Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Tài liệu - Hồi ký Việt Nam => Tác giả chủ đề:: macbupda trong 08 Tháng Mười Hai, 2015, 08:48:13 pm



Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Mười Hai, 2015, 08:48:13 pm

(https://www.quansuvn.net/index.php?action=dlattach;topic=31677.0;attach=23282;image)

Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954)
Nhà xuất bản: Chính trị quốc gia
Năm xuất bản: 2003
Người số hóa: macbupda

BAN CHỈ ĐẠO NỘI DUNG

Đặng Thí nguyên Bí thư Liên khu ủy IV: Trưởng ban
Hoàng Anh, nguyên Bí thư Liên khu ủy, Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính Liên khu IV: Ủy viên
Võ Thúc Đồng nguyên Thường vụ Liên khu ủy IV: Ủy viên
Trần Sâm, nguyên Tư lênh Liên khu IV: Ủy viên
Lê Nam Thắng, nguyên Tư lệnh Liên khu IV: Ủy viên
PGS.TS. Nguyễn Trọng Phúc, Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng: Ủy viên
PGS.TS. Trình Mưu, Phó Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng: Ủy viên

TẬP THỂ TÁC GIẢ

Chủ biên:   PGS. TS. Trình Mưu
Chương I:   TS. Khổng Đức Thiêm
Chương II:   PGS.TS. Nguyễn Trọng Phúc
         ThS. Nguyễn Xuân Ớt
Chương III:   PGS. Lê Mậu Hân
         TS. Vũ Quang Hiển
Chương IV:   TS.; Phùng Đức Thắng
         Ths. Nguyễn Kim Vỹ
Chương V:   PGS.TS. Trình Mưu
         ThS. Trần Trọng Thơ
Chương VI:   GS.TS. Trịnh Nhu


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Mười Hai, 2015, 08:49:54 pm
LỜI NHÀ XUẤT BẢN

Sau khi xem xét đề nghị và nghe ý kiến các đồng chí lão thành cách mạng, tháng 6-1998, Bộ Chính trị đồng ý cho tiến hành nghiên cứu và viết lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của quân, dân một số liên khu và cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ.

Căn cứ ý kiến chỉ đạo của bộ Chính trị, ngày 7-8-1998, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 689/QĐ-TTg giao nhiệm vụ cho các cơ quan khoa học và các cơ quan chức năng phối hợp nghiên cứu, bố trí kinh phí để thực hiện các công trình biên soạn lịch sử đã được Bộ Chính trị quyết định.

Đề tài khoa học độc lập cấp Nhà nước Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945-1954) được Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường giao cho PGS.TS. Trình Mưu làm chủ nhiệm, cơ quan chủ trì là Viện Lịch sử Đảng trực thuộc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Tham gia chỉ đạo và biên soạn công trình còn có các đồng chí lão thành cách mạng nguyên là những nhà lãnh đạo của Liên khu IV và một số nhà khoa học.

Ngay sau Cách mạng Tháng Tám thành công, do yêu cầu chỉ đạo thống nhất trong cả nước, tháng 10-1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã cho lập một loạt chiến khu, trong đó có Chiến khu IV. Ngày 25-1-1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh đổi các khu để thành lập các liên khu. Liên khu IV lúc này bao gồm sáu tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên. Trước đó, tháng 11-1946, Trung ương cho giải thể Xứ ủy Trung Bộ để lập Khu ủy IV và Khu ủy V, sau khi thành lập Liên khu IV thì Liên khu ủy IV cũng được thành lập để lãnh đạo, chỉ đạo cuộc kháng chiến, kiến quốc ở vùng đất này.

Là dải đất dài và hẹp gồm sáu tỉnh Bắc Trung Bộ, từ vùng núi hiểm trở Tam Điệp đến đèo Hải Vân, Liên khu IV có vị trí chiến lược hết sức quan trọng, nơi địa linh nhân kiệt, nhân dân có tinh thần yêu nước và cách mạng rất quật cường, được xem như tiềm năng to lớn đặc biệt của dải đất này.

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của quân và dân Liên khu IV dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng bộ Liên khu từ lúc khởi sự đã cách đây gần 60 năm và kết thúc cũng gần 50 năm. Ở tầm quốc gia, cuộc chiến đấu của quân và dân Liên khu IV trên những nét lớn đã được phản ánh trong các bộ sử lớn như Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Ở tầm địa phương, cả sáu tỉnh trong liên khu đều đã viết lịch sử đảng bộ, có nơi đã viết cả lịch sử các ngành, các đoàn thể, cũng như thông sử.

Nhưng Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945-1954) được xuất bản lần này là công trình thông sử được nghiên cứu và biên soạn công phu, nghiêm túc phản ánh một cách toàn diện, hệ thống cuộc kháng chiến thần thành của quân và dân Liên khu IV trên tất cả các lĩnh vực chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, văn nghệ, giáo dục, an ninh, làm nghĩa vụ quốc tế.

Trong cuốn sách này, các tác giả không chỉ trình bày về hoạt động quân sự mà còn trình bày một cách toàn diện trên tất cả các mặt của cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ đầy gian khổ hy sinh và thắng lợi vẻ vang như nó đã diễn ra. Trong các chương của tập sách đều nêu bật âm mưu, thủ đoạn của địch, chủ trương và cách thức tiến hành kháng chiến của quân và dân Liên khu IV, từ chiến trường Bình - Trị - Thiên khói lửa đến vai trò của hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh, những đóng góp của quân và dân Liên khu IV với chiến trường cả nước và giúp đỡ cách mạng Lào. Từ hiện thực lịch sử hào hùng và oanh liệt, các tác giả bước đầu rút ra những kinh nghiệm của vùng đất này góp phần bổ sung vào kho tàng lý luận về cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, về chiến tranh cách mạng của Đảng. Cuốn sách cũng dành một số trang thích đáng để trình bày luận giải những khuyết điểm, thiếu sót trong quá trình chỉ đạo, điều hành sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc của Đảng bộ và chính quyền Liên khu IV.

Đây là một công trình lịch sử quý góp phần giáo dục truyền thống cách mạng cho cán bộ, nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ, đồng thời là tài liệu tham khảo có giá trị cho việc nghiên cứu, giảng dạy lịch sử trong các cơ quan nghiên cứu và nhà trường.

Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc.

                                                                                                   
Tháng 01 năm 2003
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Mười Hai, 2015, 08:59:57 pm
LỜI GIỚI THIỆU

Trong lịch sử đấu tranh của dân tộc Việt Nam, Liên khu IV là nơi khởi nguồn nhiều phong trào yêu nước chống phong kiến và ngoại xâm, là hậu cứ và chiến trường trực tiếp của các phòng trào chống Pháp thời cận, hiện đại. Khi Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh tiếp thụ và truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam thì cơ sở đảng sớm ra đời và phát triển rộng khắp các địa phương trong liên khu. Nghệ An, Hà Tĩnh đã trở thành ngọn cờ đầu trong cao trào cách mạng ở Đông Dương những năm 1930-1931.

Ngay sau khi ta giành chính quyền, với ý đồ trở lại xâm lược Việt Nam thực dân Pháp đã cho biệt kích nhảy dù xuống tây bắc Huế và tiến đánh Napê (Hà Tĩnh), mưu toan chiếm đường số 1 và số 9, lập phòng tuyến Đà Nẵng - Đông Hà - Savanakhẹt chia cắt ngang bán đảo Đông Dương, để từ đó đánh rộng ra các tỉnh bắc Liên khu IV, nối liền Nam - Bắc Việt Nam với Trung Lào.

Với truyền thống cách mạng kiên cường, quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập vừa mới giành được, nhân dân các dân tộc liên khu IV đã kề vai sát cánh dưới sự lãnh đạo của Đảng và chính quyền cách mạng nhất từ đứng lên kháng chiến chống thực dân Pháp. Bằng mọi thứ vũ khí có trong tay với tinh thần tự lực tự cường, quân và dân Bình - Trị - Thiên đã phát triển chiến tranh du kích, giành dân, giữ đất, phá tề, diệt địch, phối hợp có hiệu quả với các chiến trường, nhất là chiến trường chính. Ở Thanh - Nghệ - Tĩnh, quân và dân ra sức thi đua xây dựng hậu phương vững mạnh về mọi mặt, chi viện trực tiếp cho chiến trường chính và chiến trường Bình - Trị - Thiên, Trung Lào, góp phần đánh thắng chủ nghĩa thực dân Pháp và can thiệp Mỹ.

Để ghi lại những hy sinh và đóng góp lớn lao của đảng bộ, chính quyền, lực lượng vũ trang và nhân dân các dân tộc Liên khu IV trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Viện Lịch sử Đảng thuộc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh phối hợp với Nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản cuốn sách: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945-1954). Là một trong những người trực tiếp tham gia và giữ những trọng trách trong đảng bộ và chính quyền suốt cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở Liên khu IV, theo dõi và góp ý kiến với tập thể tác giả trong quá trình nghiên cứu, tôi thấy đây là một công trình khoa học công phu, nghiêm túc. Cuốn sách đã phản ánh trung thực cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện của quân và dân Liên khu IV về các mặt: chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa xã hội, an ninh, liên minh chiến đấu với Lào... Những ưu điểm và cả khuyết điểm, sai lầm trong cuộc kháng chiến của địa phương cũng được tập thể tác giả phản ánh một cách khách quan. Tôi tin rằng cuốn sách sẽ là tài liệu quý không những đối với các nhà khoa học mà còn là món ăn tinh thần bổ ích đối với đông đảo cán bộ, nhân dân và thế hệ trẻ trong Liên khu IV và cả nước.

Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc.

Hà Nội, tháng 12 năm 2002
HOÀNG ANH
Nguyên Bí thư Liên khu ủy,
                                                                                   
Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính Liên khu IV


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Mười Hai, 2015, 09:04:42 pm
Chương 1

LIÊN KHU IV MIỀN ĐẤT, CON NGƯỜI
TRUYỀN THỐNG LỊCH SỬ

I. VỊ THẾ CHIẾN LƯỢC

Sau Cách mạng tháng Tám, nhiều đơn vị quân sự - hành chính cấp của nhà nước Việt Nam mới đã ra đời, nhằm thích ứng với mọi tình huống và diễn biến của chiến tranh. Tháng 10-1945, chiến khu IV gồm Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh (Thanh - Nghệ - Tĩnh), Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên (Bình - Trị - Thiên) được thành lập. Về hệ thống Đảng, tháng 11-1946, Xứ ủy Trung Bộ được giải thể để lập ra Khu ủy IV và Khu ủy V; đồng chí Hoàng Quốc Việt được cử làm Bí thư Khu ủy IV. Qua hơn một năm thực tiễn kháng chiến, ngày 25-1-1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 120/SL hợp nhất các khu và thành lập các liên khu. Khu IV đổi thành Liên khu IV (bao gồm cả phân khu Bình - Trị - Thiên).

Liên khu IV được hợp nên từ vùng đất Ái Châu (Thanh Hóa), Hoan Châu (Nghệ An, Hà Tĩnh), Ô Châu (Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên) trong lịch sử. Đây là khu vực nổi tiếng đất thiêng người giỏi (Ái Châu), nơi thành đồng ao nóng, then khóa của các triều (Hoan Châu), núi cao biển rộng thực hiểm yếu (Ô Châu). Kéo dài 642 km từ đèo Tam Điệp đến đèo Hải Vân, Liên khu IV là vùng tự nhiên phân hóa rất sâu sắc theo hướng từ nam ra bắc, đông sang tây và theo chiều thẳng đứng của các hợp phần tự nhiên trong hệ thống các bồn lưu vực tạo ra sự đa dạng về tài nguyên (dự trữ rừng phong phú, ven biển nhiều đầm phá, có hai ngư trường lớn, giàu khoáng sản). Toàn bộ khu vực có 644 km bờ biển, 76.000km2 thềm lục địa, 1.182 km đường biên giới Việt - Lào, tổng diện tích 50.062 km2 với 3/4 là núi rừng, 70 vạn ha đất canh tác, địa thế dài và hẹp về phía nam (rộng nhất 207km, hẹp nhất 46,5km), có nhiều dãy núi đá chắn ngang từ tây sang đông như đèo Tam Điệp, đèo Ngang, đèo Lý Hòa, đèo Hải Vân. Thiên nhiên vô cùng khắc nghiệt phân bổ đều khắp vùng lãnh thổ kéo dài trên 4 độ vĩ tuyến với núi đồi là chủ yếu; đồng bằng càng đi xuống càng thu nhỏ. Các điều kiện khí hậu thay đổi đột ngột do các ảnh hưởng của các loại địa hình.

Liên khu IV chia thành hai khu vực: Thanh - Nghệ - Tĩnh với trung tâm là hai thành phố Vinh và Thanh Hóa; Bình - Trị - Thiên với Huế là trung tâm. Đèo Ngang là phân giới thiên nhiên của hai khu vực ấy.

Thanh - Nghệ - Tĩnh thuộc khu vực chuyển tiếp của Bắc Trung Bộ, có diện tích 33.573 km2. Núi non ở Thanh Hóa mang nét đặc trưng của Tây Bác bởi những dãy đá vôi xen kẽ đá phiến. Phía nam sông Mã và phía tây dọc biên giới Việt - Lào hiểm trở hơn với nhiều đỉnh núi có độ cao trung bình (Bù Binh 1.291m, Bù Chó 1.563m), bị chia cắt bởi mạng sông, suối dày đặc.

Vùng núi Nghệ - Tĩnh chạy dài thành một dãy liên tục, bắt đầu từ hữu ngạn sông Cả về đến Hoành Sơn. Từ độ cao 800 m trở lên, núi được phủ kín bởi các khu rừng dọc Pu Lai Long - Rào Cỏ, có ngọn cao đến 2.711m. Lại có nhánh núi đâm về đồng bằng với các dãy lẻ từ Cửa Hội đến Ba Đồn. Khu vực này, núi đồi còn lan rộng ra phía đồng bằng chạy song song với bờ biển, chia cắt thành từng khối riêng rẽ, sườn trơ sỏi đá với những bậc thềm phù sa cổ hoặc các đồi đất đỏ badan.

Đồng bằng Thanh - Nghệ - Tĩnh có diện tích 62.000 ha, riêng Thanh Hóa chiếm gần một nửa lại mang nhiều dáng vẻ của châu thổ sông Hồng, được phù sa sông Mã, sông Chu bồi đắp. Đồng bằng Nghệ - Tĩnh được hợp lại bởi nhiều mảnh nhỏ do vụng biển bị bồi lấp hoặc phù sa các sông Cả, Ngàn Sâu, Ngàn Phố tạo nên, rộng nhất là Diễn Châu và vùng duyên hải Vinh. Tuy không phì nhiêu bằng châu thổ sông Hồng và đồng bằng Nam Bộ, nhưng đây vẫn là địa bàn cư trú của đông đảo cư dân và mật độ dân cư cao, cường độ sử dụng đất đai lớn, trình độ thâm canh tiến bộ. Các cửa sông trở thành nơi ngư dân xuất phát để ra vùng lộng hoặc khơi xa đánh cá và các hải sản khác. Nhiều đảo ven bờ như Hòn Nẹ, Hòn Nôm, Hòn Mê (Thanh Hóa), Hòn Ngự, Hòn Mắt (Nghệ An), Hòn Chim (Hà Tĩnh) có vai trò lớn đối với ngư nghiệp.

Khí hậu nóng và ẩm tạo điều kiện cho các khu rừng nhiệt đới trong khu vực phát triển, sản ra các loại lim, gụ, sến, táu, lát hoa tốt nhất Đông Dương. Thú rừng thì đa dạng với voi, hổ, linh trưởng, gà lôi lam, nhất là ở phía tây Nghệ - Tĩnh.

Tài nguyên khoáng sản khá phong phú và đa dạng. Về kim loại có crômít Cổ Định (Thanh Hóa), thiếc ở Quỳ Hợp (Nghệ An), titan dạng sa khoáng ven biển Hà Tĩnh. Mỏ vàng xuất hiện ở hầu hết các tỉnh. Mỏ sắt Thạch Khê (Hà Tĩnh) cùng các khoáng sản khác như ăngtimoan, đồng, chì, mănggan, êmênhít, than, phốtphát... tạo ra những triển vọng cho các ngành công nghiệp phát triển. Các khoáng sản phi kim loại - ngoài đá vôi, đá hoa, đá xây dựng còn đá quý với trữ lượng rubi khá lớn ở Quỳ Châu (Nghệ An).

Bình - Trị - Thiên là lãnh thổ duy nhất ở Việt Nam có những con đường ngắn nhất nối các đường hàng hải ở biển Đông với các tuyến giao thông thủy bộ ở Đông Nam Á lục địa; là đầu cầu và những điểm gắn kết các đường quốc lộ nối liền các tỉnh miền Trung với Tây Nguyên, Lào, Campuchia và qua các nước này đến với Thái Lan và các nước Đông Nam Á. Sau khi có con đường giao lưu quốc tế nối liền con đường xuyên Á từ Thái Lan qua Lào đến Đông Hà theo quốc lộ 9 gặp quốc lộ 1, sức hút của nó đã giúp cho Quảng Bình thoát khỏi thế cô lập.

Với vùng núi đá vôi Kẻ Bàng phân bố trên một diện tích rộng chừng 10.000 km2, địa hình phía tây Quảng Bình hầu như không có sông suối hay một mặt phẳng nào. Đây là khu vực 94% diện tích là rừng nguyên sinh, nhiều hang động đã được tìm thấy với độ dài hàng trăm kilômét. Có tới hơn 600 loài thực vật (lim, mun, huỳnh...) với những cây chò vài trăm tuổi, cây gùa đường kính 5m và cao tới 70m. Lại có tới trên 60 loài thú quý (voọc, gấu, hổ, sao la, mang lớn, gà lôi lam). Hàng năm khu vực này nhận được một lượng mưa tới 2.500 - 3.000 mm, chảy ngầm vào khối núi theo những vết nứt nẻ, hòa tan đá vôi và đục rỗng khối núi từ bên trong, tạo nên nhiều hang động ngầm nổi tiếng như động Phong Nha được công nhận là đẹp nhất thế giới và đang được đề nghị công nhận là di sản thiên nhiên thế giới. Phía nam dãy núi đá vôi Kẻ Bàng là một vùng đồi núi thấp chạy từ biên giới Việt - Lào đến sát biển, khiến cho dải đồng bằng bị thu hẹp, đất đai thắt lại bề ngang có chỗ chỉ còn chừng 47-50 km, tạo ra đoạn xung yếu nhất về mặt chiến lược vì các con đường khi vượt qua dốc Ba Rền, U Bò và Khe ngang đều như dựng đứng trước các khối núi không rộng nhưng khá hiểm trở. Trong sơn phận Quảng Trị - Thừa Thiên, có nhiều khối núi đỉnh nhọn, sườn dốc (Voi Mẹp 1.701m, Động Ngài 1.774m, Núi Mang 1.708m) nằm phía sau Bạch Mã. Hai bên mạch núi có những dãy thấp hơn chạy song song, độ cao khi đến gần đồng bằng chỉ còn 300-400m.

Đồng bằng trong khu vực bao gồm các dải phù sa cổ, phù sa mới ven các thung lũng, đồng bằng các cửa sông và các trảng cát. Diện tích đất trồng lúa ở Quảng Bình bị thu hẹp dần do các cồn cát di động ven biển. Cồn cát thường kề bên mép nước biển, bờ rời, bề mặt trơ trọi, quanh năm chịu tác động của gió thổi với tốc độ khá lớn nên chuyển dịch nhanh vào lục địa khiến cho nước nguồn ngày một cạn kiệt, cây trồng bị chết, nhiều làng mạc buộc phải di dời.

Đồng bằng Quảng Trị rất hẹp, kéo dài tới 60 km ven biển, diện tích vào khoảng 5.000 ha. Đất trồng trọt ở địa phương chủ yếu dựa vào các đồi badan từ Cửa Tùng vào Gio Linh, Cam Lộ, Lao Bảo. Đồng bằng Thừa Thiên rộng chừng 9.000 ha do phù sa sông Hương bồi đắp và các đầm phá tạo nên, dài tới 70km, mở ra một vùng rộng tới 20.000 ha.

Dãy Trường Sơn Bắc đột ngột chấm dứt ở phía nam Thừa Thiên bằng một dải núi cao tới 1.000m, đâm thẳng ra biển, kết thúc bằng bán đảo Sơn Trà nằm ở phía đông Hải Vân. Rừng ở đây kéo dài từ bờ biển Đông đến tận biên giới phía tây, phủ kín các đỉnh Bạch Mã (1.444m), Bà Nà (1.467m) bằng thảm thực vật rừng mưa nhiệt đới ẩm. Sản phẩm kinh tế quan trọng của các tỉnh có từ các hoạt động lâm, nông, ngư nghiệp (cao su, hồ tiêu, trầm hương, gỗ tròn, tôm ca(1)).

Tài nguyên khoáng sản của Bình - Trị - Thiên cũng khá phong phú với đá vôi (Quảng Bình), đá hoa (Thừa Thiên), cao lanh, cát thủy tinh, sắt, pirít, ăngtimoan, nước khoáng (Quảng Trị).


(1) Lê Quý Đôn trong sách Phủ biên tạp lục cho biết ở châu Bắc Bố Chính có tới 75 xã sản xuất nhân sâm, yến sào, mật ong, trầm hương, gỗ mun. Phương pháp canh tác vườn rừng (lâm viên) khá phổ biến, nhất là ở tổng Bái Trời nổi tiếng với các vườn dầu sơn, hồ tiêu và trầu không. Vùng Thuận Hóa trồng nhiều ý dĩ (bo bo), vừng (mè), dứa (thơm), na (mãng cầu), chuối bụt, xoài, mít. Lại có các loại khoai sáp đường, khoai đầu hùm, khoai gừng, khoai nưa nổi tiếng. Cau ở đây bốn mùa đều có, mềm non mà ngọt. Dương Văn An trong sách Ô Châu cận lục còn ghi nhận thêm nhiều sản vật quý như hương bạch thủy trần, trà lưới xẻ (tước thiệt). Đặc biệt có loại chiếu hoa dệt bằng mây có 2 màu hồng nhạt và vàng, gối hoa làm bằng mây trắng.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Mười Hai, 2015, 09:06:18 pm
Nhìn một cách tổng thể phạm vi toàn Liên khu IV, điều kiện tự nhiên và cấu tạo địa hình đã hình thành ba vùng chiến lược kinh tế và quốc phòng rất quan trọng như sau:

- Vùng rừng núi mà thế mạnh nhất là lâm - nông nghiệp, địa bàn hiểm yếu về quốc phòng, đã từng xuất hiện những căn cứ địa ở Sa Nam (Nam Đàn - Nghệ An), Lam Sơn (Thanh Hóa), Giăng Màn (Hương Khê - Hà Tĩnh), Thủy Ba, Cùa và đặc biệt là Ba Lòng (Quảng Trị) trong cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân địa phương(1).

- Vùng trung du bán sơn địa: địa thế rộng ở phía bắc, hẹp dần ở phía nam, có nhiều sông ngòi chia cắt, địa hình đồi núi xen kẽ thung lũng và ruộng bậc thang, giữ vai trò căn cứ hậu phương chiến lượng và hậu phương chiến dịch cho các hướng chiến trường.

- Vùng đồng bằng và ven biển: dân cư đông đúc, tập trung nhân tài vật lực, đầu mối giao thông thủy bộ quan trọng, tuyến phòng thủ bờ biển chống tập kích chiến lược bằng không quân, hải quân và các cuộc đổ bộ bằng đường biển.

Vùng rừng núi sẽ trở thành bức tường thành ngăn cách sự thông thương giữa hai nước Việt - Lào nếu không có những đứt gãy tạo nên những đèo tương đối thấp như đèo Mụ Giạ ở cực nam dãy Giăng Màn có quốc lộ 15 nối Tân Ấp với Ba Na Phào (Lào, đèo Keo Nưa nối liền Long Đại sang thượng nguồn và thị trấn Xê Đôn; đèo Lao Bảo có quốc lộ 9 nối Thà Khẹc - Sê Pôn với Hướng Hóa, Khe Sanh, Cam Lộ, Đông Hà - những con đường ra biển ngắn nhất của Lào.

Chính vì những lẽ trên, mạng lưới giao thông của Liên khu IV có giá trị rất lớn đối với hoạt động kinh tế và quốc phòng. Tuyến đường sắt xuyên Việt chạy qua địa bàn dài 619km, mở ra 60 nhà ga lớn nhỏ, có nhiều đoạn băng qua hầm ở khu vực đèo núi hiểm trở Minh Cầm, Lệ Sơn (Quảng Bình). Quốc lộ 1 chạy dọc ven biển và vùng đông dân cư, vượt qua các đèo cao như Đèo Ngang, Lý Hòa, Phước Tượng, Phú Gia và nhiều cầu phà nổi tiếng ở Hàm Rồng, Bến Thủy, Quán Hàu và sông Gianh. Đường số 217 từ Đồng Tâm (Thanh Hóa) tới Na Mèo nối với Bắc Lào. Đường số 7 từ ngã ba Diễn Châu (Nghệ An) lên Nặm Cắn sang đường số 13. Đường số 8 từ ngã ba Bái Vọt qua Hương Sơn (Hà Tĩnh) lên Na Pê - Lạc Sao. Đường 12 từ Thanh Lạng (Tuyên Hóa) vươn tới Cổng Trời lên Ba Na Phào bên Lào. Cảng biển Đà Nẵng nằm ở phía nam Liên khu IV. Con đường chiến lược số 14 nối liền quốc lộ 1, cách Huế về phía nam khoảng 20 km, xuyên qua phía tây Quảng Nam chạy thẳng lên Tây Nguyên.

Liên khu IV có hàng chục hệ thống sông lớn nhỏ, độ khoáng nghèo, hàm lượng các chất hữu cơ không lớn, ít biển đổi theo thời gian.

Hệ thống sông Mã chảy trên địa bàn Thanh Hóa 242 km, tạo ra một lực vực rộng tới 9.000 km2, có các phụ lưu như sông Chu, sông Bưởi, sông Luồng, sông Âm và sông Lò. Tới châu thổ, sông Mã chia làm ba chi lưu để đổ ra biển: sông Lèn ở Cửa Sung (Hà Trung), sông Lạch Trường ở cửa cùng tên và sông Lạch Triều ở Cửa Hới (Hậu Lộc).

Hệ thống kênh nhà Lê được đào đào từ thế kỷ thứ X, nối liền sông Mã, sông Chu với nhiều sông khác, trước kia là mạng đường thủy quan trọng ở địa phương và nghề nông.

Hệ thống sông Cả có tới 151 sông suối đổ vào, các chi lưu chính là sông Hiếu, Ngàn Sâu, Ngàn Phố, Ngàn Trươi, Hoàng Ma. Dòng chính sông Cả - còn gọi là sông Lam do hai nguồn Nậm Non và Nậm Mô hợp thành. Từ Cửa Rào đổ xuống, thung lũng sông mở rộng, lòng sông nằm trong lòng mảng cũ, khiến cho cửa sông vừa sâu vừa rộng.

Sông ngòi ở Quảng Bình vừa ngắn và dốc do hàng trăm suối ngòi tạo nên các sông Ròn, sông Gianh, sông Lý Hòa, sông Dinh và sông Nhật Lệ... đi lại chỉ thuận tiện ở phía hạ lưu.

Quảng Trị có ba hệ thống sông phân bố đều từ bắc vào nam: sông Hiền Lương, sông Thạch Hãn và sông Ô Lâu. Các sông ở Thừa Thiên đều ngắn, chỉ thuận tiện cho việc thông thương trong tỉnh, trong vùng và đáng kể hơn cả là sông Hương.

Hệ thống sông ngòi của Liên khu IV tuy dày đặc nhưng ngắn. Có tới 200 sông suối dài trên 10 km, độ dốc lớn, nhiều thác ghềnh. Xàlan và tàu nhỏ trọng tải 50-70 tấn vào sâu trên sông Lam 70 km, sông Mã 89 km, sông Gianh 62 km, sông Nhật Lệ 42 km, sông Thạch Hãn 20 km, sông Hương 34 km.


(1) Ba Lòng là một thung lũng nằm ở thượng nguồn sông Thạch Hãn, phía tây Triệu Hải, kéo dài từ bắc Động Bương đến làng An, chiều dài khoảng 15km, rộng 1km, xung quanh bao bọc bởi núi cao. Căn cứ này cách thành phố Huế 80km về phía tây bắc và thị xã Đồng Hới 150 km về phía nam. Với vị trí như vậy, việc giao lưu giữa căn cứ và các tỉnh xung quanh thuận lợi. Đặc biệt Ba Lòng cách thị xã Quảng Trị chừng 10 km về phía tây và Đông Hà 20 km về phía tây nam. Vị trí này tạo ra bàn đạp để xuất quân về xây dựng lực lượng ở đồng bằng, liên hệ với chiến khu Dương Hòa (Thừa Thiên) và khu vực Thanh - Nghệ - Tĩnh.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Mười Hai, 2015, 09:06:57 pm
Bờ biển Liên khu IV có nhiều đầm phá, cửa biển đóng vai trò đầu mối giao thông. Vùng biển do chịu ảnh hưởng trực tiếp của hệ thống hoàn lưu xoáy thuận của dòng chảy nước mặt vịnh Bắc Bộ nên luôn tồn tại dòng vận chuyển ven bờ từ bắc xuống nam. Tỉnh nào trong liên khu cũng có biển, vì vậy, sự tương tác giữa biển và lục địa thể kiện khá rõ trong khí hậu, chế độ thủy văn, điều kiện sinh thái. Mùa nóng ở đây nắng gay gắt cùng với gió tây hanh khô. Mùa lạnh thường bị rét đậm kèm theo mưa dầm. Các á miền khí hậu Bình - Trị - Thiên và Thanh - Nghệ - Tĩnh là hệ quả của sự phân hóa sâu sắc về địa hình. Trong khi các tỉnh phía bắc chế độ mưa lũ từ tháng 5 và 6 đến 10 tháng 11 thì các tỉnh phía nam từ tháng 8 tháng 9 kéo dài tới tháng 1 tháng 12. Nắng lắm, mưa nhiều, nền nhiệt cao, đã gây ra muôn vàn khó khăn cho các hoạt động kinh tế - quốc phòng.

Trải dài từ 16o10 - 20o30 vĩ bắc, 103o50 - 108o10 kinh đông, Liên khu IV có vị trí chiến lược quan trọng. Điều kiện tự nhiên, địa hình phức tạp, núi rừng hiểm trở tạo nên thế thiên hiểm trong phòng thủ. Núi non đồ sộ, sông ngòi nhiều mà ngắn, dốc tạo ra thế chia cắt chiến trường bất lợi cho cả đôi bên. Điều kiện khí hậu cũng góp phần không nhỏ vào sự thành bại và cho cả những tính toán trước mắt và lâu dài. Nếu toàn bộ miền Trung được ví như cái đòn gánh, gánh hai đầu hai thúng gạo Bắc Bộ và Nam Bộ thì Liên khu IV là nửa cái đòn gánh ấy, hai đầu quan hệ khăng khít với Liên khu III và Liên khu V - mà ở đó có Huế là trung tâm, Quảng Trị nắm giữ giao thông huyết mạch của Đông Dương, Quảng Bình là bình phong án ngữ cổ họng bắc - nam còn Thanh - Nghệ - Tĩnh có đường 6 góc xiên; đường 7 đường 8 và đường 12 thẳng đứng từ Lào về.

Sự phân hóa cao từ bắc vào nam, từ đông sang tây của tự nhiên Liên khu IV thể hiện rõ nét trong điều kiện địa chất, địa hình; sự chia cắt của các hoành sơn, tiền đề của việc hình thành các vùng tự nhiên kinh tế. Mặt khác, sự phân hóa đông tây bắn liền với hiện trạng địa hình cao dần từ ven biển qua đồng bằng lên vùng đồi núi và núi cao ở miền tây, giống như mái nhà nghiêng về biển đông gần trùng đường ranh giới với Lào, làm ảnh hưởng trực tiếp đến chế độ thủy văn, đến hệ thống sông ngắn chảy từ tây qua đông, sự phân bố các loại đất, các hệ thực vật, các hệ sinh thái.

Mặc dù điều kiện thiên nhiên rất khắc nghiệt, nhưng con người đã tới địa bàn các tỉnh tụ cư, sinh sống từ thời tối cổ. Những công cụ bằng đá của người nguyên thủy có niên đại vài chục vạn năm thuộc sơ kỳ đồ đá cũ đã tìm thấy ở núi Đọ, núi Nuông, núi Quan Yên (Thanh Hóa) và những dấu tích hóa thạch ở hang Thẩm Òm (Nghệ An) khẳng định nhận định trên.

Dấu tích của nền văn hóa đá cuội cũng được tìm thấy ở Thanh Hóa (hang Húi Một), Nghệ An (Đồi Rạng, Đồi Dũng), Hà Tĩnh (Sơn Kim), Quảng Trị (Cùa), Thừa Thiên (Dương Xuân Thượng).

Văn hóa Hòa Bình bắt nguồn từ nền văn hóa đá cuội khi công cụ đã có bước tiến bộ, phạm vi cư trú mở rộng khắp vùng núi đá vôi Cẩm Thủy, Thạch Thành, Bá Thước, Ngọc Lặc (Thanh Hóa), Con Cuông, Tân Kỳ (Nghệ An) có niên đại cách ngày nay hàng vạn năm.

Văn hóa Bắc Sơn nảy sinh từ lòng văn hóa Hòa Bình, đồ đá cuội đã được mài, tạo nên bước chuyển sang thời kỳ đồ đá mới, để lại nhiều dấu vết ở các cồn sò điệp Đa Bút (Thanh Hóa), Quỳnh Văn (Nghệ An), Bàu Tró (Quảng Bình) hoặc các hang động Thẩm Mé Muông, Thẩm Phong, Thẩm Kê Pang, Nà Thẩm, Thẩm Tiên ở phía tây Thanh - Nghệ và Hang Rào, Khe Tong, Minh Cầm ở phía tây Bình - Trị - Thiên. Công cụ tìm thấy gồm các loại rìu đá (tứ giác, có vai). Cư dân đã lấy sản xuất nông nghiệp làm hoạt động kinh tế chủ yếu.

Dần dần, các bộ lạc bắt đầu tiến vào thời kỳ kim khí, để lại nhiều dấu tích ở vùng ven biển Hậu Lộc, Nga Sơn (Thanh Hóa), Đền Đồi (Nghệ An), tồn tại vào khoảng nửa đầu thiên niên kỷ thứ II trước công nguyên.

Rực rỡ nhất là giai đoạn Văn hóa Đông Sơn - nền văn hóa mang tên một địa điểm khảo cổ học thời đại đồng thau phát hiện ở Thanh Hóa, có khoảng cách về thời gian tới nay từ 2.300 - 2.800 năm. Con người thời kỳ này đã sử dụng rìu đồng để khai phá đất hoang, liềm đồng để gặt lúa, lưỡi cày đồng để lật đất. Ngoài làm ruộng còn có thêm nghề làm đá, làm gốm, sơn quét, đan lát và đồ mộc. Nhà nước Văn Lang của các vua Hùng đã ra đời trên nền tảng kinh tế đó.

Di vật tiêu biểu của nền văn hóa Đông Sơn là trống đồng, tìm thấy nhiều ở Thanh - Nghệ.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Mười Hai, 2015, 09:07:46 pm
Lịch sử và quá trình khai phá đất đai trong vùng đã tạo cho cư dân ở đây có nhiều nét riêng biệt so với các dân cư các khu vực khác. Tỉnh nào cũng có đồng bào dân tộc thiểu số mặc dù người Kinh vẫn chiếm tỷ lệ trên 90%. Thanh Hóa có dân tộc Thái, Mường, Dao, Thổ, Lào; Nghệ - Tĩnh có Thái, Mông, Khơ Mú, Ơ Đu; Bình - Trị - Thiên có Bru, Vân Kiều, Cà Tu, Tà Vi, Chứt.

Đặc điểm chung của các cư dân sống ở Liên khu IV là phong phú về sắc tộc, phân bố dân cư đa dạng về tập quán canh tác, truyền thống văn hóa và trình độ văn minh. Sau người Kinh, có người Mường ở Thanh Hóa, người Thái ở Thanh - Nghệ và người Bru - Vân Kiều ở Bình - Trị - Thiên. Dân tộc ít người nhất, kể cả đối với toàn quốc là dân tộc Ơ Đu cư trú ở huyện Tương Dương (Nghệ An).

Những kết quả nghiên cứu cho thấy các dân tộc đang sinh sống và cư trú ở đây có trình độ văn minh không giống nhau. Có những dân tộc ngày nay không thua kém người Kinh như Mường, Thái ở Thanh - Nghệ, trong khi đó có một số dân tộc đang sống trong tình trạng lạc hậu như người Chứt với nhóm người Rục ở Quảng Bình, vẫn còn cư ngụ dưới các mái đá tự nhiên và dùng vỏ cây làm khố để che thân và đang có nguy cơ bị xóa sổ nếu nhà nước khóng sớm có chính sách thích hợp.

Mỗi dân tộc thiểu số có bản sắc độc đáo góp phần tạo nên cộng đồng các dân tộc một cuộc sống phong phú và đa dạng. Họ đều cần cù lao động, có tinh thần yêu nước, đoàn kết và anh dũng chống giặc ngoại xâm.

Từ xa xưa trong lịch sử, nhân dân Liên khu IV đã rèn đúc cho mình một ý chí kiên cường bất khuất, quên mình, xả thân vì nghĩa lớn. Mảnh đất này luôn luôn là điểm tựa, nơi cung cấp nhân tài, vật lực cho các cuộc nổi dậy, các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Triệu Thị Trinh đã từng dùng núi Nưa (Thanh Hóa) làm căn cứ dụng binh. Mai Thúc Loan lập đại bản doanh ở Vệ Sơn, đắp lũy, xây thành Vạn An (Nam Đàn) dọc theo sông Lam để làm hậu cứ tấn công ra Bắc, đánh chiếm Tống Bình (Hà Nội), tự xưng là Mai Hắc Đế. Trong những năm đầu của sự nghiệp khôi phục lại nền độc lập cho đất nước, vùng Thanh - Nghệ đã trở thành hậu cứ để Ngô Quyền tiến ra Bạch Đằng đánh tan đội quân Nam Hán. Từ đây trở đi, cả khu vực Ái Châu, Hoan Châu trở thành trọng trấn của quốc gia, kho dự trữ về người và của cho sự nghiệp giữ nước và dựng nước lâu dài.

Trong thế kỷ XIII, đứng trước cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên của dân tộc, Thanh - Nghệ - Tĩnh đã trở thành hậu phương lớn, chặn đánh Toa Đô. Danh tướng Hoàng Tá Thốn đã lập công lớn.

Đầu thế kỷ XV, các thủ lĩnh Đặng Dung - Nguyễn Cảnh Chân đã lập con cháu lập con cháu nhà Trần tổ chức cuộc kháng chiến chống lại nhà Minh. Các ông đã chọn vùng La Sơn (Hà Tĩnh) làm căn cứ. Năm 1418, Lê Lợi - Nguyễn Trãi dựng cờ khởi nghĩa tại Lam Sơn (Thanh Hóa), trải 10 năm nếm mật nằm gai đã làm nên trận Bồ Đằng như sấm vang chớp giật, trận Trà Lân như trúc chẻ tre tan rồi kéo quân ra Bắc, làm nên chiến thắng Chi Lăng - Xương Giang lịch sử, quét sạch quân Minh ra khỏi bờ cõi, giành lại độc lập cho đất nước.

Bước sang thế kỷ XVIII, khi người anh hùng áo vải cờ đào là Quang Trung trên đường tiến ra Thăng Long, khi đi qua Nghệ - Tĩnh nhận được sự hưởng ứng của nhiều sĩ phu như Nguyễn Thiếp, Phan Huy Ích và các võ tướng Dương Văn Tào, Hồ Phi Chấn, đã cho xây dựng dưới chân núi Quyết và Kỳ Lân tòa Phượng hoàng trung đô để làm quốc đô sau này, tập kết quân ở Thanh Hóa, chuẩn bị cho trận quyết chiến tiêu diệt quân Thanh.

Sau khi kết thúc một bước cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, thực dân Pháp đặt Trung Kỳ nằm trong chế độ bảo hộ, bộ máy cai trị mang tính chất song hành hoặc lưỡng thể. Theo đó, triều đình Huế trên cũng có vua, dưới là các tổ chức quan lại phụ tá như Hội đồng phụ chánh, Viện cơ mật, Lục bộ (năm 1939 khi Bảo Đại ở Pháp về cải tổ thành bảy bộ: Lại, Tài chính, Hình, Lễ, Binh, Công, Hộ), Viện Đô sát, Phủ Tôn Nhân, còn hệ thống cai trị của Pháp có Khâm sứ với các cơ quan công sở giúp việc về thương mại, canh nông, giáo dục, giao thông...

Đối với các cấp tỉnh thì đứng đầu tỉnh lớn (Thanh Hóa, Nghệ An) có Tổng đốc phụ trách chung, Bố chính phụ trách việc hộ thuế khóa, án sát đặc trách việc hình tư pháp. Đứng đầu tỉnh vừa (Hà Tĩnh) có Tuần vũ (còn gọi là Tuần phủ), Bố chánh, án sát. Tỉnh nhỏ như Quảng Trị, Quảng Bình có Tuần vũ, án sát. Riêng tỉnh Thừa Thiên lại là Phủ Doãn, Phù Thừa.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Mười Hai, 2015, 09:11:28 pm
Thực dân Pháp đã thực hiện một chính sách vơ vét, bóc lọt triệt để các địa phương nằm trong chế độ bảo hộ. Thanh Hóa là một tỉnh đất rộng người đông, giàu tài nguyên, nên quy mô và tốc độ khai thác ngày càng lớn. Từ 1896 đến 1925, chúng đã cho xây đập Bái Thượng trên sông Chu với 100km kênh chính và phụ, 2.265 km chi giang và tiểu câu để tưới cho 5 vạn hécta ruộng thuộc vùng sông Chu, sông Mã. Hằng năm, chúng thu hàng vạn tấn gạo cho quân đội, xuất khẩu; tước đoạt 24.000 ha ruộng để lập đồn điền và sân bay. Dựa vào thế thực dân, nhiều địa chủ chiếm đoạt ruộng đất lập ra các ấp trại ở Đông Sơn, Nông Cống, Quảng Xương. Người Pháp độc chiếm khai thác 35 khu mỏ: kẽm Quan Hóa, Như Xuân; crômít ở Cổ Định (1909), đồng Lương Sơn, chì Điền Lư (1911), phốt phát Vĩnh Lộc, Hà Trung, sắt ở Đông Sơn, Quảng Xương (1926). Để phục vụ cho việc khai thác kể trên, chúng xây dựng cầu Hàm Rồng (1901), rồi mở các tuyến đường từ thị xã đi Hồi Xuân (Quan Hóa), Kim Tân (Thạch Thành), Chợ Châu (Ngọc Lặc), Bái Thượng (Thọ Xuân), Chuối (Nông Cống), Cầu Kênh (Nga Sơn), Chợ Phủ (Hậu Lộc) và thị trấn Sầm Sơn(1).

Ở Nghệ An, chỉ riêng ở Nghĩa Đàn, tính đến năm 1923, thực dân Pháp đã cướp 15.498 ha, lập nên 10 đồn điền Oante, Lapicơ, Xanta, Marôthơ, Sattơ, Bơtruynơtơ, Maicanh, Galiê, Máttông, Tôma).

Đối với Hà Tĩnh, thực dân Pháp cũng cướp đoạt nhiều ruộng đất để lập nên 19 đồn điền như Sông Con của Pherây (Feray), Hà Tân - Hà Thượng của Boócđê (Bordet), Voi Bổ của Hội nông nghiệp Bắc Trung Kỳ (SANA - Société agricole du Nord - Annam) ở Hương Sơn, và đồn điền ở Kỳ Anh của Cuđúc (Coudoux), có tên như Xiđê chiếm tới 300 mẫu đất ven biển Nghi Xuân trồng phi lao thu lợi. Các đồn điền chủ yếu trồng cà phê, lúa, ngô, khoai, vừng, đậu, chè. Bọn địa chủ chiếm đoạt ruộng đất của nông dân khá nhiều. Riêng Cẩm Xuyên có tới 139 địa chủ sở hữu 3.386 ha ruộng đất. Ở Đức Thọ, Hoàng Cao Khải, Lê Văn Khuê cướp nhiều ruộng đất để xây dinh thự hoặc lập ra làng riêng(2).

Thực dân Pháp chỉ có một số đồn điền nhỏ ở Quảng Bình. Riêng ở Quảng Trị, chúng cướp tới 6.878 ha chia thành 10 đồn điền (La ran, Locca, Raune, Poi land) để trồng cây công nghiệp và chăn nuôi dọc theo đường số 9 - Hướng Hóa. Một mình Loisy chiếm 250 mẫu ruộng và 300 mẫu đất ở Vĩnh Linh. Nhiều quan lại người Việt, như Nguyễn Hữu Bài, ỷ thế dựa vào Pháp chiếm cả một vùng rừng núi từ nam sông Thạch Hãn đến sông Ô Lâu để thu thuế lâm thổ sản. Vua Bảo Đại cũng chiếm một vùng rất rộng ở phía tây Quảng Trị, từ bờ bắc sông Thạch Hãn đến Đông Hà - Cam Lộ làm nơi săn bắn. Hằng năm người dân trong vùng phải bỏ ra từ 10-15 ngày công làm đường ô tô, chặt cây rừng, phạt cỏ tranh để ông vua này săn bắn(3).

Trong khi ấy, thực dân Pháp không chú trọng nhiều đến việc mở mang công kỹ nghệ ở khu vực Bắc Trung Bộ mặc dù đây là khu vực giàu khoáng sản, sẵn nhân công. Tại Thanh Hóa, chỉ có nhà máy xẻ gỗ và diêm ở Hàm Rồng, thu hút 500 công nhân. Năm 1927, nhà tư sản Hoàng Văn Ngọc mở nhà máy đèn thành phố Thanh Hóa với 2 máy phát điện. Các thị xã Hà Tĩnh, Đồng Hới, Quảng Trị cũng chỉ có nhà máy đèn, nhà máy nước và ở Huế có thêm xưởng vôi Long Thọ, Công ty kỹ nghệ và thương mại Trung Kỳ (SICA) lập năm 1007 có nhà máy nấu cất rượu ở Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên.

Người Pháp tập trung đầu tư nhiều vào thành phố Vinh (Nghệ An), không chỉ ở chỗ Vinh trở thành thành phố cấp III sớm nhất trong khu vực (10-12-1927), so với thành phố Thanh Hóa (31-5-1929), thành phố Huế (12-12-1929) mà còn vì những tiện ích do vị thế và điều kiện địa lý đem lại.

Thành phố Vinh nằm trên sông Lam, có quốc lộ số 1 và đường sắt xuyên Việt chạy qua, cách thành phố Thanh Hóa 138 km về phía bắc và thị xã Hà Tĩnh 49 km về phía nam. Năm 1898, Vinh chỉ là một thị xã nhỏ bé thành lập theo đạo dụ của Thành Thái, gồm khu vực thành cổ Nghệ An và khu phố dân cư ngoài Cửa Nam. Vào các năm 1914 và 1917, bên cạnh nó có thêm thị xã Bến Thủy và thị xã Trường Thi.

Ngày 10-12-1927, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định hợp nhất ba thị xã trên, lập ra thành phố Vinh - Bến Thủy với diện tích 20 km2 gồm 10 phố bao gồm 19.811 người (18.960 người Việt, 340 người Pháp, 492 người Hoa, 21 người Ấn)(4) do Công sứ Nghệ An kiêm chức Đốc lý thành phố quản lý.


(1) Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa, t.1 (1930 - 1954), tr. 28-31.
(2) Lịch sử Hà Tĩnh, t.1, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.394, 395.
(3) Lịch sử Đảng bộ Quảng Trị, t.1 (1930 - 1954), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.31-32.
(4) Thanh Nghệ Tĩnh tân văn, số 142, (7-4-1933).


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Mười Hai, 2015, 09:13:18 pm
Để chuẩn bị cho ra đời của trung tâm lớn nhất Bắc Trung Kỳ này, năm 1893 thực dân Pháp cho làm đường Vinh - Cửa Rào - Trấn Ninh; năm 1913 làm đường Vinh - Cửa Hội - Cửa Lò. Từ năm 1917, giới tư bản Pháp đã dự tính: “Vinh - Bến Thủy sẽ là một thành phố có nhiều triển vọng. Đây là cái chìa khóa của xứ Lào vì có hai con đường chính nối liền Lào với Bến Thủy; đường Vinh đi sang Trấn Ninh qua Cửa Rào, đường Vinh sang Mê Công qua Khăm Muộn là tỉnh giàu có của xứ Lào. Sau này có thêm con đường thứ ba mở vào phía nam đèo Mụ Giạ qua Lào và lưu vực sông Sê Ban Phai - Lào là một xứ nuôi gia súc đặc biệt”(1). “Bến Thủy có đầy đủ đường giao thông các mặt và tất cả đều thông về cảng. Hai tỉnh quan trọng này có trên một triệu rưỡi dân cũng ở tập trung xung quanh đây. Ngoài ra hai tỉnh của xứ Lào là Khăm Muộn và Trấn Ninh cũng dùng cảng Bến Thủy làm nơi giao xuất hàng hóa cuối cùng. Trước hết, chúng ta cần phải xem xét những sản vật sẵn có ở đây để xuất cảng như than đá, kẽm, chì, gỗ và các thứ lâm sản khác như cà phê, cam, chè, quả cây, gạo, ngô và da súc vật”.

Chính vì lẽ đó, từ năm 1918, kênh Sắt - Thanh Hóa được nạo vét, cảng Bến Thủy được mở rộng để mỗi năm có thể thu hút được 350 tàu Pháp, Nhật, Mã Lai, Ấn Độ, Trung Quốc ra vào ăn hàng.

Tính đến năm 1926, thành phố có hàng chục nhà máy lớn nhỏ, đáng kể nhất là: Nhà máy sửa chữa xe lửa Trường Thi thu hút trên 1.000 công nhân; Nhà máy ôtô Samanal (300 công nhân), Nhà máy rượu Vinh (300 công nhân); Nhà máy cưa Bến Thủy (300 công nhân); Nhà máy cưa Thái Hợp (120 công nhân).

Tập đoàn tư bản có thế lực nhất là SFAI (Société Forestière et des Allumettes de L’Indochine - Công ty rừng và diêm Đông Dương) vừa sản xuất diêm, khai thác gỗ và các lâm sản quý để xuất khẩu, vừa kinh doanh hàng nhập khẩu, mở đồn điền Phủ Quỳ (1.500 tá điền và công nhân). Công ty này thành lập năm 1904, đặt trụ sở ở Bến Thủy, có Nhà máy diêm ở Bến Thủy (750 công nhân), Nhà máy điện ở Vinh, số vốn tăng từ 1,6 triệu frăng (1904) lên 2,276 triệu (1922), 4,552 triệu (1924) và 9,104 triệu (1925).

Ngoài ra, trên địa bàn thành phố còn có tới sáu công ty thương mại lớn của Pháp ở Đông Dương như Công ty Bắc Kỳ và Bắc Trung Kỳ, Liên hiệp thương mại Đông Dương và 27 hãng buôn lớn khác có trụ sở, chi điếm ở Vinh - Bến Thủy. Tư bản Hoa, Ấn nắm giữ nhiều ngành công nghệ và thương mại. Tại Cửa Rào, Công ty Logiou bao thầu toàn bộ việc buôn bán các thứ hàng xuất nhập khẩu về vải sợi, gia súc.

Thành phố Vinh - Bến Thủy còn được coi là một trung tâm để quảng bá nền văn minh phương Tây tại khu vực Bắc Trung Kỳ. Năm 1912, Trường cao đẳng tiểu học hệ Pháp - Việt, tức trường Quốc học Vinh được thành lập để thu nhận học sinh bốn tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh - Bình. Về cấp tiểu học mở thêm hai trường Cao Xuân Dục và Nguyễn Trường Tộ.

Đối với thành phố Huế, vị trí và vai trò lại hoàn toàn khác, trước hết vì đây vừa là thủ đô của nền quân chủ phong kiến nhà Nguyễn, vừa là căn cứ chỉ đạo chính trị của thực dân Pháp về mọi lĩnh vực ở Trung Kỳ bên cạnh vị thế trung tâm chính trị và kinh tế của Thừa Thiên. Trải qua các triều Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị (1802-1847), Huế thực sự hưng thịnh với thành quách, cung điện, dinh thự, lăng tẩm nguy nga. Cuối triều Tự Đức, trải qua tình trạng tứ nguyệt tam vươngcác Hòa ước Harmand (1883), Hòa ước Patenô (1884), Huế mất dần danh nghĩa trung tâm chính trị, do bị chia sẻ cho Sài Gòn và Hà Nội. Nhưng Huế vẫn giữ vai trò kinh đô của nhà Nguyễn, nơi đặt tòa Khâm sứ Trung Kỳ và Sở mật thám của Pháp. Ngoài bốn nhà lao Hộ Thành, Thừa Phủ, Mang Cá (cơ quan phòng nhì Pháp) và Tòa Khâm, thực dân Pháp còn lập thêm hai căng an trí La Hi và Phú Bài; ba trại tập trung và quản thúc ở Phong Điền, Phú Lộc và Quảng Điền.

Tháng 10-1896, Quốc gia học đường tức trường Quốc học Huế được thành lập trên nền của dinh Thủy sư xưa. Đến năm 1914, trường được xây dựng bằng gạch ngói kiên cố và từ năm 1936 có tên gọi là Collège Khải Định; rồi Lycée Khải Định. Lúc đầu, muốn vào học phải là các hoàng tử, con hoàng thân quốc thích, học sinh quốc tử giám, các vị tân khoa (tiến sĩ, phó bảng) chuẩn bị ra làm quan như Tổn Thất Bảng, Hồ Đắc Hàm, Đào Nguyên Phổ, Phạm Liệu, Nguyễn Đình Hiến,…. Đến niên khóa 1936-1937 ban Cao đẳng tiểu học chuyển thành trường Trung học Khải Định (Lycée Khải Định) có đủ hai ban tú tài I và tú tài II cho cả Trung Kỳ, ngoài các giáo sư người Pháp còn quy tụ được nhiều giáo sư trung học ở Pháp về danh tiếng sánh ngang trường Bưởi ở Hà Nội và trường Pétrus Ký Sài Gòn: Phạm Đình Ái, Nguyễn Thúc Hào, Nguyễn Dương Đôn, Nguyễn Thiện Lâu, Nguyễn Huy Bảo…

Liên khu IV là nơi có đông đảo đồng bào theo đạo Thiên Cháu sinh sống. Thành phố Huế còn là một trong những trung tâm của đạo Thiên chúa ở nước ta. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đồng bào theo đại Thiên Chúa ở Liên khu IV đã có những đóng góp to lớn, cùng quân và dân Liên khu đánh thắng âm mưu chia rẽ lương giáo của địch, không để một số phần tử bị thực dân Pháp mua chuộc đội lốt tôn giáo kích động chống lại sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc của dân tộc.

Dưới chế độ thuộc địa, cùng với những biến đổi về kinh tế - văn hóa, các mối quan hệ xã hội ở Liên khu IV cũng có nhiều chuyển dịch. Đã xuất hiện thêm những nông dân bị bần cùng hóa, phụ thuộc nhiều vào giai cấp địa chủ đang tăng dần với sự bao che dung dưỡng của chính quyền Pháp, của nhà thờ đạo Thiên Chúa. Trong khu vực đồng bằng và lưu vực các con sông lớn, dân cư tập trung với một mật độ khá cao, nhất là ở Thanh - Nghệ - Tĩnh không thua kém gì châu thổ đồng bằng Bắc Bộ và Nam Bộ. Từ Bình - Trị - Thiên trở vào, trừ một vài huyện Quảng Trạch, Lệ Thủy (Quảng Bình), Phú Vang, Quảng Điền, Hương Trà (Thừa Thiên), còn lại dân cư thưa thớt như khu vực rừng núi phía tây Thanh - Nghệ - Tĩnh.


(1) Eveil Economique de L’Indochine (Sự thức tỉnh kinh tế của xứ Đông Dương, số ngày 3-7 và 27-11-1917) theo Lịch sử Đảng bộ Nghệ An, tr.26-27.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Mười Hai, 2015, 09:19:46 pm
Quen sống trong môi trường thiên nhiên khắc nghiệt nên người dân Liên khu IV không sợ gian khố, bất khuất trung kiên, năng động sáng tạo. Hạn hán, bão tố, ngập lụt có thể tàn phá xóm làng, cướp đi các thành quả lao động, nhưng không thể làm cho họ rời xa ruộng đồng, làng mạc. Ở vùng núi, các dân tộc luôn gắn mình với nương rẫy dù là người Tà Ôi ở Hướng Hóa, người Pa Cô và Cơ Tu ở A Lưới hay Bru - Vân Kiều ở Gio Linh, Cam Lộ.

Giai cấp địa chủ ở Liên khu IV tuy có thế lực ở địa phương nhưng không thuộc loại giầu có. Ở miền núi phía tây, nhất là Thanh - Nghệ, chế độ lang đạo phìa tạo còn tồn tại trong xã hội người Mường, người Thái, nhưng cũng rất ít người trở thành địa chủ, phú nông. Có thể một vài nơi vẫn còn hình thức bóc lột theo lối phục dịch hoặc cống nạp. Một số xã thuộc Nghĩa Đàn, Con Cuông (Nghệ An), Ngọc Lặc, Như Xuân (Thanh Hóa), lang đạo đã biết đến hình thức bóc lột tô, nhưng không phổ biến. Theo Y. Henry trong Economic agricole de l’Indochine (Kinh tế nông nghiệp Đông Dương) thì tình hình dân số, mật độ dân số, diện tích ruộng đất và sở hữu ruộng đất vào năm 1931 ở Liên khu IV như sau:

(https://fbcdn-sphotos-g-a.akamaihd.net/hphotos-ak-xtf1/v/t1.0-9/11140265_779124442232967_7048186827851116227_n.jpg?oh=729c748df170fe25a7be6a1d4cbfafeb&oe=56EA7654&__gda__=1457468175_c4a3df44cec01b54c80a2c52327ef5ae)

Theo số liệu trên, dân số toàn Liên khu IV vào năm 1931 vào khoảng 2,456 triệu người (theo Thông kê hằng năm Đông Dương, năm 1936 toàn Liên khu IV có 2,687 triệu người) - tức là chỉ hơn dân số Nghệ An vào thời điểm 1-4-1999 (2,258 triệu) và thua xa Thanh Hóa cùng thời điểm này (3,467 triệu).

Về vấn đề chủ sở hữu ruộng đất cho thấy có từ 99,2% (Hà Tĩnh) đến 96% (Quảng Bình) số hộ có dưới 5 mẫu ruộng, trong khi tỷ lệ này ở Nam Bộ là 71%. Số chủ đất trực tiếp canh tác trong toàn liên khu cũng tương đương với số liệu trên (94,4%).

Như vậy là vùng đất Liên khu IV vốn khắc nghiệt bởi điều kiện tự nhiên nhưng nhờ bàn tay và khối óc của con người đã thay đổi hoàn toàn. Núi cao, rừng thẳm, sông sâu đã trở thành thế thiên hiểm vô cùng lợi hại trong cuộc chiến tranh chống xâm lăng. Cả một vùng biên giới dài 1.162 km giữa Liên khu IV với Lào đã phát huy vị thế chiến lược của mình khi phong trào cách mạng hai nước nương tựa, giúp đỡ lẫn nhau và chính thực dân Pháp cũng lợi dụng thế hiểm yếu đố phá hoại sự nghiệp đấu tranh của nhân dân Lào - Việt.

Nhưng thiên nhiên chỉ là một yếu tố tạo nên vị thế chiến lược của Liên khu IV. Sự góp mặt của con người do trí tuệ, công sức và máu xương của tất cả các thế hệ, các giai tầng xã hội mới thực sự đem lại giá trị lớn lao cho vị thế chiến lược của liên khu.

Lịch sử đã chứng minh điều đó. Đây là vùng đất mà con người đã từng sáng tạo ra nền văn hóa Đông Sơn nổi tiếng, xây dựng nên một truyền thống hiếu học hiếm có, sản sinh được một đội ngũ nhân tài, nơi tích lũy nguồn nhân lực - chiến binh dồi dào. Nếu lòng yêu nước tha thiết đã tạo ra nhiều anh hùng dân tộc thì mặt bằng học vấn cao đã sản sinh ra Lê Văn Hưu, Nguyễn Du cùng bao nhân tài khác. Ngay dưới thời Pháp thuộc, vùng đất này đã xuất hiện những nhà cách mạng kiệt xuất Phan Bội Châu, Hồ Chí Minh. Hai trường quốc học ở Huế và Vinh trở thành những lò đào tạo nhân tài không chỉ cho các lĩnh vực mà còn cung cấp cho cách mạng nhiều chiến sĩ cộng sản kiên cường. Nguồn tài nguyên nhân lực trí tuệ thực sự quý báu đó mới chính là nhân tố tạo nên vị thế chiến lược đặc biệt. Nó còn tạo ra ngay trong lòng Hoàng tộc nhà Nguyễn với Hàm Nghi dám đứng dậy làm vụ biến ở kinh thành, với Thành Thái giàu ý thức dân tộc tự chủ và Duy Tân sẵn sàng đi với quần chúng để khôi phục lại chủ quyền quốc gia. Ngay cả giáo dân như Nguyễn Trường Tộ, con rể bậc đại thần như Nguyễn Lộ Trạch, quan lại cao cấp như Tôn Thất Thuyết cũng không quên tìm tòi kế sách để cho đất nước mau chóng tự cường.

Các yếu tố thiên nhiên - con người đã đan quyện với nhau làm ra vị thế chiến lược của Liên khu IV, tạo nên một thể kinh tế - xã hội - quân sự thống nhất. Nó đã phát huy cao độ vai trò, vị trí này trong tất cả các giai đoạn cách mạng của dân tộc. Đó là một tài sản hết sức quý giá, cần được nhân lên và phát huy. Vị thế chiến lược quan trọng nhất, tài nguyên đáng giá nhất ở đây vẫn là tài nguyên nhân lực, tài nguyên chất xám để cả khu vực cùng tiến công vào đói nghèo, vào thiên nhiên khắc nghiệt. Đó cũng chính là nguyên nhân cho mọi thắng lợi mà địa phương đã giành được trong suốt mấy chục năm dài đấu tranh cách mạng và đưa sự nghiệp kháng chiến đến bến bờ của thắng lợi và vinh quang.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Mười Hai, 2015, 09:23:26 pm
II. TRUYỀN THỐNG YÊU NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG

Đứng trước sự đầu hàng của triều đình Huế thừa nhận sự cai trị của thực dân Pháo ở Nam Kỳ, mở một số cửa biển và sông Hồng cho chúng thông thương, tăng quyền hạn cho Giáo hội, cột chặt công việc ngoại giao vào nước Pháp, ngay từ năm 1874, nhân dân Nghệ An đã cùng Trần Tấn - Đặng Như Mai nung nấu ý chí “phen này quyết đánh cả triều lẫn Tây”, để bảo vệ sự vẹn toàn nền độc lập dân tộc, tác động mạnh mẽ đến Tôn Thất Thuyết (hoàng tộc), Trần Xuân Soạn (Thanh Hóa), làm nên Vụ biến Kinh thành, tận dụng thế hiểm yếu của rừng núi Quảng Trị, Quảng Bình, Hà Tĩnh để xây dựng sơn phòng và hậu cứ cho cuộc kháng chiến lâu dài.

Sau khi Hàm Nghi hạ chiến Cần vương (71885), nhân dân đã đứng lên hưởng ứng, chiến đấu dưới ngọn cờ của Trương Đình Hội, Nguyễn Tự Như (Quảng Trị), Lê Trực, Nguyễn Phạm Tuân (Quảng Bình), Phan Đình Phùng, Lê Ninh, Cao Thắng (Hà Tĩnh), Nguyễn Xuân Ôn, Lê Doãn Nhạ (Nghệ An), Phạm Bành, Đinh Công Tráng, Tống Duy Tân, Cao Điển (Thanh Hóa).

Với những cuộc khởi nghĩa ban đầu và nhất là trong 10 năm nhân dân đứng dậy giúp vua đánh giặc, vị thế chiến lược của địa phương đã được phát huy cao độ. Rừng núi hiểm trở thành nơi chủ động tiến lui để câu nhử đối phương vào đất chết. Làng mạc Ba Đình nơi đồng chiêm trũng Nga Sơn (Thanh Hóa) cũng là cứ điểm gần như bất khả xâm phạm. Trước tấm lòng yêu nước của vua tôi, nhân dân không tiếc thân mình, nguyện dâng xương máu để đuổi ngoại xâm, giành lại quê hương đất nước. Nhưng rõ ràng các văn thân và và sĩ phu đã cảm nhận được những khó khăn khi phải đối diện trước một phương Tây hiện đại. Vì thế, đến đầu thế kỷ XX, qua sự kiện Nga thất bại bởi Nhật Bản hùng cường, nhiều sĩ phu yêu nước đã hướng đến đất nước đồng văn, đồng chủng với hy vọng sẽ đạt được sở nguyện cầu họccầu viện nhanh chóng khôi phục lại quốc gia.

Tiêu biểu cho xu hướng duy tân đổi mới lúc này là Phan Bội Châu - con người nổi tiếng khắp vùng Nghệ - Tĩnh vì thuở tráng niên tài cao học giỏi, giầu lòng yêu nước, ghét Pháp, lại sớm được tiếp xúc với Tân báo, Tân thư. Bắt tay vào xây dựng một phương thức cứu nước mới, chí sĩ đã vạch ra kế hoạch liên kết dư đảng Cần vương và tráng kiện ở chốn sơn lâm xướng khởi nghĩa binh đánh giặc. Từ phương thức tập hợp đồng chí, xây dựng tổ chức, khích lệ lòng yêu nước và tinh thần đoàn kết dân tộc, hướng tới học tập nước Nhật đã đưa Phan Bội Châu tới việc thành lập Duy tân hội (1904), tạo ra phong trào Đông Du chuẩn bị lực lượng cán bộ cho công cuộc chấn hưng dân khí, mở mang dân trí và xúc tiến bạo động đánh đuổi thực dân Pháp. Nó đã nhận được sự hưởng ứng nhiệt liệt của mọi tầng lớp, nhất là thanh niên. Năm 1908, thực dân Pháp đàm phán và ký kết với chính phủ Nhật Bản hiệp ước trục xuất lưu học sinh Việt Nam, phong trào Đông Du bị dập tắt. Con đường cứu nước dựa vào sự giúp đỡ của nước ngoài đã thất bại bởi lẽ Nhật Bản cũng như những đế quốc khác, “tất thảy giàu về phần dã tâm mà nghèo về phần nghĩa hiệp”(1). Các hành động tạm thời dung nạp đó chỉ vì lúc đầu Nhật Bản muốn thực hiện mưu đồ cạnh tranh với Pháp mà thôi.

Không cam chịu thất bại, năm 1912, Phan Bội Châu lại cùng các đồng chí của mình lập ra Việt Nam Quang phục hội để tiếp tục thực thi phương thức bạo động, đánh đuổi giặc Pháp, khôi phục nền độc lập, thành lập nước Cộng hòa dân quốc thay thế cho chính thể quân chủ lập hiến mà Duy tân hội chủ trương. Việt Nam Quang phục hội có rất ít cơ sở ở trong nước, nhưng lại chú trọng hoạt động vũ trang, manh động. Đáng kể nhất là cuộc khởi nghĩa năm 1916 do vua Duy Tân đứng đầu đã bị kẻ thù nhanh chóng dìm trong bể máu, đúng như Phan Bội Châu sau này rút ra nguyên nhân: “trăm thất bại mà không chút thành công của Việt Nam Quang phục hội vì trong nước không có một kinh dinh tổ chức gì, chỉ chủ trương dựa vào thế lực bên ngoài, trăm nghìn đều nương vào người khác thì từ xưa đến nay, từ Đông đến Tây, không bao giờ một đảng cách mạng như thế, lại có thể thành công được”(2).

Do ảnh hưởng của phong trào kháng thuế các tỉnh Nam Trung Kỳ, đầu tháng 4-1908, hàng ngàn người kéo về Huế, hô vang khẩu hiệu không đi phu, không nộp thuế cho Pháp. Các sĩ phu Hà Tĩnh vận động nhân dân biểu tình rầm rộ ở Can Lộc, Nghi Xuân, Đức Thọ, Hương Khê. Tại Nghệ An, cuộc đấu tranh giữa phe hộphe hào dẫn đến bạo động không thành. Ở Thanh Hóa, các nhà khoa bảng dán nhiều truyền đơn và cáo thị vận động hưởng ứng. Cuộc kháng thuế đã sản sinh ra những Nguyễn Hàng Chi, Trịnh Khắc Lập (Hà Tĩnh), Chu Trạc (Nghệ An), Nguyễn Xứng, Nguyễn Lợi Thiệp (Thanh Hóa) anh dũng vô song. Là một cuộc đấu tranh công khai, tự phát của nhân dân, phong trào kháng thuế ở Trung Kỳ đã buộc chính quyền thực dân phải nới tay trong nhiều lĩnh vực. Nó đã thể hiện rõ tinh thần và năng lực cách mạng của nông dân trong sự nghiệp giải phóng dân tộc cũng như những hạn chế của nó khi chưa xuất hiện một giai cấp lãnh đạo tiên tiến.


(1) Phan Bội Châu: Toàn tập, t. 6, Nxb. Thanh Hóa, 1990, tr.178.
(2) Phan Bội Châu niên biểu, Nxb. Văn - Sử - Địa - Hà Nội, 1957, tr.164.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Mười Hai, 2015, 09:28:31 pm
Phong trào Đông du và kháng thuế bị đàn áp, nhưng tinh thần xuất dương đi tìm con đường cứu nước vẫn nung nấu đối với nhiều chú sĩ. Sau khi ý định cướp tù giải thoát không thành, Đặng Thức Hứa đã quyết định thực hiện chủ trương thập niên sinh tụ, thập niên giáo hội (10 năm chiêu mộ nhân tài, 10 năm giáo dục rèn luyện) bằng cách sang Xiêm mướn đất lập ra Trại cày thu hút hàng trăm thanh niên. Trong khi đó, ở trong nước, Hồ Bá Phấn cùng với nhiều người khác đã tiến hành vận động binh sĩ người Việt bàn tính đến chuyện đánh thành Hà Tĩnh (1910); Liêu Thanh, Hồ Bá Kiện lãnh đạo tù chính trị phá ngục Lao Bảo ở Quảng Trị, lập căn cứ ở vùng bản Tạ Cha tại tỉnh Sanavakhét của Lào (1915); Nguyễn Trang, Nguyễn Hét lập quỹ xuất dương, trừng trị bọn tham quan và tay sai ở Hà Tĩnh (1916 - 1919); Trần Hậu Toàn và Lê Viết Lượng lập ra Hội bài Pháp (1920). Đặc biệt, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn và Phó Đức Chính vào tháng 4-1920 đi tới Trại cày Bạn Thầm (Thái Lan), mở đầu chặng đường hoạt động cách mạng của mình. Năm 1922, một số người yêu nước ở Thanh - Nghệ lập ra Hưng Nghiệp hội xã.

Bắt đầu từ đây, ở Việt Nam “lớp thanh niên từ bỏ phương pháp tiến hành những cuộc nổi dậy bột phát của lớp người đi trước và, ngày nay, người ta thiên về chiến thuật cần những nhà cách mạng châu Âu: tuyên truyền, tổ chức và khởi nghĩa quần chúng”(1) như lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc khẳng định.

Vào năm 1922, nhiều nơi ở trong nước đã xuất hiện các báo Le Paria (Người cùng khổ), L’ Humanité (Nhân đạo), La vie Ouvrière (Đời sống công nhân). Đặc biệt, tại Quảng Châu (Trung Quốc) nhóm thanh niên yêu nước lập ra tổ chức Tâm Tâm xã vào đầu năm 1923 với tôn chỉ liên hiệp những người có trí lực trong toàn dân Việt Nam, không phân biệt ranh giới đảng phái miễn là có quyết tâm hy sinh tất cả tư ý và quyền lợi cá nhân, đem hết sức mình tiến hành mọi việc để khôi phục quyền làm người của người Việt Nam. Ngay sau đó, Lê Hồng Sơn - với tư cách là đặc phái viên của Phan Bội Châu đã mang thư về nước gặp Lương Văn Can ở Hà Nội và được Đào Trinh Nhất đưa đi gặp Đinh Chương Dương, Nguyễn Công Liệu tại nhà số 7 phố Bến Ngự, thành phố Nam Định để thông báo về việc thành lập Tâm tâm xã và xây dựng cơ sở trong nước. Ngày 19-6-1924, Phạm Hồng Thái nhận nhiệm vụ ném bom vào Sa Diện (Quảng Châu - Trung Quốc) để giết Toàn quyền Méclanh, “báo hiệu bắt đầu thời đại đấu tranh dân tộc, như chim én nhỏ báo hiệu mùa xuân”(2). Tháng 8 năm 1924, Lê Hồng Phong và nhiều thanh niên yêu nước khác cùng quê vào học trường Quân sự Hoàng Phố (Lê Quảng Đạt, Trương Văn Lĩnh, Lê Thiết Hùng, Phùng Chí Kiên...) để chuẩn bị cho các hoạt động cách mạng cứu nước, cứu dân sau này.

Ngày 11-11-1924, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu và đã chọn được nhiều thanh niên ưu tú từ tổ chức Tâm tâm xã đưa vào Thanh niên Cộng sản đoàn - trong đó có nhiều gương mặt ưu tú của vùng đất Nghệ - Tĩnh (Lê Hồng Sơn, Lê Hồng Phong, Hồ Tùng Mậu, Vương Thúc Oánh, Trương Văn Lĩnh, Lưu Quốc Long...). Trên cơ sở của nhóm nòng cốt, tháng 6-1925, Nguyễn Quốc thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên với tôn chỉ, mục đích hy sinh tính mệnh, quyền lợi, tư tưởng để làm cách mạng dân tộc (đập tan bọn Pháp và giành lại độc lập cho xứ sở) rồi sau đó làm cách mạng thế giới lật đổ chủ nghĩa đế quốc, thực hiện chủ nghĩa cộng sản.

Hơn một tháng sau, vào ngày 14-7-1925, tổ chức Phục Việt ra đời ở thành phố Vinh (Nghệ An) với các sáng lập viên Lê Văn Huân, Tôn Quang Phiệt, Trần Mộng Bạch, Ngô Đức Diễn.

Hội Việt Nam cách mạng thanh niên và Tân Việt Cách mạng Đảng (tên của Phục Việt kể từ ngày 14-7-1928) đã có cơ sở đều khắp và xen kẽ nhau trên nhiều địa bàn, xí nghiệp, trường học, công sở các tỉnh của liên khu.

Do nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lênin, nhiều đảng viên của Tân Việt cách mạng Đảng đã chuyển sang Hội Việt Nam cách mạng thanh niên và sau này trở thành những lãnh tụ xuất sắc của Đảng. Đến cuối năm 1929, cơ sở của Đông Dương Cộng sản Đảng thâm nhập vào nhiều địa phương của Liên khu IV. Trong khoảng giao thời giữa hai năm 1929-1930, Tân Việt cách mạng Đảng cũng lột xác thành Đông Dương Cộng sản Liên đoàn. Cả hai tổ chức cộng sản trên trở thành những tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam.


(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.1, tr.466.
(2) Theo Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.58.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Mười Hai, 2015, 09:30:16 pm
Ngày 3-2-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. tháng 3-1930, Phân cục Trung ương lâm thời Trung Kỳ được thành lập, đặt trụ sở chính ở Vinh và một trụ sở ở Đà Nẵng, và ngay sau đó lập ra Tỉnh bộ Vinh (bao gồm Vinh - Bến Thủy, Nghi Lộc, Hưng Nguyên và thị xã Thanh Hóa) do Lê Mao, Ủy viên Thường vụ Phân cục phụ trách(1)Tỉnh bộ Nghệ An do Nguyễn Liễn(2) đảm nhiệm.

Cùng thời gian, được Phân cục Trung ương lâm thời Trung Kỳ ủy nhiệm, Trần Hữu Thiều về Hà Tĩnh triệu tập hội nghị tại Can Lộc đã bầu Ban Chấp hành tỉnh bộ lâm thời và được cử làm Bí thư. Tháng 4-1930, Tỉnh bộ lâm thời Quảng Trị thành lập: Lê Thế Tiết nhận nhiệm vụ của Phân cục Trung ương lâm thời Trung Kỳ, tổ chức hội nghị tại Triệu Phong và giữ trách nhiệm Bí thư.

Riêng ở Thừa Thiên, tháng 3-1930, Nguyễn Phong Sắc, Bí thư Phân cục Trung ương lâm thời Trung Kỳ đã đến Huế để vận động việc thống nhất các tổ chức cộng sản trong tỉnh, gặp gỡ Dương Văn Lan (Đông Dương Cộng sản Đảng) và Lê Viết Lượng (Đông Dương Cộng sản Liên đoàn). Tháng 4-1930, Tỉnh bộ Thừa Thiên thành lập do Lê Viết Lượng làm Bí thư. Tại Thanh Hóa, Nguyễn Doãn Chấp được Xứ ủy Bắc Kỳ ủy nhiệm, đã lập Tỉnh bộ lâm thời Thanh Hóa do Lê Thế Long làm Bí thư và ra tờ Tiến lên.

Sự kiện các tỉnh bộ Đảng Cộng sản Việt Nam lần lượt được thành lập ở các địa phương (trừ Quảng Bình) từ tháng 3 đến tháng 7-1930 đã thúc đẩy các tổ chức cơ sở đảng phát triển sâu rộng trong các nhà máy, xí nghiệp và vùng nông thôn rộng lớn. Nhiều tổ chức quần chúng cũng được xây dựng khiến cho khí thế cách mạng bừng lên mạnh mẽ, làm nên cao trào cách mạng 1930 - 1931 với đỉnh cao là Xô viết Nghệ - Tĩnh. Chính quyền Xô viết ra đời làm chức năng của chính quyền cách mạng do giai cấp công nhân lãnh đạo, bất chấp sự phản công quyết liệt của kẻ thù. Sức mạnh áp đảo của đội quân chính trị đã làm sụp đổ một phần bộ máy thống trị của đế quốc Pháp ở nông thôn. Báo chí cách mạng nở rộ với Người lao khổ, Công nông binh, Chỉ đạo, Vô sản, Tranh đấu của Xứ ủy Trung Kỳ; Tiến lên của Tỉnh ủy Nghệ An; Bước tới của Tỉnh ủy Hà Tĩnh cùng các tờ Sản nghiệp (Hưng Nguyên), Giác ngộ (Nam Đàn), Nhà quê (Thanh Chương), Gương vô sản (Anh Sơn), Tia sáng, Lao động (Quỳnh Lưu), Dân nghèo (Nghi Lộc), Tự cứu (Can Lộc), Tiếng gọi (Thạch Hà), Cổ động (Đức Thọ), Bước tới (Cẩm Xuyên)...

Xô viết Nghệ - Tĩnh đã nhận được nguồn cổ vũ mạnh mẽ của quần chúng công - nông trong cả nước với hàng trăm cuộc biểu tình, tuần hành rầm rộ. Phong trào còn được Quốc tế Cộng sản, Đảng Cộng sản Liên Xô và Đảng Cộng sản Pháp nhiệt tình ủng hộ.

Xô viết Nghệ Tĩnh tuy chỉ tồn tại được một thời gian ngắn do sự đàn áp dã man của kẻ thù, phong trào bước vào thoái trào nhưng đã để lại nhiều bài học và kinh nghiệm lịch sử quý báu.

Những thay đổi của tình hình thế giới và trong nước từ năm 1936 trở đi có nhiều tác động đến phong trào cách mạng Việt Nam. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp tại Thượng Hải (Trung Quốc) tháng 7-1936 xác định rõ mục tiêu trực tiếp, trước mắt là đấu tranh chống chế độ phản động thuộc địa, chống phát xít và chiến tranh, đòi tự do dân chủ, cơm áo và hòa bình; kẻ thù trước mắt là bọn phản động thuộc địa và bè lũ tay sai của chúng. Chính vì thế khẩu hiệu đấu tranh tạm thời chưa nêu đánh đổ đế quốc Pháptịch thu ruộng đất của địa chủ chia cho dân cày.

Đây chính là thời điểm Mặt trận nhân dân Pháp giành thắng lợi trong cuộc tổng tuyển cử và đứng ra lập Chính phủ mới do Leon Blum - lãnh tụ Đảng Xã hội làm thủ tướng, chủ trương thi hành một số điểm mà Cương lĩnh của Mặt trận nhân dân Pháp nêu ra. Đối với thuộc địa, chính phủ Pháp cho thả tù chính trị, lập ủy ban điều tra ở Bắc Phi và Đông Dương, thi hành một số cải cách xã hội cho người lao động. Nằm trong khuôn khổ những nới lỏng kể trên, tháng 8-1936, Đại hội lần thứ hai Mặt trận nhân dân Angiêri quyết định cử đoàn đại biểu đi Pari mang theo bản Dân nguyện; phong trào đòi tự do dân chủ ở Tuynidi phát triển mạnh, còn ở Marốc, Ủy ban hành động được thành lập.

Tại Việt Nam, nhân việc Nguyễn Phan Long đề cập tới việc thảo luận chương trình bày tỏ nguyện vọng của quốc dân Việt Nam một cách hạn chế tại Nghị viện Nam Kỳ, trên báo Việt Nam (26-5-1936), nhà trí thức mácxít Nguyễn An Ninh đã lật tẩy thủ đoạn chỉ xuất phát từ lợi ích một thiểu số người kể trên. Ông căn cứ vào thực tế phong trào Dân nguyện ở Angiêri, Marốc để đưa ra chương trình hành động ở xứ thuộc địa, trình bày luận điểm Tiến tới một cuộc Đại hội Đông Dương (Vers un Congré Indochinois) trên tờ La Lutte (Tranh đấu). Đề nghị trên nhanh chóng được Đảng Cộng sản Việt Nam và đông đảo các tầng lớp xã hội hưởng ứng.


(1) Đến 29-3-1931, Xứ ủy Trung Kỳ quyết định giao Nghị Lộc, Hưng Nguyên về Tỉnh ủy Nghệ An và thành phố Thanh Hóa về Tỉnh ủy Thanh Hóa, lập ra Thành ủy Nghệ An do Xứ ủy Trung Kỳ trực tiếp chỉ đạo.
(2) Nguyễn Liễn (tức Đàm) sau này làm việc cho Pháp.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Mười Hai, 2015, 09:33:51 pm
Sự uyển chuyển, mềm dẻo trong quan điểm đối với việc thành lập Mặt trận Dân chủ Đông Dương thể hiện khá rõ trong bức thư công khai của Đảng Cộng sản Đông Dương gửi các đảng phái, các nhóm cách mạng và không cách mạng đề nghị cùng đoàn kết để đòi các quyền tự do dân chủ và cơm áo, đẩy mạnh phong trào Đại hội Đông Dương. Xứ ủy Trung Kỳ đã nhanh chóng nắm lấy Hội nghị báo giới Trung Kỳ (7-6-1936) họp tại Huế để đề cập tới nhiều vấn đề dân chủ, dân sinh. Trong Đại hội nhân dân Huế (20-9-1936), các chính trị phạm như Nguyễn Khoa Văn, Lâm Mộng Quang mới được trả tự do đều có mặt trên ghế chủ tịch đoàn. Trong Ủy ban lâm thời chi nhánh Trung Kỳ của Đại hội Đông Dương có tới 17/26 ủy viên là chính trị phạm như Phan Đăng Lưu, Đào Duy Anh, Nguyễn Khoa Văn, Nguyễn Chí Diểu...

Ngày 13-1-1937, nhân dịp Nhành lúa ra số đầu tiên, tại tòa soạn báo, Nguyễn Chí Diểu đã chủ trì cuộc họp trù bị của Đại hội báo giới Trung Kỳ sắp tới, tuyên truyền về Đại hội Đông Dương và công bố những thu thập về Dân nguyện ban đầu.

Ở phủ Vĩnh Linh (Quảng Trị) có tới 72/93 làng xã lập ra Ủy ban hành động hướng tới Đại hội Đông Dương hoặc Ủy ban cải cách hương thôn. Tại Nghệ An mục tiêu tổ chức tốt Đại hội Đông Dương còn nhằm tăng cường sự đoàn kết trong đảng bộ mới được hợp nhất nên đã chọn giải pháp mềm dẻo là lợi dụng Đại hội Đông Dương do địch tổ chức ngày 20-9-1936, chủ động giành quyền đi dự Đại hội toàn xứ. Phát huy thắng lợi, Tỉnh ủy Nghệ An xây dựng các Ủy ban hành động, lập Nhà xuất bản Tập sách Tiến bộ, đổi tờ Vô sản thành Dân nghèo, xúc tiến soạn thảo Dân nguyện.

Từ ngày 22-2-1937 đến ngày 28-2-1937, Lao công đại sứ Gôđa (Justin Godart) lần lượt đi từ Thanh Hóa đến Thừa Thiên. Trong hai ngày 23 và 24-2, Gôđa đã tiếp xúc với hàng ngàn đại biểu của hai tinh Nghệ An và Hà Tĩnh, di thị sát Nhà thương Vinh và Nhà máy sửa chữa xe lửa Trường Thi. Ngày 25-2, Gôđa qua Hà Tĩnh và Quảng Bình nhưng không dừng lại, mặc dù có nhiều đoàn chờ đón ở Đồng Hới và ga Chợ Rẫy. Ngày 26-2, viên Lao công đại sứ tới Quảng Trị, được hàng vạn đồng bào Vĩnh Linh và Gio Linh chờ đón ở Hiền Lương và các phủ Triệu Phong, Hải Lăng trước ga xe lửa thị xã. Hai ngày 27 và 28-2 ở Huế, Gôđa đã tiếp đoàn đại biểu do Phan Đăng Lưu dẫn đầu. Khi ông ta trên đường vào Đà Nẵng, hơn 5.000 nông dân huyện Phú Lộc đã trao bản Dân nguyện tận tay.

Nhờ biết vận dụng các điều kiện do Chính phủ và Mặt trận nhân dân Pháp tạo ra, các đảng bộ đã kịp thời khôi phục lại phong trào cách mạng, đảm nhiệm việc tập hợp các lực lượng dân chủ tiến bộ để chống lại bọn phản động thuộc địa. Phong trào Đại hội Đông Dương và đón Gôđa có mặt trong hoạt động chính trị của nhiều địa phương đã góp phần thúc đẩy phong trào đấu tranh đòi tự do, dân chủ, cơm áo, hòa bình cho nhân dân. Để phát huy một cách triệt để và có hiệu quả, nhiều chiến sĩ cách mạng còn tham gia vào Đại hội báo giới Trung Kỳ. Tờ Sông Hương tục bản do Phan Đăng Lưu phụ trách kịp ra số đầu tiên vào ngày 15-6-1937. Nhân dịp diễn ra cuộc bầu cử Viện dân biểu Trung Kỳ, nhiều nhân sĩ và trí thức có tư tưởng tiến bộ do Mặt trận Dân chủ các tỉnh giới thiệu ứng cử giành thắng lợi gần như tuyệt đối: Thừa Thiên (Hoàng Đức Trạch, Nguyễn Đình Diễn), Quảng Trị (Phạm Triệu Khanh, Trần Đăng hiến), Quảng Bình (Nguyễn Xuân Các, Hoàng Chính Đồng) trúng 100%. Riêng Thanh Hóa có 5/6 ứng cử viên trúng cử (Hoàng Văn Khải, Nguyễn Đan Quế, Nguyễn Huy Cừ, Lê Mậu Hiền, Lê Khắc Độn) - trong đó Hoàng Văn Khải được bầu làm Viện trưởng, Nguyễn Đan Quế thường trực. Phong trào truyền bá quốc ngữ chỉ phát triển sôi nổi ở Nghệ An, Quảng Bình, Quảng Trị, vì Hội truyền bá quốc ngữ Trung Kỳ rất ít liên lạc với hội Trung ương và chỉ mang tính hình thức.

Thời kỳ Mặt trận dân chủ (1936-1939 tuy chỉ giành được một số thắng lợi ban đầu, nhưng đã giúp Đảng tích lũy được nhiều kinh nghiệm có giá trị thực tiễn quan trọng. Ngày 1-9-1939, Đức tấn công Ba Lan mở đầu cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Lợi dụng tình thế Mặt trận nhân dân Pháp bị tan vỡ, Chính phủ Đalađiê ra sức đàn áp lực lượng dân chủ ở trong nước và phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa. Catru (Jean Catroux) Toàn quyền Đông Dương tuyên bố: Chúng ta đánh toàn diện và mau chóng và các tổ chức cộng sản; trong cuộc đấu tranh này, phải tiêu diệt cộng sản thì Đông Dương mới được yên ổn và trung thành với nước Pháp.

Tại Trung Kỳ và Lào, lúc này thực dân Pháp có một lữ đoàn bộ binh, một trung đoàn lính khố đỏ, một tiểu đoàn lính Tây Nguyên và đến năm 1943 có một tiểu đoàn lính Lào. Đó là không kể một số phi cơ phóng pháo, khu trục và thám thính thường xuyên lên xuống sân bay Vinh.

Một chiến dịch rộng lớn chống tuyên truyền và lưu hành tàng trữ tài liệu cộng sản diễn ra khốc liệt. Báo chí cách mạng và tiến bộ bị đóng cửa. Đảng viên và nhiều người yêu nước bị bắt giam.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Mười Hai, 2015, 09:35:20 pm
Đứng trước tình hình đó, ngay từ cuối tháng 9-1929, Trung ương Đảng đã có thông cáo nêu rõ phương hướng và biện pháp cần kịp trước mắt về chuyển hướng các hoạt động của Đảng. Sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược được vạch ra rõ ràng, đầy đủ hơn trong Nghị quyết của Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ sáu (11-1939), trong hai khẩu hiệu cách mạng về ruộng đất và thành lập chính quyền, trong chuyển đổi từ phương thức hoạt động hợp pháp - bán hợp pháp sang bí mật - bất hợp pháp để dự bị các điều kiện bước tới bạo động làm cách mạng giải phóng dân tộc. Nhằm tập trung mọi lực lượng của dân tộc vào nhiệm vụ chủ yếu là chống chiến tranh đế quốc và ách thống trị phát xít thuộc địa, Đảng chủ trương thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương thay Mặt trận Dân chủ không còn phù hợp trong tình hình nhiệm vụ mới. Tham gia và mặt trận là tất cả các giai cấp, các đảng phái, các phần tử phản đế muốn giải phóng dân tộc, thực hiện Đông Dương hoàn toàn độc lập với quyền dân tộc tự quyết. Đó là công nhân, nông dân, tiểu tư sản, tư sản dân tộc, trung tiểu địa chủ - trong đó công - nông là lực lượng chính và giai cấp công nhân lãnh đạo.

Trước đòn phản công của kẻ thù, hầu hết các đảng bộ đã kịp thời chuyển sang hoạt động bí mật, tuy nhiên cũng không tránh khỏi những tổn thất, nhất là về tổ chức và mạng lưới cơ sở đảng. Ngày 2-3-1940, Trung ương Đảng đã gửi thư cho Đảng bộ Trung Kỳ chỉ rõ những thiếu sót về công tác tuyên truyền khiến cho dân chúng không hiểu rõ tính chất của cuộc chiến tranh, phải tuyên truyền “để cho dân chúng thôi không góp phần về người và của cho chiến tranh đế quốc và phải củng cố các cơ sở ở bất cứ nơi nào đã có cơ sở và tìm cách thích hợp để nối liền chúng với những trung tâm không có cơ sở”(1).

Thời gian mới rút vào bí mật, Đảng bộ Quảng Trị và Thừa Thiên ít bị tổn thất hơn. Trong số những đảng bộ phục hồi sớm nhất có Đảng bộ Hà Tĩnh. Tháng 3-1940, được sự chỉ đạo trực tiếp của Xứ ủy viên Trần Mạnh Quý, Tỉnh ủy lâm thời Hà Tĩnh được tái lập. Các cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (9-1940), Nam Kỳ (11-1940) và binh biến Đô Lương (1-1941) nổ ra làm xuất hiện tư tưởng bạo động vũ trang ở nhiều nơi, nhất là Đảng bộ Hương Sơn. Mặc dù cuộc khởi nghĩa không được Xứ ủy Trung Kỳ đồng ý những vẫn nổ ra vào sáng 15-5-1941 tại đồn điền Sông Con, Cẩm Lĩnh (Hương Sơn) khiến quân thù có cớ huy động một lực lượng quân sự lớn tới đàn áp, khủng bố liền trong hai tháng, giết chết 30 người, bắt giam 170 người khác, triệt hạ hàng chục làng xóm. Phong trào và cơ sở cách mạng của Hà Tĩnh bị vỡ.

Vào thời gian này, một số cán bộ lãnh đạo của Xứ ủy Trung Kỳ đang tham dự Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tám (10 đến 19-5-1941) tại Cao Bằng dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, được lĩnh hội tư tưởng chỉ đạo về cuộc cách mạng Đông Dương hiện tại và việc thành lập Mặt trận Việt Minh nhằm Liên hiệp tất cả các tầng lớp nhân dân, các đảng phái cách mạng, các đoàn thể dân chủ yêu nước đặng cùng nhau đánh đuổi Nhật - Pháp, làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập, dựng lên một nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Do việc hai đại biểu của Xứ ủy Trung Kỳ trên đường từ Cao Bằng trở về sa vào tay giặc tại ga Cầu Giát (nghệ An) nên Nghị quyết của Hội nghị Trung ương tám và Chương trình hành động của Mặt trận Việt Minh chưa được triển khai tới các đảng bộ. Ngày 16-8-1941, cơ quan Xứ ủy Trung Kỳ đặt ở Nghệ An bị phá vỡ. Từ tháng 8 đến tháng 10-1941, chiến khu Ngọc Trạo của Thanh Hóa nằm trong tổng Trạc Nhật, huyện Thạch Thành liên tiếp bị địch tấn công và chịu nhiều tổn thất.

Mãi tới đầu năm 1942, trên địa bàn Quảng Trị mới lập ra các Ủy ban Việt Minh, Ủy ban vận động Việt Minh, chuyển các hội phản đế thành hội cứu quốc, tổ chức in Tuyên ngôn Việt Minh và thư của Nguyễn Ái Quốc để phân phát xuống các phủ huyện hoặc gửi tới một số nhân sĩ trong tỉnh. Phủ ủy Diễn Châu (Nghệ An) liên hệ được với các cô sở cách mạng Vinh và Nghi Lộc. Đồng chí Nguyễn Chí Thanh thoát khỏi nhà tù Buôn Ma Thuột, bắt tay vào khôi phục lại phong trào ở Thừa Thiên. Đến cuối 1942, Tỉnh ủy Thanh Hóa mới nhận được Nghị quyết Trung ương tám và Chương trình hành động của Việt Minh, chuyển Thanh Hóa ái quốc hội sang đoàn thể cứu quốc. Sau đó, nhờ liên hệ trực tiếp với Trung ương Đảng, Tỉnh ủy lâm thời Thanh Hóa được chính thức công nhận với nhiệm vụ nối lại liên lạc giữa các đảng bộ để nhanh chóng khôi phục Xứ ủy Trung Kỳ. Cũng nhờ có được các văn kiện trong tay, Hội Việt Minh cứu quốc Hà Tĩnh chuyển thành Mặt trận cứu quốc phát triển cơ sở tới Can Lộc, Đức Thọ, Thạch Hà, Cẩm Xuyên, Hương Khê; xây dựng cơ quan ấn loát tại Trại Hồng (Can Lộc) cùng nhiều căn cứ du kích ở Ngàn Trươi, Truông Bát (Hương Khê).

Tuy nhiên, từ giữa năm 1942, phong trào cách mạng Quảng Trị bị tổn thất nặng nề do bị địch khủng bố dữ dội. Cuối năm đó, kẻ thù lại đàn áp khốc liệt các cơ sở cách mạng Quảng Bình, Thừa Thiên. Giữa lúc Đảng bộ Nghệ An gặp muôn vàn khó khăn, thử thách thì tháng 4-1943 Trương Văn Lĩnh, Chu Huệ, Trần Hữu Doanh, Nguyễn Tạo vượt tù đày trở về xây dựng lại tổ chức ở Nghệ An, Hà Tĩnh, Thanh Hóa. Cuối năm 1943, Nguyễn Xuân Linh từ lớp tập huấn quân chính ở chiến khu Ngọc Trạo nhận nhiệm vụ về Nghệ An hoạt động. Nhờ những hoạt động không mệt mỏi đó, đến giữa năm 1944, phong trào cách mạng có nhiều dấu hiệu hồi phục ở Thanh Hóa, Quảng Trị và Thừa Thiên. Ngày 24-6, Tỉnh ủy Thanh Hóa mở hội nghị tại Hà Trung nhằm hướng dẫn phong trào toàn tĩnh gấp rút chuẩn bị khởi nghĩa. Ở Quảng Trị, một số đảng viên từ Thái Lan trở về kết hợp với các đồng chí mãn hạn tù, bắt tay vào khôi phục các cơ sở cách mạng. Tại Thừa Thiên, do chưa bắt được liên lạc với Trung ương, Tỉnh ủy triệu tập hội nghị mở rộng ở ngã ba Sình, dựa trên tinh thần Nghị quyết Trung ương bảy đề ra nhiệm vụ cho công tác tuyên truyền, phê phán tư tưởng cơ hội hữu khuynh.


(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.7, tr.10.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Mười Hai, 2015, 09:37:24 pm
Bước vào năm 1945, các tỉnh gặp muôn vàn khó khăn. Phát xít Nhật đưa 10.000 quân vào chiếm đóng Nghệ An. Chúng rải quân xây dựng tuyến phòng thủ dọc bờ biển Cửa Lò, Cửa Hội và đóng chốt trên quốc lộ 1A, các đường số 7, số 8, đường sắt xuyên Việt, khẩn trương lập các xưởng cưa, đóng tàu thủy ở Cửa Hội, sửa chữa cảng Bến Thủy và sân bay Vinh, nạo vét kênh nhà Lê, mở rộng quy mô khai thác gỗ, khoáng sản (mănggan Núi Thành, mở sắt Phương Tích, mỏ than Khe Bố), bắt nhổ lúa trồng đay; ra sức trưng thu, trưng mua thóc, ngô, vừng, lạc, thầu dầu. Trên địa bàn thành phố Huế, ngoài 4.500 quân có sẵn chúng còn đưa hơn 60 hiến binh vào đóng gần tòa Công sứ, đặt tòa Lãnh sự và thiết lập hệ thống liên lạc nối với Quảng Nam, Quảng Trị, Đông Hà, Đồng Hới, Lào.

Do chính sách bóc lột của Nhật - Pháp, nạn đói xảy ra dữ dội ở nhiều địa phương. Thanh Hóa có hàng vạn người bị chết đói. Riêng Nghệ An trong ba tháng từ cuối năm 1944 đến đầu năm 1945 đã có 42.630 người thuộc 16.358 gia đình bị nạn đói cướp đi sinh mạng - trong đó có 2.250 gia đình không còn người sống sót, huyện Nghi Lộc có tới 16.140 người thuộc 5.089 gia đình (1.012 gia đình chết hết). Tỉnh Hà Tĩnh cũng có tới 50.000 người - riêng huyện Nghi Xuân có tới 8.161 người chết đói; thị xã Hà Tĩnh mỗi ngày phải huy động 2-3 chuyến xe bò mới chở hết xác người. Người dân Quảng Bình phải dùng củ khúc, củ nghèn để qua bữa, có nơi đạp cả phên đất để nhặt lúa lép. Củ chuối, vỏ lạc, rau rừng đều phải ăn thay cơm. Tại huyện Quảng Trạch có 1.518 người chết, 1.419 người đi ăn xin, 6.692 người tha hương. Ngư dân Thừa Thiên sống ở đầm Cầu Hai, đầm Chuồn, phá Tam Giang và nông dân ở vùng lúa màu Phong Điền, Quảng Điền cũng bị thiếu đói nghiêm trọng. Để đối phó với nạn đói, Tỉnh ủy Thanh Hóa ra Chỉ thị Đòi ăn, nêu khẩu hiệu Quyết giữ lấy thóc mà ăn, không để lọt một hạt vào tay Pháp - Nhật, vận động nhân dân làm đơn đòi cứu tế, vay lương thực, chặn xe chở thóc, ngô. Ở Nghệ An và nhất là Hà Tĩnh phong trào phá kho thóc phát triển mạnh mẽ tại các huyện Hương Sơn, Hương Khê, Cầm Xuyên, Kỳ Anh. Nhiều nơi còn quyên tiền, cử cán bộ vào Quảng Trị mua gạo về giúp dân. Hội đồng cứu đói Quảng Bình sau khi thành lập đã đến gặp tuần vũ, gửi điện đòi Bảo Đại giải quyết. Trước áp lực, nhà cầm quyền cho mở công trường làm đường Phong Nha (Bố Trạch), Ba Đồn, Tiên Lương (Quảng Trạch), Quảng Bình quan - Đức Phổ (Quảng Bình), Cưỡi - Đại Phong (Lệ Thủy). Các chợ Ba Đồn, Hoàn Lão, Đồng Hới nấu cháo phát cho dân. Một số nơi thuộc Quảng Trạch, Bố Trạch, Lệ Thủy nổ ra phong trào phá kho thóc để chia cho dân nghèo. Tỉnh ủy Thừa Thiên ngoài việc vận động còn lập các Hội cứu đói để cử người vào Quảng Nam, Quảng Ngãi mua lương thực.

Rõ ràng Nhật - Pháp có kế hoạch làm cho hàng triệu người Việt Nam bị chết đói, như chúng thừa nhận sau đây:

Mục đích chính trị: làm chết một phần quan trọng dân chúng và dìm số còn lại trong cảnh đói: đó là cái tay hãm tốt mà Sôvê - Thống sứ Bắc Kỳ đã tìm ra để làm dịu bớt lòng hăng hái yêu nước.

Mục đích kinh tế: a) làm cho vài công ty Pháp (Anh em Đơni), Nhật (Mítsui, Mítsubisi) có thể tích trữ hàng triệu tấn gạo với giá rẻ mạt để bán lại đắt như vàng, b) Làm cho việc mộ phu đồn điền và mỏ được dễ dàng”(1).

Đêm 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp, nhanh chóng chiếm được các thành phố, thị xã trong vùng. Có nơi, quân Nhật không có mặt như Hà Tĩnh, viên Công sứ Pháp cũng viết thư xin hàng; còn ở Quảng Bình, quân Pháp chống cự yếu ớt rồi bỏ chạy lên Khe Gát, Quy Đạt. Cuộc đảo chính đã tạo nên một cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc, đối tượng của cách mạng thay đổi: phát xít Nhật trở thành kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương. Độc chiếm được Đông Dương, chúng không ngừng thi hành chính sách lừa bịp và mua chuộc để che đậy bản chất của mình. Các tổ chức ủng hộ Việt Nam độc lập đoàn, Tân dân đoàn, Thanh niên ái quốc đoàn mọc ra như nấm. Cha con Ngô Đình Khôi hoạt động mạnh ở Quảng Bình, Thừa Thiên để tìm cách đưa Cường Để về thay thế Bảo Đại.

Để lừa phỉnh nhân dân, giặc Nhật bỏ lệ thu thóc tạ ở Trung Kỳ nhằm tô son trát phấn cho Chính phủ Trần Trọng Kim. Mặt khác viên Thủ tướng của Chính phủ bù nhìn còn điều đình xin giảm thuế cho dân. Theo Đạo dụ ngày 26-5-1945, dân vô sản ở Trung Kỳ được miễn thuế thân và những người làm công ăn lương dưới 1200$ một năm được miễn thuế tỷ lệđặc nạp. Thật ra, bên cạnh việc giảm, chúng lại buộc những người trước đây đóng 7$ tăng lên 10$, loại 15$ lên 30$. Rõ ràng đó chỉ là chiêu bài.

Sau cuộc đảo chính, nhiều tù chính trị thoát khỏi lao tù bằng cách vượt ngục hoặc được trả tự do. Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên đều có hàng trăm chiến sĩ trở về, kể cả những người tạm lánh sang Lào và Thái Lan trong thời kỳ bị địch khủng bố, tạo thêm nguồn sinh lực mới cho đảng bộ. Do bị bắt qua nhiều thời kỳ khác nhau, hoàn cảnh và nơi giam cầm cũng khác nhau, lại mất liên lạc với tổ chức lâu ngày nên nhiều vấn đề về nhận thức đường lối chưa thống nhất, nhiều đồng chí còn quá dè dặt sợ vỡ cơ sở hoặc nằm im không dám hoạt động. Đó là một thực tế mà trong Thư gửi các đồng chí Trung Kỳ, Thường vụ Trung ương Đảng đã chỉ rõ: “Trước cuộc đảo chính 9-3-1945, ở Trung Kỳ, chúng ta đứng trước một tình trạng vô cùng nguy hiểm: các tổ chức của Đảng không thống nhất, các đồng chí nghi kỵ nhau, không khí hoài nghi, chia rẽ tràn ngập, chủ nghĩa cô độc và đầu óc địa phương nặng nề. Từ cuộc đảo chính, nhờ tình thế biến đổi thuận tiện và một số đồng chí ra sức phấn đấu, những nạn trên đây mới bớt được một phần nhỏ. Bởi vậy nhiệm vụ trước mắt của các đồng chí Trung Kỳ lúc này là phải tổ chức các tổ chức của Đảng từ trên xuống dưới”(2).


(1) Témoignags et documents francais relatif à la colonisation francaise du Việt Nam (Những chứng cớ và tư liệu Pháp liên quan đến chủ nghĩa thực dân Pháp ở Việt Nam), hà Nội, 1945, tr.1-14.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.7, tr. 401-402.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Mười Hai, 2015, 09:40:45 pm
Hơn thế nữa, Chỉ thị Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta được truyền đạt về các địa phương chậm (sớm nhất là tháng 4-1945 đến Thanh Hóa, tháng 6-1945 về tới Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên). Tuy nhiên, ngay sau khi có chỉ thị trong tay, Thanh Hóa đã nhanh chóng tham gia vào việc xây dựng Chiến khu Hòa - Ninh - Thanh (tức Chiến khu Quang Trung) để chuẩn bị cho khởi nghĩa (5-1945); Việt Minh liên tỉnh Nghệ Tĩnh phát truyền đơn, đăng bài trên báo Kháng địch kêu gọi mọi người đem máu xương hiến dâng cho sự nghiệp giải phóng dân tộc (6-1945). Nhiều hội nghỉ tỉnh ủy và tỉnh bộ Việt Minh của các tỉnh đã diễn ra từ tháng 3 đến tháng 7-1945. Khoảng giữa tháng 7-1945, đồng chí Tố Hữu được Trung ương phái vào Trung Bộ để thống nhất Đảng bộ Trung Kỳ, thành lập Xứ ủy. Ngày 26-7-1945, Thường vụ Trung ương Đảng gửi thư cho các đồng chí Trung Kỳ nêu rõ:

“Tình hình biến chuyển mau lẹ và thuận tiện. Hàng ngũ quân thù ngày một rối loạn thêm. Sau cuộc chính biển 9-3-1945, Đảng bộ Trung Kỳ cũng như toàn Đảng đã được thêm một số cán bộ có năng lực, cựu chính trị phạm... Đất Nhật đang bị quân Đồng minh đánh dữ. Cuộc đổ bộ của quân Đồng vào Đông Dương không xa. Tình hình chủ quan và khách quan rất thuận tiện. Giờ tổng khởi nghĩa sắp tới.

Tất cả những đồng chí cộng sản Trung Kỳ phải kíp đứng lên gánh vác một phần nhiệm vụ của Đảng trao cho. Phải kíp chạy lại dưới lá cờ chói lọi của Đảng, tụ tập chung quanh Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đặng chuẩn bị lãnh đạo một cuộc chiến đấu quyết liệt, tống cổ giặc Nhật ra khỏi nước, đánh đổ Chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim, giành lấy độc lập, tự do, hạnh phúc cho dân tộc.

Các đồng chi!

Cơ hội quyết định vận mệnh ngàn năm của Tổ quốc đang đến. Không thể biệt phái chia rẽ! Không thể do dự, hoài nghi! Là chiến sĩ tiên phong, chúng ta không có quyền trốn trách nhiệm, không thể khoanh tay bó gối, cầu sự cầu an trong khi dân tộc ta rên xiết dưới gót sắt của giặc Nhật và giai cấp ta quằn quại trong thiếu thốn, nhục nhằn. Các đồng chí Trung Kỳ đã đi hàng đầu trong nhiều cuộc vận động quyết liệt thì nhất định không thể vắng mặt trong cao trào kháng Nhật cứu nước”(1).

Đáp lời kêu gọi của Trung ương Đảng, Ủy ban thống nhất Trung Kỳ đã gửi các đồng chí đồng chí cộng sản Trung Kỳ bức thư nêu rõ: “Tiếng súng của cứu quốc quân đang sôi động bảy tỉnh Bắc Kỳ. Hàng triệu tinh thần ái quốc đã tập hợp dưới ngọn cờ đỏ sao vàng của Việt Nam Độc lập Đồng minh và quả thực Đảng ta là linh hồn, là tiên phong đội. Quả thực Đảng ta đã tỏ một sinh lực dồi dào có thể làm tròn nhiệm vụ lớn lao mà thời đại đã giao phó cho: giải phóng nhân dân Đông Dương... Phong trào Trung Kỳ, với lịch sử oanh liệt của nó, hứa hẹn rất nhiều thành tích tốt đẹp. Nhiều triệu chứng đáng mừng gần đây đã phát lộ sức mạnh tiềm tàng của nó. Các tỉnh ở Bắc Bộ cũng như ở Trung Bộ đã bắt đầu xây dựng cơ sở trên lập trường vững chắc của Đảng”(2).

Từ thực tế giành chính quyền ở một số làng xã và huyện Hoằng Hóa (24-7), Tỉnh ủy Thanh Hóa triệu tập Hội nghị mở rộng vào ngày 13-8 để quyết định về chủ trương, biện pháp phát động nhân dân đứng lên khởi nghĩa. Ủy ban khởi nghĩa của tỉnh đã ra đời. Chỉ trong một thời gian ngắn, dưới sự lãnh đạo của Ủy ban khởi nghĩa, lực lượng cách mạng đã giành được chính quyền tại Thiệu Hóa, Cẩm Thủy, Thọ Xuân, Đông Sơn, Yên Định, Vĩnh Lộc, Thạch Thành, Hà Trung, Nga Sơn, Quảng Xương, Hậu Lộc, thành phố Thanh Hóa (19-8), Tĩnh Gia (20-8), Nông Cống (21-8), Ngọc Lặc (23-8).

Căn cứ vào nhận định và lời kêu gọi của Trung ương Đảng, ngày 8-8-1945, Đại hội đại biểu Việt Minh liên tỉnh Nghệ - Tĩnh quyết định nhiều vấn đề sẽ tổ chức, xây dựng lực lượng, công tác tuyên truyền, bầu Ban chấp hành. Tuy nhiên, ngay sau khi hội nghị kết thúc, Ban chấp hành đã nhận thấy các quyết định trên không còn phù hợp với tình hình thay đổi mau lẹ nên đã lập ra Ủy ban khởi nghĩa, phát động khởi nghĩa giành chính quyền và đã giành thắng lợi mau chóng ở Can Lộc (16-8), Thạch Hà, Cẩm Xuyên (17-8), thị xã Hà Tĩnh, Đức Thọ, Kỳ Anh, Quỳnh Lưu (18-8), Nghi Xuân, Hương Sơn (19-8), thành phố Vinh, Hương Khê, Diễn Châu (21-8), Nghĩa Đàn (22-8), Nam Đàn, Thanh Chương, Anh Sơn, Con Cuông (23-8), Nghi Lộc, Yên Thành (25-8).

Tại các huyện miền núi Nghệ An, do những đặc điểm riêng biệt nên địa phương sử dụng hình thức cải tổ là chính. Cán bộ Việt Minh có mặt tại các địa phương này tuyên bố xóa bỏ chính quyền cũ, lập chính quyền cách mạng, sử dụng những người tiến bộ, quy thuận cách mạng, có uy tín tham gia vào chính quyền mới.


(1) Sđd, tr.402-403.
(2) Các đồng chí Trung Kỳ mau thống nhất lại, Tạp chí Lịch sử Đảng, tháng 8-2000, tr.3-4.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 08 Tháng Mười Hai, 2015, 09:41:47 pm
Sau hội nghị Việt Minh, ngày 17-8, cán bộ của Quảng Bình khẩn trương tỏa về cơ sở, gấp rút chuẩn bị khởi nghĩa. Các đội tự vệ phủ, huyện sẵn sàng chờ lệnh. Lực lượng vũ trang của tỉnh tại căn cứ Võ Xá được phân chia cho các nơi. Tại Quảng Trị, lực lượng quân Nhật khá đông ở tỉnh lỵ và Đông Hà, Cam Lộ, Cửa Việt, lại được bổ sung thêm lực lượng từ Thái Lan rút về, đóng dọc đường số 9. Lực lượng bao an binh gồm 180 người được trang bị đầy đủ. Do đó ngoài kế hoạch đánh chiếm dinh tỉnh trưởng, doanh trại bảo an binh, kho bạc, nhà ga xe lửa, bưu điện, nhà lao... hết sức tỷ mỷ, Ủy ban khởi nghĩa Quảng Trị đã bố trí Hồ Thân, Nguyễn Hữu Khiếu, Lê Thị Diệu Muội tới thương thuyết với chỉ huy lính Nhật, bảo an binh và tỉnh trưởng Quảng Trị. Nhờ chuẩn bị chu đáo, việc giành chính quyền cách mạng ở Quảng Bình, Quảng Trị đã thành công. Tại Quảng Ninh, Bố Trạch (22-8), thị xã Lệ Thủy, Quảng Trạch, Triệu Phong, Hải Lăng, Gio Linh, Vĩnh Linh, thị xã Quảng Trị (25-8), Cam Lộ (24-8), Đông Hà, Hướng Hóa, Tuyên Hóa, Minh Hóa (25-8).

Do đặc điểm của tình hình chính trị ở Huế, Thường vụ Việt Minh tỉnh Thừa Thiên đã viết thư cho tỉnh trưởng, đốc lý thành phố và huyện trưởng sáu huyện nêu rõ chủ trương của Mặt trận Việt Minh, cửa cán bộ gặp gỡ để vận động một số đối tượng quan trọng. Đối với quân Nhật, Thường vụ Việt Minh đã có thư gửi cố vấn Yôcôhama đề nghị không can thiệp.

Khí thế quần chúng ở các huyện rất sôi nổi. Ngày 19-8, việc giành chính quyền cách mạng ở huyện Phong Điền, Phú Lộc đã thành công. Nhận rõ tầm quan trọng của Huế, ngày 20-8, Trung ương Đảng cử đoàn cán bộ gồm các đồng chí Tố Hữu, Hồ Tùng Mậu, Nguyễn Duy Trinh đến phối hợp với đảng bộ địa phương chỉ đạo cuộc khởi nghĩa; lập ra Ủy ban khởi nghĩa do đồng chí Tố Hữu làm Chủ tịch, Hoàng Anh - Phó Chủ tịch và các ủy viên Lê Tự Đồng, Lê Khánh Khang, Nguyễn Sơn; quyết định sẽ khởi nghĩa giành chính quyền vào ngày 23-8-1945.

Ngày 22-8, chính quyền cách mạng về tay nhân dân Hương Thủy, Phú Vang. Trong ngày này, tại Huế, các đoàn thể cứu quốc, các đội tự vệ trang bị vũ khí thô sơ giương cao băng cờ, biểu ngữ biểu tình trên các đường phố, chiếm các bộ, công sở, trại Bản an binh, đầu cầu Tràng Tiền khiến Bảo Đại phải tuyên bố nhường quyền lãnh đạo cho Việt Minh. Sáng 23-8, Thành bộ Việt Minh gửi tối hậu thư cho nhà vua, yêu cầu giao đội lính khố vàng và báo cho Nhật biết đã bàn giao quyền bính cho cách mạng. Bảo Đại chấp nhận yêu cầu trên.

Ngày 25-8, trên các ngả đường của thành phố, rừng người với cờ đỏ sao vàng, biểu ngữ, vũ khí thô sơ hô vang khẩu hiệu rồi kéo về sân vận động dự mít tinh chào mừng cách mạng thành công. Cùng ngày, Hương Trà cũng khỏi nghĩa thắng lợi. Ngay đêm đó, Chính phủ Cách mạng lâm thời gửi điện yêu cầu Bảo Đại rời bỏ ngai vàng. Chiều 30-8, một cuộc mít tinh lớn được tổ chức tại Ngọ Môn. Trước hàng vạn quần chúng, Bảo Đại đọc chiếu thoái vị, nộp ấn kiếm cho phái đoàn Chính phủ Cách mạng lâm thời đánh dấu sự sụp đổ của chế độ phong kiến.

Đất nước và con người Liên khu IV có một quá trình đấu tranh vô cùng gian nan và vất vả với thiên nhiên khắc nghiệt và kẻ thù hung bạo. Đây là mảnh đất kết tinh tất cả cái phong phú, đa dạng của triệu triệu năm kiến tạo, của hàng vạn năm sáng tạo và không ngừng chinh phục mọi trở lực trên con đường đi tới. Đất nước giầu đẹp, con người sẵn có nhẫn nại, lại hết sức thông minh, tài hoa, sắc sảo. Đó chính là những tố chất vô cùng cần thiết để Liên khu IV bước vào cuộc kháng chiến gian khổ trường kỳ bảo vệ những thành quả mà cách mạng đã đem lại cho nhân dân. Báo cáo chính trị của Đại hội Đảng bộ Liên khu IV (7-1940 đã chỉ rõ điều này:

“Sẵn có phong trào Tân Việt, Thanh niên Cách mạng đồng chí hội nên Đảng bộ Liên khu IV có cơ sở nhiều nơi ngay khi mới thành lập Đảng (6-1-1930), nên từ Xô viết Nghệ An cho đến toàn quốc khởi nghĩa ở các tỉnh, nhất là Nghệ, Tĩnh, Trị phong trào không một lúc nào bị dập tắt với sự hoạt động của người cộng sản.

Trong hoàn cảnh bí mật gian khổ, luôn luôn bị đàn áp kìm hãm trong nhà lao đế quốc, người đảng viên cộng sản ở Liên khu IV đã rèn đúc được một ý chí kiên quyết, bền bỉ và trung thực”.

Phát huy những truyền thống quý báu và niềm tự hào chính đáng, đảng bộ và nhân dân các dân tộc trong Liên khu IV đoàn kết một lòng quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, thử thách bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ, cùng quân và dân cả nước đánh thắng đội quân xâm lược đông tới hàng chục vạn tên, đuổi chúng ra khỏi bán đảo Đông Dương.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 09 Tháng Mười Hai, 2015, 08:26:46 pm
Chương 2

XÂY DỰNG CHẾ ĐỘ MỚI,
TIẾN HÀNH KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP
(1945 - 1947)

I. GIỮ VỮNG CHÍNH QUYỀN, XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG
CHUẨN BỊ KHÁNG CHIẾN
(9-1945 - 12-1946)

Cách mạng Tháng Tám thành công, chính quyền cách mạng được thành lập trong cả nước. Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đọc bản Tuyên ngôn độc lập, Người long trọng tuyên bố với thế giới rằng: “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!

Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”
(1).

Sau khi giành được chính quyền, Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời các cấp ở địa phương thuộc Khu IV bắt tay ngay vào việc ổn định tình hình xã hội và đời sống của nhân dân; đồng thời từng bước xây dựng bộ máy của chính quyền mới. Ủy ban phân công các thành viên phụ trách các ngành như: quốc phòng, nội vụ, tài chính, giáo dục, y tế, văn hóa xã hội, thông tin tuyên truyền, dân sinh, kinh tế. Cuối năm 1945, Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời các cấp được đổi thành Ủy ban hành chính lâm thời (sau đó là Ủy ban hành chính). Các ngành chuyên môn được tổ chức thành các ty ở cấp tỉnh hoặc thành phố, các phòng ở cấp huyện, thị xã.

Cán bộ chính quyền từ những cán bộ hoạt động bí mật lần đầu tiên tham gia điều hành đất nước đã gặp muôn vàn khó khăn, lúng túng. Chưa một ai được đào tạo, số lượng cán bộ ít, công việc hoàn toàn mới mẻ, điều kiện về phương tiện làm việc thiếu thốn đủ bề. Mặc dù vậy, chính quyền các cấp đã bắt tay ngay vào việc tổ chức thực hiện chương trình của Việt Minh như thực hiện quyền nam nữ bình đẳng, tiến hành chia lại ruộng đất; khuyến khích, động viên mọi người hăng hái tham gia sản xuất...

Khí thế cách mạng sau ngày giành được chính quyền đã lôi cuốn toàn dân từ thành thị đến thôn quê, già, trẻ, gái trai phấn khởi tham gia các hoạt động cách mạng. Lớp lớp thanh niên, học sinh, sinh viên nô nức tòng quân, cầm súng bảo vệ Tổ quốc, tiêu biểu là lớp học viên trường Thanh niên tiền tuyến(2) ở Huế. Giai cấp công nhân hăng hái đi đầu trong mọi nhiệm vụ khó khăn, nguy hiểm. Nông dân khắp nơi ủng hộ chính quyền, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, chống đói, ổn định đời sống. Phần lớn công chức cũ tự nguyện phục vụ chính quyền mới không tính lương bổng, đãi ngộ. Đông đảo các nhân sĩ, trí thức lớn, kể cả những người trong dòng tộc nhà Nguyễn cũng đã sát cánh cùng nhân dân lao động, đem tài năng đóng góp vào sự nghiệp chung của dân tộc. Nhiều nhà tư sản dân tộc, địa chủ yêu nước sẵn sàng ủng hộ cách mạng, không ít người trong số họ đã hiến một phần gia tài, điền sản cho Tổ quốc. Đồng bào các dân tộc anh em đoàn kết, gắn bó trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Đồng bào các tôn giáo tích cực góp phần xây dựng một nước Việt Nam mới.

Mặt trận Việt Minh phát triển ngày càng nhanh, các hội cứu quốc của công nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ được tổ chức thống nhất từ tỉnh xuống đến các làng, xã. Nhiều hội cứu quốc mới được thành lập, thu hút ngày càng đông đảo mọi tầng lóp nhân dân vào mặt trận. Mặt trận thực sự trở thành lực lượng chính trị hùng hậu, đặc biệt quan trọng trong việc bảo vệ chính quyền non trẻ và nền độc lập, chủ quyền quốc gia.

Lực lượng vũ trang ở các địa phương Khu IV cũng được chính quyền, mặt trận đặc biệt quan tâm. Trên cơ sở những nhóm vũ trang trong Cách mạng Tháng Tám, các địa phương bắt tay ngay vào việc tổ chức xây dựng các đơn vị vũ trang. Các đơn vị giải phóng quân và tự vệ chiến đấu lần lượt ra đời. Tuy kinh nghiệm ít và trang bị kém, nhưng các đơn vị vũ trang này là công cụ đáng tin cậy bảo vệ chính quyền cách mạng.

Cùng với việc ra đời của chính quyền cách mạng, Mặt trận Việt Minh, các đoàn thể cứu quốc, các đơn vị vũ trang, tổ chức đảng ở Khu IV cũng từng bước được củng cố và phát triển. Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, cuối tháng 8-1945, Xứ ủy Trung Bộ được tổ chứ lại do đồng chí Nguyễn Chí Thanh, Ủy viên Trung ương Đảng, làm Bí thư. Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Xứ ủy cùng với sự chủ động, sáng tạo của các cấp ủy đảng, các tỉnh trong địa bàn Khu IV đã tập trung cao độ, khẩn trương triển khai hàng loạt công tác cấp bách trước mắt.


(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.4, tr.3-4.
(2) Đây vốn là trường quân sự do Chính phủ Trần Trọng Kim thành lập. Hầu hết học viên của trường là trí thức, công chức, sinh viên, học sinh, trong đó bộ phận sinh viên cứu quốc từ Hà Nội về đóng vai trò nòng cốt. Tổ chức Việt Minh của trường được thành lập sớm thu hút đông đảo học sinh gia nhập các đoàn thể cứu quốc, tham gia khởi nghĩa giành chính quyền ở Huế và tham gia cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc. Nhiều người sau này trở thành những cán bộ cao cấp của Đảng và quân đội: Trung tướng Cao Văn Khánh, Trung tướng Nguyễn Thế Lâm, Thiếu tướng Mai Xuân Tần, Thiếu tướng Cao Pha, Thiếu tướng Đoàn Huyên, Thiếu tướng Phan Hàm, Thiếu tướng Võ Quang Hồ, Thứ trưởng ngoại giao Ngô Điền...


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 09 Tháng Mười Hai, 2015, 08:29:54 pm
Bên cạnh những thuận lợi cơ bản, to lớn, cách mạng Việt Nam đứng trước những khó khăn, thử thách hết sức nghiêm trọng. Nạm đói khủng khiếp năm Ất Dậu (1945) chưa chấm dứt, đồng bằng Bắc Bộ bị vỡ đê, vụ mùa thất thu lớn. Hậu quả nặng nề của chế độ thực dân, phong kiến và Chiến tranh thế giới lần thứ hai làm cho nền kinh tế bị kiệt quệ, công, nông nghiệp đình đốn, đời sống nhân dân cứ kỳ khó khăn. Mâu thuẫn sắc tộc, tôn giáo bị khoét sâu; trên 90% nhân dân mù chữ; ngân quỹ quốc gia trống rỗng; chính quyền cách mạng vừa mới được thành lập đã phải đối phó với giặc ngoài, thù trong. Ở miền Bắc, gần 20 vạn quân Tưởng Giới Thạch nhân danh quân Đồng minh vào giải giáp vũ khí quân Nhật, kéo theo lũ Việt gian (Việt quốc, Việt cách) hòng thủ tiêu chính quyền cách mạng còn non trẻ của ta, dựng lên một chính quyền bù nhìn tay sai mới.

Ở miền Nam, quân Pháp núp dưới bóng quân Anh vào giải giáp quân đội Nhật. Ngày 23-9-1945, được quân Anh hỗ trợ, Pháp nổ súng tiến công Sài Gòn, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta một lần nữa.

Ở các tỉnh Khu IV, tình hình kinh tế, xã hội ngày càng nguy ngập. Sản xuất nông nghiệp hết sức tiêu điều. Sau vụ chiêm 1945, hạn hán kéo dài, ruộng đồng khô cạn, ruộng đất bị bỏ hoang, đến kỳ thu hoạch lại bị bão lụt phá hủy hàng vạn hécta mùa màng. Vùng Thanh - Nghệ - Tĩnh mất khoảng 50% tổng sản lượng lúa. Ở một số huyện, 80-90% gia đình nông dân thiếu ăn. Khắp nơi rải rác vẫn có người tiếp tục chết đói, chết bệnh. Trâu, bò bị dịch bệnh chết hàng loạt, sức kéo thiếu trầm trọng. Các ngành sản xuất công nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp bị đình đốn; các nhà máy, xí nghiệp chỉ còn một bộ phận nhỏ hoạt động, nhiều công nhân, viên chức không có việc làm, đời sống bấp bênh. Tình hình tài chính cạn kiệt, trống rỗng... Công nhân, viên chức Nhà nước làm việc không lương. Trong đội ngũ cán bộ, đảng viên tình trạng thiếu đoàn kết sau khi có lời hiệu triệu của Thường vụ Trung ương Đảng gửi các đồng chí Trung Kỳ đã được khắc phục một bước, song chưa được giải quyết triệt để. Xứ ủy Trung Bộ và hệ thống tổ chức đảng ở một số tỉnh trước đây bị kẻ thù đàn áp, khủng bố bị tan rã đến sau ngày 19-8-1945 vẫn chưa được khôi phục.

Chính quyền cách mạng các cấp mới thành lập, chưa có kinh nghiệm quản lý, còn nhiều vấp váp, lúng túng, thậm chí còn phạm phải những sai lầm không đáng có. Ở nhiều huyện miền núi, lúc đầu chính quyền còn do các tri châu và thổ ty, lang đạo điều hành(1), Lực lượng vũ trang vừa mới thành lập còn non yếu, chưa được huấn luyện, trang bị thiếu, cán bộ chưa có kinh nghiệm chỉ huy. Ở các vùng tôn giáo và dân tộc thiểu số trình độ giác ngộ chính trị của nhân dân còn nhiều hạn chế...

Trong lúc phải tập trung giải quyết những khó khăn gay gắt, chống chất về kinh tế, xã hội thì các tỉnh thuộc Khu IV cũng như Trung ương và các tỉnh miền Bắc đã phải đối phó với nạn “Hoa quân nhập Việt” của chính quyền Tưởng Giới Thạch hòng “Tiêu diệt Đảng ta.
Phá tan Việt Minh,
Giúp bọn phản động Việt Nam đánh đổ chính quyền nhân dân để lập một chính phủ phản động làm tay sai cho chúng”
(2). Tại các tỉnh ở Khu IV, hơn một quân đoàn quân Tưởng kéo vào chiếm đóng các đô thị lớn Thanh Hóa, Vinh, Huế, các thị xã và các vị trí trọng yếu dọc các tuyến đường sang Lào. Tại nơi chiếm giữ, quân Tưởng ngang nhiên đòi quyền kiểm soát trật tự, thực tế là phá rối trị an. Chúng vô cớ khám xét, bắt bớ và khủng bố nhân dân. Chúng ra sức vơ vét của cải của nhân dân, gây rối loạn về kinh tế, tài chính. Ngang ngược hơn, chúng còn gây áp lực buộc chính quyền cách mạng nơi chúng đóng quân để cho bọn Việt gian được tự do hoạt động và tham gia chính quyền, tiếp tay cho bọn tàn binh Pháp ở biên giới Quảng Trị - Lào lăm le kéo vào Quảng Trị, Thừa Thiên.

Được quân Tưởng tiếp tay, bọn Việt quốc, Việt cách câu kết với những phần tử quan lại, tay sai đế quốc cũ không chịu cải tạo ở các nơi, câu kết với bọn phản động trong các vùng Thiên chúa giáo và vùng dân tộc thiểu số để gây dựng các tổ chức phản cách mạng, chia rẽ nhân dân, vu cáo, bôi nhọ Đảng Cộng sản khiêu khích chính quyền, bắt cán bộ, điên cuồng chống phá chế độ mới.

Ở Thanh Hóa, một trung đoàn quân Tưởng kéo vào uy hiếp chính quyền, chiếm đóng các vị trí quan trọng trong thị xã. Chúng ngang nhiên đòi cung cấp lương thực, thực phẩm, đặt súng máy trên các ngả đường, đòi tước vũ khí của lực lượng vũ trang cách mạng. Chúng nuôi dưỡng, trang bị vũ khí và vạch kế hoạch cho bọn Quốc dân đảng lập ra Đệ lục chiến khu ở ấp Di Linh huyện Nông Cống (nay thuộc Triệu Sơn). Bọn Đại Việt cũng ráo riết hoạt động trong vùng tôn giáo, xây dựng lực lượng chống phá cách mạng. Ở Nghệ An và Hà Tĩnh, quân Tưởng chiếm giữ các vị trí quan trọng dọc các tuyến đường sắt, đường số 1, đường số 8 sang Lào. Ở Thừa Thiên, hơn 5.000 quân Tưởng vào giải giáp quân đội Nhật, chúng ra sức cướp bóc, vơ vét tiền của của nhân dân, cùng với bọn phản động ở địa phương điên cuồng chống phá cách mạng.

Trong khi đó, tàn quân Pháp ở Lào tụ tập ở nhiều điểm trên biên giới Việt Lào và trên đất Lào lăm le tiến chiếm miền tây Thanh - Nghệ - Tĩnh, Quảng Trị và tiến quân về Huế qua đường số 9.


(1) Ở Thanh Hóa có sáu huyện Quan Hóa, Bá Thước, Thường Xuân, Cẩm Thủy, Lang Chánh, Ngọc Lặc lúc đầu do các tri châu, lang đạo nắm chính quyền. Đặc biệt, tri châu Bá Thước là Hà Công Thắng giả danh cách mạng, đưa quân lên Quan Hóa tuyên bố thành lập chính quyền rồi tự phong là quận trưởng, liên kết với một số thổ ty, lang đạo phản động chống phá cách mạng (Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy xuát bản, 1991, t.1, tr.138).
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, xuất bản lần thứ hai, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.6, tr.161.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 09 Tháng Mười Hai, 2015, 08:32:54 pm
Để bảo vệ nền độc lập mới giành được và xây dựng chế độ xã hội mới, ngày 3-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh triệu tập phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ và nêu ra sáu nhiệm vụ cấp bách cần làm ngay:

Một là, phát động một chiến dịch tăng gia sản xuất để chống đói...

Hai là, mở chiến dịch chống nạn mù chữ.

Ba là, tổ chức càng sớm càng tốt cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu, thực hiện quyền tự do, dân chủ của nhân dân,

Bốn là, mở phong trào giáo dục, cần, kiệm, liên, chính để bài trừ những thói hư, tật xấu do chế độ cũ để lại.

Năm là, bãi bỏ ngay thuế thân, thuế chợ, thuế đò và nghiêm cấm việc hút thuốc phiện.

Sáu là, tuyên bố tự do tín ngưỡng và Lương Giáo đoàn kết.

Sau đó, trong bức thư gửi nông dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại nêu lên hai nhiệm vụ cấp bách trước mắt là “cứu đói ở Bắc và kháng chiến ở Nam”.

Ngày 25-11-1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc, đề ra nhiệm vụ cần kíp cho toàn Đảng, toàn dân là ”phải củng cố chính quyền chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống cho nhân dân”(1).

Thực hiện các chủ trương của Trung ương Đảng, Chính phủ và chủ tịch Hồ Chí Minh, Xứ ủy Trung Bộ sau khi được tổ chức lại(2) đã nhanh chóng tập trung sức tổ chức thực hiện những nhiệm vụ cấp bách trước mắt. Nhiệm vụ trước tiên là Thường vụ Xứ ủy cử cán bộ cùng với các địa phương củng cố và phát triển hệ thống tổ chức đảng từ tỉnh đến cơ sở, thành lập và kiện toàn cơ quan lãnh đạo đảng các cấp. Từ tháng 9 đến tháng 11-1945, các tỉnh lần lượt mở hội nghị cán bộ hoặc chấp hành mở rộng của các đảng bộ. Quảng Trị tổ chức hội nghị cán bộ toàn tỉnh (10 – 11-9-1945), Nghệ An tổ chức hội nghị thành lập đảng bộ tỉnh ngày 2-10-1945, Quảng Bình tổ chức hội nghị cán bộ đảng toàn tỉnh ngày 7-10-1945. Đầu tháng 10, Hà Tĩnh tổ chức hội nghị cán bộ và cử tỉnh ủy lâm thời. Tháng 10-1945, Thừa Thiên tổ chức hội nghị cán bộ đảng toàn tỉnh. Tháng 11-1945, Thanh Hóa tổ chức hội nghị tỉnh ủy. Các tỉnh tổ chức hội nghị nhằm kiểm điểm các mặt hoạt động từ sau ngày khởi nghĩa giành chính quyền và đề ra những chủ trương, biện pháp thiết thực thực hiện những nhiệm vụ cấp bách mà Trung ương đã đề ra. Đó là: ổn định đời sống nhân dân, củng cố và xây dựng hệ thống tổ chức đảng, xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng, phát triển Mặt trận Việt Minh, các đoàn thể quần chúng, xây dựng lực lượng vũ trang và đối phó kiên quyết, khôn khéo, mềm dẻo với giặc ngoài, thù trong theo đúng đường lối, chủ trương của Đảng và Chính phủ. Các hội nghị này có giá trị như những đại hội quyết định những vấn đề lớn về bảo vệ và xây dựng chính quyền cách mạng, xây dựng chế độ xã hội mới, bầu Ban Chấp hành đảng bộ cấp tỉnh và sau đó là cấp huyện và cơ sở(3).

Để tập trung củng cố và xây dựng hệ thống tổ chức đảng từ tỉnh xuống cơ sở, sau khi mở các hội nghị ở cấp tỉnh, các tỉnh ủy đã phân công cán bộ về các địa phương thành lập và kiện toàn các ban huyện ủy. Các huyện ủy lại đưa cán bộ về các làng xã củng cố và xây dựng các chi bộ. Các cấp ủy đảng từ tỉnh xuống tới các làng, xã từng bước được xây dựng. Cùng với việc khắc phục tư tưởng cô độc, hẹp hòi, nghi kỵ lẫn nhau, công tác xây dựng đảng được đẩy mạnh, nhiều quần chúng hăng hái trong Cách mạng Tháng Tám và những ngày đầu bảo vệ chính quyền được kết nạp vào Đảng. Đến cuối năm 1945, số lượng đảng viên so với những ngày giành chính quyền đã tăng lên đáng kể. Nhiều xã, cơ quan, xí nghiệp ở đồng bằng và một số trường học… đã có chi bộ. Sinh hoạt đảng được tiến hành thường xuyên để quán triệt đường lối, chính sách của Đảng, khắc phục các nhận thức, tư tưởng sai trái, làm bàn việc chỉ đạo các mặt công tác cấp bách trước mắt. Các tỉnh ủy chủ động phối hợp với Xứ ủy Trung Bộ mở các lớp bồi dưỡng chính trị cho cán bộ, đảng viên. Trong thực tế, những ngày đầu sau Cách mạng Tháng Tám, mặc dù sự lãnh đạo của Xứ ủy đối với các đảng bộ cấp dưới chưa được thường xuyên, nhưng đội ngũ cán bộ, đảng viên ở các địa phương đã hăng hái hoạt động, nêu cao tính tiên phong, gương mẫu, luôn luôn là hạt nhân lãnh đạo chính quyền và phong trào cách mạng của nhân dân.


(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nọi, 2000, t.8, tr.26-27.
(2) Ngày 31-8-1945, Hội nghị đại biểu các tỉnh Trung Kỳ họp tại Huế (có đại biểu của 18 tỉnh Trung Bộ) đã quyết định thành lập Đảng bộ Đảng Cộng sản Đông Dương ở Trung Bộ, bầu Ban Chấp hành Xứ ủy do Nguyễn Chí Thanh, Ủy viên Trung ương Đảng làm Bí thư. Công việc chủ yếu của Xứ ủy Trung Bộ lúc đó là:
- Gấp rút thành lập cấp ủy các cấp trước hết là các tỉnh ủy đến huyện ủy cấp cơ sở và tương đương.
- Ra sức kiện toàn đảng những nơi đã có tổ chức đảng, phát triển đảng những nơi chưa có, đưa ra khỏi đảng những phần tử cơ hội...
- Nhanh chóng phổ biến các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương, của Chủ tịch Hồ Chí Minh đến từng cơ sở và đảng viên.
- Tích cực bồi dưỡng đào tạo cán bộ, đảng viên bằng cách mở các lớp đào tạo từ Xứ xuống đến huyện.
- Lãnh đạo các tổ chức quần chúng và lãnh đạo chính quyền.
(Theo Bước qua đầu thù (hồi ký) của Trần Hữu Dực, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.251-252).
(3) Tại Quảng Trị, đồng chí Đặng Thí được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy, đồng chí Nguyễn Xuân Luyện làm Chủ tịch tỉnh. Tại Nghệ An, đồng chí Nguyễn Xuân Linh làm Bí thư Tỉnh ủy. Ở Hà Tĩnh, đồng chí Nguyễn Thái được cử làm Bí thư Tỉnh ủy, đồng chí Trần Hữu Duyệt làm Chủ tịch. Ở Quảng Bình, đồng chí Nguyễn Đình Chuyên làm Bí thư, đồng chí Hoàng Văn Diệm làm Chủ tịch. Ở Thừa Thiên, đồng chí Nguyễn Văn Sơn làm Bí thư, đồng chí Hoàng Anh làm Chủ tịch. Ở Thanh Hóa, đồng chí Lê Chử làm Bí thư, đồng chí Lê Tài Đắc làm Chủ tịch.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 09 Tháng Mười Hai, 2015, 08:36:43 pm
Thực hiện chủ trương của Trung ương “Đảng tuyên bố tự giải tán”, thực chất là rút vào hoạt động bí mật, từ tháng 11-1945, các đảng bộ đều mang tên “Công nhân cứu quốc hội” lấy danh nghĩa “Đoàn thể” và “Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác” để tiếp tục hoạt động, giữ vững vai trò lãnh đạo cách mạng, làm nòng cốt trong mọi phong trào và không ngừng phát hủy ảnh hưởng của Đảng(1).

Cùng với việc xây dựng đảng là xây dựng lực lượng chính trị quần chúng, phát triển tổ chức Mặt trận Việt Minh(2), các đoàn thể cứu quốc và tuyên truyền giáo dục nâng cao trình độ chính trị của nhân dân được xúc tiến khẩn trương. Các đội tuyên truyền xung phong do Cấp ủy Việt Minh tỉnh, huyện thành lập đi về các làng xã để tuyên truyền, phổ biến rộng rãi chủ trương, chính sách của Đảng, Chính phủ; vạch trần những âm mưu, thủ đoạn phá hoại, xuyên tạc của kẻ thù; động viên toàn dân đoàn kết xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, sẵn sàng kháng chiến cứu nước.

Nhờ có sự hoạt động tích cực của đội ngũ cán bộ, đảng viên, dặc biệt là ở những vùng cơ sở cách mạng còn yếu (vùng núi, vùng Thiên Chúa giáo) Mặt trận Việt Minh và các hội cứu quốc đều phát triển mạnh; cơ sở quần chúng được xây dựng ở nhiều địa phương. Ngoài các Hội Công nhân cứu quốc, Nông dân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Văn hóa cứu quốc... nhiều nơi còn thành lập các hội khác như Việt Nam cứu quốc, Chức nghiệp cứu quốc, Công giáo cứu quốc, Phật giáo cứu quốc, Hướng đạo cứu quốc... Các hội cứu quốc, nhất là công, nông, thanh, phụ... phát triển nhanh chóng, hoạt động sôi nổi, mạnh nhất là ở Nghệ An và Hà Tĩnh(3). Các tổ chức quần chúng đã phát huy tác dụng tích cực động viên, giáo dục nhân dân truyền thống yêu nước, tinh thần cách mạng và tổ chức nhân dân tích cực thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.

Công tác xây dựng và củng cố chính quyền được đặt biệt coi trọng. Sau khi quyết định thành lập lại Xứ ủy, Mặt trận Việt Minh, ngày 2-9-1945, Hội nghị cán bộ các tỉnh Trung Bộ quyết định thành lập và bầu Ủy ban nhân dân cách mạng Trung Bộ do Trần Hữu Dực làm Chủ tịch. Ủy ban chủ trương trong vòng một tháng bộ máy chính quyền từ cấp kỳ, tỉnh, huyện, xã và tương đương phải tổ chức xong và đi vào hoạt động. Chính phủ cách mạng lâm thời và Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời ở các tỉnh được thành lập sau ngày Tổng khởi nghĩa Tháng Tám nay đổi thành Ủy ban nhân dân cách mạng (sau đổi thành Ủy ban nhân dân rồi lại đổi tiếp thành Ủy ban hành chính). Những cán bộ có năng lực, có phẩm chất được phân công giữ các chức vụ quan trọng trong bộ máy chính quyền các cấp. Nhiều nhân sĩ yêu nước và tiến bộ được lựa chọn tham gia và bộ máy chính quyền cách mạng. Các cơ quan chức năng như tòa án, thông tin tuyên truyền, y tế, giáo dục, ngân hàng, giao thông... lần lượt được thành lập.

Thực hiện chủ trương chung, tháng 12-1945, các tỉnh phân chia lại địa giới hành chính một số huyện, xã; xóa bỏ cấp tổng, lấy xã làm đơn vị hành chính cơ sở, hợp nhất các làng, xã nhỏ thành xã lớn; đồng thời kiện toàn bộ máy cơ sở. Chế độ làm việc của các ủy ban được cải tiến, hệ thống tư pháp được thành lập tử tỉnh xuống xã, đã giải quyết kịp thời một số vấn đề phức tạp, vướng mắc giữa chính quyền và nhân dân, giữa nhân dân với nhau. Ở các huyện miền núi xa xôi đã được bổ sung nhiều cán bộ có năng lực và phẩm chất tốt, nhờ đó mà các tổ chức đảng, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể quần chúng nhanh chóng được kiện toàn và xây dựng, từng bước hoạt động có hiệu quả, tổ chức đứng đầu đồng bào miền núi tham gia kháng chiến.

Ngày 6-1-1946, cùng với nhân dân cả nước, nhân dân các dân tộc Khu IV hăng hái tham gia ngày hội Tổng tuyển cử bầu đại biểu Quốc hội. Đây là lần đầu tiên, những người dân của một nước độc lập được làm nhiệm vụ của một công dân, tự tay cầm lá phiếu bầu ra cơ quan lập pháp của đất nước. Từ thành phố, thị xã đến các vùng nông thôn, từ đòng bằng đến các vùng rừng núi xa xôi, hẻo lánh đông đảo các tầng lớp nhân dân nô nức đi bầu đại biểu Quốc hội. Nhiều địa phương đã huy động được 100% số cử tri đi bỏ phiếu bầu đại biểu Quốc hội. Quảng Bình 100%, Quảng Trị 98%, Nghệ An, Hà Tĩnh 97%, Thanh Hóa 96%, Thừa Thiên - Huế hơn 90%. Tháng 2-1946, cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp đã tiến hành thắng lợi. Hội đồng nhân dân khóa I đã họp để quyết định những nhiệm vụ cấp bách của địa phương về kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng; bầu Ủy ban hành chính và Ban thanh tra hành chính. Các ủy ban hành chính tỉnh, huyện, xã được Hội đồng nhân dân các cấp cử ra bao gồm những cán bộ tiêu biểu do các đảng viên cộng sản làm nòng cốt, càng làm cho các cấp chinh quyền được củng cố và tăng thêm hiệu lực tổ chức, điều hành, quản lý toàn xã hội.

Một trong những nhiệm vụ quan trọng cấp bách lúc này đối với các cấp ủy đảng và chính quyền là khắc phục nạn đói và ổn định đời sống nhân dân. Sau khi thành lập, chính quyền cách mạng các cấp đã thực hiện ngay cuộc vận động toàn dân đoàn kết tương trợ lẫn nhau. Hưởng ứng lời kêu gọi của chính phủ, noi theo gương sáng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phong trào “Nhường cơm sẻ áo”, “Hũ gạo cứu đói”, “Ngày đồng tâm”..., đã được tổ chức để cứu giúp đồng bào đang bị đói. Thanh Hóa đã quyên góp được 1.076 tấn gạo, ở nhiều nơi, số gạo thu được không những đã trang trải nhu cầu tại chỗ mà còn thừa để giúp đồng bào Bắc Bộ đang gặp khó khăn(4).


(1) Những cán bộ chủ chốt đã đóng vai trò quan trọng đối với ssự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ở sáu tỉnh Khu IV trong những ngày đầu xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng là: Hoàng Quốc Việt, đại diện Trung ương Đảng ở Trung Bộ, Nguyễn Chí Thanh, Bí thư Xứ ủy, Tố Hữu - Ủy viên Thường vụ Xứ ủy, Trần hữu Dực, Chủ tịch ủy ban nhân dân cách mạng Trung Bộ, Lê Thiết Hùng, Hồ Tùng Mậu, Bộ tư lệnh Chiến khu IV và đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở các tỉnh.
(2) Ngày 1-9-1945, Hội nghị đại biểu các tỉnh Trung Bộ, họp tại Huế đã bầu Ban chấp hành Mặt trận Việt Minh Trung Bộ ((Theo Bước qua đầu thù (hồi ký) của Trần Hữu Dực, Sđd, tr.252).
(3) Ở Nghệ An còn thành lập Đảng Dân chủ và Đảng Xã hội hoạt động mạnh ở Vinh. Ở Hà Tĩnh còn tổ chức Hội mẹ chiến sĩ, Hội giúp đỡ binh sĩ bị nạn.
(4) Hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh đã giúp đồng bào Bắc Bộ 477 tấn gạo. Thanh Hóa cũng giúp các tỉnh Hưng Yên, Bắc Ninh hàng trăm tấn gạo.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 09 Tháng Mười Hai, 2015, 08:38:31 pm
Cùng với việc khắc phục nạn đói, ổn định đời sống nhân dân, chính quyền các địa phương thuộc Khu IV tiếp tục tổ chức thực hiện 10 chính sách lớn của Việt Minh và các chủ trương, chính sách mới của Đảng và Chính phủ. Ngoài việc xóa bỏ ngay các loại thuế bất hợp lý do chế độ cũ để lại (thuế thân, thuế chợ, thuế đò...), các tỉnh còn thực hiện miễn giảm thuế điền thổ cho vùng bị thiên tai mất mùa; vận động nhân dân hoãn nợ, thực hiện giảm tô, giảm tức cho dân nghèo, chia lại ruộng đất cho nông dân (cả nam lẫn nữ). Ngày cắm thẻ nhận ruộng đã trở thành ngày hội của nông dân lao động nghèo. Chính quyền cho nông dân chuộc lại ruộng đất cầm cố trước Cách mạng Tháng Tám. Thực hiện luật làm việc ngày làm tám giờ và chế độ bảo hiểm đối với công nhân. Vận động nhân dân thực hành tiết kiệm, xóa bỏ các hủ tục lạc hậu, thực hiện nếp sống mới, tổ chức các trại tế bần...

Thực hiện chủ trương của Chính phủ và lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh khắc phục nạn đói, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân, khắp nơi dấy lên phong trào sôi nổi làm thủy lợi, khai hoang, phục hóa. Nhiều công trình thủy lợi được tiến hành nạo vét, tu sửa. Ở Nghệ An, đập nước Xuân Đường (Diễn Châu), đê ngăn mặn ở La Văn (Nghi Lộc), đê ngăn cát ở Quỳnh Lưu, hệ thống nông giang ở Đô Lương, Diễn Châu, Yên Thành được sửa chữa phục vụ sản xuất. Nhiều địa phương thành lập Ban chỉ đạo sản xuất, Hội nông gia tương tế, lập ngân hàng tín dụng cho nông dân vay vốn để mua sắm nông cụ, trâu bò, lúa giống... Một số nơi còn thành lập tổ đổi công và hợp tác xã nông nghiệp (tính đến tháng 6-1946, ở Nghệ An đã xây dựng được 41 hợp tác xã nông nghiệp). Phong trào thi đua lao động sản xuất được tổ chức trong mọi ngành, mọi vùng, mọi giới, mọi gia đình với ý thức “tấc đất tấc vàng”, “tăng gia sản xuất, tăng gia sản xuất ngay, tăng gia sản xuất nữa”. Đường giao thông từ tỉnh xuống đến huyện, xã được tu sửa. Các cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp được khôi phục, sản xuất những hàng hóa tiêu dùng thiết yếu phục vụ nhân dân.

Với những chủ trương, biện pháp tích cực và phù hợp với điều kiện của từng địa phương, sản xuất về mọi mặt bước đầu được khôi phục, góp phần đẩy lùi nạn đói và cải thiện một phần đời sống nhân dân.

Để góp phần giải quyết khó khăn về tài chính, ngân sách của Trung ương về các địa phương, thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh, các tỉnh đã tổ chức tốt “Tuần lễ vàng” và các cuộc quyên góp khác để xây dựng “Quỹ độc lập”, “Quỹ đảm phụ quốc phòng”. Những cuộc vận động quyên góp này đã được đông đảo các tầng lớp nhân dân nhiệt liệt hưởng ứng bằng cách đóng góp tiền, vàng, bạc, đồng, lúa, gạo, trâu bò… Có những gia đình, những người dân đem cả của gia bảo, vật kỷ niệm quý giá như vòng vàng, dây chuyến, nhẫn cưới, đồ thờ cúng… ủng hộ Quỹ độc lập. Sau một thời gian ngắn vận động, nhân dân Thanh Hóa đã góp vào Quỹ độc lập 528 lạng vàng, 84 kg bạc. Nhân dân Nghệ An đóng góp 23,62 kg vàng, hơn 16 tấn đồng, hàng trăm kg bạc, 161.116 đồng tiền mặt. Hà Tĩnh góp 8 kg vàng, 53 kg bạc và một số kim cương, ngọc quý. Quảng Bình đóng góp 11 nén bạc, 1.030 đồng bạc trắng, 33 kg đồ nữ trang bằng bạc, 6,6 kg đồ trang sức bằng đồng. Quảng Trị góp 4 kg vàng. Thừa Thiên - Huế đóng góp 945 lạng và 10kg vàng(1), Thừa Thiên có vinh dự tham gia phát hành đồng tiền mới (đồng bạc Cụ Hồ) và sử dụng đầu tiên đồng tiền ấy.

Đi đôi với nhiệm vụ chống giặc đói, khắc phục khó khăn về tài chính, tiền tệ, nhiệm vụ chống giặc dốt, xây dựng đời sống mới cũng được triển khai tích cực ở khắp mọi nơi. Các khẩu hiệu cổ động “Tiền tuyến diệt xâm lăng, hậu phương trừ giặc dốt”, “Thêm một người đi học là thêm một viên đạn bắn vào quân thù, thêm một viên gạch xây đài độc lập của nước nhà” được chăng lên khắp các ngả đường, cổng chợ, đình làng. Các lớp học bình dân học vụ phát triển mạnh thu hút đông đảo mọi tầng lớp tham gia từ thành thị đến nông thôn, từ vùng biển đến những vùng rừng núi xa xôi, hẻo lánh. Người biết chữ dạy người chưa biết, cha con, vợ chồng, anh em dạy cho nhau. Học ban ngày, học cả ban đêm… Nhờ vậy chỉ trong thời gian ngắn hàng vạn người ở các tỉnh đã biết đọc, biết viết. Cùng với phong trào bình dân học vụ, bậc giáo dục phổ thông cũng có bước phát triển mới, thu hút thêm nhiều con em nhân dân lao động vào các trường tiểu học và trung học.

Cùng với việc xóa nạn mù chữ và phát triển bậc giáo dục phổ thông, cuộc vận động thực hiện “đời sống mới” ở các phong trào xã hội khác đã góp phần nâng cao dân trí ở khắp mọi nơi. Ban vận động “đời sống mới” được thành lập từ tỉnh đến xã để chỉ đạo phong trào. Chính quyền, mặt trận, các đoàn thể tích cực vận động nhân dân thực hiện, các tầng lớp nhân dân hưởng ứng rộng rãi. Phong trào xây dựng thôn, xã, đường phố kiểu mẫu phát triển. Nhân dân tự đóng góp công sức làm đường, cầu, cống, sân vận động, phòng đọc sách báo, chòi phát thanh, bản tin, trạm xá, nhà hộ sinh. Các phong trào vệ sinh, phòng bệnh, văn nghệ, thể thao... thu hút đông đảo nhân dân lao động tham gia.


(1) Ở Huế nhiều người trong hoàng tộc cũng hăng hái tham gia Tuần lễ vàng. Bà Nam Phương (vợ Bảo Đại) tham gia làm cố vấn của Ban tổ chức tuần lễ vàng và ủng hộ một số nữ trang bằng vàng. Ông Nguyễn Duy Quang, nguyên Ngự tiền văn phòng của vua Bảo Đại ủng hộ 42 lượng vàng, ông Ưng Quang ủng hộ 40 lượng vàng… (theo Nguyễn Đắc Xuân - Chuyện nội cung cựu hoàng Bảo Đại, Nxb. Thuận Hóa, 1999, tr.41).


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 09 Tháng Mười Hai, 2015, 08:40:03 pm
Song song với việc xây dựng toàn diện về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội... các địa phương đã đặc biệt chú trọng nhiệm vụ xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang. Ngay sau ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, thực dân Pháp không chỉ dựa vào quân Anh đã đánh chiếm một số tỉnh miền Nam mà còn âm mưu mở rộng chiến tranh ra cả nước, xâm lược Việt Nam một lần nữa. Xanhtơni theo chân phái bộ quân sự Mỹ đến Hà Nội, đại sứ Pháp ở Trùng Khánh vận động Tưởng Giới Thạch để quân Pháp ở Vân Nam vượt biên giới vào Bắc Đông Dương thay thế quân đội Tưởng. Sau ngày Nhật đảo chính (9-3-1945), một số tàn binh Pháp chạy khỏi các tỉnh lỵ, đồn binh ở Việt Nam, Lào và ẩn náu ở vùng rừng núi phía tây Việt Nam và đông Lào, nay lăm le trở lại Việt Nam. Pháp còn cho quân nhảy dù xuống Hiền Sĩ (tây - bắc Huế) nhằm móc nối với bọn Phạm Quỳnh, Ngô Đình Khôi, Bảo Đại - vua và thủ tướng thân Pháp dựa vào sĩ quan và thường dân bị Nhật bắt giam trước đây ở Huế đã được trả tự do, để chiếm giữ những nơi trọng yếu trong thành phố Huế để nhân dân là người chủ đón tiếp Đồng minh, phỗng tay trên của chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim. Nhưng chúng không biết rằng ta đã khởi nghĩa giành chính quyền. Trước tình hình đó, thực hiện chủ trương của Trung ương, Xứ ủy và các tỉnh ủy khẩn trương bắt tay vào việc xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang cả về số lượng, chất lượng và trang bị.

Sau ngày giành chính quyền, các lực lượng vũ trang nhân dân và công an được gấp rút tổ chức và hoạt động. Các thôn xã đều thành lập các đơn vị dân quân tự vệ, mỗi tỉnh có một chi đội Giải phóng quân(1). Mỗi chi đội có từ 3 đến 4 đại đội, có tỉnh còn có một số đại đội tự vệ tập trung ở các huyện xung yếu. Các cơ quan trinh sát, cảnh vệ được xây dựng đã phối hợp chặt chẽ với các lực lượng vũ trang nói trên làm tốt nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự, bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền.

Cùng với Sắc lệnh của Chính phủ ngày 15-10-1945 thành lập các chiến khu trong đó có Chiến khu IV, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ định đồng chí Lê Thiết Hùng (tức Lê Văn Sửu) làm chỉ huy trưởng, đồng chí Hồ Tùng Mậu làm Chính trị ủy viên Bộ chỉ huy Chiến khu IV. Sau đó một thời gian, Bộ chỉ huy Chiến khu IV được thành lập, bao gồm hệ thống chỉ huy, các ban thông tin, tác chiến, tình báo... Bộ máy chỉ huy chiến khu được bổ sung và tăng cường, đồng chí Hoàng Điền làm tham mưu trưởng, đồng chí Chu Văn Biên làm tham mưu chủ nhiệm, phụ trách công tác nội bộ cơ quan tham mưu, đồng chí Trần Văn Quang - Trưởng phòng chính trị, đồng chí Mười Uyển - Trưởng phòng quân nhu, đồng chí Lê Lộc - Chánh văn phòng chiến khu. Cơ quan chiến khu khi mới thành lập đóng ở Hà Tĩnh, đến ngày 6-3-1946 chuyển ra đóng tại Tòa giám binh và dinh Tổng đốc cũ ở Vinh. Ngày 16-12-1945, các hệ thống tổ chức chỉ huy, thông tin liên lạc, quân báo được thành lập và bắt đầu hoạt động.

Ở Thanh Hóa, Tỉnh ủy khẩn trương chỉ đạo tiến hành lựa chọn những chiến sĩ do đồng chí Hoàng Tiến Trình làm Chi đội trưởng, đồng chí Nguyễn Kiện làm Chính trị ủy viên. Ở mỗi huyện xây dựng một trung đội du kích tập trung, ở các xã cũng xây dựng các đơn vị tự vệ.

Ở Nghệ An, các đội tự vệ ở các làng, xã có từ trước khởi nghĩa cũng được khẩn trương tổ chức lại, bổ sung về số lượng, chỉ huy và trang bị. Ở tỉnh thành lập Chi đội Đội Cung, là đơn vị Giải phóng quân đầu tiên của tỉnh do đồng chí Mười Uyển làm Chi đội trưởng và đồng chí Nguyễn Phan làm Chính trị viên.

Hà Tĩnh có Chi đội Phan Đình Phùng do đồng chí Nghiêm Thưởng làm Chi đội trưởng và đồng chí Phan Quang Minh làm Chính trị ủy viên.

Ở Quảng Bình, sau Hội nghị tháng 10-1945, Tỉnh ủy chủ trương xây dựng ở mỗi huyện, thị một đại đội tự vệ chiến đấu tập trung, mỗi xã một trung đội xây dựng xưởng quân khí phát động phong trào ủng hộ quỹ nuôi quân, rèn sắm vũ khí... Ở tỉnh thành lập Chi đội Lê Trực do đồng chí Quách Sĩ Tạo làm Chi đội trưởng, đồng chí Trần Hường làm Chính trị ủy viên (đồng chí Trần Hường là Tỉnh ủy viên). Chi đội lúc đầu, có bốn đại đội, đến cuối 1946 có sáu đại đội. Quảng Bình còn thành lập Đại đội Phú Quý trực thuộc Tỉnh ủy làm nhiệm vụ bảo vệ cơ quan lãnh đạo tỉnh.

Ở Quảng Trị, Chi đội Giải phóng quân được thành lập từ ngày 23-8-1945 do ông Trương Linh phụ trách, sau đó đổi thành Chi đội Nguyễn Thiện Thuật gồm 1.500 chiến sĩ do Quản Xuyến làm Chi đội trưởng (sau một thời gian ngắn, Tỉnh ủy chỉ định đồng chí Nguyễn Đăng Trình làm Chi đội trưởng). Đến tháng 3-1946, Tỉnh ủy cử đồng chí Trần Sâm về làm Chính trị ủy viên (Chính ủy). Chi đội có các tiểu đoàn 13, 14, 15. Tháng 4-1946, Tiểu đoàn 15 chuyển sang làm nhiệm vụ tiếp phòng quân. Cán bộ, chiến sĩ của chi đội hầu hết được lựa chọn từ các đội tự vệ chiến đấu ở các địa phương trong tỉnh.


(1) Sau Cách mạng Tháng Tám, các tỉnh đã tổ chức đội quân chủ lực với những tên gọi khác nhau. Nơi gọi là Cứu quốc quân, Giải phóng quân, nơi gọi là Ủy ban quân sự, Tư lệnh giải phóng quân... Sau ngày 2-9-1945 thống nhất tên gọi là Chi đội giải phóng quân. Chi đội tương đương với trung đoàn, đại đội tương đương với tiểu đoàn, trung đội tương đương với đại đội, phân đội tương đương với trung đội, mỗi phân đội có ba tiểu đội.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 09 Tháng Mười Hai, 2015, 08:41:52 pm
Ở Thừa Thiên, ngay sau ngày giành chính quyền, ở hầu khắp các thôn, xã, khu phố, trường học, bệnh viên, xí nghiệp… đã có lực lượng tự vệ chiến đấu. ở xã có tiểu đội, ở huyện đã có trung đội. Ở tỉnh, ngày 5-9-1945, Chi đội giải phóng quân Trần Cao Vân được thành lập do Quản Hậu làm Chi đội trưởng, đồng chí Hoàng Lưu làm Chính trị ủy viên, ông Phùng Đông làm Tham mưu trưởng. Chi đội có các tiểu đoàn 16, 17, 18 (sau đổi thành Giải phóng quân Thuận Hóa). Chi đội gồm có 15 trung đội.

Để có đủ cán bộ lãnh đạo và chỉ huy quân sự, Xứ ủy đã cấp tốc mở lớp đào tạo cán bộ đại đội, trung đội, mỗi khóa khoảng hai tháng. Học viên là những cán bộ chỉ huy các Chi đội Giải phóng quân và những cán bộ làm công tác đảng, chính quyền ở các địa phương. Các đồng chí lãnh đạo như Nguyễn Chí Thanh, Nguyễn Duy Trinh, Trần Hữu Dực, Tố Hữu, Lê Chưởng… Giáo viên quân sự chủ yếu là các cựu binh sĩ(1). Các tỉnh cũng mở các lớp đào tạo cán bộ tiểu đội (có cả cán bộ đảng, chính quyền cấp tỉnh, huyện tham gia học tập).

