Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Cha ông ta đánh giặc => Tác giả chủ đề:: chuongxedap trong 24 Tháng Hai, 2017, 08:15:53 pm



Tiêu đề: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Hai, 2017, 08:15:53 pm
Tên sách: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Nhà xuất bản: Quân đội Nhân dân
Năm xuất bản: 2008
Số hoá: ptlinh, chuongxedap


Ban biên soạn:
      Thượng tá ĐẶNG VIỆT THỦY (Chủ biên)
      Đại tá ĐỒNG KIM HẢI
      Thượng tá ĐẬU XUÂN LUẬN
      Thiếu tá HOÀNG THỊ THU HOÀN
      Thượng úy PHAN NGỌC DOÃN
      Trung úy NGUYỄN MINH THỦY


Hoàn chỉnh bản thảo:
      Thiếu tá HOÀNG THỊ THU HOÀN

LỜI NÓI ĐẦU

Việt Nam là một đất nước nằm ở ven biển Thái Bình Dương - cửa ngõ quan trọng của lục địa Đông Nam châu Á. Trải qua bao thế kỷ, bọn xâm lược phong kiến, thực dân và đế quốc nhòm ngó và xâm lăng nhưng dân tộc Việt Nam không bao giờ chịu khuất phục. Ngay từ ngày dựng nước đến nay, dân tộc ta đã phải bao phen đứng lên chiến đấu bảo vệ non sông đất nước, bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc, lập nên những chiến công oanh liệt: Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa, Điện Biên Phủ, Chiến dịch Hồ Chí Minh mùa Xuân 1975...

Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam là một kho tàng kiến thức vô cùng quý giá, xây đắp nên truyền thống quật cường, bất khuất, lòng yêu quê hương đất nước và lòng tự hào dân tộc. Việc tìm hiểu lịch sử dân tộc vừa là nhu cầu, vừa là trách nhiệm trước lịch sử để tỏ lòng biết ơn đối với công lao to lớn của tổ tiên, vừa là đòi hỏi của thời cuộc để mỗi người dân Việt Nam tự tin hội nhập cùng bạn bè quốc tế với một bản sắc dân tộc mạnh mẽ.

Với ý nghĩa đó, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân tổ chức biên soạn và xuất bản "Tủ sách lịch sử Việt Nam". Tủ sách lịch sử Việt Nam gồm nhiều cuốn, mỗi cuốn sách trình bày một cuộc khởi nghĩa cụ thể dưới dạng hỏi đáp ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu, dễ nhớ và đảm bảo tính chính xác, khoa học.

Hy vọng "Tủ sách lịch sử Việt Nam ” nói chung và cuốn sách "Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên" nói riêng sẽ là người bạn đồng hành thân thiết của mỗi bạn đọc trong cuộc hành trình tìm về lịch sử nguồn cội.

Mặc dù những người biên soạn đã có nhiều cố gắng, nhưng bộ sách khó tránh khỏi những sai sót và khiếm khuyết, chúng tôi rất mong được bạn đọc lượng thứ và đóng góp ý kiến.


NHÀ XUẤT BẢN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN



Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Hai, 2017, 05:43:58 pm

Câu hỏi 1: Hãy cho biết chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918) có ảnh hưởng gì đến cách mạng Việt Nam giai đoạn đó?
Trả lời:


Ngày 1 tháng 8 năm 1914, chiến tranh thế giới lần thứ nhất bùng nổ ở châu Âu, rồi nhanh chóng lan ra khắp thế giới. Nước Pháp tham chiến nên đã huy động tối đa sức người, sức của trong nước và các thuộc địa để cung cấp cho nhu cầu chiến tranh. Thuộc địa Việt Nam chịu chung trong số phận đó.

Bọn thống trị Pháp ở Đông Dương một mặt chuyên chú người và của để ném vào lò lửa chiến tranh bên Pháp, một mặt tìm mọi cách để đề phòng và đàn áp mọi cuộc cách mạng có thể xảy ra trong khi quân lực và tài lực của chúng đang có nguy cơ bị suy kiệt. Từng đoàn lính chiến và lính thợ Việt Nam cũng như Miên, Lào bị chuyển sang Pháp để làm bia đỡ đạn.

Để bóc lột được nhiều hơn và để đề phòng những cuộc nổi dậy của nhân dân Việt Nam buộc thực dân Pháp phải thay đổi chính sách đối với Việt Nam về mọi mặt chính trị - quân sự, kinh tế - tài chính cũng như về văn hóa - xã hội để phục vụ trực tiếp cho mục đích tổng động viên nhân lực, vật lực, tài lực trong nhân dân ta, cung cấp cho nhu cầu ngày càng lớn và cấp bách của chiến tranh đế quốc.

Mặc dù thực dân Pháp đã cố sức tuyên truyền, lừa bịp, đề phòng khả năng nổi dậy của nhân dân Việt Nam nhưng cách mạng Việt Nam không vì thế mà dừng bước. Sau những ngày thảm khốc của các phong trào Đông Du, Đông Kinh nghĩa thục và cuộc vận động chống đi phu nộp thuế ở Trung Kỳ; kế đó, sự thất bại của vụ Hà Thành đầu độc, nhất là sự tan vỡ của nghĩa quân Yên Thế thì phong trào cách mạng Việt Nam có lúc như lắng xuống. Nhưng cuộc chiến tranh bùng nổ ở châu Âu có một vài điều kiện thuận lợi khách quan đã như ngọn gió thổi vào đống lửa cách mạng còn âm ỉ cháy. Thấy nước Pháp bị đánh và tài lực của Pháp ở Đông Dương ngày càng suy kiệt, các đảng phái cách mạng ở trong nước đều muốn tính quân bài cuối cùng. Khắp nơi lòng dân hừng hực khí thế chiến đấu, nhiều người trông ngóng ngọn cờ khởi nghĩa trong một cơ hội hiếm có. Mở đầu là Việt Nam Quang Phục hội, một số sĩ phu yêu nước đã tuyên truyền nhân dân nổi dậy chống Pháp. Tiếp sau đó là kế hoạch đánh Móng Cái, Lạng Sơn, Hà Khẩu (1915). Rồi phá ngục Lao Bảo (28-9-1915)... Đặc biệt là cuộc vận động khởi nghĩa của Thái Phiên và Trần Cao Vân (1916). Mặc dù Thái Phiên và Trần Cao Vân bị xử tử ở An Hà (Huế), vua Duy Tân bị đày ra đảo Rê-uy-ni-ông nhưng đã thể hiện tinh thần yêu nước của nhân dân Trung Kỳ. Lòng căm thù giặc cao độ cùng với sự đồng lòng của binh lính đã làm nên cuộc khởi nghĩa lừng danh năm 1917 ở Thái Nguyên.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Hai, 2017, 05:47:07 pm

Câu hỏi 2: Cuộc âm mưu khởi nghĩa của vua Duy Tân có vị trí đặc biệt quan trọng vì mặc dầu mang danh nghĩa nhà vua nhưng chủ mưu lại là các sĩ phu ái quốc, động lực là binh lính. Nó như một chất xúc tác góp phần làm nên sự bùng nổ của cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên sau này. Hãy trình bày cuộc âm mưu khởi nghĩa của vua Duy Tân (5-1916)?
Trả lời:


Theo chính sách chia để trị, thực dân Pháp chẳng những đem áp dụng với tầng lớp, giai cấp, khu vực trên đất nước Việt Nam mà còn với cả đám người vốn thuần phục chúng. Riêng với hoàng tộc nhà Nguyễn, sau khi vua Hàm Nghi bị bắt, Tôn Thất Thuyết chạy sang Trung Quốc thì chỉ còn lại những bù nhìn, cho giặc mượn danh nghĩa hay làm tay sai cho giặc để bóc lột và đàn áp nhân dân. Tuy vậy đem chia để trị triệt để, thực dân Pháp vẫn gây mâu thuẫn giữa các tông phái và nhằm nâng đỡ phái nào có thể cung cấp những bù nhìn ngoan ngoãn nhất, trung thành nhất đối với chúng. Trong đám bù nhìn, có những loại được chủ yêu chuộng như Chính Mông (Đồng Khánh), Bửu Đảo (Khải Định), Vĩnh Thụy (Bảo Đại)... Tuy nhiên cũng có những người không cam tâm thờ giặc, muốn tìm cách thoát ra khỏi vòng cương tỏa của giặc như Bửu Lân (Thành Thái) và Vĩnh San (Duy Tân). Ngày 30 tháng 7 năm 1907, cuộc âm mưu bạo động của Thành Thái bị bại lộ, nhà vua bị thực dân Pháp truất ngôi và bắt đi đày. Kế đó Duy Tân lên ngôi khi mới bảy tuổi. Điểm đáng chú ý là thực dân Pháp muốn có một bù nhìn nhỏ tuổi để dễ sai khiến. Nhưng chịu ảnh hưởng bởi tinh thần bất khuất của dân tộc, Duy Tân cũng như Thành Thái vẫn cố giãy giụa một lần cuối cùng để mong trở lại cuộc sống đường hoàng của một ông vua nước độc lập.

Nhóm sĩ phu vận động cách mạng lúc bấy giờ đã hướng theo dân chủ tư sản nói chung, nhưng đường lối chủ trương lại không hoàn toàn giống nhau. Bên những người mà chủ nghĩa quân chủ đã bị phá sản trong tư tưởng, vẫn có những người mang khuynh hướng dân chủ, nhưng vẫn muốn phò một ông vua nào tiêu biểu cho ý chí độc lập của quốc gia. Vua Duy Tân lúc bấy giờ còn nhỏ nhưng nổi tiếng là thông minh, ông hay làm những bài thơ, câu đối có nghĩa khí nên được một số sĩ phu tỏ ý ủng hộ vua để làm việc nước. Chiến tranh thế giới lần thứ nhất nổ ra, những điều kiện thuận lợi của khách quan và tinh thần hướng nghĩa của nhân dân càng kích thích một số chí sĩ quyết tâm hành động. Những lãnh tụ trong cuộc âm mưu này là Thái Phiên, Trần Cao Vân và một số nhân sĩ ở Quảng Nam, Quảng Ngãi. Theo kế hoạch, Trần Cao Vân đã liên lạc được với vua Duy Tân ở trong nội thành (Huế) và đã mượn danh nghĩa nhà vua, viết chiếu chỉ gửi cho những nhân sĩ ái quốc. Lực lượng chính mà cách mạng nhắm vào là những binh lính Việt Nam sắp sửa đưa sang Pháp đánh nhau với Đức. Lúc ấy bọn thống trị Pháp ở Việt Nam đang gấp rút tuyển mộ, luyện tập binh lính để ném vào chiến trường bên Pháp. Nguyên ở thành phố Huế đã tập trung tới hàng ngàn lính mộ chưa kể tới các tỉnh bên. Qua các tin bại trận từ bên Pháp truyền sang, phái cách mạng Việt Nam đã biết lợi dụng thời cơ, ném ra nhiều tin đồn để gây hoang mang trong binh lính Pháp. Những lời tuyên truyền ấy đã làm rung động những người đang bị bắt và những người đang làm bia đỡ đạn cho thực dân Pháp. Ấy là chưa kể những bài ca nhớ nhà, nhớ nước, nhớ vợ, con, nhớ cây đa mái đình... của những người nông dân bị bắt đi lính cho giặc. Tinh thần chiến đấu và ảnh hưởng cách mạng trong binh lính ngày một lên cao. Một số thủ lĩnh trong binh lính cũng nhận được chiếu chỉ của vua Duy Tân hiệu triệu khởi nghĩa và phong tước. Theo một số tài liệu thì cuộc âm mưu khởi nghĩa này còn có dính líu tới Việt Nam Quang Phục hội như Hoàng Trọng Mậu được vua Duy Tân phong làm Tổng tư lệnh. Tuy nhiên phần đóng góp của Việt Nam Quang Phục hội vào việc này thì không được rõ ràng.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Hai, 2017, 05:47:27 pm

Cuộc khởi nghĩa định vào ngày 3 tháng 5 năm 1916. Theo kế hoạch khởi sự, thì đêm hôm ấy sau khi vua Duy Tân đã được đưa ra khỏi thành, các tân binh Việt Nam trong trại lính Pháp phối hợp với quân dân ở ngoài, sẽ nổi dậy ở Huế và suốt các tỉnh tại Trung Kỳ. Nhưng vì tuyên truyền rộng rãi, thiếu cảnh giác, thiếu tổ chức nên trước ngày khởi sự đã hiện ra cảnh nao núng trong binh lính. Bọn thống trị Pháp liền tung mật thám vào để tìm ra manh mối và cho tay sai khiêu khích để đẩy quần chúng hướng vào cạm bẫy. Đồng thời một vài vụ phá đồn ở Quảng Nam cũng bị khám phá. Đến ngày, giờ khởi sự, mặc dầu vua Duy Tân đã thoát ra khỏi thành, nhưng tiếng súng khởi nghĩa chưa nổ thì các binh lính Việt Nam đã bị tước khí giới và nhốt ở trong trại. Những toán dân quân ở bên ngoài định hưởng ứng với quân khởi nghĩa ở trong đều bị dẹp tan. Cuộc khởi nghĩa đã bị bóp nghẹt ở Huế cũng như ở Quảng Nam, Quảng Ngãi. Riêng ở Tam Kỳ (Quảng Nam), quân khởi nghĩa đã nổi dậy chiếm công sở, giết mấy tên cầm chính quyền của giặc trước khi bị đánh tan.

Vua Duy Tân và mấy yếu nhân trong tổ chức khởi nghĩa đều bị rơi vào tay giặc. Vua bị đày ra đảo Rê-uy-ni-ông. Còn các thủ lĩnh cách mạng như Thái Phiên, Trần Cao Vân, Phạm Thành Chương, Phan Thành Tài, Lê Đình Dương... đều hy sinh.

Cuộc âm mưu khởi nghĩa của vua Duy Tân mặc dầu mang danh nghĩa nhà vua nhưng chúng ta thấy chủ mưu ở đây lại là các sĩ phu yêu nước, động lực là binh lính và những người nông dân bị bắt đi làm bia đỡ đạn cho giặc Pháp. Sau vụ Hà Thành đầu độc, đây là lần thứ hai binh lính Việt Nam tỏ quyết tâm dùng súng giết giặc. Cuộc khởi nghĩa không thành vì thiếu tổ chức, thiếu cảnh giác, nhất là thiếu một đường lối chính trị rõ rệt, một bộ tham mưu đúng đắn. Nhưng ở đây tinh thần bất khuất của dân tộc luôn luôn biểu lộ ra và cách mạng sẽ ngày một lớn mạnh.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Hai, 2017, 05:48:12 pm

Câu hỏi 3: Cuộc vận động Việt Nam Quang Phục hội có ý nghĩa đặc biệt đối với binh lính người Việt trong quân đội Pháp nói chung và đối với cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên nói riêng. Lương Ngọc Quyến là cầu nối cho Đội Cấn tin tưởng mà làm nên cuộc khởi nghĩa lừng danh trên đất Thái Nguyên. Hãy trình bày những nét cơ bản về Việt Nam Quang Phục hội và những hoạt động của nó?
Trả lời:


Như chúng ta đều biết Phan Bội Châu là lãnh tụ của Duy Tân hội cùng các đồng chí hoạt động trên đất Nhật.

Cho đến năm 1908 quân phiệt Nhật câu kết với thực dân Pháp hạ lệnh đuổi những người Việt Nam ra khỏi nước Nhật. Từ đó Phan Bội Châu cùng một số nhà cách mạng Việt Nam rời khỏi nước Nhật về Trung Quốc và Thái Lan tìm cách hoạt động. Cuộc cách mạng Tân Hợi (1911) ở Trung Quốc thắng lợi đã đem lại phấn khởi cho các nhà cách mạng Việt Nam và cho họ điều kiện dễ dàng hơn trên đất nước Trung Quốc. Họ mong sự giúp đỡ của cách mạng Trung Quốc cũng như đặt triển vọng cách mạng Việt Nam vào triển vọng của Trung Quốc. Phong trào bị sụt đi bởi những biến cố xảy ra ở Nhật nay lại được nhen nhóm. Một số người lưu vong ở Thái Lan hay đang hoạt động trong nước đều tập hợp lại tại Quảng Đông, nơi trọng tâm của cách mạng hồi đó. Năm 1912, một tổ chức cách mạng được thành lập với một danh hiệu mới thay cho Duy Tân hội là Việt Nam Quang Phục hội.

Việt Nam Quang Phục hội thực chất là một tập đoàn cách mạng hơn là một chính đảng cách mạng. Vì ngoài việc tập hợp một số người cách mạng ra, nó chưa có một tổ chức ở trong nước cũng như ngoài nước. Nhưng đường lối chính trị của nó so với Duy Tân hội ngày trước thì đã tiến triển lên nhiều. Theo chương trình hoạt động của Duy Tân hội phác họa ra từ năm 1900, mục đích của nó là khôi phục nước Việt Nam, lập ra một chính phủ độc lập, ngoài ra chưa có một chủ nghĩa nào khác. Riêng đối với Việt Nam Quang Phục hội thì có ghi rõ ràng: Tôn chỉ duy nhất của hội là đánh đuổi thực dân Pháp giành lại nước Việt Nam, thành lập Cộng hòa dân quốc Việt Nam.

Trong Việt Nam Quang Phục hội, ngoài một số nhà cách mạng Việt Nam ở hải ngoại ra, còn có cả một số nhà cách mạng Triều Tiên, Đài Loan... trong hội Đông Dương đồng văn và một số nhân sĩ Trung Quốc trong hội Chấn Hoa Hưng Á. Một điểm đáng chú ý nữa là Việt Nam Quang Phục hội có một bộ máy cồng kềnh ở trên đầu, nhưng không có chân, nghĩa là không có gốc rễ ở dân chúng trong nước.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Hai, 2017, 05:48:33 pm

Quá trình hoạt động của Việt Nam Quang Phục hội đều nhằm vào việc gây các cuộc bạo động ở trong nước. Việc đầu tiên là tổ chức Quang Phục hội quân, phần lớn là đồng bào miền núi ở gần biên giới Việt - Trung, còn một số thổ phỉ ở Trung Quốc. Chiến sĩ của Quang Phục quân là một số học sinh theo học tại các trường võ bị ở Bắc Kinh, Nam Kinh, Hán Khẩu... Quân kỳ nền đỏ với năm ngôi sao trắng và quốc kỳ nền vàng sao đỏ. Về vũ khí ngoài một số súng mua được, Hội có bí mật lập xưởng chế bom.

Để chi phí vào những trù bị bạo động, Hội cần phải có tiền. Nguồn tài chính của Hội lúc đầu trông vào sự quyên giúp của bạn Trung Quốc tán thành cách mạng Việt Nam, nhưng công tác của Hội ngày càng phát triển. Hội in ra quân dụng phiếu và thông dụng phiếu đem lưu hành trong nước. Những phiếu này là một thứ giấy bạc do Quân Chính phủ lâm thời Việt Nam Quang Phục hội phát hành.

Những năm chiến tranh thế giới nổ ra, cách mạng Việt Nam rơi vào thời kỳ lắng xuống. Thấy thế các nhà lãnh đạo Việt Nam Quang Phục hội cho rằng cần phải làm một điều gì đó kinh thiên động địa để "đánh thức đồng bào""gọi hồn nước lại”. Để làm được điều đó thì theo ý kiến của các nhà lãnh đạo là phải khủng bố mấy tên trùm thực dân Pháp và lũ tay sai đắc lực của chúng. Tại Việt Nam hồi ấy, toàn quyền An-be Xa-rô đang giở mọi thủ đoạn phỉnh phờ hòng ru ngủ nhân dân Việt Nam và dập tắt phong trào cách mạng. Mấy tên địa chủ Việt gian như Lê Hoan, Hoàng Trọng Phu, Nguyễn Duy Hàn là những kẻ mà nhân dân đều căm thù và nguyền rủa. Các nhà lãnh đạo Việt Nam Quang Phục hội quyết định trừ khử toàn quyền An-be Xa-rô và hai tên chó săn Hoàng Trọng Phu và Nguyễn Duy Hàn bằng cách phái người mang bom về nước thực hiện kế hoạch trên. Nhưng kết quả không được như dự định vì những điều kiện khách quan khó khăn và cũng vì người thừa hành không đủ quyết tâm làm nhiệm vụ. Việc mưu sát toàn quyền An-be Xa-rô trong dịp phát phần thưởng cho các cử nhân tân khoa tại kỳ thi hương ở Nam Định vào tháng 11 năm 1912 do Nguyễn Cẩm Giàng tức Nguyễn Hải Thần phụ trách không thực hiện được. Đến ngày 13 tháng 4 năm 1913 một tiếng bom nổ ở Thái Bình đã giết chết tuần phủ Nguyễn Duy Hàn do một công nhân lái xe là Phạm Văn Tráng phụ trách. Ngày 16 tháng 4 năm 1913, một quả bom khác lại nổ ở khách sạn Hà Nội, làm chết hai trung tá Pháp và nhiều người bị thương. Tác giả vụ này là Nguyễn Văn Tuý, công nhân xe lửa Gia Lâm.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Hai, 2017, 05:48:57 pm

Điểm lại dự định của Việt Nam Quang Phục hội chỉ đạt được một phần kết quả. Thực dân Pháp lại nhân đó khủng bố dã man. Hàng trăm người bị bắt cóc. Những người tham gia trong vụ này là Phạm Văn Tráng, Nguyễn Văn Tuý, Nguyễn Văn Cần, Phạm Đệ Quý, Vũ Ngọc Thụy, Phạm Hoàng Quế, Phạm Hoàng Triết đều đã hy sinh.

Sau những vụ bạo động kể trên, dưới sức khủng bố của bọn thống trị Pháp, cách mạng Việt Nam càng lắng xuống. Đến khi đại chiến thế giới thứ nhất bùng nổ các nhà Việt Nam Quang Phục hội thấy đó là cơ hội duy nhất để hoạt động trở lại. Nhưng hoạt động ra sao và bằng cách nào? Trong nước, Việt Nam Quang Phục hội không có cơ sở trong dân mà chỉ liên lạc được với một số thổ hào và những khách giang hồ hảo hán. Bên ngoài nước, cách mạng Trung Quốc đang bị khốn đốn nên những nhà cách mạng Việt Nam ngoài việc tạm thời dựa vào một vài đốc quân ở các địa phương, còn phải dựa vào một số nhân sĩ Trung Quốc.

Tuy vậy trong thời kỳ này, một số cuộc bạo động đã nổ ra nhiều nhất ở biên giới, có những cuộc nằm trong kế hoạch của Việt Nam Quang Phục hội, có những cuộc tự phát dưới ảnh hưởng của Việt Nam Quang Phục hội như:

- Cuộc đánh đồn Lục Nam ngày 20 tháng 10 năm 1914.
- Cuộc đánh đồn Nho Quan ngày 7 tháng 1 năm 1915.
- Cuộc đánh đồn Phú Thọ ngày 7 tháng 1 năm 1915.
- Cuộc đánh đồn Móng Cái ngày 7 tháng 1 năm 1915.
- Cuộc đánh đồn Tà Lùng ngày 13 tháng 3 năm 1915.
- Cuộc đánh đồn Bát Xát ngày 8 tháng 8 năm 1916.
- Cuộc đánh đồn Đồng Văn ngày 3 tháng 3 năm 1917...

Điểm lại các cuộc bạo động kể trên, chúng ta thấy mấy cuộc cùng nổ ra một ngày tại những địa điểm khác nhau chứng tỏ có sự liên lạc mật thiết với nhau dưới một bộ chỉ huy chung. Đặc biệt có cuộc bạo động tại Tà Lùng do mấy nhà Việt Nam Quang Phục hội lãnh đạo. Mặc dù những cuộc bạo động trên đều thất bại nhưng đã hun đúc lòng căm thù giặc cao độ của anh em binh lính và nhân dân. Cũng từ đó binh lính Việt trong hàng ngũ quân đội Pháp càng trông ngóng một biến cố lớn mang tầm vóc lịch sử để sớm thoát khỏi ách nô lệ.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Hai, 2017, 05:49:34 pm

Câu hỏi 4: Nguyên nhân nào đã khiến thực dân Pháp sử dụng binh lính người Việt như một công cụ chính?
Trả lời:


Chủ trương của bọn thực dân nói chung đối với bất cứ thuộc địa nào cũng là dùng dân thuộc địa đánh dân thuộc địa (dùng người bản xứ đánh người bản xứ). Đối với thực dân Pháp, những kinh nghiệm bản thân của chúng trước đây ở các thuộc địa khác, nhất là ở An-giê-ri, Miến Điện... đã giúp cho chúng có những thủ đoạn thâm độc hơn trong việc dùng người Việt đánh người Việt.

Theo cách tổ chức của chúng, có hai loại lính Việt Nam trong quân đội Pháp: chính quy và địa phương. Chính quy là những lính khố đỏ (tức bộ binh), lính pháo thủ, lính tàu bay (phần nhiều là lính thợ), lính thủy, lính lê dương (ghép với lính ngoại quốc). Địa phương có lính khố xanh thuộc quyền thống sứ, lính khố lục (lính cơ), khố trắng, khố vàng thuộc bọn quan lại Việt Nam, lính dõng tại các châu huyện miền thượng du.

Về kinh tế, việc dùng lính thuộc địa giảm cho thực dân Pháp một món kinh phí lớn như chuyên chở lính Pháp từ chính quốc sang và hàng năm còn đỡ tiền chuyên chở lính Pháp ở Việt Nam về nghỉ tại Pháp, cả tiền chở số lính Pháp sang thay thế cho số lính đến hạn nghỉ. Thêm vào đấy, tiền lương của một người lính thuộc địa rất thấp so với tiền lương của một lính Pháp. Theo lời tên thiếu tá Gác-bi, sĩ quan pháo binh thuộc địa, giảng tại trường thuộc địa Pháp ở Pa-ri ngày 8 tháng 2 năm 1905 thì nuôi một người lính Pháp bằng nuôi bốn người lính Việt Nam. Nhưng theo lời người lính Việt Nam trong quân đội Pháp thì lương một lính Pháp có thể gấp mười lần lương một người lính Việt Nam. Do đó, số lính người Việt hay thuộc các dân tộc ở Đông Dương thay cho lính Pháp càng nhiều bao nhiêu thì càng lợi cho thực dân Pháp bấy nhiêu.

Về quân sự, binh lính Việt Nam là một lực lượng dự trữ to lớn để bổ sung cho quân đội Pháp và ngày càng thay thế cho lính Pháp trong việc giữ trật tự an ninh cũng như chiến tranh. Binh lính Việt Nam lại là những người chịu đựng gian khổ, quen thuỷ, thổ, biết rõ địa lý và tình hình nhân dân, lúc thường thì đóng tại các nơi nước độc, khí hậu xấu hay các đồn bốt địa phương để cho lính Pháp tập trung tại các đô thị và các yếu điểm quân sự, lúc chiến tranh thì đi trước làm bia đỡ đạn cho sĩ quan Pháp.

Về chính trị, ngoài việc dùng người Việt đánh người Việt, thực dân Pháp đỡ phải đem lính Pháp ở chính quốc sang Đông Dương, nhất là những ngày chiến tranh, tránh sự phản đối của nhân dân Pháp. Chẳng những thế, thực dân Pháp còn lợi dụng ngụy binh làm trung gian giữa quân xâm lược với nhân dân, tuyên truyền cho chúng và làm tai mắt cho chúng.

Như vậy việc dùng người Việt đánh trả người Việt là một dã tâm của thực dân Pháp và đồng thời còn là một thủ đoạn bóc lột trắng trợn đối với người dân thuộc địa nói chung và nhân dân Việt Nam nói riêng. Từ một xuất phát điểm thuận lợi trăm bề như vậy nên thực dân Pháp đã sử dụng người Việt như một công cụ chính.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Hai, 2017, 05:50:11 pm

Câu hỏi 5: Hãy cho biết chế độ đãi ngộ bất bình đẳng của thực dân Pháp đối với binh lính Việt Nam? Cho dẫn chứng minh họa cụ thể?
Trả lời:


Mặc dù công dụng của binh lính Việt Nam như đã phân tích ở trên nhưng thực dân Pháp đãi ngộ với họ vô cùng bất công. Trong hàng ngũ quân đội Pháp cũng như đối với nhân dân thuộc địa vẫn xây dựng trên quan niệm và chính sách bất bình đẳng.

Về lương bổng, phụ cấp, trang bị... sự chênh lệch đã hiện ra rõ rệt giữa binh lính Pháp và binh lính Việt Nam. Cùng một cấp bậc, một nhiệm vụ nhưng công việc của người lính Việt Nam bao giờ cũng nặng nhọc hơn và mức hưởng thụ lại rất thấp. Ví dụ: Lương một tên quan hai Pháp gấp gần 30 lần lương một người lính Việt Nam ở đại đội chủ lực năm 1887 (lương tên quan hai 7.000 phờ-răng mỗi năm; lương người lính Việt Nam 252 phờ-răng mỗi năm). Đó là chưa kể quần áo, nhà ở và các thứ phụ cấp khác. Cũng theo biểu lương năm này, một tên quản người Pháp lương hàng năm 5.000 phờ-răng, một người lính quản Việt Nam 900 phờ-răng.

Về quyền hành và đối đãi, thì bất kỳ người lính Việt nào nói chung, chỉ có thể làm đến hạ sĩ quan là cao nhất, sau khi nổ ra những cuộc bạo động hay âm thầm bạo động của binh lính người Việt, thực dân Pháp mới cho phép binh lính người Việt có thể thăng đến chức đại úy. Nhưng thực sự, ngoài một số mang quốc tịch Pháp hay thân Pháp được vào học tại các trường sĩ quan Pháp hoặc đặc biệt cấp cho cấp bậc sĩ quan cho đến những kẻ phản quốc lập công với giặc được giặc nhấc lên làm quan hai, không kể binh lính Việt Nam nói chung ít có hy vọng vươn lên cấp chỉ huy dù chỉ là chỉ huy trung đội hay đại đội. Ấy là chưa kể những hạ sĩ quan và sĩ quan người Việt, thực dân Pháp cũng khinh khi, bạc đãi.

Kỷ luật trong quân đội đế quốc là một kỷ luật quân phiệt. Những kỷ luật đối với binh lính thuộc địa trong quân đội đế quốc càng dã man hơn. Mục 6 của bản Điều lệnh về tổ chức lính khố xanh ở Đông Dương quy định những tội lỗi xử phạt sau đây: “Bị coi như phạm kỷ luật và bị trừng trị tuỳ theo mức độ nghiêm trọng của tội lỗi: những binh lính nào thì thầm với nhau, nói với nhau những chuyện không tốt...”.

Người lính Việt Nam luôn luôn bị bịt mồm khóa miệng, không được tự do chuyện trò, không được nói những gì mà chỉ huy không muốn. Hình phạt quy định thì có thể từ không cho đi chơi đến bị giam, bị tù, bị cúp lương. Trên đây là những đãi ngộ bất bình đẳng đáng kể nhất mà thực dân Pháp dành cho binh lính người Việt Nam. Đó chính là manh nha cho cuộc bùng nổ của khởi nghĩa Thái Nguyên.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Gửi bởi: chuongxedap trong 26 Tháng Hai, 2017, 07:25:52 pm

Câu hỏi 6: Ngoài các thủ đoạn dã man mà thực dân Pháp áp dụng ở Việt Nam như lập nhiều nhà tù, đầu độc thanh niên bằng rượu và thuốc phiện... chúng còn dùng chính sách chia để trị. Hãy trình bày những nét chính về chính sách đó của thực dân Pháp đối với binh lính ở Việt Nam?
Trả lời:


Chia để trị là một chính sách được thực dân Pháp vận dụng triệt để nhất ở Việt Nam. Lúc bình thường, chúng gây mâu thuẫn giữa những người ở địa phương này với những người ở địa phương khác (như miền Bắc với miền Nam), những dân tộc này với dân tộc khác (như đồng bào thiểu số với đồng bào người Kinh) đến cả giữa binh chủng này với binh chủng khác (khố đỏ với khố xanh) để tố giác lẫn nhau, đánh lẫn nhau và dồn cả lòng trung thành với chúng. Ngoài ra, chúng còn chia rẽ giữa binh lính với nhân dân, dung túng và xúi cho lính nhũng nhiễu dân. Có khi một đại đội khố xanh hay khố đỏ đến đánh phá một làng nào đó vì đã xảy ra một chuyện xích mích về tiền hay về gái giữa chỉ huy người Việt trong quân đội Pháp với dân làng. Lúc nổ ra những cuộc khởi nghĩa, chúng đem người tộc này đánh người tộc khác và đem binh lính miền này kiềm chế nhân dân miền khác. Năm 1892, đại tá Pháp là Se-vi-e-rờ tổ chức những tiểu đoàn lính thổ để dùng ở đồng bằng. Đại tá Gan-li-ê-ni, một tên có công nhiều trong cuộc bình định bằng quân sự của thực dân Pháp ở Đông Dương, đã thốt ra một câu vạch rõ dã tâm chia rẽ đến triệt để của chúng: "Hành động chính trị mới là quan trọng nhất... Hành động đó phải đưa về chính sách chủng tộc. Bất cứ một tập đoàn, chủng tộc, nhân dân, bộ lạc hay gia đình nào cũng có những quyền lợi chung nhau và đối lập với nhau... cũng có những sự thù hằn và địch đối mà chúng ta phải biết lợi dụng...".


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Gửi bởi: chuongxedap trong 26 Tháng Hai, 2017, 07:26:44 pm

Câu hỏi 7: Xuất phát từ chế độ đãi ngộ bất bình đẳng mà thực dân Pháp áp dụng với binh lính người Việt nên đã hình thành một làn sóng đấu tranh của binh lính người Việt trong hàng ngũ quân đội Pháp. Hãy trình bày cụ thể về vấn đề này?
Trả lời:


Chúng ta đều biết đại đa số binh lính người Việt trong hàng ngũ quân đội Pháp là nông dân lao động hoặc vì sinh kế, hoặc bị lừa bịp hay bắt buộc phải đi lính cho chúng. Những người hiền lành và quê mùa ấy không có nguyện vọng nào cao hơn là được sống yên tĩnh, có đủ lương nuôi vợ con và sau khi mãn lính về có chút tiền làm vốn sinh sống hay nếu được chút phẩm hàm nữa thì rất vinh dự. Nhưng trong đời ở lính, họ đã chịu bao nhiêu khổ cực, bao nhiêu bất công và bất bình trút lên đầu họ. Thực dân Pháp muốn biến họ thành những con người mù quáng phục vụ cho chúng để quên đi Tổ quốc, phản lại đồng bào, để bảo vệ hầm mỏ, nhà máy, đồn điền, ngân hàng của chúng, để làm bia đỡ đạn mỗi khi có chiến tranh. Sự thực, âm mưu thâm độc của chúng đã đạt được nhiều kết quả trong những văn thân thổ hào yêu nước và những cuộc quật khởi của nhân dân. Nhưng là những thành phần cơ bản của nhân dân, liên hệ chặt chẽ với gia đình, anh em binh lính vẫn không bị thoát ly nhân dân, nên trừ một số ít thuộc tầng lớp trên đã gắn địa vị quyền lợi của chúng với quân cướp nước, cam tâm làm tay sai cho giặc; còn đại đa số vẫn thông cảm sâu sắc những thống khổ của nhân dân, trong đó có cha mẹ, vợ con, anh em của họ cộng với những khổ nhục mà chính họ phải chịu, nên lòng căm thù vẫn sôi sục, chỉ chờ có dịp là nổ bùng ra.

Từ những cuộc đấu tranh lẻ tẻ phản đối thái độ đối xử của bọn chỉ huy, đòi cải thiện sinh hoạt đến những việc đào ngũ, không tuân lệnh trên và cuối cùng lấy súng giặc giết giặc, tùy theo trình độ tổ chức và lãnh đạo cách mạng ngày một tiến bộ ở trong quân đội cũng như ngoài nhân dân.

Trong những cuộc khởi nghĩa ở Ba Đình, ở Bãi Sậy của các văn thân cũng như cuộc khởi nghĩa của Hoàng Hoa Thám ở Yên Thế, thực dân Pháp đem "lính tập" đi đánh quân khởi nghĩa và quân khởi nghĩa cũng đã bắt đầu chú ý tuyên truyền anh em lính tập quay súng lại bắn giặc. Tuy vậy, những lời tuyên truyền chỉ có thể thực hiện được một khi hành động có tổ chức. Do đó, nhiều trận giáp chiến, những binh lính người Việt trong quân đội Pháp nếu có người nào hưởng ứng tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc thì cũng chỉ hành động riêng lẻ và bí mật bằng cách bắn súng lên trời hay chệch ra ngoài mục tiêu. Một số ít người đã đào ngũ mang theo súng đạn chạy sang với nghĩa quân. Một vài trường hợp đã xảy ra là cả một tập đoàn mang khí giới đi theo nghĩa quân như Phù Sá (gần Phù Lỗ) đầu tháng 5 năm 1894, phía đông Kim Anh ngày 16 tháng 5 năm 1894... và cuộc nổi dậy của một số lính khố xanh tại Bắc Ninh bắn chết tên hiến binh Pháp Véc-đêm và tên tây đoan Mun-hô ngày 5 tháng 5 năm 1894. Đêm 28 rạng ngày 29 tháng Giêng năm 1891, một số binh lính người Mường ở đồn Chợ Bờ, tỉnh lỵ Hòa Bình bấy giờ, đã hưởng ứng với nghĩa quân ở ngoài do Đốc Ngữ lãnh đạo, chiếm tỉnh lỵ, phá nhà tù và giết tên công sứ Ru-giơ-ry, đồn trưởng khố xanh Di-ơ-lê và giám thị Lê-vi. Đêm mồng 7 rạng ngày mồng 8 tháng 7 năm 1888 anh em lính khố xanh ở đồn Thanh Trì (Hà Đông) đã hưởng ứng.

Sau những cuộc vũ trang bạo động cuối thế kỷ thứ XIX, đến đầu thế kỷ XX, giữa văn kiện tuyên truyền của các sĩ phu trong phong trào Đông Du, Đông Kinh nghĩa thục... cũng chú trọng đến một giới người tay cầm vũ khí ở ngay trong lòng địch là các binh lính Việt Nam. Bài "Mười điều đồng tâm" của Phan Bội Châu có nhắc đến sự đồng tâm của thuỷ lục quân. Bài kêu gọi "Các chú tập binh" đã nói lên sự liên hệ của anh em binh lính với họ hàng thân thích, đừng để giặc lợi dụng yếm bà lại buộc cổ bà. Cuộc đầu độc của anh em binh lính trong cơ pháo thủ số 9 tại Hà Nội ngày 27 tháng 6 năm 1908 và cuộc chuẩn bị khởi nghĩa của anh em tân binh tại Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi trong âm mưu khởi nghĩa của vua Duy Tân tháng 5 năm 1916 mặc dầu thất bại nhưng đã tỏ một quyết tâm của binh lính Việt Nam quay súng bắn giặc.

