Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Tài liệu - Hồi ký Việt Nam => Tác giả chủ đề:: Giangtvx trong 20 Tháng Bảy, 2016, 09:06:52 am



Tiêu đề: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 20 Tháng Bảy, 2016, 09:06:52 am
        
        - Tác giả: Nhiều tác giả
        - Nhà xuất bản: Quân đội Nhân dân
        - Năm xuất bản: 2005
        - Số hóa bởi: rongxanh, ptlinh, Giangtvx

    
    

Lời giới thiệu
       
        “Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam" (Hồi ký 50 năm KQNDVN) ra mắt với bạn đọc vào dịp kỷ niệm 50 năm thành lập Ban nghiên cứu sân bay (3/3/1955-3/3/2005)-tiền thân của Không quân nhân dân Việt Nam.

        50 năm xây dựng, chiến đấu và chiến thắng là một chặng đường lịch sử vẻ vang đầu tiên của KQND Việt Nam anh hùng vào nửa cuối thế kỷ XX và những năm đầu thế kỷ XXI.
        
        Hồi ký đã hội tụ được những mẩu chuyện tự viết, tự kể lần đầu mang tính sử thi về việc thật, người thật đã thể hiện được hào khí, tâm tình, chân thật của đông đảo bạn chiến đấu Không quân. Với một tấm lòng mong nhớ và trận trọng Hồi ký đã ghi lại những việc làm tốt, chiến công, sự kiện, sự tích anh hùng trong chiến đấu trên không của KQNDVN với máy bay Mỹ; nêu rõ sự lãnh đạo tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam, tầm nhìn chiến lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, tài thao lược của Đảng uỷ Quân sự Trung ương và Bộ Quốc phòng với KQNDVN; sự mưu trí, dũng cảm của bao thế hệ lãnh đạo chỉ huy, phi công; sự tận tuỵ sáng tạo của bao người làm nhiệm vụ trên sân bay để bảo đảm an toàn tuyệt đối cho mọi chuyến bay và mang chiến thắng trở về sau mỗi lần xuất kích chiến đấu.
        
        Đọc Hồi ký, CCB KQNDVN nhớ lại và tự hào những trận không chiến, diễn biến ác liệt, vượt qua khó khăn, dám nghĩ dám làm để bắn rơi máy bay, tàu chiến, hậu cứ sân bay Mỹ-nguỵ Sài Gòn…, rồi chạnh lòng ao ước gặp lại nhau, thương tiếc những đồng đội đã hy sinh, nhớ về một thời trai trẻ của bản thân cùng bao chiến hữu trên sân bay dưới nắng nóng, trong giá lạnh giữa đêm đông, không quản nguy nan, không hề suy tính, chỉ có mong sao máy bay làm tròn nhiệm vụ an toàn trở lại với sân bay.
        
        Hồi ký là những minh chứng vừa làm phong phú thêm lịch sử Quân chủng Phòng không-Không quân, vừa để lại cho thế hệ cán bộ chiến sĩ lớp sau những điều xảy ra và xử lý trong chiến tranh; động viên nhau tiếp tục xây dựng, giữ gìn và tô đậm truyền thống chiến đấu của KQNDVN: “Trung thành vô hạn, tính chất kiên quyết, đoàn kết hiệp đồng, lập công tập thể” để giữ yên bầu trời Tổ quốc.
        
        Ban liên lạc bạn chiến đấu Không quân Hà Nội bày tỏ sự cảm ơn với các tác giả đã viết bài Hồi ký, xin trân trọng cảm ơn Bộ Tư lệnh và Đảng uỷ Quân chủng Phòng không-Không quân cùng các cơ quan liên quan đã giúp đỡ để Hồi ký được xuất bản.
        
        Những chiến công trên không, trên đất, trên biển để giữ được bầu trời trong xanh của Tổ quốc Việt Nam suốt 50 năm đầu tiên của KQND Việt Nam vẫn mãi mãi là lời thề nguyện của Cựu chiến binh Không quân và cũng là của thế hệ tiếp theo trong Quân chủng Phòng không-Không quân vì sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.
        
        Do còn nhiều hạn chế trong tổng hợp, biên tập Hồi ký, rất mong bạn đọc gần xa lượng thứ, góp ý phê bình và rất mong nhận tiếp những bài Hồi ký của bạn chiến đấu Không quân cho Hồi ký tập tiếp theo (Xem thông báo viết Hồi ký ở cuối sách).

BAN LIÊN LẠC CHIẾN ĐẤU KHÔNG QUÂN HÀ NỘI        


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Bảy, 2016, 07:42:44 am
        
SỰ LÃNH ĐẠO ĐÚNG ĐẮN CỦA ĐẢNG VÀ SÁNG TẠO CỦA QUẦN CHÚNG LÀ YẾU TỐ QUYẾT ĐỊNH MỌI THẮNG LỢI CỦA KHÔNG QUÂN TA.
       
Trung tướng HOÀNG NGỌC DIÊU                          
Nguyên Phó Tư lệnh, Tham mưu trưởng Quân chủng PK- KQ        
       
        Cuối năm 1954 miền Bắc được giải phóng, Tổng Quân ủy đã ra nghị quyết xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam từng bước tiến lên chính quy, hiện đại có các binh, quân chủng.
        
        Tháng 3- 1955 Tổng Quân ủy - Tổng tư lệnh đã ra quyết định thành lập Ban nghiên cứu sân bay (đồng chí Trần Quý Hai - Trưởng ban nghiên cứu sân bay đề nghị đổi là Ban nghiên cứu Không quân, nhưng Bộ Tổng tham mưu trả lời không được gọi Không quân, phải giữ bí mật).
        
        Năm 1956 để hoạt động công khai, Chính phủ đã ra quyết định thành lập Cục Hàng không dân dụng, đồng chí Đặng Tính - Trưởng ban nghiên cứu sân bay thay đồng chí Trần Quý Hai được bổ nhiệm là Cục trưởng Cục Hàng không dân dụng. Năm 1959 đã chuyển Ban nghiên cứu sân bay thành Cục Không quân, về mặt nhân sự, tổ chức vẫn giữ nguyên như cũ, đồng chí Đặng Tính Cục trưởng Cục Hàng không dân dụng - Cục trưởng Không quân.
        
        Từ tháng 10-1954 lực lượng vào tiếp quản sân bay Gia Lâm do đồng chí Nguyễn Tiến làm trưởng đoàn cho đến năm 1959 Ban nghiên cứu sân bay chuyển thành Cục Không quân, lực lượng không quân của chúng ta hoàn toàn bí mật thân phận của mình, gia đình vợ con hỏi đến đều nói chuyển ngành ra ngoài quân đội bận bộ áo quần ka ki xanh công nhân.
        
        Không ít người thắc mắc, công tác tư tưởng rất phức tạp làm thế nào giữ bí mật, động viên anh em thấy được điều về xây dựng không quân là vinh dự được Đảng tin cậy, yên tâm học tập, công tác.
        
        Năm 1963 Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đã nhận định chiến tranh cục bộ của Mỹ - ngụy ở miền Nam sẽ bị thất bại, Mỹ thế nào cũng sử dụng không quân đánh ra miền Bắc để hạn chế chi viện miền Bắc đối với miền Nam, đã chủ trương tăng cường lực lượng phòng không cho 3 thứ quân. Xây dựng lực lượng PK-KQ mạnh để làm nòng cốt cho cuộc chiến tranh nhân dân đất đối không, đánh bại chiến tranh phá hoại của không quân và hải quân Mỹ đánh ra miền Bắc.
        
        Tháng 10-1963 Quân ủy Trung ương đã ra quyết định hợp nhất 2 lực lượng PK-KQ thành Quân chủng PK-KQ, nhanh chóng ổn định tổ chức, huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu cao. Vấn đề hợp nhất 2 lực lượng PK-KQ tư tưởng nhận thức của cán bộ cũng nhiều ý kiến. Lực lượng phòng không lúc đó có 6 trung đoàn pháo cao xạ, lực lượng không quân lúc đó chỉ có 1 trung đoàn vận tải 919 và trung đoàn 910 (trường huấn luyện) cơ sở vật chất kỹ thuật còn rất thấp, hai đoàn bay tiêm kích 921 - 923 còn ở nước ngoài, đoàn 921 mới nhận trang bị máy bay MIG-17, đoàn 923 chưa có trang bị, do đó nhiều ý kiến cho bên trọng bên khinh. Lúc đầu Bộ Tổng tham mưu ra quyết định tên là Quân chủng PK-KQ, có tờ báo viết về Quân chủng Phòng không và Không quân đưa Bác Hồ xem, Bác lấy bút chì đỏ gạch chữ "và" sửa lại gạch ngang giữa 2 chữ PK-KQ.
        
        Đảng ủy Quân chủng PK-KQ đã lãnh đạo đoàn kết thống nhất, xây dựng quân chủng thành sức mạnh tổng hợp sẵn sàng chiến đấu cao, đánh thắng trận đầu bắn rơi máy bay, bắt sống giặc lái bảo vệ an toàn mục tiêu.
        
        Ngày 6-8-1964, trung đoàn tiêm kích 921 về nước, hạ cánh ở sân bay Nội Bài, lực lượng không quân thêm một trung đoàn tiêm kích được trang bị máy bay Mig - 17, Quân chủng PK-KQ thêm một lực lượng chiến đấu có sức cơ động cao.
        
        Quá trình chuẩn bị chuyển trung đoàn 921 về nước cũng không đơn giản trong việc bảo đảm vật chất kỹ thuật mặt đất, bảo đảm sân bay, vì lúc đó ta chỉ có sân bay Nội Bài, sân bay Kép, Yên Bái xây dựng chưa xong.
        
        Nhận thức mỗi người một khác, có đồng chí nói không quân địch quá mạnh, số lượng đông, trang bị hiện đại, phi công giờ bay cao có kinh nghiệm chiến đấu. Ta chỉ có 1 trung đoàn trang bị MIG- 17, người lái giờ bay thấp chưa chiến đấu, liệu đánh được bao nhiêu trận, gây thêm phức tạp cho lực lượng phòng không mặt đất. Họ không thấy hết sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân, chỉ nhìn vào lực lượng một trung đoàn tiêm kích. Đảng ủy Quân chủng PK-KQ đã hạ quyết tâm đề nghị trên cho trung đoàn 921 về nước sẽ có cách đánh thắng địch và lực lượng không quân càng đánh càng phát triển. Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương cũng nhất trí với Đảng ủy Quân chủng PK-KQ, phải cho trung đoàn 921 về nước chiến đấu, đó là thời cơ để xây dựng và rèn luyện không quân ta.


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Bảy, 2016, 07:44:28 am
        Đảng ủy Quân chủng đã làm công tác tư tưởng, tập trung mọi khả năng để hoàn thành công tác chuẩn bị kỹ thuật vật chất, cơ sở sân bay tạo điều kiện để 921 về nước xây dựng chiến đấu thắng lợi.
       
        Với chủ trương đúng đắn của Bộ Chính trị, của Quân ủy Trung ương và Đảng ủy Quân chủng trung đoàn 921 là đơn vị tiêm kích đầu tiên của không quân đã chiến đấu và trưởng thành, lực lượng không quân từ 1 trung đoàn 921 đã phát triển thành 4 trung đoàn tiêm kích (921, 923, 925, 927) đã góp phần nâng cao sức mạnh chiến đấu của Quân chủng PK-KQ.
       
        Về mặt tác chiến Đảng ủy Quân chủng PK-KQ trực tiếp lãnh đạo BTL Quân chủng trực tiếp chỉ huy đến từng trung đoàn không quân. Năm 1967 thành lập Binh chủng Không quân Đảng ủy và BTL Binh chủng Không quân trực tiếp lãnh đạo chỉ huy toàn diện cả mặt tác chiến, chỉ huy sở Binh chủng nằm trong chỉ huy sở Quân chủng để hiệp đồng với lực lượng phòng không chặt chẽ. Quân chủng trực tiếp giao nhiệm vụ chiến đấu cho Binh chủng.
       
        Để chuẩn bị cho trung đoàn 921 đánh trận đầu thắng lợi Đảng ủy Quân chủng và BTL cơ quan Quân chủng trực tiếp xuống trung đoàn 921 giúp đỡ mà khó khăn nhất là cách đánh, cán bộ lãnh đạo chỉ huy của ta đều học ở Trung Quốc do đó cũng ảnh hưởng về chiến thuật không quân Trung Quốc.
       
        Trận ngày 3 và 4-4-1965 của trung đoàn 921 chúng ta đã sử dụng liên đội 4 chiếc trực tiếp chiến đấu, 4 chiếc chiếm tầng cao yểm hộ. Ngày 3-4-1965, địch đánh cầu Hàm Rồng, đối tượng là không quân của hải quân Mỹ. Biên đội 4 chiếc đồng chí Phạm Ngọc Lan làm đội trưởng xuất kích, biên đội đồng chí Trần Hanh yểm hộ ở tầng cao.
       
        Biên đội đồng chí Phạm Ngọc Lan đã bắn rơi 2 chiếc F8U, đồng chí Phạm Ngọc Lan bắn rơi chiếc máy bay Mỹ đầu tiên, đồng chí Phan Văn Túc bắn rơi chiếc thứ 2 .
       
        Ngày 4-4, địch tiếp tục đánh Hàm Rồng, đối tượng lực lượng không quân Mỹ, lực lượng không quân thiện chiến hơn, trang bị hiện đại hơn toàn máy bay F-105D. Biên đội đồng chí Trần Hanh xuất kích, biên đội đồng chí Lê Trọng Long thu hút địch và yểm hộ tầng cao. Biên đội đồng chí Trần Hanh bắn rơi 2 chiếc F-105D, đồng chí Trần Hanh bắn rơi 1 chiếc. Địch đã chủ động đối phó, trận không chiến diễn ra ác liệt, tên lửa không đối không phóng từ nhiều phía đồng chí Phạm Giấy, đồng chí Lê Minh Huân, đồng chí Trần Nguyên Năm đã anh dũng hy sinh, đồng chí Trần Hanh đã vượt ra ngoài và hạ cánh bắt buộc ở bản Kẻ Tằm, phía Tây Nghệ An. Sau trận đánh này cũng nhiều ý kiến cho không quân đánh được không quân Mỹ, bắn rơi được máy bay, có người bi quan cho ta hy sinh nhiều một biên đội 4 chiếc, 3 đồng chí hy sinh, 1 đồng chí hạ cánh bắt buộc. Không biết có đánh được lâu dài không.
       
        Ngày 5-4-1965, Đại tướng tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp đã trực tiếp nghe BTL Quân chủng báo cáo, đồng chí đã nhận xét: Trận thứ nhất địch bất ngờ, đối tượng không quân của hải quân, ta chủ động hoàn toàn bắn rơi được máy bay, nhưng không quân ta chưa được thử thách ác liệt; trận thứ 2, không quân ta gặp không quân Mỹ là đối tượng mạnh hơn ta nhiều, số lượng đông, trang bị hiện đại, phi công được huấn luyện tốt, giờ bay cao, yếu tố bất ngờ không còn, địch đã có chuẩn bị đối phó với tiêm kích của ta, ta đã bắn rơi 2 F- 105 đó là thắng lợi lớn.
        Và kết luận: Không quân ta có thể đánh thắng được không quân Mỹ, qua trận đánh này các đồng chí cần rút kinh nghiệm để chuẩn bị đánh trận sau tốt hơn.
       
        Cũng trong ngày 5-4-1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư khen không quân chiến đấu dũng cảm. Sau khi được chỉ thị của Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Thường vụ Đảng ủy Quân chủng họp rút kinh nghiệm trận đánh, đã đánh giá: Không quân ta tuy có tổn thất nhưng đã dũng cảm dám đánh, bắn rơi được máy bay Mỹ đó là thắng lợi; bước đầu chúng ta thấy được mạnh yếu của địch đồng thời đánh giá ta đúng đắn hơn, về yếu tố tinh thần dũng cảm dám đánh, nhưng về mặt kỹ thuật, chiến thuật phải tiếp tục nghiên cứu - chuẩn bị trận đánh sau giành thắng lợi cao hơn và ta ít hy sinh. Thường vụ Đảng ủy có kết luận và chỉ thị Bộ tham mưu nghiên cứu cách đánh. Kết luận của Thường vụ Đảng ủy Quân chủng: "Đánh với đối tượng mạnh hơn ta, có số lượng đông, trang bị kỹ thuật hiện đại, người lái được huấn luyện giờ bay cao, phải có cách đánh độc đáo phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của Không quân Việt Nam luôn luôn tạo thế bất ngờ chủ động tấn công phải mưu trí linh hoạt sáng tạo trong cách đánh". Quá trình chiến đấu của không quân Đảng ủy BTL Quân chủng theo dõi phát hiện, chỉ đạo những nguyên tắc và phương châm tác chiến, phát huy sáng tạo của cán bộ chỉ huy, dẫn đường, người lái, nghiên cứu cách đánh phải tìm ra cái mới có chuẩn bị mới đánh. Chỉ thị của đồng chí Văn Tiến Dũng - Tổng tham mưu trưởng: Không quân không có cái mới, không tìm ra bất ngờ cho địch thì không được xuất kích.


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Bảy, 2016, 07:46:08 am
       
        Cách đánh của từng loại máy bay cũng có những cách đánh khác nhau, như MIG-17 đánh ở độ cao trung bình dùng lối đánh gần, đánh quần, trên khu vực có lợi, để phát huy tính năng cơ động mặt bằng của MIG-17, nhiều động tác chiến thuật được áp dụng như cơ động cắt bán kính để hạn chế tốc độ lớn của địch, cơ động gấp tránh tên lửa tiếp cận gần công kích nhanh.

        Đối với MIG-21 lúc mới chuyển loại hiệu suất chiến đấu thấp vì cách đánh không thích hợp, thời gian đầu còn vận dụng cách đánh của MIG-17, đánh gần, đánh quần; sau một số trận đánh không thành công, ta đã rút kinh nghiệm tìm cách đánh phù hợp với tính năng của máy bay MIG-21. Do có lợi thế tốc độ nhanh, tính cơ động tốt nhất ở độ cao 4000m trở lên, tính năng cơ động hơn hẳn F-4, F-105 nên cách đánh của MIG-21 đã được hình thành; sử dụng tốc độ lớn, cơ động ở độ cao cao, đánh từ xa, đánh thọc sâu vào đội hình địch đánh nhanh rút nhanh, MIG-21 có cách đánh mới đã nâng hiệu suất rõ rệt.
       
        Qua thực tế chiến đấu với không quân địch từ 1965 – 1966, ta đã hình thành dần cách đánh và rút ra tư tưởng chỉ đạo tác chiến đối với không quân là: Sử dụng lực lượng nhỏ (2-4c) và vừa (8-12c) đánh linh hoạt lúc xa lúc gần, lúc cao lúc thấp, đánh nhanh rút nhanh. Năm 1967, địch đã thay đổi thủ đoạn dùng đội hình lớn, tăng lực lượng tiêm kích yểm hộ trực tiếp đội hình cường kích kết hợp cơ động bảo vệ từ xa. Ta đã dùng lực lượng nhỏ đánh vào đội hình cường kích bằng chiến thuật thọc sâu, chia cắt từng đoạn đường bay của địch, đánh vào sườn của đội hình địch, dùng tốc độ và cơ động bổ nhào từ trên cao đánh xuống (chiến thuật chim cắt). Với cách đánh này máy bay MIG-21 phát huy được tính  năng và giành được thế công kích có lợi. Dưới sự lãnh đạo và chỉ đạo của Đảng ủy và BTL Quân chủng, Binh chủng và sáng tạo của Quân chủng, không chỉ lực lượng tiêm kích có cách đánh hay mà lực lượng không quân vận tải (trung đoàn 919) ngoài nhiệm vụ vận tải chi viện cho các chiến trường còn làm nhiệm vụ chuyên cơ bảo đảm hàng nghìn chuyến bay chở lãnh tụ an toàn tuyệt đối, cũng có những sáng tạo trong chiến đấu, cải tiến máy bay An-2 thành máy bay chiến đấu đánh tàu biệt kích ven biển, đánh tập kích tiêu diệt trung tâm ra đa dẫn đường của Mỹ ở Pa Thí (Lào) .
       
        Đồng chí Ba, đồng chí Phước đã dùng T-28 máy bay của Hoàng gia Lào bay sang hàng để đánh rơi máy bay C123 chở biệt kích ngụy Sài gòn khi chúng bay ra miền Bắc.
       
        Trận ngày 28-4-1975 trong chiến dịch Hồ Chí Minh đã sử dụng máy bay A-37 lấy của địch để tập kích táo bạo, bất ngờ sân bay Tân Sơn Nhất, trận đánh có ý nghĩa lịch sử và là trận đánh cuối của Không quân nhân dân Việt Nam trong chiến tranh chống Mỹ.
       
        Tóm lại trong 50 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng và sáng tạo của Quân chủng, Không quân nhân dân Việt Nam đã chiến đấu và xây dựng không ngừng phát triển lớn mạnh đã góp phần quan trọng trong nhiệm vụ: Bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Từ 4 trung đoàn tiêm kích, 1 trung đoàn vận tải ngày nay đã có 3 sư đoàn không quân ở trên 3 vùng chiến lược Bắc, Trung, Nam, cùng lực lượng phòng không quản lý và bảo vệ vùng trời, sẵn sàng làm mọi nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao.
       
        Điểm lại lịch sử của không quân, chúng ta không thể nói hết chỉ nhớ những gì thì nói lại, mỗi người một câu chuyện để ôn lại những ngày sống chiến đấu bên nhau, và tự hào với lực lượng không quân ta, tiếp tục phát huy truyền thống của không quân cho thế hệ mai sau.


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Bảy, 2016, 08:07:38 am
          
BỨC ẢNH KỶ NIỆM VỀ BÁC HỒ

Thiếu tướng PHAN KHẮC HY                          
Nguyên Chính ủy Binh chủng Không quân                
Nguyên Phó tư lệnh bộ đội Trường Sơn                  

        Đúng 6 giờ sáng ngày mồng một Tết Đinh Mùi (9-2-1967) tôi và đồng chí Phùng Thế Tài - Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân lên xe đi sân bay Nội Bài để chuẩn bị đón Hồ Chủ tịch đến thăm và chúc Tết bộ đội trung đoàn không quân tiêm kích 921, đơn vị có nhiều thành tích chiến đấu trong năm 1966. Cùng đi có đồng chí Xuân Mai phóng viên báo Phòng không - Không quân.

        Trên đường đi, đồng chí Phùng Thế Tài trách đồng chí Xuân Mai chưa chụp được ảnh nào của đồng chí với Hồ Chủ tịch cho thật đẹp. Đó là nguyện vọng của nhiều cán bộ được làm việc với Hồ Chủ tịch muốn có một bức ảnh kỷ niệm về Bác. Tôi góp thêm ý kiến: “anh yên trí, đầu xuân năm mới nhất định "phó nháy" Xuân Mai sẽ chụp ảnh chúng ta với Bác thật đẹp".

        Chúng tôi quay sang trao đổi những công việc cần kiểm tra trong việc tổ chức đón Bác, tránh những sơ suất mà Bác đã phê bình mấy lần đến Phòng không - Không quân trước đây như sính dùng từ nước ngoài, chỗ ăn ở của bộ đội kém vệ sinh v.v...

        Sáng mồng một Tết này trời ấm áp, không mưa. Dọc đường từng tốp đồng bào gái trai, già trẻ trong những bộ quần áo đẹp đi chơi xuân và chúc Tết nhau. Nhân dân Hà Nội cũng như nhân dân toàn miền Bắcbình tĩnh, lạc quan đón Tết cổ truyền của dân tộc trong hoàn cảnh chiến tranh và lòng hướng về miền Nam ruột thịt.

        Trong niềm vui năm mới của mọi người, bộ đội Không quân có hạnh phúc lớn là được sự quan tâm đặc biệt của Hồ Chủ tịch. Ngày 9-11-1964, ngày sau khi trung đoàn không quân tiêm kích đầu tiên về nước, Hồ Chủ tịch đã đến thăm và căn dặn: "Tổ tiên ta ngày xưa đã có những chiến công oanh liệt trên sông, biển như Bạch Đằng, Hàm Tử. . . , trên bộ như Chi Lăng, Vạn Kiếp, Đống Đa. Ngày nay chúng ta phải mở mặt trận trên không thắng lợi. Trách nhiệm ấy trước hết là của các chú” .

        Chấp hành chỉ thị của Bác, trong hai ngày 3 và 4 tháng 4 năm 1965, biên đội của đồng chí Phạm Ngọc Lan và biên đội của đồng chí Trần Hanh trong lần xuất kích đầu tiên đã hạ 4 máy bay hiện đại của hải quân và không quân Mỹ trên bầu trời Hàm Rồng, Thanh Hóa.

        Ngày 5 tháng 4 năm 1965, Hồ Chủ tịch gửi thư khen:

        “Các chú đã chiến đấu dũng cảm, đã tiêu diệt máy bay Mỹ. Các chú đã thục hiện khẩu hiệu "đã đánh là thắng”. Như thế là xứng đáng với truyền thống anh hùng của quân và dân ta.

        Bác gửi lời khen ngợi các chú và nhắc các chú luôn luôn phải:

        - Nâng cao tinh thần quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, thắng không kiêu, khó không nản.

        - Ra sức rèn luyện để tiên bộ mãi mãi.

        - Đoàn kết chặt chẽ với các đơn vị bạn và với nhân dân.


Chúc các chú lập nhiều chiến công hơn nữa        
Chào thân ái và quyết thắng                
Bác Hồ"                              

        Thực hiện lời căn dặn của Bác, trong năm 1966 bộ đội Không quân đã phấn đấu trưởng thành về mọi mặt và lập công xuất sắc, bắn rơi 54 máy bay Mỹ, có 45 chiếc rơi tại chỗ.

        Tại Đại hội Anh hùng và Chiến sĩ thi đua toàn quốc tháng 12 năm 1966 bộ đội Không quân có đại đội 1 trung đoàn 921, đại đội 2 trung đoàn 92 3 và ba phi công Trần Hanh, Nguyễn Văn Bảy, Lâm Văn Lích được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Sau đại hội, đoàn đại biểu Không quân được vinh dự đến Phủ Chủ tịch báo cáo với Bác, có Thủ tướng Phạm Văn Đồng và Đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng dự.

        Sự quan tâm đặc biệt và những lời dạy bảo ân cần của Bác trở thành nguồn sức mạnh thiêng liêng của bộ đội Không quân trong suốt những năm tháng khó khăn thử thách của cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược.

        Xe đến đầu cổng sân bay, cắt đứt dòng suy tưởng của tôi. Chúng tôi đến khu vực sân đỗ. Toàn trung đoàn đã đội ngũ chỉnh tề, đồng chí trung đoàn trưởng báo cáo với Tư lệnh Quân chủng tình hình sẵn sàng chiến đấu và công việc tổ chức đón Bác.

        Đúng 7 giờ 30 phút, đoàn xe của Hồ Chủ tịch đến. Bác xuống xe, đi cùng có đồng chí Thượng tướng Văn Tiến Dũng - Tổng tham mưu trưởng và đồng chí Tố Hữu - Bí thư Trung ương Đảng.

        Đồng chí Tư lệnh báo cáo với Hồ Chủ tịch. Bác vẫy chào bộ đội, mọi người phấn khởi đồng thanh hô to "Hồ Chủ tịch muôn năm !" .

        Bác đi duyệt hàng quân. Dừng lại trước một chiến sĩ trẻ, sờ vào áo trấn thủ của anh, Bác hỏi: "Cháu mặc có ấm không?". Chiến sĩ trẻ xúc động trả lời "Dạ có ạ".

        Đi hết lượt hàng quân Bác đến trước chiếc bàn đã để sẵn quà của Bác tặng bộ đội. Bác nói:

        - Bác cùng các chú Văn Tiến Dũng, Tố Hữu thay mặt Đảng và Chính phủ đến chúc tết các chú. Trước hết, chú Tố Hữu sẽ đọc thơ Xuân mừng các chú.

        Đồng chí Tố Hữu đọc cho bộ đội nghe bài thơ "Chào Xuân 1967" của đồng chí vừa sáng tác. Đoạn cuối lời thơ như thúc dục mọi người xung trận:

                      "Ôi sáng xuân nay, như lưỡi gươm trần sáng quắc
                      Rạo rực làng ta, trống trận Quang Trung
                      Tổ quốc giục cả hai miền Nam, Bắc
                      Hãy xung phong! Hỡi mùa quân 1967 anh hùng!”


        Tiếng vỗ tay của bộ đội hoan hô đồng chí Tố Hữu vừa dứt, Bác chỉ tay vào các gói quà giữa bàn và nói:

        - Bác có cái này, ngọt hơn thơ của chú Tố Hữu, tặng các chú.Mọi người cười vui và vỗ tay ran.

        Bác biểu dương thành tích chiến đấu và xây dựng của bộ đội Không quân trong năm qua và căn dặn:

        - Các chú phải chăm học tập, rèn luyện hơn nữa. Càng học tập, càng tiến bộ; càng tiến bộ thì đánh địch càng giành nhiều thắng lợi mới!

        Nói xong, Bác chào từ biệt mọi người để đi chúc tết các địa phương và đơn vị khác . Tiếng hô "Hồ Chủ tịch muôn năm !" cùng với tiếng vỗ tay vang dội của bộ đội chào tiễn Bác.

        Sau buổi đón Bác đến chúc tết, chúng tôi trở về cơ quan và vùi đầu với công việc, quên mất việc đồng chí Xuân Mai chụp ảnh.

        Đến năm 1971 tôi được điều vào công tác tại Bộ tư lệnh 559, bộ đội Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh. Trước khi lên đường, Cục Chính trị Quân chủng tổ chức họp mặt chia tay tôi. Lúc này phòng Tuyên huấn mới đưa bức ảnh đồng chí Xuân Mai chụp tôi cùng đồng chí Phùng Thế Tài với Bác Hồ ngày mồng một tết Đinh Mùi tại trung đoàn 921 . Ảnh được phóng to, lồng khung kính, rất đẹp. Đồng chí Xuân Mai đã giữ lời hứa và với sự nhạy bén nghề nghiệp, đồng chí đã ghi được hình ảnh lúc Bác chỉ tay vào gói quà và nói: "Bác có cái này ngọt hơn thơ chú Tố Hữu, tặng các chú”.

        Bức ảnh này đã trở thành vật kỷ niệm quí giá của tôi và gia đình tôi.
  


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Bảy, 2016, 08:12:30 am
        
TRANG NHẬT KÝ CÔNG TÁC CHÍNH TRỊ

PHAN KHẮC HY        

        Nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày truyền thống của bộ đội Không quân (3/31955 - 3/3/2005), tôi xem lại trang bút ký công tác chính trị ghi tháng 10-1964, thời kỳ chuẩn bị bước vào cuộc chiến đấu quyết liệt với không quân của đế quốc Mỹ.

        Nội dung bút ký là sự tổng kết có ý nghĩa thực tiễn của công tác chính trị trong buổi đầu ra quân mở mặt trận trên không của Không quân ta.

        Tháng 8-1964, trung đoàn không quân tiêm kích 921 đầu tiên về nước từ hậu phương rất xa và hòa bình khá lâu, lại phải gấp rút chuẩn bị bước vào chiến đấu ngay. Công tác chính trị trong một thời gian ngắn đã biết rút ra nguyên nhân thắng lợi trên chiến trường.

        Trang bút ký ghi lại 3 tổng kết chủ yếu, chứng minh sức sống của công tác chính trị.

        1. Làm cho mọi người nhận rõ vị trí của mình trong cuộc chiến đấu tới.

        - Sân bay là chiến trường: Sân bay là căn cứ của không quân, nơi chuẩn bị và tạo mọi điều kiện để huấn luyện, xây dựng và chiến đấu của không quân, nơi tập trung sinh lực chủ yếu và trung tâm chỉ huy của không quân.

        Địch sẽ tập trung đánh phá ác liệt căn cứ sân bay để tiêu diệt không quân ta từ mặt đất. Mọi người ở sân bay phải chuẩn bị trận địa xuất phát tấn công thắng lợi và bảo vệ an toàn cho lực lượng không quân chiến đấu lâu dài, phải dũng cảm, sáng tạo trong chiến đấu, phòng tránh, sửa chửa gấp sân bay, làm thất bại mọi cuộc tập kích của không quân Mỹ.

        - Máy bay là vũ khí: Phải bảo đảm cho máy bay, vũ khí, khí tài trên máy bay luôn luôn ở trạng thái tốt. Bất cứ một hỏng hóc hay thiếu sót nào trên máy bay đều không thể chiến đấu thắng lợi mà còn gây tổn thất nghiêm trọng.

        - Người bay là đồng chí thay ta diệt thù: Người thực hiện nhiệm vụ của hàng trăm, hàng ngàn người trong không quân trực tiếp diệt địch là người lái. Người lái khi chiến đấu trên không là mang sức mạnh và ý chí của cả tập thể. Mọi người có trách nhiệm bảo đảm cho người lái có đủ thể lực, kỹ thuật và ý chí quyết chiến quyết thắng cao, tự giác hoàn thành nhiệm vụ của tập thể giao phó, dù phải một mình đương đầu với địch.

        2. Phải động viên mọi người biến quyết tâm thành hành động nâng cao sức mạnh chiến đấu.

        - Xây dựng lập trường tư tưởng vững, không dao động.

        - Rèn luyện tính tổ chức kỷ luật, một yêu cầu rất cao trong chiến đấu của không quân.

        - Trau dồi kỹ thuật, chiến thuật, nghiệp vụ, rèn luyện bản lĩnh chiến đấu.

        3. Thường xuyên động viên lòng yêu nước, vinh dự tự hào và trách nhiệm đối với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân, sẵn sàng hy sinh chiến đấu giành thắng lợi.

        Tôi đã làm bài thơ động viên anh em lái:

                               Tặng anh em bay
                               Cờ quyết thắng đỏ tươi dòng máu
                               Đảng của ta sữa mẹ ngọt ngào
                               Nuôi anh sức sống dạt dào
                               Tung anh bay bổng trời cao chín tầng
                               Lúa hớn hở như mừng được nước
                               Nhà máy cao tưởng được thêm trời
                               Tiếng chim vang dậy núi đồi
                               Ngày xưa tiếng quạ nay trời phượng bay
                               Muôn. người góp một bàn tay .
                               Chim ơi! Chim quyết phanh thây quân thù
                               - Mẹ ơi con mẹ xin thề
                               Một đi quyết thắng, một về chiến công.

        Bài thơ không hay, nhưng lúc đó gợi cho người trong cuộc những tình cảm rất đẹp.

        Xưa ta chưa có không quân, chưa có mặt trận trên không. Máy bay quân thù làm chủ bầu trời, chúng là những bầy quạ đen báo hiệu chết chóc. Nay nhờ có Đảng, có dân nuôi dưỡng, ta có không quân, có phượng hoàng bảo vệ bầu trời. Dân quê phấn khởi làm ăn, nhìn lên trời như lúa mừng được nước, nhà máy nhả khói vươn cao như tưởng được thêm trời.

        Với sự yêu mến, nuôi dưỡng và tin tưởng của Đảng, của dân, chim phượng hoàng phải quyết phanh thây quân thù, và không quân dã hứa: Một đi quyết thắng, một về chiến công.

        Tôi ghi lại trang nhật ký này để nhớ về một thời đã cùng xây dựng và chiến đấu trong hàng ngũ Không quân anh hùng của chúng ta.

TP Hồ Chí Minh, 12-2004.        


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Bảy, 2016, 08:23:27 am
       
TÔI ĐUỢC CHỤP ẢNH BÁC HỒ

TRẦN DUY HỢI       

         Cách đây 20 năm, một người bạn đến chơi nói: "Tôi chưa thấy một tấm ảnh nào to trên 20m2 như vậy, . . . mà lại là tấm ảnh ông chụp".

        Tôi đến Bảo tàng Không quân, sửng sờ bởi tấm ảnh tôi chụp Bác Hồ, đồng chí Lê Quẩn, đồng chí Trường Chinh đến thăm Đoàn không quân Sao Đỏ được phóng to treo trang trọng ở tiền sảnh bảo tàng.

        Sáng 9-11-1964, tôi đang biên tập bài của một cộng tác viên, thì đồng chí Đặng Tính - Chính ủy Quân chủng PK-KQ đến gọi tôi "Có công tác đột xuất, đồng chí mang máy ảnh ra xe đi với tôi ngay".

        Tôi lên xe, Chính ủy xiết chặt tay tôi và nói: "Lên sân bay Nội Bài viết bài và chụp ảnh Bác Hồ".

        Tôi sung sướng, hồi hộp, lo âu. Sung sướng vì được đứng gần ngắm bác. Cũng như năm 1960, Bác lên thăm đồng bào Lạng Sơn, buổi chiều cùng ngày Bác đến sân bay Mai Pha để trở về Hà Nội. Tôi đứng nghiêm báo cáo và mời Bác lên máy bay. Được đi bên Bác, Bác hỏi:

        - Các chú có khỏe không?

        - Các chú tăng gia được nhiều không?

        Đối với đời tôi lần này thật bất ngờ và vinh dự.

        Tôi lo nhiều, vì tôi không phải là phóng viên nhiếp ảnh chuyên nghiệp, chiếc máy ảnh Exa cũ kỹ, hay hỏng hóc, làm sao chụp được tấm ảnh đẹp trong sự kiện lịch sử hiếm có này. Đây là lần Bác Hồ đến thăm Đoàn không quân Sao Đỏ mới ở Trung Quốc về nước sau ngày 5-8-1964 - ngày đế quốc Mỹ mở đầu chiến tranh phá hoại miền Bắc nước ta. Làm sao hoàn thành trách nhiệm mà Chính ủy Quân chủng giao cho.

        Tôi cố bình tĩnh, mở máy ra, lắp phim, thử đi thử lại xem có tuột không. Vặn phim thấy nặng tay, hai trục quay đều, máy chạy tốt, song lòng tôi vẫn nôn nao lo lắng - xen lẫn niềm vui.

        Tôi phòng giao ban của đoàn bay, tất cả cán bộ đã có mặt đông đủ. Đồng chí Đặng Tính nói: “Hôm nay, một vinh dự rất to lớn đối với chúng ta, được Bác Hồ, đồng chí Lê Duẩn, đồng chí Trường Chinh thay mặt Trung ương Đảng, Chính phủ lên thăm đoàn không quân tiêm kích đầu tiên của quân đội ta. . .". Mọi người im lặng lắng nghe như nuốt lấy từng lời. Nét mặt mọi cán bộ rạng rỡ, sung sướng, một không khí náo nức lạ thường.

        12 giờ 30 phút đồng chí Vinh - Chủ nhiệm chính trị đưa tôi ra tuyến trực chiến mà bộ đội đang chấn chỉnh hàng ngũ.

        13 giờ một đoàn xe từ cuối đường băng chạy lại, dừng bánh trước hàng quân. Bác Hồ ung dung bước xuống. Cả đoàn người lay động. Tiếng hô "Bác Hồ muôn năm" vang một góc trời.

        Đồng chí Đặng Tính mời Bác và các đồng chí Lê Duẩn, Trường Chinh vào căn nhà rộng nhưng đơn sơ bằng cót tre nứa lá được gọi là xưởng bảo dưỡng định kỳ, nơi sửa chửa máy bay MIG-17 ở sân bay Nội Bài lúc bấy giờ.

        Tôi đứng ngắm, tìm góc độ, nhưng không được, vì trong nhà thiếu ánh sáng, máy lại không có đèn.

        Với giọng nói ấm áp, Bác thay mặt Trung ương Đảng, Chính phủ thăm hỏi và khen ngợi đơn vị trong công tác huấn luyện và xây dựng. Bác kể: "Vừa qua quân dân miền Nam đã mưu trí dũng cảm phá hủy 29 máy bay ở sân bay Biên Hòa và làm chết 40 tên xâm lược Mỹ và 72 tên khác bị thương". Bác nhấn mạnh: "Các chú phải học tập quân giải phóng miền Nam, phát huy lối đánh gần, bám thắt lưng địch mà đánh"; sau đó Bác vui vẻ nói: "Các chú phải làm thế nào chứ không anh em trong kia đánh hết máy bay địch thì không còn máy bay nữa mà đánh". Cả khối bộ đội cười vang, đồng thanh hô: "Quyết tâm, quyết tâm".

        Lời dạy của Bác đã trở thành phương châm tư tưởng tác chiến của Không quân nhân dân Việt Nam sau này.

        Sau khi đồng chí Lê Quẩn nói chuyện, đồng chí Đặng Tính đáp lễ: "Thưa Bác, bộ đội ở nước ngoài mới về mong được nhìn thấy Bác thật gần". Bác gật đầu cười vui Bác hồng hào, khỏe mạnh, nhanh nhẹn bước ra đến sát đàn con cháu. Ôi Bác giản dị quá, với bộ ka ki bạc màu, bên trong là áo sơ mi màu gụ với chiếc thắt lưng da bộ đội. Từng lớp từng lớp người chuyển động. Ai cũng muốn được gần bác nhưng cả đơn vị vẫn giữ nghiêm hàng ngũ, hàng trước ngồi xuống nền xi măng, hàng sau đứng lom khom, hàng sau nữa đứng thẳng. Bác bước đến đâu, tiếng vỗ tay, tiếng hô " Bác Hồ muôn năm, Hồ Chủ tịch muôn năm" vang lên ở đó, có đồng chí còn sung sướng nhảy lên vỗ tay.

        Tôi chạy lên phía trước. Bầu trời mùa thu trong veo nắng nhẹ. Có những áng mây trắng lơ lửng trôi.

        Bác như một ông Tiên trong truyện thần thoại, đi đến đâu mang lại điền tốt lành tới đó. Phải chụp hất lên để lấy cả một khoảng trời xanh . . . Chưa đủ, Bác phải có quần chúng đông đảo vây quanh.

        Tôi chỉnh lại góc độ, đưa cả khối bộ đội vào ống kính, khoảng cách quá gần, bởi Bác bước nhanh, tay phải Bác cầm chiếc mũ bộ đội giơ cao vẫy vẫy đáp lại những tiếng hô vang của bộ đội. Tôi cứ để góc độ máy mà lùi từng bước. Một điều gay go là khi giật lùi rất dễ đổ khuôn hình. Bác vẫn nhanh nhẹn bước đi sau là đồng chí Lê Duẩn, đồng chí Trường Chinh và đồng chí Đặng Tính, cự ly còn độ 2m, tôi vội bấm liền 2 kiểu.

        Tối hôm đó, tôi vào buồng tối pha thuốc tráng phim, tính thời gian cẩn thận, song vẫn lo lắng. Tôi nín thở lấy cuốn phim ra. Không tin vào mắt mình, nỗi lo tan biến. Phim đẹp, vượt quá điều mong ước của người cầm máy ảnh chưa chắc như tôi.

        Đợi phim khô, tôi cặm cụi phóng một số ảnh, mà lòng tôi trào lên niềm sung sướng. Sáng hôm sau, tôi mang mấy tấm ảnh lên báo cáo Chính ủy Đặng Tính. Đồng chí ngắm mãi tấm ảnh Bác đứng trước khối quần chúng nổi bật trên nền trời xanh, hai tay ôm chặt lấy tôi: "Hình ảnh Bác cao lồng lộng, nét mặt đôn hậu, vui tươi, gần gũi, Bác ung dung thư thái, tiến bước, phía sau có đồng chí Lê Duẩn, đồng chí Trường Chinh đang bước theo... tấm ảnh này thật là vô giá" .

        Đồng chí rút luôn chiếc bút máy Paker đang gài ở túi ra tặng tôi. Tôi sướng quá vì mình đã hoàn thành nhiệm vụ và cảm động nhận món quà đầy ý nghĩa của Anh Cả lượng lượng Phòng không - Không quân.

Hà Nội 6-2004.       


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Bảy, 2016, 08:28:46 am
          
CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỚI TƯ TƯỞNG CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG KHÔNG QUÂN Ở VIỆT NAM

TRẦN VINH KHÂM                        
Chánh văn phòng Cụm cảng HK Miền Nam        

        Không quân nhân dân Việt Nam là một bộ phận cấu thành của Quân đội nhân dân Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức và sáng lập trong những điều kiện đặc thù của đất nước nhằm đáp ứng nhu cầu của cách mạng và quy luật của cuộc đấu tranh vũ trang hiện đại.

        Sự trưởng thành của bộ dội Không quân trong chiến đấu và xây dựng luôn gắn liền với vai trò giáo dục, rèn luyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Dưới sự lãnh đạo và dìu dắt trực tiếp của Người, bộ đội Không quân đã phát triển từ không đến có, từ nhỏ đến lớn tương ứng với quá trình đi lên của cách mạng. Tư tưởng chỉ đạo xây dựng  Không quân nhân dân Việt Nam là một nét đặc sắc trong tư tưởng quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

        Quá trình Chủ tịch Hồ Chí Minh đi từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác - Lênin cũng đồng thời là quá trình Người đi đến với học thuyết quân sự Mác-xít và trở thành người Việt Nam đầu tiên tiếp thu học thuyết quân sự của giai cấp vô sản. Cuối năm 1924, Chủ tịch Hồ Chí Minh rời Liên Xô về Quảng Châu (Trung Quốc) theo quyết định của Quốc tế cộng sản nhẰm chuẩn bị các mặt để tiến tới thành lập một Đảng cộng sản ở Đông Dương: Ngày 11 tháng 11 năm 1924, Chủ tịch Hồ Chí Minh tới Quảng Châu với tên mới: Lý Thụy. Tại đây, nhiệm vụ cấp thiết hàng đầu mà Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định trong kế hoạch hoạt động của mình là đào tạo những thanh niên Việt Nam xuất dương thành những cán bộ chính trị, quân sự cho cách mạng Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên liên hệ và chỉ đạo việc giáo dục đối với các học viên Việt Nam đang theo học ở trường quân chính Hoàng Phố. Đồng thời, Người còn mời những giảng viên Liên Xô đang công tác ở trường, trong số đó có các tướng lĩnh nổi tiếng, các anh hùng thời nội chiến như: V.C. Liu Khin, P.A Pháp Lốp, M.V Cui bư sép đến giảng bài cho những học viên theo học các khóa huấn luyện chính trị do Người tổ chức.

        Có thể nói, tư tưởng xây dựng một quân đội cách mạng theo mô hình hồng quân Liên Xô đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh suy nghĩ và chuẩn bị từ những năm tháng hoạt động này. Đồng chí Lê Thiết Hùng - một trong những học trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh thời kỳ này, nhớ lại: "Trong quá trình bồi dưỡng huấn luyện chúng tôi, đồng chí Lý Thụy đã cân nhắc tình hình, sở trường, sở đoản của từng người để bồi dưỡng, giáo dục, giao việc . . . Có đồng chí được cử về nước hoạt động ngay. Có đồng chí như anh Lê Hồng Phong sau khi tốt nghiệp ở Hoàng Phố được gửi đi Liên Xô tiếp”. [Lê Thiết Hùng: Tôi được làm nguời học trò nhỏ của Bác, Tạp chí Lịch sử Quân sự, số 7.1986, tr.77]

        Được chủ tịch Hồ Chí Minh giới thiệu và bố trí, đồng chí Lê Hồng Phong đã vào học tại Trường huấn luyện Không quân Bô-rít-xơ Glép-xeai-a. Tháng 7 năm 1929 - đúng ngày hội truyền thống của Không quân nước Nga, Lê Hồng Phong được chuyển về Trường đại học Phương Đông và trở thành người chiến sĩ Không quân Việt Nam đầu tiên[Chu Trọng Huyến: Người chiến sĩ Không quân đầu tiên, Báo QDND số8504 ngày 3-2-1985]. Tuy đất nước chưa có điều kiện để Lê Hồng Phong thực hiện công việc của một sĩ quan không quân nhưng việc đào tạo anh đã chứng tỏ một quyết tâm lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc chuẩn bị để xây dựng một quân đội cách mạng ở Việt Nam có đủ các thành phần như quân đội Xô-viết.

        Đường lối tổ chức lực lượng vũ trang theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là dựa trên cơ sở phát triển lực lượng vũ trang quần chúng mạnh mẽ và rộng khắp để xây dựng quân đội nhân dân đủ các thành phần quân, binh chủng và tiến dần lên chính quy hiện đại. Vì lẽ đó, bên cạnh lục quân, chúng ta đã khẩn trương xây dựng, thành lập các đơn vị kỹ thuật như công binh, pháo binh. . . và đến ngày 9-3- 1949, theo chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí Võ Nguyên Giáp đã ký Nghị định thành lập Ban nghiên cứu Không quân, đồng chí Hà Đổng được chỉ định làm Trưởng ban.

        Gần 100 cán bộ, chiến sĩ được tuyển chọn từ các đơn vị về tập trung nghiên cứu lý thuyết cơ bản của ngành Hàng không. Cơ sở để học tập là hai chiếc máy bay ta tịch thu của chính quyền bù nhìn Bảo Đại ngày cách mạng tháng Tám thành công. Một chiếc kiểu Morane, một chiếc kiểu Tiger Moth. Trước ngày toàn quốc kháng chiến, hai chiếc máy bay này đã được công phu đưa từ Huế ra và tiếp đó được đưa lên Việt Bắc cùng với chủ trương tiêu thổ kháng chiến. Ủng hộ chủ trương xây dựng lực lượng không quân của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trên khắp các chiến trường lúc đó, từ Việt Bắc đến Nam Bộ mỗi khi bắn rơi máy bay địch hay thu thập được những tài liệu có liên quan đến ngành Hàng không, các địa phương, các đơn vị đã gửi về cho lớp học. Vượt qua nhiều khó khăn, thiếu thốn, cán bộ, chiến sĩ Ban nghiên cứu Không quân đã mở đầu thắng lợi cuộc tấn công lên bầu trời. Một buổi chiều cuối năm 1949 từ bãi Soi Đúng, bên bờ sông Gâm, phía dưới Chiêm Hóa chừng 3.000 m, chiếc máy bay Tiger Moth sơn phù hiệu nền tròn đỏ, giữa có ngôi sao vàng năm cánh - hình cờ của Tổ quốc, đã vút lên bầu trời như một chiến công thần thoại.


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Bảy, 2016, 10:07:19 pm

        Ban nghiên cứu Không quân ra đời, đã đặt viên gạch đầu tiên cho quá trình xây dựng Quân chủng Không quân chính quy hiện đại của Quân đội nhân dân ta sau này.

        Kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, một bộ phận của quân đội ta tiến vào tiếp quản Thủ đô Hà Nội, bao gồm cả sân bay Gia Lâm.

        Trong đoàn cán bộ tiếp quản sân bay Gia Lâm, mới đầu chỉ có 3 người chuyên về ngành Hàng không, bộ phận này có nhiệm vụ tiếp quản, giữ gìn sân bay và bảo đảm điều kiện cho ủy ban quốc tế tiếp tục hoạt động. Dẫu bận trăm công nghìn việc. Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn quan tâm, động viên các cán bộ tiếp quản và cho những chỉ thị quý báu. Một buổi chiều của tháng 12 năm 1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho mời một số cán bộ tiếp quản và các chuyên gia lên gặp Người ở Phủ Chủ tịch. Trong không khí thân mật, đầm ấm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã động viên và căn dặn mọi người phải cố gắng nhanh chóng đảm nhiệm công việc để sớm thay thế các chuyên gia.

        Được sự cổ vũ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 1-1-1955 ta đã hoàn thành làm chủ sân bay Gia lâm – đúng ngày nhân dân Hà Nội tưng bừng đón chào Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng và Chính phủ trở về Thủ ñoâ

        Trong buổi nói chuyện với các đơn vị tham gia duyệt binh ở Hà Nội ngày 1 -1-1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Nhiệm vụ của quân đội hiện nay là phải cố gắng tiến lên chính quy. . . Đảng và Chính phủ kiên quyết lãnh đạo bộ đội lên chính quy. Với cố gắng của Trung ương Đảng, Chính phủ, của Bộ tổng Tư lệnh và của các cô các chú, bộ đội ta nhất định đi tốt đến chính quy" [Hồ Chí Minh: Chiến tranh... Sđd, tr.352]

        Quán triệt chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chỉ sau 3 tháng chính thức tiếp quản sân bay Gia Lâm, tháng 3- 1955 Tổng Quân ủy đã ra quyết định thành lập Ban nghiên cứu sân bay với nhiệm vụ: Điều hành hoạt động các sân bay, quản lý không phận, tổ chức chỉ huy các máy bay quốc tế cất hạ cánh an toàn, chuẩn bị cơ sở vật chất, tuyển chọn đào tạo cán bộ ở cả trong và ngoài nước, làm cơ sở ban đầu để xây dựng lực lượng Không quân nhân dân Việt Nam.

        - Ngày 21-4-1958, Đại hội đại biểu Đảng bộ Ban nghiên cứu sân bay lần thứ nhất ở sân bay Gia Lâm.

        - Ngày 24-1- 1959 Bộ Quốc phòng nghị định số 319/ND thành lập Cục Không quân, do đồng chí Đặng Tính làm Cục trưởng, đồng chí Hoàng Thế Thiện làm Chính ủy. Sự thành lập Cục Không quân đã đánh dấu bước phát triển mới của Không quân Việt Nam.

        - Ngày 1-5-1959, tại sân bay Gia Lâm, trung đoàn không quân vận tải đầu tiên của ta đã ra đời. [Trung đoàn không quân vận tải đầu tiên chính là trung đoàn 919 - Đoàn bay 919 hiện nay của HKVN]

        - Ngày 31-5-1959 tại sân bay Cát Bi, lớp huấn luyện phi công trong nước đầu tiên đã khai giảng có 30 học viên.

        Tháng 10-1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến dự và nói chuyện với Đại hội tổng kết thi đua lần thứ nhất của Cục Không quân, sau đó, tháng 12-1960, Người đến thăm và chụp ảnh chung với cán bộ, chiến sĩ của Cục trên sân bay Gia Lâm.

         Mùa xuân năm 1961, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn tự tay viết thư khen cán bộ, chiến sĩ của Cục Không quân. Thay mặt Trung ương, Người biểu dương bộ đội Không quân có nhiều tiến bộ trên các mặt: "Phát triển và củng cố chi bộ Đảng, công tác dân vận; tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, học chính trị và kỹ thuật". [Tập ảnh: Không quân nhân dân Việt Nam, Quân chủng Không quân, H.1980, tr,25]

        Trước âm mưu và hành động khiêu khích của đế quốc Mỹ, để tăng cường khả năng bảo vệ miền Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ tư lệnh cũng chú trọng sớm xây dựng lực lượng không quân tiêm kích. Ngay từ năm 1956, theo chỉ thị của Quân ủy Trung ương, Cục Không quân đã cử nhiều đoàn học viên ra nước ngoài học tập để tiến tới xây dựng lực lượng riêng. Sau 8 năm trời gian khổ, phấn đấu, ngày 3-2- 1964, trung đoàn không quân phản lực đầu tiên của Không quân nhân dân Việt Nam được thành lập. Sự kiện này đã đánh dấu một bước trưởng thành trong lịch sử xây dựng bộ đội Không quân nói riêng và lực lượng vũ trang nói chung, tạo nên bước nhảy vọt về sức chiến đấu của quân đội.

        Sự xuất hiện của các tổ chức và các đơn vị không quân bao gồm các loại vận tải, tiêm kích, nhà trường huấn luyện, các cơ sở sân bay, kho, xưởng... cùng với việc lựa chọn cán bộ, chiến sĩ, từ các đơn vị chiến đấu về xây dựng các cơ quan, đơn vị không quân ở trong nước và gửi đi đào tạo ở nước ngoài đã thể hiện rõ tầm nhìn chiến lược của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh .

        Từ chỗ sớm nhìn thấy vai trò của không quân, có ý định xây dựng không quân đến quyết tâm chỉ đạo xây dựng lực lượng không quân một cách hoàn chỉnh, cân đối và đồng bộ - đó là những mắt/ khâu quan trọng, nhất quán trong tư tưởng quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhằm đáp ứng nhu cầu cấp bách của công cuộc bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam và giúp đỡ cách mạng các nước anh em trên báo đảo Đông Dương.

        Căn cứ vào điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước trong từng thời kỳ cụ thể mà tư tưởng xây dựng Không quân nhân dân Việt Nam của Chủ tịch Hồ Chí Minh càng được khẳng định, củng cố thành một quyết tâm lớn xuyên suốt trong quá trình hoạt động quân sự của Người. Và tư tưởng đó cũng sớm được Đảng, nhân dân, Quân đội ta từng bước thực hiện, biến thành hiện thực.


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Bảy, 2016, 10:12:08 pm
       
NGƯỜI PHI CÔNG ĐẦU TIÊN CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM

        Lê Hồng Phong (1902 - 1942), là người con của đất Hưng Nguyên - Nghệ An. ông là một trong những người thuộc thế hệ các nhà cách mạng Việt Nam đầu tiên được đào tạo có hệ thống tại Trường đại học Phương Đông ở Mát-xcơ-va của Quốc tế Cộng sản, là người tham gia soạn thảo bản Chương trình hành động Đảng Cộng sản Đông Dương khi cách mạng thoái trào và một trong những lãnh tụ kiệt xuất của Đảng Cộng sản Đông Dương.

        Tuy nhiên, chúng ta còn ít được biết đến sự nghiệp quân sự của Lê Hồng Phong, mà mới chỉ biết ông đã từng học ở Trường quân sự Hoàng Phố (Quảng Châu, Trung Quốc) và sau đó được Nguyễn ái Quốc giới thiệu sang Liên Xô học lái máy bay và trở thành chiến sĩ không quân đầu tiên người Việt Nam tham gia lực lượng vũ trang Xô-viết. . : Câu chuyện trở thành người phi công cách mạng Việt Nam đầu tiên của ông đầy hấp dẫn.

        Năm 1985, nhà sử học trẻ Xô-viết Cô bê lép, tác giả cuốn "Đồng chí Hồ Chí Minh" quen thuộc với bạn đọc Việt Nam đã công bố một số tư liệu mới về Lê Hồng Phong, trong bài viết Lê Hồng Phong- gió đỏ, tác giả cho ta biết thêm những chi tiết thú vị. Khi vào học Trường Hàng không Bôritxgolepxco ở Lêningrat (nay là Xanhpêtécbua), Lê Hồng Phong được hướng dẫn làm lại lý lịch. ông mang tên Litvinốp, gốc người Trung á, con một gia đình nông dân nghèo và đã tốt nghiệp Trường Hàng không với cái tên ấy.Điều kiện tư liệu ngày nay đã cho phép chúng ta phục hiện lại những trang đời đẹp đẽ đó của Lê Hồng Phong. Tài liệu lưu trữ của Quốc tế Cộng sản, thuộc lưu trữ Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô đã có những tư liệu rất quý về đoạn đời này của ông.

        Trong tập hồ sơ mang ký hiệu 495-201-46 của lưu trữ Quốc tế Cộng sản, tài liệu cá nhân về Lê Hồng Phong có nhiều điểm cụ thể hơn. Trong tập hồ sơ này, có tiểu sử (tự khai) của Lê Hồng Phong bằng tiếng Nga, 2 trang khổ lớn, phía trên trang đầu có tên Lít-vi-nốp, cả chữ ký rõ ràng đề ngày 25-7-1929. Xin dịch từ nguyên bản đoạn quan trọng dưới đây:

        " Sau khi tốt nghiệp Trường Hoàng Phô, tôi đã thi vào Trường Hàng không ở Quảng Châu vì tôi cũng đã gia nhập Đảng Cộng sản Trung Quốc (10-2-1926). Tháng 10-1926, tôi đến Liên Xô theo quyết đinh công tác của chính quyền Quảng Châu và của ủy ban Quân sự Cách mạng của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Tôi đã chuyển quyết định đó cho đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Trung Quốc ở Mát-xcơ-va. Tôi đã thi vào Trường Hàng không quân sự B.B. C ở Lêningrat. Người ta đã chuyển ngay tôi vào năm thứ II Trường đào tạo quân sự ở thành phố nhỏ Bôritxgolepxco. Nhưng tôi chưa thể tốt nghiệp trường này thì có quyết định chuyển về Trường đại học Phương Đông...
Ngày 25- 7- 1929       
Lít-vi-nốp "             

        Những dòng chữ quý báu này cho chúng ta thấy rõ hơn, chính xác hơn về sự nghiệp quân sự của Lê HồngPhong. ở trường đào tạo phi công, ông là một người thông minh, có năng khiếu quân sự. ông đã học kỹ về lý thuyết và thực hiện tốt đẹp nhiều chuyến bay tập trên bầu trời nước Nga Xô-viết (có tài liệu đã ghi ông được mang quân hàm trung tá không quân Liên Xô) .

        Lê Hồng Phong ngay từ lúc ở Quảng Châu đã là một trong những nhà cách mạng trẻ tuổi Việt Nam đầu tiên được trang bị khoa học quân sự cách mạng có hệ thống nhất. Rất tiếc, do yêu cầu của cách mạng, Lê Hồng Phong phải "bỏ nghề” phi công. Và nữa, Lê Hồng Phong không kịp thực hiện được ước mơ của mình khi còn là học viên của Trường Không quân là lướt trên bầu trời quê hương tự do. Nhưng Lê Hồng Phong vẫn xứng đáng là chiến sĩ Không quân Việt Nam đầu tiên và cũng là chiến sĩ quốc tế của Việt Nam đầu tiên có mặt trong hàng ngũ quân đội Xô-viết trước khi thành Nhà Cách mạng Quốc tế chuyên nghiệp. Lê Hồng Phong cũng xứng đáng là người anh cả của Không quân Việt Nam.

        (Trích theo: Lê Hồng Phong Người Cộng sản kiên cường).
Bài viết trích theo Đoàn bay 919 - 45 năm xây dựng và trưởng thành.



Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Bảy, 2016, 10:19:19 pm
     
NHỮNG NĂM TRUỞNG THÀNH CỦA CƠ QUAN CHỈ HUY - THAM MƯU KHÔNG QUÂN

Đại tá HÀ VĂN CHẤP                                     
Nguyên phó TMT, Bí thư Đảng ủy BTM         
Quân chủng Phòng không - Không quân       

        Ôn lại những năm tháng không thể nào quên nhân ngày kỷ niệm 50 năm truyền thống của Không quân nhân dân Việt Nam.

        Ngày 3-3-1955 Ban nghiên cứu sân bay ra đời, sau đó là thành lập Cục Không quân, trực thuộc Bộ tổng Tham mưu. Anh Trần Quí Hai, sau đó anh Đặng Tính, anh Hoàng Thế Thiện là Cục trưởng và Chính ủy. Cơ quan tham mưu không quân ra đời từ đó, do anh Hoàng Ngọc Diêu, anh Nguyễn Văn Tiên phụ trách; cán bộ tham mưu lần lượt được điều từ cán đơn vị lục quân về xây dựng không quân: Lê Văn Thọ, Hà Văn Chấp, Nguyễn Văn Thụ, Nguyễn Phúc Ninh, Nguyễn Đức Thịnh, Trần Thanh Minh, Lê Quang Lung, Lê Kỳ Mỹ, Nguyễn ý, Bùi Nghĩa... ; cán bộ làm công trình không quân có Đào Hữu Liêu, Nguyễn Đức Khuông, Nguyễn Chí, Khắc Nhu, Kim Sinh, Quý Râu... ; đoàn tiếp quản sân bay Gia Lâm có anh Phan Giao, Vũ Thế Châu, Trần Hậu Tưởng, Hà Đổng, Hà Cân, Lưu Văn Hối, Đỗ Vĩnh Tình, Đinh Khắc Phách, Xuân Quỳ, Vểnh, Dy, Dỵ, Tâm là sĩ quan điều hành bay.

        Ngành nghề chỉ huy tham mưu lúc đó bố trí đủ: Tác chiến, huấn luyện, quân báo, quân lực, dẫn đường,thông tin, khí tượng, điều phái, cơ yếu, công trình sân bay; có nhiệm vụ vừa nghiên cứu tổ chức xây dựng không quân, vừa tổ chức chỉ đạo điều hành bay của máy bay Pháp, phục vụ kiểm soát quốc tế, theo hiệp định Giơ-ne-vơ. Có chuyên gia Trung Quốc giúp huấn luyện tri thức không quân về điều hành bay. Mặc dù trình độ hiểu biết về không quân hạn chế, nhưng công việc chỉ đạo điều hành bay trôi chảy, tâm lý chung của lớp sĩ quan tham mưu mới về rất phấn khởi, nhiệt tình, đoàn kết học hỏi dìu dắt nhau làm việc; được các đồng chí lãnh đạo quan tâm, tin tưởng; đặc biệt tổ chức các chuyến bay chuyên cơ nước ngoài và Bác Hồ đi công việc trong và ngoài nước. Từ 1954 đến năm 1964, cơ quan tham mưu Cục Không quân được phát triển, số cán bộ về tiếp có Đỗ Hữu Nghĩa, Lê Liên, Khiếu Anh Lân, Phan Tài Truyền, Phúc Tuy, Hào Hiệp, Hồ Bạch Đào, Thạch Quang Nhung... Các lớp đào tạo phi công vận tải học ở Trung Quốc tốt nghiệp về nước, nên nhanh chóng thành lập các trung đoàn bay 919, 910. Trung đoàn 910 là trung tâm đào tạo phi công, các ngành nghề kỹ thuật; tiếp đó các lớp đào tạo phi công chiến đấu loại MIG- 17 tốt nghiệp, thành lập trung đoàn không quân chiến đấu 921 rồi đến 923. Cán bộ bổ nhiệm trung đoàn trưởng lúc đó có anh Nguyễn Văn Giáo trung đoàn 919, anh Đào Đình Luyện trung đoàn 921, anh Phạm Dưng trung đoàn 910, anh Nguyễn Phúc Trạch trung đoàn 923 sau đó anh Trần Mạnh.

        Số sĩ quan được đào tạo chỉ huy tham mưu ở Học viện Không quân Trung Quốc .

         Lớp 1 có anh Nguyễn Văn Tiên, anh Khúc Đình Bỉnh, Trần Mạnh Đàn, Phan Dương.

        Lớp 2 có anh Hoàng Ngọc Diêu, Lê Văn Thọ, Nguyễn Đức Nguyên, Hào Hiệp, Lê Văn Nhã và Nguyễn Văn Định.

         Lớp 3 có anh Đặng Tính, Hoàng Thế Thiện, Hà Văn Chấp, Đỗ Hữu Nghĩa, Phan Tương, Trần Trọng Thuyết, Hà Cân, Tạ Hồng, Đặng Thọ ấm, Nguyễn Phúc Ninh, Dũng, Tảo, Hợi, Hoa, Trần Thẩm.

        Các tham mưu trưởng các trung đoàn lúc đó có: Khiếu Anh Lân trung đoàn 919, Lê Văn Thọ và Hà Văn Chấp trung đoàn 921, Trần Trọng Thuyết và Vũ Thế Châu trung đoàn 923; sĩ quan tham mưu các trung đoàn được bổ sung đầy đủ, đã được đào tạo cơ bản nên công việc tổ chức chiến đấu, tổ chức chỉ huy, công tác tham mưu không quân thực hành có hiệu quả, đắc lực.

        Giai đoạn này hoạt động của cơ quan chỉ huy tham mưu rất sôi nổi, vừa tổ chức chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu vừa lập kế hoạch tác chiến chuẩn bị chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao; tổ chức trực ban chặt chẽ chỉ đạo và điều hành bay đặc biệt tổ chức điều hành bay vận chuyển quân sự cho chiến dịch Nậm Thà ở Lào. Lúc này Liên Xô viện trợ nhiều máy bay vận tải IL- 14, Li-2 khả năng vận chuyển đường không dồi dào; cơ quan chỉ huy tham mưu bước đầu có kinh nghiệm về tổ chức huy, cơ quan tham mưu không quân còn chuẩn bị kế hoạch để tổ chức chuyển trung đoàn không quân 921 về nước tham gia chiến đấu.

        Tháng 10-1963, hai lực lượng Không quân sát nhập với BTL Phòng không thành Quân chủng Phòng không - Không quân, cơ quan tham mưu Không quân cùng cơ quan Tham mưu phòng không thành Cục Tham mưu sau đó thành Bộ tham mưu Quân chủng PK-KQ tiến hành chỉ đạo, điều hành lực lượng phòng không và không quân sẵn sàng chiến đấu. Trong cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, mặt trận chiến đấu trên không diễn ra ác hệt ngay từ đầu giữa lực lượng Không quân Việt Nam và không quân nhà nghề của đế quốc Mỹ. Từ năm 1964 cho đến năm 1975 (12 năm). Cơ quan chỉ huy tham mưu không quân đã phát huy vai trò, chức năng nhiệm vụ, làm tham mưu giúp Đảng ủy và Bộ tư lệnh Quân chủng PK-KQ, sau đó là Bộ tư lệnh Không quân (năm 1967). Chỉ huy hiệp đồng chiến đấu giữa lực lượng không quân và lực lượng phòng không, cơ quan chỉ huy tham mưu không quân triển khai nhiều công việc về tổ chức chiến đấu, về xây dựng phát triển lực lượng, từ 4 trung đoàn chiến đấu thành 10 trung đoàn không quân chiến đấu trong thời gian ngắn 1966 đến 1970.


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Bảy, 2016, 10:21:09 pm

        Bộ tư lệnh Không quân được thành lập tháng 3 năm 1967, anh Nguyễn Văn Tiên làm Tư lệnh, anh Phan Khắc Hy - Chính ủy, anh Đào Đình Luyện - Phó tư lệnh, anh Hoàng Ngọc Diêu - Phó tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng.

       Các tham mưu phó có anh Trần Mạnh, Phúc Trạch, Lê Oanh, Lê Văn Thọ, Hà Văn Chấp.

        Ban tác chiến có Trần Trọng Thuyết sau đó Nguyễn Đức Thịnh phụ trách. Ban huấn luyện có Phan Tương,Vũ Thế Châu phụ trách. Ban quân báo Lê Kỳ Mỹ phụ trách. Dẫn đường do Lê Liên phụ trách, ban điều phái do Ngô Thế Dong, Lưu Văn Hối; Ban thông tin do Lê Quang Lung sau đó là Bùi Như Thường. Các sĩ quan các ngành tác chiến huấn luyện, quân báo đầy đủ; sĩ quan dẫn đường lúc đó có Trần Quang Kính, Nguyễn Văn Chuyên, Đào Ngọc Ngư, Phạm Văn Cậy, Bùi Quang Liên, Hưng, Chơn... Lại Văn Hiện là tiêu đồ thành thạo dẫn đường máy bay ta gặp máy bay địch trong chiến đấu trên không.

        Các kíp sĩ quan trực ban tác chiến ở sở chỉ huy Quân chủng, sở chỉ huy sư đoàn không quân rất nghiêm túc 24/24 giờ .

        Cơ quan chỉ huy tham mưu không quân trưởng thành nhiều mặt qua chiến tranh chống Mỹ. Nổi bật vừa tổ chức điều hành bộ đội chiến đấu vừa làm kế hoạch tác chiến chiếc lược, chiến dịch, kế hoạch hợp đồng tác chiến phòng không; kế hoạch tác chiến trong binh chủng hợp thành; công tác tổ chức xây dựng lực lượng, bổ sung quân số, trang bị đáp ứng yêu cầu chiến đấu khẩn trương. Một trong những việc nổi bật nữa là cơ quan chỉ huy tham mưu đã triển khai tổ chức hệ thống sở chỉ huy, sở chỉ huy cơ bản, sở chỉ huy phía trước, sở chỉ huy cơ động từ Hà Nội vào Thanh Hóa, vào Quảng Thành, Đô Lương, Nghi Lộc, Nghệ An; vào Cẩm Quan, Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh; vào Vĩnh Linh, tuyến hành lang 559; các tổ đại diện bên cạnh sở chỉ huy mặt trận trong các chiến dịch Đường 9 - Nam Lào, Khe Sanh Quảng Trị, cánh đồng Chum đến chiến dịch tổng tiến công 1975.

        Những cán bộ thường cơ động vào các sở chỉ huy phía Nam là: Hà Văn Chấp, Lê Văn Thọ, Nguyễn Văn Chuyên, Tưởng Phi Đằng, Nguyễn Đức Thịnh, Trần Trọng Thuyết, Lê Kỳ Mỹ, Lại Văn Hiện, Phạm Thế Viễn, Lộc, Vu, Quảng, Tạo, Đức, Bá Linh, Nhượng. . . Đặc biệt là tổ chức thông tin vào chiến trường, nhiều xe đặc chủng, Lê Quang Lung, Vũ Đình Hộ, Mai Can và số sĩ quan thông tin có nhiều kinh nghiệm bảo đảm thông tin chiến đấu ở cự ly xa như thọc sâu đánh B-52 phía trong giới tuyến; đánh tàu chiến địch ngoài biển Quảng Bình; oanh tạc đánh vào Sầm Thông, Long Chẹng. Công tác nghiên cứu địch đối với sĩ quan quân báo không quân có những đặc điểm vừa nghiên cứu tình hình chung, vừa theo dõi hoạt động không quân Mỹ ở nhiều chiến trường, nhiều hướng, nhiều thủ đoạn của những loại máy bay của không quân, hải quân Mỹ, phán đoán đề xuất chính xác nhiều lần những mục tiêu sẽ đánh phá của không quân, hải quân Mỹ.        Công tác theo dõi khí tượng phục vụ cho không quân chiến đấu ở khu vực khác nhau, sĩ quan khí tượng phần lớn là kỹ sư có kinh nghiệm lâu năm nghiên cứu dự báo thời tiết các mùa tương đối chính xác, như đồng chí Mỹ, Sanh, Sơn, Quảng, Lúa, Thịnh...

        Các sĩ quan cơ yếu từ sở chỉ huy cơ bản đến các sở chỉ huy cơ động hoạt động tích cực, bảo đảm truyền đạt nhiều mệnh lệnh chiến đấu chính xác, bí mật, các đồng chí Nghĩa, Xa, Thanh, Thắng là những cơ yếu có kinh nghiệm.

        12 năm chiến đấu của Không quân nhân dân Việt Nam trong chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ,Không quân Việt Nam trở thành lực lượng quan trọng trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Cùng với lực lượng phòng không chiến đấu kiên cường, ác liệt bắn rơi nhiều máy bay Mỹ bắt sống nhiều giặc lái Mỹ; đánh phá nhiều mục tiêu mật đất, tàu chiến, tàu biệt kích địch. Vận chuyển quân sự đường không phục vụ bộ đội hợp thành cơ động trong các chiến dịch lục quân, hải quân, đã trở thành Quân chủng Không quân anh hùng.

        Cơ quan chỉ huy tham mưu không quân rất tự hào, lớp lớp sĩ quan chỉ huy tham mưu không quân trưởng thành, lớn mạnh với binh nghiệp trong Quân chủng Không quân hiện đại.

        Kỷ niệm 50 năm ngày truyền thống của Không quân nhân dân, chúng ta không quên những cán bộ chỉ huy tham mưu đã qua đời như các anh Đặng Tính, Nguyễn Văn Tiên, Đào Đình Luyện, Nguyễn Phúc Trạch, Trần Mạnh, Lê Oanh, Lê Văn Thọ, Trần Mạnh Đàn, Nguyễn Phúc Ninh, Lê Quang Lung, Phan Huyền, Nguyễn ái Đồng . . . Chúng ta nhớ đến hàng ngàn sĩ quan chỉ huy tham mưu không quân đã hoàn thành nhiệm vụ về nghỉ hưu ở khắp các tỉnh Trung, Nam, Bắc.

        Với niềm tự hào, tin tưởng, chúc các chiến hữu sức khỏe, hạnh phúc.       
Ngày 19 tháng 5 năm 2004.       


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Bảy, 2016, 10:26:30 pm
       
CHIẾN SĨ TIÊU ĐỒ GẦN

        Trong cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, Không quân Việt Nam đã chiến đấu với không quân Mỹ diễn ra rất ác liệt, không quân ta rất dũng cảm, ngoan cường lập nên chiến công rạng rỡ, trong đó có đóng góp công lao của cán bộ, chiến sĩ trong hệ thống sở chỉ huy không quân. Tuy vậy trong tổng kết và lịch sử của các trung đoàn, sư đoàn, Quân chủng Không quân, ít thấy ai nhắc đến công việc và vai trò các sĩ quan, hạ sĩ quan, trực ban chiến đấu suốt ngày đêm 24/24 giờ nhất là các chiến sĩ tiêu đồ gần.

        Kỷ niệm 50 năm ngày truyền thống của Không quân nhân dân Việt Nam, ôn lại những sự kiện và con người làm tiêu đồ gần trong sở chỉ huy không quân mà chúng tôi cho là rất quan trọng, vì thiếu những tiêu đồ gần hoặc tiêu đồ không giỏi sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến trận đánh của không quân ta.       

        Chiến sĩ tiêu đồ gần được chọn những hạ sĩ quan có trình độ văn hóa, cơ sở chính trị tốt, được đào tạo ngành nghề cơ bản; thu nghe tình báo chính xác để vẽ đường bay của máy bay địch, ta liên tục trên bàn tiêu đồ, tạo điều kiện để sĩ quan dẫn đường tính toán tạo thế để không quân ta chiến đấu, làm cơ sở để người chỉ huy hạ quyết tâm chiến đấu chính xác.

        Kíp trực ban chiến đấu ở sở chỉ huy không quân gồm có người chỉ huy, trực ban trưởng, các sĩ quan tác chiến, quân báo, dẫn đường, thông tin, điều phái, khí tượng và hạ sĩ tiêu đồ gần; kíp trực ban chiến đấu ở sở chỉ huy là trung tâm hoạt động của trung đoàn, sư đoàn, Quân chủng Không quân. Xin nói lớp tiêu đồ gần tiêu biểu - Sở chỉ huy Quân chủng PK-KQ lúc mới sáp nhập năm 1963 có 3 tiêu đồ gần là đồng chí Đặc, đồng chí Chuyên, đồng chí Lượng, có 3 sĩ quan dẫn đường là Trần Quang Kính, Nguyễn Văn Chuyên, Đào Ngọc Ngư là trực ban chiến đấu đầu tiên ở sở chỉ huy Quân chủng.       

        Đã dẫn máy bay trong đó đồng chí Nguyễn Văn Ba và đồng chí Phước lái bắn rơi 1 máy bay C-123 ở Hồi Xuân, Thanh Hóa.

        Trận đánh diễn ra đêm 15 rạng ngày 16-2-1964 - trận chiến đấu trên không đầu tiên của không quân ta; nay trở thành ngày truyền thống của ngành dẫn đường không quân.

        Trung đoàn không quân 921 ra đời ngày 3-2-1964, được chuyển trường về nước. Mặt trận chiến đấu trên không bắt đầu.

        Trung đoàn không quân 921 là trung đoàn chiến đấu đầu tiên của không quân ra trận suốt 12 năm đánh với không quân nhà nghề của đế quốc Mỹ. Kíp trực ban chiến đấu ở sở chỉ huy trung đoàn liên tục tổ chức điều hành chiến đấu, góp phần đánh thắng không quân Mỹ; ngoài các sĩ quan trực ban chiến đấu, chúng tôi muốn nêu đồng chí Lại Văn Hiện là một tiêu đồ gần suốt từ năm 1964 đến 1976. Trải qua 6 đời trung đoàn trưởng trung đoàn 921 mà anh Lại Văn Hiện vẫn là chuẩn úy tiêu đồ gần, đã từng dẫn dắt hàng trăm trận đánh trên không giữa không quân ta với không quân Mỹ, đồng chí là điển hình tiêu đồ lâu năm ở sở chỉ huy trung đoàn, có nhiều kinh nghiệm về nghiên cứu địch, từ đó đồng chí Hiện trở thành sĩ quan quân báo không quân suốt cuộc Chiến tranh chống Mỹ, cứu nước. Đã qua chức vụ trưởng ban quân báo sư đoàn, phó phòng quân báo Quân chủng Không quân, đến tuổi nghỉ hưu. Truyền thống Không quân nhân dân Việt Nam chúng ta không quên những con người suốt cuộc đời binh nghiệp từ những ngành nghề thường cho là "nhỏ bé". Thế nhưng thiếu thành phần tiêu đồ gần trong sở chỉ huy không quân không thể gọi là kíp trực ban hoàn chỉnh. Đặc biệt là suốt cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước chỉ huy không quân chủ yếu là dựa vào sở chỉ huy mặt đất, lấy việc dẫn dắt máy bay ta chiến đấu với không quân Mỹ. Chúng tôi thường nhắc đến mối quan hệ anh em chiến hữu trong kíp trực an chiến đấu của không quân là quan hệ gắn bó lập nên những chiến công góp phần đánh thắng không quân nhà nghề của đế quốc Mỹ. Không quân nhân dân Việt Nam trở thành anh hùng.


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Bảy, 2016, 10:38:47 pm
        
TỪ CÂU LẠC BỘ HÀNG KHÔNG ĐẾN BAN NGHIÊN CỨU KHÔNG QUÂN

PHAN PHÁC                  
Nguyên Tổng tham mưu phó        
Cục trưởng Cục Quân huấn        

        Cách đây năm mươi lăm, ngày 9-3-1949 Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Tổng tư lệnh Quân đội quốc gia và dân quân tự vệ Việt Nam thời bấy giờ ký quyết định thành lập Ban nghiên cứu Không quân Việt Nam trực thuộc Bộ Tổng tham mưu đánh dấu một bước phát triển mới về chiến cuộc chống thực dân xâm lược Pháp cũng như về xây dựng lực lượng vũ trang. Với tầm nhìn xa trông rộng, Hồ Chủ tịch và Bộ Quốc phòng, Tổng tư lệnh đã có ý định xây dựng ngành Hàng không từ mùa thu năm 1945 khi chấp nhận đề nghị của Bảo Đại đưa 2 chiếc máy bay của ông và đội dịch vụ kỹ thuật ra Hà Nội. Sau khi kiểm tra thấy: Chiếc Tiger Moth, 2 tầng cánh, 2 chỗ ngồi, 1 động cơ, tốc độ chậm có thể hạ cánh trên sân bay ngắn, hẹp, trong chiến tranh thế giới thứ II không quân Anh quốc đã dùng để tập lái, quan sát, liên lạc và chiếc Morane do Pháp chế tạo, 1 tầng cánh, 1 động cơ, 2 chỗ ngồi là loại máy bay thể thao, có thể nhào lộn được, Bộ Quốc phòng, Tổng tư lệnh giao cho Cục Quân huấn nhiệm vụ tổ chức một câu lạc bộ Hàng không vừa để thỏa mãn yêu cầu của Bảo Đại, vừa để thanh niên ta có phương tiện tập luyện làm quen dần với việc sử dụng máy bay và việc xây dựng ngành Hàngkhông sau này của nước ta như nhiều nước trên thế giới đã làm.

        Bước sang năm 1946, trong lúc Cục Quân huấn chuẩn bị thành lập Câu lạc bộ Hàng không dầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa thì thực dân Pháp không những gây chiến ở Nam Bộ mà đã chạy chọt được Chính phủ Tưởng Giới Thạch cho quân đội Pháp trở lại miền Bắc Việt Nam thay thế quân đội Trung Hoa tiếp tục giải giáp quân nhân. Thế là Cục Quân huấn nhận được chỉ thị đình chỉ việc thành lập Câu lạc bộ Hàng không, tổ chức bảo quản, bảo dưỡng toàn bộ cơ sở vật chất kỹ thuật và đội dịch vụ. Thực dân Pháp lộ rõ âm mưu trở lại xâm lược nước ta. Từ tháng 1 đến tháng 2 năm 1946, hơn 3.300 binh sĩ quân đội liên hiệp Pháp ở Đông Dương chạy sang Vân Nam (Trung Quốc) được tổ chức và trang bị thành một binh đoàn ùn ùn kéo về chiếm đóng Phong Thổ, Lai Châu, Sơn La và Thượng Lào. Tiếp đến sau Hiệp định Sơ bộ (6-3-1946), 15.000 quân Pháp đổ bộ vào Hải Phòng chiếm đóng ở nhiều thành phố, thị xã quan trọng: Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương, Nam Định, Bắc Giang, Lạng Sơn, Vinh, Huế, Đà Nẵng. Đất nước ta chuyển vào trạng thái chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu, Cục Quân huấn chuyển toàn bộ đội dịch vụ và cơ sở vật chất kỹ thuật đã chuẩn bị để tổ chức Câu lạc bộ Hàng không, sang thành lập đội huấn luyện không quân. Trụ sở của đội đặt tận sân bay Kim Đái (Sơn Tây). Đội dịch vụ gồm có ông Nguyễn Văn Đống là thợ sửa chữa máy bay ở Pháp và là người chọn làm kỹ thuật viên bảo dưỡng máy bay, ông Trịnh Văn Chất, lái xe, ông Nguyễn Văn Mai và các ông Hội, Khánh, Nghệ. Cục Quân huấn cử đồng chí Lê Thạch Liên nguyên trạm trưởng trạm khí tượng thuỷ văn vừa là đội trưởng, vừa tổ chức theo dõi thời tiết vừa phục vụ các chuyến bay nếu có và 2 vệ binh đi bảo vệ đội và sân bay. Tuy đội ở xa Cục nhưng với tinh thần yêu nước, yêu nghề đội hoạt động rất tốt, thường xuyên giữ vững 2 máy bay và sân bay ở trạng thái sẵn sàng.

        Tối 19/12/1946 cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Sáng 20/12/1946 qua làn sóng Đài tiếng nói Việt Nam, Hồi Chủ tịch kêu gọi: “...Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta đã nhân nhuợng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới vì chúng  quyết tâm cướp nước ta một lần nữa. Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ: Hỡi đồng bào, chúng ta phải đứng lên! Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái dân tộc, hễ là ngươời Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc thuổng, gậy gộc, ai cũng phải ra sức chống thực dân, cứu nước”.

        Một tuần lễ sau, được tin quân đội thực dân Pháp đang bị quân dân ta vây hãm ở thị xã Nam Định, chúng rất hoảng sợ nhưng quan ta chỉ có súng trường nên không làm sao bắn được vào trong doanh trại của chúng được do đó chúng không chịu đầu hàng. Cục Quân huấn sẵn có “đội huấn luyện không quân lại có người đã từng lái máy bay Potez 25 của Pháp, có ý kiến đề nghị sử dụng chiếc Morane bay ném đạn cối vào doanh trại quân đội Pháp ở Nam Định để buộc chúng phải đầu hàng quân tân ta. Với tầm nhìn xa trông rộng, Hồ Chủ tịch và cấp trên không chấp nhận, chỉ thị cho Cục phải bí mật chuyển 2 máy bay và đội dịch vụ Bảo Đại lên Tuyên Quang tìm nơi cất giấu bảo quản đợi khi nào có điều kiện tổ chức huấn luyện chuyên môn. Đội huấn luyện không quân phải tháo rời 2 máy bay ra nhiều bộ phận, chuyển xuống thuyền chở ngược dòng sông Hồng, sông Lô, sông Gâm lên Soi Trinh, tả ngạn sông Gâm, phía Nam huyện lỵ Chiêm Hóa (Tuyên Quang) 10 km. Công việc di chuyển này cực kỳ khó khăn vất vả. Đội huấn luyện đã phát huy sáng kiến nên bảo đảm được an toàn. Cuối cùng, máy bay được cất giấu trong lán, cạnh một bản nhỏ, dân tộc Mán. Trong năm 1947 đội huấn luyện không quân ngoài nhiệm vụ bảo quản, bảo dưỡng từng phần 2 chiếc máy bay, hòa nhập với bà con bản tổ chức phòng gian bảo mật, làm công tác dân vận, xóa nạn mù chứ, tăng gia sản xuất, ổn định sinh hoạt đời sống. Vì vậy, trong cuộc tiến công lên Việt Bắc thu đông năm 1947, tàu chiến chở đầy thủy quân lục chiến Pháp chạy dọc sông Gâm chỉ cách nơi cất giấu máy bay không đầy 100m vẫn không phát hiện được.


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 25 Tháng Bảy, 2016, 10:39:40 pm

        Bước sang năm 1948, sau chiến thắng Việt Bắc, hội nghị quân huấn toàn quốc lần thứ I nhận định quân đội thực dân Pháp ở Đông Dương chuyển hướng xâm lược của chúng về vùng đồng bằng sông đồng, ít có khả năng tiến công ồ ạt lên Việt Bắc như trong năm 1947. Cục Quân huấn chỉ thị cho đội huấn luyện không quân tiến hành sửa chữa lắp ráp lại thật hoàn chỉnh chiếc Tiger Moth, tổ chức theo dõi khí tượng thủy văn và làm một sân bay dã chiến kích thước 400m x 25m, bổ sung xăng dầu, mỡ chuyên dùng với ý định dùng làm máy bay liên lạc khi có điều kiện bảo đảm an toàn cần thiết.