Cuối tháng 12-1945, để tăng cường công tác chỉ đạo, chỉ huy các lực lượng vũ trang, chế độ ủy viên quân sự trong các Ủy ban hành chính bị bãi bỏ. Các cơ quan tỉnh đội, huyện đội, xã đội được thành lập trực tiếp chỉ đạo lực lượng vũ trang địa phương. Các Chi đội Giải phóng quân các tỉnh được củng cố, kiện toàn, sau đổi là Chi đội Vệ quốc đoàn, đến đầu năm 1946 đổi là Chi đội Vệ quốc quân.

Lúc mới thành lập, lực lượng vũ trang toàn Khu IV có gần 10.000 người, trang bị đủ các loại vũ khí có thể có như giáo, mác, dao, kiếm, lựu đạn, súng trường và một số súng khác lấy được của quân đội Pháp, Nhật, bảo an binh cũ. Một số tỉnh thành lập các công binh xưởng để sản xuất và sửa chữa vũ khí. Cả Khu IV chỉ có 1 khẩu pháo 75 mm, 1 khẩu 37 mm và 1 khẩu 20 mm.

Các cấp bộ đảng ở các tỉnh trong khu đã đưa những cán bộ, đảng viên tốt vào lực lượng vũ trang, đồng thời sử dụng các sĩ quan, binh lính của chế độ cũ và các cán binh Nhật tự nguyện tham gia Quân đội Việt Nam làm nhiệm vụ huấn luyện bộ đội và dân quân tự vệ.

Bênh cạnh công tác tổ chức lực lượng, huấn luyện quân sự, đào tạo cán bộ, việc nâng cao chất lượng chính trị, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang được  chú trọng. Các cấp bộ đảng lãnh đạo trực tiếp công tác quân sự, điều động nhiều cán bộ có năng lực sang công tác quân sự. hệ thống tổ chức đảng, hệ thống cán bộ chính trị trong quân đội được xây dựng và củng cố. Đầu năm 1946, Tổng quân ủy được thành lập để giúp Trung ương Đảng lãnh đạo quân đội đã tác động tích cực đến công tác xây dựng đảng, công tác chính trị, tư tưởng trong lực lượng vũ trang Khu IV.

Để đáp ứng yêu cầu đào tạo cán bộ trong các đơn vị và địa phương, tháng 2-1946, Bộ chỉ huy Chiến khu IV tiếp nhận Trường quân chính của Xứ ủy Trung Bộ và chuyển trường từ Huế ra Cẩm Xuyên (Hà Tĩnh). Trường do đồng chí Nguyễn Thanh Đồng phụ trách. Sau khi di chuyển, trưởng bắt tay ngay vào việc đào tạo cán bộ, khóa đầu tiên đã có 146 cán bộ theo học.

Bộ đội các tỉnh hầu hết được tập trung huấn luyện. Nội dung học tập bao gồm cả chính trị và quân sự. Về chính trị, học các bài nói về chiến sĩ Vệ quốc đoàn, 10 lời thề, 12 điều kỷ luật… Về quân sự, các chiến sĩ đều được học ba kỹ thuật chính: bắn súng, đâm lê, ném lựu đạn và chiến thuật từng người (ẩn nấp, di chuyển, xung phong). Về chiến thuật, lúc này chủ yếu học chiến thuật phân đội theo chiến thuật tác chiến chính quy của quân đội Pháp nên ít được sử dụng trong thực tế kháng chiến sau này.

Dân quân, tự vệ là lực lượng chiến đấu ở cơ sở. Các thôn, xã ở các tỉnh trong toàn khu đều có lực lượng này, phần lớn thanh niên nam, nữ và kể cả một số người lớn tuổi cũng hăng hái tham gia. Trên cơ sở lực lượng dân quân, tự vệ rộng rãi, các xã đều chọn một số thanh niên khỏe mạnh, hăng hái, tổ chức thành các đội dân quân du kích (ở nông thôn) và tự vệ chiến đấu (ở thành thị). Mỗi xã, khu phố có từ một đến hai trung đội dân quân, du kích hoặc tự vệ chiến đấu. Các huyện và tỉnh cũng thành lập các đơn vị dân quân thường trực cơ động, tập trung (thoát ly sản xuất) được trang bị, nuôi dưỡng và tổ chức như bộ đội chủ lực. Mỗi huyện có một đến hai trung đội, có huyện có đại đội, mỗi tỉnh có từ một đến hai đại đội. Dân quân tự vệ được trang bị chủ yếu là gậy gộc, gươm, đao; có số rất ít được trang bị lựu đạn và súng trường. Nói chung dân quân, du kích ít được huấn luyện quân sự, nhiệm vụ chính của lực lượng này là canh gác thôn xóm và làm xung kích trong công tác xây dựng nông thôn như làm đường, làm thủy lợi… Ở thành thị, lực lượng này làm nhiệm vụ giữ gìn trật tự an ninh, vận động xây dựng nếp sống mới.


(1) Một số là sĩ quan, hạ sĩ quan quân đội Pháp, một số là người Nhật, người Đức, một số là cán bộ Giải phóng quân Việt Bắc, đã được học ở những trường quân chính chống Nhật.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 09 Tháng Mười Hai, 2015, 08:43:09 pm
Để kịp thời có vũ khí trang bị cho bội đội và dân quân, du kích, các lò rèn ở thôn xã tập trung rèn dao, kiếm. Các tỉnh đều xây dựng binh công xưởng để sản xuất lựu đạn, sửa chữa các loại súng hư hỏng. Trang bị của các công binh xưởng lấy ở các xưởng cơ khí cũ của Pháp; cán bộ, công nhân kỹ thuật cũng chủ yếu dựa vào số học viên và giáo viên của Trường kỹ nghệ thực hành do Pháp lập ra trước đây. Ở Thừa Thiên, ngày từ tháng 9-1945, Ủy ban nhân dân tỉnh và Chi đội Trần Cao Vân đã tập hợp 200 công nhân lấy máy ở Trường kỹ nghệ, xưởng vôi Long Thọ, xưởng hỏa xa, nhà máy điện để lập hai xưởng Ngọc Lâm chuyển sửa chữa súng cũ, đúc vỏ lựu đạn và xưởng Phú Lâm chuyên nghiên cứu chế tạo thuốc nổ, ngòi nổ, hạt nổ và làm đạn súng trường. Ở Thanh Hóa thành lập xưởng Cao Thắng từ tháng 9-1945, với gần 30 công nhân, máy móc lấy từ Nhà máy diêm Hàm Rồng và mỏ crôm Cổ Định, sau này xưởng sửa chữa súng tiểu liên và lựu đạn. Ở Nghệ An thành lập xưởng Đặng Thái Thân, xưởng có 100 công nhân, nghiên cứu và chế tạo lựu đạn kiểu Mỹ. Ở Vinh, lập thêm xưởng Rạng Đông để sửa chữa súng tiểu liên, sửa chữa cả ôtô (sau này chuyển về Thanh Chương và đổi tên thành xưởng Lê Viết Thuật). Ở Hà Tĩnh lập công binh xưởng ở Nhượng Bạn (Cẩm Xuyên), xưởng có 100 công nhân chuyển sửa chữa các loại súng cũ. Ở Quảng Bình, lập công binh xưởng ở Quy Hậu (Lệ Thủy).

Để chỉ đạo thống nhất các công binh xưởng, cuối tháng 12-1945, Bộ chỉ huy Chiến khu quyết định thành lập Ban chế tạo khí giới. Những hoạt động của ngành quân giới Khu IV trong những ngày đầu kháng chiến đã góp phần giảm bớt những khó khăn về trang bị vũ khí cho các lực lượng vũ trang trong toàn khu.

Bên cạnh công tác tổ chức lực lượng, huấn luyện quân đội, đào tạo cán bộ... việc nâng cao chất lượng chính trị, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang cũng được chú trọng. Công tác quân sự luôn luôn là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu được các cấp bộ đảng thường xuyên bàn bạc, tập trung sức để xây dựng, củng cố và kiện toàn. Cấp ủy các địa phương trong toàn khu đã điều động nhiều cán bộ, đảng viên có năng lực sang công tác trong quân đội. Hệ thống tổ chức đảng, hệ thống cán bộ chính trị trong quân đội được xây dựng và củng cố.

Trong việc xây dựng lực lượng vũ trang, lực lượng công an cũng được chú ý xây dựng ngay từ đầu. Để thống nhất chỉ đạo việc giữ gìn an ninh, trật tự ở các địa phương, ngày 23-8-1945, Ủy ban nội vụ Trung Bộ quyết định thành lập bộ phận trinh sát và tư pháp trong các Ủy ban nhân dân, bộ phận này là thành viên của Ủy ban nhân dân, đồng thời cử các đồng chí Nguyễn Văn Ngọc, Thường vụ Xứ ủy làm Giám đốc Sở trinh sát Trung Bộ. Tiếp sau đó các tỉnh cũng lần lượt thành lập lực lượng công an với những tên gọi khác nhau. Ở Thanh Hóa thành lập lực lượng cảnh sát xung phong. Ở Nghệ An có Cục công an Nghệ An. Ở Quảng Bình thành lập Ty trinh sát. Ở Quảng Trị thành lập Ban trinh sát - tư pháp sau đổi thành Ty trinh sát. Ở Thừa Thiên từ tháng 8 đến tháng 12-1945, Ty công an Thừa Thiên được thành lập. Đến tháng 4-1946, Ty công an các tỉnh trong toàn khu được thành lập trên cơ sở sáp nhập Ty trinh sát và Sở cảnh sát xung phong. Tuy mới được thành lập, lực lượng công an các tỉnh Khu IV đã góp phần đắc lực vào việc theo dõi, khám phá, quản lý những ổ nhóm phản động, trừng trị bọn Việt gian, mật thám đầu sỏ(1) ổn định an ninh, trật tư xã hội, chống giặc ngoài, thù trong.

Như vậy, chỉ sau một thời gian rất ngắn, dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh, trực tiếp là sự chỉ đạo của Xứ ủy Trung Bộ và các tỉnh ủy trong toàn khu, quân và dân Khu IV đã nhanh chóng vượt qua nhiều khó khăn, gian khổ bắt tay vào xây dựng lực lượng cách mạng và chế độ xã hội mới, xây dựng đảng bộ, chính quyền, lực lượng vũ trang, các tổ chức quần chúng cách mạng về mọi mặt, góp phần giải quyết nạn đói, nạn dốt, bảo vệ vững chắc chính quyền cách mạng non trẻ, ổn định đời sống nhân dân sẵn sàng đối phó với mọi tình hình.


(1) Tại Thừa Thiên, chính quyền cách mạng đã bắt và xử lý một số tên nguy hiểm như Phạm Quỳnh, Ngô Đình Huân;
- Tại Quảng Trị, bắt tên tri phủ gian ác Trần Mậu Trinh, tên mật thám nguy hiểm Nguyễn Hữu Chước, Hồ Ích.
- Tại Quảng Bình bắt tên tỉnh trưởng Nguyễn Thơ, Tỉnh phó Đặng Hiếu An, tên mật thám gian ác Nguyễn Thương.
- Tại Thanh Hóa bắt tên Phan Văn Giáo trùm mật thám của tình báo Pháp ở Trung Kỳ.
- Đặc biệt công an Trung Bộ bắt tên Tôn Thất Hối mật thám Trung Kỳ từng tham gia đàn áp phong trào Xôviết Nghệ - Tĩnh.
(Công an nhân dân Liên khu IV - Biên niên sự kiện, Tài liệu chuyên đề của Bộ Công an, năm 2000, tr.15).


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 09 Tháng Mười Hai, 2015, 08:44:43 pm
*
*   *

Sau ngày Nhật đảo chính (9-3-1945), một số lực lượng Pháp chạy khỏi các tỉnh lỵ, đồn binh ở Việt Nam, Lào về ẩn náu ở vùng rừng núi phía tây Việt Nam và đông Lào bám các trục đường giao thông quan trọng.

Ở đường số 9 có khoảng một tiểu đoàn bộ binh cơ giới thuộc Lữ đoàn bộ binh thuộc địa Trung Đông Dương của tướng Turquyn chiếm đóng vùng ngoại vi Sêpôn, Phường Phìn, Pha Lan; hơn một đại đội chiếm Cămcớt, Lạcxao.

Ở đường số 12, một đại đội địch chốt đèo Mụ Giạ (Banaphào), Nhômmarát, Mahaxây.

Ở đường số 7, một đại đội chiếm Noọnghét, Bản Ban, Mường Ngan, Mường Ngát.

Ở Sầm Nưa, quân địch chiếm giữ Sầm Tớ, Mường Na, Mường Lan, móc nối với bọn phản động ở các châu thượng du Thanh Hóa và Quỳ Châu (Nghệ An).

Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, với ý đồ trở lại xâm lược Việt Nam, được sự giúp sức của quân Anh, Pháp nổ súng tái chiếm Nam Bộ; đồng thời cho quân nhảy dù xuống tây bắc Huế và tổ chức đám tàn quân Pháp trên đất Lào để thực hiện ý đồ tái chiếm Việt Nam từ phía tây.

Ngày 28-8-1945, Pháp cho một toán tình báo gồm sáu tên do tên thiếu tá Casténa chỉ huy nhảy dù xuống Hiền Sĩ (Phong Điền, Thừa Thiên) nhằm móc nối với bọn phản động và quan lại cũ. Bọn này bị ta bắt gọn(1). Sau đó, địch còn cho một toán ba tên xâm nhập bằng đường biển, qua cửa Thuận An nhằm bắt liên lạc với Phạm Quỳnh và Bảo Đại. Bọn này cũng bị ta bắt.

Tại Lạcxao thuộc tỉnh Khăm Muộn (nay thuộc tỉnh Bôlykhămxay - Lào) địch cho một toán gồm ba tên nhảy dù xuống truyền đạt chỉ thị cho đám tàn quân chuẩn bị lực lượng, câu kết với bọn tay sai ở miền núi, xây dựng căn cứ chuẩn bị cho mưu đồ tái chiếm Việt Nam.

Cũng trong thời gian này, địch cho gần một đại đội do tên quan ba Pháp chỉ huy từ thị trấn Cămcớt theo trục đường số 8 đánh chiếm Napê, dùng Napê làm bàn đạp chuẩn bị đánh sang Việt Nam. Trước tình hình đó, để ngăn chặn từ xa âm mưu thâm độc của địch, lãnh đạo tỉnh Hà Tĩnh quyết định tấn công Napê. Lực lượng ta có một đại đội gồm đội viên của Chi đội Phan Đình Phùng và dân quân hai huyện Hương Sơn, Đức Thọ, sau đó được bổ sung thêm một trung đội của Chi đội Đội Cung (Nghệ An). Trận tiến công địch ở Napê diễn ra từ ngày 6 đến ngày 8-9-1945, kết quả ta đã tiệt diệt một trung đội địch, diệt tên quan ba, bắt sống một tên quan hai Pháp. Phối hợp chiến đấu với bộ đội Hà Tĩnh, bộ đội Thanh Chương (Nghệ An) dùng với lực lượng vũ trang Lào bí mật, bất ngờ tiến công huyện lỵ Cămcớt diệt thêm một số địch, số còn lại bỏ chạy. Liên quân Lào - Việt truy kích đến cầu Na Hương diệt thêm một tên quan tư và tên quan hai, lấy được bản kế hoạch đánh chiếm thành phố Vinh của chúng.

Chiến thắng Napê là chiến công đầu xuất sắc của lực lượng vũ trang Hà Tĩnh, Nghệ An phối hợp chiến đấu với lực lượng vũ trang yêu nước Lào, tiêu diệt được một bộ phận sinh lực địch, đập tan âm mưu của thực dân Pháp định dùng Napê làm bàn đạp theo trục đường số 8 tiến công Việt Nam từ phía tây. Phối hợp với các lực lượng vũ trang yêu nước Lào, bộ đội Việt Nam đẩy mạnh công tác vũ trang tuyên truyền, xây dựng lực lượng và chính quyền cách mạng ở hai huyện Cămcớt, Lạcxao thành những căn cứ kháng chiến đầu tiên của tỉnh Khăm Muộn.

Cùng với mặt trận đường 8, bộ đội Quảng Trị cũng tổ chức một số trận chiến đấu ở phía tây đường 9, kết hợp với lực lượng yêu nước Lào, ở tỉnh Savanakhẹt do ông Thao Ô chỉ huy, mặt trận đường 9 do ông Ba Thụ làm chỉ huy trưởng. Đồng chí Khu trưởng Lê Thiết Hùng cùng các cơ quan chức năng chiến khu trực tiếp chỉ huy và tổ chức chi viện kịp thời cho mặt trận đường 9 một khối lượng lớn lương thực, thực phẩm, thuốc men...

Ngoài lực lượng của Quảng Trị, Bộ chỉ huy Chiến khu IV còn tăng cường cho mặt trận một bộ phận của Chi đội Trần Cao Vân (Thừa Thiên). Nhiều đoàn đại biểu thay mặt chính quyền, đoàn thể lên tận mặt trận thăm hỏi động viên cán bộ, chiến sĩ. Đoàn đại biểu phụ nữ Trung Bộ do các chị Lê Thị Quế, Võ Thị Thể, Đào Thị Đinh đại diện; đoàn đại biểu phụ nữ Quảng Trị do chị Lê Thị Diệu Muội mang nhiều quà bánh của nhân dân Trị Thiên lên tận mặt trận động viên chiến sĩ.

Đầu tháng 10-1945, một trung đội bộ đội huyện Thanh Chương do đồng chí Nguyễn Như Cầu, Bí thư huyện ủy chỉ huy trận đánh Noọng Hét. Do thiếu kinh nghiệm chiến đấu, bộ đội bị thương vong nhiều, đồng chí Cầu hy sinh. Sau thất bại này ta rút kinh nghiệm, tăng cường lực lượng chuẩn bị cho những trận chiến đấu mới.


(1) Cùng với điện đài, vũ khí, tiền bạc, ta còn thu được một công vụ lệnh do tướng Lơcơléc (LECLERC), Tư lệnh quân viễn chinh Pháp ký ra lệnh cho các lực lượng của Pháp phải chịu sự chỉ huy của thiếu tá (CASTENA) khi có thời cơ thì lập lại nền cai trị ở Đông Dương.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 09 Tháng Mười Hai, 2015, 08:45:22 pm
Ở Lào, từ ngày 7 đến 15-9-1945, Pháp đánh chiếm toàn bộ vùng Nam Lào. Cuối tháng 8-1945, hơn 16.000 quân Tưởng cũng đã tràn vào Lào. Tháng 1-1946, hơn 3500 quân Pháp từ Vân Nam (Trung Quốc) trở lại Lào mở đầu cuộc xâm lược Lào lần thứ hai.

Đứng trước cuộc tiến công quy mô của thực dân Pháp vào Lào, Liên quân Lào - Việt tuy mới được thành lập (tháng 9-1945) đã chiến đấu dũng cảm trong các trận đánh lớn ở Nhommarát, Hinbun, Đồng Hến.

Sau hai ngày nước Lào tuyên bố độc lập, ngày 14-10-1945, đại diện Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ký với Chính phủ Lào hiệp định tương trợ về các mặt. Ngày 30-10-1945, Hiệp định về tổ chức Liên quân Lào - Việt cũng được ký kết. Ban chỉ huy Liên quân Lào - Việt gồm một số cán bộ Lào và Việt Nam dưới sự chỉ huy của Hoàng thân Xuphanuvông. Từ đây, Liên quân Lào, Việt được xây dựng và chính thức xác lập về mặt nhà nước.

Các hiệp định đầu tiên được ký kết, nền móng pháp lý cho quan hệ liên minh chiến đấu chống kẻ thù chung giữa nhân dân hai nước Việt - Lào đã được xác lập. Ở các địa phương dọc biên giới Lào - Việt cũng có những cuộc trao đổi ký kết những văn bản thỏa thuận giúp đỡ lẫn nhau. Ở Napê, tháng 10-1945, Ủy ban Việt - Lào thân thiện được thành lập do đồng chí Nguyễn Tam Khôi làm Chủ tịch. Ngày 11-11-1945, ủy ban huyện Hương Sơn (Hà Tĩnh) cùng với Ban chỉ huy đơn vị Giải phóng quân Lào ở Khăm Muộn họp bàn phương án phòng thủ biên giới trên phạm vi địa phương mình.

Đầu tháng 12-1945, bộ đội Khu IV phối hợp với lực lượng vũ trang yêu nước Lào tiến công địch ở thị trấn Sêpôn, diệt và bắt 53 tên Pháp, thu toàn bộ vũ khí. Sau đó tiến công địch ở Mường Phìn, Huội Cay, cầu Thà Khống... thu được nhiều thắng lợi (chỉ có trận Pha Lan do ta chủ quan nên bộ đội bị thương vong nhiều).

Ở đường số 12, Đại đội 6 cùng dân quân huyện Tuyên Hóa (Quảng Bình) phối hợp với một bộ phận bộ đội huyện Hương Khê (Hà Tĩnh) đánh thắng địch ở Bãi Dinh (Quảng Bình), buộc địch phải rút chạy về cố thủ ở Banaphào.
   
Ở đường số 7, huyện Tương Dương (Nghệ An) được tỉnh bổ sung nhiều cán bộ để xây dựng lực lượng cách mạng, trọng tâm là hai thị trấn Cửa Rào và Mường Xén. Tỉnh còn tổ chức một đại đội (lấy quân của hai huyện Anh Sơn) và Thanh Chương lên xây dựng cơ sở chính trị ở các vùng dân tộc thiểu số (Hơmông, Khơmú).

Về phía Lào, thời gian này có một đại đội bộ đội Sầm Nưa do Xiêng Xinh chỉ huy; một đại đội người Mẹo, một đại đội Lào Thênh do Nhiêu Vư chỉ huy. Sau khi đánh ở Xiêng Khoảng rút về Tương Dương (Nghệ An) để củng cố một thời gian, đại đội Xiêng Xinh lại trở về hoạt động ở phía nam Sầm Nưa. Đại đội Nhiêu Vư trở về Xiêng Khoảng, hoạt động ở các huyện Mường Mộc, Noọng Hét, Mường Khăm. Đây là những lực lượng đầu tiên và nòng cốt của liên minh chiến đấu Việt - Lào sau này.

Cuối năm 1945, đầu năm 1946, tại khu vực Cửa Rào, Mường Xén (Nghệ An), đời sống của bộ đội và nhân dân gặp rất nhiều khó khăn. Người đói, bệnh tật hoành hành, thêm vào đó là quân Tưởng thường xuyên quấy nhiễu và vơ vét thuốc phiện. Để ổn định tình hình, Khu trưởng Lê Thiết Hùng, Phó chủ tịch tỉnh Nghệ An - Nguyễn Tài lên mặt trận đường 7 cùng với địa phương tìm cách giải quyết khó khăn cho bộ đội và nhân dân.

Ở vùng thượng du Thanh Hóa và phía tây Phủ Quỳ (Nghệ An), bọn địch ở phía đông Sầm Nưa tìm bắt liên lạc với bọn phản động Lê Xuân Kỳ, Lê Xuân Tín ở Lang Chánh (Thanh Hóa), Sầm Văn Kim, Lò Khăm Thi ở Quỳ Châu (Nghệ An). Bọn này một mặt giả vờ tích cực tham gia cách mạng, mặt khác ra sức lừa bịp, bóc lột nhân dân miền múi, âm mưu chống lại đường lối kháng chiến của Đảng và Nhà nước ta, nhờ thực dân Pháp lập “Xứ Mường tự trị”. Tỉnh ủy Thanh Hóa, Nghệ An tổ chức Ban cán sự các huyện miền núi, đưa cán bộ vào Ủy ban nhân dân huyện để tranh thủ tầng lớp lang đạo tiến bộ, cô lập bọn thổ ty, lang đạo phản động; giáo dục, tuyên truyền, giác ngộ nhân dân hăng hái tham gia cách mạng.

Âm mưu của thực dân Pháp trở lại xâm chiếm các nước Đông Dương ngày càng bộc lộ trắng trợn, từng bước chúng mở rộng phạm vi lấn chiếm. Đến cuối tháng 3-1946, nhiều thị xã, thị trấn của Lào như Savanakhẹt, Thàkhẹc... dần dần bị quân Pháp chiếm lại. Chính phủ lâm thời và lực lượng kháng chiến Lào phần lớn phải rút sang Thái Lan. Một bộ phận lánh sang Khu IV đã được chính quyền và nhân dân vùng biên giới Việt - Lào hết lòng giúp đỡ. Để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài, tháng 5-1946, Khu IV và Lào thành lập Chi đội Trần Phú và các Phân đội cảm tử. Sau đó ta giúp bạn xây dựng cơ sở ở nông thôn, các căn cứ du kích và phát triển lực lượng vũ trang. Tổ chức các lớp huấn luyện đào tạo cán bộ quân sự gồm 26 thanh niên yêu nước Lào và thanh niên Việt Nam.

Chiến thắng Napê, Sê Pôn... cùng với những trận chiến đấu gian khổ, hy sinh ở phía tây đường số 7, số 8 và số 9 là những chiến thắng đầu tiên của liên minh chiến đấu Việt - Lào. Tuy có những tổn thất, hy sinh nhưng quân và dân Khu IV đã phối hợp chặt chẽ với lực lượng vũ trang yêu nước Lào cầm chân địch, góp phần bảo vệ chính quyền cách mạng ở các địa phương dọc biên giới Việt - Lào trên địa bàn Khu IV, tạo điều kiện cho cách mạng Lào phát triển. Những chiến thắng đầu tiên quan trọng đó đã tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, bước đầu đánh thắng âm mưu chiếm giữ hành lang Thái Phiên (Đà Nẵng) - Thuận Hóa (Huế) - Đông Hà - Lao Bảo - Savanakhẹt, bám chặt đường 9 hòng xâm chiếm Bình - Trị - Thiên của thực dân Pháp.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 09 Tháng Mười Hai, 2015, 08:46:54 pm
Đi đôi với việc đánh trả và ngăn chặn quân Pháp ở biên giới Việt - Lào, đảng bộ, chính quyền các tỉnh Khu IV đã lãnh đạo và chỉ đạo quân dân các địa phương trong toàn khu tiến hành đấu tranh chống lại âm mưu và những hành động khiêu khích, phá hoại của quân Tưởng và bè lũ tay sai, bảo vệ thành quả cách mạng. Với phương châm kiên quyết giữ vững chủ quyền nhưng không để xảy ra xung đột, chỉ nhân nhượng ở Trung ương chứ không nhân nhượng ở địa phương của Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh, các đảng bộ, các cấp chính quyền và quân dân Khu IV đã cùng cả nước làm thất bại âm mưu của chúng.

Ở một số nơi quân Tưởng kéo vào, nhân dân đã tổ chức mít tinh, biểu dương sức mạnh và sự ủng hộ mạnh mẽ chính quyền cách mạng, ủng hộ mãnh mẽ Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đảng bộ các địa phương vận dụng nhiều biện pháp vừa mềm dẻo, vừa kiên quyết, dùng áp lực của quần chúng vạch trần âm mưu đen tối của quân Tưởng, đòi chúng phải thừa nhận tôn trọng chính quyền cách mạng. Nhiều địa phương đã sử dụng các tổ chức “Hoa - Việt thân thiện”, “Ủy ban liên lạc Hoa - Việt” để nắm địch tình, kịp thời có đối sách đấu tranh với kẻ thù, không cho chúng quấy nhiễu nhân dân, khiêu khích cán bộ. Lực lượng công an, tự vệ chiến đấu đảm nhiệm việc canh gác, bảo vệ trị an trên các ngả đường. Lực lượng vũ trang nhiều nơi được bố trí xung quanh khu vực lính Tưởng đóng, bí mật bao vây, kiềm chế hoạt động của chúng, không để chúng tự do hoành hành phá hoại cách mạng.

Bọn tay sai Việt quốc, Việt cách núp dưới bóng quân Tưởng tranh thủ xây dựng và phát triển lực lượng trong các phần tử phản cách mạng và bọn địa chủ cường hào gian ác ở một số nơi, nhất là ở những nơi tình hình chính trị và xã hội sau ngày giải phóng còn nhiều phức tạp như Thanh Hóa, Thừa Thiên... Chúng đem báo Việt Nam, Thiết thực của bọn Quốc dân đảng xuất bản ở Hà Nội có nội dung phản động vào phát hành ở các tỉnh Trung Bộ, rải truyền đơn đả kích Việt Minh, xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng và Chính phủ ta, kích động quần chúng, ám sát cán bộ.

Trước những hành động ngang ngược phá hoại cách mạng của chúng, đảng bộ và chính quyền các tỉnh Khu IV đã lãnh đạo lực lượng vũ trang phối hợp với công an kết hợp đấu tranh với đông đảo quần chúng kiên quyết đập tan những vụ chống đối, dẹp gọn những âm mưu tổ chức biểu tình chống chính quyền cách mạng, nghiêm khắc cảnh cáo bọn tay chân, kiên quyết trừng trị bọn cầm đầu và những tên ngoan cố. Ngày 26-1-1946, Xứ ủy Trung Bộ ra nghị quyết về đối sách với bọn phản động, nghị quyết chỉ rõ đối sách với từng tổ chức phản động. Tại Thanh Hóa, quân Tưởng đã nuôi dưỡng, trang bị vũ khí cho bọn Quốc dân Đảng lập ra Đệ lục chiến khu ở ấp Di Linh, xã Hợp Lý, huyện Nông Cống (nay thuộc Triệu Sơn). Bọn Đại Việt cũng tăng cường hoạt động trong các vùng tôn giáo, tuyên truyền, xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng và Chính phủ, xây dựng lại lực lượng chuẩn bị đón quân Pháp quay trở lại. Thực hiện chủ trương của Trung ương và Xứ ủy Trung Bộ, Tỉnh ủy và Ủy ban hành chính tỉnh đã cương quyết chỉ đạo trấn áp bọn phản động. Đầu năm 1946, lực lượng vũ trang của tỉnh tấn công ấp Di Linh, toàn bộ lực lượng địch ở đây phải đầu hàng và giao nộp vũ khí. Lực lượng cảnh sát xung phong và đội Sao vàng đã tiến công trụ sở Nông Giang và Khu bộ của bọn Quốc dân Đảng, bắt sống 12 tên, thu toàn bộ vũ khí.

Ở Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, quán triệt chủ trương của Trung ương về thái độ đối với quân đồng minh, cấp ủy và chính quyền ở đây đã có những đối sách thích hợp, do vậy đã hạn chế được những hoạt động khiêu khích, chống phá của quân Tưởng.

Ở Thừa Thiên, Đảng bộ và chính quyền tỉnh lúc đầu đã thực hiện đối sách mềm dẻo với quân Tưởng, nhưng trước những hành động khiêu khích, chống phá ngang ngược của chúng cũng đã phải cương quyết đấu tranh. Tỉnh đã tiến hành giải tán và truy quét các tỏ chức phản động ở địa phương như Việt quốc, Việt cách, đảng Đại Việt... thẳng tay trừng trị bọn phản động lợi dụng tôn giáo để chống phá chính quyền cách mạng.

Cuối năm 1945, đầu năm 1946, tình hình có nhiều thay đổi. Tháng 2-1946, Tưởng Giới Thạch buộc phải ký với Chính phủ Pháp “Hiệp ước Trùng Khánh” để cho quân Pháp vào thay thế quân Tưởng ở miền Bắc Việt Nam. Sau hơn sáu tháng quân Tưởng sang Việt Nam kéo theo bọn Việt quốc, Việt cách, nhưng không đạt được âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng, thành lập chính phủ tay sai. Tưởng Giới Thạch cuối cùng buộc phải điều đình với Pháp cho quân rút khỏi miền Bắc Việt Nam để đổi lấy một số quyền lợi kinh tế và lãnh thổ.

Trước tình hình mới, Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương đuổi nhanh quân Tưởng về nước, quét sạch bọn phản động tay sai của chúng để tập trung mũi nhọn vào kẻ thù chủ yếu là thực dân Pháp. Với ý thức chấp hành nghiêm túc chủ trương của Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đảng bộ, chính quyền và quân dân các tỉnh trong toàn khu đã có những đối sách rất cương quyết, nguyên tắc nhưng cũng rất mềm dẻo, khéo léo nên đã hạn chế được những hành động chống phá và khiêu khích của quân Tưởng trước lúc rút lui, thuyết phục được chúng bàn giao quyền giữ an ninh trật tự cho chính quyền ta(1). Đến cuối tháng 4-1946, toàn bộ quân Tưởng rút khỏi các địa phương Khu IV; phần lớn bọn tay sai phản động núp dưới bóng quân Tưởng đã bị trừng trị. Trong một thời gian ngắn, cùng với quân và dân miền Bắc, quân và dân Khu IV dưới sự lãnh đạo của Xứ ủy Trung Bộ và của đảng bộ, chính quyền các tỉnh đã loại trừ được kẻ thù nguy hiểm là quân Tưởng và tay sai của chúng, bảo vệ vững chắc chính quyền cách mạng, tập trung cao độ sức lực và trí tuệ chống kẻ thù chủ yếu là thực dân Pháp xâm lược.


(1) Ở Nghệ An, đồng chí Nguyễn Tài, Phó chủ tịch Ủy ban hành chính tỉnh đã thuyết phục được tên Trần Túng Tài, Sư đoàn trưởng Sư đoàn Vĩnh Dụ ký biên bản bàn giao quyền giữ an ninh trật tự cho chính quyền tỉnh. Ở Huế, Thanh Hóa cũng có những văn kiện bàn giao tương tự.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 09 Tháng Mười Hai, 2015, 08:48:25 pm
Với mưu đồ tái chiếm Đông Dương, ngay trong ngày 2-9-1945, thực dân Pháp đã gây hấn ở Sài Gòn và ngày 23-9-1945 chúng nổ súng tiến công Sài Gòn, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta một lần nữa. Đứng trước tình hình đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thường vụ Trung ương hạ quyết tâm tiến hành kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, bảo vệ độc lập, tự do và kêu gọi nhân dân cả nước chi viện sức người, sức của cho Nam Bộ. Thường vụ Trung ương Đảng quyết định thành lập các đơn vị Nam tiến.

Hưởng ứng lời kêu gọi của Trung ương Đảng và Hồ Chủ tịch, các tỉnh thuộc Khu IV lập ngay “Phòng Nam Bộ”, ghi tên những người tình nguyện vào Nam chiến đấu và tổ chức các đơn vị Nam tiến. Các địa phương thành lập “Ủy ban ủng hộ chiến sĩ Nam Bộ”, lập “Quỹ Nam Bộ”, tổ chức “Ngày kháng chiến”, “Ngày nỗ lực sản xuất”; tổ chức hoạt động thể thao, văn hóa để quyên góp tiền bạc, thuốc men, quần áo, chăn màn gửi vào Nam và tổ chức nhiều cuộc mit tinh, biểu tình rầm rộ ủng hộ Nam Bộ kháng chiến. Phong trào tình nguyện vào Nam giết giặc đã được mọi tầng lớp nhân dân các tỉnh Khu IV hưởng ứng. Thiếu niên xung phong đi làm liên lạc, phụ nữ xung phong đi làm tiếp tế cứu thương, thanh niên, học sinh, sinh viên tình nguyện rực tiếp cầm súng chiến đấu. Có cụ già đã xung phong tình nguyện làm đơn xin được đi lính đánh Tây(1). Các đơn vị Nam tiến được tổ chức chặt chẽ thành những đơn vị quân đội gồm những người xung phong tình nguyện, đã được huấn luyện quân sự, được trang bị vũ khí tốt.

Chỉ sau ba ngày quân Pháp nổ súng ở Sài Gòn, ngày 26-9-1945, chuyến xe lửa chở đoàn quân Nam tiến đầu tiên gồm một chi đội rời Hà Nội thẳng tiến về phương Nam. Qua các tỉnh Khu IV, đoàn quân Nam tiến được bổ sung thêm các đơn vị bộ đội gồm những người con ưu tú của Khu IV với những trang bị đầy đủ nhất. Khắp địa phương Khu IV diễn ra những cuộc tiễn đưa người thân, chồng con, anh, em lên đường vào Nam chiến đấu và tặng quà bánh cho bộ đội Nam tiến ở đình làng, trụ sở, khu phố, bến xe, bến tàu thật lưu luyến và cảm động. Trên các toa tàu, sân ga, những chàng trai vệ quốc nai nịt gọn gàng, vai đeo súng, hông dắt lựu đạn, nét mặt tươi vui, hồn nhiên hát vang những bài ca hùng tráng “Tiếng súng vang sông núi miền Nam, âm vang đất nước Việt Nam”, “Xếp bút nghiên lên đường chiến đấu”, “Đoàn Vệ quốc quân một lần ra đi”...

Tại Thanh Hóa, Tỉnh ủy đã tổ chức cuộc mít tinh lớn tại thị xã, hàng vạn người xuống đường tuần hành qua các đường phố hô vang khẩu hiệu phản đối thực dân Pháp xâm lược Nam Bộ. Một đại đội bộ đội Thanh Hóa đã gia nhập đoàn quân Nam tiến ngay từ những ngày đầu (26-9-1945).

Tại Nghệ An, ngày 26-9-1945, hai đại đội tự vệ của công nhân và thanh niên thành phố Vinh đã gia nhập đoàn quân Nam tiến. Phong trào ủng hộ Nam Bộ kháng chiến diễn ra sôi nổi ở khắp các địa phương trong tỉnh, trong tất cả các tầng lớp nhân dân. Các nơi tổ chức “Ngày kháng chiến”, “Ngày nỗ lực sản xuất”, “Ngày họp chợ kháng chiến”... hoặc tổ chức diễn kịch thi đá bóng lấy tiền ủng hộ Nam Bộ kháng chiến. Nhiều mẹ chiến sĩ và chị em phụ nữ hàng ngày túc trực tại bến xe, bến tàu tiếp tế cơm nước cho đoàn quân Nam tiến từ các tỉnh phía Bắc đi vào. Cùng với chi đội bộ đội, Nghệ An còn đưa 32 cán bộ, chiến sĩ công an vào Nam Bộ tham gia chiến đấu.

Tại Hà Tĩnh, Tỉnh ủy đã lãnh đạo chính quyền và các đoàn thể hưởng ứng lời kêu gọi của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Khắp nơi nô nức ghi tên những người tình nguyện vào Nam chiến đấu, lập quỹ ủng hộ Nam Bộ kháng chiến; quyên góp quần áo, thuốc men, tiền bạc của nhân dân gửi ra mặt trận. Phong trào Nam tiến ở Hà Tĩnh thu hút hàng vạn người thuộc mọi lứa tuổi, thành phần tham gia trong đó có bốn phân đội Quân giải phóng và 250 tự vệ chiến đấu cùng những vũ khí, trang bị tốt nhất lên đường chi viện cho Nam Bộ kháng chiến. Nhiều chiến sĩ tham gia chiến đấu kiên cường, dũng cảm, lập được nhiều chiến công, tiêu biểu là tấm gương anh hùng liệt sĩ Lê Bình trong trận Cái Răng (Cần Thơ).

Tại Quảng Trị, cũng như các địa phương khác ở Khu IV, đông đảo các tầng lớp nhân dân từ thanh thiếu niên, phụ nữ đến các cụ phụ lão đều hăng hái tham gia phong trào Nam tiến. Trong một thời gian ngắn, Quảng Trị đã tổ chức được một đại đội gồm 115 cán bộ, chiến sĩ tình nguyện lên đường vào Nam chiến đấu.

Phong trào ủng hộ Nam Bộ kháng chiến ở Thừa Thiên cũng diễn ra sôi nổi, rầm rộ. Nhiều công nhân, thanh niên, học sinh nô nức ghi tên tình nguyện vào Nam chiến đấu. Công nhân các nhà ga thi đua bảo đảm cho các đoàn tàu chở quân an toàn; các bà, các chị lập quán quân nhân phục vụ các đoàn quân Nam tiến đi qua. Đảng bộ và nhân dân Thừa Thiên đã đưa bốn trung đội gia nhập đoàn quân Nam tiến.

Các đơn vị Nam tiến của Khu IV đã tham gia chiến đấu trên các mặt trận từ Nam Trung Bộ đến Nam Bộ. Các đại đội Thanh Hóa, Quảng Trị chiến đấu ở cực Nam Trung Bộ. Bộ đội Hà Tĩnh, Thừa Thiên chiến đấu ở mặt trận Nha Trang. Bộ đội Nghệ An chiến đấu ở Buôn Ma Thuột... Các đơn vị Nam tiến của Khu IV đã chiến đấu anh dũng, nhiều đơn vị lập công xuất sắc. Trong trận phục kích ở đèo Phượng Hoàng ngày 27-10-1945, đại đội bộ đội Thừa Thiên đã bắt toàn bộ quân Nhật trên 18 xe hành quân từ Tây Nguyên theo đường số 21 về Ninh Hòa. Quân Nhật đã giao lại cho đơn vị 240 khẩu súng và nhiều đạn dược.

Phong trào ủng hộ Nam Bộ kháng chiến của quân và dân Khu IV góp phần chi viện kịp thời sức người, sức của cho tiền tuyến miền Nam; đồng thời còn là nguồn sức mạnh tinh thần cổ vũ quân dân miền Nam chắc tay súng quyết tâm kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng.


(1) Cụ Nguyễn Văn Ngãi, 62 tuổi ở Nghệ An, khi nghe tin Pháp chiếm Sài Gòn đã gửi thư cho Hồ Chủ tịch xin được đi lính đánh Tây.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 09 Tháng Mười Hai, 2015, 08:52:15 pm
*
*   *

Qua hơn nửa năm xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng, Đảng bộ, chính quyền cùng quân và dân Khu IV đã quán triệt sâu sắc và vận dụng sáng tạo các chủ trương, chính sách của Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh vào hoàn cảnh của địa phương. Cán bộ, đảng viên, quân, dân Khu IV đã phát huy truyền thống yêu nước và cách mạng vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, bền bỉ phấn đấu xây dựng và bảo vệ vững chắc chính quyền non trẻ, bước vào một thời kỳ mới với những khó khăn và thử thách mới.

Đầu năm 1946, ở miền Nam, quân Anh rút về nước nhưng quân Pháp đã chiếm đóng phần lớn đất Nam Bộ, cực Nam Trung Bộ. Pháp cũng đã chiếm Campuchia và phần lớn nước Lào (tháng 3-1946 Pháp chiếm Savanakhẹt, Thà Khẹc; tháng 4 chiếm Viêng Chăn, tháng 5 chiếm Luông Phabăng, hoàn thành việc tái chiếm nước Lào). Ngày 28-2-1946, Pháp lật tức đưa quân ra Bắc.

Biết rõ dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa của thực dân Pháp, cuối tháng 2-1946, Thường vụ Trung ương Đảng đã chủ trương: “Ta nên nói chuyện với Pháp, nhưng đồng thời phải chuẩn bị kháng chiến”(1). Sau khi Hiệp ước Pháp - Hoa được ký kết, Thường vụ Trung ương lại chỉ rõ: “Điều cốt tử là trong khi mở cuộc đàm phán với Pháp, không những không ngừng một phút công việc sửa soạn, sẵn sàng kháng chiến bất cứ lúc nào và ở đâu, mà còn hết sức xúc tiến việc sửa soạn ấy và nhất định không để cho việc đàm phán với Pháp làm nhụt tinh thần quyết chiến của ta”(2).

Ngày 5-3-1946, hạm đội Pháp tiến vào vùng biển Hải Phòng. Pháp thúc ép ta chấp nhận lập trường của chúng, ta kiên quyết bác bỏ. Tình hình trở nên rất căng thẳng. Cũng trong ngày 5-3-1946, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng mở rộng nhất trí tán thành chủ trương Hòa để tiến, quyết định tạm thời hòa hoãn với thực dân Pháp. Ngày hôm sau, mồng 6-3-1946, Chính phủ ta và Chính phủ Pháp ký Hiệp định sơ bộ.

Hiệp định sơ bộ được ký kết, cách mạng Việt Nam chuyển sang một chặng đường mới, chặng đường đấu tranh phức tạp không kém phần gay go, quyết liệt trước những âm mưu và thủ đoạn thâm độc mới của kẻ thù.

Ngày 9-3-1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị lịch sử Hòa để tiến. Bản chỉ thị vạch rõ hòa với Pháp là nhằm: “... Bảo toàn thực lực giành lấy giây phút nghỉ ngơi và củng cố vị trí mới đã chiếm được, chấn chỉnh đội ngũ cách mạng, bổ sung cán bộ, bồi dưỡng và củng cố phong trào... Chuẩn bị đầy đủ, nhằm cơ hội tốt tiến lên giai đoạn cách mạng mới”(3). Bản chỉ thị còn nêu bật nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân lúc này là: giải thích cho nhân dân hiểu rõ chủ trương “Hòa để tiến” của Đảng là đúng, kiên quyết chống lại các biểu hiện bi quan, dao động, hoặc tả khuynh, chủ quan mất cảnh giác trong khi thi hành hiệp định. Ráo riết và kín đáo chuẩn bị để kháng chiến lâu dài. Duy trì và phát triển thực lực về quân sự. Thực hiện sách lược khôn khéo, mềm dẻo nhằm mau chóng đuổi quân Tưởng về nước.

Chấp hành chị thị Hòa để tiến, cấp ủy và chính quyền các địa phương Khu IV đã kịp thời giải thích cho cán bộ và nhân dân hiểu rõ mục đích, ý nghĩa, nội dung chỉ thị, xác định trách nhiệm, thái độ trước tình hình mới.

Để thi hành Hiệp định sơ bộ, hội nghị tham mưu hai bên Việt - Pháp đã bàn việc đóng quân tiếp phòng. Ta thành lập Bộ tổng chỉ huy tiếp phòng quân, tổ chức Ủy ban liên kiểm (Ủy ban liên lạc và kiểm soát Trung ương). Trung ương quyết định cử đồng chí Lê Thiết Hùng làm Tổng chỉ huy, đồng chí Trần Văn Quang làm Chính ủy và đồng chí Hoàng Điền làm Tham mưu trưởng quân tiếp phòng Việt Nam.

Ngày 3-4-1946, Việt Nam và Pháp ký hiệp định quân sự quy định nơi đóng quân và số quân của các lực lượng tiếp phòng mỗi bên.

Các địa phương có quân tiếp phòng Pháp đóng còn tổ chức Ban Liên kiểm Việt - Pháp. Ở Vinh có Ban Liên kiểm và một tiểu đoàn quân tiếp phòng Việt Nam do đồng chí Lê Nam Thắng phụ trách. Ở Huế, Ban Liên kiểm và tiểu đoàn tiếp phòng do đồng chí Lê Khánh Khang phụ trách.

Quân tiếp phòng của Pháp ở Huế lúc đầu có khoảng hơn 800 tên từ Lào kéo về theo Hiệp định sơ bộ 6-3-1946, chúng đóng ở trường Khải Định, Penlơranh và khách sạn Morin. Lực lượng tiếp phòng của ta đóng ở xen lẫn với các vị trí của quân Pháp để kiềm chế các hoạt động và ngăn cản sự liên hệ móc nối giữa quân Pháp với các phần tử tay sai, phản động ở địa phương.


(1) Biên bản Hội nghị Thường vụ Trung ương Đảng ngày 24-2-1946, Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.8, tr.46.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.8, tr.49.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 09 Tháng Mười Hai, 2015, 08:53:58 pm
Ở Vinh, ta đã buộc lực lượng tiếp phòng của Pháp đóng theo những vị trí do ta sắp xếp (quân Pháp phải đóng ở ngoài khu trung tâm thành phố). Do đó, chúng không gây nhiều khó khăn cho ta. Nhưng ở phía tây, Pháp đã đưa quân từ đông Lào áp sát biên giới ở Thừa Thiên, Quảng Trị, các trục đường số 9, số 8, số 7 và đưa quân từ Thượng Lào xuống uy hiếp phía tây Thanh Hóa.

Thời gian này các tổ chức tình báo, gián điệp của Pháp tăng cường hoạt động. Chúng cho người cùng với tiền của và phương tiện móc nối bọn tay sai cũ của Pháp còn ẩn náu ở các địa phương, tìm cách liên lạc, tranh thủ bọn thổ ty, lang đạo phản động ở miền núi như cha con Lê Xuân Kỳ, Lê Xuân Tín ở Thanh Hóa; Sầm Văn Kim, Lò Khăm Thi ở Nghệ An. Chúng còn sử dụng những phẩn tử phản động trong các vùng có đồng bào theo đạo Thiên chúa và các cha cố người nước ngoài, tăng cường hoạt động chống phá chính quyền ở các địa phương.

Mục tiêu, nội dung và phương thức hoạt động của các lực lượng tình báo, gián điệp của Pháp trên địa bàn Khu IV rất thâm độc và xảo quyệt. Chúng tuyên truyền, xuyên tạc việc ta ký Hiệp định 6-3 là bán nước, gây chia rẽ giữa Đảng, Chính phủ và quần chúng nhân dân. Chúng thu thập tin tức, nắm tình hình nội bộ ta, tìm hiểu thái độ của dân chúng đối với Chính phủ, tinh thần thái độ của lực lượng chống đối và tổ chức phá hoại về kinh tế, tài chính.

Quân Pháp ngày càng vi phạm trắng trợn việc thi hành hiệp định trên phạm vi cả nước. Chúng âm mưu tách Nam Bộ ra khỏi Việt Nam, lập ra “Nam Kỳ quốc”, dùng miền Nam làm bàn đạp tiến công miền Bắc, sử dụng nhân tài vật lực ở Nam Bộ phục vụ ý đồ mở rộng chiến tranh ra toàn cõi Việt Nam. Để thực hiện mưu đồ ấy, chúng ráo riết bắt lính, liên tiếp mở nhiều trận càn vào căn cứ của các Khu VIII, IX. Ở Nam Trung Bộ, thực dân Pháp mở nhiều trận càn quét, lân chiếm, mở rộng chiến tranh. Địch cho quân đánh một số điểm quan trọng trên đường số 14, đường số 18, chiếm thị xã Kon Tum, Đắc Lây và Komplông...

Ở miền Bắc, bên cạnh những hoạt động khiêu khích, quân Pháp đã lấn chiếm thêm nhiều nơi ở Hà Nội, Lạng Sơn, Phủ Lạng Thương, Móng Cái, Bắc Ninh, Hải Ninh... Ở Tây Bắc, sau khi chiếm Sơn La, Lai Châu, địch sử dụng bọn thổ ty phản động chuẩn bị thành lập “Xứ Thái tự trị”.

Trước tình hình trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ đã kiên trì tìm giải pháp thương lượng với Chính phủ Pháp nhằm kéo dài thời gian hòa hoãn để có thêm điều kiện xây đựng thực lực về mọi mặt, chủ động chuẩn bị kháng chiến lâu dài. Mọi cố gắng thương lượng từ Hội nghị Đà Lạt (18-4-1946) đến Hội nghị Phôngtennơblô (Pontainebleau) (6-7-1946) và Tạm ước 14-9-1946 là để phục vụ chủ trương đó.

Để nâng cao tiềm lực mọi mặt cho công cuộc chuẩn bị kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi: “Chính phủ và nhân dân phải đồng tâm nhất trí, ra sức tổ chức, ra sức công tác, đoàn kết hơn nữa, mở mang kinh tế, xây dựng nước nhà, thực hành đời sống mới khắp mọi phương diện. Bất kỳ gái, trai, già trẻ, bất kỳ sĩ, nông, công, thương, toàn thể quốc dân phải ra sức làm việc”(1).

Đáp lơi kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân dân các tỉnh Khu IV tiếp tục đẩy mạnh phong trào thi đua lao động sản xuất, góp phần tiêu diệt giặc đói, giặc dốt. Công cuộc khai hoang, phục hóa mở rộng diện tích canh tác phát triển ở nhiều nơi. Tháng 6-1946, Nghệ An khai hoang được hơn 700 mẫu, nhiều tỉnh tổ chức các trại tăng gia sản xuất, trại chăn nuôi, thành lập các hợp tác xã nông nghiệp, hợp tác xã mua bán, hợp tác xã tín dụng. Ở Nghệ An, tính đến tháng 6-1946 đã có 41 hợp tác xã nông nghiệp, Hội nông gia tương tế được thành lập tử tỉnh đến xã; các ngành nghề truyền thống được khai thác triệt để như trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải, làm đồ gốm. Các tuyến đường liên huyện, liên xã và nhiều cầu cống được sửa chữa và làm thêm. Một số cơ sở công nghiệp được phục hồi để sản xuất phục vụ kháng chiến và đời sống nhân dân.

Phong trào xóa nạn mù chữ tiếp tục phát triển rộng khắp được mọi tầng lớp nhân dân tham gia tích cực. Ở mỗi thôn xóm, đường phố, bản làng có nhiều lớp bình dân học vụ mở cả buổi trưa, buổi tối. Các trường tiểu học được mở rộng đến xã. Các trường đã sử dụng sách giáo khoa mới và dùng tiếng Việt thay thế tiếng nước ngoài(2).
   
Các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao phát triển mạnh mẽ. Những vở kịch, bài thơ, những khúc ca cách mạng có tác dụng cổ vũ tinh thần quật cường của dân tộc được mọi người ưa thích, nhất là đối với thanh, thiếu niên, học sinh...


(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, xuất bản lần thứ hai, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.4, tr.418.
(2) Ở Hà Tĩnh tính đến tháng 10-1946, toàn tỉnh đã có 15 vạn người được xóa nạn mù chữ, có 181 trường tiểu học, 2 trường trung học.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 09 Tháng Mười Hai, 2015, 08:56:02 pm
Chính quyền dân chủ nhân dân đã được bảo vệ vững chắc và từng bước được củng cố và không ngừng lớn mạnh. Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được Quốc hội khóa I, kỳ họp thứ hai thông qua khẳng định sự vững mạnh của chính thể dân chủ mới.

Ở Khu IV, các cấp chính quyền cơ sở đến cấp xứ từng bước được kiện toàn. Thực hiện quyết định của Quốc hội, từ tháng 2-1946, các tỉnh thuộc Khu IV tiến hành bầu cử Hội đồng nhân dân cấp tỉnh và cấp xã, sau đó Hội đồng nhân dân đã bầu ra Ủy ban hành chính các cấp từ tỉnh đến xã. Từ đây Ủy ban hành chính chính thức được thành lập để thay cho Ủy ban lâm thời. Các đoàn thể quần chúng từ đội thiếu niên, đoàn thanh niên, hội phụ nữ đến hội phụ lão đều hoạt động sôi nổi, hăng hái trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội...

Để nâng cao sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang, Chính phủ ra sắc lệnh quy định cấp bậc, quân hiệu, quân phục, đổi tên Vệ quốc đoàn thành Quân đội quốc gia Việt Nam.

Thực hiện sắc lệnh của chính phủ, lực lượng vũ trang các tỉnh Khu IV được kiện toàn về tổ chức, đứng chân trên các địa bàn chiến lược quan trọng, sẵn sàng đối phó với tình hình. Ở Thanh Hóa, Trung đoàn 77 có ba tiểu đoàn bộ binh 319, 355, 375; Mặt trận miền Tây có hai đại đội 73 và 71. Ở Nghệ An, Trung đoàn 57 có ba tiểu đoàn bộ binh 346, 365 và 418; Mặt trận Quỳ Châu có hai đại đội 58 và 62; Mặt trận Đường 7 có Tiểu đoàn 265. Khu tăng cường tiểu đoàn tiếp phòng quân cho Huế. Ở Hà Tĩnh, Trung đoàn 103 có ba tiểu đoàn bộ binh 377, 460, 453; Mặt trận đường số 8 có sáu đại đội, Đại đội 6 phụ trách Mặt trận Banaphào. Ở Quảng Trị, Trung đoàn Nguyễn Thiện Thuật có ba tiểu đoàn 13, 14, 15; Tiểu đoàn 13 bố trí ở Mặt trận đường số 9. Ở Thừa Thiên, Trung đoàn Trần Cao Vân có bốn tiểu đoàn 16, 17, 18 và tiểu đoàn tiếp phòng quân Huế.

Các trung đoàn đều có trung đội hay đại đội trực thuộc như công binh, trợ chiến, thông tin, trinh sát... Khu còn có một đại đội vệ binh, một đại đội pháo binh thiết giáp. Khu tăng cường cho Huế một khẩu pháo 75 mm, tăng cường cho Vinh một khẩu 37mm.

Lực lượng dân quân tự vệ và du kích do các tỉnh đội, huyện đội, xã đội... tổ chức chỉ huy. Ở Thanh Hóa, Nghệ An, mỗi tỉnh có từ bốn đến năm đại đội tự vệ tập trung. Các tỉnh khác, mỗi tỉnh có độ hai đại đội. Ở cơ sở, dân quân, tự vệ không thoát ly có từ một đến hai tiểu đội hoặc trung đội.

Cơ quan Bộ chỉ huy khu có các phòng tham mưu, chính trị, hậu cần, văn phòng, tòa án quân sự và năm đại đội trực thuộc đáp ứng yêu cầu của công tác chỉ đạo, chỉ huy.

Lực lượng công an các tỉnh được tăng cường và mở rộng phạm vị hoạt động về cơ sở nông thôn; đồng thời tiến hành thành lập các quận công an, mỗi quận được giao phụ trách một số huyện, thị xã, phát triển các mạng lưới điệp báo viên, trinh sát viên và biệt động đội ở các thôn xã.

Bên cạnh công tác tổ chức xây dựng lực lượng, việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang được đặc biệt quan tâm. Đảng bộ Khu quân sự có hệ thống tổ chức từ Quân khu ủy đến các chi bộ đại đội và cơ quan(1). Khu bộ có liên chi cơ quan tham mưu - chính trị - hậu cần; Trung đoàn có trung đoàn ủy, liên chi cơ quan trung đoàn bộ; tiểu đoàn có tiểu đoàn ủy gồm nhiều chi bộ hoặc một chi bộ, đại đội có chi bộ.

Song song với hệ thống tổ chức đảng, có hệ thống cán bộ chính trị và cơ quan công tác chính trị đảm nhiệm công tác đảng, công tác chính trị. Cấp khu và trung đoàn có chính trị ủy viên; cấp tiểu đoàn, đại đội có chính trị viên. Cơ quan cấp khu có Phòng chính trị, trung đoàn có Ban chính trị, tiểu đoàn có Tiểu ban chính trị, đại đội có trợ lý chính trị.

Trong hoàn cảnh đất nước còn nhiều khó khăn, thiếu thốn, nhưng Đảng, Chính phủ và nhân dân quan tâm đặc biệt đến đời sống vật chất và tinh thần của bộ đội. Bộ Quốc phòng quy định phụ cấp cấp bậc và thâm niên cho quân nhân. Chính phủ thành lập Ủy ban mùa đông binh sĩ. Nhân dân các địa phương Khu IV đã hết lòng chăm lo đời sống bộ đội, hăng hái nhiệt tình đóng góp tiền bạc, vài vóc, chăn màn, gửi quà bánh, thực phẩm cho chiến sĩ. Gia đình quân nhân được chính quyền và nhân dân địa phương động viên giúp đỡ. Hội mẹ chiến sĩ, quán quân nhân được tổ chức ở nhiều nơi để chăm lo và động viên chiến sĩ.

Để tăng cường trang bị vũ khí cho các đơn vị, tháng 9-1946, Ty quân giới Khu IV được thành lập nhằm phụ trách viện chế tạo và sửa chữa vũ khí trong toàn khu. Các xưởng quân giới ở Nghệ An, Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Quảng Bình được củng cố và mở rộng, bảo đảm sản xuất và sửa chữa các loại vũ khí, đáp ứng một phần yêu cầu của lực lượng vũ trang, cung cấp kịp thời cho các mặt trận. Tháng 9-1946, Thừa Thiên sáp nhập hai xưởng Ngọc Lâm và Phú Lâm thành một xưởng rồi di chuyển về khu an toàn.


(1) Tháng 3-1946, ông Hoàng Văn Hoan đại diện cho Tổng quân ủy vào tổ chức Quân khu ủy IV. Trong Quân khu ủy IV có Chu Văn Tấn làm Khu trưởng (Hồi ký của Thiếu tướng Lê Nam Thắng, nguyên Tư lệnh Quân khu IV, tr.18).


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 09 Tháng Mười Hai, 2015, 08:58:58 pm
Tháng 10-1946, được sự giúp đỡ của Ủy ban hành chính Khu IV của Việt Nam, hội nghị cán bộ các tỉnh Khăm Muộn, Savanakhẹt, Sầm Nưa, Xiêng Khoảng đã họp tại thành phố Vinh nhằm thống nhất phương hướng, hành động và thành lập Ủy ban kháng chiến Đông Lào do ông Nuhắc Phumxavẳn làm Chủ tịch. Ủy ban giải phóng Đông Lào đã đề ra đường lối xây dựng lực lượng vũ trang, đường lối tuyên truyền, tổ chức nhân dân tham gia kháng chiến. Ủy ban đã đóng trên đất Khu IV trong một thời gian dài với sự đùm bọc của nhân dân và sự giúp đỡ toàn diện của Khu ủy, Ủy ban kháng chiến hành chính Khu IV.

Pháp ngày càng vi phạm trắng trợn Hiệp định sơ bộ, mọi cố gắng của ta nhằm thương lượng với Pháp đều không đem lại kết quả. Thực dân Pháp đánh chiếm nhiều vùng ở miền Bắc, tăng cường khiêu khích ở Hà Nội, đổ quân trái phép lên Đà Nẵng; điều quân từ Lào tăng cường cho các vị trí của chúng ở miền tây Khu IV, nhất là vùng đường số 9 (Quảng Trị); đưa thêm nhiều đơn vị quân đội từ bên Pháp sang Đông Dương.

Ngày 19-10-1946, Hội nghị quân sự toàn quốc đã nhận định “Nhất định không sớm thì muộn, Pháp sẽ đánh mình và mình cũng nhất định phải đánh Pháp”(1). Thường vụ Trung ương Đảng quyết định thống nhất Quân ủy hội và Bộ Quốc phòng thành Bộ Quốc phòng - Tổng chỉ huy. Để tiện chỉ đạo chiến tranh và phát huy khả nặng độc lập tác chiến của từng địa phương, cuối năm 1946, cả nước được chia thành 12 chiến khu; điều chỉnh cán bộ chỉ huy quân sự trong toàn quốc. Ở Khu IV, đồng chí Lê Thiết Hùng, Tổng chỉ huy tiếp phòng quân Bộ Tổng tư lệnh được cử trở lại làm Khu trưởng, đồng chí Trần Văn Quang làm Chính trị ủy viên, đồng chí Hoàng Điền làm Tham mưu trưởng. Để trực tiếp chỉ đạo tác chiến, ngày 3-12-1946, Khu trưởng và Chính trị ủy viên Khu ra quyết định thành lập cơ quan chỉ huy các đơn vị bộ đội ở các tỉnh Bình - Trị - Thiên (bao gồm cả Mặt trận đường số 9, Banaphào, đường 13) do các đồng chí Hoàng Điền làm Chỉ huy trưởng, Lê Tự Đồng làm Chính trị viên, Phùng Duy phiên làm Tham mưu trưởng, nhưng không thực hiện được.

Về chính quyền, giải thể Ủy ban phòng thủ các cấp và lập Ủy ban kháng chiến từ xã đến khu.Đồng chí Hồ Tùng Mậu được cử giữ chức Chủ tịch Ủy ban kháng chiến Khu IV. Khu ủy đã chỉ đạo Ủy ban kháng chiến và Bộ chỉ huy chiến khu, các tỉnh và một số huyện tích cực xây dựng các khu căn cứ, tổ chức lại lực lượng bảo vệ biên giới, phòng thủ bờ biển, củng cố lực lượng công an, xây dựng dân quân tự vệ và tiếp tục kiện toàn các đơn vị quân đội.

Tháng 11-1946, sau khi giải thể Xứ ủy Trung Bộ, Trung ương Đảng quyết định bỏ cấp xứ, chia Trung Bộ thành hai khu: Khu IV và Khu V, Khu IV gồm sáu tỉnh Bắc Trung Bộ, Khu ủy Đảng Khu IV được thành lập cuối tháng 11-1946 tại Hà Tĩnh do đồng chí Hoàng Quốc Việt, Ủy viên Thường vụ Trung ương Đảng, đại diện Trung ương ở Trung Bộ làm Bí thư(2). Hội nghị thành lập Khu ủy chủ trương phải tổ chức bộ máy gọn nhẹ. Ở các cấp lãnh đạo chỉ để lại bộ phận nhỏ (Thường vụ) để chỉ đạo chung, còn lại tập trung cán bộ cho cơ sở. Cán bộ Khu của tỉnh nào thì trả về tỉnh đó, tình nào yếu được tăng cường thêm. Hội nghị cũng xác định: chiến khu là ở trong lòng dân, phải dựa vào dân. Lúc này nhiệm vụ quân sự là chủ yếu do đó tập trung lựa chọn các đồng chí có khả năng về quân sự đưa vào đội ngũ lãnh đạo.

Các đảng bộ tỉnh cũng lần lượt mở đại hội đại biểu để kiểm điểm tình hình, xác định rõ nhiệm vụ mới và kiện toàn cơ quan lãnh đạo cấp tỉnh(3).

Tháng 12-1946, các tỉnh mở hội nghị quân, dân, chính, đảng bàn kế hoạch tác chiến. Các địa phương, các ngành tăng cường nắm tình hình hoạt động của địch, tổ chức động viên nhân dân chuẩn bị kháng chiến. Các kế hoạch tác chiến, bố phòng, chuẩn bị cắm cọc ở các cửa sông, các bãi bằng để phòng địch tiến quân bằng đường thủy và đổ quân bằng đường không, chuẩn bị tiêu thổ kháng chiến, sơ tán, tản cư... gấp rút được bổ sung và không ngừng hoàn chỉnh. Các lực lượng vũ trang được bố trí ở sẵn các địa bàn cần sẵn sàng đánh địch và ráo riết diễn tập theo kế hoạch tác chiến đã được dự kiến. Nhiều nơi bắt đầu thực hiện chủ trương quân sự hóa toàn dân. Tất cả nam, nữ trong độ tuổi đưa vào dân quân. Việc tu sửa đường sá, chuẩn bị phương tiện vận chuyển, tiếp tế được triển khai tích cực. Bộ chỉ huy Khu IV nhận định: khi chiến tranh nổ thì Huế là mặt trận chủ yếu vì ở Huế quân Pháp đông, Huế có vị trí chiến lược quan trọng, địch chiếm được Huế sẽ mở rộng chiến tranh ra các tỉnh Bình - Trị - Thiên, thực hiện chia cắt chiến lược đối với miền Bắc và miền Nam nước ta. Để tăng cường lực lượng cho mặt trận Huế, ngoài bốn tiểu đoàn đã có mặt tại huế (ba tiểu đoàn của Trung đoàn Trần Cao Vân - và tiểu đoàn tiếp phòng quân Huế), Quân khu điều động thêm tiểu đoàn tiếp phòng quân thành phố Vinh, các đại đội của Hà Tĩnh, Quảng Bình,Quảng Trị, đại đội đại đao quân khu, đại đội học viên trường Quân chính quân khu, một khẩu pháo 75 mm.


(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.8, tr. 133.
(2) Các Khu ủy viên lúc đầu có Hoàng Quốc Việt, Hoàng Văn Hoan, Hồ Tùng Mậu, Nguyễn Vịnh... về sau bổ sung Nguyễn Sơn, Hồ Viết Thắng, Phạm Thể.
(3) Đồng chí Nguyễn Chí Thanh trực tiếp làm Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên - Huế, đồng chí Hoàng Anh làm Chủ tịch chính quyền Thừa Thiên - Huế; các đồng chí Đặng Thí, Nguyễn Xuân Luyện làm Bí thư, Chủ tịch Quảng Trị, Nguyễn Đình Chuyên, Hoàng Văn Diệm làm Bí thư và Chủ tịch Quảng Bình, các đồng chí Kiều Hữu Thao, Trần Hữu Duyệt làm Bí thư và Chủ tịch Hà Tĩnh, Hồ Viết Thắng và Lê Viết Lượng làm Bí thư và Chủ tịch Nghệ An, Tố Hữu, Lê Chủ, Đặng Việt Châu làm Bí thư và Chủ tịch Thanh Hóa.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 09 Tháng Mười Hai, 2015, 09:00:48 pm
Kế hoạch tấn công quân Pháp ở Huế và đánh viện binh từ Đà Nẵng ra đã được Hội nghị Khu ủy IV ngày 15-12-1946 và Hội nghị Xứ ủy Trung Kỳ đêm 18-12-1946 dự kiến và bàn bạc. Hội nghị cũng đã cử đồng chí Nguyễn Chí Thanh làm Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên. Cũng trong tháng 12-1946, Ủy ban kháng chiến Thừa Thiên được thành lập, đồng chí Hà Văn Lâu, Trung đoàn trưởng Trung đoàn Trần Cao Vân được cử làm Chủ tịch kiêm Chỉ huy trưởng Mặt trận Huế. Đồng chí Hoàng Anh làm Chủ tịch Ủy ban hành chính tỉnh.

Mặt trận Huế được chia làm ba khu vực A, B, C. Khu A tả ngạn sông Hương do Tiểu đoàn 17 phụ trách; khu B, hữu ngạn sông Hương do Tiểu đoàn tiếp phòng quân Huế phụ trách; khu C, khu vực sông đào An Cựu, ga Huế, ga An Cựu do Tiểu đoàn 16 phụ trách. Các đại đội của Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, đại đội đại đao được đưa về tăng cường cho các tiểu đoàn. Tiểu đoàn tiếp phòng quân thành phố Vinh bố trí ở phía bắc Huế làm lực lượng dự bị. Quyết tâm của khu và Tỉnh ủy Thừa Thiên là tiêu diệt quân Pháp ở Huế. Để ngăn chặn lực lượng địch từ Đà Nẵng ra giải vây cho Huế, Tiểu đoàn 18 được bố trí dọc đường số 1, xây dựng trận địa tác chiến ở các khu vực Thừa Lưu, Phước Tượng, Truồi.

Ở Thừa Thiên, công tác xây dựng hệ thống công sự chiến đấu, đào giao thông hào, làm chướng ngại vật được đẩy mạnh. Nhân dân thành phố Huế xây dựng một hệ thống giao thông hào ở khu tam giác nam sông Hương, chạy dọc theo bờ sông An Cựu đến Đập Đá. Trên trục đường số 1 và các trục đường quan trọng khác, nhân dân xẻ đường, ngả cây to làm chướng ngại vật để chặn đường tiến quân của địch.

Thực hiện chủ trương tiêu thổ kháng chiến, nhân dân tự tay đập phá nhà cửa, đình chùa... Đến cuối tháng 11-1946, kế hoạch tản cư nhằm bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân được triển khai. Nhân dân thực hiện “vườn không nhà trống”, nhiều kho tàng, tài liệu được chuyển ra các khu căn cứ an toàn.

Để chuẩn bị kháng chiến ở Bình - Trị - Thiên, giữa tháng 12-1946, Bộ Quốc phòng Tổng tư lệnh thành lập Bộ chỉ huy quân sự Bình - Trị - Thiên do đồng chí Hoàng Điền làm chỉ huy trưởng, đồng chí Lê Tự Đồng làm chính trị ủy viên, đồng chí Phùng Duy Phiên làm tham mưu trưởng(1).

Tại Quảng Trị, thực hiện quyết định của Hội nghị cán bộ Đảng toàn tỉnh họp cuối tháng 10-1946, Tỉnh ủy và Ban chỉ huy Trung đoàn Thiện Thuật bố trí lực lượng chủ yếu để đánh địch từ Lào theo đường số 9 sang để chi viện cho Huế. Tiểu đoàn 13 và Đại đội Lê Hồng Phong (đại đội dân quân tập trung của tỉnh) sẽ đánh địch từ Lao Bảo đến Cam Lộ. Tiểu đoàn 15 đánh địch từ Cam Lộ về Đông Hà. Tiểu đoàn 14 bố trí tại thị xã Quảng Trị có nhiệm vụ sẵn sàng cơ động để đánh địch trên đường số 9. Tỉnh ủy cũng quyết định chuẩn bị xây dựng chiến khu của tỉnh, lập kế hoạch sơ tán các cơ quan, di chuyển công binh xưởng, di chuyển hồ sơ, tài liệu, thành lập Ủy ban kháng chiến. Nhân dân cùng các lực lượng bộ đội, dân quân tự vệ phá đường, phá cầu trên đường số 1, số 9, xây dựng các chiến hào, trận địa...

Tại Quảng Bình, Tiểu đoàn Lê Trực phân công, Đại đội 1 phòng thủ thị xã, Đại đội 2 đánh địch đổ bộ vào cửa Nhật Lệ, Đại đội 3 chặn đánh địch từ Quảng Trị theo đường số 1 tiến ra Đồng Hới, Đại đội 4 bố trí ở Bố Trạch, Đại đội 5 bố trí ở Quảng Trạch, hai đại đội này sẵn sàng đánh địch đổ bộ vào cửa sông Gianh. Đại đội 6 bố trí ở Tuyên Hóa có nhiệm vụ đánh địch từ Banaphào tiến công vào phía tây Quảng Bình.

Cùng với sự chuẩn bị khẩn trương của bộ đội chủ lực tỉnh (Tiểu đoàn Lê Trực), Ủy ban kháng chiến tỉnh được thành lập và gấp rút triển khai những công trình chủ động phòng ngự, sẵn sàng chiến đấu. Khắp các làng xã, tuyến quốc lộ 1, tuyến đường sắt, cửa lạch, bãi biển, các khúc sông trọng yếu... đều được bố phòng, đào hào, đắp ụ ngăn cản bước tiến của giặc. Thị xã Đồng Hới thi hành chính sách tiêu thổ kháng chiến, phá hủy những công sở kiên cố mà địch có thể lợi dụng đóng đồn, xây căn cứ.

Ủy ban kháng chiến tỉnh quyết định chia Quảng Bình thành ba khu vực kháng chiến: khu Nam từ nam sông Nhật Lệ, sông Long Đại vào giáp tỉnh Quảng Trị. Khu Trung từ bắc sông Long Đại, Nhật Lệ đến phía nam sông Gianh, sông Son. Khu Bắc từ bắc sông Gianh và sông Son trở ra giáp tỉnh Hà Tĩnh. Tuyên Hóa là chiến khu cho toàn tỉnh, chuyển tất cả các cơ quan, xí nghiệp và kho tàng lên Tuyên Hóa...

Tại Nghệ An, đầu tháng 12-1946, Tỉnh ủy tổ chức Hội nghị đại biểu quân, dân, chính, đảng bàn kế hoạch kháng chiến. Hội nghị quyết định: thành lập Ủy ban kháng chiến ở các cấp, gấp rút xây dựng chiến khu, phát triển, củng cố lực lượng vũ trang, lực lượng công an. Sau hội nghị, Tỉnh ủy và Ủy ban kháng chiến tỉnh lãnh đạo các cấp, các ngành phát động toàn dân chuẩn bị kháng chiến.

Tại Hà Tĩnh, cuối năm 1946, Tỉnh ủy chỉ đạo xây dựng một số căn cứ ở huyện Hương Sơn, Hương Khê, Cẩm Xuyên, thường xuyên tuần phòng biên giới phía tây, ven biển; tiến hành xây dựng làng, xã chiến đấu; thành lập Trường quân chính tỉnh để đào tạo cán bộ cho các địa phương, đơn vị. Ngày 2-12-1946, Tỉnh ủy mở Hội nghị quân, dân, chính, đảng bàn kế hoạch chuẩn bị kháng chiến. Sau đó Tỉnh ủy mở tiếp hội nghị cán bộ chủ chốt các ban, ngành đoàn thể để triển khai các công tác cụ thể. Phát động toàn dân tích cực chuẩn bị, sẵn sàng đợi lệnh của Chính phủ đứng lên kháng chiến.

Tháng 12-1946, quân Pháp liên tiếp nổ súng, ném lựu đạn tàn sát dân thường, khiêu khích công an, tự vệ và bộ đội ta ở Hà Nội. Chúng còn gửi tối hậu thư đòi tước vũ khí của tự vệ, công an và đe dọa: đến sáng 20-12, những yêu sách của chúng không được chấp nhận thì quân Pháp sẽ chuyển sang hành động.

Đứng trước tình hình đó, trong hai ngày 18 và 19-12-1946, Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng ở làng Vạn Phúc (thị xã Hà Đông) dưới sự chủ tọa của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sau khi phân tích tình hình, Thường vụ Trung ương nhận định: âm mưu của Pháp mở rộng chiến tranh nay đã chuyển sang một bước mới, thời kỳ hòa hoãn đã qua, khả năng hòa bình không còn nữa. Nhân dân ta không thể trở lại cuộc đời nô lệ. Trung ương Đảng quyết định phát động toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp.

Chấp hành mệnh lệnh của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Khu ủy, Ủy ban kháng chiến khu và Bộ chỉ huy Khu IV đã chỉ thị cho các địa phương, các đơn vị vũ trang gấp rút chuẩn bị mọi mặt để khi có lệnh chủ động tấn công địch, trước hết là những nơi có quân Pháp đóng (Vinh, Huế). Quân dân Khu IV đã sẵn sàng và chủ động bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ.

16 tháng (từ 8-1945 đến 12-1946) là một thời gian ngắn, nhưng là một thời kỳ lịch sử đặc biệt đối với cách mạng Việt Nam nói chung và Khu IV nói riêng. Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh, sự chỉ đạo của Xứ ủy Trung Bộ, các cấp bộ đảng ở Khu IV đã được thiếp lập và xây dựng lại, cùng với chính quyền cách mạng bắt tay xây dựng chế độ xã hội mới, xây dựng lực lượng vũ trang, mặt trận và các đoàn thể quần chúng. Từ hai bàn tay trắng, sau khi giành chính quyền, các cấp bộ đảng, chính quyền, quân và dân các địa phương Khu IV đã vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách bảo vệ vững chắc chính quyền cách mạng, xây dựng lực lượng về mọi mặt cùng cả nước sẵn sàng, chủ động, vững tin vào cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc.


(1) Bộ chỉ huy quân sự Bình - Trị - Thiên không hoạt động được. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở Bình - Trị - Thiên là do cấp ủy đảng và Ủy ban kháng chiến của các tỉnh phụ trách dưới sự lãnh đạo và chỉ đạo của Xứ ủy Trung Kỳ và Bộ chỉ huy Khu IV.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Mười Hai, 2015, 08:44:20 pm
II. NĂM ĐẦU CỦA CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG
THỰC DÂN PHÁP Ở LIÊN KHU IV (12-1946 - 12-1947)

Thực hiện mệnh lệnh chủ động tấn công địch của Bộ Tổng chỉ huy và lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, Đảng bộ, chính quyền, quân dân Khu IV đã cùng cả nước nhất tề đứng dậy chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc.

Tại Nghệ An

Ngay trong đêm 19-12-1946, sau khi mật lệnh tấn công quân địch được thông báo trên Đài Tiếng nói Việt Nam, quân dân Nghệ An với lực lượng áp đảo, theo sự chỉ đạo và kế hoạch đã vạch sẵn của Khu ủy và Bộ chỉ huy Khu IV(1) đã chủ động tiến công trung đội tiếp phòng quân của Pháp đóng ở Vinh và sân bay Yên Đại, nhanh chóng bức địch đầu hàng, bắt toàn bộ tù binh, thu toàn bộ vũ khí, quân trang, quân dụng. Ta bắt 34 tù inh, bắt tổ lái và chiếc máy bay Morane, thu ba xe vận tải. Đây là chiến công đầu xuất sắc của quân và dân Nghệ An hưởng ứng lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Tại Thừa Thiên - Huế

Từ đầu tháng 12-1946, quân Pháp đã chuẩn bị công sự, dự trữ lương thực chờ viện binh chuẩn bị đánh chiếm Huế và Thừa Thiên.

Chiều 19-12-1946, Ủy ban kháng chiến Thừa Thiên họp cán bộ các mặt trận, các huyện. Đồng chí Nguyễn Chí Thanh, Bí thư Tỉnh ủy thông báo tình hình khẩn cấp và giao nhiệm vụ cho các đơn vị, địa phương.

2 giờ 30 phút sáng 20-12-1946, tiếng nổ của đại bác 75mm bắn thẳng vào đồn tiền tiêu của địch ở cửa hàng Morin và tiếng nổ của công nhân phá nhà máy điện đã mở đầu cuộc tiến công quân Pháp ở mặt trận Huế. Bộ đội cùng dân quân, tự vệ đồng loạt nổ súng trên hầu hết các vị trí có quân Pháp đóng.

Do trang bị kém, thiếu kinh nghiệm chiến đấu, phân tán lực lượng tiến công nhiều mục tiêu cùng một lúc, nên trong đêm ta không diệt được địch trong các căn cứ chính của chúng, chỉ diệt được một số điểm nhỏ ở ngoại vi và diệt địch khi chúng tiến công ra ngoài. Đơn vị ở Trường kỹ nghệ chiếm ngã năm, phá một xe Jeép và một xe ôtô. Đơn vị Bến Ngự đánh chiếm khách sạn Thanh Minh, phá hai xe thiết giáp ở đầu cầu Nam Giao. Bộ đội cung An Định đánh vào trường Thiên Hữu và miếu Đại Càn, phá một xe thiết giáp. Đơn vị ở trường Đồng Khánh đánh vào trường Khải Định diệt một số địch, đốt một kho xăng. Quân địch từ trường Thiên Hữu chiếm nhà máy điện, bị bộ đội ta giật bom và tiêu diệt 45 tên, phá hủy một xe thiết giáp. Trong đêm, bộ đội ta giật bom phá hủy cầu Ga, cầu An Cựu và hai nhịp cầu Tràng Tiền, cắt đứt khu vực quân Pháp đóng với bên ngoài thành phố.

Sau gần một ngày đêm chiến đấu liên tục và ác liệt, Ban chỉ huy mặt trận chủ trương cho bộ đội, tự vệ cùng nhân dân dựa vào sông Hương, sông An Cựu, đường số 1, dựng chiến lũy bao vây địch. Quân địch cố thủ trong các vị trí kiên cố. Ta tiếp tục bao vây và thu hẹp khu vực chiếm đóng của Pháp. Triệt đường tiếp tế, thành lập các tiểu tổ cảm tử, chọn những chiến sĩ thông thuộc địa hình trong thành phố luồn sâu quấy rối liên tục đánh địch, buộc chúng phải thường xuyên đối phó. Quân Pháp ở Huế bị bao vây, đạn dược, lương thực... thiếu, địch gặp nhiều khó khăn phải dùng máy bay để tiếp tế.

Từ đêm 21 đến đêm 23-12-1946, ta liên tiếp tiến công quân địch ở trường Khải Định, hiệu buôn Chaffanjon, đồn Phan Đình Phùng, nhà Morin, tiêu diệt một số quân Pháp.

Sau 10 ngày đánh địch bằng những đơn vị nhỏ, hiệu quả thấp, Ban chỉ huy mặt trận thay đổi cách đánh, tập trung lực lượng lớn hơn để tiến công địch, do đó đã diệt được một số vị trí của chúng.

Đêm 1-1-1947, lực lượng ta (có cả công binh) đánh bom vào khách sạn Morin kết hợp với bộ binh tiến công địch diệt 50 tên, đốt một kho xăng, thu tám súng trường và hai tiểu liên.

Ngày 2-1, ta tiêu diệt nhà tên chỉ huy Pháp Marboenf trong khu vực trường Pellẻin. Trong trận tiến công miếu Đại Càn, ta sử dụng cả pháo 75mm phối hợp nhịp nhàng với bộ binh diệt nhiều địch và thu nhiều vũ khí.

Tuy nhiên, do có hỏa lực mạnh, có công sự kiên cố nên quân Pháp vẫn giữ được các vị trí then chốt trong thành phố, bảo toàn lực lượng để chờ viện binh.

Cuộc chiến đấu giữa ta và địch diễn ra quyết liệt. Có nhiều nơi ban đêm ta tiến công đánh chiếm, ban ngày địch lại phản kích, ta phải rút lui để bảo toàn lực lượng. Quân ta vẫn bao vây chặt quân địch ở khu nam thành phố Huế, địch hai lần phải thả quân nhảy dù và lương thực, đạn dược tiếp tế cho quân Pháp đang bị bao vây.

Để giải vây Huế, sau đó đánh chiếm Thừa Thiên, Quảng Trị, Quảng Bình, Pháp đã dùng một lực lượng lớn có pháo binh và thiết giáp phối hợp từ nam đánh ra. Lực lượng này được chia làm hai mũi. Ngày 18-1-1947, một cánh quân gồm 550 quân Pháp đổ bộ từ Bãi Chối vào nam đèo Phú Gia, đánh vòng vào đèo Hải Vân và Sơn Trà. Ngày 20-1-1947, cánh thứ hai có khoảng 1.000 tên đổ vào cửa Cảnh Dương từ Thừa Lưu theo quốc lộ 1 về Huế.

Tiểu đoàn 18 của Trung đoàn Trần Cao Vân cùng dân quân tự vệ chặn đánh địch quyết liệt. Dân, quân huyện Phú Lộc chặn đánh địch ngay từ khi chúng vừa đổ bộ. Khi địch tiến đến đèo Mũi Né, bộ đội và dân quân từ trong rừng vận động tiến công. Bị đánh bất ngờ, địch phải tạm lui, bỏ lại một số xác chết. Tại đèo Phước Tượng, bộ đội ta dựa vào chiến hào đã dùng súng và bom, mìn chặn đánh địch liên tục trong các ngày 26, 27, 28-1, diệt một số địch, bắn rơi một máy bay tại Nam Giao (Huế). Do địch có xe tăng và pháo binh yểm trợ nên bộ đội ta phải vừa chiến đấu và rút lui. Ngày 31-1, quân Pháp tiến được tới hữu ngạn sông Truồi. Tại sông Truồi, ta lập trận địa ở tả ngạn sông. Với cách đánh kết hợp bom mìn với hỏa lực súng trường, súng máy trong chiến hào, ta đã đánh lui nhiều đợt vượt sông của địch, diệt một số tên. Ngày 3-2-1947, địch cho pháo binh, máy bay bắn phá trận địa, kết hợp vượt sông từ chính diện với vu hồi vào sau lưng trận địa của ta, do đó địch vượt sông Truồi, đánh chiếm một số vị trí quan trọng. Bộ đội ta tích cực phản công nhưng không thu được kết quả. Ngày 5-2-1947, quân Pháp chiếm Hà Úc, Hà Thanh, Cửa Thuận. Quân địch ở trong thành phố đánh ra bắt liên lạc được với bọn ở bên ngoài. Bộ đội ta bị tiến công từ nhiều phía phải rút khỏi thành phố trong thế bị động. Ngày 6-2-1947, viện binh địch vào được Huế. Sau khi giải vây Huế, ngày 7-2-1947, địch vượt sông Hương từ ngã ba Sình ở phía đông Huế tiếp tục tiến quân ra bắc Thừa Thiên chiếm Lại An (Phú Vang). Ngày 10-2-1947, địch chiếm Phò Trạch khi chúng vượt sông và đánh ra phía bắc. Ngày 13-2-1947, địch chiếm được Mỹ Chánh trên quốc lộ 1, địa điểm của tỉnh Quảng Trị tiếp giáp với Thừa Thiên.

Trước sức tiến công của địch, bộ đội ta bị tổn thất nặng, bị động, lúng túng. Một số đơn vị phải phân tán rút lên rừng, một số rút ra Quảng Trị, mệt mỏi, dao động, nhân dân hoang mang, thiếu tin tưởng.

Quân, dân Thừa Thiên - Huế với sự góp sức của tiểu đoàn tiểp phòng quân Vinh và bốn đại đội vệ quốc quân của khu và các tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị đã dũng cảm, ngoan cường chiến đấu ngay từ giờ phút nổ súng và suốt 50 ngày đêm tiến công, bao vây địch ở Huế và đánh viện, gây cho địch nhiều tổn thất về sinh lực và phương tiện chiến tranh. Ta đã tiêu diệt gần 250 địch, bắn rơi một máy bay, phá một khẩu pháo 37 mm, thu hai trọng liên 20 mm, một trung liên 12,7 mm, 20 súng trường và nhiều quân trang, quân dụng. Song, quân địch là một đội quân nhà nghề, thiện chiến, được trang bị kỹ thuật hiện đại, lại có công sự kiên cố chuấn bị sẵn ở Huế, ngược lại, bộ đội ta trang bị kỹ thuật lạc hậu, thô sơ, thiếu hẳn vũ khí công đồn, chưa có kinh nghiệm tác chiến; cơ quan lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức chỉ huy chiến tranh của ta chưa có nhiều kinh nghiệm, nặng về bố trí đánh địch theo kiểu trận địa chiến; thiếu ý thức bảo toàn lực lượng, chưa chuẩn bị kỹ về vật chất và tư tưởng cho cán bộ và nhân dân, nên khi gặp khó khăn dễ hoang mang, dao động. Như vậy, đối với ta, việc bao vây và tiêu diệt địch trong thành phố Huế đã thất bại; việc ngăn chặn địch, giữ nông thôn để chống địch lâu dài cũng không thực hiện được.


(1) 21 giờ 30’ ngày 19-12-1946, đồng chí Hồ Tùng Mậu, Chủ tịch Ủy ban kháng chiến Khu IV và đồng chí Đào Chính Nam, Khu phó giao nhiệm vụ cho Chính ủy Trung đoàn 57 Lê Nam Tháng và Tham mưu trưởng trung đoàn Lê Văn Xứng chỉ huy đơn vị tiêu diệt quân Pháp ở Vinh theo kế hoạch đã định.
23 giờ nổ súng tiến công. 0 giờ 30 phút ngày 20-12-1946, trung đội quân Pháp ở Vinh phải đầu hàng vô điều kiện.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Mười Hai, 2015, 08:45:03 pm
Tại Quảng Trị

Sau khi tạm chiếm Lào, Pháp sử dụng hơn 1.000 quân có máy bay và xe thiết giáp yểm trợ đánh chiếm được 9 làm bàn đạp để tiến công Quảng Trị và chi viện cho Huế. Tiểu đoàn 13, Trung đoàn Thiện Thuật phối hợp với dân quân, tự vệ các địa phương dọc đường 9 đã tổ chức bố phòng chuẩn bị sẵn sàng đánh địch. Đoạn đường từ Khe Sanh đến biên giới đã bị phá hơn 20 km, xe cộ không đi lại được; dọc đường 9 đã bố trí lực lượng ngăn địch, dọc biên giới cũng đã bố trí lực lượng phòng địch lẻn vào theo đường tắt xuyên rừng.

Sau khi kháng chiến bắt đầu ở Thừa Thiên - Huế, trên cơ sở kế hoạch tác chiến đã được chuẩn bị từ trước, Tỉnh ủy tổ chức cuộc họp với các cán bộ chủ chốt của các huyện, thị để quán triệt chủ trương tác chiến. Đồng chí Đặng Thí, Bí thư Tỉnh ủy phân tích tình hình thuận lợi và khó khăn trong nước và trong tỉnh từ khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, quán triệt chủ trương kháng chiến và xác định vị trí, trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên, lực lượng vũ trang trong tỉnh hướng nào cũng phải bám sát địa bàn hoạt động.

Chủ trương của tỉnh là bộ đội chủ lực cùng với bộ đội của huyện và tự vệ đánh địch, ngăn chặn địch từng bước để hỗ trợ toàn dân trong tỉnh kháng chiến. Những vùng bị địch chiếm, chủ lực cũng không rút hết mà để lại mỗi huyện một đại đội bám địch cùng bộ đội huyện, tự vệ và nhân dân đánh địch.

Ngày 10-1-1947, địch từ Lào bắt đầu vượt biên giới đánh vào phía tây tỉnh Quảng Trị. Mục tiêu đầu tiên của chúng là Khe Sanh (huyện lỵ Hướng Hóa). Chúng tiến quân theo hai hướng: một hướng vượt sông Xêbăngphai theo đường tắt đánh vào Khe Sanh; hướng thứ hai theo đường 9 qua Lao Bảo đánh thẳng vào Khe Sanh.

Trên hướng Xêbăngphai, gần 500 quân địch vượt sông đánh thẳng vào Tông Thuật. Một đơn vị của tiểu đoàn 13 cùng dân quân chặn đánh địch ngay trên bờ sông. Ngày hôm sau (11-1-1947), địch dùng hỏa lực mạnh gồm pháo binh và máy bay bắn phá ác liệt yểm trợ cho bộ binh vượt sông, nhưng chúng phải bỏ lại hơn 30 xác chết. Sau khi vượt sông, địch xuyên rừng đánh Khe Sanh từ phía sau. Tuy bị địch đánh bất ngờ nhưng trung đội tự vệ của huyện Hướng Hóa cùng một số chiến sĩ trạm điều dưỡng chặn đánh địch ở Paca, tạo điều kiện cho đồng bào thị trấn thu giấu của cải, tài sản, thiêu đốt nhà cửa, tản cư vào rừng. Sau đó, ta vừa đánh vừa rút về Rào Quán.

Trên hướng đường số 9: một đơn vị của Tiểu đoàn 13 cùng dân quân Lao Bảo chặn đánh địch, diệt 60 tên. Địch phải dùng lực lượng vừa mới vào được Khe Sanh quay trở lại theo đường 9 đánh vào sau lưng bộ đội ta ở Lao Bảo mới mở được đường cho quân chúng tiến vào Khe Sanh. Bộ đội ta cùng dân quân rút vào rừng tiếp tục đánh địch.

Ngày 15-1-1947, địch bắt đầu tiến quân vượt sông Rào Quán. Tại đây đã diến ra trận đánh ác liệt gây cho địch nhiều thiệt hại. Đồng chí Hùng Việt, Trung đoàn trưởng Trung đoàn Thiện Thuật trực tiếp chỉ huy. Đồng chí Trần Hữu Dực, Chủ tịch Ủy ban hành chính Trung Bộ lên tận nơi kiểm tra và động viên cán bộ, chiến sĩ. Trận chiến đấu diễn ra rất ác liệt. Bộ đội ta dựa vào trận địa xây dựng ở bờ sông chặn đánh chính diện kết hợp với bố trí địa lôi, bom mìn và lực lượng ở phía tây sông đánh vào hai bên sườn địch. Địch bị chết và bị thương phải dừng lại một thời gian để củng cố lực lượng. Ngày 25-1, địch tiến công và chiếm được Mai Lĩnh. Trong đêm, ta tập kích Mai Lĩnh diệt một số địch.

Tại Đầu Mầu, ta vừa dựa vào địa hình hiểm trở để đánh địch từ chính diện, vừa luồn rừng tập kích quân địch ở phía sau. Bộ đội ta chiến đấu quyết liệt, diệt 30 tên địch. Mặc dù chiếm được Đầu Mầu nhưng địch bị thương vong nhiều nên chúng phải dừng lại để củng cố.

Sau khi lực lượng được củng cố, ngày 13-2-1947, địch đánh chiếm Cam Lộ. Ngày 17-2-1947, địch đánh chiếm Đông Hà.

Để đánh địch trên đường từ Cam Lộ về Đông Hà, Tiểu đoàn 15 vừa dựa vào trận địa được chuẩn bị ngăn chặn địch từng bước, vừa từ phía nam đường 9 liên tục tiến công địch, nên sau bốn ngày (từ 13 – 17-2) chúng mới vào được Đông Hà. Thị xã Đông Hà đã bị san bằng từ trước nên ta không bố trí lực lượng giữ Đông Hà. Từ Lao Bảo đến Đông Hà đoạn đường 9 chỉ có hơn 80 km nhưng địch đã phải mất 39 ngày đêm và hơn 300 tên bỏ mạng mới vượt qua được. Sau khi vào Đông Hà, địch phải dừng lại đây hơn một tháng để củng cố và bổ sung lực lượng mới bắt đầu tiến công ra bắc Quảng Trị. Trận đánh trên đường số 9 đã đánh thắng chủ trương đánh nhanh thắng nhanh của địch, làm phá sản kế hoạch của chúng định đưa lực lượng ở Lào về giải vây cho Huế; đồng thời cũng tạo điều kiện để quân dân Quảng Bình có thêm thời gian chuẩn bị kháng chiến.

Cánh quân địch ở Huế sau khi chiếm Thừa Thiên, ngày 13-2-1947, từ Mỹ Chánh hơn 1.500 tên tiến ra Hải Lăng, Triệu Phong. Ngày 16-2, chúng đánh chiếm thị xã Quảng Trị.

Tiểu đoàn 14 sau khi rút từ Cùa về đã cùng dân quân các huyện Hải Lăng, Triệu Phong và tự vệ thị xã triển khai lực lượng chặn đánh địch trên đường số 1 và trong thị xã. Ngày 14-2, ta chặn đánh địch ở Diên Sanh (huyện lỵ Hải Lăng). Ngày 15-2, ta tiếp tục đánh địch khi chúng vượt sông Nhùng và tiến công và các làng ở phía nam thị xã. Bộ đội ta dựa vào bờ sông Nhùng và các trận địa trong làng Thượng Xá đánh địch suốt ngày, diệt và làm bị thương nhiều tên, buộc địch phải dừng lại phía nam thị xã.

Để đánh địch tiến công vào thị xã, Tiểu đoàn 14 triển khai lực lượng, bố trí một đại đội ở Thượng Xá, La Vang sau đó chuyển về khu vực nhà ga Quảng Trị; một đại đội chặn địch ở Tri Bưu; một đại đội bố trí ngay trên mặt thành hướng ra phía sân vận động và đường số 1; Đại đội vệ binh Khu IV vừa được tăng cường cho Quảng Trị cũng được đưa ngay vào thị xã bố trí ở làng Thạch Hãn.

Ngày 16-2-1947, địch dùng hai tiểu đoàn bộ binh tiến công vào thị xã. Từ 5 giờ 30 phút địch đã bắn dữ dội, tiến công thị xã. Bộ đội ta cùng dân quân, tự vệ từ các hướng đồng loạt nổ súng đánh địch. Tại hướng Thạch Hãn, Đại đội vệ binh từ các giao thông hào trong làng xông ra đánh địch bật ra khỏi xóm và phải dạt về Tri Bưu. Súng cối của ta bố trí trong thành bắn trúng đội hình địch, các loại bom mìn, địa lôi cũng yểm trợ đắc lực cho bộ binh tiến công. Địch phải dùng pháo binh và xe thiết giáp dẫn bộ binh xung phong mới vào được thị xã, nhưng bị thiệt hại hơn 200 tên.

Sau khi bộ đội rút ra khỏi thị xã, một số tự vệ vẫn ở lại chiến đấu. Suốt mấy ngày sau đó, tiếng súng vẫn nổ ở khu vực Ty Công an, vườn hoa, ngã tư chợ tỉnh, khu bờ sông...

Sau khi địch chiếm được Đông Hà và thị xã Quảng Trị, ngày 17-2-1947, Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Trị họp mở rộng tại làng Lại An (Gio Linh). Hội nghị nhận định: Sau khi đánh chiếm được thị xã Quảng Trị và Đông Hà, địch đã bị tiêu hao nặng, nên chắc chắn chúng phải dừng lại một thời gian để củng cố lực lượng, tiến hành bình định vùng chúng vừa mới chiếm đóng. Sau đó, địch sẻ mở đợt tiến công đánh chiếm Gio Linh, Vĩnh Linh... Qua kinh nghiệm bước đầu rút ra ở Triệu Phong, Thường vụ nhận định và chủ trương: địch có thể chiếm đất nhưng ta không để mất dân. Ta phải vừa giữ vững vùng rừng núi, vừa giành giật khu vực đồng bằng với địch. Cán bộ, đảng viên, lực lượng vũ trang quyết không rời quần chúng, giữ vững các căn cứ, ở đồng bằng, phá tề, trừ gian, bám đất, bám dân, giữ vững cơ sở, kiên quyết đập tan kế hoạch lập ngụy quyền, ngụy quân của địch.

Thực hiện chủ trương trên, Tỉnh ủy quyết định đưa Tiểu đoàn 14 trở lại đồng bằng Triệu Phong, Hải Lăng tiếp tục đánh địch bảo vệ dân, bảo vệ mùa màng; tổ chức đại đội biệt động cùng một đại đội của Tiểu đoàn 13 triển khai hoạt động dọc theo đường số 9; Tiểu đoàn 15 triển khai dọc đường số 1 để đánh địch khi chúng đánh ra Gio Linh, Vĩnh Linh.

Sau một tháng dừng lại để củng cố và bổ sung lực lượng, ngày 27-3-1947, quân địch cùng một lúc từ Cam Lộ và Đông Hà theo đường bộ và một cánh theo đường biển đổ bộ lên Đồng Hới để tiến đánh bắc Quảng Trị và Quảng Bình.

Tại Quảng Trị, ngày 25-3, Pháp cho quân đánh chiếm ngã tư Sòng. Ngày 27-3, giặc Pháp chia làm hai cánh quân tiến công Gio Linh. Ngày 30-3, quân Pháp tiến công Vĩnh Linh bằng hai cánh quân dưới sự yểm trợ của máy bay, tàu chiến và thiết giáp.

Trước sự tiến công của địch, trên đường 76, Tiểu đoàn 13 chặn đánh địch ở Nghệ An, diệt một xe tăng và 20 tên địch. Đêm 28-3, bộ đội ta tập kích vào chợ Cam Lộ diệt một số địch, trong đó có một tên thiếu tá. Tiểu đoàn 15 đánh địch ở ngã tư Sòng, huyện lỵ Gio Linh, bờ bắc sông Bến Hải, thị trấn Hồ Xá (huyện lỵ Vĩnh Linh). Ngày 30-3, địch chiếm được Hồ Xá và bắt đầu tiến công ra Quảng Bình.

Trước khi địch đánh ra phía bắc tỉnh, Thường vụ Tỉnh ủy đã họp (ở Thủy Ba Thượng) soát xét lại kế hoạch đánh địch khi chúng tiến công ra và bàn kế hoạch di chuyển cơ quan. Sau cuộc họp này, Tỉnh ủy theo đường đồng bằng chuyển về Triệu Phong, Ủy ban kháng chiến trở lại Cùa, sau đó về Ba Lòng. Trung đoàn Thiện Thuật cùng với Tiểu đoàn 15 tiếp tục chiến đấu, sau đó rút lên Khe Bò củng cố lực lượng đến cuối tháng 4-1947 trở về Hải Lăng.

Do có chủ trương đúng và sự chuẩn bị sớm của Tỉnh ủy và Trung đoàn Thiện Thuật nên đã phát huy được tinh thần tích cực tiến công, tiêu hao, tiêu diệt địch, làm chậm bước tấn công của chúng, phát động chiến tranh du kích, giữ gìn lực lượng để tiếp tục kháng chiến.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Mười Hai, 2015, 08:45:36 pm
Tại Quảng Bình

Sau khi chiếm được Vĩnh Linh, địch cho quân tiến đánh hai huyện phía nam Quảng Bình là Lệ Thủy và Quảng Ninh, mặt khác, cùng với việc cho quân đánh Gio Linh, Vĩnh Linh, 6 giờ 30 phút ngày 27-3-1947, địch cho 2.000 quân có tàu chiến, canô, máy bay yểm trợ đổ bộ đánh chiếm Đồng Hới, đồng thời 11 giờ cùng ngày, địch cho 500 quân đổ bộ lên Thanh Khê (Bố Trạch).

Tại cửa Nhật Lệ (thị xã Đồng Hới), một đại đội vệ quốc quân do đồng chí Lê Thanh Đồng, Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn Lê Trực trực tiếp chỉ huy chặn đánh địch ngay từ khi chúng đổ bộ lên bờ, đánh lui đợt tiến công đầu tiên của chúng, diệt 10 tên. Sau đó địch dùng máy bay và pháo trên tàu chiến đánh phá ác liệt, phối hợp với lực lượng lớn bộ binh có xe thiết giáp yểm trợ tiến công liên tiếp vào trận địa ta. Bộ đội ta rất dũng cảm, táo bạo đánh trả đẩy quân địch ra mép biển, tiêu diệt 80 tên. Nhưng do lực lượng của ta ít, vũ khí thô sơ, đến 10 giờ cùng ngày, do bị tổn thất nặng, đồng chí Lê Thanh Đồng hy sinh, địch chiếm được Tam Tòa và làm chủ thị xã Đồng Hới. Liền sau đó, địch chia làm hai mũi: một mũi theo đường số 1, một mũi theo đường sắt tiến đánh huyện Quảng Ninh và Lệ Thủy, bắt liên lạc với cánh quân từ Quảng Trị đánh ra.

Trước sức tiến công của quân địch, Ủy ban kháng chiến tỉnh ra lệnh cho các đơn vị rút lui để giữ gìn lực lượng. Đơn vị công binh được lệnh đánh sập cầu Dài, phá hủy nhà máy điện và các công sở khác, thực hiện vườn không, nhà trống, tiêu thổ kháng chiến.

Tại cửa sông Gianh, sau khi đổ bộ, từ bàn đạp Lý Hòa, địch tiến chiếm Hoàn Lão (huyện lỵ Bố Trạch). Từ Hoàn Lão, ngày 1-4, địch đánh lên Thụ Lộc. Ngày 4-4, địch tiếp tục đánh chiếm Vạn Lộc, An Tiêm, Hòa Duyệt, dân quân Hòa Duyệt chặn đánh diệt bốn tên địch. Ngày 7-4, địch chiếm tiếp các chốt trên đường số 2, cùng ngày địch tiến đánh Thổ Ngao (Quảng Trạch), quân ta đánh trả quyết liệt, tiêu diệt 16 tên Pháp và hai tên Việt gian, buộc chúng phải rút lui. Ngày 10-4, địch dùng canô chở quân ngược sông Gianh đánh chiếm Tiên Lễ, Minh Lệ trên tuyến đường sắt. Ngày 15-4, địch vượt sông đánh chiếm Ba Đồn (huyện lỵ Quảng Trạch). Ngày 18-4, địch đánh Minh Cẩm (huyện lỵ Tuyên Hóa), quân ta chặn đánh quyết liệt, gây cho địch một số thương vong, buộc chúng phải quay về Ba Đồn, Thanh Khê.

Như vậy, chỉ trong một thời gian ngắn (từ 27-3 đến 18-4-1947), quân Pháp đã làm chủ quốc lộ 1 từ Hạ Cờ đến hữu ngạn sông Gianh, kiểm soát vùng duyên hải, đồng bằng ba huyện Lệ Thủy, Quảng Ninh, Bố Trạch, kiểm soát một số tuyến đường giao thông quan trọng.

Trong hơn 20 ngày, Tiểu đoàn Lê Trực cùng dân quân, tự vệ và nhân dân các địa phương Quảng Bình đã anh dũng đứng lên chiến đấu tiêu diệt gần 400 tên địch, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của chúng.

Mặc dù có hơn ba tháng chuẩn bị kháng chiến với những bài học xương máu của Thừa Thiên - Huế và Quảng Trị, nhưng do lực lượng địch quá mạnh; lực lượng ta ít về số lượng, vũ khí lại thô sơ, lạc hậu; lãnh đạo, chỉ huy thiếu kinh nghiệm nên đã bị quân Pháp nhanh chóng đánh chiếm nhiều vùng quan trọng.

Trong suốt quá trình ta tiến công địch ở Huế và đánh địch ở Quảng Trị, Quảng Bình, ngoài lực lượng dân quân, tự vệ cùng phối hợp chiến đấu với bộ đội, nhân dân cả ba tỉnh đều hăng hái cùng lực lượng vũ trang đánh địch. Nhân dân khắp nơi đào đường, đắp lũy để ngăn chặn địch; đào giao thông hào, công sự phục vụ bộ đội đánh giặc. Việc cứu chữa, nuôi dưỡng thương binh, chôn cất tử sĩ phần lớn do nhân dân đảm nhận, việc ăn uống đều do các mẹ, các chị phụ trách ở các địa phương.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Mười Hai, 2015, 08:46:09 pm
Tham gia mặt trận miền Tây - phối hợp chiến đấu với Lào

Thực hiện Nghị quyết của Hội nghị quân sự toàn quốc lần thứ I (1-1947), Bộ Tổng chỉ huy quyết định mở mặt trận miền Tây (Tây tiến) nhằm phá tan thế bao vây, khống chế của địch trên một vùng chiến lược rộng lớn dọc theo biên giới Việt - Lào, đặc biệt là vùng Tây Bắc và Bắc Trung Bộ của Việt Nam. Mục địch tác chiến của mặt trận miền Tây là tiêu hao, tiêu diệt một bộ phận quân địch; tuyên truyền giải thích, vạch rõ âm mưu của thực dân Pháp; củng cố tình đoàn kết Việt - Lào. Phương châm hoạt động của bộ đội ta trên đất Lào là vừa đánh địch, vừa vũ trang tuyên truyền; thực hiện chiến tranh nhân dân, xây dựng căn cứ địa, mở rộng vùng tự do.

Tham gia mặt trận miền Tây, ngoài lực lượng của Khu II, Khu III và Hà Nội, Khu IV cũng huy động một lực lượng lớn bao gồm hai tiểu đoàn và ba đại đội. Khu trưởng Lê Thiết Hùng ra tận Thanh Hóa giao nhiệm vụ cho Trung đoàn 77; một tiểu đoàn do đồng chí Tống Thái, trung đoàn phó Trung đoàn 77 chỉ huy và Tiểu đoàn 265 thiếu của Trung đoàn 37 do đồng chí Kỷ làm Tiểu đoàn trưởng hoạt động ở khu vực đường số 7, một đại đội của Trung đoàn 103, Đại đội 6 của Tiểu đoàn Lê Trực ở Banaphào và đội biệt động Quảng Trị ở tây đường số 9.

Phối hợp chiến đấu với bộ đội Khu IV, về phía Lào có đại đội người Mẹo ở Noọng Hét, một trung đội ở Mường Dương và một trung đội ở Mường Mô.

Hoạt động ở miền Tây các lực lượng vũ trang Khu IV, vừa tác chiến vừa tuyên truyền vận động nhân dân, vạch rõ âm mưu thâm độc của thực dân Pháp, động viên nhân dân miền núi hăng hái tham gia kháng chiến. Ngày 21-2-1947, một đại đội của Trung đoàn 103 phối hợp với dân quân huyện Hương Khê (Hà Tĩnh) tiến công một đại đội ở Vũ Quang (Hương Khê), diệt 30 tên Pháp và ngụy Lào. Một đại đội khác của Trung đoàn 103 phối hợp với dân quân huyện Hương Sơn và bộ đội Lào đột kích đồn Napê, diệt 20 tên Pháp và ngụy Lào.

Đến cuối tháng 2-1947, các lực lượng vũ trang Khu IV đã tiến công các vị trí Mường Na, Mường Lạc, Mường Pun, Sầm Tớ… Tháng 3, các đơn vị ta cùng lực lượng vũ trang Lào bao vây thị xã Sầm nưa, quân Pháp phải tăng cường lực lượng để giải vây. Bộ đội Nghệ An đẩy mạnh hoạt động ở dọc biên giới khiến quân địch phải rút về Mường Na.

Sau khi được củng cố, bộ đội Thanh Hóa liên tục tập kích, phục kích tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch; dân quân Phù Lễ (Hồi Xuân) anh dũng đánh giặc bảo vệ làng bản. Liên quân Việt - Lào chặn đánh địch khi chúng đang vận chuyển, tiếp tế lương thực, thực phẩm, vũ khí, đạn dược gây cho địch nhiều khó khăn. Sau một thời gian, quân Pháp buộc phải rút khỏi Hồi Xuân.

Trong những ngày đầu kháng chiến chống Pháp, bộ đội Liên khu IV hoạt động trong chiến trường Lào gặp rất nhiều khó khăn. Trong khi ở trong nước, vào đầu năm 1947, bộ đội và nhân dân Khu IV phải dồn sức đánh địch đến giải vây Huế và chiếm đóng Thừa Thiên, đánh địch tiến công Quảng Trị và Quảng Bình, bộ đội chiến đấu ở Lào lại càng khó khăn hơn nhiều. Đường xa, rừng núi hiểm trở, địch lại tập trung lực lượng bình định sau khi hoàn thành tái chiếm cả ở Việt Nam và Lào. Thiếu gạo, thiếu muối, thiếu vũ khí, đạn dược, thuốc men, thời tiết khắc nghiệt... nhưng cán bộ và chiến sĩ tình nguyện Khu IV vẫn nêu cao tinh thần chịu đựng gian khổ, hy sinh cùng các lực lượng yêu nước Lào bám địa bàn chiến đấu và giúp bạn xây dựng các cơ sở chính trị, quân sự phục vụ kháng chiến. Đầu năm 1947, với sự giúp đỡ của bộ đội Khu IV, ở Khăm Muộn, Savanakhẹt... nhiều yếu tổ chức hội yêu nước được thành lập. Bộ đội địa phương và dân quân du kích Lào cũng được bộ đội Khu IV giúp về tổ chức huấn luyện và phối hợp chiến đấu; Trung đội Xiêng Xinh, Trung đội Bon Liên, Trung đội dân quân Mẹo là những đơn vị điển hình thời kỳ này.
   
Tháng 4-1947, 80 lính ngụy Lào do sĩ quan Pháp chỉ huy đánh xuống Tri Lễ (tây Nghệ An) bị liên quân Việt - Lào chặn đánh ở Mường Pao và Mường Dương. Trung đội người Mẹo và trung đội Bon Liêng cùng phối hợp đánh địch diệt hàng chục lính Pháp và ngụy Lào, phá tan cuộc hành quân của địch.

Tháng 6-1947, ta giải phóng Mường Xén (Nghệ An) tạo nhiều điều kiện thuận lợi làm bàn đạp cho các đơn vị của Khu IV sang giúp Lào thời kỳ này; đồng thời cũng là cửa ngõ để nhiều cán bộ, chiến sĩ, đơn vị của Lào sang đứng chân ở Việt Nam. Năm 1947, một bộ phận của đội Pát Chay (khoảng 100 người) phần lớn là người Mẹo do Viêngphađao và Nhiêu Vư đưa từ Noọng Hét về Mường Xén, thành lập đội vũ trang Mẹo kháng chiến, do ông Thau Tu chỉ huy. Trong thời gian ở Mường Xén, đội đã được quân, dân Khu IV giúp đỡ tận tình về mọi mặt. Tháng 11-1947, một bộ phận hơn 30 người do ông Xiêng Xinh dẫn đầu sang Cửa Rào (Nghệ An), ta giúp củng cố và cử một số cán bộ đi theo để giúp bạn. Cuối năm 1947, hai đơn vị Giải phóng quân của Việt Kiều ở Thái Lan và Lào về Nghệ An thành lập Tiểu đoàn Trấn Ninh, sau đó Tiểu đoàn Trấn Ninh được điều trở lại hoạt động ở vùng Đông Lào.

Từ năm 1947, Trung ương giao cho Khu IV giúp đỡ và phối hợp chiến đấu với các địa phương thuộc Đông Lào. Từ Xiêng Khoảng đến Sầm Nưa, Khăm Muộn, Hủa Phăn, Savanakhẹt giáp Hạ Lào. Theo chỉ thị của Trung ương, tháng 7-1947, phòng Ngoại vụ ở Khu IV giải tán, thành lập phòng Biên chính (biên giới, chính sách) do Khu Ủy và Ủy ban hành chính kháng chiến khu lãnh đạo. Đồng chí Trần Đức Vịnh với danh nghĩa là phái viên của Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa trực tiếp phụ trách phòng Biên chính. Sau khi đồng chí Vịnh hy sinh (6-1947), đổng chí Ngô Vân Anh làm trưởng phòng (8-1947). Đồng chí Anh chết, đồng chí Đào Việt Hưng thay (đến đầu tháng 10-1948, đồng chí Nguyễn Tài được phân công phụ trách phòng Biên chính Liên khu IV). Ở các vùng cũng có đại diện của phòng Biên chính như: vùng Na Pê có đại diện biên chính ở Hà Tĩnh, Sầm Nưa có đại diện ở Bái Thượng (Thanh Hóa). Phòng Biên chính còn giúp khu Đông Lào ra báo tiếng Lào.

Cuối năm 1947, đầu năm 148, Trung ương có chủ trương khôi phục và mở rộng đường liên lạc giữa Việt Nam - Lào - Thái Lan. Khu IV được giao nhiệm vụ này. Trong thực tế đã từng có những con đường mòn đi từ phía tây Khu IV qua Lào, sang Thái Lan. Nhưng lúc này do yêu cầu của cách mạng nước ta, con đường này phải được mở rộng. Sau khi được giao nhiệm vụ, khu đã tổ chức lực lượng trinh sát tìm đường và tổ chức bảo vệ con đường liên lạc quốc tế Việt - Thái. Điểm xuất phát của con đường từ đất Việt Nam là tại một địa điểm gần Khe Kiền (Khệ An) qua Mường Nham, Mường Mọc, Hạt Xuông, vượt sông Mê Công sang bản Mạy thuộc Nakhôn (Thái Lan). Đây là đoạn đường bộ gần nhất từ Việt Nam qua Lào, sang Thái Lan, từ đây mở ra một con đường liên lạc rất quan trọng. Từ 1948 đến 1950 (trước khi mở cửa biên giới Việt - Trung), hầu hết các đoàn cán bộ của Việt Nam đi ra nước ngoài và các đoàn khách quốc tế đến Việt Nam đều đi qua con đường này. Hàng ngàn cán bộ, chiến sĩ Việt - Lào, nhiều tấn lương thực, thực phẩm, thuốc men, vũ khí, đạn dược… đã được vận chuyển qua đây, góp phần quan trọng vào việc phục vụ công cuộc kháng chiến của hai dân tộc Việt - Lào.

Trong những ngày đầu kháng chiến chống thực dân Pháp, tuy trang bị còn thô sơ, lạc hậu, chưa có kinh nghiệm chiến đấu, nhưng với lòng yêu nước, tinh thần quyết chiến bảo vệ nền độc lập, bảo vệ quê hương, quân và dân Khu IV đã giành được những thắng lợi quan trọng: bắt gọn quân Pháp ở Vinh; 50 ngày bao vây, tiến công quân Pháp ở Huế; tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch khi chúng đến giải vây Huế và tiến công Quảng Trị, Quảng Bình; tham gia mặt trận miền Tây, phối hợp chiến đấu với các lực lượng vũ trang Lào. Những chiến thắng ấy đã làm thất bại chủ trương đánh nhanh, thắng nhanh của địch, gây cho chúng nhiều tổn thất. Tuy địch chiếm được các trục đường lớn, những thành phố, thị xã ở Bình - Trị - Thiên nhưng quân và dân Khu IV vẫn làm chủ rừng núi, một bộ phận nông thôn đồng bằng. Đó là những yếu tố quan trọng cho việc khôi phục và phát triển lực lượng kháng chiến sau này.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Mười Hai, 2015, 08:46:48 pm
*
*   *

Từ tháng 4-1947, sau khi chiếm đóng Hà Nội, mở thông đường số 5 nối liền Hà Nội - Hải Phòng, giải tỏa Nam Định, quân Pháp đánh rộng ra các vùng xung quanh như Hà Đông, Phủ Lý. Ở Khu V, địch chiếm Quảng Nam, Đà Nẵng. Sau khi đánh chiếm ba tỉnh Bình - Trị - Thiên, địch đã nối thông hành lang chiến lược Đà Nẵng - Đông Hà - Xavanakhẹt, chúng thành lập Bộ chỉ huy Bắc Trung Bộ do tên tướng Lebris cầm đầu. Địch chia Bình - Trị - Thiên thành ba phân khu: phân khu Thừa Thiên, phân khu Quảng Trị và phân khu Quảng Bình. Mỗi phân khu chia thành các tiểu khu, mỗi tiểu khu phụ trách một đến hai huyện, thị. Trong từng tiểu khu, địch bố trí hệ thống cứ điểm lớn, tháp canh, quân địch bố trí các cụm pháo binh để khống chế các chiến khu, vùng du kích và vùng tự do của ta. Cùng với việc thành lập các cơ quan quân sự, địch đẩy mạnh việc tổ chức bộ máy ngụy quyền từ xứ xuống tỉnh, huyện, xã; thành lập các hội tề ở các địa phương. Chúng lập ra Hội đồng tham nghị lâm thời và Hội đồng chấp chính lâm thời Trung Kỳ. Bộ máy ngụy quyền gồm những tên Việt gian đầu sỏ, bọn đội lốt tôn giáo như Trần Văn Lý, bọn quan lại như Trần Thanh Đạt, Hà Xuân Hải, Nguyễn Khoa Toàn; bọn chuyên nghề mật thám như René Hạnh... Bên cạnh bộ máy ngụy quyền, địch còn sử dụng lực lượng của các tổ chức phản động như Quốc dân đảng, đảng Đại Việt và một số phần tử phản động trong Liên đoàn công giáo.

Quân Pháp đã xây dựng hàng trăm đồn, bốt lớn, nhỏ, chúng ra sức bắt lính để xây dựng ngụy quân. Quân địch ở Bắc Trung Bộ lúc đó có hơn 8.000 tên, Quảng Bình có gần 2.000 tên, Quảng Trị có gần 3.000 tên, Thừa Thiên có hơn 3.000 tên. Ngoài ra ở Bình - Trị - Thiên có hơn 2.000 tên bảo vệ quân. Ngoài các đồn, bốt do quân Pháp và ngụy quân phụ trách, một số nơi chúng còn tổ chức hương vệ để giữ các thôn xóm.

Để tiến hành bình định, địch dựa vào hội tề (những nơi do địch nắm) và các đảng phái phản động, tìm mọi cách bắt bớ, giết hại cán bộ, đảng viên của ta. Sau khi Thừa Thiên bị quân Pháp đánh chiếm, Đảng bộ Hương Thủy từ 170 đảng viên chỉ còn 30 người; ở Phú Vang từ 193 đảng viên còn lại 23 người, Hương Trà còn 20 đảng viên. Địch dùng tiền và vật chất khác để mua chuộc cán bộ, đảng viên; đẩy mạnh việc càn quét, thực hiện đốt sách, giết sạch, cướp sạch.

Tại Thừa Thiên: trận càn Vĩnh Nẩy, địch giết hại hơn 100 người phần lớn là ông, bà già và trẻ em. Trận càn Phú Ninh, Hiền Sĩ địch giết hại 115 người.

Tại Quảng Trị: trận càn làng Quy Thiện (Hải Lăng) địch xả súng giết hại 115 người; trận càn Vĩnh Hoàng (Vĩnh Linh) địch giết hại 150 người dân vô tội.

Tại Quảng Bình: trận càn chợ Trạm, địch đốt hơn 400 ngôi nhà, bắn giết hơn 300 người; riêng thôn Mỹ Trạch địch sát hại 250 người. Trận càn vào thôn Lệ Xá địch giết 100 cụ già, đàn bà và trẻ em. Trận càn thôn Quy Hậu địch giết hơn 50 người.

Cùng với việc đốt nhà, giết hại dân thường, địch còn thực hiện cướp sạch, không cho dân sản xuất, chúng còn thu nhiều thứ thuế, bắt đi phu, đi lính…

Do địch phá hoại và do thiên tai, vụ chiếm bị hạn nặng, diện tích gieo trồng bị giảm đến 40%, năng suất rất thấp, mùa màng bị thất thu nặng; lương thực bị địch cướp phá, nhân dân Bình - Trị - Thiên đứng trước nguy cơ bị đói. Trong khi đó lực lượng vũ trang Khu IV cũng gặp rất nhiều khó khăn, Trung đoàn Trần Cao Vân (Thừa Thiên) giảm sút sức chiến đấu nghiêm trọng, Tiểu đoàn Lê Trực (Quảng Bình) phải rút lên núi. Nhiều nơi ở Bình - Trị - Thiên có một số cán bộ, đảng viên không bám đất, bám dân để tiếp tục chiến đấu; cán bộ cơ sở không liên lạc được với cấp trên, thậm chí có nơi cán bộ, đảng viên lẩn tránh vào rừng hoặc chạy sang địa phương khác, dân quân, tự vệ nhiều nơi tan rã; nhân dân nhiều vùng hoang mang…Ở những nơi đó tiếng súng kháng chiến tạm thời lắng xuống.

Trong khi đó trên phạm vi cả nước, sau khi quân ta rút khỏi Hà Nội, địch đám chiếm nhiều vùng rộng lớn ở đồng bằng Bắc Bộ. Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Tổng tư lệnh quyết định chuyển sang sử dụng chiến thuật “du kích vận động chiến” để tiêu hao lực lượng địch; làm cho địch suy yếu dần, bảo tồn và phát triển lực lượng ta, bảo đảm kháng chiến lâu dài. Khu ủy Đảng, Bộ chỉ huy quân sự khu và các cơ quan lãnh đạo đảng và quân sự các tỉnh Bình - Trị - Thiên đã lãnh đạo và chỉ đạo các cấp và quân, dân thực hiện chủ trương đó.

Cũng trong thời gian này (tháng 3-1947), Bộ chỉ huy Khu IV có sự thay đổi: đồng chí Nguyễn Sơn được cử làm Khu trưởng, Vương Thừa Vũ làm khu phó, Nguyễn Sĩ Tuấn làm Tham mưu trưởng khu.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Mười Hai, 2015, 08:48:02 pm
Tại Thừa Thiên, đầu tháng 3-1947, Thường vụ Tỉnh ủy họp nắm lại tình hình, kịp thời xác định phương hướng hoạt động và tổ chức bắt liên lạc với các huyện và thành phố Huế; tiến hành củng cố các tổ chức đảng, chính quyền; phát động chiến tranh du kích; lập đội công an vũ trang lấy tên là “Đội danh dự”, tiến hành diệt tề, trừ gian; nhanh chóng tập hợp bộ đội, dân quân, tự vệ, chọn những người gan dạ lập đội “Quyết tử quân”; tổ chức đánh ngay một trận, quyết không để tắt lâu tiếng súng kháng chiến.

Thực hiện chủ trương của hội nghị cán bộ chủ chốt đầu tháng 3-1947, một đơn vị biệt động của Trung đoàn Trần Cao Vân do Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Sanh Thí chỉ huy đã lọt vào thành phố Huế, bị mật, bất ngờ tiến công đồn Hộ Thành nhanh chóng tiêu diệt địch (diệt ba tên Pháp và 20 tên Việt gian), quân ta rải truyền đơn rồi rút về căn cứ. Trận đánh đã gây ảnh hưởng lớn về chính trị trong thành phố Huế và lan đi nhanh chóng tới các phủ, huyện, gây lo sợ cho địch và tạo niềm tin và phấn khởi trong nhân dân.

Cũng trong những ngày đầu kháng chiến đầy khó khăn, gian khổ, Thừa Thiên - Huế đã nhận được sự chi viện kịp thời của chiến trường Khu V. Tháng 3-1947, Khu V đã đưa một đại đội thuộc Trung đoàn 96 ra phối hợp đánh địch ở nam Phú Lộc; cung cấp năm cán bộ trong đó có hai cán bộ đại đội cùng một số vũ khí, đạn dược. Khu V còn cung cấp cơ sở vật chất giúp xây dựng căn cứ Khe Ong làm chiến khu cho Nam Phú Lộc. Sự giúp đỡ kịp thời đó là sự động viên tinh thần to lớn đối với cán bộ, quân và dân Thừa Thiên - Huế.

Ngày 25-3-1947, Thường vụ Tỉnh ủy Thừa Thiên triệu tập hội nghị Tỉnh ủy mở rộng (hội nghị cán bộ tỉnh) tại làng Nam Dương (Quảng Điền) do đồng chí Nguyễn Chí Thanh, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy chủ trì. Hội nghị đã đề ra những quyết sách quan trọng:

- Tiếp tục tiếng súng kháng chiến, phá chính sách bình định của giặc, tiến hành trừ gian, phá tề.

- Đẩy mạnh tăng gia sản xuất, cất giấu lương thực, tăng cường canh gác để cho dân làm ăn, tiếp tế cho chiến khu.

- Củng cố xây dựng lại cơ sở, đưa cán bộ, đảng viên trở về địa phương cũ để hoạt động, nắm lấy quần chúng nhân dân để kháng chiến, chấn chỉnh quân đội, dân quân tự vê; chỉnh đốn chính quyền, kiện toàn sự lãnh đạo của Đảng.

Hội nghị đặc biệt nhấn mạnh: phải nhanh chóng bám cơ sở, đánh địch bằng cách đánh du kích; cán bộ, đảng viên bộ đội kiên quyết trở lại đồng bằng, bám đất, bám dân, nhanh chóng khôi phục lực lượng kháng chiến. Kết luận hội nghị, đồng chí Nguyễn Chí Thanh nhấn mạnh: Mất đất chưa phải là mất nước. Chúng ta không thể để mất dân, chết không rời cơ sở, chúng ta nhất định thắng lợi. Hội nghị cũng đã quyết định xây dựng chiến khu Hòa Mỹ làm căn cứ kháng chiến cho các cơ quan lãnh đạo của tỉnh và là nơi tập trung các đơn vị bộ đội, bố trí lại các huyện ủy, củng cố Trung đoàn Trần Cao Vân và chủ trương tổ chức một số trận đánh để gây tiếng vang.

Sau hội nghị đã dấy lên phong trào sôi nổi trở về cơ sở, trở về với dân. Giữa vòng vây của quân thù, việc trở về với đồng bằng của cán bộ, đảng viên mặc dù gặp rất nhiều khó khăn, nguy hiểm nhưng từng bước đã khôi phục được phong trào, tuyên truyền giác ngộ nhân dân, bắt mối xây dựng lại cơ sở, củng cố tổ chức dân quân, tự vệ, từng bước tạo dựng lại niềm tin của nhân dân vào cán bộ, vào kháng chiến.

Đây là cuộc họp đầu tiên của Tỉnh ủy sau ngày kháng chiến toàn quốc bùng nổ, đánh dấu một bước chuyển biến quan trọng có ý nghĩa quyết định trong công tác lãnh đạo và chỉ đạo của đảng bộ, kịp thời ngăn chặn bước đi xuống của phong trào kháng chiến, đưa cuộc kháng chiến ở Thừa Thiên từng bước đi lên.

Để thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, ngày 29-3-1947, Trung đoàn Trần Cao Vân cử một bộ phận tiến công đồn Đất Đỏ. Đơn vị do đồng chí Hà Văn Lâu, Trung đoàn trưởng trực tiếp chỉ đạo. Kết quả, ta đã tiêu diệt một trung đội lính Pháp, bắt tù binh, thu toàn bộ vũ khí(1). Chiến thắng giòn giã của trận Đất Đỏ mở đầu cho việc thay đổi cách đánh địch trên chiến trường Bình - Trị - Thiên, kết hợp chặt chẽ với xây dựng cơ sở kháng chiến trong lòng địch. Chiến thắng Đất Đỏ đã được Bộ trưởng Quốc phòng biểu dương. Các trận Hộ Thành và Đất Đỏ có tiếng vang về quân sự, có ảnh hưởng lớn về chính trị, mang lại niềm tin tất thắng cho nhân dân, cán bộ, chiến sĩ vào Đảng, vào kháng chiến. Hội nghị Tỉnh ủy mở rộng Thừa Thiên và chiến thắng Hộ Thành, Đất Đỏ mở ra một thời kỳ mới, thời kỳ quật khởi của cuộc kháng chiến trên chiến trường Thừa Thiên.

Ở Quảng Trị, sau khi các cơ quan lãnh đạo của tỉnh rút về Ba Lòng, ngày 14-4-1947, Tỉnh ủy mở hội nghị tại Teng Teng (vùng núi Triệu Phong). Hội nghị nhận định tình hình địch, ta từ khi địch chiếm toàn tỉnh, bàn các biện pháp đối phó, củng cố phong trào, xây dựng cơ sở, phát triển cuộc đấu tranh toàn diện với địch. Hội nghị quyết định thành lập các chiến khu để ổn định địa điểm làm việc của cơ quan lãnh đạo tỉnh, huyện.

Sau hội nghị, dưới sự lãnh đạo và chỉ đạo trực tiếp của Tỉnh ủy, cán bộ, đảng viên, dân quân tự vệ tiếp tục bám đất, bám dân, củng cố và phát triển lực lượng kháng chiến.


(1) Bao gồm năm súng cối 60mm, ba đại liên, hai trung liên 12 súng trường, sáu súng ngắn, 150 viên đạn, nhiều quân trang, quân dụng. Ta phá đồn và giải thoát số đồng bào bị bắt đi bắt đi phu ở đây.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Mười Hai, 2015, 08:50:38 pm
Tại Quảng Bình, tháng 5-1947, Hội nghị Tỉnh ủy mở rộng được tổ chức tại Thuận Đức (Đồng Hới) bàn việc ổn định tình hình, củng cố các tổ chức cơ sở, chắp nối liên lạc giữa huyện với xã. Hội nghị chủ trương cho dân hồi cư, đưa cán bộ, đảng viên về xây dựng cơ sở và hướng dẫn quần chúng đấu tranh chống địch. Tiếp theo hội nghị Tỉnh ủy, các huyện đều mở hội nghị để giải quyết những vấn đề cụ thể của địa phương mình.

Sau hội nghị tỉnh và huyện, cán bộ, đảng viên lần lượt trở về cơ sở, địa bàn, bám đồng bằng, xây dựng lực lượng, đẩy mạnh kháng chiến.

Để chỉ đạo thực hiện tốt đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh của Đảng và thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi các đồng chí Trung Bộ ngày 1-3-1947, Khu ủy IV đã cử các khu ủy viên và cán bộ vào kiểm tra và trực tiếp làm việc với các tỉnh ủy Bình - Trị - Thiên; mở một số lớp đào tạo, bồi dưỡng cấp tốc cán bộ quân sự, chính trị cho các địa phương. Hội nghị cán bộ toàn khu giữa tháng 7-1947 (họp ở làng Gay, Anh Sơn, Nghệ An) đã nêu cao những mặt đúng đắn, tích cực của cuộc kháng chiến ở Bình - Trị - Thiên; đồng thời kiên quyết uốn nắn những lệch lạc, khuyết điểm, thiếu đoàn kết nội bộ, tả khuynh trong diệt tề, trừ gian của Đảng bộ và quân dân Quảng Trị, thành kiến đi đến có những hành động sai lầm đối với đồng bào theo đạo Thiên Chúa của Đảng bộ và quân dân Quảng Bình; cô độc hẹp hòi trong công tác mặt trận và công tác cán bộ của ba tỉnh. Hội nghị chỉ rõ: trừ gian không phải có có hình phạt mà phải chú ý cảm hóa, lôi kéo họ về với dân tộc. Hội nghị cũng đã đề cập đến vấn đề đẩy mạnh việc giúp đỡ Bình - Trị - Thiên về tài chính các yêu cầu về vật chất phục vụ kháng chiến.

Từ sau hội nghị các tỉnh ủy, lực lượng vũ trang ở các địa phương từng bước được củng cố, bố sung; đẩy mạnh chiến đấu rộng khắp, liên tục, cả bộ đội chủ lực, dân quân thường trực của các tỉnh, huyện và dân quân, tự vệ ở khắp các làng, xã, khu phố.

Ở Thừa Thiên, tại chiến khu Hòa Mỹ, Trung đoàn Trần Cao Vân đã được củng cố và bổ sung một bước. Số cán bộ, chiến sĩ mất liên lạc dần dần trở về chiến khu; trung đoàn được bố sung chiến sĩ mới. Một số cán bộ trung đội, đại đội, tiểu đoàn được đưa đi đào tạo (khu tổ chức các lớp bồi dưỡng). Sau trận Đất Đỏ, Tiểu đoàn 18 vào hoạt động ở phía nam tỉnh, do Chính ủy trung đoàn Trần Quý Hai trực tiếp chỉ huy. Phối hợp với lực lượng vũ trang ba huyện Phúc Lộc, Phú Vang, Hương Thủy, tiểu đoàn liên tục đánh địch, trong đó có một số trận tiêu diệt được nhiều địch, bắt tù binh, thu vũ khí. Trận Võ Xá, Tiểu đoàn 18 phối hợp với dân quân huyện Hương Thủy, phục kích địch diệt 33 tên, bắt 15 tên, thu nhiều vũ khí. Trận phục kích Đá Bạc, kết hợp giật mìn và xung phong, bộ đội vừa phá hủy xe, vừa diệt địch, thu vũ khí. Điều nổi bật trong hoạt động của Tiểu đoàn 18 là đã nhanh chóng xuống đồng bằng, cùng cán bộ và dân, quân xây dựng lại phong trào, đẩy mạnh kháng chiến ở ba huyện phía nam. Nhờ bám sát dân nên tiểu đoàn đã cùng cán bộ địa phương, qua công tác binh vận, bằng một trận đánh giả, đồn trưởng đồn Nong cùng toàn bộ binh lính đã mở cổng đồn đi theo cách mạng. Trận này ta thu được nhiều vũ khí và đạn dược. Tiểu đoàn 16 và 17 sẵn sàng phối hợp với du kích bảo vệ sản xuất, bảo vệ mùa màng.

Lực lượng vũ trang các huyện bao gồm dân quân thường trực cơ động của huyện và dân quân tự vệ ở các thôn xã, ngoài phối hợp chiến đấu với bộ đội chủ lực còn tự mình tổ chức nhiều trận đánh. Ngoài việc dùng chông, mìn, lựu đạn đánh địch ở khắp nơi, lực lượng vũ trang các huyện cũng đánh được một số trận, tiêu diệt địch, thu vũ khí. Dân quân tự vệ hai huyện Phú Vang và Hương Thủy tập kích vào đồn Sư Lỗ diệt một số tên, số còn lại bỏ chạy. Lần đầu tiên dân quân hợp đồng chiến đấu đánh đồn, đem lại lòng tin cho nhân dân, tạo điều kiện phục hồi cơ sở ở Phú Vang và Hương Thủy.

Ngày 8-4-1947, một tiểu đội của đại đội biệt động phục kích ở Bến Đót, bên sông Ô Lâu, đánh đắm một thuyền chở lương thực, diệt hai tên Pháp, thu hai súng cối 81, hai tiểu liên, một súng trường cùng nhiều lương thực và đạn dược.

Với chủ trương đúng đắn của Tỉnh ủy và sự chỉ huy năng động của Ban chỉ huy Trung đoàn Trần Cao Vân, của Ban chỉ huy tỉnh đội, lực lượng vũ trang Thừa Thiên trong một thời gian ngắn đã khôi phục được lực lượng, bám đất, bám dân, đánh gần một trăm trận lớn nhỏ, gây được lòng tin trong nhân dân, góp phần quan trọng vào việc xây dựng lại cơ sở ở tất cả các huyện và thành phố.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Mười Hai, 2015, 08:52:29 pm
Tại Quảng Trị, từ lúc quân Pháp chưa đánh ra phía bắc tỉnh, cả tiểu đoàn 14 đã tiến về đồng bằng hai huyện Triệu Phong, Hải Lăng. Trước khi địch chiếm thị xã, Tiểu đoàn 14 đã bố trí ở lại đồng bằng Triệu Phong một đại đội, Hải Lăng gần một đại đội.

Nắm vững phương châm dựa vào dân, phối hợp hoạt động với dân quân, tự vệ, lấy du kích chiến là chính, Tiểu đoàn 14 cùng với dân quân, tự vệ đã liên tục đánh địch cùng nhân dân dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy Triệu Phong, lập nên chiến khu Chợ Cạn nổi tiếng ở giữa đồng bằng. Dựa vào chiến khu Chợ Cạn, suốt năm 1947, ta đã kiểm soát được phần lớn đồng bằng Triệu Phong, Hải Lăng - nơi cung cấp nhân lực, vật lực rất quan trọng cho kháng chiến ở Quảng Trị.

Dọc theo đường số 9, tỉnh đã có sáng kiến tổ chức đội biệt động. Đội biệt động vừa làm nhiệm vụ tác chiến, vừa làm nòng cốt, tổ chức hướng dẫn dân quân, tự vệ các xã đánh địch. Tại các huyện phía bắc, Tiểu đoàn 13 được tăng cường Đại đội 2 của Tiểu đoàn 15 cùng dân quân, tự vệ phối hợp tổ chức một số trận đánh phục kích địch trên đường từ Nam Đông về huyện lỵ Gio Linh diệt nhiều địch; phục kích địch ở Cẩm Phố đánh thiệt hại hai đại đội, diệt gọn một trung đội trong đó có một tên thiếu úy, thu một trung liên, tám súng trường.

Lực lượng vũ trang các huyện ngoài việc cùng phối hợp chiến đấu với bộ đội, tự mình liên tục đánh địch gây cho chúng nhiều thiệt hại trong đó có một số trận thực hiện được đánh tiêu diệt nhỏ. Ngày 12-3-1947, dân quân Hải Lăng dùng hai chiếc vò giả làm bom để chặn xe địch, diệt một số địch, trong đó có hai tên Pháp, thu vũ khí. Dân quân, tự vệ Cam Lộ cũng dùng vỏ chai giả làm mìn đốt xe địch thu vũ khí.

Năm 1947, lực lượng vũ trang Quảng Trị ngoài Tiểu đoàn 14 thường xuyên chiến đấu ở đồng bằng, Tiểu đoàn 13 cùng dân quân hai huyện Gio Linh, Vĩnh Linh bám đất, bám dân đánh địch, xây dựng cơ sở, góp phần đẩy mạnh phong trào kháng chiến rộng khắp trong toàn tỉnh.

Tại Quảng Bình, các đại đội của Tiểu đoàn Lê Trực cũng bám đất, bám dân phối hợp với lực lượng vũ trang các huyện, thị vừa xây dựng cơ sở, vừa đánh địch. Ngày 24-4-1947, Đại đội 5 phối hợp với dân quân đánh thắng cuộc càn quét của địch vào làng Hòa Duyệt, buộc chúng phải chạy về Hoàn Lão. Ngày 4-5-1947, Đại đội 5 phối hợp với dân quân Cự Nẫm (Bố Trạch) chặn đánh quân Pháp đi càn ở Rú Nguồn, diệt 10 tên.

Ngày 17-5-1947, Đại đội 2 cùng dân quân Quảng Ninh bí mật phục kích quân địch tiến công bệnh viện Rào Trù trở về, diệt 10 tên.

Ngày 16-8-1947, một đơn vị của Tiểu đoàn Lê Trực phối hợp với dân quân đánh địch đi càn vào thôn Chung Anh (Quảng Trạch) diệt 12 tên Pháp và 30 tên lính ngụy.

Đầu tháng 9-1947, bộ đội Tiểu đoàn Lê Trực cùng dân quân tiến công đồn Minh Lê diệt 17 tên Pháp.

Cùng với việc xây dựng bộ đội chủ lực, Tỉnh ủy Quảng Bình đặc biệt quan tâm xây dựng và đẩy mạnh hoạt động của lực lượng vũ trang các huyện, thị. Ngoài lực lượng dân quân, tự vệ được tổ chức rộng khắp ở các thôn, xã, tỉnh đã tổ chức ở mỗi huyện, thị một đại đội dân quân thường trực. Huyện Lệ Thủy có Đại đội 1, huyện Quảng Ninh có Đại đội 2, thị xã Đồng Hới có Đại đội 3, huyện Bố Trạch có Đại đội 4, huyện Quảng Trạch có Đại đội 5, huyện Tuyên Hóa có Đại đội 6.

Các đại đội dân quân thường trực cùng với dân quân tự vệ ở các thôn, xã vừa hiệp đồng tác chiến với bội đội chủ lực, vừa tổ chức đánh địch, nhiều trận đạt hiệu quả cao, gây được tiếng vang trong nhân dân. Ngày 27-5-1947, một tổ du kích ở Hoàn Lão dùng đại đao, mã tấu, cuốc bàn diệt hai tên Pháp, thu hai súng. Đầu tháng 9-1947, đại đội 4 dân quân thường trực Bố Trạch dùng mìn tự tạo đánh tiêu diệt một trung đội địch tại bến đò Ngân Sơn, diệt 20 tên.

Đặc biệt tại Quảng Bình đã xây dựng được làng chiến đấu Cự Nẫm nổi tiếng trên toàn quốc. Làng Cự Nẫm thuộc huyện Bố Trạch có một chi bộ đảng viên, một tiêu đội dân quân thường trực được huấn luyện tốt, ngoài ra còn hai trung đội dân quân không thoát ly sản xuất. Nhân dân cùng lực lượng vũ trang rào làng ba lớp bằng tre, gỗ, đào giao thông hào rộng khắp, xây dựng nhiều ụ súng quanh làng. Dân quân lập chòi quan sát, lúc nào cũng sẵn sàng chiến đấu. Ngày 7-5-1947, một trung đội lính Pháp (30 tên) kéo vào Cự Nẫm càn quét, lập hội tề. Dân quân phối hợp với bộ đội chặn đánh địch quyết liệt, giết 10 tên và nhiều tên khác bị thương, âm mưu lập hội tề của địch bị thất bại. Làng chiến đấu Cự Nẫm được Đảng và Nhà nước tặng thường Huân chương chiến công vì “đã huy động lực lượng toàn dân, lập làng Cự Nẫm thành một làng chiến đấu đấu kiểu mẫu và nhờ đó đã đương đầu một cách anh dũng với giặc trong năm đầu của cuộc kháng chiến”. Bộ chỉ huy Khu IV cũng đã phát động phong trào học tập làng chiến đấu kiểu mẫu Cự Nẫm rộng khắp trong toàn khu.

Cùng với việc tổ chức lực lượng chiến đấu, Ban chỉ huy Tỉnh đội Quảng Bình còn tổ chức các tổ quân báo ở tỉnh, huyện, các tổ trinh sát ở xã; các tổ quân báo và trinh sát đã kịp thời nắm chắc tình hình địch, phục vụ cho chiến đấu, góp phần bảo đảm an toàn cho các chiến khu.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Mười Hai, 2015, 08:54:17 pm
Đi đôi với đánh tiêu hao, tiêu diệt địch, vấn đề trừ gian, phá tề là một nhiệm vụ cấp bách và rất quan trọng. Dân quân, bộ đội phối hợp với các Đội danh dự của công an phá âm mưu lập chính quyền bù nhìn của địch. Nhiều tên Việt gian đầu sỏ có nhiều nợ máu với nhân dân bị nghiêm trị. Tính đến cuối tháng 11-1947, lực lượng công an, dân quân, bộ đội và các đảng bộ, chính quyền cơ sở Khu IV đã thuyết phục được 800 hội tề không làm việc cho địch và ủng hộ ta dưới nhiều mức độ khác nhau; diệt hơn 60 hội tề, trừng trị 1.500 tên Việt gian phản động. Các địa phương cũng chú ý làm tốt công tác giáo dục, tuyên truyền chính sách khoan hồng của Chính phủ và Hồ Chủ tịch, sức mạnh chính nghĩa của sự nghiệp kháng chiến của nhân dân ta.

Từ giữa đến cuối năm 1947, với lực lượng dân quân, du kích và bộ đội làm nòng cốt, cuộc chiến tranh nhân dân ở Bình - Trị - Thiên từng bước được phục hồi, giữ vững. Những vùng căn cứ ở đồng bằng Phong - Quảng - Triệu - Hải - Gio Linh - Bố Trạch được duy trì, phong trào du kích chiến tranh ở các huyện tiến lên dần. một số làng chiến đấu xuất hiện, trong đó làng Cự Nẫm (Bố Trạch, Quảng Bình) là điển hình nhất. Làng kháng chiến kiểu mẫu này là tấm gương sáng cho phong trào xây dựng làng chiến đấu trong toàn khu. Các hình thức đánh du kích khá phong phú, linh hoạt, sáng tạo, có hiệu quả. Hành động dũng cảm “ôm hè”(1) tay không cướp súng giặc để đánh giặc, từ sáng kiến của một số người ở một vài thôn, đã dần dần trở thành phong trào, trong đó có những trận tiêu diệt hoàn toàn cả tốp tuần tiễu của địch, bắt tù binh, thu vũ khí. Các trận phục kích, tập kích chống địch càn quét, tuần tiễu diễn ra ở nhiều nơi, tiêu biểu là trận chống càn ở Cự Nẫm ngày 7-5-1947. Trận phục kích tài tình ngày 5-7-1947 tại làng Võ Xá (Hương Thủy) đã kết hợp được ba mũi giáp công (tiến công quân sự, vận động ngụy quân, ngụy quyền, tổ chức nhân mối trong hàng ngũ địch làm nội ứng), trận ngoan cường dũng cảm và mưu trí đánh 100 tên địch càn quét vào vùng chợ Cầu làng Cẩm Phổ (Gio Linh) ngày 2-9-1947, diệt 14 tên Pháp. Nhiều vị trí địch bị bao vây, quấy rối… địch ra khỏi đồn là bị chặn đánh. Một số vị trí nhỏ, lẻ của địch bị quân ta tiến công, gây cho địch nhiều tổn thất như trận Minh Lệ (16-8-1947), trận xóm Xoài (ngày 24-9-1947).

Tính từ đầu cuộc kháng chiến đến hết tháng 11-1947, quân, dân Bình - Trị - Thiên đã đánh hơn 200 trận, diệt hơn 5000 tên địch, thu được nhiều vũ khí địch để trang bị cho ta.

Lực lượng chính trị, quân sự được xây dựng và củng cố. Các chi bộ đảng vùng sau lưng địch được tập hợp lại, củng cố và phát triển. Số đảng viên dũng cảm, ngoan cường bám đất, bám dân để lãnh đạo phong trào ngày càng tăng. Những tư tưởng lệch lạc của cán bộ, đảng viên nêu trong thư Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi các đồng chí Trung Bộ được sửa chữa một bước quan trọng.

Chính quyền kháng chiến từ khu xuống đến cơ sở từng bước được phục hồi và củng cố đáp ứng yêu cầu tập trung chỉ đạo của cuộc kháng chiến. Từ ngày 21 đến ngày 28-7-1947, Hội nghị hành chính toàn khu quyết định thống nhất hai Ủy ban hành chính và Ủy ban kháng chiến gọi là Ủy ban hành chính kháng chiến. Chủ trương chưa thực hiện xong thì tháng 10-1947, Chính phủ ra Sắc lệnh số 91 sáp nhập Ủy ban hành chính và Ủy ban kháng chiến thành Ủy ban kháng chiến hành chính từ khu đến tỉnh, huyện, xã. Đồng chí Hồ Tùng Mậu được chỉ định làm Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính Khu IV.

Để chỉ huy thống nhất các lực lượng vũ trang đóng trong tỉnh, mỗi tỉnh cử một ban chỉ huy tác chiến chung. Gồm: Chỉ huy trưởng là đồng chí trung đoàn trưởng, chính trị viên là đồng chí Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh và phó chỉ huy là đồng chí tỉnh đội trưởng.

Sự thống nhất Ủy ban kháng chiến hành chính các cấp và sự thống nhất chỉ huy tác chiến đã tăng cường hiệu lực lãnh đạo, chỉ huy, góp phần đẩy mạnh kháng chiến ở các địa phương trong toàn khu. Bộ đội, dân quân, tự vệ vừa đánh giặc lập công, vừa xây dựng, huấn luyện nâng cao trình độ kỹ thuật và tích lũy kinh nghiệm đánh địch. Căn cứ ở đồng bằng và miền núi được giữ và và xây dựng thêm. Mặt trận và các đoàn thể chính trị trở lại hoạt động; tập hợp vào tổ chức những người hăng hái kháng chiến; các tổ chức chính trị phản động bị vạch mặt; nhân dân ngày càng tin vào cuộc kháng chiến dưới sự lãnh đạo của Đảng. Công tác vận động đồng bào tôn giáo, dân tộc thiểu số có tiến bộ. Nhờ phát động được nhân dân kiên trì phấn đấu chống thiên tai, địch họa, khẩn trương đẩy mạnh sản xuất, đồng thời tổ chức tốt việc vận chuyển, tiếp nhận một phần lương thực, vải vóc, thuốc men đưa từ Thanh - Nghệ - Tĩnh vào, quân và dân Bình - Trị - Thiên đã đẩy lùi được nạn đói, vượt qua những khó khăn to lớn về hậu cần. Y tế, bình dân học vụ, giáo dục tiểu học, hoạt động văn hóa của nhân dân, các báo chí được phục hồi, góp phần tích cực động viên nhân dân kháng chiến.

Cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện của quân dân Bình - Trị Thiên đã buộc địch phải giới hạn phạm vi kiểm soát của chúng chủ yếu là các đô thị, các vùng ven quốc lộ 1, quốc lộ 9, các đường giao thông quan trọng và một số vùng đông dân ở đồng bằng mà vẫn không được yên ổn, vẫn liên tiếp bị quấy rối, tiến công, tiêu hao nhiều sinh lực. Hình thái chiến tranh cài răng lược trên chiến trường Bình - Trị - Thiên ngày càng rõ nét; ở đó, cuộc chiến đấu giành đất, giành dân giữa ta và địch diễn ra ngày càng quyết liệt. Cuộc chiến tranh đã cầm chân địch, góp phần cùng quân dân cả nước làm thắt bại chiến lược “đánh nhanh thắng nhanh” trong chiến tranh xâm lược ở Đông Dương của chúng.


(1) Là khẩu lệnh cho tổ dân quân tay không bắt sống ba tên địch, thu vũ khí trong trận Thanh Hương (Hương Thủy, Thừa Thiên); sau này trở thành phong trào tay không bắt giặc trong toàn khu.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Mười Hai, 2015, 08:55:26 pm
Sau hội nghị Khu ủy tháng 4-1947 và đặc biệt là hội nghị Khu ủy tháng 7 -1947, vai trò lãnh đạo của Đảng bộ khu đối với cuộc kháng chiến ở Khu IV dần dần rõ nét. Trước đó, một phần do Khu ủy vừa mới thành lập, trong nội bộ Khu ủy lại có những ý kiến khác nhau (chủ yếu là giữa các đồng chí lãnh đạo về quân sự với các đồng chí lãnh đạo công tác đảng) nên phần nào ảnh hưởng đến việc thực hiện nhiệm vụ lãnh đạo của Khu ủy. Vì vậy, lúc này lãnh đạo kháng chiến chủ yếu là do các đảng bộ, chính quyền địa phương và các đồng chí phụ trách các tỉnh chủ động thực hiện. Riêng ở Bình - Trị - Thiên, Khu ủy giao cho Phân khu ủy Bình Trị Thiên do đồng chí Nguyễn Chí Thanh đứng đầu trực tiếp chỉ đạo, nhờ đó mà phong trào ngày càng được củng cố và phát triển. Hội nghị Khu ủy (cán bộ khu) tháng 7-1947 đánh dấn một mốc quan trọng, khẳng định sự lãnh đạo của Khu ủy, gắn bó Bình - Trị - Thiên với Thanh - Nghệ - Tĩnh; đồng thời xây dựng nề nếp lãnh đạo. Khu ủy chủ trương phải cải tiến lề lối làm việc đảm bảo sự lãnh đạo thống nhất, tập trung đảm bảo sự lãnh đạo thống nhất, tập trung của Khu ủy.

Dưới sự lãnh đạo của Khu ủy, các tỉnh lần lượt tổ chức các hội nghị, hoặc đại hội đại biểu đảng bộ tỉnh nhằm đánh giá gần một năm kháng chiến và đề ra những chủ trương, biện pháp thiết thực để đưa cuộc kháng chiến đi lên.

Tháng 9-1947, tại chiến khu Hòa Mỹ, Hội nghị cán bộ Đảng bộ Thừa Thiên - Huế họp bàn vấn đề xây dựng cơ sở đảng; kiểm điểm tình hình công tác đảng bộ từ sau hội nghị tháng 3-1947; thảo luận chỉ thị, nghị quyết của Trung ương và Khu ủy; xác định chương trình hành động và bầu lại Ban chấp hành đảng bộ tỉnh.

Tháng 11-1947, Đảng bộ tỉnh Quảng Trị tổ chức đại hội đại biểu lần thứ hai. Đại hội xác định những biện pháp nhằm đẩy mạnh công cuộc kháng chiến trên địa bàn tỉnh; tích cực xây dựng cơ sở đảng, nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đảng viên, kiên trì kháng chiến lâu dài; củng cố khối đoàn kết toàn dân, coi trọng công tác mặt trận; đẩy mạnh xây dựng lực lượng dân quân, tự vệ, du kích; tổ chức lãnh đạo phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng, vận động quần chúng trực tiếp tham gia đánh giặc giữ làng… Đại hội cũng đã bầu Ban Chấp hành mới, đồng chí Đặng Thí được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy.

Ở Quảng bình, ngày 12-8-1947, Tỉnh ủy tổ chức hội nghị tại Thuận Đức quán triệt nghị quyết của Hội nghị cán bộ toàn khu, đánh giá sự lãnh đạo của đảng bộ và chủ trương tích cực phát triển chiến tranh du kích ở vùng sau lưng địch, mở rộng chiến khu Tuyên Hóa, đẩy mạnh công tác dân vận…

Suốt năm 1947, do địch tăng cường đánh phá kết hợp với cướp bóc, tàn sát nên đời sống của nhân dân, cán bộ, lực lượng vũ trang gặp rất nhiều khó khăn. Lương thực, quần áo, chăn màn, thuốc men đều thiếu nghiêm trọng. Trong lúc cái đói, cái rét đe dọa, địch lại tăng cường mở rộng vùng chiếm đóng. Chúng củng cố Ba Đồn, đánh chiếm Hương Phương, Tiên Lạng, Chương Hà, Xuân Phương, Xuân Sơn, Hà Lôi, Troóc… làm bàn đạp đánh ra Hà Tĩnh, cắt đường tiếp tế của ta từ Nghệ - Tĩnh vào Tuyên Hóa qua Ba Lùm, Ba Lợi, U Bò (nam Quảng Bình). Ở Thừa Thiên, cuối năm 1947, bộ đội và nhân dân phải đối diện với cái đói, cái rét ghê gớm. Địch phong tỏa mọi nẻo đường tiếp tế vào các chiến khu Hòa Mỹ, Truồi. Chiến khu Ba Lòng (Quảng Trị) cúng bị địch phong tỏa gây cho ta rất nhiều khó khăn.

Để chi viện cho chiến trường Bình - Trị - Thiên, Khu ủy đã điều động nhiều đơn vị dân công chuyển hàng trăm tấn hàng của nhân dân Thanh - Nghệ - Tĩnh góp sức cùng Bình - Trị - Thiên kháng chiến. Với tình nghĩa anh em ruột thịt, nhân dân Thanh - Nghệ - Tĩnh vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ, ác liệt, hy sinh cùng với các đơn vị bộ đội đưa hàng ra tiền tuyến. Mặc dù quân Pháp phong tòa khắp nơi, các đội vận tải thuyền buồm vẫn cặp bến Hương Đạo (Lệ Thủy), Cường Giáp, Thái Lão, Rạch Nước (Vĩnh Linh), Gia Đằng (Triệu Phong), Kê Môn, Đại Lược (bắc cửa Thuận An)… Chỉ tính ba tháng cuối năm 1947, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh đã chuyển vào Bình - Trị - Thiên được hơn 100 tấn gạo, 320 tấn muối, 21.000m vải, 10.00 viên thuốc sốt rét, 300 súng trường, 35.000 quả lựu đạn, 200 viên đạn bazôca. Thanh Hóa còn ủng hộ 1.500.000 đồng, Hà Tĩnh và Nghệ An ủng hộ 2.700.000 đồng.

Để bảo đảm nguồn hậu cần tại chỗ của chiến tranh nhân dân, các cấp bộ đảng và chính quyền các địa phương động viên nhân dân và bổ đội đẩy mạnh tăng gia sản xuất, chiến đấu để bảo vệ sản xuất, đẩy mạnh sản xuất để bồi dưỡng sức chiến đấu, kháng chiến lâu dài. Nhờ phát huy tinh thần tự lực, tự cường, quân, dân Bình - Trị - Thiên đã vượt qua nạn đói. Đêm đêm từng đoàn hàng trăm người gánh gạo tiếp tế cho nhân dân.

Trong kháng chiến đầy khó khăn, gian khổ, ác liệt, quân dân Khu IV vẫn lạc quan, tin tưởng vào thắng lợi cuối cùng. Khắp nơi duy trì nếp sống văn hóa vui tươi, lành mạnh. Các lớp bình dân học vụ vẫn mở, sách báo vẫn ra đều đặn. Tỉnh nào cũng ra báo kịp thời động viên toàn dân tham gia kháng chiến. Khu IV có báo Cứu quốc, Chiến sĩ, Thanh Hóa có báo: Truyền tin, Chống giặc, Nghệ An có báo: Truyền thanh, Kháng chiến, Hà Tĩnh có báo: Thông tin, Gọi bạn, Quảng Bình có báo: Truyền tin, Thống nhất, Quảng Trị có báo: Tiếng vang, Địch vận, Người lính; Thừa Thiên có báo: Giết giặc, Tiến quân

Năm đầu kháng chiến, khu IV là nơi tập trung nhiều văn nghệ sĩ ở các tỉnh phái Bắc, lại được lãnh đạo khu và các tỉnh quan tâm (đặc biệt là Khu trưởng Nguyễn Sơn) khuyến khích, vì vậy phong trào văn hóa, văn nghệ ở đây sớm phát triển, đặc biệt là từ cuối năm 1947 trở đi, phong trào càng đi vào chiều sâu, có nhiều tác phẩm tốt phục vụ đắc lực toàn dân kháng chiến.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Mười Hai, 2015, 08:59:13 pm
Qua hơn một năm kháng chiến, cán bộ, đảng viên, quân, dân Bình - Trị - Thiên dưới sự lãnh đạo kiên định và sáng tạo của các cấp ủy đảng đã vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, hy sinh, thực hiện cuộc chiến tranh nhân dân, giằng co quyết liệt với kẻ thù để bảo vệ dân, bảo vệ chính quyền cách mạng, bảo vệ Đảng, giữ vững con đường giao thông huyết mạch Bắc - Nam và giao thông liên lạc Việt - Thái.

Kháng chiến phát triển, các cấp bộ đảng ở Bình - Trị - Thiên ngày càng trưởng thành. Các cấp ủy đảng và đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo các cấp nâng cao thêm kiến thức và tích lũy được nhiều kinh nghiệm về chỉ đạo chiến tranh. Chỉ đạo đảng dược chỉnh đốn, được xây dựng thêm. Đội ngũ đảng viên được sàng lọc, thử thách và phát triển, nhiều đồng chí đã phát huy được tác dụng lãnh đạo, nòng cốt cho phong trào chiến tranh nhân dân ở cơ sở với nhiều mức độ khác nhau. Ở Thừa Thiên, lúc địch đánh chiếm toàn tỉnh, nhiều chi bộ bị tan rã, số đảng viên chỉ còn không đầy 600 người, đến tháng 10-1947, đã có 94 chi bộ, với 1.133 đảng viên. Ở Quảng Trị từ 700 đảng viên tăng lên 1.670 người. Ở Quảng Bình có 850 đảng viên (1947) đến tháng 5-1948 đã có 1.500 người.

Tuy nhiên, ở Bình - Trị - Thiên, cơ sở đảng ở nhiều nơi mới tập trung, củng cố lại, trình độ nhận thức, tư tưởng của cán bộ, đảng viên còn những vẫn đề chưa được giải quyết tốt, do vậy tập trung lãnh đạo, chỉ đạo phong trào còn chưa thật rõ nét.

Trước sự phát triển của các cấp bộ đảng, chính quyền và lực lượng vũ trang, đặc biệt là chiến tranh du kích đã bắt đầu giành được những thắng lợi quan trọng, giặc Pháp điên cuồng tổ chức nhiều cuộc càn quét với quy mô ngày càng lớn, và tính chất rất ác liệt, dã man. Từ Thừa Thiên ra Quảng Trị, Quảng Bình, giặc Pháp tiến hành nhiều vụ thảm sát rất tàn bạo như chặt người ra nhiều khúc, bêu đầu ở chợ, chọc tiết, moi gan, xé xác trẻ em ném vào lửa… Vụ thảm sát 300 dân thường ở Mỹ Trạch, Phú Chánh (Lệ Thủy) tháng 11-1947; vụ thảm sát ở chợ Cạn (Triệu Phong, Quảng Trị) chúng giết hại hơn 600 người. Tính từ đầu kháng chiến đến tháng 3-1948, ở Bình - Trị - Thiên có hơn 2.500 cán bộ, đảng viên đã hy sinh anh dũng, 25.000 đồng bào, chiến sĩ bị giết. Riêng ở Thừa Thiên, giặc Pháp đã đốt hơn 5.000 nóc nhà, giết hại hơn 2.000 dân thường… Bình - Trị - Thiên đã trải qua những ngày đau thương chưa từng có.