Cho đến thời kỳ đại chiến thứ nhất, thực dân Pháp phải dồn lực lượng vào cuộc chiến tranh đế quốc ở châu Âu, điều kiện khách quan có lợi cho ta, anh em binh lính Việt Nam, lại một lần nữa, nêu cao lá cờ "Nam binh phục quốc" ở Thái Nguyên.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Gửi bởi: chuongxedap trong 26 Tháng Hai, 2017, 07:27:35 pm

Câu hỏi 8: Hãy nêu hoàn cảnh đặc biệt ở Thái Nguyên trước ngày khởi nghĩa?
Trả lời:


Trước sự suy nhược của thực dân Pháp ở Đông Dương và cuộc vận động của Việt Nam Quang Phục hội, binh lính người Việt trong quân đội Pháp cũng như nhân dân ở bên ngoài mong mỏi một cuộc khởi nghĩa lớn để sớm thoát khỏi ách nô lệ. Những cuộc âm mưu nổi dậy hay bạo động nhỏ đã liên tiếp nổ ra ở khắp nơi. Riêng ở Thái Nguyên, vì điều kiện đặc biệt của nó, một cuộc khởi nghĩa lớn đã nổ ra do binh lính chủ động và dựa vào sự ủng hộ của nhân dân địa phương.

Như chúng ta đều biết, Thái Nguyên từ trước đã có một truyền thống cách mạng. Nơi đó đã in nhiều dấu vết chiến đấu của các thổ hào văn thân chống quân xâm lược Pháp. Cuộc khởi nghĩa của Hoàng Hoa Thám đã kéo dài hơn 20 năm trên căn cứ địa Bắc Giang và Thái Nguyên, nhân dân Thái Nguyên đã trường kỳ anh dũng đấu tranh. Lúc này ngọn lửa khởi nghĩa đã nhen lên ở một đôi nơi, nhân dân Thái Nguyên cũng đang mong chờ một sự kiện mới nổ ra để sẵn sàng đứng dậy hưởng ứng. Một động cơ trực tiếp nữa là tên công sứ Đạc ở Thái Nguyên (lúc bấy giờ là một tên gian ác nổi tiếng của thực dân Pháp), dưới chính lệnh tham tàn của nó, binh lính và nhân dân trong vùng đều đồng lòng căm phẫn. Nhà lao Thái Nguyên lúc đó là nơi tập trung những tù chính trị bị bắt trong các vụ Đề Thám, Duy Tân, Đông Du... Vì tiếp xúc với những tội phạm chính trị hàng ngày phải làm việc khổ sai, anh em binh lính khố xanh được nghe những vần thơ ái quốc như:

      "Nhọc lòng xe cát bể Đông
      Hao binh mã chẳng nên công cán gì...”.


Rồi những câu chuyện về sự hy sinh của những người anh hùng như đi vào huyền thoại. Cũng chính từ đó tinh thần hướng nghĩa như càng được thời cơ bốc lên rất mạnh. Tình cảnh khổ cực của binh lính và tù phạm càng làm cho hai bên có sự cảm thông với nhau, cột chặt vào nhau chờ ngày khởi nghĩa.

Nói đến cuộc khởi nghĩa này phải kể đến thủ lĩnh Trịnh Văn Cấn. Cấn đi lính khố xanh cho Pháp đã lâu năm, được phong chức đội trưởng. Trong những ngày Đề Thám hành quân ở Thái Nguyên, Cấn phải theo quân Pháp đi đánh dẹp luôn. Cấn quen dần với trận mạc và rất thông thạo đường lối núi rừng. Một ảnh hưởng trái lại là trong khi quân Pháp đánh nhau với nghĩa quân Đề Thám, Cấn đem lòng hâm mộ tinh thần bất khuất và ý chí dẻo dai của vị lãnh tụ nghĩa quân Yên Thế từ lúc nào không biết. Lòng yêu nước của Cấn ngày càng được nâng cao. Quan niệm về bạn và thù dần dần được phân biệt rõ hơn. Cuộc đại chiến nổ ra, lúc đó Cấn đang ở trong quân đội Pháp nên càng nhận thức rõ sự kiệt quệ của thực dân Pháp và rất muốn thừa cơ vùng dậy. Xung quanh Cấn có một số bạn đồng ngũ cũng cùng ý nguyện như Cấn. Vì thế mà không bao lâu họ đã kết thành một tập đoàn. Họ liên kết, liên lạc và trao đổi với nhau những ý kiến về thời cuộc. Một vài tin khởi nghĩa từ các nơi đưa lại càng làm cho họ nóng lòng khởi nghĩa. Tới khi Cấn từ Chợ Chu về đóng ở Thái Nguyên thì tập đoàn âm mưu khởi nghĩa càng liên lạc được thêm nhiều hạ sĩ quan cùng binh lính khố xanh trong quân đội Pháp. Một động lực nữa có tác động không nhỏ đến cuộc khởi nghĩa là sự tiếp xúc của binh lính khố xanh và các tù chính trị như đã nói ở trên. Trong đám chính trị phạm bấy giờ có Lương Ngọc Quyến, một yếu nhân trong Việt Nam Quang Phục hội, đã tốt nghiệp trường Chấn Vũ nước Nhật và năm 1915, bị bọn thống trị Anh bắt ở Hương Cảng, đem dẫn độ cho Pháp. Quyến bị thực dân Pháp kết án khổ sai chung thân và cấm cố tại nhà lao Thái Nguyên. Gặp Lương Ngọc Quyến, Cấn một mặt tin vào bản lĩnh quân sự có thể làm được việc lớn, mặt khác qua lời động viên, khuyên nhủ của Quyến, Cấn rất tin vào Việt Nam Quang Phục hội đã có một lực lượng lớn lao, chuẩn bị tổng khởi nghĩa và chỉ chờ một cuộc nổi dậy ở trong nước là có thể kéo vào tiếp viện. Thế là cái chí lớn mà Trịnh Văn Cấn và các bạn ôm ấp bấy lâu đã khẳng định lòng quyết tâm để biến thành hành động.

Như vậy, nói đến động lực của Thái Nguyên khởi nghĩa chúng ta phải hiểu rằng sự chủ động thuộc về anh em binh lính. Đó là những người nông dân đã bị áp bức ở thôn quê, một thời đương đầu làm bia đỡ đạn, làm công cụ trấn áp của thực dân Pháp trong chính sách "Dùng người Việt trị người Việt". Cuộc liên minh của anh em binh lính với các chính trị phạm làm cho tập đoàn khởi nghĩa càng được củng cố thêm với một tinh thần phấn khởi, một sự tự tin và do đó tiếng súng khởi nghĩa bùng nổ.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Gửi bởi: chuongxedap trong 27 Tháng Hai, 2017, 08:08:32 am

Câu hỏi 9: Cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên bắt đầu từ thời gian nào? Hãy cho biết những nét chính về vùng đất Thái Nguyên lịch sử?
Trả lời:


a) Định ngày khởi nghĩa:

Sau khi những binh lính và chính trị phạm đã kết thành một khối thì cuộc khởi nghĩa định vào tháng Năm âm lịch năm 1917, nhân dịp tên giám binh Nô-en đi đốc thuế ở huyện Đại Từ. Trong đoàn lính cử đi bảo vệ món tiền thuế từ Hùng Sơn về tỉnh lỵ Thái Nguyên, lúc đó có Đội Lữ là một người trong nghĩa quân. Nhân đó ông Lữ đã có ý xếp đặt những binh lính đi theo đều là những người tham dự cuộc âm mưu bạo động. Kế hoạch của họ là phải giết chết được tên giám binh ở giữa đường, cướp hết tiền bạc thuế rồi yên lặng kéo về tỉnh lỵ cùng những bạn đồng chí nổi dậy. Việc ám sát này đáng lẽ diễn ra ở bến đò Huy Ngạc cách phủ lỵ Đại Từ chừng một cây số, nhưng có việc trở ngại nên lại thôi. Lực lượng quân sự của giặc Pháp ở Thái Nguyên bấy giờ, ngoài lính khố xanh canh gác các công sở và nhà tù ra, còn có một đoàn lính Pháp phòng vệ tỉnh thành. Vì vậy, trọng tâm của khởi nghĩa là phải diệt được đoàn lính Pháp hoặc bằng vũ lực hoặc bằng mưu kế, có thanh toán được thực lực của giặc thì mới làm chủ được thành phố. So sánh tương quan lực lượng giữa quân khởi nghĩa và lính Pháp thì nghĩa quân phải tìm cách hạ chúng bất thình lình chứ không thể tuyên chiến được. Do đó, định ngày khởi nghĩa lần đầu phải hoãn lại.

Kế hoạch lần thứ hai của nghĩa quân là một hôm nào đó, vào một buổi tối đốt một cái rạp hát ở ngoài phố, tất nhiên bọn lính Pháp phải ra chữa cháy, nhân đó lính Nam một mặt vây đánh bất ngờ, một mặt xông vào trại lính Pháp cướp súng và đánh chiếm tỉnh thành. Nhưng một lần nữa kế hoạch này lại không thực hiện được.

Lần thứ ba, cuộc khởi nghĩa định vào ngày 14 tháng 7 năm 1917. Hôm ấy là ngày kỷ niệm phá ngục Bát-ti trong cách mạng tư sản Pháp, tất cả lính Pháp và lính Nam đều được lệnh sửa soạn một cuộc duyệt binh. Theo thường lệ, binh lính ít khi mang súng có lắp đạn. Những người chỉ huy khố xanh định cho quân khởi nghĩa chuẩn bị đầy đủ súng đạn đánh úp bọn lính Pháp. Rút cuộc kế hoạch này không thi hành vì sợ dân chúng đi xem "hội Tây" hôm ấy bị chết lây.

Sau ba lần dự định khởi nghĩa không thành, những tiếng đồn đại từ trong binh lính và chính trị phạm đã lan ra nhân dân ngoài phố. Cũng vì bộ máy mật thám Pháp lúc bấy giờ ở trong một tỉnh đường rừng như Thái Nguyên không được chu đáo lắm, nên tin tức vẫn chưa lọt đến tai bọn thống trị. Sang tháng 8 năm 1917 có tin sắp có một cuộc thuyên chuyển trong đám cai, đội khố xanh. Cũng có tin đồn là ông Đội Cấn và mấy yếu nhân nữa phải chuyển đi nơi khác. Đã đến lúc cuộc khởi nghĩa phải nổ ra, không thể lần lữa được nữa. Cuối cùng ngày khởi nghĩa được quyết định vào cuối tháng. Ông Cấn mật viết thư cho các đồng chí ở các đồn lẻ trong tỉnh về lĩnh lương hôm ấy cùng nổi dậy. Đêm 30 rạng ngày 31 cuộc khởi nghĩa bùng nổ.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Gửi bởi: chuongxedap trong 27 Tháng Hai, 2017, 08:08:57 am

b) Những nét chính về vùng đất Thái Nguyên:

Có thể nói cuộc vùng dậy của binh lính Thái Nguyên từ cuối năm 1917 sang năm 1918 là cuộc khởi nghĩa lớn nhất ở Việt Nam trong khoảng đại chiến thế giới thứ nhất. Lúc ấy, cuộc chiến tranh đế quốc đã bước vào năm thứ ba. Thực dân Pháp ráo riết bòn rút xương máu người Việt Nam đổ vào lò lửa chiến tranh. Liên tiếp từng đoàn lính Việt Nam bị kéo xuống tàu chở sang chính quốc. Những cuộc khởi nghĩa ở Nam Kỳ, Trung Kỳ, đặc biệt là phong trào binh lính ở Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi hưởng ứng cuộc khởi nghĩa của vua Duy Tân, những vụ đánh đồn ở miền biên giới Việt - Trung của Việt Nam Quang Phục hội đã kích thích phong trào ái quốc ở khắp nơi. Nhưng vấn đề đặt ra là tại sao cuộc khởi nghĩa lớn nhất ở Việt Nam thời kỳ này lại nổ ra ở tỉnh Thái Nguyên?

Như chúng ta đều biết tỉnh Thái Nguyên là một nơi từ trước đã mang nhiều thành tích kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của thổ hào. Đặc biệt là cuộc khởi nghĩa của Hoàng Hoa Thám đã kéo dài hơn 20 năm trên căn cứ địa Bắc Giang và Thái Nguyên như một dấu tích đáng nhớ khơi dậy lòng căm thù giặc cao độ và lòng quyết tâm chống Pháp của nhân dân. Nhân dân Thái Nguyên sẵn có một truyền thống đấu tranh anh dũng. Lúc này ngọn lửa cách mạng lại bùng lên. Núi rừng Thái Nguyên như chờ đón một đoàn nghĩa quân vùng dậy với khí thế ngất trời. Với địa bàn rừng núi hiểm trở và nhiều dân tộc anh em sinh sống đoàn kết như Kinh, Tày, Nùng, Dao, Sán Cháy, Sán Dìu, Mông... Đó là những yếu tố lý tưởng để làm nên cuộc khởi nghĩa lớn nhất Việt Nam ở tỉnh Thái Nguyên lúc bấy giờ. Các khám đường mạn ngược và các huyện lẻ của tỉnh Thái Nguyên thượng du rất nhiều những nhà ái quốc, các thanh niên ưu tú của đất nước đã hy sinh cho dân tộc, những người khác thì sống trong cảnh gông cùm, cơ cực.

Thời gian này, Thái Nguyên là tỉnh chứa nhiều phần tử chống Pháp nhất nên quân Pháp cũng phòng thủ kiên cố hơn. Nơi này có một cơ binh hùng hậu gồm cả lính lê dương, lính khố xanh và cả lính dõng nữa (người Thượng) đặt dưới quyền của viên giám binh Bẹc-giê có tiếng là thét ra lửa.

Về hành chính, Thái Nguyên được giao vào tay công sứ Đạc mà người Bắc đã liệt vào loại tứ hung và đặt ra câu ngạn ngữ "Nhất Đạc, nhì Be, tam Ke, tứ Bích". Đó là bốn công sứ (tỉnh trưởng) tàn bạo ở Bắc Kỳ. Đạc ở Thái Nguyên, Be ở Bắc Ninh, Ke đốc lý ở Hà Nội và Bích công sứ Lạng Sơn. Không biết trình độ bạo tàn của chúng hơn kém nhau ra sao nhưng Đạc cầm quyền ở Thái Nguyên là một lựa chọn thích đáng ở toàn quyền Sa Lộ. Đạc nói được tiếng Việt Nam và nói giống như người Việt. Đạc trá hình rất giỏi. Thường đến tối, ngoài phố người ta nghe có tiếng rao "Ai bánh giầy, bánh giò ra mua!". Người ta gọi vào nhà mua ăn thì trời đất ơi! Người ấy là "Quan Công sứ". Đạc bận quần áo vải nâu, đội thúng bánh trên đầu, chân đi đất, dò xét dân tình, xem nhà nào có ý định chống Pháp thì sẽ cắt đầu.

Đạc còn nghĩ ra một nhục hình tra tấn các phần tử ái quốc bị bắt là: cho đi tắm biển "Măng". Có lẽ y động lòng sầu xứ, nhớ đến biển Manche là một biển phân cách Pháp với Anh, y mới nảy ra sáng kiến đào một biển "Măng" ở ngay khám đường. Nhưng biển "Măng" ở đây không lớn, nó cũng không có nước mặn, mà chỉ phát ra hơi thối, ngửi không được. Biển "Măng" của y là hầm chứa phân từ các cầu tiêu chảy đến. Nhà ái quốc nào không chịu khai, là được bọn lính tra tấn bằng cách ngâm mình dưới hầm chứa phân cho đến ngập cổ. Mệt quá vì phân làm bít lỗ chân lông, mặt mày xanh lét, sắp nghẹt thở thì chúng lôi lên xối nước cho hồi dương.

Dưới chính lệnh tham tàn của hắn, từ nhân dân, tù phạm cho đến binh lính đều điêu đứng, khổ sở. Nhà lao Thái Nguyên lúc đó còn là nơi tập trung số đông chính trị phạm thuộc các vụ Duy Tân, Đề Thám... Đặc biệt trong đó có Lương Ngọc Quyến là người hoạt động cách mạng tích cực, bị bắt từ hải ngoại về.

Nói tóm lại, sự thao túng của thực dân Pháp ở Việt Nam, tội ác của công sứ Đạc, đặc biệt là tinh thần hướng nghĩa của nhân dân nói chung và binh lính nói riêng đã kích động lòng công phẫn của binh lính Thái Nguyên. Dưới sự chỉ huy của một số nhà ái quốc trong quân đội và chính trị phạm, binh lính và phạm nhân ở Thái Nguyên đã vùng dậy dùng súng giặc giết giặc.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Gửi bởi: chuongxedap trong 27 Tháng Hai, 2017, 08:09:58 am

Câu hỏi 10: Hãy trình bày diễn biến chi tiết cuộc nổi dậy của binh lính Thái Nguyên năm 1917?
Trả lời:


Sau nhiều lần dự định khởi nghĩa không thành, cuối cùng ngày khởi nghĩa cũng được quyết định vào đêm 30 rạng ngày 31 tháng 8 năm 1917. Lúc đó ở trại lính khố xanh Thái Nguyên, binh lính ở các nơi đổ về lĩnh lương cuối tháng rất đông nên náo nhiệt hơn nhiều so với những đêm khác. Một vài chiếu bạc đã trải ra để sát phạt nhau. Có ai ngờ trong những giờ phút ấy, một số yếu nhân quân khởi nghĩa thảo luận kế hoạch tác chiến cụ thể. Chỗ phải đề phòng nhất vẫn là trại lính Pháp ở bên cạnh. Ý kiến mọi người là trước hết phải bí mật hạ sát cho được tên giám binh Nô-en và tên tay sai tin cẩn của nó là quản Lạp. Sau khi làm chủ trại lính khố xanh rồi, sẽ thình lình đánh úp trại lính Pháp. Ông Đội Tường và một nghĩa quân được phân công đi giết đám binh, còn ông Ba Chén đi giết phó quản Lạp. Điều quan trọng nhất là không để cho một tiếng súng nào nổ.

Vào khoảng 11 giờ đêm 30 tháng 8 năm 1917, giờ quyết định đã được bắt đầu.

Lúc ấy giám binh Nô-en đang ngủ trong một căn nhà dựng trên đồi. Ông Tường đến gõ cửa nói là có điện tín cần kíp từ Hà Nội gửi lên. Tên giám binh không mở cửa ra tiếp, chỉ hé cánh cửa vừa đủ thò tay ra cầm bức điện. Người lính theo ông Tường thấy thế sợ lỡ việc lớn, vội vàng xông lại cầm dao xả vào chém. Giám binh bị bất ngờ vội giơ một tay đỡ và tay kia mở mạnh cánh cửa chạy ra ngoài định thoát sang trại lính Pháp. Lúc ấy ông Tường không còn cách nào tốt hơn là rút súng lục bắn. Giám binh Nô-en bị trúng đạn ngã gục xuống. Thế là cuộc hạ sát tuy đã đạt được kết quả nhưng lại sai kế hoạch vì tiếng súng đã nổ. Về phần ông Ba Chén, việc giết phó quản Lạp đã làm xong một cách trót lọt.

Một lát sau hai cái đầu của giám binh Nô-en và phó quản Lạp đã được đặt trong hai cái đĩa lớn để ở giữa trại. Ông Cấn bắt đầu tuyên bố khởi nghĩa.

Sau khi nghe thấy tiếng súng nổ và những tiếng ồn ào từ trại lính khố xanh truyền sang, bọn lính Pháp ngờ có biến động liền cất tiếng hỏi nhau. Mấy nghĩa quân vì quá hăng hái đã đáp lại bằng một tràng những câu chửi rủa quân cướp nước. Tuy vậy bọn lính Pháp đã không dám đối phó ngay, chỉ bắn vài tràng súng vu vơ, sau đó thổi kèn báo động để tập hợp công chức Pháp Nam ở ngoài vào trong trại. Cũng ngay lúc ấy, tên sen đầm Bơ-de và tên cai Rô-sét cùng bốn lính Pháp đã ra sở Bưu điện đánh điện cấp báo về Hà Nội.

Làm chủ được trại lính khố xanh rồi, nghĩa quân chia nhau đi chiếm các dinh thự, công sở và phá nhà lao. Đáng tiếc là tên công sứ Đạc và phó công sứ Tuýt-tơ hôm ấy đều đã đi nghỉ mát ở Đồ Sơn. Tên chủ kho bạc thì đã chạy khỏi kho bạc sang trại lính Pháp. Vì vị trí kho bạc ở ngay cạnh trại lính Pháp nên nghĩa quân không cướp ngay được, mãi đến tận chiều hôm sau mới chiếm được. Tuy vậy số bạc chiếm được vẫn còn nguyên vẹn và cũng khá lớn. Tổng số bạc là: 71.000 đồng (trong đó có 30 ngàn đồng bạc giấy và 41 ngàn đồng bạc đồng). Tại sở Kiến binh Pháp, tên chủ là Li-ông khi thấy động nhưng chưa rõ nguyên nhân nên đã cùng tên thầu khoán Gô-chi-lê bỏ chạy sang chỗ giám binh Nô-en, liền bị từng tràng súng ở trong bắn ra, hai tên vẫn còn bình tĩnh chạy núp vào trại lính Pháp.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Gửi bởi: chuongxedap trong 27 Tháng Hai, 2017, 08:10:18 am

Khó khăn nhất lúc này là việc đánh chiếm nhà lao. Thừa lệnh ông Cấn, ông Đội Giá đem 50 nghĩa quân sang đánh chiếm nhà lao. Lúc ấy, tên Lô-ê thấy kèn báo động đã giới nghiêm, khóa chặt cổng nhà lao và bố trí canh gác cẩn thận. Ông Giá tới nơi nói với Lô-ê là trong tỉnh có động nên giám binh Nô-en phái quân sang bảo vệ nhà lao. Nhưng Lô-ê vẫn nghi ngờ, hỏi mật hiệu thì Đội Giá trả lời đúng. Lô-ê mở cửa cho ông Giá vào. Tuy vậy giám binh Lô-ê vẫn chưa thật tin tưởng. Một tay hắn nhăm nhăm khẩu súng lục đã nạp sẵn đạn, tay kia khoác vai ông Giá cùng đi tuần xung quanh nhà lao. Có mấy người lính gác trên vòm đã dự vào cuộc âm mưu khởi nghĩa từ trước nhưng không làm cách nào hạ thủ được Lô-ê vì chẳng có giây phút nào hắn rời khỏi ông Giá. Mãi sau đến một góc tường, hai người ấy phải dừng bước và đứng so le nhau để đi quành lại thì một phát đạn từ lỗ châu mai bắn tỉa ra, Lô-ê ngã gục xuống. Ông Giá thì vẫn nguyên vẹn. Giám ngục Lô-ê đã chết ngay tại chỗ. Người đội đề lao tên là Năm cũng đi theo về với nghĩa quân. Cửa ngục mở, tiếng reo hò vang dậy. Vợ giám mục Lô-ê cũng bị giết. Tất cả chính trị phạm và thường phạm đều được giải phóng. Nhưng dưới chế độ khổ sai khốc liệt như ở Thái Nguyên hồi ấy, phạm nhân ban ngày phải đeo xiềng ra làm ở ngoài, tối cũng phải xiềng cả hai chân lại. Vì vậy chân của nhiều người đã bị lở loét và sâu quảng. Nhất là ông Lương Ngọc Quyến vì bị xiềng lâu ngày trong ngục tối nên chân ông không đi vững được nữa.

Từ trại lính đến nhà lao chỉ cách nhau độ 200 thước. Trong lúc ngục bị phá, bọn lính Pháp cũng không dám sang cứu chỉ ở trong trại bắn ra. Tất cả những chính trị phạm và thường phạm đều được dẫn sang trại lính khố xanh. Nhiều người chưa kịp chặt xiềng, lê chân kêu xủng xẻng. Khi phải vượt qua trại lính Pháp, mấy người trúng đạn bị thương nhẹ.

Thế là ngoài trại lính Pháp, nghĩa quân hoàn toàn làm chủ tình thế tỉnh lỵ Thái Nguyên. Lá cờ đề bốn chữ "Nam binh phục quốc" treo cao ngoài tỉnh lỵ. Dân chúng trong, ngoài tỉnh lỵ hết sức phấn khởi và sung sướng. Một số người kéo đến xin gia nhập hàng ngũ nghĩa quân, trong đó có ông Ký Kính là người nổi tiếng. Sau khi chiếm được tỉnh lỵ, phá nhà lao, ông Trịnh Văn Cấn tuyên bố: "Ai muốn ở lại giết giặc cứu nước thì xung phong vào nghĩa quân, còn nếu ai muốn giải ngũ thì về nhà cũng được". Hầu hết mọi người đều xin ở lại để giết giặc, chỉ có bảy người là xin rút lui, nộp súng lại và được trở về. Nghĩa quân lúc này đã biên chế thành đội ngũ cẩn thận. Nghĩa quân khố xanh được gọi là lính cũ, anh em phạm nhân và dân chúng mới gia nhập được gọi là lính mới. Số người lúc đó điểm được là 623 người, vũ khí cướp được là hơn 600 khẩu súng, con số đó đủ trang bị cho nghĩa quân. Trong hàng ngũ lính mới, ngoài một số nghĩa quân Đề Thám, trước đây là những người chiến đấu giỏi, còn đại đa số họ chẳng hiểu gì về quân sự. Lúc đó những người đã có kinh nghiệm phải mở lớp huấn luyện cấp tốc để họ biết sử dụng súng giết giặc.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Gửi bởi: chuongxedap trong 27 Tháng Hai, 2017, 08:10:44 am

Hai chủ trương, hai chiến lược:

Đêm đó là đêm quyết định cả vận mệnh cuộc khởi nghĩa. Có một hội nghị quân sự đã được mở ra để quyết định đường lối hành động. Trong hội nghị này đã bàn luận về chủ trương thế công và thế thủ một cách gay gắt và là một hội nghị đấu tranh quyết liệt.

Phái chủ trương tấn công, đại biểu là các ông Ba Quốc, Ba Lâm và Tú Hồi Xuân (Ba Quốc và Ba Lâm là người chỉ huy nghĩa quân Đề Thám, còn ông Tú Hồi Xuân là người làng Hồi Xuân ở Trung Kỳ, đã bị bắt trong cuộc khởi nghĩa vua Duy Tân năm 1916). Họ đề nghị: Cuộc khởi nghĩa mới nổ, giặc Pháp chưa kịp đề phòng, bởi vậy ngay từ đêm nay nghĩa quân phải dùng xe vận tải mới cướp được chia nhau đi tấn công các tỉnh lân cận như Phúc Yên, Bắc Giang, Bắc Kạn... Và như thế sẽ được nhiều binh lính trong đất nước hưởng ứng. Nếu chiếm được thêm tỉnh nào thì thế mạnh của quân khởi nghĩa sẽ càng được khẳng định, sau đó dùng các cứ điểm đã chiếm được làm bàn đạp để tấn công các nơi khác. Lúc đó quân Pháp bị động sẽ cứu ứng lung tung, không thể chủ động đánh Thái Nguyên được nữa.

Ngược lại phái chủ trương thế thủ mà đại biểu là Lương Ngọc Quyến lại cho rằng: Quân Pháp chưa thể tiến lên Thái Nguyên ngay được. Trong lúc đó ta phải tranh thủ củng cố lực lượng, thao luyện tân binh giữa Thái Nguyên làm căn cứ địa vững chắc. Không nên tấn công vội, vì tấn công chưa chắc đã thắng, mà nếu thất bại sẽ mất cả cứ điểm.

Trong khi bàn cãi, tranh luận gay gắt như vậy, ông Cấn đã ngả theo chủ trương của ông Quyến vì tin ông Quyến là một nhà quân sự giỏi, biết nhìn xa trông rộng. Việc quyết định tức thời của ông Quyến không khỏi gây nên sự bất mãn cho một số nghĩa quân nhất là phái chủ trương tấn công.
Sau khi đã quyết định thế thủ rồi, từng đoàn của nghĩa quân đã chia nhau đi đóng giữ các công sở, dinh thự và các ngả đường, đặc biệt chú ý con đường Hà Nội - Thái Nguyên. Từ đồn điền Gia Sàng đến tỉnh lỵ, hai bên đường đều có chiến hào của nghĩa quân. Ông Cấn đã viết thư báo tin cho Lương Tam Kỳ ở Chợ Chu và Quách Cửu ở Hòa Bình, nhắc lại lời hứa hưởng ứng của họ trước kia. Nhưng lúc này họ vẫn giữ thái độ trông chờ và trả lời lại là họ chỉ có thể nổi dậy một khi nghĩa quân đã làm chủ tình thế ở Hà Nội.

2 giờ 30 phút sáng 31 tháng 8 năm 1917, bọn thống trị Pháp ở Hà Nội nhận được điện tín ở Thái Nguyên đánh về báo tin Thái Nguyên đã bị mất. Tên thống sứ Bắc Kỳ Ga-len vội gọi điện thoại cho công sứ Đạc ở Đồ Sơn. Bốn giờ sáng hôm ấy công sứ Đạc cùng với hai tên giám binh Pen-lê-gri-ni và Mác-ti-ni dẫn bốn khố xanh lên Gia Sàng thăm dò tình hình. Chiều hôm ấy chúng đi Đáp Cầu thảo luận với tên chỉ huy quân đội Pháp ở Bắc Bộ về kế hoạch đàn áp nghĩa quân.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Gửi bởi: chuongxedap trong 27 Tháng Hai, 2017, 08:11:08 am

Ngày 1 tháng 9 năm 1917, mười bốn ô tô chở một đại đội Pháp đem liên thanh, moóc-chi-ê đến Gia Sàng. Ngày 2 tháng 9, quân Pháp ở Gia Sàng tấn công ráo riết. Nhưng ngay từ đầu toán lính bộ do thiếu tá Pe-rơ chỉ huy xông lên trước đã bị nghĩa quân từ hai chiến hào trên đồi do ông Cai Mánh chỉ huy bắn lại kịch liệt. Quân Pháp phải lui lại chờ viện binh. Trước sức đánh trả mạnh mẽ của nghĩa quân, tên trung tá Bây-e đến Gia Sàng nghiên cứu, rồi hôm sau, ngày 3 tháng 9, 120 lính Pháp và 150 lính khố đỏ đã đến tiếp viện, chúng định sáng ngày 4 tháng 9 sẽ mở một cuộc đại tấn công. Nhưng nửa đêm mùng 3 tháng 9 ông Cấn đã chỉ huy nghĩa quân từ trong thành đánh ra, bất thình lình tấn công vào đại bản doanh quân Pháp ở Gia Sàng. Giám binh Mác-ti-ni bị cắt đầu, một số quân Pháp bị tiêu diệt, nghĩa quân thắng lợi rút về tỉnh lỵ. Trận thắng này làm tăng sức chiến đấu và tinh thần quyết tâm của nghĩa quân lên rất nhiều.

Đến ngày 4 tháng 9, quân Pháp ồ ạt tấn công, bốn khẩu đại bác của chúng bắn dồn vào hai mặt đông tây, rồi lại chuyển sang phía nam. Đến trưa chúng lại mang theo 80 lính lê dương từ Yên Bái xuống tiếp viện. Ngày 5 tháng 9 quân Pháp đem toàn lực tấn công. Nghĩa quân chống trả anh dũng vô cùng. Đoàn nghĩa quân của ông Cai Mánh có 36 người đã chiến đấu tới lúc hy sinh gần hết. Họ tiến đến đâu quân Pháp chết tới đó, nhưng từ khu nhà thương cũ chúng tìm cách lọt được vào khu nhà thương mới, đến trưa thì chúng vào được cửa ô tỉnh lỵ. (Theo bản đồ (tài liệu) của Pháp thì trận này chúng chết 107 tên, bị thương 17 tên. Còn nghĩa quân của ta thì hy sinh và bị thương 56 người, bị bắt 85 người).

Đến lúc này nghĩa quân của ta phải rút ra ngoài tỉnh lỵ để bảo toàn lực lượng. Trước khi rút, Đội Cấn đã phái liên lạc cầm giấy đi báo cho mọi tổ chiến đấu. Nhưng giữa làn khói lửa mù mịt của súng đạn, công việc truyền báo bị ngăn trở và đứt đoạn. Có nơi nhận được lệnh rút theo lệnh ông Cấn, có nơi không nhận được lệnh rút lui nên đã anh dũng chiến đấu đến lúc hy sinh hết thì mới thôi. Có những nơi biết tin muộn quá nên khi rút quân đi thì nghĩa quân đã đi quá xa và mất liên lạc. Ông Đội Năm được phân công đi chống giữ tại khu nhà thương, phút cuối cùng phải hàng giặc. Ông Đồ Ba là tuỳ tướng của cụ Hoàng Hoa Thám ngày trước cùng 11 lính mới đóng tại kho bạc đã chiến đấu đến phút cuối cùng không còn một người nào. Ông Lương Ngọc Quyến cũng hy sinh trong trận quyết tử này. Vì tình thế gấp rút và liên lạc khó khăn, nghĩa quân rút đi phải chia thành nhiều đoàn kế tiếp nhau. Đoàn thứ nhất gồm đại bộ phận nghĩa quân, do ông Cấn điều khiển, rút về Quán Triều rồi đi ngược lên Giang Tiên. Lúc này trên dọc sông Giang Tiên, giặc Pháp đã huy động lính dõng địa phương đến canh phòng. Khi qua sông, ông Tú Hồi Xuân bị chết. Có người nói là ông chết đuối, có người lại nói là ông bực mình vì ông Cấn không nghe theo kế hoạch tấn công của mình nên đã tự tử. Đoàn thứ hai do ông Đội Giá chỉ huy. Sau khi chống cự ở ngôi nhà thương về, ông Giá thấy ông Cấn đã rút quân đi, vội vàng dẫn quân đi theo. Nhưng vì đi ngả khác nên mãi mấy hôm sau đoàn này mới gặp đại quân ở Quân Chu. Đoàn thứ ba do ông Ba Chén chỉ huy đã rút theo đại quân đến Hùng Sơn thì gặp. Đoàn thứ tư gồm những người còn sót lại, theo kịp quân ông Cấn ở bến đò Huy Ngạc (Đại Từ - Thái Nguyên). Sau khi nghĩa quân rút đi, quân Pháp thấy ngớt tiếng súng nhưng vẫn không dám tiến vào thành ngay, chỉ đứng ngoài nã đại bác vào. Các dinh thự, phố xá bị tàn phá. Nhân dân trong vùng bị chết rất nhiều. Tính từ khi nghĩa quân nổi dậy đến thời điểm này là đúng sáu ngày.

Từ lúc thế thủ trong tỉnh lỵ phải rút ra ngoài, nghĩa quân vẫn chưa có một đường lối nhất định và rõ ràng. Hy vọng cuối cùng của ông Cấn là dựa vào thế hiểm yếu của núi rừng để chống cự với giặc Pháp, đợi sự hưởng ứng của các nơi, đặc biệt là của cách mạng Việt Nam ở Trung Quốc. Nhưng trong lúc mỏi mắt trông chờ những lực lượng không thể có ngay được đó, đoàn nghĩa quân bị giặc Pháp đổ dồn từ nhiều nơi đến chặn đánh liên tiếp. Rơi vào thế bị động và phiêu lưu, suốt mấy tháng sau này nghĩa quân đã cố giữ lấy một dải núi rừng từ Thái Nguyên dọc theo dãy núi Tam Đảo, qua Vĩnh Yên, từ bên này sang bên kia núi, đôi khi tràn xuống những vùng đồng bằng lân cận. Đường lối hành quân của ông Cấn trong những vùng này phần nhiều theo bước đi của cụ Thám ngày trước, cả đến những nơi đóng quân ông cũng áp dụng biện pháp của cụ Đề Thám. Tuy nhiên trong những cuộc chiến đấu và cầm cự hết sức gay go, nguy hiểm, nghĩa quân đã kéo dài cuộc kháng chiến này trong vòng sáu tháng.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Gửi bởi: chuongxedap trong 28 Tháng Hai, 2017, 10:00:24 am

Chống càn trên đường hành quân:

Việc nội phản ở Giang Tiên:

Đêm mùng 4 rạng mùng 5 tháng 9 năm 1917, là đêm đầu tiên nghĩa quân dời khỏi tỉnh lỵ Thái Nguyên đến đóng ở Giang Tiên cách Thái Nguyên 14 cây số. Đại quân đóng trong đồn điền của một tên thực dân Pháp ở trên đồi và đặt vọng tiền tiêu dưới cầu Giang Tiên.

Nửa đêm hôm ấy, nghe thấy tiếng súng nổ liên tiếp ở phía dưới cầu, ông Cấn phái Cai Ưng và Ba Quốc xuống xem xét tình hình. Dưới bóng lập lòe của những tia sáng phát ra từ súng đạn, hai người thấy Thành đương chĩa súng bắn vào đồn bên cạnh. Bếp Thành trước kia là một tên thổ phỉ ở vùng Thái Nguyên đã đi lính cho Pháp, sau đó về hưu. Khi cuộc khởi nghĩa nổ ra, Thành đã gia nhập nghĩa quân và xin làm người bảo vệ cho ông Cấn. Tuy nhiên ông Cấn vẫn tỏ ra nghi ngờ tên Thành nên không cho y ở bên cạnh mình mà chỉ biên chế Thành vào đội lính mới, chuyên làm nghề canh gác ở mọi nơi. Biết chắc là Thành làm phản, Ba Quốc liền núp chỗ khuất bắn trúng đùi Thành làm hắn ngã gục. Điểm lại trong số lính canh có 13 người bị chết. Những người còn sống sót thuật lại là họ chỉ biết đương ngủ thì thấy súng ở bên ngoài bắn vào mà cửa thì khóa kín. Có người nói Thành là gián điệp của công sứ Đạc, sai vào ám hại ông Cấn. Nhưng không ám sát được ông Cấn, y định giết một số nghĩa quân để lập công với Đạc. Sáng hôm sau đầu Thành bị bêu ở cầu Giang Tiên làm gương cho những kẻ phản bội khác.

