Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 13 Tháng Năm, 2024, 12:08:48 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Tây Sơn bi hùng truyện  (Đọc 161145 lần)
0 Thành viên và 2 Khách đang xem chủ đề.
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #110 vào lúc: 01 Tháng Bảy, 2009, 05:37:19 pm »

Nói rồi Ánh liền trao cho Bá Đa Lộc một cái thẻ bài nói:

- Đây là hiệu lệnh của ta, có hiệu lệnh này ngài ở bất cứ đâu trên lãnh thổ của ta mà không ai có quyền ngăn cản. Nếu có kẻ nào gây khó dễ, ngài cứ đem hiệu lệnh này đến trình quan trấn thủ sẽ cho quân trị tội chúng ngay.

Trao thẻ bài cho Bá Đa Lộc xong, Ánh lại cho bày tiệc thết đãi, của ngon vật lạ cao lương mỹ vị chẳng thiếu món gì. Ánh lại sai người sửa sang công quán cho tươm tất mời Bá Đa Lộc đến nghỉ. Bá Đa Lộc vui mừng cảm tạ ra về. Bỗng các tướng Nguyễn Nghi, Hồ Văn Lân, Tống Phước Khuông, Tống Phước Lương bước vào đồng thanh quỳ nói:

- Xin chức mừng Thượng vương!

Ánh ngạc nhiên hỏi:

- Vì sao các khanh lại chúc mừng ta?

Nguyễn Nghi đáp:

- Cái hoạ trong tâm phúc là Đỗ Thành Nhân đã trừ được rồi. Thượng vương lại mượn được tàu đồng súng lớn của người Pháp Lang Sa thì cái cơ khôi phục cơ đồ xem như đã chắc mười phần rồi vậy. Bởi thế nên chúng thần mới đến đây chúc mừng Thương vương.

Ánh suy tư nói:

- Tuy đã diệt được Đỗ Thành Nhân nhưng có cháu Đỗ Thành Nhân là Đỗ Nhàn Trập, em Võ Nhân là Võ Tánh đang trấn thủ Trường Đồn. Chưa trừ được hai người này, ta lấy làm lo lắm.

Nghi tâu:

- Bởi biết Thượng vương lo việc ấy nên chúng thần mới đến đây cũng bàn việc này.

Ánh xuống lệnh:

- Hồ Văn Lân, Tống Phước Khuông đem năm ngàn quân mã tiến đánh Trường Đồn. Ta đã sai người ào Hà Tiên triệu Mạc Thiên Tứ đem quân hợp sức.

Hai đạo binh hai mặt giáp công ắt phải chiếm được thành, hai tướng nên hết lòng mau báo tiệp khải hoàn cho an lòng quả nhân.

Hồ Văn Lân và Tống Phước Khuông lãnh lệnh đi ngay.

 
Nói về Võ Tánh và Đỗ Nhàn Trập trong thành Trường Đồn ngày ấy nghe quân vào báo:

- Có người nhà của thượng tướng công xin vào ra mắt nhị vị tướng quân có điều cơ mật.

Võ Tánh bảo:

- Lập tức mời vào!

Người nhà Đỗ Thành Nhân vào, đến ôm chậm lấy Đỗ Nhàn Trập và Võ Tánh khóc rằng:

- Thượng tướng công Đỗ Thành Nhân và tướng quân Võ Nhân đã bị Thượng vương giết chết cả rồi!

Đỗ Nhàn Trập đau đớn quá hét lên hai tiếng "Chú ơi" rồi ngã lăn ra đất. Võ Tánh sửng sốt hỏi:

- Vì cớ gì Thượng vương lại giết chết thương tướng công và anh ta?

Người nhà đáp:

- Thượng vương bát tội thương tướng công lúc trước làm phản, quản thúc chúa Định Vương và hoàng tộc trong thành Sài Côn. Lại sai người đang đêm vào nhà bắt Võ Nhân rỗi đem chém hết cả đi. Tôi may mắn thoát được vội đến báo tin cho nhị vị tướng quân được rõ.

Đỗ Nhàn Trập vùng đứng dậy nghiến răng mắng:

- Thằng con nít Nguyễn Phúc Ánh kia, lúc trốn thoát khỏi tay quân Tây Sơn, đói cơm rách áo cù bất cù bơ. Nhờ có chú ta đem về phò tá, mang quân đi đánh chiếm lại đất Gia Định đưa nó lên ngôi chúa. Thằng khốn nạn ấy không nghĩ đến công ơn lại còn đem lòng đố kỵ mà giết chết chú ta. Thù này không trả được thề không phải là người.

Nói rồi Tráp quay sang hỏi Võ Tánh:

- Còn anh của ông là Võ Nhân cũng bị thằng giặc Ánh giết chết. Ông còn chờ có gì nữa mà không cùng tôi mang quân đánh Sài Côn bắt thằng Phúc Ánh trả thù cho hai người ấy?

Tánh gạt nước mắt đáp:

- Đứt tay thì đau ruột, anh tôi chết tôi không đau lòng sao được. Nhưng phàm làm việc gì nên suy tính phải trái thiệt hơn. Theo tôi nghĩ, Thượng vương giết chủ tướng và anh tôi tất sớm muộn gì cũng đem quân tiến đánh Trường Đồn bắt hai ta để tiệt trừ hậu hoạ. Tôi và ông ở đây chỉ có ba ngàn quân mã, không thể chống nổi với đại binh ở thành Sài Côn. Nếu để họ kéo binh đến đây chặn mất đường về căn cứ của ta ở rừng Tam Phụ, rồi Thượng vương lại sai Mạc Thiên Tứ đem quân từ Hà Tiên đánh ra thì ta không còn đường thoát thân. Vậy ta hãy mau mau bỏ thành Trường Đồn đem ba ngàn quân về cố thủ trong rừng Tam Phụ rồi sẽ liệu sau.

Nói rồi Võ Tánh và Đỗ Nhàn Trập liền dẫn ba ngàn quân Đông Sơn bỏ thành Trường Đồn lui về căn cử Tam Phụ. Tống Phước Khuông và Hồ Văn Lân đem quân đến thành Trường Đồn thì Mạc Thiên Tứ đã chiếm được thành rồi. Hai người bèn để Mạc Thiên Tứ trấn thủ Trường Đồn rồi kéo binh về Sài Côn báo cùng Nguyễn Phúc Ánh. Ánh còn chưa quyết bỗng quân vào báo:
Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #111 vào lúc: 01 Tháng Bảy, 2009, 05:39:42 pm »

- Thưa Thượng vương, quân do thám của ta về báo rằng: Quân Tây Sơn đang chuẩn bị lực lượng tiến vào đánh Gia Định. Xin Thượng vương định liệu.

Ánh bảo các tướng:

- Hay tạm gác việc Võ Tánh và Đỗ Nhàn Trập lại. Ta nên luyện tập binh mã cũng cố lực lượng để chống nhau với quân Tây Sơn vậy.

Vừa dứt lời có quân vào báo:

- Thưa Thượng vương, có đạo sĩ Bá Đa Lộc xin và yết kiến.

Ánh mừng rỡ reo lên:

- Cứu tinh của ta đã đến rồi đây, mau mời vào.

Bá Đa Lộc vào đến Ánh mời ngồi, đón hỏi:

- Dám hỏi đạo sĩ có phải tàu đồng của ta đã đến tới đây rồi chăng?

