Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Tài liệu - Hồi ký Việt Nam => Tác giả chủ đề:: macbupda trong 25 Tháng Bảy, 2020, 07:32:50 am



Tiêu đề: Chuyện kể về Trung tướng Nguyễn Bình
Gửi bởi: macbupda trong 25 Tháng Bảy, 2020, 07:32:50 am
Tên sách: Chuyện kể về Trung tướng Nguyễn Bình
Nhà xuất bản: Quân đội nhân dân
Năm xuất bản: 1994
Số hóa: macbupda

(https://i.imgur.com/8gFW2bl.jpg)

MẤY LỜI MỞ ĐẦU

Kính thưa bạn đọc!

Trung tướng Nguyễn Bình là người chỉ huy có tài, có đức. Anh sinh năm 1908, tên thật là Nguyễn Phương Thảo, quê ở làng An Phú, xã Tĩnh Tiến, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên, tham gia các phong trào cứu nước từ năm mới mười sáu tuổi. Năm 1928, anh hai mươi tuổi, vào Quốc dân đảng do ông Nguyễn Thái Học lãnh đạo khi đảng này vẫn còn là một đảng tiến bộ. Năm 1930, anh bị thực dân Pháp bắt đày ra Côn Đảo. Ớ trong nhà tù đế quốc, anh được các đảng viên cộng sản giác ngộ đi theo chủ nghĩa cộng sản. Vi sự thay đổi quan điểm tư tưởng như thế mà anh đã bị những người tù Quốc dân đảng móc mất một con mắt. Trong quyển Nhà tù Côn Đảo, Nhà xuất bản Sự thật, có đoạn viết: “Nguyễn Phương Thảo là người đã nghiêng hẳn về phía chủ nghĩa cộng sản”.

Năm 1943, phong trào cách mạng ở Hải Phòng bị địch khủng bố gắt gao, anh phải gây dựng cơ sở từ Bần Yên Nhân mở sang Kiến An, Hải Phòng dần dần chắp nối khắp vùng Đồ Sơn, An Lão, Hải An, Thủy Nguyên về Hải Phòng. Các cơ sở ấy lại chỉnh là các bạn tù và lính thợ, cả các viên chức, nhà giáo, thanh niên, học sinh, tiểu chủ, đồng thời có cà một số lính trong các đồn trại bảo an binh.

Tôi chỉ được công tác và chiến đấu với anh Nguyễn Bình trong thời gian ngắn nhưng anh đã để lại trong tôi nhiều ấn tượng tốt đẹp cả trong chiến đấu là tác phong công tác. Trận đánh đồn Bí Chợ là trận đầu tiên trong cuộc đời chiến đấu của tôi song là trận tôi đã thấy rõ ngay tài năng, tính quyết đoán và lòng tin của anh đối anh em, tin ở thắng lợi mà anh đã nắm chắc. Chỉ có năm du kích với hai khẩu súng ngắn mà anh dám kiên quyết đi cùng tôi và anh Nguyễn Văn Mộc dẫn đường xông vào diệt một đại đội thanh niên vũ trang Đại Việt do tên quan hai Nhật chỉ huy, thu hàng trăm súng.

Anh được Xứ ủy phân công làm kinh tế lấy mua súng đạn chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa. Nhằm vào cái đích cuối cùng là phải có vũ khí, anh đã hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc rất thực tế là “lấy súng đạn địch trang bị cho ta” bằng nhiều trận đánh khác nhau kể cả bằng binh địch vận. Có hai trận đồng loạt tấn công: Trận thứ nhất tiêu diệt bốn đồn trong một ngày 8 tháng 6 năm 1945; trận thứ hai tiêu diệt hai đồn trong một đêm 30 tháng 6 năm 1945 và giải phóng thị tỉnh lỵ Quảng Yên ngày 20 tháng 7 năm 1945. Trước Cách mạng tháng Tám, trong thời kỳ còn bí mật mà tổ chức được những trận đánh như vậy thật là kỳ tài, tưởng như huyền thoại.

Cho nên anh em trong Chiến khu Đông Triều không ai coi anh là ủy viên kinh tế mà mọi người đều nhìn nhận ở anh vị chỉ huy quân sự của chiến khu. Và đều đi đến kết luận rằng, không có hai anh Trần Cung và anh Hải Thanh (hai tỉnh ủy viên tỉnh Hải Dương được Xứ ủy phái vào lập chiến khu ở vùng Đông Triều) thì không có Chiến khu Đông Triều, nhưng nếu không có anh Nguyễn Bình thì Chiến khu Đông Triều cũng không thể có những chiến công rực rỡ và phát triển nhanh chóng như vậy được.

Sau Cách mạng tháng Tám, anh được chỉ định làm khu trưởng Chiến khu Duyên Hải (Chiến khu 3). Công lao của anh trong bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ trong khu Duyên Hải cũng rất đặc biệt, đã đối phó kịp thời và hữu hiệu trước mọi tình thế khó khăn, khi Hòn Gai, mỏ than lớn nhất nước ta bị uy hiếp từ mọi phía, hết hải quân Pháp đến bọn Việt cách, thổ phỉ và cả quân Quốc dân đảng Trung Quốc.

Tài đức của anh đã được Bác Hồ biết sớm nên khi giặc Pháp gây hấn ở Nam Bộ, Bác đã gọi anh lên gặp và trực tiếp giao cho anh nhiệm vụ vào miền Nam thống nhất các lực lượng vũ trang của rất nhiều phe phái để tập trung sức lực đánh Pháp. Anh đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ Bác Hồ giao, được Bác phong trung tướng, giao phụ trách Tư lệnh Giải phóng quân Nam Bộ! Anh là vị trung tướng đầu tiên của quân đội ta hồi đó.

Sau khi anh bị địch phục kích trên đường ra Bắc nhận nhiệm vụ, bị hy sinh, Bác Hồ đã ra sắc lệnh truy tặng anh huân chương Quân công hạng nhất là huân chương cao quý nhất của Đảng và Nhà nước ta hồi bấy giờ.

Ở Nam Bộ, anh đã cùng tập thể lãnh đạo tập hợp được các lực lượng chiến đấu về một mối, đoàn kết được mọi tầng lớp nhân dân đặc biệt là trí thức tham gia cứu nước, đề ra được chủ trương chiến đấu đúng, tổ chức lực lượng chiến đấu thích hợp đạt hiệu suất ngày càng tốt hơn.

Chuyện về Trung tướng Nguyễn Bình có nhiều sự tích truyền tụng ly kỳ song rất phù hợp với bản lĩnh quyết đoán, táo bạo và tài trí của anh, như việc anh đột nhập vào Sài Gòn để tự điều tra tình hình địch, trong tài liệu
Lược sử chiến sĩ quyết tử do Thiếu tướng Trần Hải Phụng chỉ đạo biên soạn có viết “Tài xế riêng của luật sư Vĩnh đánh xe đưa đồng chí Nguyễn Bình đi những nơi theo đồng chí yêu cầu, có lần qua bốt Catina (bốt mật thám)”. Trong tập Sống mãi với đô thành, anh lái xe của luật sư Vĩnh kể rằng Khu trưởng Nguyễn Bình “ngồi cắt tóc chỉ cách chỗ trùm mật thám Bazin ở có mấy trăm thước, cùng một con đường với cái bốt được xem như là địa ngục trần gian”. Theo tạp chí Khoa học phổ thông, phụ san số 249, bác Thái Bảo (có thời gian làm thư ký cho Trung tướng Nguyễn Bình) kể là: “Có lần ông đi dọc đường Catina từ bốt mật thám kế nhà thờ Đức Bà đến khách sạn Majestic vào tiệm hớt tóc. Ông ngồi giữa hai sĩ quan Pháp và thấy chúng trao đổi với nhau: “Nghe nói tướng Nguyễn Bình đã vào Sài Gòn”.

Cũng theo tạp chí
Khoa học phổ thông trên Hoàng Thị Thanh, vợ trung tướng kể, lần Trung tướng Nguyễn Bình vào Sài Gòn chỉ đạo kế hoạch đánh phá sòng bạc Đại thế giới và Hội phiên, anh đã đóng vai nhà văn với bút danh Ngô Minh Sơn được Nguyễn Đình Chính trưởng ban công tác một bố trí ở trong một gia đình người Hoa, gọi là “một nơi yên tĩnh để sáng tác văn học”. Chẳng may bị lộ, địch đến vây khu vực. Phía sau nhà là ao, anh không thoát ra lối đó ngược lại, trong bộ quần áo người Hoa vẫn mặc để cải trang, anh bình thản khoác tay cô con gái chủ nhà đi thẳng ra cổng chính,vừa đi vừa bật lửa hút thuốc, còn mời hai tên lính lảng vảng ở đó mỗi đứa một điếu rồi ngang nhiên bước ra đường vẫy tắc-xi đi thoát.

Chị Thanh còn kể, lần cả hai anh chị cùng một số cán bộ bị bọn lính bốt thu hết giấy tờ cũng rất ly kỳ. Đang trên xe bị giải về Sài Gòn, đến chỗ Bằng Cầu cách Thủ Dầu Một sáu ki-lô-mét, chị Thanh giả vờ khát đòi xuống uống nước, chị biết nơi đây có bộ đội, hy vọng sẽ được cứu thoát. Thừa lúc địch sơ hở chỉ chú ý đến chị Thanh, Trung tướng Nguyễn Bình hô mọi người tháo chạy vào một làng gần đó. Bọn áp tải sợ trong làng có Việt Minh không dám đuổi theo. Chúng huy động lính vây làng Bằng Cầu; tướng Nguyễn Bình chạy vào buồng nhà dân, chợt thấy bộ quần áo của chủ nhà vá chằng vá đụp, lập tức anh thay hình đổi dạng thành người nông dân nghèo, đầu đội cái nón lá cũ kỹ, xách giỏ cầm cần câu đi thẳng ra ngõ trước mắt bọn địch.

Những chuyện như thế khá nhiều. Nhưng không biết có là sự thật hay không. Vì vậy viết về anh, tôi chỉ muốn ghi chép theo những kỷ niệm, những hồi ức sâu sắc nhất của mình đối với vị tướng mà tôi kính trọng như một người anh cả, và nhất là theo những cứ liệu, sự kiện mang tính lịch sử truyền thống của Quân khu 3 và thành phố Hồ Chí Minh, do những nhà xuất bản tin cậy ấn hành. Tôi chân thành cảm ơn các tác giả tập
Đại đội Ký Con, Sống mãi với đô thành, Chiến sĩ quyết tử, Nhà tù Côn Đảo, Người Bình Xuyên đã cho tôi những hiểu biết rất phong phú về Trung tướng Nguyễn Bình. Thêm nữa, tôi vô cùng biết ơn hai người bạn chiến đấu thân thiết của Trung tướng Nguyễn Bình là đồng chí Lê Phú, nguyên đại đội trưởng đầu tiên của đại đội Ký Con, người đã chỉ huy và chứng kiến các sự việc trên khi anh Nguyễn Bình ở miền Bắc và anh Hà Ngọc Tiếu, Trung tướng công an nhân dân là người bạn chiến đấu thần thiết của anh Nguyễn Bình ở trong Nam, đã đóng góp cho tôi nhiều ý kiến xác thực vô cùng quý báu.

Tôi ước mong tập
Chuyện kể về Trung tướng Nguyễn Bình ra mắt bạn đọc sẽ là một dịp để mọi người hiểu rõ thêm vì phẩm chất và chiến công của một vị tướng liệt sĩ đầu tiên của quân đội ta. Còn với tôi, đầy là tình cảm thiêng liêng của riêng tôi kính dâng lên hương hồn anh Nguyễn Bình.

Thiếu tướng BÙI SINH


Tiêu đề: Chuyện kể về Trung tướng Nguyễn Bình - Thiếu tướng Bùi Sinh
Gửi bởi: macbupda trong 25 Tháng Bảy, 2020, 07:39:18 am
Phần một
ANH NGUYỄN BÌNH VÀ ĐẠI ĐỘI KÝ CON

Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp. Ách thống trị ngót một trăm năm của thực dân Pháp ở Việt Nam chỉ trong có một đêm sụp đổ tan tành. Việc tưởng như thay trời đổi đất đã xảy ra ở mỏ than Uông Bí vào sáng ngày 10 tháng 3 năm 1945. Bọn Pháp chủ mỏ, kỹ sư, sếp, đồn trưởng, mới ngày hôm qua còn giữ quyền sống quyền chết ở cái vùng mỏ này, hôm nay đều trở thành tù binh của Nhật. Công nhân, cai ký, dân thị xã bàn tán xôn xao, nhưng nói chung ai nấy hình như đều mong có một sự thay đổi. Phải, cần có một sự thay đổi lắm rồi. Nạn đói kéo dài mãi. Người chết đói ngày càng nhiều, chôn không kịp. Thợ thuyền bị vắt đã kiệt sức, gầy guộc, xanh xao. Ai dám tin rằng mình và gia đình mình có thể qua khỏi nạn đói khủng khiếp giết chết hàng triệu người này. Người ta hy vọng có một sự thay đổi.

Và chỉ mấy ngày sau cái việc tưởng như thay trời đổi đất đó đã đưa đến cho công nhân Uông Bí một sự thay đổi. Mỏ than đóng cửa. Những câu “Việt Nam độc lập”, “Khối Đại Đông Á đoàn kết” mà phát xít Nhật ra. sức tuyên truyền, còn đương là những hình ảnh mơ hồ, thì việc mỏ than Uông Bí đóng cửa đem lại cho người ta một hình ảnh sâu sắc: lại chết đói.

Làm thế nào bây giờ! Đó là tiếng thở than của những bộ mặt lo âu, kèm theo những tiếng thở dài não ruột. Tôi cũng không biết tình hình sẽ giải quyết ra sao, vì ngay sau đó, tôi cũng như một số người khác, khăn gói trở về quê hương. Nhưng có điều tôi biết chắc chắn là hoàn cảnh nào giải quyết cũng mười phần khó khăn. Thần chết gõ cửa gấp hơn.

*
*   *

Tôi về Hải Phòng, nơi chôn rau cắt rốn của tôi. Tuy nó là thành phố công nghiệp, nhưng tôi không tin rằng về đó có thể tìm được việc làm, mặc dầu tôi có nghề thợ điện.

Bố tôi làm thợ máy ở Hải Phòng tới hơn hai mươi năm, có nhiều kinh nghiệm chạy việc, nhưng chạy khắp nơi cũng không sao kiếm nổi một việc làm cho con.
 
Hồi đó phát xít Nhật kêu gọi “Việt Nam độc lập” dữ lắm. Chúng còn lập ra một tổ chức chính trị có tên là “Đại Việt quốc gia liên minh” gọi tắt là Đại Việt và xây dựng cho bọn này một lực lượng vũ trang gọi là “Thanh niên vũ trang Đại Việt”.

Nghe mấy tiếng “Việt Nam độc lập” bề ngoài có vẻ hấp dẫn nhưng lúc đó tôi cũng chưa hiểu được những mưu toan sâu xa, hiểm độc của chúng, chỉ biết là đi lính Đại Việt để có cơm ăn, thế thôi. Giữa thời buổi tìm việc làm ăn lương thiện hết sức khó khăn mà đi lính Đại Việt lại dễ, cho nên cũng đành phải xin vào lính Đại Việt thôi.

Con đường lẽ ra là như vậy. Nhưng khi đến chơi thăm Lê Phú, tôi lại nghe anh nói:

- Con đường đó đi không được đâu.

Hồi nhỏ, gia đình tôi và gia đình Phú ở chung một nhà. Khi thi cao đẳng tiểu học không đỗ, Phú ra mỏ than học việc, sau vì đời sống khó khăn, bỏ đi lính thủy Pháp. Ngày 9 tháng 3 năm 1945 cũng bị Nhật bắt làm tù binh, nhưng là lính thủy người Việt nên Phú được sử dụng trên pháo hạm Com-măng-đăng Buốc-đe (Commanđant Bourdais) của Pháp bị Nhật chiếm giữ khi đó đang đậu trên sông Tam Bạc phía Thượng Lý, Hải Phòng.

Chúng tôi là bạn thân từ nhỏ, lớn lên xa nhau, Phú khi ở Sài Gòn, khi ở Nguyên Bình, Cao Bằng nhưng vẫn trào đổi thư từ với tôi. Sau ngày 9 tháng 3. năm 1945 chúng tôi lại gặp nhau ở Hải Phòng. Khi đó Phú đã hoạt động Việt Minh, đang công tác trong đám thủy binh người Việt trên pháo hạm. Vì thế khi biết ý định của tôi, anh đã can ngăn.

Lê Phú giới thiệu tôi gặp hai người, anh Dương Chính và anh Nguyễn Bình, lúc bấy giờ đã là hai cán bộ Việt Minh phụ trách Chiến khu Đông Triều, đang công tác ở Hải Phòng. Qua những cuộc nói chuyện thân thiết, có một điều không quên được là các đồng chí đã khắc sâu vào lòng tôi hai tiếng “Việt Minh” với một cảm xúc vô cùng mạnh mẽ. Nhất là cái lần ở trên gác xép hiệu may Rô-be Tay-lo của anh Phạm Khang, một cơ sở của ta ở phố Cầu Đất, anh Nguyễn Bình tìm hiểu tôi rất kỹ, từ chuyện gia đình, bố mẹ làm gì, hồi nhỏ đi học ở đâu đến những ngày làm công nhân mỏ bị thất nghiệp rồi có ý định vào lính Đại Việt để kiếm sống, anh đã đem lại cho tôi một niềm phấn khởi với nhiệm vụ giao cho tôi là: tiếp tục thực hiện ý định xin vào lính Đại Việt với ý nghĩa cài người vào hàng ngũ địch để đánh địch.

Đi lính Đại Việt, con đường đó trước là do tôi định, nay là do cách mạng định. Do đó, mục đích, nội dung hoàn toàn khác hẳn. Trước là để kiếm cơm, nay là để đánh Nhật cứu nước. Trước không có nội dung gì, nay nội dung là điều tra địch, báo cáo tình hình, phát triển lực lượng trong lòng địch, chuẩn bị diệt địch. Con đường đi như thế là quyết định.

Khi mà trình độ giác ngộ được nâng cao một chút, quay nhìn lại lúc đứng ngã ba đường này mới thấy rùng mình. Nhưng càng nghĩ càng vô cùng biết ơn Đảng và phong trào cách mạng đã như một tảng đá nam châm thu hút mình vào con đường chính đại quang minh.

Tôi biết anh Nguyễn Bình bắt đầu từ đó.


Tiêu đề: Chuyện kể về Trung tướng Nguyễn Bình - Thiếu tướng Bùi Sinh
Gửi bởi: macbupda trong 25 Tháng Bảy, 2020, 07:43:45 am
*
*   *

Thực hiện chỉ thị của anh Nguyễn Bình, tôi xin vào lính Đại Việt ở Hải Phòng. Hải Phòng chỉ là nơi tuyển lính, còn sào huyệt quân sự của bọn Đại Việt là ở mỏ than Bí Chợ, Uông Bí.

Một ngày vào khoảng tháng 4 năm 1945, tốp lính mới hơn chục người, trong đó có tôi, được đưa từ Hải Phòng đến Bí Chợ, Uông Bí. Đồn đóng trên một quả đồi con, trong tòa nhà hai tầng của Bạch Thái Đào, chủ mỏ than Bí Chợ. Mỏ Bí Chợ đã đóng cửa từ lâu, xung quanh đồn toàn rừng núi hoang vu. Kể cả tốp lính mới tới này, lực lượng chúng có hai trung đội toàn người Việt và một tên quan hai Nhật trực tiếp chỉ huy. Vũ khí có hai trung liên Hốt-kít Pháp, hai tiểu liên Thôm-xơn Mỹ và hơn một trăm súng trường. Súng có nhiều vì chúng đang tiếp tục tuyển mộ thêm lính. Đồn này thuộc quyền chỉ huy của tên quan tư Nhật ở Hòn Gai. Hôm mới tới đồn, tôi cũng gặp tên quan tư tới kiểm tra, nó đến đồn này đã mấy hôm rồi. Kể ra chúng cũng tích cực xây dựng cái lực lượng vũ trang này, vì đó là toàn bộ vốn liếng quân sự đầu tiên của bọn Đại Việt, hay nói đúng hơn, mầm mống của ngụy quân dùng làm bia đỡ đạn cho Nhật.

Cuộc đời mới của tôi bắt đầu như vậy đó.

Ở đồn này, tôi cũng làm mọi việc như những người lính Đại Việt khác: tập quân sự, rào đồn, đào công sự, v.v... Nhưng mấy khẩu trung liên với băng dài 25 viên đạn, mấy khẩu tiểu liên với băng tròn 50 viên đạn, có sức hấp dẫn tôi rất mạnh. Tôi nghĩ rằng, với những súng đó, mình tôi quét một cái chúng cũng chết vài chục tên. Do đó, tuy chỉ được giữ súng trường, lợi dụng giờ học vũ khí, tôi học sử dụng thành thạo cả trung liên và tiểu liên.

Việc gì nhìn thấy là nghĩ. Đêm nghĩ, ngày nghĩ, nghĩ nhiều về đêm. Hết mưu này tới mẹo khác. Đêm, chúng ngủ say thế này, đưa anh em vào chịt các cửa buồng, cho mỗi buồng một quả lựu đạn, một băng liên thanh thì chúng chết không kịp ngáp. Ngày chúng đi tập, lúc nghỉ gác ba khẩu súng vào nhau, ta đến đánh thì chúng chỉ có bỏ súng mà chạy. Khi đi tập, chúng bỏ đồn trống, ta vào bắt mấy tên lính gác cướp đồn, đợi chúng đi tập lững thững về mà đánh thì chúng trở tay không kịp, v.v...

Không phải là đã được học gì về quân sự, cũng chả có tí kinh nghiệm quân sự nào, thế mà tới đồn mới độ một tháng tôi đã nghĩ ra có tới chục kế hoạch diệt đồn và căn bản là ba kế hoạch tôi nghĩ ở trên. Có điều là kế hoạch hơi thô sơ, nhưng cũng tương đối sát, vì đấy là kết quả quan sát hàng ngày và kết quả suy nghĩ của tôi.

Từ nhỏ tôi đi học văn hóa, thường đứng thứ 30, 35 trong 40 hoặc 60 học sinh. Học kỹ nghệ khi thi ra có mười bốn người đỗ về điện, tôi cũng đỗ nhưng chỉ đỗ cuối cùng trong số mười bốn người đó. Cuộc đời làm thợ ngày hai buổi đi về chỉ biết vào bếp nấu cơm, ngoài ra gần như không còn quan tâm đến điều gì khác. Như thế cũng có thể gọi tôi là một con người, nhưng một con người không có chí hướng, vì trong mọi việc làm hầu như không có một sức mạnh gì chi phối cả.

Bây giờ tôi đã bị một sức mạnh chi phối mãnh liệt, ngày ngày chi phối tôi, việc việc chi phối tôi. Làm thế nào tiêu diệt được địch, giành được chiến thắng! Suy nghĩ đó Đảng truyền cho tôi, biến tôi thành một con người thực sự: đứng thẳng được và có sức mạnh. Đấy, cái mà tôi muốn nói cuộc đời mới của tôi bắt đầu chính là ở chỗ đó. Và người thay mặt cho Đảng lúc ấy không phải ai khác mà là đồng chí Nguyễn Bình. Đó là con người có dáng cao lớn, hay mang kính râm, mặc quần áo nâu trông vẻ khắc khổ nhưng rất dễ gần.


Tiêu đề: Chuyện kể về Trung tướng Nguyễn Bình - Thiếu tướng Bùi Sinh
Gửi bởi: macbupda trong 25 Tháng Bảy, 2020, 07:44:45 am
*
*   *

Từ khi nắm tình hình trong đồn địch đã vững và đã có nhiều mưu kế diệt đồn, thì một việc làm cho tôi nóng lòng là làm thế nào liên lạc với chiến khu. Sau nghĩ chỉ có một cách nói dối là bố ốm, xin phép về thăm bố. Thấy Nguyễn Văn Mộc, trung đội trưởng trung đội của tôi, là người tốt với lính, tôi tìm tới anh xin phép. Anh ta hỏi:

- Quê anh ở đâu?

Tôi đáp:

- Ở Văn Đẩu, An Lão, Kiến An.

Anh ta hỏi luôn:

- Ở Văn Đẩu à? Thế có biết anh Trần Thành Ngọ không?

Trần Thành Ngọ là người làng tôi. Tôi biết tên nhưng không biết mặt. Biết tên vì làng tôi chỉ có hai người học trường kỹ nghệ là Ngọ và tôi. Không biết mặt vì hai người cùng ít ở quê nhà. Nhưng tôi cứ đáp:

- Tôi có biết anh Trần Thành Ngọ.

Anh ta tỏ vẻ vui mừng, nói:

- Được, tôi sẽ xin phép giúp anh, nhưng anh đưa giúp tôi một bức thư cho Ngọ.

Được phép, tôi về Hải Phòng. Định tới pháo hạm gặp Phú, nhưng vì nóng lòng báo cáo về chiến khu tôi tìm tới cơ sở liên lạc. Ở đây tôi viết báo cáo, vẽ sơ đồ, trình bày kế hoạch đánh. Về lực lượng sử dụng, tôi đề nghị hai mươi người, hai mươi súng ngắn và một xe cam nhông chở súng đạn chiến lợi phẩm. Thấy tôi đề nghị vậy, đồng chí phụ trách cơ sở liên lạc cười, nói đùa:

- Gì chứ, ở chiến khu thì tàu bay, xe tăng, ô tô cái gì cũng có!

Tôi nghe cứ tưởng thật, liền hỏi anh về ngày đánh và việc liên lạc từ nay về sau. Anh cho biết ngày đánh còn đợi báo cáo về chiến khu, còn việc liên lạc thì sau sẽ có người tới đồn trực tiếp gặp tôi. Rồi như chợt nhớ ra, anh nói:

- Này, Lê Phú đã lấy một khẩu đại liên trên pháo hạm và đưa hai thủy binh người Việt về chiến khu rồi đấy.

Tin đến bất ngờ làm tôi mừng quá:

- Phú về chiến khu rồi à? Tí nữa thì tôi tới tàu tìm cậu ấy. Lấy được một đại liên, đưa hai thủy binh về chiến khu? Thích quá nhỉ!