        Bước sang năm 1949 một cục diện mới đã mở ra. Quân giải phóng Trung Hoa đã giành được những thắng lợi lớn ở Trung Hoa đang tiến nhanh xuống Hoa Nam. Trong nước quân dân ta hưởng ứng phong trào "Thi đua yêu nước" do Hồ Chủ tịch phát động, phát huy cao độ tinh thần tự lực tự cường, phát triển chiến tranh du kích rộng khắp, mở một số chiến dịch trong vùng địch kiểm soát, biến hậu phương của địch thành hậu phương của ta. Căn cứ địa Việt Bắc được củng cố và mở rộng. Lực lượng vũ trang cũng được phát triển. Ngoài bộ binh ra đã xây dựng được một số đơn vị pháo binh, công binh và thông tin liên lạc . Hội nghị cán bộ Trung ương lần thứ 6 họp từ 14 đến 18-1-1949 nhận định: Cuộc kháng chiến đã bước sang giai đoạn mới "tích cực cầm cự chuẩn bị tổng phản công" nhằm mở rộng lực lượng chủ lực, Bộ Tổng tham mưu kiến nghị với Bộ tổng tư lệnh thành lập tổ chức ban đầu của không quân, hải quân và một số binh chủng khác để đào tạo cán bộ chuyên nghiệp và các binh chủng này. Đại tướng Tổng Tư lệnh cho ý kiến phải báo cáo và xin chỉ thị của Bác trước khi quyết định: Thế là đồng chí Tổng tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái cùng đồng chí Tổng tham mưu phó Phan Phác, nguyên Cục trưởng Cục Quân huấn đến báo cáo xin chỉ thị của Hồ Chủ tịch. Sau khi nghe báo cáo tình hình cụ thể của đội huấn luyện không quân ở Soi Trinh (Chiêm Hóa) Hồ Chủ tịch hỏi rất cặn kẽ về trình độ chuyên môn nghiệp vụ của từng người trong đội huấn luyện, về hiện trạng của từng máy bay, từng loại nhiên liệu, phụ tùng dự trừ... rồi chỉ thị đại ý như sau: Lúc này tận dụng tất cả những cơ sở vật chất kỹ thuật ta có thể xây dựng tổ chức ban đầu cho không quân là phù hợp với cục diện cuộc kháng chiến của ta đang trên đà giành những thắng lợi để chuyển sang tổng phản công, cũng kịp thời đối với cách mạng Trung Quốc sắp thành công, nhưng phải theo khả năng thực tế và nhu cầu thiết yếu từng thời điểm. Do đó, bây giờ chỉ thành lập Ban nghiên cứu Không quân để tìm hiểu tổ chức và hoạt động của không quân Pháp, nghiên cứu cách phòng chống lại chúng, tìm kiếm cán bộ, giáo viên bổ sung trang thiết bị chuyên dùng, xây dựng cơ sở nghiên cứu ban đầu, khi nào có tương đối đủ cán bộ giáo viên mới được mở lớp huấn luyện đào tạo cán bộ kỹ thuật và nghiệp vụ về hàng không, phòng không, không quân để phối hợp tham gia nghiên cứu vừa học vừa làm.

        Thực hiện chỉ thị của Hồ Chủ tịch, ngày 9-3-1949, Đại tướng Tổng tư lệnh ký quyết định thành lập Ban nghiên cứu Không quân và bảo phải kiểm tra lại toàn bộ cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có trên cơ sở đó lập phương án xây dựng cơ sở nghiên cứu như Hồ Chủ tịch chỉ thị: Chú ý Bác chỉ cho phép thành lập Ban nghiên cứu và chỉ khi nào có tương đối đủ giáo viên và trang thiết bị tối cần thiết mới được mở lớp để phối hợp tham gia nghiên cứu, do đó về giáo viên cần chọn những người có trình độ chuyên môn đã tham gia cách mạng ít nhất từ khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa kể cả người nước ngoài, về học viên thì phải có trình độ văn hóa trung học và đã tham gia công tác hoặc chiến đấu từ ngày toàn quốc kháng chiến.

        Thực hiện chỉ thị của Đại tướng Tổng tư lệnh, đồng chí Phó tổng tham mưu trưởng Phan Phác lên Soi Trinh kiểm tra toàn bộ cơ sở vật chất kỹ thuật của đội huấnluyện không quân. Nhận thấy hai máy bay đã được lắp ráp lại hoàn chỉnh, được bảo dưỡng tốt, sân bay làm đúng quy cách, có đài khí tượng thủy văn, nhiên liệu, phụ tùng đầy đủ, một số cán bộ ở đội, ở Cục Quân huấn, ở Bộ tổng Tham mưu, ở Văn phòng Bộ Quốc phòng có thể đảm đương được nhiệm vụ phụ trách và huấn luyện chuyên môn, Bộ tổng Tham mưu thực thi quyết định của Bộ Quốc phòng Tổng tư lệnh. Đồng chí Hà Đổng tốt nghiệp khóa 1 Trường võ bị Trần Quốc Tuấn, đang là cán bộ cơ quan Bộ Quốc phòng, được bổ nhiệm làm Trưởng ban, đồng chí Đoàn Mạnh Nghi đang là cán bộ Bộ tổng Tham mưu, được giao phụ trách công tác đảng, công tác chính trị, đồng chí Lê Văn Nho cán bộ của Cục Quân huấn phụ trách tiểu ban nghiên cứu sân bay, đồng chí Lê Thạch Liên, đội trưởng đội huấn luyện không quân cũ phụ trách tiểu ban nghiên cứu khí tượng, đồng chí Nguyễn Văn Đống, đội trưởng đội dịch vụ cũ phụ trách tổ bảo dưỡng máy bay. . . Trong số người ban đầu có mặt đồng chí Nguyễn Đức Việt - hàng binh người Đức trong Quân đội Pháp cũ, đã theo ta từ đầu ngày kháng chiến ở Trung Bộ, vốn là phi công lái máy bay liên lạc và đã được kết nạp Đảng cộng sản Đông Dương.

        Sau khi thành lập, mối quan tâm chung là kiểm tra xem xét lại thực trạng chất lượng của 2 chiếc máy bay. Tháng 8- 1949 đồng chí Hà Đổng dẫn đồng chí Việt đến Soi Trinh để cùng đồng chí Liên và tổ chức bảo dưỡng kiểm tra kỹ thuật và tổ chức bay thử chiếc Tiger moth. Đồng chí Việt lái, ông Đống ngồi ghế sau cùng bay. Máy bay cất cánh tốt lượn một vòng vẫn tốt, nhưng khi quay về chuẩn bị hạ cánh thì bộ phận điều khiển có sự cố máy bay tiếp đất lệch dốc theo bờ sông Gâm được an toàn. Đây là chiếc máy bay đầu tiên mang cờ đỏ sao vàng Việt Nam bay trên vùng trời căn cứ địa Việt Bắc trong cuộc chiến tranh chững thực dân Pháp xâm lược.


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 26 Tháng Bảy, 2016, 08:22:13 am

        Thế là đồng chí Việt trở thành giáo viên lái máy bay. Sau khi tổ chức được xưởng cơ khí và thu nhận được các linh kiện từ các động cơ và xác máy bay cũ về làm học cụ, Ban nghiên cứu Không quân mở một lớp lái máy bay gồm 28 học viên học tập trong 4 tháng. Lớp này kết thúc vào đúng lúc Bộ tổng Tham mưu bắt đầu chuẩn bị chiến dịch biên giới. Để bảo vệ vùng trời Thủy Khẩu - cửa ngõ ra vào duy nhất thời bấy giờ giữa ta và nước CHND Trung Hoa, Bộ tổng Tham mưu điều số học viên vừa tốt nghiệp các lớp lái máy bay sang Thủy Khẩu (biên giới Quảng Tây - Cao Bằng) phiên hiệu C612. Được giải phóng quân Trung Quốc tận tình huấn luyện, chuyển sang pháo phòng không, sau 3 tháng học tập đại đội 612 lập được chiến công đầu tiên, bắn rơi chiếc máy bay phóng pháo Bearcát của Pháp xâm phạm vùng trời Thủy Khẩu.

        Tiếp theo lớp hoa tiêu ấy, Ban nghiên cứu Không quân mở đồng thời 3 lớp chuyên ngành: Lớp hoa tiêu 2 gồm 28 học viên, lớp khí tượng 31 học viên, lớp thợ máy 28 học viên. Thời gian học tập 6 tháng.

        Thực hiện vừa học vừa làm, vừa nghiên cứu, cán bộ, giáo viên, học viên Ban nghiên cứu Không quân đã tìm hiểu ngành Hàng không và lực lượng không quân Pháp hoạt động trên chiến trường Đông Dương đã nghiên cứu bắn máy bay địch bằng súng trường, súng máy, đã chế tạo ra các máy ngắm, bắn máy bay theo kiểu Stadia đã làm giá ghép 2 trung liên để bắn mục tiêu trên không, đã mở 2 lớp tập huấn dùng súng bộ binh các loại bắn máy bay.

        Bước sang năm 1951, biên giới Việt Trung được hoàn toàn giải phóng, nước ta được nối liền với phe XHCN. Được Chính phủ CHND Trung Hoa viện trợ, Chính phủ ta chủ trương chuyển việc đào tạo cán bộ chuyên nghiệp về pháo cao xạ, về lái máy bay, về thủy quân sang Trung Quốc để học viên có đủ điều kiện để tập luyện tốt hơn và an toàn hơn. Bộ Quốc phòng chỉ thị cho Bộ tổng Tham mưu và Tổng cục Chính trị tuyển chọn trong toàn quân được 33 đồng chí cán bộ đủ tiêu chuẩn đi học lái máy bay. Bộ Quốc phòng chỉ thị cho đồng chí Nguyễn Tâm Trinh, nguyên là đội trưởng đội huấn luyện của Ban nghiên cứu Không quân dẫn sang Trung Quốc để học lái máy bay, nhưng khi đến Nam Ninh (Trung Quốc) thì đồng chí Nguyễn Chí Thanh - Chủ nhiệm TCCT lúc bấy giờ giao nhiệm vụ sáp nhập vào đoàn cán bộ đi học pháo cao xạ 37mm ở Thẩm Dương. Cũng là lúc Bộ Quốc phòng - Tổng tư lệnh tập trung lực lượng để xây dựng bộ đội chủ lực thành những đại đoàn mạnh, đặc biệt là thành lập đại đoàn công binh và pháo binh gọi tắt là Đại đoàn Công pháo 351. Cũng như đối với Ban nghiên cứu Thủy quân, Bộ quyết định giải thể Ban nghiên cứu Không quân, chuyển đại bộ phận cán bộ công nhân viên về sư đoàn 351 . Số còn lại thì biên chế vào các cơ quan cũ, Bộ tổng Tham mưu, Tổng cục cung cấp. Những giáo viên và học viên đã tham gia nghiên cứu về phòng chống máy bay thì chuyển về đơn vị bộ binh để đẩy mạnh phong trào bắn máy bay bằng súng trường và súng máy.

        Ban nghiên cứu Không quân chỉ tồn tại và hoạt động trong 3 năm. Mặc dù cơ sở vật chất kỹ thuật thiếu thốn, lại ở xa cơ quan chủ quản, Ban nghiên cứu Không quân đã và phát huy tinh thần đoàn kết, thực tiễn, dũng cảm, sáng tạo, vừa làm, vừa học, vừa nghiên cứu nên bước đầu trở thành một đội ngũ cán bộ có kiến thức, văn hóa khoa học, được trang bị bước đầu về kỹ thuật và nghiệp vụ chuyên môn về hàng không, về phòng không và không quân. Chính đội ngũ cán bộ này, sau khi được tiếp cận với những trang thiết bị hiện đại và học tập ở những trường chính quy ở Trung Quốc và Liên Xô tiếp thu và trưởng thành rất nhanh về mọi mặt, do đó đến chiến dịch Điện Biên Phủ, một số đã trở thành lực lượng nòng cốt về không quân nhất là về cao xạ pháo 37mm, góp phần xứng đáng của mình vào chiến thắng lịch sử này. Đến năm 1955, quân đội ta tiếp quản các sân bay, thu được một số máy bay và cơ sở hạ tầng của lực lượng không quân Pháp. Để quản lý điều hành các cơ sở này, ngày 3-3-1955 Bộ Quốc phòng ra quyết định thành lập Ban nghiên cứu Sân bay - tiền thân của Tổng cục Hàng không dân dụng và Quân chủng Không quân. Phần đông cán bộ cũ Ban nghiên cứu Không quân cũ được điều động về tham gia xây dựng các ngành và các binh chủng hiện đại này. Có thể nói được rằng Ban nghiên cứu Không quân là một vườn ươm đã tạo ra được những cây giống tốt trồng vào đất nào cũng phát triển nhanh mạnh, dù gặp phải sỏi đá, hạn hán, bão lũ và bão táp.

Ngày 9-3-1999.         


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 26 Tháng Bảy, 2016, 08:25:31 am
               
VÀI ĐIỀU NHỚ LẠI SAU HƠN NỬA THẾ KỶ VỀ BAN NGHIÊN CỨU KHÔNG QUÂN       
(9 – 3 - 1949)

HÀ ĐỔNG                               
Nguyên Trưởng ban nghiên cứu Không quân       

        Hơn nữa thế kỷ về trước, khi còn là một cậu học sinh trường Quốc học Huế, thỉnh thoảng tôi thấy 2 chiếc máy bay của vua Bảo Đại bay trên thành phố Huế, tôi rất thèm muốn được ngồi trên những máy bay ấy, chỉ "ngồi" chứ không dám mơ đến việc lái chúng. Thực dân Pháp không cho người "An Nam" học lái máy bay, chỉ được làm thợ bảo dưỡng máy bay cho Pháp. Muốn được làm phi công, phải vào "làng Tây" và đi lính cho Pháp, như Đỗ Hữu Vị - đại úy trong không lực Pháp đã bị Đức bắn hạ trong thế chiến 1914 - 1918.

        Không ngờ, nhờ có cách mạng, sau này tôi lại được quản lý 2 máy bay đó!

        Sau khi vua Bảo Đại thoái vị, và được mời ra Hà Nội làm cố vấn cho Chính phủ ta, trong tài sản mà ông ta chuyển giao cho chính quyền cách mạng có 2 chiếc máy bay nói trên, 1 chiếc Tiger Moth (tạm dịch là con Mối chúa) và 1 chiếc Morane Saulier (Morane là một hãng chế tạo máy bay của Pháp).

        Chiếc Tiger Moth là máy bay của Anh quốc sản xuất từ năm 1931 đến 1944, tổng số 9.000 chiếc, nó bay an toàn, dễ lái, nên được không lực Hoàng gia Anh dùng để tập lái rất có kết quả.

        Vài đặc điểm của Tiger Moth.

        Trọng lượng: 544kg (không chở người, hàng).
        Động cơ: 1 x 142 HP.
        Bán kính hoạt động: 442km.
        Tốc độ tối đa: 172km/h.
        Trần (cao nhất): 4.444m.

         Ngoài công dụng cho tập lái, nó còn được dùng để chở người, ra mệnh lệnh, quan sát. . . có thể hạ cất cánh ở bãi cỏ, trên đường ô tô v. v. . .

        Chiếc Morane có dáng khí động học hơn, bay nhanh hơn, được Bảo Đại dùng khi đã lái thạo chiếc Tiger Moth (có 1 huấn luyện viên Pháp luôn luôn kèm).

        Ông cố vấn (Bảo Đại) đề nghị đưa 2 máy bay ra Hà Nội để thành lập 1 câu lạc bộ hàng không và được Chính phủ chấp thuận. Hai máy bay được tháo cánh, chở bằng xe hỏa, và cất giấu ở sân bay Tông vì hai sân bay Bạch Mai và Gia Lâm đang bị quân Tàu Tưởng đóng giữ lúc này. Cùng đi theo có 1 tổ thợ bảo dưỡng gồm các ông Đống (tổ trưởng), Mai, Khánh, Nghệ, Chất. Sau ngày 19-12-1946 tháng 1 năm 1947, lại đưa 2 máy bay lên Soi Đúng (Chiêm Hóa) cất giấu và bảo quản, bãi ngô ven sông được san phẳng, gia cố để làm sân bay thử.

        Hai lần di chuyển từ Tông lên Bình Ca và từ Bình Ca bằng phương tiện thô sơ trong điều kiện rất nguy hiểm, máy bay địch thường xuyên lùng sục, phải đi đêm, ngược dòng, ban ngày phải chặt cây lá ngụy trang rất gian khổ. Thế mà các anh Lê Văn Nho, Lê Thạch Liên với sự giúp đỡ của nhân dân hai bên sông, đã đưa được máy bay đến đích an toàn. Chỉ bị máy bay địch bắn phá 1 lần, khi tạm dừng ở sân bay Bình Ca (có tên là Hang Hùm) thiệt hại không đáng kể: Chiếc Tiger Moth bị đạn làm thủng vài chỗ, anh em trong tổ bảo dưỡng đã về Hà Đông mua lụa và vá lại bằng sơn ta (thân và cánh của Tiger Moth được bọc bằng vải bạt, còn thân, cánh Morane toàn bằng nhôm)...

        Cuối năm 1947 sau khi địch bị quân và dân ta đánh cho tơi bời phải rút quân khỏi Việt Bắc, tôi được lệnh của đồng chí Tạ Quang Bửu, lúc đó là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng lên Soi Trinh nắm tình hình (đồng chí Tạ Quang Bửu là Thứ trưởng, riêng giai đoạn từ 8-1947 đến 8-1948 là Bộ trưởng. Sau đó lại giữ chức Thứ trưởng) . Cùng đi có anh Đức Việt lúc đó còn là nhân viên của Nha Nghiên cứu kỹ thuật quân giới. Anh Đức Việt tên thật là Verner Schultze, là phi công Đức ra hàng ta từ năm 1945.

        Đầu năm 1948, tôi và Đức Việt được lệnh đi vào Nghệ An làm một sân bay dã chiến để đón một máy bay từ Xiêm đến, hàng chở là linh kiện và máy móc thông tin do một cán bộ đài phát thanh đi mua bên Xiêm (Thái Lan) tôi và anh Việt đi bộ mất nửa tháng mới đến miền Tây Nghệ An, vì phải đi vòng vèo tránh đồn địch, chúng tôi nói với nhau: Đoạn đường hơn 500km, máy bay Pháp bay mất có 1 giờ mà mình phải đi nửa tháng, tức thật. Cái sân bay dã chiến làm xong thì bà chủ Thái Lan không cho thuê máy bay nửa. Chúng tôi lại lóc cóc đi bộ về. Chỉ được một điều là trong một tháng cùng đi tôi tranh thủ học ở anh Đức Việt nhiều điều bổ ích về hàng không, từ yêu cầu kỹ thuật của một sân bay đến các thiết bị trên máy bay. Tuy học lối truyền khẩu như vậy nhưng nhờ trước đã đọc sách, tạp chí của Pháp, Mỹ, Anh về máy bay và chơi mô hình máy bay nên tiếp thu cũng nhanh...

        Trong số tài liệu anh Tạ Quang Bửu mang về khi đi Hội nghị Phongtennơbờlô có 3 cuốn có lợi cho Trường cán bộ Không quân sau này:

        1 Aircraft recognition (nhận dạng máy bay) chủ yếu của Anh và Mỹ, có hình vẽ rõ ràng và tính năng của máy bay Mỹ mà Pháp dùng đánh ta.

        2. Kỹ thuật lái máy bay của một tác giả Pháp.

        3. Sách huấn luyện bắn máy bay bằng súng bộ binh tập trung của Đức, tôi nhờ anh Đức Việt dịch ra từ tiếng Đức và tận dụng cuốn nhận dạng máy bay để viết cuốn: Bắn máy bay bằng súng trường tập trung, được Bộ Tổng tham mưu in và phổ biến rộng rãi vào năm 1948.


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 26 Tháng Bảy, 2016, 08:27:06 am

        Không rõ có nhiều đơn vị áp dụng cách bắn này không, riêng tôi và anh Tôn Thất Hiền có thấy một chiếc Junker 52 ba động cơ bị hạ ở Phú Lương (Bờ Đậu, Thái Nguyên) bởi 1 đại đội súng trường, chúng tôi có hỏi cung 3 tên còn chưa chết và biết rằng 1 động cơ trúng đạn và bốc cháy, rồi cả 3 đều cháy to, máy bay rơi, chúng nó bị chết cháy ngay 3 tên, còn 3 tên ngắc ngoải.

        Có điều chắc là từ khoảng 1949 trở đi, máy bay Pháp không dám ngang nhiên bay thật thấp nữa.

         Đầu năm 1949 đồng chí Võ Nguyên Giáp cùng các đồng chí Hoàng Văn Thái, Phan Phác đi đến báo cáo và xin ý kiến Bác Hồ về việc thành lập một cơ sở ban đầu của không quân gọi là Đội huấn luyện Không quân. Bác cho ý kiến đại ý là: Chỉ nên là Ban nghiên cứu thôi, chỉ tổ chức một lớp gọi là lớp không quân để phối hợp tham gia nghiên cứu vừa học vừa làm.

        Ngày 9-3-1949 đồng chí Võ Nguyên Giáp - Tổng tư lệnh Quân đội Quốc gia Việt Nam đã ra quyết định thành lập Ban nghiên cứu Không quân. Gần như cùng một lúc Ban nghiên cứu Thủy quân cũng ra đời. Chúng ta có thể khó khăn nhưng các bạn bên thủy quân còn khó khăn hơn: Ta có máy bay để tập, họ chỉ có thuyền nan!

        Ngày 14-9- 1949 xảy ra một sự kiện đáng buồn, làm ảnh hưởng đến tương lai của ban và trường đó là chiếc máy bay Tiger Moth gặp nạn khi hạ cánh sau khi bay kiểm tra ở Soi Trinh chuẩn bị cho lớp lái bay tập.

        Đáng mừng là máy bay vẫn nguyên vẹn, mặc dù quân Pháp đi ca nô dưới sông chỉ cách chỗ dấu 2 máy bay vài trăm mét.

        Hai máy bay được bảo quản, chờ lệnh phục vụ cho công tác huấn luyện.

        Chiếc Tiger Moth được đưa về Trường Không quân Việt Nam ở Ngòi Liễm làm học cụ. Thật đáng tiếc vì nó là loại máy bay dễ lái, rất thích hợp cho việc học lái sơ đẳng. Theo tài liệu tôi mới nhận được từ một bạn định cư ở Mỹ (lấy từ Internet) loại máy bay này hiện còn được trưng bày ở các bảo tàng không quân ở Anh, Mỹ, Tân Tây Lan. Anh Tôn Thất Hiền, khi thăm bảo tàng Không quân ở Đức có chụp được ảnh của nó. Mặc dù không còn khả năng bay tập cho học viên khóa 1 (28 học viên lái) Bộ Tổng tham mưu vẫn chỉ thị khai giảng khóa 2 (87 học viên gồm: Học lái: 28, khí tượng 31, máy: 28) có lẽ vì cấp trên thấy cục diện chiến tranh đã chuyển biến có lợi cho ta, có thể ta lấy được máy bay địch (hoặc được viện trợ từ các nước bạn) các lớp học của khóa 1,khóa 2 đạt kết quả tốt, đặc biệt là 2 lớp khí tượng và máy, không bị ảnh hưởng gì của "sự kiện Tiger Moth" tham gia giảng dạy có các giáo viên của ta và một số giáo viên nước ngoài do Bộ Tổng tham mưu cử về, ngoài anh Đức Việt đã có từ trước còn có:

        1 Trần Hà (tên Việt Nam) phi công Nhật đã tham gia chiến tranh ở Singapo.
        2. Nguyễn Ba, thợ máy Nhật.
        3. Malenbach, thợ máy Đức.
        4. Lubrish, gấp dù và nhảy dù (Đức).
        5. Schertaner, thợ máy áo.

        Đó là những nhân viên kỹ thuật đã tham gia trong việc huấn luyện học viên các lớp lái và máy, đồng thời góp một số ý kiến cho các tiểu ban "sân bay" v.v . . .

        Trước tình hình ngày càng có lợi cho ta, cả về quân sự lẫn chính trị, bạn viện trợ cho ta pháo mặt đất và pháo phòng không. Bộ Quốc phòng, Tổng tư lệnh quyết định giải thể Ban nghiên cứu Không quân, chuyển đa số anh em sang pháo binh và phòng không. Tôi được cử đi học nước ngoài, đi bộ từ Tuyên Quang sang Côn Minh, học bộ binh, tại Lục quân Học viện Minh Hồ được 1 năm, sau đó lại được giữ lại nước bạn 1 năm học lớp pháo binh. Về nước thì chiến dịch Điện Biên đã kết thúc, tôi rất tiếc là không được bắn phát đại bác nào vào tập đoàn cứ điểm của địch!

        Một hôm, đang đi với 1 đoàn giảm tô thì được thư của anh Hoàng Văn Thái (Tổng Tham mưu phó) bảo về ngay, bổ sung vào Đoàn tiếp quản Hà Nội của anh Hà Văn Lâu. Chúng tôi vào Hà Nội trước ngày tiếp quản 10- 10-1954 độ 1 tuần, đấu tranh kịch liệt với phía Pháp về vấn đề tiếp quản sân bay Gia Lâm. Nhờ vốn kiến thức thu nhận được trong 3 năm ở Ban nghiên cứu Không quân, tôi đã giúp cho anh Hà Văn Lâu bắt phía Pháp chấp nhận, phải giao đủ các trang thiết bị (chúng nó định mang đi và phá hủy những thứ không mang đi được chỉ giao cho ta cái đường hạ cất cánh và cái xác nhà ga!).

        Để kết thúc, tôi xin trích một đoạn trong cuốn "Hàng không dân dụng Việt Nam, những chặng đường lịch sử” của Nhà xuất bản Chính trị quốc gia 1995 và các cuốn lịch sử Quân chủng Không quân:

        "Nhìn lại chặng đường 9 năm, sau khi nước nhà giành độc lập, mặc dù cả dân tộc ta phải tập trung sức lực và trí tuệ vào cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ để đánh đuổi bọn thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, bảo vệ nền độc lập, Đảng và Bác Hồ vẫn tiến hành những công cuộc chuẩn bị cho công cuộc kiến thiết đất nước sau này trong đó có việc tổ chức đào tạo cán bộ hàng không.

         ... Ban nghiên cứu Không quân tồn tại trong thời gian không lâu, những lớp học tổ chức trong điều kiện dã chiến, cơ sở vật chất kỹ thuật của ta còn thiếu, lại chưa hình dung hết tính phức tạp và khó khăn của 1 binh chủng kỹ thuật hiện đại, nhưng những gì mà Ban đã làm được thật hết sức có ý nghĩa, nhiều cán bộ chiến sĩ được đào tạo qua hai khóa học đầu tiên của trường đã trở thành những hạt nhân để xây dựng ngành Hàng không dân dụng và Không quân nhân dân Việt Nam sau này".

        Viết những trang này, trong dịp kỷ niệm 50 năm ngày thành lập Ban nghiên cứu Không quân, tôi bùi ngùi nhớ lại những ngày gian khổ trên chiến khu Việt Bắc, gian khổ nhưng ấm áp tình đồng đội trong sáng, cán bộ, chiến sĩ, học viên thực sự đoàn kết, nhân dân các dân tộc vùng bản đóng quân hết lòng giúp đỡ.


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 26 Tháng Bảy, 2016, 08:29:13 am
       
CHUYẾN BAY ĐẦU TIÊN CỦA KHÔNG QUÂN VIỆT NAM
(14-9-1949)

LÊ THẠCH LIÊN                               
Nguyên Trưởng tiểu ban khí tượng của Ban NCKQ       

        Tháng 3-1947 (khoảng giữa tháng) sau khi bị 4 phi cơ chiến đấu của Pháp King-cô-bra bắn phá tại chùa Hang xã An Khang, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang, chiếc máy bay Tiger Moth (đã lắp cánh để ở hang Ga nhưng chưa đổ xăng) bị bắn phá, toạc cánh, cánh quạt bị toác v.v... nhưng may mắn là động cơ không bị trúng đạn và chiếc Tiger Moth còn một cánh quạt dự trữ.

        Đầu tháng 4- 1947, Cục Quân huấn (bí danh thời đó là tiểu đội 240) thành lập một đơn vị gọi là Không đoàn lấy bí danh dân sự là Nhà 440 và sau đó vào năm 1948 lại đổi bí danh là trung đội Anh Lâm.

        Đơn vị được lệnh tháo rời 2 máy bay (Chiếc Tiger Moth bị bắn phá và chiếc Morane của Pháp do Bảo Đại khi thoái vị tặng Chính phủ ta) cho lên 3 thuyền lớn cùng với 7 anh em thợ máy sửa chửa máy bay và tôi phụ trách đơn vị chở lên theo sông Gâm đến Soi Đúng thuộc xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hóa cách dưới huyện ly l0km.

        Đây là một bãi rộng trồng ngô tương đối bằng phẳng rộng khoảng 80m dài khoảng 500m có thể dễ dàng thiết lập một sân bay nhỏ cho 2 chiếc Tiger Moth và Morane hoạt động. Nhiệm vụ Cục Quân huấn giao cho đơn vị là:

        1 Tiến hành sửa chửa lại chiếc Tiger Moth bị bắn phá và bảo dưỡng chiếc Morane.

        2. Lập một sân bay nhỏ dài 440m, rộng 25m trên bãi ngô ven sông Gâm.

        3. Nghiên cứu tình hình khí tượng để phục vụ cho chuyến bay trong tương lai.

        4. Chuẩn bị điều kiện để khi nào tiến hành sửa chữa xong chiếc Tiger Moth thì cho bay thử. ..

        Trong hai năm 1948 và 1949 đơn vị đã khắc phục khó khăn để sửa chữa, tìm các nguyên vật liệu thay thế và sau khi mở máy thử động cơ nhiều lần, kết quả động cơ chạy tốt, hệ thống điện bảo đảm, duy chỉ có 3 đồng hồ chỉ độ cao, xăng và dầu không tháo và sửa chữa được vì không có người chuyên môn biết sửa chữa chúng. .

        Về sân bay cho tuyển 12 vệ binh ở địa phương và Cục chuyển thêm một số anh em bộ đội cho đơn vị, đã tự sửa chữa, san bằng đảm bảo cho việc bay thử.

        Sau khi xong việc, tôi đã báo cáo về Cục Quân huấn và đề nghị Cục xem xét, cử phi công sang thị sát và nếu được thì cho bay thử.

        Ngày 13-9-1949 Bộ Quốc phòng cử anh Hà Đổng và anh Nguyễn Đức Việt (phi công hàng binh Đức) mang thư của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng hồi đó là Tạ Quang Bửu, đề nghị tôi phối hợp với anh Đổng và anh Việt cho tiến hành bay thử chiếc máy bay Tiger Moth.

        Sau khi đi xem xét lại phi cơ, cho thử động cơ chúng tôi quyết định ngày hôm sau 14-9-1949 sẽ cho bay thử, thời gian bay khoảng độ 15 phút vào buổi chiều, vì vào buổi chiều phi cơ địch ít hoạt động. Hôm 14-9-1949, vào khoảng 5 giờ chiều, chúng tôi kéo máy bay ra qua một quả đồi nhỏ và qua một mảnh ruộng của dân chưa cày cấy ra sân bay đã được canh gác cẩn thận.

        Anh Việt cùng bay với cụ Nguyễn Văn Đống, trưởng ban cơ khí của đơn vị, hai người chỉ mang theo có 2 cặp kính che mắt và không mang theo dù.

        Máy bay chạy trên sân khoảng 250m thì bắt đầu lên cao khoảng l00m lượn về phía Nam, sau đó hạ thấp độ cao, anh Việt có ý định là theo dòng sông Gâm trở về sân bay, nhưng vì máy bay xuống quá thấp, cánh bên trái chạm phải mặt nước nên phi cơ đâm xuống sông.

        Hôm sau 15-9-1949 anh em trong đơn vị lội ra sông tháo từng bộ phận của máy bay đem về cất giữ.

        Việc này theo nhận định chung của anh em trong đơn vị cũng như của Cục Quân huấn và Bộ Quốc phòng là đơn vị đã có nhiều cố gắng, khắc phục khó khăn sửa chữa máy bay được, nhưng kết quả chưa được mỹ mãn do máy bay xuống quá thấp, cánh trái chạm phải nước nên máy bay bị rơi xuống sông Gâm.

        Sau đó, bộ phận bay thử và phần máy bay còn lại chuyển về Ban nghiên cứu Không quân do anh Hà Đổng làm trưởng ban, anh Trần Hiếu Tâm làm chính trị viên mở được hai lớp hoa tiêu, 1 lớp khí tượng và 1 lớp cơ khí.


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 26 Tháng Bảy, 2016, 08:30:59 am
       
SỰ RA ĐỜI CỦA BAN NGHIÊN CỨU KHÔNG QUÂN
(1949 - 1952)

NGUYỄN TÂM TRINH       

        Viết lại lịch sử ra đời, phát triển và hoạt động của Ban nghiên cứu Không quân thật trung thực và đầy đủ là một việc khó khăn, nhưng rất cần thiết, để góp tư liệu cho việc biên soạn lịch sử xây dựng các ngành Hàng không, Không quân, Pháo binh trong quân đội.

        Ban nghiên cứu Không quân thành lập ngày 9-3-1949 theo quyết định do Đại tướng Võ Nguyên Giáp ký, tuy ý định xây dựng các binh chủng Không quân, Hải quân đã hình thành từ lâu. Ngày nay, sau một thời gian dài, những hồ sơ, tài liệu lưu trữ đã bị thất lạc do những năm tháng chiến tranh. Dựa vào những tư liệu còn lại và sự cung cấp tư liệu của các đồng chí có liên quan hiện còn, đang công tác hoặc nghỉ hưu như:

        1. Đồng chí đại tá Phan Phác, nguyên Cục trưởng Cục Quân huấn, và Phó Tổng tham mưu trưởng QĐND Việt Nam hồi đó, chuyển ngành làm Cục trưởng Bộ Nông Lâm đã nghỉ hưu.

        2. Đồng chí Hà Đổng, nguyên Trưởng ban NCKQ, sau chuyển ngành làm Vụ trưởng Bộ Nông Lâm đã nghỉ hưu.

        3. Đồng chí Trần Hiếu Tâm, nguyên Chính trị viên Ban nghiên cứu Không quân, Thiếu tướng Phó tư lệnh Quân khu Thủ đô, đã về nghỉ hưu.

        4. Đồng chí Đoàn Mạnh Nghi, nguyên Trưởng tiểu ban chính trị, đại tá Cục trưởng Cục vận chuyển Tổng cục Hàng không dân dụng, đã nghỉ hưu.

        5. Đồng chí Lê Thạch Liên, nguyên Trưởng tiểu ban khí tượng, sau chuyển sang Nha khí tượng Việt Nam, đã nghỉ hưu.

        6. Đồng chí Nguyễn Tâm Trinh, nguyên đại đội trưởng học sinh, đại tá Phó tham mưu trưởng Quân chủng Phòng không, đã nghỉ hưu, cùng các đồng chí khác, chúng tôi thu thập và mạnh dạn biên soạn lịch sử giai đoạn ban đầu xây dựng ngành Hàng không Việt Nam .

        I - QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH TIẾN TỚI THÀNH LẬP BAN NGHIÊN CỨU KHÔNG QUÂN.

        1. Sau Cách mạng tháng Tám 1945, vua Bảo Đại được mời ra Hà Nội nhận chức cố vấn cho Chính phủ ta, Bảo Đại có hai chiếc máy bay riêng, 1 chiếc Tiger Moth 2 tầng cánh, 2 chỗ ngồi, thân bọc vải, 1 động cơ do hãng DC Havilland ở Anh chế tạo, máy bay khá an toàn, tốc độ chậm, có thể hạ cánh trên sân bay ngắn và hẹp, thậm chí cả trên đồng cỏ. Trong chiến tranh thế giới thứ II không quân Anh dùng nó để tập lái, quan sát liên tục. Một chiếc Morane Sunier do Pháp chế tạo, thân kim loại, 1 động cơ, 1 tầng cánh, 2 chỗ ngồi. Đây là loại máy bay thể thao, bay nhanh hơn chiếc Tiger Moth, có thể nhào lộn được.

        Cuối năm 1945 Bảo Đại đề nghị Chính phủ ta đưa 2 máy bay này ra Hà Nội, vì ông ta cũng không đủ điều kiện dùng riêng các máy bay đó. Cấp lãnh đạo của ta chấp nhận đề nghị này của Bảo Đại với ý định là kết hợp yêu cầu của ông ta để thành lập Câu lạc bộ Hàng không cho thanh niên ta quen dần với việc sử dụng máy bay, điều này sẽ có lợi cho việc xây dựng ngành Hàng không nước ta như kinh nghiệm nhiều nước trên thế giới. Đồng chí Tạ Quang Bửu, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng chỉ đạo việc tổ chức đưa ra và giao cho đồng chí Phan Phác lúc này là Cục trưởng Cục Quân huấn, đồng chí là một trong những người Việt Nam hiếm hoi lúc đó biết chút ít về lái máy bay khi đồng chí ở trong quân đội Pháp, tổ chức thực hiện. Hai máy bay được tháo cánh, bí mật được chở bằng tàu hỏa ra Bắc và tạm cất ở sân bay Kim Đái (Tông) tỉnh Sơn Tây. Lúc này các sân bay Bạnh Mai, Gia Lâm đều còn do quân đội Tàu đóng giữ. Hai máy bay đến Sơn Tây an toàn vào tháng 1-1946, có thợ bảo dưỡng gồm bác Đống, tổ trưởng, bác Nguyễn Đình Mai (đã mất tại Soi Đúng, Tuyên Quang khi máy bay Pháp ném bom), và các bác Khánh, Nghệ, Hội, Chất. Khi chuẩn bị để lắp lại thì quân Pháp gây hấn ở Nam Bộ, tiếp đến sau Hiệp định Sơ bộ (6-3-1946), thực dân Pháp lộ rõ âm mưu trở lại xâm lược nước ta, Bảo Đại tìm cách chuồn ra nước ngoài. Đất nước ta chuyển vào trạng thái chuẩn bị chiến tranh, tiếp đến ngày 19-12-1946, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ.

         Trong những ngày đầu kháng chiến, có ý kiến dùng chiếc Morane bay ném đạn cối vào quân Pháp đang bị vây hãm ở thị xã Nam Định. Bác Hồ và cấp trên không đồng ý và chỉ thị phải bí mật đem cất giấu 2 máy bay trên lên an toàn khu Việt Bắc. Tháng 1-1947, đồng chí Lê Thạch Liên theo lệnh Cục Quân huấn tổ chức đưa 2 máy bay đường sông lên Tuyên Quang, để ở sân bay Bình Ca, nhưng tháng 3- 1947 sân bay bị máy bay Pháp đánh phá, máy bay ta bị hỏng nhẹ. Để đề phòng quân Pháp tấn công lên Việt Bắc, ta đã tháo rời 2 máy bay chuyển xuống thuyền chở ngược lên Chiêm Hóa. Công việc di chuyển được bảo đảm an toàn tuy cực kỳ vất vả khó khăn. Đến địa điểm, máy bay được cất giấu trong lán, tại vùng Soi Đúng (còn gọi là Soi Trinh) Tả ngạn sông Gâm, phía Nam huyện lỵ Chiêm Hóa 10km. Bãi cát trồng ngô trên Soi được sửa sang làm bãi hạ cất cánh, kích thước 400m x 25m. Xăng dầu được chuyển bằng lăn từng thùng fuy một về từ các nơi xa như Cao Bằng v.v...


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 26 Tháng Bảy, 2016, 08:34:15 am

        Tháng 9-1948, Cục Quân huấn cử một hàng binh người Nhật tên là Lan đến chuẩn bị bay thử nhưng không bay được vì anh ta chỉ là lính bắn súng trên máy bay chứ không phải là người lái.

        Các máy bay được bảo dưỡng, bảo quản sửa chữa, chờ lệnh chuẩn bị phục vụ cho việc học tập và sử dụng.

         Sau những thắng lợi quan trọng của quân dân ta trên chiến trường trong năm 1948, bước sang năm 1949, cục diện cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc phát triển mạnh. Trên thế giới hệ thống xã hội chủ nghĩa ngày càng mở rộng, quân giải phóng Trung Quốc đang tiến xuống Hoa Nam vào các vùng sát biên giới Việt Trung, tạo cho ta những thuận lợi và thời cơ mới.

        Theo chỉ thị của Bác và Bộ Chính trị Trung ương Đảng, Bộ tổng Tư lệnh quân đội ta ra sức nghiên cứu và tìm tòi mọi biện pháp để từng bước chuyển từ chủ động chiến dịch sang chủ động về chiến lược. Hưởng ứng khẩu hiệu "Tích cực cầm cự, chuẩn bị chuyển mạnh sang tổng phản công", trong lực lượng vũ trang cả 3 thứ quân đều phát triển cả về số lượng và chất lượng. Trong bộ đội chủ lực, ngoài bộ binh ra, đã bắt đầu quan tâm xây dựng các binh chủng kỹ thuật, Bộ tổng Tham mưu kiến nghị với Tổng Tư lệnh tình hình tổ chức ban đầu của không quân, thủy quân và một số binh chủng khác.

        Đồng chí Phan Phác nhớ sau lần đi theo đồng chí Võ Nguyên Giáp và đồng chí Hoàng Văn Thái đến báo cáo xin chỉ thị của Bác về việc thành lập đơn vị ban đầu của không quân, gọi là "Đội huấn luyện Không quân". Sau khi nghe báo cáo, Bác hỏi cặn kẽ tình hình và chỉ thị đại ý như sau: Ta đã làm cái gì thì phải làm cho được, phải kiểm tra cơ sở thực tế các mặt xem có thực hiện được không. Còn hướng đi về mặt chiến lược để đón trước thời cơ là như thế.

        Bác dặn bước đầu chỉ nên là ban nghiên cứu thôi, chỉ tổ chức một lớp gọi là lớp không quân hay lớp phòng không, chưa phải là trường. Ban nghiên cứu có lớp để phối hợp tham gia nghiên cứu, vừa học vừa làm.

        Chấp hành chỉ thị của Bác, ngày 9-3-1949, Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp ký quyết định thành lập Ban nghiên cứu Không quân. Để giữ bí mật, Ban lấy tên là Nông trường thí nghiệm, địa điểm đóng quân ở Ngòi Liễm, xã Hữu Lộc, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang, tả ngạn sông Lô, cạnh Nha nghiên cứu kỹ thuật quân giới ở thôn Đĩa.

        Nhiệm vụ của Ban nghiên cứu Không quân: Tìm hiểu hoạt động của không quân Pháp, tìm cách phòng chống lại chúng, chuẩn bị cơ sở vật chất, tài liệu, huấn luyện đào tạo cán bộ, hình thành dần từng bước các điều kiện để tiếp thu, đón thời cơ triển khai hoạt động. Phương châm là từ nhỏ đến lớn, cụ thể, thiết thực, bí mật, phù hợp với tình hình.

        Đồng chí Hà Đổng, lúc này là cán bộ cơ quan Bộ Quốc phòng giúp việc đồng chí Tạ Quang Bửu, được giao nhiệm vụ theo dõi số máy bay này trước đây, tuy chưa biết gì nhiều về không quân nhưng có trình độ văn hóa và ham mê nghiên cứu, được bổ nhiệm làm trưởng ban, đồng chí Đoàn Mạnh Nghi, cán bộ Bộ Tổng tham mưu là nhân viên khí tượng cũ, được giao phụ trách công tác đảng công tác chính trị. Đầu năm 1950, đồng chí Trần Hiếu Tâm công tác ở bộ đội Hà Giang, đang dự lớp bổ túc của Bộ, trước đây là học sinh Trường kỹ thuật có học về sửa chữa máy bay được giao nhiệm vụ làm chính trị viên của Ban.

        Trong số người ban đầu có mặt, đặc biệt có đồng chí Nguyễn Đức Việt, (hàng binh người Đức trong hàng ngũ quân đội Pháp đã theo ta từ ngày đầu kháng chiến ở Trung Bộ), vốn là phi công lái máy bay liên lạc, đang công tác tại Nha nghiên cứu kỹ thuật quân giới được về. Đồng chí rất nhiệt tình, có kiến thức khoa học kỹ thuật không quân đã đóng góp nhiều cho Ban, và được kết nạp vào Đảng cộng sản Đông Dương. Hòa bình lập lại, đồng chí trở về Cộng hòa dân chủ Đức công tác và đã mất sau một vụ tai nạn.

       Để hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu, Ban được tổ chức như sau: Ban chỉ huy: Đồng chí Hà Đổng, Trưởng ban.

        Đồng chí Trần Hiếu Tâm, chính trị viên.

        Tiểu ban hành chính: Đồng chí Phan Văn Diên, Trưởng tiểu ban.

        Tiểu ban chính trị: Đồng chí Đoàn Mạnh Nghi.

        Tiểu ban nghiên cứu Sân bay: Đồng chí Lê Văn Nho.

        Tiểu ban nghiên cứu phòng không: Đồng chí Nguyễn Hải Hạc.

        Tiểu ban khí tượng: Đồng chí Lê Thạch Liên.

        Xưởng cơ khí: Đồng chí Đàm Hải, Lê Minh Tâm.

        Tổ bảo dưỡng máy bay: Đồng chí Nguyễn Văn Đống.

        Đội vệ binh: Đồng chí Ma Văn Thưởng.

        Đội huấn luyện: Đồng chí Nguyễn Tâm Trinh (đội trưởng); Đồng chí Trần Quốc Thái (đội phó) .

        Lúc ban đầu Ban trực thuộc Bộ Quốc phòng, một thời gian sau trực thuộc Bộ Tổng tham mưu.

        Về Đảng, lúc mới thành lập, đảng viên ít nên một phân chi thuộc chi bộ Bộ Tổng tham mưu, có Ban cán sự do đồng chí Nghi làm Bí thư. Sau khi số lượng đảng viên được tăng lên, được tổ chức thành 1 chi bộ, chi ủy gồm đồng chí Tâm (bí thư), đồng chí Nghi, đồng chí Trình. Chi bộ này nằm trong Liên chi Quốc phòng Tổng tư lệnh gọi tắt là Liên chi TQP thuộc Bộ Quốc phòng sau thuộc Ban chấp hành Đảng bộ Bộ Tổng tham mưu, tổng số gồm 18 đồng chí đảng viên, đại bộ phận cán bộ, công nhân viên và học viên là quần chúng cảm tình Đảng. Chi bộ có đồng chí Việt là đảng viên nước ngoài.


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 26 Tháng Bảy, 2016, 08:35:55 am

        II - HOẠT ĐỘNG CỦA BAN NGHIÊN CỨU KHÔNG QUÂN

        Trong không khí sôi sục của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, mọi thành viên của Ban nghiên cứu Không quân đều hăng hái nhiệt tình góp sức vào việc xây dựng cơ quan, xây dựng đơn vị.

        1.   Sau khi thành lập, mối quan tâm chung là kiểm tra xem xét lại thực trạng chất lượng của 2 chiếc máy bay, cái vốn quí đầu tiên. Đồng chí Hà Đổng cùng đồng chí Việt lên Chiêm Hóa để cùng đồng chí Liên và tổ bảo dưỡng kiểm tra kỹ thuật và tổ chức bay thử. Chiếc Tiger Moth được chuẩn bị khẩn trương để bay. Đồng chí Việt lái, bác Đống thợ máy cùng bay. Máy bay cất cánh tốt, sau lượn một vòng, máy bay vẫn hoạt động tốt, nhưng khi quay về chuẩn bị hạ cánh thì bộ phận điều khiển có sự cố máy bay đã chủ động hạ tiếp đất lệch dốc theo bờ sông Gâm để bảo đảm an toàn. Sau khi hạ cánh xuống, người an toàn, máy bay bị hỏng vài bộ phận, không bảo đảm tiếp tục cất cánh được nửa. Lần đầu tiên, chiếc máy bay mang cờ Việt Nam bay trên vùng trời Tổ quốc, đánh dấu một sự kiện lịch sử của dân tộc ta. Ngày 14-9-1949, sau lần bay thử, hai máy bay đã được cất giấu và bảo dưỡng chuẩn bị phục vụ cho các lớp huấn luyện sau đó.

        2.   Thôn Ngòi Liễm thuộc xã Hữu Lộc, huyện Sơn Duơng, tả ngạn sông Gâm được chọn làm địa điểm đóng quân. Ở đây gần đường bộ, đường thuỷ, tương đối kín đáo, thuận tiện cho việc liên lạc với trên và bãi Chiêm Hoá, lại gần Nha NCKT quân giới, và Ban nghiên cứu Thuỷ quân, tiện việc hiệp đồng giúp nhau nghiên cứu. Ban đã xây dựng lấy chỗ ăn, ở, học tập, giảng đuờng, kho, xưởng cho cơ quan, trường học và xưởng sửa chữa cơ khí. Xưởng cơ khí được trang bị một số máy động lực, máy cắt gọt, rèn, gò, hàn, sản xuất gia công cơ khí, phục vụ mô hình học tập, sửa chữa máy móc và phục vụ cho sinh hoạt. Đặc biệt là đã cử 1 đồng chí tốt nghiệp khoá hoa tiêu 1 đến các nơi máy bay Pháp bị rơi, thu nhặt các linh kiện từ các động cơ và xác của máy bay về làm học cụ giảng dạy, nghiên cứu và chế tạo ra các máy ngắm máy bay cho súng trường, súng máy, cung cấp cho một số súng máy trực chiến của bộ binh chiến đấu.

        3.   Để chuẩn bị cho công tác nghiên cứu và cơ sở của ngành chuyên môn, Ban đã lựa chọn và đào tạo 2 khoá học.

        -   Khoá 1 có 28 nguời gồm 1 trung đội, 3 tiểu đội học viên ngành lái 9 hoa tiêu) trong thời gian 4 tháng.

        -   Khoá 2 gồm 87 nguời 3 trung đội, mỗi trung đội 1 lớp:

        Lớp hoa tiêu 2: 28 người
        Lớp Khí tượng: 31 người
        Lớp thợ máy: 28 người
        Thời gian học là 6 tháng.

        Đội ngũ cán bộ phụ trách lấy trong số cán bô tốt nghiệp khóa 1 . Đội ngũ giáo viên gồm số cán bộ cũ của Ban và một số nhân viên chuyên môn hàng không chọn trong số hàng binh quân đội Pháp là người Đức và Nhật.

        Tuyệt đại bộ phận giáo trình giảng dạy là tiếng Việt nhưng có những phần phải bằng tiếng Pháp, như ở khóa hoa tiêu 1, do đồng chí Nguyễn Đức Việt (người Đức) giảng vì đồng chí chưa thạo tiếng Việt. Việc giảng dạy đường lối kháng chiến và các tài liệu chính trị có lúc được các cán bộ của Bộ xuống giới thiệu. Việc học lý thuyết có chú ý kết hợp với thực hành. Học xong lý thuyết, học viên được hành quân về Chiêm Hóa để thực hành mở máy, kiểm tra và điều khiển lăn trên đường băng cỏ.

        4. Tiến hành thu thập các tài liệu sử dụng của cơ quan Bộ, đi khai thác ở các nơi, từ trong vùng địch chiếm đóng, nghiên cứu tìm hiểu hàng không nói chung và lực lượng không quân Pháp sử dụng trên chiến trường Đông Dương. Nghiên cứu bắn máy bay địch bằng các loại súng máy, súng trường bộ binh, đã làm giá thép 2 trung liên, chế tạo ra máy ngắm mục tiêu trên không.

        Cùng trong thời gian này, trước yêu cầu của việc tiêu diệt máy bay Pháp, mở hai lớp tập huấn cho các đơn vị về dùng súng bộ binh các loại bắn máy bay. Ban đã tự tổ chức đội bắn thực nghiệm bằng súng máy và máy ngắm cải tiến để rút kinh nghiệm, đã đi phục kích dọc bờ sông Lô và trên đoạn đường bộ từ Đoan Hùngđến Tuyên Quang.

        Tháng 5 năm 1951 theo lệnh của Bộ Tổng tham mưu, Ban đã cử 20 đồng chí có trình độ bổ sung cho đơn vị sơn pháo 75mm đưa sang Thủy Khẩu (Biên giới Quảng Tây - Cao Bằng) để nhận và chuyển loại pháo cao xạ 37mm phòng không, thành lập đơn vị pháo cao xạ đầu tiên, bảo vệ vùng trời cửa ngõ ra vào giữa ta và Trung Quốc. Đơn vị lấy tên là đại đội 612. Thành tích đầu tiên của đại đội là bắn rơi chiếc máy bay phóng pháo F8F Bear Cat (Gấu mèo) của Pháp xâm phạm vùng trời Thủy Khẩu, chấp hành đúng lời căn dặn của Bác Hồ trước đó 3 tháng khi Bác đến thăm đại đội. Cuối năm 1951, khi mở chiến dịch Hòa Bình, trên có ý định sử dụng bí mật, bất ngờ đại đội cao xạ này tham gia chiến dịch, nhưng vì hoạt động máy bay của địch hạn chế, lại sợ lộ nên Bộ hoãn sử dụng vào chiến dịch.

        Ban đã tổ chức những tổ đi nghiên cứu một số khu vực có thể hạ cất cánh được, nhưng do điều kiện bị hạn chế nên không triển khai được .

        Suốt cả thời kỳ xây dựng, Bộ Quốc phòng rất coi trọng đến kiểm tra, chỉ thị, cử cán bộ tác chiến xuống giúp đỡ, lên lớp về những nội dung cần thiết. Đồng chí Hoàng Văn Thái, Tổng tham mưu trưởng QĐNDVN, ngoài nhiều lần kiểm tra thăm hỏi nơi đóng quân Ngòi Liễm, đã trực tiếp dự lễ bế mạc khóa hoa tiêu 1.

        Trong suốt thời kỳ xây dựng và phát triển, Ban nghiên cứu Không quân hết sức coi trọng công tác giáo dục chính trị, xây dựng tư tưởng, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về mọi mặt. Vừa xây dựng, vừa chiến đấu, trong những lần giặc Pháp lấn chiếm đánh ra các vùng tự do Đoan Hùng, Tuyên Quang, dọc sông Lô, cán bộ,chiến sĩ, công nhân viên đã thực hiện phân sơ tán kho xưởng, cơ quan bố trí chiến đấu, đánh chặn quân địch, cùng đồng bào địa phương bắn máy bay địch, bảo vệ cơ quan, bảo vệ làng bản. Một nhiệm vụ rất quan trọng nửa là mặc dầu xa cơ quan Bộ, cán bộ và chiến sĩ, công nhân viên luôn luôn nêu cao tinh thần cách mạng, phát huy tinh thần tự lực cánh sinh, đẩy mạnh tăng gia sản xuất tự túc lương thực, thực phẩm, cải thiện đời sống, có thời kỳ 2, 3 tháng thiếu sự cung cấp của trên vẫn giữ vững được cuộc sống tập thể tuy thiếu thốn nhưng đầy ấm cúng. Nhiều đồng chí đã có gia đình cùng chung sống và công tác .


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 26 Tháng Bảy, 2016, 07:14:46 pm

        III - CHUYỂN HƯỚNG NHIỆM VỤ, SỰ RA ĐỜI CỦA BAN NGHIÊN CỨU SÂN BAY.

        Trong những năm 1950 - 1951, Ban nghiên cứu Không quân đã tạo được đội ngũ cán bộ nhân viên nghiệp vụ chuyên môn hàng không. Cuộc kháng chiến của nhân dân ta đang trên đà phát triển thắng lợi. Cách mạng Trung Quốc thành công (1-10-1949). Nước ta đặt quan hệ ngoại giao với Trung Quốc và Liên Xô (18-1-1950). Biên giới phía Bắc nước ta đã khai thông và nối liền với hậu phương lớn các nước xã hội chủ nghĩa. Nước ta được sự chi viện nhiều mặt của các nước anh em.

        Đảng ta và Bác Hồ đã đề ra những chủ trương chiến lược mở rộng lực lượng, chuyển từ thế chủ động chiến dịch sang thế chủ động chiến lược, sẵn sàng tranh thủ thời cơ để phát triển thắng lợi cục diện của cuộc kháng chiến. Cả 3 thứ quân đều được phát triển. Với sự giúp đỡ của các nước anh em, một số trường lớp đặt trong nước được chuyển sang biên giới Trung Quốc.

        Trước tình hình mới, việc duy trì và mở rộng công tác của Ban nghiên cứu Không quân cũng có những khó khăn và hạn chế mới. Sau nhiều lần xem xét cân nhắc và tham khảo ý kiến của cố vấn Trung Quốc, Bộ quyết định tạm ngừng việc xây dựng và phát triển cơ sở nghiên cứu không quân trong nước, chuyển một số cán bộ sang nước bạn để tiếp tục học tập, thu hẹp cơ sở nghiên cứu trong nước lại, chuyển đại bộ phận cán bộ, công nhân viên, học viên sang xây dựng lực lượng phòng không, lực lượng pháo binh và các đơn vị mới. Đồng chí Tâm Trinh dẫn 33 đồng chí sang Trung Quốc để học lái. Khi đến Nam Ninh do nhu cầu xây dựng lực lượng phòng không, đoàn đồng chí Nguyễn Chí Thanh, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị trực tiếp giao nhiệm vụ, sáp nhập cùng đoàn cán bộ đi học pháo cao xạ 37mm ở Thẩm Dương trở thành một bộ phận của lực lượng tiền thân của Quân chủng Phòng không anh hùng. Một số lớn cán bộ khác được chuyển sang Đại đoàn công pháo 351 xây dựng pháo binh và công binh. Các đồng chí phụ trách của Ban về Bộ nhận nhiệm vụ mới.

        Trước tình hình mới, vào giai đoạn cuối của cuộc trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, Đảng ta đã tạm thời ngừng xây dựng Ban nghiên cứu Không quân, Thủy quân, tập trung vào việc xây dựng các lực lượng mới như pháo binh, phòng không. Các cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên của Ban nghiên cứu Không quân được phân phối về các lực lượng mới góp phần xây dựng cho các lực lượng đó, đặc biệt là lực lượng phòng không của 3 thứ quân. Nhiều đồng chí đã góp phần đánh thắng trong chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ và trên các chiến trường của cả nước.

        Cơ sở vật chất kỹ thuật của Ban kể cả 2 máy bay được chuyển giao và cất giấu.

        Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi. Hiệp định Giơnevơ được ký kết. Quân đội ta đã cử các đồng chí biết ít nhiều về hàng không và các đồng chí ở Ban nghiên cứu Không quân trước đây tiếp quản các sân bay và tiếp thu cơ sở hạ tầng của lực lượng không quân quân đội Pháp và bù nhìn. Trước nhu cầu cấp bách lúc đó ngày 3-3-1955 Bộ Quốc phòng ra quyết định thành lập Ban nghiên cứu sân bay, tiền thân của Quân chủng Không quân và Tổng cục Hàng không dân dụng ngày nay của nhân dân và quân đội ta.


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 26 Tháng Bảy, 2016, 07:16:57 pm
        
NHỚ LẠI NHỮNG NĂM THÁNG ĐẦU TIÊN Ở KHÔNG QUÂN

Đại tá NGUYỄN VĂN THỤ                     
Nguyên Phó hiệu trưởng Trường Sĩ quan Phòng không
Nguyên Trưởng ban Quân lực                  

        Tháng 2-1955, tôi trình giấy giới thiệu điều động với đồng chí Hoàng Ngọc Diêu. Đồng chí nhận và hỏi về quê quán, tuổi, ở đơn vị nào về, đã biết về nhận nhiệm vụ gì chưa. Tôi gọn lỏn trả lời câu cuối cùng: "Dạ chưa!". Đồng chí Diêu tự giới thiệu: "Tôi về đây chưa đầy tháng, được trên giao phụ trách Trưởng phòng Tham mưu. Trên điều động về đây mới 30 - 40 người và đang tiếp tục điều về Tôi giao cho anh phụ trách công tác quân lực - quân sự của Hàng không (tức là Không quân)". Vừa nói xong, đồng chí đưa tôi qua phòng đồng chí Trần Quý Hai để báo cáo đã giao cho tôi 2 nhiệm vụ: Quân lực, quân sự, và giữ chức Trưởng ban. Nhìn tôi đồng chí Hai hỏi: "Đồng chí Thụ đã rõ nhiệm vụ chưa?" - "Thưa đồng chí, quân lực - quân sự tôi chưa hề làm" - "Đồng chí ở đơn vị nào về?" - "Thưa đồng chí, tôi là lính chiến ở trung đoàn 66 đã tác chiến ở chiến trường D".

        Cuối chiến dịch cấp trên đã đề bạt tôi lên cấp tiểu đoàn trưởng, giữ chức tham mưu phó trung đoàn 66. Tôi đang xây dựng doanh trại cho đơn vị thì có lệnh điều tôi về Hàng không. Về tới nơi làm việc, đồng chí Diêu đưa cho tôi một bản danh sách 10 đồng chí trợ lý: Đồng chí Xương, đồng chí Hoàng, đồng chí An, đồng chí Cường, đồng chí Cẩn, đồng chí Đào, đồng chí Tám, đồng chí Thịnh, đồng chí Hậu, đồng chí Hóa. Đồng chí Diêu dẫn tôi về nơi ở và làm việc của Ban Quân lực - Quân sự, giới thiệu tôi là trưởng ban, anh em vui mừng hoan hô, tưởng rằng tôi là cán bộ của Không quân, là chỗ dựa cho anh em hoạt động, không ngờ rằng tôi là cán bộ quân sự ở bộ binh về.

        Qua tìm hiểu tình hình, tôi được biết cơ quan đang trong quá trình hình thành, đơn vị có duy nhất sân bay Gia Lâm mới tiếp quản Khu 100 ngày (10-10-1954). Các đồng chí vào tiếp quản là Nguyễn Văn Giáo, Hà Đổng, Hà Cân, Đức Việt (người Đức), Đoàn Mạnh Nghi, Trần Sự đồng chí Tình. Bộ mới bổ sung thêm tổ thông tin gồm 40 - 50 người và tiểu đoàn Trấn Ninh do đồng chí Văn, tiểu đoàn trưởng bảo vệ canh gác sân bay Gia Lâm.

        Trong thời gian này, cố vấn không quân Liên Xô Maliôp sắp về nước và đoàn cố vấn không quân Trung Quốc gồm 30 người do đồng chí Chu Mai Đình phụ trách đã có mặt.

        Trước tình hình như vậy, tôi nghĩ cần phải dựa vào tập thể 10 trợ lý để phân công công tác, đăng ký đi nắm tình hình ở từng cơ quan, đơn vị. Cứ đến 16h30 chiều, toàn Ban hội báo, phân công, bổ sung công tác cho hôm sau. Hàng ngày 7 giờ sáng các trưởng ban lên hội báo tình hình công tác với trưởng phòng tham mưu. Trong một thời gian ngắn nề nếp công tác của các ban Phòng đã được xây dựng.

        Ngày 3-3-1955, Bộ Quốc phòng đã có Quyết định số 220 QĐ/QP thành lập Ban nghiên cứu Sân bay, phiên hiệu C47 được hình thành từ 4 phòng: Tham mưu - Chính trị - Hậu cần - Kiến trúc, cơ sở tại sân bay Gia Lâm, do đồng chí Trần Quý Hai phụ trách. Ngày 3-31- 1955 đã trở thành ngày truyền thống của Không quân nhân dân Việt Nam .

        Bộ Quốc phòng tiếp tục bổ sung về rất nhiều cán bộ cho Ban nghiên cứu Sân bay và giao nhiệm vụ tổ chức một bộ phận cán bộ đủ thành phần để Bộ đưa về tiếp quản sân bay Cát Bi (Khu 300 ngày). Sau khi tiếp quản sân bay Cát Bi, bộ cho phép tổ chức 4 sân bay có sẵn: Mường Thanh, Nà Sản, Vinh, Đồng Hới và một số bãi hạ cánh phục vụ máy bay quốc tế, như Tiên Yên, Đông Triều , Mai Pha (Lạng Sơn) . . . .

        Tháng 5-1955, đồng chí Đặng Tính về thay đồng chí Trần Quý Hai lên Tổng tham mưu phó. Tuy vậy, vấn đề cốt lõi và quan trọng nhất để xây dựng lực lượng không quân vẫn chưa có: Người lái, người kỹ thuật và máy bay. Bộ Tổng tham mưu thấy trước việc này, đã chỉ thị cho toàn quân tuyển chọn người có trình độ văn hóa (tốt nghiệp tiểu học - Primerơ trở lên) , sức khỏe loại A đặc biệt, lý lịch rõ ràng, trong sạch và có đạo đức tốt. Các đơn vị tuyển chọn được bao nhiêu người thì giới thiệu về tạm trú tại Liễu Giai, Quần Ngựa. Bộ giao cho Cục Quân lực và Cục Bảo vệ phụ trách, lấy cán bộ quân lực, cán bộ tổ chức và tổ y bác sĩ của Ban nghiên cứu sân bay lập thành đoàn cùng đi từng địa điểm trên để tuyển chọn, xác minh. Cuối cùng 140 người đã được chọn đi học lái máy bay toàn bộ hồ sơ, lập danh sách đưa về Bộ duyệt.


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 26 Tháng Bảy, 2016, 07:18:55 pm

        Tôi được Chính ủy Đặng Tính giao cho lên Cục Quân lực xin giấy giới thiệu ra Bộ Ngoại giao làm hộ chiếu cho đoàn đi học, việc lạ tôi chưa thấy bao giờ: Là lính dép cao su, qua vọng gác Bộ Ngoại giao vào đến nơi tiếp giấy có thảm nhung đỏ trải trên đường vào, tôi toan thò tay tháo dép thì đồng chí dẫn đường bảo không cần, cứ đi theo đồng chí lên thẳng vào phòng ở tầng 2. Tôi được giới thiệu là cán bộ ở Bộ Quốc phòng sang xin làm thủ tục ngoại giao cho một lớp đi học lái máy bay. Đồng Ung Văn Khiêm, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, bắt tay tôi hỏi công việc, đồng chí vui lắm vì nay ta có máy bay (tôi nghĩ bụng mới chỉ chọn được người mà chưa có máy bay đâu). Đồng chí đã mời đồng chí Vụ trưởng Châu Á đến. Sau khi nhận bản danh sách trích ngang kèm theo 280 ảnh 3 x 4 và 140 bộ hồ sơ, đối chiếu từng bản một, hồ sơ đủ tốt, đồng chí hẹn 3 ngày đến nhận hộ chiếu. Từ thảm đỏ ra, tôi lại cuốc bộ về Gia Lâm, trong lòng phấn khởi vì công việc thuận lợi và rất ấn tượng khi lần đầu đến Bộ Ngoại giao. Đến hẹn, tôi lên Bộ Ngoại giao nhận quyển hộ chiếu tập thể và 1 hộ chiếu ngoại giao cho đồng chí trưởng đoàn Đào Đình Luyện. Để đảm bảo an toàn hồ sơ, tôi đã gọi xích lô về Gia Lâm. Về đến nơi, người tôi cảm thấy mệt lả dần, cảnh vệ vọng gác bế tôi xuống dìu về cơ quan khi 2 tay vẫn ghì chặt cặp tài liệu và hộ chiếu vào ngực.

        Bộ Quốc phòng đã phát trực tiếp đủ trang phục cho 140 học viên. Ngày 12-2-1956, đồng chí Đào Đình Luyện dẫn 3 đội 140 người lên tàu liên vận ở ga Hàng Cỏ. Cán bộ, cơ quan Bộ, thủ trưởng các cơ quan Ban nghiên cứu Sân bay ra tiễn chân đến lúc tàu chuyển bánh. Sau đoàn này, Bộ có gửi một tốp đi học trực thăng ở Liên xô do anh Phạm Đình Cường phụ trách.

        Cục Quân lực cùng Ban Quân lực Ban nghiên cứu Sân bay tuyển tiếp được 200 người tập trung bồi dưỡng văn hóa vài tháng. Tháng 8-1957, đồng chí Võ Duy Cư, đồng chí Dưỡng dẫn đoàn 200 người sang Đông Bắc, Trường Xuân, Trung Quốc học kỹ thuật máy bay, anh em đặt tên đoàn này là đoàn Hồ Nam. Thời điểm này, Bộ thông báo Bác Hồ đã gửi thư sang Liên Xô xin viện trợ tàu bay. Được Liên Xô đáp ứng sẽ viện trợ, đoàn đồng chí Đào Đình Luyện chia ra học 2 loại: Máy bay cánh quạt và máy bay phản lực. Khi chính thức Liên Xô thông báo viện trợ cho ta 40 tàu bay MIG- 17, trong đó có 4 chiếc UMIG là máy bay huấn luyện, cũng là lúc đoàn Hồ Nam cùng nhập về với đoàn đồng chí Luyện.

        Trung Quốc rất hữu nghị cho phép ta tổ chức đoàn bay cả trên không và mặt đất tại sân bay Cao Mật, tỉnh Sơn Đông. Đồng chí Đào Đình Luyện - Đoàn trưởng, đồng chí Đỗ Long - Chính ủy, đồng chí Lê Văn Thọ - Tham mưu trưởng đóng quân ở đó được phía Trung Quốc cử giáo viên luyện và thực tập thành thạo.

        Tình hình trong nước đế quốc Mỹ leo thang gây chiến tranh phá hoại lấn sâu ra miền Bắc. Được sự đồng ý của phía Trung Quốc, đoàn đã chuyển về sân bay Mông Tự giáp biên giới Việt Nam để bay về nước. Ngay trận ra quân đầu tiên (3-4-1965), Không quân Việt Nam đã đánh thắng không quân đế quốc Mỹ trên bầu trời Hàm Rồng - Thanh Hóa.

        Đồng thời với các đoàn cử đi học lái máy bay và kỹ thuật ở trên, từ đồng chí Cục trưởng Đặng Tính đến các cán bộ ở cơ quan chỉ huy và đơn vị luân phiên từng đoàn qua đào tạo ở Liên Xô và 4 đoàn qua đào tạo ở Học viện Không quân nhân dân Trung Quốc để đồng bộ với nhiệm vụ chỉ huy và xây dựng lực lượng Không quân Việt Nam phát triển mạnh như ngày nay.

        Là cán bộ bộ binh về Không quân từ lúc ban đầu mới hình thành với một số ít người và rất nhanh chóng trở thành một lực lượng lớn mạnh, hiện đại, cùng tham gia đánh thắng không lực Hoa Kỳ trên đất nước ta, tôi có đóng góp chút ít hoạt động và xây dựng, nay ghi lại vài sự việc với tình cảm của mình với lực lượng không quân để cùng bạn đọc nhớ lại "Cái mới hiện tại trên cái gốc ban đầu”.

        Năm 1985, nhiều cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên Không quân nghỉ hưu, chuyển ngành, phục viên ở khu vực Hà Nội mong muốn gặp nhau thành tổ chức, cùng ôn nghiệp cũ. Tôi tự nguyện nhận nhiệm vụ đi động viên và thu nạp về 50 hội viên. Ban liên lạc được cử ra gồm 8 người (các đồng chí: Thanh Quân, Mai Quân, Lê Minh, Tô Minh, Văn Đức, Đoàn Mạnh Nghi, Trần Sự và tôi Nguyễn Văn Thụ) do anh Thanh Quân làm trưởng ban, tôi làm thường trực phụ trách tổ chức. Cứ ngày 3 tháng 3 hàng năm, Hội lại họp mặt sinh hoạt tại Bảo tàng Quân đội. Hội đã phát triển nhanh chóng lên đến hàng trăm người. Năm 1990, đồng chí Hoàng Ngọc Diêu, trưởng phòng tham mưu đầu tiên, nguyên Tổng cục trưởng Hàng không dân dụng về nghỉ hưu, Ban liên lạc đã mời đồng chí làm trưởng ban. Các thành viên Ban liên lạc trước đó lần lượt ra đi và các thành viên mới được tiếp tục bổ sung. Đến hôm nay, 3-3-2004 Ban liên lạc có 25 ủy viên với hơn 1000 hội viên ở khu vực Hà Nội. Cũng năm 1990, Ban liên lạc Không quân Hà Nội được Thường vụ Đảng ủy Quân chủng Không quân (đồng chí Phạm Thanh Ngân) chấp nhận. Từ đó đến nay, cứ ngày 3-3 hàng năm, ngày truyền thống của Không quân Việt Nam, Ban liên lạc lại tổ chức để các hội viên về họp mặt sinh hoạt tại Quân chủng Không quân.

Ngày 2 tháng 9 năm 2004.       


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 26 Tháng Bảy, 2016, 07:31:43 pm
        
SÂN BAY GIA LÂM NGÀY GIẢI PHÓNG THỦ ĐÔ

VŨ THÀNH        

        Ngày 10-10-1954, khi Quân đội nhân dân Việt Nam tiến vào tiếp quản Thủ đô, kế hoạch tiếp quản sân bay Gia Lâm cũng đã được vạch ra và chia làm hai bước. Sau khi bộ đội ta tiến vào chiếm lĩnh sân bay, ta phải tiến tới quản lý, điều hành sân bay về chuyên môn kỹ thuật và nắm toàn quyền chỉ huy cho phép máy bay lên xuống. Tạm thời một số sĩ quan, nhân viên và một đội bay người Pháp được ở lại sân bay làm các công việc kỹ thuật, chuyên môn phục vụ việc đi lại của ủy ban Quốc tế bằng đường không. Đứng đầu là viên quan tư Phiama. Ta bắt họ phải báo cáo kế hoạch bay hằng ngày, họ phản ứng gay gắt. Họ kiện lên của ủy ban Quốc tế (UBQT) giám sát và kiểm soát hiệp định đình chiến ở Việt Nam rằng, phía Quân đội nhân dân Việt Nam gây trở ngại cho họ bay phục vụ UBQT, do đó họ phải đình các chuyến bay v. v. . .

        Ta kiên quyết bác lại: Đây là vấn đề bảo vệ chủ quyền của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Ta chứng minh rõ là không hề gây trở ngại đến việc đi lại của UBQT.

        Trưởng đoàn Nguyễn Văn Tiến đã được thông báo trước một số chuyến bay họ vi phạm hành lang không phận: Lợi dụng danh nghĩa phục vụ UBQT, họ tự tiện tổ chức những chuyến bay lên Tây Bắc bắt liên lạc và tiếp tế cho bọn phỉ và gián điệp Pháp còn lại. Anh không đợi Phiama nói hết, bác luôn: "Không phải do yếu tố khách quan nào hết, mà là các ông cố tình không muốn báo cáo kế hoạch bay. Tôi lưu ý các ông đội bay Pháp đã lén lút tổ chức những chuyến bay vượt quá hành lang cho phép. Nên nhớ rằng, bầu trời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa không dung thứ bất cứ máy bay nào ra vào mà không được phép".

        Ngoan cố là bệnh cố hữu của những tên thực dân. Họ vẫn dây dưa không chịu báo cáo đầy đủ kế hoạch bay. Một đơn vị pháo cao xạ đã được điều lên lập trận địa ở hai đầu lên xuống sân bay. Không quân Pháp từng hiểu rất rõ uy lực của pháo cao xạ Việt Nam ở Điện Biên Phủ. Cuối cùng họ buộc phải chấp nhận quy định bay của ta.

        Tại hội nghị phái đoàn liên lạc quân sự hai bên ở Phủ Lỗ, một trong những điều cam kết của phía quân đội Liên hiệp Pháp là bàn giao lại cho ta mọi phương tiện, máy móc thuộc ngành Hàng không dân dụng để đảm bảo hoạt động bình thường cho sân bay trung tâm Gia lâm.

        Hôm bàn giao, tên quan hai Ácnu, mắt suốt ngày không rời cặp kính râm, mời Đổng và Thọ, hai cán bộ của ta đến chỗ nhận. Trong đống máy của chúng bàn giao có một máy vô tuyến điện sóng cực ngắn rất cũ kỹ, một khẩu súng bắn pháo hiệu gỉ, một ống nhòm kiểu cổ không có bộ phận điều chỉnh xa gần. Ngoài ra còn có một số máy như vừa bới ở đống sắt vụn ra.

        Ácnu nhếch mép cười chỉ vào đống máy móc nói:

         - Đây là tất cả những máy móc bên Hàng không dân dụng Pháp giao lại trước khi họ đi Sài Gòn. Máy móc hiện đang dùng thuộc nhà binh chúng tôi, dĩ nhiên là nay mai nó phải đi theo chúng tôi.

        Thọ dõng dạc nói:

        - Chúng tôi có đủ chứng cứ để bắt buộc các anh phải trả lại những máy móc của ngành Hàng không dân dụng mà các anh đã bí mật đánh cắp mang đi.

        Nói rồi, Thọ chìa cho hắn xem bản liệt kê các máy móc trước đã đặt ở vị trí nào trong sân bay và tháo dỡ đi từ lúc nào. Ác nu vội cầm lấy xem. Tay hắn run lên. Hắn câm lặng một lúc lâu rồi mới bật ra được lời chống chế: "Biết làm thế nào khác được khi tôi chỉ là một người thừa hành mệnh lệnh cấp trên".

        Đoàn cán bộ tiếp quản sân bay từ ba người ban đầu sau dần dần được điều động thêm. Tới cuối tháng 11-1954, đơn vị bảo đảm sân bay bắt đầu hình thành, gồm các ban: Điều phái (cơ quan phụ trách và quản lý các đường bay), khí tượng, thông tin, sân đường và các cơ quan chính trị, hậu cần. Tuy vậy đây cũng chỉ là cái khung và hầu hết cán bộ đều chứa được học gì về nghiệp vụ chuyên môn, kỹ thuật hàng không. Trong tâm tư mỗi người một câu hỏi được đặt ra cấp bách: Làm thế nào nhanh chóng nắm được kỹ thuật để đuổi cổ bọn sĩ quan, nhân viên kỹ thuật Pháp...


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 26 Tháng Bảy, 2016, 07:34:49 pm
        Chi bộ sân bay, chi bộ đầu tiên của bộ đội Không quân được thành lập với ba mươi đảng viên. Trong hội nghị đầu tiên, chi bộ bàn ngay một vấn đề nóng bỏng nhất, rất đúng với nguyện vọng của toàn thể cán bộ chiến sĩ lúc đó: Lãnh đạo đơn vị hoàn thành tốt nhiệm vụ tiếp quản sân bay, làm chủ sân bay về mọi mặt.

         Một lớp học ngắn ngày về chỉ huy bay được tổ chức, giáo viên là Hà Đổng. Học viên gồm 8 đồng chí ở các đại đoàn bộ binh mới được điều về. Về tài liệu giảng dạy, ta tham khảo một ít sách về hàng không của Pháp mà ta thu thập được.

        Bọn sĩ quan nhân viên Pháp ngạc nhiên thấy ngày ngày, một tốp mười quân áo xanh cứ ra đứng ở giữa sân bay chỉ trỏ, nhất là khi có máy bay lướt xuống hạ cánh thì tốp người đó chăm chú một cách kỳ lạ. Từ ngạc nhiên, chúng chuyển sang thái độ hằn học ra mặt khi thấy tốp người tụ tập ngay ở chân đài chỉ huy máy bay. Hai, ba người theo sau người mà chúng vẫn gọi là "thiếu tá” Đổng, đàng hoàng leo lên đài chỉ huy. Mặc dù dưới chân cầu thang chúng đã treo một cái bảng với những chữ thật đậm: "Chú ý, những người không phận sự cấm không được lên đài chỉ huy, nguy hiểm". .

        Một tên trông có vẻ lịch thiệp, cười xã giao ra đứng chắn ở đầu cầu thang.

        - Thưa ông thiếu tá, chúng tôi được lệnh của ngài quan tư Phiama, không được phép cho những người ngoài phận sự lên đài.

        Đổng đanh nét mặt lại nhìn thẳng vào mặt hắn:

        - Tôi hỏi các anh, ai làm chủ ở đây?

         Hắn không ngờ bị hỏi một câu đột ngột như vậy nên rất khó trả lời thẳng vào vấn đề, đành phải giở cái lý do chuyên môn của chúng ra:

        - Thưa ông thiếu tá, các ông lên đây sẽ làm cản trở đến việc chỉ huy máy bay của chúng tôi.

        Đổng vừa nghe hết câu nói của hắn đã cười lên một cách hài hước:

        - Tôi nói cho các anh biết, khi các anh muốn thì dù cho đàn bà đĩ điếm có lên đây, các anh vẫn cứ dang rộng đôi tay đón tiếp. Chúng tôi là người chủ của sân bay này, chúng tôi có đầy đủ quyền hạn lên nghiên cứu tình hình trước. Các anh cứ bình tĩnh làm công việc của các anh .

        Nói xong, Đổng giơ tay đón 3 đồng chí học viên ta lên và dẫn họ ra ngoài lan can phóng tầm mắt nhìn toàn cảnh sân bay.

        Vừa lúc đó có chiếc máy bay đacôta đang bay vào, chuẩn bị hạ cánh xuống sân bay. Bọn chúng tíu tít với công việc tiếp thu và chỉ huy bay. Những động tác làm việc của chúng không lọt khỏi tầm mắt của cán bộ ta. Đổng vẫn giả đò hút thuốc lá nhưng tai thì hết sức lắng nghe cuộc đối thoại giữa chúng và máy bay. Tay anh thọc vào túi áo va-rơi không phải vì rét, mà trong đó tay anh đang ghi lại những con số, những từ ngữ trao đổi giữa máy bay và bọn trên đài chỉ huy bằng một mẩu bút chì với cuốn sổ tay mỏng.

        Vừa nghiên cứu sách vở vừa quan sát thực tế như vậy lớp họe đã khắc phục khó khăn thiếu thốn về tài liệu và cả về kiến thức ít ỏi của giáo viên nửa. Chỉ qua ít ngày học tập, mọi người đã nắm được những bài học về công tác chỉ huy bay.

         Bộ phận thông tin ngoài việc sửa chữa lại các máy hiện có, còn phải nghiên cứu, tìm hiểu cách làm việc, hệ thống tần số liên lạc với trên không, học cách sử dụng các thiết bị máy móc dẫn đường, định hướng cho bay. Nhưng ta lại còn thiếu nhiều máy móc đó. Cán bộ và chiến sĩ phòng thông tin họp với nhau bàn cách khôn khéo khám phá những "bí mật nhà nghề ' của bọn Pháp.

        Sau nhiều lần quan sát và tiếp xúc với địch, trưởng ban thông tin Thọ thấy có thể bắt chuyện được với một viên cai ở xưởng sửa chữa thông tin. Y thường nhận thuốc lá mời của Thọ, khen thuốc lá Bắc Sơn ngon. Đôi khi qua trò chuyện, y thường than vắn thở dài về thời hạn quân dịch đã quá lâu ở Đông Dương. Y tỏ vẻ rất nhớ người vợ trẻ ở quê hương bên bờ biển Địa Trung Hải. Y mong cho chóng được xuống tàu trở về nước.

        Hôm thì Thọ đến mượn y cờ lê, tua vít, hôm thì đến mượn mỏ hàn. Điều đó đã trở thành nếp quen với viên cai và những nhân viên khác. Một hôm, Thọ đến nói với y rất tự nhiên:

         - Phiền anh bạn đồng nghiệp quá, chúng tôi đang cần thử lại cái máy thu vừa chữa xong thì ắc quy lại vừa hết điện.

        Y sốt sắng dẫn anh ngay sang phòng thu phát trung tâm bên cạnh mượn bình ắc quy. Hai người lúng túng mãi mới xỏ được đòn khênh. Trong lúc tìm cách khênh bình ắc quy, Thọ và Dần đã tranh thủ quan sát kỹ hệ thống máy móc của chúng.

        Một lần khác, Dần phát hiện trong căn nhà gỗ dựng trên bãi cỏ trước cửa ga, có thể bọn Pháp đặt một loại máy móc vô tuyến điện gì đó rất mới và bí mật. Chúng ra vào thường khóa cửa rất kỹ. Mọi người bàn cách khám phá điều bí mật đó, và phán đoán đây có thể là một loại máy định hướng cho máy bay.


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 26 Tháng Bảy, 2016, 08:12:12 pm

        Một buổi sáng trời hơi mù, Thọ đảo qua chỗ xưởng sửa chữa máy móc thông tin của bọn Pháp, anh thấy viên cai nọ đứng tựa trước cửa, hai tay khoanh trước ngực, đôi mắt lim dim, vẻ buồn bã đứng nhìn những làn sương đang bay. Thọ đến bắt chuyện:

        - Anh có thấy sương mù ở đây giống như quê hương anh không?

        - Sắp đến Noen rồi, ông bạn già của tôi ạ?

        - Vui lắm chứ, anh nghĩ thế nào?

        - Vui cái quái gì - rồi y phẫn nộ nói liền một mạch - không hiểu bọn Phiama còn giam hãm chúng tôi ở cái đất này đến bao giờ. Tôi thì tôi cứ muốn giao quách cho các ông để vù cho sớm.

        Thọ liền đưa tay lên chỉ căn nhà gỗ trước mặt một cách vô tư:

        - Nghe nói trong căn nhà kia, các anh có đặt một cái máy lý thú lắm thì phải? Người thợ yêu nghề bao giờ cũng thích được xem cái máy mới.

        Viên cai đánh chiếc xe Jeep đưa họ đến tận nơi. Trước mắt những người khách lạ hắn càng trổ tài, vừa làm vừa nói một cách khoe khoang.

        Hôm sau, Thọ và mấy đồng chí khác lại đến. Lần này hắn lạnh lùng ra mặt:

        - Các anh có giấy phép của ngài quan tư Phiama chưa?

        Hôm trước, hắn bị Phiama sạc cho một trận về tội tự tiện cho các đồng chí của ta vào xem máy nên hắn đâm nhụt.

        Gần 30 ngày chạy đua với thời gian, cán bộ, chiến sĩ ta đã hoàn thành về cơ bản các động tác chuẩn bị để có thể quản lý điều hành sân bay Gia Lâm.

        Mặt khác, trong hơn hai tháng đó, phái đoàn liên lạc của Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam đã nhiều lần đấu tranh vạch trần những hành động vi phạm những điều đã ký kết của phía quân đội Liên hiệp Pháp, đòi phải giao lại toàn bộ thiết bị máy móc của ngành Hàng không dân dụng đặt ở sân bay Gia Lâm. Chúng chối quanh chối quẩn rằng máy móc chỉ có thế thôi. Về thời hạn rút hết bộ phận nhân viên kỹ thuật còn lại thì chúng cứ khất lần. Chúng bí mật vận động UBQT tăng sức ép buộc ta phải để cho chuyên gia Pháp ở lại giúp đỡ việc chỉ huy, điều hành bay, với cái chiêu bài là để bảo đảm an toàn đi lại và tính mạng cho UBQT.

        Phái đoàn liên lạc của Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam kiên quyết đòi hỏi UBQT phải triệu tập hội nghị bàn việc trao trả hoàn toàn quyền quản lý chỉ huy sân bay Gia Lâm cho Việt Nam.

         Tại cuộc họp UBQT đã lên tiếng, chất vấn về trình độ quản lý, khả năng chỉ huy sân bay của ta. Đồng chí trưởng đoàn đại biểu của ta khoan thai, tự tin nói:

        - Trước đây, đã có nhiều người không tin rằng chúng tôi có thể kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, càng không thể nghĩ được rằng chúng tôi giành được chiến thắng Điện Biên Phủ. Nhưng điều đó hiện nay đã rõ như ban ngày, không ai có thể phủ nhận được. Vấn đề đặt ra ở đây không phải là chúng tôi có khả năng, điều kiện hay không mà là quân đội Liên hiệp Pháp phải rút hết bộ phận sĩ quan, nhân viên kỹ thuật còn lại ra khỏi sân bay.

        Trước những lời lẽ đanh thép và chứng cớ hùng hồn đó, bọn thực dân ngoan cố và những kẻ đồng lõa buộc phải câm như hến.

        Ngày 1-1- 1955, nhân dân Hà Nội tổ chức mít tinh trọng thể đón mừng Trung ương Đảng, Chính phủ và Hồ Chủ tịch về Thủ đô. Bộ Tổng tư lệnh quyết định phải hoàn thành xong nhiệm vụ tiếp quản sân bay Gia Lâm trước giờ đầu của ngày hội lịch sử đó. Mọi người đều hiểu đây là một nhiệm vụ có ý nghĩa chính trị quan trọng, phấn khởi quyết tâm thực hiện.

        23 giờ 45 phút, cán bộ và chiến sĩ đơn vị sân bay tập hợp chỉnh tề trước nhà ga. Sau đó, theo nghiệp vụ và cương vị của từng người tỏa ra nhanh chóng chiếm lĩnh các vị trí công tác, chững chạc, khẩn trương bắt tay vào việc.

        Bức điện báo được phóng lên không trung báo đi toàn thế giới: "Kể từ 0 giờ ngày 1-1-1955, theo giờ Hà Nội, Thủ đô nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, sân bay Gia Lâm không còn nằm trong khu quản chế Đông Dương nữa (trước đây, các sân bay Gia Lâm, Viên Chăn, Nông Pênh đều nằm trong khu vực quản chế Đông Dương do cơ quan điều phái trung tâm của Pháp đặt ở Sài Gòn chỉ huy) .

        Tất cả các máy bay muốn ra vào miền Bắc Việt Nam đều phải xin phép cơ quan điều phải của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đặt tại sân bay Gia Lâm”. Và thay bộ chữ F2.Y (tín hiệu của Pháp, bằng bộ chữ tín hiệu mới HN (phụ âm HN là đầu chữ Hà Nội).

         Trưa hôm đó, một chiếc máy bay đacôta của Pháp phục vụ UBQT bay từ Sài Gòn ra được phép xuống sân bay Gia Lâm. Các cán bộ, chiến sĩ không khỏi hồi hộp vì đây là lần đầu tiên ta đảm nhiệm việc chỉ huy. Vải chứ T, nơi quy định máy bay xuống được đặt nhanh chóng và trải đúng hướng gió. Bên đài chỉ huy cao ngất cạnh đường băng chính, các cán bộ điều phái phát lên máy bay những số liệu rõ ràng và chính xác. Máy bay từ từ hạ cánh, chiếc xe con từ trước nhà ga bon bon chạy ra, một chiến sĩ cao lớn đứng trên xe hai tay sử dụng cờ tín hiệu một cách khá thành thạo. Chiếc máy bay răm rắp theo cờ lệnh lăn vào sân đậu an toàn. Người chiến sĩ đó tên là Hùng, nhân viên điều phái đầu tiên của sân bay. Anh bước xuống xe dẫn viên sĩ quan lái máy bay Pháp vào làm thủ tục. Anh thấp hơn y nhưng tư thế rất hiên ngang, rắn rỏi, đôi mắt sáng và nghiêm đầy vẻ tự tin.

Hà Nội ngày 12-10-2000.       


