuộc đảo chính của “con” đối với “cha” mà Hai Trung báo cáo đã giúp cho Hà Nội cũng có những bản báo cáo chính xác về phương hướng chiến lược của Mỹ - Diệm trong thời gian ngắn sau này.


Tiêu đề: Re: Cụm tình báo H.63 anh hùng
Gửi bởi: Mig21Bis_1 trong 25 Tháng Mười Một, 2011, 01:30:31 pm
Kỳ 12: “Tướng Givral” - Đạo đức của "người biết chửi"


Làm việc cho Mỹ là thế, nhưng Phạm Xuân Ẩn chưa bao giờ ngán... chửi. Tất nhiên là ông chửi Mỹ, chửi những kẻ làm tay sai rao bán đất nước. Và tất nhiên là ông cũng chửi công khai. Ấy thế mà ai cũng phải chịu nhịn, bởi ông chửi đúng quá!

Vừa được chửi, vừa được việc

Như chính ông thừa nhận, "căn bệnh" thích... chửi Mỹ đã ăn sâu vào máu, nên rất khó sửa. Bằng chứng, không chỉ ám chỉ trong những bản tin về sự kiện binh biến ngày 11/11/1960, mà ngay trong đêm đó, Phạm Xuân Ẩn đã "nóng máu" với Thiếu tá Scheer (phụ tá tuỳ viên quân lực toà đại sứ Mỹ).

"Nghề tình báo, hay nghề báo, chỉ khác nhau ở một chỗ: Ai là người đọc tin tức của tôi?" - Phạm Xuân Ẩn

Chuyện là, khi gửi tin bằng đường bưu điện không xong, trong đêm, ông cùng Trưởng văn phòng Reuters mò qua toà đại sứ Mỹ nhờ Scheer đánh giùm qua đường dây của sứ quán về hãng.

Khi trở lại, tất nhiên, ông phải tường thuật thông tin lại cho Scheer để làm quà, nhưng Scheer không hề chuyển bản tin của ông Ẩn đi với lý do "ngài đại sứ không đồng ý dùng đường dây của sứ quán giúp một hãng thông tấn tư nhân".

Nóng mặt vì mất thời gian, hơn nữa, tin của Reuters đã chậm hơn các hãng khác, Ẩn quát luôn vào mặt Scheer: "Người Mỹ các ông cóc chơi được!", rồi hầm hầm bỏ về.

Cuộc đảo chính kết thúc, Phòng thông tin Mỹ (USIS) mời phóng viên các hãng thông tấn nước ngoài đến họp báo mật về vụ Nguyễn Chánh Thi. Phạm Xuân Ẩn cũng tới, nhưng bị Anspacher (Giám đốc USIS) cản lại, không cho vào.

Trung điên tiết. Sau đó chính Reuters đã phát đi bản tin tiếp theo với nội dung lật mặt bản chất: "Cuộc đảo chính là giả, chỉ nhằm mục đích "rung cây nhát khỉ" do người Mỹ giật dây nhằm mục đích "doạ" Diệm phải thay đổi phương pháp cầm đầu bộ máy". Bản tin từ Reuters do Trung viết đã làm Mỹ bẽ mặt trước công luận.

Sau này, để chuộc lỗi với ông, cả Scheer lẫn Anspacher đã nhiều lần nhờ người bắn tin: Họ làm thế vì không biết Ẩn làm cho Reuters, cứ nghi Ẩn là người của Trần Kim Tuyến. Mâu thuẫn đó cũng được dàn hoà về sau, nhưng mối ác cảm về sự phân biệt đối xử của người Mỹ với thân phận kẻ làm thuê người Việt, dù là làm cho hãng tin nước ngoài, đã xúc phạm đến lòng tự trọng của Phạm Xuân Ẩn.

Bởi, ông vốn đã không muốn luồn cúi làm tay sai của Mỹ, nay lại phải chơi với nhiều gã xấu tính.

Ác cảm đó trong ông còn kéo dài về sau, kể cả khi Ẩn đã rời Reuters (1965), qua làm cho nhiều tờ báo khác, cuối cùng dừng lại lâu nhất là tạp chí Time (11 năm, từ 1965-1975).

Người “biết chửi có đạo đức”...

Sau những sự cố như thế, Phạm Xuân Ẩn càng khẳng định những nhìn nhận của mình về bản chất quân Mỹ là đúng. Thế nên, ông chẳng sợ gì, vẫn tiếp tục giữ "căn bệnh" "thích chửi Mỹ, xúi người ta chửi Mỹ, xúi Beverly (Beverly Deepe, phóng viên của The NewYork Herarld Tribune, đồng nghiệp thân thiết - NV) viết báo chửi Mỹ và những tên tay sai chỉ biết bịt mắt, bịt mũi, bịt tai theo đuôi Mỹ".

Tài ở chỗ, chửi nhiều thế mà ông chưa bao giờ chửi sai, và cũng chưa xúi ai chửi sai, chưa từng viết một dòng thông tin nào sai lên mặt báo, dù là với Reuters, The NewYork Herarld Tribune, The Christian Science Monitor hay Time Magazine.

Điều đó đã được chính David Greenway khẳng định: "Chúng tôi nghĩ đây là chuyện đùa... Những người biên tập viên của tờ báo Time đã không nghe chúng tôi. Không có phóng viên nào trong tờ báo Time đã thao túng tin tức. Ông ấy không có sự may mắn nào hơn chúng tôi", khi một vài đồng nghiệp của Phạm Xuân Ẩn buộc tội ông là đã thao túng những tin tức và những câu chuyện trên tạp chí Time với tư cách là "nhân vật có ảnh hưởng", khi biết ông là điệp viên của Hà Nội.

Còn Richard Pyle, cựu Tổng biên tập của tờ A.P Sài Gòn thì nhìn nhận thẳng thắn: "Ông Ẩn còn cứu tờ Time khỏi sự khó xử vì đã xuất bản những câu chuyện sai sự thật. Đó là sự tài tình của ông ấy... Không tiết lộ làm thế nào mà ông ấy biết hay không biết điều gì, ông ấy sẽ cho anh biết anh có đi đúng đường không".

Tất nhiên, không phải bất cứ ai cũng có thể thừa nhận sự thật rằng, đồng nghiệp mà họ ngưỡng mộ lại là một điệp viên cao cấp của phía bên kia, đặc biệt với những người làm nghề mà giới phương Tây vẫn xem là độc lập (tương đối) và thường được mệnh danh là Quyền lực thứ Tư này.

Peter Arnett (người được biết đến như một phóng viên chiến tranh có hạng của Thông tấn xã AP, CNN… từng đưa tin về cuộc chiến tranh Việt Nam. Gần đây nhất ông có mặt ở Baghdad để đưa tin về cuộc chiến vùng Vịnh, đã phỏng vấn Saddam Hussein; sau đó qua Afghanistan, phỏng vấn Osama Bin Laden năm 1997) đã chỉ trích ông Ẩn: "Mặc dù tôi biết ông ta như một người Việt Nam yêu nước, tôi vẫn cảm thấy như bị phản bội xét về nghề báo chí. Có nhiều lời cáo buộc trong suốt cuộc chiến tranh là chúng tôi đã bị những người cộng sản thâm nhập... Nhưng sau đó tôi biết rằng đó là công việc của ông ấy".

Còn ông Ẩn, năm 2003, xuất hiện trên Truyền hình Việt Nam trong chương trình "Người đương thời", vị thiếu tướng lẫy lừng vẫn mỉm cười rất tươi để nhắc lại quan điểm nghề nghiệp của ông: "nghề tình báo, hay nghề báo, chỉ khác nhau ở một chỗ: Ai là người đọc tin tức của tôi?"

Đó cũng như chính điều mà Thomas A. Bass, báo The New Yorker đã viết: "Ẩn là một người "Việt Nam thầm lặng". Ông nói rằng ông không bao giờ dối ai, rằng ông cung cấp cho báo Time chính những bài phân tích chính trị mà ông đã gửi cho ông Hồ Chí Minh. Ông là con người bị xẻ đôi với lòng trung chính cao độ, một người sống trong sự giả dối nhưng lại luôn nói sự thật."

Hơn hết thảy, Frank McCulloch, Tổng biên tập tờ Time ở châu Á, người đã thuê ông Ẩn làm việc cho tạp chí Time đã nhìn thấu suốt mọi câu chuyện: "Liệu tôi có giận dữ khi biết câu chuyện về ông ấy? Hoàn toàn không. Tôi nghĩ đó là Tổ quốc của ông ta. Nếu ở vào hoàn cảnh như vậy, tôi sẽ làm điều tương tự".

... Cùng hàng ngàn câu hỏi tại sao?

Với những người làm báo, khi đứng trước một vấn đề, một sự kiện hay một nhân vật, luôn có một câu hỏi mà họ phải tự đặt ra: "Tại sao?”. Tại sao thế này, tại sao thế kia?

Nhưng muốn lý giải chỉ bằng một mệnh đề hỏi như vậy sẽ chẳng bao giờ đủ, bởi mỗi con người luôn có những lý do cho con đường đi của riêng mình. Vì thế, những câu hỏi sẽ chỉ được giải đáp theo đúng nguyên nghĩa của mệnh đề "Tại sao?" theo cách mà người được hỏi muốn trả lời.

Muốn được giải thích nhiều hơn, hay muốn hiểu được nhiều hơn, chỉ có thể đặt mình vào chính họ. Nhưng sống như họ, hay ngắn ngủi hơn là cố gắng sống như họ, trong từng giai đoạn cụ thể của cuộc đời họ, cũng chưa chắc có thể hiểu, bởi trong từng góc sâu của mỗi người cũng có những điều không thể lý giải.

Ngay từ khi ông Ẩn còn sống, rất nhiều nhà báo, nhà nghiên cứu từng muốn “giải mật” về ông: Tại sao ông lại làm điều đó? Tại sao ông có được sự hiểu biết như vậy? Tại sao trước những hấp lực này, quyến rũ kia, ông vẫn đi trọn vẹn con đường mà ông đã chọn, dù những người nghĩ rằng họ là bạn ông, là đồng nghiệp với ông đã có thể có những nhận định hay lựa chọn khác?

Joseph Fouché – mưu sĩ chiến lược của Napoleon, cha đẻ của ngành anh ninh chính trị - cũng từng nhận định: “Tôi có mối quan hệ với những người có ảnh hưởng đối với những luồng công luận, có ảnh hưởng với các h ọc thuyết và có ảnh hưởng với các tầng lớp giai cấp trong xã hội. Hệ thống quan hệ này đã cho tôi những kết quả sâu sắc. Thông qua sự thổ lộ, tâm tư và những buổi nói chuyện chân tình của họ mà tôi biết tình hình thật sự của nước Pháp còn hơn là hàng đống báo cáo của vô số nhân viên mật báo mà tôi đã trả tiền”.

Đứng ở giữa trung tâm quyền lực của nước Pháp khi ấy, Fouché đã dõi con mắt của mình ở mọi ngóc ngách của cuộc sống, để rồi lý giải ra rằng: con người ở nước phát triển hay thế giới lạc hậu thì đều có những nhu cầu vật chất. Trong số những tham vọng cá nhân vô hạn và không thể thoả mãn được, có 2 động cơ chính cho tham vọng, đó là quyền lực và quang vinh.

Là người thông hiểu cả hệ thống tư bản Anh - Mỹ - Pháp, Phạm Xuân Ẩn đã học lại toàn bộ lý luận đó để áp dụng trở lại với chính những con người trong hệ thống ấy. Ông tự xây cho mình mối quan hệ tốt với đủ mọi tầng lớp có ảnh hưởng trong xã hội, để rồi từ đó ông hiểu nội tình chế độ tay sai còn hơn chính những người luôn tự đắc tuyên bố muốn xây một xã hội dân chủ dựa trên những đồng đôla Mỹ.

Chính vì thế, ông biết chắc rằng, sẽ chẳng có ai trong hệ thống kia sẽ hiểu được những gì chất chứa trong lòng ông. Bởi mấy ai biết rằng, năm 1957, để sang Mỹ học, Trung đã được đào tạo bởi 5 người thầy khác nhau, trong quãng thời gian dài tới 5 năm.

Đến trước khi lên đường theo diện tự túc, "anh Hai" - một trong những người thầy của Trung - đã phải chạy vạy, vay mượn cơ sở mấy ngàn đồng trong hoàn cảnh cực kỳ túng thiếu để đóng tiền vé máy bay thế thân cho Trung .

Xúc động nhất, ngay giờ phút ra đi, chính anh Ba, một người anh Việt Nam thứ thiệt, đã ôm và hôn Trung vào hai bên má. Cái ôm của tình đồng chí ấm áp đến nỗi mà Thiếu tướng Phạm Xuân Ẩn khi già rồi vẫn nhớ như in rằng: "Từ bé đến giờ, Trung toàn bị đánh. Chưa từng có ai ôm Trung như anh Ba cả. Cái ôm đó khiến Trung suýt khóc khi lên đường".

Liệu những đồng nghiệp, và cả những đối thủ của Trung, đã bao giờ sống đủ ở Việt Nam để hiểu được câu nói "Một chữ cũng là thầy, nửa chữ cũng là thầy" chưa? Sau này, chính những người thầy của Trung đã nghiến răng chấp nhận hy sinh, chịu đòn roi tra tấn dã man trong nhà ngục Chín Hầm khét tiếng để không bao giờ để lộ tin tức về người học trò của mình.

Đi cùng ông suốt 23 năm trời còn có những người đồng đội đã khiến ông luôn ngưỡng mộ, kính phục như Tám Thảo, Ba Già, Hai Thương, Tư Cang.... Những người đồng chí của Trần Văn Trung, mà trong một bản đánh giá chưa từng công khai, đã viết lại những nhận định của cấp cao nhất về lưới tình báo 2T (bí số của Phạm Xuân Ẩn): "Tập thể xung quanh 2T là một tập thể trong sáng, anh hùng".

Phạm Xuân Ẩn – ông và đồng đội – đã cùng làm nên huyền tích để chính những thế hệ sau của ông luôn giữ lời thề: Đất nước này, nếu có nguy nan thì họ sẽ là những người đầu tiên chấp nhận họng súng kê thẳng vào đầu mình để siết cò. Bởi, cha anh họ đã luôn làm như vậy.
Hơn 30 năm sau, Phạm Xuân Ẩn đã nói với những người phỏng vấn ông: "Làm tình báo, hay làm báo, chỉ khác nhau ở chỗ: Ai là người đọc tin tức của tôi". Sự an toàn của ông, không hề đơn giản, nó có cả một "nghệ thuật ẩn mình".


Tiêu đề: Re: Cụm tình báo H.63 anh hùng
Gửi bởi: Mig21Bis_1 trong 25 Tháng Mười Một, 2011, 01:55:46 pm
Kỳ 13: Người Hà Nội "ở phòng chỉ huy quân đội Mỹ"


Một chi tiết từng được Thomas A. Bass nhắc đến: Khi các bản báo cáo của Trần Văn Trung gửi ra Hà Nội, những cấp trên của ông từng vui mừng thốt lên: "Chúng ta đang ở ngay trong phòng chỉ huy cuộc chiến tranh của Mỹ".

498 bản tin, có phân tích và nhận định của cá nhân, trên quan điểm của một điệp viên nằm sâu trong lòng địch, từ 1961 - 1975, có thể chỉ là những con số thống kê vô hồn.

Nhưng lời nhận xét của những người có trách nhiệm đánh giá về giá trị tin tức do Hai Trung chuyển về có thể hé lộ một phần ánh sáng của câu chuyện: "Từ năm 1961 đến tháng 4/1975, lưới đồng chí 2T đã phục vụ được nhiều tài liệu nguyên bản, những chủ trương chiến lược của Mỹ trong chiến tranh đặc biệt, chiến tranh cục bộ và Việt Nam hoá chiến tranh.

Trong mỗi thời kỳ chiến lược, đồng chí đã phát hiện sớm những ý đồ chuyển hướng chiến lược của địch. Những kế hoạch quân sự từng thời kỳ và các biện pháp chiến lược của địch; những kế hoạch quân sự hằng năm; những ý đồ chủ trương lên thang xuống thang của Mỹ - ngụy đều được báo cáo kịp thời và chính xác... góp phần vào công cuộc giải phóng miền Nam thống nhất đất nước".


Sẽ rất khó có lời đánh giá nào cao hơn về công lao đóng góp của Trần Văn Trung.

Nhưng ai cũng muốn biết, Hai Trung đã có những tài liệu nào và đã có như thế nào?

Cú thoát hiểm ngoạn mục

Đầu năm 1961, Hai Trung vừa bắt lại được liên lạc thông qua Tám Thảo. Ngay sau đó, Trung chuyển vào căn cứ tài liệu McGarr "Technics and Tactics of Counter Insurgency".

(http://www.lichsuvietnam.vn/images/stories/anhtulieu/phongsukisu/huyenthoai/images1401113_pxa1.jpg)
Tận dụng mối quan hệ rộng rãi của mình, Hai Trung thường xuyên thu thập tin tức và tài liệu từ các tướng lĩnh quân đội Mỹ và VNCH - Ảnh: Tư liệu

Bản tài liệu do tướng Mỹ Lionel McGarr, chỉ huy trưởng MANAG soạn với nội dung "tập trung chống cộng sản và du kích về quân sự; còn những vấn đề chính trị, hành chính và kinh tế cũng chỉ tập trung nhằm mục đích chống cộng". Tài liệu này Hai Trung được Trần Kim Tuyến, Lê Văn Thái (Sở nghiên cứu chính trị - văn hoá - xã hội) đưa cho để nghiên cứu, góp ý, sau đó sao y bản chính gửi ra căn cứ.

Rất bất ngờ, tài liệu bí mật quân sự của Mỹ do Hai Trung lấy về được tóm tắt lại rồi đem đăng trên tạp chí Quân đội giải phóng, để phổ biến rộng rãi ý đồ của địch một cách... nhanh nhất.

Mà tài liệu chính là điệp viên. Bởi, bất cứ cơ quan tình báo nào cũng dễ dàng truy ra tung tích của tài liệu, nguồn xuất phát, từ đó dò tìm ra điệp viên, nếu bắt được tài liệu.

Chỉ có 3 nguồn để có bản tài liệu này: Bộ tổng tham mưu, The Asia Foundation và tình báo VNCH, hoặc từ Sở nghiên cứu chính trị của Tuyến.

2T mò sang Bộ tổng tham mưu thăm hỏi, nhưng không thấy động tĩnh. Chỉ thấy quan thầy lo sốt vó.

Bỏ qua BTTM, chỉ còn 2 nguồn. Trung đến gặp Đặng Đức Khôi, tung tin thăm dò "chắc là tài liệu ngụy tạo nội bộ nhằm hại nhau, hoặc do Việt Cộng tung ra nhằm ly gián".

Để phối kiểm cho chắc ăn, Trung sang Sở nghiên cứu chính trị gặp Tuyến, Thái, thấy hai người này "thở" ra giọng điệu giống hệt Khôi.

Thời điểm đó, Sở nghiên cứu chính trị (được Ngô Đình Nhu bảo kê) chịu sự "cạnh tranh" khốc liệt của Đoàn công tác đặc biệt miền Trung dưới tay Ngô Đình Cẩn nhằm "hất cẳng" sự ảnh hưởng của ông anh trai đang là Cố vấn của Tổng thống Diệm.

Trong khi đó, người Mỹ cũng tỏ ra không thích thú gì khi có một cơ quan mật vụ có quyền lực bao trùm cả miền Nam Việt Nam, vốn đang được nuôi sống bởi đô la, vũ khí, viện trợ Mỹ nhưng lại không chịu tuyệt đối tuân theo sự chỉ huy của cố vấn Mỹ.

Mối ngờ vực bao trùm lên toàn bộ nhữg kẻ có cùng lợi ích, theo cách này hay cách khác, trong sự liên quan tới Mỹ. Nhưng tất cả đều gạt Hai Trung ra ngoài bởi quan hệ thân cận hữu hảo của "người của Phủ Tổng thống", "người của ông Tuyến", "người của CIA", "người bảo vệ tuyệt đối nguồn tin do Mỹ dạy" mà Trung đã tạo dựng.

Tất nhiên, không chỉ riêng Sở nghiên cứu chính trị có bản tài liệu này. Nhưng sự việc vẫn cần một đầu mối chịu trách nhiệm. Sau đó ít lâu, Trần Lệ Thích, nhân viên trực tiếp dưới quyền Khôi, một người từng tham dự đọc tài liệu, sợ quá không chịu nổi áp lực, xin thôi làm ở The Asia Foundation (cơ quan núp bóng của CIA), qua Mỹ làm cho Đài VOA (Đài tiếng nói Hoa Kỳ).

Hai Trung tự dỡ bỏ lệnh "nằm im" mà cấp trên chỉ đạo, tiếp tục dấn thân vào sâu hơn để tìm kiếm những bản tài liệu tuyệt mật về ý đồ, mục tiêu chiến lược của đối phương.

Người của nhiều phía

Tới tháng 5/1961, mâu thuẫn gay gắt giữa Diệm và người Mỹ phần nào được giải quyết, sau một vài động thái Diệm nghe lời Mỹ trong việc dỡ bỏ dần lối cai trị "gia đình trị", tạo hình thức dân chủ giả tạo thông qua bầu cử, sử dụng nhiều "Mỹ con" hơn trong bộ máy.

Ngay lập tức. John F. Kennedy (Tổng thống Mỹ) sai Lyndin B. Jonhson (Phó Tổng thống) và em gái Kennedy sang Việt Nam, tuyên bố công khai ra mặt ủng hộ Diệm.

Đó là hệ quả tất yếu sau sự kiện tháng 11/1960, Mỹ làm xong động tác "rung cây nhát khỉ" khi dùng Nguyễn Chánh Thi vào cuộc "đảo chính giả cầy" nhằm doạ anh em Diệm.

 
(http://www.lichsuvietnam.vn/images/stories/anhtulieu/phongsukisu/huyenthoai/images1401115_pxa2.jpg)
Thomas A. Bass từng nhắc đến: Khi các bản báo cáo của Trần Văn Trung gửi ra Hà Nội, những cấp trên của ông từng vui mừng thốt lên: "Chúng ta đang ở ngay trong phòng chỉ huy cuộc chiến tranh của Mỹ!".

Sự vụ đình đám khiến gia đình Diệm vui mừng càng khoét sâu mâu thuẫn trong nội bộ quan thầy VNCH, khi Tuyến nổi xung chửi luôn cả Mỹ: "Thằng Mỹ ngu quá, có ủng hộ thì cũng nói vừa thôi. Nó nói thế thì mình làm sao mà khuyên ông cụ sửa đổi đường lối gì được. Đây rồi không vừa ý Mỹ thì nó lai dở trò nữa mà xem".

Sự uất ức của ông thầy tu xuất Trần Kim Tuyến từ thời điểm đó, đã khiến về sau, Tuyến mạnh dạn dám bắt tay với một nhân vật khác (mà Tuyến không hề biết là nhân vật đặc biệt của Hà Nội, VietNamNet sẽ tiếp tục đề cập trong loạt bài sau - NV) để lật anh em Diệm - Nhu; rồi tới cả Nguyễn Khánh. Nhưng đó là một câu chuyện khác.

Sự rối ren, lủng củng, mâu thuẫn nội bộ của một chế độ "ăn bám" giúp Trung "lặn" sâu hơn vào tầng sâu của bí mật để tìm kiếm những bí mật khác.

Cũng trong năm 1961, kế hoạch Khu trù mật thất bại theo kế hoạch dinh điền, buộc Mỹ - Diệm phải tìm cách thay đổi. Kế hoạch Ấp chiến lược ra đời. Hai Trung là một trong sốt ít những nhà báo thân cận với chính quyền (tay sai và ông chủ) được mời đi thị sát đầu tiên trại thí điểm về Ấp chiến lược ở Tân Hiệp, Tân An (Long An). Về sau, chính 2T bị phê bình đã không báo cáo ngay việc này.

Thời điểm đó, kế hoạch Ấp chiến lược được Mỹ "trình" qua cho Diệm. Văn phòng Ngô Đình Nhu trực tiếp tiếp nhận, soạn thảo bản đối ứng bổ sung của kế hoạch nguy hiểm này. Người phụ trách phần việc là Nguyễn Văn Khoa, anh rể của cha Nguyễn Ngọc Lan, đang là cố vấn của Nhu. Khoa vốn học trường mà Ngô Đình Thục, người được Diệm, Nhu đặc biệt kính nể trong gia đình, từng theo học.

Từ văn phòng Nhu, kế hoạch này "bay" về Sở nghiên cứu chính trị - văn hoá - xã hội với yêu cầu tìm hiểu thêm mô hình tổ chức Kiburt (ấp chiến đấu của Israel) để nghiên cứu, đề xuất bổ sung. Người trực tiếp phụ trách phần việc là Lê Văn Thái.

Thái vốn tiếng Anh không tốt, kế hoạch Ấp chiến lược lại khá đầy đặn. Để "gửi" lại người Mỹ phê duyệt lần cuối trước khi thực thi, Thái gọi Trung lên giao lại để góp ý và nhờ dịch sang tiếng Anh. Mừng như mở cở, Trung ôm luôn về đọc qua, sao một bản gửi ra ngay căn cứ, còn bản gốc mang sang cho Pete Robert (người của đại sứ quán Anh) nhờ "dịch giùm".

Tất nhiên, người Anh đã không thể không nhiệt tình khi nhìn thấy "món quà" bản kế hoạch chiến lược "khủng" này "rơi" từ phía người bạn Hai Trung sang, nên dốc sức dịch giúp rất nhanh chỉ trong vòng 1 tuần. Trong mối quan hệ tìm kiếm ảnh hưởng, việc Robert lưu giữ bản dịch là điều dễ hiểu, còn con đường đi tới đâu thì Trung cũng không quan tâm.

Xong nhiệm vụ với Thái, Trung đem tài liệu đã dịch về nhà "ngâm" tới khi Thái giục cuống lên, mới đưa ra.

"Món quà" của Trung khiến người Anh rất đỗi nhiệt tình khi sau đó tiếp tục giúp đỡ với kế hoạch Ấp chiến đấu. Lê Văn Thái tiếp tục tin tưởng vào trình độ của một nhân viên mẫn cán. Còn Hà Nội thì đã có nguyên bản kế hoạch "dồn dân lập ấp, tát nước bắt cá", lập vùng trắng tách Việt Cộng với dân chúng... đặc biệt nguy hiểm do những cái đầu siêu đẳng về chiến lược của cả Mỹ lẫn Diệm dành thời gian, công sức vẽ ra.

Việc phá Ấp chiến lược những năm 1962 - 1963, sử sách đã ghi lại rất rõ.


Tiêu đề: Re: Cụm tình báo H.63 anh hùng
Gửi bởi: Mig21Bis_1 trong 25 Tháng Mười Một, 2011, 02:28:21 pm
Kỳ 14: Hấp lực dọc đường đi


Học xong ở Mỹ, trước mặt Hai Trung có 2 sự lựa chọn. Một là trở về để... vô khám hoặc chết trên xứ sở Việt Nam nghèo khó với cuộc chiến đang ngày càng leo thang chưa biết khi nào dừng. Hai là đàng hoàng ở lại Mỹ với lý do "chỉ huy bị bắt, đã đứt liên lạc" rồi tiếp tục học hành, làm báo, kết hôn, hưởng thụ cuộc sống giàu có không bom đạn. Trên đường Hai Trung đi, đầy rẫy những hấp lực...

Nhìn danh sách những tài liệu mà lưới tình báo 2T chuyển về, bất cứ một cơ quan tình báo nào cũng phải "thèm thuồng" một điệp viên "có cỡ" như thế:

Từ năm 1961-1965: những bản tài liệu nguyên bản về chiến lược chiến tranh đặc biệt như Tài liệu McGarr; tài liệu Staley, tài liệu Taylor, tài liệu Harkins; tài liệu Ấp chiến lược...; giai đoạn 1965 - 1968: Mọi kế hoạch liên quan đến chiến lược chiến tranh Cục bộ, phục vụ chiến thuật cho Mậu Thân 1968; giai đoạn 1969 - 1973: tuyệt đối bí mật và chuyển giao kịp thời những tài liệu liên quan đến chiến lược Việt Nam hoá chiến tranh, là nhân vật được chèo kéo của nhiều cơ quan tình báo, kể cả CIA Mỹ; giai đoạn 1973 - 1975: Thu hàng trăm bản tin nguyên bản "phục vụ trên hạ quyết tâm giải phóng miền Nam"...

Trong khi đó, trên chặng đường đi của một điệp viên có quá nhiều hấp lực và điều kiện sa ngã. Dẫn 2T làm dẫn chứng điển hình, bản tổng kết của Cục tình báo Trung ương miền chỉ rõ: "Cán bộ điệp báo hoạt động lẻ loi, đơn tuyến, tự kiểm soát, nên yêu cầu "chuẩn" là không để bị sai sót và không để bị thoái hoá".

"3 cửa Tình, Tiền, Tù"

Có những điều khi người ta tin là lý tưởng sống, họ sẽ theo suốt cuộc đời, bất chấp sợ hãi lẫn những hấp lực dọc đường đi.

"Trên đường Hai Trung đi, đầy rẫy những hấp lực. Nhưng 23 năm trong lòng địch, chưa một lần ông vấp"

Năm 1957, Trần Văn Trung đặt chân tới nước Mỹ. Mất 2 năm theo học để hiểu người Mỹ, Trung cũng kịp để lại ấn tượng về một cậu sinh viên hào hoa, hài hước và cực kỳ thông minh với kết quả học tập có thể điều khiển theo ý mình.

Nhưng học thôi chưa đủ, cậu sinh viên Việt Nam ấy còn rất biết... chơi. Những gì văn minh nhất của nước Mỹ, Hai Trung đều tự học và áp dụng trở lại với chính những người ngoại quốc cùng làm, cùng chơi sau này. Rất cưng chiều... chó và tôn trọng phụ nữ, Hai Trung lúc nào cũng lịch thiệp, nhã nhặn với các quý bà, quý cô, bởi “lời của phụ nữ là lời của Chúa rồi”.  

Năm 1959, trước bức thư báo tin dữ từ quê nhà, Trung quyết định về nước, mặc dù người Mỹ sẵn sàng đài thọ để Trung theo học tiếp 2 năm cuối với số tiền học bổng 350 USD mỗi tháng - mơ ước của những du học sinh tại Mỹ lúc bấy giờ.

Tuy nhiên, tiền chỉ là chuyện nhỏ. Có một điều ít ai biết rằng, cậu sinh viên hào hoa khi ấy đang được một cô gái Mỹ... đem lòng yêu thương và đề nghị kết hôn. Cô là con gái của một tỷ phú. Nhưng đó đã vĩnh viễn là bí mật của riêng ông.

Lúc này, trước mặt Hai Trung có 2 sự lựa chọn. Một là trở về để... vô khám hoặc chết trên xứ sở Việt Nam nghèo khó với cuộc chiến đang ngày càng leo thang chưa biết khi nào dừng, hai là đàng hoàng ở lại Mỹ với lý do “chỉ huy bị bắt, đã đứt liên lạc” rồi tiếp tục học hành, làm báo, kết hôn, hưởng thụ cuộc sống giàu có không bom đạn. Ở lại đất Mỹ, tính mạng của ông sẽ được bảo đảm an toàn trước sức mạnh của quyền lực, tiền bạc và tình yêu.

Nhưng lòng dũng cảm và trung thành của người lính trong ông đã quyết định: Trở về!  

Người hùng bị săn đuổi

Năm 1969, Phạm Xuân Ẩn chính thức là người của tạp chí Time sau một thời gian dài cộng tác. Những ưu đãi đặc biệt của Time dành cho thông tín viên người Việt số 1 như Phạm Xuân Ẩn luôn có một lực hấp dẫn lớn về quyền lợi như: cứ 2 năm làm cho tạp chí này, Ẩn cùng vợ có quyền nghỉ phép 1 tháng đi Mỹ chơi, báo chịu mọi phí tổn. Tuy nhiên, ông chưa bao giờ nhận về mình quyền lợi đó.

Thậm chí, khi đã chắc chân ở Time, hàng loạt lời mời vẫn tới tấp bay tới: Harper, cháu của Philip Potter (trùm CIA ở Huế) tìm tới mời Trung về làm việc bán thời gian, sẵn sàng trả lương cao, hoạt động trong hàng ngũ Trần Quốc Bửu. Trung tìm hiểu, biết được thực chất công việc là chống phá phong trào cách mạng nên đã kiên quyết từ chối.

(http://www.lichsuvietnam.vn/images/stories/anhtulieu/phongsukisu/huyenthoai/images1401449_pxa3.jpg)
Vị thiếu tướng tình báo huyền thoại đã đi trọn con đường dài 23 năm ẩn mình trong lòng địch hậu, với lời dặn của anh Hai (đồng chí Dương Minh Sơn, Tư Tùng) khi dạy nghiệp vụ những ngày đầu: "Bác Hồ dạy chúng ta: Những người cán bộ tình báo phải đấu tranh cho được 3 cửa: Tình, Tiền, Tù" - Ảnh: Tư liệu


Từ chối người Mỹ xong, Trung lại bị “săn lùng” bởi cơ quan tình báo của Tưởng Kiến Quốc. Francis Cao, đại diện của tình báo Đài Loan thuyết phục Trung cộng tác, với đề nghị sẽ giới thiệu với Wang Tchen (về sau là Tham mưu phó hành quân ở Đài Loan), nhưng Trung thấy không có lợi cho cách mạng nên cũng không nhận lời.

Biết Trung là “con cá vàng” không thể để lọt mất, người Mỹ nhất định không chịu bỏ cuộc. Một đại diện khác của CIA xuất hiện: David Huston, đệ tử ruột của Edward Lansdale.

Từ năm 1961, theo lời đề nghị giúp đỡ của Jim Robinson (thông tín viên của hãng NBC), Trung sống và làm việc cận kề với David Huston. Mối giao hảo thân tình trên tư cách đồng nghiệp nhờ vả kèm cặp đã khiến Hai Trung không hề đặt vấn đề tìm hiểu về David Huston là ai.

Mãi về sau, khi David quay trở lại Việt Nam với tư cách là bí thư của Lansdale, Trung mới giật mình. Hoá ra, hai nhân vật tình báo ở hai bên chiến tuyến sống cùng nhau trong suốt thời gian dài mà vẫn giữ kín bình phong. Tuy nhiên, Huston “cáo già” bao nhiêu thì Hai Trung còn “cao thủ” hơn bấy nhiêu. Ông tiếp tục cuộc hành trình bí mật của riêng mình sau khi thận trọng điều tra và cảnh giác để giữ an toàn tuyệt đối.

Về sau, ông tự trào nhìn lại "một tên CIA nằm bên cạnh gần 1 năm trời mà không đặt nghi vấn gì kể cũng là quá yếu và quá sơ hở rồi. Chớ để nó phát hiện ra thì chắc không còn ngồi đây mà tổng kết nữa".

Thời điểm 1969, trở lại Việt Nam, biết Trung là người quan hệ rộng, lại là người từng giúp đỡ mình, David Huston lại tiếp tục tìm đến đặt vấn đề mời Trung kinh doanh theo hình thức Mỹ bỏ vốn, mở trang trại nuôi bò sữa ở Bình Long, còn Trung quản lý. Lời để nghị cực kỳ hấp dẫn: "lời mình ăn, lỗ Mỹ chịu", chỉ kèm điều kiện là ông chủ điền trang nhận giùm một số người Thượng và người Kinh vào làm việc.

Thấy việc đi với CIA về phương diện kinh tế không có lợi cho công việc phục vụ cách mạng, Trung khéo léo từ chối.

Chưa chịu thua, David Huston lại tấn công tiếp, rủ Trung mở nhà máy cá hộp xuất khẩu, Trung cũng chỉ lắc đầu quầy quậy với lý do "kinh doanh không phải là thứ Trung ham".

CIA Mỹ chào thua. Lập tức, tình báo Anh nhảy vào. Fordaz, trùm tình báo Anh lúc bấy giờ ở Sài Gòn (nhân vật về sau nổi tiếng khi tham gia lật đổ Mossadegh ở Iran), mời Trung đến, đặt vấn đề trao đổi thông tin 2 chiều, có thù lao. Lại thêm một lần lắc đầu nữa.

Hết tình báo, tới lượt các tờ báo, hãng thông tấn khác vào cuộc... chào mời. Merton Pery, trưởng đại diện của Newsweek ở Sài Gòn cũng tới mời Trung cộng tác. Trong khi Time trả lương cho Trần Văn Trung 450 USD mỗi tháng, tiền ăn theo giá chính thức của ngân hàng 118 đồng tiền Sài Gòn ăn 1 USD, thì Newsweek sẵn sàng trả cho Trung 500 USD/ tháng, chấp nhận tính theo giá đô la chợ đen, quy đổi ra tiền Sài Gòn cao gấp nhiều lần.

Tính toán, thấy Newsweek là tờ báo có xu hướng đối lập với chính quyền Mỹ, dễ "gây thù chuốc oán" khi viết bài, Trung từ chối luôn lời mời hấp dẫn này. Nhưng tôn trọng tình đồng nghiệp, Trung giới thiệu những người khác có khả năng vào vị trí đó.

Bám chặt vào bình phong báo chí, Hai Trung đung đưa "làm xiếc" trên sợi dây quyền lực, giữa sự hỗn độn của các phe nhóm tranh giành ảnh hưởng và mong muốn người Mỹ để mắt nhiều hơn tới họ. Từ Việt Tấn Xã, tới Reuters, The New York Herarld Tribune, The Christtian Science Monitor rồi Time Magazine, Trung chấp nhận một mức lương đủ sống, đủ để làm việc và đủ để phục vụ cho cách mạng. Với ai, với phe nhóm nào, ông cũng luôn hồ hởi đón tiếp nhưng có khoảng cách đủ để an toàn, để người khác hiểu "thằng đó chỉ khoái làm báo, khoái chuyện thời sự chính trị chứ không làm chính trị, khoái tiếu lâm, chứ hoàn toàn vô hại".

Nguồn tiền lương nhận về, Hai Trung chia làm 3 phần: 1 phần nuôi gia đình; 1 phần để giao tiếp, thiết lập, mở rộng quan hệ xã hội; phần còn lại để giúp đỡ tổ chức, dần tích luỹ sẵn để phòng công tác lâu dài.

Cũng trong cảnh tranh tối tranh sáng các phe nhóm thi nhau lục đục giành ăn thời kỳ đó, Hai Trung "đã không còn sợ bọn nguỵ nó nghi ngờ gì nữa vì chẳng có thằng nào ở lâu một chỗ, thì giờ đâu mà củng cố trả thù".

Nhìn lại mình sau ngày đất nước hoàn toàn thống nhất, Đại tá Trần Văn Trung tâm sự: "Làm cho một tạp chí lớn (Time), Trung có thể mướn nhà cửa lớn, sắm xe tốt để có một lối sống của giới thượng lưu, làm hội viên các họi kỵ mã, du thuyền, Cercle Sportif, Lion Club, Rotary Club... để phát triển nguồn tin mạnh hơn nữa, nhưng Trung sợ mất thời giờ, mất phẩm chất lần lần mà không biết được, không những cho bản thân mà cho cả vợ con.

Một khi ta giải phóng hoàn toàn, đi nước ngoài thì không nói gì, nếu ở lại trong nước thì không tài nào sửa chữa được thói quen, tật xấu, tâm lý của mình và gia đình mình với một nếp sống tư sản cao như thế được".

Vị thiếu tướng tình báo huyền thoại đã đi trọn con đường dài 23 năm ẩn mình trong lòng địch hậu, với lời dặn của anh Hai (đồng chí Dương Minh Sơn, Tư Tùng) khi dạy nghiệp vụ những ngày đầu: "Bác Hồ dạy chúng ta: Những người cán bộ tình báo phải đấu tranh cho được 3 cửa: Tình, Tiền, Tù".



Tiêu đề: Re: Cụm tình báo H.63 anh hùng
Gửi bởi: Mig21Bis_1 trong 25 Tháng Mười Một, 2011, 05:18:36 pm
Kỳ 15: "Nghệ thuật ẩn mình" của một điệp viên


Hơn 30 năm sau, Phạm Xuân Ẩn đã nói với những người phỏng vấn ông: "Làm tình báo, hay làm báo, chỉ khác nhau ở chỗ: Ai là người đọc tin tức của tôi". Sự an toàn của ông, không hề đơn giản, nó có cả một "nghệ thuật ẩn mình".

Thiếu tướng Trần Văn Trung (2T) phân tích rằng: "Điệp viên đơn tuyến là người sống cô độc, dù anh ta có vợ con bên cạnh cũng thế. Xung quanh anh ta là một xã hội anh ta không chấp nhận được, nhưng bắt buộc phải sống ở đó. Hoạt động của anh ta là hoạt động của một người phạm pháp trong xã hội đó. Bề ngoài và công khai anh ta phải chứng minh cho các mối quan hệ của anh ta là anh ta chấp nhận và bảo vệ xã hội đó, nhưng thâm tâm là lật đổ chế độ đó đi".

Vì vậy, nếu điệp viên bị bắt, cầm chắc cái chết, hoặc thương tật vĩnh viễn suốt đời. "Trường hợp trốn thoát chỉ là hãn hữu, không nên kỳ vọng", Hai Trung chú dẫn.

Muốn không bị bắt, "điệp viên phải như cá nằm sâu dưới đáy biển, nổi lên là chết".

Còn Phạm Xuân Ẩn thì “nổi lềnh bềnh” trên mặt nước, thậm chí danh tiếng còn nổi ra ngoài biên giới Việt Nam, bởi ông làm nghề phải tiếp xúc với đủ dạng người, mỗi ngày.

Trong cuốn sách Making of a Quagmire ("Một thế sa lầy đang thành hình") năm 1965 nói về Chiến tranh Việt Nam của David Haberstam, một người bạn của Phạm Xuân Ẩn tại báo Time, Haberstam đã miêu tả Phạm Xuân Ẩn như là "cái đinh chốt của một mạng lưới tình báo nhỏ nhưng hạng nhất" của các phóng viên.

Khi biết về câu chuyện của Phạm Xuân Ẩn, và trả lời về thái độ cá nhân, ông nói: "Đây là một câu chuyện đầy mưu mô, khói và gương, nhưng tôi vẫn quý mến Ẩn. Tôi chưa bao giờ cảm thấy bị Ẩn phản bội. Anh ta đã phải sống với việc là một người Việt Nam trong một thời điểm gian nan trong lịch sử của họ...".

Ông nhận xét: "Câu chuyện của Phạm Xuân Ẩn nhắc lại tất cả những câu hỏi căn bản do Graham Green từng nêu ra trong tác phẩm The Quiet American (Người Mỹ trầm lặng): Thế nào là sự trung thành? Thế nào là lòng yêu nước? Thế nào là sự thật? Anh là ai khi anh nói những sự thật ấy?".

Cuối cùng, Halberstam kết luận: "Có một mâu thuẫn đối với Phạm Xuân Ẩn mà chúng ta không thể hình dung được. Nhìn lại quá khứ, tôi thấy ông là một con người bị xẻ làm đôi ở giữa".

Không chỉ David Haberstam, mà còn rất nhiều người khác, cả những đồng nghiệp của ông lẫn những học giả quan tâm đến lưới tình báo 2T đã muốn phân tích rằng: Trong con người Thiếu tướng Hai Trung là một sự giằng xé giữa lý tưởng và hiện thực, giữa đồng đội và đồng nghiệp, giữa thật và giả...!

Trong khi đó, cuộc sống của 2T suốt 15 năm (1960-1975), như ông tự bạch "chỉ có giả dối bề ngoài: Thấy địch chết phải tuôn nước mắt cá sấu mà khóc. Thấy chiến sỹ ta bị sát hại phải nuốt hận để mừng thì không có gì khổ tâm cho bằng".

Nhưng ông vẫn luôn sống thật, rất thật, để những người phía bên kia chiến tuyến, lẫn những người không có cùng chung một góc nhìn về tư tưởng, phải kính trọng ông.

Sự kiện "đình đám" nhất mà giới báo chí phương Tây đổ xô vào phân tích, khi muốn dẫn tới kết luận Trần Văn Trung "gặp khó khăn" với những người đồng đội, là việc mà ông đã giúp đỡ Trần Kim Tuyến di tản khỏi miền Nam Việt Nam vào những ngày cuối cùng của tháng 4/1975.

Nhưng trước đó, từ 1960, chính Phạm Xuân Ẩn đã cứu thoát Trần Kim Tuyến trong cuộc binh biến của lính dù được xem là do Nguyễn Chánh Thi cầm đầu.

(http://www2.vietbao.vn/images/viet2/phong-su/20736440_images1400659_pxa9.jpg)
Chiếc xe này đã giúp sức cho "nghệ thuật ẩn mình" của nhà tình báo huyền thoại Phạm Xuân Ẩn!

Việc cứu Tuyến trong thời điểm đó, như Hai Trung nhìn nhận, Mỹ đã "ghét" Diệm tới cực điểm khi Diệm tái
đắc cử Tổng thống với việc đạo diễn tới 90% số phiếu ủng hộ, để tiếp tục chiêu bài "quốc gia" và "đồng minh, chiến hữu" trong khi hoàn toàn phụ thuộc vào tiền, viện trợ quân sự và cố vấn Mỹ, chưa từng được xem xét dưới góc độ khó khăn.

Sự kiện này, chính Hai Trung đã chiêm nghiệm: “Bất cứ một ngành nghề nào và bất cứ công tác nào cũng phải chú trọng đến mối quan hệ giữa người và người. Đối với ngành tình báo, nhất là đối với 1 điệp viên hoạt động ở vùng địch hậu thì quan hệ giữa người và người là rất quan trọng vì điệp viên phải giao dịch hằng ngày với đủ hạng người, nhất là với địch.

Còn con người thì lúc nào cũng phức tạp. Nhất là con người mà điệp viên phải tiếp xúc, vì họ không phải là đồng chí, cũng không phải là đồng bào tối của điệp viên... Con người thì lại hay thay đổi hơn là môi trường xung quanh của người".

Cũng từ quan điểm đó, ông chọn chữ THẬT để sống, để tiếp xúc, thiếp lập quan hệ lẫn làm việc, khai thác thông tin. Điều gì đã nói, là phải nói cho THẬT. Cả trong cách bông phèng khôi hài thì ông vẫn rất thật, bởi ông là một người hài hước.

Điều đó, cũng chính là cách mà hơn 30 năm sau, ông đã nói với những người phỏng vấn ông: "Làm tình báo, hay làm báo, chỉ khác nhau ở chỗ: Ai là người đọc tin tức của tôi".


Tiêu đề: Re: Cụm tình báo H.63 anh hùng
Gửi bởi: Mig21Bis_1 trong 25 Tháng Mười Một, 2011, 05:25:06 pm
Kỳ 16: "Điệp viên tay mơ" thành người Việt trầm lặng


Những câu chuyện từ thuở chính thức nhận lời bác sĩ Thạch "làm điệp viên chiến lược" (1952) cho tới năm 1954 đã được chính Hai Trung mổ xẻ: "Thời gian làm tình báo đến giữa năm 1954, Hai Trung đã có nhiều kinh nghiệm hoạt động nguyên tắc, đặc biệt là quan hệ giữa người và người, nhưng anh ta vẫn là một điệp viên tài tử miệng còn hôi sữa, nhưng rất nhiệt tình, có nhiều tin".

Nắm rõ từng bước đi đầu tiên của Mỹ - Diệm

Những năm chui vào phòng 5 Bộ Tổng tham mưu, là bí thư của Phạm Xuân Giai, cấp bậc thượng sỹ đồng hoá (dân sự chuyển ngạch - NV), Trung làm điệp viên như một... cái máy, cứ thấy có tài liệu nào ghi chữ "phổ biến hạn chế", "mật", "tuyệt mật" là "vồ lấy vồ để", vồ như vồ gà, rồi đem tất cả về cho "anh Ba".

Đặc biệt, Trung khoái tìm các tài liệu chiêu hồi, tài liệu chiến tranh tâm lý.

Trong cái cảnh tranh tối tranh sáng của buổi "giao ban" giữa hai đế quốc Mỹ - Pháp về quyền và vai trò ảnh hưởng đối với mảnh đất Nam Việt Nam thì những kẻ làm thuê luôn tìm mọi cách bảo vệ quyền ảnh hưởng cũng như vai trò của "ông chủ". Tất nhiên, bảo vệ “ông chủ” cũng chính là bảo vệ quyền lợi cho bản thân họ.

Cuối năm 1954, Phạm Xuân Giai và Tổng tham mưu trưởng Nguyễn Văn Hinh dự tính làm cuộc đảo chính Diệm - người đang được ông chủ Mỹ hậu thuẫn ghê gớm trong việc xây dựng lực lượng.

Cuộc đảo chính thất bại. Hinh và Giai "té" ra nước ngoài. Trung khốn đốn vì bị đám tướng lĩnh của Diệm nghi ngờ, điều tra. Nhưng cái vẻ lành lành, cộng thêm một chuyện may mắn tình cờ vào đúng thời gian đảo chính đã giúp Trung có được hai chữ "vô can".

Mỹ bắt đầu thế chân Pháp, nhưng mọi chuyện không dễ dàng vì trong hàng ngũ sĩ quan còn rất nhiều người theo Pháp. Hai Trung do biết cả tiếng Anh, tiếng Pháp nên được chuyển qua làm người liên lạc cho phái bộ Mỹ và đám sĩ quan Việt Nam Cộng hoà – những người đang được Mỹ lôi kéo và gấp rút đào tạo.

Có mặt tại quân trường Thủ Đức trong khoảng thời gian này với vai trò người phiên dịch, Hai Trung có thời gian tiếp cận, giúp đỡ những sĩ quan cốt cán từ những ngày đầu trong chế độ Diệm, khi 6 sư đoàn khinh quân đầu tiên được người Mỹ thành lập và huấn luyện.

Tất nhiên, khi hoàn thành xong công việc bình phong, Hai Trung không bao giờ trở về tay không. Toàn bộ tư liệu, tài liệu giảng dạy đều được Trung "cuỗm sạch" mang về cho anh Ba.

Dấn thân với đủ loại người

Những thành công bước đầu khiến chàng trai trẻ mạnh dạn hơn trong việc đề xuất với cấp chỉ huy: Xin tiếp cận với các trùm an ninh Pháp như Cousseau, Savanni, thông qua sự giới thiệu của Đàm Quang Thiện và Đái Đức Tuấn (Tchya).

