KẾT HỢP BAO VÂY TIẾN CÔNG TRẬN ĐỊA VỚI TẬP TRUNG HỎA LỰC "BA TRÊN MỘT"
QĐND - Thứ Bẩy, 12/05/2012, 16:16 (GMT+7)QĐND - Trong chiến dịch giải phóng Huế-Đà Nẵng mùa Xuân 1975, Sư đoàn 324 được giao nhiệm vụ tiến công địch trên hướng chủ yếu, theo dọc trục đường 14 từ La Sơn đến Mỏ Tàu, điểm cao 303 phía tây nam thành phố Huế. Địch ở đây có Sư đoàn 1 và Quân khu 1; ngoài các Trung đoàn 1, 2 và 54 (Sư đoàn 1) còn có Liên đoàn 15 biệt động quân, Trung đoàn 17 Thiết giáp và một số tiểu đoàn bảo an. Chúng bố trí thế trận phòng ngự theo kiểu “chốt kết hợp với kiềng”, có chiều sâu, hình thành 3 tuyến khá rõ nét; dựa vào các điểm cao để tạo nên từng cụm chiến đấu liên hoàn, hỗ trợ chi viện cho nhau khi bị tiến công. Trên các cứ điểm, chúng xây dựng hệ thống hầm hào, ụ súng, vật cản tương đối vững chắc. Trước tình hình địch như vậy, Sư đoàn 324 vận dụng chiến thuật “bao vây tiến công trận địa”. Tiến công tiêu diệt từng cứ điểm tiến tới tiêu diệt và làm chủ toàn bộ các cứ điểm trên tuyến phòng ngự từ Mỏ Tàu đến điểm cao 303. Sư đoàn sử dụng lực lượng là Trung đoàn 2 đảm nhiệm hướng chính với hai mục tiêu là Mỏ Tàu và cao điểm 303; Trung đoàn 1 tiến công trên hướng thứ yếu, đánh chiếm các cao điểm 74 và 76; Trung đoàn Pháo binh 78 triển khai trận địa trên các cao điểm 324, 383, 654 (khu vực Động Truồi) chi viện trực tiếp cho bộ binh…
Đúng 5 giờ 45 phút ngày 8-3-1975, toàn sư đoàn nổ súng chiến đấu. Các trận địa pháo của Trung đoàn 78 và Trung đoàn 164 đồng loạt bắn phá các điểm cao 303, 244, 74, 75, 76, Mỏ Tàu. Sau 20 phút cấp tập, pháo binh ta chuyển làn bắn sang các trận địa pháo binh của địch ở Mũi Lé, La Sơn, Ấp 5 chi viện cho bộ binh. Trên hướng thứ yếu, Trung đoàn 1 phát triển thuận lợi, Tiểu đoàn 1 và Tiểu đoàn 3 nhanh chóng đánh chiếm các điểm cao 75, 76 và các điểm chốt của địch trên trục đường 14. Đến 10 giờ, địch cho 10 xe GMC chở Tiểu đoàn 61 bảo an từ La Sơn lên phản kích. Đến đồi Tăng (trên đường 14) thì lọt vào trận địa phục kích của ta, chiếc xe đi đầu bị mìn nổ tung, đội hình địch ùn lại. Đại đội 16 với 4 khẩu 12,7 mm tức thì bắn tiêu diệt hỗ trợ cho Đại đội 10 xung phong làm chủ trận địa. Quân địch phần lớn bị loại khỏi vòng chiến đấu, một số chạy trở lại La Sơn.