Bá Đa Lộc đáp:

- Thưa Thượng vương, tôi vừa mượn được hai chiếc tàu đồng và hai trăm quân của nước Pháp Lang Sa do viên đô đốc tên là Mạn Hòe (Manuel), chỉ huy dẫn đầu tại sông Thị Nghè chờ có lệnh Thượng vương.

Ánh liền nói:

- Chúng ta hãy đến đấy xem tàu chiến như thế nào?

Nói rồi liền cùng các tướng theo Bá Đa Lộc đến sông Thị Nghè. Đến nơi thấy hai chiếc thuyền vừa cao, vừa rộng, vừa dài. Sức lớn của nó ước chừng gấp năm lần thuyền gỗ nước Nam. Toàn thân tàu được đúc bằng đồng sáng loáng. Mọi người lên tàu thấy sàn tàu cũng được bọc bằng đồng đều trầm trồ khen ngợi. Viên tướng chỉ huy hai chiếc tàu tên là Mạn Hòe ra mắt Ánh xong ngạo mạn nói:

- Tàu đồng của chúng tôi đạn bắn không thủng, lửa đốt không cháy. Giặc ở xa thì dùng súng lớn bắn một phát đắm vỡ một tàu. Giặc đến gần thì dùng súng nhỏ, đạn bay vừa xa vừa chính xác. Cung tên của các ngài đối với nước Pháp Lang Sa của chúng tôi đã trở thành vô dụng rồi. Xin Thượng vương cứ an tâm, hai chiếc thuyền của tôi là bất khả xâm phạm, quân Tây Sơn là lũ giặc nào mà dám đến đây.

Phúc Ánh cả mừng liền phong cho Mặn Hoè là chức tướng quân và ban thưởng rất hậu, lệnh cho Hòe đậu ở bến Thị Nghè chờ có lệnh. Ánh lại cho quân lập một đồn canh trên núi Cấp (Vũng Tàu ngày nay). Nhiệm vụ quân đồn này là ngày đêm thay phiên nhìn ra biển, hễ thấy thuyền chiến Tây Sơn đến lập tức đốt lửa báo cho quân ở Sài Côn biết để kịp thời ứng chiến. Xong việc Ánh vui vẻ bảo:

- Giờ ta có thể ăn ngon ngủ yên, chờ có giặc Nguyễn Huệ đến đánh một trận cho chúng biết lợi hại tàu đồng súng lớn của nước Pháp Lang Sa.

 
Trong lúc Phúc Ánh ở Gia Định đem ngày xây dựng quân đội chờ quân Tây Sơn, thì ngày ấy trong thành Hoàng Đế vua Thái Đức nhà Tây Sơn đang đánh cờ với một viên thái giám tên là Vũ Tâm Can, chợt nghe quân vào báo:

- Tâu Bệ hạ có Long Nhương tướng quân xin vào yết kiến.

Vua Thái Đức bảo:

- Hãy gọi em ta vào đây!

Nguyễn Huệ vào đến quỳ tâu:

- Thưa hoàng huynh, quân thám mã từ đất Gia Định về báo rằng, cháu Định vương Nguyễn Phúc Thuần là Nguyễn Phúc Ánh còn sống sót quy tập những tướng lãnh còn đang lẫn trốn nơi đây đánh chiếm lại ba thành Trường Đồn, Sài Côn, Trấn Biên. Tướng của ta là Lê Chu và Nguyễn Uy tử trận, Phạm Ngạn phải bỏ thành Trấn Biên lui về cố thủ ở Bình Thuận. Phúc Ánh lại cầu viện người Pháp Lang Sa đem tàu đồng súng lớn đóng ở sông Thị Nghè xây dựng lại lực lượng hòng đánh lại quân ta để khôi phục cơ đồ. Hoàng huynh nên sớm lo liệu.

Vua Thái Đức nghe Huệ nói xong quăng cờ đứng dậy tức giận nói:

- Thằng con nít Phúc Ánh dám lộng hành giết chết hai tướng ta tuyển từ trong trường thí võ. Không bắt được Phúc Ánh trị tội thì còn gì oai võ vua trời.

Nói xong liền hạ lệnh thiết triều. Các tướng đến đông đủ, vua nói:

- Ta những tưởng đã tiêu diệt hết dòng họ Nguyễn Gia Định, ngờ đâu cháu Định Vương là Phúc Ánh lại còn sống sót dấy binh chiếm lại ba thành Trường Đồn, Sài Côn, Trấn Biên. Nay ta định ngự giá thân chính đem đại binh vào Gia Định một phen. Các tướng chuẩn bị xuất chinh.

Nguyễn Huệ bước ra thưa:

- Tâu hoàng huynh, đánh Nguyễn Phúc Ánh thì cần gì đến hoàng huynh phải ngự giá thân chính cho nhọc nhằn lòng thế. Em xin đem mười ngàn quân thuỷ bộ vào Gia Định bắt Nguyễn Phúc Ánh đem về đây cho hoàng huynh trị tội. Việc đánh quân Nguyễn ở Nam Hà là việc dễ, nhưng việc giữ đất Gia Định vỗ an bá tánh để lòng dân không nghĩ đến chúa Nguyễn mới là khó.

Vua Thái Đức nghĩ ngợi hồi lâu nói:

- Được! Vậy Nguyễn Huệ hãy vì ta vào Gia Định lần nữa. Nhưng Phúc Ánh là người xảo quyệt cứu viện người nước Pháp Lang Sa về chống lại ta. Em chỉ đánh bằng thuỷ binh thì e rằng không bảo đảm toàn thắng. Vậy ta nên sai tướng đem một vạn quân bộ vào Bình Thuận tiến đánh Trấn Biên như thế mới nắm được phần thắng. Tướng nào có thể lãnh bộ binh Nam tiến.
Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #112 vào lúc: 01 Tháng Bảy, 2009, 05:40:48 pm »

Nguyễn Huệ nói:

- Em xin tiến cử hai người lãnh bộ binh Nam tiến.

Vua Thái Đức hỏi:

- Hai người ấy là ai?

Huệ đáp:

- Từ ngày Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân theo em vào đánh Tống Phước Hiệp ở Phú Yên, thì Sở và Lân trấn thủ Phú Yên đến nay. Ngô Văn Sở tính tình điềm đạm làm việc cẩn thận, dụng binh quy củ. Phan Văn Lân vũ dũng phi thường bá quan đều mến đức sợ uy. Nếu dùng hai người này lãnh bộ binh Nam tiến thì không phải lo có điều gì sơ sảy.
Vua Thái Đức nghe lời liền sai người vào Phú Yên triệu hồi Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân. Huệ lại nói:

- Đất Gia Định vốn là nước của ngươi Chân Lạp được thiên nhiên ưu đãi, không bao giờ xảy ra lụt lội hạn hán, đất đai bằng phẳng màu mỡ phì nhiêu. Chúa nhà Nguyễn mới đem dân vào khai hoang lập ấp, các quan lại dẫn dân, binh vào nói đất khách xa xôi ngàn dặm, đều là người trung quân ái quốc tràn đầy nhiệt huyết cả. Vả lại trong thời gian lập ấp ở xứ người thường bị tộc Chân Lập đánh phá, bởi vậy nên tướng sĩ xem nhau như phụ tử, quân với dân như cá với nước, đoàn kết một lòng chống lại người Chân Lạp để được sanh tồn. Chính vì lẽ ấy nên đến nay người ở đất Gia Định được cơm nó áo ấm đều nhờ ở chúa nhà Nguyễn. Thế cho nên dòng họ Nguyễn còn, nhân dân Gia Định liền nổi dậy đi theo. Ấy chính là điều khó nhất của ta trong việc bình định đất Gia Định vậy. Vua hỏi:

- Theo em, thì nên phải làm thế nào?