Anh cười nói tiếp:

- Chưa hết, về tới chiến khu, Phú lại chỉ huy một số anh em mặc giả Nhật tiêu diệt đồn Tràng Bạch. Tràng Bạch bây giờ thuộc về ta rồi.

Niềm vui chưa dứt, thì lại đến tin mừng này, tôi thích quá nắm tay anh, nói:

- Lại ăn mặc giả Nhật tiêu diệt đồn Tràng Bạch nữa, Tràng Bạch thuộc về ta rồi! Thật thích quá! Đề nghị anh báo cáo về chiến khu mau tới đánh đồn Bí Chợ đi nhé.

Tôi rời khỏi cơ sở, ra về. Trên đường phố Cầu Đất, Hải Phòng, vẫn người qua người lại, nhưng không biết đã có ai biết những tin thắng lợi đó chưa? Tôi muốn nói cho mọi người cùng biết.

Kế hoạch Lê Phú tháo súng trên pháo hạm mang về chiến khu và đánh đồn Tràng Bạch đều do anh Nguyễn Bình vạch ra và chỉ huy.

Hôm về chiến khu bàn kế hoạch đánh Bí Chợ, nghe Lê Phú kể lại, tôi đã thấy khâm phục anh và rất tin tưởng ở anh.


Tiêu đề: Chuyện kể về Trung tướng Nguyễn Bình - Thiếu tướng Bùi Sinh
Gửi bởi: macbupda trong 25 Tháng Bảy, 2020, 07:45:59 am
*
*   *

Theo sự giới thiệu của anh Mộc, tôi đến nhà anh Trần Thành Ngọ.

- À, Bùi Sinh đấy à? Nghe tiếng mãi rồi, nay mới gặp mặt. Vào đây, vào đây, tới chơi hay có việc gì đấy?

Anh Ngọ niềm nở kéo tôi vào nhà sau khi nghe tôi tự giới thiệu. Sự vồn vã của anh Ngọ làm cho tôi phút đầu gặp mặt đã có cảm tình. Tôi vui vẻ đáp:

- Tôi tới đưa thư của anh Mộc cho anh, không có dịp này thì không biết bao giờ mới gặp nhau.

Ngọ xem thư Mộc xong, nghĩ một lát rồi nhìn tôi ôn tồn hỏi:

- Anh cũng ở chỗ Mộc à? Tại sao các ông lại đi cái lính này nhỉ?

Trong bụng tôi đã hơi có tí tự ái, nhưng trả lời cho qua chuyện:

- Không kiếm được việc gì cả.

Lần này, Ngọ nghĩ lâu hơn, rồi nói:

- Hôm nọ, tôi có gặp một người lạ mặt, nói tuột câu chuyện mà tôi nghe rất hay. Người ấy nói rằng...

Thế là Ngọ bắt đầu kể cái câu chuyện gọi là “của người lạ mặt” nói với Ngọ. Câu chuyện cũng giống như chuyện anh Dương Chính và anh Nguyễn Bình, những người đầu tiên đã khắc vào lòng tỏi hai tiếng Việt Minh. Sao ở thôn quê này cũng có người nói chuyện giống Dương Chính, Nguyễn Bình thế. Hình như đâu đâu cũng có những người như vậy.

Tôi lộ vẻ vui mừng, hân hoan nắm tay Ngọ, nói:

- Cũng đã có người nói chuyện như thế với tôi.

Ngọ cười hiền hậu, hỏi lại câu lúc nãy:

- Thế sao lại đi cái lính đó?

Lần này tôi không tự ái nữa, vui vẻ nói cho Ngọ biết công việc tôi làm. Niềm vui về những tin thắng lợi vừa qua bây giờ mới có dịp trút ra cho Ngọ cùng vui, đồng thời hỏi thăm Ngọ ngay về Mộc. Ngọ đập mạnh vào vai tôi, nắm chặt hai vai lay lay nói:

- Ừ, có thế chứ. Định tuyên truyền ông, lại bị ông tuyên truyền lại. Hay lắm! Những tin thắng lợi vừa nói là một sự động viên lớn cho mình. Còn về Mộc, chắc anh cần nó giúp phải không? Nó là bạn rất thân của tôi, nó coi tôi như anh ruột, nhưng không hiểu nó nghĩ thế nào mà lại đi cái lính đó. Tôi viết thư cho nó, anh mang về, chắc chắn nó sẽ nghe ra và sẽ giúp được anh nhiều việc. Nó vốn là thằng tốt, hăng hái đấy.

Chỉ trong có độ một tiếng đồng hồ gặp nhau mà chúng tôi tưởng hiểu nhau, thân nhau hơn anh em ruột. Tỏi bắt tay Ngọ ra về, Ngọ siết chặt tay tôi, nói:

- Chúc mau thành công nhé.

*
*   *

Trong công việc cách mạng giao cho, một khó khăn tưởng gần như không khắc phục được là tuyên truyền và tổ chức lực lượng trong đồn địch. Ngoài tiếng “Việt Minh đánh giặc cứu nước” và cảm xúc sâu sắc khi nghĩ tới những tiếng đó ra, tôi không còn biết ăn nói thế nào cho khỏi lộ bí mật mà lại thuyết phục được lòng người. Tuy nhiên tôi cũng đã làm cho ba người có cảm tình với mình. Gọi là cảm tình thì cũng quá, vì tôi đã hở hai tiếng Việt Minh cho họ biết bao giờ đâu mà bảo là cảm tình với Việt Minh được. Thật ra chỉ là những người tôi thấy tốt, làm quen và đã bắt thân thì đúng hơn. Nhưng sở dĩ tôi quen gọi là cảm tình là vì trong việc diệt đồn sau này, họ cũng góp một phần tác dụng.

Bức thư của Ngọ gửi cho Mộc đã giúp tôi khắc phục được khó khăn này. Sau khi xem thư Ngọ xong, Mộc tới tìm tôi, nói:

- Tôi đã xem thư anh Ngọ. Tôi đã suy nghĩ kỹ. Tôi biết con đường tôi đi là không đúng. Sau ngày 9 tháng 3 năm 1945 không có việc làm, thấy tuyển lính, tôi đi. Khi mới tới đồn này, chỉ có vài chục người. Thằng quan hai Nhật biết tiếng Pháp, thấy tôi nói tiếng Pháp được, nó dùng làm thông ngôn sau cho tôi làm trung đội trưởng cái trung đội mới này. Trước kia tôi đã nghe tiếng Việt Minh, rất hâm mộ, nhưng không biết tìm đâu ra. Anh Ngọ có nói là tìm anh nói chuyện...

Thấy thái độ chân thành của Mộc, tôi nói:

- Như vậy rất tốt. Trong công việc tôi làm cũng cần nhiều tới sự giúp đỡ của anh. Chúng ta cùng bàn bạc với nhau để mà làm.

Từ đó Mộc trở thành người “của ta” và có tác dụng tích cực trong việc diệt đồn sau này. Ách áp bức bóc lột tàn khốc dã man của Pháp - Nhật đã gây nên sự phẫn nộ sâu sắc trong lòng dân tộc Việt Nam, dân tộc Việt Nam đã như một kho thuốc súng. Chỉ có Đảng cộng sản biết, do đó khi Đảng đem ngọn lửa cách mạng nhóm vào đâu, nơi đó bùng lên, cả ở thành thị lẫn nông thôn. Ngọn lửa cách mạng bén vào ai, người đó bừng bừng sôi nổi. Ngay trong ngụy quân của địch cũng dễ bị ngọn lửa cách mạng cuốn theo.


Tiêu đề: Chuyện kể về Trung tướng Nguyễn Bình - Thiếu tướng Bùi Sinh
Gửi bởi: macbupda trong 25 Tháng Bảy, 2020, 07:50:17 am
*
*   *

Một ngày vào khoảng tháng 6 năm 1945 tôi đang ngồi lau súng trong đồn, một tên lính vào báo cho biết có em gái tới tìm. Tôi ngước mắt nhìn ngạc nhiên, V1 tôi không có em gái, nhưng chợt nghĩ ra, tôi đáp “thế à?” rồi làm bộ tự nhiên, lững thững đi ra. Cách cổng đồn mấy chục thước có một chị trẻ tuổi, xinh đẹp nhưng lạ mặt. Tôi đi thẳng về phía chị, vừa đi vừa nhìn chị vừa tủm tỉm cười, nghĩ: “Chắc là người của ta đến thôi”. Thấy tôi tới gần, chị hỏi khẽ: “Anh có phải là Bùi Văn Sinh không?”. Tôi đáp: “Tôi là Sinh đây”. Chị dắt tay tôi xuống dưới chân đồi nói:

- Tôi là Lê Bích, anh Bình cần anh về có việc. Vừa rồi, tôi đã nói với tên gác, tôi là em gái anh, vì bố ốm gần  chết, tôi xin phép cho anh về.

Tôi trở vào đồn tìm Mộc, nói cho Mộc rõ tôi có việc cần đi. Mộc đi tìm gặp tên quan hai Nhật xin phép cho tôi với lý do bố ốm gần chết, có em gái tới tìm. Tôi được nghỉ bảy ngày.

Trên đường về, Lê Bích hỏi tôi:

- Anh ở tổ chức nào nhỉ?

Tai tôi đã nghe rõ câu hỏi đó, nhưng không hiểu, hỏi lại:

- Chị hỏi gì cơ?

Lê Bích tưởng tôi nghe chưa rõ, hỏi lại:

- Anh ở tổ chức nào, thanh niên hay tự vệ?

Tiếng tổ chức đã không hiểu lại thêm tiếng thanh niên hay tự vệ, tôi cảm thấy ngượng nghịu, hai tai nóng bừng lên, lúng túng hỏi lại:

- Tổ chức thanh niên hay tự vệ là gì cơ?

Thấy tôi hỏi vậy, Bích tủm tỉm cười “à, à” rồi lảng sang chuyện khác.

Lê Bích đã hy sinh rồi. Tôi cũng chưa có dịp hỏi lại chị xem khi đó chị nghĩ gì về tôi. Có lẽ chị cho tôi là người khéo giữ nguyên tắc bí mật nên làm ra bộ ngớ ngẩn. Riêng tôi, mỗi khi nghĩ tới chuyện này, không khỏi buồn cười về cái sự ngây ngô của mình về chính trị trong những ngày đầu tham gia cách mạng và không khỏi không nhớ tới người bạn gái đầu tiên gặp trên con đường cách mạng.

Trời gần tối, Lê Bích dẫn tôi tới Cầu Giá, một chiếc cầu trên đường Hải Phòng, Uông Bí. Chúng tôi rẽ về phía bờ sông bên trái. Ở đó đã có một chiếc thuyền con và một người chở thuyền, chiếc thuyền này đã đưa Lê Bích từ Chiến khu Đông Triều tới, nay lại đưa chúng tôi về Chiến khu Đông Triều. Thuyền nhỏ, chúng tôi ngồi ở mũi thuyền nói chuyện. Tới khuya, tôi nhường Bích vào trong khoang nằm, còn tôi ngồi mũi thuyền hút thuốc lá, bụng thầm phục cô gái lần đầu tiên biết mặt biết tên nhưng gan dạ, có cách nói chuyện giống Dương Chính, Nguyễn Bình, Trần Thành Ngọ, dễ thu hút lòng người, nhưng trong câu chuyện có những tiếng mình nghe không hiểu gì cả.

Gần sáng, thuyền đưa chúng tôi tới Bác Mã, một địa điểm trong Chiến khu Đông Triều. Ở đây, tôi gặp đồng chí Nguyễn Bình, lại gặp được cả Lê Phú và nhiều đồng chí khác. Tôi mới xa anh Nguyễn Bình độ hai tháng trời mà nỗi vui mừng gặp lại tưởng như xa đã bao năm. Hạnh phúc biết bao khi chúng tôi được gặp nhau ở chiến khu trong không khí hào hùng lo việc cứu dân cứu nước này.

Kế hoạch đánh đồn Bí Chợ được bàn ở Chiến khu Đông Triều và do anh Nguyễn Bình trực tiếp chỉ huy. Lực lượng sử dụng là một tiểu đội, dùng lối đánh kỳ tập kết hợp với nội ứng. Tôi có nhiệm vụ đưa đội du kích bí mật chui qua rào vào đồn, chia nhau chịt các cửa buồng tiêu diệt địch. Để giữ bí mật toàn đội sẽ không mang theo súng trường mà chỉ có hai khẩu súng ngắn. Vì vậy tôi và Mộc có nhiệm vụ phải lấy được một số súng đạn của địch để trang bị tại trận cho đội du kích.

Đồn địch nằm gọn trong tòa nhà hai tầng gồm có tám căn buồng. Muốn diệt chúng, mỗi buồng ít ra cũng phải có hai người đủ vũ khí, cộng mười sáu người, mười sáu súng. Đó là dự kiến của tôi. Tôi nghĩ lực lượng đi đánh có mỗi tiểu đội như vậy là ít quá. Nhưng anh Nguyễn Bình giải thích đi đông dễ lộ bí mật. Hơn nứa dùng binh cốt ở tinh thông. Sau này càng nghĩ tôi càng thấy khâm phục tài cầm quân đánh giặc của anh, đã mang ít quân lại không mang súng.

Tôi có nhiệm vụ trở về đồn bàn kế hoạch cụ thể với Mộc, rồi lại tới ngay Quảng Yên gặp đồng chí Nguyễn Bình, quyết định kế hoạch lần cuối cùng.

Công việc bàn bạc với Mộc đã xong. Mộc nhất trí kế hoạch của chiến khu. Riêng Mộc đảm nhiệm cho cát vào hai khẩu trung liên và ăn cắp hai khẩu tiểu liên. Tôi sẽ lấy một súng trường của tôi và ba người nữa tôi gọi là cảm tình. Khi nào đội du kích tới đánh đồn, sẽ lấy ra trang bị cho anh em.

Bàn bạc xong, tôi vơ lấy vài cái quần áo rồi lại ra đi. Một tên lính Đại Việt hỏi soi mói:

- Mày vừa về sao lại đi ngay?

Tôi nói:

- Tao được nghỉ bảy ngày về thăm bố ốm, mới nghỉ có ba ngày! Nhân có việc qua Uông Bí, tao tạt vào lấy quần áo thay!

Cách nói dối cũng gượng gạo, nhưng không nghĩ ra cách gì hơn.


Tiêu đề: Chuyện kể về Trung tướng Nguyễn Bình - Thiếu tướng Bùi Sinh
Gửi bởi: macbupda trong 25 Tháng Bảy, 2020, 07:51:27 am
Qua thị xã Uông Bí thì trời đã tối, người mệt nhoài vì mấy ngày thiếu ngủ, đầu óc thường xuyên căng thẳng. Tôi tìm thuê một chiếc xe kéo đi Quảng Yên, nhưng không một chiếc nào dám đi đêm trên con đường này. Đêm nay, các đồng chí đón mình ở chỗ đã hẹn, tới chậm giờ nào, các đồng chí mong giờ đó, lỡ ra thì lại mất liên lạc. Tôi vừa đi vừa chạy, chạy mệt lại đi, đi đỡ mệt lại chạy, chạy nhiều hơn đi, mong cho chóng tới thị xã Quảng Yên. Khoảng 12 giờ đêm, tới thị xã Quảng Yên, tìm tới góc phố đã hẹn thì gặp Lê Bích đứng đón từ tối ở đấy rồi. Lê Bích dẫn tôi đi một lát rồi tạt vào cái ngỗ con. Ở đấy, tôi gặp đồng chí Nguyễn Bình. Các đồng chí khác cũng vừa mới ở chiến khu tới đây chiều nay. Đồng chí Nguyễn Bình đã thống nhất các ý kiến trong kế hoạch đánh đồn Bí Chợ một cách chặt chẽ tỉ mỉ. Tôi thấy tin tưởng vô cùng.

Hai ngày sau, tôi từ Quảng Yên trở về đồn Bí Chợ. Kế hoạch như thế là đã quyết định xong. Đêm 30 tháng 6, đội du kích tới đánh đồn.

Độ mười giờ sáng, tôi về tới đồn. Anh em cảm tình cho biết mấy ngày nay, trong bọn lính có sự bàn tán xôn xao về tôi. Chúng nghi tôi là Việt Minh. Chúng nó bảo tôi mới tới đồn có độ hai tháng trời mà đi đi về về đã ba lần rồi. Người con gái hôm nọ tới đây trông không giống tôi, mà lại nói là em gái tôi. Chúng nó định chiều nay thằng quan hai Nhật ở Hải Phòng về là sẽ báo cho nó biết.

Nghe xong tôi làm ra vẻ bình thản nói:

- Chúng nó chỉ được cái nói láo. Cứ để chúng nó đi báo quan hai!

Nói vậy nhưng bụng đã hơi lo lo. Đêm nay đội du kích tới đánh đồn rồi, nếu để xảy ra chuyện gì thì hỏng cả. Tôi vội đi tìm Mộc, bàn cách đối phó. Không may tên quan hai Nhật đã phái Mộc về bộ tư lệnh tiểu đoàn Nhật ở Hòn Gai có việc mấy hôm nay rồi.

Tôi đang loay hoay nghĩ cách trả lời nếu nó hỏi tôi, thì độ một giờ chiều Mộc về. Mộc về lúc này, sao tôi thấy thân thiết và vui mừng đến thế. Chúng tôi bàn đi bàn lại không nghĩ ra cách gì để đối phó.

Độ một giờ sau, Mộc tới tìm tôi, nói:

- Sinh này, mình vừa ở chỗ tên quan tư Nhật ở Hòn Gai về. Chiều nay thằng quan hai Nhật về, mình nói dối nó là quan tư gọi nó về Hòn Gai có việc cần ngay. Thế nào nó cũng đi. Nhưng có chắc chắn đội du kích hôm nay tới đánh dồn không?

Tôi mừng rỡ đáp:

- Đêm   nay nhất định là đội du kích tới rồi. Chỉ cần thằng quan hai đi ngay để dư luận không kịp tới tai nó. Cứ qua đêm nay là được. Nhưng liệu nó có đi ngay cho không?

Mộc nói:

- Cứ nói quan tư có lệnh gọi thì thế nào nó cũng đi. Mình chỉ lo đêm nay đội du kích mà không tới, thì mai nó về, lôi thôi lắm đấy.

Tôi quả quyết:

- Thế nào cũng tới, cậu đừng lo. Cậu cứ thế mà làm.

Độ bốn năm giờ chiều tên quan hai Nhật về. Nó vừa ở chiếc ôtô con bước xuống, Mộc chạy tới nói với nó bằng tiếng Pháp:

- Việc ông giao cho tôi đi Hòn Gai đã làm xong. Quan tư có lệnh gọi ông tới Hòn Gai ngay hôm nay có việc cần.

Tôi ở trong hiên nhà nhòm ra. Tên quan hai chỉ kịp ra lệnh cho lính vác từ trên ô tô xuống những chiếc ba lô vải đỏ mới tinh và hàng chục tút thuốc lá mà nó mới lĩnh ở Hải Phòng về để phát cho lính rồi tất tưởi vào trong nhà thay quần áo, một lát lại lên xe ra đi. Tôi trút ra một tiếng thở dài, lòng nhẹ hẳn đi, rồi tới gần Mộc khẽ nói:

- Hay lắm. Việc cậu làm hay lắm. Chúng ta lại bàn kế hoạch cụ thể đêm nay.

Trời tối đã lâu rồi, tôi và Mộc ngồi trong vườn hoa trước cửa đồn nói chuyện. Chúng tôi nhắc lại những việc phải làm trong đêm nay, chỉ lo cho nhau những gì sơ suất. Sắp kẻng ngủ rồi còn gì. Mộc móc bao thuốc lá rút một điếu hút rồi đưa cả bao cho tôi, nói:

- Cậu cầm lấy mà hút, mình hút rát cả lưỡi rồi. Mình hồi hộp quá, Sinh ạ.

Tôi đáp:

- Ừ, mình cũng thế, hồi hộp quá, chỉ mong mau tới kẻng ngủ.


Tiêu đề: Chuyện kể về Trung tướng Nguyễn Bình - Thiếu tướng Bùi Sinh
Gửi bởi: macbupda trong 25 Tháng Bảy, 2020, 07:52:21 am
Kẻng ngủ đã đánh. Nửa giờ sau, theo kế hoạch đã định, Mộc ra vọng gác kiểm tra gác, tôi đi ra khu vườn trước cửa, dỡ rào chui ra ngoài.

Trời không trăng không sao, tối như mực. Tôi không dám đi đường cái, cứ ven theo đồi mà đi.

Từ đồn ra chỗ đón đội du kích chỉ độ ba cây số mà sao tôi đi thấy lâu thế. Nhiều lúc cứ tưởng như mình đã đi lạc đường lại phải dừng lại xem phương hướng. Việc đi đường đối với tôi lúc này tưởng như quan trọng nhất đời tôi.

Tới chỗ hẹn, có tiếng hỏi: - Ai?

Tôi vừa đáp: - Tôi! Thì người đó bỏ chạy. Biết là người mình, tôi vừa chạy theo vừa gọi khẽ:

- Tôi đây, tôi đây. Đứng lại!

Nhưng càng đuổi càng gọi, người đó càng chạy miết, rồi mất hút. Tôi ngơ ngác chưa hiểu sự việc ra sao, quay về chỗ hẹn đứng một lúc thì đội du kích tới. Đồng chí Nguyễn Bình hỏi:

- Tôi có cho một người tới liên lạc trước, đã gặp chưa?
 
 
Tôi thuật lại câu chuyện vừa rồi, đồng chí lẩm bẩm:

- Cái thằng nhát quá.

Trời đã bắt đầu mưa. Mưa tháng sáu, nước đổ xuống như trút. Tôi đi trước dẫn đường, đồng chí Bình bám lưng tôi, Lê Phú bám lưng đồng chí Bình, cứ thế hơn chục người bám lưng nhau đi như trẻ con chơi rồng rắn. Cách đồn còn có năm trăm thước, tôi dừng lại dặn các đồng chí yên lặng, nhẹ nhàng. Lúc đó mới biết tốp du kích sáu người đi cuối do đồng chí Hoàng Sĩ Lễ dẫn đầu đã đi lạc mất rồi.

Tôi lo quá, mười hai người đã ít lại lạc mất một nửa. Bảo các đồng chí đứng đợi, tôi chạy ngược lại đi tìm. Trời vẫn tối đen, mưa vẫn nặng hạt. Cứ chạy một quãng tôi lại dán mặt xuống đất chổng mông lên trời nhìn về phía trước, hy vọng tìm ra những bóng người in lên nền trời đen sạm. Mỗi khi trước mặt tôi hiện ra những bóng đen, tôi mừng quá chạy lại, mồm tặc lưỡi gọi, tay sờ vào thì lại là những bụi cây thờ ơ lạnh nhạt.

Trời sắp sáng rồi còn gì. Tôi không chổng mông để tìm nữa, cũng không tặc lưỡi nữa. Vội quá rồi, tôi vừa chạy vừa gọi khẽ: “Có ai đấy không? Có ai đấy không?”. Chạy gần hết quáng đường đã đi qua rồi. “Có ai đấy không? Có ai đấy không?”. Quanh tôi chỉ là rừng núi đen ngòm và yên tĩnh. Mưa đá tạnh từ lúc nào rồi cũng không biết nữa.

Tôi như một con sóc, lao trở về phía đội du kích còn lại. Mặc trời tối, mặc bụi cây, mặc vấp ngã. Có lúc nhảy vào nằm gọn trong một bụi cây, lại lóp ngóp bò ra. Đồng chí Nguyễn Bình lệnh cho tôi đưa đội du kích vào đồn. Không có cách nào khác, còn sáu người cũng đánh. Tới hàng rào, để các đồng chí đứng ngoài, tôi chui vào vườn tìm Mộc. Mộc vẫn còn ngồi đợi tôi trong chiếc miếu con ở giữa khu vườn. Thấy tôi về, Mộc mừng lắm hỏi:

- Anh em tới chưa?

Tôi đáp:

- Tới rồi, vẫn yên tĩnh chứ? Việc cậu làm đã xong chưa?

Mộc nói:

- Vẫn yên tĩnh, đã cho cát vào hai khẩu trung liên. Đợi mãi không thấy cậu về, lo quá, cứ tưởng xảy ra chuyện gì bất trắc rồi.

Tôi trao đổi nhanh với Mộc:

- Đội du kích lạc mất một nửa rồi. Mình đi tìm mãi không thấy. Còn có sáu người. Bây giờ chia nhau mỗi người chịt một buồng. Mình với cậu và hai du kích chịt bốn buồng trên gác, còn các anh em khác chịt bốn buồng dưới nhà. Cậu vào lấy hai khẩu tiểu liên ra đi. Mình dẫn anh em vào đây rồi sẽ lấy bốn súng trường ra sau. Nhanh lên, nhưng khẽ chứ nhé.

Tôi ra ngoài, dẫn đội du kích chui vào trong miếu. Sau đó chạy vào lấy bốn khẩu súng trường và một bao đạn ra. Lê Phú giữ một tiểu liên, tôi giữ một tiểu liên. Đồng chí Bình và Mộc mỗi người một khẩu súng ngắn. Bốn khẩu súng trường chia cho bốn đồng chí khác. Bao đạn lấy ra chia cho bốn khẩu súng trường, mỗi khẩu được có hai ba viên. Phân phối vũ khí xong thì trời mờ mờ sáng. Tôi chỉ kịp chỉ cho đồng chí Nguyễn Bình và Lê Phú dẫn hai du kích đánh vào bốn gian ở tầng dưới, thì kẻng báo thức buổi sáng cũng vang lên. Đã đến giờ dậy rồi. Đánh hay rút? Chúng tôi không ai bảo ai đều nhìn vào đồng chí Nguyễn Bình.

- Đánh!