Tính bộp chộp của tuổi trẻ ở Trung khiến anh Ba phải nhanh chóng ngăn lại: "tích cực thế là tốt, nhưng phải biết mục tiêu mà đánh, phải so sánh lực lượng, không phải đụng chỗ nào cũng tấn công cả".

Để dạy thêm cho Trung, anh Ba bảo Trung mời một người đến nhà nói chuyện về thời cuộc, ông sẽ xuất hiện vô tình để xem cách Trung khai thác thông tin như thế nào. Nhân vật được chọn là Cao Hoài Phong, con trai Cao Hoài Sang - lúc bấy giờ là đương kim quyền Đức hộ pháp Cao Đài. Bài học về cách khai thác thông tin sau buổi nói chuyện giúp Trung hiểu thêm về "tầm cỡ" của một điệp viên phải như thế nào.

Vì vậy, suốt quãng thời gian năm 1955-1956, Trung vừa "vồ" tài liệu, vừa tiếp tục thắt chặt các mối quan hệ với giới sĩ quan trong việc giúp đỡ họ phỏng vấn, xin visa, đưa tiễn sang Mỹ, theo dõi làm báo cáo về học viên, thông báo cho gia đình ra đón khi học viên về nước.

Thậm chí, Hai Trung còn chẳng ngại giúp họ xách đồ khi người nhà sĩ quan từ Mỹ về đang lo mừng tủi ôm nhau. Đôi khi, nhiều viên sĩ quan “vô ý” xách về vài kiện hàng quá tiêu chuẩn, Hai Trung lại tự mình đi “xin” giúp bên hải quan, bởi ông đã có mối giao hảo từ trước.

Cũng từ đó, Trung dần lặn sâu vào giới sĩ quan quân sự người Việt - lớp "Mỹ con" được Mỹ đào tạo để thay thế sĩ quan thân Pháp, đồng thời tiếp tục phát triển mối quan hệ tin cậy với những nhân viên CIA đang có mặt tại Nam Việt Nam như Đại tá Lansdale - Trưởng phái bộ quân sự đặc biệt của Mỹ (SMM), tiến sĩ Parker – Giám đốc cơ quan Văn hoá Á châu (The Asia Foundation)... để từng tháng, từng năm tích luỹ kinh nghiệm, để cuối cùng trở thành "một điệp viên đã thách thức nước Mỹ", như lời mà Jean Claude Pomonti đã viết về ông.

Trở thành “đạo diễn” người Việt trầm lặng

Kinh nghiệm tích luỹ dần, cho đến năm 1956, Hai Trung biết tin người Mỹ muốn lập một lực lượng đặc biệt (biệt kích) cho quân đội Việt Nam Cộng hoà, tương tự lực lượng đặc biệt của Mỹ, chuyên thọc sâu vào hậu phương đối phương, đánh nhanh rút gọn nhằm mục đích phá hoại.

(http://www2.vietbao.vn/images/viet2/phong-su/20735406_images1398413_an-tren_duong_pho_SG-anhtul.jpg)
Phạm Xuân Ẩn trên đường phố Sài Gòn- Ảnh: Tư liệu

Kế hoạch này do Cơ quan huấn luyện lục quân hỗn hợp (CATO) tiến hành, được sự đồng ý của cấp cao nhất ở phái đoàn Mỹ là Thượng tướng Samuel William.

Tuy nhiên, sự hục hặc giữa phòng Quân huấn của Bộ Tổng Tham mưu và các sỹ quan CATO khiến kế hoạch này bị xếp xó.

Nắm rõ được nội tình, Trung khéo léo đến gặp thẳng Thiếu tướng Trần Văn Đôn - Tổng Tham mưu trưởng, đề nghị tướng Đôn nên "chấp nhận kế hoạch của họ nhưng triển khai là việc của ta". Nghe Hai Trung lý giải, tướng Đôn đồng ý ngay với chiêu thức này để không làm mất mặt người Mỹ.

Còn về phía Mỹ, trước đó Hai Trung đã nhận lời giúp đỡ nên việc được chuẩn y kế hoạch khiến Trung tá George Melvin - Trưởng phòng Huấn luyện quân sự Mỹ, người trực tiếp soạn thảo kế hoạch - hứng khởi ra mặt. Melvin còn mời Trung vào ăn trưa ở nhà ăn của cố vấn Mỹ, với đủ khuôn mặt các nhân vật CIA đình đám: Edward Lansdale, Rufus Philipps...

Tất nhiên, kế hoạch đậm chất cao bồi kiểu Mỹ đó đã thất bại. Mãi tới năm 1973, khi gặp lại Trung ở Sài Gòn, Melvin vẫn liên mồm chửi Bộ Tổng tham mưu Cộng hoà là "bọn ngu", trong khi ông ta không hề biết rằng, người đạo diễn vụ “tranh ăn” đó là một đại tá tình báo của Hà Nội.

Rút vào thầm lặng, phân tích và thiết lập quan hệ, tự tạo dựng bình phong và gây dựng lòng tin, cuối năm 1957, sau đám tang cha, Trần Văn Trung rời Sài Gòn qua Mỹ theo yêu cầu "học Mỹ để đánh Mỹ" của tổ chức.

Anh mang theo nhiệt huyết, hoài bão, và kiến thức về nhiệm vụ đã được dạy dỗ qua 5 người thầy mà mãi tới sau năm 1975, Đại tá Trần Văn Trung mới có điều kiện biết được tên thật của họ.

Gần đây nhất, trong phần kết của cuốn sách viết về Thiếu tướng Phạm Xuân Ẩn với tựa đề "Một người Việt Nam thầm lặng - Câu chuyện tuyệt vời về một điệp viên đã thách thức nước Mỹ", nhà báo kỳ cựu của tờ Le Monde (Pháp) Jean Claude Pomonti đã bộc lộ những nghi ngờ rằng cuộc sống của điệp viên huyền thoại này sau năm 1975 đã có nhiều khó khăn, thậm chí có sự cấm đoán trong việc tiếp xúc với các mối quan hệ của mình.

Nhưng chắc rằng, trước khi viết ra những lời nhận xét đó, nhà báo này chưa bao giờ được biết tới những bí mật từ thuở còn trẻ của Hai Trung: từ những câu chuyện về tình anh em đồng chí, những kỷ niệm đi biểu tình ngoài đường của cậu thanh niên Việt Minh Hai Trung cho tới những kinh nghiệm xương máu phải ẩn mình thật kỹ để bảo vệ cách mạng, những bài học về cái đuôi ngộ nghĩnh...

Đó là những điều mà chỉ những người có chung một dòng máu, một nghề nghiệp mới thấu hiểu được nhau.

Trong suốt cuộc đời mình, không ít lần trái tim kiên cường của nhà tình báo Hai Trung đã phải rung lên đầy xúc động, chỉ bởi một cái hôn vào má tạm biệt của người chỉ huy trước khi lên đường đi Mỹ, một dáng giao liên mảnh mai đi về tuyến lửa hay một lời căn dặn ấm áp nghĩa tình: Đảng và nhân dân sẽ không bao giờ quên ơn.


Tiêu đề: Re: Cụm tình báo H.63 anh hùng
Gửi bởi: Mig21Bis_1 trong 25 Tháng Mười Một, 2011, 05:46:07 pm
Kỳ 17: Niềm tin tuyệt đối giữa những người đồng đội


Lo lắng cho người chị giao liên vất vả, sung sướng khi chuyển được tài liệu an toàn, day dứt khi đồng đội vì mình phải hy sinh hạnh phúc... - những tâm trạng ấy cứ đan xen lẫn lộn trong cuộc sống hàng ngày của Hai Trung.

Người ta nói làm tình báo phải sống dưới nhiều gương mặt, và gương mặt hạnh phúc nhất của Hai Trung là khi được sống mở lòng với niềm tin tuyệt đối vào những người đồng đội mà ông đã từng... không biết là ai.

“Chỉ có trẻ con mới không sợ chết”

Tháng 11/1975, Trung tướng Trần Văn Quang (từng giữ các chức Cục trưởng Cục tác chiến, Phó Tổng tham mưu trưởng, Thứ trưởng Bộ Quốc Phòng. Ông giữ chức chủ tịch Hội Cựu Chiến binh Việt Nam từ 1992 đến 2002) khi gặp 2T tại Sài Gòn đã đặt câu hỏi: "Trong suốt thời gian hoạt động của anh, cái gì và khi nào làm anh thích thú nhất?”. 2T trả lời: "Thưa Trung tướng, đó là mỗi khi tôi lấy được một tài liệu quan trọng, một tin tức có giá trị cao nhất mà tôi đã mất công theo dõi lâu ngày, đáp ứng đúng như cầu của cấp lãnh đạo. Thậm chí, có khi mất ăn mất ngủ để lấy cho được tài liệu. Và một khi lấy được rồi tôi thấy sung sướng đến mức ăn thì thấy ngon nhưng ngủ không được, độ 1-2 hôm rồi mới trở lại sinh hoạt bình thường".

Cái 1-2 hôm “mới trở lại bình thường”đó là quãng thời gian cần thiết để tài liệu được chuyển an toàn ra căn cứ, đến tay lãnh đạo và có phản hồi ngược lại với điệp viên qua giao thông viên.

Trong bài học đầu tiên với bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, ông vẫn còn rất nhớ, mỗi một bản tin kịp thời ra tới căn cứ sẽ tiết kiệm được xương máu cho cả đội quân. Với gần 500 bản tài liệu mật trong cả cuộc đời làm tình báo, ông đã cứu được biết bao đội quân không phải đổ máu, theo như cách mà Đại tá Anh hùng Ba Minh từng định nghĩa đầy đơn giản: "Góp sức ít mà đánh được địch nhiều".

Vì mức độ lợi hại như thế, điệp viên luôn là đối tượng bị săn đuổi của mọi thế lực an ninh, tình báo địch giăng ra, trùng trùng điệp điệp.

Nếu như cuộc chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến bị động, họ buộc phải chống lại những kẻ xâm lược, thì những chiến sỹ tình báo lại luôn phải là những người chủ động. Trong mọi hoàn cảnh, họ phải chủ động tấn công để lấy tài liệu, tin tức, giữa mạng lưới đồ sộ của mật vụ, an ninh Mỹ, an ninh Việt Nam Cộng hoà.

"Điệp viên là con người và chẳng có người nào là không sợ chết, ngoại trừ trẻ con chưa ý thức được chết là gì. Nhưg vì một lý tưởng cao cả, vì một động cơ nào đó thức đẩy ý thức con người dám chất nhận chết là vấn đề khác", Hai Trung lý giải sự chọn lựa của bản thân rất rành mạch.

Không ai biết ai mà nên nghĩa nên tình

14 năm, người giữ nhiệm vụ liên lạc giữa cơ cán đi sâu 2T với tổ chức là một giao thông viên tuổi đã cao: Chị Nguyễn Thị Ba, người thường được thân mật gọi tên là chị Ba già.

Dưới bình phong một bà già bán hàng mỹ ký ở chợ (từ 1961 - 1965), rồi kể cả sau này liên tục phải di chuyển sang nơi khác, bà Ba (2T vẫn quen gọi là chị Mười) cứ miệt mài trong vai trò người giao thông thầm lặng, làm tốt nhiệm vụ của mình dù trời mưa hay nắng, dù trong bất cứ thời điểm khốc liệt nào.

"Họ sống thầm lặng, chiến đấu thầm lặng, và chấp nhận hy sinh cũng rất thầm lặng, để cho những chiến công của ông được vinh danh đến ngàn đời"

Lúc đầu theo lịch, cứ nửa tháng có một chuyến giao hàng, cho tới thời kỳ cao điểm mỗi tuần lên tới ba chuyến, vậy mà "suốt thời gian dài hơn 10 năm, chị Ba không thất hẹn lần nào cả. Chỉ có Trung thất hẹn vài lần vì công tác đột xuất".

Thời đó, Hai Trung không biết cụ thể chị là ai, mọi việc đều do tổ chức chỉ huy. Mãi sau giải phóng, Hai Trung mới biết là chị Ba có 2 người con, chồng ra Bắc tập kết từ năm 1954, đứa con gái lớn đã gửi vào cứ, còn đứa nhỏ tên Thắng ở cùng với chị.

Hai mẹ con sống cô đơn trong nội thành, chỉ để làm nhiệm vụ giao liên. Vì thế, lúc còn nhỏ, chị hay đưa con đi cùng trong những chuyến “nhận hàng” từ Hai Trung.

Nhưng đến khi 11-12 tuổi, Thắng đã đủ lớn để nhớ được khuôn mặt Hai Trung. Một lần, tình cờ thấy ông đi dọc đường, cậu bé về khoe ngay với mẹ. Giật mình, chị Ba đành đứt ruột xa con, gửi Thắng vào trong cứ để giữ an toàn tuyệt đối cho điệp viên số 1 của lưới.

"Việc chị Ba gửi Thắng vào vùng giải phóng, mẹ chấp nhận xa con khiến Trung nhớ mãi", Trần Văn Trung xúc động kể lại sau này.

Nhưng những điều kỳ lạ về nghĩa tình đồng đội chưa dừng lại ở đấy. 14 năm chiến đấu cùng nhau, sẵn sàng vào sinh ra tử vì nhau, song những người đồng đội ấy lại... không hề biết gì về nhau.

Hai Trung chỉ biết chị Ba hay đi cùng một cậu bé, không tên tuổi, không nơi cư trú. Hết. Còn chị Ba chỉ biết Hai Trung là người chuyển tài liệu, thi thoảng lỡ hẹn với chị Ba. Hết.

Không một thông tin thừa. Không một chút tò mò, không một phút hồ nghi. Họ chỉ biết, đây là những con người kiên trung, được Đảng tin cậy giao nhiệm vụ. Và nghĩa vụ của những người lính - những người con yêu nước là hoàn thành xuất sắc sứ mệnh của mình, không được phép gây một chút hiểm nguy lên vai những người đồng đội.

Cứ thế, họ đã đi cùng nhau trên quãng đường chông gai đầy cạm bẫy cho tới khi kết thúc cuộc chiến tranh dài gian khổ.

Sau này, vì thương chị Ba nhiều tuổi phải đi lại vất vả, Hai Trung từng đánh liều hẹn gặp chị Ba ngay tại cổng trường lúc Hai Trung đi đón con. Hoặc có lần, vì xót cho chị phải cuốc bộ xa xôi nên Hai Trung tự mình đưa chị đi trong nội thành trên chính chiếc xe hơi của ông.

Những lần đó, Hai Trung đều hiểu mình đang phạm phải nguyên tắc nghề nghiệp: gặp chị Ba ở trường tức là để chị biết rằng Hai Trung có con đang học ở đó, chở chị Ba bằng xe riêng tức là để chị Ba biết biển số xe, từ đó có thể lộ tung tích của mình...

Gần 20 năm trong nghề, nay đã chui sâu leo cao trong lòng địch, ông biết rõ mình không được phép mắc lỗi, dù nhỏ nhất. Song Hai Trung vẫn cứ làm, bởi ông tin người đồng đội ấy, cũng như ông đã từng tin tưởng rằng anh Hai, anh Ba sẽ không bao giờ khai ra khi các anh bị bắt trong những năm tháng đầu chống Mỹ.

Niềm tin ấy, ai có thể lý giải nổi? Các thế hệ sau có lẽ chỉ có thể diễn đạt một cách vụng về rằng, trước những nguyên tắc tuyệt mật, những người đồng đội chỉ có thể yêu thương và sẵn sàng chết vì nhau nhờ một LÝ TƯỞNG VÀ NIỀM TIN TUYỆT ĐỐI!

Đến cuối năm 1974, chị Ba được rút ra cứ vì đã đến tuổi nghỉ ngơi, chuẩn bị ra Bắc đoàn tụ gia đình. Nhưng khi Đảng đề nghị, chị lại tự nguyện trở vào thành liên lạc với Hai Trung, bởi lúc này đang là giai đoạn quyết định.

Chuyến chuyển hàng cuối cùng giữa chị Ba già và "người Việt trầm lặng" Trần Văn Trung là chuyến hàng mang kế hoạch quân sự 1975 của chế độ cũ ra căn cứ. Hoà bình lập lại, chị Nguyễn Thị Ba được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân vì những chiến công vô cùng thầm lặng đó.

Còn tiếp nữa những anh hùng biến... giỏ rác thành sức mạnh thần kỳ

Xưa nay, điệp viên luôn được xây dựng như một hình mẫu độc lập, nhưng những di cảo còn lại của điệp viên huyền thoại Phạm Xuân Ẩn thì lại khẳng định rằng "điệp báo và giao thông là hai chân của một thế đứng. Dù nhiệm vụ khác nhau nhưng y êu cầu về nghiệp vụ và phẩm chất cách mạng phải ngang tầm nhau. Khâu này ở lưới của Hai Trung chẳng những rất cân đối mà còn có giá trị tương hỗ, chi viện lẫn nhau cả về tình cảm và ý chí cách mạng".

Chính sự chia sẻ, đùm bọc lẫn nhau trong cả tình cảm và ý chí cách mạng đó đã khiến Trần Văn Trung luôn cố gắng bằng mọi cách đảm bảo rằng mỗi chuyến liên lạc đều có một tài liệu hay bản tin có giá trị để giao liên mang về.

"Mỗi chuyến liên lạc là một nỗ lực xương máu của chiến sỹ từ cụm tới ven biên, về hộp thơ vùng tạm chiếm tới nội đô", do vậy, với ông, "giao liên là khâu quan trọng nhất và khó khăn nhất trong lưới. Không tổ chức tốt thì chỉ huy không điều khiển được điệp viên và tin tức tài liệu lấy được chỉ... bỏ vào giỏ rác nếu không chuyển về an toàn và kịp thời".

Ngoài những con người như chị Tám Thảo, chị Ba già..., Hai Trung còn nhận được sự tiếp sức từ hơn 40 con người nữa. Trong số họ, có những người thậm chí ông còn không bao giờ biết tên. Họ sống thầm lặng, chiến đấu thầm lặng, và chấp nhận hy sinh cũng rất thầm lặng, để cho những chiến công của ông được vinh danh đến ngàn đời.

--- * ---

Cụm tình báo có bí số H63 với 45 chiến sỹ đã dệt nên một huyền tích mới về tình yêu Tổ quốc, sự trung thành, lòng dũng cảm và mưu trí của những con người thời đại Hồ Chí Minh.

Trong thời kỳ địch càn quét, giăng bẫy dày đặc như khoảng thời gian 1968 – 1969, những chiến sỹ ấy đã mở 3 mạch máu giao thông thông suốt, bám trụ ngay tại vùng đất nhuốm đầy lửa máu và bom đạn Phú Hoà Đông để đêm đêm lên máy chuyển tin ra Hà Nội.

27 người trong cụm H63 đã hy sinh suốt 14 năm (1961 – 1975) để đảm bảo liên lạc cho gần 500 bản tài liệu có giá trị chiến lược và chiến thuật của Hai Trung.

Những ngày dữ dội nhất Mậu Thân 1968, Cụm trưởng Cụm H63, người đàn ông đặc biệt hóm hỉnh, gan dạ, mưu trí và có tài bắn hai tay hay súng Tư Cang đã vào nội đô Sài Gòn, trực tiếp sát cánh cùng điệp viên số 1 của Cụm là Hai Trung, chuẩn bị cho cuộc Tổng tấn công Mậu Thân lịch sử.

Cùng nhau, họ đã lập nên những kỳ tích chiến công như huyền thoại trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước, đẹp đến mức mà những người chỉ huy ở cấp cao nhất từng ngợi ca: "Tập thể xung quanh điệp viên 2T là một tập thể trong sáng, anh hùng".


Tiêu đề: Re: Cụm tình báo H.63 anh hùng
Gửi bởi: Mig21Bis_1 trong 25 Tháng Mười Một, 2011, 06:12:27 pm
Kỳ 18: Bắt đầu từ "tình yêu bò cạp"


Trong lưới tình báo huyền thoại H.63, điệp viên Phạm Xuân Ẩn (Hai Trung) và Tám Thảo (Mỹ Nhung) dù hoạt động trong lòng địch nhưng chưa bao giờ cô độc. Đằng sau họ là cả một "hậu phương" hoạt động thuần thục như một cỗ máy. Và mỗi cỗ máy luôn cần có một "máy trưởng" tài ba.

"Máy trưởng" chỉ huy cỗ máy H.63 anh hùng được biết đến với tính cách hóm hỉnh, gan dạ, mưu trí và có nhiều tài vặt, nhất là biệt tài bắn súng 2 tay như một. Ông là ai?

Trong một tài liệu đánh giá về lưới H.63, cụm trưởng có một vai trò quan trọng: kiểm tra, điều nghiên tình trạng của toàn lưới một cách cụ thể, tiếp xúc với điệp viên để hướng dẫn, bồi dưỡng cho điệp viên, nghe điệp viên nói, để điệp viên bớt cô độc và căng thẳng. Cấp chỉ huy lúc nào cũng phải kiểm soát được điệp viên trong mọi tình huống.

Những năm tháng ác liệt nhất trên chiến trường miền Nam, với vùng ven luôn bị vây ráp, trong thành bị kiểm tra gắt gao, trong mỗi lưới tình báo, cụm trưởng phải là người "đứng mũi chịu sào". H.63, dưới sự chỉ đạo của ông, vượt qua nhiều khó khăn, nguy hiểm để bất cứ lúc nào cũng có thể thông tuyến từ trong thành ra căn cứ và ngược lại. Cùng với một tập thể anh hùng, 32 năm sau, năm 2006, cụm trưởng H.63 nhận danh hiệu cho riêng mình, từ Đảng và Nhà nước: Anh hùng Lực lượng vũ trang.

Con đường từ cậu bé nghèo đất Bà Rịa - Vũng Tàu đến Cụm trưởng Cụm tình báo H.63 huyền thoại và Anh hùng LLVT của ông như thế nào?

"Tình yêu bò cạp!"

Năm 1928, tại một làng quê xã Long Phước (Bà Rịa - Vũng Tàu), Nguyễn Văn Tàu ra đời. Cậu bé nghèo sau này trở thành chỉ huy của cụm tình báo huyền thoại có một tuổi thơ đầy khí tiết cách mạng và tình yêu... trẻ con. Tháng 4/2007, khi nhắc lại chuyện xưa, cả hai vợ chồng ông đều vui đùa gọi đó là tình yêu bọ cạp!
 
(http://www.lichsuvietnam.vn/images/stories/anhtulieu/phongsukisu/huyenthoai/images1423395_tc.jpg)
Cậu bé nghèo sau này trở thành chỉ huy của cụm tình báo huyền thoại có một tuổi thơ đầy khí tiết cách mạng và tình yêu... trẻ con.

Hồi nhỏ, gia đình nghèo khổ, Nguyễn Văn Tàu phải gánh hàng rong đi bán trong xóm phụ mẹ. Gánh hàng nhỏ bán đủ thứ vật dụng như dầu hôi, nước mắm, thuốc tây... Ngoài gánh hàng rong cùng mẹ, Tàu mua cả heo về làm thịt và gánh đi bán. Không có nghề nào cậu bé nghèo này không làm, miễn là kiếm ra tiền, giúp mẹ. Nhưng anh vẫn ham học, tiếng Pháp nói giỏi nhất làng.

Giặc Tây ào tới làng quê thanh bình. Chúng chiếm trường học. Ngôi trường nơi Tàu đang học phải dời xuống Mỹ Tho. Tàu không theo được. Anh về nhà và vào đội thanh niên tiền phong. 17 tuổi, khát vọng làm cách mạng nung nấu trong đầu Tàu. Khi đó, phong trào thanh niên tiền phong của mình, nhưng núp bóng Nhật để tổ chức. Nhật đã đảo chính Pháp, chúng cho phép thành lập các đội thanh niên tiền phong.

Tham gia hoạt động, nhưng Nguyễn Văn Tàu chưa biết gì về Đảng cộng sản. Lý do đơn giản nhất anh vào đội tiền phong: Thấy vui thì nhập! Niềm vui của Tàu là đêm đêm anh được gọi đi tập đánh trận giả, tập võ... Khí thế trai trẻ, có chút võ trong người, đêm nào Tàu cũng tham gia thi thố trên võ đài làng.

Tháng 8/1945, khi cả nước giành chính quyền, Tàu cũng cầm gậy tầm vông chạy ra tỉnh cùng dân làng. Thiếu niên Tàu nhớ mãi hình ảnh lãnh tụ thanh niên tiền phong cưỡi ngựa chạy trước, dân làng chạy theo sau. Anh chỉ nghe dân làng nói đi đánh Tây, thế là cầm gậy đi. Tàu suy nghĩ thật giản đơn: Mình đang góp sức đuổi Tây ra khỏi đất nước.

Tàu ham chơi. Mẹ anh quyết định cưới vợ cho con bớt lêu lổng. Giữa Nguyễn Văn Tàu và cô bé Trần Ngọc Ảnh khi đó không hề có tình yêu. Tất cả do cha mẹ, ông bà hai bên sắp đặt. Năm 1946, cô bé Trần Ngọc Ảnh nghe theo ông bà, sang "ở" nhà Tàu. Cô nghe mọi người nói làm dâu rất cực, nhưng không thể chống lời ông bà. Khi mới cưới, hai người ở chung nhà, mang danh vợ chồng nhưng chẳng... quen nhau.

Hai vợ chồng trẻ con không ai thèm nói chuyện với ai. Có hôm, vợ Tàu bị con bò cạp cắn. Cô khóc rống lên. Má chồng chạy vào, thấy thế kêu lên: "Tàu ơi Tàu! Con vợ mày nó bị bò cạp cắn, mày vào xem nào!". Con bò cạp giúp 2 vợ chồng trẻ con có cái nắm tay đầu tiên. Từ hôm đó, hai người mới nằm chung giường và nói chuyện với nhau. Nguyễn Văn Tàu mới 18 tuổi.

Má tâm sự thật, tìm vợ để Tàu khỏi đi đánh giặc. Bà thương con, muốn giữ chân con ở làng. Gia đình chỉ có mình Tàu. Khi má sinh ra Tàu, ba anh bỏ đi kiếm vợ khác.
 
Giặc Tây về làng kiếm một người thông ngôn. Cả làng chỉ mỗi Tàu biết tiếng Pháp. Trước, mỗi lần có Tây đến, quan làng lại gọi Tàu đi phiên dịch. Khi bọn Pháp về, chúng phàn nàn, tại sao cả làng không ai biết tiếng Pháp, mình Nguyễn Văn Tàu biết mà không kêu vào làm việc?

Hồi đó, Tàu hay đi theo một người có tư tưởng yêu nước trong làng là ông Nguyễn Văn Đường. Ông dạy anh hát những bài cách mạng. Khi học trong trường, cũng nhiều người nói với Tàu chuyện về cách mạng, về những tất yếu phải đuổi Tây ra khỏi đất nước. Những tình cảm với cách mạng, dù mơ hồ nhưng đã ngấm dần vào đầu chàng thanh niên trẻ.

Tàu ghét làm việc cho Tây. Biết chuyện người Tây đang tuyển mình làm thông ngôn, anh ở luôn trong rừng, không về nhà nữa. Đó là năm 1947, chỉ một năm sau khi có vợ. Tàu tranh thủ "để trong bụng vợ một miếng" (từ của bà Trần Ngọc Ảnh, vợ ông Nguyễn Văn Tàu) rồi đi tuốt luôn. Cả làng biết Tàu hay làm thông ngôn cho Tây.

Nhưng cũng nhiều tin đồn anh theo Việt Minh vào rừng. Ngay sau khi chồng biền biệt trong rừng, Trần Ngọc Ảnh cũng sinh con và lên Sài Gòn học nghề đánh máy kiếm sống.

Bài học đầu tiêu

Nguyễn Văn Tàu có "máu tình báo" từ khi còn là một thanh niên mới lớn. Từ năm 1947, chàng trai nghèo Nguyễn Văn Tàu đã được ông Tư Túc dẫn dắt vào làm quân báo ở Long Điền (Bà Rịa - Vũng Tàu).

Thời kỳ này cũng đã manh nha ý thức cho Tàu về người chiến sĩ tình báo, nhất là hoạt động trong nội thành, đối diện với vô vàn hiểm nguy như thế nào. Và lần "sai sót" đầu đời của chàng trai trẻ Nguyễn Văn Tàu đã trở thành kinh nghiệm quý báu cho người cụm trưởng H.63 Tư Cang sau này.

Nhớ lại, khi ấy Tàu có bình phong làm công cho một tiệm nước người Hoa ở Phước Hải (Bà Rịa - Vũng Tàu). Ông Tư Túc sai Tàu đi nắm tình hình đồn bốt giặc xung quanh rồi báo về. Tàu làm nhiệm vụ được mấy tháng thì xảy ra sự cố. Một hôm, lúc buổi trưa vắng vẻ, cô hàng tào phớ bị mấy thằng Tây trêu chọc. Thấy cảnh bất bình, "máu Từ Hải" trong người nổi lên. Anh can thiệp. Dùng vốn tiếng Pháp của mình, Tàu nói vào mặt 2 thằng Tây: "Các anh làm gì đó, buông con người ta ra!".
                                                                           
Tàu tự tin, vì hồi đó võ nghệ khá, lại nói tiếng Pháp trôi chảy. Lâu nay, tụi Pháp hàng ngày đi qua không biết gì về anh. Chúng nghĩ đơn giản: Tàu chỉ là kẻ bưng bê thuê! Vì thế, chúng giật mình vì kẻ phục vụ này biết tiếng Pháp. Hai thằng Tây to cao lực lưỡng buông cô hàng tào phớ ra. Tàu được đà, ngồi phân tích cho tụi nó rằng, quân đội nước khác tới đây, nếu làm vậy dân chúng đánh giá. Một thằng ngồi nói chuyện với Tàu, còn thằng kia vẫn tiếp tục ra ve vãn cô tào phớ tội nghiệp.

Tàu bảo thằng đang nói chuyện kêu thằng kia vào. Nó không nghe, còn cười khiêu khích. Anh đứng dậy định ra tay, cô hàng tào phớ sợ hãi núp sau lưng. Hai thằng Tây tức giận, lăm le súng và lựu đạn. Nhưng dân chúng đứng xem đông, chúng không làm gì được. Trước khi bỏ đi, chúng gằn giọng: "Chiều nay chúng ta sẽ gặp lại!".

Bọn Pháp vừa đi, Tàu nói với chủ tiệm không thể ở đó được nữa. Anh vô thẳng chiến khu Bà Rịa. Đến chiều, 2 tên Pháp dẫn một tiểu đội đến. Chúng lôi chủ tiệm đánh để truy tìm người phục vụ giỏi tiếng Pháp. Mấy ngày sau, đi đâu, chúng cũng mang ảnh Tàu (lấy trong tiệm nước) ra dò hỏi.

Hơn 30 năm sau, khi đã trở thành cựu cụm trưởng của lưới tình báo H.63 huyền thoại, Đại tá Nguyễn Văn Tàu thừa nhận: Đây là bài học đầu đời cho nghề tình báo của mình. Bởi vì, với nghề tình báo, nhiều lúc không thể để cho mọi người biết mình là ai, giỏi cái gì, phải thể hiện ra sao.

Sau đợt va chạm với 2 thằng Tây, Nguyễn Văn Tàu hoạt động thêm một thời gian trong Ban quân báo Bà Rịa- Vũng Tàu rồi ra Bắc tập kết vào năm 1954.

Đây là quãng thời gian chuẩn bị hình thành một "tư cách chỉ huy" trong con người Nguyễn Văn Tàu. Anh bắt đầu phát huy các tài vặt sẵn có và học tập những "ngón nghề" của nghề tình báo, mong một ngày được trở lại Sài Gòn hoạt động. Nhưng, những thử thách đầu tiên không bao giờ dễ dàng...


Tiêu đề: Re: Cụm tình báo H.63 anh hùng
Gửi bởi: Mig21Bis_1 trong 25 Tháng Mười Một, 2011, 06:16:53 pm
Kỳ 19: Thử thách đầu tiên của xạ thủ "hai tay như một"


Biệt tài bắn súng "hai tay như một" của chàng trai miền Nam Nguyễn Văn Tàu thời ấy chỉ thua các xạ thủ quốc gia. Các "ngón nghề" quan trọng cũng được Tàu tích luỹ dần trong những năm tháng tập kết. Trước khi vượt dãy Trường Sơn trở về Nam, bài tốt nghiệp như một nhiệm vụ và thử thách thực thụ đã được Nguyễn Văn Tàu vượt qua xuất sắc...

Xạ thủ kiêm nhà văn và viên đạn dành riêng

Thời gian này, Nguyễn Văn Tàu mang tên Trần Văn Quang và làm Trung đội trưởng trinh sát kiêm Chính trị viên đại đội thông tin của Sư đoàn 338. Chuyện biệt tài bắn súng hai tay như một của cụm trưởng tình báo H.63 sau này cũng bắt đầu từ đây.

(http://www.lichsuvietnam.vn/images/stories/anhtulieu/phongsukisu/huyenthoai/images1424299_IMG_7889.jpg)
Vị chỉ huy tình báo bắn súng 2 tay như một.

Khi ở miền Bắc, trong tâm trí người sĩ quan miền Nam Trần Văn Quang đã phán đoán đến ngày trở về. Sẽ lại vào thành hoạt động, sẽ được hoạt động đúng như khát khao của anh, nhưng mới chỉ được thể hiện ngắn ngủi trong thời gian ở quân báo Bà Rịa. Quang bắt đầu tập đủ thứ. Tất nhiên anh biết, những thứ anh học sẽ có lợi cho nghề tình báo sau này.

Trung đội trưởng Quang có nhiều tài vặt, lại ham học nên anh biết nhiều thứ. Tận dụng xe của đơn vị, ngày nghỉ Quang tập lái. Đủ các loại địa hình, các tình huống. Lương hồi đó được 80 đồng, anh dành dụm gần 3 tháng để mua máy chụp hình. Có máy, anh lại lọ mọ tập rửa phim, bọc phim, in ảnh. Bất cứ lúc nào có thời gian rỗi, Quang lại dành cho việc tập xe, chụp ảnh.

Nổi nhất trong những tài của Trần Văn Quang là bắn súng bằng hai tay và có độ chính xác cao.

Trước khi ra Bắc tập kết, Quang ít được tiếp xúc với súng đạn. Những năm ở miền Bắc, anh được đơn vị huấn luyện nhiều về khoa mục bắn súng. Chiều nào trong đơn vị cũng có 10 phút ngắm súng bắt buộc. Ban đầu tập bắn, anh bắn rất tệ. Không nản, Quang chuyên cần tập. Đơn vị đóng ở Xuân Mai (Hà Tây), cứ ngày nghỉ mấy anh em thích súng lại rủ nhau vào núi tập bắn.

Chẳng bao lâu, Quang trở thành xạ thủ của Sư đoàn 338. Đã thành xạ thủ khi bắn tay phải, Quang tiếp tục học bắn tay trái và cách ngắm bắn. Anh tập bắn không nheo mắt ngắm, mà mở cả 2 mắt. Anh giải thích với cấp dưới: nếu bắn liên tục, nheo mắt sẽ rất mệt, tinh thần sẽ không vững.

Tay phải đã thành thục, anh tập cả tay trái. Lý do bắn súng cả hai tay anh đưa ra rất đơn giản: Khi trở vào Nam hoạt động, rủi có bị địch bắn cụt một tay thì vẫn còn bắn được bằng tay kia, không đời nào chịu thua! Năm 1956, với cương vị Trung đội trưởng Đại đội thông tin, Trần Văn Quang được phân công trực tiếp huấn luyện cho đại đội về môn bắn súng.

Bắn tay phải luôn đứng nhất, nhì sư đoàn, anh liên tục được cử đi thi hội bắn quân khu Tả Ngạn, xạ thủ toàn quân. Ở những cuộc thi này, Trần Văn Quang chỉ thua 3 kiện tướng thời bấy giờ ở miền Bắc. Anh toàn chiếm hạng tư. Nhưng khi Quang gạ bắn bằng tay trái, mấy kiện tướng đều từ chối. Biệt tài bắn súng hai tay bách phát bách trúng của Trần Văn Quang đã nổi tiếng toàn quân.

Bắn súng giỏi 2 tay, nhưng rất ít khi sử dụng biệt tài này. Hơn 30 năm sau, ngồi giữa Sài Gòn, Đại tá Nguyễn Văn Tàu thổ lộ: ngày đó khi đi trong thành, ông không bao giờ mang theo súng. Bởi, nếu mang súng theo người sẽ dễ sinh tâm lý hoảng sợ, bỏ chạy khi bất ngờ bị xét hỏi hay nghi ngờ. Trong số ít những lần mang theo súng (Tết Mậu Thân 1968), ông đều dành sẵn một viên đạn rời trong túi áo. Viên đạn dành riêng cho bản thân chỉ có duy nhất một cơ hội: sử dụng khi vào bước đường cùng, để bảo đảm an toàn và bí mật cho điệp viên, cho cụm.

Trong thời gian tập kết ngoài Bắc, những tài vặt của Trung đội trưởng Trần Văn Quang được phát huy tối đa. Những tài vặt này đều chuẩn bị cho nghề tình báo. Ngoài lái xe, bắn súng hai tay, chụp ảnh, nói tiếng Pháp... Quang còn luyện khả năng viết văn.

Anh thấy các nhà văn Phùng Quán, Trần Dần viết nhiều bài hay. Trong khi đó, thời gian mình hoạt động trong Nam trước khi đi tập kết có quá nhiều chuyện hay, có thể viết được. Cứ đêm đêm, anh không bỏ sót một chương trình văn nghệ quân đội nào trên radio. Quang lọ mọ học cách viết của những người đi trước. Rồi Quang viết thật. Bài đầu tiên có tựa đề "Vượt sông Soài Rạp". Câu chuyện kể về một lần đơn vị của Quang từ căn cứ Rừng Sác vượt sông vào thành phố bị tàu địch bắn, anh em phải lật xuồng để thoát chết và bảo vệ thông tin. Câu chuyện này đã luôn ám ảnh Trần Văn Quang.

Khi viết xong, Quang gọi anh em trong đại đội lên. Anh bảo: "Bữa nay tao viết được bài này, tụi bay nghe xem". Anh hăm hở đọc. Đọc được một lát ngó xuống, thấy anh em về sạch, chỉ còn 2, 3 người thân nhất... cố ngồi "chịu đựng"! Lần đầu không đạt, Quang sửa lại, viết ngắn và cô đọng, súc tích hơn. Lại gọi anh em đến nghe. Nể trung đội trưởng, anh em lại ngồi nghe nhưng vẫn về... rải rác. Không nản chí, anh lại sửa thêm lần nữa, rút từ 4, 5 trang xuống còn 2 trang.

Anh em đại đội lại đến nghe. Quang đọc xong, nhìn xuống thấy mọi người vẫn... trật tự ngồi nghe. Lần này là những tiếng vỗ tay vang lên không ngớt. Sau đó, Quang gửi bài đó ra báo Thống Nhất tham dự cuộc thi những chuyện sâu sắc nhất thời kháng chiến. Thật bất ngờ, tác phẩm của anh đoạt giải khuyến khích và được nhuận bút 7 đồng.

"Nhiệm vụ đầu tiên"- giả mà thật

Năm 1961, cán bộ miền Nam ra Bắc tập kết rục rịch chuẩn bị về lại chiến trường. Tâm hồn Trần Văn Quang vui như gió lộng. Sắp được về lại quê hương, được cầm súng chiến đấu, được gặp lại vợ con.

Nhưng đang chuẩn bị tinh thần về lại Nam thì Quang nhận được lệnh ở lại dự lớp đào tạo thêm về sĩ quan tình báo. Trong 6 tháng, anh được đào tạo thuần thục về võ nghệ, lái xe, đọc những cuốn sách về nghề tình báo, xử lý các tình huống.

Kết thúc khóa học, anh được chọn là "học sinh giỏi". Nhưng bài tốt nghiệp thực sự như một nhiệm vụ thực tế đầu tiên của nghề tình báo anh phải hoàn thành. 5 người công an được ví như "mật thám" theo sát Quang. Anh nhận chỉ thị phải hoàn thành việc đưa thư trong 3 tiếng đồng hồ. Phải vượt qua các "chướng ngại vật" di động và cố định. Đến lúc trao thư, không còn sót cái đuôi nào, không bị dàn "mật thám" phát hiện ra.

Theo quy định, 2h chiều, Quang xuất hiện trước cột cờ Ba Đình, nhận thư, đúng 5h phải đưa thư về hộp thư ở cầu Long Biên. Nếu quá 5h không có thư là thua, là không hoàn thành tốt nghiệp. Trước khi "cuộc chơi" bắt đầu, Quang đã âm thầm đi nghiên cứu địa bàn trước như đang hoạt động thật sự trong lòng địch.

Hôm bắt đầu nhận "nhiệm vụ", anh xuất hiện tại cột cờ với những ám hiệu theo quy định để "mật thám" nhận ra mình. "Quân thù" biết anh, còn anh không biết ai theo dõi mình. "Cuộc chơi" bắt đầu lúc 2h chiều. Anh nhận thư và leo lên xe đạp lòng vòng trong phố. Đang chạy, Quang giả vờ rơi 1 đồ vật xuống đất và cúi xuống lấy, đồng thời ngoái lại quan sát "đuôi".

Anh phát hiện ra hai "thằng" theo mình. Thêm vài lần quan sát nữa, Quang nhận diện trong đầu có đúng 5 "thằng" theo mình. Anh suy tính sẽ cắt đuôi từng "thằng" một. Nếu tới 5h mà vẫn còn người theo thì mình thua. Quan trọng nhất là phải phát hiện đúng đối tượng. Nếu không, ai cũng có thể bị xem là "mật thám" hết. Quang đưa ra nhiều phương án cắt đuôi. Gửi xe đạp, nhảy lên tàu điện, rồi lại chuyển sang xe đạp. Nút cuối cùng, khó nhất là nút Khâm Thiên vẫn có 2 "mật thám" theo sát. Thời gian đến giờ trao thư không còn nhiều. May hôm trước đi nghiên cứu địa bàn, anh đã làm quen với một người dân tại một con ngõ trên phố Khâm Thiên. Anh giới thiệu mình người miền Nam, đang đi kiếm việc làm. Cách làm quen tự nhiên đã giúp anh. Quang ghé vào nhà người quen này, vẫn không biết cách gì để cắt đuôi 2 "mật thám" cuối cùng. Có mỗi lối ra vào độc đạo trong ngõ,  2 "mật thám" luôn ngồi trực sẵn ở đó. Nhìn thấy trong nhà có bộ đồ công nhân, Trần Văn Quang mỉm cười nghĩ kế.Anh bỏ xe đạp ở lại, mượn bộ đồ công nhân và xuống bếp lấy nhọ nồi quét lên mặt cho nhem nhuốc. Lúc này, anh đã biến hóa thành một người dân lao động. Mấy hôm trước đến chơi nhà người quen này, Quang đã để ý thấy cứ bằng giờ này có một xe than hay đẩy qua ngõ. Anh chờ đúng lúc xe than đi qua, giả vờ như thấy nặng quá, cũng là dân lao động với nhau, đẩy giúp một tay. Khi xe than đi qua, vẫn thấy 2 "mật thám" ngồi nhìn vào trong ngôi nhà người quen. Ra khỏi ngõ, anh gọi một chiếc xích lô chạy đến điểm đưa thư. Nhiệm vụ được hoàn thành một cách xuất sắc.

Với Trần Văn Quang, ngày về miền Nam không còn xa. Nhiệm vụ trước mắt cũng đã rất gần... Anh nhận lệnh vượt Trường Sơn, trở về căn cứ R trên rừng biên giới Tây Ninh. Một thời kỳ hoạt động cam go, nguy hiểm đang chờ đợi. Tình hình chiến trường miền Nam những năm 60 ngày càng căng thẳng. "Học sinh xuất sắc" của khóa tình báo ngắn hạn và đồng đội đã vượt qua mọi khó khăn, nguy hiểm để bảo vệ điệp viên, xây dựng lưới H.63 an toàn như thế nào?



Tiêu đề: Re: Cụm tình báo H.63 anh hùng
Gửi bởi: Mig21Bis_1 trong 25 Tháng Mười Một, 2011, 08:23:57 pm
Kỳ 20: Lắp ráp và khởi động 'cỗ máy' H.63


Đầu năm 1962, vượt Trường Sơn, Trần Văn Quang từ miền Bắc trở về chiến khu R (Tây Ninh). Quang có tên hoạt động là Tư Cang và nhận nhiệm vụ: Chỉ huy lưới tình báo A18 (tiền thân của lưới H.63 sau này). Đây là những năm tháng chiến trường miền Nam trong tình thế khó khăn. Lưới tình báo hàng trăm người, chỉ để phục vụ và bảo vệ các điệp viên. Họ có an toàn và hiệu quả trong lòng địch?


"Máy trưởng" nhận nhiệm vụ

H.63 là được ví như một "cỗ máy". "Máy trưởng" Tư Cang trở về từ miền Bắc, nhiệm vụ: khởi động và vận hành trơn tru "cỗ máy" này.

Đầu năm 1962, Trần Văn Quang từ miền Bắc trở về chiến khu R, lấy tên hoạt động là Tư Cang và nhận nhiệm vụ: Chỉ huy lưới tình báo A18 (tiền thân của lưới H.63 sau này).

Những năm 60, tình hình miền Nam gặp nhiều khó khăn với những đợt vây ráp gắt gao của địch. Việc di chuyển cán bộ tình báo từ miền Bắc vào Nam hoạt động cũng gặp trở ngại. Đường bộ bị ngăn, đường biển càng nguy hiểm hơn. Trung ương Cục miền Nam có sáng kiến thành lập các cụm tình báo hoạt động xung quanh Sài Gòn. Cụm tình báo sẽ khắc phục được liên lạc đường dài giữa Cục tình báo và các điệp viên họat động trong lòng địch. Mỗi cụm phụ trách và phục vụ chỉ 1, 2 điệp viên.

Đầu năm 1961, cụm tình báo quân sự A18 (tiền thân của cụm H.63) ra đời, đóng tại căn cứ Bời Lời (Tây Ninh). Tất cả để phục vụ điệp viên nổi tiếng Hai Trung. Đằng sau những tin tức, tài liệu chuyển về của Hai Trung, là cả hệ thống phục vụ, cả trong nội đô và ngoài căn cứ.

Thời kỳ đầu, H.63 là bộ phận địch tình của thành ủy Sài Gòn. Khi Hai Trung (Phạm Xuân Ẩn) từ Mỹ trở về, hoạt động giữa Sài Gòn với tư cách phóng viên báo nước ngòai, ông Mười Nho (Xuân Mạnh, Nguyễn Nho Quý - cán bộ Cục Tình báo) là người trực tiếp chỉ đạo.

Năm 1962, ông Mười Nho bị bệnh, không thể chỉ huy H.63. Cả mạng lưới với một điệp viên đã nằm sâu trong lòng địch như Hai Trung, cần một chỉ huy giỏi và mưu trí. Tư Cang là người được ông Ba Trần, Thủ trưởng Phòng tình báo miền lúc bấy giờ lựa chọn. Tháng 5/1962, Tư Cang chính thức được giao nhiệm vụ chỉ huy cụm H.63.

"Khởi động" H.63!

"Cỗ máy" đã có "máy trưởng", sẽ kết nối các "bộ phận" và hoạt động như thế nào?

Đầu tiên là liên lạc. Trong một lưới tình báo, khâu liên lạc là khâu khó khăn nhất, đặc biệt là liên lạc trong nội đô. Tài liệu, tin tức điệp viên đưa ra, dù điệp viên có giỏi đến đâu nhưng liên lạc kém cũng sẽ thất bại. Thất bại, đồng nghĩa với sinh mệnh của điệp viên nguy nan. Liên lạc viên nội đô của H.63 trực tiếp nhận tin từ Hai Trung phải là người đảm bảo được nhiều yếu tố.

Đó là một bình phong tốt, trí nhớ cao, thuộc nhiều địa danh trên đường phố, địa bàn, thông thạo các phương tiện công cộng, các nơi tập trung đông người như tiệm ăn, rạp hát, chợ... để dễ thay đổi chỗ hẹn. Liên lạc viên nội đô phải có óc quan sát sắc bén, biết nhận diện tướng mạo con người để phát hiện khi bị theo dõi, đủ tài đánh lạc hướng.

Ai sẽ dấn thân vào nguy hiểm và đáp ứng được những điều kiện khắt khe của nhiệm vụ kết nối này?

Nhiều giao thông được đưa vào thành giới thiệu với Hai Trung. Nhưng ông không đồng ý một ai. Hai Trung hoạt động trong thành, lường trước được những điều xảy ra với một giao thông viên nội đô. Người trẻ quá dễ bị bọn lính chọc ghẹo. Có người là thanh niên, dễ bị bắt lính bất cứ lúc nào.

Giao liên Nguyễn Thị Ba (quê Long An) được giới thiệu với Hai Trung. Chị Ba (còn gọi là chị Ba già) đáp ứng được những yêu cầu mà điệp viên và tổ chức đặt ra. Chị Ba có tuổi, giàu kinh nghiệm, thông thuộc địa bàn, chưa bị bắt lần nào và có bình phong tốt. Hai Trung mới nghe tổ chức giới thiệu, đã nhận ngay.

Trong một tài liệu tổng kết về giao thông viên lưới H.63, vai trò của Nguyễn Thị Ba được đánh giá: một giao liên gan dạ, mưu trí bên cạnh điệp viên. Và những yếu tố khác: Chị Ba là đảng viên, chồng cũng là cách mạng lão thành. Xa chồng, xa con, chị một mình vào Sài Gòn lấy bình phong bán đồ vàng giả, đồ chơi trẻ con để làm liên lạc cho Hai Trung.

Theo quy ước, chị Ba bán hàng tại khu vực Chợ Cũ (chợ Bà Chiểu - TP.HCM bây giờ) để nhận tin tức và tài liệu từ Hai Trung chuyển ra. Thông thường, vào sáng chủ nhật hoặc giờ nghỉ, Hai Trung đi xe đến chợ, gửi xe rồi dắt chó vào chợ. Như một người đi mua đồ cho chó, cho chim. Đến hàng của giao liên, Hai Trung giả vờ tìm một vài đồ vàng giả mua về cho trẻ con.

