http://www.quansuvn.net/index.php?topic=1539.msg75241#msg75241http://www.quansuvn.net/index.php?topic=1539.msg75244#msg75244http://www.quansuvn.net/index.php?topic=1539.msg75248#msg75248M16 dùng thuốc nổ viên bi tròn !!.
Thuốc súng có cần mạnh không ?? thể tích và khối lượng thuốc súng chỉ chiếm phần nhỏ viên đạn, nên người ta không cần làm thuốc súng bằng loại thuốc nổ có năng lượng cao. Sắc mạnh của thuốc súng không phải ở tỷ lệ năng lượng / khối lượng, mà ở việc điều khiển phản ứng cháy.
Thuật phóng trong ưu việt là như thế nào ?? một thuật phóng trong tồi tệ điển hình là dùng thuốc nổ đen thời cổ, bột mịn, cháy quá nhanh. Trong khi đó thì đạn lại đi ngày càng nhanh trong nòng, thể tích khí thuốc tăng với tốc độ càng ngày càng nhanh. Thế là áp suất đột ngột tăng rất cao lúc đạn mới chuyển động và giảm rất nhanh sau đó, không thể nhồi quá nhiều thuốc nổ vì nó vỡ nòng. Nòng súng rất dầy vì áp suất tối đa cao, nhưng hiệu quả động năng đầu đạn lại thấp vì thời gian áp suất cao chỉ ngắn tũn. Không thể nhồi nhiều thuốc mà muốn tận dụng thuốc phải kéo dài nòng, kéo rất dài vì đoạn đầu nòng áp suất thấp. Thế là nòng vừa dầy vừa dài mà đạn vẫn yếu.
Thuật phóng tốt là thuật phóng có áp suất đồng đều, áp suất tối đa thấp nhưng duy trì áp suất lâu. Nó nằm trên trong 2 đồ thị dưới đây.
Thuốc súng có tốc độ cháy điều khiển được là loại thuốc có độ bền cơ học cao để không vỡ khi bắn. Phản ứng cháy của thuốc tỷ lệ thuận với diện tích mặt ngoài, muốn thuốc cháy đều thì làm diện tích này ít thay đổi. Rõ hơn, trong điều kiện bão hòa thường được dùng ở pháo nòng dài và súng trường, tốc độ cháy vào sâu viên thuốc là tương đối ổn định, tốc độ cháy theo thể tích tỷ lệ thuận với tổng diện tích mặt ngoài.
Thông thường, có hai loại hình dáng được sử dụng để điều khiển tốc độ cháy. Một là hình dẹt, chủ yếu tốc độ cháy đạt được do phản ứng cháy ăn ở hai mặt rộng, ít giảm diện tích. Hai là người ta cuốn viên thuốc dẹt thành hình trụ rỗng, có độ bền cơ học cao hơn và cháy ổn định hơn. Kiểu trụ rỗng thường được dùng cho pháo, chế tạo nó khó. Súng nhỏ và súng to nhưng rẻ-yếu như cối dùng thuốc dẹt.
Người ta có thể điều khiển tốc độ cháy viên cầu bằng thấm chất làm chậm, mặt viên cầu thấm khác, cháy chậm hơn lõi. Tuy nhiên, không cách thấm nào cho kết quả đồng đều, mà thuật phóng cần rất chính xác. Kể cả khi thấm đồng đều, thì tốc độ cháy viên thuốc cũng không tăng giảm theo đồ thị yêu cầu, mà nó giảm nhanh chóng tốc độ cháy, vì không loại chất thấm nào đủ mạnh để giảm cỡ vài chục phần trăm tốc độ cháy, trong khi diện tích mặt ngoài giảm nhanh tỷ lệ nghịch với bình phương bán kính.
Như vậy, mỗi loại đạn có một thiết kế thuốc riêng, ngoài công thức hóa học, thiết kế thuốc đạn còn bao gồm độ bền, hình dáng kích thước chính xác. NHư vậy, thuốc đạn có thể là TNT, nhưng không thể lấy tay nhồi TNT cho đạn được. Thuốc đạn tốt vì thế không phải tên là TNT mà là một chuỗi ký hiệu nhức đầu. Cũng vì vậy, các loại súng khác nhau phải được thiết kế thuốc đạn khác nhau. AK-47 dùng loại thuốc viên dẹt.
thuốc của pháo T-72, nó dùng chất liệu mà Pháp chê là yếu cuối TK19.