Tiêu đề: Chuyện kể về Trung tướng Nguyễn Bình - Thiếu tướng Bùi Sinh
Gửi bởi: macbupda trong 25 Tháng Bảy, 2020, 07:55:09 am
Đồng chí Nguyễn Bình khoát tay ra lệnh. Chúng tôi từ vườn chạy ập vào tòa nhà hai tầng. Tên gác cổng thấy động, quay vào trong đồn, nhìn thấy chúng tôi nhưng nó chưa kịp hiểu là chuyện gì, thì chúng tôi đã người lên gác, người dưới nhà, vừa bắn chỉ thiên vừa hét:

- Việt Minh đã đến! Việt Minh đã đến! Muốn sống nằm yên!

Một số tên nghe kẻng báo thức đã lóp ngóp bò dậy, một số tên đang nằm nán, nghe tiếng súng tiếng hét liền nằm im không nhúc nhích. Mùi thuốc súng khét lẹt trong tòa nhà hai tầng: Tiếng súng nổ trong nhà nghe ầm như tiếng đại bác. Một tên huấn luyện viên người Việt vùng dậy định lấy súng đối phó thì Mộc đã kịp thời nhảy tới, giằng lại súng quật ngã nó. Khuê, tên lính to khỏe, béo đen, vác khẩu súng trường chạy ra hiên ngơ ngác. Có lẽ đến lúc đó, hắn vẫn chưa hiểu là chuyện gì nữa. Biết Khuê là người tốt, tôi chĩa tiểu liên vào hắn, nói:

- Việt Minh đã đến, bỏ súng xuống.

Lúc đó Mộc cũng vừa quật ngã tên huấn luyện viên xong, chạy ra, thấy thế nhảy xổ tới chỗ Khuê, giằng lấy khẩu súng, hét lên:

- Bỏ súng ra - Rồi quay lại phía tôi nói: - Cậu hiền thế, nó bắn chết cậu thì sao? (sau Khuê đi theo ta, trở thành một chiến sĩ dũng cảm, đã hy sinh trong trận đánh đảo Cô Tô).

Cuộc chiến đấu kết thúc rất nhanh chóng. Chỉ độ năm phút sau, tất cả hai trung đội địch bị tám người của ta dồn gọn vào một căn buồng dưới nhà. Bọn chúng vẫn còn run sợ, mặt cắt không còn hột máu. Đồng chí Nguyễn Bình lệnh cho chúng ra sân tập hợp. Trời đã sáng rõ. Lúc này tôi mới để ý đến cách ăn mặc của đồng chí Nguyễn Bình, quần áo nâu, quần xắn móng lợn ống cao ống thấp, đầu trần, mắt đeo kính đen, chân đi đất, trông thật là một con người hình thường nhưng lại rất oai phong, đang đứng trước đám tù binh. Đồng chí rút ở thắt lưng ra một lá cờ đỏ sao vàng, lá cờ chỉ to bằng một vuông vải, nhưng nó có sức truyền cảm làm tôi xúc động vô cùng, toàn thân như có một luồng điện chạy qua, mắt đăm đăm nhìn lá cờ không chớp. Đó là lần đầu tiên tôi trông thấy lá cờ đỏ sao vàng.

Đồng chí Nguyễn Bình, tay giơ cao lá cờ, ôn tồn giải thích cho đám tù binh:

- Nhật đảo chính Pháp, chỉ là chuyện hai con chó cắn nhau. Nước ta nô lệ vẫn hoàn toàn là nô lệ. Bọn Đại Việt và Quốc dân đảng phản động ôm chân phát xít Nhật, lợi dụng tiếng “Việt Nam độc lập” lừa dối anh em đi lính làm bia đỡ đạn cho Nhật. Chúng tôi những người Việt Minh, chủ trương đánh Nhật cứu nước. Các anh em đều là người Việt Nam, chỉ vì bị lừa dối đi lính cho chúng. Chúng tôi không giết hại anh em. Ai muốn theo chúng tôi thì đi, ai muốn về chúng tôi phát tiền lộ phí cho về, chỉ khuyên anh em một điều là từ nay về sau đừng đi lính cho giặc nữa.

Ánh hào quang của lá cờ đỏ sao vàng và lời lẽ ôn tồn của đồng chí Nguyễn Bình đã chiếu rọi vào lòng những con người bị lừa gạt này. Nét mặt họ dần dần tươi tỉnh.

Sau khi diệt xong đồn Bí Chợ, thu toàn bộ vũ khí, chúng tôi trở về chiến khu. Đám tù binh làm xong nhiệm vụ tải súng đạn chiến lợi phẩm tới một nơi đã định, được phát lộ phí về quê hương, một số đi theo ta.

Ngay hôm sau chúng tôi về tới chiến khu, một đội du kích mới được thành lập: Tiểu đội du kích Ký Con, Lê Phú làm tiểu đội trưởng, Nguyễn Văn Mộc làm tiểu đội phó, tôi làm đội viên súng máy. Cũng có thể nói, đội du kích Ký Con là em đội du kích Hoàng Văn Thụ, Phạm Hồng Thái, những đội du kích đã được xây dựng từ trước của Chiến khu Đông Triều.

Sự biến đổi của cuộc đời tôi, tôi luôn luôn và mãi mãi ghi tạc là nhờ Đảng ta, nhờ phong trào Việt Minh do Đảng lãnh đạo, nhưng sự vụt lớn lên nhanh chóng trong vòng ba tháng trời của tôi từ một người thợ điện thời nô lệ thành một chiến sĩ cách mạng thì tôi phải khẳng định là nhờ được sự gặp gỡ anh Nguyễn Bình.

Trước sau chỉ có ba lần gặp anh mà anh với trọng trách người chỉ huy một chiến khu, đã dám đưa năm du kích với hai súng ngắn, cùng tôi xông vào diệt đồn Bí Chợ có một đại đội địch, thì quả thật anh như người tay không xông vào hang hùm, diệt bầy cọp dữ.

Không nói gì đến lòng trung thành của tôi, điều này có thể dễ xét đoán, nhưng chỉ một sơ suất nào đó cũng đủ làm cho anh, đội du kích và tôi cùng anh Mộc sẽ gặp nguy hiểm khó tránh khỏi thất bại, hoặc tổn thất. Thực ra đã có sơ suất mà sơ suất lớn. Mười một du kích theo anh Bình và tôi đi đến gần đồn thì lạc mất một nửa, chỉ còn năm du kích do anh Lê Phú chỉ huy.

Vậy mà anh vẫn giữ vững quyết tâm hạ đồn Bí Chợ. Chỉ cần qua một trận đánh đó cũng đủ nói lên cái đức, cái tài, cái trí, cái dũng, cái nhân của anh Nguyễn Bình, ở đây điều đáng nói là đức tin cao độ của anh vào người mà mới qua vài lần gặp đã được anh coi như đồng chí của mình và tấm lòng nhân hậu của anh khi kẻ thù đã hạ súng đầu hàng, ai muốn theo cho theo, ai muốn về cho về.

Trường hợp này của tôi, nếu tôi gặp một người chỉ huy khác, chỉ cần một thoáng hoài nghi, một thoáng do dự khi các tình huống khó khăn ập đến thì trận đánh không thể thành công, và tôi sẽ như một mầm non cách mạng mới nhú đã bị thui chột lụi tàn, hoặc có lớn lên được thì cũng đầy gian nan còi cọc, cằn cỗi, chứ đâu có thể vụt lớn nhanh và tự khẳng định được mình bằng chiến thắng Bí Chợ.


Tiêu đề: Chuyện kể về Trung tướng Nguyễn Bình - Thiếu tướng Bùi Sinh
Gửi bởi: macbupda trong 25 Tháng Bảy, 2020, 07:57:05 am
Đồng chí Nguyễn Bình khoát tay ra lệnh. Chúng tôi từ vườn chạy ập vào tòa nhà hai tầng. Tên gác cổng thấy động, quay vào trong đồn, nhìn thấy chúng tôi nhưng nó chưa kịp hiểu là chuyện gì, thì chúng tôi đã người lên gác, người dưới nhà, vừa bắn chỉ thiên vừa hét:

- Việt Minh đã đến! Việt Minh đã đến! Muốn sống nằm yên!

Một số tên nghe kẻng báo thức đã lóp ngóp bò dậy, một số tên đang nằm nán, nghe tiếng súng tiếng hét liền nằm im không nhúc nhích. Mùi thuốc súng khét lẹt trong tòa nhà hai tầng: Tiếng súng nổ trong nhà nghe ầm như tiếng đại bác. Một tên huấn luyện viên người Việt vùng dậy định lấy súng đối phó thì Mộc đã kịp thời nhảy tới, giằng lại súng quật ngã nó. Khuê, tên lính to khỏe, béo đen, vác khẩu súng trường chạy ra hiên ngơ ngác. Có lẽ đến lúc đó, hắn vẫn chưa hiểu là chuyện gì nữa. Biết Khuê là người tốt, tôi chĩa tiểu liên vào hắn, nói:

- Việt Minh đã đến, bỏ súng xuống.

Lúc đó Mộc cũng vừa quật ngã tên huấn luyện viên xong, chạy ra, thấy thế nhảy xổ tới chỗ Khuê, giằng lấy khẩu súng, hét lên:

- Bỏ súng ra - Rồi quay lại phía tôi nói: - Cậu hiền thế, nó bắn chết cậu thì sao? (sau Khuê đi theo ta, trở thành một chiến sĩ dũng cảm, đã hy sinh trong trận đánh đảo Cô Tô).

Cuộc chiến đấu kết thúc rất nhanh chóng. Chỉ độ năm phút sau, tất cả hai trung đội địch bị tám người của ta dồn gọn vào một căn buồng dưới nhà. Bọn chúng vẫn còn run sợ, mặt cắt không còn hột máu. Đồng chí Nguyễn Bình lệnh cho chúng ra sân tập hợp. Trời đã sáng rõ. Lúc này tôi mới để ý đến cách ăn mặc của đồng chí Nguyễn Bình, quần áo nâu, quần xắn móng lợn ống cao ống thấp, đầu trần, mắt đeo kính đen, chân đi đất, trông thật là một con người hình thường nhưng lại rất oai phong, đang đứng trước đám tù binh. Đồng chí rút ở thắt lưng ra một lá cờ đỏ sao vàng, lá cờ chỉ to bằng một vuông vải, nhưng nó có sức truyền cảm làm tôi xúc động vô cùng, toàn thân như có một luồng điện chạy qua, mắt đăm đăm nhìn lá cờ không chớp. Đó là lần đầu tiên tôi trông thấy lá cờ đỏ sao vàng.

Đồng chí Nguyễn Bình, tay giơ cao lá cờ, ôn tồn giải thích cho đám tù binh:

- Nhật đảo chính Pháp, chỉ là chuyện hai con chó cắn nhau. Nước ta nô lệ vẫn hoàn toàn là nô lệ. Bọn Đại Việt và Quốc dân đảng phản động ôm chân phát xít Nhật, lợi dụng tiếng “Việt Nam độc lập” lừa dối anh em đi lính làm bia đỡ đạn cho Nhật. Chúng tôi những người Việt Minh, chủ trương đánh Nhật cứu nước. Các anh em đều là người Việt Nam, chỉ vì bị lừa dối đi lính cho chúng. Chúng tôi không giết hại anh em. Ai muốn theo chúng tôi thì đi, ai muốn về chúng tôi phát tiền lộ phí cho về, chỉ khuyên anh em một điều là từ nay về sau đừng đi lính cho giặc nữa.

Ánh hào quang của lá cờ đỏ sao vàng và lời lẽ ôn tồn của đồng chí Nguyễn Bình đã chiếu rọi vào lòng những con người bị lừa gạt này. Nét mặt họ dần dần tươi tỉnh.

Sau khi diệt xong đồn Bí Chợ, thu toàn bộ vũ khí, chúng tôi trở về chiến khu. Đám tù binh làm xong nhiệm vụ tải súng đạn chiến lợi phẩm tới một nơi đã định, được phát lộ phí về quê hương, một số đi theo ta.

Ngay hôm sau chúng tôi về tới chiến khu, một đội du kích mới được thành lập: Tiểu đội du kích Ký Con, Lê Phú làm tiểu đội trưởng, Nguyễn Văn Mộc làm tiểu đội phó, tôi làm đội viên súng máy. Cũng có thể nói, đội du kích Ký Con là em đội du kích Hoàng Văn Thụ, Phạm Hồng Thái, những đội du kích đã được xây dựng từ trước của Chiến khu Đông Triều.

Sự biến đổi của cuộc đời tôi, tôi luôn luôn và mãi mãi ghi tạc là nhờ Đảng ta, nhờ phong trào Việt Minh do Đảng lãnh đạo, nhưng sự vụt lớn lên nhanh chóng trong vòng ba tháng trời của tôi từ một người thợ điện thời nô lệ thành một chiến sĩ cách mạng thì tôi phải khẳng định là nhờ được sự gặp gỡ anh Nguyễn Bình.

Trước sau chỉ có ba lần gặp anh mà anh với trọng trách người chỉ huy một chiến khu, đã dám đưa năm du kích với hai súng ngắn, cùng tôi xông vào diệt đồn Bí Chợ có một đại đội địch, thì quả thật anh như người tay không xông vào hang hùm, diệt bầy cọp dữ.

Không nói gì đến lòng trung thành của tôi, điều này có thể dễ xét đoán, nhưng chỉ một sơ suất nào đó cũng đủ làm cho anh, đội du kích và tôi cùng anh Mộc sẽ gặp nguy hiểm khó tránh khỏi thất bại, hoặc tổn thất. Thực ra đã có sơ suất mà sơ suất lớn. Mười một du kích theo anh Bình và tôi đi đến gần đồn thì lạc mất một nửa, chỉ còn năm du kích do anh Lê Phú chỉ huy.

Vậy mà anh vẫn giữ vững quyết tâm hạ đồn Bí Chợ. Chỉ cần qua một trận đánh đó cũng đủ nói lên cái đức, cái tài, cái trí, cái dũng, cái nhân của anh Nguyễn Bình, ở đây điều đáng nói là đức tin cao độ của anh vào người mà mới qua vài lần gặp đã được anh coi như đồng chí của mình và tấm lòng nhân hậu của anh khi kẻ thù đã hạ súng đầu hàng, ai muốn theo cho theo, ai muốn về cho về.

Trường hợp này của tôi, nếu tôi gặp một người chỉ huy khác, chỉ cần một thoáng hoài nghi, một thoáng do dự khi các tình huống khó khăn ập đến thì trận đánh không thể thành công, và tôi sẽ như một mầm non cách mạng mới nhú đã bị thui chột lụi tàn, hoặc có lớn lên được thì cũng đầy gian nan còi cọc, cằn cỗi, chứ đâu có thể vụt lớn nhanh và tự khẳng định được mình bằng chiến thắng Bí Chợ.


Tiêu đề: Chuyện kể về Trung tướng Nguyễn Bình - Thiếu tướng Bùi Sinh
Gửi bởi: macbupda trong 25 Tháng Bảy, 2020, 08:00:40 am
Ngay đêm 30 tháng 6 năm 1945, trong lúc anh Nguyễn Bình trực tiếp đi đánh Bí Chợ, thì anh cũng đã phái một đội du kích khác do anh Nguyễn Quý Đôn chỉ huy đánh chiếm đồn Nhật ở thị xã mỏ Uông Bí. Cùng một đêm đồng loạt tiến công hai trận đều thắng lớn.

Sau chiến thắng Bí Chợ về đến chiến khu, tôi mới biết Chiến khu Đông Triều được chính thức thành lập ngày 8 tháng 6 năm 1945, đó là một ngày đồng loạt tiến công hạ bốn đồn địch: đồn huyện Đông Triều, đồn huyện Chí Linh, đồn Tràng Bạch, đồn Mạo Khê và giải phóng hoàn toàn hai huyện Đông Triều, Chí Linh. Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 thì đó là một kỳ tích, vừa đồng loạt tiến công một ngày bốn đồn, vừa đồng loạt chiến thắng. Mỗi chiến thắng có một cách đánh khác nhau gây cho địch những bất ngờ không tài nào ứng phó nổi.

Đồn Đông Triều ở ngay ngọn đồi huyện lỵ Đông Triều, có đội Hiền đồn trưởng theo Việt Minh. Trước ngày ta hạ đồn, đồn trưởng Hiền đã cho những cai và lính ác ôn đi phép. Vì vậy, ngày 8 tháng 6 năm 1945 anh Nguyễn Bình đưa một số du kích giương cao lá cờ đỏ sao vàng diễu qua phố huyện rồi lên đánh đồn, đồn trưởng Hiền đã sẵn sàng đưa quân ra hàng và nộp đồn.

Đồn Chí Linh thì anh Hải Thanh và anh Lê Hai vừa dùng áp lực võ trang của bọn phỉ tự xưng là Trung Việt du kích quân, vừa dùng uy thế Việt Minh kêu gọi đầu hàng. Lúc đầu địch chống cự với bọn phỉ, sau thấy Việt Minh kêu gọi hàng thì xin hàng. (Bọn phỉ này thực chất là phỉ, nhưng ta có thể một mặt hạn chế việc cướp bóc hại dân của chúng, một mặt khác có thể lợi dụng mặt tích cực của chúng là muốn đánh đồn địch cướp súng đạn, lương thực, tiền của. Như trong trận đánh đồn Chí Linh ta quy định cho chúng được lấy súng và lương thực của dồn, nhưng không được cướp của dân phố huyện Chí Linh).

Đồn Tràng Bạch thì anh Lê Phú đóng giả sĩ quan Nhật, anh Trần Cung đóng giả thông ngôn, đem quân đi tuần tra các đồn, bắt chỉ huy đồn mở cửa vào kiểm tra, rồi chiếm đồn, bắt sống toàn bộ.

Đồn Mạo Khê thì anh Nguyễn Văn Đài phụ trách Việt Minh ở đây huy động anh em công nhân mỏ than Mạo Khê biểu tình làm áp lực buộc chủ mỏ phải giao súng giao đồn cho công nhân.

Về đến chiến khu tôi mới được biết thêm một điều lạ lùng về anh Nguyễn Bình. Đúng ra anh là ủy viên kinh tế trong ban lãnh đạo chiến khu chứ không phải là ủy viên quân sự. Nhưng anh lại chỉ huy đánh giặc rất giỏi. Sau tìm hiểu tôi mới biết anh Nguyễn Bình vốn là cán bộ được Xứ ủy Bắc Kỳ phái về vùng Duyên Hải mua súng chuẩn bị cho khởi nghĩa vũ trang. Vì vậy ban lãnh đạo chiến khu do các anh Trần Cung, Hải Thanh phụ trách phải phân công anh Nguyễn Bình làm ủy viên kinh tế để kiếm tiền mua súng cho Xứ ủy.

Nhưng anh Nguyễn Bình đã nhận sự phân công đó với một ý thức và phương sách độc đáo, nó rất thực tế và đã đem lại hiệu quả không ngờ. Anh cho rằng làm gì ra tiền mà mua súng cho đủ dùng. Phải lấy súng của địch trang bị cho ta.

Với quan điểm như vậy, anh tích cực dựa vào các cơ sở Việt Minh của các anh Trần Cung, Hải Thanh, Dương Chính, sư Tuệ, sư Lương, anh Bùi Đình Cầu, anh Nguyễn Văn Đài... đã gây dựng được ở các địa phương, để phát triển sâu vào binh lính địch và tìm cách lấy được rất nhiều súng địch bằng mọi cách, mang về chiến khu để từng bước xây dựng lực lượng nghĩa quân du kích Chiến khu Đông Triều.

Khởi đầu anh dựa vào cơ sở anh Lê Phú(1) để lấy một cách táo bạo hai khẩu đại liên Hốt-kít gắn trên chiến hạm Com-măng-đăng Buốc-đe. Lê Phú đã phát triển được hai thủy binh nữa vào Việt Minh là Hoàng Vinh và Hà Phượng Tiên. Theo chỉ thị và kế hoạch của anh Nguyễn Bình, các anh đã bí mật tháo gỡ hai khẩu đại liên Hốt-kít gắn trên chiến hạm, rồi chính anh Nguyễn Bình đã đưa thuyền đón cả người và súng về chiến khu Đông Triều. Khi đánh đồn Tràng Bạch, anh Lê Phú và anh Trần Cung đóng giả Nhật đã đem ngay khẩu đại liên Hốt-kít này đi để áp đảo tinh thần địch nên việc hạ đồn rất nhanh gọn.


(1) Đồng chí Lê Phú, đại đội trưởng đầu tiên của đại đội Ký Con đã viết trong bài “Nhớ ngày đi tìm Việt Minh gặp anh Dương Chính và Nguyễn Bình”


Tiêu đề: Chuyện kể về Trung tướng Nguyễn Bình - Thiếu tướng Bùi Sinh
Gửi bởi: macbupda trong 25 Tháng Bảy, 2020, 08:01:44 am
Có trường hợp anh giao kế hoạch nhân mối trong đồn bảo an ở thị xã Kiến An, bí mật mở kho lấy bốn súng trường và đạn đưa qua tường cho anh cùng anh Dương Chính lấy chiếu bó lại, đèo xe đạp về Hải Phòng, sau đó chuyển lên chiến khu.

Có trường hợp nhân mối là cai đội, như cai Hà, thì anh tổ chức cho mang cả tiểu đội mười một người với đầy đủ súng đạn đi tập rồi về chiến khu luôn (anh Phan Mạnh Hà sau là tiểu đoàn trưởng của quân đội ta).

Còn chỗ nào không có nhân mối thì anh cho người của ta vào làm lính trong đồn rồi tổ chức diệt đồn. Như trường hợp của tôi ở đồn Bí Chợ.

Nói chung, anh Nguyễn Bình không bỏ lỡ bất cứ cơ hội nào có thể lấy súng địch, dù nguy hiểm khó khăn. Nhưng phương sách phổ biến nhất là anh tìm cách hạ các đồn địch, vì cách này lấy được nhiều súng, nhiều đạn, như đồng loạt tiến công bốn đồn ngày 8 tháng 6 năm 1945 là ngày thành lập chiến khu, đồng loạt tiến công hai đồn Bí Chợ, Uông Bí.

Vì quan điểm và cách làm đúng đắn, tích cực, lại có lòng dũng cảm gan dạ, sẵn sàng đến bất cứ nơi nào cần đến để vận động, tổ chức, tác chiến nên chỉ trong vòng ba tháng mà lực lượng vũ trang Chiến khu Đông Triều vùn vụt phát triển.

Hồi đó đương là cao trào cách mạng của Đảng, lòng dân hướng về phong trào Việt Minh do Đảng lãnh đạo, nên những mầm non cách mạng như tôi có rất nhiều trong học sinh, sinh viên, công nhân, nông dân. Nhờ quan điểm và tác phong cách mạng đúng đắn, anh Nguyễn Bình đã làm cho những mầm non đó. có cơ hội phát triển theo từng khả năng, góp phần đắc lực vào việc phát triển và mở rộng Chiến khu Đông Triều rất nhanh chóng.

Vì vậy tuy về danh nghĩa anh là ủy viên kinh tế không phải là ủy viên quân sự, nhưng trong thâm tâm và trong thực tế hành động, anh em nghĩa quân Chiến khu Đông Triều đều coi anh là người chỉ huy quân sự cao nhất và tài giỏi nhất của chiến khu. Điều đó không có gì là quá đáng, đó là sự sắc phong của quần chúng nhân dân căn cứ vào thực tế hành động và kết quả hành động của anh đối với chiến khu.

Trong thời gian đầu thành lập chiến khu, quân Nhật ba lần đem quân càn quét vào các ngày 10, 15 và 16 tháng 6. Các anh cho quân rút lên chùa Ngọa Vân trên núi cao hiểm trở để chống càn. Do có phòng bị nên không bị tổn thất gì. Quân Nhật thấy quân phỉ ở Bắc Nồi, tưởng đó là đại bản doanh của Việt Minh, liền tổ chức tiến công đã gây thiệt hại nặng nề cho quân phỉ, trong đó có chánh tướng phỉ Lương Sâm bị tử trận.

Về chiến khu được ít lâu, chúng tôi được lệnh đi đánh tỉnh lỵ Quảng Yên. Những trận chiến thắng đồng loạt vang dội và liên tiếp của Chiến khu Đông Triều đã làm dao động tỉnh trưởng Quảng Yên Nguyễn Ngọc Thanh. Y ngỏ ý xin gặp anh Nguyễn Bình để giao nộp chính quyền tỉnh Quảng Yên cho chiến khu.

Ban lãnh đạo chiến khu, anh Trần Cung, anh Hài Thanh, anh Nguyên Bình họp bàn và quyết định huy động lực lượng đi đánh chiếm tỉnh lỵ Quảng Yên.

Từng đơn vị được phân công các mục tiêu phải đánh chiếm trong tỉnh lỵ, như đồn bảo an, dinh tỉnh trưởng, bưu điện, kho bạc... Ngoài ra có lực lượng bố trí chặn viện binh của Nhật từ Hải Phòng đến, từ Hòn Gai về.

Mười chín giờ ngày 20 tháng 7 năm 1945, quân ta tiến vào đánh chiếm tỉnh lỵ Quảng Yên. Tôi chỉ huy một tiểu đội Ký Con, theo lệnh anh Nguyễn Bình vào đánh chiếm dinh tỉnh trưởng. Đến nơi, tỉnh trưởng đã áo quần chỉnh tề giao quân, giao súng cho chúng tôi. Hướng đồn bảo an cũng có súng đì đẹt nổ một lúc rồi im. Thị xã tỉnh lỵ Quảng Yên chỉ trong thời gian ngắn đã thuộc về ta hoàn toàn. Ta thu được 500 khẩu súng và nhiều đạn dược, quân trang, quân dụng.

Anh Lê Phú cũng chỉ huy một bộ phận đơn vị Ký Con đi phục kích đánh viện binh Nhật từ Hải Phòng sang. Thấy không có viện binh đến, anh cho quân tiến vào huyện ly Yên Hưng chiếm huyện lỵ và tước vũ khí đồn huyện.

Ngày 22 tháng 7 năm 1945, một cuộc mít tinh lớn được tổ chức ở sân vận động Quảng Yên. Hàng nghìn người dân trong tỉnh lỵ và các xã lân cận giương cao cờ đỏ sao vàng hân hoan đến dự. Anh Nguyễn Bình đứng lên giải thích đường lối, chủ trương chính sách của Việt Minh và khuyên nhân dân yên ổn làm ăn, các công chức cứ ở nguyên công sở làm việc.