Huệ đáp:

- Nay có một người trí dũng song toàn, kính người già như cha mẹ, thương trẻ nít như con. Múa kích thì có thể giết được hổ dữ, xuất ngôn nho nhã khiến kẻ sĩ phải tuân. Sau khi dẹp được giặc Phúc Ánh, nếu ở người này làm tổng trấn Gia Định, thì lo gì không yên được cõi Nam Hà.

Vừa hỏi:

- Người ấy là ai?

Huệ đáp:

- Người ấy chính là đô đốc Đặng Văn Long!

Vua Thái Đức vỗ trán nói:

- Đặng Văn Long là học trò của quân sư Trương Văn Hiến. Ngày trước quân sư còn sống vẫn thầm khen Văn Long như thế. Ta vì lo nhiều việc mà quên mất Văn Long.

Rồi vua xuống lệnh:

- Các tưởng hãy về kiểm điểm binh mã, chờ có Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân về đến sẽ xuất binh Năm phát.

Nói xong truyền bãi triều. Quan thái giám Vũ Tâm Can nói với vua Thái Đức rằng:

- Đành rằng là nên đánh giặc người, xin Bệ hạ cũng phải đề phòng các hoạ bên trong!

Vua Thái Đức trầm ngâm hỏi:

- Ngươi nói vậy là ý thế nào?

Tâm Can đáp:

- Hạ thần muốn nói về Long Nhương tướng quân đó. Xin Bệ hạ xét lại. Vợ chồng Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân là cháu vợ của Long Nhương. Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân lại chịu ơn nhà của Bùi Thị Xuân cùng Long Nhương uống máu ăn thề tính nhà thủ túc. Nay Long Nhương lại xin Bệ hạ cho hai người ấy vào Nam giữ binh quyền Nam phát là có ý gì? Vũ Văn Dũng, Đặng Văn Long đều là học trò quân sự Trương Văn Hiến, cũng với Long Nhương là huynh đệ đồng môn. Nay Long Nhương lại xin cho Văn Long trấn thủ đất Gia Định là có ý gì? Các người này lại chỉ biết có Long Nhương mà không biết có Bệ hạ, nếu để họ lớn quyền như thế chẳng đáng ngại làm ư?

Vua Thái Đức giật mình nói:

- Vậy ta phải ngự giá thân chính để hạn chế Huệ mới được. Và đạo quân bộ phải cho Vũ Văn Nhậm chỉ huy.

Năm Nhâm Dần (1782) niên hiệu Thái Đức thứ tư, vua Thái Đức và Long Nhương tướng quân Nguyễn Huệ đem hai vạn quân theo hai đường thuỷ bộ tiến vào Nam. Vua Thái Đức và Long Nhương cũng các tướng Đặng Văn Long, Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân, Nguyễn Văn Lộc, Nguyễn Văn Tuyết, Trương Văn Ba đi đường thuỷ vào cửa Cần Giờ. Khi đến ngoài khơi cửa Cần Giờ thấy trên hơn núi nhỏ trên đất liền khói lên nghi ngút, vua Thái Đức hỏi rằng:
Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #113 vào lúc: 01 Tháng Bảy, 2009, 05:41:50 pm »

- Trên hòn núi này bỗng khói lên nghi ngút là cớ làm sao?

Nguyễn Huệ đáp:

- Ấy là Nguyễn Phúc Ánh lập đồn canh trên ở nhìn ra biển, hễ thấy quân ta tiến vào, quân đồn trú đốt lửa làm hiệu để Phúc Ánh ở thành Sài Côn hay được kịp thời ứng phó mà thôi.

Vua hơi lo lắng hỏi:

- Vậy là Phúc Ánh đã có chuẩn bị, ta phải tiến quân như thế nào?

Huệ cương quyết đáp:

- Hoàng huynh cứ cho quân tiến binh vào cửa Cần Giờ rồi sẽ tuỳ cơ mà ứng biến.

Vua liền hạ lệnh:

- Đô đốc Nguyễn Văn Tuyết, kịp đem hai mươi đại thuyền và hai ngàn quân đi trước mở đường.

Nguyễn Văn Tuyết lãnh lệnh đi ngay. Khi ấy Nguyễn Phúc Ánh ở thành Sài Côn nghe quân hốt hoảng vào báo rằng:

- Thưa Thượng vương, quân ta trên núi Cấp ngoài cửa bể đốt lửa làm hiệu. Xin Thượng vương định liệu.

Phúc Ánh nạt rằng:

- Hễ giặc đến thì ta đã có kế sách mà đánh, việc gì ngươi sợ hãi thế. Nếu tự hậu còn như thế nữa ta giết chết không tha.

Tên quân hoảng sợ lui ra. Phúc Ánh liền đem toàn quân được hơn vạn người xuống thuyền theo sống Sài Côn ra cửa Cần Giờ cứ địch. Khi chiếc thuyền ra đến một đoạn sông rộng lớn ngả rẽ chằng chịt, Phúc Ánh hỏi tả hữu rằng:

- Sông này là sông gì?

Tả hữu đáp:

- Đoạn sông này có năm nhánh nối liền với các sông Tiền Giang ở Nam và sống Đồng Nai ở Bắc cộng với thượng lưu và hạ lưu của dòng sông chính tạo thành ngã bảy sông nên có tên gọi là Thất Kỳ Giang (này là sông Ngã Bảy).

Phúc Ánh liền cho đóng thuỷ trại ở Thất Kỳ Giang và hạ lệnh:

- Nguyễn Nghi đem hai ngàn quân và hai mươi đại chiến thuyền tiến ra cửa Cần Giờ, hễ gặp quân Tây Sơn đến thì đánh, chỉ được thua chứ không được thắng. Đợi cho giặc vào đến Thất Kỳ Giang rồi quay thuyền lại mà đánh.

Nguyễn Nghi hăm hở lãnh lệnh đi ngay. Phúc Ánh lại hạ lệnh:

- Tống Phước Khuông, Tống Phước Lương, Hồ Văn Lân, Mạn Hòe, mọi người lãnh một ngàn năm trăm quân mai phục ở bốn ngả sông. Ta cũng đạo sĩ Ba Đa Lộc lãnh ba ngàn quân mai phục hai ngã năm thượng lưu, chờ giặc đến cùng nhất tề đổ ra mà đánh. Trận này nhất định phải bắt cho được anh em Nhạc - Huệ.

Các tướng hăng hái lãnh lệnh và đồng thanh khen rằng:

- Thượng vương tuổi còn trẻ mà mới nhìn qua địa hình đã biết bày ra thế trận. Không biết bát trận ở của Gia Cát ngày xưa là có thật hay chăng. Con ngả này anh em Nhạc, Huệ lọt vào thất trận do của Thượng vương ắt là chết chẳng toàn thây!