Thuốc nổ dẹt được sử dụng lần đầu ở Pháp bởi Paul Vieille dăng ký phát minh năm 1886, là tấm cán nitrocellulose, tên Poudre B, súng trường Lebel Model 1886. CHất này được làm ổn định và hóa keo thành Collodion, sau đó được làm dẻo trong hỗn hợp rượu ethanol và ether, rồi cán, sấy. Nó được thay thế thuốc nổ đen không phải vì có tấm dẹt hay là điều khiển tốc độ cháy, mà vì... không khói và mạnh. Phiên bản đạn ban đầu dùng tấm cuộn nhét trong vỏ đạn, sau đó các tấm cán mỏng được cắt nhỏ. Sau đó, phương Tây sử dụng các loại thuốc nổ dẻo cho phóng đạn. Như Ballistite của Nobel chứa 10% long não và phần còn lại là nitrocellulose trộn đều khối lượng với nitroglycerine năm 1887.
Sau này, Pháp cũng bỏ Poudre B mà sử dụng các thuốc nổ dẻo giống cordite. Nguyên nhân lớn nhất là thuốc không ổn định cả về mặt hóa học và cơ lý. CHưa có phương pháp làm sạch triệt để nitrocellulose và kiềm hóa, nó hút ẩm, bay hơi gốc nitro, bắt lửa không kiểm soát được. Tấm cán quá rộng và mỏng, lại có chiều dầy không ổn định, dễ dàng bị phá huỷ khi bắn trước khi cháy hết làm tốc độ cháy không ổn định... làm thuốc dù có mới cứng cũng cháy nhanh chậm tùy... số phận.
Người Anh đưa ra cordite 1889. Theo khối lượng có 58% nitroglycerine, 37% guncotton (nitrocellulose thô làm từ bông) và 5% vaseline (chất làm dẻo). Hốn hợp được hòa tan trong acetone rồi ép thành sợi như mỳ. Trước Thế chiến I có cài tiến cordite MK-I 65% guncotton , 30% nitroglycerine , 5% vaseline. Trong Thế chiến I có cải tiến Cordite RDB 52% collodion, 42% nitroglycerine , 6% vaseline , dễ sản xuất. Liểu nhồi tên lửa WWII là Cordite SC, được đúc thành liều lớn dường kính 3in và 5 in. Cordite N sau WWII dùng các nguyên liệu mạnh hơn nitroguanidine.
Điểm đáng nói ở đây là các cải tiến đó đi theo hướng gì ?? MK-I theo hướng ổn định hơn bằng cách giảm thành phần lỏng và dễ hút ẩm nitroglycerine, nhưng vẫn là thuốc nổ dẻo. Cordite RDB chỉ để dễ sản xuất và kém ổn định hơn cả thuốc nguyên thủy, lượng vaseline cao dễ đùn trong máy hơn, nhưng vaseline là một chất lỏng. Cordite SC chỉ là một nỗ lực thử dùng làm nhiên liệu tên lửa, không hiểu điều này đóng góp bao nhiêu cho việc Mỹ không có tên lửa nào ra hồn trong WW2. Cordite N là nỗ lực tăng năng lượng, ngày nay người Mỹ đánh giá điều đó làm chớp sáng đầu nòng lớn và chóng hỏng nòng do nhiệt độ cao. Càng nố lực tăng năng lượng, càng sai lầm, nhưng không có hướng đi nào khác vì không có phương pháp tính. Đáng chú ý ở đây cũng là sự độc quyền, khi cố kiết cải tiến Cordite N sau WWII. Nhiều loại thuốc súng tốt cũng là hỗn hợp nitroglycerine-nitrocellulose, nhưng bản chất cordite là thuốc nổ dẻo. Thuốc nổ tốt cố gắng trộn các phụ gia kiên cố, còn vaseline hoá dẻo của cordite ngược đời.
Người Pháp đã tiến rất gần thuốc nổ điều khiển phản ứng cháy, thuốc súng hiện đại, nhưng rồi lại bỏ nó. Poudre B lúc đó còn thiếu kỹ thuật làm ổn định nitrocellulose, nhưng nguyên nhân chính người Pháp bỏ là vì họ cũng như Anh Mỹ Ý sai lầm: đi tìm thuốc nổ dẻo, tỷ lệ năng lượng cao làm thuốc súng, họ đã tin vào điều đó mà không cố công khắc phục một chút xíu khoảng cánh đến thành công. Một sai lầm ngờ nghệch cỡ thế giới, họ cho rằng thuốc nổ dẻo, chất nitroglycerine mạnh làm thuốc nổ phá đá tốt thì làm thuốc súng cũng tốt ?? Người ta cho rằng cháy nhanh thì tốt ?? cháy mạnh thì tốt ?? cái này thì thuốc nổ đen cổ điển rõ ràng hơn điểm. Thuốc nổ đen cổ điển yếu năng lượng nhưng có thể nhồi nhiều, nhược điểm làm nó bị bỏ chỉ là nó làm bẩn súng và gây khói lộ hàng.