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 26 Tháng Bảy, 2016, 08:23:02 pm
         
BÁC HỒ DẶN TÔI

Đại tá HOÀNG BẢO                               
Nguyên Chủ nhiệm sân đường bay Quân chủng PK-KQ,       
cán bộ tham mưu tác chiến bộ đội Tên lửa               
Chuyên viên tác chiến BTTM                       

        Công trường mấy hôm nay đang vào nước rút để gấp rút hoàn thành vào cuối tháng 6 năm 1957 kịp phục vụ cho ủy ban Quốc tế giám sát đình chiến đi lại, kiểm tra từ vĩ tuyến 17 trở ra Đồng Hới - Vinh. Đơn vị tôi xuất thân là đại đội cảnh vệ của Bộ Tổng tham mưu sau khi phục vụ xong lớp tập huấn cán bộ Bộ Tổng tham mưu toàn quân (tiểu đoàn 155 - Bạch Mai) đã kết thúc đầu tháng 3 năm 1955, được điều thẳng về Cục Không quân làm nhiệm vụ "Trường vụ”, tức là đảm bảo duy tu sửa chữa sân, đường bay cho bộ đội không quân sau này. Trước mắt là xây dựng bảo quản các công trình phụ trợ trên tất cả các sân bay dã chiến từ vĩ tuyến 17 trở ra để phục vụ cho các chuyến bay của ủy ban Quốc tế đi lại làm nhiệm vụ thanh sát, giám sát việc thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ trên khắp miền Bắc. Lúc này không quân ta mới chỉ có loại máy bay "AERO-45" chở được rất ít người thường hoạt động qua lại từ Tiên Yên - Lạng Sơn - Cao Bằng - Cát Bi - Gia Lâm ~ Vinh - Đồng Hới . . .

        Công trường chúng tôi gồm đại bộ phận đại đội công trình có nhiệm vụ phải gấp rút hoàn thành hệ thống tín hiệu trên sân bay Vinh. Hôm nay vô cùng bận rộn để tiếp đón phái đoàn từ Cục Hàng không vào giao nhiệm vụ mới. Nhìn cánh hàng vụ (bộ phận làm nhiệm vụ dẫn đường, chỉ huy) - khí tượng tất cả chạy đi chạy về, anh em chúng tôi đoán chắc là sắp có chuyện. Lúc sau đồng chí Dụng, cán bộ phụ trách sân bay Vinh gặp tôi thông báo: "Lát nữa khoảng 11 giờ sẽ có chuyến bay hạ cánh, anh Đặng Tính hẹn sẽ vào làm việc với chúng ta đấy". Đồng chí Đặng Tính lúc này vừa được điều về phụ trách không quân thay anh Trần Quý Hai, gặp chúng tôi anh cười rất tươi rồi vào đề ngay, không rào đón dài dòng: Có khách Trung ương vào các đồng chí phải chuẩn bị mọi mặt thật tốt từ khâu bảo vệ, kỹ thuật sân đường... Bây giờ tôi phải vào Đồng Hới chuẩn bị tiếp, tình hình có gì các cậu báo cáo cho mình vào phiên 17 giờ chiều nay nhé!".

        Khoảng 30 phút sau, hàng đoàn xe ô tô từ phía Quán Hành tiến về sân bay, nhìn từ xa đoàn hình thành ba nhóm: Nhóm đầu có 2 xe Jeep và 3 mô tô thùng Sidka - nhóm giữa khoảng năm đến sáu chiếc xe du lịch màu sữa và đen, loại sang thịnh hành thời đó là xe Phô-bê-đa. Ai cũng phỏng đoán có lẽ đồng chí cán bộ cao cấp đang đi trên chiếc xe nằm trong nhóm này, còn nhóm thứ ba có mấy chiếc xe GAZ-63 và xe vận tải. . . Ai nấy cứ chăm chăm tập trung chú ý xem mấy chiếc xe du lịch kia vào đến đâu thì ba-ri-e cổng gác đã mở; đi đầu là chiếc mô tô si-dơ-ca tiếp liền sau là chiếc xe Jeep cua gấp đỗ xịch ngay trước hàng rào đón khách của chúng tôi và từ trên xe đột ngột bước xuống là Bác Hồ; người mặc áo lụa, quần nâu đầu đội mũ cát, cằm quấn chiếc khăn mặt dài che kín chòm râu. Tất cả chúng tôi còn đương bàng hoàng xúc động, đứng ngây ra ngắm Bác, anh Dụng vừa định hô: "Hồ Chủ tịch..." thì Bác đã giơ tay ngăn lại. . . "Thôi thôi trả lời Bác đây, chú mô phụ trách ở đây? Tôi bước lên một bước - thưa Bác cháu ạ! - Chú bao nhiêu tuổi? - Quê ở mô? Bác vừa hỏi dồn dập, vừa kéo tay tôi dắt vào trong nhà ga. . . Thấy chúng tôi trang phục quần áo xanh công nhân đồng bộ, Bác hỏi lương các chú mỗi tháng được bao nhiêu? Đồng chí Nguyễn Chí Thanh đi cùng, ghé tai Bác nói nhỏ: "Các cậu ấy là bộ đội ta cả đó" (hồi đó để tiện hoạt động và tránh dư luận xuyên tạc cho ta tăng cường lực lượng chiến tranh phát triển không quân nên chúng tôi được trang bị như công nhân). Bác gật đầu khen tốt và vẫy gọi, mời cả hai tiểu đội công trình đang xếp hàng đón Bác ngoài sân vào cả trong ga hàng không cùng ngồi quây quần quanh chiếc bàn lớn, xung quanh ghế ngồi toàn bằng những tấm gỗ bắp...


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Bảy, 2016, 07:27:17 am

        Tôi hô anh em: Nghiêm! 'Báo cáo vắn tắt để Bác nắm được: "Báo cáo Bác và Trung ương, máy bay đón Bác đã có mặt, hiện còn tiếp tục chuẩn bị kỹ thuật và lấy thêm dầu, thời tiết tốt, sân đường đang được kiểm tra, chờ lệnh Bác". Bác nói luôn đại ý: Sau mấy chục năm đi xa, nay lần đầu Bác được Trung ương cho phép về thăm quê, Bác rất vui, các chú cứ chuẩn bị kỹ mọi mặt rồi Bác quay ra hỏi chuyện chúng tôi: ở đây có nóng không? Tất cả đồng thanh, thưa Bác có ạ - Bác kể cho các chú nghe: Ngày xưa đã có lần Bác đến một sân bay ở Iran, các chú có biết Iran ở mô không? Thấy anh em ngơ ngác tôi vội đỡ lời thưa Bác ở bên bờ Hồng Hải ạ. Tôi có hỏi chú đâu, tôi hỏi anh em kia mà. Nói rồi Bác tiến ra sảnh phía trước nhà ga (nơi đây chỉ là một bãi đất nện) Bác cầm một que nứa vạch xuống đất vị trí kênh đào Suy-ê, Hồng Hải, Bác vừa giải thích lại vừa dịch sang tiếng Trung Quốc cho đồng chí phi công nghe, đồng chí phi công Trung Quốc dường như rất cảm động, cứ đứng ngây người ra nghe không dám nói gì. Bác kể rằng: "ở Iran nhiệt độ trên sân bay thường trên 40 độ, không có lấy một bóng cây, người ta phải vẽ, kẻ rồi sơn xanh hình cây cối lên các tấm tôn rồi dựng lên trên sân bay để lấy bóng mát. (chi tiết này nói đến thời gian Bác hoạt động ở Iran, sau đó có nhà sử học biết tin đã tìm gặp tôi để hỏi xem cụ thể thời gian vào năm nào). Bác mở hộp thuốc lá Trung Hoa bài loại 50 điếu mời mọi người hút. Tôi vốn nghiện và rất thích thuốc lá thơm nhưng không thấy ai dám lấy hút nên cũng ngại không dám tự nhiên; nhân lúc Bác bỏ điếu thuốc hút hút dở ra bàn để nói chuyện. Tôi bèn cầm điếu thuốc dở đó định hút tiếp thì Bác chặn tay tôi nói: "Gái một con - thuốc ngon nửa điếu, thuốc thiếu gì trong hộp, sao chú không hút, lại hút thuốc của Bác?" nói đoạn Bác hỏi luôn tôi: "Chú đã có vợ chưa?" thưa Bác chưa ạ. Bác lại khuyên tôi bây giờ nước ta còn nghèo, dân ta còn khổ, ít năm nửa thống nhất, độc lập đời sống khá giả lên sẽ lấy vợ. . . Bác cũng thế? Tôi và mọi người đều thật sự bất ngờ, cười vui; Bác còn dặn tôi rất kỹ là khi nào lấy vợ phải cho Bác biết đấy nhé.

        Đồng chí trưởng cơ chạy vào báo cáo máy bay đã chuẩn bị xong! Mời đoàn lên đường, Bác nhanh nhẹn đứng dậy, rít một hơi thuốc lá dài, xong vứt đầu mẩu vào góc nhà rồi lấy chân di di cho thật tắt hẳn, sau đó lại súc miệng nhổ nước vào chỗ đó cho yên tâm, Bác còn nhắc: "Mùa này nắng nóng dễ hỏa hoạn lắm, các chú còn nhớ năm vừa rồi cháy chợ Vinh chứ?". Nói xong, bằng động tác quân sự rất thành thạo Bác hô to tập hợp một hàng dọc "điểm danh - một". Sau Bác là đồng chí Nguyễn Chí Thanh đang mải dặn tôi: "Khi máy bay cất cánh thì báo điện về ngay cho Trung ương" Bác lấy khuỷu tay hích về sau "Chú Thanh - hai đi!". Đoàn 5 người của Bác lần lượt lên máy bay còn quay lại vẫy vẫy...

        Sáu năm sau, khi tôi xây dựng gia đình, cứ băn khoăn mãi là có nên báo cáo với Bác không. Tôi báo cáo lại với anh Đặng Tính và gửi anh cái thiếp mời Bác, nghĩ là để khỏi thất lễ thôi chứ Bác trăm công ngàn việc đại sự làm sao mà nhớ được câu chuyện rất nhỏ mà đã quá xa xưa cũ kỹ ấy. . . Thế nhưng thực sự điều không thể ngờ được là đúng lúc đón dâu về nhà tôi ở 43 Hàng Bài đêm 29 tháng 11 năm 1963 ấy, cả hai họ đang mừng vui lại càng vui hơn khi xuất hiện thêm cụ già râu dài với bộ bà ba lụa nâu đến dự. Cụ tự giới thiệu là Vũ Kỳ, thư ký của Bác Hồ được cử đến, tiếng cụ sang sảng: "Thưa bà con hai họ! Sáu năm về trước trong chuyến về thăm quê lần đầu tiên của Bác, Bác có nói vui khi nào dân ta hết khổ, đất nước ta đỡ nghèo, Bác cháu ta cùng lấy vợ. . . Hôm nay nhận được thiếp mời của cháu Bảo, Bác rất tiếc vì công việc không thể đến chia vui với cháu và gia đình, gọi là có chút quà kỷ niệm Bác gửi chai rượu mừng, mong các cháu thật nhiều hạnh phúc. Cả đám tiệc bỗng lặng đi, ông cậu tôi, đại diện gia đình nhà trai không nói được câu nào, lặng đi vì quá xúc động cứ chắp tay vái, miệng lắp bắp: "Quý hóa quá! Cám ơn cụ Chủ tịch - Cám ơn Bác Hồ!!!".


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Bảy, 2016, 07:34:55 am
       
ĐI ĐÓN BÁC

Trung tá ĐẶNG ĐÌNH NINH             
Nguyên cán bộ kỹ thuật Đoàn 919       

        Chín giờ tối ngày 13 tháng 6 năm 1957, tôi được lệnh đến gặp anh Đặng Tính, Cục trưởng Cục Hàng không dân dụng để nhận nhiệm vụ quan trọng. Anh Tính hỏi tôi khá cặn kẽ về tình trạng của 6 máy bay, gồm 3 chiếc Li- 2 , 3 chiếc AERO - 45 .

        Sau khi nghe tôi báo cáo tình trạng máy bay, anh Tính nói: "Chúng ta có nhiệm vụ đưa một cán bộ cao cấp vào Vinh và Đồng Hới. Cục đồng ý chọn chiếc Li-2 số 203. Các đồng chí cho kiểm tra chiếc máy bay đó thật kỹ, thay hết xăng dầu cũ, bay thử rồi tổ chức canh gác cẩn mật, sẵn sàng cất cánh". Nhận nhiệm vụ, đội thợ máy chúng tôi đã làm việc hết mình với một tâm trạng rất phấn khởi. Bay thử xong, tôi lên báo cáo anh Tính và được chỉ thị: "Tới lúc cất cánh đi làm nhiệm vụ, các nhân viên tổ lái không được rời máy bay đi đâu nữa". Nghe được lệnh đó, tôi đoán già đoán non: Chỉ có máy bay chở Bác Hồ mới phải bảo đảm an toàn cao đến thế. Đêm ấy, một đêm trăng sáng lộng gió hè, chúng tôi trải bạt nằm dưới cánh máy bay chuyện trò đến sáng vì thao thức không sao ngủ được.

        Khác với lòng mong mỏi của chúng tôi, lúc máy bay cất cánh chỉ có anh Tính đi cùng tổ lái. Bởi lẽ "Bác đã đi Ô tô vào Vinh từ hôm trước. Chúng ta chỉ còn nhiệm vụ vào Vinh chờ sáng mai đón Bác vào Đồng Hới" – Bay qua vùng trời Phủ Lý, anh Tính nói với tôi như vậy.

        Sáng ngày 16, chúng tôi ra sân bay thật sớm, kiểm tra kỹ máy bay rồi bay thử một vòng. Còn hơn một tiếng đồng hồ nửa chờ đợi giờ phút được làm một nhiệm vụ đặc biệt, vinh dự trong đời. Cuối cùng giờ phút ấy đã đến. "Bác đến! Bác đến!" bỗng có ai reo to. Tôi chăm chú nhìn chiếc com-măng-ca mui trần từ từ tiến vào. Bác đội mũ cát-két, mặc áo ka-ki vàng đang mở cửa xe bước xuống. Ai cũng muốn chen đến đứng gần Bác. Trong nhà khách sân bay lúc này thật nhộn nhịp. Mấy phút sau đoàn xe du lịch gồm sáu chiếc pô-pê-đa mới nối đuôi nhau tiến vào sân bay.

        Đến giờ cất cánh. Cờ tín hiệu đã giơ cao, các nhân viên tổ lái đã ngồi vào vị trí, chỉ còn tôi đứng ở cửa máy bay. Bác đến gần tươi cười hỏi: "Các chú chuẩn bị xong rồi chứ?". Tôi lễ phép thưa: "Thưa Bác xong rồi ạ, mời Bác lên ạ". Tôi sung sướng được cầm tay Bác đỡ Bác.

        Đi theo Bác, trong đoàn còn có đồng chí Vũ Kỳ, bác sĩ Bảo, một cán bộ bảo vệ người Tày, một chiến sĩ cần vụ và 2 nhà quay phim. Bác ngồi ở chiếc ghế hàng đầu, sau chiếc bàn nhỏ. Anh Tính ngồi ở ghế sau Bác. Tôi tìm cách đứng ngay cạnh Bác để được ngắm Bác thật lâu, thật rõ. Trời nóng, Bác đã cởi chiếc áo ka-ki bạc màu, chỉ mặc chiếc áo may ô trắng, lộ hai cánh tay gầy gò nhưng rắn chắc.

        Mười lăm phút sau, máy bay bay qua vùng biển Hà Tĩnh, quê hương của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du. Sáng mùa hè nắng chói chang, nhìn xuống biển thấy lấp lánh những làn sóng bạc, đây đó nhấp nhô những cánh buồm nâu. Đang lúc chuyện trò vui vẻ, Bác chỉ tay xuống biển chậm rãi đọc mấy câu Kiều:

"Buồn trông cửa biển chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa... “
        Anh lính nhìn theo tay Bác, nghĩ một chút rồi tươi cười đọc tiếp:

“Bác về thăm lại quê nhà
Năm mươi năm ấy nay đà đổi thay”

        Phải, vừa đúng năm mươi năm đến hôm nay Bác mới về thăm quê, thăm lại mái nhà thân yêu đã gắn bó cả quãng đời niên thiếu, thăm lại những người thân mà nay đã người mất, người còn. Tôi hình dung cảnh Bác về quê nhân dân địa phương nồng nhiệt chào đón, đã nảy ra ý thơ và xin phép Bác đọc nối tiếp theo:

“Bác đi đen tối những ngày
Bác về cờ đỏ tung bay khắp làng...”


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Bảy, 2016, 07:36:20 am

        Bác chỉ mỉm cười nhìn tôi mà tôi sung sướng tưởng như nhận được một lời khen của Bác. Máy bay Li-2 từ Vinh vào Đồng Hới mất 45 phút. Đến nơi, tôi để ý thấy Bác chỉ nhìn xuống phía dưới rất ít thời gian, những phút giây còn lại, đôi mắt đăm chiêu của Người nhìn thẳng xa xa, phía trước, nơi có những đám mây đen đang vẩn đục chân trời, đây là miền Nam, từ vị trí máy bay đang bay, vào đến vĩ tuyến 17 theo đường chim bay chỉ không đầy 30 cây số. Chiếc máy bay mang phù hiệu cờ đỏ sao vàng trên đôi cánh, giá như được bay thẳng thêm vài phút nữa để Bác nhìn rõ mảnh đất đau thương của Tổ quốc.

        Buổi chiều, Bác đến dự mít tinh ở sân vận động thị xã và nói chuyện với nhân dân. Buổi tối, Bác làm việc với Tỉnh ủy Quảng Bình và gặp một số cán bộ lão thành của tỉnh. Nói sao hết nỗi vui mừng xúc động của những cụ già đã có nhiều công lao với cách mạng từ những vùng hẻo lánh xa xôi mới về gặp Bác.

        Theo kế hoạch, 7 giờ sáng hôm sau máy bay sẽ đưa Bác về Hà Nội nhưng một sự việc bất thường đã làm kế hoạch phải thay đổi. Theo Nha khí tượng thông báo: Khoảng 8 giờ sáng hôm sau có cơn giông xuất hiện trên dọc đường bay từ Đồng Hới ra Hà Nội. Không còn cách nào khác, anh Tính điện xin phép Bác cho xuất phát về từ 5 giờ sáng.

        4 giờ 30 phút, chúng tôi vừa kiểm tra máy bay xong thì ô tô đưa Bác đến sân bay. Trời chưa sáng. Lúc chờ đợi, Bác vẫy tay bảo chúng tôi cùng ngồi xuống vạt cỏ còn ướt đẫm sương đêm ở gần máy bay trò chuyện. Bác hỏi tuổi, hỏi quê hương từng người rồi Bác khuyên: "Nước ta còn nghèo, chưa có nền khoa học hiện đại, các chú phải cố gắng học tập để nhanh chóng làm chủ khoa học kỹ thuật, phục vụ cho một ngành hàng không tiên tiến”.

        Đúng 5 giờ, trời vẫn chưa sáng rõ, đường băng còn bị phủ một lớp sương mờ, lái chính Trần Cẩn Trọng xin phép Bác cho thêm 5 phút để bay thử một vòng sau đó máy bay theo đường bay ra Hà Nội. Sau 1 giờ 40 phút, máy bay về đến Hà Nội. Được Bác cho phép, anh Tính bảo tổ lái cho máy bay lượn quanh thành phố 3 vòng. Lúc này chúng tôi vất vả với 2 nhà quay phim cứ như muốn thò đầu ra khỏi máy bay để quay quang cảnh thành phố. 6 giờ 50 phút máy bay hạ cánh an toàn xuống sân bay Gia Lâm và từ từ lăn bánh vào sân đỗ.Người đón Bác đầu tiên khi Bác xuất hiện trước khung cửa máy bay là vợ đồng chí Bộ trưởng Trần Quốc Hoàn. Chị bước đến chân cầu thang chắp tay chào lễ phép: "Bác ạ". Các cán bộ đứng sau chị cũng chào theo: "Bác ạ! Bác đã về ạ!". Không có hoa, không nghi thức trịnh trọng, cuộc đón tiếp Bác về thật giản dị và cũng thật đầm ấm thân tình.

        Hai ngày sau. Một chiếc xe đón chúng tôi sang Phủ Chủ tịch. Bác đã dành ra đúng một giờ để tiếp chúng tôi Lúc phải chia tay, tôi bùi ngùi nhìn đôi mắt thâm quầng của Bác sau bao đêm thiếu ngủ và thưa: "Bác đi nghỉ ạ?". Bác cười đôn hậu nhìn tôi: "Bác phải đi làm việc chứ!". Thế đấy, Bác phải đi làm việc chứ.

        Hai mươi năm sau, khi vào lăng viếng Bác, nhìn lại nét mặt thanh thản của Người, tôi như thấy văng vẳng đâu đây vọng lại tiếng thơ xúc động: "Cả cuộc đời Bác có ngủ yên đâu, nay Bác ngủ chúng con canh giấc ngủ. . ."

Hà Nội, tháng 4 năm 2001.       


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Bảy, 2016, 07:40:38 am
       
NHỮNG NGÀY ĐẦU CỦA NGÀNH THÔNG TIN KHÔNG QUÂN

NGUYỄN DẦN       

        Mới tiếp quản Thủ đô được hơn 1 tháng, tới ngày 3-12 - 1954, tôi được giao nhiệm vụ tham gia xây dựng binh chủng mới: Binh chủng Không quân. Sáng hôm sau chúng tôi Long, Hạnh, Thạnh, tôi và 2 điện thoại viên Chi, Sáng đã ba lô lên đường.

         Tôi đã nhiều lần được biệt phái, phối thuộc các đơn vị chiến đấu nhưng sau khi kết thúc nhiệm vụ lại trở về C 101 là đại đội VTĐ duy nhất của Bộ tổng Tham mưu. Lần này ra đi sẽ không trở về nửa nên cũng quyến luyến khi chia tay đồng đội đang cùng gắn bó nhiều năm trong kháng chiến gian khổ, hào hùng.

        Chúng tôi cuốc bộ từ cột cờ qua cầu Long Biên, phố phường đông đúc, còn nhiều cờ hoa của ngày 10-10. Vừa đi vừa ngắm cảnh Hà Nội, chẳng mấy chốc đã tới sân bay.

        Trước mắt chúng tôi hồi ấy, sân bay Gia Lâm thật là rộng lớn, nhưng chỉ có nhà không. Chúng tôi trải chiếu ra nền chỉ một thoáng đã ổn định chỗ ở.

        Anh Lê Đức Thọ, cán bộ của Cục TTLL phụ trách nhiệm vụ là tiếp quản phần thông tin của sân bay do bọn Pháp bàn giao vào ngày 31-12-1954 và phải lập tức làm việc để từ ngày 1-1-1955 bảo đảm cho sân bay hoạt động bình thường dưới sự quản lý của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

        Chúng tôi chưa ai biết hệ thống thiết bị, mạng thông tin hàng không, nội dung, phương pháp làm việc nên phải tìm hiểu ở 1 công nhân lưu dung và ngay ở bọn Pháp. Nhờ biết tiếng Pháp và ít tiếng Anh nên tôi cũng có chút thuận lợi. Sáng thứ 2 và chiều thứ 7, 1 liên đội Pháp dẫn chúng tôi ra trạm phát ở góc ngã tư đường Nguyễn Văn Cừ bây giờ để mở hay tắt máy rađiô phare (máy dẫn đường) lúc đó tín hiệu sân bay Gia Lâm là HYJ, 1 lần ra xem đài rađiô Marker "MO" ở rìa đê đầu Nam. Máy phát HE chỉ có 2 chiếc cũ kỹ song công suất lớn cỡ 500w. Tại một phòng dưới chân đài CH có 2 bộ thu phát thoại VHF ở BCR, có 4 - 5 máy thu HRO. Xem chúng làm việc, có thể thấy trình độ kỹ thuật thu phát bình thường, phương pháp liên lạc như kiểu đối thoại, người báo vụ phải biết luật Q hàng không quốc tế, những chữ tắt xen lẫn tiếng Anh hoặc Pháp. Cần phải có 1 tài liệu tối thiểu. Tài liệu này được ban điều phái trao cho mấy ngày sau đó. Thế là đủ chúng tôi sẵn sàng làm nhiệm vụ. Ngày 31-12-1954 ta tiếp nhận sân bay vào lúc 0 giờ 1- 1- 1955 , có đông các chỉ huy, lãnh đạo chứng kiến, tôi tự tay phát đi bức điện đầu tiên bằng tiếng Pháp, thông báo cho thế giới "Sân bay Gia Lâm tiếp tục hoạt động dưới sự quản lý của ngành Hàng không nước Việt Nam dân chủ cộng hòa".

        Trên mạng lục không khu vực ĐNA có các đài Hồng Kông, Băng Cốc, Sài Gòn, Viên Chăn. Mở máy, tôi bắt đài Hồng Kông và phát bức điện lịch sử đó, nhờ Hồng Kông tiếp chuyển cho khu vực và thế giới.

        Sáng ngày 1-1-1955, ta liên lạc tốt với Nam Ninh, Trung Quốc, tiếp nhận 1 máy bay Li-2 của Ba Lan hạ cánh an toàn.Trong ngày ta bắt liên lạc với sân bay Cát Bi còn do Pháp đóng trong khu vực 300 ngày. Tân Sơn Nhất và Viên Chăn (Lào) sẵn sàng bảo đảm hoạt động cho máy bay của ủy ban Quốc tế.

        Nhiệm vụ đã được hoàn thành tốt đẹp chúng tôi tự hào tuy là những chiến sĩ VTĐ bộ binh, mới đây chưa đầy 1 tháng vốn chỉ quen với máy 15w và Ragônô mà nay đã làm tốt công việc của người thông tin hàng không như những người chuyên nghiệp không thua kém gì bọn Pháp.

Gia Lâm, Hà Nội, 2004.       


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Bảy, 2016, 07:48:14 am
       
ĐẠI ĐỘI 22 LÀM NHIỆM VỤ QUAN TRỌNG ĐẦU TIÊN

PHẠM QUANG CỰ       
Sóc Sơn Hà Nội         

        Tôi nghỉ hưu đã hai lăm năm. Cũng có nghĩa là đã hai lăm năm xa đơn vị. Nhưng, nhiều kỷ niệm đẹp còn lưu nhớ mãi trong tôi. Xin kể mẩu chuyện về kỷ niệm đẹp đầu tiên của đại đội chúng tôi. Đại đội chúng tôi làm nhiệm vụ tiếp quản hệ thống thông tin và phục vụ thông tin sân bay Nội Bài, mang phiên hiệu đơn vị là đại đội 22.

        Đại đội 22 được hình thành từ đầu năm 1964. Tôi nói từ hình thành là bởi lẽ về cơ cấu tổ chức cứ phát triển dần theo yêu cầu tiếp quản sân bay. Cuối 1963 đầu 1964 mới chỉ mươi lăm cán bộ kỹ thuật vô tuyến, hữu tuyến, Cục Không quân điều đến Nội Bài để tiếp cận, nắm bắt, học hỏi việc thi công lắp đặt máy móc trang thiết bị thông tin các đài trạm. Sau đó, bộ khung ban chỉ huy đại đội mới được điều về và quân số đơn vị lần lượt tăng nhanh theo yêu cầu.

        Cho đến tháng 6-1964 thì tổ chức đại đội 22 mới thực sự ổn định, có quân số 228 người. Tôi cũng được điều về trong dịp này.

        Về đại đội 22 tôi là người mới; thực ra thì tôi là cũ, là người lính thông tin đầu tiên của sân bay Nội Bài.

         Năm 1960, tôi là thành viên trong đoàn cán bộ kỹ thuật quân sự biệt phái sang Bộ GTVT làm ở "Ban thiết kế xây dựng sân bay Thủ đô" (tức là sân bay Nội Bài bây giờ).

        Nhờ có thời gian bốn năm công tác thiết kế và giám sát thi công các công trình T.T sân bay nên về đại đội 22 bước đầu tôi có nhiều thuận lợi. Có lẽ vì vậy, cấp trên quyết định tôi là đại đội phó phụ trách kỹ thuật đại đội 22 .

        Nhiệm vụ đầu tiên tôi được giao là: "Chuẩn bị thông tin tốt. Đón trung đoàn 921 về sân bay an toàn".

        Xác định đây là một nhiệm vụ hết sức quan trọng. Bởi lẽ trung đoàn không quân tiêm kích đầu tiên về nước là mơ ước ngàn đời của dân tộc.       

        Từ xa xưa đã có truyền thống Thánh Gióng phi ngựa sắt dẹp giặc ân rồi bay thẳng lên trời.

        Đến nay ta mới có đàn chim sắt, đại bàng vươn cánh. Đúng vào thời điểm Tổ quốc đang cần lực lượng trên không canh giữ bầu trời diệt bầy quạ Mỹ thì trung đoàn không quân tiêm kích đầu tiên Quân đội nhân dân Việt Nam xuất hiện kịp thời. Có lẽ, đại đội 22 là đơn vị thông tin đầu tiên được phục vụ trung đoàn không quân tiêm kích đầu tiên trung đoàn 921.

        Nhận thức được nhiệm vụ nặng nề và rất vinh dự vẻ vang, cán bộ chiến sĩ đại đội 22 rất phấn chấn làm việc quên mệt mỏi ngày đêm.

        Chúng tôi có một tháng để chuẩn bị. Nếu là một sân bay đã và đang hoạt động thường xuyên và nếu là đơn vị đã từng phục vụ thông tin không quân từ trước thì một tháng chuẩn bị là quá dài. Song đối với đại đội 22 chúng tôi ở bối cảnh lúc đó lại thấy một tháng chuẩn bị để đón một trung đoàn bay về là quá ngắn.

         Nội Bài là sân bay cấp 1 đầu tiên vừa xây dựng xong. Máy móc, trang thiết bị thông tin phần lớn là của Trung Quốc. Đại đội có ba kỹ sư thì một học Bách Khoa Hà Nội, hai học ở Liên Xô và Ba Lan về đều mù chữ Hán.

        Cán bộ chiến sĩ hầu hết được lựa chọn đảng viên, đoàn viên thợ giỏi các đơn vị về. Nhưng đa số là lính bộ binh sang, lần đầu tiên về không quân không khỏi lạ lẫm bỡ ngỡ. Lạ từ tên gọi đến công việc. Trang thiết bị thông tin mới lần đầu được tiếp xúc. Cho nên nhiệm vụ rất quan trọng đặt ra cho chúng tôi một cách giải khó mà bắt buộc phải giải bằng được và giải tốt nhất hay nhất.

        Thế là đợt thi đua một tháng làm chủ trang bị khí tài được phát động. Đại đội 22 lúc đó có bảy trung đội, 11 tiểu đội và 16 xe máy đài trạm . Nhiệm vụ của mỗi trung đội, tiểu đội đài trạm khác nhau hoàn toàn, không thể điều động đổi chỗ cho nhau được . Ví dụ như B1 là báo vụ tiêu đồ không thể điều sang B2 là dẫn đường hoặc sang B3 là tổng đài dây và cáp, hoặc sang B4 là đèn chiếu dạ hàng hoặc B5 là đối không, hoặc sang B6 là đài phát, B7 là ra đa... và ngược lại. Cho nên quân số biên chế cho từng vị trí đài trạm xe máy gần như cố định, ốm đau không thay thế chỗ cho nhau được. Việc bảo đảm sức khỏe bộ đội đặt lên hàng đầu.

        Một tháng nỗ lực thi đua làm cho toàn đơn vị hồ hởi phấn khởi hẳn lên. Tin tưởng vào trình độ khả năng được nâng lên, làm chủ được trang bị đài trạm và quyết tâm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ phục vụ T.T đón trung đoàn 921 về nước.

        Ngày đó đã đến!

        Ngày 6-8-1964.

        Từ 3 giờ sáng, toàn bộ hệ thống trực thông tin đã bắt đầu làm việc. Các kíp trực ban ngày hôm ấy được tuyển chọn kỹ càng.

        Tôi gọi điện thoại đi khắp lượt các vị trí và nhận được báo cáo về tốt, rất tốt, đã sẵn sàng.

        Tôi yên tâm đáp xe ra đài chỉ huy HCC K5 làm vị trí trực chỉ huy thông tin.

        Thời tiết hôm ấy rất đẹp. Trời thu xanh trong phía Đông rạng hồng, mặt trời đang lên đỉnh núi đồi. Phía Bắc, phía Tây lởn vởn vài mảng mây tan dần trên núi Tam Đảo. Phía Nam thi thoảng có chớp. "Chớp đằng Nam vừa làm vừa chơi". Quang cảnh sân bay sáng nay trông thật tuyệt vời. Hơn 500 ngọn đèn đường băng đường lăn sân đỗ đủ các sắc màu đỏ tím, cam, vàng, bật sáng lung linh, rực rỡ.

        Bảng tiêu đồ SCH đã xuất hiện một mũi tên trên không phận nước Trung Hoa anh em. Rồi mũi tên dịch dần lướt trên dãy núi biên giới phía Bắc nước ta.

        Ra đa PCN-7 đã bắt được mục tiêu và làm nhiệm vụ hướng dẫn chỉnh sửa vào hành lang an toàn đã được lệnh cấm các lực lượng phòng không mặt đất hoạt động.

        (Thời kỳ này lực lượng phòng không mặt đất của ta như cao xạ tầm thấp tầm cao, đã khá mạnh và triển khai rộng khắp).

        Chỉ ít phút sau, toàn mạng đối không chỉ huy, đối không định hướng bắt liên lạc được với máy bay. Đài K5, chỉ huy hạ cánh phát lệnh liên tục.

        Biên đội đầu tiên vào vòng lượn từ từ hạ cánh. Chúng tôi vui sướng reo lên, máy bay của ta đẹp quá! Tuyệt vời quá.

        Người cờ hiệu, hai tay phất điệu nghệ thuần thục như múa, điều khiển từng chiếc máy bay vào đường lăn đến sân đỗ.

        Người phi đội trưởng biên đội đầu tiên chính là người trung đoàn trưởng không quân tiêm kích đầu tiên: Anh Đào Đình Luyện, sau khi hạ cánh an toàn và báo cáo cấp trên, anh bắt tay một lượt những người có mặt đón trung đoàn không quân - trung đoàn 921 về nước.

        Là người lính, phục vụ thông tin quân đội trên hai chục năm, lần đầu tiên được phục vụ trung đoàn không quân tiêm kích đầu tiên chuyển trường về nước an toàn, an toàn tuyệt đối. Với đại đội thông tin đại đội 22 chúng tôi đó là một phần thưởng cao quý, một kỷ niệm không thể nào quên!


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Bảy, 2016, 07:59:30 am
       
KỶ NIỆM VỀ MỘT THỜI KỲ CÔNG TÁC

VŨ ĐÌNH                           
Nguyên Chủ nhiệm Thông tin - Ra đa       
Quân chủng Không quân               

        Năm 1958, khi đang công tác tại sân bay Đồng Hới, tôi được đơn vị cho đi đào tạo về chuyên ngành vô tuyến điện không quân tại Học viện Kỹ thuật quân sự Trung Quốc. Năm 1965, khi đơn vị bắt đầu trang bị MIG-21, tôi cùng các anh Trần Thanh, Nguyễn Đình Kiên, ... được phân công khai thác sử dụng thiết bị vô tuyến - ra đa trên MIG-21 để huấn luyện cho các đơn vị. Chúng tôi phấn khởi nghiên cứu, biên dịch và soạn giáo án các thiết bị mới để truyền đạt cho các cán bộ, nhân viên kỹ thuật của các đơn vị. Hoàn thành nhiệm vụ, tôi được điều động về làm kỹ thuật thông tin sân bay Nội Bài.

        Công việc có nhiều mới mẻ đối với tôi, nhưng nhờ những ngày được nghiên cứu kỹ các thiết bị vô tuyến chỉ huy và dẫn đường trên máy bay, tôi đã nhanh chóng tiếp cận và làm chủ kỹ thuật hầu hết các thiết bị vô tuyến - ra đa trên sân bay. Đó là những trang thiết bị hiện đại của ngành Thông tin - Ra đa không quân.

        Công tác trong ngành thông tin không quân, do hiểu biết về thiết bị vô tuyến trên máy bay, tôi đã có những đề xuất mạnh dạn cải tiến thiết bị vô tuyến chỉ huy, phục vụ kịp thời cho yêu cầu chiến đấu của đơn vị. Việc đầu tiên là tận dụng các máy bay PCUY-3M, PCUY-4M... để lắp ráp thành bộ đối không cơ động, trang bị cho các sở chỉ huy cơ động và các tổ chỉ huy bổ trợ, đồng thời tổ chức lắp ráp các máy phát dẫn đường công suất nhỏ để các máy APK-5, APK- 10 trên máy bay có thể dẫn hướng cho máy bay đến khu vực hoạt động ở miền Trung và bên Lào. Tiếp theo là tiến hành tổ chức việc tự động chuyển tiếp bằng xe thu phát VHF công suất lớn, tăng cự ly chỉ huy máy bay ở khu vực rừng núi miền Trung. Với kinh nghiệm có được trong quá trình thực hiện một loạt các cải tiến kỹ thuật. Sau ngày miền Nam được giải phóng, với cương vị là chủ nhiệm thông tin - ra đa Quân chủng, tôi càng chú trọng hơn đến việc tận dụng các thiết bị vô tuyến điện trên các máy bay thu được của địch để trang bị cho các sở chỉ huy và các sân bay ở cả hai miền Nam - Bắc. Nhiều thiết bị đối không như: GRT-3, GRT-18, GRT-27..., các thiết bị trên máy bay hệ 2 như: 807A, AN/ARC-51, AN/ARC-34,... và các thiết bị liên lạc mặt đất như: KWM-2A, RT-524, BC-610, GRC-26... đều được duy trì sử dụng trong Quân chủng trong nhiều năm sau.

        Vào những năm 1982 - 1985, Quân chủng đã trang bị thêm nhiều loại máy bay mới, trang bị thông tin - ra đa - ánh sáng đảm bảo bay cũng đồng thời được bổ sung nhiều trang thiết bị hiện đại. Yêu cầu đối với thông tin chỉ huy phải cao hơn nhiều nhưng hệ thống thông tin chỉ huy mặt đất lại chưa có gì thay đổi, chủ yếu vẫn dựa vào vô tuyến điện báo, trình độ báo vụ lại kém hơn nhiều so với thời kỳ chiến tranh chống Mỹ, nên việc bảo đảm thông tin chỉ huy ngày càng gặp nhiều khó khăn. Phương thức thông tin VTĐ truyền chữ có chất lượng cao hơn, nhưng đòi hỏi có các loại trang bị phức tạp đắt tiền, hơn nửa yêu cầu phải có các nhân viên chuyên nghiệp mới có thể duy trì liên lạc được tốt.Phòng thông tin cân nhắc các phương án và đã quyết định chọn cách cải tiến tải báo TVT của Hungary để có thể ghép nối máy truyền chữ vào tất cả các loại kênh truyền: VTĐ sóng ngắn, sóng cực ngắn và hữu tuyến tải ba, ... để nâng cao chất lượng và tốc độ liên lạc. Các đồng chí kỹ sư Trần Trọng Thịnh, TS. Nguyễn Xuân Đóa đã kết hợp với phòng VT-ĐT Viện Kỹ thuật Không quân lắp ráp rơ le điện tử thay thế rơ le cơ khí trong máy tải báo nâng cao được chất lượng liên lạc truyền chữ trên kênh VTĐ sóng ngắn. Để có thể làm được liên lạc truyền chữ trên tất cả các kênh thông tin hiện có, KS Trần Thanh Bình phòng Thông tin đã thiết kế, lắp ráp một loại tải báo vi mạch thay cho tải báo TVT, sao cho trong lúc làm việc chỉ cần tắt mở máy mà không cần điều chỉnh gì cả, như vậy sẽ ghép nối truyền chữ vào tất cả các loại kênh liên lạc, việc sử dụng cũng sẽ đơn giản đi rất nhiều. Nhờ đó, chất lượng thông tin chỉ huy đã được nâng lên một bước.

        Việc sử dụng nhiều máy truyền chữ đã gây nhiều ồn ào trong SCH Không quân, nên năm 1986 Tư lệnh Quân chủng đã quyết định cho thông tin mua hai máy vi tính quả táo II, KS. Trần Thanh Bình đã dùng máy vi tính liên kết 3 mạng truyền chữ vào một máy vi tính dùng ở SCH thay cho 3 máy truyền chữ, biên chế nhân viên sử dụng cũng được giảm đi. Tiếp nữa, KS. Trần Thanh Bình lại kết hợp với Trung tâm Toán - Máy tính quân đội thiết kế lắp ráp tổng đài truyền chữ điện tử 8 kênh, dùng lại CPU 8085A, bộ nhớ RAM 8KB. Cho đến lúc này thì trong Quân chủng đã hình thành một tổ chức thông tin truyền chữ rộng khắp từ Bắc đến Nam sử dụng các kênh VTĐ sóng ngắn và sóng cực ngắn trên dải tần số 100 - 150MHZ, cải thiện được một bước chất lượng thông tin chỉ huy.


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 27 Tháng Bảy, 2016, 08:00:41 am

        Tuy rằng tốc độ liên lạc truyền chữ đã nhanh hơn tốc độ liên lạc VTĐ báo nhiều lần, nhưng vẫn còn bị hạn chế bởi tốc độ 50 bit/s của máy truyền chữ. Muốn nâng cao tốc độ liên lạc, đồng thời nâng cao tính bảo mật và khả năng chống nhiễu, phòng Thông tin lại chủ trương thiết kế lắp ráp một thiết bị ghép nối chuyên dụng khác thay thế cho loại tải báo vi mạch. Vào giai đoạn này, tính năng của máy vì tính còn bị hạn chế, cho nên trong thiết bị ghép nối phải có bộ nhớ và thực hiện việc truyền tin từ bộ nhớ sang bộ nhớ của thiết bị ghép nối, do đó giải phóng cho máy vi tính trong thời gian truyền tin, để máy vi tính trung tâm có khả năng quản lý nhiều mạng truyền chữ cùng một lúc. KS. Trần Thanh Bình kết hợp với các cán bộ kỹ thuật Viện Kỹ thuật quân sự đã thiết kế lắp ráp thiết bị này. Thiết bị sẽ tự động thực hiện thủ tục bắt liên lạc, tự động truyền tin với tốc độ 300 bit/s, có chương trình kiểm tra và sửa lỗi, có khả năng tương thích với các loại kênh truyền có chất lượng khác nhau, có địa chỉ để tiện cho việc tổ chức hên lạc mạng. Thiết bị này còn được kết hợp để thiết lập một mạng báo động nhanh dùng hình thức hiện số và phát âm thanh. Thiết bị ghép nối này thực tế là một bộ xử lý chuyên dụng, dùng loại CPU 6800 có bộ nhớ RAM 4KB hoặc 8KB, ở đầu cuối, thiết bị này chuyển đổi mã ASCII thành mã truyền chữ và đưa số liệu từ bộ nhớ ra máy truyền chứ với tốc độ 50 bit/s. Khi dùng máy truyền chữ nạp số liệu vào máy tính trung tâm thì theo trình tự ngược lại. Cho đến lúc này thì tổ chức thông tin chỉ huy trong Quân chủng đã là hệ thống báo động nhanh, liên lạc thoại, truyền chữ và vi tính kết hợp.

        Do sử dụng nhiều máy truyền chữ, với loại mới như T-100 còn khá, các loại máy cũ như máy Đức T-51, máy Mỹ FGC-97 thì phụ tùng vật liệu thay thế ngày càng khó khăn. Vào lúc này, ở Việt Nam đã có máy vi tính xách tay, giá tiền cũng xấp xỉ giá máy truyền chữ T- 100, nên Quân chủng lại cho mua máy vi tính xách tay thay cho máy truyền chữ. KS. Trần Thanh Bình lại kết hợp với cán bộ kỹ thuật Viện Kỹ thuật quân sự II và Trung tâm Toán - Máy tính quân đội thiết kế lắp ráp thiết bị chuyên dụng dùng cho việc truyền số liệu giữa các máy vi tính thông qua các loại kênh thông tin. Thiết bị này vẫn được thiết kế để thực hiện truyền tin từ bộ nhớ sang bộ nhớ của thiết bị ghép nối để giảm nhẹ công việc cho máy tính trung tâm. Nếu đầu cuối dùng máy truyền chữ thì có lắp thêm thiết bị bổ trợ để chuyển đổi mã ASCII thành mã truyền chữ và đưa số liệu ra với tốc độ 50 bit/s. Nếu đầu cuối là nhân viên báo vụ thì lại lắp thêm thiết bị bổ trợ để chuyển mã ASCII thành mã móc và phát tín hiệu moóc cho báo vụ nhận điện. Khi nạp số liệu vào thì báo vụ gõ manip, thiết bị bổ trợ sẽ chuyển mã moóc thành mã ASCII và chuyển số liệu sang thiết bị ghép nối để phát đi. Đến đây thì thông tin không quân trở thành đơn vị đi đầu trong thông tin toàn quân thực hiện được việc truyền số liệu bằng máy tính qua các kênh truyền sóng ngắn và sóng cực ngắn.

        Tiếp đó, phòng Thông tin lại cho dùng máy vi tính để thiết kế tổng đài truyền số liệu đa kênh, có thể ghép nối với nhiều loại kênh truyền khác nhau và có thể làm việc với nhiều tốc độ truyền tin: 300, 600, 1200 bit/s. Đến lúc này thì hệ thống thông tin truyền số liệu đã trở thành hệ thống chủ yếu để bảo đảm thông tin chỉ huy cho quân đội trên phạm vi toàn quốc.

         Trên cơ sở hệ thống thông tin truyền số liệu của Quân chủng, năm 1990 Tư lệnh Quân chủng lại cho phòng Thông tin - Ra đa thực hiện đề tài: "Thu thập và xử lý tín hiệu ra đa của 6 đại đội ra đa dẫn đường bố trí trên các sân bay phía Bắc" , và đề tài đã được Cục Quản lý khoa học Bộ Quốc phòng tổ chức nghiệm thu vào năm 1992.

        Ngày nay khi hệ thống thông tin bưu điện và quân sự đã được hiện đại hóa, các máy vi tính cao cấp, các máy fax, các mô đem truyền số liệu tốc độ cao v.v... đã có nhiều trên thị trường, nhưng hệ thống thông tin truyền số liệu trên sóng VTĐ vẫn không hề giảm đi ý nghĩa và công dụng thiết thực của nó đối với thông tin quân sự, nhất là khi cần tổ chức thông tin cơ động và phân tán trên diện rộng.

         Từ đây có thể rút ra vấn đề: Cán bộ kỹ thuật của ta rất thông minh và sáng tạo, chỉ cần mở hướng và tạo điều kiện thuận lợi là anh em có thể sáng tạo ra nhiều kỳ tích để phục vụ cho nhiệm vụ xây dựng và sẵn sàng chiến đấu của Quân chủng.

        Ngày nay, chúng ta đang sống trong thập kỷ kỹ thuật số - một thời kỳ lịch sử khi mà hầu hết tất cả những gì chúng ta làm đều có sự tác động của máy tính. Những tiến bộ vượt bậc về khoa học - kỹ thuật trong nhiều thập kỷ, đặc biệt thế kỷ XX vừa qua đã mang lại cho con người nhiều khả năng và giải pháp mới trong mọi lĩnh vực của cuộc sống. Nhưng để tận dụng được khả năng đó, biến nó thành hiệu quả thực tế lại tùy thuộc vào từng con người, từng tổ chức, từng quốc gia. Điều quan trọng là ở người đứng đầu, phải là người có đủ sức quan sát xuất chúng, có thể nhìn rõ xu thế phát triển của sự việc để có thể đón đầu đi lên. Không có tầm nhìn thì không sử dụng được thời thế. Cơ hội mà thời thế cho mỗi người đương thời đều là công bằng, mấu chốt là ở chỗ có ai đó có thể nắm lấy nó. Không phải là thời thế chọn con người, mà là con người chọn thời thế.

Sân bay Bạch Mai, tháng 10 - 2004.       


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 28 Tháng Bảy, 2016, 11:16:44 pm
       
CON ĐƯỜNG TÔI ĐẾN VỚI KHÔNG QUÂN

Đại tá NGUYỄN VĂN BẢY             
Phi công MiG-17 Anh hùng LLVT       
(Đoàn Hoài Trung ghi)               

        Tôi tên thật là Nguyễn Văn Hoa, sinh năm 1936, ở xã Hòa Thành, Lai Vung, tỉnh Sa Đéc. Ngày nhỏ tôi bị các anh em trêu tên là Hoa là tên con gái, xấu hổ quá, tôi bỏ tên Hoa lấy tên thứ Bảy là tên chính thức từ đó. Tháng 4 năm 1954, ba của tôi ép phải lấy vợ, tôi “hoảng quá”, vội ôm quần áo bỏ nhà theo người bạn tên Lê, đang là bộ đội địa phương. Nửa tháng theo bạn mới được đơn vị nhận chính thức nhờ có anh trai làm xã đội trưởng bảo lãnh. Đêm đầu tiên, được giao cây súng gác đơn vị, tôi sung sướng quá, ôm súng đi lại suốt đêm, gác luôn hộ bạn, mặc dù lúc đó tôi chưa biết bắn súng làm sao.

        Cuối năm 1954, tôi tập kết ra Bắc, được học bổ túc, được tham gia làm kinh tế cho đơn vị như đóng gạch, tăng gia chăn nuôi. Nhờ bản tánh cần cù chịu khó, tôi luôn được khen thưởng vì thành tích trong lao động sản xuất. Có lần đoàn khám tuyển phi công đến đơn vị, tôi trúng tuyển thế là được đi học Trường văn hóa Lạng Sơn. Lao động rất cừ, nhưng đi học là vấn đề hết sức khó khăn với tôi, những con chữ, những bài tính rối mù trong đầu, nhiều khi phải học vẹt trả bài thầy. Tháng 2 năm 1960, tôi được cùng anh em khóa 2 sang Trường Không quân số 2 Trung Quốc. Cùng đi học với tôi có các phi công Trần Mạnh (đoàn trưởng), Nguyễn Phúc Trạch, Đồng Văn Đe... Nơi nước bạn, việc học tập của tôi lại càng vất vả hơn, trước hết vì ngôn ngữ, sau nữa lý thuyết ngành Không quân đòi hỏi trình độ cao mới tiếp thu hết được. Nhưng tôi đã tìm cách vượt qua, chăm chỉ học tập rèn luyện, đặc biệt là trong thực hành, tôi rất có khả năng làm theo thầy, mọi động tác thầy dạy tôi thường luyện tập thành thục, đến mức nhắm mắt lại cũng có thể chỉ từng bảng đồng hồ độ cao, tốc độ... hoặc thực hiện quy trình mở máy bay thì làm thành thục chẳng kém ai. Hôm đầu tiên được thầy cho thử nổ máy, vừa để máy nổ pành pành, tôi sướng quá thả tay ra vỗ tay đôm đổp. Thầy nắm vội cần lái mắng cho một trận nên thân, thầy đâu hiểu được tâm lý trò, từ một anh nông dân xe đạp còn chưa đi rành nay trở thành một phi công làm sao không mừng khi mình được điều khiến máy bay. Những ngày luyện tập lái máy bay YAK-18 thật vất vả với tôi. Không biết tại sao cứ ngồi lên buồng lái là tôi buồn ói, mà tôi ói thật, ói khắp sàn máy bay, ói ra cả mật xanh mật vàng. Tôi cố gắng vượt qua cơn ói. Nhiều bạn trong đoàn cũng bị như tôi, có người không chịu được phải chuyển sang học phục vụ mặt đất. Còn tôi thì nhớ tới lần Bác Hồ gặp cả đoàn trước khi đi học đã hỏi:

        - Chú nào quê ở miền Nam đi học lái máy bay đợt này?

        Tôi cùng các anh em miền nam giơ tay. Bác Hồ động viên:

        - Các chú phải cố học thành tài, để sau này thông nhất nước thì lái máy bay chở Bác về thăm đồng bào miền Nam. Đồng bào thấy con em mình ra miền Bắc được ăn học thành phi công thì chắc sẽ vui mừng lắm.
   
        (Mất 2 trang)

...Niên xuống, thì tôi còn trực chiến ngoài đường băng, anh em cơ quan chính trị trung đoàn phải đưa cô ấy ra địa phương làm giấy đăng ký kết hôn giúp tôi. Tôi nhớ, lúc ấy tôi có đưa 10 đồng cho nhà bếp mua bánh, kẹo và 10 đồng mua 1 tút thuốc lá Thăng Long còn chè xanh xin của dân. Buổi chiều rút ban, tôi mới nói mọi ngưòi: “Tốì nay mình cưới vợ, các cậu qua chơi nghen!”. Vào buổi lễ, trung đoàn phó Đào Công Xưởng làm chủ hôn, đại diện cho nhà trai, còn tham mưu phó Chu Tất Bộ thì phải đóng đại diện nhà gái để tiện thưa gửi hai bên. Anh em ngồi quây quần với nhau bên nồi chè xanh nghi ngút khói. Chưa Kịp hút xong điếu thuốc, thì có điện của trên chuẩn bị một biên đội cơ động về Nội Bài. Thế là tiệc cưới giải tán, tất cả lại khẩn trương chuẩn bị lên đường.

        Sau bảy ngày cưới, ngày 26 tháng 4 năm 1966, biên đội của tôi gồm Chung, Tân, Bảy, Mẫn đang hoạt động ở vùng trời Võ Nhai (Bắc Thái), tôi phát hiện máy bay địch ở thế có lợi đang bám đuôi hai máy bay của Chiêm và Mẫn trong biên đội. Tôi và Tân đã nhanh chóng, bất ngờ lao thẳng vào giữa đội hình máy bay địch, làm chúng hoảng hốt tháo chạy. Tôi bình tĩnh bám chắc một chiếc, tới cự ly có hiệu quả đã nổ súng, máy bay địch lặn xuống tránh đạn. Tôi cho máy bay lật theo và bồi một loạt đạn nữa, máy bay địch bốc cháy rơi tại chỗ. Trong trận này biên đội bắn rơi hai máy bay F-4 của Mỹ, bắn bị thương một chiếc khác và về hạ cánh an toàn.


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 28 Tháng Bảy, 2016, 11:18:26 pm

        Trận đánh mà tôi nhớ nhất là trận đánh ngày 5 tháng 9 năm 1966. Lúc này tôi đã bắn rơi được vài ba chiếc máy bay rồi, nên trong lễ 2 tháng 9, tôi nhường cho anh em phi công khác trực để lập thành tích kỷ niệm Quốc khánh, nhưng thời gian ấy địch không vào. Hôm ấy tôi cùng phi công Võ Văn Mẫn, quê ở Ba Tri, Bến Tre được phân công trực chiến sân bay Gia Lâm. Khoảng 4 giờ chiều, địch cho máy bay hải quân vào cầu Rẽ, hai máy bay ta được lệnh cất cánh. Nhưng khi bay vào khu vực thì địch đã rút. Lúc này mặt đất phát hiện một tốp máy bay địch khác vào Phủ Lý, Nam Hà, lập tức sở chỉ huy dẫn hai máy bay ta vào không chiến. Cách địch 15km, tôi đã phát hiện mục tiêu như hai chấm đen trước mặt. Còn cách 5km, tôi ra lệnh cho số hai thả thùng dầu phụ, tăng tốc đối đầu máy bay địch. Thấy khí thế hùng dũng của ta, hai máy bay địch hoảng loạn vòng phải, lợi dụng đám mây chạy trốn. Tôi thấy vậy thầm tính toán, nếu bám đuôi địch thì khó đuổi kịp được, vì tốc độ địch nhanh hơn, tôi quyết định bay cắt đón đương. Tôi hô lớn: Số 2 theo tôi. Quả nhiên qua đám mây thì nhìn thấy hai chiếc máy bay địch, bọn chúng thần hồn nát thần tính, vừa bay vừa làm động tác uốn éo để tránh đạn của ta, chính vì thế mà bị hạn chế tốc độ. Tôi bám chiếc thứ hai cách khoảng 250 mét xả súng vào buồng lái địch, tên phi công trúng đạn chết tại chỗ, mảnh mê ca văng ra, nhiều mảnh chui vào luồng gió hút cả vào động cơ máy bay Mẫn. Tôi lách ra, ra lệnh cho số 2 vào công kích. Phi công Võ Văn Mẫn bám ngay chiếc máy bay số 1 của địch và nổ súng tấn công. Chiếc máy bay trúng đạn, phi công địch nhảy dù. Tôi ra lệnh cho số 2: “Số 2 theo tôi về hạ cánh”. Chúng tôi sung sướng quá bay trở về. sở chỉ huy nhắc chú ý địch bám đằng sau. Tôi nói vào micrô: “Địch chỉ có hai thằng bắn ráo trọi rồi còn đâu nữa”. Tối ấy, Quân chủng báo cáo lên Bộ Quốc phòng, Bộ báo cáo với Bác Hồ. Bác có hỏi xem hai đồng chí phi công tên gì? Quê ở đâu? Biết là cả hai cùng phi công người miền Nam, Bác vui lắm và gửi tặng ngay hai huy hiệu của Người cho chúng tôi.

        Ngày 16 tháng 9 năm 1966, 16 chiếc máy bay địch gồm F-4 và F-105 xâm phạm vùng tròi Chí Linh, chúng đã phát hiện một biên đội 4 chiếc máy bay của ta nên chia thành nhiều tốp, bay ở nhiều tầng, nhiều hướng, giành thế có lợi nhằm kéo ta ra xa, buộc ta phải bị động phân tán để chúng bao vây tiêu diệt ta. Tôi cùng biên đội chủ động, linh hoạt, cơ động, giữ vững đội hình, yểm trợ cho nhau giành thế chủ động, buộc địch chiến đấu ở khu vực ta đã chọn. Toàn biên đội đã chủ động lúc đối đầu, lúc bám đuôi địch, nổ súng kịp thời chính xác, bắn rơi 3 máy bay F-4 và trở về hạ cánh an toàn, riêng tôi bắn rơi 1 chiếc.

        Trận đánh ngày 24 tháng 4 năm 1967 cũng là trận đánh đáng nhớ của tôi. Trước đó 2 ngày, địch đã đánh nát sân bay Kiến An, nhằm chuẩn bị cho một đợt đánh phá Hải Phòng. Chỉ trong vòng một đêm, nhân dân và bộ đội ta đã vá kịp thời hàng chục lỗ bom trên sân bay. Chiều ngày 23 tháng 4 Bảy, Bôn, Hôn, Địch chuyển hướng từ Gia Lâm xuống sân bay Kiến An. Sáng hôm sau, biên đội cất cánh lên, vừa lên tới độ cao 1500m đã nhìn thấy máy bay địch như ruồi bay từng bầy trước mặt. Tôi quyết định cho biên đội lao vào giữa đội hình địch. Tôi hô lớn: “Tất cả theo tôi” rồi tôi vào trận. Máy bay địch thấy MiG-17 của ta thì hoảng sợ, vì chúng cứ yên trí không quân đã bị tiêu diệt hết rồi. Những chiếc cưòng kích của địch thì ném bom lung tung tháo chạy, còn bọn tiêm kích thì tìm cách bắn tên lửa. Tôi nhìn ra thấy tên lửa địch bắn như mạng nhện trên trời vậy. Tôi có kinh nghiệm khi nhìn thấy máy bay địch trước mặt đeo tên lửa, tôi không hoảng hốt mà quan sát, thấy tên lửa địch rơi ra khỏi cánh xịt khói là tôi biết nó bắn, lập tức tôi ngoặt gấp tránh để tên lửa địch sượt sau lưng, vì thằng địch bám đuôi là ta dễ bị tiêu diệt. Máy bay của địch to xác hơn máy bay ta, tốc độ lớn hơn, nên độ cơ động không linh hoạt bằng. Nếu địch chấp nhận không chiến là máy bay MiG-17 rất có lợi thế cơ động, bán kính vòng lại nhỏ hơn, nhanh hơn so với máy bay địch. Trận này tuy tôi không bắn rơi được chiếc nào, nhưng biên đội bắn rơi hai chiếc máy bay của địch, phá tan ý đồ đánh Hải Phòng của chúng. Bí thư Thành ủy Hải Phòng gửi tặng cho biên đội 1 chiếc rađio hiệu “Mẫu Đơn”.

        Năm 1967, tôi được bầu vào Quổc hội khóa III và được vào đoàn Chủ tịch trong các kỳ họp Quốc hội. Đây cũng là niềm vinh dự cho tôi và nhờ đó tôi rất nhiều lần được gặp Bác Hồ, ấy là những lần chuẩn bị họp Quốc hội, bao giờ đoàn Chủ tịch có hội ý trước, Bác Hồ thường đến tham dự cùng. Tôi có một câu chuyện muốn kể cho Bác nghe, chẳng là trước khi tập kết ra Bắc, tôi có cùng anh chị em đi làm cỏ, sửa sang lại mộ cho cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, thân sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Cao Lãnh. Ngày ấy, mọi người đã nói với nhau sau này ra miền Bắc sẽ kể tỉ mỉ việc ấy cho Bác nghe, nhưng thật không ngờ cơ hội ấy mãi mãi không còn. Bác Hồ đã ra đi vào ngày 3 tháng 9 năm 1969, đứng túc trực bên anh linh của Người cùng các đồng chí Trường Chinh, Lê Duẩn, Đàm Quang Trung mà tôi không kìm được nước mắt vì ân hận còn chưa làm tròn lời hứa đồng đội gửi gắm, nói cho Bác tấm lòng của bà con miền Nam với cụ Phó bảng và với Bác.

        Tôi tham gia tất cả 13 trận đánh, bắn rơi 7 máy bay Mỹ và chưa một lần nào bị địch bắn cháy máy bay phải nhảy dù. Tôi đã được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, được 7 huy hiệu của Bác Hồ và 1 đồng hồ đeo tay do Bác Hồ tặng. Tôi đã trải qua nhiều cương vị khác nhau trong Quân chủng Phòng không - Không quân như: Trung đoàn trưởng trung đoàn 937, Phó tư lệnh sư đoàn không quân 372, sư đoàn trưởng sư đoàn không quân 376, Phó tham mưu trưởng Quân chủng Không quân. Tôi nghỉ hưu tháng 12 năm 1989, tham gia vào Ban chấp hành Hội cựu chiến binh thành phố Hồ Chí Minh. Hiện nay tôi vẫn là Trưởng ban liên lạc Hội cựu chiến binh Không quân tại thành phố Hồ Chí Minh.


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 28 Tháng Bảy, 2016, 11:23:58 pm
       
CẢM TUỞNG NHỮNG LẦN GẶP VÀ LÁI MÁY BAY CHỞ BÁC

Đại tá phi công PHẠM ĐÌNH CƯỜNG                 
Nguyên Tổng cục phó Tổng cục HKDD Việt Nam       

        Toàn dân tộc Việt Nam đời đời nhớ ơn Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, toàn thế giới đều ca ngợi công đức của Người nhà văn hóa vĩ đại của thế giới.        Tôi vinh dự được gặp nhiều lần và trực tiếp lái máy bay chở Bác Hồ đi thăm đồng bào ở nhiều khu vực trong nước.

        Nhân dịp kỷ niệm lần thứ 115 ngày sinh nhật Chủ tịch Hồ Chí Minh, tôi rất xúc động và tự hào được giao trách nhiệm phục vụ Bác Hồ.

        Hồi tưởng lần đầu được gặp Bác Hồ. Đó là ngày 20-12-1959 nhân dịp đại hội thi đua của Cục Không quân. Được tin Bác Hồ đến thăm, đồng chí Đặng Tính - Cục trưởng Cục Không quân và đồng chí Hoàng Thế Thiện - Chính ủy Cục Không quân đón và đưa Bác vào hội trường đại hội, với tác phong nhanh nhẹn, vầng trán cao, anh minh Bác vẫy tay chào mọi người, mọi người rất vui mừng phấn khởi. Bác chỉ nói ngắn gọn: Chúc các cô các chú thi đua làm nhiều việc tốt, xây dựng không quân ngày càng trưởng thành. Sau đó Bác đến thăm khu nghỉ của anh em phi công. Bác căn dặn các đồng chí lãnh đạo Cục Không quân phải hết sức chăm sóc các cháu phi công như "chăm các con nít" vì đây là vốn quý của Tổ quốc, nhân dân ta nhờ Liên xô đào tạo huấn luyện được các cháu phi công đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

        Sau lần gặp đó, tôi vinh dự được chở Bác bằng máy bay đi đến nhiều nơi để làm việc và thăm đồng bào.

        Ngày 15-5-1960, tổ bay chúng tôi chở Bác đi đến tỉnh Móng Cái. Lần đầu tiên được chở Bác Hồ tôi vô cùng sung sướng và cảm động, nên mọi mặt công tác chuẩn bị máy bay và các số liệu bay rất chu đáo. Sau khi hạ cánh an toàn, Bác vào làm việc với các đồng chí Tỉnh ủy và ủy ban nhân dân tỉnh Móng Cái. Sau khi làm xong việc các đồng chí tỉnh Móng Cái có mời Bác Hồ và tổ bay chúng tôi cùng ăn cơm. Thật sung sướng, tôi có cảm tưởng được ngồi ăn cơm cùng với Bác như người cháu ngồi ăn với "ông nội", phong thái cừ chỉ của Người thật hài hòa, thân mật, gần gũi. Thế rồi tôi liên tiếp được phục vụ các chuyến bay đưa Bác đến các vùng Thái Nguyên, Thái Bình, Thanh Hóa, Ba Vì, bãi biển Vịnh Hạ Long. Đặc biệt ghi nhớ ngày 15-11-1961 tôi chở Bác bằng máy bay trực thăng cùng đồng chí phi công vũ trụ Ti-tốp đến bãi biển Vịnh Hạ Long. Sau khi hạ cánh, các đồng chí hải quân có chở Bác cùng đồng chí Ti-tốp và tổ bay chúng tôi bằng tàu thủy đi quanh Vịnh Hạ Long. Trên đường đi tàu thủy có dừng lại tại một bãi biển, cảnh vật rất đẹp, đồng chí Ti-tốp có đề nghị với Bác cho đồng chí tắm tại bãi biển. Bác đồng ý cho dừng tại đây và Bác nói: Chú Ti-tốp tắm thì cho Bác cùng tắm cho vui. Lúc này thời tiết hơi giá lạnh nên các đồng chí bảo vệ nói: Trời lạnh Bác không tắm được để bảo đảm sức khỏe cho Bác. Tuy vậy Bác vẫn xuống bãi biển và vén quần lội xuống nước. Sau này nhân dân tại đây đặt cho hòn đảo gần đó là "Hòn Ti-tốp".

        Trong những năm kháng chiến chống Mỹ, tôi được quân đội giao các cương vị công tác: Trung đoàn trưởng, phó tư lệnh lữ đoàn không quân vận tải 919, các nhiệm vụ chiến đấu, các nhiệm vụ bay chuyên cơ chở các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và quân đội; nên mỗi lần Bác đi công tác trong nước và nước ngoài bằng các loại máy bay tôi đều được tin cậy trực tiếp chuẩn bị và đưa đón.

        Tháng 12-1968 ngày gặp Bác Hồ tại hội trường Quân chủng Phòng không - Không quân, lúc đó Bác đã già yếu nhiều. Được nghe những lời nói ân cần kính mến, lúc đó tập họp nhiều anh em đủ các lứa tuổi, Bác có hỏi "Chú nào bắn rơi nhiều máy bay nhất". Khi đó đồng chí phi công Nguyễn Văn Cốc có lên gặp Bác. Bác Hồ nói: "Chúc các cháu bắn được nhiều máy bay như Cốc”. Đó là lần gặp Bác cuối cùng của tôi trước lúc Bác đi xa.

        Thế rồi ngày 22-7-1969, tôi được Bộ tư lệnh Phòng không - Không quân trực tiếp giao nhiệm vụ làm đội trưởng một đội gồm các đồng chí phi công trẻ tuổi tổ chức luyện tập để chuẩn bị tham gia duyệt binh cho ngày 2-9.

        Chúng tôi được tập trung tại thị xã Hà Đông và hàng ngày ra bãi đá bóng để luyện tập các môn điều lệnh đội ngũ, mọi người ai nấy đều hăng hái luyện tập.

        Nhưng đến ngày 2-9-1969, không thấy hình ảnh và tiếng nói của Bác Hồ trên quảng trường Ba Đình, chúng tôi đã ngỡ ngàng.

        Đến ngày 3-9-1969 được tin Bác Hồ đã qua đời. Chúng tôi vô cùng xúc động và thương tiếc Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và lúc đó mới nghĩ ra không phải luyện tập để duyệt binh mà là để tiễn đưa Bác Hồ về nơi vĩnh hằng.

        Đến ngày tang lễ của Người đoàn chúng tôi lại được vinh dự đến linh cữu của Người để kính chào tiễn đưa Bác Hồ về nơi an nghỉ cuối cùng.

        36 năm đã trôi qua, Bác Hồ đã đi xa, nhưng vẫn còn dư âm trong trái tim tôi mỗi lần xem ti vi qua hình ảnh của Bác Hồ tôi cứ ngỡ rằng Bác vẫn còn sống và luôn gần gũi với nhân dân trên khắp các miền của Tổ quốc.

        Ôi Bác Hồ ơi! Cháu luôn ghi nhớ lời Bác dạy và luôn tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, kiên định theo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vĩ đại soi sáng mãi không bao giờ tắt.


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 28 Tháng Bảy, 2016, 11:28:40 pm
        
MÁY BAY AN2 PHỤC VỤ CHIẾN ĐẤU (1959 – 1962)

Đại tá LÊ NĂNG                  
Phi công máy bay An-2             
Trung đoàn không quân 918        

        MỞ ĐƯỜNG HÀNG KHÔNG TIẾP TẾ VÍ THU LU

        Tháng 3- 1959 hai bộ phận An-2 học ở Liên Xô và Trung Quốc về nước .

        Bộ phận Liên Xô gồm: Lái chính: Phan Như Cẩn, Lê Văn Quyền, Nguyễn Xuân Lịch.
        Dẫn đường: Phạm Thanh Tâm, Minh Khôi.
        Thông tin: Trần Sỹ Tiêu.
        Cơ giới trên không: Phạm Khoa, Trần Văn Nam, Lê Quốc Dũng.

        Bộ phận Trung Quốc: Lái chính: Lê Năng, Nguyễn Xuân Tình.
        Biên chế thành đội bay An-2 do đồng chí Phan Như Cẩn phụ trách.

        Thực hành ngày bay phục hồi và bổ túc kỹ thuật tập hạ cất cánh tất cả các sân bay ngắn hẹp trên miền Bắc do chuyên gia Trung Quốc làm giáo viên.

        Tháng 6-1959 trên chủ trương rút gọn tổ bay cử ra 2 giáo viên Lê Văn Quyền và Lê Năng huấn luyện 2 lái phụ cho 2 dẫn đường học ở Liên Xô, Trung Quốc về là Phạm Thanh Tâm và Lê Thế Hưng.

        Tháng 10-1959 tiếp thu thêm 4 học viên tốt nghiệp ở trường Cát Bi là Nguyễn Tôn, Lê Khắc Minh, Nguyễn Văn Toàn, Nguyễn Ngọc Bật, khóa này đào tạo 6 lái phụ chia thành 2 tổ huấn luyện.

        Trong lúc các tổ bay học ở nước ngoài về đang trong giai đoạn củng cố và nâng cao kỹ thuật thì nhận được lệnh của trên mở đường hàng không tiếp tế Vít Thu Lu cho lực lượng mở đường Trường Sơn đang gặp khó khăn về phương tiện, lương thực, thực phẩm sau trận lũ lớn.

        Trung đoàn 919 tổ chức bay trinh sát địa hình mục tiêu và phương pháp bay tiếp tế, sau trinh sát xác định Vít Thu Lu là vị trí nằm sâu trong thung lũng bốn bề núi cao bao bọc, bãi thả chỉ nhỏ bằng sân bóng chuyền, trung đoàn sử dụng máy bay IL-14 có tốc độ lớn thả thử bằng dù ở độ cao 800m do khí tượng vùng núi đối lưu mạnh, hướng gió và tốc độ gió ở các tầng độ cao khác nhau, nhiều khi thay đổi đột biến do đó thả bằng dù ở độ cao cao tất cả dù đều bay ra xa không trúng đích.        Trung đoàn quyết định sừ dụng máy bay An-2 loại máy bay có tính năng bay thấp và cơ động rất tốt theo phương pháp thả vo, không dù, hàng hóa được bọc nhiều lần vỏ bọc.

        15-9-1959 trung đoàn tổ chức đưa 3 tổ bay và 2 máy bay vào trực tại căn cứ sân bay Đồng Hới, 3 tổ bay gồm:

        Tổ 1 : Lê Văn Quyền - Lái chính.
        Nguyễn Xuân Lịch - Lái chính ngồi ghế lái phụ.
        Đinh Huy Cận - Dẫn đường. Trần Sỹ Tiêu - Thông tin.
        Phạm Khoa - Cơ giới trên không.

        Tổ 2: Lê Năng - Lái chính.
        Lê Thế Hưng - Dẫn đường kiêm lái phụ.
        Hồ A - Thông tin.
        Lê Quốc Dũng - Cơ giới trên không.

        Tổ 3: Nguyễn Xuân Tình - Lái chính.
        Phạm Thanh Tâm - Dẫn đường kiêm lái phụ.
        Ngô Hồng Nhung - Thông tin.
        Trần Văn Nam - Cơ giới trên không.

        Đồng chí Phan Như Cẩn lái chính bay thử chuyến đầu tiên, chỉ huy chung và thay thế các lái chính khi cần thiết.

        Trên giao nhiệm vụ chở 60 tấn hàng từ sân bay Đồng Hới thả xuống bãi Vít Thu Lu, các gói hàng được đóng từ 50kg đến 100kg bọc nhiều lần vỏ bọc bằng bao tải gồm các dụng cụ phương tiện máy móc, lương thực, thực phẩm có cả rau xanh và thực phẩm tươi.

        - Ngày 16-9-1959 tổ An-2 đồng chí Cẩn bay thử xác định phương pháp thả như sau: Máy bay qua đỉnh núi chỗ thấp nhất khoảng 500m thu hết ga bổ nhào xuống đến độ cao l00 m thấp nhất 50m, đúng cự ly thả, bấm còi 2 đồng chí cơ giới và thông tin trên không buộc dây bảo hiểm đứng ở cửa bốc hàng vứt ra ngoài, phải 3 đến 4 vòng bay mới thả hết hàng, sau cải tiến bàn thả bốc hàng sẵn lên bàn, khi còi thả, chỉ rút chốt là hàng thả hết rất nhanh chóng, trong quá trình bay luôn cải tiến, do cự ly gần nên máy bay đổ ít xăng để tăng lượng chở hàng mỗi chuyến được trên một tấn. Phương pháp bay này rất mạo hiểm vì máy bay tốc độ nhỏ, chở nặng, bay ở độ cao cực thấp sát núi, khí tượng mùa hè vùng núi luôn thay đổi đột biến, đối lưu mạnh máy bay tròng trành nhỏ điều khiển đặc biệt khi lao xuống thấp thả hàng, động cơ làm việc ở ga nhỏ nhất, thời gian dài, lại là máy bay một động cơ nên rất nguy hiểm, tổ bay lại phải trực tiếp bốc hàng thả tuy đã buộc dây bảo hiểm nhưng máy bay bị lắc mạnh dễ văng người ra ngoài nhưng với lòng dũng cảm hăng say của tuổi trẻ mới vào nghề, ý chí và quyết tâm rất cao thực hiện nhiệm vụ các tổ bay thi đua nhau bay liên tục trời sáng lúc nào là bay lúc ấy không kể giờ giấc, có chuyến bay đến nơi mây che mất bãi phải bay ra khu chờ hoặc phải về tại sân bay hạ cánh, nhưng các tổ bay vẫn không nản chí hết lòng phục vụ hoàn thành đợt nhiệm vụ này, đội bay An-2 được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Ba do Bác Hồ ký.

-------------
        Ghi chú: (Đã đưa các đồng chí bộ binh lên thả  hàng nhưng máy bay xóc, đột ngột lên xuống các đồng chí nôn mửa, không thể thả được nên tổ bay phải tự thả).


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 28 Tháng Bảy, 2016, 11:30:50 pm
     
        NHIỆM VỤ QUỐC TẾ LÀO

        Cuối năm 1960 tình hình cách mạng Lào có bước đột biến tiểu đoàn 2 Pa Thét Lào rời khỏi Chính phủ liên hiệp rút ra vùng tự do kháng chiến kết hợp với tiểu đoàn dù của đại úy Coong Le và trung úy Đươn đảo chính chống lại chính phủ phái Hữu ủng hộ cách mạng Lào. Địa hình rừng núi hiểm trở của Thượng Lào chỉ có thể tiếp tế chi viện bằng đường không mới có thể đáp ứng nhanh nhất, kịp thời nhất cho chiến trường nóng bỏng lúc đó. Hai chính phủ lâm thời cách mạng Lào và Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa ký kết hiệp định viện trợ. Được lệnh trên ngày 11-12-1960, máy bay Li-2 bay thử chuyến đầu tiên xuống sân bay Sầm Nưa vùng giải phóng căn cứ của Chính phủ cách mạng Lào (Pa Thét Lào) .

        Ngày 12-12-1960 ngay ngày hôm sau đợt vận chuyển lớn bằng đường không được bắt đầu, do sân bay này ngắn hẹp lại bị núi cao bao bọc sông suối án ngữ nên chỉ hạ cánh được 2 loại máy bay Li-2 và An-2 mà An-2 là thích hợp nhất, do đó máy bay An-2 được huy động ngày nào cũng thực hiện từ 2 - 4 lần chuyên chở bộ đội, vũ khí đạn dược, lương thực, thực phẩm các loại phương tiện quân sự, dân sự, chuyên gia các ngành thương bệnh binh, tù binh, giặc lái. Lực lượng tổ bay An-2 ít, giai đoạn đầu có 5 lái chính Cẩn, Quyền, Năng, Tình, Lịch, đầu năm 1961 đồng chí Quyền chuyển sang bay Li-2, đồng chí Lịch chuyển sang bay Mi- 1 còn lại 3 lái chính biên chế được 3 tổ bay, ngày nào cũng sử dụng hết tổ lái.

        Do được tiếp tế lực lượng và phương tiện kịp thời mạnh mẽ nên cuộc chiến tranh được mở rộng ra khắp nước Lào, từ cuối năm 1960 đến năm 1965 máy bay An-2 hạ cánh tất cả 14 sân bay ở Thượng Lào như: Sầm Nưa, Hứa Nường, Sầm Tơ, Vang Viêng, Bản Ban, Cánh Đồng Chum, Nậm Bắc, Mường Sài, Mường Hai, Bun Nưa, Phông Sa Lì, Nậm Thà, Mường Sing, Pắc Xế, Nhom Ma Rát. Do các sân bay ngắn hẹp lại nằm sâu trong thung lũng, các loại máy bay có tốc độ lớn không hạ cánh, IL- 14 chỉ thả dù, Li-2 thường hạ 3 sân bay Sầm Nưa, Mận Bắc, Mường Sài, cho nên An-2 là lực lượng chủ yếu hoạt động trên chiến trường Lào, anh em trung đoàn bay 919 tặng cho An-2 cái tên là "Mũi tiêm đao" .

        Địa hình thượng Lào là vùng núi non hiểm trở, núi cao nối tiếp nhau, rừng sâu đại ngàn, thời tiết vô cùng khắc nghiệt, sáng thường có mù, trưa chiều mây CB hình thành và phát triển mạnh khắp nơi, đỉnh rất cao, đáy rất rộng, các sân bay thực chất không phải là sân bay mà là các bãi đất, có bãi thì bằng, có bãi thì mấp mô, lại rất ngắn, hẹp, nhiều bãi chiều dài chỉ được 400m, rộng 20m - 30m không có người quản lý bị thời gian mưa lũ tàn phá, nằm sâu trong thung lũng bốn bề núi cao bao bọc, tất cả các bãi khi hạ cánh không có người và máy chỉ huy, ta địch lại xen kẽ, tổ bay không biết tiếng Lào, chỉ nhận nhiệm vụ trên bản đồ mang hàng và vũ khí chở đến tự do hạ cánh, quân ở mặt đất thì trang phục nhốn nháo không biết là ta hay địch, hạ cánh xong là phải quay ngay đầu máy bay lại, không tắt máy để có tình huống xấu thì cất cánh chạy được ngay.

        Trong thực hiện nhiệm vụ tôi thấy đây là những hành động dũng cảm của các tổ bay như:

        Hạ cánh xuống sân bay Hứa Mường có độ dài 400m chia thành 2 bậc, rộng 30m nằm trên đỉnh núi cao, hai bên là vực sâu, thường xuyên có gió cạnh lớn, máy bay phải chở súng đạn, muối lên tiếp tế, máy bay An-2 rất kỵ hạ cánh gió cạnh lớn, quá giới hạn máy bay sẽ quay trên mặt đất đâm ra ngoài, tính mạng tổ bay luôn bị đe dọa. Cấp trên lúc đó chỉ biết giao nhiệm vụ theo yêu cầu, tổ bay thì lo lắng vì lý do tế nhị nên không ai dám đề nghị không hạ cánh, sau khi thực hành 4 chuyến bay do 3 lái chính Phan Như Cẩn, Lê Năng, Nguyễn Xuân Tình cùng tổ bay thực hiện an toàn, chỉ khi đồng chí đại tá trưởng đoàn bay Liên Xô bay qua sân bay Hứa Mường thấy vô cùng nguy hiểm mới đề nghị chỉ huy của ta cho dừng bay.

        Các tổ bay An-2 được lệnh hạ cánh xuống Vang Viêng tiếp tế súng đạn, xăng dầu, lương thực, thực phẩm cho tiểu đoàn dù của đại úy Coong Le và trung úy Đươn, lúc này Cánh Đồng Chum chưa giải phóng trên thông báo có máy bay chiến đấu T-28 hoạt động, máy bay ta phải bay vòng tránh qua Tha Thom mới tới Vang Viêng, do cự ly ngoài tầm bán kính hoạt động của An-2 máy bay phải mang theo phuy xăng 200 lít hạ cánh xong đổ xăng vào bình của máy bay mới đủ để về Gia Lâm hạ cánh, nếu trời xấu không hạ cánh được xuống Vang Viêng thì máy bay sẽ bị rơi trên đường bay, uy hiếp đến tính mạng. Nhiệm vụ trên giao, biết khó khăn nhưng do yêu cầu khẩn cấp tổ bay kiên quyết chấp hành ngày nào cũng 2 máy bay tiếp tế cho Vang Viêng trong một đợt dài ngày. Có lần 2 máy bay nối đuôi nhau hạ cánh, chiếc sau của đồng chí Nguyễn Xuân Tình bị máy bay chiến đấu không biết của phái hữu Lào hay Thái Lan chặn đầu uy hiếp đồng chí phải xử lý khẩn cấp tránh địch, hạ cánh an toàn.


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 28 Tháng Bảy, 2016, 11:37:04 pm
       
        CHIẾN DỊCH NẬM THÀ (1962)

        Tháng 4-1962 trên chuẩn bị mở chiến dịch Nậm Thà lực lượng không quân vận tải được huy động tiếp tế cho chiến dịch:

        IL- 14 chở hàng từ Gia Lâm lên Điện Biên.

        Li-2 chở lên Mường Sài của Lào.

        An-2 tập trung làm nhiệm vụ chở từ 2 sân bay trên vào các sân bay tiền duyên như: Mường Hai, Bun Nưa, Nậm Thà, Mường Sing.

        Chiến dịch Nậm Thà từ lúc chuẩn bị đến khi thực hành và kết thúc chiến dịch thời gian dài ngày mà An-2 chỉ sử dụng 2 tổ bay còn các tổ khác phải để huấn luyện lớp học viên lái khóa 2 ở sân bay Cát Bi. Hai tổ lái gồm:

        Tổ 1: Lê Năng Lái chính (đại đội trưởng đại đội 7A Cát Bi).
        Lê Thế Hưng Dẫn đường kiêm lái phụ.
        Ngô Hồng Nhung Thông tin.
        Lê Quốc Dũng Cơ giới trên không

        Tổ 2: Nguyễn Xuân Tình Lái chính (đại đội phó đại đội 7B Cát Bi).
        Phạm Thanh Tâm Dẫn đường kiêm lái phụ.
        Hồ A Thông tin.
        Đinh Văn Đươi Cơ giới trên không

        Có một số nhân viên sử dụng thay đổi trong quá trình làm nhiệm vụ như dẫn đường Đinh Huy Cận. Thông tin: Nguyễn Văn Thức, Trần Đông.

        Cơ giới trên không: Loan Thế Linh, Nguyễn Văn Bừng, Phạm Khoa.

        Chiến dịch Nậm Thà ở một địa hình rất phức tạp núi cao, sông suối nhiều, đường bộ thường bị gián đoạn bởi sự tàn phá của mưa lũ, từ Mường Sài vào Mường Hai chỉ vài chục cây số nhưng dân công vác bộ phải mất hàng tuần không bảo đảm kịp thời yêu cầu của chiến trường, các đơn vị chiến đấu lực lượng đông cần rất nhiều vũ khí, đạn dược, đặc biệt là lương thực, thực phẩm. Do đó tiếp tế đường không là rất quan trọng, 2 tổ bay An- 2 hoạt động liên tục để bảo đảm năng suất vận chuyển, tổ bay đề nghị được trên chấp nhận chở các phuy xăng dự bị đến các sân bay trung gian, mỗi chuyến bay đổ ít xăng để chở được nhiều hàng mỗi chuyến trên một tấn, hai chuyến liên tục mới đổ xăng một lần, mỗi máy bay một ngày chở được từ 3 – 4 chuyến vượt yêu cầu, bãi Mường Hai là nơi tập trung hàng lại ở một địa hình rất hẹp, rất khó khăn, cho máy bay cất cánh, chỉ lên xuống được một hướng do nằm sâu trong thung lũng hai đầu bãi bị núi chắn, khi vào phải bay qua mỏm núi mới thu hết ga lao xuống hạ cánh, mỗi chuyến bay hạ cánh tổ bay phải mất rất nhiều tinh lực căng thẳng vã mồ hôi, nhỡ đà thì không thể bay lại được chỉ còn cách là đâm vào núi mà hàng ngày phải hạ cánh con thoi 4 - 5 lần đã mệt lại phải tự dỡ hàng xuống cho nhanh để bay được nhiều chuyến, bữa ăn thì thất thường, thời gian chiến dịch dài, 2 tổ bay An-2 chở được trên 200 chuyến hơn 200 tấn hàng.

        Chiến dịch Nậm Thà phải vượt qua sự mạo hiểm mới có thể hoàn thành được nhiệm vụ như ngày 11-5-1962 hai tổ bay được lệnh cất cánh từ Điện Biên đến thẳng Nậm Thà.

        Tổ đồng chí Năng chở nhóm không quân tiếp thu sân bay Nậm Thà do đồng chí thiếu úy Đinh Công Trái chỉ huy, sau này đồng chí là trung đoàn trưởng căn cứ sân bay Pô Chen Tông, Nông Pênh, Campuchia. Tổ đồng chí Tình chở phương tiện máy móc cất cánh sau, do không có liên lạc với mặt đất 2 tổ bay cứ tiến vào sân bay, tổ đi đầu vào hạ cánh hai bên còn đang đánh nhau, ta vừa chiếm được sân bay đuổi địch chạy vào phố Nậm Thà sát đầu sân bay đang giành giật từng vị trí với địch, bộ phận đồng chí Trái xuống máy bay phải triển khai ngay chiến đấu tự vệ và bảo vệ máy bay, nghe tiếng súng trong phố từng đợt một vẫn nổ rộ tổ đồng chí Tình đi sau vào đến dãy núi cạnh sân bay bị một máy bay chiến đấu cỡ nhỏ của địch đuổi đánh đồng chí Tình đã đi sát lẩn vào khe núi, đồng chí Đinh Văn Đươi cơ giới trên không người dân tộc Tây Nguyên lầm lì dũng cảm đã dùng súng AK mở cửa bắn máy bay địch, tổ bay vào hạ cánh an toàn.

        Thời tiết mùa hè vùng núi thật là khắc nghiệt thay đổi đột biến, buổi chiều CB giăng kín đường về có hôm phải hạ cánh khẩn cấp xuống Mường Sài trời mưa như trút nước máy bay hạ cánh như thủy phi cơ phải ngủ lại qua đêm gây cho bộ phận quản lý sân bay phải rất vất vả trong công tác bảo vệ .

        Ngày 21-5-1962 do yêu cầu tăng thêm chuyến bay vận chuyển từ Mường Sài vào Nậm Thà, 2 tổ bay khi trởvề sân bay Điện Biên trời đã sẩm tối lại sương mù hạn chế tầm nhìn, sân bay phải huy động toàn bộ đèn bão bày làm đèn dạ hàng cho 2 máy bay vào hạ cánh an toàn.

        Do quy mô của chiến dịch Nậm Thà lớn lại cách xa trung tâm Cục Không quân đã cử đồng chí Nguyễn Hào Hiệp, đại úy lên đặc trách chỉ huy căn cứ Điện Biên, hàng ngày đồng chí nhận lệnh trên và giao nhiệm vụ cho tổ bay theo dõi chặt chẽ và giúp đỡ các tổ bay hoàn chỉnh nhiệm vụ, đồng chí là một cán bộ có kinh nghiệm tổ chức chỉ huy và rất sáng tạo như ngày 21-5-1962 đồng chí đã dự liệu tình huống sớm huy động đèn bão bày làm đèn dạ hàng cho 2 máy bay An-2 hạ cánh an toàn góp công sức của mình trong thắng lợi chung.

        Tổng kết chiến dịch Nậm Thà đồng chí Thượng tướng Tổng tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng đánh giá phần kết quả vận chuyển của không quân và gửi thư khen (trang 65 lịch sử Không quân xuất bản 1993, lịch sử Sư đoàn bay 919 xuất bản 1999) . Chuyển lời khen của Trung ương Đảng, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng đến Cục Không quân.