Nói rồi cũng chia nhau bố trận. Lúc ấy Nguyễn Nghi dẫn hai ngàn quân và hai mươi đại thuyền đi tiên phong ra đến cửa Cần Giờ gặp đoàn thuyền tiên phong của Đô đốc Tây Sơn là Nguyễn Văn Tuyết. Nguyễn Nghi trông thấy đại bác Tây Sơn đặt trên thuyền bề thế uy nghi nghĩ thầm rằng:

- Quân Tây Sơn thuyền to súng lớn nếu mà giáp chiến giả thua e rằng không thoát khỏi bọn này. Chi bằng ta từ xa bắn trước vài phát súng, chờ cho chúng bắn đại bác ra, rồi làm bộ hoảng sợ quay thuyền bỏ chạy, dụ chúng vào Thất Kỳ Giang rồi sống mái một trận cũng chẳng muộn gì!
Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #114 vào lúc: 01 Tháng Bảy, 2009, 05:43:48 pm »

Chương 27

Khuyên Đỗ Nhàn Trập, Võ Tánh một dạ trung quân.
Trốn Bùi Thị Xuân, Nguyễn Vương hai lần thoát hiểm.


Nhắc lại Nguyễn Phúc Ánh đánh cùng quân Tây Sơn ở Thất Kỳ Giang bị thua trận, bèn cùng Bá Đa Lộc quay thuyền mà chạy.

Nữ Đô đốc Tây Sơn Bùi Thị Xuân trông thấy nói với Nguyễn Huệ:

- Chiếc thuyền rồng kia chắc của Nguyễn Phúc Ánh, tôi xin đuổi bắt giết chết nó cho rồi.

Nói xong Xuân qua một chiếc dài thuyền dẫn đầu nữ binh đuổi theo Phúc Ánh. Phúc Ánh trông thấy hồn phi phách tán, nghĩ thầm rằng: Con tiện tỳ này võ nghệ siêu quần sức khỏe vô song. Nếu phen này mà nó bắt được ta thì dù cố vạn lậy mòn đầu gối nó cũng chẳng tha.

Nghĩ xong hối quân chèo gấp. Thị Xuân đuổi theo, Ánh liệu bề ở trên thuyền không chạy khỏi, bảo quân ghé thuyền vào bờ lên đất liền mà trốn. Bùi Thị Xuân cũng lên bờ đuổi theo. Bá Đa Lộc dẫn Ánh chạy vào trong một xóm đạo, đến nhà thờ lớn Lộc bảo máy đạo sĩ:

- Mau mau tìm chỗ cho vua nấp, kẻo giặc đuổi tới nơi.

Nói vừa xong người canh cổng vào bảo rằng;

- Có đạo binh toàn là con gái, gươm giáo lăm lăm đang lùng sục khắp nơi.

Đạo sĩ giữ nhà thờ nói:

- Xin vua và giám mục mau ra trốn nơi hậu quân.

Ánh và Lộc liền chạy ra hậu quân. Vừa vào trong đã nghe tiếng Bùi Thị Xuân quát ở ngoài rằng:

- Các ngươi hay lục soát khắp nơi bắt kỳ được Phúc Ánh cho ta.

Ánh chẳng còn hồn vía nào, nhận thấy mấy người đàn bà đang hộ sanh cho một phụ nữ đang trở dạ, liền cùng Bá Đa Lộc chui xuống gầm giường ấy mà trốn. Bùi Thị Xuân mở cửa bước vào thì vừa lúc đứa trẻ chào đời khóc oa oa. Thị Xuân thấy vậy liền vội vã lẩn ra ngoài. Bùi Thị Cúc hỏi:

- Vì sao chị vừa vào đã vội ra ngày?

Xuân đáp:

- Trong ấy có người phụ nữ vừa sanh con. Ta làm người đẻ sợ hãi lên máu sản hậu mà chết nên phải ra ngày.

Cúc lại hỏi:

- Thế ngộ nhỡ Phúc Ánh chui xuống gầm giường ấy mà trốn thì sao?

Xuân cau mày đáp:

- Nguyễn Phúc Ánh đến nỗi nào mà hèn như thế được! Vả lại nếu ta vào lục soát, người mẹ mới sanh con kia sẽ sợ hãi lên sản hậu mà chết. Lòng ta sao nỡ! Thôi! Mau đi tìm ở hướng khác.

Tìm đến tối vẫn không thấy tăm dạng Phúc Ánh đâu, Bùi Thị Xuân đành quay về báo cùng Nguyễn Huệ:

- Thưa tướng quân, Phúc Ánh chạy thoát chính la lỗi do tôi.

Huệ cười bảo:

- Việc gì mà cô Xuân phải tạ lỗi. Đất Gia Định sông ngòi chằng chịt, rừng rậm um tùm,
hắn đã chạy trốn thì dễ gì mà kiếm cho ra. Vả lại số của Ánh chưa tàn mà thôi. Nay Phúc Ánh trốn thoát chạy vào thành Sài Côn, vợ chồng Diệu và Xuân hãy đem hai ngàn quân chia nhau chân ở hai cửa Cung Hậu và Hàm Luông do sông Tiền Giảng đổ ra. Đợi Vũ Văn Nhậm đem bộ binh tiến đánh Trấn Biên, Ánh tất bỏ Sài Côn mà chạy về Trường Đồn. Ta đã sai Nguyễn Văn Lộc tiến đánh Trường Đồn, Nguyễn Văn Tuyết đánh Long Hồ. Phúc Ánh chỉ còn một con đường là lợi dụng vùng sông ngòi chằng chịt theo sông Tiền Giang trốn ra hải đảo mà thôi. Lần này có thể vợ chồng Diệu Xuân lại lập công to như lần trước bắt hai chúa Thái Thượng vương và Tấn Chính vương của nhà Nguyễn vậy. Hai người nên cố gắng tiêu diệt được Phúc Ánh, xem như ta đã bình được đất Gia Định vậy.

Bùi Thị Xuân ân hận nói:

- Nguyễn Phúc Ánh thoát được là do lỗi ở Xuân này. Xin tướng quân trị tội.

Huệ cười hỏi:

- Ta chưa từng nghe nói có điều quân lệnh nào là bảo rằng không bắt được tướng giặc là có tội. Cô Xuân đừng nên bứt rứt như thế.

Bùi Thị Xuân không dám kể rằng chính mình đã tha mạng cho Phúc Ánh năm xưa lúc bắt hai chúa Nguyễn, bên cáo từ Nguyễn Huệ rồi cùng chồng là Trần Quang Diệu lãnh lệnh ra đi.

Nhắc lại Nguyễn Phúc Ánh thấy Bùi Thị Xuân dẫn nữ binh đi rồi, liền cùng Bá Đa Lộc chui ra khỏi gầm giường. Ánh bồng đứa bé mới sinh trên tay và nói:

- Ngươi chính là người trời sai xuống cứu vua. Và ta phong cho ngươi làm hộ giá đại tướng quân. Ngày sau phục quốc nhất định tìm mà ban thưởng.

Đoạn Phúc Ánh chia tay với Bá Đa Lộc rồi tìm đường về thành Sài Côn. Đến nơi thấy Lê Văn Quân cũng kéo quân về tới. Ánh giật mình hỏi Quân:

- Khanh đang thủ thành Trấn Biên sao lại kéo quân về đây?
Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #115 vào lúc: 02 Tháng Bảy, 2009, 10:28:45 am »

Vâm Quân quỳ tạ lỗi:

- Giặc Tây Sơn do Vũ Văn Nhậm chỉ huy từ Bình Thuận kéo vào đánh rất dũng mãnh. Binh ta không địch nổi, thần đành phải chạy về đây hợp quân cùng Thượng vương cố thủ đất Sài Côn.

