http://laodong.com.vn/Tin-Tuc/Ngay-dac-biet-o-Dong-Thap-Muoi-mua-lu/61332Ngày đặc biệt ở Đồng Tháp Mười mùa lũ
Thứ Năm, 6.10.2011 | 08:24 (GMT + 7)Nước lũ đang dâng cao, nhấn chìm hầu hết đồng ruộng vùng Đồng Tháp Mười (ĐTM). Ở nơi trũng nhất và mênh mông nhất ĐTM, trong ngày nước lũ dâng cao đột biến 4.10, hàng trăm người dân vẫn vượt lũ để đến một ngôi miếu nhỏ nằm giữa rừng tràm.
Chính họ đã lập ngôi miếu này cách nay gần 20 năm và hằng năm vào lúc nước lũ dâng cao nhất, họ đều tổ chức lễ giỗ cho gần 300 liệt sĩ hy sinh trong một trận đánh...
Tất cả ngập, chỉ miếu Bắc Bỏ khô ráo
Sáng 4.10, tôi theo QL62 từ TP.Tân An về vùng lũ ĐTM. Đến cây số 55, khi vừa qua cầu Kênh 79, tôi thấy một lá cờ tổ quốc cắm ven đường cùng tấm bảng nhỏ ghi: “Giỗ liệt sĩ - miếu Bắc Bỏ”. Nhìn hai bên đường, mút tầm mắt là đồng ruộng mênh mông nước lũ, xa xa có những cánh rừng tràm. Đây là khu vực thuộc huyện Thạnh Hoá của tỉnh Long An, nơi được xem là vùng trũng nhất ĐTM. Các năm trước ở nơi khác không có lũ, nhưng ở nơi này nước vẫn ngập sâu. Tò mò, tôi ghé nhà một người dân hỏi thăm.
Miếu Bắc Bỏ luôn được bảo đảm không bị ngập lũ. Ảnh: N.P.Đ
Miếu Bắc Bỏ luôn được bảo đảm không bị ngập lũ. Ảnh: N.P.Đ
Ông Bảy Đượm - một lão nông ĐTM - vừa chỉ tay về phía xa, vừa nói: “Trong đó, cách đây khoảng 5 cây số, có một ngôi miếu nhỏ có tên Bắc Bỏ, là nơi người dân thờ gần 300 liệt sĩ hy sinh năm 1973 trong một trận đánh ngay giữa mùa lũ”. Tôi thắc mắc về cái tên “Bắc Bỏ”, ông lão giải thích: “Cái tên này được người dân đặt để nhớ các chiến sĩ miền Bắc hy sinh bỏ xác ở đây”. Tôi cảm thấy nổi gai ốc, không biết do gió lạnh từ đồng lũ bất ngờ thổi qua hay do câu chuyện của ông lão vừa kể. Tôi quyết định nhờ vỏ lãi chở vào miếu Bắc Bỏ.
Thật không “hổ danh” vùng trũng nhất ĐTM, nước mênh mông như biển, chỉ những thân cây tràm ngoi lên mặt nước từ lưng chừng cây. Thỉnh thoảng mới thấy vài ngôi nhà, tất cả đều bị ngập sâu. Người lái vỏ lãi cho biết, chủ những ngôi nhà này cũng có nhà ở tuyến dân cư vượt lũ gần đó, nhưng họ vẫn giữ ngôi nhà tạm này để mùa khô thì ở làm ruộng, còn mùa lũ thì vào đánh bắt thuỷ sản. Sau khoảng 15 phút “bay” trên nước lũ, chiếc vỏ lãi đưa tôi đến một cánh rừng tràm, xa xa đã thấy cờ tổ quốc bay phấp phới.
Đến gần hơn, trước mắt tôi hiện ra một cảnh tượng kỳ thú: Giữa mênh mông nước lũ hiện lên một gò đất cao ráo, rộng khoảng 50m2, chung quanh được bao bọc bởi cây tràm. Rất nhiều vỏ lãi đậu chung quanh. Tôi càng kinh ngạc khi trên khoảnh đất nhỏ hẹp ấy có hàng trăm người đang đứng tưởng niệm trong một ngôi miếu đơn sơ nhất mà tôi từng thấy trong đời: Được che chắn bằng mấy tấm tôn, bệ thờ bằng gạch không được tô trát...
Một ông lão ngoài 70 tuổi tên là Hồ Văn Tước vừa đốt nhang trong miếu bước ra. Ông Tước kể: “Chỗ này thuộc ấp Đá Biên, xã Thạnh Phước, huyện Thạnh Hoá. Trong chiến tranh, đây là vùng trắng, địch gặp ai bắn nấy, vì vậy người dân phải bỏ nhà ra lộ sống”. Ông Tước nhớ lại, hôm ấy là ngày mùng 8 tháng 9 âm lịch - năm 1973, mới sáng sớm từ lộ ngó vô ông thấy một bầy trực thăng đen như ruồi đang quần thảo trên rừng tràm. Rồi súng các loại nổ ran. Trận đánh kéo dài từ sáng sớm tới tối, có một chiếc máy bay bị bắn cháy.
Ngày hôm sau, lính ngụy đi khoe khắp nơi là đã tiêu diệt cả trung đoàn “cộng sản” và cấm không cho người dân vào chôn xác. Gần nửa tháng sau, nhân dân lén vào khu rừng tràm vớt xác chiến sĩ. Vì đang mùa lũ, mặt ruộng bị ngập sâu nên dân không thể chôn mà bó tạm thân xác các anh treo trên những cây tràm, đợi đến mùa khô...
Có mặt trong ngày giỗ đồng đội, ông Phan Xuân Thi - nguyên lính trinh sát Trung đoàn 207, Quân khu 8 cũ, người có mặt trong trận đánh nói trên - bùi ngùi nhắc lại: Tháng 10.1973, đơn vị các ông được lệnh bí mật hành quân về ĐTM, điểm đến là huyện Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho (nay là Tiền Giang).
Đêm 3.10, trung đoàn hành quân từ Ba Thu (trên đất Campuchia) vượt sông Vàm Cỏ Tây. Khi đến ấp Đá Biên thì trời vừa sáng nên các chiến sĩ phải ém quân vào một cánh rừng tràm, chờ đến tối sẽ hành quân tiếp. Các chiến sĩ phần lớn là sinh viên các trường đại học ở Hà Nội (nhiều nhất là Đại học Xây dựng) mới được bổ sung về đơn vị trước đó chỉ 2 ngày, chưa có kinh nghiệm chiến trường nên giăng võng, phơi quần áo lên cây tràm, bị máy bay trinh sát của địch phát hiện.
Một bầy 12 chiếc trực thăng đến bao vây, bắn xối xả xuống trận địa và ồ ạt đổ quân hòng bắt sống sở chỉ huy trung đoàn. Các chiến sĩ đã chiến đấu với tinh thần cảm tử, nhưng do địa hình mùa lũ quá bất lợi, lực lượng quá chênh lệch, ta phải mở đường máu đưa sở chỉ huy trung đoàn thoát khỏi vòng vây. Các chiến sĩ cảm tử - hầu hết thuộc Tiểu đoàn 1 - đã bám trận địa, chiến đấu đến viên đạn cuối cùng, hơn 200 chiến sĩ đã anh dũng hy sinh. Sau ngày giải phóng, nhân dân làm ruộng phát hiện nhiều hài cốt liệt sĩ, đã quy tập về Nghĩa trang liệt sĩ huyện Mộc Hoá chôn chung trong ngôi mộ tập thể.
Bà con đến cúng các liệt sĩ.
Bà con đến cúng các liệt sĩ.
Được dân thờ cúng như "thành hoàng"
Nghi thức làm lễ tưởng niệm các liệt sĩ kết thúc, mọi người lên vỏ lãi đến nhà ông Tư Tờ cách đó vài trăm mét để “ăn giỗ liệt sĩ”. Đã trở thành tập quán suốt gần 20 năm qua, vào đúng ngày các anh hy sinh, nhân dân trong ấp ai có gì mang nấy tới cúng các anh, xong mang qua nhà ông Tư Tờ để cùng ăn uống, tưởng nhớ về các chiến sĩ. Chính ông Tư Tờ là người hiến đất cất miếu thờ, rồi kiên quyết ở lại vùng lũ, không ra sống trên tuyến dân cư vượt lũ, để hàng ngày gần gũi nhang khói cho các anh.
Ông Tư Tờ kể, sau năm 1975, gia đình ông và bà con trở về sống ngày càng nhiều ở Đá Biên. Bà con đốn tràm làm ruộng, lúc cày ruộng gặp rất nhiều hài cốt liệt sĩ, gom lại chôn chung. Chuyện kể rằng ông H khi phát hiện xương đã không chôn, mà lại đem đốt, nên bị hành điên dại mấy năm. Rồi gia đình bà B đêm đêm nghe tiếng gọi: “Ông bà ơi có gì cho con ăn với, con đói lắm, con lạnh lắm, con còn nằm trên cây”. Sáng ngày, bà và gia đình đi tìm thì thấy trên ngọn tràm vẫn còn gói hài cốt.
Đó là những chuyện ông Tư Tờ nghe kể chứ không tận mắt chứng kiến, không biết thực hư ra sao. Còn chuyện sau đây thì ông chắc chắn: Thỉnh thoảng cô con gái của ông trở nên thẫn thờ như mất hồn, miệng cứ than đói, lạnh và không nhớ đường về quê. Biểu hiện bệnh lý của cô gái ngày càng nặng, ông Tờ đưa đi nhiều bệnh viện chữa trị mà không hết. Túng quẫn, ông về lập bàn thờ khấn các liệt sĩ, một thời gian sau con ông hết bệnh. Theo ông Tờ, có thể do ngẫu nhiên, mà cũng có thể các chiến sĩ “linh” thật.
Về phần ông, giữ đúng lời khấn, ông hiến 200m2 đất, nhờ người đắp cao hơn đỉnh lũ, làm miếu thờ cúng các chiến sĩ. Đầu tiên chỉ che tạm bằng lá dừa nước, sau có người dân hiến tôn che tạm. Một lần nằm mộng, ông Tờ thấy các anh “bảo” miếu nhỏ quá không đủ chỗ ở. Ông Tờ và bà con lại tất tả đi mua gạch xây lại lần thứ ba.
Từ khi có ngôi miếu, các liệt sĩ được thờ cúng như “thành hoàng”. Hằng năm cứ vào ngày mùng 8 tháng 9 âm lịch, nhân dân cả vùng tự giác mang lễ vật tới cúng. Sau đó qua nhà ông Tư Tờ “hưởng lộc” của các anh, rồi đàn ca cho các anh nghe đến tối. Đặc biệt, từ khi có ngôi miếu thiêng, bà con vùng này không ai dám nói dối. Có điều gì đó chưa sáng tỏ, chỉ cần yêu cầu thề: “Nếu nói sai lính bắt”, là ai cũng phải sợ. Lâu dần thành quen, bà con luôn sống thật bụng, không ai dám dối trá.
Lên vỏ lãi trở ra lộ, đi giữa mênh mông biển nước, tôi hình dung ngày ấy các anh đã phải bám vào các thân cây tràm để chiến đấu chống bầy trực thăng của giặc. Các anh đã chiến đấu cảm tử và ngã xuống như những anh hùng. Vì quá yêu mến các anh mà người dân Đá Biên đã phong là “thành hoàng” - những “thành hoàng” mặc áo lính, dù sống hay chết cũng vì sự bình yên của đất nước, vì hạnh phúc của nhân dân!
Nguyễn Phấn Đấu