        Không quân vận tải của quân đội ta tuy mới ra đời, lực lượng còn non trẻ nhưng rất mưu trí dũng cảm đã góp phần nhiều khi có tác dụng như quyết định đối với chiến trường về mặt vận tải góp phần quan trọng tạo nên thắng lợi chung của chiến dịch.        Ngoài ra An-2 còn làm nhiều nhiệm vụ đặc biệt khác như:

        1. Báo bão ngoài biển khơi, thả phao cứu ngư dân.

        2. Thăm dò địa chất.

        3. Bay phun thuốc trừ sâu cứu 70ha rừng thông tỉnh Nghệ An.

        4. Ngày 10-9-1962 thực hiện chuyến bay chuyên cơ A đồng chí Cay Xỏn Phôm Vi Hản - Tổng bí thư Đảng Lào từ Sầm Nưa về Hà Nội an toàn.

        5. Huấn luyện 3 lớp phi công Lào tại sân bay Gia Lâm trong chiến tranh chống Mỹ.

        6. Bắn đắm 3 tàu biệt kích ở vùng bờ biển Thanh Hóa.

        7. Đánh trận địa ra đa Pha Thí, Lào.

        Khi nói đến loại máy bay An-2 và công tích của nó chúng tôi luôn nhớ tới công trạng của anh hùng Phan Như Cẩn người anh cả và là con chim đầu đàn của chúng tôi, người luôn đi đầu trong mọi khó khăn đầy tinh thần trách nhiệm và lòng dũng cảm vô song.

        Mọi thành tích của An-2 đều gắn liền với công lao và tên tuổi của đồng chí.

        Trung đoàn 919 tổng kết bay tiếp tế chiến trường Lào trong 6 năm từ 1960 - 1965.

        Bộ phận An-2 đồng chí Lê Năng được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng 3, do Bác Hồ ký tặng.

Ngày 10-12-2004.       


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 28 Tháng Bảy, 2016, 11:47:51 pm
       
CHIẾN CÔNG OANH LIỆT CỦA LỰC LƯỢNG MÁY BAY AN2 TIÊU DIỆT TÀU BIỆT KÍCH ĐỊCH TAI VÙNG BIỂN SẦM SƠN THANH HÓA VÀ TIÊU DIỆT TRẠM RADA PATHÍ TẠI LÀO

Đại tá PHẠM ĐÌNH CƯỜNG                   
Nguyên Trung đoàn trưởng trung đoàn KQVT       

        Mọi người dân Việt Nam còn ghi nhớ ngày mồng 5 tháng 8 năm 1964, bọn giặc Mỹ ngang nhiên đem máy bay vào bắn phá các khu vực: Hải Phòng, Quảng Ninh, Thanh Hóa v. v... Sau đó dần dần dùng các loại máy bay ném bom bắn phá toàn miền Bắc nước ta. Bọn chúng dùng tàu chiến và tàu biệt kích bắn phá các vùng bờ biển từ Thanh Hóa trở vào, ban đêm liên tục tàu biệt kích chạy sát bờ biển để bắn phá uy hiếp đồng bào ta.

        Trước tình hình đó Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã giao nhiệm vụ cho trung đoàn không quân vận tải 919, dùng máy bay An-2 để tiêu diệt tàu biệt kích của địch.

        Tôi còn nhớ mãi ngày 20-10-1965 đồng chí Văn Tiến Dũng, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam xuống gặp ban chỉ huy trung đoàn 919 giao nhiệm vụ:

        Nhân dân miền Nam cầm gậy tầm vông đánh giặc. Nay ta có máy bay An-2 cải tiến lắp ráp rốc-két, đạn cối để đánh giặc và phải tiêu diệt bằng được tàu biệt kích của địch để bảo vệ bờ biển, bảo vệ an ninh cho nhân dân.

        Nhiệm vụ được giao, Đảng ủy 919 họp bàn và ra nghị quyết: "Bằng mọi cách và hạ quyết tâm chấp hành nghiêm chỉnh mệnh lệnh của Bộ Quốc phòng".

        Nhiệm vụ đã rõ ràng, nhưng thực hiện gặp muôn vàn khó khăn. Điều gay go nhất là các phi công của loại máy bay An-2 chưa được huấn luyện bay biển và đặc biệt nhất là bay ban đêm xa bờ biển. Sau khi bàn bạc thảo luận dân chủ, mọi người đều hạ quyết tâm: "Tìm kim đáy biển, quyết đánh và quyết thắng".

        Sử dụng một số tổ bay khá, giỏi có quyết tâm cao như các đồng chí phi công: Phan Như Cẩn, Đào Hữu Ngoan, Nguyễn Ngọc Huân, Phạm Thanh Tâm, Trần Sĩ Tiêu v.v...

        Liên hệ hiệp đồng với Quân chủng Hải quân để sử dụng tàu biển làm mục tiêu.

        Huấn luyện từ giản đơn đến phức tạp bay ban ngày ở độ cao từ 1000m đến 50m, bay đêm sáng trăng và tối.

        Tất cả một số cán bộ cơ quan của trung đoàn và các tổ bay, thợ máy, bộ phận nuôi quân xuống sân bay Kiến An thường xuyên.

        Sau khi kiểm tra kết quả huấn luyện 3 tháng liên tục báo cáo lên Bộ tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân, Bộ Tổng tư lệnh quyết định triển khai chiến đấu.

        Ngày 15-2-1966, tôi được giao nhiệm vụ tổ chức sở chỉ huy tiền phương phối hợp với các lực lượng: Pháo bờ biển, pháo phòng không, Quân chủng Hải quân và các lực lượng dân quân tại các căn cứ các huyện: Quảng Nạp, Quảng Đức, Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa.

        Sau khi triển khai xong, báo cáo về sở chỉ huy Quân chủng PK-KQ.

        Đêm ngày 2-8-1966 lệnh báo động chiến đấu. Ra đa của Quân chủng PK-KQ theo dõi máy bay địch và hướng dẫn máy bay của ta. Ra đa của hải quân theo dõi sự chuyển động của tàu biệt kích địch xuất phát từ vĩ tuyến 17 trở ra.

        Đúng 0 giờ 00 ngày 8-3-1966, hai máy bay An-2 số hiệu 670 và 671 (ký hiệu gọi tắt là T12), mỗi máy bay được lắp 2 thùng rốc-két 32 quả loại cực mạnh và 1 giàn đạn cối 12 quả 120mm, cất cánh từ sân bay Gia Lâm, bay theo đường bay: Gia Lâm - Phủ Lý - Thanh Hóa. Khi đã phát hiện rõ đường chuyển động của tàu biệt kích địch. Lúc này trời sáng trăng, pháo binh bờ biển của ta định bắn, nhưng tầm pháo không bắn tới, vì tàu biệt kích cách bờ biển trên 50km, chỉ có máy bay mới tiêu diệt được. Nếu để pháo bắn thì tàu địch sẽ chạy mất. Vì vậy tôi đã ra lệnh cho máy bay An-2 của ta hạ thấp độ cao xuống 200m. Tổ bay đồng chí: Phan Như Cẩn - phi công lái chính, Phạm Thanh Tâm - hoa tiêu, Trần Sỹ Tiêu - lái phụ, Loan Thế Linh - cơ giới trên không.

        Đã phát hiện mục tiêu, từ độ cao 200m xuống 50m - 30m, bắn 2 thùng rốc-két 32 quả và 12 quả đạn cối 120mm, bắn trúng 1 tàu địch chìm tại chỗ. Sau đó tổ bay bay vào bờ biển nhưng chẳng may bị lực lượng dân quân của ta bắn súng trung liên trúng nhẹ vào máy bay, đồng chí Cẩn bị thương phải hạ cánh bắt buộc xuống bờ biển Sầm Sơn - Thanh Hóa. Sau đó được ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa nhanh chóng đưa tổ bay về Hà Nội để cứu chữa.

        Còn tổ bay đồng chí Đào Hữu Ngoan do thời tiết quá xấu và chiếc tàu địch còn lại đã hoảng hốt quay vào phía trong vĩ tuyến 17. Tổ bay đồng chí Ngoan bay về hạ cánh sân bay Gia Lâm an toàn. Trận đánh kết thúc vào lúc 3 giờ 24 phút ngày 8-3-1966.

        Sáng sớm hôm sau, lúc 9 giờ 00 ngày 9-3-1966 chiếc tàu biệt kích bị bắn vỡ thành 2 mảnh và một số xác chết trôi dạt vào bờ biển Sầm Sơn - Thanh Hóa.

        Sau đánh thắng trận đầu oanh liệt, giòn giã, trung đoàn đã tổ chức rút kinh nghiệm. Tổ bay đồng chí Phan Như Cẩn vinh dự lên gặp Bác Hồ và được Bác nhiệt liệt hoan nghênh và biểu dương thành tích.

        Sau khi địch bị thất bại, tàu địch không dám hoạt động đêm trăng mà chuyển sang hoạt động đêm tối trời.


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 29 Tháng Bảy, 2016, 08:18:15 am

        Phát huy chiến thắng, trung đoàn lại cùng các tổ bay nghiên cứu huấn luyện bay ban đêm tối trời trên biển và thả pháo sáng để đánh tàu biệt kích. Sau trận thắng này, tôi lại trở về đơn vị và tổ chức xuống sân bay Kiến An để huấn luyện. Sau khi đã huấn luyện thành thạo khoa mục bay ban đêm trên biển thả pháo sáng. Tôi được ủy nhiệm sở chỉ huy tiền phương tại huyện Quảng Xương, Thanh Hóa phối hợp với các lực lượng phòng không, hải quân, pháo binh bờ biển để tiếp tục tiêu diệt tàu biệt kích.

        Đêm 13 tháng 6 năm 1966, quân địch lại dùng tàu biệt kích đêm tối trời từ vĩ tuyến 17 ra vùng biển Sầm Sơn.

        Trận đánh này sử dụng 2 tổ bay.

        - Huân, Dần, Giao, Hồng.

        - Tấu, Quỳ, Khoa, Linh.

        22 giờ 15 phút ngày 13-6-1966, hai máy bay cất cánh từ sân bay Gia Lâm bay đến vùng Sầm Sơn - Thanh Hóa. Khi phát hiện mục tiêu, tổ bay đồng chí Tấu bay phía trước ở độ cao 600m, thả pháo sáng. Tổ đồng chí Huân bay sau ở độ cao 300m và tổ bay của đồng chí Huân bay lao xuống bắn 2 chùm rốc-két 32 quả và 12 quả đạn cối 120mm đánh trúng mục tiêu, tàu địch bốc cháy và chìm tại chỗ.

        Sau chiến thắng trận này, quân địch không dám ngang nhiên dùng tàu biệt kích vào các vùng biển nữa.

        Chiến công đó đã góp phần bảo vệ vùng biển và bảo vệ an ninh cho nhân dân, đã tạo thế và phát huy kết quả trong việc chiếm đánh các mục tiêu mặt đất.

        Bọn Mỹ đã đặt trạm ra đa tại vùng Pa Thí Lào ở độ cao hơn 1000m để vươn xa cánh sóng giúp cho các máy bay của chúng cất cánh từ Thái Lan bay sang đánh phá ở Việt Nam .

        Theo lệnh của Bộ Quốc phòng và Bộ tư lệnh Quân chủng PK-KQ đã ra lệnh cho trung đoàn 919 sử dụng máy bay An-2 tiêu diệt trạm ra đa đó.

        Sau khi nghiên cứu kỹ các phương án tác chiến, để tạo cơ hội bất ngờ, lúc máy bay của Mỹ không hoạt động nên đúng 11 giờ 45 phút ngày 12-1-1968 đã sử dụng 4 chiếc máy bay An-2 gồm 4 tổ bay:

        1 Cẩn - Tâm - Tiêu.

        2. Quý - Phán - Kịch.

        3. Ngộ - Hùng - Kiểu - Chinh.

        4. Giểng - Niêm - Hùng.

        Cất cánh từ sân bay Gia Lâm - Hòa Bình - Pa Thí, mỗi máy bay mang theo 32 quả rốc-két và 12 quả đạn cối 120mm, đã đánh trúng mục tiêu, lần lượt thay nhau và công kích. Kết quả là toàn bộ trang bị đài chỉ huy và doanh trại của trạm ra đa này bị phá hủy hoàn toàn, hai máy bay trực thăng của địch bị bốc cháy, hàng trăm tên địch bị chết và bị thương nặng.

        Trận thắng lợi giòn giã này đã ghi vào lịch sử của Không quân nhân dân Việt Nam, tạo điều kiện cho các lực lượng không quân đánh thắng mục tiêu trên mặt đất và đã đóng góp một phần vào công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước .

        Thương tiếc thay một tai nạn rủi ro; sau khi chiến thắng giòn giã tiêu diệt hoàn toàn cứ điểm ra đa của địch, trên đường bay trở về căn cứ xuất phát, 2 tổ bay của các đồng chí: Cẩn - Tâm - Tiêu - Quý - Phán - Kịch đã xảy ra tai nạn bất ngờ làm 2 máy bay bị đâm vào núi do địa hình hiểm trở và 2 tổ bay đã hy sinh anh dũng.

        Sau chiến thắng, để ghi công ơn và thành tích, Nhà nước và quân đội đã khen thưởng 4 tổ bay một cách xứng đáng với chiến công rực rỡ. Riêng các đồng chí Cẩn - Tâm - Tiêu - Quý - Phán - Kịch truy tặng liệt sĩ vì sự nghiệp giải phóng dân tộc . Và đặc biệt đồng chí Phan Như Cẩn với chiến công đặc biệt đã anh dũng trong các nhiệm vụ chiến đấu tiêu diệt biệt kích địch trên biển và tiêu diệt trạm ra đa Pa Thí. Là một cán bộ,đảng viên tiên phong, quả cảm, anh dũng trong chiến đấu nên đã được Nhà nước phong truy tặng Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

        Những tấm gương cao đẹp đó đã tô thắm, là mốc son chói lọi của lực lượng không quân vận tải Việt Nam và đã thể hiện những công tích cao đẹp của lực lượng Không quân nhân dân Việt Nam.

        Chúng tôi những người đồng chí, đồng đội, luôn luôn ghi nhớ công ơn của các đồng chí đã vì nước quên mình, in sâu mãi mãi trong tâm trí không bao giờ quên.

        Lực lượng không quân vận tải Việt Nam là một thành viên của Không quân nhân dân Việt Nam. Là một trung đoàn đầu tiên của không quân được thành lập "Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua".

        Riêng lực lượng máy bay An-2 mệnh danh là lắm cánh nhiều càng, thông thường chỉ làm các nhiệm vụ: Chở khách, phục vụ cho nông nghiệp: Rắc thuốc trừ sâu, bay thăm dỏ địa chất v. v...

        Trong công cuộc chiến tranh vĩ đại, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, nên đã phát huy sức mạnh tổng hợp để đánh thắng quân Mỹ xâm lược, làm nên chiến thắng thần kỳ - đại thắng mùa xuân năm 1975, hoàn toàn giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 29 Tháng Bảy, 2016, 08:21:45 am
       
TẤM GƯƠNG SÁNG NGỜI LIỆT SỸ PHAN NHƯ CẨN – PHI CÔNG ANH HÙNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN

Đại tá PHẠM ĐÌNH CƯỜNG                     
Nguyên Trung đoàn trưởng trung đoàn KQVT       

        Nói đến Phan Như Cẩn, một phi công vô cùng anh dũng trong chiến đấu, trong học tập luôn thông minh về lý thuyết và thực hành. Trong cuộc sống luôn khiêm tốn giản dị, trong lĩnh vực lãnh đạo chỉ huy luôn tỏ ra năng động, gương mẫu. Bất cứ ở cương vị nào cũng hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ.

        Anh sớm được giác ngộ cách mạng tham gia vào quân đội, rồi được thử thách tham gia chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, anh được Đảng, Nhà nước và quân đội cho đi học bồi dưỡng văn hóa và ngoại ngữ Trung Quốc. Sau năm, tháng học tập được cử chọn đi học lái máy bay tại Liên Xô. Từ năm 1956 đến 1959.

        Trong những năm học tại Liên Xô gặp muôn vàn khó khăn: Thời tiết khắc nghiệt, mùa đông nhiệt độ rét dưới -300, ngôn ngữ không biết vì trước lúc đi Liên Xô, lúc ở Việt Nam, học tiếng Trung Quốc. Thế rồi được sự lãnh đạo của chi bộ, sự quan tâm của Đại sứ quán Việt Nam, mọi người ai nấy đều gắng sức, chăm chỉ rèn luyện, Phan Như Cẩn là một trong những thành viên xuất sắc tiêu biểu về mọi mặt và học giỏi toàn diện.

        Phan Như Cẩn sau khi tốt nghiệp tại Liên Xô trở về Tổ quốc , đúng lúc quân đội ta thành lập trung đoàn không quân vận tải 919, ngày 1-5-1959, trung đoàn không quân đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

        Trung đoàn 919, mới được thành lập, đã được Bộ Quốc phòng giao nhiệm vụ: Dùng máy bay An-2 để chở hàng cho bộ đội tại Vít Thu Lu đường Trường Sơn 559. Trong hoàn cảnh địa hình phức tạp, hiểm trở, Phan Như Cẩn đã xung phong gương mẫu đi đầu bay đến địa điểm thả hàng trăm tấn lương thực, vũ khí, đạn dược hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

        Chiến công đó đã mở đầu cho việc hoàn thành các nhiệm vụ của lực lượng máy bay An-2.

        Tiếp đó lại được giao các nhiệm vụ: Trong điều kiện Nhà nước phương tiện thông tin còn rất hạn chế, những năm 1960 - 1965, mùa mưa bão ập đến vùng biển Đông và các vùng lân cận. Để kịp thời thông báo cho các ngư dân đồng bào biết, tàu thuyền trên biển vùng xa. Đã sử dụng máy bay An-2 bay trên biển, bắc loa kêu gọi, thông báo đồng bào biết có bão lớn sắp tràn đến để thoát khỏi lâm nguy.

        Lúc này Phan Như Cẩn lại xung phong cất cánh bay ra xa bờ biển để kịp thời thông báo cho nhân dân, tàu thuyền biết nhanh chóng quay vào đất liền và tìm nơi an toàn.

        Tiếp đó là nhiệm vụ "rắc thuốc trừ sâu' giúp nông dân khỏi bị thảm họa các châu chấu, côn trùng. Phan Như Cẩn lại xung phong gương mẫu bay trên bầu trời ở độ cao cực thấp 30 - 50m. Kết quả là đã góp phần giúp cho nông dân diệt được nạn côn trùng làm hại lúa, tạo điều kiện cho nhân dân được mùa bội thu.

        Một nhiệm vụ cực kỳ khó khăn, theo yêu cầu của ngành địa chất, sử dụng máy bay An-2 để bay các khu vực trung du và rừng núi để thăm dò địa chất, để giúp các nhà chuyên môn tìm và phát hiện các mỏ quặng, đá quý nằm sâu dưới mặt đất. Nhiệm vụ này rất khó khăn vì phải bay bằng độ cao cực thấp, cách mặt đất 5m đến 10m, anh em trong đơn vị và các nhà chuyên môn thường gọi là bay "cạo mặt" các phi công trong đơn vị e ngại không dám bay. Thế là phi công Phan Như Cẩn lại xung phong dũng cảm bay: Có chuyến bay năm 1961, khi bay ở vùng miền Trung, bay ở độ cao cực thấp, máy bay đã bay sát vào rừng cây và máy bay đã mang theo cả một cành cây về hạ cánh tại sân bay Vinh an toàn.

        Ngày mồng 1 tháng 5 năm 1964, trong buổi diễu binh dùng máy bay An-2 bay biên đội để chào mừng ngày Quốc tế lao động, tại sân bay Cát Bi, Hải Phòng. Trong lúc đang bay, một chiếc máy bay bay sau với cự ly quá gần đã bay lao vào máy bay của đồng chí Cẩn, làm cho máy bay đi sau lâm nạn lớn, máy bay và tổ bay đi sau hy sinh, còn tổ bay của đồng chí Cẩn đã linh hoạt hạ cánh xuống sân bay Cát Bi an toàn.

        Ngày 5-8- 1964, máy bay Mỹ vào ném bom bắn phá miền Bắc nước ta và dùng các loại tàu chiến, tàu biệt kích quấy rối các vùng ven biển từ vĩ tuyến 17 trở ra đến các khu vực Sầm Sơn - Thanh Hóa ...

        Trung đoàn 919, được Bộ Quốc phòng giao nhiệm vụ: Sử dụng máy bay An-2 cải tiến lắp rốc-két, đạn cối để tiêu diệt tàu biệt kích địch tại vùng biển Sầm Sơn - Thanh Hóa.

        Nhiệm vụ được giao thật vô cùng khó khăn, phức tạp. Sau khi nghiên cứu, quán triệt nhiệm vụ, bàn bạc trong Đảng ủy trung đoàn và bàn bạc dân chủ trong lực lượng máy bay An-2.


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 29 Tháng Bảy, 2016, 08:23:45 am

        Lúc này Phan Như Cẩn, với cương vị tiểu đoàn trưởng, với quyết tâm và lòng dũng cảm. Anh đã cùng đồng đội nghiên cứu tổ chức bay huấn luyện trên biển, phối hợp hiệp đồng với các lực lượng hải quân, không quân, phòng không đạt kết quả tốt đẹp.

        Trung đoàn đã tổ chức chỉ huy sở tiền phương tại các khu vực huyện: Quảng Nạp, Quảng Xương, Quảng Đức tỉnh Thanh Hóa để tiến hành tổ chức đánh biệt kích địch.

        Đêm ngày 8-3-1966 Phan Như Cẩn lái máy bay An-2 dẫn đầu cùng đồng đội tổ bay gồm: Cẩn lái chính - Tiêu lái phụ, Tâm dẫn đường (hoa tiêu), Linh cơ giới. Bay trong đêm trăng, lợi dụng ánh trăng chiếu dọi và hướng dẫn của ra đa của Quân chủng PK-KQ và Quân chủng Hải quân đã phát hiện tàu biệt kích địch tại vùng biển Sầm Sơn, đã kịp thời hướng dẫn máy bay An-2 tiếp cận tàu địch với tinh thần dũng cảm phi thường, Phan Như Cẩn đã lái máy bay hạ thấp độ cao xuống 200m cách mặt biển và đã linh hoạt dũng cảm bắn trúng, bắn chìm 1 tàu biệt kích địch tại chỗ.

        Sau trận thắng phi công Cẩn đã hạ thấp độ cao bay vào bờ biển Sầm Sơn, thì bất ngờ bị dân quân bờ biển tưởng là máy bay địch nên đã bắn trung liên trúng máy bay của ta, phi công Cẩn bị thương nhẹ, phải hạ cánh bắt buộc tại bờ biển Sầm Sơn.

        Với chiến công oanh liệt đó, Phan Như Cẩn được vinh dự lên gặp Bác Hồ tại Hà Nội và được Bác Hồ khen ngợi.

        Chiến công đó nói lên lần đầu tiên không quân vận tải Việt Nam đánh thắng đánh chìm tàu địch trên biển.

        Trước thất bại đó của địch, quân Mỹ, ngụy chưa cam chịu, lại chuyển sang hoạt động quấy rối ở bờ biển ban đêm tối trời.

        Phát huy chiến thắng đã đạt được trung đoàn 919, cùng lực lượng máy bay An-2 lại nghiên cứu tổ chức huấn luyện bay đêm tối trời trên biển và đạt kết quả tốt đẹp

        Thế rồi phi công Phan Như Cẩn lại liên tiếp bay và tiêu diệt tàu biệt kích địch trong đêm tối trời bằng cách "thả pháo sáng".

        Với thất bại liên tiếp đó bọn giặc Mỹ ngụy đã kinh hoàng không dám dùng tàu biệt kích để quấy rối nhân dân từ vĩ tuyến 1 7 trở r a nửa .

        Với khí thế quyết thắng, quyết tâm tiêu diệt địch. Trong những năm 1968, bọn Mỹ đã đặt trạm ra đa tại vùng Pa Thí Lào ở trên vùng núi cao hơn 1000m để hướng dẫn máy bay của Mỹ cất cánh từ Thái Lan bay ra bắn phá miền Bắc nước ta.

        Sau khi nghiên cứu kỹ hướng, phối hợp với lực lượng mặt đất của bạn Lào. Trung đoàn 919 đã sử dụng 4 chiếc máy bay An-2 mỗi máy bay lắp 2 thùng rốc-két 32 quả và 12 quả đạn cối 120 ly lợi dụng lúc máy bay địch không hoạt động bắn phá miền Bắc.

        Đúng 11 giờ 45 phút ngày 12 tháng 1 năm 1968, 4 chiếc máy bay An-2 đã cất cánh từ sân bay Gia Lâm gồm các tổ bay: Cẩn - Tâm - Tiêu - Quý - Phán - Kịch - Ngộ - Hùng - Kiểu - Trinh - Giếng - Niêm - Hùng.        Do đại úy tiểu đoàn trưởng phi công Phan Như Cẩn dẫn đầu đã bay đến đúng mục tiêu, tất cả 4 máy bay đều bắn trúng mục tiêu, tiêu diệt toàn bộ trạm ra đa Pa Thí và 2 chiếc trực thăng đậu tại chỗ bốc cháy và hàng trăm xác địch bị chết tại chỗ phải đền mạng.

        Trên đường bay về căn cứ xuất phát (Gia Lâm) do địa hình hiểm trở nên 2 máy bay do các đồng chí: Cẩn - Tâm - Tiêu - Quý - Phán - Kịch bị tai nạn đâm vào núi, 2 tổ bay hy sinh anh dũng.

        Sau chiến thắng giòn giã đó các tổ bay được Nhà nước, Chính phủ Việt Nam khen thưởng với phần thưởng cao quý.

        Các đồng chí: Cẩn - Tâm - Tiêu - Quý - Phán - Kịch được truy tặng liệt sĩ. Riêng đồng chí Phan Như Cẩn do có công tích to lớn nên được Nhà nước truy tặng Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

        Các chiến công oanh liệt đó đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp truyền thống của Không quân nhân dân Việt Nam và đã góp phần vào công cuộc kháng chiến đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.

        Nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày truyền thống của lực lượng Không quân nhân dân Việt Nam.

        Chúng tôi rất biết ơn các đồng chí đã cống hiến, hy sinh vì độc lập tự do của dân tộc và rất tự hào với những người bạn chiến đấu vô cùng anh dũng, tấm gương sáng ngời .

        Đặc biệt tấm gương oanh liệt, mốc son chói lọi của Anh hùng liệt sĩ phi công Phan Như Cẩn đã ghi sâu vào lịch sử Không quân nhân dân Việt Nam cho muôn đời sau mãi không bao giờ quên.


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 29 Tháng Bảy, 2016, 08:26:44 am
        
NỔ SÚNG CHỌI MÁY BAY ĐỊCH KHIÊU KHÍCH TRÊN KHÔNG

Đại tá TRẦN VĂN NAM                                  
Nguyên Chủ nhiệm kỹ thuật thợ máy trên không máy bay Li-2        

        Trong lịch sử chiến đấu và công tác của trung đoàn không quân vận tải 919 anh hùng có đoạn ghi nhận chiến tích của một tổ bay Li-2 thuộc tiểu đoàn Li-2 trung đoàn 919 trong khi đang làm nhiệm vụ phục vụ chiến đấu trên vùng trời Thượng Lào đã gặp máy bay địch khiêu khích. Tổ bay đã quyết định đối đầu và sau đó nổ súng đánh đuổi máy bay địch hoàn thành nhiệm vụ về căn cứ hạ cánh an toàn.

        Đó là chuyến bay vận tải trong chiến dịch giúp bạn Lào giải phóng vùng Thượng Lào đầu năm 1962.

        Tổ bay Li-2 số 61327 do Đinh Tôn lái chính. Một người con của miền Nam tập kết ra Bắc được vinh dự chọn đi học lái máy bay thể thao ở Tiệp Khắc vào đầu năm 1957. Sau một năm học tập tốt nghiệp bay sơ cấp về nước làm giáo viên bay của Câu lạc bộ Hàng không Cát Bi (đơn vị tiền thân của Trường Không quân 910).

        Đến giữa năm 1961 do tình hình nhiệm vụ đòi hỏi, các lực lượng bay phát triển, không quân ta chuẩn bị tiếp nhận số máy bay Li-2 và IL-14 của đoàn không quân vận tải Liên Xô giúp Lào về nước ... Các đồng chí Tôn, Liên, Thuận đều là giáo viên bay đào tạo ở Tiệp Khắc về, được chuyển loại sang bay máy bay Li-2. Với tinh thần hăng say học tập lý thuyết, quyết tâm cao, khẩn trương chất lượng trong thực hành bay, được các chuyên gia bay Liên Xô kèm cặp chỉ sau một thời gian rất ngắn với tổng thời gian bay trên 20 giờ cả ba đồng chí đã kết thúc khóa huấn luyện chuyển loại tốt đẹp từ sân bay Cát Bi - về Gia Lâm cùng với các lực lượng học tập ở Trung Quốc và đào tạo trong nước hình thành tiểu đoàn máy bay Li-2 (d2) với hai đại đội bay c2, c3 và một c thợ máy thuộc trung đoàn 919.

        Hồi đó, nhiệm vụ chính của tiểu đoàn Li-2 chúng tôi liên tục hoạt động phục vụ vận tải cơ động cho quân đội bạn Lào và quân tình nguyện Việt Nam ở Lào từ các căn cứ thuộc Quân khu Tây Bắc sang các căn cứ sân bay vùng Thượng Lào như Mường Xinh, Mường Xài ... Máy bay ta bay đi bay về như con thoi, hầu như ngày nào cũng có 4 đến 6 máy bay Li-2 hoạt động - Thời gian đầu địch chưa có phản ứng gì lắm, nhưng đến khi chiến dịch bắt đầu thì đã có xuất hiện máy bay địch.

        Nắm bắt được thông tin trên, Cục trưởng Cục Không quân lúc bấy giờ là đồng chí đại tá Đặng Tính đã trực tiếp xuống chỉ thị cho trung đoàn 919 nhanh chóng nghiên cứu thiết kế làm giá để lắp súng đại liên Kô-li- nốp ở cửa sổ hai phía thân máy bay Li-2. Tổ cơ khí của xưởng kề sân bay Gia Lâm đã khẩn trương hoàn thành và ngay sau đó Cục trưởng đã cùng tổ bay chúng tôi mang theo phao bằng săm Ô tô bơm căng hơi bay ra vùng biển Hải Hậu thả phao xuống biển làm mục tiêu và đồng chí Đặng Tính trực tiếp bắn thử, sau đó hướng dẫn cho anh em thợ máy thông tin trên không lần lượt tập bắn thử... . và trước tình hình nhiệm vụ khẩn trương .Chúng tôi không có nhiều thời gian để tập luyện, hôm sau phải đi làm nhiệm vụ ngay.

        Thế là, đã có ba máy bay Li-2 được lắp súng đại liên Kô-li-nốp mỗi máy bay hai khẩu với cơ số đạn cần thiết anh em tổ bay phấn khởi, tự tin hơn liên tục hoàn thành nhiệm vụ, nhưng từ sau ngày máy bay ta có vũ khí tự vệ lại không thấy máy bay nào của địch xuất hiện... và rồi trong một chuyến bay từ Điện Biên đi Mường Xing tổ bay Li-2 số 61327 do anh Đinh Tôn lái chính thợ máy trên không Phan Thanh Liêm học viên, tôi chủ nhiệm giáo viên bay kèm cùng với tổ bay đang bay bình thường phát hiện một máy bay lạ phía trước đang bay đúng hướng ngược, nắm bắt thông tin xác định không phải máy bay ta, Đinh Tôn hội ý chớp nhoáng và nhận định nhiều khả năng máy bay địch khiêu khích... quyết định đối đầu và chọn thời cơ nổ súng uy hiếp ... Tôi được phân công phụ trách khẩu súng bên trái sẵn sàng nổ súng khi có lệnh.

        Các nhân viên khác theo nhiệm vụ của mình sẵn sàng: Máy bay địch vẫn bay thẳng hướng. Đinh Tôn quyết định giữ nguyên hướng bay đối đầu thể hiện ý chí quyết thắng, kẻ nào run sợ sẽ phải bay ngoặt đi... đúng như nhận định, máy bay địch phải ngoặt sang phải về hướng Lào, Thái Lan... Nổ súng bên trái, tôi lập tức đưa vòng ngắm vào máy bay địch đang nằm ngang tầm nhả đạn: Tằng, tằng, tằng... Rất tiếc mới chỉ được 18 viên thì súng bị hóc đạn nhưng tin tưởng thế nào cũng trúng được một số viên. Máy bay chúng tôi tiếp tục hành trình hạ cánh an toàn xuống sân bay Mường Xinh, Nậm Thà. Có tin máy bay địch có bị trúng đạn và đã phải hạ cánh xuống sân bay gần biên giới Lào - Thái đó là loại máy bay B-26 của Mỹ.

        Rút kinh nghiệm cho các chuyến bay tiếp theo, đội ngũ phi công chúng tôi rất biết ơn sự quan tâm tạo điều kiện kịp thời giúp đỡ động viên của Đảng ủy, thủ trưởng các cơ quan Cục Không quân, của lãnh đạo, chỉ huy trung đoàn 919 chúng tôi đã xác định quyết tâm cao hơn, khắc phục nhiều khó khăn hoàn thành xuất sắc đợt vận chuyển cơ động chiến đấu giúp bạn góp phần đáng kể vào chiến thắng của chiến dịch giải phóng Thượng Lào năm 1962.

        Nhiều cá nhân, tập thể của tiểu đoàn bay Li-2 đã được thưởng Huân chương Chiến công và các hình thức khen thưởng khác. Riêng tổ bay của chúng tôi có một kỷ niệm nhỏ đó là chúng tôi được đồng chí Tư lệnh Quân khu Tây Bắc, Tướng Bằng Giang tặng mỗi người một khẩu các-bin chiến lợi phẩm làm kỷ niệm. Sau đó chúng  tôi đã tặng lại nhà truyền thống của trung đoàn 919 cuối năm 1962.

        Nhớ thương anh Đinh Tôn, anh Phan Thanh Liêm không còn nữa, tôi nhớ và ghi lại mẩu chuyện này, có gì sai sót mong được sự góp ý chân thành.

Hà Nội, 22- 12-2004.        


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 29 Tháng Bảy, 2016, 08:32:34 am
       
ĐỜI TÔI CÓ ĐẢNG CHẮP CÁNH BAY

Đại tá TRẦN VĂN THIẾU                     
Phi công trực thăng                       
Nguyên Trung đoàn trưởng trung đoàn 916       

        Sinh ra và lớn lên ở vùng quê lúa Vũ Tây, Kiến Xương, Thái Bình, tôi cũng như bao bạn đồng trang lứa cùng chăn trâu, ngày ngày mải mê theo những cánh diều; nhưng ước mơ được bay giữa bầu trời cao xanh thì tôi chưa bao giờ nghĩ tới vì hoàn cảnh nhà nghèo lại đông anh em.

        Đến tháng 3-1959, 18 tuổi, tôi vinh dự được mang trên mình bộ quân phục anh bộ đội Cụ Hồ, lại được đóng quân ở Thủ đô nơi có Bác Hồ kính yêu và bao cảnh đẹp như Hồ Gươm, Tháp Rùa... Nhưng điều làm tôi hãnh diện hơn cả là tôi được Đảng, Quân đội tin tưởng cho học lái máy bay tại trường hàng không số 1 (trung đoàn 910). Đầu tiên, tôi học bay loại máy bay YAK-18. Sau khi hoàn thành khóa huấn luyện ba năm, tôi được chọn, chuyển về bay máy bay trực thăng tại tiểu đoàn 94, trung đoàn 919 , trung đoàn 916 . Gần 40 năm gắn bó với bầu trời, tuy không được thả sức lướt trên chín tầng mây cùng "én bạc" như những đồng đội bay phản lực, nhưng tôi cũng đã có biết bao kỷ niệm vui buồn cùng chú "chuồn chuồn" sắt thân yêu.

        Sẽ là sơ xuất nếu không nhắc tới chuyến bay nhiệm vụ đầu tiên của tôi. Tháng 2 - 1962 , lúc đó tổ bay chúng tôi gồm lái chính đồng chí Trần Ngọc Bích, tôi lái phụ, đồng chí Hưng dẫn đường, đồng chí Nguyễn VănĐương là cơ giới, nhận nhiệm vụ bay cấp cứu tuyến Cát Bi - Gia Lâm - Hòa Lạc - Điện Biên - Lai Châu - Mường Tè. Tới nơi, do bộ đội biên phòng địa phương nhận thông báo chậm, lại là thời chiến, nên khi máy bay hạ cánh thì bị cả đại đội biên phòng bắn chặn, may mà cả tổ lái và máy bay vẫn an toàn.

        Một chuyến bay khác mà tôi vẫn còn nhớ mãi là vào tháng 8-1967, khi tổ bay chúng tôi đang trực ở sân bay Gia Lâm. Khoảng 20 giờ chúng tôi hạ cánh giao máy bay cho thợ máy về doanh trại. Nghĩ rằng công tác về muộn, thời tiết lại xấu, địch không vào, lại không có nhiệm vụ nên chúng tôi đã bảo nhau ăn uống, nghỉ ngơi dưỡng sức sau một buổi trực. Thế nhưng, lúc 21 giờ, khi tôi đang tắm, đồng chí Lự thì đang ngâm chân (vì bị echzima), thì có chuông điện thoại, đồng chí Ngư nghe điện và gọi tôi ra gấp. (Còn nhớ, vì nghĩ là đồng chí Ngư đùa nên tôi ra chậm nên bị trực ban tác chiến phê bình).

        Nhiệm vụ của chúng tôi là cất cánh lúc 21 giờ 30 phút để đón thương binh từ bãi ngoài, cách ga Yên Viên 2km về phía Đông Nam. Tín hiệu bãi đáp chỉ là một đống lửa. Cẩn thận, tôi hỏi lại về kích thước độ cao của chướng ngại vật trên bãi nhưng trực ban tác chiến cũng chỉ trả lời là hình như bãi đó trực thăng đã từng hạ rồi.

        Bỏ ống nghe, tôi nói với đồng chí Ngư cho thợ máy triển khai để đảm bảo thời gian nhưng trong thâm tâm thì tôi thấy nhiệm vụ đường như quá sức vì chúng tôi mới được huấn luyện hạ cánh đêm ở sân bay có dạ hàng, có đèn chiếu còn hạ cánh ở bãi ngoài không có chỉ huy, không được chuẩn bị trước, tín hiệu duy nhất là một đống lửa thì chưa ai hạ bao giờ và cũng chưa từng được huấn luyện. Phân vân, tôi điện thoại gọi về sở chỉ huy tiểu đoàn xin ý kiến thì tiểu đoàn trưởng trả lời ngắn gọn "Các đồng chí tự thấy sức làm được thì nhận, đã nhận thì phải hoàn thành". Lúc bấy giờ tôi nghĩ rất mung lung, nhìn đồng đội trong tổ bay đứng bên cạnh chờ đợi, tôi xác định đây là mệnh lệnh phải tìm mọi cách để hoàn thành. Tổ bay khẩn trương trao đổi, phân công quan sát mục tiêu, chướng ngại vật.


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 29 Tháng Bảy, 2016, 08:37:26 am

        Đúng 22h 10 phút chúng tôi cất cánh lấy cầu Đuống làm khởi điểm, khi vòng về hướng mục tiêu chúng tôi đã nhìn thấy tín hiệu, tôi cho máy bay hướng về bãi, độ cao 50m, bay bằng, tất cả tổ bay đều tập trung tinh lực quan sát, phán đoán. Vào gần bãi tôi cho bật đèn pha, khi pha vừa thả 15 độ thì cả tổ bay không ai bảo ai đều reo lên "tốt rồi". Chúng tôi đã nhìn rất rõ chướng ngại vật và cho đến lúc này mới tin tưởng chắc chắn hoàn thành nhiệm vụ. Sau khi bay kiểm tra bãi 2 vòng, lặp vòng lượn, chúng tôi hạ cánh một cách chính xác xuống bãi. Tắt máy xong, tôi phân công đồng chí Ngư phụ trách khâu chuyển thương binh lên máy bay. Thương binh nặng được chuyển ra bằng những chiếc cáng làm bằng phên tre, còn chúng tôi phải lấy bạt phủ máy bay trải cho thương binh nằm trực tiếp xuống sàn. Các đồng chí thương binh chịu đựng đau đớn không một tiếng rên la. Chúng tôi cũng như nhân dân địa phương khi ấy đều nghẹn ngào trước xương máu của đồng chí đồng đội, con em mình và căm thù giặc Mỹ dã man. Thương binh lần lượt được chuyển lên máy bay, tôi và đồng chí Lự kiểm tra một lần nữaquanh bãi để chọn hướng cho máy bay cất cánh. Sau khi đưa thương binh về sân bay Bạch Mai chúng tôi trở về hạ cánh an toàn ở sân bay Gia Lâm lúc trời hửng sáng.

        Sau lần đó, xuất phát từ yêu cầu thực tế nhiệm vụ phục vụ chiến đấu, Đảng ủy, chỉ huy trung đoàn đã giao cho tiểu đoàn chúng tôi lập kế hoạch huấn luyện ứng dụng sát với thực tế chiến đấu. Mục tiêu của không quân trực thăng là tất cả các tổ bay đều phải có trình độ bay đồng đều, chấp hành được tất cả nhiệm vụ trên giao. Quyết tâm thì có nhưng lại thiếu giáo viên có kinh nghiệm, ngay cả các đồng chí đi học ở Trung Quốc và Liên Xô về cũng chỉ được đào tạo hạ cánh bãi ngoài đơn giản. Trong huấn luyện ứng dụng tôi còn nhớ khó nhất là khoa mục bay hạ cánh bằng đèn gầm, bãi hạ cánh được đánh dấu bằng 2 - 3 chiếc đèn bão hoặc 1 xô cát đổ dầu thải đốt lên, còn máy bay chỉ được dùng đèn lăn để vào hạ cánh. (Tôi còn nhớ trong khi tập hoàn thiện khoa mục này không quân trực thăng cũng từng bị rơi một chiếc máy bay ở ngay đầu Đông sân bay Gia Lâm với tổ bay Tích, Tứ, Minh). Nhưng có sự chỉ đạo của cấp trên, với quyết tâm, trí sáng tạo, dám nghĩ dám làm của tập thể, tinh thần khắc phục khó khăn ví dụ như cho 2 lái chính ngồi với nhau, tập bay từ dễ đến khó...), sau một thời gian rất ngắn, không quân trực thăng đã có một lực lượng bay rất hùng hậu với một trình độ đồng đều đáp ứng cho nhiệm vụ chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Trình độ khi đó của chúng tôi được nâng lên rất nhanh, tổ nào trực có nhiệm vụ là hoàn thành, không còn tình trạng mỗi khi có nhiệm vụ khó lại phải huy động tổ không trực.

        Riêng với 36 năm bay máy bay trực thăng (tôi nhận quyết định thôi bay năm 1997), tuy ít có dịp trực tiếp chiến đấu nhưng trong quá trình bay phục vụ chiến đấu, huấn luyện, điều tôi cảm thấy vui nhất đó là tôi và tổ bay đã hoàn thành tất cả các nhiệm vụ được giao, bảo đảm an toàn tuyệt đối. Tôi rất tâm đắc với một câu nói của một vị tướng không quân Xô Viết trong chiến tranh chống phát xít Đức: "Với chiến sĩ ,phi công, mỗi lần trở về hạ cánh an toàn cũng đã là một chiến công!"..

        Giờ đây, đã nghỉ hưu, nhưng mỗi lần gặp lại nhau, chúng tôi đều cùng nhau hàn huyên ôn lại những ngày tháng hào hùng ấy. Và điều quan trọng là mỗi người trong chúng tôi đều có thể tự tin để nói rằng chúng tôi đã bay và bay giỏi. Thế mới hay rằng:

                                  Cuộc đời ngẫm nghĩ cũng thấy hay
                                  Buồn vui lẫn lộn với cánh bay
                                  Lướt gió xuyên mây đời vi vút
                                  Cất lên hạ xuống mấy tầng mây
                                  Hôm nay nhớ Lại từng chuyên bay
                                  Mỗi lần cất cánh bao kỷ niệm
                                  Bạn kể tôi nghe nghe lại nhớ
                                  Có gì đáng kể kể gì đây
                                  Đồng đội xa gần từng sát cánh
                                  Đời tôi có Đảng chắp cánh bay.

Bạch Mai 22-12-2004       


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 29 Tháng Bảy, 2016, 09:28:35 pm
       
NHỮNG CHUYẾN BAY CHUYÊN CƠ

VÕ QUANG BỐN                 
Nguyên lái chính bay chuyên cơ       
Giáo viên máy bay IL 18           

        Tôi, Võ Quang Bốn, sinh năm 1934 - Quê quán: Xã Hương Toàn, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên - Huế.Tham gia cách mạng tháng 1 năm 1947, vào quân độitháng 2 năm 1953.

        Năm 1956 được Đảng, Chính phủ, Quân đội cho đi học phi công tại Liên Xô cũ. Một vinh dự lớn lao cũng là trách nhiệm nặng nề đối với tôi trước Tổ quốc và nhân dân - Trong thời gian học tập tại trường võ bị không quân, chúng tôi gặp không ít khó khăn như ngôn ngữ  bất đồng, thời tiết khắc nghiệt, lúc lạnh thì quá lạnh -350c, lúc nắng cũng xám da, trình độ văn hóa lại có hạn, cơ sở để tiếp thu khóa học kỹ thuật tiên tiến còn ngơ ngác, bỡ ngỡ.

        Dưới sự lãnh đạo của chi bộ, sự động viên khích lệ của đại sứ quán Việt Nam tại Liên Xô cũ, chúng tôi đã ổn định tư tưởng, xác định trách nhiệm học giỏi lý thuyết, chấp hành kỷ luật quân đội, rèn luyện chính quy v v...

        Đã qua hai mùa Đông ngồi trong giảng đường, ngày tổng kiểm tra lý thuyết cũng đã đến, mỗi chúng tôi ai nấy miệt mài đèn sách cố nhồi nhét thật nhiều kiến thức mà các thầy đã trang bị cho trong hai năm qua. Rồi kết quả khả quan cũng đã đem lại cho toàn đoàn, đó là 75% khá giỏi, số còn lại đạt trung bình.

         Rồi mùa xuân hè lại đến, tuyết đã tan hết, cây cỏ, hoa lá đến nở rộ. Những sinh viên không quân nhân dân Việt Nam bắt đầu những ngày mới - đó là những ngày, tháng năm thực hành bay.

        Đây, con chim sắt đây rồi! Đã sờ thấy nó, nhưng làm sao để làm chủ nó được đây? Lại một lần nữa lo lắng. Các thầy giáo bay Panômarốp, Usacốp... hướng dẫn tỉ mỉ từng đồng hồ chỉ tham số kỹ thuật, cần điều khiển máy bay, tập mang dù rồi ngồi vào buồng lái...ôi! một cảm giác sung sướng đến khó tải Chúng ta sắp trở thành phi công rồi! Các đồng chí ơi! Hãy cố lên. Máy đã nổ giòn, qua bộ đàm, đồng chí giáo viên nói: Xin phép lăn ra đường cất cánh. Máy bay đã tăng hết công suất của máy, nhả phanh, máy bay chạy đà rồi nhẹ nhàng rời khỏi mặt đất - đồng chí giáo viên điều khiển máy bay bảo tôi quan sát các đồng hồ, quan sát buồng lái rồi quan sát ra ngoài v.v... Rồi ngày lại ngày, những con chim sắt bé nhỏ cứ cất lên rồi lại hạ xuống làm cho chúng tôi quen dần với trời cao, với mây, vớigió. Với quyết tâm vươn lên nắm vững khoa học kỹ thuật, từ đồng chí Phạm Đình Cường - Đoàn trưởng cho đến anh em chúng tôi ai nấy đều tự nhủ mình thi đua bay tốt để được bay đơn - Rồi ngày sung sướng ấy đã đến, từ anh Nhâm, Cường, Bốn, Oanh, Đàm, Cẩn cứ lần lượt bay đơn. Một cảm xúc thật khó tả, chúng ta đã tự mình làm chủ được các máy bay, Tổ quốc đang đợi những đứa con vững vàng tay lái để một ngày gần đây về bảo vệ vùng trời, phục vụ Tổ quốc.

        Ngày hôm nay, Nhà trường tổ chức thật long trọng, có cờ, hoa, băng cờ, khẩu hiệu, các tướng lĩnh, sĩ quan đều ăn mặc lễ phục.

        Trên lễ đài có Thiếu tướng Ôphônhin - Hiệu trưởng, các sĩ quan cao cấp Bộ Quốc phòng Liên Xô cũ, đại sứ quán Việt Nam tại Liên Xô cũ...

        Ở trung tâm lễ đường là đoàn sinh viên không quân Việt Nam mặc lễ phục nghiêm chỉnh - Trong lòng của chúng tôi vô cùng xúc động, sung sướng, 4 năm đèn sách, khổ luyện và giờ phút vinh quang sắp đến.

         Lễ tuyên bố tốt nghiệp cho đoàn sinh viên không quân nhân dân Việt Nam bắt đầu, trong không khí vui buồn khó tả, thầy nắm tay trò, trò cảm ơn công sức của thầy đã đào tạo, đã gắn bó, khó khăn có nhau, thuận lợi có nhau.


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 29 Tháng Bảy, 2016, 09:36:17 pm

        Tạm biệt MOCKBA trái tim của Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô Viết - tầu hỏa khởi bánh dần dần đưa chúng tôi xa dần xa dần MOCKBA vào Xiberi bạt ngàn cây thông, cây bạch dương...

        Tại ga Hàng Cỏ: Bộ Quốc phòng, Cục Hàng không đồng chí đại tá Đặng Tính bắt tay từng người một, rồi lên xe ô tô về sân bay Gia Lâm - Hà Nội.

        Ngày 1-5-1959, ngày khai sinh ra trung đoàn không quân vận tải đa chức năng đã đến trung đoàn 919.

        Từ năm 1959 đến năm 1968 trung đoàn không quân vận tải có các loại máy bay IL-14, LI-2, AN-2, Mi-6. Trong những năm này chúng tôi bay phục vụ các nhiệm vụ như phục vụ ủy ban giám sát quốc tế về hội nghị Giơnevơ ở Việt Nam.

        Bay chuyên cơ đưa Bác Hồ đi công tác; đưa vua Lào từ Hà Nội về Viên Chăn năm 1962; bay chi viện cho chiến trường Lào từ năm 1962 - 1965; bay chiến đấu bắn hạ 01 máy bay C123 của không quân Mỹ trên vùng trời Thanh Hóa bằng chiếc máy bay T28 thu được từ không quân Hoàng gia Lào, phi công thực hiện nhiệm vụ này là đồng chí đại tá Nguyễn Văn Ba anh hùng lựclượng vũ trang và đồng chí Phước - Đại tá, AN-2 làm nhiệm vụ không đối biển đã bắn chìm nhiều tàu biệt kích của Mỹ ra bắn phá vùng biển Sầm Sơn, ThanhHóa; biên đội AN-2 làm nhiệm vụ không đối đất, 4 máy bay AN-2 đã tiêu diệt một trận địa ra đa của Mỹ ở núiPa Thí - Lào.

        Tháng 4- 1968 Quân chủng PK-KQ cử một tổ bay đi chuyển loại máy bay IL-18 do đồng chí Võ Quang Bốn làm đoàn trưởng, đồng chí Vũ Quý Đĩnh làm bí thư chi bộ. Sau 4 tháng học chuyển loại, toàn đoàn 100% đạtyêu cầu 75% khá giỏi. Tiếp đó chúng tôi được đi thực tập sinh tại Tasken thuộc nước cộng hòa Uzbekistan. Sau lần đi thực tập sinh này chúng tôi được phê chuẩn bay nhiệm vụ quốc tế và trong nước. Đồng chí Bốn được phê chuẩn lái chính bay chuyên cơ và giáo viên IL - 18, đồng chí Nguyễn Cảnh Phiên được phê chuẩn giáo viên dẫn đường máy bay IL- 18.

        Một nhiệm vụ nặng nề thử thách chúng tôi đó là chuẩn bị cho chuyến bay Hà Nội - Paris qua các nước Trung Quốc, Mông Cổ, Liên Xô cũ, Hà Lan, Đan Mạch,Na Uy, Lúc Xăm Bua, Pháp. Chúng ta mở mặt trận ngoại giao tại thủ đô nước Pháp (Paris) gọi là "Hội nghị Paris về Việt Nam. Nhiệm vụ chính của chúng tôi là đáp ứng mọi yêu cầu của đoàn đại biểu Việt Nam tại hội nghị Paris về Việt Nam. Chủ yếu là bảo đảm an toàn cho đoàn trong mọi tình huống đi đến nơi về đến chốn, an toàn tuyệt đối" để hoàn thành nhiệm vụ này, chúng tôi phải trực ban tại Mockba đợi lệnh của đoàn. Khi đoàn có lệnh sang Paris, sau 5 tiếng đồng hồ bay chúng tôi có mặt tại Paris và lập tức bay về Hà Nội. Sau khi về Hà Nội được 1 - 2 ngày chúng tôi lại tiếp tục bay sang Paris. Nhiệm vụ này kéo dài trong 3 năm từ 1970 -1973. Tháng 6-1976 Thủ tướng Chính phủ Phạm Văn Đồng đi thăm chính thức nước Pháp và sau đó đi thăm 5 nước Bắc âu: Phần Lan, Thụy Điển, Đan Mạch, Hà Lan, Na Uy. Tổ bay IL- 18 chúng tôi đã khắc phục mọi khó khăn và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ này và được Thủ tướng Chính phủ khen ngợi.

        Chúng tôi đã sẵn sàng hoàn thành nhiệm vụ đưa các đoàn Đảng, Chính phủ đi công tác nước ngoài như đi dự đại hội Đảng của các nước trong phe xã hội chủ nghĩa; đoàn đại biểu của Chính phủ đi làm nhiệm vụ kinh tế, đoàn đại biểu Đảng, Chính phủ đi thăm hữu nghị các nước; chuyến bay có ý nghĩa lịch sử nhất đó là chuyến bay đưa toàn thể Bộ Chính trị và bác Tôn Đức Thắng - Chủ tịch nước bay từ Hà Nội - Sài Gòn - Hà Nội để dự lễ mừng chiến thắng giải phóng hoàn toàn.miền Nam thống nhất đất nước vào ngày 15-5-1975.

        Ngoài nhiệm vụ bay chuyên cơ chúng tôi bay phục vụ kinh tế dân sinh, bay chuyển quân và vũ khí kịp thời cho việc mở chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975.        Nhiệm vụ xây dựng lực lượng, chúng tôi đào tạo được 4 tổ bay IL- 18 làm các nhiệm vụ thông thường.

Gia Lâm, tháng 10-2004       


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 29 Tháng Bảy, 2016, 09:38:17 pm
       
CHIẾC MÁY BAY 963 VÀ CHIẾN CÔNG ĐẦU TIÊN CỦA KHÔNG QUÂN VIỆT NAM

NGUYỄN XUÂN THỦY       

        Trận đọ sức trực tiếp và chiên thắng oanh liệt của lực lượng phi công tiêm kích non trẻ Việt Nam với lực lượng không quân hiện đại của đế quốc Mỹ ngày 3/4/1965 trên bầu trời Hàm Rồng, Thanh Hóa đã được ghi nhận vào lịch sử và trở thành ngày truyền thông ra quân đánh thắng trận đầu của không quân nhân dân Việt Nam. Nhưng trước đó hơn một năm, bằng chiếc máy bay T28 thu được của Chính phủ Hoàng gia Lào do một phi công bay sang hàng, không quân ta đã bắn rơi một chiếc máy bay vận tải C123 của Mỹ thả biệt kích xuống miền Bắc. Đây cũng là lần đầu tiên ta dùng máy bay địch để tiêu diệt máy bay địch.

        Người phi công xin hàng cùng chiếc máy bayT28 không có hồ sơ.

         Buổi trưa ngày 16-9-1963, trời mưa lất phất. Khi những người thợ của xưởng A33 (xưởng đại tu máy bay của Quân chủng Không quân) đóng tại sân bay Bạch Mai đang ngủ thì bỗng có tiếng máy bay lạ. Phó xưởng trưởng Trần Ngọc Khanh vội vàng bật dậy, không kịp mặc quần dài anh chạy bổ ra sân bay. Cảm giác của người thợ máy nhiều kinh nghiệm đã không lầm, một chiếc máy bay lạ đang hạ dần độ cao từ phía đầu đông sân bay, hướng ga Văn Điển đang chuẩn bị hạ cánh. Chiếc máy bay hạ thấp đến độ cao anh có thể nhìn thấy lá cờ mang biểu tượng ba con voi in trên đó. Nhưng máy bay không hạ cánh mà lại vọt lên. Sau khi chao cánh làm động tác xin hạ cánh bắt buộc, nó lượn một vòng rồi nhẹ nhàng đáp xuống đường băng, lăn bánh chậm dần rồi dừng lại. Thượng úy Khanh giơ tay ra hiệu cho máy bay vòng qua đường lăn quay lại điểm đỗ. Đó là một chiếc máy bay T28 do Mỹ sản xuất mang quốc hiệu Hoàng gia Lào khi đó. Người phi công đeo lon thiếu úy mở cửa bước xuống, tươi cười chào và giơ hai tay thân mật bắt tay ông Khanh. Đến lúc đó, đội ngũ thợ máy của xưởng ùa ra. Người phi công được mời vào xưởng, còn chiếc máy bay, ông Khanh phân công phân xưởng trưởng Đặng Đình Ninh chịu trách nhiệm kéo vào hăngga bảo quản. Sự việc ngay lập tức được Đại úy Trương Ngọc Bình, Chính ủy xưởng báo cáo lên lãnh đạo Cục Không quân khi đó đóng tại Gia Lâm và được đồng chíCục trưởng Đặng Tính báo lên Bộ Quốc phòng.

        Khi đã vào nhà, Chính ủy Trương Ngọc Bình và phó xưởng trưởng Trần Ngọc Khanh tổ chức gặp gỡ người hàng binh ngay. Ngôn ngữ đầu tiên mà chủ và khách dùng để nói chuyện với nhau là tay chân và điệu bộ. Đến khi đồng chí Trương Hay bỗng nhớ ra và nói với ông Khanh trong xưởng có cậu Mạnh biết tiếng Lào. Thế là đồng chí Mạnh (người chuyên phụ trách các biển tên chức năng trên các máy bay của xưởng) được gọi lên làm phiên dịch. Cuộc nói chuyện lúc này trở nên dễ dàng hơn. Người phi công cho biết anh tên là Bun Khăm vốn là phi công gốc Thái Lan đang phục vụ cho quân đội Hoàng gia Lào. Do chán ghét chế độ thân Mỹ của chính phủ mà có ý định chạy sang đầu quân cho Việt Nam vì đã được nghe những điều tốt đẹp của Chính phủ Hồ Chí Minh. Dự định được anh nung nấu từ lâu nhưng chưa có cơ hội, hôm nay nhân chuyến bay chào mừng sinh nhật nhà vua, anh đã tách đội hình bay ra hướng biển rồi theo đường sắt mà bay đến Hà Nội. Hôm đó dự báo có bão lớn, các trạm ra đa của ta được lệnh thu hồi ăngten để đảm bảo an toàn nên không phát hiện ra chiếc T28 bay vào. Kể từ hôm đó, ngoài nhiệm vụ thường xuyên. Xưởng A33 còn có thêm một nhiệm vụ quan trọng là hằng ngày cắt cử anh em thợ máy canh gác cẩn mật chiếc máy bay này.

        Quyết tâm biến thành vũ khí để đánh địch.

        Ngày 22-10- 1963, Cục Không quân và Bộ Tư lệnh Phòng không được sáp nhập thành Quân chủng Phòng không - Không quân do đồng chí Phùng Thế Tài làm Tư lệnh, đồng chí Đặng Tính làm Chính ủy. Thời điểm này không quân ta chỉ có các máy bay vận tải LI-2, IL-14, AN-2 và máy bay huấn luyện IAK-18. Trước đó không quân ta cũng đã cải tiến, lắp vũ khí lên máy bay AN-2 để đánh các mục tiêu trên biển. Nay có T28, Quân chủng quyết định luyện tập để đánh mục tiêu trên không của địch.


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 29 Tháng Bảy, 2016, 09:39:32 pm

        Các thành phần được huy động tham gia nghiên cứu T28 tìm hiểu tính năng kỹ chiến thuật để có thể làm chủ máy bay. T28 là loại máy bay khu trục anh em kỹ thuật vẫn gọi một cách hài hước thành "dân dumục" dùng để ném bom mặt đất, dưới hai cánh có lắp hai giá để bom, trên máy bay có lắp thêm hai khẩu 121y7 chủ yếu dùng để tự vệ trên không. Những người thợ của xưởng A33 cùng hai cán bộ của phòng kỹ thuật quân chủng là Nguyễn Ngọc Tuấn, thợ cơ giới trên không và Lê Bá Phúc, tổ trưởng đặc thiết, có nhiệm vụ kiểm tra toàn bộ chiếc máy bay lạ. Thợ cơ giới tiến hànhkiểm tra bề ngoài, thân, cánh, bánh xe, càng... rồi đến kiểm tra động cơ. Tổ đặc thiết kiểm tra các thiết bị đặc chủng như đồng hồ, công tắc điện. Vì cấu tạo T28 gần giống như loại máy bay IL- 14 mà những người thợ kỹ thuật của xưởng đã quen làm nên việc kiểm tra cũng có thuận lợi hơn. Sau khi cho nổ máy thử vài lần, ông Đặng Đình Ninh và tổ kỹ thuật đã khẳng định máy bay hoạt động tốt. Sau đó, T28 được sơn màu khác, và mang phù hiệu Không quân Việt Nam là một ngôi sao đỏ in trong hình tròn vàng, hai bên có hai dải kéo dài màu xanh. Chiếc máy bay này cũng được đặt tên mới. Mọi người trong xưởng đều thống nhất đề nghị và được BộTư lệnh nhất trí tên gọi mới T28 là 963, tức là tháng 9-1963 là thời gian T28 đến với Việt Nam. Tiếp đó, ông Dương Niết và ông Nguyễn Lệ Quỳnh, trợ lý quân giới của phòng kỹ thuật máy bay tiến hành nghiên cứu hệ thống vũ khí lắp trên T28 mà cụ thể là về nguyên tắc hoạt động của hai khẩu 121y7. Các ông đã tháo rời từngbộ phận, nghiên cứu về quy trình làm việc từng chi tiết của súng, máy ngắm, hệ thống khí nén, hệ thống điện điều khiển, công tắc nạp đạn... Sau khi thử đi thử lại nhiều lần ở mặt đất đạt kết quả tốt, ông Dương Niết còn ngồi trên máy bay cùng phi công bay thử để kiểm tra quá trình hoạt động trên không của vũ khí.

        Được sự nhất trí của trên, phi công Bun Khăm (lúcnày có tên Việt Nam là Sơn) được mời xuống hướng dẫn cho phi công ta bay. Quân chủng cử hai phi công là giáo viên bay của trường Không quân, Đoàn bay 910, là Nguyễn Văn Ba là Lê Tiến Phước tham gia học tập để có thể tiếp thu máy bay mới. Cả hai phi công NguyễnVăn Ba và Lê Tiến Phước đều học ở Trung Quốc về nhưng chưa hề được tiếp xúc với loại máy bay này nên phải học từng thao tác. T28 có hai chỗ ngồi, phi công Sơn ngồi trước điều khiển, phi công Nguyễn Văn Ba của ta ngồi sau quan sát thứ tự động tác để làm quen. Sau khi phi công ta đã tiếp cận và điều khiển được máy bay, cả tổ xuống sân bay Kiến An tập hàng tháng trời các động tác bắn, thao tác bay... Bộ Tư lệnh quyết định dùng máy bay của ta giả làm mục tiêu để cho 963 luyện tập. Ban đêm, một trong những máy bay vận tải cánh quạt LI-2 hoặc IL-14 của ta bay lên và bật hết đèn để 963 khi được dẫn đường đến gần, phi công sẽ tập tìm bằng mắt. Sau khi luyện tập bay đường dài thành thạo, đến nội dung tập tìm mục tiêu, rồi tập xạ kích; mô hình mục tiêu bằng cót ép đã được làm và đặt dưới mặt đất để 963 tập bắn.

         Tuần trăng định mệnh và số phận những tênbiệt kích trên chiếc máy bay C123.

         Đêm 15-2-1964, Bộ Tư lệnh Quân chủng nhậnđược tin có máy bay địch tốc độ chậm, bay thấp đang hoạt động. Lập tức tin này được báo xuống tổ trực chiến. Hệ thống quan sát của ta đã phát hiện máy bay địch bay dọc theo triền phía đông dãy Trường Sơn hướng lên Tây Bắc. 1 giờ 7 phút ngày 16-2, Tư lệnh Phùng Thế Tài lệnh cho 963 cất cánh từ sân bay Gia Lâm. Tổ bay rời mặt đất không dùng liên lạc vô tuyến điện, đến độ cao 500 mét báo về sở chỉ huy. Phi công Nguyễn Văn Ba lái chính, phi công Lê Tiến Phước lái phụ. Kíp dẫn đường tại sở chỉ huy gồm có Trần Quang Kính dẫn chính, Đào Ngọc Ngư dẫn phụ và một đồng chí ghi chép chỉ thị ra đa: Tại đài ra đa 402 có sĩ quan dẫn đường hiện sóng Nguyễn Văn Chuyên cùng một đài trưởng và các trắc thủ.


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 29 Tháng Bảy, 2016, 09:41:10 pm

        Sĩ quan dẫn đường liên tục thông báo cự ly giữa máy bay ta và máy bay địch: 30, 20, 15 rồi 5km. Độ cao của 963 được dần nâng lên, từ 1000m lên 1500m rồi 2000m. Khi ở độ cao 1200m, tổ bay nghe sở chỉ huy thông báo: "Quạ đen phía trước, lên phải 15 độ, cự ly 15km". Nguyễn Văn Ba tăng ga, cự ly ta và địch được rút gần lại. Khi 963 vào đến Thanh Hóa, sở chỉ huy cho kéo lên độ cao 2500m, đi qua Thạch Thành, Cẩm Thủy đến Hồi Xuân, La Hán tiếp cận mục tiêu ở phía Tây, cách máy bay địch khoảng 4 - 5km. Mọi điều kiện về thời tiết khí tượng đều đảm bảo. Cả sở chỉ huy nín thở chờ thông báo của tổ bay. Bây giờ có phát hiện mục tiêu hay không phụ thuộc hoàn toàn vào bốn con mắt của hai phi công trên 963 mà thôi. Cuối cùng thì "thằnggiặc" cũng hiện ra to bằng bàn tay, đen sẫm ở phía bên phải. Dưới ánh trăng lạnh và qua làn mây trắng xốp, chiếc C123  đang di chuyển. Trên máy bay 963, nhớ phương án đã luyện tập, lúc này phi công Nguyễn Văn Ba cho máy bay tăng tốc tiếp cận mục tiêu từ phía trên, đưa vòng ngắm vào động cơ bên phải máy bay địch. Cách khoảng 500m, hình thù máy bay địch đã hiện rõ, luồng lửa từ ống xả hai động cơ đỏ rực. Khi cự ly bắn chỉ khoảng 150m, cao hơn địch chừng chục mét nhìn chếch ở hướng khoảng 45 độ, chiếc C123 hiện ra sừng sững như một ngôi nhà, nó đã vào tầm ngắm của khẩu trọng liên. Nguyễn Văn Ba thông thoại nội bộ trao đổi với Lê Tiến Phước: "Bắn được chưa, Phước?" Lê Tiến Phước trả lời: "Được rồi đó, bình tĩnh nghe". Nguyễn Văn Ba ấn công tắc nạp đạn, chiếm vị trí công kích nhấn nút siết cò đạn bay tới tấp. Chiếc C123  trúng đạn, động cơ phải phụt lửa rồi lại tắt. Ngừng lại, rồi phóng thêm một loạt đạn nữa, chiếc C123  khổng lồ nghiêng về trái, động cơ lại phụt lửa nhưng vẫn không bốc cháy. Lúc này cự ly chỉ còn độ 100m. Bỗng chiếc C123  mở cửa đuôi, một khoảng đen hình vuông mở ra. Nguyễn Văn Ba nhìn thấy đèn đỏ ở cửa buồng lái, anh liền nhằm khoảng đen đó siết cò bắn tiếp loạt thứ 3. Chiếc C123  tròng trành bay về hướng Hồi Xuân, La Hán giáp biên giới Việt -Lào. Tổ bay 963 về sân bay hạ cánh an toàn. Như vậy là 3 loạt đạn, tổ bay đã bắn hết 190 viên. Với ba loạt đạn của ta, tổ bay tin chắc chiếc C123 không thể trở về nhưng xác của nó không được tìm thấy, 963 lại không có máy chụp hình khi bắn nên không biết lấy gì làm bằng chứng.

         Sau đó ít lâu ta bắt được một tù binh của địch. Khi tiến hành điều tra xét hỏi, hắn đã khai là một trong những thành viên tổ lái chiếc máy bay C123 đột nhập bằng đường không hồi tháng 2-1964 nhưng chưa kịp thả biệt kích thì máy bay bị trúng đạn rơi xuống sát biêngiới Việt - Lào. Toàn bộ toán biệt kích trên máy bay đã thiệt mạng, phi hành đoàn chỉ có 2 tên sống sót. Hắn là một trong hai tên được hưởng sự may mắn đó. Đến lúc này thành tích của 963 mới được ghi nhận. Năm 1966 hai phi công Nguyễn Văn Ba và Lê Tiến Phước đã được tặng Huân chương chiến công hạng Ba do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký. Đến năm 1995, phi công Nguyễn Văn Ba (lúc này là người của Hàng không dân dụng) cùng với những thành tích khác trong quá trình công tác đã đượcNhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

        Tâm sự của những người trong cuộc.

        Đa số những người tham gia trận đánh của 963 đều gắn bó trong Quân chủng Phòng không - Không quân với chuyên môn của mình. Một số đồng chí chuyển ngành sang Hàng không khi đoàn bay 919 được tách ra để thành lập ngành Hàng không dân dụng như phi công Nguyễn Văn Ba; có người sau này đã trở thành chỉ huy trung đoàn bay chiến đấu của không quân như phi công Lê Tiến Phước; sĩ quan dẫn đường Nguyễn Văn Chuyên những năm sau đã trở thành người dẫn đường "cao thủ” của Không quân Việt Nam với kỳ tích tham gia dẫn bay cho 109 trận đánh, phó xưởng trưởng Trần Ngọc Khanh sau này là giám đốc một xưởng sửa chữa máy bay lớn của Quân đội ở phía Nam. Hiện nay họ đều đã nghỉ hưu và sinh sống ở nhiều vùng khác nhau của đất nước. Phi công Nguyễn Văn Ba đã mất năm 1996. Người dẫn đường chính Trần Quang Kính cũng mất năm 2002; xưởng trưởng Lê Minh và Chính ủy xưởng A33 TrươngTrọng Bình cũng đều đã mất. Phi công Lê Tiến Phước hiện sống tại phường 4, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh. Sĩ quan dẫn đường hiện sống, người con đất Bình Định tập kết ra Bắc, Nguyễn Văn Chuyên và Phó xưởng trưởng A33 Trần Trọng Khanh thì ở lại Hà Nội, dẫn đường phụ sở chỉ huy Đào Ngọc Ngư thì sống một cuộc sống không mấy sung túc tại xã Ngũ Lão, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên. Họ cũng không có dịp gặp nhau để ôn lại chuyện cũ.

        Về phi công Bun Khăm anh còn ở lại nước ta nhiều năm sau đó, khi cách mạng Lào thành công anh mới trở về Lào phục vụ chính phủ mới. Hiện nay không biết tin tức gì về anh. Trong câu chuyện với chúng tôi, ông TrầnNgọc Khanh rất mong gặp lại phi công Bun Khăm người bạn Lào đã mang đến chiếc máy bay 963 "tặng" cho Việt Nam để không quân ta lập công đầu. Nếu còn sống có lẽ ông cũng xấp xỉ bảy mươi tuổi.

        Hôm nay, hơn bốn mươi năm đã trôi qua, ông Khanh vẫn còn nhớ rất rõ hình ảnh người phi công trẻ tuổi với nụ cười thân thiện khi mở cửa buồng lái bước những bước đầu tiên xuống sân bay Bạch Mai. ông Khanh rất mong thông qua Hội cựu chiến binh Lào để biết thêm thông tin về người phi công có nhiều thiện cảm với Chính phủ Việt Nam năm ấy. Qua báo An ninh thế giới mong rằng nguyện vọng của ông Khanh sẽ được thực hiện.

Hà Nội, ngày 3-6-2004.         


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 29 Tháng Bảy, 2016, 09:43:35 pm
       
ĐOÀN BAY CỦA VIỆT NAM TRÊN ĐẤT BẠN SÂN BAY MÔNG TỰ (TRUNG QUỐC)

Thiếu tướng HỒ THANH MINH               
Phó giáo sư - tiến sĩ KTHK                   
Nguyên tiểu đoàn phó cơ vụ trung đoàn KQ       

        Để xây dựng không quân từ năm 1956 - 1957 đã có nhiều đoàn cán bộ chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam sang Liên Xô, Trung Quốc học tập về không quân lái máy bay phản lực MIG-15, máy bay ném bom TY-2 ở Trung Quốc, lái máy bay vận tải và kỹ thuật hàng không ở Liên Xô ... Ngoài chuẩn bị con người để xây dựng lực lượng không quân, từ năm 1960 - 1963 ở trong nước đã xây dựng những cơ sở kỹ thuật hạ tầng như sân bay, thông tin, ra đa, trường xưởng, kho trạm ... để bảo đảm các trung đoàn bay. Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng tham mưu đã chỉ đạo, tổ chức thực hiện từng bước có hệ thống đồng bộ và phát triển kịp thời theo yêu cầu, như: Tiếp quản sử dụng các sân bay, thành lập trung đoàn không quân vận tải, trường huấn luyện quản lý không phận, điều phái, chỉ huy bay, trung đoàn huấn luyện bay. Nắm thời cơ, tranh thủ kịp thời sự giúp đỡ của Trung Quốc, Liên Xô... tạo dần đủ điều kiện để kịp xây dựng được một trung đoàn không quân chiến đấu. Đầu năm1959 khi đoàn học lái máy bay phản lực MIG-15 tốt nghiệp thì được chuyển đến sân bay Cao Mật để học tiếp lái máy bay tiêm kích MIG-17; cùng lúc đoàn học kỹ thuật máy bay MIG-17 vừa tốt nghiệp trường số 13 Trường Xuân cũng đưa đi thực hành tại sân bay Cao Mật. Cuối năm 1959 đã hình thành một đoàn bay Việt Nam gồm có phi công và thợ máy trên một sân bay Trung Quốc. Cục Không quân Việt Nam từ 1960 đã chỉ đạo hoạt động của đoàn bay đó như một trung đoàn không quân tiêm kích. Năm 1962 Liên Xô giúp Việt Nam trung đoàn không quân tiêm kích gồm 32 chiếc máy bay phản lực Mig-l7 (sản xuất 1954) và 4 máy bay huấn luyện UMIG-15 cùng trang thiết bị dụng cụ vật tư cần thiết, đồng bộ theo tỷ lệ 1/1; l/4; l/10; 1/20 máy bay (tức từng chủng loại trang thiết bị để dùng chung cho 1hoặc 4, 10, 20 máy bay). Những hàng viện trợ này Liên Xô chuyển đến Trung Quốc. Chuyên gia Liên Xô và Trung Quốc đã lắp ráp lại và bay thử từng chiếc máy bay tại Cao Mật. Đến cuối năm 1963 Trung Quốc đã bay chuyến 36 máy bay phản lực của Liên Xô giúp Việt Nam cùng người lái và kỹ thuật đến sân bay Mông Tự ở tỉnhVân Nam. Còn sân bay Nội Bài được khảo sát và thiết kế theo tiêu chuẩn cất hạ cánh của máy bay phản lực chiến đấu từ năm 1960, xây dựng xong 1963 và sử dụng vào giữa năm 1964. Ngày 30/5/1963 Bộ Quốc phòng quyết định thành lập trung đoàn không quân tiêm kích có phiên hiệu trung đoàn 921, nhưng do điều kiện chưa thuận lợi, chưa đúng thời cơ, nên cả trung đoàn gồm máy bay, phi công, kỹ thuật vẫn ở trên đất Trung Quốc. Ngày 22/10/1963 thành lập Quân chủng Phòng không -Không quân tại sân bay Bạch Mai. Đến 3/2/1964 công bố quyết định thành lập và tổ chức trọng thể lễ ra mắt của trung đoàn không quân tiêm kích đầu tiên của Việt Nam tại sân bay Mông Tự ở Trung Quốc. Một số cán bộ tham mưu, chính trị, hậu cần của Không quân Việt Nam lần lượt điều đến Mông Tự phục vụ hoạt động bay của trung đoàn không quân 921.

         Sân bay Mông tự ở tỉnh Vân Nam, cách Lào Cai khoảng 120km, cách biên giới Lào 160km, cách sân bayNội Bài chừng 300km, nằm gần trục đường sắt Hà Nội - Côn Minh qua cửa khẩu Lào Cai. Mông Tự là vùng đồi núi rừng hoang vắng từ thời Vũ Đế (l09 TCN), được gọi là Mông Tự cách đây 800 năm, là nơi có dạ Mông Tự nổi tiếng để may áo mùa đông. Từ năm 1887 là nơi buôn bán sầm uất, lúc đó dân chỉ có 10 ngàn, nhưng đã có trên 200 cửa hàng cửa hiệu và đại lý thương gia nhiều nước Pháp, Anh, Đức, Hy Lạp, Nhật... Trong thời chốngNhật (1941 - 1945) đường phố ở đây đầy quân Tưởng Giới Thạch, có đội máy bay Phi Hổ của Mỹ chuyên bay đến Việt Nam để ném bom quân Nhật rồi về hạ cánh ở Mông Tự. Giao thông lúc đó bị phá hoại đi lại chỉ bằng ngựa thồ. Mông Tự là tụ điểm của các loại phỉ và tàn quân của Tưởng, Pháp, Nhật. Ban đêm không ai dám ra đường vì sợ cướp đêm và nạn chó sói cắn, xông vào nhà...

        Sau ngày giải phóng sân bay hoạt động trở lại. Ở Mông Tự đoàn bay Việt Nam được bảo đảm ăn ở đầy đủ, buổi sáng đội ngũ kỹ thuật (cơ vụ) ăn bánh bao với cháo trắng, trưa và chiều ăn cơm với thịt, cá, rau, đặc biệt là xì dầu để chấm rau muống. Chiều thứ bảy hàng tuần được ăn tươi: 4 món thức ăn và bia, rượu. Phi công một ngày bay, một ngày giảng bình bay; kỷ luật kiểm tra ... chuẩn bị máy bay, theo cơ chế "ta làm bạn xem". Ngày qua ngày, tuần qua tuần cứ bay luyện tập trên bầu trời Trung Quốc, chỉ cách biên giới Việt Nam 60 - 80km theo đường chim bay. Về đêm anh em cùng nhau hướng nhìn về Tổ quốc, mong đợi lệnh trên bay về nước vì tuy gần mà lại xa, quá nhớ quê nhà trong cảnh chuẩn bị chống Mỹ ngụy... Ngày bay về Tổ quốc được ấn định ngày 6/8/1964 tức chỉ một ngày sau khi đế quốc Mỹ đánh phá miền Bắc XHCN. Phi công Đào Đình Luyện vốn từ bộ binh được chọn đi học máy bay ném bom (Tu-2) sau chuyển lái máy bay tiêm kích MIG- 17 là trung đoàn trưởng đã dẫn trung đoàn máy bay tiêm kích phản lực đầu tiên của QĐNDVN, với đầy đủ trang bị vũ khí, cất cánh từ sân bay Mông Tự bay về đất nước quê hương. Khi vào vùng trời của mẹ hiền - Việt Nam, trên dọc tuyến bay đến sân bay Nội Bài, những nòng pháo phòng không đã vươn cao yểm hộ cho 36 máy bay chiến đấu mang trên mình cờ đỏ sao vàng với các số hiệu 2310, 2316, 2416... bay hướng đến Nội Bài và hạ cánh an toàn. Ngay chiều 6-8-1964 hai biên đội máy bay đã nhận nhiệm vụ trực ban sẵn sàng chiến đấu trên sân đỗ đầu tây. Hoạt động của trung đoàn không quân 921 trong những ngày đầu về nước được BTL Quân chủng PK-KQ trực tiếp chỉ đạo.

Hà Nội, 22- 12-2003.       


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 29 Tháng Bảy, 2016, 09:45:53 pm
       
TRUNG ĐOÀN BAY VỀ NƯỚC SÂN BAY NỘI BÀI

        Từ quý 2-1964, người trong nước sang sân bay Mông Tự giảm dần. Thông tin chiến sự ngày càng dồn dập căng thẳng, máy bay trinh sát ngày đêm xâm nhập vùng trời miền Bắc XHCN, máy bay của ngụy Sài Gòn bay rải truyền đơn, thả biệt kích, tuy bị ta đánh trả, nhưng chúng vẫn hoạt động nhiều và sâu vào vùng giới tuyến, lãnh hải và lãnh không một cuộc chiến tranh đánh phá miền Bắc bằng không quân Mỹ đã hình thành. Máy bay cường kích của Mỹ được tăng cường trên các sân bay ở miền Nam. Đoàn Việt Nam do đại tá Đặng Tính đã gặp Trung Quốc bàn kế hoạch bí mật, đưa trung đoàn không quân 921 về nước để tham gia chiến đấu và chuẩn bị trực ban chiến đấu ngay sau khi hạ cánh xuống sân bay Nội Bài. Đầu tháng 7-1964, đại đội định kỳ (xưởng bảo dưỡng kỹ thuật) chuẩn bị đóng hòm các thiết bị dụng cụ chuyên dụng, thông báo danh sách tiền trạm về nước, chuẩn bị thu xếp tư trang sẵn sàng xếp hàng lên xe, ra tàu hỏa về nước. Đêm 26-7-1964 cả đại đội ra ga Khai Viển, tàu Trung Quốc lăn bánh trong đêm về hướng Lào Cai. Mờ sáng tàu đến cửa khẩu Hồ Kiều, chúng tôi không được xuống ga, tàu vẫn chạy tiếp qua cầu từ từ chạy vào đất Việt. Tàu chạy ven trái sông Hồng qua các rừng cọ, đồi chè Hạ Hòa, Phú Thọ, Vĩnh Phúc ... xế chiều tàu dừng lại ga Đông Anh, thay đầu máy, tàu chuyển hướng ngược lại lên Thái Nguyên, đến ga Đa Phúc tàu dừng hẳn trong đêm khuya. Hàng hóa đưa xuống ga rồi chuyển vào sân bay Nội Bài ở khu nhà khí tượng vừa xây xong. Chúng tôi về ở tại mấy dãy lán trại cũ của công nhân xây dựng để lại. Còn trung đoàn bay, phi công, kỹ thuật và máy bay vẫn ở sân bay Mông Tự đợi lệnh trên.

         Sáng sớm 28-7-1964, ngày đầu tiên về nước đứng nhìn quang cảnh sân bay Nội Bài nằm giữa một vùng đất cuối miền Trung du Vĩnh Phú, mở rộng tầm nhìn vào đồng lúa Đông Anh, Bắc Ninh và châu thổ sôngHồng. Cơ sở hạ tầng sân bay chỉ mới có đường băng cất hạ cánh rộng và dài từ đông sang tây, cuối 2 đầu sân bay có 2 sân đỗ máy bay nối liền, có nhà khí tượng to đẹp có một tháp nước gần cụm nhà ba trạm: Điện nước, khí nén, ô xy; một dãy nhà ở 2 tầng và một hệ rào sâu rộng trước thoát nước sân bay... Vào lúc bình minh, toàn bộ sân bay hiện rõ trên một thảm màu xanh của cánh đồng đầy lúa, khoai rau trải mãi đến bờ các lũy tre làng. Xa hơn, nổi lên 2 dãy đỉnh núi Tam Đảo phía Tây Bắc, Ba Vì phía Tây Nam, ở giữa là dòng sông Hồng bắt nguồn từ núi cao vùng biên giới mang bao phù sa về thêm màu mỡ cho đồng bằng và duyên hải Bắc Bộ...Càng tự hào và kính trọng giang sơn Tổ quốc, càng thấu hiểu sự lãnh đạo của quốc gia, khi chưa kịp hàn gắn vết thương trong chống Pháp, lại gồng mình huy động sức lực để chống Mỹ ở cả ngoài Bắc và trong Nam. Sự tích cực chuẩn bị đưa trung đoàn không quân tiêm kích về nước để cùng cả nước bảo vệ miền Bắc XHCN - Là mộtnguyện vọng bức xúc, mà đã được đáp ứng rất kịp thời. Địa thế Nội Bài, nơi đóng quân của trung đoàn không quân 921. Thực vậy, cả non sông cũng như miền trungdu và đồng bằng Bắc Bộ xưa nay tuy vẫn thế, nhưng đã trải qua bao đời người do kiên trì dựng nước và giữ nước đã hình thành bao địa danh gắn liền với lịch sử để lại cho đời sau, như: Đền Hùng đời vua Hùng thứ 6 (258), đền Sóc Sơn thờ Thánh Gióng cùng thời; đền CổLoa thời Thục Phán An Dương Vương (-208); đền Hạ Lôi (Mê Linh) thời Trưng Vương (40); đất Hoa Lư thời ĐinhTiên Hoàng (968) ; đất Thăng Long thời Lý Công Uẩn (1010); Đống Đa - Ngọc Hồi thời Quang Trung... Cùngvới những lời đời thường nói: thế núi, thế sông gắn liềnvới vận phân thắng bại; vùng giao châu thường là chỗ nương thân; chốn địa linh hay sinh nhân kiệt; nơi hội tụ các thế nguồn của thiên nhiên vốn là cái nôi của sự nảy nở, trưởng thành, càng thấy thật uyên thâm và khâm phục khi một địa mạo tự nhiên nằm giữa lòng bao địa danh lịch sử, như Nội Bài được chọn làm nơi xây dựng sân bay, để cất cánh lên bầu trời những máy bay tiêm kích phản lực đầu tiên của KQND Việt Nam mà cũng là nơi đã mở mặt trận trên không thắng lợi đầu tiên ngay trên vùng đất Hàm Rồng (Thanh Hóa). Thực vậy trong 40 năm qua (1964 - 2004) trung đoàn không quân 921vẫn đóng quân gắn bó với nhân dân Nội Bài; đã trải qua bao đời cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên, phi công và thợ máy; đã sử dụng bao nhiêu loại kiểu máy bay do nước ngoài sản xuất; từng tôi luyện bao lần xuất kích ngày đêm; đã bắn rơi biết bao máy bay của Mỹ và đã thực sự góp phần xây dựng thêm bao trung đoàn không quân cùng chiến đấu thắng lợi, mà hầu hết đã được tặng danh hiệu đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang trongchiến tranh: Chống chiến tranh phá hoại miền Bắc XHCN của không quân Mỹ, chiến đấu giải phóng miềnNam, thống nhất đất nước; bảo vệ biên giới và hải đảo của non sông Việt Nam. Điều đáng ghi nhớ, chỉ trong 10 năm (1965 - 1975) trung đoàn 921 và một số phi công, chỉ huy, kỹ thuật... xuất thân từ trung đoàn 921 đã góp phần thực hiện được và đúng những lời căn dặn mang tính tiên tri của Chủ tịch Hồ Chí Minh, khi người đến thăm bộ đội không quân, bằng những lần xuất kích nghệ thuật chiến đấu thành thạo trong những trận đánh trên không và từ trên không rất táo bạo, bất ngờ và huyền thoại đã từng để lại kinh ngạc với quân thù, như :

        + Trận không chiến đầu tiên thắng lợi đã bắn rơi máy bay F-84 bằng máy bay tiêm kích MIG-17A, ngày3-4-1965.

        + Trận ném bom vào sân bay Tân Sơn Nhất chiều 28-4-1975 bằng 5 máy bay cường kích A37 lấy được của Mỹ - ngụy Sài Gòn đã góp phần buộc ngày 29-4 Mỹ cút và ngày 30-4-1975 ngụy nhào, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử và là trận đánh cuối của KQND Việt Nam trong thời chống Mỹ.

Nội Bài - Tân Sơn Nhất, 28-4-2004.       


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Bảy, 2016, 11:38:33 am
        
100 % MÁY BAY TIÊM KÍCH PHẢN LỰC MIG 17A NỔ MÁY THÀNH CÔNG XUẤT KÍCH CHIẾN ĐẤU TRẬN ĐẦU THẮNG LỢI TRONG NGÀY 3, 4 THÁNG 4 NĂM 1965

Đại tá VÕ DUY CƯ                     
Nguyên Tiểu đoàn trưởng cơ vụ              
Trung đoàn không quân chiến đấu 921        

        Với những thành tích của không quân đã đạt đượctrong 50 năm qua không thể không nói tới những chiến công thầm lặng của lớp lớp cán bộ chiến sĩ ngành kỹ thuật không quân đã hết lòng phục vụ vì sự nghiệp của không quân nhân dân Việt Nam anh hùng.