Hơn một năm kháng chiến đầy khó khăn gian khổ. Đảng bộ, chính quyền, lực lượng vũ trang và nhân dân Bình - Trị - Thiên đã anh dũng chiến đấu. Mặc dù lực lượng ta yếu hơn địch về nhiều mặt nhưng cũng đã giành được những thắng lợi quan trọng, góp phần cùng cả nước đánh thắng chiến lược đánh nhanh thắng nhanh của địch, từng bước khối phục được cơ sở, củng cố và phát triển lực lượng kháng chiến, chuẩn bị bước vào một giai đoạn mới.

Sau khi đánh chiếm Bình - Trị - Thiên, quân Pháp âm mưu chiếm đóng cả vùng phía đông và phía tây khu IV. Ở phía tây, chúng cho quân từ Lào sang đánh chiếm một số xã thuộc huyện Thường Xuân (Thanh Hóa), Tương Dương, Quý Châu (Nghệ An), tập kích vào một số nơi ở Hương Khê (Hà Tĩnh), Tuyên Hóa (vùng tự do của Quảng Bình giáp Hà Tĩnh). Chúng cấu kết với bọn thổ ty, lang đạo phản động ở miền tây Thanh Hóa như Lê Xuân Kỳ, Lê Xuân Tín ở Lang Chánh, bọn phản động trong đảng “Bào ca” ở miền tây Nghệ An, âm mưu lập “Xứ Mường tự trị”, “Xứ Thái tự trị”(1). Ở phía động, bọn Pháp từ ngoài biển tập kích vào một số xã ven biển thuộc Tĩnh Gia (Thanh Hóa), Quỳnh Lưu (Nghệ An), Kỳ Anh (Hà Tĩnh) và cho phi cơ thám thính bắn phá một số nơi để phá hoại, thăm dò. Ở nội địa, giặc Pháp cấu kết với bọn phản động, nhất là bọn phản động đầu sỏ đội lốt tôn giáo trong các giáo phận Thiên cháu giáo như Xã Đoài (Nghi Lộc, Nghệ An) để chống đối chính quyền cách mạng, ngăn cản không cho giáo dân tham gia kháng chiến, xây dựng lực lượng ngầm, mua sắm vũ khí, luyện tập quân sự, đợi thời cơ nổi dậy đánh phá ta.

Ngay từ những ngày đầu kháng chiến, Khu ủy, các cấp ủy đảng ở Thanh - Nghệ - Tĩnh, Bộ chỉ huy quân sự và bộ máy kháng chiến các cấp đã chuyển hẳn trọng tâm công tác sang lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức và động viên toàn dân đứng dậy sẵn sàng đánh giặc, kiên quyết bảo vệ vững chắc vùng tự do. Tổ chức cơ sở đảng, các cơ quan lãnh đạo đảng các cấp, chính quyền kháng chiến các cấp không ngừng được củng cố, kiện toàn. Các đoàn thể chính trị và mặt trận được mở rộng, thu hút thêm nhiều hội viên; khối đoàn kết toàn dân trên địa bàn thêm vững chắc. Lực lượng dân quân, tự vệ và bộ đội phát triển, hăng hái luyện tập, sẵn sàng chiến đấu. Quân, dân không ngừng đề cao cảnh giác và ý chí chiến đấu, đẩy mạnh công tác bố phòng ở khắp nơi, nhất là gấp rút lập các chướng ngại vật, xây dựng công sự tác chiến ở các đô thị, ở những vùng ven biển và các vùng xung yếu khác dự kiến địch có thể đánh tới. Để chống quân nhảy dù, nhân dân còn cắm chông tre vót nhọn ở các bãi biển, các sân vận động và sân bay Yên Đại (Nghệ An). Các Trung đoàn 57 (Nghệ An), Trung đoàn 103 (Hà Tĩnh), Trung đoàn 77 (Thanh Hóa) được bố trí ở các vùng quan trọng ven biển như Kỳ Anh, cầu Cấm, Cửa Hội, Sầm Sơn, Tĩnh Gia… để chống quân đổ bộ.


(1) Lê Xuân Kỳ, nguyên là thổ ty Lang Chánh, tri châu cũ của Pháp. Lợi dụng chức vụ Chủ tịch Ủy ban hành chính thượng du đã cùng con trai là Lê Xuân Tín, Chủ tịch Ủy ban kháng chiến huyện Lang Chánh âm mưu làm phản. Một mặt chúng ra sức lừa phỉnh nhân dân; mặt khác chúng bí mật tuyển mộ ngụy binh, mua sắm vũ khí, tích trữ gạo, muối, rào làng chiến đấu, lập “chiến khu” Lê Lai thuộc xã Tân Phúc (huyện Lang Chánh). Con đường đi Yên Khương lên biên giới Việt - Lào bị chúng phong tỏa, bộ đội ta không vào được.
Đầu năm 1948, bộ đội ta bắt được tên liên lạc của Kỳ - Tín mang thư của tên quan ba Pháp Vanuyxem đóng tại Sầm Nưa (Lào), gửi cho Tín. Thư viết: “nếu ông giúp quân đội đánh bại Việt Minh cộng sản thì tôi sẽ đề nghị Thống sứ Đông Dương thành lập một vùng tự trị của người Mường hoặc một xứ Mường từ thượng du Thanh Hóa đến thượng du Nghệ An…” (Hồi ký của đồng chí Lê Hữu Khai, người trực tiếp chỉ huy bắt cha con Kỷ - Tín tháng 6-1948).


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Mười Hai, 2015, 08:36:44 pm
Thực hiện chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phá hoại để kháng chiến, thành phố Vinh, thị xã Thanh Hóa, thị xã Hà Tĩnh và các công sở, nhà cửa kiên cố ở các thị trấn được phá hoại triệt để. Trên 11.000 ngôi nhà trong đó có 301 nhà tầng ở thành phố Vinh, 10.000m2 nhà ở thị xã Hà Tĩnh, 1.000 ngôi nhà và 30 công sở ở thị xã Thanh Hóa đã bị phá sập. Máy móc, cơ sở, kho tàng, cơ quan ở các đô thị được tích cực di chuyển về phía sau; nhân dân tản cư khỏi các thành phố, thị xã. Các cầu lớn và cầu dài 50 mét trở lên trên quốc lộ 1, 7, 8 bị phá sập. Đường sắt bị bóc hết đường ray, 77 đầu máy xe lửa, 750 toa xe bị phá. Quốc lộ 1 chi chít hầm chữ chi và bị cắt ra nhiều đoạn. Các trục đường giao thông quan trọng bị phá hoại nhằm không cho giặc Pháp tiến quân dễ dàng nếu chúng đánh vào.

Với tình cảm sâu nặng “nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng”, nhân dân vùng nông thôn đã đón tiếp chu đáo, san sẻ chỗ ở, tạo thuận lợi làm ăn cho 112.000 đồng bào Bình - Trị - Thiên, Khu III tản cư đến Thanh - Nghệ - Tĩnh và hàng vạn đồng bào đô thị trong ba tỉnh chuyển cư về phía sau. Nhiều trại tăng gia sản xuất ở vùng trung du và đồng bằng được chính quyền các tỉnh thành lập để đón tiếp đồng bào tản cư tới làm ăn sinh sống (trại Thanh Sơn, Lê Mao ở Nghệ An, trại Đá Bạc, Tây Hồ ở Hà Tĩnh).

Để tăng cường hơn nữa khối đại đoàn kết toàn dân và huy động được lực lượng to lớn của nhân dân đánh giặc, giữ nước, tổ chức mặt trận và các đoàn thể quần chúng không ngừng được củng cố và mở rộng; những tổ chức mới thích hợp được thành lập như: Hội phụ lão kháng chiến; Hội mẹ chiến sĩ; Hội văn hóa, văn nghệ kháng chiến, các đoàn văn nghệ kháng chiến (tập hợp rộng rãi các văn nghệ sĩ, trí thức tại chỗ và từ Hà Nội, Huế và các nơi về hoạt động trên địa bàn Thanh - Nghệ - Tĩnh). Hoạt động của các tổ chức chính trị xã hội và nghề nghiệp rất sôi nổi và đều hướng vào mục đích giáo dục, động viên và tổ chức các tầng lớp nhân dân hăng hái thực hiện các công tác kháng chiến, kiến quốc thiết thực, cấp bách trước mắt.

Đầu năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh định về thăm và xem xét tình hình mọi mặt của vùng Thanh - Nghệ - Tĩnh, đồng thời làm việc trực tiếp với cán bộ các cấp của Khu IV, của các tỉnh, gặp gỡ các nhân sĩ, trí thức và nhân dân các dân tộc nơi đây để tìm hiểu và suy nghĩ về những vấn đề lớn của cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện và lâu dài. Nhưng vì công việc khẩn cấp của cuộc kháng chiến, Người chỉ về thăm và làm việc tại Thanh Hóa.

Nói chuyện với cán bộ, đại biểu nhân dân và thân sĩ, phú hào, trí thức ở Thanh Hóa ngày 20-2-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định rõ vị trí, vai trò của tỉnh với ý thức coi đây đã và sẽ là một vùng căn cứ địa kháng chiến, hậu phương chiến lược của cuộc kháng chiến, Người giao nhiệm vụ cho Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thanh Hóa phải ra sức xây dựng địa phương thành một vùng hậu phương với một chế độ xã hội mới, ưu việt, kiểu mẫu về mọi mặt. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: xây dựng Thanh Hóa thành tỉnh kiểu mẫu tức là “Làm sao cho mọi mặt chính trị, kinh tế, quân sự phải là kiểu mẫu. Làm một người kiểu mẫu, một nhà kiểu mẫu, một làng kiểu mẫu, một huyện kiểu mẫu, một tỉnh kiểu mẫu(1). Xây dựng Thanh Hóa kiểu mẫu đồng nghĩa với xây dựng chế độ dân chủ nhân dân trên tất cả các lĩnh vực, tạo ra tiềm lực hùng hậu của căn cứ địa, hậu phương kháng chiến. Người còn căn dặn phải làm tốt chính sách hậu phương, tiếp đón và giúp đỡ cán bộ và đồng bào tản cư từ các nơi khác đến… Người còn khẳng định:

- Về cán bộ: “Cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng tê liệt. Cán bộ là những người đem chính sách của Chính phủ, của Đoàn thể thi hành trong nhân dân, nếu cán bộ dở thì chính sách hay cũng không thể thực hiện được”(2).

- Về xây dựng Thanh Hóa kiểu mẫu:
“Làm cho người nghèo thì đủ ăn,
Người đủ ăn thì khá giàu,
Người giàu thì giàu thêm.
Người nào cũng biết chữ,
Người nào cũng biết đoàn kết yêu nước”(3).

Cũng trong thời gian này, Hồ Chủ tịch gửi thư thăm hỏi đồng bào thiểu số Thanh Hóa. Người viết: “Lúc này toàn thể quốc dân đang ra sức chống giặc, cứu nước. Tôi chắc đồng bào Thượng du đều ra sức đoàn kết, chuẩn bị tham gia giết giặc cứu nước để giữ vững quyền thống nhất độc lập của Tổ quốc. Việc dìu dắt đồng bào Thượng du, tôi trông cậy lòng ái quốc và sự hăng hái của các vị lang đạo”(4).

Vì điều kiện khẩn cấp của những ngày đầu kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh không về thăm và làm việc với cán bộ và nhân dân các địa phương khác ở Khu IV, đầu tháng 3-1947, Người viết thư gửi các đồng chí Trung Bộ. Người nghiêm khắc phê phán những biểu hiện của tư tưởng cô độc, hẹp hòi, địa phương chủ nghĩa, bản vị, cục bộ, bè phái, ích kỷ, kiêu ngạo có hại cho việc tăng cường đoàn kết toàn dân, đoàn kết nội bộ.

Công tác vận động đồng bào các dân tộc thiểu số ở các huyện miền núi và trung du Thanh, Nghệ và công tác vận động đồng bào theo đạo Thiên Chúa được chú trọng hơn, nhất là từ sau Hội nghị cán bộ toàn khu tháng 7-1947.


(1), (2), (3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, xuất bản lần thứ hai, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.5, tr. 62-63, 65.
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, xuất bản lần thứ hai, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.5, tr.64.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Mười Hai, 2015, 08:37:58 pm
Nghiêm chỉnh thực hiện thư Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi đồng bào Thượng du Thanh Hóa tháng 2-1947 và Sắc lệnh ngày 4-4-1947 của Chính phủ, tỉnh Thanh Hóa đã thành lập Ủy ban hành chính thượng du Thanh Hóa, đồng thời thành lập Ban cán sự đảng miền Tây; phái nhiều cán bộ miền xuôi có năng lực lên giúp đỡ ủy ban, cơ quan chỉ huy dân quân miền và các cơ quan lãnh đạo các huyện, chỉ đạo và tổ chức thực hiện các mặt công tác trước mắt, tuyên truyền vận động giác ngộ quần chúng, xây dựng cơ sở. Tiếp theo, đưa một bộ phận lực lượng vũ trang của tỉnh lên tăng cường cho miền tây đánh địch bảo vệ địa bàn. Các đồn Hồi Xuân, La Hán của địch ta ta tiêu diệt (mặc dầu sau đó địch chiếm đóng lại và mở rộng chiếm đóng ra một vài nơi khác, quân ta phải giành đi giật lại một số lần). Một ít tên lang đạo, phìa tạo phản động đã lộ rõ bộ mặt làm tay sai cho giặc, phản bội Tổ quốc bị bắt và trừng trị.

Ở Nghệ An, Tỉnh ủy cũng đưa nhiều cán bộ miền xuôi lên các huyện miền tây giúp đỡ các cơ quan lãnh đạo các huyện làm công tác vận động quần chúng, xây dựng lực lượng kháng chiến, tiến hành đánh địch, bảo vệ biên cương. Một bộ phận lực lượng vũ trang của tỉnh được đưa lên hoạt động ở miền núi. Quân giặc từ Lào đột nhập sang chiếm đóng một số nơi bị đánh bật trở lại bên kia biên giới. Một ít tên Thổ ty, lang đạo phản động làm tay sai cho giặc, khống chế nhân dân, phá hoại kháng chiến ở Quỳ Châu, Tương Dương bị trừng trị.

Ở Hà Tĩnh, lực lượng bộ đội tỉnh kết hợp với dân quân các huyện Hương Khê, Hương Sơn, Đức Thọ, Can Lộc cũng đánh bọn địch tập kích vào vùng Vụ Quang, buộc chúng trở lại đất Lào và chặn địch ở Na Pê giữ vững vùng biên cương của Tổ quốc. Các tầng lớp nhân dân các dân tộc ngày càng giác ngộ. Các lang đạo tiến bộ ngày càng tích cực tham gia kháng chiến. Âm mưu lập “Xứ Mường tự trị”, “Xứ Thái tự trị” của địch giữa năm 1948 bị đập tan. Khối đoàn kết các dân tộc ở miền tây Thanh - Nghệ ngày càng được củng cố, mớ rộng.

Trên phạm vi toàn vùng tự do, công tác vận động đồng bào theo đạo Thiên Chúa ngày càng có kết quả tốt. Đồng bào quần chúng giáo dân và các các chức sắc tiến bộ đứng về phía kháng chiến. Các tổ chức quần chúng thích hợp nhằm tập hợp giáo dân phát triển. Những âm mưu thủ đoạn xảo quyệt của bọn phản động đầu sỏ và tay chân nhằm chia rẽ giáo dân với Đảng và Chính phủ, chia rẽ giáo lương, khống chế không cho giáo dân tham gia kháng chiến… bị vạch trần. Các vụ nổi loạn giết cán bộ, phá rối trật tự trị an, chống lại chính quyền của bọn phản động ở Mậu Thôn (Nông Cống, Thanh Hóa), tháng 6-1947 và giết bộ đội, bắt cóc cán bộ, thành lập đội tự vệ công giáo chống cộng ở Liên Sơn, Điền Hộ (Nga Sơn, Thanh Hóa) tháng 9-1947 bị nghiêm trị. Hành động của giặc Pháp khủng bố giáo dân ở xứ đạo Cồn Tiên (Nga Sơn, Thanh Hóa) ngày 3-4-1948, giết hơn 10 thanh niên, hãm hiếp nhiều bà xơ, bắt nhiều người, cướp của, làm cho giáo dân căm giận, nguyền rủa bọn phản động đột lốt tôn giáo. Đồng bào giáo dân ngày càng giác ngộ về chính trị, về lợi ích bản thân dưới chế độ mới, ngày càng thấy rõ hơn âm mưu, thủ đoạn của giặc và bè lũ tay sai. Thành kiến lương - giáo được giải tỏa, khối đoàn kết lương - giáo để kháng chiến, kiến quốc được củng cố và tăng cường.

Để thống nhất sự chỉ đạo, tổ chức, điều hành về mặt nhà nước công cuộc kháng chiến, kiến quốc và nâng cao hiệu lực của bộ máy chính quyền, sau khi Ủy ban hành chính và Ủy ban kháng chiến các cấp được hợp nhất thành Ủy ban kháng chiến hành chính, việc xây dựng và củng cố bộ máy chính quyền được đặc biệt quan tâm. Ngoài việc tăng cường cho chính quyền nhiều cán bộ có năng lực, những quy chế và lề lối làm việc được xây dựng, Ủy ban kháng chiến hành chính các cấp bao gồm những cán bộ trong Đảng và ngoài Đảng thực sự đáng tin cậy, có năng lực về các mặt, có uy tín với nhân dân.

Xây dựng nền kinh tế tự cung tự cấp trong kháng chiến được Khu ủy, Ủy ban kháng chiến hành chính khu và các cấp bộ đảng, chính quyền đặt thành nhiệm vụ trung tâm của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Khắp nơi dấy lên phong trào sôi nổi tăng gia sản xuất nông nghiệp, trước hết là tăng gia sản xuất lương thực. Giai cấp nông dân có sự chỉ đạo, hướng dẫn, giúp đỡ của chính quyền cách mạng và nông hội đã hăng hái lao động sản xuất, thực hiện các chính sách giảm tô, thực hành tiết kiệm để tự giải quyết vấn đề ăn, cung cấp lương thực, thực phẩm cho bộ đội và đóng góp cho kháng chiến. Các đơn vị bộ đội, dân quân, tự vệ cũng thành lập các trại sản xuất để tự giải quyết lấy một phần lương thực, thực phẩm. Các cơ sở công kỹ nghệ chuyển khỏi thành phố, tiểu thủ công nghiệp truyền thống ở nông thôn và các xưởng mới sản xuất hàng tiêu dùng được khuyến khích phục hồi và phát triển. Các xưởng sản xuất và sửa chữa vũ khí thuộc ngành quân giới phát triển mạnh. Tại Hương Khê (hà Tĩnh), Ủy ban kháng chiến hành chính Trung Bộ thành lập hai cơ sở sản xuất vũ khí; lập xưởng quân giới Khu IV ở Đô Lương (Nghệ An). Khu còn có xưởng Phủ Quỳ với hơn 100 công nhân, xưởng Lê Đình Du, xưởng Lê Viết Thuật, xưởng Hoàng Hữu Nam. Ở các địa phương, tỉnh nào cũng có xưởng quân giới, Thanh Hóa có lò cao Như Xuân. Để tập trung thống nhất chỉ đạo, tháng 12-1947, Bộ chỉ huy Khu IV quyết định sáp nhập và phân loại các xưởng quân giới, trong đó có năm xưởng lớn là xưởng Phủ Quỳ, Lê Đình Du, Hoàng Hữu Nam, Quách Văn Cừ và Huỳnh Thúc Kháng. Giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn đã có những nỗ lực phi thường vượt qua nhiều khó khăn, gian khổ để vận chuyển hàng vạn tấn máy móc từ Huế, Vinh và các đô thị khác tới các nơi an toàn ở Thanh - Nghệ - Tĩnh; dựng lại cơ xưởng, duy trì và phát triển sản xuất công nghiệp. Nhiều cán bộ khoa học, kỹ thuật tự nguyện lên rừng núi và về nông thôn, sống cùng công nhân, nông dân, nghiên cứu sáng chế ra những máy móc, nguyên liệu, sản phẩm mới cần thiết cho việc đánh giặc, cho cuộc sống nhân dân và hướng dẫn cải tiến kỹ thuật sản xuất nông, công nghiệp. Nhờ vậy, đến đầu năm 1948, Thanh Hóa đã tự giải quyết được vấn đề lương thực và có thừa lương thực chi viện cho các nơi khác. Toàn vùng Thanh - Nghệ - Tĩnh đã sản xuất dược nhiều muối, cá, nước mắm, có thừa cung cấp cho ngoài tỉnh. Đã sản xuất được một số mặt hàng thiết yếu như vải, giấy và một số nguyên liệu cần thiết cho sản xuất công nghiệp. Đã sản xuất được một khối lượng đáng kể các loại vũ khí thô sơ, súng kịp, mìn, lựu đạn, bức kích pháo, bazoka, DKZ cung cấp cho các lực lượng vũ trang ở cả hai vùng.

Về văn hóa, giáo dục, y tế: Các trại giáo dục liên khu, trại hè tỉnh, hội nghị văn hóa… được tổ chức và hoạt động sôi nổi. Phong trào bình dân học vụ, giáo dục tiểu học, trung học phát triển nhanh. Cuộc vận động đời sống mới mở rộng. Các hoạt động của giới trí thức, văn nghệ sĩ và sự phát triển rộng rãi của phong trào văn nghệ quần chúng làm cho cuộc sống tinh thần của nhân dân thêm phong phú.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Mười Hai, 2015, 08:38:53 pm
Sau khi mở rộng chiến tranh ra ngoài các thành phố, thường xuyên như: Hà Đông, Phủ Lý, Nam Định… cùng với việc chuẩn bị tiến công lên Việt Bắc, thực dân Pháp âm mưu tổ chức một lực lượng lớn đánh vào bắc Khu IV (Thanh - Nghệ - Tĩnh). Để chuẩn bị lực lượng về mọi mặt đối phó với âm mưu của địch, các cơ quan lãnh đạo khu chuyển từ Nghệ An ra Thanh Hóa. Sau khi ra vùng Nông Cống (Thanh Hóa), khu chủ trương đẩy mạnh phong trào luyện quân lập công. Để nâng cao sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang, khu lấy việc bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm trung tâm. Để thành công lớp bồi dưỡng cán bộ trung cấp đầu tiên, thời gian sáu tháng, gồm 50 cán bộ trung đoàn, tiểu đoàn bộ đội chủ lực, cán bộ chỉ huy quân sự địa phương cấp tỉnh và trưởng, phó phòng cơ quan khu. Các đồng chí khu trưởng, chính trị ủy viên khu trực tiếp phụ trách các nội dung về quan điểm trường kỳ kháng chiến, tự lực cánh sinh, về chiến thắng du kích, du kích vận động chiến, chỉ huy tác chiến đại đội, tiểu đoàn, trung đoàn. Sau đó là các lớp bổ túc cán bộ đại đội, lớp bồi dưỡng ngắn ngày các ủy viên thường vụ tỉnh ủy, thường trực ủy ban… liên tục được thành công, riêng khóa 7 đã có 120 người theo học.

Khu chủ trương xây dựng Trung đoàn 9 thành trung đoàn chủ lực mạnh của khu.

Ngày 30-11-1947, khu mở Đại hội tập lần thứ nhất ở núi Nưa (Nông Cống). Những đợt thi đua rèn luyện giữa cán bộ, chiến sĩ các đơn vị diễn ra trên tất cả các mặt: kỹ thuật, chiến thuật, công tác nuôi quân, quản lý bộ đội, công tác chính trị, văn hóa, văn nghệ liên tục diễn ra sôi nổi. Nhiều đơn vị lập được thành tích xuất sắc; cán bộ chỉ huy từ trung đoàn đến đại đội, trung đội, trưởng thành rõ rệt; trình độ kỹ, chiến thuật của chiến sĩ các đơn vị trong toàn khu được nâng lên một bước.

Sau Đại hội tập, Bộ chỉ huy khu phân công cán bộ trung cấp đi nhận nhiệm vụ ở các trung đoàn, các tỉnh, ưu tiên các đơn vị phía trước. Đây cũng là những cán bộ nòng cốt của các đơn vị trong năm 1948.

Ngay từ đầu cuộc kháng chiến, việc xây dựng lực lượng vũ trang đã được các cấp quan tâm; từ sau ngày toàn quốc kháng chiến càng được các cấp chú trọng hơn nữa. Các xã đều có tổ chức dân quân, tự vệ và trung đội du kích; nhiều thôn, xã có đội lão dân quân, nữ dân quân riêng. Dân quân, du kích được huấn luyện về kỹ thuật sử dụng vũ khí sẵn có, về kỹ thuật và chiến thuật chiến đấu cá nhân, về công tác bảo mật phòng gian, về vai trò xung kích trong sản xuất và vai trò nòng cốt trong chiến tranh nhân dân. Lực lượng dân quân, du kích tập trung ở cấp tỉnh, huyện phát triển, ở Thanh Hóa lên đến chín đại đội, Nghệ An bốn đại đội, Hà Tĩnh hai đại đội và một số trung đội.

Dưới sự lãnh đạo của Khu ủy và sự chỉ đạo, chỉ huy của Bộ chỉ huy quân sự khu, cùng với việc đẩy mạnh phong trào luyện quân, lập công, nâng cao sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang, công việc chuẩn bị đánh địch đổ bộ vào Thanh - Nghệ - Tĩnh trong đông - xuân 1947-1947 và xuân - hè 1948 được xúc tiến ráo riết và khẩn trương. Phong trào thi đua xây dựng làng chiến đấu theo kiểu Cự Nẫm phát triển rộng rãi, nhất là ở những vùng dự kiến địch có thể đánh vào. Công tác bố phòng, phòng gian, bảo mật được tăng cường. Các lực lượng vũ trang tập trung được bố trí đứng chân ở những địa bàn dự kiến địch có thể đánh tới. Một bộ phận lực lượng bộ đội chủ lực ở vùng tự do được điều vào Quảng Bình cùng với lực lượng vũ trang tại chỗ đẩy mạnh du kích chiến tranh để kiềm chế địch trên chiến trường Bình - Trị - Thiên, không cho chúng đánh ra Thanh - Nghệ - Tĩnh. Khu ủy, Bộ chỉ huy quân sự khu và bộ máy kháng chiến cấp khu dời từ Nghệ An ra Thanh Hóa - nơi dự kiến có nhiều khả năng địch đánh vào nhất - để trực tiếp lãnh đạo và chỉ đạo Đảng bộ, chính quyền, cơ quan chỉ huy quân sự và mọi lực lượng trên địa bàn Thanh Hóa chuẩn bị một cách chu đáo nhất cho việc đánh giặc và thắng giặc. Một mặt, do đảng bộ và quân, dân ở Thanh - Nghệ - Tĩnh chuẩn bị ráo riết, mặt khác, do địch phải tập trung bình định vùng bị chiếm trước hoạt động mạnh của quân dân ta trên các chiến trường trong đông - xuân 1947-1948 và xuân - hè 1948, địch không có đủ sức và không dám đánh rộng ra vùng Thanh - Nghệ - Tĩnh.

Công tác xây dựng đảng bộ được chú trọng thường xuyên. Ngoài đợt sinh hoạt chính trị tiếp thu và thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thư Người gửi các đồng chí Trung Bộ ngày 1-3-1947, Khu ủy và các cấp bộ đảng đã tổ chức nhiều đợt nghiên cứu, học tập và một số lớp huấn luyện cho cán bộ, đảng viên nhằm quán triệt đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh, xây dựng chế độ dân chủ, xây dựng đảng tiền phong của giai cấp công nhân và các chủ trương, chính sách lớn của Trung ương, Đảng, Chính phủ. Sinh hoạt đảng ở các cấp được giữ vững; nội dung sinh hoạt chủ yếu tập trung bàn việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách và giải quyết những vấn đề cụ thể do thực tế kháng chiến đặt ra cho từng cấp, từng cơ sở. Việc củng cố và phát triển cơ sở Đảng, kết nạp đảng viên mới được coi trọng cả trong và ngoài quân đội, nhất là từ sau khi thực hiện chủ trương “xây dựng Đảng thành một đảng quần chúng”. Trong quân đội, số đảng viên từ 104 trước kháng chiến đã lên tới 1.300 vào tháng 10-1947 và trên 2.300 vào tháng 5-1948. Ở các tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh, tháng 10-1947 có 11.425 đảng viên (Thanh Hóa 2.000, Nghệ An 4.576, Hà Tĩnh 4.506) đến tháng 5-1948, đã lên tới trên 15.500 đảng viên (Thanh Hóa trên 4.000, Nghệ An gần 6.000, Hà Tĩnh trên 5.500). Việc xây dựng chi bộ tự động công tác có nhiều kết quả tốt. Đến tháng 5-1948, đã có 1/3 số chi bộ bảo đảm bốn nội dung đề ra cho hai loại chi bộ này. Các đại hội đại biểu đảng bộ tỉnh, huyện được duy trì đúng quy định để kiểm điểm, đánh giá tình hình các mặt, bàn nhiệm vụ chủ trương công tác trong năm và kịp thời kiện toàn cấp ủy, bổ sung những cán bộ mới thay thế cho số được điều động đi nhận công tác ở cấp trên, trong quân đội, ở nơi khác và để tăng thêm số lượng ủy viên nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, chỉ đạo của các huyện ủy, tỉnh ủy(1).

Hệ thống tổ chức của đảng trong lực lượng vũ trang được kiện toàn từ Đảng ủy, Bộ tư lệnh khu xuống đến các đơn vị cơ sở. Trong bộ đội chủ lực, tính đến cuối 1947 đã có 129 chi bộ với hơn 1.300 đảng viên.

Trong năm đầu của cuộc kháng chiến, đảng bộ các tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh phát triển khá nhanh, hoàn thành nhiệm vụ lãnh đạo và chỉ đạo phong trào kháng chiến toàn dân. Tuy vậy, vẫn còn nhiều mặt yếu: tổ chức cơ sở Đảng ở vùng đồng bào theo đạo Thiên chúa và ở miền núi rất ít (trong vùng đồng bào tôn giáo, nơi có nhiều đảng viên nhất là Nghệ An cũng chỉ mới có 80 đồng chí); nhiều chi bộ đảng vẫn chưa chủ động được công tác; trình độ lý luận, kiến thức chỉ đạo chiến tranh, kinh tế, văn hóa và nhiều mặt khác của cán bộ, đảng viên, kể cả số lớn cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo tỉnh, huyện, vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu lãnh đạo toàn diện công tác kháng chiến, xây dựng chế độ dân chủ trên địa bàn. Những khuyết điểm đó đã hạn chế sự phát triển và lớn mạnh của phong trào.


(1) Ở Thanh Hóa, đầu 1947, đồng chí Tố Hữu được chỉ định làm Bí thư Tỉnh ủy, năm 1948, Liên khu ủy cử đồng chí Hồ Việt Thắng, Khu ủy viên, về trực tiếp làm Bí thư; Ở Nghệ An, đồng chí Ngô Xuân Hàm được cử làm Bí thư; Ở Hà Tĩnh đồng chí Kiều Hữu Thao được cử làm Bí thư v.v.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Mười Hai, 2015, 08:39:26 pm
*
*   *

Khu IV là một địa bàn có vị trí chiến lược, đặc biệt quan trọng, thực dân Pháp tìm mọi cách chiếm bằng được, trước hết là tuyến đường số 1 và số 9, lập phòng tuyến Đà Nẵng - Đông Hà - Savanakhẹt, cắt ngang bán đảo Đông Dương, sau đó đánh rộng ra các tỉnh bắc Khu IV nối liền Nam - Bắc Việt Nam với Trung Lào. Để đạt được mục tiêu ấy, quân Pháp sử dụng mọi khả năng về người và phương tiện chiến tranh; đồng thời chúng dùng mọi âm mưu, thủ đoạn rất thâm độc và xảo quyệt, chúng không từ một hành động dã nam, tàn bạo nào của thời trung cổ nhằm khuất phục và dập tắt phong trào kháng chiến của nhân dân ta. Nhưng với truyền thống cách mạng kiên cường, quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do độc lập vừa mới giành được, nhân dân các dân tộc Khu IV dưới sự lãnh đạo của Đảng và chính quyền cách mạng đã đứng lên kháng chiến chống thực dân Pháp bằng mọi thứ vũ khí có trong tay. Mặc dù phải chịu hy sinh, tổn thất rất lớn nhưng quân, dân Khu IV đã đứng vững, đánh thắng chiến lược đánh nhanh, thắng nhanh và chia cắt chiến lược của địch. Khu IV vẫn nối liền chiến trường phía Bắc với chiến trường phía Nam, chiến trường Bắc Trung Bộ với chiến trường Trung Lào, khai thông đường liên lạc Việt - Thái. Từng bước củng cố và xây dựng lực lượng về mọi mặt để tiếp tục kháng chiến.

Những ngày đầu kháng chiến ở Khu IV đã diễn ra cuộc chiến đấu ác liệt giữa một bên là đội quân viễn chinh thiện chiến với đầy đủ các loại vũ khí hiện đại, với một bên là những chiến sĩ vừa bỏ tay cày, tay bút với giáo mác, gậy tre làm vũ khí nhất tề xông lên đánh giặc.

Chiến đấu trên một địa bàn có nhiều khó khăn, địa thế dài và hẹp, kinh tế nghèo nàn và lạc hậu, thiếu thốn đủ thứ, lại xa sự chỉ đạo của Trung ương, các lực lượng vũ trang Khu IV đã nêu cao tinh thần anh dũng, sáng tạo, chiến đấu liên tục, giành được những thắng lợi quan trọng cùng nhân dân bắt bọn địch ở Vinh, 50 ngày đêm bao vây quân địch ở Huế, chặn bước tiến của địch trên đường số 9, bảo vệ vững chắc biên giới phía tây của Khu IV, thực hiện phối hợp chiến đấu với các lực lượng cách mạng Trung Lào, xứng đáng là nòng cốt xung kích của toàn dân đánh giặc.

Sự lãnh đạo của Khu ủy, Bộ chỉ huy Khu là nhân tố đặc biệt quan trọng. Những ngày đầu kháng chiến, sự lãnh đạo và chỉ đạo của khu có lúng túng, khuyết điểm (chủ yếu là nhờ sự chủ động sáng tạo của các cấp ủy và chính quyền ở các tỉnh đã lãnh đạo và chỉ đạo phong trào kháng chiến của địa phương mình). Nhưng cùng với cuộc kháng chiến, Khu ủy, Bộ chỉ huy khu và phân khu cùng với các địa phương đã từng bước trưởng thành, ngày càng vững mạnh hơn. Các cấp bộ đảng đã quán triệt đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ, vận dụng sáng tạo vào thực tiễn địa phương mình. Đặc biệt, các cấp bộ đảng ba tỉnh phía trước (Bình - Trị - Thiên) đã vượt qua khó khăn, gian khổ, nêu cao ý chí, quyết tâm, trách nhiệm nặng nề trước vận mệnh của Tổ quốc, tính mạng và đời sống của nhân dân, bám đất, bám dân, lãnh đạo và chỉ đạo phong trào kháng chiến từng bước đi lên.

Sau hơn một năm xây dựng lực lượng và một năm tiến hành kháng chiến chống thực dân Pháp, Bình - Trị - Thiên vẫn đứng vững trên địa bàn cùng với Liên khu và cả nước kháng chiến lâu dài chống giặc, đã tiêu diệt, tiêu hao nhiều sinh lực địch; là nơi thu hút và giam chân một lực lượng ngày càng lớn của địch, góp phần làm thất bại chiến lược đánh nhanh, thắng nhanh của địch. Thanh - Nghệ - Tĩnh vẫn giữ vững là vùng tự do rộng lớn, đang ra sức xây dựng thành hậu cứ đáng tin cậy phía Bắc Đông Dương, làm chỗ đứng chân cho nhiều cơ quan, đơn vị của Trung ương và Liên khu III, là nơi lánh nạn của hơn mười vạn đồng bào tản cư.

Thắng lợi và cả những thất bại, sai lầm trong thời kỳ này là những bài học xương máu cho đảng bộ, lực lượng vũ trang và nhân dân các dân tộc Khu IV bước vào giai đoạn mới của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Mười Hai, 2015, 08:43:23 pm
Chương 3

ĐẨY MẠNH KHÁNG CHIẾN TOÀN DÂN, TOÀN DIỆN,
PHÁT TRIỂN CHIẾN TRANH DU KÍCH, XÂY DỰNG HẬU PHƯƠNG,
CHI VIỆN CHO TIỀN TUYẾN
(1948-1950)

I. PHÁT TRIỂN CHIẾN TRANH NHÂN DÂN, TOÀN DÂN ĐÁNH GIẶC,
ĐẨY MẠNH CHIẾN TRANH DU KÍCH

Từ sau thất bại ở Việt Bắc (thu - đông năm 1947), thực dân Pháp thay đổi chiến lược từ “đánh nhanh thắng nhanh” sang đánh kéo dài, thực hiện âm mưu “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt”. Chúng tập trung quân mở hàng loạt cuộc càn quét, chiếm đóng vùng đồng bằng và trung du Bắc Bộ.

Trên chiến trường Bình - Trị - Thiên, đầu năm 1948, với lực lượng được tăng thêm từ Pháp sang và ở Nam Bộ ra, chúng tập trung lực lượng mở nhiều cuộc hành quân mở rộng vùng chiếm đóng, thực hiện âm mưu dập tắt “các đốm lửa du kích ở đồng bằng” và tiêu diệt các “căn cứ Việt Minh ở trên núi”. Chúng tập trung càn từng đợt ở từng địa bàn: “Tuần lễ Hải Lăng”, “Tuần Lễ Gio Vĩnh”, “Tuần lễ Ninh Lệ”…

Dải đồng bằng Bình - Trị - Thiên dài và hẹp, địch sử dụng chiến thuật “tằm thực” và “vết dầu loang”, dùng các đại đội xung kích và tiểu đoàn lưu động, kết hợp với quân chiếm đóng trong các đồn bốt tỏa ra càn quét, lùng sục cán bộ và du kích. Chúng tổ chức nhiều cuộc càn lớn vào các khu du kích ở Lệ Thủy (Quảng Bình) vào tháng 1-1948, Phong Điền và Quảng Điền (Thừa Thiên) các tháng 1 và 2-1948, Chợ Cạn, Triệu Phong (Quảng Trị) 3-1948.

Ngày 25-1-1948, nhằm tập trung cho công tác lãnh đạo và chỉ đạo cuộc kháng chiến trên địa bàn cả nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 120/SL, tổ chức lại các chiến khu thành các liên khu và đặc khu. Mỗi liên khu có Ủy ban kháng chiến hành chính liên khu, trực tiếp điều hành kháng chiến. Chiến khu IV đổi thành Liên khu IV trong đó có Phân khu Bình - Trị - Thiên.

Tháng 1-1948, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp hội nghị mở rộng, đánh giá tình hình năm đầu cuộc kháng chiến toàn quốc. Hội nghị nhận định so sánh lực lượng giữa ta và địch có sự thay đổi bước đầu. Khả năng kháng chiến của ta sẽ tăng dần và ngày càng tăng thêm, còn địch “Đã đến lúc chúng không thể tự do tung lực lượng ra chiếm đất ta một cách dễ dàng như trong thời kỳ kháng chiến toàn quốc mới nổ”(1). Hội nghị vạch ra những phương hướng và biện pháp lớn nhằm đẩy mạnh cuộc kháng chiến trong giai đoạn mới. Về quân sự, hội nghị chủ trương đẩy mạnh để chuyển sang giai đoạn thứ hai, phát triển dân quân và phát triển chiến tranh du kích khắp nơi, nhất là vùng địch kiểm soát, xúc tiến việc luyện quân lập công, học tập kinh nghiệm chiến dịch Việt Bắc, tập dượt đánh những trận vận động tiêu diệt địch, quét những đồn lẻ của địch, bắt địch thu hẹp địa bàn lại, đột kích những thành phố nhỏ, v.v. Chuẩn bị để phá tan cuộc tiến công mùa đông của giặc. Đối với Liên khu IV phải chuẩn bị làm cho địch thất bại nặng nề nếu địch đánh vào mấy tỉnh miền bắc liên khu; về chính trị, tiếp tục xây dựng khối đoàn kết toàn dân rộng rãi với khẩu hiệu: “Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết”, chống chính sách “dùng người Việt trị người Việt” của thực dân Pháp, bằng mọi biện pháp phá tan chính quyền bù nhìn, củng cố và tăng cường bộ máy kháng chiến, tăng cường vận động quần chúng vùng sau lưng địch.

Những chủ trương của Hội nghị có tác dụng chỉ đạo hết sức quan trọng đối với cuộc kháng chiến của quân dân Liên khu IV trong giai đoạn mới.

Tháng 5-1948, Đại hội đại biểu Đảng bộ Liên khu IV họp đã phân tích các mặt ưu, khuyết điểm về sự lãnh đạo của Phân khu ủy, các Đảng bộ và phong trào ở Bình - Trị - Thiên, xác định rõ trách nhiệm của Thanh - Nghệ - Tĩnh đối với Bình - Trị - Thiên, tăng cường sự lãnh đạo của Liên khu ủy, Ủy ban kháng chiến hành chính của liên khu. Tiếp đến hội nghị Phân khu ủy cũng đã họp kiểm điểm tình hình, đề ra chủ trương và biện pháp đưa kháng chiến ở Bình - Trị - Thiên vượt qua mọi khó khăn, tiến lên trong giai đoạn mới.

Quân, dân Bình - Trị - Thiên anh dũng chống trả, tiêu diệt, tiêu hao nhiều sinh lực địch. Trong nhiều trận chiến đấu bộ đội và du kích đạt kết quả xuất sắc:

Ngày 23-2-1948, Trung đoàn 101 tiến công đồn Cầu Nhì (Phong Điền, Thừa Thiên). Đây là vị trí bảo vệ giao thông trên đường số 1, ngăn chặn sự đi lại giữa đồng bằng và chiến khu. Bộ đội đóng giả Việt binh đoàn, cùng một hàng binh người Đức đóng giải sĩ quan Pháp, đột nhập vào đồn giữa ban ngày. Trận đánh diễn ra nhanh, gọn. Ta thu toàn bộ vũ khí, quân trang, quân dụng.

Ngày 1-3-1948, Pháp mở cuộc hành quân càn quét vào xã Sơn Trạch (Bố Trạch, Quảng Bình) mục tiêu chủ yếu là làng Cự Nẫm. Chúng huy động lực lượng tương đương một tiểu đoàn có pháo binh chi viện. Đại đội 4 của huyện cùng dân quân, du kích vừa phục kích trên đường hành quân, cả lúc đi và lúc về, vừa dựa vào làng chiến đấu để đánh địch khi chúng tiến công, đã diệt gần 50 tên địch, phần lớn là lính Âu - Phi, phá hủy bốn xe quân sự, bắn cháy một ca nô. Làng chiến đấu Cự Nẫm vẫn đứng vững sau cuộc càn.

Ngày 7-4-1948, một tiểu đoàn địch đi càn quét vùng đồng bằng Hải Lăng. Ở làng Đồng Dương lực lượng vũ trang ta dũng cảm, mưu trí tiêu diệt hai trung đội địch, bắt tám tù binh Pháp, năm lính ngụy và 16 hương vệ, thu nhiều vũ khí. Chiến thắng này đã gây niềm tin tưởng cho nhân dân và lực lượng vũ trang vào khả năng chiến đấu và thắng lợi của chúng ta.

Ngày 27-4-1948 ta tiêu diệt đồn Mỹ Lợi (Thừa Thiên) bằng nội ứng.


(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.9, tr.21.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Mười Hai, 2015, 08:44:09 pm
Quân, dân Bình - Trị - Thiên đã anh dũng chiến đấu, làm cho quân Pháp bị thiệt hại, nhưng không giảm được sức ép của chúng ở vùng đồng bằng. Thực dân Pháp tiến hành khủng bố nhân dân, gây nhiều tội ác man rợ, điển hình là ác cuộc thảm sát 600 người ở Chợ Cạn (13-3-1948), 1.333 người ở Hải Lăng trong ba ngày (17 đến 19-3-1948). Những người bị giết chủ yếu là cụ già, phụ nữ, trẻ em… Tính từ đầu kháng chiến đến tháng 4-1948, hàng vạn đồng bào, chiến sĩ bị địch giết hại, hàng nghìn cán bộ, đảng viên anh dũng hy sinh.

Sau cuộc càn khu du kích Chợ Cạn (Quảng Trị), Pháp xây dựng một hệ thống cứ điểm để giữ đất hòng đẩy chủ lực ta ra khỏi đồng bằng, biến vùng du kích thành vùng kiểm soát của chúng.

Quân Pháp còn liên tiếp mở nhiều cuộc tiến công lên các chiến khu vùng rừng núi: Đơn Quế, Bang Rợn, Thuận Đức (Quảng Bình), Thủy Ba Thượng (Vĩnh Linh), Cẩm Phổ (Gio Linh), Cùa (Cam Lộ), Hòa Linh, Khe Mương, Ba Lòng (Hướng Hóa, Quảng Trị); Hòa Mỹ, Lương Miêu, Dương Hòa (Thừa Thiên). Ngay 3-2-1948, địch kết hợp cả đường bộ và đường thủy, có phi pháo yểm hộ tiến công lên chiến khu Ba Lòng (Hậu cứ của tỉnh Quảng Trị).

Ngày 7-3-1948, kết hợp nhảy dù với tiến công bằng đường bộ và đường thủy, địch huy động hơn 1.000 quân, có pháo binh và không quân yểm hộ, tiến công từ chính diện và bên sườn lên chiến khu Hòa Mỹ (hậu cứ của tỉnh Thừa Thiên - Huế). Các cơ quan và một số nhân dân từ vùng xuôi sơ tán lên đã kịp thời di chuyển vào sâu trong rừng. Bộ đội ta vừa chặn đánh các cánh quân lùng sục vào rừng, vừa tập kích hỏa lực vào nơi quân địch tập trung ở Hòa Mỹ gây cho địch nhiều thương vong. Trong bồn tuần càn lên chiến khu Hòa Mỹ, địch chỉ đốt được một số lán, trại bỏ không. Chúng phải rút quân, nhưng đóng lại hai đồn án ngữ trước chiến khu. Tỉnh Thừa Thiên phải chuyển hậu cứ từ Hòa Mỹ về Dương Hòa, cách Huế hơn 10 km về phía tây.

Trong trận càn vào chiến khu Hòa Linh, địch huy động hơn 500 quân, có máy bay, đại bác yểm trợ, dùng nhiều thủ đoạn đánh phá rất ác liệt, nhưng bộ đội và du kích dựa vào địa thế hiểm trở nên quyết đánh trả, làm địch tổn thất nặng nề, bảo vệ được các cơ quan lãnh đạo kháng chiến và bảo toàn lực lượng. Không đạt được mục tiêu xóa bỏ các chiến khu miền núi, bọn chỉ huy Pháp phải thú nhận: Các chiến thuật vận dụng từ trước đến nay, chiến thuật gọng kìm, đánh chớp nhoáng, ồ ạt, không có hiệu quả với chiến trường rừng núi hiểm trở, với chiến thuật du kích vận động, với tinh thần cảm tử của đối phương.

Cùng với các cuộc càn quét để tiêu diệt hoặc xua dãn lực lượng ta, địch ra sức bình định, củng cố vùng chiếm đóng bằng biện pháp lập hội tề. Hệ thống đồn, bốt giặc và hội tề mọc lên ở nhiều nơi. Chúng xây dựng và củng cố 194 đồn, bốt lớn nhỏ để giữ đất, giữ dân. Chúng bắt dân đi phu, nộp thuế. Địch còn ra sức phá hoại sản xuất, nhổ lúa, ngô, cướp phá lương thực, bắn vào người đang làm đồng, bắn giết trâu bò, công khai tuyên bố tiến hành cuộc chiến tranh lúa gạo (guerre de riz), bao vây, ngăn chặn việc tiếp tế cho các chiến khu vùng núi.

Giữa năm 1948, tại Bình - Trị - Thiên, địch đã tổ chức được hệ thống ngụy quyền từ tỉnh đến thôn gồm hơn 1.347 ba hội tề.. Chúng dùng hội tề để gây cơ sở chính trị và thanh thế cho chính quyền tay sai, động viên tinh thần ngụy quân, lừa bịp dân chúng, chia rẽ lương giáo, chia rẽ nhân dân với bộ đội, nhân dân với chính quyền cách mạng, tổ chức các đảng phái phản động, tuyển mộ ngụy binh, thân binh bổ sung cho quân đội ngụy, làm tai mắt dò xét cơ sở, lực lượng và các hoạt động của ta, làm công cụ để thu thuế, vơ vét của[184] cải và phá hoại, bóp nghẹt kinh tế kháng chiến.

Trong khi các chiến khu ở rừng núi vẫn được duy trì thì căn cứ du kích ở đồng bằng bị địch chà xát và biến thành vùng chiếm đóng. Nhiều cán bộ, đảng viên bị đánh bật khỏi cơ sở lên rừng núi, thiếu lương thực, thuốc chữa bệnh. Phong trào kháng chiến sa sút nghiêm trọng và gặp nhiều khó khăn, thử thách. Trước lực lượng mạnh và những thủ đoạn càn quét ác liệt của địch, cùng với những tổn thất lớn của ta, một số cán bộ đảng viên hoang mang dao động. Nhiều tổ chức cơ sở đảng, cơ sở quần chúng, dân quân, du kích mới xây dựng còn non yếu bị tê liệt, thậm chí có nơi bị tan rã. Tình hình hết sức nghiêm trọng, nhưng lãnh đạo cá cấp chưa kịp thời đề ra chủ trương thích hợp để ổn định tư tưởng, tổ chức, giữ vững tinh thần cho quần chúng, duy trì phong trào.

Việc thực dân Pháp rải quân chiếm đóng vùng đồng bằng để giữ đất, giữ dân gây cho ta nhiều khó khăn, nhưng mặt khác cũng làm cho lực lượng ủa chúng ngày càng mỏng, lại phải thường xuyên đối phó với chiến tranh du kích của ta, nên tinh thần binh lính địch sa sút. Chúng gặp nhiều khó khăn giữa ý định tập trung quân để cơ động tác chiến với việc bắt buộc phải phân tán binh lực để bình định vùng chiếm đóng nhằm vơ vét sức người, sức của phục vụ chiến tranh. Tuy nhiên, trước những cuộc tiến công lớn của địch, nhất là ở đồng bằng, lực lượng ta bị tổn thất, hy sinh, vùng chiếm đóng của địch mở rộng, gây cho ta nhiều khó khăn mới, phong trào chiến tranh du kích giảm sút mạnh. Vấn đề đặt ra là phải khôi phục và phát triển phong trào kháng chiến ở đồng bằng, từng bước đưa chiến tranh nhân dân phát triển sâu rộng, biến hậu phương của địch thành tiền phương của ta.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Mười Hai, 2015, 08:45:47 pm
Các hội nghị cán bộ lần thứ bốn (5-1948) và lần thứ năm (8-1948) chủ trương: phát triển chiến tranh du kích, kết hợp đấu tranh về quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa…, phát triển du kích, các đội vũ trang tuyên truyền, các đại đội độc lập; phải đưa các đại đội độc lập vào vùng sau lưng địch xây dựng cơ sở chính trị và quân sự, phát động chiến tranh du kích, lập nhiều làng chiến đấu ở đồng bằng, khu chiến đấu ở rừng núi, lập căn cứ du kích; phát triển lực lượng vũ trang gồm ba thứ quân; phối hợp với quân, dân Lào và Campuchia tiến công địch, khoét sâu nạn thiếu quân của chúng, làm cho địch bị động đối phó lúng túng ở mọi chiến trường.

Công tác trong vùng bị địch tạm chiếm đóng là một hoạt động rất quan trọng nhằm giữ vững và nâng cao trình độ giác ngộ và tinh thần quyết chiến của nhân dân, lập lại và làm kiên cố các tổ chức đảng và quần chúng, làm rối ren và tan rã hàng ngũ địch, phá chính quyền địch, phá kinh tế địch, lập lại chính quyền ta. Vì thế phải kiên quyết chống khuynh hướng thủ tiêu đấu tranh và khuynh hướng đấu tranh bừa bãi, đặc biệt phát triển vũ trang tuyên truyền “Tiến sâu vào sau lưng địch, chinh phục dân và hội tề, gây cơ sở ngay ở hậu phương địch, để dọn đường cho đại đội độc lập vào phát triển du kích chiến tranh”(1). Các tổ chức Đảng ở vùng sau lưng địch cần bám đất bám dân. “Dù khó khăn thế nào chi bộ cũng phải bám lấy địa phương mà hoạt động”. Các Ban Chấp hành huyện, tỉnh cũng bắt buộc phải bám lấy địa phương mình để lãnh đạo phong trào”(2).

Về phương hướng phát triển đảng, cần coi trọng vùng đồng bào Mường ở Thanh Hóa, đặc biệt là vùng biên giới Việt - Lào và thành phố Huế.

Sau sự ra đời của Phân khu ủy Bình - Trị - Thiên (cuối năm 1947), đầu năm 1948, Bộ Chỉ huy Phân khu được thành lập do đồng chí Trần Văn Quang làm chỉ huy trưởng và Lư Giang làm Chính ủy, với một số đơn vị trực thuộc như đại đội quân báo, đại đội thông tin, đại đội bảo vệ, xưởng quân giới, bệnh xá… tăng cường thêm sự chỉ đạo cuộc kháng chiến trên địa bàn phân khu.

Đầu tháng 4-1948, Bộ Tư lệnh Quân khu IV thành lập Sở chỉ huy quân sự Bình - Trị - Thiên đóng trụ sở tại chiến khu Nhà Gỗ (Quảng Trị), nhưng gặp nhiều khó khăn về cung cấp hậu cần do quân Pháp đang càn phá dữ dội, các đồng chí phụ trách Sở chỉ huy phải trở ra ngoài vùng tự do. Vì thế chủ trương thành lập sở chỉ huy không thực hiện được theo dự kiến.

Tháng 4-1948, Phân khu ủy Bình - Trị - Thiên do đồng chí Nguyễn Chí Thanh chủ trì họp hội nghị cán bộ mở rộng tại xóm Nhà Gỗ (Quảng Trị). Tham dự hội nghị có các Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hanh chính, chỉ huy các Trung đoàn 95, 101, Tiểu đoàn 274 và Tỉnh đội trưởng ba tỉnh. Hội nghị kiểm điểm đánh giá tình hình, nghe phổ biến kinh nghiệm du kích chiến tranh ở đồng bằng Bắc Bộ. Từ đánh giá tình hình ở những nơi cán bộ, đảng viên vẫn bám trụ trong ba tỉnh và từ thực tế lực lượng vũ trang ta tiêu diệt địch ở Cầu Nhì, Đồng Dương, Mỹ Lợi… Hội nghị đi đến nhân định:

- Không có dân thì kháng chiến không thể thắng lợi. Tình trạng nhiều cán bộ, đảng viên bị đánh bật khỏi cơ sở, thoát ly địa phương là cực kỳ nghiêm trọng. Âm mưu của địch là tách rời nhân dân khỏi phong trào cách mạng. Cán bộ, đảng viên không kiên trì bám đất, bám dân là mắc mưu của địch.

Bộ đội và du kích tập trung đã lâu không được học tập, rèn luyện, sức chiến đấu không cao, trong khi địch tăng cường quân số và vũ khí, thay đổi phương thức hoạt động. Vì vậy, bộ đội ta không đủ sức đối phó với lực lượng cơ động của địch, không hỗ trợ được phong trào đấu tranh của nhân dân.

- Quân số và vũ khí của địch tăng lên, nhưng vì chúng phải rải ra chiếm đống nhiều nơi, lại phải lo đối phó với chủ lực ta ở phía trước, nên ở phía sau có nhiều sơ hở. Nhân dân vùng địch kiểm soát vẫn một lòng ủng hộ kháng chiến, ủng hộ bộ đội. Những thủ đoạn khủng bố lừa bịp của kẻ thù không thể làm nao núng tinh thần kháng chiến của nhân dân.

Từ nhận định trên, Hội nghị Phân khu ủy chủ trương:

1. Toàn Đảng bám sát dân; nhằm vào những vùng dân cư đông đảo, ruộng đất phì nhiêu, những vùng xung yếu, sau lưng địch làm trung tâm hoạt động của cán bộ, của các ngành.

2. Gây phong trào tranh đấu sôi nổi, liên tiếp trong lòng địch, đánh bại tinh thần cầu an trong cán bộ, đảng viên và đồng bào, lấy việc phá tề, trừ gian và cải thiện dân sinh làm công tác chính.

3. Tranh đấu tư tưởng, thống nhất nội bộ Đảng, xây dựng cơ sở ở những nơi xung yếu, phát triển đảng trong quần chúng đông đảo.

4. Phát triển chiến tranh nhân dân; xây dựng các đơn vị Vệ quốc đoàn, thực hiện kế hoạch “đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung”, đồng thời củng cố và phát triển dân quân, du kích xã, gây một phong trào “tay không cướp súng giặc”.


(1), (2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.9, tr.98, 115.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Mười Hai, 2015, 08:47:53 pm
Về một số biện pháp cấp bách, Hội nghị Phân khu ủy nêu rõ:

1. Kiên quyết tập trung các trung đoàn và tiểu đoàn chủ lực, các đơn vị du kích tập trung của ba tỉnh đến những nơi tương đối an toàn, chỉnh đốn đội ngũ, bổ sung đầy đủ quân số và tiến hành một đợt rèn cán, chỉnh quân theo chương trình thống nhất của Bộ Quốc phòng - Tổng Tư lệnh, cố gắng nâng cao sức chiến đấu của bộ đội chủ lực để có thể đánh bại tiểu đoàn lưu động của địch đi càn quét. Các Tỉnh ủy và Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh cần cố gắng đảm bảo bổ sung quân số và cung cấp lương thực, thực phẩm cho bộ đội luyện tập và chiến đấu.

2. Các tỉnh tiến hành một đợt sinh hoạt chính trị cho các cấp ủy và đảng viên, làm rõ thắng lợi trong hơn một năm kháng chiến của quân và dân ta, thất bại trong chiến lược “đánh nhanh thắng nhanh” của địch, hiểu sâu sắc âm mưu thâm độc của địch trong chiến lược “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt”; thấy rõ hậu quả nghiêm trọng của tình trạng cán bộ, đảng viên xa dân, xa cơ sở. Mặt khác, cũng cần thấy những sơ hở không thể tránh được của địch; động viên cán bộ, đảng viên, chiến sĩ cứu quốc dũng cảm luồn sâu vào vùng sau lưng địch, phát huy lòng yêu nước của nhân dân và phát triển cơ sở kháng chiến làm chỗ đứng chân cho bộ đội đánh địch từ sau lưng chúng, biến hậu phương của địch thành tiền phương của ta.

3. Cần kết hợp chặt chẽ đấu tranh vũ trang với đấu tranh kinh tế, chính trị, địch vận, giúp dân phát triển sản xuất, bảo vệ mùa màng; trong những vùng sau lưng địch càn phải[189] lãnh đạo nhân dân dựa vào luật pháp và những lời tuyên truyền mỵ dân của địch, đấu tranh chống những hành động cướp phá, ức hiếp dân của bọn ác ôn và binh lính địch, vận động dân chống bắt phu, bắt lính, kêu gọi chồng con bỏ ngũ về với gia đình… càng đánh mạnh thì càng có nhiều điều kiện để vận động binh lính địch.

Để đường lối kháng chiến toàn dân trở thành hiện thực, những đại đội độc lập và các đội vũ trang tuyên truyền được thành lập, tiến sâu vào vùng địch tạm chiếm phát động chiến tranh du kích.

Việc bố trí các đại đội độc lập có tác dụng “điều hòa được hai hình thức phân tán và tập trung, lúc địch chưa đến sẽ điều hòa được công tác dân vận và nhiệm vụ quân sự; lúc cần thiết sẽ quyết định được lúc nào thì ở lại địa phương, đến lúc nào thì phải tạm thời rút lui; lúc chiến sự lan rộng thì sẽ điều hòa được hình thức độc lập tác chiến trong địa phương mình và phối hợp tác chiến với các đại đội của địa phương láng giềng”(1).

Hội nghị dân quân toàn quốc lần thứ hai (4-1948) nêu lên nhiệm vụ quan trọng năm 1948 là phát động mạnh mẽ du kích chiến tranh, lập làng chiến đấu ở đồng bằng, phát triển chiến tranh du kích trong tất cả các giới và khắp các địa phương; tổ chức du kích bí mật, tình báo, liên lạc, giao thông nhân dân; gây cơ sở du kích trong vùng địch kiểm soát[190] và gây du kích chiến nơi đã có cơ sở; về tác chiến đặc biệt chú trọng vũ trang tuyên truyền, phát triển địa lôi, đánh bằng vũ khí thô sơ.

Trong thư gửi hội nghị này, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn; “Thiết thực tổ chức và thiết thực huấn luyện dân quân du kích từng làng. Lấy dân quân du kích làm nền tảng đồng thời phải kiện toàn các độ du kích thoát ly”(2).

Tại hội nghị, báo cáo của Cục trưởng dân quân nêu rõ: Chúng ta sẽ phát triển nhiều trận đánh nhỏ, những trận liên tiếp, những trận không ngừng, thực hiện khẩu hiệu “Mỗi người dân là một đội viên”, “mỗi làng, mỗi xóm, mỗi gia đình là một ổ chiến đấu”… Khẩu hiệu “góp gió thành bão” phải được triệt để thực hiện… làm cho mỗi con dao, mỗi cái cuốc, mỗi cái búa hoặc bất cứ một thứ dụng cụ nào nằm trong tay quần chúng hòa hợp với tinh thần quật khởi trở nên những vũ khí mầu nhiệm… Chúng ta sẽ phát triển du kích chiến tranh trong các hang cùng ngõ hẻm, trong mọi tầng lớp nhân dân… Chúng ta sẽ đánh địch ngay sau lưng chúng mạnh mẽ hơn ngày nay… Hội nghị cán bộ Trung ương lần thứ IV (5-1948) coi công tác vùng sau lưng địch là một bộ phận rất quan trọng trong toàn bộ công tác của Đảng nhằm giữ vững và nâng cao trình độ giác ngộ và tinh thần quyết chiến của nhân dân lập lại và làm kiên cố các tổ chức quần chúng của Đảng, làm rối ren và tan rã hàng ngũ địch, phá chính quyền địch, phá kinh tế địch, lập lại chính quyền ta. Khẩu hiệu đấu tranh ở đó là: chống khủng bố, chống bắt phu, bắt lính, chống nộp thuế, chống lập hội tề. Khi quần chúng đã có giác ngộ và có tổ chức cao, cần phối hợp các hình thức đấu tranh chính trị và quân sự.


(1) Kế hoạch, báo cáo và kinh nghiệm của đại đội độc lập, vũ trang tuyên truyền của Cục Dân quân, hồ sơ 06, phòng Cục Dân quân, lưu trữ Bộ Quốc phòng.
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, xuất bản lần thứ hai, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. , tr.415-416.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Mười Hai, 2015, 08:48:23 pm
Tháng 5-1948, Đại hội đại biểu Đảng bộ Liên khu IV lần thứ nhất họp vào lúc địch đang tăng cường đánh phá ở Bình - Trị - Thiên và lăm le tiến công Thanh - Nghệ - Tĩnh.

Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Trường chinh dự đại hội, nhận xét cán bộ Liên khu IV có tinh thần tích cực, nhẫn nại, xung phong, quả cảm và có óc sáng kiến, nhưng chủ quan, hẹp hòi, bản vị, địa phương, chưa tiến kịp sự đòi hỏi của thời cuộc; quần chúng, đảng viên bên dưới tiến bộ nhanh hơn cán bộ phụ trách bên trên; nhân dân nói chung đoàn kết rộng rãi và bền chặt nhưng nội bộ Hội không thống nhất; kinh nghiệm của Hội rất nhiều nhưng đúc kết kinh nghiệm chưa đầy đủ. Tổng Bí thư chỉ rõ nhiệm vụ của đại hội là phải kiểm thảo chủ trương, chính sách, công tác thực tế của Hội và khu ủy; tổng kết kinh nghiệm của Hội; quyết định phương hướng, nhiệm vụ, kế hoạch cho thời kỳ mới; bầu lại khu ủy và chuẩn bị cứ đại biểu đi dự Đại hội đại biểu toàn quốc.

Đại hội làm việc khẩn trương, dân chủ, với tinh thần thẳng thắn tự phê bình và phê bình; kiểm điểm đánh giá tình hình và quyết định nhiệm vụ công tác trong giai đoạn mới; nghe báo cáo và các đề án công tác cụ thể về quân sự, kinh tế, xã hội, dân vận, xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân và công tác đảng vụ.

Về quân sự, đại hội nhận định: địch khó có khả năng đánh lớn vào Thanh - Nghệ - Tĩnh nếu ta không chủ quan mất cảnh giác. Đại hội tập trung đánh giá tình hình Bình Trị Thiên; phê phán nhận thức sai lầm và những biểu hiện của tư tưởng hữu khuynh, biệt lập trong cán bộ các cấp, nhất là trong một số cán bộ lãnh đạo, chỉ huy chủ chốt, cán bộ các cấp chưa kịp thời đề ra được những chủ trương thích hợp để ổn định, giữ vững, phát triển phong trào. Thủ đoạn chủ yếu của địch để bình định Bình - Trị - Thiên là càn quét, chà đi xát lại quyết liệt; vấn đề đặt ra lúc này là phải lãnh đạo nhân dân vừa biết tránh giặc vừa kiên quyết đánh giặc, đánh bại thủ đoạn càn quét của địch. Muốn vậy, phải xây dựng cơ sở quần chúng, lãnh đạo tổ chức nhân dân đấu tranh, vận động toàn dân tham gia đánh giặc, giữ làng, trừng trị bọn Việt gian, giải tán hội tề, vận động binh lính địch; phối hợp chặt chẽ giữa đấu tranh chính trị với hoạt động quân sự; phối hợp chặt chẽ giữa các vùng trong từng khu vực, giữa các chiến trường trong liên khu với chiến trường toàn quốc, tránh để địch dồn lực lượng đánh phá từng khu vực một.

Đại hội chủ trương “Tất cả cho Bình Trị Thiên”, chuyển khẩu hiệu “Tất cả cho kháng chiến” sang khẩu hiệu “Tất cả để chiến thắng” và đề ra các nhiệm vụ lớn sau đây:

1. Đánh mạnh ở Bình - Trị - Thiên.

2. Thúc đẩy phong trào kháng chiến, đề phòng địch đánh Thanh - Nghệ - Tĩnh, ráo riết chuẩn bị lực lượng, phát huy tác dụng tích cực của hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh đối với tiền tuyến Bình - Trị - Thiên.

3. Mở mặt trận Trung Lào.

Về xây dựng đảng, đại hội đề ra những biện pháp quan trọng nhằm “xây dựng đảng thành một Đảng quần chúng”, đẩy mạnh xây dựng “chi bộ tự động công tác”, tích cực đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng tốt cán bộ.

Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ Liên khu chính thức đầu tiên do đồng chí Nguyễn Chí Thanh làm Bí thư.

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư nhắc nhở Đại hội: 1. Phải đoàn kết chặt chẽ nội bộ để đoàn kết được toàn dân đưa khách chiến đến thắng lợi, và muốn thật thà đoàn kết chặt chẽ về mọi mặt phải tẩy cho sạch, cho tận gốc các bệnh thành kiến, bè phái, địa phương chủ nghĩa; hiện trạng đau đớn ở Bình - Trị - Thiên cũng do hai bệnh đó gây nên. Phải thực hành cho kỳ được chính sách đại đoàn kết toàn dân; muốn vậy phải sáng suốt và rộng rãi, khéo chia công việc, khéo dùng nhân tài, phải “tìm hiền, kính sĩ”, chớ bao biện, chớ “đố hiền, tật năng”. 2. Khu IV phải ra sức giúp đỡ Bình - Trị - Thiên về moi mặt nhất là về quân sự, chính trị. 3. Phải ra sức tăng gia sản xuất và tiết kiệm để đi đến tự cấp, tự túc. 4. Phải ra sức đào tạo, giúp đỡ, cất nhắc cán bộ mới càng nhiều càng tốt; đoàn thể mà có nhiều cán bộ mới và cán bộ giỏi hơn cán bộ cũ mới là một đoàn thể mạnh mẽ. 5. Mọi công việc đều lấy tinh thần thi đua mà làm; mỗi đồng chí phải là người xung phong trong cuộc thi đua ái quốc.

Cuối thư, Chủ tịch tin chắc: Đoàn thể, đồng chí sẽ cố gắng hơn nữa, dũng cảm hơn nữa; kiên quyết sửa chữa những khuyết điểm và phát triển những ưu điểm, quyết vượt qua mọi khó khăn, đi đến thắng lợi hoàn toàn.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 19 Tháng Mười Hai, 2015, 08:50:03 pm
Chủ trương “Toàn dân tham gia đánh giặc” xuất phát từ đường lối kháng chiến của Đảng và được rút ra từ phong trào chiến tranh du kích ở Bình - Trị - Thiên là một chủ trương đúng đắn, là “điều kiện căn bản để khôi phục và phát triển chiến tranh du kích ở Bình - Trị - Thiên trong giờ phút gay go nhất của hai năm 1947-1948”(1).

Đại hội đại biểu lần thứ nhất là sự kiện lịch sử quan trong đánh dấu bước trưởng thành mới của Đảng bộ Liên khu, của cấp lãnh đạo liên khu và mở đầu bước phát triển mới của cuộc chiến tranh nhân dân trong toàn Liên khu IV.

Thực hiện chủ trương “Đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung của Bộ Quốc phòng - Tổng chỉ huy, các đơn vị bộ đội ở Bình - Trị - Thiên phân tán một bộ phận thành những đại đội độc lập luồn sâu vào vùng tạm bị chiếm. Cụ thể như sau:

Trung đoàn 101 phân tán Đại đội 120 về Phong Điền, Quảng Điền, Hương Trà; Đại đội 17 về Phú Vang, Phú Lộc, Đại đội 123 (đại đội biệt động) về Hương Thủy và thành phố Huế.

Trung đoàn 95: Đại đội 150 về Triệu Phong, Hải Lăng; Đại đội 153 về Gio Linh, Vĩnh Linh.

Tiểu đoàn 247: Đại đội 4 về Quảng Bình, Lệ Thủy; Đại đội 2 ở Bố Trạch, Quảng Bình.

Nhiệm vụ của các đại đội độc lập là vừa chiến đấu vừa công tác, vũ trang tuyên truyền, giáo dục, hướng dẫn nhân dân tránh giặc, đánh giặc, cất giấu tài sản, xây dựng lực lượng dân quân, du kích, phát động chiến tranh du kích.

Những cán bộ, đảng viên trước đây bị bật đất, sau khi được học tập và được cán bộ tỉnh, huyện hướng dẫn, động viên lần lượt trở về, được nhân dân hết lòng che chở, nuôi dưỡng, từng bước chắp nối lại liên lạc với nhiều cơ sở trong các vùng sâu, khôi phục lại tổ chức đảng, tổ chức quần chúng. Nhân dân hăng hái tham gia các đoàn thể Việt Minh, tham gia dân quân, xây dựng làng chiến dấu, sẵn sàng cùng bộ đội đánh giặc. Phần lớn các chi bộ ly hương trở về hoạt động và lãnh đạo quần chúng.

Có lực lượng vũ trang trở về hoạt động, phong trào kháng chiến ở đồng bằng lớn mạnh hẳn lên. Nhờ sự dìu dắt của các đại đội độc lập, lực lượng dân quân, du kích phục hồi và phát triển. Nhiều nơi dân quân du kích chủ động chống giặc giữ làng, tổ chức phục kích, chặn đánh những toán địch đi lùng sục, cướp phá, gây cho chúng những thiệt hại nặng nề. Ngay quanh thành phố Huế, một vành đai du kích gần như khép kín, làm chỗ đứng chân cho đại đội biệt động, giúp cho nhiều cán bộ kháng chiến bị địch bắt giam ở Huế vượt ngục an toàn, trong đó có Ủy viên thường vụ Tỉnh ủy Thừa Thiên Trần Tân, Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính Huế Hoàng Phương Thảo.

Ngày 6-5-1948, Pháp huy động hơn 300 quân tiến công làng Cảnh Dương. Dân quân, du kích Cảnh Dương quần nhau với địch suốt một ngày, tiêu diệt một số tên, trong đó có hai sỹ quan Pháp. Ngày 12-5-1948, địch lại tiến công lần thứ hai, bị thương vong nhiều hơn vẫn không chiếm được làng.

Ngày 17-5-1948, dân quân, du kích cùng Trung đội 1 bộ đội Lệ Thủy phục kích trên gò đất bãi bồi Thượng Đội, giáp giới hai xã Ninh Khai và Hoàng Hoa Thám, đánh hai thuyền địch đi trên sông, gây cho chúng một số thương vong, thu một trung liên.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Liên khu (5-1948), các nhiệm vu do Liên khu ủy và Hội nghị cán bộ Phân khu Bình - Trị - Thiên đề ra, phong trào chiến[196] tranh nhân dân ở Bình - Trị - Thiên đã có bước tiến mới. Liên khu ủy và Bộ tư lệnh liên khu quyết định mở đợt tác chiến ở Bình - Trị - Thiên, lấy mặt trận bắc Quảng Bình làm hướng chính, nhằm đánh bại kế hoạch phá mùa Tháng Năm của địch, bảo vệ nhân dân gặt hái, thu giấu tài sản, đồng thời đẩy mạnh vũ trang tuyên truyền, gây dựng cơ sở, phát triển lực lượng, đưa phong trào chiến tranh du kích ở bắc Quảng Bình tiến kịp hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên, giữ vững giao thông liên lạc Bắc - Nam, phá âm mưu của địch chiếm bắc Quảng Bình làm bàn đạp tiến công Hà Tĩnh.

Cùng với việc điều động Tiểu đoàn 346 thuộc Trung đoàn 57 (Nghệ An) vào phối thuộc với trung đoàn 103 (Hà Tĩnh), Bộ Tư lệnh quyết định giao cho Ban chỉ huy Trung đoàn 103 trực tiếp chỉ huy mặt trận bắc Quảng Bình.

Cùng với việc điều động Tiểu đoàn 346 thuộc Trung đoàn 57 (Nghệ An) vào phối thuộc với trung đoàn 103 (Hà Tĩnh), Bộ Tư lệnh quyết định giao cho Ban chỉ huy Trung đoàn 103 trực tiếp chỉ huy mặt trận bắc Quảng Bình.


(1) Trần Văn Quang: Báo cáo kinh nghiệm kháng chiến ở Bình - Trị - Thiên năm 1949ư, Hồ sơ 41, lưu trữ Bộ Quốc phòng, tr. 2.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 20 Tháng Mười Hai, 2015, 08:19:45 pm
Chủ trương đưa các đơn vị ở hậu phương ra chiến đấu ở phía trước tạo cơ hội tốt để nâng cao trình độ chỉ huy và bản lĩnh chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ, đồng thời thông qua thực tiễn chiến trường để kiểm nghiệm kết quả xây dựng và huấn luyện của các đơn vị. Đó cũng là hành động thiết thực biểu thị tình cảm sâu sắc và trách nhiệm của ba tỉnh hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh đối với Bình - Trị - Thiên.

Cuối tháng 6-1948, các tiểu đoàn 274, 346 và 400 do Trung đoàn trưởng Tùng Lâm chỉ huy phối hợp chặt chẽ với du kích và nhân dân các địa phương, đồng loạt tiến công vào các vị trí Ba Đồn, Thụ Lộc, Cự Nẫm (bắc Quảng Bình), buộc địch phải cấp tốc điều quân từ Đồng Hới và Quảng Trị đến cứu nguy.

Đầu tháng 7-1948, bộ đội ta bí mật luồn về đồng bằng sau lưng địch, tiến công các vị trí Sen Bàng, Hy Duyệt (bắc Quảng Bình), tiêu diệt và làm bị thương hàng trăm tên, buộc địch phải rút bỏ các đồn Lẻ Khương Hà (Bố Trạch), Mỹ Đức (Lệ Thủy), Phú Kinh, Minh Lễ (Quảng Trạch). Địa bàn làm chủ của ta được mở rộng, phạm vi chiếm đóng của địch ở bắc Quảng Bình bị thu hẹp.

Lợi dụng lúc chủ lực ta cơ động tác chiến trên địa bàn khách ngày 12-7-1948, giặc Pháp huy động 500 bộ binh phối hợp với quân nhảy dù, dùng 28 xe, 8 canô, tàu chiến và 11 lần chiếc máy bay yểm trợ mở cuộc càn quét lớn đánh phá khu vực Ròn, tiến công làng Cảnh Dương. Dựa vào hệ thống nhà cửa, đường sá, công sự, vật cản và thế trận bày sẵn, du kích cùng nhân dân bám trụ kiên cường, dùng vũ khí, bom mìn tự tạo chống trả suốt một ngày, không cho địch vào làng, tiêu diệt 11 tên Pháp, trong đó có một tên quan ba. Ngày 13-7-1948, địch phải rút khỏi khu vực Ròn.

Làng chiến đấu Cảnh Dương (Quảng Trạch) trở thành một trong những làng chiến đấu anh hùng trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Thực tiễn chiến đấu của dân quân, du kích và nhân dân Cảnh Dương chứng tỏ: trên một mảnh đất ven biển không đầy 1km2, dân số không nhiều, địa hình không thuận lợi, vũ khí thô sơ, nhưng có sự chỉ đạo chặt chẽ, quyết tâm chiến đấu cao, biết xây dựng thế trận làng, xã vững chắc, dựa vào hệ thống hầm hào, công sự, cây cối, chướng ngại vật, lực lượng chiến đấu tại chỗ của một làng vẫn có thể đánh lui được cuộc tiến công của quân địch thiện chiến có trang bị vũ khí hiện đại, giữ vững trận địa làng, xã.

Phối hợp với hoạt động của bộ đội ở rừng núi và đồng bằng Quảng Trạch, Bố Trạch, các lực lượng vũ trang ta đẩy mạnh hoạt động ở nhiều nơi:

Ngày 20-7-1948, du kích thôn Cao La (Bố Trạch) giả làm người cắt cỏ, chờ đi đi bảo vệ dân phu ra ngoài đồn lấy nước, nhảy lên ôm ba tên tước vũ khí giữa ban ngày.

Ngày 2-8-1948, bộ đội chủ lực được sự hỗ trợ của tự vệ và nhân dân, dùng bom bay và các loại vũ khí tiến công thị xã Đồng Hới. Trước sự xuất hiện của vũ khí mới của ta, giặc Pháp sợ hãi, vội vàng cho vợ con và ngoại kiều di tản vào Quảng Trị. Bọn tay sai của Pháp ở nhiều nơi hoang mang, bí mật liên lạc với cán bộ, bộ đội xin trở về với kháng chiến.

Sáng ngày 10-8-1948, Tiểu đoàn 274 cùng một bộ phận của Tiểu đoàn 400 (Trung đoàn 103) do Tham mưu trưởng Lê Bá Huyện chỉ huy thực hiện chiến thuật vận động phục kích quân địch đi quan sát khu vực Tiên Dương, phá hủy năm xe ôtô, tiêu diệt 17 tên, trong đó có 14 tên Pháp (một cấp tá, ba cấp úy), tỉnh trưởng Quảng Bình Nguyễn Nhơn, phó tỉnh trưởng Nguyễn Toan và huyện trưởng Quảng Trạch. Đây là lần đầu tiên ta diệt được bọn đầu sỏ ngụy quyền cấp tỉnh, gây tâm lý dao động trong hệ thống ngụy quân, ngụy quyền ở Quảng Bình. Nhân dân phấn khởi, hả dạ vì trừ khử được những tên phản động bán nước nguy hiểm.

Trong hơn hai tháng liên tục chiến đấu, quân, dân bắc Quảng Bình với sự chi viện tích cực của hậu phương, trực tiếp là Hà Tĩnh, đã giành nhiều thắng lợi, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 300 tên địch, thu hàng chục súng các loại, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của địch, mở rộng địa bàn hoạt động của ta ở vùng đồng bằng ven biển, góp phần phá tan âm mưu của địch chiếm bắc Quảng Bình làm bàn đạp tiến công Hà Tĩnh và các tỉnh phía bắc Liên khu IV.

Phối hợp với mặt trận bắc Quảng Bình, quân, dân Quảng Trị được sự chỉ đạo của phân khu ủy và Bộ chỉ huy phân khu, trực tiếp là Chính ủy Lê Chưởng và Trung đoàn trưởng Lê Nam Thắng, mở một đợt tác chiến, sử dụng các chiến thuật phục kích, địa lôi chiến… đánh nhiều trận, nhất là trên đường số 9. Bộ đội và dân quân, du kích Hướng Hóa liên tục đánh phá giao thông trên đường số 9, phá hủy hàng chục xe quân sự chở vũ khí, lương thực, thực phẩm, gây cho địch nhiều khó khăn trong việc tiếp tế cho mặt trận Trung Lào.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 20 Tháng Mười Hai, 2015, 08:20:24 pm
Ngày 23-6-1948, một trung đội (Trung đoàn 95) phục kích ở cầu Độc Mạch, tiêu diệt và bắt sống 13 tên Pháp, thu toàn bộ vũ khí và phá hủy một xe công binh.

Ngày 7-7-1948, tại Ao Đồn, Tiểu đoàn 302 vận động phục kích một đại đội địch hành quân lên càn vùng tiền chiến khu diệt bốn tiểu đội, bắt 20 tù binh, thu hàng chục súng, chặn đứng cuộc càn của địch.

Ngày 14-7-1948, Tiểu đoàn 302 dùng mưu mẹo diệt đồn Đập, huyện Do Linh. Nhân lễ Quốc khánh Pháp, ta bố trí hai hữ chiến sĩ gánh rượu, thịt vào đồn “khao” quan, lính địch. Khi chúng đã no say, cả tiểu đoàn do Chính ủy trung đoàn Lê Chưởng và Trung đoàn phó Phùng Thế Bằng chỉ huy áp vào đồn, bắt gọn cả đại đội, trong đó có bốn sỹ quan Pháp, thu toàn bộ vũ khí không tốn một viên đạn.

Ngày 9-8-1948, đại đội du kích Lê Hồng Phong phối hợp với một bộ phận bộ đội của Trung đoàn 95 phục kích đoàn xe địch tại kilômét 16 trên đường số 9, phá hủy và phá hỏng 13 xe, diệt 25 tên, thu 30 súng các loại. Đại đội du kích Lê Hồng Phong ghi thêm một chiến công mới, xứng đáng với danh hiệu cao quý do Chủ tịch Hồ Chí Minh trao tặng: “Đơn vị kiểu mẫu của Liên khu IV”.

Trên đà thắng lợi, ngày 20-8-1948, Trung đoàn 95 tổ chức trận vận động phục kích tại đèo Tân Lâm trên đường số 9, đánh đoàn xe vận tải của địch tiếp tế cho Trung Lào, phá hủy, phá hỏng 16 xe, tiêu diệt và bắt sống 30 tên Pháp, thu nhiều vũ khí và quân trang, quân dụng. Để bảo vệ đội hình chiến đấu của trung đoàn, Đại đội phó Hồng Vân chỉ huy một tiểu đội, bí mật đưa hai khẩu trung liên áp sát sân bay Đông Hà, bất ngờ bắn rơi tại chỗ một máy bay trinh sát ngay khi nó vừa rời khỏi đường băng, góp phần chi viện và cổ vũ bộ đội trong trận đánh này. Đây là trận vận động phục kích giao thông cấp trung đoàn đầu tiên trên chiến trường Bình - Trị - Thiên. Thế trận được triển khai trên một tuyến dài hơn 3km, có sự tham gia của nhiều lực lượng, đặc biệt là lần đầu tiên Trung đoàn 95 dùng điện thoại chỉ huy trận đánh; đặt dưới sự chỉ huy thống nhất. Tuy hiệu quả chiến đấu chưa cao, nhưng trận đánh đã thể hiện bước phát triển mới của bộ đội chủ lực phân khu về năng lực tổ chức chỉ huy, về trình độ hợp đồng tác chiến cũng như bảo đảm hậu cần. Sau trận Tân Lâm, địch phải tìm cách đối phó với chiến thuật phục kích giao thông của ta, thay đổi quy luật và thủ đoạn hành quân vận chuyển, tổ chức các đoàn xe từ 30 đến 40 chiếc, có xe bọc thép, đại bác và máy bay hộ tống.

Tại Thừa Thiên, phối hợp với mặt trận bắc Quảng Bình và bắc Quảng Trị, Trung đoàn 101 do Trung đoàn trưởng Hà Văn Lâu và Chính ủy Trần Quý Hai chỉ huy, mở một đợt tác chiến nhằm phá âm mưu chính trị của địch đưa Phan Văn Giáo lên làm “Tổng trấn Trung phần Việt Nam”.

Giữa tháng 6-1948, xuất phát từ vành đai du kích quanh thành phố Huế, đại đội biệt động tiến vào nội thành rải truyền đơn và vũ trang tuyên truyền trong gần một tiếng đồng hồ.

Ngày 16-6-1948, một bộ phận của trung đoàn 101 đột nhập vào thành phố Huế giữa ban ngày, dùng AT, bazôka, súng máy tiến công kho xăng, nhà ga, bắn cháy nhà chứa quân dụng, gây cho địch nhiều thiệt hại, rồi rút lui an toàn,

Đêm 27-6-1948, Tiểu đoàn 237 do Chính trị viên Quách Sỹ Kha, Tiểu đoàn trưởng Trần Sơn Nham chỉ huy, bí mật hành quân vượt phá Tam Giang, sử dụng nhân mối làm nội ứng, kỳ tập vị trí Mỹ Lợi, chia thành nhiều mũi đồng loạt tiến công vào đồn. Bị đánh bất ngờ, địch rối loại, chống cự yếu ớt. Ta vừa chiến đấu vừa gọi hàng, sau một giờ tiêu diệt nhiều sinh lực địch, lôi kéo sáu hàng binh Đức và rút trước khi trời sáng.

Ngày 9-7-1948, Tiểu đoàn 319 kỳ tập đồn Hà Thanh (Phú Vang). Lực lượng địch đóng đồn ngay tại nhà chờ, gồm 50 ngụy binh, phần lớn là thanh niên theo đại Thiên chúa, do tên trung úy Thanh, một phần tử phản động đội lốt tôn giáo cầm đầu. Địch lợi dụng tôn giáo chống phá điên cuồng phong trào kháng chiến, dùng nhiều thủ đoạn xảo quyệt để kìm kẹp, khống chế nhân dân, phá chiến tranh du kích, gây nhiều tội ác man rợ đối với đồng bào trong vùng. Thường vụ huyện ủy Phú Vang yêu cầu Tiểu đoàn 319 tiêu diệt đồn này để tạo điều kiện phát động phong trào quần chúng. Ta dùng Kê Men, một hàng binh người Đức được giác ngộ, từng lập công trong trận Cầu Nhi, giả làm sỹ quan Pháp, cùng 30 chiến sĩ cải trang thành ngụy binh, dùng mưu lừa bọn lính gác mở cổng đồn, rồi nhanh chống xông vào nổ súng tiến công. Do bị đánh bất ngờ, tên Thanh bỏ trốn, bọn địch không dám chống cự. ta tiêu diệt[202] 44 tên địch, thu một trung liên, 34 súng trường, cùng nhiều đạn dược. giải thoát bảy cán bộ bị giam giữ. Mọi tài sản thuộc nhà thờ Hà Thanh được giữ nguyên vẹn. Nhân dân trong vùng thoát ách kìm kẹp của địch, vô cùng phấn khởi, hăng hái tham gia kháng chiến. Đặc biệt là đồng bào công giáo càng hiểu rõ hơn chính sách tự do tín ngưỡng của Chính phủ kháng chiến, khâm phục tinh thần chiến đấu dũng cảm, kỷ luật nghiêm minh của bộ đội Cụ Hồ.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 20 Tháng Mười Hai, 2015, 08:21:50 pm
Tiếp theo trận tiêu diệt đồn Hà Thanh, Trung đoàn 101 phục kích ở cửa Tư Hiền, đánh chìm 14 đò lớn chở 150 tấn lương thực của địch; tổ chức trận vận động chiến đánh địch đi càn ở Dưỡng Mông (Phú Vang), v.v.

Phong trào du kích chiến tranh tuy chưa đều giữa các xã, các huyện, các tỉnh, nhưng ở nhiều nơi phát triển khá vững chắc như huyện Bố Trạch và một số xã của huyện Quảng Trạch (Quảng Bình), huyện Gio Linh (Quảng Trị), các huyện Phú Vang, Hương Thủy, Phong Điền (Thừa Thiên). Ở những nơi này, hễ địch ra khỏi đồn đều gặp tiếng súng đánh trả của dân quân, du kích.

Từ tháng 6 đến tháng 8-1948, quân và dân Bình - Trị - Thiên đánh 57 trận, diệt gần 500 tên (có 350 tên Pháp) làm bị thương hơn 110 tên (có 50 tên Pháp), bắt 112 tên (có 13 tên Pháp), 10 hàng binh Đức, Angiêri, diệt tỉnh trưởng, tỉnh phó Quảng Bình, thu 232 súng, phá hủy, phá hỏng 44 xe bọc thép và xe quân sự các loại, bắn rơi hai máy bay, phá hủy một đầu máy xe lửa, đánh sập bảy cầu, đánh chìm 14 đò chở lương thực.

Trước sự tiến công dồn dập của quân, dân Bình - Trị - Thiên, bọn chỉ huy Pháp ở Trung phần Việt Nam ra lệnh cho quân lính canh gác nghiêm ngặt, tăng cường công sự phòng ngự, đào hầm tránh bom bay trong thành phố, rút chủ lực ra ngoài đề phòng ta tiến công, đồng thời rút bỏ một loạt vị trí ở đồng bằng như Hà Thanh, Xuân Thiện, Trung Hà, Hòa Phú Đông, Quảng Xuyên để tăng cường cho các vị trí xung yếu.

Ngày 27-9-1948, thiếu tá Nguyễn Ngọc Lễ, tổng chỉ huy Bảo vệ quân ở Trung phần Việt Nam báo cáo lên Bộ chỉ huy Pháp và Thủ hiến Trung phần: Hai tháng nay tình hình bốn tỉnh (Bình - Trị - Thiên và Quảng Nam) rất nghiêm trọng. Việt Minh hoạt động ráo riết, lấy hết đồn này đến đồn khác và hoạt động cả ban ngày giữa tỉnh lỵ mà quân ta không đủ quân số và vũ khí để đối phó. Y đề nghị: … Cho 1.000 súng tay và súng máy, đóng thêm đồn ở tỉnh để giữ đất đai đã chiếm được và để Bảo vệ quân khỏi thất bại. Nếu không giải quyết thì an ninh và trật tự không giữ nổi, nhiều làng mạc nay sẽ rơi vào tay Việt Minh…

Đi đôi với tiến công quân sự, ta đẩy mạnh đấu tranh chính trị của quần chúng nhằm đập tan hệ thống ngụy quyền tay sai ở cơ sở. Nhận rõ âm mưu thâm độc của giặc Pháp và tác hại của hội tề, ta chủ trương vừa tiêu diệt sinh lực địch, vừa phối hợp với dân quân, du kích, công an hỗ trợ quần chúng phá tề, diệt ác, thành lập chính quyền nhân dân và phát triển lực lượng kháng chiến.

Rút kinh nghiệm thực tiễn phá tề trừ gian cuối năm 1947, đầu năm 1948 của Bình - Trị - Thiên, Liên khu ủy chủ trương phá tề từng đợt đều khắp ở ba tỉnh, tránh để địch tập trung lực lượng khủng bố từng nói.

Tháng 8-1948, Liên khu ủy chủ trương tổng phá tề lần thứ nhất. Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của các tỉnh ủy, được lực lượng vũ trang hỗ trợ, nhân dân vùng tạm bị chiếm ở cả ba tỉnh Bình - Trị - Thiên đồng loạt nổi dậy phá kìm, diệt ác, quét tề trên nhiều vùng lớn. Khí thế cách mạng của quần chúng sôi nổi như những ngày tổng khởi nghĩa, 80% hội tề ở Bình - Trị - Thiên bị giải tán. Chính quyền nhân dân thôn, xã lần lượt ra đời.

Cuối năm 1948, quân dân Bình - Trị - Thiên tổng phá tề lần hai. 95% hội tề bị giải tán. Chính quyền kháng chiến được thành lập lại và hoạt động, kể cả trong thành phố Huế và các thị xã Quảng Trị, Đông Hà, Đồng Hới, nêu cao vai trò và uy tín của chính quyền cách mạng. Tính đến năm 1948, ta phá được 3/4 số hội tề của địch ở Bình - Trị - Thiên. Riêng Quảng Trị phá được 230/280 hội tề, Thừa Thiên phá 390/490 hội tề. Cuộc đấu tranh trên mặt trận này hết sức dai dẳng và quyết liệt. Nhiều nơi ta vừa phá xong, địch lại quay về đàn áp nhân dân, khủng bố cán bộ, phá nát cơ sở, lập lại ngụy quyền tay sai. Có nơi ta phải phá đi phá lại ba đến bốn lần. Nhiều cán bộ cơ sở của ta bị bắt, bị giết. Thâm độc hơn, chúng còn lập hội tề bí mật để đối phó với chính quyền kháng chiến. Những nơi lực lượng kháng chiến mạnh, chúng đặt trụ sở hội tề ở gần đồn, ban ngày hội tề hoạt động, tối đến rút vào ngủ trong đồn.

“Tổng giải tán hội tề là một bằng chứng xác đáng để dân chúng nhận thấy sức mạnh của chính quyền nhân dân và uy tín của Chính phủ trung ương ta. Phong trào nhân dân kháng chiến sẽ nhờ việc giải tán hội tề mà ngày càng phát triển. Dân chúng nhờ đó càng thêm tin tưởng vững chắc vào thắng lợi cuối cùng”(1).

“Chủ trương “Đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung” cùng với cuộc vận động “diệt tề, trừ gian” là yếu tố quan trọng hàng đầu trong những năm 1947-1948, đưa phong trào kháng chiến ở Bình - Trị - Thiên vững bước đi lên, thực sự trở thành một cuộc chiến đấu toàn dân, toàn diện, bền bỉ, kiên cường”(2).


(1) Chỉ thị về xây dựng lực lượng và tổ chức lãnh đạo công tác dân quân 1948-1949, hồ sơ 26, phòng Cục Dân quân, lưu trữ Bộ Quốc phòng, tr.42.
(2) Trần Văn Quang: Báo cáo kinh nghiệm kháng chiến ở Bình - Trị - Thiên năm 1949, Hồ sơ 42, phòng Liên khu IV lưu trữ Bộ Quốc phòng, tr. 2.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 20 Tháng Mười Hai, 2015, 08:23:14 pm
Chiến tranh nhân dân đã làm cho hệ thống đồn bốt chiếm đóng của quân đội Pháp bị lỏng lẻo. Hệ thống đồn bốt dầy đặc không thể ngăn cản nổi những hoạt động của quân dân Bình - Trị - Thiên, mà còn bị bao vây trở lại, bị chia cắt và cô lập ở nhiều nơi. Quân Pháp phải rút bỏ nhiều vị trí. Nhiều nơi vốn là vùng chiếm đóng của Pháp đã được thay bằng những khu du kích mạnh mẽ. Những vùng nông thôn rộng lớn như Khu 3 (Phú Lộc), Phú Hưng, Phú Tài (Phú Vang), Phong Chương (Phong Điền), Quảng Điền (Thừa Thiên), Chợ Cạn, phía đông Triệu Phong, Hải Lăng (Quảng Trị)… trở thành căn cứ du kích, không còn đồn địch. Các Ủy ban kháng chiến hành chính hoạt động công khai. Nhân dân hăng hái tăng gia sản xuất, cải thiện đời sống, đóng góp nhiều sức người, sức của cho kháng chiến. Một trung đoàn[206] bộ đội có thể đứng chân để nghỉ ngơi, chỉnh đốn đội ngũ và xuất phát đánh địch từ sau lưng chúng. Vành đai du kích hình thành và được củng cố ở xung quanh thành phố Huế, tạo điều kiện thuận lợi cho lực lượng vũ trang hoạt động. Mỗi căn cứ của ta, khi mới hình thành nằm giữa vòng vây của địch, nhưng nhiều căn cứ du kích hợp thành một cái lưới bủa vây địch.

Quán triệt nghị quyết của Hội nghị cán bộ Trung ương lần thứ IV về lập nhiều làng chiến đấu ở đồng bằng, khu chiến đấu ở miền núi, gây căn cứ du kích đáp ứng yêu cầu của cuộc chiến đấu ở Liên khu IV, Liên khu ủy chủ trương phát động phong trào xây dựng nhiều làng chiến đấu không chỉ ở Bình - Trị - Thiên mà cả ở Thanh - Nghệ - Tĩnh. Nhiều làng chiến đấu liên hoàn hợp thành căn cứ du kích. Sự ra đời của căn cứ du kích là kết quả của phong trào quần chúng xây dựng làng, xã chiến đấu. Nhiều làng chiến đấu liên hoàn hợp thành một khu di kích hoặc căn cứ du kích. “Giữa làng chiến đấu và căn cứ du kích có quan hệ mật thiết về nội dung và bản chất. Có thể vì làng chiến đấu là từng viên gạch, căn cứ du kích là bức tường, là khối tổng hợp các làng chiến đấu tạo ra sức mạnh và tác dụng to lớn”(1). Làng chiến dấu là một thành tố của căn cứ du kích. Đánh giặc giữ làng là truyền thống của nhân dân Việt Nam. Mầm kháng chiến phải từ làng xã dấy lên. Truyền thống đó được kế thừa và phát huy cao độ dưới sự lãnh đạo của Đảng, hướng vào nhiệm vụ cụ thể là xây dựng làng chiến đấu, biến mỗi làng xã thành một pháo đài, gắn chặt giữ nước với giữ làng. Làng là gốc rễ của chiến tranh du kích. Nó là sào huyệt của dân quân để đánh giặc giữ mình. Địa hình của làng mạc rất thuật tiện cho quân du kích ẩn nấp. Tác dụng lớn nhất của nhân dân trong chiến tranh du kích thường phát huy ở làng mạc. Làng mạc là là cơ sở của cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, là nơi có thể huy động mọi người tham gia đánh giặc và đánh giặc bằng mọi vũ khí có trong tay, có thể phát động và duy trì một cuộc chiến tranh du kích lâu dài. Vì vây, các cấp bộ đảng và chính quyền kháng chiến liên khu quan tâm chỉ đạo xây dựng làng kháng chiến để làm chỗ dựa tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, làm cơ sở để xây dựng căn cứ du kích, huy động nhân dân rào làng, đặt chướng ngại vật, đào hầm hào, đắp lũy, tổ chức bám địch, trinh sát…

Cùng với quá trình xây dựng là cuộc chiến đấu để bảo vệ các chiến khu và căn cứ du kích. Nhiều nơi dân quân du kích dựa vào làng mạc tự động đánh giặc. Dân quân, du kích các xã ở Bố Trạch, Quảng Trạch (Quảng Bình), Gio Linh (Quảng Trị), Phú Vang, Hương Thủy, Phong Điền (Thừa Thiên), hễ thấy địch là nổ súng chiến đấu.

Để củng cố tinh thần ngụy quân, ngụy quyền sau các đòn tiến công quân sự và các cuộc tổng phá tề của ta, từ giữa tháng 9 đến thượng tuần tháng 12-1948, thực dân Pháp liên tiếp mở nhiều cuộc càn quét vào căn cứ của phân khu và của các tỉnh, nhằm tiêu diệt cơ quan lãnh đạo kháng chiến, tiêu diệt chủ lực, hòng đè bẹp sức kháng chiến của Bình - Trị - Thiên, khôi phục lại ngụy quyền ở những nơi vừa bị mất.

Từ ngày 17 đến ngày 25-9-1948, địch điều bốn tiểu đoàn từ Đà Nẵng, Thừa Thiên, Quảng Trị, Quảng Bình, cùng 10 máy bay, 100 xe quân sự, năm canô, 100 đò, có pháo binh chi viện, chia thành nhiều mũi, theo đường bộ và đường thủy tiến công lên chiến khu của tỉnh Quảng Trị và căn cứ của phân khu. Trước cuộc tiến công ồ ạt của địch, Bộ chỉ huy Phân khu chỉ đạo lực lượng vũ trang mở đợt tác chiến phối hợp trên toàn phân khu nhằm kìm chân, phân tán lực lượng địch, tạo điều kiện cho chiến khu chống càn thắng lợi.

Tại tiền chiến khu, dân quân, du kích dùng mìn, địa lôi, lựu đạn để đánh địch ở ngã tư Làng Am, Trường Phước, Phước Môn, Cùa, diệt và làm bị thương hàng trăm tên, làm giảm cường độ và tốc độ tiến công của địch.

Tại chiến khu Ba Lòng, cán bộ, cơ quan đã bình tĩnh sơ tán tài liệu, chuyển thương binh, kho tàng vào sâu trong rừng, đồng thời tổ chức chiến đấu, phối hợp với Đại đội trợ chiến 127 và Trung đội cảnh vệ (Trung đoàn 95) chặn đánh địch.


(1) Căn cứ du kích dự thảo kinh nghiệm kháng chiến chống Pháp, lưu Thư viện quân đội, tr.1.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 20 Tháng Mười Hai, 2015, 08:23:52 pm
Không diệt được cơ quan đầu não, đồng thời bị đánh đau, quân Pháp phải rút lui. Nắm vững thời cơ, lúc đối phương mệt mỏi, Đại đội trợ chiến và cảnh vệ do Trung đoàn phó Phùng Thế Bằng chỉ huy, chặn đánh địch trên đoạn sông từ Bỏng đến Chủ Cá, Bãi Dài, Khe Trái, bắn chìm 40 đò, một canô, loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên địch.

Phối hợp với cuộc chiến đấu ở chiến khu, bộ đội chủ lực và dân quân, du kích Bình - Trị - Thiên hoạt động ráo riết khắp nơi, diệt nhiều toán địch đi lùng sục, phục kích, đánh giao thông, quấy rối các vị trí, đẩy mạnh vũ trang tuyên truyền, hỗ trợ nhân dân phá tề, trừ gian, làm rối loạn hậu phương địch, tiêu diệt hơn 300 tên, làm bị thương 150 tên.

Thắng lợi trên đây càng khẳng định vai trò hết sức quan trọng của lực lượng vũ trang địa phương, đồng thời chứng tỏ bước trưởng thành trong nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh của phân khu và trình độ phối hợp tác chiến của các lực lượng vũ trang trên địa bàn Bình - Trị - Thiên.

Đầu tháng 12-1948, thực dân Pháp ráo riết chuẩn bị tiến công Troóc nhằm cắt đường giao thông liên lạc duy nhất của ta từ Thanh - Nghệ - Tĩnh vào Bình - Trị - Thiên và Trung Lào. Làng Troóc là một căn cứ kháng chiến của tỉnh Quảng Bình, nằm giữa một thung lũng hẹp ở tây bắc tỉnh. Trên tuyến giao thông liên lạc Bắc - Nam, nên đã trở thành một “quyết chiến điểm” giữa ta và địch trong nhiều năm.

Sáng ngày 10-12-1948, địch sử dụng 200 tên có không quân, pháo binh yểm hộ chia thành hai mũi đánh chiếm Troóc. Đề phòng ta đánh trả, địch bắt hàng trăm đồng bào đi trước đội hình tiến công để làm bia đỡ đạn cho chúng. Dân quân, du kích dùng vũ khí thô sơ tự tạo dũng cảm chiến đấu, diệt 25 tên, trong đó có 13 tên Pháp.

Sau khi chiếm Troóc, với ý định chốt giữ lâu dài, địch gấp rút sửa chữa tỉnh lộ số 2, bắc cầu qua sông Xuân Sơn, nhanh chóng xây dựng sân bay dã chiến, công sự kiên cố, trận địa cố thủ, gây cho ta nhiều khó khăn trong việc vận chuyển tiếp tế và thông tin liên lạc từ vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh vào vùng bị tạm chiếm Bình - Trị - Thiên.

Từ ngày 18 đến ngày 23 tháng 12-1948 Liên khu ủy họp hộ nghị mở rộng, thông qua kế hoạch phát triển mạnh mẽ lực lượng dân quân, chủ trương xây dựng dân quân thành lực lượng chiến lược. Liên khu ủy nhận định: “khuyết điểm gốc rễ khiến cho dân quân tiến chậm là quan niệm chiến tranh nhân dân chưa được ăn sâu trong chính quyền, Đảng, quân đội”. Liên khu ủy quyết định: “chính quyền, Đảng, quân đội phải đặt vấn đề dân quân thành một vấn đề quan trọng trong kế hoạch công việc của mình”.

Về xây dựng đảng, hội nghị cho rằng phong trào Liên khu IV vẫn trầm trầm không tiến mạnh lên được, không phải vì nhân dân trên địa bàn thiếu tinh thần cách mạng, không phải điều kiện tự nhiên, kinh tế của liên khu khó khăn hơn nơi khác, cũng không phải vì lực lượng địch quá mạnh, mà chủ yếu là chưa làm tốt công tác cán bộ. Nhiều cán bộ đang giữ các cương vị lãnh đạo, chỉ đạo chủ chốt, tuy kiên cường, dũng cảm, tận tụy hy sinh nhưng trình độ không theo kịp sự phát triển của tình hình mới, đang trở thành lực cản của phong trào. Những cán bộ mới, trẻ, có kiến thức và có năng lực không được chú ý đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và đề bạt…

Để thực hiện tốt ba nhiệm vụ trung tâm về xây dựng đảng (phát triển và củng cố đảng, đào tạo cán bộ, củng cố giao thông liên lạc) mà Hội nghị Trung ương mở rộng đã đề ra, Hội nghị Liên khu ủy quyết định:

- Tích cực gây cơ sở đảng trong vùng địch kiểm soát, những nơi xung yếu, những nơi quan trọng, các xí nghiệp, các đường giao thông, xung quanh vị trí địch, khắp các xã thôn.

- Tích cực phát triển đảng trong các tầng lớp trung kiên, chú ý phụ nữ, trí thức.

- Thi đua xây dựng chi bộ tự động công tác.

- Làm tốt công tác cán bộ: mạnh dạn đề bạt cán bộ mới, trẻ, có năng lực, có triển vọng; kiên quyết đưa nhiều cán bộ cũ đi bồi dưỡng; trao đổi cán bộ giữa hai vùng, giữa các tỉnh trong liên khu với Khu III; tăng cường cán bộ cho Bình - Trị - Thiên; lập đội dự bị sẵn sàng thay thế cho cán bộ đương nhiệm được điều động đi nhận công tác khác.

Nghị quyết của Hội nghị Liên khu ủy có ý nghĩa rất quan trọng trong việc làm chuyển biến phong trào kháng chiến ở Bình - Trị - Thiên cũng như Thanh - Nghệ - Tĩnh các năm tiếp theo.

Hội nghị Liên khu ủy mở rộng cũng phân tích ý đồ của quân Pháp và hậu quả nghiêm trọng do cuộc tiến công làng Troóc của chúng gây ra; quyết nghị tổ chức đánh bật địch ra khỏi Troóc, khai thông đường liên lạc Bắc - Nam.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 20 Tháng Mười Hai, 2015, 08:25:04 pm
Ngày 25-12-1948, hai đại đội của Trung đoàn 103 phối hợp cùng dân quân, du kích tiến công vị trí Troóc, tiêu diệt 18 tên Pháp và lê dương. Nhưng do lực lượng địch đông, lại có hệ thống công sự vững chắc, bộ đội ta còn thiếu các loại vũ khí, trình độ và kinh nghiệm công kiên chiến thấp, nên chưa thanh toán được vị trí này.

Trước bước tiến mới của phong trào chiến tranh nhân dân ở Bình - Trị - Thiên, nhất là về phá tề, trừ gian và hoạt động quân sự sâu trong vùng bị tạm chiếm, thực dân Pháp không những không tiến được bước nào trong việc thực hiện chiết thuật “vết dầu loang”, mà còn phải thay đổi kế hoạch để đối phó với phong trào kháng chiến. Chúng rút bỏ 67 vị trí nhỏ lẻ, ít quan trọng trong tổng số 194 vị trí chiếm đóng, để đề phòng quân ta tiến công tiêu diệt, làm cho phạm vi kiểm soát của quân Pháp bị thu hẹp, vùng du kích được mở rộng. Chúng tổ chức các đội ứng chiến chi viện cho các đồn khi bị tiến công và ra lệnh cho các đồn chỉ được tiếp viện cho nhau khi có lệnh, không đi lùng sục lẻ tẻ. Chúng phát triển màng lưới gián điệp để nắm bắt tình hình ta và tăng cường càn quét để bảo vệ các vùng kiểm soát, nhất là các đô thị, các trục đường giao thông quan trọng.

Cũng như trên phạm vi cả nước, năm 1948, quân, dân Bình - Trị - Thiên đã làm thất bại một bước âm mưu “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt của địch”, “Biến hậu phương của địch thành tiền phương của ta, đó là thành công lớn của ta trong năm 1948. Không “bình định” được vùng kiểm soát, đó là thất bại lớn nhất của địch trong năm nay”(1).

Để đối phó với chiến tranh nhân dân, chiến tranh du kích, từ năm 1949, thực dân Pháp tăng cường thực hiện chiến lược chiến tranh tổng lực, sử dụng những thủ đoạn chính trị, quân sự xảo quyệt.

Về chính trị, tháng 3-1949, Hiệp ước Êlydê (Élysé) được ký kết giữa thực dân Pháp với Bảo Đại, trao trả nền “độc lập” cho nước Việt Nam. Chính phủ bù nhìn trung ương được thành lập do Bảo Đại làm “quốc trưởng” kiêm Tổng tư lệnh quân đội, Nguyễn Văn Xuân làm “Thủ tướng” kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Với hiệp ước này thực dân Pháp tiến thêm một bước trong việc thực hiện âm mưu “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt”. Ở cơ sở, địch ra sức xây dựng và củng cố hội tề làm công cụ kìm kẹp và bóc lột dân chúng.

Về quân sự, ngày 13-5-1949, Đại tướng Rơve (Revers), Tổng tham mưu trưởng quân đội Pháp cầm đầu một phái đoàn sang Đông Dương. Sau hơn một tháng nghiên cứu tình hình, kế hoạch Rơve được rạch ra, nội dung cơ bản là: tăng cường xây dựng quân ngụy, dùng quân ngụy làm nhiệm vụ chiếm đóng; tập trung quân Âu - Phi để xây dựng lực lượng cơ động làm nhiệm vụ càn quét đánh phá phong trào chiến tranh du kích của ta, đồng thời mở các cuộc tiến công lớn tiêu diệt chủ lực ta, hòng làm đảo ngược tình thế có lợi cho chúng. Rơve chủ trương củng cố và đề cao ngụy quyền làm công cụ vơ vét sức người, sức của phục vụ chiến tranh xâm lược.

Từ tháng 6-1949, địch khẩn trương triển khai kế hoạch Rơve. Tại Bình - Trị - Thiên, chúng đưa tướng Lôriốt thay cho Lebris chỉ huy Trung phần Việt Nam; thay đổi một số thủ đoạn chiến thuật: rút bớt các đồn miền núi, tập trung lực lượng phòng thủ thị xã, vùng đồng bằng đông dân và các trục giao thông chính; ráo riết thực hiện chiến thuật lô cốt, tháp canh kết hợp với đội ứng chiến mạnh; tăng cường lực lượng Bảo vệ quân, tổ chức lực lượng đặc biệt ác ôn (như đại đội “áo đen”) do tên phản bội Quản Hậu chỉ huy làm nhiệm vụ càn quét, tàn sát, cướp bóc dân chúng; chú trọng củng cố, đề cao ngụy quyền, tích cực tuyên truyền cho chính phủ bù nhìn Bảo Đại, tăng cường các thủ đoạn chính trị, nhằm gây ảnh hưởng và chuẩn bị một khu vực an toàn để đón “quốc trưởng” Bảo Đại về Huế.

Đông - xuân 1948-1949, cuộc kháng chiến của quân dân Việt Nam phát triển mạnh. Tháng 1-1949, Trung ương Đảng đề ra chủ trương “Tích cực cầm cự chuẩn bị tổng phản công” với nhiều biện pháp cụ thể về quân sự, chính trị, xây dựng đảng. Liên khu ủy, Ủy ban kháng chiến hành chính và Bộ chỉ huy quân sự Liên khu IV mở Hội nghị cán bộ toàn liên khu để quán triệt và chỉ đạo việc tổ chức thực hiện các chủ trương mới của Trung ương, Bộ tổng Tư lệnh và Nghị quyết Hội nghị Liên khu ủy tháng 12-1948. Trên cơ sở những tiến bộ đạt được trong năm 1948, các đảng bộ và quân dân Bình - Trị - Thiên kiên trì đẩy mạnh cuộc kháng chiến.


(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t. , tr.76.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 20 Tháng Mười Hai, 2015, 08:25:36 pm
Đầu năm 1949, thực dân Pháp tổ chức những đợt vận chuyển lớn tiếp tế vũ khí, lương thực cho Quảng Trị, Quảng Bình và Trung Lào. Bộ chỉ huy Phân khu chủ trương tổ chức những trận đánh giao thông nhằm phá kế hoạch chuẩn bị của địch, lấy vũ khí trang bị cho các đơn vị, cổ vũ các đại đội độc lập và lực lượng vũ trang địa phương đẩy mạnh tác chiến, tạo ra bước phát triển mới trong phong trào chiến tranh du kích toàn phân khu.

Thực hiện phương châm đánh du kích, đánh địch dọc đường giao thông…, Trung đoàn 101 chọn Hói Mít làm điểm tiến công đoàn tàu địch. Đây là vị trí nằm trên tuyến đường sắt Đà Nẵng - Huế, cách ga Lăng Cô 2 km về phía bắc, kẹp giữa đầm An Cư, đường số 1 và dải rừng núi ở tây - tây nam. Ta có lợi thế về địa hình phục kích, nhưng địch lại có lợi thế về cơ động lực lượng.

Sáng ngày 12-1-1949, đoàn tàu chở vũ khí của địch có bộ binh và cơ giới yểm hộ lọt vào trận địa phục kích đặt sẵn mìn của ta. Mìn nổ, Trung đoàn trưởng Trần Sâm chỉ huy bộ đội dũng mạnh xông thẳng ra mặt đường tiến công đoàn tàu, dùng hỏa lực bắn mạnh vào toa chỉ huy, nhanh chóng đánh chiếm cả đoàn tàu. Một bộ phận khác dũng cảm xung phong đánh giáp lá cà với bọn địch đi hộ tống trên đường số 1. Sau hơn một giờ chiến đấu, ta đã tiêu diệt và bắt gọn 300 tên địch; thu 10 trung liên, 30 tiểu liên, 180 súng trường, phá hủy hàng ngàn súng máy, trên 80 tấn đạn các loại, toàn bộ đầu máy và 17 toa xe, trong đó có bốn toa chở đầy đạn. Địch phản ứng mau lẹ, điều quân ứng chiến liên tỉnh từ Đà Nẵng và Huế đến tiếp viện. Một bộ phận bộ đội ta bị địch vây kín, ẩn giấu trong các rừng cây, dưới tầm pháo địch, nhưng được sự giúp đỡ của du kích và nhân dân đã luồn sát nách địch, thoát vây, trở về chiến khu Phú Lộc an toàn.

Chiến thắng Hói Mít là một trận phúc kích tiêu diệt gọn, phá được kế hoạch tiến công của địch trong giai đoạn chuẩn bị. Tên Phó tư lệnh Trung phần Đờ Larốc (De Laroque) cấp tốc chỉ thị cho binh sĩ “phải tiết kiệm đạn được và vũ khí”, làm cho mật độ sử dụng hỏa lực của địch giảm rõ rệt. Chiến thắng này có sức cổ vũ mạnh mẽ toàn liên khu, tạo điều kiện cho quân dân Bình - Trị - Thiên và Trung Lào đánh thắng nhiều trận mới.

Trước thất bại trong những ngày đầu năm, địch tập trung lực lượng mở những cuộc càn dài ngày ở cả vùng đồng bằng và chiến khu rừng núi.

Từ 17-1 đến 24-2-1949, chúng huy động 500 quân, rồi 2.000 quân, có máy bay, tàu chiến yểm hộ càn các huyện Phong Điền, Quảng Điều, Phú Vang (Thừa Thiên), Hải Lăng, Triệu Phong (Quảng Trị).

Từ 25-2 đến 14-3-1949, chúng tung 2.000 quân, có máy bay yểm trợ mở cuộc càn lớn lên chiến khu của tỉnh Thừa Thiên hòng tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến của Phân khu và gây ảnh hưởng cho chính phủ bù nhìn do Bảo Đại làm “Quốc trưởng”. Lực lượng địch chia thành ba mũi: một mũi từ Động Truồi lên Khe Su, Ly Hy, rồi theo đường 14 lên Khe Tro; một mũi từ Tuần theo sông Hữu Trạch tiến vào Bình Điền; một mũi từ Gia Lễ tiến lên Dương Hòa, Lương Miêu, án ngữ phía trước chiến khu.

Trước âm mưu, thủ đoạn càn quét của địch, các cơ quan và nhân dân sơ tán, các lực lượng vũ trang đánh địch rộng khắp trên toàn phân khu.

Các đại đội độc lập của Trung đoàn 101 phối hợp với quân dân Thừa Thiên đánh dịch đều khắp. Tiểu đoàn 319 bí mật luồn về vùng đồng bằng, dùng vận động chiến đánh địch ở Văn Trì (11-3-1949) làm cho chúng bị bất ngờ, lúng túng. Đại đội 1 dân quân tỉnh Thừa Thiên độc lập tác chiến, kết hợp tiến công quân sự với địch vận diệt gọn đồn Vân Trình (18-3-1949), thu 41 súng, hơn một vạn viên đạn các loại, từ trang bị cho mình và các đơn vị dân quân, du kích địa phương.

Suốt 20 ngày đêm phối hợp chiến đấu, các lực lượng vũ trang phân khu đã bảo vệ được chiến khu Thừa Thiên, làm thất bại âm mưu của địch, loại khỏi vòng chiến đấu 350 tên, trong đó có một quan tư, một quan ba, một quan hai.

Nhằm biến hậu phương an toàn của địch thành tiền phương của ta, đêm 29-3-1949, các tiểu đoàn 302 và 310 (Trung đoàn 95) kỳ tập thị xã Đông Hà (căn cứ hậu cần của địch tiếp tế cho Quảng Trị, Quảng Bình, Trung Lào). Trong thời gian này, một đơn vị của Trung đoàn 95 cũng đã tiến công vào vị trú của địch ở Đầu Mầu trên đường số 9, tiêu diệt 54 tên, phá hủy hai xe bọc thép. Tuy không đạt được mục tiêu đã đề ra về tiêu diệt nhiều sinh lực và phá hủy nặng căn cứ hậu cần của địch, nhưng hành động táo bạo của quân ta đã làm địch hoang mang lo sợ, nhất là ngụy quân, ngụy quyền và cổ vũ mạnh mẽ tinh thần kháng chiến của nhân dân trong các độ thị.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 20 Tháng Mười Hai, 2015, 08:26:02 pm
Bộ chỉ huy quân Pháp ở Trung phần Việt Nam ra lệnh tăng cường các biện pháp kiểm soát và phòng thủ các thành phố, thị xã, cùng lúc rút 14 đồn lẻ: Đá Đen (Bố Trạch), Thế Chi Đông, Lãnh Thủy, Đại Hộc (Quảng Điền), Chợ Phiên (Cam Lộ), Văn Cự (Hương Trà), Mỹ Lợi, Phú An (Phú Lộc), Quảng Xuyên (Phú Vang)… và đưa thêm quân từ các nơi về tăng cường cho các thành phố, thị xã và các vị trí quan trọng. Chúng ra sức xây dựng hệ thống lô cốt, tháp canh; tích cực tuyển mộ ngụy binh, phát triển hương vệ làm lực lượng chiếm đóng; đôn quân thành lập các đội ứng chiến mạnh và đưa một số tiểu đoàn quân ứng chiến Âu - Phi từ Đà Nẵng và nơi khác tới để tăng cường hoạt động càn quét vùng tạm bị chiếm, nhằm bảo vệ các thành phố, thị xã, các trục đường giao thông, các vùng đồng bằng phì nhiêu, đông dân; ra sức cướp phá mùa màng; phá hoại cơ sở kháng chiến. Mặt khác, chúng còn sử dụng các thủ đoạn lừa bịp, lôi kéo, chia rẽ nhân, củng cố ngụy quyền, đề cao chính sách quốc gia giả hiệu và gây thanh thế cho Chính phủ Bảo Đại.

Ngày 28-3-1949, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị vạch mặt bọn bán nước Bảo Đại. Liên khu ủy IV có các chỉ thị “tích cực chống chiến tranh cướp phá mùa của địch” và “triệt để diệt tề, vạch mặt bọn bán nước, phá ảnh hưởng của bù nhìn Bảo Đại”.

Thực hiện kế hoạch Rơve, sau một thời gian chuẩn bị, giữa tháng 6-1949, địch liên tiếp mở nhiều cuộc hành quân càn quét vào đồng bằng Bố Trạch, Quảng Trạch, chiến khu Quảng Trạch, Quảng Bình) nhằm giữ chân chủ lực ta ở Hà Tĩnh, Quảng Bình, tạo thành một hành lang bảo vệ an toàn thành phố Huế từ xa. Chúng còn điều thêm lực lượng từ Nam Bộ, Đà Nẵng ra bảo vệ Huế. Tại hai tỉnh Thừa Thiên và Quảng Trị, địch tăng cường các thủ đoạn chính trị lừa bịp xoa dịu lòng dân, tạo ra một không khí hòa bình giả tạo để gây thanh thế cho Bảo Đại.

Tháng 5-1949, Hội nghị Quân chính liên khu quyết định đưa cuộc chiến tranh nhân dân ở Bình - Trị - Thiên lên một bước mới, phát triển lực lượng dân quân, du kích, xây dựng bộ đội địa phương tỉnh, huyện, tập trung các đại đội độc lập về xây dựng các tiểu đoàn tập trung trong đội hình chiến đấu các trung đoàn chủ lực.

Thực hiện các chủ trương trên, trong mùa hè 1948, quân, dân Bình - Trị - Thiên mở đợt hoạt động ở cả miền núi, đồng bằng, đô thị nhằm làm thất bại âm mưu cướp mùa và ý đồ chính trị của địch.

Ngày 6-6-1949, quân, dân Hải Lăng (Quảng Trị) đã đánh tan một trung đội địch bảo vệ cuộc biểu tình ủng hộ Bảo Đại do địch tổ chức và một tiểu đoàn địch đến tiếp viện, biến cuộc biểu tình ấy thành cuộc biểu tình của quần chúng ủng hộ chính quyền kháng chiến, đả đảo Bảo Đại.

Ngày 25-6-1949, Tiểu đoàn 319 cùng các đại đội độc lập cường tập đồn Lương Vân. Ngày 12-7-1949, đúng vào lúc Bảo Đại đến Huế, mặc dù địch ra sức canh phòng nghiêm ngặt, đội biệt động thành phố phối hợp với dân quân và công an quấy rối thành phố Huế. Ngày 14-7-1949, Đại đội biệt động 123 phục kích một toán lính Marốc đi lùng sục, đồng thời bắn súng cối vào hoàng cung.

Công tác vận động nhân dân vùng tạm bị chiếm, kể cả người trong hoàng tộc, cô lập Bảo Đại đạt kết quả tốt. Cụ Ưng Úy, một người trong hoàng tộc có tiếng tăm, bỏ thành phố ra vùng tự do tham gia kháng chiến. Việc thực dân Pháp đưa Bảo Đại về Huế đã không gây được ảnh hưởng chính trị trong nhân dân.

Công cuộc phá tề được tiến hành triệt để, nhiều tên ác ôn bị trừng trị, Khác với trước, nhiều nơi ngụy quyền bị phá, một thời gian lâu chúng vẫn không lập lại được. Nhiều người trong ngụy quyền bắt liên lạc với kháng chiến để phòng thân về sau.

Quân, dân các tỉnh hăng hái thi đua đẩy mạnh tăng gia sản xuất, tích cực chống địch bảo vệ mùa màng, cất giấu lương thực, tài sản để giải quyết vấn đề tự cung, tự cấp và đóng góp cho kháng chiến.

Đại hội đại biểu lần thứ hai của Đảng bộ liên khu (7-1949) đã tổng kết việc thực hiện nhiệm vụ tích cực cầm cự, chuẩn bị tổng phản công về các mặt quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa và xây dựng đảng. Đại hội đánh giá cao sự cố gắng vươn lên và những thành quả của quân dân Bình - Trị - Thiên, nhất là ở Quảng Trị, Thừa Thiên, đồng thời nêu rõ nhược điểm: nặng về cầm cự, nhẹ về chuẩn bị tổng phản công; lực lượng dân quân, du kích phát triển rộng nhưng trang bị vũ khí quá thiếu; trình độ của bộ đội, của cán bộ lãnh đạo, chỉ huy chưa theo kịp với đòi hỏi của tình hình mới; cơ sở chính trị và phong trào quần chúng ở đô thị và các vùng tạm chiếm sâu chưa vững…; ta mạnh lên, địch bị suy yếu, nhưng địch vẫn nằm thế chủ động chiến trường.

Đại hội đề ra nhiệm vụ cụ thẻ nhằm “gấp rút chuẩn bị tổng phản công” trong toàn liên khu. Đại hội bầu Liên khu ủy mới do đồng chí Chu Văn Biên làm Bí thư. Một số cán bộ trẻ mới trưởng thành sau Cách mạng Tháng Tám vừa được cử giữ chức vụ Bí thư tỉnh ủy trong các đại hội đại biểu đảng bộ các tỉnh đầu 1949 được bầu vào Liên khu ủy.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 20 Tháng Mười Hai, 2015, 08:26:32 pm
Sau Đại hội đại biểu lần thứ hai Đảng bộ liên khu, phong trào “rèn cán, chỉnh quân” được phát động rộng rãi; cán bộ lãnh đạo và chỉ huy Phân khu Bình - Trị - Thiên và Trung Lào được bố trí lại. Căn cứ vào yêu cầu của chiến trường, ngày 26-10-1949, Bộ Tổng tư lệnh ra quyết định thành lập “Mặt trận Bình Trị Thiên - Trung Lào” do đồng chí Hà Văn Lâu làm Tư lệnh trưởng, đồng chí Trần Quý Hai làm Chính ủy nhằm thực hiện nhiệm vụ đẩy mạnh hoạt động quân sự, tập trung ở hướng chiến lược đường 9 - miền Trung Đông Dương, dùng chủ lực tác chiến để phối hợp với chiến trường chính Bắc Bộ.

Phong trào chiến tranh nhân dân ở Bình - Trị - Thiên tiếp tục phát triển mạnh hơn.

Quán triệt tư tưởng chỉ đạo tác chiến của Bộ Tổng tư lệnh và Nghị quyết của Liên khu ủy: “Tranh thủ chủ động tửng trận đánh; mạnh bạo đẩy mạnh vận động chiến tiến tới”, Phân khu ủy và Bộ chỉ huy Phân khu Bình - Trị - Thiên mở hai đợt tác chiến tập trung, do đồng chí Trần Văn Quang làm chỉ huy trưởng, đồng chí Lê Nam Thắng làm chỉ huy phó và đồng chí Lê Tùng làm tham mưu trưởng.

Giữa tháng 7-1949, Phân khu mở đợt tác chiến thứ nhất (gọi tắt là kế hoạch ABC), tại khu vực đường số 9 và tây Hướng Hóa nhằm gây dựng cơ sở, tạo bàn đạp cho Tiểu đoàn 384 phát triển lên hướng bắc đường số 9 - Trung Lào. Lực lượng tham gia gồm Tiểu đoàn 436, 302. Tiểu đoàn 227 (Trung đoàn 95). Ngày 18-7-1949), tại làng Miệt, Tiểu đoàn 302 đánh trận mở đầu, diệt một trung đội địch từ Khe Sanh đi tiếp tế cho đồn Nguồn Rào, tiếp đó tiến công vị trí Nguồn Rào và phục kích đánh địch tiếp viện tại kilômét 46, diệt hơn một trung đội, phá hủy ba xe, nhưng không diệt được đồn.

Cuối tháng 8-1949, ta vây Khe Sanh, Lao Bảo và phục kích tiêu diệt gọn địch ở Nguồn Rào, khu vực bắc huyện Hướng Hóa được hoàn toàn giải phóng.

Tại Quảng Bình, đầu tháng 8-1949, Trung đoàn 18 liên tục tiến công địch tại Lệ Kỳ (Quảng Ninh) và Hòa Duyệt (Bố Trạch). Trước áp lực quân sự của ta, địch phải rút nhiều đồn lẻ như Mỹ Đức (Lệ Thủy), Trần Xá, Xuân Duy (Quảng Ninh), Đá Bạc (thị xã Đông Hà).

Trước thất bại thảm bại này, tỉnh trưởng Quảng Bình Nguyễn Khoa Nghi báo cáo lên tổng Trung phần Việt Nam: Sự hoạt động của Việt Minh ngày càng ráo riết. Ở các thôn quê, hương lý bị bắt, mộc triện bị thu, các tổng xã mất liên lạc, không có người làm việc cho chính phủ. Phủ, huyện làm việc trong tình trạng cô lập.

Cùng thời gian trên, Tiểu đoàn 227 và Tiểu đoàn 364 bí mật cơ động về đồng bằng Triệu Phong, Hải Lăng, Phong Điều, Quảng Điền, phối hợp với Tiểu đoàn 310 (Trung đoàn 95) mở đợt tác chiến thứ hai (gọi tắt là kế hoạch GMC) nhằm tiêu diệt đội ứng chiến của địch đi càn quét và rèn luyện khả năng tác chiến của các tiểu đoàn.

Ngày 18-8-1949, tiểu đoàn ứng chiến Bắc Phi cùng hai đại đội Việt binh đoàn với sáu xe bọc thép lội nước, do thiếu tá Depointer chỉ huy càn quét khu vực Mỹ Chánh, Mỹ Xuyên, Ưu Điềm (Phong Điền). Tại Mỹ Xuyên, dưới sự chỉ huy của Trung đoàn phó Lê Bá Vận, Tiểu đoàn 227 (đơn vị chủ công) phối hợp chặt chẽ với Tiểu đoàn 311 và Tiểu đoàn 364, Đại đội địa phương Phong Điền và dân quân vừa chống càn, vừa vận động phục kích chặn đánh các cánh quân của địch trên một địa hình trống trải. Sau hơn một giờ chiến đấu, ta diệt gọn một đại đội, đánh tan hai đại đội, bắt sống thiếu tá Depointer, Tiểu đoàn trưởng kiêm phân khu trưởng Phân khu Bắc Thừa Thiên, phá hủy ba xe lội nước, thu một súng cối, ba trung liên, một trọng liên 12,7mm và hơn 40 súng các loại, đập tan cuộc càn quét của địch. Đây là lần đầu tiên trung đoàn 95 sử dụng cả ba tiểu đoàn vận động tác chiến và cũng là lần đầu tiên quân ta tiêu diệt được xe bọc thép lội nước, một phương tiện chiến tranh hiện đại mà địch vừa đưa vào sử dụng trên địa bàn đồng bằng Bình - Trị - Thiên.

Chiến thắng Mỹ Xuyên đánh dấu bước trưởng thành của bộ đội và năng lực chỉ huy của cán bộ, mở ra triển vọng mới về tác chiến tập trung, đẩy mạnh vận động chiến của bộ đội chủ lực ta trên chiến trường Bình - Trị - Thiên.

Ở Quảng bình, đầu tháng 8-1949, Trung đoàn 18 liên tiếp tiến công địch ở Lệ Kỳ (Quảng Ninh), Hòa Duyệt (Bố Trạch). Trước áp lực của ta, địch buộc phải rút bốn đồn lẻ ở Lệ Thủy, Quảng Ninh, thị xã Đồng Hới; vùng giải phóng của ta ở nam Quảng Bình được mở rộng thêm.

Tháng 8-1949, quân, dân Bình - Trị - Thiên nổi dậy phá tề trên nhiều vùng rộng lớn; giải tán 698 trong tổng số 710 ban hội tề; cảnh cáo bọn tay sai, trừng trị một số tên ác ôn, 95% hội tề ở Trị - Thiên bị phá, số còn lại phải lẩn trốn vào đồn binh. Việc phá chính quyền địch đi đôi với xây dựng chính quyền kháng chiến. Ba tỉnh tổ chức bầu cử Hội đồng nhân dân xã. Nhân dân hồ hởi, phấn khởi đi bỏ phiếu. Những nơi xa đồn địch, có xã 100% cử tri đi bỏ phiếu (tiêu biểu là Phú Lộc). Hàng ngàn đồng bào ở vùng bị tạm chiếm bí mật ra vùng tự do tham gia bầu cử. Đây là một thắng lợi lớn, biểu thị trình độ giác ngộ chính trị của quần chúng nhân dân.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 20 Tháng Mười Hai, 2015, 08:27:20 pm
Tháng 11-1949, Trung ương Đảng và Bộ Tổng tư lệnh chủ trương mở chiến dịch Lê Lợi nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, phá thế kìm kẹp của địch ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, khai thông liên lạc giữa Việt Bắc với Liên khu III và Liên khu IV.

Trong đông - xuân 1949-1950, thực hiện chỉ thị của Trung ương Đảng, Liên khu ủy và Bộ tư lệnh Liên khu IV đưa Trung đoàn 9, bộ đội địa phương và dân quân miền tây Thanh Hóa tham gia chiến dịch Lê Lợi ở chiến trường Bắc Bộ và quyết định mở chiến dịch Lê Lai ở Bình - Trị - Thiên để phối hợp với chiến trường chính nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, xây dựng và mở rộng căn cứ đồng bằng. Đây là một kế hoạch hoạt động phối hợp lớn giữa các lực lượng vũ trang và nhân dân ta ở ba tỉnh Bình - Trị - Thiên.

Lực lượng tham gia chiến dịch Lê Lai gồm các trung đoàn 18, 95, 101, tiểu đoàn 346 và 418 của Trung đoàn 57 (nghệ An), Tiểu đoàn 364 và bộ đội địa phương, dân quân du kích Bình - Trị - Thiên, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đảng ủy mặt trận do đồng chí Hoàng Anh, Ủy viên Thường vụ Liên khu ủy làm Bí thư và đồng chí Hà Văn Lâu chỉ huy trưởng mặt trận.

Đồng chí Hoàng Anh, Bí thư Đảng ủy mặt trận chủ trì hội nghị liên tịch gồm Bộ chỉ huy Mặt trận, Bí thư tỉnh ủy và tỉnh đội ba tỉnh Bình - Trị - Thiên, ban chỉ huy các trung đoàn 18, 95, 101 để bàn việc chuẩn bị chiến dịch: nắm địch, chuẩn bị chiến trường, huấn luyện bộ đội, kế hoạch phá hoại giao thông, chuẩn bị lương thực, vũ khí, công tác địch vận, phá tề trừ gian, bao vây kinh tế địch, xây dựng căn cứ ta đồng bằng…

Thời gian mở chiến dịch dự kiến chia làm hai đợt:

Đợt một: (15-12-1949 đến 15-1-1950) hoạt động chủ yếu ở địa bàn từ năm Quảng Bình đến Bắc Quảng Trị.

Đợt hai: (15-1-1950 đến 15-2-1950) hoạt động từ nam Quảng Trị đến bắc Thừa Thiên.

Trong giai đoạn chuẩn bị, mỗi trung đoàn đánh một trận lớn để “lấy đà”. Từ ngày 18-11 đến ngày 11-12-1949 các trung đoàn 18, 57, 95 vừa tích cực chuẩn bị mọi mặt cho chiến dịch, vừa tranh thủ đánh một số trận, gây cho địch nhiều thiệt hại.

Bộ đội địa phương, dân quân Quảng Trạch (Quảng Bình) phối hợp với bộ đội chủ lực, bao vây đồn Hòa Ninh, Ba Đồn, Đơn Sa, Phú Kinh, Minh Lễ. Dân quân, du kích Vĩnh Linh tích cực chống càn, quấy rối đồn lẻ, phá hoại giao thông, cắt đứt vận chuyển tiếp tế của địch nhiều ngày. Đặc biệt, ngày 11-11-1949, quân và dân hai thôn Hiền Lộc, Hiền Ninh (Quảng Ninh) dựa vào làng chiến đấu, anh dũng đánh trả cuộc càn của 250 tên địch, có máy bay, pháo binh yểm hộ, trong suốt bảy giờ liền, bẻ gẫy cuộc càn quét lớn của địch. Dân quân xã Thụy Cần (Vĩnh Linh) kết hợp đánh địch với bao vây kinh tế suốt hai tháng liền, buộc địch phải rút khỏi đồn Thụy Cần.

Những hoạt động trên tạo ra thế trận có lợi cho ta và giữ được yếu tố bất ngờ trước khi bắt đầu chiến dịch.

Ngày 22-12-1949, chiến dịch bắt đầu. Chỉ huy trưởng chiến dịch là đồng chí Hà Văn Lâu.

Mở màn đợt một, Tiểu đoàn 436 (Trung đoàn 18) được tăng cường một đại đội phóng bom tiến công đồn Vạn Xuân, nhưng không tiêu diệt được vị trí này do đồn địch quá rộng, hỏa lực của ta có hạn. Chỉ huy trưởng chiến dịch quyết định chuyển sang bao vây đồn để diệt quân tiếp viện.

Ngày 23-12-1949, địch nhiều lần điều quân đến tiếp viện giải vây cho đồn Vạn Xuân. Lực lượng vũ trang ta anh dũng chiến đấu, bắn chìm ba đò, diệt hàng chục tên.

Tại Thạch Xá, ngày 25-12-1949, Tiểu đoàn 227 (Trung đoàn 95) do Tiểu đoàn trưởng Lê Thuyết chỉ huy, chặn đánh một cánh quân từ Đồng Hới vào tiếp viện cho đồn Vạn Xuân, diệt và làm bị thương 30 tên, bắt 51 tên, trong đó có thiếu tá Bruge chỉ huy phân khu Quảng Bình, trung úy đại đội trưởng, 22 lính Âu Phi, thu 62 súng, hai máy vô tuyến điện, phá hủy bảy xe. Ngày 30-12-1949, địch rút chạy khỏi đồn Vạn Xuân. Ta giải phóng khu vực phía tây sông Kiến Giang (Lệ Thủy), mở rộng vùng tự do nam Quảng Bình.

Ngày 31-12-1949, ta vận động lính địch gây binh biến ở đồn Cổ Hiền, toàn bộ binh sĩ ở đây mang vũ khí về với kháng chiến.

Cùng thời gian trên, Trung đoàn 95 chuẩn bị đánh quân ứng chiến liên tỉnh từ Cầu Huyện đến Hạ Cờ (Vĩnh Linh), nhưng địch không đến. Đợt một của chiến dịch kết thúc.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 20 Tháng Mười Hai, 2015, 08:28:16 pm
Phối hợp với hướng chính chiến dịch, trong đợt một từ 13-12-1949 đến 15-1-1950, Trung đoàn 57 đánh địch ở Đại Nam, Hòa Ninh, giải phóng Đơn Sa (bắc Quảng Bình), phá vỡ tuyến phòng thủ của địch ở khu vực bắc - nam sông Gianh, đồng thời diệt viện binh địch từ Thanh Khê tiếp tế cho Ba Đồn, diệt hơn 100 tên, giải tán nhiều hội tề, buộc địch rút nhiều vị trí ở tả ngạn sông Gianh, giải phóng một vùng có nhiều đồng bào theo đạo Thiên chúa bị địch kiểm soát trong nhiều năm.

Trước hoạt động mạnh của ta, Bộ chỉ huy Pháp điều quân từ Đà Nẵng và huế ra, phối hợp với quân nhảy dù hình thành bốn cánh quân mở cuộc càn lớn từ nam Quảng Bình vào Phong Điền, Quảng Điền nhằm tiêu diệt Trung đoàn 101 và phân tán chủ lực ta. Đêm 25-12-1949, Trung đoàn 95 vừa vào đến Phong Điền để phối hợp với Trung đoàn 101 hoạt động đợt hai, thì được tin địch càn lớn ở Phong Điền - Quảng Điền, liền cơ động chặn đánh một cánh quân của địch ở Phong Điền.

Ngày 27-1-1950, tại chợ Vân Trình và làng Phò Trạch, dưới sự chỉ huy của Trung đoàn trưởng Lê Bá Vận, các tiểu đoàn 227, 302, 319, 310 đã chiến đấu quyết liệt với ba cánh quân địch suốt từ 9 giờ đến 17 giờ, đẩy lùi nhiều đợt phản kích của chúng, diệt 130 tên Âu - Phi, làm bị thương 150 tên, giải thoát 50 cán bộ bị chúng bắt.

Thắng lợi này thể hiện trình độ kỹ thuật, chiến thuật của bộ đội và năng lực chỉ huy của cán bộ trong tác chiến vận động ở đồng bằng có bước trưởng thành rõ rệt.

Tuy nhiên thực tiễn trận đánh cũng bộc lộ rõ một số khuyết điểm về lãnh đạo, chỉ huy của cán bộ. Ta chưa hoàn thành được mục tiêu đề ra, chưa tiêu diệt được một trong các cánh quân của địch, chủ lực ta cũng bị tổn thất nặng.

Phối hợp với bộ đội chủ lực, trong đợt hai, các tỉnh đội phát động “Tuần lễ địa lôi”, “Tuần lễ rào làng”, “Tuần lễ phá hoại” trong toàn tỉnh. Đêm đêm hàng ngàn người đổ ra đường, dựng vật chướng ngại, cản tiếp tế của địch. Quốc lộ số 1, đoạn từ Lệ Thủy (Quảng Bình) đến Quảng Trị và tỉnh lộ số 2 (Bố Trạch), bị triệt phá nặng, làm tê liệt giao thông địch nhiều tuần lễ.

Bộ đội địa phương và dân quân, du kích Quảng Trị phối hợp chặt chẽ với bộ đội chủ lực tiến công một loạt vị trí: Thanh Lê, Dốc Miếu, Cửa Tùng, Nham Biều, An Lộc, phá hoại nặng quốc lộ 1 ở Vĩnh Linh và các tỉnh lộ. Dân quân, du kích thượng du làm đường số 9 phục kích giao thông, phá hủy bốn xe và chặt cây to lấp đường, làm tắc nghẽn gần 50 km, buộc địch phải huy động lực lượng lớn để giải tỏa, dân quân còn góp phần 40.000 ngày công rào 41 thôn, bao vây tám vị trí địch trong tỉnh.

Tại Thừa Thiên, lực lượng vũ trang giật mìn làm đổ một đoàn tàu quân sự ở Phú Lộc, đột nhập thành phố Huế, phá hủy một đầu máy xe lửa và nhà máy điện tả ngạn sông Hương. Dân quân các huyện Phong Điền, Quảng Điền, Hương Trà, Phú Vang phá hoại nặng đường Sịa - Phú Ốc, Tuần - Tây Phương - Thuận An, cắt tiếp tế của địch trong nhiều ngày.

Trong chiến dịch Lê Lai, quân và dân Bình - Trị - Thiên đã loại khỏi vòng chiến đấu hơn 2.000 tên, thu 200 súng các loại, lật 13.437 m đường sắt, đào 49.000 m khối lượng đường đất, đắp 500 ụ trên đường giao thông, phá 67 cầu, 32 cống, cắt 22.213 m dây điện thoại, giải phóng một khu vực rộng 5.000 km2, mở rộng vùng tự do và căn cứ đồng bằng nam Quảng Bình.

Chiến dịch Lê Lai là chiến dịch phối hợp với chiến dịch Lê Lợi trên chiến trường Bắc Bộ của quân và dân Bình - Trị - Thiên có quy mô lớn nhất từ đầu cuộc kháng chiến, đã gây cho địch nhiều thiệt hại, góp phần làm thay đổi so sánh tương quan lực lượng có lợi cho ta trên chiến trường liên khu, mở ra khả năng đẩy mạnh quy mô tác chiến tập trung và vận động chiến lên một trình độ mới, nhằm tiêu diệt nhiều sinh lực địch, giành thế chủ động chiến trường.

Tuy nhiên, trong chiến dịch này ta còn một số khuyết điểm, hiểu biết về chiến dịch và nghệ thuật chiến dịch còn hạn chế, mục đích chiến dịch thiếu cụ thể, phạm vi không gian rộng, thời gian quá dài, sử dụng lực lượng thiếu tập trung, chưa tạo được ưu thế áp đảo quân địch; trong lãnh đạo, chỉ huy chiến dịch có tư tưởng chủ quan, đơn giản dẫn đến tình hình tuy diệt được một số sinh lực quan trọng của địch nhưng chủ lực ta cũng bị tổn thất đáng kể.

Đi đôi với tiến công quân sự, công tác địch vận đã có bước tiến bộ mới. Từ chỗ chỉ lôi kéo từng cá nhân, từng bộ phận nhỏ, đến chiến dịch Lê Lai, ta vận động được cả đơn vị địch trở về với kháng chiến như ở đồn Cổ Hiền (Quảng Bình), Địa Linh (Thừa Thiên).


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 20 Tháng Mười Hai, 2015, 08:29:01 pm
Nhằm tăng cường kiểm soát vùng chiếm đóng và đối phó với phong trào chiến tranh nhân dân, từ đầu năm 1950, thực dân Pháp áp dụng kinh nghiệm về hệ thống Đờ Latua (De Latour) ở Bình - Trị - Thiên, xây dựng những tháp canh bằng gạch hoặc bêtông, cao từ 3 đến 5 m, có hàng rào dây thép gai, cùng với các đồn nhỏ. Hệ thống này mở rộng đến đâu thì việc di chuyển và hoạt động của ta bị thu hẹp và khó khăn đến đó. Sau chiến dịch Lê Lai, ở đồng bằng Thừa Thiên và trục đường số 1 từ Huế đến Đông Hà địch đóng hơn 90 cứ điểm, xây dựng 120 lô cốt, tháp canh, cách nhau từ 500 đến 1.000 m. Chúng còn lập thêm các đồn hương vệ ở các vùng có đồng bào đạo Thiên chúa. Cùng với hệ thống tháp canh, đồn bốt, địch ra sức tăng cường lực lượng cơ động, từ tiểu đoàn lên binh đoàn cơ động trong tỉnh, tiểu đoàn cơ động trong mỗi tiểu khu, kết hợp với không quân và pháo binh tổ[229] chức chi viện và ứng cứu lẫn nhau một cách linh hoạt, hình thành một hệ thống khép kín. Dựa vào hệ thống De Latour, địch ra sức càn quét vùng du kích, dồn dân vào các khu chiêu an, tiến hành đôn quân, bắt lính, phát triển ngụy binh; sử dụng máy bay, tàu chiến, đại bác đánh phá vùng tự do.

Sau chiến dịch Lê Lai, địch tăng cường phòng thủ, xây dựng hệ thống lô cốt, tháp canh, ra sức đánh phá, nhằm giữ vững vùng chiếm đóng, vơ vét sức người, sức của, ngăn chặn sự phát triển của lực lượng kháng chiến. Trong khi đó Bình - Trị - Thiên bị lụt lớn (3-1950), gây ra nạn đói. Giặc Pháp thực hiện kế hoạch cướp phá mùa.

Trước tình hình đó, Thường vụ Liên khu ủy hợp bất thường ra nghị quyết về kế hoạch bảo vệ mùa, chủ trương đẩy mạnh chiến tranh du kích, gặt mau, giấu kín, lấy dân quân và nông dân làm trụ cột trong việc bảo vệ mùa. Lập tập đoàn vận tải để chuyển thóc từ trong vùng địch ra.

Thực hiện chủ trương của Liên khu ủy và Đảng ủy mặt trận, dân quân, du kích và nhân dân Bình - Trị - Thiên sát cánh cùng bộ đội chiến đấu quyết liệt chống lại nhiều cuộc càn quét cướp lúa của địch, trong đó có những cuộc càn lớn từ 1.000 đến 2.000 quân ở vùng đồng bằng cả ba tỉnh Phong Điền, Quảng Điền, Triệu Phong, Hải Lăng, Gio Linh, Quảng Ninh, Lệ Thủy, Bố Trạch.

Trong đợt chiến đấu bảo vệ mùa này, Trung đoàn 18 do đồng chí Phùng Duy Phiên chỉ huy đã tiến vượt lên với trận thắng giòn giả Xuân Bồ (5-1950) có sự phối hợp của bộ đội địa phương và dân quân Lệ Thủy, đánh lại hai tiểu đoàn Âu Phi thiện chiến, tiêu diệt 200 tên, làm bị thương 300 tên, trong đó có viên quan năm Langlais, chỉ huy trưởng phân khu Quảng Bình, loại khỏi vòng chiến tiểu đoàn ứng chiến Âu - Phi Spahis; phá được kế hoạch cướp mùa ở hai huyện nam Quảng Bình, đập tan âm mưu của địch muốn tiêu diệt bộ đội chủ lực ta. Trong trận chiến đấu ác liệt này, trung đội trưởng Lâm Úy đã anh dũng hy sinh.

Ngày 17-5-1950, Bộ Quốc phòng ra chỉ thị thành lập Bộ chỉ huy mặt trận Bình - Trị - Thiên nhằm thực hiện kế hoạch quân sự của Tổng tư lệnh, trực tiếp chỉ huy bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương, dân quân của mặt trận phối hợp với Bộ tư lệnh địa phương liên khu và Ủy ban kháng chiến hành chính Liên khu IV trong việc lãnh đạo và xây dựng bộ đội địa phương. Phát triển dân quân, chuẩn bị chiến trường và bảo vệ địa phương. Mặt trận có ba trung đoàn 18, 95, 101 bộ binh, tiểu đoàn 888 pháo binh.

Tháng 5-1950, thi hành chỉ thị của Bộ Quốc phòng - Tổng tư lệnh, Bộ chỉ huy phân khu Bình - Trị - Thiên mở chiến dịch Phan Đình Phùng trên địa bàn bắc Quảng Trị và nam Quảng Bình do đồng chí Trần Quý Hai trực tiếp chỉ huy nhằm phối hợp với chiến trường chính và phát triển chiến tranh du kích đến cực độ, đẩy vận động chiến lên địa vị chủ yếu, tiêu diệt một bộ phận quân ứng chiến của địch và thí điểm đánh công kiên diệt đồn địch để rút kinh nghiệm huấn luyện bộ đội. Tham gia chiến dịch có hai trung đoàn 18 và 95. Thời gian chiến dịch kéo dài từ ngày 15-5 đến 15-7-1950. Theo đúng kế hoạch, 18 giờ ngày 17-5-1950, Trung đoàn 18 nổ súng tiêu hao nặng đồn Sen Hạ. Ngày 19, khoảng 400 tên địch từ Hòa Luật đến tiếp viện. Ta chặn đánh quyết liệt tại Sen Động - Phú Thiết, tiêu diệt 250 tên, thu toàn bộ vũ khí.

Đêm 19-5-1950, ta định cường tập Sen Hạ, nhưng không kéo được pháo nên không đánh. Ngày 20, địch tăng cường một đại đội cho Sen Hạ và một đại đội cho Hòa Luật. Ngày 21, địch dùng 82 xe chở 700 quân từ thị xã Quảng Trị và 200 quân từ Đống Hới về tiến hành càn quét trong hai ngày (23 và 24) và đến ngày 26-5-1950 yểm hộ cho bọn ở Mỹ Trạch rút về Hòa Luật, rồi rút vào Quảng Trị.

Ngày 25-6-1950, địch tập trung quân ở Hồ Xá. Ta dự đoán chúng sẽ ra Quảng Bình và bố trí phục kích, nhưng không thực hiện được trận đánh dự kiến. Ngày 27, được tin địch trở vào, ta cho các trung đoàn 95 và 18 phục kích tại Chấp Lễ, Hạ Cờ (Vĩnh Linh). Đúng 13 giờ, 75 xe chở hơn 1.000 quân có phi cơ yểm hộ lọt vào trận địa, ta nổ súng tiến công quyết liệt vào đội hình hành quân của chúng, tiêu diệt hơn 300 tên, bắn rơi một máy bay chỉ điểm. Trận Chấp Lễ, Hạ Cờ là trận đầu tiên quân ta sử dụng hai trung đoàn phục kích ban ngày trên địa bàn đồng bằng, làm tổn thất nặng đội quân ứng chiến tinh nhuệ của địch có máy bay, pháo binh yểm hộ. Sau hai tiếng đồng hồ quân Pháp phải rút lui, nhưng ta cũng bị tiêu hao nhiều.

Ngày 13-7-1950, ta sử dụng một tiểu đoàn bộ binh và một tiểu đoàn pháo cường tập Sen Hạ nhưng không diệt được vị trí này. Một trung đoàn của ta chặn viện ở Phú Chánh nhưng địch ở Hòa Luật không vào. Ngày 14-7, địch từ Đồng Hới vào nhưng ta không đánh.

Thực hiện lệnh của Bộ Tổng tư lệnh, quân, dân Bình - Trị - Thiên kéo dài chiến dịch Phan Đình Phùng một tháng để phối hợp với chiến dịch Biên giới. Bộ đội chủ lực từ nam Quảng Bình nhanh chóng cơ động vào nam Quảng Trị để tác chiến. Sau gần một tháng chiến đấu, quân, dân Bình - Trị - Thiên loại khỏi vòng chiến đấu 450 tên địch.

Chiến dịch Lê Lai và Phan Đình Phùng thể hiện rõ bước trưởng thành mới của quân, dân Bình - Trị - Thiên, trước hết là của bộ đội chủ lực trong việc thực hiện chiến thuật du kích vận động chiến để tiêu diệt nhiều sinh lực địch, tiến lên giành thế chủ động chiến trường hoàn thành nhiệm vụ tác chiến phối hợp với chiến dịch Biên giới kiềm chế địch, không cho địch rút lực lượng cơ động tăng cường cho chiến trường Bắc Bộ. Tuy vậy, quân ta cũng bị tổn thất lớn về sinh lực và vũ khí. Hoạt động phối hợp tác chiến của bộ đội địa phương và dân quân, du kích bị hạn chế trong điều kiện địch dựa vào hệ thống đồn, bốt dày đặc và các đội quân ứng chiến mạnh mở các cuộc càn quét lớn. Phong trào du kích chiến tranh nhiều nơi bị chững lại, thậm chí bị giảm sút.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 20 Tháng Mười Hai, 2015, 08:30:58 pm
Trước tình hình đó, để kịp thời khắc phục khó khăn mới, thực hiện chủ trương của Liên khu ủy, tháng 8-1950, hội nghị quân, dân, chính, đảng Bình - Trị - Thiên họp đề ra chủ trương; tập trung huấn luyện, củng cố bộ đội chủ lực và chỉnh đốn cơ quan; đẩy mạnh hoạt động của bộ đội địa phương và dân quân du kích. Bộ đội chủ lực lấy huấn luyện, xây dựng làm chính, tổ chức đánh một vài trận nhưng không để ảnh hưởng đến xây dựng, tránh khuynh hướng ăn to, cần đánh chắc thắng, cướp nhiều vũ khí của địch, nhất là đạn để tiếp tục hoạt động.

Giữa năm 1950, quân Pháp đưa vào Bình - Trị - Thiên những đoàn tàu bọc thép, có trang bị vũ khí mạnh. Các con tàu đều có lỗ châu mai bắn ra các hướng, trên tàu có hai khẩu pháo 40 mm. Phương tiện vận chuyển lợi hại này có tác dụng đối phó với những trận đánh giao thông của ta, đảm bảo việc vận chuyển tiếp tế trên chiến trường.

Những âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù ngày càng thâm độc nhưng không thể dập tắt được phong trào nhân dân kháng chiến đang ngày càng phát triển ở Bình - Trị - Thiên. Được sự lãnh đạo của Đảng, quân dân Bình - Trị - Thiên không hề nao núng, càng kiên quyết đứng lên chiến đấu đến thắng lợi cuối cùng.

Để giải quyết khó khăn về vũ khí công đồn, rèn luyện trình độ kỹ thuật, chiến thuật cho bộ đội, sau một thời gian được huấn luyện cách đánh tàu bọc thép, Bộ chỉ huy mặt trận quyết định dùng một bộ phận của trung đoàn 95 và 101 để tiêu diệt đoàn tàu bọc thép trên đoạn đường sắt Mỹ Chánh - Diên Sanh.

Tiểu đoàn 227 (Trung đoàn 95) được giao nhiệm vụ chủ công trong trận đánh này. Ngoài ra còn có các đơn vị phối hợp chiến đấu: Tiểu đoàn 319 và một đại đội thuộc Trung đoàn 101, một đại đội công binh, một đại đội trợ chiến, một đại đội thông tin, hai đại đội địa phương (Hải Lăng, Phong Điền) và 200 dân quân.

Được sự chi viện đắc lực của đại đội trợ chiến và các đơn vị bạn, ngày 24-10-1950, Tiểu đoàn 227 do Tiểu đoàn trưởng Trần Văn Trân chỉ huy hợp đồng chặt chẽ với lực lượng công binh đánh bom, tiến công đoàn tàu bọc thép của địch dài 16 toa, có hai khẩu 40 mm bố trí ở đầu và cuối tàu. Trận đánh diễn ra quyết liệt, kéo dài hai giờ liền. Ta phá hỏng một đầu máy, 10 toa, thu một khẩu pháo 40 mm, một đại liên, một trung liên FM và 32 thùng đạn 40 mm, diệt và làm bị thương 100 tên, bắt chín tên (có một quan hai chỉ huy, ty trưởng an ninh Quảng Trị, quận trưởng an ninh Hải Lăng và sáu lính Âu - Phi).

Đây là lần đầu tiên ta sử dụng một lực lượng tương đối lớn (12 đại đội, có nhiều đơn vị kỹ thuật) phục kích ban ngày, đánh đoàn tàu bọc thép của địch - một phương tiện vận tải được trang bị hỏa lực mạnh. Trận đánh diễn ra trên một khu vực gần nhiều cứ điểm có đường giao thông thuận tiện cho việc phản kích của địch. Nhưng nhờ làm tốt công tác chuẩn bị, tổ chức chỉ huy chặt chẽ, nên ta đã thực hiện được mục tiêu đề ra.

Thắng lợi Tân Điền thể hiện chủ trương “tập trung củng cố xây dựng bộ đội chủ lực” sau chiến dịch Phan Đình Phùng của Đảng ủy mặt trận là chính xác, khẳng định việc chuyển hướng chiến thuật của ta ở chiến trường Bình - Trị - Thiên là phù hợp. Đây cũng là trận đạt kỷ lục cao nhất về thu và phá hủy vũ khí, diệt lô cốt, đáp ứng nhu cầu bức thiết của chiến trường.

Tuy nhiên, thắng lợi trên chưa đủ làm thay đổi cục diện chiến trường ở đồng bằng. Trong khi bộ đội địa phương được điều động đi tăng cường cho chủ lực, nhưng không có lực lượng thay thế, sự hỗ trợ lẫn nhau giữa ba thứ quân bị giảm sút mạnh. Tình hình ấy làm cho chiến tranh du kích ở địch hậu không phát triển được. Căn cứ du kích ở đồng bằng bị địch càn phá dữ dội. Quân Pháp còn mở những cuộc càn lên chiến khu miền núi giữa lúc khả năng tác chiến chống còn của ta có phần giảm sút. Đầu tháng 11-1950, chúng huy động 1.500 quân mở cuộc tiến công lên chiến khu Hòa Mỹ nhằm tiêu diệt cơ quan lãnh đạo kháng chiến của ta. Các trung đoàn 95 và 101 không được lệnh đánh trả. Cơ quan đại diện Khu ủy và Bộ chỉ huy rút sâu vào rừng thẳm. Sau 10 ngày lùng sục địch kết thúc cuộc càn.

Cuối năm 1950, ở chiến trường Bình - Trị - Thiên, số lượng quân Pháp giảm vì phải điều động một số tiểu đoàn ứng chiến tăng viện cho Bắc Bộ nhưng thực hiện càn quét tích cực và liên tiếp hơn. Trong hai tháng 11 và 12-1950, quân Pháp đã tổ chức sáu cuộc càn quét ở đồng bằng Thừa Thiên, hai cuộc lùng quét ở chiến khu Hòa Mỹ và chiến khu Dương Hòa của Thừa Thiên, trong khi đó Việt binh đoàn tổ chức nhiều cuộc lùng quét nhở ở đồng bằng Quảng Trị, Quảng Bình, tiếp đó lùng lên chiến khu Thủy Ba, Vĩnh Linh (Quảng Trị). Trong những cuộc lùng quét này, quân số địch ít hơn trước, nhưng chúng lợi dụng phương tiện mới như tàu lội nước, canô, xe lửa, phi cơ, v.v. và liên kết chặt chẽ với hoạt động gián điệp, tạo điều kiện bất ngờ, hành quân chớp nhoáng và mạnh bạo để đánh ta bất ngờ. Ngoài ra, địch còn tổ chức nhiều cuộc phục kích trên đường giao thông để bắt cán bộ, phá hoại công việc tiếp tế, vận tải của ta(1). Chúng tích cực và gấp rút tổ chức ngụy quân, dùng ngụy binh làm quân chiếm đóng thay thế cho quân tinh nhuệ rút đi hoặc tập trung thành những đội ứng chiến lớn. Chúng đã thành công một phần trong việc giành giật cơ sở nhân dân ở một vài vùng và thành lập được hương vệ. Trong khi đó hoạt động quân sự của ta sút kém. Bộ đội chủ lực sau chiến dịch Lê Lai không thực hiện được tiêu diệt chiến mà lại còn bị tiêu hao khá nặng. Địch hoạt động mạnh không phải vì chúng mạnh lên mà do ta yếu đi. Ta đã bước đầu khắc phục khuyết điểm, nhất là tư tưởng chiến lược, chiến thuật, kiên quyết xây dựng bộ đội địa phương và dân quân du kích “Song tất cả những tiến bộ đó còn là do sự cố rán sức của ta, chứ chưa phải do một đà tiến có quy củ”(2).

Nhìn chung đến cuối năm 1950, những chiến khu ở vùng núi vẫn được duy trì, nhưng căn cứ du kích ở đồng bằng bị đẩy lùi lại trình độ khu du kích. Nhiều nơi chỉ còn cơ sở chính trị. Phong trào kháng chiến gặp nhiều khó khăn. Trong hoạn nạn khó khăn, quân dân Bình - Trị - Thiên đã yêu thương đùm bọc lẫn nhau, “bát cơm sẻ nửa, củ sắn chia đôi”, gan góc chịu đựng gian khổ hy sinh, giữ vững cuộc kháng chiến với tinh thần tự lưc và niềm tin kháng chiến nhất định thắng lợi, để từng bước vươn lên, bẻ gãy từng mắt xích của hệ thống De Latour, “xây đà chiến thắng”.


(1) Xem: Nghị quyết Hội nghị thường vụ khu ủy Khu IV (1-1951), Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.12, tr.726.
(2) Xem: Nghị quyết Hội nghị thường vụ khu ủy Khu IV (1-1951), Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.12, tr.736.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 28 Tháng Giêng, 2016, 09:10:21 pm
II. PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN LỰC LƯỢNG KHÁNG CHIẾN,
XÂY DỰNG HẬU PHƯƠNG VỮNG MẠNH, TỔ CHỨC CHI VIỆN TIỀN TUYẾN
VÀ PHỐI HỢP VỚI CUỘC KHÁNG CHIẾN CỦA NHÂN DÂN LÀO

Trong chiến tranh, đấu tranh quân sự giữ vị trí quyết định thắng lợi. Chiến tranh các phát triển thì vai trò của lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang càng trở nên quan trọng. Cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Việt Nam là một cuộc chiến tranh nhân dân. Để tiến hành chiến tranh nhân dân phải xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang ba thứ quân làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng bộ Liên khu IV (5-1948), các đảng bộ, quân, dân Thanh - Nghệ - Tĩnh và các cơ quan, đơn vị của liên khu khẩn trương xây dựng lực lượng về mọi mặt để tăng cường tiềm lực kháng chiến, phát triển chế độ dân chủ mới, sẵn sàng đánh địch bảo vệ vùng tự do, tích cực phục vụ việc “đánh mạnh ở Bình - Trị - Thiên” và phục vụ các chiến trường khác.