Ngay tối hôm sau, một tàu chiến Pháp đi qua bến thị xã Quảng Yên, bắn vớt vát mấy tràng trọng liên 12,7 nổ ầm ĩ, đạn lửa đan nhằng nhịt bầu trời thị xã Quảng Yên, một lúc rồi bỏ chạy.

Đánh chiếm thị xã tỉnh lỵ Quảng Yên là thành tích to lớn nhất, nổi bật nhất của Chiến khu Đông Triều. Đây là tỉnh lỵ duy nhất ở miền Bắc được giải phóng trước Cách mạng tháng Tám năm 1945.


Tiêu đề: Chuyện kể về Trung tướng Nguyễn Bình - Thiếu tướng Bùi Sinh
Gửi bởi: macbupda trong 25 Tháng Bảy, 2020, 08:04:55 am
*
*   *

Tình hình thế giới đã có những bước ngoặt quan trọng. Ngày 14 tháng 8 năm 1945 Nhật hoàng công bố đầu hàng Liên Xô và Đồng minh.

Ngày 15 tháng 8 năm 1945, anh Nguyễn Bình đi ca nô đến huyện Thủy Nguyên gặp ông Vũ Trọng Khánh, thị trưởng thành phố Hải Phòng. Cuộc gặp gỡ này do sư Lương phụ trách Việt Minh vùng này, thông qua tri phủ Thủy Nguyên Nguyễn Quang Tạo, bắt mối với ông Vũ Trọng Khánh, vì ông Vũ Trọng Khánh là người có cảm tình với Việt Minh. Trong cuộc gặp gỡ này, ông Vũ Trọng Khánh đề nghị anh Nguyễn Bình tìm cách hỗ trợ để ngăn không cho quân Pháp đổ bộ lên Hải Phòng, vì đã có hai tàu chiến Pháp, tàu Cờ-ray-xắc và tàu Phờ-rê-đun của tàn quân Pháp (sau ngày Nhật đảo chính Pháp ngày 9 tháng 3 năm 1945) trốn sang Bắc Hải Trung Quốc, nay quay về đậu gần cảng Hải Phòng.

Ngày 19 tháng 8 năm 1945 Thủ đô Hà Nội đã khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi. Nhưng Ban khởi nghĩa Hải Phòng chưa thành lập vì Thành ủy Hải Phòng nhiều lần bị khủng bố chưa khôi phục lại được. Ngày 20 tháng 8 năm 1945, Xứ ủy cử anh Vũ Quốc Uy cấp tốc xuống Hải Phòng tổ chức khởi nghĩa. Vì đường 5 bị lụt nặng nên đêm ngày 21 tháng 8 năm 1945 anh Vũ Quốc Uy mới họp được với các đồng chí Hải Phòng, quyết định ngày 23 tháng 8 năm 1945 khởi nghĩa. Đồng thời liên lạc với ông Vũ Trọng Khánh thị trưởng Hải Phòng, để ông Khánh thông báo cho Bộ tư lệnh Nhật ở Hải Phòng không can thiệp vào cuộc khởi nghĩa giành chính quyền của nhân dân Hải Phòng.

Lực lượng vũ trang Chiến khu Đông Triều chia làm hai cánh kéo về Hải Phòng, một cánh do anh Hải Thanh chỉ huy từ Đông Triều về theo đường 5, một cánh do anh Nguyễn Bình chỉ huy theo đường thủy từ Quảng Yên về đổ bộ lên.

Mười giờ ngày 23 tháng 8 năm 1945 một cuộc mít tinh khổng lồ được tổ chức ở Nhà hát lớn Hải Phòng. Anh Vũ Quốc Uy thay mặt Ủy ban khởi nghĩa tuyên bố xóa bỏ chính quyền bù nhìn tay sai của Nhật và công bố thành lập Ủy ban cách mạng lâm thời Hải Phòng do anh Vũ Quốc Uy làm chủ tịch.

Sau đó là một cuộc tuần hành thị uy của hơn mười ngàn người, đi đầu là các lực lượng vũ trang. Anh Nguyễn Bình dẫn đầu đoàn biểu tình tay giơ cao thanh kiếm Nhật để đáp lại sự hoan hô nhiệt liệt của nhân dân Hải Phòng.

Con người vốn giản dị, quần nâu vải hôm nay được anh em kịp trang bị cho bộ ga-ba-đín ủng da, mũ kê-pi, tuy chắp vá song vẫn toát lẽn cốt cách “vị tướng” dẫn đầu đội quân cách mạng lần đầu tiên xuất hiện công khai trước nhân dân thành phố Hải Phòng cũng như nhân dân vùng Duyên Hải Bắc Bộ.

Trong suốt cuộc diễu hành kéo dài hàng mấy giờ liền, anh Nguyễn Bình luôn luôn nâng cao thanh kiếm tuốt trần, đốc kiếm ngang tầm mắt, mũi kiếm chọc thẳng lên trời để chào nhân dân thành phố. Khống biết sức mạnh nào đã giúp anh nâng kiếm nghiêm trang như vậy trong suốt cuộc diễu hành. Có lẽ đó là sức mạnh của tấm lòng anh hòa cùng niềm vui chung lớn lao của nhân dân thành phố Cảng vừa mới được độc lập tự do sau nhiều nãm dài sống trong vòng nô lệ tủi nhục của người dân mất nước.

Đi sau anh Nguyễn Bình là trung đội Ký Con quần áo đồng phục, mũ sắt, dép da, súng trường, bao đạn ngang lưng đầy đủ. Tôi đi đầu tiểu đội ngay sau anh Lê Phú và anh Nguyễn Bình, vai khoác khẩu Thôm-xơn băng tròn, lòng tràn đầy xúc động.

Những tiếng “Hoan hô Việt Minh! Hoan hô Việt Minh!” từ hai bên đường không lúc nào ngớt.

Tôi vô cùng sung sướng được đi trên những con đường quen thuộc thân thương của quê hương Hải Phòng với một tư thế hoàn toàn khác hẳn, tư thế người dân độc lập.

Khởi nghĩa Hải Phòng xong, Trung ương thành lập Ủy ban quân sự miền Duyên Hải, mà sau quen gọi tắt là Chiến khu Duyên Hải. Anh Nguyễn Bình được chỉ định làm chỉ huy trưởng và anh Lê Quang Hòa làm chính trị đặc phái viên. Đơn vị Ký Con tuyển thêm thanh niên Hải Phòng phát triển thành một đại đội.


Tiêu đề: Chuyện kể về Trung tướng Nguyễn Bình - Thiếu tướng Bùi Sinh
Gửi bởi: macbupda trong 25 Tháng Bảy, 2020, 08:06:04 am
Sau Cách mạng tháng Tám, công việc các tỉnh trong Chiến khu Duyên Hải rất bề bộn mà chủ yếu và quan trọng hơn cả là nhiệm vụ giữ vững và bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ. Bị uy hiếp gay gắt nhất lúc bấy giờ là chính quyền cách mạng ở thị xã mỏ Hòn Gai. Bởi vì một hải đội tàu chiến của Pháp hồi Nhật đảo chính Pháp ngày 9 tháng 3 năm 1945 đã bỏ chạy sang Bắc Hải, Trung Quốc nay lại quay về vùng biển Hạ Long, lăm le đổ bộ lên thị xã Hòn Gai; bọn Việt Cách đã công khai vào lập trụ sở ở thị xã Hòn Gai, công nhiên kéo cờ Việt Cách, chỉ chờ quân Tưởng Giới Thạch vào tước khí giới quân Nhật, là cướp lấy chính quyền; bọn thổ phỉ núp dưới mọi danh nghĩa kéo về, gặp ta thì gọi là “tồng chí”, nhưng luôn rình sơ hở là cướp của cải của nhân dân và còn hòng cướp chính quyền. Tình hình tựa ngàn cân treo sợi tóc.

Đại đội Hoàng Hoa Thám cùng các anh Đoàn Phụng, Nguyễn Chất và các chị Lê Thị Bích, Nguyễn Thị Nga, Nguyễn Thị Ngọc Khanh được cử ra Hòn Gai hỗ trợ chính quyền địa phương, nhưng chưa đủ. Trước tình hình đó, anh Nguyễn Bình quyết định điều thêm đại đội Ký Con ra tăng cường cho Hòn Gai. Chiều ngày 5 tháng 9 năm 1945, đại đội Ký Con ra bến sông lên tàu di Hòn Gai. Anh Nguyễn Bình đã có mặt trước ở bến tàu dể kiểm tra và dặn dò đại đội những điều cần chú ý trong khi làm nhiệm vụ ở Hòn Gai. Anh còn nhắc nhở mọi người phải giữ gìn tốt trang bị vũ khí. Khi chúng tôi xuống tàu anh còn đứng trông theo mái, khi tàu rời bến, anh mới quay về.

Sáng sớm ngày 6 tháng 9 năm 1945, tàu đến Hòn Gai. Đại đội Ký Con chúng tôi vừa đổ bộ lên thị xã, được chính quyền cách mạng Hòn Gai mời vào khách sạn mỏ (Hotel des Mines) ăn lót dạ. Các thứ vừa dọn ra chưa kịp ăn, đã có tin báo một tàu chiến Pháp đang tiến vào bên Hòn Gai. Anh Lê Phú, đại đội trưởng ra lệnh cho đơn vị lập tức lên đường. Bộ phận xuống tàu Giao Chỉ và tàu Bạch Đằng vòng ra đón đánh địch từ phía sau. Còn anh cùng tiểu đội tôi mượn một chiếc ca nô chở khách của dân, đi thẳng đến tàu chiến Pháp. Đến gần mới thấy rõ đó là tàu Cờ-ray-xắc. Địch đã sẵn sàng với những tràng đạn trọng liên 12,7 vàng chóe, đầu đạn đủ màu.

Anh Lê Phú lệnh cho ca nô ta áp sát mạn tàu chiến địch, địch thấy thế đẩy ca nô ta ra xa. Ca nô ta lại phải quay vòng trở lại và áp sát mạn tàu địch lần thứ hai. Địch lại đẩy ra, ta cố giữ lại. Tôi chớp cơ hội bám vào lan can tàu địch nhảy vọt sang và hô to:

- Hô lê manh! (giơ tay lên!).

Địch thấy trong tay tôi có khẩu tiểu liên Mỹ Thôm-xơn băng tròn 50 viên, nên vội vã rời cò súng giơ tay, vì nòng các loại súng cỡ lớn cố định của địch lúc này đều quay ra ngoài phía tàu Bạch Đằng và Giao Chỉ, còn nòng khẩu tiểu liên linh hoạt của tôi lại đương nhằm vào lưng chúng. Gần như cùng lúc Lê Phú và một số anh em nhảy sang tiếp. Tôi hô như ra lệnh bằng tiếng Pháp: “Tất cả những người Âu sang tàu bên kia”. Vừa hô tôi vừa hất đầu sang phía ca nô của ta. Bọn lính Pháp rào rào nhảy sang, mặc cho tên đại úy thuyền trưởng Pháp hét lên: “Không, không”.

Cuối cùng chỉ còn một đại úy Pháp và một trung úy Mỹ cũng bắt buộc phải bước sang ca nô ta với bộ mặt thiểu não rất nực cười.

Chúng tôi đã hoàn toàn chiếm được chiếc tàu chiến cỡ nhỏ của địch, tàu Cờ-ray-xắc. Trên tàu có một tiểu pháo 37 ly, 2 trọng liên 12,7 ly, 3 đại liên Hốt-kít, 2 đại liên Bờ-rô-ninh Mỹ, nhiều trung liên, súng trường và 2 điện đài. Đồng thời chúng tôi lại giải thoát được cho đoàn thủy binh Việt Nam bị bọn Pháp nhốt dưới hầm tàu. Chả là chúng đề phòng nội loạn khi bị ta tấn công.

Anh Lê Hai xuống buồng thuyền trưởng và điện đài thấy có bức điện: “Sommes attaqués par remo rqueurs. Prévenir Frézoul au secours” (Chúng tôi bị những tàu kéo tấn công. Báo cho tàu Phờ-rê-đun đến cứu). Không biết bức điện này, chúng đã chuyển đi được chưa. Khi đọc quyển nhật ký của tàu, anh Lê Hai cũng phát hiện được là chiếc tàu này đã qua bến Quảng Yên sau ngày ta giải phóng Quảng Yên và chính nó đã bắn đạn lửa 12,7 ly lên thị xã Quảng Yên.

Được tin chúng tôi chiếm được tàu chiến địch, anh Nguyễn Bình ra thăm. Anh lệnh cho xưởng cơ khí mỏ than Hòn Gai gỡ tên tàu Cờ-ray-xắc và thay vào đó tên Ký Con bằng đồng thau sáng loáng gắn ở hai bên mũi tàu và đuôi tàu. Đó là niềm vinh dự của đại đội Ký Con, được lấy tên đại đội đặt tên cho chiếc tàu chiến đầu tiên của quân đội cách mạng ta.


Tiêu đề: Chuyện kể về Trung tướng Nguyễn Bình - Thiếu tướng Bùi Sinh
Gửi bởi: macbupda trong 25 Tháng Bảy, 2020, 08:07:27 am
Tôi được giao nhiệm vụ chỉ huy tàu Ký Con, có một tiểu đội của đại đội Ký Con và đội thủy binh người Việt Nam vừa được giải phóng. Đội thủy binh này giúp chúng tôi rất đắc lực trong việc điều khiển thành thạo con tàu cũng như việc sử dụng các loại súng trên tàu.

Vài ngày sau, chúng tôi phát hiện tàu Ô-đa-xi-ơ đang lảng vảng ngoài khơi vịnh Hạ Long. Tôi lệnh cho tàu Ký Con nổ máy đuổi đánh. Tàu Ô-đa-xi-ơ vốn là một tàu buồm gắn hai máy tàu, tuy có trang bị súng ống điện đài nhưng nó vẫn không thể đọ được với tàu Ký Con kể cả về tốc độ và hỏa lực. Tôi nhắc anh em sẵn sàng chiến đấu. Thấy tàu Ký Con tới gần lại cắm cờ đỏ sao vàng, tàu Ô-đa-xi-ơ liền bỏ chạy. Tôi lệnh cho tàu Ký Con tăng tốc độ đuổi theo. Chẳng mấy chốc, chúng tôi đã đuổi kịp tàu Ô-đa-xi-ơ. Hỏa lực tàu Ký Con thừa sức bắn chìm Ô-đa-xi-ơ. Có anh em đã đề nghị tôi như vậy. Nhưng tôi chủ trương bắt sống vì tin rằng chúng không dám chống cự. Quả nhiên, khi tàu Ký Con chỉ còn cách tàu Ô-đa-xi-ơ khoảng ba trăm mét, chúng tôi đã thấy cờ trắng bên tàu Ô-đa-xi-ơ vẫy rối rít xin đầu hàng. Áp sát được vào tàu Ô-đa-xi-ơ, tôi cùng một số anh em xách súng nhảy sang. Tất cả trên tàu chỉ có tám người gồm năm Pháp, hai Việt và một người Hoa.

Chúng tôi thu được khá nhiều đạn, lương thực, thực phẩm trong đó có nhiều thịt hộp Mỹ. Còn súng và điện đài, trước khi giương cờ trắng đầu hàng, bọn Pháp đã kịp ném xuống biển, chúng tôi chỉ vớt được mỗi khẩu ba-dô-ca Mỹ. Theo lời khai của tên thuyền trưởng thì y đã kịp đánh điện cấp báo lên cấp trên và đã nhận lệnh phải đánh đắm tàu phi tang, nhưng chưa kịp thi hành đã bị bắt.

Thế là chỉ trong bốn ngày, đại đội Ký Con chúng tôi đã đánh bắt được một nửa hải đội của tàn quân Pháp ở vùng Duyên Hải Bắc Bộ. Chúng có bốn chiếc: Cờ-ray-xắc, Phờ-rê-đun, Ô-đa-xi-ơ và Blu-boớc. Từ đó không thấy hai tàu còn lại của hải đội Pháp bén mảng tới vịnh Hạ Long nữa.

Anh Nguyễn Bình lại ra lệnh gỡ bỏ tên tàu Ô-đa-xi-ơ và thay vào đó tên Bùi Văn Sinh (tên đầy đủ của tôi) cũng bằng đồng thau sáng loáng. Tôi vô cùng cảm động, tự thấy công lao của mình còn nhỏ bé thôi, chưa xứng với sự tôn vinh như vậy. Nhưng tôi hiểu phong cách và tấm lòng của anh Nguyễn Bình. Anh không bao giờ bỏ sót công lao của cấp dưới mà luôn luôn khích lệ tưởng thưởng phát huy tinh thần không ngừng vươn lên phía trước.

*
*   *

Một hôm anh Lê Phú đến báo cho tôi biết, là có một phái đoàn Mỹ đến Hòn Gai đòi lại tàu Cờ-ray-xắc tức là tàu Ký Con. Họ nói đó là tàu của Đồng minh chứ không phải tàu của Pháp. Lãnh đạo của ta ở Hòn Gai cũng đồng ý trao trả lại cho phái đoàn Mỹ. Tôi cãi:

- Cờ-ray-xắc rõ ràng là tàu Pháp, không phải tàu của Đồng minh, vì trên tàu chỉ có một trung úy Mỹ còn toàn là người Pháp và người Việt. Thuyền trưởng là người Pháp. Tàu treo cờ Pháp. Nó xâm phạm hải phận ta thì ta phải bắt. Sao bây giờ lại gọi là tàu Đồng minh. Họ đánh lừa mình để đòi tàu cho Pháp mà thôi. Đề nghị anh cứ về báo cáo với lãnh đạo rằng ngoài khơi đang có hải phỉ hoạt động, tàu Ký Con đang đi tiễu phỉ.

Anh Lê Phú đồng ý, quay về. Tôi lệnh cho tàu Ký Con nổ máy ra khơi, tới đỗ sau một ngọn núi đảo trong vịnh Hạ Long, thả neo chờ động tĩnh. Đến chiều, tôi cho tàu quay về bến Hòn Gai. Tôi lặng lẽ lên bờ, thủng thẳng đi hỏi tình hình thì được biết phái đoàn Mỹ chờ mãi không thấy tàu Cờ-ray-xắc về, đã đưa tên trung úy Mỹ về Hà Nội. Từ đó cũng không thấy chúng đến đòi tàu lần nào nữa.

Quả nhiên, sau này tôi được biết chính phái đoàn Pháp ở Hà Nội đã nhờ Mỹ lấy danh nghĩa Đồng minh đòi tàu cho họ. Tôi nhớ là khi đánh bắt được tàu Cờ-ray-xắc, chúng tôi chỉ thấy một lá cờ Mỹ đang may dở còn thiếu khá nhiều sao. Hẳn là bọn tàn quân Pháp định núp dưới cờ Mỹ dể lọt vào vịnh Hạ Long. Khốn thay chưa may kịp cờ Mỹ, nên vẫn phải treo cờ Pháp. Thì ra đế quốc Mỹ đã cố kết với thực dân Pháp nhòm ngó Đông Dương ngay từ ngày đó.

May sao cấp trên rất sáng suốt đã không khiển trách việc không nghiêm chỉnh chấp hành mệnh lệnh của tôi. Anh Nguyễn Bình cũng bảo: “Đồng minh gì? Ai còn lạ cái hải đội của Pháp bị Nhật đuổi chay tuốt sang Bắc Hải vừa nghe tin Nhật đầu hàng lập tức mò về định dây máu ăn phần”.

Thế là chúng tôi vẫn giữ được tàu Ký Con một cách êm thấm.


Tiêu đề: Chuyện kể về Trung tướng Nguyễn Bình - Thiếu tướng Bùi Sinh
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Bảy, 2020, 06:51:58 am
*
*   *

Vài hôm sau đại đội trưởng Lê Phú lại đến tàu Ký Con. Anh nói:

- Bọn lãnh đạo Việt Cách đã được đưa vào một cơ quan của ta. Vào để chờ gặp anh Nguyễn Bình tiến hành đàm phán gì đó. Anh Nguyễn Bình hoàn toàn không có ý định đàm phán với chúng. Bởi vì bọn này chẳng có ý đồ tốt gì đâu. Hiện chúng có khoảng một tiểu đoàn quân đang từ Móng Cái, Tiên Yên, Ba Chẽ về Hòn Gai, định dựa vào thế quân của tướng Lư Hán bên Tàu sắp sang giải giáp quân Nhật để chiếm đoạt chính quyền của ta ở Hòn Gai. Vì thế trước mắt, anh giao cho chúng ta có nhiệm vụ phải tước vũ khí của bọn chỉ huy Việt Cách này. Sau đó, anh sẽ thuyết phục chúng về đầu hàng Chính phủ. Cậu cho ngay một nửa tiểu đội lên bờ phối hợp làm nhiệm vụ.

Tất cả chúng tôi, súng cầm tay, đến thẳng nơi bọn lãnh đạo Việt Cách vây chặt cửa ra vào và các cửa sổ. Anh Lê Phú nhẹ nhàng ra lệnh cho chúng bỏ vũ khí. Bọn chúng tỏ ra lần chần chưa chịu. Tôi liền quát:

- Bỏ súng xuống!

Hẳn rằng chúng nhìn thấy khẩu tiểu liên Thôm-xơn băng tròn lăm lăm trong tay tôi sẵn sàng nhả đạn, lại nhìn thấy bộ mặt sát khí đằng đằng của tôi nên đứa nào đứa nấy vội vàng đặt vũ khí xuống bàn. Chúng tôi thu hết vũ khí lại. Sau đó anh Lê Phú ôn tồn nói:

- Chỉ huy trưởng Nguyễn Bình sẽ gặp và mời cơm các anh. Sau đó sẽ bàn bạc công việc tiếp theo.

Quả thật anh Nguyễn Bình đã tổ chức đãi cơm bọn này nhưng không phải để đàm phán mà để thuyết phục chúng về đầu hàng. Tình huống lúc đầu diễn ra không phải trôi chảy ngay. Bởi vì tiểu đoàn quân Việt Cách, chỗ dựa cho bọn chỉ huy vẫn đang tiến vào Hòn Gai bằng đường bộ và đường thủy. Anh Nguyễn Bình lệnh cho tôi trở về tàu Ký Con và đưa ngay tàu đi đón đánh cánh quân Việt Cách vào Hòn Gai bằng đường biển. Chạy tới phía bờ biển Cọc Năm thì tàu Ký Con gặp ba thuyền chở đầy quân Việt Cách. Chúng tôi định bắt sống cả bọn. Nhưng bọn chúng ranh ma rẽ vào vùng nước cạn khiến tàu Ký Con không thể đuổi áp sát được. Tôi lệnh cho pháo 37 ly cùng trọng liên, đại liên đồng loạt bắn. Bọn chúng nhốn nháo nhảy cả xuống biển đồng thời phất cờ trắng đầu hàng. Tôi ra lệnh ngừng bắn. Chúng biết rõ tàu chúng tôi không thể tiếp cận được nên lợi dụng thời gian ngừng bắn nhanh chóng cho thuyền lẩn vào dãy núi đá để tránh đạn.

Bọn lãnh đạo Việt Cách lập tức được thông báo về trận đánh này. Còn đám quân thất trận thì được thông báo về những người lãnh đạo của chúng đang tiếp nhận kế hoạch về với Chính phủ. Kết quả công việc thuyết phục của anh Nguyễn Bình đối với bọn chỉ huy đã làm cho cả tiểu đoàn này quy phục ta, theo lệnh anh xuống tàu của ta về Hải Phòng.

Dẹp xong quân Việt Cách, chỉ vài ngày sau, chúng tôi được tin quân phỉ đang tràn vào thị xã Hòn Gai cướp phá. Tôi được lệnh đưa tiểu đội Ký Con lên bờ để cùng với đại đội và đơn vị Đề Thám của anh Phan Mạnh Hà đi dẹp phỉ.

Tôi vác khẩu trung liên Pháp kiểu 24-29 cùng một nửa tiểu đội tiến vào đường phố thị xã thì chạm trán với một toán phỉ đang cầm súng đi lại nghênh ngang giữa phố. Chúng tôi vừa định nổ súng thì thấy từ phía bọn phỉ có tiếng nói lớn:

- Tồng chí, từng pắn, từng pắn, tang tàm phán (đồng chí, đừng bắn, đừng bắn, đang đàm phán).

Tôi ngơ ngác không hiểu chuyện gì, nhưng thấy thái độ ôn hòa của bọn phỉ, nên không ra lệnh bắn. Chúng tôi vẫn trong tư thế chiến đấu, tiến lên mặt đối mặt với bọn phỉ gần như có thể chạm tay nhau. Bỗng có tiếng người của ta từ trong phố hô lớn:

- Đàm phán thất bại, các đồng chí nổ súng.

Tôi vội hô bắn. Anh em ta chưa kịp nổ súng thì bọn phỉ chạy dạt ngay vào mấy nhà dân gần đó, đóng chặt cửa lại rồi từ trong nhà bắn ra qua những cánh cửa sổ. Bọn phỉ đã xử trí nhanh hơn ta. Trong khi hô bắn thì đồng thời tôi cũng bóp cò khẩu trung liên. Nhưng thật đáng tiếc, khẩu trung liên bị hóc đạn, không nổ. Tôi vội nói với anh Lê Hai đưa cho tôi băng đạn khác để thay nhưng đã quá chậm. Chỉ còn cách từ ngoài bắn vào trong nhà qua các cánh cửa. Hai bên bắn nhau một lúc thì anh Khuê, một chiến sĩ trong tiểu đội ném một quả lựu đạn phá tung được cửa ra vào của một căn nhà có nhiều súng của phỉ bắn ra. Anh em ta xông vào. Không còn thấy tăm hơi một tên phỉ nào, kể cả ở các nhà lân cận. Bọn chúng đã nhanh chóng trèo qua tường, ra phía sau nhà, lùi lên núi ngay cạnh phố. Không biết chúng bị thương vong thế nào, chỉ thấy một số vết máu và nhặt được hai khẩu súng kíp.


Tiêu đề: Chuyện kể về Trung tướng Nguyễn Bình - Thiếu tướng Bùi Sinh
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Bảy, 2020, 06:52:40 am
Bọn phỉ trong toàn thị xã bị các lực lượng của ta tiến đánh diệt một số và bắt sống sáu tên. Bọn còn lại chạy hết lên núi. Có thể coi đây là một thành tích khá, vì đánh phỉ không khó nhưng diệt và bắt sống được phỉ thì khó.

