Đôi khi lại từ chính những "cốt chuyện hóa sự kiện" mà ngay trong chúng ta thật vô tình tìm ra đáp số ngay ở... ông hàng xóm mới dọn về gần nhà mình!Hơ hơ! nhờ có đưa lên thông tin CCB D403 QK V đi tìm gia đình LS mà mới ra bác mig21-58 có quen biết với nhiều CCB D403.
. Đời nhiều lúc cũng lạ.
Vâng, có nhiều chuyện ngẫu nhiên trên đời góp phần cho cuộc sống của ta thêm nhiều màu sắc phong phú và thêm nhiều trải nghiệm hơn - nhất là khi, từ những chuyện dưng không được biết... lại có lúc được mang ra dùng với niềm hân hoan trong lòng.
Ví như, cũng từ những ngày lang thang trong rừng núi Ba tơ với bà con H're (theo dấu chân và tìm ra nơi hy sinh của chị ĐTTrâm, để ngày nay Quảng Ngãi có thêm trên bản đồ du lịch một điểm tham quan lịch sử) - mới biết là người H're cùng người Tà ôi (pako, vân kiều, cờ tu) sống trải dài trên một dãi Trường Sơn thường gọi các nơi có phát xuất một khe suối nguồi là "Ngók"... bãi rửa bên cạnh dòng chảy có thể lấy được nước uống sạch là "hóc" - và càng về phía nam, người H're còn gọi là "Chăm Rê" rồi cái từ "hóc" ấy dính dáng sang đến tiếng Stiêng, Kh'mer... là... "Sóc"
Vốn dĩ cả nước ta và miền Đông dương này nằm gọn trong vùng ngữ hệ Môn-Kh'mer mà!
Úi chào... Ngok Linh, Ngok Ring Lang, Ngok Rinh Rua... Hóc Nghì, Sóc siêm, Sóc Bombo... đầy cái tên quen thuộc...
Vậy thì "Ngọc Kê trai" kia chính là "Khe trái" mà ta đang quan tâm chứ còn gì nữa (không chừng theo mô tả sông núi của ĐNNTC thì còn có cả một Thác Gà Lôi chảy ra đâu đó gần chỗ này nữa là...)
Khe Trái có nhánh rẽ thành Suối Máu, chạy thẳng vào mặt bắc căn cứ Động Tranh - Điểm cao 310, 347, 372, 378... khoan hãy quan tâm vì vốn dĩ giữa hai loạt thời kỳ bản đồ 1961 sang 1966, người ta cũng đã chật vật trong chuyện quy đổi "cốt gốc" từ một đỉnh trong Everest sang Mũi Nai Hà tiên, làm sao mà hiệu đính kịp chứ...
Vâng, cũng thật ngẫu nhiên mà từ những tư liệu góp nhặt về chiến tranh qua những tháng ngày lăn lóc trên đường Trường Sơn, nay ta nhặt ra được chút hình hài của căn cứ Động Tranh ấy! Khi biết nó chính là Bastogne (mà cũng từ đó giải thích được cái từ "đồi Bolton" "Bia hem" trên trang web địa phương)
Này là căn cứ Bastogne và Birmingham trong "những ngày tái cấu trúc" trước mùa mưa 1969 (e rằng
Việt Cộng sẽ làm thêm một phát nữa như Mậu Thân thì khốn...
)
Và đây là một góc nhìn khác về phía "căn cứ Động tranh" ở một cao điểm cao hơn... ảnh chụp năm 1971
Điểm cao này xung yếu hơn, nhưng địch không thể chọn đặt làm căn cứ được... vừa vì con đường tiếp vận hậu cần sẽ rất khó khăn mà theo SGG thì chắc lý do lớn nhất là ở chỗ, nó, "sát nách vùng hoạt động của VC quá"
Vâng, nói là sợ đường tiếp vận thì kỳ quá với những kẻ có giàu có hỗ trợ không vận...