Sau khi quân Pháp mở rộng vùng chiếm đóng ra đồng bằng Khu III và đã giành được thế chủ động trên chiến trường Bình - Trị - Thiên, giữa và cuối năm 1948, đi đôi với việc chuẩn bị để chủ động đánh thắng địch ngay từ trận đầu nếu chúng liều lĩnh tiến công Thanh - Nghệ - Tĩnh, toàn liên khu đã dấy lên phong trào thi đua sôi nổi, liên tục trên các mặt, trong các ngành, các giới, đến tận từng gia đình, từng người, đặc biệt là phong trào “Phát triển dân quân thành một lực lượng chiến lược”, phong trào “Luyện quân lập công” của các lực lượng vũ trang diễn ra khá sôi nổi. Chỉ sau một tháng, số lượng dân quân ở Nghệ An tăng từ 166.460 lên 387.500 người, trong đó có có 43.380 lão dân quân, 67.200 nữ dân quân. Cuối năm 1948, số dân quân Hà Tĩnh lên tới 93.700 người, trong đó có 18.500 du kích thường trực, 75.050 dân quân, du kích, 2.250 lão dân quân, 2.180 nữ dân quân. Các đại đội dân quân thường trực tỉnh, miền thượng du Thanh Hóa và một số huyện được thành lập.

Lực lượng dân quân, du kích ở Bình - Trị - Thiên cũng có bước phát triển đáng kể. Đến cuối năm 1948, Quảng Bình có 929 du kích tập trung, 1.760 du kích xã, Quảng Trị: 706 du kích tập trung, 2.724 du kích xã; Thừa Thiên: 496 du kích tập trung, 1.257 du kích xã. Trung đoàn 9 (chủ lực quân khu), các trung đoàn 77 (Thanh Hóa), 57 (Nghệ An), 103 (Hà Tĩnh) được bổ sung thêm quân số, tăng thêm trang bị.

Hội nghị cán bộ Trung ương lần thứ sáu (1-4949) chủ trương “động viên mọi lực lượng kháng chiến kiến cuốc, giành cho kỳ được độc lập và dân chủ thực sự” với khẩu hiệu” Tất cả để chiến thắng”. Về nhiệm vụ quân sự, Hội nghị chỉ rõ: “phương châm chính vẫn là du kích chiến là căn bản, vận động chiến là phụ trợ. Nhưng cần mạnh bạo đẩy vận động chiến đi tới và khi đủ điều kiện thì kịp thời nâng vận động chiến lên địa vị quan trọng”. Việc xây dựng bộ đội chủ lực, tập trung cán bộ, vũ khí và phương tiện thông tin cho những đơn vị có nhiệm vụ vận động chiến, ráo riết phát triển và củng cố dân quân trong các vùng quan trọng về chiến lược(1) về kinh tế và chính trị. Phát biểu tại hội nghị này, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Đẩy tới quân sự, kháng chiến trên hết, quân sự trên hết. Mọi việc phải nhằm vào điểm làm cho kháng chiến thắng lợi”(2).

Thực hiện những chủ trương lớn của Đảng, Hội nghị quân chính liên khu quyết nghị tăng cường sức chiến đấu của bộ đội, mở rộng chiến tranh du kích, tăng cường huấn luyện, tăng gia sản xuất để tiến tới tự cung, tự cấp.

Cuối tháng 2-1949, liên khu phát động cuộc vận động “Luyện quân lập công” trong các lực lượng vũ trang làm cơ sở xây dựng bộ bộ đội chủ lực mạnh, đẩy mạnh tác chiến tập trung và vận động chiến, nâng cao trình độ dân quân tập trung tỉnh, huyện và du kích đủ sức bảo vệ địa phương để thực hiện chủ trương, tập trung các đại đội độc lập.

Sau ba tháng khẩn trương huấn luyện, trình độ cán bộ, chiến sĩ nâng lên rõ rệt. Dân quân, du kích phát triển mạnh, trình độ kỹ thuật, chiến thuật có bước phát triển đáng kể, đặc biệt các đại đội 1 và 2 dân quân tập trung của tỉnh Thừa Thiên, Đại đội du kích Lê Hồng Phong của tỉnh Quảng Trị.

Riêng tỉnh Quảng Bình, ngày 20-2-1949, Bộ tư lệnh liên khu quyết định thống nhất chiến trường nhằm đưa phong trào chiến tranh và du kích ở Quảng Bình tiến kịp hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên. Đồng thời, ngày 8-4-1949, Bộ Tư lệnh liên khu quyết định thành lập Trung đoàn 18 (Quảng Bình) do đồng chí Phùng Duy Phiên làm Trung đoàn trưởng, đồng chí Quang Minh làm Ủy viên chính trị, đồng chí Tống Thái làm Trung đoàn phó.

Với việc thống nhất chiến trường Quảng Bình và thành lập Trung đoàn 18, Liên khu ủy và Bộ Tư lệnh liên khu đã tạo điều kiện rất cơ bản để quân, dân Quảng Bình đẩy mạnh phong trào chiến tranh nhân dân ở địa phương. Cũng từ đây, tại Phân khu Bình - Trị - Thiên, mỗi tỉnh đã có một trung đoàn vừa đảm nhiệm chiến đấu để bảo vệ địa phương mình, vừa sẵn sàng tác chiến cơ động tập trung theo kế hoạch của phân khu. Sự kiện này dẫn đến sự chuyển biến cả về thế và lực của ta trên chiến trường Bình - Trị - Thiên từ mùa xuân năm 1949.


(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.10, tr.1.
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập xuất bản lần thứ hai, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.5, tr.551.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 28 Tháng Giêng, 2016, 09:11:12 pm
Ngày 24-4-1949, Bộ Tư lệnh Phân khu Bình - Trị - Thiên điều Tiểu đoàn 364 (Trung đoàn 9) do Tiểu đoàn trưởng Trần Sung và Chính trị viên Nguyễn Tác chỉ huy, tăng cường cho phân khu. Tiểu đoàn có nhiệm vụ đánh địch, xây dựng cơ sở, phát triển dân quân, du kích ở mặt trận đường số 9, tạo thế phát triển liên minh chiến đấu với lực lượng vũ trang cách mạng Lào. Sự có mặt của Tiểu đoàn 364 trên địa bàn chiến lược này đã tạo ra nhân tố mới để đẩy mạnh chiến tranh du kích ở mặt trận đường số 9 và Trung Lào.

Tháng 4-1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra sắc lệnh thành lập bộ đội địa phương. Tỉnh đội Thừa Thiên làm lễ trưởng thành cho Đại đội 1, Đại đội 2 dân quân tập trung tỉnh và bổ sung cho Trung đoàn 101. Đây là những đơn vị dân quân sớm trưởng thành trong phong trào thi đua “Củng cố và phát triển dân quân”. Nó đánh dấu sự lớn mạnh của lực lượng dân quân, du kích Bình - Trị - Thiên và thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa các lực lượng vũ trang ba thứ quân trong tác chiến và xây dựng.

Nhận thấy phong trào chiến tranh du kích phát triển mạnh, lực lượng dân quân, du kích có khả năng tự bảo vệ được địa phương, tháng 5-1949, Bộ Tư lệnh ra lệnh tập trung của đại đội độc lập để xây dựng tiểu đoàn, trung đoàn chủ lực; đồng thời giao nhiệm vụ bảo vệ địa phương tập trung tỉnh, huyện đảm nhiệm.

Thực hiện chủ trương trên, các tỉnh tập trung các đại đội độc lập thành tiểu đoàn tập trung nằm trong đội hình chiến đấu của Trung đoàn. Quảng Trị thành lập Tiểu đoàn 310 (Trung đoàn 95). Thừa Thiên thành lập Tiểu đoàn 227 (Trung đoàn 101). Thanh Hóa thành lập Tiểu đoàn 375 (Trung đoàn 77). Nghệ An thành lập Tiểu đoàn 418 (Trung đoàn 57). Hà Tĩnh thành lập Tiểu đoàn 391 (Trung đoàn 103).

Đến giữa tháng 8-1949, toàn liên khu đã thành lập được 14 tiểu đoàn (trong đó năm tiểu đoàn ở Bình - Trị - Thiên, chín tiểu đoàn ở Thanh - Nghệ - Tĩnh).

Ngày 27-6-1949, liên khu điều Trung đoàn 103 từ Hà Tĩnh ra Thanh hóa làm chủ lực của liên khu. Từ đây, nhiệm vụ bảo vệ Hà Tĩnh do bộ đội địa phương và dân quân du kích tự đảm nhiệm.

Ngày 13-9-1949, Bộ Tư lệnh liên khu chọn Trung đoàn 95 làm trung đoàn chủ lực của phân khu, có nhiệm vụ cơ động tác chiến trên chiến trường Bình - Trị - Thiên. Sự kiện này đánh dấu bước trưởng thành mới của bộ đội chủ lực phân khu.

Thực hiện nghị quyết của Thường vụ Trung ương Đảng (1-1950), Quyết định của Bộ Quốc phòng (2-1950) về việc thành lập Đại đoàn 304, ngày 10-3-1950, tại làng Tam Lạc, huyện Thọ Xuân (Thanh Hóa), đại đoàn được chính thức thành lập gồm Trung đoàn 665, chủ lực của Liên khu III và Trung đoàn 57, Trung đoàn 9 của Liên khu IV do đồng chí Hoàng Minh Thảo làm Tư lệnh trưởng, đồng chí Trần Văn Quang làm Chính ủy.

Bộ Tư lệnh liên khu IV được thành lập ngày 25-3-1950, do đồng chí Trần Sâm làm Tư lệnh trưởng và đồng chí Lê Chưởng làm Chỉnh ủy, có nhiệm vụ lãnh đạo xây dựng các đơn vị bộ đội chủ lực còn lại, bộ đội địa phương và dân quân của Liên khu IV.

Chấp hành chỉ thị của Bộ Tổng Tư lệnh về hai cuộc vận động “Rèn luyện cán bộ, chấn chỉnh quân đội” và “Rèn luyện cán bộ, cải tiến kỹ thuật”, tháng 5-1949, liên khu phát động cuộc vận động “Rèn cán, chỉnh quân lần thứ nhất” trong toàn liên khu nhằm khẩn trương xây dựng bộ đội chủ lực lớn mạnh để tiến tới giành thắng lợi về chiến lược.

Trong ba ngày 17 đến 19-8-1949, tại Cầu Bố (Thánh Hóa), Bộ Tư lệnh Liên khu IV mở đại hội thi đua rèn cán chỉnh quân. Dự đại hội có cán bộ, chiến sĩ các trung đoàn 9, 103, các trường quân chính, thiếu sinh quân, Liên khu bộ, các đại diện cơ quan đoàn thể và gần 20.000 cán bộ, công nhân viên chức và nhân dân địa phương. Cuộc vận động “Rèn cán, chỉnh quân xây dựng bộ đội, đào luyện cán bộ” của liên khu được chia làm ba thời kỳ:

- Thời kỳ thứ nhất: củng cố tổ chức, huấn luyện bộ đội,

- Thời kỳ thứ hai: tổ chức diễn tập,

- Thời kỳ thứ ba: vừa diễn tập vừa cơ động tham gia chiến dịch đông - xuân.

Để làm cơ sở cho việc huấn luyện bộ đội và vận dụng vào thực tiễn chiến đấu của đơn vị, sau lễ phát động, Bộ Tư lệnh mở ngay lớp tập huấn chiến thuật cho một số cán bộ chủ trì trung đoàn, tiểu đoàn đại đội và một số cán bộ chủ chốt ở cơ quan khu bộ, do Tư lệnh Nguyễn Sơn trực tiếp chỉ đạo và giảng dạy.

Ngày 5-9-1949, Bộ Tư lệnh liên khu ra chỉ thi về nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ Thanh - Nghệ - Tĩnh. Bản chỉ thị nêu rõ: địch có thể dùng từng bộ phận hải, lục không quân thọc vào những khu trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa ở Thanh - Nghệ - Tĩnh. Vì vậy, mỗi tỉnh phải huấn luyện được một tiểu đoàn bộ đội địa phương làm nhiệm vụ bộ đội chủ lực, mỗi huyện tiến tới có một đại đội độc lập làm nhiệm vụ bảo vệ địa phương. Các đơn vị này phải huấn luyện và hoạt động ở những địa bàn xung yếu mà địch có thể thọc vào.

Các đơn vị dân quân thường trực huyện được tập trung thành các tiểu đoàn bộ đội địa phương 198 (Nghệ An), 290 (Hà Tĩnh), 275 (Thanh Hóa). Các đại đội bộ đội địa phương huyện được thành lập.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 28 Tháng Giêng, 2016, 09:12:02 pm
Tại Phân khu Bình - Trị - Thiên, kết hợp chặt chẽ phong trào “Rèn cán chỉnh quân” với nhiệm vụ tác chiến, trong hai tháng 9 và 10-1948, các đơn vị sôi nổi thi đua nâng cao kỹ thuật chiến đấu cá nhân và trình đội hiệp đồng phân đội để chuẩn bị tham gia chiến dịch đông - xuân. Tại các tỉnh phía bắc liên khu, các ban rèn cán chỉnh quân được thành lập ở các đơn vị, cơ quan. Những cuộc phát động giao ước thi đua giữa các trung đoàn, tiểu đoàn, đại đội được tổ chức trọng thể. Công tác cổ động chính trị, sơ kết, huấn luyện được duy trì chặt chẽ, gây không khí hào hứng, sôi nổi.

Các trung đoàn, tỉnh đội còn mở “Đại hội quân - dân”. Trong không khí dạt dào tình cảm quân, dân cả nước, nhiều đại diện cơ quan, xí nghiệp và cả một số tư nhân đã tình nguyện xung phong đỡ đầu bộ đội địa phương, dân quân và các đơn vị chủ lực mới xây dựng.

Hưởng ứng cuộc vận động rèn cán chỉnh quân lần thứ nhất, ở Nghệ An, Ủy ban kháng chiến hành chính và Việt Minh tỉnh đỡ đầu Tiểu đoàn 265, Hội Liên Việt đỡ đầu Tiểu đoàn 246, Liên hiệp Công đoàn đỡ đầu Đại đội Hồng Sơn, Tỉnh đoàn thanh niên đỡ đầu đại đội 58, Hội Liên hiệp phụ nữ và Hội cứu quốc đỡ đầu Đại đội 18, Đảng Dân chủ đỡ đầu Đại đội 50, hãng buôn tư nhân Bình Thanh thương quán đỡ đầu Đại đội Mường Xén, Công ty Việt Thắng đỡ đầu đại đội đặc biệt Quý Châu… Nhân dân Nghệ An góp 11 mẫu ruộng, 16 triệu đồng, nhân dân Hà Tĩnh góp 2 triệu 700 nghìn đồng, 886 tấn thóc, 50 thỏi vàng, sáu lạng bạc, sáu nhẫn vàng, 1.397 chiếc xuyến, 3.948 đôi hoa tai, 5.094 quan tiền đồng, 195 ngôi nhà, 9.900 ha ruộng, 2.967 trâu, bò và hàng ngàn gia cẩm ủng hộ bộ đội.

Trong các lực lượng vũ trang, phong trào luyện quân lập công lan nhanh, trở thành một phong trào quần chúng rộng khắp.

Nhờ làm tốt công tác tư tưởng và tổ chức, cuộc vận động rèn cán chỉnh quân lần thứ nhất trong các lực lượng vũ trang với sự hưởng ứng nhiệt tình của nhân dân đạt kết quả tốt, tạo điều kiện cho các đơn vị hoàn thành nhiệm vụ tác chiến trên các chiến trường liên khu.

Nhìn chung, đến cuộc năm 1949, dân quân, du kích xã đã có bước tiến đáng kể về tổ chức lực lượng, trình độ chiến dịch và về thống nhất chỉ huy. Các Bí thư và Phó Bí thư chi bộ làm xã đội trưởng hoặc chính trị viên xã đội, tất cả xã đội trưởng đều do đảng viên nắm để trực tiếp chỉ huy việc xây dựng và tác chiến của lực lượng này. Ở nhiều nơi, dân quân, du kích đã tự bảo vệ được làng xóm để bộ đội chủ lực tập trung, đã phối hợp tác chiến có hiệu quả với bộ đội địa phương. Bộ đội chủ lực. Bộ đội địa phương tỉnh có quy mô tiểu đoàn. Mỗi tỉnh có bốn đến năm đại đội, mỗi huyện có từ một trung đội đến một đại đội. Có một số đại đội bộ đội địa phương tiến rất nhanh, có trình độ chiến đấu cao. Đại đội 1, Đại đội 2 (Thừa Thiên), Đại đội Lê Hồng Phong (Quảng Trị). Các trung đoàn 101, 95 được bổ sung đủ quân số ba tiểu đoàn. Trung đoàn 18 của Quảng Bình được thành lập có ba tiểu đoàn, các trung đoàn đều rút dần các đại đội độc lập đang hoạt động phân tán để xây dựng các tiểu đoàn tập trung, hoạt động trong đội hình chiến đấu của trung đoàn. Bộ chỉ huy Quân khu tăng viện tiểu đoàn 364 của Trung đoàn chủ lực khu cho mặt trận đường số 9. Bộ chỉ huy quân khu có thêm tiểu đoàn pháo binh 888 và cá đại đội trực thuộc. Trình độ vận động chiến của bộ đội chủ lực tăng lên. Song đến đây, trình độ kỹ thuật và chiến thuật của bộ đội vẫn chưa tiến kịp với yêu cầu chống lại các cuộc càn quét lớn và đánh địch trong điều kiện chúng có công sự kiên cố; đánh nhỏ thì không có đối tượng tác chiến, đánh lớn thỉ chưa thực hiện được, gặp phải lúng túng, khó khăn mới, làm nhiệm vụ bước tiến của cuộc kháng chiến trong một thời gian.

Sau các chiến dịch Lê Lai và Phan Đình Phùng, thực hiện chủ trương của Hội nghị Đảng ủy mặt trận Bình - Trị - Thiên, các đơn vị chủ lực củng cố bộ đội, khắc phục những mặt yếu kém và nhằm vào yêu cầu của nhiệm vụ chiến đấu để huấn luyện. Ngoài các nội dung huấn luyện thường xuyên, các đơn vị còn học tập sử dụng khí tài thông tin, chiến thuật đánh giao thông, đánh vận động và phục kích, đánh cứ điểm.

Các trường đào tạo cán bộ sơ cấp cho địa phương được mở liên tiếp, mỗi khóa 200 người, thời gian từ ba đến bốn tháng. Năm 1950, mặt trận đào tạo được 830 cán bộ từ tiểu đội đến đại đội, đáp ứng yêu cầu chiến đấu và xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân.

Công tác tuyển quân, huấn luyện tân binh, bổ sung biên chế được tiến hành khẩn trương. Tiểu đoàn trọng pháo 888 trực thuộc Bộ chỉ huy mặt trận được thành lập với trang bị súng trọng liên 12 ly 7, súng cối 120 mm và súng phóng bom 185 mm. Trung đoàn 95 được ưu tiên trang bị pháo và khí tài thông tin.

Bộ đội địa phương phát triển mạnh. Dân quân được tổ chức lại, thống nhất tử tỉnh đến xã. Nhiều bí thư chi bộ hoặc chi ủy viên được cử làm chính trị viên xã đội. Hầu hết xã đội trưởng là đảng viên. Các đoàn thể quần chúng cử những người hăng hái vào dân quân, du kích.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 28 Tháng Giêng, 2016, 09:13:37 pm
Cuối tháng 10-1950 Liên khu IV bị lụt rất lớn. Việc đảm bảo cung cấp hậu cần cho bộ đội chủ lực gặp nhiều khó khăn. Bộ chỉ huy mặt trận Bình - Trị - Thiên quyết định rút gọn cơ quan mặt trận: chỉ để lại chiến trường những đơn vị cần thiết, chấn chỉnh các trung đoàn 95 và 101, điều Tiểu đoàn 436 (Trung đoàn 18) bổ sung cho Trung đoàn 101 để có đủ ba tiểu đoàn; thành lập hai khung tiểu đoàn đưa ra khu để xây dựng, bổ sung cho Trung đoàn 18. Các lực lượng còn lại nhanh chóng hành quân ra Hà Tĩnh để xây dựng, củng cố và giảm bớt khó khăn về hậu cần cho các trung đoàn ở lại chiến trường.

Tháng 11-1950, hơn 2.500 cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 18 (trừ Tiểu đoàn 436), Tiểu đoàn 888, Trường quân chính, Đoàn văn công và một số phân đội khác do đồng chí Phó chỉ huy mặt trận Bình - Trị - Thiên chỉ huy lưu luyến tạm biệt chiến trường, hành quân ra bắc liên khu. Trung tuần tháng 12, các đơn vị ra tới kỳ Anh, Cẩm Xuyên (Hà Tĩnh), được cấp ủy, chính quyền và nhân dân địa bàn tiếp niềm nở và nôi dưỡng chu đáo.

Nghệ An, Hà Tĩnh lựa chọn hàng trăm cán bộ, chiến sĩ ưu tú trong bộ đội địa phương, xây dựng hai tiểu đoàn 226 và 332 bổ sung cho Trung đoàn 18, đồng thời quyên góp lương thực, thực phẩm, quần áo, tiền bạc nuôi dưỡng hàng ngàn cán bộ, chiến sĩ trong tám tháng trời.

Quy luật của chiến tranh đòi hỏi phải xây dựng hậu phương vững mạnh để đảm bảo cung cấp nhân, tài, vật lực cho tiền tuyến. Hậu phương của chiến tranh nhân dân Việt Nam lại không có sự phân biệt rõ rệt với tiền tuyến bởi vì ở đâu có nhân dân yêu nước thì ở đó có sẵn nhân tố của hậu phương, kể cả trong vùng quân đội Pháp chiếm đóng.

Năm 1948, thực dân Pháp chuyển hướng chiến lược chiến tranh. Trong khi mở các cuộc hành quân càn quét, chiếm đóng các vùng đồng bằng, trung du Bắc Bộ, vùng đồng bằng Bình - Trị - Thiên, chúng xây dựng một số vị trí ở miền tây Thanh Hóa, Nghệ An và Nga Sơn (Thanh Hóa), âm mưu bao vây, uy hiếp và đánh chiếm Thanh - Nghệ - Tĩnh khi có điều kiện.

Đầu năm 1949, thực dân Pháp bố trí gần 2.500 quân ở miền tây và dọc theo biên giới Việt - Lào, tăng cường phòng thủ các vị trí then chốt ở Noọng Hét, Keng Du (Nghệ An), Vạn Mai, Yên Khương, Bất Một (Thanh Hóa), Na Pê (giáp Hà Tĩnh) làm bàn đạp hoạt động lấn dần vào nội địa. Ở vùng thượng du Thanh - Nghệ - Tĩnh, chế độ lang đạo còn ảnh hưởng khá nặng nề. Vai trò thổ ty, lang đạo và cách bọc lột theo kiểu phục dịch, nộp tô, cung đốn còn khá phổ biến. Những cán bộ được cử lên hoạt động gặp nhiều khó khăn do bị thổ ty, lang đạo bao vây, cách ly với quần chúng. Cơ sở đảng, cơ sở quần chúng không phát triển được. Ở một số huyện như Lang Chánh, Quan Hóa có 1/3 đảng viên là con cháu lang đạo và tộc thuộc. Trình độ cán bộ, đảng viên còn thấp. Lợi dụng tình hình này, thực dân Pháp mở nhiều cuộc càn quét vào các vùng dọc biên giới, bắt cóc cán bộ địa phương, tung biệt kích vào nội địa, bắt liên lạc với những thổ ty, lang đạo phản động để phá chính quyền kháng chiến, chia rẽ hai dân tộc Việt - Lào.

Những năm 1949-1950, không quân, hải quân Pháp thường xuyên hoạt động trinh sát, đánh phá vùng duyên hải và trung du ba tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh, ném bom vào thường dân, giết chết hàng chục người ở thị trấn Quỳnh Lưu, Nam Đàn.

Do tình hình trên, nhiệm vụ xây dựng hậu phương phải vượt qua nhiều khó khăn gian khổ, phải kết hợp xây dựng và bảo vệ hậu phương, kể cả hậu phương chiến lược Thanh - Nghệ - Tĩnh và hậu phương tại chỗ ở Bình - Trị - Thiên. “Phải xây dựng Thanh - Nghệ - Tĩnh thành một hậu phương vững chắc, một kho dự trữ nhân, tài, vật lực, sẵn sàng tiếp tế kịp thời cho các chiến trường”(1). Nội dung xây dựng hậu phương là xây dựng chế độ dân chủ mới.

Đại hội Đảng bộ liên khu lần thứ hai (7-1949) họp tại đình Võ Liệt (Thanh Chương, Nghệ An) nhận định: “Địch không thể đủ sức xâm lược Thanh - Nghệ - Tĩnh đại quy mô như Bình - Trị - Thiên, nhưng rất có thể thọc mũi dùi vào chỗ sơ hở của ta rồi rút hay khuếch trương xâm lấn mà thôi”. Đại hội chủ trương xây dựng và bảo vệ Thanh - Nghệ - Tĩnh thành một hậu phương vững mạnh của cuộc kháng chiến, đảm bảo yêu cầu cung cấp sức người, sức của cho tiền tuyến. Đại hội xác định năm nhiệm vụ trong công tác hậu phương:

- Cấp tốc chỉnh đốn huấn luyện bộ đội địa phương, bổ sung cho chủ lực để điều ra tiền tuyến. Dân quân phải hoàn toàn thay thế bộ đội địa phương làm nhiệm vụ bảo vệ hậu phương.

- Tuyển mộ thanh niên, dân quân vào các đội tiếp tế vũ khí cho mặt trận. Tổ chức huấn luyện thanh niên về quân sự, làm lực lượng dự trữ bổ sung cho bộ đội.

- Thành lập các đội vũ trang tuyên truyền để chi viện cho cách mạng Lào.

- Tích cực bảo vệ miền tây, miền biển, đề phòng địch đổ bộ, thọc mũi dùi vào Thanh - Nghệ - Tĩnh.

- Xây dựng cơ sở kinh tế của chế độ dân chủ mới nhằm cung cấp cho tiền tuyến và tự túc về ăn mặc cho dân.


(1) Nghị quyết Liên khu ủy về “Nhiệm vụ Liên khu IV chuyển mạng sang tổng phản công”, năm 1950 Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 28 Tháng Giêng, 2016, 09:16:14 pm
Mở đầu phong trào thi đua thực hiện nghị quyết của đại hội, phối hợp với mặt trận Bình - Trị - Thiên, Bộ Tư lệnh liên khu mở một đợt tác chiến ở miền tây Thanh Hóa, Nghệ An, tiêu diệt vị trí Mường Lống (22-7-1949), đánh tan hai toán quân tiếp viện từ Noọng Hét và Mỹ Lý sang; tiến công vị trí Cổ Lũng (24-7-1949).

Chấp hành chỉ thị của Bộ Tư lệnh liên khu về nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ Thanh - Nghệ - Tĩnh, các tỉnh khẩn trương xây dựng các đơn vị bộ đội địa phương và chuẩn bị chiến đấu.

Từ ngày 5 đến ngày 7-10-1949, lực lượng vũ trang địa phương anh dũng chiến đấu đánh trả cuộc tập kích vào huyện Quỳnh Lưu (Nghệ An) của hơn 1.000 quân địch (trong đó có 500 lính Pháp và Âu - Phi), 10 ca nô, tàu chiến, có không quân, pháo hạm yểm hộ, tiêu diệt hơn 100 tên (có 27 lính Âu - Phi). Tuy nhiên, ta cũng bị nhiều tổn thất, (150 người chết và bị thương, hơn 100 người bị bắt, gần 1.000 nóc nhà bị đốt cháy, hàng trăm thuyền đánh cá bị địch cướp phá). Trận đánh này để lại bài học sâu sắc về tinh thần cảnh giác và tổ chức, huấn luyện lực lượng vũ trang địa phương.

Trong cuộc hành quân Anthracite (10-1949), quân Pháp chiếm Bùi Chu - Phát Diệm rồi tiến vào Nga Sơn (Thanh Hóa) chiếm Tân Hải, Liên Quy, nhà thờ Tam Tòng và mở nhiều cuộc càn quét vào Kiên Giáp, nhưng bị Tiểu đoàn 375 (Trung đoàn 103) chặn đánh quyết liệt, buộc chúng phải co lại.

Cuối năm 1949, phát huy thắng lợi của chiến dịch Lê Lợi và chiến thắng của Trung đoàn 9 ở mặt trận C, Tiểu đoàn 355 cùng các lực lượng vũ trang và nhân dân địa phương tiến công các vị trí Cổ Lũng, Vạn Mai, Đồng Uông, Poong Nưa, giải phóng một vùng rộng lớn miền tây Thanh Hóa.

Tháng 1-1950, Tiểu đoàn 375 tiến công địch ở Hồ Vương, Chính Đại, Hội Giao (Nga Sơn), diệt 50 tên, thu nhiều vũ khí.

Các cơ quan công an sử dụng nhiều biện pháp nghiệp vụ, phát hiện và xử lý những phần tử phản động đội lốt tôn giáo, làm tay sai cho giặc, chống phá cách mạng, điển hình là Ty Công an Nghệ An đã bắt một số phản động đội lốt linh mục trong “Ban Chấp hành Liên đoàn công giáo” xứ Vĩnh Yên; tiến công vào sào huyệt của tổ chức “Dân chúng liên hiệp”, bắt đưa ra truy tố bọn Phạm Tuyên, Bùi Quỳnh, Trương Văn Liên và trấn áp bọn phản động trong vùng.

Đến tháng 4-1950, toàn bộ quân địch trong các vị trí chiếm đóng ở miền tây Thanh Hóa và Nghệ An phải rút chạy về bên kia biên giới Việt - Lào, làm phá sản âm mưu của thực dân Pháp dùng miền tây làm bàn đạp để tiến công hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh, tạo điều kiện thuận lợi để xây dựng, củng cố chính quyền cách mạng và các đoàn thể quần chúng, phát triển dân quân du kích để bảo vệ bản làng, góp phần xây dựng và bảo vệ hậu phương kháng chiến.

Từ ngày 21-1 đến ngày 3-2-1950 Hội nghị toàn quốc lần thứ ba của Đảng họp và ra nghị quyết Chuyển mạnh sang tổng phản công chủ trương củng cố mặt trận dân tộc và xúc tiến công tác dân vận, củng cố chính quyền nhân dân, xây dựng đảng vững mạnh về mọi mặt. Nghị quyết hội nghị nêu rõ: “Tổng động viên nhân lực, vật lực, tài lực và tinh thần của toàn dân theo khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”, triệt để thi hành sắc lệnh tổng động viên của chính quyền. Phối hợp việc thi hành lệnh tổng động viên và thi đua ái quốc”(1). “Phát triển kinh tế dân chủ nhân dân, tăng gia sản xuất, phát triển hợp tác xã; mở mang các xí nghiệp quốc gia…, cải thiện đời sống cho dân, đặc biệt cho công, nông, thi hành chính sách ruộng đất cho đúng mức (hoàn thành giảm tô; thực hiện giảm tức, tiếp tục tạm cấp ruộng của Pháp và Việt gian cho dân cày nghèo, tiến hành điều tra nông thôn, phát triển phong trào hiến ruộng, v.v.)”(2).

Chấp hành nghị quyết trên, Liên khu ủy ra nghị quyết về Nhiệm vụ Liên khu IV chuyển mạnh sang tổng phản công nhấn mạnh: “Bảo vệ Thanh - Nghệ - Tĩnh là nhiệm vụ trung tâm lãnh đạo để chuyển sang tổng phản công có hiệu quả. Phải xây dựng Thanh - Nghệ - Tĩnh thành một hậu phương vững chắc, một kho dự trữ nhân tài, vật lực, sẵn sàng tiếp tế kịp thời cho các chiến trường”(3). Trong suốt những năm 1948-1950, các cấp đảng bộ và chính quyền trong liên khu thường xuyên chăm lo xây dựng chế độ dân chủ mới về mọi mặt.


(1), (2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.11, tr.201, 202.
(3) Nghị quyết Liên khu ủy về “Nhiệm vụ Liên khu IV chuyển mạng sang tổng phản công”, năm 1950 Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 28 Tháng Giêng, 2016, 09:18:42 pm
Về chính trị:

Ngay khi đổi thành Liên khu IV (1-1948), Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ký các Sắc lệnh 127/SL, và 128/SL, thành lập Ủy ban kháng chiến hành chính liên khu do đồng chí Hồ Từng Mậu làm Chủ tịch. Đến ngày 14-3-1948, theo Sắc lệnh 149-SL của Chủ tịch Chính phủ, Ủy ban kháng chiến kiêm hành chính trở thành Ủy ban kháng chiến hành chính” (Viết tắt là UBKCHC). Cách gọi và cách viết này được duy trì đến khi kết thúc cuộc kháng chiến. UBKCHC Liên khu IV được bầu lại tháng 8-1949, là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân Liên khu IV cùng cấp.

Hệ thống chính quyền cách mạng được xây dựng và củng cố vững chắc. Nhân dân tích cực tham gia các cuộc bầu cử hội đồng nhân dân và kiện toàn UBKCHC các cấp ở vùng tự do. Trong tháng 8-1949, ba tỉnh Bình - Trị - Thiên tổ chức bầu cử hội đồng nhân dân cấp xã. Nhân dân hồ hởi, phấn khởi đi bỏ phiếu. Những nơi xa đồn địch như Phú Nhuận, Vĩnh Lộc (Phú Lộc) có 100% số người đi bầu cử. Hàng ngàn đồng bào vùng bị địch chiếm đóng bí mật ra vùng tự do tham gia bầu cử. Đây là một thắng lợi lớn về chính trị của cuộc kháng chiến, thể hiện trình độ giác ngộ cách mạng của đồng bào quần chúng nhân dân địa phương.

Ngày 22-12-1949, Thường vụ liên khu ủy ra nghị quyết về việc đơn giản khu, huyện và tăng cường tỉnh, xã. Để “tăng cường xã”, phải “củng cố Ủy ban kháng chiến hành chính và các đoàn thể quần chúng”, bỏ các ban chuyên môn ở cấp huyện, đưa cán bộ về tăng cường cho xã. Cấp xã được mở rộng địa dư và dân số gấp hai lần trên cơ sở sáp nhập nhiều xã nhỏ thành xã lớn, giảm bớt đầu mối chỉ đạo và kiểm tra của cấp huyện, thị xã. Nhưng cách làm này lại làm cho cấp xã gặp khó khăn vì trình độ, năng lực tổ chức của cán bộ còn nhiều hạn chế, điều kiện, phương tiện làm việc thiếu thốn. Nhờ sự phê phán, rút kinh nghiệm và kiến nghị kịp thời của các cấp chính quyền, Trung ương Đảng và Chính phủ đã sớm ra các chỉ thị điều chỉnh lại. Các xã lớn được tách ra, trở về quy mô cũ.

Vai trò của hội đồng nhân dân từng bước được nâng cao, quyết định các vấn đề về thuế nông nghiệp, tính định mức thuế cho các làng xóm, xét lại các bản kê khai diện tích, số nông hộ, nhân khẩu, sản lượng các cánh đồng; đặt kế kế hoạch cho từng đội công tác tuyên truyền, vận động, giải thích, điều tra, bình nghị, thu thóc, nộp thóc… Liên khu ủy chỉ đạo xây dựng Ủy ban kháng chiến hành chính xã phải bám sát dân, đặt mình dưới sự kiểm soát của hội đồng nhân dân, không làm việc gì mà không có sự tuyên truyền, giải thích trước; thi hành nhiệm vụ khẩn trương, chu đáo; thực hiện nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; tiến hành thưởng phạt nghiêm minh và kịp thời…

Các tổ chức, đoàn thể quần chúng ngày càng phát triển. Từ đầu năm 1949 đến tháng 6-1949, số hội viên Việt Minh tăng từ 737.194 lên 149.914 người, số hội viên Nông dân cứu quốc từ 216.107 lên 269.155 người. Từ cuối năm 1948 đến tháng 6-1949, tổ chức Thanh niên cứu quốc tăng từ 168.061 lên 178.551 hội viên. Phụ nữ cứu quốc từ 375.908 lên 331.501 hội viên, Hội Liên Việt 1.065.170 lên 1.087.360 hội viên, Liên đoàn lao động từ 57.258 lên 65.814 hội viên. Đảng Dân chủ ở Liên khu IV cuối năm 1948 có 4.338 đảng viên (riêng tỉnh Thanh Hóa có 1.221 đảng viên), đến tháng 6-1949 tăng thêm hàng ngàn người.

Đoàn Thanh niên cứu quốc giữ vai trò nòng cốt trong công tác tuyên truyền, vận động và tổ chức thanh niên tòng quân, gia nhập dân quân du kích.

Hội mẹ chiến sĩ hăng hái thi đua yêu nước, nhất là trong các phong trào góp quỹ nuôi quân, chăm sóc thương binh, may áo quần cho bộ đội… Tháng 9-1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen các cụ, các bà đã “thương yêu săn sóc chiến sĩ như con cháu ruột thịt. Thế là các cụ, các bà cũng trực tiếp tham gia kháng chiến”.

Đồng thời các cụ, các bà còn hăng hái Thi đua ái quốcđể làm kiểu mẫu cho con cháu và đồng bào ở hậu phương. Nhiều cụ, bà tuy tuổi tác đã cao, vẫn cố gắng học chữ, học làm tính. Thật là đánh kính, đáng quý”(1).

Công tác vận động nhân dân được đẩy lên một bước mới, tạo thành phong trào thi đua sôi nổi trên mọi lĩnh vực kháng chiến, kiến quốc, nhất là trong việc động viên, phục vụ công cuộc gấp rút hoàn thành chuẩn bị, chuyển mạnh sang tổng phản công. Việc chuẩn bị thống nhất Việt Minh và Liên Việt được xúc tiến mạnh mẽ ở các cấp.

Ở Liên khu IV, số đồng bào công giáo có 218.317 người (6-1949); có nhiều dòng tu khác nhau, giáo hội có nhiều tổ chức quần chúng, có hội lập sớm mang tính địa phương như: Hội tiên phong của Chúaở Đinh Cẩm (Hà Tĩnh), có hội mới thành lập như Hội bác ái(1949), Hội Thomas Thiện Hội Liên đoàn thanh niên công giáo(1950). Tòa Khâm mạng Đông Dương đóng ở Phú Cam (Huế) nhưng vẫn tìm cách chỉ đạo các giáo dân vùng tự do. Trên địa bàn Liên khu IV có ba địa phận công giáo: Thanh Hóa, Vinh, Huế. Các trường giáo lý, trường văn hóa công giáo được mở ở nhiều nơi, giảng dạy theo chương trình hồi Pháp thuộc, hoặc nếu có sử dụng chương trình của Bộ Quốc gia Giáo dục thì xuyên tạc, lồng vào những nội dung xấu. Kẻ thù hợi dụng tôn giáo để hoạt động chống phá cách mạng. Bên cạnh Liên đoàn công giáoở nhiều tỉnh, chúng còn thành lập ra nhiều tổ chức phản động như Mặt trận dân tộc giải phóng(Thanh Hóa), Mặt trận dân chúng liên hiệp(Nghệ An). Chính vì thế công tác vận động đồng bào theo đạo Thiên chúa có ý nghĩa hết sức quan trọng.

Đại hội đại biểu lần thứ hai của Đảng bộ liên khu xác định công tác giáo vận thực chất là công tác vận động người nông dân có đạo, phải lấy việc đem lại lợi kích kinh tế thiết thực cho họ và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng mà giác ngộ họ về chính trị, lôi kéo họ đi theo kháng chiến, không để địch lợi dụng. Ở vùng tự do, đồng bào được giác ngộ đã tham gia các hội Cứu quốc tổ đổi công, tập đoàn sản xuất. Trong vùng tạm bị chiếm, một số đồng bào gia nhập Liên Việt.

Đồng bào miền núi Liên khu IV có hơn 224.000 người, thuộc nhiều dân tộc khác nhau. Công tác vận động đồng bào dân tộc ít người ở miền núi được chú ý hơn. UBKCHC các cấp tổ chức giáo dục, gây dựng cơ sở, đào tạo cán bộ địa phương, vận động quần chúng vào các hội kháng chiến, vận động thanh niên vào dân quân, du kích. Tuy nhiên, vì địa bàn hoạt động khó khăn, cán bộ thiếu, lại chưa nắm vững đường lối, chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng và phong tục, tập quán của từng dân tộc, tư tưởng dân tộc lớn coi thường dân tộc nhỏ chưa được khắc phục, cộng với ảnh hưởng của chế độ lang đạo còn khá nặng nề và sự chống đối của bọn phản động như tổ chức “Pảo mương”(2) ở Nghệ An nên kết quả vận động đồng bào các dân tộc ít người, nhất là các vùng cao xa xôi hẻo lánh, còn nhiều hạn chế.

Trước những thủ đoạn chính trị thâm độc của kẻ thù, những khuyết điểm, sai lầm của một số cán bộ, đảng viên và những khó khăn, thử thách ác liệt của cuộc kháng chiến, một số nhân sĩ, trí thức tỏ ra hoang mang, dao động, có người bỏ hàng ngũ kháng chiến trở về vùng địch, công tác vận động tầng lớp trí thức của ta chưa chuyển biến kịp. nhìn chung, phong trào nhân dân, nhất là nhân dân lao động, hết sức rầm rộ, nhưng hệ thống tổ chức mặt trận và các đoàn thể chưa đủ mạnh để làm chỗ dựa vững chắc cho chính quyền trong công cuộc tổng động viên.


(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập xuất bản lần thứ hai, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.5, tr.689.
(2) “Pảo mương” là tên gọi tắt của tổ chức “Pảo ca tây hắc mương muặt” tiếng Thái nghĩa là “Thánh hiền ái quốc hùng tráng” do bọn phản động người Thái ở miền tây Nghệ An lập ra.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 28 Tháng Giêng, 2016, 09:21:25 pm
Chủ trương xây dựng đảng thành một đảng có tính quần chúng được các địa phương tích cực triển khai. Theo Báo cáo về tình hình Đảng năm 1948 và kế hoạch công tác nội bộ năm 1949(tại Hội nghị cán bộ Trung ương lần thứ sáu 1-1949) số lượng đảng viên Khu IV là 30.000 người, nhưng “chưa đuổi kịp đà phát triển ở Bắc Bộ. Ở Nghệ An, trung bình mỗi tháng (trong ba tháng 7, 8, 9-1948) có 25 đồng chí được kết nạp thêm được một đảng viên mới, các huyện Diễn Châu, Hưng Nguyên, Thanh Chương, v.v. trong ba tháng chỉ tăng từ 1,4% đến 5%.

Ở Hà Tĩnh, sáu tháng chỉ phát triển được thêm 946 đồng chí… Tỉnh ủy đã ra chỉ thị cho các chi bộ tổ chức “tuần lễ phát triển Đảng”(1). Cuối năm 1948 tỉnh Quảng Bình có 72 chi bộ, 2.170 đảng viên (tăng 600 người so với trước tháng 5-1948); Quảng Trị có 70 chi bộ, 2.626 đảng viên (tăng 600 người); Thừa Thiên có 103 chi bộ, 2.049 đảng viên (tăng 549 người). Số đảng viên trong quân đội tăng gần gấp đôi. Phần lớn chi bộ vùng bị tạm chiếm đã nắm được quần chúng với mức độ khác nhau và tổ chức được lực lượng dân quân, du kích dưới nhiều hình thức để tiến hành đấu tranh với địch và đánh địch. Mỗi chi ủy có từ hai đến ba chi ủy viên, các huyện ủy viên đều được dự các lớp huấn luyện, nhất là ở Thừa Thiên.

Đến trước Đại hội đại biểu Đảng bộ liên khu lần thứ hai, việc xây dựng chi bộ tự động công tác và phát triển đảng đã đạt được những kết quả quan trọng. “Có những chi bộ như Cự Nẫm, Cảnh Dương đã lãnh đạo được toàn dân xã trực tiếp kháng chiến. Cự Nẫm đã lãnh đạo dân chúng đối phó với 12 cuộc địch vào xã. Chi bộ Cảnh Dương sáu lần đối phó với địch phải rút lui.

Ở vùng tự do có những chi bộ Hương Phong (156 đồng chí), Minh Châu (97 đồng chí) đã đoàn kết được toàn dân lập các làng chiến đấu gây được phong trào học tập toàn dân, lập hội đổi công, thi hành giảm tô, lối làm việc khoa học có văn phòng và tiểu ban hẳn hoi”(2). Theo báo cáo tháng 3-1949 của các tỉnh ủy, số lượng đảng viên toàn liên khu đã tăng từ 24.029 (cuối năm 1948) lên 56.357 người; trong đó Quảng bình từ 1.500 lên 2.989, Thuận Hóa từ 35 lên 99; quân đội từ trên 2.404 lên 4.347. Những nơi xung yếu ở Bình - Trị - Thiên như vùng xung quanh vị trí địch, dọc đường giao thông đã có chi bộ hoặc có đảng viên hoạt động. Nhìn chung, các chi bộ đã lãnh đạo được nhân dân và lực lượng dân quân, du kích trong mọi hoạt động kháng chiến, bám sát giặc, đánh giặc giữ làng.

Tuy vậy, công tác phát triển đảng chưa đều, một số huyện như Phú Lộc, Hương Trà, Quảng Điền (Thừa Thiên), Quảng Ninh, Lệ Thủy (Quảng Bình) còn chậm. Nhiều chi bộ ở những nơi xung yếu trong vùng địch kiểm soát còn yếu. Vùng đồng bào công giáo còn ít đảng viên. Trong số ba vạn giáo dân ở tỉnh Thanh Hóa có 20 đảng viên.

Sau Đại hội đại biểu lần thứ hai của Đảng bộ liên khu (7-1949), công tác phát triển đảng viên mới càng được đẩy mạnh ở cả vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh và vùng bị địch tạm chiếm Bình - Trị - Thiên. Cuối năm 1950, số đảng viên trong toàn liên khu đã lên tới 14 vạn người. Ở nông thôn, 2/3 đảng viên mới kết nạp xuất thân từ tầng lớp bần, cố nông. Các nơi đều đặc biệt chú trọng phát triển đảng viên nữ; ở Hà Tĩnh có tháng 85% đảng viên mới kết nạp là nữ; ở Nghệ An, có tháng 22% đảng viên mới kết nạp là nữ. Ở Quảng Bình giữa năm 1949 có 3.140 đảng viên, Quảng Trị giữa năm 1949 có 5.339 đảng viên, đến cuối năm 1950 tăng lên 8.500, Thừa Thiên từ 5.184 lên 8.000, Thuận Hóa từ 99 lên 250. Việc xây dựng đảng trong vùng địch có bước tiến rõ rệt. Thị xã Quảng Trị và Đông Hà đã thành lập được thị ủy; thị xã Đồng Hới có chi ủy. Việc phát triển đảng ở Quảng Bình, Lệ Thủy đã tiến vượt lên song song với đà phát triển của cuộc kháng chiến.

Bên cạnh những tiến bộ, công tác phát triển đảng còn có một số khuyết điểm lớn như: thiếu chặt chẽ, chạy theo số lượng, chưa chú trọng huấn luyện, giáo dục nên nhiều trường hợp không bảo đảm được yêu cầu về chất lượng. Vì vậy, thực hiện chỉ thị của Trung ương Đảng, Đảng bộ Liên khu IV đã tạm ngừng phát triển đảng viên mới để củng cố tổ chức.

Cuộc vận động xây dựng chi bộ tự động công tác có nhiều kết quả, 47% số chi bộ đạt tiêu chuẩn chi bộ tự động công tác, số chi bộ chưa tự động công tác cũng tiến bộ trong việc lãnh đạo du kích chiến tranh và vận động nhân dân sản xuất, đoàn kết tương trợ cứ đói,…

Bộ máy lãnh đạo Đảng ở các cấp được kiện toàn. Qua các đại hội hợp vào sáu tháng đầu năm 1950, số cán bộ xuất thân từ thành phần công - nông được tăng thêm, tổ chức đảng các cấp được chấn chỉnh tốt hơn trước.

Công tác đào tạo cán bộ, học tập lý luận được chú trọng hơn, nhất là sau Hội nghị Liên khu ủy mở rộng (7-1950). Liên khu ủy mở các lớp bồi dưỡng về chính trị cho các tỉnh ủy viên và cán bộ tương đương, cho cán bộ chủ chốt cấp huyện, cán bộ trung đoàn, tiểu đoàn. Các tỉnh ủy đều mở lớp bồi dưỡng đảng viên mới. Hàng tháng, từ tỉnh tới xã có tới hàng trăm lớp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên. Nhìn chung, phong trào học tập chính trị trong cán bộ, đảng viên có tiến triển rõ rệt, nhưng tổ chức hướng dẫn chưa có nền nếp, nội dung tài liệu chưa thật hợp lý, lý luận chưa gắn với thực hành, nên trình độ cán bộ, đảng viên vẫn còn hạn chế, chưa theo kịp với yêu cầu của tình hình mới.


(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.10, tr.121-122.
(2) Sđd tr.130-131.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 28 Tháng Giêng, 2016, 09:21:58 pm
Về kinh tế:

Song song với việc động viên nhân tài, vật lực phục vụ kháng chiến, các cấp bộ đảng và chính quyền đã chỉ đạo nhân dân tích cực xây dựng nền kinh tế kháng chiến để bảo đảm đời sống nông dân và đáp ứng yêu cầu kháng chiến.

Sản xuất nông nghiệpgặp rất nhiều khó khăn do thiên tai, bão lụt xảy ra liên tiếp và chính sách cướp thóc lúa, phá hoại mùa màng của địch.

Các tỉnh Bình - Trị - Thiên thường xuyên áp dụng nhiều biện pháp để duy trì và bảo vệ sản xuất, giữ gìn sức người, sức của cho kháng chiến. Mặt trận đấu tranh kinh tế với địch đã trở thành một bộ phận quan trọng của chiến tranh nhân dân ở địa phương. Nhân dân chống địch cướp thóc, gạo, không bán lương thực, thực phẩm cho chúng, cắt phá giao thông, cản trở tiếp tế của địch, kiểm soát các chợ vùng tạm bị chiếm, bài trừ hàng ngoại… Nhân dân vùng tạm chiếm, vùng giáp ranh loan báo kịp thời âm mưu của địch, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân ở vùng an toàn tiến hành gặt hái, thu giấu của cải.

Các cán bộ đảng ở Thanh - Nghệ - Tĩnh nêu cao khẩu hiệu “Tăng gia sản xuất”, “Nhân dân tiếp tế cho bộ đội tác chiến, bộ đội giúp đỡ nhân dân làm ăn”, “Hết sức thực hành chính sách tiết kiệm”.

Năm 1948, công tác thủy lợi được quan tâm, nhiều công trình được xây dựng, các máy bơm ở Nam Đàn, Đô Lương… thường xuyên hoạt động. Nhờ thế, kinh tế nông nghiệp của Thanh - Nghệ - Tĩnh đã có bước phát triển sản xuất được mùa trên phần lớn diện tích gieo trồng, đạt sản lượng gần 500.000 tấn. Bình quân đầu người đạt 200 kg thóc. Diện tích trồng bông là 6.470 ha, năng suất 130 kg/ha, sản lượng 840 tấn. Chăn nuôi gia súc khá phát triển. Năm 1948 có 300.000 con trâu, 150.000 con bò cày kéo; gia súc cung cấp thịt có 1.239 con trâu, 4.633 con bò và 27.336 con lợn. Năm 1950, cả ba tỉnh cày cấy được 185.400 ha, thu hoạch trên 144.900 tấn thóc, 155.900 tấn khoai, 10.790 tấn ngô, 1.730 tấn bông.

Để đẩy mạnh sản xuất lương thực, bảo đảm tự túc ăn, mặc, Ủy ban kháng chiến hành chính liên khu phát động các phong trào “Vụ chiêm quyết thắng” (cuối năm 1949), “Vụ mùa chủ lực” (6-1950), đặt các giải thưởng điển hình về năng suất lúa, năng suất bông, gia đình có thu nhập bình quân cao.

Các phong trào thi đua lôi cuốn đông đảo quần chúng tham gia. Hình thức sản xuất mới trong nông nghiệp được xây dựng. Năm 1949 có 5.107 hợp tác xã, năm 1950 tăng lên 9.831 hợp tác xã với 6.376.692 xã viên, 702.191 mẫu ruộng, số vốn 8.383.617 đồng và 59.566 trâu, bò. Các hình thức vần công, đổi công, quỹ tín dụng ở nông thôn phát triển rộng rãi, giúp nông dân khắc phục khó khăn về nhân lực, sức kéo trong lúc thời vụ khẩn trương, giúp nông dân nghèo có vốn sản xuất; tận dụng mọi điều kiện tại chỗ về đất, nước, nguồn phân, giống, vốn và kỹ thuật cày sâu, cuốc bẫm, chăm sóc đồng ruộng để nâng cao năng suất và sản lượng cây trồng.

Nhờ ổn định và phát triển sản xuất nông nghiệp, đời sống nhân dân ở Thanh - Nghệ - Tĩnh ổn định và có bước được cải thiện. Theo Báo cáo tổng kết hai năm 1947-1948của Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh Thanh Hóa: “80% dân số trong tỉnh ấm no hơn trước, 10% giữ mức như xưa. So với đầu năm 1945 thì cuối năm 1949 giá hàng hóa cao lên từ 200% đến 300%, trái lại, giá lúa gạo đã hạ từ 50% đến 60%, nạn đói đầu năm 1945 đã giải quyết, mức độ tăng gia sản xuất phát triển lớn”.

Cùng với đà phát triển của hoạt động quân sự và sự trưởng thành của lực lượng vũ trang, công tác vận động quần chúng được đẩy mạnh theo hướng tăng cường vận động chính trị kết hợp với mưu lợi ích thiết thực về dân sinh, chú trọng mưu lợi ích dân sinh làm chính. Nhiệm vụ dân chủ được tiến hành từng bước.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 28 Tháng Giêng, 2016, 09:23:31 pm
Liên khu ủy chỉ đạo các cấp vận động địa chủ giảm tô đúng 25%, triệt để bỏ tô phụ và thủ tiêu chế độ quá điền, kể cả vùng Thiên chúa giáo, vùng làm nghề cá, muối; thực hiện giảm tức, xóa nợ, hoãn nợ, giải quyết hợp tình hợp lý vấn đề bán con nuôi, cầm cố, đi đôi với phát triển tín dụng, quỹ nghĩa thương, phong trào đoàn kết tương trợ. Chính quyền các địa phương tiến hành quân cấp công điền, công thổ một cách công bằng, hợp lý; hoàn thành việc tạm cấp ruộng đất đồn điền của Pháp, Việt gian và ruộng vắng chủ, đất hoang thuộc quốc gia công thổ cho dân cày nghèo và xây dựng một số nông trường quốc doanh ở những nơi có điều kiện; thực hiện chính sách hiến điền một cách thường xuyên, đúng đối tượng vận động là địa chủ, phú nông.

Chính sách vận động địa chủ hiến điền thường xuyên được các cấp ủy đảng, chính quyền kháng chiến quan tâm khuyến khích. Ngày 1-6-1949, Thường vụ Trung ương Đảng điện gửi Liên khu IV; “Nên nêu tên các địa chủ đã hiến điền để gây thành phong trào. Nếu có địa chủ nào hiến điền nên đứng danh nghĩa Ủy ban kháng chiến hành chính mà tiếp nhận số ruộng đó. Tổ chức lễ tiếp nhận thật đàng hoàng để tuyên truyền mời các vị thân sĩ, địa chủ, bộ đội và dân nghèo đến dự. Các địa chủ hiến nhiều hay ít đều nên khen”(1). Ngoài ra, các địa phương còn xúc tiến công tác điều tra nông thôn chuẩn bị cho việc thi hành chính sách cải cách ruộng đất mới của Đảng. Những chính sách đó đã làm cho nhân dân phấn khởi tăng gia sản xuất, tích cực ủng hộ kháng chiến.

Tháng 9-1950, ở Bình - Trị - Thiên bị lụt lớn. Tại Huế, nước ngập cầu Tràng Tiền gây tổn thất lớn: làm 224 người chết, hỏng 1.600 tấn lúa, 1.000 tấn muối, 1.400 trâu bò và 1.000 nóc nhà bị nước cuốn trôi, lúa cất giấu bị hỏng hoàn toàn, mùa màng mất từ 60 - 80%; rau, màu ngắn ngày vừa gieo trồng bị hại. Lợi dụng lúc ta khó khăn, quân Pháp tăng cường càn quét, khủng bố, lừa phỉnh, lập tề, đẩy nhân dân vào thế củng cực. Chưa bao giờ quân dân Bình - Trị - Thiên đứng trước một thử thách lớn như vậy.

Trước tình hình đó, Thường vụ Liên khu ủy họp bất thường ra nghị quyết về Kế hoạch bảo vệ mùa coi đây là công tác trọng tâm của các đảng bộ ở Bình - Trị - Thiên, chỉ đạo nhân dân gặt mau, giấu kín, và lập tập đoàn vận tải để chuyển thóc ra các chiến khu.

Đảng ủy và Bộ Chỉ huy mặt trận Bình - Trị - Thiên quyết định:

- Động viên toàn thể quân, dân đoàn kết khắc phục mọi khó khăn, nhanh chóng ổn định nơi ăn, ở, khẩn trương trồng rau, màu ngắn ngày để cứu đói, phòng chống dịch bệnh.

- Vận động đồng bào vùng bị chiếm (nhất là thành phố Huế, Quảng Trị, Đồng Hới) đấu tranh buộc địch phải cứu tế cho nhân dân vùng bị lụt nghiêm trọng. Kêu gọi nhân dân đô thị, đặc biệt là giới Phật giáo ở Huế, tổ chức quyên góp lương thực, thực phẩm, thuốc men chuyển ra vùng tự do giúp đỡ đồng bào, bộ đội.

Trong hoạn nạn khó khăn, quân, dân Bình - Trị - Thiên gan góc chịu đựng, thực hiện “bát cơm sẻ nửa, củ sắn chia đôi”. Bộ đội bớt ăn, bớt mặc, nhường một phần thuốc men, cứu chữa những người dân đang ốm và chi viện cho những vùng khó khăn nhất. Ủy ban kháng chiến hành chính liên khu phát động ngay phong trào tăng gia sản xuất và tiết kiệm, ủng hộ Bình - Trị - Thiên, khẩu hiệu hành động là “Tiết kiệm lương thực chi viện cho Bình - Trị - Thiên”, “Tiết kiệm thì giờ để sản xuất”. Hưởng ứng lời kêu của Liên khu ủy và Ủy ban kháng chiến hành chính liên khu, nhân dân vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh tích cực tăng gia sản xuất và tiết kiệm, ủng hộ Bình - Trị - Thiên; mỗi người đi vào Bình - Trị - Thiên đều mang theo một số gạo, muối và hạt giống,… Nhân dân khắp nơi ra sức khai hoang, phục hóa đi đôi với thâm canh tăng năng suất, làm thủy lợi, làm phân xanh, đẩy mạnh phong trào vần công, đổi công. Việc tăng gia sản xuất lương thực được đặt ra ráo riết trong bộ đội, cán bộ, công nhân viên chức. Liên khu đề ra chỉ tiêu sản xuất lúa, rau xanh cho từng trung đoàn. Lực lượng vũ trang toàn liên khu ra sức tăng gia sản xuất góp phần khắc phục khó khăn về lương thực nuôi quân.

Tại Bình - Trị - Thiên, cuộc vận động tăng gia sản xuất, cuộc đấu tranh chống địch, bảo vệ lúa và hoa màu, tiến hành cất giấu lương thực, tài sản có kết quả khá hơn trước. Các đơn vị bộ đội và cơ quan ở chiến khu và tiền chiến khu đều nỗ lực tăng gia sản xuất để tự túc một phần lương thực, thực phẩm. Nhân dân các nơi bị địch kiểm soát tuy vẫn phải chịu cống nạp cho địch một phần nhưng vẫn tích cực đóng góp cho kháng chiến.


(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.10, tr.241.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Giêng, 2016, 09:02:58 pm
Về công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp:

Lực lượng vũ trang và hoạt động vũ trang càng phát triển thì yêu cầu về trang bị, vũ khí ngày càng tăng, đòi hỏi sự phát triển công nghiệp quốc phòng. Số công xưởng sản xuất vũ khí của ngành quân giới đặt ở Thanh Hóa là chín công xưởng, Nghệ An: 1, Hà Tĩnh: 8. Đến năm 1950, Thanh - Nghệ - Tĩnh còn lập được nhiều xưởng nhỏ. Nghệ An và Hà Tĩnh lập được 15 xưởng sản xuất và sửa chữa vũ khí của tỉnh và huyện với 4.189 công nhân. Thanh Hóa có một xưởng sản xuất vũ khí và các tổ vũ khí ở Yên Định. Thiệu Hóa. Một số xưởng quân giới huyện, ngoài việc sửa chữa vũ khí thông thường đã sản xuất được địa lôi, súng kip. Riêng xưởng quân giới Hà Tĩnh đã sửa chữa 500 súng trường trong một năm.

Toàn liên khu có 21 xưởng, ba công xưởng cơ động, đã chế tạo được súng, đạn, mìn, thủy lôi, bom bay, bazoka, chất nổ và một số hóa chất cần thiết. Ngành quân giới còn mở một lớp dày nghề đào tạo được 200 công nhân kỹ thuật.

Hội nghị đại biểu liên khu tháng 7-1949 chủ trương nâng đỡ và khuyến khích phát minh, sáng chế về khoa học, kỹ thuật nhằm mục tiêu chuẩn bị tổng phản công, nhất là về vũ khí mới và kỹ thuật sản xuất. Đoàn khoa học, kỹ thuật Liên khu IV (12-1949) là tổ chức để tiến hành cuộc vận động sáng chế phát minh và cải tiến kỹ thuật

Phong trào thi đua đuổi và vượt Ngô Văn Phú - một chiến sĩ quân giới có nhiều sáng kiến đạt năng suất cao, được phát động rộng rãi trong toàn ngành quân giới liên khu. Giáo sư Phạm Đình Ái chế được axít suphuaríc và chất nổ. Kỹ sư Võ Quý Huân thí nghiệm nấu gang thành công… nhiều sáng kiến có giá trị ra đời, góp phần quan trọng đẩy mạnh sản xuất của ngành quân gới. Tính đến năm 1950, các xưởng trên địa bàn Liên khu IV đã sản xuất được 1.282 tấn vũ khí, bao gồm 810 khẩu bazôca, 1.920 súng cối, 240 súng phóng bom, 312 súng SKZ, 12.900 súng trường và tiểu liên, 200 súng phóng lựu, 7.381 quả bom phóng, 16.000 quả đạn bazôca, 140.000 đạn cối các cỡ, 400.000 lựu đạn, 180.000 quả mìn và địa lôi, 6.250 quả đạn AT, 2.794 quả đạn SKZ, 3.000.000 viên đạn súng trường(1). Đến cuối năm 1950, ngoài các xưởng quân giới, toàn liên khu có 91 xưởng với 7.000 công nhân, các xưởng này đã sản xuất được máy điện, các máy bơm nước, một số máy khoan, máy xay bột giấy, máy bào, cồn 90o, axit, dầu nhớt, thuốc nổ, diêm tiêu, than đá. Mỏ than Khe Bố (Nghệ An), Mỹ Long (Thanh Hóa) mỗi năm sản xuất hơn 1.600 tấn.

Các ngành thủ công được chú ý phát triển Hội nghị kinh tế liên khu (10-1949) nêu đề án tự túc vải với khẩu hiệu:

            “Tập đoàn rảnh rải
            Dệt vải thêm công
            Rảnh rang cày cấy
            Xeo giấy bình dân”.

Ngoài xưởng dệt của các cơ quan kinh tế và các xưởng dệt của liên khu, còn có hàng trăm xưởng dệt khắp ba tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh và hơn 40.000 khung cửi khổ hẹp của gia đình thường xuyên sản xuất vận tải dân dụng và quân nhu. Năm 1948, các tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh dệt được 7.371.250m vải, chiếm 50% số vải của các địa phương từ Liên khu IV trở ra; cuối năm 1949, số vải được tăng gấp hai lần, đạt 12.812.000m. Ngành giấy ở ba tỉnh có 51 xưởng, năm 1950 sản xuất được 122 tấn. Các ngành thủ công rèn, mộc, dệt chiếu cói, làm muối, nước mắm, xà phòng, gốm được chú ý phát triển. Nhiều thợ sứ Bát Tràng (Gia Lâm) tản cư vào Hoằng Hóa lập nên sáu xưởng bát ở Đức Giáo, Lộc Bồi, năm 1950 có sức sản xuất 10 vạn bát ăn cơm mỗi tháng, tăng gấp ba lần so với năm 1949.

Ở Thanh - Nghệ - Tĩnh, để tránh sự bắn phá của địch ở những nơi tập trung đông người, các cơ quan, nơi họp chợ phải di chuyển và nhân dân các thị xã phải tản cư về vùng nông thôn. Cấp hành chính thị xã tỉnh lỵ giải thể. Ở thị xã Thanh Hóa 2/3 số dân sống bằng nghề công thương sơ tán ra vùng ven thị xã như Cầu Bố, Voi, Nấp, Nhồi, Cầu Trấu, Cầu Cáo, Rừng Thông, Phố Kết… Đời sống của người tản cư lúc đầu gặp nhiều khó khăn, “các giới buôn bán ở đô thị tản cư về thôn quê chỉ có 1/2 quen với hoàn cảnh kháng chiến, tìm kế sinh nhai tạm đầy đủ, còn 1/2 lâm vào cảnh thiếu thốn và ngày càng chật vật”(2).

Từ đầu năm 1949, việc lập các khu phố đặc biệt, các trại di cư, tản cư được triển khai rộng. Các thị trấn Rừng Thông, Cầu Bố (Thanh Hóa), Đô Lương, Chợ Rạng (Nghệ An), Đức Thọ, Chu Lễ (Hà Tĩnh) là những nơi đầu mối buôn bán tấp nập. Các hiệu buôn, công ty hợp cổ hợp doanh hoạt động mạnh. Theo hồ sơ lưu trữ số 183/1949 của Tỉnh ủy Thanh Hóa, năm 1948, đại đa số dân tản cư sinh sống rất chật vật, sự buôn bán mới hình thành từ Đồng Quan, Chợ Đại vào Cầu Bố, Đô Lương thì nay Cầu Bố đã trở thành một thị trấn lớn, lôi kéo một số lớn đồng bào tản cư từ Bắc Bộ vào hay ở thị xã cũ tản cư về thôn quê, huyện lỵ. hầu hết đồng bào ở thị xã Thanh Hóa cũ đã có mặt tại Cầu Bố, Mật Sơn.


(1) Xem: Lịch sử hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam, Ban khoa học hậu cần, Tổng cục Hậu cần, Hà Nôi, 1985, t.1 (1944-1954), tr.143.
(2) Báo cáo tổng kết hai năm 1947-1948 của Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh Thanh Hóa lưu trữ tỉnh ủy Thanh Hóa.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Giêng, 2016, 09:05:20 pm
Về văn hóa, giáo dục, y tế:

Thực dân Pháp sử dụng văn hóa làm công cụ phục vụ chiến tranh xâm lược, bằng các hình thức như mở trường học, cấp học bổng cho học sinh, phát hành các loại báo chí… Thành phố Huế là nơi quân đội Pháp kiểm soát, có các trường trung học Providence, Pollerin, Khải Định, Đồng Khánh; các trường tiểu học Paul Bert, Gia Hội… Năm 1948, Pháp cho ra 10 tờ nhật báo và tuần báo (đến cuối năm 1949 chỉ còn một tờ Bình Minhra hằng ngày). Chính sách văn hóa của Pháp nhằm vào việc tuyên truyền, ca tụng chính quyền do Pháp dựng lên, nói xấu chính phủ kháng chiến; chia rẽ khối đoàn kết dân tộc Việt Nam, nhất là chia rẽ lương, giáo; gieo rắc nọc độc văn hóa thực dân. Để chống lại chính sách văn hóa, giáo dục nô lệ và phát triển lực lượng kháng chiến, phải xây dựng nền văn hóa kháng chiến.

Về văn hóa giáo dục mùa hè năm 1948, Hội nghị giáo dục Liên khu IV họp tại Đức Thọ (Hà Tĩnh), chủ trương duy trì và phát triển công tác giáo dục trong toàn liên khu. Ủy ban kháng chiến hành chính các tỉnh mở thêm trường lớp công và tư thục, tùy theo điều kiện và hoàn cảnh xây dựng thêm trường mới, tạo điều kiện đáp ứng nhu cầu học tập của con em nhân dân.

Thực hiện những chủ trương của liên khu, ngành giáo dục mỗi tỉnh đã phát huy sáng kiến, phát triển công tác giáo dục tại địa phương. Tỉnh Thanh Hóa thành lập “Tiểu ban điều tra chống nạn mù chữ” từ cấp tỉnh xuống đến cấp huyện để nắm tình hình các địa phương và có biện pháp cụ thể để giải quyết; thành lập một phòng đại diện Bình dân học vụ vùng cao; đào tạo và huấn luyện giáo viên dạy bình dân học vụ, in tài liệu giáo khoa bình dân học vụ; liên tục tổ chức các đợt thi đua thanh toán nạn mù chữ.

Phong trào bình dân học vụ và bổ túc văn hóaphát triển sôi nổi, rộng khắp trong các cơ quan, đoàn thể, đơn vị bộ đội và thôn xóm. Tháng 8-1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi giấy khen một số làng ở Hà Tĩnh đã thanh toán nạn mù chữ và gửi thư cho Trưởng ty Bình dân học vụ Hà Tĩnh, nhắc nhở một số công việc bình dân học vụ:

“1. Cố gắng làm cho toàn tỉnh thanh toán nạn mù chữ trong một thời gian khá mau.

2. Nâng cao chương trình học tập của những làng đã thanh toán nạn mù chữ. Dạy thêm lịch sử, địa dư, làm tính, khoa học thường thức.

3. Các lớp bình dân học vụ nên kiêm thêm trách nhiệm tuyên truyền cổ động cho mọi công việc kháng chiến như giúp đỡ bộ đội, thi đua tăng gia sản xuất, v.v…”(1).

Toàn liên khu dấy lên phong trào thi đua thanh toán nạn mù chữ với khẩu hiệu “Đại tiến công giặc dốt”, “Diệt giặc dốt như diệt giặc ngoại xâm”. Hội đồng kháng dốt, Hội khuyến học, Hội bảo trợ bình dân được nhanh chóng thành lập. Các lớp bình dân học vụ buổi trưa, buổi tối được mở khắp nơi thu hút hàng vạn học viên già, trẻ, gái, trai.

Huyện Cẩm Xuyên (Hà Tĩnh) là huyện đầu tiên của liên khu đã thanh toán xong nạn mù chữ, được Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen (15-11-1948), nêu rõ nguyên nhân Cẩm Xuyên đạt được thành tích là do sự cố gắng giúp đỡ của các cụ phụ lão, các vị thân sĩ, sự săn sóc ân cần của các cơ quan đoàn thể, sự hăng hái nỗ lực của nam nữ giáo viên, sự siêng năng cố gắng của toàn thể đồng bào trong huyện. Bức thư viết:

“Hà Tĩnh là một tỉnh nhỏ nhất trong Liên khu IV mà đã hăng hái xung phong. Tôi mong rằng các tỉnh khác, trước hết là những tỉnh to như Nghệ An, Thanh Hóa sẽ cố gắng theo kịp tỉnh “em”(2).

Từ ngày 19-2-1949 đến ngày 19-5-1949, toàn liên khu tham gia đợt thi đua về văn hoá, giáo dục, sôi nổi nhất là ba tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh. Sau ba tháng thi đua đã có 4.706 lớp bình dân học vụ sơ cấp, 234 lớp bình dân học vụ bổ túc, tăng thêm 1.857 dự bị bổ túc (với 38.834 học sinh), 196 lớp bổ túc (1.386 học sinh), 154 lớp tiểu học bình dân (62.438 học sinh); tổng cộng thêm được 2.507 lớp. Tỉnh Thanh Hóa thanh toán nạn mù chữ được 81%, Nghệ An: 79%, Hà Tĩnh: 96%(3).

Sau khi Bộ Quốc gia giáo dục công nhận và Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện khen tỉnh Hà Tĩnh thanh toán nạn mù chữ đầu tiên trong cả nước (5-1949), phong trào bình dân học vụ tiếp tục lên cao. Trong toàn liên khu, từ tháng 6-1948 đến tháng 6-1949, số người học bình dân học vụ sơ cấp tăng 73%, số người học bình dân học vụ bổ túc tăng 381%.


(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập xuất bản lần thứ hai, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.5, tr.475.
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập Sđd tr.512.
(3) Báo cáo Những thành tích của Mặt trận Việt Minh trong ba năm kháng chiến 1946-1949 lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Giêng, 2016, 09:05:49 pm
Hội nghị Liên khu ủy (2-6-1949) đánh giá tình hình phong trào văn hóa, giáo dục trong liên khu, khẳng định những thành tích của các tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh, đồng thời chỉ ra tình trạng thiếu giáo viên, nhất là cho các lớp bổ túc, tiểu học bình dân, chỉ ra những mặt yếu kém về văn hóa, giáo dục ở Bình - Trị - Thiên. Tiếp đó, Liên khu ủy triệu tập Hội nghị cán bộ giáo dục lần thứ nhất (từ ngày 16 đến 18-6-1949), ra nghị quyết về giáo dục; đồng thời chỉ thị cho các cấp, các ngành:

1. Vận động những thanh niên trí thức có đủ điều kiện (trong và ngoài Đảng) tình nguyện làm giáo viên tiểu học xung phong vào dạy ở Bình - Trị - Thiên.

2. Cố gắng trả lại cho các trường trung học những giáo sư được điều động sang công tác khác.

3. Tỉnh ủy sẽ dựa vào tinh thần Nghị quyết Hội nghị cán bộ giáo dục về vấn đề tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với giáo dục, thông tin cho các huyện ủy, thị ủy thi hành.

4. Vận động nhân dân hết sức giúp đỡ giáo giới và gia đình họ.

5. Hết sức giúp đỡ việc thành lập Chi hội văn hóa theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị văn hóa Liên khu IV lần thứ nhất.

Hội nghị đại biểu Liên khu IV lần thứ hai (10-7-1949) tổng kết tình hình kháng chiến trên mọi lĩnh vực, khẳng định những thành tích xóa nạn mù chữ của các tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh. Tỉnh Quảng Trị đã thi đua xóa nạn mù chữ ở từng thôn trong vùng tự do và bắt đầu hướng vào vùng du kích. Phong trào bình dân học vụ tỉnh Quảng Bình cũng phát triển ở vùng tự do, nhiều cụ phụ lão, nhiều mẹ chiến sĩ đi học đều đặn. Đồng bào hai xã miền núi Thanh Hóa và Tân Hóa (huyện Tuyên Hóa) đã thanh toán được nạn mù chữ, xứng đáng là những điển hình của tỉnh Quảng Bình về công tác giáo dục trong thời chiến.

Năm 1949, Nhà Bình dân học vụ được giải thưởng thi đua diệt dốt. Đầu năm 1950, nhiều tỉnh mở đại hội bình dân học vụ, quyết định phát động các chiến dịch diệt dốt với những hoạt động sôi nổi và phong phú. Ngành bình dân học vụ còn mở các lớp huấn luyện cho cán bộ xã, cho giáo viên miều xuôi và miền núi, giúp cho phong trào tiếp tục phát triển.

Đầu năm 1950, Liên khu ủy nêu rõ nhiệm vụ văn hóa, giáo dục:

- Hoàn thành diệt dốt và phát triển bổ túc, tiểu học bình dân ở Thanh - Nghệ - Tĩnh, tiến dần đến thanh toán nạn mù chữ.

- Các trường trung, đại học phải là nơi đào tạo cán bộ cho cơ quan và đoàn thể; huấn luyện quân sự ở nhà trường làm cho mỗi học sinh là một chiến sĩ dự bị sẵn sàng tung ra mặt trận.

- Văn nghệ phải hướng sự sáng tác chuyển sang tổng phản công, tuyên truyền địch vận, lập các đoàn kịch, ca nhạc xung phong vào mặt trận để động viên tinh thần của bộ đội.

Liên khu ủy đề ra Dự án năm 1950 xác định ở Bình - Trị - Thiên phát triển tiểu học và xây dựng cơ sở trung học phổ thông; ở Thanh - Nghệ - Tĩnh mở rộng bình dân bổ túc và tiểu học bình dân, phát triển trung, đại học; vận động học sinh các trường trong vùng địch chống giáo dục nô lệ. Hoạt động văn nghệ hướng vào việc hoàn thành chuẩn bị tổng phản công và chuyển sang tổng phản công; nêu cao vai trò công, nông, binh; hướng các sáng tác của văn nghệ sĩ vào hoạt động ở các mặt trận, cã xí nghiệp quốc phòng, đồng ruộng, tẩy sạch những dấu vết của văn hóa lãng mạn và nô dịch thực dân.

Hội nghị cán bộ Bình - Trị - Thiên (4-1950) xác định các nhiệm vụ: xây dựng nền giáo dục nhân dân, triệt để chống ảnh hưởng văn hóa của địch; hướng văn nghệ vào phụng sự công, nông, binh, gây lòng căm thù giặc và yêu nước trong nhân dân; tuyên truyền sâu rộng chính sách của Chính phủ và nhiệm vụ của toàn dân trong giai đoạn mới, tiến hành cải cách xã hội nhự gây phong trào đời sống mới, chống hủ tục mê tín, tệ nạn cờ bạc, rượu chè, phổ biến vệ sinh trong nông thôn như đào giếng, sửa sang đường, phát triển y tế nhân dân, đào tạo cán bộ y tế, cứu thương…

Về giáo dục phổ thông, năm 1948, toàn liên khu có 736 trường tiểu học với 2.300 lớp và 81.800 hoc sinh, 40 trường trung học với 18 lớp và 7.200 học sinh.

Ở các tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh, năm học 1947-1948 có 55.444 học sinh, 27 trường trung học và 5.000 học sinh. So với năm học trước, số học sinh tiểu học tăng gấp ba lần. Năm học 1948-1949 có 713 trường tiểu học (tăng 17%) với hơn 80.893 học sinh (tăng 31%), 40 trường trung học (tăng 21%) với 7.344 học sinh (tăng 52% so với năm học 1947-1948). Hầu hết các xã ở vùng đồng bằng, trung du có trường tiểu học. Trường trung học Đào Duy Từ (Thanh Hóa), Trường trung học Nguyễn Công Trứ (Nghệ An), Phan Đình Phùng (Hà Tĩnh) mở thêm các lớp để nhận thêm học sinh. Trường trung học bình dân được thành lập ở một số tỉnh có nhiệm vụ dạy bổ túc văn hóa các cán bộ đảng và một số giáo viên có uy tín trong tỉnh. Các tỉnh đều có trường trung học của tỉnh, ở khu có một trường đại học.

Giáo dục tiểu học ở Quảng Bình có bước tiến đáng kể. Vùng tự do đến năm 1949 có 68 trường với hơn 4.000 học sinh. Vùng căn cứ du kích tuy khó khăn về nhiều mặt nhưng vẫn có 16 trường duy trì việc dạy và học. Ở bậc trung học có trường Phan Bội Châu (Tuyên Hóa) và một trường ở chiến khu Quảng Ninh, với tổng số 185 học sinh.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Giêng, 2016, 09:06:20 pm
Hội nghị đại biểu liên khu (7-1949) xác định phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về mặt giáo dục, nhằm phương hướng chuẩn bị tổng phản công, đồng thời xây dựng nền tảng giáo dục dân chủ; mở rộng bình dân bổ túc, chấn chỉnh ngành tiểu học và thống nhất lãnh đạo, hướng dẫn mạnh trung học ở vùng an toàn, tổ chức trường thực nghiệm cung cấp cán bộ cho cuộc kháng chiến; phát triển bình dân học vụ trong vùng địch chiếm đóng; chuẩn bị kiến thiết toàn bộ ngành giáo dục và gây phong trào tẩy chay không học các trường của địch; tăng cường giáo dục ở vùng thượng du, bồi dưỡng giáo viên và đào tạo cán bộ giáo dục.

Thực hiện chủ trương cải tổ giáo dục của Hội đồng Giáo dục Trung ương, Liên khu ủy ra các chỉ thị Về việc lãnh đạo giáo dục(9-1950); Về việc cải tổ giáo dục(10-1950), nêu các nhiệm vụ: làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu rõ tầm quan trọng của cải cách giáo dục; tiếp tục cuộc vận động “Rèn cán chỉnh cơ”, rút kinh nghiệm và phổ biến trong toàn liên khu; chú ý giúp đỡ các lớp đào tạo giáo viên; có kế hoạch tổ chức lại các trường học; chuẩn bị tuyên truyền cho sự chuyển hướng quan trọng việc dạy, học theo lối mới; trong báo cáo thường kỳ các tỉnh phải có phần báo cáo về giáo dục.

Thực hiện cải cách giáo dục, các trường tư thục được giải thể để thành lập các trường dân dạy trên nguyên tắc “của dân, do dân, vì dân”, thể hiện rõ hơn tính nhân dân của nền giáo dục. Thực hiện nghị định về thành lập các trường sư phạm (sơ cấp, trung cấp, lớp sư phạm đặc biệt, lớp sư phạm miền núi) Trường Sư phạm sơ cấp Liên khu IV ra đời, đặt tại Thọ Xuân (Thanh Hóa). Trường Sự phạm cấp tốc miền núi của Thanh Hóa đặt tại Ngọc Lặc.

Mặc dù trong hoàn cảnh kháng chiến khó khăn, gian khổ, nhiều rường học ở các thị xã, thị trấn phải dời về nông thôn để tránh máy bay địch bắn phá, phải sử dụng cả đình, chùa làm lớp học; giấy bút, sách vở rất khan hiếm, nhưng nhân dân vẫn hăng hái học tập. Các kỳ thi tốt nghiệp hằng năm vẫn đảm bảo đều đặn, nghiêm túc và có chất lượng. Ngoài ra còn có các cuộc thi sư phạm thực hành, kỹ nghệ thực nghiệm, lớp huấn luyện giáo viên, trại hè tu nghiệp giáo viên.

Về đại học, ngay từ năm 1948, nhà nước đã mở một lớp toán học đại cương ở Nghệ An cho sinh viên theo học; một số trường chuyên môn như Trường Kỹ nghệ thực hành và Trường Canh nông. Ngoài ra còn có các trường của Khu III, của Trung ương dời vào, như Trường Y sĩ ở Nông Cống…

Ngành giáo dục liên khu đã tổ chức nhiều đợt ủng hộ vật chất, cử giáo viên xung phong vào Bình - Trị - Thiên và lên vùng cao; tham gia quyên góp, may áo rét cho bộ đội; tham gia dạy bổ túc văn hóa và tăng gia sản xuất. Bộ Tư lệnh liên khu cử cán bộ về các trường trung học tổ chức tập quân sự cho học sinh.

Phong trào xây dựng đời sống mới, vệ sinh phòng bệnh được nhân dân hưởng ứng nhiệt liệt. Nhân dân nhiều nơi góp tiền của xây dựng trường học, trạm y tế, nhà hộ sinh; tiến hành các cuộc vận động sửa giếng cũ, đào giếng mới, sửa sang nhà ở, đưa chuồng trâu, bò, hố xí ra xa nhà ở, phát quang bụi rậm để chống muỗi… Các trạm y tế xã phát triển, đảm bảo các yêu cầu vệ sinh phòng dịch và chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân. Các tệ nạn xã hội như hút thuốc phiện, nghiện rượu, cờ bạc và những hủ tục được xóa bỏ. Các trại cứu tế của tỉnh, huyện được thành lập đã thu dung, nuôi dưỡng người tàn tật hoặc già cả không nơi nương tựa.

Về văn hóa văn nghệ,Đại hội văn hóa, văn nghệ liên khu (6-1949) khẳng định văn hóa phải đứng trên lập trường dân tộc, dân chủ, làm cho các cấp lãnh đạo và các văn nghệ sĩ quán triệt hơn quan điểm của Đảng về xây dựng nền văn hóa kháng chiến theo ba phương châm được xác định tại Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ hai (1948): dân tộc hóa, khoa học hóa và đại chúng hóa, tích cực phục vụ kháng chiến, phục vụ công, nông, binh. Hội nghị đại biểu văn hóa và văn nghệ Liên khu IV lần thứ hai (7-1949) xác định “phương châm chính là lấy lực lượng nhân dân để xây dựng văn hóa và văn nghệ”, “địa hạt sáng tác và hoạt động, phát triển văn nghệ là ngoài tiền tuyến và trong nhân dân”. Những quan điểm này có tác dụng chỉ đạo quan trọng, làm cho phong trào văn hóa, văn nghệ trong liên khu có bước phát triển; ban văn nghệ được tổ chức ở nhiều nơi, nhiều văn nghệ sĩ hăng hái tham gia kháng chiến, trở thành những văn nghệ sĩ - chiến sĩ. Chi hội Văn nghệ Liên khu IV tập hợp nhiều gương mặt nổi danh như Đào Duy Anh, Đặng Thai Mai, Lưu Quý Kỳ, Trương Tử, Nguyễn Xuân Sanh… Phong trào văn nghệ quần chúng hình thành, sáng tác nhiều tác phẩm thơ, ca, kịch phản ánh cuộc kháng chiến và con người kháng chiến, động viên tinh thần kháng chiến của bộ đội và nhân dân. Theo Báo cáo Hội nghị Ban Chấp hành Liên khu IV tháng 7-1950 ngoài phong trào học tập rộng lớn trong dân chúng, trong cơ quan đoàn thể, các tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh đều đã thành lập các chi hội văn hóavà đã mở hội nghị văn hóa trong toàn tỉnh.

Tuy nhiên trong thời kỳ này, hoạt động văn hóa, văn nghệ kháng chiến còn nhiều hạn chế. Phương tiện xuất bản, ấn loát còn thiếu thốn, chưa có một tác phẩm văn học dài hơi nào được xuất bản trong liên khu.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Giêng, 2016, 09:06:42 pm
Về báo chí tuyên truyền, báo chí cách mạng được phát hành đều đặn góp phần thúc đẩy cuộc kháng chiến. Báo Cứu quốccủa Mặt trận Liên Việt Liên khu IV ra hằng ngày. Báo Sự thậtcủa cơ quan tuyên truyền kháng chiến của hội nghị nghiên cứu chủ nghĩa Mác phát hành từ năm 1947-1950. Các tờ nội san Học tậpTìm hiểucủa Đảng bộ liên khu làm chức năng giáo dục lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin và định hướng công tác xây dựng đảng, đấu tranh chống những tư tưởng sai lầm, lệch lạc. Tạp chí Sáng tạo(số 1 ra tháng 5-1948) phản ánh hoạt động sáng tác văn hóa, văn nghệ kháng chiến. Thép mới(ra số 1 ngày 10-10-1949) là cơ quan tuyên truyền, giới thiệu, phê bình và nghiên cứu của Chi hội văn nghệ liên khu. Bộ Chỉ huy lực lượng vũ trang liên khu xuất bản tập san Tiền tuyếndo tướng Nguyễn Sơn làm chủ nhiệm… Theo báo của của Liên Việt, Việt Minh liên khu, tháng 3-1950, nhật báo Cứu quốcmỗi ngày xuất bản hơn 4.000 tờ, tuần báo Giết giặcmỗi kỳ ra 15.000 tờ, báo Tiếng vangcủa tỉnh Quảng Trị mỗi tuần ra hai số. Các tờ Muôn dânTin nhanhmỗi tuần hai số, mỗi số trên 1.800 tờ. Các báo Toàn quốc kháng chiếncủa Hà Tĩnh, Truyền thanh kháng chiếncủa Nghệ An, Liên hiệp kháng chiếncủa Thanh Hóa, Thép mới của Chi hội Văn nghệ liên khu đều xuất bản mỗi kỳ trên 1.500 tờ. Đặc san đã ra được 63.250 bản. Ngoài ra còn ra được 31.400 tờ báo tay, nội san; 3.218.000 truyền đơn, khẩu hiệu; lập 12.620 chòi phát thanh; tổ chức 5.870 tối ca kịch.

Từ giữa năm 1950, công tác tuyên truyền tiếp tục được đẩy mạnh. Thực hiện Nghị quyết Hội nghị cán bộ tuyên truyền toàn quốc, ngày 17-7-1950, Ban tuyên truyền cổ động liên khu được thành lập. Ngày 23-1-1950, Liên khu ủy ra nghị quyết về việc thống nhất ban tuyên truyền đảng với thông tin, quyết định cải tổ Ban tuyên truyền cổ động, thành lập Ban tuyên truyền mới của Liên khu ủy gồm chín người do một khu ủy viên làm trưởng ban, trong đó Ban thường vụ gồm năm người, có nhiệm vụ giúp Liên khu ủy lãnh đạo công tác tuyên truyền trong và ngoài đảng, trong các bộ phận tuyên truyền bộ đội, thông tin, chi hội mácxít, văn nghệ, báo chí, mặt trận và đoàn thể. Ban tuyên truyền các tỉnh tổ chức lại theo hình thức ban tuyên truyền khu.

Về công tác bảo vệ các vùng tự do,giặc Pháp phải đối phó với hoạt động của quân, dân ta ngày càng lớn mạnh trên khắp các chiến trường và lo củng cố vùng đã chiếm đóng, ngày càng ít có khả năng đánh chiếm Thanh - Nghệ - Tĩnh. Trên mặt trận phía tây, địch tăng cường hoạt động nghi binh, củng cố các vị trí chiếm đóng trên biên giới Lào - Việt và ở một số nơi trong vùng thượng du Thanh - Nghệ, mở nhiều cuộc càn quét nhỏ ở vùng biên giới, tập kích bất ngờ vào nộ địa ta để cướp của, bắt người đưa sang Lào đi lính, bắt cóc cán bộ ta, liên lạc với bọn thổ ty, lang đạo phản động để chống phá cách mạng và kháng chiến. Ở miền xuôi, địch bao vây, kiểm soát mặt biển, tăng cường hoạt động gián điệp, tập kích nhiều lần vào một số vùng ven biển (nhiều nhất là ở Thanh Hóa) để trinh sát, nghi binh, ngăn trở giao thông tiếp tế bằng đường biển từ vùng tự do cho vùng bị tạm chiếm Bình - Trị - Thiên.

Để phá hoại nền kinh tế kháng chiến, gieo rắc hoang mang, sợ hãi trong nhân dân, từ đầu năm 1949, chúng cho máy bay đánh phá nhiều công trình quan trọng về thủy lợi (Bái Thượng, Bàn Thạch ở Thanh Hóa, Nam Đàn, Rú Quyết ở Nghệ An, Trung Lương ở Hà Tĩnh), các xưởng quốc phòng, các nhà máy công kỹ nghệ, các kho tàng, bệnh viện, gây cho ta nhiều thiệt hại; ném bom vào các thị trấn (Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Nam Đàn), vào các chợ phiên, làm chết hàng trăm người. Chỉ riêng trận ném bom Chợ Kiểu ở Yên Định (Thanh Hóa) ngày 19-5-1950, đã giết hại 400 người, làm bị thương 300 người; ở Chợ Quăng (Hoằng Hóa) chết 44 người, bị thương 17 người. Nửa đầu năm 1950, ở Cầu Bố - Mật Sơn và các vùng phụ cận Hàm Rồng, Nam Ngạn, Tân Hà, Cốc Hạ, Bào Nội, Đông Tác, Thọ Hạc, Quảng Thắng, Nấp, Voi đã có 28 vụ địch ném bom với 104 lần chiếc máy bay oanh tạc, làm chết 83 người, bị thương 51 người, cháy 298 nóc nhà, đắm 55 thuyền và canô, chết 19 trâu, bò.

Bọn phản động trong Thiên chúa giáo cũng tăng cường hoạt động, khôi phục tổ chức Quốc gia liên hiệp mưu biến Liên đoàn công giáothành tổ chức chống đối chính quyền cách mạng, khống chế không cho giáo dân tham gia kháng chiến, lôi kéo một số thanh niên công giáo trốn vào vùng địch kiểm soát ở Liên khu III để đi ngụy binh, chuẩn bị sẵn sàng tiếp tay cho quân Pháp.

Để đối phó với những thủ đoạn của kẻ thù, nhân dân liên khu hăng hái tham gia công tác bố phòng, cùng dân quân, bộ đội, công an tích cực bảo mật phòng gian, đẩy mạnh phong trào xây dựng “Làng chiến đấu Cự Nẫm” ở vùng xung yếu địch có thể đánh tới; phát triển hầm hào, phân tán chợ búa, phòng tránh địch ném bom tàn sát nhân dân, kịp thời hàn gắn thiệt hại do các cuộc ném bom của địch gây ra để bảo vệ, khôi phục và phát triển sản xuất; nâng cao ý thức cảnh giác, giữ gìn trật tự, trị an. Ở mặt trận miền tây, quân, dân ba tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh đã phối hợp chặt chẽ với liên quân Việt - Lào ở bên kia biên giới, tích cực hoạt động, diệt một số đồn địch ở biên biên giới và trong nội địa thượng du Thanh - Nghệ, giữ vững thế trận của ta, giữ vững biên giới phía tây.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Giêng, 2016, 09:07:08 pm
Trên mặt trận đấu tranh chính trị, Liên khu ủy hết sức coi trọng lãnh đạo, chỉ đạo việc trấn áp bọn phản động, gián điệp, bảo vệ nội bộ, bảo vệ sự nghiệp cách mạng và kháng chiến. Tháng 7-1949, bọn lang đạo phản động ở miền tây Thanh Hóa bị quét sạch; cha con Kỷ, Tín bị tống giam, cơ sở chiến khu thổ phỉ của chúng bị phá hủy, chấm dứt mối liên lạc giữa bị giữa bọn phản động và ở miền tây Thanh Hóa với bọn phản động ở miền tây Hòa Bình và tây Nghệ An; hoàn toàn phá tan âm mưu lập các xứ Mường, Thái, Nùng tự trị. Ta đã thiết lập chính quyền cách mạng, xây dựng các đoàn thể nhân dân, phát triển cuộc chiến tranh nhân dân ở miền tây.

Với khẩu hiệu “Tổ quốc trên hết, kháng chiến trên hết”, “Tất cả cho mặt trận Bình - Trị - Thiên, quân, dân Liên khu IV kiên cường chịu đựng gian khổ, hy sinh, dốc sức chi viện cho tiền tuyến, bảo đảm cung cấp ngày càng nhiều nhân tài, vật lực cho kháng chiến.

Phong trào tham gia các lực lượng vũ trang nôi cuốn mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi. Các tỉnh đều tổ chức và huấn luyện dân quân, du kích từng làng. Làng nào, xã nào cũng có dân quân, du kích. Những nơi gần địch còn có cả du kích bí mật.

Hưởng ứng phong trào thi đua ái quốc, ngày 10-7-1948, Ban vận động thi đua ái quốc liên khu và các tỉnh được thành lập. Các tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh ký giao ước thi đua. Sau một tháng phát động phong trào “Một tháng tham gia dân quân” với khẩu hiệu “Mỗi người dân là một người lính”, số lượng dân quân tăng hơn hai lần, từ 166.460 lên 387.500 người, trong đó có 43.380 lão dân quân và 76.200 nữ dân quân.

Thanh niên Thanh - Nghệ - Tĩnh nhiệt liệt hưởng ứng cuộc vận động thi đua tòng quân do liên khu phát động, từ tháng 8 đến cuối tháng 10-1949 đã có 186.917 người ghi tên tòng quân, trong đó 5.000 học sinh trung học, 150 sinh viên, 2.500 công chức, cán bộ, 1.000 thanh niên công giáo.

Trước yêu cầu mới của kháng chiến, ngày 12-2-1950, Hồ Chủ tịch ký Sắc lệnh số 20-SLtổng động viên nhân lực, vật lực, tài lực của toàn dân phục vụ kháng chiến.

Hội nghị cán bộ Thanh - Nghệ - Tĩnh (3-1950) và Hội nghị cán bộ Bình - Trị - Thiên (4-1950) đều bàn kế hoạch thực hiện nhiệm vụ tổng động viên.

Tính đến cuối tháng 10-1950, toàn liên khu có gần 200.000 người ghi tên tòng quân. Nghệ An, Hà Tĩnh có 120.000 người. Riêng xã Hồng Yên (Can Lộc) có 1.112 người, 295 học sinh chuyên khoa trường Trung học Phan Đình Phùng (trong đó có 13 nữ sinh) đều ghi tên tòng quân, liên khu đã động viên bốn khóa tân binh, huấn luyện 36.120 người, bổ sung cho Đại đoàn 304 là 5.000 người, cho Bắc Lào 500 người, ra Việt Bắc 4.000 người, tuyển cho Bộ Quốc phòng và Trường Lục quân 6.000 học sinh, 6 đại đội bộ đội địa phương được điều ra Việt Bắc làm nhiệm vụ tiếp tế.

Phong trào đi dân công phục vụ các chiến trường:Đi đôi với đà phát triển ngày càng lớn mạnh các hoạt động quân sự trên chiến trường chính, chiến trường Bình - Trị - Thiên và chiến trường Đông Lào, nhiệm vụ phục vụ tiền tuyến của hậu phương ngày càng tăng. Năm 1950, liên khu đã huy động ở Thanh - Nghệ - Tĩnh năm đợt dân công hỏa tuyến với gần 50 vạn người để xây dựng kho tàng, tu sửa đường sá và vận chuyển tiếp tế cho các mặt trận. Có những vùng, nhân lực trẻ khỏe trong các gia đình đã đóng góp 60% đến 70% ngày công trong một năm. Không ít gia đình cùng lúc có hai đến ba người đi dân công hỏa tuyến.

Tuy nhiên, do nhân thức đơn giản một chiều và do tư tưởng chủ quan nóng vội, một số cán bộ đã phạm sai làm trong việc thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ về việc động viên sức người, ảnh hưởng tới sản xuất và dự trữ lực lượng để xây dựng hậu phương; cách làm còn thiếu dân chủ, dùng biện pháp hành chính mệnh lệnh theo nguyên tắc “cưỡng bách và vận động”, gò ép nhân dân.

Những thiếu sót trên đã phần nào gây nên tình hình căng thẳng ở vùng nông thôn, làm ảnh hưởng đến chính sách đại đoàn kết của Đảng.

Về vật lực, tài lực,cuối tháng 7-1948, Liên khu ủy phát động “Tuần lễ ủng hộ Bình - Trị - Thiên”. Nhân dân Thanh - Nghệ - Tĩnh đã đóng góp vào chuyển vào Bình Trị Thiên 458 tấn thóc, 550 tấn gạo, 30 tấn ngô, 500 tấn muối, 48.5333 m vải và hàng vạn viên thuốc chữa bệnh. Ngay tại địa phương nhân dân hăng hái giúp đỡ dân quân, du kích và bộ đội về ăn mặc, tiền bạc, mua sắm thêm vũ khí và về các phương tiện sản xuất tự túc.

Phong trào đỡ đầu dân quân và bộ đội địa phương diễn ra khắp ba tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, mở đầu từ xã Ốc Khê (Can Lộc) rồi lan nhanh ra toàn huyện, toàn tỉnh Hà Tĩnh, ra Nghệ An, Thanh Hóa và vào cả Bình - Trị - Thiên. Trong phong trào này, nhân dân Thanh - Nghệ - Tĩnh đã ủng hộ dân quân và bộ đội địa phương nhiều thóc gạo, áo quần, tiền bạc, hiến cho dân quân 31.000 ha ruộng đất, một số trâu, bò, nông cụ để cày cấy tự túc. Các lực lượng vũ trang đã nhận 15.000 ha để thành lập các trại sản xuất. Các đơn vị dân quân, du kích xã, bộ đội địa phương, bộ đội chủ lực đều có trại tăng gia sản xuất. Đây là một phong trào tự giác, rộng lớn của mọi tầng lớp nhân dân; lãnh đạo có nhiều hình thức động viên phong phú, phát huy được tinh thần thi đua yêu nước sôi nổi và tinh thần thương yêu các lực lượng vũ trang - con em ruột thịt của mình - của nhân dân, của dân tộc.

Năm 1950, liên khu cung cấp cho chiến dịch Lê Lợi và chiến dịch Hữu Ngạn 5.000 tấn lúa, góp quỹ công lương 8.500 tấn, quỹ khao quân 11.000 tấn, thuế điền thổ 14.500 tấn, nuôi 36.000 tân binh, 3.000 cán bộ, chiến sĩ thương binh Bình - Trị - Thiên trong tháng, tiếp nhận ba vạn nhân dân Hà - Nam - Ninh sơ tán vào, một số cán bộ và nhân dân Lào, giao cho bộ đội địa phương và dân quân du kích 41.000 ha ruộng để cày cấy tự túc.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Giêng, 2016, 09:08:30 pm
Trong tuần lễ quyên góp kim khí cho quân giới, nhân dân Nghệ An, Hà Tĩnh thu được 44 tấn kim loại. Riêng ở tỉnh Hà Tĩnh đã quyên góp được 57 đôi hoa tai, một đôi xuyến vàng, 242 đồng bạc trắng, hàng trăm quan tiền đồng, nhiều dụng cụ gia đình như: sanh, chảo, mâm, chậu, nồi và đồ thờ như lư hương, độc bình bằng đồng.

Trong “Tuần lễ ủng hộ Bình - Trị - Thiên” (7-1948), nhân dân Thanh - Nghệ - Tĩnh đã quyên góp được 1.875.000 đồng. Công nhân tích cực tham gia phong trào “Giờ làm cứu quốc” lấy tiền thu được từ 1.072.000 giờ làm thêm góp vào “Quỹ kháng chiến” ủng hộ Bình - Trị - Thiên.

Năm 1950, nhân dân toàn liên khu đã mua hơn 80 triệu đồng công phiếu kháng chiến, đóng 30 triệu đồng vào “quỹ kháng chiến”, hơn 30 triệu đồng thuế điền thổ. Riêng các tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh đã huy động 39.000 tấn lương thực và 140 triệu đồng. Riêng đồng bào khu phố đặc biệt Cầu Bố đã ủng hộ bộ đội địa phương hơn chín tấn thóc, 307.724 đồng, đóng quỹ đảm phụ quốc phòng 511 kg lúa và 200 đồng; bán gần 20 tấn thóc cho Hồ Chủ tịch khao quân, mua công trái quốc gia được gần 21 tấn thóc và 455.080 đồng.

Vượt qua muôn vàn khó khăn thử thách, trong năm 1950, nhân dân Thừa Thiên đã đóng góp được 474 tấn lúa, 13 triệu đồng và 15.000 dân công phục vụ kháng chiến, tạm cấp 5.778 mẫu ruộng đất cho nông dân nghèo. Nhân dân Quảng Trị góp quỹ kháng chiến 5,5 triệu đồng, quỹ công lương 312 tấn lúa, thuế điền thổ 130 tấn…

Kết quả động viên trên đây đã làm cho liên khu đáp ứng được các yêu cầu phục vụ tiền tuyến và cung cấp cho quân đội. Tuy vậy, do nhận thức đơn giản cho rằng ngày kháng chiến thắng lợi sắp đến, các cấp và cán bộ chú trọng nhiều hơn tới mặt động viên mà không chú ý đúng mức tới mặt bồi dưỡng sức dân để kháng chiến lâu dài. Mặt khác, mức động viên tăng lên nhanh một cách đột ngột làm cho nhân dân vốn quen đóng góp không nhiều từ Cách mạng Tháng Tám 1945 không tránh khỏi bỡ ngỡ. Đáng lẽ, trong tình hình đó, công tác động viên chính trị càng phải được tăng cường, nhưng cách làm lại thiếu dân chủ, dùng biện pháp mệnh lệnh hành chính nhiều hơn là tuyên truyền, vận động, giáo dục, thuyết phục nhân dân, thậm chí có những trường hợp dùng hình thức thô bạo cưỡng bức nhân dân, động viên các tầng lớp nông dân nghèo đóng góp quá mức, vận động cả bần, trung nông hiến ruộng (ở Thanh - Nghệ - Tĩnh), động viên cả chiêng ché, đồ thờ thiêng liêng của đồng bào dân tộc (ở Quảng Trị). Những khuyết điểm, sai lầm này đã gây ảnh hưởng không tốt tới việc phát huy tinh thần phấn khởi đoàn kết kháng chiến của các tầng lớp nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng, Liên khu ủy Liên khu IV đã nhiệt liệt biểu dương nhiệt tình yêu nước, các hình thức vận động quần chúng phong phú, sáng tạo của các địa phương, đồng thời nghiêm khắc chỉ rõ những khuyết điểm, sai lầm và đề ra các biện pháp tích cực sửa chữa khuyết điểm, sử dụng hợp lý các thứ nhân dân ủng hộ, tránh lãng phí, tham ô.

Tháng 7-1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh có thư gửi đồng bào Liên khu IV. Bức thư viết:

“Từ ngày kháng chiến đến nay, đồng bào mọi nơi đã cố gắng và đang cố gắng làm tròn nhiệm vụ người công dân với Tổ quốc.

Phần đông cán bộ thì tận tụy, biết gần gũi dân, đoàn kết dân, học hỏi dân, và lãnh đạo dân thi đua làm mọi công việc kháng chiến.

Nhưng tiếc rằng ở một vài nơi, cán bộ làm sai chỉ thị của Chính phủ và đường lối của Đoàn thể. Họ xa rời nhân dân không hiểu biết nhân dân. Làm việc thì chỉ dùng mệnh lệnh, chứ không biết tuyên truyền cổ động, giải thích cho mọi đồng bào hiểu rõ và vui vẻ xung phong làm. Thậm chí họ dùng những cách ép uổng, cưỡng bức, bắt bớ dân”.

Người nhấn mạnh; “Nước ta là một nước dân chủ. Mọi công việc đều vì lợi ích của dân mà làm. Khắp nơi có đoàn thể nhân dân, như Hội đồng nhân dân, Mặt trận, Công đoàn, Hội nông dân cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, v.v. Những đoàn thể ấy là tổ chức của nhân dân, phấn đấu cho dân, bênh vực quyền của dân…”.

“Tôi mong rằng: từ nay các cán bộ đều biết phê bình và tự phê bình, đều cố gắng sửa đổi lối làm việc theo đúng đường lối của Chính phủ và Đoàn thể”(1).

Trung ương Đảng ra chỉ thị cho các cấp ở Liên khu IV phải tự phê bình, sửa chữa khuyết điểm, sai lầm.

Các cấp từ liên khu tới cơ sở ở Thanh - Nghệ - Tĩnh đã tiến hành tự phê bình, phê bình và tích cực sửa chữa những khuyết điểm. Nhờ đó đoàn kết nội bộ, đoàn kết giữa nhân dân với cán bộ được giữ vững. Nhân dân yên tâm, phấn khởi tham gia kháng chiến.

Hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh còn là nơi đứng chân của nhiều cơ quan và là địa bàn tản cư của nhân dân các vùng lân cận. Đầu năm 1950, chiến sự lan rộng ở Bắc Bộ, nhất là vùng đồng bằng. 20 vạn người và 150 cơ quan cấp liên khu và các tỉnh thuộc Liên khu III tản cư vào Liên khu IV, chủ yếu là Thanh Hóa, trên địa bàn bốn huyện phía bắc là Cẩm Thủy, Thạch Thành, Vĩnh Lộc và Yên Định, ngoài ra còn ở một phần các huyện Thọ Xuân, Thiệu Hóa. Các thị trấn Phố Giàng (Vĩnh Lộc), Kim Tân (Thạch Thành), Kiểu (Yên Định), Cầu Cừ (Hà Trung)… thêm đông đúc, giả cả sinh hoạt tăng cao. Nhân dân các tỉnh hậu phương đã tạo điều kiện giúp dân tản cư từng bước khắc phục khó khăn, ổn định nơi ăn, chốn ở.


(1) Hồ Chí Minh; Toàn tập xuất bản lần thứ hai, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.6, tr.65, 66.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Giêng, 2016, 09:08:58 pm
Cùng với việc chiến tranh xâm lược Việt Nam thực dân Pháp tăng cường bình định, mở rộng vùng chiếm đóng Lào, dùng Đông Lào làm bàn đạp để tiến công vào Liên khu IV từ phía tây.

Tại Trung Lào (gồm hai tiểu khu Xavanakhét và Thàkhẹc), lực lượng địch có 2.000 quân, trong đó có 200 tên Pháp, đặt chỉ huy sở tại Xavanakhét.

Liên khu IV được Trung ương giao giúp đỡ cách mạng Đông Lào, gồm các tỉnh Sầm Nưa, Xiêng Khoảng, Khăm Muộn, Hủa Phăn, Xavanakhét.

Chỉ thị của Bộ Tổng chỉ huy (3-1948) xác định phương châm, phương thức hoạt động cho các đơn vị bộ đội tình nguyện Việt Nam ở Lào và Miên, giao nhiệm vụ cho Liên khu IV tích cực giúp đỡ kháng chiến của nhân dân Lào, cùng với bạn xây dựng và phát triển cơ sở, củng cố hành lang Mường Mô - Xiêng Khoảng - Pắc Xan - Xaravan và phát triển từ đường số 9 - Sêpôn - Xiêng Khoảng xuống Xaravan.

Bộ đội Liên khu IV cùng lực lượng vũ trang Lào trở lại hoạt động ở Đông Lào từ năm 1948, trên các trục đường 8, 9, 12. Đại đội Tây Tiến hoạt động ở vùng Tà Ôi. Theo yêu cầu của bạn, tháng 7-1948, Bộ Chỉ huy Phân khu Bình - Trị - Thiên giải thể Tiểu đoàn 301, tổ chức thành Đại đội công tác số 55 sang hoạt động ở đường số 9, phối hợp với một bộ phận lực lượng vũ trang Lào từ Sầm Nưa về đứng chân ở Bulapha. Các đội dân vận ở Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị cũng lần lượt sang hoạt động ở Lào.

Tại Xavanakhét, bộ đội ta tổ chức thành các đội vũ trang tuyên truyền, cùng với lực lượng vũ trang cách mạng Lào thực hiện bám bản, bám dân, từng bước gây dựng và phát triển phong trào quần chúng, tổ chức dân quân, du kích.

Giữa năm 1948, thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, Liên khu IV tổ chức lực lượng trinh sát tìm đường và bảo vệ con đường liên lạc quốc tế Việt - Thái. Đây là con đường ngắn nhất từ Việt Nam qua Lào sang Thái Lan. Trong bối cảnh cuộc kháng chiến của ta nằm trong tình thế bị bao vây cô lập (1945-1950) thì đây là con đường giữ vị trí cửa ngõ chủ yếu cho hầu hết các đoàn cán bộ cấp cao của Việt Nam đi ra nước ngoài và các đoàn khách quốc tế vào Việt Nam. Đã có tới hơn 30 đoàn cán bộ cao cấp của ta và quốc tế qua đây và được bảo vệ an toàn.

Để tăng cường công tác chỉ đạo giúp đỡ và phối hợp với bạn, giữa năm 1948, Liên khu ủy thành lập Lâm thời đặc biệt bộ Ai Lao, gồm bốn chi bộ ở miền tây Thanh Hóa, Mường Mô, Napê và chi bộ của Phòng biên chính. Tháng 9-1948, Thường vụ Liên khu ủy ra quyết định thành lập Liên chi 4 trực thuộc Liên khu ủy do liên khu ủy viên Đào Việt Hưng làm bí thư.

Tháng 10-1948, Đại đội 55 đánh trận đầu tiên ở Xa Muội, diệt một trung đội địch, thu toàn bộ vũ khí, rồi tiếp tục phối hợp với bộ đội Lào tập kích tiêu diệt đồn Mường Noòng, giải phóng hai huyện Tà Ôi và Mường Noòng. Ngày 22-11-1948, Đội vũ trang tuyên truyền Lào do Thao Bun chỉ huy đột nhập thôn Tha Thom (Xiêng Khoảng) cướp chín khẩu súng trường.

Tính đến cuối năm 1948, liên quân Việt - Lào đã đánh 19 trận, gây được uy tín chính trị trong nhân dân Đông Lào. Tháng 11-1948, Khamphê Phan, đại diện Ítxala đến Con Cuông (Nghệ An) để tổ chức cơ quan Đông lào. Phòng đại diện Đông Lào được thành lập bên cạnh phòng Biên chính Liên khu IV. Ủy ban kháng chiến hành chính liên khu giúp đỡ Ủy ban kháng chiến Đông Lào về mọi mặt, nhất là về tài chính, tạo điều kiện thuận lợi cho sự thành lập Ủy ban kháng chiến hành chính Đông Lào (1-12-1948) do Thaonưhắc làm Chủ tịch, Thacô làm Phó Chủ tịch, Thaobula làm ủy viên quân sự, Singapo làm ủy viên chính trị.

Ngày 20-1-1949, tại xã Mường Hùng (Xiềng Khọ, Sầm Nưa), Quân đội Ítxala được Cayxỏn Phômvihản tuyên bố thành lập. Đây là sự kiện trọng đại đánh dấu bước phát triển mới trong cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Lào.

Giữa tháng 2-1949, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương mở Hội nghị cán bộ Lào - Miên, xác định rõ nhiệm vụ cần kíp của cách mạng Lào, Miên trước mắt là xây dựng căn cứ địa, tổ chức quần chúng, xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng chính quyền ở căn cứ địa.

Thực hiện chủ trương trên, ngày 26-2-1949, Liên khu ủy quyết nghị về công tác giúp bạn ở Trung Lào mở rộng mặt trận Trung Lào, hướng chính là đường số 9; xây dựng căn cứ địa đẩy mạnh công tác vũ trang tuyên truyền; thi hành “đại đội độc lập”; giúp bạn và cùng bạn phát triển dân quân lấy bản làm cơ sở, xây dựng bộ độ địa phương, lấy huyện làm cơ sở, đào tạo cán bộ người Lào. Đại hội đại biểu lần thứ hai Đảng bộ Liên khu (7-1949) chủ trương mở rộng mặt trận Đông Lào, đẩy mạnh phối hợp, giúp đỡ cách mạng Đông Lào. Ngày 1-8-1949, Liên khu ủy quyết định thành lập Ban cán sự Trung Lào gồm bảy người do Nguyễn Minh Châu làm trưởng ban, nhằm giúp Liên khu ủy chỉ đạo bộ đội tình nguyện Việt Nam ở Trung Lào và chỉ đạo công tác giúp bạn hiệu quả hơn.

Ban cán sự Đông Lào được củng cố và đổi thành Ban vận động cách mạng Đông Lào do liên khu ủy viên Đặng Việt Châu làm trưởng ban.

Tháng 9-1949, thực hiện nghị quyết của Ban cán sự Trung ương hải ngoại và Hội nghị toàn Lào, khu Trung Lào được thành lập. Trung ương giao cho Liên khu IV giúp đỡ cách mạng Trung Lào.

Sự ra đời của Mặt trận Bình - Trị - Thiên – Trung Lào tháng 10-1949 không chỉ là kết quả của một quá trình vận động phát triển về tổ chức chỉ huy và tổ chức chiến trường nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của phong trào kháng chiến và sự trưởng thành của lực lượng chủ lực hoạt động ở địa phương, mà còn là yêu cầu của sự liên minh chiến đấu Việt - Lào ở miền trung Đông Dương. Ban vận động cách mạng Đông Lào được đổi thành Ban cán sự Trung Lào do liên khu ủy viên làm trưởng ban.

Tháng 12-1949, Tiểu đoàn 364 được Bộ Chỉ huy Phân khu Bình - Trị - Thiên đều sang hoạt động phối hợp với bộ đội Lào, lập hai căn cứ ở hai huyện Tà Ôi và Mường Noòng. Ủy ban kháng chiến hành chính cấp huyện và 15 xã cùng các tổ chức quần chúng thuộc hai huyện này được thành lập.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Giêng, 2016, 09:09:25 pm
Bước sang năm 1950, Trung ương chủ trương tiến hành phản công địch trên khắp chiến trường Đông Dương, đẩy mạnh cuộc kháng chiến và xúc tiến xây dựng Cương lĩnh chính trị của cách mạng Lào thành lập Chính phủ kháng chiến Lào. Thực hiện chủ trương này, tháng 2-1950, Liên khu ủy ra nghị quyết chuyên đề về việc giúp đỡ cách mạng Trung Lào, xây dựng căn cứ địa, đẩy mạnh công tác vũ trang tuyên truyền, chuẩn bị chiến trường cho chủ lực ta sang hoạt động, đào tạo cán bộ và phát triển đảng trong quần chúng người Lào.

Bộ đội tình nguyện liên khu phối hợp với lực lượng vũ trang Lào hoạt động mạnh ở Trung Lào, giúp Xiêng Khoảng xây dựng vùng căn cứ địa rộng gần 300 km2, đánh chiếm Xiềng Khọ, tổ chức được một tiểu đoàn người Lào, tiến công địch ở Xanggang, cầu Khămhe và trên sông Nậm Thì. Tháng 1-1950, ở Trung Lào có sáu chi bộ đảng với 250 đảng viên chưa có đảng viên người Lào, đến tháng 7-1950 đã có 19 chi bộ với 634 đảng viên, trong đó có 15 đảng viên người Lào. Liên khu đưa Tiểu đoàn 364 sang hoạt động ở Trung Lào. Ngày 19-5-1950, liên khu quyết định thành lập Trung đoàn 120 quân tình nguyện Việt Nam tại Trung Lào, thành lập Trường Quân chính đào tạo cán bộ quân sự cho Trung Lào. Trung đoàn 120 là trung đoàn chủ lực đầu tiên của Liên khu IV ở Trung Lào, Thường vụ Liên khu ủy cũng điều động thêm một số cán bộ sang Trung Lào giúp bạn.

Sau một thời gian phối hợp hoạt động, bốn vùng căn cứ rộng lớn gồm 600 bản với 30.000 dân dọc biên giới Lào - Việt được xây dựng và củng cố, có chính quyền cách mạng, bộ đội địa phương và dân quân du kích.

Ngày 20-11-1950, Hội nghị cán bộ mặt trận Trung Lào lần thứ nhất do Liên khu ủy triệu tập nhiệt liệt biểu dương thành tích của bộ đội, cán bộ ta ở Trung Lào: đã mạnh dạn xây dựng và phát triển cơ sở kháng chiến, góp phần cùng bạn củng cố được các tổ chức Ítxala; xây dựng được các đội vũ trang công tác chính trị và trung đoàn Trung Lào; đánh được nhiều trận, buộc địch bỏ 10 vị trí, gây ảnh hưởng rộng rãi trong nhân dân Lào. Hội nghị đề ra nhiệm vụ tiếp theo ở Lào là: cùng với bạn tích cực phát triển chiến tranh nhân dân xuống đồng bằng ở các vùng xung yếu ở Trung Lào với khẩu hiệu “Tiến về đồng bằng”.

Trong ba năm từ 1948-1950, quân, dân Liên khu IV đã tiến một bước dài trên con đường kháng chiến trường kỳ, gian khổ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đồng bào và chiến sĩ Liên khu IV đã vượt qua muôn vàn khó khăn thử thách, ra sức phát triển lực lượng về mọi mặt, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân, xây dựng hậu phương, ngày càng trưởng thành trên cả hai phương diện kháng chiến và kiến quốc. Mặc dù địch ra sức càn quét bình định các vùng chúng chiếm đóng, đánh thọc sâu vào các vùng căn cứ kháng chiến của ta, lập tề, giành dân, bắt lính, vơ vét của cải của nhân dân, song quân và dân Bình - Trị - Thiên đã vượt qua mọi hy sinh tổn thất, anh dũng và kiên cường đẩy mạnh cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, từng bước làm thay đổi so sánh lực lượng trên chiến trường, từng bước làm thất bại âm mưu “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt” của thực dân Pháp.

Có lực lượng vũ trang ba thứ quân làm nòng cốt, Bình - Trị - Thiên trở thành một chiến trường chiến tranh nhân dân, chiến tranh du kích sôi động, ngày càng phát triển, giữ vững các chiến khu miền núi, xây dựng căn cứ du kích ở đồng bằng, từng bước thu hẹp phạm vi kiểm soát của địch, từng bước tạo nên những thay đổi có lợi cho ta trong so sánh lực lượng trên từng vùng rộng lớn. Mặc dù phải ứng phó với những âm mưu, thủ đoạn mới của địch và hậu quả nặng nề của thiên tai, dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, Liên khu ủy, các đảng bộ và quân, dân Binh - Trị - Thiên đã đẩy mạnh phong trào chiến tranh nhân dân, buộc địch phải củng cố vùng tạm chiếm đô thị và đồng bằng. Một nét đáng chú ý của chiến tranh nhân dân ở Bình - Trị - Thiên là đã biết vận dụng nhiều hình thức tiến công địch, phối họp tác chiến với binh vận, địch vận, nội ứng, dùng hàng binh Âu - Phi trong chiến đấu (trận Cầu Nhì, trận Đông Hà), tiêu diệt được một bộ phận sinh lực địch và phương tiện chiến tranh của chúng; phá vỡ hệ thống tề ngụy ở cơ sở, giữ vững vùng tự do và căn cứ sau lưng địch; phối hợp với chiến trường chính Bắc Bộ, buộc địch phải phân tán lực lượng, làm giảm mức độ tập trung binh lực của chúng trên chiến trường trọng điểm. Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích, chính quyền cách mạng, tổ chức đảng ngày càng tôi luyện và trưởng thành. Trình độ lãnh đạo, tổ chức, chỉ huy chiến tranh của các cấp lãnh tạo và cán bộ có bước tiến đáng kể.

Thanh - Nghệ - Tĩnh - vùng tự do, hậu phương chiến lược của liên khu và cả nước, phát huy cao độ truyền thống đấu tranh kiên cường, bất khuất và tinh thần lao động cần cù, sáng tạo, tiến hành đấu tranh gay go, gian khổ, chống chính sách phá hoại kinh tế của địch, hắc phục tiên tai, ra sức xây dựng vững mạnh về mọi mặt: chính trị, quân sự, kinh tế, xã hội; làm thất bại âm mưu của thực dân Pháp trong việc chiếm miền tây Thanh Hóa, Nghệ An; bẻ gãy các mũi tiến công của địch từ phía nam ra, Lào tới, Bắc vào; làm thất bại những thủ đoạn lôi kéo, chia rẽ sắc tộc, lương giáo, hòng quấy phá, gây bạo loạn của kẻ thù, bảo vệ vững chắc hậu phương; ra sức chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến, góp phần rất quan trọng vào việc giữ vững và phát triển chiến tranh nhân dân ở Bình - Trị - Thiên, xây dựng bộ đội chủ lực của cả nước và làm nghĩa vụ quốc tế, đây là một thắng lợi lớn của quân, dân Liên khu IV, của cuộc kháng chiến trong cả nước.

Mặt trận Trung Lào cũng có những chuyển biến mới. Lực lượng ta và bạn đều phát triển, tạo ra những điều kiện thuận lợi mới để phát triển cuộc chiến tranh nhân dân xuống đồng bằng. Căn cứ cách mạng và kháng chiến ở Đông Lào được mở rộng, tạo thế liên hoàn với cuộc kháng chiến của quân dân Liên khu IV.

Tuy vận, trong lãnh đạo và chỉ đạo, Liên khu ủy, Đảng bộ liên khu, các cấp chính quyền và các cấp chỉ huy quân sự đã phạm một số khuyết điểm, sai lầm trong công tác tổng động viên, chỉ đạo xây dựng lực lượng bộ đội và tác chiến, làm ảnh hưởng đến đà phát triển của cuộc chiến tranh nhân dân ở địa phương, như đã mở những chiến dịch lớn chưa phù hợp trên chiến trường Bình - Trị - Thiên. Thực hiện chỉ thị của Hồ Chủ tịch và Trung ương Đảng, Liên khu ủy đã chỉ đạo các cấp, các ngành sửa chữa khuyết điểm, ổn định tình hình, đưa cuộc kháng chiến trong toàn liên khu tiến lên theo bước chuyển mạnh sang tổng phản công của cuộc kháng chiến toàn quốc.

Những thắng lợi trên đây đánh dấu bước trưởng thành mới của Đảng bộ và nhân dân liên khu trong sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc, trong lãnh đạo, chỉ đạo chiến tranh và xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, tạo ra thế và lực mới để tiếp tục tiến lên giành thắng lợi to lớn và toàn diện trong giai đoạn phát triển thế chủ động tiến công chiến lược tiếp theo.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Hai, 2016, 08:04:56 pm
Chương 4

GIỮ VỮNG THẾ CHỦ ĐỘNG CHỐNG ĐỊCH BÌNH ĐỊNH LẤN CHIẾM,
TIẾP TỤC PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG KHÁNG CHIẾN
(1951 - 1953)
   
I. ĐẤU TRANH KHÔI PHỤC CƠ SỞ VÙNG TẠM BỊ CHIẾM
CHỐNG BÌNH ĐỊNH LẤN CHIẾM

Sau chiến thắng Biên giới thu - đông 1950, trên bình diện cả nước, cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam đã có bước chuyển biến quan trọng. Phong trào kháng chiến chuyển sang thế chủ động phản công - tiến công địch trên khắp các chiến trường. Về mặt đối ngoại, với thắng lợi quân sự quan trọng nói trên, cách mạng Việt Nam đã phá được thế bị bao vây, hậu phương của cuộc kháng chiến được mở rộng, nối liền từ căn cứ Việt Bắc tới các chiến trường khác ở Bắc Bộ, Trung Bộ, nối liền với Trung Quốc, Liên Xô và các nước dân chủ nhân dân. Cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam chống xâm lược ngày càng có ảnh hưởng trên trường quốc tế. Liên Xô, Trung Quốc và các nước dân chủ nhân dân đã chính thức đặt quan hệ ngoại giao, giúp đỡ về vật chất, tinh thần ủng hộ sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam.

Thất bại nặng nề về quân sự của thực dân Pháp ở chiến trường Đông Dương còn là tiếng chuông cảnh tỉnh chính giới Pháp và làm dấy lên phong trào nhân dân Pháp và các dân tộc bị áp bức đấu tranh phản đối cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương và ở nhiều nước thuộc địa của Pháp.

Tại Việt Nam, chính quyền Bảo Đại do Pháp dựng lên với sự viện trợ của Mỹ ngày càng bị lên án. Nếu sau chiến thắng Việt Bắc thu - đông năm 1947, Mỹ cho rằng Pháp khó có thể thắng được thì sau chiến dịch Biên Giới, Mỹ khẳng định: Pháp không thể giành được thắng lợi trong cuộc chiến tranh Đông Dương. Ngày 7-9-1951, Mỹ đã ký kết thẳng với chính quyền Bảo Đại về viện trợ kinh tế, quân sự để nắm lấy lực lượng này một cách chặt chẽ hơn. Hoạt động can thiệp của đế quốc Mỹ trong cuộc chiến tranh Đông Dương đã vấp phải làn sóng đấu tranh quyết liệt của các tầng lớp nhân dân Việt Nam. Cộng thêm với thất bại ở mặt trận Biên Giới càng làm cho giới cầm quyền Pháp nhận thấy rằng: khó có thể giành thắng lợi bằng quân sự. Do đó, sự lệ thuộc của thực dân Pháp vào viện trợ của Mỹ ngày càng tăng lên và đó là cơ hội để Mỹ đẩy mạnh các hoạt động chi phối cuộc chiến tranh xâm lược ở Đông Dương theo ý đồ của mình.

Với tiền bạc và phương tiện kỹ thuật của Mỹ, thực dân Pháp chủ trương xây dựng hệ thống phòng thủ kiên cố tại vùng chúng kiểm soát gọi là tuyến phòng thủ Đờ Lát. Đó là hệ thống những lô cốt, tháp canh được bố phòng ở vùng đồng bằng do Cao ủy kiêm Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương Đờ Lát đờ Tátxinhi trực tiếp chỉ đạo thực hiện. Kế hoạch lập tuyến phòng thủ kiên cố của Đờ Lát đã tăng thêm khó khăn rất lớn đối với lực lượng vũ trang cách mạng.

Từ đây, cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam bước vào một thời kỳ mới đầy gian nan thử thách. Quân và dân Việt Nam không chỉ chống lại hành động xâm lược ngoan cố, xảo quyệt của quân đội viễn chinh Pháp mà còn chống lại sự can thiệp một cách trắng trợn của đế quốc Mỹ và sự cấu kết chặt chẽ với các thế lực tay sai phản động được Pháp và Mỹ hậu thuẫn.

Trong bối cảnh trên, đặc biệt là do yêu cầu phát triển của cuộc kháng chiến, cần phải bổ sung hoàn chỉnh đường lối cách mạng giải phóng dân tộc để phát triển toàn diện cuộc kháng chiến tới thắng lợi, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng được triệu tập. Đại hội được tiến hành từ ngày 11-2 đến ngày 19-2-1951 tại xã Vinh Quang, huyện Chiên Hóa, tỉnh Tuyên Quang.

Tại Đại hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc Báo cáo chính trị tổng kết những chặng đường đấu tranh cách mạng vẻ vang và những kinh nghiệm quý giá của Đảng sau 21 năm lãnh đạo cách mạng và hơn bốn năm tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Báo cáo chính trị vạch ra phương hướng và nhiệm vụ để đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng. Báo cáo chính trị cũng chỉ rõ những nhiệm vụ cụ thể để phát triển chiến tranh nhân dân, phong trào chiến tranh du kích “Phải phát triển và củng cố dân quân, du kích về mặt: tổ chức, huấn luyện, chỉ đạo và sức chiến đấu. Phải làm cho lực lượng của dân quân du kích thành những tấm lưới sắt rộng rãi và chắc chắn, chăng khắp mọi nơi, địch mò đến đâu là mắc lưới đến đó” (1) Đường lối của Đảng đã được đề ra cụ thể hơn trong Luận cương về cách mạng Việt Nam do đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí thư của Đảng, trình bày và các báo cáo chuyên đề về xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất, xây dựng chính quyền nhân dân, xây dựng quân đội nhân dân… Báo cáo Xây dựng quân đội nhân dân, hoàn thành chiến tranh giải phóng do Đại tướng Tổng Tư lệnh các lực lượng vũ trang Võ Nguyên Giáp đề cập đến nhiều mặt về vũ trang tranh đấu, về phương châm chiến lược và những vấn đề cụ thể về phương châm tác chiến. Về phương hướng và nhiệm vụ xây dựng căn cứ địa, Đại tướng Tổng Tư lệnh nêu rõ: “Công tác xây dựng căn cứ địa không phải chỉ chú trọng phương diện quân sự: chấn chỉnh các đường giao thông vận tải, kiến thiết kỹ nghệ quốc phòng, củng cố lực lượng vũ trang địa phương, mà phải chú trọng phương diện chính trị, kinh tế và văn hóa: củng cố chính quyền nhân dân, phát triển tăng gia sản xuất, cải thiện dân sinh, phát triển giáo dục. Đồng thời chúng ta cần luôn luôn đề phòng các cuộc tấn công của địch, các cuộc oanh tạc lớn của chúng”(2). Đó là những nội dung quan trọng để các địa phương căn cứ vào tình hình cụ thể của chiến trường mà xây dựng phương hướng, nhiệm vụ kháng chiến.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng là một sự kiện có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Chủ trương và đường lối do Đại hội xác định đã trở thành kim chỉ nam cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân đẩy mạnh công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, can thiệp Mỹ và tay sai, tiến lên giành độc lập và thống nhất cho Tổ quốc.


(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.6, tr.171
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.12, tr.279.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Hai, 2016, 08:05:38 pm
Với khẩu hiệu: Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng nêu lên và thắng lợi của chiến dịch Biên Giới đã làm nức lòng quân và dân cả nước. Uy tín của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày càng được nâng cao trong các tầng lớp nhân dân, tạo khí thế phấn khởi, thi đua vươn lên giành thắng lợi mới trên khắp các chiến trường Bắc - Trung - Nam.

Sự phát triển của cuộc kháng chiến và ảnh hưởng quốc tế ngày càng to lớn của sự nghiệp chống chủ nghĩa đế quốc, giành độc lập dân tộc của nhân dân Việt Nam đã tiếp thêm sức mạnh cho phong trào kháng chiến của quân và dân Liên khu IV. Đồng thời, những khó khăn, do âm mưu mở rộng chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp và can tiếp Mỹ cũng đặt ra trước đảng bộ và nhân dân Liên khu IV những nhiệm vụ to lớn, nặng nề và phức tạp hơn. Nhiệm vụ trọng tâm của quân, dân Liên khu IV là chống kế hoạch bình định, những cuộc hành quân lấn chiếm, phát triển chiến tranh du kích, đẩy mạnh tác chiến tiêu diệt địch, giữ vững và mở rộng các căn cứ du kích ở Bình - Trị - Thiên, vùng hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh.

Trải qua hơn bốn năm kháng chiến chống thực dân Pháp, phong trào đấu tranh của quân và dân Liên khu IV đã trưởng thành về mọi mặt. Lực lượng vũ trang ba thứ quân gồm bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân, du kích đã được xây dựng và củng cố, trang bị có tiến bộ hơn trước, có khả năng phối hợp tác chiến tiêu diệt được một bộ phận quân chiếm đóng, bảo vệ hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh.

Từ cuối năm 1950, quân và dân Bình - Trị - Thiên đã đẩy mạnh chiến tranh du kích, giam chân một bộ phận quân cơ động của địch, đồng thời phát triển chiến tranh du kích, giải phóng một vùng rộng lớn ở phía nam tỉnh Quảng Bình. Các trung đoàn chủ lực của liên khu phối hợp chặt chẽ với bộ đội địa phương, dân quân, du kích đẩy mạnh hoạt động chống địch càn quét và tổ chức phục kích, tiêu diệt các đoàn xe cơ giới của Pháp từ Đồng Hới vào Chấp Lễ, Hạ Cờ, tạo điều kiện củng cố và mở rộng vùng căn cứ du kích từ phía nam Trị - Thiên ra tới bắc Quảng Bình.

Những thắng lợi về quân sự trên đây đã tạo ra một bước chuyển biến cho các hoạt động đấu tranh phục hồi và phát triển cơ sở trong vùng địch tạm chiếm.

Trong lúc dồn sức đánh địch ở chiến trường Bình - Trị - Thiên, quân và dân ba tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh vẫn sẵn sàng chiến đấu bảo vệ hậu phương, bảo đảm cung cấp sức người, sức của cho các mặt trận và là nguồn động viên, cổ vũ to lớn đối với chiến sĩ đang chiến đấu ở ngoài tiền tuyến.

Thời gian này, địch đánh phá ngày càng ác liệt hơn. Trong khi đó, địa hình của liên khu vốn phức tạp, kinh tế kém phát triển, sản xuất nông nghiệp manh mún, lạc hậu, lại thường xuyên bị thiên tai gây thiệt hại nặng nề. Bước vào giai đoạn mới của cuộc kháng chiến, mọi yêu cầu về cung cấp sức người, sức của ngày càng cao. Công việc bồi dưỡng và cải thiện đời sống nhân dân chưa được triển khai tích cực. Công tác xây dựng cơ sở đảng, củng cố vùng căn cứ du kích, vùng địch tạm chiếm chậm phát triển, phong trào chiến tranh du kích ở một số hơn chưa thật vững. Đó là những khó khăn bức xúc đòi hỏi đảng bộ và nhân dân Liên khu IV phải nỗ lực phấn đâu, khắc phục những thiếu sót, nhược điểm để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của cuộc kháng chiến.

Căn cứ vào tiềm năng và vị trí chiến lược quan trọng của chiến trường Liên khu IV đối với cuộc kháng chiến của cả nước, Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Quốc phòng - Tổng Tư lệnh đã tăng cường chỉ đạo toàn diện phong trào đấu tranh quân sự, chính trị, kinh tế đối với Liên khu IV nhằm xây dựng mặt trận Bình - Trị - Thiên thành một địa bàn thu hút và phân tán lực lượng địch, phá âm mưu chia cắt và chiếm đóng của chúng, đồng thời tiếp tục xây dựng Thanh - Nghệ - Tĩnh thành hậu phương vững mạnh của cả nước. Cùng với các chiến trường của cả nước, thực hiện chủ trương tích cực cầm cự để chuyển sang tổng phản công - tổng tiến công địch.

Liên khu IV là một chiến trường dài và hẹp, có vị trí địa lý - chính trị rất quan trọng về mặt chiến lược đối với chiến trường cả nước. Do đó, ngay từ khi bắt đầu thực hiện cuộc chiến tranh xâm lược tại Việt Nam, thực dân Pháp đã âm mưu chia cắt và cô lập toàn bộ các tỉnh miền Trung, xây dựng thành bàn đạp để từ đó mở rộng địa bàn chiếm đóng ra các tỉnh phía bắc và phía nam. Nhằm thực hiện mục tiêu trên, từ đầu năm 1951, thực dân Pháp xúc tiến mạnh việc củng cố vùng “chiến thuật miền Trung” tách vùng núi Tây Nguyên ra khỏi tổ chức khu quân sự miền Trung; tăng cường càn quét, đánh phá các vùng căn cứ kháng chiến, căn cứ du kích, ven biển, đặc biệt là vùng giáp ranh của tỉnh Ninh Bình với bắc Thanh Hóa; mở rộng diện lấm chiếm phía nam của tỉnh Hà Tĩnh, phía bắc của tỉnh Quảng Bình; xây dựng hệ thống đồn bốt kiên cố để phòng ngự tiến công của các lực lượng vũ trang và tạo bàn đạp đánh rộng ra vùng tự do của liên khu. Mục đích của địch là tách rời Liên khu IV với các chiến trường khác của cả nước, tách rời chiến trường Bình - Trị - Thiên với vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Hai, 2016, 08:06:14 pm
Nằm trong kế hoạch bình định của tướng Đờ Lát, từ đầu năm 1951, thực dân Pháp đã bố trí lại lực lượng quân Âu - Phi và vệ binh đoàn, đưa quân chiếm đóng những vị trí then chốt ở địa bàn các tỉnh Bình - Trị - Thiên; xây dựng lực lượng cơ động nhanh với chiến thuật tập trung, phân tán để ứng phó với lực lượng vũ trang địa phương. Từ tháng 4 đến tháng 9-1951, ngoài những tiểu đoàn địa phương phân tán, chốt giữ ở ba tỉnh, địch đã tập trung quân ứng chiến ở mức cao hơn, có từ bốn đến năm tiểu đoàn tham gia các cuộc hành quân càn quét. Chúng ra sức bắt lính để tiến tới thành lập ở mỗi tỉnh một trung đoàn địa phương và các tiểu đoàn biệt lập. Cho đến giữa năm 1951, địch đã thành lập thêm các tiểu đoàn 7, 8 rồi đến Tiểu đoàn 12. Một số tiểu đoàn khác cũng được cấp tốc tổ chức và huấn luyện. Các trường sĩ quan người Việt được củng cố mở rộng ở Huế, Đà Lạt.

Lực lượng địch ở Bình - Trị - Thiên lúc này có khoảng sáu tiểu đoàn, ba đại đội Âu - Phi và sáu tiểu đoàn binh sĩ người Việt. Cùng với việc tăng cường lực lượng chiến đấu, Bộ Chỉ huy Pháp khẩn trương xây dựng một hệ thống bongke kiên cố và dày đặc chạy dọc theo hướng từ bắc xuống nam, chia trận tuyến thành từng ô nhằm bao vây, cô lập vùng căn cứ của kháng chiến, đồng thời để thọc xuống vùng duyên hải, hoặc tiến sang phía biên giới giáp với Trung Lào, Hạ Lào và Bắc Campuchia. Dọc theo các tuyến giao thông quan trọng như đường số 1, đường số 9, địch đã bố trí một hệ thống đồn bốt, tháp canh kiên cố. Mỗi lô cốt được xây dựng chắc chắn hơn và tăng cường lực lượng phòng thủ. Từng lô cốt xây cách nhau chừng 6 km, có công sự và giao thông hào bao bọc. cho đến tháng 10-1951, địch đóng thêm 172 vị trí, xây dựng hơn 200 lô cốt để chia cắt vùng kháng chiến và vùng chúng kiểm soát. Ở Quảng Bình, địch đóng 31 lô cốt và 34 tháp canh; ở Quảng Trị, 72 lô cốt và 30 tháp canh; ở Thừa Thiên, 69 lô cốt và 120 tháp canh. Địch ra sức củng cố các vị trí đóng quân, chốt chặt các lối ra vào vùng ven để bảo vệ các trung tâm ở thành phố Huế, thị xã Đồng Hới và thị xã Quảng Trị cùng nhiều đầu mối giao thông quan trọng khác.

Sau chiến dịch Phan Đình Phùng, lợi dụng những khó khăn sau trận lũ lụt lớn cuối năm 1950 ở Bình Trị Thiên, nhất là những khó khăn, thiếu thốn về tiếp tế hậu cần cho lực lượng vũ trang kháng chiến, thực dân Pháp cho rằng bộ đội chủ lực của Việt Nam chưa kịp hồi phục, chúng đã liên tiếp mở các cuộc hành quân bao vây, càn quét vào các khu căn cứ ở miền núi Ba Lòng, Vĩnh Linh (Quảng Trị), Cầu Nhi, Hòa Mỹ, Dương Hòa (Thừa Thiên) và nhiều căn cứ cứ đồng bằng ở Phú Vang, Phú Lộc, Phong Quảng Điền (Thừa Thiên), Triệu Phong, Hải Lăng, Cam Lộ (Quảng Trị), Lệ Thủy, Quảng Ninh, Quảng Trạch, Bố Trạch (Quảng Bình) nhằm mục đích phá cơ quan đầu não kháng chiến, nhất là bao vây, tiêu diệt lực lượng, phá hủy cơ sở hậu cần chiến tranh cách mạng. Chúng tình cách lấn chiếm và kiểm soát các tuyến đường tiếp tế từ vùng hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh vào chiến trường Bình - Trị - Thiên cả trên bộ và ven biển, ngăn cách vùng đồng bằng với vùng căn cứ kháng chiến.

Để tập trung bình định vùng tạm chiếm, quân Pháp liên tiếp tiến hành các cuộc hành quân càn quét nhằm tiêu diệt lực lượng vũ trang, phá hoại cơ sở kháng chiến, bao vây vùng căn cứ du kích. Chúng cố chiếm giữ những vùng đông dân, nhiều của để tập trung vơ vét sức người, sức của phục vụ chiến tranh. Do đó, nhiều vùng ngoại ô Huế, ven các đường quốc lộ, ven Phú Lộc, Hương Trà (Thừa Thiên), Hải Lăng, Cam Lộ, Vĩnh Linh (Quảng Trị) địch tiến công, lấn chiếm trở lại, nhất là ở Quảng Bình bao gồm các huyện Lệ Thủy, Quảng Ninh, Bố Trạch, Quảng Trạch, v.v. Trong vùng tạm chiếm, địch ra sức khủng bố cơ sở quần chúng, phát triển các làng tề, tập trung đánh phá cơ sở kinh tế, chính trị, gây nhiều khó khăn về mọi mặt cho phong trào kháng chiến.

Về chính trị, thực dân Pháp ra sức củng cố bộ máy tay sai ở miền Trung, thay đổi những kẻ cầm đầu bất lực và ngụy trang cho nhãn hiệu quốc gia độc lập giả hiệu để lừa bịp các tầng lớp nhân dân; nuôi dưỡng, sử dụng lực lượng tề, dõng, tuyển mộ lính bản xứ huấn luyện, đào tạo để khủng bố, đánh bật cơ sở đảng nhằm tiêu diệt phong trào kháng chiến ở vùng tạm chiếm.

Mặc dù được Mỹ tăng thêm viện trợ, nhưng gánh nặng về chi phí chiến tranh Đông Dương của Pháp đã vượt quá mực chịu đựng của nền kinh tế Pháp chưa kịp phục hồi sau chiến tranh. Vì vậy, để tiếp tục theo đuổi chiến tranh, thực dân Pháp phải cố gắng tiến hành một cuộc chiến tranh tổng lực trên tất cả các lĩnh vực: quân sự, kinh tế, chính trị, tiếp tục thực hiện chủ trương: lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt.

Từ đầu năm 1951, đi đôi với việc tăng cường hệ thống đồn bốt, tháp canh, thực dân Pháp thúc ép chính quyền tay sai Bảo Đại ban hành dụ tổng động viên, bắt hàng vạn thanh niên trọng vùng tạm chiếm bổ sung vào đội quân phục vụ bộ máy chiến tranh xâm lược. Ở miền Trung, chúng bắt nhân dân kê khai nhân khẩu, lập thẻ quân vụ và lùng bắt thanh niên trong vùng chúng kiểm soát. Trong một thời gian ngắn, từ tháng 6 đến tháng 10-1951, địch đã bắt được gần 3.000 thanh niên bổ sung xây dựng tới 10 tiểu đoàn gồm khoảng 12.000 binh lính. Ngoài ra, chúng còn phát triển hàng nghìn hương vệ, hương dõng, thống nhất thành địa phương quân hoạt động ở địa bàn thôn, xã.

Thủ đoạn bình định của chúng là kết hợp càn quét với phá hoại kinh tế kháng chiến, ngăn chặn nguồn tiếp tế sức người, sức của từ vùng địch tạm chiếm ra vùng tự do. Chúng ra sức củng cố bộ máy chính quyền địa phương ở nông thôn và tổ chức vũ trang, khuyến khích các phần tử phản động hoạt động chỉ điểm; truy lùng, khủng bố cơ sở cách mạng. Nơi nào cơ sở quần chúng cách mạng yếu như ở một số vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng tôn giáo, chúng kích động nhân dân chống lại đường lối kháng chiến của Đảng, Chính phủ.

Cường độ đánh phá về quân sự của địch trong những tháng đầu năm 1951 đã tăng gấp bội so với trước. Chỉ trong thời gian ngắn, quân Pháp đã tổ chức 20 trận càn, trong đó 17 trận càn trong vùng chiếm đóng và ba trận càn vào vùng căn cứ kháng chiến. Có những trận lớn, kết hợp nhiều lực lượng tham gia từ 1.000 đến 1.500 quân nhằm bao vây, chụp bắt bất ngờ cơ quan kháng chiến, phá cơ sở chính trị và tiêu diệt bộ đội chủ lực.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Hai, 2016, 08:06:56 pm
Song song với hoạt động đánh phá về quân sự, địch tăng cường phá hoại về kinh tế, cả ở vùng tạm chiếm cũng như ở vùng tự do. Ngoài mục đích phá hoại về quân sự, trong mỗi trận càn quét, chúng phá hoại hoa màu, lương thực, giết hại trâu, bò, lợn, gà của đồng bào và bao vây, ngăn chặn các nguồn tiếp tế của nhân dân cho bộ đội. Để đánh vào sản xuất của nông dân, theo lệnh của các sĩ quan chỉ huy, binh lính địch đã thả sức cướp bóc lương thực, thực phẩm và bắn giết trâu, bò. Khẩu hiệu của chúng là: giết một con trâu bằng tiêu diệt hai du kích. Riêng một trận càn ở huyện Phong Điền, chúng đã bắn chết 300 trâu, bò và cướp đoạt hàng nghìn thúng thóc. Hàng nghìn mẫu lúa, hoa màu của nông dân bị xe cơ giới địch quần nát hoặc bị đốt cháy. Hầu hết trâu, bò, gia súc của nhân dân ở vùng giáp ranh đều bị địch triệt hạ. Nông dân không có trâu, bò để kéo cày nên đồng ruộng bị hoang, sản xuất hết sức khó khăn. Thậm chí nhiều nơi giặc Pháp ra lệnh cấm nông dân ra đồng cày cấy. Vì vậy, nhiều nơi nông dân phải chờ đêm tối mới ra đồng để sản xuất.

Ở các vùng giáp ranh và vùng tự do, địch tung bạc giả, hạ giá đồng bạc Đông Dương, nâng giá mua nông sản ở vùng tạm chiếm để thu hút hàng vào vùng chúng kiểm soát làm cho sản xuất và công tác tiếp tế cho phong trào kháng chiến gặp rất nhiều khó khăn. Chúng dùng hàng viện trợ của Mỹ để mua chuộc, lôi kéo một số cán bộ, trí thức từ bỏ hàng ngũ kháng chiến; dùng văn hóa thực dân độc hại để trụy lạc hóa một bộ phận thanh, thiếu niên trong vùng tạm chiếm. Trong các vùng độ thị tạm chiếm, đời sống của công nhân và người lao động cũng hết sức khó khăn. Hầu hết các loại thuế má đều tăng gấp hai hoặc 1,5 lần, giá cả lại không ổn định, khiến cho mức sống của đại bộ phận dân cư rất cơ cực đến mức hơn cả thời kỳ thuộc địa.

Hoạt động bình định, lấn chiếm của địch đã gây nhiều tổn thất cho phong trào kháng chiến về người và của. Đầu năm 1951, ở nhiều nơi, cơ sở đảng, cơ sở cách mạng bị địch khủng bố trở thành vùng trắng như Hương Thủy, Phú Vang, Phú Lộc (Thừa Thiên), các huyện Hải Lăng, Triệu Phong, Cam Lộ (Quảng Trị) và đặc biệt là ở Quảng Bình. Nhiều đồng bào bị địch bắt bớ, tù đày, trong số đó có một số cán bộ và quần chúng trung kiên bị chúng sát hại.

Tuy nhiên, trước sự khủng bố khốc liệt của kẻ thù và sự cám dỗ vật chất, số đông cán bộ, đảng viên vẫn kiên cường bám trụ, nêu tấm gương sáng về tinh thần trung kiên, dũng cảm bám trụ chiến đấu, tiêu diệt địch, bảo vệ tính mạng, tài sản của đồng bào. Nhưng bên cạnh đó, còn một số cán bộ, đảng viên do không giữ được tinh thần cách mạng đã đầu hàng, một số khác có biểu hiện hoang mang và chạy vào vùng địch. Huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình là nơi bị càn quét và đánh phá nặng nề nhất. Nhiều nơi, cán bộ, đảng viên được nhân dân nuôi dưỡng, đùm bọc, nhưng cũng phải nằm hầm hàng tháng trời, hoạt động rất khó khăn, nhất là trong các vùng ven thị xã, thị trấn, vùng ven cố đô Huế. Hầu hết quần chúng trong các vùng tạm bị chiếm phải sống trong cảnh vây hãm, kìm kẹp của địch, bị đàn áp và bóc lột về kinh tế.

Do những hoạt động bình định, đánh phá ác liệt của địch, phong trào đấu tranh ở vùng tạm chiếm tạm thời có phần bị giảm sút. Địch vừa thay đổi thủ đoạn đánh phá, vừa cố sức giành đất, giành dân và đã khá thành công trong âm mưu đánh vào tiềm lực kháng chiến. Tuy nhiên, chúng vẫn không thể đảo ngược được tình thế.

Những hoạt động chiến tranh mang tính tổng lực của thực dân Pháp đặt ra cho đảng bộ và nhân dân Liên khu IV yêu cầu phải nhanh chóng phát triển thế và lực một cách toàn diện, chủ động phản công - tiến công tiêu diệt sinh lực địch, phá bình định lấn chiếm.

Đối với vùng hậu phương, tuy chưa đủ sức lấn chiếm ba tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh, nhưng địch vẫn chưa chịu từ bỏ hoạt động đánh phá từ nhiều phía nhằm làm suy yếu tiềm lực của hậu phương, cô lập và cắt đứt sự chi viện của hậu phương với các mặt trận. Về quân sự, quân Pháp liên tục cho máy bay, tàu chiến đột kích đánh vào nhiều địa bàn trọng yếu thuộc vùng đông bắc tỉnh Thanh Hóa, vùng duyên hải Nghệ An, Hà Tĩnh. Chúng khuyến khích một số phần tử trong các đảng phái phản động, thổ phỉ, phìa tạo nổi dậy ở một số vùng thượng du các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An; tuyển mộ thêm lực lượng tay sai phản động để hoạt động gây rối. Đặc biệt, trong các vùng đồng bào tôn giáo ở Nghệ An, Hà Tĩnh, bọn phản động đã dùng thần quyền để mê hoặc, cưỡng bức thanh niên vào lính, lập ra các tổ chức: Thanh niên quốc gia đoàn, Thanh niên bảo vệ Chúa. Chúng lợi dụng một số phần tử bất mãn, lập ra cái gọi là Đoàn Thanh niên phật tử thống nhất lên tới cấp tỉnh và khu. Số này mang nặng tư tưởng chống cộng, tiếp tay cho giặc, xuyên tạc chủ trương, đường lối kháng chiến của Đảng, phá hoại khối đoàn kết lương giáo. Giữa năm 1951, sau khi giám mục phản động Đulây công bố bức thư kêu gọi chống cộng, một số cha cố phản động đã kích động lôi kéo đồng bào công giáo. Ở xã Hưng Yên, huyện Hưng Nguyên và vùng Xã Đoài thuộc xã Nghi Diên, huyện Nghi Lộc - Nghệ An, chúng tổ chức rào làng chống thuế. Ở Huế, chúng lôi kéo đồng bào Phật tử lập ra cái gọi là “Mặt trận quốc gia ở Huế”…


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Hai, 2016, 08:08:42 pm
Nhằm triệt tiêu mọi nguồn lực về kinh tế kháng chiến, giặc Pháp liên tiếp dùng máy bay bắn phá hệ thống đê điều, mương máng, đồng ruộng, phá hoại lúa, hoa màu, dùng gián điệp chỉ điểm bắn phá các kho tàng, cơ quan, công binh xưởng của ta, v.v.

Ở một số nơi thuộc đồng bằng duyên hải các tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh, địch thường xuyên cho tàu chiến pháo kích vào Sầm Sơn, Ba Làng, Nga Sơn (Thanh Hóa), Quỳnh Lưu, Nghi Lộc (Nghệ An), Cẩm Xuyên, Kỳ Anh (Hà Tĩnh). Chúng phong tỏa đường biển, đánh phá ác liệt các tuyến đường thủy tiếp tế từ Thanh - Nghệ - Tĩnh vào các tỉnh Bình - Trị - Thiên. Hầu hết các hệ thống đê điều lớn trên địa bàn ba tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh đều bị địch pháo kích, thả bom làm vỡ hàng trăm kilômét đê, gây úng lụt ảnh hưởng nghiêm trọng tới đời sống và sản xuất của nhân dân.

Để chống lại những phương thức đánh phá mang tính chiến tranh tổng lực của thực dân Pháp, công tác xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang của liên khu giữ một vị trí rất quan trọng. Trong những năm trước đó, lực lượng vũ trang cách mạng đã được thử thách qua chiến đấu và đã có bước trưởng thành, nhưng trình độ tổ chức và kỹ thuật tác chiến còn chưa theo kịp với sự phát triển của tình hình. Tác chiến đôi khi còn tách rời với công tác xây dựng. Sự phối hợp giữa ba thứ quân trong tiến công còn nhiều lúng túng trước một hệ thống đồn bốt, tháp canh phòng thủ dày đặc của địch. Khả năng tổ chức lãnh đạo và chỉ huy chưa đồng đều. Về tư tưởng, còn có biểu hiệu tư tưởng cầu an, bi quan, hoặc chủ quan, coi thường địch, ham đánh những trận lớn nhưng thiếu cơ sở đảm bảo giành thắng lợi. Trong khi đó, địch đang ra sức tăng cường lực lượng, đẩy mạnh các hoạt động càn quét, lấn chiếm nhằm phá hoại hậu phương kháng chiến, giành lại thế chủ động ở vùng tạm chiếm. Vì vậy, Liên khu ủy đã chỉ thị cho các cấp bộ đảng, chính quyền cần phải nắm vững đặc điểm và quy luật đấu tranh cách mạng ở Bình - Trị - Thiên, đánh giá đúng tình hình và chủ động lãnh đạo quần chúng vượt qua những khó khăn, thử thách mới. Có như vậy mới có thể hoàn thành những nhiệm vụ nặng nề đang đặt ra trước mắt.

 Đánh giá và nhận định tình hình mới của phong trào cách mạng ở địa phương, Liên khu ủy đã thấy rõ khó khăn lớn nhất của Bình - Trị - Thiên không phải là mất đất, cũng không phải vì địch mạnh mà là làm sao tìm ra cách đánh thích hợp, phối hợp lực lượng vũ trang ba thứ quân có hiệu quả để đánh địch.

Trong ba ngày 1, 2 và 3-1-1951, Hội nghị Ban Thường vụ Liên khu ủy đã họp nghiêm khắc kiểm điểm sự chỉ đạo đấu tranh quân sự ở Bình - Trị - Thiên cũng như việc xây dựng vũ trang ở Thanh - Nghệ - Tĩnh. Hội nghị chỉ rõ những yếu kém, thậm chí những sai lầm của ta trong việc tổ chức đấu tranh, xây dựng lực lượng. Vì vậy, quân số của địch ở Bình - Trị - Thiên tuy ít hơn trước những chúng đã thực hiện càn quét, hành quân lấn chiếm quyết liệt hơn trước. Đối với vùng tạm chiếm, quân Pháp đã thành công một phần trong việc giành giật đất đai và con người, lập được hương vệ ở một số địa phương. Trong việc tổ chức quân đội tay sai, chúng đặc biệt chú ý tổ chức hương vệ. Hội nghị nhận định: “Tổ chức hương vệ là một thành công của địch trong việc giành giật nhân dân với ta, một thất bại cao nhất về chính trị của ta, vì ở những nơi có hương vệ là nơi địch nắm được dân, cơ sở nhân dân của ta ở đó đã bị mất dần”(1). Tình hình xây dựng hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh về mặt quân sự cũng bộc lộ những yếu kém, bất cập. “Việc xây dựng lực lượng ở Thanh - Nghệ - Tĩnh trong thời gian gần đây có chiều hướng nặng về sắp xếp tổ chức các bộ đội địa phương, nhẹ việc xây dựng dân quân, ngay Thanh Hóa tuy đã đặc biệt chú ý tới dân quân, nhưng trong thực tế cũng còn nặng về lo sắp xếp các cơ quan đoàn bộ, tỉnh đội nhiều hơn”(2). Hội nghị cũng chỉ rõ hoạt động quân sự của địch ở Bình - Trị - Thiên tuy có ác liệt hơn trước nhưng chúng cũng bộc lộ những nhược điểm khó có thể khắc phục được. Địch phải rút bớt quân chủ lực ở Liên khu IV ra tăng cường cho chiến trường Bắc Bộ. Quân đội tay sai được xây dựng vội vàng, về lâu dài không thể thay thế được lực lượng quân Pháp đã phải rút đi.

Từ những nhận định trên, hội nghị đã đề ra nhiệm vụ cụ thể của quân dân Liên khu IV là phải chuẩn bị thật đầy đủ để sẵn sàng đánh thật mạnh, phá tan kế hoạch lấn chiếm của địch. Trên cơ sở nghiêm khắc kiểm điểm, rút kinh nghiệm về chỉ đạo tổ chức, hội nghị nhấn mạnh nhiệm vụ quân sự cấp bách của Liên khu IV là phối hợp với chiến trường chính, đẩy mạnh tác chiến, thu hút lực lượng và tiêu diệt sinh lực địch, ra sức phát triển ba thứ quân.

Đúng như dự đoán của Trung ương là sau thất bại ở Biên giới, địch đã đẩy mạnh đánh phá vùng tạm chiếm để củng cố vị trí chiếm đóng của chúng, chuẩn bị mở các cuộc phản kích nhằm giành lại thế chủ động đã bị mất.


(1), (2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.12, tr.728, 739.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Hai, 2016, 08:10:09 pm
Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) hợp tháng 3-1951, đã đề ra chủ trương chỉ đạo toàn diện phong trào đấu tranh ở vùng địch hậu, phá âm mưu bình định của địch. Hội nghị đã chỉ rõ: “Sau chiến dịch Biên Giới, chiến tranh du kích của ta lớn lên nhưng hiện nay đang trải qua một thời kỳ khó khăn, nhất là ở Nam Bộ và gần đây ở đồng bằng Bắc Bộ. Riêng ở Bình - Trị - Thiên thì bộ đội ta đã chiến thắng quân địch được mấy trận làm cho chúng khó thực hiện âm mưu mới"(1). Sau khi phân tích âm mưu mới của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ trong việc chống phá cách mạng Việt Nam, hội nghị đề ra chủ trương và phương châm đấu tranh trước mắt ở vùng tạm chiếm và vùng du kích là “giữ vững và phát triển chiến tranh du kích, để thực hiện việc kiềm chế địch và phối hợp với chiến trường chính có hiệu quả hơn. Phải làm cho chiến tranh du kích giúp cho việc xây dựng và giữ vững cơ sở chính trị và kinh tế của ta, giúp vào việc tranh thủ nhân dân. Phải làm cho chiến tranh du kích kết hợp với toàn bộ cuộc đấu tranh của nhân dân trong vùng địch”(2). Vùng du kích lấy đấu tranh vũ trang làm nhiệm vụ cơ bản; kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị và kinh tế; vùng tạm chiếm lấy xây dựng cơ sở, đấu tranh chính trị và đấu tranh kinh tế làm nội dung chính. Giữa hai vùng có thể chuyển hóa lẫn nhau cho phù hợp với sự phát triển của cuộc đấu tranh chung.

Thực hiện Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, tiếp thu sự chỉ đạo của Trung ương, Liên khu ủy, Ủy ban kháng chiến hành chính liên khu đã tăng cường chỉ đạo phong trào đấu tranh chính trị, tư tưởng, xây dựng phát triển lực lượng vũ trang, đẩy mạnh đấu tranh quân sự, kinh tế với địch, v.v.

Về đấu tranh quân sự, Liên khu ủy nêu rõ phương châm tác chiến vẫn là đánh từ nhỏ đến lớn, đánh liên tục. Trong lúc tiêu diệt sinh lực địch phải chủ trương xây dựng, bồi dưỡng lực lượng kháng chiến; trong lúc đánh lớn vẫn phải đẩy mạnh chiến tranh du kích, gắn liền với nhiệm vụ bảo vệ hậu phương và phối hợp với chiến trường chính.

Về đấu tranh chính trị, các cấp ủy đảng chính quyền trong liên khu cần mở cuộc vận động, tuyên truyền rộng rãi trong nhân dân phá âm mưu chia rẽ của giặc, vạch tội ác của chúng; giáo dục tư tưởng trường kỳ kháng chiến, lòng căm thù giặc sâu sắc, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, nhất là đoàn kết nông thôn để đẩy mạnh kháng chiến. Để hoàn thành nhiệm vụ, các cấp ủy đảng và chính quyền trong toàn liên khu tiếp tục được củng cố, bộ máy được kiện toàn thêm một bước, khối đoàn kết dân tộc được tăng cường nhằm thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia kháng chiến trên cơ sở liên minh công nhân, nông dân, trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Đầu năm 1951, ở hầu hết các tỉnh trong liên khu đã tiến hành bầu cử xong hội đồng nhân dân cấp tỉnh, trong đó thành phần công nông chiếm tới trên 60%. Tuy nhiên, vấn đề cơ bản nhất là phải tiến hành củng cố chính quyền nhân dân ở cấp xã, làm cho bộ máy chính quyền ở mỗi cấp dần đi vào nề nếp, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân.

Ngay sau hội nghị cán bộ toàn liên khu và hội nghị quân chính mặt trận Bình - Trị - Thiên Liên khu ủy đã tiến hành một đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong toàn thể cán bộ, đảng viên và trong các đơn vị lực lượng vũ trang nhằm quán triệt sâu sắc đường lối kháng chiến của Đảng, tình hình và nhiệm vụ trong giai đoạn mới; mở các khóa huấn luyện quân sự để nâng cao trình độ kỹ thuật tác chiến cho bộ đội địa phương và dân quân, du kích nhằm làm tốt nhiệm vụ phát triển phong trào chiến tranh du kích trong vùng địch tạm chiếm. Liên khu ủy cũng đã chỉ rõ những công tác chính trong vùng địch tạm chiếm là đẩy mạnh công tác binh vận, địch vận, chống âm mưu tổng động viên của địch, củng cố cơ sở cách mạng, cơ sở đảng, giữ vững phong trào, phát triển chiến tranh du kích nhằm tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch. Công tác xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân đã được triển khai từng bước phù hợp hơn với điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của Liên khu IV. Đẩy mạnh phong trào chiến tranh du kích trên địa bàn liên khu, nhất là mặt trận Bình - Trị - Thiên là một trong những nhiệm vụ then chốt của quân, dân Liên khu IV. Chỉ có phát triển mạnh mẽ, sâu rộng chiến tranh du kích ở khắp các địa phương mới bảo vệ được lợi ích thiết thân của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là tính mạng, tài sản của đồng bào. Mặt khác, đẩy mạnh chiến tranh du kích cũng là để phát huy sức mạnh toàn dân, toàn diện, chủ động tiến công địch, đưa phong trào kháng chiến ở vùng tạm chiếm phát triển.