Trận Hùng Sơn: Từ Giang Tiên ông Cấn kéo quân sang Hùng Sơn là huyện lỵ Đại Từ. Ở Hùng Sơn lúc bấy giờ có 20 lính cơ và 20 lính dõng do tên tri phủ Trần Văn Trụ đốc xuất. Trước khi đến, ông Cấn viết thư cho Trụ bảo sửa soạn chỗ ở và làm cơm cho nghĩa quân ăn. Trụ vốn là một đầy tớ trung thành của giặc Pháp nên không trả lời mà bố trí phòng thủ ở Hùng Sơn. Tức thì ba giờ chiều ngày 5 tháng 9 nghĩa quân đến đánh Hùng Sơn. Đồn này chiếm một vị trí lợi hại trên đồi cao, có thể chế ngự được bốn mặt. Nghĩa quân ở dưới xông lên nên bị hãm vào thế bất lợi. Sau bốn giờ tấn công Hùng Sơn nghĩa quân vẫn không chiếm được, nên phải lui về đóng trong một làng ở bến đò Huy Ngạc. Hai toán quân của Ba Chén và Chu Văn Yên đã tìm đến hợp nhất được với đại quân ở đây. Sáng ngày 7 tháng 9 ông Cấn lại định đến tấn công Hùng Sơn. Nhưng vì đêm trước một toán lính Pháp do tên trung úy Phoong chỉ huy đã đến tiếp viện cho Hùng Sơn, nên ông Cấn phải bỏ ý định trên.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Gửi bởi: chuongxedap trong 28 Tháng Hai, 2017, 10:00:46 am

Từ Hùng Sơn đến Quân Chu: Giặc Pháp chú ý bố trí phòng ngự để ngăn cản nghĩa quân không cho tràn về phía Chợ Chu. Chúng cho một đạo quân đóng chặn ở Văn Lãng dưới đèo Khê và một đạo quân đóng ở Quảng Nạp. Từ đèo Vai đến Mỹ Khê chỗ nào cũng có quân Pháp canh phòng. Vì vậy nghĩa quân phải kéo đi ngả khác, từ Hùng Sơn rẽ sang Quân Chu để dựa vào thế núi Tam Đảo. Nhiều đoàn quân thám thính Pháp vẫn theo đằng sau, nhưng cũng chưa nổ ra trận chiến đấu nào. Duy có đội quân ông Giá từ tỉnh lỵ rút ra vẫn theo riết đoàn quân của ông Cấn, mãi đến Quân Chu mới gặp. Trên đường hành quân họ có xung đột với quân Pháp nhưng không kịch liệt lắm.

Đóng quân ở Quân Chu ba ngày, nghĩa quân tập hợp và biên chế những đội quân từ mấy ngả kéo về. Cũng lúc này, vòng vây của giặc Pháp càng sát lại gần. Tên đại tá Bây-e cho một đạo quân từ Hùng Sơn đánh tới, một đạo từ Thái Nguyên theo lối bến Đông kéo lên. Đại bản doanh của chúng đóng ở Phú Thuận. Thế là nghĩa quân chỉ còn một đường rút lên Tam Đảo.

Sau khi lên núi Tam Đảo, nghĩa quân thấy quân Pháp tập trung đông và đề phòng chặt chẽ mặt Thái Nguyên, họ liền vượt qua sang bên kia núi, tràn xuống hoạt động ở địa hạt Vĩnh Yên.

Ngày 10 tháng 9, sau một trận chiến đấu với quân Pháp do tên thiếu tá Pây-tơ chỉ huy ở mé núi, nghĩa quân lại rút lên núi. Quân Pháp sợ bị phục kích nên không dám leo lên, chỉ đóng quân suốt một dải Sơn Cốt, bến Đông về phía nam núi và Cát Nê, Hùng Sơn về phía bắc núi, đồng thời phái bọn lính dõng đi lục lọi khắp các khu rừng.

Tuy vậy, nghĩa quân không thể ở mãi trên núi, thỉnh thoảng phải tràn xuống làng mạc mé núi mong sự giúp đỡ lương thực của nhân dân. Nhưng chỗ nào thực dân Pháp cũng đóng giữ, mỗi khi nghĩa quân xuống núi là chúng bám riết. Những nghĩa quân còn lại thuật rằng: Hồi ấy ban ngàv họ phải ẩn náu trong rừng sâu, không để lọt một chút khả nghi nào ra bên ngoài, ban đêm không dám đốt lửa sợ quân giặc trông thấy bắn vào. Nhiều khi hết lương thực nghĩa quân phải sống bằng củ mài, củ cam đào trong rừng. Đôi khi nghĩa quân phải giả làm dân thường xuống chợ và vào các làng mạc để mua sắm đồ ăn thức uống. Nhưng đó là cả một phen mạo hiểm. Bởi vì thực dân Pháp còn chú ý tiêu diệt nghĩa quân bằng cách khủng bố, bắt bớ nhân dân quanh vùng mỗi khi thấy một dấu hiệu gì khả nghi tỏ ra dân chúng đã ủng hộ nghĩa quân. Do đó tại Thái Nguyên và Vĩnh Yên hồi ấy mỗi khi có người lạ mặt vào làng làm nhiều người kinh hoàng. Nhiều phiên chợ đang họp bỗng có tin đồn "giặc" đến là vỡ chợ ngay. Một lần ông Đội Giá và mấy nghĩa quân vô ý để lộ khẩu súng lục giắt trong áo dài, một vài người khác trông thấy, thế là trong nháy mắt đã vỡ chợ, trong đám người xô đẩy nhau chạy có cả mấy tên lính cơ gác chợ.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Gửi bởi: chuongxedap trong 28 Tháng Hai, 2017, 10:01:54 am

Xuống Vĩnh Yên và Phúc Yên: Sau khi không thấy dấu vết hoạt động của nghĩa quân ở Thái Nguyên, quân Pháp chuyển binh lực sang phía Vĩnh Yên. Chúng bố trí một hàng rào dày đặc ở mé núi Tam Đảo về phía Vĩnh Yên, đồng thời cho những đạo quân khác tuần tiễu các ngả. Thống sứ Bắc Kỳ ra lệnh cho thiếu tá Đờ-vi-le đóng ở Vĩnh Yên phối hợp với một đạo quân của Tổng đốc Vĩnh Yên là Mai Trung Cát, bố trí đề phòng.

Ngày 12 tháng 9, một toán quân Pháp định phục kích nghĩa quân vây lại. Từ 13 đến 16 tháng 9, nghĩa quân vẫn ẩn hiện ở mấy làng phía tây bắc chân núi Tam Đảo. Có lần họ kéo vào đồn điền Nguyễn Hữu Cự lấy xẻng cuốc đào công sự. Khi kéo quân qua đồn Liễn Sơn, nghĩa quân có đánh nhau với quân Pháp nhưng không kịch liệt lắm. Chiều 18 tháng 9 nghĩa quân tiến đến phía nam và đóng ở làng Hoàng Xá Hạ, phía bắc con đường xe lửa Vĩnh Yên - Việt Trì. Chiều ngày hôm sau quân Pháp đến vây Hoàng Xá Hạ. Nghĩa quân từ trong chiến hào bắn ra, quân Pháp không thể tiến vào được. Kết quả Pháp chết một hạ sĩ quan, hai lính và bị thương sáu.

Sau đó nghĩa quân tiến xuống miền triền sông Hồng Hà. Giặc Pháp vội vàng bố trí miền trung du và thông tri cho công sứ các tỉnh chuẩn bị đối phó với nghĩa quân. Ngày 20 tháng 9, tên đại tá May-a ra làm tổng chỉ huy các đạo quân Pháp.

Từ ngày 19 đến ngày 30 tháng 9, nghĩa quân vẫn hoạt động ở phía sông Hồng, có ý muốn vượt qua sông sang Sơn Tây rồi vào Hòa Bình. Trong khi phá hàng rào bao vây của giặc, nghĩa quân đã thắng nhiều trận lớn. Nhưng trên sông Hồng, giặc Pháp đã cho nhiều tàu chiến và xuồng máy cản đường, nên nghĩa quân lại quay về phía đông đi theo con đường đê từ Vĩnh Yên sang Phúc Yên. Quân Pháp vẫn đuổi theo sau.

Ngày 22 tháng 9, hai bên gặp nhau ở Trung Nha và Trung Thôn. Một trận kịch chiến diễn ra. Làng này có đê bao vây xung quanh như hình lòng chảo, hai bên đều nấp vào vệ đê bắn nhau. Sau đó, nghĩa quân tiến vào được trong làng, đứng trong luỹ tre bắn ra. Quân Pháp chết khá nhiều. Nhưng trong trận này, vì nắm được địa hình, địa vật có lợi, ông Ba Chén không chịu kéo dài thế cầm cự, mấy lần chỉ huy nghĩa quân xông ra, do đó nghĩa quân thiệt hại cũng không ít. Nửa đêm hôm ấy, nghĩa quân rút khỏi làng, trưa hôm sau vào đóng ở làng Thượng Lệ. Ba giờ chiều hôm ấy, hai bên lại đánh nhau, kéo dài đến chín giờ tối. Sáng hôm sau quân Pháp huy động rất nhiều quân đến vây bọc lấy Thượng Lệ. Nghĩa quân đánh lại rất hăng. Đêm 24 rạng ngày 25 nghĩa quân đánh tháo ra được. Trong trận này, lực lượng nghĩa quân bị ngắt làm hai bộ phận. Đại bộ phận có ông Cấn ở trong kéo về phía Cổ Bài. Một toán ít người bên trong đó có (vợ chồng số) 1035 kéo về Tân Ấp gần núi Thanh Tước. Sau mấy trận chiến đấu, toán Tân Ấp chỉ còn vợ chồng số 1035 và sáu người nữa rút vào trong làng Nội Đồng. Một trận quyết tử, cả tám người đã hy sinh, về phía đoàn quân ông Cấn, sau trận chiến đấu ở Cổ Bài vào đêm 25 rạng ngày 26 tháng 9, họ đã rút ra kéo về mạn Đa Phúc. Nhưng lúc này nghĩa quân đi đến đâu cũng bị đánh trước mặt và đuổi sau lưng nên nhiều chỗ phải trở đi trở lại và sau những trận xung đột số người càng hao hụt dần. Hai ngày 28 và 29, nghĩa quân lại kéo về phía Cổ Bài.

Ngày 30, một vài toán nhỏ nghĩa quân bị tách rời với đại bộ phận phải vượt qua dãy núi Tam Đảo, sang địa hạt Thái Nguyên. Một toán bảy người khi đi qua quốc lộ từ Hà Nội lên đã đánh nhau với một toán quân Pháp. Cùng ngày, một toán nghĩa quân kéo về đóng ở làng Xuân Phách cũng đã giao chiến với quân Pháp.

Từ đó, nghĩa quân dần dần rút khỏi địa hạt Phúc Yên và Vĩnh Yên, vượt qua dãy núi Tam Đảo trở lại Thái Nguyên.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Gửi bởi: chuongxedap trong 28 Tháng Hai, 2017, 10:02:36 am

Trở lại Thái Nguyên sang Yên Thế: Ngày 3 tháng 10 nghĩa quân đã đến hạt Thái Nguyên đóng trong làng Lai, gần Sơn Cốt. Đến đây nghĩa quân bị tử thương và ly tán khá nhiều. Theo tài liệu của giặc Pháp thì kể từ ngày nghĩa quân vượt Tam Đảo sang Vĩnh Yên (12-9-1917) quân số có 120 người, tới nay (3-10) chỉ còn 80 người. Sau đó mấy người lại bị bắt, chỉ còn độ 70 người.

Mười giờ sáng ngày 5 tháng 10, sau trận xô xát với quân thám thính Pháp ở trong rừng, nghĩa quân rút lên thủ hiểm trên đèo Nứa. Đèo Nứa có mỏm Vung, triền núi dốc, xung quanh toàn bụi rậm. Nghĩa quân đào từng hàng chiến hào phòng thủ. Ngày 9 tháng 10 quân Pháp kéo đến vây đánh. Mấy lần chúng xông lên đều bị nghĩa quân từ chiến hào và bụi rậm bắn xả xuống chết khá nhiều. Viên thiếu tá Xa-lê mấy lần đốc quân lên đều bị chặn lại. Một nghĩa quân kể lại là trong những trận giao chiến đã qua thì trận này kịch liệt và thắng lợi nhất. Theo thông báo thì chúng cũng phải nhận là số tử thương của Pháp là 40 tên. Một lính khố đỏ nói là khí giới hư hỏng của quân Pháp phải chở bảy xe mới hết. Mặc dầu bị thiệt hại nặng nhưng quân Pháp vẫn kéo đến rất đông. Đêm 6 tháng 10 nghĩa quân rút về phía tây bắc.

Ngày 16 tháng 10, gần Hoàng Đờm thuộc Phổ Yên (Thái Nguyên) nghĩa quân gặp quân Pháp ở trước mặt tiến lại. Hai bên đều tìm địa hình thuận lợi. Nghĩa quân kéo được vào làng Nội Thôn cạnh đường. Làng này có nhiều ao chuôm và xung quanh có luỹ tre dày. Quân Pháp mấy lần xông vào đều bị bắn chặn lại. Bấy giờ vào vụ mùa tháng 10, ngoài đồng còn nhiều ruộng chưa cắt rạ. Sẩm tôi, trong lúc hai bên đang cầm cự, mấy nghĩa quân bò theo bờ ruộng vòng ra phía ngoài rồi bất thình lình đánh thốc vào sau lưng quân Pháp làm cho chúng hết sức rối loạn và chết một số đông. Trong toàn trận đánh, nghĩa quân cũng bị chết bảy người và bị bắt hai người. Họ rút về phía bắc, ngày 17 vượt qua sông Cầu đến làng Đạo Xá rồi rút về Yên Thế.

Ngày 18, quân Pháp được tin nghĩa quân đóng trong rừng Bảo Nàng cách đông Thái Nguyên 14 cây số trên con đường mỏ Na Lương. Vì nghĩa quân đóng ở trong rừng sâu, nên quân Pháp chỉ biết sai quân đi thám thính, chờ dịp tấn công. Ngày 23 tháng 10, chúng lại nghe tin ông Cấn về gần Tràng Xá. May-a đến đóng ở Đình Cả trên ngã ba đường Tràng Xá (Thái Nguyên), Bình Gia (Lạng Sơn). Tới ngày 31 chúng lại trở về Thái Nguyên.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Gửi bởi: chuongxedap trong 28 Tháng Hai, 2017, 10:02:55 am

Để bao vây nghĩa quân ở trong rừng sâu, chúng đã triệt lương của nghĩa quân và cắt đứt liên lạc giữa nghĩa quân và dân chúng. Chúng bắt đồng bào xung quanh núi phải ở dồn lại rồi đặt một đồn canh giữ. Bao nhiêu lương thực của đồng bào chúng bắt tập trung vào đồn Pháp. Mỗi nhà chỉ được lĩnh một số gạo đủ ăn hàng ngày. Một số chức dịch yêu nước, thường bí mật cung cấp lương thực cho nghĩa quân, sau này bị chúng tàn sát. Tuy vậy dân chúng vẫn cất giấu thóc lúa không cho quân Pháp tập trung và thỉnh thoảng ủng hộ nghĩa quân. Nghĩa quân nhờ mùa ngô chín nên đã có thức ăn và được nghỉ ngơi ít ngày.

Suốt tháng 11, nghĩa quân vẫn ở trên núi Bảo Nàng. Một đêm họ xuống những nhà ở gần đồn điền Vân Gia để xin lương. Có lần họ kéo cả tiểu đội xuống lấy lương của một địa chủ cách Phú Bình hai cây số. Thời gian này nghĩa quân bị thiệt mất chín người, trong đó có ông Vũ Sĩ Lạp, phần nhiều đã do bọn hương lý phản động bắt nộp cho giặc Pháp.

Ngày 30 tháng 11, nghĩa quân có chừng 40 tay súng từ Bảo Nàng kéo về phía đông. Tên đại tá May-a về đóng ở Nhã Nam. Ngày 9 tháng 12, trong khi tiến từ mỏ Na Lương về Diệu Khê, nghĩa quân đã đánh nhau với quân Pháp. Một tên cai số 893 trong hàng ngũ nghĩa quân ra hàng Pháp và báo cho chúng là nghĩa quân chỉ còn 29 tay súng, trong đó có Đội Cấn, Đội Giá, Đội Tường, Cai Sơn đang theo lối Lĩnh Sơn, Lưu Xá, Tĩnh Danh, Ký Phú, Quân Chu... để về Tam Đảo, do đó quân Pháp biết trước kế hoạch hành quân của nghĩa quân. Đến ngày 10 tháng 12 nghĩa quân qua sông Cầu, tiến vào làng Dầu, đã bị hai toán quân của tên thiếu tá Mông-xô và Ăng-đơ-rê-a-ni đuổi theo. Nghĩa quân cứ theo đường đã định mà tiến. Ngày 15 tháng 12 họ lại bị một toán quân Pháp gồm năm lính Pháp, năm lính khố xanh và 30 lính dõng chặn lại. Lúc đó toán quân Mông-xô cũng đuổi đến nơi. Sau trận xung đột nghĩa quân thiệt mất hai người.

Đến cuối năm 1917, nghĩa quân đã suy kiệt và tan rã từng mảng. Trịnh Văn Cấn cùng với những người còn lại rót về đóng ở Pháo Sơn thuộc địa hạt Thái Nguyên giữa vòng bao vây của địch. Cho đến ngày 10 tháng 1 năm 1918, sau nhiều trận chiến đấu tuyệt vọng, vị thủ lĩnh Thái Nguyên anh dũng đã tự sát để biểu dương tinh thần bất khuất, thà chết không chịu đầu hàng giặc. Những liệt sĩ trong đám nghĩa quân như Ba Chén, Quyền Nhiêu, Ba Quốc, Tú Hồi Xuân và người lính số 1035 hoặc chết trong chiến đấu, hoặc bị giặc Pháp xử tử, đều hy sinh vì nước. Người ra hàng cuối cùng là ông Đội Giá vào ngày 4 tháng 3 năm 1918. Tính từ ngày nổ ra cuộc khởi nghĩa của binh lính Thái Nguyên cho đến lúc kết thúc là sáu tháng bảy ngày.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Gửi bởi: chuongxedap trong 28 Tháng Hai, 2017, 05:41:11 pm

Câu hỏi 11: Sau nhiều ngày đêm chiến đấu anh dũng, cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên đã thất bại nhưng tiếng súng vẫn còn tiếp diễn ở những đoàn quân lẻ, điếu đó đã thể hiện tinh thần yêu nước bất diệt. Hãy trình bày những hiểu biết của mình về những đội quân lẻ. Họ đã chiến đấu như thế nào và số phận của họ sẽ về đâu?
Trả lời:


Cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên mặc dù bị thất bại nhưng không có nghĩa là đã hết, bởi vẫn còn đây những đoàn quân lẻ tiếp tục truyền thống chống Pháp. Họ sẽ là những tấm gương tiêu biểu nối nhịp cầu cho một cuộc đấu tranh mới của dân tộc về sau.

Sau lệnh rút quân ra khỏi địa bàn tỉnh Thái Nguyên của ông Đội Cấn, do điều kiện khách quan, một số đoàn quân bị thất lạc. Mặc dù không tìm được đồng đội nhưng họ đã lập thành những đoàn quân lẻ bí mật chiến đấu.

Đội thứ nhất do ông Quyền Nhiêu cai quản, bị tách ra ngoài đoàn quân sau trận Hùng Sơn. Họ vượt qua dãy núi Tam Đảo sang miền Vĩnh Yên. Ngày 20 tháng 9, sau một trận xung đột ở làng Hiền Lương thuộc Kim Anh (Phúc Yên) nghĩa quân vượt sông Cà Lồ kéo về mạn Xuân Lai. Ở đây lại diễn ra một cuộc ác chiến mới. Ngày 23 tháng 9, nghĩa quân vượt qua sông Cái kéo về phía Bắc Ninh, hôm sau tràn vào địa hạt Hưng Yên. Họ đóng ở chùa Yên Viên, tục gọi là chùa Quàn, bí mật vận động với lính khố xanh Hưng Yên định đánh úp tỉnh lỵ, nhưng việc không thành. Ngày 28 tháng 9 nghĩa quân phá vòng vây vượt sông lần nữa tràn vào huyện Phú Xuyên (Hà Đông).

Trước đó giặc Pháp cũng đoán là đội quân này thế nào cũng vượt sông Hồng Hà tràn vào Hà Nam, vì ông Quyền Nhiêu người Hà Nam. Chúng cho một tàu chiến có đại bác tuần tiễu trên sông Hồng. Tuy vậy nghĩa quân vẫn vượt qua sông, qua Phú Xuyên đánh nhau với quân Pháp rồi kéo về làng Hòa Khê, huyện Duy Tiên (Hà Nam). Sau đó họ kéo về núi Hương Tích và đóng quân ở chùa Tuyết Sơn. Ngày 30 tháng 9, đạo quân Pháp đóng quân ở Phủ Lý kéo đi chặn đường. Nghĩa quân sau khi đánh nhau với quân Pháp ở Tuyết Sơn, 17 người theo dải núi Cốc Sơn, tiến về phía Bồng Lạng rồi đóng ở chùa Bích Động. Giữa vòng vây ngày càng chật của địch, họ vẫn ẩn nấp trong đồn điền cà phê của một thực dân Pháp ở Chi-nê. Đêm mùng 3 rạng mùng 4 tháng 10, tên chủ đồn điền Cổ Nghĩa là Bô-ren và tên lục lộ Ca-li-ti dẫn quân Pháp đến vây bắt thình lình nghĩa quân trong một căn nhà bỏ trống. Sau một hồi xô xát, nghĩa quân bị chết ba người, số còn lại đến ngày 10 tháng 10 cũng hy sinh hết.

Đội quân thứ hai bị tách khỏi đại quân sau trận Xuân Phách (Phúc Yên), họ tràn về huyện Hiệp Hòa (Bắc Giang). Sau đó họ nhập với bảy nghĩa quân lưu vong nữa hoạt động ở vùng Bắc Ninh.

Có thể nói đây là những người con quyết tử của dân tộc. Chiến thắng giặc không được bao nhiêu nhưng họ đã thể hiện sức mạnh hun đúc lòng căm thù giặc cao độ và lòng quyết tâm đánh Pháp cho những thế hệ sau. Lịch sử Việt Nam giai đoạn đại chiến thế giới thứ nhất đã ghi nhận họ như những người con ưu tú nhất của dân tộc.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Gửi bởi: chuongxedap trong 28 Tháng Hai, 2017, 05:42:15 pm

Câu hỏi 12: Bạn biết gì về những ngày cuối cùng của người anh hùng Trịnh Văn Cấn?
Trả lời:


Cuối năm 1917, thế lực của nghĩa quân đã suy kiệt. Giặc Pháp đã phái những toán quân nhỏ lưu động, đi càn quét các vùng, cấm vận nghĩa quân bằng mọi thủ đoạn, mục đích làm cho nghĩa quân tan rã. Chúng bắt hết cha, mẹ, vợ, con và những người thân của các ông Cấn, Giá, Tường, Xuyên... Và cả cha mẹ, vợ con của những người trong nghĩa quân. Chúng bắt người nhà phải viết thư cho nghĩa quân xui ra hàng. Chúng chú ý canh phòng cẩn mật ở quê hương nghĩa quân. Một số người sau những trận kịch chiến tìm về quê hương đã sa vào tay giặc.

Sau những ngày bị đuổi dồn dập, ông Cấn dẫn 25 nghĩa quân đến đóng ở Pháo Sơn, phía tây nam Cù Vân (Thái Nguyên). Sáng hôm sau, ngày 21 tháng 12 hơn 40 quân Pháp từ Thái Nguyên đến vây đánh. Một toán Pháp khác ở đồn Phú Lương cũng đóng ở Phấn Mễ để chặn đường.

Ngày 21 tháng 12, Đội Tường ra hàng Pháp đem theo một súng mút-cơ-tông. Người ta nói, trước ngày ra hàng, Tường đã gặp vợ con một đêm ở trong rừng. Nhưng ông Cấn thì khác hẳn. Trong trận đánh ở Pháo Sơn, quân Pháp bắt mẹ và vợ ông theo sau. Lúc giáp trận ông nghe thấy tiếng kêu gào của mẹ và vợ, nhưng ông vẫn chỉ huy nghĩa quân chiến đấu không ngừng. Ngày 24 tháng 12, lại một trận đánh nhau kịch liệt nữa, nghĩa quấn hy sinh thêm ba người, ông Cấn bị thương vào đùi. Mấy hôm sau quân Pháp vây đánh ráo riết, ông Cấn phải thủ hiểm một chỗ. Thấy tình hình đã quá nghiêm trọng, ông phái hai ông Giá và Xuyên trở sang Yên Thế lần nữa để tìm một nơi có thể dung thân ít lâu sẽ quay lại đón ông sau. Nhưng các ông Giá và Xuyên vừa ra khỏi Pháo Sơn thì quân Pháp đã đuổi theo chặn đánh, không thể nào đi theo phương hướng đã định được. Cuối cùng ông Xuyên tìm về quê ở La Bằng (Thái Nguyên), ông Giá về quê ở Phú Bình (Thái Nguyên) rồi ra hàng Pháp. Thế là trên núi Pháo Sơn chỉ còn lại một mình người chiến sĩ Trịnh Văn Cấn. Hai ngày 8 và 10 tháng 1 năm 1918, ông Cấn vẫn tiếp tục đánh nhau với quân Pháp. Theo báo cáo của chúng thì lúc này nghĩa quân chỉ còn từ 10 đến 15 người. Mấy hôm sau bên mình ông Cấn chỉ còn bốn người: hai khố xanh cũ số 1134 và 1327 cùng hai thường phạm cũ là Thọ và Sĩ.

Đã đến lúc người anh hùng Thái Nguyên phải tìm một cái chết để không rơi vào tay giặc.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Gửi bởi: chuongxedap trong 28 Tháng Hai, 2017, 05:42:38 pm

Theo một tài liệu Pháp thì 10 giờ sáng ngày 11 tháng 1 năm 1918, công sứ Vĩnh Yên dẫn tên Sĩ ra hàng. Sĩ khai rằng hắn đã giết ông Cấn ở Pháo Sơn ngày 5 tháng 1. Hắn bịa ra rằng ngày 18 tháng 9 năm 1917, ông Cấn đóng quân ở Hoàng Xá Hạ đã giết anh nó là xã đoàn trong làng, vì vậy, nó phải báo thù ông Cấn. Công sứ Thái Nguyên Pu-lanh cùng công sứ Vĩnh Yên Ghi-ơ-rê dẫn tên Sĩ và Đội Tường đến chứng nhận thi thể của ông Cấn. Đến Cù Vân chúng len lỏi qua một khu rừng rậm toàn tre nhỏ với sườn núi dốc thì gặp được mộ của ông Cấn. Trước mặt giặc Pháp tên Sĩ phản bội đã diễn lại cái kịch bản khốn nạn mà nó tưởng tượng ra: chín giờ tối mùng 5 tháng 1, trong khi ông Cấn nằm cách nó chừng ba thước và đang thiu thiu ngủ thì nó cầm khẩu mút-cơ-tông bắn vào ông Cấn hai phát. Thấy tiếng súng nổ ba người nằm bên cạnh là số 1134, 1327 và Thọ hoảng hốt chạy vào rừng tưởng quân Pháp đánh úp. Thấy ông Cấn gượng dậy, Sĩ bắn thêm một phát nữa, ông Cấn gục xuống. Sau đó hắn chôn ông Cấn cùng ba khẩu súng của ba người kia để lại.

Nhưng sau đó, theo biên bản của ông thiếu tá Sa-lê thì hố chôn ông Cấn rất chỉnh tề, xác ông bọc trong một cái chăn rất cẩn thận. Ông đội mũ đen, mặc áo dạ vàng, phủ ngoài bằng một áo màu xanh. Tay phải ông còn nắm chặt một khẩu súng lục có một viên đạn đã bắn ra. Bên người ông là một ống nhòm, ba khẩu mút-cơ-tông còn lắp đạn. Thi thể của ông chỉ có một vết thương ở bắp đùi bên trái, đó chính là vết thương trong trận chiến đấu ngày 24 tháng 12 ở Pháo Sơn. Một vết thương ở cuống dạ dày (bắn vào bằng một viên đạn nhỏ), đó chính là viên đạn súng lục mà ông đã (…đoạn này trong sách thiếu…) nhưng mùng 10 tháng 1 ông Cấn vẫn còn chiến đấu, vả lại nếu tên Sĩ có giết ông Cấn thì không thể nào hắn còn đủ thì giờ và tình nghĩa để chôn cất ông Cấn cho tử tế như vây. Thế là những lý do ngu ngốc của tên phản bội đưa ra để mạo công với giặc đã không thành.

Sự thật thì ông Cấn đã chết như thế nào và bằng cách gì? Sau khi đã quyết định tự sát để tỏ ra tinh thần thà chết chứ nhất định không chịu hàng giặc, ông Cấn đã tự sắp đặt lấy cái chết của mình. Bấy giờ bên mình ông chỉ còn hai người là Thọ và Sĩ (chứ không phải bốn người như trong tài liệu của Pháp). Ông đã bảo hai người đào một cái hố sâu rồi tự mình nằm xuống, các vật dụng hàng ngày và khí giới đều xếp bên cạnh, sắp đặt xong xuôi rồi, chính ông đã dùng súng tự sát. Trước khi chết, ông dặn Thọ và Sĩ lấp đất chôn cẩn thận, đừng để dấu vết gì khả nghi để giặc không thể tìm thấy.

An táng ông Cấn xong, Thọ và Sĩ mỗi người đi một nơi. Nhưng tên Sĩ phản bội đã lưu manh lập công với giặc. Giặc Pháp đã chở xác ông Trịnh Văn Cấn về trại lính khố xanh Thái Nguyên. Một lần nữa quân cướp nước lại rêu rao nghiệp "dẹp loạn" của chúng.

Tính ra từ ngày binh lính Thái Nguyên vùng dậy (30-8-1917) cho đến ngày Đội Giá ra hàng giặc (4-3-1918) được sáu tháng bảy ngày. Đàn áp xong khởi nghĩa Thái Nguyên, thực dân Pháp lập hội đồng đề hình do công sứ Tít-sô làm chủ tịch để cầm tù những người chiến sĩ Thái Nguyên. Hầu hết họ đều bị chúng bắt đi làm khổ sai chung thân hoặc đưa ra nhà tù Côn Đảo hoặc bị đày đi I-ni-li.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Gửi bởi: chuongxedap trong 28 Tháng Hai, 2017, 05:46:55 pm

Câu hỏi 13: Lương Ngọc Quyến là một người anh hùng trí thức, tài ba, anh dũng và mưu lược được Đội Cấn tin cẩn. Hãy trình bày chi tiết về cuộc đời của Lương Ngọc Quyến?
Trả lời:


Năm Ất Dậu (1885) giữa lúc tiếng đại bác của giặc Pháp nổ rung kinh thành Huế, mở đầu một chương sử mất nước, thì ở trong ngôi nhà cổ số 4 Hàng Đào - Hà Nội, Lương Ngọc Quyến cũng cất tiếng khóc chào đời.

Ông là con trai thứ hai của Lương Văn Can, nhưng trong gia đình họ Lương có thói quen không phân biệt con trai, gái theo thứ tự sinh trước sau mà gọi, nên ông được gọi là Ba Quyến. Nguyên quán của ông ở làng Nhị Khê, huyện Thượng Phúc, tỉnh Hà Tây (nay thuộc huyện Thường Tín - Hà Nội).

Từ nhỏ cho đến tuổi trưởng thành, Ngọc Quyến là người có chí khí. Trong gia phả, cụ Lương Văn Can gọi ông là người: Bất cơ tức nghĩa là không chịu sự bó buộc, quyết tâm thực hiện bằng được hoài bão của mình.

Khi còn học ở nhà với cha, Lương Ngọc Quyến thích học võ hơn văn chương nên thường bị cụ Lương Văn Can dùng thước kẻ đánh vào đầu. Sau đó ông cũng vâng lời cha theo học cử nghiệp để mong có ngày đỗ đạt theo thói thường hồi đó. Năm 15, 16 tuổi ông đã nổi tiếng là người học giỏi. Đến khoa Quý Mão (1903) ông thi khoa Hương trường Nam Định, vì xuất vần bài phú nên bị đánh hỏng. Cảnh lại càng buồn khi vợ ông thấy ông thi không đỗ, tự ý bỏ đi, để lại cho ông một mụn con gái mới lên hai tuổi.

Lúc bấy giờ những sách cổ động dân quyền, dân chủ của các nhà cách mạng Pháp 1789 cũng như các sách của những nhà Duy Tân ái quốc Trung Hoa đã truyền bá sang nước ta rất nhiều. Lương Ngọc Quyến được đọc những sách ấy, thấy rõ lối học từ chương là hủ lậu. Từ đó ông không thèm đeo đuổi thi cử nữa, mà nuôi ý chí tự cường, đi học cứu nước.

Năm Giáp Thìn (1904) có việc Phan Bội Châu đi Đông Du, Lương Ngọc Quyến cùng cha là Lương Văn Can và anh ruột là Lương Trúc Đàm hợp sức với một số người yêu nước khác giúp cho cụ Phan đi được. Khi Phan Bội Châu về nước, cùng anh em quyết định phái thanh niên, học sinh sang Nhật cầu học. Lúc đó Ngọc Quyến mới 19 tuổi, đang sống trong cảnh phong lưu, lại có con nhỏ không ai nghĩ rằng Lương Ngọc Quyến lại có thể vứt bỏ tất cả mà đi cầu học ở nước ngoài, nhưng ông đã khảng khái nói: "Kìa Đại Bỉ đắc (Tức là Pi-e đệ nhất) ở nước Nga còn vứt bỏ phú quý tôn vinh mà đi ở nước ngoài để học lấy kỹ thuật cường quốc, huống chi là mình. Tôi xin làm tên tốt đầu của đội quân xuất dương đi trước anh em".

Thế là ông quả quyết từ biệt cha mẹ, gửi lại đứa con gái nhỏ cho cha mẹ nuôi rồi ra đi.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Gửi bởi: chuongxedap trong 28 Tháng Hai, 2017, 05:47:18 pm

Khi Lương Ngọc Quyến ra đi, người đồng chí đã xếp đặt có người tâm phúc làm việc ở một chiếc tàu từ Hải Phòng đi Hương Cảng, tức là người đã đưa Phan Bội Châu đi được hai chuyến an toàn trót lọt. Nhưng Lương Ngọc Quyến lo lâu dài bèn tính với bạn: "Việc đi học còn cần phải nhiều người kế tiếp, nay mình mới nhờ một chiếc tàu mà đi được thế này, vạn nhất tiết lậu, nghẽn mất đường thì sao? Mình phải lo mở ra nhiều con đường khác cho người đi sau mới được chứ!".

Nghe lời Lương Ngọc Quyến nói phải, người bạn đồng chí của ông đã tìm cách đưa ông đi bằng con đường Móng Cái sang Trung Quốc, rồi đáp tàu sang Nhật. Ngày 14 tháng 8 năm Ất Tỵ (1905) ông cùng bạn từ Hà Nội đáp xe lửa đi Hải Phòng, đến trưa ngày 16 tháng 8 ra đến Móng Cái. Vì người bạn khi ở Hà Nội có quen con ông lãnh binh tên là Đào, làm quả đạo Móng Cái đã về hưu nên hai người tìm vào nhà ông Lãnh Đào. Ở được ít hôm, biết ông là người tốt bụng có tình với nước nhà, hai người bèn ngỏ lời nhờ ông giúp đỡ. Hôm sau ông Lãnh Đào dẫn hai người đến gặp người đoàn trưởng bên Đông Hưng tỏ hết câu chuyện rồi nhờ ông ta hỏi hộ kỳ tàu ở Bắc Hải và thuê giùm một người tin cẩn dẫn đường đi Bắc Hải để kịp xuống tàu. Người đoàn trưởng phái một thủ hạ đưa hai người đến Bắc Hải vì đã có thư của người đoàn trưởng ân cần giới thiệu với chủ hiệu Long Hải nên ông này đối đãi hết sức tử tế, lại nhận lời từ nay trở đi hễ có người xuất dương đến đây chờ tàu thì sẽ cho trú ngụ. Thế là Lương Ngọc Quyến đã thành công trong việc mở một con đường xuất dương chắc chắn yên ổn cho những người đi sau.

Từ Bắc Hải, Lương Ngọc Quyến một mình xuống tàu xuất dương, đến ngày 2 tháng 9 năm đó tới Hương Cảng, ngày 5 thì đáp tàu sang Hoành Tân, ngày 14 thì đến nơi, ông ở lại khách sạn để chờ gặp Phan Bội Châu.

Mùa thu năm Ất Tỵ (1905), Phan Bội Châu bí mật về nước, được vài ba tháng lại lật đật xuất dương ngay vì mật thám Pháp đã dò biết, bủa vây, tầm nã rất ngặt. Trong "Ngục trung thư" Phan Bội Châu có viết: Tháng 10 năm ấy tôi đến Hoành Tân, vô ở nhà trọ cũ thấy một vị thanh niên học sinh tên Lương quân Lập Nham đã tới ở đó trước rồi. "Tôi xem ra người thật có khí phách hăng hái, đầu tóc còn để bờm xờm. Dò hỏi mới biết Lương quân bỏ nhà trốn sang Nhật, trơ trọi một thân lúc lên bến thì hành trang vừa cạn, trong túi chỉ còn vẻn vẹn ba đồng xu không hơn không kém".

"Thấy thế tôi vừa mừng vừa chưng hửng. Vì bạn nhỏ tuổi nước ta, một thân một bóng mà dám liều mạng xông pha sóng gió muôn trùng đến một nước xưa nay mình chưa quen biết bao giờ. Lương quân chính là người như vậy”.

"Té ra Lương quân vốn là một thanh niên chứa sẵn kỳ khí, có hoài bão cao xa, chỉ nghe nói tôi đã sang đây cho nên mạnh bạo bỏ nhà ra đi, không kể gì mọi nỗi gian nan nguy hiểm".

"Bọn thiếu niên anh tuấn nước ta sau đây có mấy người được như Lương quân?".



Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Gửi bởi: chuongxedap trong 28 Tháng Hai, 2017, 05:47:36 pm

Khi gặp Phan Bội Châu, Lương Ngọc Quyến bày tỏ ý chí của mình mong được đóng góp vào công cuộc hoạt động cứu quốc của các bậc đàn anh. Nhưng sở vọng cấp bách của thanh niên lúc này là sự cầu học, trước hết là binh học mới mà Tổ quốc đang cần. Bấy lâu ta thua kém quân thù môn học ấy, cho nên không tránh khỏi vấp ngã.

Hồi đó Phan Bội Châu ra nước ngoài, lúc đầu cốt có mục đích cầu viện khí giới ở Trung Hoa hay Nhật Bản nhưng việc giao thiệp ở đâu cũng không đạt được nguyện vọng. Sau đó Phan xem xét tình thế thiên hạ, trở lại nhận rõ dân trí nước mình còn thấp kém mà nhân tài còn thiếu thốn trăm bề, dù có xin được khí giới cũng chẳng thể làm gì được. Phan đang băn khoăn lo nghĩ về nhân tài, nay được nghe ý kiến của Lương Ngọc Quyến càng thấy việc nuôi dưỡng nhân tài là việc khẩn thiết, bèn gác chuyện mưu tính quân giới lại mà lo lắng việc cổ động thanh niên xuất dương cầu học đã.

Ở Hoành Tân cùng Tăng Bạt Hổ vài tháng, Lương Ngọc Quyến đi Đông Kinh. Một mặt ông lo học tiếng Nhật để sửa soạn vào trường, một mặt gửi thư về nước thúc giục đồng chí mau lựa chọn thanh niên phái sang học cho đông.