Nhưng thực tế, bởi khu vực này lại thuộc quyền trách nhiệm của Sư đoàn 1 BB ngụy quyền Saigon chứ không phải của Qđ Mỹ
- có lẽ cũng chính vì thừa biết yếu điểm về sự "phân biệt hỏa lực và quân vận" ngay trong những người gọi là "đồng minh của TG tự do" mà các bộ não của phe ta đã thực hiện được nhiều trận đánh giòn giã bất ngờ... mà những người "lính thường" chúng ta không sao hiểu được... huống chi những kẻ quan sát từ xa bên ngoài. Sự "thần thánh" trong quân sử của chúng ta đôi khi chỉ đơn giản như vậy thôi
(ậy, nhưng nhìn thấy và thực hiện được như thế không là đơn giản - lính ta thì chỉ biết xuýt xoa sau này mà thôi)Trở lại với câu chuyện...
Từ giữa năm 1969, Phạm văn Phú, khi vừa được thăng cấp chuẩn tướng "nóng" tại mặt trận miền Tây (Thiệu đã tháo "mượn" quân hàm trung tướng của Vĩnh Nghi, bỏ bớt một sao để gắn cho Phú) được chuẩn y về làm tư lệnh sđ1BB, xương sống chủ lực của Vùng 1 chiến thuật ngụy quân.
Tay "cựu tù binh ĐBP với cấp bậc trung úy nhảy dù" này đã từng là tư lệnh những đơn vị biệt kích, hiểu rõ vị trí chiến lược của trục đường 12 này, nên đã nhanh chóng biến ba điểm tam giác Bastogne, Birmingham và Checkmate 378 (cao điểm 372 còn có tên là checkpiont) trở thành khu vực gọi là "BCH tiền phương sđ1BB" - mỗi khi bởi mỗi khi có "động dao thớt" gì ở vùng này thì máy bay của Phú cứ xoành xoạch qua lại giữa điểm này và một địa điểm nữa về hướng Tây tên là Airbore - mà cái tên địa phương hay dùng là... Đồi Máy bay
Chính vì những điều đó mà làm cho cái cao điểm 372 ấy cũng như những con đường - băng ngang trảng tranh - dẫn đến nó, trở thành nơi ác liệt trong chiến tranh đối với quân chính quy cũng như quân chủ lực miền QK trị thiên trong thời gian đó!
Vậy là đã tìm ra những chấm nhỏ ven đường QL49 ngày nay! Không thấy trong bản đồ có cao điểm 372?
Biết nó có còn không hay là đã mất tiêu theo kiểu "nơi đây ngày trước có núi và căn cứ Đầu mầu" trên đường 9 Quảng trị
Lâu nay, các trường ở Quảng trị dạy tụi nhỏ về "chiến thắng Đầu Mầu oanh liệt 1972" chắc là khó khăn cho thầy cô lắm nhỉ? -o0O0o-
Từ chuyện tìm Động Tranh này, với phần trích tiểu thuyết Giáp Ranh nêu ra cái tên tác giả là nhà văn Đỗ Kim Cuông (có vẻ như vị này đã có nhiều thời gian sống và chiến đấu ở đây, tiểu thuyết mà thông tin sử liệu như là Hồi ký
)
Theo link trang web
Tạp chí Sông Hương - giới thiệu tiểu thuyết "Phòng tuyến Sông Bồ" của cùng tác giả. SGG trích được những đoạn:
...
“-Tôi đi bắt con Lý. Có khả năng nó lấy cắp khẩu K54 của tôi bỏ trốn về đồng bằng”.