Liên khu ủy nhận định lực lượng kháng chiến, phong trào chiến tranh du kích ở một số nơi chưa phát triển mạnh, trang bị và trình độ tác chiến của bộ đội địa phương và dân quân, du kích ở các vùng xung yếu còn kém. Bộ đội tập trung một cách máy móc, lại có tâm lý nóng vội, ham đánh các trận lớn và chưa huy động lực lượng chiến đấu đạt hiệu quả cao, do đó, chưa thực hiện được mục tiêu đã đề ra là tiêu diệt thật nhiều sinh lực địch. Công tác địch vận chưa phá được chính sách bổ sung quân của giặc, chưa chú ý đúng mức để xây dựng và bảo vệ cơ sở.

Liên khu ủy và các cấp chính quyền đã mở nhiều hội nghị bàn cách tháo gỡ khó khăn, chú ý phát triển lực lượng vũ trang ba thứ quân, đặc biệt là bộ đội địa phương, dân quân du kích, kịp thời bổ sung quân số.


(1), (2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.12, tr.586, 589.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Hai, 2016, 08:10:49 pm
Thực hiện chỉ thị của Bộ Quốc phòng - Tổng Tư lệnh, Bộ Tư lệnh liên khu đã củng cố các trung đoàn chủ lực, tiếp tục xây dựng Binh đoàn huấn luyện 403 và Đoàn an dưỡng 33 ở Thanh Hóa, mở rộng quy mô các trại huấn luyện tân binh, đào tạo thêm 3.122 chiến sĩ. Các tỉnh cũng đã huy động 7.908 chiến sĩ mới bổ sung cho các đơn vị chiến đấu. Cho đến đầu 1951, quân số bộ đội địa phương toàn liên khu lên tới 10.450 chiến sĩ. Ngoài số quân thường trực của các tỉnh, liên khu đã điều động một số đại đội của Thanh Hóa, Nghệ An bổ sung cho Đại đoàn 304 và phục vụ các chiến dịch ở Việt Bắc, Tây Bắc. Năm 1951, Trung đoàn chủ lực 51 của Liên khu IV được thành lập.

Trên cơ sở phát triển lực lượng vũ trang, từ giữa năm 1951, các tỉnh ở Liên khu IV đã thành lập tiểu đoàn và các huyện đã xây dựng được đại đội độc lập. Lực lượng dân quân, du kích có khoảng gần chín vạn người. Lực lượng dân quân, du kích từ chỗ phân tán cũng được củng cố theo hướng xây dựng các đơn vị tập trung thường trực chiến đấu. Những đơn vị du kích vừa có nhiệm vụ phối hợp chiến đấu với bộ đội chủ lực, vừa chủ động tác chiến trên địa bàn để bảo vệ cơ sở, canh gác thu hoạch mùa màng, cùng nhân dân khắc phục hậu quả lũ lụt…

Quán triệt nhiệm vụ của Liên khu ủy, đầu năm 1951, Thường vụ Tỉnh ủy Thừa Thiên ra nghị quyết xác định rõ nhiệm vụ của đảng bộ: Phải lợi dụng những sơ hở của địch, đánh từng trận nhỏ, tiến đến đánh trận lớn, giữ vững và khuếch trương chiến thắng của bộ đội chủ lực, củng cố niềm tin trong nhân dân, trong lực lượng vũ trang, tích cực đẩy mạnh công tác địch vận, đặc biệt là binh vận.

Tháng 3-1951, Tỉnh ủy Hà Tĩnh tổ chức hội nghị tuyền đạt Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II và xác định quyết tâm thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng và Liên khu ủy về nhiệm vụ đấu tranh quân sự, đấu tranh chính trị, xây dựng kinh tế trong tình hình mới.

Cùng với việc củng cố, phát triển lực lượng vũ trang địa phương, các trung đoàn chủ lực của liên khu tiếp tục được bổ sung quân số và kịp thời phân tán về các địa phương bám đất, bám dân, chủ động chống càn và phá càn, cùng với quân dân địa phương đấu tranh khôi phục cơ sở ở vùng địch hậu, bảo vệ kinh tế kháng chiến.

Trong dịp này, bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương Liên khu IV được dự các lớp huấn luyện quân sự nhằm củng cố và nâng cao trình độ về chiến thuật, kỹ thuật tác chiến theo phương châm đánh nhỏ, nhưng chắc thắng, kết hợp tập kích với đánh vận động.

Nhờ có chủ trương chuyển hưởng tích cực và kip thời, phong trào chiến tranh du kích ở vùng địch tạm chiêm dần dần được phục hồi và phát triển. Bộ đội địa phương cùng với lực lượng chủ lực ở Bình - Trị - Thiên chủ động chống lại các hoạt động quân sự mới của địch. Phối hợp với các chiến dịch ở trung du Bắc Bộ và chiến trường Nam Bộ, quân và dân Liên khu IV đã nêu cao quyết tâm: Dù gian khổ thiếu thốn đến mấy cũng khắc phục để phản công, tiến công địch giành thắng lợi.

Trong dịp Tết Tân Mão (năm 1951), quân Pháp đã mở cuộc càn quét lớn vào căn cứ Phong Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên. Đây là trận càn quy mô lớn, lực lượng mạnh, được chuẩn bị chu đáo của địch lần đầu tiên trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên. Lực lượng vũ trang được quần chúng ủng hộ, đã cảnh giác phá tan cuộc càn quét của giặc ở Chợ Núi, làm tan rã bốn đại đội, bắt quan tư Girăng (Girand) chỉ huy trận càn. Ngay sau đó, ngày 12-2-1951, Trung đoàn 101, bộ đội chủ lực liên khu đã phối hợp với Tiểu đoàn địa phương 436, kết hợp cùng với lực lượng dân quân, du kích và nhân dân huyện Quảng Điền tiến công tiêu diệt vị trí An Gia trong hệ thống phòng thủ Phú Ốc - Sịa. Sáng 4-2, lại phục kích một đại đội địch từ đồn Sịa ra cứu viện bốt An Gia. Địch phải xây dựng lại nhiều lần bốt An Gia và tăng quân số gấp ba lần so với các đồn bốt khác, nhưng Trung đoàn 101 vẫn kiên quyết chiến đấu, làm chủ vị trí trên; đồng thời, kịp thời tổ chức rút kinh nghiệm phương thức đánh công kiên, tập kích vào các vị trí phòng thủ lô cốt, tháp canh vững chắc của địch.

Tiếp sau chiến thắng An Gia, đêm 9-3, Trung đoàn 101 cường tập đánh đồn Phổ Lại, nơi địch cho là một vị trí “bất khả xâm phạm”. Đồn Phổ Lại, địch có bốn trung đội phòng thủ trong tháp canh kiên cố. Quân ta dùng pháo 40 mm lấy được của địch bắn tiêu diệt hỏa điểm lô cốt. Sau hai giờ chiến đấu, quân ta đã tiêu diệt hoàn toàn quân địch trong đồn, trong đó có 150 tên đến thực tập, thu một đại liên, nhiều súng trường và đạn. Lực lượng dân quân, du kích xã phối hợp chiến đấu cũng thu được 30 súng trường Mỹ. Trong trận này, quân ta đã đập tan phòng tuyến Phổ Lại - Sịa của địch định chia cắt vùng căn cứ du kích của ta. Nhân dân phối hợp với tự vệ, du kích tích cực phá cầu đường, chặn đường tiếp tế của chúng. Trung đoàn 101 được lệnh hành quân ra vùng Phong Phú, Vĩnh Xương để củng cố lực lượng. Trung đoàn 95 được điều về Vĩnh Xuyên, Ưu Điềm chuẩn bị bước vào đợt hoạt động mới.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Hai, 2016, 08:11:44 pm
Chiến thắng An Gia, Phổ Lại và những cuộc tập kích, bao vây các vị trí đồn bốt địch ở Bình - Trị - Thiên đã thể hiện quyết tâm của các lực lượng vũ trang kháng chiến ở Liên khu IV luôn luôn sẵn sàng chiến đấu tiêu diệt sinh lực địch, chống kế hoạch bình định, càn quét của chúng. Qua thực tiễn chiến đấu trên chiến trường cho thấy trình độ tác chiến của lực lượng vũ trang ở Bình - Trị - Thiên đã được nâng lên một bước, đặc biệt là khả năng bao vây diệt đồn và đánh quân ứng chiến của địch.

Chiến thắng An Gia và Phổ Lại mở đầu cho chiến dịch mùa hè 1951 góp phần thúc đẩy phong trào “thi đua giết giặc lập công” đang phát triển rộng trong toàn liên khu. Quân và dân Liên khu IV đã phát huy thế chủ động tiến công tiêu diệt nhiều vị trí tháp canh, đồn bốt, đánh mạnh vào kế hoạch bình định lấn chiếm của địch ở khắp mọi nơi.

Bộ đội địa phương Quảng Trị đã đánh vận động, kết hợp với phục kích tiêu diệt các đơn vị nhỏ lẻ của địch đi tuần trên các tuyến đường ven thị xã, phối hợp với dân quân, du kích chống địch càn quét, bảo vệ nhân dân thu hoạch mùa màng, khôi phục cơ sở và phong trào ở vùng duyên hải. Nhiều địa phương đã tích cực rào làng, xây dựng làng chiến đấu, bố trí lực lượng dân quân, du kích canh gác, gài mìn, đặt bom, sẵn sàng chiến đấu tiêu diệt địch.

Bộ đội địa phương Quảng Trị đã đánh vận động, kết hợp với phục kích tiêu diệt các đơn vị nhỏ lẻ của địch đi tuần trên các tuyến đường ven thị xã, phối hợp với dân quân, du kích chống địch càn quét, bảo vệ nhân dân thu hoạch mùa màng, khôi phục cơ sở và phong trào ở vùng duyên hải. Nhiều địa phương đã tích cực rào làng, xây dựng làng chiến đấu, bố trí lực lượng dân quân, du kích canh gác, cài mìn, đặt bom, sẵn sàng chiến đấu tiêu diệt địch.

Sau khi tiêu diệt các vị trí quan trọng nhất trên tuyến phòng ngự Phú Ốc - Sịa, quân Pháp mở trần càn quét bất ngờ vào Thanh Hương - Vĩnh Xương nhằm tiêu diệt căn cứ du kích, triệt phá vựa lúa đồng bằng Thừa Thiên. Ngày 10-3, địch huy động hai binh đoàn với trên 2.000 quân ứng chiến tinh nhuệ có máy bay, cơ giới, pháo binh và công binh yểm trợ, chia làm ba mũi bao vây căn cứ Thanh Hương - Mỹ Xuyên. Cánh quân thứ nhất do đại tá Búttin, Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy quân đội Pháp ở Quảng Trị cầm đầu, từ thị xã Quảng Trị kéo vào Thanh Hương - Vĩnh Xương. Cánh quân thứ hai do đại tá Sốckên, Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy quân đội Pháp ở Thừa Thiên - Huế, cầm đầu, từ ga Mỹ Chánh theo đường thủy và đường bộ đánh xuống Mỹ Xuyên. Cánh thứ ba gồm một đại đội cùng với bốn xe lội nước, một số tàu và canô từ Sịa đánh ra Lai Hà. Đại tá Tabui, Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy quân đội Pháp ở miền bắc Trung Bộ trực tiếp chỉ huy trận càn.

Đây là điều bất ngờ đối với địch vì chúng không biết quân ta có hai trung đoàn chủ lực đóng ở đây, chúng ta cũng không có sự chuẩn bị trước. Vì vậy, chiến sự đã diễn ra rất ác liệt. Các đồng chí Hà Văn Lâu và Hoàng Anh trực tiếp chỉ huy cuộc chiến đấu. Sáng ngày 11-3 và trong suốt ngày 12-3, hai cánh quân lớn của địch đã bị hai trung đoàn chủ lực của liên khu tiến công. Cuộc chiến đấu đã diễn rất quyết liệt tại Vĩnh An, Ưu Điềm, Mỹ Xuyên. Địch liên tiếp mở các cuộc phục kích vào vùng căn cứ của kháng chiến nhưng đều bị Trung đoàn 95 đánh bại. Đại tá Tabui ngồi trên chiếc máy bay Moran chỉ huy trận đánh. Nhiều lần địch cho máy bay và pháo bắn yểm trợ cánh quân của Sốckên, nhưng bị bộ đội áp sát nên không phát huy được tác dụng. Sau nhiều đợt phục kích, hai tiểu đoàn quân Pháp đã bị chặn lại và dồn xuống cánh đồng lầy Vĩnh An. Cánh quân chủ lực do Búttin chỉ huy tiến từ hướng thị xã Quảng Trị và một số đơn vị quân cơ giới từ phía nam kéo lên cũng bị Trung đoàn 101 tiêu diệt tại nhà thờ Tháp Một. Ngày 13-3, trận chiến đấu đã kết thúc thắng lợi. Hai trung đoàn 95 và 101 đã tiêu diệt hơn 1.500 quân địch, bắt gần 100 tù binh. Trung đoàn quân Pháp nổi tiếng hiếu chiến và tàn bạo đã bị xóa sổ, đại tá Búttin tử trận, đại tá Tabui bị thương nặng và sau đó bị cách chức.

Như vậy, chỉ trong ba ngày chiến đấu dũng cảm, các trung đoàn 95 và 101 chủ lực của liên khu phối hợp với bộ đội địa phương, dân quân, du kích đã đánh bật một binh đoàn cơ động và tiêu diệt một binh đoàn khác, loại khỏi vòng chiến đấu 2/3 lực lượng cơ động vùng chiến thuật của địch ở Bình - Trị - Thiên, Quảng Nam, Đà Nẵng. Quân Pháp phải rút bảy tiểu đoàn Âu - Phi ra Bắc Bộ xây dựng lại. Chiến thắng Thanh Hương - Ưu Điềm là một chiến công vang dội của quân, dân ta ở Bình Trị - Thiên nói riêng, ở Liên khu IV nói chung. Chiến thắng Thanh Hương - Ưu Điềm có ý nghĩa quyết định trong việc phá vỡ hệ thống Đờ Latua của địch tại mặt trận Bình - Trị - Thiên. Ngày mở đầu chiến thắng Thanh Hương - Ưu Điềm (11-3-1951) đã trở thành ngày truyền thống của Đại đoàn 325.

Kế hoạch của địch lấn chiếm và phá các khu căn cứ kháng chiến ở vùng đồng bằng đã bị thất bại. Mất một lực lượng quân ứng chiến quan trọng, địch đã bị suy yếu hẳn ở Bình - Trị - Thiên. Vùng căn cứ kháng chiến được giữ vững. Bộ đội chủ lực vẫn có khả năng cơ động trên chiến trường. Qua thực tiễn chiến đấu, trình độ tác chiến của bộ đội được nâng cao một bước, nhất là trong sử dụng phương thức đánh vận động chống càn quét. Đây là một trận chống càn đạt hiệu quả cao của lực lượng vũ trang Bình - Trị - Thiên, góp phần tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực địch.

Trận chống càn Thanh Hương - Mỹ Xuyên thắng lợi là một trận đánh vận động chiến lớn nhất từ trước tới nay trên chiến trường Trị - Thiên, là nguồn cổ vũ lớn đối với quân và dân liên khu, góp phần quan trọng củng cố, phát triển thế trận chiến tranh nhân dân ở địa phương.

Sau chiến thắng Thanh Hương - Mỹ Xuyên, Liên khu ủy và Bộ Chỉ huy mặt trận Bình - Trị - Thiên kịp thời tổ chức rút kinh nghiệm. Bài học quan trọng là phải đánh giá đúng tình hình, chủ động phối hợp chặt chẽ lực lượng vũ trang 3 thứ quân, giữa tiến công quân sự và phong trào quần chúng đấu tranh chính trị, binh vận, địch vận, tạo nên sức mạnh tổng hợp đánh thắng cuộc tiến công ồ ạt của địch, mặc dù chúng được trang bị các loại vũ khí hiện đại.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Hai, 2016, 08:13:25 pm
Nhằm kịp thời động viên, cổ vũ quân và dân liên khu hăng hái tiến lên tiêu diệt sinh lực địch, ngày 19-3-1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư khen ngợi quân dân Bình - Trị - Thiên và nhắc nhở: “Chúng ta phải cố gắng hơn nữa và phải nhớ rằng, ở Liên khu IV du kích chiến là chính, vận động chiến là phụ, Kháng chiến là trường kỳ gian khổ, rồi mới đến thắng lợi hoàn toàn”(1). Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Trường Chinh, Đại tướng Tổng Tư lệnh quân đội quốc gia Võ Nguyên Giáp cũng thay mặt Trung ương Đảng, Bộ Quốc phòng - Tổng Chỉ huy gửi điện khen ngợi quân dân Bình - Trị - Thiên.

Được chiến thắng Thanh Hương - Mỹ Xuyên cổ vũ, quân và dân vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh rất phấn khởi, ra sức khắc phục mọi khó khăn, đẩy mạnh sản xuất, sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ vững chắc vùng tự do.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ liên khu, với tinh thần “tất cả vì tiền tuyến”, nhân dân Thanh - Nghệ - Tĩnh đã vận chuyển hơn 904 tấn gạo, 45 tấn muối vào tiếp tế, chi viện cho chiến trường Bình - Trị - Thiên. Mỗi cán bộ, dân công đi nhận nhiệm vụ công tác ở vùng địch tạm chiếm đều tự giác mang vác thêm 1 kg lương thực và 50 gam hạt giống để giúp đỡ đồng bào địa phương chống đói, kịp thời sản xuất các loại rau, màu ngắn ngày góp phần cải thiện đời sống hằng ngày của bộ đội. Nhân dân Thanh Hóa đã huy động gần ba triệu lượt dân công vận chuyển lương thực cung cấp cho tiền tuyến.

Hội nghị bất thường của Tỉnh ủy Nghệ An đã phát động nhân dân bán vượt mức 30% lúa định giá để bù đắp cho các tỉnh Bình - Trị - Thiên bị lụt nặng. Liên khu và các tỉnh đã tổ chức, sắp xếp lại ban tiếp vận các cấp. Công tác điều động dân công cũng được chấn chỉnh về tư tưởng và tổ chức. Công việc sửa chữa đường giao thông được chú ý để bảo đảm kịp thời vận chuyển vũ khí, lương thực cho các mặt trận. Cũng trong dịp này, liên khu đã giao cho Hà Tĩnh vận chuyển 500 tấn gạo vào Quảng Bình, tiếp đón và nuôi dưỡng 3.000 thương, bệnh binh và chiến sĩ từ các chiến trường đưa về hậu phương.

Trên các trục đường thuộc Quảng Trị, Quảng Bình, Thừa thiên, bộ đội địa phương đã phối hợp cùng dân quân, du kích tích cực mở rộng phong trào chiến tranh du kích, phát triển lối đánh tập kích, phục kích, phá nhiều trận càn nhỏ lẻ của địch, bảo vệ mùa màng.

Nhờ sự chi viện kịp thời của hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh, lực lượng vũ trang kháng chiến ở Binh - Trị - Thiên đã tiếp tục chủ động đánh địch vào hệ thống đồn, bốt của địch. Ngày 21-3-1951, bộ đội địa phương huyện Hải Lăng đã tập kích đồn Hải Thái, tiêu diệt và làm bị thương 40 tên địch. Bộ đội tỉnh, huyện đã giúp đỡ, hướng dẫn du kích thôn xã đặt ổ phục kích tiêu diệt các đơn vị nhỏ lẻ của địch khi chúng tuần tiễu trên các tuyến giao thông trong tỉnh. Ngày 15-4-1951, du kích xã Hải Trường (Quảng Trị) phối hợp với bộ đội địa phương dùng mìn lật đổ bảy toa tàu của địch ở phía bắc cầu Mỹ Chánh.

Ủy ban kháng chiến hành chính các tỉnh và huyện đã chỉ đạo lực lượng du kích, tự vệ xã, thôn bám địa bàn, đẩy mạnh phong trào chiến tranh du kích vùng địch tạm chiếm, phá hoại các kho tàng, nhà máy, hầm mỏ, nhà cửa, cầu cống, gây cho chúng thiệt hại nặng nề về kinh tế và quân sự. Dọc tuyến quốc lộ từ Quảng Bình vào Huế, nhiều đoàn xe vận chuyển tiếp tế của địch thường xuyên bị phục kích.

Ở Quảng Bình, ngày 29-4, Đại đội 362 của tỉnh đã tiến công ở đồn Mỹ Trung. Trong các tháng 4 và 5-1951, các Đại đội 361, 365 của tỉnh đã đẩy mạnh tuyên truyền vũ trang, đánh thắng nhiều trận càn quét của địch. Trong vùng tạm bị chiếm, lực lượng vũ trang địa phương còn tích cực tham gia công tác phá tề và thực hiện chủ trương lợi dụng tề, củng cố các cơ sở mật và các tổ chức yêu nước công khai và bán công khai. Do biết dựa vào dân và vận động nhân dân cùng tham gia công tác dân vận, binh vận, địch vận nên ở tỉnh Quảng Bình phá được 33 ban hội tề, đồng thời xây dựng lại và củng cố cơ sở kháng chiến ở các vùng Gia Ninh, Sào Nam, Quang Trung, Võ Ninh.

Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng và Chính phủ, quân, dân Liên khu IV đã đẩy mạnh phong trào đấu tranh quân sự, kinh tế, phong trào đấu tranh chính trị, tiêu diệt, tiêu hao nhiều sinh lực địch, giữ vững vùng tự do, góp phần quan trọng cùng quân, dân cả nước thực hiện chủ trương đẩy mạnh mọi hoạt động chuẩn bị cho tổng phản công - tổng tiến công.


(1) Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.5, tr. 39.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Hai, 2016, 08:14:16 pm
Từ ngày 14 đến 21-5-1951, Hội nghị đại biểu Đảng bộ liên khu được triệu tập tại làng Hoa Quân, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Vì ý nghĩa quan trọng, hội nghị đã được Trung ương chuẩn bị y như Đại hội đại biểu Đảng bộ liên khu lần thứ III. Tham dự Đại hội có 170 đại biểu của các đảng bộ tỉnh từ Thanh Hóa tới Bình - Trị - Thiên. Đại hội đã kiểm điểm tình hình hoạt động mọi mặt của liên khu, thảo luận và quyết định những nhiệm vụ quan trọng của quân và dân liên khu nhằm tăng cường lực lượng cách mạng; củng cố và nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng bộ để đẩy mạnh phong trào kháng chiến.

Đại hội nhận định: Địch vẫn đang cố gắng giành lại thế chủ động từng phần một để tiến lên giành thế chủ động đã bị mất. Chúng ra sức bắt lính, tăng quân, thay đổi quy luật hoạt động, triệt để phát huy hiệu lực của các phương tiện chiến tranh để chống phá phong trào kháng chiến trên tất cả các lĩnh vực quân sự, kinh tế, chính trị... Chiến trường Bình - Trị - Thiên lại dài và hẹp, nếu địch chỉ cần tăng thêm khoảng hai tiểu đoàn là có tác động lớn đến tương quan lực lượng có lợi cho chúng. Trình độ chiến thuật của bộ đội tuy có tiến bộ, nhưng khả năng đánh công kiên, đánh giao thông và chống máy bay chưa đạt hiệu quả cao... Việc vận chuyển tiếp tế còn gặp nhiều khó khăn. Nếu không giải quyết được vấn đề tiếp tế, bộ đội Bình - Trị - Thiên rất dễ bị động. Cần phải chú ý đặc điểm thế trận cài răng lược, chà đi sát lại ở chiến trường và luôn luôn chủ động đối phó với địch để bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, tạo nên sự chuyển tiến tình thế một cách tích cực hơn...

Trên cơ sở kiểm điểm, thảo luận, đánh giá các mặt hoạt động đấu tranh quân sự, chính trị, kinh tế, đại hội đã nêu lên 2 nhiệm vụ trọng tâm của liên khu:

- Tiếp tục xây dựng lực lượng quân sự, tích cực tiêu diệt sinh lực địch, đồng thời bảo toàn và bồi dưỡng lực lượng kháng chiến.

- Đẩy mạnh sản xuất, đặc biệt là sản xuất lương thực, bảo đảm cung cấp cho nhu cầu của tiền tuyến và cải thiện đời sống nhân dân.

Căn cứ vào đặc điểm của mỗi chiến trường trong liên khu, đại hội cũng nêu rõ nhiệm vụ cụ thể của từng chiến trường như sau:

Đối với Bình - Trị - Thiên:

- Củng cố và phát triển lực lượng, phối hợp với chiến trường chính tiêu diệt sinh lực địch. Phải nắm vững phương châm: “du kích chiến là chính, vận động chiến là phụ”, phát triển mạnh phong trào chiến tranh du kích, đồng thời học tập đánh vận động.

- Bảo vệ mùa màng, giữ vững cơ sở chính trị và bảo toàn lực lượng kháng chiến; cần phải nắm vững đặc điểm địa hình vùng Bình - Trị - Thiên là dài, hẹp và quy luật phát triển chiến trường phải tuân theo đặc điểm đó.

Nhiệm vụ của các tỉnh hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh là đẩy mạnh sản xuất, đặc biệt là sản xuất lương thực, bảo đảm nhu cầu của tiền tuyến và hậu phương, tăng cường sản xuất vũ khí; kiện toàn bộ máy chính quyền các cấp và các cơ quan, phải hết sức coi trọng chất lượng.

Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ liên khu mới. Đồng chí Hoàng Anh, Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng, được bầu làm Bí thư Liên khu ủy; đồng chí Lê Viết Lượng làm Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính liên khu; đồng chí Lê Nam Thắng làm Tư lệnh; đồng chí Võ Thúc Đồng làm Chính ủy; đồng chí Chu Văn Biên làm Phó Bí thư Liên khu ủy và trực tiếp làm Bí thư Đảng ủy mặt trận Bình - Trị - Thiên. Mặt trận Bình - Trị - Thiên vẫn do Bộ Quốc phòng - Bộ Tổng tư lệnh trực tiếp chỉ đạo. Sau đó, đồng chí Lê Viết Lượng được điều động lên Trung ương làm Tổng giám đốc Ngân hàng nhà nước, đồng chí Hoàng Anh làm Bí thư Liên Khu ủy kiêm Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến hành chính. Tổ chức đảng ở liên khu IV chính thức ra hoạt động công khai.

Sau Đại hội Đảng bộ liên khu lần thứ III, các tỉnh đảng bộ từ Thanh Hóa tới Bình - Trị - Thiên đã lần lượt tiến hành tổ chức hội nghị đại biểu đảng bộ nhằm quán triệt tinh thần Nghị quyết của Đảng bộ liên khu về hai nhiệm vụ đấu tranh quân sự, binh vận, địch vận, vận động quần chúng vùng địch tạm chiếm và xây dựng hậu phương ở vùng tự do. Hai nhiệm vụ này phải gắn liền với nhau, trong đó nhiệm vụ phát triển sản xuất, bảo đảm đủ cung cấp cho nhu cầu kháng chiến và bồi dưỡng sức dân là nhiệm vụ quan trọng số một. Tất cả các nhiệm vụ khác đều phải hướng vào hai nhiệm vụ đó. Các đảng bộ còn nhấn mạnh những nhiệm vụ về công tác cán bộ, công tác xây dựng đảng trong tình hình mới theo Điều lệ, Chính cương của Đảng. Theo sự chỉ đạo của liên khu ủy, các đảng bộ Nghệ An, Hà Tĩnh, Thừa Thiên đã triển khai hai cuộc vận động học tập lý luận, đào tạo cán bộ và phê bình, tự phê bình để khắc phục một số biểu hiện của tư tưởng chủ quan, tự mãn hoặc sợ gian khổ và xa rời quần chúng; phát huy tinh thần xung phong để thực hiện kháng chiến trường kỳ đến thắng lợi cuối cùng.

Giữa năm 1951, theo Thông tư số 53-TTg của Chính phủ về thực hiện công tác giản chính trong các cơ quan, Liên khu ủy và các tỉnh ủy cũng tinh giản bộ máy, bố trí hợp lý hơn đội ngũ cán bộ lãnh đạo các cấp để đáp ứng yêu cầu phát triển toàn diện của kháng chiến. Đến tháng 9-1951, toàn bộ máy hành chính của liên khu đã giảm 5.732 người. Bộ máy có gọn nhẹ hơn trước, song do phương pháp và cách thức tiến hành thiếu điều tra, nghiên cứu đầy đủ nên hiệu lực quản lý của bộ máy chưa cao.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Hai, 2016, 08:14:52 pm
Tháng 6-1951, sau khi cử phái viên đi thị sát chiến trường Liên khu IV, Bộ Quốc phòng - Tổng Chỉ huy đã chỉ thị: Liên khu IV có vị trí và vai trò rất quan trọng, một mặt phải đẩy mạnh tác chiến ở Bình - Trị - Thiên, tránh chủ quan khinh địch, chống tư tưởng “đánh lớn, ăn to” trong một số cán bộ chỉ huy; phải đẩy mạnh xây dựng lực lượng vũ trang địa phương để thay thế dần các trung đoàn chủ lực, tiến tới thành lập đại đoàn cơ động của liên khu trong đội hình các đại đoàn chủ lực của Bộ Quốc phòng - Tổng Chỉ huy. Mặt khác, liên khu phải tập trung sự nỗ lực cao nhất để xây dựng và bảo vệ vững chắc hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh, sẵn sàng chi viện sức người, sức của cho chiến trường chính Bắc Bộ, cho các chiến trường Bình - Trị - Thiên, Tây Bắc và Thượng Lào. Trên chiến trường Bắc Bộ, các chiến dịch lớn của quân ta đang mở rộng về phía nam. Do đó, nhiệm vụ làm hậu phương trực tiếp của các tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh càng trở nên quan trọng.

Thực hiện chỉ thị của Trung ương Đảng, Chính phủ và Bộ Quốc phòng - Tổng Chỉ huy, trong đó có thông tư về công tác tinh giản biên chế, nâng cao chất lượng cán bộ, Liên khu ủy đã vận dụng phương châm “tình binh, tinh cán”, triệt để giảm bớt sự cồng kềnh của bộ máy hành chính các cấp, hội đồng nhân dân các cấp và chính quyền cấp xã được củng cố lại, đặc biệt là các cơ quan tòa án, tư pháp và các ban dân sinh, kinh tế.

Các đơn vị bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương cùng tiến hành sửa đổi lề lối, tác phong làm việc; thực hiện cải tiến chế độ cung cấp, bảo đảm sinh hoạt cần thiết cho bộ đội. Thành lập các kho dự trữ lương thực ở các địa phương để tăng cường khả năng cung cấp nhanh nhất cho nhu cầu chiến trường.

Tính đến cuối năm 1951, tại Liên khu IV đã thực hiện giảm biên chế ở Bộ Chỉ huy mặt trận và Ban chỉ huy các tỉnh đội. Số cán bộ dôi ra được bổ sung cho các đơn vị trực tiếp tham gia chiến đấu. Các trung đoàn 9 và 103 ở Thanh - Nghệ - Tĩnh, các trung đoàn 18, 101, 95 ở Bình - Trị - Thiên cũng được củng cố, phát triển. Ngoài ra còn một số đơn vị binh chủng pháo binh, công binh trực thuộc Bộ Chỉ huy mặt trận.

Ba tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh vừa tích cực xây dựng hậu phương, vừa đẩy mạnh xây dựng lực lượng vũ trang cả về số lượng và chất lượng, trang bị vũ khí. Hình thức tổ chức lực lượng vũ trang của các tỉnh có đủ “ba quân, sáu cấp” (dân quân, du kích của thôn xã, bộ đội địa phương của huyện, tỉnh, bộ đội chủ lực của tỉnh, liên khu). Công tác vận động tuyển quân đã thu hút hàng vạn thanh niên gia nhập lực lượng vũ trang chiến đấu.

Trang bị vũ khí, quân trang cho bội đội cũng dần dần khá hơn. Toàn liên khu đã tổ chức được 30 xưởng sản xuất, sửa chữa để cung cấp cho bộ đội đánh giặc với cả một hệ thống binh xưởng nhỏ và binh xưởng lớn của liên khu và Bộ Quốc phòng - Tổng Chỉ huy. Trước mắt là lo vũ khí cho các đơn vị trực tiếp chiến đấu, đồng thời phát huy truyền thống của bộ đội Bình - Trị - Thiên”lấy súng giặc, giết giặc”.

Công tác xây dựng lực lượng vũ trang được gắn liền với các đợt sinh hoạt chính trị tư tưởng và các lớp huấn luyện nâng cao kỹ thuật tác chiến cho bộ đội theo kịp với yêu cầu mới. Qua thử thách ác liệt của chiến tranh, tình đoàn kết “quân với dân như cá với nước” đã tạo nên sức mạnh to lớn cho bộ đội đang chiến đấu trên các mặt trận. Hình ảnh tốt đẹp về “anh bộ đội Cụ Hồ” đã khắc sâu, in đậm trong lòng dân và được nhân dân hết lòng tin yêu, đùm bọc.

Để chống lại thủ đoạn đánh phá mới của quân Pháp và tích cực chủ động tiến công tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch, Bộ Chỉ huy mặt trận Bình - Trị - Thiên đã chỉ đạo thực hiện phương châm tác chiến là đánh nhỏ ăn chắc, nhằm vào nơi sơ hở nhất của địch, đánh quân ứng chiến là chính. Khi đánh xong phải phân tán về từng tỉnh cùng bộ đội địa phương hoạt động, tích cực đẩy mạnh phong trào chiến tranh du kích.

Qua chiến đấu với địch trong chống càn, phá càn, bảo vệ căn cứ du kích, nhiều địa phương đã chú trọng tới việc tổng kết phong trào chiến tranh du kích, tự rút ra những kinh nghiệm về tác chiến để nâng cao hiệu quả đánh địch, bảo vệ mùa màng; phổ biến kinh nghiệm xây dựng làng chiến đấu, tổ chức công tác dân công tiếp vận, việc tăng cường công tác phòng không bảo vệ, tránh địch đánh phá, v.v.

Trong đấu tranh bảo vệ hậu phương, Liên khu ủy cũng đặc biệt chú trọng việc chỉ đạo xây dựng, củng cố những cơ quan là công cụ sắc bén của chính quyền nhân dân như công an, tòa án, tư pháp, v.v. nhằm trấn áp phản cách mạng, bảo vệ hậu phương.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Hai, 2016, 08:16:12 pm
Tháng 6-1951, công an tỉnh Nghệ An đã khám phá và trừng trị những kẻ lưu hành bạc giả. Tháng 11-1951, được sự chỉ đạo của Liên khu ủy, công an tỉnh Nghệ An đã đấu tranh thắng lợi, đập tan tổ chức phản động lợi dụng đạo Thiên chúa để tuyên truyền bức thư của giám mục Douley có nội dung chống lại đường lối kháng chiến của Đảng và Chính phủ. Với tinh thần cảnh giác cao, lực lượng công an tỉnh đã dựa vào sự ủng hộ của nhân dân, vạch tội ác của những kẻ phan động, kịp thời làm thất bại mọi âm mưu bạo loạn từ bên trong của địch. Tình hình vụ bạo loạn ở Hưng Yên (Nghệ An) đã tạm yên, nhưng vấn đề tôn giáo trong liên khu vẫn diễn biến rất phức tạp. Tổ chức phản động trong công giáo tạm rút vào hoạt động bí mật, ngụy trang để chờ dịp nổi dậy.

 Để kịp thời đấu tranh vạch mặt những kẻ phản động, đồng thời tuyên truyền chính sách đoàn kết dân tộc, động viên đồng bào công giáo tham gia kháng chiến, Liên khu ủy đã tổ chức hội nghị kiểm điểm rút kinh nghiệm về công tác công giáo vận để nhân dân hiểu đúng và tin tưởng vào chính sách của Đảng và Chính phủ, kịp thời trừng trị các tổ chức phản động và truy bắt những kẻ còn lẩn trốn.

Ở các vùng thượng du Thanh - Nghệ - Tĩnh, lực lượng công an các tỉnh phối hợp với các đoàn công tác của liên khu đã tích cực xây dựng cơ sở chính trị trong quần chúng, vận động nhân dân vạch tội ác của các thổ ty, lang đạo theo Pháp, kịp thời phá tan các nhóm phản động Sầm Văn Châu, Sầm Văn Cương, Sầm Văn Viên ở Quỳ Châu, cảnh cáo nhiều thổ ty, lang đạo xấu ở Lang Chánh, Ngọc Trạo, Thường Xuân, Thành Cao, Yên Nhân, Quan Hóa, Bá Thước, v.v. Do đó đã giữ vững được chính quyền cách mạng, duy trì và phát triển phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân đòi các quyền dân sinh, dân chủ.

Trên cơ sở phát triển lực lượng vũ trang ba thứ quân, quân, dân Bình - Trị - Thiên đã tích cực tham gia phong trào “thi đua giết giặc lập công, thi đua sản xuất, đề cao chiến sĩ” do Trung ương Đảng và Chính phủ phát động.

Trong hai tháng 5 và 6-1951, hưởng ứng và phối hợp với chiến dịch Quang Trung đang diễn ra ở các tỉnh Hà - Nam - Ninh, quân, dân Quảng Trị và bắc Thừa Thiên đã liên tiếp phá 31 lô cốt, hai vị trí, tiêu diệt 408 quân địch.

Ở bắc Quảng Trị, Trung đoàn 95 bộ đội chủ lực của liên khu đã tập kích vào vị trí Ba Dốc nằm trên quốc lộ 1 thuộc huyện Gio Linh. Trận này đã giành thắng lợi lớn, tiêu diệt và bắt 41 quân địch, thu nhiều súng đạn các loại và chiến lợi phẩm trong đó có trên 20 tấn gạo. Số gạo đó đã bổ sung kịp thời cung cấp cho mặt trận.

Thắng lợi về quân sự của quân và dân bắc Quảng Trị đã góp phần đập tan hệ thống phòng thủ của địch từ Quán Hàu đến Hòa Luật, buộc địch phải phân tán lực lượng để đố phó với lực lượng kháng chiến ở khắp các huyện Phong Thu, Bố Trạch, Lệ Thủy, Quảng Ninh, v.v.

Như vậy, dự định của thực dân Pháp là sử dụng tối đa lực lượng vũ trang cùng với việc thiết lập hệ thống lô cốt, tháp canh dày đặc để tăng cường kiểm soát, bình định, lấn chiếm vùng căn cứ kháng chiến đã không thực hiện được. Trái lại, hậu phương của chúng luôn mất ổn định, lực lượng quân ứng chiến Âu - Phi và số binh sĩ người Việt vẫn bị kiềm chế, bị tiêu hao, tiêu diệt.

Mặc dù bị thua trên các mặt trận, thực dân Pháp vẫn ngoan cố nuôi hy vọng tiêu diệt bộ đội chủ lực của liên khu. Cuối tháng 7-1951, được tin Trung đoàn 101 của liên khu đang đứng chân ở bắc Mỹ Lợi, địch đã điều ba tiểu đoàn lính Âu - Phi và một tiểu đoàn binh sĩ người Việt với trang bị hỏa lực mạnh, được máy bay, pháo binh và canô yểm trợ do đại tá Sốckên chỉ huy tiến công vào Mỹ Lợi và Thanh Lam Bộ nhằm tiêu diệt gọn trung đoàn chủ lực này. Song, âm mưu của địch đã hoàn toàn bị thất bại. Nhờ bám sát trận địa, nắm chắc được ý đồ của địch, quân và dân Phú Vang đã phối hợp chặt chẽ với bộ đội chủ lực của liên khu, chiến đấu ngoan cường, lập công xuất sắc, đập tan trận càn chớp nhoáng của địch. Trong trận này, 950 quân địch bị tiêu diệt, 18 lính Âu - Phi bị bắt. Chiến công của quân, dân Bình - Trị - Thiên lại được Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen: “Một lần nữa, Bác vui mừng và thân ái gửi lời khen ngợi cán bộ và chiến sĩ đã thắng trận ở Phú Vang”(1). Người căn dặn: “Chớ vì thắng lợi mà chủ quan khinh địch, phải luôn luôn cẩn thận và cố gắng để tranh thủ thắng lợi to lớn hơn nữa”(2).

Phối họp với chiến dịch Hòa Bình và tận dụng thời cơ thuận lợi, lực lượng vũ trang và quần chúng cách mạng Bình - Trị - Thiên tiếp tục phát triển thế chủ động tiến công tiêu diệt địch, mở rộng vùng giải phóng, củng cố thế đứng chân vững chắc, ngăn không cho địch đưa quân tiếp ứng chi viện cho các chiến trường khác. Từ cuối tháng 11-1951, bộ đội địa phương tỉnh Quảng Bình đã tiến công và phá vị trí Hoàn Lão. Phát huy thắng lợi đã giành được, bộ đội địa phương và dân quân, du kích các huyện Bố Trạch và Quảng Trạch liên tục tiến công tiêu diệt địch. Ngày 23-1-1952, bộ đội địa phương huyện Cam Lộ chỉ có một đại đội đã kết hợp với du kích xã Vĩnh Hoàng đánh lui trận càn quét lớn của ba tiểu đoàn, diệt 50 tên địch, phá hủy hai xe quân sự, bảo vệ được nhân dân và vùng du kích.


(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, xuất bản lần thứ hai, Nxb. Chinh trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.6, tr.285.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Hai, 2016, 08:16:59 pm
Tính đến hết năm 1951, quân, dân ta ở Bình - Trị - Thiên đã loại khỏi vòng chiến đấu hơn 7000 quân địch, phá 70 lô cốt và năm đồn. Số vũ khí, đạn dược thu được đủ để trang bị cho một trung đoàn. Như vậy là chỉ trong thời gian ngắn, cùng với chiến thắng trên mặt trận Hòa Bình, quân và dân Bình - Trị - Thiên đã loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm quân địch, phá hàng loạt lô cốt, tháp canh kiên cố. Địch buộc phải rút khỏi một vùng rộng lớn thuộc phía bắc tỉnh Quảng Bình. Bị tiến công và hao tổn binh lực, quân Pháp ngày càng trở nên bị động. Tuy chúng có rút đi được một tiểu đoàn ứng chiến Sénégal số 28 đưa ra ứng viện cho mặt trận Hòa Bình nhưng ngay sau đó, Bộ Chỉ huy Pháp lại phải điều động thêm một tiểu đoàn khác từ Bắc Bộ vào tăng cường cho chiến trường Bình - Trị - Thiên. Lực lượng địch tập trung tại Bình - Trị - Thiên đã lên tới 33.000 quân, gần gấp mười lần thời kì đầu chiến tranh. Đây là một thành tích to lớn của quân và dân Bình - Trị - Thiên trong việc thực hiện chủ trương của Trung ương làm nhiệm vụ thu hút và phân tán lực lượng địch.

Phối hợp với bộ đội chủ lực của liên khu, lực lượng vũ trang địa phương và dân quân, du kích vừa bám đất, vừa bám dân chống càn, tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch, canh gác bảo vệ cho dân thu hoạch nhanh lúa, hoa màu và vận chuyển, cất giấu kịp thời để tránh rơi vào tay địch. Vụ chiếm của Bình - Trị - Thiên đã được quân và dân bảo vệ có kết quả.

Trong những vùng ven và nội thành Huế, các cấp ủy đảng và các cơ quan quân sự địa phương chủ động chỉ đạo phát triển mạnh phong trào chiến tranh du kích trong vùng địch tạm chiếm, tích cực phá tề trừ gian, xây dựng làng chiến đấu, sẵn sàng chống địch càn quét.

Đồng thời với hoạt động vũ trang, nhiều cán bộ dân, chính, đảng các cấp đã được phái xuống các địa bàn, bám đất, bám dân, tham gia xây dựng cơ sở, vận động tổ chức quần chúng đấu tranh.

Nhân dân vùng ven cố đô Huế đã tích cực tham gia công tác binh vận, động viên, tập hợp hàng trăm gia đình kéo đi biểu tình chống bắt lính, chống đàn áp khủng bố, đòi chính quyền địch phải thực hiện các yêu cầu dân sinh, dân chủ. Liên tục trong hai tháng 9 và 10-1951, Thành ủy Huế đã lãnh đạo các tầng lớp nhân dân nội và ngoại thành đấu tranh chống các đạo dụ tổng động viên bắt lính của Bảo Đại. Cuộc đấu tranh bền bỉ của gần 2.000 đồng bào ở đồn Mang Cá đòi trả chồng con đang bị giam giữ trong các đồn binh đã giành được thắng lợi, địch phải thả hơn 1.000 thanh niên bị chúng giam giữ.

Dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng cơ sở, công nhân trong các nhà máy đèn, sở bưu điện, nhân viên sở điện nước ở các thị xã và thành phố Huế đã biểu tình, bãi công đòi tăng lương, giảm giờ làm. Học sinh các trường Quốc học Huế, trường kỹ nghệ cùng chị em tiểu thương chợ Đông Ba đã bãi khóa, bãi thị, phản đối chính sách bắt lính trong học sinh, phản đối chính sách tăng thuế vô lý của chính quyền địch.

Nhân dân trong vùng địch tạm chiếm tích cực quyên góp tiền bạc, mua thốc men, vải, muốn, bí mật chuyển ra vùng căn cứ. Nhiều nhân sĩ, trí thức yêu nước có cảm tình với kháng chiến đã viết báo, ra tuyên bố đòi Pháp chấm dứt chiến tranh xâm lược, tố cáo đế quốc Mỹ tăng cường giúp Pháp mở rộng chiến tranh Đông Dương, vạch trần chính sách lừa bịp mị dân của chính quyền Bảo Đại.

Cuộc chiến đấu tiếp tục diễn ra quyết liệt. Thực dân Pháp củng cố lại thế phòng ngự, tiến hành bình định một cách tàn khốc hơn. Hầu như ngày nào, tuần nào cũng có các cuộc càn quét, cướp phá, khủng bố của địch. Có nhiều cơ quan, đơn vị bộ đội của liên khu và các tỉnh phải thường xuyên di chuyển địa điểm đóng quân để tránh bị địch phục kích bất ngờ. Nhiều tổ chức gián điệp, biệt kích do địch lập ra cung hoạt động chống lại kháng chiến ở mọi nơi, mọi lúc.

Vì vậy, để duy trì hoạt động của tổ chức đảng ngay trong lòng địch, Liên khu ủy đã chỉ thị cho các cơ quan đảng, chính quyền, mặt trận phải phân tán nhỏ, giữ bí mật tổ chức. Các chi bộ đảng phải nêu cao phương châm: bám đất, bám dân, bám phong trào; giữ vững mối quan hệ máu thịt giữa Đảng và quần chúng. Đó là phương thức hoạt động có hiệu quả nhất để bảo tồn và phát triển lực lượng kháng chiến, giữ vững cơ sở để vận động quần chúng đẩy mạnh chiến tranh du kích toàn diện, chống kế hoạch “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh” của địch. Trong tổ chức đảng, Liên khu ủy đã chỉ đạo các địa phương khắc phục nhanh tình trạng đảng viên đông nhưng công tác quản lý chưa chặt chẽ, có kế hoạch phân công bố trí đảng viên trong từng chi bộ đảng, tăng cường củng cố hệ thống tổ chức cơ sở đảng các cấp và trong quân đội.

Thực hiện chỉ thị của Liên khu ủy, hầu hết ở những nơi bị địch bình định lấn chiếm, các cấp ủy đều phân công cán bộ, đảng viên đi xuống địa bàn, nằm hầm bí mật, sống chung với nhân dân để móc nối cơ sở, phục hồi phong trào ở vùng tạm chiếm. Nhiều cán bộ, đảng viên đã nêu tấm gương sáng về tinh thần đấu tranh bất khuất, không ngại nguy hiểm trước sự rình rập, khủng bố của địch để giữ vưng phong trào. Nhân dân được cán bộ, đảng viên hướng dẫn để tận dụng mọi hình thức công khai, bán công khai, hợp pháp để trực diện đấu tranh hằng ngày với địch chống đàn áp, cướp bóc, hãm hiếp, bảo vệ các quyền dân sinh, dân chủ.

Nhờ sự bền bỉ đấu tranh của các tầng lớp nhân dân, phong trào đã dần dần được khôi phục trở lại. Trong hoàn cảnh bị địch đánh phá ác liệt, cuộc sống vật chất và tinh thần thiếu thốn, căng thẳng, nhưng cán bộ, đảng viên và lực lượng vũ trang đã được nhân dân các tỉnh Bình - Trị - Thiên hết lòng đùm bọc, che chở. Nhiều cán bộ, đảng viên đã kiên cường bám trụ. Đó là những hạt nhân nòng cốt của phong trào kháng chiến trong vòng vây của địch.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Hai, 2016, 08:17:28 pm
Công tác phát triển đảng được chấn chỉnh một cách tích cực, không còn tình trạng kết nạp đảng viên ồ ạt như giai đoạn trước, mà được lựa chọn thận trọng có chất lượng. Các chi bộ đảng trong nội thành Huế, thị xã Quảng Trị, thị xã Đồng Hới đã phân công, bố trí đảng viên bám sát địa bàn, vận động tổ chức các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia phong trào binh vận, địch vận, cùng với lực lượng dân quân, du kích đấu tranh vũ trang kết hợp với đấu tranh chính trị, chống địch càn quét, chống bắt lính, dồn dân, v.v. Nhiều tổ chức hợp pháp và bán hợp pháp như hội tương tế, các tổ chức phường, họ, v.v., đã tích cực hoạt động, lôi cuốn hàng nghìn lượt đồng bào tham gia mít tinh, thành công quyên góp tiền, hàng gửi ra mặt trận, rải truyền đơn vận động binh sĩ người Việt trong quân đội Pháp quay về với kháng chiến.

Để đẩy mạnh phong trào chiến tranh du kích trong vùng địch tạm chiếm, giữa năm 1951, Trung ương đã phát động toàn quân, toàn dân tham gia phong trào tổng phá tề đợt hai nhằm xóa bỏ bộ máy kìm kẹp của địch ở nông thôn. Với lòng yêu nước, căm thù những kẻ làm tay sai cho Pháp, nhân dân vùng địch tạm chiếm đã liên tiếp nổi dậy phá tề, ngăn lập tề, cảnh cáo những kẻ ngoan cố.

Tại Bình - Trị - Thiên, được lực lượng vũ trang tỉnh, huyện và du kích tự vệ địa phương hỗ trợ, nhân dân các xã Hương Trà, Phong Điền, Quảng Điền và nhiều xã ven đường quốc lộ số 1 như Phong Thạnh, Phong Phú, Hương Hải, Hương Phong đã phát triển các hình thức đấu tranh chính trị, chống áp bức, bóc lột, chống địch khủng bố, càn quét, kết hợp với nổi dậy, phá tan nhiều ban hội tề và hệ thống hương dõng ở nông thôn, trừng trị số Việt gian phản động. Phong trào đấu tranh phá tề ở vùng địch tạm chiếm đã diễn ra thường xuyên, hàng chục ban tề, hội đồng tề ở thôn, xã nằm sâu trong vùng tạm chiếm thuộc các tỉnh Bình - Trị - Thiên đã bị phá vỡ hoặc bị vô hiệu hóa. Có nơi chủ trương lập tề hai mặt để che mắt địch, bảo vệ cơ sở cách mạng.

Sau gần một năm thực hiện chuyển hướng chỉ đạo phong trào đấu tranh ở vùng địch tạm chiếm, nhiều thôn, xã trước đây bị địch khủng bố trắng, cơ sở quần chúng, cơ sở đảng đã dần dần được hồi phục. hầu hết các thôn, xã nằm sâu trong vùng địch tạm chiếm đều xây dựng được lực lượng dân quân, du kích mật làm nòng cốt trong các phong trào đấu tranh chính trị và vũ trang. Phương châm hoạt động của lực lượng vũ trang ba thứ quân làm phối hợp tác chiến, đánh nhỏ ăn chắc, đã tạo nên bước chuyển biến của phong trào chiến tranh du kích ở khắp các vùng nông thôn, đồng bằng, miền núi, thúc đấy phong trào đấu tranh chính trị ở vùng đô thị phát triển.

Trên các tuyến phòng ngự của địch, nhiều vị trí đồn bốt đã bị lực lượng vũ trang kháng chiến kết hợp với sự nổi dậy của quần chúng tập kích, phải co cụm lại. Hệ thống vành đai trắng bị phá vỡ ở nhiều nơi. Quân Pháp chẳng những không thực hiện được mục tiêu rút quân ra tăng viện cho Bắc Bộ mà còn phải tăng viện thêm một tiểu đoàn lính Âu - Phi vào chiến trường Bình - Trị - Thiên để giữ thế phòng ngự. Chủ trương của địch là hoàn thành kế hoạch bình định vùng tạm chiếm ở Bình - Trị - Thiên đã bị phá sản trước phong trào chiến tranh du kích ngày càng phát triển.

Trải qua chiến đấu và thử thách chống lại các trận càn quét khốc liệt của kẻ thù, được học tập kinh nghiệm của chiến trường chính, các lực lượng vũ trang ở Liên khu IV ngày càng trưởng thành về mọi mặt, kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng và tác chiến, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, bảo vệ mùa màng của nhân dân. Công tác quân sự trở thành nhiệm vụ trọng tâm của liên khu trong đấu tranh tiêu diệt sinh lực địch và bảo vệ hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh. Qua các lớp tập huấn cho bộ đội, trình độ nhận thức của cán bộ, chiến sĩ được nâng cao lên một bước. Vũ khí được bổ sung cho mặt trận Bình - Trị - Thiên đủ để trang bị cho hai trung đoàn và cho các tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh đủ ba tiểu đoàn. Đến cuối năm 1951, hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh đã huy động được 23.298 thanh niên lên đường nhận ngũ.

Cùng vào thời điểm đó, Bộ Quốc phòng - Tổng Chỉ huy đã quyết định thành lập Đại đoàn chủ lực 325. Đây là một bước tiến mới và là một đóng góp rất quan trọng của lực lượng vũ trang liên khu đối với yêu cầu phát triển chung của cuộc kháng chiến.

Bị thất bại nặng nề về quân sự, địch càng lún sâu vào khủng hoảng về chính trị. Nội bộ chính quyền tay sai ngày càng bị phân hóa, chia rẽ sâu sắc bởi các thế lực thân Pháp và thân Mỹ luôn tranh giành quyền lực.

Giữa năm 1951, Bộ Tham mưu quân đội Pháp đã tiến hành giải tán Bộ Tư lệnh Vệ binh đoàn gồm những sĩ quan, binh sĩ người Việt và giao cho sĩ quan Pháp trực tiếp chỉ huy. Hành động đó đã gây ảnh hưởng đến quyền lợi một bộ phận lớn sĩ quan người Việt trong quân đội Pháp và hàng ngũ công chức chính quyền Bảo Đại. Mặt khác, những những thắng lợi quân sự và chính trị của phong trào kháng chiến đã tác động sâu sắc tới hàng ngũ sĩ quan và binh lính địch. Tâm lý thất bại, hoang mang trong hàng ngũ địch ngày càng lan rộng. Được các cơ sở kháng chiến tuyên truyền, vận động về chính sách khoan hồng của Đảng và Chính phủ, đồng thời lên án cuộc chiến tranh phi nghĩa nên đã có nhiều vụ binh biến, đảo ngũ của binh lính và sĩ quan người Việt trong quân đội Pháp xảy ra ở các đồn Thanh Cần, An Truyền, Đồn Sâm, Hà Thanh. Binh lính Âu - Phi cũng đấu tranh với chỉ huy đòi hồi hương.

Phong trào đấu tranh quân sự, chính trị của quân và dân Liên khu IV đã có chuyển biến rõ rệt. Lực lượng kháng chiến đã làm chủ được nhiều vùng nông thôn rộng lớn, nhất là một số huyện thuộc vùng đồng bằng trù phú thuộc nam Thừa Thiên, Quảng Trị, Quảng Bình. Các khu căn cứ, vùng du kích ngày càng được củng cố, mở rộng là điều kiện thuận lợi để phát triển mạnh thế chủ động trong phản công, tiến công địch. Về công tác dân vận, Liên khu ủy đã chỉ thị cho các đảng bộ và chính quyền phải sửa đổi công tác vận động quần chúng, sửa chữa những sai lầm trong nhận thức tư tưởng và hành động, quán triệt sâu sắc quan điểm kháng chiến lâu dài và phương châm tự lực cánh sinh, làm cho nhân dân thực sự tin tưởng vào đường lối của Đảng, phấn khởi vì được giải quyết những thắc mắc của mình đối với cán bộ, góp phần củng cố đoàn kết nông thôn, đẩy mạnh phong trào đấu tranh. Cùng với những đợt sinh hoạt phê bình và tự phê bình về công tác dân vận, các địa phương cũng tiến hành chấn chỉnh việc thực hiện giảm tô, giảm tức, tạm cấp ruộng đất cho nông dân. Điều đó đã có tác dụng nâng cao trình độ về chính trị, phương pháp và tác phong công tác cho cán bộ, đảng viên và củng cố niềm tin trong nhân dân. Qua đấu tranh, đã giải quyết mâu thuẫn và thắc mắc trong đồng bào công giáo, trí thức, tư sản, đồng bào các dân tộc thiểu số ở một số huyện miền núi Thanh - Nghệ - Tĩnh.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Hai, 2016, 08:17:50 pm
Để phát triển mạnh lực lượng kháng chiến, công tác xây dựng, củng cố hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh ngày càng giữ vị trí đặc biệt quan trọng. Liên khu ủy và Ủy ban kháng chiến hành chính liên khu cũng thấy rõ trách nhiệm của vùng Thanh - Nghệ - Tĩnh là phải cung cấp hậu cần cho chiến trường Bắc Bộ và Bình - Trị - Thiên.

Tuy nhiên, trong chỉ đạo xây dựng kinh tế còn nhiều khuyết điểm. Sản xuất nông nghiệp chưa được chú ý đúng mức, còn coi nhẹ và máy móc trong đấu tranh kinh tế với địch, chưa đẩy mạnh bồi dưỡng sức dân… Do đó, nhiệm vụ chủ yếu của quân, dân Thanh - Nghệ - Tĩnh là đẩy mạnh tăng gia sản xuất để phục vụ cho chiến trường chính, tiếp tế cho Bình - Trị - Thiên, tự túc cho địa phương, tạo nguồn dự trữ và sẵn sàng chiến đấu. Trong hai nhiệm vụ trên, nhiệm vụ tăng gia sản xuất là chính.

Ở các vùng căn cứ của Bình - Trị - Thiên, mặc dù chiến sự xảy ra ác liệt, nhưng các địa phương vẫn tiếp tục đẩy mạnh tăng gia sản xuất, phấn đấu tự túc đến mức cao nhất.

Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp tháng 4-1951 về chuyển hướng hoạt động kinh tế - tài chính, Liên khu ủy đã tăng cường chỉ đạo công tác xây dựng hậu phương. Tháng 7-1951, các ngành ngân hàng, mậu dịch, thuế, canh nông, kho dự trữ công lương, quân lương được thành lập. Các chính sách tăng thu, giảm chi, thống nhất quản lý tài chính, bình ổn thị trường, đấu tranh kinh tế tài chính đã được triển khai, tạo sự chuyển biến quan trọng đối với hoạt động quản lý tài chính của liên khu.

Để bảo đảm cung cấp đủ lương thực cho bộ đội đánh giặc, đồng thời khắc phục nhanh hậu quả lũ lụt, Liên khu ủy đã tập trung chỉ đạo các địa phương đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, coi sản xuất nông nghiệp là nhiệm vụ then chống của hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh và các vùng căn cứ du kích của Bình - Trị - Thiên. Tháng 5-1951, Liên khu ủy đã triệu tập hội nghị chuyên bàn về phát triển kinh tế nông nghiệp và công thương nghiệp. Hội nghị nêu rõ: giải quyết tốt vấn đề lúa gạo sẽ là nhân tố thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Đi đôi với các biện pháp giảm biên chế, phong trào vận động tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm đã được quán triệt sâu rộng trong các cơ quan ở địa phương. Với tinh thần tự lực cánh sinh và đóng góp sức người, sức của nhiều nhất cho kháng chiến, tất cả cán bộ, học sinh, các cơ quan, công sở, trường học đóng trên địa bàn Liên khu IV đã cùng với nhân dân tăng gia sản xuất, cố gắng tự túc lương thực. Cũng trong tháng 5-1951, Liên khu ủy đã phát động phong trào “thi đua ái quốc lập công, đề cao chiến sĩ” trong các ngành, các cấp.

Hưởng ứng cuộc vận động sản xuất, tiết kiệm, nhân dân trong vùng căn cứ, vùng du kích ở Bình - Trị - Thiên đã dồn sức gặt nhanh, thu gọn thóc lúa, kịp thời vận chuyển, cất giấu để không rơi vào tay địch. Cùng với việc đẩy mạnh tăng gia sản xuất, các địa phương tranh thủ mở rộng diện tích trồng thêm ngô, khoai, sắn để giải quyết được nhu cầu về lương thực, khắc phục nhanh nạn thiếu đói. Sản lượng lương thực cả năm 1951 ở Bình - Trị - Thiên đạt khoảng 208.800 tấn, tăng hơn năm trước. Đây là nguồn lương thực tại chỗ rất quan trọng để đáp ứng kịp thời cho bộ đội trực tiếp đánh địch ở mặt trận Bình - Trị - Thiên. Mặc dù bị địch đánh phá ác liệt, song nhân dân vùng tạm chiếm vẫn tìm mọi cách mua lương thực, thuốc men, hàng tiêu dùng để chuyển ra vùng tự do. Đồng bào theo đạo Phật ở Huế đã gửi ra chiến khu hàng chục tấn lương thực, thực phẩm. Trong nhiều vùng tạm chiếm, nhân dân liên tục đấu tranh chống địch cướp lúa gạo, chống tổng động viên, bắt lính, làm thất bại từng bước âm mưu “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh” của địch. Đến lúc này, quân, dân ta ở Bình - Trị - Thiên về cơ bản đã tự túc được lương thực.

Trong vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh, dưới sự lãnh đạo của các đảng bộ địa phương và các cấp chính quyền, các hộ gia đình nông dân đã đăng ký thực hiện kế hoạch tăng gia sản xuất nông nghiệp, phát triển chăn nuôi nhằm cải thiện đời sống và đóng góp nhiều nhất cho kháng chiến. Chính quyền và các ban ngành chức năng đã thực hiện nhiều biện pháp hướng dẫn giúp đỡ bà con nông dân về kỹ thuật canh tác mới, vốn tín dụng, thủy lợi, bảo vệ sản xuất chống thiên tai địch họa, giải quyết vấn đề ruộng đất và tổ chức lại sản xuất. Ban Canh nông từ khu đến tỉnh, huyện đã cử cán bộ đi tìm hiểu thực tế ở nông thôn, đưa ra những sáng kiến đổi mới kỹ thuật thích hợp như phổ biến rộng rãi phong trào dùng phân xanh, phân bắc để bón ruộng, kết hợp với cấy hai vụ, phát triển vụ chiếm và trồng nhiều cây màu mới như đỗ, lạc, vừng… Nhờ đổi mới kỹ thuật canh gác, mùa màng thu hoạch khá hơn, bà con nông dân càng phấn khởi ra sức tăng gia sản xuất và đóng thuế nông nghiệp, đi dân công phục vụ các chiến dịch. Vụ lúa chiêm năm 1951, năng suất đã tăng 20%, vụ lúa mùa, sản lượng lương thực cũng đạt khá hơn vụ trước, năng suất từ 1.000 kg/mẫu tăng lên 1.750 kg/mẫu.

Tháng 5-1951, Chính phủ ban hành Sắc lệnh thuế nông nghiệp nhằm mục đích thống nhất mức huy động trong toàn quốc, đảm bảo công bằng, hợp lý hơn đối với nông dân nghèo, khuyến khích sản xuất phát triển. Tháng 7-1951, Điều lệ Tổng động viên vật lực cũng được ban hành với nội dung chủ yếu là thống nhất các nguồn thu qua nguồn thu thuế nông nghiệp và thuế công thương nghiệp. Đây là một công tác trọng tâm của toàn quốc, đồng thời Đảng, Chính phủ chủ trương thay đổi một cách căn bản hệ thống tài chính theo phương châm: “tăng thu giảm chi”. Chủ trương tạm vay thuế nông nghiệp của Đảng được nhân dân ba tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh và vùng tự do Bình - Trị - Thiên tích cực hưởng ứng. Riêng vụ mùa 1951, Chính phủ đã ấn định mức tạm vay cho ba tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh là 40.000 tấn. Tổng cộng số thu từ thóc và ngô đã đạt 37.000 tấn. Thuế công thương nghiệp toàn liên khu đạt 541.000.000 đồng.

Hiểu rõ trách nhiệm của hậu phương đối với tiền tuyến, trong điều kiện khó khăn, gian khổ, nhân dân vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh đã quán triệt sâu sắc nguyên tắc “cần, kiệm, liêm, chính” đặt lợi ích của Tổ quốc lên trên hết. Ai ai cũng nghĩ rằng khi đã có độc lập tự do thì hạnh phúc sẽ đến với tất thảy mọi người, mọi nhà. Vì vậy, đại đa số đồng bào đã không tiếc công, tiếc của, dành dụm từng lon gạo, cân ngô để làm sao huy động nhanh nhất, nhiều nhất cho yêu cầu của mặt trận. Nhiều địa phương ở Thanh Chương (Nghệ An), nông dân đã hoàn thành vượt mức chỉ tiêu tạm thu thuế nông nghiệp. Nguồn thu từ thuế nông nghiệp trở thành nguồn thu chính để tăng ngân sách của Trung ương và giữ lại một phần phụ cấp cho cán bộ, công nhân của liên khu. Trên cơ sở đó, tiêu chuẩn cung cấp cho bộ đội cũng được cải thiện thêm, công tác dân công hỏa tuyến cũng được chấn chỉnh lại theo hướng sử dụng hợp lý hơn. Điều quan trọng là nhờ thuế nông nghiệp mà liên khu có được một lượng dự trữ lúa gạo trong tay để góp phần bình ổn vật giá. Trong các chiến dịch Hà - Nam - Ninh (Quang Trung), Trung du (Trần Hưng Đạo) hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh, chủ yếu là Thanh Hóa, đã huy động hàng nghìn tấn lương thực phục vụ bộ đội. Chủ trương thu thuế nông nghiệp còn đem lại một kết quả quan trọng nữa là tạo nên phong trào hiến điền trong giới điền chủ ở Liên khu IV. Định mức thuế nông nghiệp được căn cứ vào diện tích gieo trồng và sản lượng thu được. Những địa chủ có nhiều ruộng, sản lượng cao phải nộp thuế theo tỷ lệ cao hơn những người có ít ruộng, sản lượng thấp. Điều đó không chỉ là một thành công về mặt kinh tế mà còn có tác dụng thiết thực đến vấn đề tư tưởng người nông dân. Họ thấy rõ hơn chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ là phù hợp với đại đa số quần chúng lao động.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Hai, 2016, 08:18:24 pm
Nhưng công tác thu thuế nông nghiệp cũng bộc lộ nhiều mặt yếu kém. Việc huy động thuế nông nghiệp quy định mức thu theo thu nhập. Người có thu nhập càng cao thì mức thu càng nhiều và ngược lại. Người có thu nhập 155 kg góc thu 10%, 400 kg thu 20%, 800 kg thu 30%. Do đó, một số người vì nhận thức chưa đúng nên đã sinh ra nghi ngờ chính sách thuế nông nghiệp, thậm chí chống đối. Trong chiến dịch Hà - Nam - Ninh, tỉnh Thanh Hóa đã huy động hơn tám vạn dân công và chiến dịch Trung du (Trần Hưng Đạo) là gần 2,5 vạn. Nhưng công tác thu thuế nông nghiệp ở Liên khu IV thực sự là một cuộc đấu tranh giai cấp. Ở một số nơi, các cấp ủy đảng và chính quyền mang nặng tư tưởng chủ nghĩa thành tích đã áp đặt máy móc chỉ tiêu thu thuế nông nghiệp quá cao, dẫn đến tình trạng huy động quá sức dân, nhất là ở vùng bị thiên tai, địch họa, dẫn đến tình trạng đẩy những hộ nông dân nghèo vào cảnh khốn khó nên đã có người chết đói. Ngược lại, một số cán bộ, đảng viên không gương mẫu trong việc thực hiện chính sách thu thuế nông nghiệp, trốn tránh thực hiện giảm tô giảm tức… nên đã ảnh hưởng đến phong trào chung, quần chúng giảm sút lòng tin đối với cán bộ. Trong nhiều đoàn dân công có đảng viên lãnh đạo, có kẻ xấu phao tin nơi này nơi kia dân công bị phục kích hay dẫm phải mìn chết nhiều, nhưng không được giải thích rõ nên tin là thật dẫn đến mất tinh thần, bỏ chạy hay thấy người khác chạy mình cũng chạy… Từ đó, Liên khu đã có kế hoạch và biện pháp khắc phục những mặt yếu kém, thi hành kỷ luật những cán bộ, đảng viên thiếu gương mẫu trong việc thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ.

Đồng thời với việc tăng cường chỉ đạo sản xuất nông nghiệp, Liên khu ủy đã chú trọng phát triển công thương nghiệp, khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển theo phương châm “lao tư lưỡng lợi” thực hiện tư tưởng đại đoàn kết trong xây dựng kinh tế. Vì vậy các địa phương đã nhanh chóng huy động các nguồn lực từ mọi giai tầng xã hội, mọi địa phương, mọi nhà, mọi người đều tham gia sản xuất, tạo ra của cải vật chất vừa ích nước vừa lợi nhà nuôi sống xã hội và phát triển cuộc kháng chiến. Cũng như thuế nông nghiệp, từ giữa năm 1951, liên khu bắt đầu áp dụng thuế công thương nghiệp mới theo thu nhập nhằm khuyến khích sản xuất, động viên doanh nhân bỏ vốn cùng kinh doanh, xóa bỏ các biện pháp hành chính bao vây kinh tế không phù hợp, cho phép tư thương được vay tín dụng để phát triển sản xuất, kinh doanh, v.v. Ngành công thương nghiệp ở Liên khu IV đã dần dần phát triển. Cán bộ, công nhân, công thương gia, trí thức đã sẵn sàng chấp nhận gian khổ, hy sinh, ra sức sản xuất trong mọi điều kiện gian khổ thiếu thốn để đóng góp tất cả những gì có thể. Nhờ đó trên địa bàn Liên khu IV đã có hàng chục cơ sở sửa chữa và chế tạo cơ khí nhỏ. Riêng cơ sở luyện kim lò cao Như Xuân (Thanh Hóa) kỹ sư Trịnh Tam Tỉnh cùng tập thể công nhân nấu thành công mẻ gang đầu tiên vào tháng 7-1951. Sản xuất than của một cơ sở tư nhân đã đạt trung bình 150 tấn/năm, sản lương chung đạt 2.000 tấn, than củi đạt 2.800 tấn, diêm tiêu 67 tấn, phốt phát 3.000 tấn. Đương nhiên tất cả các mỏ đều khai thác theo phương pháp thủ công, hiệu quả không cao, nhưng đã đóng vai trò rất quan trọng cung cấp nguyên liệu cho các xí nghiệp quân giới và cơ khí trong liên khu. Thanh - Nghệ - Tĩnh đã có 33 xưởng dệt, Bình - Trị - Thiên có bốn xưởng dệt tạm đủ cung cấp cho bộ đội chủ lực một bộ đồng phục mà trước đó thường gọi là bộ “đại quân”. Ngoài ra, nhiều cơ sở công nghiệp nhẹ phục vụ đời sống dân cư cũng phát triển mạnh như cơ sở sản xuất dầu trẩu, làm muối, nước mắm, v.v. Ở Liên khu IV cũng đã có bốn doanh nghiệp hoạt động nhưng chưa có tính chất sản xuất kinh doanh, thành phần gián tiếp sản xuất quá đông. Một số cơ sở chăn nuôi, trồng trọt tập thể như Phủ Quỳ, Con Cuông, Yên Mỹ (Nghệ An) chuyên chăn nuôi gia súc và trông các loại cây công nghiệp, thực phẩm như mía đường, lạc, trầu, v.v. Các đơn vị sản xuất trên đã thu 600 gia súc, 3.000 lít mật, 5 tấn mía đường, 50 tấn cà phê và 130 tấn dầu trẩu. Nhưng nhiều mặt hàng tiêu dùng như vải, giấy mới chỉ đáp ứng 30% nhu cầu.

Giao thông đường bộ còn gặp nhiều khó khăn do bị địch bao vây đánh phá. Từ cuối năm 1951, liên khu đã tiến hành sửa chữa một số tuyến đường bộ ở Nghệ An đi Thanh Hóa, một số tuyến đường sông ở hai tỉnh, nhất là tuyến sông Lam, sông La, kênh nhà Lê v.v. giữ vị trí rất quan trọng trong giao lưu hàng hóa.

Cùng với phong trào đấu tranh quân sự, chính trị, sự chuyển biến về kinh tế, công tác xây dựng và phát triển văn hóa, xã hội trong vùng tự do, vùng căn cứ kháng chiến cũng được chú trọng. Công tác tuyên truyền, vận động các tầng lớp nhân dân nhận thức rõ bản chất xâm lược và những thủ đoạn chiến tranh tâm lý thâm độc của chủ nghĩa thực dân đế quốc là một cuộc đấu tranh dai dẳng và quyết liệt vừa để xây dựng nền văn hóa mới vừa để chống âm mưu nô dịch văn hóa của địch.

Để xây dựng một nền giáo dục lành mạnh với mục tiêu phục vụ kháng chiến, kiến quốc, từ cuối năm 1950, Liên khu ủy đã chỉ đạo tiến hành cuộc vận động cải cách giáo dục, rèn cán chỉnh cơ cho toàn bộ giáo viên các cấp học. Nội dung giảng dạy cũng được cải tiến và nâng cao về chất lượng cho phù hợp hơn với nhiệm vụ và yêu cầu phát triển của cuộc kháng chiến. Về mặt tổ chức, các trường tiểu học và trung học được xây dựng thành các trường cấp I, cấp II, cấp III.

Nhiệm vụ xóa nạn mù chữ được triển khai rộng rãi, thường xuyên ở các tỉnh trong Liên khu IV và đã thu nhiều kết quả. Liên khu cũng dành một phần chi ngân sách để xây dựng hệ thống trường phổ thông trung học, tiểu học và các lớp bình dân học vụ. Riêng ba tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh đã có 35 trường phổ thông gồm ba trường cấp II và 32 trường cấp I, cấp II. Nhiều lớp dạy nghề và hệ dự bị đại học ở Thanh Hóa cũng bắt đầu mở ra nhằm đáp ứng yêu cầu đào tạo cán bộ có trình độ khoa học và tay nghề chuyên môn phục vụ kháng chiến, kiến quốc.

Công tác văn hóa, giáo dục ở Liên khu IV đã góp phần nâng cao trình độ văn hóa trong các tầng lớp nhân dân, xóa bỏ các tập tục lạc hậu, xây dựng nếp sống văn hóa mới trong vùng tự do, đồng thời củng cố khối đoàn kết các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là đoàn kết công, nông, trí thức, đẩy mạnh công tác dân vận, đấu tranh chống địch bắt lính, chống đi phu, lên án những hiện tưởng đảo ngũ của một số người chạy vào vùng địch.

Lúc này, các văn nghệ sĩ, trí thức của Liên khu IV thường có mặt ở khắp nơi, nhưng tụ hội đông nhất ở Quản Tín, Hậu Hiền (Thanh Hóa), trong đó có các nhà văn Nguyễn Tuân, Đặng Thai Mai, Vũ Ngọc Phan, Hằng Phương, Trương Tửu, Nguyễn Mạnh Tường, Phó Đức Tố, tướng Nguyễn Sơn, nhà thơ Hữu Loan, nhà viết kịch Bửu Tiến, nhà báo Nguyễn Đình Lạp; các họa sĩ Nguyễn Sỹ Ngọc, Phạm Văn Đôn, Nguyễn Thị Kim, Nguyễn Văn Nùng; nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý, v.v. Chính vì vậy tỉnh Thanh Hóa có điều kiện thuận lợi phát triển mạnh mẽ văn hóa, nghệ thuật trong kháng chiến.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Hai, 2016, 08:19:52 pm
Được rèn luyện và trưởng thành trong phong trào kháng chiến, năng lực, trình độ, tác phong lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng và chính quyền trong liên khu đã có những chuyển biến tích cực. Những biểu hiện quan liêu, xa rời quần chúng, lãng phí, tham ô được phát hiện qua cuộc vận động giảm tô, giảm tức, tạm vay thuế nông nghiệp, huy động dân công… dần dần được khắc phục.

Với những chuyển biến tích cực về mọi mặt, Liên khu IV nói chung và chiến trường Bình - Trị - Thiên nói riêng, đã được Trung ương Đảng khen ngợi: “Chúng ta cần đặc biệt nêu gương của Bình - Trị - Thiên, một chiến trường đã tiến bộ về du kích chiến cũng như về vận động chiến trong điều kiện khó khăn về quân sự và kinh tế và phải tự lực khắc phục những khó khăn đó”(1).

Trong khi tại Việt Nam, thực dân Pháp và chính quyền tay sai được đề quốc Mỹ khuyến khích đẩy mạnh chiến tranh bằng những khoản viện trợ lớn nhằm xoay chuyển tình thế thì ở Lào, Campuchia, chúng cũng lập lại chính quyền phản động, tăng cường mở rộng chiến tranh xâm lược, âm mưu khôi phục chủ nghĩa thực dân, đặt lại ách thống trị trên toàn bán đảo Đông Dương. Song hành động xâm lược của Pháp và Mỹ đã bị nhân dân Việt Nam, nhân dân Lào, Campuchia cực lực phản đối.

Sự phát triển về thế và lực của cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam từ sau chiến thắng Biên Giới đã ảnh hưởng sâu sắc tới chiến trường Trung Lào và Hạ Lào. Tuy nhiên, với sự can thiệp của đế quốc Mỹ, các thế lực phản động Lào đã nối giáo cho giặc Pháp mở rộng phạm vi chiếm đóng. Lực lượng quân chiếm đóng của Pháp lên tới khoảng 25 đại đội. Ngoài ra, quân Pháp còn tăng cường trang bị vũ khí và xây dựng quân đội tay sai người Lào lên tới hàng vạn tên. Để tiến công, tiêu diệt lực lượng cách mạng Lào còn non trẻ, quân Pháp cùng với binh sĩ người Lào trong quân đội Pháp mở hàng trăm cuộc càn quét quy mô vừa và nhỏ kết hợp với hành quân lớn tiến công vùng giải phóng dọc Trung Lào và Hạ Lào, áp sát vùng biên giới với Việt Nam.

Tháng 2-1951, quân Pháp mở trận càn lớn vào căn cứ ở tây nam Atôpơ, sau đó hành quân vào các vùng Lào Ngăm, mở chiến dịch Clauviêng vào bắc Xaravan, đường số 5, đường số 6 áp sát đường biên giới giữa Việt Nam và Lào. Âm mưu của chúng là tiêu diệt lực lượng Mặt trận Ítxala, xóa vùng căn cứ kháng chiến ở Lào, từ đó xây dựng bàn đạp để tiến công và uy hiếp trực tiếp chiến trường Liên khu IV của Việt Nam.

Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng về nghĩa vụ quốc tế, quân và dân Liên khu IV đã tăng cường đoàn kết và phối hợp chặt chẽ với lực lượng cách mạng Lào. Liên khu IV đã coi nhiệm vụ giúp bạn như giúp mình để cùng phối hợp chiến đấu đánh đuổi kẻ thù chung, giành độc lập tự do cho mỗi nước trên bán đảo Đông Dương. Căn cứ vào tính chất và nhiệm vụ cách mạng của mỗi nước, sự phối hợp chặt chẽ giữa chiến trường Liên khu IV và Trung Lào ngày càng có vị trí đặc biệt quan trọng trong tiến công tiêu diệt địch, làm thất bại âm mưu mở rộng chiến tranh của Pháp và Mỹ. Ban Chấp hành Trung ương Đảng giao nhiệm vụ cho Liên khu ủy Liên khu IV trực tiếp chỉ đạo công tác giúp đỡ bạn thông qua Ban Cán sự Trung Lào.

Từ đầu năm 1951, Liên khu IV đã tập trung giúp bạn tăng cường đào tạo cán bộ quân sự, cán bộ chính trị, củng cố và phát triển các đơn vị vũ trang, phối hợp chiến đấu chống địch dọc biên giới ba nước để mở rộng vùng giải phóng. Ban Chỉ huy tỉnh đội Hà Tĩnh và Ban Chỉ huy trung đoàn Trung Lào đã họp bàn kế hoạch phối hợp tác chiến đánh địch. Theo yêu cầu của bạn, Liên khu IV đã cử một tiểu đoàn bộ đội địa phương của tỉnh Hà Tĩnh tham gia chốt giữ vùng Napê, Banaphào để cho Trung đoàn Trung Lào phát triển nhanh đội hình tiến sâu vào nội địa. Trong đợt này, huyện Thạch Hà đã huy động gần 200 dân công làm nhiệm vụ hậu cần, phục vụ tác chiến cho Trung đoàn Trung Lào. Hai tỉnh Nghệ An, Thanh Hóa được giao nhiệm vụ bí mật mở đường sát biên giới và tăng cường vận chuyển lương thực, hàng hóa giúp nhân dân nước bạn trong vùng căn cứ và vùng giải phóng. Tỉnh Thanh Hóa đã cung cấp 300 cán bộ, chiến sĩ trong chỉ tiêu 600 người theo kế hoạch năm 1951 làm nhiệm vụ quốc tế tại chiến trường Trung Lào.

Với sự ủng hộ, giúp đỡ của quân và dân Liên khu IV, tháng 4-1951, Đại hội đại biểu nhân dân Trung Lào được khai mạc tại xã Trúc Lâm, huyện Hương Khê, Hà Tĩnh. Đại hội đã tán thành chủ trương thành lập khối liên minh nhân dân Việt - Miên - Lào nhằm tăng cường tình đoàn kết chiến đấu, đẩy mạnh công cuộc kháng chiến tới thắng lợi. Đại hội quyết định thành lập Mặt trận Ítxala Trung lào, vạch chương trình, kế hoạch phối hợp hành động với quân và dân Liên khu IV của Việt Nam, góp phần đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, giành độc lập dân tộc. Các tỉnh Liên khu IV của Việt Nam cũng tổ chức kết nghĩa với các tỉnh biên giới của nước bạn Lào như Hà Tĩnh kết nghĩa với Bôli Khamxay.

Dưới sự lãnh đạo của Mặt trận Ítxala Trung Lào và sự phối hợp của Ban Cán sự Trung Lào, phong trào kháng chiến ở Trung Lào có bước phát triển mới. Đầu năm 1951, Trung Lào đã xây dựng được các khu du kích ở Tà Ôi, Mương Noòng, Bulapha, Angklan, Thaiphaibăn… Gần 600 xã trên tổng số 95 xã của Trung Lào có cơ sở kháng chiến, trong đó 40 xã đã xây dựng được chính quyền cách mạng.


(1) Văn kiện Đảng, (1951-1952) , Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương, Hà Nội, 1980, t.3, q.1, tr.127.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 17 Tháng Hai, 2016, 08:22:26 pm
Sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng, Hội nghị đại biểu Liên minh Việt Nam - Campuchia - Lào họp từ ngày 11 đến ngày 14-3-1951. Dự hội nghị có đại biểu của Mặt trận dân tộc thống nhất ba nước Đông Dương. Hội nghị đã xác định tính chất, nhiệm vụ cơ bản của cách mạng ba nước trong sự nghiệp chống kẻ thù chung là thực dân Pháp và can thiệp Mỹ; xây dựng khối liên minh nhân dân ba nước dựa trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, tương trợ và có chương trình hoạt động chung. Hội nghị thành lập Ủy ban liên minh nhân Việt Nam - Campuchia - Lào gồm đại biểu của mặt trận dân tộc thống nhất ba nước Đông Dương để thực hiện mục đích và chương trình hành động của khối liên minh. Cũng trong dịp này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nghe Ban Cán sự Trung Lào báo cáo tình hình. Người căn dặn giúp Lào phải trên tinh thần đoàn kết, tôn trọng bạn. Trong công tác phải tìm hiểu kỹ phong tục, tập quán và hội nhập vào quần chúng nhân dân Lào; phải biết múa và hát Lămvông thì công tác tuyên truyền, vận động mới có kết quả.

Quán triệt tư tưởng chỉ đạo của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh: “giúp Lào tức là giúp mình, phải tôn trọng bạn, không được có tư tưởng ban ơn, nước lớn”, Liên khu ủy Liên khu IV đã cùng với Ban Cán sự Trung Lào chỉ đạo phối hợp hoạt động trong đấu tranh chống kế hoạch thâm độc của thực dân Pháp, can thiệp Mỹ và các thế lực phản động tay sai. Nhân dân các tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh tích cực chấp hành chủ trương của liên khu chia sẻ những thuận lợi, cùng khắc phục khó khăn, cử nhiều cán bộ, chiến sĩ sang giúp bạn Lào đẩy mạnh chiến tranh du kích, phát triển lực lượng kháng chiến.

Tháng 5-1951, Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Liên khu IV lần thứ III cũng xác định rõ: “Nhiệm vụ phối hợp và giúp đỡ Trung Lào là một yêu cầu cấp bách đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân trong liên khu nhằm mở rộng vùng giải phóng, phát triển thế và lực của cách mạng Lào, đồng thời phá thế uy hiếp của địch từ sườn phía Tây”(1). Nhưng nghị quyết cũng khẳng định sự nghiệp cách mạng ở Trung Lào phải do nhân dân và lực lượng cách mạng Lào quyết định là chính.

Căn cứ vào tình hình so sánh lực lượng giữa phong trào kháng chiến và địch ở Trung Lào, Liên khu ủy thấy cần “phải tăng cường giúp bạn về phát triển chiến tranh du kích, xây dựng các khu du kích hướng về đồng bằng, tiến tới xây dựng các đơn vị bộ đội địa phương. Trong hoàn cảnh Trung Lào hiện nay, cần chú trọng động viên chính trị, tuyên truyền cổ động nhân dân các bộ tộc Lào đoàn kết, trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi. Tổ chức và mở rộng cơ sở kháng chiến, phát triển phong trào đấu tranh chống áp bức bóc lột, chống hoạt động vũ trang lấn chiếm của địch. Để phát triển nhanh lực lượng kháng chiến, công tác đào tạo giúp Lào là vấn đề có ý nghĩa then chốt”(2).

Thực hiện sự phân công của Liên khu ủy, các tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị đã cử hai tiểu đoàn và một số đơn vị vũ trang cùng với trên 1.000 cán bộ thường xuyên giúp bạn xây dựng, củng cố hệ thống chính quyền trong vùng giải phóng, huấn luyện các đơn vị vũ trang, phát triển dân quân, du kích. Ban Cán sự Trung Lào được củng cố và tăng cường cán bộ gồm chín đồng chí (trong đó có hai đồng chí là liên khu ủy viên). Cơ sở đảng được phát triển rộng ở nhiều thôn bản với khoảng 600 đảng viên. Để đáp ứng yêu cầu đào tạo, phát triển và bồi dưỡng cán bộ giúp bạn tại chỗ, Liên khu IV đã mở một trường quân chính trong vùng giải phóng Lào. Đến giữa năm 1951, địa bàn hoạt động của Liên khu IV và bạn ở vùng sát biên giới hai nước đã mở rộng gấp năm lần so với trước.

Trước sự lớn mạnh của phong trào kháng chiến của quân và dân hai nước Việt - Lào, đặc biệt sau thất bại ở mặt trận Hòa Bình và sự thu hẹp phạm vi chiếm đóng ở Trung Lào, đầu năm 1952, thực dân Pháp tăng cường phòng thủ ở Trung Lào, âm mưu biến nơi đây thành khu vực mạnh để ngăn chặn sự phối hợp tiến công của quân và dân hai nước Việt - Lào.

Thấy rõ âm mưu đánh phá mới của địch, tháng 12-1951, Ban Thường vụ Liên khu ủy đã họp hội nghị và thông qua nghị quyết về chủ trương, kế hoạch công tác ở Trung Lào. Nghị quyết hội nghị nêu rõ ba nhiệm vụ căn bản ở Trung Lào là phát triển mạnh cơ sở của Mặt trận Ítxala, phát triển chiến tranh du kích và vận động phá vỡ khối binh sĩ người Lào trong quân đội Pháp.

Để phối hợp chặt ché giữa lực lượng bộ đội Việt Nam và bộ đội Ítxala, Liên khu ủy đã chỉ thị cho các đảng bộ Thanh - Nghệ - Tĩnh lãnh đạo quần chúng xây dựng khối đoàn kết Việt - Lào, phối hợp chặt chẽ với quân và dân Lào một cách toàn diện về quy mô và nhịp độ, ở cả tiền tuyến và hậu phương. Theo sự phân công của Liên khu ủy và Ủy ban kháng chiến hành chính liên khu, đảng bộ chính quyền ba tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh huy động hàng nghìn dân công tham gia mở đường, vận chuyển lương thực, thực phẩm trên dọc các tuyến đường biên giới chuẩn bị bước vào những chiến dịch lớn.

Đầu năm 1952, Liên khu IV đã tổ chức giúp bạn mở bốn khóa huấn luyện và đào tạo trên 300 cán bộ sơ cấp về quân sự, chính trị làm nòng cốt để phát triển cơ sở trong vùng tạm chiếm. Cơ sở của Mặt trận Ítxala đã có 419 tổ chức. Đây là những tổ chức chính trị rất quan trọng làm nòng cốt để hướng dẫn, vận động, tuyên truyền, giác ngộ các bộ tộc Lào trực tiếp tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Vùng Mahaxây có hơn 100 du kích, vùng Bulapha phát triển được 200 du kích và tổ chức một trung đội bộ đội địa phương, vùng Thaphaibăn có trên 100 du kích và hai trung đội bộ đội địa phương.

Với sự đoàn kết giúp đỡ, phối hợp của quân tình nguyện Việt Nam, vùng giải phóng Lào đã được xây dựng và củng cố. Toàn Trung Lào đã có 120 tiểu đội du kích, bốn trung đội hai đại đội bộ đội địa phương. Lực lượng vũ trang Ítxala phối hợp với một số đơn vị vũ trang tình nguyện Liên khu IV của Việt Nam đã liên tục chiến đấu, tiêu diệt cấp tiểu đoàn binh sĩ người Lào trong quân đội Pháp, bẻ gẫy các trận càn quét lớn của quân Pháp vào bắc Xaravan và tây nam căn cứ Atôpơ ở Mahaxây, Sennoi, buộc địch phải rút khỏi các vị trí Xôtviêng, Nahôn và Lâmthoai. Công tác binh vận cũng đã được phát động trong các thôn bản Lào. Cán bộ Việt Nam và Lào đã đi sâu, đi sát phong trào, tuyên truyền, vận động nhân dân, lên án chính sách xâm lược cùng các hình thức bóc lột kinh tế của thực dân Pháp, động viên các bộ tộc Lào không cho con em đi lính cho giặc, kiên quyết đấu tranh chống lại các hình thức bóc lột kinh tế của địch, chống phu phen tạp dịch; đồng thời, vạch rõ thủ đoạn chiến tranh tâm lý của thực dân Pháp âm mưu thực hiện chính sách “chia để trị”, “dùng người Lào đánh người Lào” để phục vụ cho cuộc chiến tranh xâm lược.

Tình cảm quốc tế trong sáng và gương hy sinh anh dũng, đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi của cán bộ, chiến sĩ tình nguyện Việt Nam ngày càng củng cố và tô đậm tình đoàn kết chiến đấu giữa nhân dân hai nước Việt - Lào vốn đã gắn bó keo sơn trong cuộc đấu tranh vì mục tiêu giải phóng dân tộc, giành độc lập cho mỗi nước.


(1) Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Liên khu IV lần thứ III, lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
(2) Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Liên khu IV lần thứ III, lưu tại Viện Lịch sử Đảng.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 20 Tháng Hai, 2016, 06:37:24 pm
II. ĐẨY MẠNH PHONG TRÀO CHIẾN TRANH DU KÍCH
TIÊU DIỆT SINH LỰC ĐỊCH, LÀM TRỌN NGHĨA VỤ
CỦA HẬU PHƯƠNG ĐỐI VỚI TIỀN TUYẾN

Bị thất bại ở mặt trận Hòa Bình, quân Pháp càng hoang mang, dao động. Bộ Chỉ huy Pháp ở Đông Dương chủ trương tập trung lực lượng cơ động chiến lược để đối phó với phong trào chiến tranh du kích của nhân dân Việt Nam đang phát triển mạnh ở khắp các vùng địch tạm chiếm, trọng điểm là vùng đồng bằng Bắc Bộ. Ngoài ra, thực dân Pháp ra sức củng cố, chiếm giữ vùng rừng núi Tây Bắc còn lại để mở rộng chiến tranh ở Lào, Campuchia, phát triển đội quân người Việt nhằm ổn định tình hình trên các chiến trường Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ.

Đế quốc Mỹ cũng tăng cường viện trợ khẩn cấp cho Pháp và chính quyền tay sai ở Đông Dương để chống lại phong trào kháng chiến của nhân dân ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia. Trong những tháng đầu năm 1952, Mỹ đã cung cấp cho Pháp ở chiến trường Đông Dương tới 120.000 tấn phương tiện chiến tranh, bao gồm các loại vũ khí tối tân, hiện đại. chi phí vào chiến tranh Đông Dương của đế quốc Mỹ đã lên tới 146 tỷ phrăng.

Trong tình thế bị động lúng túng, phải dàn quân để đối phó ở khắp nơi, quân Pháp ở Bình - Trị - Thiên ngày càng bị cô lập và bị uy hiếp. Âm mưu của Pháp là bình định xong các vùng tạm chiếm để rút quân ứng chiên chi viện cho mặt trận chính ở Bắc Bộ đã không thực hiện được, trái lại, một bộ phận lớn lực lượng địch đã bị tiêu hao, tiêu diệt trên chiến trường Bình - Trị - Thiên.

Mặc dù ở trong thế bị động và buộc phải đối phó ở khắp nơi, song được Mỹ hậu thuẫn, thực dân Pháp vẫn ngoan cố, chưa chịu từ bỏ ý đồ xâm lược. Trên chiến trường Bình - Trị - Thiên, quân Pháp đã thay đổi thế bố trí lực lượng và phương thức hoạt động nhằm quay về củng cố vùng chiếm đóng, đồng thời tăng cường càn quét, lấn chiếm vùng giáp ranh, vùng căn cứ du kích, tập trung phá hoại tiềm lực của phong trào kháng chiến để giành lại các vùng đông dân, nhiều của thuộc các huyện đồng bằng của Thừa Thiên, Quảng Bình, Quảng Trị. Mặt khác, chúng ra sức bắt lính, thi hành ráo riết lệnh tổng động viên, bắt cả phụ nữ ra trận, thực hiện triệt để chính sách vơ vét nhằm tiếp tục “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”. Quân địch ở Bình - Trị - Thiên đã tăng lên 32.000 quân. Điều đáng chú ý là binh lính người Việt tăng nhanh. Trên cục diện chiến trường cả nước, đây là một thắng lợi lớn của quân dân ta ở Bình - Trị - Thiên vì đã thu hút một lực lượng lớn quân đội xâm lược Pháp ở Đông Dương.

Quân Pháp đã tăng cường đánh phá hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh, nhất là phá hoại đê điều, kho tàng và các cơ sở kinh tế quốc phòng để làm cho tiềm lực kinh tế kháng chiến bị suy yếu. Đầu năm 1952, máy bay Pháp nhiều lần oanh kích, phá sập các công trình thủy lợi lớn ở ba tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh, như đập Bái Thượng, đập Đô Lương, đập Nam Đàn, cống Trung Lương… làm cho 125.000 mẫu ruộng bị hạn hán, úng lụt…

Để chống lại có hiệu quả hơn hoạt động bình định, đánh phá của địch, ngày 26-1-1952, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra chỉ thị vạch rõ: “Hiện nay, giặc Pháp đang tìm mọi cách điều động bộ đội thực hiện kế hoạch càn quét vùng du kích và căn cứ du kích của ta. Cho nên không được chủ quan khinh địch và lúc này hơn bao giờ hết, chúng ta càng phải ra sức thi hành Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ hai để kịp thời củng cố các vùng du kích và căn cứ du kích và tích cực chống giặc càn quét”(1). Ban Bí thư Trung ương Đảng yêu cầu các địa phương nêu cao cảnh giác, chống các biểu hiện như chủ quan khinh địch, dè dặt, bi quan, ỷ lại vào bộ đội chủ lực…

Ban Bí thư cũng đề ra những công tác chính ở vùng tạm chiếm là đẩy mạnh dân vận, địch vận, phát triển phong trào chiến tranh du kích. Các địa phương cần đặc biệt chú trọng việc củng cố chi bộ và đề cao vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng; cần giữ vững mối liên hệ chặt chẽ với quần chúng và phải giữ đúng nguyên tắc hoạt động bí mật để tồn tại và phát triển trong vùng địch hậu. Đối với các chiến trường Việt Bắc, Liên khu III, Liên khu IV, cần giữ vững thế trận tiến công và phát huy thắng lợi của chiến dịch Hòa Bình.

Từ tình hình thực tế chiến trường và nhiệm vụ của phong trào kháng chiến của Liên khu IV, Liên khu ủy nhận định: quân Pháp vẫn chiếm Hòa Bình còn là mối đe dọa lớn đối với Thanh - Nghệ - Tĩnh. Do đó, bộ đội phải bám sát địch, tiêu diệt chúng để bảo vệ hậu phương. Đầu năm 1952, Bộ Chỉ huy mặt trận Bình - Trị - Thiên đã thông qua kế hoạch tác chiến phối hợp với chiến trường chính. Nhiệm vụ trọng tâm là đẩy mạnh hoạt động quân sự, tác chiến tiêu diệt sinh lực địch, kiềm chế quân ứng chiến, phá chính sách tổng động viên của địch, bảo đảm hoàn thành thu thuế nông nghiệp và bảo vệ mùa màng. Để chủ động tiêu diệt sinh lực địch, bộ đội vừa phải tác chiến, vừa phải xây dựng lực lượng, gây cơ sở trong nhân dân. Bộ Chỉ huy mặt trận đã xây dựng phương án và chỉ đạo hoạt động tác chiến quân sự từ đầu tháng 1-1952 đến cuối tháng 5-1952.

Lúc đó, địch cũng đang thay đổi phương thức đánh phá trên chiến trường Bình - Trị - Thiên để tăng cường đối phó với phong trào chiến tranh du kích và tiếp tục mở rộng vùng chiếm đóng. Chúng đã rút bớt các vị trí đóng quân nhỏ lẻ dễ bị cô lập ở vòng ngoài để tập trung xây sựng các vị trí kiên cố có thể chốt giữ lâu dài. Mặt khác, chúng điều các đơn vị quân ứng chiến cơ động phối hợp với lực lượng binh sĩ người Việt trong quân đội Pháp mở các cuộc càn quét liên tiếp, dài ngày vào các vùng căn cứ du kích nhằm tìm diệt bộ đội chủ lực của lực lượng vũ trang kháng chiến. Đối với vùng tạm bị chiếm, chúng thay đổi hệ thống bố phòng xung quanh các đồn bốt, vị trí xung yếu, tăng cường củng cố hệ thống đồn bốt, tháp canh kiên cố.


(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chinh trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t., tr.16.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 20 Tháng Hai, 2016, 06:39:13 pm
Tháng 2-1952, chính quyền Bảo Đại ban bố lệnh tổng động viên đợt ba, đẩy mạnh việc bắt thanh niên trong vùng tạm chiếm đưa đi huấn luyện để bổ sung cho đội quân tay sai. Về chính trị, được sự hậu thuẫn của Mỹ, thực dân Pháp ra sức củng cố chính quyền tay sai, tiến hành cải tổ bộ máy. Bộ mặt phản dân hại nước của những kẻ làm tay sai cho giặc ngày càng lộ rõ. Chúng đã câu kết chặt chẽ với quân xâm lược ra sức đàn áp phong trào cách mạng, phá hoại chủ trương, đường lối kháng chiến của Đảng và Chính phủ.

Chỉ trong vài tháng đầu năm 1952, quân Pháp đã tiến hành hàng chục cuộc hành quân càn quét với lực lượng từ hai đến ba tiểu đoàn nhằm tiêu diệt lực lượng bộ đội chủ lực và phong trào chiến tranh du kích ở khắp các địa phương thuộc Quảng Trị, Thừa Thiên. Những cuộc hành quân càn quét của địch đã diễn ra ác liệt hơn cả về quy mô và cường độ đánh phá.

Trong các cuộc hành quân càn quét, quân Pháp đã thi hành những chính sách tàn bạo như phá sạch, đột sạch, cướp sạch để khủng bố tinh thần nhân dân. Hệ thống vành đai trắng của địch bị phá từng mảng trước đây, nay chúng tập trung củng cố lại. Chúng dùng xe tăng, đại bác phá hoại hàng trăm hécta lúa, màu, dùng xe cơ giới gom xúc hàng vạn đồng bào ở vùng ven để mở rộng vành đai trắng bao bọc xung quanh các nơi đồn trú và ven các đô thị. Nhiều cơ sở kháng chiến vừa được củng cố trong vùng tạm chiếm bị địch chà xát, đánh phá trở lại một cách ác liệt hơn.

Cuộc đấu tranh ở mặt trận Bình - Trị - Thiên diễn ra giằng co quyết liệt. Địch cố bám giữ những vùng chiếm đóng để làm bàn đạp tiến công vùng giáp ranh và vùng tự do của phong trào kháng chiến. Còn lực lượng vũ trang kháng chiến có lớn mạnh hơn trước, song trình độ kỹ thuật tác chiến chưa đều, đánh công kiên và đánh vận động đạt hiệu quả chưa cao, nhất là trong tình hình địch thay đổi thế bố phòng và áp dụng nhiều phương thức, thủ đoạn đánh phá ác liệt vùng căn cứ.

Liền khu ủy cũng nêu lên một số thiếu sót của phong trào kháng chiến như xây dựng cơ sở chiến tranh du kích chưa mạnh, ý thức chấp hành mệnh lệnh của một số cán bộ còn thấp, công tác binh vận, địch vận còn buông lỏng, v.v. Vì vậy, yêu cầu cấp bách của liên khu là phải nâng cao chất lượng chiến đấu của lực lượng vũ trang ba thứ quân, chủ động đẩy mạnh chiến tranh du kích trong vùng địch tạm chiếm.

Ngày từ đầu năm 1952, Liên khu ủy đã chỉ thị cho các địa phương phải tập trung đẩy mạnh chiến tranh du kích ở vùng địch tạm chiếm: “Nhiệm vụ trước mắt là phải khắc phục nhanh tình trạng phân tán của bộ đội và cán bộ ở các địa phương. Xây dựng nhanh các đơn vị bộ đội địa phương bám đánh địch, giữ làng ở từng địa phương, gắn tác chiến với việc xây dựng lực lượng tại chỗ. Trong củng cố, xây dựng dân quân, du kích, cần đặc biệt chú ý đến sự đoàn kết nhân dân ở cơ sở, tổ chức kiểm điểm rút kinh nghiệm về hoạt động tác chiến của bộ đội địa phương và dân quân, du kích qua những thành tích trong chiến đấu để phát huy mặt tích cực, nhân rộng điển hình và nâng cao trình độ tác chiến”…(1).

Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng và Liên khu ủy về việc phát huy chiến thắng trong chiến dịch Hòa Bình, quân và dân Bình - Trị - Thiên đã xác định quyết tâm đẩy mạnh phong trào chiến tranh du kích, tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, giải phóng đất đai và củng cố thế đứng chân vững chắc.

Đến giữa năm 1952, Đại đoàn chủ lực 325 tại mặt trận Bình - Trị - Thiên sau khi được bổ sung trang bị đã trở lại tấn công dài ngày vào vùng địch hậu. Bộ Chỉ huy mặt trận Bình - Trị - Thiên nắm sát diễn biến tình hình, tổ chức lại chiến trường, phân công kế hoạch tác chiến cho các đơn vị, nhằm vào chỗ yếu của địch và phát huy điểm mạnh của bộ đội để thực hiện phương thức tác chiến thích hợp, đạt hiệu quả cao. Bộ đội địa phương Thừa Thiên có nhiệm vụ đánh địch ở các vùng ven thành phố Huế và dọc quốc lộ số 1. Trung đoàn 18 và bộ đội địa phương Quảng Bình có nhiệm vụ đánh địch tại các trục đường giao thông chính, thu hút và phân tán lực lượng quân ứng chiến của chúng. Bộ đội địa phương tỉnh Quảng Trị tập trung tiến công một số vị trí kiên cố của địch ở bắc Quảng Bình.

Theo kế hoạch, đầu tháng 3-1952, Bộ Chỉ huy mặt trận Bình - Trị - Thiên mở một đợt hoạt động trọng điểm bằng cuộc tiến công vào vị trí Nam Đông thuộc huyện Gio Linh (Quảng Trị). Đây là một vị trí phòng ngự quan trọng của địch nằm trong hệ thống phòng thủ ở phía bắc tỉnh Quảng Trị. Nhận lệnh tác chiến, Trung đoàn 95 và tiểu đoàn 230 bộ đội địa phương tỉnh Quảng Trị cùng phối hợp chặt chẽ với dân quân, du kích, triển khai kế hoạch bao vây tiêu diệt vị trí Nam Đông. Quân Pháp điều hai tiểu đoàn có máy bay và xe bọc thép từ Đông Hà lên giải vây cho Nam Đông. Toán quân ứng cứu này cũng bị bao vây và chia cắt. Viên thiếu tá chỉ huy cuộc hành quân giải tỏa tử trận. Kết thúc trận đánh, 770 quân địch bị tiêu diệt. Đồn Nam Đông bị phá. Quân và dân địa phương đã bao vây các vị trí đồn lẻ, phá cầu, cống trên dọc tuyến đường 74 và 75, tiến lên giải phóng huyện lỵ Gio Linh. Trong trận này, bộ đội đã tiêu diệt hoàn toàn Tiểu đoàn 27 BTA và tiêu hao nặng tiểu đoàn 7 VBD (tiểu đoàn này bị tiêu diệt hơn một đại đội), phá hủy 60 xe vận tải, thu nhiều vũ khí, đạn dược.

Chiến thắng Nam Đông là nguồn động viên, cổ vũ lớn cho quân và dân Bình - Trị - Thiên nói riêng và toàn liên khu nói chung tiếp tục chủ động tác chiến tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch, mở rộng khu căn cứ ở bắc Quảng Trị và uy hiếp trực tiếp các vị trí địch ở Hà Thanh và Đông Hà.


(1) Chỉ thị của Liên khu ủy Liên khu IV, ngày 25-1-1952, tài liệu Cục lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phòng Chỉ thị, 1952, ĐK 60.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 20 Tháng Hai, 2016, 06:40:04 pm
Ở Quảng Bình và Quảng Trị, Trung đoàn 18 bộ đội địa phương đã đẩy lùi cuộc càn quét của địch vào huyện Bố Trạch. Ngày 25-3, Tiểu đoàn 274 và Tiểu đoàn 332 vận động tiến công tiêu diệt 250 quân địch ở Vạn Lộc - Hoàn Lão, đánh thiệt hại nặng một tiểu đoàn quân ứng chiến của quân Pháp. Ngày 21-3, các đơn vị thuộc trung đoàn 101 tiêu diệt hai vị trí tháp canh ở Cam Lộ và phục kích lật đổ ba toa tàu trên đường Mỹ Chánh - Đông Hà, đánh vận động diệt viện binh ở Khánh Mỹ, loại khỏi vòng chiến đấu gần 150 tên, bắt 45 tên địch, phá vị trí Sơn Tùng và 23 lô cốt trên đường Nông - Phú Bài - Gia Lễ - An Cựu. Bộ đội địa phương huyện Hải Lăng tập kích đồn Hải Thái, diệt gần 40 quân địch. Đại đội 325 huyện Triệu Phong diệt lô cốt Long Ngạn. Dân quân xã Triệu Sơn (Triệu Phong) tập kích lật đổ sáu toa tàu địch.

Mùa hè năm 1952, Liên khu ủy chỉ đạo xây dựng phương án tác chiến nhằm tiếp tục tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, phát huy phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng, giải phóng huyện Quảng Trạch (Quảng Bình), mở rộng vùng giải phóng xuống phía nam.

Ngày 19-5-1952, bộ đội chủ lực của liên khu tiến công hệ thống phòng thủ kiên cố của địch ở bắc Quảng Bình, tiêu diệt các vị trí Cửa Phủ, Sen Bàng, thị trấn Ba Đồn và Mỹ Hòa, chặn đánh và diệt hàng trăm quân địch, bắn chìm hai canô và bắn hỏng nhiều xe cơ giới từ Thanh Khê, Đồng Hới vào chi viện cho chúng ở Ba Đồn. Ba Đồn là một vị trí rất kiên cố và quan trọng trong hệ thống phòng thủ của quân Pháp ở tuyến đường số 1 phía bắc Đồng Hới. Mất Ba Đồn, thị xã Đồng Hới cũng luôn luôn ở trong tình trạng bị đe dọa tiến công.

Ngày 13-5-1952, lực lượng vũ trang Thừa Thiên tiến công vào cửa ngõ thành phố Huế, tiêu diệt hai vị trí Hương Cần, La Khê, bức rút 11 vị trí tháp canh, mở rộng vùng căn cứ giáp Huế. Ngày 14-5, địch điều quân ở Huế lên tiếp viện nhưng bị chặn đánh và bị tiêu diệt một trung đội. Trong trận này, bội đội đã bắt 100 tù binh và thu trên 100 súng các loại.

Sau hơn bốn tháng tiến công địch liên tục trong xuân - hè 1952, quân và dân Liên khu IV đã tiêu diệt và làm bị thương trên 3.000 quân địch, trong đó bắt 331 tù binh, thu nhiều vũ khí, đạn được các loại.

Phối hợp với phong trào đấu tranh vũ trang, trong vùng tạm chiếm ở đồng bằng và đô thị, nhân dân liên tục đấu tranh chống chính sách đàn áp, khủng bố và các thủ đoạn vơ vét, bóc lột của địch. Công nhân sở hỏa xa, sở bưu điện trong thành phố Huế liên tiếp đấu tranh bằng các hình thức đình công, biểu tình đòi tăng lương, giảm giở làm. Ở thị xã Đồng Hới, công nhân nhà đèn đã cắt điện gây thiệt hại về kinh tế cho địch. Nhân dân các vùng tạm bị chiếm liên tục đấu tranh chống kế hoạch “chiêu an”, “bình định”; đòi phá khu tập trung trở về làng cũ làm ăn. Phong trào chống địch cướp lúa, phá lúa, bảo vệ mùa màng, phát triển sâu rộng khắp nơi. Được lực lượng vũ trang hỗ trợ, phong trào đấu tranh bảo vệ mùa màng đã có nhiều chuyển biến tích cực. Vụ chiêm tháng 5-1952 vẫn thu hoạch khá. Nhân dân trong vùng căn cứ kháng chiến, vùng du kích đã khẩn trương thu hoạch nhanh lúa, màu, cất giấu lương thực và làm nghĩa vụ đóng thuế cho kháng chiến, tùy theo điều kiện của từng địa phương.

Phong trào đấu tranh chống địch bắt lính cũng được đẩy mạnh. Kể cả ở ba tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh, thực dân Pháp và chính quyền tay sai cũng đang bí mật tuyển dụng thanh niên vùng đồng bào công giáo đưa vào vùng tạm bị chiếm để huấn luyện thành các đội quân kiêu binh chống cộng. Liên khu ủy chỉ thị cho các cấp ủy đảng và chính quyền địa phương cần phải có kế hoạch bảo vệ thanh niên, động viên con em nhân dân lao động tích cực gia nhập lực lượng vũ trang địa phương để đánh địch, giữ làng. Thực hiện chỉ thị của Liên khu ủy và để đối phó với âm mưu thâm độc của địch, các cấp ủy đảng, chính quyền và các đoàn thể quần chúng đã kiên trì vận động các tầng lớp nhân dân, lợi dụng các hình thức hợp pháp và bán hợp pháp phối hợp đấu tranh chống địch bắt lính, vận động thanh niên cam kết không đi lính, trốn lính nếu bị bắt.

Liên tiếp thất bại trên các mặt trận, nội bộ địch ngày càng hoang mang, chia rẽ. Công tác tuyên truyền sâu rộng của các địa phương qua các đoàn thể quần chúng như mặt trận, thanh niên, phụ nữ, vạch rõ âm mưu thâm độc của của thực dân Pháp và chính quyền tay sai đã tác động mạnh và làm phân hóa sâu sắc hơn trong nội bộ hàng ngũ binh sĩ địch. Chỉ riêng sáu tháng đầu năm 1952, đã có trên 600 binh sĩ người Việt bỏ hàng ngũ giặc mang súng về với kháng chiến. Hơn 10 vụ binh biến hoặc làm nội ứng của binh sĩ ở các đồn Cự Lại, Thuận An, Cổ Trại, Phước Tịnh đã tạo điều kiện cho du kích tiêu diệt đồn.

Trong các tháng 3 và 4-1952, một bộ phận binh sĩ địch ở các vị trí Phương Tịnh, Mai Xá, Phú Bài, Ba Gióc, Vân Xá… liên tiếp phản chiến, có lẫn cả một tiểu đội mang súng chạy sang hàng ngũ kháng chiến. Ba cuộc đấu tranh của binh sĩ người Việt ở La Chử, Gia Viện, Cự Lợi chống lại sĩ quan chỉ huy, phản đối lệnh càn quét, đã kích thích mạnh mẽ tinh thần phản chiến trong binh sĩ ở nhiều đơn vị khác đòi giải ngũ, bỏ ngũ. ở đồn Cự Lợi, binh sĩ đã nổi dậy giết sĩ quan Pháp, mang toàn bộ vũ khí chạy ra vùng tự do.

Thực hiện chính sách khoan hồng của Chính phủ đối với tù, hàng binh, ngày 19-5-1952, nhân kỷ niệm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, chính quyền cách mạng đã tiếp tục thả 459 tù binh Pháp là lính Âu - Phi. Hành động trên có tác động lớn đến tư tưởng của hàng ngũ lính Âu - Phi do Pháp tuyển mộ sang đánh thuê ở chiến trường Đông Dương.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 20 Tháng Hai, 2016, 06:41:24 pm
Song song với công tác binh vận, địch vận, phá khối binh sĩ người Việt trong quân đội Pháp, công tác xây dựng, phục hồi cơ sở trong các vùng tạm chiếm, vùng giáp ranh cũng được đẩy mạnh. Trước những thủ đoạn đánh phá ác liệt và toàn diện của địch, Liên khu ủy đề ra phương châm củng cố vùng du kích và căn cứ du kích phải gắn liền với phát triển cơ sở cách mạng trong quần chúng, khôi phục lại các chi bộ đảng và cơ sở chính quyền thôn, xã, chủ động chống địch càn quét.

Tại nhiều địa phương có vị trí đồn, bốt quan trọng của địch, cuộc đấu tranh chống địch đã diễn ra giằng co quyết liệt như ở Hương Trà, Phú Lộc (Thừa Thiên), Thuận Hóa, Hưng Đạo Quảng Bình. Để duy trì, phát triển phong trào ở vùng địch tạm chiếm, nhiều cán bộ, chiến sĩ vẫn kiên cường bám trụ. Do đó, cơ sở du kích vẫn lan rộng đến các vùng sâu của ba tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, làm cho phạm vi kiểm soát của địch bị co hẹp lại so với cuối năm 1951. Những trận tiến công quân sự dồn dập trong xuân - hè năm 1952 đã làm suy yếu lực lượng quân địch và kìm chân, phân tán chúng ở khắp nơi. Đến mùa hè năm 1952, lực lượng vũ trang của liên khu đã được củng cố thêm một bước về tổ chức, biên chế, trang bị. Ở hầu hết các tỉnh đều xây dựng được từ hai đến ba tiểu đoàn thường trực chiến đấu. Các tiểu đoàn cơ động của tỉnh được bổ sung quân số, một số được điều động sang chiến đấu giúp bạn ở chiến trường Trung Lào. Nhiều đại đội độc lập của các huyện đã tham gia huấn luyện kỹ thuật cho lực lượng dân quân, du kích, tự vệ ở thôn, xã về kinh nghiệm xây dựng làng chiến đấu, chống địch càn quét. Tính chung, cứ mỗi xã có từ một trung đội đến một đại đội du kích bán thoát ly. Ở Thanh - Nghệ - Tĩnh, ngoài lực lượng du kích ở địa bàn thôn, xã, còn có một lực lượng dân quân tự vệ đông đảo sẵn sàng chiến đấu bảo vệ hậu phương và là lực lượng xung kích, đi dân công phục vụ các chiến dịch. Như vậy, qua thực tiễn chiến đấu, lực lượng vũ trang của liên khu phát triển cả về tổ chức và kỹ thuật tác chiến. Lập trường, tư tưởng của cán bộ, chiến sĩ được củng cố. Với sự đóng góp tích cực của hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh, một số đại đoàn chủ lực như các đại đoàn 304, 325 càng ngày càng trưởng thành về mọi mặt. Do yêu cầu của nhiệm vụ chiến đấu, ở liên khu đã xây dựng thêm một số đơn vị công binh, pháo binh, thông tin, vận tải hoạt động cơ động ở một số tỉnh.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cũng được chú trọng hơn. Hàng trăm cán bộ chỉ huy các cấp đã lần lượt được cử đi học các lớp chính trị, các lớp bồi dưỡng kiến thức quân sự. Trình độ chỉ huy và khả năng tác chiến của cán bộ, chiến sĩ được nâng lên rõ rệt.

Trang bị vũ khí của bộ đội cũng được cải thiện. Hầu hết các đơn vị bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương của tỉnh đã được trang bị thêm vũ khí của Bộ Quốc phòng - Tổng Chỉ huy như tiểu liên, súng trường. Nguồn vũ khí do các công binh xưởng của liên khu tự chế tạo để đáp ứng yêu cầu trang cấp cho bộ đội đã đáp ứng được 50% nhu cầu trang bị cho các đại đội chiến đấu. Lúc này, ở liên khu đã sản xuất, chế tạo các loại vũ khí có hiệu quả chiến đấu cao hơn như súng cối, súng phá bom, súng phóng đạn và các loại mìn, địa lôi có khả năng sát thương cao. Số lượng vũ khí sản xuất được cũng tăng lên từ ba đến bốn lần so với những năm trước. Do nguồn thu của hậu phương tăng, cho nên việc bảo đảm hậu cần cho bộ đội cũng được cải thiện đáng kể về ăn, mặc. Tiêu chuẩn ăn của bộ đội đảm bảo một người trên 1 kg gạo/ngày; mỗi người được hai bộ quần áo/năm, ba năm được một chăn, một màn, một áo trấn thủ.

Bị rơi vào thế bị động trên toàn chiến trường Đông Dương, cho nên quân Pháp khó có thể thôn tính được một địa bàn quan trọng như vùng Thanh - Nghệ - Tĩnh, nhưng chúng vẫn không từ bỏ âm mưu phá hoại mà càng đánh phá toàn diện hơn. Quân Pháp đã câu kết chặt chẽ với tay sai phản động, sử dụng nhiều mũi tiến công, kết hợp gây bao loạn nhằm phá từ bên trong và tiến đánh bằng quân sự từ bên ngoài để từng bước làm suy yếu hậu phương kháng chiến ở vùng Thanh - Nghệ - Tĩnh.

Được Mỹ cung cấp tiền bạc và các loại vũ khí tối tân, thực dân Pháp đã dùng máy bay đánh sâu vào nội địa ba tỉnh, đặc biệt là các vùng giáp biên giới với Lào và vùng ven biển Nghệ An - Thanh Hóa.

Từ đầu năm 1952, địch nhiều lần cho quân tiến đánh một số vị trí phía nam của tỉnh Hà Tĩnh, đưa quân đánh chiếm vùng Nho Quan của tỉnh Ninh Bình nhằm uy hiếp trực tiếp phía bắc tỉnh Thanh Hóa. Ngoài ra, chúng còn tiếp tay cho các nhóm thổ phỉ, phìa tạo quấy rối một số vùng biên giới, âm mưu lập xứ Mường, xứ Thái tự trị. Ở nội địa, chúng tung biệt kích, gián điệp, nuôi dưỡng số phản động đội lốt tôn giáo gây ra các vụ phản loạn ở Xã Đoài, Hưng Nguyên, Tây Hồ (Nghệ An), Ba Làng, Nga Sơn, Kim Sơn (Thanh Hóa) nhằm chống phá phong trào kháng chiến.

Trước hành động chống phá quyết liệt của địch, Ban Bí thư Trung ương Đảng chỉ thị cho các cấp ủy đảng vùng có đạo phải lãnh đạo quần chúng đấu tranh chống âm mưu và hoạt động của những kẻ phản cách mạng giả danh tôn giáo. Ban Bí thư Trung ương cũng phê bình nhiều địa phương chưa tích cực tranh thủ quần chúng, vạch mặt số phản động, chưa kiên trì tuyên truyền, vận động quần chúng, đem lại những quyền lợi thiết thân cho họ như thực hiện giảm tô, giảm tức. Đối với địch, chưa kiên quyết trừng trị những kẻ cầm đầu, ngoan cố chống lại phong trào kháng chiến. Ban Bí thư Trung ương Đảng chỉ rõ những công việc cụ thể cần làm ngay: “Phải mở rộng công tác tuyên truyền của ta trong các vùng tôn giáo, giải thích chính sách của Chính phủ và Mặt trận đối với giáo dân, vạch rõ âm mưu phản động lợi dụng tôn giáo để chia rẽ phá hoại kháng chiến của thực dân Pháp, can thiệp Mỹ. Phương châm tuyên tuyền là lấy sự thật của ta để chứng minh sự giả dối của bọn phản động… Xúc tiến công tác dân vận để tranh thủ đồng bào công giáo đứng về hàng ngũ kháng chiến, cô lập bọn phản động và trừng trị những tên ngoan cố nhất”(1).


(1) Chỉ thị của Ban Bí thư Trung ương Đảng, ngày 5-6-1952, tài liệu lưu trữ Viện Lịch sử Đảng, HS: II/3/101.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 20 Tháng Hai, 2016, 06:44:45 pm
Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, nắm vững phương châm kháng chiến toàn dân, toàn diện, tự lực cánh sinh là chính, đảng bộ và chính quyền các cấp Liên khu IV kiên quyết bảo vệ, củng cố và xây dựng hậu phương thành chỗ dựa vững chắc cho tiền tuyến; phát huy sức mạnh về quân sự, kinh tế, chính trị, cảnh giác, kịp thời chống các hành động phá hoại của địch, bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân; củng cố vững chắc các tuyến phòng thủ ở ven biển, vùng biên giới, đặc biệt là những vùng trọng điểm như Nga Sơn, Kim Sơn, Cổ Lũng (Thanh Hóa), Quỳ Châu, Mường Xén (Nghệ An), v.v. Phong trào quân sự hóa toàn dân, xây dựng làng chiến đấu và phòng gian bảo mật phát triển sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân.

Nhờ những biện pháp chủ động và tích cực trong đấu tranh chống địch, quân và dân Thanh - Nghệ - Tĩnh đã đánh tan các cuộc đổ bộ của địch vào Tĩnh Gia, Sầm Sơn, Nga Sơn (Thanh Hóa), Kỳ Anh, Cẩm Xuyên (Hà Tĩnh), Quỳnh Lưu, Nghi Xuân (Nghệ An). Lực lượng công an tỉnh Nghệ An đã phá tổ chức “hội đồng liên hương”, “Thanh niên nghĩa binh”, “Phụ nữ liềm chấu” ở Tràng Nứa. Thực chất đó là những tổ chức phản động biến tướng do địch lập ra để lôi kéo quần chúng. Tháng 8-1952, công an Thanh Hóa cũng phá tổ chức Quốc dân đảng phản động ở huyện Bá Thước và mạng lưới gián điệp ở Hòn Mê, Ba Làng.

Thắng lợi của quân và dân Liên khu IV trong việc chống pháp âm mưu và hành động phá hoại của địch đã làm thất bại ý đồ chiến lược của chúng định làm suy yếu hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh và ngăn chặn nguồn tiếp tế cho các chiến trường. Hàng trăm gián điệp, biệt kích bị bắt và đưa ra xét xử công khai trước tòa án nhân dân, trong số dó, nhiều kẻ gian ác đã bị trừng trị đích đáng. Hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh tiếp tục được bảo vệ vững chắc và ngày càng phát huy sức mạnh, cung cấp sức người, sức của phục vụ mặt trận Bình -Trị - Thiên và các mặt trận khác trong cả nước.

Trong xây dựng hậu phương tại ba tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh, công tác vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng đồng bào công giáo chiếm một vị trí quan trọng. Tỉnh ủy, Ủy ban kháng chiến hành chính các tỉnh Nghệ An, Thanh Hóa, Hà Tĩnh chú trọng chỉ đạo việc kiểm điểm thực hiện chính sách dân tộc ở miền núi, thông qua đó để làm tốt công tác đoàn kết dân tộc, thực hiện đoàn kết nông thôn, củng cố chính quyền cách mạng, phá chính sách chia để trị, phá âm mưu của địch lập xứ Mường, xứ Thái tự trị của địch.

Tháng 4-1952, Liên khu ủy đã ra nghị quyết, chỉ rõ: “Do đặc điểm chính trị và tình hình ruộng đất ở các vùng thượng du nên trong giai đoạn hiện nay, lợi ích của mỗi tầng lớp nhân dân phải phục tùng lợi ích của toàn thể dân tộc kháng chiến. Trong hai nhiệm vụ phản đế và phản phong thì nhiệm vụ phản đế là chính. Đảng cần chủ trương đoàn kết nhân dân trên cơ sở điều chỉnh một cách hợp lý những mâu thuẫn nội bộ để tập trung mũi nhọn chống đế quốc…”(1). Rút kinh nghiệm những ưu, khuyết điểm trong công tác thực hiện chính sách ruộng đất ở miền núi, Liên khu ủy nêu lên những nhiệm vụ cụ thể là phải xóa bỏ ngay những quan điểm hẹp hòi trong nhận thức của cán bộ, đảng viên, vận dụng đúng chính sách của Đảng đối với vùng dân tộc, phải vận động nhân dân để phát triển cơ sở chính trị, củng cố các ủy ban kháng chiến hành chính các cấp, nâng cao năng lực công tác các cơ quan dân, quân, chính, đảng, phá âm mưu của địch nhằm chia rẽ dân tộc.

Thực hiện chủ trương của Liên khu ủy, các tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh đã khẩn trương củng cố các đơn vị công tác ở miền tây, thành lập ban cán sự Thượng du dưới sự chỉ đạo trực tiếp của thường vụ tỉnh ủy. Cùng với sự chuyển biến trên tất cả các mặt công tác kháng chiến ở vùng thượng du, lực lượng vũ trang các huyện Bá Thước, Thường Xuân (Thanh Hóa) và Quỳ Châu, Nghĩa Đàn, Tương Dương, Con Cuông (Nghệ An) đã được củng cố. Để tiếp tục làm tốt công tác vùng thương du, một trong những khâu quan trọng là phải tăng cường cán bộ đảng cho miền núi. Ba tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh đã phải cử hàng trăm cán bộ miền tây công tác. Những cán bộ được cử đi đều phải quán triệt sâu sắc quan điểm dựa vào dân, lời nói và hành động phải gắn liền nhau.

Để đẩy mạnh công tác xây dựng hậu phương phục vụ tiền tuyến đánh giặc, tháng 3-1952, Trung ương Đảng và Chính phủ phát động phong trào thi đua sản xuất, tiết kiệm. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi đồng bào cả nước: “Thực hiện kế hoạch sản xuất và tiết kiệm là bồi dưỡng và tích trữ lực lượng dồi dào để kháng chiến lâu dài, để chuẩn bị đầy đủ chuyển sang tổng phản công, để đưa kháng chiến đến hoàn toàn thắng lợi. cho nên, ở vùng tự do, thực hiện kế hoạch sản xuất và tiết kiệm là công tác trung tâm của nhân dân, của Chính phủ và của Đoàn thể. Ở vùng du kích và căn cứ du kích, đó là một công tác rất quan trọng…

Mỗi địa phương, mỗi đơn vị, mỗi gia đình đều nên ký giao kèo thi đua thực hiện kế hoạch sản xuất và tiết kiệm riêng của mình để hoàn thành kế hoạch chung của Chính phủ”(2). Người nêu khẩu hiệu: “Bộ đội thi đua diệt giặc lập công. Nhân dân thi đua sản xuất, tiết kiệm”(3).


(1) Nghị quyết Hội nghị thượng du vận của Liên khu IV (từ ngày 23 đến ngày 28-4-1952), tài liệu Cục lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, HS Liên khu ủy IV, ĐVBQ 19.
(2), (3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, xuất bản lần thứ hai, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.6, tr. 440, tr.441.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 20 Tháng Hai, 2016, 06:45:35 pm
Thực hiện chủ trương của Đảng, Chính phủ và lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tại Liên khu IV đã tổ chức hội nghị đẩy mạnh phong trào thi đua sản xuất, tiết kiệm tới các ngành, các cấp. Trọng tâm phấn đấu trong toàn liên khu là phát triển sản xuất để cải thiện đời sống của nhân dân, bảo đảm cung cấp cho bộ đội, có nhiều sản phẩm để trao đổi ngoại thương và đấu tranh kinh tế với địch. Phát triển sản xuất phải đi đôi với tiết kiệm sức người, sức của để phát triển và phục vụ sản xuất, giảm bớt chi tiêu ngân sách quốc gia, sử dụng đúng đồng tiền, hạt thóc của nhân dân, phấn đấu giảm bớt sự đóng góp của nhân dân. Chấn chỉnh các ban kinh tế từ cấp liên khu, tỉnh tới ban dân sinh kinh tế xã.

Liên khu ủy đã chỉ đạo các địa phương cần triệt để thống nhất quản lý chi thu, tăng thu, giảm chi để thực hiện cân bằng thu, chi tài chính. Tiếp tục bồi dưỡng sức dân thông qua các chính sách giảm tô, giảm tức, tạm chia ruộng đất cho nông dân. Đối với các ngành giao thông, vận tải, thủy lợi, tài chính, mậu dịch, thương mại, cũng có kế hoạch đầu tư phát triển. Trong vùng địch tạm chiếm, nhiệm vụ chủ yếu là bảo vệ mùa màng, chống chính sách vơ vét bóc lột kinh tế của địch.

Hòa nhập với phong trào chung của cả nước, Liên khu IV phát động cuộc vận động toàn dân hăng hái thi đua sản xuất, tiết kiệm mừng ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đợt phát động tiến hành từ cuối tháng 3 đến tháng 5-1952 với khí thế Tất cả vì tiền tuyến, tất cả để chiến thắng. Nông dân các tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh và vùng căn cứ du kích Bình - Trị - Thiên thi đua khắc phục khó khăn, cần cù lao động sản xuất để tăng diện tích trồng trọt, tăng năng suất cây trồng, vật nuôi, tăng hàng hóa công nghiệp, hàng tiêu dùng để đóng góp nhiều hơn cho kháng chiến. So với cuộc vận động đầu năm 1951, cuộc đại vận động sản xuất, tiết kiệm đầu năm 1952 diễn ra cả về bề rộng và chiều sâu.

Theo tiếng gọi của Đảng, Chính phủ, hàng triệu đồng bào ở đồng bằng, miền núi, vùng đô thị, vùng đồng bào lương và vùng đồng bào công giáo, phật giáo đã tham gia xây dựng kế hoạch sản xuất, tiết kiệm, cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất cây trồng, vật nuôi, đảm bảo cung cấp đủ lương thực để bộ đội ăn no, đánh thắng địch.

Thời gian đó, cường độ đánh phá của địch vào hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh và vùng tự do, vùng căn cứ Bình - Trị - Thiên cũng diễn ra rất ác liệt. Đây cũng là một trong những thời kỳ gian nan nhất của liên khu. Giặc Pháp tiến hành cuộc chiến tranh lúa gạo hòng triệt phá các cơ sở tiếp tế hậu cần của nhân dân cho lực lượng vũ trang kháng chiến. Chúng đánh nống ra các vùng, cắt đứt đường giao thông, chặn các con đường tiếp tế ra, vào các khu căn cứ. Mặt khác, nhận thấy vị trí của hậu phương là nhân tố quyết định trong việc cung cấp sức người, sức của cho các mặt trận, nhất là phục vụ trực tiếp các chiến dịch lớn, giặc Pháp đã dùng máy bay ném bom, bắn phá hầu hết các công trình thủy lợi, lùng sục để đốt phá các kho tàng, công xưởng, để ngăn chặn nguồn tiếp tế tại chỗ và của hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh cho các chiến trường, gây đói kém để nhân dân giảm sút tinh thần chiến đấu.

Nhưng cũng chính những năm 1952-1953, quân và dân ở hậu phương Liên khu IV đã thể hiện mãnh liệt sức sống của lực lượng kháng chiến. Để giữ vững và phát triển sản xuất trong hoàn cảnh bị địch thường xuyên bắn phá, đảng bộ và chính quyền các cấp trong liên khu đã huy động hàng vạt lượng dân công tham gia chống thiên tai, địch họa, tích cực khắc phục hậu quả chiến tranh, hàn vá những đoạn đê, cầu, cống xung yếu, sửa chữa các công trình thủy lợi, bảo đảm sản xuất.

Phát huy tinh thần chủ động và sáng kiến phát triển thủy lợi nhỏ, nên nông dân hai tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An đã thực hiện tiêu úng, cấy được 147.000 mẫu lúa. Nông dân Hà Tĩnh đã đào hàng nghìn mét mương tưới nước, cấy thêm được 4.143 mẫu lúa. Thiếu sức kéo, nông dân các huyện Diễn Đàn, Anh Sơn, Hưng Nguyên đã cuốc hàng trăm mảnh đất để gieo cấy. Trên cơ sở kế hoạch sản xuất chung của toàn liên khu được đề ra, nhiều địa phương như Thanh Hóa đã có 49.009 hộ và ở Nghệ An có 43.284 hộ gia đình lập kế hoạch phát triển kinh tế và dăng ký thi đua sản xuất.

Trong phong trào thi đua sản xuất nông nghiệp, nhiều tấm gương điển hình tiên tiến về thâm canh tăng năng suất, áp dụng kỹ thuật canh tác mới đã xuất hiện ở các địa phương. Được sự hướng dẫn và chỉ đạo của các cấp chính quyền, các địa phương đã tiến hành mở đại hội, bình xét, lựa chọn được 32 chiến sĩ thi đua trên mặt trận sản xuất nông nghiệp để tham dự Đại hội chiến sĩ thi đua toàn quốc. Phong trào thi đua học tập anh hùng lao động Hoàng Hanh và các chiến sĩ thi đua Trịnh Xuân Bái, Ngô Văn Phú, Trương Thị Xin… đã phát triển rầm rộ ở khắp các địa phương. Việc áp dụng kỹ thuật mới trong canh tác như hướng dẫn nông dân cày ải, cầy sâu, bón lót, dùng phân xanh, cào cỏ Nghệ An và dùng cày 51…, được áp dụng khá rộng rãi. Nhiều nơi đã chuyển từ cấy một vụ thành cấy hai vụ; một số giống cây trồng mới như cà chua, đỗ, lạc được lưu chuyển từ vùng này sang vùng khác để tạo nguồn thực phẩm tại chỗ cho nhân dân. Trong sản xuất nông nghiệp, nông dân ở nhiều nơi đã tự giác tham gia phong trào xây dựng tổ đổi công, hợp tác xã, lập nhóm sản xuất nhằm hợp sức chống thiên tai, địch họa. Đến năm 1952, tại Liên khu IV đã xây dựng được 7.725 tổ đổi công, hợp công, nhóm lao động sản xuất.

Nhờ nêu cao tinh thần dũng cảm, cần cù chịu khó trong lao động sản xuất nên diện tích gieo trồng và sản lượng lương thực của các tỉnh trong Liên khu IV vẫn ổn định. Chăn nuôi gia súc, gia cầm như trâu, bò, gà, vịt, v.v. cũng phát triển trong từng gia đình và một số đơn vị chăn nuôi tập thể.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 20 Tháng Hai, 2016, 06:47:00 pm
Song song với cuộc vận động đẩy mạnh sản xuất trong nông nghiệp, phong trào giao nộp đủ và đúng thời hạn thuế nông nghiệp đã trở thành một phong trào thi đua yêu nước rộng rãi. Không chỉ nhân dân trong vùng hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh mà nhân dân trong vùng các vùng du kích cũng tích cực hưởng ứng. thi đua với nông dân, cán bộ công chức, bộ đội, học sinh ở Bình - Trị - Thiên tranh thủ sản xuất để tự cung, tự cấp một phần lương thực, thực phẩm. Công nhân Liên khu IV đã cung cấp cho nông dân hàng vạn công cụ để phục vụ sản xuất.

Trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù chung, tinh thần đoàn kết, giúp đỡ nhau trong đồng bào các dân tộc từ miền núi đến đồng bằng ven biển đã được nhân rộng không chỉ trong phạm vi từng thôn, từng xã mà trở thành phổ biến của đại đa số các tầng lớp nhân dân. Bà con đã phát huy truyền thống tương thân, tương ái, “lá lành đùm lá rách”, giúp nhau giống, vốn để phát triển chăn nuôi, trồng trọt. Những lúc khó khăn do địch bao vây, phong tỏa hàng hóa, nhưng hàng nghìn tấn muối và hàng vạn lít nước mắm của đồng bào vùng biển đã được vận chuyển vượt vòng vây của kẻ thù tiếp tế cho đồng bào vùng đồng bằng, trung du và miền núi.

Nhân dân vùng địch tạm chiếm vừa chiến đấu chống giặc càn quét, bảo vệ mùa màng, vừa tích cực tham gia cuộc vận động sản xuất, tiết kiệm. Các cuộc đấu tranh chính trị của đồng bào chống giặc bắn đại bác, chống xe lội nước quần phá hoa màu, đòi bồi thường thiệt hại… liên tiếp diễn ra ở Gio Linh, Hải Lăng (Quảng Trị), Hướng Hóa, Vĩnh Linh (Quảng Bình). Nhân dân các vùng giáp ranh, vùng tạm chiếm của Thừa Thiên cũng liên tục đấu tranh chống bắt phu, bắt lính và các loại sưu cao, thuế nặng của chính quyền tay sai. Ở nhiều nơi, bộ đội, dân quân, du kích đã giúp đỡ đồng bào khẩn trương thu hoạch nhanh lúa, màu, cất giấu rồi tìm cách vận chuyển nộp thuế cho Chính phủ và tiếp tế cho bộ đội.

Sự phát triển về sản xuất nông nghiệp của hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh và một số vùng giải phóng, vùng căn cứ kháng chiến Bình - Trị - Thiên đã cung cấp lương thực cho bộ đội, bảo đảm nghĩa vụ nộp thuế cho ngân sách của Trung ương, đáp ứng yêu cầu ngày càng lớn của mặt trận. Nguồn thu từ thuế nông nghiệp cũng là nguồn thu chủ yếu để bảo đảm chi tiêu ngân sách ở địa phương. Từ năm 1952, tại liên khu đã phát triển các kho dự trữ lương thực và tự điều chỉnh phần lớn yêu cầu cung cấp của mặt trận và phòng đói, cứu đói giữa các vùng trong liên khu.

Ở vùng tự do và căn cứ du kích của tỉnh Thừa Thiên, nông dân đã phục hóa được 1.500 mẫu ruộng bị bỏ hoang. Nhiều nơi không còn trâu bò, nông dân đã dùng sức người kéo cày để bảo đảm gieo cấy đúng thời vụ và chú ý phấn đấu thâm canh tăng năng suất mùa vụ.

Trên cơ sở sản xuất nông nghiệp phục hồi và phát triển, đời sống của nông dân từng bước được cải thiện hơn. Việc giảm tô, giảm tức, tạm chia ruộng đất được các cấp ủy đảng,chính quyền, nông hội điều chỉnh để bảo vệ lợi ích của nông dân và hạn chế sự bóc lột của địa chủ, phong kiến. Kết quả của việc quân cấp công điền, công thổ và thực hiện giảm tô từ 25% đến 35% cho nông dân vùng tự do, vùng căn cứ đã làm cho bà con nông dân phấn khởi. Nhiều gia đình đã xóa được nợ cũ, được vay thêm vốn và được tạm cấp ruộng đất, có điều kiện cải thiện cuộc sống và đóng góp nhiều hơn cho kháng chiến.

Trung ương đã giao cho Liên khu IV mức thuế nông nghiệp vụ chiêm xuân năm 1952 là 110.000 tấn thóc, tăng gấp ba lần so với số tạm thu cuối năm 1951. Nhận thức đó là trách nhiệm của hậu phương đối với tiền tuyến, Liên khu ủy đã chỉ đạo các cấp bộ đảng và chính quyền vận động nông dân phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ đói với sự nghiệp đánh giặc, cứu nước. Mỗi cán bộ, đảng viên phải xung phong gương mẫu đi đầu trong công tác vận động tuyên truyền nhân dân và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế của mình để tạo thêm niềm tin cho quần chúng.

Thuế nông nghiệp tạm thu vụ chiêm xuân năm 1952 của các tỉnh Nghệ An, Thanh Hóa đã đạt từ 80 đến 95%. Riêng tỉnh Hà Tĩnh, do cán bộ thiếu chủ động và gương mẫu, mặt khác một số địa chủ, phú nông đã tìm cách giấu sản lượng và diện tích nên thuế thu vụ chiêm năm 1952 không đạt được chỉ tiêu Trung ương giao. Ngày 1-10-1952, Ban Thường vụ Liên khu ủy ra chỉ thị mở đợt kiểm điểm việc thi hành chính sách thuế nông nghiệp. “Giáo dục cho nhân dân về ý thức kiểm thảo là xây dựng cho nhau, cán bộ ai làm sai chính sách của chính phủ thì nhân có nhiệm vụ chỉ cho người đó biết là họ làm sai và giúp cho họ làm đúng, nhân dân người nào chưa đóng góp hoặc có những lời nói hoặc hành động ngăn cản sự đóng góp của nhân dân là chưa làm tròn nhiệm vụ yêu nước thì người khác có nhiệm vụ chỉ cho họ thấy sai lầm đó và xây dựng cho người đó có lòng yêu nước thực sự”(1).

Sau khi nhận được chỉ thị của Liên khu ủy, Tỉnh ủy Hà Tĩnh đã mở cuộc vận động phê bình và tự phê bình trong Đảng, chính quyền và các cấp hội nông dân. Với tinh thần kiên quyết và triệt để nên trong một thời gian ngắn, thuế tạm thu đã đạt 80% mức liên khu giao. Trong đợt đó, xã Hoàng Trinh, huyện Kỳ Anh do làm tốt công tác tuyên truyền vận động nên đã hoàn thành vượt mức 20 tấn. Với thành tích trên, huyện Kỳ Anh cùng với một số điển hình tiên tiến khác của hai tỉnh Nghệ An, Thanh Hóa đã được Ủy ban kháng chiến hành chính liên khu tuyên dương. Tỉnh Hà Tĩnh còn huy động dân công vận chuyển 500 tấn gạo vào Quảng Bình và giao 3.030 tân binh bổ sung cho quân chủ lực. Cùng với cuộc vận động thuế nông nghiệp, ba tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh còn là nơi nuôi dưỡng, cứu chữa cho hàng ngàn thương binh, bệnh binh của các mặt trận gửi về.

Ngoài việc hoàn thành nhiệm vụ đóng góp bằng thóc và các loại hiện vật khác, Thanh - Nghệ - Tĩnh đã huy động hàng triệu lượt dân công phục vụ các chiến dịch và các mặt trận. Riêng trong chiến dịch Hòa Bình, dân công các tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh cùng với ngành hậu cần quân đội đã vận chuyển gần 20 tấn vũ khí đạn dược, 6.275 tấn lương thực, 70 tấn thịt lợn và 50 tấn thực phẩm khác. Nhân dân Liên khu IV đã đóng góp 333.400 lượt người đi dân công với 11.914.000 ngày công.

Tháng 7-1952, thực hiện quy định mới của Hội đồng Chính phủ, Liên khu ủy đã thành lập Hội đồng cung cấp mặt trận và các tỉnh cũng thành lập các ban huy động dân công để huy động nhanh và nhiều nhất sức người, sức của cho mặt trận.


(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chinh trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.13, tr.444-445.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 20 Tháng Hai, 2016, 06:47:35 pm
Cùng với phong trào phát triển sản xuất nông nghiệp, các ngành công nghiệp, tiểu, thủ công nghiệp trong liên khu cũng chuyển biến mạnh. Nhiều chính sách mới của Đảng, Chính phủ về mậu dịch, ngân hàng, tài chính, tín dụng có tác dụng khuyến khích công, thương nghiệp, tiểu công nghệ phát triển sản xuất hàng hóa phục vụ nhu cầu tiêu dùng thiết yếu cho bộ đội và đời sống của nhân dân.

Cuộc vận động thi đua sản xuất, tiết kiệm trong các nhà máy, công xưởng do các cấp chính quyền và tổ chức công đoàn liên khu phát động đã lôi cuốn hàng nghìn công nhân quốc phòng, thợ thủ công hăng hái tham gia các phong trào như tăng năng suất, cải tiến kỹ thuật, học tập các gương điển hình tiên tiến. Trong phong trào thi đua đã xuất hiện hàng nghìn sáng kiến cải tiến kỹ thuật. Trong nhiều xí nghiệp quốc phòng, công nhân tăng năng suất từ 15% đến 50%. Nhiều xí nghiệp khai thác than đá, than bùn, phốt phát, diêm sinh và chế biến cà phê ở các tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh đã đạt và vượt năng suất từ 10% đến 100%. Các mỏ than ở Khe Bố (Nghệ An), Châu Long (Hà Tĩnh), phốtphát ở Cát Vân (Nghệ An)… cải tiến kỹ thuật khai thác, đạt năng suất cao hơn nhiều so với trước.

Được sự chỉ đạo của các cấp ủy đảng và qua tổng kết, rút kinh nghiệm về tổ chức quản lý, phát huy khả năng sáng tạo của công nhân, ngành công nghiệp quốc phòng đóng trên địa bàn liên khu đã phát triển nhanh cả về kỹ thuật và chủng loại, năm 1952, đạt xấp xỉ 300% so với năm 1950. Công nghiệp quốc phòng của liên khu đã phát triển cả trong công binh, quân nhu, quân dược, với nguyên liệu tại chỗ là chủ yếu.

Trải qua thực tiễn sản xuất và chiến đấu bảo vệ sản xuất, ngành công nghiệp quốc phòng và công nghiệp dân dụng đã đào tạo, phát triển hàng nghìn công nhân, kỹ thuật viên đạt trình độ sản xuất giỏi. Đó là vốn quý cho việc khôi phục đất nước sau chiến tranh.

Từ năm 1952, tại Liên khu IV đã có hàng chục cơ sở dệt vải như Hợp Tiến, Quyết Tiến (Nghệ An), Quảng Xuân (Quảng Bình) với khoảng trên 4.000 khung cửi, mỗi năm sản xuất được hàng nghìn mét vải khổ hẹp để phục vụ nhân dân và bộ đội. Trên 50 xưởng nhỏ sản xuất giấy cũng thường xuyên hoạt động cung cấp cho nhu cầu kháng chiến.

Đời sống còn nhiều thiếu thốn, nhưng với tinh thần chủ động, sáng tạo, giải cấp công nhân, thợ thủ công liên khu đã kiên trì vượt qua khó khăn, tích cực học tập, trao đổi kinh nghiệm để duy trì sản xuất và nâng cao năng suất lao động. Các phong trào thi đua phá kỷ lục Ngô Văn Phú về cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất đã góp phần tăng năng suất từ 20% đến 120%.

Trên cơ sở những thành tích đạt được trong phong trào thi đua lao động sản xuất, tiết kiệm, tháng 6-1952, liên khu đã bình chọn hơn 50 chiến sĩ thi đua của các ngành nông nghiệp, công nghiệp và giới thiệu hàng nghìn sáng kiến cải tiến kỹ thuật tham dự Đại hội chiến sĩ thi đua và cán bộ gương mẫu toàn quốc. Đại hội đã tuyên dương bảy anh hùng, trong đó có anh hùng lao động Hoàng Hanh là người con ưu tú tiêu biểu của quê hương Nam Đàn, Nghệ An.

Từ đầu năm 1952, do vận đụng linh hoạt chủ trương đấu tranh kinh tế với địch, Liên khu ủy đã chỉ đạo các địa phương chuyển hướng hoạt động bao vây kinh tế địch theo hướng có lợi cho phong trào kháng chiến. Chỉ thực hiện bao vây các loại hàng hóa xa xỉ, còn những loại hàng hóa cần cho kháng chiến như thuốc men, hóa chất, v.v. được nhập vào vùng kháng chiến. Ngoài ra, các địa phương cần khuyến khích thương nhân đem hàng hóa, nông sản dư thừa của vùng căn cứ, vùng tự do đi trao đổi, mua bán trong vùng địch tạm chiếm.

Chủ trương chuyển hướng đấu tranh kinh tế đã giúp cho các địa phương phá được thế bị địch bao vây kinh tế, đồng thời, khuyến khích nông dân hăng hái sản xuất để có hàng hóa tự do trao đổi. Sự giao lưu hàng hóa giữa các vùng được mở rộng đã góp phần từng bước ổn định thị trường và cải thiện đời sống của nhân dân.

Hòa nhập trong phong trào thi đua sản xuất và đánh giặc lập công, các hoạt động văn hóa, giáo dục trên địa bàn Liên khu IV cũng phát triển hơn trước. Với những thành tích đạt được trên mặt trận giáo dục, tháng 4-1952, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư thăm hỏi động viên các thầy giáo, cô giáo và sinh viên đang công tác và học tập tại Trường dự bị đại học ở Thanh Hóa. Người viết: “Các thầy giáo có nhiệm vụ nặng nề và vẻ vang là đào tạo cán bộ cho dân tộc. Vậy giáo dục cần nhằm vào mục đích là thật thà phụng sự nhân dân.

Các cháu thì học tập gần gắn liền với thực hành để mai sau thực hiện mục đích cao quý: thật thà phụng sự nhân dân.

Trong phong trào toàn dân thi đua, chắc rằng ở trường cũng thi đua. Thầy thi đua dạy, trò thi đua học. Thầy và trò thật thà đoàn kết và dùng cách dân chủ (thật thà tự phê bình và phê bình) để giúp nhau tiến bộ mạnh, tiến bộ mãi”(1).

Thực hiện lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phong trào xóa nạn mù chữ, bình dân học vụ ở Liên khu IV được tiếp tục duy trì và phát triển. Ngành giáo dục phổ thông được chấn chỉnh theo phương châm phục vụ kháng chiến, phục nhân dân. Từ năm 1951 đến năm 1952, trong điều kiện khó khăn, gian khổ, ngành giáo dục phổ thông và dự bị đại học trên địa bàn liên khu đã đào tạo được nhiều lớp học sinh, sinh viên đại học cho nền giáo dục dân tộc, dân chủ nhân dân.


(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, xuất bản lần thứ hai, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.6, tr.467.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 20 Tháng Hai, 2016, 06:49:58 pm
Đi đôi với công tác giáo dục, tại liên khu đã tiến hành bồi dưỡng chính trị cho các văn nghệ sĩ, quán triệt quan điểm văn hóa, văn nghệ phải thiết thục phục vụ kháng chiến. Hoạt động văn hóa, văn nghệ phải gắn bó và đi sát đời sống của quàn chúng nhân dân, phổ biến tuyên truyền rộng rãi chính sách của Đảng và Chính phủ phục vụ phong trào thi đua sản xuất, thực hành tiết kiện, hoàn thành nghĩa vụ đóng thuế nông nghiệp, chỉnh quân, chỉnh đảng, v.v. Sáng tác văn xuôi, kịch, tấu, nhạc, họa ngày càng phát triển và được phổ biến trong toàn quân, toàn dân, khơi dậy tình yêu quê hương, đất nước, nâng cao nhiệt tình cách mạng, phục vụ kháng chiến.

Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng về công tác chỉnh đốn đảng, từ tháng 5-1952, Liên khu ủy đã tổ chức nhiều lớp học tập chính trị cho cán bộ liên khu và tỉnh về nhiệm vụ cách mạng Việt Nam, quan điểm trường kỳ kháng chiến, tự lực cánh sinh, chính sách ruộng đất của Đảng, kiên định lập trường của giai cấp công nhân, giáo dục ý thức, tổ chức kỷ luật, chống tham ô, quan liêu, lãng phí, v.v. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói rõ mục đích của công tác chỉnh đốn Đảng: Mục đích chỉnh đảng là nâng cao tư tưởng và trình độ chính trị của đảng viên và cán bộ, làm cho đảng viên và cán bộ theo đúng quan điểm và lập trường vô sản.

Nếu chúng ta chỉnh đảng thành công thì nó sẽ khuếch trương những thắng lợi về quân sự, chính trị, kinh tế, v.v.

Do chỉnh đảng mà Đảng rèn luyện chỉnh đốn và tăng cường đội ngũ của mình, để giữ vững trường kỳ kháng chiến đến thành công. Đó là ý nghĩa của việc chỉnh đảng”(1).

Hầu hết các đơn vị bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, cơ quan, nhà trường đều tiến hành học tập chính trị. Các đơn vị vũ trang của liên khu tổ chức cho cán bộ, chiến sĩ học tập lý luận gắn liền với liên hệ thực tiễn chiến đấu; kiểm điểm, phê bình, tự phê bình về tác phong công tác, nâng cao giác ngộ giai cấp trong quân đội; nhận thức sâu sắc hơn về tư tưởng kháng chiến trường kỳ, gian khổ nhưng nhất định thắng lợi.

Cuộc chỉnh đốn đảng được tiến hành thực hiện từ cấp Liên khu ủy đến Đảng ủy mặt trận Bình - Trị - Thiên và các tỉnh ủy. Các cấp ủy đảng và chính quyền địa phương đã kết hợp chặt chẽ công tác chỉnh đốn Đảng với củng cố, xây dựng chính quyền các cấp. Cuối tháng 3-1952, Đảng ủy mặt trận Bình - Trị - Thiên đã tiến hành chỉnh đốn đảng rộng rãi trong bộ đội. Tỉnh ủy Hà Tĩnh đã xác định công tác xây dựng đảng là vấn đề then chốt, trong đó nêu rõ những nội dung cụ thể: yêu nước, yêu dân, bám sát dân, chăm lo quyền lợi của nhân dân, phát huy khả năng và sáng kiến của nhân dân kết hợp với tổng kết kinh nghiệm của Đảng để hoàn thành mọi nhiệm vụ công tác, phục vụ kháng chiến lâu dài. Đảng bộ tỉnh cũng chấn chỉnh lại cơ quan lãnh đạo các cấp, bổ sung những cán bộ có năng lực và phẩm chất của các cấp ủy đảng, chính quyền. Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ra nghị quyết về triển khai công tác vận động trí thức, phê phán thái độ thành kiến, hẹp hòi, mệnh lệnh, chưa phát huy hết khả năng và sự cống hiến của trí thức và sự nghiệp kháng chiến.

Ở các tỉnh Nghệ An, Thanh Hóa, công tác chỉnh đảng được tiến hành nghiêm túc, thông qua kiểm điểm rút kinh nghiệm về thực hiện chính sách ruộng đất và chính sách thuế nông nghiệp nhằm bồi dưỡng cán bộ, đảng viên, nâng cao tinh thần phục vụ nhân dân, đi sát dân, chống mệnh lệnh, quan liêu, máy móc.

Theo phương hướng đó, công tác xây dựng, chỉnh đốn đảng ở Thanh - Nghệ - Tĩnh đã đi vào nề nếp. Từ tháng 7-1952 đến tháng 10-1953, Liên khu ủy đã mở nhiều lớp huấn luyện cho 14.316 cán bộ, đảng viên, nhân viên, công chức cấp liên khu và cấp tỉnh nhằm bồi dưỡng trình độ lý luận, nâng cao nhận thức, quan điểm, lập trường về đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ nhưng nhất định thắng lợi. Phương thức huấn luyện, bồi dưỡng cán bộ là gắn lý luận với thực tiễn, chú trọng đào tạo cán bộ cốt cán cho các cấp, các ngành, nhất là cấp xã; chú trọng đề bạt cán bộ xuất thân từ công nhân, nông dân. Đó là những hạt nhân nòng cốt trong lực lượng vũ trang và trong các ngành dân, quân, chính, đảng. Đội ngũ cán bộ, đảng viên phải nêu gương sáng tích cực vận động nhân dân tham gia kháng chiến.

Trong xây dựng đảng, các đảng bộ tỉnh đã thực hiện đúng những quy định của Trung ương về Đảng ra hoạt động công khai lãnh đạo kháng chiến, nhưng chống phô trương, hình thức. Các đảng bộ luôn chú trọng phát triển đảng viên, nhưng cũng tích cực chống hiện tượng chạy theo số lượng đơn thuần. Việc phát triển đảng viên phải đi đôi với củng cố tổ chức đảng các cấp.

Liên khu ủy đã chỉ đạo các đảng bộ địa phương phải luôn coi trọng công tác lãnh đạo tư tưởng, rèn luyện tác phong dân chủ, lắng nghe ý kiến của quần chúng. Trong từng cơ sở đảng phải công khai tự phê bình trước nhân dân để sửa chữa những sai lầm, khuyết điểm, nhất là những biểu hiện tả khuynh, hữu khuynh, quan liêu, mệnh lệnh, hẹp hòi, phải tăng cường đoàn kết nội bộ, đoàn kết quân dân, đẩy mạnh hoạt động kháng chiến, kiến quốc. Cơ cấu các đảng ủy, chi hủy và chính quyền cấp cơ sở dần dần thay đổi. Cán bộ xuất thân từ tầng lớp bần, cố nông chiếm tỷ lệ cao trong cấp ủy. Có nơi, cán bộ xuất thân là bần, cố nông chiếm tới 80 - 90%. Ủy ban kháng chiến hành chính cấp liên khu và tỉnh là cơ quan đại diện cao nhất của Chính phủ trong việc quán lý các cơ quan hành chính ở địa phương, quản lý cán bộ công nhân viên và quản lý ngân sách đối với tất cả các ngành theo nguyên tắc dân chủ, tập trung. Trong điều kiện vừa chiến đấu, vừa tham gia quản lý bộ máy chính quyền các cấp, nhiều cán bộ, đảng viên đã nêu cao tinh thần tận trung với nước, tận hiếu với dân, sẵn sàng hy sinh quên mình vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Nhưng bên cạnh đó, cũng đã xuất hiện của sự thoái hóa, biến chất trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Vì vậy, các tệ nạn tham nhũng, lãng phí của công bị lên án mạnh mẽ. Hàng nghìn cán bộ, đảng viên thiếu gương mẫu đã được đưa ra kiểm điểm trước quần chúng, hàng trăm người bị thi hành kỷ luật từ khiển trách, cảnh cáo, cách chức và đưa ra khỏi đảng. Tổ chức đảng các cấp đã được củng cố, được quần chúng tin yêu.

Liên khu ủy đã chỉ đạo các cấp Đảng bộ quán triệt phương châm tinh giản bộ máy đảng và chính quyền các cấp. Nhờ đó, bộ máy lãnh đạo gọn nhẹ hơn, tác phong, lề lối làm việc được cải tiến. Hệ thống tổ chức đảng được tổ chức chặt chẽ từ Liên khu ủy tới các đảng bộ cơ sở. Để giữ vững sự chỉ đạo thống nhất trong đảng, các cấp ủy đã duy trì chế độ báo cáo thường kỳ, chú trọng công tác đảng trong các lực lượng vũ trang, thiết lập chế độ đảng ủy trong bộ đội chủ lực của liên khu.


(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr. 480.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 20 Tháng Hai, 2016, 07:55:46 pm
Đi đôi với hoạt động chỉnh đốn đảng, chỉnh quân, công tác xây dựng, kiện toàn bộ máy chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp xã được tiến hành khẩn trương, tích cực nhằm bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, phát huy sức mạnh công cụ của nhân dân ở cơ sở để lãnh đạo kháng chiến, kiến quốc, cải thiện dân sinh.

Đầu năm 1952, kiểm điểm về công tác xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân, Liên khu ủy nhận định: Mặc dù đã được củng cố, xây dựng, nhưng nhìn chung, chính quyền từ liên khu, tỉnh đến xã vẫn chưa làm tròn chức năng, nhiệm vụ của mình, chưa thực sự là công cụ sắc bén của nhân dân để giải phóng cho mình và xây dựng đời sống ngày càng cao hơn. Liên khu ủy cũng nêu rõ nguyên nhân của tình trạng trên là do đội ngũ cán bộ còn có những tư tưởng ngại hy sinh gian khổ, giảm sút lòng tin vào thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến; trình độ, năng lực cán bộ còn thấp, chưa theo kịp với yêu cầu của nhiệm vụ mới; trong các cơ quan chính quyền, còn một bộ phận thành phần bóc lột có biểu hiện chống lại chính sách của Đảng, v.v. Vì vậy, việc củng cố hệ thống chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp xã có vị trí rất quan trọng. Đến giữa năm 1952, việc bầu cử hội đồng nhân dân ở sáu tỉnh và củng cố chính quyền tại 672 xã trong toàn liên khu hoàn thành. Qua đó, các bộ phận chức năng phụ trách khối kinh tế - tài chính và một số cơ quan khác như tòa án, tư pháp, công an cũng được củng cố và nâng cao hiệu quả trong công tác.

Trong xây dựng, củng cố hệ thống chính quyền, cũng diễn ra cuộc đấu tranh giai cấp nhằm chống lại một bộ phận của giai cấp bóc lột còn nằm lại trong bộ máy chính quyền của nhân dân. Do đó, việc tổ chức bầu cử hội đồng nhân dân cấp tỉnh và huyện, xây dựng chính quyền ở xã là cần thiết để nhằm bảo đảm sự lựa chọn sáng suốt của quần chúng và đề cao vai trò lãnh đạo của Đảng, để chính quyền đó dựa trên nền tảng công - nông liên minh, song cũng hết sức chú ý tới các thành phần khác có công đóng góp cho kháng chiến như các nhân sĩ, trí thức v.v. Những thành phần tham gia bóc lột hoặc yếu kém về trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đức đều dần dần bị đưa ra khỏi hệ thống chính quyền các cấp. Tình trạng chồng chéo của các cơ quan chức năng và bộ máy cồng kềnh cũng được khắc phục từng bước.

Trên trận tuyến an ninh, với tinh thần cảnh giác của quần chúng nhân dân và sự đấu tranh kiên quyết, mạnh mẽ của công an Liên khu IV, chúng ta đã có đầy đủ chứng cứ để vạch trần những hành động phá hoại của một số phần tử phản động tay sai của địch cài cắm trong tổ chức Phật giáo và Thiên Chúa giáo ở các tỉnh Nghệ An, Thanh Hóa; đặc biệt là tổ chức Liên tôn chống cộng do Mai Bá Nhạc, Trương Thái Gián (Tuệ Chiếu), Nguyễn Văn Sinh (Tuệ Quang) cầm đầu. Thủ đoạn của chúng là bố trí đưa người len lỏi vào trong cơ quan đảng, chính quyền, mặt trận, đoàn thể kháng chiến để xuyên tạc và chống lại từ bên trong việc thi hành các chính sách lớn của Đảng, Nhà nước. Chúng còn bố trí những kẻ chỉ điểm để máy bay địch đánh phá các kho tàng, xí nghiệp, chợ, đê điều; phá hoại công tác huy động dân công phục vụ tiền tuyến, kích động đảo ngũ trong lực lượng vũ trang.