Tiếp được thư ông thôi thúc, đồng chí trong nước lật đật phái người ra, trong số đó có cả em trai của Lương Ngọc Quyến là Lương Ngọc Nhiễm tự là Nghị Khanh, đã thi đỗ tú tài, lập tức lên đường. Trong lúc chờ đợi thanh niên trong nước tiếp tục sang Nhật học, Phan Bội Châu thu xếp chỗ ăn ở cho mấy anh em mới sang. Ba ông: Lương Ngọc Quyến, Trần Hữu Công, Nguyễn Điển vào học Chấn Vũ học hiệu tại Đông Kinh để nghiên cứu binh học, còn Lương Nghị Khanh thì học ở Đồng Văn thư viện, nghiên cứu về chính trị - kinh tế.

Chấn Vũ là trường quân sự của Nhật mở cho học sinh Trung Quốc. Sau ba năm học ở Chấn Vũ, nếu tốt nghiệp thì được vào học hai năm ở trường sĩ quan. Chương trình học tập hàng ngày là tiếng Nhật, văn Nhật cùng các môn khoa học thường thức như toán học, sử học, địa lý, nhưng chú trọng nhất là học các môn quân sự. Ngày nào cũng dành riêng buổi chiều để học quân sự. Thỉnh thoảng lại có buổi sinh hoạt tập thể để học thêm tinh thần đoàn kết thân ái và chống Pháp. Du học sinh học tập dưới sự kiểm tra đôn đốc của Hội Cống hiến do Phan Bội Châu làm tổng lý kiêm giám đốc. Ngoài ra còn có Cục Kiểm tra do Lương Ngọc Quyến, Trần Hữu Công và Nguyễn Điển phụ trách, chuyên theo dõi công việc của nhân viên các bộ. Cống hiến mỗi tuần sinh hoạt một kỳ để kiểm điểm công việc và gây tình đoàn kết với nhau.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Gửi bởi: chuongxedap trong 01 Tháng Ba, 2017, 03:40:40 pm

Giữa lúc ấy Hà Nội có phong trào Đông Kinh nghĩa thục mà Lương Văn Can là một lãnh tụ hoạt động tích cực. Trường Đông Kinh nghĩa thục mới mở được bảy tháng, giặc Pháp đã bắt đóng cửa, vì chúng sợ sự ảnh hưởng sâu rộng của nó. Lại thấy từ vụ đầu độc binh lính Pháp ở Hà Thành, có liên lạc với Đề Thám ở Yên Thế, cho đến phong trào biểu tình kháng thuế ở Quảng Nam và nhiều tỉnh Trung Kỳ, nhất nhất có ảnh hưởng bởi phái Đông Du bên trong cho nên Pháp tìm cách trừ diệt bằng được.

Đầu năm Mậu Thân (1908), Pháp ký hiệp ước kinh tế với Nhật để cho hàng hóa của Nhật đem sang bán ở nước Pháp cùng các thuộc địa Pháp đều được đánh thuế nhập cảng nhẹ hơn lệ thường. Để đáp lại, Chánh phủ Nhật hạ lệnh trục xuất cảnh tất cả các đảng viên cách mạng và học sinh Việt Nam, hạn trong 48 giờ phải rời khỏi nước Nhật. Nhiều học sinh phẫn uất trước thái độ giở mặt của Nhật liền bỏ sang Trung Quốc, sang Thái Lan hoặc trở về nước. Nhưng Lương Ngọc Quyến, Lương Nghị Khanh và một số người khác thì tìm cách ở lại. Họ làm bộ thu xếp ra trường để che mắt thế gian, rồi vài ba hôm sau quay trở lại với một căn cước khác. Mấy chính khách Nhật giao thiệp với sứ quán Trung Hoa hộ ta, thay đổi giấy tờ chứng nhận quốc tịch Trung Hoa, xong rồi anh em trở về trường học như thường. Giờ là học sinh Trung Hoa chứ không phải học sinh Việt Nam nữa.

Đến năm 1911 Lương Ngọc Quyến thi tốt nghiệp đỗ thứ ba sau một người Nhật và Đường Kế Nghiêu - người Trung Hoa, sau này là đô đốc Vân Nam. (Theo ông Lương Dân Nguyên là con trai Lương Ngọc Quyến nói thì hiện nay ở bên Nhật vẫn còn tấm bảng khắc tên ba người đỗ đạt năm ấy).

Về giai đoạn này "Việt Nam nghĩa liệt sử” của Đặng Đoàn Bằng soạn, Phan Thị Hán tu đính chép như sau:

Sau khi Lương Ngọc Quyến tốt nghiệp, bộ tham mưu Nhật vì lý do ngoại giao không cho ông vào liên đội. Ông yêu cầu với Tham mưu trưởng Phúc Đảo mà cũng không được, ông tức giận mà nói rằng: "Chí tôi là muốn học lục quân, nay đã không được vào liên đội thì còn luyến tiếc nước này làm gì nữa". Thế rồi ông bỏ nước Nhật trở về Quảng Đông xin vào Trường Lục quân trắc hội.

Hai năm sau vừa lúc cách mạng Trung Hoa lần thứ nhất nổi lên, nhà trường đóng cửa, ông đi Nam Kinh bày tỏ ý nguyện của mình với lữ trưởng Trần Dụ Thời, xin vào quân dinh luyện tập chiến thuật kỵ binh.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Gửi bởi: chuongxedap trong 01 Tháng Ba, 2017, 03:41:08 pm

Không bao lâu Nam Kinh lại có cuộc cách mạng lần thứ hai. Ông đi Thượng Hải, mưu liên kết các đồng chí tổ chức một đội quân đánh Viên Thế Khải. Đang còn sắp đặt công việc thì thời cuộc biến đổi nên ông lại bỏ dở. Ông lại trở về Quảng Đông rồi lén về nước ta đưa một nhóm thiếu niên độ hơn 10 người, trong đó có Hoàng Trấn Đông, đồng thời xuất dương và quân dinh Lưỡng Việt (Quảng Đông, Quảng Tây), còn ông thì lên Bắc Kinh vào Quan quân học hiệu. Chí ông là muốn được "về Long thành uống máu quân thù, không thì da ngựa bọc thây cũng đành". Lúc nào nằm nghĩ Quyến cũng không quên điều đó.

Theo Lương Dân Nguyên, con trai của Lương Ngọc Quyến thì khi ở Trung Hoa, Lương Ngọc Quyến có nhiều bí danh trong đó có một tên là Hồng Hy Cao. Ông được Phan Bội Châu quý mến vì có tài viết bút đàm nhanh, nên đi đâu Phan Bội Châu cũng cho ông đi theo. Ông cũng được các bạn Trung Hoa kính phục, trên báo Trung Hoa lúc bấy giờ đã có người viết bài khen ngợi ông.

Theo ông Trần Đình Sóc (cháu gọi Lương Ngọc Quyến bằng chú) kể lại rằng: Khi chưa xuất dương, Lương Ngọc Quyến có đến liên lạc với cụ Nguyễn Hữu Cương ở thôn Động Trung, huyện Kiến Xương tỉnh Thái Bình, là một bạn đồng chí của Lương Văn Can. Biết cụ Cương có con gái út là Nguyễn Hồng Đính, ông Lương Văn Can bèn xin gả cho Lương Ngọc Quyến. Bà Đính từng đã học chữ Hán, có chất cứng cỏi như đàn ông cũng đang có ý định xuất dương, vì thế cụ bà Cương đồng ý gả con gái cho Lương Ngọc Quyến (khi đó cụ ông vì hoạt động cách mạng nên đã bị Pháp đem an trí tại Cần Thơ). Cụ Cử Can phải tìm cách đưa bà Đính từ Móng Cái sang Đông Hưng để làm lễ thành thân với Lương Ngọc Quyến, sau đó ông Quyến đưa bà sang Trung Quốc ở. Đến năm 1912 bà sinh một con trai là Lương Dân Nguyên, đến năm Quý Sửu (1913) lại sinh một con trai là Tân Khải. Bà Đính rong ruổi theo chồng đi khắp nơi từ Thượng Hải, Hàng Châu, Hương Cảng cho đến Ngô Lĩnh trên đất Trung Hoa.

Hai lần Lương Ngọc Quyến bí mật từ Trung Hoa về nước để lo việc tiếp tế tài chính cho Quang Phục hội và tuyên truyền vận động trong nước, ông đều ghé qua nhà chị ruột bà Đính là Nguyễn Phượng Trừu (thân mẫu ông Sóc) để nhờ bà Trừu dẫn sang Đông Trung. Theo ông Sóc kể lại thì Lương Ngọc Quyến là người phương phi, trắng trẻo, đầy đặn, khi giao thiệp rất ôn tồn, hòa nhã nhưng tính tình rất quả quyết.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Gửi bởi: chuongxedap trong 01 Tháng Ba, 2017, 03:41:57 pm

Đến Bắc Kinh ông vào học ở trường Quân quan được mấy tháng, nhận thấy chương trình đã học ở bên Nhật cả rồi, liền bỏ trường ở Bảo Định mà đi Võ Xương. Đến đây ông được Lê Nguyên Hồng thu nạp bổ chức thiếu tá coi một lữ đoàn lục quân.

Nhận ra mấy việc nhận chức vụ này không đem lại lợi ích thiết thực gì, Ngọc Quyến bèn từ chức ở Hán Khẩu trở về Quảng Đông tìm kiếm đồng chí ở Việt Nam đã thành lập do chính Phan Bội Châu phụ trách. Đó chính là tổ chức Việt Nam Quang Phục hội mà Lương Ngọc Quyến đã được cử làm ủy viên quân vụ trong bộ chấp hành. Không ngờ cơ quan lại bị phá vỡ do cuộc giao thiệp khôn khéo giữa toàn quyền Xa-rô với Long Tế Quang đô đốc ở Quảng Đông lúc ấy. Long Tế Quang vừa được hối lộ nhiều vừa sợ Pháp uy hiếp liền hạ lệnh giải tán cơ quan cách mạng của Việt Nam ở Quảng Châu và lệnh bắt giam những người trọng yếu. Trong đó có Phan Bội Châu, Mai Lão Bạng... Lương Ngọc Quyến liền đi Quế Lâm và Nam Ninh tìm gặp các đồng chí chạy về các nơi đó để mưu hành động. Lúc này cục diện châu Âu đã bắt đầu sôi nổi. Đức ngầm tổng động viên sửa soạn đánh Pháp. Cho là cơ hội đã đến, các đồng chí ở Quế Lâm bàn định kiếm một số tiền lớn; phần mua, phần mượn khí giới của cách mạng Trung Hoa, mộ dân Trung Hoa ở biên giới tổ chức thành mấy đội quân phục quốc. Lúc đó Lương Ngọc Quyến và mấy đồng chí có học thức, có kinh nghiệm quân sự lĩnh việc huấn luyện chỉ huy.

Vào khoảng giữa năm Giáp Dần (1914), Lương Ngọc Quyến đáp tàu ở Hương Cảng về thẳng Chợ Lớn, ở trà trộn với xã hội Hoa kiều, dò thăm tin tức đồng chí. Sau đó ông đến nhà Nguyễn Thượng Khách ở Mỹ Phước gần Châu Thành - Long Xuyên bàn bạc với các đồng chí về phương châm đánh Pháp. Nhiều người cho rằng lúc này có thể thừa cơ nổi dậy nhưng Lương Ngọc Quyến thấy cần phải chuẩn bị lực lượng trước đã. Các đồng chí đều tán thành ý định của Lương Ngọc Quyến.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Gửi bởi: chuongxedap trong 01 Tháng Ba, 2017, 03:42:21 pm

Mùa thu năm Giáp Dần (1914), ông từ giã Long Xuyên, xuống tàu thủy lên Nam Vang thăm cha già đã cách biệt 10 năm, định là sẽ từ Nam Vang đi đường bộ lên Bát Tam Băng qua Thái Lan rất tiện. Nhưng lên Nam Vang mới ở có vài ngày đã có tin mật báo cho hay Pháp hiện đang truy nã ráo riết, vì hành tung bị lộ. Đầu tiên ông định chạy thẳng sang Thái Lan nhưng nghĩ sang Thái Lan lúc này cũng nguy. Vì bà con ta thù ghét chính sách đô hộ trốn sang Thái Lan nhiều, cho nên Pháp tổ chức việc do thám rất chặt chẽ. Ngay trong đại sứ quán Pháp tại Băng Cốc có một cơ quan riêng để dò xét hành động của những người Việt Nam yêu nước. Nghĩ vậy ông trở xuống Sài Gòn lẩn lút ở Chợ Lớn vài tuần mới thu xếp được việc trốn sang Hương Cảng. Ông nghĩ Hương Cảng là tô giới Anh mà nước Anh vốn được tiếng là tôn trọng công pháp quốc tế đối với chính trị phạm, sang đây hẳn không lo có điều gì bất trắc xảy đến. Khi đến Hương Cảng, ông lên bờ ngụ ở một nhà trọ quen, đang mừng thầm đã thoát khỏi nguy hiểm, bỗng một buổi sớm bọn cảnh sát mật thám Anh rầm rộ vây nhà bắt ông và dẫn đi.

Trước mặt viên cảnh sát trưởng Anh, ông giữ thái độ bình tĩnh không lộ vẻ gì hốt hoảng, một hai nói mình là người Trung Hoa làm ăn lương thiện.

Mặc cho ông chối cãi, ty cảnh sát chính trị Anh cứ cho giải ông đến đối chất ở Lãnh sự quán Pháp. Sự thật chính là viên Lãnh sự Pháp nhờ mật thám Anh ở Hương Cảng bắt hộ.

Tại đây ông hết sức biện bạch mình là người Trung Quốc. Người chủ nhà trọ và một số người bạn Trung Hoa cũng làm chứng giúp ông điều đó.

Không ngờ sau khi Ngọc Quyến bị bắt vài hôm thì em ruột là Lương Nghị Khanh cũng đi học bên Nhật. Từ Hoành Tân đến Hương Cảng, Nghị Khanh ở dưới tàu thủy lên chở ba hòm sách vở cùng hành lý về nhà trọ của anh thì mới biết anh lâm nạn. Người vốn ốm sẵn, Nghị Khanh thấy nhà trọ chật chội không thể ở chung được bèn gửi tạm hành lý ở đó tất tả đi tìm mấy đồng chí Trung Hoa lấy nơi trú ngụ dưỡng bệnh, đồng thời loan báo cho họ tìm cách giải thoát cho anh là Ngọc Quyến.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Gửi bởi: chuongxedap trong 01 Tháng Ba, 2017, 03:42:43 pm

Trong thời gian ấy, cảnh sát Anh thình lình đến khám xét chỗ trọ của Lương Ngọc Quyến. Mở mấy hòm hành lý Nghị Khanh đã gửi, chúng vớ được những hình ảnh thư từ mà Lương Ngọc Quyến gửi cho em trong khoảng mấy năm gần đó mà Nghị Khanh trân trọng giữ lại coi như những kỷ vật quý, có cả mấy bức ảnh hai anh em học với nhau ở Đông Kinh và khi Lương Ngọc Quyến còn đóng thiếu tá trong quân đội Hán Khẩu. Thế là đầy đủ tang chứng, vật chứng.

Mấy hôm sau, nhà đương cục Anh ở Hương Cảng hạ lệnh trục xuất cảnh ngoại, cho giải Ngọc Quyến xuống tàu đưa đi Quảng Châu Loan để che mắt thế gian nhưng thực tình là chúng bí mật thông tin cho bọn Pháp đón lấy mà bắt.

Ngọc Quyến bị giam ở Châu Loan mất vài tháng sau đó chúng giải ông về Đông Dương. Lúc đầu ông bị giam trong xà lim hỏa lò Hà Nội để chờ xét lại án cũ. Sau đó chúng giải ông lên Cao Bằng, ra trước tòa án binh họp tại đó để trả lời về một vụ đánh cướp đồn lính ở biên thùy Quế Việt mà chúng dò biết là chính ông là người chủ động. Tòa án binh muốn kết án nhưng không đủ bằng cớ nên phải tha bổng.

Sau đó chúng lại đưa ông về Nam Định gặp tên công sứ Tít-gô, tên này kiêm chức chủ tịch hội đồng đề hình của Pháp. Tít-gô dụ Lương Ngọc Quyến không thành công, biết Quyến có thân nhân ở Nam Định nên chúng gọi bà Nguyễn Phượng Trừu lên, bảo bà khuyên em rể đầu hàng chính phủ. Bà Trừu từ chối nói: "Con em tôi hư, gia đình tôi đuổi đi, nó lấy người nào tôi không biết". Không biết làm thế nào chúng lại đưa Ngọc Quyến trở về Hà Nội giam vào hỏa lò chờ xét xử. Tuy không đủ chứng cớ về việc Ngọc Quyến tham gia vào các cuộc cách mạng bạo động từ năm 1906 trở lại đây, chúng vẫn kết án ông chung thân cầm cố. Dù án đã kết, toàn quyền Xa-rô và chánh ty liêm phóng Đông Dương vẫn cho người vào ngục thuyết phục ông, nếu chịu quy thuận thì sẽ hủy bỏ án. Ông trừng mắt nhiếc mắng thậm tệ kẻ làm thuyết khách cho Pháp. Nằm trong xà lim khi thì ông cất tiếng bi ca khảng khái, khi thì chửi rủa bọn thực dân. Vì thế bọn thống trị ghét ông cay đắng. Cũng từ đó chúng lệnh riêng cho tên giám ngục đối đãi một cách cực kỳ tàn bạo đối với Ngọc Quyến để ông phải chết dần, chết mòn hơn là xử chém ông.

Chúng giải Ngọc Quyến đi khắp nơi, nay đề lao Sơn Tây, mai nhà ngục Phú Thọ, đến đâu cũng giam cùm ở một xà lim hết sức chật hẹp bẩn thỉu. Suốt ngày không có lấy một phút được trông thấy ánh sáng mặt trời. Hơn bốn tháng ở ngục Phú Thọ, Ngọc Quyến phát ốm phát điên. Bấy giờ chúng lại giải ông về hỏa lò Hà Nội.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Gửi bởi: chuongxedap trong 01 Tháng Ba, 2017, 03:43:04 pm

Trong nhà lao, Lương Ngọc Quyến vẫn không ngừng tuyên truyền cách mạng cho những người xung quanh. Để ngăn chặn sự tuyên truyền cách mạng ấy, ngày 19 tháng 10 năm 1915, ngày 9 tháng 2 năm 1916 và ngày 26 tháng 2 năm 1916 thống sứ Bắc Kỳ có thư ngỏ ý với toàn quyền Đông Dương của Pháp là nếu không đưa Lương Ngọc Quyến đi giam tại Côn Đảo mà cứ giữ tại hỏa lò Hà Nội thì rất nguy hiểm.

Ngày 3 tháng 3 năm 1916, toàn quyền trả lời thống sứ là theo thống đốc Nam Kỳ thì nhà tù Côn Đảo đã chật ních cả rồi, không còn chỗ giam thêm nữa. Giữa lúc ấy thì một loạt các nhà tù khác mới được xây dựng xong. Nhưng thống sứ Bắc Kỳ cho rằng không thể đem giam Ngọc Quyến tại nhà lao Cao Bằng, Lai Châu hay đảo Trà Bản được vì những nơi này hoặc là tiếp giáp với biên giới, hoặc là thiếu nhà cửa, không được đảm bảo, mà Quyến thì lại là một trong nhũng người có lòng quyết tâm, ở những nơi đó rất dễ nảy sinh ý đồ vượt ngục. Trái lại ở nhà lao Thái Nguyên có nhiều bảo đảm hơn, (nhà lao này được bố trí tốt, giám ngục là một viên chức người Pháp ở trong chính ngạch, lại đặt dưới quyền điều khiển của một viên công sứ "mẫn cán tinh tường và cương nghị'').

Ngày 25 tháng 7 năm 1916, Lương Ngọc Quyến bị đưa lên giam tại nhà lao Thái Nguyên. Công sứ Thái Nguyên hồi bấy giờ tên là Đạc - một tên đứng đầu trong tứ hung. Đạc đọc lại hồ sơ của Lương Ngọc Quyến thấy kể lại lai lịch con nhà văn thân, toàn gia phản đối nước Pháp, lại là thanh niên Đông Du tốt nghiệp ở trường võ bị nọ kia, trong lòng hắn vô cùng căm ghét nên lập tâm hành hạ đến cùng cực. Ban đầu hắn bắt đi làm khổ sai mà cổ vẫn đeo gông, chân vẫn đeo xiềng nặng nề hơn những anh em tù nhân khác. Tự hắn đứng bên ốp việc, sừng sộ ngược đãi đủ cách, chỉ sợ Ba Quyến thừa cơ tuyên truyền cách mạng cho dân chúng hoặc là trốn thoát. Sau hắn sai dùng dùi đục thủng ở giữa bàn chân Quyến một cái lỗ để buộc dây xích cho được chắc chắn hơn là vòng quanh cổ chân. Khổ hình ấy làm cho bàn chân Quyến tê liệt hẳn, không cử động gì được nữa. Đến lúc què hẳn không phải ra ngoài làm khổ sai nhưng trong xà lim vẫn cùm xích đêm ngày. Lúc nghe viên giám ngục người Pháp đến báo cáo rằng tên tù chính trị Ba Quyến mắc bệnh tê bại và hỏi có nên nới bớt lệ cùm đôi chút không, Đạc hất hàm trả lời sừng sộ: "Mặc kệ, cứ cùm, chết thì chôn".


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Gửi bởi: chuongxedap trong 01 Tháng Ba, 2017, 03:43:30 pm

Ở Thái Nguyên hồi ấy có một trại lính khố xanh, trong số tính khố xanh ở đây có một viên đội tên là Trịnh Văn Đạt (thường gọi là Đội Cấn). Đội Cấn thấy lính tráng và tù phạm đi làm cỏ về thường bị tên Đạc đánh đập tàn nhẫn, đánh đến máu thịt tơi bời không kể sống chết. Đội Cấn lấy đấy làm bất bình, chẳng những oán ghét một mình Đạc, lại căm thù chung cả chính sách áp chế của Pháp. Có hôm Cấn nói riêng với Giá là bạn thân của mình:

- Chẳng trách các ông bên đề lao kia họ làm cách mạng!

Đề lao Thái Nguyên hồi bấy giờ có 210 tù nhân, trong đó có 21 người là chính trị phạm. Ngoài Lương Ngọc Quyến còn có Ba Chi, Cả Thấu, Hai Vịnh, Nguyễn Gia Cầu, ông Tú Hồi Xuân, Ba Nho, Ba Quốc, Ba Lâm... Người thì can vào vụ ném bom năm 1913, người thì là bộ tướng của Đề Thám, hay bị bắt trong vụ Duy Tân.

Đội Cấn có lòng kính mến những người đã vì việc nước mà bị tù tội, cho nên thường tìm cách giúp đỡ họ. Có mấy người tù nhẹ vẫn đi ra ngoài để làm việc hoặc làm lính canh gác đề lao. Nhất là đối với Lương Ngọc Quyến, Cấn tỏ lòng kính trọng vô cùng bởi Cấn hiểu rõ gia thế, học thức của ông. Ngọc Quyến cũng biết Cấn là người hữu tâm với Tổ quốc cho nên ra sức khích lệ, hứa sẽ đem hết tài năng giúp đỡ một khi mưu đồ việc lớn. Với tư cách là ủy viên quân sự của Bộ chấp hành Việt Nam Quang Phục hội, Lương Ngọc Quyến đã đem tôn chỉ mục đích của Hội trình bày với Đội Cấn. Thế là Đội Cấn tự nguyện đứng dưới lá cờ của Việt Nam Quang Phục hội. Ông Quyến báo cho Đội Cấn biết là nếu ở trong nổi dậy thì quân Quang Phục ở ngoài sẽ có thể tiếp ứng.

Hai người trao đổi ý kiến tổ chức cuộc khởi nghĩa, kế hoạch này được anh em lính tráng, tù nhân tập hợp lực lượng giữ gìn kín đáo, tai mắt Tây đặt khắp nơi mà chẳng hay biết gì cả.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Gửi bởi: chuongxedap trong 01 Tháng Ba, 2017, 03:46:15 pm

Khi ông sắp sửa khởi sự, có làm một bài thơ bát cú như sau:

      Học hải cần thư lịch kỷ thu
      Nam quan hồi thủ tứ du du
      Bách niên Tổ quốc quy hồ lỗ
      Thất xích tàn khu phó bích lưu
      Tư thế bất phùng minh thánh hữu
      Lai sinh thả báo phụ huynh cừu
      Thử hành hoạch yết Lam Sơn đế
      Hoán khởi trùng tiêm Pháp tặc đầu.


      Sau này Đào Trinh Nhất dịch như sau:
      Bể học xông pha trải bấy lâu
      Thân tù ngoảnh lại nghĩ mà đau
      Trăm năm đất Tổ về quân mọi
      Bảy thước thân tàn mặc nước sâu
      Bạn tốt đời nay sao vắng cả
      Thù nhà kiếp khác dễ quên đâu
      Hồn ta được gặp Lam Sơn đế
      Quyết mượn oai linh chém Pháp đầu.

Khi Quyến đang ngồi trong xà lim, bị Pháp dùng đinh đóng xuyên từ trên mu bàn chân xuống siết chặt lấy cùm, thì anh họ ông tên là Lương Văn Bao được mẹ ông cử lên Thái Nguyên thăm ông. Gặp anh, Lương Ngọc Quyến xúc động hỏi thăm về tình hình Hà Nội, tình hình gia đình.

Vừa lúc lính canh không để ý, Quyến dúi cho anh một nắm giấy vụn.

Ngay đêm ấy ở tại một quán trọ của Thái Nguyên, ông Bao đã mượn của chủ quán một ngọn đèn, lên gác hai phòng thuê riêng của mình để xem rõ nắm giấy kia thì đó là một nắm giấy tạp nham, vừa là giấy gói thuốc lào, giấy gói chè, giấy báo vụn, giấy bản cũ... có mảnh bé lắm chỉ bằng hai ngón tay, mảnh nào cả hai mặt cũng viết chữ Nôm chằng chịt. Suốt đêm dưới ánh sáng của ngọn đèn bấc tù mù, Lương Văn Bao đã ghép từng mảnh giấy đó lại rồi theo đó ghi lại thành một bài thơ hoàn chỉnh. Đó là bài thơ của Lương Ngọc Quyến gửi về cho vợ. Thì ra bà Nguyễn Hồng Đính khi chồng về nước vẫn ở lại Trung Quốc, đến khi nghe tin bố chồng là Lương Văn Can bị bắt và đày sang Nam Vang, đến lượt chồng cũng bị bắt nốt bà đã không quản gian nan lặn lội, rời Trung Quốc về Nam Kỳ rồi sang Nam Vang phụng dưỡng bố chồng trong khi bà cụ Lương Văn Can vẫn ở Hà Nội. Khi ấy người vợ Lương Ngọc Quyến lại có mang đứa con thứ ba và thân sinh của bà (cụ Ấm Cương) cũng vì hoạt động cách mạng mà bị Pháp an trí ở Cần Thơ. Bài thơ được gửi đi Nam Vang thì sau đó mấy ngày cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên bùng nổ. Đây là bài thơ ông thể hiện niềm lạc quan vào tiền đồ cách mạng:

      Lòng người đã trung thành sốt sắng
      Giời xanh kia ắt chẳng phụ mình
      Mai sau bĩ cực thái hanh
      Kéo cờ độc lập giữa thành Thăng Long
      Ba mươi triệu Lạc Long tôn tử
      Bốn nghìn năm lịch sử quang vinh
      Giời Nam rực rỡ văn minh
      Sơn Hà rửa sạch hôi tanh giặc thù...
      ... Nợ trung hiếu nay đã đền đủ
      Chí tang bồng chẳng phụ làm trai
      Khi nên trời cũng chiều người
      Nàng ơi! Xin nhớ lấy lời tình chung...



Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Gửi bởi: chuongxedap trong 01 Tháng Ba, 2017, 03:46:48 pm

Cuộc khởi nghĩa nổ ra vào khoảng 11 giờ đêm 30 đến rạng sáng ngày 31 tháng 8 năm 1917. Theo kế hoạch tập đoàn khởi nghĩa đã giết được tên giám binh Nô-en và tên tay sai tin cẩn phó quản Lạp, tuyên bố khởi nghĩa trước sự đồng tình hoàn toàn của quân lính. Sau đó nghĩa quân phá nhà tù, giết chủ ngục, giải phóng cho các tù phạm, đầu tiên là Ngọc Quyến. Đội Giá sai mấy người lính hộ vệ ông sang ngay trại lính khố xanh, nơi Đội Cấn đang chờ đợi. Ba Chi, tướng chỉ huy trong nghĩa quân Đề Thám phải cõng ông vì ông bị cùm ác liệt lâu ngày nên một chân què liệt. Lúc tới nơi ban lãnh đạo khởi nghĩa đã chờ sẵn và mời ông cùng ngồi với Đội Cấn.

Đội Cấn mở hội đồng quân sự ngay lúc bấy giờ, toàn thể đồng chí mời Cấn làm Thái Nguyên Quang Phục quân Đại đô đốc, phụ trách mọi việc quân. Lương Ngọc Quyến thì làm quân sư, chỉ ngồi một nơi bàn soạn chiến lược định đoạt binh cơ chứ không xông pha trận mạc được như mọi người.

Theo ông Quyến đề nghị Quang Phục quân lấy cờ năm ngôi sao làm hiệu cờ cách mạng, lấy quốc hiệu là Đại Hùng. Sáng sớm, tờ Tuyên ngôn thứ nhất dán khắp tỉnh thành hiểu dụ cho dân trong tỉnh được rõ mục đích lính ta khởi nghĩa và khuyên ai nấy an cư lạc nghiệp. Kế đến hôm sau, tờ Tuyên ngôn thứ hai, hiệu triệu cả đồng bào quốc dân, nên thừa lúc này Pháp đang nguy khốn ở châu Âu mà vùng dậy đánh đổ chế độ đô hộ, lấy lại độc lập tự do.

Lương Ngọc Quyến đã đem hết khả năng giúp đỡ Quang Phục quân trong việc bố trí phòng thủ. Ban chỉ huy chia làm tám đội, lập thành tám phòng tuyến để chuẩn bị chống giặc: năm phòng tuyến ngoài tỉnh do Lương Ngọc Quyến làm chỉ huy trưởng, ba phòng tuyến trong tỉnh do chủ tướng Cấn làm chỉ huy trưởng.

Nhưng từ ngày mùng 2 trở đi, ngày nào quân địch cũng tấn công dữ dội. Ngay từ phút đầu Lương Ngọc Quyến cùng chia sẻ nguy hiểm với Đội Cấn, thân ra trước hàng trận chỉ huy tác chiến. Hai ngày đầu, việc đi lại đều có xe tay cho ông, nhưng khi cuộc chiến đấu gay go thì ông phải bò từ địa điểm này qua địa điểm khác. Thấy ông què chân, Đội Cấn khuyên ông nên ở lại trong trại nhưng ông không nghe. Có hôm các bạn đồng chí tưởng ông tử trận ở ngoài cổng tỉnh, nhưng hôm ấy ông vẫn trở về trại muộn với một vết đạn ở cánh tay.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Gửi bởi: chuongxedap trong 01 Tháng Ba, 2017, 03:47:12 pm

Từ chiều ngày mùng 4, giặc Pháp mang hơn 300 lính Tây và 500 lính tập ở các nơi đến, đủ cả súng liên thanh, đại bác, đồng thời hai mặt tấn công bắn vào trận tuyến của ta. Nghĩa quân chống lại cực kỳ anh dũng nhưng vì quân của ta thế lực đều không nhiều, kém khí giới lại không có tiếp viện. Giao chiến với địch mấy đêm ngày vất vả nên mỗi lúc thấy mệt mỏi và nao núng thêm. Đến trưa mùng 5 tháng 9 dương lịch, Đội Cấn liệu thế không giữ nổi nên truyền lệnh cho quân sĩ bỏ tỉnh thành rút đi. Đội Cấn đặt võng cáng sẵn sàng để đưa ông đi theo nghĩa quân nhưng ông nghĩ đại sự đã hỏng mất rồi, mà bản thân mình lại mang tật không muốn làm bận bịu thêm nữa, nên toan tính trước cho cuộc đời ngắn ngủi của mình.

Tuy chỉ giải phóng được Thái Nguyên vẻn vẹn có bảy ngày rồi bị địch dìm trong biển máu, nhưng cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên vẫn là điểm son rực rỡ nhất của phong trào yêu nước theo đường lối bạo động. Điểm son ấy đã kết thúc một cách oanh liệt phong trào yêu nước trong hai thập niên đầu của thế kỷ XX.

Cái chết của người anh hùng Lương Ngọc Quyến cho đến tận bây giờ vẫn là một ẩn số đối với các nhà nghiên cứu lịch sử. Đã có nhiều giả thiết về cái chết đầy bi tráng này. Có người nói ông đã hy sinh trong lúc đánh nhau với giặc nhưng có người nói ông đã chết trong một trường hợp vô cùng oanh liệt: Từ khi thoát khỏi nhà tù, ông Quyến chân đau nên mỗi khi đi đâu phải có người võng theo. Tới khi nghĩa quân rút ra ngoài tỉnh, ông Cấn vẫn phân công người võng ông Quyến đi. Nhưng ông Quyến nhất định xin được tự tử để khỏi phiền cho nghĩa quân trong lúc hành binh. Khuyên giải mãi không được, Đội Cấn đành chuẩn theo lời yêu cầu của ông Quyến. Để ông Quyến đứng trang nghiêm ở giữa đồi rồi một đội thổi kèn và bồng súng chào trước khi chĩa súng tiễn đưa người chiến sĩ đã hy sinh vì nước. Trong hai truyền thuyết kể trên, có lẽ nhiều người muốn tin truyền thuyết thứ hai, vì nó tô điểm thêm cho sự hy sinh vẻ vang của người chiến sĩ cách mạng. Nhưng một số nghĩa quân đã dự trận này nói lại thì chính họ đã nhìn thấy xác ông Quyến trên chiến trường cùng với nhiều xác khác. Dầu sao cái chết của ông Lương Ngọc Quyến cũng là cái chết trong chiến đấu và chết vì Tổ quốc.

Cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên đã phản ánh mâu thuẫn gay gắt giữa toàn thể nhân dân ta với thực dân Pháp. Mặc dù thất bại nhưng cuộc khởi nghĩa đã thể hiện lòng yêu nước nồng nàn, chí căm thù giặc, nó góp phần cổ vũ phong trào kháng Pháp của nhân dân ở khắp nơi. Trong đó, hai thủ lĩnh Đội Cấn và Lương Ngọc Quyến có vai trò lớn trong tổ chức, lãnh đạo quần chúng nhân dân đấu tranh. Hai ông đã nêu cao tấm gương sáng ngời cho hậu thế. Bình luận về Lương Ngọc Quyến "Việt Nam nghĩa sử” viết: "Thân không đầy bảy thước mà lòng mạnh bằng muôn người, tuổi không quá bốn tuần mà tinh thần suốt muôn thuở, người như thế ấy há lại không khó lắm ru! Lương Lập Nham gần như thế đấy". Câu ấy thực đáng khắc làm mộ chí của Lương Ngọc Quyến vậy.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Ba, 2017, 09:57:20 am

Câu hỏi 14: Bản Tuyên ngôn thứ nhất của cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên có vị trí đặc biệt quan trọng đối với binh lính và nhân dân tỉnh lỵ Thái Nguyên và là một tài liệu vô cùng quý. Vậy ai là người viết “Tuyên ngôn thứ nhất" phát hồi nửa đêm lúc mới khởi nghĩa? Hãy nêu toàn văn bản tuyên ngôn này?
Trả lời:


Nhiều người cho rằng bản "Tuyên ngôn thứ nhất" của cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên là do Lương Ngọc Quyến thảo, nhưng thực ra không phải như vậy. Theo điều tra của công sứ Đạc, vì vắng mặt ở tỉnh thành Thái Nguyên đêm hôm đó nên thoát chết thì tờ "Tuyên ngôn thứ nhất" phát lúc nửa đêm hôm 31 tháng 8 năm 1917 là do các đồng chí khởi nghĩa đã họp nhau lại soạn thảo, lúc đó có Lương Ngọc Quyến nhuận sắc. Còn tờ Tuyên ngôn thứ hai thì do một mình ông viết.

Nội dung nguyên văn của bản Tuyên ngôn thứ nhất như sau:

Tuyên ngôn thứ nhất phát hồi nửa đêm lúc mới khởi nghĩa.

Đại Hùng Đế quốc năm thứ nhất, tháng 7 ngày 14.

Thái Nguyên tỉnh Quang Phục quân Đại đô đốc Trịnh, bố cáo cho dân chúng đồng bào được biết:

Nước Việt Nam nhà ngày nay gồm trong cõi Đông Dương, nguyên xưa là đất Tượng Quận. Dân tộc ta vốn dòng dõi rồng tiên. Ruộng đất ta vốn phì nhiêu, dài mấy trăm vạn dặm đầy những núi non linh tú. Kể từ Hồng Bàng lập quốc đến giờ, lịch sử truyền nối hơn bốn nghìn năm, trải các triều đại Kinh Dương Vương, Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, Lý, Trần, Hậu Lê rồi đến bản triều Nguyễn Thị, mỗi đời kế tiếp mở mang bờ cõi thêm to, điểm tô non sông thêm đẹp. Phải biết tổ tiên ta đã tốn bao nhiêu thông minh, bày tỏ biết bao nhiêu nghị lực, hy sinh bao nhiêu máu thịt, mới xây dựng được nên giang sơn gấm vóc này để cho chúng ta.

Chẳng may đến giữa thế kỷ XIX vừa rồi, Pháp tặc ở châu Âu sang, giả lấy danh nghĩa thông thương, truyền giáo, cướp mất hương hỏa quý báu của ta.

Thừa cơ lúc đó triều đình ta còn mài miệt trau dồi lối học khoa cử từ chương, không lo gì võ bị, chúng giở ngay thủ đoạn bạo ngược xâm lăng nước ta. Thoạt tiên chiếm đoạt sáu tỉnh Nam Kỳ, rồi sau dần dần sinh chuyện cướp nốt Trung, Bắc. Chúng ra tay tàn sát những người có nhiệt tâm yêu nước, phá hủy đền đài, thành quách ta, bóc lột tiền tài sản nghiệp ta.



Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Ba, 2017, 09:58:02 am

Cũng may ta còn có những bậc anh hùng chí sĩ, những người danh vọng tài năng, biết đồng tâm hiệp lực, kháng cự lũ giặc ngoại xâm. Binh lực chẳng có mấy, khí giới rất tầm thường, thế mà các nhà cách mạng tiên phong ấy đã từng chiếm giữ được ít nhiều chỗ hiểm yếu để làm căn cứ mà đương đầu với giặc khá lâu. Ta kể ví dụ như ông Hoàng Hoa Thám một thời oanh liệt ở Nhã Nam, hay ông Phan Đình Phùng mười năm kháng chiến ở Hà Tĩnh, ấy là chứng cớ hiển nhiên.