Khi có tín hiệu an toàn, thư được bỏ vào hàng của Nguyễn Thị Ba. Nhận tài liệu, tin tức, Nguyễn Thị Ba sẽ trực tiếp chuyển cho giao liên đưa về căn cứ hoặc qua các liên lạc dự bị. Cứ vậy, gánh hàng trang sức giả là bình phong vững chắc cho liên lạc Nguyễn Thị Ba trong cả quá trình đứng đằng sau hoạt động của điệp viên Phạm Xuân Ẩn.

10 năm làm liên lạc cho Hai Trung, Nguyễn Thị Ba chưa bao giờ sai một buổi hẹn nào, chưa có một sai sót nào. Chỉ có Hai Trung là thất hẹn một số ít lần vì bận đi ra ngoài thành phố không trở về kịp. Ông không thể thông báo trước, bởi vì bình phong bắt buộc Hai Trung phải đi xa thành phố đột xuất.

Bản năng cẩn trọng của người giao liên họat động trong nội thành thường trực trong con người Nguyễn Thị Ba. Chị luôn rất cảnh giác trước khi gặp Hai Trung, cũng như khi trao nhận tài liệu, tin tức. Cụm trưởng Tư Cang kể lại, cũng vì quá cảnh giác, nhiều khi gặp nhau trong chợ, Hai Trung phải khuyên Nguyễn Thị Ba đừng quá nhìn xuôi ngó ngược trong lúc nói chuyện. Vì điều này có thể gây chú ý cho bọn an ninh VNCH, vốn đầy rẫy xung quanh.

Chị Ba già đã giữ đường liên lạc an toàn và hiệu quả suốt mười mấy năm. Mãi đến 3/1975, chị Ba mới được đổi bằng người khác. Sau này, thiếu tá Nguyễn Thị Ba được phong Anh hùng LLVT.

Khi còn sống, nhà tình báo huyền thoại Phạm Xuân Ẩn từng đúc kết về giao liên với các nhà báo đến hỏi chuyện ông: "Điệp viên giỏi mà không có giao liên giỏi đưa tài liệu ra căn cứ thì chỉ có... ăn cám!".

Điệp viên không cô độc

Hai Trung, Tám Thảo và Nguyễn Thị Ba hoạt động trong lòng địch nhưng chưa bao giờ cô độc. Bởi lẽ, từ năm 1966, cụm trưởng Tư Cang nhận nhiệm vụ thường xuyên ra vào thành. Cụm trưởng vào vùng địch hậu hoạt động một thời gian dài và bất hợp pháp như Tư Cang được đánh giá là cấp chỉ huy không còn vị trí an toàn và công khai. Cụm trưởng cũng hoạt động mật như một điệp viên.

Cụ thể, Tư Cang nhận lệnh từ Phòng tình báo miền: Vào nội thành kiểm tra, điều nghiên tình trạng của toàn lưới một cách cụ thể. Cụm trưởng tiếp xúc với điệp viên, với giao thông nội đô để hướng dẫn, bồi dưỡng và trực tiếp chỉ đạo.

Việc ra vào thành như con thoi của Tư Cang còn có nhiệm vụ khác: lắng nghe điệp viên, làm giảm sự cô đơn và căng thẳng từ điệp viên. Tư Cang là cụm trưởng luôn kiểm soát được điệp viên trong mọi tình huống.

Tuy nhiên, theo các tài liệu đánh giá sau này, sự liên lạc trực tiếp giữa tổ trưởng và điệp viên liên tục cũng sẽ có hại đến sự an tòan của điệp viên. Nhưng thật tài tình, chưa một lần hoạt động của điệp viên và các mũi của H.63 bộc lộ sai sót.

Điều này thật thú vị khi lúc đầu Hai trung không biết ai là tổ trưởng của mình. Trung chỉ biết có một tập thể chỉ huy mình. Trong thời gian hoạt động trong thành, từ 1966-1969, Tư Cang lấy tên là Khanh. Và trong thư từ báo cáo, Hai Trung gọi Tư Cang là Robert. Bởi lẽ, đây là nguyên tắc để giữ bí mật tung tích cấp chỉ đạo. Hai Trung luôn ý thức về nguyên tắc này.

Giữa Hai Trung và Tư Cang sau này đã trở thành 2 người bạn thân, lúc những thông tin về 2 người đã được công bố. Chiến công của Hai Trung thì nhiều, nhưng Đại tá Tư Cang nhớ rất rõ khoảnh khắc một buổi trưa năm 1967. Hai Trung lái xe Renault chở Tư Cang đi trên đường, cụm trưởng báo tin cho điệp viên, tập tài liệu Hai Trung chuyển ra vừa qua rất có giá trị. Trung ương đã quyết định tặng thưởng cho Hai Trung một huân chương chiến công hạng nhất.

Nghe thủ trưởng nói vậy, Hai Trung mừng và nhớ ơn cấp trên. Nhưng rồi lại trầm hẳn xuống, và nói thật từ đáy lòng: đời người tình báo chẳng biết có cơ hội đeo huân chương không! Tư Cang không khỏi xót xa khi nghe cấp dưới nói vậy.

Sau chiến tranh, "bộ máy" H.63 đã 2 lần trở thành anh hùng. Trong những tài liệu tổng kết được công bố, H.63 được đánh giá tinh cán, gọn gàng, nhịp nhàng giữa điệp báo và giao thông cả trong nội đô và từ nội đô ra khu căn cứ, có sự chỉ đạo liên tục từ cụm trưởng.

Và dĩ nhiên, H.63 đã cống hiến cho cách mạng nhiều thông tin có hiệu lực và giá trị.

Nhưng trước khi vào thành hoạt động, vị chỉ huy bắn súng 2 tay như một đã có những tháng ngày "ăn cùng bom, ngủ cùng đạn" tại căn cứ Bến Đình. Tất cả để duy trì lưới và bảo vệ những tin tức, tài liệu điệp viên gửi ra.


Tiêu đề: Re: Cụm tình báo H.63 anh hùng
Gửi bởi: Mig21Bis_1 trong 25 Tháng Mười Một, 2011, 08:28:00 pm
Kỳ 21: Sống trong hủy diệt


Trong thành, điệp viên và giao thông nội đô đối diện với những hiểm nguy rình rập. Ở căn cứ, cả cụm H.63 cũng thường xuyên đối mặt với các trận vây ráp, càn quét của địch. Trước khi vào thành hoạt động, vị chỉ huy bắn súng 2 tay như một đã có những tháng ngày "ăn cùng bom, ngủ cùng đạn" tại căn cứ Bến Đình.

Đối diện với "anh cả đỏ"!

Năm 1965, tình hình miền Nam ngày càng căng thẳng. Bước sang năm 1965, Mỹ liên tục đưa các sự đòan lính thủy đánh bộ, Sư đoàn 1 bộ binh, kỵ binh không vận vào miền Nam. Trong đó, nổi lên nhất là sư đoàn kỵ binh số 1. Địch tuyên truyền rùm beng, đây là sư đoàn thiện chiến nhất với biệt danh "anh cả đỏ". Cạnh đó, chúng chuẩn bị đưa vào miền Nam sư đoàn bộ binh số 25. Chúng rêu rao: Đây là sư đoàn có khả năng giải quyết nhanh chóng chiến trường vùng nhiệt đới, nên được tôn vinh là "Sư đoàn tia chớp nhiệt đới".

Theo chiến lược dồn dân, lập ấp để tạo ra các vùng trắng, quân địch bắt tất cả người dân nơi cụm đóng quân ra các ấp chiến lược. Để khủng bố và gây áp lực bắt nhân dân phải bỏ làng mạc ra đi, chúng không tiếc pháo, bom ném vào từng nhà một. Không ai có thể ở nổi. Cụm H.63 sống ẩn dưới địa đạo trong các khu dân cư, chống lại những cuộc truy lùng của địch.

Cụm trưởng Tư Cang (Nguyễn Văn Tàu) là người chứng kiến và có nhiều kỷ niệm nhất với mảnh đất Phú Hòa Đông. Không thể hình dung nổi cảnh máy bay ném bom trên mặt đất, cả cụm tình báo ở dưới lòng đất. "Ác liệt!" - Hơn 30 năm sau, đại tá Nguyễn Văn Tàu nhắc đi nhắc lại cụm từ này. Ông chợt "trở về" với Bến Đình, với những tháng ngày nằm sâu trong lòng địa đạo oanh liệt xưa... Bến Đình trở thành quê hương thứ 2 của Tư Cang và nhiều đồng đội trong cụm H.63. Sau ngày thống nhất đất nước, Bến Đình là nơi ông và đồng đội thường chọn để trở về, vào mỗi dịp quan trọng.

Trận chống càn đầu đầu tiên của cụm H.63 vào năm 1965, tại căn cứ Củ Chi. Sư đoàn "anh cả đỏ" từ căn cứ Bắc Bến Cát, hướng về đất Củ Chi càn quét. Quân địch được trang bị cực kỳ hiện đại và chuyên nghiệp. Lực lượng không quân và pháo binh đi trước dọn đường. Xe tăng âm ầm rung chuyển mặt đất. Lính bộ binh của chúng được trang bị tận răng, mỗi thằng cầm một khẩu tiểu liên M.16 "cực nhanh" đi sau xe tăng.

Khi chỉ còn cách Tư Cang và 2 đồng đội Năm Hải và Tư Lâm 200m, toàn bộ đội quân của chúng bị khựng lại. Xe tăng không thể qua được vùng sình lầy. Bọn Mỹ tức giận. Tiếng máy nổ vang một góc trời. Tổ 3 người do Tư Cang làm tổ trưởng đang núp trong một bụi cây rậm giữa đường và sông Sài Gòn theo dõi chúng. Thời cơ tiêu diệt những tên lĩnh Mỹ đầu tiên trên đất thép Củ Chi đã đến. Hồi đó, anh em chỉ được trang bị súng trường báng đỏ bắn từng phát một. Mỗi người một khẩu, riêng khẩu của Tư Lâm có gắn thêm bộ phận lắp được đạn chống tăng.

Ba tiếng nổ vang lên cùng lúc. Thằng Mỹ chỉ huy chết ngay tại chỗ. Thằng mang điện đài bổ nhào xuống sông. Một cột khói bao quanh chiếc xe tăng vừa trúng đạn của Tư Lâm. Sau phút định thần, chúng rút súng bắn loạn xạ ra hướng sau lưng, chúng không biết tiếng súng nổ ra từ hướng nào. Tổ 3 người lặn xuống sông và rời khỏi khu vực chiến đấu.

Ngay hôm sau, Tư Cang gửi một báo cáo gấp về trung tâm: Quân Mỹ bắt đầu chết trên đất Củ Chi!

H.63 trở thành "con mồi"!

Đội võ trang của cụm H.63, có thành tích đặc biệt là đội đầu tiên giết chết quân Mỹ dưới địa đạo. Cuối năm 1965, Sư đoàn 25 bộ binh Mỹ được điều qua và đóng căn cứ tại Đồng Dù (Củ Chi). Căn cứ của địch chỉ cách căn cứ của H.63 khoảng 5-6 cây số. Đây là sư đoàn được đào tạo, huấn luyện chiến tranh chống du kích, cách đánh du kích.

Một ngày đầu năm 1966, không biết có chỉ điểm hay không, Sư đoàn này tính chuyện săn cụm H.63. Khi Tư Cang và Năm Hải đi công tác trong ấp Phú An về, anh em báo có 5 xe tăng của địch mò đến. Với kiến thức quân sự, cụm trưởng Tư Cang nhận ngay ra đây là một cuộc hành quân trinh sát của bọn Mỹ. Chúng đang chuẩn bị cho một trận tập kích đánh úp vào H.63. Một cuộc họp chớp nhoáng diễn ra.

Tư Cang đưa ra phán đoán: Có thể, chúng biết ta là một bộ phận quan trọng, muốn dùng lực lượng mạnh đánh úp bất ngờ. Và người chỉ huy đưa ra quyết định: đại bộ phận cụm sẽ tránh đi một địa điểm khác để giữ liên lạc mật vụ với nội đô và cấp trên!

Cụm trưởng cho một tổ 3 người ở lại duy trì liên lạc với các đơn vị bạn trong vùng. Cơ bản nhất, tổ có nhiệm vụ "đánh cho bọn Mỹ một trận, cho chúng biết tay!" Đúng như phán đoán, "anh cả đỏ" và Sư đoàn "tia chớp nhiệt đới" bị tổ 3 người Tám Phương, Đạo và Lợi cho "phơi áo" ngay trong lòng địa đạo.

Hôm sau, đại quân Mỹ cỡ chừng 50 xe tăng ào ào kéo đến. Có lẽ vì nắm vững vị trí và lực lượng H.63 theo bọn chỉ điểm nên bọn Mỹ định "ăn gọn", bắt sống cả cụm. Sau khi ngụy trang kỹ địa đạo, tổ 3 người cầm vũ khí chạy ra miệng địa đạo, mở nắp sẵn ngồi chờ địch tới. Đúng lúc đó, một tình huống ngoàii dự đoán ập đến. Khi xe tăng Mỹ đang tiến vào như 2 gọng kìm khép chặt địa đạo thì một toán khoảng 20 người của ta đang chạy đến địa đạo. Người dẫn đầu là Tư Kiếng, một cán bộ ban quân báo I4 (mật danh của Quân khu Sài Gòn - Gia Định).

Tư Kiếng đi móc nối cơ sở bí mật trong Sài Gòn ra, vừa đến đây thì gặp quân Mỹ đi càn. Trong quan hệ công tác, Tư Kiếng biết ở đây có lực lượng vũ trang của cụm H.63 nên dẫn cả đoàn chạy vào ẩn náu. Cả đoàn Tư Kiếng chui xuống địa đạo. Tám Phương là người xuống cuối cùng. Đó là lúc gọng kìm của địch khép lại. Một chiếc xe tăng địch đã đậu trên... nắp hầm.

Cả đoàn quân hùng hậu của Mỹ không thấy một bóng người. Địch tức tối đi tìm các nắp hầm bí mật. Thêm một số xe cơ giới hạng nặng từ Đồng Dù tới. Xe tăng chạy qua chạy lại trên mặt đất để nắp hầm bật lên. Ba nắp hầm bí mật bị khám phá.

Bọn Mỹ cười hô hố khi thấy các nắp bị bật tung. Điện đài được đánh về trung tâm chỉ huy ở Đồng Dù, yêu cầu trực thăng chở đội chuyên đánh đường hầm đến. Đó là "phi đội chuột cống". Toàn những tên không to con, vốn được huấn luyện đặc biệt tại Ha-oai, về môn đánh đường hầm.

Chuột cống "quốc tịch"... Mỹ

"Phi đội chuột cống" chụi ngay xuống hầm. Vừa mò mẫm vừa gõ dò tìm các nắp trầm, nắp bổng. Địa đạo được thiết kế đặc biệt và nhiều cấu trúc phức tạp. Một đoạn đường hầm từ 8 đến 10 mét trông như bịt kín 2 đầu. Nhưng nếu dùng đèn pin quan sát kỹ và dùng cán xẻng gõ tìm đường trong lòng đất, gần cuối đường hầm có một nắp khi thì trồi lên để sang hầm khác, khi thì tụt xuống. Đó là những nắm bổng, nắp trầm. Những sáng tạo khi đào địa đạo của cụm H.63 bọn địch có đoán trước cũng không tài nào qua nhanh được.

Tư Cang đưa ra phán đoán: Có thể, chúng biết ta là một bộ phận quan trọng, muốn dùng lực lượng mạnh đánh úp bất ngờ. Và người chỉ huy đưa ra quyết định: đại bộ phận cụm sẽ tránh đi một địa điểm khác để giữ liên lạc mật vụ với nội đô và cấp trên!
 
Mất mấy tiếng đồng hồ, "phi đội chuột cống" mới qua được các chướng ngại vật giăng sẵn. Chiến sĩ Đạo được giao nhiệm vụ ngồi gác trên một nắp bổng của đoạn kế tiếp. Tám Phương chỉ đạo: Đạo giương lưỡi lê ra, khi "chuột cống" đội nắp lên thì... xỏ lê ngang cổ, nó sẽ mắc kẹt ngang miệng hầm. Tay cầm lưỡi lê theo lời tổ trưởng nhưng Đạo run thật sự. Anh mới rời gia đình, nhập ngũ chưa đầy một tháng vào lực lượng vũ trang H.63. Ở nhà, Đạo tên là Hiến. Nhập ngũ, vì đào địa đạo giỏi nên anh em đặt tên là Đạo.

Đã thấy lính Mỹ dậm bịch bịch ngay dưới chân Đạo. Cái nắp chuyển động. Chúng cố sức mở nắp ra. Đạo lại đè xuống. Trong lúc bối rồi, Đạo quên lời tổ trưởng Tám Phương dặn. Anh bỏ cây súng đã giương lê sang một bên, toàn thân nằm trên nắp, dùng hai tay đè xuống. Phía dưới "chuột cống" đẩy càng mạnh.

Đạo nhớ đến đôi lựu đạn đeo bên hông. Anh cúi xuống, dùng thân bên trái đè nắp, tay phải gỡ trái lựu đạn. Anh rút chốt, thả quả lựu đạn xuống kẽ hở. Ụp! Một tiếng nổ phát ra từ lòng đất. Nắp bổng hất tung về một bên làm Đạo bị thương ở tay. Mặc kệ, anh đưa tay lấy nốt trái lựu đạn còn lại. Rút chốt sẵn và lắng nghe phía dưới. Tiếng ồ ồ khàn khàn như bò bị cắt tiết phát ra từ bóng tối. Đạo thả nốt quả lựu đạn. Lại một tiếng nổ nữa. Rồi im lặng...

Không thấy bóng dáng Việt Cộng nào bị bắt. Càng không thấy bọn "chuột cống" chui lên. Chỉ có 2 tiếng nổ nhỏ trong lòng đất. Đêm lại đang buông. Cả tiểu đòan Mỹ chia nhau từng toán ngồi canh giữ chiến trường chờ sáng.

Khi thấy tín hiệu an toàn, Tám Phương giở nắp hầm bí mật còn lại ở một gốc cây rồi cho mọi người chui lên, bò ra khỏi địa đạo. Tổ 3 người dẫn đoàn Tư Kiếng ra bờ sông, dùng xuồng đưa mọi người sang sông an toàn. Khi chỉ còn lại 3 người, Tám Phương nói: "Bọn Mỹ đến nhà mình, không thể cho chúng tự do hoành hành, không để chúng được ngủ yên!".

Lợi dụng các bậc hầm đá, men theo các bụi tầm vông, tổ tiếp cận quân địch. Đêm tối như bưng. Quân Mỹ đang dồn nhau lại quanh các xe tăng. Tiếng nói chuyện rì rầm như những bóng ma trong đêm. Trời tối, không thể ném lựu đạn. Tám Phương và đồng đội dùng súng trường bắn... đại vào những nơi đang phát ra tiếng rì rầm. Cứ mỗi lần như vậy, địch lại bắn trả hàng chục phút. Nhưng chỉ bắn vu vơ, trúng vào những cây bần, tầm vông.

Sau trận đánh địa đạo đầu tiên của lực lượng võ trang cụm H.63 đó, quân địch đã ranh ma hơn khi đánh hầm. Tư Cang nhớ lại, có đợt chúng đánh chết nguyên một cụm tình báo. Đó là cụm B4, đóng tại đình Bến Liễu, xã An Tây, huyện Nam Bến Cát do Hai Thăng là cụm trưởng. Giặc đi tuần đêm, người được giao nhiệm vụ gác miệng địa đạo sơ hở, ngủ quên.

Chúng gọi xe tăng chở thuốc nổ C4 cực mạnh tới. Thuốc nổ ném xuống miệng hầm, cứ thấy khói xì lên ở đâu chúng đánh tiếp bằng C4 ở đó. Với 4,5 lần đánh, thuốc nổ vùi luôn cả cụm B4. Từ cụm trưởng, đài trưởng. Chiến sĩ cụm B4 hy sinh 7 người, một người còn lại xin qua cụm H.63. Rút kinh nghiệm từ cụm này, cụm trưởng Tư Cang yêu cầu anh em canh gác thật kỹ. Những lúc địch đi tuần, cụm trưởng phải là người gác miệng địa đạo.

Chỉ huy cụm tình báo H.63 ngừng kể. Ông leo lên gác 2 lấy ra những kỷ vật của đồng đội mà ông luôn cắt giữ như kho báu. Phủ đi lớp bụi, khẩu súng Col lại như mới trong tay Đại tá Nguyễn Văn Tàu. Đây là khẩu súng tổ 3 người thu lấy được trong đường hầm, khi quân Mỹ đã bỏ đi hết.

Đảm bảo an tòan ngoài căn cứ chỉ là những hỗ trợ cho điệp viên trong vùng địch hậu. Cụm trưởng và các nhân vật trong lưới H.63 đã hoạt động cận kề kẻ thù như thế nào trong nội đô Sài Gòn?


Tiêu đề: Re: Cụm tình báo H.63 anh hùng
Gửi bởi: Mig21Bis_1 trong 25 Tháng Mười Một, 2011, 08:33:41 pm
Kỳ 22: Giáp mặt với gian nguy


Tư Cang hoạt động nhiều ở căn cứ nhưng vẫn ra vô thành như con thoi. Dù có các giao liên nội đô sống thường trực trong thành và giao liên từ căn cứ vào, cụm trưởng vẫn phải trực tiếp vào thành nhận tin và giao những nhiệm vụ quan trọng cho Hai Trung. Nhưng, vào thành là đối mặt với gian nguy luôn giăng sẵn...

Về thành

Năm 1966, Phòng tình báo miền ra một chỉ thị: cụm trưởng cần sát cánh bên điệp viên và giao thông nội đô. Tư Cang rời căn cứ Bến Đình, di chuyển vào thành với nhiều vỏ bọc khác nhau. Bắt đầu từ buổi trưa ngày 20/8/1966. Tư Cang và chiến sĩ của mình là Sáu Ẩn dùng xuồng qua sông Sài Gòn. Hai người theo đường tỉnh lộ 14 lên ngã ba Rạch Bắp rồi đi vào Sở cao su Ginết.

(http://www.lichsuvietnam.vn/images/stories/anhtulieu/phongsukisu/huyenthoai/images1426338_tc.jpg)
Dù có các giao liên nội đô sống thường trực trong thành và giao liên từ căn cứ vào, cụm trưởng vẫn phải trực tiếp vào thành nhận tin và giao những nhiệm vụ quan trọng cho Hai Trung. Nhưng, vào thành là đối mặt với gian nguy luôn giăng sẵn...

Người anh ruột của Sáu Ẩn là Năm Be đang phụ trách một cánh biệt động thành. Năm Be có cơ sở mật tên là Sào đang làm lái xe tải nhẹ chở mủ cao su từ đây về Sài Gòn. Đây cũng là cách anh em biệt động chuyển thuốc nổ, súng ống về thành phố. Tư Cang sẽ đi nhờ xe chở cao su vào thành.

Được dặn trước, Tư Cang đóng vai người chú của lái xe Sào từ Sài Gòn vào thăm gia đình đứa cháu, nay tiện xe về Sài Gòn luôn. Xe vào thị trấn Bến Cát, rẽ sang quốc lộ 13 và bon bon về Sài Gòn. Dọc đường, liên tục qua các bốt gác của địch.

Mỗi lần bị chặn lại, bà chủ sở cao su lại xuống trình giấy. Quá quen xe cao su 2-3 ngày một chuyến vào ra, không tên địch nào buồn đến khám xe. Tư Cang di chuyển ra thành phố một cách nhẹ nhàng.

12 năm rồi anh mới trở lại Sài Gòn. Tháng 6/1954, lúc đó đang là tổ trưởng quân báo liên huyện Cần Đuốc - Cần Giờ - Nhà Bè, anh được giao vào Sài Gòn vẽ bản đồ, điều tra các đồn bốt thuộc lực lượng Bình Xuyên, bên kia cầu chữ Y. Sài Gòn bây giờ đã khác. Cảnh đông đúc, sầm uất hiện ra trước mắt người cụm trưởng tình báo vốn chỉ sống ẩn mình dưới địa đạo khắp vùng Bến Đình.

Nơi Tư Cang đang tìm đến là một nơi đặc biệt. Đó như "căn cứ" an toàn ngay bên hông địch. Ở đó có những con người sẵn sàng chấp nhận hiểm nguy, dung dưỡng người cụm trưởng tình báo như đứa con trong gia đình mình. Ở đó cũng là nơi chứng kiến một tình cảm đẹp... Nơi đó là nơi Tám Thảo và gia đình đang sống.

Được Tám Thảo dặn trước, Tư Cang mang phong thái tự nhiên đi thẳng vào ngôi nhà 136B, hẻm 136, đường Gia Long. Anh như người thân của gia đình đã đến đây nhiều lần. Gia đình Tám Thảo được biết đến như một gia đình người Bắc khá giả, cách Dinh Độc Lập chưa đầy trăm mét nên bọn lính cảnh sát, an ninh ít nghi ngờ. Gia đình có một sạp vải "Tân Mỹ" ngoài chợ cũng là một trong những hộp thư của cụm H.63 trong thành.

Cả gia đình nhiệt tình đón tiếp Tư Cang.

Anh nhớ lại, hôm đưa Tám Thảo vào căn cứ Bến Đình học nghị quyết, đã đặt vấn đề vào Sài Gòn và ở tại gia đình với cô. Tám Thảo không chút do dự. Cô nhận thấy người thủ trưởng của mình có dáng dấp thành phố, lại biết ngoại ngữ nên dễ nhập vai.

Nhưng cô vẫn do dự về ba mình, một người gốc Bắc vốn rất khắt khe. Tư Cang và Tám Thảo móc nối giao liên đưa ba Tám Thảo vào căn cứ. Ông cụ đã đồng ý với kế hoạch ở lại nhà mình của Tư Cang.

Tư Cang trở thành người thân trong gia đình Tám Thảo lúc nào không biết. Anh coi ba Tám Thảo như ba mình. Đêm đêm, anh nằm bên ông, vừa đấm lưng, bóp chân cho ông vừa nói chuyện về Bác Hồ, về cách mạng. Anh dạy thêm tiếng Anh, tiếng Pháp cho mấy đứa cháu trong nhà.

Nhiều đêm, một tên chỉ điểm cạnh nhà lảng vảng đến, hắn đứng lại nghe Tư Cang giảng bài rồi lặng lẽ bỏ đi. Hắn không thể ngờ người thanh niên trắng trẻo, ưa nhìn đêm đêm giảng ngoại ngữ cho trẻ con lại là một cán bộ Việt Cộng, một thiếu tá tình báo quân đội.

Người bạn chơi chim, chơi chó

Ở thành phố đã yên ổn, Tư Cang nhờ Tám Thảo báo cho Hai Trung đến. Hồi đó, giữa Hai Trung và gia đình Tám Thảo rất thân mật. Từ khi Tư Cang lãnh đạo H.63, chỉ đạo Hai Trung chỉ qua thư. Khi gặp nhau, Hai Trung bảo với Tư Cang: "Thằng cha này trong rừng mà ngó ngon quá!". Hai Trung nhìn Tư Cang từ đầu đến chân.

Ông yêu cầu Tư Cang thay áo. Chiếc áo Tư Cang đang mặc mới quá, ra đường giặc sẽ nghi. Tiếp đến là đôi giày. Hai Trung bỏ tiền ra mua cho thủ trưởng một đôi giày thật xịn.

(http://www.lichsuvietnam.vn/images/stories/anhtulieu/phongsukisu/huyenthoai/images1426340_pxa7.jpg)
Trên chiếc xe này, Hai Trung đã chở thủ trưởng đi khắp nơi trong thành, đi đâu cũng giới thiệu Tư Cang là chủ sở trên Dầu Tiếng, là bạn chơi chim, chơi chó.

Mãi sau này, khi được hỏi về thủ trưởng của mình, Phạm Xuân Ẩn vẫn cười và nhắc về lần gặp đầu tiên của hai người: Tư Cang đẹp trai, lịch lãm dũng cảm. Nhưng ăn mặc thì lỗi mốt, cửa ô tô không biết mở!

Hai người lúc nào cũng đi cùng nhau. Hai Trung đưa Tư Cang vào toàn những nơi sang trọng để làm quen và nghe thông tin từ các nhân vật cỡ bự của địch. Có người hỏi về Tư Cang, Hai Trung bảo đây là một người bạn là chủ sở trên Dầu Tiếng, là bạn chơi chim, chơi chó. Hai Trung lái xe chở Tư Cang đi khắp nơi. Phía sau bao giờ cũng có con chó cưng của Hai Trung.

Ít ai ngờ con chó này được Hai Trung điều khiển bằng... tiếng Pháp. Đi bất cứ đâu Trung cũng cho chó đi theo. Con chó nằm ngoan ngoãn dưới bàn. Hai Trung kể lại với cụm trưởng, đây là con chó của một người bên Pháp cho Nguyễn Cao Kỳ. Một lần vào Phủ Tổng thống, ông thấy thích con chó đẹp.

Hai Trung móc với tên quản lý chó, làm cho chó ốm đói và ghẻ để thanh lý cho mình, lại được thêm tiền tiêu. Tên quản lý chó nghe cũng khoái chí, vì không phải chó của mình. Chỉ vài tuần sau, con chó đẹp đẽ trở nên ốm đói, ghẻ lở. Nó bảo với Nguyễn Cao Kỳ, chắc là con chó này không hợp với khí hậu Việt Nam, nên thanh lý. Hai Trung mua lại được con chó. Bên Pháp nó đã được điều khiển bằng tiếng Pháp, Hai Trung mua về cứ thế "nói chuyện" với nó bằng tiếng Pháp.

Điều này gây ngạc nhiên với Tư Cang. Một lần Hai Trung dẫn Tư Cang vào nhà hàng Victory. Sau khi đã xong việc, Hai Trung đứng lên trả tiền, con chó đi theo. Hai Trung quát bằng tiếng Pháp: "Đứng lại!". Con chó đứng yên. Khi trả tiền xong, trở lại bàn, Hai Trung lại nói: "Nằm xuống!" (bằng tiếng Pháp). Con chó lại nằm xuống. Xung quanh không thể nghi ngờ 2 ông chủ giàu có, điều khiển chó bằng tiếng Pháp lại là một điệp viên cỡ bự và một cụm trưởng tình báo cỡ bự của Việt Cộng.

Gặp Tư Cang, Hai Trung rất mừng. Lúc này mục đích lớn nhất cấp trên giao cho Hai Trung đang là nghiên cứu về quân sự để chuẩn bị cho cuộc Tổng tấn công Mậu Thân 1968. Tư Cang và Hai Trung phải bám xem Mỹ Ngụy thi hành kế hoạch quân sự 142 như thế nào? Kế hoạch bình định được chúng cập nhật hóa ra sao? Theo dõi khi nào chúng đưa kế hoạch mới là AB 143 để thi hành năm 1968, phải lấy bằng được vào cuối năm 1967. Ngoài ra, nhiệm vụ của Hai Trung còn xem Mỹ ngụy có nghi ngờ cuộc Tổng tấn công của ta sắp tới không? Có sự chỉ đạo trực tiếp của Tư Cang, Hai Trung làm tốt tất cả mọi việc.

Sát cánh bên điệp viên, cụm trưởng Tư Cang hoạt động mật trong thành như không khác gì một điệp viên thực thụ. Cụm trưởng H.63 được giao chỉ thị kiểm tra, điều nghiên tình trạng của toàn lưới một cách cụ thể. Thỉnh thoảng lại về vùng an toàn, không được ở vùng địch hậu lâu dài. Tư Cang còn có nhiệm vụ hướng dẫn, bồi dưỡng cho điệp viên những nhiệm vụ, nghị quyết của trên để lấy tài liệu thích ứng với tình hình.

Trực tiếp vào thành hoạt động hỗ trợ điệp viên và nắm tình hình, cụm trưởng H.63 đối mặt với nhiều hiểm nguy. Bằng sự mưu trí, bình tĩnh Tư Cang đã nhiều lần vượt qua. Kể cả vượt qua chính mình...



Tiêu đề: Re: Cụm tình báo H.63 anh hùng
Gửi bởi: Mig21Bis_1 trong 25 Tháng Mười Một, 2011, 08:38:38 pm
Kỳ 23: Cơ hội của... viên đạn giành riêng


Có những cuộc xét giấy "căng như dây đàn". Chỉ cần cái gật đầu nhẹ của tên chỉ huy, Tư Cang và giao liên sẽ bị bắt, điệp viên và cơ sở ắt sẽ lung lay. Đây cũng là dịp xạ thủ "hai tay như một" suýt nữa đã dùng đến viên đạn giành cho riêng mình. Cụm trưởng H.63 đã vượt qua như thế nào?

Cuộc xét giấy... thót tim

Năm 1968, sau đợt 2 chiến dịch Mậu Thân, cấp trên gọi ông về để chỉnh huấn. Giao liên Tám Kiên lại là người đi cùng Tư Cang từ trong thành về cứ. Hai người đi trên chiếc xe honda nữ của Tám Kiên. Trước khi đưa Tư Cang ra cứ, Tám Kiên đã điều tra và nắm rõ tình hình đường sá. Chỗ nào có bốt, có bốt nghiêm, bốt sơ hở, nhiều quân Mỹ, làm gắt gao... đều đã nằm trong đầu nữ giao liên trẻ.

(http://www.lichsuvietnam.vn/images/stories/anhtulieu/phongsukisu/huyenthoai/images1427058_IMG_7848.jpg)
Có những cuộc xét giấy căng như dây đàn...

Hai người vừa đi vừa nói chuyện như một đôi vợ chồng trẻ. Tám Kiên thông tin cho thủ trưởng biết, mấy hôm nay lực lượng Mỹ - Ngụy đang càn quét trên một vùng lớn từ Củ Chi đến Trảng Bàng. Sự liên lạc giữa khu căn cứ và ấp chiến lược Phú Hòa Đông gặp nhiều khó khăn, nguy hiểm.

Hôm nay, Tám Kiên sẽ đưa thủ trưởng về ấp chiến lược Mỹ Phước (huyện Bến Cát). Xe chạy bon bon về hướng Lái Thiêu. Qua trạm gác thị xã Bình Dương, cả hai không bị xét hỏi gì. Nhìn cặp vợ chồng ăn mặc sang trọng trên chiếc xe honda mới, các tốp lính không thể nghi ngờ.

Chỉ còn 10 cây số nữa sẽ đến Mỹ Phước. Tư Cang nhìn thấy cách mình 100m có một tên lính, trên tay hắn là khẩu súng cac-bin. Phía trong, dưới các gốc xoài, mấy chiếc xe Jep đã đậu sẵn. Tình huống bất ngờ xảy ra mà lúc sáng Tám Kiên đi không gặp.

Tư Cang đang dùng giấy tờ giả do Tám Chứa, một cán bộ kỹ thuật Phòng tình báo cấp. Tên lính cầm thẻ căn cước xem đi xem lại. Nó đã nghi giấy giả. Nó nắm tay lại, bóp tờ thẻ rồi bung ra. Lại bóp và thả cho bung ra một lần nữa. Tên này đã có kinh nghiệm trong việc xét hỏi căn cước.

Tên lính cười gằn rồi nói: "Giấy này kỳ quá!". Tư Cang chống chế: "Mấy ông cấp sao, tôi đi vậy chứ kỳ gì!". Nó tiếp tục "vần con mồi" bằng cách đưa giấy ra sau lưng rồi nhìn thẳng vào mắt Tư Cang, hỏi tên cha ông. "Ba tôi hả? Nguyễn Văn Muốn!". Cô giao thông Tám Kiên đứng bên bắt đầu lo. Trong trường hợp này, nhiều người sẽ trả lời sai với thông tin trên giấy. Vì đây là giấy giả, cha giả. Đây là tên ông cậu của Tư Cang.

Trả lời xong, Tư Cang trêu lại nó: “Tía (cha) mà cũng hỏi nữa”! Nó vẫn không chịu thua, ngó tiếp và hỏi : "Giấy cho ngày mấy?”. Giấy này là giả, khi ra ngoài thành, ông đã cẩn thận so với giấy thật để xem và nghiên cứu trước. Nhưng nếu trả lời quá chính xác tụi nó cũng nghi. Tư Cang từ tốn: "Giấy mấy ông cho đâu hồi giữa năm 1962, bây giờ hỏi ngày làm sao nhớ nổi!".

Vẫn chưa chịu thua. Tên lính cầm tờ giấy đi vào trong, nói với tên Trung úy chỉ huy: "Thưa Trung úy, tờ giấy này coi kỳ quá, có nhiều khả nghi!". Tên Trung úy cầm giấy và lật đi lật lại xem. Trung uý nhìn về phía Tư Cang, thấy anh đang vui vẻ, lại còn lấy thuốc ra hút rất tự nhiên. Anh bảo nhỏ Tám Kiên: cứ tươi tỉnh lên!

Tên Trung úy thấy thái độ của Tư Cang và Tám Kiên như vậy nên quay sang thằng lính bảo: Người Sài Gòn giấy như vậy đó! Trả cho người ta đi. Tên lính ra trả giấy, mồm vẫn lẩm bẩm: mình đã phát hiện ra giấy giả, thế mà ổng vẫn cho đi. Khi đã thoát xa khỏi trạm xét giấy đó, Tư Cang và Tám Kiên vẫn không hiểu sao tên Trung úy chỉ huy lại dễ dãi đến vậy.

Viên đạn cuối cùng

Trong đợt 1 cuộc Tổng tấn công Mậu Thân 1968, nhiều tình huống nguy hiểm khi đối mặt với giặc đã được cụm trưởng và các giao thông viên H.63 hóa giải. Nhớ lại, ngay trong những ngày ta và địch đang đánh nhau dữ dội, giao thông Hai Ánh vẫn mang trót lọt vũ khí từ ấp chiến lược vào cho thủ trưởng Tư Cang.

Bữa đầu tiên, đúng hôm đang đánh ác liệt, bọn lính ở Ba Ri - Tân Quy đuổi cô về. Hôm sau Hai Ánh ngụy trang vũ khí trong một chồng bánh tráng. Giả vờ là người đi bán, gặp Tư Cang hỏi mua. 2 cây súng cùng 27 viên đạn được trao tận tay Tư Cang.

(http://www.lichsuvietnam.vn/images/stories/anhtulieu/phongsukisu/huyenthoai/images1427060_IMG_9359.jpg)
Ông xác định nếu bị lộ, sẽ sống còn với chúng, và viên đạn dành cho mình sẽ găm vào tim. Nếu không làm thế, địch sẽ bắt được và cả lưới được gây dựng lâu nay, cả điệp viên đang an toàn trong lòng địch sẽ dễ bị vỡ. Người chiến sĩ tình báo, trong cận kề cái chết, nhiệm vụ bảo vệ đường dây vẫn là cao cả nhất.

Tư Cang đặc biệt nhớ về chị giao liên dũng cảm này. Có lần, Hai Ánh mang một chỉ thị xuống cho Tư Cang. Đi tới Hoóc Môn, chị bị chặn lại tại một bốt cảnh sát kiểm tra giấy tờ gắt gao. Không thể để tài liệu rơi vào tay giặc.

Hai Ánh giả vờ làm rơi chỉ thị đã được cuốn tròn như viên bi nhỏ xuống đất. Cô nhanh chân đạp lên nó. Thừa lúc không ai để ý, giả bộ cúi xuống gãi kiến cắn, Ánh nhặt chỉ thị lên và cho vào mồm nuốt. Qua khỏi bốt gác, cô tới ngã tư Bảy Hiền mua 2 trái dừa to để uống rồi móc họng. Tài liệu được ói cho ra, chuyển về an toàn cho thủ trưởng Tư Cang.

Sau này, khi chiến tranh đã qua đi, thủ trưởng Tư Cang vẫn tự hào, trong quá trình hoạt động trong thành, lực lượng mật của H.63 không ai hy sinh, không ai bị bắt cả. Tư Cang điều khiển lưới trơn tru đâu ra đấy. Lực lượng mật toàn vẹn cho đến ngày giải phóng.

Trong đợt 1 Mậu Thân, khi Tư Cang đang núp trong nhà Tám Thảo, một chuyện ngoài dự tính đã xảy đến. Nhưng sự thông minh, khéo léo của Tám Thảo đã giúp Tư Cang không bị lộ, gia đình không bị địch quấy rầy. Đó là những ngày quân ta và địch đang giằng co tại khu vực Dinh Độc Lập.

Từ trên căn xép nhỏ, Tám Thảo và Tư Cang quan sát hết được diễn biến trận đánh. Nhìn thấy mấy tên Mỹ đứng lố nhố phía bên kia đường, Tám Thảo bảo Tư Cang dùng tài nghệ bắn súng hạ bọn chúng. Hai phát súng của Tư Cang hạ hai tên giặc. Bắn xong anh đi qua giường ngủ của Tám Thảo, len qua những bành vải cùng vật dụng phế thải của gia đình và chui vào một lỗ nhỏ bị bể trên tường gạch. Đó là nơi ẩn náu của anh.

(http://www.lichsuvietnam.vn/images/stories/anhtulieu/phongsukisu/huyenthoai/images1427064_t.jpg)
Khi còn hoạt động trong thành, lúc nào trong túi Tư Cang cũng có viên đạn giành riêng cho mình...

Tức tối, nghi vấn, địch mò vào nhà Tám Thảo lùng sục. Còn 25 viên đạn. Anh lấy 1 viên bỏ vào túi. Bao giờ cam go, cận kề cái chết anh cũng làm vậy. Một viên đạn luôn để dành cho chính mình. Sợ 1 viên dễ bị kẹt, anh bỏ thêm viên nữa vào túi. Đây là lúc rất có thể viên đạn dành riêng cho Tư Cang được sử dụng.

Ông xác định nếu bị lộ, sẽ sống còn với chúng, và viên đạn dành cho mình sẽ găm vào tim. Nếu không làm thế, địch sẽ bắt được và cả lưới được gây dựng lâu nay, cả điệp viên đang an toàn trong lòng địch sẽ dễ bị vỡ. Người chiến sĩ tình báo, trong cận kề cái chết, nhiệm vụ bảo vệ đường dây vẫn là cao cả nhất.

Bọn địch đã lao xao ngoài ngõ. Chúng phỏng đoán hướng bắn từ ngôi nhà này. Tư Cang thấy thương gia đình Tám Thảo. Mọi người trong nhà đã xem Tư Cang như người thân. Nếu chúng phát hiện ra ông, không chỉ Tám Thảo, mà cả gia đình cô cũng liên lụy nặng.

Tư Cang thấy thương Tám Thảo vô hạn. Với cô, không chỉ còn là tình đồng chí đồng đội, trong những lúc cam go của cuộc chiến, những phút lãng mạn trong lòng địch, Tư Cang đã có chút tình cảm với cô.

Tiếng tên chỉ huy nói to: "Bắt thằng Việt Cộng ra xem gan lớn như thế nào mà dám ở vùng này!". Có lẽ tên chỉ điểm gần nhà đã nghi từ lâu, vì thấy Tư Cang hay đi ra đi vào với Tám Thảo. Đang ngồi thu mình trong bóng tối, Tư Cang nghe tiếng động phát ra từ mái nhà. Bọn địch cho cả 1 tốp đi trên ngói truy tìm kẻ bắn ra 2 phát súng vừa nãy. Chúng đã bao vây kín nhà Tám Thảo.

Địch đập cửa đòi kiểm tra sổ gia đình. Chúng lần mò lên tầng trên, chỗ Tư Cang đang núp. Nó chỉ cách anh có mười mấy thước. Lúc đó, Tám Thảo trong màn bước ra, cô làm bộ không biết gì và đối đáp với nó. Thảo cố tình nói thông tin mình làm cho Mỹ. Tụi nó lại nhìn thấy hình tên sếp Mỹ của Tám Thảo để trên bàn. Tên Đại úy trinh sát dẫn đầu đám lùng sục xua quân ra về (Phần thông tin này VietNamNet đã đưa chi tiết trong loạt bài về nữ điệp viên Tám Thảo).

Sau này, một người thuộc thế hệ sau của Tư Cang - Tám Thảo khi biết chuyện đã viết bài thơ "Bức hình kỷ niệm" tặng 2 người. Đại tá Tư Cang đã trân trọng in bức ảnh Tám Thảo và bài thơ trong cuốn hồi ký về trận Mậu Thân năm 1968, như một kỷ niệm đẹp:

"Đã nhiều năm sau cuộc chiến tranh
Tôi vẫn để tấm hình em bên ngực trái
Nơi ngày đó tôi cất viên đạn cuối cùng
Giành cho mình khi giặc xét nhà em...

...Giờ bức hình tôi vẫn để bên tim
Nơi viên đạn tôi giành riêng ngày đó
Tim tôi vẫn cuộn sôi dòng máu đỏ
Bên bức hình người đã chở che tôi".

Trong quá trình hoạt động của H.63, thời điểm trước và sau cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân năm 1968 được coi như một trong những thời kỳ hiệu quả nhất...


Tiêu đề: Re: Cụm tình báo H.63 anh hùng
Gửi bởi: Mig21Bis_1 trong 25 Tháng Mười Một, 2011, 08:44:03 pm
Kỳ 24: Mệnh lệnh giữa rừng đêm


Đêm 30 Tết 1968, giữa rừng khuya chiến khu, Thủ trưởng Phòng tình báo Sáu Trí chỉnh huấn Nghị quyết của Bộ Chính trị và giao nhiệm vụ cho Cụm trưởng Cụm tình báo H.63. Tư Cang suýt reo lên khi Thủ trưởng Sáu Trí ra mệnh lệnh: Trở lại Sài Gòn ngay đêm nay, đêm mai (mùng 1 rạng mùng 2 Tết), quân ta sẽ nổ súng...

Đêm chỉnh huấn khó quên

Trưa 30 tết, Tư Cang thực hiện mệnh lệnh từ thành phố về căn cứ để dự chỉnh huấn. Đêm cuối năm 1968, Thủ tưởng Sáu Trí của Phòng tình báo miền từ trên căn cứ sát biên giới xuống chỉ thị cho cụm H.63. Ánh đèn trong rừng tù mù. Đêm đã khuya lắm rồi. Chỉ còn tiếng con nai con hoẵng đi ăn đêm. Ông Sáu Trí và Tư Cang đang triển khai công việc. Khẩn trương và cẩn mật. Trên trời, thỉnh thoảng lại có những tốp máy bay địch đi tuần.

(http://www.lichsuvietnam.vn/images/stories/anhtulieu/phongsukisu/huyenthoai/images1427927_IMG_9328.jpg)
Đến tận bây giờ, sau gần 40 năm tính từ cái đêm ra rừng dự chỉnh huấn đó, Đại tá, Anh hùng LLVT Nguyễn Văn Tàu không thể nào quên cái siết chặt tay tạm biệt với niềm hy vọng mãnh liệt từ thủ trưởng Sáu Trí.

Thủ trưởng phòng Sáu Trí phổ biến nghị quyết của Bộ Chính trị họp tháng 6/1967 cho Tư Cang. Sau này, trong cuốn sách viết về chiến dịch Mậu Thân 1968, Đại tá Nguyễn Văn Tàu thừa nhận: Những đợt chỉnh huấn của lãnh đạo Phòng tình báo miền vô cùng bổ ích đối với một người hoạt động trong thành như ông. Thông tin từ Thủ trưởng Sáu Trí đưa ra về tình hình miền Nam, về sự thay đổi trong cơ cấu của quân đội Mỹ ở miền Nam Việt Nam.

Đó là một sức mạnh quân sự khổng lồ được triển khai, có thể làm nản lòng những kẻ yếu bóng vía! Số quân Mỹ từ con số 25.000 tăng lên 75.000 (8/1965), 200.000 (cuối 1965), 389.000 (cuối năm 1966) và cuối 1967 đã lên đến nửa triệu.

Bộ Chính trị nhận định: "... Chúng ta đang đứng trước triển vọng và thời cơ chiến lược lớn. Đế quốc Mỹ đang đứng trước tình thế tiến thoái lưỡng nan về chiến lược. So với mục tiêu chính trị và quân sự có hạn của chúng ở miền Nam, những cố gắng chiến tranh của Mỹ (cùng với những thiệt hại nặng nề của chúng) ở Việt Nam đã tới đỉnh cao... Thế chiến lược của chúng đã bị đảo lộn, tinh thần binh sĩ càng thêm sa sút, bạc nhược...". Tuy nhiên, không thắng được nhưng vẫn không chịu thua. Chúng muốn đàm phán để rút khỏi cuộc chiến tranh. Và địch có lập trường "lạ đời": Đàm phán trên thế mạnh!

Lúc bấy giờ, nhiều báo chí phương Tây cũng nhận xét về vị thế chiến tranh của Mỹ tại miền Nam Việt Nam: "Mâu thuẫn giằng co. Đó là con đường hầm không lối thoát!".

Đấy là những nhận định có cơ sở thực tiễn và lý luận, về địch. Còn tình hình và vị thế của ta, Bộ Chính trị chỉ rõ: "Về phía ta, chúng ta đã thắng địch cả về chiến lược lẫn chiến thuật, thế và lực của ta phát triển mạnh hơn bao giờ hết. Lực lượng quân sự và chính trị của ta ở miền Nam đã lớn mạnh hơn bất cứ thời kỳ nào trong lịch chiến tranh giải phóng của ta".

Từ nhận định về địch, về ta, Bộ Chính trị chỉ ra hành động: Tình hình này cho phép ta chuyển cuộc chiến tranh cách mạng sang thời kỳ mới, thời kỳ tiến công và nổi dậy giành thắng lợi quyết định! Giữa rừng khuya, Tư Cang như nuốt từng lời chỉnh huấn của thủ trưởng, mà lâu lắm rồi, ông đã khát khao được nghe từ khi đang hoạt động trong thành.

Sáng mùng 1, Thủ trưởng Sáu Trí tiếp tục phổ biến cho cụm trưởng H.63 về tinh thần của Trung ương Cục và chỉ thị của Bộ Tư lệnh quân giải phóng miền Nam: Chỉ trong đêm nay, đêm mùng 1, rạng mùng 2, quân ta sẽ mở một trận tổng tấn công trên toàn miền Nam.

Tư Cang náo nức. Ông và đồng đội trong cụm là một trong những đơn vị trực tiếp chuẩn bị cho cuộc tổng tấn công được mong chờ này. Từ việc phát hiện cơ sở địch, đến việc vẽ bản đồ từng mục tiêu gửi về Bộ Tham mưu.

"Tình báo chúng ta đã phát hiện sơ hở của giặc, đã cung cấp tài liệu, bảng vẽ các mục tiêu. Giờ đây, ngoài nhiệm vụ cùng tham gia tấn công một số điểm, cấp trên chỉ thị phải theo dõi, đánh giá thật đúng thắng lợi của ta, thất bại của địch và những hậu quả có tính chiến lược sau đòn tổng tiến công này..." - Mệnh lệnh của Phòng tình báo miền giành cho chỉ huy cụm H.63.

Đến tận bây giờ, sau gần 40 năm tính từ cái đêm ra rừng dự chỉnh huấn đó, Đại tá, Anh hùng LLVT Nguyễn Văn Tàu không thể nào quên cái siết chặt tay tạm biệt với niềm hy vọng mãnh liệt từ thủ trưởng Sáu Trí.

Sự cố và may mắn trước giờ G

Đầu giờ chiều ngày mùng 1 Tết Mậu Thân, Tư Cang trở về Sài Gòn, chuẩn bị cho cuộc tổng tiến công. Anh được giao liên dẫn ra trạm liên lạc. Thời gian chỉ còn mấy tiếng đồng hồ. Tuy nhiên, một sự cố đã xảy ra với phương tiện di chuyển của Tư Cang.

Chiếc xe máy anh đi từ thành vô rừng đã bị hư. Nguyên do thật dở khóc dở cười. Khi Tư Cang vào căn cứ làm việc với thủ trưởng phòng, thấy chiếc xe máy đẹp, anh em ở trạm giao liên đã trót... nghịch. Một người đã nổ máy, vặn mạnh tay ga và... dậm số 1. Chiếc xe lồng lên như con ngựa chứng và vọt mạnh vào gốc cao su, cả xe và người ngã lăn kềnh ra đất. Chiếc xe không thể nổ máy lại.

(http://www.lichsuvietnam.vn/images/stories/anhtulieu/phongsukisu/huyenthoai/images1428055_IMG_7846.jpg)
Cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968 là ký ức khó quên mà Tư Cang luôn "cất giữ" một cách trân trọng

Anh em trong trạm giao liên tháo súng, hò nhau đẩy xe cho thủ trưởng cụm. Chiếc xe nổ máy. Tư Cang phóng nhanh về phía Sài Gòn. Trong lòng người chỉ huy vừa bực lại vừa thương anh em: Đánh nhau với thằng Mỹ hiện đại vậy mà anh em không ai biết gì về máy móc, cả đến thứ giản đơn như chiếc xe honda này.

Nhưng chiếc xe lại trở chứng. Nó chết máy khi còn cách Sài Gòn 50 cây số. Đạp mỏi chân, máy vẫn ì ra. Tình thế nước sôi lửa bỏng. Bằng mọi giá anh phải về Sài Gòn trong đêm nay. Không còn sự chọn lựa nào, Tư Cang đành lầm lũi dắt xe đi trong bóng đêm mùng 1 Tết.

Anh hình dung về cuộc tổng tấn công sắp nổ ra. Đồng đội thì lội trên ruộng lầy, anh đi trên con đường tráng nhựa. Đồng đội tiến bước tập thể, còn anh dắt chiếc xe hỏng lụi cụi đi. Chỉ có bóng đêm và sự cô độc vây quanh.

Đang dắt xe đi bộ, Tư Cang choáng váng khi phía trước là vài chiếc xe tăng Mỹ. Hai thằng Mỹ bước tới, súng chĩa thẳng vào Tư Cang. Một tên hỏi, bằng giọng giễu cợt: "Vixi? (V.C - Việt cộng phải không?). Nó bắt chước giọng tiếng Việt lơ lớ: "Đi đâu?".

Tư Cang bình tĩnh đáp trả, cũng bằng giọng đùa nghịch: "Ô, nô, nô Vixi!" (Ồ, không phải Việt cộng). Anh giải thích, ngày Tết đi thăm bà con về bị hỏng xe. Tư Cang tiếp tục tỏ ra hồn nhiên, nói với chúng bằng tiếng Anh: "Hello! Happy New Year!".

Sau khi hỏi vài câu, tên Mỹ không nghi ngờ gì. Nó còn giúp Tư Cang đạp máy. Chiếc xe vẫn im lặng. Để cảm ơn, anh lấy bao thuốc Lucky Strike ra mời chúng và tranh thủ hỏi tin tức. Tên Mỹ cho biết, quân đội đã được lệnh báo động. Bởi lẽ, đêm qua (30 Tết), Việt cộng tấn công nhiều điểm tại miền Trung, trong đó có thành phố Huế.

Lại lầm lũi dắt xe đi trong đêm, cho đến khi anh gặp một toán thanh niên đi ngược chiều tặng cho một bugi dự phòng. Tư Cang về đến Sài Gòn lúc 9h30. Cụm trưởng H.63 tranh thủ đi giao nhiệm vụ cho đồng đội và đi một vòng đến các mục tiêu chính trong trận tấn công đêm nay. Bộ Tư lệnh Hải quân, Toà đại sứ quán Mỹ, dinh Độc Lập... Vẫn im lìm trong bóng đêm đầu năm.

Nơi trở về của Tư Cang trong thành là nhà Tám Thảo, ở số 136B đường Gia Long. Cả nhà Tám Thảo đón Tư Cang như người thân vừa đi xa trở về. Ông Nguyễn Đình Phong (bố Tám Thảo) sực nhớ, đôi mắt sáng rực nói với Tư Cang: "Đêm qua, lúc giao thừa, vặn đài Hà Nội đón thơ chúc Tết của Bác, ba sướng quá! Nhất là câu cuối: Tiến lên! Toàn thắng ắt về ta!".

Xúc động, anh nói với ông Phong, người mà anh đã xem như cha từ lâu: "Ngày ấy không còn lâu nữa đâu ba...!".

Vào thành, "ông chủ đồn điền" Tư Cang được Hai Trung đưa đi nhiều nơi để nghiên cứu tình hình. Thậm chí, sau trận Mậu Thân đợt 1, Tư Cang còn ngồi nói chuyện tay đôi với một tên Đại tá VNCH. 


Tiêu đề: Re: Cụm tình báo H.63 anh hùng
Gửi bởi: Mig21Bis_1 trong 25 Tháng Mười Một, 2011, 09:07:49 pm
Kỳ 25: Hai Việt Cộng và một Đại tá VNCH


Tiếng súng cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968 đợt 1 kết thúc. Với tài sắp xếp của Hai Trung, Tư Cang trong vai "ông chủ đồn điền", bạn "chơi chim chơi chó" của Phạm Xuân Ẩn đã ngồi nói chuyện "ngang vai" với một Đại tá VNCH, phân tích về cuộc chiến vừa diễn ra...

Theo đúng kế hoạch, đêm nay, những mục tiêu quan trọng như toà Đại sứ Mỹ, dinh Độc Lập, Tổng nha cảnh sát, Biệt khu Thủ đô, Đài Phát thanh, Bộ Tư lệnh Hải quân... sẽ phát ra những tiếng nổ. Cũng giờ này, trên các hướng tấn công, đại quân ta đang áp sát Sài Gòn. Trong thành phố, các cánh quân biệt động đặc công đang âm thầm tiếp cận mục tiêu, chờ hiệu lệnh.

Không cần đợi lâu, bên ngoài đã có tiếng súng. Lúc thì dồn dập, lúc thưa thớt từng loạt ngắn. dinh Độc Lập, toà Đại sứ Mỹ, Bộ Tư lệnh Hải quân, Bộ Tổng tham mưu, sân bay Tân Sơn Nhất đều phát ra tiếng súng. Tư Cang rộn lên một cảm giác vui sướng. Bởi lẽ, tất cả những mục tiêu mà lực lượng tình báo cung cấp tài liệu đang được bộ đội đặc công tấn công.

Khen Việt Cộng trước mặt... V.C

Hôm sau, Tư Cang đến toà báo Times, nơi làm việc của Hai Trung. Trung được giao nhiệm vụ giúp Tư Cang trực tiếp nghe sự đánh giá của một sĩ quan cao cấp nguỵ, về trận đánh tối qua. Hai Trung nhấc điện thoại, gọi mời tên đại tá L., sĩ quan phụ trách Phòng hành quân tác chiến (Bộ Tổng tham mưu quân đội VNCH) đến uống trà. Đại tá L. khá kính nể Hai Trung. Hắn đến ngay toà báo Times.

Tư Cang bỗng chốc trở thành "chủ đồn điền, bạn thân" của nhà báo Phạm Xuân Ẩn, khi tên đại tá L vừa bước vào. Một cuộc nói chuyện tay ba diễn ra giữa 2 Việt Cộng và một sĩ quan VNCH.

Không thể ngờ ngồi trước mặt mình là 2 Việt Cộng, Đại tá L. thừa nhận: Việt Cộng đã tổ chức một trận đánh tuyệt đẹp! Hắn không ngớt lời khen Việt Cộng trước mặt... 2 Việt Cộng. Tỏ ra mình là người nắm rõ thông tin để cung cấp cho nhà báo Times và ông chủ đồn điền... khoái nghe chuyện chiến sự, đại tá L. kể chi tiết về việc Việt Cộng đánh đại sứ quán Mỹ, chỉ với 17 người, suýt bắt sống viên đại sứ.

Vì sao tên đại tá VNCH lại coi đó là một "trận đánh tuyệt đẹp" của Việt Cộng? Hắn phân tích cho Hai Trung và Tư Cang nghe: Đánh giữa trung tâm Sài Gòn, vào ban ngày, phóng viên các nước đổ xô đến quay phim, chụp ảnh. Ngay chiều hôm ấy, truyền hình Mỹ và các nước phương Tây, báo chí, đài phát thanh đều nêu rùm beng. Cả thế giới biết đến cuộc tấn công Mậu Thân 1968, chỉ sau vài giờ đồng hồ.

"Tâm lý thế giới xáo trộn, tâm lý dân Mỹ xáo trộn. Qua trận này, người Mỹ sẽ không tin vào Tổng thống Johnson nữa, không tin vào bộ máy tuyên truyền khổng lồ của ông ta nữa. Cuộc vận động tranh cử của ông ta vào cuối năm 1968 sẽ... đi đứt".

Đại tá L đưa ra thông số, phân tích tiếp về hậu quả trận đánh này: theo báo cáo đầu tiên Bộ Tổng tham mưu nắm được, 39/44 tỉnh lỵ, 5/6 thành phố, 71/245 quận lỵ đã bị pháo kích và tập kích.

Thật nực cười, Tư Cang nhớ lại những thông tin mình nắm được từ Phạm Xuân Ẩn trước đó. Tình hình trước Tết mới lắng dịu đi đôi chút, Tổng thống Mỹ và Tổng thống VNCH đã vội gặp nhau nâng cốc chúc mừng "thắng lợi". Rồi quay phim, chụp ảnh, báo chí đưa rùm beng để "bịt mắt" người dân và nâng cao uy tín.

Đại tá L vẫn say sưa thổ lộ: "Để đánh trận này, Việt Cộng đã có sự chuẩn bị từ hơn nửa năm nay. Khoảng giữa năm 1967, tình báo của quân đồng minh cho biết, Bắc Việt Nam đã quyết định một chiến lược mới. Tháng 1/1968, quân đồng minh công bố một văn kiện của cộng sản nói về cuộc tổng tấn công. Tuy nhiên, chúng đưa ra một bình luận run sợ và hồ nghi: Đây chỉ là tài liệu nghi binh của cộng sản!"

Trên thực tế, trước trận đánh Tết Mậu Thân 10 ngày, tướng Westmoreland, tổng chỉ huy quân đội Mỹ có nhận định: Khe Sanh và các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên là hướng chính mà Việt Cộng nhắm trong mùa khô này. Còn các tin khác đều là... nghi binh, để đánh lạc hướng! Các nhà chiến lược Mỹ lo sợ, một Điện Biên Phủ sẽ tái diễn ở Khe Sanh trên vùng rừng núi.

"Không ai ngờ Việt Cộng mở trận tấn công vào các thành phố ngay trong dịp Tết. Chúng ta bị một cú bất ngờ hoàn toàn về mặt chiến lược..." - Đại tá L thừa nhận.

Tư Cang đã có trong đầu sự quan sát từ thực tế giữa Sài Gòn và những nhận định của tên sĩ quan L Nhưng như thế vẫn chưa đủ cho một báo cáo tình hình gửi ra Phòng tình báo miền. Anh cần một tài liệu nguyên bản của địch. Nữ điệp viên Tám Thảo được giao nhiệm vụ này.

Là một người thân cận của tên thiếu tá tình báo Hải quân Mỹ, nhưng nhiệm vụ của Tám Thảo không đơn giản. Sau trận đánh vừa qua, bọn địch kiểm tra gắt gao hơn mọi thứ. Tuy nhiên, Tám Thảo là người luôn biết cách đơn giản hoá mọi hiểm nguy, bằng chính sự thân cận với tên thiếu tá Mỹ.

Hết giờ tan sở, Tám Thảo giả vờ nhức đầu, cô nhờ tên thiếu tá tình báo hải quân dùng ôtô hiệu Mercury đưa về. Sự tính toán này của Tám Thảo mang lại nhiều thuận lợi: Tài liệu lấy được sẽ không bị xét, tạo thêm bình phong tốt tránh sự nghi ngờ của những tên chỉ điểm luôn lảng vảng quanh nhà cô.

Chỉ trong vòng 15 phút, Tư Cang đã tranh thủ đọc qua và chụp hết 10 trang tài liệu. Đó là một bản báo cáo sơ kết của Bộ Tổng tham mưu VNCH bằng tiếng Việt. Tài liệu đi vào chi tiết hoá thiệt hại từng trận đánh trong vùng Sài Gòn - Chợ Lớn. Chúng nhận định đại khái về sự bất ngờ về quy mô và thời điểm tấn công của Việt Cộng. Địch bị thiệt hại nặng nề về quân số, phương tiện, vũ khí. Chúng đang ổn định lại tâm lý rã rời của binh sĩ.

Thêm những thông tin quan trọng cho ta qua nhận định của chúng: cơ sở mật vụ của Việt Cộng trong thành phố và ở nông thôn vùng ven bị lộ nhiều, cần đẩy mạnh hoạt động chiến dịch Phượng Hoàng để tiêu diệt cơ sở của cộng sản.

Bản tường trình của cơ quan tình báo quân sự Mỹ cũng đưa ra nguyên nhân bất ngờ. Chúng còn đưa ra những kiến nghị: từng đơn vị phải rà soát lại các lưới điệp báo của mình, cái nào mất tác dụng mạnh dạn cắt bỏ, tăng chi phí cho những nhân viên còn có hiệu lực. Bản tường trình yêu cầu dùng bộ binh kết hợp với hoả lực phi, pháo tối đa để tiêu diệt chủ lực Việt Cộng ở vùng ven Sài Gòn.

Những thông tin bí mật của địch đã nằm trong tay Cụm trưởng tình báo H.63. Tư Cang viết một bản báo cáo về trận Mậu Thân. Anh ghi lại những tin tức các nguồn cung cấp, tường thuật lại buổi nói chuyện với tên Đại tá L và nhận định riêng của mình về kết quả, ảnh hưởng của trận tổng công kích. Với những tài liệu chụp ảnh nguyên bản, Tư Cang sẽ chuyển về cho cấp trên nghiên cứu, nhưng lưu ý mấy điểm: Một, ý định tấn công của ta kẻ thù biết được một tháng trước, cần tìm hiểu nguyên nhân, đề phòng nội gián. Hai, nên chú ý đối với âm mưu của Mỹ nguỵ để khỏi tiêu hao lực lượng chủ lực trên các chiến trường vùng ven Sài Gòn, nên củng cố và rút vào bí mật trở lại những cơ sở và tổ chức quần chúng trong thành phố và nông thôn vùng ven.

Truy tìm khẩu cung kẻ "về với chính nghĩa quốc gia"

Đại tá anh hùng Nguyễn Văn Tàu nhớ như in một nhiệm vụ quan trọng sau đợt 1 cuộc Tổng tấn công Mậu Thân 1968. Đang chuẩn bị đánh đợt 2 thì gặp sự cố. Ngày 20/4, một người của mình tên là Tám Hà (Trần Văn Đắc), Trung tá, Chủ nhiệm Chính trị cánh quân phía Bắc ra đầu hàng địch.

Ngay ngày 25/4, Trưởng phòng tình báo miền Sáu Trí chỉ thị cho Tư Cang: ra thành, chỉ đạo điệp viên lấy bằng được khẩu cung xem Tám Hà đã khai gì. Đồng thời, Tư Cang còn phải nắm tình hình xem quân ta có thể đánh tiếp đợt 2 được không.

Vào đến thành an toàn, Tư Cang mua một tờ báo thấy hình Tám Hà đứng giữa tên Tổng chỉ huy quân đội Mỹ Westmoreland và Phạm Ngọc Thuần, chỉ huy trưởng khu 5. Tờ báo rút dòng tít rất kêu: "Thượng tá Tám Hà đã về với chánh nghĩa quốc gia". Tư Cang chỉ đạo Hai Trung lấy bản khẩu cung của tên phản bội.

Hai Trung cũng đã nuôi sẵn mấy mối hồ sơ trong đội hình giặc. Hai người đi xe tới lăng ông bà Chiểu. Hai Trung gọi một tên thượng sĩ giữ hồ sơ ra. Tên này vốn là chân tay của Hai Trung. Hắn mang hồ sơ ra, không quên dặn Hai Trung đúng giờ làm việc phải trả hồ sơ. Hai người chụp lại bản khẩu cung của Tám Hà.

Tư Cang được Hai Trung dẫn đi lòng vòng đến các nơi khác. Trên đường đi, hai người vừa trao đổi vừa nhận ra rằng, Mỹ rất sợ mình đánh đợt nữa. Tư Cang giải thích: "Bởi vì, bị đánh đợt nữa nó mất uy tín chính trị, không còn cách cứu vãn về mặt chiến lược. Còn về mặt chiến thuật, mấy sư đoàn Mỹ đều bảo, lên rừng khó đánh, để quân ta xuống thành chúng sẽ đánh dễ hơn!".

Tư Cang nắm được tình hình, về viết báo cáo, đưa ý kiến của mình vào và cho rằng, nếu mình chuẩn bị kỹ rồi thì cứ đánh đợt nữa. Thủ trưởng Sáu Trí nhận thư, chuyển lên. Đúng lúc Trung ương Cục đang họp, đang tranh luận đánh nữa hay không, Tám Hà đã ra hàng rồi có đánh nữa không? Lại thêm phần báo cáo khẩu cung Tám Hà do Hai Trung cung cấp. Tám Hà là cán bộ cấp cao của mình đã khai không sót thứ gì. Trung ương nhận được báo cáo đúng lúc, hạ quyết tâm ngày 4/5 đánh tiếp đợt 2.

Thêm nữa, trong các lần Hai Trung dẫn Tư Cang đi nắm thông tin, bọn tình báo Mỹ đều thừa nhận phải tuyên truyền rùm beng vụ Tám Hà. Bọn Mỹ làm thế để Việt Cộng hoang mang không đánh nữa. Vì đánh đợt 1, Tổng thống Jonson đã tyên bố không ra ứng cử nữa, đã mất uy tín. Nếu đánh tiếp đợt 2 nữa, chắc chắn chúng phải xuống thang. Tuyên truyền rộng rãi vụ Tám Hà là chủ trương từ ông chủ Mỹ.

Cùng báo cáo của Tư Cang và những nhận định, thông tin quan trọng khác, Trung ương quyết định đánh đợt 2. Mỹ cách chức Tướng Westmoreland, dẫn tới đàm phán và xuống thang. Đợt 2 chúng ta tổn thất về bộ binh, nhưng về mặt chiến lược đã dẫn đến chiến thắng của mình trên nhiều mặt trận.

Bản lĩnh vị chỉ huy và giá trị của niềm tin được đặt đúng chỗ trong con người cụm trưởng Tư Cang. Trong những phút giây mong manh giữa sống và chết, giữa hiểm nguy và an toàn, ông đã sử dụng nó như thế nào?


Tiêu đề: Re: Cụm tình báo H.63 anh hùng
Gửi bởi: Mig21Bis_1 trong 25 Tháng Mười Một, 2011, 09:11:02 pm
Kỳ 26: 'Nam châm hút pháo'


Đến tận bây giờ, khi cuộc chiến đã lùi xa vào dĩ vãng, Anh hùng tình báo Tư Cang vẫn "cay cú" những vụ quân Mỹ liên tục "đánh hơi thấy" nơi ẩn nấp của H.63 dưới địa đạo. Địch dò theo tín hiệu điện đài của cụm để đánh vào địa đạo. Tín hiệu như thỏi nam châm, "hút pháo" đến sát miệng hầm... Những năm tháng chuẩn bị cho chiến dịch Mậu Thân 1968 nghẹt thở trôi qua...

150 phút dưới lòng đất

Ông nhớ lại chuyện Tết năm 1967. Một năm trước khi chiến dịch Mậu Thân diễn ra. Địch bám theo tín hiệu điện đài của ta để đánh địa đạo. Ngày cuối năm tại căn cứ Bến Đình. Địch liên tục đi săn tìm địa đạo để tiêu diệt. Nếu chúng phát hiện ra, hoặc tiêu diệt, sẽ lâm nguy đến điệp viên hoạt động trong thành cũng như toàn H.63 sẽ bị tiêu tan. Cả cụm đang ngồi dưới hầm bỗng nhiên thấy đất rung lên ầm ầm.

(http://www.lichsuvietnam.vn/images/stories/anhtulieu/phongsukisu/huyenthoai/images1429283_NewFile.jpg)
"Tôi là người chỉ huy ở đây! Tôi ra lệnh: Kiên trì chịu đựng! Chúng ta ở đây đều là đảng viên, không có một khó khăn gian khổ nào trên trái đất này làm nhụt được ý chí. Chúng ta phải vươn lên tất cả để chiến thắng!".

Nếu địch phát hiện ra miệng hầm, dùng thuốc nổ đánh thì cả cụm sẽ khó thoát. Cụm trưởng Tư Cang còn đang suy tính cách đối phó thì nghe "hực" một tiếng. Lồng ngực như bị một cơn gió mạnh dồn đến, ép lại. Ngọn đèn trong hầm phụt tắt, tối om. Ông bật đèn điện 6 vôn lên. Anh em đang nhìn mình lặng lẽ. Hình như hầm bị sụp ở đâu đó rất gần. "Cứ bình tĩnh, không có gì lo cả!" - Cụm trưởng động viên khi nhìn thấy thái độ lo lắng của anh em.

Ông lại bình thản ngồi thảo điện về trung tâm. Anh em dựa lưng vào vách hầm. Yên tâm hơn khi vị chỉ huy vẫn coi như không có chuyện gì xảy ra. Tư Cang ngừng viết, nhìn đồng đội mình. Toàn những người gan góc, dũng cảm, trải qua nhiều thử thách cam go đều vượt qua. Ông hiểu rõ từng tính nết mỗi đồng đội như Năm Hải, Bảy Phẩm, Tư Thành, Tám Phương...

Hơi thở của ông và đồng đội nặng nề hơn. Ông vẫn ngồi viết. Nhưng trong lòng lo lắng theo dõi diễn biến từng động tác của anh em. Lúc này, một lời nói, một cử chỉ của người cụm trưởng sẽ tác động đến anh em rất lớn. Lần này cũng như bao lần nguy nan đã qua, anh em đều hướng vào cụm trưởng của mình. Họ chờ đợi một quyết định khôn khéo và chính xác.

Mới chỉ 15h30 chiều. Ít ra, cụm còn chịu đựng hai tiếng rưỡi nữa. Theo kinh nghiệm của các lần trước, 6h chiều bọn địch không tìm thấy nơi trú ẩn của ta, sẽ bỏ đi. 150 phút nữa trong điều kiện thiếu không khí. Hơi thở của Tư Cang trở nên dồn dập hơn. Mạch máu 2 bên mang tai đập mạnh. Tám Phương bò lại gần cụm trưởng, giọng cương quyết: "Cho mở nắp lên đánh chết chúng nó đi! Dưới này rồi cũng chết, tôi không còn chịu nổi nữa!".

Tư Cang nhìn về phía nắp hầm. Chỉ cần ông gật đầu đồng ý, Ba Hoa sẽ đưa tay đẩy mạnh nắp. Tư Cang và đồng đội sẽ dũng mãnh liều mình xông lên, mở đường máu thoát thân. Nhưng điều gì sẽ xảy ra sau đó? Tư Cang hình dung, quân địch đông, chắc chắn mình đánh không lại. Chúng sẽ nhanh chóng tiêu diệt toàn đội. Bọn Mỹ sẽ móc xác anh em vào xe, kéo xềnh xệch qua xóm, qua chợ. Bà con mình sẽ đau xót lắm!

Thấy cụm trưởng vẫn ngồi im, hàng loạt ý kiến ủng hộ Tám Phương đưa ra: "Có chết, chết trên mặt đất sướng hơn!". Tất cả cùng nhìn Tư Cang chờ đợi. Ông nhìn đồng hồ, mới có 16h17 phút. Còn 2 tiếng đồng hồ nữa. Tư Cang không thể ngồi im được. Ông trấn tĩnh anh em, giọng ôn tồn nhưng dứt khoát của người chỉ huy: "Các đồng chí! Được cầm súng chiến đấu đối mặt với quân thù, bao giờ cũng là ước nguyện, tư thế của chúng ta. Nhưng nhảy lên chiến đấu rồi hy sinh trên mặt đất là dễ, còn vững chí ngồi đây chịu đựng mới là khó! Anh em kiên quyết ngồi lại. Nếu chúng ta chết vì ngộp thì Mỹ cũng không biết đã tiêu diệt được cụm chúng ta..."

Ông nói xong lại lặng lẽ ngồi thảo bức điện báo cáo lên trên. Bỗng từ trên nắp hầm, đất rơi xuống lộp độp. Trên mặt đất, có tiếng chân người và tiếng cây dộng xuống nghe thình thịch. Ba Hoa nói nhỏ với cụm trưởng: "Bọn Mỹ đang sục sạo tìm hầm. Lỗ hơi duy nhất còn lại đã bị bịt kín!". Lại mỗi người một ý trong tiếng nói chung mở nắp hầm lên đánh.

Lỗ hơi còn lại của đoạn hầm cụt đã bị bước chân địch giẫm kín. Tư Cang nhìn anh em một lượt. Ai cũng đã quá mệt mỏi vì thiếu không khí. Ông nói kiên quyết: "Anh em hãy suy nghĩ kỹ, mình là quân đội hay dân thường? Đã là quân đội thì phải có kỷ luật, phải nghe theo lời người chỉ huy. Tôi là người chỉ huy ở đây! Tôi ra lệnh: Kiên trì chịu đựng! Chúng ta ở đây đều là đảng viên, không có một khó khăn gian khổ nào trên trái đất này làm nhụt được ý chí. Chúng ta phải vươn lên tất cả để chiến thắng!".

Giọng nói chắc gọn nhưng truyền cảm của Tư Cang thuyết phục được đồng đội. Ông lại nhìn đồng hồ. Gần đến 6h chiều. Mọi ngày 6h30 mới cho mở nắp hầm, nhưng hôm nay ông sẽ cho mở sớm hơn. Chiếc kim phút nhích dần, nhích dần từng tý. Đúng 6h15, ông vui mừng ra lệnh: "Lên!". Anh em xốc lại súng đạn. Ba Hoa mở hé nắp hầm lên. Không khí tràn xuống hầm, dễ chịu.

Quân Mỹ đã bất lực rút hết về bãi đóng quân. Đêm 30 tết tối như mực. Gió xuân mang hơi lành lành từ sông Sài Gòn ùa vào. Mọi người nhìn cụm trưởng Tư Cang cảm phục. Ai cũng hiểu, trong chiến tranh, không chỉ đối diện với quân thù mà còn phải thắng cả bản thân mình nữa. Chỉ còn mấy tiếng nữa đến giao thừa...

Ông Việt Cộng thương... trẻ Mỹ!

Nhiều đồng đội bị hy sinh dưới làn đạn lính Mỹ, nhưng Cụm trưởng Tư Cang nổi tiếng với hành động kỳ quặc, nhưng nhân văn: Tha chết cho lính Mỹ vì chúng quá... trẻ!

Từng diệt nhiều lính Mỹ ở ấp chiến lược, nhưng có lần nhìn thấy Mỹ, trong điều kiện bắn an toàn mà Tư Cang... không bóp cò. Tha cho kẻ thù của mình vì tự nhiên "lòng thương trỗi dậy", có lẽ là điểm đặc biệt của cụm trưởng tình báo H.63 này.

Hồi năm 1966, trong trận càn Xê Đa Phôn quanh vùng ven Sài Gòn. Khi đó Tư Cang đang chỉ huy lực lượng võ trang của cụm H.63 chống càn ở Bến Đình (Củ Chi). Anh em nằm trong địa đạo rình.

Một tốp lính Mỹ đi qua. Chỉ cách họng súng Tư Cang có 4-5m. Tên nào cũng trẻ măng. Tư Cang đưa súng lên, rồi lại hạ xuống. Tự nhiên ông thấy thương "bọn trẻ".

Ông nổi danh với biệt tài bắn súng 2 tay và bách phát bách trúng. Chỉ cần bóp cò là chúng chết ngay. Trong đầu ông nghĩ, chắc tụi này cũng bị ép đi lính sang Việt Nam.

Ông đấu tranh tư tưởng và quyết định, nếu nó phát hiện ra mình, mình sẽ bắn trước. Thế rồi tốp lính trẻ đi qua. Sau trận càn, nhiều người la ông: Trời ơi, ông ở đó mà tụi nó đi qua, ông không làm vài tràng cho nó chết hết đi!

Cùng vào sinh ra tử. Cùng chung ý chí, hành động. Nhưng nhiều đồng đội thân yêu của cụm trưởng H.63 đã lặng lẽ hy sinh. Trong chuỗi ký ức hào hùng về một H.63 anh hùng, vị đại tá anh hùng không lúc nào quên 2 tiếng: đồng đội!


Tiêu đề: Re: Cụm tình báo H.63 anh hùng
Gửi bởi: Mig21Bis_1 trong 25 Tháng Mười Một, 2011, 09:15:08 pm
Kỳ 27: Hai tiếng đồng đội


Gặp anh hùng tình báo Nguyễn Văn Tàu (Tư Cang) giữa Sài Gòn những ngày tháng 4/2007. Lại sắp đến ngày giải phóng miền Nam. Đó là một trong những ngày ông nhớ đồng đội nhất.

Cả lưới có 45 người thì hy sinh mất 27 người, chủ yếu là giao liên và bảo vệ. Đại tá Tư Cang nổi tiếng với cách nói chuyện hóm hỉnh, pha trò. Nhưng khi nói về những đồng đội đã ra đi, ông chùng xuống. Ông bảo ông nhớ lắm. Nhiều người trong cụm sống với ông như anh em, đi đâu cũng bên nhau. Thế mà nhiều anh em cứ lần lượt hy sinh, chẳng ai đợi chờ ngày 30/4/1975...

Thoát chết và hy sinh

Một trong những đồng đội thân nhất, vào sinh ra tử cùng cụm trưởng Tư Cang là Năm Hải. Năm 1969, trong một trận càn của địch tại Bến Đình, Năm Hải cùng Sáu Ẩn bị thương nặng. Anh em xông tới giải vây nhưng không kịp. Mọi người tới khiêng Năm Hải đi chừng 500m thì anh có dấu hiệu sắp chết.

(http://www.lichsuvietnam.vn/images/stories/anhtulieu/phongsukisu/huyenthoai/images1429505_NewFile.jpg)
Cả lưới có 45 người thì hy sinh mất 27 người, chủ yếu là giao liên và bảo vệ. Đại tá Tư Cang nổi tiếng với cách nói chuyện hóm hỉnh, pha trò. Nhưng khi nói về những đồng đội đã ra đi, ông chùng xuống.

Năm Hải lấy chiếc khăn rằn đưa cho cụm trưởng Tư Cang. Anh bảo ông mang về cho vợ. Đây là kỷ vật vợ mới tặng. Sáu Ẩn cũng vậy, không thể qua khỏi. Anh em khiêng được qua ruộng và chôn bên ruộng.

Tư Cang nhớ về Năm Hải. Và ông cũng không thể hiểu tại sao mình lại nhiều lần thoát chết một cách kỳ lạ thế. Đó là một trong nhiều lần đi cùng Năm Hải. Ông cười bảo số mình có ông bà phù hộ. Lần đó ông cùng Năm Hải đi ngoài ấp chiến lược về Bến Đình. Cả quãng đường 2,5 cây số không bị sao, về đến căn cứ lại dính mìn claymo. Căn cứ địch cách căn cứ mình 4,5 cây số, chúng dám ôm mìn chạy vào cách căn cứ mình 150m và nằm đó chờ.

Chỉ có con đường độc đạo về cứ. Nó đã dàn sẵn một dàn mìn claymo. Tư Cang và Năm Hải đang thong thả đi, bỗng nhiên môt tiếng nổ rầm trời. Tiếng nổ rất gần. Theo phản xạ, cả hai bỏ chạy. Khi đã hoàn hồn, đứng lại thở, các anh không thể hiểu vì sao mìn lại không bay về phía mình. Theo nguyên tắc đánh mìn claymo, khi mìn nổ sẽ bay về hướng kẻ thù. Đằng này nó lại bay ngược lại. Cả nguyên đội hình Mỹ lãnh trọn dàn mìn.

Cả hai bảo nhau không về địa đạo nữa, chui vào xóm ngủ nhờ đồng bào. Vừa gặp, đồng bào hỏi ngay: "Trời ơi, mấy ông đánh kiểu gì trong đó mà tụi nó khiêng về đây dữ vậy?". Tư Cang hỏi "mấy thằng chết", đồng bào bảo: 5. Còn 5-6 thằng bị thương được khiêng về nữa. Hôm sau về tới căn cứ, anh em võ trang trong cụm đang ăn cơm bình thản như không có chuyện gì xảy ra.

Hóa ra, khi đặt mìn, bọn địch sơ ý xoay ngược hướng nổ về phía chúng, nên dính trọn. Nếu hôm đó chúng đặt đúng hướng, thì Tư Cang và Năm Hải đã tan xác.

Tài liệu là sinh mệnh

Trong mỗi lưới tình báo, mọi thành viên luôn tuân thủ một quan điểm sống còn: Tài liệu như sinh mệnh của mình! H.63 đã thực hiện đúng điều này, mỗi khi có sự cố.

Một lần, tài liệu được lấy từ ấp Phú Hòa Đông, chưa kịp chuyển về Bến Đình thì bị giặc càn. Anh em giao thông viên phải trụ lại trong hầm bí mật ấp Phú An. Trong hầm có 4 chiến sỹ Thành, Re, Trai, Đạo.

Hôm đó, đúng phiên Đạo gác, đã sơ sót. Khi địch đến bốt Phú Hòa Đông, Đạo đang ngủ và không biết gì hết. Bọn giặc chuẩn bị chui xuống hầm. Khi anh em phát hiện kêu lên thì đã không kip. Thành gọi Trai đang giữ tài liệu của Phạm Xuân Ẩn. Anh nói: ’’Đây là tài liệu quan trọng, trong thành đưa ra. Tụi bây sơ sẩy là nó bắt người ta!". Thành dặn Trai mang bằng được tài liệu này về cho cụm trưởng Tư Cang...".

Thành đưa ra phương án nhảy lên bắn, thu hút sự chú ý để Trai chạy thoát. Nếu chạy thoát, Trai lại dùng AK bắn thu hút chúng. Nhưng quân địch quá đông, Trai chạy thoát, Thành bị thương và bị bắt. Thêm 2 người chết vì lựu đạn địch là Re và Đạo. Thành bị bắt đem về bốt, đội ngũ giao thông của H.63 nằm trong ấp chiến lựợc sợ lộ hết cả cụm.

Tư Cang bình thản nói với mọi người: "Phú Hòa Đông không sợ lộ! mình đảm bảo anh em không khai đâu, cứ ở yên tại chỗ!".

Anh có lòng tin với chiến sĩ, đồng đội của Tư Cang hầu hết là đảng viên. Bắt được Thành, địch bỏ lên xe jeep chạy vòng vòng ấp uy hiếp, nhưng Thành không khai. Chúng tra tấn anh da mãn và gọi mẹ Thành vào chứng kiến. Khi bà mẹ vừa vào, chúng bắt bà phải thuyết phục con bà khai. Nhưng mẹ Thành gặp chỉ nhẹ nhàng xoa đầu con nói một câu: "Chú Tư mới ghé gửi lời hỏi thăm mày!". Địch nghe vậy nổi khùng, chuyển sang đánh bà mẹ và đuổi ra.

Đúng là khi Thành bị bắt, Tư Cang có ghé thăm, nhà ở dưới xóm, anh bảo với mẹ Thành ráng động viên con, Thành sẽ không khai gì.

Không khai thác được Thành, địch tra tấn anh chán chê rồi đóng hồ sơ, đày ra Phú Quốc. Anh trở về trong đoàn Chiến Thắng.

Sau này được trao trả lại, Thành bảo, khi mẹ nói câu đó, tinh thần anh lên cao lắm.

Anh Thành tên thật là Huỳnh Văn Điền. Má Thành có 4 người con là liệt sỹ. Sau giải phóng, anh Thành tham gia công tác tại địa phương và đã qua đời năm 1993.

Trong độ tuổi 79, nhưng Tư Cang “khoe”, cách đây nửa tháng, ông vừa tự phóng honda đi đám giỗ anh Thành. Năm nào giỗ đồng đội ông cũng tới.

Chúng tôi gặp lại Tư Cang ngày 28/4/2007. Đó là ngày gặp mặt của J22 (Phòng tình báo miền Nam). H.63 là lưới tình báo thuộc J22. Đại tá, Anh hùng LLVT Nguyễn Văn Tàu (Tư Cang) đang là trưởng ban liên lạc J22. Hàng ngàn thành viên của J22 như đàn chim, bay đến quần tụ bên nhau rồi lại bay đi, mỗi người một phương. Trong mắt cụm trưởng H63 oanh liệt ngày xưa có một nỗi buồn không nhỏ, len lỏi vào giữa ngày vui: mỗi năm danh sách gặp mặt J22 lại thiếu đi vài đồng đội...

"Đừng nói má tôi!"


(http://www.lichsuvietnam.vn/images/stories/anhtulieu/phongsukisu/huyenthoai/images1429511_NewFile.jpg)
Trong mắt cụm trưởng H63 oanh liệt ngày xưa có một nỗi buồn không nhỏ, len lỏi vào giữa ngày vui: mỗi năm danh sách gặp mặt J22 lại thiếu đi vài đồng đội...

Ông vẫn đau đáu nhớ về từng trường hợp hy sinh của những người lính, đồng đội của mình đã hy sinh khi tuổi đời còn rất trẻ.

Đau đớn nhất là trường hợp của hai anh em ruột Thước và Đo trong cụm ông. Trong lúc cùng nhau đi liên lạc từ Củ Chi sang Bến Cát, cả hai anh em bị rắn hổ cắn chết trong khi đi ngang qua một bờ ruộng. Hai anh em không chết vì súng đạn. Họ chết vì rắn cắn, không thể mang về kịp. Trong khi, ba của 2 người lại nổi tiếng khắp vùng về tài chữa bệnh rắn cắn...

Lại có người chiến sĩ tên Sáu Ẩn, tới phút cuối cùng trước lúc hy sinh chỉ nhớ tới người mẹ. Biết là mình sắp chết, anh nói với cụm trưởng Tư Cang: "Lát anh Tư về đừng nói với má tôi nghe, má tôi nghe buồn lắm đấy! Tôi bảo tôi đi quân y ít bữa tôi về...!". Anh lính trẻ bị dính mìn claymo. Trong vùng không ai bị dính loại mìn này mà còn sống.

Năm 1992, Đại tá Nguyễn Văn Tàu được đi dự Hội nghị thương binh tiêu biểu tại Hà Nội nhân dịp 45 năm Ngày Thương binh Liệt sỹ 27/7. Lúc được phát biểu, ông đứng lên nói về những giây phút trước khi hy sinh của một chiến sĩ, họ sẽ nghĩ tới cái gì.

Ông dẫn lại lời của Sáu Ẩn trước khi chết "Lát anh Tư về đừng nói má tôi nghe, má tôi nghe tôi chết má tôi buồn...". Người chiến sĩ tới giờ chót cũng nhớ tới gia đình, nhớ tới mẹ. Các bà mẹ VNAH ngồi dưới Hội trường Ba đình khóc nức nở...

Vào sinh ra tử, Tư Cang bị thương nhiều lần. Lần thứ nhất khi ông đang là phó trưởng ban quân báo Bà Rịa (năm 1949), chống quân Pháp. Một vết thương vào bụng, thòi cả ruột ra ngoài. Ông bị tiểu liên mác (tiểu liên ngắn nòng) bắn. Đồng đội cứ để thế đưa vào rừng mổ. Ông vạch vết thương dưới bụng lên, chứng tích của một trận đánh là vết sẹo ngoằn ngoèo, xấu xí. Sau giải phóng, ông đi khám, bệnh viện đề nghị mổ lại cho... đẹp, nhưng ông không nghe. Ông bảo sống chung với nó mấy chục năm rồi, đẹp làm gì.   

Năm 1969, trong lúc ở địa đạo ấp Bến Đình, ông bị thương trong một trận càn của giặc. Giữa làn đạn, một viên nhè thẳng chân. Chạy được vài chục thước, ông đau quá không chạy nổi. Thấy vậy, mấy chiến sĩ vác ông lên vai chạy và đẩy vào hầm bí mật. Sau đó, anh em chạy thẳng ra bờ sông đánh lạc hướng để bọn địch đuổi theo, cứu nguy cho chỉ huy.

Phòng tình báo miền nghe tin cụm trưởng H.63 bị thương, cho hẳn một đại đội xuống khiêng về chiến khu, gần biên giới Campuchia. Phòng sợ nếu ông bị bắt, cả mạng lưới sẽ bị lọt hết. Sau khi bị thương, đang nằm tạm trong bụi tầm vông chờ điều trị, một cô y tá đi qua thấy ông đau liền lấy cây inox, thọc từ bên này sang bên kia gót chân. Viên đạn trổ ra, chân ông không bị sao. Ông lại hăm hở lao vào công việc của một người chỉ huy.

Lần thứ ba ông bị thương cũng vào năm 1969, cũng tại Bến Đình. Khi đó, cụm H.63 thường dùng vô tuyến điện để gửi tin tức về trung tâm, giặc theo sóng thường xuyên mò ra địa điểm cụm trú ngụ. Ở đâu cũng bị đánh, mãi sau này anh em mới phát hiện ra và thay đổi phương thức điện đài. Khi bắt được sóng, chúng đem bom thả, chỉ cách cụm có 4,5 thước. Cả lực lượng vũ trang cụm đang trú ở hầm núp ven đường.

Sau khi bom nổ đúng nắp hầm, Tư Cang thấy nước trên đầu rớt xuống. Tưởng là nước cây tầm vông, ông... lè lưỡi liếm. Lại thấy mát mát như máu. Anh em lấy đèn soi thì phát hiện ông bị thương. Hóa ra, khi chúng đánh bom mạnh quá, nắp hầm bằng xi măng bể, mảnh vụn văng vào đầu chảy máu. Với những trận càn dày đặc của địch, vết thương nhỏ khi đó là may. Nhưng bây giờ, lâu lâu ông lại bị đau một bên đầu do ảnh hưởng vết thương nhỏ ngày xưa.

Ngày 30/4/1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam. Đó là tất cả những gì người cụm trưởng tình báo nói riêng và mỗi người dân Việt Nam nói chung chờ đợi. Tư Cang bước vào nghề tình báo một cách lặng lẽ, và 30 năm sau mới về nhà...


Tiêu đề: Re: Cụm tình báo H.63 anh hùng
Gửi bởi: Mig21Bis_1 trong 25 Tháng Mười Một, 2011, 09:23:08 pm
Kỳ 28: Ngày ra đi và đêm trở về...


12h đêm ngày 30/4/1975. Tiếng súng giải phóng Sài Gòn đã lặng yên mọi nơi. Có một người khoan thai, lặng lẽ trong đêm tối, trở về với một mái ấm gia đình ông xa cách đã 30 năm.

Nỗi lòng xa cách

Tính từ năm bỏ làng vào rừng làm cách mạng, đến lúc là cụm trưởng lưới tình báo H.63, Nguyễn Văn Tàu chỉ liên lạc với vợ con vài lần. Đầu tiên năm 1949, đang ở trong chiến khu Tàu nhận được thư vợ, lại có cả tấm ảnh đứa bé. Lúc đó anh mới biết mình đã là bố của một đứa con gái.

Quân sự được học từ trước Cách mạng tháng Tám, nhưng nghề tình báo của Nguyễn Văn Tàu bắt đầu từ năm 1950. Từ trong chiến khu, anh được lệnh vào thành Sài Gòn nghiên cứu tình hình.

Năm 1950, anh được cử lên Bến Cát học một lớp bổ túc 6 tháng về nghề tình báo.

"Tính từ năm bỏ làng vào rừng làm cách mạng, đến lúc là cụm trưởng lưới tình báo H.63, Nguyễn Văn Tàu chỉ liên lạc với vợ con vài lần."

Lại biền biệt tháng ngày. Mãi năm 1954, trong một lần được cử đi vẽ sơ đồ cầu chữ Y Bình Xuyên, hai vợ chồng mới gặp nhau ở Bà Chiểu (Sài Gòn). Khi đó, Tàu đã là Phó trưởng Ban Quân báo tỉnh kiêm Tổ trưởng quân báo liên huyện Cần Đước, Cần Giuộc, Nhà Bè. Tàu gặp vợ, bà mẹ vợ mừng quá, la toáng lên: "Con gái 7 tuổi rồi...!"

Tàu định ngủ lại một đêm với vợ con. Nhưng khi mẹ vợ la hét vì mừng, xóm giềng đã nghe được. Ông bố vợ cảnh giác. Ông bảo lâu nay ở phố "biết" chuyện vợ con "không chồng mà có con" rồi. Tự nhiên bây giờ ngủ lại sẽ không tiện. Tàu đau lắm. Có vợ, có con mà không được biểu lộ tình cảm.

Đau cho mình thì ít mà thương vợ thì nhiều. Có chồng đoàng hoàng mà mang tiếng đẻ hoang. Xót cho con gái bé nhỏ, có cha mà bị thiên hạ gọi con hoang. Đứt ruột, ngay trong đêm đó Tàu về lại chiến khu luôn.

Khi chúng tôi găp người vợ thiệt thòi này của vị đại tá tình báo anh hùng, cũng đã hơn nửa thế kỷ câu chuyện bà bị mang danh chửa hoang rồi. Bà không còn thấy buồn nhiều khi nhắc lại nữa. Nhưng bà Ảnh nghẹn ngào: "Nhớ ông ấy thì ráng chịu thôi, khi đó cô mới 23 tuổi. Vợ chồng gặp nhau mà cứ phải xem nhau như người xa lạ. Đợt ông ấy đi tập kết, cô biết nhưng không được gặp...".

Bao người vợ, người mẹ được tiễn chồng ra Bắc tập kết, bà Ảnh chỉ lặng lẽ gửi cho chồng 200 đồng và một bức thư. Hồi đó, bà còn gửi kèm cho ông cái áo len, cái khăn do chính tay bà đan. Bà kể thêm, năm 1954, gia đình gặp nhau vội vàng, ông chỉ ôm con vào lòng được chút. Vợ kêu chồng bằng anh, con cũng kêu bố bằng anh luôn. Nó lạ, nó chả biết bố là ai. Khi bà ngoại bảo hát 1 bài cho ba nghe, cô con gái 7 tuổi hát ngay bài "Đồng chí" của Chính Hữu.

Nguyễn Văn Tàu ngạc nhiên. Trời ơi, giữa Sài Gòn thời điểm này sao lại hát bài "đồng chí"? Hóa ra, qua mấy đội hát rong, nó bắt chước rồi thuộc. Ông bảo con hát cho mình nghe một bài tiếng Pháp cô giáo dạy ở trường.

Thế là con gái cất lời hát 1 bài tiếng Pháp: "Đây là bàn tay của tôi, đây là 2 ngón, đây là 3 ngón...". Hai bài hát của con tiễn Nguyễn Văn Tàu lên đường tập kết.

Mấy năm sau, khi từ Bắc trở về làm cụm trưởng lưới tình báo H.63, vợ con ở ngay Thị Nghè, nhưng Tư Cang không dám về nhà thăm. Có gặp, chỉ toàn thăm ngoài sở thú.

Trở về...

Những ngày tháng 4 Sài Gòn đổ lửa, kể đến đoạn này, bà Trần Ngọc Ảnh bỗng nghẹn ngào. Không nói rõ một từ nào. 

Gần 30 năm. Đó là quãng thời gian vợ chồng Tư Cang xa nhau. Ngần ấy năm trời, chỉ gặp nhau một vài lần dù ở ngay trong thành. Tư Cang bảo, ông luôn gìm mình, răn mình để tuyệt đối giữ bí mật, bảo vệ điệp viên, bảo vệ lưới. Vậy là, vợ con đành để sang một bên, nhường chỗ cho những nguyên tắc của nghề tình báo.

Rồi bà kể tiếp. Khi ông tập kết ở ngoài Bắc, cũng từng gửi cho vợ một lá thư. Đó là năm 1959. Thư được gửi qua hộp thư trung chuyển. Nhưng số nhà cũ đã bị đổ và thư đến tay người khác.

Bà Ảnh và bố vợ Tàu bị người ta nghi là hoạt động cách mạng. Cả nhà bị theo dõi. Cả tháng, những người theo dõi chỉ thấy bố cô đánh cờ, ngủ và đọc sách. Khi đó, Trần Ngọc Ảnh đã xin được vào làm ở Sở Tài chính.

Khi Tư Cang ra vào thành thường xuyên và ở trong nhà Tám Thảo, bà Trần Ngọc Ảnh và con lại thỉnh thoảng làm liên lạc cho ông. Sau này, khi chuyển sang làm ngân hàng, bà Ảnh được cấp một phòng ở cư xá ngân hàng. Đây là nơi các giao liên của Tư Cang thường qua lại chuyển tin tức, tài liệu.

Hễ có thư từ trung tâm xuống, căn nhà của bà Ảnh như một trạm liên lạc. Tám Kiên chuyển tin từ căn cứ xuống, bà Ảnh hoặc con gái mang đến nhà Tám Thảo cho chồng.

Tư Cang nhớ lại, cứ có thư từ vợ, Tám Thảo nhận và bảo có cái này bà "đầu tóc" đưa cho anh. "Đầu tóc" là cách gọi của Tám Thảo với bà Ảnh vì bà thường hay búi tóc lên. Liên tục nhận thư từ của nhau, nhưng Tám Thảo không hề biết đó là vợ cụm trưởng Tư Cang. Cô cũng chỉ nghĩ là một giao liên nội đô thôi.

Gần 30 năm. Đó là quãng thời gian vợ chồng Tư Cang xa nhau. Ngần ấy năm trời, chỉ gặp nhau một vài lần dù ở ngay trong thành. Tư Cang bảo, ông luôn gìm mình, răn mình để tuyệt đối giữ bí mật, bảo vệ điệp viên, bảo vệ lưới. Vậy là, vợ con đành để sang một bên, nhường chỗ cho những nguyên tắc của nghề tình báo.

12h đêm ngày 30/4/1975. Tiếng súng giải phóng Sài Gòn đã lặng yên mọi nơi. Có một người khoan thai, lặng lẽ trong đêm tối, trở về với một mái ấm gia đình ông xa cách đã 30 năm.

Đó là người cụm trưởng tình báo H.63: Đại tá tình báo, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Nguyễn Văn Tàu, bí danh Tư Cang.


Tiêu đề: Re: Cụm tình báo H.63 anh hùng
Gửi bởi: Mig21Bis_1 trong 25 Tháng Mười Một, 2011, 10:40:47 pm
Kỳ 29: Người bị CIA cưa chân 6 lần

(Viết về Thiếu tá tình báo, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Nguyễn Văn Thương)

Thời điểm tháng 2/1969, do tình hình khó khăn, khối giao liên giữa 2 cụm điệp báo A36 và H.63 nhập lại thành một. Câu chuyện này viết về một giao liên tình báo: Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, thiếu tá Nguyễn Văn Thương, người mà CIA đã không thể mua chuộc, chấp nhận để kẻ thù 6 lần cắt chân nhằm tìm kiếm những lời khai của ông về hệ thống giao liên bí mật của H.63, lẫn những bí mật của hệ thống giao liên Phòng tình báo Miền (J22), mà ông đang giữ.

Từng có nhiều cuốn sách viết về ông. Tác giả Mã Thiện Đồng đặt tựa cuốn sách mang tính hồi ký là "Người bị CIA cưa chân 6 lần", còn tác giả Trần Đồng Minh viết về ông với hình ảnh "Hoa Đước đỏ".

Người đàn ông mỗi lần xuất hiện luôn gắn liền với chiếc xe lăn, bộ quân phục trắng đeo quân hàm Thiếu tá, hai chân bị cắt cụt tận thân người. Ông được biết tới với cái tên đã nổi tiếng: Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Nguyễn Văn Thương. Còn những đồng đội của ông, và cả những người thuộc thế hệ trẻ sinh ra sau chiến tranh, đều yêu quý gọi ông bằng cái tên rất gần gũi: Chú Hai Thương.

Cuộc gặp trong nước mắt

"Tình báo viên Hai Thương, người khiến cả CIA lẫn Trung ương tình báo VNCH ngả mũ chào thua, sau 6 lần cắt tận gốc đôi chân ông nhằm tìm kiếm những lời khai của ông về hệ thống giao liên bí mật của H.63 "

Giữa năm 1969, tại trại giam tù binh Hố Nai. Bụi mù mịt. Những hàng rào dây kẽm gai chằng chịt. Phía ngoài là lố nhố bóng đàn bà, trẻ con. Phía trong là những thân hình tù binh bị đánh đập đến nát bét, giam cầm đến tàn tạ. Một cuộc thăm tù, ngăn cách bởi đám lính ôm súng mặt hằm hằm và hàng rào kẽm gai dày mấy lớp sắc nhọn.

Một thân hình người lê lết bằng hai cánh tay gầy gộc lăn trên nền đất đầy sỏi. Hai chân bị cắt cụt ngủn, anh đang cố với những bước tay thật nhanh ra phía hàng rào kẽm gai. Đất cát nhem nhuốc cả gương mặt, cả thân hình người đang bò như lăn lông lốc. Một tù nhân khác thấy vậy, chạy ào ra, cõng anh lên vai, để anh có được tầm cao nhìn cho rõ.

Cánh tay vẫy cao với tiếng gào to khi thấy người phụ nữ nhỏ thó đang đứng ngoài hàng rào, còn đứa bé trai thì cố luồn qua hàng rào thép gai dày đặc, chui qua chân lính gác để vào sân tù. "Liêm ơi, ba nè con. Tư ơi, anh đây nè...", tiếng gọi của người cha, người chồng nghe đến xé lòng giữa âm thanh ồn ào thăm nuôi.

Thằng bé vừa chui lọt vào, bị ngay một thằng lính nắm lấy đầu, lôi xềnh xệch vứt ra ngoài hàng rào. Bàn tay người cha chỉ còn kịp giữ miếng phô mai đầu bò có in đều hàm răng trẻ con cắn nhẹ lưu dấu theo lời má nó, để chuyển cho ba.

Cả trại giam ngước nhìn. Người tù lành vội cõng người tù cụt chân quay lui. Nước mắt chảy ướt khuôn mặt nhem nhuốc của người tù tàn tật có cái hồ sơ ngắn ngủn vài dòng lý lịch mang tên Nguyễn Trường Hận. Hình ảnh người vợ ôm chặt đứa con nhỏ nhoi đứng giữa đám bụi mù bên ngoài hàng rào dây kẽm gai vẫn mãi mãi in hằn trong trí nhớ của ông.

Trước đó vài tháng, khi rời nhà, chồng Tư Em vẫn còn kịp cười rất tươi với vợ, rít vội điếu thuốc thơm trước khi nhanh chân chìm mình vào đêm. Mấy tháng sau gặp lại, người chồng mà cô rất mực kính phục, vốn cao 1,7m, đang lê lết trên sân trại tù.

Thời điểm đó, ông đã khiến cả CIA lẫn Trung ương tình báo VNCH ngả mũ chào thua, sau 6 lần cắt tận gốc đôi chân ông, đóng hồ sơ với vài dòng ngắn ngủn: "Họ tên: Nguyễn Trường Hận. Cha: Nguyễn Văn Lửa. Mẹ: Lê Thị Đào. Nghề nghiệp: Thanh niên trốn lính. Hết".

Trận đánh không cân sức

…3h15’ chiều ngày 11/2/1969, một ngày không thể quên trong cuộc đời Hai Thương. Chàng thanh niên đang băng vội qua cánh đồng ấp 9 Bình Phước, chỉ cần vài bước nữa vượt qua sông Thị Tính là có thể an toàn về tới căn cứ. Địch bố ráp khám xét, anh lẫn vào dân đi ruộng, như thường ngày.

38 năm sau, giữa ngày hè nóng nực ở TP.HCM tháng 4/2007, khi kể lại chuyện này, vị Thiếu tá tình báo, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Nguyễn Văn Thương lại không cầm được nước mắt.

Chợt một chiếc cá rô (loại máy bay trực thăng nhỏ trinh sát) từ phía sau lưng bay vòng lên, tiếng một thằng chiêu hồi quát át tiếng cánh quạt: "Tư Hiếu, anh dừng lại". Đúng bí danh mình, Hai Thương chậm bước về hướng chiếc trực thăng đang sà xuống rất thấp để nhận mặt. Khoảnh khắc tính toán chỉ vẻn vẹn vài giây khi Thương nhận thấy thằng chiêu hồi có khuôn mặt quen quen.

Lập tức, khẩu K54 vốn đã được Hai Thương dũa thêm 1 rích tăng khả năng tác xạ vẩy luôn 2 phát, trong tầm bắn chỉ 15 thước, đang thả dây. Một phát vào thẳng tên chiêu hồi, phát thứ 2 vào tên Mỹ ngồi cạnh. Cả 2 đổ sập. Còn mấy phát đạn cuối cùng trong ổ, Thương ngắm luôn vào đường dây điện dẫn từ buồng máy ra đuôi, bóp cò liên hồi. Chiếc cá rô bay ngược lên, hướng về Lai Khê, khói bốc theo đuôi. Nhưng loạt đạn bắn trả từ phía địch cũng kịp ghim trúng bắp chân của Thương một phát.

Chỉ kịp ga rô cầm máu, Hai Thương chạy zích zắc theo chân ruộng. Theo quy ước, anh nhanh chóng giấu trọn tài liệu mang theo, cùng với chiếc ví có tiền và giấy tờ tuỳ thân, trước khi ẩn mình vào bờ đất làm công sự. Chỉ một phút sau, trực thăng bay hàng đàn đổ quân xuống cánh đồng ấp 9, quyết bắt bằng được kẻ vừa được nhận diện.

72 chiếc trực thăng, mỗi chiếc là một tiểu đội, nguyên trung đoàn 48 sư 5 lính VNCH đổ quân lúc nhúc vây kín cánh đồng bọc vòng ngoài, thêm lính Mỹ vòng trong. Trong người Hai Thương chỉ còn 1 băng đạn đủ và 15 viên đạn rời, chỉ kịp nạp đầy băng đạn rồi nằm im... chờ đợi.

Từng bước thận trọng, lính Mỹ bò sát vào nơi Thương nấp. Mỗi phát là một tên lính Mỹ đổ sập, tổng cộng Thương có 21 viên đạn. Lính Mỹ kêu la ầm trời, xối đạn AR15 cày tung nơi Thương nấp, kéo xác nhau ra ngoài. 19 viên đạn là 19 lính Mỹ. Đến viên thứ 20, Thương nhớ lời anh em bộ đội sau chiến dịch Đồng Xoài kể: "bắn Mỹ chết thì không sao, rồi nó dồn vào bao ni-lông là xong. Nhưng bắn nó bị thương thì nó ớn lắm".

Viên thứ 20, Thương quyết định không bắn hạ ngay mà ngắm thẳng vào bụng tên lính to cao đang tới gần, bóp cò. Trúng đạn nhưng chỉ bị thương, tên lính Mỹ gào rú vang trời, khiến bước tiến của quân Mỹ chậm lại hẳn. Cả một toán lính vừa bắn yểm trợ, vừa thận trọng bò vào lôi tên bị thương ra.

Còn 1 viên cuối cùng, Thương tính dành cho mình. Tuy nhiên, sực nhớ trong quân đội có điều lệnh "không được quyền tự sát", Thương chờ tên lính cuối cùng vào sát mình. Viên cuối này dành cho nó, rồi nhận đủ cả băng đạn của nó vào mình, thì coi như cả hai cùng chết.

"Thằng Mỹ cao trung bình trên 1,75m. Nó là lính chuyên nghiệp, nên tay luôn để sẵn trên cò. Chỉ cần vừa tầm súng nó hướng vào mình, mình bắn nó, kiểu gì mình cũng dính đạn", Hai Thương kể lại.

Trong giây phút một mất một còn đó, Hai Thương vẫn bình tĩnh chờ. Còn 4 thước, tên lính tiếp theo tiến vào. Chưa đủ tầm. Chờ 3 thước, rồi thêm 2 bước nữa, Thương lách qua bên, nhắm thẳng tên Mỹ vẩy viên đạn cuối cùng. Loạt đạn từ khẩu AR15 bay vòng lên quá đầu Thương, do khoảng cách rất gần. Cái bóng khềnh khàng đổ sập, khẩu AR15 văng ra ngay gần mép công sự một sải tay. Nhân lúc Mỹ kéo xác ra, Thương với tay giật được.

Không có kinh nghiệm về súng Mỹ, chỉ sau 2 lần siết cò, cả băng đạn còn đầy trong khẩu súng vừa cướp được đã bay trọn. Thương nhìn đồng hồ, đã là 6 giờ kém 5. Hết đạn, Thương tháo rời khẩu K54, vứt mỗi nơi một bộ phận, rồi nằm chờ đợi những viên đạn thù hận. Một mình, suốt 170 phút, anh chống cự cả tiểu đoàn địch chỉ với 21 viên đạn, bắn rơi 1 máy bay, 21 tên địch chết và bị thương, nghĩa là vượt tiêu chuẩn "dũng sỹ diệt Mỹ" 7 lần.

"Tôi nhớ buổi chiều đó hoàng hôn đẹp lắm. Bóng chiều xuống đỏ rực cánh đồng ấp 9 Bình Phước. Tháng 2 ngày mùa, đất mới cày, còn thơm ngai ngái...", Hai Thương hồi tưởng những giây phút cuối cùng trong trận chiến.

Vài phút yên ắng, tưởng Mỹ rút quân đúng giờ, Hai Thương nhô lên thì thấy địch lúi húi đeo mặt nạ. Sau đó, anh ngất đi vì bị đánh thuốc mê. Văng vẳng bên tai, anh còn nghe tiếng súng AK của du kích địa phương gần đó bắn chia lửa với mình.

Mãi về sau, lúc trở về đoàn tụ trong đoàn quân chiến thắng, Hai Thương mới biết: 2 bản tài liệu ngày đó anh bảo vệ chính là tài liệu của 2 người anh hùng tình báo Việt Nam: Ba Quốc (Thiếu tướng Đặng Trần Đức) và Hai Trung (Thiếu tướng Phạm Xuân Ẩn).


Tiêu đề: Re: Cụm tình báo H.63 anh hùng
Gửi bởi: Mig21Bis_1 trong 25 Tháng Mười Một, 2011, 10:54:18 pm
Kỳ 30: Đối mặt với "phi đội gái Phượng Hoàng"


Khi Hai Thương tỉnh lại, người Mỹ không bỏ qua một giây phút quý báu nào, tổ chức khai thác ngay "con cá vàng" vừa bắt được. Tên phiên dịch đứng cạnh cùng một thằng Mỹ hỏi: “Mày tên gì?”. Chỉ duy nhất một câu hỏi như vậy lặp đi lặp lại khoảng 15 phút đồng hồ: “Tao hỏi: mày tên gì?”. Thấy Thương gan lỳ không khai, sẵn cái dùi bằng sắt, tên Mỹ lấy ghì luôn vào vết thương ngay dưới bắp chân Thương. Máu ở chỗ vết thương cứ chảy ra thành dòng.

Năm 1968, Tổng tấn công và nổi dậy tết Mậu Thân giáng cho địch đòn đau, khiến Mỹ xuống thang chiến tranh, Tổng thống Mỹ Giôn –xơn phải tuyên bố không tiếp tục ứng cử.

Sài Gòn rúng động sau cú tấn công bất ngờ, khiến sau Mậu Thân, Mỹ - VNCH tăng cường kiểm soát nội đô và ngoại vi Sài Gòn, bắt bớ nhằm tìm diệt các lực lượng du kích nằm sát thành đô lẫn các lưới điệp báo của Hà Nội đang giăng đường dây chằng chịt từ Sài Gòn ra tới vùng chiến khu.

(http://www.lichsuvietnam.vn/images/stories/anhtulieu/phongsukisu/huyenthoai/images1431395_IMG_8114.jpg)
Hai Thương (ngồi xe lăn) một lần trở về thăm chiến trường xưa - Ảnh do AHLLVT Nguyễn Văn Thương cung cấp

Thời điểm tháng 2/1969, do tình hình khó khăn, khối giao liên giữa 2 cụm điệp báo A36 và H.63 nhập lại thành một. Hai Thương vốn là giao liên đường ngắn của A36, do ông Ba Hội chỉ huy, đang được rút về cứ, chuẩn bị ra Bắc học.

Nguyễn Văn Thương vốn là cán bộ giao thông đường ngắn, phụ trách các hộp thư và giao thông đi ngã đường 13, có một đầu mối trong ấp chiến lược xã Mỹ Phước (Nam thị trấn Bến Cát). Trong một thời gian dài, Hai Thương đã lội khắp khu vực tuyến trung gian này từ Suối Sâu (Trảng Bàng) đến Phú Hoà Đông, Bình Mỹ (Củ Chi), các xã Nam Bến Cát, dọc Quốc lộ 13... dọc ngang nhận tài liệu từ nội đô mang ra hộp thư vùng ven đem về căn cứ.

Thậm chí, cuối năm 1968, khi trên đường liên lạc về đến Thanh An, gặp địch bố ráp ven đường, Hai Thương dùng AK tuỳ thân bắn rơi luôn trực thăng Mỹ.

Sự dũng cảm trong chiến đấu và am hiểu địa bàn của một cán bộ giao thông tình báo lâu năm khiến Hai Thương là người được chọn trong chuyến liên lạc đặc biệt quan trọng tháng 2/1969 đó. Ngày 9/2, khi Hai Thương vừa đặt chân về đến Phòng, chuẩn bị chờ xe ra miền Bắc học thì nhận được điện báo từ xa "Tình hình rất khó khăn. Đề nghị các anh cử đồng chí Thương xuống giúp chúng tôi thêm một chuyến công tác nữa".

Mặc dù có quyền từ chối, nhưng trách nhiệm của một người lính đã khiến Hai Thương tự nguyện "xin phép các anh cho tôi xuống làm thêm một hai chuyến công tác nữa. Bàn giao xong tôi lên liền”.

3 giờ sáng ngày 10/2/69, Hai Thương xuống tới điểm giao nhận tài liệu từ hộp thư. Mãi về sau, khi trở về cùng đoàn Chiến thắng từ ngục tù Phú Quốc, nơi ngày nay đang được xem là thiên đường du lịch, ông mới biết hai bản tài liệu ngày đó ông giữ đều là của những điệp viên siêu hạng trong ngành: Bản danh sách 36 điệp viên được CIA và Phủ đặc uỷ Trung ương tình báo VNCH cài cắm ở miền Bắc do điệp viên có bí số 3.Q và bản tài liệu Đông Dương hoá chiến tranh của điệp viên 2T.

“Nếu một trong hai tài liệu này bị lọt vào tay địch thì điệp viên sẽ bị bắt hết”, đó là nhận định của những người chỉ huy ngày đón Hai Thương trở về.

Phần quà cho kẻ phản bội

... Khi Hai Thương tỉnh lại, người Mỹ không bỏ qua một giây phút quý báu nào, tổ chức khai thác ngay "con cá vàng" vừa bắt được. Tên phiên dịch đứng cạnh cùng một thằng Mỹ hỏi: “Mày tên gì?”. Chỉ duy nhất một câu hỏi như vậy lặp đi lặp lại khoảng 15 phút đồng hồ: “tao hỏi: mày tên gì?”. Thấy Thương gan lỳ không khai, sẵn cái dùi bằng sắt đặt dưới đất, tên Mỹ lấy ghì luôn vào vết thương ngay dưới bắp chân Thương. Máu ở chỗ vết thương cứ chảy ra thành dòng.

(http://www.lichsuvietnam.vn/images/stories/anhtulieu/phongsukisu/huyenthoai/images1431401_IMG_1727.jpg)
“Nếu một trong hai tài liệu này bị lọt vào tay địch thì điệp viên sẽ bị bắt hết”, đó là nhận định của những người chỉ huy ngày đón Hai Thương trở về.

Khi đã sắp xếp xong xuôi trí nhớ, Thương trả lời: “Nguyễn Trường Hân”. Tên lính chửi: “Tao hỏi có vậy sao mày không nói, đợi bị đòn mới khai?”, Thương vặc lại: “Ông đánh tôi thế, sao tôi nói được”. “Cha mẹ là gì?”. Lúc đó thì Thương khai tuốt luốt: “Mẹ là Lê Thị Đào, cha là Nguyễn Văn Lửa (đó là tên một cơ sở đã mất - NV)”. Tên hỏi cung ghi lại rất nhanh, rồi hỏi tiếp “Mày làm gì?”, Thương thật thà: “Tôi trốn lính”.

Thời đó, ở miền Nam Việt Nam, ai cũng biết những thanh niên phá phách ghê gớm kiểu này. Họ là những người trốn lính, không đi quốc gia, cũng không đi Việt cộng, họ được gọi là “thanh niên bù chao”. Sau vài phút cân nhắc, anh quyết định nhận mình là “thanh niên bù chao”, bởi đó là vỏ bọc an toàn nhất với một “gã thanh niên phá phách, dám cầm súng bắn cả trực thăng và lính Mỹ”.

Song lính Mỹ vẫn chưa hết nghi ngờ: “Mày đi đâu đây?”, Thương ngoan ngoãn: “Tui qua sông, phục kích ấp chiến lược để vô lấy gạo”. Tên lính chửi Thương "đồ hàm hồ", rồi kêu trực thăng xuống đưa Thương về căn cứ Lai Khê trong đêm.

Khi trở về Lai Khê, điều nguy hiểm đã tới, Hai Thương bị nhận mặt bởi một kẻ phản bội: Chiến cá.

Vốn hồi trẻ, Thương với Chiến cũng là bạn thân, cùng đi bộ đội, biết nhau từ hồi trên “R”. Sau này Đồng Khởi rồi thì Chiến chuyển công tác khác, Thương qua công an võ trang, tiếp đó chuyển qua ngành tình báo.

Chiến dù không biết Thương làm gì cụ thể, nhưng cũng đủ hiểu mang máng là Thương qua một ngành đặc biệt nào đó. Khi xe Jeep chạy đến chuyển Thương từ máy bay lên xe thì Chiến khai luôn tên họ thật của tù binh vừa bị bắt: “Nguyễn Văn Thương, thanh niên trung úy, vụ trưởng vụ tình báo, kiêm bí thư chi bộ. Sau Mậu Thân này tôi nghe nói được đề đạt cụm phó”.

Khi nghe Thương khai tên là "Nguyễn Trường Hân, thanh niên trốn lính", Chiến cá cười cười nhìn Thương: “Mày nói dối. Tao với mày còn lạ gì nhau mà mày dám khai láo”. Vội vàng tiến lại, Chiến cá móc bao thuốc thơm mời Thương “hút đi”. Giận dữ, Thương nhổ nước bọt vào mặt Chiến cá “đồ phản bội”. Rất nhẫn nại, Chiến lấy khăn lau nước bọt dính trên mặt rồi rút điếu thuốc khác: “Hút đi anh Hai. Hút cho tỉnh táo rồi mình nói chuyện”.

Khi đó đang đứng ngoài sân bay Lai Khê, gió lộng quá nên Chiến cắm điếu thuốc vào môi Hai Thương bật đến 2-3 lần lửa nhưng không cháy, mặt cúi sát Thương. Bên cạnh, một lính Mỹ da đen cao tới hơn 8 thước, tay chống gậy làm điểm tựa đứng nhìn màn diễn của Chiến. Thương hất nhẹ tay vào chiếc gậy, tên lính bất ngờ chúi luôn đầu xuống đất, còn cái gậy đã nằm gọn trong tay Thương. Không mất một giây sau, cả chiếc gậy bay ngược lên bộ mặt của thằng Chiến cá. Cú đánh căm thù đối với kẻ phản bội hất văng Chiến ra xa, mặt nhuốm đầy máu, gẫy luôn 2 cái răng cửa, bể sống mũi.

Giận điên người, Chiến cá quay lại trả thù. Ngay lập tức, nhóm lính rằn ri nhào vào thân hình tù binh bị thương đang nằm dưới đất đánh không thương tiếc. Thương vừa lăn vừa tránh, bò được khoảng 15 thước thì có trung tá Mỹ phóng xe xuống: “Tôi ra lệnh cho các ông không được đánh tù binh”. Chiến cá ngoan cố cãi: “Tôi nhịn nó, mời nó hút thuốc, dụ chuyện của nó thế mà nó đánh tôi”. Viên trung tá Mỹ thản nhiên: “Mày là thằng phản bội. Nó bắn mày cũng được, chứ huống hồ là đánh”.

Đối mặt với phi đội gái Phượng Hoàng

“Chơi đẹp” với kẻ chiêu hồi Chiến “cá” xong, viên trung tá Mỹ liền cử hai nữ y tá đỡ Hai Thương lên rồi đưa anh sang chiếc xe Jeep, băng bó vết thương, tiêm cho mũi thuốc cầm máu, giảm đau. Sau đó, Thương được chở ra trung tâm y tế kiểm tra lại.

(http://www.lichsuvietnam.vn/images/stories/anhtulieu/phongsukisu/huyenthoai/images1431403_IMG_8063.jpg)
Phi đội gái Phượng Hoàng đưa ra đủ thứ "đòn" tâm lý chiến, cũng đều nhận từ Hai Thương câu trả trả lời "không biết, không nghe và không thấy”!

Rất "thân tình", viên trung tá ghé tai Thương: “Vết thương của ông hơi sâu, khoảng 15 ngày là đi lại được, không sao đâu. Nhân tiện đây tôi báo cho ông tin vui: có phái đoàn ca sỹ ở Sài Gòn về đây ca hát, phục vụ anh em binh sỹ Mỹ. Tôi sẽ mời mấy cô về đây hát cho ông nghe”.

Không đợi Thương kịp phản ứng, viên trung tá nhấc điện thoại lên. Chỉ ít phút sau, hàng loạt cô gái trẻ xuất hiện. Chưa bao giờ trong đời người lính kham khổ của anh lại được nhìn thấy những cô gái đẹp có giọng hát mê hồn như vậy.

"Ngày đó, mấy bài ca đó được nghe hoài à. Nào là bài “Đám cưới nhà binh”, rồi “Em ơi, chiều nay cắm trại rồi”, nhưng có một bài chú cũng thích. Đó là bài “Ngày về”. Phải nói con bé đó ca rất hay, và cái miệng nó duyên lắm, trên bảng tên của nó là Kim Dung", Hai Thương cười nhớ lại buổi nghe nhạc bất đắc dĩ khi vết thương chưa kịp cầm máu ngay tại sân bay Lai Khê.

Chưa xong buổi diễn, Thương nhăn nhó: “Thôi, các cô đừng hát nữa. Nghe các cô hát, vết thương của tôi lại đau”. Lời “gã tù binh phá phách” mà có sức nặng ngang lời... chỉ huy.

Ngay lập tức, một nữ tâm lý chiến (người Việt) cầm theo tập album lớn với nội dung cảnh Hà Nội, rừng Cúc Phương... sà vào, ngồi kế bên lật từng tấm ảnh tỉ tê tâm sự: “Anh coi nè. Anh biết cái này không?”. Với phản xạ đặc biệt của chiến sĩ tình báo đầy kinh nghiệm, câu trả lời của Thương luôn là: “Tôi không biết”. Thương thừa hiểu, việc tỉ tê xem ảnh chỉ nhằm mục đích điều tra xem Thương có tập kết ở Bắc hay không. Cứ thế, mỗi tấm ảnh được lật đi rất chậm, còn người hỏi thì chăm chú nhìn vào từng phản ứng trên mặt Hai Thương. Nhưng câu trả lời dài nhất của anh khi có người đẹp ngồi bên vẫn chỉ là: “Tôi nông dân, không biết mấy chỗ đó”.

Những ngày làm giao thông viên cho A36, Hai Thương được Cụm trưởng Ba Hội dạy kinh nghiệm: thực hiện chính sách 3 không “không biết, không nghe và không thấy”. Nhưng như chính Hai Thương gật gù cười rõ tươi vào những ngày tháng 4/2007 tại TP.HCM: "Đó chỉ là mặt lý luận. Chứ ở đó mà mình không có ý chí, không có lòng quyết tâm thì mình sẽ thua nó là cái chắc".

Sau khi lật hết quyển album mà vẫn chỉ nghe câu trả lời “tôi là nông dân”, cô gái trẻ cười cười rồi cầm bàn tay của Thương lên tấm tắc: “Đây không phải là bàn tay nông dân. Còn nếu nói anh không có học, em càng không tin, ít ra cũng phải biết A, B, C chứ?”. Thương vẫn lỳ đòn: “Tôi không biết, nông dân mù chữ mà”.

Cô nàng cười tiếp “anh đừng giấu em nữa”, rồi cầm lên một tạp chí lớn của Sài Gòn có ảnh Trần Lệ Xuân rất đẹp chụp bên cạnh một cô gái nông thôn đứng ôm bó lúa lúc mặt trời lên. Giơ bức ảnh được đặt tên "Bình minh đang lên", cô gái nhìn Thương rồi hỏi tiếp “anh biết bức ảnh này không?”. “Ô lạ gì”, Thương reo lên. Chưa kịp ngạc nhiên, cô gái đã nhăn mặt khi nghe tiếp “tôi ở nông thôn, sáng nào mấy cô không cắt lúa thì cũng ôm lúa, đập lúa. Tôi chẳng lạ gì mấy cảnh đấy”.

Hết nhẫn nại, cô gái giật tờ tạp chí xuống, dừng phắt lời ngọt ngào “anh em”, sẵng giọng “tôi tặng cho anh đó” rồi quay lưng đi thẳng. Bước ra ngoài, cô tâm lý chiến còn quay sang viên trung tá Mỹ lắc đầu: “Thằng Việt cộng này ngu lắm” Khi nghe phiên dịch nói lại: “nó nói anh ngu lắm”, Thương thừa nhận ngay: “Thì tôi là nông dân mà”.

Sáng sớm hôm sau, Nguyễn Trường Hân được bốc lên máy bay, chở thẳng về Sài Gòn. Dưới cánh máy bay, những dòng người cứ hối hả ngược xuôi. Phi trường Tân Sơn Nhất với hàng xe xếp dài chờ sẵn, để bảo vệ và chờ đón một tên Việt Cộng đặc biệt mới bị bắt. Ngày đó, họ chưa biết anh là ai, chỉ đoán là một nhân vật rất quan trọng. Nhưng phải 6 năm sau, năm 1975, người Mỹ mới được biết sự thật: Anh nông dân đó là mũi trưởng giao liên cụm tình báo A36, lúc bấy giờ sáp nhập với H63.

Ngày gặp lại sau giải phóng, chính Thiếu tướng Đặng Trần Đức (điệp viên 3Q) bảo với Hai Thương: “Cái tài liệu Thương giữ ngày đó rất quan trọng. Mất tài liệu đó coi như cũng mất tôi”. Sẽ không có dòng tưởng thưởng nào lớn hơn đối với một cán bộ giao liên bằng lời nhận xét đó.


Tiêu đề: Re: Cụm tình báo H.63 anh hùng
Gửi bởi: Mig21Bis_1 trong 25 Tháng Mười Một, 2011, 10:55:31 pm
Kỳ 31: Đối mặt với CIA (Tiếp theo)


Những hình ảnh cuối cùng về cuộc sống Sài Gòn sôi động mà Nguyễn Văn Thương được nhìn thấy, trước khi bị tách biệt hoàn toàn để vào một cuộc đấu cân não suốt nhiều năm sau đó, là từ trên máy bay Mỹ, về tới phi trường Tân Sơn Nhất.

Khi về tới Sài Gòn, Hai Thương được đưa thẳng tới một căn biệt thự rộng, nằm tách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài. Ở đó có đủ người hầu hạ. Trên giá đã treo sẵn bộ quần áo sỹ quan gắn mấy bông mai bạc quân hàm trung tá VNCH. Trên bàn, một tấm séc ký sẵn trị giá 100.000 USD (thời điểm 1969), cùng tấm vé máy bay một chiều mở để có thể chọn bất kỳ quốc gia nào là đồng minh của nước Mỹ làm điểm đến. Ngoài ra, có một cô gái đẹp tên Thuỳ Dương luôn ở cạnh, nhằm giúp người tù binh chữa thương. Không thấy lính canh, cũng không có bất cứ ai dòm ngó. Viên trung tá Mỹ cười chỉ tay vào tất cả: "Mời ông ở đây dưỡng thương, đã có người chăm sóc. Tất cả những thứ này đều là của ông". Trong phúc chốc, người tù binh vừa mới bị lính Mỹ đánh đập khiến vết thương loét ra, máu chảy thành dòng bỗng trở thành ông hoàng với một cuộc đời nhung lụa được bày sẵn. Thuỳ Dương là một cô gái gốc Huế, đẹp dịu dàng và được học hành bài bản. Cô có thể nói chuyện đông tây kim cổ, có thể kể chuyện về những vùng đất thiên đường từ nước Mỹ, Canada cho tới Nhật Bản. Nhưng chỉ cần đoán anh không thích “Tây”, cô có thể kể ngay bất kỳ một câu chuyện, dẫn anh đến một thắng cảnh, địa điểm du lịch nào nổi tiếng ở miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ.

(http://www.lichsuvietnam.vn/images/stories/anhtulieu/phongsukisu/huyenthoai/images1432087_chuHaiThuong3.jpg)

Năm 2003, xuất hiện trong chương trình "Người đương thời" của Đài Truyền hình Việt Nam, Thiếu tá tình báo, anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Nguyễn Văn Thương đã phải "xin lỗi" tất cả các cô gái Hà Nội có mặt trong trường quay trước khi cất lời: "Tôi xin lỗi tất cả các cô gái có mặt ở đây. Nhưng thực sự là tôi không thấy ai ở đây có thể đẹp bằng cô Thuỳ Dương ấy".

"Đó thực sự là những ngày khó khăn. Lúc đó, tôi đang là một thanh niên khoẻ mạnh, lại ở cùng một cô gái đẹp như vậy. Tiền bạc có sẵn. Họ chỉ cần ở mình một cái gật đầu", Thiếu tá Nguyễn Văn Thương nhớ lại 3 tháng trời cân não đó. Những ngày đầu, khi vết thương nhức nhối khiến Thương khó ngủ, anh luôn có Thuỳ Dương bầu bạn. Hằng ngày, anh được nghe những bản nhạc nhẹ trữ tình, ăn những bữa ăn ngon, kèm theo sự chăm sóc dịu dàng đến chết người của người đẹp. Ngày tháng dần qua và vết thương cũng lành, Thương đã có thể tập tễnh tản bộ trong khu vườn rộng, quan sát xung quanh. Không một bóng lính gác, bờ tường rất thấp chỉ cần một cú phi thân, chỉ có duy nhất cánh cổng luôn đóng chặt. Trông dễ dàng và ngọt ngào không khác gì người đẹp. Nhưng Thương hiểu, đằng sau cánh cổng đóng chặt kia là những họng súng đang giăng sẵn. Người Mỹ không đơn giản dễ dàng để vuột "con cá vàng" bằng cách hớ hênh như vậy.

"... 9 tuổi, Thương đã được nuôi nấng, dạy dỗ bởi những người đồng chí, đồng đội của ba mẹ. Ba ông, một cán bộ trong ngành, bị bắt và xử theo luật 10/59, bị giam cầm đến chết trong nhà tù. Má ông là một cán bộ giao liên của tổ chức, bị bắt, không khai nên bị đánh đập cho đến chết trong trại giam.

(http://www.lichsuvietnam.vn/images/stories/anhtulieu/phongsukisu/huyenthoai/images1432089_chuHaiThuong1.jpg)

9 tuổi, Nguyễn Văn Thương là con duy nhất của một gia đình liệt sỹ. Khi Phòng tình báo Miền thành lập, trực tiếp chú Sáu Dân (nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt) chọn lựa danh sách, có cái tên Nguyễn Văn Thương đứng đầu, giao cho ngành. Nguyễn Văn Thương có mặt từ những ngày đầu xây dựng Phòng tình báo Miền, qua B110, D308 rồi trở về A20, A18, A22, A36 và H63. Là mũi trưởng giao liên, Thương biết tất cả các mạng lưới, cụm tình báo của Phòng, trong khi nguyên tắc của ngành luôn là đơn tuyến, ngăn cách.
Ngày gặp lại sau giải phóng, chính Thiếu tướng Đặng Trần Đức (điệp viên 3Q) bảo với Hai Thương: “Cái tài liệu Thương giữ ngày đó rất quan trọng. Mất tài liệu đó coi như cũng mất tôi”. Sẽ không có dòng tưởng thưởng nào lớn hơn đối với một cán bộ giao liên bằng lời nhận xét đó."[/i]

Nhưng trong những ngày cân não năm 1969 tại căn biệt thự, Nguyễn Văn Thương vẫn chỉ có một dòng lý lịch ngắn ngủn: "Nguyễn Trường Hân, thanh niên trốn lính".

... Ngày tháng rồi cũng dần trôi qua rất nhanh. Thuỳ Dương vẫn rất nhẹ nhàng, lịch sự với Thương, nhưng khoảng cách đã được cô gái gốc Huế chủ động thu hẹp dần. Bắt đầu là những câu chuyện về cảnh đẹp ở rừng Cúc Phương, Nha Trang, Đà Lạt, Vũng Tàu. Dần dà là những đất nước xa xôi được kể như thiên đường nghỉ ngơi: Nhật Bản, Mỹ, hoặc bất kỳ một quốc gia châu Âu nào khác. Thuỳ Dương sẵn sàng theo Thương để "bắt đầu một cuộc sống mới", miễn sao Thương chấp nhận nói cho người Mỹ nghe những điều Thương đã biết. Đến tháng cuối cùng, vào một đêm trăng đẹp, Thuỳ Dương chủ động ngã vào vòng tay Thương. Trước cái vẻ “ngu đần” của một thanh niên nông thôn trốn lính, cô gái này tiếp tục tấn công vào tận phòng ngủ. Vài tuần sau, khi Thương đang thiu thiu ngủ, trong bộ váy mỏng manh, Thuỳ Dương vào phòng Thương không chỉ để hỏi "đèn màu hồng có hợp với giấc ngủ của anh không".

"Đó là một đêm khó khăn", thiếu tá Nguyễn Văn Thương nhớ lại. Ổng kể rằng sự mơn trớn có khoảng cách không quá xa cũng chẳng quá gần, giữa một không gian thơm lừng của một loại nước hoa đắt tiền và mùi hương con gái "thực sự là khó cưỡng đối với một thanh niên trẻ như tôi lúc bấy giờ". Đầu Thương căng ra như ngàn ngọn lửa thiêu đốt. Anh vùng dậy, vào thẳng toilet mở nước lạnh, xối từ đỉnh đầu xuống để... hạ hoả. Khi trở ra, anh bảo cô gái "hãy về phòng của mình đi".

Anh hiểu, trong những ngày nhung lụa êm ái đó, chỉ cần một cái gật đầu chịu mở miệng nhận mình là ai cùng một bản khai dài dằng dặc về những hiểu biết của mình, Hai Thương có thể đàng hoàng đút túi tấm séc nặng đô, cầm tấm vé máy bay và khoác vai cô gái đẹp lên đường, giã từ chiến tranh và những ngày gian khổ sống trong rừng.

Nhưng đêm đêm, trong những giấc ngủ không tròn, anh luôn hình dung thấy gương mặt cậu con trai tên Liêm chưa tròn 4 tuổi, dáng tảo tần của người vợ, tình đồng đội son sắt của những người đồng chí đã hy sinh để sống sao cho xứng đáng.

Điều Hai Thương nhớ nhất còn là cái ngày mà anh giơ cao nắm tay tuyên thệ dưới lá cờ Đảng, cờ Tổ quốc mà bao nhiêu đồng đội, bao nhiêu thế hệ, và cả cha mẹ anh đã đổ máu, hy sinh để dệt nên.

"... Trong trận càn Cedar Falls (chiến dịch quân sự từ 8/1- 16/1/1967 tấn công khu "Tam giác sắt", khu vực rộng 155 km2 nằm giữa sông Sài Gòn và đường 13, khoảng 40km về phía Bắc Sài Gòn, với sự tham gia của 30 ngàn lính Mỹ và VNCH), khi Hai Thương đưa các chiến sỹ qua đồng, thì có một đồng đội tên Đo bị bắn chết ở đồng gạch. 15 ngày sau, khi địch rút quân, cả nửa tiểu đội ra vớt xác anh Đo thì xác đã phình thối. Khi Hai Thương hỏi: “Thằng nào xuống”, thấy đám lính trẻ người này ngó người kia, Thương ứa nước mắt bảo "tụi bay không dám thì tao làm".

(http://www.lichsuvietnam.vn/images/stories/anhtulieu/phongsukisu/huyenthoai/images1432093_chuHaiThuong5.jpg)

"Khi đó, mấy anh em vẫn còn là lính mới chưa quen thân nhau nhiều, và cũng sợ ma nữa", thiếu tá Nguyễn Văn Thương đỏ hoe mắt nhớ lại. Thương bảo mấy anh em trải tấm ni - lông ra, đưa cho Thương chai dầu hôi xức vào tay, ngậm rượu vào mồm rồi phun xung quanh xác đồng đội. Một mình Thương xuống ẵm anh Đo lên, đặt anh nằm xuống ngay ngắn, đàng hoàng trên tấm nilong. Xác đang phân huỷ, một cánh tay rơi ra, Thương trở xuống mò nốt cánh tay, tưới rượu, dầu hôi xong xuôi rồi thì bó anh Đo lại khiêng về chôn cất. Năm 1965, trên đường từ Bắc về miền Nam, một đồng đội tên Khế trúng bom napal, nóng quá không chịu được rồi nằm lại dọc đường. Trước khi hy sinh, Khế nắm chặt tay Hai Thương: “Thương ơi, tao đi mấy ngàn cây số, tao vượt cả Trường Sơn, chỉ mong trên đường về được gặp mẹ, gặp em gái tao thôi. Tao nhớ mẹ tao quá, mày ráng cứu tao với.” Anh Khế hy sinh khi chưa kịp tới trạm xá, ngay trên tay Thương. "Hồi đó, nó tên là Thành Ninh. Nhưng anh em vẫn quen gọi tên nó là Khế, vì nó ăn nhiều khế", 42 năm sau, người anh hùng năm nay đã 70 tuổi vẫn không kìm được nước mắt khi kể lại những chuyện này."[/i]

... Ngày cuối cùng ở căn biệt thự, khuôn mặt Thuỳ Dương bỗng trở nên lạnh lùng khi trời đổ về chiều. Nhưng mắt Thuỳ Dương có vẻ ngấn nước khi xới cơm cho Thương. Vẫn chỉ một câu trả lời quen thuộc: "Tôi tên Nguyễn Trường Hân, thanh niên trốn lính", Thuỳ Dương đã không giấu nổi sự thất vọng: "Anh sẽ biết thế nào là tra tấn tân thời kiểu Mỹ".

Thương bình thản đón đợi. Buổi sáng hôm sau, trước khi đám lính Mỹ ào vào bắt Thương đi, Thuỳ Dương cũng không còn giấu thân phận của mình khi đưa tay rũ ve áo, lắc đầu ngán ngẩm.
Thương liếc thấy chiếc áo phía trong gắn bông mai trung uý. Cô gái đẹp hiện nguyên hình là một chuyên gia tâm lý chiến, thất bại trước sự gan góc của tên Việt Cộng tự nhận mình là Nguyễn Trường Hân.


Tiêu đề: Re: Cụm tình báo H.63 anh hùng
Gửi bởi: Mig21Bis_1 trong 26 Tháng Mười Một, 2011, 03:27:27 pm
Kỳ 32: Vật thí nghiệm của CIA Mỹ


Chỉ có một câu hỏi: "Mày là Nguyễn Văn Thương phải không?", không nhận được cái gật đầu, họ lôi Thương lên và đập nát 2 bàn chân ra, trong 1 tuần lễ liền.


Phòng tra tấn có mặt đầy đủ viên trung tá Mỹ, Chiến cá và một đám lô nhô sỹ quan. Người Mỹ vốn kiệm thời gian, sau 3 tháng để thuyết phục Thương quy hàng không xong, giờ thì đã là lúc anh phải giơ đầu chịu trận.

(http://www.lichsuvietnam.vn/images/stories/anhtulieu/phongsukisu/huyenthoai/images1432786_chuHaiThuong6.jpg)
"Khớp háng nếu bị tháo, nếu tôi may mắn sống thì cũng không thể ngồi đuổi gà, như người Mỹ tuyên bố trước khi bắt đầu cắt đôi chân giao liên này", Thiếu tá Nguyễn Văn Thương kể lại khi ông trở thành vật thí nghiệm của việc "tra tấn tân thời kiểu Mỹ". Ảnh: Hà Trường.

Chỉ có một câu hỏi: "Mày là Nguyễn Văn Thương phải không?", không nhận được cái gật đầu, họ lôi Thương lên và đập nát 2 bàn chân ra, trong 1 tuần lễ liền.

Nhưng chỉ đánh thế thôi. Cú đòn dằn mặt kẻ tù binh lì lợm lại được tạm ngưng để đưa Thương trở về căn biệt thự cho suy nghĩ lại. Nhưng họ vẫn cứ nhầm. Rốt cuộc, người Mỹ hết kiên nhẫn. Họ quyết định cắt chân anh ra, từng khúc, từng khúc một.

“Kẻ đuổi gà”

Người Mỹ rất thẳng thắn khi họ công khai luôn cho Thương rằng: "Nếu mày không khai thì chúng tao sẽ cưa chân mày, để sau này mày chỉ còn biết ở nhà đuổi gà”.

Lần cưa chân đầu tiên Hai Thương nhớ như in. Chân phải được chọn đầu tiên. Bàn chân dập nát vì trận đòn cảnh cáo, những ngón chân đã bị bẻ gãy chưa kịp lành, người Mỹ quyết định dùng Thương để áp dụng "đòn tra tấn kiểu tân thời", sau khi dành thời gian thả gái đẹp và tiền bạc ra “câu”.

Viên bác sỹ Mỹ hướng dẫn đám thực tập sinh người Mỹ phải ga-rô chân như thế nào, cắt ra sao, xử lý phần thịt, phần xương, kẹp các tĩnh mạch, động mạch như thế nào để không thể làm tù binh chết, chỉ có thể... gần chết mà thôi.

Phòng tra tấn lặng ngắt, đây đó chỉ nghe thấy tiếng Anh của đám lính CIA trao đổi rầm rì và những ngón tay chỉ trỏ. Thương bị cột chặt trên bàn mổ. Người Mỹ quyết định dùng đòn độc: Cắt cụt đôi chân giao liên Nguyễn Văn Thương, sau khi ông một mực chỉ nhận mình là Nguyễn Trường Hân, thanh niên trốn lính.

Mũi tiêm thuốc tê chỉ gây mê phần chân phải. CIA muốn thưởng ngoạn sức chịu đựng của tên Việt Cộng gan lỳ, muốn ghi chép phản ứng của một con người ra sao khi chứng kiến một phần cơ thể mình bị cắt rời. Những nhát dao đầu tiên rạch vào ống quyển, ngay trên mắt cá. Thương thấy tê dại đi.

(http://www.lichsuvietnam.vn/images/stories/anhtulieu/phongsukisu/huyenthoai/images1432788_chuHaiThuong7.jpg)
"Tôi như một con vật mà họ đem ra thí nghiệm", Hai Thương thuật lại. Ảnh: Thế Vinh.

"Tôi như một con vật mà họ đem ra thí nghiệm", Hai Thương thuật lại. “Họ rạch, bóc da ra, kẹp mạch máu lại. Sau đó, họ tiếp tục cắt phần thịt, phần cơ. Họ tiến hành công việc tỷ mỷ, thuần thục như đang thí nghiệm với một sinh vật trong phòng nghiên cứu", 38 năm sau, một ngày giữa tháng 4/2007 tại TP.HCM, Thiếu tá Nguyễn Văn Thương mắt vẫn hằn lên sự bi phẫn khi kể lại việc ông trở thành vật thí nghiệm trong đòn tra tấn tân thời của người Mỹ.

Thời gian kéo dài thật chậm. Dù thuốc tê có làm vết cắt giảm đau, nhưng những dây thần kinh trên đầu Thương cảm nhận rất rõ khi từng phần da thịt bị cắt rời một cách rõ nét. Cuộc đấu cân não của CIA với những lời thuyết phục "Ông có thể nghĩ lại. Chúng tôi có thể phẫu thuật khâu lại vết thương..." vẫn tiếp diễn.

Khoảnh khắc kinh hoàng mà Thương còn nhớ là khi anh lắc đầu cái cuối cùng, lưỡi cưa phẫu thuật kê ngay xương chân, rít lên những âm thanh rợn người. Cảm giác đau buốt dội lên tận óc. Thương hét lên một tiếng khủng khiếp, rồi ngất xỉu vì đau.

Giữa tiếng thét căm hờn ngay trước lúc lịm đi, Thương còn nghe thêm một tiếng hét nữa. Đó là giọng của viên bác sỹ Mỹ. Hắn ta cũng hét với đám thực tập sinh đang tiến hành hình thức tra tấn trung cổ nhưng sử dụng các phương tiện hiện đại nhất: "Giữ lấy cái lưỡi của nó".

Khi tỉnh lại, điều đầu tiên đập vào mắt Thương là ống chân phải quấn băng vấy máu. Bàn chân phải đã mất. Bàn chân của người giao liên đã phải trả giá để giữ gìn bí mật của tổ chức. Người Mỹ để cho ông khoảng nửa tháng để nghỉ ngơi, chờ vết thương lên da non. Nhưng cứ vào lúc vết thương bắt đầu liền da thì Hai Thương lại được đem đi tra tấn.

"Rồi sau đó cứ thế họ tiếp tục. Vẫn những câu hỏi cũ: Mày là Nguyễn Văn Thương?, tôi lắc đầu. Vậy là họ lại cho tôi lên bàn mổ và tiếp tục cưa chân. Hết chân phải, họ cưa sang chân trái. Có đợt, vết thương chưa kịp liền miệng, họ đã lôi tôi lên bàn mổ để tiếp tục cưa và tiếp tục hỏi", thiếu tá Nguyễn Văn Thương nở nụ cười khinh miệt những kẻ đã từng tra tấn ông để lấy lời khai, khi kể lại.

Tổng cộng, họ cưa chân Nguyễn Văn Thương 6 lần. Cắt cụt đến háng cả 2 chân. Lần thứ 6, họ quyết định tháo khớp háng của ông.

Nhân tính trong chiến tranh?

Nguyễn Văn Thương là hình ảnh đại diện cho sự dũng cảm, hy sinh của những chiến sỹ giao liên tình báo của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Ông là Anh hùng lực lượng vũ trang của Quân đội Việt Nam.

Nhưng, ông cũng là nhân chứng sống của sự tàn bạo của CIA Mỹ trong chiến tranh Việt Nam đối với tù binh mà họ quen gọi là bọn Việt Cộng. Mặc dù lúc tiến hành những bước của cái họ gọi là "tra tấn tân thời kiểu Mỹ" đối với Nguyễn Văn Thương, hiệp định Geneve về đối xử với tù binh chiến tranh đã được ký kết, còn nước Mỹ là một trong những thành viên đặt bút ký vào bản hiệp ước này.

32 năm sau khi chiến tranh Việt Nam kết thúc. 38 năm sau khi đôi chân đã vĩnh viễn xa rời một con người, ông vẫn thường hỏi: Không biết những người Mỹ đó đã vứt những bộ phận cơ thể của ông ở đâu? "Hay là họ đã giữ làm kỷ niệm?", ông cười tự hỏi.

Một buổi chiều, đột nhiên có một bác sỹ người Việt ghé lại phòng giam thăm Hai Thương. Những phút trao đổi ngắn gọn giúp ông hiểu rằng ngày hôm sau, người Mỹ quyết định sẽ tháo khớp háng của ông.

“Nếu họ làm vậy, ông sẽ chết. Và ông không được quyền im lặng mãi như vậy, vì ông có quyền phản đối khi người Mỹ tra tấn tù binh bằng sự vô nhân đạo như suốt quãng thời gian qua”, người bác sỹ nói.

"Tôi là một bác sỹ, và tôi biết trong giải phẫu, điều gì sẽ đến nếu họ tháo khớp háng của ông", người bác sỹ đó cho hay. Hai Thương nhớ mãi: Đó là một bác sỹ người miền Bắc, vượt Trường Sơn vào Nam chiến đấu, bị bắt làm tù binh. Người Mỹ và VNCH phát hiện ra chuyên môn của người này quá giỏi, nên đã sử dụng lại trong việc cứu chữa những người lính bị thương của họ.

Đúng như tiên liệu, ngày hôm sau, người Mỹ tiếp tục lôi Hai Thương lên bàn mổ và tuyên bố sẽ "thử nghiệm tháo khớp háng" của ông. Ngay lập tức, Hai Thương phản đối phương pháp tra tấn tù binh mà họ áp dụng đối với ông trong thời gian qua, không đồng ý để họ tháo khớp háng.

Cũng ngay lập tức, vị bác sỹ người Việt xuất hiện lên tiếng phản đối việc dùng nhục hình tra tấn tù binh. Ông ta nói rằng nếu người Mỹ tháo khớp háng của Hai Thương, ông sẽ ra trước công luận để phơi bày mọi chuyện.

Viên bác sỹ người Mỹ nổi giận, ngay lập tức túm cổ, bạt tai và đuổi vị bác sỹ người Việt ra khỏi phòng tra tấn. Tuy nhiên, lời đe doạ "phơi bày mọi chuyện" của vị bác sỹ người Việt đã khiến người Mỹ biết lo sợ. Trong lần thứ 6 cắt chân Thương, họ đã chùn tay khi bỏ ý định tháo khớp háng, nhưng quyết định cắt chân Thương tới... bẹn.

Một thời gian sau, Hai Thương mới biết người bác sỹ đó đã chết. Ông đã bị những kẻ muốn xoá bỏ bí mật tra tấn tù binh kiểu trung cổ này lôi đi, đánh vỡ tim và vùi mất xác. Họ không thể để lại một nhân chứng có thể góp phần chứng minh tội ác của họ.

Giữa TP.HCM khi ngày Quốc lễ 30/4 lần thứ 32 đang tới rất gần, Thiếu tá, Anh hùng Nguyễn Văn Thương kéo ống quần, chỉ vào vết thương sát bẹn trái: "Hãy tưởng tượng hình ảnh một con lật đật, nếu không có người khuyên của bác sỹ đó và CIA đã tháo khớp háng của tôi. Khi đó, cơ hội sống sót của tôi rất ít vì mất máu. Trong số ít cơ hội sống sót, thì tôi cũng không thể ngồi để tiếp chuyện các bạn như hôm nay. Khớp háng nếu bị tháo, nếu tôi may mắn sống thì cũng không thể ngồi đuổi gà, như người Mỹ tuyên bố trước khi bắt đầu cắt đôi chân giao liên này".

Ông lại không kìm được xúc động, nước mặt lại ứa ra. Cuộc nói chuyện phải tạm dừng một lúc lâu, để rồi Hai Thương nói rằng, ông còn nợ người bác sỹ tù binh ngày đó một lời tri ân cứu mạng.

Thiếu tá Nguyễn Văn Thương dẫn lời một người già từng nói với ông khi trả lời câu hỏi về những mất mát của thế hệ ông để đất nước hôm nay có ngày toàn vẹn:

“Một ông già từng gặp tôi và nói: "Những người mẹ, người vợ nào có con, có chồng hy sinh, rồi lâu ngày cũng quên đi và chỉ còn nhớ ngày cúng cơm thôi. Chứ không như những người có vết thương trên mình như mày, vì vết thương sẽ đeo đẳng cả cuộc đời mày".


Tiêu đề: Re: Tình báo VN trong KCCM
Gửi bởi: Mig21Bis_1 trong 27 Tháng Mười Một, 2011, 10:20:35 am
CIA giải mật các điệp vụ xâm nhập miền Bắc Việt Nam


Trong gần 4 năm (1961 -  1964), Cục Tình báo Trung ương Mỹ (CIA) thực hiện ít nhất 36 điệp vụ xâm nhập miền Bắc Việt Nam (VN) bằng nhiều cách khác nhau, nhưng hầu như tất cả đều thất bại nặng nền. Từ năm 1965, hầu hết các vụ xâm nhập miền Bắc VN do Phái bộ Viện trợ quân sự Mỹ ở VN thực hiện. Chi tiết các điệp vụ tuyệt mật này vừa được Trung tâm Nghiên cứu tình báo thuộc CIA giải mật.

Bơi qua sông Bến Hải

Sau 1 năm chuẩn bị bao gồm cả việc tuyển mộ, đào tạo điệp viên với sự hợp tác được cho là toàn diện nhất với cơ quan an ninh của chính quyền Ngô Đình Diệm, CIA mới thực hiện được điệp vụ đầu tiên xâm nhập miền Bắc VN qua khu phi quân sự (DMZ) ở hai bên bờ sông Bến Hải. Một nam điệp viên đã bơi qua sông Bến Hải bằng săm ôtô trước nửa đêm 5/12/1960. (Trong tài liệu vừa được giải mật, mật danh của điệp viên này vẫn bị bôi đen - PV). Sĩ quan người Việt khác chờ sẵn ở bờ bên kia để xì hơi, cắt săm và chôn xuống đất trước khi điệp viên đi bộ về hướng Bắc.

Với các giấy tờ do CIA cung cấp, điệp viên này vượt qua hai chốt kiểm tra của cảnh sát để đến gần thị trấn Hồ Xá trước khi trở về phía Nam bằng đường cũ. Tài liệu vừa giải mật không cho biết điệp viên này đã thực hiện được nhiệm vụ gì phía bên kia sông.

Vào thời điểm thực hiện điệp vụ đầu tiên xâm nhập miền Bắc VN, quan chức cấp cao CIA Robert Myers thăm Sài Gòn và được William Colby, Trưởng Văn phòng CIA tại Sài Gòn, mô tả chi tiết về chương trình mới cho người Việt Nam nhảy dù xuống miền Bắc.

Myers, người đã chứng kiến thất bại trong các điệp vụ tương tự của CIA tại Trung Quốc giữa những năm 50, nói với Colby rằng chương trình sẽ khó triển khai. Tuy nhiên, Colby không đồng ý với quan điểm trên và khẳng định rằng có thể phát hiện được những khu vực an toàn ở miền Bắc, ít nhất là ở những nơi vắng dân cư.

Trong báo cáo gửi về Tổng hành dinh CIA tại Mỹ, Văn phòng CIA tại Sài Gòn mô tả chi tiết quá trình chuẩn bị hoàn hảo như thế nào cho điệp viên để có thể thành công khi xâm nhập miền Bắc VN. Cuối cùng, Văn phòng CIA khẳng định phải mất 1 năm chuẩn bị trước khi có nhóm điệp viên đầu tiên đổ bộ vào miền Bắc.

Hơn một năm sau vào đêm 26/3/1961, hình thức xâm nhập đơn độc kiểu này mới được CIA thực hiện tiếp. Văn phòng CIA tại Sài Gòn bố trí thuyền đưa điệp viên này tới một nơi gần Đồng Hới, cách không xa DMZ. Trong 5 ngày nằm vùng, điệp viên quan sát công việc của cảnh sát miền Bắc và các kho quân sự nhỏ. Vẫn sử dụng giấy tờ giả, nam điệp viên này bắt xe ôtô tới Vĩnh Linh và sau đó đi bộ tới sông Bến Hải để trở về miền Nam vào ban đêm.

Gần đây, Colby hồi tưởng trong các tài liệu được các sử gia CIA ghi lại rằng: "Một trong những dấu hỏi lớn hồi đó là tại sao chúng ta không ăn miếng trả miếng: Lực lượng Bắc VN Nam tiến thì vì sao chúng ta không tiến ra Bắc.

Từ ý tưởng có từ thời Thế chiến II, chúng tôi quyết định thực hiện chương trình do thám bằng đường biển và đường không". Trước khi đưa ra quyết định trên, CIA cùng chính quyền Ngô Đình Diệm chỉ chú trọng vào việc chống lại lực lượng nổi dậy ở miền Nam và các nhóm từ miền Bắc.

Lộ tẩy vì bút bi

Tới mùa xuân 1961, Văn phòng CIA tại Sài Gòn và Văn phòng Liên lạc Tổng thống đã sẵn sàng cho các vụ xâm nhập bằng cách nhảy dù từ máy bay và bằng đường biển. Trong khi đội biệt kích nhảy dù vẫn phải chờ tới lúc thời tiết thuận lợi và tuần trăng lên, một điệp viên được thuyền máy đánh cá, loại quen thuộc trong khu vực, đưa tới miền Bắc vào đầu tháng 4/1961.

Nam điệp viên cặp bờ tại vùng núi đá vôi nhấp nhô ở Vịnh Hạ Long, phía đông cảng Hải Phòng và kế hoạch vạch sẵn bắt đầu với việc tìm kiếm nơi người thân trong gia đình đang sinh sống trong vùng. Cũng theo kế hoạch, điệp viên này tuyển mộ vài người địa phương nhằm giúp vận hành máy phát tín hiệu vô tuyến RS-1 thời Thế chiến II.

Văn phòng CIA tại Sài Gòn xác định phải mất nhiều tuần mới có thể nhận được tín hiệu nếu điệp viên không tìm được cộng sự ở địa phương, nhưng trên thực tế họ không phải chờ lâu. Với sự giúp đỡ của anh trai, điệp viên nhanh chóng tìm được chỗ giấu máy phát tín hiệu radio trong rừng. Sau đó, họ phát đi thông điệp đầu tiên trong tổng cộng 23 tin sau này. Đây được xem là thông điệp dài nhất từ các điệp vụ xâm nhập vào miền Bắc VN do CIA thực hiện trong suốt 5 năm.

Đến giữa tháng 6, Văn phòng CIA tại Sài Gòn đột nhiên không còn nhận được tín hiệu từ Vịnh Hạ Long. Ngày 17/6/1961, Lực lượng An ninh nhân dân miền Bắc (PASF) bắt giữ điệp viên này cùng anh trai vì tội làm gián điệp. Lỗ hổng bắt đầu từ việc một dân chài phát hiện ra chiếc xuồng nhỏ giấu ở bờ biển được điệp viên sử dụng để di chuyển từ thuyền đánh cá vào bờ. Trong cuộc tìm kiếm sau đó, PASF phát hiện ra nơi cất giấu tạm thời máy phát tín hiệu radio RS-1 của điệp viên CIA.

Tiếp đó diễn ra cuộc tìm kiếm từng nhà, tập trung vào các gia đình có mối quan hệ với miền Nam và chính quyền thực dân Pháp trước đây. Thông tin từ hai người dân đã giúp nhanh chóng chấm dứt việc tìm kiếm. Một dân làng thông báo nhìn thấy người lạ sống trong ngôi nhà gần bãi biển, người lạ này từng ngoảnh mặt đi khi hai bên chạm mặt nhau trên đường. Người dân thứ hai nhìn thấy vài người từ ngôi nhà trên bãi biển đã sử dụng một chiếc bút bi - một vật dụng thời đó rất hiếm ở miền Bắc.

Trong 4 tháng tiếp đó, Văn phòng CIA tại Sài Gòn và đối tác là Văn phòng Liên lạc Tổng thống (PLO) tiến hành thêm ít nhất 3 điệp vụ đơn độc xâm nhập miền Bắc bằng đường bộ hoặc đường biển. Sự kỳ vọng vào những điệp vụ này rất khiêm tốn với mục tiêu chính là sự sống sót của điệp viên.

Trước khi chuyển giao nhiệm vụ cho Phái bộ Viện trợ quân sự Mỹ ở VN (MACSOG), trong 4 năm (1961-1964), CIA và các đồng sự từ chính quyền Việt Nam Cộng hòa (VNCH) đã tổ chức được 28 nhóm biệt kích xâm nhập miền Bắc VN bằng hàng không và đường biển.

Ngoài ra, CIA còn tiến hành 8 điệp vụ xâm nhập khác bằng đường biển và đường bộ đều do một điệp viên đảm nhận. Cùng việc hỗ trợ CIA, chính quyền VNCH cũng tổ chức một số nhóm biệt kích riêng để xâm nhập miền Bắc.

Văn phòng CIA tại Sài Gòn cho rằng trong số này chỉ có 5 nhóm (bao gồm 4 nhóm biệt kích nhảy dù) là có giá trị khi chuyển giao cho MACSOG, còn lại đều thất bại nặng nề. Tuy nhiên, kết quả hoạt động bí mật và thu thập tin tình báo của 5 nhóm trên cũng không có gì nổi bật. Những người đẻ ra chương trình này nhiều lúc chỉ mong các điệp viên sống sót để biện hộ cho những nỗ lực, sự mạo hiểm và chi phí đã bỏ ra

Nguồn: http://antg.cand.com.vn/vi-VN/hosomat/2009/5/69298.cand


Tiêu đề: Re: Tình báo VN trong KCCM
Gửi bởi: Mig21Bis_1 trong 27 Tháng Mười Một, 2011, 10:23:49 am
CIA giải mật các điệp vụ xâm nhập miền Bắc Việt Nam (Tiếp theo)


Nguyễn Cao Kỳ và nhóm "Con hải ly"

Nửa đêm 27/5/1961, CIA lần đầu tiên tiến hành điệp vụ xâm nhập miền Bắc Việt Nam bằng biệt kích nhảy dù. Phi công Nguyễn Cao Kỳ, người sau này trở thành Thủ tướng VNCH, lái máy bay dân sự hai động cơ C-47 đưa nhóm biệt kích Castor (Con hải ly) bí mật bay vào không phận miền Bắc trong đêm trăng sáng. Được đánh giá cao về khả năng phát hiện mục tiêu nhảy dù trong đêm trăng, Nguyễn Cao Kỳ sau đó còn nhiều lần trực tiếp lái máy bay đưa biệt kích ra miền Bắc VN.

Nhóm "Con hải ly" nhảy dù xuống khu vực đã định trước thuộc tỉnh Sơn La với mục tiêu sẽ lẩn quất trong khu vực thuộc đường số 6 và có thể thực thi nhiệm vụ giám sát sự ủng hộ của VNCH cho các nhóm nổi dậy tại khu vực này.

Phi công Nguyễn Cao Kỳ thông báo hoàn thành nhiệm vụ, trong khi Văn phòng CIA tại Sài Gòn ngày càng lo lắng khi chờ đợi tín hiệu liên lạc đầu tiên qua radio.

"Con hải ly" được tuyển lựa kỹ và CIA đặt kỳ vọng sẽ sống sót ở khu vực xa xôi vốn không có người Kinh sinh sống. Trên thực tế, nhóm "Con hải ly" nằm gọn trong tay lực lượng Bắc VN chỉ 4 ngày sau khi nhảy dù. Cuộc nhảy dù này diễn ra gần một trạm radar ở huyện Mộc Châu. Mặt khác, dân làng cũng thông báo về tiếng động lạ phát ra từ máy bay trong đêm khi bay qua các ngôi làng xa xôi của họ. Dù đã tính toán từ trước, nhưng điểm nhảy dù của các điệp viên CIA chỉ cách một trong những ngôi làng kia 1km.

Lực lượng An ninh nhân dân của miền Bắc chỉ mất 3 ngày để tiếp cận và bao vây "Con hải ly". Chưa nổ súng, nhóm biệt kích đã đầu hàng.

Mất tích

Trong khi đó, chưa biết sự việc trên, CIA và PLO cho nhóm biệt kích nhảy dù Echo (Tiếng vang) xâm nhập miền Bắc ngày 2/6/1961. Theo kế hoạch, nhóm Echo đổ bộ xuống vị trí gần với nhóm Castor, chếch về phía đông nam. Theo báo cáo của phi công, mọi việc diễn ra suôn sẻ, tưởng như việc xâm nhập thành công.

Tuy nhiên, cũng như Castor, nhóm Echo không liên lạc trong 3 tuần đầu tiên. Khi Echo phát tín hiệu đầu tiên, nhưng sai quy ước, Văn phòng CIA tại Sài Gòn cho rằng có thể họ thực hiện trong tình trạng căng thẳng, lo lắng, nhưng cũng nghi ngờ các tín hiệu trên phát đi trong điều kiện nhóm biệt kích đã bị lực lượng của Bắc Việt kiểm soát.

Trong khi các quan chức CIA tại Sài Gòn đau đầu tranh cãi về các khả năng có thể xảy ra, trên thực tế Echo cũng chịu chung số phận như nhóm biệt kích nhảy dù đầu tiên. Echo nhảy dù xuống gần một ngôi làng từ máy bay dân sự C-47 và bị dân làng phát hiện. Lần phát tín hiệu đầu tiên ngày 23/6 thực ra không bị kiểm soát bởi lực lượng miền Bắc VN. Nhóm Echo sau đó bị bắt giữ khi đang trên đường chạy trốn tới biên giới Lào.

Ngày 7/9/1961, Echo gửi về Văn phòng tại Sài Gòn thông điệp rõ ràng "đã bị bắt" và ngày hôm sau nhắc lại thông điệp trên. Tuy nhiên, Văn phòng CIA tại Sài Gòn đã không báo cáo về Tổng hành dinh chi tiết này vì vẫn cố nuôi hy vọng.

Trong khi đó, Tổng hành dinh CIA (ở Mỹ) bắt đầu lo ngại về sự im lặng của nhóm Castor và Echo. Ngay cả khi Echo phát tín hiệu liên lạc đầu tiên (ngày 23/6), nhưng có dấu hiệu bất thường cũng khiến CIA lo lắng.

Chưa biết rõ số phận của hai nhóm trên, nhưng CIA vẫn quyết định cho nhóm thứ ba Dido (Chơi khăm) nhảy dù xuống phía tây bắc tỉnh Lai Châu ngày 29/6. Cũng như hai nhóm biệt kích trước, lo ngại của Washington trở thành hiện thực khi Dido bị tống vào nhà giam chỉ 4 tuần sau khi nhảy dù. Dido chạm trán với nhóm tuần tra PASF khi đang leo đồi tìm  nơi phát  tín  hiệu vô tuyến và bị bắt.

Trong quá trình huấn luyện, Dido được CIA đánh giá là nhóm nổi trội nhất trong 3 nhóm biệt kích nhảy dù đầu tiên được đào tạo để xâm nhập miền Bắc. Trên thực tế, Dido đã kịp gửi tin báo về tình hình của họ và giải thích lý do im lặng trong thời gian dài là phải dò tìm  sóng vô tuyến điện.

Đến cuối tháng 7/1961, cả 3 nhóm biệt kích nhảy dù đều bị bắt khi xâm nhập vào miền Bắc VN, trong khi CIA ở Sài Gòn và ở Mỹ tiếp tục nuôi hi vọng.

Đâm lao phải theo lao

Tổng hành dinh CIA tại Mỹ nổ ra tranh cãi về nhóm Dido và sự mất tích bí ẩn của một máy bay dân sự làm nhiệm vụ tiếp tế cho nhóm Castor. Tổng hành dinh CIA và Văn phòng Sài Gòn căng thẳng quanh việc có nên tiếp tục mạo hiểm tiếp tế cho các nhóm biệt kích.

Tổng hành dinh CIA còn nói rằng Đài Phát thanh Hà Nội đã hé mở nhiều thông tin liên quan đến 3 nhóm biệt kích trên và có thể họ đã chuẩn bị sẵn sàng. Tuy nhiên, có lẽ vì không muốn thừa nhận thất bại, cuối cùng Tổng hành dinh CIA chấp thuận vẫn tiếp tế nếu chưa có bằng chứng về việc cả 3 nhóm biệt kích đã nằm trong tay lực lượng Bắc VN.

Ngày 1/8/1961, CIA thậm chí còn thông báo nhóm Castor sẽ nhận được tiếp tế vào đêm đó mà chưa biết rằng nhóm biệt kích này đã bị bắt giữ 4 ngày sau khi nhảy dù (27/5) xuống Sơn La

Tổng hành dinh CIA còn cho rằng các nhóm biệt kích cần tiến hành ngay giai đoạn hai là tổ chức và trực tiếp xây dựng mạng lưới tình báo. Tổng hành dinh cũng đề xuất thiết lập các "vùng an toàn", nơi các nhóm biệt kích đứng ra tổ chức cho dân địa phương chống lại lực lượng an ninh miền Bắc VN. Tuy nhiên, CIA tại Sài Gòn cho rằng kế hoạch này sẽ khiến các nhóm biệt kích nhanh chóng bị xóa sổ và khẳng định phải bí mật thực hiện việc phá hoại, gây rối.

Ngày 17/8/1961, Tổng hành dinh CIA chất vấn rằng vì sao không cho các nhóm biệt kích nhảy dù xuống gần nơi người thân trong gia đình, họ hàng của họ sinh sống để ít nhất có thể lẩn trốn an toàn trong những ngày đầu.

Phải tới tháng 4/1962, Tổng hành dinh CIA mới khẳng định được thực tế cả 3 nhóm biệt kích nhảy dù trên đều rơi vào tay lực lượng an ninh miền Bắc VN. Không nhóm biệt kích nào trong số này thu thập và gửi về được thông tin tình báo có giá trị.

Ngoài 3 nhóm trên, CIA còn cử một điệp viên khác nhảy dù xuống miền Bắc VN làm nhiệm vụ tuyển mộ người đưa tin. Tuy nhiên, chi tiết về điệp viên này chưa được tiết lộ.


Tiêu đề: Re: Tình báo VN trong KCCM
Gửi bởi: Mig21Bis_1 trong 27 Tháng Mười Một, 2011, 10:29:29 am
CIA giải mật các điệp vụ xâm nhập miền Bắc Việt Nam (Tiếp theo)


Nhiều điệp viên do CIA huấn luyện bài bản trong nhiều năm đã bị bắt hoặc bỏ mạng tại miền Bắc Việt Nam (VN) chỉ vì những lý do tưởng như rất đơn giản như đói khát. Lực lượng an ninh miền Bắc VN còn tương kế tựu kế sau một số vụ bí mật đón lõng biệt kích làm thất bại nhiều âm mưu của CIA trong thời gian dài.

Phản gián

Trong khi CIA vẫn đặt nhiều kỳ vọng vào chiến dịch bí mật xâm nhập miền Bắc, Hà Nội được biết đã bắt đầu triển khai các hoạt động phản gián một cách cẩn trọng để tìm hiểu sự thật về các nhóm biệt kích của CIA và PLO.

Trở lại câu chuyện về một máy bay dân sự làm nhiệm vụ tiếp tế cho nhóm Castor bị mất tích. Ngày 1/7/1961, máy bay này vào một sân bay của Việt Nam Cộng hòa (VNCH), nhưng sau đó biến mất. Sau này CIA mới biết rằng chuyến bay tiếp tế ngày 1/7 đã bị rơi ở miền Bắc VN. Hai thành viên của phi hành đoàn có thể biết rất ít thông tin về nơi họ bay đến. Tuy nhiên, phi công nằm trong số người sống sót và anh ta phải biết rõ nơi cần bay tới và cả sứ mệnh của mình.

Ba người sống sót trong chuyến bay này phải ra trước phiên tòa xét xử công khai vào tháng 11/1961 ở miền Bắc. Những người sống sót thừa nhận làm nhiệm vụ tiếp tế cho các hoạt động nổi dậy, nhưng khai rằng nơi họ đến là một địa điểm xa xôi ở tỉnh Hòa Bình, cách xa vị trí mà nhóm Castor đã nhảy dù ở Sơn La.

Sau vụ này, đài phát thanh từ Hà Nội phát thông điệp với các dân tộc sống ở miền núi rằng hãy hợp tác với lực lượng an ninh. Theo phân tích của CIA tại Sài Gòn, Hà Nội đang triển khai chiến dịch rộng lớn nhằm chống lại sự xâm nhập, phá hoại từ các điệp viên của chính quyền Ngô Đình Diệm.

Đổ lỗi cho... máy bay

Sau các sự kiện trên, CIA thừa nhận các điệp vụ xâm nhập miền Bắc bằng đường hàng không chỉ có kết quả "hạn chế" và lý do duy nhất để tiếp tục theo đuổi chiến dịch là "chưa có các biện pháp khác để đạt được mục tiêu". Bước sang năm 1962, CIA quyết định tạm ngừng chiến dịch biệt kích nhảy dù để triển khai các điệp vụ xâm nhập bằng đường bộ và đường biển.

Theo Văn phòng CIA tại Sài Gòn, việc tạm ngừng trên là để đòi hỏi các loại máy bay phù hợp hơn. Tầm bay hạn chế của máy bay hai động cơ C-47 buộc nó phải tiếp nhiên liệu tại Đà Nẵng trước khi bay thẳng tới vùng Tây Bắc VN. Sĩ quan CIA cho rằng việc mất máy bay tiếp tế cho nhóm Castor vào tháng 7/1961 một phần cũng vì lý do trên. CIA tiến hành thảo luận với Lực lượng không quân Mỹ để có được máy bay 4 động cơ DC-4.

Trong khi đó sĩ quan Nguyễn Cao Kỳ được giao trách nhiệm tuyển mộ phi công để sẵn sàng khi máy bay DC-4 tới VNCH vào khoảng tháng 12/1961. Người Mỹ trực tiếp huấn luyện cho nhóm phi công người Việt để nâng cao kỹ năng bay thấp trong đêm. Cuối tháng 2/1962, sau nhiều tuần cân nhắc, CIA đi nước cờ mạo hiểm tiếp theo khi cho nhóm Europa nhảy dù xuống một ngôi làng ở vùng Tây Bắc VN.

Ngày 12/3/1962, Europa phát tín hiệu về Sài Gòn thông báo "an toàn". Việc tiếp tế cho Europa sau đó không thành do mất tín hiệu liên lạc, nhưng Sài Gòn cho rằng chỉ do thời tiết xấu. Đến đầu tháng 6/1962, CIA tại Sài Gòn báo cáo với Tổng hành dinh rằng Europa vẫn an toàn. Khả năng "thành công" của Europa khuyến khích CIA tại Sài Gòn tổ chức tiếp điệp vụ tiếp tế cho nhóm biệt kích đầu tiên Castor dù vẫn bặt vô âm tín. Nguyễn Cao Kỳ cùng đội bay của mình thực hiện chuyến bay cuối cùng liên quan đến các điệp vụ xâm nhập miền Bắc của CIA.

Trong khi đó, một đội bay khác điều khiển chiếc DC-4 bay tới Sơn La. Do gặp thời tiết xấu, chiếc SC-4 đâm vào núi, nhưng CIA tại Sài Gòn cho rằng Hà Nội không biết vụ việc trên nên nhóm Castor vẫn an toàn.

Điệp viên chết đói

Tự huyễn hoặc về sự thành công của nhóm Europa, đầu năm 1962, CIA bắt đầu tăng cường các điệp vụ xâm nhập miền Bắc VN qua lãnh thổ Lào. Ngày 12/3, sau khi đã thám sát, CIA cho máy bay trực thăng thả 4 thành viên nhóm Atlas xuống khu vực thuộc lãnh thổ Lào, gần với tỉnh Nghệ An. Atlas tiến về một ngôi làng ở phía đông để tìm 2 linh mục được biết là có tư tưởng chống Cộng.

Sau 4 ngày quan sát, Atlas bất ngờ chạm trán với một cậu bé. Ngay sau đó, lực lượng quân sự địa phương xuất hiện khiến Atlas phải tháo chạy trở lại lãnh thổ Lào. Một điệp viên bị bắn chết và 1 tên khác bỏ mạng vì giẫm phải mìn. Hai tên còn lại cố truyền tín hiệu vô tuyến để thông báo tình hình, nhưng cũng sớm bị bắt giữ. Phải tới khi 2 tên này xuất hiện trước phiên tòa xét xử công khai, CIA mới biết rằng chúng đã rơi vào tay Lực lượng An ninh nhân dân miền Bắc VN (PASF) từ ngày 5/4/1962.

Ngày 16/4/1962, nhóm biệt kích Remus gồm 6 thành viên người Thái đen nhảy dù xuống lãnh thổ Lào ở vị trí cách Điện Biên Phủ 15 km về phía tây bắc. Do đồ ăn bị hỏng, Remus yêu cầu Văn phòng CIA tại Sài Gòn cung cấp lại thực phẩm và đã được đáp ứng ngay. Tuy nhiên, yêu cầu quá đáng của nhóm điệp viên như "thịt gà và vịt phải có màu vàng tươi" của nhóm điệp viên khiến quan chức CIA ở Mỹ bị sốc.

Tương kế, tựu kế

CIA cảm nhận được sức ép ngày càng tăng do chưa đạt được bất kỳ thành quả nổi bật nào nên tiếp tục tăng cường các điệp vụ xâm nhập. Đêm 17/5/1962, máy bay DC-4 đưa 7 thành viên nhóm chuyên phá hoại Tourbillon nhảy dù xuống vị trí định sẵn cũng ở Sơn La. Tourbillon không ngờ PASF đã đón lõng ở phía dưới và thậm chí còn đốt lửa để chỉ dẫn cho nhóm biệt kích nhảy dù trong khi chúng vẫn tưởng rằng đó là ám hiệu của nhóm điệp viên đã xâm nhập từ trước.

Gió mạnh khiến Tourbillon nhảy dù trượt vị trí, nhưng vẫn nằm trong tầm kiểm soát của PASF. Con mồi đầu tiên là trợ lý của trưởng nhóm khi tên này đang lò dò trèo xuống từ ngọn cây và bị bắn gục bởi trước đó đã nã súng vào lực lượng đang truy đuổi hắn. Những điệp viên khác bị bao vây và bị bắt chỉ trong vài ngày.

An ninh Bắc Việt che đậy vụ đón lõng trong khi tiếp tục truy tìm máy phát tín hiệu vô tuyến của nhóm Tourbillon. Các tín hiệu không rõ ràng mà an ninh Bắc Việt phát đi từ máy phát của nhóm biệt kích khiến CIA tại Sài Gòn lầm tưởng rằng Tourbillon đã được đón tiếp bởi nhóm biệt kích trước đó dù đã mất 1 thành viên trong một vụ tai nạn. Đến ngày 20/6, CIA vẫn đinh ninh rằng Tourbillon đang thực hiện các hoạt động phá hoại.

Trong khi đó, ngày 20/5, nhóm Eros nhảy dù xuống vùng núi cao ở tỉnh Thanh Hóa, sát biên giới với Lào. Vụ xâm nhập này dường như thoát được sự chú ý của PASF. Năm biệt kích người Mông (Lào), người Thái nhảy dù xuống khu vực là nơi trú ngụ của cả hai dân tộc trên và hạ trại ở một nơi kín đáo.


Tiêu đề: Re: Tình báo VN trong KCCM
Gửi bởi: Mig21Bis_1 trong 27 Tháng Mười Một, 2011, 10:38:44 am
CIA giải mật các điệp vụ xâm nhập miền Bắc Việt Nam (Tiếp theo)



Trong khi nhóm biệt kích đang bí mật liên hệ với người trong bộ tộc, một số dân bản phát hiện trại của nhóm biệt kích khiến chúng phải chạy trốn tới phía Bắc. Việc phát hiện ra các vỏ thùng thức ăn có nhãn hiệu nước ngoài thu hút cả PASF và các đơn vị quân đội Bắc Việt cùng tham gia truy đuổi. Sau hai tuần không phát hiện được gì, lực lượng Bắc Việt tạm ngừng cuộc truy tìm.

Ngày 20/6, Eros báo về Sài Gòn về tình cảnh của chúng và yêu cầu được tiếp tế ngay lương thực. CIA hứa sẽ thực hiện vào đầu tháng 7, nhưng không có vụ tiếp tế nào với lời giải thích rằng do thời tiết xấu. Đói khát, nhóm Eros bỏ lại tất cả và mạo hiểm đi tìm thức ăn. Ngày 2/8, dân làng một lần nữa phát hiện ra người lạ.

Lực lượng an ninh Bắc Việt mở lại cuộc truy tìm. Ngày 2/9, PASF bao vây Eros, tiêu diệt 1 tên, bắt sống 1 tên. Ba tên còn lại chạy thoát qua biên giới Lào, nhưng ngay sau đó bị lực lượng ở phía Lào bắt giữ và giao cho Bắc Việt.

Người nhái và điệp vụ Vulcan

Tổng thống Kennedy nhắc lại yêu cầu về các hành động chống lại Bắc Việt đòi hỏi khai thác mọi nguồn lực. Đây là lý do để CIA tại Sài Gòn triển khai kế hoạch huấn luyện cho nhóm người nhái gồm 18 tên. CIA chọn mục tiêu phá hoại là căn cứ hải quân của Bắc Việt ở Quảng Khê, nằm bên sông Gianh, cách Đồng Hới 40 km về phía bắc. Các thông tin tình báo, bao gồm cả cuộc thám sát của tàu ngầm USS Catfish cho biết, căn cứ Quảng Khê là nơi trú ngụ của ít nhất 3 tàu Swatow có trang bị súng máy.

Ngày 30/6/1962, CIA cho tàu Nautilus III đưa nhóm 4 người nhái tới cửa sông Gianh. Tại đây, người nhái dùng bè bơi dọc bờ sông để thám thính trước khi trở về tàu. Một con thuyền nhỏ đưa nhóm người nhái ngược lên phía trên để tiếp cận đội tàu trang bị súng máy của Bắc Việt.

Mỗi người nhái được giao nhiệm vụ tấn công 1 tàu Swatow bằng cách bơi tới gần và gắn mìn nổ chậm. Trên thực tế, cả 3 người nhái đều tới mục tiêu an toàn, nhưng một trong những quả mìn nổ chậm đã phát nổ sớm hơn khi chúng đang cố bơi ra xa.

Vụ nổ phá hủy con tàu, nhưng cũng khiến cả 3 người nhái thiệt mạng. Súng máy bắn từ tàu của Bắc Việt tiêu diệt người nhái thứ tư và làm bị thương thuyền trưởng tàu Nautilus trước khi phá hỏng tàu, bắt giữ những kẻ khác trên tàu. Chỉ 1 kẻ trên tàu không bị lực lượng Bắc Việt phát hiện và đã bám vào mảnh vỡ của tàu Nautilus để bơi xuôi xuống phía nam. Ngày hôm sau, hắn được tàu tuần tra của Nam Việt Nam cứu sống.

CIA tại Sài Gòn báo cáo về Tổng hành dinh: "Điệp vụ thành công, trả giá đắt".

Tham vọng

Tới cuối tháng 7/1962, Văn phòng CIA tại Sài Gòn đang chuẩn bị cho 20 nhóm mới, hầu hết được giao sứ mệnh phá hủy bằng việc xâm nhập vào miền Bắc VN. Điệp vụ Vulcan khiến tham vọng của CIA ngày càng tăng.

Cuối tháng 8, Tổng thống Mỹ Kennedy phê chuẩn các nội dung của chiến dịch tăng cường hoạt động chống lại Bắc Việt. Tổng hành dinh CIA ngay lập tức yêu cầu Văn phòng tại Sài Gòn xác định những mục tiêu cụ thể và phương cách để tấn công.

Ngày 29/8, CIA tại Sài Gòn đệ trình chiến dịch chi tiết bao gồm cả việc tấn công cảng Hải Phòng, kho quân sự ở Vinh, cầu ở Thanh Hóa và sử dụng 100 biệt kích tấn công vào một cơ sở thông tin. CIA còn có kế hoạch cử các đội biệt kích sử dụng thuyền tốc độ cao để tấn công cầu, phà và các cơ sở quân sự nằm biệt lập dọc đường 1, phía bắc Thanh Hóa.

Tham vọng hơn, CIA muốn phái các nhóm biệt kích 14 người từ lãnh thổ Lào xâm nhập vào miền Bắc VN qua đường 7 và 8... để thực hiện sứ mệnh cắt đứt tuyến đường sắt tại 5 thậm chí 10 vị trí. Một nhóm khác, theo lịch trình bắt đầu vào tháng 12/1962, sẽ lẩn quất ở vùng núi tây nam tỉnh Lạng Sơn để tấn công cắt đứt tuyến đường sắt và đường bộ từ Trung Quốc vào miền Bắc VN. Có tới 800 mục tiêu ở miền Bắc sẽ bị tấn công theo kế hoạch mới của CIA.

Tuy nhiên, Văn phòng CIA tại Sài Gòn khuyến cáo Tổng hành dinh tại Mỹ rằng phải mất 4-6 tháng để xác định vị trí, vạch kế hoạch, huấn luyện, thực hiện sứ mệnh của một nhóm và cần 4-5 tháng chỉ để đào tạo một điệp viên sử dụng thành thạo thiết bị truyền tín hiệu vô tuyến. Với những áp lực trên, Văn phòng Sài Gòn cho rằng khó có thể triển khai chương trình mới cho tới cuối năm 1962.


Tiêu đề: Re: Tình báo VN trong KCCM
Gửi bởi: Mig21Bis_1 trong 27 Tháng Mười Một, 2011, 10:40:57 am
CIA giải mật các điệp vụ xâm nhập miền Bắc Việt Nam (Tiếp theo)


Hầu hết các điệp vụ xâm nhập miền Bắc Việt Nam được CIA tiến hành trong năm 1963 bằng nhiều phương cách. Do thất bại ngoài sức tưởng tượng, CIA thậm chí bắt đầu nghi ngờ một số nhóm xâm nhập vào miền Bắc VN trở thành điệp viên hai mang. Thất bại nối tiếp thất bại, bắt đầu từ năm 1964, CIA buộc phải chuyển giao sứ mệnh xâm nhập miền Bắc VN cho quân đội Mỹ.

(http://antg.cand.com.vn/Uploaded_ANTG/thuydt1/18_thuyen854.jpg)
Thuyền sử dụng trong điệp vụ Nautilus 1 xâm nhập miền Bắc bằng đường biển.

Ảnh hưởng của Hiệp định Geneva

Với việc Hiệp định Geneva có ảnh hưởng từ ngày 6/10/1962, chính quyền Mỹ muốn che đậy hoạt động tại miền Bắc VN. Tuy nhiên, CIA có được sự đồng thuận của Tổng thống (7/9/1962) trong việc tiếp tế cho 1 trong 4 nhóm vẫn còn hoạt động - hoặc được tin là đang hoạt động - tại miền Bắc VN. Sau ngày 6/10, Nhà Trắng cho tạm ngừng tất cả "hành động khiêu khích", bao gồm cả các cuộc tấn công phá hoại thậm chí của những nhóm biệt kích đang có mặt ở miền Bắc VN.

Trên thực tế, vào những tháng cuối cùng của năm 1962, thậm chí nếu không bị giới hạn bởi các chính sách hậu Hiệp định Geneva, CIA tại Sài Gòn cũng đối mặt với khó khăn chồng chất, đặc biệt là thời tiết ở miền Bắc VN. Tháng 1/1963, nhóm Tarzan nhảy dù xuống đất Lào sau đó xâm nhập qua biên giới vào khu vực gần đường 12 của miền Bắc VN.

Ngay trước đó, vào ngày cuối cùng của năm 1962, Lyre, nhóm biệt kích đầu tiên do Sở Chính trị và Nghiên cứu xã hội Phủ Tổng thống (SEPES) của Trần Kim Tuyến tài trợ, cũng xâm nhập vào bờ biển Bắc VN bằng thuyền. Tuy nhiên, hầu hết các nhóm biệt kích khác đã được huấn luyện sẵn sàng, nhưng không có động tĩnh gì.

Nhóm Lyre xâm nhập vào vùng duyên hải gần Đèo Ngang, cách nơi diễn ra điệp vụ Vulcan khoảng 25 km về phía bắc. Cuối tháng 1/1963 (4 tuần sau khi xâm nhập), CIA tại Sài Gòn không nhận được bất kỳ thông điệp nào từ Lyre.

Trên thực tế, 5 thành viên Lyre bị bắt tại chỗ, 2 tên khác chạy trốn xuống phía nam, nhưng vài ngày sau cũng chịu chung số phận. Nhóm Tarzan có vẻ thành công hơn khi ba lần truyền được tín hiệu từ khu vực gần đường 12 dù không rõ ràng. Hà Nội thông báo công khai vào ngày 29/5/1963 về việc nhóm biệt kích Lyre bị bắt.

Chiến dịch ba gọng kìm

Bất chấp Tổng hành dinh ở Mỹ gia tăng nghi ngờ về kết quả của các điệp vụ đầu năm 1963, CIA tại Sài Gòn sẵn sàng cho một chiến dịch tổng lực theo kiểu ba gọng kìm nhằm phá hoại miền Bắc VN.

Đến tháng 4/1963, có tới 48 nhóm biệt kích chờ để nhảy dù, xâm nhập bằng đường biển, đường bộ vào miền Bắc. Theo kế hoạch, 18 nhóm sẽ nhảy dù nếu yêu cầu cung cấp máy bay mới được đáp ứng; 11 nhóm khác sẽ vào bằng đường biển; còn lại 17 nhóm vẫn chưa xác định phương cách.

Đầu tháng 4/1963, nhóm Pegasus nhảy dù xuống miền Bắc. Thông tin ban đầu cho biết có tới 4 điệp viên bị thương do nhảy trúng ngọn cây. Ngày 13/4, CIA tại Sài Gòn cho nhóm biệt kích 6 tên người miền núi đổ bộ xuống vùng núi cách Hà Nội 75 km về phía đông bắc. Mục tiêu của nhóm này là tuyến đường sắt từ Hà Nội chạy tới Trung Quốc.

Cũng như trước đây, hai nhóm điệp viên này đều mất tích hoặc biết rõ đã bị bắt, nhưng điều kỳ lạ là CIA tại Sài Gòn không điều tra lý do thất bại mà lại đẩy mạnh hơn nữa các đợt xâm nhập mới. Tháng 6, Hà Nội cho biết nhóm Pegasus đang “bóc lịch” trong tù.

Tháng 5, CIA cho 3 nhóm nhảy dù xuống miền Bắc, nhưng chỉ có Jason đáp xuống mặt đất ngày 14. Máy bay chở hai nhóm khác (trong đó có nhóm Europa gây nhiều rắc rối sau này) phải quay trở lại do thời tiết xấu và gặp rắc rối về kỹ thuật. Phi công báo cáo, dù của tất cả thành viên Jason đã mở, nhưng nhóm này cũng mất liên lạc.

Hai tuần đầu của tháng 6, hai máy bay DC-4 của CIA thả 7 nhóm điệp viên xuống miền Bắc. Hai nhóm đổ bộ xuống vùng núi cao có thể nhìn xuống sông Hồng và mục tiêu là tuyến đường sắt phía Tây Bắc. Một được giao nhiệm vụ tấn công cầu và mỏ than ở phía bắc Hải Phòng.

Theo kế hoạch, hai nhóm khác sẽ tấn công các cầu dọc đường số 1. Hai nhóm còn lại lẩn khuất dọc đường số 7 và 12 dẫn sang Lào. Chỉ có 1 trong 7 nhóm trên liên lạc với Sài Gòn và thông báo an toàn sau 10 ngày nhảy dù xuống. Nhóm Bell bị bắt sau 3 ngày xâm nhập

Điệp viên hai mang

Tháng 6, CIA tiến hành thêm nhiều điệp vụ nhảy dù và xâm nhập bằng đường biển khác, nhưng tỉ lệ thành công gần như bằng không. Lý do thất bại được CIA tại Sài Gòn báo cáo về Tổng hành dinh một cách đơn giản rằng vì thời tiết xấu và phương tiện kỹ thuật không vận hành tốt. Ngoài việc xâm nhập, các đợt tiếp tế của CIA thời gian này cũng thất bại thảm hại và lại được giải thích là do thời tiết xấu hoặc phi công không tìm được vị trí của các nhóm nhảy dù trước đó.

Bước vào năm 1963, CIA được cung cấp hàng loạt máy bay hiện đại C-123 và DC-4 để phục vụ tốt hơn cho điệp vụ nhảy dù, tiếp tế, nhưng kết quả dường như tồi tệ hơn. Ngày 2/7, máy bay C-123 đưa nhóm Giant nhảy dù xuống vùng núi phía tây thành phố Vinh.

Ngày 4/7, máy bay DC-4 thả nhóm Packer xuống nhằm phá hoại tuyến đường sắt Tây Bắc và sau đó đưa nhóm Europa tới địa điểm khác ở gần Hà Nội. Chiếc DC-4 có tầm bay xa hơn, được trang bị hệ thống định vị hiện đại và cả thiết bị tránh sự phát hiện của rađa chở nhóm Europa không bao giờ quay trở lại Sài Gòn.

Do không có phản ứng nào từ Hà Nội, CIA tại Sài Gòn kết luận chiếc DC-4 không bị lực lượng phòng không miền Bắc Việt Nam bắn hạ mà va vào núi cao khi bay ở tầm thấp.

Lại tự huyễn hoặc về khả năng vượt trội của loại máy bay mới có thể tránh được mọi nguy hiểm từ dưới mặt đất, CIA không ngờ rằng miền Bắc VN di chuyển 10 đơn vị phòng không tới khu vực mà nhóm Europa từng nhảy dù xuống. Giữa tháng 8/1963, chiếc C-123 làm nhiệm vụ tiếp tế cho nhóm Europa bất ngờ bị pháo phòng không của ta tấn công. Cơ trưởng của chiếc C-123 này may mà thoát được. Sau đó  bị chấn thương tâm lý nặng về vụ suýt chết trên.

Theo báo cáo, chiếc C-123 bị tấn công từ ít nhất 4 địa điểm có đặt pháo phòng không. Trong khi đó, nhóm Europa báo cáo không thấy máy bay tiếp tế bay qua khu vực chúng đang lẩn trốn. Sau đó, bất chấp yêu cầu của Europa, CIA không dám phái máy bay thả hàng tiếp tế ở khu vực mà nhóm Europa lẩn trốn. Một mặt sợ nguy hiểm, mặt khác CIA nghi ngờ Europa đã trở thành điệp viên hai mang sau khi bị lực lượng an ninh Bắc VN bắt giữ.

Sĩ quan chỉ huy nhóm phi công chuyên thực hiện các chuyến bay nhảy dù cáo buộc một số nhóm trở thành điệp viên hai mang khiến CIA tại Sài Gòn phải tiến hành thẩm tra nhóm Europa. Sau đó CIA kết luận rằng Europa có thể là nhóm điệp viên hai mang rất láu cá khi từ chối được tiếp tế tại khu vực chúng đang lẩn trốn vì không đảm bảo an toàn.


Tiêu đề: Re: Tình báo VN trong KCCM
Gửi bởi: Mig21Bis_1 trong 27 Tháng Mười Một, 2011, 10:44:49 am
CIA giải mật các điệp vụ xâm nhập miền Bắc Việt Nam (Tiếp theo)



Bồ câu đưa tin

Trước tình trạng mất tích của hầu hết các nhóm điệp viên được huấn luyện bài bản và trang bị những phương tiện kỹ thuật điện đài tối tân nhất, CIA bắt đầu tính đến phương thức liên lạc nguyên thủy của nghề tình báo là sử dụng bồ câu đưa tin. CIA cho rằng sử dụng bồ câu đưa tin ngay khi điệp viên vừa xâm nhập vào miền Bắc, trước khi tìm được địa điểm an toàn để phát tín hiệu rađiô sẽ giúp tránh được những rắc rối đầu tiên thường gặp phải.

Đặc biệt, thông điệp từ chim bồ câu được CIA kỳ vọng sẽ phá vỡ mọi kế hoạch của an ninh Bắc VN khi biến nhóm biệt kích bị bắt giữ thành điệp viên hai mang. Cùng với kế hoạch chim bồ câu, Văn phòng CIA tại Sài Gòn cũng bắt đầu cho mỗi nhóm điệp viên mang theo hai bộ phát tín hiệu rađiô: Một để liên lạc với Sài Gòn, một để các nhóm đã xâm nhập vào miền Bắc VN có thể thông tin với nhau.

Điệp viên đa năng

Trước đó, vào tháng 5/1963, để tăng cường khả năng của các nhóm điệp viên, Tổng hành dinh CIA đã phái chuyên gia Herbert Weisshart tới Sài Gòn phụ trách công tác huấn luyện đặc biệt. Các điệp viên được tuyển lựa đều là người miền núi và được huấn luyện để có thể có khả năng thực hiện nhiều sứ mệnh của điệp viên đa năng.


(http://antg.cand.com.vn/Uploaded_ANTG/thuydt1/19_ban854-to.jpg)
Bản đồ mật của CIA về các vụ xâm nhập miền Bắc bằng đường biển năm 1961-1963.

Nhóm Easy từ lò đào tạo trên đã nhảy dù xuống khu vực gần biên giới Lào ngày 11/8/1963 và nhanh chóng liên lạc về Sài Gòn. Nhóm Swan cũng được Herbert huấn luyện để thực hiện cùng lúc nhiều sứ mệnh như rải truyền đơn, thu thập tin tình báo và phá hoại các mục tiêu. Tuy nhiên, Swan không gặp may như nhóm Easy.

Nhảy dù xuống phía bắc tỉnh Cao Bằng, các điệp viên đa năng được đặt nhiều kỳ vọng trong nhóm Swan nhanh chóng bị lực lượng an ninh Bắc VN bắt giữ. Văn phòng CIA tại Sài Gòn lần này may mắn hơn khi biết ngay việc Swan thất bại.

Trước sức ép từ nhiều phía, CIA bắt đầu chú trọng đến cuộc chiến tranh tâm lý bằng việc rải truyền đơn ở miền Bắc VN. Tổng hành dinh CIA tại Mỹ thậm chí đứng ra đề cử nhóm Bull và Ruby thực hiện sứ mệnh này, nhưng cả hai đều bị bắt giữ khi xâm nhập vào miền Bắc VN tháng 10 và tháng 12/1963.

Tới tháng 4 và 5/1964, báo chí ở Hà Nội mới đưa tin về việc bắt giữ và mở phiên tòa xét xử nhóm Bull, Ruby. Hai nhóm này đã bắt đầu nhận được sự hỗ trợ trực tiếp của quân đội Mỹ sẽ tiếp quản sứ mệnh xâm nhập miền Bắc của CIA từ năm 1964.

Cùng thời điểm trên, CIA cũng được an ủi phần nào khi hàng loạt vụ xâm nhập đã mang lại kết quả ban đầu dù rất hạn chế và chưa bao giờ được chứng minh là có thật. Nhóm nằm vùng ở Tây Bắc VN báo cáo đã gây ra vài vụ nổ trên tuyến đường sắt Hà Nội - Lào Cai.

Trong báo cáo của Văn phòng CIA gửi về Tổng hành dinh ở Mỹ không nói rõ đây là nhóm nào, nhưng các tài liệu cho biết đây là nhóm Bell đã bị lực lượng an ninh bắt giữ và có thể đã trở thành điệp viên hai mang. Nhóm khác, cũng không nói rõ tên trong báo cáo, thông báo đã phá hủy được một cây cầu. Trong khi đó, quan chức cấp cao Mỹ bắt đầu có ý kiến rằng CIA không thích hợp cho những điệp vụ xâm nhập miền Bắc với sứ mệnh ngày càng mở rộng. 

Những tháng cuối năm 1963, CIA tổ chức một số vụ xâm nhập cuối cùng bằng đường biển trước khi chuyển giao hoạt động bí mật này cho quân đội. Ngày 27/10, CIA tổ chức một nhóm khá hùng hậu để đưa một điệp viên xâm nhập vào bờ biển Đồng Hới. Tuy nhiên, điệp viên này biến mất một cách khó hiểu và nhiều khả năng bị an ninh Bắc VN phát hiện, bắt giữ.

Cuối năm 1963, CIA nỗ lực đưa hai nhóm điệp viên xâm nhập vào vùng bờ biển miền Bắc VN, nhưng cả hai đều phải chạy trở lại thuyền do không an toàn. Cùng lúc đó, CIA tiếp tục bị choáng váng vì ngày 24/12, Hà Nội mở phiên tòa công khai xét xử nhóm biệt kích làm tay sai cho Mỹ. Đây là nhóm thứ 10 bị xét xử từ tháng 6/1963. 6 biệt kích do CIA huấn luyện bị tuyên án từ 5 đến 16 năm tù.

Dường như để đáp trả, ba tuần sau (ngày 14/1/1964), CIA cho tàu đưa nhóm người nhái Zeus và Charon xâm nhập vào Đồng Hới từ đường biển. Nhóm Zeus được báo cáo là thực hiện sứ mệnh "có thể thành công" khi giấu được túi thuốc nổ có hẹn giờ trên bờ biển sau đó trở lại thuyền an toàn.

Charon cũng thực hiện được một vụ nổ trên sông nhưng không rõ có gây thiệt hại gì cho Bắc VN. Tuy nhiên, kết quả rõ ràng nhất  là một nửa nhóm người nhái không trở lại tàu. Ngày 28/1/1964, Hà Nội lại tiến hành xét xử nhóm 6 biệt kích xâm nhập bằng đường biển với mức án từ 4 đến 15 năm tù.


Tiêu đề: Re: Tình báo VN trong KCCM
Gửi bởi: Mig21Bis_1 trong 29 Tháng Mười Một, 2011, 12:40:42 am
Những chiến công chưa kể của người thương binh anh hùng


Hàng chục năm qua, dư luận báo chí trong và ngoài nước đều biết và ngưỡng mộ tấm gương của Anh hùng LLVTND Nguyễn Văn Thương, người từng bị CIA và Mỹ - ngụy cưa cụt chân 6 lần để moi thông tin tình báo. Đoạn đời anh hùng đó đã từng được viết thành sách, dựng thành phim. Tuy nhiên, vì nhiều lý do mà cho đến nay, những chiến công của Nguyễn Văn Thương - giai đoạn trước và sau khi bị cưa chân - mới được phép công bố.


(http://antg.cand.com.vn/Uploaded_ANTG/honghai/28_anh1079.jpg)
Anh hùng LLVTND Nguyễn Văn Thương vẫn hạnh phúc dù không còn đôi chân.

"Ngắt đầu" Ngô Tổng thống

Nhà tình báo anh hùng Nguyễn Văn Thương vẫn cảm thấy rằng thiệt thòi rất lớn của ông là thiếu tình thương của mẹ và sự vắng bóng của cha. Chính vì vậy mà cả cuộc đời mình, ông đều tâm nguyện thực hiện theo những gì cha mẹ đã làm, dù thấy trước cảnh chết chóc, tù đày… của những người làm "quốc sự". 

Thương mồ côi mẹ quá sớm nên cha ông dành hết tình thương cho đứa con và gửi Thương vào Trường Đạo đức Học đường (thuộc phạm vi quản lý của Tòa thánh Cao đài Tây Ninh).  Tấm bằng tốt nghiệp loại ưu của trường như một giấy thông hành giá trị". Và chính vì có "giấy thông hành", những nhiệm vụ đầu tiên của Nguyễn Văn Thương như mang tài liệu từ Tây Ninh lên Long Khánh, rải truyền đơn trong đồn điền cao su Xuân Lộc (hiện đều thuộc Đồng Nai)… đều được anh thực hiện rất hoàn hảo.

Cũng trong thời gian công tác ở Long Khánh, Xuân Lộc, Nguyễn Văn Thương đã làm quen và được một nữ giáo dân tên Xuân cùng vị linh mục khu vực này và được họ quý mến. Sau này, chính vị linh mục và Xuân đã giúp đỡ anh  rất nhiều trong những cơn nguy biến.

Ngày 15/10/1958, một hội chợ triển lãm mang màu sắc chính trị diễn ra tại Biên Hòa. "Tổ công tác phong trào cách mạng của đồn điền cao su Xuân Lộc" gồm Nguyễn Văn Thương, Trịnh Minh Thành, Hai Gáo, Năm Ninh quyết định tham gia hội chợ với "món quà" bất ngờ là rải truyền đơn. Xong nhiệm vụ chính, Thương và đồng chí của mình hòa vào đám đông đang ngắm nghía chiếc xe bọc vải nhung kết hoa sặc sỡ. Nhìn thấy trên xe là hình nộm Tổng thống Ngô Đình Diệm mặc áo gấm đội khăn, Thương sôi máu bàn với Năm Ninh “phải ngắt cổ Ngô tổng thống để hạ uy tín địch và nâng vị thế Cách mạng”.

Tuy việc này chưa được sự cho phép của tổ chức song thấy quá "ngon ăn", tất cả họ đều đồng ý tác chiến. Thương xung phong thực hiện. Xe chuyển bánh, Thương vờ hò hét dọn đường như một lơ xe thứ thiệt và đợi cho tài xế không quan sát phía sau, anh nhảy ngay lên thùng xe. Hàng ngàn cặp mắt đang dõi theo xe diễu hành cứ ngỡ Thương là người bảo vệ hình nộm Ngô tổng thống.

Xe chạy chầm chậm đến quãng vắng, Thương bắt đầu nấp sau lưng hình nộm, kiễng chân cắt dây chằng néo hình nộm và dây điện (dùng điều khiển tay chân hình nộm cử động). Phải hơn 15 phút đứng hành động và có khi đứng im sau lưng hình nộm để tránh bị phát hiện, Thương mới hất được cái đầu Ngô tổng thống làm bằng thạch cao rơi xuống thùng xe. Nhanh nhẹn ôm cái đầu hình nộm, Thương chọn quãng đường vắng nhảy xuống đất, lăn mấy vòng dạt vào bụi cỏ ven đường rồi đập nát bét cái gương mặt đúc thạch cao của Ngô Đình Diệm.

Sau này, lý giải cho hành động trên, ông bảo: "Nếu để nguyên cái đầu trên xe, địch sẽ gắn lại. Nếu quẳng xuống đất, xe sau sẽ nhặt được. Cho nên tôi quyết đập nát cái đầu hình nộm dù rằng do ôm cái đầu thạch cao của họ Ngô nhảy xe, tôi bị trẹo gân chân, đi cà nhắc". Cả tổ công tác theo dõi chiếc xe chở bức tượng cụt đầu vào khu vực dân cư, nơi có hàng ngàn giáo dân chứng kiến hình ảnh quái dị của Ngô tổng thống. Có người bàn tán là Việt Cộng làm, có người la làng đùn nhau đi chặn xe lại báo cáo tình hình (nhưng rút cục chẳng ai dám vì sợ bị nghi ngờ), người thì quỳ lạy hay làm dấu thánh… Trong khi đó cả tổ công tác của Thương rút lui êm đẹp.

Cũng trong giai đoạn này, một chiến công thầm lặng khác của Nguyễn Văn Thương ít được biết đến là tử hình tên ác ôn tên Thạnh, một kẻ lấy giết chóc làm vui và dùng chính máu của những nạn nhân mà hắn cho là Việt Cộng để pha rượu… uống! Tên Thạnh lúc nào cũng lận súng trong người và thường phóng xe rất nhanh. Một buổi trưa, Thương phục kích Thạnh trên đường hắn trở về nhà. Khi đầu ruồi súng của anh đã xê dịch trên thân thể của Thạnh thì bỗng dưng tên này chạy chậm lại và thế là nhiều thường dân khác cũng nằm trong tầm ngắm của ruồi súng. Thương nghiến răng bỏ qua cơ hội.

(http://antg.cand.com.vn/Uploaded_ANTG/honghai/29_nguyen1079.jpg)
Nguyễn Văn Thương trong vỏ bọc Đại úy Ngọc tại Sài Gòn năm 1968.

Sau đó mấy ngày, lúc quyết định chặn đường bắn thẳng vào mặt tên ác ôn, Thương kiểm tra lại vũ khí lần chót thì tá hỏa phát hiện ra đạn đã rỉ sét. Lại phải rút, nghề điệp báo không sợ hy sinh nhưng cũng không thể hy sinh vô ích.

Rồi thời cơ cũng đến. Một đêm tối trời, Thương trèo tường đột nhập nhà Thạnh rồi nép mình trong góc tối, thực hiện án tử hình tên ác ôn bằng… rựa. Anh làm nhanh đến mức tên Thạnh không kịp kêu. Xong, Thương đặt bản án trên bàn, mở tủ lấy khẩu súng của tên Thạnh rồi rút lui. Phía ngoài kia, đồng đội của Thương cũng rải xong mớ truyền đơn cảnh cáo.

Sau trận đánh này, Thương được kết nạp vào Đoàn. Tổ chức đã đưa anh trở về quê hương Tây Ninh với một vỏ bọc mới, có sự bảo lãnh của một vị linh mục ở Xuân Lộc cùng tấm bằng do Tòa thánh Tây Ninh cấp khi xưa. Về đến ngôi nhà cũ, Thương treo ngay lá cờ ba sọc trước cửa, hình Ngô Đình Diệm trong nhà và các khẩu hiệu "Diệt Cộng tố Cộng" rồi lập cơ sở bán bánh mì. Nhiều bà con thân phía mình nhìn anh bằng cặp mắt dè chừng thiếu thiện cảm. Anh bảo: "Nghĩ lại thấy mình vẫn còn may, dù bị cưa cụt cả 2 chân, nhưng vẫn còn sống để minh oan cho chính mình".

"Đại úy Tổng nha cảnh sát" và cuộc giải cứu hy hữu

Sang năm 1960, Nguyễn Văn Thương được điều chuyển sang lực lượng công an vũ trang. Ngày 10/2/1961, Thương được ông Sáu Dân (cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt) đưa vào Phòng Tình báo phía Nam, thủ trưởng là ông Mười Nho, biệt hiệu đơn vị là D110. Thương nằm trong mũi tình báo giao thông (không gọi là giao liên đưa tin như các đơn vị quân đội khác), chịu trách nhiệm chuyển thông tin  lấy được từ nội thành ra chiến khu và ngược lại.

Một lần, cấp trên giao nhiệm vụ cho Thương phải đo chính xác cự ly từ ấp chiến lược Bình Giã đến Hương lộ 15. Đoạn đường này vốn là vị trí trọng yếu cốt tử nên bảo an, dân vệ và nhiều sắc lính mật khác canh gác rất nghiêm mật. Hôm ấy từ hướng Long Khánh đi lên, Thương đã bị ngay một tên mật thám bám đuôi. Nhớ tới mối quan hệ với vị linh mục năm nào, Thương bình tĩnh di chuyển đến nhà thờ và quẹo vào, chắp tay xin làm lễ theo đúng kiểu của một con chiên ngoan đạo. Do đã biết về Thương một phần và ngầm hiểu sự nguy hiểm đang kề cận, vị linh mục vội vẫy tay cho anh lại quỳ gần hơn và làm lễ ban  phép.

Khi đã qua giai đoạn kịch tính, biết Thương cần đến Bình Giã "có việc riêng", vị linh mục lấy xe hơi chở Thương cùng với một nữ tu chạy từ từ qua tất cả các chốt gác. Nhờ vậy mà Nguyễn Văn Thương đo được khoảng cách từ ấp đến hương lộ. Sau này kể lại, Nguyễn Văn Thương nói: “Lúc ấy có thể linh mục chỉ biết lờ mờ tôi là người cách mạng, chứ không rõ nhiệm vụ của tôi là làm gì, vậy mà ông vẫn nhiệt tình giúp đỡ”.

Trong thời gian  làm giao thông tình báo, Nguyễn Văn Thương được cấp trên chuẩn bị cho một số giấy tờ, căn  cước giả, ẩn mình dưới vỏ bọc "Đại úy Ngọc, đặc phái viên của CIA". Lúc đó trong ví của Thương toàn giữ hình tổng thống, cờ ba sọc, hình khỏa thân và giấy tờ giả. Phía ta có một người làm giấy giả siêu tinh vi là anh Tám Chứa (hiện ở Tân Bình). Sau giải phóng gặp lại, ông Tám Chứa vẫn còn trêu Thương: "Nhờ chữ ký (giả) của tôi trên giấy tờ mà cậu mới tự do tung hoành. Giờ có huân chương, huy chương gì phải chia đôi".

(http://antg.cand.com.vn/Uploaded_ANTG/honghai/29_anh1079-400.jpg)
Anh hùng LLVTND Nguyễn Văn Thương cùng vợ con.

Tuy nhiên, giấy tờ, căn cước giả Nguyễn Văn Thương chỉ thủ sẵn trong người để phòng hờ, cố giữ gìn để hầu như không phải sử dụng đến. Với vỏ bọc này mà suốt nhiều năm liền ở các mũi, Nguyễn Văn Thương hoàn thành rất xuất sắc nhiệm vụ chuyển được rất nhiều tin tình báo, trong đó có cả thông tin do các nhà tình báo xuất sắc Ba Quốc (Anh hùng LLVTND Đặng Trần Đức) từ Tổng nha Cảnh sát ngụy, của ông cố vấn Vũ Ngọc Nhạ từ Phủ Tổng thống, của ông Hai Trung (Phạm Xuân Ẩn) từ nội thành… về chiến khu.

Một lần, Thương cứu sống kịp thời cho một người đàn bà cụt tay gần chết do mất máu vì trúng đạn càn của giặc. Bà mẹ này tên Nguyễn Thị Huệ, có một người con là Nguyễn Mạnh Hùng, trung úy cảnh sát ngụy. Hai mẹ con họ xúc động nhận Thương làm con nuôi và anh trai kết nghĩa. Hơn thế nữa, người con tên Hùng đã quyết định làm việc cho cách mạng trong vỏ bọc có sẵn. Hai mẹ con tự lấy bí danh cho mình, mẹ là Giác, con là Ngộ.  Sau giải phóng, anh Ngộ trở thành thượng úy Công an nhân dân của ta.

Một hôm, từ giấy tờ, tài liệu do trung uý Nguyễn Mạnh Hùng lo, Thương đã nhập vai "đại úy Đức"  đi thanh tra các trạm từ Tây Ninh về Sài Gòn.  Các đồng chí của anh thì trở thành lái xe, tùy tùng trong các bộ quân phục và giấy tờ hợp pháp. Riêng trung úy Nguyễn Mạnh Hùng vẫn giữ nguyên vỏ bọc sẵn có.  Nhiệm vụ của "đại úy Đức" là phải "bảo kê" xe chở vũ khí của ta qua được 12 trạm gác của địch. Xe Jeep vừa dừng lại, barie đã được mở ra, mấy tên lính gác đứng nghiêm chào "đại úy Đức" đang ngồi dạng chân ngậm thuốc, đeo kính râm vẻ phớt đời. Tên trạm trưởng chạy ra khúm núm: "Chúng tôi đã nhận được công văn từ Ty Cảnh sát Tây Ninh báo rằng đại úy sẽ đi thanh tra các trạm. Mời đại úy vào uống cà phê".

"Đại úy Đức" cùng trung úy Hùng bước vào trong. Trên bàn đã thấy sẵn mấy phin cà phê, dĩa bánh bao nóng hổi cùng chai rượu. "Đại úy Đức" kẻ cả: "Đang ăn sáng hả, giờ nầy phải làm việc chứ?". Nghe vậy, tên trạm trưởng rối rít: "Dạ nghe tin đại úy đi thanh tra, tụi em chuẩn bị để mời đại úy đó chứ". "Đại úy Đức" xoa dịu: "Thôi, cứ hưởng trước đã. À, anh bảo mấy thằng lính khi gặp 2 xe chở bành mủ cao su từ Tây Ninh lên thì báo tôi biết vì anh bạn chủ hàng là bạn tôi".

Muốn lấy lòng cấp trên, tên trạm trưởng xun xoe: "Đại úy cứ yên tâm, ở đây không gì qua mắt được bọn em hết. Tụi bây ra ngoài hễ thấy 2 xe chở mủ cao su thì kính mời mấy thầy xuống trạm uống cà phê chơi". Trong thâm tâm, có lẽ hắn nghĩ tay "đại úy Đức" nầy cũng "cá mè một lứa" như hắn, lợi dụng ngày cuối năm để buôn hàng kiếm thêm…

Trong khi đó ở phía ngoài, trung úy Nguyễn Mạnh Hùng cùng mấy tay cảnh sát viên đường hoàng khoát tay cho 2 xe "chở mủ cao su" qua trót lọt. Bằng cách ngoạn mục như trên, 2 xe chở đầy vũ khí đã được "đại úy Đức" và trung úy Ngộ đưa qua trót lọt 12 trạm gác, về đến nội thành một cách an toàn kịp thời phục vụ cho chiến dịch lớn.

Nguồn: http://antg.cand.com.vn/vi-vn/tulieu/2011/8/75809.cand


Tiêu đề: Re: Tình báo VN trong KCCM
Gửi bởi: Mig21Bis_1 trong 29 Tháng Mười Một, 2011, 12:43:45 am
Những chiến công chưa kể của người thương binh anh hùng (Tiếp theo)


Trận đánh đáng nhớ nhất là tiêu diệt toàn bộ 1 trung đội Mỹ đang tập kết chuẩn bị xăm hầm. Đêm đó, Thương và hai đồng chí trinh sát khác cởi trần, mình trét bùn sình như đặc công, bò tiếp cận trung đội Mỹ đang ăn uống. Họ cài 3 trái mìn ĐH10 ở ba phía rồi bò lui ra...


(http://antg.cand.com.vn/Uploaded_ANTG/honghai/28_dong1080.jpg)
Đồng chí Nguyễn Văn Thương khi an dưỡng ở Miền Bắc.

Giải cứu đồng đội

Ngay sau khi áp tải xe vũ khí về nội thành an toàn giao cho các cơ sở, chiếc xe jeep chở họ quay ngược về Củ Chi để vào quận cảnh sát ngụy. Gặp mặt tên đại úy quận phó, "đại úy Đức" thờ ơ đưa thẻ và công lệnh cho hắn xem rồi ung dung cùng trung úy Ngộ tu bia lạnh. Nội dung của công lệnh là kiểm tra tuyến đường và người kiểm tra là "đại úy Đức" ở Ban Sưu tần Khối Cảnh sát đặc biệt.

Tên quận phó thừa biết tuy cấp bậc cả hai người ngang nhau nhưng đối với một người làm việc ở Ban Sưu tần Khối Cảnh sát đặc biệt, chỉ cần một lời nói không hài lòng của "đại úy Đức" đến tai Tổng nha Cảnh sát, hắn cũng không còn cơ hội để ngoi lên. Vì vậy khi "đại úy Đức" hỏi: "Nghe nói quận ta bắt được một nữ giao liên Việt Cộng, tên này là đầu mối liên lạc với một Việt Cộng vừa bị Ban Sưu tần Khối Cảnh sát đặc biệt bắt", tên quận phó đã hỏi ngay: "Dạ đại úy có thể cho em biết danh tính tên nữ giao liên?". Chỉ chờ có vậy, "đại úy Đức" vẫn giữ vẻ lãnh đạm, nói cộc lốc: "Nguyễn Thị Ngọc".

Thấy mặt tên quận phó nghệch ra, "đại úy Đức" đoán được tên này chưa nắm được tình hình gì. "Đại úy Đức" suy luận nếu như biết Nguyễn Thị Ngọc là Việt Cộng nòi, ắt hẳn hắn đã dùng mọi biện pháp để khai thác sớm, chứ không để đến khi được hỏi, tức là đến khi Nguyễn Thị Ngọc đã bị tạm giam đúng 1 tuần… Quay sang tên cảnh sát phụ trách sổ sách, tên quận phó hỏi: "Nó bị sao?". Trả lời: "Dạ chiêu hồi chỉ điểm nên bắt được con Nguyễn Thị Ngọc. Nhưng nó chưa khai gì mới".

Tên quận phó tự nhiên nghẹn họng. Hắn nhận ra sự sơ xuất của mình rồi như khỏa lấp, hắn quay sang hỏi ý kiến. "Đại úy Đức" trách: "Đáng lẽ ngay lúc bắt được, phải chuyển ngay tên này lên Tổng nha để khai thác. Ở đây mấy anh chỉ biết đấm đá là xong, chẳng được mẹ gì. Để lâu động ổ, tụi nó rút hết, có khai thác được thông tin gì từ Nguyễn Thị Ngọc cũng vô ích". Hai tên cảnh sát ngụy tái mặt không còn hột máu khi nghe bề trên trách móc. Chúng biết khi tin này về đến Tổng nha, tội của chúng rất nặng vì khinh suất và chủ quan. Trong khi "đại úy Đức" bóp trán suy nghĩ thì cả hai cứ đi lòng vòng, xoa tay van nài xin cấp trên chỉ giáo.

Đợi cho cả hai ngấm đòn và đến khi tên quận phó buột miệng "xin đại úy chỉ dạy", "đại úy Đức" mới làm ra vẻ ban ơn: "Thôi được rồi, tôi sẽ ký nhận đưa tên Việt Cộng này về khối. Nhưng đại úy phải sửa lại ngày bắt nó, sửa lại cách đây chừng vài ngày thôi, rồi chuyển nó đi liền hôm nay, cho nó hợp lệ".

Tên cảnh sát mang hồ sơ trình cho tay quận phó, hắn lướt sơ qua rồi ký nhoay nhoáy, kính cẩn đưa sang "đại úy Đức" ký nhận cùng cây bút đưa tận tay. Xong việc, chúng cho lính dìu người nữ giao liên mặt mũi bê bết máu ra xe của Ban Sưu tần Khối Cảnh sát đặc biệt và lễ phép chào "đại úy Đức", mặt hắn dãn ra như vừa trút được một gánh nặng. Trời đã chạng vạng, trên chiếc xe jeep lao đi rất nhanh hôm ấy, không ai thốt lên được lời gì trước chiến công quá lớn bởi Nguyễn Thị Ngọc là một đầu mối quan trọng nắm nhiều đầu mối giao liên, biết nhiều đường dây của ta. Mãi đến khi được hai "cảnh sát" dìu đỡ bước xuống và nghe được câu hỏi "đồng chí có đau lắm không?", Nguyễn Thị Ngọc mới òa khóc như chưa từng được khóc!

Chỉ huy cụm tình báo A36 trong  trận càn Cedar Fall

Về nguyên tắc hoạt động, các cụm tình báo phải rất tách biệt nhau, tránh tiếp xúc nhau và các điệp viên không thể biết thủ trưởng các cụm tình báo khác cụm mình đang hoạt động. Tuy nhiên ở Nguyễn Văn Thương thì lại khác. Ông được cấp trên tin cẩn đưa đi nhiều cụm tình báo và đến năm 1967 thì về làm mũi trưởng mũi giao thông Cụm tình báo A36 lo việc chuyển về căn cứ Trung ương Cục miền Nam (R) các thông tin do ông Ba Quốc (Anh hùng LLVTND Đặng Trần Đức) lấy được. Ông Ba Quốc đã nhập vai sĩ quan cao cấp trong CIA suốt 24 năm và nếu như Nguyễn Văn Thương khai (khi bị bắt và bị cưa chân) ra, cách mạng sẽ mất mát rất lớn, ấy là chưa kể đến các đồng chí khác như Vũ Ngọc Nhạ, Phạm Xuân Ẩn, Nguyễn Văn Tàu…cũng có nguy  cơ sẽ bị lộ vì Thương đã có mặt ở rất nhiều cụm tình báo chiến lược khác nhau liên quan đến các nhà tình báo xuất sắc này.

(http://antg.cand.com.vn/Uploaded_ANTG/honghai/29_anh1080-400.jpg)
Anh hùng LLVTND Nguyễn Văn Thương và người thân.

Ở Cụm A36, ngoài anh Ba Hội làm cụm trưởng, còn có anh Bảy Anh làm cụm phó kiêm bí thư chi bộ. Căn cứ đóng ở một địa đạo phía Nam Bến Cát (Bình Dương hiện nay) ven sông Sài Gòn, đối diện căn cứ địa đạo Củ Chi. Lúc ấy rất nhiều cơ quan quan trọng của Đảng, rồi các đơn vị của thanh niên, phụ nữ, tuyên huấn cũng đóng dày đặc xung quanh đó. Bởi vậy nên Mỹ mới mở trận càn Cedar Fall tung 35.000 quân, 700 xe tăng, xe ủi đất và hàng trăm lượt máy bay bỏ bom, hàng ngàn lượt pháo nhằm xóa trắng căn cứ Nam Bến Cát. Lúc đó anh Ba Hội đang ở Sài Gòn, anh Bảy Anh không có mặt nên tất cả nhiệm vụ tại căn cứ, Nguyễn Văn Thương phải gánh. Ngoài chuyện bảo vệ cơ quan mình, anh còn được lệnh phải báo cáo tình hình từng ngày.

Những ngày đầu của trận càn quy mô lớn có tên Cedar Fall, hầu như tất thảy mọi người trong hầm đều bị chảy máu lỗ tai do sức ép của bom. Những ngày sau đó, địch thả bom na-pan đốt cháy tất cả những gì hiện hữu. Nằm dưới hầm mà nóng đến độ phồng da, nước tiểu cũng không còn để uống, đói vàng mắt nhưng hầu như không ai có thể chui lên mặt đất. Chỉ đến khi anh em tiếp tục khoét sâu hơn nữa vào lòng đất, chui xuống thì mới không bị chết cháy.

Đến ngày thứ 16 Mỹ bắt đầu hút nước từ sông Sài Gòn lên bơm vào địa đạo. Anh em trong đơn vị chia khúc địa đạo, lấp kín hết các ngách và tập trung vào ngăn giữa, nơi mà cả hai đầu đều được bịt kín. Nhờ vậy mà thoát chết. Địch thả khí độc vào địa đạo, tất thảy mọi người đều im lặng đắp khăn ướt, úp mặt xuống đất nên tuy có bị chảy máu mũi nhưng cũng không ai hy sinh.

Họ dùng mìn tự tạo, 6 trái mìn định hướng ĐH10 được trang bị sẵn, Thương trèo lên ngọn cây, cột mìn lên theo hướng cho nổ hắt lên cao… Chiều hôm sau, một chiếc trực thăng chở đồ tiếp tế thả xuống đất, quả mìn nổ tung máy bay và làm chết nhiều lính Mỹ đang nhặt đồ hộp phía dưới. Đồng đội của Thương gài 5 quả, nổ hết 4, diệt 4 xe tăng.  Riêng các loại mìn tự tạo cũng tiêu diệt thêm 12 xe ủi đất và bọc thép của giặc.

Trận đánh đáng nhớ nhất là tiêu diệt toàn bộ 1 trung đội Mỹ đang tập kết chuẩn bị xăm hầm. Đêm đó, Thương và hai đồng chí trinh sát khác cởi trần, mình trét bùn sình như đặc công, bò tiếp cận trung đội Mỹ đang ăn uống. Họ cài 3 trái mìn ĐH10 ở ba phía rồi bò lui ra. Thương bắn thẳng một phát B40 vào đội hình địch, chúng nhốn nháo chạy tán loạn, đồng đội chập điện cho nổ liên tiếp mìn định hướng, toàn bộ lính Mỹ nằm rạp chết. Để chắc ăn, anh bồi thêm một phát B40 nữa rồi mới cùng đồng đội thu gom vũ khí, lương thực của chúng, chui xuống hầm an toàn.

Tuy nhiên dù có bảo toàn được lực lượng nhưng đồng bào trong vùng bị càn cũng chết rất nhiều vì bom đạn.

Đến ngày thứ 26 của trận càn thì Thương được lệnh quay về ấp chiến lược để nhận chỉ đạo. Vượt làn đạn hiểm nguy, băng qua sông Sài Gòn để vào phía nam huyện Củ Chi, Thương giả dạng dân cày chui vào ấp chiến lược Mỹ Phước nhận lệnh. Ngay trong ngày hôm đó, Thương lại phải quay về vì cấp trên lệnh: "Nguyễn Văn Thương chỉ huy đưa hết toàn bộ lực lượng cách mạng trong vùng bị càn, vượt sông về vùng giải phóng ở phía bắc Củ Chi để tránh tổn thất"…

Công việc dọn đường, tạo ám hiệu, bố trí bến đón, dự trù thực phẩm, trinh sát để đưa 175 cán bộ vượt sông Sài Gòn, chiếm mất một tuần lễ.  Thương phân công cắt  đặt kỹ lưỡng và luôn có mặt trên từng chuyến xuồng qua - lại để chở hết 175 cán bộ sang sông một cách an toàn, không xảy ra bất kỳ sự cố gì. Xong việc, anh cười: "Giờ thì tụi Mỹ có càn tới ba năm cũng chỉ là cày xới đất cho chúng ta trồng khoai mì".

Qua trận càn, cấp trên tổng kết lại thấy A36 đã tiêu diệt 12 xe tăng, 5 máy bay lên thẳng (số liệu thể hiện trong hồ sơ đề nghị phong tặng danh  hiệu  Anh hùng LLVTND cho đồng chí Nguyễn Văn Thương) cùng với thành tích đưa 175 cán bộ quan trọng của ta rút lui an toàn nên trong đợt xét phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND năm ấy đã đề nghị đưa Nguyễn Văn Thương vào xem xét. Ngay cả ông Ba Quốc, sau giải phóng còn khen Thương: "Tớ ở trong nội thành mà cũng được chia thành tích với A36".

Cụm trưởng A36 là ông Ba Hội cùng các anh em sát cánh cùng Thương ở Nam Bến Cát đều nhất trí cao. Nhưng khi đưa ra chi bộ để bình xét, anh lại bị một đồng  chí khác phê: "Đồng chí Thương đã không bảo toàn được lực lượng đơn vị, để 2 đồng chí là Thơm, Mới phải hy sinh. Vậy là chưa hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ nên chưa thể phong anh hùng". Thương "cãi" rất hăng: "Tôi có trách nhiệm, nhưng trong chiến đấu, hy sinh  mất  mát là không tránh khỏi". Chi bộ A36 có 6 người, trừ Thương ra còn 5 thì có 4 phiếu ủng hộ Thương, 1 phiếu chống. Vài ngày sau, cấp trên nhận điện từ Chi bộ A36: "Đề nghị bồi dưỡng lại, để lần sau cho xứng đáng. Có công lao nhưng tính thanh niên nóng nảy, còn phải xem xét lại".

Suýt chết dưới hai làn đạn và đám cưới bí mật

Sau Mậu Thân, Thương nhận lệnh điều tra tình hình địch ở dọc quốc lộ 13. Do thông thuộc địa hình và có cơ sở trong ấp chiến lược Mỹ Phước, Thương bình tĩnh vận áo chim cò, quần ống loe cưỡi Honda phóng qua những đoàn xe tăng, xe bọc thép đậu dài trên quốc lộ. Sau  này, Nguyễn Văn Thương thừa nhận, ông  có phần  tự tin hơi quá, bởi luôn mang theo trong người tấm giấy thông hành đặc biệt (do cách mạng làm giả), dù  vẫn cố để không phải mang ra sử dụng. Ông biết rõ giá trị của tấm thẻ.  Đây là loại giấy đặc biệt được thay đổi 6 tháng một lần; rồi mỗi lần thay là một màu giấy khác nhau; trên giấy có mẫu vân tay, dán ảnh đóng mộc nổi và chữ ký có quy định màu mực riêng.

Khi đã ghi vào bộ nhớ tất cả các số liệu nắm được, Thương bị một toán lính chặn lại khám xét. Một tên trung úy bước đến. Ý nghĩ chợt lóe lên, Thương nghiêm giọng: "Tôi muốn gặp cấp trên của trung úy!". Liếc thấy thái độ ngần ngừ của hắn, Thương phủ đầu: "Trung úy cứ đi cùng tôi, sẽ biết tôi là ai. Tôi chỉ được phép tiết lộ bao nhiêu đó thôi, cũng mất hết 10 phút quý báu của tôi rồi". Tên trung úy hơi bối rối nhưng vẫn quay ra sau ra lệnh: "Thằng Tám, thằng Năm đi theo tao, súng lên đạn sẵn nghe chưa". Rất lo, nhưng Thương vẫn  giữ được thái độ bình tĩnh trong thế ung dung tự tại.

Cửa phòng chỉ huy bật mở, đứng trước tên trung tá đeo kính cận Thương cố ý tạo ánh mắt e ngại nhìn sang tên trung úy. Tên trung tá cũng nhận ra điều này nhưng hắn vẫn e ngại phải nói chuyện một mình nên khoát tay: "Có việc gì, anh cứ nói, trung úy đây là người rất biết giữ kín miệng". Thương vẫn im lặng trình tấm thẻ "Đại úy Ngọc, đặc phái viên của CIA". Đây là lần đầu tiên Thương phải mang ra sử dụng.

Để thời gian đủ ngấm, Thương mới nói gọn: "Nghề nghiệp không cho phép tôi ba hoa, đây là tình thế bắt buộc". Tên trung tá lập tức xua cấp dưới ra ngoài, hắn đổi thái độ: "Trời, xin lỗi đại úy Ngọc, đại úy uống nước gì, giờ đại úy cần gì?". Thương diễn đoạn chót cho tròn vai: "Thôi, đừng gọi tôi là đại úy, tụi Việt Cộng chặt đầu tôi mất. Đang theo dõi một con Việt Cộng cái, bị lính của trung tá giữ lại, hụt mất mồi…".

Viên trung tá rối rít xin lỗi và gọi  lính bày tiệc thết đãi "đại úy Ngọc". Rượu vào lời ra, Thương và tên trung tá tên Huy ấy cùng thao thao bất tuyệt về những chiến tích giết Việt Cộng, về những mối quan hệ rộng lớn của cả hai bên. Trung tá Huy hứng chí mang máy hình ra xin chụp kỷ niệm vài pô. Không nề hà chi với "huynh đệ", "đại úy Ngọc" lựa thế để cả hai đứng tựa lưng vào…. tấm bản đồ quân sự treo tường với các dấu đỏ đánh chi chít dọc quốc lộ 13, "lè nhè kêu đám lính kiểng bấm hàng chục kiểu.

Trong khi Huy đi vệ sinh, "đại úy Ngọc" giả vờ săm soi chiếc máy ảnh, nhanh tay bật nắp lộ sáng làm hỏng phim rồi sập nắp máy lại như cũ. Tất cả chỉ diễn ra trong vòng mấy giây. Sau này, địch có nghi ngờ kiểm tra lại, tên sĩ quan trực tiếp bấm máy chụp hình sẽ bị "xạc" vì tội làm hỏng phim, trong khi Nguyễn Văn Thương thì có thể yên tâm vì không bị địch lưu lại hình ảnh.


Tiêu đề: Re: Tình báo VN trong KCCM
Gửi bởi: Mig21Bis_1 trong 29 Tháng Mười Một, 2011, 12:46:34 am
Những chiến công chưa kể của người thương binh anh hùng (Tiếp theo)


Cấp ủy cũng chưa biết phải giải quyết sao cho vẹn tròn. Chả lẽ cứ là giao thông viên, tình báo viên là không được cưới hỏi? Nhưng khó, cả hai chúng tôi đều cùng ngành tình báo, lại ở hai hệ thống khác nhau. Nếu sau này một người bị bắt, sẽ dễ đổ vỡ cả hai đường dây thì quá nguy hiểm" - Nguyễn Văn Thương nhớ lại phút cam go.

Suýt chết dưới hai làn đạn và đám cưới bí mật

Đường dây giao thông của A36 lúc này có khi phải qua vùng của ta, vùng của địch, vùng xôi đậu, vùng bán hợp pháp, hợp pháp… nên Thương phải thay đổi hình dạng rất nhiều lần từ một anh lính cho đến tay lái buôn, khi thì đi xe đò, lúc lại cuốc bộ. Một lần, tại chợ Đồng Xoài, Thương bị một tốp du kích cải trang bí mật kè súng giải đi. Đến quãng vắng, tốp du kích quật ngã Thương và lục soát. Một người la lên: "Nghi đâu trúng phóc đó. Nó là thám báo của CIA nè, đại úy Ngọc nè, hết chối nha con". Thương bị giải sâu vào vùng giải phóng. "Tên thám báo" bị trói vào gốc cây mít, "tang chứng vật chứng" gồm thẻ căn cước, thẻ đặc phái viên CIA, hình tổng thống, tiền USD và cả một lá cờ ba sọc nho nhỏ bày ra trước mặt.

Một anh du kích phán: "Hôm nay, chúng ta tử hình tên CIA nguy hiểm này!". Óc Thương căng như dây đàn. Trong giây phút hiểm nghèo đó, Thương chợt nhớ đến vị chỉ huy trinh sát chuyên đánh thám báo trong vùng, cổ họng Thương bật lên: "Tư Minh, cho tôi gặp ổng, tôi sẽ khai hết". Tiếng người du kích: "Đúng là CIA, nó biết tất cả tên chỉ huy của mình. May mà bắt được mày, không thì tụi tao ăn bom tọa độ do mày chỉ điểm rồi".

Nhưng rồi ý thức trách nhiệm của tốp du kích vẫn thắng. Họ giải Thương đến một tiệm may trong ngõ vắng, gõ cửa. Người đàn ông có tên Tư Minh soi ngọn đèn dầu nhìn kỹ mặt "đại úy Ngọc", xong nói: "Ờ, tôi biết mặt thằng này ở Bình Dương, thôi cởi trói…". Quay sang Thương, Tư Minh nói nhỏ: "May mà mày khôn khéo để tụi nó dong về, không thì tai hại biết cỡ nào!". Hú hồn!

(http://antg.cand.com.vn/Uploaded_ANTG/honghai/28_dai1081-400.jpg)
Đại tướng Lê Văn Dũng (người thứ hai từ trái qua) và lãnh đạo Bộ Quốc phòng thăm gia đình đồng chí Nguyễn Văn Thương.

Nhiều lần đi công tác ghé ngang Phú Hòa Đông (Củ Chi), Thương hay ghé xin nước uống, cơm ăn tại nhà má Hai Kiều (vợ liệt sĩ) và để ý thương Hai Em, con gái má Hai Kiều. Má Hai Kiều cũng chỉ biết Thương làm cách mạng, chứ không rõ Thương làm nhiệm vụ gì. Còn Thương do nhiệm vụ bí mật và do… muốn cưới Hai Em, nên có lần đã theo dõi và biết Hai Em đang làm giao thông tình báo hệ địch vận.

Sau khi trình bày xong lý lịch của Hai Em cho "đàng trai", thì gặp trở ngại phía "đàng gái", lý do: "Chúng tôi tốn biết bao công sức mới gây dựng được một giao thông viên, nay gả cho phía các đồng chí rồi sẽ mất người". Phía "đàng trai" cam đoan: "Cưới xong sẽ không rút người của địch vận". Tuy nhiên "đàng gái" sau một thời gian xem xét lại nêu lý do mới rất chí lý: "Hai Em là gái chưa chồng. Nếu tổ chức cưới xin, bọn tề ấp điều tra gốc tích làm ảnh hưởng đến công việc phía "đàng trai" thì sao?"…

Nguyễn Văn Thương nhớ lại phút cam go: "Cấp ủy cũng chưa biết phải giải quyết sao cho vẹn tròn. Chả lẽ cứ là giao thông viên, tình báo viên là không được cưới hỏi? Nhưng khó, cả hai chúng tôi đều cùng ngành tình báo, lại ở hai hệ thống khác nhau. Nếu sau này một người bị bắt, sẽ dễ đổ vỡ cả hai đường dây thì  quá nguy hiểm". Buồn quá không biết  giải quyết thế nào, anh gặp người yêu thổ lộ một cách rất vụng về: "Cô Hai, cô có thương tôi thì cô ừ một tiếng". Không ngờ Hai Em nói như khóc: "Em… ưng". Hạnh phúc quá, quyết xin cấp trên cho cưới bí mật.

Ngày cưới được chọn trùng với một ngày giỗ trong nhà để che mắt địch. Đơn vị của Thương gom góp tiền mua tặng cô dâu đôi bông tai. Hai Em bán con heo đánh được cặp nhẫn cưới. Phần Thương… chẳng có gì. Một năm sau, Hai Em cấn thai. Má Hai Kiều nói: "Hai Em, mày mời một lính ngụy đến nhà chơi, uống nước để cho chòm xóm thấy. Rồi má lu loa lên, đe nẹt mày để mày thú nhận dại dột mà có thai với thằng đó". Hai Em khóc: "Hổng được má ơi, bạn bè sẽ khinh con hư đốn quan hệ với ác ôn". Má Hai Kiều mạnh miệng: "Cái vụ này cả nhà làm chứng cho mày, thằng Tư Thương biết là đủ rồi, tổ chức biết là đủ rồi"… Liêm, con  trai đầu lòng của Nguyễn Văn Thương, vì thế đã phải mang họ mẹ!

Bắt tình báo CIA trên đôi chân giả

Ngày 10/2/1969, Nguyễn Văn Thương bị bắt khi trên đường đi công tác. Nhưng ông vẫn kịp thời hủy tài liệu  và chiến đấu đến hết đạn, hạ trên 20 lính Mỹ. Rủi thay, một tên chiêu hồi đã biết mặt Thương nên CIA quyết tâm khai thác lời khai của ông bằng mọi cách, kể cả dùng tiền, gái đẹp, chức vụ… Không khuất phục được Thương, bọn chúng ra lệnh cưa chân ông trong 6 lần làm cả hai chân của người tình báo cụt gần đến háng. Đến ngày 14/2/1973, giặc mới trao trả tù binh và sau đó Nguyễn Văn Thương được đưa đi an dưỡng. Sau khi bình phục và ngay khi miền Nam được giải phóng, Nguyễn Văn Thương lại vào trận trên đôi chân giả!

Sau những ngày tháng 4/1975, Nguyễn Văn Thương lại có mặt trong đoàn cán bộ quân quản, trực tiếp gặp  hỏi cung đám tay sai của CIA còn sót lại không kịp di tản. Anh gặp lại thiếu tá Xuân, đối thủ cũ. Cách đấy 4 năm, cũng tại căn phòng này, Xuân đã từng hầm hè a dua quan thầy cưa chân người tình báo mà hắn biết chắc là Nguyễn Văn Thương…

Với ý đồ tâng công chuộc tội, Xuân khai rành mạch: "Cách đây 3 tháng, nhận thấy Sài Gòn sắp thất thủ, CIA đã cài đại tá Bách (bí danh Nhạn Bạch) ra đảo đợi thời cơ để tung biệt kích vào đất liền. Tôi có dịp tháp tùng trung tướng  Nguyễn Khắc Bình ra đảo nên nhớ rõ vị trí, ám hiệu liên lạc…". Nắm được mọi diễn biến, nhất là rất rõ tên Bách vốn là kẻ từng tham gia hỏi cung mình, Nguyễn Văn Thương quyết tâm xông trận. Sau khi báo cáo tình hình và được đồng ý, Thương chỉ huy 2 tiểu đội công an vũ trang đi trên 2 tàu (ngụy trang tàu thành tàu cá) xuất phát từ sông Sài Gòn vào ban đêm để giữ bí mật…

… 9h sáng thì hai chiếc tàu đã đến Mũi Cà Mau. Từ đây, họ đi thêm gần 100km nữa thì tấp vào một hòn đảo nằm giữa biển Hà Tiên và Rạch Giá. Neo một thời gian thì qua ống nhòm, Thương và tên Xuân đã nhận ra ám hiệu an toàn trên một chiếc ghe mục. 2h chiều, mọi người chuẩn bị lên đảo. Một bóng áo cà sa vàng xuất hiện ở lưng chừng núi, Xuân giải thích: "Trước đây, CIA đã bí mật thủ tiêu các vị sư sãi đang tu trong ngôi chùa nhỏ trên núi, chiếm dụng chùa và cho người cải trang. Hiện nay Nhạn Bạch đang đợi tướng Nguyễn Khắc Bình và tôi để nắm tình hình tiếp tục tổ chức đánh phá cách mạng…".

Thương nhận rõ tên CIA đầu cạo trọc, áo cà sa quàng để hở một bên vai trần đúng phong cách Phật giáo Tiểu thừa Khmer. Hắn đang ngờ ngợ nhìn thiếu tá Xuân thì Xuân và Sơn (trung úy  công an của ta) bước đến, chào theo đúng kiểu nhà binh rồi nghiêm giọng: "Thiếu tá Xuân đây, chú mày lên bẩm đại tá có tao đến".

Khi tên đội lốt nhà sư vừa khuất vào trong chùa, Sơn ra dấu để Thương chỉ đạo anh em công an tỏa lên bờ chiếm các vị trí xung yếu.  Một lúc sau, tên canh chừng đưa tay vẫy, thiếu tá Xuân và Sơn đi lên theo bậc tam cấp. Phía trên bậc thềm trước chánh điện, đã thấy tên Nhạn Bạch mặc jean cởi trần, hai bên hông đeo 2 khẩu súng xề xệ y như cao bồi. Nhận ra Xuân, tên Nhạn Bạch cười ha hả: "Dù bằng đường biển à, ông tướng sao rồi?” (ý hỏi tướng Nguyễn Khắc Bình). Xuân bình tĩnh đáp theo đúng kịch bản của Thương dựng sẵn: "Ổng bị say sóng, mệt quá nằm dưới tàu. Ổng dặn đại tá xuống tàu để bàn bạc cho nhanh rồi ổng còn ra hải phận quốc tế cho kịp cuộc hẹn với Thái Lan".

Tên Nhạn Bạch không mảy may nghi ngờ theo chân Xuân và Sơn  xuống tàu.  Trong lúc Xuân lùi lại mấy bước thì Sơn cùng hai chiến sĩ công an khác ập vào tước ngay 2 khẩu súng của Nhạn Bạch, còng tay hắn ra sau chỉ trong tích tắc. Hắn há hốc mồm chưa kịp định thần thì Nguyễn Văn Thương bước ra trên đôi chân giả và cặp nạng gỗ!

Năm 1978, Chuẩn úy Nguyễn Văn Thương vinh dự được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND. Ai cũng nghĩ rằng đấy là phần thưởng do tinh thần thà hy sinh chứ không khai báo mạng lưới tình báo để rồi bị cưa chân của Nguyễn Văn Thương. Ít ai rõ những chiến công thầm lặng khác của người tình báo anh hùng này, bởi nhiều lý do khác nhau. Song dù sao trong mắt thế hệ trẻ hôm nay, tấm gương Nguyễn Văn Thương vẫn rất cần được sẻ chia, thấu hiểu và tôn vinh đúng với những chiến công  mà ông đã phấn đấu và giành được!


Tiêu đề: Re: Tình báo VN trong KCCM
Gửi bởi: Mig21Bis_1 trong 01 Tháng Mười Hai, 2011, 10:13:36 pm
Đám cưới dưới hầm bí mật


"Chuyện đã cách nay trên 4 thập niên. Nói chính xác là 41 năm tính tới thời điểm tôi ngồi viết những dòng này. Tại mật khu "C" giữa rừng Bời Lời xơ xác. Chàng rể là Vũ Minh Lĩnh, Đài trưởng VTĐ (vô tuyến điện). Quê ở Kim Bảng - Hà Nam. Cô dâu là Nguyễn Thị Hoa, nhân viên cơ công (thợ sửa chữa vô tuyến điện). Quê ở Tân Trụ - Long An. Cả hai đều công tác tại H67 (Cụm Tình báo Chiến lược, thuộc Đoàn J22 Cục Tình báo (Cục 2), nay là Tổng cục 2, Bộ Quốc phòng".

Kênh liên lạc ưu việt

Giữa năm 1969, tôi được cấp trên điều từ cụm B49, căn cứ đóng quân ở khu vực Bến Chùa thuộc Bến Cát - Bình Dương về công tác tại H67 thì Lĩnh và Hoa đã có thâm niên bám trụ tại mật khu "C" tới mấy mùa lá rụng.

Sau tết Mậu Thân, địch phản kích mãnh liệt trên toàn chiến trường miền Nam. Nếu chiến trường Đông và Tây Bắc Sài Gòn là trọng điểm tấn công hủy diệt của địch, thì rừng Bời Lời trở thành vùng trọng điểm của trọng điểm. Không ngày nào là không có càn quét, bom đạn, xe ủi cày bới, xe tăng chà xát, cả cánh rừng mênh mông biến thành một nông trường đất đỏ. Mọi sinh vật đều không thể tồn tại trên mặt đất. Tất cả đều phải sống theo hình thức "độn thổ". Mọi sinh hoạt, ăn, ngủ, làm việc đều ở dưới hầm. Mỗi bộ phận công tác phải xây dựng hầm ở và làm việc riêng, phân tán nhiều hướng theo kế hoạch bố phòng phục vụ bám trụ và phối hợp chiến đấu khi giặc càn tới.

Theo yêu cầu nhiệm vụ, H67 phải bám trụ tại mật khu "C" để giữ liên lạc với cấp trên, vì tất cả các cụm tình báo thuộc J22 đang trong thời điểm phải chuyển căn cứ bám trụ khỏi địa bàn Đông và Tây Bắc Sài Gòn để bảo toàn lực lượng. Hầu hết tin tức quan trọng từ các lưới điệp báo nội thành đều thông qua bộ phận Vô tuyến điện (VTĐ) của H67 để báo cáo về trung tâm. Vì vậy, các phiên liên lạc của bộ phận điện đài đã phải tăng thời lượng gấp hai, ba lần.

Nghề tình báo, công tác thông tin liên lạc giữ vị trí cực kỳ quan trọng. Báo cáo gửi về trung tâm được thực hiện bằng nhiều hình thức: chuyển giao trực tiếp, qua "hộp thư chết" (địa điểm bí mật giấu tài liệu), qua điện đài… Song, hình thức thông tin qua điện đài là ưu việt nhất. Nó đảm bảo thời gian nhanh nhất, bí mật nhất, an toàn nhất, bởi mỗi bức điện được phát lên không trung đều thông qua mã hóa của bộ phận cơ yếu. Vì vậy, có thể nói 100% các bức điện được phát lên không trung đối phương đều thu được hết, nhưng họ mù tịt nội dung. Đó là chiến công tuyệt vời của ngành cơ yếu Việt Nam.

Tuy nhiên, liên lạc qua VTĐ có cái nhược điểm cơ bản của nó là dễ lộ địa điểm phát sóng. Chỉ cần thông qua phương pháp giao hội 3 điểm là đối phương có thể xác định được nơi đặt đài phát. Nếu hoạt động trong lòng địch, địa điểm đặt máy sẽ bị phong tỏa, bị bắt tức thì; nếu ở vùng căn cứ, sẽ bị phi pháo hủy diệt.

Bản tin tối khẩn

Mười năm công tác ở chiến trường "B". Có một thời gian rất dài tôi đảm nhiệm công tác cơ yếu và tổng hợp báo cáo của các lưới điệp báo nội thành, nên rất rành về độ khẩn của các bức điện. Nó được quy định thành 3 chế độ: khẩn, thượng khẩn và tối khẩn. Những bức điện có chỉ định chế độ tối khẩn thì bằng mọi giá, bộ phận VTĐ phải phát đi ở phiên liên lạc gần nhất với thời gian nhanh nhất. Những phiên liên lạc như thế, anh em trinh sát phải đảm nhận trách nhiệm theo dõi máy bay trinh thám của địch nhằm chống kế hoạch giao hội mục tiêu; nhân viên cơ công phải túc trực cùng hiệu thính viên, đề phòng trục trặc kỹ thuật là sửa ngay. Vì vậy, anh em thường đùa vui "điện đài gắn bó với cơ công như bóng với hình" là vậy!

Lần ấy, có một báo cáo ngắn nhưng hàm chứa nội dung rất quan trọng của một cán bộ nội thành, ký bí danh là Hai Trung (người của đơn vị bạn). Cụm trưởng Bảy Vĩnh đã chỉ đạo chế độ tối khẩn. Ông còn chua thêm "phải lên sóng với thời gian sớm nhất". Bộ phận cơ yếu đã mã hóa thành 5 bức điện, mỗi bức chừng 100 nhóm điện. Giờ liên lạc vào 10 giờ đêm. Đúng vào cái đêm pháo địch từ các cứ điểm Chà Rầy, Đồng Dù… thay phiên nhau dội tới, dấu hiệu của một trận càn lớn sẽ diễn ra vào ngày hôm sau. Bầu trời mật khu không mấy lúc ngớt tiếng máy bay trinh thám, thành thử có 5 bức điện mà nhịp ma níp của Vũ Minh Lĩnh phải ngừng tới mấy chục lần.

Sang tới bức điện cuối cùng thì sự cố xảy ra, máy mất tín hiệu. Cơ công Nguyễn Thị Hoa mày mò tìm mãi mà không ra "bệnh lý". Bỗng dưng Vũ Minh Lĩnh vọt lên khỏi miệng hầm trong lúc pháo địch vẫn nổ ì ầm trên đó. Mọi người ngơ ngác nhìn theo mà không kịp ngăn cản. Mấy phút sau Lĩnh trở lại, đầu tóc đầy bụi đất, nhe răng cười: "Nó xơi tái cái cột ăng ten. Nếu không… thì có mà đến tết cũng không liên lạc được". Nhịp ma níp lại vang lên cho tới nhóm điện cuối cùng.

(http://antg.cand.com.vn/Uploaded_ANTG/hientk1/8_dam_a11-450.jpg)
Đài trưởng Vũ Minh Lĩnh, hàng đứng (bìa trái) và tác giả, hàng ngồi (giữa).

Tình huống bất ngờ

Cuối tháng 12 năm đó, đơn vị nhận được chỉ thị của J22: "Các đơn vị đã hoàn thành nhiệm vụ di chuyển căn cứ khỏi vùng trọng điểm. H67 nhanh chóng chuyển căn cứ bám trụ về Bến Tre. Địa điểm cụ thể do đơn vị tự quyết định sau khi đã khảo sát địa hình. Đường chuyển quân rất khó khăn, phức tạp, cần chọn những đồng chí sức khỏe tốt, biết bơi lội, số còn lại chuyển anh em về "R" nhận nhiệm vụ mới… Toàn đơn vị với quân số gần 20 người (trừ số giao thông viên hợp pháp và cán bộ nội thành). Cấp ủy và lãnh đạo cụm họp gấp bàn về nhân sự. Hầu hết nằm trong danh sách về địa bàn mới, số về "R" chỉ 3-4 người, trong đó có cơ công Nguyễn Thị Hoa. Sau khi công bố danh sách, người đi thì vui mừng, hồ hởi, còn người chuyển về "R" thì vẻ mặt buồn thiu. Nói thế, nhưng quan sát kỹ "đoàn hùng binh" tôi vẫn nhận ra một gương mặt có vẻ trầm tư, đó là Đài trưởng Vũ Minh Lĩnh.

Tôi đã có ý định gặp riêng để tìm hiểu tâm tư đồng đội, thì tối hôm đó Lĩnh sang hầm tôi. Phải đắn đo lâu lắm cu cậu mới cất thành lời: “Có một việc em xin ý kiến anh… thú thực, em và Hoa yêu nhau… vì chia tay đột ngột quá nên chúng em muốn được công khai việc này trước đơn vị. Nhờ anh nói giúp với chú Bảy cụm trưởng” - “Cha!... vậy mà giữ kín thế. Nói với ông Bảy thì dễ ợt. Quan trọng là các cậu định công khai như thế nào?”...

Lặng im giây phút, Lĩnh lại rủ rỉ: "Đơn vị chỉ có mấy anh em miền Bắc, em coi anh như anh cả, nên như thế nào nhờ anh tính giúp".

Sáng sớm hôm sau tôi gặp Cụm trưởng Bảy Vĩnh ngay. Tôi vừa dứt lời, thì ông khẽ cười rồi phán luôn: "Chúng nó đã yêu nhau thì trước khi chia tay cho tổ chức cưới luôn. Đánh Mỹ lâu dài, đời cha đánh chưa xong thì đời con, đời cháu đánh tiếp".

Tôi ngỡ ngàng nhìn cụm trưởng: "Anh Bảy nói tổ chức cưới ngay ở đây?" - "Chứ sao! Cần chi phải cầu kỳ. Nói thế, nhưng cũng phải chu đáo một chút để chúng nó đỡ tủi thân. Việc này tôi giao đồng chí tổ chức thực hiện".

Quả là một tình huống quá bất ngờ. Một cuộc họp đột xuất giữa các bộ phận công tác và Đoàn thanh niên. Khi được thông báo tin này, anh em rất vui và nhất trí với phương án mỗi người ủng hộ một tháng phụ cấp tiêu vặt để mua quà tặng cô dâu. Phụ cấp bình quân mỗi người chỉ có mấy chục đồng tiền Sài Gòn lúc đó, tương đương với mấy chục ngàn bây giờ. Ấy vậy mà cũng đủ mua được một đôi hoa tai tới một chỉ rưỡi (1,5 chỉ) vàng 24 kara hẳn hoi. Vì vàng thời đó rất rẻ. Tiền còn lại cộng với đơn vị tặng một ít cũng đủ mua mấy gói bánh quy, mấy gói kẹo, mấy gói thuốc ruby và một ít chè… Nghĩa là đủ lễ bộ một đám cưới đời sống mới. Việc này cụm trưởng giao cho chị Tư Chiến, giao thông viên hợp pháp thực hiện.

Đám cưới của họ được tổ chức vào tối hôm sau, ở ngay dưới hầm "hội trường" của đơn vị. Đó là căn hầm bí mật được xây dựng rộng rãi, đủ sức chứa cho gần 20 người. Bàn ghế được bện bằng cây rừng và trải áo đi mưa lên trên. Bánh kẹo bày luôn xuống mặt bàn, bởi làm gì có đĩa. Chè (trà) pha luôn vào nồi nấu cơm, rồi múc ra bát ăn cơm của mỗi người. Cái khó nhất của công tác tổ chức lúc ấy là việc trang trí phòng cưới. Nhất định là phải có khẩu hiệu dán hai bên vách hầm và phải có bình hoa. Cái khoản khẩu hiệu, tiếng thế nhưng cũng không khó lắm, chỉ cần mấy tờ giấy màu và mấy viên phấn trắng là xong. Việc này cũng giao cho bộ phận giao thông đảm nhiệm.

Tôi nhận phần viết khẩu hiệu. Thực tình cái khoản viết phăngtêdy trên giấy khổ to tôi trình bày "hơi bị được". Sau khi ghim hai khẩu hiệu lên vách hầm, một bên là "Vui duyên mới không quên nhiệm vụ"; và một bên bằng hai câu lục bát: "Lĩnh Hoa xây dựng gia đình - Vui trong duyên mới thắm tình Bắc Nam". Ngắm hai khẩu hiệu, mọi người đều tấm tắc khen, có người còn bốc lên đậm màu hài hước: "Đẹp, đẹp thiệt. Sau này đất nước hòa bình, anh Ba chỉ cần đi viết khẩu hiệu thuê cho các đám cưới cũng đủ sống…".

Cái nhiêu khê nhất còn lại, đó là bình hoa cưới. Đào đâu ra hoa giữa cánh rừng xơ xác bởi đạn bom của địch hủy diệt tới bao lần. Cũng may, chiều hôm ấy là một buổi chiều yên tĩnh, không có bom, pháo. Anh em bung ra nhiều hướng để tìm hoa, với tinh thần gặp hoa gì cũng hái, kể cả hoa mua. Sau hơn  một giờ tìm kiếm, anh em đem về được mấy bó hoa, nhưng toàn là hoa mua.  Rất mừng là cánh về sau cùng lại vớ được mấy cành mai nhỏ, loại mai nở sớm. Có lẽ đó là những cành mai may mắn còn sót lại ở rừng mật khu.

Tuần trăng mật của họ vẻn vẹn có 2 ngày. Tới ngày thứ 3, đúng chuyến giao liên, cô dâu Nguyễn Thị Hoa lên đường về "R" và cách một ngày sau đó, chúng tôi, cố nhiên là có cả chú rể Vũ Minh Lĩnh từ biệt rừng mật khu, từ biệt chiến trường miền Đông Nam Bộ về địa bàn mới, vùng sông nước Bến Tre, xa xôi tít tắp.

Bao năm gắn bó với chiến trường miền Nam, trong ký ức tôi đã hằn sâu bao kỷ niệm, trong đó có kỷ niệm về đám cưới của  đồng đội tôi ngày ấy.

Bây giờ, sống giữa phố thị phồn hoa, giữa cảnh đất nước thanh bình, tôi từng tham dự hàng trăm đám cưới ở nhiều nhà hàng, hội trường, khách sạn sang trọng, ở cái thời người ta đua nhau chạy theo mốt cưới, với dẫy đầy sự xa hoa, lãng phí, có những lúc trong tiệc vui mà tôi như kẻ mộng du, thả hồn về nơi phương trời xa lắc để nhớ về đồng đội mình, nhớ về những đám cưới nơi chiến trường máu lửa.

Nguồn: http://antg.cand.com.vn/vi-vn/tulieu/2011/1/74405.cand

PS: Giữa gian khó, nguy hiểm những người lính tình báo vẫn có những giây phút lãng mạng và hạnh phúc.



Tiêu đề: Re: Tình báo VN trong KCCM
Gửi bởi: Mig21Bis_1 trong 02 Tháng Mười Hai, 2011, 01:20:50 am
Chuyện về hai nguồn tin tình báo 38 năm trước


Tôi muốn nhắc tới hai bản tin của các cơ sở tình báo thuộc H67 (Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang) trực thuộc J22 – Cục Nghiên cứu Bộ Tổng tham mưu (nay là Tổng cục II, Bộ Quốc phòng). Cả hai bản tin ấy đều xuất hiện vào những ngày tháng 10 cách đây vừa tròn 38 năm. Nhắc tới nó để tôi có dịp nhớ tới người thủ trưởng cũ của mình, người anh, người thầy mà tôi vô cùng kính trọng, ngưỡng mộ. Đó là Anh hùng tình báo Lê Văn Vĩnh (Bảy Vĩnh).

(http://antg.cand.com.vn/Uploaded_ANTG/honghai/hong%20hai2/28_anh799.jpg)
Anh hùng Lê Văn Vĩnh.

Mười năm công tác ở chiến trường miền Nam, tôi đã thuyên chuyển nhiều đơn vị. Nhưng cái “bến đỗ” lâu nhất là H67. Nói con số tròn là 5 năm 4 tháng. Trừ con số lẻ 4 tháng ra, ấy là thời gian tôi không được sống gần ông, với lý do: Ông về Miền họp và những chuyến đi bí mật vào nội thành. 5 năm với 1.825 ngày đều được sát cánh bên ông từ mật khu Bời Lời thuộc miền Đông tới quê dừa Đồng Khởi - Bến Tre  thuộc miền Trung Nam Bộ. Kỷ niệm đầy ắp về ông. Ấy vậy mà chưa viết  được cái gì cho ra tấm ra món về con người mình ngưỡng mộ. Có chăng, nhờ đồng chí Trưởng ban Báo An ninh thế giới khích lệ tôi mới viết được một bài về ông.

Với gần năm nghìn chữ cho một bài viết phỏng nói được những gì trong quá trình 50 năm cuộc đời binh nghiệp của ông? Thực tình tôi mới đề cập được hai sự kiện nhỏ, đó là: Đôi dòng ký ức của ông và hai chuyến công tác vào vùng địch hậu trực tiếp điều tra, nghiên cứu một số mục tiêu trọng điểm phục vụ cho cuộc tổng tấn công và nổi dậy tết Mậu Thân (1968). Bao gồm: Tiểu khu Phước Long (tỉnh Phước Long); Một số mục tiêu quan trọng tại đô thành Sài Gòn: Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng tham mưu, Tổng nha Cảnh sát quốc gia, Nha Cảnh sát đô thành, sân bay Tân Sơn Nhất, Chi khu quân sự Hóc Môn... Vậy thôi, thế cũng là quá nhiều so với khuôn khổ một bài báo.

Và, cũng lại thực tình, đó là những sự kiện tôi đã nắm được đầy đủ, chi tiết từ thời đó. Còn biết bao huyền thoại về ông – Anh hùng tình báo Lê Văn Vĩnh – dẫu rằng có chừng ấy thời gian sống chết bên ông. Có những chuyện thật ly kỳ về nghiệp vụ. Biết đấy nhưng không đầy đủ, không chi tiết. Mà cái phần không ấy ví như phần chìm của tảng băng mà theo nguyên tắc nghề nghiệp tôi đâu dám hỏi. Tỉ như hai bản tin chưa được kiểm nghiệm nêu trên. Tất nhiên, cả hai sau này đã được thời gian và thực tế kiểm nghiệm. Bản tin đầu chỉ sau 6 tháng và bản tin sau lâu hơn, cỡ gần 2 năm sau đó. Nhưng nguồn gốc của hai báo cáo quan trọng ấy đối với tôi (người được ông giao trách nhiệm tổng hợp, sử dụng mã hóa, thông qua đường vô tuyến báo cáo về J22) thì cho đến nay vẫn là điều bí mật.

Chuyện xảy ra cách đây 38 năm. Tổ quốc hòa bình, Bắc - Nam thống nhất đã 33 năm. Nhiều chuyện thời chiến đã được giải mật. Vì vậy, đầu năm nay tôi điện thăm ông và hẹn sẽ tranh thủ vào trong đó tham gia ý kiến với ông về cuốn lịch sử truyền thống đơn vị. Tất nhiên có việc liên quan tới hai bản tin trên. Ông tỏ vẻ rất mừng và hẹn: “Thế thì hay lắm. Chờ khánh thành cầu Rạch Miễu, Thái Dương tranh thủ vô ta tổ chức thăm Bến Tre. Sức khỏe tôi năm nay hơi bết. Già rồi. Tám mươi lăm tuổi ta rồi còn gì nữa (ông sinh năm Giáp Tý - 1924)”. Rồi ông thông báo cho tôi một lô xích xông thông tin về anh em H67: Những Năm Tuyến, Tám Thanh, Năm Phương (3 cụm phó) hiện nay ở đâu, tới anh em cán bộ, chiến sĩ như: Cần, Nhiên, Thi lấy vợ tại căn cứ An Phước, Lĩnh và Hoa - “Ba Dương nhớ không – đám cưới hai đứa ở rừng Bời Lời. Tổ chức dưới hầm đó” – sau này chuyển ngành hiện đang ở thành phố. Anh em Tâm và Trí, Tâm và Nguyện cũng vậy. Tư Lợi sau này chuyển ngành về Viện Kiểm sát Giồng Trôm. Tư Sơn thương binh về sống ở quê Giồng Trôm. Rồi tới Hiệp và Bé (chồng trinh sát địa bàn, vợ công tác giao thông hợp pháp) sau hòa bình phục viên về làm ăn sinh sống tại căn cứ cũ ở rừng Bời Lời, Tây Ninh. Nguyệt (con gái anh Sáu Trí – Trưởng J22) và bé Phượng chuyển ngành công tác tại thành phố.

Ông nhắc tên hầu hết anh chị em, những gia đình cơ sở của đơn vị ở An Phước; những anh chị em đã hy sinh thời đó, tới những gia đình cơ sở tại địa bàn. Đặc biệt là một địa chỉ ở Mỹ Tho - “Ba Dương còn nhớ thầy giáo ở Mỹ Tho không?”-“Dạ nhớ chứ. Ông Tám nhà 19 Trương Vĩnh Ký - quê gốc Giao Long Hòa, Bến Tre. Cả 3 cha con đều là cơ sở của H67”. “Ờ... giỏi! Nhớ giỏi đó. Ông Tám mất lâu rồi. Hai người con gái - Cô Tám và cô Mười sau này chuyển ngành, công tác tại Mỹ Tho...”. Rồi ông hỏi tới anh em quê miền Bắc đã từng công tác ở cụm”. Sáu Hóa hiện nay ra sao? Nghe nói cậu ấy có chí lắm. Thương binh vậy mà  học tới 2 bằng đại học; cậu Cấp quê ở Nghệ An, có tin tức gì không? Còn hai đứa nhỏ nữa, đó là thằng Út Thử và Ba Quyết. Lâu nay có gặp tụi nó không? Cho tôi gởi lời thăm tất cả anh em mình...”.

Ôi! Một con người tuyệt vời... ông đã làm sống lại trong tôi bao tình cảm cũ, bao kỷ niệm xưa. Tôi lại thêm mong mỏi sớm tới ngày cầu Rạch Miễu khánh thành để sắp xếp công việc vào trong đó tiếp kiến, hầu mong khai thác cái “kho tàng bí mật” ứ đầy trong ông.

Hà Nội, những ngày đầu tháng 10, cả thành phố nô nức chuẩn bị kỷ niệm 54 năm Ngày Giải phóng thủ đô. Không khí tưng bừng của ngày 10-10 lịch sử đã thôi thúc tôi cầm bút. Dự định sẽ phác thảo bài viết về 2 nguồn tin kể trên để khi vào trong đó gặp ông sẽ bổ sung những chi tiết chưa “giải mã”. Buổi tối, tôi vừa ngồi vào bàn viết thì nhận được nhiều cú điện thoại từ phía Nam báo ra. Ôi! Tin như sét đánh... “Chú Bảy Vĩnh đã qua đời. Tang lễ cử hành sáng 12/10” cả đêm đó tôi không sao ngủ được. Bần thần cả ngày hôm sau. Vì lý do sức khỏe bản thân và hoàn cảnh gia đình tôi không vào viếng ông được. Sáng nay (12/10) vào giờ phút đơn vị, địa phương, gia đình, anh em đồng đội trọng thể tổ chức lễ tang tiễn đưa ông về nơi yên nghỉ cuối cùng tại nghĩa trang thành phố. Tôi ngồi viết bài này, bài viết sẽ không đầy đủ, trọn vẹn. Thôi đành... nhớ sao viết vậy. Nó sẽ thay nén tâm hương để tôi vái vọng, tiễn ông vào giấc ngủ ngàn thu nơi chín suối.

(http://antg.cand.com.vn/Uploaded_ANTG/honghai/29_doan799-to.jpg)
Đoàn cán bộ H67 về thăm địa bàn cũ - Đầm Thuỷ Lợi Bana, Bến Tre.

Những cuộc chuyển quân bí mật

Vào một chiều tháng 10/1970, nữ giao thông viên Tư Chiến từ nội thành về căn cứ của đơn vị tại  ấp I, xã An Phước, Châu Thành, Bến Tre. Buổi tối, Cụm trưởng Bảy Vĩnh sang hầm làm việc của tôi. “Có một báo cáo rất hay của anh em cơ sở. Anh nghiên cứu rồi cho chuyển gấp về trên”. Ông đi rồi, tôi vội mở tài liệu ra đọc. Tài liệu ngắn gọn trong 2 trang viết tay. Nhận định về tình hình chiến sự. Thông tin cụ thể rất đơn giản nhưng phần dự báo thì quá “nặng đô”. Sự việc không phải ở chiến trường miền Đông Nam Bộ (vùng III chiến thuật) mà nó sẽ diễn ra ở tận vùng I chiến thuật mà chủ yếu tại khu vực đường 9 thuộc Hạ Lào.

Nội dung báo cáo tóm tắt như sau:

“...Có dấu hiệu quân đội quốc gia đang điều chỉnh lực lượng. Nhiều đơn vị bí mật chuyển ra miền Trung. Mấy đêm nay nhiều đoàn xe tải vận chuyển vũ khí; lương thực nhu yếu phẩm ra ngoài đó. Nhiều nguồn tin tin cậy nhận định sẽ có giao tranh lớn diễn ra vào mùa khô tới. Nhiều khả năng đó là khu vực Hạ Lào, dọc đường số 9. Các nhà hoạch định chiến lược quốc gia và đồng minh cho rằng muốn thực thi “chiến lược bình định ở Nam Việt Nam, bằng mọi giá phải ngăn chặn chi viện của quân đội Bắc Việt. Trước mắt, phải “bình định” đường 9. Bố trí binh lực dày đặc. Buộc các đoàn quân Bắc Việt chi viện miền Nam phải chấp nhận giao chiến tại đường 9, chỉ cần giữ “bức tường lửa” ấy trong 2 năm thì coi như hạ tầng cơ sở của Việt Cộng ở miền Nam sẽ tê liệt. Đảm bảo những tên du kích Việt Cộng sẽ không còn nổi một viên đạn súng trường”.

Sau ngày bản tin được chuyển đi, chúng tôi thắc thỏm đợi chờ cho tới một buổi chiều phải đến cỡ nửa năm, anh em bảo tôi “sang gấp hầm chú Bảy”. Tôi hồi hộp không hiểu có chuyện gì mà sếp triệu hồi gấp vậy. Tôi vừa bước xuống hầm, ông reo lên.

- A... Ba Dương đó hả! Nổ rồi... thắng to rồi!...

Tôi ngỡ ngàng – “Nổ ở đâu vậy anh? Có phải ta đánh...”.

Đánh ở đường 9. Thắng giòn giã. Lần đầu tiên ta bắt sống xe tăng địch. Bắt sống một đại tá chỉ  huy tên là Thọ.

Tất cả chúng tôi như nín thở lắng nghe bản tin thời sự trên đài. Giọng phát thanh viên sang sảng đang tường thuật trận đánh ở Làng Vây. Đó là một chiều tháng 4/1971. Sau 6 tháng bán tín, bán nghi, nỗi thắc thỏm đợi chờ của chúng tôi đã được giải tỏa.

Khổ nhục kế

Đó là một trong 36 kế trong “Binh pháp Tôn Tử” thời “Thất quốc tranh hùng” ở Trung Hoa xưa. Ấy vậy mà nó đã được kẻ thù vận dụng ngay trên chiến trường Việt Nam vào những năm 60-70 của thế kỷ trước.

Sau bản báo cáo của cơ sở bí mật “dự báo tình hình chiến sự miền Trung” được ít ngày thì đơn vị nhận tiếp một báo cáo có liên quan tới tình hình nội bộ của ta. Khác với lần trước, lần này Cụm trưởng Bảy Vĩnh sang hầm tôi với nét mặt trầm buồn. Tôi lo lắng hỏi ông về sức khỏe. Rất thương ông bởi trong cái thân hình mảnh khảnh của ông còn giấu cả những mảnh bom, mảnh pháo trong đó nên những ngày trở trời ông thường “khó ở”. Ông không trả lời câu hỏi của tôi mà như lẩm bẩm nói với riêng mình. “Kỳ lạ! Nếu đúng vậy thì tệ hại lắm, mà không đúng thì sao? Sẽ tội cho anh em mình...”.

Ông đưa cho tôi một trang giấy viết tay có bút phê của ông ở góc trên bên trái 2 chữ “THƯỢNG KHẨN”. Bản báo cáo từ nội thành gửi về chỉ phản ánh một sự việc:

...Lực lượng bí mật của quân lực “Việt Nam Cộng hòa” vừa bắt được một người. Chức vụ đại đội bậc trưởng, có lẽ thuộc lực lượng tình báo hoặc quân báo Việt Cộng. Người đó có tên là Mười L... (tên gồm 4 chữ cái. Chữ L đứng đầu và có dấu sắc). Không chịu nổi tra tấn, Mười L... đã đầu hàng, khai báo. Tệ hại hơn là đã nhận làm mật báo viên cho họ và tạo cớ để trở về đơn vị cũ thực hiện ý đồ chui sâu, leo cao. Để che mắt đối phương, Mười L... phải chịu một trận tra tấn tàn khốc (tất nhiên là họ nghi trang như thật). Giữa sự sống và cái chết, Mười L... đã khôn khéo lợi dụng sơ hở của tụi lính gác, trốn khỏi trại giam trở về căn cứ...

Thông cảm nỗi niềm của Thủ trưởng, tôi lựa lời tâm sự:

- Nhiệm vụ của ta là thu lượm thông tin và báo cáo kịp thời về trung tâm. Cố nhiên phải tìm nguồn phối kiểm và có nhận xét của mình. Nhưng nếu chờ thì kẹt. Lỡ chuyện đó là thật thì sao? Với lại... cấp trên “các cụ” tỉnh lắm. Chắc chưa có đối sách gì ngay đâu. Ta cứ cho chuyển ngay anh ạ!.

- Ờ... Tôi cũng nghĩ như vậy, chỉ buồn... nếu đó là sự thật thì thằng địch nó thâm hiểm quá mà thằng của ta thì lại quá hèn. Thực ra cái kế này của địch không mới mẻ gì. Nó đã thực hiện từ “khuya” rồi. Từ thời “đệ nhất cộng hòa” kia. Nó đã từng răn đe những đồng chí của ta bị bắt rằng: “Khôn ngoan thì thành thực khai báo để được hưởng khoan hồng của quốc gia, được về yên vui, hạnh phúc với gia đình. Nếu ngoan cố thì sẽ thân tàn ma dại. Có trở về thì đồng chí của các anh sẽ không tin dùng các anh nữa. Đó! Kẻ thù nham hiểm thế đó.

Hơn một năm sau, ông trở về Miền họp tổng kết năm. Bấy giờ nằm trong giai đoạn địch thực hiện chiến lược “lùng diệt” và “hủy diệt”. Hầu hết các đơn vị phía sau của ta đều phải dạt sang vùng biên giới Campuchia. Hậu cứ của J22 cũng vậy. Hôm ông đi họp về, đơn vị được tập trung tại hầm hội trường nghe ông thông báo tình hình. Sau đó ông nói như với riêng tôi -“Thằng Mười  L... đã bị bắt. Về hậu cứ chắc là bị “kèm” chặt nên không mần ăn gì được. Y đã kích động số lính trẻ – “Bám mãi xứ chùa Tháp này buồn thúi ruột. Chi bằng cùng nhau trốn đơn vị về quê đánh giặc. Về để đánh giặc thì tội tình, khuyết điểm gì...”.

Đoàn “hùng binh” với trên 60 chiến sĩ trẻ, được trang bị đầy đủ vũ khí, kể cả máy vô tuyến điện, vừa “xuất quân” thì bị chặn lại. “Tác giả kịch bản” là Mười L... bị bắt. Các chiến sĩ trẻ vì nhẹ dạ cả tin, bị kiểm điểm, phê bình về ý thức tổ chức kỷ luật. Thật hú vía!

Với tôi, người may mắn được tiếp xúc nội dung 2 bản tin trên ngay từ buổi đầu cho tới khi được thời gian kiểm nghiệm. Tôi vô cùng tự hào, cảm phục lực lượng hoạt động bí mật của đơn vị. Sau đó là sự nuối tiếc. Bởi, vì nguyên tắc nghiệp vụ mà cho tới nay tôi vẫn chưa tỏ tường về họ. Những người đã một thời thầm lặng cống hiến cho cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của nhân dân ta, ngoài 2 bí số quen thuộc (H9 và H81). H9 thì đã rõ quý danh nhưng chưa được gặp. Còn H81 là ai thì đành chịu.

Nguồn: http://antg.cand.com.vn/vi-vn/tulieu/2008/10/67665.cand


Tiêu đề: Re: Tình báo VN trong KCCM
Gửi bởi: Mig21Bis_1 trong 03 Tháng Mười Hai, 2011, 01:37:36 am
Chuyện chưa biết về vị Tướng tình báo hai vợ


Lẽ ra bài viết này ra đời từ dăm bảy năm trước. Song, có cái kẹt cho người viết: Lúc cao hứng định viết thì bị "cái bệnh nghề nghiệp" cản lại - "coi chừng vi phạm nguyên tắc bí mật"; tới khi phương tiện truyền thông đại chúng có nhiều bài viết về ông, rồi cả một tác phẩm điện ảnh công bố trên truyền hình nói về cuộc đời hoạt động của "viên tướng tình báo hai vợ", tôi thối chí luôn. Thiên hạ nói cả rồi, toàn những cây viết cự phách, chớ dại mà "múa rìu qua mắt thợ...".


(http://antg.cand.com.vn/Uploaded_ANTG/honghai/22_thieu951.jpg)
Thiếu tướng tình báo Ba Quốc (tức Đặng Trần Đức).

Bẵng đi mấy năm, khi những bình luận của công chúng về vị anh hùng tình báo huyền thoại, viên tướng tình báo hai vợ, Thiếu tướng Đặng Trần Đức (tự Ba Quốc) có phần lắng xuống theo thời gian thì vào những ngày tháng 4 lịch sử này, bao kỷ niệm trong tôi về ông bùng lên khiến tôi phải cầm bút hầu mong được bổ sung những chi tiết về cuộc đời, sự nghiệp, tình cảm của ông với gia đình, đồng đội, đồng chí… mà các tác giả đi trước chưa đề cập tới.

Chuyến công tác đặc biệt

Sau hơn 8 năm hoạt động ở vùng giáp ranh với địch ở miền Đông Nam Bộ tới chiến trường sông nước Bến Tre thuộc Trung Nam Bộ, giữa năm 1974, tôi nhận được quyết định về công tác tại "tổng hành dinh" Đoàn Tình báo chiến lược J22 - căn cứ đóng tại khu vực Lộc Ninh (thị trấn duy nhất trong vùng giải phóng) thực hiện chính sách "thay quân" đối với những trường hợp hoạt động quá lâu ở vùng yếu. Tôi được bố trí làm Trưởng một bộ môn nghiệp vụ tại A44 do anh Võ Hoàng Vân làm Trưởng ban.

Chưa được nửa năm, đầu tháng 1/1975, anh Võ Hoàng Vân thông báo cho tôi: "Bộ phận A10 (Văn phòng đoàn J22) truyền đạt ý kiến của anh Tư (tức đồng chí Tư Bốn, Trưởng đoàn J22) đầu giờ chiều đồng chí sang gặp anh Tư có việc gấp. Thời đó, cán bộ cỡ như tôi - thăm thẳm nhiều năm ở chiến trường vùng yếu rồi trở thành "lính tò te" ở chiến khu mà được Trưởng đoàn triệu lên gặp riêng, quả là điều đặc biệt. Cả buổi trưa hôm đó tôi sống trong tâm trạng thắc thỏm đợi chờ cuộc gặp gỡ bất ngờ với một nhân vật đặc biệt - Vị Anh hùng đầu tiên của lực lượng Tình báo quân sự trong giai đoạn chiến tranh chống Mỹ, có tên gọi là Tư Bốn.

Đúng giờ hẹn, tôi có mặt tại lán làm việc của Đoàn trưởng ở khu vực căn cứ A10. Ông tiếp khách bằng chè Thanh Hương, thuốc lá Điện Biên bao bạc và kẹo Hải Hà (chắc là có đoàn từ Bắc mới vào). Sau khi thăm hỏi chuyện chiến trường Bến Tre, gia đình, quê quán xong, ông vào nội dung chính ngay.

- Có một việc rất quan trọng tôi cho kêu đồng chí sang để thông báo ý kiến của lãnh đạo sẽ giao cho đồng chí một nhiệm vụ quan trọng...

Tôi như nín thở, chờ nghe tiếp ý kiến của ông - "Theo yêu cầu của Trung ương, đơn vị sẽ cử một cán bộ mới ở trong thành về căn cứ, ra Hà Nội báo cáo gấp. Đi theo đường giao liên, trong khi xưa nay đồng chí ấy chỉ sống trong thành, sức khỏe yếu. Nhiệm vụ của đồng chí là sẽ tháp tùng đưa cán bộ ra Trung ương, đảm bảo tuyệt đối an toàn, với thời gian nhanh nhất. Trung ương rất cần những thông tin của đồng chí này. Kết hợp chuyến đi, đơn vị sẽ có văn bản xin thêm người và tài liệu để khi đồng chí vô sẽ đem theo luôn. Đánh nhau với Mỹ, luôn phải tính tới phương án lâu dài, dẫu rằng ngày toàn thắng đã tới rất gần.

Ông mới nói được chừng đó thì có khách đột xuất. Trưởng đoàn khẽ reo lên:

- Cha!... Sao mà linh vậy. Đang tính nói anh em sang kêu... vô đi anh Ba. Tôi đã tìm được "trợ thủ" cho anh rồi đây.

Vị khách chừng trên năm chục tuổi. Dong dỏng cao, gầy. Có lẽ vì thế mà trông ông càng cao hơn. Gương mặt hiền từ, phúc hậu. Khách vừa ngồi xuống bàn, Đoàn trưởng Tư Bốn quay sang tôi giới thiệu.

- Đây là anh Ba Quốc như tôi vừa nói với đồng chí. Có thể chiều nay hai người sẽ bàn kỹ một số việc. Những thứ cần thiết phục vụ chuyến đi, tôi đã giao cho A10 chuẩn bị. Đồng chí đã nhiều năm sống trong căn cứ, đã từng vượt Trường Sơn rồi coi cần thêm thứ gì thì đề xuất. Chuẩn bị sẵn sàng, khi có lệnh là lên đường ngay. Đoàn sẽ bố trí giao liên sử dụng 2 xe máy chở các đồng chí tới trạm giao liên nào có ôtô thì anh em quay lại. Đồng chí Dương cần lưu ý sức khỏe anh Ba. Nhớ đem theo đầy đủ các loại thuốc thông dụng...

Nghe thủ trưởng giới thiệu khách là Ba Quốc, tôi trố mắt nhìn, tưởng như vị khách mới vào kia là người từ hành tinh khác vừa rơi xuống, bởi cái tên anh nghe có vẻ quen quen, nhưng người thì bây giờ mới gặp. Tôi nhớ mấy tuần trước được nghe anh em đơn vị nói nhỏ với  nhau "có một điệp viên cực kỳ quan trọng thuộc một cụm tình báo chiến lược tên là Ba Quốc, quê miền Bắc, vào Sài Gòn từ đầu thập niên 50. Chui rất sâu, leo rất cao, tồn tại qua mấy đời tổng thống. Thời Nguyễn Văn Thiệu trở thành cán bộ cao cấp trong USAID (Cơ quan Viện trợ của Mỹ). Ông bị lộ từ khâu giao thông liên lạc. Một nữ giao thông viên (GTV) đem báo cáo của ông từ Sài Gòn về căn cứ của cụm ở Đồng bằng sông Cửu Long, về tới Tân Châu - Hồng Ngự thì bị bắt. Đơn vị thông báo khẩn cấp nên khi  cảnh sát đặc biệt tới bao vây thì ông đã chuồn khỏi nhà trước đó hơn 30 phút và được cơ sở bí mật đưa về căn cứ luôn...".

Những thông tin liên quan tới kế hoạch giải thoát GTV bị bắt cũng rất ly kỳ, giật gân. Nghe nói khi trinh sát địa bàn đi đón, phát hiện GTV bị bọn cảnh sát Hồng Ngự bắt, đã nhanh chóng trở về căn cứ báo cáo. Lãnh đạo Cụm, một mặt báo cáo khẩn cấp về J22, mặt khác bàn gấp kế hoạch giải thoát bằng cách điều cơ sở bí mật tiếp cận đơn vị thụ lý là cảnh sát Hồng Ngự.

Ngã giá bằng nửa triệu (500.000đ) tiền Sài Gòn lúc đó tương đương 14 chiếc xe môtô hiệu Honda Nhật. Cái bệnh ăn hối lộ đối với chế độ Sài Gòn đã trở thành chuyện "hàng ngày nơi phố huyện". Với số tiền trên quả là quá lớn so với một cụm tình  báo lúc đó. Vì vậy phải báo cáo gấp về trên. Hình như cũng chỉ trong 1 ngày đã có ý kiến chỉ đạo của lãnh đạo J22. "Dù có phải chi tới một triệu đổi lấy GTV và tài liệu đem về cũng phải thực hiện ngay". Đơn vị tức tốc thực hiện thì "hàng" đã chuyển về "nhập kho" Tổng nha Cảnh sát Sài Gòn, vì đã hết hạn tạm giữ ở cấp quận, huyện theo quy định của luật pháp.

Tôi giật mình trở về thực tại sau câu hỏi của ông Tư Bốn:

- Nhiệm vụ là như vậy, đồng chí Thái Dương thấy sao?

- Dạ... Không sao! Việc này tôi hứa đảm bảo hoàn thành tốt. Xin hai đồng chí cứ yên tâm.

Ngày hôm sau tôi trở lại A10, chuyển cho chị em ở bộ phận hậu cần bản thống kê những thứ cần chuẩn bị cho anh Ba Quốc:  Những tăng, võng, thuốc tây, thức ăn khô, áo mưa, giày, dép, balô... và hướng dẫn anh Ba Quốc việc tập luyện trước khi lên đường. Tất nhiên chỉ tập có mức độ, đề phòng trường hợp có những đoạn đường phải đi bộ không thể đeo nặng như thời chúng tôi tập hành quân.

Nguồn: http://antg.cand.com.vn/vi-vn/tulieu/2010/5/72185.cand


Tiêu đề: Re: Tình báo VN trong KCCM
Gửi bởi: Mig21Bis_1 trong 03 Tháng Mười Hai, 2011, 01:39:46 am
Chuyện chưa biết về vị Tướng tình báo hai vợ (Tiếp theo)


Khoảng cuối tháng 3/1975, khi căn cứ của J22 đã chuyển xuống khu vực rừng le ở sông Tha La (phía đông núi Bà Đen) thì chúng tôi có lệnh lên đường. Hai chiếc Honda 67 đã đưa tôi và anh Ba Quốc ngược trở lại căn cứ Lộc Ninh và hôm sau đi tới trạm D4A chính thức nhập vào tuyến giao liên của Miền, để từ đó qua Bù Đăng, Bù Đốp, qua các Trạm T10, T9, T8 rồi đi Buôn Ma Thuột...

Thời điểm đó đã thuận lợi hơn cả trăm lần  thời chúng tôi cuốc bộ đi vào. Bởi đã có ôtô. Song, ngặt mỗi xe ưu tiên cho đoàn vào nên đoàn đi ra đều phải chờ đợi ở các trạm. Mỗi nơi vài ba ngày. Thời gian chờ đợi lâu nhất đó là cung đường từ trạm có bí số là T10 ra T9 thuộc địa bàn Khu 6. Phải "ăn dầm nằm dề" ở T9 tới 8 ngày (từ ngày 5/4 đến 12/4). Vì là đoàn ưu tiên nên chúng tôi được bố trí trong một chiếc lán nhỏ, đủ căng võng cho 2 người. Hai anh em căng võng sát nhau để tiện tâm sự. Biết anh buồn, sốt ruột vì bị giam chân ở T9 quá lâu nên tôi lôi ra đủ thứ chuyện nhằm giúp anh khuây khỏa.

Từ chuyện quê hương miền Bắc sau ngày giải phóng, chuyện chúng tôi tập luyện trước khi đi "B" và quá trình hành quân vượt Trường Sơn... Nhiều tối, tôi "thay đổi món ăn tinh thần" bằng việc kể chuyện phim, tiểu thuyết, kể cả của ta và nước ngoài như: "Chiếc khuy đồng", "Lửa trung tuyến", "Con chim vành khuyên", "Đất vỡ hoang", "Sông Đông êm đềm", "Rừng thẳm tuyết dày" v.v... Tôi biết anh rất chăm chú nghe, vì với anh, đó đều là những chuyện mới vì sống trong lòng địch làm sao có được mà xem, mà đọc.

Để thể hiện tinh thần "có đi có lại", anh kể cho tôi nghe nhiều chuyện ở Sài Gòn - Từ những hộp đêm, vũ trường, những sinh hoạt của dân "anh chị"', tâm trạng các giai tầng xã hội... tới đặc điểm tâm lý, cá tính, sinh hoạt, thái độ chính trị của nhiều nhân vật chóp bu trong chính quyền Sài Gòn qua từng giai đoạn. Thấy anh vui vẻ, nhiều hôm tôi mạnh dạn hỏi anh về chuyện gia đình, vợ con, quá trình hoạt động ở miền Bắc, thời gian vào Nam, Sài Gòn thời đó và bây giờ, thực chất các đảng phái chính trị của chế độ Sài Gòn... Tất nhiên phải tránh những gì thuộc về nguyên tắc nghiệp vụ để gây khó cho anh.

(http://antg.cand.com.vn/Uploaded_ANTG/honghai/23_hong951-400.jpg)
Hồng Ngự - Vùng căn cứ bám trụ của một cụm tình báo thuộc J22.

Càng nghe, càng thêm ngỡ ngàng về một con người tưởng như mộc mạc, lành hiền, ít nói ấy lại chứa đựng tầng tầng lớp lớp kiến thức đa dạng, uyên thâm, như một từ điển sống của cả chế độ miền Nam thời đó. Có lẽ Trung ương cần gặp ông gấp là vậy. Chắc chắn có liên quan tới kế hoạch hậu chiến của địch.

Chứng cứ từ những vết thương

Một buổi tối, đợi anh nghe xong bản tin tiếng Anh của Đài BBC, tôi hỏi:  "Anh Ba ơi! Thời kháng chiến chống Pháp, tụi em còn bé tý. Năm 1954 giải phóng miền Bắc mới đang học lớp nhất ở quê, nghe người lớn nói có rất nhiều người di cư vào Nam. Chắc có anh trong số đó?...". Anh khẽ cười, lắc đầu - "Không! Tôi đã "di cư" từ hơn một năm trước đó". Tôi há hốc miệng nhìn anh, đầy nỗi ngạc nhiên, rồi nằm xuống, đung đưa cánh võng, mơ hồ thả hồn trôi theo dòng ký ức của anh.

Hoạt động trong lực lượng Tình báo quân sự, địa bàn của Đặng Trần Đức lúc đó là Thành Hà Nội (chỉ đạo một số cơ sở bí mật trong thành). Tất nhiên có đầy đủ giấy tờ hợp pháp, để khi cần có thể vào nội thành. Một đêm cuối năm 1952, từ vùng căn cứ bí mật, anh đột về Gia Lâm gặp cơ sở để nắm tình hình tại hộp thư quy định. Khi trở ra chưa được bao xa thì bị thương do một trái moóc-chê bắn cầm canh từ một bót nào đó. Anh trở lại điểm hẹn, nhờ gia đình cơ sở đưa vào nhà thương trong nội thành, với nguyên nhân ngụy trang là bị ngã xe đạp. Vết thương chưa lành anh đã bị đưa về phòng thẩm vấn của lực lượng cảnh sát.

Được tin này, tổ chức đã cử ngay cơ sở bí mật (một nữ GTV hợp pháp của Đặng Trần Đức) tiếp cận ông chú làm việc tại Sở Liêm Phóng. Trước tình hình đó, cô gái phải  “thú thực” đó là "người yêu" của mình, đúng là bị thương do ngã xe đạp. Người chú nghiêm mặt, nói nhỏ: "Đừng có lôi thôi! Những vết thương trên người nó đã trở thành chứng cứ. Đó là mảnh moóc-chê chứ không phải ngã xe...". Cô gái lặng người, tay vân vê tà áo, trấn tĩnh lòng mình để mãi lâu sau mới nhỏ nhẹ: "Chú ơi! Vậy bây giờ phải làm sao?". "Chú có thể tìm mọi cách cho nó không bị bắt, nhưng rồi thì phải rủ nhau đi khỏi xứ này ngay. Đi càng xa càng tốt. Không qua mắt bọn "Phòng nhì" được đâu!...".



Tiêu đề: Re: Tình báo VN trong KCCM
Gửi bởi: codon65 trong 17 Tháng Tư, 2012, 04:40:02 pm
Em có đọc bên trang web:http://tailieu.vn/xem-tai-lieu/phong-van-tuong-linh-viet-nam-thieu-tuong-tran-van-danh.703686.html. Có đăng còn một vị tướng chỉ huy tình báo cũng rất nổi tiếng, có bác nào biết rõ vị tướng này ,xin kể lại cho em biết với.


Tiêu đề: Re: Tình báo VN trong KCCM
Gửi bởi: tvthai trong 17 Tháng Tư, 2012, 11:34:25 pm
Em có đọc bên trang web:http://tailieu.vn/xem-tai-lieu/phong-van-tuong-linh-viet-nam-thieu-tuong-tran-van-danh.703686.html. Có đăng còn một vị tướng chỉ huy tình báo cũng rất nổi tiếng, có bác nào biết rõ vị tướng này ,xin kể lại cho em biết với.
Đây nè bác:

http://www.youtube.com/watch?v=pUH4kSXx-xk


Tiêu đề: Re: Tình báo VN trong KCCM
Gửi bởi: laudaisoi trong 06 Tháng Ba, 2014, 03:12:02 am
Em vừa đọc được đoạn này trên SGTT

Trích dẫn
Vào thời điểm tháng 5.1972, ông Ba Quốc được chỉ thị bằng mọi cách phải lấy cho được danh tính của hai tên phản bội làm nội tuyến cho Mỹ và chính quyền Sài Gòn do ban K xây dựng được. Một là bác sĩ dân y của Mặt trận giải phóng tỉnh Quảng Đà và một là tỉnh uỷ viên trong Đảng bộ Tây Ninh. Ông đã mạo hiểm đột nhập ban K, mở két sắt của Nguyễn Đăng Khiêm nhưng chìa khoá không khớp và bị kẹt lại trong ổ, một lúc sau mới rút ra được. Khi vừa ngồi xuống ghế khách thì trung tá Tiên bước vào hỏi chuyện. Ngay chiều hôm đó, ông được đại uý Tâm – trưởng ban an ninh của ban K – cho biết đã được trung tá Tiên ra lệnh bí mật theo dõi ông trong mười ngày. Khi báo cáo về Cụm, ông nhận được chỉ thị ngưng kế hoạch này ngay. Sau giải phóng, khi khai thác Nguyễn Đăng Khiêm, ông mới rõ danh tính của hai nhân vật nội gián này.

Mấy hôm trước lại đọc được bài này trên bbc

Trích dẫn
Tên của người này là Võ Văn Ba. Theo các ghi chép của phía cộng sản, nhân vật này, sinh năm 1923, là một đảng viên cộng sản phụ trách tuyển mộ đảng viên mới ở khu vực Tòa thánh Cao Đài và thành phố Tây Ninh.

thì tìm ra được người thứ hai, không biết người thứ nhất là ai?


Tiêu đề: Re: Tình báo VN trong KCCM
Gửi bởi: ThieuuyCS trong 19 Tháng Tư, 2014, 12:54:06 am
Tình báo việt nam thời chống mĩ rất giỏi, còn bây giờ thì ko biết như thế nào. Ko đánh giá đc, nhưng thấy chúng ta bị lấn át bởi bọn tung của,