         Trước khi nói tới kinh nghiệm công tác bảo đảm kỹ thuật đánh thắng trận đầu của trung đoàn không quân anh hùng 921, tôi xin tóm tắt bối cảnh lúc bấy giờ: Do bị thất bại nặng nề ở miền Nam, đầu năm 1964 tổng thống Mỹ Giôn-xơn đã có kế hoạch xâm lược miền Bắc Việt Nam, lúc đầu chúng dùng máy bay do thám trên vùng trời miền Bắc Việt Nam, sử dụng các đội nhảy dù phá hoại, gây chiến tranh tâm lý, thả biệt kích để phá hoại hệ thống đường xá, cầu cống của ta. Tháng 3-1964 Giôn-xơn phê chuẩn kế hoạch do Mắc-na-ma-ra vạch ra: Tăng cường và mở rộng "chiến tranh đặc biệt" ở miềnNam, dùng không quân đánh phá miền Bắc Việt Nam hòng đe dọa và gây sức ép buộc miền Bắc phải ngừng viện trợ cho miền Nam.

        Ngày 5-8-1964 đế quốc Mỹ sử dụng không quân đánh phá: Hòn Gai, Lạch Trường, Vinh, Cửa Hội, phà Gianh, bị quân và dân miền Bắc bắn rơi 8 máy bay Mỹ. Đế quốc Mỹ bị bất ngờ.

        Ngày 3-2- 1964 thành lập trung đoàn không quân tiêm kích 921, ở trên đất nước bạn. Tuy ở trên đất nước bạn, nhưng chúng ta luôn theo dõi tình hình diễn biến ở trong nước qua đài phát thanh tiếng nói Việt Nam. Trái tim của mỗi người chúng ta sục sôi tràn đầy máu căm thù đế quốc Mỹ xâm lược Tổ quốc Việt Nam.

         Ngay sau trận chiến đấu Mỹ ngày 5-8-1964 kết thúc, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc Phòng quyết định đưa trung đoàn không quân tiêm kích 921 về nước tham gia chiến đấu.

         Ở sân bay Mông Tự trên đất nước bạn, đoàn không quân Việt Nam chuẩn bị cất cánh về nước tham gia chiến đấu, cán bộ, chiến sĩ trung đoàn 921 hết sức nhộn nhịp, phấn khởi khác thường. Đảng ủy và chỉ huy trung đoàn họp phiên bất thường để quán triệt nhiệm vụ hành quân, bàn các biện pháp đưa toàn bộ trung đoàn với đầy đủ trang thiết bị về nước một cách bí mật, an toàn, về đến sân bay Nội Bài có thể trực tiếp chiến đấu được ngay.

         Sáng sớm tinh mơ ngày 6-8-1964 ở sân bay MôngTự (Trung Quốc) các tổ thợ máy đã hoàn thành nhiệm vụ chuẩn bị kỹ thuật cho toàn bộ máy bay của trung đoàn. Bạn thì cờ rong trống mở tiễn đưa những người bạn Việt Nam ra tiền tuyến chiến đấu. Đến 10 giờ được lệnh, máy bay lần lượt cất cánh bay về sân bay Nội Bài theo đúng kế hoạch đề ra trong niềm hân hoan của cán bộ chiến sĩ toàn Quân chủng, nhân dân ở vùng gần sân bay Nội Bài reo hò, vui mừng, có người leo lên nóc nhà ngồi xem những con đại bàng phản lực của ta hạ cánh xuống sân bay an toàn.

         Cũng từ ngày 6-8- 1964 cùng với các lực lượng phòng không khác, trung đoàn không quân tiêm kích 921 chính thức nhận nhiệm vụ trực ban chiến đấu. Biên chế của tiểu đoàn kỹ thuật sau khi về nước cơ bản vẫn giữ nguyên như khi mới thành lập trung đoàn. Cán bộ chỉ huy tiểu đoàn gồm có: Võ Duy Cư - Tiểu đoàn trưởng; Trần Ngọc Châu - Tiểu đoàn phó; các trợ lý chuyên môn: Nguyễn Hữu Đức - Trợ lý môn đặc thiết; Nguyễn Trần Nhấn - Trợ lý bộ môn VTĐ; Trần ĐìnhNoãn - Trợ lý bộ môn quân giới.

        Biên chế 4 đại đội:

         + Nguyễn Xuân Hảo: Đại đội trưởng đại đội 11, biên chế 12 máy bay tiêm kích MIG-17.

        + Vũ Hiếu: Đại đội trưởng đại đội 12, biên chế 12 máy bay tiêm kích MIG - 17.

        + Nguyễn Quang Khanh : Đại đội trưởng đại đội 13, biên chế 8 máy bay MIG – 17 + 4 máy bay huấn luyện YMIG-15.

        + Nguyễn Trọng Sự: Đại đội trưởng đại đội định kỳ .



Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Bảy, 2016, 11:42:28 am
     
        Đầu năm 1965 quân giải phóng miền Nam tiến công nhiều nơi như: Thị xã Plây-cu, Kontum, Quy Nhơn v v . . tiêu diệt nhiều quân Mỹ - ngụy. Đế quốc Mỹ âm mưu trả đũa sử dụng không quân đánh phá miền Bắc. Cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ đối với miền Bắc thực sự bắt đầu. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta đã bước vàothời điểm thử thách quyết liệt. Bộ Tổng tham mưu chỉ thị cho Quân chủng Phòng không - Không quân sử dụng lực lượng không quân hỗ trợ cho Quân khu 4. Để bảo đảm cho trận đầu ra quân giành thắng lợi. Ban chỉ huy tiểu đoàn phải suy nghĩ, tìm tòi, chọn phương án tối ưu để bảo đảm kỹ thuật tốt nhất. Từ đời Hồng Bàng đến nay ta chưa có máy bay phản lực. Học thuyết quân sự Việt Nam cũng chưa nói tới không quân. Học thuyết quân sự Việt Nam là chiến tranh nhân dân chính nghĩa chống xâm lược của ba thứ quân.

        Tài thao lược quân sự Việt Nam là thế và thời:

         Ông Ngô Quyền vận dụng thế, thời trong trận Bạch Đằng năm 938 rất tuyệt vời.

         ông Nguyễn Trãi: "Nhỏ đánh lớn hay đánh bất ngờ, ít địch nhiều thường dùng mai phục".

         Chủ tịch Hồ Chí Minh: "lạc nước hai xe đành bỏ phí, gặp thời một tốt cũng thành công" cuộc tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám là một ví dụ tuyệt vời.        Mưu kế là nghi binh lừa địch, điều động địch.

        Người dùng binh giỏi là ở chỗ biết rõ thế và thời.

        Hầu hết cán bộ lúc đó xuất thân từ bộ binh mà ra,công tác chuẩn bị chiến thắng trận đầu của bộ binh cónhiều, nhưng phương án chuẩn bị chiến thắng trận đầu của không quân thì chưa có, phải mò mẫm. Tư tưởng chỉ đạo của trên là lấy ít thắng nhiều, tranh thủ thời cơ, bí mật, bất ngờ, đánh chắc thắng, xây dựng truyền thống đánh thắng trận đầu cho không quân nhân dân Việt Nam. .

        Đầu tháng 3- 1965 sau khi có nghị quyết của Đảngủy trung đoàn, Đảng ủy tiểu đoàn thợ máy nhận định: Đây là thời cơ tốt nhất để rèn luyện, thử thách cán bộ,chiến sĩ ngành kỹ thuật, nuôi quân 3 năm sử dụng một giờ. Ra nghị quyết phải tập trung mọi lực lượng, mọi khả năng, ưu tiên về người, vật chất, phương tiện, khí tài bảo đảm máy bay tốt nhất, đạt tham số kỹ thuật cao nhất, góp phần xứng đáng vào việc đánh thắng trận đầucủa không quân ta.

        Các chi bộ họp ra nghị quyết: Động viên mọi lực lượng trong đại đội phát huy tinh thần trách nhiệm độc lập sáng tạo của kỹ thuật viên, khắc phục mọi khó khăn, chuẩn bị máy bay tốt nhất, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.

        - Phương châm lúc bấy giờ: Không vì kỹ thuật mà ảnh hưởng đến chiến đấu - vì chiến đấu thắng lợi trên không mà bảo đảm kỹ thuật.

        - Khẩu hiệu: Máy bay chưa tốt, chưa nghỉ ngơi.

         Đoàn kết hiệp đồng, lập công tập thể.

        - Công tác chính trị, tư tưởng chuẩn bị rất chu đáo: Giáo dục mục đích, ý nghĩa chiến thắng trận đầu. Anh em tự nguyện viết quyết tâm thư, viết khẩu hiệu trên mũ... Phát động phong trào thi đua trong toàn tiểu đoàn. Phong trào bảo đảm máy bay 4 không (không hỏng hóc, không có thiếu sót, không bẩn, không rỉ) khí thế thi đua hừng hực, hào hứng, phấn khởi, biểu lộ rõtrên vẻ mặt, trên tư thế khẩn trương, náo nức, máy bay nào cũng chuẩn bị tốt, tổ trưởng nào cũng báo cáo những ưu điểm nổi bật của máy bay mình, tranh nhau tham gia trực ban chiến đấu. Vì vậy phải chọn những máy bay tính năng tốt nhất và mỗi phân đội đều có máy bay tham gia chiến đấu trận đầu.

        Các tổ máy bay tổ chức kiểm tra chéo (tổ máy bay này kiểm tra máy bay khác) để phát hiện cho hết những sai sót. Tinh thần kỷ luật, chấp hành mệnh lệnh nghiêm túc nhất, tự giác nhất, nhanh nhất, triệt để nhất và hoàn thành nhiệm vụ tốt nhất. Phi công và thợ máy ai cũng muốn náo nức lập công.

         Ngày 2-4-1965 Bộ Tư lệnh Quân chủng tổ chức kiểm tra toàn diện công tác chuẩn bị chiến đấu của trung đoàn 921. Song chủ yếu là kiểm tra phương án tácchiến, hiệp đồng chiến đấu và trang bị vũ khí. Tiểu đoàn trưởng kỹ thuật Võ Duy Cư được phổ biến kế hoạch và phương án tác chiến của không quân. Công tác chuẩn bị trước ngày bay được triển khai chặt chẽ. Từng cấp cán bộ thực hiện chế độ kiểm tra máy bay. Các đồng chí đại đội trưởng: Vũ Hiếu, Nguyễn Quang Khánh, Nguyễn Xuân Hảo thận trọng kiểm tra từng chiếc máy bay, kiên quyết không để một sai sót nhỏ nào ảnh hưởng đến nhiệm vụ chiến đấu. Đại đội định kỳ sẵn sàng đáp ứng kịp thời mọi yêu cầu của các đại đội ngoại trường.


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Bảy, 2016, 11:44:29 am

         Ngày 3-4-1965 từ 3 giờ sáng các đại đội thợ máy đã chuẩn bị máy bay theo nội dung kiểm tra trước khi bay cho 10 máy bay MIG-17 sẽ tham gia chiến đấu trận đầu các phân đội sẽ có máy bay tham gia chiến đấu.

        - Biên đội máy bay trực ban chiến đấu thứ nhất gồm có:

        Máy bay số 2310: Tổ trưởng Đinh Quang Luận, phi công Phạm Ngọc Lan.

        Máy bay số 2118: Tổ trưởng Đặng Xuân Hiệp, phi công Phan Văn Túc.

        Máy bay số 2312: Tổ trưởng Nguyễn Quang Hảo, phi công Hồ Vàn Quỳ.

        Máy bay số 2318: Tổ trưởng Nguyễn Đức Hòa, phi công Trần Minh Phương.

        - Biên đội máy bay trực ban chiến đấu thứ 2 gồm:

        Máy bay số 2316: Tổ trưởng Lê Nam, phi công Trần Hanh.

        Máy bay số 2416: Tổ trưởng Nguyễn Hữu Ngô, phicông Phạm Giấy.

        Máy bay số 2412: Phi công Lê Minh Huân.

        Máy bay số 2410: Phi công Trần Nguyên Năm.

        Ngoài ra còn 2 chiếc máy bay dự bị.

        Khi biên đội thứ nhất mở máy, thì chiếc máy bay dự bị thứ nhất cũng đồng thời mở máy, nếu trong biên đội chính thức có chiếc nào mở máy không thành công, thì phi công lập tức chuyển sang máy bay dự bị đã mở máy sẵn lập tức cất cánh kịp thời không chậm trễ, nếu cả biên đội máy bay chính thức mở máy tốt, bánh bắt đầu lăn thì máy bay dự bị sẽ tắt máy. Các tổ thợ máy khẩn trương kiểm tra máy bay, các loại xe nạp dầu, xe nạp khí nén, xe nạp điện (APA) hoạt động nhộn nhịp. Đến 5 giờ sáng mọi công tác chuẩn bị kỹ thuật đã hoàn thành, máy bay sẵn sàng xuất kích.

        Tiểu đoàn trưởng Võ Duy Cư báo cáo cho trungđoàn trưởng tất cả máy bay trực ban chiến đấu đã hoànthành công tác chuẩn bị kỹ thuật, vũ khí đầy đủ, máybay ở trạng thái tốt nhất, sàn sàng chờ lệnh.

        Trung đoàn trưởng Đào Đình Luyện báo cáo với Tư lệnh Quân chủng: Các biên đội đã chuẩn bị xong, máy bay tốt, mọi mặt chỉ huy và bảo đảm thực hiện đúng quy định, sẵn sàng chờ lệnh xuất kích. Tư lệnh Quân chủng ra lệnh cho các đơn vị vào cấp I.

        9h40' địch huy động 60 lần chiếc máy bay cường kích của hải quân đánh phá Cầu Tào, Cầu Đò Lèn và cầu Hàm Rồng, quân và dân Thanh Hóa đánh trả quyết liệt.

        9h50': Sở chỉ huy ra lệnh biên đội vào cấp I, pháo hiệu xanh bắn lên, tổ trưởng thợ máy nhanh chóng giúp phi công mở máy. Lập tức những con én bạc cất cánh lao thẳng về vùng trời Thanh Hóa. Ba phút sau 2 máy bay biên đội 2 cất cánh nghi binh ở vùng trời Ninh Bình, đó là máy bay 2316 phi công Trần Hanh và máy bay 2416 phi công Phạm Giấy lái. Đến 10h17' ngày 3-4-1965 trận không chiến đầu tiên của không quân tiêm kích kết thúc, các máy bay số 2, 3, 4 và 2 máy bay nghi binh lần lượt hạ cánh an toàn. Riêng máy bay số 1(2310) do la bàn điện tử bị lệnh khung, hết nhiên liệu, nên phi công Phạm Ngọc Lan phải hạ cánh bắt buộc xuống bãi ngô ven sông Đuống, thuộc làng Chi Lê.

        Sau khi được BTL Quân chủng thông báo vị trí hạ cánh bắt buộc, trung đoàn tổ chức một đội ứng cứu lập tức đến hiện trường do trung úy Nguyễn Quang Khanh làm đội trưởng. Đội ứng cứu làm việc suốt đêm, tháo máy bay đưa lên xe tải chở về. Lần đầu tiên tổ ứng cứu máy bay gặp nạn, đội đã khắc phục nhiều khó khăn về phương tiện, dụng cụ và địa hình đưa máy bay về căncứ an toàn. Máy bay số 2310 sửa chữa lại sau này vẫn tham gia bay huấn luyện tại trường không quân.

        Trận chiến đấu đầu tiên, không quân đã bắn rơi 2 chiếc F-8U của Mỹ. Cả trung đoàn bừng bừng khí thế mừng chiến thắng, cả Quân chủng hân hoan chào đón chiến công đầu tiên của Không quân nhân dân Việt Nam .

        Chiều 3-4-1965 cả trung đoàn rút kinh nghiệm, tiểu đoàn thợ máy rút kinh nghiệm, bổ sung phương án bảo đảm kỹ thuật.

        Ngày hôm sau 4/4/1965 địch cho nhiều tốp máy bay vào đánh tiếp cầu Hàm Rồng và nhà máy điện Hàm Rồng.

        10h20' biên đội 1 cất cánh làm nhiệm vụ nghi binh gồm có: Phi công Lê Trọng Long, Phan Văn Túc, Hồ Văn Quỳ và Trần Minh Phương.

        Ba phút sau, biên đội 2 gồm có: Phi công Trần Hanh, Phạm Giấy, Lê Minh Huân và Trần Nguyên Năm cất cánh chiến đấu ở Hàm Rồng.

        Trận này hai đồng chí Trần Hanh và Lê Minh Huân bắn rơi hai máy bay Fl05. Ba đồng chí Phạm Giấy, Lê Minh Huân và Trần Nguyên Năm đã anh dũng hy sinh. Còn phi công Trần Hanh mưu trí thoát khỏi vòng vây, hạ cánh bắt buộc xuống Kẻ Tàm (phía tây tỉnh Nghệ An) được nhân dân Nghệ An bảo vệ máy bay chu đáo. Phòng kỹ thuật máy bay cử một đội cấp cứu do thượng úy Ngô Kim Tuân phụ trách đi tháo máy bay, sau một tuần lễ tháo dỡ xong, đưa máy bay lên xe tải chở về căn cứ an toàn.


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Bảy, 2016, 11:46:21 am

        Sau hai trận đánh đầu tiên của không quân tiêm kích giành thắng lợi giòn giã, cán bộ, chiến sĩ ngành kỹ thuật không quân tự tin vào năng lực của mình, vào trang bị kỹ thuật. Từ cán bộ tiểu đoàn đến nhân viên kỹ thuật tổ chức rút kinh nghiệm công tác bảo đảm kỹ thuật cho máy bay chiến đấu. Nhiều băn khoăn, trăn trở, nhiều câu hỏi chưa được giải đáp trước đây đã được thực tế trả lời, bỡ ngỡ lúng túng lúc đầu là điều không thể tránh khỏi. Trong lòng mỗi người tràn ngập niềm vui niềm phấn khởi, niềm tự hào với chiến công đầu. Các nhân viên kỹ thuật càng hăng hái rèn luyện tay nghề vững vàng hơn, chính xác hơn. Cán bộ chỉ huy tiểu đoàn và trợ lý kỹ thuật trau dồi thêm phương pháp tổchức chỉ huy, nâng cao trình độ bảo đảm kỹ thuật cho chiến đấu.

        Tất cả cán bộ, nhân viên kỹ thuật cùng hạ quyết tâm bằng ý chí và năng lực của mình sẽ bảo đảm vũ khí trang bị luôn đồng bộ với chất lượng cao sẵn sàng đáp ứng yêu cầu cho các lần xuất kích chiến đấu tới.

        Từ thực tế chiến đấu trận đầu rút ra một số kinh nghiệm bảo đảm kỹ thuật cho máy bay chiến đấu sauđây:

        1. Các hình thức công tác chính trị như: Giáo dục mục đích, ý nghĩa chiến thắng trận đầu, nắm diễn biến tư tưởng, phát động phong trào thi đua, viết quyết tâmthư v.v... giống như bộ binh đã làm, chỉ khác một điều không chỉ giáo dục lòng dũng cảm hy sinh mà chủ yếu giáo dục tinh thần trách nhiệm rất cao, tinh thần chịu đựng gian khổ, khắc phục khó khăn, thận trọng, tỉ mỉ,chuẩn xác, bảo đảm kỹ thuật với chất lượng cao, tinh thần đoàn kết hợp đồng lập công tập thể.

        2. Sau trận chiến đấu phải tổ chức rút kinh nghiệm kịp thời, bổ sung phương án và khen thưởng xứng đáng, có tác dụng động viên cho trận chiến đấu tiếp theo.

        3. Trong chiến đấu phi công thường sử dụng máy bay với cường độ lớn nhất, động tác rất mạnh và rất kịch liệt, vì vậy khi chuẩn bị máy bay chiến đấu phải chuẩn bị toàn diện nhưng có trọng điểm như: Hệ thống điều khiển phải thật linh hoạt, hệ thống xăng dầu, hệ thống vũ khí, hệ thống đồng hồ trên máy bay.

        4. Khi máy bay hạ cánh, tổ trưởng máy bay phải hỏi phi công thật kỹ về tình trạng kỹ thuật máy bay hoạt động ở trên không, để sửa chữa cho nhanh chóngvà chính xác.

        5. Cán bộ đại đội phân công trực ban chỉ huy tuyến cất cánh, sắp xếp máy bay vào vị trí theo kế hoạch chiến đấu Sau khi chiến đấu kết thúc, máy bay về hạ cánh, nếu máy bay chiến đấu bị tổn thất, thì cán bộ trực ban phải điều động máy bay khác bổ sung ngay vào vị trí để tiếp tục chiến đấu, không nên để vị trí trống không có máy bay trực ban.

        6. Sau khi máy bay cất cánh, tiểu đoàn trưởng phải có mặt ở sở chỉ huy để giúp người chỉ huy xử lý các tình huống kỹ thuật bất trắc xảy ra ở trên không. Yêu cầu cán bộ chỉ huy kỹ thuật phải xử lý thành thạo các tình huống có thể xảy ra ở trên không như:

        a) Nhiệt độ động cơ đột ngột tăng cao vượt quá mức quy định, có thể động cơ bị cháy, phải dập lửa trên không.

        b) Động cơ tắt máy trên không, phải mở máy lại.

        c) Súng bắn không được.

        d) Chuẩn bị hạ cánh, máy bay không thả càng được v . v .

         Cán bộ chỉ huy kỹ thuật, ngồi cạnh người chỉ huy bay, phải tập trung tư tưởng theo dõi tình hình máy móc hoạt động ở trên không, để giúp người chỉ huy xử lý kịp thời các tình huống bất trắc xảy ra ở trên không, đồng thời nắm vững tình hình kỹ thuật máy móc hoạt động ở trên không.

        7. Tổ chức đội ứng cứu sẵn sàng làm nhiệm vụ cấp cứu khi máy bay xông ra khỏi đường băng, hoặc hạ cánh ngoài sân bay. Thành phần nên đủ các bộ môn cần thiết, con người phải nhanh nhẹn, tháo vát, linh hoạt. Phải chuẩn bị đủ các phương tiện cần thiết như: Ô tô, kích máy bay, lốp máy bay dự bị, dụng cụ tháo máy bay,dao, búa, cuốc xẻng v.v. .

         Tính từ ngày 3-4- 1965 đến 30-12- 1965 ngành kỹ thuật bảo đảm xuất kích 156 lần chiếc, đánh 8 trận, bắn rơi 15 máy bay địch các loại, ta bị tổn thất 10 chiếc.         Nhờ kinh nghiệm đánh thắng trận đầu ngày 3-4- -1965 của máy bay MIG-17 mà các loại máy bay khác sau này cũng đánh thắng trận đầu:

        - Đêm 3-2-1966 ta xuất kích 2 máy bay đánh đêm MIG-17 phi công Lâm Văn Lích trong một trận xuất kích đã bắn rơi 2 máy bay AD-6 của Mỹ trên vùng trời Hòa Bình - Chợ Bến. Đây là chiến công đầu tiên củaloại máy bay MIG-17 PF

        - Ngày 5/2/1966 loại máy bay MIG-21 bắt đầu tham gia trực chiến đến 14 giờ ngày 4/3/1966 phi công Nguyễn Hồng Nhị lái chiếc máy bay số 4024 bắn rơi một máy bay không người lái trên bầu trời Quảng Ninh, lập chiến công đầu của loại máy bay MIG-21.

        Công tác bảo đảm kỹ thuật đánh thắng trận đầu của Không quân nhân dân Việt Nam anh hùng, bước đầu rút ra được một số kinh nghiệm quý báu, được tiếp tục nghiên cứu phát triển mãi về sau này. Là một nhân tố có ý nghĩa quyết định thắng lợi chiến đấu của không quân, dù khó khăn gian khổ đến đâu, cũng phải tập trung bảo đảm kỹ thuật tốt nhất cho chiến đấu thắng lợi.

        Tôi tin tưởng vững chắc rằng lớp cán bộ nhân viên kỹ thuật sau này sẽ viết tiếp những trang sử truyền thống vẻ vang cho không quân từ những bậc thềm mà bao lớp cán bộ, chiến sĩ đi trước đã xây đắp tạo dựng  nên, để mãi mãi ngọn cờ anh hùng của không quân được dương cao, xứng đáng với lòng tin yêu của Đảng, của nhân dân và của Quân chủng Phòng không - Không quân.

Hà Nội, ngày 22 - 12-2000       


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Bảy, 2016, 11:49:08 am
       
TRẬN ĐÁNH ĐÊM MỪNG SINH NHẬT ĐẢNG

ĐOÀN HOÀI TRUNG                     
(Theo lời kể của phi công Lâm Văn Lích)       

        Đại tá phi công Lâm Văn Lích, Anh hùng lựclượng vũ trang nhân dân đã từng bắn rơi 4 máy bay của đế quốc Mỹ. Nhân dịp kỷ niệm 75 nămngày thành lập Đảng, tôi đã có cuộc trò chuyệnvới ông về trận đành mà đúng vào ngày 3-2-1966, một mình ông xuất hích giữa đêm tối mịt mùng và trong vòng chưa đầy 2 phút bắn rơi tại chỗ 2 chiếc máy bay Mỹ...

        + Ra đi từ mũi Cà Mau đến trường không quân số 3

        Ông Lâm Văn Lích sinh năm 1932, tại xã Định Thành, huyện Gia Rai, tỉnh Bạc Liêu (nay là xã Tắc Vân thành phố Cà Mau), trong gia đình mẹ Việt, bố gốc người Hoa. Từ xa xưa, các cụ tổ nhà ông từ làm nghề đi biển đã di chuyển từ Trung Quốc xuống khẩn hoang vùng đất Mũi phương Nam. Vùng đất này ngày còn rất hoang sơ, rừng rậm với các loài thú dừ, rắn rết rình dập con người, buộc cho người đất Mũi phải có tinh thần dũng cảm, ý chí quật cường. Người đất Mũi đã tự đứng lên tham gia khởi nghĩa cướp chính quyền cách mạng tháng Tám năm 1954, ảnh hưởng của gia đình và dòng họ đầu năm 1946 khi mới 13 tuổi ông Lâm Văn Lích đã tham gia hoạt động trinh sát cho đội du kích xã. ông đã len lỏi theo dõi quy luật hoạt động của tên ác ôn trong vùng, để báo du kích trừ khử hắn.

        Năm 1949, ông được vào đại đội 554 địa phương quân tỉnh Bạc Liêu, tham gia các trận chống càn của Pháp vào căn cứ của ta. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, bộ đội Nam bộ cũng góp phần kìm chân địch, bao vây các đồn bốt của chúng để chúng không đưa quân chi viện cho chiến trường Điện Biên Phủ. Có một lần, tiểu đội ông chỉ có mấy người, bao vây đồn Đốc Bét với vài phát súng thị uy, thế mà tên đồn trưởng đã hoảng sợ giơ cờ trắng ra hàng. ông được kết nạp vào Đảng năm 1953. Đơn vị ông đã vào tiếp quản tuyến tập kết tạm thời của bộ đội miền Nam ra Bắc và là nơi trao trả tù binh giữa ta với Pháp thuộc thành phố Cà Mau ngày nay. ông theo chuyến tàu gần cuối cùng tập kết ra Bắc với cương vị trung đội phó của đại đội 3 tiểu đoàn 9 trung đoàn 3 miền Tây Nam bộ.

        Giữa năm 1955, ông được trên cho đi học ở trường văn hóa Bộ Quốc phòng và nhờ có sức khỏe tốt nên ông được tuyển chọn học lái máy bay tại trường Không quân số 3 ở Liêu Ninh, Trung Quốc. Đây là khóa 1 đầu tiên của Không quân nhân dân Việt Nam. Cùng với ông có các ông Đào Đình Luyện, Trần Hanh, Phạm Ngọc Lan, Nguyễn Ngọc Độ, Nguyễn Nhật Chiêu ... Trong quá trình học tập, Bác Hồ có sang Trung Quốc gửi tặng cho các phi công 2 chiếc huy hiệu của Người. Đoàn trưởng Đào Đình Luyện và ông được anh em bình chọn nhận hai chiếc huy hiệu này, mà ngày nay ông vẫn lưu giữ như một "tài sản" quý giá. Sau khi học xong, ông đượctham gia biên đội đầu tiên cùng trung đoàn trưởng ĐàoĐình Luyện và phi công Phạm Ngọc Lan hạ cánh xuống sân bay Nội Bài giữa những ngày khói lửa của cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ.


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Bảy, 2016, 11:50:00 am

NHỮNG TRẬN KHÔNG CHIẾN

        Trở về nước với cương vị Chủ nhiệm kỹ thuật bay trung đoàn không quân 921 Quân chủng Phòng không - Không quân, ông đã cùng đồng đội kiên trì học tập thêm một số khoa mục để có thể chiến đấu trong điều kiện khí tượng và địa hình phức tạp. Ngày 17 tháng 6 năm 1965, biên đội của ông gồm: Lích, Long, Tinh, Chiêu cất cánh từ sân bay Nội Bài chặn đánh địch tại Hồi Xuân - Thanh Hóa. Ông đã chỉ huy biên đội chia làm hai mũi, một mũi đánh đuổi, một mũi đánh phía trên đội hình địch. Bất ngờ thấy một chiếc máy bay địch đang bám đuôi mình, Lâm Văn Lích đã bình tĩnh, dũng cảm lái máy bay quay lại đối đầu với địch, tới cự ly nổ súng, ông đã bắn rơi chiếc máy bay địch. Trong ba phút chiến đấu cả biên đội bắn rơi 2 máy bay, bắn bị thương 2 chiếc khác. Số máy bay địch còn lại hốt hoảng bỏ chạy. Trước khi quay trở về ông thấy một chiếc dù của một đồng chí phi công ta đang lơ lửng trên không, lúc này các đồng chí khác trong biên đội đã trở về, tuy nguy hiểm một mình ông vẫn ở lại bay yểm hộ cho đồng chí xuống tới đất rồi quay về.

        Đêm 3 tháng 2 năm 1966 là một đêm không bao giờ quên trong tâm trí của ông, ấy là đêm đã lập nên chiến công vang dội dâng lên ngày sinh nhật Đảng Lao động Việt Nam. Đêm ấy, phi công Lâm Văn Lích được phân công trực ban sẵn sàng chiến đấu. Sở chỉ huy báo động có máy bay địch vào xâm phạm vùng trời của ta. Cả sân bay nhộn nhịp chuẩn bị cho ông cất cánh, những người thợ máy kiểm tra lại lần cuối, xe nạp điện đã sẵn sàng. Chiếc máy bay MIG – 17PF cất cánh và lao vút lên bầu trời đêm, phi công Lâm Văn Lích hồi hộp khó tả, vì đây là lần đầu tiên đánh đêm của không quân ta. Ông được sở chỉ huy các cấp dưới đất dẫn bay vào tiếp cận mục tiêu. Ban ngày trời trong xanh, phi công có thể phát hiện máy bay địch bằng mắt thường hơn 10 cây số, nhưng ban đêm chỉ còn trông chờ vào ra đa trên sân bay, nhưng ra đa phải khi nào vào gần địch mới được mở, vì mở sớm địch sẽ phát hiện ngay, vì trên máy bay địch có thiết bị phát hiện sóng ra đa của ta. Khi máy bay đến Hòa Bình, Mộc Châu ông đã mở ra đa và phát hiện máy bay địch ở cự ly 8km. Ông lập tức cho máy bay tăng tốc đuổi theo. Trên máy bay MIG-17PF có 3 khẩu pháo 23 ly, có ra đa ngắm bắn. Ông quan sát đưa máy bay mình vào đúng độ cao máy bay địch phía trước khoảng 5000m, rồi đưa mục tiêu vào vòng ngắm. Mục tiêu đã rõ, cự ly khoảng 800m, ông tăng tốc và định tiếp cận khoảng 400m thì bắn, nhưng thật bất ngờ mục tiêu trên màn ra đa bỗng chao đảo không ổn định, rồi biến mất. Lúc đó ông không hiểu nguyên nhân tại sao, nhưng giờ đây ngẫm lại, ông cho rằng có thể 2 máy bay địch đi sát nhau quá, nên ra đa không biết phải bám mục tiêu nào và hơn nữa ông tăng tốc độ quá lớn nên không kịp xử trí khi tiếp cận địch. Lúc ấy, trong máy bay của ông có các đèn báo nguy hiểm và tiếng chuông báo hiệu sắp va chạm máy bay với nhau. Thoáng bối rối trong khi luyện tập, nếu tình huống 2 máy bay sắp va nhau thì phi công phải nhanh chóng thoát ly. Nhưng lúc này Lâm Văn Lích quyết định lao cả máy bay vào địch làm một cảm tử quân vì Tổ quốc. Ý chí của người phi công lúc ấy mong muốn tiêu diệt máy bay địch bằng mọi giá dù hy sinh tính mạng để lập công dâng lên Đảng kính yêu. Nhưng lao mãi mà không gặp máy bay địch, ông nhìn ra ngoài trời đêm thì phát hiện máy bay địch lù lù dưới cánh mình khoảng 8m. Lúc đầu ông định chui xuống đạp máy bay vào cánh máy bay địch, nơi chỗ hiểm yếu dễ rơi và sẵn sàng nhảy dù nhưng sau đó một ý nghĩ chợt lóe ra, sao mình không lùi lại để dùng súng bắn nó? Nghĩ vậy ông giảm tốc độ lùi lại cách chừng 10m, ông không dám lùi xa vì sợ mất mục tiêu địch trong đêm. ông từ từ cho máy bay xuống thấp ngang tầm máy bay địch và đưa vào ngắm bằng mắt mục tiêu to bè, sẵn sàng bóp cò. Vừa lúc đó một luồng khí phản lực của máy bay địch phụt ra làm máy bay của ông chao đảo lật nhào. Đầu ông lắc lư đập cả vào nắp buồng lái. ông choáng váng không biết trạng thái của mình ra sao, máy bay không điều khiển được rơi xuống. ông tưởng máy bay bị trúng đạn của địch. Nhưng rơi được một lúc độ cao khảng 4000m, ông thử lại điều khiển, thì thấy máy bay vẫn bình thường. Nhớ lại hướng bay bám địch, ông tăng ga ngóc lên đi tìm địch. Quan sát lại màn ra đa, ông phát hiện mục tiêu cách 3km. ông tăng tốc đuổi theo và quyết định kỳ này có cơ hội là bắn liền, không để lỡ thời cơ nữa. Và một may mắn đã đến, không biết có phải vì sợ va chạm vào nhau hay không? Mà hai chiếc máy bay địch trước mắt bật đèn nhấp nháy thông tin với nhau. Lúc đó ông mới biết phía trước mình là hai chiếc máy bay địch. Quan sát chúng bằng ra đa và mắt thường, Lâm Văn Lích tăng tốc bám sát máy bay địch. Lần này ông không tăng tốc quá lớn vì khi cự ly khoảng 600m, ông chọn một chiếc máy bay bên trái, ngắm bằng mắt giữa hai chiếc đèn đuôi và cánh máy bay địch bóp cò thật dài, để máy bay địch nổ tan tác trên bầu trời. Luồng đạn đỏ rực xé màn đêm lao vào máy bay địch. Khi dừng hẳn, tự nhiên không thấy chiếc máy bay bên trái đâu, còn chiếc bên phải đang chạy trốn, nhưng nó cũng quên tắt đèn. ông lập tức nghiêng cánh, vòng đuổi theo. Cùng lúc đó ông nhìn thấy chiếc máy bay kia đang bốc cháy lao nhanh xuống đất. Trong lòng tăng thêm niềm tin, ông ngắm ngay chiếc thứ hai và bắn xối xả. Khoảng cách giữa hai lần bắn thực ra chỉ hơn 1 phút, còn trận đánh chỉ hơn 2 phút. Luồng đạn đỏ rực cắm thẳng vào mục tiêu, chiếc máy bay bùng lên thành ngọn đuốc cắm đầu xuống.


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Bảy, 2016, 11:51:16 am

        Cảm giác của ông lúc ấy lâng lâng, dạt dào, đến nỗi sở chỉ huy thông báo có địch, báo ông quay về ngay ông cũng không để ý, vì ông còn cuốn theo men thắng trận, ông lượn quay lại để xem cho rõ hình ảnh hai chiếc máy bay như hai cục lửa đỏ rực rơi xuống đất phía Tây Hòa Bình. Giữa bầu trời bao la mênh mông, ông là người duy nhất nhìn thấy những máy bay địch rơi xuống đất bùng lên ngọn lửa đỏ. Đó là giây phút hạnh phúc nhất trên đời của người đất Mũi qua bao tháng ngày rèn luyện vất vả. ông nhớ đến Bác Hồ, nhớ lần Bác đến thăm trung đoàn không quân tiêm kích 921 tại sân bay Nội Bài vào ngày 9 tháng 11 năm 1964, Bác đã dừng lại hồi lâu khi nghe ông giới thiêu: "Cháu là Lâm Văn Lích, quê ở Cà Mau”. Bác đã hỏi chuyện và mong ông xứng đáng với truyền thống anh hùng của miền Nam thành đồng Tổ quốc, tiêu diệt nhiều máy bay Mỹ. Thế thì hôm nay, một mình ông đã chiến đấu với nhiều máy bay địch, đã dũng cảm bình tĩnh bắn rơi 2 máy bay A1 của hải quân Mỹ.

         Khi ông thoát ly khỏi khu vực, thì đèn báo hiệu có máy bay địch bám đằng sau. ông lập tức làm động tác chui xuống tránh tầm kiểm soát của địch. Sở chỉ huy yêu cầu ông bay về khu vực trận địa tên lửa của ta, để mặt đất sẵn sàng hỗ trợ. Đến lúc tín hiệu hỏi trả lời của trận địa tên lửa nhấp nháy, ông sung sướng tin rằng mặt đất sẽ bảo vệ ông. Phi công Lâm Văn Lích xin về hạ cánh, đèn đường băng sân bay Nội Bài rực sáng. ông hạ cánh an toàn trong vòng tay của đồng đội bạn bè. Chính ủy Đặng Tính ôm chầm lấy ông và chúc mừng.

         - Các chòi quan sát mặt đất của ta đã báo về hai chiếc máy bay rơi. Đây thực sự là món quà của bộ đội Phòng không - Không quân dâng lên Đảng, Bác kính yêu nhân kỷ niệm 36 năm ngày thành lập Đảng.

TRỞ VỀ VỚI ĐỜI THUỜNG

        Ngày 1 tháng 1 năm 1967, phi công Lâm Văn Lích được Nhà nước phong tặng danh hiệu "Anh hùng lựclượng vũ trang nhân dân". ông đã trải qua nhiều cương vị khác nhau trong Quân chủng, trung đoàn phó, trung đoàn trưởng trung đoàn không quân 923, Hiệu trưởng trường Không quân 910, Hiệu phó trường Trung cao Không quân. Năm 1985, ông chuyển ngành về Ban tổ chức thành ủy thành phố Hồ Chí Minh. Sau đó được trên tín nhiệm đưa ông sang làm Tổng giám đốc liên hiệp xí nghiệp Mô tô - Xe đạp thành phố Hồ Chí Minh. Tình hình liên hiệp xí nghiệp khi ông về hết sức rối ren, làm ăn thua lỗ, cán bộ tham ô, công nhân không có việclàm ... ông đã đưa cách làm ăn mới theo cơ chế thị trường vào trong liên hiệp xí nghiệp với sự ủng hộ của Bí thư Thành ủy lúc bấy giờ là ông Nguyễn Văn Linh. Người đảng viên, chiến sĩ trở về với đời thường làm kinh tế thật không đơn giản chút nào, nhiều ý kiến phản đốivới cách làm mới của ông. Nhưng ông đã dũng cảm tiên phong trong liên doanh với nước ngoài. Công ty liên doanh VICO (Việt Nam - Hồng Kông) là liên doanh đầu tiên của thành phố Hồ Chí Minh với nước ngoài, đến nay vẫn hoạt động có hiệu quả, sản xuất được các mặt hàng nông ngư cơ khí như máy cày, bừa, xới, bơm nước , . . Chiếm phần lớn thị trường ở miền Nam, phục vụ đắc lực cho ngành nông nghiệp .

        Vợ của ông là bác sĩ Đường Duy Hiền, bà cũng là người con miền Nam tập kết ra Bắc. ông Lích quen bà Hiền trong dịp về phép tết năm 1959, khi ấy bà mới là y tá bệnh viện Hải Phòng. Đám cưới của ông bà được ông Đào Đình Luyện làm chủ hôn (ông Đào Đình Luyện sau này là Thượng tướng thứ trưởng Bộ Quốc phòng - Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam). ông bà có 2 con trai và 1 con gái. ông Lâm Văn Lích đã nghỉ hưu từ năm 1994, nhưng vẫn tham gia cố vấn cho công ty liên doanh VICO. Anh hùng trở về với đời thường vẫn giữ được phẩm chất và ý chí của người chiến sĩ cách mạng.

Thành phố Hồ Chí Minh, 1-2005.       


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Bảy, 2016, 04:12:16 pm
        
NHẦM MỤC TIÊU
(Chuyện kỷ niệm sâu sắc nhân dịp năm mươi năm ngày Không quân nhân dân Việt Nam)

Thiếu tướng NGUYỄN HỒNG NHỊ               
Phi công máy bay MIG-21                        
Anh hùng lực lượng vũ trang                    
Nguyên PTL - TMT Quân chủng Không quân          
Nguyên TCT Tổng cục Hàng không Dân dụng VN        

        Đầu năm 1966, máy bay tiêm kích MIG-21 được đưa ra trực ban chiến đấu trên sân bay Nội Bài - Hà Nội. Nhiệm vụ chủ yếu của MIG-21 lúc bấy giờ được sử dụng đánh máy bay trinh sát chụp ảnh tầng cao của Mỹ (máy bay U-2, không người lái).

         MIG-21 thuộc loại máy bay tiêm kích siêu âm hiện đại nhất lúc bấy giờ của Liên Xô viện trợ cho Việt Nam. Tôi có vinh dự cùng với một số anh em được trung đoàn chọn đi chọn chuyển loại từ lái máy bay MIG- 17 sang lái máy bay MIG-21 và được tham gia chiến đấu trên loại máy bay tiêm kích hiện đại đó.

         Con đường binh nghiệp của tôi được đánh dấu một bước ngoặt sâu sắc từ đây. Từ một người lính cầm súng bộ binh sang làm người cầm cần lái máy bay chiến đấu. Bao nhiêu kỷ niệm sâu sắc của người lính bộ binh được nối tiếp với những kỷ niệm sâu sắc của người lái máy bay chiến đấu.

         "Nhầm mục tiêu” - Một trong những kỷ niệm sâu sắc nhất trong đời người lái máy bay chiến đấu của tôi. Trong bộ đội không quân ta cũng đã từng xảy ra. "Nhầm mục tiêu” và mỗi lần như thế thường để lại đau xót vô cùng. Nhưng trong trường hợp tôi "nhầm mục tiêu” , ngược lại rất may mắn còn được trở về với Tổ quốcvới đồng đội.

        Đầu năm 1966, Mỹ ráo riết dùng máy bay không người lái trinh sát tầng cao chụp ảnh các trục đường chiến lược của ta như Hà Nội - Lạng Sơn; Hà Nội – Lào Cai; Hà Nội - Hải Phòng... phục vụ cho kế hoạch của chúng đánh phá cắt đứt giao thông miền Bắc Việt Nam với bên ngoài nhằm cô lập Việt Nam dân chủ Cộng hòa với phe xã hội chủ nghĩa và thế giới. Cuối tháng ba năm 1966, tôi được trên giao nhiệm vụ trực ban chiến đấu "cao không". Gần trưa, mây tan, bầu trời trở nên trong xanh. Địch cho máy bay không người lái trinh sát tầng cao bay trinh sát - chụp ảnh dọc theo tuyến đường sắt Hà Nội - Lào Cai. Sau khi sở chỉhuy thông báo có máy bay không người lái trinh sát tầng cao bay vào miền Bắc. Tôi được lệnh cất cánh bay lên tiêu diệt chiếc máy bay đó.

         Sau khi máy bay cất cánh và chiếm lĩnh độ cao trên mười ngàn mét. Tôi phát hiện mục tiêu (*) và báo cáo về sở chỉ huy: "04 phát hiện mục tiêu phía trước, xin công kích". Thường lệ khi sở chỉ huy nghe người lái báo cáo phát hiện mục tiêu trên không phải thông báo lại cho người lái biết về khoảng cách giữa máy bay ta với mục tiêu; độ cao của mục tiêu và khẩu lệnh cuối cùng cho phép hay không cho phép người lái công kích". Trong lòng tôi mừng quá? Tôi quên hỏi lại sở chỉ huy về khoảng cách giữa tôi với mục tiêu? (sau này về rút kinh nghiệm trận đánh, tôi mới biết cụ thể mục tiêu tôi phát hiện là mục tiêu ở bên kia biên giới rất xa...). Tôi đẩy tay ga tăng lực toàn phần của động cơ để bám sát mục tiêu. Chiếc MIG-21 còn mới đang thời sung mãn. Tốc độ máy bay cứ tăng đều đều rất nhanh lên 1.400 rồi 1.900km/giờ! Độ cao máy bay cũng lên cao đến mười lăm ngàn mét.

        Bỗng đột ngột mục tiêu ngoặt gấp và lao xuống thấp ... Tôi nghĩ mình bị nhầm mục tiêu rồi? Mục tiêu không phải máy bay không người lái, trái lại mục tiêu là một chiếc máy bay có người lái và đang cơ động gấp để tránh đối phương công kích? Tôi kiên quyết bám theo mục tiêu đồng thời báo cáo về sở chỉ huy nhưng không nghe ai trả lời. Tôi tiếp tục gọi về sở chỉ huy nhiều lần, nhưng vẫn im lặng? Tôi ấn nút chuyển sóng VTĐ sang các kênh dự bị gọi vẫn không có tín hiệu trả lời. Tôi đoán rằng máy bay mình đã bay vượt ra ngoài phạm vi làm việc của các đài chỉ huy ở mặt đất? Có lẽ máy bay đã bay rất xa cách sân bay của mình, liệu có còn đủ dầu để bám theo mục tiêu công kích và quay về sân bay hay không? Linh tính báo cho tôi sự hiểm nguy đó! Tôi kiểm tra đồng hồ chỉ lượng dầu trong buồng lái, đèn tín hiệu chỉ lượng dầu "khẩn cấp" đã bật sáng? Nó báo cho người lái biết phải tìm ngay một sân bay gần hạ cánh? Lần nữa, tôi gọi sở chỉ huy nhưng vẫn im lặng! Bây giờ tôi phải tự quyết định mọi việc, phải rất khẩn trương vì kim đồng hồ chỉ lượng dầu của máy bay cứ nhích dần về con số không (0).

        Tôi nhìn xuống dưới cánh máy bay, thấy toàn núi cao, rừng xanh biếc, không có một ngôi nhà, không có một vạt nương rẫy, hoặc con đường mòn... Trong lòng tôi dâng lên nỗi buồn lo và cô đơn vô hạn chưa từng có trong đời bay của mình. Tôi quyết định lấy hướng bay chín mươi độ (900) - Hướng bay về biên giới Tổ quốc. Nếu về được đến đó, chắc chắn mình sẽ liên lạc được với sở chỉ huy và nhờ giúp đỡ, nhưng không mấy hy vọng vì khoảng cách đến đó còn quá xa!

         Máy bay sắp hết dầu. Tôi nghĩ nếu mình phải hạ cánh bắt buộc hoặc phải nhảy dù xuống đất thù địch chắc chắn mình sẽ trở thành con mồi béo bở cho bộ máy tâm lý chiến của Mỹ. Chúng nó sẽ nói rùm beng trên các phương tiện thông tin báo chí rằng: "Có một phi công Bắc Việt đào thoát sang họ, đầu hàng"... Họ nhằm mục đích bôi nhọ tinh thần chiến đấu của không quân ta, trấn an tinh thần phi công Mỹ vì chúng nó đang run sợ lưới lửa phòng không - không quân của chúng ta. Nếu tôi để xảy ra tình huống tồi tệ đó, ngẫu nhiên tôi trở thành tên phản bội Tổ quốc, phản bội đồng đội hay sao? Ai cải chính cho mình?


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Bảy, 2016, 04:15:49 pm

         Tôi quyết định lái máy bay về hướng có nhiều núi cao, rừng rậm. Đến đó, tôi sẽ phi tang chuyến bay cả người lẫn máy bay không để lại rơi vào tay quân thù. Tôi sẽ lái máy bay và cho đâm vào ngọn núi cao. Người cùng với máy bay sẽ cắm sâu vào ngọn núi, sẽ phi tang mọi dấu tích, sẽ không còn gì để địch có thể sử dụng nói xấu phi công Bắc Việt - Phi công Việt Nam của chúng ta.

         Tôi cho máy bay bay ở chế độ tiết kiệm dầu. Tiếng máy nổ đều đều rất êm trong tai, không có tiếng rít. Nó gợi cho tôi nỗi nhớ thương da diết về quê: Ngày nào mình còn nằm trên võng, nghe lời ru của mẹ? Ngày nào còn đi chăn bò, cưỡi trên lưng bò nhìn bầu trời xanh, ước mơ được làm phi công ... Giờ này trên sân bay Nội Bài anh em thợ máy chắc đang nóng lòng đợi máy bay về hạ cánh?

         Máy bay đã bay gần đến vùng núi cao, rừng rậm. Tôi khẽ nhích cần lái cho máy bay lên độ cao và nhìn xa xa về hướng Đông - phía chân trời Tổ quốc để nói lời chào vĩnh biệt ... Bỗng tôi nhìn sang phía bên kia dãy núi cao, có một vùng đất bằng phẳng, màu đất còn đỏ tươi ở giữa vùng đất có một con đường màu trắng như sữa, xung quanh vùng đất có nhiều nhà tranh. Tôi nhìn thật kỹ lại một lần nữa và trong cổ họng bật ra thành tiếng: "Sân bay" ... "Sân bay". Tôi ấn nút VTĐ nói thật to như để cho sở chỉ huy cùng nghe. Đúng có một sân bay mới xây dựng chưa có một chiếc máy bay nào đậu trên sân. Đường băng vắng lắm.

         Tôi nghĩ đến cơ may cuối cùng để mình có thể xác định được nơi đây là đất thù hay đất bạn? Nếu xác định chính xác đất bạn, mình sẽ hạ cánh ngay để cứu lấy chiếc máy bay thân yêu của mình? Tôi lái máy bay vượt qua dãy núi, rồi hạ thấp độ cao vừa nghiêng cánh máy bay lướt qua các khu nhà tranh. Tôi nhìn thấy có nhiều người đứng trên sân nhìn theo máy bay. Họ mặt quần áo màu cỏ úa giống quân giải phóng Trung Quốc. Để chắc chắn có phải đất Trung Quốc thật không, tôi cho máy bay bay qua các dãy nhà để xem tường nhà. Tôi thấy trên tường nhà có nhiều chữ vuông to màu trắng."ồ đúng chữ Trung Quốc rồi. Đất bạn thật rồi! Mình có thể hạ cánh xuống đây và xin bạn vài ba tấn dầu nạp cho máy bay. Mình sẽ ung dung bay trở về Tổ quốc để tiếp tục chiến đấu ... Tôi mừng quá đỗi kêu lên một mình như vậy.

        Tôi ấn nút VTĐ báo cáo về sở chỉ huy rằng tôi đang bay trên đất Trung Quốc, máy bay hết dầu xin phép được hạ cánh khẩn cấp! Nhưng đâu có liên lạc được với sở chỉ huy. Tôi quyết định thả càng máy bay và vòng gấp máy bay vào đối chuẩn với đường băng và thực hiện động tác hạ cánh. Máy bay tiếp đất và chạy hết đà đến gần cuối đường băng. Máy nổ ngừng vì dầu hết.

        Máy bay dừng lại ở cuối đường băng. Tôi thở phàotrút nỗi căng thẳng cực độ thần kinh vừa qua. Tôi ngồi im trong buồng lái và quan sát xung quanh. Sân bay mới vừa xây dựng, xung quanh đường băng còn xe máy công trình để nằm ngổn ngang. Bộ đội Trung Quốc ở các dãy nhà tranh đang kéo ra sân bay. Tôi mở nắp buồnglái và bước ra khỏi máy bay. Cùng lúc ấy rất nhiều người đến đứng quanh máy bay. Tôi hồi hộp lo lắng không biết chuyện gì? Tôi và họ nhìn nhau vui vẻ nên cũng bớt lo. Tôi nói được mấy tiếng Trung Quốc đơn giản: "Phây xỉn doẻn" "duy nàn" "thừa nậy" (phi hành viên Việt Nam - Hà Nội).

         Tôi nói Việt Nam - Hà Nội để tránh bạn có thể hiểu nhầm tôi là phi hành viên Việt Nam - Sài Gòn. Một chốc có một người cao, to tách đám đông bước nhanh vào chỗ tôi đang đứng và nói to bằng tiếng Việt:"Phi hành viên Việt Nam, từ đâu đến? Tôi trả lời: "Từ sân bay Nội Bài" ông ta Oà lên một tiếng rất to và ôm tôi nói: "Tôi đã từng làm công trình sư xây dựng sân bay Nội Bài". Tôi mừng quá có một người bạn biết tiếng Việt để xin bạn nạp dầu cho máy bay. Sau này tôi được biết ông ta tên Tô chuyên gia giúp ta xây dựng sân bay Nội Bài vào những năm đầu thập kỷ sáu mươi.

        Ngày hôm sau, chiếc máy bay vận tải quân sự LI-2 chở đồng chí Trần Hanh - Trung đoàn phó trung đoàn 921 và tổ thợ máy do đồng chí Nguyễn Văn Sành - Tổ trưởng cơ giới, đồng chí Phạm Hồng Lợi - tổ trưởng đặc thiết và một số đồng chí khác ... bay sang sân bay BìnhViễn (Trung Quốc) để nhận chiếc MIG-21 số 04-PFL, tôi đã hạ cánh xuống đó.

        Anh em gặp nhau vui mừng khôn xiết. Tôi mới xa trung đoàn vài ngày mà cứ tưởng như đã xa hàng tháng. Bao nhiêu chuyện hàn huyên muốn nói với nhau nhưng anh em thợ máy phải khẩn trương đi kiểm tra máy bay và chuẩn bị cho tôi bay về nước. Vì khí tượng sân bay Nội Bài dự đoán chiều tối hôm đó mây thấp, có mưa.Máy bay đã kiểm tra và chuẩn bị xong. Chỉ huy bay đồng chí Trần Hanh cho phép tôi cất cánh bay lên và lượn một vòng nghiêng cánh chào tạm biệt bạn Trung Quốc! Rồi lấy hướng bay thẳng về nước.

        Tôi bay về tới sân bay Nội Bài. Bầu trời đầy mây,tầm nhìn rất xấu. Máy bay phải mấy lần xuyên mây, dầu gần cạn mới hạ cánh được.

         Anh em lái máy bay và thợ máy ra sân bay đón.Tôi vừa bước ra khỏi buồng lái, đồng chí trung đoàn trưởng Trần Mạnh đã chờ sẵn ôm hôn tôi rất thân tình và đồng chí nói: Mầy đã bình tĩnh, quả cảm, xử lý chính xác cho nên người còn, máy bay còn về đây. Vậy phải giữ vững tinh thần, khí phách người lái máy bay chiến đấu để tiếp tục chiến đấu nghe". Tôi đáp lại "Vâng”

        Trong lòng tôi tràn đầy xúc động. Suốt trong đời bay, tôi luôn luôn nhớ những lời động viên và nhắc nhở thật thân tình cán binh hôm đó của đồng chí trung đoàn trưởng.

        Những năm tháng chiến đấu tiếp sau, khi tôi được xuất kích và phát hiện mục tiêu, tôi lại nhớ tới bài học sâu sắc "nhầm mục tiêu” hôm ấy. Cứ mỗi lần như thế tôi lại hỏi sở chỉ huy cho biết khoảng cách đến mục tiên! Tuy rằng tôi không để xảy ra nhầm mục tiêu một lần nào nữa. Song bài học sâu sắc ấy đã giúp cho tôi kinh nghiệm vô giá về ước lượng khoảng cách đến mục tiêu, để khi tên lửa được phóng ra nó bay chính xác tới mục tiêu tiêu diệt quân thù.

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 12- 2004       


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Bảy, 2016, 11:50:34 pm
       
TRẬN ĐÁNH ĐÁP LỜI BÁC GỌI

VŨ THÀNH         

        15 giờ 15 phút ngày 19 tháng 7 năm 1966.

        Mười hai chiếc máy bay địch đầu nhọn, cánh vát, nổi bướu ở hai bả cánh, từ Bắc Tuyên Quang tràn xuống lũng Tam Đảo. Hai lần bị tên lửa chặn đánh, nhưng tên chỉ huy vẫn cứ dẫn đội vọt qua. Và phó mặc cả cho đồng bọn thuộc liên đội Cò Rát bay ở phía sau. Tâm trí hắn lúc này đang dồn vào mục tiêu phía trước, như con diều hâu sắp sửa vồ mồi.

         Đó là Giêm Cát-xlơ, thiếu tá, anh hùng không quân Mỹ. Cuộc đời của tên phi công 42 tuổi này được đeo đầy vòng hoa nguyệt quế. Nào là "Phi công sáu giác quan", "Phi hành gia số 1", "Nhân vật thần thoại trong không quân Mỹ".

        Sau lần chỉ huy 16 chiếc F- 105 chọc thủng hỏa lực phòng không mạnh của Hà Nội vào ném bom kho xăng Đức Giang, hắn càng ưỡn ngực ba hoa. Nhà báo Mỹ Krên Ha-vy, sau khi phỏng vấn Cát-xlơ ở Tân Sơn Nhất, đã thốt lên: "Trong tay Cát-xlơ, chiếc F- 105 thật là cái búa đáng sợ".

        Hôm nay hắn lại dẫn 12 máy bay F- 105, chia làm ba tốp, từng tốp cách nhau 3.600m, cơ động ở độ cao 600m đến 1.500m lẩn sát vào triền núi Tam Đảo để tránh ra đa của sân bay thủ đô và cụm phòng không Bắc Hà Nội.

         Trong khoảnh khắc, hắn đã nhìn thấy cầu Hạ Giá. Từ đây đến kho xăng Đông Anh chỉ còn 18km. Cát-xlơ tin chắc sẽ diễn lại chót lọt một phi vụ đặc biệt như trận ném bom Đức Giang. Với tốc độ 810km/giờ, chỉ cần một phút bay nữa thôi, hắn sẽ ấn nút bom và những cột lửa sẽ bùng lên trùm lấy chín bể xăng và cả đoàn tàu dài chở xăng vừa mới đến. Cũng dễ dàng và nhanh chóng như khi hắn thọc tay vào túi lấy chiếc bật lửa châm thuốc1.

        Nhưng khi chiếc F-l05 của hắn vừa đến cầu Hạ Giá thì đột nhiên một biên đội hai chiếc MIG từ bên dãy núi Phúc Yên lao thẳng sang và bám đuôi những chiếc máy bay của Cát-xlơ. Theo kế hoạch hành quân tác chiến, việc đối phó với máy bay đánh chặn của đối phương là do bọn F- 105 ở Cò Rạt đảm nhiệm. Nhưng bọn này đang bị hút cả vào các "tổ ong vè vẽ" quanh thành phố Thái Nguyên rồi. Bị rơi vào tình thế bất ngờ, nhưng Cát-xlơ phản ứng một cách tỉnh tháo. Hắn lật cánh kịp thời tránh đòn hiểm của đối phương và quyết định rất nhanh: Hắn và trungúy Đai-mơn vứt hết bom ở lại đối phó, tên bay số 3 tiếp tục dẫn đội đi đánh kho xăng. Với hắn, hai chiếc MIG- 17này tuy đã được cải tiến thêm hệ thống tăng lực, cũng chẳng có gì đáng sợ. Trong chiến tranh Triều Tiên, hắn đã từng bắn rơi nhiều chiếc MIG- 15 và MIG - 17 của không quân Trung Quốc. Chỉ cần hai chiếc F-l05 ở lại là đủ để ghìm cánh và diệt hai chiếc MIG cánh én này. Khi lật cánh tránh hai chiếc MIG bám ở phía sau, Cát xlơ đồng thời giảm luôn độ cao và cùng với Đaimơn lập thành 1 vòng tròn phòng thủ cơ động trên độ cao 300 đến 30 m. Trong những trận không chiến Triều Tiên, với chiến thuật này, hắn đã từng biến nguy thành an rồi đánh với những con mồi hữu dũng vô mưu. Hắn tin rằng với độ cao cực thấp này, hắn càng có thể phát huy tính năng siêu việt của “cái búa đanh rất đầm tay này” với kỹ thuật tích lũy của trên 3000 giờ bay.

        Biên đội Mig 17 trên gồm Nguyễn Biên và Võ Văn Mẫn phi công thuộc đoàn không quân Yên Thế. Để nâng cao trình độ hiệp đồng tác chiến của hai loại máy bay Mig 17 và Mig 21, từ tháng 4-1966, Quân chủng Phòng không – Không quân đã lệnh cho đòan Yên Thế thuờng xuyên đưa hai biên đội Mig 17 phối thuộc chiến đấu với đoàn Sao Đỏ. Từ ấy trên hai đầu đường băn của sân bay Thủ đô bao giờ cũng có hai loại máy bay trực ban chiến đấu.

        14 giờ 47 phút, trạm quan sát của đòan Sao Đỏ báo cáo có nhiều tốp F105 bay thấp dọc theo sườn phía Đông dãy Tam Đảo. Dựa vào nhận định của Bộ Tư lênh quân chủng, đoàn trưởng Trần Mạnh phán đoán:

        - Tốp địch này có thể xuống đánh Đông Anh. Chắc chắn chúng sẽ cho một bộ phận kiềm chế sân bay.

        Sau khi trao đổi nhanh với chính ủy, anh ra lệnh:

        - Cho biên đội Biên - Mẫn cất cánh gấp tuần tiễu trên đỉnh sân bay.

        Trong lúc sĩ quan tác chiến truyền lệnh cho biên đội, dòng suy nghĩ của đoàn trưởng vẫn không dứt quãng. Đôi mắt anh nheo lại, tay phác một đường bay lấy sân bay làm tâm, bán kính 15km, nửa vòng cung phía Nam, huớng từ Tây sang Đông, nửa vòng cung phía Bắc áp sát vào dãy Tam Đảo. Đường bay này thuận lợi cho biên đội dễ phát hiện được địch mà địch lại khó phát hiện ra ta.

        Sĩ quan dẫn đường lập tức truyền tham số bay cho biên đội bằng mật ngữ.

        Biên đội được lệnh bay ở độ cao 600, tốc độ 700.

--------------------
1. Những tư liệu về Cát-xlơ đều dựa vào lời khai củateen phi công này sau khi bị bắn rơi và bị bắt ngày 8/6/1966 ở Yên Bái


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Bảy, 2016, 11:53:08 pm

        Biên và Mẫn hiểu ngay là mình đang được chuẩn bị để không chiến ở tầng thấp.

        Cùng lúc ấy đài chỉ huy bổ trợ đặt trên núi Am Lơn, báo gấp: Phát hiện ba tốp F105 ở cuối lõng núi Tam Đảo, tốp cách tốp 4 đến 5 km. Bay thấp.

        Đoàn trưởng ra lệnh bám sát. Bằng giọng nói bình thản rủ rỉ như nói với người ngồi trước mặt, anh chỉ thị cho biên đội:

         - Theo phương án tác chiến trên đỉnh sân bay mà đánh. Đừng để chúng lùi ra xa và dắt lên cao nhé!

        Sau những trận đánh độ cao thấp thắng lợi trên vùng trời Lục Ngạn - Sơn Động, Quân chủng đã kịp thời tổng kết kinh nghiệm cách đánh của Đoàn Yên Thế và phổ biến kỹ cho các đơn vị không quân.

        Biên đội trưởng Nguyễn Biên nhớ mấy điểm cốt lõi của phương án: Dựa vào sự chỉ huy của các đài bổ trợ và sự yểm hộ của pháo cao xạ ghìm địch xuống thấp, trên đỉnh sân bay: Mặc dù quân địch đông hơn, nhưng anh rất vững tin khi vào công kích.

        Đài Am Lơn được lệnh liên lạc thẳng với biên đội và dẫn biên đội bay chéo qua đỉnh sân bay tiếp cận địch.

         Tốp địch bay đầu gồm bốn chiếc F- 105 xuất hiện trước mặt, đội hình bậc thang hai chiếc sau cách hai chiếc trước 1.500m, bay cao hơn ta không nhiều lắm.

        Đánh rắn phải đánh giập đầu! Biên nghĩ thế và dẫn đội thọc vào phía sau hai chiếc đi đầu. Vừa kéo máy bay lên tạo thế công kích, nhanh chóng rút ngắn cự ly, rồi lẹ làng đưa chiếc máy bay dẫn đầu vào vòng ngắm, Biên nổ súng ở khoảng cách 600m.

        Tốp địch như đoán biết thời điểm nguy hiểm đó, đã kịp thời lật cánh và chúi ngoặt xuống thấp. Gần như đồng thời, tên số hai cùng làm theo động tác đó. Mẫn vội giảm tốc độ và cắt vòng phía trong vòng ngoặt của địch.

         Thấy địch chúi xuống thấp, Biên rất mừng, ở độ cao ấy, tốc độ máy bay ta không kém địch, còn bán kính lượn vòng thì hẹp hơn hẳn F-l05. Anh dẫn đội truy sát. Ta và địch xoáy tròn đuổi nhau như những chiếc lá bay trong cơn lốc, xen kẽ nhau một chiếc địch, một chiếc ta bám đuôi nhau. Trong cái vòng xoáy lốc đó, chốc chốc lại bốc lên những chớp lửa, lúc thì ta bắn, lúc thì địch bắn.

        Cát-xlơ nhằm bắn vào chiếc MIG của Biên. Cự ly rất gần. Tài xạ kích của hắn đã được chứng minh ở Triều Tiên. Khẩu ca nông cỡ 20mm như lưỡi gươm lửa đáng lẽ phải chém đôi chiếc MIG trong giây lát. Thế nhưng điều đó vẫn không xảy ra, mặt dầu hắn đã nổ súng vào chiếc MIG những bốn lần. Người lái chiếc MIG hình như có mắt ở đằng sau. Hễ hắn sắp bấm cò là máy bay lại ngoặt gấp, không sao bắn kịp. Lần đầu tiên trong đời bay hắn thấy bối rối và mất tự tin.

        Đài chỉ huy bổ trợ đặt trên núi Am Lơn theo sá ttrận chiến đấu như ông bầu theo sát đội bóng nhà. Biên và Mẫn như có thêm một lái phụ ngồi xoay lưng lại, quan sát phía sau mình, kịp thời phát hiện nhất cử nhất động của đối thủ, báo cáo cho phi công kịp thời đối phó.

        Qua bảy vòng quần nhau trên cầu Hạ Giá, khôngtài nào hạ nổi đối phương, lại luôn luôn bị những cú đánh dựng tóc gáy, Cát-xlơ dường như mất tự chủ, mất phương hướng. Cái vòng xoáy lốc bị đẩy dần dần vào vùng hỏa lực bảo vệ sân bay lúc nào hắn không bay biết. Phút thứ 10, tên trung úy Đai-mơn bay số 2, có lẽ nhận ngay ra nguy cơ. Hắn đã phát chán về những vòng quay ú tim đó, vội bứt ra định tháo chạy, không cần đợi lệnh của Cát-xlơ.

        Mẫn chỉ chờ có thế, giảm ngay độ nghiêng bám đuôi sát Đai-mơn. ở dưới đất thì hiền lành, thư thả, cặp mắt lúc nào cũng ươn ướt như mắt con gái, nhưng bay lên trời thì Mẫn lại như con chim cắt dũng mãnh, linh hoạt, tên Đai-mơn vừa cố thoát ra khỏi vòng xoáy lốc đã bị Mẫn bắn trúng. Máy bay bốc khói, đột ngột vọt lên thẳng đứng. Cát-xlơ phản ứng rất nhạy, ngoặt gấp về bên phải cho Biên quá đà vượt qua, rồi đẩy hết cần tăng lực vọt lên cao uy hiếp Mẫn để cứu tên bay số 2. Nhưng trước khi hắn ấn cò khẩu ca nông cực nhanh 6.000 phát/phút thì đã thấy chiếc dù của tên trung úy tung ra rồi. Và chiếc MIG lại đã quặt gấp rất lẹ sangtrái tránh khỏi luồng đạn điên giận của hắn.

        Biên lại xông đến bám phía sau Cát-xlơ, chiếc MIG bị bắn trượt cũng đang vòng gấp lại. Một gọng kìm đáng sợ. Mất hẳn cái nhuệ khí con người hùng được không lực Hoa Kỳ tôn thờ, Cát-xlơ phải kêu cứu đồng bọn. Hắn gọi mãi, nhưng bốn bề vẫn vắng lặng, không thấy một chiếc F- 105 nào. Trong cảnh thân cô thế cô, hắn rùng mình khi nhận ra phía dưới là đường băng của sân bay Nội Bài.

        Thật ra, đồng bọn của Cát-xlơ đã nhận được lời kêu cứu của hắn. Bị các trận địa pháo bảo vệ kho xăng bắn lên rất mạnh, lại thấy chủ tướng lâm nguy, tên nào tên nấy vứt bừa bom xuống cho nhanh và quay lại tọa độ cũ. Chưa tìm thấy Cát-xlơ đâu, chúng đã bị pháo cao xạ bảo vệ sân bay nện cho tối tăm mặt mũi. Đội hình chúng tản ra, rối loạn và bị mất phương hướng khá lâu mới xác định được trận không chiến đang diễn ra trên đỉnh sân bay. Chúng nối đuôi nhau lao vào, lại bị pháo chặn đánh dữ dội, phải bật trở lại. Tên bay số 3 tốp số 2 bị trúng đạn, tháo chạy.


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 30 Tháng Bảy, 2016, 11:54:46 pm

        Chính ủy Đoàn Sao Đỏ đứng trên hầm quan sát trận đánh, phấn khởi cầm lấy ống nói gọi sang trung đoàn pháo cao xạ Quang Trung:

        - Thay mặt Đoàn Sao Đỏ, xin nhiệt liệt hoan nghênh các đồng chí đã hiệp đồng chặt chẽ, chi viện có hiệu quả cho không quân.

         Đoàn trưởng Trần Mạnh vui vẻ, móc bao thuốc lá mời trước tiên đồng chí sĩ quan cao xạ sang trực ban hiệp đồng trong sở chỉ huy. Anh vừa bật lửa vừa nói:

        - Pháo mình phân biệt địch ta tốt lắm ...

         Nhưng diễn biến của trận không chiến lại thu hút anh. Lúc ấy ở các vị trí trên sân bay, cán bộ, chiến sĩ trong đoàn đều bị những pha rất hồi hộp của trận đánh hấp dẫn. Họ đứng cả lên xem máy bay ta và địch đánh nhau. ở trongcác thôn xóm và trên đồng ruộng, đồng bào cũng theo dõi trận đánh một cách chăm chú, hào hứng. Tất cả đều mải mê y hệt như đang xem một trận đấu bóng quốc tế hấp dẫn và thú vị.

        Hai chiếc máy bay ta thay nhau liên tục công kích. Cát xlơ đang bị dồn vào thế bí. Cái bản năng ngoan cố thúc đẩy hắn chống cự một cách điên cuồng. Hắn tung hết những thủ đoạn không chiến được tích lũy trong hai chục năm nghề bay ra đối phó.

        Biên lao vào công kích, cự ly rút ngắn dần. Anh sắp ấn cò thì máy bay địch đột nhiên giảm tốc độ. Làn đạn vọt lên trước và máy bay cũng xông lên trước máy bay địch. Cát-xlơ thu vội cánh giảm tốc, bám theo đuôi Biên. Khẩu ca nông của hắn vừa khạc lửa, thì chiếc MIG như có phép thần thông, lại thoát khỏi vòng ngắm sau một cái ngoặt gấp rất tài nghệ, đúng lúc, góc ngoặt lớn gần 90 độ. Chính là đài chỉ huy ở sân bay đã cảnh giới phía sau và kịp thời ra lệnh cho Biên cơ động.

         Cát xlơ chưa bắn hết điểm xạ đã phải lo đối phó với chiếc MIG số hai. Cặp mắt tinh tường của Mẫn đã phát hiện địch dùng cánh giảm tốc đột ngột làm cho Biên lỡ đà: Anh quyết định tấn công từ phía dưới lên. Cát xlơ tin rằng động tác mở và thu cánh giảm tốc rất nhanh của hắn chưa bị lộ có thể một lần nữa lừa được đối phương. Hắn cơ động theo kiểu rắn bò rồi bất thình lình tung cánh giảm tốc. Mẫn đã ngừa trước điều đó, khi anh chọn đường công kích từ dưới lên. Khi thấy cánh giảm tốc của máy bay địch bung ra, trong tư thế bay lên anh đã dễ dàng hãm bớt tốc độ nên không bị lỡ đà. Anh ấn cò súng. Tiếc thay ba khẩu pháo đang bắn thì bị tắt. Mẫn vọt qua Cát-xlơ, thì Biên lại lao tới sau lưng hắn rồi. Cự ly không đầy 400m. Cát-xlơ hoảng. Hắn bỏ bám đuôi Mẫn, vội lái máy bay trượt cạnh để tránh luồng đạn của Biên, nhưng muộn rồi. Loạt đạn của Biên đã nã trúng cánh bên phải máy bay hắn. Hắnlật cánh lao cắm xuống rồi kéo lên chạy thục mạng.

         Đến lúc này tốp đầu hai chiếc F- 105 mới lọt qua được vòng hỏa lực phòng không bảo vệ sân bay nhưng không còn hồn vía nào mà lao vào không chiến. Tốp thứ hai liều chết xông vào bám đuôi Mẫn nổ súng. Nhưng Mẫn đã kịp thời cơ động xuống thấp. Các trận địa pháo phía Đông sân bay lập tức chuyển làn tập trung hỏa lực vào tốp F-l05 còn lảng vảng trên đỉnh sân bay, buộc chúng phải tháo chạy về hướng Ba Vì - Sơn Tây.

         Biên đội Biên, Mẫn hạ cánh an toàn xuống sân bay Gia Lâm. Hai người bạn ôm chầm lấy nhau, ôm chầm các bạn bè ra đón họ ở chân cầu thang máy bay.

        - Nè, mình trông rất rõ dù của thằng bị cậu xơi tái bung ra tròn vo như thế này này! - Biên vừa nói vừa vung hai bàn tay thành một vòng tròn.

        - Cái thằng mà anh và tôi quần nhau với nó ấy, chắc phải là tay sừng sỏ!

        - Thật tiếc quá xá? Mình chỉ mới nện trúng được cánh nó thôi. Giá mà súng tôi không tắc, thì nó không thoát được.

        Tham mưu trưởng Trần Thuyết rời sở chỉ huy ra đón Biên, Mẫn. Anh siết chặt tay từng người rồi nói:

         - Trận đánh hôm nay tốt lắm. Ta đã ghìm địch xuống, kéo chúng về trên đỉnh sân bay mà đánh, một lần nửa lại chứng minh MIG- 17 đánh quần tại chỗ là đúng.

         - Đánh thấp trên sân bay, chúng tôi như được thêm tay, thêm mắt.

        - Đài bổ trợ hôm nay chỉ huy rất kịp thời. Pháo sân bay hiệp đồng chi viện cho không quân rất có hiệu quả.

        Tham mưu trưởng nói rất vui:

        - Trận thắng hôm nay là chiến công của trung đoàn ta, một trận đánh hiệp đồng tuyệt đẹp đáp lời kêu gọi của Bác ngày 17 tháng 7.

         Nắng trên sân bay dịu dần, gió từ sông Hồng thổi về từng đợt, từng đợt xua đi cái nóng hầm hập trên đường băng. Lời chúc mừng của tham mưu trưởng khiến Biên và Mẫn nghĩ và nhớ đến Bác Hồ. Hồi đầu năm, các phi công có thành tích được gọi lên gặp Bác ở Phủ Chủ tịch. Từ đây sang chỗ Bác chỉ qua một cái cầu. Giá mà được sang báo cáo với Bác và được nghe Bác chỉ bảo. Lòng Biên và Mẫn tràn ngập một niềm sung sướng vô hạn.


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 31 Tháng Bảy, 2016, 12:04:14 am
          
TRẬN KHÔNG CHIẾN 23-8-1967

Đại tá NGUYỄN NHẬT CHIÊU                
Anh hùng lực lượng vũ trang                  
Nguyên phi công tiêm kích máy bay MIG-21        

        Ở tuổi xưa nay hiếm lại trải qua 2 cuộc kháng chiến trường kỳ chống Pháp, chống Mỹ, đã trực tiếp cầm súng cùng đoàn quân về giải phóng Thủ đô và Hải Dương quê hương...

         Chưa kịp về phép để lợp cho mẹ mái nhà, thăm lại và dặn dò cô hàng xóm "em hãy đợi anh về”, lại cùng hàng vạn thanh niên Hải Dương sánh vai với thanh niên cả nước bước vào cuộc trường chinh chống kẻ thù xâm lược mạnh nhất của thế kỷ thứ 20. Trách nhiệm của người trai góp phần nhỏ bé vào thắng lợi của toàn dân thống nhất đất nước.

Thật vậy, phận trai già cõi chiến trường
Khi suối mái tóc điểm sương mới về.

         Cả mấy chục năm xa nhà tới nay về nghỉ tại quê hương mang tên người anh hùng dân tộc văn võ toàn tài đã lãnh đạo quân dân Triều Trần đánh bại kẻ thù hung hãn nhất hành tinh ở thế kỷ thứ 13.

        Ông là một trong những vị tướng tài giỏi nhất từ cổ đại đến hiện đại. Quê tôi xã Quốc Tuấn, huyện Nam Sách, Hải Dương. Đang từng bước xóa đói, giảm nghèo tiếng máy cày, máy gặt cũng không át tiếng động cơ máy bay chiến đấu trên khoảng trời tôi yêu.

        Cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc ta đã bước sang giai đoạn quyết liệt, chiến thắng ở cả 2 miền ngày càng lớn. Vì vậy kẻ thù càng hung hãn xảo quyệt hơn. Những phi vụ trực ban trên không, tuần tiễu, xuất kích cũng tăng dần.

        Trận không chiến ngày 23-8-1967 trên sân bay Nội Bài hôm nay phi đội 1 (một) MIG-21 F94 do tôi là phi đội trưởng và số 2 là Nguyễn Văn Cốc.

         Lúc này vào khoảng 14 giờ 25' cả phi đội và nhân viên kỹ thuật, tham mưu, hậu cần, chính trị đang ngồi xung quanh chiếc đài bán dẫn nghe bài hát xa khơi do nghệ sĩ Tân Nhân hát sao mà ngọt ngào mượt mà đến thế.

        Hồi chuông điện thoại reo lên như có thói quen mọi người bật dậy. Sĩ quan tham mưu nói đủ nghe: Mời đồng chí Chiêu gặp trung đoàn trưởng Trần Mạnh. Với giọng nói ấm áp của người chỉ huy chúng tôi kính trọng. Anh nói ngay: Chiêu ơi hôm nay trời đẹp có lợi cho không quân 2 phía, phán đoán địch sẽ đánh vào ga Đông Anh, kho xăng Đức Giang, cầu Trung Giã. Cậu chuẩn bị và kiểm tra anh em nhé.

        - Thưa đồng chí trung đoàn trưởng tôi nghe rõ, tôi rời máy điện thoại ra ngắm trời quan sát thời tiết tuyệt đẹp chỉ có mấy đụn mây bồng bềnh còn toàn trời là màuxanh nước biển.

        Tôi sực nghĩ đến bài thơ trong báo tường của phi đội. Tôi khẽ đọc:

                          Trời cao lồng lộng mây lưa thưa.
                          Từng đoàn chim sắt bay trong nắng.
                          Để giữ trời xanh mãi 4 mùa.


        Những phát tín hiệu vụt lên từ đài chỉ huy, chúngtôi lên máy bay mở máy khẩn cấp phút chốc phi đội MIG-21 của chúng tôi cất cánh.

        Vừa lên đến độ cao 100m đã nghe rõ tiếng nói quen thuộc của sĩ quan dẫn đường Nguyễn Văn Tụ, Tạ Quốc Hưng, Bùi Quý Lưu, Phạm Văn Cậy.

        - 36 vòng phải = 240; H = 6000m; V = 900km/giờ.

         Phi đội tôi bay qua cầu phao sang sông Hồng... ..Nhìn Hà Nội thân yêu và vững vàng. Tôi thầm nghĩ Bác Hồ, nhân dân Hà Nội ra lệnh cho phi đội tôi bay nhanh hơn, cao hơn, xa hơn. Tôi quan sát khoảng không, quan sát số 2 Nguyễn Văn Cốc ở vị trí đội hình quy định.

        Tôi yên tâm và tự hào vững tin chiến thắng. Vì phi đội tôi được sự chỉ huy của trung đoàn trưởng Trần Mạnh linh hoạt sáng tạo kiên quyết, lại có đội ngũ sĩ quan tham mưu dày dạn kinh nghiệm.

        Đặc biệt là có Nguyễn Văn Cốc người chiến sĩ mới 24 tuổi hăng bay say đánh.

        Vừa có trong tay MIG-21, vừa đẹp người lại khỏe mạnh.

         Trên đường bay ra trận tôi nghe rõ lệnh từ sở chỉ huy, đồng chí Tụ thông báo:

        - 36, 34 (là số hiệu của tôi và số 2 Nguyễn Văn Cốc) bên trái 300; H = 5000m có mục tiêu xuất hiện (có máy bay địch vào) .

        - 36 nghe rõ, số 2 chú ý quan sát, SCH ra lệnh:

        - 36 tốc độ 1000km/gíờ.

        - 36 độ cao 6000m.

         Thực tế lúc đó tôi đã có tốc độ 1100km/giờ, tôi báo cáo:

        - 36 phát hiện mục tiêu. Tôi hỏi số 2:

        - 34 thấy mục tiêu chưa? bên trái 300 phía dưới, Nguyễn Văn Cốc trả lời:

        - 34 thấy mục tiêu tốt, a nhiều lắm. Số 2 hỏi:

        - 36, anh công kích.

        Vẫn giọng nói ấm áp nhưng kiên quyết của trung đoàn trưởng Trần Mạnh:

        - Vào công kích.


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 31 Tháng Bảy, 2016, 12:07:29 am
 
        Tôi nghiêng cánh và tăng tốc độ để vào chiếm vị trí có lợi lại nghe tiếng nói rất gấp của Nguyễn Văn Cốc!

        - 36 chú ý phía sau còn nhiều lắm.

        Tôi lập tức cải bằng quan sát thấy nhiều tốp địch ở phía sau, tôi lựa thời cơ lao xuống chiếm vị trí có lợi hướng mặt trời lại có ưu thế về độ cao và tốc độ.

        Trong giây lát biên đội chúng tôi đã chiếm gọn vị trí công kích từ phía sau địch. Chúng không hề biết có MIG-21 sẽ tiến công chúng. Thực vậy mục tiêu dày đặc muốn bắn cái nào thì bắn. Trong tiềm thức nghĩ ngay đến lời dạy của Đại tướng Võ Nguyên Giáp:

        - Chủ động tiến công.

         - Bí mật bất ngờ.

         - Đánh chắc thắng.

        Tôi nhìn sang phải thấy số 2 bám sát biên đội, đang bám địch trong thế công kích. Tôi lệnh số 2: - 34, đội hình biên đội tốt, chúng ta đồng thời công kích, theo lệnh tôi, Cốc trả lời: - 34 nghe rõ.

        Mục tiêu trong tầm sát thương, tôi ấn nút phóng tên lửa, cánh trái máy bay nâng lên, một vệt lửa dài lao thẳng đến mục tiêu bùng cháy, tích tắc một vệt lửa dài của tên lửa ở bên phải tôi lao vào trúng mục tiêu bốc cháy do số 2 Nguyễn Văn Cốc phóng tên lửa rất kịp thời, nhưng cự ly xạ kích của số 2 quá gần nguy hiểm! Số 2 phấn khởi không kịp báo cáo, mà giọng hồi hộp hoan hô 2 chiếc F4 cháy rồi.

         Trong giọng nói xúc động và kiên quyết của trung đoàn trưởng Trần Mạnh lệnh thoát ly chiến đấu về Kép hạ cánh, vừa lại nghe số 2 báo cáo máy bay bị thương không lấy được tốc độ nữa.

         (Khi về hạ cánh nhân viên kỹ thuật kiểm tra máybay bị thương 51 mảnh ở phần chóp nón).

        Tôi định quay lại yểm trợ cho số 2 nhưng thấy đội hình địch vẫn ở phía có lợi cho tôi công kích. Tôi phóng quả tên lửa thứ 2 một chiếc nữa bốc cháy trước con đại bàng thân yêu của tôi.

        Trận không chiến trên vùng trời Tây Bắc kết thúc. Biên đội MIG-21 của chúng tôi đã bắn hạ 3 chiếc. Chỉ ngày hôm ấy máy bay MIG-21 và MIG-17 từ 3 sân bay Nội Bài, Kép, Gia Lâm đã bắn rơi 6 máy bay Mỹ, quân dân địa phương bắt sống 5 giặc lái Mỹ và nhiều hiện vật đưa về trung đoàn 921.

         Sau khi đã tiêu diệt được 3 máy bay địch. Tôi hỏi số 2: 34 đang ở đâu? 34 trả lời: Hiện ở Vĩnh Yên.

         Phi đội về tới sân bay Nội Bài, tình huống vô cùng phức tạp, ngay trên đỉnh sân bay cả 2 phía máy bay Việt Nam và máy bay Mỹ dầy đặc trên sân bay. Trên cao thì hỏa lực phòng không bắn đỏ trời, MIG-21 sau trận dầu cạn, đạn hết.

        Máy bay địch F4, F105 và MIG-21 bay trong đội hình ở vòng 3 trên Tam Đảo, bay gần nhau nhìn rõ số hiệu trên thân máy bay địch.

         Thế mà không bên nào tiến công bên nào được nữa. Một trong những chuyện lạ mà có thật trong không chiến 23-8-1967.

        Phức tạp và lạ lùng thế mà phi đội MIG-21 của chúng tôi vẫn hạ cánh an toàn về mặt đất thân yêu với bao đồng đội, với những cánh tay chắc khỏe của kỹ thuật trưởng Mai Bá Quát, tổ trưởng máy bay (Tích),Trịnh Thắng.

        Các anh ôm lấy chúng tôi hôn lên đầu lên vai và hôn cả lên bộ áo phi công còn bóng những mồ hôi của cái nắng tháng 8 rám trái hồng này.

         Thực ra các anh cùng chúng tôi thì đúng hơn cả phi công và nhân viên kỹ thuật, hậu cần còn sặc mùi dầu mỡ và khói bom.

        Chẳng ôm nhau, hôn nhau được lâu phải gián đoạn vì những tiếng nổ của bom, tên lùa địch bắn xuống vào tuyến hạ cánh và đài chỉ huy.

         Lúc này khói bom chưa tan đã thấy chiếc xe của trung đoàn trưởng Trần Mạnh lao xuống tuyến đỗ máy bay.

         Tôi được ra báo cáo:

         - Tôi đại úy Nguyễn Nhật Chiêu phi đội trưởng phi đội 1 cùng trung úy Nguyễn Văn Cốc chiến đấu trở về và toàn thể cán bộ, chiến sĩ, trực ban chiến đấu chờ lệnh đồng chí.

        Đồng chí trung đoàn trưởng ôm cả 2 chúng tôi rất chặt như sợ chúng tôi chạy mất, nét mặt rạng rõ, mắt anh ngấn lệ vì quá xúc động, sung sướng.

         Các sĩ quan chiến sĩ đứng quanh anh cùng xúc động theo.

         Đồng chí nói ngắn gọn: Tôi biểu dương phi đội 1 MIG-21 và toàn thể cán bộ, chiến sĩ trực ban chiến đấu hôm nay đoàn kết hiệp đồng, lập công tập thể.

         Thưa các đồng chí thế là phi đội tôi đã thực hiện lời hứa với Bác Hồ trong ngày được gặp Bác:

        "Chúng cháu sẽ bắn rơi nhiều máy bay để Bác vui lòng. Kính chúc Bác mạnh khỏe".

Mùa đông 2004.         


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 31 Tháng Bảy, 2016, 12:21:37 am
       
TRẬN KHÔNG CHIẾN NHỬ MỒI

LÊ HẢI                                       
Đại tá phi công tiêm kích anh hùng lực lượng vũ trang       

        Đầu tháng 11 năm 1967, Quân chủng giao nhiệm vụ cho trung đoàn không quân 923 đánh một trận phục kích ở thành phố Hải Phòng. Máy bay của ta sẽ cất cánh từ sân bay Kiến An.

         Những tháng 10, tháng 11 năm 1967, thành phố Hải Phòng liên tục bị địch đánh phá, phong tỏa cảng. Hàng mấy chục chiếc tàu thủy vào cảng nằm chết dí ở đó không rời bến được do thủy lôi của không quân - hải quân Mỹ rải xuống cửa cảng.

        Các tàu của Liên Xô, Ba Lan, của các nước xã hội chủ nghĩa chở hàng viện trợ cho Việt Nam phải nằm ở cảng đã hàng tháng trời. Ta cho xà lan ra lấy hàng cũng bị máy bay Mỹ bắn chặn, nhưng chúng nó chưa dám đánh trực tiếp vào tàu của Liên Xô và của Trung Quốc.

         Bộ đội cao xạ, dân quân tự vệ của ta triển khai trận địa ngay trên cầu tàu đánh máy bay địch. Các sư đoàn phòng không 363, 367 tập trung bảo vệ cảng, đánh với máy bay Mỹ hàng trăm trận, bắn rơi nhiều chiếc nhưng cũng bị tổn thất không ít; nhất là anh em pháo cao xạ "phơi" trên các đồi trọc, làm mục tiêu cho bọn lái chuyên ném bom bi, bom phá và bắn tên lửa vào các trận địa pháo phòng không, cao xạ.

         Sáng ngày 19 tháng 11 năm 1967, khoảng 8 giờ, biên đội chúng tôi gồm Hồ Văn Quỳ (số I), Lê Hải (số 2), Nguyễn Đình Phúc (số 3) và Nguyễn Phi Hùng (số 4) được lệnh cất cánh từ sân bay Gia Lâm xuống sân bay Kiến An, bay ở độ cao 50m, bí mật không dùng vô tuyến điện. Đến nơi, biên đội kéo dài cự ly, từng chiếc hạ cánh an toàn xuống sân bay Kiến An.

        Máy bay vừa nạp dầu xong, sở chỉ huy lệnh cho biên đội chuyển cấp 1; trên thông báo địch chuẩn bị vào đánh Hải Phòng.

        Đúng 10 giờ 40 phút, biên đội được lệnh mở máy cất cánh gấp. Ở sở chỉ huy Kiến An, đồng chí Lê Oanh trung đoàn phó chỉ huy, đồng chí Phạm Chuyên dẫn đường. Các anh đã chỉ huy chúng tôi nhiều trận nên rất hiểu nhau. Sau khi biên đội cất cánh, máy bay số 1 của anh Quỳ bị hỏng vô tuyến điện. Sở chỉ huy gọi mấy lần mà vẫn không nghe anh Quỳ trả lời? Trong khi đó các số trong biên đội đều nghe rất tốt sở chỉ huy. Tôi rất lo cho số 1 gặp khó khăn.

         Địch từ ngoài biển đang bay vào rất đông. Sở chỉ huy thông báo cho biên đội quyết định tôi lên làm số 1 dẫn đội. Tôi lắc cánh báo cho anh Quỳ biết và tăng ga bay vọt lên trước dẫn cả biên đội. Tôi vừa cải hướng vừa lấy tiếp độ cao lên 2500m. Bầu trời Hải Phòng có độ 3 - 4 phần mây, tầm nhìn rất tốt.

        Sở chỉ huy tiếp tục thông báo địch bay theo đội hình kéo dài, có 6 chiếc F-4 đi đầu, phía sau F-4 có 20 chiếc A-4 mang bom; biên đội chú ý quan sát.

        Tôi dẫn biên đội lấy thêm độ cao lên 3000m. Triển khai đội hình chiến đấu và bay về hướng bầu trời Đồ Sơn. Tôi thông báo đã phát hiện địch, xin phép sở chỉ huy cho đánh! Sau khi nhận được lệnh đánh, tôi dõng dạc lệnh cho số 3 và số 4 chặn đánh tốp địch bay sau cùng, tôi và anh Quỳ đánh tốp bay đầu tiên.

        Biên đội vứt thùng dầu phụ, tăng lực. Lúc này máy bay của tôi đã đạt tốc độ 850km/giờ, đội cao gần bằng độ cao máy bay địch. Vừa nhìn thấy máy bay MIG, biên đội F-4 đầu tiên vội vòng bay ra biển. Lợi dụng lúc thằng F-4 ép độ nghiêng, vòng ra biển, tôi nghĩ, nếu cứ cắt bán kính, vòng ngay vào bên trong để rút ngắn cự ly công kích, như cách đánh thông thường, địch sẽ phát hiện ta sớm và cơ động mất. Tốc độ máy bay tôi đã lớn, địch lại vừa mới tăng lực chưa có ngay tốc độ lớn. Máy bay F-4 có nhược điểm khi tăng lực, muốn tăng tốc độ phải chờ gần 30 giây sau; máy bay phải bay bằng hoặc cơ động nhỏ thì mới đạt tốc độ lớn. Đằng này, địch bất ngờ gặp biên đội tôi, phải vừa vòng, vừa tăng lực, đó là thất thế to của F-4. Tôi quyết định tấn công tốp F-4 đi đầu. Tôi tiếp cận đến cự ly nổ súng bằng cách chúi dưới bụng máy bay địch ở phía dưới. Bị cánh chiếc F-4 che khuấttầm quan sát, nên tên địch không nhìn thấy tôi. Tôi thấy chiếc F-4 giảm độ nghiêng, lật trái, lật phải quan sát ý chừng nó vừa thấy chiếc MIG-17 đây, lại đâu mất rồi.

        Đến cự ly độ 400m, tôi nhìn rất rõ chiếc F-4, thấy luồng khói tăng lực đen sì phun ra từ đít nó. Tôi nhẩm trong miệng: Cự ly bắn được rồi. Tay lái khẽ nhích đầu máy bay ngóc lên đạt điểm ngắm lên giữa chiếc F-4 và bắn liền một loạt ngắn, đạn vạch đường thẳng băng, nhưng rất tiếc là đạn rơi sau đuôi chiếc F-4. Tôi liền kéo cần lái nâng lượng đón và bắn một loạt dài. Trúng rồi! Đạn vạch đường chùm lên lưng chiếc F-4. Nó xì khói đen trên lưng; tôi bắn thêm một loạt ngắn nữa, tất cả đạn trùm lên thân, lên cánh nó. Tôi thấy chiếc F-4 như dừng lại có lẽ động cơ bị hỏng rồi. Máy bay tôi tiếp cận đến rất nhanh, tôi nhìn rõ chữ USA trên cánh và quân hiệu không quân hải quân Mỹ, ngôi sao trắng trên cánh chiếc F-4B. Trúng 2 loạt đạn, nhưng nó vẫn chưa bùng cháy. Máy bay tôi tiếp cận đến chiếc F-4 còn khoảng150m nữa là hai máy bay có thể đâm vào nhau, nó vẫn còn bay. Tôi bắn loạt cuối ở cự ly chỉ độ 30 - 40m . Tất cả đạn đều xuyên vào chiếc F-4 và không một viên nào nổ (vì để bảo đảm an toàn cho phi công và máy bay MIG-17 khi phải bắn mục tiêu ở cự ly quá gần hơn 50m , thì người ta chế tạo đạn pháo 371y, 231y lắp trên máy bay thành đạn xuyên).


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 31 Tháng Bảy, 2016, 12:24:57 am

        Quá gần rồi, tôi chỉ còn kịp đẩy cần lái về trước chui qua bụng chiếc F-4, khói phủ đen buồng lái máy bay tôi. Chiếc F-4 giống như một cột khói đen ngòm, hai bánh lái đuôi của nó giống như hai tấm phản vút qua đầu tôi Trong tích tắc ấy, thân chiếc F-4 che khuất buồng lái máy bay của tôi, tựa như xuyên qua đám mây đen vậy. Sau khi thoát qua, tôi cứ đinh ninh, đuôi máy bay tôi chắc bị đứt rồi. Một giây bần thần, khá nguy hiểm, tôi đạp thử bàn đạp, máy bay nghe theo sự điều khiển dễ dàng. Duyên trời, cho thoát rồi, tôi liền cơ động máy bay quan sát tìm anh Quỳ. Anh Quỳ đang bay sau tôi. Tuy rằng anh Quỳ không bay số 1 dẫn đầu biên đội, do máy bay của anh hỏng vô tuyến, nhưng có anh trong đội hình biên đội, anh em chúng tôi rất vững tâm, tả xung, hữu đột chiến đấu với địch. Anh Quỳ là một trong bốn phi công lần đầu tiên mở mặt trận trên không thắng lợi, ngày 3 tháng 4 năm 1965 trên bầu trời Thanh Hóa.

         Anh Quỳ nhìn thấy cảnh máy bay tôi chui vài cột khói đen ngòm của chiếc F-4, anh thốt lên: Thôi rồi thằng Hải chắc đã lao vào đầu chiếc F-4 nó vừa bắn xong. Anh đã kể lại chuyện này sau trận đánh về rút kinh nghiệm ở đơn vị tối 19 tháng 11 năm 1967.

        Số 3 của biên đội báo cáo vừa bắn rơi 1 chiếc F-4 và biên đội đang tiếp tục đuổi địch. Tôi quay lại nhìn sau đuôi máy bay mình, thấy một chiếc F-4 đang bám theo tôi, nhưng còn xa ngoài tầm của tên lửa "rắn đuôi kêu”. Đồng thời có một chiếc MIG-17 màu xám đang bám theo chiếc F-4 đó, nhưng cự ly còn xa, chưa thể xạ kích được. Đó là số 4 (Nguyễn Phi Hùng) bay chiếc MIG-17 sơn màu xám đó.

         Thế trận trở nên gay go. Ta và địch bám xen kẽ rất lợi hại. Thua, thắng nhau chỉ trong chớp mắt. Nhìn thấy đường bay và chiếc máy bay sơn màu xám xanh, tôi biết ngay là Nguyễn Phi Hùng, vì hai đứa tôi quá hiểu nhau. Nếu tôi cơ động mạnh, thì chiếc F-4 kia sẽ không bám được tôi và Hùng khó bề bắn được nó. Tôi liền nghĩ ra một kế mạo hiểm. Tôi hô: Hùng! Tao nhử mồi và Hùng báo rõ ngay! Tôi liền giảm độ nghiêng, giảm bớt lượng kéo cần lái nhử cho tên địch thấy dễ xơi sẽ mê mải đuổi theo để bắn, chắc mẩm sẽ hạ sẽ được chiếc MIG này. Tôi luôn luôn nhìn phía sau, vì với loại tên lửa "rắn đuôi kêu” có tốc độ nhanh gấp 3 lần tiếng động, ở cự ly khoảng 2000m, chỉ chậm chân, tay trong chớp mắt, tôi sẽ bị tan xác ngay với nó. Tên địch đang giảm độ nghiêng để ngắm bắn. Tôi cứ để im cho nó bắn. Khi tôi thấy dưới cánh F-4 xì khói đen ra, nghĩa là tên lửa vừa khởi động động cơ, chưa rời bệ phóng. Tôi lập tức tăng độ nghiêng, kéo mạnh cần lái, hai quả tên lửa địch vừa phóng ra, lập tức bay vút qua sau đuôi máy bay tôi. Động tác tay chân phải nhịp nhàng, thật nhanh, thật khéo và quyết đoán từng giây, từng nửa giây. Không thì từ nhử mồi sẽ thành mồi thật!

        Lần thứ nhất địch bắn, tôi tránh thoát. Lại cái trò bay lơ lửng trước rủi ro, tôi tiếp tục làm động tác nhử mồi.

        Lần thứ 2, nó lại bắn, tôi cũng tránh được. Đến lần thứ 3, tên địch vừa chuẩn bị bắn, thì máy bay số 4 (Nguyễn Phi Hùng) cũng đã áp sát chiếc F-4, ở cự ly xạ kích tốt. Một loạt đạn ngắn, chỉ có 11 viên đạn của Phi Hùng trùm lên chiếc F-4 và bốc cháy bùng bùng.

        Chiến thuật nhử mồi trong không chiến, các phi công Xô Viết đã áp dụng nhiều trong đại chiến thứ 2 với loại máy bay tiêm kích dùng súng bắn thẳng. Biên đội tôi lần đầu tiên áp dụng chiến thuật nhử mồi với loại máy bay hiện đại với tên lửa tự dẫn. Phải mạo hiểm và bình tĩnh, chính xác động tác, hai anh em chúng tôi đã áp dụng thành công.

         Trận không chiến chỉ diễn ra trong 3 phút, biên đội chúng tôi đã hạ được 3 chiến F-4 của không quân hải quân Mỹ. Đập tan đợt đánh phá của địch vào thành phố Cảng, buộc các máy bay F-4 mang bom phải vứt bừa bãi ngoài mục tiêu, tháo chạy ra biển.

        Đồng bào, bộ đội ra khỏi hầm trú ẩn reo hò bắt giặc lái Mỹ và tận mắt thấy một trận không chiến ngoạn mục của không quân ta trên bầu trời thành phố Cảng


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 31 Tháng Bảy, 2016, 02:13:28 pm
       
PHI CÔNG VIỆT NAM QUA  KÝ ỨC MỘT CỰU BINH MỸ

        Clower, thiếu tá, từng phục vụ trên hàng không mẫu hạm Enterprise năm 1967 và đại uý G.Estes trongchuyến thăm thành phố Hồ Chí Minh năm 2000 có hứa sẽ cho tư liệu về trận không chiến ngày 19-11 1967 tại vùng trời Kiến An, Hải Phòng. Năm 2001, ông gửi cho tôi tư liệu trận đánh đó theo trí nhớ và những gì mình biết được thông qua những tài liệu lưu trữ chính thức đã được công khai tại Mỹ. Tất nhiên, về phía tôi trận đánh đó liên quan đến một phi công đó là Nguyễn Phi Hùng trong biên đội MIG-17 cùng Hồ Văn Quỳ, Lê Hải và Nguyễn Đình Phúc.

        Nguyễn Phi Hùng là người Hà Nội chính gốc, đẹp trai, cao lớn. Anh thuộc dạng người ít nói. Tốt nghiệpphổ thông trường Chu Văn An, Hà Nội, có giấy gọi vào đại học, nhưng anh nhập ngũ vào lực lượng không quân. Là một học viên bay thuộc lớp bay phản lực đầu tiên do chúng ta tự đào tạo. Năm 1967 ra trường, được bổ sung về đơn vị chiến đấu, anh là lớp phi công mới, trẻ trung cùng với lớp phi công đàn anh dày dạn chiến trận của Không quân nhân dân Việt Nam .

        Ngày cuối cùng, Clower cùng ngồi trên một chiếcF-4B với Estes. Ông là phi công chính, còn Estes là hoa tiêu ngồi phía sau, cũng là người điều khiển vũ khí. Điều Clower và Estes cùng muốn tìm hiểu ai là người đã bắn rơi họ? Tôi giở tấm bản đồ miền Bắc tỷ lệ 1/500.000 hỏi: "ông bị bắn rơi ở đâu?".

        Mặc dù đã trên 30 năm nhưng dường như không sao quên được Clower chỉ vào huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng bây giờ. Ngày hôm trước 8 giờ 30, thiếu tá Clower chỉ huy một liên đội cường kích 12 chiếc F4 trên tàu Rangar, ném bom oanh tạc sân bay Kiến An. Clower đã đượcxem không ảnh ... sân bay gần như tan hoang. Đoạn đường băng ở phía Tây bị cắt đôi, những hố bom sâu hoắm, đất đá ngổn ngang. Các chuyên gia hàng đầu của hải quân cho rằng, giỏi lắm phải mất 3 ngày Bắc Việt mới sửa xong.

        6 giờ 30 ngày 19-11- 1967, tức là chỉ sau 22 giờ sân bay Kiến An bị ném bom, biên đội MIG- 17 do Hồ Văn Quỳ chỉ huy cùng với Lê Hải, Nguyễn Đình Phúc và Nguyễn Phi Hùng hạ cánh nhẹ nhàng xuống sân bay Kiến An... Như vậy, chỉ sau một đêm, hàng trăm dân làng và công binh đã sửa sân bay một cách tài tình.

        9 giờ 30 chiếc F-4B mang số hiệu 1438 NAVY do Clower và Estes lái được đặt vào băng chuyền động xuất phát. Sau đó 20 phút toàn bộ 24 chiếc máy bay mang bom, 16 chiếc tiêm kích trong đội hình "mật tập" của Mỹ đã tập hợp xong.

         10 giờ 00 biên đội MIG-17 của không quân ta cất cánh. Biên đội được lệnh bay thẳng ra Đồ Sơn, tạo thế rồi bất ngờ lao vào đội hình phi cơ oanh tạc của Mỹ từ hướng biển. Clower bỗng thấy 4 chiếc MIG-17 hình thành thế đan xen với tốp F- 4 của chúng tạo thành những vòng tròn lệch tâm, kéo những chiếc F-4B về gần sân bay phát huy thế mạnh cơ động ngang của MIG-17, ghìm buộc chúng tôi phải xuống thấp. Cuộc không chiến diễn ra hết sức ác liệt.

        Clower nhắc Estes: "Chuẩn bị phóng tên lửa". Estes đã cho 2 chiếc MIG vào ra đa ngắm. Ngón tay Estes đã để vào núm đỏ, chỉ chờ Clower ra lệnh... nhưng Clower thấy từ bên dưới, một chiếc MIG-17 nhằm thẳng vào máy bay của mình lao tới rất nhanh... Clower trợn mắt, kéo cần lái, theo phản xạ ép sang trái, lượn vòng né tránh... Chỉ đợi có vậy. Chớp thời cơ, Nguyễn Phi Hùng, người lái chiếc MIG-17 ép chiếc F-4B vào góc trong, đưa vào vòng ngắm, anh bóp cò, loạt đạn chính xác, chiếc F-4B bùng cháy...

        Bị đòn đau, mất tên chỉ huy, tốp F-4 rối loạn rút lui. Thời cơ thuận lợi, Quỳ và Hải hạ luôn 2 chiếc F-4B trong chưa đầy nửa phút. Nhân dân Kiến An vào sân bay Kiến An tận mắt nhìn thấy những chiếc phản lực Mỹ rơi hết chiếc này đến chiếc khác trên vùng trời Hải Phòng. Trận này ta bắn rơi 3 máy bay Mỹ.

         Nguyễn Phi Hùng lúc đó mới có hơn 200 giờ bay. Còn Clower, thiếu tá người hùng của hạm đội 7 có tới 3600 giờ bay, lái chiếc F-4B là loại máy bay hiện đại nhất của Mỹ lúc đó. Clower và chiếc F-4B đã phơi xác trên thành phố Cảng. Nguyễn Phi Hùng hạ Clower lúc anh mới ngoài 20 tuổi, đó là chiếc phản lực thứ 3 bị anh bắn rơi. Chiếc thứ 4 là chiếc F-105 vào ngày 19-12-1967 và chiếc thứ 5 là chiếc F-8E ngày 9-7-1968 trên vùng trời Nghệ An quê Bác.

        Nguyễn Phi Hùng, người con trai của Thủ đô, một phi công tài hoa đã bắn rơi 5 chiếc máy bay Mỹ. Tháng 12-1995, anh được Nhà nước ta tuyên dương Anh hùnglực lượng vũ trang nhân dân.

         Cuộc chiến ở Việt Nam đã lùi xa trong quá khứ, nhưng đối với Clower và biết bao nhiêu tướng lĩnh, binh sĩ Hoa Kỳ, ký ức về những cuộc giao tranh ác liệt đã trở thành kỷ niệm mang theo suốt cuộc đời. Cũng như Clower và biết bao nhiêu cựu chiến binh Mỹ còn sống đến hôm nay, điều làm họ ngạc nhiên đến bàng hoàng là mình đã bị bắn hạ và thua cuộc bởi những người línhViệt Nam cực kỳ trẻ tuổi, trong đó có những chàng trai Hà Nội mà Nguyễn Phi Hùng chỉ là một trong hàngtrăm ngàn số họ.

(NVB sưu tầm, ngày 10/11/2004)       


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 31 Tháng Bảy, 2016, 02:15:23 pm
      
NHỚ LẠI TRẬN ĐÁNH NGÀY 5 THÁNG 2 NĂM 1968

Thiếu tướng GS. NGUYỄN NGỌC ĐỘ                          
Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân                         
Nguyên Phó tư lệnh - Tham mưu trưởng Quân chủng Không quân        

        Sau những thất bại nặng nề trong các đợt sử dụng không quân đánh phá Hà Nội. Đế quốc Mỹ buộc phải thay đổi thủ đoạn hoạt động, chúng không sử dụng đội hình lớn như trước để vào đánh phá miền Bắc, mà tổ chức đội hình vừa, linh hoạt, tăng cường máy bay tiêm kích yểm hộ trực tiếp trong đội hình máy bay tiến công, yểm hộ khu vực nhằm đối phó ngăn chặn hoạt động của không quân ta. Ngoài lực lượng đánh ban ngày, địch còn sử dụng máy bay A-6A bay thấp đánh đêm vào khu vựcHà Nội.

        Phát huy kết quả chiến đấu của lực lượng Phòng không năm 1967 và những trận đánh thắng của không quân tháng 1-1968. Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân chỉ đạo các lực lượng phòng không, không quân nghiên cứu những thay đổi về thủ đoạn hoạt động của địch, tiếp tục sử dụng không quân xuất kích chiến đấu.

         Chiều ngày 4 tháng 2 năm 1968, tôi được sở chỉ huy trung đoàn 921 thông báo, trong danh sách trực ban chiến đấu ngày 5 tháng 2, có tôi và đồng chí Hoàng Biểu, tôi - số 1 , Hoàng Biểu số 2 (lúc này tôi đã là chủ nhiệm bay trung đoàn 921, đồng chí Hoàng Biểu là phi công phi đội 1. Trước đây tôi là phi đội phó phi đội 1 nên chúng tôi đã có điều kiện bay huấn luyện và trực ban chiến đấu với nhau nhiều lần). Đồng chí Hoàng Biểu là một phi công có trình độ bay giỏi, tính tình điềm đạm, chiến đấu dũng cảm, linh hoạt, đồng chí bay số 2 sẽ tăng thêm sức mạnh của biên đội.

         Buổi sáng ngày 5-2, sau khi tiếp thu máy bay, chúng tôi được sở chỉ huy trung đoàn giao nhiệm vụ chiến đấu trong ngày, trong đó nhấn mạnh tập trung đánh địch từ hướng Tây vào; dẫn đường sở chỉ huy hiệp đồng về phương pháp dẫn dắt và cách thức tiếp cận địch. Tiếp đó, chúng tôi tiến hành trao đổi cách đánh cụ thể đối với từng đối tượng mục tiêu: Đánh máy bay tiêm kích bom, cường kích, máy bay tiêm kích, đánh máy bay trinh sát.... Dự kiến xử trí một số tình huống xảy ra trong quá trình chiến đấu. Đồng thời động viên nhau hiệp đồng chặt chẽ quyết tâm đánh thắng địch, hoàn thành nhiệm vụ trên giao.

        7 giờ 28 phút, sở chỉ huy cho biên đội chúng tôi vào cấp 1 và cất cánh chiến đấu. Sau khi cất cánh, dẫn đường sở chỉ huy cho bay thấp theo hướng 2200, vòng phải hướng 2700 xuyên khỏi tầm mây SC, trên mây tầm nhìn tốt, hơi có mù khô, tôi nhìn lại phía sau thấy máy bay đồng chí Biểu đang bay ở vị trí quy định trong đội hình, biên đội chỉnh tề, báo cáo sở chỉ huy, đội hình tốt, sở chỉ huy cho biên đội nâng dần độ cao vòng về hướng Tây - Bắc 2900, 3600, 300, thông báo địch liên tục từ xa đến gần; lệnh vứt thùng dầu phụ, tăng tốc độ, khi cách địch 25 - 20km máy bay ta đã có độ cao 8000m, tốc độ trên 1000km/giờ, tạo ra thế trận có lợi ban đầu cho biên đội cả về độ cao, tốc độ, vị trí tiếp cận địch. Đến cự ly cách địch khoảng 15km số 2 thông báo phát hiện địch, đồng thời tôi cũng phát hiện địch cùng bay từ hướng trái qua phải, đội hình 12 F-105, phía sau có F-4 yểm hộ theo đội hình bậc thang kéo dài. Xét về tương quan vị trí ta, địch (ta ở độ cao hơn địch) biên đội chúng tôi đang bay vào gần giữa đội hình tốp tiêm kích địch (bên trái là tiêm kích địch, bên phải là tiêm kích và cường kích địch). Trước tình hình đó, tôi thông báo cho số 2 đối phó với tốp tiêm kích địch. Tôi vòng phải tiếp cận tốp chủ yếu. Tận dụng thế có lợi, tôi giảm độ cao, tăng tốc độ (V >1.200km/giờ) tiếp cận tốp địch gần tôi nhất, đó là 2 tiêm kích F-4, tốp phía trước là F-l05. Khi cách địch khoảng 4000 - 3000m tôi bắt đầu đặt điểm ngắm vào chiếc sau cùng, lập tức 2 chiếc F-4 cơ động đan chéo, rất khó ngắm bắn. Tôi quyết định phóng quả "tên lửa chiến thuật" vào giữa đội hình máy bay địch, tên lửa vọt ra phía trước, 2 chiếc F-4 liền cơ động phân tốp, 1 chiếc vòng gấp sang bên trái, 1 chiếc vòng gấp sang bên phải. Đây là thủ đoạn thường dùng của tiêm kích địch nhằm đưa máy bay ta vào thế bất lợi (nếu lực lượng ta ít, bám theo nó) để chúng tiêu diệt.


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 31 Tháng Bảy, 2016, 02:16:59 pm

        Nắm được thủ đoạn đó, tôi không bám theo tiêm kích địch mà tiếp tục tăng tốc độ vượt lên tiếp cận đội hình máy bay F- 105 đang bay ổn định phía trước (tốc độ máy bay địch khoảng 800 -900km/giờ), tôi nhanh chóng chọn 1 chiếc phù hợp với đường bay của mình, đặt điểm ngắm, đến cự ly khoảng 2000 - 1500m, ổn định đường ngắm, tôi ấn nút phóng tên lửa, quả tên lửa rời bệ phóng, chìm xuống rồi lao thẳng vào máy bay địch, một quầng lửa lớn bùng lên, tôi báo cáo về sở chỉ huy: Trúng rồi, "cháy rồi" ... đồng thời kéo máy bay thoát ly lên phía bên phải. Quan sát phía sau thấy 4 F-4 của địch chia thành 2 tốp hai bên đang bám theo máy bay tôi, phóng tên lửa liên tiếp. Lúc này tôi nghĩ rằng mình đã vào thế bị động, phải bình tĩnh giành lại chủ động. Phát huy tính năng ưu việt của máy bay tiêm kích MIG-21F-96, vận dụng kinh nghiệm các trận chiến đấu trước đây, tôi tiếp tục điều khiển máy bay lượn vòng chệch (vừa tăng độ cao vừa thay đổi độ nghiêng máy bay một cách hợp lý để không tạo ra vệt bay ổn định) gây khó khăn cho máy bay địch trong việc bám đuôi ngắm bắn. Quá trình cơ động địch vẫn bám theo phóng tên lửa, các điểm nổ tên lửa vây quanh máy bay tôi, có lúc tưởng chừng như khó tránh khỏi, nhưng càng lên cao thì máy bay tôi càng bỏ xa máy bay địch, đến độ cao 10.000m trở lên thì máy bay địch đã tụt hẳn lại bên dưới phía sau, không thể bám theo được nữa, chúng đã phải "bỏ cuộc" giảm độ cao vòng ra (theo lý thuyết cùng như thực tiễn chiến đấu, tính năng cơ động bay lên của tiêm kích MIG-21 hơn hẳn máy bay F-4, ngược lại cơ động mặt bằng và cơ động bay xuống thì F-4 lại hơn MIG-21) lúc này máy bay tôi đã đạt đến độ cao 11.000m, tốc độ đồng hồ chỉ 350km/giờ, tôi ép cần lái đưa máy bay vào trạng thái bổ nhào, tăng tốc độ giảm độ cao đến 8000m, báo cáo sở chỉ huy cho hướng về sân bay hạ cánh.

        Đồng chí Biểu sau khi cản phá đội hình máy bay tiêm kích, đã được sở chỉ huy dẫn về sân bay hạ cánh an toàn.

        Trận đánh diễn ra khẩn trương, căng thẳng trong thời gian ngắn trên vùng trời Tuyên Quang. Đây là trận đánh thứ 10 của tôi, là một trong những trận đánh có đối chọi tình huống quyết liệt giữa ta và địch "chủ động bị động - giành lại chủ động - đánh thắng", đó cũng là đặc điểm của chiến đấu trên không. Ưu điểm nổi bật của trận đánh là sở chỉ huy đã nghiên cứu nắm chắc tình hình địch, ta, tình hình thời tiết hạ quyết tâm đúng thời cơ; chỉ huy dẫn đường chính xác tạo ra thế trận có lợi ban đầu có máy bay ta phát hiện, cơ động tiếp cận tiêu diệt địch. Phi công phát hiện địch sớm, tương đối toàn diện, hạ quyết tâm đánh địch chính xác kịp thời; cách đánh linh hoạt, táo bạo, có phân công yểm hộ, tập trung đánh đúng đối tượng mục tiêu chủ yếu, công kích chính xác bắn rơi tại chỗ 1 F- 105 (giặc lái nhảy dù bị ta bắt sống).

        Qua trận đánh trên có thể rút ra một số vấn đề:

        - Phải thường xuyên theo dõi nắm chắc những thay đổi về thủ đoạn hoạt động của địch, nghiên cứu tìm biện pháp đối phó thích hợp.

         - Tổ chức cất cánh đúng thời cơ, đánh địch đúng khu vực dự kiến.

        - Trong chiến đấu phải quán triệt tư tưởng, tích cực tiến công "lấy nhỏ thắng lớn", "lấy ít địch nhiều”, kết hợp chặt chẽ giữa thế và lực nhằm tạo ra lực mạnh để đánh thắng địch.

        - Vận dụng linh hoạt các hình thức chiến thuật, thủ đoạn chiến đấu, bất ngờ, táo bạo, phát huy chỗ mạnh của ta, hạn chế chỗ mạnh khoét sâu chỗ yếu của địch, bình tĩnh xử trí chính xác các tình huống trong chiến đấu, đánh nhanh đạt hiệu quả chiến đấu cao.

Hà Nội, 17/11/2004       


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 31 Tháng Bảy, 2016, 02:18:37 pm
       
TÀI NĂNG TỪ ĐÔI CÁNH QUẢ CẢM

VŨ THÀNH       

        Có những người, tài năng và sức mạnh biểu hiện rõ bên ngoài. Ở người khác, điều đó lại ẩn kín bên trong, bình thường khó nhận thấy. Chỉ trong khoảnh khắc quyết định, sức mạnh và tài năng mới hiện lên như chuyện thần kỳ. Đỗ Văn Lanh, người con trai đất Hoa Lư thuộc lớp người này. Bản lĩnh và tài năng đánh giặc trên không của Đỗ Văn Lanh biểu hiện rõ từ trận đầu khi anh làm nhiệm vụ số 2 yểm hộ cho biên đội trưởng công kích địch. Trận ấy, khi biên đội trưởng đang đuổi theo chiếc F4 đằng trước, Lanh bỗng phát hiện một máy bay hai đầu cánh vênh, đuôi xoè phụt ra hai lưỡi lửa đang bám theo biên đội trưởng. Anh nhận ra ngay chiếc máy bay tiêm kích F-4D, giá đắt gấp đôi loại F-4C thời Giôn-xơn. Không một giây chậm trễ. Lanh đẩy cần lái bổ nhào chặn đánh tên đánh lén mặc dù anh biết sau nó còn có cả một bầy F4. Mặc! Lúc này Lanh chỉ có một ý nghĩ: "Tiêu diệt địch để bảo vệ biên đội trưởng". Tốc độ máy bay đã vượt tiếng động. Kim đồng hồ chỉ số M (tốcđộ âm thanh) từ dưới vạch 1 chuyển nhanh lên khắc 1,4. Chiếc F-4 tỏ ra nặng nề hơn so với máy bay anh từ cao bổ xuống với tăng lực. Cự ly thu gần lại nhanh chóng. Tín hiệu báo tên lửa bắt được mục tiêu vang lên bên tai anh. Lanh nhớ đến hiện tượng so sánh cự ly của anh hùng Nguyễn Văn Cốc: "Cứ thấy chiếc F-4 bằng con gà mái của u ở nhà là bắn". Lanh siết ngón tay trỏ vào lẫy cò trên cần lái. Chiếc F-4D nổ bùng. Trái tim anh bỗng rộn lên mềm vui sướng chưa từng có: Quật ngã được một tên tử thù trên trời cao Lanh reo lên:

        - Anh Phúc yên trí công kích địch. Tên F-4 bám đuôi bị diệt rồi!

         Nhưng chiến công này mới chỉ là khúc dạo đầu của bản anh hùng ca. Nét sắc riêng của Lanh chưa biểu hiện rõ. Cho đến ngày 24-5-1972, tài năng sức mạnh và lòng dũng cảm của anh mới được biểu hiện đầy đủ.

         Hôm ấy, biên đội quần nhau với địch khá lâu mà vẫn chưa nổ súng được. Lượng dầu của máy bay Lanh còn ít. Nhưng anh thấy biên đội trưởng đang đuổi gấp một chiếc F-4 sắp tới tầm phóng hiệu quả. Phía sau lại có hai chiếc F-4 đang xông lại. Phải sẵn sàng phản kích để bảo vệ biên đội trưởng. Anh quyết định chưa báo cáo lượng dầu với biên đội trưởng, đội hình càng siết chặt lại. Biên đội giành giật quyết liệt từng khoảng trời với bọn địch đông gấp nhiều lần và hoàn thành nhiệm vụ. Trên đường bay trở về, kim đồng hồ chỉ lượng dầu của máy bay Lanh tụt rất nhanh xuống mức thấp nhất. Ruột gan nóng cồn cào. Sân bay vẫn còn xa. Đèn báo lượng dầu tối thiểu đã phát sáng. Ngọn đèn nhấp nháy liên tục. Lanh báo cáo gấp với biên đội trưởng rồi lợi dụng tốc độ lớn đưa máy bay vút lên cao. Lúc kim chỉ lượng dầu chết đứng ở số không, anh đã chiếm độ cao thêm 1.000M. Biên đội trưởng ra lệnh "nhảy dù”. Sở chỉ huy đồng ý và khẩn cấp theo dõi đường bay của Lanh. Chiến sĩ tiêu đồ gần đánh dấu đường bay đang dừng ngọn chỉ đỏ ở một điểm cách sân bay 50km bỗng vạch tiếp thêm một đường mới. Đồng chí chỉ huy còn đang sửng sốt nhìn theo đường chỉ đỏ thì máy thu bỗng vang lên một giọng nói bình tĩnh và quả quyết của Lanh: "Xinphép hạ cánh". Sở chỉ huy lặng đi trong giây lát trước quyết định táo bạo đó. Đồng chí chỉ huy tay cầm ống nói mà chưa đáp lại. Sổ tay người lái máy bay phản lực siêu âm đã quy định rõ trường hợp này chỉ có nhảy dù. Nhưng anh lại rất tin ở Lanh. Chắc chắn Lanh hiểu rất rõ những khó khăn nguy hiểm của việc mình làm. Giọng anh dứt khoát: "Đồng ý cho hạ cánh".

        Khi Lanh kéo máy bay lên tranh thủ thêm độ cao cũng là lúc trong óc anh nảy ra một phương án táo bạo dựa trên sự suy nghĩ chớp nhoáng nhưng sâu sắc. Ý nghĩ đầu tiên đến với anh là: "Phải cứu cho được máy bay". Kiểm tra nhanh hệ thống lái và áp lực dầu đỏ, thấy vẫn làm việc tốt, anh càng tin vào quyết tâm của mình. Lanh cho máy bay là xuống với góc có lợi để độ cao mất ít nhất. Lanh hiểu rất rõ sinh mệnh và máy bay lúc này gắn chặt với từng mét độ cao. Anh điều chỉnh tay lái, chân đạp hướng thật thẳng giữ máy bay ổn định. Sân bay với đường băng sáng mờ hiện ra phía trước, song anh mới vượt được hơn nửa đường mà độ cao đã mất đi quá nửa. "Liệu có thể về sân bay được không?... ".


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 31 Tháng Bảy, 2016, 02:20:09 pm

         Nỗi lo cồn lên trong lồng ngực. Mồ hôi toát ra trên khuôn mặt nóng bừng. Nhưng mắt anh vẫn nhìn không chớp về phía đường băng đang hiện lên mỗi lúc một rõ. Niềm tin vẫn vững. Anh còn độ cao gần 300m. Tay lái anh không hề run, điều chỉnh góc xuống. Niềm tin đó như tiếp thêm sức đẩy, đưa anh mau tới sân bay. Và đường băng đang chạy nhanh lại gần. Kiên trì đến lúc thật gần sân bay, Lanh mới thả càng. Sức cản bỗng đột ngột tăng lên làm cho máy bay tụt hẫng xuống. Chiều cao còn lại có thể không đủ để vượt qua những thửa ruộng gồ ghề đang xô đến. Thật nguy hiểm! Anh giật mạnh cần lái về phía mình rồi tức khắc ghìm lại. Chiếc máy bay như con tuấn mã đang kiệt sức nhưng vẫn ráng sức vọt lên, vượt qua những thửa ruộng rồi chúi xuống. Bánh xe đặt đúng mút đường băng bê tông rồi bon chạy cho đến khi dừng hẳn. Thế là trong tay Lanh, chiếc máy bay phản lực siêu âm nặng gần tám tấn mất hết sức đẩy vẫn điều khiển được như chiếc tàu lượn, vượt qua đoạn đường gần 50km về sân bay hạ cánh an toàn. Trong lịch sử không quân thế giới hiện đại, từ khi xuất hiện máy bay phản lực siêu âm, hiếm thấy sự kiện phi thường như vậy. Điều đặc biệt cần nói thêm ở đây là Lanh thuộc những lớp phi công bay máy bay phản lực siêu âm đầu tiên do Trường Không quân ta, trung đoàn 910 đào tạo trong chiến tranh, không phải do nước bạn đào tạo giúp.

         Không đầy một tháng sau, trong một chuyến bay chiến đấu, Đỗ Văn Lanh lại lập một chiến công mới kỳ diệu.

        Lanh đang yểm hộ vững chắc cho phi đội phó thì máy bay rùng lên rồi chấn động rất mạnh. Tốc độ giảm đi rõ rệt. Anh xác định: Máy bay đã bị thương. Nó mỗi lúc một rung lên dữ dội. Anh có cảm giác tim óc và ruột gan như muốn văng ra ngoài. Phản ứng đầu tiên của anh là điều chỉnh cửa dầu, tìm một tốc độ ổn định đỡ rung máy bay nhất. Lanh thử lắc tay lái. Khá nặng, nhưng vẫn điều khiển được. Anh nghĩ: "Có nên báo cáo tình hình này cho phi đội phó biết không? Lúc này phi đội phó đang ở vị trí tiến công rất có lợi, nếu biết máy bay mình bị thương, có thể ảnh hưởng tới quyết tâm tiêu diệt địch". Lanh quyết định không báo cáo. Anh sẵn sàng chịu mọi nguy hiểm có thể xảy đến. Máy bay Lanh bị trượt cạnh rất nặng. Chân anh tê đi vì phải dùng sức giữ bàn đạp lái hướng. Tay cũng mỏi nhừ vì cần lái nặng. Nhưng đầu óc anh vẫn minh mẫn. Tốc độ của anh nhỏ hơn, anh dùng cách vòng gấp, phía trong, để bám đội. Khi biên đội cơ động hướng, anh dùng mọi động tác kỹ thuật bám sát phi đội phó như hình với bóng. Nhưng lúc phát hiện địch thì anh quên hết tất cả, liền vứt thùng dầu phụ và lại tăng lực lao vào địch. Thấy máy bay lại rung lên dữ dội, anh mới nhớ ra và thu vội cửa dầu về tốc độ cũ. Anh ép độ nghiêng lớn cắt chéo sườn chiếc F-4 đang ngoặt sang trái. Hai cánh vênh của nó còn đèo nặng chùm bom. Căm thù sôi lên trong tim, nhanh chóng lấy lại đường ngắm cho chính xác, Lanh chớp thời cơ bóp cò. Quả tên lửa thứ nhất bay đi. "ôi, sao nó chậm thế!", anh sợ tên địch chạy mất, vội phóng tiếp ngay quả đạn thứ hai. Quả tên lửa thứ nhất nổ làm chiếc F-4 bùng cháy, quả thứ hai chui vào ngay đám cầu lửa đó. Hai chấm dù bung ra, một trắng, một đỏ. Bầy F-4 như một đàn ong vỡ tổ, bỏ chạy toán loạn. Biên đội chiến thắng trở về, chỉnh tề như một cuộc bay thao diễn.

         Các chiến sĩ thợ máy bao giờ cũng là người đầu tiên ra đón phi công chiến đấu trở về. Từ xa nhìn thấy hai cánh máy bay sạm đen vì đọng khói thuốc phóng, tổ thợ máy phụ trách chiếc máy bay của Lanh vui sướng reo lên: "Máy bay của ta lại được thêm một ngôi sao nữa!". Nhưng cảm giác ấy lập tức nhường ngay cho sự kinh ngạc, sửng sốt, khi phát hiện những vết thương trên chiếc máy bay: Hai cánh bị vỡ toác ra hai mảnh bằng miệng nón, bánh lái lên xuống bị cắt đi một phần ba và dầu đang tứa ra như một mạch máu bị cứa đứt. Chiến công kỳ diệu của Đỗ Văn Lanh truyền nhanhkhắp sân bay như một tin nức lòng người nhất.

        Trong niềm vui rào rạt của đồng đội, Lanh vẫn xuýt xoa:

        - Tiếc quá, đáng lẽ chỉ cần dùng một quả đạn cũng đủ kết liễu chiếc F-4; nóng "ăn" quá, tôi đã phóng những hai quả.

         Chính cái bản chất vốn có đó đã đưa đôi cánh quả cảm và tài năng lên những đỉnh cao mới.

Hà Nội, ngày 3-12-2000       

--------------------
        Chú thích: Theo “phi công tiêm kích" của Lê Hải - 2004.

        Đỗ Văn Lanh tốt nghiệp phi công lái máy bay tiêm kích MIG-17 khoá 2 trường Không quân Việt Nam, tham gia chiến đấu năm 1968. Là phi công bay giỏi được chuyển sang bay MIG-21 đã chiến đấu trên không 68 trận, 10 lần gặp địch, phóng 7 quả tên lửa loại không đối không tự dẫn bằng hồng ngoại, hạ 4 máy bay F-4 Mỹ trong một thời gian ngắn (20-5-1972, 13-6-1972, 23-6-1972 và 9-9-1972) sau chiến tranh anh làm chủ nhiệm bay sư đoàn, tận tình truyền đạt kinh nghiệm và kỹ thuật lái cho anh em phi công trẻ. Những kinh nghiệm chiến đấu của bản thân đã trở thành tài sản quý giá để truyền lại cho bao lớp phi công trẻ, bảo vệ bình yên bầu trời Tổ quốc Việt Nam. Năm 1980, trong một lần bay kèm lái mới, bài bay khu vực phức tạp ở độ cao thấp, anh bị tai nạn hy sinh. Đỗ Văn Lanh ra đi để lại trong lòng anh em bao nỗi tiếc thương. Là người con hiếu thảo của gia đình, một phi công tiêm kích dũng cảm,thông minh được đồng đội ca ngợi là chiến sĩ xuất sắc trong không chiến biên đội MIG-21 của Không quân nhân dân Việt Nam năm1972, được Nhà nước tuyên dương Anh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang tháng 1-1973.


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 31 Tháng Bảy, 2016, 02:21:55 pm
       
MỘT THỜI ĐỂ NHỚ KHÔNG QUÂN NÉM BOM  IL-28 (T-16)

Đại tá PHẠM CHU HẢI                         
Nguyên cán bộ kỹ thuật (Tiểu đoàn độc lập 929)       

        Trong 3 ngày cuối tháng 6-1965, 8 chiếc máy bay ném bom tầm trung IL-28 lần lượt hạ cánh xuống sân bay Nội Bài sau chuyến bay dài từ sân bay quân sự của Liên Xô và quá cảnh trên đất Trung Quốc. Trong số máy bay này có 4 chiếc chiến đấu (2082, 2084, 2086, 2088) , 3 chiếc trinh sát chụp ảnh (2182 , 2186) và một chiếc huấn luyện (2180). Cùng hạ cánh xuống sân bay còn có chiếc máy bay vận tải cỡ lớn chở vật tư khí tài và các chuyên gia kỹ thuật Liên Xô.

        Đón và tiếp nhận máy bay là những cán bộ nhân viên kỹ thuật IL-28, tốt nghiệp trường Không quân Krasnodar (Liên Xô) về nước từ cuối năm 1964, do đồng chí Bùi Minh Hứa phụ trách. Đây là đoàn cán bộ kỹ thuật trên 100 người gửi sang đào tạo ở Liên Xô từ năm 1961, sau đó tách ra thành hai bộ phận, một bộ phận học kỹ thuật máy bay MIG-17, bộ phận chúng tôi học kỹ thuật máy bay IL-28. Về nước, do không có máy bay, anh em chúng tôi có người được đi học chuyển loại kỹ thuật máy bay MIG-21, số người khác chuyển sang công việc theo yêu cầu của tổ chức. Vào thời điểm tiếp thu máy bay từ Liên Xô sang, đoàn không còn đủ quân số như lúc trở về. Hôm làm nhiệm vụ chỉ còn 14 người, đó là các đồng chí: Bùi Minh Hứa, Lê Thanh Quảng, Phạm Điệt, Dương Đức Thắng, Nguyễn Tấn Hùng, Trần Hải và Nguyễn Tấn Sơn (cơ giới); Nguyễn Hữu Công và Đặng Sĩ (vô tuyến điện); Nguyễn Tiến An và Cao Bá Hồng (đặc thiết); Nguyễn Văn Tư, Lê Minh Cang và Phạm Chu Hải (quân giới), do đồng chí Bùi Minh Hứa phụ trách. Một tuần sau, đơn vị được bổ sung thêm các đồng chí trung cấp kỹ thuật MIG- 17 tốt nghiệp trường kỹ thuật Cát Bi cùng một số thợ sơ cấp kỹ thuật của các bộ môn khác nhau. Đó là các đồng chí: Nguyễn Duy Mật, Đào Đình Đoán, Cao Trợ, Huỳnh Minh Tâm, Nguyễn Văn Mình, Phạm Ngọc Bảo và Nguyễn Văn Nhâm (cơ giới); Đặng Khắc Tú (vô tuyến điện). Tiếp đó một số cán bộ từ trung đoàn 919 được bổ sung về Nông Mạnh Luân (đặc thiết); Ngô Căn và Đặng Trần Mơ (vô tuyến điện). Các đồng chí này học kỹ thuật Mi-4 ở Liên Xô về. Khoảng 2 tuần sau có thêm 5 cán bộ kỹ thuật học MIG- 17 ở Trung Quốc về đơn vị, đó là các đồng chí Ngô Thế Quý, Lê Đình Bốc và Lê Nam (cơ giới); Đặng Trần Phương (vô tuyến điện); Trần Trung Nghĩa (đặc thiết) và Đỗ Công Phức (quân giới).

        Đội ngũ kỹ thuật không quân ném bom IL-28 (T-16) được biên chế thành đại đội 16 (c16) thuộc trung đoàn 921 gồm 5 trung đội: Vô tuyến điện tử; Đặc thiết; quân giới và 2 trung đội cơ giới. Ngoài ra có bộ phận kỹ thuật không ảnh gồm 4 đồng chí: Trương Công Tôn, Nguyễn Anh Khoát, Ngô Phong Cảnh và Ninh Văn Súy, do đồng chí Tôn phụ trách. Bộ phận này thuộc biên chế của tham mưu T- 16.

        Tháng 10 năm 1968, lực lượng T-16 trở thành tiểu đoàn độc lập 929, trực thuộc Binh chủng Không quân và bộ phận kỹ thuật thành đại đội 2 (c2), tiểu đoàn 292.

         Tháng 9 năm 1972, tiểu đoàn độc lập 929 giải thể. Phần lớn cán bộ kỹ thuật được tập trung lên trường kỹ thuật ở Thậm Thình (Phú Thọ) học chuyển loại kỹ thuật máy bay MIG-21, còn lại 9 người gồm các bộ môn, do đồng chí Cạo Trợ phụ trách. Sau đó các đồng chí này và 2 máy bay được điều động về trung đoàn 919 ở sân bay Gia Lâm.

         Trong 8 năm hình thành và tồn tại không quân ném bom T-16, đội ngũ cán bộ và nhân viên kỹ thuật luôn có những biến động. Từ giữa năm 1967 đến đầu năm 1969 có đến 2/3 số cán bộ kỹ thuật tốt nghiệp ở Liên Xô, Trung Quốc và 1/3 số nhân viên sơ cấp kỹ thuật dời đơn vị đi chiến đấu ở các chiến trường B, C và pháo cao xạ.

        Ngay từ những ngày đầu xuất hiện lực lượng không quân ném bom, buộc Mỹ và nguỵ quyền Sài Gòn phải tìm phương thức đối phó. Đầu năm 1966, 2 máy bay trinh sát vũ trang A-3J của Mỹ phát hiện được những chiếc IL-28 của đơn vị đỗ ở dọc xóm Tân An đến Gò Trai, đã lao vào phóng nhiều loạt bom bi quả dứa xuống khu vực máy bay đỗ làm chiếc 2084 hỏng nặng. .

        Những năm tiếp theo, máy bay không được bổ sung. Những chiếc còn lại do đã qua nhiều lần đại tu ở Liên Xô trước khi đưa sang Việt Nam nên thời hạn sử dụng không còn nhiều, thường phát sinh hỏng hóc. Khó khăn là vậy nhưng đội ngũ kỹ thuật T- 16 luôn phấn đấu vượt bậc bảo đảm máy bay luôn đạt hệ số kỹ thuật cao (90%) và luôn sẵn sàng nhận, hoàn thành nhiệm vụ trên giao. Nhiều lần đơn vị được giao nhiệm vụ chuẩn bị máy bay đi chiến đấu ở các chiến trường B, C, cơ động đến nhiều sân bay, duy trì 4 chiếc máy bay tốt sẵn sàng cất cánh. Hàng trăm quả bom các loại, hàng ngàn viên đạn pháo được lắp lên máy bay sẵn sàng đợi lệnh. Song vì những lý do khách quan, máy bay ném bom không có dịp cất cánh chiến đấu.


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 31 Tháng Bảy, 2016, 02:23:12 pm

         Năm 1970 và 1971 là 2 năm khó khăn nhất đối với T-16. Lúc này đơn vị chỉ còn 2 chiếc máy bay tốt (2088 và 2184). Chiến trường lại rất cần sự chi viện hoả lực của không quân ném bom.

        Tháng 7 năm 1971, trên quyết định cho đơn vị cải tiến máy bay trinh sát chụp ảnh (2184) thành máy bay ném bom. Việc cải tiến không phải dễ vì phải thay đổi toàn bộ hệ thống máy ngắm ném bom, hệ thống lái tự động, ra đa PSB-NM, hệ thống máy tạo và phân xung điều khiển ném bom và phải làm mới hoàn toàn hệ thống cáp điện từ buồng lái, buồng dẫn đường đến buồng bom. Song với sự quyết tâm của toàn đơn vị, với trí thông minh sáng tạo của các cán bộ kỹ thuật, nhất là 2 thợ quân giới Hà Văn Như và Nguyễn Văn Ngọ, chúng tôi hoàn thành công việc cải tiến kỹ thuật một cách xuất sắc: Thay toàn bộ hệ thống máy ngắm OPB-5S của máy bay trinh sát bằng máy ngắm ném bom OPB-6SR có tính năng và độ chính xác cao hơn, đặc biệt có chế độ hoạt động đồng bộ với ra đa PSB-NM mà máy bay trinh sát không có; thay toàn bộ hệ thống máy tạo xung và phân xung điều khiển ném bom ESBR-45S bằng ESBR-49M và KSB; thay 4 giá bom KD-2 của máy bay trinh sát bằng giá KD-3 của máy bay ném bom. Việc cải tiến hoàn thành, phi công - dẫn đường Thân Xuân Hạnh trực tiếp kiểm tra và làm những thao tác kỹ thuật phù hợp đã cho nhận xét tốt. Tiếp đó là cuộc bay thử và ném bom thật trên trường bắn Hoà Lạc, xác suất trúng mục tiêu rất cao và công việc cải tiến đã hoàn tất, đạt kết quả tốt. Chiếc máy bay trinh sát chụp ảnh (2184) có chức năng mới: Ném bom.

        Chiều 5-10-1972, số anh em lên trường kỹ thuật Thậm Thình được gần nửa tháng thì tôi cùng 3 đồng chí Đinh Công Chính, Nguyễn Tiến Bách và Phạm Văn Đăng được đồng chí Bùi Minh Hứa gọi lên giao nhiệmvụ. Nhận lệnh, 8 giờ tối chúng tôi xuất phát từ Phú Thọ trên 3 chiếc xe đạp phóng về Hà Nội. Trời tối, gió rét, mặt đường ổ gà, chúng tôi vẫn gò lưng tôm vội vã trở về trung đoàn 919 và phải đến 4 giờ sáng mới tới sân bay Gia Lâm. Nhiệm vụ của chúng tôi là chuẩn bị gấp 2 máy bay ném bom làm nhiệm vụ chiến đấu.

        Sáng 9-10-1972, chúng tôi cơ động lên sân bay Nội Bài, đưa 2 máy bay vào sân đỗ trước xưởng định kỳ, kiểm tra thông điện lần cuối, kiểm tra đồng bộ, bom đạn. Phương án treo mắc bom được chuẩn bị như sau: Máy bay 2184 treo 8 quả bom phá mảnh OFAB-250 (250kg), chiếc 2088 treo 8 bom bi (mỗi quả mẹ chứa 150 quả bom con). Sau hơn một giờ, 2 máy bay hoàn thành công tác chuẩn bị và đợi lệnh sẵn sàng cất cánh.

         Các tổ bay được giao nhiệm vụ chiến đấu là: Bùi Trọng Hoàn (phi công), Nguyễn Đình Nhẫn (dẫn đường), Nguyễn Hùng Cường (bắn súng - vô tuyến điện) và Nguyễn Văn Cừ (phi công), Thân Xuân Hạnh (dẫn đường), Ngô Văn Trung (bắn súng - vô tuyến điện).

         17 giờ ngày 9-10-1972, hai tổ bay lần lượt cất cánh theo hiệu lệnh chiến đấu và bay thẳng đến mục tiêu, đó là căn cứ phỉ Vàng Pao ở Loong Chẹng trên đất Lào và thực hiện nhiệm vụ theo đúng phương án đề ra. Trận tập kích của 2 IL-28 đã đánh trúng mục tiêu địch, sát thương phần lớn sinh lực và khí tài chiến đấu của địch, lập chiến công đầu cho lực lượng không quân ném bom duy nhất của Quân đội nhân dân Việt Nam. Sau chiến thắng này, 2 máy bay về hạ cánh ở sân bay Nội Bài, rồi chuyển hướng về sân bay Hoà Lạc. Hạ cánh xuống sân bay Hoà Lạc, máy bay không tắt máy, từng phi công điều khiển máy bay lăn thẳng vào ụ sơ tán theo hướng dẫn của tổ trưởng kỹ thuật máy bay. 8 giờ tối, mọi việc sơ tán nguỵ trang máy bay vừa xong thì F- 111 đến ném bom, anh em chúng tôi cũng như máy bay đều an toàn.

        Chuẩn bị cho cuộc duyệt binh vào ngày 2-9-1973, cùng với các loại máy bay khác của không quân, 2 máy bay (2088 và 2184) được sơn trả lại màu trắng bạc như lúc ban đầu và phù hiệu Không quân Việt Nam, để chuẩn bị tham gia duyệt binh. Song vì máy bay đã hết niên hạn sử dụng nên kế hoạch không thực hiện được.

        Quá trình bảo đảm kỹ thuật máy bay IL-28 là một quá trình gian lao vất vả. Có lần do yêu cầu cải tiến bom phục vụ huấn luyện, bom nổ, một nhân viên quân giới hy sinh, một bị thương nặng (11-1968); hoặc khi đưa máy bay về Hoà Lạc sơ tán, anh em kỹ thuật chúng tôi loay hoay vất vả mải mới đẩy được 2 máy bay vào sát khu đồi Trẩu nằm trên đường vào chợ Cò, Hòa Bình; hoặc khi bị bom bi, máy bay hỏng nặng, chúng tôi phải huy động toàn bộ trí tuệ, tính sáng tạo và sức lực của cán bộ kỹ thuật trong đơn vị để sửa chữa, hồi phục ... cho đến nay, kể cả ở Bảo tàng Không quân, không ai còn được thấy hình ảnh chiếc IL-28, nhưng với thời gian không dài tồn tại, không quân ném bom T- 16 cũng đã góp phần vào chiến công chung của Không quân nhân dân Việt Nam.

Hà Nội, 12-2004.       


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 31 Tháng Bảy, 2016, 10:58:04 pm
        
MÁY BAY SỐ HIỆU 5020

Đại tá MAI BÁ QUÁT                                             
Nguyên xưởng trưởng Xưởng Bảo dưỡng kỹ thuật trung đoàn 921        

        Máy bay mang số hiệu 5020 được đặt tại Bảo tàng Không quân, đó là một trong các đại diện xuất sắc của "xê ri 50"' đã có thành tích đặc biệt trong chiến đấu. Khi máy bay đánh thắng máy bay Mỹ trở về hạ cánh, người ta không thể quên một đội ngũ kỹ thuật lành nghề của xưởng bảo dưỡng kỹ thuật trung đoàn 921 đã cải tử hoàn sinh cho nó.

         Năm 1968, trong một cuộc bay huấn luyện, máy bay 5020 đã bị tai nạn và hư hỏng nặng: Toàn bộ vỏ bọc phần dưới bụng bị bào mòn và rách; hệ thống dẫn khí bị bẹp; khoang số 6 cố định càng trước bị gãy; dao chỉnh dòng bị hỏng hoàn toàn... Nhìn chiếc máy bay ở tư thế "nằm bẹp", cán bộ chiến sĩ trung đoàn không khỏi băn khoăn lo lắng. Tình hình chiến đấu lúc này đang khẩn trương, địch hoạt động mạnh, máy bay của ta số lượng rất hạn chế, bây giờ lại thêm máy bay "20" bị hỏng, khác nào năm ngón tay mất đi một.

        Trước tình hình đó, Đảng uỷ và chỉ huy trung đoàn quyết định phải tập trung lực lượng kỹ thuật sửa chữa bằng được máy bay "20" để đưa nó về đội hình chiến đấu. Xưởng bảo dưỡng kỹ thuật được vinh dự nhận nhiệm vụ này. Đây là một xưởng có truyền thống hoàn thành nhiệm vụ trên giao. Ngay từ những ngày trung đoàn 921 còn sử dụng máy bay MIG- 17, rồi MIG- 17F sau đó là MIG- 21 ... Xưởng đã thực hiện bảo dưỡng, sửa chữa hàng nghìn lần chiếc máy bay với thời gian ngắn nhất, chất lượng cao để máy bay được tham gia chiến đấu. Việc "5020" vào xưởng sẽ là dịp để cán bộ chiến sĩ của xưởng thể hiện tay nghề và kiến thức vững vàng, lòng quyết tâm và tính sáng tạo của tập thể đơn vị trước nhiệm vụ được giao.

        "Bộ Tham mưu' của xưởng đã được lâm thời thành lập, bao gồm: Chỉ huy xưởng, các kỹ sư, các trung cấp và sơ cấp kỹ thuật lành nghề... Sau nhiều lần bàn "kế đánh thắng", phương án sửa chữa "20" đã được trình lên ngành nghiệp vụ cấp trên, được thông qua và được tập trung mọi nỗ lực vào việc sửa chữa. Sau bao ngày đêm lao động cực nhọc, "20" đã được sửa chữa xong; chỗ rách được vá, chỗ gãy được kết cấu lại, chỗ hỏng được thay thế... Máy bay "20" đang dần dần được hoàn sinh. Công việc đó phải kể đến các đại diện tiêu biểu của xưởng, những người đã trực tiếp tham gia "cứu sống" máy bay, đó là chỉ huy xưởng, là đại diện phân đội cơ khí: Nguyễn Văn Tái, trung cấp kỹ thuật, cùng các nhân viên kỹthuật lành nghề khác của bộ phận này như: Lê Thuật Khoát, Bùi Xuân Khoả, Nguyễn Văn Tỵ, Đỗ Văn Riêu. Đó là các cán bộ kỹ thuật chuyên ngành như: Hoàng Đình Diễm (máy bay động cơ); Trần Tưởng, Vĩnh Thịnh (thiết bị hàng không); Nguyễn Đình Tiến (vũ khí hàng không); Nguyễn Văn Bằng, Hà Văn Mỹ (vô tuyến điện tử) ; Đoàn Nam (ra đa) ...

        Nhìn "20" được sửa chữa xong phần cơ khí, cán bộ chiến sĩ của xưởng không thể không tự hào. Bằng những nỗ lực không mệt mỏi, bằng lòng căm thù giặc Mỹ ngày đêm ném bom tàn phá làng quê, bằng sự khắc phục khó khăn thiếu thốn không mệt mỏi máy bay "20" được sửa chữa với thời gian rút ngắn đáng kể. Công đoạn cuối cùng là phải kiểm tra lắp đặt các thiết bị lên máy bay, thử máy, bay thử. Không kịp nhớ đó là ngày bao nhiêu, máy bay "20" bay thử hai chuyến thành côngvà hạ cánh an toàn. Từ giờ phút đó, "20" được trở về đội ngũ của mình. Điều không tin được đã trở thành hiệnthực. Năm ngón tay vẫn lành lặn trên một bàn tay.Thành tích sửa chữa máy bay "20" của Xưởng Bảo dưỡng kỹ thuật đã được ghi vào sổ vàng truyền thống của trung đoàn 921 , tạo tiền đề cho xưởng phát triển trưởng thành và lớn mạnh sau này.

        Năm 1972, đế quốc Mỹ trở lại cuộc chiến tranh phá hoại trên phạm vi toàn miền Bắc, máy bay số hiệu 5020 được chuyển về trung đoàn 927 - Đoàn không quân Lam Sơn. Sau nhiều lần tham gia trực ban chiến đấu, ngày 5 tháng 7 năm 1972, máy bay "20" đã được cất cánh chiến đấu. Người cầm lái máy bay "20" là phi công Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, đồng chí Nguyễn Tiến Sâm. Sau khi phát hiện máy bay địch, Nguyễn Tiến Sâm tiếp cận mục tiêu rồi ở cự ly gần, anh phóng tên lửa, máy bay địch bốc cháy tại chỗ, còn "20" thuận đà lao ngay vào vùng cháy của máy bay địch. Cán bộ chiến sĩ Đoàn Lam Sơn không bao giờ quên trận đánh này. Riêng cán bộ chiến sĩ quản lý máy bay "20" không chỉ vui mừng với chiến thắng, còn rất đỗi ngạc nhiên vì sau trận đánh, máy bay của họ đã đổi màu: Từ màu trắng bạc biến thành màu đen của khói. Nguyên do là máy bay "20" đã được "tắm" trong khói lửa của máy bay địch sau khi bị Nguyễn Tiến Sâm bắn cháy.

        Chiến công của máy bay 5020 lại ghi vào lịch sử Trung đoàn Lam Sơn, là niềm tự hào của tập thể trung đoàn anh hùng, như một bài ca Không quân nhân dân Việt Nam, góp phần tô thắm truyền thống vẻ vang của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng.

Hà Nội, 8-2001        


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 31 Tháng Bảy, 2016, 11:01:49 pm
        
ĐI TÌM NGƯỜI CÒN SỐNG VÀ ĐI TÌM NGƯỜI ĐÃ KHUẤT

LÊ ĐÌNH CẢNH                            
Nguyên phi công đại đội bay đêm trung đoàn 921        
Trợ lý tham mưu tác chiến trung đoàn              

        1. ĐI TÌM NGƯỜI CÒN SỐNG

         Vào một buổi chiều hè, khi màu hồng của hoàng hôn buông xuống thì có lệnh rút ban. Một máy bay vẫn chưa về. Cả sân bay lo lắng. Những con mắt đăm đăm nhìn về phía chân trời xa.

         Trung đoàn trưởng Trần Hanh gọi tôi tới giao nhiệm vụ.

         - Có điện của Bộ Tư lệnh Quân chủng thông báo - Anh Lê Quang Trung nhảy dù ở Việt Trì. Anh lên tổ chức cấp cứu và giải quyết những vấn đề cần thiết. Lấy xe của tôi, cậu Nong lái xe đưa anh đi.

        Ngày đó, đi tìm máy bay rơi, hoặc đón anh em phi công nhảy dù, thường được gọi vắn tắt là "cấp cứu'. Phương tiện cấp cứu là máy bay trực thăng Mi-4 hoặc ôtô Com-măng-ca, hiếm khi có xe cấp cứu chuyên dụng. Những người tham gia thường là cán bộ tác chiến, quân y, chính sách, chính trị...

        Chiếc xe chở tôi lăn nhanh trên con đường số 2. Tới Việt Trì trời còn sớm.         - Cầu phao Việt Trì vừa bị địch đánh hỏng. Bộ đội công binh đang khẩn trương sửa chữa. Tôi xuống xe, đi hỏi thăm mọi người. Nhiều người nhìn thấy chiếc dù rơi gần nhà máy hoá chất Việt Trì, không hiểu của ta hay của địch. Tôi đã thấy mừng.

        23 giờ cầu sửa xong. Xe chúng tôi được ưu tiên sang trước. Đi về đâu bây giờ? Lê Quang Trung nhảy dù ở gần nhà máy hoá chất Việt Trì thì chắc đâu anh còn ở đó. Trời tối đen, xe chỉ được chạy đèn gầm để tránh máy bay địch. Tôi quyết định hỏi thăm vào bệnh viện ViệtTrì, bệnh viện đã sơ tán về một vùng quê ngoại thành.

        Xe chúng tôi dừng trước căn nhà lá rộng, thoáng mát. Lê Quang Trung nằm trên chiếc cáng thương, vẫn nguyên vẹn trên người bộ đồ bay. Các bác sĩ bệnh viện cho tôi biết, sức khoẻ của anh vẫn bình thường, khôngbị chấn thương phần mềm, cũng như phần cứng. Anh chưa tỉnh vì não bị chấn động mạnh. Các bác sĩ vẫn để anh mặc quần áo bay, kể cả mũ công tác, chờ đại diện đơn vị lên cùng quyết định.

        Tôi đề nghị bệnh viện đưa anh về bệnh viện Trung ương Quân đội 108. Đi theo xe cứu thương còn có một bác sĩ, một y tá của bệnh viện và chiếc xe cấp cứu chuyên dụng. Tôi đã rút được kinh nghiệm cấp cứu đồng chí Đặng Ngọc Ngự nhảy dù thành công. Khi đó anh Ngự còn khoẻ tuy không đi cấp cứu, nhưng  vì không có giấy tuỳ thân, nên rất khó khăn vượt lên trước. Lần này tôi có đầy đủ giấy tờ, phương tiện chắc chắn gặp nhiều thuận lợi. Phà Chèm bị đánh hỏng, xe xếp hàng khá dài. Tiếng còi xe cứu thương vang lên, cùng danh nghĩa cấp cứu phi công nên cũng được ưu tiên lên trước. Vậy mà, tới bệnh viện cũng đã 4 giờ 30 sáng.

         5 phút sau, kíp trực của bệnh viện đã có mặt đông đủ hội chẩn. Vừa lúc đó Lê Quang Trung bừng tỉnh. Anh hỏi:

        - Tôi đang ở đâu thế này?

        - Anh Trung? Anh có nhận ra tôi không?

        Anh khẽ gập đầu nói:

        - Tôi hiểu rồi? Tôi nhớ ra rồi?

         Sau thời gian ngắn điều trị, Lê Quang Trung trở về bay hồi phục và tham gia chiến đấu cùng đồng đội. Đã vài lần đi tìm anh em phi công nhảy dù thành công, tìm và mai táng anh em hy sinh ở vùng rừng núi xa xôi, hiểm trở; nhưng lần đi tìm Lê Quang Trung nhảy dù an toàn để lại cho tôi ấn tượng lâu nhất. Vì anh trở về tham chiến cùng đồng đội, bắn rơi thêm 2 chiếc máy bay Mỹ, cộng với 3 chiếc cũ là 5 chiếc . Anh còn được bổ nhiệm trung đoàn trưởng trung đoàn 925 chỉ huy trung đoàn bắn rơi 9 chiếc máy bay Mỹ. Rất tiếc anh đã hy sinh trong khi làm nhiệm vụ. Anh được Nhà nước, Quân đội truy tặng đanh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân ngày 20 tháng 12 năm 1994.


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 31 Tháng Bảy, 2016, 11:05:29 pm
       
        2. ĐI TÌM NGƯỜI ĐÃ KHUẤT

        Trong kháng chiến, không gia đình nào là không có mất mát, hy sinh. Gia đình tôi cũng như vậy. Khi còn là chiến đấu viên của đại đội bay đêm, tôi gạt bỏ mọi băn khoăn suy nghĩ để chiến đấu, để hoàn thành nhiệmvụ. Người phi công khi chụp cái mũ bay lên đầu, ngồi vào ghế máy bay và cất cánh, mọi suy tư, ưu phiền đều tan biến. Cái tập trung toàn bộ tinh lực lúc này là nhũng chiếc đồng hồ trong buồng lái, là mệnh lệnh chỉ huy từ mặt đất, là quân thù trước mặt ... Sự hy sinh của những chiến sĩ không quân lúc này coi nhẹ như sợi mây nhỏ giữa trời cao, như làn sương mảnh đầu mút cánh máy bay khi làm động tác lượn vòng chiến đấu.

        Khi tôi từ biệt nền trời xuống đất làm nhiệm vụ tham mưu, đôi lúc có điều kiện tạt qua nhà mới thấy cái khó khăn thực tế của gia đình mình. Vợ tôi khi đó là công nhân nhà máy dệt mồng 8 tháng 3 đi sớm về khuya, hàng hơn chục cây số, suy dinh dưỡng người ốm tong teo. Các con tôi ốm đau, sài đẹn. Thước đất cắm dùi không có, phải ở nhờ gian nhà chật hẹp của gia đình vợ. Mẹ tôi phải đi ở nhờ nơi khác. Không hiểu sao anh Trần Mạnh biết hoàn cảnh của tôi. Anh khuyên.

        - Cậu tìm 15 - 20m đất tôi sẽ cho anh em làm căn nhà nhỏ để cụ và các cháu ở tạm.        -

        Lúc này anh Mạnh, anh Hanh đã lên Bộ Tư lệnh Binh chủng. Tôi cảm ơn anh, vì tôi biết anh, chị Thu cùng các cháu còn đang ở căn buồng để vừa chiếc giường đôi ở chiêu đãi sở 354. Anh Trần Hanh cùng chị Xuyến còn ở nhờ căn buồng nhỏ khu tập thể Khí tượng pháo đài Láng.

        Ngày đó, có câu chuyện cười ra nước mắt.

        - Tôi đi cùng đơn vị chiến đấu ở Khu 4 đã lâu không về nhà. Được về họp ở Quân chủng, tôi tạt về thăm các cháu. Vừa gặp mặt tôi, vợ tôi đã oà lên khóc. Bố vợ tôi lập cập chạy ra, nắm tay tôi: Con đã về rồi ư. Tôi hốt hoảng tưởng gia đình có chuyện gì? Thì ra chuyện là thế này.

         Đơn vị thấy gia đình tôi khó khăn đã gửi tiền về trợ cấp (ngày đó là rất hiếm có). Vợ tôi tưởng là tiền tuất và tôi đã hy sinh. Thấy cô khóc tức tưởi mãi không thôi, tôi an ủi.

        - Anh đã về đây! Sao em khóc mãi vậy!

        - Anh cứ để cho em khóc. Đã bao ngày đêm em nuốt nước mắt vào bên trong để gia đình được yên ổn.

        Tôi hiểu vợ tôi cũng như các chị vợ anh em khác khi tới chiêu đãi sở thăm chồng. Chiêu đãi sở nằm dưới một đồi thông khá đẹp. Mỗi khi nghe tiếng máy bay nổ rung đất, các chị lại lên đỉnh đồi dõi theo những biên đội xuất kích. Khi đếm đủ những chiếc máy bay hạ cánh, các chị mới về. Nhiều chị còn bị tai nạn gãy tay. Con ốm đau đi bệnh viện vẫn không viết thư cho chồng, để các anh yên tâm công tác. Những người vợ chiến sĩ ấy lo lắng cho chồng như vậy, nhưng đều âm thầm chuẩn bị cho mình những điều không may xảy tới. Họ đều là những người vợ chiến sĩ xứng với tám chữ vàng Bác Hồ ban tặng "Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang".

        Lúc này vợ và các con tôi chỉ sống bằng 20 đồng tiền lương tôi gửi về (lương chuẩn uý 54 đồng).

         Sau bao đêm trăn trở, suy nghĩ, tôi sinh và lớn lên trong cái nôi không quân bao phen sinh tử, đồng đội, phi đội, phi đoàn, xa nó sao đành.

         Xót vậy nhưng tôi mạnh dạn đề xuất xin chuyển ngành.

        May quá, khi tôi đề xuất với anh Hanh. Anh không hề trách cứ, mà nhìn tôi với thái độ thông cảm anh nói:

        - Tôi cho cậu đi học đại học, quân số vẫn thuộc Quân chủng. Cậu không phải thi. Sau 5 năm muốn ở lại quân đội thì ở, muốn chuyển ngành thì chuyển. Cuộc sống đỡ vất vả hơn.

        Tôi cảm ơn các anh. Cảm động trước sự ưu ái của các anh, 5 năm đi học thì thà tôi ở lại Quân chủng còn hơn.

        Hôm tôi xa đơn vị anh Trần Hanh cho tôi một chiếc giường bộ đội, một ít gỗ về đóng đồ đạc bàn ghế làm việc. Tôi chuyển ra công ty quản lý khai thác cát Hà Nội, ngày đầu tôi được phân công phụ xe ủi đá ở bãi đá cạnh chiêu đãi sở Quân chủng.        Nhiều anh em đến thăm, giở xuất cơm thấy chỉ là cơm nguội gói trong giấy báo với mấy quả cà.

        Chuyên gia Bungari sang làm việc không có người phiên dịch, tôi được đều lên văn phòng công ty. Sau đó được đề bạt trưởng phòng.


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 31 Tháng Bảy, 2016, 11:09:49 pm

        Công việc lúc này đã bớt phần vất vả, gia đình tôi cũng bớt khó khăn hơn. ít lâu sau anh Phạm Sĩ Liêm,Phó chủ tịch UBND thành phố Hà Nội định điều tôi về văn phòng UBND thành phố. Tôi từ chối cảm ơn anh, vì tôi còn nguyện vọng khác.

        Anh Nguyễn Hồng Nhị về thay anh Hoàng Ngọc Diêu làm Tổng cục trưởng Tổng cục Hàng không dân dụng. Tôi gặp và trình bày nguyện vọng với anh và xin về hàng không để có điều kiện thực hiện mục đích mình ấp ủ lâu nay.

        Anh đồng ý ngay. Anh là người thủ trưởng, người đồng chí, người anh cả tôi kính trọng. Chính anh đã thắp lửa, truyền lòng nhiệt tâm, giúp tôi vượt mọi khó khăn để tới với các liệt sĩ. Chính anh đã từ lâu ấp ủ ý định này, nhưng không có ai giúp thực hiện. Tôi trở về với anh khác nào nắng hạn gặp mưa rào.

        Khi có điều kiện tôi cùng anh bôn ba đi khắp Bắc -Trung - Nam tu sửa tìm mộ, gắn bia cho các liệt sĩ.

         Rất may nhà nhiếp ảnh Xuân át đã lưu giữ được nhiều ảnh phi công, anh cung cấp để làm bia liệt sĩ.

        Song làm gì cũng phải có kinh phí. Lấy quỹ chung e không tiện. Trong lúc đang băn khoăn thì anh Nhị trao cho tôi chiếc phong bì trong đó có 5 triệu đồng góp vào quỹ "tìm đồng đội, và tu sửa phần mộ liệt sĩ không quân". Với bản quyết định còn tươi nét mực của Tổng giám đốc Cụm cảng Hàng không sân bay miền Bắc Nguyễn Xuân Hiển.

         Anh Hiển cũng là một phi công, anh là trung đoàn trưởng trung đoàn không quân 918, hiện nay anh là Tổng giám đốc Tổng công ty Hàng không Việt Nam. Đa số các liệt sĩ không quân di chuyển về miền Nam đều được anh cấp vé miễn cước, đều có ghế ngồi như khách. Đây là ngoài thông lệ hàng không. Anh đã ký công văn đề nghị Văn phòng sứ quán Việt Nam tại Nga giúp đỡ đưa hài cốt liệt sĩ không quân hy sinh ở Nga về nước.

        Chuyện tìm, di dời tu sửa mồ mả gắn bia cho cácliệt sĩ thì nhiều. Mỗi lần đi là một câu chuyện dài, tôi chỉ kể vài chuyện trong mấy chục chuyến đi.

        Năm 1997 tôi và anh Nguyễn Hồng Nhị viếng thăm phần mộ anh Lê Quang Trung. Mộ anh đặt ở nghĩa trang huyện Phú Bình, Yên Bái. Phần mộ các anh đa số là sơ sài, có mộ chưa có bia. Tôi xúc động nhìn Thiếu tướng Nguyễn Hồng Nhị đầu bạc phơ cúi xuống nhổ những bụi cỏ dại trên mồ anh Quang Trung. Tôi vẫn giữ được tấm ảnh hôm đó với dòng chữ:

                                Anh đã về trong lòng đất mẹ
                                Để nhớ thương cho đồng đội thuở chiến chinh
                                Tóc đã bạc qua thời gian năm tháng
                                Nhớ thương anh làm đẹp chỗ anh nằm.


        Cũng thời gian đó chúng tôi tới viếng, gắn bia cho anh Đặng Ngọc Ngự ở nghĩa trang Trần Hưng Đạo -Vĩnh Yên. Anh là dũng sĩ trên cao đánh giỏi 9 lần nổ súng, 7 lần bắn rơi máy bay địch. Anh hy sinh ngày 8-7-1972 đó là những ngày chiến đấu quyết liệt của bộ đội PK-KQ để chuẩn bị cho trận Điện Biên Phủ trên không tháng 12-1972. Nguyễn Ngọc Ngự được Nhà nước truy tặng Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân ngày 11-1-1973.

        Gắn bia cho liệt sĩ Nguyễn Văn Lung xong thì đã quá 12 giờ. Tôi trải tờ báo đặt nắm cơm và ít muối vừng lên vạt cỏ ở nghĩa trang An Châu - huyện Sơn Động -Bắc Giang. Đang ăn anh Nhị bỗng hỏi.

        - Cậu Biên nằm đâu nhỉ?

         Anh Biên là phi công MIG-17 trong biên đội Biên - Mẫn. Ngày 19-7-1966 biên đội chiến đấu tại vùng trời Vĩnh Phúc bắn rơi 1 F- 105. Ngày 29-9-1966 anh cất cánh từ sân bay Gia Lâm lên đánh máy bay không người lái. Cự ly bắn quá gần, thoát ly không kịp, máy bay đâm vào tâm nổ. Đã nhiều lần anh Nhị nhắc tôi đi tìm phần mộ anh Biên. Tôi biết các anh cùng quê ở Hoài Nhơn - Bình Định nên nghĩa tình rất sâu đậm. Đã nhiều lần tôi lên nghĩa trang Việt Trì và những nghĩa trang gần đó mà tìm không thấy. Tôi vào phòng chính sách Quân chủng. Rất may sơ đồ mộ chí của anh vẫn còn. Mộ của anh trên ngọn đồi thuộc xã Văn Luông cách Việt Trì 13km. Ngọn đồi có 6 ngôi mộ, anh nằm ở ngôi thứ 3 giữa đỉnh đồi.

        Đồi núi trung du không cao. Chung quanh là đồng ruộng. Mỏm đồi bằng phẳng không phân biệt được đâu là phần mộ, ngoài những cây bạch đàn đã chặt đang mọc chồi non. Lớp dương xỉ, mẫu đơn, hoa mua phủ một tấm thảm dày. Biết Nguyễn Văn Biên nằm đâu? Chỗ nào? Sơ đồ mộ thì cũng không giúp tôi tìm được nơi anh nằm. Năm tháng đã xoá nhoà tất cả. Tôi về báo cáo anh Nhị. Anh ngồi im lặng hồi lâu rồi chậm rãi.

         Được rồi! Ta có cách.

        Sau đó không lâu anh điện cho tôi. Năm Chiến bay ra lúc 9 giờ. Cậu lên sân bay đón ông ta lên nghĩa trang làm việc luôn.

         Tôi biết Năm Chiến là nhà ngoại cảm nổi tiếng ở vùng Đà Nẵng. Tôi đưa ông lên Việt Trì. Chỉ bằng 2 chiếc nan hoa xe đạp xoắn ở khúc giữa một vòng, nắm lỏng trên 2 tay, ông di động trên khắp khu đồi. Hai chiếc nan hoa khi khép, khi mở. ông kết luận có ba ngôi mộ chưa cải táng. Tôi rút bút đánh dấu địa điểm 3 ngôi mộ rồi về xin ý kiến địa phương, đơn vị... Vậy là 3 ngôi mộ được khai quật. Lần khai quật đó có thượng tá Phạm Quang Trung - trưởng ban chính sách Quân chủng, trung tá Lê Đình Thìn - trợ lý chính sách, anh Nhị và tôi.


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 31 Tháng Bảy, 2016, 11:12:52 pm

        Thật kỳ diệu. Vị trí 2 ngôi mộ không sai một ly, nhưng không được xác nhận. Còn ngôi thứ ba. Đúng là ngôi mộ của Nguyễn Văn Biên. Chiếc quần simini gấp để dưới chân, áo ni lông đắp trên ngực. Song không có di vật nào của không quân. Để chắc chắn chúng tôi phải đi xác định.

        Tôi và đồng chí Phạm Quang Trung lên xe đến chỗ máy bay rơi. May quá, chúng tôi gặp ngay được bác Hưng, nhân chứng sự kiện hôm đó, bác kể:

         - Hồi đó tôi là dân quân. Lúc đó tôi không trực ban mà đang đào giếng. Bỗng thấy đất rung lên. Sợ quá, tôi vọt lên. Máy bay cháy, đạn pháo nổ ầm ầm. Thấy cờ đỏ sao vàng trên cánh - Thôi chết! Máy bay của ta? Tôi xuống mương bốc bùn trát lên quân hiệu. Chính tay bác đã đem Biên ra khỏi buồng lái.

        Không mặc quần áo cho anh được, vì anh đã biến dạng. Không còn di vật vì máy bay bốc cháy dữ dội. Vậy là đã rõ. Hôm nay chúng tôi khâm niệm anh theo truyền thống của dân tộc trong chiếc tiểu sành đỏ nâu màu đất quê hương, trên phủ lá cờ Tổ quốc. Đồng đội của anh sau bao năm tìm kiếm, rước hài cốt anh về nghĩa trang thành phố Việt Trì.

        Tôi đã ghi phía sau bức ảnh của anh:

                                      Đã lâu lắm anh nằm yên nghỉ
                                      Sau chiên tranh tìm mãi mới thấy nhau
                                      Đưa anh về nơi nghĩa trang lộng gió
                                      Để muôn đời các thế hệ nhớ công lao.

        Câu chuyện tìm hài cốt Nguyễn Văn Bảy (Bảy B) mới thật kỳ công.

         Tôi được biết anh hy sinh trong một trận đánh không cân sức trên vùng trời huyện Bá Thước – Thanh Hoá ngày 26-5-1972 và lao xuống ngọn núi Pu Ví xã Tân Thành. Đây là vùng núi hiểm trở thuộc huyện Thường Xuân. Nhân dân còn nhớ rất rõ nơi chôn cất anh ở chân núi Lê Lai.

         Nhưng không hiểu ai đó đã di dời anh đi đâu. Tôi lên đó nhiều lần tìm kiếm mà không kết quả. Nhiều cuộc họp huyện đội, phòng lao động thương binh xã hội huyện Thường Xuân, trung đoàn không quân 923 và tôi, vẫn không xác định được nơi di rời mộ người liệt sĩ. Coi như vô kế khả thi. Tôi phải vào từng thôn bản để tìm nhân chứng. Rất may gặp được ông Bùi Xuân Đức, trưởng công an xã thời bấy giờ. Nay ông đã ngoài 70 tuổi. ông rất yếu nhưng kể chuyện rất say sưa. Tôi vẫn chú ý lắng nghe nhưng chẳng hiểu gì cả, vì ông nói tiếng Mường. Sau dịch lại. Tháng 7- 1972 anh Nguyễn Văn Năm anh thứ năm của Nguyễn Văn Bảy mang theo tấm sơ đồ nơi Bảy hy sinh đạp xe lên vùng núi Thường Xuân tìm em. Địa phương nghi anh là người xấu, giữ anh lại một tháng sau khi xác minh anh mới được thả. Chính từ nguồn tin này anh Nhị đã gặp được anh Năm ở Sài Gòn. Chúng tôi xác định được mộ anh di dời về nghĩa trang huyện Quảng Xương từ những năm cuối thập kỷ 70. Bia của người anh hùng đánh trọng thương khu trục hạm Ha Bích ở vùng biển miền Trung là một miếng đá nhỏ ghi mấy chữ Nguyễn Văn Bảy, Bạc Liêu. Anh Nhị mừng lắm, thân chinh vào huyện xin đưa anh về Hà Nội để đưa về quê hương. Nhưng cơ quan, chính quyền địa phương không đồng ý. Được biết Thiếu tướng Mai Văn Cương, Phó tư lệnh Quân chủng có mối quan hệ mật thiết với tỉnh Thanh Hoá. Đặc biệt với Bí thư Tỉnh uỷ Nguyễn Trọng Quyền.

        Nhờ đồng chí Mai Văn Cương giúp đỡ, tôi cầm lá thư của anh vào cơ quan Tỉnh uỷ. Đang ở văn phòng thì đồng chí Bí thư đi tới. Sau khi xem lá thư, đồng chí Bí thư gọi điện ngay sang Sở Lao động thương binh xã hội. Ông yêu cầu tôi sang đó phối hợp giải quyết. Chúng tôi đã đưa được Nguyễn Văn Bảy về Tân Sơn Nhất. Ban liên lạc Câu lạc bộ Không quân phía Nam Nguyễn Văn Bảy A, Nguyễn Thành Út, Đinh Văn Dây, đồng đội và gia đình ra tận sân bay để đón hài cốt người anh hùng.

         Hài cốt các liệt sĩ được đặt tại trạm 77 của Không quân để đồng chí, đồng đội thắp hương tưởng niệm.

        Nhiều đồng chí đã viết vào sổ tang ôn lại một thời oanh liệt, khó khăn gian khổ, dũng cảm kiên cường của các chiến sĩ không quân. Nhiều bài thơ được đặt lên ban thờ để nhớ thương đồng đội (phụ lục I).

        Cũng tại đây trạm 77 không quân đã đón khá nhiều hệt sĩ không quân người miền Nam hy sinh trên miền Bắc trở về quê hương.

         Cho tới nay tôi đã nghỉ hưu, tuy còn nhiều trăn trở duyên nợ chưa làm tròn với các liệt sĩ, song tôi cũng tự hào làm hết sức mình vì các anh hùng liệt sĩ. Để các anh hùng liệt sĩ trường tồn với non sông, đất nước, với nhân dân Việt Nam anh hùng.


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 31 Tháng Bảy, 2016, 11:16:09 pm
        
PHỤ LỤC

        Trích tâm sự của NGUYỄN NGỌC ẨN hôm tiễn đưa 2 liệt sĩ Trần Thiện Lương, Trần Văn Mão về Bến Tre

                                       Đưa anh về với quê hương
                                       Hai anh Lương, Mão dáng hình còn đây
                                       Hương lòng đồng đội hôm nay
                                       Thắp lên thương nhớ tháng ngày bên nhau
                                       Tiếc thương đau xót nghẹn ngào
                                       Gửi hồn sông núi đi vào thiên thu.


Nguyễn Ngọc Ẩn                           
Cán bộ kỹ thuật máy bay Trung đoàn KQ 919        

Thành phố Hồ Chí Minh ngày 22-12-2000       

Trích thư cảm ơn
của gia đình liệt sĩ Nguyễn Văn Bảy

        Hài cốt liệt sĩ anh hùng Nguyễn Văn Bảy đã được di dời an toàn về quê nhà và được an táng nghiêm trang trọng thể tại nghĩa trang liệt sĩ thành phố Cà Mau.

        Công ơn ấy, tình nghĩa ấy bao la như trời đất, sâu đậm như đại dương.

         Xin nhận nơi gia đình chúng tôi lòng biết ơn sâu sắc nhất.

         Chị cả và các anh, em của liệt sĩ Nguyễn Văn Bảy ký tên.
         (Nguyễn Thị Nhậm - Nguyễn Năm - Nguyễn AnhSơn - Nguyễn Tấn Sỹ - Nguyễn Hữu Công).

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 25-4-2002.       


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 31 Tháng Bảy, 2016, 11:22:01 pm
       
CĂN CỨ SÂN BAY KHÔNG QUÂN

Đại tá HÀ VĂN CHẤP                     
Nguyên phó tham mưu trưởng Không quân       

        Cuộc chiến đấu giữa không quân Việt Nam với không quân Mỹ trong cuộc chiến tranh phá hoại là không cân sức. Chúng ta thường so sánh cuộc chiến đấu không cân sức không những với lực lượng chiến đấu trên không mà còn ở cả cơ sở hậu cần sân bay ở mặt đất càng không cân sức.

        Nhân kỷ niệm 50 năm ngày truyền thống Không quân nhân dân Việt Nam. Tôi ghi lại một chuyện về quá trình nghiên cứu, xây dựng, khôi phục, sửa chữa sân bay mà không quân ta ở miền Bắc bảo đảm cho không quân ta chiến đấu.

        Năm 1956 đến 1958 Cục Không quân có 2 chủ trương lớn. Một là đào tạo gấp rút đội ngũ phi công và cán bộ chỉ huy tham mưu, cán bộ công trình, kỹ thuật và hậu cần không quân, hầu hết được gửi sang Trung Quốc, Liên Xô đào tạo; bảo đảm tổ chức cơ quan và các đơn vị chiến đấu đầu tiên của không quân.