Không khoan nhượng trước những âm mưu phá hoại của các thế lực phản động, lực lượng công an liên khu đã tiến hành điều tra vụ án mang bí số TF8, lần lượt truy bắt 127 kẻ phản cách mạng, đưa ra truy tố công khai trước tòa án nhân dân, vạch mặt và trừng trị đích đáng tội làm tay sai cho giặc, phản bội Tổ quốc, hại dân, hại nước.

Cùng với việc tiến công vào các tổ chức phản động Liên tôn chống cộng trong Hội Phật giáo cứu quốc ở Thanh Hóa, Nghệ An, Liên khu ủy cũng chỉ đạo Tỉnh ủy Nghệ An và công an đấu tranh ngăn chặn vụ phản loại của những kẻ phản động lợi dụng công giáo ở Hưng Yên (Hưng Nguyên). Tại đây, những phần tử phản động đã xúi giục nhân dân chống tổ công tác vào vận động nhân dân thực hiện chính sách thuế nông nghiệp đánh bị thương cán bộ, cướp tài liệu và ngoan cố chống lại người thi hành công vụ.

Để lập lại an ninh, trật tự và giữ nghiêm pháp luật, lực lượng công an Nghệ An đã kiên quyết trừng trị những kẻ cầm đầu phản động, đồng thời tuyên truyền, vận động nhân dân thấy rõ bộ mặt phản động của những kẻ gây chia rẽ, phá hoại khối đoàn kết lương giáo. Cũng trong dịp này, Liên khu ủy đã chỉ đạo đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động trong các vùng tôn giáo, giải thích rõ chính sách mặt trận, đoàn kết của Đảng Chính phủ,đặc biệt là chính sách tôn trọng tự do tín ngưỡng của đồng bào theo đạo; tích cực giải đáp những yêu cầu, thắc mắc của giáo dân về các chính sách giảm tô, giảm tức, thuế nông nghiệp, v.v. để nhân dân yên tâm, phấn khởi sản xuất, tích cực ủng hộ kháng chiến.

Tuy nhiên, trong quá trình củng cố tổ chức, ở một số địa phương do không quán triệt đầy đủ chủ trương của Đảng nên mắc một số khuyết điểm. Đó là sự thiếu kiên trì trong vận động, thuyết phục quần chúng, biểu hiện xa dân, chủ quan, thành kiến, hẹp hòi, đối xử không thỏa đáng với những cán bộ không xuất thân từ thành phần cơ bản Trong khi một số cán bộ có nguồn gốc xuất thân từ thành phần cơ bản nhưng do trình độ, năng lực yếu đã không hoàn thành nhiệm vụ được giao hoặc còn có những biểu hiện của tư tưởng hữu khuynh, một chiều, chạy theo quần chúng cũng như “tả” khuynh, mệnh lệnh, áp đặt từ trên xuống. Trong công tác đảng, công tác chính quyền ở vùng căn cứ du kích, có nơi không chấp hành nghiêm kỷ luật đảng, tùy tiện bộc lộ lực lượng. Chủ trương kéo dài quá lâu việc đình chỉ phát triển đảng viên mới đã gây bất lợi cho công tác xây dựng đảng vì không khuyến khích và không kịp thời bổ sung vào hàng ngũ tổ chức đảng những người ưu tú. Công tác dân vận đôi lúc, đôi nơi bị buông lơi, thiếu kiên trì vận động, thuyết phục quần chúng. Những khuyết điểm trên mặc dù chưa phải trầm trọng, nhưng cũng ảnh hưởng đến tư tưởng và đoàn kết trong nội bộ nhân dân.

Nhìn chung, công tác chỉnh đảng, chỉnh quân trong hầu khắp các địa phương đã khơi dậy niềm tin, phấn khởi và nhiệt tình cách mạng cho cán bộ, đảng viên gương mẫu xung phong trên các mặt trận đấu tranh quân sự, chính trị và huy động sức mạnh của hậu phương phục vụ tiền tuyến.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 20 Tháng Hai, 2016, 07:56:08 pm
Cùng với phong trào xây dựng hậu phương, thực hiện giảm tô, giảm tức, thu thuế nông nghiệp, chỉnh huấn chính trị…, nhiệm vụ tác chiến ở Liên khu IV, nhất là tại mặt trận Bình - Trị - Thiên vẫn luôn luôn là công việc thường trực nóng bỏng.

Trong những đợt hoạt động quân sự liên tục trong xuân - hè năm 1952, quân và dân Bình - Trị - Thiên đã phá nhiều vị trí then chốt của địch ở bắc Quảng Bình và một số vùng thuộc phía nam tỉnh Thừa Thiên. Thắng lợi về quân sự đã góp phần tiêu diệt một phần sinh lực địch tại mặt trận Bình - Trị - Thiên đẩy chúng ngày càng sao vào thế bị động, lúng túng. Địch buộc phải rút khỏi Ba Đồn, Nam Đông, Sơn Tùng, La Khê, Hương Cầu, Tuyên Nam, đường 74 và vị trí Sen Bàng. Vùng giải phóng phía bắc tỉnh Quảng Bình được mở rộng cả về phía bắc và phía tây nối liền với vùng tự do của tỉnh Hà Tĩnh. Công tác xây dựng đảng, củng cố cơ sở và phong trào kháng chiến ở vùng địch hậu tiếp tục được phát triển.

Mặc dầu bị thua và tổn thất nặng, quân Pháp vẫn ra sức sức càn quét, lấn chiếm, chia cắt các khu căn cứ kháng chiến ở Liên khu IV. Ở Bình - Trị - Thiên, địch đóng thêm bốn vị trí trong vùng Quảng Điền, tám vị trí ở Triệu Phong, năm vị trí ở Hàng Ninh và nhiều nơi khác ven thị xã, thị trấn. Đến giữa năm 1952, Bộ Chỉ huy quân đội Pháp phải điều thêm 6.000 quân ứng chiến từ Bắc Bộ vào tăng viện cho quân chiếm đóng ở Bình - Trị - Thiên. Lực lượng địch gồm các đơn vị lính Âu - Phi, lính khố đỏ, Vệ binh đoàn.

Để tăng nhanh lực lượng binh lính người Việt, địch đẩy mạnh việc bắt lính bằng các thủ đoạn tinh vi hơn và quyết liệt hơn. Trong các vùng tạm bị chiếm, chúng dùng vật chất để dụ dỗ, kết hợp với cưỡng bức thanh niên đi lính. Đối với vùng ven và vùng căn cứ du kích, chúng đề ra chỉ tiêu: cứ sau mỗi trận càn quét phải vây bắt cho được từ 13 đến 130 thanh niên đi lính. Với các biện pháp bắt lính nêu trên, chỉ riêng trong tháng 6 và tháng 7-1952, địch đã cưỡng ép gần 4.000 thanh niên để bổ sung cho lực lượng vệ binh đoàn. Nhiều học sinh đang theo học tại các trường trung học trong vùng tạm bị chiếm cũng bị ép đi học Trường sĩ quan Đà Lạt.

Đi đôi với việc bắt binh lính người Việt, chúng ra sức tuyên truyền, lừa mị họ về “ý thức quốc gia” và tư tưởng chống cộng, lưu manh hóa những phần tử phản động. Việc phát triển mạnh quân đội tay sai là một âm mưu thâm độc của thực dân Pháp nhằm bổ sung quân số đang bị thiếu hụt trên các chiến trường.

Sau khi được đế quốc Mỹ tăng cường viện trợ, nhất là vũ khí tối tân, thực dân Pháp đã tăng nhanh lực lượng quân ứng chiến và quân cơ động ở nhiều chiến trường. Riêng ở Bình - Trị - Thiên, quân Pháp đã củng cố bảy tiểu đoàn cơ động, 17 tiểu đoàn ứng chiến và xây dựng thêm nhiều đơn vị Vệ binh đoàn, tổ chức hương dõng làm nhiệm vụ hỗ trợ cho quân ứng chiến. Sự tăng cường binh lực của địch thể hiện sự bị động, lúng túng của quân Pháp trên toàn chiến trường Đông Dương, nhưng cũng đã gây cho phong trào kháng chiến ở Bình - Trị - Thiên nói riêng và Liên khu IV nói chung những khó khăn mới.

Về chính trị, để củng cố chính quyền cơ sở và huy động triệt để khả năng chống cộng của những phần tử tay sai, nhà cầm quyền Pháp ở Đông Dương sau khi làm lễ tấn phong Lê Quang Thiết thay Trần Văn Lý làm Thủ hiến Trung Phần, đã tiến hành cải tổ bộ máy chính quyền cấp tỉnh, đưa số tay sai phản động mới về củng cố bộ máy chống cộng ở cơ sở.

Trên cục diện chiến trường, mặc dù lực lượng vũ trang kháng chiến đã tiêu diệt được nhiều vị trí quan trọng của quân Pháp ở bắc Quảng Bình và nam Thừa Thiên, nhưng địch vẫn còn chốt giữ 190 đồn bốt và 191 tháp canh, chúng chiếm đóng nhiều nhất vẫn là ven các đô thị, dọc các tuyến giao thông quan trọng và đường quốc lộ 1. Địch cưỡng bức dân di dời và triệt hạ hàng nghìn ngôi nhà của đồng bào ở Quảng Xuyên, Tân Lộc, Phú Lộc… để mở rộng hệ thống vành đai trắng bao quanh các vị trí đóng quân của chúng. Ngoài ra, địch còn phát triển các tiểu đoàn biệt kích để đối phó với phong trào chiến tranh du kích. Chúng thường xuyên tung gián điệp, chỉ điểm vào vùng tự do, vùng căn cứ để dò la tin tức của bộ đội; nhiều phần tử phản động đã tìm mọi cách lọt vào tổ chức kháng chiến để phá hoại phong trào.

Với những cố gắng mới, địch đã thay đổi phương thức hoạt động. Chúng mở nhiều cuộc hành quân càn quét với quy mô vừa và nhỏ đan xen liên tục đánh sâu vào vùng căn cứ du kích nhằm ở rộng phạm vi chiếm đóng để giành lại thế chủ động trên chiến trường Bình - Trị - Thiên. Vì vậy, cuộc đấu tranh chống địch bình định, lấn chiếm ở Bình - Trị - Thiên tiếp tục diễn ra rất quyết liệt, thậm chí có nơi, có lúc chúng còn chiếm ưu thế về quân sự.

Về phong trào kháng chiến, lực lượng vũ trang ba thứ quân đã phát triển mạnh hơn giai đoạn trước, trang bị vũ khí và kỹ thuật tác chiến có nhiều tiến bộ, có khả năng chủ động tiến công tiêu diệt sinh lực địch. Tuy nhiên, trước những thay đổi mới về phương thức hoạt động đánh phá ác liệt và thâm độc của địch, phong trào kháng chiến chưa có kinh nghiệm đối phó kịp thời. Mặt khác, trong tác chiến phối hợp giữa ba thứ quân, ta chỉ chú trọng chống những cuộc càn quét lớn của địch. Tư tưởng chủ quan trong bố trí lực lượng ở một số vùng căn cứ du kích còn phổ biến. Việc củng cố cơ sở, củng cố các phong trào kháng chiến thiếu liên tục. Do đó, địch đã thực hiện được một phần âm mưu cướp của, giành dân, bắt lính.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 20 Tháng Hai, 2016, 07:57:53 pm
Bước vào hè - thu năm 1952, lợi dụng ưu thế về binh lực, quân Pháp đã liên tiếp mở nhiều cuộc hành quân phản kích với quy mô lớn và dài ngày đánh vào vùng căn cứ Phong -Quảng, Hải Lăng, Vĩnh Xương và Thanh Hương. Mục đích của địch là càn quét, cướp phá vùng đông dân, nhiều của, tiêu diệt các đơn vị bộ đội chủ lực và các cơ quan chỉ đạo kháng chiến.

Ngày 8-7-1952, địch tập trung năm tiểu đoàn, 30 xe lội nước, 13 máy bay và nhiều vũ khí mới do Mỹ trang bị, mở một cuộc càn quét lớn mang tên cuộc hành quân Catherine đánh vào vùng đồng bằng căn cứ Phú Vang. Trong lúc này, lực lượng vũ trang kháng chiến tại đây chỉ có hai đại đội thuộc Tiểu đoàn 231 và Đại đội 325 huyện Phú Vang cùng dân quân, du kích đã kiên cường bám trụ, chiến đấu dũng cảm để ngăn cản bước tiến của địch. Nhưng vì tương quan lực lượng quá chênh lệch, lại thiếu sự chuẩn bị bố trí trận địa, quân địch bao vây nhiều hướng nên chúng đã tràn vào vùng căn cứ tiếp tụ thực hiện các thủ đoạn cướp sạch, đốt sạch, phá sạch gây nhiều tội ác đối với đồng bào. Riêng trong trận càn này, địch đã cướp đi của nông dân gần 2.000 tấn lúa, phá nhiều cơ sở kháng chiến và bắt 500 thanh niên đưa vào các trại tập trung huấn luyện.

Chiếm được vùng căn cứ Phú Vang, địch củng cố thêm bàn đạp, tiếp tục mở rộng diện bình định, lấn chiếm nhiều vùng căn cứ kháng chiến ở phía nam tỉnh Thừa Thiên. Tiếp đó, chúng ra sức củng cố bộ máy tề điệp để kìm kẹp nhân dân các vùng Xuân Ô, Trung Hà, Hòa Đa, v.v.

Sau trận càn Catherine, trong những tháng tiếp theo, quân Pháp liên tục mở các trận càn quét lớn mang những cái tên “chiến dịch châu chấu” (opération sauterelle), “chiến dịch cá sấu” (opération caiman) đánh sâu vào các vùng đông dân, trù phú ở Thanh Hương, Vĩnh Xương và nhiều vùng khá ở phía nam tỉnh Thừa Thiên. Trận càn châu chấu, địch huy động tới 12 tiểu đoàn, trong đó có bốn tiểu đoàn xe tăng đổ bộ từ đường biển. Trận càn cá sấu, quân Pháp điều một binh đoàn từ chiến trường Bắc Bộ, một tiểu đoàn từ chiến trường Nam Bộ, kết hợp cả hải, lục, không quân. Trận càn này có quyền chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương De Linarès đích thân đến thị sát. Địch đã cố gắng đến mức tối đa trong việc thực hiện kế hoạch chuyển giao công việc chiếm đóng chiến trường Bình - Trị - Thiên cho đội quân người Việt. Những cuộc phản kích của địch đã gây cho phong trào kháng chiến rất nhiều khó khăn, tổn thất. Nguyên nhân chủ yếu là do chúng ta chủ quan, mất cảnh giác. Trong cơ quan tham mưu của Trung đoàn 101 có kẻ phản bội làm gián điệp đã báo cho địch biết địa điểm đóng quân. Trung đoàn 101 bị bao vây ở Mỹ Lợi đã tiếp tục chiến đấu rồi di chuyển đến Quảng Điện. Quân Pháp dùng cả tàu hải quân dọc phá Tam Giang, thiết giáp và quân nhảy dù đánh vào trung đoàn bộ. Trung đoàn trưởng Lê Thuyết và nhiều cán bộ chỉ huy, chiến sĩ đã hy sinh hoặc bị bắt. Trung đoàn 101 bị tổn thất nặng nề.

Trong khi phong trào du kích ở nam Thừa Thiên tạm thời gặp khó khăn và tổn thất, thì phong trào chiến tranh du kích ở các mặt trận khác trong cả nước cũng xuất hiện nhiều vấn đề tiêu cực cần uốn nắn. Ở một số nơi, do thiếu sự chỉ đạo kiên quyết nên còn bị mất đất, mất dân. Để kịp thời tổng kết nhằm phát triển mạnh phong trào chiến tranh du kích trong vùng địch tạm chiếm, tháng 7-1952, Hội nghị chiến tranh du kích toàn quốc được triệu tập. Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm và nói chuyện với hội nghị: Kháng chiến phải trường kỳ, thì du kích ở sau lưng địch phải làm thế nào? Nhiệm vụ là gì? Du kích cũng phải trường kỳ. Nhiệm vụ hiện nay là phá âm mưu của địch “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt”[1]. Người cũng nêu lên những công việc cần phải làm là: “Trước hết nội bộ, tức là dân, quân, chính, Đảng phải đoàn kết chặt chẽ. Có việc gì, phải bàn tính kỹ lưỡng, tư tưởng, hành động phải thống nhất, phải giúp đỡ nhau, thành thực phê bình và tự phê bình để cùng nhau tiến bộ.

Phải nghiên cứu kỹ, áp dụng đúng và triệt để thi hành những chỉ thị, mệnh lệnh của Trung ương và của Chính phủ”(2). Tại hội nghị, đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng cũng chỉ ra một số vấn đề cần rút kinh nghiệm, như không trong vùng địch tạm chiếm có một số cán bộ tách rời, thoát ly, không tin tưởng quần chúng. Về những việc phải làm, đồng chí Tổng Bí thư chỉ rõ việc giữ gìn và tích trữ lực lượng phải đi đôi với bồi dưỡng và phát triển lực lượng; đồng thời phải tích cực tiêu hao, tiêu diệt lực lượng địch, lấy của địch bồi dưỡng cho mình.


(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, xuất bản lần thứ hai, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.6, tr. 522-523.
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, xuất bản lần thứ hai, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.6, tr. 525.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 20 Tháng Hai, 2016, 07:58:54 pm
Để đẩy mạnh phong trào chiến tranh du kích ở Liên khu IV, tháng 9-1952, liên khu ủy họp hội nghị bàn về phương hướng nhiệm vụ đấu tranh quân sự ở mặt trận Bình - Trị - Thiên. Hội nghị đánh giá cao những thắng lợi của quân, dân ta ở Liên khu IV, nhất là mặt trận Bình - Trị - Thiên, về mặt quân sự, đã thu hút nhiều lực lượng quân địch tại Đông Dương. Hội nghị Liên khu ủy cũng chỉ rõ qua thực tế chiến đấu, mặt trận Bình - Trị - Thiên bộc lộ một số nhược điểm như biểu hiện của tư tưởng ham đánh lớn, nặng về tác chiến, chưa coi trọng đúng mức nhiệm vụ xây dựng lực lượng lâu dài, nặng về chủ lực, nhẹ về bộ đội địa phương, nhất là dân quân du kích; thiếu sự kết hợp chặt chẽ giữa hoạt động quân sự với đấu tranh chính trị, kinh tế. Trong đấu tranh quân sự, tập trung nhiều vào mục đích tiêu diệt, tiêu hao sinh lực địch, coi nhẹ nhiệm vụ chống địch càn quét, bảo vệ tài sản, tính mạng của nhân dân, ít chú ý xây dựng cơ sở kháng chiến lâu dài. Hội nghị Liên khu ủy nêu rõ: “Các cấp ủy cần nhận rõ Bình - Trị - Thiên là một chiến trường hậu địch, theo phương châm của Trung ương thì nhiệm vụ chính vẫn là xây dựng và phát triển du kích chiến tranh; phá âm mưu của địch là “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt”; phải đưa mức hoạt động của bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương đến chỗ liên hệ mật thiết với phong trào đấu tranh của nhân dân, dìu dắt và phát triển cơ sở du kích chiến tranh, chống tư tưởng muốn đánh lớn và hoạt động quân sự thuần túy, phải đẩy mạnh hoạt động võ trang và bán võ trang của nhân dân”(1).

Đảng ủy mặt trận Bình - Trị - Thiên cũng họp hội nghị để kiểm điểm theo tinh thần chỉ đạo của Bộ Quốc phòng - Tổng Chỉ huy. Ngay sau đó, Bộ Chỉ huy mặt trận Bình - Trị - Thiên đã chỉ đạo củng cố tổ chức và bổ sung kịp thời quân số cho các trung đoàn chủ lực của liên khu đang hoạt động ở ba tỉnh Bình - Trị - Thiên, đặc biệt là Trung đoàn 101 vừa bị tổn thất nặng sau những cuộc tiến công dài ngày của địch. Trong tháng 8-1952, bộ đội địa phương của liên khu khẩn trương tham gia hai đợt tập huấn về kỹ thuật, chiến thuật, chỉ huy và chiến đấu. Các đơn vị dân quân, du kích cũng được huấn luyện, bổ sung lực lượng, bám sát cơ sở, tuyên truyền, vận động nhân dân nâng cao cảnh giác, sẵn sàng chống càn, kể cả các cuộc càn quét nhỏ lẻ của địch. Hưởng ứng phong trào thi đua trong toàn quân, các cấp ủy đảng trong lực lượng vũ trang Liên khu IV đã phát động phong trào thi đua giết giặc lập công, giành giải thưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được phát động trong toàn quân.

Để định hướng đúng cho phong trào chiến tranh du kích ở Bình - Trị - Thiên phát triển mạnh nhằm tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch và kìm giữ lực lượng quân ứng chiến, không cho chúng mở rộng phạm vi chiếm đóng, ngày 1-10-1952, Bộ Quốc phòng - Tổng Chỉ huy đã chỉ thị cho Bộ Chỉ huy mặt trận Bình - Trị - Thiên phải nắm vững phương châm đánh du kích là chính, khắc phục tư tưởng ham đánh lớn. Bộ đội chủ lực lấy tiểu đoàn làm đơn vị chiến đấu, có điều kiện thuận lợi thì mới tập trung hai tiểu đoàn hay trung đoàn để tác chiến, sau đó phân tán nhanh chóng để tiếp tục hoạt động, chú trọng chiến đấu chống càn quét và phải chủ động có kế hoạch chuẩn bị trước; các lực lượng vũ trang địa phương đẩy mạnh hoạt động du kích và có kế hoạch bảo vệ mùa màng.

Quán triệt chủ trương của Trung ương Đảng, của Bộ Quốc phòng - Tổng Chỉ huy, Liên khu ủy và Bộ Chỉ huy mặt trận Bình - Trị - Thiên đã lãnh đạo quân, dân địa phương hăng hái thi đua, đẩy mạnh phong trào chiến tranh du kích lan rộng khắp ba tỉnh.

Tháng 10-1952, Tiểu đoàn 320 của tỉnh Quảng Trị đã phối hợp với dân quân, du kích đánh hơn mười trận, tiêu diệt 136 tên địch. Cùng thời gian trên, đại đội 220 của Tiểu đoàn 320 đã chặn đánh một đại đội lính Âu - Phi ở Vạn Quy (Hải Lăng), diệt hai trung đội.

Ở Thừa Thiên, đảng bộ và chính quyền địa phương đã phát động thi đua đẩy mạnh phong trào chiến tranh du kích từ tháng 10 đến cuối năm 1952. Hầu kết các cơ quan dân, chính, đảng đã tổ chức rút kinh nghiệm về công tác vùng địch hậu. Nhiều nơi, các chi bộ đảng qua kiểm điểm đã nhận rõ những vấn đề cốt yếu để chống lại một cuộc chiến tranh tổng lực của địch là phải gắn liền đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị, đấu tranh kinh tế của quần chúng. Cho nên, đi đôi với đấu tranh vũ trang, các cấp ủy đảng và tổ chức quần chúng đã lãnh đạo nhân dân vùng tạm chiếm tích cực tham gia đấu tranh chính trị, chống địch khủng bố, bắt lính, bảo vệ cơ sở, bảo vệ thanh niên.

Công tác vận động chính trị trong vùng đồng bào công giáo, vùng dân tộc thiểu số đã được chú ý hơn trước. Chính quyền cách mạng, một mặt, kiên quyết trấn áp những kẻ phản động; một mặt, đẩy mạnh tuyên truyền những chủ trương chính sách của Đảng, Chính phủ về tôn trọng tự do tín ngưỡng của đồng bào và nghĩa vụ công dân trong thực hiện chính sách thuế nông nghiệp để đẩy mạnh kháng chiến. Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền cũng phải làm cho nhân dân vùng tạm chiếm thấy rõ sự thất bại, lúng túng của địch, giữ vững niềm tin vào thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến.


(1) Nghị quyết Hội nghị Liên khu ủy Liên khu IV (6-9-1952) , tài liệu Cục lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, hồ sơ Liên khu ủy IV, ĐVBQ 47.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 20 Tháng Hai, 2016, 07:59:15 pm
Để đẩy mạnh phong trào đấu tranh trong vùng tạm chiếm, phá kế hoạch bình định lấn chiếm của địch, bảo vệ vùng căn cứ và các cơ quan lãnh đạo kháng chiến, Bộ Chỉ huy mặt trận Bình - Trị - Thiên đã theo dõi sát tình hình, đánh giá đúng quy luật hoạt động của địch để chỉ đạo ba thứ quân thường xuyên vận động bám địch, đánh phục kích, phá hoại các đường giao thông thủy, bộ, tập kích các vị trí đồn bốt, phá vành đai trắng, tiêu hao, tiêu diệt những bộ phận nhỏ của địch. Đồng thời, vừa đánh địch, vừa ra sức bảo vệ nhân dân, giúp đỡ nông dân gặt hái, cất giấu thóc lúa và phân tán nhanh chóng kho tàng, máy móc, bảo vệ cơ sở vật chất.

Với tinh thần nỗ lực cao, quân và dân Bình - Trị - Thiên đã vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, đẩy mạnh những hoạt động quân sự, tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch. Trong sáu tháng cuối năm 1952 đã loại khỏi vòng chiến đấu hơn một vạn quân địch, bức rút trên 20 đồn bốt và sáu tháp canh, lực lượng vũ trang ba thứ quân được củng cố, phong trào chiến tranh du kích được giữ vững và tiếp tục phát triển.

Phối hợp với mặt trận đấu tranh quân sự, nhân dân trong vùng tạm chiếm triệt để lợi dụng mọi sơ hở về quân sự của địch khi chúng phải dàn mỏng lực lượng ở khắp nơi đã nhanh chóng phục hồi các cơ sở bị địch càn quét. Các khu du kích và căn cứ du kích ở các huyện đồng bằng và miền núi của ba tỉnh Bình - Trị - Thiên cũng được mở rộng. Trước những thủ đoạn phá hoại của địch về chính trị như chiêu hồi, chiêu an, dùng vật chất lôi kéo cán bộ, tuyên truyền, kích động phá hoại đường lối kháng chiến, chính quyền cách mạng đã vận động nhân dân vạch tội ác hàng ngày của địch, đập lại luận điệu lừa bịp, lột trần chiêu bài “quốc gia độc lấp thống nhất”, chỉ rõ thực dân Pháp, can thiệp Mỹ và tay sai phản động do chúng dựng lên là kẻ thù của nhân dân Việt Nam.

Các phong trào đấu tranh chính trị của các tầng lớp nhân dân ở đô thị, đồng bằng, miền núi chống địch đàn áp, khủng bố vẫn liên tục diễn ra ở khắp các địa phương. Trong các vùng đô thị, đặc biệt là ở thành phố Huế, một trung tâm của chính quyền tay sai ở miền Trung được địch tăng cường các biện pháp kiểm soát gắt gao, nhưng đồng bào vẫn liên tục đấu tranh đòi các quyền dân sinh, dân chủ. Nhiều cơ sở đảng vẫn trụ vững trước sự che chở và đùm bọc của đồng bào.

Phong trào đấu tranh chống địch bắt lính trong thời gian này tuy có đạt một số kết quả, song nhìn chung địch vẫn thực hiện được mục tiêu bắt lính tăng quân. Thiếu sót lớn nhất của phong trào lúc này là chưa thật sự dựa chắc vào nhân dân để đẩy mạnh công tác binh vận, địch vận, phá âm mưu thâm độc “dùng người Việt đánh người Việt” của địch. Nhiều cấp ủy đảng và đoàn thể quần chúng trong vùng địch hậu còn tập trung vào những công tác khác mà sao nhãng việc vận động tuyên truyền trong nhân dân, chưa có biện pháp tích cực để bảo vệ thanh niên.

Trong điều kiện địch chống phá ác liệt bằng các thủ đoạn chiến tranh tâm lý hiểm độc để đánh vào nội bộ tổ chức kháng chiến, chia rẽ khối đoàn kết trong nhân dân, thì hoạt động văn hóa, văn nghệ của liên khu vẫn phát triển mạnh. Trong quá trình phát triển cuộc kháng chiến, tại Liên khu IV đã xây dựng được đội ngũ văn nghệ sĩ khá đông đảo, nhiệt tình phục vụ kháng chiến. Nhiều tác phẩm văn học đã ra đời gắn liền với hơi thở của cuộc kháng chiến, như bài thơ Thăm lúa của Trần Hữu Thung đã nhận giải thưởng quốc tế… Nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị đã góp phần làm phong phú thêm nền văn học kháng chiến chống thực dân Pháp. Bên cạnh việc sáng tác văn học, nhiều hình thức hoạt động văn hóa, văn nghệ như phát hành báo chí, in ấn tài liệu học tập lý luận… là những vũ khí sắc bén, góp phần tích cực đấu tranh với địch để bảo vệ đường lối kháng chiến và giáo dục lòng yêu nước, ý chí căm thù giặc sâu sắc, củng cố niềm tin tưởng sâu sắc của nhân dân vào thắng lợi cuối cùng.

Những thắng lợi trên mặt trận đấu tranh quân sự, chính trị và kinh tế của quân và dân Bình - Trị - Thiên đã góp phần cùng với các chiến trường khác tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch, cổ vũ nhân dân phấn khởi xây dựng, củng cố hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh. Cuộc vận động đẩy mạnh sản xuất, tiết kiệm do Đảng và Chính phủ phát động đã thu hút hàng triệu đồng bào trong liên khu tham gia và đã thu nhiều kết quả về sản lượng lương thực, thực phẩm, hàng hóa tiêu dùng. Nhờ đó, nhiệm vụ chi viện cho tiền tuyến ngày càng được đảm bảo hơn về số lượng và chất lượng, đời sống của nhân dân cũng được cải thiện thêm.

Tình hình thu, chi tài chính và đấu tranh kinh tế với địch cũng có nhiều chuyển biến. Đến cuối năm 1952, lần đầu tiên trong cả nước nói chung, cũng như ở địa bàn Liên khu IV nói riêng, hoạt động thu, chi đã ổn định. Nguồn thu của ngân sách từ các loại thuế nông nghiệp, thuế công, thương nghiệp tăng lên đáng kể. Mức ăn của bộ đội được cải thiện; lương của cán bộ, công nhân viên chức tuy còn ở mức thấp nhưng cũng ổn định hơn.

Những cố gắng về hoạt động kinh tế nêu trên là một thắng lợi to lớn trong hoạt động đấu tranh kinh tế với địch và xây dựng kinh tế phục vụ kháng chiến, nhất là đối với một miền đất thường xuyên phải gánh chịu nhiều thiên tai, địch họa.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 20 Tháng Hai, 2016, 07:59:37 pm
Tuy nhiên, trong quá trình chỉ đạo thực hiện cuộc vận động thuế nông nghiệp, ta cũng mắc một số sai lầm, thiếu sót ở ở nhiều địa phương cán bộ thiếu gương mẫu trong việc kê khai sản lượng, chưa làm tốt công tác vận động, thuyết phục quần chúng, còn nặng về áp đặt. Có nơi chưa làm tốt công tác điều tra diện tích và sản lượng nên chưa đảm bảo sự công bằng trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế nông nghiệp, v.v. Khuyết điểm lớn nhất là chưa kết hợp chặt chẽ việc huy động đóng góp của dân với bồi dưỡng sức dân. Việc vận dụng chính sách giảm tô, giảm tức và tạm cấp ruộng đất ở nhiều vùng tự do chưa triệt để đã ảnh hưởng tới tư tưởng và đoàn kết nội bộ nông dân, nhất là trong một số vùng đồng bào công giáo và vùng dân tộc thiểu số.

Hoạt động mậu dịch buôn bán trong nội địa và mậu dịch đối ngoại cũng được mở mang. Các phong trào làm thủy lợi, thâm canh tăng năng suất cây trồng, phát triển đàn gia súc đã vượt trội hơn hồi sáu tháng đầu năm. Mặc dù các tỉnh trong liên khu phải chịu hậu quả của trận lũ lụt lớn hồi đầu tháng 10-1952, nhưng nạn đói đã không xảy ra nghiêm trọng do có lương thực dự trữ thu từ thuế nông nghiệp của vụ trước.

Tuy vậy, do lũ lụt xảy ra trên diện rộng và tàn phá một diện tích lớn lúa, hoa màu của đồng bào nên cuộc vận động thu thuế nông nghiệp vụ mùa tháng 10-1952 chỉ đạt được 84.457 tấn (bằng 70%); thuế công thương nghiệp đạt 10.513 triệu đồng; sản lượng muối đạt 5.194 tấn (đạt 85%). Các ngành y tế, giáo dục cũng phát triển hơn trước. Một phần ba số xã trong liên khu đã có cán bộ y tế và ban y tế. Cuộc vận động thực hiện nếp sống mới với nội dung “ba sạch” và khẩu hiệu “phòng bệnh hơn chữa bệnh” được tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân ở nhiều địa phương. Nhưng phong trào phát triển chưa đồng đều. Một số nơi ở miền núi Thanh - Nghệ - Tĩnh, tuy đời sống vật chất có được cải thiện một bước do kết quả thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Chính phủ, nhưng nhiều tập tục lạc hậu vẫn tồn tại khá nặng nề, ảnh hưởng nhiều tới đời sống của đồng bào các dân tộc thiểu số.

Phong trào đón thương binh về địa phương nuôi dưỡng cũng đi vào nề nếp. Nhiều xã, phường của Thanh - Nghệ - Tĩnh đã đón hàng trăm thương binh nặng về địa phương chăm sóc, tạo cuộc sống ổn định, tổ chức lao động sản xuất lâu dài cho các gia đình thương binh và một số đối tượng chính sách. Đây là một hoạt động chính trị, xã hội tích cực của hậu phương trong lúc cuộc kháng chiến còn đang diễn ra quyết liệt. Điều đó thể hiện chính sách hậu phương đúng đắn của Đảng và Chính phủ, lòng biết ơn và trách nhiệm của xã hội đối với những người con đã anh dũng chiến đấu, đã mất một phần thân thể vì mục tiêu giải phóng đất nước.

Trên bình diện cả nước, phát huy thắng lợi trên mặt trận quân sự và để tạo sự chuyển biến căn bản về cục diện chiến trường, tháng 9-1952, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã quyết định mở chiến dịch Tây Bắc nhằm phân tán địch ở đồng bằng Bắc Bộ, tiêu diệt một bộ phận lớn sinh lực địch, tranh thủ nhân dân, giải phóng một phần đất đai và mở rộng vùng căn cứ địa Tây Bắc nối với căn cứ địa Việt Bắc và hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh. Lực lượng tham gia chiến dịch gồm một số đại đoàn chủ lực của Bộ Quốc phòng - Tổng Chỉ huy. Tổng số quân tham gia chiến dịch lên tới 35.000 cán bộ, chiến sĩ.

Tháng 9-1952, Liên khu ủy đã triệu tập hội nghị nhằm triển khai nhiệm vụ phối hợp với chiến dịch Tây Bắc, đồng thời có biện pháp chuyển hướng mạnh hoạt động đấu tranh quân sự trên chiến trường Bình - Trị - Thiên cho phù hợp với tình hình mới. Tháng 12-1952, hai trung đoàn chủ lực 18, 101 và Đại đoàn 325 từ mặt trận Bình - Trị - Thiên nhận mệnh lệnh di chuyển quân ra địa bàn Thanh - Nghệ - Tĩnh để xây dựng đại đoàn bổ sung cho lực lượng quân chủ lực của Bộ Quốc phòng - Tổng Chỉ huy. Riêng Trung đoàn 95 của Đại đoàn 325 cùng với một số đơn vị mới được thành lập như Đại đội 95 công binh, các đại đội 265, 264 vận tải cùng một số tiểu đoàn, đại đội bộ đội địa phương tiếp tục bám trụ chiến đấu tại mặt trận Bình - Trị - Thiên. Đó là một chủ trương sáng suốt và kịp thời vì lúc này Bình - Trị - Thiên cũng đang gặp khó khăn về khả năng cung cấp lương thực cho bộ đội.

Để đảm bảo hậu cần cho chiến dịch Tây Bắc, ngoài khả năng huy động tại chỗ của chiến trường, theo sự phân công của Bộ Chỉ huy mặt trận, các Liên khu III, Liên khu Việt Bắc, hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh phải tập trung chi viện hậu cần cho chiến dịch.

Cùng một lúc phải trực tiếp chi viện cho nhiều mặt trận: Bình - Trị - Thiên, Liên khu V, chiến dịch Thượng Lào, song chỉ trong một thời gian ngắn, đáp lời kêu gọi của mặt trận Tây Bắc, hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh đã huy động sức người, sức của và tổ chức nhiều đoàn dân công tiếp tế theo đúng yêu cầu được giao.

Trong chiến dịch Tây Bắc, tỉnh Nghệ An và Thanh Hóa đã huy động tới 180.196 lượt dân công với trên 3.000.000 ngày công. Dân công đã phá đá, mở đường và vận chuyển trên 20.000 tấn lương thực, thực phẩm lên Tây Bắc. Hai tỉnh đã huy động 9.350 tấn gạo, 164 tấn muối, 195 tấn thịt cùng nhiều thực phẩm các loại. Trong điều kiện đường sá xa xôi, địa hình hiểm trở và khí hậu khắc nghiệt, hàng vạn dân công đã cùng bộ đội bí mật mở đường, gùi thồ, gồng gánh vận chuyển hàng vạn tấn lương thực cùng vũ khí ra mặt trận.

Sau hai tháng rưỡi chiến đấu (từ 14-10 đến 30-12-1952), nhờ phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng chiến đấu và phục vụ chiến đấu, chiến dịch Tây Bắc kết thúc thắng lợi. Quân, dân ta đã tiêu diệt 6.029 quân địch, giải phóng đại bộ phận Tây Bắc rộng tới 28.500 km2 với trên 25 vạn dân, mở rộng và củng cố vùng căn cứ địa, tạo điều kiện cho các chiến trường trung du và đồng bằng Bắc Bộ tiếp tục đẩy mạnh phản công, tiến công tiêu diệt sinh lực địch.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 20 Tháng Hai, 2016, 07:59:58 pm
Thắng lợi của mặt trận Tây Bắc đã cổ vũ tinh thần tiến công của bộ đội trên khắp các mặt trận. Tại Bình - Trị - Thiên, phong trào chiến tranh du kích tiếp tục được củng cố, phát triển trong vùng địch hậu. Vùng căn cứ du kích và vùng ven, lực lượng vũ trang kháng chiến gồm ba thứ quân đã phối hợp đánh địch ở những nơi chúng sơ hở nhất. Chỉ trong một thời gian ngắn củng cố lực lượng, bộ đội vừa chủ động chống địch càn quét, bảo vệ nhân dân, vừa phân tán lực lượng, tiêu diệt nhiều đồn bốt, phá vành đai trắng, mở rộng vùng tự do ở các huyện Phong Điền, Quảng Điền, Triệu Phong, Hải Lăng và Phú Vang.

Các trận chống càn quét ở Quảng Ninh (Quảng Bình), Cam Lộ (Quảng Trị) và Phú Vang (Thừa Thiên) đều giành thắng lợi. Quân Pháp chẳng những không lấn được đất mà vùng tạm chiếm cũng dần dần bị thu hẹp. Bộ đội đã phát triển lối đánh phục kích, tập kích, phá nhiều hệ thống đồn bốt, tháp canh của địch trên đường từ Mỹ Chánh đi Phò Trạch, tiêu diệt 10 lô cốt ở Bích Khê và phá kho của địch ở Đông Hà. Nhiều đoàn xe, đoàn tàu của địch liên tục bị phục kích, bị tiêu diệt trên dọc các tuyến giao thông thủy, bộ làm cho hoạt động tiếp tế và ứng cứ của chúng gặp nhiều khó khăn.

Riêng ba tháng đầu năm 1953, sau khi tập trung phát triển thế trận chiến tranh nhân dân, lực lượng vũ trang Bình - Trị - Thiên đã đánh gần 400 trận lớn nhỏ, loại khỏi vòng chiến đấu gần 2.000 quân địch, lật đổ năm đoàn tàu gồm 28 toa, diệt 25 xe cơ giới, thu nhiều vũ khí các loại. Khu du kích ở nam và bắc Quảng Bình được mở rộng, nối với hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh.

Trong vùng tạm bị chiếm, được lực lượng vũ trang hỗ trợ, phong trào đấu tranh chính trị chống địch áp bức, bóc lột, chống cướp của, bắt lính, đòi cải thiện sinh hoạt cũng diễn ra liên tục. Công chức và công nhân trong thành phố Huế đấu tranh đòi tăng lương, đòi miễn giảm các loại thuế.

Sau cuộc tổng phá tề đợt hai, nhiều tề điệp gan ác tiếp tục bị trừng trị. Các ban hội tề được tuyên truyền vận động nên đã trở thành tổ chức mang tính chất hai mặt, có lợi cho phong trào kháng chiến. Trong vùng tạm chiếm, phần đông các tầng lớp nhân dân tìm mọi cách trì hoãn, phá rối các cuộc bầu cử chính quyền tay sai của địch. Nhân dân ở vùng Hoàn Lão (Quảng Bình), Phú Vang (Thừa Thiên) tích cực tham gia phong trào chống địch bắt lính. Điển hình là cuộc đấu tranh của quần chúng các thôn Lý Hòa (Quảng Bình), Hải Xuân, Hà Lộc (Quảng Trị), Phú Bài (Thừa Thiên), Gia Độ (Quảng Trị) đã huy động hàng trăm gia đình có con em bị địch bắt vào lính, tập trung mít tinh, biểu tình kéo lên huyện lỵ đòi phải thả số thanh niên bị địch bắt giữ.

Ở Thừa Thiên, phong trào đấu tranh chống địch dồn dân lập vành đai trắng, diễn ra bền bỉ và quyết liệt. Nhân dân nêu khẩu hiệu “thà chết không chịu dời làng”. Có nơi địch khủng bố bắn giết nhiều người, nhưng chúng vẫn không lập nổi khu tập trung. Nhiều khu trắng đã biến thành vành đai du kích uy hiếp trực tiếp vị trí đóng quân của địch.

Trong thời gian trên, quân và dân các tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh đã chặn đánh 23 cuộc phản kích của địch ở Cầu Cừ (Hà Trung), Tam Tổng (Nga Sơn), Ngọc Trạo, Phố Cát (Thạch Thành) và nhiều xã ven biển thuộc các huyện Hoằng Hóa, Quảng Xương, Tĩnh Gia, Quỳnh Lưu, Nghi Lộc, Thạch Hà, Cẩm Xuyên, v.v.

Ở miền tây, giáp với Lào, địch nhiều lần đưa lực lượng thổ phỉ về quấy rối gây mất ổn định vùng căn cứ kháng chiến, xúi giục những phần tử phản động bắt giam cán bộ thuế, giết công an, phá các công trình cầu cống gây hoang mang cho đồng bào các dân tộc thiểu số. Nhận rõ âm mưu của địch quyết phá hoại hậu phương của ta, Liên khu ủy đã chỉ đạo các tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh kịp thời chặn đánh các cuộc phản kích của địch và bắt biệt kích khi chúng chưa kịp gây tội ác.

Qua phát động quần chúng đấu tranh, nhiều tên phản động, biệt kích đã bị nhân dân phát hiện và trửng trị. Âm mưu của địch đã thất bại khi địch đánh chiếm vùng tây nam Ninh Bình để mở rộng chiếm đóng và uy hiếp vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh.

Sau thất bại nặng nề trên chiến trường Tây Bắc và bị thu hẹp phạm vi chiếm đóng ở nhiều nơi, quân Pháp đã tăng thêm lực lượng phòng thủ ở Thượng Lào. Riêng ở thị xã Sầm Nưa, địch xây dựng một tập đoàn cứ điểm gồm 11 vị trí, có ba tiểu đoàn chốt giữ. Mục tiêu của chúng là tổ chức lại lực lượng để chuẩn bị phản công và mở rộng phạm vi chiếm đóng trên đất Lào.

Trong thời gian đó, phong trào kháng chiến ở vùng Trung Lào và Hạ Lào vẫn tiếp tục phát triển. Quân, dân ta ở vùng biên giới đã tích cực chi viện cho các bạn Lào. Bốn nghìn dân công các huyện Tuyên Hóa, Quảng Trạch, Bố Trạch của tỉnh Quảng Bình cùng với dân công Hà Tĩnh làm đường ôtô lên đèo Mụ Dạ qua Banaphào vào đường 9, vận chuyển 5.000 tấn vũ khí, lương thực phục vụ chiến đấu phối hợp với chiến trường Thượng Lào. Vùng căn cứ Lào đang được củng cố và mở rộng sát biên giới thuộc các tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh và Quảng Bình.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 20 Tháng Hai, 2016, 08:01:18 pm
Xuất phát từ chủ trương đoàn kết chiến đấu, chống kẻ thù chung là thực dân Pháp xâm lược, giải phóng đất nước và giành độc lập cho mỗi dân tộc, từ tháng 2-1953, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã chỉ thị cho Đảng bộ Liên khu IV và Ban Cán sự Trung Lào tăng cường các biện pháp giúp đỡ cách mạng Lào về mọi mặt. Trước mắt, lực lượng vũ trang cần khẩn trương phối hợp chặt chẽ với lực lượng kháng chiến Ítxala mở chiến dịch Thượng Lào, chống âm mưu chiếm đóng của địch. Ngày 1-4-1953, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã điện gửi Tổng quân ủy, các Đại đoàn ủy và Ban Cán sự Thượng Lào nêu rõ: “Theo chỉ thị của Trung ương Đảng và Hồ Chủ tịch, bộ đội chủ lực ta lần đầu tiên có nhiệm vụ mang lực lượng lớn sang giúp nước bạn. Đó là một nhiệm vụ quan trọng và vinh quang, một mặt thì giúp đỡ cuộc kháng chiến của nhân dân nước bạn, củng cố mối đoàn kết giữa hai dân tộc Việt - Lào để chống kẻ thù chung, mặt khác, còn có ảnh hưởng trực tiếp đến chiến trường Việt Nam ta, đến việc xây dựng và rèn luyện cho bộ đội ta”(1). Để giành thắng lợi cho chiến dịch, Trung ương yêu cầu nắm vững phương châm tác chiến và tiêu diệt sinh lực địch… Nắm vững chính sách đoàn kết Lào - Việt và chính sách dân tộc, phải giữ vững kỷ luật, tôn trọng chủ quyền, tập quán, tính mệnh, tài sản của nhân dân nước bạn…

Chiến dịch Thượng Lào là chiến dịch lớn diễn ra trên một địa bàn rộng thuộc hai tỉnh Sầm Nưa và Xiêng Khoảng. Theo đề nghị của Chính phủ kháng chiến Lào và với tinh thần phối hợp chiến đấu, hàng trăm chiến sĩ quân tình nguyện Việt Nam đã sát cánh chiến đấu với Quân giải phóng Lào, mở các mũi tiến công đánh vào các vị trí trung tâm của địch.

Theo dự kiến của Bộ Chỉ huy mặt trận, do đặc điểm địa hình và yêu cầu của chiến dịch phải cần tới 5.000 tấn gạo và hàng nghìn tấn thực phẩm khác. Vì vậy, công tác mở đường và phục vụ hậu cần có tầm quan trọng đặc biệt với tới sự thành công của chiến dịch. Ba tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh vốn là hậu phương trực tiếp của cách mạng Lào nên trong chiến dịch này, Trung ương Đảng và Chính phủ lại tin cậy giao cho Thanh - Nghệ - Tĩnh huy động sức người, sức của phục vụ chiến dịch Thượng Lào nhanh nhất và đạt hiệu quả nhất.

Rút kinh nghiệm các đợt phục vụ chiến dịch Tây Bắc và nhiều chiến dịch khác, từ cuối năm 1952, các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh đã thành lập hội đồng cung cấp mặt trận để huy động dân công đi làm đường, làm cầu ở khu vực giáp biên giới, đồng thời chuẩn bị lương thực, thực phẩm tập kết ở các kho dự trữ.

Từ tháng 2-1953, tỉnh Nghệ An đã huy động 72.940 dân công tham gia sửa chữa đường quốc lộ số 7 sang Lào. Dân công đã bắc hơn 100 cầu phao, cầu tạm qua sông, qua suối. Tỉnh Thanh Hóa cũng huy động tới 141.160 dân công cùng trên 2.000 xe đạp thồ, 400 thuyền gỗ, 300 xe bò và nhiều phương tiện khác. Tính chung, số dân công của hai tỉnh phục vụ chiến dịch xấp xỉ 250.000 lượt người với gần năm triệu ngày công, vận chuyển trên 14.000 tấn lương thực, thực phẩm và một khối lượng lớn đạn dược, vũ khí.

Bên cạnh việc huy động vật chất với tinh thần “giúp bạn là tự giúp mình”, hai tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An còn là địa bàn tập kết, huấn luyện các đơn vị bộ đội chủ lực trước khi lên đường tham gia chiến dịch. Mặc dù phải chiến đấu trên một chiến trường cách xa hậu phương, địa hình rừng núi hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt, nhưng chiến sĩ quân tình nguyện Việt Nam cùng hàng chục vạn dân công đã khắc phục khó khăn, vận chuyển vũ khí, lương thực, vừa sửa đường, bắc cầu cho xe tiến ra mặt trận.

Ngày 8-4-1953, chiến dịch Thượng Lào mở màn. Cơ quan hậu cần chiến dịch cũng di chuyển lên sát mặt trận để chỉ đạo công tác tiếp vận. Khi chiến dịch bắt đầu, khoảng 12.000 dân công của tỉnh Nghệ An đã đi bộ vượt qua đoạn đường dài hàng trăm kilômét vận chuyển 700 tấn gạo và hàng trăm tấn lương thực, thực phẩm cùng đạn dược để phục vụ mặt trận.

Theo kế hoạch đã xác định, hướng tiến công chính của của chiến dịch là Sầm Nưa, hướng phối hợp là đường số 7 và vùng lưu vực sông Nậm Hu. Đêm 14-4, khi Quân giải phóng Pathét Lào và Sư đoàn 304, Tiểu đoàn bộ đội địa phương 195, các đại đội 121, 123 của tỉnh Nghệ An bôn tập cách Sầm Nưa khoảng 10 km thì địch đã bỏ chạy. Sau đó, quân tình nguyện Việt Nam và bộ đội Lào tiếp tục truy kích địch. Với sự phối hợp chặt chẽ của liên quân Việt - Lào, sau bảy ngày đêm truy kích trên những con đường hiểm trở từ nhiều hướng qua Sầm Nưa, Bản Ban và từ Nọng Hét, Khang Khay đến Cánh Đồng Chum dài hàng trăm kilômét, bộ đội tình nguyện Việt Nam cùng với bộ đội giải phóng Lào đã tiêu diệt và bắt 2.800 quân địch cùng bộ máy chính quyền tay sai ở Sầm Nưa.

Trên đà thắng lợi, liên quân Việt - Lào tiếp tục truy kích, tiêu diệt các vị trí địch trên đường số 7, dồn chúng về Cánh Đồng chum, Phong Xa Lỳ và giải phóng vùng lưu vực sông Nậm Hu giàu có. Tiếp theo cuộc hành quân truy kích địch của liên quân bộ đội Việt - Lào, hàng nghìn dân công các tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh đã theo sát bộ đội, san lấp hàng vạn mét khối đất, mở đường phục vụ chiến dịch và chuyển thương bệnh binh về tuyến sau.


(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chinh trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.14, tr. 163.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 20 Tháng Hai, 2016, 08:02:09 pm
Sau gần một tháng chiến đấu, chiến dịch Thượng Lào kết thúc thắng lợi. Liên quân bộ đội Việt - Lào giải phóng toàn bộ tỉnh Sầm Nưa, một phần lớn tỉnh Xiêng Khoảng và tỉnh Phong Xa Lỳ, bằng 1/5 diện tích nước Lào với 30 vạn dân. Sau khi chiến dịch kết thúc, bộ đội giải phóng Lào và quân tình nguyện Việt Nam đã tổ chức tuần lễ đoàn kết Lào - Việt; mở rộng công tác vận động nhân dân, củng cố vùng giải phóng. Theo đề nghị của bạn, Tiểu đoàn 195 của tỉnh Nghệ An đã tình nguyện ở lại một thời gian giúp bạn củng cố vùng giải phóng Xiêng Khoảng.

Thắng lợi của chiến dịch Thượng Lào đã giúp cách mạng Lào chuyển sang một thời kỳ mới, có điều kiện phát triển mạnh hơn. Từ đây, vùng căn cứ kháng chiến ở Thượng Lào đã nối liền với vùng Tây Bắc của Việt Nam, tạo thế uy hiếp trực tiếp thực dân Pháp ở vùng đồng bằng, vùng trung du và đẩy chúng lún sâu hơn nữa vào thế bị động đối phó. Thắng lợi của chiến dịch Thượng Lào đã thể hiện tinh thần đoàn kết giữa hai nước Việt - Lào nói chung, của quân và dân Liên khu IV với quân, dân Lào nói riêng.

Sự chi viện và phối hợp chặt chẽ của hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh với vùng giải phóng Trung Lào, Hạ Lào và Thượng Lào là nhân tố quan trọng để giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến lâu dài của hai dân tộc nhằm đánh bại âm mưu mở rộng chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp. Chiến thắng Thượng Lào còn phá vỡ thế bao vây của địch định phong tỏa phía tây Thanh - Nghệ - Tĩnh, đồng thời cổ vũ quân và dân Liên khu IV đẩy mạnh phong trào kháng chiến trên chiến trường Bình - Trị - Thiên.

Phối hợp với chiến dịch Thượng Lào, lợi dụng lúc quân Pháp phải tập trung đối phó với mặt trận chính, lực lượng vũ trang Bình - Trị - Thiên đã chủ động mở nhiều trận tập kích đánh sâu vào hậu cứ của địch.

Trong xuân - hè 1953, bộ đội tỉnh Quảng Trị đã tiêu diệt nhiều đồn, bốt địch ở Gio Linh, Tân Lịch. Lực lượng vũ trang huyện Vĩnh Linh đã chặn đánh tiêu diệt một đại đội địch ở Hồ Xá. Bộ đội Hải Lăng phối hợp với du kích Hải Lộc đánh địa lôi ở Bến Đá, Cầu Dài, tăng cường phục kích trên quốc lộ số 1 làm gián đoạn các hoạt động tiếp tế của địch. Tại huyện Hướng Hóa (Quảng Trị), một vùng giáp giới với Lào, nhân dân thực hiện khẩu hiệu “đánh Pháp, tiễu phỉ, trừ gian”, phát động phong trào đấu tranh chính trị sâu rộng bảo vệ chính quyền cách mạng, tiêu diệt và truy đuổi biệt kích. Trong lúc đó, bộ đội tỉnh Quảng Trị phối hợp với lực lượng vũ trang Ítxala hoạt động mạnh ở Hạ Lào, tập kích các đồn Pha Băng, Ba Ngàn (Tà Hoắc), làm cho tổng vệ, dân vệ ở vùng Khe Sanh (Quảng Trị) rất hoang mang.

Ở phía bắc tỉnh Thừa Thiên, nhiều trận phục kích của bộ đội địa phương đã diễn ra ở Cầu Nhi, Mỹ Chánh. Trong tháng 3-1953, lực lượng vũ trang cùng đồng bào Quảng Điền đã phá ba trận càn của năm đại đội, thu nhiều vũ khí, quân trang, quân dụng.

Ở Thanh - Nghệ - Tĩnh, bộ đội đã truy kích phỉ, đuổi chúng ra khỏi vùng biên giới Việt - Lào. Từ tháng 1 đến tháng 3-1953, lực lượng công an Liên khu IV đã tập trung đánh vào cụm phỉ ở Mường Xoa (Sơn Thủy, Quan Hóa). Chiến dịch diễn ra trong một thời gian ngắn nhưng thu nhiều kết quả, đã bắt và tiêu diệt 231 tên, thu 120 súng các loại, kêu gọi đồng bào huyện Quan Hóa đẩy mạnh phong trào đấu tranh chính trị, hạ uy thế của các thế lực phản động. Nhiều tên phản cách mạng như Phạm Bá Phú, Phạm Bá Khuôn, Phạm Bá Phong bị trừng trị đích đáng. Tổ chức phản động “Liên bang Thái Bắc Trung Việt” do chúng lập ra ở Mường Xoa đã bị đập tan.

Cũng trong tháng 3-1953, lực lượng vũ trang tỉnh Thanh Hóa đã kịp thời đẩy lùi cuộc tập kích của địch định chiếm hai huyện Nga Sơn và Hà Trung thuộc vùng duyên hải và đông bắc của tỉnh. Do phát hiện sớm sự di chuyển của địch, công an và lực lượng vũ trang của hai huyện đã chủ động đánh trả, diệt 120 tên địch, chặn đứng cuộc tập kích, bảo vệ vùng hậu phương.

Tại vùng giải phóng tỉnh Quảng Trị, lực lượng công an của liên khu cũng phá vụ gián điệp Pháp câu kết với lực lượng phản động lợi dụng đạo Thiên Chúa ở Phước Sơn (Vĩnh Linh) chống phá phong trào kháng chiến. Sau đó, nhiều tổ chức phản động ở miền tây Thanh - Nghệ - Tĩnh đã bị lực lượng vũ trang địa phương phối hợp với công an của liên khu tiêu diệt, một số kẻ cầm đầu bị bắt giữ. Công tác xây dựng cơ sở chính trị tiếp tục phát triển và củng cố ở vùng núi, nhất là những vùng có đồng bào công giáo.

Cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam đã bước vào giai đoạn quyết liệt. Do đó, việc tăng cường sức mạnh của hậu phương, đặc biệt là bồi dưỡng lực lượng cho nông dân càng có ý nghĩa quan trọng đối với thắng lợi của cuộc kháng chiến. Báo cáo Chính sách ruộng đất của ta hiện nay và cuộc vận động giảm tô giảm tức tại Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 4-1952) đã nêu rõ: “Nước ta là nước nông nghiệp, số rất đông trong nhân dân là nông dân. Không kéo được nông dân thì không thể nói đến lãnh đạo cách mạng, không thể nói đến thực hiện dân chủ nhân dân và tiến tới chủ nghĩa xã hội.

Quyền lợi nông dân ở ruộng đất. Muốn kéo nông dân, phải giải quyết vấn đề ruộng đất. Vấn đề ruộng đất giải quyết đúng thì lãnh đạo kháng chiến thắng lợi, cách mạng thành công”(1).

Báo cáo chỉ ra những sai lầm, khuyết điểm trong việc thi hành chính sách ruộng đất thời gian qua là do cán bộ chưa nhận thức được rõ tầm quan trọng của chính sách ruộng đất, không tích cực thi hành hoặc thi hành quan liêu, mệnh lệnh, xử lý chưa đúng đối với địa chủ, phú nông. Đầu năm 1953, công tác phát động quần chúng triệt để giảm tô được đẩy mạnh để tiến tới thực hiện cải cách ruộng đất.


(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chinh trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.13, tr. 118.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 20 Tháng Hai, 2016, 08:03:06 pm
Trung ương Đảng đã chủ trương phóng tay phát động quần chúng nông dân, triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức, chia lại ruộng đất của thực dân Pháp và Việt gian cho nông dân. Chủ trương phát động quần chúng đã tạo nên một khí thế cách mạng sôi động ở nông thôn. Các cấp bộ đảng, chính quyền địa phương đã tổ chức giáo dục nông dân, dựa vào các tổ chức quần chúng để có kế hoạch đấu tranh với giai cấp địa chủ phong kiến.

Ngay sau đó, Liên khu ủy Liên khu IV và các cấp chính quyền đã liên tục bàn về nhiệm vụ triển khai công tác xây dựng hậu phương như phát động các phong trào “đẩy mạnh sản xuất”, “tranh thủ nhân dân”, “thực hiện đoàn kết toàn dân”, tiến hành cải cách ruộng đất từng bước. Trước hết là chia hết ruộng đất công, bán công, bán tư cho mọi công dân nam, nữ. Số ruộng này ước khoảng vài chục vạn mẫu. Các loại ruộng của thực dân Pháp và Việt gian cũng được đem chia hết cho những người thiếu ruộng. Ruộng vắng chủ cũng được tạm giao cho nông dân. Liên khu cũng chỉ đạo khắc phục những sai lầm, thiếu sót trước đó như khuynh hướng nặng về chống địa chủ, nhẹ về chống đế quốc. Nhiều cán bộ được cử xuống cơ sở nắm sát thực tế, lấy ý kiến của nhân dân, thực hiện phân chia ruộng đất công bằng, chú ý tới các thành phần bần, cố nông, các đối tượng chính sách: gia đình liệt sĩ, gia đình thương binh, bộ đội…

Trong đợt đầu thực hiện cải cách ruộng đất, một số xã của Liên khu IV được trung ương chọn làm nơi thí điểm. Sau hai đợt thực hiện giảm tô và cải cách ruộng đất trong năm 1953, đã có hơn 1.170 nông dân lao động được chia cấp ruộng đất. Những đợt giảm tô và cải cách ruộng đất thí điểm trên tuy mới chỉ tiến hành ở một số xã thuộc vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh, nhưng ảnh hưởng của nó đã lan rộng khắp nơi, kể cả các vùng địch hâu. Nông dân được chính quyền cách mạng chia cấp ruộng đất, đem lại quyền lợi thiết thực để cải thiện đời sống đã phấn khởi, nhiệt tình lao động, tích cực sản xuất phục vụ kháng chiến.

Cuộc vận động thực hiện chính sách ruộng đất trên địa bàn Liên khu IV là một sự kiện quan trọng trong đời sống kinh tế và chính trị của người nông dân trong quá trình theo Đảng làm cách mạng nhằm thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp. Ước mơ hàng nghìn năm của người nông dân là trâu cày, ruộng đất đã trở thành hiện thực. Lực lượng sản xuất ở nông thôn đã được giải phóng một bước căn bản. Nông dân chủ động giúp đỡ nhau về nhân lực, giống, vốn, trâu bò, nông cụ để phát triển sản xuất. Niềm tin vào Đảng, vào sự thắng lợi của cuộc kháng chiến càng tăng lên gấp bội. Cũng từ đó, người nông dân hăng hái đóng góp sức người, sức của cho sự nghiệp đánh giặc, cứu nước. Thanh niên hăng hái gia nhập các lực lượng vũ trang. Theo yêu cầu của mặt trận, đầu năm 1953, hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh đã động viên 5.605 thanh niên đăng ký tòng quân giết giặc. Hàng nghìn gia đình nông dân đã tiễn đưa từ hai đến ba người thân ra mặt trận. Tình cảm quân, dân ngày càng gắn bó. Các đại đoàn chủ lực của Bộ Tổng tư lệnh được nhân dân các tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh hết lòng giúp đỡ để bộ đội tham gia huấn luyện, bổ sung quân số và cung cấp hậu cần trước khi vào những trận đánh lớn. Tới năm 1953, các tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh đã bổ sung 15.600 tân binh cho bộ đội chủ lực. Cũng trong năm 1953, trung ương đã điều động 4.309 cán bộ, đảng viên của Liên khu IV bổ sung vào các cơ quan của trung ương và điều ra phục vụ tuyến trước.

Trong khi đó, các phong trào thi đua sản xuất, thực hành tiết kiệm trong sản xuất nông nghiệp cũng phát triển mạnh ở cả vùng tự do và vùng căn cứ du kích. Nông dân tích cực khai hoang, phục hóa mở rộng diện tích cấy lúa. Nông dân các tỉnh Bình - Trị - Thiên trong điều kiện bom đạn ác liệt vẫn trồng thêm sắn và nhiều loại rau màu khác. Chính sách khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp gắn với bồi dưỡng sức dân trong kháng chiến đã góp phần giải quyết hợp lý giữa lợi ích và nghĩa vụ của nông dân. Đó là yếu tố quan trọng góp phần thực hiện hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến.

Ổn định sản xuất nông nghiệp là điều kiện quan trọng để liên khu phấn đấu hoàn thành chỉ tiêu thuế nông nghiệp, tăng cường lực lượng và đẩy mạnh cuộc kháng chiến tới thắng lợi hoàn toàn. Cùng với cả nước, khắp các tỉnh trong Liên khu IV đã phát động các phong trào “thi đua hoàn thành vượt mức thuế nông nghiệp”, “đóng nhanh, thóc tốt, quạt sạch, phơi khô”, phong trào đã được các tầng lớp nhân dân nhiệt liệt hưởng ứng. Thuế công, thương nghiệp cũng đạt 3.030 triệu đồng (trị giá bằng 28.606 tấn thóc). Mặc dù mức đóng góp từ thuế nông nghiệp ngày càng tăng do yêu cầu đòi hỏi của các chiến trường, nhưng nông dân nhiều địa phương vẫn cố gắng hoàn thành nghĩa vụ được giao. Điều đó chứng tỏ tính ưu việt của chế độ mới, nền kinh tế mới do nhân dân thực sự làm chủ, luôn là tiền đề cao bảo đảm khả năng chi viện sức người, sức của lớn nhất để bộ đội giành thắng lợi ở ngoài tiền tuyến. Sản xuất nông nghiệp đã thúc đẩy sự giao lưu hàng hóa và mậu dịch giữa các vùng trong liên khu. Đấu tranh kinh tế với địch thu được nhiều kết quả hơn.

Hoạt động của mậu dịch quốc doanh có những thay đổi căn bản theo hướng đối ngoại thì quản lý, đối nội thì tự do. Điều đó đã làm cho tình hình kinh tế - tài chính - giá cả được cải thiện đáng kể. Nhiều khu thương mại ở các tỉnh Nghệ An, Thanh Hóa, kể cả trong vùng căn cứ du kích ở Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, đã trở thành các trung tâm trao đổi hàng hóa. Đó là các khu chợ Cầu Giát ở Quỳnh Lưu, chợ Lường ở Đô Lương, chợ Thái Hòa ở Nghĩa Đàn, chợ Sa Nam, chợ Tràng ở Hưng Nguyên, chợ Thượng ở Đức Thọ, v.v. Nông dân được tự do trao đổi hàng hóa nông sản và mua vào những thứ hàng công nghiệp tiêu dùng phù hợp với quan hệ cung, cầu. Thị trường của từng vùng đã có tác dụng thúc đẩy sản xuất phát triển và đẩy mạnh giao lưu hàng hóa có lợi cho sản xuất. Nhiều hợp tác xã, tổ đổi công sản xuất nông nghiệp được xây dựng từng phần theo nguyên tắc đoàn kết, hỗ trợ nhau phát triển sản xuất.

Cùng với việc chú trọng sản xuất nông nghiệp và xây dựng nền công nghiệp quốc phòng, công nghiệp dân dụng và các ngành tiểu, thủ công nghiệp ở liên khu có bước phát triển mới. Một đặc điểm đáng chú ý trong giai đoạn này là sự phát triển của các thành phần kinh tế, trong đó hoạt động của các xí nghiệp công nghiệp quốc doanh trên địa bàn liên khu đã góp phần quan trọng trong việc đảm bảo cung cấp nguyên liệu chủ yếu cho sản xuất công nghiệp và hàng hóa phục vụ đời sống nhân dân.

Thực hiện chủ trương xây dựng nền kinh tế thời chiến “tự cấp, tự túc” và khẩu hiệu “tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng”, tại Liên khu IV đã xây dựng, củng cố bộ máy quản lý để tổ chức động viên các thành phần kinh tế phát triển và vận động toàn dân, toàn quân tham gia sản xuất, đóng góp nhiều nhất cho kháng chiến. Nhiều lớp công nhân lành nghề được đào tạo, bồi dưỡng trong thực tiễn chiến đấu và sản xuất ở liên khu đã trở thành nguồn nhân lực quý giá đối với công cuộc khôi phục và phát triển đất nước sau chiến tranh. Riêng ngành quân giới của liên khu đã có trên 4.000 công nhân, trong đó công nhân Trường Thi làm nòng cốt; có công xưởng tập trung tới 420 công nhân như xưởng Đặng Thái Thân.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 20 Tháng Hai, 2016, 08:03:24 pm
Cùng với phong trào đấu tranh trên mặt trận quân sự, quân và dân Liên khu IV cũng thu được những thành tựu quan trọng trong cuộc đấu tranh thực hiện mục tiêu giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội nhằm xóa bỏ tàn tích của phong kiến, đế quốc, xây dựng hậu phương tại chỗ vững mạnh.

Cùng với các phong trào giảm tô, giảm tức, hạn chế các hình thức bóc lột, dân chủ hóa nền kinh tế, phát triển văn hóa - giáo dục như xây dựng đời sống mới, bài trừ các hủ tục mê tín, dị đoan, xóa nạn mù chữ… bộ mặt nông thôn Liên khu IV cũng đang thay đổi, nhất là trên lĩnh vực giáo dục - văn hóa. Trên địa bàn Liên khu IV, đã xây dựng được 2.031 trường phổ thông cấp I với 120.011 học sinh, 179 trường phổ thông cấp II và 11 trường phổ thông cấp III. Cũng trong thời gian này, các lớp dự bị đại học ở Thanh Hóa tiếp tục thu nhận học sinh tốt nghiệp hệ phổ thông 9 năm tham gia học tập. Cùng với các trung tâm đào tạo khác ở Liên khu Việt Bắc và kể cả đưa học sinh đi đào tạo ở Khu học xã Trung Quốc, Nhà nước đã kịp thời đào tạo hàng nghìn cán bộ có chuyên môn và kỹ thuật cần thiết cho sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc.

Công tác văn hoá, nghệ thuật ở liên khu được sử dụng như một thứ vũ khí sắc bén để góp sức tiến công kẻ thù và động viên nhân dân hăng hái tham gia kháng chiến. Các đội tuyên truyền xung kích, báo, truyền đơn đã kịp thời cổ động, tuyên truyền tin tức chiến thắng từ các mặt trận, phổ biến chủ trương, chính sách của Đảng, Chính phủ tới từng thôn xóm. Hoạt động của các đội văn nghệ cơ sở đã diễn ra sôi nổi dưới nhiều hình thức phong phú. Anh chị em văn nghệ sĩ đã dũng cảm, hăng hái đi biểu diễn phục vụ đồng bào, chiến sĩ không chỉ trong vùng giải phóng mà còn có mặt cả trong vùng địch hậu. Hàng vạn lượt đồng bào đã được xem các buổi biểu diễn văn nghệ, chiếu bóng với các nội dung yêu nước, có tác dụng động viên các tầng lớp nhân dân tham gia phục vụ kháng chiến. Hoạt động y tế, cứu thương và chăm sóc sức khẻo nhân dân đã có nhiều cố gắng. Hàng trăm lớp đào tạo cứu thương và vệ sinh viên cấp tốc được mở ra ở các tỉnh, huyện, hình thành một mạng lưới y tế rộng lớn, kịp thời cứu chữa thương, bệnh binh và điều trị cho nhân dân. Cán bộ y tế đã xuống tận cơ sở tuyên truyền nếp sống vệ sinh và tiêm chủng cho nhân dân, ngăn chặn kịp thời các ổ dịch bệnh ở Thanh Hóa, Hà Tĩnh.

Giao thông vận tải ở Liên khu IV cũng có những tiến bộ rõ rệt hơn mấy năm trước. Hình ảnh những con đường kháng chiến đã thay đổi và trên những con đường ấy đã thực sự trở thành trận chiến gay go, ác liệt giữa ta và địch. Hầu hết các tuyến đường bộ của liên khu nằm trong vùng tự do bị địch đánh phá nhiều lần nhưng đã được dân công tu bổ kịp thời. Nhiều tuyến đường mới lên giáp biên giới giữa Việt Nam và Lào cũng được mở rộng và làm thêm nhiều cầu mới, cầu tạm để vận chuyển hàng hóa và cung cấp hậu cần cho chiến trường Lào. Nhiều đoàn thanh niên xung phong đã tham gia mở đường, xây cầu, san lấp hàng vạn khối đất đá để thông đường cho xe ra mặt trận.

Để phát triển vận tải nhân dân phục vụ nhu cầu kháng chiến và phát triển giao lưu hàng hóa giữa các vùng, tại Liên khu IV đã thành lập 34 công đoàn thương thuyền, 216 tập đoàn vận tải thô sơ, một tập đoàn ôtô. Riêng công đoàn thương thuyền sông Lam có tới 33 phân đoàn gồm 3.300 đoàn viên. Phương tiện vận tải chủ yếu là các loại xe đạp thồ, xe bò, xe ngựa kéo, thuyền mảng, canô và một số ít ôtô. Nhờ phát huy sức mạnh của toàn dân trong công tác giao thông vận tải mà hệ thống đường bộ được sửa chữa, một số đoạn đường sắt được khôi phục, phương tiện giao thông vận tải quốc doanh, tập thể và tư nhân đều tăng, đã đáp ứng được phần lớn việc giao lưu hàng hóa giữa các vùng và mở đường ra mặt trận.

Trong một nền kinh tế nhiều thành phần, sản xuất nhỏ phân tán và lạc hậu lại bị địch thường xuyên đánh phá, song với đường lối phát triển kinh tế tự lực cánh sinh, dựa vào dân và phát huy sức sáng tạo của nhân dân, nên hậu phương kháng chiến của Liên khu IV đã bảo đảm nhu cầu cho nhiệm vụ đánh giặc và ổn định đời sống. Đây là một thành tựu quan trọng trong xây dựng, bảo vệ chế độ mới và thực hiện nghĩa vụ của hậu phương đối với tiền tuyến.

Kết hợp với các nhiệm vụ xây dựng, củng cố hậu phương, sau các đợt chỉnh huấn, chỉnh quân theo tinh thần nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng, hầu hết các cấp bộ đảng, chính quyền, quân đội trong địa bàn liên khu đã quán triệt sâu sắc quan điểm kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, tự lực cánh sinh, nâng cao quyết tâm chống đế quốc, chống phong kiến, thực hiện thắng lợi sự nghiệp giải phóng dân tộc. Những biểu hiện “tả” khuynh, hữu khuynh ở một bộ phận cán bộ lãnh đạo cũng được các đảng bộ trong liên khu tổ chức phê bình, kiểm điểm nghiêm túc trước nhân dân. Nhờ đó, mọi mặt hoạt động về kinh tế, chính trị, xã hội của liên khu có nhiều chuyển biến và ngày càng ổn định.

Tuy nhiên, trong quá trình chỉnh huấn, chỉnh quân và thực hiện chính sách ruộng đất trên địa bàn Liên khu IV, về chỉ đạo thực hiện nhiều địa phương cũng phạm phải một số sai lầm, khuyết điểm do còn có một bộ phận cán bộ ở một số cấp ủy, chính quyền có biểu hiện địa vị cá nhân độc đoán, chuyên quyền, hữu khuynh hoặc “tả” khuynh, lập trường thiếu kiên định, không xác định rõ bạn, thù, thiếu quan điểm đúng đắn. Điều đó đã làm hạn chế thắng lợi của công tác chỉnh huấn và ảnh hưởng đến chính sách đoàn kết nông thôn của Đảng và Chính phủ.

Những khuyết điểm, nhược điểm trong quá trình chỉ đạo đấu tranh vũ trang và xây dựng hậu phương là những vấp váp trong quá trình trưởng thành của cuộc kháng chiến. Đảng bộ Liên khu IV đã kiên trì vận động, thuyết phục quần chúng, nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình đối với từng cấp bộ đảng, đảm bảo vai trò lãnh đạo và uy tín của Đảng trong quá trình thực hiện các mục tiêu của cuộc kháng chiến.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 20 Tháng Hai, 2016, 08:03:52 pm
*
*   *

Trong gần ba năm (từ 1951 đến giữa năm 1953), dưới sự lãnh đạo của các đảng bộ và các cấp chính quyền, quân và dân Liên khu IV đã vượt qua khó khăn, gian khổ vừa đánh giặc, vừa khắc phục hậu quả thiên tai, lũ lụt, đẩy mạnh sản xuất, giành nhiều thắng lợi.

Trên mặt trận đấu tranh quân sự, ban đầu địch chiếm ưu thế về lực lượng và vũ khí, đã phát động cuộc chiến tranh tổng lực với những trang bị hiện đại để hy vọng giành lại thế chủ động. Nhưng cả Pháp - Mỹ và chính quyền tay sai đã không cứu vãn được tình thế. Trước sự phát triển về thế và lực của phong trào kháng chiến, địch ngày càng rơi vào thế bị động đối phó.

Gần ba năm kiên trì thực hiện đường lối chiến tranh toàn dân, toàn diện với phương châm tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu, chỗ sơ hở của địch, lực lượng vũ trang ba thứ quân của Liên khu IV đã không ngừng phát triển về mọi mặt. Phong trào chiến tranh du kích phát triển sâu rộng. Bộ đội chủ lực có khả năng phối hợp tác chiến cấp trung đoàn, có trận huy động hai, ba trung đoàn. Phối hợp với chiến trường cả nước, quân và dân Liên khu IV, nhất là tại chiến trường Bình - Trị - Thiên, luôn giữ thế chủ động tác chiến, tiêu diệt một bộ phận lớn sinh lực địch, làm thất bại căn bản âm mưu “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt” của chúng trên địa bàn Liên khu IV.

Trong vùng tạm chiếm và vùng du kích, có lúc, có nơi phong trào chịu nhiều tổn thất do địch đánh phá ác liệt. Song địch càng tàn bạo, lòng dân càng hướng về Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh với niềm tin son sắt vào thắng lợi cuối cùng. Cuộc đấu tranh trong vùng tạm chiếm được củng cố và tạo thế đứng vững chắc cho bộ đội luồn sâu, đánh mạnh vào vùng địch hậu. Trước sự khủng bố ác liệt của kẻ thù, nhiều cán bộ, đảng viên vẫn kiên trì bám trụ, xây dựng cơ sở chính trị, cơ sở quân sự, vận động nhân dân phát triển phong trào chiến tranh du kích. Vùng căn cứ du của Bình - Trị - Thiên được nối liền với hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh.

Sự phát triển của cuộc kháng chiến trên địa bàn Liên khu IV cũng đã hỗ trợ tích cực cho cách mạng Lào. Quân và dân Liên khu IV đã hết lòng chi viện sức người, sức của và phối hợp với Quân giải phóng Lào, cùng chiến đấu đánh bại âm mưu mở rộng chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ trên bán đảo Đông Dương, góp phần quan trọng xây dựng tình đoàn kết chiến đấu giữa hai dân tộc Việt Nam và Lào nói chung, quân dân Liên khu IV và quân dân Lào nói riêng.

Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chống đế quốc, quân và dân Liên khu IV đã kiên trì vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, ác liệt, hy sinh và cả những vấp váp, sai lầm chủ quan, quyết tâm xây dựng vùng hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh thành một căn cứ địa vững chắc của địa phương và của cả chiến trường Đông Dương. Hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh là một địa bàn luôn luôn bị địch đánh phá ác liệt. Chúng còn tung gián điệp, biệt kích, thám báo, lôi kéo, mua chuộc các phần tử phản động vùng các dân tộc thiểu số, vùng tôn giáo, địa chủ ngoan cố… để phá hoại từ bên trong. Nhưng quân và dân Thanh - Nghệ - Tĩnh vẫn đứng vững, an ninh chính trị vẫn ổn định, tổ chức đảng, chính quyền và các đoàn thể quần chúng luôn luôn được củng cố, sản xuất phát triển, công tác văn hóa - giáo dục được chú trọng… Hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh đã không ngừng vươn lên làm tròn nghĩa vụ của mình đối với chiến trường tại chỗ Bình - Trị - Thiên, chiến trường Bắc Bộ và chiến trường Lào. Sau khi chính sách thuế nông nghiệp được ban hành, nông dân Thanh - Nghệ - Tĩnh đã đóng góp cho Chính phủ tới 25-26% thu nhập. Ngoài nhiệm vụ đóng góp bằng thóc và hàng hóa nông sản khác, mỗi năm quân và dân ba tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh đã huy động từ hai đến ba triệu ngày công phục vụ các chiến dịch, động viên từ hai đến ba vạn tân binh bổ sung cho các lực lượng vũ trang chiến đấu. Những đợt phát động quần chúng thực hiện chính sách ruộng đất bắt đầu ở vùng tự do đã tạo khí thế phấn khởi. Sự lớn mạnh của hậu phương là chỗ dựa vững chắc để quân và dân Liên khu IV cùng với quân và dân cả nước giành những thắng lợi to lớn và quyết định.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 22 Tháng Hai, 2016, 07:42:04 pm
Chương 5

PHÁT HUY SỨC MẠNH HẬU PHƯƠNG, NỖ LỰC CHI VIỆN
CÁC CHIẾN TRƯỜNG, CÙNG CẢ NƯỚC TIẾN CÔNG CHIẾN LƯỢC,
KẾT THÚC KHÁNG CHIẾN THẮNG LỢI
(1953 - 1954)
   
I. THẾ, LỰC VÀ PHƯƠNG HƯỚNG CHIẾN LƯỢC MỚI Ở LIÊN KHU IV

Sau hơn bảy năm thực thi nhiều kế hoạch xâm lược quy mô lớn và tàn bạo, những nỗ lực về quân sự và chính trị của Pháp ở Đông Dương đang đứng trước “tình thế gần như là tuyệt vọng” (thú nhận của Pléven). Bị tiến công trên khắp các chiến trường, quân Pháp ngày càng lún sâu và thế bị động, bế tắc về chiến lược. Tướng Pháp Yves Gras đã thừa nhận: “Tình hình quân sự vẫn dần dần xấu đi. Sự cân bằng giữa các lực lượng nói chung vẫn được duy trì nhưng dễ trở nên bấp bênh khắp nơi, đạo quân viễn chinh buộc phải lui về phòng ngự. Việt Minh đã giành lại quyền chủ động (…) Những phương hướng của tương lai thật là u ám, hành động quân sự lâm vào một ngõ cụt”(1).

Về phía ta, sau thắng lợi của quân và dân ta ở Hòa Bình (2-1952), Tây Bắc (12-1952) và Thượng Lào (4-1953), cục diện cuộc chiến tranh ở Đông Dương nói chung và Liên khu IV nói riêng đã có thay đổi căn bản cả thế và lực trong lực lượng so sánh giữa ta và Pháp.

Mặc dù được Mỹ tăng cường viện trợ về ngân sách quân sự, phương tiện vật chất(2), chiến tranh Đông Dương vẫn tiếp tục làm nền tài chính Pháp thâm hụt nặng nề. Chính tổng thống Pháp Auriol phải thừa nhận: “Công cuộc bảo vệ nền tự do ở Đông Dương (!) đã làm cho chúng ta (tức Pháp - TG) tiêu tốn về vật chất gần gấp đôi mà chúng ta nhận được theo kế hoạch Marshall và chương trình viện trợ quân sự”(3). Trước những thất bại nặng nề trên chiến trường Đông Dương, nội tình nước Pháp bị chia rẽ sâu sắc. Các tướng lĩnh, các chính khách Pháp đổ lỗi cho nhau vì sự bất lực trong việc tìm kiếm “những con đường và những phương tiện”(4) để giành thắng lợi ở Đông Dương. Các đảng phái chính trị thấy rõ cuộc chiến tranh tốn kém và kéo dài mà không có hy vọng gì đã công khai đòi chính phủ Pháp phải tìm kiếm những cuộc thương lượng với Trung Quốc và Liên Xô để “chấm dứt cuộc xung đột”. Đảng Xã hội đòi phải thương lượng trực tiếp với Việt Minh. Một số giới còn kiến nghị “quốc tế hóa cuộc xung đột” bằng cách dựa vào Liên hiệp quốc.

Tuy số người đứng về phía chủ hòa, đòi nhanh chóng chấm dứt chiến tranh ngày càng tăng lên(5), song trong chính giới Pháp những kẻ ngoan cố, theo đuổi cuộc chiến ở Đông Dương vẫn còn chiếm ưu thế. Chúng cho rằng “việc bỏ Đông Dương sẽ kéo theo sự tan rã của Khối liên hiệp Pháp bằng một phản ứng dây chuyền qua toàn bộ châu Phi”(6), rằng “rút lui tức là kéo lên hồi chuông báo tử của toàn bộ Khối liên hiệp Pháp và bắt buộc chúng ta phải vĩnh viễn rời khỏi Đông Dương trong một thời gian ngắn”(7), rằng nếu để mất Đông Dương thì “cả miền Đông Nam Á sẽ bị nhuộm đỏ”(8). Chính phủ Pháp bị giằng xé giữa hai con đường hoặc tiếp tục cuộc chiến một cách vô vọng, hoặc buộc phải tìm giải pháp nhanh chóng thoát khỏi cuộc chiến tranh này. Các nhà lãnh đạo Pháp tự đặt ra câu hỏi căn bản: “Bằng sức mạnh của vũ khí liệu nước Pháp có đủ sức áp đặt cho Đông Dương một giải pháp theo ý muốn của mình không? Liệu đã đến lúc bước vào thương lượng chưa? (…) Liệu nước Pháp có còn phải chịu đựng lâu dài hơn nữa một cuộc chiến tranh làm cho đất nước kiệt quệ…”(9).

Để thoát khỏi tình trạng bi đát, chính phủ thứ 18 của nước Pháp được thành lập trong vòng gần tám năm do René Mayer làm thủ tướng đã ddi đến quyết định phải tìm ra “một lối thoát danh dự” cho cuộc chiến tranh ở Đông Dương, tìm biện pháp mới nhằm xoay chuyển cục diện tra buộc đối phương phải chấp nhận giải pháp thương lượng theo những điều kiện mà nước Pháp đưa ra. Theo phương hướng này, nước Pháp quyết định cải tổ bộ máy chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương, thay tướng Salan, cử tướng bốn sao Henri Navarre, Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh lục quân Trung Âu thuộc khối quân sự Bắc Đại Tây Dương làm Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương. Mang theo ý đồ chính trị của Pari, Navarre đến Đông Dương nghiên cứu tình hình, tìm kế sách mới. Sau một thời gian ráo riết chuẩn bị, ngày 24-7-1953, Navarre đã trình bày trước Hội đồng quốc phòng Pháp một chương trình hành động gồm hai phần chính trị và quân sự.


(1)  Général Yves Gras: Histoire de la guerre d’Indochine (Lịch sử cuộc chiến tranh Đông Dương), Plon, Paris, 1979 (bản dịch tiếng Việt).
(2) Năm 1952, viện trợ tác chiến và phương tiện vật chất của Mỹ cho Pháp là 200 tỷ phrăng (trong tổng chi phí chiến tranh là 569 tỷ phrăng). Đến năm 1953, viện trợ của Mỹ lên 269 tỷ (trong tổng chi phí chiến tranh là 589 tỷ phrăng).
(3) Général Yves Gras: Histoire de la guerre d’Indochine (Lịch sử cuộc chiến tranh Đông Dương), Sđd.
(4) Sau khi nhậm chức tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương, Henri Navarre đã phê phán De Lattre đã đặt nỗ lực chiến tranh vào đồng bằng Bắc Bộ, phê phán chính phủ đã “không có một đường lối chiến tranh duy nhất”, “các kế hoạch quân sự của các tổng tư lệnh Đông Dương không liên tục”. Quân sử 4, Sài Gòn, 1972.
(5) Xu hướng đòi chấm dứt chiến tranh thể hiện rõ trong cuộc khủng hoảng nội các Pháp kéo dài 39 ngày giữa năm 1955. Những người có ý kiến tán đồng việc thương lượng như Mendes France được số phiếu bầu rất cao, mặc dù chưa đủ đa số để đứng ra lập nội các mới. Theo tường thuật của Navarre thì trong cuộc họp của Hội đồng chính phủ Pháp (7-1952) “các vị trong chính phủ không có mục đích nào khác là thoát khỏi cuộc chiến tranh này”.
(6) Général Yves Gras, Sđd.
(7) Tuyên bố của Navarre, xem Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, t.2, tr. 270.
(8) Nhận xét của Salan trong kế hoạch hành động trình Chính phủ Pháp vào tháng 3-1953.
(9) Général Yves Gras, Sđd.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 22 Tháng Hai, 2016, 07:45:29 pm
Trong phần chính trị, Navarre cho rằng nước Pháp, các chính phủ bù nhìn ở Đông Dương và Mỹ phải thống nhất trong một liên minh chống kẻ thù chung là Việt Minh, phải có sự lãnh đạo thống nhất về chính trị và về quân sự, phải bằng mọi cách thúc đẩy các chính phủ bù nhìn ở Đông Dương dồn sức vào cuộc chiến. Navarre khẳng định “một lối thoát khỏi sự bế tắc ở Đông Dương” không thể là một thắng lợi bằng quân sự, mà “chỉ có thể là lối thoát chính trị”, muốn giải pháp chính trị tốt thì “điều kiện quân sự của cuộc chiến tranh là phải bảo vệ những vị trí của chúng ta và cải thiện nó trong điều kiện cụ thể”.

Về quân sự, Navarre chia làm hai phần: kế hoạch tổ chức quân đội và kế hoạch tác chiến.

Trong phần tổ chức quân đội, Navarre chủ trương xây dựng một quân đoàn chiến đấu (corps de bataille) mạnh gồm bảy sư đoàn cơ động chiến lược, biên chế thành 27 binh đoàn cơ động (trong đó có 12 binh đoàn quân Việt Nam).

Trong phần tác chiến, Navarre đã phác họa kế hoạch chiến lược như sau: trong chiến cuộc 1953-1954, tìm cách né tránh các trận đánh quyết định với các binh đoàn chủ lực của Việt Minh, xúc tiến việc thành lập quân đoàn tác chiến mạnh; trong chiến cuộc 1954-1955, khi quân đoàn tác chiến Pháp đã đủ mạnh và đã được huấn luyện khá đầy đủ sẽ chấp nhận các trận đánh quyết định với đối phương. Sau khi phân tích thế bố trí lực lượng của Việt Minh, Navarre chia chiến trường Đông Dương thành hai khu vực: khu vực Bắc và khu vực Nam, lấy vĩ tuyến 18 với dãy Hoành Sơn chạy dài từ Kỳ Anh (Hà Tĩnh) lên tận sông Me Kông (địa phận tỉnh Thà Khẹc Lào) làm ranh giới. Từ sự phân chia đó, Navarre định ra một kế hoạch tác chiến cụ thể gồm hai giai đoạn:

Trong suốt chiến cuộc 1953-1954, thực hiện chủ trương phòng thủ chiến lược ở phía bắc vĩ tuyến 18, tránh những trận giao tranh quyết định với chủ lực Việt Minh; ngược lại, tiến hành phản công chiến lược ở phía nam vĩ tuyến 18 để bình định miền Nam và miền Trung Đông Dương, thanh toán Liên khu V của Việt Minh.

Sau khi có được ưu thế về lực lượng cơ động, từ mùa thu 1954 sẽ chuyển sang phản công ở phía bắc vĩ tuyến 18, nhằm tạo ra một cục diện quân sự thuận lợi cho một giải pháp chính trị và kết thúc chiến tranh(1).

Kế hoạch Navarre là cố gắng chiến tranh mới của giới thực dân hiếu chiến Pháp và can thiệp Mỹ. Những toan tính và tham vọng của kẻ thù dặt ra những khó khăn mới đối với quân và dân ta. Tuy nhiên, kế hoạch quân sự Navarre ra đời trong thế bị động của quân đội Pháp, chứa đựng nhiều mâu thuẫn và nhược điểm lớn. Kế hoạch quân sự mới của Pháp đã không giải quyết được thế bế tắc quân sự của Pháp, nó chỉ thay thế sự bị động này bằng một sự bị động khác. Sự bế tắc đó chứa đựng ngay trong những toan tính của những người hoạch định chiến lược Pháp, khi họ vừa tuyên bố “không chấp nhận một sự rút lui nào hết” vừa chủ trương “chứng minh cho Việt Minh thấy rằng nếu như chúng ta không thắng trong cuộc chiến tranh thì họ cũng không hy vọng gì thắng ta bằng quân sự”(2). Bên cạnh đó, việc thực thi kế hoạch Navarre cũng đồng nghĩa với việc nước Pháp đứng trước nguy cơ bị Mỹ hất cẳng khỏi Đông Dương. Đồng thời với viện trờ tài chính cho Pháp, Oasinhtơn đòi Pari phải nói rộng quyền hành cho các chính phủ ngụy quyền ở Đông Dương, từng bước thiết lập quan hệ trực tiếp với chính phủ bù nhìn, “tức là sự gạt bỏ cuối cùng đối với nước Pháp”(3). Chính Navarre cũng thừa nhận: “Viện trợ Mỹ tai hại hơn ở trong địa hạt chính trị. Ảnh hưởng viện trợ sẽ thâm nhập vào các hoạt động nội bộ ta. Nhận viện trợ là ta đã để gần như mất Đông Dương, dù ta thắng trận đị nữa. Đây sẽ là một thảm họa cho nền chính trị của ta”(4). Mặc dù tại điện Elysée các nhà cầm quyền Pháp tuyên bố: “Họ (tức Mỹ - TG) phải giúp đỡ chúng ta, nhưng họ không được đặt chân vào đó (tức Đông Dương - TG)”(5). song để đổi lấy viện trợ của Mỹ bù đắp cho những thiếu hụt không thể khắc phục trong ngân sách chiến phí Đông Dương, chính phủ mới do Jossepth Laniel đứng đầu buộc phải ra tuyên bố hứa sẵn sàng trao trả “độc lập” cho “các quốc gia liên kết”(6) theo yêu cầu của Mỹ.

Những mâu thuẫn và nhược điểm nói trên đã đặt ra cho quân và dân Liên khu IV những thử thách mới. Hình thái mới của cuộc chiến tranh càng làm nổi bật tầm quan trọng của Liên khu IV.


(1) Xem Henrri Navarre: L’agoine de l’Indochine (Đông Dương hấp hối), Plon, Paris, 1956
(2) Xem Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, t.2, tr.268.
(3) Général Yves Gras, Sđd.
(4) Xem Henri Navarre, Sđd.
(5) Général Yves Gras, Sđd.
(6) Xem Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, t.2, tr.267.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 22 Tháng Hai, 2016, 07:47:34 pm
Việc Pháp tập trung bình định ở đồng bằng Bắc Bộ và hướng các chiến dịch lớn của nước ta chuyển dần về phía nam đã làm cho Thanh - Nghệ - Tĩnh trở thành nơi cung cấp lương thực, thực phẩm, nhân lực chính yếu cho các chiến dịch tiến công của ta. Cùng với việc chuyển lên đánh lớn, vai trò cung cấp của Thanh - Nghệ - Tĩnh cũng tăng lên. Trong các chiến dịch ở Hà Nam Ninh, Hòa Bình, Tây Bắc (1952), Thượng Lào (giữa 1953), ba tỉnh đã cung cấp từ 70% đến 98% số gạo cho quân đội(1). Thực tiễn đó đã làm cho giới chóp bu trong quân đội Pháp ở Đông Dương phải tính tới việc đánh chiếm, phong tỏa Thanh - Nghệ - Tĩnh. Sau khi De Lattre chết (11-1-1953) chính phủ Pháp cử Raoul Salan làm tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương. Tháng 3-1953, viên tổng chỉ huy này trình lên thủ tướng mới của Pháp là René Mayer một kế hoạch hành động chỉ đạo cuộc chiến ở Việt Nam trong hai năm rưỡi. Qua kinh nghiệm những năm 1951-1952, Salan cho rằng không thể tiêu diệt được Việt Minh khi họ vẫn được cung cấp nhân, vật lực sau mỗi trận đánh, do đó muốn chiến thắng, quân đội Pháp phải bình định tất cả những khu vực đã chiếm đóng, kiểm soát tất cả các nguồn cung cấp cho Việt Minh phải mở các chiến dịch chiếm đóng các khu vực kinh tế và đông dân. Trong kế hoạch quân sự gồm ba giai đoạn kéo dài từ tháng 4-1953 đến tháng 9-1955, Salan đã đề cập đến việc mở rộng chiếm đóng, bình định các khu vực bắc thành phố Huế, nam Đồng Hới và tiến tới đánh những đòn quyết định mà mục tiêu trước hết là vùng Thanh - Nghệ - Tĩnh. Salan viết: “Ta phải bịt kín tất các cửa ngõ của địch (tức Việt Minh - TG) trông ra biển để ngăn cản địch lấy người và thóc lúa tại vùng Thanh - Nghệ - Tĩnh, có nghĩa là ta phải chiếm lấy miền Trung và tối thiểu phải chiếm được Thanh Hóa”(2). Tháng 4-1953, khi quân ta mở chiến dịch Thượng Lào, Thủ tướng Pháp Mayer đã gửi công điện nhắc nhở Salan “phải giữ vững Trung phần”. Với sự ra đời của kế hoạch Navarre, vĩ tuyến 18 trở thành tuyến ngăn chặn giữa hai miền Nam - Bắc. Các khu vực đường số 8, số 12, số 9 và cao nguyên Bôlôven ở Trung và Hạ Lào được coi là những địa bàn đặc biệt quan trọng về chiến lược. Nếu mất địa bàn này, quân đội Pháp ở Đông Dương có thể bị cắt làm đôi. Mặt khác, trong khi phán đoán những hoạt động của ta trong chiến cuộc 1953-1954, Navarre cho rằng chủ lực của ta có thể từ Thanh - Nghệ - Tĩnh tiến công vào miền Nam, “cả miền Trung và miền Nam Đông Dương đều bị đe dọa”, gây nên đảo lộn lớn. Do đó, trước khi bước vào mùa khô, Navarre đã tổ chức tại Trung Lào một bộ máy chỉ huy thống nhất và tăng thêm lực lượng cho chiến trường này. Ở Bình - Trị - Thiên, chúng tiến hành củng cố các vị trí chiếm đóng, tổ chức các cuộc tiến công càn quét để tiêu diệt chủ lực ta, phá hoại kinh tế kháng chiến. Những động thái trên của địch vừa nhằm bảo vệ địa bàn chiến lược trọng yếu, vừa để tạo ra một “tuyến cấm” chạy dài từ Thà Khẹc (Lào) đến Đồng Hới, loại trừ nguy cơ quân chủ lực Việt Nam chuyển quân từ Bắc vào Nam.
   
Nằm tiếp giáp với Trung Lào, nơi xuất phát các tuyến giao thông trọng yếu sang nước bạn, Liên khu IV trở thành bàn đạp, hậu phương trực tiếp cho các đòn tiến công chiến lược của ta ở Trung và Hạ Lào trong đông xuất 1953-1954. Sau chiến thắng Hòa Bình (2-1952), hành lang nối Thanh - Nghệ - Tĩnh với Việt Bắc được thông suốt, mở ra hướng cơ động trên khắp các chiến trường miền núi. Từ đất đứng chân ở vùng Thanh - Nghệ, những đội quân chủ lực của ta có thể nhanh chóng triển khai lên miền Tây Bắc để thực hiện các ý đồ chiến lược. Thanh Hóa trở thành nơi xuất phát của nhiều đại đoàn chủ lực thực hiện các đòn chiến lược trong đông xuân 1953-1954.

Cùng với vị trí chiến lược được nâng lên một tầm cao mới, thế và lực của quân và dân Liên khu IV cũng phát triển lên một tầm mức mới.

Khi quân và dân Liên khu IV cùng với quân và dân cả nước đối diện với cuồng vọng mới của kẻ thù cũng là lúc so sánh thực lực giữa quân ta và địch đã hoàn toàn khác trước. Qua gần tám năm chiến đấu và xây dựng, lực lượng vũ trang ba thứ quân của ta đã lớn mạnh cả về số lượng lẫn chất lượng. Với khối chủ lực cơ động gồm sáu đại đoàn bộ binh, hai tiểu đoàn pháo 105 mm, sáu tiểu đoàn pháo cao xạ 37 mm, cùng với nhiều trung đoàn chủ lực của các liên khu, các trung đoàn tình nguyện ở Lào và Campuchia, chúng ta đã giữ vững và phát huy quyền chủ động tiến công chiến lược trên chiến trường chính, liên tiếp giáng cho các đạo quân viễn chinh Pháp những đòn nặng nề, đẩy chúng lún sâu vào thế bị động đối phó, làm phân tán, suy yếu thế kìm kẹp ở vùng sau lưng chúng. Bằng lực lượng vũ trang địa phương gồm hàng chục tiểu đoàn bộ đội tỉnh, hàng trăm đại đội bộ đội huyện phối hợp và làm nòng chốt cho lực lượng du kích, dân quân đông đảo, chiến tranh nhân dân trong vùng địch kiểm soát đã phát triển lên cao trào tiến công và nổi dậy, có sức đánh thắng các cuộc càn quét lớn, đồng thời giữ vững và mở rộng vùng giải phóng, vùng căn cứ du kích. Thực tiễn diễn biến chiến trường đã làm mất tinh thần quân đội viễn chinh, làm lung lay ý chí xâm lược của đế quốc Pháp, trái lại nó nâng cao nhuệ khí chiến đấu của quân và dân cả nước, trong đó có quân và dân Liên khu IV. Những thắng lợi của quân và dân ta trên khắp các chiến trường, trong đó có phần đóng góp lớn lao của quân và dân liên khu đã tạo nên một xung lực mới cho Liên khu IV.

Bước vào đông xuân 1953-1954, trên chiến trường Bình - Trị - Thiên, phong trào chiến tranh du kích trải qua các cuộc càn quét ác liệt của địch vẫn trụ vững, tích lũy thêm nhiều kinh nghiệm; trong khó khăn chồng chất, các cơ sở đảng, du kích và nhân dân dần dần được phục hồi và mở rộng. Vùng căn cứ địa của Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Bình đã được chắp nối, tạo nên thế liên hoàn sang Savanakhét và Saravan (Lào). Các cơ quan chỉ đạo kháng chiến được kiện toàn, năng lực tổ chức chỉ huy được nâng lên.

Sau hơn 7 năm kháng chiến, hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh đã phát triển, ổn định vững chắc về mọi mặt, có khả năng huy động sức người, sức của phục vụ tiền tuyến, giáng trả mọi cuộc tiến công, xâm nhập của địch.


(1) Năm 1951, Thanh - Nghệ - Tĩnh cung cấp cho chiến dịch Hà Nam Ninh 13 nghìn tấn lương thực, 1.500 trâu bò, 30 tấn lương khô, 20 tấn đường, hàng trăm tấn muối và thực phẩm khác. Trong chiến dịch Tây Bắc, Thanh Hóa và Nghệ An và một số địa phương đã cung cấp cho chiến dịch 9.350 tấn gạo, 164 tấn muối, 71 tấn thực phẩm. Trong chiến dịch Thượng Lào, Thanh Hóa, Nghệ An đã chuyển 14.000 tấn gạo cho bộ đội. Theo Lịch sử hậu cầu Quân đội nhân dân Việt Nam, Ban Khoa học hậu cần, Tổng cục Hậu cần, Hà Nội, 1985, tr.264.
(2) Dẫn theo Quân sử 4, Sài Gòn, 1972, tr.69.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 22 Tháng Hai, 2016, 07:50:22 pm
Qua quá trình xây dựng và chiến đấu, lực lượng vũ trang Liên khu IV được rèn luyện, trưởng thành, có khả năng đánh thắng các cuộc càn quét, tiến công của kẻ thù. Ở Bình - Trị - Thiên, sau khi các đơn vị chủ lực chuyển ra vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh để xây dựng đại đoàn chủ lực cơ động của bộ - Đại đoàn 325, lực lượng tác chiến ở chiến trường liên khu chỉ còn bộ đội địa phương gồm ba tiểu đoàn tỉnh, 17 đại đội huyện, lực lượng dân quân, du kích gồm bảy, tám nghìn người. Các tiểu đoàn tỉnh được chỉnh huấn bằng tài liệu “Trường kỳ kháng chiến”; học tập Nghị quyết Hội nghị cán bộ địch hậu Trung ương. Các đơn vị được trang bị đầy đủ hơn trước. Việc phân tán các đại đội du kích tập trung xã được thực hiện tốt đã thúc đẩy lực lượng dân quân thôn, xóm phát triển. Tại Thanh - Nghệ - Tĩnh, các đơn vị chủ lực của liên khu và bộ đội địa phương tỉnh và huyện đã trưởng thành, kết hợp xây dựng, huấn luyện với tác chiến bảo vệ hậu phương, đồng thời sẵn sàng cơ động bổ sung cho các hướng. Từ tháng 5-1953, các đơn vị bộ đội địa phương ở ba tỉnh được tập trung chỉnh quân chính trị để nâng cao tư tưởng, giữ vững, củng cố lập trường. Lực lượng dân quân, du kích ở những nơi xung yếu được củng cố, chấn chỉnh lại, ban chỉ huy các đội du kích như xã đội, xóm đội được kiện toàn. Từ thu đông 1953, một số lượng lớn vũ khí cũ của ta được thay thế. Tinh thần chiến đấu của lực lượng du kích được nâng cao, nhiều đội du kích đã nêu gương chiến đấu anh dũng như du kích Nhượng Bạn (Hà Tĩnh), du kích Hải Yến… Cùng với sự phát triển của lực lượng vũ trang Bình - Trị - Thiên, sự trưởng thành của lực lượng vũ trang Thanh - Nghệ - Tĩnh đã góp phần nâng cao sức mạnh tổng hợp của đảng bộ và nhân dân liên khu trước khi bước vào cuộc chiến đấu quyết định với kẻ thù.

Tại Trung Lào, Mặt trận Ítxala cũng phát triển lên tới 419 cơ sở. Bên cạnh hai đại đội chủ lực của liên khu, lực lượng vũ trang địa phương đã phát triển mạnh mẽ với 120 tiểu đội, bốn trung đội, ba đại đội bộ đội địa phương. Sự gia tăng của lực lượng vũ trang ở Trung Lào đã tạo những điều kiện thuận lợi cho liên quân Việt - Lào thực hiện thắng lợi kế hoạch tác chiến đông xuân 1953-1954.

Từ tháng 4-1953, thực hiện Sắc lệnh số 149-SL (12-4-1953) quy định chính sách ruộng đất và Sắc lệnh số 15-SL (12-4-1953) về việc trừng trị địa chủ chống pháp luật, Liên khu IV đã phát động quần chúng đấu tranh đòi giảm tô. Đợt một giảm tô thí điểm ở Thanh Hóa. Đợt hai giảm tô bắt đầu từ tháng 8-1953, mở rộng ra cả Thanh - Nghệ - Tĩnh, một số địa phương ở Bình - Trị - Thiên. Việc triển khai chính sách ruộng đất mới của Đảng đã mang lại một không khí phấn khởi tin tưởng trong nhân dân và lực lượng vũ trang. Những thành quả bước đầu do giảm tô mang lại đã thôi thúc nhân dân trong liên khu tích cực lao động, quyết tâm kháng chiến thắng lợi.

Trước khi bước vào thực hiện nhiệm vụ lãnh đạo nhân dân liên khu phối hợp cùng cả nước tiến hành các đòn tiến công chiến lược, đánh bại những cố gắn cao nhất của quân xâm lược Pháp và bọn can thiệp Mỹ, các cấp bộ đảng ở Liên khu IV đã từng bước được kiện toàn về mặt tổ chức, được củng cố và nâng cao về tư tưởng chính trị. Được triển khai từ 1952, liên khu ủy và các tỉnh ủy đã mở lớp chỉnh đảng, chỉnh huấn tập trung hoặc tại chức để giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng về lập trường, tư tưởng, uốn nắn những sai lệch trong nhận thức của cán bộ, đảng viên. Nhờ đó, toàn bộ đảng bộ có thêm năng lực để lãnh đạo cuộc kháng chiến ở cả hai vùng tự do và vùng tạm bị chiếm. Sự lớn mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức của đảng bộ là nhân tố quyết định cho thắng lợi của các nhiệm vụ chiến lược và quân và dân Liên khu IV đảm đương.

Tuy nhiên, trong giai đoạn chuyển mình của cuộc kháng chiến, bên cạnh những thuận lợi căn bản, có thế mới và lực mới, quân và dân Liên khu IV cũng gặp nhiều khó khăn, thử thách mới. Trong đó, nổi lên hai khó khăn to lớn là sự tiến công, phá hoại của kẻ thù và thiên tai gây nhiều thiệt hại cho sản xuất và đời sống. cùng với các cuộc càn quét lớn, nhỏ ở Bình - Trị - Thiên, đột nhập gây rối ở Thanh - Nghệ - Tĩnh, quân Pháp đã đánh phá mạnh vào tiềm lực kinh tế kháng chiến của ta. Một trong những thủ đoạn thâm độc là chúng đánh phá các đập nước và hệ thống thủy lợi. Sự đánh phá của địch đã làm cho 378.000 mẫu ở Thanh - Nghệ - Tĩnh và 9197 mẫu ở Bình - Trị - Thiên không cấy được vụ chiêm 1953. Toàn liên khu có 6.394 con trâu, bò bị địch bắn giết. Từ tháng 6-1953, trên địa bàn sáu tỉnh ở Liên khu IV đã xảy ra nhiều trận lụt lớn gây nên nhiều thiệt hại về nhà cửa, trâu, bò, nông cụ, lương thực và tính mạng của nhân dân. Những khó khăn này tác động trực tiếp tới khả năng huy động phục vụ cho các chiến trường.

Đứng trước âm mưu và hành động mới của kẻ thù, Đảng ta đã tập trung hoạch định những quyết sách đập tan những cố gắng cuối cùng của quân đội viễn chinh. Ngày 20-8-1953, sau khi địch triển khai kế hoạch Navarre, rút bỏ tập đoàn cứ điểm Nà Sản ở Tây Bắc, Tổng Quân ủy đã trình lên Bộ Chính trị đề án Tình hình địch, ta ở Bắc Bộ sau khi địch rút khỏi Nà Sản và chủ trương tác chiến của ta trong thu đông 1953, theo đó ta phải chuẩn bị các điều kiện để “đánh lớn ở đồng bằng”(1). Tuy nhiên, sau khi phân tích những hoạt động của địch trong tháng 8, tháng 9-1953 và sau khi nắm được kế hoạch Navarre(2), Bộ Tổng tham mưu thấy rằng phương án sử dụng chủ lực luân phiên đánh chiếm đồng bằng có nhiều điểm không thích hợp. Vấn đề bức xúc về chiến lược trong giai đoạn hiện tại là tập trung phá cho được kế hoạch quân sự mới của địch. Đầu tháng 10-1953, Tổng Quân ủy họp bàn kế hoạch tác chiến đông xuân 1953-1954, đưa ra đề án tiến công Tây Bắc và uy hiếp Thượng Lào, tiến công Trung Lào, Hạ Lào, Tây Nguyên nhằm xé lẻ lực lượng kẻ thù, làm thất bại kế hoạch xây dựng đạo quân chiến lược cơ động của chúng. Đề án Đông Xuân 1953-1954 của Tổng quân ủy được Bộ Chính trị cho ý kiến và thông qua. Ba mũi tiến công lớn được quyết định là hướng Tây Bắc, hướng Trung và Hạ Lào, hướng Tây Nguyên; hướng phối hợp là trung du và đồng bằng Bắc Bộ(3). Chủ trương nói trên đã mở đường cho những thắng lợi lịch sử mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ.


(1) Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, t.2, tr.282.
(2) Kế hoạch Navarre được Trung Quốc chuyển giao cho ta vào tháng 9-1953. Xem Võ Nguyên Giáp: Điện Biên Phủ điểm hẹn lịch sử, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2000, tr.17.
(3) Võ Nguyên Giáp, Sđd, tr.30.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 22 Tháng Hai, 2016, 07:54:11 pm
Chủ trương và quyết tâm chiến lược mới của Đảng đã đặt ra cho quân và dân Liên khu IV những vinh dự lớn lao và trách nhiệm nặng nề. Theo kế hoạch tác chiến cụ thể được Bộ Chính trị thông qua thì vùng tự do Liên khu IV phải ráo riết chuẩn bị để đối phó với những cuộc tiến công có thể xảy ra của địch(1). Trong kế hoạch sử dụng chủ lực và phối hợp tác chiến trên các chiến trường do Bộ Tổng tham mưu xác định, cùng với bắc Quảng Nam, cực Nam Trung Bộ, Nam Bộ, quân và dân Bình - Trị - Thiên có nhiệm vụ đẩy mạnh chính trị du kích để phối hợp với các chiến trường chính(2).

Nhiệm vụ tổng thể của Liên khu IV được Trung ương Đảng, Bộ Tổng tư lệnh giao phó như sau:

“- Tham gia cùng quân và dân nước bạn mở chiến dịch Trung Lào.

- Tác chiến bảo vệ hậu phương, xây dựng lực lượng và bảo đảm cung cấp mọi nhu cầu phục vụ chiến dịch Trung Lào và chiến dịch Điện Biên Phủ.

- Đẩy mạnh chiến tranh du kích ở chiến trường Bình - Trị - Thiên, tiêu hao, tiêu diệt và kìm hãm địch, phối hợp với chiến trường chính”(3).

Quán triệt chủ trương mới của Trung ương Đảng, cơ quan lãnh đạo kháng chiến ở Liên khu IV đã khẩn trương hoạch định phương hướng chiến lược mới. Từ ngày 15 đến ngày 21-12-1953, Hội nghị Liên khu ủy lần thứ tư đã họp phân tích tình hình, so sánh lực lượng địch trong liên khu, quán triệt chủ trương chiến lược mới của Đảng và đề ra chủ trương hành động cho quân và dân liên khu. Nghị quyết của Hội nghị ghi rõ phương hướng hành động trong thời gian tới là:

“- Xây dựng khối đoàn kết toàn dân, đẩy mạnh chiến tranh du kích, Tích cực củng cố căn cứ du kích và phát triển khu du kích, đẩy mạnh hoạt động vùng địch tạm chiếm. Đồng thời đẩy mạnh chiến tranh du kích ở đồng bằng và đánh mạnh trên các tuyến giao thông số 9, số 1 và đường xe lửa, phối hợp chặt chẽ với chiến trường chính.

- Tăng cường xây dựng và phát triển các đơn vị tình nguyện phối hợp giúp đỡ bạn về mọi mặt ở Trung Lào, xây dựng các đơn vị giải phóng quân và phát triển du kích, xây dựng căn cứ du kích và cơ sở nhân dân, chuẩn bị cùng lực lượng của bộ mở chiến dịch Trung Lào.

- Ra sức phục vụ tiền tuyến, tích cực xây dựng bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, và dân quân, du kích, có kế hoạch bảo vệ vững chắc hậu phương chiến lược và đưa lực lượng đi phối hợp chiến đấu ở các chiến trường. Tranh thủ thời gian tiến hành phát động quần chúng giảm tô, cải cách ruộng đất và đẩy mạnh sản xuất, nhất là sản xuất nông nghiệp”(4).

Những phương hướng trên được quán triệt tại Hội nghị cán bộ đảng Liên khu IV (15-2-1954). Tại hội nghị này, Liên khu ủy đã chỉ rõ nhiệm vụ của các cán bộ đảng trong vùng tự do và vùng tạm bị chiếm là “đẩy mạnh đấu tranh vũ trang ở vùng địch hậu Bình - Trị - Thiên và Nga Sơn; ra sức xây dựng, củng cố lực lượng mở rộng căn cứ và khu du kích, chuẩn bị sẵn sàng, thường xuyên không để sơ hở một nơi nào, lúc nào, kiên quyết tiêu diệt địch, phá âm mưu đánh vào Thanh - Nghệ - Tĩnh; tham gia vào việc đảm bảo các cuộc phát động quần chúng, cải cách ruộng đất thành công, củng cố căn cứ và đẩy mạnh cuộc kháng chiến của quân đội Pathét Lào”(5). Tiếp đó, Hội nghị cán bộ toàn Đảng bộ Liên khu IV (họp từ 20 đến 27-2-1954) đã đề ra chương trình công tác cụ thể của liên khu trong năm 1954. Hội nghị khẳng định rằng, Thanh - Nghệ - Tĩnh là vùng tự do lớn, đông người, nhiều của, là một hậu phương trực tiếp của chiến trường chính và của các chiến trường Trung Lào, Thượng Lào, Bình - Trị - Thiên. Do đó, trong năm 1954, Thanh - Nghệ - Tĩnh phải hoàn thành nhiệm vụ phát động quần chúng giảm tô và tiến sang cải cách ruột đất; cuộc đấu tranh giai cấp ở Thanh - Nghệ - Tĩnh sẽ gay go và ác liệt, bọn phong kiến phản động sẽ càng trắng trợn câu kết với đế quốc phá hoại cách mạng, phá hoại kháng chiến. Nghị quyết hội nghị ghi rõ nhiệm vụ của Thanh - Nghệ - Tĩnh là “Ra sức phục vụ tiền tuyến, tổ chức xây dựng lực lượng bảo vệ địa phương; đồng thời phải tranh thủ thời gian tiến hành cuộc phát động quần chúng giảm tô và cải cách ruộng đất có kế hoạch từng bước, có lãnh đạo chặt chẽ và đẩy mạnh sản xuất, nhất là sản xuất nông nghiệp”(6). Đối với Bình - Trị - Thiên, hội nghị cho rằng đây là một chiến trường đất hẹp, dân nghèo, nhưng cùng với Trung Lào giữ một vị trí trọng yếu ở Trung Đông Dương, bọn đế quốc từ bảy, tám năm nay đã cố sức biến Bình - Trị - Thiên thành vùng căn cứ chiếm đóng vững chắc để cướp người, cướp của, sắp tới đế quốc Pháp có can thiệp Mỹ tiếp sức sẽ ra sức càn quét, cướp của, giết người; do đó cuộc đấu tranh ở Bình - Trị - Thiên bảy tám năm nay đã ác liệt rồi đây sẽ càng gay go và quyết liệt hơn. Hội nghị nhất trí rằng nhiệm vụ của Bình - Trị - Thiên trong năm 1954 là “đoàn kết đông đảo nhân dân, đẩy mạnh du kích chiến tranh, phá âm mưu của giặc “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”, “dùng người Việt đánh người Việt”, tích cực củng cố và giữ vững vùng căn cứ du kích; ra sức củng cố và phát triển khu du kích, củng cố và phát triển công tác vùng tạm bị chiếm; ra sức phục hồi và bảo vệ sản xuất, nhất là sản xuất nông nghiệp”(7). Những phương hướng nhiệm vụ nói trên đã được phổ biến, quán triệt xuống các địa phương, trở thành quyết tâm hành động cho những chiến công to lớn của liên khu.

Với vị thế chiến lược được nâng lên một tầm cao mới, với những lực lượng được tích hợp và nhân lên trong tình hình mới, với những phương hướng chiến lược được hoạch định, liên tục được bổ sung và quyết tâm chiến lược mới, quân và dân Liên khu IV đã gồng mình dốc toàn lực cho kháng chiến, đánh thắng những cố gắng, âm mưu và hành động mới của kẻ thù trên địa bàn, đóng góp xứng đáng vào những thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta trong cuộc giao chiến cuối cùng với đế quốc Pháp đông xuân 1953-1954.


(1) Võ Nguyên Giáp, Sđd, tr.70.
(2) Đại tướng Hoàng Văn Thái: Cuộc tiến công chiến lược đông xuân 1953-1954, Nxb. Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1984, tr.33.
(3) Quân khu IV: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược 1945-1954, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1980, tr.346-347.
(4) Quân khu IV: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược 1945-1954, Sđd, tr.332-333
(5) Theo Biên niên sự kiện lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp ở Liên khu IV.
(6), (7) Nghị quyết số 11/NQLK4 của Hội nghị cán bộ toàn Đảng bộ Liên khu IV (từ 20-2-1954 đến 27-2-1954), tài liệu Văn phòng Trung ương Đảng, Phòng Liên khu IV.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 22 Tháng Hai, 2016, 07:55:51 pm
II. THỰC HIỆN TIẾN CÔNG CHIẾN LƯỢC TRÊN CÁC MẶT TRẬN

Triển khai các nhiệm vụ của Trung ương Đảng, Bộ Tổng tư lệnh giao cho, theo phương hướng của đảng bộ đã đề ra, quân và dân liên khu khẩn trương chuẩn bị lực lượng. Từ tháng 11-1953 đến đầu năm 1954, các đơn vị chủ lực của liên khu được gấp rút xây dựng như Trung đoàn 53, Trung đoàn 270, Tiểu đoàn phòng không 541. Lực lượng vũ trang địa phương ở các tỉnh phát triển lên tới tám tiểu đoàn tỉnh, 60 đại đội huyện và một số lực lượng dân quân, du kích đông đảo. Với sức mạnh được tăng cường, lực lượng vũ trang Liên khu IV đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ vững chắc hậu phương, vừa thực hiện tiến công chiến lược trên nhiều mặt trận trong và ngoài liên khu, trong đó nổi bật nhất là mặt trận Trung Lào và mặt trận Bình - Trị - Thiên.

Theo chủ trương chiến lược trong đông xuân 1953-1954 của Đảng, Quân đội nhân dân Việt Nam đã phối hợp với Quân giải phóng Lào tiến hành đòn tiến công chiến lược trên hướng Trung, Hạ Lào nhằm thu hút quân cơ động của Pháp, phá thế tập trung quân của Navarre ở đồng bằng Bắc Bộ, tiêu hao, tiêu diệt một bộ phận sinh lực tinh nhuệ của địch, mở rộng và củng cố vùng giải phóng Trung, Hạ Lào, xây dựng cơ sở kháng chiến, đánh thông hành lang chiến lược Bắc - Nam, phá vỡ “tuyến cấm” Trung Đông Dương, phối hợp chặt chẽ với các chiến trường khác giành thắng lợi lớn trong đông xuân.

Để thống nhất lãnh đạo, chỉ huy, Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam và Bộ Chỉ huy tối cao các lực lượng vũ trang yêu nước Lào đã thành lập Bộ Chỉ huy chiến dịch Trung Lào, lấy mật danh là “Mặt trận D” do đồng chí Hoàng Sâm (Đại đoàn trưởng Đại đoàn 304) làm Tư lệnh, đồng chí Trần Quý Hai (Chính ủy kiêm Đại đoàn trưởng Đại đoàn 325) làm Chính ủy mặt trận. Lực lượng bộ đội tham gia chiến dịch gồm Trung đoàn 66 (Đại đoàn 304), Trung đoàn 101, trung đoàn 18 (Đại đoàn 325) cùng các đơn vị quân tình nguyện của Liên khu IV và một bộ phận Quân giải phóng Lào. Từ cuối tháng 11-1953, các đơn vị tham gia chiến dịch từ địa bàn Liên khu IV theo nhiều hướng tiến sang đất Lào, triển khai thế trận tiến công.

Trong lúc các lực lượng vũ trang Việt - Lào đang tiến quân vào các hướng chiến dịch thì quân Pháp cũng gấp rút đổ quân phòng thủ địa bàn chiến lược này(1). Đầu tháng 12-1953, Navarre điều sáu tiểu đoàn bộ binh (binh đoàn cơ động số 2 và 3) cùng một tiểu đoàn pháo đến chiến trường Trung Lào. Các đơn vị ứng chiến tăng cường đều là những đơn vị từng chiếm đóng và càn quét trên chiến trường miền Trung, mới được chuyển ra Bắc Bộ theo kế hoạch tập trung quân xây dựng quân đoàn cơ động mạnh của Navarre. Để giữ vững Trung Lào, quân Pháp bố trí thành ba cụm phòng ngự hòng bịt chặt các cửa ngõ, ngăn chặn quân chủ lực Việt Nam từ Đông Trường Sơn đánh sang.

Cụm thứ nhất ở khu vực Na Pê, Căm Cớt, Lạc Sao (đường 8) gồm Tiểu đoàn Tabo số 9 và một đại đội pháo 105mm.

Cụm thứ hai ở Banaphào, Nhommarát (đường 12) có ba tiểu đoàn bộ binh Marốc, thuộc các trung đoàn 1 và 4, Tiểu đoàn Angiêri số 27, Tiểu đoàn pháo 105 thuộc Trung đoàn pháo binh Angiêri số 69.

Cụm thứ ba ở Nậm Then, do tiểu đoàn bộ binh cơ giới Xpahi số 6 trấn giữ làm lực lượng dự bị.

Ngoài việc tổ chức nhiều tuyến phòng ngự trên đường số 8 và số 12, địch còn tiến hành các cuộc hành quân thăm dò, thọc sâu vào các vùng căn cứ du kích của lực lượng kháng chiến Lào - Việt ở Trung Lào, tiến ra vùng biên giới Việt - Lào để thăm dò lực lượng, phát hiện hoạt động của ta.

Căn cứ vào chủ trương chung và Tình hình địch, Bộ chỉ huy “Mặt trận D” quyết định kế hoạch tác chiến của chiến dịch như sau:

- Trung đoàn 66 và 101 (thiếu) đảm nhiệm hướng chính của chiến dịch là cụm phòng thủ then chốt của địch trên đường số 12. Trung đoàn 66 đánh chiếm cứ điểm Mụ Giạ, Banaphào. Trung đoàn 101 (thiếu) phục kích đánh viện trên đường số 12, quãng giữa Thà Khẹc và Banaphào. Hướng phát triển tiếp theo của hai đơn vị là theo đường 12 về Nhommarát, giải phóng Đông Khăm Muộn.

- Tiểu đoàn 319 (Trung đoàn 101) cùng bộ đội Lào đảm nhiệm hướng thứ yếu của chiến dịch, đánh các vị trí địch ở Na Pê, Lạc Sao, Căm Cớt, rồi theo đường 8 tiến xuống đường số 12.

Tiểu đoàn 436 (Trung đoàn 101) được tăng cường ĐKZ, 75mm, đặc công trinh sát thực hiện mũi thọc sâu đánh xuống Hạ Lào, phối hợp cùng bộ đội tình nguyện và Quân giải phóng Lào tiến công tiêu diệt địch, giải phóng Hạ Lào, tạo bàn đạp cho lực lượng lớn của ta phát triển xuống phía nam.

- Trung đoàn 18 (thiếu một tiểu đoàn) giai đoạn đầu phối hợp với lực lượng vũ trang Bình - Trị - Thiên tiến công địch trên đường số 9 Quảng Trị, cắt đường giao thông chiến lược Đà Nẵng - Huế - Đông Hà - Xavanakhét, ngăn chặn địch từ Bình - Trị - Thiên tiếp viện cho Trung Lào, sau đó tiến theo đường 9 sang Trung Lào.


(1) Trước khi ta mở chiến dịch Trung Lào, việc phòng thủ của địch ở đây còn rất sơ sài, lực lượng mỏng. Chúng sử dụng năm tiểu đoàn, chủ yếu là ngụy quân Lào đóng rải rác trên các tuyến đường số 8, số 12 và số 9 là chính; ngoài ra địch còn có hai đại đội đóng ở Sê Nô.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 22 Tháng Hai, 2016, 07:57:12 pm
Phương châm chỉ đạo tác chiến và cách đánh của Bộ Chỉ huy chiến dịch đề ra là: “Bí mật, bất ngờ, đánh chắc thắng; chỉ đánh các vị trí trọng yếu, tranh thủ tiêu diệt địch trong vận động; từ đánh quỵ một bộ phận sinh lực tinh nhuệ của địch trong vận động, tiến lên giải phóng một phần đất đai; hết sức giữ gìn lực lượng để tiến công liên tục, đánh dài hơi, kết hợp giữa tác chiến với địch vận, tác chiến với vận động quần chúng”, cùng các lực lượng tại chỗ xây dựng các khu vực mới giải phóng thành căn cứ kháng chiến của Lào.

Là một bộ phận trong đội hình tiến công vào hướng Trung Lào, quân và dân Liên khu IV dưới sự lãnh đạo, chỉ huy của Liên khu ủy, Bộ Tư lệnh liên khu đã khẩn trương thực thi các công tác chuẩn bị chiến dịch. Liên khu ủy đã cử đồng chí Võ Thúc Đồng sang trực tiếp làm Bí thư Ban cán sự Trung Lào, tham gia Bộ Chỉ huy liên quân Việt - Lào. Đồng thời, Liên khu ủy còn tổ chức Hội đồng cung cấp chiến dịch do đồng chí Lê Lộc và đồng chí Thân phụ trách và điều tăng cường 200 cán bộ cho Ban cán sự. Trung đoàn 280 quân tình nguyện Liên khu IV (trước là Trung đoàn 12) đang hoạt động tại Trung Lào được củng cố đủ ba tiểu đoàn, tổ chức các đại đội độc lập. Đồng chí Trường Sinh, Trung đoàn trưởng trung đoàn 280 và đồng chí Võ Thúc Đồng, Bí thư Ban cán sự Trung Lào đã cùng đồng chí Khăm Tày, Tư lệnh khu Trung Lào họp bàn chuẩn bị lực lượng, thống nhất kế hoạch hoạt động trên chiến trường; tổ chức cấp tốc các lớp đào tạo cán bộ tỉnh, huyện và xã ở Trung Lào để chuẩn bị thành lập chính quyền, tiếp thu vùng giải phóng. Ban cán sự còn tổ chức cho cán bộ Việt Nam cùng cán bộ Lào đi vào từng bản ở vùng Mahasây, Bônlapha, Tà Ôi, Mường Noòng, ven đường 9, Căm Cớt để tuyên truyền, vận động nhân dân Lào đóng góp lương thực, thực phẩm cho bộ đội, xây dựng cơ sở, xây dựng lực lượng vũ trang, lập được năm đại đội Pathét Lào. Ngoài Trung đoàn 280 quân tình nguyện, Liên khu ủy, Bộ Tư lệnh Liên khu IV còn chỉ đạo Tiểu đoàn 290 Hà Tĩnh đang hoạt động tại đây cùng tham gia phối hợp chiến đấu, Liên khu ủy, Bộ Tư lệnh liền khu còn điều động Đại đội 124 huyện Thanh Chương (Nghệ An) lên hoạt động ở vùng Căm Cớt, một đại đội của huyện Con Cuông và Tiểu đoàn 198 Nghệ An được tăng cường cho bộ đội trinh sát, đặc công hoạt động ở vùng Bắcxan.

Đúng 10 ngày sau khi Đại đoàn 316 nổ súng tiến công giải phóng tỉnh Lai Châu, mở đầu cuộc tiến công chiến lược đông xuân 1953-1954, chiến dịch Trung Lào bắt đầu bằng trận đánh vào vị trí Khăm He của địch và nhanh chóng giành thắng lợi vào rạng sáng ngày 22-12-1953.

Theo kế hoạch tác chiến của Bộ Chỉ huy chiến dịch thì vào ngày 23-12-1953, Trung đoàn 66 sẽ nổ súng tiến công cứ điểm Mụ Dạ, Banaphào, mở màn chiến dịch, song một tình huống bất ngờ xảy ra đã làm thời điểm nổ súng tiến công diễn ra sớm hơn.

Sáng ngày 20-12-1953, đoàn trinh sát thực địa của Trung đoàn 1010 do Trung đoàn trưởng Trần Văn Bành và Chính ủy Hoàng Văn Thái dẫn đầu trong khi tiến ra đường 12 đã chạm trán với một toán địch đang lùng sục ở suối Nậm Ôm. Qua khai thác những tên bị bắt, đoàn trinh sát được biết địch vừa xây dựng thêm một cứ điểm mới ở khu vực cầu Khăm He do Tiểu đoàn cơ động Angiêri số 27 (27e BTA) và 1 Đại đội pháo 105mm từ Thà Khẹc, Nhommarát lên trấn giữ. Binh đoàn cơ động số 2 của địch cũng đặt sở chỉ huy nhẹ ở khu vực cầu Khama (đường 12).

Với tinh thần bất ngờ, chủ động, nắm vững thời cơ địch đứng chân chưa vững, chính ủy Trung đoàn 101 quyết định triển khai đội hình tập kích tiêu diệt cứ điểm Khăm He, đồng thời điện báo lên Bộ Chỉ huy liên quân Việt - Lào.

Sau khi nhanh chóng vận động chiếm lĩnh trận địa, vào đêm 21 rạng ngày 22-12-1953, tiểu đoàn 328 và 274 của Trung đoàn 101 nổ súng tiến công quân địch tại vị trí Khăm He, với một lực lượng đông, lại đã chuẩn bị trước(1), quân địch dựa vào hệ thống công sự trong cứ điểm ngoan cố chống cự lại. Lực lượng ta theo kế hoạch hiệp đồng đã thọc sâu diệt mục tiêu rồi tỏa rộng, chia chắt đội hình địch, phối hợp trong đánh ra, ngoài đánh vào. Đến sáng ngày 22-1-1953, trận đánh kết thúc. Trung đoàn 101 đã tiêu diệt hầu hết binh lính địch đóng tại cứ điểm, bắt sống hơn 60 tên, thu nhiều vũ khí, quân trang, quân dụng, trong đó có bốn khẩu pháo 105mm nguyên vẹn cùng 500 viên đạn, làm chủ trận địa. Sau khi diệt gọn cứ điểm, Trung đoàn 101 triển khai đội hình chốt giữ ở hai đầu cầu, sẵn sàng chặn đánh dịch từ Banaphào, Nhommarát lên tiếp cứu.

Trưa ngày 22-12-1953, một đại đội địch thuộc tiểu đoàn bộ binh Marốc số 2 Trung đoàn 4, do viên thiếu tá Pháp chỉ huy cứ điểm Banaphào cầm đầu tiến công xuống Khăm He cứu nguy cho đồng bọn. Đại đội địch đã rơi vào trận địa phục kích của Tiểu đoàn 227 và bị tiêu diệt gọn.


(1) Trên đường khẩn trương vận động, đại đội đi đầu của Trung đoàn 101 đã gặp và tiêu diệt một toán Âu - Phi tại chân đèo Phuắc. Những tên sống sót ở suối Nậm Ôm và đèo Phuắc chạy về cứ điểm Khăm He báo tin. Quân địch tại đây lập tức báo động, tăng cường bố trí phòng thủ.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 22 Tháng Hai, 2016, 07:58:43 pm
Phát huy thắng lợi, Trung đoàn 101 tranh thủ thời gian vận động, tiến công vị trí địch ở Khama ngày 23-12-1953. Mặc dù quân địch đã tăng cường phòng thủ, song sau năm giờ tiến công áp đảo, quân ta đã tiêu diệt hầu hết Tiểu đoàn Bắc Phi, bắt sống 90 tên.

Chỉ hơn một ngày chiến đấu, Trung đoàn 101 đã đánh thắng liền ba trận, tiêu diệt một tiểu đoàn và hai đại đội Âu - Phi, đánh thiệt hại nặng một tiểu đoàn Âu - Phi khác, xóa bỏ hai cứ điểm địch. Thắng lợi ở Khăm He và Khama đã đánh mạnh vào tinh thần binh lính địch, làm rung chuyển toàn bộ tuyến phòng thủ phía đông của địch ở Trung Lào, làm cho cục diện chiến trường thay đổi nhanh chóng.

Đứng trước nguy cơ tuyến phòng ngự trên đường số 12 bị đập nát, nhận thấy tinh thần binh lính trên tuyến phòng thủ phía đông hoang mang, suy sụp, Bộ Chỉ huy Pháp vội vã ra lệnh cho lực lượng đang chốt giữ các vị trí trên đường số 8, số 12 nhanh chóng rút về thị xã Thà Khẹc và thị xã Xavanakhét cố thủ, giữ phòng tuyến sông Mêkông. Phát hiện được ý đồ chuẩn bị rút chạy của địch, nhận rõ thời cơ tiêu diệt địch, giải phóng địa bàn xuất hiện, Bộ Chính ủy liên quân Việt - Lào đã chỉ thị cho Trung đoàn 66, Tiểu đoàn 319, các đơn vị tình nguyện của Liên khu IV và bộ đội Pathét Lào gấp rút tiến công địch.

Đêm ngày 23-12-1953, Trung đoàn 66 tổ chức bao vây địch ở vị trí Mụ Giạ và Banaphào. Phát hiện quân địch rút chạy, Trung đoàn 66 khẩn trương chuyển từ thế bao vây sang truy kích địch(1). Được cán bộ cơ sở của ta và du kích Lào dẫn đường, Tiểu đoàn 782 của Trung đoàn 66 đã cắt rừng gấp rút đuổi theo địch đang rút chạy bằng cơ giới. Chớp thời cơ địch đang hoảng hốt, rối loạn, quân ta nhanh chóng nổ súng tiến công, tiêu diệt, bắt gọn tiểu đoàn địch và đơn vị ngụy Lào ở vị trí Pà Cuội.

Cũng từ ngày 23, trên hướng đường 12, Trung đoàn 101 phối hợp với các đơn vị tình nguyện Liên khu IV tiến về Nhommarát. Trung đoàn liên tiếp đập tan các điểm chốt chặn của địch ở khu vực từ cầu Bi Lan đến Na Hang, đồng thời quét sạch bộ máy kìm kẹp của địch ở các bản dọc đường 12. Ngáy 24-1-2-1953, trung đoàn tiến vào Nhommarát. Với chiến thắng Nhommarát, chủ lực ta đã chọc thủng phòng tuyến sông Mêkông mở toang cửa ngõ vào Thà Khẹc.

Hòa nhịp với cuộc tiến công ở hướng chủ yếu, trên hướng tiến công thứ yếu của chiến dịch, các đơn vị quân tình nguyện Việt Nam cùng bộ đội Pathét Lào đã đánh chiếm Pắc Xan, mở một chốt quan trọng trên đường số 13, cắt đứt giao thông địch giữa Trung Lào với Thượng Lào. Tiểu đoàn 319 Trung đoàn 101 và Đại đội 12 quân tình nguyện cùng với bộ đội giải phóng Lào chiếm Na Pê, Căm Cớt, Lạc Sao. Lo sợ bị tiêu diệt, Tiểu đoàn Tabo số 9 của địch đã hủy xe pháo và những trang bị nặng rồi rút theo đường hàng không về Xavanakhét ngày 25-1-1953.

Choáng váng trước những đòn tiến công mãnh liệt của liên quân Việt - Lào, hai binh đoàn cơ động Pháp phòng thủ trên đường 12 và đường 8 bị thiệt hại nghiêm trọng, quân địch không còn đủ sức cố thủ Thà Khẹc đã rút chạy về Sê Nô. Ngày 25-12-1953, Trung đoàn 101 cùng quân giải phóng Lào tiến vào giải phóng thị xã Thà Khẹc.

Sau năm ngày liên tục tiến công địch, liên quân Việt - Lào đã loại khỏi vòng chiến đấu hơn 2.200 tên địch, giải phóng thị xã Thà Khẹc và toàn bộ tỉnh Khăm Muộn rộng hơn 4 vạn km2 cùng hàng chục vạn dân, chia cắt Thượng Lào với Trung Lào. Vùng giải phóng ở Trung Lào đã kéo dài theo bề dọc từ hai huyện giáp Thanh Chương (Nghệ An) đến Saravan; theo bề ngang rộng 130 km từ Sêpôn đến Đồng Hến. Trên đường 9 nối Trung Lào với biển, dài 300 km, địch chỉ còn lại hai vị trí là Sêpôn và Lao Bảo. Vùng mới giải phóng ở Trung Lào đã nối liền với vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh qua đó với Tây Bắc và Liên khu III. Báo chí ở Hà Nội, Sài Gòn, Pari mô tả sự kiện này là một thảm kích của quân Pháp: “Đông Dương đang bị Việt Minh cắt làm đôi”.

Trước tình hình nguy ngập ở Trung Lào, để cứu vãn tình thế, cuối tháng 12-1953, Navarre đã điều từ Bắc Bộ đến Xavanakhét chín tiểu đoàn gồm hai tiểu đoàn dù Âu - Phi số 1 và số 2, Tiểu đoàn dù số 2 Trung đoàn 1, hai tiểu đoàn dù lê dương số 2 và số 6, Tiểu đoàn dù ngụy số 3, Tiểu đoàn cơ động ngụy số 17, hai tiểu đoàn pháo ngụy số 1 và số 35. Sê Nô trở thành nơi tập trung quân lớn của địch.


(1) Từ chiều 23-12-1953, quân địch ở Mụ Giạ và Banaphào đã rút chạy về hướng Pà Cuội. Chúng cho một toán lính địa phương ở lại vị trí đốt lửa, gây tiếng nổ để nghi binh lừa ta. Khi trung đoàn 66 phát hiện ra thủ đoạn của địch thì chúng đã chạy được một ngày.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 22 Tháng Hai, 2016, 08:00:29 pm
Trước tình hình đó, Bộ Chỉ huy chiến dịch chủ trương:

- Bao vây quân cơ động của địch ở Sê Nô, tranh thủ củng cố và xây dựng vùng mới giải phóng, truy quét tàn binh địch.

- Nhân lúc địch chưa kịp củng cố, tranh thủ mở tiếp đợt tiến công thứ hai phá vỡ tuyến phòng thủ đường số 9, giải phóng một bộ phận tỉnh Xavanakhét, nối liền căn cứ Khăm Muộn với Mường Noòng(1).

Kế hoạch sử dụng lực lượng trong đợt hai của chiến dịch được Bộ Chỉ huy liên quân Việt - Lào vạch ra vừa phát triển thế tiến công vừa củng cố bảo vệ vùng mới giải phóng. Theo đó:

- Trung đoàn 101 cắt đường 13, uy hiếp Sê Nô, phối hợp với bộ đội Pathét Lào mở rộng vùng giải phóng xuống Xavanakhét, sẵn sàng đánh địch tái chiếm Thà Khẹc.

- Trung đoàn 66 tiến công tiêu diệt các vị trí địch ở Hìn Xìu, Đồn Hến, sau đó chuyển sang đánh viện trên đường 9, quãng giữa Đồng Hến và Pha Lan, tạo điều kiện giải phóng phía đông tỉnh Xavanakhét.

- Tiểu đoàn 274 hoạt động ở vùng đường số 12, xây dựng cơ sở bảo đảm an toàn hậu phương chiến dịch.

- Trung đoàn 18 cùng bộ đội địa phương và du kích các huyện Hướng Hóa, Cam Lộ đẩy mạnh tác chiến ở khu vực đường 9, tây Quảng Trị, chuẩn bị phối hợp cùng Trung đoàn 66 phá vỡ tuyến phòng thủ đường 9 của địch nối liền Quảng Trị với Trung Lào(2).

Việc mở rộng phạm vi chiến dịch, phát triển tiến công xuống phía Nam làm cho vấn đề cung cấp gặp khó khăn lớn. Để bảo đảm cung cấp cho hoạt động của các đơn vị, Bộ Chỉ huy Mặt trận D quyết định tổ chức 21 trạm vận tải cho đường số 9. Việc vận chuyển lương thực, thực phẩm, thuốc men, đạn dược phục vụ chiến đấu được giao cho Tiểu đoàn 804 công binh (Đại đoàn 304) và thanh niên xung phong Nghệ - Tĩnh. Ngoài ra, đoàn cán bộ cơ sở Việt - Lào tiến hành vận động nhân dân Lào đóng góp lương thực, thực phẩm nuôi bộ đội đánh giặc.

Đợt hai của chiến dịch mở màn bằng trận tiến công của Trung đoàn 66 vào vị trí Hìn Xìu ngày 8-1-1954. Bộ đội ta đã đánh thiệt hại nặng tiểu đoàn cơ động ngụy vừa ra chiếm lại Hìn Xìu, loại khỏi vòng chiến 400 tên, bắt sống 88 tên, trong đó có tên tiểu đoàn trưởng. Trong thời gian này, bộ đội ta liên tiếp tập kích, phục kích địch ở Na Khan, Khơ Máy, Noong Khắt, đánh thiệt hại ba tiểu đoàn Âu - Phi. Đặc biệt trong trận phản kích ở Na Khan ngày 18-1-1954, hai trung đội vệ binh (Thuộc Trung đoàn 101) do Đại đội phó Cao Thế Chiến chỉ huy đã anh dũng chiến đấu đến hơi thở cuối cùng để bảo vệ sở chỉ huy, bảo vệ chính quyền và nhân dân Lào.

Trước việc mất Na Khan và Hìn Xìu, cứ điểm Sê Nô bị uy hiếp, Navarre đã điều tiếp đến Xavanakhét Binh đoàn lê dương số 1, Binh đoàn cơ động ngụy 51 và một số đại đội để bổ sung, củng cố các đơn vị bị tổn thất ở Khăm Muộn. Qua hai đợt tăng viện, lực lượng cơ động của địch ở Trung Lào đã lên tới 19 tiểu đoàn bộ binh, ba tiểu đoàn pháo binh. Lực lượng này được tổ chức thành tập đoàn cứ điểm ở Sê Nô, gọi là “Binh đoàn tác chiến Trung Lào” (GOML), đặt dưới quyền chính ủy của tướng Phrăngxi. Với tham vọng giành lợi thế chủ động ở Trung Lào, Navarre và Bộ Chỉ huy quân viễn chinh Pháp đã biến Trung Lào thành thành nơi tập trung quân cơ động của Pháp.

Với lực lượng được tăng cường, quân Pháp tổ chức các cuộc phản công chiếm lại các địa bàn ở bắc Sê Nô, tiến lên Mahaxây, Hồng Mường, chuẩn bị phản kích chiếm lại Thà Khẹc, uy hiếp tuyến cung cấp và vùng mới giải phóng ở Trung Lào.

Trước động thái mới của địch, Bộ Chỉ huy mặt trận chủ trương không cố thủ Thà Khẹc và Mahaxây, mà tập trung lực lượng mở đợt tiến công mới xuống khu vực đường 9, phát triển xuống phía nam là nơi địch còn sơ hở.

Một ngày sau khi quân Pháp chiếm lại Thà Khẹc (ngày 23-1-1954), Trung đoàn 66 đã tiến công san phẳng các vị trí của địch ở Phan Lan, Hu Xu Lai, Xê Ta Mốc; ngày 26-1, tiêu diệt địch vị trí Mường Phìn, đồng thời phục kích tiêu diệt hai đại đội địch từ Đồng Hến đến tiếp viện.

Trong khi Trung đoàn 66 giành thắng lợi lớn thì ở phía đông đường số 9, Trung đoàn 18 đã phối hợp với lực lượng vũ trang Quảng Trị tiến công địch trên tuyến đường từ Cam Lộ đến Lao Bảo, giải phóng hoàn toàn huyện Hướng Hóa và một phần huyện Cam Lộ. Sự phối hợp của Trung đoàn 18, của quân, dân Quảng Trị đã góp phần bẻ gẫy tuyến phòng ngự đường 9 của địch, giải phóng miền đông tỉnh Xavanakhét.


(1) Quân khu IV: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược 1945-1954, Sđd, tr.350.
(2) Quân khu IV: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược 1945-1954, Sđd, tr.351.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 22 Tháng Hai, 2016, 08:01:06 pm
Xuất phát từ sự chỉ đạo tác chiến linh hoạt, đúng đắn của Bộ Chỉ huy chiến dịch, biết khai thác và khoét sâu chỗ yếu của địch, chủ động phân tán lực lượng, chuyển hướng tiến công, các đơn vị tham gia mặt trận đường 9 đã giành được thắng lợi to lớn, tiêu diệt sáu vị trí, nắm đại đội địch, chặt đứt tuyến phòng ngự đường 9 của địch dài gần 100 km từ Đồng Hới đến Sê Pôn, khai thông đường liên lạc của ta giữa bắc và nam đường 9.

Hòa nhịp với mặt trận đường 9, ở mũi thọc sâu xuống Hạ Lào, Tiểu đoàn 436 (Trung đoàn 101) đã phối hợp cùng bộ đội và du kích Lào liên tục tiến công giải phóng nhiều địa bàn rộng lớn, quan trọng như thị xã Atôpơ (31-1-1954), cao nguyên Bộlôven (1-2-1954); từ ngày 5-2-1954 lần lượt tiêu diệt các vị trí Bung Kma, Lào Ngam, thị xã Thà Teng, giải phóng hoàn toàn phía nam tỉnh Xaravan. Sau các đơn chiến đấu, Tiểu đoàn 436 cùng bộ đội Pathét Lào và lực lượng vũ trang địa phương đã loại khỏi vong chiến đấu gần 3.000 tên địch, giải phóng một vùng rộng lớn trên 20.000 km2, nối liền vùng giải phóng Hạ Lào với Trung Lào. Với thành tích phối hợp với bạn giải phóng cả một vùng rộng lớn, cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 436 đã được Bộ Tổng tư lệnh tặng thưởng Huân chương Quân công hạng hai. Chiến công trên khẳng định phương hướng chiến lược đúng đắn của Đảng, sự lớn mạnh của lực lượng vũ trang Lào, tinh thần kháng chiến của nhân dân các bộ tộc Lào và tính hữu hiệu của tình đoàn kết chiến đấu Việt - Lào.

Cùng với các đợt tiến công của ta ở đường số 9, Hạ Lào, cuộc chiến đấu chống địch phản công của ta ở vùng bắc tỉnh Xavanakhét diễn ra rất gay go. Để đỡ đòn cho đường 9, Bộ Chỉ huy Pháp ở Trung Lào đã sử dụng hai binh đoàn cơ động số 1 và 2 tiến công chiếm lại Mahaxây và Nhomarát.

Việc quân địch tăng quân và thực hiện tái chiếm các căn cứ ở Trung Lào không nằm ngoài dự kiến chiến lược của ta. Sau khi chủ trương chuyển từ “đánh nhanh thắng nhanh” sang “đánh chắc tiến chắc” của Đảng ủy chiến dịch Điện Biên Phủ được Bộ Chính trị thông qua, Bộ Tổng tư lệnh đã đề ra một kế hoạch tác chiến mới nhằm phân tán hơn nữa lực lượng địch ra khắp các chiến trường, tạo điều kiện thuận lợi cho chiến dịch Điện Biên Phủ giành thắng lợi. Trong kế hoạch tác chiến mới này, liên quân Việt - Lào ở Trung Lào có nhiệm vụ phát triển tiến công từ Trung Lào xuống đường 9, rồi xuống Hạ Lào để thu hút địch. Xuất phát từ yêu cầu đó, đồng thời để phát huy hơn nữa những thắng lợi to lớn đã giành được ở Trung Lào, theo đề nghị của Bộ Tổng tư lệnh và của bạn, Bộ Chính trị đồng ý điều toàn bộ lực lượng của Trung đoàn 101 (Đại đoàn 325) từ Trung Lào xuống Hạ Lào phát triển tiến công, đồng thời điều Trung đoàn 18 (Đại đoàn 325) từ khu vực đường 9 - Quảng Trị sang Trung Lào thay thế Trung đoàn 101 chống địch phản công.

Chấp hành quyết định của Đảng và mệnh lệnh của Bộ Tổng tư lệnh, Bộ Chỉ huy mặt trận chuyển Tiểu đoàn 247 (Trung đoàn 18) làm nhiệm vụ đánh địch trên đường 12, chủ yếu là ở Nhommarát và Mahaxây; giao cho Tiểu đoàn 290 Hà Tĩnh, Tiểu đoàn 198 Nghệ An, Đại đội 124 huyện Thanh Chương - Nghệ An, Đại đội 12 quân tình nguyện đẩy mạnh hoạt động ở vùng Pắc Ka Dinh, tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, cắt đứt đường số 13; quyết định cho Trung đoàn 66 tiên lên bắc Sê Nô hoạt động kìm chân và tiêu diệt quân cơ động của địch.

Từ đầu tháng 3-1954, trong khi Trung đoàn 101 thọc sâu xuống phía nam kết hợp cùng bộ đội tình nguyện Liên khu V và lực lượng tại chỗ tiến công địch, mở rộng vùng giải phóng ở Hạ Lào, Đông Bắc Campuchia, thì tại Trung Lào, các đơn vị của Trung đoàn 66, Trung đoàn 18, phối hợp với các đơn vị tình nguyện Liên khu IV, du kích Lào chặn đánh các mũi tiến công của địch, bảo vệ tuyến cung cấp của mặt trận từ vùng tự do Liên khu IV sang. Trong nửa đầu tháng 3-1954, địch cho hai binh đoàn cơ động số 1 và 2 mở các cuộc hành quân chiếm lại Ga Van, Na Peng, Pà Cuội, Sang Phóc. Sang tháng 4-1954, quân địch tiếp tục mở các cuộc tiến công chiếm các vị trí quan trọng trên các trục đường 12, đường 8 như Banaphào, Mụ Giạ, Bản Bo, Lằng Khằng, Pha Nốp. Hầu hết các cuộc hành quân, các vị trí mới chiếm lại của địch đều bị các đơn vị của Trung đoàn 18, Trung đoàn 66, quân tình nguyện Liên khu IV và bộ đội, du kích Lào chặn đánh, vây hãm, đánh tiêu hao. Tuyến cung cấp từ Thanh - Nghệ - Tĩnh sang Trung Lào vẫn được giữ vững.

Trong lúc quân địch đang lúng túng và bất lực trong âm mưu và hành động giành lại thế chủ động trên chiến trường Trung Lào thì tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ của địch bị các đại đoàn chủ lực ta tiến công dữ đội, bị chia cắt, khống chế và cô lập. Trước Tình hình cạn kiệt lực lượng dự bị, quân Pháp buộc phải rút bỏ một số vị trí ở Trung Lào, điều quân từ chiến trường này ra cứ nguy cho Điện Biên Phủ. Ngày 25-4-1954, từ các vị trí Mụ Giạ, Bản Bo, bắc Lằng Khằng… Binh đoàn cơ động số 1, ba tiểu đoàn bộ binh và một tiểu đoàn pháo địch theo đường 12 rút về thị xã Thà Khẹc. Do đã dự kiến trước tình huống này, hai tiểu đoàn của Trung đoàn 18 theo sự chỉ đạo của Bộ Chỉ huy mặt trận đã thực hiện chặn đánh từng chặn, tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch. Cũng thời gian này, ở bắc Căm Cớt, Tiểu đoàn 290 Hà Tĩnh, Đại đội 124 huyện Thanh Chương và Đại đội 124 quân tình nguyện đã liên tục tiến công địch, làm cho chúng bị thiệt hại nặng, buộc phải rút chạy.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 24 Tháng Hai, 2016, 07:26:46 pm
Cũng trong ngày 25-4-1954, để thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị về việc phối hợp tác chiến với Điện Biên Phủ, Thường vụ Liên khu ủy IV đã họp quyết định những công tác trước mắt. Đối với chiến trường Trung Lào, hội nghị chỉ rõ: phải thấu suốt tư tưởng cho cán bộ ở mặt trận Trung Lào là nhiệm vụ quan trọng nhất lúc này là phối hợp với mặt trận Điện Biên Phủ; phương châm chiến đấu là kiên trì bám sát địch, đánh nhỏ ăn chắc, cố giữ chân địch, tiêu hao, tiêu diệt từng bộ phận nhỏ quân địch. Chủ trương của hội nghị đã nhanh hóng được truyền đạt tới các đơn vị đang hoạt động ở Trung Lào.

Trước khi chiến dịch Điện Biên Phủ bước vào đợt cuối, cuộc tiến công của liên quân Việt - Lào ở Trung Lào cũng kết thúc. Trong đợt hoạt động này, các đơn vị vũ trang Việt - Lào đã loại khỏi vòng chiến đấu gần 3.000 tên địch, tiếp tục giam chân hai binh đoàn cơ động tinh nhuệ của chúng, giữ vững được thế chủ động chiến dịch, phối hợp tốt với các chiến trường, tạo điều kiện thuận lợi cho chiến dịch Điện Biên Phủ đi đến toàn thắng.

Với kết quả đánh thiệt hại nặng bốn tiểu đoàn địch(1), phá vỡ tuyến phòng ngự của địch tuyến đường số 12, số 8 và số 9, giải phóng một vùng rộng lớn 400.000 km2, 40.000 dân bao gồm một phần tỉnh Savanakhẹt và toàn bộ cao nguyên Bôlôven, đòn tiến công chiến lược ở Trung và Hạ Lào của quân và dân hai nước Việt - Lào đóng một vai trò rất to lớn trong chiến cuộc đông xuân 1953-1954. Hợp lực cùng các chiến trường khác, chiến dịch Trung Lào đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ thu hút giam chân một lực lượng cơ động lớn cùng các phương tiện chiến tranh xe pháo, máy bay của địch, đánh một đòn mạnh vào kế hoạch tập trung khối chủ lực cơ động của Navarre, góp phần làm cho những âm mưu lật ngược thế cờ của thực dân Pháp tan thành mây khói.

Bằng các đợt tiến công hữu hiệu, phối hợp nhịp nhàng với các mũi tiến công ở đồng bằng Bắc Bộ, ở Tây Nguyên, ở Nam Bộ, Nam Trung Bộ…, chiến dịch Trung Lào đã chia lửa cùng chiến trường Điện Biên Phủ, tạo điều kiện cho chiến dịch kết thúc thắng lợi. Lo đối phó với các cuộc tiến công từ nhiều hướng, nhiều phía, ở nhiều vùng của ta, trong đó có Trung Lào, quân Pháp đã không thể huy động toàn bộ những tiềm lực lục quân và không quân hiện có ở Đông Dương để sử dụng vào cuộc quyết chiến chiến lược ở lòng chảo Điện Biên Phủ. Chính quân Pháp đã thú nhận rằng do phải chống dỡ các cuộc tiến công trên các chiến trường phụ, tiềm lực không quân của quân đội viễn chinh bị chia sẻ, không thể tập trung phục vụ cho tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ; các lực lượng bộ binh phải dùng để bảo vệ các trục đường giao thông, các sân bay và để mở các cuộc hành quân giải tỏa nên không thể dùng tăng viện cho Điện Biên Phủ(2). Cùng với chiến thắng ở Hạ Lào và Đông Bắc Campuchia, chiến thắng Trung Lào đã đập tan “tuyến cấm” Trung Đông Dương của địch, khai thông con đường chiến lược Nam - Bắc Đông Dương. Từ chiến dịch này, các cơ sở quần chúng, lực lượng vũ trang, cơ quan cách mạng của bạn được củng cố và có thế phát triển mới. Tình đoàn kết chiến đấu chống kẻ thù chung của nhân dân ba nước trên bán đảo Đông Dương thêm sâu sắc và bền vững. Thắng lợi của mặt trận Trung Lào đã góp phần bảo vệ vững chắc hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh, tạo điều kiện cho Liên khu IV hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ phục vụ tiền tuyến. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Liên khu ủy, trực tiếp là của Ban Cán sự Trung Lào, các đơn vị vũ trang của liên khu hoạt động trên đất bạn, cùng đội ngũ cán bộ được tăng cường đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ làm nòng cốt trong công tác chuẩn bị cho chiến dịch, đào tạo cán bộ, xây dựng hậu phương tại chỗ; phối hợp cùng quân chủ lực của bộ tiến công truy kích địch, cũng như chặn đánh, chống địch phản công, bảo vệ vùng mới giải phóng; góp phần tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch, kìm chân một lực lượng cơ động lớn của địch, giữ vững thế chủ động trên chiến trường. Lực lượng vũ trang và cán bộ Liên khu IV hoạt động trong chiến dịch còn đạt thành tích lớn trong việc giúp bạn gây dựng và phát triển lu kháng chiến, xây dựng thêm các đơn vị bộ đội, tổ chức chính quyền ở vùng giải phóng, đến việc động viên nhân dân các bộ tộc tham gia ủng hộ, cung cấp lương thực, thực phẩm cho bộ đội, dẫn đường cho lực lượng ta truy kích tiêu diệt quân thù. Bằng xương máu và công sức của mình, lực lượng vũ trang và cán bộ của liên khu tham gia chiến dịch đã góp phần trong việc đưa thế và lực của cách mạng Lào chuyển lên một tầm mức mới. Những đóng góp của lực lượng vũ trang và cán bộ nói trên càng có ý nghĩa hơn khi quân và dân Liên khu đang phải chiến đấu quyết liệt với kẻ thù ngay trên địa bàn liên khu IV. Trên thực tế, chiến trường Trung Lào là mặt trận thứ hai của quân và dân liên khu IV trong giai đoạn chuyển minh đi đến thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.


(1) Trên chiến trường Trung - Hạ Lào - Đông Bắc Campuchia trong đông - xuân 1953-1954, liên quân Việt - Lào đã loại khỏi vòng chiến đấu trên 6.100 tên địch, hầu hết là lính Âu - Phi, thu trên 1.200 khẩu súng cùng nhiều loại quân trang, quân dung.
(2) Quân sử, Sài Gòn, 1972, tr.88


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 24 Tháng Hai, 2016, 07:29:07 pm
Đồng thời với chi đạo lực lượng tham gia tiến công chiến lược ở Trung Lào, Liên khu ủy, Bộ Tư lệnh liên khu, các đảng bộ vùng tạm bị chiếm đã lãnh đạo, chỉ huy quân và dân Bình - Trị - Thiên chiến đấu đánh bại những nỗ lực cao nhất của địch. Để củng cố tuyến phòng ngự chiến lược Trung Đông Dương, ngăn chặn sự triển khai của ta xuống phía nam ngăn chặn sự liên hệ giữa vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh với Liên khu V, bảo vệ bộ máy ngụy quyền miền Trung, quân Pháp tăng cường càn quét bình định, tiến công vào khu du kích, lập vành đai trắng, phá hoại kinh tế kháng chiến, bắt lính, phát triển ngụy quân. Đến cuối năm 1953, địch đã phát triển thêm được ba tiểu đoàn khinh quân ngụy, một tiểu đoàn pháo binh, 14 đại đội phụ bổ cơ động (Compagnies Supplétives mobles) và một số hương tổng dũng, tập hợp một số lưu manh đầu hàng lập thành nghĩa dũng đoàn với 500 tên ở Huế, 60 tên ở Quảng Bình. Lực lượng của địch đóng tại ba tỉnh Bình - Trị - Thiên có năm tiểu đoàn cơ động ứng chiến, 20 đại đội phụ bổ, 15 tiểu đoàn chiếm đóng, 22 đại đội cảnh vệ với tổng quân số gần 30.000 tên(1), trong đó 91% là ngụy binh, chiếm 15% tổng số ngụy binh trên toàn quốc(2).

Để xây dựng lực lượng binh lính người Việt thay thế cho lực lượng lính Âu - Phi đi chiến trường khác, địch ra sức bắt lính, kể cả phụ nữ và trẻ em. Ở Bình - Trị - Thiên, trong năm 1953, địch bắt tới 8.378 người đi lính. Cùng với tăng cường lực lượng, địch liên tiếp tổ chức các cuộc càn quét vừa và nhỏ, cả ban ngày lẫn ban đêm để thực hiện chiếm đóng có trọng điểm hòng chia cắt vùng đồng bằng Phong Điền, Quảng Điền, Triệu Phong, Hải Lăng, ven đường 9, nam Thừa Thiên(3).

Bằng các thủ đoạn càn quét nhiều lần chúng đã mở rộng được phạm vi chiếm đóng, củng cố được vùng Sải - Cừa Việt (Quảng Trị), khu 3 Phú Lộc (Thừa Thiên) tăng cường phòng thủ, xây thêm nhiều lô cốt dọc quốc lộ 1 và đường sắt nhất là đoạn Huế - Đông Hà. Đặc biệt chúng dùng những biện pháp dã man như bắn giết, chặt đầu hàng chục người để thi hành việc dồn dân, tập trung dân để tách dân với kháng chiến, dễ bề vơ vét nhân vật lực và tiện kiểm soát. Ở Thừa Thiên, nhất là ở vùng phía nam, chúng dồn 54 thôn thành những khu tập trung, bắt nhân dân ở các vùng Phú Lộc, Phú Vang dời nhà, bỏ làng lên ở dọc theo đường giao thông để tiện khống chế làm cho 1.000 mẫu ruộng ở đây bị bỏ hoang. Dọc theo quốc lộ 1 va đường sắt, đoạn từ Lăng Cô ra Huế và một số xã giáp đường ở Quảng Trị, Quảng Bình, chúng đuổi dân ở hai bên đường để lập vành đai trắng, mỗi bên cách đường 2km. Chúng lập khu trắng Nam Giao - Huế. Thủ đoạn dồn dân của địch đã làm nhiều đảo lộn đời sống nhân dân, làm người chết vì bị khủng bố, ốm đau, bệnh tật. Ở thôn Viễn Trinh (Thừa Thiên) việc di dời của địch đã làm 36 người chết.