Có điều các vị anh hùng dân tộc ấy có chỗ thủ hiểm vững vàng mà không gặp được thời cơ may mắn; đến nỗi ngoại viện là sự rất cần dùng thiết yếu mà cũng không có. Thành ra khí giới thiếu thốn, lực lượng yếu dần, trước sau đều bị quân địch tiêu diệt. Từ đó tới nay, tấm gương anh dũng của các vị tiền bối, không thấy người nào có đủ tài lực nối chí làm theo.

Ngoài những người lỗi lạc hy sinh như thế trong xứ ta còn lại toàn là anh em quê mùa, chất phác, vô học, nhắm mắt chịu ép một bề. Pháp tặc không còn trở lực gì phải kiêng kỵ nữa, tha hồ hoành hành bạo ngược: thôi thì phá hoại ngay luật lệ tự chúng đặt ra; áp dụng những thói bán quan buôn chức; tìm đủ cách làm cho nòi giống ta càng ngày càng đi đến họa diệt chủng; kết án cực nặng; hành vi tột bực dã man; luôn luôn nói chuyện hứa hẹn khi trả lại còn tàn nhẫn đến nỗi khai quật cả lăng tẩm một vị tiên đế bản triều để lấy vàng bạc châu báu, truất ngôi hai vị hoàng đế nước ta, đưa đi an trí ở một hoang đảo thật xa.

Kể từ khi hạ thành Hà Nội tới giờ, chúng đã tự do thay đổi ngôi vua nước Nam ba lần trong khoảng ba chục năm mà không đếm xỉa gì đến dân tâm dư luận.

Thuế má thì mỗi ngày cứ tăng lên mãi, bà con ta chỉ lo đóng góp cũng đủ chết. Mỗi người dân Việt Nam, như phải tròng cổ vào sợi dây, càng ngày càng riết chặt thêm; mười nhà chết chín lâm vào cảnh khốn cùng ghê gớm.

Vạn nhất có người nhiệt tâm với quốc gia, hơi ra mặt chống trả chính sách đô hộ, liền bị lũ chó săn chim mồi tố giác với quân thù, làm cho sở nguyện bị đè nén chôn vùi tức tốc.

Chao ôi! Mỗi khi tưởng nhớ tới cơ nghiệp tổ tiên đã đổ bao nhiêu máu đào mới xây dựng nên, mỗi khi nghĩ tới cảnh nước nhà bấy lâu gian truân, khốn khổ, chúng ta thấy bầm gan tím ruột, thương xót vô cùng.

Chúng ta nhẫn nhục đã tới cực điểm, tấc lòng bi thống giang sơn chủng tộc sôi nổi như nung như đốt.



Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Ba, 2017, 09:59:11 am

Kẻ thù ta hiện đang bị công kích ở châu Âu, chúng bắt người mình đem sang bên Tây làm bức tường đỡ đạn; chúng bóc lột tài sản xứ mình để tiếp tế quân nhu. Bà con ta bị bắt đem sang Tây từ mấy năm nay, tội nghiệp người sống thì phải trần lực ra làm lụng vất vả, người chết cũng chẳng được chôn cất tử tế. Thương hại con côi vợ góa ngồi trong nhà kêu van, ông già bà lão ra ngoài đường khóc lóc. Tình cảnh nước nhà đau khổ không thể tưởng tượng. Những nỗi đau đớn kể sao cho hết; tóm lại, cái kiếp sống của dân ta điêu đứng đến nông nỗi này, không tài nào cam chịu được nữa.

Nước ta khổ sở kiệt quệ, sống dở chết dở, cảnh ngộ có khác gì một sợi chỉ mong manh sắp đứt; chịu cảnh đau đớn nhiều quá, bà con nhà ta như nằm liệt trên giường bệnh, hấp hối tắt hơi.

Phen này chúng ta ra sức phấn đấu để khôi phục độc lập cho Tổ quốc, nếu bất hạnh mà mục đích không đạt, đại công không thành thì cuộc đời hết cả sinh thú, chúng ta cũng chẳng thiết sống làm gì cho nhục nhằn khốn khổ.

Bản chức, Thái Nguyên tỉnh Quang Phục quân Đại đô đốc từ trước tới nay không hề có giây phút nào quên lãng nỗi khổ của đồng bào dân chúng; ngay những khi còn sống trên lam lũ ở chốn thôn quê làm nghề cày ruộng, lòng hằng băn khoăn tức tối về thảm họa vong quốc. Nhiều lần ta đã lập tâm xướng nghĩa khởi binh, tuốt gươm giết giặc; nhưng rồi ta phải ngậm hờn khoanh tay, là bởi ta chưa gặp được thời cơ nào thuận tiện cho được thực hành chí muốn. Vì thế ta đành ẩn nhẫn ra đi lính tập; hơn mười năm trường được sống chung chạ với bao nhiêu anh em cường tráng nước nhà mà phải ngậm miệng làm thinh. Nhưng lúc nào ta cũng nuôi hoài bão cừu thù giặc Pháp tặc, chẳng hề biến tâm thoái chí. Từ trước tới nay chỉ bởi lực lượng chưa đủ, ngoại viện chưa có theo như ý ta mong mỏi, cho nên ta không muốn mưu toan đại sự một cách chơ vơ, tháo thứ.

Hôm nay, thời cơ đã đến, trong nước thì có những bạn đồng tâm đồng chí cùng ta tuốt gươm chĩa súng, đánh giết quân thù; bên ngoài thì có những nhà cách mạng ta bấy lâu trú ngụ bên Nhật Bản, Trung Hoa, giờ này sắp sửa đem quân nhu, khí giới về giúp ta, hợp lực với ta đánh đuổi Pháp tặc.

Ta chiêu tập những anh em có tinh thần tự do độc lập, có nhiệt tâm yêu nước thương nòi, lập thành những đạo binh cứu quốc, và hôm nay ta bắt đầu khôi phục lấy tỉnh Thái Nguyên. Lá cờ năm ngôi sao đã kéo lên phấp phới trên kỳ đài, ta đã tuyên bố Thái Nguyên độc lập.

Cùng làm con dân nước Việt Nam, chúng ta phải coi nhau như anh em ruột thịt một nhà, vậy ai là người có sức thông minh, học thức có thể đến đây vì ta trù mưu hoạch sách, làm những việc ích lợi chung; ai là người có sức khỏe mạnh thì mau mau đem bắp thịt cánh tay đến giúp đỡ ta trong cuộc chiến đấu.

Anh em ta cố sức phen này, đồng tâm hiệp lực, đả đảo quân thù.

Những ai đứng vào hàng ngũ ta, cùng ta tuốt gươm giết giặc, ta rất hoan nghênh, ta để cho mỗi người được thi thố tài năng sáng kiến trong cuộc tranh đấu tự do, độc lập chung.

Còn những kẻ nào vẫn cam tâm nô lệ phù tá quân thù, thì hãy coi chừng, ta sẽ lấy đầu không tha.


                                                                                                                                                   Nay bố cáo
                                                                                                                                         (Ký tên và đóng dấu son)


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Ba, 2017, 10:00:02 am

Câu hỏi 15: Mặc dù cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên thất bại nhưng đã để lại nhiều ý nghĩa có giá trị. Hãy nêu ý nghĩa của cuộc khởi nghĩa đó?
Trả lời:


Trong cuộc chiến đấu gian khổ, trường kỳ, anh dũng, nghĩa quân Thái Nguyên vùng dậy khi lực lượng cách mạng trong nước còn tản mát, chưa có tổ chức chặt chẽ, thiếu một sự lãnh đạo tiền phong nên đã đưa đến sự thất bại đáng tiếc.

Điều kiện khách quan dù có thuận lợi một phần nào nhưng chủ yếu vẫn là điều kiện chủ quan, nhưng điều kiện chủ quan ở đây lại quá ít nên không thể vươn tới thắng lợi như ý định.

Đành rằng cuộc khởi nghĩa nổ ra giữa lúc lòng dân đang trông chờ và cuộc chiến đấu kéo dài hơn nửa năm này là do có sự ủng hộ của nhân dân địa phương. Tuy nhiên nếu cách mạng không có một bộ máy lãnh đạo sáng suốt, năng lực tổ chức sắc bén thì làm sao có thể biến những quần chúng hướng nghĩa thành một đội quân khởi nghĩa, đưa quần chúng từ chỗ ủng hộ cách mạng đến chỗ mạnh dạn đứng vào hàng ngũ lãnh đạo cách mạng. Có người phê bình nghĩa quân Thái Nguyên hồi ấy không biết phân tán thành từng toán nhỏ rồi dựa vào dân chúng, phát động du kích chiến, mà cứ ham đánh lớn ăn to nên mới bị tan vỡ. Điều đó có lý, nhưng du kích chiến được thực hiện cũng như dân chúng được phát động không phải chỉ nằm trong sách lược đơn thuần của chiến tranh, mà căn bản là phải do một đường lối chính trị đúng đắn của một đảng tiền phong, đại biểu cho quyền lợi của nhân dân và được nhân dân ủng hộ. Điều kiện ấy cố nhiên chưa thể có được ở thời kỳ như lúc bấy giờ.

Sau hơn sáu tháng chiến đấu anh dũng, cuộc khởi nghĩa của binh lính và tù chính trị ở Thái Nguyên đã thất bại. Có thể nói đây là cuộc bạo động duy nhất của những năm chiến tranh và đã thành công trong việc lật đổ chính quyến thực dân ở một thị xã miền núi được sự ủng hộ của nhiều thành phần trong nhân dân. Cuộc khởi nghĩa trong chừng mực nhất định đã đáp ứng được nguyện vọng độc lập, tự do của quần chúng lao động và nhất là những người là nạn nhân của bọn quan cai trị thực dân tàn bạo. Điểm đặc biệt trong cuộc khởi nghĩa này là đã có sự liên minh giữa tù chính trị, kẻ thù của chế độ thực dân và binh lính người Việt, công cụ trấn áp của chính quyền thực dân.

Những người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa, cũng như những nghĩa quân nòng cốt đã tỏ ra có lòng tin rất vững chắc vào hành động chính nghĩa của mình, dám đứng lên hành động chỉ với danh nghĩa là những người yêu nước. Họ đã biết gắn hành động của mình vào cuộc vận động cách mạng có xu hướng chính trị tương đối tiến bộ của Việt Nam Quang Phục hội. Họ cũng tỏ ra có sự nhạy bén chính trị khi chọn thời cơ khởi nghĩa vào lúc kẻ thù đang gặp những khó khăn lớn, khi sự căm hờn của quần chúng ở đỉnh cao. Tuy vậy cuộc khởi nghĩa vẫn thất bại bởi những người khởi nghĩa mới chỉ xuất phát từ tình cảm yêu nước truyền thống, từ lòng căm thù giặc cao độ chứ họ chưa được trang bị một lý luận rõ ràng về con đường giải phóng dân tộc cũng như chưa có chiến lược bảo toàn và phát triển lực lượng để giành phần thắng cuối cùng.

Dẫu sao sau cuộc âm mưu khởi nghĩa của binh lính Hà Nội năm 1908, binh lính Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi trong vụ Duy Tân năm 1916, đây là cuộc khởi nghĩa đầu tiên của binh lính Việt Nam chống thực dân Pháp. Nó là một đòn nặng phá kế hoạch "Dùng người Việt đánh người Việt" của địch và cũng là một cuộc vùng dậy mãnh liệt của những người nông dân mặc áo lính cầm súng giết giặc, tạo truyền thống yêu nước cho những binh sĩ cứu quốc Việt Nam sau này.

Trong thời kỳ đại chiến thế giới lần thứ nhất, tại Việt Nam ngoài những cuộc kể trên, còn một số sự kiện khác như cuộc phá ngục Lao Bảo (tháng 9-1915), phá ngục Côn Lôn (ngày 14-2-1918). Những cuộc phá ngục trên do những chính trị phạm cầm đầu đã biến thành cuộc khởi nghĩa cầm cự với giặc Pháp từ đầu tháng 9 đến cuối tháng 10 năm 1915. Tất cả đều nói lên một điều: Điều kiện non kém của chủ quan không phối hợp được với điều kiện thuận lợi của khách quan. Một số đông dân chúng muốn nổi dậy hay tự động đứng dậy vẫn thiếu sự lãnh đạo chính đáng, đặc biệt là thiếu tổ chức chặt chẽ. Những cuộc bạo động nổ ra lẻ tẻ ở biên giới Bắc Kỳ hay những hội kín âm ỉ lan tràn trong nông dân Nam Kỳ, cho đến cả những cuộc vùng dậy mãnh liệt và chiến đấu dẻo dai của binh lính Thái Nguyên đều nói lên điều đó. Hiện tượng này cố nhiên do ở điều kiện lịch sử của thời kỳ bấy giờ. Nhưng do đó, chúng ta càng thấy trong cuộc chiến tranh cách mạng, vai trò lãnh đạo là vô cùng quan trọng. Thiếu nó, lực lượng cách mạng không thể tập hợp và củng cố được. Thiếu nó, cuộc vũ trang khởi nghĩa nhất định cũng sẽ đi đến thất bại, mà vai trò lãnh đạo ấy chỉ có thể tìm thấy ở một giai cấp đương lên, đương mang một sứ mạng của lịch sử. Vai trò ấy đã vắng mặt trong bối cảnh của lịch sử Việt Nam lúc bấy giờ.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Ba, 2017, 10:01:39 am

Câu hỏi 16: Hãy so sánh cuộc khởi nghĩa của binh lính Thái Nguyên và vụ đầu độc binh lính Pháp ở Hà Nội năm 1908?
Trả lời:


Như trên đã nói, cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên có một vị trí đặc biệt trong thời kỳ chiến tranh thế giới thứ nhất. Xét về nhiều mặt, cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên có những điểm giống với cuộc đầu độc binh lính Pháp ở Hà Nội năm 1908 về mục tiêu, lực lượng tham gia cũng như cách thức tổ chức... Ta sẽ tìm hiểu lại cuộc đầu độc binh lính Pháp tại Hà Thành để thấy rõ hơn điều đó.

Hà Nội khoảng năm 1907-1908 là nơi trung tâm hoạt động của một số phong trào lớn dồn dập nổi lên như Đông Kinh nghĩa thục và Đông Du. Ảnh hưởng của Đông Kinh nghĩa thục không riêng về mặt cải cách văn hóa mà những bài ca kết đoàn đổi mới đã được phổ biến sâu rộng trong nhân dân đã gây thành một phong trào cải cách sinh hoạt xã hội. Hà Nội là nơi đẻ ra Đông Kinh nghĩa thục, Hà Nội còn là trụ sở của các sĩ phu và du học sinh sang Nhật.

Ảnh hưởng của cuộc vận động cách mạng dù là cải cách công khai hay bí mật tuyên truyền bạo động đều nung nấu thêm lòng phẫn uất của dân chúng. Riêng ở Hà Nội, ảnh hưởng đó đã lan vào hàng ngũ binh lính Việt Nam trong quân đội Pháp. Một số nhà ái quốc Việt Nam trong quân đội Pháp cùng mấy sĩ phu và đại biểu của nghĩa quân Đề Thám đã bí mật liên lạc với nhau tổ chức một vụ bạo động của binh lính Việt Nam. Tháng 3 năm 1908 phong trào chống thuế ở Trung Kỳ nổi dậy càng thúc đẩy cho vụ bạo động nổ ra.

Ở phố Cửa Nam (Hà Nội), có một ngôi nhà vừa bán cơm vừa chứa trọ của đôi vợ chồng ông Nhiêu Sáu (tức là Nguyễn Tĩnh, người làng Tương Mai). Hàng ngày khách ăn ra vào tấp nập, bồi bếp có, binh lính có, thầy bói thầy số cũng có. Lợi dụng quán này làm nơi gặp gỡ nhau, các ông Đội Hổ, Chánh Tĩnh tức Chánh Song là mấy người thủ hạ của Đề Thám thường lui tới luôn. Quán hàng còn là nơi ăn cơm trọ của các ông Cai Nga, Đội Nhân, Đội Bình, Đội Cốc là những yếu nhân trong quân giới khố đỏ thuộc cơ công binh pháo thủ số 9. Thêm vào đấy còn có Hai Hiên, một người có tín nhiệm trong giới bồi bếp. Sự lui tới nhà Nhiêu Sáu dần dần làm cho Đội Bình, Đội Nhân, Cai Nga, Hai Hiên gặp gõ Chánh Song, Đội Hổ. Công việc tuyên truyền khởi nghĩa đi tới kết quả là một số đông anh em bồi bếp binh lính tán thành chương trình bạo động của Đội Hổ. Chương trình đó còn được hai thầy đồ và thầy số ở quán cơm cùng đồng tình. Theo tài liệu của Pháp thì trong quán cơm ông Quang dạy chữ Pháp và ông Đông Châu dạy chữ Nho cho anh em lính tập. Hai ông này đã tuyên truyền những vần thơ ái quốc của Phan Bội Châu cho anh em binh lính. Chẳng hạn như:

      Thôi thôi ta chẳng dại rồi
      Tập lính ta cũng là người họ ta
      Tính sự thế này vừa gặp hội,
      Việc kíp rồi phải liệu mau mau
      Cùng nhau mấy vạn đồng bào,
      Quyết đem tính mệnh mà liều một phen.



Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Ba, 2017, 10:03:39 am

Anh em bồi bếp dưới sự lãnh đạo của Hai Hiên cũng thường được nghe hoặc thuộc lòng những câu:

      Bồi, bếp, thông, ký dân ta
      Có lòng như thế mới ra đồng bào
      Chàng Dự Nhượng nấp ở đâu chẳng thấy ?
      Gã Phù Sai đứng đấy là ai.


Tại các hàng cơm, quán trọ khác, nơi nào cũng tụ tập nhiều binh lính và dân chúng, có những nhà nho đóng giả thầy bói, thầy số đã mượn câu thiên mệnh để gần gũi rồi tuyên truyền khách hàng. Từ đó những bồi bếp và lính tập đã lui tới quán cơm nhà Nhiêu Sáu phần lớn là những người yêu nước, tán thành bạo động.

Trong số văn nhân thuộc phái cải cách ôn hòa có ông Phan Tuấn Phong nghe biết tin này đã đến khuyên mọi người đừng nên làm vội. Nhưng Đội Bình, Đội Kiên nhất định không nghe. Trái với chính kiến của Phan Tuấn Phong, một văn nhân trong phái bạo động là Nguyễn Quyền thì rất tán thành chủ chương khởi nghĩa. Lúc này có một người phụ nữ ái quốc tên là cô Đồng Đa. Cô là người thắp đèn nhang ở ngôi đền thờ đức Thánh Gióng tỉnh Phúc Yên. Được cô giúp đỡ, các tướng tá Đề Thám đã dùng nơi đó làm trụ sở hội họp mỗi khi có việc từ Yên Thế về Hà Nội, hoặc từ Hà Nội lên Yên Thế.

Trước ngày khởi sự, một hội kín được thành lập trong đó có các ông Đội Bình, Đội Bộ, Đội Nhân, Đội Ngà, Bếp Hiên, Bếp Nhiếp, Bếp Xuân, Nguyễn Tác A thuộc cơ binh pháo thủ số 9 và các ông Đồ Chánh, Đội Hổ, Cai Tôn, Cai Xe, Lái Kinh, Lang Seo, Chánh Song và Đồ Đảm tổ chức, tất cả hội đã họp với nhau nhiều lần ở phố Cửa Nam bàn chương trình bạo động. Đồ Đảm lại chịu trách nhiệm báo cáo công việc cho Đề Thám.

Thời gian khởi sự thoạt tiên định vào ngày 15 tháng 11 năm 1907, nhưng nay lần mai lữa, hoãn đến ngày 16 tháng 5 năm 1908 rồi quyết định cuối cùng là ngày 27 tháng 6 năm 1908.

Kế hoạch khởi sự là anh em binh lính làm nội ứng. Nghĩa quân Đề Thám ở ngoài cùng dân chúng đánh vào. Trước hết binh lính lấy gỗ lim bịt hết miệng súng đại bác, người phụ trách nấu bếp bỏ thuốc độc vào đồ ăn của các sĩ quan Pháp. Khi đã trúng độc rồi thì bắn súng hiệu, quân ở ngoài vào hạ sát cướp lấy khí giới, về phần quân ở ngoài, theo dự định, một toán độ 300 người họp ở Lò Lợn đánh vào Đồn Thủy, một toán ở dưới thuyền đóng gần sở thuốc lá tiến vào Cửa Bắc, toán khác từ Sơn Tây kéo xuống Ô Cầu Giấy, rồi tập trung ở đó. Để hỗ trợ thêm, họ đặt mấy khẩu đại bác trên cầu Dốc Gạch chặn quân tiếp viện ở Bắc Ninh và Sơn Tây. Còn 30 nghĩa quân Đề Thám dưới quyền chỉ huy của Đội Hổ bố trí quanh dinh toàn quyền rồi đánh vào trại lính khố đỏ. Nhân dân các làng quanh Hồ Tây cũng chuẩn bị đánh vào thành phố. Trước giờ phát động nghĩa quân chia thành từng toán nhỏ ẩn nấp ở nhà thường dân, tới khi có ba phát đại bác nổ thì tấn công vào các điểm đã định sẵn.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Ba, 2017, 10:04:08 am

Tám giờ tối ngày 27 tháng 6 năm 1908, trong quân đội Pháp có tiệc đãi các sĩ quan. Việc tổ chức cho cuộc bạo động đã sẵn sàng. Thuốc độc làm bằng cà độc dược. Ngay lúc đầu đã có 125 lính Pháp thuộc cơ pháo thủ số 4 và 80 tên nữa thuộc cơ bộ binh thuộc địa số 9 bị trúng độc lăn ra bất tỉnh. Nhưng việc vừa nổ ra thì bị thất bại ngay.

Ngày 24 tháng 6 năm 1908, đại tướng Pháp là tên Đơ-nây Căng-đô chỉ huy đội pháo binh được tin mật báo có cuộc khởi nghĩa của binh lính Nam tại đội công binh pháo thủ và lữ đoàn bản xứ của sư đoàn pháo binh thứ tư. Đồng thời trung úy Đen-mông Bơ-bê chỉ huy đội công binh cũng để ý nghi ngờ thái độ một người trong đội kỵ binh và một người lính trong đội pháo binh thứ tư. Trước những tin báo dồn dập, thống sứ Bắc Kỳ Mo-ren vội ra lệnh điều tra đề phòng.

Trong đám binh lính bỏ thuốc độc, có tên Trương thuộc cơ công binh pháo thủ số 9, sau khi đã cùng các bạn tham gia vào việc giết giặc cứu nước, đã không nhận ra đó là một niềm tự hào mà vội vàng đi xưng tội với cố Ân, một cố đạo người Pháp nhà thờ Hà Nội bấy giờ. Tức thì cố Ân gọi điện thoại cấp tốc báo cho Đen-mông Bơ-bê. Đồng thời cũng có một tên cai lính thợ báo cho quan năm về vụ âm mưu đầu độc. Cùng lúc ấy, đại tướng Pi-en cũng được tin việc đã xảy ra và có những đám người đáng ngờ tụ họp xung quanh thành phố.

Vậy là kết quả vụ bạo động ra sao chúng ta cũng đã phần nào hình dung được. Quân Pháp một mặt cấp cứu bọn sĩ quan và quân lính trúng độc, một mặt tước khí giới và giữ binh lính người Nam trong trại để tra hỏi và khám xét. Đồng thời ra lệnh giới nghiêm, phái quân đi đóng chặn các cửa ô, vây từng khu phố bắt những người tình nghi.

Nghĩa quân ở bên ngoài đúng giờ không thấy súng hiệu, biết việc thất bại nên kịp thời rút lui.

Hầu hết những người chủ mưu trong quân đội và một số ở ngoài đều sa lưới giặc. Đội Bình, Đội Nhân, Đội Cốc, Cai Nga và nhiều người trong giới bồi bếp bị giặc chém và bêu đầu. Hội đồng đề hình của giặc đã xử tử 13 người và bắt bốn người khổ sai trung thân.

Sau khi không thành công, nhà ông Nhiêu Sáu giấu đi được mấy thúng dao găm và búa đanh. Giặc đến Tương Mai ập vào nhà ông vây bắt. Cả nhà ông trốn thoát chỉ còn một mình bà Nhiêu Sáu ở lại. Bà đã bị chúng bỏ vào chiếc vỏ của thùng xi măng trong cắm đinh tua tủa. Chúng lăn thùng trên sân gạch làm cho bao nhiêu đinh nhọn xé tan thịt bà Nhiêu Sáu, máu bà chảy ướt đẫm nhưng bà cương quyết không khai ra ai, một hai bà chỉ nói rằng "Nhà tôi là một hàng cơm, ai đến ăn tôi cũng thổi nấu chứ không biết gì hết". Bốn, năm tháng sau bà Nhiêu Sáu từ trần.

Cô Đồng Đa cũng bị bắt và bị giam ở Hà Đông. Giặc dỗ dành hăm dọa cô vẫn không khai gì hết. Kìm kẹp, treo ngược lên cây, bao nhiêu nhục hình cô vẫn vững như sắt đá. Cuối cùng cô thắt cổ tự sát.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Ba, 2017, 10:04:40 am

Từ vụ đầu độc binh lính Pháp ở Hà Nội như đã nói ở trên, so sánh với cuộc khởi nghĩa binh lính Thái Nguyên năm 1917 ta thấy:

Cả hai cuộc khởi nghĩa này đều có kết cục vô cùng bi thảm đó là việc bị bại lộ dẫn đến thất bại hoàn toàn. Vậy nguyên nhân nào dẫn đến sự thất bại như vậy:

Về mặt tổ chức: Cả hai cuộc khởi nghĩa đều tổ chức lộn xộn, thiếu chặt chẽ. Cuộc bạo động hoãn đi hoãn lại kéo dài tới gần nửa năm, mọi âm mưu nung nấu quá lâu, lại được quá nhiều phần tử biết nên đã gây nên sự phản bội vô cùng đáng tiếc cũng chính từ những binh lính của ta.

Về mục tiêu khởi nghĩa: cả hai cuộc khởi nghĩa đều có mục tiêu rõ ràng đó là đánh đổ chế độ chuyên chế, giành độc lập, biểu hiện lòng quyết tâm giết giặc và một tinh thần quyết chiến quyết thắng đối với kẻ thù nhưng tiếc rằng mọi chủ trương khởi nghĩa đều thiếu sự thống nhất, còn nhiều manh động nên dẫn đến kết cục bi thảm là máu chảy đầu rơi. Quân ta mất quá nhiều tướng lĩnh có tài cũng giống như rắn mất đầu vậy nên thất bại là tất yếu.

Về lực lượng tham gia: Cả hai cuộc khởi nghĩa đã huy động được lực lượng tham gia khá đông đảo, đặc biệt là những con người, tướng lĩnh có tài và có lòng kiên trung, bất khuất như cô Đồng Đa, bà Nhiêu Sáu... (Vụ đầu độc binh lính Pháp ở Hà Nội), hay người anh hùng Đội Cấn, Lương Ngọc Quyến, Đội Giá.... (Cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên). Những người con bất khuất ấy nếu có được một tổ chức chặt chẽ và một tư tưởng đồng lòng thì chắc sẽ không dẫn đến kết cục thảm hại như đã nói ở trên. Đó là sự hao binh tổn tướng và thất bại như một thảm họa.

Vụ đầu độc binh lính Pháp ở Hà Thành và cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên mặc dầu bị thất bại nhưng đã ghi dấu đầu tiên cuộc đấu tranh khởi nghĩa của binh lính Việt Nam trong hàng ngũ quân đội Pháp. Cố nhiên nội dung tuyên truyền và công tác tổ chức còn ở trình độ thấp có phần ấu trĩ, nhưng chúng ta ghi nhận ở đây hướng lãnh đạo mới của các sĩ phu yêu nước Việt Nam lúc bấy giờ nhằm phá tan âm mưu dùng người Việt trị người Việt của địch. Cố nhiên hai cuộc khởi nghĩa này nếu không bị bóp nghẹt ngay từ lúc mới bắt đầu bùng nổ thì cũng chưa đủ điều kiện để đảm bảo thành công. Tuy vậy, trong lúc một số chí sĩ Việt Nam đương vận động ở nước ngoài thì cuộc quật khởi của binh lính ta ngay trong lòng địch đã báo một luồng gió mới về phong trào đấu tranh cách mạng lan rộng, động viên được nhiều giới, nhiều tầng lớp tham gia cứu quốc, đặt cơ sở cách mạng ngày càng một vững bền hơn.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Gửi bởi: chuongxedap trong 03 Tháng Ba, 2017, 06:18:50 pm

Câu hỏi 17: Có một người phụ nữ đã dám hy sinh cả cuộc đời và biết vượt lên bi kịch gia đình trong chiến tranh vì vận mệnh dân tộc. Điều đặc biệt là cô đã có công trong việc giác ngộ Đội Cấn làm nên cuộc khởi nghĩa lớn Thái Nguyên. Hãy cho biết về người phụ nữ ấy? Quá trình giác ngộ tư tưởng của Đội Cấn được diễn ra như thế nào?
Trả lời:


Văn thân chống Pháp mà tiêu biểu là Đề Thám, đã dựa vào địa bàn Bắc Giang, Thái Nguyên để xây dựng căn cứ lâu dài. Trong số binh lính người Việt bị giặc bắt đi dẹp quân Đề Thám có viên đội Trịnh Văn Cấn. Được chứng kiến tinh thần bất khuất và sức chiến đấu dẻo dai của lãnh tụ nghĩa quân Yên Thế, Cấn sinh lòng kính phục.

Mỗi khi gặp nghĩa quân, Cấn không bắn hoặc vô tình bắn chỉ thiên. Nhiều lần chính mắt Cấn thấy giặc Pháp càn quét vùng có nghĩa quân hoạt động, chúng triệt hạ từng xóm, đánh đập tàn nhẫn cả người già và phụ nữ.

Một nghĩa quân sa vào tay giặc, lẫm liệt đường hoàng, sắc mặt không thay, vươn cổ đón lưỡi kiếm kẻ thù, quyết không hàng giặc. Bọn Pháp đem đầu người liệt sĩ đó bêu trên cọc. Thấy cảnh tượng ấy Đội Cấn càng thêm suy nghĩ. Ông đã nhìn rõ bộ mặt dã man của lũ giặc ngoại bang. Có lần tranh cãi với bạn đồng ngũ là Đội Giá về chuyện Đề Thám là người yêu nước thật sự. Đội Giá dần dần nghe ra lẽ phải. Đội Cấn cũng nhiều đêm không ngủ nằm suy nghĩ miên man. Cầm súng của quân Pháp để bắn vào người mình ư? Giặc nước là ai? Có phải mũi súng của ta cần phải nhằm vào lũ giặc mũi lõ mắt xanh kia? Tâm sự sâu kín ấy ông hay thể hiện với mấy bạn đồng ngũ những may có dịp dùng đến tài sức của mình chống giặc dữ, trả nợ nước. Sau đó Cấn được đổi về đóng ở Thái Nguyên cùng mấy bạn đồng ngũ tin cẩn, Đội Giá cũng được đổi về đó. Công sứ Thái Nguyên lúc bấy giờ tên là Đạc, một tên khét tiếng đánh đập tàn nhẫn tù nhân và ngược đãi binh lính. Cấn trông thấy lại càng thêm căm giận bọn thực dân tàn ác. Có hôm Cấn nói với Đội Giá: "Chẳng trách các ông đang nằm trong đề lao kia họ làm cách mạng". Đề lao Thái Nguyên ngoài những tù thường phạm còn có 42 chính trị phạm, trong đó có những thủ hạ của Đề Thám cùng những người trong vụ Duy Tân, Đông Du... Người lỗi lạc nhất là Lương Ngọc Quyến. Ông là một yếu nhân trong Việt Nam Quang Phục hội. Ông bị thực dân Pháp kết án khổ sai chung thân và cầm cố tại nhà lao Thái Nguyên. Tên công sứ Đạc rất căm ghét Lương Ngọc Quyến nên lập tâm hành hạ đến cùng cực. Hắn bắt ông đi làm khổ sai, cổ vẫn đeo gông, chân vẫn mang xích, ngược đãi đủ cách, chỉ sợ ông thừa cơ tuyên truyền cách mạng hoặc trốn thoát. Do bị kìm xích lâu ngày, chân ông bị lở loét rồi què liệt. Chân bị què ngồi trong xà lim, Lương Ngọc Quyến vẫn không ngừng tuyên truyền giác ngộ những binh lính trong nhà lao và tìm cách truyền tin tức ra ngoài.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Gửi bởi: chuongxedap trong 03 Tháng Ba, 2017, 06:19:17 pm

Trời đã về chiều. Những thân nhân của người tù đang bịn rịn chia tay, những giọt nước mắt ngắn, dài thảm sầu không kể xiết. Nhưng lần nào cũng vậy, có cô gái trạc chừng hai mươi xuân, vẻ xinh xắn, duyên dáng, vai khoác tay nải, đi lại hai ba lần trước cổng đề lao. Khi cô đi ngang qua cửa lần thứ tư thì bị một người lính quát đuổi. Cô gái vội lảng ra đầu đường vẩn vơ ở đó. Thình lình cô giật mình vì có người hỏi cô: "Cô tìm người quen trong kia à?". Cô ngoảnh nhìn thì đó là một viên đội khố xanh. Như hiểu rõ những băn khoăn của cô gái, viên đội nói: "Nếu cô muốn vào thăm người nhà tôi sẽ giúp". Cô thú thật mình muốn vào thăm hai anh là Thấu và Vịnh trong nhà lao. Viên đội hẹn cô chiều nay khi dẫn tù đi làm "cỏ vê" (lao dịch) sẽ tìm cách cho cô được gặp hai anh. Khoảng hai giờ, viên đội dẫn tù đi qua, dặn cô cứ chờ ở góc vườn hoa. Khi hai anh ra cô sẽ quay lại. Lát sau, viên đội dẫn Cả Thấu và Hai Vịnh gặp cô gái. Ba anh em gặp nhau mừng mừng tủi tủi. Từ đấy nhờ có Đội Cấn giúp đỡ nên cô gái thường xuyên được vào nhà lao tiếp tế cho hai anh. Cả Thấu và Hai Vịnh con ông thủ khoa Phùng Văn Nhuận - người đã từng chỉ huy nghĩa quân đánh Pháp vùng giáp giới Sơn Tây - Hưng Hóa, vốn là tướng của Đề Thám, sau khi Đề Thám thất bại, hai anh em còn ra sức thu góp tàn lực kháng chiến một thời gian rồi mới bị bắt. Thấy Đội Cấn ngày càng có tình cảm thân thiết với em gái mình, Cả Thấu và Hai Vịnh nói cho cô biết anh em trong đề lao muốn vận động lính tập đứng lên khởi nghĩa, khuyên cô nên kết duyên với Đội Cấn để việc quan hệ giữa ông ta với chính trị phạm trong lao được kín đáo, chắc chắn.

Lên thăm hai ông anh ruột của mình mà cô vẫn hồn nhiên như không. Cô cười nói tự nhiên nên càng xinh tươi lạ thường. Giữa núi rừng Thái Nguyên lại có một bông hoa rạng ngời như vậy khiến Đội Cấn mềm lòng. Dần dần, ông dành cho cô nhiều tình cảm dịu dàng và ngỏ lời muốn cùng cô kết nghĩa trăm năm, nhưng cô gái chỉ cười e thẹn chứ không trả lời dứt khoát.

Biết được chuyện này chiều nay, tranh thủ không có lính đứng soi mói canh chừng, ông anh đầu là Cả Thấu đã bảo với em gái út của mình:

- Em ạ! Biết em có tâm huyết và chia sẻ hành động của những người dám hy sinh vì nước, do đó anh mới tiết lộ cho em biết chuyện trọng đại...

Dừng lại, nhìn trước ngó sau, ông mới ra hiệu cho người em kế là Hai Vịnh tiết lộ bí mật:

- Các đồng chí ở đề lao và bên trại lính đang mưu phá ngục, em có thể giúp cho lực lượng cách mạng bằng cách như thế này...

Giọng thì thầm của Hai Vịnh nhỏ dần. Nghe xong, cô trả lời một cách quả quyết:

- Dẫu có hy sinh mà vì đại nghĩa thì em chẳng tiếc gì tấm thân.

Giây lát sau, cô nói tiếp:

- Nhưng ở nhà còn có mẹ già, chỉ một mình em chăm sóc. Em phải thu xếp xong trước khi vâng theo lời dạy của hai anh.

Nói xong, cô vội vã xuôi về Sơn Tây. Khi gặp mẹ, cô trình bày với mẹ mọi kế hoạch mà hai anh đã bàn với mình, bà mẹ bảo:

- Bố con bị chém giữa làng Vân Cốc, trước lúc mất cũng chỉ trăng trối như vậy thôi.

Cô rụt rè thưa:

- Nhưng còn mẹ, nếu mọi chuyện vỡ lở ra con sợ giặc sẽ giận cá chém thớt, mẹ sẽ bị vạ lây...

Bà mẹ cười không đáp. Tối hôm ấy để các con khỏi bận lòng, bà lẳng lặng thắt cổ chết ngay trong bếp.

Chôn cất mẹ xong, cô thu xếp lên Thái Nguyên và đồng ý làm vợ Đội Cấn với nhiệm vụ giác ngộ cách mạng cho chồng.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Gửi bởi: chuongxedap trong 03 Tháng Ba, 2017, 06:19:59 pm

Sau khi trở thành người vợ tâm đầu ý hợp của Đội Cấn, cô liền tìm cách xin việc bao thầu cơm tù, cơm lính cốt để mỗi ngày hai lần ra vào đề lao, đem thư từ tin tức của Lương Ngọc Quyến và tù chính trị gửi ra cho Đội Cấn. Lương Ngọc Quyến đã đem tôn chỉ mục đích Việt Nam Quang Phục hội trình bày với Đội Cấn. Đội Cấn mừng rỡ và tự nguyện đứng dưới lá cờ của Việt Nam Quang Phục hội. Giữa lúc đó xảy ra cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất, Đức đánh Pháp... Một số đơn vị lính Pháp cùng vũ khí đạn dược phải rút bớt đưa về chiến trường châu Âu. Lương Ngọc Quyến cho là thời cơ đã đến, từ trong đề lao viết thư cho Đội Cấn, khích lệ mau cử sự. Vợ Đội Cấn hàng ngày lại đem những chuyện thù nhà nợ nước nói với chồng để giúp Cấn càng thêm quyết tâm.

Ngay trong đêm tân hôn, cô đã thủ thỉ cho chồng nghe bài thơ tuyệt mệnh mà bố mình - nhà cách mạng Phùng Văn Nhuận đã đọc trước lúc bị chém:

      Đời là thế, ấy đời là thế
      Hồn có thiêng cũng hé miệng cười
      Những quân dạ thú mặt người
      Quá ham danh lợi, đạo trời kể chi
      Lại gặp lúc nước suy thế ngặt
      Lũ "rước voi" ra mặt tung hoành
      …
      Thi nhau bán nước cầu vinh
      Còn đâu nghĩ tới chút tình keo sơn!