        Hai là, nhanh chóng lập quy hoạch xây dựng, tu sửa, khôi phục hệ thống sân bay hiện có; Cục Không quân đã cử cán bộ tác chiến và công trình, đi khảo sát 16 sân bay do Pháp xây dựng - Đồng chí Hà Văn Chấp, Tạ Đức, Nguyễn Chí, Kim Sinh, Nguyễn Đức Khuông, Nguyễn Phúc Ninh dưới sự chỉ đạo của đồng chí HoàngNgọc Diêu và đồng chí Đào Hữu Liêu lần lượt đến sân bay Nà Sản, Điện Biên, Lai Châu, Quỳnh Nha, Nghĩa Lộ, Yên Bái, Lao Cai, Tiên Yên, Đồng Bẩm, Kép, Chủ, Cẩm Thủy, Thọ Xuân, Vinh, Đô Lương, Đồng Hới. Trừ sân bay Gia Lâm, Cát Bi, Kiến An còn hầu hết sân bay, bằng đất, ngắn hẹp, tĩnh không hạn chế, quân Pháp dùng cho máy bay cánh quạt loại nhỏ hoạt động. Tuyvậy hệ thống sân bay Pháp để lại vẫn là tài sản quý giá đối với không quân ta.

         Cục Không quân hồi đó đã lập kế hoạch xây dựng sân bay mới, khôi phục, sửa chữa một số sân bay cũ, để chuẩn bị cho trung đoàn không quân đầu tiên hoạt động, trung đoàn không quân 921, 923 và 919. Được Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng tham mưu, đệ trình Chính phủ quyết định.

        Xây dựng mới sân bay Nội Bài do Nhà nước quyết định, Thủ tướng Phạm Văn Đồng chủ trì giao nhiệm vụ cho các Bộ, các ngành trực tiếp bảo đảm kinh phí, vật tư. Đồng chí Trần Quý Hai, Tổng Tham mưu phó trực tiếp chỉ đạo công trình. Sân bay Nội Bài khởi công 1959 đến năm 1963 hoàn thành sân bay cấp 1 đầu tiên ở miền Bắc. Năm 1965 bắt đầu khôi phục sân bay Kép, đổ bê tông đường băng, đường lăn, sân đỗ, tiêu chuẩn sân bay cấp 2, có đủ đường xá, kho tàng các trạm phục vụ.

        Sửa chữa sân bay Gia Lâm, Cát bi, mở rộng sân bay Kiến An. Tiếp đó xây dựng sân bay Yên Bái và chuẩn bị kế hoạch xây mới sân bay cấp 1 Thọ Xuân.

         Vinh dự cho không quân ta Nhà nước, quân đội trong những năm sau kết thúc chiến tranh chống Pháp, nền kinh tế rất khó khăn; đời sống nhân dân ta còn thấp kém, thiếu thốn nhưng Đảng và Chính phủ quyết tâm xây dựng Không quân Việt Nam chuẩn bị cho thắng lợi của cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước.

         Đi đôi với xây dựng công trình sân bay, Cục Không quân đã triển khai tổ chức các lực lượng chiến đấu; các tổ chức hậu cần kỹ thuật, xây dựng hệ thống sở chỉ huy, nhà ở, nhà nghiệp vụ ở các sân bay. Cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của Mỹ bắt đầu 1964, diễn ra rất ác liệt giữa không quân ta với không quân Mỹ. Trong đó Mỹ đánh phá sân bay ta nhiều lần, lắp đi lắp lại cố phá hủy những sân bay chính của ta như sân bay Nội Bài, Cát Bi, Kép, Yên Bái, Kiến An, Gia Lâm hòng triệt phá căn cứ xuất kích của không quân ta. Nhưng đế quốc Mỹ đã nhầm, Quân đội và nhân dân Việt Nam anh hùng đã thực hiện khẩu hiệu "Địch phá ta sửa, ta tiếp tục chiến đấu” không quân ta đã chiến đấu suốt 12 năm chiến tranh phá hoại góp phần đánh bại không quân Mỹ. Công lao trước hết là quân đội và nhân dân, đã chăm lo cho lực lượng không quân chiến đấu. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Chính phủ.

        Ôn lại những sự kiện quá trình xây dựng, chiến đấu của Không quân Việt Nam anh hùng - 50 năm Không quân Việt Nam là kỷ niệm sâu sắc trong đời quân ngũ của chúng ta.

Ngày 30 tháng 10 năm 2004.       


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Tám, 2016, 08:14:08 am
           
NHỮNG MỐC SON TRONG CUỘC ĐỜI “ANH BỘ ĐỘI NHẢY DÙ” - CỤC KHÔNG QUÂN NGÀY ẤY

BÙI DUY TRINH       
Đoàn cán bộ nhảy dù Cục Không quân       

        Buổi đầu thành lập.

        Cuối năm 1958, đầu năm 1959, Cục Cán bộ - Tổng cục Chính trị đã đến trường Bổ túc văn hóa Quân đội Lạng Sơn lấy người đưa về Viện Quân y 108 Hà Nội khám tuyển được vài chục đồng chí để phát triển lực lượng cho không quân, trong đó có cả các đồng chí Trần Mạnh, Nguyễn Phúc Trạch.

        Đoàn cán bộ nhảy dù được thành lập, rút ra trong số đã tuyển chọn ở trên, và từ đội ngũ đã chiến đấu sau chiến thắng Điện Biên Phủ, trên đường chính quy, hiện đại hóa, đã có thêm lực lượng mới - những "anh bộ đội 'nhảy Dù” Cục Không quân.

         Ngày ấy, Tư lệnh và cơ quan Cục Hàng không còn đóng "đại bản doanh" ở khu vực sân bay Gia Lâm, đồng chí đại tá Đặng Tính là Cục trưởng và thượng tá Hoàng Thế Thiện là Chính ủy.

        Ngay trong năm 1959 đoàn dù sang tập luyện tại căn cứ của sư đoàn đổ bộ đường không Trung Quốc. Đoàn gồm có 41 đồng chí lấy từ các đơn vị chiến đấu chống Pháp trên khắp các chiến trường cả nước, như các đồng chí đại úy Trần Thẩm, thượng úy Bùi Duy Trinh, chuẩn úy Vũ Minh Ngọc thuộc đại đoàn 312 (sư đoàn 312) đã tham dự chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954, đại úy Đặng Nhơn là quân Nam tiến, chuẩn úy Đại từ chiến trường Trung Bộ, chuẩn úy Cao Minh Dương chiến đấu ở chiến trường Nam Bộ.

        Mùa hè năm 1960, đoàn dù tiến hành nhảy dù thực tập lần đầu trên vùng đất bãi Yên Lãng ven bờ Bắc sông Hồng thuộc Phúc Yên, Vĩnh Phúc. Trong suốt các năm từ 1961 đến 1967, cánh dù và cánh bay đã gắn bó với nhau cùng “bay, nhảy” trên nhiều sân bay và khắp các vùng miền của đất nước như anh em vẫn thường nói là "cuộc đời bay nhảy".

        Huấn luyện nhảy dù.

        Với sự giúp đỡ của các chuyên gia nhảy dù Liên Xô (5 đồng chí) đoàn dù tập trung sức lực nhằm nhanh chóng xây dựng lữ đoàn dù 305 lớn mạnh (lữ đoàn dù 305 được thành lập vào đầu năm 1961), tại khu vực Bắc Giang với các bãi nhảy lớn (Buồm - huyện Lạng Giang, Chũ - huyện Lục Ngạn).

        Hàng vạn lượt nhảy dù đã được tiến hành an toàn trên các loại máy bay An-2, Li-2, IL-14 và cả trên khinh khí cầu lớn.

         Năm 1962 đã thực hành nhảy dù diễn tập đội hình lớn với sự tham dự của toàn bộ đoàn dù thuộc lữ đoàndù 305 với hơn 200 bộ đội dù trên 9 máy bay Li-2 đánh chiếm đầu cầu bến vượt sông tại khu vực Bắc Ninh, Hải Dương, phối hợp bảo đảm cho các binh chủng vượt sông chiến đấu.

        Ngoài huấn luyện nhảy dù cơ bản tại bãi nhảy đã chuẩn bị còn tổ chức nhảy nâng cao trình độ trên các địa hình phức tạp và thời tiết khác nhau: Nhảy dù xuống nước tại các hồ Đại Lải (Vĩnh Phúc), hồ Đầm Nậu (huyện Tam Nông, Phú Thọ), nhảy đêm xuống vùng đồi Lục Ngạn (Bắc Giang), nhảy phân đội trinh sát xuống khe, thung lũng hẹp vùng Nghĩa Lộ (Yên Bái), nhảy dù xuống rừng Hữu Lũng (Lạng Sơn).

        Một sự kiện đặc biệt là mùa thu năm 1962, Bộ Quốc phòng, Cục Quân huấn đã tổ chức hai đội: Đội nhảy dù và đội mô tô để tham dự Đại hội thể thao các nước XHCN lần 2 (SKDAII - 1962) tại Tiệp Khắc.

        Đội nhảy dù gồm 19 đồng chí được chọn từ lữ đoàn dù 305 (l5 đồng chí) tiểu đoàn trinh sát 174, Cục 2, Bộ Tổng tham mưu (3 đồng chí) và Câu lạc bộ thể thao Tổng cục Thể dục thể thao (l đồng chí) do đồng chí thượng úy Bùi Duy Trinh là đội trưởng. Thi đấu nhảydù có 3 môn được tổ chức tại thành phố Brno, Tiệp Khắc từ ngày 8 - 10-9-1962. Môn thứ nhất là thi nhảy dù trúng đích từ độ cao 1500m, rơi tự do 20 giây; môn thứ 2 là nhảy dù trúng đích từ độ cao 1000m, rơi tự do 3 giây, và môn thứ 3 là nhảy dù tập thể với trang bị và chạy 20km. Mỗi môn thi với mỗi nước được cử 5 vận động viên. Đoàn Việt Nam đăng ký tham dự cả 3 môn.


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Tám, 2016, 08:15:54 am

        Ngày thứ nhất thi đấu với môn thứ nhất có yêu cầu kỹ thuật tổng hợp nhảy dù cao hơn: Nhảy dù từ độ cao 1500m, rơi tự do 20 giây, tư thế rơi phải giữ đúng theo hướng bay, tự mở dù rồi điều khiển dù tiếp đất trúng đích là tâm chữ thập. Kết quả đội Việt Nam đoạt giải 3sau 2 đội Tiệp Khắc và Liên Xô. Hai môn thi đấu các ngày tiếp theo đội Việt Nam đều xếp hạng thứ 4. Môn thứ 3 là nhảy dù tập thể với 5 vận động viên được trang bị ba lô 10kg, vũ khí mang theo là trung liên và tiểu liên, lựu đạn, chạy qua nhiều địa hình, dọc đường phải thực hiện các nội dung bắn súng và ném lựu đạn trúng đích, mang vác thương binh về đích, cự ly chạy là 20km. Về bắn súng đội Việt Nam đạt điểm cao nhất.

        Chiều ngày thứ hai, ban tổ chức kết hợp buổi lễ khai mạc ngày hội hàng không Tiệp Khắc đã trao giải thưởng nhảy dù. Trước sự chứng kiến của hàng vạn khán giả, quan khách và nhà báo Tiệp Khắc và quốc tế 5 vận động viên Việt Nam gồm các đồng chí Trình (độitrưởng), Dưỡng, Đó, Ngạc và Trường bước lên bục nhận Huy chương Đồng của môn thi đấu thứ nhất, cờ đỏ sao vàng của Việt Nam được kéo lên bay phần phật cùng cờ của hai nước bạn Tiệp Khắc và Liên Xô. Trong chiều nắng đẹp đó, tất cả các anh em đều xúc động, tự hào với cảm giác như mơ vì đã đạt được thành tích cao ngay lần đầu Việt Nam "đọ cánh" với các đội bạn Đông âu và Liên Xô có trình độ kỹ thuật khá điêu luyện và có nhiều kinh nghiệm thi đấu nhảy dù quốc tế.

        Đây cũng là phần thưởng xứng đáng cho ý chí gian khổ tập luyện của các vận động viên Việt Nam cùng với sự giúp đỡ tận tình của các bạn Tiệp Khắc. Tất cả cácvận động viên Việt Nam thi đấu với tinh thần hết sức tự tin, tự chủ, quyết tâm cao. Đây cũng là lần đầu tiên các vận động viên thể thao Việt Nam ra thi đấu quốc tế đạt được giải tập thể có huy chương.

        Vào ngày Quốc khánh 2-9- 1962 bộ đội dù đã biểu diễn chào mừng và ra mắt nhân dân Thủ đô tại khu vực sân bay Gia Lâm.

        Vào dịp Quốc tế lao động 1-5-1964 bộ đội đã nhảy dù chào mừng tại sân bay Cát Bi, Hải Phòng.

         Hoạt động dù phục vụ chiến đấu.

         1. Chiến trường Lào.

         Cuối năm 1960 đầu năm 1961, khi đoàn dù đang tập luyện nâng cao tại Trung Quốc thì được lệnh về gấp. Đoàn được máy bay bạn đưa từ sân bay Vũ Hán bay về hạ cánh tại sân bay Gia Lâm, rồi ngay trong đêm đó, đoàn kỹ thuật dù bắt tay vào công việc cùng các đồng chí hậu cần, kỹ thuật Cục Không quân và tổ bay chuẩn bị cho hoạt động tiếp tế cho bộ đội Pa thét Lào.

        Liên tiếp trong các năm 1961 - 1962 , đã tổ chức thả dù tiếp tế đáp ứng nhu cầu cần chi viện rất lớn cho bộ đội Pa thét Lào, quân tình nguyện Việt Nam tại Lào, quân dù "Coong Le" sau đảo chính lật đổ phái phản động cực hữu thân Mỹ.

         Trong hai năm 1962 - 1963 ta còn cử cán bộ dù (đồng chí Hồ Sĩ Tấn) sang huấn luyện quân dù Coong Le và thực hành nhảy dù biểu diễn trong ngày tết Lào chào mừng thắng lợi của Chính phủ hòa hợp dân tộc Lào.

        Trong suốt quá trình phục vụ chiến đấu chiến trường Lào đã thả hàng triệu tấn vũ khí, khí tài, lương thực an toàn đến tay các đơn vị chiến đấu.

        2. Chiến trường miền Nam.

        Trong cuộc nổi dậy tổng công kích tết Mậu Thân năm 1968 của quân giải phóng miền Nam vào các thành phố và đô thị lớn trên toàn miền Nam. Bộ đội dù đã hiệp đồng chặt chẽ với các tổ lái máy bay, với ý chí chiến đấu cao, trình độ kỹ thuật được nâng cao đã vượt qua mọi khó khăn, bay đêm trong thời tiết xấu, bị địch phát hiện khống chế, phải luồn lách núi, thay đổi độ cao, chuyển đổi hướng bay thả, đã tiếp tế kịp thời cho bộ đội chiến đấu khu vực Tây Thừa Thiên - Huế.

        3. Chiến tranh biên giới phía Bắc 1978 – 1979

        Quân chủng Không quân đã tổ chức một số chuyến bay thả vũ khí và lương thực cho một bộ phận chủ lực đang chiến đấu ở khu vực Trà Lĩnh, Đông Bắc thị xã Cao Bằng trong các tình thế luồng tiếp tế băng qua đường số 4 hiện gặp phải rất nhiều khó khăn.


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Tám, 2016, 08:17:36 am

        4. Các hoạt động phối hợp chiến đấu khác.

        Trong những năm chống chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ, một số đơn vị dù thực hiện một phương thức mới để đánh máy bay địch là sử dụng khinh khí cầu gắn mìn định hướng. Với sự giúp đỡ của Bộ Tổng tham mưu, Viện nghiên cứu KH-KT quân sự, cơ quan Tổng cục Hậu cần, kỹ thuật, quả khinh khí cầu lớn thường chở bộ đội nhảy dù được vận dụng để chế tạo các bóng chứa khí hyđrô. Có hai loại bóng khí hyđrô: Loại 30m3 và loại 50m3 được gắn mìn định hướng, bóng được giữ bằng dây cước ny lông và thả ở độ cao trên dưới 1000m.

         Khinh khí cầu được thả để tạo thành các bãi chướng ngại vật trên không giống như bãi chông mìn trên trời nhằm chống lại chiến thuật bay thấp luồn lách theo các cửa sông, dải núi rừng vào đánh lén các mục tiêu quân sự, chính trị, kinh tế như cầu giao thông quan trọng trên miền Bắc nước ta.

        Hoạt động này hiệp đồng cùng với các quân binh chủng khác như ra đa, tên lửa phòng không trong việc phát hiện và chủ động đánh máy bay địch có hiệu quả hơn.

        Kết quả của cách đánh máy bay bằng cách thả khinh khí cầu đã gây bất ngờ và hoảng sợ cho không quân địch. Theo một số thông tin thì có 3 máy bay phản lực Mỹ bị vướng nổ và rơi. Ngày 8-2-1967 một máy bay AD 6 bất ngờ bị lao vào bóng khinh khí cầu có gắn mìn định hướng tại bãi khinh khí cầu được thả tại huyện Yên Khánh, Ninh Bình. Chiếc máy bay này bị nổ tungvà rơi tại Cửa Đáy, Ninh Bình.

        5. Một số hy sinh xương máu của bộ đội nhảy dù.

        Trong đợt nhảy dù chào mừng ngày Quốc tế lao động 1-5-1964 tại sân bay Cát Bi, Hải Phòng một tai nạn đã xảy ra, toàn bộ kíp lái một máy bay An-2 thả dù cùng một đồng chí nhảy dù đã hy sinh. Cánh quạt của chiếc An-2 bay thả dù đội hình phía sau do đồng chí Tình là lái chính đã va quệt vào cánh bên phải của chiếc An-2 bay phía trước do đồng chí Cẩn là lái chính và bị gẫy văng đi. Tất cả bộ đội nhảy dù trên chiếc máy bay này đều được lệnh nhảy ra và mở dù an toàn hết. Trong máy bay còn lại 2 đồng chí chỉ huy thả dù, một đồng chí kịp thoát ra khi máy bay vừa chúi xuống, rơi tự do cách mặt đất khoảng hơn 100m, mở dù và tiếp đất an toàn (đồng chí Trinh). Đồng chí thứ 2 (đồng chí Thao) tuy có thoát ra ngoài máy bay được và dù có thấy mở nhưng đã hy sinh trong tư thế ngồi nghiêng gần sát chỗ chiếc máy bay An-2 cắm xuống đất.

        Trong cuộc nổi dậy tổng công kích tết Mậu Thân 1968 trong khi tiến hành các đợt thả dù tiếp tế cho bộ đội ở chiến trường Thừa Thiên - Huế đã có 3 máy bay gồm cả kíp lái cùng anh em kỹ thuật thả dù đã mãi mãi không trở về trong nỗi nhớ thương mong đợi của đồng đội và người thân. Bảy đồng chí bộ đội dù đã hy sinh là: Đồng chí Toàn, thượng úy chính trị viên đội thả dù sân bay Gia Lâm và sáu đồng chí khác là Lưa, Huy, Ngạc, Thái, Thịnh và Thương.

        Bộ đội dù phát triển và lớn mạnh.

        Sau giai đoạn 1962 - 1963, Bộ Quốc phòng điều lữ đoàn dù 305, tiểu đoàn trinh sát 174 Cục 2 và một số cán bộ kỹ thuật dù (các đồng chí trung úy Phúc, chuẩn úy Huệ , Thửa , Dưỡng) ... về Quân chủng Không quân theo yêu cầu phát triển thêm một số trung đoàn và sư đoàn bay chiến đấu.

        Đến năm 1980 Quân chủng Không quân cũng đã đưa một số cán bộ sang học tập nâng cao trình độ và dự thi nhảy dù tại Hung-ga-ri.

        Trong các năm tiếp theo, Câu lạc bộ Hàng không của Quân chủng Không quân phối hợp với Cung thiếu nhi Hà Nội, Cung văn hóa hữu nghị Việt Xô, Cung văn hóa thể thao thanh thiếu niên Hà Nội tổ chức huấn luyện và thực hành nhảy dù cho hàng trăm học sinh, sinh viên và công nhân viên, những người yêu thích môn nhảy dù.

        Ngày nay, đội ngũ bộ đội nhảy dù đã và đang được phát triển ngày càng vững mạnh kế thừa truyền thống oai hùng của bộ đội nhảy dù thời kỳ đoàn cán bộ nhảy dù Cục Không quân.

        Nhân dịp kỷ niệm 50 năm thành lập Quân chủng Không quân, chúng tôi những "anh bộ đội nhảy dù” từ thời Cục Không quân ngày ấy rất vui mừng và chúc các đồng chí "bay nhảy" hôm nay luôn phát huy truyền thống, rèn luyện bản lĩnh, kỹ thuật ngày càng tinhnhuệ, hiệp đồng chặt chẽ, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.

Hà Nội, tháng 2 năm 2005.       


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Tám, 2016, 08:19:00 am
       
VÀI NÉT CHỐNG CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI CỦA MỸ Ở HOÀ LẠC

TRẦN THẨM           
Sân bay Gia Lâm       

                Sân bay có 1, 2 biên đội máy bay trực chiến hay không thì các bộ phận như (SCH), thông tin, khí tượng. Các bộ phận phục vụ xăng dầu, ô xy khí lạnh, xe nạp điện, xe kéo đất máy bay đều phải sẵn sàng phục vụ tốt. Sân bay là mục tiêu cố định, vừa dài, vừa rộng, máy bay Mỹ dễ đánh trúng. Sân bay ở phía Tây, Hà Nội nên không thể không đánh. Cứ 1 đến 2 ngày máy bay giặc lại đến ném bom nếu chưa hỏng; đánh như cơm bữav v.. Hố bom phá rộng 18 - 20m, sâu 10 - 15m, nếu là bom nổ chậm phải chui xuống tháo kíp, lôi bom lên mới sửa chữa sân bay được. Đơn vị sân bay phải hiệp đồngvới các đơn vị bạn như công binh, pháo binh, dân quân, du kích, san lấp ngay. Là sân bay dã chiến: Đất đồi, lát ghi sắt nên mỗi quả bom nổ ghi lại cong lên như hoa muống. Quyết tâm của Đảng ủy và Bộ tư lệnh Không quân là "Địch đánh ta sửa ta bay", "dứt tiếng bom là mệnh lệnh". Thủ trưởng sân bay phải nắm vững và có kế hoạch sửa chữa sao cho nhanh đúng kỹ thuật bảo đảm chất lượng đường băng. Có trận 1 - 2 đêm sửa chữa xong, có trận 4 - 5 đêm mới sửa chữa xong. Lực lượng chủ yếu là của sân bay, công binh, dân quân, tự vệ, du kích, địa phương. Có trận chỉ huy tỉnh đội, Tỉnh ủy viên trực tiếp đến sân bay đóng góp ý kiến, điều động lực lượng. Tôi nhớ có lần phải trực tiếp lên chỗ sơ tán của tỉnh báo cáo kết quả công việc và xin điều động thêm lực lượng, đồng chí Xuân Trường - Bí thư tỉnh và đồng chí Bạch Thành Phong - Chủ tịch tỉnh đang họp Tỉnh ủy "tuyên bố nghỉ 10 phút gặp các cậu sân bay xem công việc sao đã". Nhờ có sự quan tâm của tỉnh nên việc điều động lực lượng sửa chữa cũng nhanh chóng kịp thời. Từ 5-9-1967 đến 5-9-1968 máy bay giặc Mỹ đánh phá gần 60 trận có trận chúng vào ném bom đêm như trận 30-5-1968 trên sân bay 1500 người đang sửa chữa, đèn điện, đèn măng xông thắp sáng rực cả 1 góc trời, lệnh của Bộ tư lệnh Không quân, máy bay Mỹ còn đánh nữa, cho giải tán ngay... là thủ trưởng sân bay tôi rất lo, giải tán thì không khó nhưng ảnh hưởng đến việc sửa chữa những trận sau. Đang sửa chữa sân bay, qua điện thoại tôi báo cáo Tư lệnh: Người tuy đông nhưng không ai bị thương vong vì nhờ hệ thống hầm hố đã được chuẩn bị từ mấy ngày trước và xin thêm 1 vọng quan sát xa trên núi để báo động kịp thời. Phó tư lệnh Nguyễn Văn Tiên nghe và cho phép tiếp tục sửa chữa, sân bay được 1 đêm sửa chữa trọn vẹn được Bộ tư lệnh và Tỉnh ủy biểu dương khen ngợi... lại có lần 16 ủy viên thường vụ tỉnh Hà Tây về thăm đơn vị và khu sơ tán máy bay ở trong rừng, sân bay đã canh gác và hướng dẫn phái đoàn đi thăm an toàn. Trước khi về tỉnh sân bay có tổ chức liên hoan nhẹ. Đồng chí Trị nhân viên dự báo khí tượng sáng tác 1 bài hát "Cô gái Hà Tây" ngụ ý ca ngợi hình ảnh của người con gái Hà Tây kiên cường đánh Mỹ, sửa chữa gấp sân bay được đoàn của tỉnh hoan nghênh và xin bài hát về làm kỷ niệm...

        Nhớ lại một lần khác sân bay hoàn thành xong 3 hầm phòng tránh bom bi của Mỹ, công việc mới mẻ lại gấp gáp nhưng được cái thuận lợi sân bay dã chiến nền bằng đất đồi, lát ghi sắt, nên là sân bay làm xong trước. Đồng chí Tư lệnh Phùng Thế Tài một trong số thủ trưởng nóng tính, có lần trước cuộc họp các trung đoàn trưởng cao xạ, Tư lệnh đã nói: Làm công sự cho pháo gì mà "chưa đụng vào đã đổ”, ý nói làm công sự bôi bác quá không bảo đảm phòng tránh cho khí tài. Nên khi được tin Tư lệnh xuống kiểm tra tôi rất sợ. Nhưng thực ra không đến nỗi thế. Vì Tư lệnh được tin sân bay Hòa Lạc đã làm xong hầm chống bom bi, nên Tư lệnh muốn kiểm tra thực tế để phổ biến kinh nghiệm, động viên các sân bay khác nhanh chóng hoàn thành... Nên trái với các lần gặp gỡ khác Tư lệnh tìm hiểu cách thức làm hầm phòng tránh bom bi của Mỹ. Vì chính những thanh đường ray dài 9m nặng mấy tạ, phía trên liên kết bằng ghi sắt Liên Xô, đổ đất. Sau trận máy bay Mỹ đánh cả bom phá, bom bi nhưng máy bay vẫn an toàn. Suốt buổi thủ trưởng rất vui vẻ hỏi han khá tỷ mỉ, động viên cán bộ chiến sĩ sân bay xong lên ô tô về cơ quan, anh em thở phào nhẹ nhõm .


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Tám, 2016, 08:21:29 am
       
NHỚ LẠI MỘT THỜI

NGUYỄN HỮU SIỂN           
Cục Hậu cần Không quân       

        Ngày 3-3-2005 kỷ niệm 50 năm ngày truyền thống bộ đội Không quân nhân dân Việt Nam. Tôi rất phấn khởi tự hào đã có gần 40 năm công tác trong ngành Hậu cần không quân; được góp một phần công sức của mình vào "chiến công thầm lặng" cùng các đồng nghiệp của mình bảo đảm hậu cần cho không quân ta chiến đấu, xây dựng và trưởng thành trong 50 năm qua.

         Bảo đảm kỹ thuật - hậu cần cho hoạt động bay được coi là nhiệm vụ số 1 của ngành Hậu cần không quân. Trải qua 50 năm xây dựng và phục vụ, dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân chủng, sự chỉ đạo của Bộ Quốc phòng, sự đùm bọc giúp đỡ của Đảng, chính quyền và nhân dân các địa phương... Ngành Hậu cần không quân đã từng bước trưởng thành và phát triển; các thế hệ cán bộ, nhân viên hậu cần không quân kế tiếp nhau trong suốt 50 năm qua đã luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, quan điểm phục vụ... bám sát nhiệm vụ chính trị, trong bất kỳ tình huống nào cũng đáp ứng được kịp thời cho các hoạt động của Quân chủng, góp phần vào truyền thống vẻ vang "Trung hành vô hạn, tiến công kiên quyết, đoàn kết hiệp đồng lập công tập thể" của Không quân nhân dân Việt Nam anh hùng.

        Trải qua gần 50 năm xây dựng và phục vụ của ngành Hậu cần không quân, trong ký ức của tôi có 2 thời điểm đáng ghi nhớ nhất:

        Trong cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của không quân đế quốc Mỹ - những thế hệ cán bộ, nhân viên hậu cần không quân đã vượt mọi khó khăn gian khổ "Bám trụ sân bay" bảo đảm cho không quân ta xuất kích chiến đấu, phục vụ chiến đấu lập công xuất sắc. Hệ thống sân bay trên miền Bắc là mục tiêu đánh phá thường xuyên ác liệt của không quân Mỹ. Với tinh thần "Địch đánh, ta sửa ta bay" ngành Hậu cần không quân vẫn trụ vững và là lực lượng nòng cốt cùng với bộ đội và nhân dân các địa phương sửa chữa gấp hàng ngàn hố bom trên các sân bay... bảo đảm cho không quân ta cất cánh chiến đấu kịp thời; đã bảo đảm cơ động hàng ngàn trang thiết bị kỹ thuật, xe máy đặc chủng; tổ chức tiếp nhận vận chuyển cấp phát hàng triệu tấn xăng dầu, bom đạn, vật tư kỹ thuật hàng không v.v...Cơ động lực lượng hậu cần đến các sân bay dã chiến bí mật bảo đảm cho máy bay ta xuất kích đánh địch trên không, trên biển và trên bộ, lập công xuất sắc. Những chiến công của không quân ta cũng là "chiến công thầm lặng" của cán bộ nhân viên ngành Hậu cần không quân, góp phần làm nên thành tích vẻ vang của Không quân nhân dân Việt Nam anh hùng.

        Cuộc tổng tiến công chiến lược mùa xuân 1975 giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước; cùng với các lực lượng và đơn vị trong Quân chủng, cán bộ nhân viên hậu cần không quân đã tiếp quản, khai thác sử dụng toàn bộ hệ thống sân bay và trang bị vật chất của địch để lại với khối lượng vô cùng to lớn. Ngành hậu cần không quân đã nhanh chóng nắm bắt và khai thác sử dụng có hiệu quả trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật và hạ tầng cơ sở trên các sân bay, quản lý sử dụng được nhiều trang bị kỹ thuật đặc chủng hệ II phục vụ cho không quân ta chiến đấu ở mặt trận Tây Nam, huấn luyện và làm các nhiệm vụ khác v.v... với cường độ cao trên các sân bay ở phía Nam Tổ quốc.

        Khi Liên Xô và các XHCN Đông âu tan rã: Nguồn bổ sung máy bay, trang bị kỹ thuật hàng không, trang bị kỹ thuật hậu cần bảo đảm bay, nhiên liệu bay v.v...của Quân chủng Không quân bị hẫng hụt và gặp rất nhiều khó khăn. Tin tưởng vào đường lối đổi mới của Đảng, quán triệt quan điểm "Độc lập, tự chủ, cần kiệm, tự lực, tự cường", nêu cao ý thức "giữ tốt dùng bền"...ngành Hậu cần không quân đã phát huy nhiều sáng kiến cải tiến kỹ thuật nhằm khai thác sử dụng, bảo quản giữ gìn tốt các trang bị, cơ sở vật chất hiện có. Các cơ quan, xí nghiệp, nhà máy thuộc ngành Hậu cần không quân quản lý đã phối hợp với cơ quan kỹ thuật hàng không nghiên cứu, sửa chữa, sản xuất được một số trang thiết bị đặc chủng, bổ sung cho các phương tiện phục vụ bay như:

         - Cải tiến, sản xuất dây cót và đầu cắm cho các xe khởi động máy bay (xe APA) của Liên Xô.

        - Sản xuất được moóc điện khởi động máy bay (MĐ-36) để thay thế một phần các xe APA trên các sân bay cơ bản.

        - Cải tiến và sản xuất được móc khí nén; ống cao su chịu dầu bổ sung cho các xe tra nạp xăng dầu.

        - Cùng với ngành kỹ thuật hàng không và cơ quan huấn luyện chiến đấu đến các đơn vị bay nghiên cứu thử nghiệm đưa vào sử dụng dầu bay Jet-a1 của các nước tư bản thay cho dầu TC- 1 của Liên Xô trước đây...Bảo đảm cung cấp thay thế kịp thời các loại nhiên liệu cho không quân ta huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu trong tình hình mới.

        - Đề xuất với lãnh đạo, chỉ huy Quân chủng, phát động phong trào thi đua "giữ gìn máy tốt bền, kho xưởng kiểu mẫu...", "Doanh trại chính quy sạch đẹp" có hiệu quả thiết thực trong công tác quản lý giữ gìn trang bị phục vụ bay an toàn và từng bước cải thiện đời sống cho bộ đội Không quân.

        Sau một thời gian dài sử dụng, cơ sở hạ tầng và các công trình trên các sân bay bị hư hỏng xuống cấp nhiều; thực hiện chủ trương của Bộ Quốc phòng và Quân chủng, ngành Hậu cần không quân đã khảo sát, thiết kế và tổ chức thi công được nhiều hạng mục công trình trên các sân bay:

        - Sửa chữa cơ bản hàng trăm hố bom (trước kia chỉ sửa chữa gấp) trên các sân bay: Nội Bài, Kép, Yên Bái...Sửa chữa, cải tạo, làm mới nhiều công trình bị hưhỏng, sụt lở ở các sân bay phía Nam: Sân bay Đà Nẵng,Phù Cát, Biên Hòa, Phan Rang, Nha Trang, CầnThơ v. v...

        - Xây dựng hàng chục kho xăng dầu có sức chứa lớn thay thế cho hệ thống kho bể dã chiến (ở miền Bắc) và kho bồn cũ (ở phía Nam) .

        - Xây dựng hàng chục ki-lô-mét tường rào bảo vệ  khu để máy bay, khu kho vũ khí, khí tài hàng không,khu kho xăng dầu v.v... trên các sân bay.

         - Xây dựng mới, cải tiến nâng cấp hàng vạn m2 nhà xưởng kỹ thuật, nhà để xe máy, nhà kho v.v... bảo đảm cho tất cả các phương tiện kỹ thuật, xe máy v.v... đều có nhà xưởng khang trang; góp phần quan trọng vào giữ gìn bảo quản, kéo dài tuổi thọ trang thiết bị bảo đảm cho hoạt động bay an toàn.

        Sau khi hợp nhất 2 Quân chủng Phòng không và Không quân thành Quân chủng Phòng không - Không quân. Nhiệm vụ hậu cần chung của Quân chủng có thay đổi nhưng công tác hậu cần bảo đảm bay không thay đổi mà yêu cầu công tác bảo đảm hậu cần sẽ ngày càng cao hơn. Kỷ niệm 50 năm ngày truyền thống Không quân. Xin chúc cán bộ, nhân viên ngành Hậu cần PK-KQ. Đặc biệt là cán bộ nhân viên hậu cần các sân bay, các đơn vị không quân tiếp tục tiếp bước các thế hệ đi trước, bảo đảm phục vụ bay cho Quân chủng xây dựng, huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu ngày càng tốt hơn.

Hà Nội, tháng 8 năm 2004.       


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Tám, 2016, 08:24:00 am
           
CÔNG TÁC KHÁM TUYỂN, GIÁM ĐỊNH SỨC KHOẺ PHI CÔNG VÀ NHÂN VIÊN CÔNG TÁC TRÊN KHÔNG TRONG 50 NĂM KHÔNG QUÂN NHÂN DÂN VIỆT NAM

Đại tá BS. MAI KHẮC THÁI               
Nguyên Phó viện trưởng Viện PK-KQ       

        Để bảo đảm cho mọi hoạt động của không quân, công tác hậu cần đóng một vai trò khá quan trọng, trong đó có ngành Quân y. Để đảm bảo sức khỏe cho lực lượng không quân nói chung, quân y không quân có một nhiệm vụ đối với lực lượng hoạt động trên không đó là công tác: "Khám tuyển và giám định sức khỏe".

        Từ năm 1955 sau khi hòa bình lập lại, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Quân đội nhân dân Việt Nam đã quan tâm đến việc xây dựng lực lượng không quân Việt Nam. Để có được người lái máy bay, chúng ta đã tuyển lựa học viên ở các trường quân đội (như Trường văn hóa Lạng Sơn) và cán bộ chiến sĩ ở các đơn vị quân đội để gửi đi học ở Liên Xô và Trung Quốc. Trong việc tuyển chọn, lúc đầu chúng ta đang còn thiếu cán bộ quân y chuyên ngành, phải nhờ đến sự giúp đỡ kỹ thuật giỏi ở Viện Quân y 108, nhưng về mặt kiến thức y học hàng không, và trang bị kỹ thuật chuyên ngành còn bị hạn chế.

        Để đáp ứng cho công tác hàng y có chất lượng và chủ động, lực lượng không quân cũng đã chọn một số cán bộ quân y không quân đi học ở Liên Xô và Trung Quốc. Trong lúc đó việc khám tuyển phi công vẫn phải tiến hành liên tục. Mặc dù còn nhiều mặt yếu, nhưng với sự cố gắng vượt bậc của quân y không quân, được sự giúp đỡ tận tình của Viện Quân y 108, chúng ta đã đáp ứng đủ yêu cầu học viên bay và nhân viên trên không đưa đi học ở Liên Xô, Trung Quốc, Tiệp Khắc ...

         Đến ngày 1-5-1959 không quân đã thành lập trung đoàn vận tải đầu tiên - trung đoàn 919 - đóng tại sân bay Gia Lâm.

        Ngày 20-8-1959 thành lập Trường huấn luyện Hàng không (nay là Trường sĩ quan Không quân) với trung đoàn huấn luyện bay - trung đoàn 910 đóng ở sân bay Cát Bi.

        Đầu năm 1964 Quân chủng có trung đoàn tiêm kích đầu tiên - trung đoàn 921 - rồi tiếp theo chúng ta có thêm nhiều trung đoàn tiêm kích, vận tải, trực thăng...

        Trước sự phát triển lớn mạnh nhanh chóng của lực lượng không quân, Quân chủng Không quân từ năm 1965 và gần như hàng năm tiếp theo, gửi nhiều bác sĩ đi học ở Liên Xô về y học hàng không.

        Khi nhận thấy lực lượng quân y không quân đã khá đầy đủ trước yêu cầu khám tuyển, giám định và điều trị cho lực lượng trên không một cách trực tiếp, chủ động, ngày 15-1-1970, Quân chủng Phòng không -Không quân ra quyết định thành lập Bệnh viện Không quân.

        Cũng từ khi bệnh viện thành lập, Đảng ủy và thủ trưởng bệnh viên giao công tác khám tuyển giám định lực lượng trên không cho Hội đồng giám định y khoa không quân của bệnh viện đảm nhận. Hội đồng bao gồm các bác sĩ có đủ kiến thức về y học hàng không của từng chuyên khoa. Nhờ đó công tác khám tuyển, giám định sức khỏe định kỳ, giám định sức khỏe bất thường chất lượng ngày càng cao.

        Các bác sĩ của Hội đồng giám định qua nghiên cứu điều lệ sức khỏe bay của Liên Xô, kết hợp với kinh nghiệm và thực tế của Việt Nam, đã biên soạn được cuốn "Điều lệ khám tuyển và giám định sức khỏe phi công và nhân viên trên không". Sau khi thông qua, Quân chủng đã cho xuất bản để áp dụng trong toàn Quân chủng.

        Sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Quân chủng Phòng không - Không quân tiếp quản nhiều sân bay, thu chiến lợi phẩm nhiều máy bay chiến đấu và vận tải, đòi hỏi tăng đột biến về số lượng phi công và nhân viên kỹ thuật trên không. Theo chủ trương của cấp trên, Hội đồng giám định y khoa không quân phải tiến hành tuyển chọn lại số phi công và nhân viên bay trước đây vì sức khỏe hoặc vì những lý do khác phải xuống công tác mặt đất để trở lại nghề bay, đồng thời giám định sức khỏe những phi công và nhân viên bay của không quân ngụy ở lại. Nhờ đó mà chúng ta có thêm nhiều tổ lái cho các loại máy bay của ta cũng như của ngụy để lại.

        Không quân Việt Nam đã có nhiều sư đoàn đóng trên các sân bay từ Bắc chí Nam, Trường sĩ quan Không quân ở Nha Trang có nhiều học viên huấn luyện trên 4 sân bay. Trước yêu cầu thực tế về công tác khám tuyển và giám định trên một diện rộng khắp cả nước, ngày 4-4-1977 Quân chủng ra quyết định thành lập "Khoa giám định y học hàng không" nằm trong biên chế của Bệnh viện Không quân, có đầy đủ nhân viên và phương tiện đi lại, tạo thuận lợi không những cho công tác khám tuyển và giám định, mà còn tạo điều kiện bác sĩ hàng y nghiên cứu khoa học và tham gia công tác giảng dạy của bác sĩ hàng y. Các bác sĩ trong khoa giám định còn lần lượt được Quân chủng cho đi Liên Xô tập huấn về Y học hàng không nhiều đợt.

        Để giúp cho bác sĩ của ta rút được nhiều kinh nghiệm và tăng thêm nhiều kiến thức hiện đại của Y học Hàng không của bạn, Quân chủng hàng năm đề nghị 1 đoàn bác sĩ Liên Xô qua giúp ta tuyển lựa học viên bay.

         Một sự kiện lịch sử đáng ghi nhớ quân y không quân đã đóng góp một phần lớn trong việc khám tuyển phi công vũ trụ cho chuyến bay vũ trụ Việt - Xô năm 1980, bạn đã đánh giá cao về khả năng khám tuyển của ta. Quân y không quân không những chỉ tham gia khám tuyển, mà còn theo dõi sức khỏe của phi công vũ trụ Phạm Tuân trước khi bay, trong khi bay và sau khi bay. Ngày 23-4-1987, Chủ tịch ủy ban nghiên cứu vũ trụ Việt Nam do Viện trưởng Viện khoa học Việt Nam Nguyễn Văn Hiệu ký quyết định cấp bằng chứng nhận giải thưởng khoa học vì thành tích hoàn thành xuất sắc công trình khoa học nói trên cho 4 bác sĩ: Nguyễn Lung, Lê Minh, Mai Khắc Thái, Dương Trọng Hiệp.

        Qua các giai đoạn xây dựng và trưởng thành của Không quân Việt Nam trong 50 năm qua, công tác khám tuyển và giám định sức khỏe lực lượng trên không của quân y không quân đã đạt những kết quả đáng tự hào:

         Bất kỳ ở giai đoạn nào, quân y không quân cũng bảo đảm tuyển đủ số lượng học viên theo yêu cầu.

        - Giám định sức khỏe định kỳ cũng như bất thường đúng thời gian, đúng điều lệ. Đề ra yêu cầu bảo đảm sức khỏe đúng từng đối tượng, tăng thêm tuổi thọ của lực lượng bay. Đặc biệt quan trọng là không để xảy ra tai nạn bay do sức khỏe phi công.

         Tuy thành tích của quân y không quân rất đáng khích lệ, nhưng vẫn còn một số yếu điểm còn tồn tại:

        - Chưa đào tạo, bồi dưỡng đủ số bác sĩ hàng y để thay thế những người đã về hưu và để đáp ứng với yêu cầu chính qui hóa của Quân chủng.

        - Trang bị máy móc, kỹ thuật về y học hàng không còn thiếu, còn lạc hậu, do đó, công tác kiểm tra tố chất bay của phi công chưa đạt yêu cầu cao nhất trong không quân hiện đại.

Bạch Mai, ngày 7/11/2004       


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Tám, 2016, 08:32:32 am
       
VỀ CHỦ TRƯƠNG SỬ DỤNG MÁY BAY ĐỊCH ĐỂ ĐÁNH ĐỊCH TRONG CHIẾN DỊCH HỒ CHÍ MINH

Trung tướng HOÀNG NGỌC DIÊU                   
Nguyên PTL - Tham mưu trưởng QC PK-KQ             
Đại diện Quân chủng PK-KQ trong chiến dịch HCM       

        Nhân dịp kỷ niệm 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam (3-3-1955 - 3-3-2005), tôi xin ghi lại những sự việc tôi biết trận đánh của Không quân ta ngày 28-4-1975 ném bom vào sân bay Tân Sơn Nhất (SàiGòn).

        Trận ném bom Tân Sơn Nhất ngày 28-4-1975 của Không quân nhân dân Việt Nam như đồng chí Phạm Hùng và Lê Đức Thọ đã nhận xét khi gặp đồng chí Lê Văn Tri - Tư lệnh Quân chủng PK-KQ và tôi ngày 2-5-1975 ở trại Đa vít, đồng chí nói: "Trận đánh của không quân vào sân bay Tân Sơn Nhất tuy lực lượng không lớn nhưng ý nghĩa rất lớn". Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử Không quân nhân dân Việt Nam đã có một bộ phận lực lượng sử dụng máy bay thu được của địch tham gia tác chiến trực tiếp trong giai đoạn chuẩn bị hỏa lực đã đánh một đòn bất ngờ làm cho kẻ địch đang hoảng loạn lại càng hoảng loạn thêm, góp phần thắng lợi nhanh chóng của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.

        Trận đánh tuy quy mô không lớn nhưng đây là trí tuệ của cả một tập thể từ Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng tham mưu, Bộ tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh, Bộ tư lệnh Quân chủng PK-KQ, Quân khu 5, Quân khu 6, sư đoàn không quân 371, người chỉ đạo trực tiếp và Bộ tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh do đó có thể nói thắng lợi trận đánh của không quân ta ngày 28-4 vào sân bay Tân Sơn Nhất là một trận đánh đoàn kết hiệp đồng, trên dưới một lòng lập công tập thể.

        Chủ trương chuyển loại sử dụng máy bay địch để đánh địch là một chủ trương hết sức đúng đắn của trên nhưng cũng là sáng tạo của dưới và kiên quyết, táo bạo chấp hành nhiệm vụ của trên giao, lực lượng quyết định trực tiếp để giành thắng lợi là người lái và nhân viên kỹ thuật máy bay, bộ phận phụ trách chuyển loại do đồng chí Trần Mạnh - Tham mưu phó Quân chủng PK-KQ phụ trách, đồng chí Phạm Ngọc Lan phụ trách chuyển loại người lái và đồng chí Hồ Thanh Minh phụ trách bộ phận sửa chữa máy bay.

        Tôi không thể viết cụ thể công tác của các đồng chí cũng như động tác hành động chiến đấu của từng người lái trong trận đánh vì bản thân tôi cũng không biết cụ thể chính xác, tôi chỉ ghi lại những việc mình biết và trong nhật ký công tác đã ghi chép lại như sau:

        Ngày 29 tháng 3 sân bay Đà Nẵng được giải phóng, ngày 3 tháng 4 đồng chí Tư lệnh Quân chủng PK-KQ Lê Văn Tri đã vào Đà Nẵng và giao nhiệm vụ cho tôi (lúc đó tôi là Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Quân chủng PK-KQ được phân công làm đại diện Quân chủng PK-KQ trong chiến dịch giải phóng Huế, Đà Nẵng), ở lại Đà Nẵng có 2 nhiệm vụ chính:

        1. Chỉ huy các bộ phận thu chiến lợi phẩm và khôi phục hoạt động các sân bay thuộc Quân khu 5.

        2. Chuẩn bị để chuyển loại người lái ta sử dụng máy bay địch càng nhanh càng tốt. Đến ngày 9-4 đồng chí Đào Đình Luyện, Phó Tư lệnh Quân chủng vào gặp tôi và truyền đạt ý kiến của Thường vụ Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Quân chủng:

        - Bộ Tư lệnh Quân chủng phân công tôi đi làm đại diện Quân chủng PK-KQ trong chiến dịch Hồ Chí Minh.

        - Giao lại nhiệm vụ tiếp quản các sân bay ở Quân khu 5 và chuyển loại người lái cho đồng chí Trần Mạnh - Tham mưu phó Quân chủng phụ trách.

        Lực lượng phòng không chiến dịch Hồ Chí Minh ngoài các lực lượng phòng không đã có Quân chủng chỉ tăng thêm một đại đội tên lửa mang vác.

        Tôi có trao đổi tình hình với đồng chí Đào Đình Luyện để về báo cáo với Bộ Tư lệnh Quân chủng.

         Để chuẩn bị cho không quân ta tham gia chiến đấu trong chiến dịch Hồ Chí Minh ngoài việc chuyển loại sử dụng máy bay địch nên chuẩn bị trung đoàn 921 sẵn sàng vào Đà Nẵng để khi cần thiết có thể vươn vào phía Nam.

        Đồng chí Luyện về Hà Nội, tôi ở lại Đà Nẵng họp, đồng chí Trần Mạnh - Tham mưu phó Quân chủng, đồng chí Phạm Ngọc Lan, đồng chí Hồ Thanh Minh phụ trách kỹ thuật và một số đồng chí bảo vệ khác.


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Tám, 2016, 09:53:32 pm

        Giao nhiệm vụ cho đồng chí Trần Mạnh ở lại thay tôi, đồng chí Phạm Ngọc Lan nghiên cứu chuyển loại người lái, đồng chí Hồ Thanh Minh phụ trách máy bay sửa chữa và phục vụ cho chuyển loại. Các đồng chí bảo vệ phải thẩm tra lại tù binh nhất là người lái và nhân viên kỹ thuật, những người không phạm tội ác nghiêm trọng cho họ ra phục vụ để nhanh chóng chuyển loại máy bay theo lệnh của Bộ và Quân chủng.

        Trong thời gian đó tìm ở các trại giam của Quân khu 5 cũng chỉ có 2 lái máy bay A37 (trong đó có 1 lái A37 đã chuyển loại lái F-5) còn lại chúng đã bỏ chạy vào Sài Gòn hết; máy bay A37 hư hỏng nhiều sân bay Đà Nẵng và Phù Cát có trên 30 chiếc nhưng máy bay dùng được cũng chỉ có 6 - 7 chiếc. Tôi nói với đồng chí Lan và Minh: "Lệnh Bộ Tổng tư lệnh là phải nhanh chóng chuyển loại cho người lái ta để sử dụng máy bay địch đánh địch" .

        Trước mắt huấn luyện viên chưa có, mới tìm được hai lái ngụy còn kỹ thuật sửa chữa A37 lại chưa biết, đang mò mẫm.

         Đồng chí Phạm Ngọc Lan và đồng chí Hồ Thanh Minh nói "Chúng tôi quyết tâm khôi phục nhanh và anh em đã sửa được hai chiếc cho nổ máy thấy rất tốt", đồng chí Phạm Ngọc Lan nói "Tôi đã cùng hai tay lái ngụy tìm hiểu kỹ thuật lái A37 và hiện nay ở Đà Nẵng có một vài máy bay A37 có thể dùng để bay chuyển loại được".

        Anh Trần Mạnh nói với tôi: "Anh cứ yên tâm đi chiến dịch, tôi sẽ tiếp tục làm việc với anh em, nhất định sẽ thực hiện được nhiệm vụ của Bộ Tổng tham mưu và Quân chủng giao".

         Tôi cảm động bắt tay anh Mạnh và đến chiều hôm đó lên gặp anh Lê Trọng Tấn nhận nhiệm vụ đi theo chiến dịch Hồ Chí Minh.

        Ngày 23-4 khoảng 10 giờ, tôi đang ở với bộ phận cơ quan Bộ Tổng tham mưu ở Mường Mán, đồng chí Tấn gặp tôi và nói: "Đồng chí Văn Tiến Dũng - Tư lệnh chiến dịch gọi đồng chí lên Bộ Tư lệnh chiến dịch nhận nhiệm vụ”. Ngày 24-4-1975 tôi lên đường, gần tối đến Lộc Ninh vào trạm nghỉ của Bộ tư lệnh chiến dịch ở lại đó.

        15 giờ 00 chiều 25-4 vào gặp đồng chí Văn TiếnDũng, Tư lệnh chiến dịch (hôm đó có đồng chí Hoàng Dũng - phó văn phòng Bộ Tổng tham mưu dự và ghi chép), tôi trực tiếp báo cáo tình hình tiếp quản các sân bay ở Quân khu 5, xong đồng chí bất ngờ hỏi tôi "Bộ Tư lệnh Quân chủng PK-KQ đã có ý định sử dụng không quân trong chiến dịch này như thế nào?", tôi trả lời "ngày 9-4 tôi có đề nghị Bộ Tư lệnh Quân chủng sử dụng trung đoàn 921 chuyển sân vào Đà Nẵng để khi cần vươn vào hoạt động phía Nam". Đồng chí Văn Tiến Dũng chậm rãi nói: "Lần này Bộ tư lệnh chiến dịch muốn sử dụng máy bay của địch để đánh địch, để xây dựng truyền thống cho không quân ta được tham gia trực tiếp chiến dịch lịch sử này đẩy nhanh kẻ địch càng rối loạn từ đó có thêm kinh nghiệm cho việc huấn luyện xây dựng và chiến đấu của không quân ta trong tương lai".

        Đồng chí Văn Tiến Dũng hỏi: "Đồng chí có biết đã chuyển loại sử dụng máy bay của địch ở sân bay Đà Nẵng và Phù Cát như thế nào chưa?” Tôi trả lời "Ngày 12-4 tôi và đồng chí Mạnh đã bàn kế hoạch chuyển loại sử dụng A37 nhưng từ đó tôi không theo dõi tình hình cho nên không biết đến nay đã đến đâu”. Đồng chí VănTiến Dũng nói: "Đồng chí không biết cũng đúng thôi, tôi sẽ điện hỏi Bộ Tư lệnh Quân chủng ở Hà Nội". Tôi đề nghị thêm: "Đề nghị đồng chí nên đặt thêm một phương án nếu ta chưa chuyển loại kịp thì có thể sử dụng một mình Nguyễn Thành Trung đánh, làm thế nào có tiếng bom vào Sài Gòn là tốt rồi, bọn này rất sợ không quân nên bị hỗn loạn". Đồng chí Văn Tiến Dũng đồng ý, đồng chí Văn Tiến Dũng nói ta nên bàn cụ thể thêm: "Mục tiêu cần đánh có 3 mục tiêu: Bộ Tổng tham mưu, kho dầu, sân bay Tân Sơn Nhất; đồng chí chọn mục tiêu nào?". Tôi trả lời nên chọn sân bay Tân Sơn Nhất, sân đậu máy bay, mục tiêu dễ chọn, không quân ta tập kích vào sân bay địch làm cho địch dễ hoảng loạn hơn, tôi nói thêm: “Đánh vào Bộ Tổng tham mưu ngụy cũng được vì đó là cơ quan đầu não của ngụy quân nhưng khó chọn mục tiêu cũng như đánh vào kho xăng dầu vào nhiên liệu bốc cháy gây hoang mang cho địch, nhưng những mục tiêu đó ném bom rất khó chính xác".


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Tám, 2016, 09:55:44 pm

        Đồng chí Văn Tiến Dũng hỏi tôi nên chọn đường bay nào vừa an toàn vừa đủ xăng dầu để anh em trở về Thành Sơn. Tôi nói: "Nếu đi dọc theo đường 1 dễ xác định các điểm kiểm tra không lạc, nhưng hỏa lực Phòng không của ta rất mạnh, quân đoàn 2, quân đoàn 4 sư đoàn phòng không 367 đang hành quân và đóng quân gần đường một dễ bị bắn nhầm không an toàn, dễ bị địch phát hiện sớm vì máy bay từ hướng Bắc vào". Đồng chí hỏi tiếp: "Thế thì theo ý kiến đồng chí nên chọn đường bay nào?". Tôi nói nên chọn bay từ Thành Sơn: bay ra biển, bay thấp đến gần mõm Vũng Tàu ngoặt vào Sài Gòn đánh luôn, như thế thì tránh được lực lượng phòng không, bảo đảm an toàn bí mật bất ngờ đối với địch, đồng chí Văn Tiến Dũng hỏi tiếp: "Dầu có đủ không”, tôi nói: Đủ.

        Đồng chí Văn Tiến Dũng kết luận: "Đồng ý với mục tiêu đánh vào sân đỗ máy bay của sân bay Tân SơnNhất".

         Đường bay nhất trí như đồng chí đã đề nghị, sau đó đồng chí Văn Tiến Dũng nói đến ngày đánh, đồng chí nói chỉ có một ngày 28-4 vì pháo binh tầm xa của ta ở trận địa Nhơn Trạch, đều lệnh ngừng bắn vào Tân Sơn Nhất tất cả các quân đoàn đã áp sát Sài Gòn và không quân ta ném bom dễ bị trúng vào ta, đồng chí còn nhắc đi nhắc lại: "Không quân chỉ có một ngày, chỉ có một lần" và đồng chí hỏi tôi: "Thời gian để chuẩn bị rất gấp, phải đánh vào sân bay Tân Sơn Nhất trong vài ba ngày tới, liệu có làm được không?". Tôi trả lời: "Chúng tôi xin kiên quyết chấp hành bằng được, xin phép cho tôi lên đường ra Phan Rang ngay tối nay và đề nghị điện lệnh này cho đồng chí Lê Văn Tri - Tư lệnh Quân chủng, để cho chuyển ngay người lái, thợ máy và máy bay từ Đà Nẵng vào sân bay Thành Sơn".

         Đồng chí Văn Tiến Dũng bảo tôi viết điện để đồng chí ký, tôi đã viết điện, nội dung như sau: "Điện gửi đồng chí Lê Văn Tri - Tư lệnh Quân chủng PK-KQ.

         Bộ Tư lệnh chiến dịch có ý định sử dụng không quân trong chiến dịch Hồ Chí Minh để xây dựng truyền thống cho không quân ta, dùng máy bay A37 của địch, người lái ta đã chuyển loại ở sân bay Phù Cát để đánh. Tôi đã lệnh cho đồng chí Hoàng Ngọc Diêu ra sân bay Thành Sơn (Phan Rang) chuẩn bị, ngày 26-4-1975 đồng chí vào sân bay Thành Sơn gặp đồng chí Diêu.


Văn Tiến Dũng       

        Về sân bay Thành Sơn gặp bộ phận tiếp quản gồm trên 30 cán bộ tham mưu, hậu cần họp bàn để chuẩn bị tiếp thu máy bay hạ cánh sớm nhất là ngày 27-4-19 75. Tất cả anh em đều phấn khởi và rất tích cực, người thì đi dọn đường băng để bảo đảm an toàn vì vỏ đạn và đạn rất nhiều, đài chỉ huy chưa có ai khôi phục lại hệ thống máy nổ, hệ thống thông tin, nhưng trong bộ phận tù binh đã có mấy thợ máy nổ, mấy thợ thông tin và một số kỹ thuật mặt đất, lái xe v.v...

        Được tin, chiều 26-4 khoảng 14 giờ đồng chí Nguyễn Hồng Nhị - sư đoàn phó sư 371 và một số anh em tham mưu vào để giúp tổ chức chỉ huy, đi trên máy bay trực thăng Mi8, đến Nha Trang đỗ xuống, khi cất cánh ở độ cao hơn 1m đã bị một đơn vị địa phương bắn nhầm, nhưng tất cả tổ lái và cán bộ đi trên máy bay an toàn.

        16 giờ tôi cùng với đồng chí Thân trợ lý tác chiến, ra sân bay Nha Trang và đến Bộ tư lệnh tiền phương của Quân khu 5 (đồng chí Hoàng Minh Thảo làm tư lệnh, đồng chí Lư Giang làm phó tư lệnh) để hợp đồng lại vì trước đó mấy ngày Bộ Tổng tham mưu đã lệnh cho Quân khu 5 không được bắn vào máy bay, tiền phương quân khu đã lệnh cho các đơn vị nhưng có đơn vị chưa quán triệt lệnh của Bộ Tổng tham mưu.

        Sau khi gặp đồng chí Hoàng Minh Thảo và đồng chí Lư Giang, tôi đã nói ý định sử dụng không quân của Bộ tư lệnh chiến dịch và nhắc lại lệnh của Bộ Tổng tham mưu, các đồng chí đều nói để thông báo lại và cho cán bộ đi kiểm tra kỹ.


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Tám, 2016, 09:57:17 pm

        Trở về sân bay Thành Sơn, gặp đồng chí Nguyễn Hồng Nhị và anh em, đêm đó tôi đã bàn tất cả kế hoạch triển khai sân bay Thành Sơn với đồng chí Hồng Nhị và phân công đồng chí Nguyễn Hồng Nhị đi sâu vào tổ chức chỉ huy và khôi phục đài chỉ huy cất hạ cánh sân bay Thành Sơn.

        Đến ngày 26-4 chúng tôi có gần 50 người đủ các loại thợ kỹ thuật (trong đó có gần 10 ngụy quân lấy ở các trại giam), ngày và đêm 26-4 tất cả công việc cơ bản đã chuẩn bị xong.

        Ngày 27-4-1975, nhận được điện của Quân chủng báo: Ngày 28-4 đồng chí Lê Văn Tri vào và chuyển sân từ Phù Cát vào Thành Sơn, tôi vẫn cứ lo ngày 28-4- 1975 đồng chí Lê Văn Tri vào không biết xuất kích có kịp không.

        Đúng 13 giờ ngày 28 tháng 4 đồng chí Lê Văn Tri vào sân bay Thành Sơn bằng Mi8, đi theo có đồng chí Trần Hanh, Tư lệnh sư đoàn 371 và một số cán bộ của sư đoàn. Tôi báo cáo lại tất cả mệnh lệnh của đồng chí Văn Tiến Dũng đã ra lệnh, bao gồm mục tiêu, đường bay và ngày đánh, nhấn mạnh ngày 28-4, không đánh thì mất thời cơ, đồng chí Tri nói vì sao ta không thêm 1 ngày nữa là ngày 29-4-1975, tôi trả lời: "Đồng chí Dũng đã nhấn mạnh chỉ có 1 ngày vì ngày 29-4-1975 các quân đoàn đã áp sát Sài Gòn không đánh được, ta lại không có liên lạc để xin lệnh của Bộ tư lệnh chiến dịch" đồng chí Tri đồng ý chỉ có 1 ngày 28-4.

        9 giờ 30 phút ngày 28-4 phi đội Quyết thắng cất cánh ở sân bay Phù Cát và sau 1 giờ hạ cánh ở sân bay Thành Sơn (Phan Rang) chuẩn bị xuất kích, 14 giờ 30 phút Tư lệnh Quân chủng giao nhiệm vụ chiến đấu cho phi đội.

        16 giờ 25 phút ngày 28-4 cất cánh xuất kích, trên đài chỉ huy sân bay Thành Sơn có: Tư lệnh Lê Văn Tri -Phó tư lệnh - Tham mưu trưởng Hoàng Ngọc Diêu và đồng chí Trần Hanh - Tư lệnh sư đoàn 371 trực tiếp cầm ống nói chỉ huy cất cánh.

         Phương tiện chỉ huy chỉ có thông tin đối không, không có ra đa mà chẳng có dẫn đường. Phi đội Quyết thắng được lệnh cất cánh, đi đầu số 1 đồng chí Nguyễn Thành Trung, không phải phi đội trưởng nhưng được giao nhiệm vụ dẫn đội và xác định mục tiêu vì đồng chí đã từng ở sân bay Tân Sơn Nhất, đồng chí Từ Đễ đi số 2, đồng chí Nguyễn Văn Lục đi số 3 (đồng chí Lục được chỉ định làm phi đội trưởng Quyết thắng nhưng không thạo địa hình bằng đồng chí Nguyễn Thành Trung do đó đi số 3), Hoàng Mai Vượng số 4, Hán Văn Quảng số 5, đúng 16 giờ 25 phút, phi đội cất cánh đã hoàn thành nhiệm vụ của trận đánh lịch sử. Đúng 18 giờ 15 phút ngày 28 tháng 4 năm 1975 phi đội đã hạ cánh an toàn trên sân bay Thành Sơn (Phan Rang), đồng chí Tư lệnhQuân chủng Lê Văn Tri đã đợi các đồng chí ở sân đỗ và bắt tay từng đồng chí, ai cũng phấn khởi hân hoan trước thắng lợi của phi đội Quyết thắng.

        Đêm 28-4-1975 chúng tôi ngủ lại sân bay Thành Sơn, khoảng 11 giờ đang ngủ thì tiếng bom nổ gần nhà đồng chí Lê Văn Tri và tôi đang ở. Sau này mới phát hiện 2 lần máy bay F-5E của địch đã đến cắn trộm trước thất bại thảm hại của chúng, đấy là tiếng bom báo hiệu ngày tận số của ngụy quyền Sài Gòn và ngụy quân nói chung không quân ngụy nói riêng ở phía ta một thiếu úy thông tin bị thương nhẹ ở chân, anh em nói đùa đây là một vết thương rất đẹp ghi lại ngày chiến thắng của không quân ta.

        Sáng ngày 29-4-1975 tôi đi vào Xuân Lộc gặp đồng chí Lê Trọng Tấn, 11 giờ 30 phút ngày 30-4-1975 được tin giải phóng Sài Gòn, ngày mồng 2 tháng 5 năm 1975 vào sân bay Tân Sơn Nhất gặp đồng chí Lê Văn Tri, đồng chí Tri và tôi cùng nhau đi xem lại khu vực sân đỗ máy bay địch bị ta ném bom, xác 10 chiếc máy bay vận tải của không quân địch đã bị cháy và hư hỏng nặng. Chúng tôi vào trại Đa vít gặp đồng chí Phạm Hùng và đồng chí Lê Đức Thọ đang ở đó, đồng chí Tri báo cáo tình hình thu chiến lợi phẩm và hệ thống sân bay của ngụy, báo cáo trận đánh của không quân ta vào sân bay Tân Sơn Nhất, các đồng chí rất vui và khen ngợi không quân ta đã tích cực tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử và nói: "lực lượng không lớn nhưng ý nghĩa lịch sử rất lớn". Đồng chí Hùng rất phấn khởi và thân mật hỏi đồng chí Tri: "Cậu thấy cơ sở của miền cài vào địch có ngon không" ý nói đồng chí Nguyễn Thành Trung một đảng viên của ta hoạt động bí mật trong không quân ngụy. Các đồng chí Lê Đức Thọ, Phạm Hùng cùng chúng tôi chụp chung tấm ảnh ở trại đa vít và tấm ảnh này tôi xin gửi tặng Viện lịch sử Quân đội để ghi lại trận thắng của không quân ta trong chiến dịchHồ Chí Minh lịch sử.

Hà Nội, ngày 7-12-1996.       


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Tám, 2016, 10:00:04 pm
       
TRONG VÒNG VÂY ĐỊCH GIỮA CĂN CỨ QUÂN SỰ TÂN SƠN NHẤT

Đại tá HÀ CÂN                                       
Nguyên phó Ban tác chiến BTL KQ,                           
Nguyên thành viên đại biểu quân sự Chính phủ CMLTCHMNVN       
Ban liên hợp quân sự 4 bên và 2 bên,                         
Nguyên Tổng cục Phó Tổng cục HKDD Việt Nam                   

        Tháng 10 năm 1972, tôi rời phòng Tham mưu Bộ Tư lệnh Không quân từ nơi sơ tán ở Tiên Phương về Tổng cục Chính trị nhận nhiệm vụ ở Ban nghiên cứu hiệp định mà ta sẽ ký với Mỹ.

        Ngày 20-1-1973 tôi ở trong đoàn tiền trạm đi Pa-ri để chuẩn bị triển khai các tổ sĩ quan liên hợp một khi hiệp định được ký kết. Nhưng phía Mỹ đề nghị việc họp triển khai sẽ làm tại Sài Gòn, do đó bộ phận chúng tôi lại từ Pa-ri về Sài Gòn. Như vậy là để đi từ Hà Nội vào Sài Gòn chúng tôi phải đi vòng qua châu Âu, một chuyến đi du lịch bất đắc dĩ.

        Tôi được phân công vào tiểu ban quân sự của đoàn đại biểu quân sự Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam một cái tên dài dằng dặc như cuộc kháng chiến trường kỳ! Là một cán bộ tham mưu, ngoài những nhiệm vụ quân sự chung, tôi còn được phân công theo dõi và giải quyết những vụ có liên quan đến không quân.

        Việc đầu tiên tôi tham gia giải quyết là vụ Mỹ khiếu nại máy bay CH-47 của Mỹ phục vụ ủy ban Quốctế bị bắn rơi ở phía Nam thị xã An Lộc trên đường 13. Mỹ nói quân giải phóng đã bắn rơi máy bay đó khi nó đã làm xong nhiệm vụ chở hàng do tổ quốc tế ở An Lộc, bên ta nói là không có chứng cứ. Cãi qua, cãi lại cả tuần lễ, Mỹ ngán quá, tuyên bố bỏ cuộc!

         Vừa hết thời hạn 60 ngày, Mỹ phải rút hết quân khỏi Việt Nam, ta trả hết tù binh Mỹ bị bắt thì xảy ra sự kiện Ly Tôn: 2 máy bay UH-1 của hãng Air America chở sĩ quan ủy ban Quốc tế từ Quảng Trị lên Lao Bảo thì một chiếc bị rơi gần bản Ly Tôn, chiếc còn lại hạ cánh khẩn cấp xuống con đường ta mới mở từ Lao Bảo đi Sa Trầm (ngày 7-4-1973) trong vụ này, 1 sĩ quan Hung-ga-ri, 2 sĩ quan Indonesia, 2 sĩ quan Chính phủ cách mạng lâm thời và tổ lái Air America 3 người (2 Mỹ, 1 Philippin) chết.

        Báo chí ngụy ở Sài Gòn nhân dịp này công kích ta vi phạm Hiệp định Pa-ri, nhưng bản kết luận của 4 trưởng đoàn quân sự ủy ban Quốc tế không có lý do nào quy kết lỗi của phía ta mà chỉ nói lý do máy bay UH-1 của ủy ban Quốc tế bị tai nạn là do bay chệch hành lang qui định quá xa (45 - 50km) sau đó, đoàn Canađa đề nghị cho đi điều tra lại vì họ nói là vị trí của chiếc UH-1 còn lại, sau khi hạ cánh khẩn cấp đã bị dời đi sâu vào phía lãnh thổ kiểm soát. Tuy biết họ có âm mưu lật lại vấn đề nhưng để tỏ thiện chí, bên ta vẫn đồng ý cho các đại diện ủy ban Quốc tế lên lại chỗ xảy ra tai nạn để xác minh lại và đưa chiếc UH-1 còn lại về Huế.

        Nhiệm vụ được giao cho tổ sĩ quan ủy ban Quốc tế khu vực 1 đóng ở Huế và tổ sĩ quan Chính phủ cách mạng lâm thời đóng ở Gio Linh. Phần lớn các trưởng tổ sĩ quan các nước ở các khu vực là cấp đại tá thay phiên nhau làm chủ tịch, nhưng lần này đến phiên Hung-ga-ri làm chủ tịch thì chỉ là trung úy, điều khiển 3 đại tá Canada, Ba-lan, Indonesias lý do là đại tá trưởng tổ Hung-ga-ri ở Huế đi Sài Gòn chữa răng. Tôi được cử làm sĩ quan liên lạc. Được ra Huế và thăm vùng giải phóng, tôi rất phấn khởi. Từ Sài Gòn ra Huế đi bằng máy bay nhỏ và từ sân bay Phú Bài ra Quảng Trị bằng ô tô.

        Khi họp bàn việc đi lên địa điểm xảy ra tai nạn đại tá Canada đề nghị đi bằng máy bay tắt qua rừng, không theo đường số 9. Ta dại gì cho họ bay qua vùng rừng mà dưới đó quân ta đang tập kết số lượng lớn để cho họ tha hồ dòm ngó. Bên ta bác ngay: "Chúng tôi đã chuẩn bị xe ô tô đưa đoàn đi. Đi máy bay trực thăng không theo hành lang thì chúng tôi không bảo đảm an toàn".

        Ngày hôm sau, một đoàn xe Bắc Kinh mới toanh đưa các vị lên Ly Tôn, nơi chiếc UH-1 còn lại đang đỗ trên đường Trường Sơn Đông. Chủ tịch tổ quốc tế cám ơn phía Chính phủ cách mạng lâm thời đã bảo quản tốt máy bay và sẵn sàng phương tiện (2 xe Kraz) để đưa về bờ bắc sông Thạch Hãn. Tôi đề nghị các đại biểu ủy ban Quốc tế ký xác nhận là máy bay vẫn ở nguyên vị trí ban đầu và trong trạng thái tốt. Các đại biểu đồng ý, nhưng riêng đại tá Canada không chịu ký. Tôi nói: Có một vị không chịu ký thì tôi phải đi xin ý kiến cấp trên và như vậy tối nay xin mời các vị ở lại đây với chúng tôi!

        Trời đã về chiều, Canada vẫn không chịu ký, tôi hội ý với đơn vị tại chỗ sửa soạn một lán để các sĩ quan"công tử" ngủ lại rừng. Thấy bên ta không nhân nhượng, trung úy Berentês (Hung-ga-ri) gặp riêng tôi: Tôi đồng ý để tổ quốc tế ở lại đêm nay, nhưng đề nghị đồng chí báo cáo cấp trên là nhân danh chủ tịch tổ quốc tế khu vực 1, tôi sẽ ký xác nhận để sáng mai tổ quốc tế nhận máy bay. Tôi đi đến sở chỉ huy quân ta đóng cách hơn 1km báo cáo tình hình và xin ý kiến. Đồng chí chủ nhiệm chính trị đồng ý chấp nhận đề nghị của chủ tịch ủy ban Quốc tế.

        Sáng hôm sau, đơn vị tên lửa đóng gần đó cho mượn một xe cần cẩu để đưa chiếc trực thăng do các thợ máy Mỹ và Philippin đã tháo rời lên 2 chiếc xe Kraz chở về bờ bắc sông Thạch Hãn. Đến đó, đại tá Canada vui vẻ nói: "Bây giờ tôi sẵn sàng ký". Tôi cám ơn khéo: "Tôi chỉ cần ông kỹ thuật viên của Air America ký là đã nhận lại chiếc UH-1 trong tình trạng tốt?"

        Như vậy là đã dẹp được một âm mưu dùng máy bay của ủy ban Quốc tế để trinh sát đường Đông Trường Sơn.


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Tám, 2016, 10:01:48 pm

        Tôi cũng đã làm dẫn đường cho máy bay UH-1 đi vào vùng giải phóng của ta ở Phú Yên để nhận tù binh ta trả từ Tuy Hòa tôi lên ngồi gần người lái chính để chỉ địa điểm hạ cánh. Đã xác định tọa độ X, Y tôi lấy điểm cắt nhau giữa đường quốc lộ 1 và đường sắt gần ga Chí Thanh (huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên) làm điểm kiểm tra, đến đó tôi bảo người lái bay 270 độ trong 5 phút.Gần hết phút thứ 5, mặt người lái Mỹ rạng rỡ khi nhìn thấy tín hiệu chữ T bằng vải trắng trên một vạt ruộng khô giữa những quả đồi thấp. Anh ta quay sang tôi, giơ ngón tay cái và nói: "Như vậy là chúng ta đến đích an toàn, không trục trặc gì". Tôi trả lời: Đi với tôi, sợ gì trục trặc Thật ra tôi cũng hơi lo, vì chưa đến đây lần nào, lỡ ra có sai lệch gì đó về tọa độ điểm đón mà không đến được đích thì rất phiền phức.

        Những chuyến C 130 Mỹ đi Hà Nội .

        Theo thỏa thuận giữa ta và Mỹ thì hàng tuần sẽ có một chuyến C130 của không quân Mỹ chở sĩ quan của đoàn đại biểu quân sự Việt Nam dân chủ cộng hòa từ Tân Sơn Nhất về Hà Nội báo cáo. Trên các chuyến bay đó ngoài các sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam, còn có các cán bộ quân giải phóng về thăm gia đình ở miền Bắc và sĩ quan ngụy đi tham quan Hà Nôi. Mấy chuyến đầu ưu tiên cho các đồng chí đi B lâu ngày rồi dần dần đến hết lượt. Tôi cũng vài lần được về gặp gia đình ở chiêu đãi sở Gia lâm.

         Năm 1975, tôi đi trong chuyến ra Hà Nội giáp tết ất Mùi máy bay đã đến Gia Lâm, lượn mấy vòng nhưng không hạ cánh mà quay trở về lý do "khí tượng xấu”. Ta đấu tranh nên ngày hôm sau lại đi tiếp. Đã đến giờ dự báo hạ cánh mà chưa thấy giảm độ cao, tôi vào buồng lái xem màn ra đa thì thấy đang lượn ngoài cửa sông Đáy, không chịu vào Gia Lâm, tôi bảo người lái đưa micro cho tôi nói chuyện với sân bay Gia Lâm. Nghe tiếng anh Lê Quỳ trả lời: Trần mây 200m tầm nhìn 3km, thừa tiêu chuẩn mở của sân bay, máy bay Aeroflot vừa xuống xong!

        Tôi nói ngay với một kiểm tra viên bay Mỹ: "Tình hình khí tượng cho phép, trên máy bay có 2 trung tá kiểm tra viên mà không đưa được máy bay hạ cánh, không hiểu trình độ phi công Mỹ thế nào?".

        Y tức máu: 'Khí tượng xấu vậy chứ xấu nữa chúng tôi vẫn hạ cánh được, chúng tôi không xuống vì lý do khác kia?".

        Như vậy là đã rõ, phía Mỹ cố tình phá, không cho 2 đoàn ta ở Tân Sơn Nhất nhận được thư từ, quà tết mà cơ quan thi hành hiệp định đã chuẩn bị. Tết đó, không có cành đào Nhật Tân, không có bánh chưng Hà Nội. Các phu nhân đi đón hụt các đức ông chồng không ngớt lời chửi Mỹ: Đồ đểu.

        Từ giữa tháng 4- 1975, khi quân ta tiến gần Sài Gòn, chúng tôi đã ở tư thế sẵn sàng chiến đấu: Từng tổ đào công sự trong nhà, có lỗ châu mai nhìn ra đường, đào giao thông hào ngầm từ nhà nọ sang nhà kia, nối với sở chỉ huy và hầm cứu thương, dự trữ nước uống, lương khô (1 người 1 thùng lương khô Trung Quốc), mỗi người trang bị 1 súng AK, 1 khẩu K59 và mấy quả lựu đạn chống tăng... giờ ăn không tập trung ở nhà ăn mà từng tổ lấy cơm về nhà ăn.

        Chiều 28-4-1975, đang ăn cơm thì nghe tiếng bom nổ sát bên cạnh, chúng tôi vội vàng nhảy xuống hầm. Im ắng, không nghe thêm tiếng bom, chỉ thấy khói bốc lên phía bên sân bay không biết máy bay ngụy làm đảo chính hay máy bay nào vậy. Một hành động phản chiến như Nguyễn Thành Trung 20 ngày trước đây? Độ 1 giờ sau, BBC đã đưa tin: 4 máy bay A37 sau khi ném bom Tân Sơn Nhất đã bay về hướng Bắc: Lại phán đoán: Máy bay "ta" chăng? Đến tối, đài phát thanh tiếng nói Việt Nam loan báo: Máy bay ta đã ném bom khu sân đỗ máy bay ở Tân Sơn Nhất, tiêu diệt nhiều máy bay Mỹ -ngụy.

        Chúng tôi nhận định: Trận đánh giải phóng SàiGòn sắp bắt đầu vì quân ta đã chiếm Biên Hòa, Long Thành rồi. Giờ giải phóng sắp điểm kiểm tra lại trang bị cá nhân, sẵn sàng cho phương án trụ lại nếu bị địch tấn công vào trại, cùng lắm là một đêm thì bộ đội ta sẽ vào đến nơi.

        3 giờ sáng 29-4 một loạt đạn pháo lớn nổ nghe chát chúa, tất cả như lò xo bật dậy cầm súng lăn xuống hầm. Pháo bắn cấp tập vào sân bay Tân Sơn Nhất. Ngồi dưới hầm, nghe tiếng đạn chạm đất rất gần, mảnh đạn bay rào rào và rơi lộp bộp trên mái nhà bằng fibrô-ximăng. Trại chúng tôi nằm giữa một bên là sân đậu máy bay, một bên là khối bổ sung của sư đoàn dù ngụy, nên các pháo thủ 122mm của ta dù lấy phần tử bắn chính xác đến đâu cũng không thể hạn chế đạn rơi vào trại Davis. Suốt ngày 29-4, pháo ta vẫn tiếp tục dội vào Tân SơnNhất lúc nhặt, lúc thưa. Thỉnh thoảng một vài máy bay còn liều lĩnh cất cánh chạy trốn. Chúng tôi phán đoán là pháo ta từ phía Nhơn Trạch bắn vào vì nghe tiếng nổ "đề pa" từ phía Đông Nam thành phố.

         Sáng ngày 30-4, một loạt pháo cấp tập nữa dội vào Tân Sơn Nhất, rồi thì im ắng.

        Ban chỉ huy đoàn báo tin quân ta đã đến Bà Quẹo, đến sư đoàn dù... rồi ra lệnh cho anh em lên khỏi hầm huẩn bị đón quân ta vào.

        Một lá cờ nửa đỏ nửa xanh khá lớn đã được kéo lên trên đỉnh tháp nước của trại. Nhìn ra đường, cơ man là quân trang quân dụng của lính dù vứt lại bỏ chạy.

        Ôi thật cảm động và không bao giờ quên, chúng tôi đã trực tiếp nhìn thấy cảnh Sài Gòn được giải phóng.

TP. Hồ Chí Minh, tháng 10 năm 2004.       


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Tám, 2016, 10:03:52 pm
       
ĐẰNG SAU MỘT CHIẾN CÔNG

ĐOÀN HOÀI TRUNG                           
(Ghi theo lời kể của Thiếu tướng Hồ Thanh Minh       
Nguyên Phó Tư lệnh Quân chủng Không quân)         

        Tháng 4 về! Cây bằng lăng trước cổng Quân chủng Phòng không - Không quân nở hoa tím ngắt một góc trời; cây ngọc lan tỏa hương thơm ngát cả nhà Cánh én và khắp nơi râm ran tiếng ve kêu gọi hè. Tháng tư thật nhiều cảm xúc, tháng tư cũng thật nhiều kỷ niệm với bộ đội. 38 năm trước không quân đánh thắng trận đầu vào tháng tư và 10 năm sau đó vào ngày 28 tháng 4 năm1975, phi đội Quyết thắng đánh trận cuối cùng vào sânbay Tân Sơn Nhất góp phần giải phóng miền Nam,thống nhất đất nước .

        Tôi tìm đến Thiếu tướng, phó giáo sư, tiến sĩ kỹ thuật hàng không Hồ Thanh Minh, nguyên là phó trưởng phòng máy bay Cục Kỹ thuật Phòng không - Không quân, tổ trưởng tổ đặc nhiệm để thực hiện nhiệm vụ "Lấy máy bay địch đánh địch, vào những ngày ấy". Qua bao năm trận mạc xông pha và qua tìm tòi nghiên cứu về các trận đánh của cha ông ta, Thiếu tướng đã đúc rút ra được những điều tâm đắc :

        "Không có một chiến thắng nào mà không có sự dày công chuẩn bị. Không có chiến công nào mà không có tổn thất và thương vong. Không có một toàn thắng nào không để lại sự kinh ngạc cho quân thù”.

        Riêng với trận phi đội Quyết thắng ném bom sân bay Tân Sơn Nhất thì Thiếu tướng cho rằng là một trận đánh nằm ngoài đúc kết đã nêu. Đó là, một trận đánh có một chiến công lịch sử mà không có một thương vong và tổn thất nào. Chiến công xuất sắc của phi đội Quyết thắng góp phần cùng bộ đội pháo binh chặt đứt cầu hàng không cuối cùng của Mỹ - ngụy, mà chỉ 6 tiếng đồng hồ sau trận đánh, Tổng thống Mỹ phải lập tức ra lệnh không quân Mỹ tổ chức chiến dịch di tản mang tên "Người liều mạng" bằng hàng trăm máy bay, trực thăng để đưa những người Mỹ cuối cùng ra khỏi Sài Gòn.

        Với chất giọng miền Trung đầm ấm, nhẹ nhàng,Thiếu tướng Hồ Thanh Minh kể lại:

        ...Ngay trong những năm chiến tranh ác hệt, tôi đã được cử đi nghiên cứu sinh về động cơ máy bay, trong đó có cả các loại động cơ máy bay quân sự của Mỹ đang sử dụng ở miền Nam. Sau này phi công Hồ Duy Hùng được cài trong hàng ngũ của không quân ngụy Sài Gòn đã lấy được máy bay trực thăng UH-1, đưa ra miền Bắc lắp ráp lại, rồi phi công ta nghiên cứu cách sử dụng máy bay do Mỹ sản xuất. Sau thắng lợi chiến dịch Tây Nguyên và Huế - Đà Nẵng cuối tháng 3 năm 1975, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã khẳng định thời cơ chiến lược để tổng tiến công nổi dậy giải phóng miền Nam đã có. Ngày 8 tháng 4 năm 1975, phi công Nguyễn Thành Trung của ta cài trong hàng ngũ địch đã lái chiếc F-5E cất cánh từ sân bay Biên Hòa ném bom Dinh Độc Lập và hạ cánh an toàn xuống sân bay Phước Long, tạo thuận lợi cho không quân ta sau này tổ chức đánh vào Tân Sơn Nhất. Đầu tháng tư, ở Quân chủng đã có chuẩnbị phương án dùng máy bay địch đánh địch. Ngày 19 tháng 4, Bộ Tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh lệnh cho Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân quyết định sử dụng máy bay địch đánh địch. Đây là một quyết định hết sức táo bạo, mạo hiểm, thần tốc nhưng hoàn toàn chính xác. Bởi vì nếu sử dụng MIG-17, hoặc MIG-21 thì có bất lợi về nhiều mặt. Mỹ có thể vin cớ đó mà can thiệp trở lại, hơn nữa các phương tiện bảo đảm như xăng dầu, máy điện khí, xe tra nạp, bom đạn... vận chuyển từ xa vào sẽ không kịp. Máy bay ta lại mang ít bom và không thể bay xa được ... Bộ Tư lệnh giao nhiệmvụ cho đồng chí Trần Mạnh - Tham mưu phó Quân chủng chịu trách nhiệm về cách đánh; đồng chí Phạm Ngọc Lan lo việc chuyển loại máy bay cho người lái; tôi chịu trách nhiệm khôi phục, sửa chữa máy bay vừa thu được của địch. Cùng tổ đặc nhiệm với tôi có các đồng chí: Kỹ sư đặc thiết Nguyễn Văn Soạn, kỹ sư vũ khí hàng không Nguyễn Đình Thủy, kỹ sư động cơ máy bay Nguyễn Anh Tuấn và 12 thượng sĩ nhất của sư đoàn 1 không quân ngụy Sài Gòn. Lúc này ở sân bay Đà Nẵng có 15 chiếc A37, nhưng 13 chiếc bị hỏng, chỉ còn 2 chiếc chưa kịp cất cánh, đã bị ta bắn chết phi công, máy bay xịt lốp nằm chình ình ở bên đường băng. Chúng tôi bắt tay vào khôi phục được 2 chiếc máy bay này cho anh em phi công đã lái MIG-17 do Liên Xô sản xuất, để luyện tập chuyển sang bay loại máy bay A37 do Mỹ sản xuất.

        Sáng 23 tháng 4, máy bay trực thăng đưa chúng tôi cùng 12 nhân viên kỹ thuật chế độ cũ vào vùng mới giải phóng - sân bay Phù Cát. Ở đây quân ngụy rút chạy không kịp di tản máy bay. Trước yêu cầu nhiệm vụ phải khẩn trương khôi phục máy bay, chúng tôi quên cả nguy hiểm rình rập bởi đám tàn quân ngụy còn lẩn khuất trong các công sự, hầm ngầm trong khu vực sân bay. Thực vậy chỉ trong 5 ngày 5 đêm, khi sự thần tốc,táo bạo như chẻ tre ta đã đánh địch hoảng loạn tháochạy, ngổn ngang lộn xộn cùng dân di tản từ các nẻođường đều tuôn ra quốc lộ 1A để kịp chạy vào Sài Gòn.Tổ đặc nhiệm vẫn bặt tin từ quân chủng, quân khu vàvới cả tiền phương của Quân chủng ở Đà Nẵng, QuyNhơn ... lúc đó chúng tôi còn ở trong khu vực 40 vòm ụmáy bay của địch tại sân bay Phù Cát vắng lặng bóng người, luôn cảnh giác với địch từ nhưng đồi sim phía Tây lẻn tới, vừa đang sửa chừa, vừa phải canh gác những chiếc máy bay A37 thu được của địch, đã tốt đợi lệnh xuất kích trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 01 Tháng Tám, 2016, 10:04:50 pm

        Một điều đặc biệt là các nhân viên kỹ thuật của chế độ cũ được cải huấn hết sức tích cực làm việc. Ban đầu họ còn chưa tin anh em chúng tôi, nhưng sau một thời gian làm việc với các kỹ sư ta họ nể phục, bởi trình độ nhanh nhậy, thông minh, sự hiểu biết kỹ thuật hàng không của các anh em ta. Chúng tôi tự phân công nhau canh gác, tự nấu ăn, đồng thời nhanh chóng triển khai kiểm tra sửa chữa những chiếc A37 có trên sân bay.

        Đến chiều 25 tháng 4 năm 1975, chúng tôi gặp Thiếu tướng Chu Huy Mân và được thông báo: "Bộ Chính trị đã đồng ý cho không quân ta ném bom vào sào huyệt địch ở Sài Gòn, nhưng chỉ dùng máy bay địch đánh địch. Thời gian phải đúng ngày 28 tháng 4 năm 1975". Nhận được lệnh vậy, ai cũng nức lòng, nhưng cũng rất lo lắng. Nhiệm vụ đã rõ ràng, nhưng quá nặng nề, vì thời gian quá gấp gáp. Chúng tôi chỉ còn việc quên ngày quên đêm... Trong quá trình làm việc với cácnhân viên kỹ thuật, chúng tôi hiểu do điều kiện sống trong chế độ ngụy quyền, họ buộc phải bị đi lính dù có muốn không đi cũng không được. Họ cũng hiểu được sự phi nghĩa của cuộc chiến tranh, nhận ra lẽ phải, nhưng không biết phải làm thế nào để thoát ra khỏi cuộc sống hàng ngày. Thêm nữa những chiếc loa tâm lý chiến ngụy quyền Sài Gòn vẽ méo mó hình ảnh những người cộng sản, nên họ hoang mang lo sợ sự trả thù... Chúng tôi gần gũi, giải thích và tin tưởng họ. Anh em kỹ thuậtviên chế độ cũ như tìm được niềm tin cuộc sống, mong muốn lập công chuộc tội nên họ tích cực làm công việc được phân công bằng chính lòng yêu nước được khơi dậy. Họ cũng mong muốn được góp phần tham gia trận đánh lịch sử. Như vậy là ta không những chỉ dùng máy bay địch đánh địch, mà còn cảm hóa được người lầm đường quay trở lại cùng ta đánh địch. Suốt ngày đêm ngày 25, 26 tháng 4 chúng tôi tổng kiểm tra nổ máy ở mặt đất được 9 chiếc A37 đủ tiêu chuẩn kỹ thuật bay thử.