Ánh bảo:

- Binh ta đã bị quân Tây Sơn đánh tan ở Thất Kỳ Giang. Mạn Hòe tử trận, các tướng Nguyễn Nghi, Tống Phước Khuông, Tống Phước Lương, Hồ Văn Lân đều thất lạc cả. Nay nếu giặc ba bề đánh tới thì làm gì mà cố thủ Sài Côn. Bây giờ chỉ còn có một đường là bỏ thành mà chạy vào Trường Đồn với Mạc Thiên Tứ mới mong bảo toàn tính mạng.

Vừa dứt lời nghe quân hớt hải vào báo:

- Thưa Thượng vương, Vũ Văn Nhậm đem quân đánh đến cửa Bắc thành.

Phúc Ánh cả kinh liền sai Lê Văn Quân đem một ngàn quân đoạn hậu, còn mình đích thân dìu mẹ và em lên xe tứ mã mở cửa thành Nam mà chạy.

Nhắc lại từ khi Đỗ Thành Nhân bị Phúc Ánh giết chết, thuộc hạ của Đỗ Thành Nhân là Đỗ Nhàn Trập và Võ Tánh dẫn ba ngàn quân Đông Sơn bỏ Trường Đồn về tránh ở căn cứ là rừng Tam Phụ.

Ngày ấy quân thám mã về báo cùng Đỗ Nhàn Trập:

- Thưa tướng quân, vua Tây Sơn là Nguyễn Nhạc đem quân thuỷ bộ vào đánh Gia Định. Thượng vương Phúc Ánh bị thua to ở Thất Kỳ Giang. Bộ quân Tây Sơn do phò mã Vũ Văn Nhậm đã đánh chiếm thành Trấn Biên. Hiện Thượng vương và tướng quân Lê Văn Quân đã lui về cố thủ Sài Côn.

Đỗ Nhàn Trập nghe xong liền quay sang Võ Tánh nói:

- Từ ngày anh ông là Võ Nhân và chú tôi bị Phúc Ánh bắt giết chết, tôi và ông phải về ẩn náu ở nơi này, lúc nào tôi cũng nuôi chí báo thù. Nay quân Tây Sơn sắp sửa đánh chiếm thành Sài Côn, Phúc Ánh không thể nào địch nổi sớm mượn gì thành Sài Côn cũng mất về tay quân Tây Sơn. Tôi với ông đều là bậc hào kiệt, vậy ta nên theo về với Tây Sơn đánh Phúc Ánh báo thù cho chúa. Chẳng hay ý ông thế nào?

Võ Tánh lắc đầu nói:

- Nếu ta đầu Tây Sơn đánh Thượng vương thì không phải là ta báo thù mà sẽ phụ lòng chủ tướng nói suối vàng vậy.

Nhàn Trập hỏi:

- Phúc Ánh giết chủ tướng. Nay ta đánh Phúc Ánh để báo thù sao lại bảo là phụ lòng chủ tướng.

Tánh không đáp, hỏi lại Nhàn Trập:

- Xin hỏi ông vì sao chủ tướng ứng nghĩa cần vương giúp chúa Định Vương lại lấy tên quân ta là Đồng Sơn.

Trập đáp:

- Chú tôi lúc ấy lấy tên Đông Sơn là tỏ ý đối nghịch với Tây Sơn.

Tánh hỏi:

- Vậy nay ta đầu hàng Tây Sơn thì chẳng phải là phụ lòng chủ tướng sao?

Trập đáp:

- Ngươi xưa có nói: Chim khôn chọn cây mà đỗ, tôi hiền chọn chúa mà thờ. Nay Phúc Ánh tâm địa nhỏ nhen, mượn tay người rồi lại giết người, mới đặng chim đã vội vàng bẻ ná. Vả lại Phúc Ánh muốn tranh lấy ngôi vàng nhà chúa mà không màng đến điều hại của quốc dân, nên mới mượn binh của nước Pháp Lang Sa, đổi lại cho Bá Đa Lộc được tuyên truyền tà đạo, người như thế đâu phải là minh quân. Vả chăng Phúc Ánh vốn có lòng muốn giết hai ta ở tiệt trừ hậu hoạ nên mới sai Mạc Thiên Tứ từ Hà Tiên đánh ra, Lê Văn Quân và Hồ Văn Lần từ Sài Côn đánh vào lúc hai ta còn trấn thủ ở Trường Đồn. Nay nếu ông ra phò Phúc Ánh có dám chắc rằng bảo toàn tính mạng được chăng? Tôi có nghe vua Thái Đức Tây Sơn là người nhân nghĩa, ban quân pháp không được giết hàng quân, đi đến đâu đều cứu giúp dân nghèo. Đến như năm xưa chúa Định Vương bỏ Quảng Nam vượt bể vào Gia Định, vua Tây Sơn bắt được Tính Điệp hầu Nguyễn Đăng Trường, cảm mến lòng trung hiếu của Tính Điệp hầu, vua Tây Sơn lại cấp ghe thuyền cho Tính Điệp hầu vào Gia Định theo chưa. Người như thế không phải là đại nhân dài đức hay sao? Này nếu ta cứ câu nệ hai chữ trung quân không đầu quân Tây Sơn, thì đối với Phúc Ánh cũng mang tiếng là phản chúa. Chẳng lẽ ông lại để cho mấy ngàn quân Đông Sơn ở mãi trong rừng Tam Phụ này sao?

Võ Tánh bác lời của Đỗ Nhàn Trập:

- Thượng vương giết chủ tướng là do chủ tướng cậy công mà xem thường tiểu chúa, làm anh tôi phải bị chết oan, thì sao lại đổ lỗi cho Thượng vương được. Ấy là một lẽ! Thượng vương mượn binh Pháp Lang Sa mong khôi phục cơ đồ ấy là điều đúng. Đạo do Bá Đa Lộc tuyên truyền cũng dậy người làm điều thiện thì sao lại bảo lả tà đạo? Ấy là hai lẽ. Thượng vương muốn giết chết hai ta để trừ hậu hoạ vì hai ta là thuộc hạ của chủ tướng, ở trong cương vị này ai cũng phải làm như thế mà thôi. Phận làm tôi không được đem lòng oán chúa. Ấy là ba lẽ! Vả lại tôi không ở trong thành Trường Đồn để Thượng vương bắt làm tội cho trọn câu: "Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung" mà về ẩn thân nơi rừng Tam Phụ vì nghĩ rằng thân này còn có ngày giúp chúa đánh Tây Sơn. Tôi cũng như Tính Điệp hầu Nguyễn Đăng Trường chỉ biết câu: "Tôi trung không thờ hai chúa" mà thôi. Lẽ đâu lại đi hàng thằng buôn trâu Nguyễn Nhạc, vả lại quân Tây Sơn mượn tiếng tôn phò giả nhân giả nghĩa nên mới thả cho Tính Điệp hầu để lấy lòng hiền sĩ. Nếu không thế, tại sao lúc bắt Tính Điệp hầu lần thứ hai lại không cảm lòng trung hiếu tha cho mà bắt giết đi. Xin ông chớ có lầm anh em thằng buôn trâu là người nhân nghĩa.
Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #116 vào lúc: 02 Tháng Bảy, 2009, 10:30:24 am »

Đỗ Nhàn Trập nghĩ thầm rằng: Võ Tánh đã quyết như thế ta có nói thế nào cũng không lay chuyển được, chi bằng ta làm hoà rồi thừa cơ trốn đi là hơn. Nghĩ xong làm như giật mình tỉnh ngộ, Tráp nói:

- Nếu không nhờ ông phân giải, tôi đã làm quân Tây Sơn. Nhưng Thượng vương cứ muốn giết hai ta thì làm sao mà ra giúp chúa cho được?