Cầm được khẩu súng và hai băng đạn, cứ vậy là Phong chạy như một kẻ phát điên, phát cuồng. Linh tính mách bảo cho anh, Lý chỉ có một con đường là tìm cách lọt qua tuyến giáp ranh để về đồng bằng. Đi tới ba giờ chiều, tới ngã ba đường, một ngả rẽ về Phong Điền, một ngả rẽ qua Khe Trăng để ra sông Bồ, Phong phải đắn đo mất vài phút, vừa ngồi ăn đỡ khúc nõn chuối lót lòng, vừa tính toán. Lý người Hương Mai, cô ta không thể về Phong Điền. Con đường về đồng bằng Phong Quảng phải vượt qua dốc Chuối, Một Mái, núi Ông Đôn, vượt qua đỉnh Đức Mẹ ra vùng đồi trọc, còn phải vượt qua một cửa ải nữa là dốc Ông Già mới xuống được đồng bằng. Mỹ đang càn mạnh Phong Điền. Cô ta không dám liều với tụi thám báo Mỹ. Trong khi qua ngả Hương Trà, Lý chỉ cần vượt qua được sông Bồ về khu vực địa đạo 310. Từ đấy ra đường 12, chưa tới hai giờ đồng hồ. Nếu không muốn đi ra đường 12, Lý sẽ từ địa đạo, vượt qua Khe Trái về ngã ba Hương Trà. Chưa tới nửa ngày, Lý đã có thể ung dung ngồi uống rượu với tụi lính nguỵ ở ấp Long Hồ.
Phong quyết định đi theo con đường Khe Trăng để vượt sang Khe Lu. Từ một dòng suối mẹ đổ xuống từ chân dốc Chè, dãy núi đá chắn giữa chẻ dòng suối thành hai nhánh đổ nước cho sông Bồ. Cả hai con suối đều lắm vực nhiều khe. Tuyến đường giao liên chạy ra sông Bồ để chuyển gạo đạn cho ngả Hương Trà, những người lính vận tải ai cũng biết. Đã có vài lần Lý gùi gạo theo trung đội ông Mịch đổ cho kho của huyện và trạm phẫu Nhô, Lý rành rẽ đường đất. Chả vậy đã có lần cô ta dừng lại bên sông (sau chuyến Phong giáp mặt với thằng Lân), nhìn thẫn thờ sang phía bờ nam, bảo với Phong.
- Bên kia là đất quê em rồi đó anh Phong.
Gương mặt Lý lúc ấy đượm buồn, khiến cho anh hơi mủi lòng. Lý còn kể: một lần Thoan đã cho Lý đưa ba người trong đại đội vận tải về tận hậu cứ của huyện gửi tiền về đồng bằng mua hàng.
Chính điều đó đã củng cố cho Phong rẽ ra sông Bồ.
...
Địa bàn của nơi chung quanh cái tên "Động Tranh" đã khá là rõ ràng...
...
Phong và Phưởng xách súng bước vào khu hậu cứ của đại đội 4, đồng hồ chỉ ba giờ sáng. Nhô đưa cho Phong cây đèn pin. Suốt đoạn đường, men theo con suối để tới địa đạo, cây rừng bị bom chém trơ trụi cành lá. Từ sau Mậu Thân 1968, đồi 310 có tên là đồi Địa Đạo, trong ruột quả đồi có hầm ngầm mở ra ba cửa. Hai tiểu đoàn công binh của quân khu đã phải làm việc cật lực suốt một tháng trời đào vét đất đá lát đà gỗ, dựng nhà hầm để chuẩn bị nơi đây thành cứ điểm chỉ huy tiền phương của quân khu Trị Thiên trong chiến dịch tấn công về Huế. Vẫn còn vô khối dây điện, dây cáp ngầm trong các lòng hầm. Bộ phận quân khu rút đi. Tiểu đoàn 10, giao cho C4 đại đội hoả lực làm hậu cứ, đón gạo, đạn từ bờ bắc sông Bồ chuyển qua. Có thể coi vùng địa đạo 310 là đầu mối để đổ về Huế, qua các xã của huyện Hương Trà. Đường 12, con đường huyết mạch vào Huế do địch trấn giữ. Cánh cửa sắt cuối cùng giữ Huế là cứ điểm Động Tranh, Bình Điền. Đường chim bay về thấu Huế chưa tới hai mươi cây số. Mỹ thường chiếm điểm cao 360, kế cận địa đạo và thỉnh thoảng đưa một mũi xục vào hậu cứ đại đội 4. Tiếng là đại đội hoả lực của tiểu đoàn 10, trên thực tế lính C4 đã bộ binh hoá. Hai khẩu đại liên Cơrimốp bất lực trước rừng dầy nhiệt đới, địa hình đồi núi hiểm trở. Bộ đội hàng ngày vác B40, B41 đi lùng sục cảnh giới, chốt chặn Mỹ trên các ngả đường dẫn vào địa đạo.