Sau trận đánh, các đồng chí lãnh đạo thị xã Hòn Gai mời nhân dân đến tập trung ở sân bóng rồi cho giải sáu tên phỉ bị bắt đến để hỏi ý kiến nhân dân xem nên xử trí thế nào. Nhân dân Hòn Gai đã bị thổ phỉ cướp phá, quấy nhiễu nhiều lần nên đều phẫn nộ, đồng thanh đòi xử bắn.

Sau trận này, bọn phỉ không dám quay trở lại thị xã Hòn Gai quấy nhiễu nữa.

Mọi hiểm họa đã dẹp xong, gánh nặng đè trĩu lên vai chính quyền cách mạng non trẻ Hòn Gai vừa trút được xuống, thì quân Tưởng kéo theo đường bộ cũng vừa đến Hòn Gai. Chúng theo lệnh Đồng minh vào giải giáp quân Nhật, đã đi bộ từ biên giới Trung Quốc đến thị xã Hòn Gai. Chấp hành chủ trương của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh: Việt - Hoa thân thiện, tránh xung đột với quân Tưởng, Ban lãnh đạo Hòn Gai đá chuẩn bị đón tiếp đội quân này một cách chu đáo. Nhưng chúng trắng trợn đòi quân ta phải rút hết khỏi thị xã Hòn Gai, để chúng toàn quyền sử dụng Hòn Gai đóng quân.

Trong khi các đại diện quân Tưởng và ban lãnh đạo Hòn Gai bàn bạc chưa ngã ngũ thì chúng vừa dàn quân chiếm các ngọn núi cao ngay sát thị xã Hòn Gai, vừa cho quân tràn vào thị xã. Quân ta ngăn lại bằng lý lẽ, bằng thanh chắn ngang đường và bằng sức người nhưng không ngăn nổi, mà còn bị chúng nổ súng một cách ngang ngược. Bộ đội ta buộc phải đánh trả. Cuộc xung đột giữa quân Tưởng và quân ta cứ thế diễn ra, cứ thế lan rộng, không còn cách gì ngăn chặn lại được nữa.

Địch ưu thế hơn ta do đã chiếm được các đỉnh núi cao cạnh thị xã, quân đông súng nhiều. Quân ta có đại đội Hoàng Hoa Thám do anh Phan Mạnh Hà làm đại đội trưởng đóng trên đồn cao, đại đội Ký Con đóng ở nhà chủ mỏ Méc-xếch gần khách sạn mỏ nhanh chóng rải quân xuống thị xã Hòn Gai, chiếm giữ các vị trí dọc thị xã chống cự lại. Cùng chiến đấu còn có đội tự vệ của thị xã Hòn Gai.

Mặc dù có sự chênh lệch về so sánh lực lượng và bất lợi về địa hình, quân ta vẫn chiến đấu rất ngoan cường, đánh đã mấy ngày mà quân địch không lọt vào được thị xã. Có lúc quân ta hết đạn và lựu đạn đã được các cháu thiếu niên, khi đem quà bánh lên bán cho chúng thì lặng lẽ tìm đến các xác địch nằm rải rác, móc lấy đạn và lựu đạn về tiếp tế cho chúng tôi.

Tàu Ký Con cũng kịp thời tham chiến, hỗ trợ các lực lượng chiến đấu trên bờ. Qua ống nhòm, chúng tôi phát hiện ra những ổ hỏa lực quan trọng của địch trên các mỏm núi và sườn núi cao khống chế toàn bộ thị xã Hòn Gai. Tàu Ký Con tập trung hỏa lực pháo 37 ly và hai khẩu trọng liên 12,7 ly bắn vào từng ổ hỏa lực địch.

Bị tàu Ký Con bắn mạnh, bọn địch trên núi phải di chuyển những ổ hỏa lực quan trọng sang sườn núi phía sau. Do đó hỏa lực trên núi của chúng không thể bắn trực tiếp xuống thị xã Hòn Gai được nữa. Và như vậy cũng có nghĩa là sức tiến công của quân địch từ trên núi cao xuống thị xã đã bị giảm đi nhiều. Nhưng chúng lại tập trung hỏa lực liên thanh bắn vào tàu Ký Con. Đạn lửa đỏ lừ bao quanh tàu, có những viên đập vào vỏ tàu gây nên những tiếng kêu chát chúa. Nhưng mọi người trên tàu vẫn bình tĩnh ở các vị trí chiến đấu, và tôi mũ sắt Nhật trên đầu, ống nhòm trước ngực, bình tĩnh đứng ở vị trí chỉ huy trên tàu, lệnh cho anh em bắn giữa những làn đạn địch, lệnh cho tàu khi tiến khi lui để tránh đạn.

Đến ngày xung đột thứ hai, anh Lê Phú lệnh cho tôi đưa một bộ phận lực lượng từ tàu lên bờ và trực tiếp chỉ huy trung đội dự bị để ứng phó với quân Tưởng đang tập trung lực lượng tiến công về phía khách sạn mỏ, nơi mà Ban chỉ đạo Hòn Gai dùng làm sở chỉ huy. Lúc đó, lực lượng địch từ đỉnh núi đang tiến về phía khách sạn mỏ mà lực lượng ta không biết đã rút đi đâu mất. Tôi đưa ngay trung đội dự bị tiến lên phía sau khách sạn, chiếm một ngọn đồi thấp và triển khai lực lượng chiến đấu ngăn chặn địch. Địch ở vị trí cao hơn chủ động tiến công, còn chúng tôi ở vị trí thấp lại đang bị động đối phó, nên ngay cuộc chạm súng đầu tiên, chúng tôi đã có mấy đồng chí bị thương. Nhưng anh em cũng nhanh chóng mỗi người tự tìm được một vị trí thuận lợi để đánh lại quân địch, chặn cuộc tiến công của chúng. Quân địch không tiến được nữa. Chúng dùng hỏa lực bắn như mưa vào trận địa của chúng tôi rồi rút lui để lại một bộ phận yểm trợ bắn mạnh về phía ta. Tôi cũng cho trung đội rút về khách sạn nghỉ ngơi và băng bó cho anh em bị thương. Riêng tôi vẫn nấp sau một tảng đá với khẩu tiểu liên Mỹ Thôm-xơn trong tay, yểm trợ trận địa, vì ngay sau tôi, cô y tá Trần Thị Tuyết vẫn đang băng bó cho một chiến sĩ bị thương rất nặng còn nằm đó. Chỉ đến khi cô y tá khóc nấc lên nói: “Anh ấy hy sinh rồi” tôi mới buồn rầu bảo cô y tá về khách sạn nói anh em lên khiêng về.


Tiêu đề: Chuyện kể về Trung tướng Nguyễn Bình - Thiếu tướng Bùi Sinh
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Bảy, 2020, 06:53:28 am
Rút về đến khách sạn mỏ, chợt nghe thấy chuông điện thoại liên tiếp reo vang mà không có ai trả lời, tôi bèn chạy tới cầm ống nghe và nhận ra tiếng anh Nguyễn Bình từ Hải Phòng gọi ra. Anh Nguyễn Bình chỉ thị ngay cho tôi:

- Các đồng chí phải ngừng bắn ngay. Lệnh Chính phủ là phải ngừng bắn với quân Trung Hoa.

Tôi không phải là người lãnh đạo Hòn Gai, nhưng qua giọng nói gay gắt, anh Nguyễn Bình coi tôi cứ như người phải thi hành, phải chịu trách nhiệm. Có lẽ anh Nguyễn Bình gọi mãi mà không nói được với các đồng chí lãnh đạo Hòn Gai, nay vớ được tôi trên điện thoại, lại quen biết thân tình, nên trút bực tức lên tôi. Tuy vậy tôi cũng nói rõ cho anh Nguyễn Bình biết rằng tôi sẽ nói lại lệnh này với các đồng chí lãnh đạo Hòn Gai và nói lại với anh Nguyễn Bình một câu:

- Thưa anh! Nhưng là nó đánh ta trước chứ đâu phải ta đánh nó trước. Bây giờ, ta muốn ngừng bắn đâu có được, nó có chịu ngừng thì ta mới ngừng được chứ.

Anh Nguyễn Bình dằn giọng nói:

- Không được! Đây là lệnh của Chính phủ Trung ương. Dù thế nào cũng phải tìm mọi cách ngừng nổ súng. Bùi Sinh! Đồng chí phải có trách nhiệm truyền đạt mệnh lệnh này!

- Vâng, tôi đi ngay đây!

Ngày hôm sau, một tàu thủy chở phái đoàn ta và Trung Hoa đến Hòn Gai. Phái đoàn Trung Hoa đi kêu gọi quân Trung Hoa ngừng bắn. Phái đoàn ta do anh Quách Lĩnh dẫn đầu, trao đổi với các đồng chí lãnh đạo Hòn Gai xong, liền trực tiếp đi xuống phố Hòn Gai kêu gọi quân ta ngừng bắn. Các chiến sĩ ta đang ở trong các ổ chiến đấu tại các căn nhà gạch, không biết ai, chửi um lên:

- Thằng nào bảo ngừng bắn đấy, ông cho một phát bây giờ!

Anh Quách Lĩnh nổi cáu:

- Đây là phái đoàn Chính phủ, thằng nào nói bậy thế, gô cổ nó lại!

Cuộc đấu khẩu giữa những chiến sĩ đang say mùi thuốc súng với phái đoàn đang khẩn trương chấp hành lệnh Chính phủ kết thúc bằng một mệnh lệnh gay gắt của anh Quách Lĩnh:

- Rút hết quân về Bãi Cháy!

Chúng tôi rất hậm hực khi nghe lệnh này, nhưng vẫn phải chấp hành và đến lúc này thì hiểu vì sao anh Nguyễn Bình, qua máy điện thoại ở khách sạn mỏ, đã phải kiên quyết với tôi như vậy. Sau này, khi biết rõ sách lược phân hóa kẻ thù của Trung ương, tôi càng thấm thía về cú điện thoại của anh Nguyễn Bình và mệnh lệnh của anh Quách Lĩnh.

Sang Bãi Cháy được vài hôm, cả đại đội lại được lệnh chuyển về thị xã Quảng Yên. Tôi cũng được lệnh bàn giao lại tàu Ký Con cho một đơn vị bạn rồi cùng đi về Quảng Yên.

Đại đội Ký Con về tới Quảng Yên vào dịp Tết Trung thu. Anh Nguyễn Bình, Tư lệnh và anh Lê Quang Hòa, Chính ủy đã tới Quảng Yên thăm đại đội với khá nhiều quà của nhân dân Hải Phòng tặng bộ đội Ký Con. Tỉnh bộ Việt Minh Quảng Yên và các đoàn thể cũng đã đến thăm đại đội.

Đây là Tết Trung thu độc lập đầu tiên đối với chúng tôi và cũng là Tết Trung thu cuối cùng kết thúc thời niên thiếu của nhiều đồng chí trong đại đội, cái thời mà người xưa thường nói “miệng còn hơi sữa”. Đây cũng là lần nghỉ ngơi đầu tiên của bộ đội Ký Con từ ngày thành lập cách đây vài tháng.

Sau sự việc đại đội trưởng Lê Phú không cho anh em ra chơi phố Quảng Yên đêm trung thu gây nên tình trạng quá khích trong anh em đòi thay đại đội trưởng, anh Nguyễn Bình và anh Lê Quang Hòa gọi anh Lê Phú và tôi về Hải Phòng báo cáo tình hình đại đội và cuối cùng thông báo quyết định cử anh Lê Sĩ Chu ở tỉnh bộ Việt Minh Quảng Yên sang làm chính trị viên đại đội Ký Con. Từ đó, đại đội Ký Con được sự lãnh đạo trực tiếp của một đảng viên Đảng cộng sản Đông Dương. Anh Lê Sĩ Chu đã tạo ra được một lực lượng nòng cốt về chính trị trong đại đội Ký Con, xây dựng nên chi bộ đầu tiên của đại đội Ký Con.

Một lần, tôi được lệnh từ Quảng Yên về Hải Phòng. Khi đến bến đò Bính, tôi bị quân Tưởng gác ở đó giữ lại. Thời kỳ này chúng tôi chưa dùng chứng minh thư, nhưng mỗi người đều có một băng vải đỏ thêu chữ vàng, băng vải của tôi ghi rõ tôi là trung đội trưởng bằng chữ Hán. Nhưng bọn gác vẫn cứ bắt giữ, đưa vào trong căn lều của chúng ven bến đò, tước vũ khí của chúng tôi và bắt chúng tôi ngồi xuống đất dưới chân giường, trên đó có một tên đang nằm hút thuốc phiện.


Tiêu đề: Chuyện kể về Trung tướng Nguyễn Bình - Thiếu tướng Bùi Sinh
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Bảy, 2020, 06:54:16 am
Quân Tưởng xúm xít đến xem bộ đồ trang bị của tôi mà chúng vừa tước đoạt. Đấy là một trong hai bộ trang bị của viên đại úy thuyền trưởng Pháp và viên trung úy Mỹ trên tàu Cờ-ray-xắc. Mỗi bộ gồm có một thắt lưng Mỹ bằng vải dày có nhiều lỗ để treo các trang bị, một khẩu súng côn ngựa bay với ổ đạn quay sáu viên mới tinh bóng nhoáng, một con dao găm Mỹ mà lưỡi dao mỏng và xanh biếc mới tinh, một bao đạn bằng vải đựng đầy đạn các-bin loại đạn dùng cho cả súng các-bin và loại súng côn này. Có thể nói đây là hai bộ đồ trang bị tốt nhất và đẹp nhất mà ít người có được trong thời kỳ đó.

Ngôn ngữ bất đồng, tôi chỉ có thể trả lời những câu hỏi của chúng mà tôi không hiểu gì cả, bằng cách chỉ vào miếng băng đỏ ghi chức vụ trên ngực mình và chỉ về phía Hải Phòng ra dấu hiệu chúng tôi là quân của Hải Phòng. Có lẽ chúng gọi điện thoại về bộ tư lệnh của chúng ở Hải Phòng và bộ tư lệnh của chúng gọi sang bộ tư lệnh của ta, nên vài tiếng sau, anh Nguyễn Bình cho người đến bến đò Bính nhận tôi về. Chúng để tôi về nhưng không trả lại bộ đồ trang bị. Tôi không chịu đi, chỉ vào thắt lưng mình và nói với đồng chí đến đón chúng tôi là chúng chưa trả súng lại. Đồng chí đến đón chúng tôi nói gì không rõ buộc chúng phải đem trả nhưng lại lấy mất con dao găm. Chúng tôi không muốn làm găng đành hậm hực ra về.

Về tới Hải Phòng, hôm sau anh Nguyễn Bình bảo tôi đi cùng anh ra Đồ Sơn có việc. Chúng tôi đi trên một xe du lịch nhỏ. Khi ở Đồ Sơn về, anh Nguyễn Bình chở theo trên xe một khẩu pháo 37 ly ngắn nòng. Về tới gần sở chỉ huy tức nhà băng Năm Sao Hải Phòng, chỉ còn cách có vài trăm mét, một bọn lính Tưởng ra chặn xe anh Nguyễn Bình lại. Mặc dù ngực anh Nguyễn Bình cũng có một băng đỏ thêu chữ “Tư lệnh miền Duyên Hải” nhưng chúng cũng đuổi cả anh Bình và tôi xuống xe để chiếm đoạt cả xe lẫn khẩu pháo 37 ly. Tôi nổi nóng định rút súng ngắn thì anh Nguyễn Bình ngăn lại và nói:

- Thôi, ta di bộ về.

Từ chỗ đó về sở chỉ huy chỉ còn vài trăm mét, nhưng là vài trăm mét nặng nề, uất hận của cả anh Bình và tôi, tôi biết chắc chắn là nỗi uất hận của anh Nguyễn Bình nhiều gấp trăm lần tôi. Vậy mà anh nén chịu được. Phải chăng chính thời gian đó, anh đã sớm nhận ra rằng bây giờ là lúc chuẩn bị thực lực cho chiến tranh chứ không phải để nổ ra chiến tranh.

Một hôm tôi và anh Lê Hai (anh Lê Hai lúc đó ở Quảng Yên về Hải Phòng) đi bảo vệ anh Nguyễn Bình từ Hải Phòng ra làm việc với bộ tư lệnh quân Tưởng ở Hòn Gai. Cùng đi có một cô phiên dịch tiếng Trung Hoa. Chúng tôi đi trên một chiếc ca nô của Pháp cũ tên là Tho-mas mà ta đã đổi tên là Tuấn Mã. Nội dung công việc và kết quả công việc của anh Nguyễn Bình không biết thế nào, nhưng khi về đến Hải Phòng thì tình hình ở nhà băng Năm Sao, nơi đóng sở chỉ huy của bộ tư lệnh Chiến khu miền Duyên Hải ta đang căng thẳng. Quân Tưởng đòi bộ tư lệnh ta phải rút khỏi nhà băng Năm Sao để chúng chiếm đóng. Bộ tư lệnh ta không chịu. Chúng cho quân đến bao vây nhà băng Năm Sao, buộc bộ tư lệnh ta phải rút. Cấp trên cũng chỉ thị nghiêm ngặt là trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng phải tránh xung đột với quân Tưởng, về việc chúng đòi đóng giữ nhà băng Năm Sao, cấp trên cũng chỉ thị “Trước mắt nó chiếm nhà băng Năm Sao nhưng lâu dài ta có thời gian chuẩn bị lực lượng để bảo vệ toàn cõi đất nước”. Anh Nguyễn Bình, mặt đỏ phừng rút kiếm chém vỡ tan tấm gương lớn trong nhà băng rồi ra lệnh rút.

Sự lộng hành, gây gổ của quân Tưởng nhân danh quân Đồng minh vào miền Bắc nước ta giải giáp quân Nhật là bản chất, là âm mưu thâm độc của chúng nhằm gây phức tạp mất ổn định cho chính quyền non trẻ của ta, để cho bọn Việt Cách, Việt Quốc tay sai của chúng thừa cơ mượn gió bẻ măng.

Hiểu sâu sắc được điều đó để tránh xung đột với chúng, thật không dễ chút nào. Trên đường về đại đội, tôi suy nghĩ rất nhiều và càng thấy khâm phục anh Nguyễn Bình.

Ít ngày sau đại đội Ký Con theo chỉ thị của anh Nguyễn Bình được điều ra đảo Cát Bà đóng giữ cửa ngõ đường biển vào Hải Phòng.

Một việc khó giải quyết là phải cho số chiến sĩ gái của đại đội về trước khi đại đội ra đảo Cát Bà. Chị em lại không chịu về, muốn tiếp tục cùng đại đội đi bất cứ đâu chứ không phải chỉ có ra đảo Cát Bà. Nhưng lệnh trên đã ra, chúng tôi phải chấp hành, khuyên chị em về mà lòng cũng đầy luyến tiếc. Không biết hiện nay các chị ở đâu?

Pháo đài đã bị quân Pháp, rồi quân Nhật phá hỏng. Chúng tôi đã khôi phục lại các khẩu trọng pháo 138 ly nòng dài bắn được đúng theo những tọa độ sơn sẵn trên từng ụ pháo khiến cho pháo đài thực sự có uy lực trong nhiệm vụ bảo vệ cửa biển vào cảng Hải Phòng.

Ở đây, chúng tôi cũng cho chữa lại cái máy phát điện của pháo đài rồi từ núi cao, làm tời hạ máy điện xuống doanh trại dưới chân núi, cho mắc dây chạy điện tới đơn vị, các cơ quan và cả nhân dân thị xã. Lần đầu tiên dân trên đảo có điện dùng.

Sau khi đại đội Ký Con ra đóng giữ Cát Bà được ít lâu thì anh Nguyễn Bình được lệnh vào Nam chỉ huy lực lượng vũ trang Nam Bộ chống giặc Pháp đang núp bóng quân Đồng minh gây hấn ở Sài Gòn và mở rộng chiến tranh.


Tiêu đề: Chuyện kể về Trung tướng Nguyễn Bình - Thiếu tướng Bùi Sinh
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Bảy, 2020, 06:56:06 am
Phần hai
TRUNG TƯỚNG NGUYỄN BÌNH

Ngày 23 tháng 10 năm 1945 anh Nguyễn Bình vào tới Thủ Dầu Một. Trước khi lên đường vào chiến trường Nam Bộ, anh đã về Thủ đô Hà Nội gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh và được Người trực tiếp động viên, giao nhiệm vụ. Sau hơn hai năm kể từ ngày đó thì có Sắc lệnh 115 ngày 12 tháng 1 năm 1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký quyết định phong cấp trung tướng cho đồng chí Nguyễn Bình. Tiếp theo, sau một năm hai tháng sáu ngày nữa, lại có Sắc lệnh số 18 cũng do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ngày 21 tháng 3 năm 1949 cử Trung tướng Nguyễn Bình làm tư lệnh Bộ tư lệnh Nam Bộ.

Sau này, tìm hiểu cặn kẽ từ các nguồn tư liệu, từ rất nhiều chuyện kể của các bạn bè, đồng đội, tôi càng thấy rõ công lao của đồng chí Nguyễn Bình trong những năm tháng chiến đấu ở Nam Bộ, thật đúng với niềm tin cậy của Bác Hồ khi giao nhiệm vụ Bác nói “không ai xứng đáng hơn chú trong việc lãnh trọng trách này”.

Tôi muốn ghi tiếp chuyện về đồng chí Nguyễn Bình, một vị tướng mà tôi nghĩ rằng hình như con người này sinh ra là để dành cho những năm đầu kháng chiến chống thực dân Pháp trên đất Nam Bộ, cần một người cầm quân tài ba dũng cảm dám đứng mũi chịu sào trước mọi biến cố phong ba.

Khi đồng chí Nguyễn Bình đặt chân tới đất Nam Bộ, tình hình ở đây cực kỳ phức tạp. Mặc dầu trước đó một tháng, cuộc họp liên tịch Xứ ủy và Ủy ban nhân dân Nam Bộ tại một địa điểm trên đường Cây Mai dưới sự chủ trì của đồng chí Hoàng Quốc Việt đã thành lập Ủy ban kháng chiến hành chính Nam Bộ do đồng chí Trần Văn Giầu làm chủ tịch, đồng thời ban hành lệnh kháng chiến nhưng lực lượng kháng chiến đến lúc này vẫn chưa có một sự chỉ huy thống nhất. Lực lượng nào cũng muốn tỏ rõ quyết tâm chống Pháp, đáp lời kêu gọi của Ủy ban kháng chiến Hành chính Nam Bộ. Có lực lượng mạnh, có quy củ, có sự lãnh đạo đúng đắn của các đảng viên, chiến đấu vững vàng, kỷ luật nghiêm minh. Song lại có những đơn vị rất ô hợp. Có nơi chỉ là một tay anh chị trong đám giang hồ cũng tự động đứng lên kêu gọi thanh niên, tập hợp thành đội ngũ sắm vũ khí cát cứ một vùng ngăn chặn giặc Pháp nhưng lại tùy tiện thu thuế, quấy nhiễu nhân dân gây rối ren cho chính quyền địa phương. Nhất là các phe phái chính trị, tôn giáo càng phức tạp hơn, mạnh ai nấy đánh và cũng mạnh ai nấy chạy khi gặp thất bại, mặc dầu có những đơn vị đã nhân danh cái gọi là “đệ nhị”, “đệ tam”, “đệ tứ” sư đoàn nhưng chuyên cướp bóc dân, như bọn HT29 cũng vậy. Bình Xuyên là lực lượng rất mạnh nhưng lại cũng có phe này, phái kia, phe Ba Dương, phe Tám Mạnh, phe Bảy Viễn. Có phe đánh giặc gan cóc tía, biết giữ gìn kỷ luật trật tự trong quan hệ với nhân dân; có phái đánh giặc đã kém lại nhũng nhiễu dân lành. Lại có khi tranh giành quyền lợi địa vị, phe này bắt người và tước vũ khí của phe kia.

Trong khi đó, quân đội Pháp, được tướng Gra-xây, chỉ huy quân đội Anh vào giải giáp quân Nhật cho phép, đã đưa một binh đoàn thiết giáp đổ bộ vào Sài Gòn, đưa lực lượng quân Pháp ở Sài Gòn kể cả kiều dân Pháp được trang bị vũ khí lên tới 11.000 tên. Trong khi đó 40.000 quân Nhật đáng lẽ phải bị giải giáp thì lại được quân Anh sử dụng vào công việc ngăn chặn các cuộc tiến công của quân đội Việt Nam.

Đồng chí Nguyễn Bình thấy rằng trước hết phải làm sao nắm được tình hình mà tốt nhất là tìm cách gặp gỡ từng đồng chí chỉ huy để tiến tới có một cuộc họp về quân sự thống nhất các lực lượng, đồng thời thống nhất các chủ trương và kế hoạch tác chiến.

Trong các cuộc gặp gỡ, có lẽ thú vị nhất là khi đồng chí Nguyễn Bình gặp đồng chí Trần Văn Trà. Hôm ấy đồng chí Nguyễn Bình đã mất hết giấy tờ, kể cả giấy giới thiệu của Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh do bị quân Nhật chặn bắt ở Bưng Cầu, đồng chí phải lập mẹo để chạy thoát lấy người. Đã tìm hiểu, biết đồng chí Trần Văn Trà khi đó phụ trách lực lượng giải phóng quân liên quân Hóc Môn - Bà Điểm - Đức Hòa, lại biết đồng chí Trà người Quảng Ngãi vào Sài Gòn hoạt động rồi bị bắt đến ngày khởi nghĩa mới được giải thoát nên đồng chí Nguyễn Bình muốn tiếp xúc sớm ngày nào hay ngày ấy. Hôm tới đây, đồng chí Nguyễn Bình phải mặc giả trang như người Hoa cho an toàn, đến khi nhìn thấy đồng chí Trần Văn Trà quân phục tươm tất cũng băn khoăn. Nhưng khi nghe đồng chí Trà ôn tồn hỏi có phải đồng chí là phái viên của Bộ Tổng do Trung ương gửi vào giúp Nam Bộ thống nhất các lực lượng vũ trang không thì đồng chí Nguyễn Bình lại thấy yên tâm:

- Đúng! Tôi là Nguyễn Bình. Lẽ ra thì tôi phải xuất trình giấy giới thiệu của Bộ Tổng nhưng trong lúc đi đường, tôi bị bọn Nhật chặn xe tịch thu hết mọi thứ.

