Tomqb3
Thành viên
Bài viết: 302
|
|
« Trả lời #26 vào lúc: 16 Tháng Mười Hai, 2011, 12:22:55 pm » |
|
Cuộc hành quân lần thứ 2 vào Tây Nguyên
Mời bác Bob và các ccb đọc bài của một ccb trong đoàn :
Đúng 40 năm. Hôm nay, Trung tướng Khuất Duy Tiến đã ngoài tám mươi tuổi lại dẫn đầu những người lính sư đoàn 320A hành quân vào Tây Nguyên. Trời miền Bắc đầu đông, se lạnh. Đội hình hành quân náo nức, rộn ràng, mà sao vẫn rưng rưng vừa vui vừa buồn. Ngày 7/12/1971 khi rời Kỳ Anh, Hà Tĩnh cả sư đoàn 320 nườm nượp tuổi xuân tiến về phía bom đạn mang khí thế một đơn vị vừa đại thắng Đường 9 - Nam Lào. Còn hôm nay đội hình chỉ hơn một trăm người lính ngày ấy đầu bạc phơ, nhiều bước chân lập bập, giọng nói khẽ khàng. Lính “trẻ” tuổi sáu mươi dắt tay lính “già” tuổi bẩy tám mươi lên xe. Tiếng gọi đồng chí nay chỉ còn lõm bõm, cả đoàn quân gọi nhau bằng ông, bằng cụ. Nhưng với những người chỉ huy năm xưa họ vẫn một điều “thủ trưởng’’ hai điều “báo cáo thủ trưởng”. Chiến tranh lùi xa gần bốn mươi năm nhưng kỉ luật quân đội cách mạng đã ngấm vào máu những người chiến binh quả cảm năm nào, dù bây giờ họ là dân thường, quen với cuốc với cầy. Trung tướng Khuất Duy Tiến lại một lần trong đời -sau mấy chục năm- phát lệnh hành quân. Mắt ông ngân ngấn nước, ông nhìn những người lính đã từng cùng ông đi xuyên qua từ Quảng Trị -Mậu Thân, đến Tây Nguyên “mùa hè đỏ lửa”, qua chiến dịch HCM, cuốn như cơn lốc sang chiến tranh Biên giới Tây nam, lên biên giới phía Bắc. Trước mắt ông là những lão nông, những cán bộ nghỉ hưu ở nhiều tỉnh thành cơm nắm đồ đoàn về đây cùng ông hành quân quay lại chiến trường xưa. Nơi chúng tôi đến, là nơi một thời tiếng súng, tiếng bom và máu lửa. Bây giờ đó vẫn là nơi chúng tôi đi đến, mảnh đất chiến địa cũ năm xưa thế nào, chúng tôi chưa hình dung ra. Chúng tôi chỉ biết rằng ở đó có những đồng đội của mình đang chờ, những hương hồn chết trẻ đang nôn nao đón những người một thời đã cùng nhau chia đạn, sẻ bom cùng nhau bẻ miếng cơm ngấm nước mưa dưới chiến hào sặc mùi khói súng. Ở đó những căn hầm mục lá, những chiến hào, khe suối có bước chân trai trai trẻ của mình, ở đó là nơi chúng tôi để lại tuổi xuân, để lại một phần xương máu và từ nơi đó chúng tôi đã trưởng thành.
Thủ đô lùi lại phía sau, vùn vụt loang loáng những chung cư ngất cao xanh đỏ, những dòng người và xe cộ nhoang nhoáng hối hả, bình yên. Đoàn quân lặng im, bồi hồi. Chúng tôi đang đi tìm tuổi trẻ của chúng tôi, chúng tôi đang trở lại chính mình, chúng tôi đang tìm về nơi để soi mình vào đó để thấy mình có xứng đáng là mình nữa hay không, có xứng đáng với hương hồn đồng đội hi sinh ngày xưa ấy. Cái ngày xa đã bốn mươi năm. Trước lúc hành quân, trung tướng Khuất Duy Tiến dẫn đầu ban liên lạc bạn chiến đấu sư đoàn Đồng Bằng đến thắp hương cho người anh cả đại đoàn là cố Đại tướng Văn Tiến Dũng. Trung tướng lau nước mắt mà thưa: Báo cáo anh, hôm nay tôi đưa anh em cựu chiến binh của sư đoàn về thăm lại chiến trường Tây Nguyên, Quảng Trị, để thắp hương cho những đồng đội của sư đoàn… kính cáo anh… “Nhìn giọt nước mắt của người tướng già ngoài tám mươi tuổi chúng tôi xao xuyến nghẹn ngào. Kim chỉ có đầu, người Việt nam xưa nay vẫn thế. Chúng tôi bồi hồi, nhớ ngày xuất quân tròn bốn mươi năm trước. Khẩu hiệu “Đi sâu, đi lâu, đi đến ngày toàn thắng” mà ngày ấy mỗi chiến sĩ sư đoàn Đồng Bằng đều tự nhủ với lương tâm mình. Cuộc ra quân ngày ấy còn có sư đoàn trưởng Kim Tuấn. Bây giờ ông đã yên