Nhà cửa ngày trước ở khu vực địa đạo rất nhiều, nay đã hư nát cả. Dường như chỉ còn lại ba tuyến hầm ngầm là nguyên vẹn. Bom pháo bất lực, không đủ sức khoét sâu vào lòng núi.
Hơn một năm mới trở lại vùng này, Phong không quên lối. Anh xục xạo, đi tắt cắt đường như trên đất nhà mình. Ba cậu lính trinh sát của K11 thuộc đơn vị đặc công quân khu, treo súng trên đầu cọc thả sức kéo gỗ trong một ngôi nhà hầm đã bị sập một bên mái, Phong bấm đèn tới lay võng từng người. Họ tỉnh dậy rất nhanh, Phong xin lỗi và đề nghị được gặp người chỉ huy của nhóm trinh sát. Anh ta còn trẻ, ngoài hai mươi tuổi, dân Hà Nội tự giới thiệu tên là Hoàng, chức vụ trung đội trưởng.
...
Lại càng rõ thêm nữa về "khu vực thép" của Núi Mái Nhà nằm cạnh cái tên Ngọc Kê trai trên mảnh bản đồ địa hình làm chiếm mất tâm trí của SGG trong những ngày qua - khi tìm thấy ở link trang web địa phương
Huyện Hương Trà Địa đạo Khu ủy Trị Thiên-Huế bao gồm 02 địa đạo:
Địa đạo thứ nhất nằm ở gần ngay Khe Trái. Đây là địa đạo của Thành ủy Huế và cũng là địa đạo Khu ủy Trị Thiên, Thường vụ Khu ủy đã sử dụng trong suốt thời gian chuẩn bị chiến dịch và sau chiến dịch.
Ngoài cửa địa đạo có làm nhà của Văn phòng và một số nhà nhỏ, có các hầm chữ A kiên cố, các chính sở ở đó làm công tác bảo vệ và tiếp khách.
Địa đạo gồm 3 cửa, cấu tạo theo chữ Y, nằm trên lưng chừng núi Mày Nhà, địa đạo gần suối nên thuận lợi cho quan sát và sinh hoạt. Xung quanh địa đạo nhà cửa dựng 2 bên suối, rãi rác trên các sườn đồi. Địa đạo dài khoảng 70 mét.
Địa đạo gồm có 3 cửa: Cửa thứ nhất theo hướng chính Bắc, dài 4m, rộng 3m và cao 4m. Nối với cửa số 1 có 1 giao thông hào chạy theo hướng Đông Bắc, dài 20m, rộng 1m và cao 1,5m dùng làm đường đi xuống địa đạo và để thoát nước vào mùa mưa.
Cách cửa số 1 về phía Tây khoảng 10m là cửa số 2, cửa số 2 nằm theo hướng Tây Bắc, kích thước cũng tương đương với cửa số 1, cửa này không có giao thông hào, vì thực tế cửa số 2 cao hơn cửa số 1 khoảng 0,5m nên muốn đi vào cửa số 2 thì phải đi qua cửa số 1. Cả hai cửa trên đều bị Mỹ đánh sập vào khoảng tháng 6/1968. Cửa thứ 3 hiện tại chưa được tìm thấy...
Để rồi chính từ đây - trang web huyện Hương Trà - SGG đã tìm thấy thông tin Xã Hồng Tiến có số điện thoại và coi như có chính thức nhắc đến địa danh Động Tranh - để post bài viết #488, nhằm đưa thông tin kết quả trước, trên kia.(còn tiếp)