- Không sao! Tôi tin. Liên lạc đã báo cho biết cả rồi. Đồng chí phái viên (lúc đầu đồng chí Nguyễn Bình được giới thiệu là phái viên của Trung ương) đi đường đá mệt, hãy nghỉ ngơi tắm rửa cho khỏe. Cơm nước xong, ta sẽ bàn công việc.

Trong cuộc gặp gỡ bàn bạc hôm đó, hai người rất tâm đồng ý hợp. Những điều đồng chí Nguyễn Bình suy nghĩ cũng chính là những vấn đề đồng chí Trần Văn Trà rất muốn thực hiện, như là phải làm sao tập hợp được các lực lượng bộ đội địa phương lại, đặt dưới một sự chỉ huy chung và phải thống nhất các lực lượng vũ trang dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đồng chí Nguyễn Bình cũng thông báo cho đồng chí Trần Văn Trà biết ngày triệu tập Hội nghị quân sự Nam Bộ và rất mong đồng chí Trần Văn Trà tới dự,

- Phải tới chớ! - Đồng chí Trà hồ hởi đáp - Một cuộc họp lịch sử như vậy làm sao lại có thể vắng mặt được.

Ngày 22 tháng 11 năm 1945, đồng chí Nguyễn Bình mới triệu tập được Hội nghị quân sự Nam Bộ tại An Phú Xã. Ấy là sau khi đã gặp đồng chí Huỳnh Văn Nghệ cùng đi khảo sát căn cứ Tân Uyên, lại viết thư cho Dương Văn Dương và bộ đội Bình Xuyên... Hội nghị đâ quyết định thống nhất các lực lượng vũ trang thành mười lăm chi đội Giải phóng quân. Các đại biểu rất nhớ câu nói của đồng chí phái viên Trung ương:

- Đừng bao giờ để bọn địch xé lẻ chúng ta ra mà diệt gọn từng đơn vị. Bài học bẻ đũa từng chiếc lẽ nào ta không biết. Muốn đánh thắng thằng Tây, chúng ta phải tập hợp thành một khối. Tôi đề nghị từ nay không gọi bộ đội là bộ đội ông A, ông B, mà ta gọi bộ đội chúng ta bằng cái tên chung là Giải phóng quân. Phiên hiệu thứ tự như sau: bộ đội tỉnh Thủ Dầu Một do anh Huỳnh Kim Trương chỉ huy là chi đội 1 Giải phóng quân; bộ đội Bình Xuyên do anh Lương Văn Trọng đại diện là chi đội 2 và 3 Giải phóng quân; bộ đội anh Huỳnh Văn Trí, Bà Quẹo là chi đội 4; bộ đội anh Phạm Hữu Đức, Tân An là chi đội 5; bộ đội anh Nguyễn Văn Dung, Gia Định là chi đội 6; bộ đội anh Nguyễn Thanh Bạch và anh Nguyễn Hoài Thanh (Tây Ninh) là chi đội 7, chi đội 8; bộ đội anh Lê Văn Viễn (Bảy Viễn) Phú Thọ là chi đội 9; bộ đội anh Huỳnh Văn Nghệ (Biên Hòa) là chi đội 10; bộ đội anh Trịnh Khánh Vàng (Tây Ninh) là chi đội 11; bộ đội anh Tô Ký (Hóc Môn - Bà Điểm - Đức Hòa) là chi đội 12; bộ đội anh Mười Thìn (Tổng công đoàn) là chi đội 13; bộ đội anh Trần Văn Trà (Tân An) là chi đội 14; bộ đội anh Huỳnh Văn Một (Đức Hòa) là chi đội 15.

Qua cuộc họp này, đồng chí Nguyễn Bình rất mừng khi được tiếp xúc với đầy đủ các thành phần lãnh đạo ở hầu hết các tỉnh miền Đông Nam Bộ, đặc biệt là gặp gỡ các vị chỉ huy đang nắm các lực lượng đóng rải rác khắp nưi trên chiến trường miền Đông, lại được nghe rất nhiều chuyện anh dũng bất khuất của người dân Nam Bộ kiên quyết chống giặc, thật đáng tự hào. Song đồng chí cũng phải nghe không ít chuyện vô kỷ luật của các tay giang hồ say máu đánh Tây nhưng nhiều khi lại rất vô chính trị. Ví như chuyện tàn sát người Pháp ở cư xá Xi-tê Ê-rô không phân biệt đàn bà trẻ con, trong đó có cả anh phi công Xô-tơ-rây đã giải ngũ tham gia cánh tả Đảng xã hội Pháp, ủng hộ chủ trương kháng chiến của ta. Xô-tơ-rây đã từng nói với đồng chí Huỳnh Văn Tiểng rằng: “nếu xảy ra chiến tranh, các anh cho tôi một khẩu súng, tôi sẽ ở bên cạnh các anh”.

Cuộc họp đã thống nhất các lực lượng vũ trang về một mối, đồng thời cũng định ra được những nguyên tắc chung về mặt tổ chức và rèn luyện kỷ luật. Đồng chí phái viên Trung ương được cử làm khu trưởng khu miền Đông Nam Bộ.


Tiêu đề: Chuyện kể về Trung tướng Nguyễn Bình - Thiếu tướng Bùi Sinh
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Bảy, 2020, 07:37:32 am
*
*   *

Công việc quan trọng đầu tiên là thống nhất lực lượng vũ trang đã tạm xong nhưng còn đánh giặc thế nào, đó chính là vấn đề phải được tiến hành ngay, bắt đầu từ công việc nghiên cứu tình hình quân địch để tìm ra cách đánh thích hợp. Đồng chí Nguyễn Bình suy nghĩ rất lung. Giặc Pháp đã chiếm Sài Gòn. Quân ta tất thảy đều đã rút ra vòng ngoài làm nhiệm vụ bao vây chặn đánh địch không cho chúng mở rộng mặt trận ra các tỉnh. Vậy thì bên trong Sài Gòn, bọn địch ra sao, ta có thể bắt chúng phải đối phó cả từ hai phía, trong đánh ngoài vây? Nếu vậy, phải nắm được cả tình hình địch và tình hình ta bên trong Sài Gòn. Không thể giao cho ai khác làm việc này mà chính mình phải tự thân nắm bắt tình hình để quyết định chủ trương cho thật chính xác.

Từ Hội nghị quân sự An Phú Xã về Tân Uyên kiện toàn Bộ chỉ huy quân sự khu miền Đông, đồng chí Nguyễn Bình chuẩn bị ngay việc đột nhập vào Sài Gòn để nắm tình hình. Trong cơ quan có các nhà trí thức tin cậy lại am hiểu tình hình Sài Gòn như giáo sư Phạm Thiều đã từng dạy trường Pê-truýtx Ký và hồi khởi nghĩa là thủ lĩnh thanh niên vùng Thị Nghè; hoặc như luật gia Lê Đình Chi người miền Bắc vào Nam làm việc ở tòa án Sài Gòn, đã bỏ hết cơ nghiệp lại thành phố đi theo kháng chiến. Đồng chí Nguyễn Bình liền đem ý định của mình bàn với hai người.

- Tôi muốn đánh vào đầu não của địch. Muốn thế phải nắm tình hình thật chính xác. Vì vậy tôi muốn vào Sài Gòn một chuyến, hai ông thấy thế nào?

Giáo sư Phạm Thiều cho biết đã về Thị Nghè ba ngày, thấy tình hình không có gì nguy hiểm lắm.

- Không, tôi muốn vô tận trong Sài Gòn.

Luật gia Lê Đình Chi tiếp lời:

- Thị Nghè là vùng ngoại ô, cũng nguy hiểm. Vô Sài Gòn thì nguy hiểm hơn nhiều.

- Tôi biết chuyên đi này nguy hiểm - Đồng chí Nguyễn Bình khẳng định - Nhưng không vào hang cọp làm sao bắt được cọp con. Vấn đề là phải chuẩn bị thật kỹ càng, dự đoán được những tình huống bất ngờ có thể xảy ra để có cách đối phó. Tốt nhất là không để rơi vào tình thế bị động do các tình huống bất ngờ mà mình không lường trước được.

Luật sư Lê Đình Chi chợt nhớ:

- Phải rồi, ở Thị Nghè tôi có một người bạn đồng nghiệp, luật sư Nguyễn Thành Vĩnh quê Mỹ Tho, gia đình đại điền chủ nhưng rất yêu nước, đã từng học luật bên Pháp, từng là chánh án tòa án Sài Gòn trước và sau ngày khởi nghĩa. Hiện ông Vĩnh vẫn còn hai biệt thự trong Sài Gòn giao cho người nhà trông nom. Ông có xe riêng. Người nhà vẫn thường ra vô Sài Gòn. Nhất định luật sư Vĩnh có thể giúp được khu trưởng.

Quả nhiên, khi luật sư Lê Đình Chi đưa đồng chí Nguyễn Bình vào Thị Nghè gặp luật sư Nguyễn Thành Vĩnh nói rõ ý định, luật sư Vĩnh nói ngay:

- Được chớ! Tôi biết rõ là lâu nay bọn Tây không nhòm ngó tới ngôi biệt thự của tôi trong thành phố. Vì sao chắc hai anh cũng hiểu. Cũng là nằm trong âm mưu mua chuộc trí thức của họ. Anh Ba về đấy ở thì sẽ được yên ổn. Lái xe của tôi, Hai Danh sẽ đưa anh Ba đi những nơi anh cần đến. Chị bếp, chị Tám Sương sẽ lo cơm nước cho anh Ba. Hai người này là hai người giúp việc thân tín nhất của gia đình tôi, tôi coi như người trong nhà vậy. Anh Ba cứ yên tâm.

Luật sư Nguyễn Thành Vĩnh cho gọi lái xe Hai Danh đến giới thiệu đầy đủ rồi nói:

- Tôi giao anh Ba Bình cho Hai Danh đó nghe. Chú lấy xe hơi đưa anh Ba về nhà mình và đi các nơi anh Ba muốn đến. Nhớ, chú vừa là sốp-phơ vừa là gác-đờ-co cho anh Ba nghe không. - Luật sư Vĩnh quay lại nói tiếp với đồng chí Nguyễn Bình: - Anh Ba cứ tin tưởng ở Hai Danh. Chú ấy là người thân cận nhất trong số những người giúp việc cho tôi đấy.

Hai Danh lễ phép nói với đồng chí Nguyễn Bình:

- Thưa anh Ba, nếu có ai hỏi về anh Ba, tôi sẽ nói anh Ba là “tầng khao” của ông chủ ở Mỹ Tho lên được không ạ?

- Được quá! Đồng chí Nguyễn Bình cười quay lại phía luật sư Nguyễn Thành Vĩnh: - Tôi sẽ là “cai đồn điền” của ông! Hai Danh sáng ý đấy. Thế mà mình chưa nghĩ tới.


Tiêu đề: Chuyện kể về Trung tướng Nguyễn Bình - Thiếu tướng Bùi Sinh
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Bảy, 2020, 07:39:18 am
*
*   *

Đồng chí Nguyễn Bình vẫn mặc trang phục người Hoa màu đen để vào Sài Gòn. Nhìn bề ngoài người ta có thể nghĩ đồng chí là chủ một hãng buôn ở Chợ Lớn đang đi chạy “áp-phe”.

Ngay hôm đầu, đồng chí Nguyễn Bình đã bảo Hai Danh cho xe chạy qua khu vực nhà thờ Đức Bà, chạy với tốc độ chậm, qua ngang bốt Ca-ti-na, lướt qua nhà hàng La Pa-gốt rồi đến nhà sách An-be Poóc-tay. Quay nhìn theo nhà sách, đồng chí Nguyễn Bình lại nhớ gần hai mươi năm trước, khi còn mang tên Nguyễn Phương Thảo, đồng chí đã vào đây mua và đọc sách báo, từ say mê đọc sách báo mà quen thân một tác giả bút danh Nam Kiều (đồng chí Trần Huy Liệu), rồi trở thành đảng viên Quốc dân đảng cùng với đồng chí Trần Huy Liệu, sau đó cả hai người bị địch bắt, khép án năm năm tù, đày ra Côn Đảo. Ở Côn Đảo, gặp anh em tù cộng sản tuyên truyền vận động, cả hai đồng chí Trần Huy Liệu và Nguyễn Phương Thảo đều giã từ Việt Nam Quốc dân đảng, ngả theo lý tưởng cộng sản. Do hai người không theo Quốc dân đảng nữa, những người tù Quốc dân đảng đã “trừng phạt”, đồng chí Trần Huy Liệu bị cứa cổ, còn đồng chí Nguyễn Phương Thảo bị đâm thủng một mắt sau phải khoét đi. Nhưng đồng chí Nguyễn Bình lại vẫn thường nói vui nhưng rất ý nghĩa, “một mắt mà nhìn lại sáng hơn khi còn hai mắt”.

... Xe tiếp tục đi ngang qua nhà hát Tây, ngó thấy chỗ tòa soạn báo Journal Officiel, tờ công báo mà hồi trước đồng chí vẫn hay đọc để tìm hiểu thêm về xứ Nam Kỳ. Tiếp đến xe từ từ qua chỗ tòa soạn báo La Dépêche. Chợt nhìn thấy kế bên tòa soạn có một hiệu cắt tóc, đồng chí Nguyễn Bình liền nói với chú lái xe:

- Dừng lại đi! Tôi phải vô đây hớt cái tóc. Chú kiếm chỗ nghỉ giải khát, chừng hai mươi phút sau lại đón tôi nghe.

Hai Danh dừng xe sát lề đường rồi ra mở cửa cho đồng chí Nguyễn Bình. Anh cúi đầu chào vẻ cung kính mà lòng rất lo, nhưng nhìn thấy đồng chí Nguyễn Bình vẫn ung dung tự tại, hơi mỉm cười nhìn mình qua vành kính râm thì lại thấy yên dạ. Ai mà không lo được. Bởi cửa hàng cắt tóc trên đường Ca-ti-na chỉ cách cái bốt trùm mật thám Bazin có mấy trăm mét, nơi mà người ta vẫn coi như là địa ngục trần gian.

Qua ba ngày ăn ngủ trong biệt thự của luật sư Nguyễn Thành Vĩnh ở 35 đường Pierre, Dakao, hôm nào đồng chí Nguyễn Bình cũng bảo Hai Danh đánh xe đưa qua các phố mà đồng chí cần nghiên cứu các hoạt động của quân thù trong nội thành. Thời gian này các bộ phận lãnh đạo phong trào chính trị vẫn đang hoạt động trong Sài Gòn vừa bằng báo chí công khai vừa qua các hình thức đấu tranh của công đoàn. Kết quả chuyến thị sát này đã khiến đồng chí Nguyễn Bình nảy ra ý định táo bạo là có thể đưa chiến tranh du kích vào nội thành, không thể chỉ bao vây, càng không thể chỉ có đấu tranh chính trị.

Trở về căn cứ, sau khi báo cáo tình hình, đồng chí Nguyễn Bình bàn ngay với các đồng chí Huỳnh Văn Nghệ, Nguyễn Xuân Diệu và Phan Định Công:

- Sau chuyến đột nhập Sài Gòn, tôi thấy địch ở trong đó là ở nơi hiểm yếu song lại là nơi có nhiều sơ hở. Hoàn toàn có thể đưa chiến tranh du kích vào trong nội thành. Như vậy, với đồng bào trong đó, ta luôn luôn đem lại cho bà con cô bác niềm tự hào về những chiến sĩ Giải phóng quân, con em bất khuất của mình. Còn với kẻ thù, ta gieo sự khủng khiếp xuống đầu chúng, không cho chúng được ăn ngon ngủ yên.

- Đưa chiến tranh du kích vào bằng cách nào?

- Ta sẽ lập những đội quyết tử gồm các chiến sĩ dũng cảm thông minh dám đánh thọc sâu, đánh hiểm và bất ngờ. Tôi tin chắc rằng có thể đánh du kích ngay giữa lòng địch, xuất phát từ căn cứ nằm giữa lòng dân. Song nhiệm vụ của những đơn vị này trước hết là duy trì sự có mặt của lực lượng vũ trang ta ở nội thành, giữ uy thế cách mạng trong nhân dân nội thành, giữ vững lòng tin của mọi tầng lớp nhân dân đối với kháng chiến. Cụ thể về mặt quân sự là phải nắm địch, diệt trừ bọn Việt gian và bọn thực dân cáo già, đánh phá các cơ sở quân sự, kinh tế và cả chính trị của địch làm cho chúng mất ổn định phải đối phó từ nhiều phía. Hiện nay một số đơn vị vũ trang tự lập ra các tổ chức hoạt động địch hậu riêng như ban trinh sát Hùng Vương, ban vô hình, ban ám sát, ban trừ gian, đội cảm tử, nhóm dao găm... Như vậy rất có thể các hoạt động sẽ không thống nhất, không đúng với nhiệm vụ và bản chất của đơn vị hoạt động nội thành mà chúng ta mong muốn. Cần phải thống nhất về một đầu mối và sẽ gọi bằng cái tên bao hàm toàn bộ mục đích ý nghĩa về sự ra đời của nó: Ban công tác thành.

Sau cuộc họp này, ngày 6 tháng 1 năm 1946, Ban công tác thành số 1 được thành lập. Trưởng ban là đồng chí Nguyễn Ngọc Sớm. Phó ban là đồng chí Nguyễn Đình Chính.


Tiêu đề: Chuyện kể về Trung tướng Nguyễn Bình - Thiếu tướng Bùi Sinh
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Bảy, 2020, 07:40:18 am
Hôm tiễn anh chị em đi làm nhiệm vụ, đồng chí Nguyễn Bình xúc động dặn dò:

- Nhiệm vụ và phương châm hoạt động, chúng ta đã bàn kỹ rồi. Hôm nay anh em lên đường, sẽ trà trộn vào dòng người hồi cư để vào địa bàn hoạt động, vẫn biết đánh du kích ở vùng đồi núi hay vùng đồng bằng, chúng ta có thể từ căn cứ du kích mà xuất phát, tiến công bất ngờ rồi lại rút về căn cứ theo kế hoạch đã vạch ra. Còn giữa sào huyệt địch với mạng lưới mật thám và lính tuần tra sẵn sàng vây ráp bất cứ lúc nào thì sao? Các đồng chí hãy tin. Về thành, rừng người bảo vệ các đồng chí còn tốt hơn rừng cây.

Chiến công mở màn cho chủ trương đưa chiến tranh du kích vào trong nội thành là trận đánh bằng lựu đạn vào hiệu ăn Con gà trống vàng, nơi bọn Tây thường vào ăn uống. Hai nữ chiến sĩ Lan và Bông đã tung hai trái lựu đạn đúng lúc bọn địch vào tiệm rất đông, đang cười nói ồn ã. Lựu đạn nổ. Lợi dụng lúc hỗn loạn, hai cô lẩn vào đám đông. Tiếp đến là tiếng súng trừ gian ngày 12 tháng 3 năm 1946 của Nguyễn Thị Lan bí danh Mê Linh. Đồng chí Nguyễn Đình Chính giao nhiệm vụ cho cô diệt tên chủ bút báo Phục hưng, tờ báo chuyên cổ vũ chủ trương chia cắt Việt Nam lập chính phủ Nam Kỳ tự trị, làm tay sai cho thực dân Pháp. Nó bị Lan Mê Linh bắn chết ngay trước tòa soạn báo Phục hưng. Kế đến, ngày 29 tháng 3 năm 1946 diệt một tên Việt gian ngay trước cửa nhà riêng của hắn. Tên này có chân trong Hội đồng tư vấn của chính phủ Nam Kỳ quốc. Ngày 4 tháng 4 năm 1946 tên thứ hai trong Hội đồng tư vấn bị hạ sát. Sau hôm đó, Ban công tác số 2 được thành lập. Ngày 8 tháng 4 năm 1946, đúng hôm tướng Pháp Va-luy tới Sài Gòn, ta đánh kho đạn ở tả ngạn kênh A-va-lăng (Thị Nghè), hàng trăm tấn đạn các loại nổ tung. Đầu tháng 6 năm 1946 trưởng ban công tác số 1 Nguyễn Đình Chính cùng đồng chí Bát trực tiếp thi hành bản án tử hình một tên Việt gian về tội làm chỉ điểm dẫn đường cho giặc bắt cán bộ và phá phách cơ sở kháng chiến...

Nhận được những tin này, đồng chí Nguyễn Bình rất mừng. Đồng chí gửi thư khen, tặng phẩm và cả tiền bồi dưỡng cho anh chị em lập được chiến công.

Sang tháng 5 năm 1946, Ban công tác số 3 ra đời, có nhiệm vụ hoạt động ở khu vực Tân Sơn Nhì - Bà Quẹo; Ban công tác số 4 hoạt động ở khu vực Gò Vấp - An Phú Đông. Đến tháng 6 năm 1946 lại có thêm hai ban công tác số 5 và số 6 được thành lập. Các hoạt động quân sự trong nội thành vì thế ngày một sôi động và rộng khắp hơn. Nối tiếp sang các năm 1947, 1948, 1949, 1950... nhiều trận đánh còn gan góc và táo bạo hơn. Ví như ngày 1 tháng 7 năm 1947, đồng chí Võ Hồng Tâm dùng dao ca-níp hiệu Con chó giết tên đại tá tình báo Pháp tên là Im-phen giữa ban ngày ở ngay trong phòng số 28 của khách sạn Đê-na-xi-ông. Sau đó mấy ngày, chiến sĩ của Ban công tác số 6 đánh mìn làm sập biệt thự Hoa hồng diệt tám sĩ quan phi công Pháp. Ngày 28 tháng 3 năm 1948 đánh kho vũ khí ở Bảy Hiền phá tung ba trăm trái bom hạng nặng. Ngày 6 tháng 6 năm 1948, bốn chị trong đội nữ cảm tử Minh Khai đánh lựu đạn ở rạp Majestíc trên đường Ca-ti-na diệt tại chỗ hai mươi tên địch, trong đó có hai tên quan năm và tên trùm mật thám Pháp An-be, làm bị thương năm mươi tên khác. Đêm 18 tháng 3 năm 1950 hai tàu chiến Mỹ vừa tới cảng Sài Gòn lập tức bị giáng trả bằng đạn súng cối, phải bỏ chạy. Ngày 28 tháng 4 năm 1950, tên trùm mật thám Bazin bị bắn chết ngay tại ngã tư Ca-ti-na và lần lượt các tên cáo già thực dân Bông-vi-xi-ni và Ri-vơ-ri-a phải đền tội...

Mở đầu năm 1951, đồng chí Lê Văn Vinh thuộc Ban công tác số 9 ngang nhiên lấy xe giép trước sứ quán Mỹ đuổi theo xe của tên thực dân lợi hại Hăng-ri Đờ-la-xơ-vrô-chi-e, tung lựu đạn vào diệt luôn cả người lẫn xe.

Những năm này, có một sự kiện giết giặc trừ gian rất đặc biệt, đó là thành tích của anh Võ Gia Phục Quốc. Gia đình anh có ba anh em đều tham gia hoạt động từ ngày khởi nghĩa. Khi biết đơn vị công an xung phong quyết định trừng trị một tên Việt gian và đang tìm người có đủ điều kiện thi hành bản án, anh Võ Gia Phục Quốc tình nguyện nhận. Tên Việt gian này sợ bị trừng trị đã trốn sang Pháp nhưng vẫn tiếp tục làm nghề thầu quân nhu cho quân đội Pháp ở Đông Dương. Võ Gia Phục Quốc đã sang Pháp tìm đến tận buồng ngủ của tên Việt gian này ở đường Đờ-gôn vùng ngoại ô Pa-rỉ đọc bản án rồi mới hạ sát.

Thì ra không chỉ đưa chiến tranh du kích vào trong nội thành Sài Gòn diệt ác trừ gian mà còn đưa sang tận Pa-ri góp phần đánh thức lương tri người Pháp đòi chính phủ họ lúc bấy giờ phải chấm dứt chiến tranh mà họ gọi là cuộc chiến tranh nhơ bẩn.

Đồng chí Nguyễn Bình rất mừng là các hình thái chiến đấu trong nội thành Sài Gòn đã phát triển mạnh mẽ và đa dạng như thế. Mỗi người có những điều kiện, hoàn cảnh khác nhau, nhưng Võ Gia Phục Quốc đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

Từ đầu tháng 3 năm 1946, để trả lời cái gọi là điều kiện ngừng bắn do tướng Đác-giăng-li-ơ đưa ra là quân kháng chiến phải hạ vũ khí, đồng chí Nguyễn Bình quyết định thành lập thêm lực lượng tự vệ thành gồm mười lăm khu và đội tự vệ, tổ chức theo địa bàn dân cư để đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động quân sự trên khắp các vùng nội, ngoại thành. Từ thực tiễn chiến đấu đòi hỏi phải suy nghĩ sáng tạo ra các hình thức tổ chức và hoạt động quân sự thích hợp, các ban công tác thành sau này chuyển thành các tiểu đoàn quyết tử và đại đội biệt động vũ trang, càng làm cho bọn thực dân Pháp khốn đốn. Mặc dù quân giặc chiếm giữ Sài Gòn và các vùng phụ cận đã lên tới bốn vạn tên, nhưng những vùng hậu cứ quan trọng và xung yếu nhất của chúng vẫn bị các đơn vị biệt động vũ trang, các đội quyết tử đánh phá liên tục.