Trong khi đó trên hướng chủ yếu, Trung đoàn 2 gặp khó khăn. Do công tác trinh sát, nghiên cứu chiến trường không được tỉ mỉ, cụ thể và do sương mù dày đặc nên việc triển khai đội hình lúng túng, hiệp đồng không tốt, có bộ phận đi lạc đường, có mũi không vào đúng mục tiêu được phân công, mở cửa mở chậm nên bị địch dùng hỏa lực, công sự vững chắc chống trả quyết liệt và bịt cửa mở. Tiểu đoàn 6 do Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Văn Thời chỉ huy, đánh vào điểm cao 303 đã chiến đấu ngoan cường, đánh lui nhiều đợt phản kích của địch. Đến đợt xung phong thứ năm thì chiến sĩ trung liên hy sinh, Tiểu đoàn trưởng Thời trực tiếp ôm súng trung liên dẫn đầu đội hình tiến lên và đã hy sinh anh dũng. Đến 10 giờ, Tiểu đoàn 6 được lệnh tạm dừng tiến công. Trên hướng bên, Tiểu đoàn 5 đánh chiếm điểm cao 244 đã có phương án đánh tạt sườn sang chi viện cho Tiểu đoàn 6 trên điểm cao 303, nhưng quân ngụy lại tổ chức phản kích ngay, khiến Tiểu đoàn 5 không thực hiện được. Để bảo đảm cho đợt tiến công chắc thắng, Trung đoàn 2 phải tổ chức trinh sát lại địa hình, phân tích kỹ tình hình địch, đắp sa bàn thảo luận, triệu tập hội nghị đảng ủy và hội nghị quân chính để rút kinh nghiệm và xác định quyết tâm, bàn kỹ cách đánh. Trong đó, tập trung vào thay đổi cách dùng hỏa lực; đó là tập trung hỏa lực “ba trên một”. Một lô cốt, ụ súng của địch do ba loại hỏa khí của ta phụ trách; đó là hỏa lực đi cùng, hỏa lực cộng đồng mang vác và tuyến hỏa lực bắn thẳng bằng cơ giới, hạ nòng các loại pháo 37mm, 23mm, 4 nòng, 85mm để tham gia bắn thẳng trực tiếp vào các ổ đề kháng của địch. Về tổ chức hỏa lực cầu vồng, sử dụng các loại pháo, cối bắn chế áp 15 phút tiêu diệt quân địch trên mặt đất; sau đó cối 120mm với ngòi nổ chậm để khoan sâu vào trận địa, phá hoại công sự kiên cố của địch, pháo cơ giới ban đầu bắn chế áp trên tiền duyên tạo ra uy lực mạnh, sau đó bắn kiềm chế các trận địa pháo cối của địch tạo điều kiện cho bộ binh tiến lên. Vào lúc 16 giờ ngày 10-3, Trung đoàn 2 tiếp tục bước vào chiến đấu và nhanh chóng hoàn thành nhiệm vụ được giao. Sau một ngày đêm chiến đấu, Sư đoàn 324 đánh chiếm toàn bộ cụm quân địch ở bắc Động Truồi, La Sơn, giải phóng huyện Phú Lộc, chia cắt Quốc lộ số 1A, cô lập Huế với Đà Nẵng, tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị bạn và nhân dân tiến công, nổi dậy giải phóng Thừa Thiên-Huế.
Kết hợp chiến thuật bao vây tiến công trận địa với cách dùng hỏa lực tập trung “ba trên một”, Trung đoàn 2 nhanh chóng áp đảo đối phương, uy hiếp trực tiếp tinh thần và làm tan rã sức mạnh phản kích của quân địch. Sự kết hợp này còn tạo thuận lợi cho bộ binh tổ chức xung phong làm chủ trận địa và là bài học kinh Kết hợp bao vây tiến công trận địa với tập trung hỏa lực “ba trên một”
QĐND - Thứ Bẩy, 12/05/2012, 16:16 (GMT+7)
QĐND - Trong chiến dịch giải phóng Huế-Đà Nẵng mùa Xuân 1975, Sư đoàn 324 được giao nhiệm vụ tiến công địch trên hướng chủ yếu, theo dọc trục đường 14 từ La Sơn đến Mỏ Tàu, điểm cao 303 phía tây nam thành phố Huế. Địch ở đây có Sư đoàn 1 và Quân khu 1; ngoài các Trung đoàn 1, 2 và 54 (Sư đoàn 1) còn có Liên đoàn 15 biệt động quân, Trung đoàn 17 Thiết giáp và một số tiểu đoàn bảo an. Chúng bố trí thế trận phòng ngự theo kiểu “chốt kết hợp với kiềng”, có chiều sâu, hình thành 3 tuyến khá rõ nét; dựa vào các điểm cao để tạo nên từng cụm chiến đấu liên hoàn, hỗ trợ chi viện cho nhau khi bị tiến công. Trên các cứ điểm, chúng xây dựng hệ thống hầm hào, ụ súng, vật cản tương đối vững chắc. Trước tình hình địch như vậy, Sư đoàn 324 vận dụng chiến thuật “bao vây tiến công trận địa”. Tiến công tiêu diệt từng cứ điểm tiến tới tiêu diệt và làm chủ toàn bộ các cứ điểm trên tuyến phòng ngự từ Mỏ Tàu đến điểm cao 303. Sư đoàn sử dụng lực lượng là Trung đoàn 2 đảm nhiệm hướng chính với hai mục tiêu là Mỏ Tàu và cao điểm 303; Trung đoàn 1 tiến công trên hướng thứ yếu, đánh chiếm các cao điểm 74 và 76; Trung đoàn Pháo binh 78 triển khai trận địa trên các cao điểm 324, 383, 654 (khu vực Động Truồi) chi viện trực tiếp cho bộ binh…
Đúng 5 giờ 45 phút ngày 8-3-1975, toàn sư đoàn nổ súng chiến đấu. Các trận địa pháo của Trung đoàn 78 và Trung đoàn 164 đồng loạt bắn phá các điểm cao 303, 244, 74, 75, 76, Mỏ Tàu. Sau 20 phút cấp tập, pháo binh ta chuyển làn bắn sang các trận địa pháo binh của địch ở Mũi Lé, La Sơn, Ấp 5 chi viện cho bộ binh. Trên hướng thứ yếu, Trung đoàn 1 phát triển thuận lợi, Tiểu đoàn 1 và Tiểu đoàn 3 nhanh chóng đánh chiếm các điểm cao 75, 76 và các điểm chốt của địch trên trục đường 14. Đến 10 giờ, địch cho 10 xe GMC chở Tiểu đoàn 61 bảo an từ La Sơn lên phản kích. Đến đồi Tăng (trên đường 14) thì lọt vào trận địa phục kích của ta, chiếc xe đi đầu bị mìn nổ tung, đội hình địch ùn lại. Đại đội 16 với 4 khẩu 12,7 mm tức thì bắn tiêu diệt hỗ trợ cho Đại đội 10 xung phong làm chủ trận địa. Quân địch phần lớn bị loại khỏi vòng chiến đấu, một số chạy trở lại La Sơn.