nghỉ trong Nghĩa trang Mai Dịch. Hôm nay, không có ba lô, không có súng đạn mà sao chúng tôi thấy đồ đạc nặng thế. Bó nhang mang đi để thắp cho đồng đội đã gánh nặng cả mấy chục năm trời. Nhành hoa mang từ Thủ đô, màu hoa chắt lọc, vắt kiệt mấy chục mùa nắng để bây giờ đồng đội mang tặng nhau. Rất nhiều người lính trong chuyến đi này mang theo mảnh giấy ghi tên tuổi, ngày hi sinh, hòm thư, đơn vị của bạn mình ngày xưa những mong tìm thấy nơi đồng đội mình còn an nghỉ đâu đó ở vùng đất cao nguyên ấy. Trích ngang của người lính chúng tôi cả khi sống và khi đã chết đơn sơ nhẹ nhàng như thế. Chỉ mảnh giấy có vài dòng chữ thôi là tuổi trẻ của chúng tôi được cách mạng biên chế vào cuộc kháng chiến thần kì của dân tộc. Chỉ vài dòng chữ viết tay là chúng tôi có thể hiến dâng cả tuổi xuân của mình. Sau khoảng thời gian lắng đọng xót xa chợt cả xe cất tiếng hát, lại hát những bài ca ra trận năm nào, chúng tôi hát trong nước mắt, trong tự hào, trong nỗi niềm hồi tưởng của đời người mà đâu phải ai cũng có. Xe lại qua đèo Ngang. Cái buổi sáng 7/12/1971 ấy, khi đoàn quân lên đèo ngồi trên xe chúng tôi ngoái nhìn lại phía sau, ngoái nhìn về miền Bắc mà tràn trề nỗi mong ngày trở lại. Tạm biệt những Kì Tân, Kì Tây, Kì Thượng… Tạm biệt miền Bắc thân yêu. Chúng tôi sẽ trở về, trở về trong chiến thắng. Hôm nay qua đèo Ngang lại bỗng nhớ Sư đoàn trưởng Kim Tuấn, người chỉ huy cuộc hành quân tháng 12 năm 1971, lại nhớ những thủ trưởng các trung đoàn dạn dầy trận mạc, nhớ hàng ngàn động đội ra đi hôm ấy không về. Bốn mươi năm qua họ không thêm một tuổi nào trên mảnh đất cao nguyên. Phải mất 4 năm sau, lác đác trong số những người ra đi từ Kỳ Anh hôm ấy mới trở về. Và trở về đâu phải là nguyên vẹn. Chúng tôi qua sông Gianh (có lẽ tác giả nhầm vì Cự Nẫm không nằm bên bờ Gianh - BBT). Con sông ngày ấy chúng tôi từng một lần vượt qua ở chót làng Cự Nẫm. Bao nhiêu người bạn không về để được một lần vục mặt xuống làn nước mát thấm ướt câu hò nữ thanh niên xung phong. Chúng tôi bồi hồi khi xe qua cầu Hiền Lương. Trong số chúng tôi ngồi đây hầu như mới qua Hiền Lương một lần. Một lần là của ngày trở về từ miền Nam sau giải phóng, cây cầu cũ kĩ ngày ấy phải mấy chục năm chiến đấu mới được đi qua. Bây giờ Hiền Lương đứng đó, nườm nượp xe ra xe vào bình thản. Nhưng với những người lính chiến chúng tôi thì không bình thản chút nào. Nó vẫn nôn nao lên tiếng, hừng hực bộn bề kỉ niệm. Dốc Miếu kia, nay không còn khúc quanh đỏ đất, trắng khói của pháo của bom. Con dốc tử thần nay đẹp rưng rưng những rừng cao su và sừng sững tượng đài trên điểm cao một thời thắng Mĩ. Còn đó những cái tên Cồn Tiên, Dốc Miếu, Lâm Xuân, Quán Ngang… Mai Xá thị gắn liền với E48, E52 anh hùng của chúng tôi. Chúng tôi lại về đây ơi các dũng sĩ E64. Thủ trưởng Khuất Duy Tiến cũng về đây, tìm về chốt ngã tư Sòng, tìm về Kim Đâu, Phú Hậu, ngã ba Cam Lộ, Thiện Xuân … Tất cả chỉ thấy một màu xanh ngan ngát, những nhà cửa phố thị và những khu công nghiệp đang lên. Các anh ở đâu chúng tôi tìm chả thấy? Những dũng sĩ Bùi Đức Hậu, Trần Thành, những cán bộ mưu trí tiểu đoàn trưởng Trần ngọc Long, tiểu đoàn phó Thuật, … bây giờ ở đâu? Chúng tôi đang đi trên màu xanh ngút ngát mọc lên từ những máu xương của các anh, chúng tôi đang đi trên nhịp đập con tim tuổi trẻ của các anh, chúng tôi đã già còn các anh vẫn trẻ. Các anh vẫn xếp hàng những tấm bia nghĩa trang hâm hập nóng, Quảng Trị ơi. Đêm nay, chúng tôi nghỉ lại Quảng