Cùng với các hoạt động quân sự, địch đã đẩy mạnh chính sách lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt. Chúng tung luận điệu “độc lập dân chủ”, tuyên truyền cho cuộc bầu cử quốc hội bù nhìn, bầu cử hội đồng hương chính, thiết lập thêm bộ máy tay sai cấp cơ sở. Đến cuối năm 1953, chúng tổ chức được 528 ban tề trong tổng số 1.286 thôn, chiếm 14% tổng số thôn ở Bình - Trị - Thiên. Trong đó, ở Quảng Trị có 235 ban tề trong tổng số 521 thôn; ở Quảng Bình có 79 tề công khai, 12 tề bí mật trong tổng số 441 thôn. Chúng loại dần những người tình nghi có liên hệ với kháng chiến, thay vào đó là những địa chủ cường hào gian ác vừa chạy theo chúng, những tên mật thám, một số phần tử lưu mạnh thuộc thành phần trung, bần nông để lừa phỉnh lôi kéo nhân dân. Ở các thị xã, chúng thành lập các nghiệp đoàn (riêng ở Huế có 10 nghiệp đoàn) để dễ bề kiểm soát và tiện cho việc vơ vét, bắt lính. Chúng sử dụng bọn gián điệp, những tên tay sai phản động trong Công giáo, Phật giáo đột nhập vào vùng căn cứ du kích để lôi kéo các phần tử bất mãn chống phá kháng chiến. Ở một số nơi, chúng lấy ruộng công, ruộng do ta cấp cho nhân dân chia theo lối “treo giò” để lôi kéo cán bộ(4). Bên cạnh đánh phá mạnh tiềm lực kháng chiến của ta, quân địch đẩy mạnh vơ vét, cướp bóc bằng thủ đoạn đặt ra các thứ thuế mới, tổ chức lạc quyên… Trung bình mỗi người dân vùng tạm chiếm một năm đóng 1.230 đồng Đông Dương tiền thuế.

Bên cạnh sự đánh phá của địch, những hậu quả của các trận lụt lội cũng gây nên không ít khó khăn cho phong trào Bình - Trị - Thiên. Trận lụt ngày 15-6-1953 làm bốn xã ở Quảng Trị hỏng 760 mẫu lúa. Trận lụt lớn ngày 25-9 ở Thừa Thiên đã làm cho nhiều vùng trôi cả nhà cửa, trâu bò, nông cụ, làm một số người chết. Có thôn như Bảng Lảng (Nguyên Thủy) bị trôi cả thôn; thôn Phong Thủy có hàng trăm mẫu ruộng bị ngập. Các huyện bị lụt lớn như Hương Trà, Hương Thủy gặp nhiều khó khăn trong sản xuất. Nhiều làng không còn một con trâu để cày kéo. Do thiên tai, do địch đánh phá, sản xuất nhiều vùng bị đình đốn, sức huy động bị giảm sút nghiêm trọng. Thuế nông nghiệp vụ chiếm ở Bình - Trị - Thiên chỉ thu được 7.486 tấn (toàn liên khu là 98.786 tấn), riêng Thừa Thiên chỉ thu được 272 tấn, đạt 11%. Nhân dân nhiều vùng ở ba tỉnh, nhất là Thừa Thiên và các vùng nam Quảng Bình, bắc Quảng Trị đứng trước nguy cơ bị nạn đói hoành hành.


(1) Theo báo cáo Tình hình Liên khu IV năm 1953 của Văn phòng Trung ương Đảng gửi các đồng chí trong Ban Chấp hành Trung ương thì lực lượng địch ở Bình - Trị - Thiên năm 1953 không tăng so với cuối 1952 (năm 1952 ở Bình - Trị - Thiên địch có 27.304 tên), tài liệu Văn phòng Trung ương Đảng.
(2) Tổng số ngụy binh trên toàn quốc lúc này là 198.020 tên.
(3) Trong năm 1953, quân địch ở Bình - Trị - Thiên đã thực hiện tới 690 cuộc càn quét lớn nhỏ, trong đó có sáu trận địch huy động lực lượng từ năm đến 12 tiểu đoàn.
(4) Chia “treo giò” là chia cho những cán bộ mà chúng biết đang hoạt động kháng chiến vắng mặt tại địa phương.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 24 Tháng Hai, 2016, 07:30:55 pm
Đầu năm 1953, đại bộ phận lực lượng ủa mặt trận Bình - Trị - Thiên gồm Trung đoàn 101, Trung đoàn 18, tiểu đoàn trợ chiến lần lượt rút ra vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh để xây dựng Đại đoàn chủ lực 325. Đến tháng 9-1953, các lực lượng còn lại như trung đoàn 95, một số đơn vị bảo đảm như đại đội công binh, đại đội vận tải, bệnh xá… cũng chuyển ra vùng tự do. Sự điều chuyển lực lượng nói trên đã gây nên sự hẫng hút về lực lượng bộ đội ở Bình - Trị - Thiên. Đặc biệt, do lập trường, quan điểm, chính sách của các cấp bộ đảng chưa vững vàng, lại chịu ảnh hưởng của phong trào đấu tranh chính trị và phát động quần chúng triệt để giảm tô ở vùng tự do, nên mặc dù Liên khu ủy chủ trương chưa phát động quần chúng triệt để giảm tô ở Bình - Trị - Thiên, các tỉnh này vẫn cứ tiến hành từ giữa năm 1953 và đã phạm sai lầm trong chấp hành chính sách của Đảng. Ở Thừa Thiên, việc đấu tranh đòi giảm tô diễn ra ngay sát vùng ngoại ô Thuận Hóa như An Cựu; bọn địa chủ phản động ở đây đã đưa địch về làng giết cả chủ tịch đoàn cuộc đấu tranh cùng một số bần cố nông hăng hái, cướp lại số lúa của địa chủ, vơ vét nhiều tài sản của nhân dân, phá tan cơ sở và phong trào kháng chiến. Ở Quảng Trị, chủ trương giảm tức là chủ yếu, lại quy tức thành thóc để giảm làm cho những người có vốn hoang mang, không dám bỏ vốn cho vây, dân nghèo càng thiếu vốn để sản xuất. Ở Quảng Bình, chủ trương giảm tô, thoái tô đã gây nên những cuộc đấu tranh tự phát không kiểm soát được. Ở Thừa Thiên, sau khi phát hiện có nơi gián điệp đã chui vào nội bộ ta để phá hoại thì sinh ra hoang mang, dao động, đâm ra nghi ngờ, cảnh giác lẫn nhau. Tình hình khó khăn đã làm xuất hiện tư tưởng cầu an, ngại khó, sợ gian khổ trong một bộ phận cán bộ, du kích. Trong Báo cáo Tình hình năm 1953 của Liên khu ủy có nhận xét các tỉnh Bình - Trị - Thiên “có nhiều sai lầm trong việc chấp hành chính sách của Đảng, làm thương tổn đến đoàn kết đông đảo nhân dân chống địch (…). Những sai lầm ấy trở thành vết thương lớn lao cho phong trào Bình - Trị - Thiên (…). Việc chấp hành chính sách sai lầm là nguyên nhân chủ yếu làm cho phong trào Bình - Trị - Thiên sút kém, gặp khó khăn”(1). Trong điện gửi cho Hội nghị cán bộ Bình - Trị - Thiên (11-1953), Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng vạch rõ những khuyết điểm ở đây, đồng thời chỉ ra những phương hướng, biện pháp sửa chữa sai lầm. Người viết: “Hiện nay Bình - Trị - Thiên gặp nhiều khó khăn, không phải vì địch giỏi mà cán bộ phạm sai lầm nặng. Nếu làm đúng chính sách, nắm vững phương châm hoạt động ở địch hậu, đi sát nhân dân, bồi dưỡng, phát huy khả năng sáng kiến của nhân dân thì nhất định vượt qua mọi khó khăn. Cán bộ phải gương mẫu, tư tưởng phải thông, phải chấp hành chính sách, phương châm, chớ chủ quan khinh địch”(2).

Được sự chỉ đạo của Trung ương Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Liên khu ủy, các đảng bộ, cơ quan lãnh đạo kháng chiến ở Bình - Trị - Thiên đã nhận rõ sai lầm, sửa chữa khuyết điểm, tạo ra một chuyển hướng về tư tưởng, xác định nhiệm vụ và phương châm công tác theo tinh thần nghị quyết Hội nghị cán bộ địch hậu Bắc Bộ. Ngày 8-1-1953, tại Hội nghị cán bộ Bình - Trị - Thiên, đồng chí Nguyễn Xuân Linh, Ủy viên Thường vụ Liên khu ủy đã chỉ rõ những thành tựu và khuyết điểm, đồng thời giao cho Bình - Trị - Thiên nhiệm vụ đẩy mạnh đấu tranh về mọi mặt, nhất là đấu tranh vũ trang để phối hợp với chiến trường toàn quốc và phá hoại âm mưu mới của địch ở Bình - Trị - Thiên. Nhiệm vụ trước mắt là giữ vưng và đẩy mạnh chiến tranh du kích, tích cực chống càn quét. Tăng cường xây dựng lực lượng vũ trang. Nâng cao chất lượng, quán triệt và chấp hành tốt chính sách đoàn kết đông đảo nhân dân chống giặc, bảo vệ và phát triển sản xuất, tích cực củng cố và giữ vững căn cứ du kích, ra sức củng cố và phát triển khu du kích, củng cố và phát triển công tác vùng bị tạm chiếm. Phương châm hoạt động là lấy đấu tranh vũ trang làm chủ yếu, kết hợp với đấu tranh chính trị, kinh tế, nhằm phát triển chiến tranh du kích, tích cực chống càn quét, kết hợp chặt chẽ đấu tranh và công tác giữa ba vùng.

Các chủ trương, nghị quyết của Hội nghị Liên khu ủy lần thứ tư (12-1953), Hội nghị cán bộ toàn Đảng bộ Liên khu (20-2-1954) được phổ biến đến Bình - Trị - Thiên, chỉ rõ đường hướng và biện pháp cho quân và dân đấu tranh chống địch.

Trong bối cảnh có nhiều điều kiện thuận lợi, song cũng không ít những khó khăn, vướng mắc, quân và dân Bình - Trị - Thiên đã phát huy tinh thần quật khởi, chịu đựng gian khổ hy sinh, tiến công địch, hợp lực cùng cả nước giành thắng lợi to lớn, nhất là chiến cuộc đông xuân 1953-1954.

Mở đầu thời kỳ đấu tranh quyết liệt mới, đánh thắng kế hoạch quân sự Navarre ở Bình - Trị - Thiên là cuộc chiến đấu chống lại cuộc hành binh quy mô mang tên Camargue.

Nhằm tiêu diệt Trung đoàn 95, đánh phá vùng căn cứ du kích của ta, củng cố “tuyến cấm” Trung Đông Dương, gây thanh thế mới, chỉ bốn ngày sau khi kế hoạch quân sự Navarre được Hội đồng quốc phòng Pháp thông qua, vào ngày 28-7-1953, quân Pháp đã mở cuộc hành binh tiến công vào căn cứ du kích đồng bằng ở bốn huyện Triệu - Hải - Phong - Quảng, nơi chúng gội là “dãy phố buồn hiu”. Trong cuộc hành quân này, địch huy động tới trên 30 tiểu đoàn, gồm bốn tiểu đoàn bộ binh, hai tiểu đoàn dù, ba thiết đoàn, 160 xe lội nước, 2 trung đoàn pháo binh, 12 tàu chiến, một thủy đội tàu bọc sắt, 60 máy bay trinh sát, vận tải, ném bom do tướng Le Blanc, Tư lệnh lục quân miền Trung trực tiếp chỉ huy(3). Ngày 1-8-1953, đích thân Navarre tới chiến trường trực tiếp đốc chiến. Để hỗ trợ cho cuộc tiến công này, ngăn chặn quân ta rút lui hoặc từ các nơi khác đến chi viện, trong hai ngày 26 và 27-7, chúng cho quân phong tỏa các con đường đi lên miền núi phía tây, đồng thời cho máy bay và pháo binh từ các căn cứ ở Huế, Đông Hà, thị xã Quảng Trị bắn phá dồn dập vào các vùng lân cận khu căn cứ du kích đồng bằng Triệu - Hải - Phong - Quảng như Cùa, Trấm, Tro, Hòa Linh, Bọc Lở, Hòa Mỹ, Phong Thái. Ngày 12-7-1953, quân địch từ biển và từ quốc lộ 1 chia làm bốn mũi tiến công vào căn cứ ta, nơi trung đoàn 95 đang hoạt động. Lực lượng bộ binh và xe bọc thép địch chia làm hai mũi từ tây bắc (Quảng Trị) và từ phía tây nam (Mỹ Chánh) đánh xuống, trong khi quân đổ bộ và xe lội nước từ phía đông bắc (Tân An - Mỹ Thủy) và từ phía đông nam (Lai Hà) đánh áp vào. Ngoài ra, hai tiểu đoàn dù của địch túc trực trên tàu chiến ngoài khơi làm lực lượng dự bị sẵn sàng tiếp ứng cho các hướng. Ý đồ của địch là hợp vây, dồn ép Trung đoàn 95 vào dải đất bồi ven biển dài 84 km, rộng 3 km để tiêu diệt.


(1) Báo cáo năm 1953, số 146 BC/LK4 của Ban Chấp hành Đảng bộ Liên khu IV, Cục Lưu trữ văn phòng Trung ương Đảng.
(2) Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Liên khu IV trong sự nghiệp kháng chiến chống Pháp và cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân (1945-1948), tài liệu lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
(3) Về số quân địch huy động vào trận càn này còn có ý kiến khác.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 24 Tháng Hai, 2016, 07:32:18 pm
Trước tình hình hết sức khẩn cấp, các cấp ủy đảng ở địa phương cùng Ban chỉ huy Trung đoàn 95 nhanh chóng bàn kế hoạch tác chiến. Theo đó, Tiểu đoàn 310 nhận nhiệm vụ ở lại cùng lực lượng vũ trang địa phương bám địch, phục kích làm chậm bước tiến của chúng, đại bộ phận Trung đoàn 95 vượt vòng vây ra ngoài nhanh chóng quay lại tập kích vào nơi sơ hở của địch để tiêu diệt, tiêu hao sinh lực địch. Một số cán bộ của huyện, xã, thôn cùng dân quân có trách nhiệm hướng dẫn, tổ chức nhân dân cất giấu tài sản, sơ tán phụ nữ, trẻ em ra khỏi vùng chiến sự. Kế hoạch hợp đồng tác chiến nhanh chóng được triển khai, lực lượng vũ trang đã kịp thời chặn đánh ngay từ đầu các mũi tiến công của địch. Bằng nhiều lối đánh linh hoạt, dân quân các làng Trung Đô, Phước Diễn, Lương Mai, Linh Yên, Gia Đẵng, Mỹ Thủy… đã gây cho địch nhiều thiệt hại. Tiểu đoàn 302 đánh địch tiến công ở làng Trung Thanh và Tiểu đoàn 227 chiến đấu quyết liệt với địch ở Phúc An, không cho chúng đến sông Vân Trình để khép kín vòng vây.

Sau một ngày tiến công, bị thiệt hại nặng mà vẫn không khép kín được vòng vây, Le Blanc tức tốc cho hai tiểu đoàn dù đang sẵn sàng trên tàu chiến ngoài khơi đổ bộ, đồng thời cho cánh quân thủy theo bờ sông Vân Trình lên hợp vây. Các cánh quân của địch tiếp tục bị lực lượng ta chặn đánh quyết liệt, không đạt được kết quả mong muốn. Đêm 28-7, lợi dụng lúc địch ngừng tiến công, Trung đoàn 95 và các cơ quan của tỉnh, của huyện đóng ở hai làng Đơn Quế, Đồng Dương đã bố trí bom mìn, cạm bẫy, nghi binh rồi bí mật rút ra khu căn cứ, nên khi chúng tiến vào Đơn Quế và Đồng Dương thì Trung đoàn 95 cùng các cơ quan dân, chính, đảng đã rút đi từ trước. Ý đồ của địch cất vó Trung đoàn 95 đã không mang lại kết quả.

Cay cú trước thất bại này, quân địch càn quét khốc liệt không sót một thôn ở vùng căn cứ đồng bằng Triệu - Hải - Phong - Quảng. Nhiều thôn như Quảng Thái, Phong Chương, Hải Thái… phải chịu đựng hàng nghìn quả đạn pháo kích. Chúng đóng thêm một số vị trí mới, chia cắt vùng này thành từng ô, lập lại hội tề. Ngày 6-8-1953, đại bộ phận quân địch rút đi để lại một số đơn vị làm nhiệm vụ duy trì càn quét, thực hiện bình định.

Cuộc hành quân Camargue vào vùng căn cứ đồng bằng Triệu - Hải - Phong - Quảng là cuộc càn quét lớn nhất ở Bình - Trị - Thiên kể từ ngày chúng chiếm đóng đến thời gian này. Quân và dân Bình - Trị - Thiên đã đi tiên phong trong đối phó với kế hoạch mới của kẻ thù. Cùng lực lượng chủ lực, lực lượng vũ trang địa phương đã tiêu diệt và bắt sống 945 tên địch, phá hủy nhiều vũ khí và phương tiện chiến tranh của địch. Sự bất lực của một lực lượng lớn quân địch bao gồm cả lục quân, hải quân, không quân với các sĩ quan cao cấp chỉ huy trước một trung đoàn chủ lực ta và lực lượng vũ trang địa phương đã báo hiệu trước sự thất bại trong âm mưu và hành động mới của kẻ thù. Trong chống càn đã nổi lên những đơn vị chiến đấu anh dũng, tiêu diệt được nhiều sinh lực địch, bảo vệ được nhân dân như Tiểu đoàn 227, bộ đội địa phương huyện Phong Điền, huyện Hải Lăng. Chủ trương tránh địch bảo toàn lực lượng thực hiện trong chống càn là đúng đắn. Đánh giá về ưu điểm của cuộc chiến đấu này, Hội nghị bất thường của Tỉnh ủy Quảng Trị (16, 17-9-1953) khẳng định: “Trong trận chống càn này, quân và dân Quảng Trị đã biểu hiện được tinh thần đấu tranh, hy sinh anh dũng. Không những nhân dân ở vùng bị địch càn đấu tranh chống địch hiếp dâm, chống địch bắt lính, cướp lúa, tìm mọi cách tránh địch… mà ngay cả nhân dân sống trong đô thị, vùng du kích cũng đoàn kết, kiên quyết đấu tranh chống địch bắt lính, bắt phục vụ cuộc càn của chúng”(1).

Tuy nhiên, cuộc càn quy mô này cũng gây cho phong trào Bình - Trị - Thiên nhiều khó khăn lớn. Ở huyện Triệu Hải, địch đã cướp phá 500 tấn thóc, giết 148 trâu bò, bắt và giết 329 người. Ở huyện Hải Lăng, gần 7.000 người phải tạm bỏ nhà cửa, ruộng vườn đi sơ tán. Vùng căn cứ du kích Triệu - Hải - Phong không còn là căn cứ rộng lớn, cơ sở bị đánh bật ra ngoài, địch tuy không tiêu diệt được chủ lực ta song vẫn tiến hành được âm mưu bình định. Qua chiến đấu, lực lượng của ta cũng bị tổn thất khá nặng, hoạt động gặp nhiều khó khăn. Những thiệt hại trên, ngoài nguyên nhân khách quan là địch rất mạnh, còn có nguyên nhân chủ quan trong nhận thức và chỉ đạo chiến đấu của ta. Do không dự kiến đầy đủ âm mưu của địch, không chuẩn bị tư tưởng cho cán bộ, nhân dân sa đối phó với địch nên khi địch tổ chức cuộc càn quét lớn, một số cán bộ vẫn cho rằng địch không thể chiếm đóng được khu du kích của ta, do đó có nơi, lúc đầu đối phó lơi là, có nơi lại tung hết lực lượng ra chiến đấu với địch. Việc kết hợp giữa các đơn vị, giữa nhân dân với quân đội thiếu chặt chẽ, sự chỉ đạo nhiều nơi thiếu thống nhất nên đã hạn chế đến kết quả chống địch(2).


(1) Lịch sử Đảng bộ Quảng Trị, t.I (1930-1945) , Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.387.
(2) Hội nghị bất thường của Tỉnh ủy Quảng Trị (16, 17-9-1953) đã nêu rõ những khuyết điểm này. Trong Báo cáo năm 1953 của Liên khu IV (27-12-1953) cũng có nhận xét tương tự.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 24 Tháng Hai, 2016, 07:32:44 pm
Sau cuộc chiến đấu chống cuộc hành quân Camargue của địch, quân và dân Bình - Trị - Thiên vừa cố gắng phục hồi cơ sở, sửa chữa, khắc phục khuyết điểm, chấn chỉnh, kiện toàn tổ chức, vừa chống các cuộc càn quét của địch ở Linh Quang, Cam Thanh - Cam Giang, ở Duy - Hàm - Ninh, ở Quảng Thái, Phong Chương…, bảo vệ các căn cứ du kích. Trên cơ sở đó, cuối năm 1953, khi quân đội ta triển khai thế trận tiến công trong chiến cuộc đông xuân 1953-1954, quân và dân Bình - Trị - Thiên đã kịp thời phối hợp cùng bộ đội chủ lực vừa từ vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh vào thực hiện tiến công địch, phối hợp chặt chẽ với các chiến trường khác.

Với tư tưởng chỉ đạo là tác chiến song song với xây dựng lực lượng bộ đội địa phương và dân quân, du kích tập trung đánh phá giao thông, cầu đường trên đường số 1, số 9, đường sắt, chống càn, đẩy mạnh chiến tranh du kích ở đồng bằng, tiêu diệt, tiêu hao một bộ phận sinh lực địch, phối hợp với chiến trường chính, phong trào đấu tranh mọi mặt ở Bình - Trị - Thiên chuyển biến mạnh và tiến bộ rõ nét.

Ngày 22-12-1953, khi chiến dịch Trung Lào mở màn, lực lượng vũ trang địa phương đã phối hợp với Trung đoàn 18 đồng loạt nổ súng tiến công hệ thống chiếm đóng của địch ở hai huyện Vĩnh Linh và Gio Linh, tiêu diệt năm vị trí ở Sen Hạ, Chợ Do, Hà Tây, Đằng Đằng và Dốc Miếu. Chỉ trong một thời gian ngắn, bộ đội địa phương và dân quân du kích ba tỉnh đánh mạnh đường giao thông, phá sập nhiều cầu cống, lật nhào nhiều đoàn tàu quân sự của địch trên đường số 1, đường 9 va đường sắt. Các cuộc chống càn, phục kích địch của lực lượng vũ trang ba tỉnh thu được nhiều kết quả,. Ngày 28-12-1953, du kích xã Vĩnh Liêm (Vĩnh Linh) đánh chìm bốn canô địch. Từ ngày 28 đến ngày 30-12-1953,bộ đội địa phương và du kích Cửa Tùng đã anh dũng đánh trả trận càn quét lớn của địch vào Liêm Hóa, Quang Hóa, diệt 158 tên, phá hủy bốn canô địch. Những trận chống càn, tập kích, đánh phá giao thông trong những ngày cuối năm 1953 đạt kết quả cao, đưa tổng số địch bị tiêu diệt ở Bình - Trị - Thiên trong năm lên tới 9.394 tên, có sáu quan tư, bảy quan ba, 12 quan hai; đưa số trận chiến đấu lên 4.157 trận; đưa số lượng quân trang, quân dụng, vũ khí, phương tiện quân sự của địch bị phá hủy lên 12 đầu máy xe lửa, 100 toa tàu, 57 xe quân sự, thu được 409 khẩu súng các loại. Sự hoạt động mạnh của Bình - Trị - Thiên trước hết là Quảng Trị buộc địch phải tập trung cả sáu tiểu đoàn ứng chiến ở Đông Hà để phòng thủ đường giao thông chiến lược, đối phó với cuộc tiến công của ta trong vùng và sẵn sàng tiếp cứu cho Trung Lào.

Sang năm 1954, phát huy thắng lợi, kết hợp chặt chẽ với chiến dịch Trung Lào, quân và dân Bình - Trị - Thiên càng đẩy mạnh tiến công địch, nhất là đánh phá giao thông. Bằng những đòn tập kích táo bạo, bất ngờ, phối hợp chặt chẽ, bộ đội và du kích đã đánh sập hàng loạt cầu, cống, lật nhào nhiều đoàn tàu và xe quân sự, làm giao thông địch bị tắc nghẽn dài ngày. Trên mặt trận đường 9 Quảng Trị, từ ngày 1 đến ngày 20-1-1954, quân, dân đã phá sập 17 cầu đoạn từ Đông Hà đến Rào Quán. Ở Thừa Thiên, lực lượng vũ trang địa phương đã phá sập nhiều cầu trên đường số 1, lật nhào hai đoàn tàu quân sự của địch ở Lăng Cô, làm chết và bị thương 400 tên. Tính từ ngày 21-12-1953 đến ngày 20-2-1954, quân và dân Bình - Trị - Thiên đã phá sập 35 cầu cống, đánh đổ sáu đoàn tầu quân sự, phá hủy 18 xe cơ giới của địch.

Hoảng sợ trước sức đánh phá mạnh mẽ của quân ta, Bộ Chỉ huy quân Pháp ở Bắc Trung Bộ vội vã điều bốn tiểu đoàn cơ động ứng chiến lập nhiều vị trí mới trên đường số 1, đường 9, đường sắt để bảo vệ mạch máu giao thông. Bám giữ các tuyến giao thông, lực lượng địch ở đồng bằng bị suy yếu, sơ hở, tạo điều kiện cho ta đẩy mạnh chiến tranh du kích, tiêu hao, tiêu diệt kìm chân sinh lực địch, đẩy mạnh xây dựng cơ sở vùng tạm bị chiếm.

Giữa tháng 1-1954, địch dùng một tiểu đoàn cơ động ứng chiến càn quét vùng Cùa hòng ngăn chặn lực lượng vũ trang ta đang đánh mạnh ở đường 9, uy hiếp vùng chiến khu Ba Lòng ở Quảng Trị. Ngày 28-1-1954, Trung đoàn 18 đã chặn đánh địch tại Cùa, diệt 280 tên, đập tan âm mưu của địch. Phát triển thế tiến công, Trung đoàn 18 đã phối hợp với bộ đội địa phương và du kích hai huyện Cam Lộ và Hướng Hóa bao vây tập kích thành công bảy vị trí của địch trên đường 9 là Đầu Mầu, Mai Lĩnh, Vạng Kho, Rào Quán, Khe Sanh, Tà Cơn, Lao Bảo, buộc số địch còn lại phải tháo chạy. Ngày 20-2-1954, toàn huyện Hướng Hóa và một phần huyện Cam Lộ được giải phóng, tám vạn dân thoát khỏi thế kìm kẹp của địch. Với chiến thắng này, ta làm chủ một đoạn đường dài hơn 50 km, cắt đứt đường vận tải chiến lược của địch từ Đông Hà sang Trung Lào.

Hòa cùng với tiếng súng đánh địch trên đường 9, quân, dân Bình - Trị - Thiên thực hiện luồn sâu đánh địch ở đồng bằng giành lại các căn cứ bị địch chiếm đóng từ giữa năm 1953. Ngày 28-1-1954, đại đội 245 đã chiến đấu dũng cảm chặn đứng hai tiểu đoàn cơ giới yểm hộ càn quét xã Triệu Sơn (huyện Triệu Phong). Ngày 22-2-1954, lực lượng vũ trang Quảng Trị đã sử dụng các hình thức phục kích, tập kích đánh trả các cuộc càn quét của năm tiểu đoàn địch ở hai huyện đồng bằng Triệu - Hải, loại khỏi vòng chiến đấu 150 tên, giải thoát cho 50 cán bộ và 200 thanh niên bị địch bắt, thu nhiều vũ khí, buộc chúng phải rút chạy; phá tan âm mưu và hành động của địch bình định có trọng điểm vùng Cửa Việt, Cửa Tùng, vùng đồng bằng hai huyện Triệu Phong và Hải Lăng.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 24 Tháng Hai, 2016, 07:33:03 pm
Ở Thừa Thiên, tiểu đoàn bộ tỉnh cũng bí mật luồn sâu vào vùng địch tạm chiếm tiến công địch. Ngày 6-2-1954, bằng lối đánh tập kích kết hợp với nhân mối bên trong, chỉ sau 15 phút chiến đấu, tiểu đoàn đã hạ được vị trí Niêm Phò. Trận Niêm Phò đã mở ra một lối đánh tập kích kết hợp với nhân mối trên chiến trường Bình - Trị - Thiên. Hai ngày sau, hai trung đội bộ đội địa phương lại tập kích vị trí Văn Thánh và hai lô cốt nằm trong vùng an toàn của địch, diệt nhiều tên.

Tại Quảng Bình, du kích đã đánh hai trận ở Cần Ngần và Mỹ Trung diệt hai trung đội địch.

Cuối tháng 2-1954, do địch rút ba tiểu đoàn cơ động ứng chiến, ba tiểu đoàn địa phương quân và khinh quân, 800 nghĩa dũng đoàn và nhân viên ngụy quyền vào Nam Trung Bộ chuẩn bị mở trận càn Atlante vào Liên khu V, lực lượng địch ở Bình - Trị - Thiên chỉ còn 18 tiểu đoàn chiếm đóng và bốn tiểu đoàn ứng chiến, trong đó chín tiểu đoàn đóng ở Thừa Thiên, năm tiểu đoàn đóng ở Quảng Trị và bốn tiểu đoàn chiếm đóng Quảng Bình, chiến tranh du kích có bước phát triển mới.

Trong khi lực lượng địch giảm xuống, bộ đội địa phương và dân quân, du kích Bình - Trị - Thiên được chấn chỉnh lại, được trang bị thêm 30 tấn lựu đạn, mìn, bộc phá từ Thanh - Nghệ - Tĩnh chuyển cho. Sau một thời gian chiến đấu, lực lượng vũ trang ba tỉnh có những tiến bộ mới về trình độ chiến thuật, kỹ thuật, vận dụng các hình thức tác chiến phong phú và đạt hiệu quả.

Với sức chiến đấu được tăng cường, ngay từ đầu tháng 3-1954, lực lượng vũ trang Quảng Bình đã vươn lên chống càn có kết quả ở Hoàn Phúc (9-3-1954), Thế Lộc, Quang Xá, Nguyệt Áng (11-3-1954). Các trận chống càn nhỏ ở Phong Quảng Triệu Hải cũng giành được nhiều thắng lợi. Lối đánh tập kích kết hợp với nhân mối phát triển mạnh ở Thừa Thiên rồi lan ra Quảng Bình.

Ngày 13-3-1954, khi quân ta nổ súng tiến công tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, Tỉnh ủy Thừa Thiên đã mở hội nghị bàn kế hoạch phối hợp với chiến trường chính. Hội nghị chủ trương đẩy mạnh đấu tranh vũ trang kết hợp chặt chẽ và nâng cao đấu tranh chính trị, đấu tranh kinh tế; tích cực chống càn quét dài ngày của địch, đánh mạnh giao thông, phá hoại đường Sịa - Phú Ốc và đường Sịa - Lai Hà; chống cướp lúa, chống phá hoại sản xuất, chống dồn làng, bắt lính, phát động rộng rãi phong trào vận động ngụy binh, làm tan rã hàng ngũ địch, đẩy mạnh phá tề, trừ gian. Chủ trương của hội nghị đã thúc đẩy hơn nữa phong trào chống càn diệt địch, phá hoại giao thông đang diễn ra sôi nổi trong tỉnh.

Để cuộc chiến đấu của quân và dân Bình - Trị - Thiên kịp thời phối hợp với chiến dịch Điện Biên Phủ, Bộ Tư lệnh Liên khu IV, Bộ Tổng tư lệnh đã quan tâm chỉ đạo, hướng dẫn hoạt động quân sự trên toàn liên khu. Ngày 15-3-1954, Bộ Tư lệnh Liên khu IV đã chỉ thị cho ba tỉnh đánh mạnh đường giao thông, tích cực chống càn quét, bắt lính. Tiếp đó, ngày 22-3-1954, Bộ Tổng tư lệnh gửi điện tới Bộ Tư lệnh Liên khu IV chỉ rõ những nhiệm vụ đối với Bình - Trị - Thiên là phải làm từ cơ sở thông suốt tư tưởng, phương châm, phải nhận rõ những hạn chế là phong trào chính trị ở vùng tạm bị chiếm (xã) còn yếu; phải nắm chắc và thấu triệt phương châm đẩy mạnh du kích chiến là phải tích cực chống càn quét, tiêu diệt sinh lực địch, phục vụ cho việc xây dựng cơ sở, củng cố căn cứ du kích và khu du kích; hết sức chú trọng và phát triển cơ sở du kích, củng cố bộ đội địa phương huyện và tăng cường hoạt động giúp cho du kích xã phát triển; hoạt động vũ trang phải chú trọng kết hợp chặt chẽ với đấu tranh chính trị, kinh tế, ngụy vận, chống bắt lính… để củng cố xây dựng lực lượng đảm bảo liên tục tác chiến.

Được sự chỉ đạo, hướng dẫn của Bộ Tư lệnh liên khu, của các cấp ủy đảng chính quyền, phong trào chiến tranh du kích ở Bình - Trị - Thiên càng tiến triển mạnh mẽ, tiêu hao nhiều sinh lực địch, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của chúng. Riêng ở Thừa Thiên, trong nửa cuối tháng 3-1954, theo lối đánh đặc công, lực lượng vũ trang địa phương đã tiêu diệt sáu vị trí và 12 lô cốt địch.

Cuối tháng 3 đầu tháng 4-1954, hưởng ứng “tuần lễ đánh mạnh” phối hợp với đợt hai chiến dịch Điện Biên Phủ do Liên khu ủy, Bộ Tư lệnh liên khu phát động, lực lượng vũ trang Quảng Bình, Thừa Thiên tổ chức nhiều trận tập kích vào các vị trí địch ở An Xá, Võ Xá, An Hòa (30-3), Kim Long (31-3)… khiến quân địch khốn đốn ngay trong vùng hậu phương của chúng. Đặc biệt trận đánh của lực lượng vũ trang Quảng Bình ở Võ Xá diệt hai trung đội địch, trận tập kích của bộ đội địa phương Thừa Thiên vào vị trí An Hòa tiêu diệt 200 tên làm chấn động dư luận thành phố Huế.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 24 Tháng Hai, 2016, 07:33:57 pm
Đầu tháng 4-1954, địch lại rút thêm sáu tiểu đoàn quân ứng chiến và chiếm đóng Bình - Trị - Thiên đi tiếp viện cho chiến trường khác. Để bù đắp vào lỗ hổng lớn về quân số, chúng tăng cường bắt lính, xây dựng thêm hai tiểu đoàn ngụy quân, ba đại đội pháo. Nếu như ba tháng đầu năm 1954, địch bắt được 2.538 người vào lính thì từ tháng 3 đến tháng 6-1954, chúng bắt thêm được 5.130 người, trong đó có tới 519 phụ nữ và 100 thiếu niên. Ngoài ra, chúng còn điều thêm một tiểu đoàn Tabo đến chiến trường Bình - Trị - Thiên. Do đó, lực lượng địch ở Bình - Trị - Thiên vẫn còn tới 20 tiểu đoàn vừa giữ thế bình định vừa đối phó với ta trên mặt trận giao thông và để càn quét, cướp phá mùa màng, tiến công vào căn cứ du kích. Mặc dù rất cố gắng, địch vẫn không sao giải quyết được mâu thuẫn giữa phân tán và tập trung quân đang diễn ra gay gắt. Càng bắt lính, khả năng tác chiến của địch càng giảm sút, chúng càng vấp phải sự đấu tranh quyết liệt của nhân dân.

Trong thế quân địch lúng túng và bị động, ngày 16-4-1954,Thường vụ Liên khu ủy đã họp với các tỉnh ủy nhận định tình hình, đẩy mạnh các công tác phối hợp với dợt hai chiến dịch Điện Biên Phủ làm hậu thuẫn cho đấu tranh chính trị, phục vụ xây dựng cơ sở lâu dài. Hội nghị quyết định:

“- Đẩy mạnh mọi mặt công tác, chủ yếu là công tác quân sự, phát triển hình thức tập kích kết hợp với ngụy vận, cố tranh thủ hoạt động sâu vào vùng tạm bị chiếm, tích cực chống càn và tăng cường lãnh đạo chống càn nhỏ để phá kế hoạch bắt lính, cướp của của địch. Đẩy mạnh công tác ngụy vận, ra sức chống bắt lính nhằm phục vụ cho kế hoạch quân sự và công tác vận động chính trị, đồng thời bảo đảm xây dựng cơ sở lâu dài.

- Đẩy mạnh công tác vùng tạm bị chiếm, đặc biệt là các đô thị tạm bị chiếm, chủ yếu là tuyên truyền tranh thủ rộng rãi nhân dân vùng tạm bị chiếm tiến lên làm cho đông đảo quần chúng đồng tình với lập trường kháng chiến và ngoại giao của ta để đứng về phe kháng chiến, tin tưởng và ủng hộ Hồ Chủ tịch và Chính phủ ta, ủng hộ lập trường của ta trong Hội nghị Giơnevơ, đấu tranh đòi độc lập thống nhất và hòa bình thực sự, trên cơ sở đó xây dựng và phát triển cơ sở lâu dài.

- Đẩy mạnh xây dựng và phát triển cơ sở, phát triển cơ sở vùng tạm bị chiếm, khôi phục cơ sở ta ở vùng căn cứ bị địch đánh loang ra trong năm 1953, củng cố và phát triển cơ sở vùng du kích và căn cứ du kích, xây dựng cơ sở vùng mới giải phóng để tích cực củng cố vùng căn cứ, mở rộng khu du kích, đẩy mạnh công tác vùng tạm bị chiếm”(1).

Để thực hiện các công tác trên, Thường vụ Liên khu ủy IV yêu cầu các tỉnh ủy ở Bình - Trị - Thiên phải nhận rõ thuận lợi và yêu cầu cấp bách của tình hình mới để phát huy cao độ tinh thần kiên trung tích cực của cán bộ, quán triệt tư tưởng trường kỳ, gian khổ và sự ác liệt của cuộc chiến đấu sắp tới, phải theo dõi sát sao diễn biến của tình hình chung và tình hình địa phương để chỉ đạo kịp thời, tranh thủ được thời cơ, lãnh đạo phải đi sâu, phải có kế hoạch cụ thể cho từng mặt công tác.

Phổ biến nghị quyết tiếp tục thấu triệt phương châm “đánh chắc, tiến chắc” để giành toàn thắng cho chiến dịch Điện Biên Phủ của Bộ Chính trị (19-4-1954), điện số 114 của Ban Chấp hành Trung ương gửi Bình - Trị - Thiên, Thường vụ Liên khu ủy chỉ rõ: Quảng Bình, Thừa Thiên trong hoạt động đã có tiến bộ, song “Quảng Bình hoạt động chưa liên tục”, cần đẩy mạnh hoạt động du kích và bộ đội địa phương lên mạnh, đều, liên tục hơn nữa; Thừa Thiên cần chú ý việc phá hoại các kho đạn được, xăng dầu của địch, chú ý không ảnh hưởng đến cơ sở; Tỉnh ủy Quảng Trị cần chỉ đạo du kích bao vây các vị trí cô lập của địch, buộc địch phải tiếp tế bằng máy bay để phân tán lực lượng không quân của địch.

Những chỉ đạo, hướng dẫn đã mở ra và thúc đẩy cao trào đấu tranh mới ở Bình - Trị - Thiên. Đầu tháng 4-1954, Đại đội 9 bộ đội đặc công Liên khu IV vào hoạt động ở Quảng Bình. Với chiến thuật “đánh điểm nhỏ” và phương châm “đánh chắc thắng”, đơn vị đã liên tiếp tiêu diệt bốn lô cốt và một số vị trí của địch. Những trận đánh mở đầu thắng lợi của bộ đội đặc công đã góp phần tạo đà cho sự phát triển của hình thức tập kích địch của lực lượng vũ trang Bình - Trị - Thiên.

Bằng chiến thuật tập kích, bộ đội Quảng Bình tiếp tục tiêu diệt nhiều vị trí quan trọng của địch như Bình Phúc, Mỹ Phước (6-4), An Lạc, Thượng Phong, Thanh Xá Thượng, mở rộng khu du kích ở phía nam tỉnh. Ở Quảng Trị, giữa tháng 4-1954, Đại đội 8 của tiểu đoàn bộ đội địa phương tỉnh phối hợp với lực lượng vũ trang Hướng Hóa vây ép vị trí Xuồi Muồi, buộc một đại đội địch ở đây phải ra hàng, nộp cho ta 106 súng. Ở đồng bằng, bộ đội đã luồn sâu tiêu diệt bảy vị trí, một lô cốt địch, bức địch rút khỏi vị trí Kim Giao (16-4), mở rộng khu du kích ở Triệu - Hải. Trung đội bộ đội huyện Hải Lăng đã cùng với dân quân xã Hải Bình chống càn thắng lợi, diệt 52 tên, giải thoát cho 200 thanh niên vừa bị địch bắt lính. Lực lượng du kích Vĩnh Linh còn phối hợp với lực lượng công an tiêu diệt 13 tên tề điệp gian ác ở các xã. Quân và dân huyện Gio Linh đẩy mạnh phong trào chiến tranh du kích, tiêu hao địch, làm thất bại âm mưu bình định của địch ở vùng Cửa Việt, Cửa Tùng.

Tại Thừa Thiên, bộ đội tiếp tục vào vùng địch hậu tiêu diệt một số đồn bốt và lô cốt của địch. Đặc biệt vào ngày 28-4-1954, bộ đội Thừa Thiên đã luồn sâu tập kích các đồn, lô cốt dọc tuyến sông Bồ từ Ưu Điềm đến Vân Trình nằm trong hệ thống chiếm đóng của địch ở ba xã Quảng Ninh, Quảng Hà, Quảng Đại (huyện Quảng Điền). Trận tập kích thắng lợi đã có tác dụng lớn đến xây dựng và phát triển khu du kích Ninh - Hòa, khôi phục căn cứ nhỏ Phong - Quang.

Cùng với sự tiến bộ của bộ đội tập trung, lực lượng dân quân, du kích cũng thu được nhiều kết quả trong độc lập chống càn, phát triển các hình thức chiến đấu, từ đặt địa lôi, bom mìn, cam bẫy… đến tập kích, bao vây, bức rút các vị trí địch. Nổi lên trong phong trào dân quân, du kích Bình - Trị - Thiên thời gian này là du kích Hương Thủy, Hài Thái, Lương Mai (Thừa Thiên), Vĩnh Hoàng, Diêu Sanh (Quảng Trị), Nhã Phương (Quảng Bình)…

Trên mặt trận đánh giao thông địch, quân và dân Bình - Trị - Thiên tiếp tục phục kích trên đường xe lửa và đường số 1, lật nhào đoàn tàu thứ 21 của địch, 76 xe vận tải, phá 10 cầu như cầu Đông Hà (Quảng Trị) cầu Nước Ngọt (Thừa Thiên), tiêu diệt ba đại đội địch.


(1) Báo cáo số 83 BC/LK4 về tình hình Trung Lào, Bình Trị Thiên và Thanh Hóa phục vụ tiền tuyến, Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 24 Tháng Hai, 2016, 07:35:27 pm
Những cuộc tiến công của lực lượng vũ trang ta đã đánh mạnh vào tinh thần binh lính ngụy. Công tác ngụy vận đã lôi kéo đông đảo quần chúng tham gia càng làm sa sút ý chí ngụy quân, thúc đẩy một bộ phận binh lính phản chiến. Ngay ở thành phố Huế, lực lượng cách mạng đã rải ba vạn truyền đơn, viết 4.0000 khẩu hiệu, thành lập được 80 tổ gọi loa tuyên truyền, gửi 616 thư tay cho sĩ quan và binh lính ngụy kêu gọi họ sang hàng ngũ kháng chiến. Đặc biệt, trong tháng 1-1954, ta đã động viên được 421 gia đình ở Huế gọi chồng, con bỏ hàng ngũ địch trở về với gia đình. Trong tháng 4-1954, cán bộ binh vận ở Quảng Trị đã về các xã Húc Thượng, Húc Hạ vận động hương vệ nộp cho kháng chiến hàng trăm súng. Công tác ngụy vận của quân và dân Bình - Trị - Thiên đã góp phần làm dấy lên phong trào bỏ ngũ, phản chiến, làm binh biến trong hàng ngũ ngụy quân. Cuối năm 1953, đầu năm 1954, 560 ngụy binh ở Thừa Thiên, 230 ngụy binh ở Quảng Trị, 80 ngụy binh ở Quảng Bình rời bỏ hàng ngũ địch. Nhiều nơi binh lính địch chống lại lệnh điều động đi chiến trường khác, tiêu biểu là Tiểu đoàn 8 ngụy chống lệnh đi Lào, 120 lính ngụy ở Thanh Khê không chịu đi Bắc Bộ. Tiểu đoàn khinh quân phụ bổ 606 (bataillons légers supplétifs - viết tắt là BLS) không chịu ra trận… Ngày 15-2-1954, 150 lính ngụy ở Đại Lộc (Phú Lộc, Thừa Thiên) làm binh biến diệt đồn, mang 180 súng về với kháng chiến. Từ tháng 10-1953 đến tháng 2-1954, ở Bình - Trị - Thiên đã có 25 binh lính, sĩ quan ngụy phản chiến, sáu vụ binh lính ngụy làm nội ứng cho du kích diệt đồn, 11 vụ binh biến mang về cho du kích 300 khẩu súng, 18 bánh đạn. Trong ba tháng đầu năm 1954, có 1.840 ngụy binh giải ngũ và bỏ ngũ.

Cùng với vận động ngụy binh, phong trào chống bắt lính cũng diễn ra quyết liệt trong vòng địch tạm chiếm. Ngày 23-12-1953, nhân dân xã Thế Lộc (Quảng Điền) đấu tranh buộc địch phải thả 713 người trong tổng số 819 người chúng bắt đi lính. Tháng 12-1953, trước sức đấu tranh của nhân dân Vĩnh Linh địch chỉ giữ được 141 người trong số 599 người bị chúng bắt đi lính. Đầu năm 1954, 2.100 thanh niên Thừa Thiên Huế đã đấu tranh buộc địch phải thả 500 thanh niên bị chúng bắt đi lính.

Bên cạnh chống bắt lính, các cuộc đấu tranh chống dồn làng cũng diễn ra rất sôi nổi. Nổi bật nhất là cuộc đấu tranh của nhân dân thôn Viễn Trình (Thừa Thiên). Mặc dù bị địch khủng bố làm 10 người chết, 18 người bị thương, hầu hết bị đánh đập, nhân dân trong thôn vẫn kiên quyết đấu tranh buộc địch phải thay đổi nơi tập trung và cuối cùng phải cho trở về làng cũ.

Để hỗ trợ hơn nữa cho cuộc tiến công đông xuân 1953-1954, ngày 9-1954, Trung ương Đảng ra chỉ thị về công tác chống bắt lính, coi đó là một nhiệm vụ quan trọng bên cạnh nhiệm vụ tác chiến. Triển khai chỉ thị này, ngày 18-3-1954, Liên khu ủy IV ra chỉ thị đẩy mạnh công tác vận động binh lính địch và phong trào đấu tranh chống bắt lính, phá kế hoạch xây dựng ngụy quân của địch. Chỉ thị yêu cầu các cấp, ngành, đoàn thể phải đẩy mạnh công tác địch, ngụy vận, nhất là ngụy vận, ra sức tuyên truyền chiến thắng của ta trong hàng ngũ địch và các gia đình thân thuộc của ngụy binh, tuyên truyền cho binh lính địch thấy rõ chính sách khoan hồng của Chính phủ ta và âm mưu thâm độc, lừa bịp của giặc, giữ vững chính sách tù, hàng binh của đảng và chính phủ, kết hợp chặt chẽ việc giáo dục hàng binh với vận động binh lính địch và phát triển phong trào chống bắt lính, tích cực tổ chức và lãnh đạo nhân dân, nhất là thanh niên, phụ nữ chống giặc bắt lính, thực hiện khẩu hiệu: “Thà chết không đi lính cho giặc, thà chết không để chồng, cha, con, em đi lính cho giặc”(1). Tiếp đó, vào ngày 8-4-1954, trong chỉ thị về tuyên truyền chiến thắng ở Điện Biên Phủ, Liên khu ủy chỉ rõ: “đối với Bình - Trị - Thiên, lấy việc tuyên truyền chiến thắng để đẩy mạnh công tác địch vận và phong trào chống bắt lính”(2).

Dưới sự chỉ đạo của Liên khu ủy, công tác chống bắt lính trong vùng tạm chiếm tiến lên một bước mới. Không có cuộc bắt lính nào địch không gặp phải sự chống cự, phản đối quyết liệt của nhân dân. Nhiều cuộc đấu tranh chống bắt lính đã lôi kéo cả gia đình ngụy binh và binh lính địch tham gia vào cuộc đấu tranh ở Phú Thiên, nam Thừa Thiên, cuộc đấu tranh của 80 thanh niên ở Vân Đô (Đông Hà), cuộc đấu tranh của nhân dân xã Tây Trạch (Bố Trạch) buộc địch phải thả 280 thanh niên bị chúng bắt (5-1954). Trước khi chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc, tại Bình - Trị - Thiên, ngụy binh tan rã từng mảng lớn. Ở đồn Quán Hầu (Quảng Ninh) có 120 ngụy binh thì 70 người đòi giải ngũ; 30 sĩ quan và binh lính ngụy ở Diên Sanh đấu tranh đòi giải ngũ buộc địch phải chấp nhận; 20 ngụy binh ở An Môn (Quảng Trị)làm binh biến. Ở Thừa Thiên có cả trung đội ngụy bắt liên lạc với lực lượng kháng chiến, cơ sở nhân mối của ta phát triển rộng khắp trong các đồn địch. Công tác địch vận ở Bình - Trị - Thiên đã góp phần làm phá sản kế hoạch xây dựng ngụy quân của Navarre. Từ tháng 2-1954, trên phạm vi toàn quốc, địch chỉ bắt được số lính bằng 10% so với dự kiến, binh lính lại đào ngũ rất nhiều.

Trong khi lực lượng vũ trang đẩy mạnh tiến công địch, nhân dân vùng tự do, vùng du kích ra sức khắc phục khó khăn, tích cực ủng hộ kháng chiến. Cùng với du kích, nhân dân các thôn, làng đã phá hoại hàng nghìn mét đường, ngăn bước tiến của địch. Nhân dân Quảng Trị, Thừa Thiên còn phối hợp với nhân dân Thanh - Nghệ - Tĩnh, nhân dân Liên khu V tiếp tế, chuyển gạo, đạn cho Tiểu đoàn 436 (Trung đoàn 101, Đại đoàn 325) xuống Hạ Lào tiến công địch. Vượt qua sự đánh phá của địch, sự bất lợi của thời tiết, nhân dân khắp nơi đã đoàn kết giúp dỡ nhau tăng gia sản xuất, tiết kiện, chặn đứng nạn đói. Trong vụ đông xuân 1953-1954, tỉnh Quảng Trị đã gieo trồng 23.000 mẫu lúa, 9596 mẫu màu, thu được 2.393 tấn thóc, hơn 3.000 tấn ngô, khoai, sắn kịp thời cung cấp lương thực cho nhu cầu trong tỉnh, giúp nhân dân Thừa Thiên khắc phục nạn đói lúc giáp hạt. Trong vụ chiếm 1954, tỉnh Quảng Bình đã tạm cấp 3.500 mẫu ruộng đất của Pháp và Việt gian, 1.000 mẫu vắng chủ cho nông dân cày cấy. Cũng trong vụ này, nông dân Quảng Bình đấu tranh đấu tranh với địa chủ đòi giảm tô, giảm tức, thu lại được 380 tấn thóc, 4.120 thúc khoai sắn, hơn hai triệu đồng tiền ngân hàng. Tính đến đầu tháng 7-1954, Quảng Bình đã góp được 2.650 tấn thóc thuế, Thừa Thiên nộp được 500 tấn. Những kết quả nói trên đã thể hiện rõ nét tinh thần vượt khó, quyết tâm kháng chiến thắng lợi của nhân dân ba tỉnh.


(1) Chỉ thị số 01/CT-LK4 của Liên khu IV (18-3-1954) , tài liệu Cục lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.
(2) Chỉ thị số 3/CT-LK4 (8-4-1954) của Liên khu ủy IV, tài liệu Cục lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 24 Tháng Hai, 2016, 07:37:39 pm
Ngày 7-5-1954, chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi làm thay đổi cục diện chiến trường, mở ra những thuận lợi vô cùng to lớn cho cuộc kháng chiến của nhân dân ta, đẩy quân đội Pháp vào thế thất bại hoàn toàn. Chiến thắng vĩ đại đó đã tác động sâu sắc đến chiến trường Bình - Trị - Thiên.

Nhằm đối phó với các đòn tiến công của ta, giữ nguyên hiện trạng, củng cố tinh thần binh lính đang hoang mang, đầu tháng 6-1954, địch điều hai binh đoàn số 10 và số 21 cùng hai tiểu đoàn pháo đến Bình - Trị - Thiên vừa để chấn chỉnh vừa thực hiện các cuộc càn quét. Lực lượng địch ở ba tỉnh có tới 17 tiểu đoàn cơ động. Lực lượng cơ động địch được điều chuyển liên tiếp, từ Huế ra Đông Hà, Quảng Bình rồi từ Quảng Bình vào Đông Hà, vào Huế. Đén ngày 5-7-1954, đại bộ phận quân địch rút vào Nam, chỉ còn Tiểu đoàn 27 bộ binh ngụy đóng tại Huế.

Với lực lượng cơ động được tăng cường, địch mở nhiều cuộc càn quét lớn, chớp nhoáng vào vùng tự do, vùng du kích ở Bình - Trị - Thiên. Từ ngày 6-t đến ngày 10-7-1954, địch tổ chức năm cuộc càn quét với lực lượng từ hai đến bốn tiểu đoàn vào vùng Bắc Quảng Trị (từ ngày 6 đến 10-6), Triệu Phong (15-6), Hải Lăng (26-6), Phong Quang (26-6 và 16-7). Khác với các cuộc hành quân của lực lượng lưu động chỉ nặng về phô trương thanh thế, lực lượng chiếm đóng của địch tổ chức nhiều cuộc biệt kích, phục kích, càn quét nhỏ ở vùng tạm bị chiếm, vùng du kích mới hình thành, nhất là vùng Đông Hà - Cửa Việt, dọc quốc lộ và đường sắt, vùng đồng bằng nam Thừa Thiên hòng củng cố hệ thống chiếm đóng, bảo vệ đường giao thông kết hợp với bắt lính. Để đối phó với các cuộc tập kích của lực lượng vũ trang Bình - Trị - Thiên, chúng rút bỏ một số đồn, bốt lẻ như Mai Xá (Quảng Trị), Thanh Hương, thôn II Hưng Hải (Thừa Thiên)…, đồng thời tăng cường công sự ở nhiều vị trí để tránh bị tiêu diệt. Cùng với các hoạt động quân sự, chúng tung luận điệu xuyên tạc chủ trương chính sách của Chính phủ ta. Chúng bắt nhân dân mít tinh, biểu tình ủng hộ Ngô Đình Diệm; tuyên truyền trong các nhà thờ, trong nhân dân rằng Ngô Đình Diệm là “chiến sĩ cách mạng”(!), “là người lập lại hòa bình” (!).

Tuy nhiên, trước chiến thắng của ta, tinh thần binh lính địch rất hoang mang. Cuối tháng 6 đầu tháng 7-1954, Tiểu đoàn 30 BVN bộ binh ngụy(1) khi di chuyển vào Nam đã có 150 người chạy sang hàng ngũ kháng chiến, 12 sĩ quan của Tiểu đoàn 611 BLS khinh quân phụ bổ ngụy(2) ở nam Thừa Thiên đã bỏ hàng ngũ địch về với kháng chiến; ngụy binh ở đồn Quý Lai không phản ứng gì khi ta thực hiện vũ trang tuyên truyền; một đại đội địch ở Quán Hầu ra hàng lực lượng kháng chiến; 18 tên tề ngụy ở Triệu Phong bắt liên lạc với ta xin đầu hàng. Từ ngày Hiệp định Giơnevơ được ký kết (21-7-1954) đến ngày ngừng bắn (1-8-1954) hàng ngũ ngụy binh tan rã mạnh. Ở Quảng Bình, hơn 1.600 binh lính địch bỏ về nhà, Tiểu đoàn 23 ngụy binh rã ngũ gần hết. Ở Thừa Thiên, Quảng Trị có gần 2.000 ngụy binh đào ngũ, làm binh biến mang vũ khí về với kháng chiến; đặc biệt, Tiểu đoàn 27 ngụy binh địch đào ngũ chỉ còn lại 52 tên, hàng ngũ ngụy quân, ngụy quyền rệu rã, nhất là sau khi có lệnh ngừng bắn, mọi hoạt động của chúng hầu như bị tê liệt.

Thắng lợi trên chiến trường Điện Biên Phủ và cả nước càng thúc đẩy quân va dân Bình - Trị - Thiên đẩy mạnh tiến công địch trên tất cả các mặt trận quân sự và đấu tranh chính trị.

Ngày 31-5 và ngày 6-6-1-954, du kích các huyện Cam Lộ, Gio Linh, Vĩnh Linh đã đánh trả hai cuộc càn của địch, diệt 350 tên địch, buộc chúng phải rút lui. Ngày 16 và 19-6, bộ đội địa phương và dân quân hai huyện Triệu Phong và Hải Lăng đã kết hợp tác chiến với tuyên truyền địch vận, liên tiếp bẻ gẫy các đợt tiến công của nhiều tiểu đoàn địch, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 300 tên, buộc địch phải tháo chạy. Cùng với quân, dân Quảng Trị, từ 15-6 đến 15-7-1954, quân, dân Thừa Thiên tiêu diệt ba đoàn tàu địch. Bộ đội địa phương còn luồn sâu vào vùng địch tạm chiếm tiêu diệt một trung đội biệt kích địch ở Cầu Hai (2-6), diệt một trung đội địch ở Quán Ngang (ngày 3-7). Ngày 9-7-1954, du kích hai xã Phong Chương và Phong Dinh bám đánh quyết liệt ba tiểu đoàn địch, bẻ gẫy trận càn của chúng, diệt gần 100 tên. Từ ngày 21 đến ngày 31-7-1954, lợi dụng thời điểm chưa thi hành lệnh ngừng bắn, quân địch tổ chức ba trận càn vào Bích La, Triệu Phong, Vĩnh Lộc, song cả ba trận đều bị bộ đội và du kích ta chặn đánh, gây cho chúng nhiều thiệt hại, buộc phải rút lui. Phát huy thắng lợi, ngày 27-7-1954, Tiểu đoàn 229 Quảng Bình tập kích vị trí Thượng Phong, tiêu diệt gọn một đại đội địch. Trước ngày ngừng bắn, bộ đội địa phương và du kích Quảng Trị, Thừa Thiên đã đánh đổ sáu đoàn tàu địch.

Tuy nhiên, hoạt động quân sự của Bình - Trị - Thiên thời kỳ này cũng bộc lộ một số thiếu sót, bộ đội du kích bị thương vong nhiều. Ngày 26-6-1954, trong trận tập kích vào Trường Bia (Thừa Thiên), do bị lộ nên lực lượng ta thương vong tới 30 cán bộ, chiến sĩ; trong trận chống càn ở Phong Quang, ta bị thương 10 bộ đội địa phương, 10 du kích, bốn cán bộ trung đội, đại đội của huyện đội và xã đội. Ở Quảng Trị, trận tập kích vào Phú Tài (27-6) thương vong năm đồng chí, trong đó có một đại đội phó; trận tập kích Ba Bến (20-6) bị nhân mối làm phản lực lượng ta bị thương vong chín đồng chí; trong đó có một đại đội trưởng, một đại đội phó, một trung đội phó. Có những hạn chế trên đay là do cán bộ nhiều nơi hoặc không thấy tình hình chuyển biến để đẩy mạnh hoạt động, hoặc bị chi phối bởi tư tưởng ham ăn to, đánh lớn, chủ quan khinh địch. Ngoài ra, về chỉ đạo chiến thuật còn thiếu sự nhất trí giữa Bộ Tư lệnh và các địa phương làm cho cấp dưới lúng túng(3).


(1) BVN viết tắt từ tiếng Pháp - Bataillon du Vietnam: tiểu đoàn bộ binh Việt Nam.
(2) BLS viết tắt từ tiếng Pháp - Bataillon leger Supplétifs: tiểu đoàn khinh quân phụ bổ.
(3) Báo cáo tháng 7-1954 của Liên khu ủy IV số 45 BC/LK4 (ngày 26-7-1954) , tài liệu Cục lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 24 Tháng Hai, 2016, 07:38:55 pm
Thực hiện Chỉ thị của Trung ương Đảng về “Đẩy mạnh công tác vùng tạm bị chiếm”, “phát động phong trào đấu tranh chính trị rộng rãi làm hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh ngoại giao của ta”, phong trào đấu tranh chính trị kết hợp với phong trào đấu tranh chống thuế, cướp mùa, chống khủng bố, dồn dân… diễn ra khắp nơi ở Bình - Trị - Thiên. Các cuộc đấu tranh chống âm mưu lừa bịp của địch trước vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương, đòi Pháp đình chiến… từ các hình thức như lẩn tránh, không chịu hô khẩu hiệu, không chịu lập kiến nghị ủng hộ bù nhìn, kiến nghị đòi Pháp đình chiến, ủng hộ lập trường của phái đoàn Việt Nam dân chủ cộng hòa tại Giơnevơ… diễn ra ở các vùng đô thị và nông thôn tạm bị chiếm.

Tại Thừa Thiên, dưới sự lãnh đạo của tỉnh ủy, phong trào đấu tranh chống bắt lính, đòi chồng con trở về, đòi quyền lợi hằng ngày kết hợp với đòi hòa bình phát triển mạnh mẽ ở vùng tạm bị chiếm miền Bắc, vùng ven ngoại ô thành phố Huế. Ngày 6-6-1954, gần 1.000 nông dân xã Phong Chương (huyện Phong Điền) kéo lên huyện đường biểu tình đòi quyền lợi về ruộng đất, đòi giảm sưu thuế, rồi chuyển sang đòi đình chiến, chấm dứt chiến tranh. Ngày 17-6-1954, tại thành phố Huế, hơn 4.000 người đã tổ chức míttinh, giương cao khẩu hiệu “Hoan nghênh Hội nghị Giơnevơ giải quyết vấn đề hòa bình ở Đông Dương”, lập kiến nghị tố cáo âm mưu tàn bạo của địch, đòi Chính phủ Pháp thương lượng với Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa. Cuộc míttinh chuyển thành cuộc biểu tình tuần hành thu hút gần hai vạn người, cả cảnh sát, ngụy binh và lính Âu - Phi tham gia. Thắng lợi của cuộc míttinh, biểu tình tuần hành đã mở ra cao trào đấu tranh chính trị rộng lớn ở Bình - Trị - Thiên. Tiếp đó, vào ngày 20-6-1954, địch chủ trương dùng lực lượng giáo viên và học sinh trường Khải Định kết hợp với Nha Giáo dục thành phố Huế tổ chức cuộc biểu tình lớn ủng hộ Ngô Đình Diệm. Thành ủy Huế đã kịp thời lãnh đạo giáo viên, học sinh trường Khải Định biến cuộc biểu tình thành cuộc tuần hành “ủng hộ Chính phủ Hồ Chủ tịch”, đòi Chính phủ Pháp phải chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam.

Tại Quảng Bình, sau cuộc đấu tranh của 231 gia đình ngụy binh ở Hoan Lao, đến đầu tháng 7-1954, toàn tỉnh có bốn cuộc đấu tranh đòi chồng, con kết hợp với đoài hòa bình diễn ra ở thị xã Đồng Hới và ba huyện lỵ Bố Trạch, Quảng Ninh, Lệ Thủy.

Ở Quảng Trị, nhân dân nhiều nơi hăng hái đấu tranh chống bắt lính, chống cướp bóc, khủng bố; nhân dân Triệu Quang treo băng cờ, khẩu hiệu đòi hòa bình, nhân dân thị xã rải truyền đơn đòi chấm dứt chiến tranh.

Tuy nhiên, phong trào đấu tranh chính trị thời gian này cũng còn một số hạn chế. Phần lớn các cuộc đấu tranh còn mang tính tự phát, nhiều nơi xuất hiện tư tưởng phiêu lưu, mạo hiểm… gây tổn thất. Vào ngày 25-6, do vừa đấu tranh chính trị lại vừa chuẩn bị diệt đồn, đấu tranh lại nặng về chửi bới bù nhìn nên nhân dân Phong Điền bị địch khủng bố làm chết 34 người. Do tư tưởng nóng vội, Tỉnh ủy Quảng Bình dự định phát động phong trào gia đình ngụy binh đòi chồng, con kết hợp đòi hòa bình trên phạm vi toàn tỉnh vào ngày 1-7-1954, chủ trương trên đã không đạt kết quả.

Mặc dù còn có một số hạn chế, phong trào đấu tranh chính trị ở Bình - Trị - Thiên đã có vai trò quan trọng trong đẩy mạnh kháng chiến, hỗ trợ với tiến công quân sự, xây dựng cơ sở lâu dài. Đến cuối tháng 6-1954, cơ sở kháng chiến được gây dựng và phát triển ở những vùng trước đây khó khăn như vùng ngoại ô thành phố Huế, vùng Phú Phong, Phú Gia (nam Thừa Thiên), vùng dọc tuyến Đông Hà - Quảng Trị - Cửa Việt, vùng công giáo toàn tòng Cửa Tùng, vùng Võ Gia Ninh, Sao Nam (Quảng Bình)… Những cơ sở nói trên là những tiền đề quan trọng trong việc đấu tranh mới của nhân dân Bình - Trị - Thiên sau ngày ngừng bắn 1-8-1954. Bằng xương máu của 451 chiến sĩ vừa hy sinh, vừa bị thương, quân và dân Bình - Trị - Thiên đã góp phần xứng đáng vào cuộc tiến công chiến lược đông xuân 1953-1954. Bằng việc kết hợp các loại hình tác chiến, chống càn, phục kích, tập kích, công đồn, kết hợp chặt chẽ giữa bộ đội địa phương với dân quân, du kích, giữa lực lượng tại chỗ với lực lượng chủ lực cơ động tiến công địch trên tất cả các địa bàn rừng núi, trung du, đồng bằng ven đô thị, trên bộ, trên sông, trên cả ba vùng: vùng căn cứ du kích, vùng du kích và vùng tạm bị chiếm, kết hợp đấu tranh chính trị, binh vận với tiến công quân sự, quân và dân Bình - Trị - Thiên đã tiêu diệt, tiêu hao, làm tan rã ngụy binh, kìm chân một lực lượng lớn quân địch, hiệp đồng có hiệu quả với các đòn tiến công chiến lược ở Trung, Hạ Lào, đặc biệt với trận quyết chiến chiến lược ở Điện Biên Phủ. Chỉ tính từ đầu năm 1953 đến ngày ngừng bắn 1-8-1954, lực lượng vũ trang và nhân dân Bình - Trị - Thiên đã tiêu diệt 9.268 tên địch, làm tan rã 11.000 binh lính ngụy, phá hủy 28 đoàn tàu, 102 xe cơ giới vận tải, tiêu diệt, bức rút 86 lô cốt, vị trí, thu 1.576 súng các loại.

Bằng việc kết hợp chặt chẽ giữa tác chiến tiêu diệt sinh lực địch với xây dựng cơ sở, bảo vệ và phát triển các căn cứ du kích, vùng du kích, quân và dân ba tỉnh đã đạt được những kết quả cao trong tăng cường cơ sở kháng chiến, tạo những tiền đề quan trọng cho cuộc đấu tranh sau ngày đình chiến. Đến đầu tháng 7-1954, ở Quảng Bình có chín xã của huyện Tuyên Hóa, tám xã huyện Quảng Trạch là vùng tự do, 91 thôn căn du kích rộng 685 km2, 65 thôn du kích rộng 163 km2; ở Quảng Trị có 189 thôn, xóm căn cứ du kích rộng 1.032 km2, 66 thôn, 20 xóm du kích rộng 286,5 km2; ở Thừa Thiên có 81 thôn căn cứ du kích rộng 230 km2, 104 thôn du kích rộng 210km2.(1)

Thắng lợi to lớn của quân và dân Bình - Trị - Thiên cũng thể hiện sự lớn mạnh của lực lượng vũ trang ba tỉnh. Từ chiến trường ác liệt, nhiều kỹ thuật, chiến thuật mới ra đời như lối đánh đặc công, kết hợp nhấn mối địch vận… đạt hiệu quả cao, gây nên nỗi khiếp sợ cho quân địch, đồng thời đánh dấu sự phát triển về nghệ thuật tác chiến của lực lượng vũ trang liên khu.

Thắng lợi của chiến trường Bình - Trị - Thiên đã chứng minh sự đúng đắn trong lãnh đạo và chỉ đạo cuộc chiến tranh nhân dân của Liên khu ủy, các cấp ủy đảng và bộ Tư lệnh Liên khu IV. Khả năng tổ chức điều hành cuộc đấu tranh cách mạng, kết hợp chặt chẽ giữa ba thứ quân trong lực lượng vũ trang, giữa quân và dân, giữa đấu tranh quân sự với đấu tranh kinh tế, chính trị và binh vận của cơ quan lãnh đạo kháng chiến Liên khu IV là nhân tố quyết định thắng lợi ở Bình - Trị - Thiên trong cuộc tổng giao chiến cuối cùng với quân đội viễn chinh Pháp.


(1) Báo cáo số 42 BC/LK4 của Ban Chấp hành Đảng bộ Liên khu IV (7-7-1954), tài liệu Cục lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Hai, 2016, 07:48:52 pm
III. PHÁT HUY CAO NHẤT SỨC MẠNH HẬU PHƯƠNG,
CHI VIỆN CÁC CHIẾN TRƯỜNG

Trải qua bảy năm kháng chiến, vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh ngày càng thể hiện rõ vai trò to lớn của một căn cứ địa, một hậu phương trọng yếu của chiến tranh nhân dân. Tiềm năng về nhân tài, vật lực của ba tỉnh Bắc Trung Bộ được khơi dậy, nhân lên đồng thời với sự gia tăng đóng góp đáp ứng những nhu cầu thiết yếu của cuộc kháng chiến đang ngày càng vươn lên cả tầm mức lẫn quy mô. Bước vào đông - xuân 1953-1954, cục diện mới của cuộc kháng chiến đặt ra những yêu cầu mới cho hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh. Nhân dân ba tỉnh lại gồng mình dốc toàn lực phục vụ các chiến trường, góp phần xứng đáng vào thắng lợi chung của toàn dân tộc.

Ở thời điểm nhân dân ta triển khai thế trận tiến công chiến lược đông - xuân, địa bàn ba tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh thể hiện rõ nét những thuận lợi và khó khăn của một vùng tự do đã có bảy năm xây dựng và chiến đấu, đang chuyển biến dưới những tác động của những chính sách mới của Đảng và Chính phủ.

Qua quá trình kháng chiến, hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh đã phát triển vững chắc và toàn diện. Trình độ tổ chức của bộ đội, dân quân, du kích ngày càng tiến bộ. Từ tháng 4-1953, các đơn vị bộ đội địa phương đã được tập trung chỉnh quân chính trị, nâng cao được tư tưởng, củng cố được lập trường. Tiếp đó, thực hiện nghị quyết của Tổng Quân ủy Trung ương về xây dựng lực lượng, Thanh - Nghệ - Tĩnh đã xây dựng thêm nhiều đơn vị mới. Trong các xã phát động quần chúng, lực lượng du kích được chỉnh đốn lại, cán bộ chỉ huy được tăng cường.

Nhờ tổ chức tăng gia sản xuất, tổ chức tương trợ, trưng vay của địa chủ, nhiều địa phương ở Thanh - Nghệ - Tĩnh đã vượt qua nạn đói lúc giáp hạt(2). Vụ chiêm 1953, năng suất lúa nhiều nơi tăng từ 15% đến 30% đã làm tăng sản lượng lương thực, giải tỏa được một phần khó khăn về đời sống, gây niềm phấn khởi trong nhân dân.

Thực hiện chủ trương của Đảng, từ tháng 5 đến tháng 10-1953, ba tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh đã tiến hành hai đợt giảm tô(2) ở 76 xã với hơn 50 vạn dân. Nhân dân ba tỉnh đã đấu tranh với 337 địa chủ và cường hào, thu được 3.091 tấn thóc quả thực. Trong đợt hai phát động quần chúng giảm tô, Thanh Hóa đã tịch thu của địa chủ cường hào gian ác hơn 1.680 mẫu chia cho nông dân nghèo. Việc thực hiện triệt để giảm tô đã đem lại một phần quyền lợi thiết thực cho nông dân, gây nên sự hứng khởi trong quần chúng, có sức thúc đẩy mọi người hăng say sản xuất, tin tưởng và phục vụ kháng chiến. Đây chính là động lực tinh thần lớn của quân và dân Thanh - Nghệ - Tĩnh trước khi bước vào cuộc chiến đấu cùng cả nước chống lại những nỗ lực cao nhất của kẻ thù.

Cùng với giảm tô, những địa phương có phát động quần chúng đã tiến hành chia lại xã, củng cố lại nông hội, điều chỉnh lại các ủy ban nhân dân, sắp xếp lại các bộ máy chỉ huy dân quân, du kích và công an. Công tác chỉnh đảng, cơ cấu lại các chi ủy cũng được tiến hành nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo của các cấp cán bộ đáp ứng đòi hỏi của tình hình mới(3). Những biến đổi này đã tạo điều kiện cho việc chỉ đạo và huy động quần chúng của các cấp bộ đảng, các cấp chính quyền được sâu sát hơn.

Tuy nhiên, bước vào đông - xuân 1953-1954, Thanh - Nghệ - Tĩnh cũng gặp phải những khó khăn lớn, cả khách quan và chủ quan.

Triển khai kế hoạch quân sự mới, giặc Pháp càng tăng cường đánh phá hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh. Chúng gia tăng các hoạt động gián điệp, tình báo, gây dựng, móc nối với các cơ sở phản động, lợi dụng tôn giáo, vũ trang cho thổ phỉ, đẩy mạnh tập kích, biệt kích kết hợp với dùng máy bay, tầu thủy bắn phá ác liệt vào ba tỉnh, nhất là các đường giao thông quốc lộ, tỉnh lộ, các công trình thủy lợi, các kho tàng, cơ quan… hòng phá hoại tiềm lực kháng chiến ở Thanh - Nghệ - Tĩnh, triệt phá khả năng cung cấp cho các chiến trường. Trên vùng biên giới Việt - Lào, các hoạt động của địch ngày càng táo tợn. Tháng 8-1953, chúng cho biệt kích gồm cả lính Pháp và ngụy Lào đột nhập vào giáo phận Kim Cương (huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh), Hương Quang (huyện Hương Khê, Hà Tĩnh) bắt nhân dân để moi tin tức. Tháng 10-1953, thực dân Pháp cho 200 tên nhảy dù xuống Mường Pao và 57 tên nhảy dù xuống Hồi Xuân, Phú Lệ (Thanh Hóa) để tiếp viện cho lực lượng phỉ còn sống sót ở đây. Các hoạt động quân sự của địch tập trung ở vùng biển Thanh - Nghệ - Tĩnh. Tháng 9-1953, địch dùng ba đại đội có máy bay, tầu chiến yểm trợ đột kích vào Nhượng Bạn (Hà Tĩnh). Ngày 15-10-1953, quân Pháp mở cuộc hành quân Hải Âu (Mouette) do đích thân tướng Cônhi (Cogny), Tư lệnh lục quân Bắc Bộ chỉ huy đánh vào Thanh Hóa. Cuộc hành quân chia làm hai cánh: một cánh do tướng Gin (Gilles) cầm đầy đánh tây nam Ninh Bình, một cánh do hải quân Pháp tiến hành, còn gọi là cuộc hành quân Con Bồ Nông (Pélican) ở vùng biển Thanh Hóa. Hàng không mẫu hạm Arômăngsơ (Aromanches) cùng nhiều tầu chiến, máy bay địch lảng vảng ngoài khơi. Ngày 16-10-1953, 500 tên địch đổ bộ lên bờ biển Thanh Hóa, một bộ phận biệt kích vào đốt phá Khoa Trường. Ở vùng tạm chiếm Nga Sơn (Thanh Hóa) quân địch tiến hành nhiều đợt củng cố vị trí chiếm đóng. Cũng từ đầu tháng 10-1953, quân Pháp đã tiến hành nhiều hoạt động chiến tranh tâm lý ở Thanh - Nghệ - Tĩnh. Máy bay địch thả giấy thông hành để dụ dỗ nhân dân bỏ kháng chiến trở về vùng tạm bị chiếm.


(1) Thời điểm giáp hạt ở Hà Tĩnh có hơn 30.000 nhân khẩu thiếu ăn; ở Thanh Hóa có 7.362 gia đình với 18.000 nhân khẩu trong 68 xã thiếu đói.
(2) Đợt một từ tháng 5 đến tháng 8-1945; đợt hai từ tháng 8 đến tháng 10-1953.
(3) Trong hai đợt giảm tô, tỉnh Thanh Hóa đã chia 38 xã đã phát động quần chúng thành 91 xã mới. Theo đó số chi ủy cũng tăng từ 401 lên 629.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Hai, 2016, 07:53:05 pm
Sự đánh phá của kẻ thù đã gây ra cho Thanh - Nghệ - Tĩnh nhiều tổn thất về người và của. Từ đầu năm đến tháng 11-1953, ở Thanh - Nghệ - Tĩnh có 311 người bị địch giết hại, 392 người bị địch bắt, 766 nhà, 2166 thuyền bị đốt, ba cầu và đập ngăn cách kênh Mađa bị phá. Hai hệ thống nông giang lớn nhất Thanh - Nghệ - Tĩnh là hệ thống Bái Thượng (Thanh Hóa) và hệ thống Đô Lương (Nghệ An) bị đánh phá, không sử dụng được làm cho 125.000 mẫu ruộng thiếu nước tưới nghiêm trọng. Mặt khác, những động thái quân sự của kẻ thù cũng đặt Thanh - Nghệ - Tĩnh vào tình thế có thể bị tiến công bất cứ lúc nào.

Từ giữa năm 1953, địa bàn Thanh - Nghệ - Tĩnh đã có nhiều trận lụt lớn gây khó khăn cho sản xuất và đời sống nhân dân. Trận lụt ngày 15-6-1953 đã làm ngập 530 mẫu hoa mầu và lúa ở huyện Hưng Nguyên (Nghệ An), làm hỏng 1.125 mẫu ruộng làm muối ở Quỳnh Lưu (Nghệ An). Trận lụt ngày 15-8-1953 đã làm cho Thanh - Nghệ - Tĩnh hỏng 22.737 mẫu lúa, làm đổ 10.583 nhà, làm chết 23 người. Trận lụt ngày 20-9-1953 gây thiệt hại ở nhiều nơi ở hai huyện Hương Khê và Đức Thọ (Hà Tĩnh). Sự đánh phá của kẻ địch, thiên tai lụt lội và thái độ phản ứng của một bộ phận địa chủ đối với các chính sách thuế, chính sách ruộng đất của Đảng và Chính phủ đã làm cho một số lớn ruộng đất bị bỏ hoang. Phương tiện, công cụ sản xuất cũng thiếu nghiêm trọng. Ở Thanh Hóa, có vùng một con trâu phải cầy tới sáu mẫu. Bên cạnh đó, một lượng lao động khỏe mạnh, phần đông là thanh niên mang theo các phương tiện sản xuất đi dân công phục vụ các chiến trường(1) cũng làm giảm lực lượng sản xuất tại địa phương.

Đầu năm 1953, ở Thanh - Nghệ - Tĩnh diễn ra cuộc đấu tranh đem lại một số quyền lợi cho nhân dân, phát hiện và ngăn chặn kịp thời một số tổ chức phản động, song cũng phạm nhiều sai lầm gây nên tình trạng hoang mang trong nhân dân, làm cho quần chúng “nghi ngờ chính sách đúng đắn của Đảng”(2). Trước tình hình nhiều gia đình phải bán trâu, bò, tài sản để đóng thuế nông nghiệp, Hội nghị Thường vụ Liên khu ủy cũng nhận định có thể việc bình diện tích và sản lượng không sát, song các địa phương vẫn tiếp tục đưa diện tích, sản lượng lên cao để bảo đảm mức thuế trên giao. Theo sắc lệnh và điều lệ thuế nông nghiệp thì mức huy động thuế nông nghiệp hằng năm là 18% sản lượng, nhưng thực tế có địa phương huy động là 25%. Có nơi ở Hà Tĩnh, mặc dù mùa màng thấp kém, nhân dân vẫn phải đóng thuế đến 31% sản lượng. Việc thực hiện thuế công, thương cũng có một số lệch lạc không khuyến khích được nhân dân sản xuất. Những sai phạm trên đã làm cho một bộ phận trung nông, phú nông hoang mang sợ sệt, một số địa chủ bỏ sản xuất hoặc tìm cách chạy ra vùng địch(3). Công tác chỉnh đốn tổ chức cũng phạm phải sai lầm “làm cho sinh lực Đảng bị sút kém, nội bộ kém đoàn kết thống nhất”(4). Nhiều nơi có thái độ đối xử và sử dụng không đúng với những đồng chí xuất thân từ thành phẩn tiểu tư sản, trung nông, làm cho họ hoang mang, dao động. Nhiều đồng chí thuộc thành phần địa chủ bị đình chỉ sinh hoạt. Chỉ trong đợt hai phát động quần chúng giảm tô kết hợp với chỉnh đốn tổ chức, số đảng viên trong 38 xã phát động giảm tô ở Thanh Hóa giảm từ 7.406 đồng chí xuống còn 6.463 đồng chí(5), có 11 đảng viên bị đem ra đấu tố(6).

Những khó khăn khách quan và hạn chế sai lầm trong lãnh đạo trên đây có ảnh hưởng nhất định đối với Thanh - Nghệ - Tĩnh khi bước vào thực hiện những nhiệm vụ to lớn trong đông - xuân 1953-1954.

Chấp hành chỉ thị Tích cực phá âm mưu địch đánh ra vùng tự do của Bộ Chính trị, trên cơ sở phân tích những ưu khuyết trong công tác lãnh đạo và tình hình thực tiễn của liên khu, Hội nghị Liên khu ủy mở rộng (ngày 21-11-1953) đã xác định nhiệm vụ của ba tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh trong thời gian tới là:

“- Chấn chỉnh tổ chức lãnh đạo song song với giải quyết thông suốt tư tưởng cho các cấp bộ đảng và cán bộ các ngành, các cấp.

- Bảo đảm trang bị đủ vũ khí cho dân quân, du kích đánh giặc, tối thiểu là vũ khí thô sơ, tự tạo như bom, mìn, lựu đạn, hầm chông.

- Động viên toàn dân tích cực tham gia bảo vệ hậu phương gắn liền với phục vụ tiền tuyến và đẩy mạnh sản xuất”(7).


(1) Riêng chiến dịch Thượng Lào, Thanh Hóa và Nghệ An đã huy động hơn 36 vạn dân công và gần 6.000 xe đạp thồ phục vụ vận chuyển hàng hóa, lương thực cho bộ đội.
(2) Báo cáo số 146 BC/LK4 của Ban Chấp hành Đảng bộ Liên khu IV (27-12-1953).
(3) Ở Quảng Xương (Thanh Hóa) hai địa chủ Ứng Đình Ngọc và Tôn Thất Toại đã bỏ hoang 2.000 mẫu.
(4) Báo cáo số 146 BC/LK4 của Ban Chấp hành Đảng bộ Liên khu IV (27-12-1953).
(5), (6) Thống kê Tình hình chi bộ trước và sau phát động quần chúng ở Thanh Hóa của đoàn công tác quần chúng Trung ương ở Liên khu IV và Liên khu III (12-12-1953), tài liệu Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.
(7) Quân khu IV: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Sđd, tr.334-335.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Hai, 2016, 07:55:06 pm
Tiếp đó, tại Hội nghị lần thứ tư (từ 15 đến 21-12-1953), trong khi xác định nhiệm vụ chung của Liên khu, Liên khu ủy đã đặt nhiệm vụ phục vụ tiền tuyến lên công tác hàng đầu của Thanh - Nghệ - Tĩnh. Căn cứ vào Luật cải cách ruộng đất do Quốc hội thông qua (ngày 4-12-1953), bên cạnh chủ trương tiếp tục giảm tô, Liên khu ủy còn đặt nhiệm vụ cho Thanh - Nghệ - Tĩnh tranh thủ thời gian phát động quần chúng cải cách ruộng đất.

Những nhiệm vụ to lớn kể trên được quán triệt ở Hội nghị cán bộ đảng liên khu (ngày 15-2-1954), hội nghị cán bộ toàn Đảng bộ liên khu (từ ngày 20 đến ngày 27-2-1954)…, được phổ biến xuống các địa phương ba tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh.

Để giải quyết vấn đề cung cấp to lớn cho các đòn tiến công chiến lược trong đông - xuân 1953-1954, Trung ương Đảng vừa chủ trương khai thác hậu cần tại chỗ, vừa huy động nguồn lực từ các vùng tự do, vùng căn cứ địa. Theo quyết định của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Liên khu IV, chủ yếu là ba tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh, đảm trách cung cấp cho hai hướng chiến lược là Trung Lào và Điện Biên Phủ. Trong đó, Hà Tĩnh và một phần Nghệ An cung cấp cho chiến dịch Trung Lào, Thanh Hóa và một phần Nghệ An cung cấp cho chiến dịch Điện Biên Phủ. Đây là vinh dự lớn lao, đồng thời là trách nhiệm nặng nề của quân và dân Thanh - Nghệ - Tĩnh. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ cung cấp cho các chiến dịch Tây Bắc (cuối 1952), Thượng Lào (giữa 1953) nguồn dự trữ của Liên khu IV đã gần như cạn kiệt. Cuối năm 1953 do lụt lớn xảy ra, vụ mùa bị thiệt hại nặng nề; đầu năm 1954, hạn hán kéo dài gây khó khăn cho sản xuất vụ chiêm. Thiên tai cùng với sự đánh phá của kẻ thù đã làm cho đời sống của nhân dân và cán bộ ở ba tỉnh gặp rất nhiều khó khăn, thiếu thốn. Bên cạnh đó, Thanh - Nghệ - Tĩnh còn có trách nhiệm giúp đỡ cho quân và dân Bình - Trị - Thiên và viện trợ cho cách mạng Lào.

Mặc dù gặp nhiều khó khăn, các cấp bộ đảng, quân và dân Liên khu IV quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ Trung ương Đảng giao phó, dốc toàn lực phục vụ các chiến dịch.

Để công việc huy động sức người, sức của được thuận lợi, Hội nghị Ban Thường vụ Liên khu ủy họp từ ngày 29-9 đến 1-10-1953 đã quyết định thành lập Hội đồng cung cấp khu gồm các đồng chí: Cấp, Thái, La, Cưu, Học, Biên(1). Tỉnh Thanh Hóa, địa phương có tiềm lực kinh tế và con người mạnh nhất của liên khu được thành lập Hội đồng cung cấp riêng. Đến hội nghị cán bộ toàn Đảng bộ liên khu IV (từ 20 đến 27-2-1954), trong khi bàn về công tác cung cấp, liên khu đã chủ trương các tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh xây dựng hội đồng cung cấp của từng tỉnh để mỗi địa phương có thể đảm bảo một hướng phục vụ.

Dưới sự chỉ đạo của Liên khu ủy, ba tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh gấp rút chuẩn bị một số lượng lớn lương thực, thực phẩm sẵn sàng ở các trạm tập kết để kịp thời phục vụ khi các chiến dịch diễn ra. Ba tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh còn huy động hàng vạn dân công sửa chữa và mở thêm nhiều tuyến đường giao thông liên tỉnh và nội địa từng tỉnh; tu sửa cầu phà bảo đảm giao thông, tạo điều kiện thuận lợi cho vận chuyển người và hàng hóa. Năm 1953, Thanh Hóa đã sửa chữa hai đường giao thông chiến lược là đường Vạn Mai - Chuối và đường Trai Ngọc - Vĩnh Lộc, với chiều dài tổng cộng 200 km. Cuối năm 1953 đầu năm 1954, tỉnh Nghệ An đã huy động một số lượng lớn dân công mở đường 15A từ Đô lương (Cây Da Bu) qua Sen Sẻ lên Phủ Quỳ, qua Lâm La, đến Bãi Xăng ra tỉnh Thanh Hóa. Lực lượng dân công được tổ chức thành các đơn vị có cán bộ kỹ thuật đi kèm. Vượt qua nhiều khó khăn gian khổ, dân công Nghệ An đã hoàn thành vượt mực kế hoạch. Nhờ sự cố gắng của hai tỉnh Thanh Hóa và Nghệ An, nhiều tuyến giao thông quan trọng như đường ôtô Vạn Mai - Như Xuân - Đô Lương - Nam Đàn; Kim Tân - Vĩnh Lộc… được thông suốt. Tỉnh Hà Tĩnh cũng huy động hàng vạn dân công để làm mới và tu sửa đường số 8, đường số 18, đường số 8, đường số 18, đường số 74, đường qua Truông Mèn, đường Linh Cảm, Tân Ấp… Bên cạnh đường bộ, các tuyến giao thông đường thủy cũng được khơi thông. Các tuyến đường thủy Thanh Hóa - Vinh; Vinh - Chu Lễ; Rác - Kỹ Anh… đã có tác dụng lớn trong thời kỳ này. Nhờ hệ thống đường thủy, bộ được tu sửa, làm mới mà giao thông trong nội hạt ba tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh được bảo đảm; đồng thời còn nối ba tỉnh với Liên khu III, với Bình - Trị - Thiên, với nước bạn Lào, tạo để nhân dân địa phương phát huy cao nhất các khả năng, hoàn thành nhiệm vụ cung ứng cho tiền tuyến.

Cùng với sự phát triển của mạng lưới giao thông, các phương tiện vận tải cũng được tăng cường mạnh mẽ. Đến cuối năm 1953, toàn liên khu có 10 xe ôtô; 488 xe trâu, bò; 320 xe gác, nhiều xe đạp thồ, xe cút kít… chủ yếu là ở Thanh - Nghệ - Tĩnh. Phần lớn các phương tiện trên đây đều thuộc các tổ chức vận tải(2). Mặc dù địch đánh phá mạnh, chính quyền lại chưa có chính sách khuyến khích tư nhân, song các phương tiện vận tải đường thủy cũng có sự phát triển đáng kể. Đến cuối năm 1953, toàn liên khu có 1.415 thuyền, 19 canô với trọng tải là 7.148 tấn được tập hợp trong các tổ chức vận tải; 549 thuyền và hai canô còn hoạt động riêng lẻ. Các phương tiện vận tải thủy có ưu điểm rõ rệt là tiết kiệm được nhân công và chi phí.


(1) Quyết nghị của Hội nghị Ban Thường vụ Liên khu ủy IV (từ 29-9- đến 1-10-1953) về thành lập Hội đồng cung cấp khu, số 87/LK4, tài liệu Cục lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.
(2) Ở thời điểm cuối 1953, ở Thanh Hóa còn 212 xe trâu và ở Nghệ An còn 109 xe bò chưa vào tổ chức vận tải.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Hai, 2016, 07:57:19 pm
Triển khai công tác cung ấp cho chiến dịch Thượng Lào, Liên khu ủy IV quyết định thành lập Ban cung cấp Mặt trận D (mặt trận Trung Lào) do đồng chí Nguyễn Văn Thân, Khu ủy viên phụ trách. Liên khu ủy cũng gấp rút huy động một số lượng lớn dân công nối liền con đường Vạn Mai đi Banaphào dài 550 km, trong đó có 50 km làm mới. Dưới sự chỉ đạo của Liên khu ủy, ba tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng Bình đã huy động 54.075 người với 2.217 xe đạp thồ, chín xe ôtô, 1.429 thuyền cùng nhiều phương tiện vận chuyển khác lên đường phục vụ chiến dịch(1). Một hệ thống các trậm vận tải từ Nghệ An, Hà Tĩnh sang Lào được thiết lập.

Để bảo đảm công tác phục vụ và sinh hoạt, lực lượng dân công tham gia chiến dịch Trung Lào được biên chế như tổ chức quân sự, gồm các tổ ba người, tiểu đội, trung đội, đại đội, tiểu đoàn. Từ trung đội trở lên có các đảng viên hoặc quần chúng tích cực phụ trách. Các tổ chức đảng cũng được thành lập trong các đoàn dân công, do cấp ủy viên các địa phương đứng đầu. Tỉnh ủy Nghệ An còn cử đồng chí đại diện Tỉnh ủy, đại diện Hội đồng cung cấp mặt trận khu trực tiếp chỉ đạo lực lượng dân công hỏa tuyến Nghệ An theo bộ đội chiến đấu. Trong các đoàn dân công tham gia phục vụ chiến dịch Trung Lào còn có các công an viên làm công tác bảo vệ nội bộ. Các phương tiện và điều kiện sinh hoạt và phục vụ của dân công được chuẩn bị chu đáo như gạo ăn, thực phẩm, bao bì, bồ, thúng, quang gánh, bông băng, nhân viên cứu thương, trạm cấp cứu, các trạm ăn nghỉ dọc đường… Được sự quan tâm và tổ chức chỉ đạo chặt chẽ của các cấp ủy đảng, chính quyền, lực lượng dân công Nghệ - Tĩnh đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ cung cấp cho chiến dịch. Với quyết tâm cao, sau sáu tháng phục vụ, lực lượng dân công đã chuyển ra mặt trận 3.409 tấn gạo, 154 tấn muối, 2.102 con trâu, bò, cấp phát 50 tấn vũ khí đạn dược. Báo cáo sáu tháng đầu năm 1954 của Liên khu ủy IV ghi rõ: “Hà Tĩnh lần đầu tiên đóng vai trò chủ chốt của một chiến dịch đã bảo đảm được nhiệm vụ”(2).

Tiêu biểu cho sự đóng góp và vai trò quan trọng của dân công Nghệ - Tĩnh là sự hoạt động của 2.000 thanh niên xung phong đi theo các mũi hành quân của Đại đoàn 325. Lực lượng này đã thực hiện hai chức năng, vừa vận chuyển lương thực, thực phẩm, thuốc men, vũ khí cho bộ đội, vừa chuyển thương binh, liệt sĩ về sau, đồng thời còn thu hồi chiến lợi phẩm, thu dọn chiến trường. Cùng với bộ đội, dân công hỏa tuyến phải vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ, nhiều người đã ngã xuống trong khi làm nhiệm vụ. Sau những chiến thắng vang dội ở đợt một, đầu năm 1954, Bộ Tư lệnh mặt trận Trung Lào quyết định mở cuộc tiến công phá vỡ tuyến phòng thủ đường 9 của địch. Để bảo đảm cung cấp cho đợt tiến công mới. Bộ Tư lệnh mặt trận đã sử dụng 1.200 thanh niên xung phong của Nghệ - Tĩnh phối hợp cùng với Tiểu đoàn 804 công binh của Đại đoàn 304 tổ chức thành 21 trạm vận chuyển trên đường 9 để kịp thời vận chuyển lương thực, thực phẩm, vũ khí cho bộ đội tác chiến. Lực lượng thanh niên xung phong Nghệ - Tĩnh đã tích cực tham gia, góp phần làm cho công tác chuẩn bị đảm bảo cung cấp nhanh chóng hoàn thành, tạo điều kiện cho bộ đội tiến công tiêu diệt địch theo kế hoạch.

Bằng công sức và cả xương máu, lực lượng dân công Nghệ - Tĩnh đã góp phần không nhỏ vào thắng lợi của chiến dịch Trung Lào. Trong gian khổ hy sinh, nổi lên nhiều đơn vị dân công tiêu biểu như C3, C6 Đức Thọ, C Mỹ Châu Thạch (Hà Tĩnh)… các cá nhân điển hình như Nguyễn Văn Hân, Nguyễn Văn Hữu, Nguyễn Thị Trúc (Đô Lương, Nghệ An)…

Không chỉ cung cấp cho chiến dịch Trung Lào, nhân dân Nghệ An - Hà Tĩnh còn phối hợp với nhân dân Quảng Trị, Thừa Thiên và nhân dân Liên khu V, tiếp tế, chuyển gạo, đạn cho Tiểu đoàn 436 thuộc Trung đoàn 101 Đại đoàn 325 xuống Hạ Lào tiến công địch. Thấm đẫm mồ hôi, công sức của nhân dân, những hạt gạo từ Nghệ An, Hà Tĩnh được chuyển qua một chặng đường dài tới 1.200 km để đến Atôpơ cung cấp cho bộ đội đánh địch ở Hạ Lào.

Trên hướng Điện Biên Phủ, nhân dân Thanh Hóa và Nghệ An đã huy động cao nhất nguồn lương thực và một số lượng lớn dân công phục vụ chiến trường. Để bảo đảm cung cấp được kịp thời, liên khu đã huy động lực lượng công binh đánh mìn, phá thác, khai thông đường thủy ngược sông Mã, đồng thời sửa chữa đường bộ cho ôtô và xe thồ vận chuyển thông suốt và bí mật.

Nhận lệnh hỏa tốc của Chính phủ, Tỉnh ủy Nghệ An đã nhanh chóng phát lệnh tổng động viên, huy động nhân dân miền bắc tỉnh dốc sức phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ. Đúng ngày mùng một Tết Nguyên đán Giáp Ngọ (tức ngày 3-2-1954) 32.000 dân công, trong đó có 2.000 dân công xe đạp thồ cùng hàng nghìn tân binh, thanh niên xung phong, công nhân kỹ thuật quân giới đã nô nức lên đường ra tiền tuyến. Thực hiện khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến”, “Tất cả để đánh thắng”, mọi ngành, mọi giời đều dồn sức cho Điện Biên Phủ. Có gia đình, cả cha con, dâu rể cùng ra tiền tuyến. Nhiều thiếu niên 15, 16 tuổi cũng hăng hái gia nhập thanh niên xung phong.


(1) Theo Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954) , Sđd, t.2, tr.385.
- Theo Lịch sử Đảng bộ Hà Tĩnh, t. I (1930-1954) Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, trong chiến dịch Trung Lào, tỉnh Hà Tĩnh đã huy động 56.000 người, trong đó 28.000 phục vụ trực tiếp trên đất Lào; 1.299 chiếc thuyền các loại, 294 xe đạp thồ.
- Theo Lịch sử Đảng bộ Nghệ An, t. I (1930-1954) Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, trong chiến dịch Trung Lào, tỉnh Nghệ An đã huy động hơn 20.000 dân công bộ, 1.500 dân công thồ, trong đó 20.000 dân công bộ đã theo đại đoàn 325 phục vụ hỏa tuyến.
(2) Báo cáo số 39 BC/LK4 (21-6-1954) của Ban Chấp hành Đảng bộ Liên khu IV, tài liệu Cục lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Hai, 2016, 07:58:54 pm
Tin tưởng vào khả năng và tinh thần yêu nước, cách mạng của quân và dân Liên khu IV, Trung ương Đảng đã cử đồng chí Nguyễn Chí Thanh và đồng chí Văn Tiến Dũng vào Khu IV để bàn với liên khu việc tiếp tục huy động nhân lực, vật lực phục vụ chiến đấu. Dưới sự động viên của Đảng, nhân dân Liên khu IV đã vượt qua những khó khăn to lớn, làm tròn nhiệm vụ nặng nề. Hội đồng cung cấp đã đề ra kế hoạch phải huy động lượng lương thực còn dự trữ phân tán trong các hộ gia đình trong lúc lượng dự trữ của nông dân đã cạn. Lương thực, thực phẩm và những hàng hóa thiết yếu từ khắp nơi trong tỉnh tập trung về kho Cẩm Thủy và kho Lược (huyện Thọ Xuân) để chuyển ra mặt trận. Liên khu còn huy động thanh niên xung phong xây dựng hệ thống trạm tiền tuyến vận tải tiền phương, sửa chữa cầu đường cho bộ đội và dân công ra tuyến trước. Trong đợt huy động lần thứ nhất, Thanh Hóa đã vượt chỉ tiêu kế hoạch 150%. Do sự gắng sức của nhân dân Thanh Hóa và nhân dân bắc Nghệ An, hơn 8.000 tấn lương thực, 2.000 tấn thực phẩm khô đã tập kết ở Vạn Mai, Mộc Châu, Yên Châu để sẵn sàng phục vụ bộ đội chiến đấu.

Khi chiến dịch Điện Biên Phủ mở màn, anh chị em dân công Thanh Hóa xung phong tình nguyện ở lại phục vụ bộ đội chiến đấu. Trong đợt vận chuyển lần thứ hai, do được hậu phương quan tâm cả về vật chất lẫn tinh thần, được đảng bộ và nhân dân gửi 28.000 thư động viên, đoàn dân công Thanh Hóa đã hoàn thành kế hoạch trước thời gian quy định ba ngày.

Cuộc chiến đấu ở Điện Biên Phủ càng tiến đến thần thắng lợi càng quyết liệt đòi hỏi về cung cấp ngày càng nhiều. Với quyết tâm “Tất cả cho chiến dịch Điện Biên Phủ đại thắng” Trung ương Đảng yêu cầu các địa phương phát huy cao hơn nữa khả năng cung cấp, phục vụ. Ngày 15-4-1954, đồng chí Văn Tiến Dũng thay mặt Tổng quân ủy trung ương và Sở Chỉ huy tiền phương của liên khu ở Cẩm Thủy (Thanh Hóa) giao nhiệm vụ cho Thanh Hóa trong vòng 20 ngày phải huy động thêm 2.000 tấn gạo, 147 tấn thực phẩm và muối để phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ. Tối ngày 16-4-1954, đồng chí Hoàng Anh, Bí thư Liên khu ủy đã ra Thanh Hóa họp với cán bộ và giúp đỡ Tỉnh ủy Thanh Hóa thực hiện nhiệm vụ mới của Trung ương giao cho. Ngày 25-4-1954, Thường vụ Liên khu ủy IV đã họp quán triệt Nghị quyết của Bộ Chính trị về việc phối hợp tác chiến với chiến trường Điện Biên và chỉ rõ Thanh Hóa tập trung phục vụ tiền tuyến hoàn thành nhiệm vụ Trung ương giao về thóc gạo. Để giúp Thanh Hóa thực hiện trọng trách mới, Liên khu ủy IV đã cử cán bộ đi kiểm tra, đôn đốc việc bồi dưỡng dân công hỏa tuyến, giải quyết việc thiếu thuốc men, thiếu y tá, y sĩ chữa bệnh cho dân công, tăng thêm các bệnh xá, trạm thuốc. Liên khu cũng cử một cán bộ trong Ban cán sự kho thóc khu và một số cán bộ ra giúp kho thóc Thanh Hóa tăng cường cho các trạm dọc tuyến cung cấp. Đồng thời, liên khu cũng điều một số xe ôtô phục vụ ở mặt trận Trung Lào ra hoạt động ở Thanh Hóa.

Để đủ số lương thực, thực phẩm Trung ương giao cho, nhân dân Thanh Hóa đã phải ăn ngô non, khoai non, dành gạo cho chiến sĩ ngoài mặt trận. Những tấn lương thực, thực phẩm cuối cùng lại được dân công vận chuyển qua hai chặng: Thanh Hóa - Suối Rút; Suốt Rút - Điện Biên Phủ dài 600 km đến tiền tuyến cung cấp cho chiến sĩ. Trong đợt vận chuyển thứ ba, số lượng dân công Thanh Hóa chiếm tới 80% tổng số dân công trên toàn tuyến cung cấp. Hòa trong dòng thác người, lương thực, thực phẩm đổ về Điện Biên Phủ có 25.000 nữ dân công Thanh Hóa. Trong toàn chiến dịch, Thanh Hóa đã huy động 30% số người ở tuổi lao động, 3.530 xe đạp thồ, 1.126 thuyền, 31 ôtô, 180 xe bò, 42 ngựa, ba voi vận chuyển lương thực và súng đạn để bộ đội ăn no, đánh thắng. Thanh Hóa đã cung cấp cho chiến dịch hơn 11.000 tấn lương thực, thực phẩm (toàn hậu phương là 26.000 tấn)(1). Sự đóng góp to lớn cho chiến dịch Điện Biên Phủ làm cho nguồn lương thực ở Thanh Hóa bị cạn kiệt. Sau khi hòa bình lập lại trên miền Bắc, Trung ương đã có những biện pháp cứu đói và nhanh chóng phục hồi sản xuất ở Thanh Hóa. Trong quá trình phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, nhiều dân công Thanh Hóa đã nổi lên thành những kiện tướng vận chuyển như Ma Văn Kháng đã thồ 352 kg một chuyến xe, Cao Văn Tỵ thồi 320 kg một chuyến xe. Những đóng góp của họ đã hòa với chiến công chung của toàn bộ lực lượng dân công, góp phần làm cho tỉnh Thanh rạng danh trong kháng chiến. Đánh giá về công lao của Thanh Hóa, Chủ tịch Hồ Chí Minh khen ngợi: “Bây giờ tiếng Việt Nam đến đâu, tiếng Điện Biên Phủ đến đó. Tiếng Điện Biên Phủ đến đâu, đồng bào Thanh Hóa cũng có một phần vinh dự đến đó”(2). Chiến công của nhân dân Thanh Hóa cũng là thành tích của Liên khu ủy IV, hòa cùng với chiến công của quân và dân liên khu.

Ngoài nhiệm vụ phục vụ hai đòn tiến công chiến lược Trung Lào và Điện Biên Phủ, Thanh - Nghệ - Tĩnh còn cung cấp cho chiến trường Bình - Trị - Thiên. Hè - thu 1953, nhân dân Hà Tĩnh đã huy động được 2.235 tấn gạo, 29 tấn muối cung cấp cho Bình - Trị - Thiên đánh mạnh trong đông - xuân 1953-1954. Đầu năm 1954, ba tỉnh đã chuyển vào chiến trường Bình - Trị - Thiên 30 tấn lựu đạn, mìn, bộc phá tăng thêm sức chiến đấu cho lực lượng vũ trang ở đây. Do đó, bộ đội, dân quân, du kích Bình - Trị - Thiên vẫn bảo đảm được chiến trường, tác chiến có hiệu quả khi quân chủ lực chuyển sang đánh địch ở Trung Lào.


(1) Theo số liệu sách Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa (sơ thảo) t.I (1930-1954), Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, 1991, thì trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Thanh Hóa đã cung cấp 4.361 tấn gạo, 355 tấn thực phẩm, 2.000 con lợn, 325 trâu bò.
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, xuất bản lần thứ hai, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.8, tr.400.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Hai, 2016, 08:00:26 pm
Cùng với việc dốc sức phục vụ quân đội thực hiện tác chiến trong đông - xuân 1953-1954, nhân dân Thanh Hóa, Nghệ An còn triển khai nhiệm vụ của Trung ương giao phó là giúp đỡ, chi viện cho vùng giải phóng Bắc Lào. Từ sau chiến dịch Thượng Lào đến cuối năm 1953, hai tỉnh Thanh Hóa - Nghệ An đã cung cấp cho bạn 7.000 tấn muối. Sau đó, hai tỉnh tiếp tục cung cấp cho bạn 1.000 tấn lương thực, 15.000 xếp giấy, sáu ngàn dao, rìu, thuổng, 57 tấn muối.

Để giúp Lào phát triển sản xuất trong vùng giải phóng, theo đề nghị của bạn, nhân dân Thanh Hóa đã cung cấp cho bạn 1.000 dan, 3.000 rìu, 5.000 thuổng cùng nhiều hàng hóa thiết yếu khác.

Bên cạnh chi viện các vật dụng cần thiết cho sản xuất và sinh hoạt, trong hai năm 1953-1954, Thanh Hóa đã tổ chức hàng chục đợt dân công vận chuyển hàng hóa giúp bạn. Riêng trong tháng 1-1954, Thanh Hóa đã huy động 25 ngàn dân công, 709 xe đạp thồ, 47 ngựa cùng nhiều phương tiện vận chuyển khác giúp bạn. Sự đóng góp kịp thời, có hiệu quả của nhân dân Thanh Hóa, Nghệ An đã góp phần giúp nhân dân Lào giữ vững phát triển vùng căn cứ Bắc Lào, góp phần củng cố và tăng cường mối quan hệ đặc biệt giữa hai nước.

Trước yêu cầu cung cấp cho tiền tuyến ngày càng cao, để bảo đảm đời sống nhân dân, dưới sự chỉ đạo của Liên khu ủy, các cấp bộ đảng, chính quyền của ba tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh đã kịp thời tổ chức, động viên nhân dân thực hiện phong trào noi gương anh hùng Hoàng Hanh, chiến sĩ thi đua Trịnh Xuân Bái khai hoang, phục hóa, làm thủy lợi nhỏ, chuyển hướng canh tác, cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất… được nhân dân hưởng ứng.

Tại Thanh Hóa, chỉ trong tháng 8-1953, toàn tỉnh đã bỏ ra 652.000 ngày công đào đắp 450.000 m3 đất dẫn nước tưới cho 792.240 mẫu ruột. Nhân dân Thanh Hóa còn đắp bờ giữ nước, khơi mương, đào giếng, phát triển xe đạp nước cung cấp đủ nước tưới cả hai vụ cho 153.440 mẫu. Ở vùng tạm chiếm Nga Sơn, nhân dân đã khai hoang phục hóa được 2.030 mẫu. Ở những vùng hệ thống nông giang bị hư hỏng nặng, nhân dân đã chuyển hướng canh tác, từ cấy lúa sang trồng màu. Trong năm 1953, Thanh Hóa đã chuyển 21.615 mẫu cấy lúa sang trông ngô, khoai, sắn. Các biện pháp kỹ thuật như gieo mạ thưa, cấy bụi nhỏ, làm cỏ, bón phân từ hai đến năm lần, sử dụng phân bắc bón ruộng, dùng bừa làm cỏ lợi gấp năm lần làm bằng tay, chống bệnh, trừ sâu… được áp dụng rộng rãi. Hai huyện Nông Cống và Tĩnh Gia đã chế được thuốc chữa bệnh tụ huyết trùng cho 3.687 trâu bò. Ty Canh nông cũng tiêm phòng được cho 24.426 trâu, bò để bảo vệ sức kéo đang bị giảm sút.

Tại Nghệ An, nhân dân đã đắp thêm 92 con đập để ngăn nước, phát triển phân xanh, phân lèn, tích cực diệt sâu keo để bảo vệ mùa màng. Riêng huyện Diễn Châu đã diệt tới 12 tấn sâu keo.

Ở Hà Tĩnh, trong vụ mùa năm 1953, nhân dân đã đắp được 211 con đập, tưới được 11.683 mẫu lúa, áp dụng rộng rãi bón ruộng bằng phân bắc.

Nhờ áp dụng các biện pháp kỹ thuật, năng suất lúa vụ mùa 1953 ở cả ba tỉnh đều tăng so với năm 1952. Ở Thanh Hóa, sản lượng một mẫu ruộng tốt tăng 16 tạ; ở Nghệ An năng suất vụ mùa tăng 20%; ở Hà Tĩnh năng suất tăng từ 20 đến 27%. Tuy nhiên, do thiên tai, địch họa, số lượng trâu bò giảm sút, lại phải san sẻ cho Bình - Trị - Thiên và Liên khu III, do chính sách thuế thực hiện chưa sát hợp gây thắc mắc trong nông dân… nên số ruộng đất bị bỏ hoang khá nhiều. Tổng sản lượng lương thực năm 1953 của cả ba tỉnh bị giảm sút hàng vạn tấn so với năm 1952.

Bước vào vụ chiêm năm 1954, ba tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh gặp phải mưa rét rồi hạn hán kéo dài, một số lượng lớn nhân lực phải huy động phục vụ tiền tuyến, Liên khu ủy, đảng bộ các tỉnh đã đề ra những chủ trương, biện pháp khắc phục khó khăn đẩy mạnh sản xuất. Hội nghị cán bộ toàn Đảng bộ Liên khu IV (họp từ 20 đến 27-2-1954) trong khi đề ra những phương hướng và nhiệm vụ kinh tế, tài chính cho Thanh - Nghệ - Tĩnh đã nhấn mạnh ba tỉnh phải “ra sức khôi phục và phát triển sản xuất, đảm bảo lương thực cho nhân dân và cung cấp cho kháng chiến, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp là công tác trọng yếu bậc nhất của ngành kinh tế, tài chính”(1). Từ ngày 28-3 đến 4-4-1954, Ban Chấp hành Nông hội liên khu đã họp, ra Nghị quyết về chương trình công tác nông nghiệp năm 1954. Hội nghị nhất trí rằng nhiệm vụ cơ bản của công tác nông nghiệp năm 1954 là “đoàn kết chặt chẽ anh chị em nông dân tích cực đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp và bảo vệ sản xuất”(2). Nhiệm vụ cụ thể của sản xuất nông nghiệp được hội nghị chỉ rõ là ra sức khôi phục ruộng hoang, bỏ hóa; ổn định và khuyến khích tinh thần sản xuất cho nông dân; tích cực phát triển mạnh mẽ công tác tiểu thủy nông; ra sức củng cố và phát triển tổ đổi công, tổ sản xuất để bảo đảm nhân công sản xuất ở địa phương; tích cực phát triển tổ vay mượn, giúp đỡ vốn cho nông dân đẩy mạnh sản xuất; thường xuyên coi trọng việc bảo vệ sản xuất đi đôi với vận động sản xuất. Tiếp đó, để thúc đẩy hơn nữa công tác sản xuất, ngày 27-4-1954, Liên khu ủy đã ra Thông tri số 40 TT/LK4 nhắc nhở các địa phương chấn chỉnh tiểu ban sản xuất để tiểu ban đủ sức giúp tỉnh ủy các tỉnh nắm chắc Tình hình và lãnh đạo sản xuất được kịp thời. Thông tri cũng yêu cầu ban thường vụ các tỉnh hằng tháng phải kiểm tra và thường xuyên theo dõi tình hình sản xuất trong địa phương.


(1) Nghị quyết Hội nghị cán bộ toàn Đảng bộ Liên khu IV (từ 20 đến 27-2-1954), Tlđd.
(2) Nghị quyết về chương trinh công tác nông nghiệp năm 1954 của Ban Chấp hành Nông hội Liên khu IV (4-4-1954), tài liệu Cục lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Hai, 2016, 08:02:48 pm
Triển khai chủ trương của Liên khu ủy, các tỉnh đã tổ chức nhiều hội nghị để bàn về công tác tổ chức và phát triển sản xuất. Tiếp theo Hội nghị kinh tế toàn tỉnh được tổ chức tháng 10-1-53, ngày 2-4-1954, Tỉnh ủy Hà Tĩnh đã họp và chủ trương kết hợp phát động quần chúng triệt để giảm tô và ra sức phát triển sản xuất nông nghiệp để có đủ lương thực bảo đảm đời sống nhân dân và nhu cầu của kháng chiến, đồng thời dựa trên cơ sở ấy để phát triển mọi ngành kinh tế khác.

Được sự tổ chức, động viên của các cấp bộ đảng, chính quyền và đoàn thể quần chúng, lại được những chiến thắng vang dội trên các chiến trường truyền về cổ vũ, nhân dân ba tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh đã ra sức khắc phục những khó khăn to lớn, tích cực lao động sản xuất và đạt được những thành tựu rõ rệt. Với khẩu hiệu “lấy sức người thắng sức thiên nhiên”, “một gầu nước một bát cơm”, hàng chục vạn nhân dân đã ngày đêm vật lộn đắp đập, khơi mương, tát nước, đào giếng, gánh nước tưới lúa. Trong chống hạn, Thanh Hóa đã huy động 418.551 người vào việc tát nước, đào giếng khơi mương cứu lúa. Ở Nghệ An, nhân dân đã đào được 1.713 ao, hồ chứa nước tưới lúa. Ở Hà Tĩnh, chính quyền đã tổ chức hơn 17.000 nhân công đắp 9.706 đập lớn, nhỏ, đào 1.200 mét mương bảo đảm cho nước tưới cho 14.822 mẫu ruộng. Hà Tĩnh còn huy động hơn 27.000 lượt dân công tu bổ các đê La Giang, Hội Thống, Đồng Môn; tu sửa, xây dựng lại các cống Bần, Bùi Xá, sửa lại các công trình tiểu thủy nông. Trong chống hạn nổi lên tinh thần vượt khó của nhiều địa phương, nhiều đoàn thể quần chúng, tiêu biểu như nhân dân Xuân Lai (Thanh Hóa), Bắc Sơn (Nghệ An)… Đoàn thanh niên huyện Quỳnh Lưu (Nghệ An) đã tổ chức gánh nước năm ngày đêm liên tục để tưới cho số ruộng lúa bị hạn. Nông dân các huyện dọc sông Lam đã dùng gàu tát nước tới chín, mười bậc, thậm chí 12 bậc để đưa nước từ sông lên ruộng, cứu cho gần 70% số ruộng bị hạn. Đồng thời với chống hạn, các tỉnh còn chú ý việc bón phân để tăng năng suất cây trồng. Trong tháng hữu nghị Việt - Trung - Xô, nhân dân Nghệ An đã làm được 7.996 tấn phân xanh, nhân dân Hà Tĩnh đã bón trước 10 vạn gánh phân cho 2.251 mẫu lúa và hoa màu. Các địa phương cũng chấn chỉnh lại tổ đổi công, hợp công, sắp xếp lại nhân công, bảo đảm sản xuất trong khi một số lượng lớn lao động đã đi dân công phục vụ các chiến trường. Việc chuyển đổi tập quán canh tác cây lúa sang trồng cây hoa màu như ngô, khoai, sắn tiếp tục được thực hiện ở các địa phương.

Nhờ sự nỗ lực phi thường, nhân dân Thanh - Nghệ - Tĩnh đã đưa diện tích lúa tăng 4.562 mẫu so với năm 1953(1); diện tích khoai ở Thanh Hóa - Hà Tĩnh cũng tăng 14.000 mẫu so với vụ chiêm năm trước. Ở Thanh Hóa, toàn tỉnh cấy được 122.000 mẫu lúa, tăng hơn vụ chiêm 1953 là 3.500 mẫu; trồng 44.000 mẫu khoai lang, tăng hơn năm 1953 là 9.000 mẫu. Tổng sản lượng vụ chiêm 1954 tăng hơn 1953 là 10.000 tấn thóc. Ở Hà Tĩnh, diện tích trồng trọt cũng được tăng thêm nhiều, nhất là ở các huyện Can Lộc, Nghi Xuân, Hương Khê. Do đó, nhân dân ba tỉnh đã chống được đói giáp hạt tháng ba, nạn đói thường xảy ra trước đó; đồng thời có điều kiện để đóng góp cho kháng chiến, thực hiện nghĩa vụ thuế đối với nhà nước. Vụ chiêm năm 1954, Liên khu IV đã thu được 91.447 tấn thuế nông nghiệp, đạt 97,91% trong đó phần thu chủ yếu là ở vùng Thanh - Nghệ - Tĩnh. Ở Thanh Hóa có bốn huyện thuế nông nghiệp thu vượt mức là Hoằng Hóa, Đông Sơn, Nông Cống, Vĩnh Lộc.

Cùng với sản xuất nông nghiệp, nhân dân Thanh - Nghệ - Tĩnh còn cố gắng khắc phục những khó khăn, cản trở, ngăn chặn đà giảm sút trong sản xuất tiểu, thủ công nghiệp, đáp ứng tiêu dùng của nông dân, cung cấp cho kháng chiến.

Đầu năm 1953, do việc thi hành chính sách thuế công, thương nghiệp có nhiều lệch lạc, ngành quân nhu đình chỉ kế hoạch thu mua vải đã đẩy ngành tiểu, thủ công nghiệp, nhất là ngành dệt đã lâm vào thế bế tắc. Hàng vạn khung cửu khổ hẹp, hàng ngàn khung cửi khổ rộng của các gia đình và các xưởng dệt quốc doanh phải ngừng hoạt động. 6.000 khung cửi khổ rộng chỉ hoạt động một nửa công suất. Các nghề nón lá, đan lát, đồ gốm, đan bao cói… hoạt động cầm chừng vì không xuất khẩu được. Nghệ làm giấy phát triển chậm. Số lượng muối làm ra ít hơn năm 1952 song vẫn tiêu thụ rất khó khăn.

Từ giữa năm 1953, do thực hiện chủ trương của liên khu về chuyển hướng sang sản xuất gia đình, những sai lạc trong việc thu thuế công, thương nghiệp được chấn chỉnh, do tác động của chính sách giảm tô, sản xuất thủ công nghiệp đã có những tiến triển nhất định. Nghề làm bao cói, làm chiếu được phát triển trở lại. Sản xuất phốt phát chuyển sang sản xuất theo quy mô nhỏ nên phục hồi được sản lượng. Do Liên khu ủy chỉ đạo mậu dịch quốc doanh tích cực thu mua vải cho nhân dân nên nghề dệt ở một số địa phương được phục hồi một phần. Trong điều kiện khó khăn về thị trường, Tỉnh ủy Hà Tĩnh đã đề ra phương châm “trên điều kiện nguyên liệu và khả năng thị trường mà phục hồi và phát triển sản xuất, phát triển thủ công nghiệp gia đình là chủ yếu”(2). Nhờ triển khai chính sách, biện pháp tích cực, trong sáu tháng đầu năm 1954, số khung cửi dệt vải ở Hà Tĩnh tăng từ 2.700 khung lên 5.000 khung; máy kéo sợi Quỳ Phụ cũng tăng từ 307 cái lên 500 cái. Trong khi đó, do gặp những khó khăn về tiêu thụ, 300 khung cửi ở Hoằng Hóa (Thanh Hóa) lại phải ngừng hoạt động. Mặc dù rất cố gắng, song do địch đánh phá, các xưởng giấy quốc doanh bị hư hại, nguyên liệu thiếu thốn nên ngành sản xuất giấy không đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng. Cuối năm 1953, trong khi giá lương thực, giá muối giảm(3) thì giá giấy tăng vọt ở cả ba tỉnh (ở Thanh Hóa tăng 93%, ở Nghệ An tăng 94,4% và ở Hà Tĩnh là 81,1%). Trong sáu tháng đầu năm 1954, bốn xưởng giấy quốc doanh và 24 gia đình thủ công nghề giấy đã phải ngừng sản xuất. Trong báo cáo tình hình năm 1954, Liên khu ủy IV nhận xét: “Công - thương nghiệp sáu tháng đầu năm phát triển nhất là dệt.. (…). Tuy nhiên mức phát triển vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của nhân dân”(4).


(1) Có tài liệu viết vụ chiêm 1954 diện tích cấy lúa tăng 6700 ha so với năm 1953.
(2) Lịch sử Đảng bộ Hà Tĩnh, t.I (1930-1954), Sđd, tr.277.
(3) Vào tháng 10-1953, giá lương thực ở Thanh Hóa giảm 41%; ở Nghệ An giảm 21,5%; ở Hà Tĩnh giảm 25%. Giá muối giảm 25% ở Thanh Hóa, 31,4% ở Nghệ An và 36% ở Hà Tĩnh.
(4) Báo cáo số 90 BC/LK4 (26-12-1954) của Ban Chấp hành Liên khu, Đảng bộ Liên khu IV về tình hình Liên khu IV năm 1954, tài liệu Cục lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Hai, 2016, 08:06:12 pm
Tiếp tục thực hiện chủ trương lớn của Đảng, từ tháng 12-1953 đến tháng 8-1954, Thanh - Nghệ - Tĩnh đã tiến hành ba đợt triệt để giảm tô (từ đợt ba đến đợt năm) và bước đầu triển khai cải cách ruộng đất.

Là một trong hai nhiệm vụ hàng đầu của năm 1954 (phục vụ tiền tuyến và giảm tô, cải cách ruộng đất), việc phát động quần chúng triệt để giảm tô và cải cách ruộng đất đã thu hút nhiều tâm lực của cơ quan lãnh đạo kháng chiến ở ba tỉnh và ở cấp liên khu. Ngày 15-1-1954, Liên khu ủy IV đã thông tri quán triệt chính sách ruộng đất của Đảng đến các cấp, các ngành. Thông tri yêu cầu các tỉnh ủy ở Thanh - Nghệ - Tĩnh mở hội nghị bao gồm các tỉnh ủy viên, các đảng đoàn, cán sự, các ban xung quanh tỉnh, bí thư hoặc phó bí thư các huyện ủy để học tập tài liệu của hội nghị toàn quốc về chính sách cải cách ruộng đất. Mục đích của đợt học tập là làm cho cán bộ thấm nhuần quan điểm về nguyên do của cải cách ruộng đất trong kháng chiến, về phương châm, đường lối cải cách ruộng đất của Đảng để từ đó chuẩn bị mọi mặt tư tưởng cho cán bộ cũng như đào tạo cán bộ cải cách ruộng đất(1). Nhiệm vụ phát động quần chúng giảm tô và cải cách ruộng đất tiếp tục được quán triệt tại Hội nghị cán bộ đảng Liên khu IV (15-2-1954), Hội nghị cán bộ toàn Đảng bộ Liên khu IV (từ 20 đến 27-2-1954). Trong Nghị quyết của Ban Chấp hành Nông hội Liên khu IV (ngày 4-4-1954), phần đề cập việc thực hiện chính sách ruộng đất đã nhấn mạnh: “Phát động quần chúng triệt để giảm tô và thực hiện cải cách ruộng đất. Thực hiện giảm tô, giảm tức theo đúng Sắc lệnh 149 SL/TW (ngày 12-4-1953), điều chỉnh công điền nhằm mục đích đảm bảo quyền lợi cho nông dân, củng cố được cơ sở mạnh, lợi cho đoàn kết kháng chiến, lợi cho sản xuất, không để cho địch lợi dụng những thiếu sót của cán bộ; sử dụng tốt ruộng đất tịch thu của Việt gian”(2). Cũng trong ngày 4-4-1954, trong khi đợt bốn giảm tô đang tiến hành, thi hành Chỉ thị số 70-CT của Trung ương Đảng, Liên khu ủy IV đã thông tri yêu cầu các đoàn ủy chú trọng một số công tác quan trọng, khắc phục, sửa chữa những khiếm khuyết để đợt phát động đạt kết quả tốt. Thông tri chỉ rõ, các đoàn ủy cần:

“- Tăng cường lãnh đạo tư tưởng. Kiên quyết khắc phục tư tưởng tự mãn, tư tưởng sợ khó khăn, gian khổ, chống tư tưởng sốt ruột, bao biện, mệnh lệnh, làm thay, không nắm vững trọng tâm của từng bước và yêu cầu của mọi công tác;

- Phải đi sâu, bám rễ trong quần chúng;

- Lãnh đạo quán triệt các chính sách, đặc biệt là chính sách phát động quần chúng đối với miền duyên hải, công giáo, thiếu số;

- Tăng cường sự lãnh đạo của tỉnh ủy và đoàn ủy về mặt tổ chức. Tăng cường công tác kiểm tra, chế độ báo cáo và xin chỉ thị"(3).

Để bảo đảm công tác phát động quần chúng thành công, Liên khu ủy đã chú trọng công tác cán bộ. Từ đợt một đến đợt bốn giảm tô và cải cách ruộng đất, Liên khu đã tổ chức động viên hơn 2.200 cán bộ đi phục vụ; điều động 2.289 cán bộ (có 2.228 cán bộ từ huyện trở lên, cán bộ, bộ đội) và 944 cán bộ xã tham gia tổ chức quần chúng đấu tranh giảm tô và cải cách ruộng đất. Liên khu ủy còn chỉ đạo các tỉnh thành lập ban cải cách ruộng đất để giúp cấp ủy chỉ đạo việc phát động quần chúng giảm tô, cải cách ruộng đất. Bằng những biện pháp kiên quyết, mạnh mẽ, hai đợt phát động quần chúng ba và bốn tiến hành từ tháng 12-1953 đến tháng 6-1954 ở Thanh - Nghệ - Tĩnh đã được mở rộng ra 195 xã với 1.026.926 người, ở cả miền đồng bằng ven biển, miền núi, trong khu vực đồng bào công giáo, đồng bào các dân tộc thiểu số. Ba tỉnh đã tổ chức được 575.661 nông dân và lãnh đạo họ đấu tranh với 473 địa chủ, trưng thu được 43.155 tạ thóc quả thực, trong đó đã chia 63.261 tạ cho nông dân nghèo(4).

Các đợt giảm tô trong sáu tháng đầu năm 1954 diễn ra trong bối cảnh quân và dân ba tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh đang huy động tối đa sức mạnh hậu phương phục vụ tiền tuyến nên có tác động tích cực đến công tác vận động nhân dân. Với những quyền lợi thiết thân được đáp ứng, nhân dân trong vùng đã thực hiện giảm tô càng hăng say lao động, đóng góp phục vụ kháng chiến. Các đợt giảm tô cũng có những tác động lớn đến công tác chính quyền, công tác văn hóa xã hội…


(1) Thông tri số 6 về việc tổ chức học tập chính sách cải cách ruộng đất của Liên khu ủy IV, ngày 15-1-1954, Cục lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.
(2) Nghị quyết về chương trình công tác 1954 của Ban Chấp hành Nông hội Liên khu IV (4-4-1954), Tlđd.
(3) Báo cáo sáu tháng đầu năm 1954, số 39/BC-LK$ của Liên khu ủy IV, Tlđd.
(4) Báo cáo sáu tháng đầu năm 1954, số 39/BC-LK$ của Liên khu ủy IV, Tlđd.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Hai, 2016, 08:13:26 pm
Tuy nhiên, trong thực hiện giảm tô đợt ba và bốn, các tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh cũng phạm phải những sai lầm như ở đợt một và đợt hai. Hầu hết các địa phương chưa thực hiện đúng chính sách đại đoàn kết của Đảng, làm cho một bộ phận địa chủ phản ứng quyết liệt. Riêng trong giảm tô đợt bốn, ở Thanh Hóa và đợt phát động quần chúng giảm tô thứ năm tiến hành trong 82 xã ở Thanh Hóa và Hà Tĩnh từ cuối tháng 6 đến tháng 8-1954, những khuyết điểm đó vẫn chưa được sửa chữa, trái lại có phần nặng nề thêm.

Sau khi thực hiện thí điểm ở Thái Nguyên, từ đợt giảm tô Trung ương chỉ đạo các địa phương tiến hành cải cách ruộng đất đợt một ở những nơi có điều kiện. Từ tháng 5-1954, Liên khu ủy đã chỉ đạo thí điểm cải cách ruộng đất tại sáu xã thuộc huyện Nông Cống (Thanh Hóa)(1).

Với tinh thần dựa vào bần, cố nông, phát động quần chúng tố khổ, các đội công tác đã về sáu xã thí điểm triển khai bốn bước công tác:

Bước một là tuyên truyền chính sách, bắt rễ, tìm chỗ dựa và bước đầu củng cố tổ chức.

Bước hai là phân định thành phần giai cấp, phân rõ ranh giới giữa nông dân và địa chủ, tổ chức đấu tố một số địa chủ cường hào gian ác, đầu sỏ.

Bước ba là tịch thu, trưng mua ruộng dát của địa chủ chia cho nông dân.

Bước bốn là tổng kết thắng lợi và chỉnh đốn tổ chức ở xã.

Với các bước công tác trên, đợt cải cách ruộng đất thí điểm ở Nông Cống đã truy ra thêm được 123 địa chủ; tịch thu, trưng thu, trưng mua 3.899 mẫu ruộng, 182 trâu, bò, 26.499 kg lương thực và một số tài sản khác đem chia cho 92,8% nông dân, bình quân mỗi người được bốn sào ba thước với sản lượng 540 kg. Ở xã thí điểm không còn địa chủ, bần, cố nông được đưa lên nắm quyền lãnh đạo ở nông thôn.

Bằng việc mang lại ruộng đất cho dân cày, cuộc thí điểm cải cách ruộng đất ở sáu xã thuộc huyện Nông Cống (Thanh Hóa) đã có tác động mạnh đến khí thế lao động sản xuất của nhân dân trong các địa phương Thanh - Nghệ - Tĩnh. Mọi người đều háo hức chờ đợt đến ngày ruộng đất về tay và được làm chủ sức lao động của chính mình. Cuộc cải cách ruộng đất thí điểm đã làm cho địa chủ ở nhiều nơi dao động, bắt đầu phân tán ruộng đất để tránh bị đấu tố. Từ những kinh nghiệm rút ra từ đợt cải cách thí điểm, đến tháng 10-1954, liên khu đã mở rộng cải cách ruộng đất ra 66 xã thuộc Đông Sơn, Hoằng Hóa (Thanh Hóa).

Trong cải cách ruộng đất thí điểm này, tuy chưa có những biểu hiện thái quá trong các hình thức đấu tranh (2) song công tác chỉ đạo đã bộc lộ một số sai lầm, hạn chế trong cách định tỷ lệ, cách tiến hành. Hơn nữa, việc chỉ chú trọng đưa bần, cố nông lên nắm quyền lãnh đạo ở nông thôn, trong số họ phần lớn hạn chế về trình độ học vấn và khả năng quản lý, cũng như chủ trương dựa vào trung kiên ngoài Đảng, không dựa vào chi bộ sở tại… đã tạo ra tiền đề không tốt cho những đợt cải cách tiếp sau.

Trong khi thực hiện hai nhiệm vụ hàng đầu là phục vụ tiền tuyến và giảm tô, cải cách ruộng đất, quân và dân 3 tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh còn đẩy mạnh xây dựng lực lượng, bảo vệ vững chắc hậu phương trước các âm mưu và hành động đánh phá của kẻ thù.

Thực hiện chủ trương của Tổng Quân ủy về đẩy mạnh xây dựng lực lượng, phát triển bộ đội chủ lực đồng thời với củng cố, kiện toàn bộ đội địa phương và xây dựng dân quân, du kích, Bộ Tư lệnh Liên khu IV đã đề ra nguyên tắc chung xây dựng lực lượng vũ trang của toàn liên khu như sau:

“- Liên khu lấy xây dựng đơn vị tiểu đoàn, tỉnh lấy xây dựng đại đội, huyện lấy xây dựng đại đội làm mục tiêu chủ yếu.

Khu rút các đơn vị bộ đội địa phương các huyện và tỉnh lên bộ đội chủ lực phải để lại một đơn vị làm nòng cốt xây dựng đơn vị mới, kịp thời tuyển du kích và thanh niên bổ sung huấn luyện đầy đủ.

- Việc xây dựng lực lượng vũ trang trong phải được coi trọng cả số lượng và chất lượng”(3).


(1) Có ý kiến cho rằng Tỉnh ủy Thanh Hóa đã chỉ đạo cải cách ruộng đất của huyện Nông Cống vào tháng 6-1953. Trong Nghị quyết Hội nghị cán bộ toàn Đảng bộ Liên khu IV (từ 20 đến 27-2-1954) viết:
“Từ đợt bốn phát động quần chúng giảm tô trở đi, Trung ương đã tập trung lãnh đạo cải cách ruộng đất là chính. Liên khu ủy và các tỉnh ủy phải tập trung lãnh đạo giảm tô đồng thời tham gia cải cách ruộng đất”.
Báo cáo sáu tháng đầu năm 1954 của Liên khu ủy (ngày 21-6-1954) cũng viết: “Cuộc phát động quần chúng cải cách ruộng đất ở liên khu mới bắt đầu trong sáu xã thí điểm ở Nông Cống, công tác trong xã trọng điểm đã qua bước hai, còn các xã khác đương bước vào thời kỳ bước một”. Căn cứ vào các tài liệu trên, có thể thấy rằng khi Trung ương phát động cải cách ruộng đất đợt một (25-5-1954) thì liên khu mới tiến hành thí điểm ở Nông Cống.
(2) Tuy nhiên, trong hoàn cảnh lúc bấy giờ, đoàn chỉ đạo cải cách ruộng đất ở sáu xã thí điểm lại bị phê bình là “lập trường hữu khuynh, hạn chế quần chúng tố khổ” nên đã “hạn chế một phần kết quả”.
(3) Quân khu IV: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954), Sđd, tr. 336.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 28 Tháng Hai, 2016, 07:48:36 pm
Hội nghị cán bộ toàn Đảng bộ Liên khu IV (từ 20 đến 27-2-1954) trong khi bàn về nhiệm vụ quân sự cũng quyết định: “Đẩy mạnh xây dựng lực lượng vũ trang về mọi mặt, chủ yếu là xây dựng chủ lực tập trung; nâng cao chất lượng các tiểu đoàn tỉnh, các đại đội huyện, ra sức phát triển và củng cố các đội du kích xã”(1). Hội nghị cũng nhấn mạnh Thanh Hóa và Nghệ An phải tăng cường xây dựng lực lượng vũ trang địa phương và du kích ở vùng thượng du.

Theo phương hướng này, trong đông xuân 1953-1954, liên khu đã tuyển thêm 1.833 tân binh, xây dựng được bảy tiểu đoàn bộ binh (gồm ba tiểu đoàn của trung đoàn 53 và bốn tiểu đoàn độc lập 266, 291, 340, 195), Tiểu đoàn phòng không 541, Đại đội 98 đặc công liên khu và Trung đoàn 154 công binh của bộ. Cuối tháng 4-1954, sau khi Bộ Tổng tư lệnh điều Trung đoàn 53 chủ lực khu và Tiểu đoàn 362 của Nghệ An lên Việt Bắc, Bộ Tư lệnh liên khu đã nhanh chóng xây dựng lại hai đơn vị này. Lực lượng bộ đội địa phương cũng kịp thời bổ sung quân số, củng cố và kiện toàn các tiểu đoàn tỉnh và đại đội huyện(2). Bộ đội địa phương của các huyện Như Xuân, Cẩm Thủy (Thanh Hóa), Nam Đàn, Đô Lương (Nghệ An) được xây dựng thêm.

Các đơn vị mới được thành lập ở Thanh - Nghệ - Tĩnh đã thực hiện các đợt chỉnh quân chính trị, qua đó nhận thức của cán bộ, chiến sĩ về bản chất giai cấp của quân đội, về mục tiêu, lý tưởng chiến đấu vì lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân lao động được nâng cao. Các chiến sĩ tuy mới trong quân ngũ song do có hiểu biết chủ trương cải cách ruộng đất của Đảng, lại được giáo dục, rèn luyện nên có tinh thần sẵn sàng hy sinh chiến đấu, quyết tâm tiêu diệt quân thù. Cùng với bồi dưỡng chính trị, Bộ Tư lệnh liên khu còn quan tâm huấn luyện kỹ thuật, chiến thuật cho bộ đội. Các đơn vị chủ lực được huấn luyện theo từng đợt ngắn cho phù hợp với hoạt động và điều kiện từng nơi. Sau mỗi đợt huấn luyện, các đơn vị đều tổ chức diễn tập, sẵn sàng chủ động đối phó với các tình huống xảy ra. Bộ Tư lệnh liên khu cũng mở các lớp huấn luyện kỹ thuật đặc công cho các tiểu đoàn tỉnh và Đại đoàn 325. Liên khu và các tỉnh còn mở các lớp bồi dưỡng chiến thuật vận động chiến và công kiên chiến để vận dụng lối đánh phục kích, tập kích, công đồn, nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển chiến đấu, nâng cao hiệu suất tiêu diệt địch. Trải qua quá trình huấn luyện và diễn tập, trình độ chỉ huy của cán bộ, khả năng và bản lĩnh chiến đấu của chiến sĩ tiến bộ rõ rệt. Bộ đội chủ lực có khả năng tác chiến từ một đến hai đại đội trong đội hình tiểu đoàn; bộ đội địa phương tỉnh có trình độ tổ chức chiến đấu cấp đại đội trong đội hình tiểu đoàn và bộ đội huyện có thể tổ chức chiến đấu cấp trung đội trong đội hình đại đội dưới các hình thức phục kích và tập kích.

Sự gia tăng của các đơn vị vũ trang ở Liên khu IV đặt ra yêu cầu bức xúc về đội ngũ cán bộ chỉ huy. Đáp ứng đòi hỏi này, Liên khu chủ trương đề bạt, bồi dưỡng cán bộ đã rèn luyện, trưởng thành trong chiến đấu và công tác, tạo dựng đội ngũ cán bộ chỉ huy giỏi vừa có kinh nghiệm chiến đấu, vừa có năng lực quản lý đơn vị. Theo hướng đó, chỉ ba tháng đầu năm 1954, toàn liên khu đã đề bạt 2.054 cán bộ từ tiểu đội đến trung đội, 12 cán bộ trung đoàn. Liên khu còn cử nhiều cán bộ từ trung đội đến tiểu đoàn ra học tại các trường của bộ. Phần lớn cán bộ được đề bạt, bồi dưỡng thuộc thành phần công, nông(3).

Đồng thời với việc tăng cường lực lượng vũ trang tập trung, liên khu thường xuyên củng cố, chấn chỉnh lực lượng dân quân, du kích, nhất là ở các xã ven biển và các xã đã phát động quần chúng giảm tô. Trong các xã đã phát động quần chúng, chính quyền đã đưa ra khỏi hàng ngũ dân quân, du kích những người bị coi là không đủ tiêu chuẩn chính trị, tăng cường thêm quần chúng tích cực vào lực lượng này. Nhằm nâng cao chất lượng chiến đấu của dân quân, du kích, các địa phương đã tiến hành huấn luyện kỹ thuật, chiến thuật cho các chiến sĩ, trang bị thêm bom, mìn, lựu đạn. Đội ngũ cán bộ chỉ huy xã đội, thôn đội được bồi dưỡng để nâng cao năng lực chỉ huy. Trong sáu tháng đầu năm 1954, liên khu đã bồi dưỡng được 651 cán bộ xã đội; 2.254 cán bộ thôn đội, xóm đội. Được sự quan tâm của các cấp ủy đảng, chính quyền, lực lượng dân quân du kích đã bảo đảm được nhiệm vụ canh gác, bố phòng, cùng công an giữ gìn thôn xóm, phối hợp với bộ đội tác chiến bảo vệ hậu phương.

Trong khi xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang địa phương, Liên khu IV còn hoàn thành nhiệm vụ tuyển quân theo chỉ tiêu của Bộ Tổng tư lệnh.

Sau khi hoàn thành kế hoạch tuyển quân năm 1953, liên khu chủ động tuyển 4.000 tân binh cho kế hoạch đầu năm 1954, đáp ứng gần đủ chỉ tiêu mà Bộ Tổng tư lệnh đã giao(4). Song, do đòi hỏi cấp bách về lực lượng cho các đòn tiến công chiến lược, Bộ Tổng tư lệnh đã giao chỉ tiêu cho Liên khu IV tăng gấp ba lần so với kế hoạch đầu năm.


(1) Nghị quyết Hội nghị cán bộ toàn Đảng bộ Liên khu IV từ 20 đến 27-2-1954, Tlđd.
(2) Trong đông - xuân 1953-1954, sáu tỉnh của Liên khu IV có tám tiểu đoàn bộ đội địa phương.
(3) Cả năm 1954, liên khu đã đề bạt 3.704 cán bộ quân sự các cấp, 78,8% số đó thuộc thành phần công nông; cử 95 cán bộ từ trung đội đến tiểu đoàn đi học các trường của bộ.
(4) Theo kế hoạch đầu năm 1954 của bộ. Liên khu IV phải tuyển 4.200 quân cho bộ.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 28 Tháng Hai, 2016, 07:49:30 pm
Thực hiện yêu cầu của Bộ Tổng tư lệnh, các cấp ủy đảng, chính quyền đã đẩy mạnh tuyên truyền, vận động nhân dân nhận rõ nhiệm vụ, kêu gọi thanh niên sẵn sàng tòng quân diệt giặc. Được thắng lợi trên các chiến trường cổ vũ, được hưởng dụng những quyền lợi do giảm tô, giảm tức mang lại, nhân dân các địa phương phấn khởi động viên chồng, con, anh, em lên đường nhập ngũ. Tòng quân giết giặc trở thành phong trào sôi nổi trong thanh niên các địa phương Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng Bình. Ở huyện Ngọc Lặc (Thanh Hóa) chỉ tiêu tuyển 100 người nhưng có tới 676 người xung phong nhập ngũ; tại huyện Đức Thọ) chỉ tiêu tuyển 57 người mà có tới 639 người tình nguyện dự tuyển. Ở tỉnh Quảng Bình, theo kế hoạch chỉ tuyến 250, nhưng số người xung phong là 700. Do tinh thần hăng hái của quần chúng, thanh niên được tuyên truyền, giáo dục, do sự lãnh đạo tích cực của các cấp lãnh đạo, trong sáu tháng đầu năm 1954, Liên khu IV đã cung cấp cho quân chủ lực 14.555 tân binh, chưa kể quân số của Trung đoàn 53 và Tiểu đoàn 362 Nghệ An do Bộ Tổng tư lệnh điều động lên Việt Bắc.

Bên cạnh việc đảm nhiệm cung cấp nhu yếu phẩm cho các chiến dịch lớn, việc bổ sung một số lượng lớn tân binh cho quân đội trong điều kiện khó khăn đã chứng minh sinh động cho nỗ lực to lớn, cho tinh thần và khả năng cách mạng của nhân dân Liên khu IV, trước hết là của nhân dân Thanh - Nghệ - Tĩnh. Kết quả đó cũng thể hiện rõ năng lực tổ chức, thực hiện đường lối kháng chiến đúng đắn, kiên quyết của các cấp đảng bộ và chính quyền trong liên khu.

Với lực lượng vũ trang được tăng cường, thế trận chiến tranh nhân dân được củng cố, quân và dân liên khu đã đánh thắng những nỗ lực cuối cùng của quân xâm lược Pháp, đánh phá vào Thanh - Nghệ - Tĩnh, bảo vệ vững chắc hậu phương chiến lược.

Tuy bị tiến công trên khắp các chiến trường, gặp nhiều khó khăn về quân số, bước vào năm 1954, quân Pháp vẫn duy trì các cuộc biệt kích, oanh tạc vào hậu phương Liên khu IV. Tiếp theo các hoạt động đánh phá, uy hiếp cuối năm 1953, đầu năm 1954, quân Pháp tổ chức một số cuộc biệt kích nhỏ vào Thanh Hóa, oanh tạc vùng Chu Lễ để ngăn cản tuyến cung cấp của ta lên Trung Lào. Điển hình là cuộc oanh tạc ở Tân Nho làm chết 62 người, làm bị thương 69 người. Trước khi chiến dịch Điện Phủ kết thúc thắng lợi, địch cho 51 tên biệt kích xuống miền tây Thanh Hóa để phá kho tàng, đường sá, càn trở sự chi viện từ Thanh - Nghệ - Tĩnh lên Điện Biên Phủ(1); đồng thời oanh tạc lớn vào Mậu Lâm là nơi công giáo đã được phát động giảm tô, làm 50 người chết, 38 người bị thương, 108 nhà bị cháy. Trong hai ngày 19 và 22-5-1954, địch tổ chức hai cuộc biệt kích lớn vào bờ biển Tĩnh Gia và Quảng Xương (Thanh Hóa). Đầu tháng 7-1954, địch lại tổ chức những cuộc oanh tạc lớn vào Thanh - Nghệ - Tĩnh. Chỉ ba ngày đầu tháng 7, máy bay địch đã đánh phá 22 vụ ở Nghệ An, làm chết 46 người, bị thương 19 người, làm sập 235 nhà. Máy bay địch ném bom từ Xứ Dừa (Hà Trung, Thanh Hóa) giữa ngày chủ nhật đồng bào công giáo đang hành lễ làm 170 người chết, 130 người bị thương, 109 nhà bị cháy, nhà thờ bị sập. Ở miền tây Thanh - Nghệ - Tĩnh, từ giữa tháng 6-1954, quân phỉ lại ráo riết hoạt động, nhất là ở các xã Sơn Thụy, (Quan Hóa, Thanh Hóa) ở Bản Vực, Mường Tân (Thường Xuân, Thanh Hóa)… đốt phá kho tàng, bắt thanh niên, giết cán bộ. Ở nội địa, bọn phản động trong công giáo ráo riết đẩy mạnh các hoạt động phá hoại.

Trước tình hình địch đánh phá, uy hiếp Thanh - Nghệ - Tĩnh, liên khu đã kịp thời lãnh đạo, tổ chức nhân dân ba tỉnh chuẩn bị đánh tan âm mưu địch đánh ra vùng tự do. Từ những ngày đầu đông - xuân 1953-1954, liên khu đã tổ chức học tập chỉ thị của Trung ương Đảng trong cơ quan từ liên khu xuống tỉnh, huyện, cơ sở, làm cho mọi người nhận rõ âm mưu địch, thấy rõ nhiệm vụ bảo vệ hậu phương. Trong các cấp, các ngành và nhân dân dấy lên phong trào sôi nổi chuẩn bị sẵn sàng đánh địch. Các cấp ủy đảng đã tập trung lãnh đạo nhân dân tập dượt các phương án phòng tránh địch, cất giấu tài sản, sơ tán… Các địa phương chủ động việc canh gác bố phòng, phối hợp chặt chẽ các lực lượng dân quân, du kích, công an bảo đảm an ninh, sẵn sàng đánh địch. Ở Nghệ An, các thị trấn vùng đông dân, vùng xung yếu đều thực hiện sơ tán, đào hầm phòng không. Các trường học, bệnh xá được phân tán, chuyển vào các khu vực xa đường quốc lộ, tỉnh lộ; các xí nghiệp, kho tàng, công trình được ngụy trang kín đáo. Các sinh hoạt như hội họp, học hành… chuyển vào ban đêm. Lực lượng vũ trang ba thứ quân (chủ lực liên khu, bộ đội tỉnh, huyện và dân quân, du kích) đẩy mạnh công tác huấn luyện với sẵn sàng chiến đấu. Liên khu cũng tiến hành điều chỉnh lại việc bố trí lực lượng cho sát với yêu cầu phòng thủ trên từng địa bàn ở Thanh - Nghệ - Tĩnh, chú trọng nhất vào vùng ven biển và miền rừng núi. Liên khu trang bị thêm vũ khí cho bộ đội và du kích, hướng dẫn dân quân, du kích bố trí hầm chông ở các địa bàn trọng yếu.

Nhờ chuẩn bị chu đáo, toàn diện, quân và dân Thanh - Nghệ - Tĩnh đã kịp thời giáng trả những hoạt động biệt kích, tập kích của địch ngay khi chúng triển khai kế hoạch Navarre, làm giảm thiểu những thiệt hại do chúng gây ra.


(1) Có tài liệu viết là 49 tên.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 28 Tháng Hai, 2016, 07:50:24 pm
Trận chiến đấu lớn đầu tiên của quân dân Thanh - Nghệ - Tĩnh diễn ra vào ngày 4-9-1953 ở Nhượng Bạn (Hà Tĩnh). Sau nửa ngày chiến đấu chống lại ba đại đội địch có máy bay, tàu chiến yểm trợ, lực lượng vũ trang địa phương đã tiêu diệt 40 tên, bắt sống 13 tên, buộc những tên còn lại phải rút ra biển.

Tiêu biểu nhất trong những trận chiến đấu cuối năm 1953 là trận đánh trả cuộc hành quân Hải Âu của địch vào tháng 10-1953, bảo vệ vững chắc hậu phương Thanh Hóa. Trên hướng phía bắc tỉnh Thanh Hóa, trong các ngày 10, 17-10-1953, máy bay địch đã bắn phá khu vực Hà Trung, Nga Sơn, Thạch Thành. Ngày 19-10, quân địch từ Đồi Cao tiến vào đồi Phúc Dương (còn gọi là đồi Trạch Lâm) và Hoạt Giang huyện Hà Trung. Một cánh quân địch với lực lượng 442 tên cùng một tiểu đoàn xe cơ giới từ tây nam Ninh Bình thọc vào chiếm đóng đền Sòng. Ngày 23-10, hai tiểu đoàn địch chia làm hai mũi đánh chiếm các điểm cao, tiến vào xã Long Khê (Hà Trung) đốt 60 nhà, bắn chết hai thanh niên, bắt đi 42 người, giết hàng trăm trâu, bò, lợn của nhân dân, đốt hàng chục tấn lúa gạo. Quân và dân Hà Trung phối hợp cùng bộ đội chủ lực chặn đánh quyết liệt, tiêu diệt hàng chục tên. Thất bại trong ý đồ tiêu diệt các đại đoàn chủ lực của ta đang trú quân tại Thanh Hóa, lại bị quân và dân hai tỉnh Thanh Hóa, Ninh Bình tiêu diệt 1.500 tên, quân Pháp buộc phải rút lui. Ở hướng ven biển, ngày 16-10-1953, quân và dân Tĩnh Gia đã vây đánh 500 tên địch đổ bộ lên xã Hải Yến. Bỏ lại 20 xác chết, quân địch rút lên tàu tháo chạy ra biển. Cùng ngày, quân và dân Tĩnh Gia bao vây toán nhảy dù, bắn chết một tên, làm bị thương 2 tên khác, thu toàn bộ vũ khí và tài liệu của chúng. Sau khi cuộc hành quân Hải Âu thất bại, trong một cuộc họp báo, Navarre phàn nàn: “Chúng tôi đã ăn xong món khai vị rồi. Cẩn phải nhắm nốt món kháng chiến nữa (ý nói bộ đội chủ lực Việt Nam). Món kháng chiến này ngày càng tỏ ra khó xơi”(1).

Tiếp theo chiến công trên, ngày 19-5-1954, bộ đội và du kích trên địa bàn huyện Quảng Xương (Thanh Hóa) đã kịp thời chặn đánh 125 tên địch khi chúng biệt kích vào Cự Nham, diệt 16 tên buộc chúng phải rút lui. Ba ngày sau, vào ngày 232-5-1954, có máy bay và tàu chiến yểm trợ, 350 tên địch liều lĩnh đổ bộ lên Du Xuyên (Tĩnh Gia, Thanh Hóa). Dân quân, du kích địa phương đã phối hợp cùng bộ đội tỉnh đánh trả quyết liệt, tiêu diệt 121 tên, đập tan cuộc biệt kích của địch.

Trong khi lực lượng vũ trang vùng biển đánh địch có hiệu quả thì bộ đội địa phương phối hợp với lực lượng công an và đồng bào các dân tộc thiểu số miền tây Thanh - Nghệ - Tĩnh tiến hành tiễu phỉ thu nhiều thắng lợi. Lực lượng tiễu phỉ ở miền Tây Nghệ An đã tích cực phát hiện, khám phá, truy lùng và đánh tan nhiều ổ phỉ, bắt và tiêu diệt bọn đầu sỏ, trong đó có tên Lý Đoàn. Tại tỉnh Thanh Hóa, sau hai đợt tiễu phỉ đạt kết quả tốt, Tỉnh ủy Thanh Hóa quyết định tổ chức tiễu phỉ đợt ba nhằm giải quyết sạch các toán phỉ còn lại và đánh phá hang ổ của chúng ở huyện Mường Xôi. Sau tám tháng chiến đấu gian khổ, được sự giúp dỡ của đồng bào các dân tộc thiểu số, lực lượng tiễu phỉ đã đánh hơn 100 trận, diệt 70 tên, bắt sống 96 tên, gọi hàng 600 tên, trong đó có tên đầu sỏ chánh cả Phạm Bá Nhị, thu 855 súng các loại. Trong trận kết thúc đợt tiễu phỉ này, lực lượng vũ trang ta đã đồng loạt tiến công vào Mường Pao, gọi hàng 308 tên; bắt sống 200 tên tại Sầm Tớ, bắt sống toàn bộ bọn phỉ còn lại ở Sơn Thủy, Hiền Kiệt. cũng trong thời gian tiễu phỉ, ngày 15-4-1954, bộ đội địa phương và du kích Hồi Xuân đã bao vây, bắt gọn 51 tên địch cùng toàn bộ vũ khí khi chúng vừa nhảy dù xuống đây.

Các đợt tiễu phỉ nói trên không chỉ bảo vệ vững chắc biên giới phía tây Thanh - Nghệ - Tĩnh mà còn giúp nhân dân Lào giữ vững an ninh chính trị, trật tự xã hội trong vùng giải phóng Sầm Nưa.

Phối hợp với các cuộc chống địch biệt kích ở vùng ven biển, tiễu phỉ ở miền tây, quân và dân vùng tạm bị chiếm Nga Sơn (Thanh Hóa) liên tục tổ chức các trận chiến đấu tiêu hao sinh lực địch, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân. Trong chiến đấu đã nổi lên những tập thể dũng cảm, lập được chiến công xuất sắc. Nổi trội trong số đó là 12 du kích xã Chính Đại đã anh dũng chặn đánh năm xuồng máy và bốn đại đội địch áp tải lương thực, vũ khí tiếp tế cho Chi Điền, tiêu diệt 19 tên, làm bị thương 67 tên, đánh chìm một xuồng máy. Ngày 6-5-1954, du kích xã Chính Đại lại chặn đánh ba tiểu đoàn địch tiếp tế cho Chi Điền, diệt 59 tên, làm bị thương 13 tên, đánh đắm một thuyền chở gạo, ba xuồng chở đạn. Sau khi cuộc quyết chiến chiến lược ở Điện Biên Phủ kết thúc, quân địch ở Nga Sơn chuẩn bị rút lui. Nắm được âm mưu của địch, bộ đội địa phương cùng dân quân, du kích phối hợp bao vây, bắt gọn 600 tên khi chúng rút chạy ra bờ biển Điền Hộ, thu toàn bộ vũ khí, quân trang, quân dụng. Ba xã bị địch chiếm đóng hoàn toàn giải phóng.


(1) Navarre: Đông Dương hấp hối, Sđd.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 28 Tháng Hai, 2016, 07:51:36 pm
Đồng thời với nhiệm vụ chiến đấu của bộ đội và dân quân du kích, lực lượng công an đã làm nòng cốt trong phát động quần chúng khám phá và trừng trị nhiều ổ phản động tay sai của địch. Sau vụ Hưng Yên năm 1953, đầu năm 1954 các lực lượng an ninh đã khám phá thêm vụ gián điệp Ba Làng, vụ Tuệ Chiêu - Mai Bá Nhạc. Thông qua các vụ án này, nhân dân các địa phương, nhất là đồng bào công giáo càng nhận rõ âm mưu của địch chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc của nhân dân ta. Cuộc vận động quần chúng bảo vệ an ninh được mở rộng trong giáo dân; nhiều cơ sở quần chúng được xây dựng ở vùng đồng bào công giáo. Lực lượng công an còn truy bắt nhiều tên lưu manh, trộm cướp… bảo đảm trật tự xã hội.

Để lực lượng công an thực hiện tốt nhiệm vụ trong tình hình mới, ngày 23-3-1954, Thường vụ Liên khu ủy IV đã ra Chỉ thị số 59 CT/LK4 về việc “Củng cố và tăng cường lãnh đạo công tác công an”. Chỉ thị yêu cầu các cấp ủy tăng cường giáo dục cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo về chính sách công an, thường xuyên theo dõi, kiểm tra và uốn nắn kịp thời giúp đỡ cán bộ chấp hành đúng đắn chính sách của Đảng, chủ trương công tác lãnh đạo cán bộ công an chấp hành đúng các chính sách bắt người, giam giữ, xét hỏi, chính sách chống biệt kích, chỉ điểm, chính sách tiễu phỉ, trừ gian, bổ sung đủ quân số cho công an, cử cán bộ làm công tác chuyên trách… Sau có Chỉ thị của Thường vụ Liên khu ủy, công tác lãnh đạo công an ở các tỉnh có chuyển biến tốt. Lực lượng công an hoạt động tốt hơn trong việc bảo đảm an ninh trật tự nội địa, bảo vệ cơ quan, kho tàng, công xưởng.

Phát huy cao độ sức mạnh hậu phương, thi hành chính sách ruộng đất mới đã tạo điều kiện, đồng thời đặt ra yêu cầu cấp bách về xây dựng, củng cố chính quyền, nhất là ở cấp xã. Trong những địa phương đã phát động quần chúng, những địa chủ, quan lại bị đưa ra khỏi chính quyền cấp huyện và xã. Những đảng viên, quần chúng tốt thuộc thành phần công nhân, bần, cố nông, cả nam lẫn nữ được tăng cường vào chính quyền huyện, xã, qua đó đề cao quyền làm chủ của nông dân. Theo thống kê, 180 ủy ban kháng chiến hành chính xã ở Thanh Hóa thì số chủ tịch xã là bần, cố nông chiếm 65%; phụ nữ chiếm 15%; số ủy viên ủy ban là bần, cố nông chiếm 66,7%; trung nông là 29%, dân tộc thiểu số 5%, công giáo 2% đảng viên 26%. Ở Nghệ An, Hà Tĩnh, có ủy ban kháng chiến hành chính xã gồm toàn bộ là bần, cố nông và công nhân tự do. Kết hợp với giảm tô, các địa phương đã tiến hành chia nhỏ lại các xã cho phù hợp với khả năng, trình độ quản lý của cán bộ. Sau năm đợt giảm tô, 116 xã được phát động ở Hà Tĩnh đã chia lại thành 250 xã.

Để đội ngũ cán bộ là bần, cố nông đảm trách được các công việc chính quyền, liên khu chủ trương bổ túc văn hóa, nâng cao trình độ học vấn cho lực lượng ngày. Ngày 30-4-1954, Liên khu ủy ra Thông tri số 42-TT/LK4 về việc bổ túc văn hóa cho cán bộ xã sau phát động quần chúng. Thông tri chỉ rõ tính cấp bách của công tác này, yêu cầu các cấp ủy đảng phải lãnh đạo chặt chẽ để đẩy mạnh phong trào học văn hóa của cán bộ bần, cố nông; đả thông tư tưởng cho cán bộ về việc cấn thiết phải học tập văn hóa, sắp xếp lại lề lối làm việc, tạo điều kiện cho cán bộ có thời gian học tập thường xuyên. Thông tri nói trên đã đáp ứng được yêu càu bức xúc trong việc nâng cao năng lực của chính quyền, được nhân dân đồng tình, ủng hộ.

Cùng với chính quyền, các đoàn thể quần chúng như Hội Liên Việt, Nông hội, Đoàn thanh niên cứu quốc liên khu cũng được chấn chỉnh và củng cố. Ngày 4-4-1954, Ban Chấp hành Nông hội liên khu ra Nghị quyết về Chương trinh công tác năm 1954, trong đó nêu rõ công tác chấn chỉnh tổ chức cơ sở, xây dựng các tổ chức ở cấp xã, kết hợp xây dựng cơ sở Hội với xây dựng tổ chức dân quân, du kích, chấn chỉnh sinh hoạt, giữ vững sinh hoạt tổ và chấp hành xã, kết nạp hội viên mới; đào tạo cán bộ, giáo dục hội viên, kiện toàn các cấp lãnh đạo và xây dựng lề lối làm việc. Ngày 12-5-1954, Ủy ban Liên Việt Liên khu IV triệu tập hội nghị mở rộng bao gồm đại diện Ủy ban kháng chiến hành chính liên khu, các ủy viên trong Ủy ban Liên Việt liên khu, các đại biểu các đảng, đoàn thể trong Mặt trận, các thủ trưởng cơ quan chuyên môn, các đại biểu Ủy ban Liên Việt tỉnh, xã, các chiến sĩ thi đua, nhân sĩ, trí thức, tư sản dân tộc, đại biểu các tôn giáo. Hội nghị đã tán thành và nhiệt liệt ủng hộ các chính sách của Đảng và Chính phủ, phản đối sự can thiệp của đế quốc Mỹ vào Đông Dương, kêu gọi nhân dân liên khu tích cực thực hiện hai nhiệm vụ trọng tâm là đánh giặc và cải cách ruộng đất, nhận rõ âm mưu của đế quốc Mỹ, mở rộng mặt trận phản đế, phản phong, tăng cường đoàn kết, thi đua đẩy mạnh mọi công tác trước mắt. Hưởng ứng lời kêu gọi của Ủy ban Liên Việt Liên khu, ngày 18-5-1954, Ban Chấp hành Đoàn thanh niên cứu quốc liên khu IV đã ra chỉ thị cho thanh niên liên khu gây phong trào phản đối Mỹ xâm lược Việt - Miên - Lào. Chỉ thị yêu cầu thanh niên ở vùng tự do “tích cực tham gia phát động quần chúng giảm tô và cải cách ruộng đất, phục vụ tiền tuyến, đi dân công, tòng quân, đẩy mạnh học tập và sản xuất, kết hợp củng cố tổ chức”(1)


(1) Chỉ thị số 117 của Ban Chấp hành Đoàn thanh niên cứu quốc Liên khu IV, tài liệu Cục lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 28 Tháng Hai, 2016, 07:53:38 pm
Trong tình hình liên khu phải thực hiện cùng một lúc những nhiệm vụ nặng nề, phức tạp, hoạt động của chính quyền và các đoàn thể quần chúng đã đóng vai trò to lớn trong tổ chức, tạo dựng với sức mạnh tổng hợp từ các nguồn lực khác nhau từ khối đại đoàn kết toàn dân vào phục vụ kháng chiến.

Kháng chiến càng gần ngày thắng lợi, các địa phương Thanh - Nghệ - Tĩnh càng ra sức khắc phục khó khăn, phát triển văn hóa, giáo dục. Ở Thanh Hóa, ngành giáo dục phổ thông đã mang tính phổ cập. Đầu năm học 1953-1954, cả trường công và trường tư toàn tỉnh đã xây dựng được 45 trường cấp I, 85 trường cấp II, sáu trường cấp III và 2.094 lớp vỡ lòng. Ngành bổ túc văn hóa, bình dân học vụ cũng được quan tâm, phát triển. Năm 1953, toàn tỉnh tổ chức được 7.950 lớp học, thu hút 165.000 học viên, trong đó có 2.623 cán bộ lãnh đạo các ngành, các cấp theo học. Tỉnh cũng xây dựng hai trường phổ thông lao động để bồi dưỡng văn hóa cho chiến sĩ thi đua và cán bộ gương mẫu. Tại Hà Tĩnh, đảng bộ chỉ đạo các cấp củng cố giáo dục, chống việc tái mù chữ. Các giáo viên và học sinh được chấn chỉnh, sắp xếp thay nhau tham gia cuộc phát động quần chúng giảm tô.

Trong hoàn cảnh địch đánh phá, các trường ở Thanh - Nghệ - Tĩnh được phân tán, dời xa các trục đường giao thông, dạy và học chuyển vào ban đêm. Trong các trường phổ thông cấp II, học sinh hai ba bàn gần nhau chung một đèn dầu lạc có tán che cao. Mặc dù học đêm rất vất vả, nhất là những khi mưa gió, thầy trò các trường vẫn kiên trì dạy và học đều đặn, đảm bảo chất lượng.

Vượt qua những thiếu thốn về vật chất, ngành y tế các tỉnh vẫn được giữ vững và có bước phát triển mới để phục vụ kháng chiến và góp phần xây dựng nếp sống mới. Các phong trào vệ sinh, phòng bệnh luôn được phát động và được nhân dân tích cực tham gia. Tính đến năm 1954, ngành y tế tỉnh Thanh Hóa đã xây dựng hoàn chỉnh hệ thống bệnh xá cấp xã; phòng, ban cấp huyện, xây thêm bốn bệnh viện khu vực, đào tạo 2.000 y tá, 429 nữ hộ sinh, tổ chức 2.781 đội phòng bệnh. Chỉ trong tháng 9-1953, y tế Thanh Hóa đã tiêm phòng tả cho 375.000 người, tiêm chủng đậu cho 224.000 cháu bé, tiêm thuốc da liễu cho 6.000 bệnh nhân.

Phong trào văn hóa, văn nghệ đã trở thành một nếp sống đẹp của nhân dân Thanh - Nghệ - Tĩnh trong kháng chiến. Đội ngũ văn nghệ sĩ đã tích cực ra mặt trận, về nông thôn, vào các cơ quan, đơn vị, theo các đoàn dân công để phục vụ, làm nòng cốt cho phong trào văn nghệ quần chúng đang phát triển ngày càng rộng khắp. Những hoạt động thông tin tuyên truyền về thắng lợi của cuộc kháng chiến trên các mặt chính trị, quân sự, ngoại giao được tiến hành rầm rộ khắp nơi. Các hoạt động văn hóa, văn nghệ quần chúng, thông tin tuyên truyền trong tháng hữu nghị Việt - Trung - Xô (2-1954) đã thổi một luồng không khí phấn khởi mới trong ba tỉnh. Văn hóa, văn nghệ đã trở thành một nhân tố quan trọng cổ vũ động viên quân dân ba tỉnh sản xuất, phục vụ tiền tuyến, bảo vệ hậu phương.

Nhằm động viên các cán bộ, chiến sĩ, dân công đang công tác, chiến đấu, phục vụ ngoài mặt trận, cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể các địa phương còn quan tâm giúp đỡ và kêu gọi nhân dân ủng hộ, trợ giúp những gia đình thương binh, liệt sĩ, gia đình bộ đội, cán bộ, dân công hỏa tuyến… gặp khó khăn. Phong trào đón nhận thương binh về làng chăm sóc, nuôi dưỡng được nhân dân hưởng ứng. Những việc làm tốt đẹp ở hậu phương đã cổ vũ những chiến sĩ ưu tú của ba tỉnh đang chiến đấu quên mình trên tiền tuyến.

Nhằm thực hiện tốt những nhiệm vụ nặng nề của một hậu phương chiến lược, kết hợp với các đợt phát động quần chúng giảm tô, cải cách ruộng đất, Liên khu ủy đã lãnh đạo các địa phương vùng tự do đẩy mạnh công tác xây dựng đảng. Cuối năm 1953, đầu năm 1954, liên khu và các tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh tiếp tục mở nhiều lớp chỉnh đảng, chình huấn tập trung hoặc tại chức cho số đông cán bộ, công nhân viên, kể cả đảng viên và người ngoài đảng. Qua kiểm thảo và chỉnh huấn, tư tưởng trường kỳ kháng chiến, gian khổ, tự lực cánh sinh, lập trường giai cấp, quan điểm quần chúng của cán bộ, đảng viên được nâng lên. Những sai lạc của cán bộ như cầu an, sợ khổ, sợ khó, kèn cựa địa vị, mất đoàn kết, tác phong quan liêu, mệnh lệnh, xa rời quần chúng… được khắc phục rõ rệt.

Liên khu ủy cũng thực hiện tốt công tác điều động cán bộ phục vụ cho công tác trong liên khu cũng như cho Trung ương. Trong sáu tháng đầu năm 1953, liên khu đã điều động 858 cán bộ các cấp (trong đó có 12 tỉnh ủy viên, 166 huyện ủy viên và tương đương, 411 chi ủy viên và tương đương, 269 tổ trưởng đảng và cán bộ thôn, xóm, 114 cán bộ, nhân viên, 337 học sinh lớp 8, 9…)(1).


(1) Báo cáo số 39 BC/LK4 (21-6-1954) về tình hình sáu tháng đầu năm 1954 của Liên khu IV, Tlđd.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 28 Tháng Hai, 2016, 07:57:05 pm
Tiếp theo chỉnh huấn chính trị, liên khu ủy chỉ đạo các địa phương, các cơ quan tiến hành chỉnh đốn tổ chức đảng, xử lý những cán bộ, đảng viên có sai phạm, đưa ra khỏi đảng những người không đủ tư cách đảng viên, nhằm làm cho đảng trong sạch vững mạnh. Công tác chỉnh đốn tổ chức chủ yếu là ở cấp chi bộ. Kết quả là đã đưa ra khỏi đảng những cán bộ, đảng viên không kiên định, vững vàng, tư lợi, nâng cao được thành phần công nhân, bần, cố nông, trung nông lớp dưới trong đảng, đề bạt được nhiều cán bộ nữ vào những chức vụ chủ chốt trong chính quyền, đoàn thể. Cùng với việc phân nhỏ lại các xã, quy mô các chi bộ cũng được điều chỉnh lại. Qua bốn đợt phát động quần chúng, từ 351 chi bộ lúc mới phát động, đã chia thành 674 chi bộ mới.

Tuy nhiên, công tác chỉnh đốn chi bộ phạm phải nhiều sai lầm như không dựa vào chi bộ đảng, nặng về phân biệt thành phần, thiên về kỷ luật, xử phạt mà không chú trọng đến giáo dục, giác ngộ. Do lịch sử để lại, hầu hết các chi bộ trong liên khu đều có tình trạng đông về số lượng (trung bình một chi bộ có 400 đến 500 đảng viên, thậm chí có chi bộ lên tới 600 đảng viên), phức tạp về thành phần, trong đó có cả những đảng viên vốn là địa chủ(1). Nhiều nơi chi ủy không nắm hết đảng viên, đảng viên không biết đến chi ủy, mối quan hệ trong chi bộ không chặt chẽ… Trong tình hình đó, việc chỉnh đốn lại chi bộ là cần thiết. Tuy nhiên, do xuất phát từ nhận thức: “Chỉnh đốn chi bộ trong phát động quần chúng giảm tô là cuộc đấu tranh giai cấp chống lại những phần tử địa chủ và tư tưởng địa chủ trong nội bộ đảng ở nông thôn” và “phải phối hợp với cuộc đấu tranh của nông dân chống giai cấp địa chủ ở bên ngoài”(2), nên cuộc chỉnh đốn đảng đã nặng về thanh lọc thành phần. Hầu hết đảng viên thuộc thành phần tư sản, địa chủ, trong đó có cả những người bị quy vào thành phần giai cấp bóc lột đều bị khai trừ ra khỏi tổ chức đảng. Trong số 1.993 đảng viên bị xử lý ở đợt bốn giảm tô thì có tới 1.327 người thuộc thành phần bóc lột(3). Trong sáu tháng đầu năm 1954, ở vùng tự do Liên khu IV có 4.374 người bị xử lý thì 1.884 người có thành phần xuất thân thuộc giai cấp bóc lột(4). Việc kết nạp đảng viên mới, đề bạt cán bộ cũng chỉ chú trọng trong tầng lớp bần, cố nông. Theo số liệu tổng kết công tác chỉnh đốn chi bộ trong đợt ba phát động quần chúng giảm tô thì toàn bộ 271 đảng viên mới được kết nạp (số liệu tính trong năm xã) đều là bần, cố nông. Trong chỉnh đốn chi bộ kết hợp với giảm tô đợt bốn đã kết nạp 371 đồng chí, tất cả thuộc thành phần bần, cố nông(5). Sáu tháng đầu năm 1954, trong số 2.315 chi ủy viên thì 4/5 thuộc về thành phần công nhân, bần, cố nông(6). Nếu tính cả năm 1954 thì 72% số cán bộ được đề bạt thuộc về thành phần bần, cố nông(7). Công việc của đảng trong các chi ủy và một số huyện ủy chỉ do các đồng chí thuộc thành phần bần, cố nông đảm đương, nhiều người chưa được rèn luyện, bồi dưỡng đúng mức nên lúng túng trong công tác, có kiêu căng, tự mãn. Số đảng viên thuộc thành phần trung nông, tiểu tư sản hay có nguồn gốc xuất thân từ gia đình bóc lột không được bố trí công tác nên hoang mang, dao động, lo lắng.

Việc chỉnh đốn chi bộ do các đội công tác đảm đương và chủ yếu dựa vào quần chúng không dựa vào tập thể chi bộ cũng gây ra những hậu quả không tốt. Các đội công tác trong khi tiến hành năm bước chỉnh đốn cho rằng do tình hình các chi bộ phức tạp, không trong sạch nên không thể dựa vào được. Từ đó, các đội không chú ý phát động tư tưởng đảng viên, không giao công tác cho đảng viên, vì sợ như thế là “dựa vào tổ chức cũ mà mù quáng”. Có cán bộ trong đội công tác không dám gặp đảng viên, cho rằng vào nhà đảng viên thì quần chúng không dám xuất hiện. Những sai lạc trên đây đã làm cho chi ủy đứng ngoài công tác chỉnh đốn, một bộ phận đảng viên hoang mang, sợ sệt.

Việc xử lý đảng viên cũng có khuynh hướng nặng về kỹ luật, xử phạt, khai trừ. Trong 73 xã phát động quần chúng đợt ba kết hợp với chỉnh đốn chi bộ đã có 1.676 đảng viên bị đưa ra khỏi đảng. Số đảng viên bị khai trừ trong đợt bón giảm tô kết hợp chỉnh đốn tổ chức là 2.875 đảng viên, trong khi chỉ kết nạp được 371 đồng chí. Ngoài ra, ba tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh còn giải tán hai chi bộ, 30 tổ đảng với 864 đảng viên. Ở Nghệ An và Hà Tĩnh, cuộc chỉnh đốn chi bộ trong đợt bốn giảm tô ở 34 xã đã đưa ra khỏi đảng 1.452 người, trong khi chỉ kết nạp được 154 đồng chí mới. Tỷ lệ đảng viên bị khai trừ trong các đợt chỉnh huấn chi bộ ngày càng có xu hướng tăng lên.

Những sai lạc trong công tác xây dựng đảng nói trên đã có ảnh hưởng nhất định đến công tác lãnh đạo, chỉ đạo của đảng bộ cũng như các hoạt động kháng chiến của quân và dân liên khu, trước hết là quân và dân ba tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh.


(1) Báo cáo số 24 BCTC/LK4 (8-7-1954) của Ban Tổ chức Liên khu IV.
(2) Theo số liệu điều tra ở 83 chi bộ trong chỉnh đốn chi bộ đợt ba thì trong 23.093 đảng viên có 614 phú nông 165 địa chủ, 78 con địa chủ, 39 tư sản, 806 tiểu tư sản, 211 công nhân, 369 bần, cố nông, 10.743 trung nông, 11.068 bần nông. Trong 757 chi ủy viên có hai công nhân, 333 bần nông, 366 trung, 12 phú nông, 38 tiểu tư sản, một địa chủ, một lưu manh.
(3) Tổng kết công tác chỉnh đốn chi bộ trong đợt ba ở Liên khu IV.
(4) Báo cáo số 24 BC TC/LK4 (8-7/1954) của Ban Tổ chức Liên khu IV.
(5) Báo cáo số 24 BC TC/LK4 (8-7/1954) của Ban Tổ chức Liên khu IV.
(6) Báo cáo toàn năm 1954, số 90 BC/LK4 của Liên khu ủy IV (26-1-2-1954), tài liệu Cục lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.
(7) Báo cáo chỉnh đốn chi bộ bước một của các đội công tác ở Liên khu IV, tài liệu Cục lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 28 Tháng Hai, 2016, 07:58:41 pm
IV. CHỐNG ÂM MƯU VÀ HÀNH ĐỘNG MỚI CỦA ĐỊCH,
HOÀN THÀNH NHIỆM VỤ SAU KHI KẾT THÚC CHIẾN TRANH

Thắng lợi to lớn của quân và dân ta trong chiến cuộc đông - xuân 1953-1954 mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ đã giáng một đòn quyết định vào ý đồ xâm lược của quân đội Pháp. Bị thiệt hại nặng nề sau chín năm theo đuổi cuộc chiến tranh vô vọng, mưu toan dùng quân sự để tìm kiếm một giải pháp chính trị cho nước Pháp thất bại đã buộc Pháp phải ký Hiệp định Giơnevơ lập lại hòa bình ở Đông Dương vào ngày 21-7-1954. Bản Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam bao gồm sáu chương, 47 điều và phụ bản kèm theo quy định lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới quân sự tạm thời để lực lượng hai bên tập kết. Giới tuyến quân sự chỉ có tính chất tạm thời, hoàn toàn không thể coi như một biên giới chính trị hoặc lãnh thổ. Thời gian tổng tuyển cử thống nhất nước Việt Nam được ấn định vào tháng 7-1956.

Sau Hiệp định Giơnevơ tình hình Liên khu IV có thay đổi lớn, tác động sâu sắc đến mọi hoạt động của liên khu. Một lần nữa trong lịch sử dân tộc, địa bàn Liên khu IV trở thành nơi chứa đựng đường ranh giới tạm thời chia đôi đất nước(1). Phía bắc liên khu gồm các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình và hơn ba phần tư huyện Vĩnh Linh của tỉnh Quảng Trị được hoàn toàn giải phóng; phía nam liên khu gồm phần lớn tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên còn nằm trong vùng địch tạm đóng quân. Cuộc chiến chống Pháp kết thúc song cuộc đấu tranh giải phóng khỏi sự chiếm đóng của quân đội nước ngoài của quân và dân Liên khu IV mới đi được hơn nửa chặng đường. Chính đặc điểm này đã làm cho tình hình ở Liên khu IV khó khăn và phức tạp không kém thời kỳ kháng chiến.

Mặc dù bị bại trận buộc phải chấm dứt chiến tranh xâm lược song thực dân Pháp và can thiệp Mỹ đã lợi dụng thời gian tập kết chuyển quân giữa hai bên để phá hoại miền Bắc về nhiều mặt. Tại Liên khu IV, quân đội Pháp và can thiệp Mỹ cùng bọn tay sai đã ráo riết thực hiện âm mưu biến vùng tạm đóng quân Quảng Trị, Thừa Thiên thành căn cứ quân sự phục vụ ý đồ chia cắt đất nước ta. Chúng dụ dỗ, cưỡng bức đồng bào công giáo di cư vào Nam, tung gián điệp ra vùng Thanh - Nghệ - Tĩnh, vùng giải phóng Quảng Bình để xây dựng cơ sở chống phá ta lâu dài.

Ở Trị Thiên, quân Pháp chuyển lính Âu - Phi ra đóng dọc giới tuyến và các vị trí quan trọng như Huế, sân bay Phú Bài, Quảng Trị, Đông Hà, Dốc Miếu... Đến tháng 11-1954, ở Quảng Trị địch có Binh đoàn cơ động số 18 và Tiểu đoàn 5 Trung đoàn Bắc Phi (RTM); ở Thừa Thiên, chúng cũng bố trí nhiều đơn vị lính Âu - Phi đóng giữ. Bên cạnh đó, địch còn bắt thanh niên đi lính để lập Bảo chính đoàn(2) làm chỗ dựa cho cơ quan ngụy quyền. Đến tháng 11-1-54, chúng đã tổ chức được ở Quảng Trị 10 đại đội Bảo chính đoàn, mỗi đại đội có trên 100 tên; ở Huế, một tiểu đoàn gồm ba đại đội.

Đồng thời với các hoạt động quân sự, địch đẩy mạnh các thủ đoạn chính trị, xúc tiến tạo dựng cơ sở để lập chính quyền tay sai, tiến hành các hoạt động khủng bố, đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân, trả thù những người tham gia kháng chiến trước đây, bắt bớ, giết hại cán bộ.

Được đế quốc Mỹ tiếp sức và các thế lực hiếu chiến Pháp khuyến khích, bọn tay sai ở Trị - Thiên tuyên bố: “Pháp đầu hàng Việt Minh nhưng quốc gia không đầu hàng”, “Ngừng nòng súng nhưng không ngừng báng súng”. Ngay trong ngày ngừng bắn 1-8-1954, một số đồn, bốt do ngụy binh chốt giữ vẫn tiếp tục bắn vào quần chúng biểu tình mừng hòa bình hoặc đòi chồng con về, điển hình là cuộc gây tội ác ở Kim Đôi làm chết 26 người, bị thương 70 người. Tính đến 20-11-1954, ở Trị - Thiên, địch đã tiến hành 149 vụ khủng bố, bắt bớ làm 114 người chết, 1.030 người bị thương, 303 người bị bắt.

Những âm mưu và hành động quân sự, chính trị của địch trong vùng tạm đóng quân Trị - Thiên nằm trong âm mưu đánh phá cơ sở chính trị của ta, phá hoại Hiệp định Giơnevơ, tiến tới phá hoại tổng tuyển cử tự do thống nhất đất nước, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ. Sự ngoan cố và xảo quyệt của kẻ thù đã đặt ra cho nhân dân Liên khu IV, trước hết là nhân dân Quảng Trị - Thừa Thiên những thử thách to lớn.


(1) Sau lần đánh nhau thứ bảy (vào năm 1672) chính quyền Trịnh và chính quyền Nguyễn đã ngừng chiến, lấy sông Gianh làm giới hạn chia cắt Đàng Ngoài, Đàng Trong. Đến tháng 11-1774, quân Trịnh vượt giới tuyến sông Gianh đánh chúa Nguyễn, chiếm dần các dinh phía bắc Phú Xuân. Đường chia cắt Đàng Ngoài, Đàng Trong mất ý nghĩa từ đó. Đến năm 1783, chính quyền chúa Nguyễn bị quân Tây Sơn đánh đổ thì cục diện Trịnh - Nguyễn phân tranh hoàn toàn chấm dứt. Do sự xâm lược của Mỹ, giới tuyến quân sự tạm thời trên thực tế trở thành đường chia đôi đất nước suốt 21 năm.
(2) Bảo chính đoàn là lực lượng ngụy quân người Việt ra đời vào giữa năm 1948, do Nghiêm Xuân Thiện - Tổng trấn Bắc phần tổ chức. Bảo chính đoàn nghĩa là đoàn quân bảo vệ các hoạt động hành chính.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 28 Tháng Hai, 2016, 08:00:04 pm
Trên địa bàn các tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh - Bình, nhân dân cũng gặp phải những khó khăn không nhỏ. Sau gần một thập kỷ kháng chiến, những công trình thủy lợi lớn, hệ thống giao thông huyết mạch, các đô thị bị tàn phá, xuống cấp, hư hỏng nặng nề. Hạn hán gay gắt rồi nạn lụt lớn xảy ra làm một số đê đập bị vỡ, 7.000 nhà bị trôi, bị sập, 1.015 trâu, bò bị chết, 118.128 mẫu ruộng bị mất trắng khiến cho vụ mùa 1954 thất thu nghiêm trọng. Hòa bình lập lại, nhiều chủ sản xuất hàng công nghệ hồi cư mang theo phương tiện, tiền vốn về vùng giải phóng Bắc Bộ, cùng với sự giảm sút về nguyên liệu và sức mua ở thị trường nông thôn đã làm cho các ngành thủ công ở Thanh - Nghệ - Tĩnh bị đình đốn; hàng ngàn người lao động ở các đô thị và vùng ven biển thiếu việc làm. Do địch đe dọa, lừa bịp và cả sự chủ quan của ta, đến tháng 11-1954, trên địa bàn bốn tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình và huyện Vĩnh Linh đã có hơn 2,5 vạn giáo dân bán hết nhà cửa, tài sản, trâu bò bỏ sản xuất di cư vào Nam. Sự đóng góp cao độ nhân tài, vật lực trong chiến tranh, nhất là trong đông - xuân 1953-1954 đã gây nên những ảnh hưởng trầm trọng đối với Thanh - Nghệ - Tĩnh. Tin trên cùng với sự bất cập của mạng lưới y tế đã gây nên nạn thiếu đói trầm trọng và dịch bệnh diễn ra trên diện rộng, kéo dài, đe dọa tính mạng và đời sống của nhân dân(1). Trong khi đó, nhân dân các tỉnh phải cung cấp một khối lượng lớn lương thực, thực phẩm nuôi dưỡng bộ đội, thương bệnh binh, cán bộ đồng bào từ các chiến trường trở về miền Bắc di chuyển qua, cũng như cho quân nhân, cán bộ, đồng bào bị địch bắt được trao trả ở Sầm Sơn, Cửa Hội. Đời sống của nhân dân bốn tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh - Bình càng thêm khó khăn gay gắt.

Ngoài những khó khăn trên, trong không khí phấn khởi tràn ngập liên khu, một bộ phận cán bộ, nhân dân vùng tự do, vùng mới giải phóng xuất hiện tư tưởng lạc quan tếu, chủ quan một chiều, không nhận thấy hết âm mưu của địch. Ngược lại, số cán bộ có trách nhiệm ở lại hoạt động biểu lộ rõ sự lo lắng, bi quan, thiếu tin tưởng khi nhận được tin quân ta tập kết ra Bắc. Những lệch lạc tư tưởng, nhận thức nói trên cũng là một trở ngại cần phải khắc phục ở Liên khu IV sau ngày đình chiến.

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi đã đem lại cho quân và dân Liên khu IV những thuận lợi cơ bản. Bốn trong sáu tỉnh của liên khu là Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình và một phần phía bắc tỉnh Quảng Trị đã hoàn toàn thoát khỏi thế bị uy hiếp và kìm kẹp của kẻ thù. Là một bộ phận của miền Bắc đã hoàn toàn giải phóng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân bốn tỉnh có điều kiện xây dựng lại cuộc sống quá độ lên chủ nghĩa xã hội, làm cơ sở cho cuộc đấu tranh giải phóng hai tỉnh tạm thời còn nằm trong sự kiểm soát của địch, góp phần cùng cả nước thực hiện cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Thắng lợi của cuộc kháng chiến đã thổi một luồng sinh khí mới vào các tầng lớp nhân dân liên khu. Niềm tin tưởng vào Đảng, Chính phủ, vào khả năng tự thân cũng là một nguồn lực để nhân dân liên khu vượt qua khó khăn, hoàn thành các nhiệm vụ thời kỳ hậu chiến.

Trước tình hình mới, quán triệt những nhiệm vụ mà Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch ra, một ngày sau khi thực hiện lệnh ngừng bắn, Liên khu ủy IV mở hội nghị mở rộng để quyết định những nhiệm vụ cấp bách trước mắt.

Hội nghị thống nhất về các vấn đề bức xúc sau đây:

“- Quy định phạm vi và kế hoạch tiếp thu vùng mới giải phóng Quảng Bình, Vĩnh Linh cho các đơn vị.

- Chuẩn bị kế hoạch tập kết cán bộ, bộ đội và một bộ phận nhân dân Trị - Thiên, bố trí cơ sở đảng và chính quyền ở lại hoạt động để lãnh đạo nhân dân Trị - Thiên đấu tranh lâu dài với địch.

- Chuẩn bị trao trả tù binh.

- Chống âm mưu địch cưỡng ép đồng bào theo đạo Thiên chúa di cư vào Nam.

- Xây dựng lực lượng vũ trang trong tình hình mới”(2).

Tiếp đó từ ngày 5 đến ngày 8-10-1954, Ủy ban kháng chiến hành chính Liên khu IV đã tiến hành hội nghị hành chính liên khu để xác định những nhiệm vụ của liên khu trong thời gian tới. Hội nghị đã đề ra quyết tâm: “Nghiêm chỉnh chấp hành hiệp định đình chiến và kiên quyết đấu tranh chống mọi âm mưu phá hoại hiệp định, phá hoại hòa bình.

Nỗ lực khắc phục mọi khó khăn, ra sức phát huy thuận lợi và khả năng để hoàn thành phát động quần chúng triệt để giảm tô và đẩy mạnh công tác cải cách ruột đất ở vùng tự do cũ, phục hồi và phát triển sản xuất, thực hành tiết kiệm, phục hồi, phát triển thương mại và giao thông vận tải, chấn chỉnh lại việc học hành và thiết thực chăm lo sức khỏe của nhân dân, bắt đầu hàn gắn những vết thương chiến tranh, chuẩn bị xây dựng một nền kinh tế phồn thịnh trong liên khu”(3).

Hội nghị đã đề ra chương trình công tác trên các mặt kinh tế, tài chính, công tác nội chính năm tháng cuối năm 1954. Nghị quyết hội nghị nêu rõ: Cần phải đẩy mạnh công tác kinh tế, tài chính, chủ yếu là công tác sản xuất và vận thương. Trong công tác sản xuất thì sản xuất nông nghiệp là quan trọng nhất; trong công tác vận thương thì phục hồi các thị trấn cũ, phục hồi các đường bộ và đường biển là chính. Về công tác nội chính, nghị quyết đề ra các nhiệm vụ cụ thể gồm: chỉnh đốn gấp rút các trại quân; thành lập các đơn vị cảnh vệ cần thiết để bảo vệ các phái đoàn ngoại quốc và kiểm tra tuần tiễu ở vành đai phi quân sự và các vùng giáp địch; phối hợp với tuyên huấn, có kế hoạch tổ chức và giáo dục cho số cán bộ và đồng bào bị địch bắt được thả ra, xây dựng bộ máy chính quyền trong vùng mới giải phóng đặc biệt là thị xã Đồng Hới và vùng nông thôn trước đây bị tạm chiếm, nghiên cứu kế hoạch sử dụng và phân phối số cán bộ ở Trị - Thiên sắp rút ra, điều hòa hợp lý số cán bộ của các ngành hiện đã hết nhiệm vụ như Hội đồng cung cấp, tiếp vận miền Nam…; tăng cường công tác bảo vệ chính trị, chú trọng vùng giáp địch và vành đai phi quân sự. Những chương trình do hội nghị đề ra chính là sự cụ thể hóa những phương hướng do Hội nghị Liên khu ủy đề ra trước đó.


(1) Đầu năm 1955, trong số ba triệu dân của các tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh - Bình và của huyện Vĩnh Linh có hơn 55 vạn người thiếu đói nặng (có nơi như huyện Thanh Chương - Nghệ An có 64% dân bị đói), trên 365.000 người bị mắc năm thứ bệnh; số người bị chết đói và chết bệnh lên tới 5.609 người.
(2) Quân khu IV, Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954), Sđd, tr. 382.
(3) Nghị quyết Hội nghị hành chính Liên khu IV (từ ngày 5 đến ngày 10-8-1954), tài liệu Trung tâm lưu trữ quốc gia III.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 28 Tháng Hai, 2016, 08:02:00 pm
Sau các hội nghị của Liên khu ủy và Ủy ban kháng chiến hành chính liên khu, Hội nghị Ủy ban Liên Việt Liên khu IV mở rộng đã họp từ ngày 10 đến ngày 12-8-1954. Sau ba ngày thảo luận, 66 đại biểu dự hội nghị đại diện cho các tầng lớp công, nông, binh, dân công, nhân sĩ, trí thức, công thương, tôn giáo đã nhiệt liệt hoan nghênh thắng lợi của Hội nghị Giơnevơ; biểu lộ sự tin tưởng tuyệt đối vào Chủ tịch Hồ Chí Minh, vào Đảng và Chính phủ, quyết tâm mở rộng và củng cố Mặt trận dân tộc thống nhất trên cơ sở liên minh công - nông cho phù hợp với tình hình mới để làm tròn ba nhiệm vụ lớn mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra và những công tác cấp thiết trong liên khu đã được Liên khu ủy, Ủy ban kháng chiến hành chính liên khu đề ra.

Những chủ trương và quyết nghị của hội nghị nói trên đã thể hiện quyết tâm lớn của đảng bộ, của quân và dân Liên khu IV trước những khó khăn và thử thách to lớn, là cơ sở để nhân dân liên khu phát huy thắng lợi, tập trung mọi nguồn lực hoàn thành những nhiệm vụ nặng nề và cấp thiết trên chặng đường mới.

Theo thỏa thuận tại Hội nghị quân sự Trung Giã, vào ngày 22-7-1954, Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam ra lệnh ngừng bắn trên toàn chiến trường Việt Nam. Theo lệnh của Bộ Tổng tư lệnh, đúng 7 giờ sáng ngày 1-8-1954, lệnh ngừng bắn có hiệu lực ở Bình - Trị - Thiên. Đúng như kế hoạch đã được bàn bạc giữa ta và Pháp, quân đội Pháp đã bắt đầu rút quân ra khỏi Quảng Bình và bắc Quảng Trị. Lực lượng vũ trang ta và một bộ phận cán bộ, nhân dân ở Quảng Trị và Thừa Thiên nhanh chóng tập trung vũ khí ra Bắc tập kết. Một giai đoạn mới bắt đầu trên mảnh đất “Bình - Trị - Thiên khói lửa”.

Để kịp thời chỉ đạo Bình - Trị - Thiên chuyển hướng hành động cho phù họp với tình hình mới, ngày 3-8-1954, Liên khu ủy IV đã ra chỉ thị về công tác của Bình - Trị - Thiên, hướng quân và dân ba tỉnh thực hiện những nhiệm vụ trước mắt cho đến khi ta rút quân. Theo đó, Bình - Trị - Thiên có hai nhiệm vụ chính là: “Tiếp tục các công tác trước mắt của chính quyền cách mạng” và “Chuẩn bị để chuyển hướng hoạt động đúng theo phương châm công tác ở vùng địch tạm đóng quân”(1).

Đối với nhiệm vụ thứ nhất, chỉ thị yêu cầu các tỉnh Bình - Trị - Thiên tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân về tình hình và phương châm, nhiệm vụ mới của Đảng, ý nghĩa và thắng lợi của việc ký hiệp định đình chiến, tổng tuyển cử thống nhất đất nước; lãnh đạo nhân dân giải quyết những nhiệm vụ cần kíp; giải quyết những vấn đề thắc mắc cho nhân dân; trong vùng tạm chiếm, phải bố trí cán bộ thâm nhập và tuyên truyền sâu rộng trong quần chúng để xây dựng cơ sở lâu dài; đẩy mạnh công tác địch vận, ngụy vận.

Đối với nhiệm vụ chuyển hướng công tác ở vùng địch tạm đóng quân, chỉ thị chỉ rõ phải thực hiện chuyển hướng tư tưởng cán bộ đồng thời phải chuẩn bị về tổ chức, đặc biệt coi trọng tổ chức đảng. Tổ chức cơ sở đảng phải bí mật, trong sạch, trọng chất hơn lượng. Lãnh đạo phải chặt chẽ, giữ vững nguyên tắc. Phương pháp tiến hành phải nhẹ nhàng, đơn giản. Bộ máy lãnh đạo của tỉnh và huyện phải tổ chức theo nguyên tắc đơn giản, gọn nhẹ, trọng chất hơn số lượng. Đội ngũ cán bộ phải tuyển chọn những người có lập trường vững vàng, kiên quyết đấu tranh với địch, có khả năng công tác và liên hệ với quần chúng, lịch sử nhân thân phải rõ ràng. Các tổ chức quần chúng phải thực hiện nguyên tắc bí mật là chính kết hợp với khả năng hợp pháp với khả năng nửa hợp pháp. Chỉ thị cũng yêu cầu các tỉnh phải chuẩn bị rút quân và di chuyển các cơ quan, bộ phận không cần thiết ra vùng giải phóng.

Để ngăn chặn những hành động bột phát có thể xảy ra(2), ngày 5-8-1954, Liên khu ủy đã ra Chỉ thị số 82/CT-LK4 yêu cầu các cấp ủy chấp hành đúng lệnh ngừng bắn “tuyệt đối tránh những hành động quân sự”, trách việc Pháp tạo cớ kéo dài thời gian tập trung và rút quân.

Để giúp Quảng Bình hoàn thành tốt nhiệm vụ tiếp quản, Liên khu ủy đã tăng cường cho tỉnh gần 200 cán bộ, cử một ủy viên thường vụ khu vào trực tiếp truyền đạt chỉ thị, bàn với địa phương kế hoạch thực hiện các công tác cấp bách trước mắt. Liên khu ủy cũng ra quyết định sáp nhập huyện Vĩnh Linh vào tỉnh Quảng Bình, bao gồm cả vùng phi quân sự.

Dưới sự chỉ đạo sát sao, kịp thời của Liên khu ủy, từ đầu tháng 8-1954, khi quân địch rút khỏi các vị trí, bộ đội và cán bộ ta lần lượt tiếp quản Bố Trạch, Quảng Ninh, Lệ Thủy, Vĩnh Linh. Đến trưa ngày 18-8-1954, đơn vị cuối cùng của địch rút khỏi Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình (bao gồm cả huyện Vĩnh Linh) hoàn toàn giải phóng. Việc tiếp quản chính quyền từ tay địch được chuẩn bị sẵn từ trước theo kinh nghiệm của các thành phố mới giải phóng ở Bắc Bộ đã diễn ra thuận lợi. An ninh trật tự được bảo đảm. Một số hiện tượng lệch lạc được sửa chữa kịp thời(3). Được cán bộ cách mạng tuyên truyền vận động, nhân dân các vùng địch chuẩn bị rút quân đã đấu tranh chống địch cướp bóc, phá tài sản công cộng, giữ được nguyên vẹn nhà máy điện cho thị xã Đồng Hới. Đồng bào còn hăng hái tham gia các hoạt động xã hội, chuẩn bị tích cực đón tiếp cán bộ, chiến sĩ và một bộ phận nhân dân Trị - Thiên ra tập kết.


(1) Chỉ thị số 178 Về công tác của Bình - Trị - Thiên của Liên khu ủy IV, tài liệu Cục lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.
(2) Sau khi Hiệp định Giơnevơ mới ký kết, một số địa phương ở Bình - Trị - Thiên còn có khuynh hướng nặng về đấu tranh vũ trang, tranh thủ diệt thêm một số địch.
(3) Thời gian đầu ngừng bắn, do việc vận động chính trị chưa kịp thời nên một số nơi ở nông thôn đồng bào không theo đạo đã đến dỡ nhà cửa, lấy tài sản của đồng bào công giáo, một số cán bộ nằm im đã đứng ra bắt ép địa chủ bán lúa rẻ, vi phạm chính sách.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 28 Tháng Hai, 2016, 08:04:09 pm
Sau khi việc rút quân của cả hai bên ở Bình - Trị - Thiên hoàn tất, vào ngày 9-9-1954, Liên khu ủy đã ra Chỉ thị số 94/CT-LK4 Về tình hình nhiệm vụ mới ở Bình - Trị - Thiên. Tiếp đó, vào ngày 25-9-1954, Liên khu ủy ra tiếp Chỉ thị số 262 về công tác của tỉnh Quảng Bình. Trong chỉ thị này, Liên khu ủy vạch ra những công tác chính của tỉnh Quảng Bình cho đến khi phát động quần chúng giảm tô là: “Tiếp tục tuyên truyền giải thích chính sách của Đảng và Chính phủ trong mọi tầng lớp nhân dân và trong nội bộ đảng, chú trọng khôi phục sinh hoạt của nhân dân”(1). Chỉ thị yêu cầu Tỉnh ủy tỉnh Quảng Bình phải chú trọng khôi phục sản xuất ở nông thôn, chấn chỉnh các sinh hoạt và mọi mặt công tác ở thành thị, chú trọng vận động đồng bào công giáo, giải quyết các vấn đề tư tưởng đoàn kết nội bộ… Theo phương hướng đó, cấp ủy đảng, chính quyền các cấp trong tỉnh đã tổ chức nhân dân đẩy mạnh sản xuất chống đói, phục hồi ruộng hoang, giải quyết tình trạng thất nghiệp ở các thị xã, thị trấn, đưa các hoạt động công, thương nghiệp trở lại bình thường. Do sự nỗ lực của đảng bộ, chính quyền và toàn thể nhân dân, đến cuối năm 1954, nạn thiếu đói tuy vẫn còn song không nghiêm trọng như sau lũ lụt; nạn thất nghiệp của các tầng lớp nhân dân nghèo ở thị xã, thị trấn được giải quyết một phần. Nhiều công trình thủy lợi được xây dựng để phục vụ sản xuất. Riêng huyện Lệ Thủy đã phục hồi được 3.296 mẫu ruộng bị bỏ hoang.

Ở Quảng Trị và Thừa Thiên - Huế, quân và dân hai tỉnh gấp rút chuẩn bị cuộc đấu tranh mới. Đúng vào ngày Hội nghị Giơnevơ kết thúc, Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Trị đã triệu tập hội nghị cán bộ toàn tỉnh tại chiến khu Ba Lòng để xác định nhiệm vụ trong thời gian tới. Hội nghị nhất trí chuyển chi bộ từ đơn vị xã thành các chi bộ theo đơn vị thôn, đề ra phương châm xây dựng tổ chức cơ sở đảng ở vùng địch tạm đóng quân là gọn và bí mật. Hội nghị đặc biệt nhấn mạnh công tác tư tưởng: “Cán bộ đảng viên không vì hòa bình mà lơ là mất cảnh giác với những âm mưu và thủ đoạn mới của địch (…), phải bám địa bàn, cùng với quần chúng phát huy và bảo vệ thành quả cách mạng đã giành được trong 25 năm qua”(2). Những chủ trương của hội nghị sau đó được bổ sung hoàn chỉnh bằng Chỉ thị số 178 (ngày 3-8-1954) của Liên khu ủy, trở thành quyết tâm hành động của quân và dân Quảng Trị trong thời gian trước mắt.

Sau khi tiếp thu Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương (khóa II), các chỉ thị của Liên khu ủy, tham khảo chủ trương của Hội nghị Ủy ban kháng chiến hành chính liên khu và hội nghị Ủy ban Liên Việt liên khu, Tỉnh ủy Thừa Thiên đã triệu tập hội nghị cán bộ toàn tỉnh vào ngày 24-8-1954 tại chiến khu Hòa Mỹ để triển khai công tác, tổ chức lãnh đạo trong thời gian trước mắt. Hội nghị chủ trương chuyển hướng hoạt động với phương châm kết hợp hình thức đấu tranh hợp pháp với bất hợp pháp, lấy hoạt động bí mật, không hợp pháp là chính; hình thức đấu tranh phải linh hoạt, sáng tạo, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ; phải coi trọng cả địa bàn thành thị lẫn nông thôn, tổ chức hoạt động phải tuyệt đối không để lộ lực lượng nhưng cũng không vì giữ bí mật, giữ lực lượng mà thủ tiêu đấu tranh. Hội nghị quyết định phát động phong trào rộng lớn trong toàn tỉnh nhằm “đấu tranh khôi phục đời sống bình thường sau chiến tranh, đòi địch thi hành hiệp định, bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân, chống khủng bố những người kháng chiến cũ, chống việc cướp ruộng đất và vi phạm quyền tự do dân chủ, đòi hiệp thương tổng tuyển cử”(3).

Theo những chủ trương mà Liên khu ủy và cá tỉnh ủy vạch ra, quân và dân Quảng Trị, Thừa Thiên đã thực hiện việc tập kết, di chuyển cơ quan, kho tàng ra vùng giải phóng trước ngày đóng giới tuyến. Ở Thừa Thiên, trong các ngày 17, 18, 19-8-1954, 2.760 cán bộ, chiến sĩ, nhân dân, trong đó có 240 du kích chia làm ba đợt lên đường ra Bắc. Ở Quảng Trị, ngày 28-8, 2.317 người, trong đó có 573 du kích rời địa phương đi tập kết. Trong thời gian chuẩn bị tập kết, cán bộ, chiến sĩ vẫn tranh thủ thực hiện nhiệm vụ của chính quyền cách mạng: tuyên truyền rộng rãi chủ trương chính sách của Đảng, thắng lợi của Hội nghị Giơnevơ, ổn định tư tưởng cho cán bộ và nhân dân; sửa chữa những sai lầm như phát động đấu tranh chính trị rầm rộ sau ngày hiệp định được ký kết làm lộ cơ sở; vận động nhân dân giúp đỡ nhau khôi phục lại sinh hoạt bình thường, đảm bảo đời sống sản xuất. Các tỉnh ủy Quảng Trị, Thừa Thiên cũng khẩn trương sắp xếp lại tổ chức đảng, chính quyền, bố trí cán bộ, đảng viên ở lại hoạt động, gây cơ sở lâu dài lãnh đạo nhân dân đấu tranh buộc địch phải thi hành hiệp định. Việc chuyển hướng hoạt động ở vùng du kích vào căn cứ du kích cũng thực hiện kịp thời theo đúng phương châm bí mật là chính kết hợp với khả năng hợp pháp và nửa hợp pháp.


(1) Chỉ thị số 262 của Liên khu ủy IV (25-9-1954), tài liệu Cục lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.
(2) Lịch sử Đảng bộ tỉnh Quảng Trị (t.I (1930-1954), Sđd, tr. 409.
(3) Lịch sử Đảng bộ Thừa Thiên - Huế, Sđd.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 28 Tháng Hai, 2016, 08:05:14 pm
Sau khi lực lượng bộ đội ta tập kết ra Bắc, tình hình Trị - Thên thay đổi, nhân dân hai tỉnh nằm trong vùng kiểm soát của chính quyền và quân đội địch. Để định hướng cho Trị - Thiên thực hiện nhiệm vụ cách mạng trong bối cảnh mới, ngày 9-5-1954, Liên khu ủy IV ra chỉ thị về tình hình, nhiệm vụ mới của Bình - Trị - Thiên. Chỉ thị nêu rõ nhiệm vụ lãnh đạo nhân dân đấu tranh ở đây phải nhằm vào việc chống những âm mưu của địch, giữ vững những quyền lợi dân chủ và dân sinh đã đạt được, đòi cải thiện sinh hoạt; nội dung và khẩu hiệu đấu tranh phải xoay quanh những nhiệm vụ củng cố hòa bình, chống vi phạm hiệp định. Chỉ thị nhấn mạnh công tác củng cố cơ sở vùng căn cứ du kích và vùng du kích cũ, xây dựng cơ sở vùng tạm chiếm cũ, coi đó là công việc chính hiện thời của các địa phương. Chỉ thị viết: “Việc lãnh đạo ở vùng căn cứ du kích phải hành động khôn khéo, không để bộc lộ lực lượng. Bố trí lực lượng ở xã, thôn phải có bộ phận công khai để lãnh đạo quần chúng đấu tranh, có bộ phận hoạt động bí mật để bảo toàn cơ sở”(1). Sau khi nghiên cứu, thảo luận chỉ thị của Bộ Chính trị về tình hình và nhiệm vụ công tác mới của miền Nam, ngày 26-9-1954, Thường vụ Liên khu ủy IV đã ra nghị quyết về công tác của Thừa Thiên và Quảng Trị. Sau khi chỉ ra những hạn chế của hai tỉnh về giải quyết các vấn đề dân sinh, trong lãnh đạo, tổ chức đấu tranh, nghị quyết để ra những nhiệm vụ công tác mới ở Trị - Thiên là: “Tiếp tục giải quyết tư tưởng, thống nhất nhận định, quán triệt phương châm và đường lối mới của Trung ương, sửa chữa sai lầm, khuyết điểm. Cán bộ các cấp phải thấy được tình hình miền Nam và Trị - Thiên (…). Tổ chức cơ sở đảng phải giữ vững nguyên tắc bảo đảm bí mật và quan hệ chặt chẽ với quần chúng. Việc sắp xếp lại chi bộ, chọn lọc đảng viên phải tiến hành dần dần, có kế hoạch, có trọng điểm, tránh làm chấn động trong đảng. Thường xuyên bồi dưỡng cán bộ để khi cần tăng cường cho địa phương”(2). Nghị quyết còn nêu ra các trách nhiệm như tranh thủ điều kiện thuận lợi đưa những phong trào văn nghệ với hình thức nhẹ nhàng để vận động nhân dân đòi tự do dân chủ; đề cao nhiệm vụ chống gián điệp, mật thám, bảo vệ cán bộ; tranh thủ đưa người của ta vào các cấp chính quyền ngụy từ tỉnh đến xã, sửa chữa những lệch lạc ở Quảng Trị, đặt kế hoạch kinh doanh để tiến tới tự túc tài chính…

Những phương hướng nhiệm vụ trên là cơ sở cho các cấp đảng bộ, quân và dân Quảng Trị, Thừa Thiên vượt qua khó khăn, đẩy mạnh phong trào đấu tranh trong những năm tiếp sau.

Từ cuối tháng 8-1954, nhân dân các tỉnh Quảng Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa đã chuẩn bị mọi điều kiện để đón đồng bào và chiến sĩ miền Nam, cán bộ chiến sĩ ở Trung Lào, ở Campuchia, trước hết là Trị - Thiên ra Bắc tập kết.

Ngày 23-8-1954, hơn 5.000 cán bộ, bộ đội và nhân dân Trị - Thiên, trong đó có hơn 2.306 bộ đội địa phương đã rời khỏi nam vĩ tuyến 17 được đón tiếp tạm thời ở Quảng Bình và đến ngày 15-9 chính thức được đón tiếp tại Nghi Xuân (Hà Tĩnh). Tại đây, những người tập kết được bồi dưỡng và phân bố đi các nơi. Được sự chăm sóc chu đáo của nhân dân bắc liên khu, bộ đội và nhân dân Trị - Thiên đã nhanh chóng ổn định đời sống.

Ngày 20-9-1954, để việc thi hành chỉ thị của Trung ương về đón tiếp đồng bào, cán bộ, chiến sĩ miền Nam được chu đáo, Liên khu ủy đã ra Chỉ thị số 161/CT-LK4 Về kế hoạch đón tiếp quân đội, cán bộ, đồng bào miền Nam. Chỉ thị quy định các điểm đón tiếp là Sầm Sơn (Thanh Hóa), Cửa Hội (Nghệ An), Hà Tĩnh, Quảng Bình. Chỉ thị yêu cầu các tỉnh tổ chức các đợt học tập, tuyên truyền và tiến hành cuộc vận động rộng rãi trong nhân dân để mọi người nhận rõ đây là cuộc vận động chính trị lớn của liên khu, viết thư thăm hỏi và tặng quà cho đồng bào, chiến sĩ miền Nam. Sau chỉ thị này, liên khu đã chỉ đạo các cấp địa phương bố trí đầy đủ các trạm đón tiếp, huy động nhân dân cung cấp lương thực, thực phẩm, chuẩn bị nhà cửa chu đáo. Do đó, công việc đón tiếp các đoàn từ miền Nam, từ Lào, Campuchia về tập kết đã hoàn thành tốt đẹp. Tính đến tháng 11-1954, liên khu đã đón hơn 3.000 bộ đội giải phóng Lào, gần 4.000 quân tình nguyện Việt Nam từ Campuchia về. Đồng thời đón nhận 24 chuyến tầu, chở 26.432 cán bộ, bộ đội, nhân dân miền Nam ra tập kết. Tất cả các đoàn đại diện đều được đón tiếp ân cần, bố trí nơi ăn ở, sắp xếp công việc chu đáo. Việc chăm lo cho đồng bào tập kết đã biểu hiện sự gắn bó máu thịt giữa nhân dân Liên khu IV với nhân dân miền Nam. Nó càng có ý nghĩa hơn khi chính người dân nhiều nơi ở Thanh - Nghệ - Tĩnh đang phải vật lộn với nạn thiếu đói lương thực, thực phẩm diễn ra ngày càng trầm trọng.

Từ ngày 28-7-1954, thực hiện mệnh lệnh của Bộ Tổng tư lệnh, Liên khu IV đã tích cực chuẩn bị trao trả tù binh giữa ta và địch. Một lực lượng cán bộ, bộ đội và một số cơ quan ở Thanh Hóa, Nghệ An được huy động để thực hiện công tác này. Nhờ sự chuẩn bị chu đáo và đấu tranh kiên quyết của ta, tại hai địa điểm trao trả ở Sầm Sơn và Cửa Hội, địch trao trả cho ta 2.791 người, ta trao trả cho địch 3.083 tù binh các loại. Số tù binh được ta trao trả cho Pháp đã nói lên lòng biết ơn đối với chế độ ta. Có 95 tù chính trị xin ở lại miền Bắc để được cải tạo. Số người ta nhận về được trở lại đơn vị cũ, bố trí các công tác khác, từng bước sắp xếp việc làm.


(1) Chỉ thị 94/CT-LKIV về tình hình nhiệm vụ mới ở Bình - Trị - Thiên, tài liệu Cục lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.
(2) Nghị quyết của Thường vụ Liên khu ủy IV về công tác của Thừa Thiên và Quảng Trị (26-9-1954), tài liệu Cục lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 28 Tháng Hai, 2016, 08:06:08 pm
Cũng trong thời gian này, nhân dân vùng giải phóng Liên khu IV đã đấu tranh chống lại các âm mưu và thủ đoạn của địch cưỡng bức giáo dân di cư vào Nam.

Lợi dụng Điều 8 trong Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Giơnevơ gồm 13 điều về lập lại hòa bình ở Đông Dương quy định tôn trọng quyền tự do lựa chọn nơi sinh sống của nhân dân mỗi nước, thực dân Pháp cùng can thiệp Mỹ và tay sai đã ráo riết tiến hành lừa bịp, cưỡng ép đồng bào công giáo vào Nam. Ngay sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, chúng đã ra sức tuyên truyền, xuyên tạc chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ ta, nhồi nhét tinh thần chống cộng với các luận điệu phản động “cộng sản chia cắt đất nước”, “cộng sản sẽ xẻo mặt, cắt tai những ai có liên hệ với Pháp”, “cộng sản phá đạo”, “không đội trời chung với cộng sản” “cộng sản ở miền Bắc, công giáo ở miền Nam”… Tàu của Pháp xâm phạm hải phận của ta dùng loa phóng thanh dụ dỗ giáo dân theo chúng di cư.

Đi đôi với đầu độc về tư tưởng, chúng thực hiện thủ đoạn làm bần cùng hóa giáo dân, xúi giục giáo dân cắt đứt quan hệ với nhân dân miền Bắc, bán hết đồ đạc, tài sản, phá hoại hoa màu. Chúng còn dùng vũ lực trắng trợn như vác gậy đến từng gia đình đốt nhà, phá tài sản, đe dọa buộc giáo dân phải đi theo chúng.

Từ tháng 11-1964, chúng tiến lên vũ trang, tập trung giáo dân tại các địa điểm Ba Làng (Thanh Hóa), Thuận Nghĩa, Tân An, Xã Đoài, Diễn Tiến, Thì Sơn (Nghệ An), Xuân Hồng, Dục Yên, Thọ Ninh (Hà Tĩnh), Thanh Khê, Hòa Ninh (Quảng Bình) để đưa giáo dân đi từng đợt. Ở Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, chúng dựa vào Ủy ban quốc tế, phát triển hình thức làm đơn kiến nghị để đưa giáo dân đi.

Do địch hoạt động ráo riết, các cấp, các ngành lại chưa lường hết được âm mưu thâm độc của kẻ thù, công tác vận động quần chúng chưa được quan tâm đúng mức, việc thi hành chính sách tôn giáo có nhiều sai phạm nghiêm trọng nên một số lượng lớn giáo dân ở liên khu đã di cư vào Nam. Đến cuối tháng 11-1954, ở Quảng Bình có hai vạn đồng bào công giáo di cư vào Nam. Ở Thanh Hóa, con số này là 2.800, ở Nghệ An là 25 người.

Trước tình hình đó, ngày 25-11-1954, Liên khu ủy IV đã ra Chỉ thị 224 Về việc thi hành Chỉ thị 103 của Trung ương chống cưỡng ép di cư của địch. Chỉ thị đã vạch rõ những khuyết điểm của liên khu trong công tác vận động quần chúng đấu tranh chống lại âm mưu và hành động cưỡng ép giáo dân di cư vào Nam và đề ra các nhiệm vụ cụ thể “học tập, thấm nhuần trong đảng bộ Chỉ thị 103 của Trung ương phát động chiến dịch tuyên truyền, giáo dục, vận động quần chúng mạnh mẽ, gây dựng phong trào nhân dân chống địch vi phạm hiệp định, chống địch đưa giáo dân ra tập trung ở Phát Diệm (Ninh Bình) và tập trung thành cụm ở địa phương; đặc biệt chú trọng việc cải thiện sinh hoạt cho quần chúng giáo dân; sửa chữa những sai lầm trong việc thi hành chính sách tôn giáo, điều tra nắm tình hình bọn phản động và trấn áp chúng kịp thời, đào tạo cán bộ, xây dựng cơ sở, chấn chỉnh tổ chức tôn giáo vận”(1).

Thực hiện Chỉ thị 103 của Trung ương, Chỉ thị 224 của Liên khu ủy IV, các ấp, các ngành đã đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống địch cưỡng ép đồng bào giáo dân di cư vào Nam. Qua tuyên truyền, đa số cán bộ và nhân dân đã thấy được âm mưu của địch, một số quần chúng ở một số địa phương đã đứng ra đấu tranh vạch mặt bọn phản động. Giáo dân ở các vùng Cầm Rầm, Xã Đoài, Nghi Phụ, Nam Đàn (Nghệ An), Dục Yên, Thọ Ninh (Hà Tĩnh), Hò Minh (Quảng Bình)... được ta kiên trì vận động đã tự nguyện ở lại. Liên khu còn chỉ đạo các lực lượng công an, bộ đội, dân quân, du kích kết hợp với cán bộ dân vận phá các cụm tập trung lớn của địch. Ở Thuận Nghĩa, ta đã vận động được hàng nghìn giáo dân ở lại địa phương; ở Tân An ta đã giữ 40 thuyền trong số 98 thuyền đưa giáo dân di cư; ở Thương Chiều, 3.000 giáo dân được tuyên truyền cũng trở về; ở Ba Lòng và Trụ Sơn bên cạnh việc tuyên truyền vận động, liên khu phải điều động bộ đội đến can thiệp mới đưa được giáo dân trở lại địa phương. Trong tháng 12-1954, các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình đã tổ chức hội nghị tôn giáo toàn tỉnh, có sự tham gia của năm linh mục, ba tu sĩ. Sau hội nghị, các tỉnh đã cử cán bộ đi báo cáo kết quả ở nhiều nơi. Thanh Hóa cử hai đoàn đi báo cáo ở bảy nơi; Nghệ An tổ chức báo cáo ở 10 điểm; Quảng Bình thực hiện báo cáo ở 15 điểm, tại các điểm tập trung từ 200 đến 500 giáo dân. Các địa phương còn tổ chức míttinh, biểu tình chống Mỹ có sự tham gia của các linh mục. Ở Quảng Bình có năm linh mục tham gia, ở Thanh Hóa có ba linh mục và ở Nghệ An có một linh mục tham gia hoạt động này. Mặt trận liên khu cũng tổ chức một phái đoàn có linh mục tham gia đi thăm chín nơi ở Quảng Bình, gây được thiện cảm và có sức cảm hóa giáo dân. Chính quyền các cấp đã tiến hành giải quyết đơn thư của đồng bào công giáo, qua đó giúp họ hiểu rõ chính sách của Đảng và Nhà nước. Liên khu cũng tiến hành trừng trị, trấn áp những phần tử phản động dụ dỗ, cưỡng ép đồng bào công giáo vào Nam, xử bốn vụ ở Nghi Phụ, Nam Lộc, Thọ Ninh và Thuận Nghĩa, gây ảnh hưởng tốt trong giáo dân. Bằng những biện pháp kể trên, liên khu đã hạn chế được sự di cư ồ ạt của đồng bào công giáo, đưa tình hình một số vùng có đồng bào công giáo dần dần đi vào thế ổn định.

Với tình thần quyết tâm vượt khó, nhân dân bốn tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh - Bình đã ra sức phục hồi sản xuất, ổn định đời sống sau chiến tranh. Ngay sau khi hòa bình lập lại, nhân dân Thanh - Nghệ - Tĩnh đã phải chống hạn để kịp thời gieo cấy vụ mùa. Được Trung ương chỉ đạo, liên khu đã tập trung ổn định tinh thần nhân dân, phát động đồng bào sản xuất hoa màu cứu đói. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng gửi thư động viên đồng bào liên khu.

Hòa bình lập lại, liên khu có điều kiện để thực hiện chính sách ruộng đất của Đảng trong vùng giải phóng. Đợt sáu giảm tô được tiến hành trong ba tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh. Đến cuối đợt sáu, toàn bộ các xã ở Thanh - Nghệ - Tĩnh (trừ vùng thượng du) đã hoàn thành phát động quần chúng giảm tô. Đến cuối tháng 12-1954, liên khu đã phát động giảm tô ở miền bắc tỉnh Quảng Bình.


(1) Chỉ thị số 224 của Liên khu ủy IV về việc thi hành Chỉ thị 103 của Trung ương chống cưỡng ép di cư của địch (25-11-954), tài liệu Cục lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 28 Tháng Hai, 2016, 08:07:10 pm
Để đáp ứng với tình hình nhiệm vụ mới, tháng 10-1954, Hội nghị Liên khu ủy hợp phân tích tình hình, đặc điểm của Liên khu IV. Nhận rõ vị trí của liên khu là mới có giới tuyến quân sự, là nơi tiếp giáp với quân địch, bảo vệ miền Bắc là nhiệm vụ nặng nề của liên khu. Liên khu ủy đã chỉ rõ nhiệm vụ của toàn liên khu là: “Phải xây dựng bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân, du kích lớn mạnh không ngừng, đủ sức làm chỗ dựa cho nhân dân Thanh - Nghệ - Tĩnh hoàn thành cải cách ruộng đất và cho Trị - Thiên đấu tranh hoàn thành thống nhất nước nhà, đồng thời đủ sức trấn áp bọn phản cách mạng, giữ vững và bảo vệ biên phòng, bờ biển và tham gia mọi công tác khác”(1).

Nghị quyết của Hội nghị Liên khu ủy đã được Bộ Tư lệnh liên khu triển khai, hiện thực bằng việc chấn chỉnh xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân, làm cơ sở xây dựng Quân đội nhân dân tiến lên chính quy, hiện đại.

Bộ Tư lệnh liên khu tổ chức chỉnh huấn chính trị trong các đơn vị qua tài liệu Tình hình nhiệm vụ mới và nghị quyết Xây dựng quân đội nhân dân hùng mạnh của Tổng Quân ủy Trung ương. Qua học tập, cán bộ, chiến sĩ nhận rõ vai trò, trách nhiệm của lực lượng vũ trang trong tình hình mới, yên tâm phấn khởi công tác. Liên khu nhanh chóng chỉnh đốn, ổn định, sắp xếp lại tổ chức trong các đơn vị chủ lực và bộ đội địa phương, bổ sung quân số và trang bị cho các đơn vị có đủ khả năng công tác và sẵn sàng chiến đấu. Theo quyết định của Bộ tư lệnh liên khu, bộ đội tập kết từ Trị - Thiên ra được biên chế thành hai trung đoàn 269 và 271. Trung đoàn 161 giải thể lấy quân số bổ sung cho hai trung đoàn trên. Bộ Tư lệnh liên khu quyết định thành lập bốn tiểu đoàn biên phòng là các tiểu đoàn 923, 925, 927, 929 làm nhiệm vụ bảo vệ biên giới phía tây Thanh - Nghệ - Tĩnh - Bình; củng cố trung đoàn 280, chuyển Trung đoàn 44 huấn luyện sang làm nhiệm vụ khác; kiện toàn Trung đoàn 53 thứ hai đưa ra Bắc làm nhiệm vụ bảo vệ Hà Nội. Các cơ quan chỉ huy liên khu, huyện đội, tỉnh đội cũng được chấn chỉnh, kiện toàn theo tổ chức biên chế mới.

Tính đến tháng 11-1954, lực lượng vũ trang toàn Liên khu IV có hơn 25.000 chiến sĩ, trong đó bộ đội chủ lực có hơn 8.000 người gồm ba trung đoàn 269, 270, 271 và Tiểu đoàn 544; bộ đội địa phương có hơn 6.500 gồm bốn tiểu đoàn tỉnh, 34 đại đội và năm trung đội huyện. Ngoài ra, còn có hơn 10.000 quân thuộc các Trung đoàn 280, Trung đoàn 44, đoàn an dưỡng 33, 34, K-42, K43 và công an vũ trang. Công tác đảng trong quân đội cũng được chú trọng. Đến tháng 11-1954, Đảng bộ quân đội liên khu có 5.600 đảng viên sinh hoạt trong 260 chi bộ.

Sau khi chỉnh huấn về chính trị, ổn định về tổ chức, các đơn vị bộ đội trong liên khu bước vào huấn luyện kỹ thuật, chiến thuật để nâng cao sức chiến đấu. Các đơn vị bộ đội đã tham gia công tác ở các địa phương, giúp dân chống lũ lụt được nhân dân tin yêu.

Cùng với việc tăng cường sức chiến đấu của bộ đội, liên khu còn chú trọng chấn chỉnh, xây dựng lực lượng dân quân, du kích, đủ sức làm nòng cốt trong việc bảo vệ an ninh, trật tự ở các địa phương.

Cảnh giác trước âm mưu và thủ đoạn của địch, ngay sau khi ngừng bắn, Bộ Tư lệnh liên khu đã điều Trung đoàn 270 vào hoạt động ở Vĩnh Linh, thành lập đội công an vũ trang gồm 107 chiến sĩ làm nhiệm vụ bảo vệ giới tuyến. Đến tháng 11-1954, đại đội công an vũ trang thứ hai được thành lập để tăng cường cho công tác bảo vệ, phòng thủ. Các đơn vị bộ đội, công an đã phối hợp cùng nhân dân và du kích Vĩnh Linh luôn đề cao cảnh giác, ngăn chặn các âm mưu, hành động phá hoại của địch ở vùng phi quân sự, bảo vệ tuyến đầu của vùng giải phóng Liên khu IV.
   
Dưới sự lãnh đạo của Liên khu ủy và ủy ban kháng chiến Liên khu IV, nhân dân, các lực lượng vũ trang vững bước vào thời kỳ mới - thời kỳ cùng cả nước xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và chi viện tiền tuyến lớn miền Nam đánh đuổi đế quốc Mỹ, giành lại hòa bình, độc lập, thống nhất Tổ quốc.

Thắng lợi của cuộc tiến công chiến lược trong đông - xuân 1953-1954 mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử đã buộc thực dân Pháp phải ký kết Hiệp định Giơnevơ, lập lại hòa bình ở Đông Dương, có đóng góp to lớn của quân và dân Liên khu IV. Nhân dân các tỉnh phía bắc Liên khu IV đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của một hậu phương lớn mà Đảng và Chính phủ đã giao phó. Những chiến thắng ở Trung Lào, Hạ Lào, Điện Biên Phủ đều có một phần xương máu của quân và dân liên khu. Ở ba tỉnh phía nam, quân và dân các tỉnh đã phát huy cao độ tinh thần và khả năng cách mạng cùng cả nước thực hiện tiến công chiến lược, đánh thắng những cố gắng cuối cùng của kẻ thù, góp phần kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến. Quân và dân Liên khu IV còn có những đóng góp lớn lao đối với cuộc kháng chiến của nhân dân các bộ tộc lào. Bằng sự giúp đỡ trên tinh thần quốc tế trong sáng, Liên khu IV đã góp phần không nhỏ vào việc bảo tồn và phát triển mối quan hệ đặc biệt giữa hai nước Việt - Lào.

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi, Liên khu IV trở thành tuyến đầu bảo vệ miền Bắc, nơi đối diện với kẻ thù cũ và mới đang có cùng dã tâm chia cắt đất nước ta. Với bản lĩnh đã được tôi luyện, quân và dân liên khu sẽ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của thời kỳ hậu chiến.


(1) Quân khu IV: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Sđd, tr. 385.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Ba, 2016, 07:44:31 pm
Chương 6

THẮNG LỢI VÀ KINH NGHIỆM

Sáu tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên trải dài trên địa bàn Bắc Trung Bộ, từ buổi khởi đầu đến khi kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đều được liên kết chặt chẽ với nhau trong một đơn vị hành chính, quân sự theo quyết định của Trung ương Đảng, Chính phủ và tồn tại với các tên gọi Chiến khu IV (tháng 10-1945), Khu IV (cuối năm 1946) và Liên khu IV (đầu năm 1948). Sau một thời gian tiến hành kháng chiến, do yêu cầu thống nhất chỉ đạo hoạt động quân sự, Phân khu Bình - Trị - Thiên được thành lập (đầu năm 1948) trực thuộc Liên khu IV và đến tháng 10-1949, Bộ Tổng tư lệnh quyết định thành lập Mặt trận Bình Trị Thiên trực thuộc Bộ Tổng tư lệnh, nhằm tăng cường tổ chức, xây dựng lực lượng, nâng cao sức chiến đấu của quân và dân ta tại hướng chiến lược đường 9 - Bắc Trung Bộ, dùng quân chủ lực tác chiến phối hợp với chiến trường Bắc Bộ.

Trong quá trình phát triển của cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện, vừa kháng chiến vừa kiến quốc, Đảng bộ, quân và dân Liên khu IV tiếp tục phấn đấu trên mọi lĩnh vực hoạt động, thực hiện khẩu hiệu: Tổ quốc trên hết và Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. “Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng để giữ gìn đất nước”(1). Ý chí kiên cường đó đã biến thành hành động của các tầng lớp đồng bào và chiến sĩ trong công cuộc xây dựng, bảo vệ hậu phương, chi viện cho tiền tuyến, chiến đấu trên chiến trường và thực hiện nghĩa vụ quốc tế.

Là một bộ phận gắn bó máu thịt với cuộc kháng chiến của nhân dân cả nước, Liên khu IV đã khắc phục khó khăn gian khổ, hy sinh, vượt qua nhiều trạng huống hiểm nghèo, từng bước xây dựng và trưởng thành, hoàn thành những nhiệm vụ to lớn quan hệ trực tiếp tới sự sống còn của vận mệnh dân tộc, góp phần xứng đáng vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ.

Cuộc kháng chiến của Liên khu IV mang đầy đủ những nét phổ quát của cuộc chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc, tiếp tục thực hiện những mục tiêu cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, vừa chiến đấu, vừa xây dựng và tăng cường lực lượng để đánh thắng các chiến lược và kế hoạch chiến tranh của thực dân Pháp, giải phóng miền Bắc, tạo lập cơ sở vững chắc cho những chặng đường phát triển tiếp theo của cách mạng.

I. THẮNG LỢI CỦA LIÊN KHU IV TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN
CHỐNG THỰC DÂN PHÁP

1. Giữ vững địa bàn chiến lược trong mối quan hệ chặt chẽ giữa chiến trường Bình - Trị - Thiên và hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh

Liên khu IV là một vùng rộng lớn, với diện tích khoảng 1/8 cả nước và số dân khoảng gần 4 triệu khi cuộc kháng chiến bùng nổ, nơi tích tụ nhiều tiềm lực và giữ vị trí quan trọng về quân sự, kinh tế và chính trị của đất nước.

Địa hình Liên khu IV xòe rộng ra ở phía bắc, tiếp giáp với Ninh Bình, tỉnh cực nam đồng bằng Bắc Bộ, và các tỉnh Hòa Bình, Sơn La thuộc Tây Bắc. Phía nam bị thu hẹp lại, giáp Quảng Nam, mà điểm phân cách là đèo Hải Vân. Đường 1A, đường thượng đạo và đường biển là mạch máu giao thông nối liền sáu tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh, Bình - Trị - Thiên, bằng những con đường đó, việc liên lạc, vận tải từ Bắc vào Nam và ngược lại đều qua Liên khu IV, Từ miền đất này, còn có nhiều đường bộ sang Lào và Thái Lan, mở ra một hướng liên lạc giữa Việt Nam và thế giới.

Địa bàn Liên khu IV bao gồm cả ba vùng đồng bằng, rừng núi và ven biển, có nhiều loại tài nguyên, có thể khai thác, chế biến phục vụ nhu cầu dân sinh và kháng chiến. Đây cũng là vùng đất cư trú của nhiều tộc người vốn có truyền thống đoàn kết trong lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm và xây dựng đất nước. Cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã đổi đời cho đồng bào từ kiếp sống nô lệ trở thành người tự do, sẵn sàng chịu đựng gian khổ, hy sinh để bảo vệ nền độc lập mới giành được. Sức mạnh của nguồn nhân lực đó thật là dồi dào.

Đối với cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, bảo vệ nền độc lập và thống nhất đất nước, Liên khu IV có vị trí rất quan trọng và trách nhiệm rất to lớn mà Đảng, Nhà nước và Chủ tịch Hồ Chí Minh giao cho, đồng bào cả nước cũng đặt nhiều kỳ vọng ở vùng này.

Ngoài vị trí địa lý, nhân văn vốn có của địa phương, sự hình thành của địa bàn chiến lược Liên khu IV còn do những nhân tố rất quan trọng chi phối, đó là đường lối kháng chiến trường kỳ, toàn dân, toàn diện, dựa vào sức mình là chính, vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, bảo toàn thực lực kháng chiến lâu dài.

Nét nổi bật trong quá trình Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp là vừa xác định, hoàn thiện đường lối chiến tranh nhân dân, vừa chỉ đạo các địa phương (khu, tỉnh, thành phố), các ngành quán triệt, thực hiện đường lối đó theo hướng phát huy cao nhất sức mạnh của từng vùng trong xây dựng lực lượng trên các lĩnh vực chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, bảo vệ và chăm lo đời sống nhân dân để tiến hành kháng chiến và kiến quốc. Quyết định lập các khu, liên khu và điều động nhiều cán bộ có năng lực lãnh đạo cho các đơn vị hành chính và quân sự cấp khu, trong đó có Liên khu IV, chính là nhằm mục tiêu quan trọng đó.

Phát huy sức mạnh của từng địa phương trong mối liên kết với toàn quốc càng trở nên cấp bách khi tình thế chiến trường của cả nước bị chia cắt.

Đế quốc Pháp từ khi tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược đã mưu toan tập trung lực lượng đánh ồ ạt vào các địa bàn quan trọng để sớm chiếm lại Việt Nam. Nhưng mưu đồ đó đã nhanh chóng bị phá vỡ sau thất bại của chúng tại chiến dịch Việt Bắc, buộc chúng phải kéo dài cuộc chiến bằng những chủ trương và kế hoạch mới: lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt. Quy mô và cường độ phát triển đó, chiến trường chính cũng được chuyển từ Nam ra Bắc và hình thế chiến trường được xác lập theo dạng chia cắt. Địch chiếm các thành phố lớn và nhiều vùng đồng bằng trù phú ở Bắc Bộ và Nam Bộ. Vùng tự do và hậu phương lớn của ta được xác lập như căn cứ địa Việt Bắc, Thanh - Nghệ - Tĩnh, Liên khu V.

Địa bàn chiến lược Liên khu IV trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp hình thành sau khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ không lâu. Ở thời điểm cuộc chiến diễn ra tại Huế và bùng lan hầu khắp ba tỉnh Bình - Trị - Thiên, cũng là lúc Thanh - Nghệ - Tĩnh trở thành hậu phương của chiến trường này, cục diện đó đã kéo dài đến kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và tạo nên đặc điểm của địa bàn chiến lược Liên khu IV.


(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, xuất bản lần thứ hai, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.4, tr. 480.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Ba, 2016, 07:46:52 pm
Thi hành lệnh của Bộ Quốc phòng, đêm 19-12-1946, bộ đội và dân quân, tự vệ của ta mở cuộc tiến công các đơn vị quân Pháp đóng tại Huế. Chúng bị bao vây trong các khu đóng quân và chỉ được tiếp tế, tăng viện một số binh lính bằng máy bay thả dù vũ khí, lương thực, cuộc chiến đấu của quân, dân ta trên địa bàn này diễn ra rất dũng cảm, song do thiếu vũ khí công phá các ngôi nhà kiên cố, quân Pháp cố thủ, ta vẫn không thể tiêu diệt được lực lượng đối phương.

Trong những ngày cuối tháng 1, đầu tháng 2-1947, một đội quân lớn trang bị vũ khí hiện đại, mới từ Pháp sang, cập bến cảng Đà Nẵng, vượt qua sự ngăn chặn của quân ta, tiến ra Huế. Địch kết hợp hai hướng tiến công, trong ra và từ ngoài vào, đã chiếm được Huế, sau 50 ngày giao chiến với quân, dân ta tại thành phố này, kể từ 19-12-1946, địch không dừng ở phạm vi chiếm đóng đó, nhiều toán quân Pháp từ phía Lào kéo sang theo đường số 9 và số 12, hợp với số quân Pháp đang đóng tại Huế, tạo thành một lực lượng đông đảo, đánh tràn ra, chiếm trọn Thừa Thiên, Quảng Trị và ba huyện bờ nam sông Gianh của Quảng Bình. Hành động chiến tranh của phía thực dân Pháp cho thấy chúng rắp tâm, dồn sức đánh chiếm thành phố Huế, để sử dụng nơi đây là trung tâm chính trị của miền Trung, và cả ba tỉnh Thừa Thiên, Quảng Trị, Quảng Bình, vốn là địa bàn quân sự trọng yếu của toàn Đông Dương. Chủ trương và hành động đó của thực dân Pháp đã vấp phải sức phản kháng quyết liệt của quân và dân ta. Bình - Trị - Thiên nhanh chóng trở thành mặt trận nóng bỏng, là vùng đối đầu quyết liệt giữa lực lượng kháng chiến quyết tâm bảo vệ độc lập và thống nhất của dân tộc Việt Nam và quân xâm lược Pháp.

Về phía ta, trong buổi đầu tiến công địch ở Huế, ta sử dụng bộ đội, dân quân, tự vệ mới được xây dựng, vũ khí rất thô sơ và thiếu thốn, để vây đánh quân xâm lược nhà nghề, trang bị vũ khí hiện đại, cố thủ trong nhiều ngôi nhà kiên cố. Phương pháp tác chiến đó không thể thực hiện được chủ trương của ta “là tiêu diệt lực lượng địch trong thành phố Huế để rảnh tay chống quân địch từ ngoài đánh vào”. Mặt khác, ta cũng không dự kiến được khả năng tăng viện nhanh của quân đội viễn chinh Pháp đến giải vây cho đồng bọn của chúng đang bị vây hãm tại Huế và phản công ta. Do vậy, ta không chuẩn bị cho cuộc chiến đấu lâu dài bằng kế hoạch toàn diện và biện pháp thực hiện khẩn trương.

Khi địch đưa tới chiến trường này một lực lượng quân đội đông đảo và tinh nhuệ (6.000 quân), làm thay đổi so sánh lực lượng không có lợi cho ta, lực lượng vũ trang và cán bộ ta phải rút lui trong thế bị động, không có kế hoạch bảo toàn lực lượng và ổn định kịp thời tư tưởng cán bộ và nhân dân trong thời điểm vô cùng khó khăn, khốc liệt đó. Song chỉ sau một thời gian ngắn, bằng nhiều biện pháp lãnh đạo tư tưởng và công tác tổ chức, cán bộ và lực lượng vũ trang của ta trở lại vùng bị địch chiếm, gây dựng cơ sở trong quần chúng, củng cố niềm tin cho đồng bào và thắng lợi của cuộc kháng chiến trường kỳ trên cơ sở phát huy sức mạnh của quân và dân ta. Về tổ chức và lãnh đạo, Phân khu Bình - Trị - Thiên được thành lập, ba tỉnh liên kết chặt chẽ dưới sự lãnh đạo của Phân khu ủy và sự chỉ huy của Ban Chỉ huy quân sự.

Cuộc kháng chiến của quân và dân ta trên chiến trường Bình - Trị - Thiên trong thời điểm khởi phát, phải đối diện với biết bao khó khăn bộn bề về nhiều mặt. Bên cạnh những vấn đề tư tưởng và tổ chức mà các cấp lãnh đạo, chỉ huy đã giải quyết bước đầu, còn nổi lên những khó khăn gay gắt về hậu cần và lực lượng chiến đấu đến mức sau khi bộ đội, cán bộ rút khỏi thành phố Huế và vùng đồng bằng lên chiến khu, tỉnh Thừa Thiên chỉ còn hơn hai tấn gạo mà có hơn 2.000 người ăn, tỉnh Quảng Trị lại khó khăn hơn, vì chỉ còn chín tạ gạo để nuôi 2.000 cán bộ, bộ đội và nhân dân(1). Về quân số, tháng 10-1947, quân địch ở Bình - Trị - Thiên đông tới 9.075 tên, ta chỉ có 3.914 người (bằng 43%), vũ khí của ta càng thiếu thốn, nhất là vũ khí nặng (bằng 1/5 vũ khí của địch)(2). Khắc phục những khó khăn, bất cập ấy, cùng với sự phấn đấu cao độ của quân và dân Bình - Trị - Thiên là chính, không thể thiếu sự chi viện tích cực, kịp thời của Thanh - Nghệ - Tĩnh. Đó cũng là nhiệm vụ quan trọng được quán triệt từ các cấp lãnh đạo liên khu đến nhân dân Thanh - Nghệ - Tĩnh.

Từ khi cuộc kháng chiến bùng nổ, Thanh - Nghệ - Tĩnh đã sẵn sàng tiếp đón, tạo điều kiện thuận lợi về đời sống và công tác cho các cơ quan và nhân dân Bình - Trị - Thiên tản cư tới. Cũng trong năm 1947, số binh khí của liên khu đã dành phần nhiều hơn cho Bình - Trị - Thiên, riêng sáu tháng cuối năm, Thanh - Nghệ - Tĩnh chỉ nhận số kinh phí bằng 2/3 Bình - Trị - Thiên.

Trong công tác lãnh đạo, Liên khu ủy IV luôn luôn chú trọng thắt chặt mối quan hệ Bình - Trị - Thiên và Thanh - Nghệ - Tĩnh như Nghị quyết của Liên khu ủy IV ngày 18-12-1948 đã xác định rõ: “Phải coi quan hệ giữa hai vùng này phải như hậu phương với tiền tuyến. Riêng Hà Tĩnh có nhiệm vụ chung lo với Quảng Bình”. Đại hội lần thứ hai của Đảng bộ liên khu (tháng 7-1949), vấn đề chi viện cho Bình - Trị - Thiên được khẳng định ở một mức độ cao: “Gấp rút tăng cường cho chiến trường Bình - Trị - Thiên”. Trong chương trình hoạt động của các đảng bộ Thanh - Nghệ - Tĩnh, công tác chi viện cho Bình - Trị - Thiên đều được coi là một nhiệm vụ quan trọng của mình.

Việc chi viện cho Bình - Trị - Thiên trước hết là lương thực, thực phẩm, được vận chuyển theo đường núi, đường bộ qua Đèo Ngang và đường biển với các phương tiện: dân công gánh bộ, xe bò, xe goòng (trên đoạn đường từ La Khê đến đò Vàng dài 30 km), thuyền bè, nhiều con đường vận chuyển ở vùng núi phía tây mới mở dài hàng trăm kilômét, nhiều đoạn sông, kênh phải nạo vét đều đòi hỏi rất nhiều công sức, nhưng đã được tiến hành khẩn trương. Tính đến kết thúc kháng chiến, số gạo Thanh - Nghệ - Tĩnh cung cấp cho những chiến dịch, những đợt hoạt động lớn của Bình - Trị - Thiên là 30.000 tấn gạo, nếu kể cả số lương thực giúp đồng bào tản cư, sử dụng cho đội ngũ dân công làm đường và vận chuyển và số lương thực nuôi các đơn vị từ chiến trường ra huấn luyện, thì số lương thực lên tới 300.000 tấn(3) và hàng ngàn tấn muối. Ngoài lương thực, thực phẩm, Thanh - Nghệ - Tĩnh đã giúp trâu, bò, dụng cụ sản xuất khi Bình - Trị - Thiên bị lũ lụt lớn và cung cấp thuốc chữa bệnh cho thương binh, bệnh binh và nhân dân.

Phần lớn số vũ khí sản xuất ở Thanh - Nghệ - Tĩnh đều được chuyển vào chiến trường Bình - Trị - Thiên để trang bị cho lực lượng vũ trang chiến đấu.

Nhân lực do Thanh - Nghệ - Tĩnh điều động làm đường và chuyển số vật phẩm trên lên tới hàng chục vạn lượt người và hàng triệu ngày công.

Chiến đấu trên mặt trận Bình - Trị - Thiên bao gồm các đơn vị vũ trang của địa phương và các đơn vị bộ đội chủ lực của liên khu mà phần lớn chiến sĩ là con em nhân dân Thanh - Nghệ - Tĩnh. Kết hợp chiến đấu với lực lượng trên còn có nhiều đơn vị bộ đội địa phương cấp trung đoàn, tiểu đoàn và dân quân, tự vệ của Thanh - Nghệ - Tĩnh.

Thanh - Nghệ - Tĩnh còn cung cấp hàng ngàn cán bộ chính trị, quân sự, văn hóa, giáo dục và tiếp nhận nhiều cơ quan, trường học của Bình - Trị - Thiên. Sự chi viện của Thanh - Nghệ - Tĩnh diễn ra liên tục và toàn diện từ buổi đầu cho đến khi kết thúc chiến tranh là một nguồn lực quan trọng, bổ sung sức mạnh vật chất và tinh thần cho Bình - Trị - Thiên chiến đấu và chiến thắng. Về phía Thanh - Nghệ - Tĩnh, các khẩu hiệu “Hướng về Bình - Trị - Thiên khói lửa”, “Tất cả cho Bình - Trị - Thiên” lại là một động lực vươn tới trong muôn vàn khó khăn, gian khổ và hy sinh của vùng đất này.

Chi viện một khối lượng lớn sức của, sức người cho Bình - Trị - Thiên cũng thể hiện một phần kết quả xây dựng hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh. Nơi đây mang trong mình sức sống của chế độ dân chủ nhân dân và cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện. Hai yếu tố đã hòa quyện với nhau và nhân lên gấp bội sức mạnh của địa bàn này. Các mặt của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội đều thay đổi cơ bản theo hướng dân chủ, tiến bộ, làm cơ sở vững chắc cho quan hệ đoàn kết dân tộc, giai cấp và tôn giáo thêm bền chặt. Lực lượng vũ trang nhân dân được xây dựng và phát triển rộng khắp, nhanh chóng, đủ sức cùng nhân dân bảo vệ an toàn hậu phương quan trọng này của cuộc kháng chiến. Đồng thời, Thanh - Nghệ - Tĩnh đã cung cấp hàng vạn thanh niên để thành lập nhiều đơn vị bộ đội chủ lực, trong đó có hai đại đoàn trên tổng số sáu đại đoàn của toàn quốc. Thanh - Nghệ - Tĩnh không chỉ là hậu phương của Bình - Trị - Thiên mà là hậu phương của chiến trường chính Bắc Bộ và nhiều chiến trường khác.

Sự lớn mạnh của mặt trận Bình - Trị - Thiên và hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh là xu thế phát triển của Liên khu IV. Hai bộ phận đó liên kết, thống nhất với nhau, tạo nên sức mạnh to lớn để chiến đấu và chiến thắng, làm thất bại mưu đồ xâm lược của thực dân Pháp chiếm toàn bộ Liên khu IV, thủ tiêu một nguồn lực dồi dào của cuộc kháng chiến của dân tộc Việt Nam.


(1) Trần Quý Hai: Những ngày khói lửa, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 1984, tr.61.
(2) Hồng Chương: Chiến trường Bình - Trị - Thiên những ngày đầu kháng chiến, Nxb. Văn - Sử - Địa, Hà Nội, 1957, tr.75.
(3) TS. Ngô Đăng Trí: Vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh trong kháng chiến chống Pháp (1945-1954), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.192.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Ba, 2016, 07:50:01 pm
2. Cuộc kháng chiến của mặt trận Bình - Trị - Thiên làm thất bại mưu đồ của địch đánh chiếm toàn bộ vùng đất này để chia cắt chiến trường Đông Dương, bảo vệ an toàn hành lang giao thông từ Việt Bắc vào Nam Trung Bộ và Nam Bộ, ngăn chặn địch tiến công Thanh - Nghệ - Tĩnh

Bình - Trị - Thiên, mảnh đất hẹp nhất, nằm giữa đất nước, chắp mối liên lạc giữa hai miền Bắc - Nam, một trong những điều kiện quan trọng nhất bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương Đảng đối với cuộc kháng chiến toàn quốc. Vì vậy, giữ vững trận địa kháng chiến ở địa bàn này, tạo lập một hành lang an toàn cho giao thông Bắc Nam là một nhiệm vụ rất quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp tới sức mạnh kháng chiến của cả nước và Bình - Trị - Thiên. Trong thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Đại hội Đảng bộ Liên khu IV lần thứ nhất, tháng 5-1948, Người viết; “giở địa đồ mà xem, thì thấy ngay rằng địa vị Bình, Trị, Thiên là cực kỳ quan trọng. Vì vậy nhiệm vụ Khu IV (vì Khu IV là gần nhất) là phải ra sức giúp ba tỉnh đó về mọi mặt, nhất là về quân sự và chính trị”(1).

Từ ngày bùng nổ cuộc kháng chiến (19-12-1946), Bình - Trị - Thiên đã trở thành một trọng điểm đánh chiếm của địch bằng lực lượng quân đội viễn chinh bao gồm các binh chủng bộ binh, pháo binh, không quân, trang bị vũ khí và phương tiện chiến tranh hiện đại. Trong lúc đó, lực lượng vũ trang của ta tuy mới được xây dựng, vũ khí thô sơ, đã chiến đấu ròng rã, quyết liệt trong những ngày cuối tháng 12-1946 và đầu năm 1947. Cuộc chiến đấu đó diễn ra đồng thời với cuộc chiến đấu của quân và dân Thủ đô Hà Nội, thể hiện rõ ý chí kiên cường của nhân dân ta thực hiện lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước”(2).

Dẫu rằng, thực dân Pháp chiếm được thành phố Huế và nhiều vùng đất khác của Bình - Trị - Thiên, song chúng không thể thực hiện được mưu đồ chiếm đóng, chốt giữ toàn bộ vùng đất này để xây dựng phòng tuyến Đà Nẵng - Đông Hà - Xavanakhẹt, cắt đôi chiến trường Đông Dương, tạ điều kiện thuận lợi cho chúng thực hiện chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh”. Bình - Trị - Thiên đã khẩn trương, tích cực tổ chức, tăng cường lực lượng, các cấp bộ đảng, cán bộ, bộ đội, du kích bám đất, bám dân chiến đấu, kìm chân địch, tiêu hao, tiêu diệt địch. Thế chủ động của Bình - Trị - Thiên bắt đầu xác lập từ khi quan điểm dựa vào dân, tin ở sức mạnh nhân dân, bám dân, bám đất, để xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân được quán triệt trong các cấp lãnh đạo và chỉ huy, đội ngũ cán bộ trở về các vùng bị địch chiếm, khởi động phong trào kháng chiến toàn dân, toàn diện. Thời điểm đánh dấu sự chuyển biến quan trọng đó diễn ra vào nửa sau năm 1947.

Công tác xây dựng, củng cố hệ thống tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân được đẩy mạnh ở hầu khắp các nơi; đồng thời, việc xây dựng lực lượng vũ trang bao gồm các đơn vị chủ lực (Trung đoàn 95, 101, 18) bộ đội địa phương và dân quân, du kích phát triển nhanh, tạo lập nhiều chiến khu như Hòa Mỹ, Dương Hòa, Ba Lòng, làm nơi bảo vệ cơ quan lãnh đạo, chỉ huy kháng chiến, bảo vệ kho tàng, xưởng máy, bệnh xá. Đây cũng là nơi huấn luyện cán bộ, bộ đội và đặc biệt là giữ vững hệ thống giao thông, liên lạc Bắc - Nam, bảo đảm một điều kiện quan trọng cho sự chỉ đạo thông suốt của Trung ương Đảng tới các địa phương phía nam. Nhiều làng chiến đấu mọc lên, mà tiêu biểu là Cự Nẫm, Cảnh Dương, hiên ngang chống chọi với đội quân xâm lược nhà nghề của đối phương. Đồng thời, phong trào chống phá chính quyền địch, được gọi là phong trào phá tề, phát triển rộng khắp với sự kết hợp đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang. Trong cuộc chiến đấu ác liệt chống càn quét, khủng bố của địch, lãnh đạo các cấp ở Bình - Trị - Thiên vẫn kiên trì động viên, bảo vệ nhân dân tiến hành sản xuất lương thực, thực phẩm để tự túc và cung cấp cho bộ đội, cán bộ.

Cuộc kháng chiến của quân và dân Bình - Trị - Thiên phát triển rộng khắp ở nông thôn và thành phố Huế, thủ phủ của chính quyền bù nhìn tại miền Trung. Mỗi vùng có những hình thức kháng chiến, đấu tranh riêng và cùng phối hợp thực hiện mục tiêu chung của chiến trường này là giam chân một bộ phận đáng kể lực lượng của địch, giữ vững thế tiến công về quân sự và chính trị, phối hợp với chiến trường chính Bắc Bộ, góp phần chi viện chiến trường Trung Lào, bảo vệ con đường xuyên Việt, ngăn chặn địch lấn chiếm vùng Thanh - Nghệ - Tĩnh. Dù cho địch liên tục tăng quân từ 6.000 năm 1947 lên 31.000 năm 1952 mà vẫn bị hãm vào thế sa lầy, tiến thoái lưỡng nan, bị tiêu hao và tiêu diệt, buộc chúng phải phân tán lực lượng, giảm mức độ tập trung binh lực tại chiến trường chính.

Bình - Trị - Thiên với sức chiến đấu của mình không những giam chân khoảng 1/10 số quân của đối phương trên chiến trường Việt Nam mà còn là một chiến trường phụ phối hợp tác chiến với chiến trường chính Bắc Bộ đạt hiệu quả cao.

Tại địa bàn nông thôn, quân và dân ta vừa chiến đấu, chống các thủ đoạn chiến tranh của địch, vừa chủ động mở nhiều chiến dịch phối hợp với chiến trường chính như chiến dịch Lê Lai khi Trung ương mở chiến dịch Lê Lợi. Sau đó là các chiến dịch Phan Đình Phùng và các chiến dịch đầu năm 1951 và năm 1952 phối hợp với các chiến dịch Hà - Nam - Ninh và Hòa Bình.

Trong chiến cuộc đông - xuân 1953-1954, lực lượng vũ trang Liên khu IV sát cánh với bộ đội chủ lực của bộ và lực lượng vũ trang cách mạng Lào kìm giữ 26 tiểu đoàn địch tại Trung Lào, hỗ trợ hoạt động quân sự của ta ở Tây Bắc; đồng thời, quân và dân Bình - Trị - Thiên và Trung đoàn 18 tiến công địch trên diện rộng từ Quảng Trị, Thừa Thiên đến Quảng Bình, công phá nhiều đồn bốt và chặn đánh các phương tiện giao thông của địch. Trong “tuần lễ đánh mạnh” do Liên khu ủy phát động cuối tháng 3-1954 để phối hợp với chiến dịch Điện Biên Phủ, bộ đội địa phương và dân quân, du kích tập kích nhiều vị trí địch. Hiệu quả tác chiến tại Bình - Trị - Thiên đạt tới đỉnh cao, tiêu diệt hơn 10 ngàn tên địch, bức rút hơn 70 vị trí, giành lại phần lớn các vùng địch mở rộng chiếm đóng từ giữa năm 1953, thu và phá hủy nhiều vũ khí, xe cơ giới…

Các hình thức đấu tranh chống địch bắt lính và binh vận phát triển đều khắp trên chiến trường Bình - Trị - Thiên, tạo thành phong trào thanh niên và nhân dân chống phá, ngăn chặn địch bắt lính, nhiều cuộc phản chiến, đòi giải ngũ hoặc không chịu bị điều ra trận của binh lính ngụy cũng liên tiếp diễn ra. Riêng ba tháng đầu năm 1954, có gần 2.000 ngụy binh đào ngũ, lực lượng ngụy binh tan rã từng mảng.

Ý nghĩa của những thắng lợi quân sự và địch vận trên càng gia tăng, khi một số đơn vị bộ đội cấp đại đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn được xây dựng tại chiến trường này được điều động đi chiến đấu trên chiến trường khác.

Cách tổ chức lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang và các hình thức đấu tranh của quân và dân thành phố Huế mang nhiều nét đặc thù của địa bàn đô thị, trực tiếp đương đầu với bộ máy điều hành chiến tranh và mật vụ của địch tại thủ phủ miền Trung. Đến cuối năm 1947, nhiều cơ sở cách mạng được xây dựng trong giới trí thức, học sinh và quần chúng lao động: thành lập Ban Cán sự trí thức kháng chiến bao gồm nhiều trí thức có uy tín; lập đội biệt động, đội Việt Dũng thành phố. Tiếp theo, các đội tự vệ nội thành được củng cố, phát triển đặt dưới sự chỉ đạo của Thị ủy Huế.

Cuối năm 1949, Tỉnh ủy Thừa Thiên tăng cường cho Huế nhiều cán bộ cấp huyện ủy viên. Số cán bộ này được phân phối về hoạt động tại cơ sở và các ngành quân sự, an ninh, dân vận, bộ đội địa phương Huế và đội công an xung phong được thành lập.

Các lực lượng vũ trang và tổ chức chính trị tiến hành nhiều hoạt động quân sự, binh vận và đấu tranh chính trị trong nội thành và vùng ven, tiến công nhiều đồn, bốt, trừ khử bọn Việt gian, vận động binh lính địch bỏ ngũ. Những hoạt động đó diễn ra trong điều kiện rất khó khăn do địch kiểm soát chặt chẽ, truy lùng ráo riết, khủng bố, tàn sát cán bộ và quần chúng tham gia kháng chiến. Phong trào đấu tranh tại Huế phát triển liên tục và nâng cao trong chiến cuộc đông - xuân 1953-1954. Những tháng đầu năm 1954, nổ ra hàng loạt cuộc tấn công của lực lượng vũ trang ta vào đồn, bốt, trường huấn luyện, quận lỵ, tập kích, phản kích vào các đơn vị binh lính địch đi càn quét. Công tác binh vận đã sử dụng được hàng ngàn binh lính và sĩ quan địch để chống phá từ bên trong đội ngũ quân xâm lược. Đồng thời, còn diễn ra phong trào đấu tranh của hàng vạn người ủng hộ lập trường của Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa tại Hội nghị Giơnevơ.

Nhiều trận đột kích của bộ đội, công an diệt trừ bọn Việt gian ác ôn, trong đó có nhiều tên đầu sỏ cấp huyện, tỉnh, phó tổng trấn bù nhìn, cảnh cáo nghiêm khắc bọn tay sai của thực dân Pháp.

Những hoạt động trên của quân và dân ta đã biến Huế thành một bộ phận của chiến trường Bình - Trị - Thiên, phối hợp và hỗ trợ tích cực cho các hình thức đấu tranh quân sự và chính trị trên địa bàn nông thôn ba tỉnh này.

Sức mạnh tạo nên những thắng lợi của chiến trường Bình - Trị - Thiên còn do sự chi viện sức của, sức người của hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh. Đó chính là thành quả hợp lực của toàn Liên khu IV.


(1) Thư của Lãnh tụ gửi Đại hội, lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr. 480.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Ba, 2016, 07:51:13 pm
3. Bảo vệ và xây dựng Thanh - Nghệ - Tĩnh thành hậu phương vững mạnh, đáp ứng yêu cầu cung cấp sức người, sức của cho các chiến trường

Xây dựng và phát huy sức mạnh của hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh là một quá trình phấn đấu của đảng bộ các cấp trong liên khu, của quân và dân ba tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh dưới ánh sáng của đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, tự lực cánh sinh và sự chỉ đạo trực tiếp của Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Đó là quá trình xây dựng toàn diện về chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa, giáo dục từ thấp đến cao.

Trước hết, trong tình hình chiến tranh đầy biến động do sự phá hoại của đối phương, Thanh - Nghệ - Tĩnh vẫn giữ vững và phát triển thế ổn định chính trị và đó cũng là kết quả của công tác xây dựng hệ thống chính trị. Từ sau Cách mạng Tháng Tám đến cuối năm 1945, các tỉnh đều đặt công tác xây dựng, củng cố, kiện toàn cơ quan lãnh đạo từ cấp tỉnh đến cơ sở là nhiệm vụ trọng tâm; đồng thời, xây dựng hệ thống chính quyền cách mạng, phát triển các đoàn thể nhân dân và Mặt trận Việt Minh, xây dựng lực lượng vũ trang.

Hệ thống tổ chức đảng phát triển sâu rộng trên khắp mọi vùng, mọi cơ quan, doanh nghiệp và lực lượng vũ trang. Công tác phát triển đảng và xây dựng chi bộ đặc biệt được coi trọng, nhất là chi bộ tự động công tác, số lượng đảng viên tăng nhanh (tháng 10-1947, Thanh - Nghệ - Tĩnh có 11.425 đảng viên, đến tháng 5-1945, đã lên tới 15.500 đảng viên), bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng ngày càng sâu sát các địa bàn và lĩnh vực hoạt động của quân và dân Thanh - Nghệ - Tĩnh.

Chính quyền cấp tỉnh, huyện, xã cũng khẩn trương được xây dựng và kiện toàn, trong đó có sự chuyển hóa dần chính quyền của thổ ty, lang đạo thành chính quyền cách mạng tại miền tây Thanh Hóa, Nghệ An. Mặt trận và các đoàn thể nhân dân tiếp tục phát triển các hoạt động của mình trên cơ sở của những tổ chức xây dựng từ trước Tổng khởi nghĩa Tháng Tám 1945.

Hiệu quả hoạt động nổi bật của hệ thống chính trị liên khu và các tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh là xây dựng và phát triển khối đại đoàn kết các giai cấp, tầng lớp nhân dân yêu nước, các dân tộc và tôn giáo, thể hiện sự đồng cảm, nhất trí chịu đựng gian khổ, hy sinh vì thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, phá tan mọi mưu đồ, thủ đoạn chia rẽ dân tộc, tôn giáo của đối phương. Nhờ vậy, Thanh - Nghệ - Tĩnh đã giải quyết thành công các nhiệm vụ nặng nề của hậu phương đối với tiền tuyến, của kháng chiến và sức vươn lên mạnh mẽ của Thanh - Nghệ - Tĩnh cũng bắt nguồn từ sự giác ngộ trách nhiệm đó của mình.

Thanh - Nghệ - Tĩnh là địa bàn phát triển đồng bộ kinh tế, văn hóa, giáo dục dưới ánh sáng của đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, kháng chiến và kiến quốc.

Trong lúc phải đối phó với các hành động phá hoại, xâm lược của đối phương, bảo vệ hậu phương an toàn, Thanh - Nghệ - Tĩnh vốn là khu vực thiếu lương thực, đã giải quyết thành công vấn đề lương thực bằng phong trào thi đua sản xuất và thực hiện chính sách ruộng đất của Đảng và Nhà nước. Cho dù các đập nước lớn bị địch đánh phá và nhiều trận lũ lụt lớn gây thiệt hại nhiều cho mùa màng, mức sản lượng lương thực vẫn đạt trung bình 450.000 tấn hằng năm, bình quân đầu người khoảng gần 200 kg thóc một năm, khắc phục được nạn đói dài ngày vốn diễn ra thường xuyên trước Cách mạng Tháng Tám 1945, tự túc được phần lớn sản phẩm tiêu dùng thiết yếu như vải, giấy, và dụng cụ sản xuất.

Nền giáo dục được thiết lập, mang lại nhiều kết quả to lớn từ xóa nạn mù chữ, trong đó có Hà Tĩnh, đơn vị cấp tỉnh đi đầu trong cả nước, đến hoàn thành hệ thống giáo dục phổ thông từ cấp I đến cấp II ở mỗi tỉnh, tiếp nhận trường trung học chuyên khoa từ Huế và Liên khu III chuyển tới, thành lập nhiều trường trung cấp, sơ cấp sư phạm và Trường dự bị đại học, Trường đại học Văn khoa, Đại học Khoa học, Sư phạm cao cấp. Có thể nói, nhịp tiến của giáo dục Thanh - Nghệ - Tĩnh song hành với các bước phát triển của cuộc kháng chiến; đã đào tạo một thế hệ thanh niên có trình độ tri thức cần thiết tham gia kháng chiến, kiến quốc và chuẩn bị cho họ bước vào chặng đường mới khi kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc.

Đời sống văn hóa mới với nếp sống lành mạnh, tiến bộ và các hoạt động văn hóa, văn nghệ, báo chí do nhiều nhà văn hóa tiêu biểu của cả nước hội tụ tại đây và phong trào văn hóa quần chúng tạo dựng nên, đã tạo lập một bộ mặt mới của vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh, góp phần quan trọng vào việc giáo dục, cổ vũ quân dân ta chiến đấu và sản xuất, thực hiện nghĩa vụ của hậu phương.

Mạng lưới y tế của phần lớn xã do cán bộ y tế cao cấp, nữ hộ sinh đảm nhiệm, một số bệnh viện cấp tỉnh, cấp khu, đã góp phần quan trọng vào việc bảo đảm sức khỏe của nhân dân và cứu chữa nhiều thương binh, bệnh binh.

Công tác xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân được tiến hành khẩn trương theo yêu càu bảo vệ hậu phương và tăng cường sức chiến đấu nhiều chiến trường. Lực lượng đó bao gồm ba thứ quân: dân quân, du kích (80% cử tri), bộ đội địa phương cấp tiểu đoàn của tỉnh và bộ đội chủ lực cấp trung đoàn và cấp đại đoàn của khu mà Thanh - Nghệ - Tĩnh đảm đương việc nuôi dưỡng. Nét nổi bật của nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang ở Thanh - Nghệ - Tĩnh là phong trào nhân dân đỡ đầu dân quân, bộ đội địa phương theo hình thức đóng góp tiền và hiến điền. Số ruộng nhân dân ủng hộ khá lớn, hơn ba vạn hécta. Hoa lợi thu hoạch được trên diện tích đó cộng với các khoản kinh phí nhân dân giúp đỡ dùng để mua sắm quân trang, vũ khí. Phong trào mang tính quần chúng rộng rãi. Song cũng có nhiều nơi huy động mức đóng góp quá cao đối với bần nông, trung nông. Thanh - Nghệ - Tĩnh cũng là địa bàn xây dựng nhiều xưởng chế tạo, sửa chữa vũ khí. Ở đó có sự kết hợp chặt chẽ giữa nhiều nhà khoa học, kỹ thuật với đội ngũ công nhân trong quá trình chế tạo vật liệu (sản xuất acidsulfuric, gang) và sáng chế, cải tiến kỹ thuật để sửa chữa, sản xuất vũ khí, trong đó có cả vũ khí nặng như súng cối, SKZ, cap bazoka, AT… được sử dụng cho các đơn vị vũ trang trong liên khu và cung cấp cho chiến trường Bắc Bộ và Liên khu V.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Ba, 2016, 07:51:45 pm
Thanh - Nghệ - Tĩnh được bảo vệ an toàn, mưu đồ và hành động của địch gây biến loạn từ bên trong và tiến công từ bên ngoài đều bị đánh bại. Bảo vệ Thanh - Nghệ - Tĩnh là một nhiệm vụ quan trọng, được tiến hành thường xuyên trong cuộc kháng chiến.

Ở cả bốn hướng: Bình - Trị - Thiên đánh ra, từ Lào tiến công sang miền thượng du, từ biển và phía Ninh Bình đánh vào, đều nằm trong mưu đồ, kế hoạch của đối phương. Đồng thời, chúng lôi kéo những phần tử thổ ty và chức sắc ton giáo phản động hòng phá hoại chính sách đại đoàn kết dân tộc và tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta, bằng các thủ đoạn lập “xứ Mường tự trị” “Xứ Thái tự trị” và tổ chức “Liên tôn chống cộng” “quốc gia liên hiệp”. Các mưu đồ và hành động gây biến loạn và tiến công xâm lấn ấy của địch đã từng diễn ra ở Thanh - Nghệ - Tĩnh.

Công cuộc bố phòng và cảnh giác bảo vệ Thanh - Nghệ - Tĩnh được tiến hành bằng nhiều kế hoạch, biện pháp với sự tham gia của toàn dân, của lực lượng an ninh và lực lượng vũ trang ở khắp mọi miền, trong đó, đặc biệt chú trọng những vùng xung yếu. Kết hợp với những hoạt động trên là việc tiến hành phá hoại nhà cửa, công sở kiên cố ở thành phố Vinh và các thị xã Thanh Hóa, Hà Tĩnh đề phòng địch tiến công vào lấy đó làm nơi đồn trú. Cơ quan, công xưởng được lệnh di chuyển về phía sau. Nhân dân tản cư đến nơi an toàn. Trên các đường quốc lộ, các cầu lớn đểu bị phá sập, nền đường bị đào thành hầm hố và ngăn cắt nhiều đoạn nhằm ngăn chặn bước tiến quân của địch.

Trên các địa bàn tác chiến, cơ quan lãnh đạo và cơ quan chỉ huy quân sự liên khu và các tỉnh đã thực hiện nhiều kế hoạch và biện pháp ngăn chặn và phản công địch. Ở phía nam, từ năm 1947 - 1948, nhiều đơn vị chủ lực và dân quân, du kích của Thanh - Nghệ - Tĩnh được đưa vào chiến đấu tại chiến trường Bình - Trị - Thiên, phối hợp với lực lượng vũ trang tại chỗ tiến công địch và kiềm chế không cho chúng đánh ra Thanh - Nghệ - Tĩnh. Cũng ở thời điểm đó, các cơ quan, lãnh đạo của Đảng bộ liên khu và Bộ Chỉ huy quân sự liên khu chuyển từ Nghệ An ra Thanh Hóa để trực tiếp điều hành hoạt động bố phòng, chặn đánh các mũi tiến công của địch vào các vùng trọng điểm này.

Tại miền thượng du Thanh - Nghệ, địch đã đưa quân từ Lào sang đánh chiếm một số vùng, nhưng do các hoạt động quân sự của ta kết hợp với việc diệt trừ bọn thổ ty, lang đạo phản động, đã buộc địch phải rút khỏi vùng này từ năm 1950. Tiếp đó, trong nhiều năm, lực lượng vũ trang còn phải chiến đấu truy quét bọn thổ phỉ hoạt động tại miền tây Thanh - Nghệ.

Trên vùng đất ven biển Thanh - Nghệ - Tĩnh, địch đã tổ chức nhiều đợt tập kích, gây cho ta một số thiệt hại, nhưng chúng đều sớm bị đánh bật ra biển.

Cuộc chiến đấu gay go, quyết liệt nhất vẫn là các hoạt động quân sự và đấu tranh chính trị chống địch lấn chiếm, càn quét ở vùng Nga Sơn (Thanh Hóa) từ cuối năm 1949 đến tháng 6-1954 với nhiều biện pháp ngăn chặn địch mở rộng vùng chiếm đóng vượt ra phạm vi ba xã Điền Hộ, Nhân Phú và Liên Sơn, tiến công đồn bốt, địch vận và tôn giáo vận. Đến tháng 6-1954, địch rút khỏi vùng này.

Nỗ lực lớn cuối cùng của địch đánh chiếm Thanh - Nghệ - Tĩnh là cuộc hành quân La mouette (Hải Âu) từ Ninh Bình tiến công vào Hà Trung (Thanh Hóa) tháng 10-1953 đã nhanh chóng bị bộ đội chủ lực phối hợp với bộ đội địa phương và dân quân, du kích chặn đánh, buộc chúng phải trả giá.

Như vậy, trong kháng chiến chống thực dân Pháp, tuy không có vũ khí phòng không và pháo tầm xa ngăn chặn máy bay, tàu chiến của địch dội bom, bắn phá, song trên bộ, tất cả các cuộc tiến công của địch đều bị chặn đánh buộc chúng phải rút chạy hoặc chỉ lấn chiếm được một vùng nhỏ.

Những mưu đồ của địch lợi dụng chia rẽ dân tộc, tôn giáo, gây phản loạn ở miền tây Thanh Nghệ và một số vùng có đông đồng bào theo đạo Thiên Chúa đều bị các lực lượng vũ trang an ninh và nhân dân đấu tranh dập tắt.

Sức mạnh bảo vệ vẹn toàn vùng Thanh - Nghệ - Tĩnh là sức mạnh của quân, dân địa phương và sự chi viện lực lượng của Trung ương, do thế tiến công của ta trên các chiến trường, chủ yếu là chiến trường Bình - Trị - Thiên và Bắc Bộ, buộc địch phải chùn bước, không thể thực hiện được mưu đồ đánh chiếm Thanh - Nghệ - Tĩnh. Đó là thắng lợi của quân và dân ta, giữ vững một hậu phương quan trọng, dồi dào sức của, sức người, để chi viện cho tiền tuyến và làm hậu cứ cho Bình - Trị - Thiên, cho vùng bị địch chiếm ở Bắc Bộ và cách mạng Lào. Thanh - Nghệ - Tĩnh an toàn là nơi đứng chân thuận lợi cho bộ đội, các cơ quan nhà nước và đoàn thể cứu quốc, nơi đồng bào tản cư, tránh bị giặc tàn sát. Đó cũng chính là sự đóng góp quan trọng cho việc xây dựng và phát triển lực lượng kháng chiến của cả nước.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Ba, 2016, 07:54:02 pm
Quá trình bảo vệ và xây dựng Thanh - Nghệ - Tĩnh cũng là quá trình phát huy vai trò của vùng này đối với cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp qua nhiều chặng đường phát triển. Thanh - Nghệ - Tĩnh từng bước vươn lên từ chỗ là hậu phương của chiến trường Bình - Trị - Thiên và hậu cứ của Liên khu III trong khoảng bốn năm đầu của cuộc kháng chiến (1946-1950) rồi trở thành hậu phương của các chiến trường Bắc Đông Dương.

Trước hết Thanh - Nghệ - Tĩnh là kho nhân lực dồi dào, cung cấp hàng vạn thanh niên cho quân chủ lực từ cấp trung đoàn đến đại đoàn và bộ đội địa phương, dân quân, du kích với mức độ ngày càng gia tăng. Chỉ tính từ năm 1950 đến năm 1952, Thanh - Nghệ - Tĩnh đã cung cấp 74 ngàn chiến sĩ, cán bộ cho các đại đoàn chủ lực của Bộ Quốc phòng, các trung đoàn chủ lực của Bình Trị Thiên. Trường Lục quân Trần Quốc Tuấn và hàng ngàn thanh niên xung phong. Đó là chưa kể số người gia nhập bộ đội địa phương tỉnh, huyện và dân quân, du kích địa phương.

Cuộc kháng chiến ngày càng phát triển, càng đòi hỏi Thanh - Nghệ - Tĩnh cung cấp cho chiến trường khối lượng nhân lực, vật lực và tài lực càng lớn. Theo đó, các hình thức huy động cũng thay đổi theo hướng từ khuyến khích, thuyết phục, động viên và thi đua sang tổng động viên nhân lực, vật lực, tài lực theo nguyên tắc dân chủ, gấp rút tăng cường lực lượng kháng chiến để thực hiện khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng” mà Hội nghị toàn quốc lần thứ hai của Đảng (tháng 1-1950) đã quyết định. Thi hành quyết định đó của Đảng và Sắc lệnh Tổng động viên của chủ tịch Hồ Chí Minh (ngày 12-2-1950), nhân dân Thanh - Nghệ - Tĩnh đã đóng góp dưới các hình thức thuế điền thổ, bán thóc cho Chủ tịch Hồ Chí Minh khao quân, mua công trái kháng chiến 30.000 tấn lương thực, 140 triệu đồng. Nhân dân còn đảm nhận nuôi dưỡng hàng ngàn thương binh, bệnh binh, giúp đỡ các đơn vị từ chiến trường Bình - Trị - Thiên, Trung Lào, Liên khu III chuyển đến và ba vạn đồng bào từ Bắc Bộ tản cư vào. Trong quá trình thực hiện, các cấp lãnh đạo của liên khu đã thiên về mệnh lệnh, thiếu dân chủ và tuyên truyền, giải thích, hoặc để xẩy ra nhiều trường hợp cưỡng bức thô bạo. Những khuyết điểm đó đã được kiểm điểm, phê bình và sửa chữa.

Từ năm 1951, Đảng và Nhà nước thực hiện một chính sách huy động mới, đó là thuế nông nghiệp; để tăng thêm mức thu lương thực và tiền bạc chi cho nhu cầu kháng chiến trong giai đoạn phản công và tiến công. Đồng thời thuế nông nghiệp cũng là hình thức thu công bằng và hợp lý theo khả năng thu hoạch của từng hộ sản xuất nông nghiệp. Do sự cố gắng lãnh đạo, vận động, giải thích cho nhân dân và đấu tranh chống các luận điệu chống phá của bọn phản động, công tác thu thuế nông nghiệp đã đạt được nhiều kết quả tốt đẹp, thể hiện sự đóng góp của nhân dân cho kháng chiến. Nếu mức tạm thu cuối năm 1951 của Liên khu IV là 37.000 tấn thóc, thì mức thu năm 1952 đạt tới 128.000 tấn bằng 82% chỉ tiêu Trung ương giao (150.000 tấn), năm 1953 đạt 167.000 tấn bằng 87% chỉ tiêu Trung ương giao (190.000 tấm)(1).

Mức độ đóng góp sức của, sức người của Thanh - Nghệ - Tĩnh là rất to lớn, liên tục và khẩn trương từ chiến dịch Hà - Nam -Ninh (năm 1951) đến chiến dịch Điện Biên Phủ (năm 1954) đánh dấu sự phát triển nhảy vọt của nhiệm vụ chi viện tiền tuyến.

Từ năm 1951, cuộc kháng chiến của nhân dân ta đi vào giai đoạn tiến công và phản công với thế chủ động chiến lược, hàng loạt chiến dịch liên tiếp được mở ra, đòi hỏi sự đóng góp to lớn của hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh. Sau khi chiến dịch Hà - Nam - Ninh kết thúc (giữa năm 1951), các cấp lãnh đạo Liên khu IV và các đảng bộ Thanh - Nghệ - Tĩnh tiến hành rút kinh nghiệm, khắc phục những khuyết điểm trong quá trình lãnh đạo dân công về tổ chức và tư tưởng và đề ra nhiều biện pháp quản lý đội ngũ chặt chẽ, giáo dục, động viên kịp thời chống các hành động phá hoại của địch.

Để nắm vững nhân lực và chủ động điều động lực lượng đáp ứng yêu cầu của cuộc kháng chiến, các địa phương đã tiến hành phân định những người đang ở độ tuổi lao động theo các loại sau đây: thanh niên khỏe mạnh tòng quân và gia nhập Thanh niên xung phong hỏa tuyến, số còn lại, trừ phụ nữ đang nuôi con nhỏ, đều đi dân công dài hạn, ngắn hạn. Các hoạt động đó có tác dụng tích cực rõ rệt cho việc tổ chức phục vụ các chiến dịch.

Sau chiến dịch Hà - Nam - Ninh, nhiệm vụ phục vụ các chiến dịch Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên Phủ càng nặng nề hơn, do khối lượng lương thực, thực phẩm, vũ khí và các loại hàng hậu cần lớn hơn, độ đường vận chuyển dài hơn, trong đó có nhiều đoạn đường phải làm mới, máy bay địch đánh phá dữ dội hơn, nạn sốt rét rừng hoành hành. Trong chiến dịch Tây Bắc, dân công Thanh - Nghệ đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, riêng số dân công Thanh Hóa đã chiếm 70% dân công toàn chiến dịch, được thưởng hàng ngàn huân chương. Thử thách lớn nhất của Thanh - Nghệ - Tĩnh là việc tiếp tế cho chiến dịch Điện Biên Phủ. Các khó khăn, gian khổ và hy sinh so với các chiến dịch trước đều tăng lên gấp bội. Một trong những nhiệm vụ lớn của chiến dịch mà lãnh đạo Đảng, Nhà nước và quân đội đặc biệt quan tâm chỉ đạo thực hiện là cung cấp đủ lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, vũ khí cho bộ đội và các lực lượng phục vụ chiến đấu tại chiến trường Điện Biên Phủ, một địa bàn nằm sâu trong vùng Tây Bắc hiểm trở, núi non trung điệp và rất xa hậu phương, nhất là Thanh - Nghệ - Tĩnh. Đại tướng Võ Nguyên Giáp, người chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ, khi quyết định thay đổi chủ trương từ đánh nhanh, giải quyết nhanh sang đánh chắc, tiến chắc, cũng cho rằng: “Thời gian hoạt động kéo dài, quả thật là vấn đề cung cấp, tiếp tế là một vấn đề hết sức to lớn đối với ta”(2), còn Nava và các tướng lính Pháp thì hoàn toàn không tin ta có khả năng giải quyết vấn đề chi viện, cung cấp theo một quy mô lớn, trong một thời gian dài cho chiến dịch Điện Biên Phủ.

Tuy nhiệm vụ tiếp tế cho chiến dịch Điện Biên Phủ mà Thanh - Nghệ - Tĩnh đảm nhiệm rất nặng nề và khẩn trương, song với tinh thần “Tất cả cho chiến dịch Điện Biên Phủ đại thắng”, lại được kết quả của cuộc vận động giảm tô, giảm tức cổ vũ, nhân dân Thanh - Nghệ - Tĩnh đã dốc hết sức của, sức người phục vụ chiến dịch này. Số dân công Thanh - Nghệ - Tĩnh, chủ yếu là Thanh - Nghệ đã huy động tới 214.924 người với 14.500.000 ngày công. Thầy giáo và học sinh cấp III cũng đi dân công ngắn hạn. Riêng Thanh Hóa đã cung cấp 56% số gạo hậu cần chiến dịch (900/1652) = 5,3% số lương thực thực phẩm chiếm 40%(3). Sự đóng góp của Thanh Hóa rất xứng đáng với lời khen của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Tiếng Điện Biên Phủ đến đâu, đồng bào Thanh Hóa cũng có một phần vinh dự đến đó”.

Thắng lợi của các chiến dịch trên cho thấy vai trò to lớn của hậu phương nói chung và hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh nói riêng đối với tiền tuyến; sức mạnh của chiến tranh nhân dân Việt Nam chiến thắng thực dân Pháp xâm lược là sức mạnh tổng hợp của tiền tiến và hậu phương.


(1) Hoàng Anh: Những ghi nhớ trong những năm tôi làm Bí thư Liên khu và Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính Liên khu IV (4-1951 – 7-1954), lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
(2) Võ Nguyên Giáp: Điện Biên Phủ, Nxb. Chính trị quốc gia, hà Nội, 1994, tr. 125.
(3) Lưu Quang Hà: Trận tuyến hậu cần Điện Biên Phủ, Nxb. Quân đội nhân dân, hà Nội, 1975, tr.229.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Ba, 2016, 07:55:37 pm
4. Liên khu IV thực hiện nghĩa vụ quốc tế đối với cách mạng Lào đạt hiệu quả tốt đẹp

Đối với cuộc kháng chiến của nhân dân Lào, đảng bộ, quân và dân Liên khu IV không quản ngại hy sinh, chi viện cho bạn với tinh thần giúp bạn là tự giúp mình.

Dưới sự chỉ đạo của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đảng bộ, quân và dân Liên khu IV đã liên tục phối hợp hoạt động và chi viện cho cách mạng Lào và cuộc kháng chiến của nhân dân Lào ngay từ năm 1945 đến khi kết thúc chiến tranh chống Pháp và can thiệp Mỹ.

Sự phối hợp và chi viện của Liên khu IV cho cách mạng Lào được thực hiện trên phương diện phối hợp tác chiến và xây dựng lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang cung cấp lương thực, thực phẩm cho chiến trường.

Tháng 9-1945, đại diện lực lượng kháng chiến Lào sang Quảng Trị bàn việc hợp tác chống Pháp, mở đầu việc xây dựng liên quân Việt - Lào chiến đấu tại đường 9. Cuộc kháng chiến của nhân dân ta và nhân dân Lào càng phát triển, sự hợp tác và chi viện của Liên khu IV cho cách mạng Lào càng được tăng cường.

Ngày 12-10-1945, nước Lào tuyên bố độc lập. Sau đó hai ngày, Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa công nhận Chính phủ độc lập (Ítxala) Lào lâm thời, tiếp đó, ngày 16-10-1945, đại diện hai chính phủ ký Hiệp định tương trợ toàn diện. Trên cơ sở đó, Hiệp định tổ chức Liên quân Lào - Việt được ký kết và liên quân được xây dựng do Hoàng thân Xuphanuvông chỉ huy.

Các cuộc chiến đấu của quân dân Việt - Lào trên lãnh thổ Lào giáp Liên khu IV trong những tháng cuối năm 1946 như trên đã viết, là những trận mở đầu hoạt động quân sự theo tinh thần hợp tác giữa hai dân tộc chống kẻ thù chung là thực dân Pháp xâm lược.

Để chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ của mình đối với cách mạng Lào, Liên khu IV lập Phòng Biên chính (1947), Ban Cán sự Trung Lào (1949). Ngoài Liên quân Lào Việt và một số đơn vị tiểu đoàn, đại đội của bộ đội Liên khu IV tham gia mặt trận miền tây, năm 1950, Liên khu ủy IV quyết định thành lập Trung đoàn 120 là lực lượng chủ chốt phối hợp chiến đấu với lực lượng vũ trang Lào tại Trung Lào.

Liên khu ủy IV coi công tác phối hợp, chi viện cho chiến trường Lào là một trong những nhiệm vụ quan trọng của liên khu. Nhiều văn kiện của liên khu xác định những nhiệm vụ cụ thể của công tác này trên ba phương diện giúp đỡ cách mạng Lào về đường lối, chủ trương; về xây dựng lực lượng chính trị và quân sự; về chi viện vật chất. Sự chỉ đạo thực tiễn của Liên khu ủy đã đưa lại nhiều kết quả tích cực được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng biểu dương.

Với sự phấn đấu ủa cán bộ, quân và dân Trung Lào và sự giúp đỡ của Liên khu IV, đến năm 1951, phong trào cách mạng của nhân dân Trung Lào đã những tiến bộ rõ rệt và giành được nhiều thắng lợi quan trọng. Các cấp chính quyền và Mặt trận Ítxala được tổ chức rộng khắp và kiện toàn, đào tạo được hơn 300 cán bộ sơ cấp chính trị và quân sự. Lực lượng du kích và bộ đội địa phương phát triển khá. Trung Lào xây dựng hai đại đội địa phương và hai đại đội chủ lực khu.

Trên mặt trận quân sự, Liên khu IV đã dốc sức chi viện các chiến dịch Thượng Lào và Trung Lào trong năm 1953, năm 1954, mở đường giao thông từ Việt Nam qua Lào để vận chuyển hơn 8.000 tấn lương thực, thực phẩm bằng đôi vai và xe đạp thồ. Số dân công phục vụ hai chiến trường này lên tới gần 200.000 người. Một số đơn vị bộ đội Liên khu IV cũng được điều sang chiến đấu tại chiến trường Lào. Sự đóng góp, chi viện của Liên khu IV và của quân, dân Việt Nam kết hợp với sức kháng chiến của quân và dân Lào đã đưa tới những thắng lợi to lớn của hai chiến dịch Thượng Lào và Trung Lào.

Liên khu IV thực hiện nghĩa vụ quốc tế đối với cách mạng Lào liên tục, toàn diện và ngày càng tăng tiến trong cả quá trình kháng chiến chống thực dân Pháp. Tinh thần dân tộc và tinh thần quốc tế cao cả quyện chặt trong những hoạt động đó và mang lại hiệu quả quan trọng cho cuộc kháng chiến của hai dân tộc cùng chống kẻ thù chung, vì độc lập, tự do của mỗi nước, vì sự nghiệp giải phóng ba dân tộc Việt - Lào - Miên.

Những thắng lợi trên cũng chính là những đóng góp xứng đáng của Liên khu IV cho thắng lợi vẻ vang của cuộc kháng chiến của nhân dân ta chống thực dân Pháp xâm lược.

Trải qua chín năm kháng chiến trường kỳ, đảng bộ, quân và dân Liên khu IV cùng với đồng bào toàn quốc chiến đấu, xây dựng và bảo vệ hậu phương, chi viện cho hầu hết chiến trường Bắc Bộ và chiến trường Lào, đặc biệt là chiến trường Điện Biên Phủ. Liên khu IV là địa bàn nổi trội sự kết hợp thực hiện nhiệm vụ kháng chiến và kiến quốc, dân tộc và dân chủ, tiền tuyến và hậu phương, dân tộc và quốc tế.

Dưới sự lãnh đạo của đảng bộ, do sự phấn đấu, hy sinh của quân và dân liên khu, đường lối chiến tranh nhân dân, trường kỳ kháng chiến, tự lực, tự cường được thực hiện bền bỉ, sáng tạo và đa dạng, vừa hiện rõ tính phổ quát của toàn quốc, vừa nổi bật những nét đặc thù của địa phương. Từ bước khởi đầu kháng chiến vô cùng gian khổ, khó khăn và không tránh khỏi sai lầm, vấp váp trên chiến trường Bình - Trị - Thiên, Đảng bộ Liên khu IV đã khẩn trương tổ chức lực lượng, bố trí lại thế trận theo đường lối và phương pháp tiến hành chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện của Đảng ta. Nhờ vậy, thế chủ động của quân và dân ta trên chiến trường này được xác lập và phát triển. Đồng thời, hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh cũng được xây dựng ngày càng vững mạnh về chính trị, kinh tế, quốc phòng, văn hóa, giáo dục, hiện thân của sức mạnh hậu phương trong chiến tranh cách mạng, theo mô hình vừa kháng chiến, vừa kiến quốc.

Đảng bộ, nhân dân Liên khu IV được tôi luyện và trưởng thành trong cuộc chiến tranh nhân dân chống cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp và đã hoàn thành vẻ vang các nhiệm vụ chiến đấu trên chiến trường Bình - Trị - Thiên, xây dựng và phát huy sức mạnh của hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh, chi viện cho tiền tuyến.

Thắng lợi của Liên khu IV bắt nguồn từ các nhân tố:

Một là, sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh được thể hiện ở đường lối chiến tranh nhân dân, ở sự chỉ đạo cụ thể đối với liên khu về công tác xây dựng đảng và hệ thống chính trị, đội ngũ cán bộ và phương pháp xây dựng hậu phương, tiến hành chiến tranh trên chiến trường Bình - Trị - Thiên.

Hai là, sự chỉ đạo của Liên khu ủy và các cấp bộ đảng địa phương trong việc thực hiện những nhiệm vụ của liên khu với tinh thần trách nhiệm cao vì thắng lợi của công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

Ba là, sức mạnh đoàn kết toàn dân và đoàn kết quốc tế được tăng cường và phát huy. Tinh thần chịu đựng gian khổ, hy sinh, trí sáng tạo trong chiến đấu và xây dựng hậu phương, chi viện tiền tuyến của cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và nhân dân được khơi dậy, bồi dưỡng và nâng cao, biến thành hành động cách mạng và đưa lại những hiệu quả to lớn.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Ba, 2016, 07:57:39 pm
II. MỘT SỐ KINH NGHIỆM LÃNH ĐẠO KHÁNG CHIẾN
CỦA ĐẢNG BỘ VÀ CHÍNH QUYỀN LIÊN KHU IV

Từ những thắng lợi và những đóng góp của Liên khu IV cho cuộc kháng chiến toàn quốc, có thể đúc kết một số kinh nghiệm lãnh đạo cuộc kháng chiến của đảng bộ, chính quyền Liên khu IV.

1. Nhận rõ trách nhiệm quan trọng của địa bàn chiến lược, quán triệt và vận dụng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước để xác định đúng chủ trương, biện pháp chỉ đạo hoạt động của liên khu theo yêu cầu ngày càng cao của cuộc kháng chiến

Cuộc kháng chiến của nhân dân ta chống thực dân Pháp xâm lược là cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện, dựa vào sức mình là chính, đòi hỏi từng địa phương, từng đảng bộ phát huy cao độ sức mạnh của mình để góp phần cao nhất cho thắng lợi của sự nghiệp vẻ vang đó. Điều quan trọng nhất là đảng bộ, quân và dân của từng địa phương nhận thức được vai trò và trách nhiệm của mình trong cuộc kháng chiến diễn ra tại chỗ và ra sức đóng góp tích cực cho cả nước.

Từ khi cuộc kháng chiến toàn quốc khởi phát cũng là lúc địa bàn chiến lược Liên khu IV được hình thành. Chiến trường Bình - Trị - Thiên, nơi cuộc chiến đấu diễn ra quyết liệt, do thực dân Pháp tập trung nhiều lực lượng hòng đánh chiếm vùng đất này để chia cắt chiến trường Đông Dương và lấy đó làm bàn đạp đánh chiếm Thanh - Nghệ - Tĩnh. Ba tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh là vùng đất rộng, dân đông, địch nhiều lần lấn chiếm nhưng bị đánh bật ra, đã biến thành vùng tự do, một hậu phương quan trọng của Bình - Trị - Thiên, của chiến trường Tây Bắc, đồng bằng Bắc Bộ và chiến trường Lào.

Trong tiến trình lãnh đạo cuộc kháng chiến, đảng bộ, chính quyền Liên khu IV đã nhận thức ngày càng rõ rệt đặc điểm của hai vùng chiến lược đó và những khó khăn, thuận lợi và trách nhiệm của mình trong cuộc chiến đấu tại chiến trường Bình - Trị - Thiên và xây dựng hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh.

Trên chiến trường Bình - Trị - Thiên sau những ngày đầu của cuộc kháng chiến, địch ồ ạt tiến quân, ta chưa đủ sức chặn ngăn,, phải rút khỏi Huế và nhiều vùng đồng bằng, song đã nhanh chóng ổn định tư tưởng, tổ chức lực lượng lãnh đạo, chỉ huy và chiến đấu. Cuộc chiến tranh nhân dân ở đây ngày càng phát triển với nhiều hình thức của chiến tranh du kích kết hợp với đấu tranh phá tề, phản kháng chính quyền bù nhìn, tiến hành binh vận; vừa chiến đấu vừa tăng gia sản xuất, xây dựng nhiều vùng căn cứ làm chỗ đứng chân vững chắc của cơ quan lãnh đạo và chỉ huy. Sức mạnh kháng chiến ngày càng gia tăng, đưa lại nhiều hiệu quả cũng là phản ánh sự phấn đấu của đảng bộ và quân, dân Bình - Trị - Thiên và sự chi viện tích cực về nhân lực, tài lực của Thanh - Nghệ - Tĩnh.

Trong lúc tiến hành chiến tranh kìm giữ và tiêu hao, tiêu diệt địch tại Bình - Trị - Thiên, đảng bộ và quân dân Liên khu IV còn phải dốc sức bảo vệ, xây dựng hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh, đáp ứng những yêu cầu to lớn của nhiều chiến trường ở phía bắc và nước bạn Lào. Có thể coi nghị quyết của Liên khu ủy IV về việc xác định vai trò quan trọng của hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh vào đầu năm 1950 theo tinh thần chỉ đạo của Trung ương Đảng “gấp rút hoàn thành chuẩn bị chuyển mạnh sang tổng phản công” như là một nhiệm vụ tối quan trọng của mình: “bảo vệ Thanh - Nghệ - Tĩnh là nhiệm vụ tối quan hệ cho chiến trường toàn quốc, là nhiệm vụ trung tâm lãnh đạo để sửa soạn chuyển sang tổng phản công có hiệu quả. Phải xây dựng Thanh - Nghệ - Tĩnh thành một hậu phương vững chắc, một kho dự trữ nhân tài, vật lực sẵn sàng tiếp tế kịp thời cho chiến trường”. Trên thực tế, quyết tâm đó đã được toàn đảng bộ và quân, dân liên khu thực hiện xuất sắc và toàn diện về quân sự, kinh tế văn hóa, giáo dục. Thanh - Nghệ - Tĩnh đã đảm nhiệm cung cấp đầy dủ kịp thời nhân lực, vật lực cho các chiến dịch lớn diễn ra tại Bắc Bộ và nước bạn Lào thu được thắng lợi.

2. Giáo dục, động viên cán bộ, đảng viên quân và và đường lối, chủ trương kháng chiến và nhiệm vụ của Liên khu trong chiến đấu, lao động sản xuất, phát triển văn hóa, giáo dục, hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ của hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh và chiến trường Bình - Trị - Thiên

Những nhiệm vụ kháng chiến của Liên khu IV diễn ra rất đa dạng, nặng nề qua nhiều chặng đường đầy gian nan, liên tục đòi hỏi sự cố gắng vươn lên của đảng bộ, quân và dân mới có thể thực hiện được. Những khó khăn phức tạp trong cuộc kháng chiến trực tiếp tác động tới tư tưởng và gây nên tình trạng hoang mang, lúng túng, dao động trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân. Cùng với việc tuyên truyền giáo dục thường xuyên đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, tự lực cánh sinh và những nhiệm vụ cụ thể của chiến trường Bình - Trị - Thiên và hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh, đảng bộ liên khu đã kịp thời nắm bắt diễn biến tư tưởng của đội ngũ cán bộ, đảng viên và tiến hành nhiều biện pháp giáo dục tư tưởng đạt hiệu quả tốt. Có thể coi công tác giáo dục, xác định quyết tâm của cán bộ, đảng viên tại ba tỉnh Bình - Trị - Thiên trở lại cơ sở, bám đất, bám dân, thành công, xây dựng lực lượng, chống giặc tại thành phố Huế và khắp nông thôn ba tỉnh, làm thất bại mưu đồ đánh nhanh, thắng nhanh của địch tại vùng này, là sự thể hiện hiệu quả của công tác tư tưởng và tổ chức.

Tại Thanh - Nghệ - Tĩnh, tư tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân lại diễn ra theo một hướng khác, khi Đảng và Nhà nước thực hiện các chính sách thuế nông nghiệp từ 1951 và động viên sự đóng góp cao độ sức người, của cho tiền tuyến; đồng thời, chủ trương giảm tô, giảm tức cũng được thực hiện. Một bộ phận cán bộ, đảng viên cũng bị động chạm lợi ích, lại bị những luận điệu phản tuyên truyền của địch kích động, đã nảy sinh hoang mang, dao động trong việc chấp hành chủ trương chính sách trên. Trước tình hình đó, trong năm 1952, Liên khu ủy đã tiến hành giáo dục trong cán bộ, đảng viên, trong các cấp chính quyền và Mặt trận Liên Việt về thắng lợi của cuộc kháng chiến, những yêu cầu to lớn của nó, và trách nhiệm của vùng Thanh - Nghệ - Tĩnh và của đội ngũ cán bộ, đảng viên đối với thắng lợi của cuộc chiến tranh bảo vệ độc lập dân tộc. Công tác tư tưởng cũng được kết hợp với công tác chấn chỉnh tổ chức bộ máy đảng, chính quyền, Mặt trận và cuộc đấu tranh phá tan các tổ chức phản động đã tạo nên sự nhất trí về nhận thức và hành động của cán bộ, đảng viên và nhân dân cùng thực hiện khẩu hiệu: tất cả cho tiền tuyến! Tất cả để chiến thắng! Sự đóng góp to lớn của Thanh - Nghệ - Tĩnh cho các chiến trường Bắc Bộ và chiến trường Lào là minh chứng hùng hồn về thành công của công tác tuyên truyền, giáo dục và công tác tổ chức của Liên khu ủy.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Ba, 2016, 07:59:49 pm
3. Trong quá trình lãnh đạo, đảng bộ và chính quyền liên khu vừa bao quát tình hình chung của toàn liên khu, vừa chú trọng đúng mức đặc điểm cụ thể của chiến trường Bình - Trị - Thiên và hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh trong từng thời kỳ để đề ra những chủ trương, nhiệm vụ và biện pháp thực hiện hữu hiệu nhất cho từng vùng

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Đảng bộ Liên khu IV đã điều hành đồng thời hai loại hình hoạt động trên địa bàn lãnh đạo của mình: chiến trường Bình - Trị - Thiên và hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh. Nhiệm vụ của mỗi vùng có những đặc điểm riêng, song cả hai liên hệ chặt chẽ và tác động trực tiếp với nhau. Để giải quyết thành công những nhiệm vụ đa dạng đó, năng lực lãnh đạo của đảng bộ phải không ngừng được nâng cao theo yêu cầu phát triển của cuộc kháng chiến.

Trên chiến trường Bình - Trị - Thiên, sự lãnh đạo của Liên khu ủy và các cấp bộ đảng được tập trung vào hoạt động chiến đấu, xây dựng dân quân, du kích, bộ đội địa phương và bộ đội chủ lực, tạo dựng chiến khu và làng chiến đấu, vận động nhân dân tham gia đánh giặc và tăng gia sản xuất. Sau một thời gian ổn định tình hình vào nửa đầu năm 1947, chiến trường Bình - Trị - Thiên đã tạo lập được thế đứng vững chắc, chống địch càn quét, phá tề, nâng cao trình độ tác chiến và đấu tranh chính trị theo hướng quán triệt sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng, Bộ Quốc phòng và tự rút kinh nghiệm, khắc phục những hạn chế của mình. Trên cơ sở đó, tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân phù hợp với vị thế của chiến trường này và so sánh lực lượng địch - ta.

Những thắng lợi của quân dân Bình - Trị - Thiên trong đông - xuân 1953-1954 đã tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch (riêng sáu tháng đầu năm 1954, tiêu diệt hơn 10.000 tên địch), làm rã ngũ hàng ngàn ngụy binh, kìm chân địch, phối hợp với chiến trường Trung Lào, Hạ Lào và chiến dịch Điện Biên Phủ, góp phần xứng đáng vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

Đối với Thanh - Nghệ - Tĩnh, sự lãnh đạo của Đảng bộ liên khu lại hướng vào công tác tổ chức, bảo vệ vững chắc, đánh đuổi lực lượng của địch xâm phạm và chiếm lại một số vùng của địa bàn này, động viên nhân dân thực hiện các chủ trương, chính sách kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục của Đảng và Nhà nước, lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh:

“Làm cho người nghèo thì đủ ăn.
Người đủ ăn thì khá giàu.
Người giàu thì giàu thêm.
Người nào cũng biết chữ,
Người nào cũng biết đoàn kết, yêu nước”(1).

Nhờ vậy, Thanh - Nghệ - Tĩnh từ một vùng thiếu lương thực và hàng tiêu dùng đã dần dần tự túc được lương thực và đóng góp phần lớn nhu cầu lương thực, thực phẩm cho các chiến trường Bình - Trị - Thiên, Trung Lào, Thượng Lào và Bắc Bộ, cung cấp nhân lực xây dựng nhiều đơn vị bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân, du kích. Nơi đây cũng tiếp nhận đồng bào từ nhiều vùng bị địch chiếm tản cư tới sinh sống trong tình cảm nồng ấm của nhân dân địa phương.

Thanh - Nghệ - Tĩnh cũng là địa bàn hội tụ nhiều nhân tài của đất nước để thực hiện các nhiệm vụ của cuộc kháng chiến như chế tạo, sửa chữa vũ khí, đào tạo, huấn luyện cán bộ chính trị, quân sự, văn hóa, văn nghệ, xây dựng nền văn hóa mới, phát triển giáo dục phổ thông, cao đẳng và dự bị đại học và đại học.

Sự lãnh đạo của đảng bộ liên khu đã xây dựng nên một hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh vững mạnh với đầy đủ các yếu tố căn cứ địa của cuộc kháng chiến.

4. Tăng cường công tác xây dựng đảng và củng cố Mặt trận, các đoàn thể nhân dân, xây dựng lực lượng vũ trang. Huy động sức dân đồng thời bồi dưỡng sức dân

Các nhiệm vụ trên đều hướng vào việc tạo lập sức mạnh to lớn, bền vững cho liên khu giành thắng lợi trong chiến đấu, trong xây dựng và bảo vệ hậu phương, cung cấp sức người, sức của cho tiền tuyến.

Những chặng đường phát triển của Liên khu IV gắn liền với sự trưởng thành của đảng bộ trong quá trình vừa lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ chính trị, vừa đào tạo, tăng cường đội ngũ cán bộ, đảng viên và xây dựng các cấp bộ đảng. Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng bộ Khu IV và Liên khu IV từng bước vận dụng và cụ thể hóa đường lối, chủ trương kháng chiến, kiến quốc vào hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của mình. Sự chuyển biến quan trọng của Đảng bộ Khu IV đó được ghi nhận từ nửa sau năm 1947 trong việc xác định nhiệm vụ chính trị của mình tại một địa phương vừa bị chia thành hai vùng chiến trường và hậu phương đồng thời thực hiện nghĩa vụ quốc tế dối với cách mạng Lào. Theo hướng ấy, công tác phát triển đảng viên luôn được chú trọng và đã đạt được nhiều kết quả. Tổ chức đảng được xây dựng ở hầu khắp đơn vị dân cư, các cơ quan, xí nghiệp và các đơn vị đại đội lực lượng vũ trang. Đến cuối cuộc kháng chiến, số lượng đảng viên đã lên tới hơn mười vạn, hàng vạn cán bộ, đảng viên được bố trí lãnh đạo những vị trí quan trọng của các ngành, các cấp, các đơn vị chiến đấu và dân công, các địa bàn tại hậu phương và vùng địch chiếm, kể cả thành phố Huế.

Con đường phát triển của Đảng bộ và Liên khu IV là vừa học, vừa làm, coi trọng sự sáng tạo và tổng kết điển hình tiên tiết nhất, nghiêm túc sửa chữa sai lầm, khuyết điểm nhất là ở những khâu công tác quan trọng, những bước đột biến của tình hình, nhiệm vụ.

Bộ máy chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân như Đoàn Thanh niên, Công đoàn, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân được xây dựng và phát triển tại các vùng nhân dân làm chủ, vùng căn cứ du kích thuộc Bình - Trị - Thiên và vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh. Đó chính là những công cụ đắc lực của Đảng và nhân dân thực hiện đường lối, chính sách kháng chiến và kiến quốc. Công tác xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng ngoài những nét chung như nhiều địa phương khác, đảng bộ liên khu còn phải lãnh đạo việc chuyển hóa chính quyền tại nhiều địa phương từ tay lang đạo ở miền núi Thanh - Nghệ sang chính quyền cách mạng, dập tắt những hành động phản loạn của nhiều phần tử tay sai thực dân Pháp, phát động nhân dân bảo vệ địa bàn phía tây quan trọng này của liên khu. Phương pháp lãnh đạo chính quyền tại khu và liên khu là xây dựng các ủy ban hành chính như Nghị quyết của toàn kỳ đại biểu khuếch đại (tháng 6-1946) xác định:

a. Phản chiếu chính quyền toàn dân (chứ không phải chính quyền công nông như đôi nơi đã làm gồm hầu hết những chính trị phạm cộng sản).

b. Giữ vững đường lối chính trị của Chính phủ Hồ Chí Minh do đảng ta lãnh đạo...

Nhớ rằng Đảng ta lãnh đạo các Ủy ban hành chính bằng đề nghị, thuyết phục, chứ không phải bằng mệnh lệnh, chỉ thị(2).

Công việc phát triển Mặt trận và các đoàn thể nhân dân đi liền với việc phát huy vai trò của nó trong việc vận động, tổ chức khối đại đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, tôn giáo, trí thức, tiểu tư sản thành thị theo Chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Làm cho người xa ta đến gần ta, người sợ với ta hóa thân ta”(3).

Phát triển lực lượng vũ trang gồm ba thứ quân, lực lượng công an nhân dân là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Đảng bộ và chính quyền Khu IV, và Liên khu IV, mà kết quả là đã xây dựng được các đơn vị dân quân, tự vệ, bộ đội địa phương huyện, tỉnh và nhiều đơn vị bộ đội chủ lực cấp trung đoàn, đại đoàn. Đến những năm cuối cuộc kháng chiến, lực lượng vũ trang của liên khu đã trưởng thành đến mức tự đảm nhiệm xuất sắc nhiệm vụ quân sự của mình để các đại đoàn chủ lực tham gia các chiến dịch lớn trên nhiều chiến trường.

Các hoạt động đấu tranh vũ trang diễn ra cùng với các hoạt động kinh tế, bảo vệ phát triển sản xuất, chủ yếu là sản xuất lương thực, thực phẩm và một số mặt hàng tiêu dùng thiết yếu do sự phấn đấu của nhân dân kết hợp với sự giúp đỡ của nhà nước về giống lúa, công cụ sản xuất cải tiến và vốn liếng. Đối với sản xuất nông nghiệp, điều quan trọng nhất là thực hiện chính sách ruộng đất của Đảng như chia ruộng đất công, ruộng của thực dân Pháp và Việt gian bị tịch thu, ruộng do địa chủ hiến, giảm tô 25% cho nông dân và tiến hành triệt để giảm tô, bước đầu cải cách ruộng đất (1953-1954). Những chính sách và biện pháp đó được Đảng bộ Liên khu IV lãnh đạo thực hiện đã nhân lên sức mạnh của nhân dân và sự đóng góp cho tiền tuyến, bảo đảm những điều kiện vật chất cần thiết cho thắng lợi trên các chiến trường mà Liên khu IV được phân công phụ trách.

Cuộc kháng chiến chín năm của quân và dân Liên khu IV dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng bộ Liên khu IV đã phản ánh rõ nét thắng lợi của đường lối chiến tranh nhân dân. Bản chất khoa học và cách mạng đúng đắn của đường lối đó được hiện lên ở tiền tuyến, hậu phương, trong kháng chiến và kiến quốc, vì lợi ích của dân tộc, vì nghĩa vụ quốc tế. Con đường phát triển sức mạnh mọi mặt của Liên khu IV là sự liên tục vươn lên để đảm đương các sứ mệnh cao cả đó. Thắng lợi và đóng góp của Liên khu IV là toàn diện, to lớn, rất xứng đáng với vị trí chiến lược của mình và đáp ứng niềm tin của Bác Hồ và Trung ương Đảng đã gửi gắm.


(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, xuất bản lần thứ hai, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.5, tr.65.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.8, tr.91.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.8, tr.89.


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Ba, 2016, 08:00:44 pm
PHỤ LỤC

I. DANH SÁCH ANH HÙNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN CỦA
LIÊN KHU IV TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1945-1954)

1) Cù Chính Lan - Quê quán: Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu, Nghệ An - Quyết định số 107/LCT-10-8-1952.

2) Nguyễn Quốc Trị - Quê quán: Đà Sơn, Đô Lương, Nghệ An - QĐ (như trên).

3) Phan Tư - Quê quán: Thọ Thành, Yên Thành, Nghệ An - QĐ (như trên).

4) Đặng Quang Cẩn - Quê quán: Đông Sơn, Đô Lương, Nghệ An - QĐ số 714/LCT ngày 27-10-1955.

5) Phan Đình Giót - Quê quán: Cẩm Quang, Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh - QĐ số 118/LCT ngày 31-8-1955.

6) Trương Công Man - Quê quán: Cẩm Phong, Cẩm Thủy, Thanh Hóa - QĐ số 118/LCT ngày 7-5-1956.

7) Lê Công Khai - Quê quán: Hoằng Phú, Hoằng Hóa, Thanh Hóa - QĐ (như trên).

8) Lê Văn Đường - Quê quán: Xuân Lệ, Thường Xuân, Thanh Hóa - QĐ (như trên).

9) Trần Can - Quê quán: Sơn Thành, Yên Thành, Nghệ An - QĐ (như trên).

10) Nguyễn Thái Nhuệ - Quê quán: Yên Sơn, Đô Lương, Nghệ An - QĐ (như trên).

11) Trần Đức - Quê quán: Hải Yến, Tĩnh Gia, Thanh Hóa - QĐ (như trên).

12) Nguyễn Đô Lương - Quê quán: Đà Quang, Đức Thọ, Hà Tĩnh - QĐ số 118/LCT ngày 7-5-1956.

13) Nguyễn Xuân Lực - Quê quán: Sơn Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh - QĐ (như trên).

14) Lê Bình - Quê quán: Sơn Tân, Hương Sơn, Hà Tĩnh - QĐ (như trên).

15) Phạm Minh Đức - Quê quán: Diễn Trung, Diễn Châu, Nghệ An - QĐ (như trên).

16) Đặng Đình Hồ - Quê quán: Thanh Bình, Thanh Chương, Nghệ An - QĐ (như trên).

17) Tô Vĩnh Diện - Quê quán: Nông Trường, Nông Cống, Thanh Hóa - QĐ (như trên).

18) Lâm Úy - Quê quán: Quảng Hà, Quảng Trạch, Quảng Bình - QĐ (như trên).

19) Cao Thế Chiến - Quê quán: Quảng Hải, Quảng Trạch, Quảng Bình - QĐ (như trên).

20) Trương Văn Ly - Quê quán: Võ Ninh, Quảng Ninh, Quảng Bình - QĐ (như trên).

21) Nguyễn Riềng - Quê quán: Dương Nỗ, Phú Dương, Phú Vang, Thừa Thiên Huế - QĐ (như trên).

22) Võ Thiết - Quê quán: Hải Trường, Hải Lăng, Quảng Trị - QĐ (như trên).

Tổng hợp:
Thanh Hóa: 5
Nghệ An: 8
Hà Tĩnh: 4
Quảng Bình: 3
Quảng Trị: 1
Thừa Thiên: 1


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Ba, 2016, 08:02:03 pm
II. DANH SÁCH CÁN BỘ LÃNH ĐẠO LIÊN KHU IV
TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP

2.1. Liên khu ủy

1) Nguyễn Chí Thanh - Bí thư Xứ ủy Trung Kỳ (8-1945 đến 11-1946); Bí thư Liên khu ủy IV (5-1948 đến 7-1949).

2) Hoàng Quốc Việt - Bí thư Khu ủy IV (11-1946).

3) Hoàng Văn Hoan - Bí thư Khu ủy IV (3-1947 đến 5-1948).

4) Nguyễn Sơn - Phó Bí thư Khu ủy IV (1947 đến 1949).

5) Chu Văn Biên - Bí thư Liên khu ủy (7-1949 đến 1951).

6) Phạm Tuệ - Phó Bí thư Liên khu ủy (1949 đến 1951).

7) Hoàng Anh - Bí thư Liên khu ủy (5-1951 đến 1954).

8) Đặng Thí - Phó Bí thư Liên khu ủy IV (1953-1954).

2.2. Lãnh đạo chính quyền Liên khu IV (1945-1954)

1) Trần Hữu Dực - Chủ tịch Ủy ban hành chính Trung Bộ (8-1945 đến 3-1947).

2) Hồ Tùng Mậu - Chủ tịch Ủy ban kháng chiến Khu IV (Cuối 1946); Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính Khu IV (Từ 1947 đến 1949).

3) Đặng Việt Châu - Phó Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính Liên khu IV (1949-1950).

4) Lê Viết Lượng - Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính Liên khu IV (1950-1951).

5) Hoàng Anh - Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính Liên khu IV (1951-1954).

6) Hoàng Văn Diệm - Phó Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính Liên khu IV (1951-1954).

2.3. Cán bộ quân sự Liên khu

1) Lê Thiết Hùng (Lê Văn Sửu) - Khu trưởng (10-1945 – 3-1946); Chính trị ủy viên (đến cuối 1946)

2) Hoàng Điền - Khu phó, Tham mưu trưởng (11-1945 đến 3-1947)

3) Hồ Tùng Mậu - Chính trị ủy viên (10-1945 và từ 1947-1950).

4) Trần Văn Quang - Chính trị ủy viên (Cuối năm 1946).

5) Nguyễn Văn Phúc (Chu Văn Tấn) - Khu trưởng (4-1946 đến 10-1946).

6) Nguyễn Sơn - Tư lệnh kiêm Chính ủy (4-1947 đến 10-1949).

7) Nguyễn Thanh Đồng - Chính trị ủy viên (Đầu năm 1947).

8) Đào Chính Nam - Khu phó (Năm 1947).

9) Vương Thừa Vũ - Khu phó (Cuối 1947).

10) Hoàng Minh Thảo - Tư lệnh (10-1949 đến 2-1950).

11) Trần Sâm - Tư lệnh địa phương (Tư lệnh liên khu) (2-1950 đến 4-1952).

12) Lê Nam Thắng - Tư lệnh địa phương (Tư lệnh liên khu) (5-1952 đến 1955).

2.4. Cán bộ lãnh đạo, chỉ huy Phân khu Bình Trị Thiên

1) Nguyễn Chí Thanh - Bí thư Phân khu ủy (1947-1948).

2) Vương Thừa Vũ - Phân khu trưởng (Cuối 1947).

3) Hà Văn Lâu - Phân khu trưởng (Giữa 1948).

4) Lư Giang - Chính trị ủy viên phân khu (Đầu 1947).

5) Trần Văn Quang - Phân khu trưởng kiêm chính trị ủy viên (1948-1949).

6) Hoàng Anh - Bí thư phân khu (1949).

7) Chu Văn Biên - Bí thư phân khu (1952).

2.5. Mặt trận Bình Trị Thiên - Trung Lào

1) Hà Văn Lâu - Chỉ huy trưởng (1949).

2) Trần Quý Hai - Chỉ huy trưởng (1950).

3) Chu Văn Biên - Chính ủy (1949-1950).


Tiêu đề: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954
Gửi bởi: macbupda trong 03 Tháng Ba, 2016, 08:03:33 pm
III. TÓM TẮT THÀNH TÍCH CỦA CÁC TỈNH THUỘC LIÊN KHU IV
TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP

Thanh Hóa: Đánh 1.456 trận lớn, nhỏ; diệt và làm bị thương 3.391 tên địch, bắt sống và gọi hàng 2.326 tên, thu 1.416 súng và hàng chục tấn quân trang, quân dụng. Thanh Hóa đã huy động 539.767 lượt dân công dài hạn, 223.670 lượt dân công ngắn hạn; tổng cộng 1.061.593 lượt dân công phục vụ gồm 34 triệu ngày công. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ đã vận chuyển 4.361 tấn gạo, 355 tấn thực phẩm. Về xây dựng nền quốc phòng toàn dân: Xây dựng một trung đoàn chủ lực tỉnh, hàng chục đại đội bộ đội địa phương huyện và 227 ngàn chiến sĩ dân quân, 32 ngàn du kích. Huy động 56.800 thanh niên tòng quân và 20.000 thanh niên xung phong.

Được Chủ tịch nước tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

Nghệ An: Khi có lệnh toàn quốc kháng chiến, quân và dân Nghệ An nổ súng đầu tiên tiến công địch ở Vinh. Cùng lúc, Nghệ An chi viện cho Thừa Thiên Huế một tiểu đoàn Tiếp phòng quân và một đại đội. Lực lượng này đã cùng Trung đoàn Trần Cao Vân tham gia đánh địch ở mặt trận Huế. Trong năm 1947, tỉnh đã ủng hộ Bình - Trị - Thiên 100 tấn gạo. Tổ chức hơn 8.000 dân công hỏa tuyến. Đầu năm 1948, Nghệ An huy động 12.000 dân quân, 1.700 thuyền vận chuyển hàng hóa, vũ khí vào cho Bình - Trị - Thiên. Các tiểu đoàn 418, 257, 346 chiến đấu ở Quảng Bình. Trong Tuần lễ vàng nhân dân đã ủng hộ 1.503.317 đồng và 375 tấn gạo. Với 75 thuyền, 500 thủy thủ, 400 dân công mang 375 tấn gạo, 10 khẩu bazôka, 200 viên đạn 600 quả địa lôi, 1.000 lưu đạn, chi viện và phối hợp với Quảng Bình đánh địch.

- Đối với Lào, Nghệ An có Tiểu đoàn 265 thường xuyên giúp bạn, cùng bạn tổ chức đánh nhiều trận: Mường Mô, Mường Nham, giải phóng Mường Lống.

Để cung cấp sức người, sức của cho chiến trường, Nghệ An huy động 75.000 người huấn luyện bổ sung cho các chiến trường; huy động 93 vạn lượt dân công phục vụ các chiến trường với 21 triệu ngày công. Đón nhận 21.045 đồng bào và chiến sĩ Khu IV và Đồng Tháp Mười tập kết, 2.811 cán bộ và 132 thiếu nhi Thừa Thiên, Quảng Trị ra tập kết. Xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân ngày càng vững mạnh.

Lực lượng vũ trang Nghệ An tham gia đánh 94 trận lớn nhỏ; tiêu diệt và loại khỏi vòng chiến đấu hơn 700 tên địch.

Trong kháng chiến chống Pháp, tỉnh Nghệ An có tám Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

Hà Tĩnh: Lực lượng vũ trang nhân dân Hà Tĩnh đã tham gia chiến đấu đánh địch thâm nhập ven biển, biên giới, diệt và làm bị thương 110 tên, thu nhiều vũ khí, trang bị phương tiện chiến tranh. Tham gia chiến đấu ở Mặt trận Bình - Trị - Thiên 161 trận, diệt 856 tên, bắt sống và làm bị thương 337 tên. Phá hủy 20 xe quân sự, hai canô, thu trên 400 khẩu súng, giải tán 84 hội tề. Những trận đánh xuất sắc như: Trận Ba Đồn, Sen Bàng, Đơn Sa diệt gọn cả đại đội địch. Tại mặt trận Lào, các lực lượng vũ trang địa phương đã phối hợp với bạn tục lạc mở nhiều đợt tiến công tiêu diệt quân Pháp ở dọc biên giới, làm chết và làm bị thương 1.215 tên, thu nhiều vũ khí, đạn dược. Hà Tĩnh huy động 4.347 thanh niên nhập ngũ, Thanh niên xung phong và dân công hỏa tuyến gồm 32.000 người. Phục vụ kháng chiến 27.388.200 ngày công, đã huy động 1.200 xe đạp thồ, 750 chiếc tàu thuyền phục vụ chiến đấu. Cung cấp cho mặt trận 161.830 tấn lương thực, 117.000.000 đồng công trái quốc gia, 35.000.000 công phiếu kháng chiến. Xây dựng bộ đội địa phương: một trung đoàn, sáu tiểu đoàn, 20 đại đội độc lập, quân số trên 7.000 người. Lực lượng dân quân 18.359 người, du kích 24.137 người.

Khen thưởng trong chống Pháp:

- Bốn Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

- Ba cờ thi đua phục vụ khá nhất của Hồ Chủ tịch.

- 124.532 huân chương các loại cho cán bộ, lực lượng vũ trang.

Quảng Bình: Quân và dân Quảng Bình đã đánh 614 trận lớn nhỏ, diệt và bắt sống 9.957 tên, thu tám máy vô tuyến điện, 732 súng các loại, phá hỏng 118 xe quân sự. Công tác địch vận thu được nhiều kết quả. Chỉ trong chiến dịch đông - xuân 1953-1954, vận động được chín vụ binh biến, kêu gọi 3.619 tên sĩ quan và binh sĩ bỏ hàng ngũ địch về với quê hương. Từ năm 1952 đến 1954, Quảng Bình đã đóng góp cho tiền tuyến 30.481 dân công với 496.173 ngày công. Riêng chiến dịch Trung Lào (1953-1954), hai huyện Tuyên Hóa và Quảng Trạch đã có 15.636 người đi dân công, với 293.947 ngày công. Quảng Bình đã đóng góp 18.382 tấn thóc thuế nông nghiệp, 3.641.638 đồng thuế công, thương nghiệp phục vụ kháng chiến. Những trận đánh hay: Xuân Bồ, Phù Trịch, Ba Đồn, Hoàn Lão, Sen Bàng. Những làng chiến đấu nổi tiếng Cự Nẫm, Cảnh Dương, Hưng Đạo, Hoàn Lão, Lữu Lộc, Hiển Vinh, Pháp Kê, Lệ Sơn, La Hà…

Được tặng cờ danh dự của Chính phủ.

Có ba Anh hùng lự lượng vũ trang nhân dân: Cao Thế Chiến, Lâm Úy, Dương Văn Ly.

Quảng Trị: Trong điều kiện vô cùng khó khăn, gian khổ đánh giặc, Trung đoàn Thiện Thuật, Đại đội Lê Hồng Phong, các đơn vị dân quân tự vệ, bộ đội địa phương đã anh dũng đánh địch ở khắp nơi. Với những trận đánh tiêu biểu: Trận chống càn ở các huyện Triệu Phong, Hải Lăng, đánh chiếm Cam Lộ, Đầu Mầu, Ba Dốc, Hạ Cờ, Mỹ Chánh - Diên Sanh. Xây dựng nhiều chiến khu nổi tiếng như Ba Lòng, Bang Rợn, Gio Linh, Cam Lộ…

Phối hợp chặt chẽ với Trung Lào, bộ đội, dân quân, du kích Quảng Trị tiến công thắng lợi ở Sen Hạ, Chợ Do, Hà Tây, Đằng Đằng, Dốc Miếu. Chiến dịch Trung Lào giải phóng hoàn toàn Thà Khẹt.

Trên mặt trận đường số 9, chỉ trong 20 ngày đầu năm 1954, tỉnh đã phá sập 17 cầu phối hợp cùng bộ đội địa phương và du kích Cam Lộ, Hướng Hóa bao vây tiến công bảy vị trí của địch trên đường 9, giải phóng hoàn toàn huyện Hướng Hóa và một phần huyện Cam Lộ, giảnh thắng lợi liên tiếp ở hai huyện Triệu Phong, Hải Lăng cùng với thắng lợi trên các chiến trường buộc địch phải ngừng bắn vào ngày 1-8-1954.

- Có một Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

Thừa Thiên: Đánh 2.300 trận lớn, nhỏ, chủ yếu đánh tập kích, phục kích chống càn, tiêu diệt gần 12.000 tên (trong đó có 2.977 tên Pháp và Âu - Phi), loại khỏi vòng chiến đấu bảy tiểu đoàn, bắt sống 800 tên; bắn rơi ba máy bay; phá hủy 94 xe quân sự (năm xe bọc thép); phá sập hàng trăm cầu cống và hàng ngàn mét đường giao thông; đánh lật 31 đoàn tàu hỏa, bắn chìm, bắn cháy 14 tàu, xuồng; đốt cháy hai kho xăng và một kho đạn; phá hủy 9 khẩu pháo, thu 1.500 súng các loại và đạn dược.

Các trận đánh tiêu biểu, nổi bật: Hòa Mỹ, Hói Mít, Dương Hoàn, Dương Mông, Thanh Hương, Thanh Lam Bồ, Ưu Điềm, Hộ Thành, Đất Đỏ… Lực lượng vũ trang ba thứ quân ngày càng phát triển làm nòng cốt cho chiến tranh nhân dân. Trung đoàn Trần Cao Vân trở thành đơn vị chủ lực trong đội hình của Đại đoàn 325 quân đội quốc gia Việt Nam. Phối hợp với Lào chiến đấu, giải phóng thị xã Thà Khẹt.

Trong kháng chiến chống Pháp có một Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân và Huân chương quân công hạng ba của Chính phủ trao tặng cho tỉnh. Quân và dân Thừa Thiên được nhận cờ luân lưu của Bác Hồ Quyết chiến quyết thắng.