Trong khi đó trên hướng chủ yếu, Trung đoàn 2 gặp khó khăn. Do công tác trinh sát, nghiên cứu chiến trường không được tỉ mỉ, cụ thể và do sương mù dày đặc nên việc triển khai đội hình lúng túng, hiệp đồng không tốt, có bộ phận đi lạc đường, có mũi không vào đúng mục tiêu được phân công, mở cửa mở chậm nên bị địch dùng hỏa lực, công sự vững chắc chống trả quyết liệt và bịt cửa mở. Tiểu đoàn 6 do Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Văn Thời chỉ huy, đánh vào điểm cao 303 đã chiến đấu ngoan cường, đánh lui nhiều đợt phản kích của địch. Đến đợt xung phong thứ năm thì chiến sĩ trung liên hy sinh, Tiểu đoàn trưởng Thời trực tiếp ôm súng trung liên dẫn đầu đội hình tiến lên và đã hy sinh anh dũng. Đến 10 giờ, Tiểu đoàn 6 được lệnh tạm dừng tiến công. Trên hướng bên, Tiểu đoàn 5 đánh chiếm điểm cao 244 đã có phương án đánh tạt sườn sang chi viện cho Tiểu đoàn 6 trên điểm cao 303, nhưng quân ngụy lại tổ chức phản kích ngay, khiến Tiểu đoàn 5 không thực hiện được.
Để bảo đảm cho đợt tiến công chắc thắng, Trung đoàn 2 phải tổ chức trinh sát lại địa hình, phân tích kỹ tình hình địch, đắp sa bàn thảo luận, triệu tập hội nghị đảng ủy và hội nghị quân chính để rút kinh nghiệm và xác định quyết tâm, bàn kỹ cách đánh. Trong đó, tập trung vào thay đổi cách dùng hỏa lực; đó là tập trung hỏa lực “ba trên một”. Một lô cốt, ụ súng của địch do ba loại hỏa khí của ta phụ trách; đó là hỏa lực đi cùng, hỏa lực cộng đồng mang vác và tuyến hỏa lực bắn thẳng bằng cơ giới, hạ nòng các loại pháo 37mm, 23mm, 4 nòng, 85mm để tham gia bắn thẳng trực tiếp vào các ổ đề kháng của địch. Về tổ chức hỏa lực cầu vồng, sử dụng các loại pháo, cối bắn chế áp 15 phút tiêu diệt quân địch trên mặt đất; sau đó cối 120mm với ngòi nổ chậm để khoan sâu vào trận địa, phá hoại công sự kiên cố của địch, pháo cơ giới ban đầu bắn chế áp trên tiền duyên tạo ra uy lực mạnh, sau đó bắn kiềm chế các trận địa pháo cối của địch tạo điều kiện cho bộ binh tiến lên. Vào lúc 16 giờ ngày 10-3, Trung đoàn 2 tiếp tục bước vào chiến đấu và nhanh chóng hoàn thành nhiệm vụ được giao. Sau một ngày đêm chiến đấu, Sư đoàn 324 đánh chiếm toàn bộ cụm quân địch ở bắc Động Truồi, La Sơn, giải phóng huyện Phú Lộc, chia cắt Quốc lộ số 1A, cô lập Huế với Đà Nẵng, tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị bạn và nhân dân tiến công, nổi dậy giải phóng Thừa Thiên-Huế.
Kết hợp chiến thuật bao vây tiến công trận địa với cách dùng hỏa lực tập trung “ba trên một”, Trung đoàn 2 nhanh chóng áp đảo đối phương, uy hiếp trực tiếp tinh thần và làm tan rã sức mạnh phản kích của quân địch. Sự kết hợp này còn tạo thuận lợi cho bộ binh tổ chức xung phong làm chủ trận địa và là bài học kinh nghiệm xương máu trong chiến tranh hiện đại ngày nay.
Tô Kiều Thẩm (Theo lời kể của Trung tướng, Anh hùng LLVTND Nguyễn Phúc Thanh, nguyên Phó chủ tịch Quốc hội, nguyên Chủ nhiệm Tổng cục hậu cần, BQP ; nguyên quyền Tham mưu trưởng Sư đoàn 324 trong chiến dịch Huế - Đà Nẵng 1975)). http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-VN/61/43/301/302/302/188289/Default.aspx