Tiêu đề: Chuyện kể về Trung tướng Nguyễn Bình - Thiếu tướng Bùi Sinh
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Bảy, 2020, 07:41:46 am
*
*   *

Về các hoạt động của mười lăm khu đội tự vệ thành cũng có những nét đặc sắc riêng. Chỉ huy trưởng Nguyễn Xuân Diệu rất mừng rỡ khi đón được đồng chí Nguyễn Văn Hoàn, bí danh là Hà Ngọc Tiếu vừa ra khỏi khám lớn đưa đến gặp Khu trưởng Nguyễn Bình, được Khu trưởng ký quyết định giao ngay nhiệm vụ chỉ huy phó tự vệ thành (Trước đây đồng chí Tiếu là cán bộ vệ quốc đoàn được đồng chí Nguyễn Bình chọn đưa về Sài Gòn thành lập tự vệ thành. Sau trận đánh lựu đạn kỷ niệm ngày 19 tháng 8, đồng chí bị bắt do có người khai ra. Tạm ước 14-9 Bác Hồ ký với đại diện Chính phủ pháp, có điều khoản thả những người bị bắt nên đồng chí Hà Ngọc Tiếu mới được trở về tiếp tục chiến đấu). Tuy vậy tự vệ thành vẫn được đặt dưới sự chỉ huy trực tiếp của Khu trưởng Nguyễn Bình. Đó là vào khoảng tháng 10 năm 1946. Đến tháng 4 năm 1947, đồng chí Xuân Diệu về làm giám đốc Trường quân chính Khu 7 thì đồng chí Hà Ngọc Tiếu lên làm chỉ huy trưởng thành bộ tự vệ. Khu trưởng Nguyễn Bình nhắc nhở các cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần phải chăm sóc các đơn vị tự vệ về vật chất, tinh thần như đối với các đơn vị giải phóng quân. Nhờ thế Ban chỉ huy thành bộ tự vệ đã nhanh chóng thực hiện được chủ trương xây dựng một đơn vị vũ trang tập trung có cả trung liên Bren, súng phóng lựu và các loại súng tiểu liên. Dần dần tự vệ thành được tổ chức thành một tiểu đoàn tập trung đầu tiên, đặt tên là tiểu đoàn Hoàng Văn Thụ được huấn luyện chiến thuật đánh trong thành phố; kết quả đã chủ động tiến công một số đồn bốt vùng ven, có lần đánh sâu vào Tân Sơn Nhất, Phú Nhuận đạt hiệu suất chiến đấu cao. Sôi động hơn cả lại là các hoạt động của những tổ tự vệ trong nội thành đánh địch đoạt vũ khí tự trang bị. Như trường hợp anh Đào Văn Thực tay không đánh vào gáy một tên Pháp làm cho nó ngất xỉu rồi đoạt súng ngay trên đường Lê Thánh Tông bây giờ. Vài hôm sau ở gần chợ Bến Thành, anh đã mượn đòn gánh của một chị bán hàng rong phang vào gáy một tên Pháp rồi đoạt súng... Khu tự vệ Bắc Sơn tổ chức diệt tên Đi-gô, ủy viên thường trực đảng của Đờ-gôn tại Đông Dương, một tên gián điệp lợi hại, đạt kết quả bất ngờ. Anh Nguyễn Duy Quang lái xe cho Đi-gô nhưng Đi-gô đâu biết anh chính là một chiến sĩ tự vệ. Trước khi hành động, anh đã đưa vợ và hai con nhỏ ra chiến khu. Đến ngày thi hành nhiệm vụ, đáng lẽ anh phải ra tay khi đón Đi-gô đi làm về nhưng bất ngờ hôm đó, tên Đi-gô gặp bạn lại bảo anh cho xe về trước. Vậy là anh phải chờ Đi-gô về tới cửa nhà nó mới tung lựu đạn đánh rồi lái xe một mạch ra thẳng chiến khu Gò Cát, xã Bình Hưng Hòa. Đồng chí Hà Ngọc Tiếu lập tức báo cáo thành tích của anh Nguyễn Duy Quang lên khu. Đồng chí Nguyễn Bình liền trực tiếp đến thăm gia đình và khen thưởng anh Quang rất kịp thời.

Đầu năm 1947, Bô-la-e được cử sang Việt Nam làm cao ủy Pháp thay tướng Đác-giăng-li-ơ. Bộ trưởng chiến tranh Cốt-xtơ Phờ-lo-rê và bộ trưởng quân lực Giắc Ki-nô cũng được cử sang để thị sát tình hình. Chúng huênh hoang, tuyên bố là tại Sài Gòn, thời kỳ bình định đã qua, an ninh trật tự đã được vãn hồi, chỉ còn những vụ hành quân cảnh sát. Chúng liền cho mở rộng khu sòng bạc Đại thế giới ở Chợ Lớn và mở chợ phiên ở vườn hoa Bờ-rô để chứng minh cho lời tuyên bố đó.

Đồng chí Nguyễn Bình đã họp với đồng chí Hà Ngọc Tiếu và toàn thể ban chỉ huy thành bộ tự vệ quyết định phải đánh mạnh trong thành phố, mà trước tiên là đánh phá Đại thế giới và chợ phiên. Mục đích là chống lại những lời tuyên bố huênh hoang của bọn thực dân làm cho nhân dân Sài Gòn và thế giới thấy rằng ở Việt Nam và ngay cả Sài Gòn, chưa phải đã có an ninh trật tự như chúng thường rêu rao.

Đồng chí Nguyễn Bình nhận định rằng, cho sòng bạc Đại thế giới hoạt động trở lại, bọn thực dân còn có mục đích thu thêm nguồn tài chính nuôi chiến tranh đồng thời làm cho đồng bào ta đam mê cuộc đỏ đen, trụy lạc mà quên kẻ thù xâm lược đất nước. Cho nên đánh mục tiêu này là ta bắn một mũi tên trúng ba đích.

Đội Ký Con do đồng chí Đào Văn Thực chỉ huy đã nhận nhiệm vụ quan trọng trên. Anh em đã sử dụng lựu đạn không sát thương do nữ chiến sĩ Võ Thị Nga bí mật đưa hẳn vào bên trong khuôn viên rồi mới phân phối. Đúng giờ quy định và theo quy ước đã thống nhất, bảy quả lựu đạn nổ ở bảy nơi gần như cùng một lúc. Tiếng kêu cứu hoảng loạn, cả sòng bạc tan tác, quân bài, tiền bạc rơi vãi tứ tung. Con bạc ôm đầu đạp lên nhau chạy thục mạng.

Phải mất nhiều ngày, chúng mới khôi phục lại được sòng bạc Đại thế giới nhưng số người đến không còn đông nữa.

Đánh hội chợ phiên Bờ-rô, anh em ta sử dụng loại lựu đạn tiếng nổ rất lớn và đanh nhưng hình thù lại rất nhỏ gọn. Vì thế mặc dù địch bảo vệ rất chặt chẽ mà các chiến sĩ vẫn lọt được vào khu vực chợ phiên hoạt động. Chợ phiên thưa dần người, chẳng mấy ai muốn đến nữa.

Đúng là xuất phát từ những căn cứ lòng dân chiến sĩ du kích có mặt ở khắp nơi nên anh em đã lập được những kỳ tích như vậy.

Sau khi chuyển các chi đội Giải phóng quân thành các trung đoàn Vệ quốc đoàn, đồng chí Nguyễn Bình và các đồng chí lãnh đạo chỉ huy Chiến khu 7 thấy cần phải ra một tờ báo riêng của lực lượng vũ trang, liền mời giáo sư Phạm Thiều đến bàn. Trước đây giáo sư Phạm Thiều chuyên dạy Việt văn và Hán văn ở trường Pê-truýtx Ký. Đồng chí Nguyễn Bình đâ cho người vào thành mua sắm đầy đủ mọi thứ cần thiết cho việc in ấn. Tờ báo được đặt tên là Vệ quốc, cơ quan ngôn luận của Vệ quốc đoàn Chiến khu 7. Trên măng-sét lại có thêm hai câu thơ:

Vệ quốc tinh thần cao vạn trượng
Chí Minh đại đức chiếu ngàn năm.


Tiêu đề: Chuyện kể về Trung tướng Nguyễn Bình - Thiếu tướng Bùi Sinh
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Bảy, 2020, 07:42:31 am
Giáo sư Phạm Thiều rất phấn khởi khi được Khu trưởng Nguyễn Bình tín nhiệm giao cho làm chủ bút tờ Vệ quốc. Sống với Khu trưởng Nguyễn Bình thời gian chưa dài nhưng ông đã nhận thấy ở người chỉ huy quân sự này có tấm lòng trân trọng trí thức. Trường hợp đối với kỹ sư Lê Tâm càng rõ ràng thêm.

Theo dõi một số trận đánh trong nội thành có những tình huống các chiến sĩ ta bị hy sinh hoặc bị bắt thường là do vũ khí có sự cố, khi thì đạn kẹt, khi lựu đạn không nổ, đồng chí Nguyễn Bình quyết định phải củng cố các công binh xưởng. Song làm sao có được người đủ trình độ để lo toan việc này. May sao, cuối tháng 12-1946, người của mình từ trong thành ra đưa tới văn phòng Khu trưởng Nguyễn Bình một kỹ sư. Đó là anh Nguyễn Hy Hiền, hai mươi lăm tuổi vừa tốt nghiệp kỹ sư cầu đường ở bên Pháp. Hưởng ứng lời kêu gọi của Bác Hồ khi Người sang Pháp họp, Bác mong các nhà trí thức Việt Nam về nước xây dựng Tổ quốc, Nguyễn Hy Hiền hăng hái thu xếp trở về. Nhưng mãi một tháng sau chuyến về nước của kỹ sư Trần Đại Nghĩa cùng với Bác Hồ, kỹ sư Nguyễn Hy Hiền mới về tới cảng Sài Gòn, khi kháng chiến toàn quốc đã nổ ra được ba ngày. Chính bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng đã đón và tìm cách đưa kỹ sư Hiền ra căn cứ kháng chiến và kỹ sư Hiền được đổi tên là Lê Tâm.

Đồng chí Nguyên Bình phấn khởi nói:

 - Rất mừng là anh đã về nước và đã ra bưng được an toàn. Anh về rất đúng lúc.

- Tôi là kỹ sư cầu đường...

- Tôi biết! - Đồng chí Nguyễn Bình ngắt lời - Với kiến thức của một kỹ sư cầu đường, anh hoàn toàn có thể đóng góp trí tuệ và công sức cho công cuộc kháng chiến, không chỉ về mặt cầu đường mà còn cả về kỹ thuật sản xuất vũ khí đánh dịch trên đường giao thông, từ đó rút kinh nghiệm sản xuất các thứ vũ khí khác. Trước hết đang rất cần vũ khí phá hoại bằng chất nổ.

Đồng chí Nguyễn Bình đã cử người vào trong thành bí mật mua các loại sách có liên quan đến kỹ thuật sản xuất vũ khí và chất nổ, đồng thời dành khá nhiều kinh phí cho công việc này. Lê Tâm say mê đọc, nghiên cứu, thử nghiệm, dốc lòng với công việc. Mặc dầu chất nổ là một ngành anh không chuyên nhưng cuối cùng anh đã không phụ lòng tin cậy của Khu trưởng Nguyễn Bình, đã giúp các công binh xưởng sản xuất được những loại vũ khí đánh địch trên đường giao thông và phá hoại các công sở kho tàng của địch rất hiệu quả. Có lần anh xin được trực tiếp đánh cây cầu chiến lược trên đường số 4 từ Sài Gòn về lục tỉnh để bảo đảm kỹ thuật đã đánh là trúng. Đồng chí Nguyễn Bình thân mật vỗ vai:

- Không được đâu. Tôi không bao giờ chấp nhận một sự liều lĩnh như vậy. Anh em biệt động đặc công đã khó kiếm, một kỹ sư như anh làm ra vũ khí để anh em biệt động đặc công đánh địch còn khó kiếm hơn. Không thể để anh trực tiếp đi đánh được đâu. Anh cứ hướng dẫn một cách chi tiết cho anh em, nhất định họ sẽ chiến thắng.

Biết chọn người và giao việc rồi động viên khích lệ, nhất là đối với anh em trí thức, luôn luôn tin cậy, quỷ trọng họ, đồng chí Nguyễn Bình đã giúp cho nhiều cán bộ dưới quyền trưởng thành rất nhanh chóng. Được giáo sư Phạm Thiều giới thiệu cậu sinh viên năm thứ tư Trường y Sài Gòn đi theo kháng chiến, quê Thanh Hóa tên là Võ Cương, đồng chí Nguyễn Bình giao luôn cho anh làm giám đốc quân y viện Khu. Võ Cương đã hoàn thành nhiệm vụ rất xuất sắc, vừa mở các lớp đào tạo y tá cấp tốc, vừa lo cứu chữa thương bệnh binh.

Hồi đó, sau trận càn lớn có đủ hải lục không quân của địch vào khu căn cứ, đơn vị quân y phải di chuyển gấp nên lâm phải tình trạng thiếu đói, đến khoai cũng không có mà ăn. Ngó trước trông sau, anh em không tìm thấy một thứ gì ngoài con ngựa của Khu trưởng Nguyễn Bình. Đây là ngựa đua, được đặt tên là con Xích Thố, anh em dắt từ Hóc Môn về biếu Khu trưởng. Có điều gay go là Khu trưởng Nguyễn Bình lại đang đi vắng mấy ngày rồi, không thể nào xin được ý kiến quyết định. Làm sao bây giờ? Không lẽ để anh em đói lả đến kiệt sức, nhất là các đồng chí thương binh. Chẳng lẽ một người như Khu trưởng Nguyễn Bình thấy hoàn cảnh này mà lại tiếc con ngựa? Giám đốc quân y khu nghĩ thế và quyết định cứ giết ngựa để cứu đói.

Hôm Khu trưởng về, đắn đo mãi Võ Cương mới báo cáo được cái việc mình đã làm mà không có ý kiến của Khu trưởng.

Đồng chí Nguyễn Bình trầm ngâm khẽ thở dài rồi nói:

- Mất con Xích Thố cũng tiếc. Nhưng nếu để bộ đội xảy ra chuyện gì vì đói thì còn đáng tiếc hơn nhiều. Đó mới là chuyện lớn. Con ngựa là chuyện nhỏ. Nếu cần cho việc lớn thì mười con Xích Thố cũng không thể tiếc.


Tiêu đề: Chuyện kể về Trung tướng Nguyễn Bình - Thiếu tướng Bùi Sinh
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Bảy, 2020, 07:45:28 am
*
*   *

Chuyện nhân nghĩa thì như thế, còn khi cần nghiêm khắc, Khu trưởng Nguyễn Bình đã quyết, khó ai lay chuyển. Đó là trường hợp cần phải xử tử Ba Nhỏ, một cán bộ của bộ đội Bình Xuyên.

Khu trưởng Nguyễn Bình đã nhận được rất nhiều đơn thư của nhân dân và các cơ quan dân chính Bà Rịa tố cáo về hành động thổ phỉ của Ba Nhỏ. Anh ta xuất xứ từ dân anh chị ở Xóm Củi, tụ tập các đàn em lại thành đơn vị chống giặc Pháp. Khi mặt trận Thị Nghè, Bà Chiểu bị vỡ, Ba Nhỏ rút quân ra Bà Rịa nhưng đi tới đâu cũng bắt chính quyền địa phương nộp thuế nuôi quân, đóng ở nhà nào có gái đẹp là cưỡng hiếp bằng được. Khi nghi một người nào là Việt gian, Ba Nhỏ không cần điều tra, trực tiếp chém đầu hoặc ra lệnh bắn bỏ.

Hiện đơn vị Ba Nhỏ thuộc liên chi đội 2-3 bộ đội Bình Xuyên. Trong công văn quyết định bắt xử Ba Nhỏ, Khu trưởng Nguyễn Bình viết: “Tôi được Trung ương cử vào Nam để thống nhất các lực lượng vũ trang và nêu cao kỷ luật quân đội cách mạng. Người thân của tôi mà phạm tội, nếu là tội đáng tử hình, chính tôi đây sẽ xử tội”.

Nhưng Mười Lực, chi đội trưởng vẫn ký tên đứng đầu đơn xin cho Ba Nhỏ. Đồng chí Nguyễn Bình phải cử chi đội trưởng liên chi đội 2-3 Dương Văn Dương là một thủ lĩnh có uy tín của Bình Xuyên, đi thuyết phục Mười Lực xóa tên trong đơn. Dương Văn Dương cho Mười Lực xem lại nội dung công văn bắt Ba Nhỏ rồi nói:

- Bộ đội cách mạng là của dân và vì dân mà chiến đấu. Quân với dân phải như cá với nước. Mình phải ở sao cho dân thương thì dân mới nuôi nấng giúp đỡ mình đánh Tây thắng lợi. Đằng này Ba Nhỏ coi dân không ra gì, tới đâu cướp bóc hãm hiếp tới đó. Khu trưởng và chúng tôi quyết định xử tử Ba Nhỏ để làm gương. Anh nên xóa tên trong đơn xin tha cho Ba Nhỏ trước khi tòa tuyên án kẻo mất uy tín.

Mười Lực nghe ra, đã xóa tên mình trong bản kiến nghị.

Khu trưởng Nguyễn Bình giao cho liên chi đội 2-3 thiết lập tòa án quân sự.

Việc bắt Ba Nhỏ cũng không phải dễ dàng. Trưởng ty công an Bà Rịa không dám nhận nhiệm vụ vì sợ Ba Nhỏ liều lĩnh sử dụng lực lượng chống lại. Khu trưởng Nguyễn Bình liền giao cho chi đội trưởng Hai Vĩnh cũng là một tay giang hồ hảo hán nhưng đúng mực, đi tay không đến dùng phong cách giang hồ để thu phục giang hồ.

Trước đó Ba Nhỏ đã biết có lệnh bắt mình do đồng chí Dương Bạch Mai, ủy viên thanh tra miền Đông ký. Vì thế khi Hai Vĩnh tay không đến gặp Ba Nhỏ cũng là khi Ba Nhỏ đang định tìm bắn đồng chí Dương Bạch Mai. Vừa nhìn thấy Hai Vĩnh, Ba Nhỏ hỏi ngay:

- Anh Hai đi đâu đấy? Đi bắt tôi phải không? Tôi làm gì mà ủy viên thanh tra miền Đông Dương Bạch Mai lại ký lệnh bắt tôi?

Căng đến như thế mà cuối cùng Hai Vĩnh đã thuyết phục được Ba Nhỏ về chịu trận trước tòa, sau khi Hai Vĩnh cho Ba Nhỏ biết quyết định bắt Ba Nhỏ chính là Khu trưởng Nguyễn Bình.

Thành phần tòa án quân sự hôm đó có ba người. Chủ tọa phiên tòa là Khu trưởng Nguyễn Bình cùng hai cán bộ liên chi đội Dương Văn Dương và Tám Mạnh.

Sau khi nghe chủ tọa phiên tòa đọc tội trạng và tuyên án tử hình, Ba Nhỏ thành tâm nhận tội:

- Cảm ơn anh Ba đã chỉ rõ những sai lầm của tôi. Tội tôi làm tôi chịu. Xin tòa cho tôi một ân huệ cuối cùng để tôi tự xử lấy.

Khu trưởng Nguyễn Bình gật đầu.

- Chiến sĩ cách mạng đã nhận tội, đồng chí sẽ được một cái chết xứng đáng. Tôi cho phép đồng chí dùng khẩu súng đã gây tội ác của đồng chí để tự xử.

Ba Nhỏ cầm khẩu súng quen thuộc rồi quay nhìn mọi người:

- Các bạn hãy lấy tôi làm gương.

Nói xong, Ba Nhỏ từ từ đưa súng vào bụng nhích dần lên ngực chỗ trái tim bóp cò. Tạch. Súng không nổ. Ba Nhỏ ném súng xuống đất nói:

- Anh Ba, anh cho tôi mượn cây súng của anh.

Khu trưởng Nguyễn Bình móc súng đưa người bảo vệ mang xuống cho Ba Nhỏ. Lần này Ba Nhỏ chĩa súng ngang vành tai bóp cò. Súng nổ. Ba Nhỏ gục xuống, tắt thở.

Đúng là những giây phút cả phiên tòa phải nín thở. Bởi lẽ làm sao có thể đoán được khẩu súng trong tay Ba Nhỏ sẽ chĩa vào ai. Người ta bình luận về vụ xử án này bằng một câu rất đắt rằng “Thật là anh hùng gặp hảo hán”.


Tiêu đề: Chuyện kể về Trung tướng Nguyễn Bình - Thiếu tướng Bùi Sinh
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Bảy, 2020, 07:46:46 am
Sau vụ xử tử Ba Nhỏ, tình hình kỷ luật khá lên rất nhiều. Qua đó đồng chí Nguyễn Bình còn nhận thấy đơn vị Bình Xuyên do liên chi đội trưởng Dương Văn Dương chỉ huy là hùng hậu nhất và có kỷ luật hơn cả. Phải liên kết chặt chẽ với Ba Dương để nắm Bình Xuyên. Muốn vậy cần phải nâng Ba Dương lên chức Khu phó.

Đồng chí Nguyễn Bình nghĩ và quyết thực hiện ngay. Đây là một quyết định quan trọng trong chủ trương đoàn kết và thống nhất các lực lượng vũ trang miền Đông làm chuyển hóa nhiều đơn vị Bình Xuyên thành những đơn vị Vệ quốc đoàn vững mạnh, cũng như nhiều cán bộ bộ đội Bình Xuyên trở thành những cán bộ trung kiên trong bộ đội Vệ quốc đoàn.

Nhưng không được bao lâu, Khu phó Dương Văn Dương hy sinh. Đồng chí Nguyễn Bình vô cùng thương tiếc, đã quyết định đổi tên con kênh La-gờ-răng chạy từ Vàm Cỏ Tây tới Gãy Cờ Đen là kênh Dương Văn Dương. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng gửi thư chia buồn cùng gia đình Khu phó Dương Văn Dương đã anh dũng hy sinh trên chiến trường Nam Bộ. Do đó anh em bộ đội Bình Xuyên vẫn giữ vững tinh thần.

Nhưng Lê Văn Viễn tức Bảy Viễn lại nảy sinh tham vọng muốn thâu tóm toàn bộ Bình Xuyên sau khi Khu phó Dương Văn Dương hy sinh. Liên chi đội 2-3 lập tức bầu Năm Hà thay chủ tướng để chặn trước tham vọng của Bảy Viễn và báo cáo lên khu, trong đó có xin ý kiến về việc mượn tiền của dân để nuôi quân. Khu trưởng Nguyễn Bình trả lời Công văn số 713KB như sau:

“Tổng hành dinh ngày 12 tháng 4 năm 1946.

Nguyễn Bình, Khu bộ trưởng khu thứ 7 nước Việt Nam.

Kính gửi đồng chí Dương Văn Hà, tư lệnh Vệ quốc đoàn Bình Xuyên.

Về việc đồng chí được cử thay đồng chí Dương, tôi rất tán thành. Mong đồng chí đừng phụ lòng mong mỏi ký thác của anh em chiến sĩ Bình Xuyên, của tôi, của đồng chí Dương Văn Dương đã quá cố, nhất là giữ tiếng tăm cho đồng chí Dương là người lỗi lạc, khác hẳn với đệ tam, đệ tứ sư đoàn chỉ lôi kéo bè phái. Có được như vậy mới thật xứng đáng với anh linh đồng chí Dương Văn Dương, người đã hy sinh oanh liệt cho Tổ quốc.

Ngoài ra, tôi không đồng ý việc mượn tiền dân. Bộ đội nên tăng gia sản xuất để dân được nhẹ phần đóng góp. Mặt khác, tôi không cho phép vợ con theo bộ đội, tránh tình trạng ô hợp như ở đệ tam, đệ tứ sư đoàn”.

Bảy Viễn thấy Năm Hà được Khu trưởng Nguyễn Bình tín nhiệm thay thế Ba Dương nắm Bình Xuyên tỏ ra buồn bực song vẫn không từ bỏ mộng tiếm quyền thâu tóm Bình Xuyên trở thành một lực lượng độc lập.

Qua một năm có nhiều biến động, giặc Pháp nống lấn dần ra, lực lượng Bình Xuyên chuyển gần hết về khu Rừng Sác trở thành như một liên khu quân sự Bình Xuyên. Đồng chí Nguyễn Bình nhận thấy vấn đề Bình Xuyên không chỉ là chuyện tranh giành quyền lực giữa nhóm này nhóm kia mà còn có ý nghĩa to lớn hơn. Nó là một lực lượng đặc biệt mà thực dân Pháp rất quan tâm. Trong khi phải tập trung quân cho chiến trường chính ở Bắc Việt Nam, chúng tìm mọi cách dựa vào các giáo phái chống cộng để bình định Nam Bộ. Với lực lượng Bình Xuyên, Pháp hiểu rõ muốn nắm được phải bắt đầu tấn công vào những con người như Bảy Viễn, giang hồ nhưng không hảo hán, sống trác táng, năm vợ rồi vẫn chưa thỏa mãn, cầm quân thì tồi, bị tấn công là cho quân rút lui liền nhưng lại tỏ vẻ gan dạ rút cuối cùng để được ba quân bái phục. Và sự thật, phòng nhì Pháp đã cho người luồn vào lực lượng Bình Xuyên thuộc quyền Bảy Viễn, chúng đã trở thành những kẻ thân cận của Bảy Viễn.

Khu trưởng Nguyễn Bình cho rằng sự kiện Bảy Viễn không còn là vấn đề cá nhàn ông ta mà đã trở thành chuyện đối phó với âm mưu của giặc Pháp đối với Bình Xuyên, đồng thời cũng là vấn đề chiến thuật, chiến lược giữa ta với Pháp ở miền Đông Nam Bô. Tuy vậy vai trò Bảy Viễn đối với các tay giang hồ vẫn hết sức quan trọng. Nếu tách được Bảy Viễn ra khỏi khu Rừng Sác thì phòng nhì Pháp khó bề thao túng.