50 năm phát triển các thuốc nổ dẻo không đem lại gì hay hơn thuốc nổ đen cổ đại ngoài tính không khói. Ngày nay vẫn vậy, trong các sách báo viết về thuốc súng, người ta luôn tự hào các loại thuốc trên có năng lượng cao gấp mấy mấy lần thuốc nổ đen, luôn tự hào vì chúng không có khói. Không một ai nói rằng chúng làm bằng vật liệu dễ tạo hình và bền chắc cả, bất chấp lúc đó TNT và Collodion, những chất liệu nổ bền chắc, đã có từ lâu.
Trong thập niên 189x, các bài toán thuật phóng trong khá đúng đã được sử dụng ở Đức và đã được chấp nhận sử dụng. Người ta làm thuốc súng từ hai thành phần bị phương tây chê là yếu: TNT và nitrocellulose. nitrocellulose được hòa vào một dung môi kiềm, tính kiềm làm nó ổn định, sau đó được đúc ép sấy thành các viên thuốc có hình, gần giống như làm Collodion chỉ khác là chú ý làm ổn định hóa học bằng khử acide. TNT có ưu thế là dễ đúc mà bền chắc, TNT nguyên chất có nhiệt độ nóng chảy 80 độ C. Thập niên đầu Thế kỷ 20 thuốc súng có hình dã được thiết kế cho súng trường và pháo ở Đức, súng trường ở Nga. Trong thời điểm mà phương Tây đua nhau cải tiến thuốc nổ dẻo. Hai hướng phấn đấu cứng và dẻo còn tồn tại song song đến sau WWII, khi Đức vào phương Tây, người phương Tây mới biết họ đi ngược đường rất lâu rồi.
Thế nhưng người ta vẫn nỗ lực cải tiến cordite theo hướng cứng có hình ?? sao có vẻ giống nỗ lực làm lưỡi dao bằng xà phòng vậy ?? không hài lắm nếu biết rằng ở Mỹ các ông vua độc quyền khó đánh đổ như thế nào.
Hình dáng đầu đạn của thuật phóng ngoài có tâm khí động đi trước được phương Tây copy dễ dàng từ các nhà kỹ thuật Nga, Đức sau 1902. Đến 193x, Liên Xô và Đức tận dụng các tiến bộ công nghệ và toán học cải tiến lần nữa, lại gây một trào lưu copy đạn lần nữa. Nhưng việc copy hình dáng mà không biết bài toán đã làm súng phương Tây thua xa. Sau 193x, Liên Xô chế tạo được những máy tính dùng người, tức hàng trung đoàn người tính và thuật giải cho họ, vượt lên dẫn đầu. Đạn M-43 (1943) ra đời như vậy, chính là đạn AK-47 sau này. Hiller khùng từ khi lên ngôi không hợp cạ những nhà chế súng tiên tiến, để tụt hậu mặt này từ 1935. Năm 1942-1943 Đức cũng cho ra đời đạn mới, dùng cho STG-44 sau này, nhưng nó quá yếu trong khi súng quá nặng so với AK, cái này thì đã nói rồi.
Thuốc nổ có hình tạo nên những khẩu pháo nòng dài hết sức tiên tiến của Đức từ 190x. Bây giờ, thuốc cháy chậm và đồng đều, nhồi được nhiều, bắn mạnh. Trong WWII, chỉ bằng một loạt đạn, Bismark bắn chìm soái hạm Anh HMS Hood và làm bị thương nặng một số chiếc khác. Còn Richelieu Pháp, thuốc nổ dẻo làm nó rụng nòng ngay trong trận đầu tiên.
Người ta có thể thay đổi một số cordite để có thể có các tốc độ cháy thay đổi, nhưng không không chế được nhiều, không thể chấp nhận nó làm thuốc súng tốt được. Quan trọng hơn là thiếu bài toán, chỉ ước lượng rồi copy ngu ngốc, không thể đưa ra được thuật phóng ưu việt.