Nghe xong bài thơ Đội Cấn suy nghĩ rất nhiều. Ông nhớ lại tháng ngày trước đây đã từng tham gia đàn áp phong trào Yên Thế của Đề Thám, nhưng biết cụ chủ trương chỉ giết giặc Pháp chứ không đánh lính khố xanh, khố đỏ nên Đội Cấn dần dần hiểu được việc làm chính nghĩa của người kháng chiến. Hiểu và khâm phục nhưng nào dám tâm sự với ai, nay được vợ phân tích trái phải thì ông càng "tâm phục khẩu phục" và bộc bạch nỗi lòng với người đầu ấp tay gối.

Từ đấy, mầm mống chống đối lại nhà nước bảo hộ đã hình thành trong tâm trí Đội Cấn. Rồi mỗi ngày người vợ trẻ lại đem chuyện thù nhà nợ nước tỉ tê khuyên lơn chồng sống sao cho đáng mặt làm trai. Đội Cấn xiêu lòng và tác động đến hai bạn tâm giao là Đội Giá và Đội Xuyên.

Anh em binh lính canh gác đề lao cũng hết sức giúp đỡ, giữ gìn kín đáo việc giao thiệp, bàn tính giữa Lương Ngọc Quyến và Đội Cấn. Bọn tai mắt của giặc Pháp đặt khắp nơi mà chẳng hay biết gì. Những chính trị phạm cũng lợi dụng lúc đi làm "cỏ vê” để tuyên truyền giác ngộ những binh lính áp giải. Số binh lính hưởng ứng khởi nghĩa ngày một đông. Công sứ Đạc, giám binh Nô-en, phó quản Lạp đối xử với binh lính người Việt hết sức tàn ác, nên khi được tuyên truyền vận động, họ hưởng ứng ngay. Cũng từ đấy một nhóm người giác ngộ nhất đã được tập hợp chung quanh Đội Cấn như các ông Đội Giá, Đội Tường, Cai Mánh, Ba Chén, Cai Sơn...


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Gửi bởi: chuongxedap trong 03 Tháng Ba, 2017, 06:20:22 pm

Bấy giờ, để cai quản đám tù nhân dám "hiên ngang đối đầu cùng cái chết" đã từng chiến đấu dưới ngọn cờ oanh liệt của Hùm thiêng Yên Thế Đề Thám, từng hoạt động trong tổ chức Việt Nam Quang Phục hội... nên nhà cầm quyền đã phái tên Đạc từ Hà Nội lên làm công sứ Thái Nguyên. Sự tàn bạo của y khủng khiếp đến nỗi chính thống sứ Ga-len đã nhiều lần khuyên y không nên giết người tù một cách man rợ và trong dân gian ta đã có câu nguyền rủa: "Nhất Đạc, nhì Ke, tam Be, tứ Bích!". Thế nhưng với dòng máu thực dân sôi sục trong người, Đạc không những cai trị người tù mà còn hành hạ cả đám lính khố xanh với tất cả thú tính. Nhiều lần chứng kiến tội ác của Đạc, Đội Cấn có lần tâm sự với đồng đội: "Thân phận thằng cai tù anh em mình nào khác gì con chó! Chủ lệnh sủa thì sủa, chủ lệnh cắn thì cắn, chứ có biết việc làm của mình đúng sai thế nào đâu!". Chính thái độ của Đạc càng làm Đội Cấn căm thù bọn thống trị.

Cuộc đại chiến thế giới càng làm rõ sự suy nhược của giặc Pháp. Anh em binh lính thừa cơ nổi dậy. Một ban chỉ huy khởi nghĩa được lập ra trong đó có Đội Cấn, Đội Giá, Đội Xuyên. Mọi người đánh địch đến tháng Năm âm lịch nhân dịp tên giám binh Nô-en đi đốc thuế ở huyện Đại Từ sẽ hành động. Trong đoàn lính đi bảo vệ món tiền thuế từ Hùng Sơn về tỉnh Thái Nguyên có Đội Lữ là người trong nghĩa quân. Ông Lữ đã chú ý sắp đặt những binh lính đi theo đều là những người có âm mưu bạo động. Đến bến đò Huy Ngạc, theo kế hoạch họ định giết tên giám binh cướp lấy bạc thuế rồi kéo về tỉnh lỵ cùng bạn đồng hành nổi dậy. Nhưng cân nhắc thấy nếu chưa diệt được đồn lính Pháp phòng vệ tỉnh thành, thì lực lượng nghĩa quân vẫn còn mỏng không thể tuyên chiến trước với chúng, vì vậy mọi người đều lặng lẽ kéo về. Lần khác họ định đốt một rạp hát ngoài phố vào lúc đêm khuya, khi đó lính sẽ phải chạy ra chữa cháy, nhân đó binh lính ta sẽ khởi nghĩa, vừa vây đánh bọn Pháp vừa xông vào trại lính Pháp, cướp súng rồi đánh chiếm tỉnh thành. Nhưng ông Quyến bàn nên hoãn lại vì khởi sự như vậy chưa chắc chắn. Ngày 14 tháng 7 năm 1917 (ngày khởi nghĩa phá ngục Bát-xti) binh lính Pháp, Việt phải đi duyệt binh, súng thường không lắp đạn, quân khởi nghĩa định nhân cơ hội đó sẽ đánh úp bọn Pháp. Nhưng Đội Cấn lại lo dân chúng đi xem hội đông sẽ bị chết lây. Do đó cuộc khởi nghĩa một lần nữa lại phải hoãn lại. Sau ba lần định khởi nghĩa không thành, những tiếng đồn đại từ trong binh lính và chính trị phạm đã lan ra nhân dân ngoài phố. Bọn thống trị cũng đã đánh hơi thấy nên chúng tung lũ tay sai đi dò la nghe ngóng. Sang tháng 8 năm 1917 có tin sắp có cuộc thuyên chuyển trong đám cai đội lính khố xanh. Ông Đội Cấn có tin đồn là sẽ phải đi nơi khác. Đã đến lúc cuộc khởi nghĩa phải nổ ra. Sau khi nhận được tin ông Quyến, Đội Cấn quyết định sẽ khởi nghĩa vào cuối tháng. Ông viết thư mật cho các đồng chí ở các đồn lẻ trong tỉnh như Chợ Chu, Tràng Xá, Đồn Đu... Về tỉnh lĩnh lương hẹn ngày hôm sau nổi dậy. Đêm hôm đó 30 rạng 31 tháng 8 năm 1917 ở trại lính khố xanh Thái Nguyên, binh lính các nơi về lĩnh lương náo nhiệt bàn khởi nghĩa và cuộc khởi nghĩa đã chính thức nổ ra.

Trên đây là toàn bộ quá trình giác ngộ cách mạng cũng như cuộc đời riêng của người anh hùng Đội Cấn lừng danh.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Gửi bởi: chuongxedap trong 03 Tháng Ba, 2017, 06:21:06 pm

Câu hỏi 18: Anh hùng Đội Cấn giống như một nhân vật huyền thoại đã đi vào lịch sử dân tộc. Hãy cho biết đôi nét về người lãnh tụ nghĩa quân tài ba cùng những đồng đảng dũng cảm của ông? Họ đã chiến đấu như thế nào cho đến phút cuối cùng?
Trả lời:


Đội Cấn quê ở Thổ Tang, Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên (nay thuộc xã Thổ Tang - huyện Vĩnh Tường - tỉnh Vĩnh Phúc). Ông ra lính năm 1913. Tính đến lúc có cuộc rối loạn ở Thái Nguyên vừa đúng bốn năm. Ông người đẫy đà, khỏe mạnh, đi đứng nhanh nhẹn, nói năng hoạt bát, khuôn mặt bao giờ cũng vui tươi, trán cao và gồ, tỏ vẻ cương quyết. Hai con mắt ông sáng quắc lộ vẻ tinh anh. Lúc mới ra tòng chinh, Cấn đóng ngụ tại tỉnh nhà. Sau một năm Cấn lên Thái Nguyên. Cấn làm việc rất siêng năng, cẩn thận nên được đóng Cai rồi được đóng Đội. Những lúc lên Thái Nguyên, Cấn cho là quan trên quá nghiêm khắc vì thế mà Cấn sinh ra những ý nghĩ quật cường. Bạn đồng ngũ với Cấn có Đội Tường, Đội Giá, Đội Xuyên. Những ông này rất ý hợp tâm đầu với nhau. Cũng chính vì vậy họ luôn liên kết và nhiều lần lấy những mục đích khác, dùng những giọng nói hùng hồn để quyến rũ thêm đồng đảng. Những lính tráng trong trại, những người buôn bán trong phố rất ủng hộ những ý nghĩ đó và đợi cơ hội nhập bọn với Cấn. Nhất là những người bị tù, mỗi lần đi làm "cỏ vê" mà có lính của đảng Cấn đi trông nom là họ khóc rưng rức. Vì quá cảm động đến những lời nói của các chú... Và những chuyện rắc rối xảy ra sau này cũng vì đó. Vì tù nhân đi làm "cỏ vê" không đạt hiệu quả cao. Họ ra đến chỗ làm chỉ mải mê nghe các chú thuyết hết vấn đề nọ đến vấn đề kia. Đấy chẳng qua là những mưu mô của Cấn cả. Cấn hiểu rõ những người tù này chỉ vì nghèo đói nên sinh ra làm xằng. Đến khi bị bắt thì hối hận lắm, vậy mà lại bị giam cầm nữa thì càng trở nên bực dọc. Những lúc đó nếu ai khởi xướng một việc gì thì họ sẽ hưởng ứng ngay. Lúc về trại vì công việc không được chu đáo, các chú lính phải mang súng đi quanh sân... Những cách trừng phạt này khiến cho Cấn cùng đồng đảng muốn quên đi cũng không được vì ngày nào cũng thường xuyên xảy ra. Dần dần có người bị phạt tới mức lột hết lon mũ.

Một hôm nhân ngày các tù được xe gạch chở vào trại lính Tây để làm nhà. Đội Cấn biết đích xác những người lính trông tù hôm đó là đồng đảng của mình và các tù nhân đó là những người đã tỏ vẻ bằng lòng với ý nghĩ của Đội Cấn nên đã mật báo cùng các đồng đảng, nhân dịp này cứ trong phá ra mà phân phát súng, đạn cho tù. Nhưng có người đã báo cho quản Lạp nên hắn không cho tù nhân và binh lính ta vào trại làm nữa. Câu chuyện đó thời gian cũng làm quên dần nhưng lòng thù hận của Đội Cấn và đồng đảng thì không bao giờ nguôi được và từ đó ngọn lửa căm thù càng bốc lên ngùn ngụt. Một lần nữa, nhân ngày lễ Chính Trung (ngày 17-7-1917) ở Thái Nguyên có cuộc điểm binh nghiêm ngặt, cấm không cho lính mang đạn ra lúc duyệt binh. Đội Cấn mật báo cho các đồng đảng để lúc duyệt binh thì cứ bắn vào các đội binh của chính phủ thì thế nào cũng được vì tất cả lính đều không có đạn nên không kịp trở tay. Nhưng trong số những người theo Cấn lại có người không hết lòng với Cấn, sợ lụy đến thân nên đã đem chuyện đó báo cho quản Lạp biết. Biết chuyện này, quản Lạp tức lắm, hắn bắt lính ta phải vào cho hắn khám trước khi ra dự cuộc diễu binh. Đội Cấn cũng biết âm mưu của mình bị bại lộ nên báo cho đồng đảng của mình trút hết đạn lại để cho quản Lạp khám.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Gửi bởi: chuongxedap trong 03 Tháng Ba, 2017, 06:21:27 pm

Sau ngày lễ Chính Trung, quản Lạp đã tư giấy lên cho ông Nô-en kể rõ chuyện nghe thấy ngày 14 tháng 7 và nói: Bây giờ muốn tránh mọi sự rắc rối lôi thôi không gì bằng đổi mỗi người một tỉnh là yên, chứ cứ giữ nguyên như thế, tất sẽ có ngày rối loạn lớn. Quản Lạp lại nói vì câu chuyện hôm ấy không có bằng chứng cụ thể nên không thể buộc tội cho ai được. Ông Nô-en nói: "Nếu thế thì đã chắc đâu là chuyện thực xảy ra như vậy". Quản Lạp lại bắt đầu kể vắn tắt vì sao trước đây hai tháng mình không cho tù và lính vào trại làm nhà, sau Lạp lại nói: "Những người lính này cũng lười nhác lắm để ở lại đây cũng chẳng lợi lộc gì thì cứ cho đổi chỗ khác và lấy lính ở tỉnh khác về thì họa may dân tỉnh Thái mới được chắc chắn mà làm ăn chăng?". Nghe xong biết rõ sự tình, ông Nô-en mới đưa ý kiến ra nói cùng ông Đạc (chánh sứ Thái Nguyên thời đó) và ông Tuýt-tơ (phó sứ Thái Nguyên lúc bấy giờ). Cả ba ông đều theo như cách nói của quản Lạp định đến lúc hết hè thì thi hành vì ở Thái Nguyên nóng nực, khó chịu nên ông Đạc đã được phép ra Đồ Sơn nghỉ mát, còn ông Tuýt-tơ thì đến Vân Nam nghỉ. Không hiểu tại sao mà những mưu kế bí mật của Đội Cấn lại đến được tai quản Lạp và trái lại những điều bàn tán kín đáo của ông Đạc, Tuýt-tơ và Nô-en cùng quản Lạp lại cũng bị Đội Cấn và đồng đảng biết hết.

Thấy các việc đều thất vọng, các cơ mưu đều đã bại lộ, anh em binh lính đã một lòng một dạ cùng nhau làm toại nguyện ý định mà giờ đây thì mỗi người sắp mỗi ngả. Đang sum họp một nơi, cùng nhau bàn mưu kế chống kẻ thù, lẽ nào lại phải chia tay kẻ này chốn khác, mọi người đều rất buồn. Họ đã làm một tiệc rượu để cùng uống cho vơi nỗi buồn. Nhân lúc rượu đã ngà ngà say, Đội Tường nói với Đội Cấn: "Chúng ta sở dĩ cùng nhau kết thành đảng phải chăng chỉ vì một mối thù chung. Nhưng vì hai lần trước đều vỡ lở nên công việc nặng nề to tát kia chưa có gì gọi là kết quả. Vậy trước khi anh em chúng ta xa nhau, ông là người phải cho anh em biết ý kiến". Đội Cấn bao giờ cũng để ý đến công việc của đảng mà bây giờ thấy Đội Tường hỏi thì như được nhắc lại trong lòng và thêm phần can đảm. Vì hai lần trước bị thất bại nên Cấn chỉ muốn chờ thêm một cơ hội khác, Cấn hiểu phải có cơ hội thì mới giúp đảng Cấn làm nên việc lớn. Nhưng giờ đây, chỉ nay mai là anh em của Cấn đã phải xa nhau thì dù sau này có cơ hội tốt đến đâu chăng nữa cũng chỉ bằng thừa. Đội Cấn là người được anh em tôn trọng ngay từ khi mới kết thân. Anh em thường nói: Cấn là người quả quyết, can đảm. Khi nghe Đội Tường nói vậy lòng Cấn càng thêm phấn chấn. Chi bằng nhân lúc ông Đạc và ông Tuýt-tơ đi vắng biết đâu lại là một cơ hội tốt cho đảng của Cấn. Nghĩ vậy Cấn liền đứng dậy dõng dạc nói: "Anh em đã hỏi, tôi xin nói để cùng biết. Bây giờ ông Đạc và ông Tuýt-tơ đi nghỉ mát, chúng ta chả nhân lúc này mà làm việc theo chí hướng còn định đợi đến bao giờ. Hôm nay tôi mời các anh em đến đây mục đích cũng chỉ cốt hỏi anh em về việc đó, nhưng chưa tiện nói thì ông Tường đã nhắc tới. Bây giờ trong trại chỉ còn lại ông Nô-en và quản Lạp, chúng ta nên hạ thủ ngay kẻo hoài mất dịp tốt". Đội Cấn nói xong thấy mặt anh em ai nấy đều lộ vẻ vui tươi, hồ hởi. Họ hoan hô hưởng ứng câu nói của Cấn.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Gửi bởi: chuongxedap trong 03 Tháng Ba, 2017, 09:11:28 pm

Trong số các anh em đến ăn cơm ở nhà Đội Cấn tối hôm ấy có:

Đội Cấn đứng đầu, quê ở Thổ Tang, Vĩnh Tường, Vĩnh Yên (nay thuộc tỉnh Vĩnh Phúc), lính số 71;

Đội Giá, quê ở Nhã Long, Úc Sơn, Phủ Bình, lính số 697;

Đội Tường, tức là Đội Thơ Lại, lính số 788;

Cai Xuyên, lính số 789 sau được Đội Cấn cho đóng làm quan năm.

Và hai người lính nữa là Chén và Luận, người ta vẫn gọi Luận là ông Nớp Săng Đu (số lính của Luận là 912), cả hai người sau đều được Đội Cấn cho đóng quan ba. Sau này Luận bị quân chính phủ bắt được đã đem đày ở Chợ Chu, ở tù được ít lâu lại phá ngục ra làm giặc.

Cơm xong, khoảng 12 giờ đêm, Đội Cấn liền xếp đặt các công việc để các anh em cùng làm. Luận đi giết quản Lạp thì giết được ngay, còn Chén đi giết ông Nô-en thì lại giết hụt nhưng lúc về vẫn nói với Cấn là ông Nô-en đã bị giết.

Lại nói về Nô-en, khi thấy có người đến chực giết thì chạy ngay ra cổng, sau lại chạy về nhà ông chánh sứ Đạc mà gọi Đội Cấn. Nghe tiếng gọi biết là Nô-en còn sống, Đội Cấn mới cùng Đội Tường ra để giết Nô-en. Nô-en gọi mãi không thấy Đội Cấn thưa, lúc đang đêm lại thấy có bóng người tiến lại gần mình, ông nghi là quân gian lúc nãy nên bỏ chạy về nhà riêng.

Vừa về tới nhà thì Cấn và Tường cũng đuổi kịp. Giết được Nô-en, Cấn vào ngay trong nhà riêng của Nô-en lấy cái khăn trải bàn kéo lên làm cờ. Xong rồi Cấn quay về đưa cả đồng đảng vào trại lính khố xanh, ở trại lính lúc bấy giờ còn hơn ba chục người. Trong số đó có tám người vì kháng cự với quân của Cấn nên bị giết ngay. Còn gần ba chục nữa, biết rằng không theo cũng không được nên đành cùng nhau trốn ra phố ăn mặc giả nhà quê, kéo nhau vào trại lính Tây, thấy động liền thổi kèn báo động. Đội Cấn ở trại lính khố xanh biết việc đã vỡ lở cũng cho quân thổi kèn báo động. Quân ở trại lính Tây thấy vậy tưởng là có giặc ở ngoài vào tỉnh, lập tức cho điểm 40 người lính và hai khẩu súng cối do ông quan hai dẫn sang trại lính khố xanh hợp sức lại làm một để cùng đuổi giặc. Nhưng vừa đi đến kho bạc thì bị quân của Cấn cản lại. Biết có nội loạn ông quan hai không dám đánh, đành phải mang quân về trại để rồi xin thêm binh cứu viện.

Thế là đêm hôm 14 tháng Bảy năm Đinh Tỵ (tức đêm 30-8-1917), vào khoảng chín giờ sáng thành phố Thái Nguyên đã tạm về tay Đội Cấn.

Năm giờ sáng hôm ấy, Cấn chia đồng đảng ra làm ba đội. Một toán do Đội Tường trông nom, dẫn ra phá các máy ở nhà dây thép và cắt các dây điện ở các tuyến đường.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Gửi bởi: chuongxedap trong 03 Tháng Ba, 2017, 09:12:37 pm

Ông Kế, người trông nom nhà dây thép thấy có loạn liền định đánh dây thép báo tin ra các tỉnh lân cận. Nhưng muộn quá! Ông sờ đến máy nào cũng đã bị hỏng cả. Duy chỉ còn một cái máy con mà ông Kế cho là có hy vọng dùng được nên vội vàng mang ngay máy cùng người nhà chạy vào trại lính Tây. Vào đó nhờ có mấy người lính Pháp giúp sức chữa mãi mới dùng được. Ông Kế liền báo tin ngay về phủ Thống sứ Hà Nội, quan thống sứ hồi đó là ông Lơ Ga-lăng.

Còn Đội Giá thì đưa quân vào nhà phá khám cho tù ra. Lúc phá được vào đến sân thì bị ông Lô-ê, người trông nom ở khám ngăn lại, ông Giá tức quá liền giết chết ngay y cùng với vợ của y. Các tù được thả ra đều chạy cả về trại lính khố xanh để mặc áo và mang khí giới. Trong số các tù đó có Ba Chi, tướng của Đề Thám, Nguyễn Gia Cầu, Ba Nho và Lương Ngọc Quyến con ông tử Can. Lương Ngọc Quyến vì bị cùm xích lâu năm nên chỉ ăn uống được mà không thể đi được. Dù vậy Đội Giá biết Ngọc Quyến là một đảng viên cách mạng có tài nên cho người cõng về trại để hỏi các mưu chước. Đưa Ngọc Quyến về đến trại, Đội Cấn hỏi Ngọc Quyến: "Bây giờ đã đến nước này thì nên xử trí ra sao để đối phó với quân chính phủ?". Ngọc Quyến nói: "Ngay đêm hôm nay nên cho quân đào hầm các lối như Gia Sàng, trên đường Hà Nội - Thái Nguyên, ở Chợ Mới - Bắc Kạn và chung quanh tỉnh cho quân mai phục tại đó, chờ quân của chính phủ các nơi đến cứu là đón đánh".

Cai Xuyên cũng đưa các đồng chí trong đảng ra phá kho bạc ngay tối hôm đó. Vào được kho bạc rồi, nhưng vì két bạc khó phá quá nên mãi hôm sau mới lấy được bạc ở trong két ra. Tất cả lấy được 30.000 đồng bạc giấy và 41.000 đồng bạc hào.

Sáng hôm sau, ngày 31 tháng 8 năm 1917, các phố Thái Nguyên nhà nào nhà nấy cửa đóng im ỉm. Cả thành phố vắng lặng như tờ. Ở trại lính khố xanh các quân gác vẫn như cũ, không có gì có thể biết được là tối hôm qua ở đây đã có cuộc rối loạn. Người lính canh cổng vẫn đi lại như ngày thường. Lúc đó có một người đàn bà ăn mặc theo lối nhà quê, tự xưng là vợ của Đội Cấn bày tỏ ý muốn vào thăm Cấn. Thấy có người hỏi, lính canh vào báo cho Cấn biết: "Có vợ ở nhà quê lên thăm". Nghe dứt câu, Cấn hầm hầm nổi giận nói to lên rằng: "Ta bây giờ chỉ có một mình với nước chứ không hề có vợ con chi hết". Quân canh cứ như thế truyền đạt lại với vợ Cấn. Cấn thật giống Lưu Bị đời Tam Quốc bên nước Tàu.

Quan thống sứ Lơ Ga-lăng nhận được tin ở Thái Nguyên có cuộc rối loạn liền gọi ngay dây nói cho ông Đạc ở Đồ Sơn lệnh phải về ngay Hà Nội, sau đó ông lấy ô tô đi đón ông Đạc.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Gửi bởi: chuongxedap trong 03 Tháng Ba, 2017, 09:13:11 pm

Ô tô của ông Lơ Ga-lăng đi đến Phú Thụy thì gặp ô tô của ông Đạc. Hai ông cùng đi lên Thái Nguyên. Đến Đa Phúc, cách tỉnh lỵ Thái Nguyên chừng ba cây số thì gặp một toán quân của chính phủ. Ông Ga-lăng lấy 40 người lính ở Hà Nội và ở Bắc Giang do hai ông Pen-lê-gri-ni và Mác-ti-ni chỉ dẫn, vừa đi ô tô tới đó. Ngay đêm hôm đó, ngày 31 tháng 8 năm 1917 có 14 chiếc xe ô tô ca-mi-ông chở toàn lính tráng và súng đạn đến Gia Sàng, cách hầm của Đội Cấn 500 thước. Sáng hôm sau, ngày 1 tháng 9 năm 1917 lại có 80 người lính Đáp Cầu cũng đến Gia Sàng... Sau đó chúng chi viện thêm nhiều lính nữa. Nhưng lúc mới đi đến chân đồi về phía tay trái đường Hà Nội - Thái Nguyên thì gặp quân mai phục của Đội Cấn đổ ra đánh. Lúc ấy quân của Đội Cấn thế rất mạnh, quân của chính phủ lại bị đánh bất thình lình nên đã thua to. 10 giờ sáng ngày 2 tháng 9 năm 1917 quan năm Bẹc-giê đến Gia Sàng. Ngày hôm sau, ngày 3 tháng 9, lại có một đội binh tây chừng 120 người và một toán lính ta chừng 80 người cũng được đưa đến Gia Sàng định đến sáng mùng 4 tháng 9 sẽ đánh để lấy lại tỉnh Thái Nguyên.

Nhưng đêm mùng 3 rạng mùng 4 tháng 9, quân mai phục của Đội Cấn đã biết đánh ngay vào đồn Gia Sàng, trong trận đánh này ông Mác-ti-ni bị bắt rồi bị giết. Mặc dầu trận đánh tối hôm ấy bị thua, ông Bẹc-giê ra lệnh cho quân tiến đánh Thái Nguyên. Đến Thái Nguyên thì vừa đúng sáu giờ sáng hôm sau tức là ngày 4 tháng 10. Lúc ấy ông Bẹc-giê ra lệnh cho quân cứ bắn súng cối xay vào hai đầu tỉnh. Đến 4 giờ 30 phút chiều mùng 4 tháng 9 thì đội pháo thủ đã vào được trại Xơ-sa-ri tỉnh Thái rồi. Cũng trong ngày hôm ấy 80 lính lê dương chia ra thành hai đội lại đến Gia Sàng tiếp ứng cho quân chính phủ. Rạng sáng ngày hôm sau, ngày 5 tháng 9 trong trại lính tây ném bom ra như mưa sang phía trại lính khố xanh, kho bạc và nhà tù, vì quân chính phủ tưởng quân địch còn lẩn khuất trong những nơi đó.

Đúng trưa mùng 4 tháng 9 năm 1917 thì quân của chính phủ đã lấy được lại toàn bộ tỉnh Thái Nguyên. Còn quân của Đội Cấn càng chống cự càng bị suy yếu. Sau biết là quân của chính phủ nhiều, lượng sức đánh cũng không có lợi nên đành chia nhau ra mỗi người chạy một ngả. Tính ra trận này quân của chính phủ 15 người chết và 20 người bị thương, còn quân của Đội Cấn hy sinh 50 người và bị thương 35 người cùng với súng đạn. Trong lúc bối rối, Đội Cấn cũng không sao quên được Ngọc Quyến, một người đã bày mưu cho quân mình giành thắng lợi ở trận Gia Sàng. Nhưng đây là lúc nguy biến nhất, mà Ngọc Quyến thì không thể nào chạy theo quân được nên mới dẫn đến cái chết sau này.

Suốt từ mùng 1 đến mùng 4 tháng 9 năm 1917 ông thống sứ và ông Sáu tư giấy đi khắp nơi tin tức cho nhân dân các miền quê biết rằng nếu ai theo Đội Cấn làm loạn thì sẽ bị nghiêm phạt như ở Chợ Chu.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Gửi bởi: chuongxedap trong 03 Tháng Ba, 2017, 09:14:05 pm

Quân của Đội Cấn bị bại ở Thái Nguyên thì cùng nhau chạy về phía Chợ Mới, lúc chạy đến Giang Tiên, cách tỉnh lỵ Thái Nguyên chừng 14 cây số, khoảng bốn giờ chiều thì lại họp cùng dân làng Phú Lương để cùng nhau chống giữ con đường dọc sông Don Du. Nhưng trong số dân làng đồng ý theo Đội Cấn có một người tên là Đội Thành đi lính đã mãn khóa về hưu không nghe theo Đội Cấn mà lại muốn nhân dịp này hại Đội Cấn để lập công. Đội Cấn biết ý liền sai Cai Xuyên (bấy giờ đã đóng quan năm rồi) ra đánh giết Đội Thành. Giết được Đội Thành rồi quân của Đội Cấn lại kéo về Bình Sơn. Đến đây Đội Cấn lại gặp ông huyện Đại Từ là ông Trần Văn Trư, ông này được tin Đội Cấn đến liền chạy lên một ngọn đồi cao và hiểm trở. Nhân vì thấy Đại Từ là một người giàu có, thịnh vượng nên Đội Cấn bắt dân làng phải viện trợ lương thực cho quân của mình và viết thư mời ông huyện Đại Từ - Trần Văn Trư lại chơi và ra lệnh phải tìm cho Cấn sáu chỗ đất rộng rãi để quân lính ở. Tiếp được thư ông huyện Đại Từ không biết trả lời ra sao đành làm thinh không. Vì vậy vào khoảng năm giờ chiều ngày 5 tháng 9 năm 1917 Đội Cấn đã đưa một toán quân đến chỗ tri huyện ở để hỏi tội. Ông huyện phải cùng với 20 lính cơ và 20 trai tráng ra chống cự. Đánh nhau mãi đến hơn bảy giờ tối mà không bên nào chịu lui. Đội Cấn bèn thu quân về phía Huy Ngạc ở ven sông Công. Rạng sáng ngày 6 tháng 9 năm 1917 một toán quân do quan hai (Phăng) đưa đi Tam Đảo, lúc qua Hùng Sơn thì đúng sáu giờ sáng. Thấy quân của Đội Cấn xếp thành hàng ngũ sắp sửa đánh đồn, ông Phăng liền cho quân của mình chống cự. Đánh nhau suốt từ sáu giờ sáng đến sáu giờ tối thì mới đuổi được quân của Đội Cấn ra khỏi Hùng Sơn. Đấy là nhờ có những người nhà quê đưa đường chỉ lối cho quân của ông Phăng.

Ở Thái Nguyên sau khi quân của chính phủ đã lấy được tỉnh rồi (5-9) thì được tin ngay từ chiều hôm trước (4-9) quân của Đội Cấn đến Giang Tiên phá phách các nhà của những người Pháp trong hội Manh-lơ-rơ. Được tin như vậy, nhưng muốn để cho quan quân nghỉ ngơi rồi đến ngày 6 tháng 9 mới tờ mờ sáng thì ông Bẹc-giê đưa một đội quân đến Phấn Mễ cách tỉnh lỵ Thái Nguyên 16 cây số để đuổi gấp Đội Cấn. Đội quân này đi mãi đến bốn giờ chiều mới tới Phấn Mễ và gặp được quân của ông Phăng vừa tới. Ông Phăng kể cho ông Bẹc-giê nghe chuyện đánh nhau vô ích của viên tri huyện Đại Từ chiều hôm trước và cách đuổi quân địch của đội quân Tuyên Quang.

Ngày 7 tháng 9 năm 1917, quân lính đều được nghỉ và cùng hôm ấy các quân do thám của chính phủ và các dân quê cho biết cách xếp đặt của Đội Cấn.

Ngày 8 tháng 9 vào lúc năm giờ sáng ông quan năm Bẹc-giê chia ra một toán quân đi đến Hùng Sơn. Đội Cấn biết thế nguy vì về phía nam thì chỉ có hy vọng chiếm được Chợ Chu nhưng lại bị quân địch ở Vân Lang chống giữ, còn phía trên lại có đồn Quảng Nạp canh phòng cẩn mật.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Gửi bởi: chuongxedap trong 03 Tháng Ba, 2017, 09:14:44 pm

Quân của chính phủ thế nào cũng có một trận đánh úp với quân địch nhưng đến ngày 8 tháng 9 một người Mán đi do thám về báo tin: Từ sáng cho đến chiều toán quân của Đội Cấn ước chừng độ 120 khẩu súng đã đến chiếm được một làng Mán ở Quân Chu dưới núi Tam Đảo. Chỗ ấy rất hiểm trở vì nhiều lạch và một khu rừng tre rất khó đi lại. Biết vậy ông quan năm Bẹc-giê liền báo cho quân biết là lại phải về Sơn Cốt.

Sáng ngày 9 tháng 9 ông quan năm Bẹc-giê cho ô tô đưa một toán quân có cả lính tập, lính khố đỏ và lính lê dương về Bến Đông và định đánh từ phía nam đánh tới Quân Chu. Quân của Đội Cấn không chạy về phía đông nữa vì ở đó có một con đường đã bị chắn. Bây giờ chỉ còn một lối nhỏ, trắc trở khó đi, muốn chạy thì phải trèo qua núi Tam Đảo, qua Vĩnh Yên và làng Xã Hùng.

Nghĩ vậy, ngày 10 tháng 9, ông Pây-ru đưa quân đánh Quân Chu. Quân của Đội Cấn thấy nguy hiểm liền bỏ chạy và quả nhiên phải chạy qua núi Tam Đảo. Sau toán quân của Đội Cấn có sáu người nữa cũng chạy về miền Sơn Cốt. Quân của chính phủ không nghĩ đến việc đón đánh Đội Cấn ở rừng tre và núi Tam Đảo mà về phía nam thì chỉ cho quân đến Sơn Cốt và Bến Đông, còn về phía bắc thì cho quân đến Cát Nê và Hùng Sơn. Một toán lính và hai, ba chục người nhà quê thì len lỏi vào các rừng từ Bến Đông đến Cát Nê để tìm kiếm quân của Đội Cấn. Đi đầu của toán quân Pháp này có hai người lính và một người cai ta. Ba người này được toán quân sau cho làm do thám đi trước tìm quân Cấn và dẫn đường. Lúc đi, ba người này đã có lệnh nếu gặp nguy hiểm vẫn phải tiến chứ không được quay đầu nhìn lại hay chớ có nấn ná để chờ quân sau khiến bại lộ. Lúc vào đến trong rừng, trên một lối đi bé nhỏ và khúc khuỷu rậm rạp, nếu để ý thì mới thấy ba người ăn mặc theo lối nhà binh đang cùng nhau lần bước. Lúc cúi rạp xuống mặt đất, khi thì đi rất nhanh, khi lại rất chậm.

Đoành! Một tiếng súng nổ, ba người đang đi bỗng giật mình vì tiếng súng rồi một người khuỵ xuống, lúc ngã tay chạm vào cò súng, viên đạn xuyên qua ngực người đi bên cạnh. Thế là một lúc hai người chết. Người cai còn lại sống sót nhưng tránh sao khỏi lo cho bản thân. Đương lúc như vậy thì từ trên cây có một giọng cười nghe rất kiêu căng. Nhìn theo tiếng cười thì thấy trên cây một người mình mặc áo lụa nhuộm nâu, đóng khố, đầu không khăn, chân không giày, hai cánh tay béo tốt nắm chắc khẩu súng đang chĩa về phía người cai mà nói: Giơ tay lên và đứng lại. Người cai thấy hai bạn đã chết, đoán chắc không địch nổi liền tìm lời nói ngọt. Hai tay vẫn giơ cao, người cai lần từng bước tiến đến chỗ gốc cây, từ từ cúi xuống lạy, miệng lẩm bẩm nói: "Mình là bạn với Cấn muốn vào thăm nhưng chẳng may đi đến đây không biết mà nói trước nên hai bạn đã bị thiệt mạng một cách oan uổng". Miệng hắn vẫn lẩm bẩm nói, thân mình thì khi cúi rạp xuống, khi ngẩng lên. Rồi đoành! Cái xác trên cây rơi mạnh xuống, thì ra là lúc người cai lễ phép cũng là lúc người cai tìm cách hạ tên quân canh ngồi trên cây. Nhân tiện có súng mang trên vai, người cai cúi lạy và thừa cơ bóp cò súng. Toán quân đi sau biết được người cai đã giết được quân canh liền kéo nhau tiến vào và đi lùng tìm nơi ở của quân Đội Cấn. Cấn đang ở trong nhà, thấy lính của mình vào báo có quân của chính phủ đến thì ra lệnh cho quân của mình không đánh trả mà tìm đường trốn. Quân của chính phủ tìm mãi không thấy quân của Cấn liền nghi người ngồi trên cây kia là một tay súng thiện xạ chứ không phải quân canh của Cấn. Sau đi mãi mới thấy một khoảng đất rộng cỏ non bị xéo nát, gần đấy có từng bờ đất đắp để làm bếp. Lúc đó quân của chính phủ mới biết rõ là Cấn trốn đi rồi. Quân Cấn chạy về phía núi Tam Đảo và vào đến địa phận Vĩnh Yên mà không gặp sự vụ gì nữa.

Một toán quân của Cấn bị vây ở Quân Chu thì chạy ngay về mạn Tam Đảo cho đến Vĩnh Yên, còn quân lính khố xanh thì lại canh giữ về phía nam của ngọn núi và các ngả đường như Vĩnh Yên, Tuyên Quang. Ngày 11 tháng 9, ông Bẹc-giê chỉ để lại một ít quân đủ sức chống cự với quân của Cấn ở các nơi như Hùng Sơn, Sơn Cốt, còn bao nhiêu thì ngày 12 tháng 9 ông mang về Vĩnh Yên, Phúc Yên do ông Rô-lê, giám binh trại lính khố xanh chỉ dân đi đuổi gấp Đội Cấn. Sáng ngày 12 tháng 9 năm 1917 ông Sứ và ông quan ba Déc-vi-lê cùng lên Vĩnh Yên để giữ trật tự và trông nom binh lính.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Ba, 2017, 03:15:41 pm

Những trận đánh ở Vĩnh Yên và Phúc Yên:

Tổng đốc Mai Trung Cát làm quan ở Vĩnh Yên đã gần 10 năm nên ông được trông nom cả việc binh. Từ ngày 13 đến ngày 18 tháng 9 năm 1917, ông luôn luôn được tin: Quân của Đội Cấn vẫn lẩn khuất quanh đây, khi thì ở dưới chân ngọn núi Tam Đảo, khi thì ở Xã Hùng, Lục Liêu, Đạo Trừ. Chiều ngày 18 tháng 9 ông Mai Trung Cát biết đích xác là quân của Đội Cấn đã xuống hẳn phía nam và đóng quân ở Hồng Xá Hạ về phía bắc con đường xe lửa Việt Trì - Vĩnh Yên.

Ba giờ chiều ngày 19 thì quân của chính phủ đã đánh kịch liệt với quân của Đội Cấn ở Hồng Xá Hạ. Tính ra trong trận này quân của chính phủ đã chết mất một đội khố đỏ, hai lính lê dương và năm người bị thương. Còn bên quân của Đội Cấn cũng bị hao hụt ít nhiều.