Tánh bàn rằng:

- Hiện giờ ta chưa thể chứng minh lòng trung của ta được. Nay tôi và ông hay kéo quân đến thành Sài Côn giúp chúa chống Tây Sơn. Lẽ nào chúa chẳng tin ta?

Trập vội can:

- Nếu làm như thế tôi e rằng quân ta chưa đến nơi thì Thượng vương đã bỏ thành mà trốn.

Tánh ngạc nhiên hỏi:

- Vì sao ông lại nói thế?

Trập vờ lo lắng nói:

- Nay Sài thành mặt Bắc thì bộ binh Vũ Văn Nhậm đang uy hiếp, mặt Đông thì thuỷ binh Nhạc, Huệ tấn công. Nếu quân do thám về báo với chúa rằng có Võ Tánh và Đỗ Nhàn Trập đem quân Đông Sơn tiến đánh mặt Nam thì Chúa thượng lại ngồi yên trong thành được sao? Ông làm thế thành ra hại chúa vậy!

Tánh gật đầu hỏi:

- Theo ông nay tôi phải làm sao?

Trập hiến kế:

- Nay chỉ còn có cách là chờ có chúa thất thủ Sài Côn ắt phải chạy vào Trường Đồn cùng Mạc Thiên Tứ, vào Trường Đồn tất phải chạy ngang qua rừng Tam Phụ của ta. Khi ấy ta kéo quân ra đánh Tây Sơn đang đuổi theo để cứu chúa. Chỉ có như vậy mới chứng tỏ được lòng trung của mình cho chúa biết mà thôi.

Tánh thở dài nói:

- Biết chúa lâm nguy mà không ra giúp được, phải chờ cho chúa bại binh. Nhưng không còn cách nào khác đành phải vậy thôi!

Trập bảo:

- Tôi xin đem một ngàn quân bản bộ làm tiên phong ra ngoài rừng đến ven đường mai phục. Ông chỉnh đốn hàng ngũ vạn chuyển binh lương cũng toán binh đến sau.
Nói rồi Trập từ biệt Võ Tánh đi ngay.

Nói về Nguyễn Phúc Ánh bỏ thành Sài Côn mà chạy đến gần khu rừng Tam Phụ, xảy thấy vài tên quân mình từ hướng Nam chạy đến bảo:

- Thưa Thượng vương, tướng Tây Sơn là Nguyễn Văn Lộc đem quân theo đường bé vào cửa Hàm Luông chiếm lấy Trường Đồn. Nguyễn Văn Tuyết theo sông Tiền Giang đánh chiếm Long Hồ. Tổng trấn Mạc Thiên Tứ đã bỏ Trường Đồn chạy về cố thủ Hà Tiên.

Phúc Ánh thất kinh than:

- Nay hai đầu địch quân đánh tới biết phải chạy về đâu?

Vừa than dứt lời bỗng thấy một đạo binh trong rừng xông ra. Viên tướng cầm đầu đạo binh ấy hét lớn:

- Nguyễn Phúc Ánh chạy đâu cho thoát. Hôm nay ta quyết giết ngươi để trả thù cho chúa ta là Đỗ Thành Nhân.

Nguyễn Phúc Ánh tâm thần bấn loạn nói:

- Quân Đông Sơn lại kéo đến đánh, Lê Văn Quân mau chặn Đỗ Nhàn Trập lại cho ta.

Quân vội vàng nói:

- Chúa thượng mau phò quốc mẫu chạy vào con đường nhỏ ở hướng Đông lánh nạn. Thân xin ở lại liều mình chết cùng Đỗ Nhàn Trập.

Văn Quân nói xong hô quân cự chiến với Đỗ Nhàn Trập. Binh Nguyễn bị Tây Sơn đuổi chạy tướng sĩ người ngựa mệt mỏi đều quẳng giao bỏ trốn. Lê Văn Quân cũng vài mươi tuỳ tùng quất ngựa chạy theo Phúc Ánh. Đỗ Nhàn Trập quyết chí báo thù thúc ngựa đuổi theo. Văn Quân chạy một hồi thấy xa giá quốc mẫu và Phúc Ánh phía trước mà sau lưng Đỗ Nhàn Trập vẫn rượt nã theo. Trong cơn nguy khốn bỗng nghe một tiếng hét vang:

- Quân giặc kia không được hại chúa!

Người vừa hét mặt đen như than, thân hình cao lớn tay cấm đại đao từ đâu xông đến chặn Nhàn Trập mà chém. Nhàn Trập giơ thương lên đỡ nghe rủn cả tay, hoảng kinh quát ngựa mà chạy. Nhờ vậy nên Nguyễn Phúc Ánh và Lê Văn Quân mới thoát nạn. Phần Đỗ Nhàn Trập thì dẫn quân về thành Sài Côn đầu hàng quân Tây Sơn.

Nói về viên tướng mặt đen sau khi đuổi Đỗ Nhàn Trập đi rồi bèn quay ngựa lại ra mắt Phúc Ánh. Ánh hỏi:

- Tráng sĩ tên họ là gì, quê quân ở đâu? Sao biết ta lâm nạn nơi này mà cứu?
Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #117 vào lúc: 02 Tháng Bảy, 2009, 10:32:10 am »

Tướng ấy đáp:

- Thần dân tên Trương Tấn Bửu, quân làng Hiệp Hưng, Tổng Tân An, Châu Định Viễn ở gần đây. Nay quân Tây Sơn bủa vây bọn phía, xin mời chúa hãy lẩn về nhà thần dân nghỉ tạm qua đêm rồi sẽ liệu sau!

Phúc Ánh và Lê Văn Quân liền đưa quốc mẫu về nhà Trương Tấn Bửu. Mẹ con Phúc Ánh và Lê Văn Quân mỏi mệt quá đánh nằm trên giương rơm, dưới ánh đèn dầu leo lét, trong túp lều tranh lụp xụp ngủ vùi. Sáng sớm hôm sau nghe Trương Tấn Bửu gọi:

- Đỗ Nhàn Trập về hàng quân Tây Sơn, hiện đang dẫn giặc đi lùng sục khắp nơi. Xin Chúa thượng mau đi tránh.

Phúc Ánh mệt mỏi lo lắng hỏi:

- Nay quân ta tan tác chỉ còn có vài người tuỳ tùng. Giặc đuổi đến biết tránh đi đâu?

Bửu trấn an rằng:

- Xin Chúa thượng chớ lo. Thân dân ở vùng này rất rành địa thế, xin đưa chúa qua ở cồn vắng bên kia sông thì không lo giặc tìm ra tông tích.

Nói xong Bửu dùng thuyền nhỏ đưa mẹ con Phúc Ánh qua cù lao giữa sông mà tránh.