Trị. Nhưng ai mà ngủ được. Thành Cổ uy nghiêm nghẹn ngào cho mỗi bình minh và rưng rức cho mỗi hoàng hôn. Đêm nay sau mấy chục năm vẫn thế. Quảng Trị vẫn thao thức. Mấy chục năm nay người Quảng Trị vẫn nguyên cái cảm giác khi đi gần đến Thành Cổ là ai nấy đều nói nhẹ nhàng hơn, xe chạy chậm hơn và nhìn nhau cũng trìu mến hơn. Mấy chục năm nay, bờ sông Thạch Hãn ven Thành Cổ vẫn không ngừng nghỉ bước chân hành hương. Họ về đây lắng đọng một chút thôi để muốn mình tốt đẹp hơn, để thấy đời còn nhiều khát khao trả nợ. Sự khát khao trả nợ là phúc lộc để lại cho dân tộc mình. Đôi bờ sông trong hoàng hôn dàn dạt những chân nhang đỏ hồng sắc lửa, những chân nhang như trăm ngàn mũi chông lửa hướng lên trời, chỉ có khói nhang là xòa xanh mặt nước, khói nhang ngấm vào từng con sóng mịn màng của dòng sông, của hương đồng cây cỏ. Làm sao chúng tôi ngủ được, khi đêm nay lại nghe thấy tiếng còi tu tu của một con tàu lớn vừa cặp cảng Cửa Việt. Nơi ấy sư đoàn tôi đã để lại bao thân xác chiến sĩ một thời, một thời các anh làm nên chiến công - Chiến công Mậu Thân của trung đoàn 48, trung đoàn 52. Trong số những người lính già đi hôm nay, có người cứ loay hoay bảo tôi, bao giờ gần tới cửa Việt chú nhắc anh với nhé. Xe tới ngã ba lối rẽ xuống Cảng Cửa Việt. Anh lập bập vái qua cửa kính xe ô tô. Khuôn mặt sạm sụa một lão nông vất vả của anh méo đi. Anh ấy khóc, gục đầu lên thành xe. Mái tóc bạc phơ của người nông dân già Sơn Tây rung lên nâng nấc. Tuổi trẻ của anh và máu của anh gửi lại nơi ấy. Anh không khóc vì thiệt thòi của mình, anh khóc cho bao người bạn cùng đại đội anh xương cốt còn đâu trong cát trắng. Khóc vì nhìn thấy mảnh đất chiến địa năm xưa nay đã mọc lên những phố thị, làng quê tươi phơi phới. Ngày hôm sau xe chúng tôi qua Quảng Nam, Quảng Ngãi. Chúng tôi dõi trong màu nắng về những cánh rừng phía tây, nơi ấy có những Nông Sơn, Tiên Phước, có Ba Tơ, Thượng Đức mà nhớ tới các đồng đội ở trung đoàn 52. Chúng tôi nhớ ngày thủ trưởng Hồ Hải Nam dẫn trung đoàn đi về khu 5. Trong khói lửa chiến dịch Kon Tum năm 72 vừa tạm lắng, vừa chôn cất bạn bè ở 1049 đã vội vã đi làm nhiệm vụ mới, vội vã chia tay với sư đoàn để đi về một vùng đất mới đầy khó khăn, ai cũng bịn rịn bồi hồi. Trung đoàn 52 đã làm nên chiến công nổi tiếng Ba Tơ, rồi Thượng Đức.. . Ngày trở về với đội hình sư đoàn năm 1975 trung đoàn đã gửi lại mảnh đất khu năm này hàng trăm ngôi mộ chiến sĩ của mình. Xin gửi vào màu nắng màu gió khu 5 lời tâm sự nhớ thương của chúng tôi tới các anh. Đội hình hành quân lần này của chúng tôi thỉnh thoảng lại phải dừng lại để bổ sung quân số. Đó là những lão chiến sĩ nhập đội ngũ ngang đường. Từ Thái Nguyên Tuyên Quang, Sơn Tây, Phú Thọ họ về, mang theo cơm nắm cháu con gói cho, với bọc thuốc huyết áp, thuốc khớp …các bà vợ già chằng đụp để lên đường cùng đội ngũ. Qua Thanh Hóa, Nghệ An đội hình càng đông hơn. Và lại hệt như ngày xưa trên đường hành quân có đủ tiếng nói cười khu Ba khu Bốn, miền xuôi miền ngược. Những người lính ra về với núi rừng Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên nay lại đi trở về phương Nam mà lệ nhòa khóe mắt. Cái bi-đông lính thủơ nào nay là bình rượu ngô vợ chuẩn bị cho chồng chuyến đi xa. Bộ quân phục còn thơm mùi băng phiến, bàn tay chai nứt nẻ ruộng vườn. Phía trước là bao hương hồn đồng đội chờ chúng tôi. Ai mà chẳng rưng rưng thổn thức. (còn tiếp ) Pờ lây cu 6/12 Hà nội 12/12/2011
Nguyễn Trọng Luân chiến sĩ trinh sát E64
|