Vì có giấy phủ thống sứ tư ra nên bắt đầu từ ngày 20 tháng 7 năm 1917 các quân đi đánh đuổi Đội Cấn phải dưới quyền của quan năm Me-ác chỉ huy cho đến ngày 30 tháng 9 quân của chính phủ đánh mấy trận nữa nhưng đều bị thiệt hại nhiều. Từ lúc đánh nhau ở Hồng Xá Hạ, ngày 19 tháng 9 thì Đội Cấn cho quân rút về mé sông Nhị Hà và đóng ở Đông Tam. Sau đó, muốn theo đường về Sơn Tây rồi đi Hòa Bình nhưng đến Đông Tam thì bị quân của chính phủ ở Tần Thủy đánh dồn về miền Đông và cứ theo lên đến mãi Phúc Yên, Vĩnh Yên. Ngày 22 tháng 9, hai bên lại đánh nhau ở Trung Hà, Trung Thôn. Quân của Đội Cấn ngày càng hao hụt và bị thua, sau cứ tìm các bụi rậm có khi phải lội cả xuống hồ đợi đến tối thì lẩn thoát. Trưa ngày 23 tháng 9, quân do thám về báo: Quân của Đội Cấn hôm qua bị thua, hôm nay đã đóng ở Thượng Lệ rồi. Ngay chiều hôm đó, ngày 23 tháng 9, khoảng bốn giờ chiều, quân của chính phủ theo lời do thám đưa đến đánh quân của Cấn. Đánh nhau mãi đến chín giờ đêm thì cả làng Thượng Lệ bị vây. Nhưng đến tối 24 rạng sáng 25 tháng 9 quân của Cấn đã chia làm hai toán chạy trốn. Một toán chạy về Cơ Bai và một toán chạy vế Tân Ấp gần đồi Thanh Tước - Phúc Yên. Ở Cơ Bai quân của Cấn cũng bị đón đánh, nhưng thấy thế yếu nên quân của Cấn chỉ chạy thôi. Trước lúc mới ra làm loạn Cấn có 700 quân, 200 súng ống nhưng bây giờ Cấn chỉ còn hơn 100 quân, số còn lại thì tản mát khắp nơi. Toán chạy về Tân Ấp cũng bị quân của chính phủ đuổi bắn. Quân của Cấn chạy đến Nôi Động thì bị quân của chính phủ đuổi kịp, chúng vừa đuổi vừa bắn súng theo. Biết là chạy cũng không được mà trốn cũng không thoát nên cùng nhau lẩn trốn bên đường chờ quân của chính phủ đuổi theo tới nơi, đang lúc chúng không đề phòng sẽ quyết chiến một trận. Quân chính phủ tưởng quân của Cấn còn chạy nên cứ mải đuổi theo không để ý. Khi đó quân của Cấn ở bên đường xông ra đánh dữ dội. Bị đánh bất thình lình, quân của chính phủ thua, quân của Cấn chết hai người và ba người nữa bị thương.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Ba, 2017, 03:16:18 pm

Đêm 25 rạng ngày 26 tháng 9, quân của Cấn tràn về phía Đa Phúc thì được tin quân của quan năm Me-ác còn đóng ở đó. Cấn biết quân mình hiện giờ còn mệt lắm, nếu gặp quân của chính phủ thì thế nào cũng phải đánh hoặc phải chạy nên đành phải lùi về phía Cơ Bai. Cũng may mãi đến hôm sau ông Me-ác mới biết tin.

Từ khi chính phủ lấy quân ở các tỉnh miền xuôi lên đánh đuổi Cấn đến giờ, đánh nhau có trận được, có trận thua nhưng trong lòng Cấn không bao giờ được vui vì trước đây Cấn có tất cả hơn 700 quân, súng ống nhiều, đạn dược dư, còn bây giờ các quân của Cấn phần bị chết, phần thì bị bắt, cũng có người ân hận bỏ cuộc.

Ở Bắc Giang thì quan thống sứ và quan sáu ra sức tìm cách đề phòng dân theo loạn. Chúng gia ân cho những người biết lỗi quay về làm ăn lương thiện và thưởng cho những người bắt được quân của Cấn. Đã nhiều lần Cấn cho đồng đảng đi dụ thêm quân nhưng xem ra không có lợi. Vì nghĩ đến công việc của mình nên nhiều lúc Cấn ngồi ở gốc cây ôn lại những ngày qua. Nhớ lại những lúc anh em phá tỉnh Thái Nguyên tưởng là công việc sau này sẽ xiết bao rạng rỡ. Lúc trước Cấn nói ra câu nào ai nấy đều hoan hô hưởng ứng nhưng giờ thì Cấn không muốn nói với ai nữa. Cấn biết rằng trước đây, mình chỉ vì mối thù chung của tất cả anh em mà làm việc. Bây giờ Cấn biết nghĩ sâu sắc hơn về những việc đã làm nhưng chẳng còn cách nào khác. Đúng lúc nghĩ ngợi một mình thì lại có quân báo: Có quân của chính phủ đến. Chỉ một cái tặc lưỡi, Cấn đứng dậy tìm cách đối phó. Cấn nghĩ bây giờ nếu mình cứ nay đây mai đó, thì một ngày kia cũng sẽ bị bắt thôi. Nên nhân khi quân của chính phủ chưa biết đích xác là ta ở chỗ nào và đang chia quân đi khắp nơi để lùng sục ta, bây giờ ta sẽ cho quân về phá lại Thái Nguyên, biết đâu ta chẳng được thêm quân vì ở đó ta quen nhiều, nếu gặp thì sẽ dụ họ về đảng. Ngay tối hôm ấy, ngày 28 tháng 9, Cấn cắt quân qua núi Tam Đảo rồi về Thái Nguyên.

Sáng ngày 29 tháng 9, quan năm Me-ác được tin báo có quân địch đi qua núi Tam Đảo để về Thái Nguyên nên đã cho một toán lính độ 20 người đủ cả súng đạn ra đón đánh. Lúc đến nơi thì thấy một đoàn người độ bảy người đang đi trên con đường Hà Nội - Thái Nguyên. Thấy vậy 20 người lính kia nấp rạp xuống bờ ruộng để cho bảy người đi lại thì mới bắn. Vì mấy người kia còn ở rất xa, lính sợ bắn nhầm người chạy loạn. Còn bảy người đằng xa đã trông thấy lính nên rủ nhau bỏ chạy. Ngay lúc đó một loạt súng cùng vang lên, bảy người kia giờ chỉ còn có năm. Năm người này cố hết sức len lỏi vào các khe núi nên thoát chết.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Ba, 2017, 03:16:41 pm

Ngày 30 tháng 9, 20 người lính hôm qua chưa về thì lại có quân do thám về báo có đội quân của Cấn đông tới 80 người đi qua đi lại ở Phúc Yên, Tam Đảo và Lang Lai thuộc địa phận Thái Nguyên, gần Sơn Cốt. Được tin Me-ác cũng định đến ngày 3 tháng 10 sẽ kéo quân đến Sơn Cốt đánh Cấn. Ngay hôm gần đến Sơn Cốt, Cấn đã có thêm 20 quân nữa. 20 người này là quân lính bị thua ở Hùng Sơn tháng trước. Suốt một tháng trời 20 người này cứ ngày ngày ra kiếm ăn mỗi người một ngả, còn tối đến lại cùng nhau tụ họp trong một ngôi chùa cổ. Nghe nói có đạo quân do Đội Cấn đưa đường, 20 người này mới cùng nhau gia nhập bọn. Ngày hôm sau có khoảng 17, 18 người nữa cùng nhập quân với Cấn.

Ông Ca-lít-ti làm ở lục lộ được tin báo của một người tây ở Cổ Nghĩa báo tin: Quân Cấn hiện giờ còn ở trong một ngôi nhà lá ở Cổ Nghĩa. Được tin, ngay tối mùng 3 rạng mùng 4 tháng 10 ông ta cùng mấy chục người đến Cổ Nghĩa. Đến nơi hai bên đánh nhau một hồi lâu, quân của Cấn chết mất ba người. Từ hôm đó đến ngày 10 tháng 10 ông Ca-lít-ti đuổi Cấn rất gấp.

Toán quân hơn một trăm người của Cấn lúc đi Tam Đảo để qua Vĩnh Yên về Thái Nguyên thì đến đồn điền Rây-nốt gần làng Lang Lai chỉ còn hơn 20 người nữa. Vì lúc ấy ông Me-ác được tin Cấn ở Tam Đảo đã cho một toán quân đến Sơn Cốt đón đánh Cấn. Quân của Cấn bị đánh bất ngờ nhưng không bị thiệt hại nhiều mà chỉ tản mát đi các nơi khác.

Ngày 5 tháng 10 quân của Cấn lại bị đánh ở Xuân Phách. Ngày 6 tháng 10, hồi chín giờ Cấn gặp quân của chính phủ. Thấy quân của chính phủ, Cấn liền kéo quân lên một ngọn đồi hiểm trở nấp vào trong hang đá chờ quân chính phủ tới nơi rồi cứ thế bắn xuống. Thấy đánh như thế không có lợi nên ông quan năm Bẹc-giê liền cho ông Sa-len đưa quân lên một ngọn đồi khác gần chỗ Cấn. Trận này quân của Cấn cũng không thiệt hại nhiều, nhưng xét ra thì không thể làm thế mãi được nên tối mùng 6 rạng ngày 7 tháng 10 Cấn kéo quân về Hoàng Đờm. Sáng mùng 7 tháng 10, quân chính phủ tưởng quân của Cấn vẫn ở trên đồi mà không ra nên cứ đánh mãi. Phải mất khá lâu chúng mới biết quân của Cấn đã kéo về Hoàng Đờm rồi. Ông Bẹc-giê lại cho quân đuổi theo đánh Cấn, từ hôm đó đến ngày 31 tháng 10 quân của Cấn ẩn nấp trong những khu rừng rậm rạp xa các con đường cái quan. Cấn nghĩ quân mình bây giờ mệt từng ngày, chi bằng cùng nhau ẩn nấp dưới một khu rừng nào đó đợi lúc quân của chính phủ thiếu đề phòng thì ra đánh úp. Cũng vì thế, nhiều lần Cấn cho lính của mình phao tin rằng Cấn đã chết. Nhưng chính phủ không tin những điều phao ngôn ấy. Chúng vẫn vô cùng cảnh giác Cấn và tìm cơ hội để giết Cấn.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Ba, 2017, 03:17:09 pm

Ở trong rừng, Cấn và quân lính hết sức khổ sở. Lương thực không có mà ăn, số tiền cướp được ở kho bạc thì phải tiêu pha ngay từ khi bắt đầu ra làm loạn đến bây giờ. Giờ Cấn và quân phải ăn kham khổ trong rừng, muốn mua những thứ khác thì không có tiền, mà kiếm củ sắn củ mài thì ăn không đủ. Nhiều lúc quân của Cấn thấy sự nhịn đói của Cấn mà lo, cho nên những đêm khuya thanh vắng họ cùng nhau đi cướp bóc những làng lân cận để kiếm cái ăn. Cấn biết rõ hành động ấy là không tốt nhưng chẳng còn cách nào khác và sau mỗi lần như thế, quân của Cấn mới được no say, đủ sức đánh giặc.

Đêm ngày 29 tháng 10, quân của Cấn chia nhau đi các ngả để kiếm ăn như mọi đêm khác. Nhưng chẳng may cho đêm hôm ấy, năm quân lính của Cấn đi về phía làng Nhã Lộng, lúc vào cướp của một nhà có máu mặt trong làng thì bị dân làng vây bắt. Những người này lúc chạy về Đình Ca thì bị quan năm bắt được. Ngày hôm sau bị giải lên Thái Nguyên cùng với Vũ Sĩ Lạp (một người tù ở Thái Nguyên lúc đó) cùng một cái đầu tên quan của Cấn. Đưa năm người này về Thái Nguyên hỏi thì mới biết quân của Cấn hiện vẫn còn ở trong rừng. Thế là ngày hôm sau quan năm cho người vào rừng vây bắt.

Một buổi trưa, Cấn đang cùng đồng đảng ngồi bàn tán công việc thì quân canh vào báo cho Cấn biết: có quân của chính phủ đến. Được tin Cấn cùng với quân lính của mình chạy trốn chứ không đánh nhau với quân của chính phủ nữa. Cấn chạy mãi cho đến ngày hôm sau thì đóng quân ở Bảo Năng mà chính phủ không hề biết. Ngày ngày Cấn cùng với đồng đảng tìm mưu tính kế để thu phục quân binh và lo cách thông tin cho các đồng đảng chạy trốn ở những nơi khác. Nghĩ vậy, Cấn chia ra mỗi người đi một ngả để kiếm đồng đảng.

Quân của Cấn ở Bảo Năng ngày một đông. Đêm 30 tháng 11, Cấn cho 40 người ra khỏi địa phận Bảo Năng và đi về phía đông. Ý Cấn định cho 40 người đó đi các nơi xin viện trợ lương thực.

Quan năm Me-ác hồi đó đóng quân ở Nhã Nam đã mấy tuần lễ nay không biết tin tức gì về Cấn nên việc đề phòng vô cùng cẩn thận. Ông ta sợ Cấn vẫn quanh quẩn đâu đây rồi nhân lúc quân ông ta sơ ý lại đi vào các nơi để làm loạn. Vì vậy ở Bắc Giang luôn có một toán lính đi tuần các phố để dò la tin tức.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Ba, 2017, 03:17:31 pm

Lúc này Cấn cho ba tên quân đi tìm đồng đảng, lúc đến Đông Yên thì biết hiện đang có 40 người ở đó. Ba tên quân lần mò tìm vào được đến sào huyệt thì gặp quân canh. Ba người nghe thấy tiếng súng tưởng là quân của chính phủ đuổi bắt nên cùng nhau bỏ chạy. Thấy thế quân canh lại càng nghi, rồi cùng đuổi theo. Lúc ba người này bị bắt, nhìn kỹ có một người trọc đầu, biết là quân của Cấn trước. Nên khi người tù hỏi thì cứ thực tình nói là quân của Cấn sai đi tìm đồng đảng bị thất lạc ở những trận trước. Nhân bây giờ biết chắc là những người đóng ở đây trước là đồng đảng của Cấn thì mới dám vào. Nhưng vừa vào tới nơi thì nghe thấy tiếng súng bắn nên cùng nhau bỏ chạy. Đưa vào trong nhà thì gặp ngay Đội Giá, ba người cùng chào và nói rõ để Giá biết cách sinh sống của Cấn từ một tháng trước đến giờ và cứ mỗi nơi ở được một tuần lễ thì lại bị quân của chính phủ đuổi đánh. Hơn một tuần nay, Cấn đã cho quân đi tìm đồng đảng cũ và cũng có bao nhiêu người về với Cấn rồi. Nghe xong Giá tỏ vẻ hơi nhăn đôi lông mày sâu róm. Nhưng Giá cũng nói với ba tên quân rằng sẽ về cùng Cấn đoàn kết làm nên chiến thắng. Giá cũng hỏi lại: Hiện Cấn còn bao nhiêu quân và khi đi đến đây ba người có bị quân của chính phủ theo dõi không? Ba tên quân nói rằng lúc đi đường đã dò xét thì biết quan năm Me-ác còn đóng ở Nhã Nam. Còn Cấn thì bây giờ rất nhiều quân vì Cấn có biệt tài dụ quân rất giỏi. Nhiều người còn mang cả tiền bạc, trâu bò đến để dâng cho Cấn. Những người không có tiền bạc, trâu bò dâng thì thường đi thăm thú các vùng quê và mách cho Cấn nơi nào có của để Cấn đi liên hệ viện trợ. Ba tên quân lại nói thêm: Ý Cấn bây giờ muốn thu thập hết tất cả các quân luyện tập các môn như bắn cung, bắn súng thật giỏi để chờ lúc động dụng. Giá bảo ba người cứ ở lại rồi sẽ về Bảo Năng với Cấn. Lúc Giá mới bước chân ra khỏi đồi đã thấy những sự khó khăn trắc trở. Mỗi lúc có cơn gió lạnh là Giá lại muốn rút quân về ngay chỗ cũ để cùng nhau sống cảnh yên bình. Nhưng nghĩ lại những ngày cùng Cấn ở tỉnh Thái, cùng Cấn thề thốt anh em sống chết đoàn kết làm nên việc lớn, chẳng nhẽ bây giờ công chưa thành, danh chưa đạt, anh em mỗi người một nơi lại chia lìa tan tác. Giá thương Cấn đã từng lao lung khổ sở, còn mình thì riêng hưởng những ngày yên tĩnh. Nghĩ vậy, Giá cùng quân tiến bước trên đường cứ ngày đi đêm nghỉ chỉ mong sao chóng gặp Cấn.

Từ hôm cho quân đi tìm đồng đảng, Cấn vẫn ngày đêm trông ngóng tin tức. Một hôm Cấn đang ngồi trong nhà thì quân vào báo có quân của Đội Tường về. Xiết bao mừng rỡ, Cấn ra nghênh tiếp, vào tới nhà hai người nói hết tất cả những chuyện xảy ra ở Hùng Sơn, mới biết Tường chạy vào rừng ở mãi đến hôm sau thì có hai tên quân tự xưng là quân của Cấn và nói rõ hiện giờ Cấn đang có nhiều người giúp sức nên mới về đây. Tường lại hỏi ý Cấn bây giờ định như thế nào? Cấn trả lời: "Hiện giờ quân của ta còn ít lương thực, thì chi bằng chúng ta hãy cùng nhau sống lặng lẽ trong ít lâu để chờ quân ở các nơi cùng về cả lúc ấy sẽ liệu".


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Ba, 2017, 03:17:55 pm

Vào một buổi chiều, mặt trời đã ẩn đằng sau những dãy núi, chỉ còn để lại những ánh sáng ở phía xa. Cấn và Tường đang cùng nhau bàn bạc thì quân vào báo có một toán ước chừng khoảng 40 người muốn xin vào yết kiến Cấn. Cấn bảo cứ mở cửa cho vào. Vào đến sân, Cấn và Tường mới nhận ra người cưỡi ngựa đi đầu là Đội Giá. Anh em gặp nhau biết bao mừng rỡ, có những lúc chuyện trò bàn luận suốt đêm. Cấn thường nói anh em mình cùng nhau khởi xướng nên việc này lẽ dĩ nhiên là chúng ta phải phấn đấu cho đến thắng lợi cuối cùng.

Tường nói: "Kể ra từ lúc chúng ta bắt đầu làm loạn ở Thái Nguyên đến giờ thì nhiều trận được mà cũng nhiều trận thua, nhưng không có trận nào bị thua lớn như ở Hùng Sơn. Cũng vì trận ấy mà anh em mỗi người một ngả. Cũng từ ngày đó mà anh em chúng ta mỗi người phải ẩn núp một nơi, ăn gió nằm sương, để mong có cơ hội đánh giặc. Những hôm cùng nhau họp mặt như thế này, tôi không dám màng tưởng đến thế mà nó lại được như thế. Trong số anh em ta, không kể Ngọc Quyến còn thì chỉ thiếu Cai Xuyên, Luận và Chén không biết hiện giờ họ ở đâu, sống chết ra sao. Bây giờ anh em ta đây phải cùng nhau hợp sức đánh quân chính phủ một phen kịch liệt. Trước là để tỏ cho quân của ta và mọi người biết chúng ta không phải thường, nhân đó chúng ta sẽ làm cho Cai Xuyên, Luận, Chén biết ta vẫn sống và vẫn đang rất giàu chí phấn đấu. Biết đâu Xuyên, Luận, Chén chẳng vẫn luẩn quẩn ở các khu rừng quanh đâu đây và chờ cơ hội họp mặt với chúng ta mà chúng ta cứ im lặng thì họ biết ở đâu mà lần?".

Tường dứt lời, Cấn nói: "Bây giờ chúng ta đang nhân chính phủ không để ý...", Giá lại ngắt lời Cấn: "Không phải chúng không để ý mà chẳng qua là chúng chưa biết chúng ta ở đâu thôi". Tường lại nói: "Phải, chúng ta nhân cơ hội này cứ luyện tập quân cho giỏi đã và cho các quân dò hỏi khắp các nơi để chiêu mộ thêm đồng đảng, nhân tiện tìm luôn tin tức của Xuyên, Luận và Chén. Quân ta còn yếu, những người biết dùng súng, dùng cung thì ít, hoặc chưa thông thạo, về vấn đề lương thực chúng ta chỉ nên cho quân vào rừng kiếm các lâm sản rồi đem về các chợ miền dưới mà bán lấy tiền hay đổi lấy gạo, ngô. Ngăn cấm không cho lính ra ngoài làm những điều bậy bạ như cướp bóc của dân để tránh phiền phức. Khi quân chính phủ luôn đề phòng ta thì ta cũng nên đề phòng quân chính phủ. Cách đề phòng tốt nhất là nên đưa một số quân ra xa chúng ta khoảng vài ba cây số để canh giữ và dò la tin tức khi quân của chính phủ đến. Nếu quân của chính phủ nhiều, thế mạnh ta sẽ tạm lánh một nơi, trái lại nếu quân chính phủ ngang sức với chúng ta thì có thể quyết chiến được. Những quân canh cần phải lựa những người khỏe mạnh, tinh nhanh và cẩn thận, cho đi các ngả và mỗi người làm một việc riêng và chung quy cũng chỉ là những tay ở trong ban thông tin cả. Những người nào được về miền dưới thì cho họ hoặc mở hàng ở đường cái quan, hoặc buôn nước hay làm xe. Còn những người nào cho đi miền trên thì cho họ làm những tiều phu đẵn củi, hay đi kiếm các thứ như mây, song, củ mài, củ nâu... đưa về đây rồi ta cùng nhau đem ra chợ bán". Tường nói đến đây thì nghe thấy tiếng ồn ào ở ngoài. Ba người ngơ ngác nhìn nhau tỏ vẻ ngạc nhiên. Một lúc sau thì thấy một toán khoảng hơn 10 người, đi đầu là ông Cách. Sau khi chào hỏi Cấn, Giá, Tường thì Cách kể hết những cuộc đánh nhau của mình và tại sao lại về được đến đây.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Ba, 2017, 03:18:17 pm

Số là sau khi Cách bị đánh ở Hưng Yên thì cùng nhau tìm đường chạy về quê nhà. Quân chính phủ thấy Cách chạy thì hết sức dồn đuổi nhưng đường lối ở vùng đó Cách rất thông thạo thành thử quân của chính phủ đuổi mãi đến tận đêm mà vẫn quanh quẩn ở Hưng Yên. Nấn ná ở trong các làng mất mấy hôm Cách lại tìm được đường về quê. Cách về gần tới nhà thì vẫn còn sớm. Cách phải đợi cho đến tối mới dám về và định chỉ một mình vào nhà thôi.

Vào khoảng tám, chín giờ đêm, trời tối như mực nên Cách về nhà cũng chẳng ai biết. Không hiểu sao nỗi nhớ nhà của Cách lúc ở xa thì bồng bột thế. Bồng bột tới mức không quản gì những khó khăn, mấy lần bị quân lính đánh đuổi mà Cách cũng cố về, về để thăm nhà nhưng trái hẳn, lúc về đến ngõ không hiểu Cách nghĩ sao mà chỉ gạt nước mắt để nén những nỗi thương cha mẹ, nhớ vợ con rồi quay gót cùng anh em theo việc đã làm. Cách cùng 10 người quân cứ ngày đi đêm nghỉ, sau đi tới một cánh rừng thấy địa thế hiểm hóc thì bàn anh em cùng ở lại đó nghỉ ngơi ít lâu. Ngày qua ngày, Cách cùng anh em vào rừng kiếm ăn, rồi cứ ở đó mãi. Thấm thoắt đã hơn một tuần lễ, một hôm trong đám quân đi kiếm ăn về thấy có hai người lạ mặt từ xa đến. Quân của Cách sợ nên cùng nhau nấp ở đằng sau những hàng cây to hoặc giả vờ lánh ra xa cố ý tránh mặt hai người lạ. Hai người kia cứ tiến mãi về phía quân của Cách, vì hai người này từ xa đã nhăm nhe mấy tên quân của Cách và để ý đến Cách. Cử chỉ của mấy người này như vậy là do họ tin ngay đây chính là quân của Cấn. Họ sừng sộ tiến lên ý hỏi han. Sau đó hai người kia cũng theo về chỗ Cách ở và thú thực với Cách rằng mình là quân của Cấn sai đi. Hai người ngỏ ý bảo Cách về luôn Bảo Năng để giúp Cấn. Cách bằng lòng đến Bảo Năng ngay chiều hôm ấy. Khi Cấn, Tường, Giá đang nói chuyện thấy Cách vào thì thôi và ngay tối hôm ấy, ba người đi chọn quân canh giữ ở các nơi và cho một số quân vào rừng. Từ hôm ấy trở đi không có ngày nào là không có người về Bảo Năng tìm tướng cũ là Cấn.

Đáng khen cho tài cán của Cấn vì từ hôm đó quân của Cấn ngày một đông hơn, lương thực ngày một dồi dào. Cấn, Tường, Giá ngày thì luyện binh, tập lính, đêm thì cùng nhau bàn bạc trao đổi.

Lại nói về ông Me-ác sau khi cho ông Sa-len đi về Yên Thế để theo lời báo cáo của quân do thám thì chỉ ngồi nghe tin tức không rõ thắng bại thế nào. Ba hôm sau thấy ông Sa-len đưa quân về, hỏi ra mới biết lúc ông Sa-len đến Yên Thế thì không thấy quân của Cấn đâu cả. Hỏi dân quanh làng thì được biết là quân của Cấn đã đi ngay đêm hôm trước rồi.

Ông Sa-len có theo đường của dân quê chỉ để đi tìm Cấn nhưng không thấy nên đành quay trở về Nhã Nam. Ông Me-ác muốn cho quân đi ô tô đuổi theo, nhưng đã ba ngày rồi đuổi sao cho kịp nên đành ở lại Nhã Nam, đành đợi quân do thám về báo tin. Từ hôm đó ông ta hết sức canh chừng vùng Nhã Nam và cho quân do thám đi khắp nơi để tìm quân của Cấn. Ông Me-ác dặn quân do thám phải cẩn thận và hết sức dò xét tin tức quân địch, nhất là trong các khu rừng rậm hay những chỗ đồi núi hiểm trở. Mỗi khi có dấu hiệu gì lạ là quân lính phải về ngay Nhã Nam báo tin.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Ba, 2017, 03:18:46 pm

Ở Bảo Năng, Cấn, Tường, Giá thấy quân mình càng ngày càng tinh ranh, nhiều nhuệ khí nên cùng nhau bàn về phương pháp và tìm chỗ để đánh nhau với quân chính phủ.

Một hôm, Cấn, Giá, Tường đang cùng nhau bàn định về cách đối phó với chính phủ thì có tin báo là Cai Xuyên đưa đồng đảng về. Ba người ra tận cổng đón Cai Xuyên. Lúc hỏi đến Chén và Luận thì Xuyên trả lời không rõ. Còn Cai Xuyên thì sau khi chạy khỏi Hùng Sơn cũng lẩn lút ở trong các khu rừng, cũng thiếu lương thực, cũng phải đi đào lâm sản rồi cho quân đi đổi lấy thóc gạo như các ông Cấn, Giá, Tường mà thôi. Nhân hôm nọ có mấy tên quân đi đào củ sắn về nói: có gặp một đội quân vừa tù, vừa nhà quê do ông Giá mang đi. Mấy tên quân này cũng theo ông Giá về Bảo Năng nên mới biết ở đây mà đưa nhau về.

Từ lúc Cấn, Giá và Tường thêm Cai Xuyên thì câu chuyện lại càng thêm phần hấp dẫn. Bàn đi tính lại, Cấn, Giá, Tường và Cai Xuyên định đến ngày 9 tháng 12 năm 1917 thì cùng nhau kéo quân về Tam Đảo đi qua Đinh Sơn, Lưu Xá... Đi mãi đến ngày hôm sau, ngày 13 tháng 12, đến Lang Đàm thì gặp đội quân của Mông-cô và của ông Ăng-đrê-mi.

Lúc đó Cấn nhanh trí chia quân ra mỗi ngả. Nhưng đến ngày 15 tháng 12 thì quân của Mông-cô đã bắt đầu đánh quân của Cấn ở làng Lục Bá về phía nam Hùng Sơn. Đánh nhau với Cấn từ chín giờ sáng mãi đến tám giờ tối ngày 15 tháng 12 mà Cấn vẫn rất găng. Tối ngày 15 tháng 12 ông Mông-cô sợ rằng quân của Cấn nhân lúc đang đánh phá vào trại nên hết sức đề phòng. Nhưng về phần Cấn thì lại nghĩ khác nên đang đêm bỏ chạy. Sáng hôm sau gặp ông huyện Đại Từ đưa quân đón đánh. Lúc bấy giờ ông Me-ác đã đưa quân về đến Đa Phúc rồi và định mấy hôm sau, ngày 18 tháng 12 sẽ về Thái Nguyên.

Đêm ngày 20 tháng 12, Cấn đưa quân về Cư Văn và đóng quân ở Núi Pháo. Đến ngày 22 tháng 12 thì Đội Tường đưa cả đồng đảng về Thái Nguyên vào hàng ông Me-ác khi biết Cấn đang ở Núi Pháo.

Không hiểu Đội Tường nghĩ như thế nào mà lại hành động như vậy. Anh em đang cùng nhau một lòng một dạ để trả thù chung mà Tường lại sinh ra hai lòng.

Ông Me-ác được tin Cấn đang ở Núi Pháo thì dẫn một đội quân đến vây bắt. Ông ta lại cho một đội quân nữa về Phấn Mễ để đón đầu nếu Cấn bị bại ở Núi Pháo thì tất phải chạy đến nơi này.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Ba, 2017, 03:19:31 pm

Các con đường khác ông Me-ác cũng cho quân đón đầu hết. Ông ta cho rằng chỉ có Cấn là đáng đề phòng thôi và bây giờ nhân thể được Đội Tường nói rõ cho biết cách hành động của Cấn nên ông chắc chắn chỉ lần này nữa là sẽ xử được Cấn.

Ông Me-ác biết tin Cấn ở Núi Pháo liền mang quân đi đuổi đánh. Xem xét địa thế đã cẩn thận, ông ta biết Núi Pháo là một nơi trống trải, chắc Cấn không thể nào trốn thoát được, vả chăng Núi Pháo cũng đứng riêng một mình, không liên tiếp với các khu rừng khác nên ông Me-ác quyết định nếu không đánh thì cũng vây lấy Núi Pháo đợi đến lúc quân của Cấn hết lương thực tất phải ra ngoài kiếm ăn, lúc đó đánh thì lợi trăm đường.

Ngày 21 tháng 12 ông Me-ác hạ lệnh cho quân bắt đầu đánh vào Núi Pháo. Cấn tự biết bây giờ đánh sẽ không lợi vì quân của chính phủ thế mạnh nên Cấn cho quân nấp im lặng trên núi, định chờ đến tối thì kéo nhau trốn vào một khu rừng gần đó. Ý Cấn định như vậy nhưng nào có được. Quân của chính phủ càng đánh càng tiến lên rất dữ, vì thế Cấn đã bị thương ở đùi và thiệt hại mất quá nửa quân.

Đêm hôm ấy, ngày 21 tháng 12 quân của Cấn chỉ còn hơn một chục người. Nhằm lúc quân của chính phủ không đề phòng liền cùng nhau chạy vào một khu rừng gần Cự Văn. Thấy Cấn còn một ít quân mà vẫn trốn thoát, ông Me-ác nghĩ nếu không nhân dịp này đuổi gấp thì lại là một mối lo nguy hiểm về sau, nên ông đã chia quân ra làm ba toán để đuổi theo Cấn.

Toán quân A có ông thanh tra Rây-nê, ông phó quản Um-bê, 70 người lính và 60 người tuần đinh. Toán này đi về mạn Hùng Sơn.

Toán B có ông Ét-ti-bam và ông đội Mô-ri-xê, 60 người lính và 40 người tuần đinh.

Toán C có ông Sa-giê, 60 người lính và 40 người tuần đinh.

Còn Cấn sau khi về Cự Văn thì lương thực vừa hết nên cho 10 tên quân vào các làng quanh đấy xin viện trợ lương thực. Lý Nho, Cai Túc và Sĩ (là những người đi theo Cấn từ lúc mới khởi loạn) đều là những tên cận tín của Cấn thì ở nhà chờ lương thực.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Ba, 2017, 03:19:54 pm

Thật là số Cấn đã tận, giờ Cấn chẳng còn nên chỉ cách đây mấy tuần lễ trong tay Cấn có mấy trăm quân vậy mà trong một thời gian ngắn ngủi Cấn đã mất gần hết, lúc đến Cự Văn thì Cấn chỉ còn hơn một chục quân. 10 tên quân của Cấn đi lấy lương thực, sau khi ra khỏi rừng Cự Văn thì gặp quân của chính phủ đuổi đánh không còn một người nào (sáu người bị chết và bốn người bị bắt).

Đội Cấn, Lý Nho, Cai Túc và Sĩ ở Cự Văn chờ mãi đến mấy hôm sau mà không thấy quân mang lương thực về thì rất lấy làm mong đợi, vì ăn uống lúc ấy rất thiếu thốn. Chờ mãi không thấy họ trở về, đoán rằng 10 tên quân này gặp sự chẳng lành nên mới sinh ra chậm đến thế. Cấn nghĩ đến thân thế của mình bây giờ thật khó xử. Nếu cứ ở trong rừng thì không có cái ăn, đi chỗ khác, gặp quân của chính phủ thì chạy đâu cho thoát mà ra đánh thì không còn quân. Càng nghĩ Cấn càng thấy cực, lắm lúc Cấn ngồi khóc một mình. Thấy Cấn khóc thì ba tên cận tín của Cấn cũng không sao tránh khỏi buồn rầu, cùng nhau tìm lời an ủi Cấn. Mặc dù lời khuyên giải của mấy tên cận tín rất thành thực nhưng Cấn cũng nhất quyết tự ải vì Cấn nghĩ sau này nếu chính phủ bắt được tất cả đều không thể thoát chết. Nghĩ đến vết thương ở đùi và những trận đánh hữu công vô lao thì Cấn lại càng thấy mình hèn hạ. Nghĩ vậy Cấn bảo Lý Nho, Cai Túc và Sĩ đào cho Cấn một cái huyệt và chôn xung quanh huyệt bốn khẩu súng trường.

Đào xong huyệt cho Cấn thì Lý Nho, Cai Túc và Sĩ cũng muốn đào thưởng luôn cho mình mỗi người một cái để cùng chết với Cấn cho trọn đạo. Cấn thấy lòng trung thành quả cảm của ba người bạn thì ái ngại vô cùng nên đã bảo ba người bạn: "Anh em còn khỏe mạnh, hy vọng còn nhiều, không nên quá nóng nảy mà hủy mình như thế. Còn tôi sở dĩ phải làm như thế này bởi sức tôi đã cùng, trí tôi đã kiệt, tự biết không làm được việc gì nữa. Vả lại tôi cũng không muốn cái thân này phải chết về tay quân địch nên tôi phải tính đến kế tự sát này. Tôi cũng muốn cái chết của tôi thêm phần bí mật để sau khi tôi xa lánh cõi đời rồi chính phủ vẫn phải luôn luôn đề phòng và phải tốn công tìm tôi vô ích nữa. Vậy tôi muốn sau khi tôi chết, các bạn nên nghĩ đến tình nghĩa từ bấy đến nay mà cho tôi được yên thân dưới nấm đất và đừng tỏ lộ với ai, các bạn giữ kín việc này cho tôi. Còn các bạn sau khi cùng nhau từ biệt, ai nấy nên về quê mưu lấy sự nghiệp làm ăn. Mong chúc các bạn chóng làm xong ý nguyện và tôi ước ao các bạn sẽ không bỏ qua lời nhờ của một kẻ sắp sửa phải hiến thân cho thần chết". Nói xong Cấn bắt tay cả ba bạn rồi hai tiếng súng lục liên tiếp nhau, vong hồn của Cấn đã lìa khỏi xác.

Sau khi Cấn chết, Lý Nho, Cai Túc và Sĩ đã khóc lóc rất thảm thiết rồi cùng nhau đắp điếm cho Cấn được mồ yên mả đẹp. Đoạn cùng nhau chia tay mỗi người một ngả, trong trí nhớ vẫn in một câu chuyện ly kỳ và bí mật.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Ba, 2017, 10:39:38 am


Sau khi Sĩ từ giã Lý Nho, Cai Túc, Sĩ bỗng sinh ra nghĩ ngợi lan man, ý tưởng quay cuồng với hai câu hỏi: Nên giữ bí mật về cái chết của Cấn hay nhân dịp này lấy cái xác của Cấn mà làm thang vinh hiển?

Gần sáng ngày 10 tháng 1 năm 1918 khi ở tỉnh Vĩnh Yên còn bao phủ một bầu sương tuyết nặng nề, thỉnh thoảng có những trận gió bấc lạnh lùng thổi làm rét buốt tới xương mà các ngả đường đã tấp nập những người qua lại vì hôm ấy là phiên chợ. Có lẽ đây là phiên chợ cuối cùng vì năm đã hết, tết đã gần đến. Trong đám người qua lại ấy có một người to lớn, khỏe mạnh lúc ẩn lúc hiện trong màn sương mù, khi rảo cẳng đi nhanh thoăn thoắt, khi lại từ từ bước... Người ấy chính là Sĩ, tên quan cận tín của Cấn mà mấy tháng trước đây đã cùng Cấn chọc trời khuấy nước.

Sĩ nghĩ nay Cấn đã chết mà cái chết ly kỳ ấy nếu có giữ bí mật cũng là vô ích nên Sĩ nhất định phải đi báo cáo cho chính phủ biết. Bởi vậy sáng hôm ấy Sĩ đến rất sớm. Khi đến tòa sứ tỉnh Vĩnh Yên thì trời vẫn chưa sáng rõ nên Sĩ phải ra chỗ gốc cây của tòa sứ ngồi đợi, hai tay bưng lấy bộ mặt rắn rỏi chỉ để lộ hai con mắt thô lố nhìn ra.

Ngồi dưới gốc cây chừng non nửa giờ thì trời mới tang tảng sáng, Sĩ đứng dậy sửa lại quần áo rồi tiến vào tòa sứ.

Lúc đó vào khoảng sáu giờ sáng mà sáu giờ sáng của một ngày đông thì vẫn còn sớm lắm, vậy mà ông Quy-lơ-rê (chánh sứ tỉnh Vĩnh Yên ngày đó) cũng đã dậy rồi. Thấy có lính vào báo có một người nhà quê đến báo tin về Đội Cấn thì ông ta mừng rỡ và lệnh cho lính đưa người đó vào. Sau khi khai qua căn cước, Sĩ nói với ông Quy-lơ-rê rằng chính mình đã giết được Cấn và đã chôn cất Cấn cẩn thận, giờ đây mới về phi báo.