Qua Ban công tác 145 đồng chí Nguyễn Bình nắm rất chắc tình hình Bảy Viễn đã bị phòng nhì Pháp điều khiển. Ban công tác 145 đã giúp đồng chí và lãnh đạo Khu 7 trước hết tìm hiểu thực lực các đơn vị vũ trang của ta về quân số, trang bị và nhất là về xu hướng chính trị của các cấp chỉ huy, đồng thời tiến hành thâm nhập các tổ chức phản động trong Sài Gòn - Chợ Lớn để tìm hiểu âm mưu của thực dân Pháp và bọn tay sai, tìm hiểu về lực lượng quân sự của địch, hoạt động của bọn mật vụ. Chương trình của Cút-xô nhằm thuyết phục và lôi kéo Bảo Đại theo Pháp, những hình ảnh Bảo Đại chơi bời tại Hồng Công; hình ảnh Nguyễn Tường Tam, Nguyễn Văn Sâm chụp chung với Bảo Đại; chương trình chống cộng của Vũ Kim Thành gửi Bảo Đại... đều được Ban công tác 145 thu lượm và chuyển về cho đồng chí Nguyễn Bình và lãnh đạo Khu 7. Việc Bảy Viễn ngoắc với phòng nhì Pháp là cách chơi trò nước đôi của ông ta, đồng chí Nguyễn Bình đã biết quá rõ. Cụ thể, hai tên Lại Văn Sang và Lại Hữu Tài được gọi là Tư Sang và Năm Tài là do tên đại úy phòng nhì Pháp Sa-va-ni tìm cách luồn vào để lái Bảy Viễn hành động có lợi cho chúng. Tư Sang và Năm Tài đã trở thành “cận thần” của Bảy Viễn, chúng nói gì Bảy Viễn cũng nghe.


Tiêu đề: Chuyện kể về Trung tướng Nguyễn Bình - Thiếu tướng Bùi Sinh
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Bảy, 2020, 07:47:55 am
Rõ ràng phải tách Bảy Viễn ra khỏi phòng nhì Pháp. Đồng chí Nguyễn Bình đã đề nghị, được Xứ ủy Nam Bộ chấp thuận phong cho Lê Văn Viễn tức Bảy Viễn chức khu phó Khu 7.

Bảy Viễn mở tiệc ăn mừng nhưng cuối cùng lại không về khu làm việc mà vẫn nấn ná tìm cách trụ ở Rừng Sác trực tiếp chỉ huy lực lượng Bình Xuyên, đồng thời không chịu chuyển các chi đội của Bình Xuyên thành các trung đoàn Vệ quốc đoàn.

Sau lần trực tiếp xuống Bà Rịa chỉ đạo bắt hai tên phản bội và lập tòa án quân sự tại Bà Rịa xử những tên lấy danh nghĩa Quốc vệ đội ức hiếp dân chúng, đồng thời chấn chỉnh bộ máy hành chính và quân sự của Bà Rịa, đồng chí Nguyễn Bình càng nắm rõ hơn hành vi của Bảy Viễn. Ông ta đã có một thỏa thuận ngầm kỳ quái là “Bình Xuyên sẽ án binh bất động trong khu Rừng Sác để đổi lấy sự tiếp tế quân nhu và vũ khí của Pháp”, có nghĩa là chúng âm mưu dùng vật chất cám dỗ để biến Rừng Sác từ một căn cứ kháng chiến thành một vùng đệm vô nghĩa, từ đó có thể biến hóa thành chiến khu của chúng cắm sâu trong vùng tự do. Đồng chí Nguyễn Bình còn biết được là Bảy Viễn đã ủy quyền cho Lại Hữu Tài tức Năm Tài (người của đại úy phòng nhì Sa-va-ni) vào Chợ Lớn dự các cuộc hội nghị nhằm kêu gọi các phần tử quốc gia trong hàng ngũ kháng chiến bỏ Việt Minh về thành ủng hộ chính phủ Bảo Đại. Vậy thì có cách nào kéo bằng được Bảy Viễn toàn tâm toàn ý với kháng chiến? Hay là phải bắt Bảy Viên ngay? Đã hoàn toàn có đủ bằng chứng về việc ông ta liên lạc với phòng nhì Pháp để bắt và xử tội. Làm như thế chưa phải là thượng sách, nhưng liệu có còn cách nào nữa không?

Khu phó Huỳnh Văn Nghệ góp ý kiến là nhân khi Khu trưởng Nguyễn Bình được phong trung tướng, lại được Trung ương giao trọng trách Ủy viên quân sự Nam Bộ và được cử làm phó chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ, nên đề nghị Trung ương đưa Bảy Viễn lên giữ chức khu trưởng Khu 7.

- Có thể! - Trung tướng Nguyễn Bình gật gù với Khu phó Huỳnh Văn Nghệ: - Đó là cách để Bảy Viễn phải rời Rừng Sác về khu bộ. Lên đây rồi thì phòng nhì Pháp không dễ gì thao túng. Nhưng nếu ông ta vẫn không từ bỏ âm mưu liên lạc với phòng nhì Pháp thì sao?

Số đông cho rằng khi cách mạng dùng người “thể tất nhân tình” đến như thế mà ông ta vẫn cam tâm theo địch thì đó là lỗi ở ông ta. Nhưng đồng chí Nguyễn Bình vẫn băn khoăn tuy không nói ra, rằng một khi đầu hàng Tây, nó thành trở ngại cho kháng chiến thì ai chịu trách nhiệm đây? Hậu họa này thật khôn lường.

Trung ương chấp nhận đề nghị cử Bảy Viễn lên giữ chức khu trưởng Khu 7. Bảy Viễn mừng lắm nhưng do hai tên phòng nhì xúi bẩy rằng đây là kế “diệu hổ ly sơn” nên chần chừ việc về khu để nhận lễ tấn phong. Đồng chí Nguyễn Bình phải cử Khu phó Huỳnh Văn Nghệ về Rừng Sác thuyết phục.

Khu phó Huỳnh Văn Nghệ đến tổng hành dinh của Bảy Viễn như một người bạn, nói rằng đến để cùng Bảy Viễn đi Nam Bộ nhận lễ tấn phong.

- Trung tướng Nguyễn Bình đã lập văn phòng ủy viên quân sự Nam Bộ của ông ta tại xã Nhơn Hòa Lập trên kinh Dương Văn Dương. Lễ bàn giao chức khu trưởng sẽ tổ chức tại đó. Làm long trọng lắm. Sẽ có đầy đủ các cấp lãnh đạo quân, dân, chánh Nam Bộ tới dự. Tôi đến đây bàn với anh Bảy để ta cùng đi cho có bạn.

Qua trò chuyện dài dài, ông Tám Nghệ thấy rõ là Bảy Viễn vẫn chưa muốn rời Rừng Sác, nhất là khi vào tiệc rượu nghe Bảy Viễn nói:

- Anh Tám cũng biết “giang sơn nào anh hùng nấy”.

Rồi khi rượu đã ngà ngà, Bảy Viễn bộc lộ với Tám Nghệ ý nghĩ sâu kín của mình:

- Nguyễn Bình có ý gì mà đề nghị Trung ương phong tôi làm khu trưởng? Có phải là hắn muốn “điệu hổ ly sơn” không?

- Anh Bảy! - Khu phó Huỳnh Văn Nghệ kêu lên: Anh nói gì kỳ vậy?

- Nguyễn Bình là người Bắc còn mình là người Nam. Ai cho nó cái quyền chỉ huy mình?

- Tới giờ này mà anh Bảy còn phân biệt Nam Bắc sao? Không nên! Không kể Nam hay Bắc, hễ có đức có tài là cách mạng trọng dụng.

- Nhưng Nguyễn Bình tài ở chỗ nào? Anh chỉ cho tôi coi?

- Nguyễn Bình có tài chứ! Một mình từ Bắc vào Nam, đương đầu với bao nhiêu thử thách, bao nhiêu hiểm nguy. Cái tài tuyệt trác thứ nhất là đã thống nhất được các lực lượng vũ trang về một mối và duy trì kỷ luật quân đội được nghiêm minh. Cái tài tuyệt trác thứ hai là kiên quyết đưa chiến tranh du kích vào nội thành Sài Gòn khiến cho giặc Pháp mất ăn mất ngủ với câu nói nổi tiếng “Đánh du kích trong vùng địch, chúng ta sẽ xuất phát từ căn cứ lòng dân. Rừng người che chở chúng ta còn tốt hơn rừng cây”. Kết quả chiến đấu trong nội thành thế nào hẳn anh Bảy đã được thông báo. Như vậy ta phải khách quan mà nhìn nhận Nguyễn Bình có tài...

Bảy Viễn chấp nhận về khu nhận lễ tấn phong khu trưởng nhưng lại mang theo hơn hai đại đội chọn lọc từ các chi đội đi theo với những khẩu súng máy cực mạnh vừa để biểu dương lực lượng vừa để đề phòng trúng kế “điệu hổ ly sơn”!


Tiêu đề: Chuyện kể về Trung tướng Nguyễn Bình - Thiếu tướng Bùi Sinh
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Bảy, 2020, 07:48:50 am
*
*   *

Trước ngày làm lễ bàn giao chức khu trưởng cho Bảy Viễn, Trung tướng Nguyễn Bình, nhân danh ủy viên quân sự Nam Bộ mời tất cả cán bộ các chi đội Bình Xuyên họp, trong đó có cả Mười Trí ở chi đội 4 đã trở thành trung đoàn trưởng Trung đoàn 304 vệ quốc đoàn.

Trung tướng Nguyễn Bình tuyên bố lý do nói rằng vì lâu nay có sự không ăn khớp giữa lãnh đạo khu và chỉ huy bộ đội Bình Xuyên nên trước khi rời Khu 7, muốn bàn bạc để chấm dứt tình trạng đó. Đồng chí Nguyễn Bình nói:

- Tôi muốn giao lại cho anh Bảy một gia tài sung túc, giao lại một gia đình vui vẻ trên dưới thuận hòa. Tôi không muốn giao lại cho anh Bảy một cái nợ nần, khó khăn. Trên thực tế, Khu 7 mà tôi giao cho anh là một khu có nhiều chiến công nhất, là đàn anh trong Nam Bộ. Nhưng tôi chỉ có một thắc mắc là vì sao anh Bảy và tôi lại có sự hiểu lầm và nhiều mâu thuẫn. Giặc Pháp rất muốn lợi dụng triệt để sự hiểu lầm và mâu thuẫn đó để gây chia rẽ. Vì thế mà chủ trương chính quy hóa quân đội, Khu 8, Khu 9 đã làm xong mà khu ta còn vài chi đội Bình Xuyên vẫn chưa được tổ chức thành các trung đoàn Vệ quốc đoàn. Nhân dịp anh Bảy về Nam Bộ dự lễ tấn phong khu trưởng, lại có đông đủ các đồng chí cũng về, tôi muốn chúng ta cố gắng đánh tan những điều nghi kỵ đáng tiếc giữa chúng ta.

Đã nhiều lần trong ba năm qua, tôi mời các anh tới gặp tôi nhưng lần nào cũng không thành. Bởi vì có những kẻ xúc xiểm tung tin “một đi không trở về”. Sự thật thì anh Năm Hà, tư lệnh liên chi đội 2 - 3 về Nam Bộ họp rồi vẫn trở về bình yên vô sự. Nhở thế sau đó mới có nhiều anh em đã tới gặp tôi để bàn bạc công việc. Chỉ trừ một mình anh Bảy thì may mắn lần này anh đã về để nhận lễ thụ phong khu trưởng. Thật đáng mừng.

Vừa rồi ta bắt được một tên bí mật vô Rừng Sác chủ tâm lôi kéo các vị chỉ huy Bình Xuyên về thành dưới chánh phủ của thủ tướng Nguyễn Văn Xuân, trước hết bày mưu lập chiến khu quốc gia giả hiệu mà bên công an, anh em gọi là “chiến khu ma”. Tại sao bọn thực dân Pháp nhằm vào Bình Xuyên? Chính là bởi những chỗ còn mâu thuẫn và chưa thống nhất. Vì thế để bảo đảm an toàn cho bộ đội Bình Xuyên, cần phải chống lại âm mưu mua chuộc Bình Xuyên, chia rẽ bộ đội Bình Xuyên, tôi đề nghị bỏ hẳn danh từ Bình Xuyên. Anh em ta sẽ mang một cái tên chung là Vệ quốc đoàn. Từ nay chỉ có một chánh phủ, một quân đội. Không thể có một chánh phủ trong chánh phủ. Khu Rừng Sác được tổ chức lại như một thành trì kháng chiến. Việc thu thuế thủy lâm giao lại cho ngành thuế vụ bên hành chánh cho đúng với luật lệ Nhà nước đã ban hành.

Tôi xin nhấn mạnh lại một điểm là bạc triệu tiền muôn cũng dễ kiếm, nhưng danh dự anh hùng các anh đang có rất quý, vì danh dự đó không thể mua bằng tiền hay bằng vàng, vì danh dự đó được tạo ra bằng tấm lòng yêu nước, yêu dân, vì đại nghĩa mà hy sinh tất cả mọi thứ trên đời. Nếu các anh giữ vững được danh dự cao quý đó thì Nguyễn Bình này cũng được thơm lây vì đã tin yêu đúng những con người rất đáng được tin yêu.


Tiêu đề: Chuyện kể về Trung tướng Nguyễn Bình - Thiếu tướng Bùi Sinh
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Bảy, 2020, 07:50:49 am
*
*   *

Sau khi nhận lễ tấn phong chức khu trưởng, Bảy Viễn được mời đi xem triển lãm tranh của họa sĩ Diệp Minh Châu. Ông ta hơi chột dạ nhớ lại bài diễn văn do ông Chủ tịch Phạm Văn Bạch đọc trong lễ tấn phong có câu: “Cuộc đại tấn công của quân Pháp vô Đồng Tháp Mười vừa qua, bọn thực dân có ý đồ đánh vào đầu não kháng chiến, dọn đường đưa Bảo Đại về nước. Chúng đã bỏ tiền mua chuộc các tên buôn thần bán thánh lôi kéo các giáo phái chống lại chúng ta”. Phải chăng đúng như phán đoán của hai thằng Tư Sang và Năm Tài nói về khu là trúng kế “điệu hổ ly sơn” mà câu nói bóng gió trên là cách dọn đường để chờ thời cơ bắt hổ? Nhưng mình đâu sợ. Bảy Viễn tự trấn an. Ta đã mang theo một liên quân mạnh thì ta cũng thừa sức để tự vệ khi cần. Trung đội mạnh chọn từ chi đội 9 trung thành nhất của ta giao cho Tư Sang chỉ huy. Hai đại đội chọn từ hai chi đội 21 và 24 có cả súng máy 13,2 ly và 12,7 ly. Hiện lực lượng này đang hạ trại ở xóm Nhà Thờ thuộc ấp trên của xã Nhơn Hòa Lập không xa ấp dưới này là mấy.

Bảy Viễn đang vừa lơ đãng xem tranh vừa suy nghĩ thì Trung tướng Nguyễn Bình tới bên:

- Tôi muốn nói chuyện riêng với anh Bảy về vài vấn đề. Nói tại đây có tiện không?

- Tiện chớ. Vấn đề gì đó?

Trung tướng Nguyễn Bình khoanh tay trước ngực nhìn thẳng vào Bảy Viễn:

- Chúng tôi được tin bọn phòng nhì đã chui vào hàng ngũ của anh. Chúng lại được anh trọng dụng.

Bảy Viễn ra vẻ ngơ ngác:

- Chúng là ai vậy?

- Anh thật tình không biết? Chúng là hai anh em Lại Văn Sang và Lại Hữu Tài. Tôi muốn anh giao hai đứa cho chúng tôi. Đây là cách bảo vệ cho chính anh.

- Anh có bằng chứng không?

Trung tướng Nguyễn Bình gật đầu:

- Không khi nào quyết định một việc như thế lại không có bằng chứng. Tình báo của khu và cả bên công an cùng tiến hành điều tra, không khi nào sai lầm. Lại Hữu Tài rất nhiều lần tiếp xúc với các tổ chức của địch trên thành phố, đặc biệt là với đại úy phòng nhì Sa-va-ni. Nếu tôi trưng đầy đủ bằng chứng, anh có giao không?

- Tôi phải xem các bằng chứng đã - Bảy Viễn kiếm cớ hoãn binh: - Còn vấn đề gì nữa?

- Việc thu thuế của bộ đội Bình Xuyên. Các trung đoàn Vệ quốc đoàn ở các tỉnh đều chăm lo sản xuất để dân chúng nhẹ gánh đóng góp nuôi quân. Đó là con đường nên theo. Bộ đội cách mạng mà đi thu thuế sòng bạc với nhà chứa thì mất hết danh dự. Nhưng vấn đề đó để tính sau. Cần giải quyết những tên phòng nhì Pháp trong hàng ngũ Bình Xuyên. Bao giờ anh có thể giao chúng cho tôi?

Bảy Viễn lúng túng:

- Tôi phải xem các bằng chứng trước đã chớ!

- Được! - Trung tướng Nguyễn Bình khoát tay: Ta xem tranh.

Hôm ấy trở về nơi đóng quân, Bảy Viễn lo lắng bàn bạc ngay với Lại Hữu Tài và Lại Văn Sang nội dung vấn đề Trung tướng Nguyễn Bình yêu cầu. Năm Tài liền đưa ra kế sách là phải tính trước nước cờ cần đi, tức là phải rút vô thành ngay. Rằng người Pháp và thủ tướng Nguyễn Văn Xuân luôn luôn giang tay tiếp đón các phần tử quốc gia trong hàng ngũ kháng chiến trở về với chính phủ Bảo Đại. Bảy Viễn cho rằng theo kháng chiến mới mở mày mở mặt. Đối với thằng Tây, mình chỉ là thằng ăn cướp. Nhưng bọn phòng nhì xúm lại thuyết lý rằng thời thế thay đổi rồi, nay nước nhà đã độc lập do tài tranh đấu của cựu hoàng Bảo Đại, những người tài ba như ông Bảy về sẽ được trọng dụng. Đại úy Sa-va-ni tuyên bố sẵn sàng đón tiếp bộ đội Bình Xuyên bất cứ lúc nào và sẽ giành riêng một khu vực cho Bình Xuyên đóng quân, lính Pháp không có quyền xen vào. Năm Tài sẽ vào thành trước gặp Sa-va-ni chuẩn bị việc đón tiếp (!).

Thế là Bảy Viễn vừa nhận chức khu trưởng Khu 7, chưa làm việc ở cương vị khu trưởng được ngày nào đã nghe theo bọn phòng nhì đem quân vô thành đầu hàng. Bảy Viễn chỉ buồn vì mình đường đường là thủ lĩnh Bình Xuyên mà khi về thành chỉ mang theo được có hơn hai đại đội thì lơ láo quá. Bọn tay chân phòng nhì bâu lại lên dây cót tinh thần là về Phú Lâm sẽ tuyển thêm bao nhiêu tiểu đoàn cũng có. Nhưng cuối cùng thì cả hai đại đội hộ tống đều bỏ Bảy Viễn ở lại với kháng chiến. Bảy Viễn chỉ còn đem theo được có hai tiểu đội.

Đồng chí Nguyễn Bình biết tin, có ý định cho bộ đội đuổi theo cản lại, nếu chống cự thì tiêu diệt. Nhưng sau khi trao đổi ý kiến trong lãnh đạo, đồng chí liền giao cho Mười Trí(1) cũng là tay giang hồ hảo hán của bộ đội Binh Xuyên trước kia, cùng bạn tù với Bảy Viễn bị Pháp bắt, đày ra Côn Đảo, cùng tổ chức vượt ngục về đất liền... đuổi theo thuyết phục Bảy Viễn quay về. Mười Trí đã đi theo Bảy Viễn đến tận đường số 4 nơi cửa ngõ vào Sài Gòn, thuyết phục mọi điều phải trái, nói hết nước hết cái rằng cách mạng đã nâng chúng ta lên thành những người có nhân phẩm, ta nỡ lòng nào... Nhưng Bảy Viễn vẫn không chịu nghe.

Bảy Viễn vào đầu hàng giặc, chiếm khu Chánh Hưng làm sào huyệt, đóng đồn lập bốt dày đặc, rải chi điểm khắp nơi lùng bắt cán bộ kháng chiến. Y lại được giặc phong cho là đại tá rồi thiếu tướng giữ chức thống lĩnh lực lượng cảnh sát quốc gia. Đến năm 1953, lực lượng Bình Xuyên của Bảy Viễn lên tới hơn một vạn quân chưa kể bọn lính kín. Theo lệnh quan thầy, y giao cho con trai đem quân đi án ngữ con đường 15 từ Sài Gòn qua Bà Rịa - Vũng Tàu ngăn chặn du kích Việt Minh bảo đảm cho tàu quốc tế vào cảng Vũng Tàu an toàn.

Cuối đời, Bảy Viễn bị Mỹ - Diệm đánh cho tan tác phải cầu cứu quan thầy giúp, chạy trốn sang Pháp rồi chết ở ngoại ô Pa-ri một cách sầu thảm.


(1) Sau này là đại tá Quân đội nhân dân Việt Nam.


Tiêu đề: Chuyện kể về Trung tướng Nguyễn Bình - Thiếu tướng Bùi Sinh
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Bảy, 2020, 07:53:31 am
*
*   *

Cuối năm 1951, Trung tướng Nguyễn Bình nhận điện của Trung ương chuyển ra Bắc công tác. Nhớ lại những năm sau khi nhận chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào Nam Bộ lo toan công việc cầm quân đánh giặc, Trung tướng Nguyễn Bình cảm thấy mình không phụ lòng tin cậy ủy thác của lãnh tụ, của Trung ương.

Đúng vào thời gian Trung tướng Nguyễn Bình sửa soạn lên đường ra Bắc thì đồng chí lại nhận được tin về chiến công của một chiến sĩ biệt động thành về Sa Đéc diệt tên thủ hiến Nam phần Thái Lập Thành và tướng Xăng-xông, ủy viên cộng hòa Pháp. Chiến sĩ đó tên là Hùng. Anh mặc sắc phục Cao đài, mở chốt hai trái lựu đạn OF thọc vào hai túi quần ung dung đi tới khán đài danh dự. Cách tướng Xăng-xông ba mét, Hùng đưa tay lên chào kiểu nhà binh, tức thì lựu đạn nổ. Tướng Xăng-xông chết trên đường chở về Sài Gòn, Thái Lập Thành chết tại chỗ.

Trung tướng Nguyễn Bình vô cùng xúc động thấy chiến công trên chẳng khác nào món quà vô giá anh em trong nội thành tiễn đưa mình ra Trung ương. Tên ủy viên cộng hòa Pháp thứ nhất Han-xơ Im-phen đã bị anh thợ hớt tóc Võ Hồng Tâm diệt năm 1947. Năm 1951 đến tên thứ hai phải nộp mạng. Chiến công nối tiếp chiến công! Trung tướng Nguyễn Bình thấy yên lòng về những quyết sách mình đã cùng tập thể lãnh đạo thực hiện, nay ra Bắc nếu không trở lại nữa cũng không còn gì phải ân hận.

Có thể có người còn muốn bàn về trường hợp Bảy Viễn. Tôi cho rằng không thể lấy hiện tượng Bảy Viễn, một tay giang hồ giảo hoạt và cơ hội để đánh giá bản lĩnh chinh phục nhân tâm của người cầm lái. Dương Văn Dương, Mười Trí, Tám Mạnh, Ba Vĩnh... có như thế đâu. Nhưng con người và tâm địa Bảy Viễn thì như thế. Chỉ tiếc rằng Trung tướng Nguyễn Bình đã không thực hiện được ý định trừ hậu họa cho kháng chiến.

Như vậy là trong những năm đầu kháng chiến ở Nam Bộ, Trung tướng Nguyễn Bình với kinh nghiệm tích lũy được ra báo cáo với Trung ương, chắc chắn đồng chí sẽ còn đóng góp thêm nhiều nữa tài năng và trí lực của mình cho sự nghiệp giải phóng đất nước.

Tiếc thay, trên đường ra Bắc, Trung tướng đã bị địch phục kích giữa vùng ngã ba biên giới. Tôi không thể nói hết được nỗi lòng mình đau xót ra sao khi viết đến đoạn này. Tôi tự an ủi mình bằng cách đọc đi đọc lại bản Sắc lệnh 84, ngày 29 tháng 8 năm 1952 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký truy tặng huân chương Quân công hạng nhất cho Trung tướng Nguyễn Bình và xin được chép nguyên văn nội dung ra đây để kết thúc Chuyện kể Trung tướng Nguyễn Bình:

“Điều một.

Truy tặng Trung tướng Nguyễn Bình, Tư lệnh chỉ huy Quân đội Quốc gia và Dân quân Nam Bộ huân chương Quân công hạng nhất.

Thành tích công tác:

Hoạt động cách mạng từ năm 16 tuổi.

Suốt thời gian trước Tổng khởi nghĩa, tham gia đánh Nhật, đuổi Pháp, có công nhiều trong phong trào tranh đấu và khởi nghĩa ở các tỉnh thành miền duyên hải Bắc Bộ.

- Tổ chức đánh tàu Com-măng-đăng Buốc-đe, thu vũ khí, xây dựng bộ đội chiến khu thứ tư.

- Tháng 8 năm 1945, được lệnh Tổng khởi nghĩa, dẫn bộ đội chiếm Hải Phòng, Kiến An, Đồ Sơn, chống quân Pháp đổ bộ, đánh chiếm tàu chiến và tàu vận tải của địch.

Được lệnh vào Nam Bộ, trong khi bộ đội ở đô thị còn một số ít trang bị, hàng vạn quân giặc bao vây chặt chẽ, ông đã kiên quyết, sáng suốt xây dựng bộ đội lớn mạnh và chỉ huy chiến đấu đánh thắng quân địch nhiều trận lớn trên các chiến trường Nam Bộ. Ngoài ra ông đã góp phần lớn vào việc chỉnh đốn xây dựng ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ và củng cố Mặt trận dân tộc thống nhất Nam Bộ”(1).

Cũng xin viết thêm chi tiết đẹp đẽ và cao quý này: thành phố Hải Phòng và thị trấn Đông Triều thuộc tỉnh Quảng Ninh đều đã chọn hai con đường ở nơi khá đẹp và sầm uất để đặt tên đường Nguyễn Bình.

Anh Nguyễn Bình! Trung tướng Nguyễn Bình! Trong lòng chúng tôi, đồng chí không bao giờ chết!

BÙI SINH
(Tham gia biên soạn: Đại tá KHÁNH VÂN
                                                                                                                            
nguyên phóng viên báo Quân đội nhân dân)


(1) Tư liệu trưng bày tại Bảo tàng Cách mạng thành phố Hồ Chí Minh nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày Nam Bộ kháng chiến.