        Sáng ngày 27 tháng 4, các phi công của ta từ Đà Nẵng vào Phù Cát, phi đội Quyết thắng được thành lập. Chỉ có mấy ngày mà phi công MIG - 17 ta đã chuyển loại máy bay A37 và cũng chỉ có mấy ngày đó tổ đặc nhiệm không chỉ phải tìm kiếm, tháo lắp sữa chữa ngày đêm, để có được những máy bay tốt mà phải lo kiểm tra chất lượng xăng dầu, chuẩn bị vũ khí, các phương tiện thoát hiểm theo đúng nhiệm vụ chuyến bay. Điều đó thật là phi thường, thần tốc. Gặp nhau phi công và thợ máy tay bắt mặt mừng tưởng như xa nhau lâu ngày mới gặp lại. Nhìn những máy bay A37 đang nổ máy trong tư thế sẵn sàng, các phi công xiết chặt tay tôi: "Cảm ơn tất cả các đồng chí đã chuẩn bị đầy đủ cho phi đội". Chúng tôi cũng sung sướng trào nước mắt khi thấy những chiếc máy bay cường kích A37 bay thử tốt và phi đội Quyết thắng đã tiếp nhận, nhưng lòng đầy hồi hộp lo âu về chuyến bay chiến đấu có một không hai sắp tới. Thật vậy những máy bay A37 hỏng từ tay địch, mới về tay ta chỉ được hơn 5 ngày đêm, nay lại đã mang đầy bom đạn cũng của địch để bay vào miền đất vùng địch đang được quản lý chặt chẽ từ xa, lại phải thọc sâu vào sào huyệt địch, bay đi về gần 900km trong không phận đầy pháo phòng không cùng máy bay tiêm kích trực chiến của Mỹ - ngụy. Đầy mạo hiểm với rủi ro. Còn bom sẽ rơi, sẽ nổ; xăng dầu, máy móc của máy bay, đạn phóng ghế người lái để nhảy dù... sẽ ra sao? Khi một trở ngại xảy ra, một người lái với máy bay - đơn thương độc mã trongvùng trời của địch. Rồi bao việc nảy sinh, bao điều sẽ đến! Trước tiên với những ai đã trực tiếp chuẩn bị cho chuyến bay chỉ được một lần trong một ngày lịch sử này. Còn lại một sự im lặng, ước mong sao cho những máy bay đó an toàn bay về lại sân bay đã cất cánh.

        Gần trưa ngày 28 tháng 4, sáu phi công phi đội Quyết thắng Nguyễn Văn Lục, Từ Đễ, Hán Văn Quảng, Nguyễn Thành Trung, Hoàng Mai Vượng và một phi công đã được giáo dục cải tạo, cất cánh từ sân bay Phù Cát đến sân bay Thành Sơn - Phan Rang, tổ đặc nhiệm chúng tôi lại cùng lên máy bay trực thăng Mi-6 vào sân bay Phan Rang kịp phục vụ trực tiếp cho phi đội 5 máy bay A37 vừa thu được của địch sẽ mắc đầy bom - xuất kích chiến đấu - ném bom vào sân bay Tân Sơn Nhất cầu hàng không cuối cùng của địch trong chiến dịch Hồ Chí Minh.

        16 giờ 25 phút ngày 28 tháng 4 phi đội Quyết thắng gồm 5 chiếc A3 7 xuất kích từ Thành Sơn tiến về SàiGòn. Địch hoàn toàn bất ngờ, không quân và pháo cao xạ bảo vệ sân bay của chúng không kịp phản ứng. Từng loạt bom chính xác xuống sân bay Tân Sơn Nhất, đã tiêu hủy 24 máy bay địch, trong đó có máy bay để di tản người Mỹ. Kẻ thù hoang mang khiếp sợ, cả đô thành Sài Gòn rung chuyển ...

        Đã 30 năm trôi qua, các thành viên của tổ đặc nhiệm chưa hề được gặp nhau, mỗi người một ngả. Thời gian trôi qua, nhưng những ký ức về 5 ngày xoay trần, miệt mài, gan lỳ và hồi hộp đầy lo âu với những chiếc máy bay A37 lấy được của địch trên các sân bay Đà Nẵng, Phù Cát, Phan Rang, như chỉ vừa hôm qua. Trận đánh ngày 28 tháng 4 năm 1975 đã đi vào lịch sử như một chiến công không thể lặp lại, một điều không nghĩ tới mà thành sự thật đã để lại cho sự kinh ngạc với quân thù. Đằng sau chiến công ấy, lịch sử cũng sẽ mãi khắc ghi thêm chiến công thầm lặng của những người lính kỹ thuật không quân trong đại thắng mùa xuân năm 1975 của toàn dân tộc.


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 02 Tháng Tám, 2016, 11:34:18 am
           
CHIẾN CÔNG THẦM LẶNG PHI THUỜNG

Thiếu tướng NGUYỄN HỒNG NHỊ             
Nguyên Sư đoàn trưởng Sư đoàn KQ 372       


        Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, không quân ta thu hồi được số lượng lớn máy bay, phụ tùng và nhiều trang thiết bị kỹ thuật hàng không của chế độ Mỹ - ngụy Sài Gòn để lại, bao gồm hàng trăm máy bay chiến đấu các loại như F- 5 , A37, UH - 1 vũ trang... và hàng chục kiểu loại máy bay vận tải, trinh sát, chỉ điểm như C-130, C-47, C-119, L-19... Để đảm bảo khai thác có hiệu quả số lượng lớn máy bay và các trang thiết bị thu hồi được, cấp trên quyết định giao tất cả số lượng máy bay, một phần khí tài và trang thiết bị kỹ thuật đó cho sư đoàn 372 để quản lý, sửa chữa, hồi phục, khai thác, phục vụ cho nhiệm vụ chiến đấu và các nhiệm vụ khác của Quân chủng.

        Thực hiện nhiệm vụ trên, sư đoàn không quân 372 tập trung toàn bộ lực lượng bảo đảm kỹ thuật của sư đoàn để quán triệt nhiệm vụ, đồng thời tiến hành hiệp đồng với các xưởng, nhà máy của Quân chủng đóng quân trên địa bàn hoạt động của sư đoàn để cùng phối hợp tiến hành các biện pháp hồi phục, sửa chữa tất cả các loại máy bay của sư đoàn, đáp ứng số lượng, chất lượng cho chiến đấu và các nhiệm vụ khác cho Quân chủng ở phía Nam.

        Tình hình miền Nam sau ngày giải phóng, vừa thoát khỏi ách thực dân kiểu mới của Mỹ - ngụy, còn nhiều khó khăn, an ninh chính trị, an toàn xã hội còn phức tạp... Nhiệm vụ khắc phục hậu quả chiến tranh đang là hàng đầu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thì bất ngờ quân Polpôt (Campuchia) gây ra chiến tranh biên giới, hải đảo phía Tây Nam của Tổ quốc. Cuộc chiến tranh phi nghĩa của bè lũ Polpôt rất dã man tàn bạo đối với đồng bào ta ở vùng biên giới, hải đảo phía Tây Nam.

        Sư đoàn không quân 372 trở thành sư đoàn không quân mặt trận phía Nam của Quân chủng Phòng không - Không quân có nhiệm vụ vừa hiệp đồng chiến đấu chi viện hỏa lực cho lục quân, hải quân vừa tổ chức đánh độc lập các mục tiêu mặt đất, mặt nước theo lệnh hoặc theo kế hoạch tác chiến. Ngoài ra còn đảm bảo nhiệm vụ vận chuyển thương binh, liệt sĩ, tiếp tế lương thực, thuốc men, vũ khí đạn dược cho các mặt trận, đồng thời đảm đương phần lớn nhiệm vụ vận chuyển Nam - Bắc.

         Trước tình hình nhiệm vụ được giao, sư đoàn gặp không ít khó khăn, đó là đội ngũ cán bộ kỹ thuật, nhân viên chuyên môn, tuyệt đại bộ phận được đào tạo sử dụng máy bay Liên Xô, chưa ai được đào tạo sử dụng máy bay hệ II (của Mỹ), mặt khác vốn tiếng Anh của anh em làm công tác kỹ thuật hầu như không mấy ai biết. Trong khi đó các tài liệu hướng dẫn kỹ thuật máy bay hệ II, kể cả các ký hiệu trong buồng lái máy bay đều ghi bằng tiếng Anh, viết tắt, viết rất gọn vừa khó đọc, khó nhớ... thành thử việc nhanh chóng nắm bắt và sử dụng được máy bay khí tài hệ II để chiến đấu và thực hiện nhiệm vụ bay khác không đơn giản. Mặt khác, nhiều cán bộ kỹ thuật máy bay, song do nhiệm vụ phải chuyển làm các nhiệm vụ khác hoặc vì sức khỏe đã được nghỉ... nay do nhiệm vụ lại yêu cầu các cán bộ đó trở lại làm kỹ thuật, kể cả một số anh em là phi công. Khó khăn là vậy, song với tinh thần cách mạng tiến công, với ý chí làm chủ khoa học - kỹ thuật, với lòng nhiệt tình say mê nghề nghiệp, anh em kỹ thuật đã ngày đêm lăn lộn trên sân đỗ máy bay, trong xưởng máy, tìm tòi học hỏi ở một số thợ máy của chế độ cũ có tay nghề cao để nghiên cứu, nắm bắt được cách sử dụng các loại máy bay, khí tài thu hồi được, đồng thời phát huy nhiều sáng kiến, có nhiều biện pháp hồi phục, sửa chữa từng loại máy bay. Với lòng quyết tâm làm chủ khoa học kỹ thuật mới, anh em kỹ thuật đã đặt ra phương châm là hồi phục, sửa chữa từ dễ đến khó, từ đơn chiếc đến những tổ hợp kỹ thuật phức tạp, sửa chữa đến đâu đưa ra kiểm tra bay thử và khai thác đến đó. Nhờ vậy khi sư đoàn bắt tay vào làm nhiệm vụ chiến đấu, ngành kỹ thuật đã đáp ứng máy bay vượt yêu cầu về số lượng và đảm bảo chất lượng cao.

        Đầu năm 1976, khi nhân dân cả nước vui mừng đón tết cổ truyền của dân tộc đầu tiên trong khung cảnh hòa bình, sư đoàn 372 ngoài vui tết cổ truyền của dân tộc, còn hân hoan đón tết bằng một loạt máy bay các kiểu loại đã được hồi phục, sửa chữa xong để sẵn sàng cất cánh làm nhiệm vụ như máy bay F-5, A37, C-47, UH-1... Thật hết sức vui mừng và tự hào. Nó không đơn thuần là sự quyết tâm của mọi cấp, mọi ngành mà còn thể hiện rõ sự đoàn kết nhất trí của tập thể sư đoàn, dám nghĩ, dám làm, dám vượt mọi khó khăn, trở ngại để hoàn thành nhiệm vụ, đặc biệt là đội ngũ kỹ thuật với vốn kinh nghiệm chỉ khai thác máy bay hệ I (của Liên Xô) đã vận dụng và sáng tạo trong nắm bắt khai thác máy bay hệ II thành công chỉ trong một thời gian rất ngắn trong hoàn cảnh khó khăn phức tạp ở vùng mới giải phóng. Những con người làm công tác kỹ thuật đó đa số họ từ ngoài Bắc vào miền Nam lần đầu, chưa quen với cái nóng nực ở các sân bay miền Nam, chưa quen với nếp sinh hoạt của người miền Nam và đời sống ở các sân bay mới giải phóng còn nhiều thiếu thốn,kham khổ. Trong khi đó, bên ngoài sân bay, hàng hóa đầy rẫy cùng với lối sống phồn hoa giả tạo theo kiểu thực dân mới hấp dẫn cuốn hút sẵn sàng lôi cuốn những người vững vàng. Chính vào thời điểm khó khăn về nhiều mặt đó, truyền thống kiên cường của ngành Kỹ thuật Không quân nhân dân được hun đúc từ những năm chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ trên miền Bắc, được khơi dậy và phát huy mạnh mẽ. Nó thấm sâu vào máu thịt của từng cán bộ, nhân viên kỹ thuật không quân vốn là những chiến sĩ luôn mang trong mình ý chí "Người sẵn sàng, máy sẵn sàng". Songdù làm gì, dù giữ cương vị gì, họ vẫn chỉ là những chiến sĩ thầm lặng, luôn chịu thương, chịu khó chăm lo không để mất mát, hư hỏng từng cái đinh, con ốc, cái doăng đệm... để luôn bảo đảm cho máy bay mỗi lần cất cánh được an toàn. Những tấm gương bình dị về những con người đó rất nhiều. Những người đầu ngành có thể kể đến như các đồng chí Hồ Thanh Minh, Trương Khánh Châu... (Cục Kỹ thuật Quân chủng); Nguyễn TrungThứ, Dương Niết (Phòng kỹ thuật sư đoàn); Đinh Tường Long (UH-1); Phạm Văn Bối (A37); Phạm Ngọc Đễ (F-5)... đặc biệt đồng chí Nguyễn Đình Lầu cùng với 5 – 7 thợ sơ cấp kỹ thuật đã quản lý, hồi phục bảo đảm hàng trăm trực thăng UH-1 trên sân bay Biên Hòa để sẵn sàng bổ sung cho trung đoàn 917 làm nhiệm vụ.


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 02 Tháng Tám, 2016, 11:35:21 am

        Những cán bộ, nhân viên kỹ thuật còn đảm nhiệm nhiệm vụ thu gọn các loại máy bay, trực thăng UH-1 nằm rải rác trên các sân bay dã chiến, cánh đồng hoặc trên vùng rừng núi Tây Nguyên và cả ngoài hải đảo. Công việc thu gom phải bảo đảm nhanh chóng và an toàn. Tiêu biểu cho những tấm gương không ngại vất vả lặn lội tìm kiếm thu gom được nhiều trực thăng UH-1 tốt đưa về sân bay cơ bản phải kể đến các đồng chí như Tưởng Phi Đằng (sân bay Biên Hòa); Phạm Văn Bối (sân bay Bình Thủy)...

        Sánh vai cùng ngành Kỹ thuật trong thực hiện nhiệm vụ hồi phục máy bay phải kể đến cán bộ nhân viên ngành Hậu cần, những con người luôn luôn đặt nhiệm vụ phục vụ lên trên hết, luôn luôn là người đi trước về sau, không quản ngày đêm, bất cứ lúc nào kỹ thuật cần là hậu cần đáp ứng có ngay. Nào xăng dầu, xe máy, cần trục, xe nâng, xe đẩy, xe kéo dắt máy bay... nào cung cấp vật tư, khí tài... cho đến việc canh gác bảo vệ máy bay sân bay và công tác bảo đảm đời sống cho mọi đối tượng của sư đoàn. Chính những con người làm công tác hậu cần, chiến công của họ cũng thầm lặng phi thường như những người làm công tác kỹ thuật. Một lực lượng không nhỏ góp phần đưa nhiều máy bay hệ II vào khai thác nhanh với số lượng lớn như vậy, không thể không nói đến sự đóng góp trí tuệ công sức của họ, đó chính là những người thợ kỹ thuật, trước kia đã từng phục vụ cho không quân ngụy quyền Sài Gòn, ở lại miền Nam sau ngày giải phóng. Họ được tuyển dụngvào sư đoàn theo chính sách nhân đạo của Nhà nước ta. Khi sư đoàn tiếp thu quản lý, khai thác với số lượng lớn máy bay thu hồi được đang cần có những tay nghề kỹ thuật, có kinh nghiệm đã từng làm việc bảo đảm kỹ thuật cho từng loại máy bay đó. Mặt khác để nhanh chóng góp phần ổn định tình hình xã hội cần phải tạo ra việc làm cho họ, có thu nhập cho đời sống gia đình và bản thân, thiết thực góp phần giảm bớt khó khăn phức tạp cho vùng mới giải phóng. Theo chủ trương của trên sư đoàn đã tuyển dụng hàng ngàn nhân viên kỹ thuật của chế độ cũ, và họ được gọi là "nhân viên mới". Dưới sự quản lý của sư đoàn, họ đã tích cực làm việc, tham gia sửa chữa hồi phục máy bay, xe máy và các phương tiện kỹ thuật khác. Trong số họ, nhiều người nhanh chóng giác ngộ cách mạng, họ tự giác làm tốt công tác khi sử dụng máy bay hệ II. Nhiều người lập được thành tích tốt, được khen thưởng xứng đáng. Ngược lại, cũng có những người không chịu cải tạo tiến bộ, vẫn nuôi hận thù chống phá cách mạng, ngấm ngầm tìm cách phá hỏng máy bay, cướp máy bay trốn ra nước ngoài.

        Đầu năm 1979, chiến tranh biên giới phía Bắc lại xảy ra quyết liệt. Sư đoàn không quân 372 nhận lệnh chuyển một phần lực lượng máy bay, phương tiện kỹ thuật và khí tài chiến đấu ra Bắc để làm nhiệm vụ. Đó là nhiệm vụ rất khó khăn, phức tạp. Đây là lần đầu tiên sư đoàn đưa số lượng lớn máy bay hệ II ra Bắc. Điều lo ngại nhất đối với chỉ huy sư đoàn là công tác bảo đảm kỹ thuật máy bay làm sao cho đủ số lượng máy bay và bay ra Bắc đúng ngày quy định của mặt trận. Với tinh thần "người sẵn sàng", cán bộ nhân viên kỹ thuật của sư đoàn dốc sức ngày đêm chuẩn bị cho đủ số lượng máy bay và bảo đảm chất lượng để cơ động. Chỉ trong một thời gian rất ngắn bằng nỗ lực không mệt mỏi, các bộ phận cơ động của sư đoàn đã tập kết tại căn cứ mới đầy đủ, đúng ngày quy định. Tại sân bay mới, máy bay chiến đấu của sư đoàn (F-5, A37, UH-1 vũ trang) đã lắp đầy đủ số bom, đạn đợi lệnh cất cánh. Lúc này thời tiết trên miền Bắc đang còn đọng lại từng đợt rét cuối mùa, đứng trực ban chiến đấu trên sân bay gió lộng làm cho tai buốt, tay cóng, nhưng trong lòng những cán bộ, người lái máy bay, nhân viên kỹ thuật, hậu cần... luôn rực lửa căm thù xâm lược đang giết hại đồng bào biên giới.

        Cuộc cơ động lực lượng của sư đoàn từ Nam ra Bắc để làm nhiệm vụ chiến đấu đánh dấu bước trưởng thành của cán bộ chiến sĩ sư đoàn nói riêng, của không quân nói chung. Đó là cuộc hành quân xa hàng ngàn cây số bằng loại máy bay khí tài hệ II ta vừa mới làm chủ, bảo đảm an toàn tuyệt đối, bảo đảm đúng ngày quy định để sẵn sàng tham gia chiến đấu. Thông qua cuộc hànhquân chiến đấu này càng tô thắm chiến công thầm lặng phi thường đáng ghi nhớ nhất của những chiến sĩ kỹ thuật không quân. Họ đã thấm nhuần lời dạy của Bác Hồ vĩ đại: "... Quân đội ta luôn luôn trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh...", ghi sâu lời dạy đó trong tâm can của mỗi người và biến nó thành sức mạnh không gì ngăn cản được. Những cán bộ, chiến sĩ ngành Kỹ thuật Không quân nhân dân luôn xứng đáng là những người kế tục truyền thống của dân tộc anh hùng, Quân đội anh hùng, Không quân nhân dân anh hùng. Nhiều cán bộ, chiến sĩ làm công tác kỹ thuật máy bay để đạt nhiều thành tích, xứng đáng được tuyên dương Anh hùng. Và mặc dầu không được như vậy họ vẫn là những chiến sĩ kiên cường chiến đấu trên mặttrận thầm lặng phi thường trước đây, hiện nay và mai sau.

Tam Đảo - Vĩnh Phúc, 28-6-2004.       


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 02 Tháng Tám, 2016, 11:37:51 am
       
CÂU CHUYỆN VỀ KHÔNG QUÂN NHÂN DÂN VIỆT NAM SỬ DỤNG MÁY BAY C 130, UH 1, AN2... TRONG CHIẾN TRANH GIỮ NƯỚC

Đại tá Lê Văn Quyền                       
Nguyên Trung đoàn trưởng trung đoàn KQ 918       

        Sài Gòn và cả miền Nam giải phóng đã hai tuần rồi mà chúng tôi vẫn còn ở Hà Nội. Cả sân bay Gia Lâm náo nức đợi chờ.

         Những người phi công kỳ cựu như chúng tôi và cả lớp phi công trẻ đều nóng lòng chờ lệnh Quân chủng ban ra; để được vào Nam tiếp quản và sử dụng máy bay thu được của địch cả ngàn chiếc các loại. Ôi vui sướng làm sao? Ngày 18-5-1975 một số ít trong chúng tôi được đi chiếc máy bay DC-4 từ Gia Lâm bay thẳng vào Tân Sơn Nhất.

        Mặt nhìn mặt tay nắm tay vừa bồi hồi vừa rạo rực hẹn cùng nhau - ta sẽ bay chuyển loại thật nhanh để kịp làm các nhiệm vụ cần kíp mà một giai đoạn cách mạng mới đang cần đến chúng ta.

        Những người ngồi bên nhau hôm đó gồm anh Hoàng Ngọc Trung, anh Nguyễn Đức Hiền, anh Lê Văn Quyền, anh Phạm Thanh Tâm, anh Huỳnh Văn Năm v.v...

        Sân bay Tân Sơn Nhất hiện ra từ trên bầu trời rộnglớn bao la - làm choáng ngợp lòng người...

        Chúng tôi thường bay đi hạ cánh nhiều sân bay các nước, nhưng chưa có sân bay nào làm chúng tôi ngạc nhiên đến thế. Các lối vào sân bay, trên đường lăn, sân đỗ đều ngổn ngang, xơ xác, bơ phờ, nào quần áo ngụy quân, nào giày, mũ, bi đông, súng đạn, quân hiệu, huy hiệu phơi la liệt nằm chồng lên nhau - bên trái đường lăn gần đài chỉ huy một chiếc C-130 gãy một càng và một cánh nghiêng chỏng lên trời.

        Cái cảnh hỗn loạn, tranh nhau chạy thoát thân phơi bày ra - chúng lột hết tất cả những gì trên người là hình ảnh của ngụy quân như quân phục, giày, mũ, bi đông và đồ dùng quân sự la liệt khắp sân bay mà đến 3 - 4 tháng sau chúng tôi mới dọn bỏ hết được.

        Chúng tôi tiếp quản đầu tiên là khu nhà ở của phi công Mỹ, ngụy.

         Sân bay Tân Sơn Nhất có hướng cất cánh, hạ cánh là 720 - 2520 khu nhà của phi công gần trại Đa vít và cách đài chỉ huy sân bay không xa.

         Nhà ăn của phi công Mỹ, ngụy nằm bên phải đường vào ra của phi công. Nhà ăn có tên "mây bốn phương trời" viết bằng chữ sơn vàng đỏ rất đẹp treo trước nhà ăn, hai bên cửa là hai máy đánh bạc quay số hiện đại. Một cây đa không cao nhưng có nhiều cành, nhiều lá, thường rợp bóng mát các buổi trưa hè gay gắt, có rất nhiều rễ phụ.

        Dạo quanh khu nhà ở, ta thấy rất nhiều khẩu hiệu viết trước tường nhà như "không được dùng máy bay để đi săn" sau này tôi được một phi công ngụy đã theo ta giải thích "cấp trên không cho dùng máy bay trực thăng để đi săn, nhưng chúng tôi vẫn săn bắt được rất nhiều hươu nai mà có đem về sân bay đâu, toàn hạ xuống Củ Chi - Hóc Môn bán lấy tiền, họ làm gì mà biết được (cười).

        Sau một thời gian ngắn bay chuyển loại trên các loại máy bay C-130, C-119, C7A (Caribu), C-47, CH-47 và máy bay dân sự như DC-6, DC-4, DC-3 và số máy bay nhỏ khác.

        Chúng tôi được Quân chủng giao nhiệm vụ đầu tiên. Nhiệm vụ quan trọng này có tên gọi "Chiến dịch Z" đó là nhiệm vụ chở các tù binh chính trị, quân sự từ miền Nam ra Bắc, ở Hà Nội, ở Yên Bái. Có chuyện lạ là tù binh mà ta cho họ mang theo cả các đồ dùng quý giá như thuốc lá xì-gà, máy chế biến các loại thuốc hút nghiện khác...

        Nhiệm vụ thứ hai (tôi chỉ kể một số nhiệm vụ quan trọng) là chở xe bọc thép M113 tại Đà Nẵng sang cho bạn Lào.

         Chúng ta còn nhớ những năm 1976 - 1977 có vấn đề "người Hoa" bọn phản động quốc tế muốn nhân cơ hội này cướp lấy nước Lào.

        Chúng không ngờ rằng, tuy quân tình nguyện Việt Nam đã rút hết khỏi đất Lào, nhưng cách mạng Việt Nam - Lào còn nguyên vẹn từ buổi ban đầu.

         Bọn Bun ùm - Phủi-xa-lia-ni-con hí hửng từ Thái Lan chuẩn bị tập kích thủ đô Viên Chăn bằng máy bay - hòng bắt sống các lãnh đạo Lào.

        Phát hiện được âm mưu này - Bộ Tổng tham mưu và Quân chủng Phòng không - Không quân giao nhiệm vụ cho trung đoàn không quân vận tải 918 chuẩn bị nhanh chóng để chở 24 chiếc xe bọc thép M113 từ Đà Nẵng sang cho hai quân khu của bạn ở Pắc-xế và Savan-nakhét. Nhiệm vụ này rất quan trọng và phải làm ngay, chỉ có không quân dùng máy bay mới làm kịp, bộ binh không làm kịp vì đường xa cả ngàn cây số làm sao hành quân để cứu bạn cho kịp được.

        Máy bay C-130 của trung đoàn chúng tôi chuẩn bị ráo riết ở Tân Sơn Nhất và bay chuyển sân ra Đà Nẵng. Chỉ trong một tuần hai máy bay C-130 do Mỹ sản xuất đã chở trọn vẹn 24 chiếc xe bọc thép M113 sang giúp bạn. Thế là âm mưu của địch đã bị chặn đứng.

        Sau đó Việt Nam - Lào đã ký hiệp định hữu nghị đặc biệt giúp đỡ lẫn nhau những lúc gặp khó khăn. Trung đoàn chúng tôi mãi mãi tự hào đã góp được một phần nhỏ trong sự kiện lịch sử này.


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 02 Tháng Tám, 2016, 11:41:38 am

        Nhiệm vụ thứ ba là: Dùng máy bay vận tải để đi chiến đấu - đây là truyền thống của ta rồi, của nhân dân ta, của quân đội ta "dùng vũ khí của địch để đánh địch - dùng trí thông minh của người Việt Nam để cải tiến các loại vũ khí của họ thành thứ vũ khí chiến đấu trong thực tế ở chiến trường Việt Nam".

        Cái này thì bộ binh có nhiều lắm, sáng kiến nhiều lắm, mà ai cũng biết.

        Tôi xin kể về máy bay C-130 của trung đoàn tôi - máy bay vận tải C-130 của Mỹ hoạt động khắp thế giới. Nó là loại máy bay vận tải quân sự hạng trung, nhiệm vụ của nó là vận tải thiết bị quân sự gồm các loại xe quân sự loại nhẹ, vận chuyển vũ khí đạn dược – lương thực - xe - súng đạn hàng hóa được để trên các băng chuyền - khi máy bay hạ cánh đang chạy trên đường băng. Đến tốc độ nào đó thì "look" sau đuôi mở ra và xe, súng đạn, hàng hóa theo các băng chuyền tuột xuống đường băng - sau đó phi công tăng ga lớn nhất để đạt đến tốc độ là máy bay rời đất và bay thẳng đi luôn. Nó không hề dừng lại trên sân bay một phút nào hết. Cũng vì thế mà tại sân bay Khe Sanh - Tà Cơn, phi công Mỹ - ngụy luôn luôn hạ cánh để tiếp tế cho quân ngụy - Mỹ - mà pháo và cối của ta không bắn được nó - vì nó như chuồn chuồn đớp nước rồi bay đi mau lẹ.

        Nó còn làm nhiệm vụ nhảy dù hàng trăm quân một lần.

        Máy bay C-130 của Mỹ chế tạo ra - nhiệm vụ chỉ có thế chứ không có đeo bom.

        Thế mà trung đoàn tôi theo lệnh của Quân chủng phải biến nó thành máy bay ném bom.

        Nhiệm khó khăn thật. Nhưng với trí tuệ của lính kỹ thuật trung đoàn, của A41 và trí tuệ của kỹ thuật cấp trên bổ trợ.

         Máy bay C-130 của ta đã chở mỗi lần được 10 tấn bom - đi đánh các mục tiêu của địch - của bọn Pôn Pốt trên đất Công-pông-chàm những năm 1978 - 1979 góp một phần nhỏ vào chiến thắng 7-1- 1979 đánh đổ bọn Pôn Pốt giành thắng lợi cho cách mạng Cămpuchia.

        Cải tiến máy bay C-130 từ nhiệm vụ vận tải sang thành máy bay ném bom không khó lắm, vì trên cơ sở các băng chuyền hàng hóa của nó đã có sẵn, ta chỉ cải tiến các băng chuyền ấy thành băng chuyền ném bom. Mỗi băng chuyền ta để 4 quả bom, mỗi quả 250kg. Mỗi lần bay ta lắp từ 8 - 10 băng chuyền như thế, tùy theo nhiệm vụ trên giao.

         Chúng tôi đã bay tập ném bom như thế trên sân bay Rang Rang phía Đông Bắc thành phố Biên Hòa giáp tỉnh Lâm Đồng hàng tháng trời, trước khi bay đi ném bom trên chiến trường.

         Cải tiến nó thành máy bay chở xe bọc thép M113 mới là chuyện khó khăn. Việc cải tiến này tôi kể ở một bài khác.

        Nhiệm vụ và chiến công của cả một trung đoàn - một mình tôi nhớ lại và viết trên mấy trang giấy thì làm sao nói hết được. Còn các loại máy bay khác của trung đoàn như máy bay C-119, C-47, C-7A... đều hoàn thànhxuất sắc nhiệm vụ của mình.

        Tiếc rằng tất cả 7 chiếc máy bay C-130 của ta ở Tân Sơn Nhất - vì hết niên hạn bay, mà ta không đem nó sang Singapore để đại tu, nên cho đến nay - nó vẫn nằm ì một chỗ.

        Những nhiệm vụ mang tính chiến thuật cao của nó là chở bộ binh, chở bộ đội đặc công, đi chụp ảnh tàu lạ ngoài quần đảo Trường Sa. Bán kính hoạt động xa, chỉ có C - 130 mới đủ tính năng đảm đương được.

        Sau đây - Tôi kể vài mẩu chuyện từ khi tôi mới về không quân, kể cả một vài chuyện khi tôi còn là bộ binh chống Pháp.

        Tháng 7-1959, sau khi trung đoàn 919 thành lập được có 2 tháng. Đội bay An-2 của tôi làm nhiệm vụ ở Vít Thù Lù. Mới nghe qua cái tên - đã biết nó nằm ở nơi thâm sơn cùng cốc, tận phía Tây huyện Lệ Thủy, giáp huyện Hương Hóa - Quảng Trị.

        Đây là nhiệm vụ mới mẻ của trung đoàn, là làm nhiệm vụ tiếp tế cho bộ binh - mà bộ binh ở đây là trung đoàn 95 của Bình Trị Thiên ở tận trong rừng sâu lại thuộc vùng giới tuyến quân sự tạm thời, gần cầu Hiền Lương.

        Vì nhiệm vụ mới như thế - nên báo Quân đội cử nhà báo Trần Cư (nhà anh ở Lý Nam Đê) vào sân bayĐồng Hới thâm nhập tổ bay để viết tin cho báo Quân đội.

        Sân bay Đồng Hới - còn có tên là sân bay Bờ Hơ nằm bên bờ Nhật Lệ quanh năm "Chang chang cồn cát nắng mưa Quảng Bình".

        Sân bay nhỏ thế mà có đến 2 nhà thờ - một nhà thờ Thiên Chúa và một nhà thờ Phật.

        Vì quân Pháp - ngụy không được ra ngoài – nên chúng xây 2 nhà thờ đó cho lính đi lễ.

        Sân bay Đồng Hới tuy nhỏ nhưng là sân bay của Pháp - phi công Pháp đóng nên khu phi công ở có "khu 5 nhà" bao quanh những hàng phi lao (dương liễu) cao vút.

        Đi bay ở Vít Thù Lù về - buổi trưa ngủ tại "khu 5 nhà", anh Trần Cư kể cho chúng tôi nghe những điều lý thú. Anh nói: Bộ đội ta hay làm thơ - nhưng thơ bộ đội -được vần thì mất ý, được ý thì mất vần. Rồi anh đọc: "Kìa xem con trấu nó ăn co" - Chao ôi! Con trấu là con gì? và ăn co là ăn gì?

         Anh giải thích: Con trấu là con trâu - và ăn co là ăn cỏ đấy là con trâu ăn cỏ đấy. Phải nói như thế mới là thơ - mới có vần chứ. Cho nên câu thơ này được vần mà mất ý.

        Anh lại nói: Khi bộ đội hành quân đến bến Bình Ca (Tuyên Quang) cả người và ngựa đều mệt nhoài không ai thèm nói với ai điều gì - thì có một chiến sĩ đọc lên:

"Kìa xem con ngựa nó sang sông,
Nó buồn nó đứng, nó không nói gì"
Anh giải thích: Đây là lối nói "nhân cách hóa".

         Anh vui lắm. Bộ đội ta vui là thế đó...

Sân bay Đồng Hới sáng 8-9-2004       
(Thăm lại chiến trường xưa CCBKQ).       


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 02 Tháng Tám, 2016, 11:44:02 am
       
CHỞ 24 CHIẾC XE BỌC THÉP M113 SANG ĐẤT LÀO

        Đầu năm 1977, đơn vị tôi được giao một nhiệm vụ thật cấp bách: "Nghiên cứu và thực hành vận chuyển bằng máy bay C-130: 24 chiếc xe bọc thép M-113 tại sân bay Đà Nẵng sang cho hai quân khu của bạn Lào ở Pắc-xế và Xa-van-na-khét".

        Người lái trung đoàn tôi là những chiến sĩ phi công tốt nghiệp từ Liên Xô quen lái máy bay của Liên Xô. Tuy đã bay chuyển loại sang các loại máy bay của Mỹ như loại C-130 này đã hơn một năm từ sau 30-4-1975, đã bay tập ném bom thả dù, rải quân đổ bộ đường không, vận chuyển vũ khí bom đạn xăng dầu và hàng quân sự, nhưng việc chở M – l13 thì ngay nước Mỹ - nơi sản xuất ra loại máy bay này, người Mỹ cũng chưa dùng máy bay C-130 để chở M-113.

        Chúng tôi phải thi hành một nhiệm vụ mới về kỹ thuật vận chuyển đường không mà chưa được học ở một trường nào. Hơn nữa, đây là việc chuyên chở ngoài khả năng cho phép của loại máy bay này.

         Tuy là nhiệm vụ chiến đấu, nhưng về kỹ thuật bay, kỹ thuật hàng không buộc chúng tôi phải làm theo quy định của kỹ thuật.

        Thế là chuyên gia kỹ thuật của trung đoàn cùng với xưởng A41 - xưởng sửa chữa máy bay quân sự tại sân bay Tân Sơn Nhất (sau này trở thành nhà máy A41), có sự chỉ dẫn kỹ thuật của cấp trên, sau một thời gian nghiên cứu đã cho phép chúng tôi thi hành được nhiệm vụ.

        Cái khó của việc nghiên cứu là: Ta dùng máy bay của Mỹ để chở xe bọc thép của Mỹ, mà không quân Mỹ chưa làm bao giờ.

        Nói vậy, chứ trên thế giới này, ngay ở Trung Quốc và ngay cả ở Việt Nam ta, có biết bao tấm gương về sự thông minh sáng tạo, đã dùng vũ khí của địch để đánh địch, dùng kỹ thuật cộng với sự sáng tạo của ta, biến kỹ thuật đó trở thành tinh xảo hơn và sử dụng hợp với điều kiện thực tế của ta hơn.

        Máy bay C-130 có trọng tải tối đa là 10 tấn mà trọng lượng rỗng của M-113 là 8 tấn5, còn chiều rộng và chiều cao của M - 113 thì gần sít với lòng máy bay, chỉ cách mép thành mỗi bên không quá 10cm. Khối lượng nặng quá so với khả năng trọng tải máy bay đã đành, nhưng còn kích thước và xích sắt?

         Người lái xe M- 1 13 làm sao lái xe lên và xuống máy bay mà không phá nát sàn máy bay và không va chạm vào thành máy bay?

        Đó là tất cả việc nghiên cứu và hành động khắc phục của chúng tôi.

        Chúng tôi quyết học tập máy bay trực thăng Mi-6 đã mang dưới bụng mình những giỏ đá nặng 5 - 7 tấn để đi hàn đê đang bị nước xoáy vỡ trên bờ đê sông Đuống năm xưa, hay mang chiếc MIG-21 dưới bụng nặng 7 tấn từ sân bay Nội Bài đi sơ tán các bãi để tránh những trận ném bom của máy bay Mỹ vào sân bay...

        Còn việc cấp bách giúp cách mạng Lào lúc này là làm sao trong thời gian ngắn, sự chi viện của quân sự Việt Nam phải có mặt trở lại kịp thời vào thời điểm 1977.

         Cái thời điểm mà trên đất Lào lúc đó quân tình nguyện Việt Nam đã rút hết về nước.

        Cái thời điểm mà bọn Bun ùm Phủi Xa-na-ni-con cùng thế lực phản động quốc tế nhân đó đang rắp tâm thực hiện việc tập kích đổ bộ đường không vào thủ đô Viên Chăn và các nơi khác.

        Cái thời điểm mà kẻ xấu đã rêu rao "vấn đề người Hoa" đang gây xáo trộn trong nhân dân và cả trong các cấp lãnh đạo ở Lào.

        Xưa nay, những người lính Cụ Hồ chúng tôi hằng ôm ấp trong lòng mình lời dặn của Bác:

Việt Lào hai nước chúng ta
Tình sâu hơn nước Hồng Hà - Cửu Long.

        Tôi đã chấp hành trọn vẹn việc chuyển 24 xe bọc thép M-113 từ Đà Nẵng cho bạn ở Pắc-xế và Xa-va-na-khét. Mỗi quân khu 12 chiếc.

        Xe bọc thép của Việt Nam chi viện cho cách mạng Lào bằng đường hàng không năm ấy thể hiện sự gắn bó keo sơn của quân đội hai nước, giúp đỡ lẫn nhau trong lúc cách mạng đang gặp khó khăn.

        Cùng với những hoạt động quân sự khác của ta và bạn đã đập tan ý đồ đen tối của địch, cứu cách mạng Lào một lần nữa ra khỏi cơn nguy khốn.

        Tôi không nhớ rõ ngày tháng mà đơn vị tôi đã hoàn thành nhiệm vụ trên giao, chỉ biết rằng sau đó một thời gian ngắn trên đài phát thanh của hai nước đã vang lên tiếng nói của hai vị lãnh tụ kính yêu - đồng chí Lê Duẩn và đồng chí Cay Xỏn Phôn-vi-hản trong việc ký kết hiệp định hữu nghị đặc biệt Việt - Lào giữa năm 1977.

        Cái mốc lịch sử ấy thấm đậm vào ký ức của mỗi người Lào Việt anh em đậm đà chung thủy.


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 02 Tháng Tám, 2016, 11:51:27 am
        
PHI CÔNG VIỆT NAM BAY GIỎI QUÁ

Đại tá Trịnh Minh Đức                                    
Nguyên Phó trung đoàn trưởng trung đoàn không quân 917        

        Thành phố Đà Nẵng hoàn toàn giải phóng ngày 29-3- 1975, 9 giờ 00 sáng hôm sau đoàn trực thăng của chúng tôi hạ cánh xuống sân bay Đà Nẵng.

         Từ sân bay Phú Bài (Huế) tiểu đoàn 4, tiểu đoàn 5, trực thăng Mi8, Mi6 được lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân vào sân bay Đà Nẵng với nhiệm vụ: Tiếp thu các loại máy bay trực thăng; Mi8, Mi6 làm nhiệm vụ vận chuyển súng đạn, lương thực, thuốc men cho quân giải phóng ở Ban Mê Thuột, tạo điều kiện thuận lợi cho bộ đội đánh về Sài Gòn và nhanh chóng ổn định tổ chức huấn luyện chuyển loại cho 6 tổ bay UH-1 (máy bay chiến lợi phẩm mà ta thu được của không quân Sài Gòn).

        Bước chân xuống sân bay Đà Nẵng, chúng tôi không khỏi ngỡ ngàng vì: Toàn bộ sân bay từ nhà ga, sân đỗ, hai bên đường cất hạ cánh, đâu đâu cũng thấy xe con và trực thăng UH-1 đỗ ngổn ngang vô cùng lộn xộn. Chúng tôi hội ý và bắt tay ngay vào việc; trước mắt hai Mi6 vận chuyển súng đạn, lương thực ngày 4 chuyến. Thứ hai khảo sát thu gom toàn bộ UH-1 về nơi bãi đậu. Chúng tôi cùng với toán thợ máy và các bộ môn chuyên trách về UH-1 mà ban quân quản Đà Nẵng giao cho. Số anh em này trước đây phục vụ cho phi đoàn trực thăng UH-1 và Xinúc của không quân Sài Gòn.

        Khoảng 35 UH-1 đậu rải rác khắp nơi, tổ chức thu gom nhanh nhất về bãi đỗ bằng cách lấy xe kéo dắt, chúng tôi thực hiện trong hai ngày là xong hết.

         Chỉ còn một chiếc là không thể nào kéo được, là chiếc UH - 1 nằm lọt thỏm trong kho xăng. Viên phi công này đáp UH-1 xuống kho xăng, định nạp xăng khẩn cấp và cất cánh đưa vợ con ra hạm tàu ngoài biển. Nhưng xem chừng không kịp, quân giải phóng ào ạt tiến vào, anh ta đành bỏ của chạy lấy người. Tình huống này chỉ nổ máy cất cánh bay ra sân đậu mà thôi.

        Xuân Trường và Đình Khoa hai phi công giỏi của đoàn bay chúng tôi được phân công làm nhiệm vụ đó. Hai đồng chí đọc lại sổ tay ghi chép tại Hòa Lạc cách đây 5 tháng; sau đó cùng toán thợ máy 4 người chuẩn bị kiểm tra trước khi bay, trong số đó có trung sĩ Ty, thượng sĩ nhứt Thảo làm việc rất linh hoạt, xông xáo, nhưng trên nét mặt hai anh có vẻ lo lo, sợ hai phi công có bay ra được hay không? Nhỡ mà rớt cháy trong kho xăng là vô cùng nguy hiểm.

        Hơn 1 giờ chuẩn bị, hai anh Trường - Khoa cho nổ máy, thử các chế độ làm việc của động cơ, kiểm tra toàn bộ tốt. Hai anh nhẹ nhàng nhấc chiếc UH-1 lên thẳng đứng và treo cao 10m tại chỗ, ung dung cất cánh bay một vòng lượn nhỏ, hạ cánh xuống đúng vạch đỗ quy định. Mọi người trong đoàn chúng tôi ai cũng thở phào nhẹ nhõm. Riêng trung sĩ Ty và thượng sĩ Thảo hai người thì thầm nói với nhau, mà tôi vô tình nghe được "Phi công Việt bay giỏi quá" họ bàn tán trong tổ chuẩn bị trước khi bay có vẻ thán phục và trân trọng lắm.

        Nghe được lời khen tôi rất khoái chí và cũng nhớ ngay; có được tài giỏi này là nhờ công lao của anh Hồ Duy Hùng, Nguyễn Văn Ba, Nguyễn Tường Long và nhiều đồng chí khác. Hồ Duy Hùng lấy chiếc UH-1 từ sân bay Liên Khương, Đà Lạt bay về căn cứ hạ cánh Lộc Ninh. Đồng chí Nguyễn Văn Ba cùng anh em tổ chức vận chuyển ra Bắc vượt Trường Sơn đầy gian lao và nguy hiểm. Về đến sân bay Hòa Lạc, anh Nguyễn Tường Long cùng đại đội 17 và thợ máy tiểu đoàn 5 lắp ráp, kiểm tra toàn bộ. Người thầy huấn luyện chuyển loại bay UH-1 đầu tiên cho 4 phi công ta là Hồ Duy Hùng. Cái vốn đầu tiên nhỏ bé đó dẫn đến thành công tốt đẹp của chuyến bay UH-1 sau ngày giải phóng: Tôi thầm cám ơn và nhớ công các anh mãi mãi!


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 02 Tháng Tám, 2016, 11:53:37 am
      
HẠ CÁNH LẦN ĐẦU TIÊN TRÊN ĐẢO TRƯỜNG SA

Đại tá Trịnh Minh Đức                                
Nguyên Phó trung đoàn trưởng trung đoàn không quân 917        

        Ngày 15-3 năm 1976 trung đoàn 917 đã hoàn tất cho việc chuẩn bị cho chuyến bay ra đảo Trường Sa. Chúng tôi được lệnh Quân chủng Không quân cùng phối hợp với hải quân vùng 4: Hạ cánh chiếc trực thăng UH-1 lên boong tàu chiến (tàu mà hải quân ta thu được của ngụy quân Sài Gòn). Tàu đưa máy bay ra quần đảoTrường Sa, đem theo xăng dầu dự trữ. Ra đến đảo trực thăng sẽ cất cánh bay quan sát quần đảo và hạ cánh xuống các đảo nhỏ và cuối cùng hạ cánh xuống đảo "Nam Yết" nơi căn cứ chính của bộ đội Trường Sa.

        Phi công Lê Đình Ký, Hồ Duy Hùng, Nguyễn Ngọc Ân, Vũ Xuân Cán cùng tổ thợ máy 4 người. Chúng tôi chuẩn bị thực hiện nhiệm vụ đầy quyết tâm và rất nhiều thử thách.

        Sáng 16-3 tàu thẳng hướng ra đảo Trường Sa sóng to gió lớn phi công và thợ máy ta say sóng quá chừng. Nhưng sau 2 ngày thì biển lặng, trời rất đẹp, cũng vừa lúc tàu đến Trường Sa.

        Nhìn thấy đảo lớn đảo nhỏ, anh em muốn vào ngay, nhưng tàu không cặp bến được.

        Tổ bay tiến hành nổ máy và bay khắp các đảo, bộ đội ta ở Nam Yết vẫy chào chúng tôi lần lượt hạ cánh 6 đảo nhỏ. Các đảo này quân ta chưa đóng chốt, vì vậy mà hải âu tha hồ đẻ trứng. Tổ bay nhặt được mấy trăm trứng hải âu. Gần 1 giờ bay, cuối cùng chúng tôi trở về Nam Yết hạ cánh an toàn, trong niềm vui vô hạn của bộ đội ta.

        Anh em đi xung quanh máy bay vuốt ve, sờ mó nhìn phi công ta trìu mến yêu thương.

        Bữa cơm trưa trên đảo hôm ấy bộ đội Trường Sa đãi không quân canh cua, cá hộp, bộ đội không quân luộc một rổ trứng hải âu chiêu đãi. Đầm ấm, vui tươi và anh em lính bay vô cùng sung sướng vì đã hoàn thành tốt đẹp chuyến bay, lần đầu tiên không quân mình hạ cánh ở đảo Trường Sa.

Ngày 28 tháng 3 năm 1976.        


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 02 Tháng Tám, 2016, 10:19:43 pm
       
NƠI BẦU TRỜI TÌNH BẠN

Hà Bình Nhưỡng       

        Hôm ấy bầu trời Phnôm Pênh như rực rỡ hơn. Dòng Tônglêsáp như mang thêm gió mát từ Biển Hồ về.Và những đền đài, cung điện nguy nga đã bao đời soi mình trên tấm gương viền quanh lấp lánh đó như cũng lộng lẫy hơn. Cả những nữ thần suốt năm tháng đứng trên các cung điện ấy im lặng ngắm nhìn cảnh sắc Phnôm Pênh như đã thả đôi cánh Apsara xuống mà hoà nụ cười Bayon vào tiếng nhạc hào hùng trong niềm vui lớn của đất nước Chùa Tháp và đoàn quân tình nguyện Việt Nam.

        Lễ trọng thể Nhà nước Cam-pu-chia trao tặng Huân chương cao quý cho quân tình nguyện Việt Nam trong đợt rút quân cuối cùng tháng 9 năm 1989 này. Có thể gọi đây là ngày Hội mừng công lớn nhất của Quân tình nguyện Việt Nam trên đất nước Cam-pu-chia trước ngày cả nước bạn lưu luyến chia tay với tất cả lòng biết ơn, thương nhớ với những người anh em, đồng chí đã vì mình mà hy sinh xương máu để đưa nhân dân, đất nước mình thoát khỏi nạn diệt chủng và góp phần hồi sinh cho cả một dân tộc đã có nền văn hoá ăngco huy hoàng.

        Những gương mặt đầy xúc cảm của bạn đang là hình ảnh về sự tri ơn của cả nước Cam-pu-chia thu nhỏ lại Họ đang cùng xúc động như đồng chí Tổng bí thư Hêng-xom-rin lúc ôm hôn các tướng lĩnh, sĩ quan Quân tình nguyện Việt Nam sau khi gắn Huân chương cao quý của Nhà nước Cam-pu-chia lên quân kỳ Việt Nam...

        Trong các sĩ quan đại diện đầy đủ cho các mặt trận, các đơn vị của Quân tình nguyện Việt Nam, tôi sung sướng thấy lần này có nhiều đại biểu mang quân hàm màu xanh in cánh én của mình.

        Đấy là Đại tá Lương Thế Phúc, sư đoàn trưởng sư đoàn không quân 370, là trung tá Nguyễn Thanh Mua, trung đoàn trưởng trung đoàn không quân máy bay lên thẳng chiến đấu 917, trung tá Nguyễn Duy Lê, trung đoàn trưởng trung đoàn không vận tải 918 và trung tá Nguyễn Văn Đức, trung đoàn trưởng trung đoàn căn cứ không quân 901

        ..Trước buổi lễ lớn này, tôi vừa theo tổ bay của Nguyễn Minh Tuấn bay một chuyến bay đường dài - chuyến bay mà như đại tá, phó sư đoàn trưởng ĐinhVăn Bồng (nay là Thiếu tướng - Giám đốc Học viện PK-KQ) nói là: "Đã bay được hai phần ba đất nước Cam-pu-chia".

        Đó là chuyện đi bằng trực thăng và đến nhiều nơi: Bộ Tư lệnh các mặt trận 479, 579 để chào cám ơn và hiệp đồng cuối cùng về đợt rút quân, các sân bay ở phía Bắc và phía Tây để kiểm tra việc rút quân của không quân ta ở đây. Máy bay sẽ cất cánh từ sân bay Pô-chen-tông và trở về hạ cánh ở sân bay này. Như vậy sẽ bay một vòng kín rất rộng trên vùng trời của hai phần ba đất nước Cam-pu-chia. Những ngày chuẩn bị cho đợt rút quân cuối cùng của Quân tình nguyện Việt Nam ở sân bay Pôchentông thật nhộn nhịp. ở đây, ngay trước giờ máy bay cất cánh, tôi đã gặp nhiều đồng đội ở các quân chủng, binh chủng bạn và cả các bạn không quân Cam-pu-chia đang cùng bận rộn cho một việc chung mang ý nghĩa lớn về chính trị và cả về lịch sử này. Trên gương mặt họ vừa lộ vẻ hân hoan với thành quả có được hôm nay, vừa còn ghi đậm dấu ấn của sự hy sinh, chịu đựng gian nan đến tột cùng trong suốt hơn 10 năm qua. Vẫn còn như chưa hết bàng hoàng, căm phẫn bầm tím tim gan trước tội ác diệt chủng chưa từng có trong lịch sử Cam-pu-chia của bọn Pôn Pốt với đồng bào của chúng và cả tội ác trời không dung, đất không tha của lũ dã thú này với nhân dân Việt Nam ở biên giới phía Tây Tổ quốc ta. Những gương mặt ấy tất cả như đang cùng ẩn hiện ở bên tôi khi chiếc trực thăng nâng mình lên khỏi đường băng Pôchentông lúc này. Và nó đã làm cho những điều suy tưởng về quân đội ta cứ như chất men thấm dần và luôn bừng lên trong tôi khi máy bay qua các địa tiêu, nơi ghi dấu tích về chiến công, về lòngvị tha cao cả của Quân tình nguyện Việt Nam mà đại tá Đinh Văn Bồng đã chỉ cho tôi. Anh còn nhớ rõ cả địa danh và kể chi tiết hơn những vị trí mà quân ta đã chiến đấu diệt được nhiều sinh lực của quân Pôn Pốt, hoặc đã vượt qua lửa đạn cấp cứu, tiếp kịp thời cho các chiến sĩ bộ binh ta trong các trận đánh ác liệt giúp bà con Khơ-me sau các trận khủng bố, trả thù của lũ diệt chủng đang vô vọng trong những cù lao, bản làng, những cánh rừng bạt ngàn bằng phẳng và cả hơn 100 cây số dọc theo Biển Hồ.


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 02 Tháng Tám, 2016, 10:20:34 pm

        Ấy là chuyến bay còn cách xa biên giới Cam-pu-chia - Thái Lan. Nếu bay sát và dọc ven biên giới, chắc chắn anh Bồng không thể nào nhận ra mà chỉ hết được cho tôi những chốt, những bãi hạ cánh dã chiến mà máy bay của ta chiến đấu và đã giành lại khỏi bàn tay tử thần đối với hàng ngàn đồng đội, cũng như các bạn Cam-pu-chia ở đây. Bởi chỉ riêng trung đoàn bay 917 của Nguyễn Minh Tuấn đang cầm cần lái đưa chúng tôi đi đây, trong hơn 10 năm qua đã đánh trên 300 trận, chở gần 4 ngàn thương binh, bệnh binh, trong đó quá nửa là đã cấp cứu từ trên các chốt, các mặt trận về thì làm sao các anh nhớ được. Nhớ được có chăng là trung đoàn trưởng Nguyễn Thanh Mua, hoặc Mai Văn Vận, An Thế Quang, Nguyễn Minh Tuấn, Nguyễn Văn Thiệp, những phi công như Mua đã quá quen thuộc với từng cù lao, cánh rừng, ngọn núi ở đây qua bao nhiêu chuyến bay không nhớ chỉ nhớ là đã bay đến hầu hết các chốt mà có chốt suốt đời không quên bởi máy bay của mình đã mang đầy vết đạn trở về. Lúc này trong trí nhớ của tôi lại hiện lên hình ảnh chiếc trực thăng với ba hàng sao đỏ in dầy trên khoang lái được đặt trang trọng ở bảo tàng Quân chủng, dưới đó là những dòng chữ ghi đậm trên tấm bảng nhỏ: "Trên chiếc máy bay trực thăng vũ trang này, phi công anh hùng Nguyễn Đình Khoa cùng các đồng chí Lê Đức Tình và Trần Văn Luỹ đã dẫn đầu biên đội đánh thắng trận đầu tiên diệt một căn cứ lớn của địch tại điểm M. Nó được nhiều tổ bay sử dụng đánh 14 trận lớn ở biên giớiTây Nam và trên đất Cam-pu-chia khi Quân tìnhnguyện Việt Nam giúp nhân dân Chùa Tháp thoát khỏi nạn diệt chủng tạo điều kiện cho bộ đội ta tiến công thắng lợi giành lại nhiều vùng đất quân địch đã chiếm".

         Nguyễn Đình Khoa đã từng là chỉ huy phi đội rồi trung đoàn trong những ngày đầu đánh quân Pôn Pốt của trung đoàn này. Anh cùng các phi công: Tạ Đông Trung, Âu Văn Hùng, Lê Thương, Nguyễn Văn Kháng đã được phong tặng danh hiệu cao quý Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam chủ yếu bằng các chiến công, thành tích trên mặt trận chống bọn Pôn Pốt để bảo vệ biên giới phía Tây Nam của Tổ quốc và cứu nhân dânCam-pu-chia thoát khỏi nạn diệt chủng. Trong 5 anh hùng đó, hình ảnh chiến đấu kiên cường, hy sinh lẫm liệt của phi công Tạ Đông Trung đã như ngọn đuốc thắp sáng lên trong lòng toàn thể cán bộ, chiến sĩ không quân chúng tôi về ý chí, tư thế anh hùng, bất khuất giờ đây đang như hiện lên trước mắt tôi. Bằng chiếc máy bay phản lực F-5E - Loại máy bay thu được của Mỹ -nguỵ trong cuộc Tổng tiến công mùa xuân năm 1975, Tạ Đông Trung đã đánh mấy chục trận, oanh kích có hiệu quả vào nhiều cứ điểm và đội hình của quân Pôn Pốt, tạo điều kiện cho bộ binh ta chiến thắng trong trận định mệnh ở Kôngpôngchàm hôm ấy, sau khi đã cùng đồng đội diệt gọn cả một ổ đề kháng trọng yếu có hoả lực mạnh của một tiểu đoàn địch, máy bay của Trung đã bị trúng đạn. Không còn cách nào có thể bay về hạ cánh, anh buộc phải nhảy dù xuống vùng đất đang có cả quân Pôn Pốt và quân ta. Thấy cánh dù của anh bung ra, từ xa lũ Pôn Pốt đã hò nhau kéo tới quyết bắt sống phi công "Duôn Việt". Biết rằng trên không anh em trong phi đội vẫn đang quần đảo, yểm trợ để chờ đồng đội tới tiếp cứu, nhưng trước mắt sẽ phải độc thân chiến đấu nên với những trái lựu đạn và một khẩu súng ngắn bên mình lúc vừa chạm đất, Trung đã tìm ngay một vị trí có lợi để đánh trả bọn Pôn Pốt, quyết một mất, một còn với chúng. Bản đồ bay cùng các giấy tờ khác Trung cũng liền hủy ngay khi tiếng súng thị uy và tiếng hò hét kêu gọi đầu hàng của bọn chúng đã dội vào tai anh. "Phải sống anh hùng, chết vẻ vang, quyết không để mình rơi vào tay địch!". Chắc hẳn Trung đã tự nhủ mình như thế nên anh đã trả lời tiếng kêu gọi "hạ súng đầu hàng" của chúng bằng những trái lựu đạn và những phát súng ngắn liên tiếp tung ra và nhả đạn khi chúng đến gần sát bên mình. Khi còn một viên đạn cuối cùng. Trung đã đứng thẳng dậy hiên ngang nhắm thẳng vào một tên Pôn Pốt trước mặt và xiết cò trước lúc anh ngã xuống. Khi ấy các chiến sĩ bộ binh ta cũng kịp tới. Nhìn xác chết những tên diệt chủng Pôn Pốt nằm quanh thi thể của Tạ Đông Trung, anh em ta đã vô cùng cảm phục và xúc động, bởi đã hiểu ngay được người phi công - đồng đội thân yêu của mình đã kiên cường, dũng cảm chiến đấu và hiên ngang, bất khuất như thế nào? Tiếng gọi và bàn tay đập nhẹ vào vai tôi của đại tá Đinh Văn Bồng chỉ ra các cảnh đẹp của Biển Hồ đang nhuộm sáng vàng nắng sớm mai đã cắt đứt dòng suy tưởng của tôi.


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 02 Tháng Tám, 2016, 10:21:56 pm

        Quả là trời đất đã cưng chiều chúng tôi. Thời tiết Cam-pu-chia sớm nay rất đẹp. Nắng nhẹ, trời trong suốt mênh mông một màu hồng nhạt. Tầm nhìn ngút ngàn tới tận nơi như đang có muôn ngàn tấm khảm trai ghép lại. Từ trên trực thăng thả tầm mắt xuống, bên vẻ đẹp về cảnh sắc thiên nhiên, chúng tôi có thể thấy được cả cảnh hồi sinh của nhân dân Cam-pu-chia trên các quốc lộ, phố chợ, bản làng. Bức tranh đó luôn được chấm phá bằng những hàng cây thốt nốt sừng sững cao xanh, và những cô gái Khơ-me như đang khoe mình trong những tấmxà-rông rực rỡ. Đến lúc này máy bay hạ độ cao, sà xuống một bãi trống bên bìa rừng, tôi mới biết rằng mình cùng đoàn kiểm tra đã tới bản doanh Bộ Tư lệnh mặt trận 579.

        Thiếu tướng, Tư lệnh mặt trận Lê Mẫn đã tiếp chúng tôi ngay khi máy bay vừa hạ cánh chừng mươi phút. Nhìn phong cách bình dị, thân tình cùng cái phòng khách với vật dụng toàn những thứ bình thường mang nhãn hiệu Việt Nam và nhìn rộng ra bản doanh đang ẩn mình dưới bóng những cây xanh của các anh, tôi bỗng có cảm giác như mình đang sống trong bản doanh của một binh đoàn thời chiến ở nước nhà.

         Thiếu tướng rất chăm chú nghe anh Bồng báo cáo. Khi nghe xong, anh giải quyết nhanh gọn ngay từng việc và không từ chối một yêu cầu nào của đại tá Bồng.

        Tôi chợt hiểu ra là: Các chiến sĩ ở đây, kể cả các vị tướng đứng đầu mặt trận phải cận kề với cái sống và cái chết trong từng phút, từng giờ nên họ càng yêu quý, gắn bó với các chiến sĩ không quân ta hơn khi họ được kịp thời cấp cứu, chi viện cứu được tính mạng không phải hàng trăm mà hàng ngàn đồng chí bởi những cánh bay của quân đội mình.

        Với lẽ ấy cho nên Thiếu tướng đã cảm ơn, ca ngợi sự hiệp đồng, chi viện của không quân ta với mặt trận bằng những lời lẽ rất cảm động, chân thành. Rồi sau khi Thiếu tướng nhìn về phía đại uý Nguyễn Hữu Hồ, đại uý Lê Danh Nam - hai cán bộ phụ trách sân bay Stungtreng cùng đi sang chào Tư lệnh với chúng tôi, khen anh em ở đây có trách nhiệm cao, đoàn kết tốt, kỷ luật nghiêm, xong Thiếu tướng đã xúc động kể lại một số chuyện kỷ niệm sâu sắc về không quân với mặt trận.

        Trong những kỷ niệm ấy, anh tâm đắc nhất với trận không quân ta đã chở quân đổ bộ giải vây kịp thời cho một đơn vị của mặt trận. Ngày ấy, như anh nói:"Các anh ở sở chỉ huy đã cùng thắt tim lại rồi lại cùng nắm tay nhau mà thở phào nhẹ nhõm".

        Kể xong, anh nhìn chúng tôi hỏi:

        - Thế mấy đồng chí phi công đã vượt qua lửa đạn hạ cánh được đúng vào bãi đỗ dã chiến ngày ấy, bây giờ có khoẻ không? Có tham gia phục vụ đợt rút quân cuối cùng này không? Đồng chí chỉ huy trực tiếp ấy tên là gì?...

        - Thưa Tư lệnh, anh em đều khỏe cả: Dạo ấy về, tất cả anh em trong 5 tổ lái đều được khen thưởng. Trong số đó có đồng chí chỉ huy ngày ấy là Nguyễn Thanh Mua, bây giờ là trung tá, trung đoàn trưởng của trung đoàn này.

        Anh Bồng trả lời đồng chí Tư lệnh. Còn tôi, trận đánh mà Tư lệnh vừa nhắc lại ấy, tôi lại thấy nó như vừa mới diễn ra bởi, trước khi sang đây, tôi vừa được anh em ở đoàn bay 917 này kể lại.

        Phải nói rằng, đây là một cuộc đổ bộ đường không mà tôi đã nghe với đầy niềm thích thú.

        Trận ấy, Nguyễn Thanh Mua dẫn đầu đội hình 5 chiếc trực thăng chở một đại đội tinh nhuệ của ta bay đến địa điểm X, giữa rừng phía Bắc Cam-pu-chia để giải vây cho một đơn vị của mặt trận 579 trong điều kiện khẩn cấp sắp bị quân Pôn Pốt tổ chức đánh tiêu diệt. Bởi thế, bãi đáp xuống phải chuẩn bị gấp nên rất hẹp. Khi Mua dẫn đội bay vượt được chặng đường dài mới lạ hơn 300 km tới được toạ độ cấp cứu thì ánh lửa tín hiệu trên bãi đỗ đã tàn, chỉ còn đoán được nó ở khu vực địch bắn lên không tiếc đạn.

        Trước những thử thách ấy, các chiến sĩ bị vây ở đây đã hết hy vọng, bởi thấy máy bay cứ sà xuống rồi lại bay lên. Nhưng với Mua, anh không thể bỏ đồng đội, bó tay quay về. Bằng kinh nghiệm nhiều lần đi cứu thươngbinh trên các chốt, anh đã đoán địch chính xác, tìm ra được bãi đỗ và lần thứ ba hạ xuống, anh đã đưa được vòng quay chong chóng đúng khít vào khoảng trống an toàn. Một phần năm bộ đội chi viện vừa nhảy hết từ trong máy bay ra, Mua lại cho chiếc trực thăng nâng mình lên ngay để chỉ huy các chiếc sau tiếp tục hạ xuống đổ bộ.


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 02 Tháng Tám, 2016, 10:23:09 pm

        Đột phá đã mở. Các chiếc sau theo sự chỉ dẫn của Mua, từ trên cao nối nhau lần lượt hạ cánh. Cả đại đội tinh nhuệ của ta được đổ xuống toả ra an toàn và cũng tới lúc này những làn đạn của địch nhằm vào tốp máy bay của Mua thưa dần rồi tắt hẳn.        Một giờ sau khi Mua đã dẫn cả tốp 5 chiếc máy bay quay về, gần tới sân bay với đôi cánh và tâm hồn lâng lâng thì ở đây các chiến sĩ tinh nhuệ đã gặp được hết những đồng đội bị bao vây. Họ ôm chầm lấy nhau giàn giụa nước mắt cùng hướng cả về phương trời, nơi những chiếc trực thăng vừa bay đi.

         Nguyễn Thanh Mua cùng các đồng chí phi công trong tốp trực thăng chiến đấu của anh hôm ấy không thể thấy được những giọt nước mắt xúc động và sung sướng của các chiến sĩ bộ binh ta khi ấy. Cũng như lúc này, các anh không có may mắn được ngồi ở đây để nghe những lời ngợi khen chân thành của đồng chí Tư lệnh Mặt trận về các anh. Tình cảm nồng nhiệt cùng với những lời khen chân thành ấy như nâng cánh thêm cho chúng tôi từ Stungtreng bay về vùng trời Xiêm Riệp -Nơi có bản doanh của Mặt trận 479.

        Ở Mặt trận 479 này, các đồng chí lãnh đạo chỉ huy đang chia nhau đi kiểm tra các đơn vị nên chúng tôi không được gặp mặt, tiếp kiến. Nhưng chỉ một giờ sau, đồng chí Thiếu tướng Lê Chí Thuận - Phó tư lệnh mặt trận đã ra tận nhà ga sân bay Xiêm Riệp - Nơi ở của đơn vị căn cứ không quân do Trần Quốc Bình và Nguyễn Đăng Hiên phụ trách trực tiếp làm việc với đoàn chúng tôi.

        Cũng như các đồng chí ở Mặt trận 579, Thiếu tướng Lê Chí Thuận đã tỏ ra rất vui mừng được gặp toàn đại diện của không quân để chuyển lời cảm ơn của cán bộ, chiến sĩ của Mặt trận về Bộ Tư lệnh Quân chủng và cũng chân tình khen ngợi các chiến sĩ không quân ta, trong 10 năm qua đã hiệp đồng chặt chẽ, nhiều lần cứu nguy cho các đơn vị của Mặt trận, góp phần quan trọngvào các chiến công của Mặt trận trên đất nước Chùa Tháp anh em. Còn mọi việc hiệp đồng giữa mặt trận với không quân trong đợt cuối cùng rút quân cũng đã diễn ra rất nhanh gọn thân tình qua Thiếu tướng Phó Tư lệnh với đại tá Đinh Văn Bồng.

        Khi chúng tôi vừa tiễn đồng chí Phó Tư lệnh ra về thì đồng chí Thiếu tướng Tư lệnh Khiếu Anh Lân lại gọi điện đến. Anh Khiếu Anh Lân vốn là một trong những cán bộ đầu tiên của không quân ta cho nên anh đã tỏ ra rất tiếc không gặp mặt được những người anh em, đồng đội mà với anh đã một thời cùng nhau hợp sức xây dựng, chiến đấu trên những cánh bay. Và biết rằng tất cả mọi việc kể cả chuyển lời cảm ơn của mặt trận đến với bộ đội không quân ta, đồng chí phó tư lệnh của mình đã xử sự chu tất, anh vẫn nhắc lại. Nhắc lại không chỉ với cương vị Tư lệnh Mặt trận mà cả với niềm tự hào của một cựu chiến sĩ không quân đối với Quân chủng Không quân về những chiến công và hành động quên mình của "Không quân nhà mình" ở trên đất bạn Cam-pu-chia...

        Buông ống nghe xuống, gương mặt đại tá Bồng vẫn chưa hết xúc động khi anh kể lại với tôi về tình cảm nồng nhiệt đó của Tư lệnh Khiếu Anh Lân. Lúc này hai chúng tôi càng hiểu rằng vì sao đồng chí Tư lệnh Mặt trận 479 vốn là cựu hiệu trưởng của Trường Không quân ta lại dốc bầu tâm huyết như vậy. Bởi cán bộ, chiến sĩ trong Mặt trận 479 của anh đã không ít những kỷ niệm sâu sắc về sự gắn bó, thân thương với các chiến sĩ không quân ta. Đã có tới gần 1 ngàn thương binh khó sống nổi nếu không được có cánh bay của ta đi để được cứu chữa kịp thời. Và như tướng Lân đã nói với đại tá Bồng là đã không thể kể hết được những chuyện "suốt đời không quên" về những trận đánh được "không quân nhà ta" yểm trợ, những lần được tiếp tế, giải vây trong các tình thế rất nguy nan, ngàn cân treo sợi tóc.

        Ở sân bay Xiêm Riệp, khi mọi việc kiểm tra của phó sư đoàn trưởng đã hoàn tất, chiếc trực thăng do tổ lái của Nguyễn Minh Tuấn điều khiển lại nâng mình lên ở đường băng tiếp tục cuộc hành trình để lại dưới tầm mắt chúng tôi là một bức tranh phong cảnh trầm mặc, cổ kính, thơ mộng, bao la mà tuyệt trần hơn cả là hai đền ăngcothom, ăngcovát, nơi vừa ghi dấu ấn trong tôi về một nền văn hoá ăngco huy hoàng, nơi mà chắc chắn không lâu nữa sẽ thu hút, hội tụ mỗi năm tới hàng ngàn du khách từ bốn phương trời.


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 02 Tháng Tám, 2016, 10:24:25 pm

        Trên đường trở về Phnômpênh, chúng tôi dừng lại ở doanh trại của bộ đội Phòng không - Không quân Cam-pu-chia để chào, chia tay các bạn Khơ-me cùng nhiệm vụ bảo vệ bầu trời.

        Đồng chí Phan Nguôn, Tư lệnh bộ đội Phòng không - Không quân của bạn là một phi công to cao, tráng kiện, phong cách đĩnh đạc, cởi mở và còn rất trẻ. Anh nói chuyện bằng tiếng Việt rất thạo, và trò chuyện tiếp chúng tôi vui vẻ, thân tình, đúng như anh em trong nhà. Ở anh, cụm từ "nhờ có các bạn Việt Nam" gần như đã là chủ ngữ mỗi khi nhắc đến các chuyện, các sự kiện của đất nước Chùa Tháp và của các đơn vị thuộc các đơn vị bộ đội Phòng không - Không quân của mình. Phan Nguôn đã thoát khỏi bị những nhát cuốc của bọn PônPốt bổ vào đầu bởi anh đã nhanh trí tìm cách trốn thoát khi chúng đưa anh cùng một số người trong buôn mà chúng gọi là tư sản, tiểu tư sản, trí thức, là phần tử chống đối, "tay chân" của hoàng tộc... đi hành hình, bên một hố chôn người tập thể đã đào sẵn rất sơ sài, nhưng lại nói dối trá là "đi lao động".

        Cũng như anh, hầu hết các phi công trong trungđoàn không quân tiêm kích thuộc quyền anh mà chúng tôi đang gặp gỡ lúc này ngày ấy đều đã tinh khôn, tỉnh táo tìm cách trốn thoát được như anh, hoặc được bộ độiViệt Nam kịp thời cứu sống. Trong họ, theo như Phan Nguôn nói: "Không một ai không có những người thân bị bọn diệt chủng Pôn Pốt giết chết rất thảm thương, man rợ bằng dao, bằng cuốc, bằng vồ. Nhiều anh em hiện giờ chỉ còn độc thân sống sót. Cha mẹ, anh chị em ruột thịt của các bạn đó chỉ còn trong hình ảnh tưởng tượng, còn hài cốt đều đang ẩn lẫn trong các kênh mương, kho xương người Khơ-me được moi lên từ các hố chôn người tập thể, các ao, hồ để làm chứng tích cho tội ác diệt chủng cực kỳ ghê tởm của bọn Pôn Pốt".

        Tôi xiết chặt tay lời nói chân thành rất tri ân này của anh và tôi định nói thêm: "Đâu phải Pôn Pốt chỉ có tội ác diệt chủng với đồng bào của y mà cùng thời điểm đó, chúng đã khơi lên hận thù, bất ngờ tiến công trên toàn tuyến biên giới hai nước, giết hại và bắt bớ đưa đi thủ tiêu hết sức dã man hơn 30 ngàn người cùng hàng ngàn trường học, bệnh viện, chùa chiền... của Việt Nam do chúng tàn phá mà mãi mãi còn để lại thảm cảnh như thảm cảnh làng Samát. Tội ác đời đời còn nguyền rủa của bọn Pôn Pốt chắc bạn cũng không quên?". Nhưng tôi đã kịp dừng lại, bởi nghĩ rằng, với một người Cam-pu-chia chân chính, như Át xa rông này, tôi không cần phải nói, anh cũng thấm hiểu sâu sắc.

        Đoán định ấy đã được thể hiện rõ ngay khi các đồng đội của anh trong đoàn phi công tiêm kích lưu luyến chia tay chúng tôi. Đã cảm động trước nghĩa tình cùng làm nhiệm vụ bảo vệ bầu trời của hai nước hai anh em khi ấy, chúng tôi lại làm xúc động và trào lên nồng nàn hơn trong buổi nhân dân Phnômpênh và các chiến sĩ không quân Cam-pu-chia chia tay, tiễn đưa cán bộ, chiến sĩ trung đoàn 901 của không quân ta trở về Tổ quốc. Những vòng hoa thắm sắc tấm lòng Cam-pu-chia quàng kín lên người Nguyễn Văn Đức, Phạm Mạnh Phương và cán bộ, chiến sĩ trung đoàn đã hoà cùng vào  với nước mắt xúc động, lưu luyến của những bà mẹ,cô gái và những chiến sĩ phòng không - không quân Cam-pu-chia.

        Đồng chí Phan Nguôn đã bao lần nói về tình cảm và lòng biết ơn sâu nặng của nhân dân, quân đội, đặc biệt là của lực lượng phòng không - không quân của mình đối với Quân tình nguyện Việt Nam, với riêng bộ đội Không quân Việt Nam, nhưng chưa lần nào xúc động như lần này.

Phnômpênh và Hà Nội, tháng 9-1989.       


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 02 Tháng Tám, 2016, 10:25:52 pm
          
VÀI Ý NGHĨ VỀ ĐOÀN YÊN THẾ

Đại tá LƯU HUY CHAO                                      
Anh hùng LLVTND - Nguyên Trung đoàn trưởng trung đoàn không quân 923

Yên Thế, địa danh từ lâu,
Cụ Hoàng Hoa Thám, dẫn đầu đánh Tây.   
Chúng ta, về vùng đất này,
Lấy tên lịch sử, dựng xây trung đoàn.
Qua bao vất vả gian nan,   
Giờ ngồi nghĩ lại, hai hàng lệ rơi.
Cả dưới đất, lẫn trên trời,
Cùng nhau sống chết, tại nơi phi trường.
Lời nào, nói hết tình thương,
Nhường hầm cho bạn, coi thường hiểm nguy.
Người lái chưa cất cánh đi,
Bao người vẫn đứng, sợ gì bom rơi.
Mũ bạn, che nắng cho tôi
Cơm dẻo canh nóng, xin mời ăn đi.   
Các cô, đứng đó làm chi,
Vào hầm để chúng tôi đi bây giờ.
Câu nói, thốt ra bất ngờ,
Mọi người vẫn đứng, đợi chờ chúng tôi.
Các anh, chưa bay lên trời,
Chúng em đâu dám về nơi an toàn.
Thật là quả cảm, hiên ngang,
Qua thử lửa mới biết vàng hay thau.
Có được, những trận thắng đầu,
Công lao dưới đất, biển đâu sánh bằng.
Bay lên, chúng tôi nghĩ rằng,
Có đi vào cõi vĩnh hằng đương nhiên.
Để lại, bao nỗi ưu phiền,
Tiếng loa khắc khoải, triền miên buồn rầu.
Mọi người, đứng lặng nhìn nhau,
Cùng một ý nghĩ, còn đâu mà tìm.
Dù cho tăm cá, bóng chim,
Ngồi đây chẳng lẽ, không tìm hay sao?
Người người, ruột xót như bào,
Cơm nguội, canh lạnh, nuốt vào làm chi.
Thẫn thờ, từng bước lê đi,
Chung một ý nghĩ, còn gì nữa đâu.
Cảnh ấy tuy qua đã lâu,
Những người đang sống, dám đâu quên nào
Tan mây, trời lại đầy sao,
Qua cơn bi thảm, bước vào ngày vui.
Còn non, còn nước, còn người
Chỗ bạn để trống, chúng tôi thay vào.
Ai ai, cũng thấy tự hào,
Cùng đem trí sức bước vào dựng xây.
Đất nước, đã bao đổi thay,
Bóng hình các bạn, tim này giữ nguyên. 
Yên nghỉ, ở dưới cửu tuyền,
Xin đừng suy nghĩ, buồn phiền làm chi.
Chúng tôi, đang sống cần gì,
Xin bạn chỉ bảo, sẽ đi làm tròn.
Gan vàng, dạ sắt lòng son,
Đem đi đổi lấy, nước non quê nhà
Tô thắm, truyền thống đoàn ta,
Anh hùng hai chữ nghĩ mà vui thay.
Vẹn tròn, đất nước hôm nay,
Công lao Đảng Bác, trời mây nào bằng.
Tối trời, phải nhớ đến trăng,
No cơm ấm áo, hỡi rằng ở đâu.
Người người, nhớ kỹ trong đầu,
Nghĩa nhãn trung hiếu, là câu cổ truyền.
Vua Hùng, dựng nước thiên niên,
Con cháu giữ nước, lưu truyền đời sau.
Lúc sống, Bác dặn vài câu,
Vua Hùng dựng nước, đời sau giữ gìn.
Dựng nước, vất vả bách niên,
Giữ nước gian khổ mấy nghìn năm sau.
Lớp già, tóc bạc trên đầu,
Mắt mờ chân chậm, làm đâu được gì?
Con người sinh tử bất kỳ,
uTử’ từ già trẻ, ra đi nhẹ nhàng.
Được nhìn, đất nước vinh quang,
Cuộc sống giờ đã dễ dàng hơn xưa. 
Nhớ lúc, sớm nắng chiều mưa,
Bom rơi đạn nổ, như mưa trên đầu.
Ai ngờ, còn gặp lại nhau,
Vui mà để lại, vài câu tâm tình.
Ghi lòng, tạc dạ đinh ninh,
Trung đoàn Yên Thế, chúng mình còn đây.
Khắp cả Nam, Bắc, Đông, Tây
Dù người còn ở, hay nay đã về.
Cùng nhau, giữ trọn lời thề,
Lính đoàn Yên Thế không hề đổi thay.
Góp phần giữ nước non này,
Ngàn năm sau vẫn còn bay trên trời.



Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 02 Tháng Tám, 2016, 10:32:17 pm
                
VÙNG TRỜI NỖI NHỚ

DƯƠNG BÁ KHÁNG        
87 Trần Quốc Toản Q3 TP HCM

                                        Khi đất nước yên tiếng súng,
                                        Giã biệt nghề bay,
                                        Tôi khoác áo dân thường.
                                        Ra Bắc vào Nam,
                                        Bốn phương xuôi ngược.
                                        Đa Phúc - Nội Bài
                                        Gợi nhớ chiều nay.

                                        Đường băng cũ kia rồi!
                                        Đâu đài chỉ dẫn!
                                        Khu “E” xa 1
                                        Thấp thoáng áng mây chiều.

                                        Nhà trực chiến đây ư!
                                        Vui buồn bao kỷ niệm,
                                        Thắng bại đêm ngày,
                                        Lịch sử vẫn còn ghi.
                                        Những “Chú én”,
                                        Hiền lành bên ụ.
                                        Còn nhớ ta chăng,
                                        Người lính cũ năm nào.

                                        Chiều nay đẹp,
                                        “Chim ưng” nào trực hiến,
                                        Có rút ban2
                                        Bay chuyến đường dài.
                                        Hay không vực3,
                                        Giản đơn tại đỉnh.
                                        Rồi trở về,
                                        Hạ cánh trước hoàng hôn.

                                        Ôi! kỷ niệm.
                                        Những vùng trời quen thuộc. Những xóm làng,   ,
                                        Song núi đã nuôi tôi.
                                        Vất vả gian nan,
                                        Chiến đấu làm người!

                                        Vẫn thầm nhớ.
                                        Lần đầu xuất kích.
                                        Ngơ ngác nhìn trời,
                                        Lạc đội tìm nhau.
                                        Và những nỗi đau.
                                        Nghe bom rền Hà Nội.
                                        Cất cánh lệ trào,
                                        Tổ quốc không nguôi!
                                        Tiếng máy nổ,   
                                        Âm vang xao động.
                                        Ánh bạc vút lên.
                                        Trong sáng oai hùng,
                                        Năm tháng qua đi,
                                        Đâu dễ gì quên được!
                                        Đồng đội thân yêu,
                                        Vòng lượn - Cuộc đời!

                                        Chiều dần xuống,
                                        Sóc Sơn nhẹ khói.
                                        Vùng trời quen
                                        Đa Phúc sống trong tôi.


------------------
1. Khu “E”: Nơi phi công đoàn Sao Đỏ trú quân.
2. Rút ban: Bay hết giờ trực chiến buổi chiều.
3. Không vực: Là bay trên một khu vực quy định.


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 02 Tháng Tám, 2016, 10:43:23 pm
                  
HÈ PHAN RANG 1975

KS. NGUYỄN VĂN SOẠN      
Cục Kỹ thuật Không quân        

Nhớ ngày hai tám tháng tư
Phan Rang trời nắng giữa trưa mùa hè
Đường không đường bộ ta về
Công việc chuẩn bị mọi bề đã xong
Sài Gòn cả nước đang mong
Vẫn còn chờ hướng trên không trận này.
Thời cơ sứ mệnh là đây
Năm “A ba bẩy” rẽ mây trên đường
Vẫy chào đồng đội quê hương
 Én bay vào tới chiến trường miền Đông
Sài Gòn chiều mới mưa xong
Kìa Tân Sơn Nhất đã trông rõ ràng.
Cắt bom làm giặc kinh hoàng
Trừ đi cái lũ bạo tàn hại dân
Đẹp sao chiến thắng không quản
Góp vào đại thắng mùa xuân huy hoàng
Chiều hè lại nhớ Phan Rang
Thắm tình đồng đội chứa chan ngọt bùi.

Cổ Loa 1999        



CÁNH BẠC

TRẦN ĐỨC ĐỆ        

                                 Thánh Gióng đánh thắng về trời
                                 Tấm gương lẫm liệt sáng ngòi non sông!
                                 Không quân Việt Nam anh hùng   
                                 Cưỡi đôi cánh bạc vẫy vùng dọc ngang
                                 Bảo vệ bờ cõi xóm làng
                                 Mài sắc ý chí sẵn sàng lập công
                                 Mỗi khi có giặc ngoại xâm
                                 Những đôi cánh bạc lửa lòng lên cao
                                 Bay lên lượn xuống bổ nhào
                                 Con ma, thần sấm “B”... nào cũng rơi
                                 Trên cao lửa đỏ rực tròi   
                                 Khói đen mặt đất mùi hôi xác thù!   
                                 Lửa lòng còn nóng mùa thu,   
                                 Lửa lòng hun đúc hận thù chiến tranh,
                                 Lửa lòng bốc cháy càng nhanh
                                 Khi Mỹ mở rộng chiến tranh bạo tàn.
                                 Đánh phá miền Bắc Việt Nam
                                 Trở về “đồ đá" của trang sử đầu.   
                                 Căm thù giặc Mỹ càng sâu   
                                 Ngọn cờ dân tộc giương cao trong lòng
                                 Việt Nam dân tộc anh hùng!
                                 Hậu phương tiền tuyến đã cùng đứng lên
                                 Chiến dịch mười hai ngày đêm
                                 Đánh không lực Mỹ một phen hãi hùng!
                                 Bê năm hai rụng như sung
                                 Một lũ giặc lái cùng vào “hotel”
                                 Vít đầu giặc xuống bùn đen
                                 Kết thúc chiến dịch “Điện Biên” trên trời!
                                 Vinh quang thay! Tổ quốc tôi.
                                 Nước Việt Nam lại sáng ngời năm châu!
                                 Tấm gương dám đánh giương cao
                                 Thắng Mỹ mạnh nhất năm châu biển, trời1
                                 Không quân anh dũng tuyệt vời!
                                 Góp vào đêm lửa sáng ngời chiến công!
                                 Không quân tuổi trẻ anh hùng!
                                 Dựng đài chiến thắng chín tầng trời mây
                                 Đền thờ Sóc Sơn đó,
                                 Tượng đài không quân đây
                                 Con ngựa sắt phun lửa
                                 Cánh bạc bay xé trời!

Ngày 5 tháng 7 năm 2002        

---------------
1, Lục, thuỷ, không quân.


Tiêu đề: Re: Hồi ký 50 năm Không quân nhân dân Việt Nam
Gửi bởi: Giangtvx trong 02 Tháng Tám, 2016, 10:49:10 pm
 
“HỒI KÝ 50 NĂM KHÔNG QUÂN NHÂN DÂN VIỆT NAM”

        *   Hồi ký gồm 62 nội dung (58 bài văn, 4 bài thơ) được xếp theo dòng lịch sử của KQNDVN:

        + Ban nghiên cứu Không quân (1949 - 1952) có 6 bài.
        + Tiếp quản sân bay Gia Lâm (1954 - 1955) có 6 bài.
        + Hoạt động không quân vận tải (1959 - 1964) có 10 bài.
        + Hoạt động không quân chiến đấu (1965 -1972) có 26 bài.
        + Hoạt động máy bay hệ II (chiến lợi phẩm 1975 - 1989) có 10 bài.
        + Và bài thơ về KQNDVN có 4 bài.

        Người viết:

        + 100% đã hoạt động trong KQNDVN.
        + 40% là phi công và kỹ thuật trên không.
        + 60% là đội ngũ phục vụ bay của các ngành.

        Nội dung viết theo các ngành nghề nghiệp vụ chủ yêu trong KQNDVN:

        + Bay, chiếm 50%,
        + Chỉ huy tham mưu, chiếm 25%.
        + Kỹ thuật, Hậu cần, chiếm 15%.
        + Các thành phần khác, chiếm 10%.

        Hồi ký đã nói về việc thật, người thật đang sống hoặc đã mất, trung thực, cảm xúc, tự hào đầy tình nghĩa gắn bó cùng đồng đội về một quá khứ đã phục vụ trong KQNDVN. Nhiều hồi ký cá nhân đã gắn những sự kiện xảy ra với những kết quả đạt được để khái quát thành những đường nét đặc trưng về: Nghệ thuật không chiên, cách phòng tránh, cách sử dụng trang bị kỹ thuật vũ khí hàng không, chứng minh những truyền thông bộ binh, như “Bám thắt lưng địch mà đánh”, “Lấy ít thắng nhiều”, “Lấy vũ khí địch đánh địch” được áp dụng vào chiến đấu của KQNDVN bằng những cách đánh của máy bay MiG-17, MiG-21, AN-2, UH-1...; cùng bao sáng tạo trong lắp ráp, sửa chữa máy bay, sửa gấp sân bay ngày đêm dưới bom đạn địch. Hồi ký được quy nạp từ nhiều việc thật, nhiều người thật, nhiều công tích của mọi ngành nghề vốn có suốt 50 năm tồn tại và phát triên KQNDVN trong chiến tranh chống Mỹ và bảo vệ biên giới, mà hầu hết các bạn chiến đấu Không quân đã trực tiếp tham gia hoặc là nhân chứng của những sự kiện đó.

TỔNG HỢP VÀ BIÊN TẬP HỒI KÝ         
PGS. TS Kỹ thuật Hàng không      
Thiếu tướng Hồ Thanh Minh            

HẾT