Chúng ta đã thấy rằng, việc sinh ra súng trường tấn công là điều tất yếu. WWI, Khoa học quân sự bế tắc trong các chiến hào và sinh ra MP-18. Tuy nhiên, MP xung phong thì tốt, nhưng tầm rất ngắn và do đó vẫn phải trang bị cho lính súng trường. Chẳng lẽ bắt lính dùng hai súng ?? Và do đó người ta đã cố gắn làm ra loại súng có thể bắn khi đang chạy như MP, mà tầm xa như súng trường. Ở Đức sự việc bắt đầu trong thập niên 193x, với khẩu Maschinen Karabine MKb35. Tuy nhiên, lúc đó chính quyền Hitler lên mà khẩu này không hợp cạ với hắn lắm, nên chương trình đình đốn. Sau này, đầu 194x, Hitler bắt bộ sậu của hẵn, những nhà thiết kế cùng cánh, phát triển một chương trình thay thế, nhưng sự dốt nát của Hitler về quân sự đã biến súng trường thành súng ngắn.
MKb-42, sản phẩm của chương trình này, biến thành một trò cười trong làng chế súng Đức suốt mấy năm liền, quá xấu hổ, nó tự chuyển tên cho đúng đắn thành MP-42, rồi thành MP-43. Ngày 6-4-1944 Hitler ra một lệnh xác định 3 súng chính của quân đội Đức: súng máy MG-42, súng trường K-43 và súng xung phong STG-44, tức MP-43, từ đây súng được sản xuất khá lớn (cỡ vài trăm ngàn khẩu), dập trên vỏ chữ MP-44. Có một điểm dễ nhầm, sau này một khẩu súng cùng đạn với máy hoàn toàn khác được Hitler định danh MP-45, nhưng nhiều MP-44 được dập dòng MP-45 trước quyết định này.
Ở đây cần chú ý, súng xung phong STG-44 không phải là súng trường, chức năng súng trường trong bộ trên là K-43. Ngoài đầu đạn yếu, MP-44 còn nhiều đặc điểm của súng ngắn khác mà mình đã phân tích, bây giờ thì lộn xộn không còn biết ở đâu mà lần nữa. Ví dụ, súng không có ốp lót tay trước để bắn tầm xa như súng trường, mà cầm trực tiếp vào băng để bắn ứng dụng nhanh như súng ngắn. Vả chăng, người làm súng và chính phủ của họ đã dập tên MP lên súng, thì đương nhiên nó là súng ngắn. Điểm đáng cười của MP-44 là nó bắn đạn súng ngắn nhưng lại nặng 5,2kg (rỗng) như trung liên, trình độ thiết kế súng của các cạ này quá kém và việc xác định mục tiêu thiết kế không rõ ràng. Còn một số điểm nữa, súng bắn liên thanh nhưng thừa kế khóa nòng nghiêng của súng bắn phát một, sẽ làm súng rung theo chiều đứng, khóa nòng MP-44 có tai xách lên giống hệt của PTRS, và CKC sau này. Trong khi đó súng bắn phát một G-43 lại dùng khóa nòng ngạnh kiểu DP rung rất cân hợp với súng liên thanh.
Tầu Trắng dập khuôn tên Đức. Ngay từ lúc mới thành lập nhà nước Tầu Trắng, Viên Thế Khải đã đặt mua súng ống Đức và sau ông ta, chính phủ Dân Quốc gấp rút tiến hành những công việc to lớn để chế súng. Có một thời gian, ngoài trang bị, quân phục quân Dân Quốc dập khuôn Đức. Tầu Trắng đạt những tiến bộ vượt bậc, tạp lên đội ngũ công nhân, trí thức... cơ khí mới mà sau này sẽ bị CMVH đánh tơi bời. NORINCO ngày nay là thừa kế nhà máy Đông Bắc, gần tô giới cũ của Đức. Tầu Trắng gọi súng là thương, tức vũ khí bộ binh, hồi Hồ Nguyên Trừng thì súng là "thần cơ thương", để phân biệt với thương thường là giáo. Súng bộ binh là "bộ thương", súng cạc bin là "kỵ thương"-cavalry, súng tấn công STG là "xung phong thương", từ STG được dùng từ 193x ở Đức du nhập sang Tầu như vậy. Vì các STG Đức lúc đó đều là MP nên Tầu gọi chung MP, SMG... là "xung phong thương".