Ông Quy-lơ-rê nghe nói Cấn đã bị giết thì lấy làm ngờ vực nên hỏi đi hỏi lại nhiều lần. Sau khi thấy Sĩ nói quả quyết và mặt lại lộ vẻ tự đắc tôn công nên ông ta tạm tin.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Ba, 2017, 10:40:09 am

Đợi sáng rõ ông Quy-lơ-rê đi ô tô lên Thái Nguyên mang theo mấy tên lính và cả Sĩ nữa. Đến Thái Nguyên ông Quy-lơ-rê nói với quan ba Sa-len là tên này (trỏ vào Sĩ) đã giết Cấn. Ông Sa-len nói nếu muốn chứng thực thì phải đến tận làng Cự Văn quật hài hắn lên thì mới tin. Đúng 10 giờ 30 phút ngày 11 tháng 1 năm 1918 thì quan ba Sa-len, ông Quy-lơ-rê cùng quan sứ Thái Nguyên, Đội Tường, Sĩ và 30 người lính có súng đạn, xẻng, cuốc kéo đến nơi chôn cất Cấn. Đến 11 giờ thì đến Cự Văn, khu rừng này vẫn ở trong bầu yên tĩnh xưa nay nên lúc có lính đến những đàn chim trên cây đang cùng nhau ca hót nghe thấy tiếng động thì bay dáo dác. Tuy bay đi nhưng con nào con ấy vẫn có vẻ quyến luyến nhau, cảnh tượng ấy khiến cho Sĩ nhớ lại trận đánh cuối cùng ở Núi Pháo, quân của Cấn bị thua phải chạy trốn về nơi này, nay trông thấy loài cầm thú còn biết quyến luyến nhau lòng Sĩ thấy xấu hổ nhưng mặt vẫn lạnh lùng.

Đến nơi, ông Quy-lơ-rê cho đào xác Cấn và ngay chiều hôm ấy đã đưa về tới Thái Nguyên. Ông Sa-len làm tờ trình lên quan năm Me-ác.

Trong tờ trình ông Sa-len cũng nói rõ: "Hồi 10 giờ sáng ngày 11 tháng 1 năm 1918 thì ông Quy-lơ-rê dẫn lên Thái Nguyên tên Sĩ người Vĩnh Yên. Tên này nhận đã bắn Cấn ngày 5 tháng 1 năm 1918 ở Cự Văn".

Sau hỏi Sĩ tại sao lại bắn Cấn thì Sĩ nói: Xưa có người anh làm xã đoàn bị Cấn giết hôm 18 tháng 9 năm 1917 nên Sĩ bắn Cấn để rửa thù cho anh. Vì muốn báo thù nên Sĩ đã xin vào làm một người quân cận tín của Cấn để dễ hành động.

Lúc đến nơi, ông Sa-len muốn được biết rõ ràng hơn nên bảo Sĩ diễn lại cuộc giết Đội Cấn. Sĩ lấy ba người lính, một làm Đội Cấn còn hai tên kia làm hai tên cận tín của Cấn. Theo lời Sĩ thì lúc ở lại Cự Văn chỉ có hai tên quân nữa thôi. Sĩ lại nói: Ý Sĩ muốn báo thù cho anh đã từ lâu nhưng không được dịp thi hành. Nhân lúc bây giờ cả bốn người (Cấn, Sĩ, hai tên kia) suốt ngày phải đi vào rừng lẩn trốn và tìm kiếm thức ăn nên người đã mệt. Lúc ăn xong mỗi người một gốc cây nghỉ rồi thiu thiu ngủ, Sĩ biết lúc này có thể giết được Cấn nên vội vàng đứng cách Cấn khoảng 5 thước mà bắn súng. Sĩ bắn phát đầu trúng vào đùi Cấn, Cấn choàng dậy, định sấn lại, nhưng Sĩ nhanh tay hơn nên đã bắn luôn một phát nữa vào mang tai Cấn. Sau phát súng này thì Cấn khuỵ xuống đất, Sĩ liền tiến lên bắn thêm một phát thứ ba nữa vào thái dương để cho Cấn chết hẳn. Hai tên quân nữa đang thiu thiu ngủ bỗng nghe tiếng súng tưởng là quân của chính phủ vào nên cùng nhau bỏ chạy. Khi giết xong Cấn, Sĩ khâm liệm vội vàng rồi đào huyệt chôn cất, đoạn về Vĩnh Yên báo cho quan sứ Quy-lơ-rê.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Ba, 2017, 10:41:48 am

Khám thi hài Cấn thì quả như lời Sĩ đã khai. Lúc chết Cấn mặc một bộ quần áo vải vàng, ngoài khoác một chiếc áo nhuộm chàm, đầu đội mũ dạ, chân đi giày lính Tây, đầu gối một chiếc khăn xám. Trong chăn có một số đồ dùng cá nhân. Bọn Pháp cho Tường nhận đúng đấy là thi thể Cấn rồi cho ô tô mang thi thể Cấn về Thái Nguyên.

Quan năm Me-ác tiếp được tờ bẩm liền về trình lại quan thống sứ rồi cả hai người này đều đi ô tô lên Thái Nguyên. Sau khi mổ thi thể của Đội Cấn ra, chúng lấy lại gan, mình Cấn cho đem chôn còn đầu Cấn thì cho tẩm thuốc rồi bêu qua những chỗ có nhiều người qua lại để làm gương cho những người làm loạn và cũng là để tỏ cho quần chúng biết.

Sau khi Cấn chết, đồng đảng của Cấn cũng còn nhiều nhưng điều cốt yếu nhất là bọn giặc muốn bắt Cấn, giết Cấn thì nay Cấn đã chết, chính phủ cũng chẳng phải nhọc lòng lưu ý đến nữa, vì vậy ông Me-ác chỉ để riêng ra 100 người lính và một ít tuần trang đi tiêu trừ những đồng đảng của Cấn. 150 người này cũng chia ra làm ba toán như trên đã kể và những toán quân này đều dưới quyền của ông Rây-nê.

Sáng 19 tháng 1 năm 1918 có người về báo đồng đảng của Cấn hiện giờ vẫn còn ở làng La Bằng. Được tin này ông Rây-nê báo cho toán C biết và tức khắc về ngay làng La Bằng đuổi bắt những đồng đảng còn lại của Cấn. Đang khi quân của chính phủ đánh nhau với đồng đảng thì Cai Xuyên cho quân đến cứu nên toán C thôi không đánh nhau nữa.

Lại nói về Cai Xuyên, lúc qua một khu rừng ở La Bằng thì gặp một người cháu tên là Áo, tên này đã về hàng Rây-nê rồi. Khi chú cháu gặp nhau Áo có khuyên chú nên trở về hàng chính phủ để cho tấm thân được an nhàn, còn nếu cứ làm như thế thì e rằng cứ tiếp tục phải chạy trốn nay đây mai đó sẽ thêm khổ. Khi hai chú cháu Xuyên đang nói chuyện với nhau thì có một tên quan tỏ ý không bằng lòng trước những lời của Áo. Hắn tức khắc chém chết ngay tên quan và mang thủ cấp về nộp cho ông Rây-nê. Thấy cảnh tượng đó Xuyên biết là không thể một lòng sắt đá được đành phải về hàng quân của chính phủ.

Tình đồng đảng của Cấn giờ đây chỉ còn có Đội Giá, Tư Lùn, Ba Môn, Đương Văn Khâu, Nghi và Đàm là những tay đáng cho quân Pháp phải nể mặt.

Ngày 19 tháng 2 năm 1918 ông Rây-nê cho toán B đi về Phú Bình, còn hai toán A và C thì đi về mạn Bảo Năng, Hồ Mai, Phán Mệ.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Ba, 2017, 10:42:07 am

Đêm 20 tháng 2 năm 1918, toán C chia thành hai toán nhỏ hơn. Một toán do ông Um-bê chỉ dẫn, còn một toán nữa thì do Đội Uôm trông coi, còn bao nhiêu quân khác thì kéo về Phú Bình chỗ quân của Đội Giá. Chúng giữ hết gia nhân thân thích của Đội Giá, quật hết mồ mả tổ tiên của Đội Giá lên. Được tin này Giá căm giận vô cùng nhưng nếu không chịu theo chúng thì cả gia tộc nhà Giá bị liên lụy theo, vả lại bản thân Giá cũng khó lòng giữ được. Vì vậy Giá đã làm giấy kêu ông Rây-nê cho mình được ăn tết xong rồi sẽ ra hàng. Ông này được tin thì đồng ý ngay nhưng vẫn cảnh giác và canh chừng Giá vô cùng.

Đến mùng 3 tháng 3 năm 1918, Đội Giá đưa ba tên đồng đảng, ba khẩu súng trường, một cái ống nhòm, 221$ ra nộp cho ông Rây-nê.

Theo lời Giá nói cho ông Rây-nê thì hiện quân của Cấn còn sáu tên nữa. Sáu tên này đã giúp Cấn rất nhiều việc và hiện giờ còn hành hung dữ dội ở các vùng nhà quê. Trong sáu tên đó có Dương Văn Khâu, Nghi, Tư Lùn và Ba Môn là quân của Giá nhưng khi thấy Giá muốn ra hàng chính phủ thì đã bỏ đi rồi. Ông Rây-nê cho rằng đã diệt cỏ thì phải diệt tận gốc nên cho quân đi lùng sục và kết cục sáu đồng đảng của Cấn cuối cùng chẳng có một người nào được yên thân cả.

Cấn khởi loạn Thái Nguyên đúng đêm 30 rạng ngày 31 tháng 8 năm 1917 đến ngày 29 tháng 3 năm 1918 thì những đồng đảng cuối cùng của Cấn cũng bị bắt.

Kết thúc một cuộc khởi nghĩa lừng danh. Cuộc khởi nghĩa tuy thất bại nhưng là một đòn đánh ghê gớm vào sào huyệt bọn giặc Pháp, khiến chúng phải mất bao nhiêu công sức, tiền của, vũ khí để đánh bại quân của Đội Cấn. Cuộc khởi nghĩa này cũng chứng tỏ với thực dân Pháp một điều rằng: Chúng đã đưa ra một đường lối vô cùng sai lầm trong chiến tranh ở Việt Nam đó là đã "Dùng người Việt đánh người Việt". Cuộc khởi nghĩa thất bại do nhiều nguyên nhân khách quan trong thời điểm lúc bấy giờ bởi ta chưa có một Đảng chính thức cầm quyền. Mọi tổ chức đấu tranh vẫn còn lỏng lẻo nhưng đây cũng là một hồi chuông cảnh tỉnh và báo hiệu cho những cuộc khởi nghĩa tiếp theo sẽ rực rỡ huy hoàng hơn. Cuộc đời Đội Cấn khép lại nhưng đây là tấm gương của lòng quả cảm, đức hy sinh lớn lao của người anh hùng dân tộc xứng đáng cho con cháu ngàn đời phải noi theo.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Ba, 2017, 10:42:50 am

Câu hỏi 19: Hãy nêu những bài học rút ra từ cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên?
Trả lời:


Cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên thất bại do nhiều nguyên nhân. Nhưng đây là một cuộc khởi nghĩa binh lính lớn nhất từ trước tính đến năm 1917. Tham gia cuộc khởi nghĩa này còn có đông đảo nhân dân của các địa phương. Tất cả điều đó chứng tỏ rằng: Tinh thần dân tộc, lòng yêu quê hương đất nước là bất diệt trong thẳm sâu tâm hồn người Việt Nam cho dù họ đứng ở vị trí nào trong xã hội.

Xét về phương diện thuần túy quân sự, việc nghĩa quân cố thủ Thái Nguyên để chờ quân tiếp viện quả thực là một sai lầm, là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự thất bại của cuộc khởi nghĩa. Tại sao vậy? Tỉnh lỵ Thái Nguyên là nơi trấn ngự cả phía tây bắc. Kẻ thù hiểu rất rõ địa thế nơi đây nên không thể nào để cho nghĩa quân tồn tại dẫu chỉ là một thời gian như kiểu Yên Thế của Hoàng Hoa Thám. Trong điều kiện sức ta và địch có sự chênh lệch lớn như vậy, khi cố thủ ở Thái Nguyên, nghĩa quân bị cô lập, gặp khó khăn và thất bại là điều đương nhiên.

Việc trông chờ ngoại viện của Lương Tam Kỳ, Quách Cự và Việt Nam Quang Phục hội từ ngoài về biểu lộ nhãn quan chính trị hạn hẹp của chỉ huy nghĩa quân mà đứng đầu là Trịnh Văn Cấn. Ngoài ra khởi nghĩa Thái Nguyên không tạo được thế liên tục tấn công, dầu chỉ là giành giật những thắng lợi nhỏ mà chuyển vào phòng ngự công sự ở một địa bàn không thật hiểm yếu, thì khó tránh khỏi những thất bại bởi phòng ngự là con đường chết của khởi nghĩa vũ trang.

Về chiến thuật, nghĩa quân không chiếm cứ và quản lý ngay nhà bưu điện khi khởi nghĩa nổ ra vì vậy địch đã dùng cơ quan thông tin lợi hại đó để báo tin về cấp chỉ huy tối cao. Chúng sớm bố phòng nghiêm ngặt khi nghĩa quân bị bao vây và tiến công. Chúng có những kế hoạch rất hợp thời để tiêu diệt bằng được nghĩa quân trong khi nghĩa quân của ta lại chưa có thời gian củng cố và xây dựng lực lượng.

Có lẽ đây là những thiếu sót đáng kể nhất mà nghĩa quân của Đội Cấn mắc phải, suy cho cùng là hạn chế của lịch sử, hạn chế của giai cấp. Dù không thành công, nhưng bằng máu của mình, những người khởi nghĩa đã góp phần tô thắm thêm cho trang sử truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam đầu thế kỷ XX.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Ba, 2017, 10:43:27 am

Tinh thần yêu nước, ý chí độc lập tư do là một truyền thống lớn, nổi bật và xuyên suốt trong lịch sử dân tộc ta.

Hồ Chủ tịch đã từng nói: "Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”. (Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng lần thứ II, 1951). Quả thật, lịch sử Việt Nam nói chung và lịch sử giai đoạn 1914-1918 nói riêng đã thể hiện đậm nét và chân thực tất cả những điều đó. Trong một điều kiện vô cùng khó khăn về vật chất cũng như tinh thần. Trong khi giặc Pháp đang tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong biển máu, thì những con người như Trịnh Văn Cấn, Lương Ngọc Quyến... lại là những người chiến sĩ quả cảm, dám đương đầu và cùng với anh em binh lính, dám chống đối lại cả một nền chuyên chính mà Pháp đã dày công xây dựng. Ngoài tinh thần độc lập tự chủ, ngoài ý chí và niềm tin vững chắc vào một tương lai tươi thắm của vận mệnh dân tộc thì đây chính là lòng yêu nước nồng nàn đã ăn vào tiềm thức, đã chảy trong huyết quản của mọi người dân Việt Nam.

Qua câu chuyện về cuộc đời Trịnh Văn Cấn, Lương Ngọc Quyến... Và những thất bại đau đớn của cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên chúng ta có thể rút ra những bài học xác đáng như sau:

1. Cần phải kết giao với những người bạn tốt:

Con người không thể không có bạn bè, nếu không sẽ không thể sinh tồn và phát triển được, đồng thời về mặt tinh thần cũng sẽ cảm thấy vô cùng cô độc. Trong "Lễ ký, học ký" có viết: "Học mà không có bạn, thì sự hiểu biết cũng sẽ nông cạn, phiến diện”. Một số câu ngạn ngữ của các dân tộc khác trên thế giới cũng dùng cách nói sinh động và hình tượng để làm toát lên tầm quan trọng của bạn bè như: "Không có bạn bè thi cuộc sống sẽ giống như không có ánh mặt trời" (Ngạn ngữ Pháp). Hay "Nhìn xung quanh không có một người bạn, thì gặp người khác không dám ngẩng đầu lên" (Ngạn ngữ Thụy Điển). Người Ý có câu "Không có bạn bè, lại không có anh em, thì chẳng khác nào cánh tay bị cong, mềm yếu không một chút sức lực".

Kết bạn có hai lợi ích thấy rõ nhất. Lợi ích thứ nhất là nhận được sự trợ lực, giúp đỡ cho sự nghiệp của mình từ những người bạn. Trịnh Văn Cấn là người tài giỏi, có ý chí, có lòng yêu nước căm thù giặc cao độ. Ông đã biết tìm đến người bạn có trí tuệ như Lương Ngọc Quyến mà cùng nhau bàn định công việc lớn nên đã góp phần làm nên thắng lợi bước đầu của khởi nghĩa Thái Nguyên. Cũng từ đó nêu cao ý thức quật khởi của anh em binh lính và những người dân Việt Nam đang bị áp bức bóc lột. Một lợi ích nữa của việc kết giao với những người bạn tốt là có thể thông qua bạn bè mà làm nên được việc lớn. Lương Ngọc Quyến với những tháng năm lăn lộn trên nước Nhật, có vinh hoa nhưng cũng vô cùng đắng cay tủi hờn nhưng ông lại biết tìm đến những người bạn cùng dòng máu đỏ, da vàng. Ngoài việc được Phan Bội Châu coi trọng giúp đỡ Lương Ngọc Quyến còn có những người bạn Trung Hoa, những người bạn Nhật sẻ chia giúp đỡ ông hoàn thành sứ mệnh mà lịch sử giao phó, một lòng vì Tổ quốc Việt Nam. Sau này khi Lương Ngọc Quyến bị giam cầm trong nhà tù Thái Nguyên, dù què chân vì những hình thức tra tấn của giặc Pháp nhưng Lương Ngọc Quyến vẫn tìm cách tiếp cận với Đội Cấn để truyền bá tư tưởng yêu nước và quyết tâm làm nên cuộc khởi nghĩa. Hai người bạn ấy đáng được lịch sử ghi nhận và tôn vinh.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Ba, 2017, 10:44:13 am

Một người nếu muốn thành công thì phải biết kết thân với những người bạn tốt. Vậy một người bạn như thế nào được gọi là bạn tốt?

a) Kết bạn lâu dài với những người có thể giúp ta sửa chữa những sai sót. Mỗi người đều có ít nhất một người bạn có thể chỉ ra những sai lầm cho mình. Những người bạn này thường chân thành, thẳng thắn. Mức độ tin cậy trong những câu nói của họ rất cao. Họ có thể làm thay đổi ý chí của ta, cuộc đời của ta. Lương Ngọc Quyến và Đội Cấn là hai người bạn như vậy.

b) Vào những lúc thích hợp bạn tốt đã vì ta mà cung cấp thông tin có lợi cho ta để giúp ta vượt qua những trở ngại và khó khăn. Chúng ta cùng đến với mẩu chuyện sau đây để thấy rõ điều đó:

"Đội Cấn có lòng kính mến những người đã vì việc nước mà bị tù tội, cho nên thường tìm cách giao thông giúp đỡ họ. Có mấy người tù nhẹ vẫn đi ra ngoài để làm việc hoặc là bọn lính canh gác đề lao. Nhất là đối với Lương Ngọc Quyến, Cấn tỏ lòng kính trọng vô cùng bởi Cấn hiểu rõ gia thế, học thức của ông. Ngọc Quyến cũng biết Cấn là người hữu tâm với Tổ quốc cho nên ra sức khích lệ, hứa sẽ đem hết tài năng giúp đỡ một khi mưu đồ việc lớn. Với tư cách là ủy viên quân sự của Bộ chấp hành Việt Nam Quang Phục hội, Lương Ngọc Quyến đã đem tôn chỉ mục đích của Hội trình bày với Đội Cấn. Thế là Đội Cấn tự nguyện đứng dưới lá cờ của Việt Nam Quang Phục hội. Ông Quyến báo cho Đội Cấn biết là nếu ở trong nổi dậy thì quân Quang Phục ở ngoài sẽ có thể tiếp ứng.

Thế rồi hai người trao đổi ý kiến tổ chức cuộc khởi nghĩa, kế hoạch này được anh em lính tráng, tù nhân tập hợp lực lượng giữ gìn kín đáo, tai mắt tây đặt khắp nơi mà chẳng hay biết gì cả".

c) Đừng bao giờ có ý nghĩ rằng mình thiếu bạn mà kết giao với những người bạn thiếu trung thực.

Tình cảm của những người bạn không coi trọng lợi ích vật chất mà chỉ coi trọng tình nghĩa là vô cùng quý báu. Nó có thể làm cho bạn thấy tấm lòng khi sống trong một xã hội đầy rẫy những mưu mô giả tạo. Nhưng việc lựa chọn bạn sai lầm sẽ dẫn đến cuộc đời có những nỗi đau đáng tiếc. Điều ta ghi nhận lớn nhất của người anh hùng Đội Cấn là lựa chọn được những người bạn như Ngọc Quyến, Đội Giá, Tư Lùn... nhưng đáng tiếc cho ông là lại kết thân với những người bạn như Đội Tường, Sĩ. Đội Tường đã phản bội Đội Cấn, phản bội lại lời thề đau đáu trong tình trạng nước sôi lửa bỏng. Cũng vì sự phản bội của Đội Tường mà bao nhiêu bí mật của nghĩa quân đã bị quân địch biết cả. Cũng vì thế mà sau trận ấy quân của Đội Cấn chết gần hết và Đội Cấn cũng chỉ biết ôm mặt khóc rưng rức khi hiểu ra sự tình. Sĩ được tiếng là bề tôi trung thành của Đội Cấn nhưng con người giảo manh này đã phản bội ở phút cuối cùng vì vinh hoa phú quý. Sĩ đã đi ngược lại lời trăng trối cuối cùng của một người bạn chiến đấu. Việc phản bội ấy của Sĩ đã khiến cho kẻ thù phanh thây, xé xác, mổ bụng, bêu đầu Đội Cấn, có đáng chăng?


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Ba, 2017, 10:44:53 am

Sau đây là một đoạn kể về sự sai lầm khi chọn bạn của Đội Cấn:

"Sĩ nghĩ, nay Cấn đã chết mà cái chết ly kỳ ấy nếu có giữ bí mật cũng là vô ích nên Sĩ nhất định phải đi báo cáo cho chính phủ biết. Bởi vậy sáng hôm ấy Sĩ đến rất sớm, khi đến tòa sứ tỉnh Vĩnh Yên thì trời vẫn chưa sáng rõ nên Sĩ phải ra chỗ gốc cây của tòa sứ ngồi đợi, hai tay bưng lấy bộ mặt rắn rỏi chỉ để lộ hai con mắt thô lố nhìn ra.

Ngồi dưới gốc cây chừng non nửa giờ thì trời mới tang tảng sáng, Sĩ đứng dậy sửa lại quần áo rồi tiến vào tòa sứ.

Lúc đó vào khoảng sáu giờ sáng mà sáu giờ sáng của một ngày đông thì vẫn còn sớm lắm, vậy mà ông Quy-lơ-rê (chánh sứ tỉnh Vĩnh Yên ngày đó) cũng đã dậy rồi. Thấy có lính vào báo có một người nhà quê đến báo tin về Đội Cấn thì ông ta mừng rỡ và lệnh cho lính đưa người đó vào. Sau khi khai qua căn cước, Sĩ nói với ông Quy-lơ-rê rằng chính mình đã giết được Cấn và đã chôn cất Cấn cẩn thận, giờ đây mới về phi báo.

Ông Quy-lơ-rê nghe nói Cấn đã bị giết thì lấy làm ngờ vực nên hỏi đi hỏi lại nhiều lần. Sau khi thấy Sĩ nói quả quyết và mặt lại lộ vẻ tự đắc tôn công nên ông ta tạm tin.

Đợi sáng rõ ông Quy-lơ-rê đi ô tô lên Thái Nguyên mang theo mấy tên lính và cả Sĩ nữa.

Đến Thái Nguyên, ông Quy-lơ-rê nói với quan ba Sa-len là tên này (trở vào Sĩ) đã giết Cấn. Ông Sa-len nói nếu muốn chứng thực thì phải đến tận làng Cự Văn quật thi hài hắn lên thì mới tin. Nên đúng 10 giờ 30 phút ngày 11 tháng 1 năm 1918 thì quan ba Sa-len, ông Quy-lơ-rê cùng quan sứ Thái Nguyên, Đội Tường, Sĩ và 30 người lính có súng đạn, xẻng, cuốc kéo đến nơi chôn cất Cấn, đến 11 giờ thì đến Cự Văn. Khu rừng này vẫn ở trong bầu yên tĩnh xưa nay nên lúc có lính đến những đàn chim trên cây đang cùng nhau ca hót nghe thấy tiếng động thì bay dáo dác. Tuy bay đi nhưng con nào con ấy vẫn có vẻ quyến luyến nhau. Cảnh tượng ấy khiến cho Sĩ nhớ lại trận đánh cuối cùng ở Núi Pháo, quân của Cấn bị thua phải chạy trốn về nơi này, nay trông thấy loài cầm thú còn biết quyến luyến nhau nên Sĩ thấy xấu hổ nhưng mặt vẫn lạnh lùng.

Đến nơi ông Quy-lơ-rê cho đào xác Cấn và ngay chiều hôm ấy đã đưa về tới Thái Nguyên. Ông Sa-len làm tờ trình lên quan năm Me-ác.

Trong tờ trình ông Sa-len cũng nói rõ: Hồi 10 giờ sáng ngày 11 tháng 1 năm 1918 thì ông Quy-lơ-rê dẫn lên Thái Nguyên tên Sĩ người Vĩnh Yên. Tên này nhận đã bắn Cấn ngày 5 tháng 1 năm 1918 ở Cự Văn.


Sau hỏi Sĩ tại sao lại bắn Cấn thì Sĩ nói: Xưa có người anh làm xã đoàn bị Cấn giết ngày 18 tháng 9 năm 1917 nên Sĩ bắn Cấn để rửa thù cho anh. Vì muốn báo thù nên Sĩ đã xin vào làm một người quân cận tín của Cấn để dễ hành động.

Lúc đến nơi, ông Sa-len muốn được biết rõ ràng hơn nên bảo Sĩ diễn lại cuộc giết Đội Cấn. Sĩ lấy ba người lính, một làm Đội Cấn còn hai tên kia làm hai tên cận tín của Cấn. Theo lời Sĩ thì lúc ở lại Cự Văn chỉ có hai tên quân nữa thôi. Sĩ lại nói: Ý Sĩ muốn báo thù cho anh đã từ lâu nhưng không được dịp thi hành. Nhân lúc bây giờ cả bốn người (Cấn, Sĩ, hai tên kia) suốt ngày phải đi vào rừng lẩn trốn và tìm kiếm thức ăn nên người đã bị mệt. Lúc ăn xong mỗi người một gốc cây nghỉ rồi thiu thiu ngủ, Sĩ biết lúc này có thể giết được Cấn nên vội vàng đứng cách Cấn khoảng năm thước mà bắn súng. Sĩ bắn phát đầu trúng vào đùi Cấn, Cấn choàng dậy, định sấn lại, nhưng Sĩ nhanh tay hơn nên đã bắn luôn một phát nữa vào mang tai Cấn. Sau phát súng này thì Cấn khuỵ xuống đất, Sĩ liền tiến lên bắn thêm một phát thứ ba nữa vào thái dương để cho Cấn chết hẳn. Hai tên quân nữa đang thiu thiu ngủ bỗng nghe tiếng súng tưởng là quân của chánh phủ vào nên cùng nhau bỏ chạy. Khi giết xong Cấn, Sĩ khâm liệm vội vàng rồi đào huyệt chôn cất, đoạn về Vĩnh Yên báo cho quan sứ Quy-lơ-rê...".


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Ba, 2017, 10:45:48 am

2. Đánh thắng địch tạm thời không đồng nghĩa với mình đã thành công:

Trong suy nghĩ của một số người anh hùng đã tồn tại một quan niệm như sau: Đánh thắng được kẻ thù mình sẽ gặt hái được những thành quả. Thực tế không phải lúc nào cũng như thế, bởi chúng ta phải cắt nghĩa được kẻ thù mà ta đang chiến thắng là ai? Chúng có sức mạnh như thế nào? Chúng có lật ngược được quân bài chiến bại hay không? Sai lầm của người anh hùng Đội Cấn trong cuộc chiến một mất một còn này chính là chỗ ấy.

Cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên lúc đầu không diễn ra suôn sẻ như dự định bởi phương pháp tổ chức vẫn còn mang tính cá nhân, lỏng lẻo nhưng sau những thắng lợi bước đầu mà Đội Cấn cùng nghĩa quân thu hoạch được thì nghĩa quân hồ hởi, phấn khởi, coi như mình đã làm chủ được tình thế nên lơ là không nghĩ đến những va vấp tiếp theo, có thể làm đảo ngược lại tình thế. Sau đây là những ví dụ:

"... Làm chủ được trại lính khố xanh rồi, nghĩa quân chia nhau đi chiếm các dinh thự, công sở và phá nhà lao. Đáng tiếc là tên công sứ Đạc và phó công sứ Tuýt-tơ hôm ấy đều đã đi nghỉ mát ở Đồ Sơn. Tên chủ kho bạc thì đã chạy khỏi kho bạc sang trại lính Pháp. Vì vị trí kho bạc ở ngay cạnh trại lính Pháp nên nghĩa quân không cướp ngay được, mãi đến tận chiều hôm sau mới chiếm được. Tuy vậy số bạc chiếm được vẫn còn nguyên vẹn và cũng khá lớn. Tổng số bạc là: 71 ngàn đồng (trong đó có 30 ngàn đồng bạc giấy và 41 ngàn đồng bạc đồng). Tại sở hiến binh Pháp, tên chủ là Li-ông thấy động nhưng chưa rõ nguyên nhân nên đã cùng tên thầu khoán Gô-chi-lê bỏ chạy sang chỗ giám binh Nô-en, liền bị từng tràng súng ở trong bắn ra, hai tên vẫn còn bình tĩnh chạy núp vào trại lính Pháp".

"... Thế là ngoài trại lính Pháp, nghĩa quân hoàn toàn làm chủ tình thế tỉnh lỵ Thái Nguyên, lá cờ đề bốn chữ "Nam binh phục quốc" treo cao ngoài tỉnh lỵ. Dân chúng trong, ngoài tỉnh lỵ hết sức phấn khởi và sung sướng. Một số người kéo đến xin gia nhập hàng ngũ nghĩa quân, trong đó có ông Ký Kính là người nổi tiếng. Sau khi chiếm được tỉnh lỵ, phá nhà lao, ông Trịnh Văn Cấn tuyên bố: "Ai muốn ở lại giết giặc cứu nước thì xung phong vào nghĩa quân, còn nếu ai muốn giải ngũ thì về nhà cũng được". Hầu hết mọi người đều xin ở lại để giết giặc, chỉ có bảy người là xin rút lui, nộp súng lại và được trở về. Nghĩa quân lúc này đã biên chế thành đội ngũ cẩn thận. Nghĩa quân khố xanh được gọi là lính cũ, anh em phạm nhân và dân chúng mới gia nhập được gọi là lính mới. Số người lúc đó điểm được là 623 người, vũ khí cướp được là hơn 600 khẩu súng, con số đó đủ trang bị cho nghĩa quân. Trong hàng ngũ lính mới, ngoài một số nghĩa quân Đề Thám, trước đây là những người chiến đấu giỏi, còn đại đa số họ chẳng hiểu gì về quân sự. Lúc đó những người đã có kinh nghiệm phải mở lớp huấn luyện cấp tốc để biết sử dụng súng giết giặc".

Sau chiến thắng, như một quy luật tất yếu, ai mà chẳng phấn khởi hồ hởi nhưng điều mà người chiến thắng hay bỏ quên đó là chủ quan, tự tin quá mà coi thường thế giặc. Đội Cấn không hiểu được rằng giặc Pháp rất canh chừng vùng đất Thái Nguyên vì đây là cửa ngõ của vùng Tây Bắc nên chúng đã bí mật thông tin cho nhau chỉ bằng một chiếc máy điện thoại cá nhân còn sót lại khi quân của Đội Cấn không canh phòng cẩn mật ở nhà thông tin. Đây là một sơ hở mà bản thân Đội Cấn và binh lính Thái Nguyên không biết. Từ sơ hở này liên tiếp dẫn đến những sơ hở khác nên cuộc khởi nghĩa sớm bị dìm trong biển máu.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Ba, 2017, 10:46:37 am

3. Khôn khéo nắm bắt thời cơ:

Chần chừ, do dự sẽ khiến cho ta đánh mất đi nhiều cơ hội, có khi còn gây tai họa cho một tổ chức, thậm chí mất một nước. Ngược lại với chần chừ, do dự là lòng quả cảm, quyết đoán. Quả cảm, quyết đoán là một trong những tố chất của người lãnh đạo giỏi. Khả năng quyết đoán là gốc rễ trong công việc lãnh đạo thành công. Trở lại với người anh hùng lãnh đạo nghĩa quân ở Thái Nguyên ta thấy rất rõ mặt hạn chế này, đó là sự chần chừ, do dự ngày khởi nghĩa.

"... Sau khi những binh lính và chính trị phạm đã kết thành một khối thì việc khởi nghĩa định vào tháng Năm âm lịch năm 1917, nhân dịp tên giám binh Nô-en đi đốc thuế ở huyện Đại Từ. Trong đoàn lính cử đi bảo vệ món tiền thuế từ Hùng Sơn về tỉnh lỵ Thái Nguyên, lúc đó có Đội Lữ là một người trong nghĩa quân. Nhân đó ông Lữ đã có ý xếp đặt những binh lính đi theo đều là những người tham dự cuộc âm mưu bạo động. Kế hoạch của họ là làm sao phải giết chết được tên giám binh ở giữa đường, cướp hết tiền bạc thuế rồi lặng lẽ kéo về tỉnh lỵ cùng những bạn đồng chí nổi dậy. Việc ám sát này đáng lẽ diễn ra ở bến đò Huy Ngạc cách phủ lỵ Đại Từ chừng một cây số, nhưng có việc trở ngại nên lại thôi. Lực lượng quân sự của giặc Pháp ở Thái Nguyên bấy giờ, ngoài lính khố xanh canh gác các công sở và nhà tù ra, còn có một đoàn lính Pháp phòng vệ tỉnh thành. Vì vậy, trọng tâm của khởi nghĩa là phải diệt được đoàn lính Pháp hoặc bằng vũ lực hoặc bằng mưu kế. Có thanh toán được thực lực của giặc thì mới làm chủ được thành phố. So sánh tương quan lực lượng giữa quân khởi nghĩa và lính Pháp thì nghĩa quân phải tìm cách hạ chúng bất thình lình chứ không thể tuyên chiến được. Do đó, kế hoạch khởi nghĩa lần đầu phải hoãn lại.

Kế hoạch lần thứ hai của nghĩa quân là một hôm nào đó, vào một buổi tối đốt một cái rạp hát ở ngoài phố, tất nhiên bọn lính Pháp phải ra chữa cháy. Nhân đó lính Nam một mặt vây đánh bất ngờ, một mặt xông vào trại lính Pháp cướp súng và đánh chiếm tỉnh thành. Nhưng một lần nữa kế hoạch này lại không thực hiện được.

Lần thứ ba, kế hoạch khởi nghĩa định vào ngày 14 tháng 7 năm 1917. Hôm ấy là ngày kỷ niệm phá ngục Bát-ti, tất cả lính Pháp và lính Nam đều được lệnh sửa soạn một cuộc duyệt binh. Theo thường lệ, binh lính ít khi mang súng có lắp đạn. Những người chỉ huy khố xanh định cho quân khởi nghĩa chuẩn bị đầy đủ súng đạn đánh úp bọn lính Pháp. Rút cuộc kế hoạch này không thi hành vì sợ dân chúng đi xem "hội Tây" hôm ấy bị chết lây.

Sau ba lần dự định khởi nghĩa không thành, những tiếng đồn đại từ trong binh lính và chính trị phạm đã lan ra nhân dân ngoài phố. Cũng vì bộ máy mật thám Pháp lúc bấy giờ ở trong một tỉnh đường rừng như Thái Nguyên không được chu đáo lắm, nên tin tức vẫn chưa lọt đến tai bọn thống trị. Sang tháng 8 năm 1917 có tin sắp có một cuộc thuyên chuyển trong đám cai, đội khố xanh. Cũng có tin đồn là ông Đội Cấn và mấy yếu nhân nữa phải chuyển đi nơi khác. Đã đến lúc cuộc khởi nghĩa phải nổ ra, không thể lần lữa được nữa. Cuối cùng ngày khởi nghĩa được quyết định vào cuối tháng. Ông Cấn mật viết thư cho các đồng chí ở các đồn lẻ trong tỉnh về lĩnh lương hôm ấy cùng nổi dậy. Đêm 30 rạng ngày 31 cuộc khởi nghĩa bùng nổ (lúc đó khoảng 11 giờ)".

Nhìn lại kế hoạch khởi nghĩa chúng ta thấy sốt ruột và lo lắng. Hết lần này đến lần khác, khất lần khất lượt mãi mà cuộc khởi nghĩa vẫn chưa nổ ra được. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến tâm lý mệt mỏi của người lãnh đạo cũng như binh lính tham gia khởi nghĩa. Mặt khác cũng ảnh hưởng không ít đến tình trạng thiếu đi ý thức tự chủ, lòng quyết tâm cùng sự ăn không ngồi rồi của binh lính. Bởi vậy sau những thắng lợi bước đầu, nghĩa quân của Đội Cấn sớm bị tiêu hao, thâm hụt rồi rơi vào hoàn cảnh thiếu ăn, thiếu ngủ, chui rúc cầm cự qua ngày... Tất yếu dẫn đến thất bại.

Trong khởi nghĩa vũ trang một điều tối kỵ là tình trạng thiếu ăn, thiếu ngủ. Nhiều lần quân của ông phải chui rúc, ăn gió nằm sương. Đêm thì đi đào củ mài, củ sắn, đói khát khổ sở, ngày thì bị giặc truy đuổi... lấy sức đâu mà chiến đấu? Hỏi làm sao không thất bại? Nguyên nhân cũng một phần bởi sự chần chừ, lề mề, thiếu quyết đoán của người lãnh đạo, chỉ huy.

Sự lề mề, thiếu quyết đoán làm lãng phí thời gian. Ngày tháng cứ trôi đi trong sự do dự và càng do dự bao nhiêu thì tư tưởng sẽ càng cảm thấy bất an bấy nhiêu. Nhà thơ Shakespear có một câu danh ngôn nổi tiếng "Những người vứt bỏ thời gian, thì thời gian cũng vứt bỏ họ". Điều đó đúng và đã được lịch sử chứng minh.


Tiêu đề: Re: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Ba, 2017, 10:48:17 am

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đội Cấn năm 1917 của Nguyễn Văn Hoàn, Tài liệu trước năm 1930.
2. Danh nhân quê hương, tập 2, Ty Văn hóa Thông tin Hà Tây, 1974.
3. Khởi nghĩa Thái Nguyên - 80 năm nhìn lại, sở Văn hóa Thông tin Thái Nguyên.
4. Khởi nghĩa Thái Nguyên, Truyện lịch sử Việt Nam, Nhà xuất bản Phổ thông, 1977.
5. Cách mạng cận đại Việt Nam, tập 3, Trần Huy Liệu, Nguyễn Công Bình, Văn Tạo, Nhà xuất bản Văn sử địa, Ha Nội, 1958.
6. Lịch sử 80 năm chống Pháp, quyển 1, Trần Huy Liệu, Nhà xuất bản Văn sử địa, Hà Nội, 1957.
7. Những bài học từ lịch sử, tập 2, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, 2008.
8. Đại cương lịch sử Việt Nam, tập 2, Giáo sư Đinh Xuân Lâm chủ biên, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 2006.
9. Lịch sử quân sự Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.

Hết