Đến nơi quốc mẫu lại kêu đói. Ánh bảo Tấn Bửu:

- Phiền ngươi đi tìm thức vật cho mẹ con ta lót dạ.

Tấn Bửu đi một hồi quay lại nói:

- Thần dân định về nhà lấy cơm dâng quốc mẫu và Chúa thượng, nhưng ngắt nỗi quân Tây Sơn đang lùng sục trong làng nên không tiện quay về. Xin chúa cùng quốc mẫu dùng tạm quả này cho đỡ đói.

Nói xong Bửu dâng quả rừng cho Phúc Ánh. Ánh cắn thử một miếng thấy vị vừa chưa vừa chát liền hỏi Trương Tấn Bửu:

- Quả này tên gọi quá gì?

Bửu thưa:

- Cây này thường mọc bên bờ sông, tên gọi cây bần.

Ánh tò mò hỏi:

- Vì sao gọi là cây bần?

Bửu đáp:

- Vì quả này thương những người nghèo khó thiếu cơm mới ăn qua bữa, nên có tên lá cây bần.

Ánh bèn bảo:

- Họ nhà ta làm chúa cả thiên hạ, nay phải ăn trái bần lót dạ. Từ nay cấm không gọi là
trái bần nữa.

Bửu hỏi ngày:

- Thưa chúa vậy phải gọi là trái gì?

Ánh ngẫm nghĩ rồi đáp:

- Từ nay phải gọi là cây Thuỷ Liễu!

Ánh nói xong liền dâng trái Thuỷ Liễu cho mẹ dùng. Hôm sau Trương Tấn Bửu lại đem về một chiếc thuyền lớn nói với Phúc Ánh:

- Nay giặc Tây Sơn đi lùng sục khắp nơi, sớm muộn gì cũng đến nơi này. Vậy mới Chúa thượng mau lên thuyền chạy ra ngoài hải đảo lạnh nạn mới yên.

Phúc Ánh nói:

- Năm xưa hai chúa cũng vì chạy ra hải đảo lánh nạn nên mới bị nữ tướng của giặc là Bùi Thị Xuân bắt ở cửa Hàm Luông. Nay nếu ta chạy theo đường đó làm gì mà không bị đón bắt như hai lần trước?

Bửu đáp:

- Xin Chúa thượng chớ lo, kênh rạch vùng này thân dân rất rành. Thân dân sẽ cho thuyền theo rạch nhỏ mà đi ra ngoài biển. Giặc Tây Sơn không thể nào biết được.
Phúc Ánh và Lê Văn Quân nghe lời đưa quốc mẫu và công chúa Ngọc Du lên thuyền theo Trương Tấn Bửu mà đi. Bửu cho ghe luồn lách trong rạch nhỏ quả nhiên không gặp quân Tây Sơn. Nhưng vừa ra cửa bể bỗng gặp nữ tướng Tây Sơn Bùi Thị Xuân đem vài chiến thuyền đi tuần tiễu trông thấy. Bùi Thị Xuân gọi lớn:

« Sửa lần cuối: 02 Tháng Bảy, 2009, 10:35:38 am gửi bởi UyenNhi05 » Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #118 vào lúc: 02 Tháng Bảy, 2009, 10:34:11 am »

- Chiếc thuyền kia mau dừng lại cho quân ta tra xét.

Trương Tấn Bửu không đáp, giong buồm cho thuyền chạy ra khơi. Thị Xuân nói:

- Long Nhương tướng quân đoán không lầm. Quả nhiên là thuyền Phúc Ánh chạy trốn. Mau đuổi theo!

Phúc Ánh trông thấy Bùi Thị Xuân đuổi theo liền trương cũng lắp tên bắn một phát. Thị Xuân lẹ mắt chụp được mũi tên ấy, rồi lấy cung bắn trả. Tên bay xé gió trúng dây buồm dứt lìa. Thuyền Phúc Ánh đứt dây buồm không chạy được. Ánh cả kinh than:

- Lần nào ta chạy trốn cũng bị con tiện tỳ này rượt đuổi. Số của ta phải chết dưới tay đàn bà sao?

Than vừa dứt lời bỗng trời mây vần vũ, rồi mưa tờ gió lớn nổi lên. Bùi Thị Xuân liền hối quân chạy thẳng vào bờ nấp bão, lạ lùng thay chiếc thuyền nhỏ của Phúc Ánh trong giông bão giữa biển khơi lại chẳng hề hấn gì. Bão tan chẳng thấy thuyền quân Tây Sơn đâu nữa. Nhờ vậy Nguyễn Phúc Ánh và Lê Văn Quân, Trương Tấn Bửu thoát được chạy ra đảo Phủ Quốc ẩn náu.

Nữ tướng Tây Sơn là Bùi Thị Xuân sau cơn bão không thấy thuyền Phúc Ánh bèn thu quân về thành Sài Côn ra mắt vua Thái Đức, tâu:

- Thần dẫn quân đi tuần ngoài cửa bể Hàm Luông, gặp thuyền Phúc Ánh chạy trốn thần đuổi theo gần kịp, bỗng một cơn bão nổi lên thần đành cho thuyền vào bờ núp bão. Khi bão tan không thấy Phúc Ánh, đành kéo quân về ra mắt Bệ hạ.

Vua Thái Đức nói:

- Ở giữa biển lại gặp bão tố, thuyền Phúc Ánh làm gì mà không bị đắm. Phen này ắt là đã diệt xong dòng họ chúa Nguyễn. Phúc Ánh chết các tướng sĩ quân Nguyễn chạy trốn ắt là như rắn mất đầu ta có lo gì nữa.

Đoạn vua bảo các tướng:

- Hay chuẩn bị quân trang định ngày xa giá hồi kinh!

Nguyễn Huệ hỏi vua:

- Vậy hoàng huynh đệ Đặng Văn Long trấn thủ Gia Định chứ?

Vua Thái Đức suy nghĩ giây lâu rồi đáp:

- Đỗ Nhàn Trập vừa mới hàng ta. Trập là người Gia Định ắt hiểu rõ nhân văn địa lý vùng này, ta cho Trập trấn thủ Gia Định là hợp lý. Vả lại, Trập vừa mới hàng ta, ta trọng dụng Trập lại càng tỏ rõ đức độ của ta. Thế chẳng phải là nhất cứ lưỡng tiện hay sao?

Vua Thái Đức nói xong liền để hàng tướng là Đỗ Nhàn Trập trấn thủ đất Gia Định.
Nguyễn Huệ không dám cãi đành theo Nguyễn Nhạc đem đại binh về Quy Nhơn!

Nói về chúa tôi Nguyễn Phúc Ánh nhờ cơn bão mà thoát khỏi tay nữ tướng Tây Sơn là Bùi Thị Xuân chạy ra đảo Phủ Quốc. Hay tin vua Thái Đức và Long Nhương tướng quân Nguyễn Huệ rút đại binh về, Lê Văn Quân bàn:

- Nay anh em Nhạc, Huệ đã rút đại binh về Quy Nhơn, để hàng tướng là Đỗ Nhàn Trập trấn thủ đã Gia Định. Ta nên thừa cơ hồi này hưng binh khôi phục đất Gia Định.

Ánh buồn rầu hỏi:

- Nay ta ở đây chỉ có ngươi và Trương Tấn Bửu cùng mấy tên quân. Còn các tướng Nguyễn Nghi, Tống Phước Khuông, Tống Phước Lương, Hồ Văn Lân không biết đang lẩn trốn nơi nào thì làm sao hội quân mà khôi phục đất Gia Định?