Krag-Jørgensen của Na Uy được Mỹ mua bản quyền thành M1892 bớt đi tính năng để làm rẻ súng và đạn trong điều kiện nước Mỹ lạc hậu kỹ thuật. Người ta đã nỗ lực rất nhiều nhưng đạn không thể mạnh được. Nhồi nhiều thì nòng bay đi như Richelieu. Sau trào lưu 1898-1902 ở Nga và Đức, Mỹ sử dụng Springfield M1903, phần súng chỉ là một bản sao không hoàn hảo của Mauser, đạn 1903 chỉ là đạn Krag-Jørgensen Mauser hóa hình dáng bề ngoài, những vẫn dùng đạn cổ hình trụ và tất nhiên là dùng thuốc Mỹ-Anh. Phiên bản cải tiến chỉ có năm 1906, sau được gọi là đạn 03-06, sử dụng đến mãi sau này. Một điển hình cho sự copy hình dáng và thiếu bài toán, M1 garand, M14 và các hậu duệ tiếp tục sử dụng thuốc nổ dẻo đến sau WWII, bất chấp nhiều lần Nga và Đức thay đổi lớn. Thật buồn cười, nước Mỹ có việc mua bán súng rất nảy nở, đương nhiên là các trang web rất nhiều, họ thường nói 03-06 có cùng lớp thuốc nổ với 7,62 x 54R của Mosin ?? đương nhiên là giống nhau về năng lượng, nhưng tốc độ cháy hoàn toàn khác nhau, vì cordite là thuốc nổ dẻo.
http://www.oldammo.com/february05.htmCHuyển sang kiểu đầu đạn có chóp đầu kéo dài đẩy trong tâm ra sau tâm khí động. (ký hiệu 03-06 dỏ đáy vỏ đạn).
Sau WWII, kỹ thuật quân sự của Đức rơi vãi, người ta nỗ lực cải tiến cordite để có tính năng như thuốc nổ rắn chắc đúc viên, nhưng bản chất nó vẫn là thuốc nổ dẻo, chỉ là một nố lực để ông vua độc quyền níu kéo ngai vàng. 03-06 ra nhập NATO, mà lúc này Tây Đức là đồng minh Mỹ, tất nhiên không thể chấp nhận thuốc nổ dẻo dùng bắn đạn súng trường. Thế nhưng các công ty Đức không nắm được công nghệ là thuốc đạn AK như Liên Xô, cũng không chuyển giao hết những cái mình có cho Mỹ, đặc biệt là phương pháp tính thuật phóng. Ngày nay, một sinh viên bình thường cũng lập được chương trình cho PC, nhưng ngày đó khác. Không có thuốc nổ dẹt viên rắn, NATO chấp nhận một phương án đắp điếm là dùng viên cầu thấm chất làm chậm, đó là thuốc nổ viên cầu đen bạn SSX đã nói, dùng cho 03-06 cải tiến và M16.
Một biểu hiện nữa của sự copy ngu ngốc thiếu tính toán. Mỗi loại đạn ở Liên Xô lúc đó được thiết kế riêng một loại thuốc nổ. Trong khi đó, một loại cordite chỉ cần thành phần hóa học, được dùng chung cho cả súng ngắn và đại bác. Đến thời điểm 196x, khi các kêu ca về đạn quá yếu xuất hiện, người ta dẹp các kêu ca bằng cách tương tự, dùng thuốc đạn cầu đen cho Armalite AR-15, M16.
Chưa nói đến đường đạn, cái chất làm chậm được thấm tháp cái gì đó, làm hạt thuốc còn lại rất nhiều (có lẽ, về nguyên tắc, không thể thấm đồng đều được nên tốc độ cháy của các viên đạn quá khác nhau và nhiều viên to tướng không cháy). Các súng khác máy thoáng ít ảnh hưởng, nhưng cô trinh nữ phòng khuyê M16 có máy khít khìn khịt và cái ống trích khí, thế là 40 năm nay nó tắc liên tục.
Về thuật phóng trong, nó gần với thuốc nổ đen mà người Trung Quốc dùng 1 ngàm năm trước đây, với áp suất tối đa cao gấp rưỡi M43 của AK và Mosin. Không cần bàn đến sự ưu việt hơn kém gì ở đây cả. So sánh cụ thể các con số này đã có ở đây và bên AK rồi.
Mọi sự còn dở người thêm nữa khi kỹ thuật của Đức và sự ngu tối Mỹ phải hợp tác với nhau lần nữa, đưa M16 vào NATO bằng phiên bản M16A2 198x. NGười Đức cần thuật phóng tốt nòng dài, Mỹ đòi tương thích, bắn được đạn cũ của họ, nòng dầy, thế là vừa dài vừa dầy. Khẩu súng vừa dài vừa nặng vừa yếu. Vả lại, ngu tối hơn nữa khi mà bắn đạn cũ rất ít tác dụng, ở 100 mét, hầu hết các viên đạn đã lộn nửa vòng và tản mát không thể chấp nhận được.
Thêm nữa, M16A2 lại càng cố định trục đạn hơn, quay về cuối TK19.
tiếp tục đoạn này ở đây:
http://www.quansuvn.net/index.php?topic=1539.msg76065#msg76065