Trong các yêu cầu chiến thuật đặt ra khi phát triển MKb-35 người Đức đã có một số điểm đi đúng hướng. Mà đoạn viết về cái này cũng đâu cả rồi, bực mình quá đi thôi. Những điểm này tuy sơ khai, nhưng đã xác định không đầy đủ vai trò của một súng trường tấn công. Chỉ có Hitler mới biến nó thành súng ngắn. Thật ra, về hình dáng thì việc thu nhỏ một súng trường hay phóng to một súng ngắn không có gì khác nhau, quan trọng là xác định những nhiệm vụ của súng.
Năm 1913-1915, Hội Đồng Súng Trường Nga đã cùng Fedorov phát triển những nguyên lý cơ bản của một súng trường tấn công:
1- Súng bắn phát một tự động để đạt tốc độ bắn nhanh trong cuộc đối kháng súng trường tay đôi ngày đó.
2- bắn được liên thanh bằng tỳ vai hay ứng dụng không ngắm khi đang chạy, dễ dàng chiến đấu giáp lá cà trong hào.
3- bỏ những yêu cầu tầm quá xa trên 5-6 trăm mét, vì chỗ đó đã có pháo và súng máy. Các súng trường đối kháng đều nỗ lực bắn tới 1500-2000 mét, nhưng ở khoảng cách đó, tỷ lệ bắn trúng không đáng kể. Súng trường tấn công chỉ yêu cầu "tầm bắn hiệu quả", tức là tầm bắn có tỷ lệ trung đích lớn.
Thiếu những nguyên lý này, mà cứ loay hoay thu nhỏ súng trường hay phóng to súng ngắn đều lạc đường cả. MP-44 có làm nặng hơn gấp rưỡi AK hay AS-44 thì cũng không thể là một súng trường. Cái khó khăn đặt ra là phải hiệ đại hóa đạn, điều kiện tiên quyết để có súng nhỏ nhẹ nhưng mạnh. Chúng ta xem video dưới đây, đây là khẩu AVT, phiên bản bắn liên thanh của SVT. Người ta không thể bắn liên thanh chính xác với đạn súng trường đối kháng hạng nặng.
Viêc làm một súng liên thanh nhẹ để mang một người không khó, không đến nỗi nặng như Chauchat hay BAR, cả hai phiên bản liên thanh AVS và AVT đều nhỏ gọn như súng trường, chúng không phải súng trường tấn công chỉ ở một điểm: không bắn được liên thanh khi tỳ vai mà không kê lên đất. Đó là điểm khác nhau giữa súng trường tấn công và trung liên.
<embed width="448" height="361" type="application/x-shockwave-flash" wmode="transparent" src="
http://i180.photobucket.com/player.swf?file=http://vid180.photobucket.com/albums/x178/huyphuc1981_nb/sung/SVT/SVT_video/AVT-40_rifle.flv">
Fedorov đã phát triển khẩu súng trường tấn công đầu tiên trên thế giới, nhưng còn nhiều nhược điểm: đạn 6,5mm Nhật có nhiều nhược điểm, năng lực đầu đạn cao, nhưng lại kém sát thương, tốc độ bắn thấp và máy súng không bền do mòn ổ đỡ nòng lùi. Fedorov cũng không bắn liên tục được nhiều đạn do nóng súng, phiên bản dùng bắn loạt dài phải làm mát bằng ống nước và dùng như trung liên.
Như vậy, mấu chốt của vấn đề là một loại đạn mới, làm súng ít giật như súng ngắn liên thanh MP, PP, nhưng lại mạnh như súng trường trong tầm bắn hiệu quả. Như thế mới khó, chứ thiết kế một súng ngắn to hay một súng trường nhỏ đều chỉ là a dua a tòng phù phiếm. Đạn nhỏ hơn vừa cho phép bắn loạt dài, vừa mang được nhiều đạn.
Ban đầu M43 có kích cỡ vỏ đạn 7,62x41. Kiểu đạn này được lắp trên AS-44 , súng được thử nghiệm trong chiến tranh, được đánh giá là hơi nặng. Do đó, đạn được format lại nhỏ đi một chút thành cỡ vỏ đạn 7,62x39. Tuy nhiên, phần ruột đạn thì còn sau đó mới thành đạn AK. Đạn AK bắn 3 viên xuyên một lỗ ở 250 mét, đạn AK-47 sức công phá lớn hơn đạn NATO 7,62x51. Tầm bắn hiệu quả của AK là 300 mét, ngang B-41 và đây là tầm bắn cần thiết của bộ binh. Chúng ta cần hiểu tầm bắn hiệu quả này là tầm bắn mà phần lớn đạn bắn phát một trúng bia số 4, tốc độ bắn cao, sát thương mạnh, theo nguyên lý đối kháng trong yêu cầu trên của Fedorov.
Thuốc đạn AK là loại thuốc viên dẹt. Có hai loại thuốc định hình hay được dùng, súng to dùng trụ rỗng, súng nhỏ dùng viên dẹt do khó chế tạo trụ rỗng. AK dùng loại thuốc đồng nhất chất liệu, tham số cháy ổn định. Thuốc viên trụ và dẹt có đặc tính là khi mòn đi, nó ít thay đổi diện tích mặt ngoài, diện tích này sẽ tỷ lệ thuận với tốc độ cháy về thể tích, nên các thuốc dạng trục đặc (cordite) viên cầu (NATO 7,62x51) sẽ giảm diệnt ích mặt ngoài rất mạnh, đặc biệt là viên cầu. Người Pháp áp dụng thuốc dẹt đầu tiên trên loại đạn Lebel 8mm từ cuối tk19, nhưng do thiếu đầu tư sâu sắc, họ không phát triển được chất thuốc cháy ổn định, vững chắc trong phát bắn chuyển động rất mạnh, các viên thuốc vỡ tăng nhanh tốc độ cháy ngoài ý muốn. Từ Mosin 1908, thì Mosin đã vượt lên hàng đầu thế giới về năng lực đầu đạn, áp suất đồng đều, áp suất tối đa thấp. Đến AK, thì một lần nữa kỹ thuật lại hoàn thiện đẩy AK thành khẩu súng vô địch.
Chúng ta cần chú ý rằng, M16 chưa từng, hoặc đã thử nghiệm tầm bắn hiệu quả nhưng chưa hề công bố. M-16 chỉ công bố "tầm bắn hiệu quả tối đa 450 mét", mà ở tầm đó, lệch gió ngang 15km/h của M16 đã là hàng mét thì chắc tỷ lệ trúng chỉ vài phần trăm. AK không có tầm bắn hiệu quả tối đa vì được xác định bằng giá trị trung binh các loại người sau huấn luyện cơ sở, đã là trung bình thì không có tối đa. Độ chính xác M16 không đủ để bắn bài 1 AK và tầm bắn hiệu quả thật sự nằm trong khoảng 150-200 mét.
AS-41 có máy ngạnh nghiêng, tai xách hai bên khóa nòng giống của SVT. AS-44 được thiết kế rất nhanh, vượt lên dẫn đầu trong các súng dùng đạn mới.
Thật đáng tiếc, Sudaev ốm năm 1945 và mất năm sau đó khi chưa kịp hoàn thiện súng.
AS-44 cũng dùng khóa nòng nghiêng, nên cũng rung, nhưng về sau AK rung rất mạnh do trích khí khỏe khoắn lừng danh của mình. Tuy nhiên, AS-44 có một đặc điểm sáng giá mà AK lĩnh hội ngay , đó là thiết kế dão với khoàng cách các chi tiết lớn, súng long sòng sòng không có dáng hiện đại, nhưng cực kỳ tin cậy bền bỉ. Đặc tính này được triển khai sau mẫu đầu tiên, AK-46 thua trận.
Một đặc tính nữa AS phát minh ra là trích khí xiên ngược khí động, rất lớn, to, thằng không bao giờ tắc. Tuy nhiên, đặc tính lừng danh sau này của AK đi theo một nhược điểm, là không hiệu chỉnh được trích khí nên súng hoạt động mạnh và rung khi bắn loạt liên thanh.
Khóa nòng của AK giống như của Bulkin AB-46, kiểu khóa nòng xoay hai tai, giống của Chauchat. Kiểu khóa nòng này có một mấu móc đạn rất tin cậy mà các kiểu khóa nòng xoay nhiều tai không có. Đồng thời, khóa nòng chịu lực đồng đều bền bỉ. Nhược điểm là hành trình của bệ khóa nòng dài, kéo dài máy súng. Với các súng có nòng to nặng dài thì việc kéo dài máy súng thật khó khăn, nhưng do đạn ưu việt, nòng AK rất ngắn so với các nòng súng trường khác nên hộp khóa nòng kéo dài được. Kiểu khóa nòng này phát triển từ Chauchat, sang đến M1 Garand thì nó có hộp đạn hai hàng rất tin cậy với cái móc đạn trên, nhưng ở M1 là kẹp đạn chưa có băng.
Trong khi AK phát triển như vậy, thì cùng được chấp nhận với Fedorov là Chauchat và BAR, hai súng trường tấn công nối nhau concept sai lầm, thực ra, chúng là trung liên nặng 10kg, bắn phát một rất tồi vì bắn từ khóa nòng mở, bắn liên thanh thì quá ít đạn.
BAR là con của Colt, 50 năm sau, Colt lại làm một vụ nữa. Colt dựng AR-15 của Armalite lên ngôi vua đẻ non, với nguyên lý chẳng giống ai: súng trường chiến đấu đối kháng (battle rifle) đạn nhỏ.
Người ta dùng súng trường tấn công nhẹ, thì Colt dùng súng trường tấn công nặng.
Người ta dùng súng trường đối kháng nặng, thì Colt dùng súng trường đối kháng nhẹ.
Về nguyên tắc, súng trường là súng chiến đấu cá nhân, trung liên là súng hỗ trợ. Súng trường bắn được khi tỳ vai, trung liên phải bắn tỳ đất. Súng trường tấn công bắn được khi đang chạy, khác súng trường thường phải đứng lại bắn.
Mondragon đã nỗ lực phát triển một súng trường tấn công, nhưng điều kiện kỹ thuật chưa cho phép và ông không dùng được đạn 5,2mm. Kiểu máy của ông sau được phát triển ở súng trường Thomson và FN. Máy nhiều tai dẫn đến mỏi tai nhanh, kín khít dễ tắc, nhưng với các nòng quá dài thì nó rút ngắn chiều dài súng. Cuối cùng, máy nhiều tai nhập hồn vào xác AR-15.
Trích khí AR-15 bắt nguồn thừ AG-42, AG-42 là bản sao của SVT nhưng bỏ trích khí cho rẻ. Sau này, thấy máy AR-15 quá tệ, AR-18 dùng lại kiểu trích khí SVT.
Thuốc đạn 03-06 là cordite có thành phần gần giống thuốc nổ dẻo, Mỹ lúc đó quá lạc hậu về vũ khí nên vẫn bám lấy thuốc này. Dí nhiên là châu Âu không thể ngửi được cái trình độ súng pháo Mỹ, nên NATO 7,62x51 cải tiến, dùng thuốc viên hình cầu, cũng rất phi lý với thuật phó, viên thuốc được thấm chất làm chậm, có tốc độ cháy không ổn định càng làm súng hay tắc. Loại thuốc này được dùng cho M16. Cái dở nhất mà nó mang lại là nòng vừa dầy vừa dài.
Áp suất tối đa của M16 cao gấp hơn một lần rưỡi AK.
Bắt nguồn từ nguyên lý chiến đấu sai lầm, cóp nhặt kỹ thuật linh tinh... M16 giống như MP44 vậy, một tập hợp những giải pháp lạc hậu trong một khẩu súng mới. Trong khi đó AK là kết quả của hàng loạt các nỗ lực phát triển.