Quân hiến kế:

- Nay Chúa thượng nên viết chiếu chỉ mời mọi người đem quân vào Gia Định. Các tướng của ta hiện đang lẩn trốn nghe người ấy có mệnh của chúa ta hội tàn quân về theo thì có thể chiếm lại Gia Định.

Ánh hỏi ngay:

- Người ấy là ai?

Quân đáp:

- Ngươi này tên là Chu Văn Tiếp, quê ở huyện Phù Ly phủ Quy Nhơn. Lúc Nguyễn Nhạc làm loạn ở Tây Sơn, Tiếp mộ quân ở núi Bô Chinh Sơn kéo vào cứu quan trấn thủ Quy Nhơn là Nguyễn Khắc Tuyên, chẳng may thua trận, anh của Tiếp là Châu Đoan Chữ tử trận. Tiếp bèn đem quân về đóng ở núi Trà Lang phủ Phú Yên. Sau Nguyễn Huệ lại đem quân vào Phú Yên đánh lão tướng Tống Phước Hiệp. Tiếp lại cứu được con Tống lão tướng quân là Tống Viết Phước. Trận ấy chẳng may em Tiếp là Châu Đoan Hãn lại bị tướng Tây Sơn là Phan Văn Lân giết chết. Chu Văn Tiếp có thù sâu với giặc Tây Sơn. Hiện Chu Văn Tiếp còn hơn ngàn quân ở núi Trà Lang giữa lòng đất địch mà vẫn giữ vững núi ấy thật đáng là danh tướng. Nay Chúa thượng nên viết mật chiếu triệu Chu Văn Tiếp vào Gia Định mới mong khôi phục cơ đồ.

Phúc Ánh nghe lại liền viết mật thư sai người ý tâm phúc đi đường bằng lên ra Phú Yên đến núi Trà Lang trao cho Chu Văn Tiếp.
Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #119 vào lúc: 02 Tháng Bảy, 2009, 10:39:03 am »

Chương 28

Chu Văn Tiếp trương cờ "Lương Sơn tá quốc".
Ngô Tùng Châu tiến cử "Gia Định tam hùng".

     
Lại nhắc đến Chu Văn Tiếp ở trong núi Trà Lang ngày ấy nghe quân vào báo:

- Tướng quân Tống Viết Phước đi dọ đường đã về đến xin vào ra mắt tướng quân.

Tiếp cho vào, Tống Viết Phước nói:

- Tôi vâng lệnh tướng quân đi dọ đường này việc đã xong nên về bẩm báo.

Tiếp nói:

- Ta muốn đem quân vào Gia Định hợp sức với chúa chống giặc Tây Sơn. Ngặt nỗi thuyền bè không có, không thể đi đường biển được, nên mới nhờ tướng quân đi dọ đường vào Gia Định. Nay việc ấy thế nào?

Phước đáp:

- Lúc theo cha tôi là Tống Phước Hiệp đem quân từ Gia Định ra đánh Tây Sơn chiếm lại Bình Thuận, Diên Khánh, Phú yên, tôi nhận thấy từ thành Trấn Biên đến Quy Nhơn chỉ có một con đường đại lộ dọc theo miền duyên hải mà thôi. Con ở hướng Tây toàn là núi non rừng rậm. Nay ta bí mật mở một con đường theo sườn núi phía Tây đi là vào được Trấn Biên như đường đại lộ vậy. Tiếp do dự hỏi:

- Nhưng việc mở đường e rằng khó quá!

Phước vung tay nói:

- Tôi vì nóng lòng báo thù nhà đến nợ nước xin đem quân đi trước mở đường. Nếu không như thế ta đành ở mãi trong núi Trà Lang này sao?

Phước vừa dứt lời có quân vào báo:

- Chúng tôi bắt được một người xưng là kẻ tâm phúc của Nguyễn Phúc Ánh xin được vào gặp tướng quân.

Tiếp liền cho vào. Tên quân đến quỳ thưa:

- Chúa thượng thua binh ở Gia Định phải chạy ra đảo Phú Quốc lánh nạn. Ngươi sai tôi trình mật thư cho tướng quân Chu Văn Tiếp.

Tiếp nhận thư, xem xong mừng rỡ nói:

- Nay chúa viết mật chiếu phong ta làm Bình Tây đại Nguyên soái, bảo gấp đem quân vào Gia Định đánh Đỗ Nhàn Trập chiếm lại Sài Côn. Phen này Chu Văn Tiếp ta đã lập được đại công rồi vậy, thể chẳng uổng công ta phải nằm chờ thời cơ trong núi Trà Lang suốt mấy năm nay. Và chẳng uổng công Tốn tướng quân ọ đường vào Gia Định.

Nói xong liền sai Tống Viết Phước đem năm trăm quân đi trước mở đường, còn Tiếp cùng em là Chu Đoan Chân và bộ tướng là Phạm Văn Sở đem toàn quân cùng băng rừng vào Gia Định.

Chu Văn Tiếp nóng lòng chiếm Sài Côn, nhận chức Bình Tây đại Nguyên soái, Tống Viết Phước mang nặng thù nhà ai nấy đều hết lòng thúc quân mở đường. Tiếp chia quân làm năm đội, đội nào mệt đi sau nghỉ ngơi, đội khoẻ lại lên trước chặt cây xẻ núi. Cứ như vậy luân phiên nhau suốt mấy tháng trời vào được đến khu rừng phía Tây thành Sài Côn.

Chu Văn Tiếp hội các tướng bàn việc đánh chiếm Sài Côn. Phạm Văn Sở hiến kế:

- Vừa rồi Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ đem thuỷ binh vào đánh quân chúa ở sông Thất Kỳ Giang, các tướng đều tan tác mỗi người một ngã, chúa và Lê Văn Quân phải chạy ra đảo Phú Quốc lánh nạn. Theo tôi các tướng Hồ Văn Lân, Tống Phước Khuông, Tôn Phước Lương, Nguyễn Nghi hiện đang lẩn trốn ở phía Đông Nam thành Sài Côn. Nay ta sai người lên các nơi ấy bảo các tướng hội quân nơi đây uy hiếp Thị Nghè. Đỗ Nhàn Trập ắt phải đem quân trong thành ra đồn Thị Nghè ở mặt Đông mà chống giữ không đề phòng ở phía Tây thành. Khi ấy ta bất ngờ từ hướng Tây đánh tới chắc là chiếm được thành.

Chu Văn Tiếp khen:

- Phạm Văn Sở thật là cao kiến. Nhưng việc liên lạc với các tướng phải cậy ai bây giờ?

Tống Viết Phước ra nói:

- Tôi mang ơn tướng quân cứu mạng, nay xin lãnh trọng trách này. Và chăng năm xưa cha tôi là Tống Phước Hiệp, anh tôi là Tống Viết Nghĩa bị Nguyễn Huệ đánh chết, lửa báo thù còn nung nấu tâm can. Nay hai anh là Tống Phước Khuông và Tống Phước Lương lại bị anh em Nhạc, Huệ đánh ở Thất Kỳ Giang chưa biết sống chết thế nào, tính cốt nhục dày vò gan mật. Vậy tôi xin lặn lội đi tìm các tướng trước là do đại sự, sau là vì tình riêng. Xin tướng quân thuận cho.

Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM